KIỀU DUY VĨNH * TUYỆT THỰC CỔNG TRỜI
TUYỆT THỰC CỔNG TRỜI
Lời phi lộ
Hoàng Hải Thủy
Hoàng Hải Thủy
Tháng Bẩy năm 1954, đất nước chia đôi, cả triệu người Việt Nam bỏ miền Bắc đi vào Nam. Năm ấy có một số người Việt ở miền Nam đi ra Bắc, số người này rất ít.
Về văn nghệ sĩ, năm 1954, tôi được biết Trung Sĩ Hoàng Giác, tác giả bản nhạc Ngày Về — Tung cánh chim tìm về tổ ấm.. Nơi sống bao ngày giờ đằm thắm — Trung sĩ Nguyễn Minh Lang, tiểu thuyết gia, đang làm việc trong Phòng Năm Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn, hai ông bỏ Sài Gòn trở ra Hà Nội. Ở Hà Nội, tôi được biết có ba ông sĩ quan Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, ở lại. Đó là các ông Đại Úy Hoàng Phụng Tỵ, nhà thơ, Đại Úy Hoàng Công Khanh, tác giả Kịch Thơ Bến Nước Ngũ Bồ, và Đại Úy Kiều Duy Vĩnh.
Ba ông Sĩ Quan tự nguyện ở lại Hà Nội ông nào cũng bị bọn Bắc Cộng bắt đi tù. Tù ba, bốn năm, không phải tù ba, bốn tháng. Bị tù nặng nhất là ông Đại Úy Kiều Duy Vĩnh, ông bị đưa lên Trại Tù Cổng Trời, ông tù ở đó đến 9 năm. Trại Tù Cổng Trời ở tỉnh Hà Giang, trên vùng biên giới phía Bắc. Cái tên Cổng Trời là tên do người tù đặt ra. 1000 người tù bị đưa lên Cổng Trời, 999 người bỏ xác ở đó.
Đại Úy Kiều Duy Vĩnh sống sót từ Trại Cổng Trời trở về. Hai mươi năm sau, ở Hà Nội, ông viết mấy trang Hồi ký về những ngày sống thê thảm của ông trong Trại Tù Cổng Trời . Tôi tìm được bài viết của ông trên WEB, xin trích mời quí vị cùng đọc:
TUYỆT THỰC CỔNG TRỜI
Người viết: KIỀU DUY VĨNH
Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể đã làm cho tôi sống được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm thù những người theo đạo Thiên Chúa nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều chĩa vào những người con Chúa. Thứ nhất là các vị Giáo sĩ trong Giáo Hội, rồi đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ. Trong ngục tù Cộng sản, tôi đã gặp hai bà Sơ bị bắt vào xà-lim, rồi đến các ông chánh trương, trùm trưởng, cả đến những người trong Hội Trống, Hội Kèn Nhà Thờ cũng bị bắt đi tù hàng loạt. Tôi thấy đa số họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng ra sao. Không biết họ mắc tội gì mà bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội là tin vào Chúa Jê-Su. Thế thôi.
Còn tôi, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đã cứu tôi sống. Nói thế không có nghĩa là tất cả mọi người Công giáo đi tù đều chết hết. Có nhiều người còn sống sau cuộc tù đày, những anh Thi, anh Thọ, chị Diệp, là những người trong vụ nổi loạn ở Ba Làng, Thanh Hóa năm 1954, còn Nguyên Công “Cửa” tức Nguyễn Công Môn, ngư dân vượt biển, còn Nguyễn Hữu Bổn, người thôn Vạn Lộc, Nam Lộc Nam Đàn…
Tôi nghe kể khi đọc lệnh tha anh Thi, anh không chịu ra khỏi tù, họ phải lôi anh ra. Ngay cả giáo dân cũng kiên cường như vậy, thảo nào mà những người Cộng Sản xếp họ lên hàng đầu để tàn sát họ, tiêu diệt họ.
Cho đến hôm nay, một ngày năm 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người còn sót lại trong số 72 người đầu tiên lên Nhà Tù Cổng Trời mà vẫn chưa gặp lại ai, ngoài 1 người Cộng Sản là anh Nguyễn Hữu Đang.
Khi ở Khu A Trại Tù Cổng Trời chỉ còn thưa thớt người thì tù ở các trại dưới được dồn lên để lấp vào các chỗ trống, nên có sự sắp xếp lại. Tôi được chuyển sang Khu B dưới quyền quản giáo mới tên là Duật, người Nam Hà. Kỷ luật Khu B nhẹ hơn khu A, chế độ ăn uống có hơn đôi chút, tù Khu B được làm lao động nhẹ ở sân trại. Ba tháng được viết thư về cho gia đình một lần, được phép nhận thư . Tôi vừa chuyển sang khu B, chưa được viết thư về nhà thì đã nhận được thư của mẹ tôi gửi đến địa chỉ:
Công trường 75A Hà Nội C65 HE.
Tuyệt Thực Trại Tù "Cổng Trời" |
Thư
đến, mọi người đều ngạc nhiên, tôi là người ngạc nhiên nhất. Lúc đó nhà
tôi ở Số 7 Phố Thi Sách đằng sau Chợ Hôm-Hà Nội. Tính từ ngày tôi bị đưa
lên Trại Tù Cổng Trời đến lúc này đã được hơn 3 năm, tôi chưa được viết
thư về nhà lần nào. Tại sao mẹ tôi lại biết được địa chỉ này mà viết
thư cho tôi, tại sao mẹ tôi lại biết tôi đang ở Nhà Tù Cổng Trời, Hà
Giang?
Mãi đến khi được tha tù lần thứ nhất,1970, tôi về nhà gặp lại mẹ tôi, tôi mới biết. Thì ra sau khi tôi bị đưa lên Cổng Trời –1960 — gia đình tôi mất hết tin tức về tôi. Mẹ tôi lên trại tù cũ ở Bất Bạt, Sơn Tây để hỏi về tôi. Chánh giám thị trại là Thiếu tá Thanh trả lời mẹ tôi là tôi bị đưa đi đâu ông ta không biết!
Về Hà Nội, mẹ tôi đến Bộ Công An ở Phố Trần Bình Trọng hỏi về anh con bị tù. Gác cửa không cho vào. Nhưng từ nhà tôi ở chợ Hôm ra Hồ Thiền Quang chưa đến 1 Km nên hầu như liên tục khi nào mẹ tôi đi đâu là mẹ tôi lại tạt vào Bộ Công An quấy rầy họ. Đến nỗi người thường trực cứ trông thấy mẹ tôi là tránh mặt không tiếp.
Mẹ tôi cứ đến hỏi. Hỏi mãi. Riết rồi họ phải trả lời. Nhưng cũng mất hơn 3 năm họ mới cho mẹ tôi cái địa chỉ Trại Tù Cổng Trời: Công Trường 75A Hà Nội. Mẹ tôi lại hỏi tiếp: Thế cái Công trường này nó ở chỗ nào ở cái đất Hà Nội này? Họ bảo họ không biết. Mẹ tôi đời nào chịu. Và cuối cùng họ phải trả lời là tôi đang ở Nhà Tù Cổng Trời ở Hà Giang.
Thế là mẹ tôi đi Hà Giang tìm Nhà Tù đang nhốt tôi. Đi với 2 bàn tay trắng: không có mảnh giấy phép đi tiếp tế cho tù. Quy định đi thăm tù phải có giấy giới thiệu của địa phương cấp, mà địa phương được lệnh không cấp giấy cho mẹ tôi vì thành phần gia đình tôi là địa chủ cường hào đại gian đại ác. Bố tôi bị bắn chết trong cải cách ruộng đất, còn tôi thì đi tù tội phản động nên gia đình tôi là đối tượng của cách mạng cần phải chuyên chính. Mặc, không có giấy giới thiệu, mẹ tôi vẫn cứ đi tìm thăm con. Nhưng lên đến Hà Giang, chưa qua được đèo Quyết Tiến thì mẹ tôi bị Công An đuổi theo, bắt quay về Hà Nội. Mẹ tôi đành viết thơ chọ tôi theo địa chỉ trên. Thế là tôi nhận được thư của mẹ tôi.
Cũng có 1 phần do mẹ tôi không chịu mất dấu vết của tôi, làm phiền họ, quấy rầy họ, mà trên Bộ Công An chưa bật đèn xanh cho Ban Giám thị trại xóa tên tôi trong danh sách tù nhân ở Cổng Trời. Đã có lần họ cho người giả làm tù ở cùng trại với tôi về nhà tôi báo tin tôi đã chết. Nhưng mẹ tôi không tin. Mẹ tôi cứ làm tới, sấn tới, và điều đó phần nào đã cứu sống tôi.
Vả lại ở trên Cổng Trời này, đối với các bậc như Cha Vinh, cha Quế, Tu sĩ Đỗ Bá Lang, Tu sĩ Nguyễn Trung Chính tức Nhẫn, tôi là hạng bét so với các đấng Tù ấy nên mũi nhọn của cuộc tàn sát không chĩa vào tôi. Ban giám thị trại đem so tôi với các bậc Thánh đó thấy tôi là một phần tử tốt. Này nhé: Tôi không có đạo, tôi không cầu kinh, không làm dấu thánh, không ăn chay Lễ Phục Sinh, không theo nghi Lễ Giáng Sinh. Như thế là tôi chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Ban Giám thị quá rồi còn gì nữa.
Còn với các đấng Tù kia. Nội qui trại tù cấm tù cầu kinh, các vị cứ cầu kinh, cấm làm dấu thánh trước khi ăn, các vị cứ làm dấu thánh. Ngày Lễ Giáng Sinh các vị tự ý nghỉ, không chịu đi làm.
Và, đáng kể nhất là việc tôi ở cùng buồng giam, tôi ăn cùng với các vị nhưng tôi không tuyệt thực cùng các vị khi có lệnh cấm làm dấu thánh trước khi ăn.
Câu chuyện tuyệt thực của một số vị tín đồ Thiên Chúa Giáo ở Trại Tù Cổng Trời xảy ra như sau:
Một hôm, giám thị tập hợp các Tu sĩ Thiên Chúa Giáo, nói:
- Đây là nhà tù, không phải là nhà thờ của các anh, nên cấm mọi hành vi tôn giáo và tịch thu mọi thứ: thánh giá, kinh bổn, tràng hạt. Cấm các anh đọc kinh, làm dấu trước khi ăn.
Tịch thu thì được, còn cấm thì hơi khó, nếu không nói là không cấm được. Cấm cầu kinh các vị ấy cứ cầu, vì làm thế nào mà biết các vị đang cầu kinh? Ăn xong, ngồi, không nói chuyện, không đi lại, thế là các vị đang cầu kinh đấy. Chỉ có đêm đến, lệnh cấm ngồi là có hiệu lực, chứ ban ngày chả nhẽ lại cấm tù ngồi, cứ bắt tù nằm mãi sao!
Không cấm được, Ban Giam Thị uất lắm! Sau vụ Tu sĩ Đỗ Bá Lang công khai chống lệnh, Chánh giám thị Nguyễn Quang Sáng tỏ ra quyết liệt hơn, cứng rắn hơn, dấn tới một bước nữa. Y tuyên bố:
- Cấm triệt để làm dấu thánh trước khi ăn cơm. Anh nào làm dấu thánh sẽ bị tịch thu phần cơm.
Y lý luận:
- Ai cho các anh ăn? Ai cho các anh bát cơm? Chúng tôi cho các anh ăn chứ không có Chúa nào cho các anh ăn cả. Cấm cầu kinh, các anh vẫn lén lút cầu kinh.
Y quyết định:
- Vậy bây giờ trước khi ăn, tôi cấm các anh làm dấu. Các anh phải cảm ơn người cho các anh ăn. Đúng lắm, nhưng người cho các anh ăn là chúng tôi đây, muốn cám ơn các anh phải cám ơn chúng tôi. Không có con mẹ Maria, thằng Jê-su nào cho các anh ăn cả. Nghe rõ chưa?
Nguyên văn như vậy, tôi xin lỗi các vị, tôi phải viết đúng, không dám xuyên tạc, bịa đặt, báng bổ gì.
Và đến bữa ăn, cơm mang vào, Quản giáo vào buồng, đứng đó. Mọi lần thì cửa phòng giam mở, chúng tôi bê thùng cơm vào trong phòng, quản giáo đóng cửa, khóa lại, tù chia cơm ăn, không có cai tù canh trong bữa ăn. Nhưng hôm ấy, bê cơm vào, cửa vẫn mở, Quản Giáo đứng đó kiểm soát và nhắc lại lệnh cấm của Ban Giám Thị.
- Không được làm dấu trước khi ăn!
Tất cả, kể cả tôi, không ai bảo ai, không chia cơm ra ăn. Đứng mãi chán, Quản Giáo đóng cửa phòng giam lại, đi về.
Đến chiều, tù nhà bếp đến lấy thùng cơm. Cơm canh vẫn nguyên. Buổi chiều, đích thân Chánh Giám Thị xuống xem bữa ăn chiều, mọi việc lại diễn ra đúng như buổi sáng. Không ai lấy cơm. Mặt Chánh Giám thị tái đi vì giận dữ. Nhưng người tù không ăn, làm thế nào bắt họ ăn?
Không có khí thế hừng hực đấu tranh, không có hô khẩu hiệu, những người tù không chịu ăn chỉ lặng lẽ, ngồi im.
Không thể dùng lưỡi lê và sức mạnh để nhét cơm vào mồm họ được. Họ không ăn, thế thôi. Không hò reo, không gõ bát, gõ đĩa, không ai diễn thuyết, kích động, yêu sách điều gì. Im lặng, ai ngồi chỗ ấy. Giám thị Sáng đứng đó, không một ai thèm nhìn ông. Giám thị Sáng đành phải đi ra..
Đêm đến. Tôi đói không thể nào ngủ được. Đã một ngày trôi qua, và hai bữa không ăn. Suốt mười năm tù đầu tiên, tôi không bỏ một bữa cơm nào, ngoài hai bữa hôm ấy. Chỉ khi nào đến ngày giỗ người sinh ra tôi bị bắn chết, là tôi khai ốm và báo nhà bếp cho tôi ăn cháo, vì tôi nghĩ: “Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết.”
Thiên nhiên miền đá nhìn từ Cổng Trời. Sáng sớm, trời lạnh buốt. |
Dạ
dầy tôi là dạ dày thép, nó ngốn, nó nghiền tất cả mọi thứ mà những người
cùng tù với tôi, dù cũng đói như tôi, không sao ăn nổi. Tôi ăn sắn
sống, khoai sống, ngô sống, om on sống, cả cây ngô non tôi cũng ăn sống
được, khoai hà chỉ có ngỗng đói mới ăn, tôi cũng ăn được, khoai sọ,
rong, riềng tôi ăn cả vỏ, có lần đi làm tôi lẩn vào ruộng trồng đỗ Mèo,
ních một bụng quả đỗ sống, chiều về say gần chết. Ra suối tắm, thấy quả
vả mọc hoang tôi bứt ăn, cũng say gần chết. Chỉ gần chết thôi chứ chưa
chết hẳn. Ngất ngư lảo đảo thôi. Sắn sống ăn vào là say, ngày nào tôi
chả say sắn, mà theo cái đầu óc ngu dốt của tôi thì có lẽ vì tôi ăn sắn
sống triền miên mà tôi còn sống đến hôm nay. Chả là rét, lạnh quá, tôi
bị sưng phổi. Tôi ho khặc khặc, sốt, tôi không dám nói láo, cứ cúi xuống
ngẩng lên là nghe trong phổi có tiếng óc ách. Ở Cổng Trời tù không phải
khai ốm, vì có khai với ai được. Ốm mặc, không có thuốc men gì hết.
Quản Giáo trực thấy tôi nằm mọp, hỏi làm sao? Hỏi để mà hỏi. Rồi thôi. Để đấy. Tôi cứ ăn sắn, say sắn. Và rồi tôi hết sưng phổi, tôi sống. Mãi đến khi tôi về Hà Nội, năm 1970 tôi đi khám ở Bệnh viện A để kiểm tra phổi. Sau khi chụp X quang, kết luận: dầy, dính màng phổi. Bác sĩ Kim hỏi tôi bị sưng phổi bao giờ và y viện nào chữa cho? Tôi trả lời là quên mất tôi bị sưng phổi năm nào nhưng nhớ là không có chữa ở bệnh viện nào cả. Bác sĩ Kim rất ngạc nhiên.
Ở Cổng Trời, khu nọ cách biệt với khu kia bằng một hàng rào bao quanh khu. Cấm tù khu này liên lạc với tù khu kia nhưng khi trả thùng cơm canh, thì tù các khu đem đến một cái sân chung để tù nhà bếp đến lấy. Có lần Khu C tù được mua sắn cải thiện để ăn thêm. Tù Khu C ăn sắn, bị say sắn, chết mất 5 người. Sáng ra, quản giáo trực vào khu thấy tù chết vì say sắn nằm một đống, bèn ra lệnh tịch thu số sắn còn lại, cấm không cho ăn, sai tù đem ra tập trung ở chỗ trả thùng cơm. Hôm ấy đến lượt tôi bưng thùng cơm ra trả. Thấy sắn bỏ đó, tôi lấy ngay mấy cây sắn luộc rồi, dấu vào bụng, đem về buồng ăn.
Các vị tu sĩ bảo tôi: Anh em bên ấy ăn sắn này chết mấy người, anh không sợ chết hay sao mà ăn? Tôi nói: Họ có nhiều họ ăn nhiều quá nên họ mới chết! Chứ tôi cứ củ một, củ một, ăn rồi uống nước, chờ cho tiêu bớt, lại ăn, chết thế nào được. Và tôi ăn. Ăn chầm chậm tùng củ một, thấy đắng quá, cứng lưỡi thì tạm ngừng. Có hơi say một chút nhưng chẳng sao cả. Và những chất độc làm người ăn bị say ở sắn đã làm tôi khỏi bệnh phổi, làm tôi no, và, có lẽ vì nhai dữ quá, hai bên quai hàm tôi to bạnh ra. Say sắn có khổ nhưng không khổ bằng đói: tôi chọn cái ít khổ hơn. Chuyện này là sự thật 100%, cứ ăn sắn nhiều là hai bên quai hàm to bạnh ra. Xin các nhà khoa học giải thích hộ cho. Kể lại với quý vị như thế, để quý vị biết tôi đói đến thế nào. Tôi đói lắm ấy! Được ăn 12kg cả gạo cả sắn một tháng, với sức tôi cao 1m76, nặng 78kg, 30 tuổi thì các vị chắc cũng hiểu tôi đói đến như thế nào.
Nay trở về với chuyện tuyệt thực. Thế là qua một ngày và hai bữa không ăn. Tôi xin phép được nhắc lại, mười năm tù đầu tôi không nhịn ăn bữa nào ngoài hai bữa cơm tuyệt thực đó, và tất nhiên là tôi đói lắm. Ở trong Mein Kamp – Cuộc Chiến Đấu Của Tôi – Hitler viết: “Cái đói nó theo tôi như một cái bóng…” tôi xin thêm: “Nó hành hạ tôi khổ sở nữa.”
Tối hôm đó, đã hơn chín giờ, tôi không thể nào ngủ được, cứ trở mình trằn trọc. Tu sĩ Chính tức Nhẫn ở xứ Trung Đồng, Thái Bình, nằm cạnh tôi, hỏi nhỏ:
- Đói không ngủ được à?
- Vâng, đói lắm không ngủ được.
Cha nói:
- Vậy thì ngày mai Vĩnh cứ ăn đi. Tôi sẽ chia cơm để Vĩnh ăn.
Tôi, xin thưa rằng, phần xác tôi nặng, nặng lắm nhưng cơ thể tôi lúc đó thì rất nhẹ. Lúc đó tôi chỉ cân nặng 49kg. Tôi gầy đến “lõ đít” ra. Tôi xin phép được dùng tiếng “lõ đít”, vì đúng là tôi gầy đến như vậy. Những lúc ngồi xếp bằng, ngồi luyện yoga tôi nhìn xuống đùi, đầu gối ống chân đều trơ xương, khẳng khiu, khô khắc. Trước đó ít hôm ra khênh cơm vào buồng, anh bạn ở nhà bếp khiêng cơm đến nhìn thấy tôi, ra hiệu bằng cách lấy hai bàn tay vuốt vào hai má anh, chúm cái miệng lại ra cái điều là anh thấy tôi gầy quá, má hóp, mồm vêu. Tôi cũng biết vậy, tôi yếu lắm rồi, tay nắm không chặt, cầm vật gì nặng là hay rơi, hai bàn tay xoa vào nhau phát ra những tiếng rẹt rẹt như hai thanh củi khô, không còn cái mềm mại của da thịt. Ở Nhà Tù Cổng Trời này không có gương để soi, xem mặt mũi của mình nó ra sao. Mỗi lần cắt tóc, quản giáo đưa cho một cái tông-đơ, xén tóc, xén râu, thế thôi, không có gương lược, dao kéo gì. Có lần muốn nhìn cái bản mặt mình, tôi bắt chước Nguyễn Tuân đái một bãi xuống đất rồi soi mặt mình lên đó. Nào có thấy chó gì đâu, cái nhà ông Nguyễn chỉ nói ngoa ngôn, phóng đại, xui dại anh em thôi. Vì gầy thế, nên hai cái mông tôi teo lại, cái xương cùng nó thò dài ra, khi đi ngoài, chùi nó chạm, nó đâm vào tay mình. Lúc ấy tôi mới cảm nhận thấy thế nào là “gầy lõ đít.”
Mười năm tù, lúc nào tôi cũng ước có một bữa ăn no, thèm được ngồi trước nồi cơm nóng bốc hơi nghi ngút, muốn ăn bao nhiêu thì đơm bấy nhiêu, và có đầy một bát muối để ăn cơm cho mặn. Cả muối tôi cũng thèm. Tất cả các nhà tù của Cộng Sản miền Bắc mà tôi đã đi qua và sống ở đó tôi đều đói, tôi có thể chết đói ở đấy. Nói cách khác, nếu tôi chết trong những nhà tù đó là tôi chết đói.
Khi ở Trại Tù Bất Bạt Sơn Tây, tôi ở toán kiên giam, biệt lập: phải tự xay lúa, giã gạo trong khu biệt lập kiên giam này. Khi xay lúa, tôi nhớ tới phim “Samson và Dalila,” tôi xem ở Hà Nội năm 1950. Anh chàng Samson mù bị bắt quay cối xay. Chúng tôi cũng vậy. Rào kín và hẹp chả nhìn thấy gì ở ngoài cả. Chế độ ở Khu kiên giam Nhà Tù Bất Bạt cũng học đòi cách quản lý và đối xử với tù của Nhà Tù Cổng Trời, nhưng mà là học trò hạng bét.
Ở Trại Tù Bất Bạt, cũng tù hình sự đem cơm đến để ở cổng khu rồi chạy đi ngay, tù kiên giam cũng không được ra khỏi khu, nhưng tù được viết thư về nhà, còn được gặp và nhận đồ tiếp tế của người nhà đến thăm nuôi. Chứ ở Trại Tù Cổng Trời thì không một người tù nào được thăm nuôi, không một ai được gia đình nuôi trong suốt thời gian 7 năm tôi ở đó.
Khi đói quá, tôi kêu, tôi rên. Tôi kêu đến nỗi Quản Giáo phụ trách Giáo dục tên là Kích, người Liên khu 5 Bình Định đi “tua” nghe tiếng, gọi tôi ra ngoài, hạch hỏi, lên lớp và đe dọa tôi:
- Anh Vĩnh, anh định kích động mọi người, phải không? Cẩn thận. Anh không chịu im là đi suốt đấy.
Tôi nói:
- Thưa ông, tôi đói thật. Tôi kêu vì tôi đói. Phàm cái gì uất ức, đau khổ quá nó phát ra thành tiếng. Có thế thôi.
Tôi vừa lấy hơi vừa cố nói cho rõ tiếng:
- Thứ tôi mà kích động được ai hở ông? Ông xét xem, tôi kích động được ai trong số những người ở cùng với tôi trong buồng này? Tôi nói rất thật, để chứng minh tôi đói thật, ông làm ơn súc cho tôi một bát cám lợn kia tôi sẽ ăn hết ngay trước mặt ông cho ông thấy.
Chả là chỗ nói chuyện gần chỗ nuôi lợn của nhà bếp mà. Chừng quản giáo Kích cũng hiểu ra, nên không trấn áp tôi thêm nữa, cho tôi trở về buồng. Trên đường về, đi qua dàn su-su, quả mới bé bằng ngón tay cái, tôi với tay vặt ngay lấy dăm bẩy quả đút túi về buồng ăn sống.
Người tù Trần Liệu nói:
- Tù được ra khỏi buồng thấy bất cứ cái gì động đậy đều vồ lấy ăn hết, chỉ trừ khi vồ nó mà nó kêu “Ối giời ôi” thì chịu không ăn mà thôi. Hắn ăn giun, ăn dế, ăn gián, ăn cả trứng con bọ hung nữa.
Chúng tôi cùng cười. Trần Liệu cũng đói dữ lắm. Hắn to con gần bằng tôi, vốn là đồ tể Quỳnh Lưu, Cầu Giát, rất thích ăn tiết canh “me”, huyết bê non. Chính vì thế mà tôi thán phục Liệu; hắn cũng chịu được hai ngày không ăn theo các đấng tu sĩ cùng buồng. Trần Liệu là con chiên cực kỳ ngoan đạo.
Ông Chính bảo tôi:
- Mai tôi sẽ chia cơm để Vĩnh ăn. Vĩnh cứ ăn đi. Không sao cả. Tôi sẽ nói với anh em trong phòng để họ cảm thông trường hợp của Vĩnh.
Tu sĩ Chính là người có uy tín nhất trong số tu sĩ bị giam trong buồng. Tôi im lặng. Đối với ông Chính, tôi có món nợ lớn lắm! Lớn mà không bao giờ tôi có thể trả được.
Tôi vốn có duyên nợ với đất Thái Bình, ông Chính là người sinh ra và tu ở Thái Bình. Tôi và ông có rất nhiều điểm tương đồng. Ông hay nói chuyện với tôi. Tôi ở với ông từ ngày đầu đi tù, từ Trại Bất Bạt Sơn Tây lên ở Khu A Cổng Trời, ở cùng nhau cho đến lúc ông bị gọi đi và chết.
Những năm 1950, ở Thái Bình tôi có may mắn gặp Đức Giám mục nguời Tây Ban Nha coi sóc địa phận, tôi gặp cha Chính, cha Trụ ở thị xã, rồi các cha ở Sa Cát, Phương Xá, Bái Bồ Trung, Phù Lưu (ngã ba Đọ) Cao Mái. Những năm ấy tôi hành quân giải vây cho các nhà thờ bị vây hãm. Tôi có nhiều kỷ niệm đẹp về các xứ đạo ở Thái Bình. Tôi nói chuyện với Tu sĩ Chính về những ngày xưa đó, ông và tôi rất tâm đầu ý hợp.
Thấy tôi kêu rên vì đói. Một hôm, tu sĩ Chính nói ông ốm, ốm ở đây ít ai bỏ ăn. Ở Cổng Trời, ốm phải không? Tốt. Tốt lắm! Nếu ốm chết thì rất tốt: Khỏi phải giết! Đỡ mệt. Hôm ấy Tu sĩ Chính bỏ ăn. Ông rất ít khi ốm, từ Bất Bạt tôi thấy ông không ốm bao giờ tuy rằng ông rất gầy và xanh. Nhưng sự chịu đựng gian khổ của ông thì tôi phải ngã mũ kính cẩn vái chào. Lúc nào ông cũng ôn tồn, nhỏ nhẹ, điềm tĩnh cười nói như không cho dù có điều gì xảy ra.
Thấy ông ốm, tôi còn mấy viên thuốc cảm, đưa ông dùng, ông nói không sao đâu, chỉ có miệng ông đắng và bụng ông nó không ổn, thế thôi. Buổi chiều qua đi ông cũng bỏ cơm. Chúng tôi thường ăn vào độ ba, bốn giờ chiều. Cấm nấu nước, đun lại canh, hâm cơm. Với chúng tôi chín giờ đêm là khuya rồi. Tu sĩ Chính lay tôi dậy, nói:
- Vĩnh ăn hộ tôi đi, chứ để mai cơm thiu, bỏ đi. Phí của lắm.
Tại sao tôi lại có thể ăn xuất cơm của tu sĩ Chính như thế được chứ? Tôi từ chối, ông nói như năn nỉ:
- Tôi đắng miệng quá, trong bụng tôi nóng như lửa, quặn đau, không thể ăn được. Vĩnh ăn hộ tôi đi. Nếu Vĩnh không ăn, sáng mai nhà bếp họ lấy cho lợn ăn thì uổng lắm. “
Tôi thấy đúng như ông nói. Ở các trại duới, cơm dư tù có thể phơi khô để dành. Chứ ở đây, thì chỉ có đưa xuống nhà bếp cho lợn ăn. Tại sao lại để cơm cho lợn ăn? Trong khi tôi đói quá lắm, tôi thèm ăn quá lắm.
Lúc đó là 10 giờ đêm. Tôi ngồi ăn hai xuất cơm đó. Đọc tới đây, tất có vị sẽ chửi rủa tôi. Xin các vị cố hiểu mà đánh chữ đại xá cho tôi. Tôi ăn cả hai xuất cơm canh trong nháy mắt rồi nằm xuống ngủ ngon lành. Tôi ngủ yên cho đến sáng. Lâu lắm tôi mới được ngủ đêm mà bụng không đói lắm.
Cám ơn Tu sĩ Chính tức Nhẫn. Cám ơn Ngài nhiều.
Sáng hôm sau, như thường lệ, mọi người, cả Tu sĩ Chính, dậy sớm cầu kinh. Ông Chính bảo tôi ông thấy đỡ nhiều. Chỉ đến chiều hôm ấy, tôi mới biết là hôm qua Tu sĩ đã nhịn hai bữa cơm cho tôi ăn.
Xin cám ơn ông. Cho đến tận hôm nay ba mươi năm trôi qua, tôi vẫn còn món nợ ông mà không thể nào trả được. Tôi chỉ biết cầu Chúa, xin Chúa biết đến sự hy sinh cao cả của ông, đến sự vất vả nhọc nhằn của ông khi ông vác cây thánh giá của Chúa theo Chúa đến chết.
Cầu cho linh hồn ông được tới Thiên Đàng.
Sáng hôm sau, tù lại khênh cơm đến. Quản giáo lại vào phòng, đứng xem. Không ai nhúc nhích. Không ai lấy cơm ăn, kể cả tôi. Tu sĩ Chính đứng dậy, cầm bát, lấy cơm canh đem đến để trước mặt tôi.
Ông nói:
- Đây, phần của anh, anh ăn đi.
Một lần nữa tôi lại xin các vị cố hiểu cho tôi và bỏ qua cho tôi. Tôi không theo đạo Thiên Chúa, tôi không làm dấu thánh bao giờ. Tôi ăn. Hà tất gì tôi lại nhịn không ăn? Không có điều gì bắt tôi không ăn cả.
Thấy tôi ăn, Quản Giáo bèn lên tiếng:
- Đấy, các anh thấy không? Anh Vĩnh, ăn cơm không cần làm dấu, làm diếc gì cả. Có sao đâu nào. Anh ấy vẫn ăn ngon lành, thế thì tại sao các anh lại không ăn? Các anh là đồ ngu dốt, cuồng trí, dại dột dám chống lại Đảng và Chính phủ. Các anh chỉ có nước chết thôi.
Không một người tù nào nói nửa tiếng.
Có tôi nói:
- Xin lỗi ông, ông đọc lý lịch của tôi chắc ông đã rõ, tôi không theo đạo nào cả. Phật không, Chúa cũng không, mà lệnh của các ông thì chỉ có cấm làm dấu thánh trước khi ăn. Tôi, tôi từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa làm dấu thánh bao giờ. Vì vậy tôi ăn, có thế thôi.
Đứng cho đến lúc tôi ăn xong. Quản giáo thấy trơ trẽn quá, quay gót, khóa cửa ra về. Đến buổi chiều, cơm đem đến, không thấy mặt ai cả. Cả Giám thị, cả Quản giáo cả lính coi tù.
Tu sĩ Chính chia cơm canh cho một mình tôi. Tôi ăn.
Các đấng Tu sĩ Tù, kể cả Trần Liệu cũng vẫn không ăn.
Hai ngày trôi qua.
Ngày thứ ba, tù khênh các thùng cơm canh nguội lạnh còn nguyên xuống nhà bếp, rồi khênh đến hai thùng cơm canh mới.
Không có giám thị vào phòng. Cửa đóng, khóa lại.
Cơm canh được chia đều. Các Tu sĩ Tù làm dấu thánh trước khi ăn. Chẳng ai cười, nói, hát hò, reo vui gì khi cuộc đấu tranh dành được thắng lợi.
Và cuộc sống tù đày của chúng tôi lại lặng lẽ trôi như thế cho đến ngày tôi được ra khỏi tù.
Và các vị tù ở lại chết hết trong tù!.
Viết tại Hà Nội, Ngày 1 Tháng 8, Âm lịch, năm 1994
Kiều Duy Vĩnh
*****
Thi sĩ Hoàng Song Liêm, cư dân Virginia, nguyên là sĩ quan Không Lực Việt Nam CH. Ông quen biết ông Cựu Đại Úy Kiều Duy Vĩnh. Năm 2002 ông Liêm mời ông Vĩnh sang chơi Hoa Kỳ. Tấm ảnh ông Kiều Duy Vĩnh đăng trong trang báo này là do ông Hoàng Song Liêm cho tôi. Từ Trại Tù Cổng Trời, Hà Giang, ông Kiều Duy Vĩnh về Hà Nội, ông sang du ngoạn Kỳ Hoa, ông đến trước Nhà Trắng, đến trước Bức Tường Đen, ông sang Cali thăm khu Bolsa, rồi ông sang chơi Pháp quốc. Ông đến xem Paris có gì lạ không Em? Ông đến sông Seine đi bateau-mouche, ông đến Vườn Luxembourg tìm con đường xưa ông bạn ông — ông Anatole France- tung tăng đi đến trường học, ông đến Nhà Thờ Đức Bà Paris tìm hình bóng nàng Esmeralda. Rồi ông trở về Hà Nội.
Tôi đọc hồi ký của ông với sự kính phục và lòng căm giận chen lẫn ngậm ngùi. Năm 1972 khi dịch The First Circle của Alexander Sozhenytsin ra tiếng Việt — Tầng Đầu Địa Ngục — tôi thấy Solzenytsin viết:
- Trong ngục tù cộng sản, cái làm người tù khổ nhất là cái Đói.
Bọn Cộng sản giết người chúng bắt tù bằng cái Đói. Bao nhiêu người tù chết vì Đói. Những thằng không từng bị bọn Cộng bỏ tù một ngày, những thằng không biết thế nào là cái Đói trong Ngục Tù Cộng Sản, dzài mồm kêu gọi các Bố Tù của chúng nó quên Tội Ác Cộng Sản. Chúng mày là cái gì mà chúng mày kêu gọi Các Bố Chúng Mày Quên? Các Bố Chúng Mày Không Quên. Còn lâu!
VY VY TRẦN * ĐỨA CON CỦA BIỂN
Vy Vy Trần
Đứa con của biển, hay là câu chuyện của một hài nhi được sanh ra dưới
nước, trong một đêm mưa gió bão bùng, giữa đại dương mênh mông nổi sóng
điên cuồng.
Đứa con của biển cũng là câu chuyện của nàng, một thiếu phụ Việt Nam, đã sanh con trong hoàn cảnh đắm tầu, hai tay bám chặt vào một cái phao đang bị cuồng phong và sóng bạc đầu đánh tả tơi ngoài khơi Đông Hải.
Đứa con của biển còn là một câu chuyện thật của một thiếu niên 17 tuổi, em học sinh NgôĐình Đa đã hộ sanh sản phụ trong những giờ phút kinh hoàng, trên đỉnh sóng cao vút đang gào thét cùng với gió mưa, giữa đại dương đêm tối hãi hùng...
Câu chuyện bi hùng trên đây bắt đầu vào cuối tháng 7 năm 1979 tại biển Đông Việt Nam.
Vào lúc 12 giờ khuya đêm đó, trời mờ mờ tối, gần 350 người được
Đứa con của biển cũng là câu chuyện của nàng, một thiếu phụ Việt Nam, đã sanh con trong hoàn cảnh đắm tầu, hai tay bám chặt vào một cái phao đang bị cuồng phong và sóng bạc đầu đánh tả tơi ngoài khơi Đông Hải.
Đứa con của biển còn là một câu chuyện thật của một thiếu niên 17 tuổi, em học sinh NgôĐình Đa đã hộ sanh sản phụ trong những giờ phút kinh hoàng, trên đỉnh sóng cao vút đang gào thét cùng với gió mưa, giữa đại dương đêm tối hãi hùng...
Câu chuyện bi hùng trên đây bắt đầu vào cuối tháng 7 năm 1979 tại biển Đông Việt Nam.
Vào lúc 12 giờ khuya đêm đó, trời mờ mờ tối, gần 350 người được
dồn xuống hầm một chiếc tầu đánh cá dài 17 mét rộng 3 mét, máy 6 bloc.
Trong số đó có chàng ngồi co ro ôm hai con nhỏ, một trai 3 tuổi và một
gái 6 tuổi. Còn nàng thì đã sắp đến giờ sanh, có thể lâm bồn bất cứ lúc
nào.
Tầu quá nặng, thủy thủ vất bỏ lưới và nước đá ươm cá. Tài công dùng vải
bố bịt ống bô máy cho đỡ ồn. Sáng sớm hôm sau, tầu đã ra xa bờ. Nhiều
người hướng vế phía Tây, cố ghi lại lần chót hình ảnh quê hương yêu dấu,
lòng bỗng chùng xuống, buồn tha thiết. Núi khuất dần theo những đợt
sóng nhấp nhô... Phải chăng lần này ra đi là vĩnh biệt!
Tầu càng xa, sóng càng lớn, sóng lớn như mái nhà, tài công lái tầu theo
lườn sóng cho tầu khỏi lật. Ai nấy say sóng, ói mửa, mùi hôi nồng nặc,
nhưng nhờ có gió biển nên dễ thở
Tầu quá đông và chật, không ai có thể nằm xuống nghỉ ngơi được, chỉ ngồi bó gối. Thỉnh thoảng nàng lại lấy cái kéo trong cạp quần ra lau chùi sạch sẽ, rồi lại cẩn thận lận kỹ trở lại cùng với cuộn chỉ đen nhỏ. Năm nay nàng trạc 30 tuổi, trông nàng còn có vẻ khoẻ hơn chồng, người gầy nhom và nét mặt hốc hác.
Đến trưa thì từ xa một tầu lớn đi tới. Tài công ra hiệu S.O.S, tầu lớn
làm ngơ không ngừng. Khi trời chập tối, may quá lại thấy một tầu lớn
khác, tài công bắn trái sáng lên làm hiệu, tầu lớn sợ, bỏ chạy luôn. Con
tầu nhỏ lại tiếp tục phấn đấu với sóng to gió lớn. Sóng bạc đầu lúc nào
cũng như muốn nhận chìm chiếc tầu bé nhỏ, mong manh như chiếc lá tre.
Bỗng bầu trời u ám, mây mưa vần vũ, sấm sét, chớp nổ vang rền. Gió ào ào
từ
nhiều hướng đổ lại, xoáy vào nhau tạo thành cơn bão dữ dội, kinh hoàng.
Đại dương mênh mông nổi sóng, điên cuồng, thịnh nộ. Mưa như thác đổ, con
tầu mong manh bị bão tố đánh tả tơi, thê thảm... Có những lúc cả một
khối nước bỗng đội tầu lên đỉnh sóng, rồi ném ngayxuống hố sâu thẳm. Mỗi
lần như thế, mọi người lại như chết đi sống lại.
Lo lắng, kinh hoàng... Mọi người bắt đầu cầu nguyện. Trong đêm tối,
trong tiếng gào thét của sóng, trong tiếng rít của gió và trong tiếng
mưa đổ rào rào trên mui tầu, tiếng cầu kinh xen lẫn với tiếng khóc con
nít vì đói khát, nghe thật não nùng.
Qua ngày thứ hai, sóng vẫn lớn và gió vẫn dữ dội. Lại không có tầu lớn
nào. Nước bắt đầu vô tầu. Mọingười đầu tóc, quần áo vốn đã ướt nhẹp, lại
càng ướt sũng hơn. Lúc đầu, nước vô còn ít, về sau mỗi lúc
mỗi nhiều, tình trạng thật nguy kịch! Thanh niên phải thay nhau tát nước
ra. Mặt nước gần, có thể thò tay xuống. Tài công ra lệnh vất bớt hành
lý cho nhẹ tầu.
Một số người đói quá, khát quá cứ từ từ ngất xỉu. Còn nàng, lâu lâu nàng lại lau cây kéo và kiểm soát lại cuộn chỉ nhét trong cạp quần. Lần này nàng lấy một sợi giây lớn buộc chắc cây kéo vào ngang lưng, chỉ sợ tầu lắc lư rơi mất.
Đến xế chiều ngày thứ hai, máy tầu bắt đầu trục trặc. Khói bốc ra ngộp thở. Máy tầu nóng quá, phải ngưng chạy nhiều lần. Mọi người như ngất xỉu phần vì đói khát, phần vì say sóng, vì thế khi chủ tầu và tài công quyết định cho tầu quay mũi trở lại hải phận Việt Nam tránh bão, không có ai phản ứng gì cả.
Đến 10 giờ đêm, tầu đụng phải vật gì cứng, tầu khựng lại. Tài công
và thủy thủ la lớn, sang số de. Máy nóng cháy, khói mịt mù. Đang de thì
sóng lớn tràn vô tầu. Bỗng như có linh tính cho biết cái chết đã gần kề,
mọi người im lặng, con nít ngưng khóc. Một số người đói quá, khát quá cứ từ từ ngất xỉu. Còn nàng, lâu lâu nàng lại lau cây kéo và kiểm soát lại cuộn chỉ nhét trong cạp quần. Lần này nàng lấy một sợi giây lớn buộc chắc cây kéo vào ngang lưng, chỉ sợ tầu lắc lư rơi mất.
Đến xế chiều ngày thứ hai, máy tầu bắt đầu trục trặc. Khói bốc ra ngộp thở. Máy tầu nóng quá, phải ngưng chạy nhiều lần. Mọi người như ngất xỉu phần vì đói khát, phần vì say sóng, vì thế khi chủ tầu và tài công quyết định cho tầu quay mũi trở lại hải phận Việt Nam tránh bão, không có ai phản ứng gì cả.
Đến 10 giờ đêm, tầu đụng phải vật gì cứng, tầu khựng lại. Tài công
Một thiếu niên chừng 17 tuổi, tên Ngô Đình Đa, vội lấy hai thùng nylon làm phao, đưa một thùng cho bố. Em sợ bố không biết bơi nên dặn bố ôm thùng cho thật chặt.
Sóng và nước tạt vào tầu, tầu tróc mái, tả tơi. Tầu lật nghiêng 90 độ, hất người xuống biển như sung. Tiếng la khóc, tiếng chồng gọi vợ, tiếng cha gọi con vang động cả biển trời.
Thiếu niên và bố chui ra, gặp gia đình quen, vợ chồng con cái đứng ôm nhau khóc ở lối ra. Thiếu niên và bố nhảy liều xuồng biển. Chung quanh và trên tầu, tiếng người kêu khóc, cầu cứu vang rền trong đêm giông tố hãi hùng.
Hai bố con bị sóng nhận
chìm nhiều lần rồi lại nổi lên. Có lúc bố bị sóng đánh văng ra xa, em
phải vận dụng hết sức bơi tới, túm áo kéo bố lên. Một số người còn đứng
trên tầu la khóc cầu cứu. Một làn sóng lớn đánh ập tới, em quay lại,
không thấy tầu đâu nữa. Những người đứng trên đó cũng mất tiêu luôn. Em
ngó quanh không thấy ai, đồ đạc trôi lềnh bềnh.
Bỗng dưới chân như có vật gì đang nổi lên, em đưa tay sờ thì đoán là nắp
cabin tầu. Nắp cabin cùng với giây diện chằng chịt, từ từ nổi lên mặt
nước. Em bứt giây điện cột chặt người bố vào nắp cabin.
Thỉnh thoảng em lại thấy vài cái đầu đen nổi lên. Em bơi ra túm được một
bé trai chừng 13 tuổi ôm phao bằng bánh xe nhỏ. Em lôi đứa bé cột vào
nắp cabin cùng vối bố. Phía bên kia mấy ngọn sóng, em lại thấy hai cái
đầu đen khi ẩn khi hiện, em bơi tới và túm được mái tóc dài của hai cô
gái chừng 15, 16 tuổi. Vận dụng hết sức lực và sau chừng 15 phút chiến
đấu với sóng to gió lớn, em đã đưa được hai cô gái tới nắp cabin. Cả 5
người cùng ôm vào nắp cabin dài chừng 4 mét, rộng chừng một mét, nhưng
nắp cabin mỗi lúc mỗi thấm nước cứ chìm dần...chìm dần...
Vừa khi đó, 5 người thấy từ đằng xa một đám đen nổi lên. Thiếu niên la
to hai lần. Trong tiếng gào thét của sóng, hình như có tiếng người đáp
lại, phấn khởi, em la to thêm nữa, lần này quả thật có tiếng người đằng
kia đáp lại.
Cả năm người cùng đạp chân, khoảng cách chỉ chừng 50 mét, nhưng phải mất
hơn nửa giờ mới tới. Đám đen là một cái bè kết bằng phao dài 1m, rộng
chừng 8 tấc, nhưng đã có chín người bám
vào đó. Tới gần, thiếuniên rất ngạc nhiên khi thấy người thiếu phụ có
bầu và cùng chồng và đứa con trai 3 tuổi đang bám vào bè phao. Không
thấy đứa bé gái6 tuổi đâu cả. Ngoàira còn có hai vợ chồng ông bà chủ tầu
và hai con gái nhỏ trên mười tuổi có buộc phao an toàn. Cuối cùng có
hai thanh niên chừng 20 tuổi. Tấtcả những người nàykhông một ai biết
bơi. Khi nắp cabin thấm nước chìm hẳn thì cả năm người bám qua bè phao, số người tăng lên 14. Bè phao nổi lưng chừng, nước ngập trên gang tay.
Cuồng phong càng lúc càng gầm thét dữ dội, sóng bạc đầu trùng trùng lớp lớp, ầm ầm vây bủa tứ bề, vùi dập chiếc bè cùng với 14 người ốm yếu, đói khát. Nước lạnh căm, toàn thân thiếu niên đều nổi da gà. Có tiếng hàm răng đánh vào nhau kêu lắc cắc.
Người chồng quay qua thiếu niên, giọng nói
thất thanh qua tiếng sóng : " Vợ tôi sắp sanh...nhờ cậu săn sóc giùm..."
Thiếu phụ hai tay bám vào thành bè, cố ngước mặt lên khỏi mặt nước thở,
thỉnh thoảng nàng rên nho nhỏ...Có lẽ nàng chuyển bụng sắp sanh. Hình
như nàng không còn có thể khóc được nữa....
Thiếu niên hốt hoảng, yêu cầu hai cô con gái ông bà chủ tầu nhường chỗ
trên bè vì lúc đó hai bé gái nhoài người nửa trên bè nửa dưới nước. Ông
bà chủ từ chối, viện lý do hai con sẽ bị sóng đánh văng ra. Cực chẳng
đã, thiếu niên phải dọa : " không xuống thì tôi phải kéo xuống." Lúc đó
vợ chồng chủ tầu mới chịu bỏ hai con tụt xuống, trên người hai em đều có
buộc phao.
Thiếu niên và một thanh niên nữa giúp đẩy thiếu phụ sắp sanh lên bè.
Nàng nằm đó nhưng nửa người nằm dưới nước lạnh căm. Đại dương, đêm tối,
mưa bão
mịt mù, trong tiếng sóng đổ ầm ầm, trong tiếng gió gào thét ào ào có
tiếng rên la, mong manh, yếu ớt của thiếu phụ Việt Nam sắp lâm bồn.
Bỗng thiếu phụ nhỏm dậy và la to : "Chắc sắp đến giờ sanh rồi..." Nàng
tiếp tục rên khe khẽ. Thiếu niên kêu bà chủ hộ sanh. Bà từ chối, viện lý
do chưa bao giờ hộ sanh, và cũng không biết hộ sanh.
Sau một vài phút rên, thiếu phụ lại nằm xuống, ngâm bụng bầu dưới nước lạnh buốt, rồi la lớn : " Nó ra rồi ! Nó ra rồi !"
Quýnh quá, thiếu niên kêu hai cô gái lớn ra phụ. Một cô khóc òa lên. Một
cô vừa mếu máo vừa đưa tay xuống nước, sờ phải đầu hài nhi, òa lên
khóc, còn khóc lớn hơn cô kia.
Người chồng, một tay bám vào bè, một tay ôm chặt đứa con trai 3 tuổi, nói với thiếu niên : "Chắc số cháu
không sống được đâu, thôi để nó chết !!!...."
Lúc đó là nửa đêm, trận bão đang ở thời điểm tàn phá dữ dội nhất. Tất cả
đều kiệt sức, mạng sống như sợi chỉ treo mành. Ban ngày, khi sắp sanh
thì các tầu buôn lớn làm ngơ không cứu. Hoàn cảnh này có khác nào hoàn
cảnh của Thánh Maria hai ngàn năm về trước. Trong đêm đông giá lạnh,
thánh Maria sắp đến giờ sanh, cùng thánh Giu-Se tới gõ cửa nhiều nhà
trong thành phố, nhưng không có nhà nào chấp nhận. Chúa Giê-Su hài đồng
đã được sinh ra trong máng cỏ của chiên, lừa trong hang đá lạnh lẽo.
Không biết nhờ ai hộ sanh nữa, thiếu niên đánh liều, mặc dù có cảm giác
rờn rợn. Em dùng hai chân bơi để giữ thăng bằng, hai tay thò xuống nước
đụng phải đầu hài nhi. Một làn sóng đánh ập tới, em bị hất văng ra xa.
Tiếng thở hổn hển của thiếu
phụ mỗi lúc một khó khăn, dồn dập. Thiếu niên sải tay, đạp sóng bơi trở
lại, nhờ hai thanh niên giữ giùm người mình cho chắc. Em đưa tay xuống
nước tìm đầu hài nhi. Cái đầu nhỏ thó đã ra ngoài, nhưng còn vướng cái
vai, em không biết có nên kéo mạnh ra không, hay là cứ chờ sản phụ vận
sức đẩy hài nhi ra. Đang phân vân thì bỗng sản phụ rên lớn lên một tiếng
và em cảm thấy toàn bộ hài nhi đã lọt ra gần hết, chỉ còn hai bàn chân.
Em đánh bạo từ từ kéo hài nhi ra luôn. Hài nhi ra ngoài cùng với nhau
bầy nhầy. Em lúng túng, không biết làm gì hơn là ôm cả hài nhi lẫn đống
nhau bầy nhầy lên khỏi mặt nước.
Người mẹ nhoài người lấy cây kéo cũ lúc nào cũng buộc ngang thắt lưng.
Bà nhờ em cắt cuống rốn hài nhi. Vì sóng lớn quá, lúng túng mãi
ngủ. Hài nhi vẫn an nhiên tiếp tục giấc ngủ thiên thần từ trong lòng mẹ.
Đã gần nửa giờ qua đi mà chưa nghe hài nhi khóc oe một tiếng. Bà mẹ nhổm
dậy, nhìn qua hài nhi như mừng rỡ. Dưới ánh trăng lờ mờ có những giọt
nước mắt rơi trên khuôn mặt người mẹ. Thiếu niên mừng thầm, hy vọng hài
nhi sẽ sống sót. Bỗng từ xa một đợt sóng lớn và dài như dãy núi đên ngòm
đang ầm ầm đổ tới. Thiếu niên thầm nguyện: "Lạy Chúa, xin cứu chúng
con." Em vội la lớn cho mọi người bám chặt vào bè. Cả khối nước lớn ầm
ầm phủ chụp xuống. Thiếu niên vội cúi đầu che chở cho hài nhi. Hài nhi
đang khóc bỗng im bặt. Chắc bị ngộp nước mặn. E khó sống. Bà mẹ còn đau,
nằm ngửa ngâm dưới nước, nửa trên bè, hai tay bám chặt hai bên thành,
bà không biết bà còn đủ sức bám
chặt được bao lâu nữa trước khi bị sóng đánh văng ra.
Thiếu niên ôm hài nhi đã lâu, quá mỏi tay, nhờ ông chủ tầu ôm giùm. Ông
ta từ chối, viện lý do không biết bơi. Một lần nữa em phải dọa :"Ông
không ẵm giùm, tôi lôi ông xuống ". Ông chủ tầu đành phảiôm hài nhi,
nhoài một nửa người lên bè phao cho hài nhi bớt ướt. Hai thanh niên bên
cạnh không biết bơi, không dám giúp gì, chỉ biết nhường hai áo nylon đắp
cho em bé khỏi mưa gió lạnh.
Người mẹ muốn cho con bú, nàng lấy tay day day cặp vú một hồi, nhưng xẹp
lép, không có lấy một giọt sữa. Có lẽ vì nhịn đói cả hai ngày nay nên
không còn chút sữa cho con. Nhìn con mà quá xót xa. Thiếu niên cố bơi ra
xa, kéo hành lý trôi lềnh bềnh để tìm thực phẩm, thiếu niên chỉ toàn
thấy xác người chết bắt đầu
em mới cắt được cuống rốn và để dài chừng một gang tay như lời người
thiếu phụ căn dặn: "Cậu nhớ giữ chặt cuống rốn, kẻo gió cháu chết mất !"
Thiếu niên một tay ôm hài nhi và bám vào thành bè, một tay bóp cuống
rốn thật chặt. Sau một hồi lâu sản phụ mới tìm thấy cuộn chỉ đen lẫn
trong cạp quần nhét giữa hai cái phao. Bà nhờ em cột rốn hài nhi, nhưng
em không biết cột ra sao, trời thì nhá nhem tối, sóng đánh liên tục và
quá mạnh muốn văng cả em lẫn hài nhi ra xa, sợi chỉ lại quá nhỏ. Lúc đó
người chồng một tay ôm con trai 3 tuổi và bám vào bè, một tay cột rốn
phụ với thiếu niên.
Bây giờ hài nhi bé nhỏ nằm gọn trong khuỷu tay thiếu niên, trơ trơ giữa
trời nước, có mưa buốt lạnh đan áo, có sóng bạc đầu đưa nôi, có gió gào
thét đưa
ngủ. Hài nhi vẫn an nhiên tiếp tục giấc ngủ thiên thần từ trong lòng mẹ.
Đã gần nửa giờ qua đi mà chưa nghe hài nhi khóc oe một tiếng. Bà mẹ nhổm dậy, nhìn qua hài nhi như mừng rỡ. Dưới ánh trăng lờ mờ có những giọt nước mắt rơi trên khuôn mặt người mẹ. Thiếu niên mừng thầm, hy vọng hài nhi sẽ sống sót. Bỗng từ xa một đợt sóng lớn và dài như dãy núi đên ngòm đang ầm ầm đổ tới. Thiếu niên thầm nguyện: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con." Em vội la lớn cho mọi người bám chặt vào bè. Cả khối nước lớn ầm ầm phủ chụp xuống. Thiếu niên vội cúi đầu che chở cho hài nhi. Hài nhi đang khóc bỗng im bặt. Chắc bị ngộp nước mặn. E khó sống. Bà mẹ còn đau, nằm ngửa ngâm dưới nước, nửa trên bè, hai tay bám chặt hai bên thành, bà không biết bà còn đủ sức bám
nổi lên. Đã gần nửa giờ qua đi mà chưa nghe hài nhi khóc oe một tiếng. Bà mẹ nhổm dậy, nhìn qua hài nhi như mừng rỡ. Dưới ánh trăng lờ mờ có những giọt nước mắt rơi trên khuôn mặt người mẹ. Thiếu niên mừng thầm, hy vọng hài nhi sẽ sống sót. Bỗng từ xa một đợt sóng lớn và dài như dãy núi đên ngòm đang ầm ầm đổ tới. Thiếu niên thầm nguyện: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con." Em vội la lớn cho mọi người bám chặt vào bè. Cả khối nước lớn ầm ầm phủ chụp xuống. Thiếu niên vội cúi đầu che chở cho hài nhi. Hài nhi đang khóc bỗng im bặt. Chắc bị ngộp nước mặn. E khó sống. Bà mẹ còn đau, nằm ngửa ngâm dưới nước, nửa trên bè, hai tay bám chặt hai bên thành, bà không biết bà còn đủ sức bám
Sau ba tiếng đồng hồ bị gió dập vùi, nhóm người đắm tầu bỗng thấy có ánh đèn phía xa. Ánh đènnhư tia hy vọng sống còn loé lên trong tâm tư mọi người. Tất cả cùng ráng sức đạpchân đẩy bè tiến tới. Khi đến gần chỉ thấy nhiều hàng cột đáy, trên có chòi. Mặc dù cố gắng cách mấy cũng không tới gần được.
Lúc trời vừa sáng, khi tới gần thì bị sứa điện quấnrát quá, lại phải bơi ra xa. Khoảng chín giờ sáng, vẫn không thấy núi, vì thế không biết bè trôi ở vị trí nào.
Bây giờ mọi người mới biết hài nhi là bé trai. Mắt nhắm nghiền, thoi
thóp thở, nhỏ thó như con mèo,nước da còn tím thẫm. Nơi đây và giờ này,
sản phụ Việt Nam không nằm giường, không bác sĩ, không y tá, không bạn
bè, không hoa, không quà. Hài nhi không nôi, không mền, không cả một
mảnh vải bao bọc. Từ
trong bụng mẹ ấm cúng, ra chào đời là bị quăng ngay vào vòng cuồng phong
thịnh nộ, bị vất ngay vào vòng đại dương nổi sóng kinh hoàng. Hài nhi
Việt Nam, trần truồng, đầu dội trời chân đạp sóng, an nhiên giấc ngủ
thiên thần, mặc cho sóng gió gào thét , mặc cho các tầu lớn làm ngơ tiếp
tục hải trình với luật quốc tế về hàng hải bên cạnh thuyền trưởng, mặc
cho các nhà cách mạng trên thế giới đang nỗ lực giải phóng conngười, mặc
cho các lãnh tụ thế giới đang hăng say thảo luận và hô hào bảo vệ nhân
quyền.
Mạng sống của sản phụ và hài nhi mong manh như ngọn đèn trước gió, thời
gian là phút giây. Bà mẹ vẫn còn mệt lả, máu đỏ vẫn gỉ ra hòa lẫn với
sóng biển. Em thiếu niên ái ngại, nếu máu cứ tiếp tục chảy ra, sản phụ e
khó sống. Cá Mập, hung thần đại dương, chúng
chặt được bao lâu nữa trước khi bị sóng đánh văng ra.
Thiếu niên ôm hài nhi đã lâu, quá mỏi tay, nhờ ông chủ tầu ôm giùm. Ông
ta từ chối, viện lý do không biết bơi. Một lần nữa em phải dọa :"Ông
không ẵm giùm, tôi lôi ông xuống ". Ông chủ tầu đành phảiôm hài nhi,
nhoài một nửa người lên bè phao cho hài nhi bớt ướt. Hai thanh niên bên
cạnh không biết bơi, không dám giúp gì, chỉ biết nhường hai áo nylon đắp
cho em bé khỏi mưa gió lạnh.
Người mẹ muốn cho con bú, nàng lấy tay day day cặp vú một hồi, nhưng xẹp
lép, không có lấy một giọt sữa. Có lẽ vì nhịn đói cả hai ngày nay nên
không còn chút sữa cho con. Nhìn con mà quá xót xa. Thiếu niên cố bơi ra
xa, kéo hành lý trôi lềnh bềnh để tìm thực phẩm, thiếu niên chỉ toàn
thấy xác người chết bắt đầu
nổi lên. Sau ba tiếng đồng hồ bị gió dập vùi, nhóm người đắm tầu bỗng thấy có ánh đèn phía xa. Ánh đènnhư tia hy vọng sống còn loé lên trong tâm tư mọi người. Tất cả cùng ráng sức đạpchân đẩy bè tiến tới. Khi đến gần chỉ thấy nhiều hàng cột đáy, trên có chòi. Mặc dù cố gắng cách mấy cũng không tới gần được.
Lúc trời vừa sáng, khi tới gần thì bị sứa điện quấnrát quá, lại phải bơi ra xa. Khoảng chín giờ sáng, vẫn không thấy núi, vì thế không biết bè trôi ở vị trí nào.
Bây giờ mọi người mới biết hài nhi là bé trai. Mắt nhắm nghiền, thoi thóp thở, nhỏ thó như con mèo,nước da còn tím thẫm. Nơi đây và giờ này, sản phụ Việt Nam không nằm giường, không bác sĩ, không y tá, không bạn bè, không hoa, không quà. Hài nhi không nôi, không mền, không cả một mảnh vải bao bọc. Từ nổi lên.
Sau ba tiếng đồng hồ bị gió dập vùi, nhóm người đắm tầu bỗng thấy có ánh đèn phía xa. Ánh đènnhư tia hy vọng sống còn loé lên trong tâm tư mọi người. Tất cả cùng ráng sức đạpchân đẩy bè tiến tới. Khi đến gần chỉ thấy nhiều hàng cột đáy, trên có chòi. Mặc dù cố gắng cách mấy cũng không tới gần được.
Lúc trời vừa sáng, khi tới gần thì bị sứa điện quấnrát quá, lại phải bơi ra xa. Khoảng chín giờ sáng, vẫn không thấy núi, vì thế không biết bè trôi ở vị trí nào.
Bây giờ mọi người mới biết hài nhi là bé trai. Mắt nhắm nghiền, thoi
thóp thở, nhỏ thó như con mèo,nước da còn tím thẫm. Nơi đây và giờ này,
sản phụ Việt Nam không nằm giường, không bác sĩ, không y tá, không bạn
bè, không hoa, không quà. Hài nhi không nôi, không mền, không cả một
mảnh vải bao bọc. Từ
trong bụng mẹ ấm cúng, ra chào đời là bị quăng ngay vào vòng cuồng phong
thịnh nộ, bị vất ngay vào vòng đại dương nổi sóng kinh hoàng. Hài nhi
Việt Nam, trần truồng, đầu dội trời chân đạp sóng, an nhiên giấc ngủ
thiên thần, mặc cho sóng gió gào thét , mặc cho các tầu lớn làm ngơ tiếp
tục hải trình với luật quốc tế về hàng hải bên cạnh thuyền trưởng, mặc
cho các nhà cách mạng trên thế giới đang nỗ lực giải phóng conngười, mặc
cho các lãnh tụ thế giới đang hăng say thảo luận và hô hào bảo vệ nhân
quyền.
Mạng sống của sản phụ và hài nhi mong manh như ngọn đèn trước gió, thời
gian là phút giây. Bà mẹ vẫn còn mệt lả, máu đỏ vẫn gỉ ra hòa lẫn với
sóng biển. Em thiếu niên ái ngại, nếu máu cứ tiếp tục chảy ra, sản phụ e
khó sống. Cá Mập, hung thần đại dương, chúng
trong bụng mẹ ấm cúng, ra chào đời là bị quăng ngay vào vòng cuồng phong
thịnh nộ, bị vất ngay vào vòng đại dương nổi sóng kinh hoàng. Hài nhi
Việt Nam, trần truồng, đầu dội trời chân đạp sóng, an nhiên giấc ngủ
thiên thần, mặc cho sóng gió gào thét , mặc cho các tầu lớn làm ngơ tiếp
tục hải trình với luật quốc tế về hàng hải bên cạnh thuyền trưởng, mặc
cho các nhà cách mạng trên thế giới đang nỗ lực giải phóng conngười, mặc
cho các lãnh tụ thế giới đang hăng say thảo luận và hô hào bảo vệ nhân
quyền.
Mạng sống của sản phụ và hài nhi mong manh như ngọn đèn trước gió, thời
gian là phút giây. Bà mẹ vẫn còn mệt lả, máu đỏ vẫn gỉ ra hòa lẫn với
sóng biển. Em thiếu niên ái ngại, nếu máu cứ tiếp tục chảy ra, sản phụ e
khó sống. Cá Mập, hung thần đại dương, chúng
tầu đánh cá nữa tới. Cả hai tầu cùngđi về phía các đáy, kéo lưới lên,
hàng trăm xác chết vướng trong đó : Xác đàn ông, xác đàn bà, xác con
nít, xác người già, xác chết thanh niên nam nữ !
Trong số gần 350 người ra đi, chỉ còn 14 người sống sót, thêm đứa con
của biển mới sanh giữa những mảnh vụn của con tầu bị bão tố đánh vỡ tan
tành trong đêm tối. Những người sống sót này lại trở về điểm khởi hành.
Còn hơn 300 người kia, lúc ra đi họ không ngờ rằng đây là cuộc hành
trình chót của đời họ. Cuộc hành trình của họ trên biển Đông đã trở
thành cuộc hành trình vượt thoát ra khỏi thế giới loài người, cái thế
giới có quá nhiều hận thù nhưng có quá ít tình thương, cái thế giới chìm
đắm trong bóng tối tội lỗi, sống trong u mê với quá nhiều khổ đau.
Cuộc hành trìnhtrên biển Đông đã đưa hơn 300 anh linh về cõi bất diệt,
nơi không còn hận thù, không còn ước muốn, không còn bóng tối u mê, nơi
chỉ có hạnh phúc toàn vẹn, vĩnh cửu.
::: Vy Vy Trần
TRUNG CỘNG SẼ CHIẾM VIỆT NAM
Dưới con mắt người Nhật: “Trung Quốc chiếm trọn Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian?”
Bài viết dưới đây mượn lời của một người Nhật vốn sinh sống và làm việc tại Việt Nam khá lâu. Anh bạn này có góc nhìn rất khác đối với kế hoạch xâm lược Việt Nam của Trung Quốc, đồng thời châm biếm, đả kích sự thờ ơ của một số vị lãnh đạo tỉnh thành trước mối đe dọa đặt ra cho đất nước. Tâm sự của anh như sau:Tôi đã sinh sống và làm việc khá lâu tại đất nước các bạn, dĩ nhiên trước khi sang đây, chúng tôi đã nghiên cứu rất nhiều về văn hóa và lịch sử Việt Nam để có thể hòa nhập tốt. Cũng như các bạn, nước Nhật chúng tôi đang trải qua thời kỳ vô cùng khó khăn khi liên tục phải cảnh giác và đối phó với những âm mưu thôn tính Quần đảo Senkaku trên biển Hoa Đông của Trung Quốc. Đối với tình hình đất nước bạn hiện nay, tôi có một số đánh giá như sau:
Thói quen bành trướng của người Trung Quốc đã có từ xa xưa, quốc gia này luôn lăm le xâm chiếm nước Việt, điển hình là sự kiện An Dương Vương mất nước đã bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc kéo dài 1000 năm trong lịch sử Việt Nam, đến khi Ngô Quyền đánh thắng giặc trên sông Bạch Đằng. Rồi thì hàng loạt cuộc chiến tranh biên giới khác kéo dài từ xưa cho đến nay, tham vọng bành trướng của người Trung Quốc vẫn cháy rực không ngừng. Quốc gia phía Nam luôn là mục tiêu mà người Trung Quốc nhắm đến, tuy nhiên các bạn không dễ dàng bị ức hiếp và xâm lược.
Âm mưu của người Trung Quốc sử dụng trên Biển Đông được gọi là chiến thuật “cắt lát salami”, nghĩa là họ sẽ không cùng lúc chiếm toàn bộ mà là “ăn mòn” từng bộ phận, sau đó độc chiếm trọn vẹn.Từ thời xưa, người Trung Quốc đã không ngừng nỗ lực xâm phạm bờ cõi Việt Nam, điều này vẫn kéo dài cho đến ngày nay và họ sẽ tiếp bước thế hệ cha ông tiếp tục sự nghiệp bành trướng. Âm mưu của người Trung Quốc được gọi là chiến thuật “cắt lát salami”. Nghĩa là họ sẽ không cùng lúc chiếm toàn bộ lãnh thổ của Việt Nam mà là “ăn mòn” từng bộ phận, sau đó độc chiếm trọn vẹn, toàn bộ. Chiến thuật này không chỉ áp dụng tại Biển Đông – từng bước độc chiếm các bãi cạn và đảo nhỏ, củng cố yêu sách chủ quyền Trung Quốc trên Biển Đông, mà còn được áp dụng trong âm mưu xâm lược trên đất liền Việt Nam.Kế hoạch “tích tiểu thành đại” của Trung Quốc gồm nhiều hành động nhỏ: từ việc thâu tóm và biến các công ty Việt Nam thành công ty Trung Quốc, tăng cường sự hiện diện của người Trung Quốc tại Việt Nam; cho tới việc đẩy mạnh đầu tư lớn trên khắp đất nước, đặc biệt là khu vực Quảng Trị đến Thừa Thiên Huế – nơi hẹp nhất theo chiều Đông-Tây của dải đất hình chữ S (bề rộng chỉ khoảng 40km).
Con đường bê tông dẫn vào khu dự án nghỉ dưỡng 5 sao trên đèo Hải Vân – nơi có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự của Việt NamViệc di dân âm thầm xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam là bước nhỏ tạo bàn đạp để người Trung Quốc đồng hóa cũng như gây nhiễu trật tự xã hội tại đất nước các bạn. Trên dải đất hẹp nhất của Việt Nam, họ muốn dần thay thế người Việt bằng người Trung Quốc nhằm phục vụ cho âm mưu chia cắt Việt Nam và mưu chiếm Biển Đông. Bởi vì từ căn cứ quân sự Du Lâm của Trung Quốc trên đảo Hải Nam đến Cửa Việt (Gio Linh, Quảng Trị) của đất nước các bạn chỉ khoảng 320 – 350km theo đường chim bay. Do đó, họ dễ dàng thực hiện âm mưu chia cắt hai miền Nam Bắc trên cả về đường bộ lẫn đường biển.“Mất đất là mất nước”, người Trung Quốc đã lợi dụng điểm này để thực hiện âm mưu xâm lược của họ. Cách đây không lâu, họ không tiếc tay chi mạnh tiền thuê đất đầu nguồn trồng rừng của Việt Nam nằm ở cả ba miền Bắc – Trung – Nam với thời gian thuê dài hạn là 50 năm. Những vùng đất đầu nguồn đều có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng đối với Việt Nam, việc dễ dàng cho Trung Quốc thuê đất sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện mưu đồ “xâm chiếm”.
Tập đoàn Innov Green (Hồng Kông, Trung Quốc) được cấp phép thuê đất 50 năm trồng rừng nguyên liệu tại Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Nam, Lạng Sơn, Kon Tum
Mới đây nhất là việc lên kế hoạch xây dựng khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine (Huế) nằm ở khu vực đèo Hải Vân – nơi có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự của Việt Nam. Năm 2013, tỉnh Thừa Thiên – Huế đồng ý cấp phép gần 200ha đất ở khu vực đèo Hải Vân cho một công ty Trung Quốc để thực hiện Dự án xây dựng Khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine với tổng mức đầu tư lên đến 250 triệu USD.Theo thông tin mà tôi biết, nơi này có liên quan đến quân khu V và quân khu IV của Việt Nam, nếu chiếm được đèo Hải Vân tức là chiếm được Đà Nẵng. Từ Đèo Hải Vân nếu “lấn chiếm” sang Đèo Ngang thì Vịnh Bắc Bộ chắc chắn sẽ bị chia cắt, Trung Quốc khi đó hoàn toàn đủ sức đe dọa an ninh quốc gia của Vịệt Nam. Đây là binh pháp có từ tời xa xưa, từ lợi dụng kinh tế nhắm đến mục tiêu quốc phòng, tung hỏa mù khiến cho địch mất phương hướng, đây là điều người Trung Quốc đang hướng tới.Nhưng lạ thay, các vị chủ tịch huyện tỉnh của Việt Nam có lẽ chưa được học binh pháp này. Trung Quốc chỉ cần vung tiền mua đất để đầu tư thì các bạn đã nhanh chóng cắt đất cho thuê mà không mảy may nghi ngờ. Dĩ nhiên mưu đồ này không thể qua mắt được các vị tướng lĩnh quân đội. Âm mưu bị vạch trần và kế hoạch của người Trung Quốc thất bại ngoài ý muốn.
Việt Nam không đồng ý với đề xuất đưa 1000 xe cùng 1500 người Trung Quốc vào Việt Nam “nhân dịp hội chợ thương mại Việt Nam – Trung Quốc” trong tháng 12/2014. Có lẽ, các bạn đã bắt đầu đề cao cảnh giác hơn trước âm mưu của Trung Quốc.
Nhưng các bạn nên nhớ, Trung Quốc sẽ không từ bỏ kế hoạch thâm độc của mình và tôi lo ngại rằng vẫn còn nhiều vị Chủ tịch tỉnh sẵn sàng cấp phép cho các dự án nhanh chóng để đạt được cái mà họ gọi là “lợi ích chung của cộng đồng, cũng như vì sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và quốc gia” (nhưng thực ra là lợi ích của riêng họ). Không mấy khó khăn khi thuyết phục những vị lãnh đạo này, họ có vẻ khá dễ dãi và nhìn nhận sự việc quá đơn giản, trong khi người Trung Quốc thì quá thâm độc!
Mới đây, chính quyền thành phố Bằng Tường (Trung Quốc) đã đề nghị phía Việt Nam cấp phép cho 1.000 xe với khoảng 1.500 người Trung Quốc du lịch tại Việt Nam và quá cảnh sang các nước ASEAN, viện cớ là “nhân dịp hội chợ thương mại Việt Nam – Trung Quốc” trong tháng 12/2014.
Yêu cầu của Trung Quốc đã vấp phải sự phản đối của Bộ Giao thông Vận tải và Bộ Quốc phòng Việt Nam. Có lẽ, các bạn đã bắt đầu đề cao cảnh giác hơn trước âm mưu của Trung Quốc khi cố tình đề nghị được phép đi lại tự do từ 5 cửa ngõ của Việt Nam. Thông qua việc đưa một số lượng lớn người Trung Quốc đi khắp đất nước này, họ dễ dàng do thám tình hình, cài người Trung Quốc vào người Việt Nam, gây nguy hiểm cho chính người Trung Quốc để có cớ bắt bớ Việt Nam,… Những điều như vậy chẳng phải rất dễ dàng xảy ra nếu đề nghị trên được chấp thuận hay sao?
Một điểm khiến tôi cảm thấy lạ nhất đó là khi âm mưu của Trung Quốc bị vạch trần, lãnh đạo của các tỉnh thành Việt Nam lại dễ dàng phủi bỏ trách nhiệm quanh co biện minh cho quyết định sai lầm. Dường như các vị ấy chưa từng được học về “nhận sai và sửa sai”, nếu như ở đất nước chúng tôi, thì ngay lập tức các lãnh đạo của chúng tôi sẽ tạ lỗi trước người dân và xin từ chức.
Thiết nghĩ nếu Việt Nam vẫn còn nhiều vị quan chức dùng lý do “lo lắng cho lợi ích chung của cộng đồng” (thực chất là của riêng họ) và cố tình lờ đi “sự an nguy của đất nước” thì âm mưu xâm lược Việt Nam của người Trung Quốc chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.(Bạn đọc viết).Posted by Việt Anh
MỸ TRỞ LẠI VIỆT NAM
Không quân Mỹ - Thái Bình Dương hỗ trợ dân nghèo Quảng Ngãi
Ngày 24/3, hàng chục quân nhân Mỹ, Hoàng gia Campuchia, Thái Lan,
Singapore đã giúp tỉnh Quảng Ngãi sửa trường học, trạm y tế và khám bệnh
cho người nghèo.
65 quân nhân Mỹ cùng các chuyên gia y tế, bác sĩ, kỹ sư không lực từ
Singapore, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam bắt đầu tham gia chuỗi hoạt
động hỗ trợ nhân đạo tại Quảng Ngãi theo chương trình Thiên thần Thái
Bình Dương (PACANGEL) từ nay đến cuối tháng. Đây là hoạt động hỗ trợ
nhân đạo chung và kết hợp do Không quân Mỹ - Thái Bình Dương chủ trì.
Họ sẽ sửa chữa, xây hai trường học ở xã Bình Thanh Đông (huyện Bình
Sơn), Nam Tịnh Phong (huyện Sơn Tịnh), hai Trạm y tế tại huyện Mộ Đức và
khám sức khỏe cho người dân.
Các quân nhân sửa chữa trường Tiểu học Bình Thanh Đông. "Tham gia chiến
dịch Thiên thần Thái Bình Dương lần này tôi cảm thấy thật vinh dự được
giao lưu với các bạn Việt Nam. Hy vọng sau khi hoàn thành, những công
trình nơi đây sẽ trở thành kỷ niệm đẹp khó quên của đời tôi", thượng sỹ
Lizarraga cho biết.
Dãy phòng của Trường tiểu học Bình Thanh Đông vừa được các quân nhân Mỹ, Thái Lan, Campuchia, Singapore sơn mới. Sự
kiện này nằm trong chuỗi hoạt động hợp tác về lĩnh vực an ninh - quốc
phòng giữa Việt Nam và Mỹ, hướng tới kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan
hệ hai nước (1995-2015).
Dịp này, các quân nhân cũng khám sức khỏe tổng quát, nhi khoa và tư vấn sức khỏe cho người dân Quảng Ngãi. Chương
trình năm nay hỗ trợ nhân đạo tại Quảng Ngãi 1,4 triệu USD. Bộ Tư lệnh
Không quân Mỹ - Thái Bình Dương cũng hỗ trợ 690.000 USD xây Trung tâm
phòng chống thiên tai ở Quảng Ngãi.
Tiến sĩ Eric Stephan hướng dẫn cho ông Mai Tấn Mùi (49 tuổi, ngụ xã
Bình Chánh, huyện Bình Sơn) luyện tập vật lý trị liệu chữa bệnh thần
kinh liên sườn. Trung tá Darcy Yoshimoto -
Chỉ huy trưởng Chương trình Thiên Thần Thái Bình Dương - cho hay, chuỗi
hoạt động này nhằm cải thiện và phát triển mối quan hệ các nước cho sự
nỗ lực hỗ trợ nhân đạo và cứu nạn thiên tai trong tương lai gần. Từ năm
2007 đến nay, quân đội Mỹ cùng các quốc gia trong khu vực đã góp phần
cải thiện cuộc sống hàng nghìn người dân.
Họ vui đùa cùng học sinh Trường Tiểu học Bình Thanh Đông, huyện Bình
Sơn. Theo Trung tá Darcy Yoshimoto, trong khuôn khổ chiến dịch lần này,
Không quân Mỹ sẽ đưa đến Đà Nẵng máy bay vận tải quân sự C130 cùng 13
nhân viên để giao lưu cùng Sư đoàn 372. Hai bên sẽ giao lưu, trao đổi
kinh nghiệm về kỹ năng vận hành máy bay quân sự và hội thảo chuyên đề hỗ
trợ nhân đạo.
Trí Tín
Quân đội Mỹ trở lại miền Trung Việt Nam
Thật bất ngờ gần 40 năm, quân đội Mỹ lại có mặt tại Việt Nam.
Sáng 24.3, tại trường Tiểu học Bình Thanh Đông, xã Bình Thanh Đông,
huyện Bình Sơn, gần 20 quân nhân thuộc các lực lượng Không quân, Hải
quân… của Mỹ đã giúp thầy trò nơi đây xây dựng một số hạng mục và sửa
chữa trường học.
Thượng sỹ Lizarraga, phụ trách nhóm này bày tỏ: Dù hơi vất vả nhưng
chúng tôi cảm thấy rất vui khi được cùng đồng đội giúp đỡ thầy cô và các
em học sinh của trường.
Cùng
ngày, tại Trung tâm Văn hóa-Thể thao Dung Quất, KKT Dung Quất, cùng
huyện; các quân nhân Mỹ và một số quân nhân các nước Thái Lan;
Campuchia, Singapore… cũng đã tổ chức khám bệnh và cấp thuốc miễn phí
cho người dân vùng ven biển của địa phương. Theo đó từ hôm qua, ngày
23.4 đến nay, đã khám và cấp thuốc miễn phí cho trên 1000 lượt người
dân.
Bà Andrea Dykes, đại diện nhóm quân nhân tham gia chương trình này,
cho biết: “Tổng số tham gia có gần 100 quân nhân, trong đó thuộc quân
đội Mỹ là 65 người. Đây là lần đầu tiên các quân nhân Mỹ thực hiện hỗ
trợ nhân đạo chung tại Quảng Ngãi và là lần thứ 5 tại Việt Nam. Lần này,
ngoài 2 nơi đã nêu trên, chúng tôi còn tổ chức khám bệnh và cấp thuốc
cho người dân ven biển ở huyện Đức Phổ; sửa chữa trường trường Tiểu học
Tịnh Phong, huyện Sơn Tịnh; Phòng khám Đức Chánh và Đức Lợi, huyện Mộ
Đức. Hoạt động hỗ trợ sẽ kéo dài đến ngày 30.3, với tổng kinh phí khoảng
1,4 triệu USD”.
Thursday, April 2, 2015
CÔNG NHÂN ĐÌNH CÔNG
Bất chấp lời hứa của thủ tướng, phong trào đình công lan rộng sang ngày thứ 8 liên tiếp
Cảnh sát cơ động giàn trận trong lúc công nhân
Danlambao - Các cuộc đình công phản đối điều luật quái đản cho phép nhà nước tự ý ‘giữ hộ’ tiền công nhân đến năm 60 tuổi đã bước sang ngày thứ 8 liên tiếp. Bất chấp thông báo sẽ sửa luật bảo hiểm xã hội của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, làn sóng đình công từ Sài Gòn tiếp tục lan tỏa đến các tỉnh lân cận như Long An, Tiền Giang, Tây Ninh…
Theo facebook Nguyễn Thiện Nhân,
ngày 2/4/2015, toàn bộ khu công nghiệp Tân Hưng (Tiền Giang) – nơi có
gần 50 ngàn công nhân đã đồng loạt bỏ ra về và không làm việc.
“Công
nhân bỏ về hết, vắng tanh, chỉ còn loe hoe vài nhân viên văn phòng bị
ép ở lại. Các công ty lớn như Dụ Đức, Simone, On accessories, Freeview,
Hansae, Quảng Việt... công nhân đều bỏ về”, facebook Nguyễn Thiện Nhân cho biết.
Cuộc
đấu tranh phản đối luật bảo hiểm xã hội cũng đã bắt đầu diễn ra tại
Long An, Tây Ninh…, điều này cho thấy những lời hứa hão của thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng và nhà cầm quyền CSVN đã không còn được ai tin tưởng.
Tại
công ty Pou Yuen (Sài Gòn) – nơi đã khởi phát phong trào đình công từ
hôm 26/3, truyền thông nhà nước nói rằng vào sáng ngày 2/4, hầu hết các
công nhân đã quay trở lại làm việc sau khi nghe loa thông báo về lời hứa
của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Dù vậy, lúc trưa cùng ngày, facebook Nguyễn Thiện Nhân cho biết: “Hơn
phân nửa số công nhân Công ty Pou Yuen chưa chịu làm việc. Hàng trăm
công an với nhiều xe đặc chủng vẫn vây quanh công ty, sẵn sàng bắt
người”.
Tiền Giang) bỏ ra về. Ảnh: Facebook Nguyễn Thiện Nhân
Công nhân Công ty On accessories đồng loạt đình công, bỏ ra về để
phản đối luật bảo hiểm xã hội mới. Ảnh: Facebook Nguyễn Thiện Nhân
Trước đó, hàng ngàn côn an đã được huy động đến công ty Pou Yuen để đàn
áp, bắt bớ những công nhân biểu tình ôn hòa hôm 1/4. Phóng viên Lao Động
Việt có mặt tại hiện trường cho biết một số công nhân đã bị bắt và đánh
đập, khiến nhiều người phẫn nộ xông đến giải vây.
Để đối phó với các cuộc đình công, bộ LĐTBXH còn ban hành công điện khẩn ra lệnh “xử lý cá nhân lợi dụng tình hình kích động, lôi kéo người lao động ngừng việc, đình công”.
Trong khi đó, ông Đặng Ngọc Tùng – chủ tịch tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam không hề đứng về phía công nhận, mà thậm chí còn ngang ngược yêu
cầu công nhân “không để kẻ xấu lợi dụng, kích động, xúi dục làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp và tình hình an ninh trật tự tại địa phương’'.
Bộ máy CA với quân số khổng lồ cũng đã được lệnh trực chiến tại những nơi có đông công nhân tập trung.
Hiện không rõ tình trạng của những công nhân bị CA bắt bớ trong những ngày đình công vừa qua.
Cảnh sát cơ động giàn trận trong lúc công nhân khu công nghiệp Tân Hưng
Video: Công nhân Pou Yuen rượt đuổi dân phòng để giải vây đồng đội
Bạn đọc Danlambao
- Ngày 1/4/2015, hàng vạn công nhân Pou Yuen tiếp tục đình công phản
đối luật bảo hiểu xã hội vừa được quốc hội CS thông qua. Cuộc biểu tình
ôn hòa đã bước sang ngày thứ 7 liên tiếp và lan sang nhiều công ty khác
tại Bình Dương, Long An…
Đáp lại, nhà cầm quyền CSVN đã huy
Đáp lại, nhà cầm quyền CSVN đã huy động lực lượng lên đến hàng ngàn
người, gồm cảnh sát cơ động, côn an, dân phòng, quân đội… kéo đến vây
hãm. Lợi dụng buổi trưa vắng người, CA bất ngờ kéo đến đàn áp và bắt bớ
nhiều công nhân. Dù vậy, sức mạnh của số đông công nhân đã khiến những
kẻ đàn áp phải bỏ chạy tán loạn.
Phá rào, giải vây đồng đội
Theo nhóm phóng viên Lao Động Việt có mặt tại hiện trường, đông đảo công
nhân khi hay chuyện đã lập tức phá hàng rào sắt, đồng loạt xông vào
giải cứu đồng đội.
Video do Lao Động Việt cho thấy hình ảnh lực lượng dân phòng đã phải bỏ chạy tán loạn vì bị bị công nhân rượt đuổi.
Trước khi thế mạnh mẽ và đoàn kết của công nhân, lực lượng đàn áp dù đã phải chạy tán loạn nhưng vẫn bắc loa đe dọa: “Đề nghị bà con giải tán, bằng không chúng tôi sẽ dùng biện pháp mạnh”.
Trong video xuất hiện nhiều tiếng la uất ức:
“Tui đóng bao nhiêu phải trả lại bấy nhiêu, chứ đợi đến 55 chắc gì tôi còn sống?”
“Công an phải bảo vệ công nhân chớ, sao trấn áp tụi tui?”
Được biết, nhiều máy rút tiền ATM đã bị khóa trong thời gian đình công.
Đây là thủ đoạn của nhà cầm quyền CSVN nhằm đánh vào đồng lương còm cõi
của công nhân.
Khi nào đến lượt Nguyễn Tấn Dũng?
Trước làn sóng biểu tình, đình công ngày càng lan rộng, chiều ngày 1/4,
văn phòng thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đã buộc phải phát đi thông báo
chấp nhận yêu cầu của công nhân. Theo đó, ông Dũng và các quan chức cam
kết sẽ kiến nghị quốc hội CSVN sửa đổi điều 60 bộ luật bảo hiểm xã hội,
cho phép công nhân được nhận tiền một lần.
Tuyên bố trên nhằm mục đích ‘xoa dịu’ công nhân, nhưng đã khiến chế độ
CSVN rơi vào tình thế bế tắc vì quỹ bảo hiểm xã hội và lương hưu đã sắp
cạn kiệt.
Nếu Nguyễn Tấn Dũng sửa điều luật 60 thì sẽ dẫn đến hậu quả là vỡ quỹ
bảo hiểm xã hội, hàng triệu cán bộ cộng sản bị mất lương hưu. Điều này
đồng nghĩa với thời điểm cáo chung của chế độ CSVN.
Ngược lại, nếu Nguyễn Tấn Dũng cố tình ‘quỵt nợ’ bằng trò hứa lèo như
trước đây, thì chắc chắn ông thủ tướng sẽ bị hàng triệu công nhân cả
nước ‘tính sổ’.
Được biết, sáng ngày 2/4/2015, các cuộc đình công đã lan sang các tỉnh
như Tiền Giang, Tây Ninh. Còn tại Sài Gòn, một số công nhân Pou Yuen vẫn
bỏ việc, trong khi nhiều người khác đã quay trở lại công ty.
Có thể thấy, thủ đoạn câu giờ đã khiến chế độ CSVN lung lay đến tận gốc. Nguyễn Tấn Dũng và các quan chức CS còn thời hạn 8 tháng trước khi luật bảo hiểm xã hội chính thức có hiệu lực vào đầu năm 2016.
Có thể thấy, thủ đoạn câu giờ đã khiến chế độ CSVN lung lay đến tận gốc. Nguyễn Tấn Dũng và các quan chức CS còn thời hạn 8 tháng trước khi luật bảo hiểm xã hội chính thức có hiệu lực vào đầu năm 2016.
Trong trường hợp Nguyễn Tấn Dũng không thuyết phục được quốc hội CSVN
sửa luật, chắc chắn người dân cả nước sẽ chứng kiến hình ảnh Nguyễn Tấn
Dũng và đảng CSVN tháo chạy tán loạn như những viên dân phòng trong đoạn
clip trên.
Bạn đọc Danlambao
danlambaovn.blogspot.com
Bạn đọc Danlambao
danlambaovn.blogspot.com
PULAU BIDONG
ĐẢO PULAU BIDONG
NGÀY XƯA TA RA ĐI.....
CÓ CHẾT TA CŨNG ĐI...
BẾN BỜ MỞ RỘNG VÒNG TAY......
CẦU JETTY CHÚNG TA VỪA TỚI ĐẢO...
CẦU JETTY CŨNG LÀ CẦU BIỆT LY, CHÚNG TA ĐẾN RỒI ĐI...
BIDONG ƠI HÔM NAY TA RỜI ĐẢO RỒI, TA CHÀO BIDONG NHÉ....
TƯ LỆNH PHÓ LỰC LƯỢNG ĐẶC NHIỆM SAU CÙNG TRÊN ĐẢO PULAU BIDONG.....
_
CÁC TRƯỜNG HỌC TRÊN ĐẢO
ĐƯỜNG LÊN ĐỒI TÔN GIÁO
ĐỒI TÔN GIÁO NHÌN TỪ BIỂN
CHÙA TỪ BI
NƠI MONG TIN THƯ VÀ MONG TIẾP TẾ CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ THÂN NHÂN,
LÃNH THƯ XONG........
........TỚI GIAN HÀNG MÃ
........HOẶC ĐI CHỢ
........HAY ĐI DẠO PHỐ TRÊN ĐẢO
NƠI BUỔI TỐI XEM TV Ở KHU F
NẾU CÓ TIẾP TẾ THÌ CAFE
THUỐC LÁ THẬT NGON LÀNH
KHU BỆNH VIỆN SICKBAY....THÁNG 7-1989.
ĐỒNG BÀO ĐI LẢNH NƯỚC
TIÊU CHUẨN MỔI NGƯỜI 1 NGÀY 1 SÔ.
TẮM GIẶT BẰNG NƯỚC GIẾNG
NHÌN TỪ KHU F QUA BÊN KIA LÀ ĐẢO "CÁ MẬP"
HÌNH ĐẢO "CÁ MẬP" NÀY NHÌN TỪ THỀM CHÙA TỪ BI QUA
KHỐI TIẾP LIỆU ĐANG PHÁT THỊT GÀ HẰNG TUẦN VÀO NGÀY THỨ 5
& MỖI TUẦN 2 LẦN TÀU BLUE DARTCỦA UNHCR CHỞ QUA ĐẢO TẤT CẢ
NHỮNG THỰC PHẪM KHÔ & THỰC PHẪM TƯƠI CÓ ĐÔI KHI TRÁI CÂY NỮA..
KHU A...
KHU D
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 357
Thursday, April 2, 2015
TỰ DO NGÔHN LUẬN 216 NGÀY 1-4-2015
Lừa gạt Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới !!!
Quốc hội VN, dưới sự chỉ đạo của đảng Cộng sản,
cũng đã soạn thảo rồi phê chuẩn nhiều bộ luật bất chấp ý kiến toàn dân
và đi ngược quyền lợi toàn dân như Luật Báo chí, Luật Giáo dục, Luật Đất
đai, Luật Hình sự… Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 hoàn toàn bóp
nghẹt quyền tự do ngôn luận, cấm hẳn báo chí tư nhân dưới mọi hình
thức. Các loại báo chí công khai và chính thức tại VN hiện thời đều nằm
trong tay đảng Cộng sản. Luật Giáo dục năm 2005 dành độc quyền giáo dục
cho đảng, đào tạo công dân dựa trên chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ, cấm
hẳn mọi tư thục (ngoại trừ lớp mẫu giáo) nằm dưới sự điều hành của các
Giáo hội. Luật Đất đai 2003 hoàn toàn tước bỏ quyền tư hữu đất đai của
toàn dân, chỉ cho dân quyền sử dụng, để thâu tóm tất cả tài nguyên quốc
gia vào trong tay nhà nước, một nhà nước hoàn toàn nằm trong tay đảng.
Luật Hình sự bổ sung sửa đổi năm 2013 (với các điều 79, 88, 258) là công
cụ đàn áp các tiếng nói đối lập với nhà cầm quyền và đảng Cộng sản.
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 216 (01-04-2015)
FVPOC | Cập nhật 01/04/2015
Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới (Inter-Parliamentary Union,
IPU) lần thứ 132 đang diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Hà Nội từ
ngày 28-03 đến ngày 01-04-2013. Đây là sự kiện chính trị, sự kiện ngoại
giao quan trọng vì có sự tham dự của hơn 160 đoàn thuộc các nghị viện
thành viên, thành viên liên kết, quan sát viên và khách mời với hơn 1600
đại biểu đến từ khoảng 150 quốc gia và tổ chức hoàn vũ.
Được thành lập năm 1889 tại
Paris, với trụ sở chính tại Geneva, Thụy Sĩ, và nay có 166 thành viên
khắp các châu lục, Liên minh Nghị viện Thế giới chủ trương bảo
vệ và cổ xúy Nhân quyền (NQ), vì cho rằng NQ là yếu tố cốt lõi để có
dân chủ trong nghị viện và phát triển trong quốc gia. Riêng Hội đồng
Nhân quyền LHQ cũng đã có Nghị quyết
7 điểm ngày 23-06-2014 về tầm quan trọng bảo vệ NQ của Liên minh Nghị
viện. Thành thử sáng hôm 30-03, Ủy ban Thường trực về Dân chủ và Nhân
quyền IPU-132 đã thông qua Dự thảo Nghị quyết được soạn từ IPU-131 mang
tên “Luật pháp quốc tế trong vấn đề chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và quyền con người”.
Nhà cầm quyền Hà Nội đã rất hí
hửng trước sự kiện này, vì đây là cơ hội rất tốt để họ tuyên truyền lừa
gạt quốc tế rằng cái mang danh “Quốc hội VN” luôn là của dân, do dân,
vì dân, luôn tôn trọng, bảo vệ, phát triển nhân quyền, cũng như để ngụy
biện khẳng định lần nữa rằng quyền con người và luật pháp quốc tế phải
lệ thuộc chủ quyền quốc gia và việc bên ngoài lên tiếng về nhân quyền VN
là can thiệp vào công việc nội bộ của Hà Nội. Thành thử chiều ngày
26-3-2015, tại buổi họp báo quốc tế nhân dịp tổ chức Đại hội đồng, Chủ
tịch đảng hội Nguyễn Sinh Hùng đã đăng đàn chém gió: “Muốn thế giới đoàn kết, hòa bình, hợp tác để cùng phát triển thì đầu tiên là phải tôn trọng quyền con người” nhưng thêm ngay “tôn trọng quyền dân tộc, tôn trọng quyền quốc gia”
(x. VnEconomy 26-03). Đại diện đoàn Việt Nam tham dự Đại hội đồng, ông
Lê Minh Thông, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội, thành viên Tiểu
ban Nội dung, hôm 30-03 cũng cho rằng: “Đây là Nghị quyết quan trọng, thể hiện mối quan hệ giữa luật pháp quốc tế, chủ quyền quốc gia và quyền con người”. Tuy nhiên, như chủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, ông ta còn thêm: “Việt
Nam đề cao luật pháp quốc tế và cho rằng luật pháp quốc tế cần phải
được tuân thủ một cách nghiêm túc trong quan hệ quốc tế; đồng thời luật
pháp quốc tế cũng phải tương quan, tương thích với chủ quyền quốc gia” (x. trang mạng VOV 30-03)
Tuy nhiên, cho dù nằm ở điểm
cuối trong nhan đề Nghị quyết, nhưng xét theo chủ trương chính của IPU,
quyền con người được khẳng định như yếu tố căn bản của cuộc sống, luôn
là trung tâm của luật pháp quốc tế lẫn chủ quyền quốc gia cũng như vượt
lên khái niệm “bất can thiệp nội bộ”, vì vấn đề nhân quyền là phi biên
giới, mang tính phổ quát hoàn vũ. Đúng như ông Elie Wiesel, Nobel hòa
bình 1986, người từng tranh đấu không ngừng cho tự do, dân chủ, nhân
quyền thế giới, đã viết : “Tôi thề sẽ không bao giờ im tiếng, nếu ở
đâu và còn khi nào, con người còn bị đau khổ và đọa đày. Chúng ta phải
nhập cuộc. Trung lập chỉ có lợi cho kẻ áp bức. Do đó chúng ta phải can
thiệp. Khi đời sống con người bị đọa đày, phẩm giá con người bị chà đạp,
các biên thùy quốc gia không còn quan trọng nữa. Nơi nào con người bị
hành hạ vì lý do tôn giáo, chính trị hay chủng tộc, nơi đó lập tức trở
thành trung tâm của vũ trụ. Nếu chỉ còn một tù nhân lương tâm bị giam
giữ, quyền tự do của chính chúng ta cũng bị đe dọa. Các nạn nhân này chỉ
đòi hỏi một điều, là họ biết rằng họ không bị cô đơn, không bị lãng
quên ; rằng khi họ không còn quyền được nói ; chúng ta sẽ nói thay họ.
Và nếu tự do của họ tùy thuộc vào cuộc đấu tranh của chúng ta, thì ngược
lại, tự do của chúng ta cũng tùy thuộc vào số phận của họ”
Đứng trước sự kiện chính trị
ngoại giao quan trọng ấy, đồng thời dự đoán những hành vi lẫn lời nói
tuyên truyền lẫn ngụy biện của Hà Nội, hơn 20 tổ chức xã hội dân sự độc
lập tại Việt Nam đã gởi lên Đại hội đồng IPU một Thư ngỏ hôm 22-03, cho
thấy Quốc hội của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, vốn nằm dưới
sự lãnh đạo của đảng Cộng sản, chỉ là bình phong che đậy cho đảng vi
phạm nhân quyền.
Vì xét về nguồn gốc, Quốc hội
mọi khóa (có lẽ trừ khóa đầu tiên) đã hình thành từ những cuộc bầu cử
giả tạo, hình thức. Mọi ứng cử viên đều là thành viên hay cảm tình viên
của đảng Cộng sản, do Mặt trận Tổ quốc là cơ quan ngoại vi của đảng giới
thiệu. Không có ứng cử viên độc lập mà nếu có cũng bị gạt ngay từ giai
đoạn giới thiệu của Mặt trận. Nhân dân gọi đó là lối “đảng cử dân bầu”
và gọi các đại biểu Quốc hội là “đảng biểu” thay vì “dân biểu”, vì họ
chẳng được toàn dân tự do chọn lựa và chẳng bao giờ đại diện thực sự cho
toàn dân. Ngoài ra, các cuộc bầu cử Quốc hội luôn mang tính cưỡng bức,
ai không đi bỏ phiếu sẽ gặp rất nhiều rắc rối sau đó trong cuộc sống và
trong công việc. Vì thế, tỷ lệ cử tri đi bầu luôn rất cao, từ 95% đến
100%!
Xét về hoạt động, vì là người
của đảng Cộng sản và thấy mình như nhận được ân huệ đảng ban cho, các
thành viên Quốc hội Việt Nam từ trước tới nay luôn vâng lời đảng, làm
luật theo ý đảng để đem cả nền lập pháp phục vụ sự thống trị của đảng.
Thành ra họ chẳng bao giờ bảo vệ và cổ xúy Nhân quyền, coi Nhân quyền
như mục tiêu cho hoạt động của mình và như điều kiện cho sự phát triển
đất nước. Có rất nhiều sự việc minh chứng:
Chẳng hạn ngày 28-11-2013, bản
Hiến pháp mới của Việt Nam -mà theo tuyên bố thẳng thừng của chủ tịch
Nguyễn Sinh Hùng là sự thể chế hóa cương lĩnh đảng Cộng sản- đã được 488
đại biểu phê chuẩn với đa số tuyệt đối (486 phiếu thuận). Việc phê
chuẩn này đã chà đạp mọi góp ý mang tính dân chủ hóa của nhân dân, từ
các cá nhân đến các tập thể suốt một năm dài trước đó, cũng như đã gây
nên thất vọng lẫn phẫn nộ nơi mọi ai mong muốn nhân quyền cho Việt Nam.
Bởi lẽ, dù trong Hiến pháp ấy có dành chương II, từ điều 14 đến điều 49,
nói về “quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” (bắt
chước HP các nước văn minh dân chủ), nhưng rõ ràng tất cả đều phải lệ
thuộc, hay đúng ra bị đè bẹp bởi các độc quyền và ưu quyền của đảng Cộng
sản do chính Hiến pháp khẳng định. Và đấy chính là thâm ý trong lời
phát biểu của Nguyễn Sinh Hùng lẫn Lê Minh Thông: việc tôn trọng quyền
con người và luật pháp quốc tế “phải tương quan, tương thích với chủ quyền quốc gia”
(vốn luôn bị hiểu là chủ quyền của đảng CS). Trước hết là độc quyền
lãnh đạo nhà nước và xã hội (Điều 4). Tiếp đó là độc quyền sở hữu tài
nguyên quốc gia (Điều 54), độc quyền sử dụng lực lượng truyền thông
(Điều 96) và lực lượng vũ trang (Điều 65), độc quyền giáo dục (Điều 96),
rồi ưu quyền về văn hóa (Điều 4 vốn lấy chủ nghĩa Mác-Lê lẫn tư tưởng
Hồ làm nền tảng), và ưu quyền về kinh tế (Điều 51 vốn khẳng định kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo).
Trước đó, Quốc hội VN, dưới sự
chỉ đạo của đảng Cộng sản, cũng đã soạn thảo rồi phê chuẩn nhiều bộ
luật bất chấp ý kiến toàn dân và đi ngược quyền lợi toàn dân như Luật
Báo chí, Luật Giáo dục, Luật Đất đai, Luật Hình sự… Luật Báo chí sửa
đổi, bổ sung năm 1999 hoàn toàn bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận, cấm hẳn
báo chí tư nhân dưới mọi hình thức. Các loại báo chí công khai và chính
thức tại VN hiện thời đều nằm trong tay đảng Cộng sản. Luật Giáo dục
năm 2005 dành độc quyền giáo dục cho đảng, đào tạo công dân dựa trên chủ
nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ, cấm hẳn mọi tư thục (ngoại trừ lớp mẫu
giáo) nằm dưới sự điều hành của các Giáo hội. Luật Đất đai 2003 hoàn
toàn tước bỏ quyền tư hữu đất đai của toàn dân, chỉ cho dân quyền sử
dụng, để thâu tóm tất cả tài nguyên quốc gia vào trong tay nhà nước, một
nhà nước hoàn toàn nằm trong tay đảng. Luật Hình sự bổ sung sửa đổi năm
2013 (với các điều 79, 88, 258) là công cụ đàn áp các tiếng nói đối lập
với nhà cầm quyền và đảng Cộng sản.
Như thế thì các quyền con
người được ghi trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền lẫn hai Công ước Quốc
tế về các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội mà VN đã
ký tham gia từ năm 1982 đều bị hạn chế hay tước đoạt. Vô số vụ chà đạp
nhân quyền đã và đang xảy ra nhưng Quốc hội VN (vốn có cả Ủy ban Nhân
quyền) vẫn bình chân như vại, không lên tiếng cũng chẳng tìm cách giải
quyết cho tốt đẹp. Thậm chí nhiều vụ việc liên quan tới chủ quyền quốc
gia (như vụ giàn khoan HD 981, vụ Trung Quốc chiếm một phần quần đảo
Trường Sa thuộc VN rồi đặt cơ sở hành chánh trên Hoàng Sa và xây dựng
công sự tại Gạc Ma), Quốc hội cũng chẳng hề đưa ra một nghị quyết nào
cả!
Cụ thể trong chính những ngày
họp Đại hội đồng IPU, để “tiếp sức và củng cố” cho thông điệp của Nguyễn
Sinh Hùng, công an khắp nơi đã bao vây, canh gác không cho nhiều người
hoạt động dân chủ bước ra khỏi nhà vì sợ họ sẽ đến Hà Nội cất tiếng nói
về tình trạng vi phạm nhân quyền. Chẳng hạn sáng ngày 30-03, bà Trần Thị
Nga, thành viên Hội Phụ nữ Nhân quyền, đã bị bắt tại bến xe Giáp Bát,
Hà Nội, sau đó bị đánh đập dã man và đưa về lại thành phố Phủ Lý. Trước
đó, sáng ngày 28-3 nhiều thành viên Hội cựu Tù nhân Lương tâm tại Sài
Gòn như ông Phạm Bá Hải đã bị an ninh chặn đứng, sách nhiễu khi chuẩn bị
ra Hà Nội trao Thư ngỏ của các tổ chức xã hội dân sự. Ông Nguyễn Hồ
Nhật Thành ở phường An Lạc, quận Bình Tân, Sài Gòn thì lại bị giam lỏng
tại nhà từ chiều 28 đến tối 30-3. Tại Nha Trang, blogger Nguyễn Ngọc Như
Quỳnh cùng người bạn Võ Trường Thiện đã bị công an bắt khi trên đường
ra phi trường và đã bị giam tới tối. Anh Lý Quang Sơn, thành viên tổ
chức xhds “Cơm cho Dân oan” thì bị nhiều an ninh Hà Nội đánh thức tối
28-3, bắt đưa lên xe chở về quê ở TP. Nam Định. (Theo RFA, 2015-03-30).
Người ta cũng không quên là trong diễn văn khai mạc Đại hội đồng dài
1432 chữ do Nguyễn Sinh Hùng nhân danh chủ tịch đảng hội đọc trước hơn
1600 đại biểu của các quốc gia thành viên IPU, chỉ nghe được 2 lần chữ
Nhân Quyền từ cửa miệng của ông ta, nhưng hoàn toàn không có một cam kết
nào về chuyện “tôn trọng nhân quyền” như chủ đề của Đại hội đồng: “Biến
lời nói thành hành động”.
Thế thì toàn dân hãy ra tay
hành động, hãy tính sổ với Quốc hội bù nhìn này khi nó lại được nặn ra
lần thứ 13 vào cuối năm 2016 hay đầu năm 2017.
BAN BIÊN TẬP
Wednesday, April 1, 2015
LÊ MINH NGUYÊN * CAM RANH
Cam Ranh Bay - rượu mời không uống
Lê Minh Nguyên (Danlambao) - VN
cần xoay 180 độ việc sử dụng vịnh Cam Ranh trong tương quan Nga và HK.
Nga là quyền lực đang suy, vùng cận Nga và biên cương còn không giữ nỗi.
HK vẫn là siêu cường số một trong thế kỷ 21 và đã định hình vị thế giàu
mạnh của họ ở CA-TBD, đã chấm Subic Bay và vịnh Cam Ranh chung lại là
căn cứ quân sự của họ. Điều này có lợi cho VN trong việc bảo vệ Biển
Đông nói riêng và an ninh đất nước nói chung. Một dân tộc thông minh thì
không thể làm những quyết định để gây bất hạnh cho các thế hệ tương lai
của nòi giống VN mình.
*
Có một câu chuyện vui: hai người bạn thân rủ nhau đi dạo trong rừng, một người là sinh viên xuất sắc trong trường, môn nào cũng điểm A, người kia không học hành nhưng hết sức khôn ngoan đường phố. Hai người mải mê đi và trò chuyện thì thình lình một con gấu/grizzly khổng lồ xuất hiện phía trước, đứng trên hai chân chờ. Anh sinh viên sợ xanh mặt, run bần bật hỏi "Làm sao? Làm sao bây giờ?" Anh đường phố không trả lời mà ngồi xuống cởi giày ống đi rừng ra, lấy giày bata chạy bộ mang vào. Anh sinh viên thấy vậy hỏi "Bộ mày nghĩ mày chạy nhanh hơn con gấu sao?" Anh đường phố trả lời "Tao không nghĩ tao chạy nhanh hơn con gấu, nhưng tao nghĩ tao chạy nhanh hơn mày".
*
Có một câu chuyện vui: hai người bạn thân rủ nhau đi dạo trong rừng, một người là sinh viên xuất sắc trong trường, môn nào cũng điểm A, người kia không học hành nhưng hết sức khôn ngoan đường phố. Hai người mải mê đi và trò chuyện thì thình lình một con gấu/grizzly khổng lồ xuất hiện phía trước, đứng trên hai chân chờ. Anh sinh viên sợ xanh mặt, run bần bật hỏi "Làm sao? Làm sao bây giờ?" Anh đường phố không trả lời mà ngồi xuống cởi giày ống đi rừng ra, lấy giày bata chạy bộ mang vào. Anh sinh viên thấy vậy hỏi "Bộ mày nghĩ mày chạy nhanh hơn con gấu sao?" Anh đường phố trả lời "Tao không nghĩ tao chạy nhanh hơn con gấu, nhưng tao nghĩ tao chạy nhanh hơn mày".
Nhưng nếu một người vừa có khôn ngoan đường phố vừa có khôn ngoan học
đường thì đó không phải là một người dở và ta không nên đánh giá thấp
bản lãnh của anh ta. Hai năm còn lại của một tổng thống Mỹ hai nhiệm kỳ
thường được xem là vịt què/lame duck, không thể đưa ra được sáng kiến
táo bạo hay làm được những việc gì lớn có ý nghĩa. Điều này đúng, nhất
là khi cả hai viện quốc hội đều nằm trong tay của đối lập. Cho nên những
gì mà TT Obama chưa thông qua được ở quốc hội, nhất là những vấn đề đối
nội như di trú, môi trường... hay đối ngoại như Iran, Do Thái, Syria...
Tuy nhiên, trong vấn đề xoay trục về Châu Á-Thái Bình Dương (CA-TBD) thì
hoàn toàn khác, vì nó đã được khởi xướng từ lâu và được cả hai đảng
nhiệt tình ủng hộ, cho dù sau TT Obama là tổng thống Dân Chủ hay Cộng
Hòa. Đơn giản vì tất cả họ coi thế kỷ 21 (TK21) là thế kỷ của CA-TBD và
sự giàu thịnh của HK trong TK21 là ở vùng này. Phần lớn lịch sử của TK
21 được viết ở vùng CA-TBD.
Chính ông Obama cũng nói là ông không ngần ngại để có những quyết định
mạnh mẽ trong hai năm còn lại, như ông đã làm với Cuba, đang làm với
Iran, và ngay trong vấn đề gai góc của đối nội là di trú với lệnh hành
pháp cho phép hằng triệu người di trú bất hợp pháp được ở lại HK.
Trong vấn đề xoay trục, rõ ràng ông có hai động lực lớn để làm nhanh,
làm mạnh cho nó có kết quả cụ thể khi ông bước xuống cuối năm 2016. Đó
là (1) ông cần để lại một điểm son, một chỗ đứng tốt/legacy trong lịch
sử HK, và (2) tạo sự dễ dàng cho tổng thống tiếp nối ông triển khai, mà
không phải lo ngại mất phiếu cử tri, rồi tránh né những quyết định khôn
ngoan nhưng nhạy cảm.
Nhiều người có khuynh hướng đánh giá thấp bản lãnh của ông Obama, một
người có sự khôn ngoan đường phố thuở thiếu thời và được giáo dục
Harvard khi vào đại học. Ông có cả hai thứ và đã hạ gục Bin Laden, đã
xoay chuyển nền kinh tế HK, đã giảm mức thất nghiệp, đã khôi phục lại
cảm tình của thế giới đối với HK, đã trừng phạt hiệu quả ông Putin và
bây giờ đang rất quan tâm đến vấn đề xoay trục, mà ta rất dễ dàng để
nhận ra là: nhu cầu sử dụng vịnh Cam Ranh và cách giải quyết.
Ông bộ trưởng quốc phòng HK lúc trước, Leon Panetta, đầu tháng Sáu 2012
viếng vịnh Cam Ranh không phải để đi chơi. Sách Trắng Quốc Phòng HK đã
nêu rõ chủ trương chiến lược cần chỗ không xây tổ/places not bases để
vừa ít tốn kém vừa tránh những nhạy cảm chính trị với quốc gia sở tại.
HK có đội máy bay ném bom B-2 hùng mạnh đồn trú ở Whiteman Airforce
Base, tiểu bang Missouri trong nội địa HK nhưng có thể xuất hiện 'bất cứ
lúc nào' và 'bất cứ ở đâu' trên toàn thế giới nên khả năng phóng lực
vẫn vậy nhưng nhu cầu căn cứ bên ngoài thì ít nặng nề hơn. Tuy nhiên về
hải cảng quân sự, ông Panetta đã nói rõ rằng việc sử dụng được các hải
cảng ở Thái Bình Dương là chìa khóa trong chiến lược của HK
(reut.rs/19oPhYl).
Người viết từng có dịp sinh hoạt với một viện thinktank về an ninh quốc
gia của HK (BENS), khi giao tiếp với các giới chức cao cấp chính trị,
quân sự và tình báo, trong câu chuyện riêng tư họ thường nói rằng "HK
xem thế giới là một bàn cờ chess vĩ đại và chúng ta phải di chuyển những
quân cờ" và "HK là siêu cường lãnh đạo thế giới, do đó chúng ta phải lo
việc lãnh đạo, cho dù có nhiều người không thích".
Khi HK cần 'di chuyển quân cờ' và 'lo việc lãnh đạo' ở CA-TBD thì trở
lực sẽ bị đẩy sang một bên để dọn đường. Các 'quân cờ' cần khôn ngoan để
lèo lái con thuyền đất nước của mình tiến nhanh khi gió thuận và biết
zigzag khi gió ngược để không làm con tốt thí mà làm con tốt qua sông
chiếu tướng.
Phi Luật Tân có vịnh Subic Bay và Việt Nam có vịnh Cam Ranh. Nhìn vào vị
trí địa chiến lược của cả hai vịnh trong Biển Đông thì nó hết sức có ưu
thế tự nhiên, một vịnh ở bìa đông và một vịnh ở bìa tây, và cả hai đều
kiểm soát hai đầu nam/bắc. Cam Ranh là một cảng nước sâu thiên nhiên,
nằm cạnh các xa lộ hàng hải huyết mạch và quần đảo Trường Sa. Nó được
coi như quân cảng số một của Á Châu, kiểm soát vùng nối hai biển Ấn Độ
Dương và TBD. Nó có thể chứa vài trăm hàng không mẫu hạm cùng một lúc và
nhiều tàu hạng nặng khác. Sau khi HK rút quân và CS chiếm Miền Nam, Nga
đã thuê nó năm 1979 với thời hạn 25 năm, nhưng đã rút ra năm 2002, sớm
hơn 2 năm.
Ông Robert D. Kaplan trong quyển Chảo Nước Sôi Châu Á/Asia's Cauldron
(p. 62) dẫn lời ông Ian Storey của Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á ở
Singapore rằng: mong muốn kín đáo của VN trong việc tân trang Vịnh Cam
Ranh là "để tăng cường quan hệ quốc phòng với HK và tạo dễ dàng cho sự
hiện diện quân sự của HK ở Đông Nam Á như một lực thăng bằng sức mạnh
đang lên của TQ". Ông Kaplan nói Cam Ranh đóng một vai trò hoàn hảo
trong chiến lược cần chổ không xây tổ của Ngũ Giác Đài, nơi mà máy bay
và tàu chiến Mỹ có thể thường xuyên viếng các viễn cảng quân sự của nước
bạn để bảo trì và nhận tiếp liệu mà không cần phải có căn cứ quân sự
chính thức để bị nhức đầu do nhạy cảm chính trị. Theo ông Kaplan, Cam
Ranh và Subic Bay của Phi là hai cảng mà HK dùng để thay phiên nhau phục
vụ các chiến hạm của HK, có nghĩa là cả hai đều không phải là căn cứ
của HK, nhưng cả hai cộng lại làm nên một căn cứ của HK (p. 131).
Trên chiến hạm USNS Richard Byrd, ông Panetta nói rằng HK và VN "có một
mối quan hệ phức tạp, nhưng chúng ta không để lịch sử cột buộc. Chúng ta
muốn tìm những cách để mở rộng mối quan hệ," "các tàu hải quân HK được
sử dụng cảng này là một phần chủ chốt" của những mối quan hệ HK-VN. Ông
Panetta cũng cho rằng những tàu tiếp liệu của HK sử dụng Cam Ranh và các
cơ sở sửa chữa thì không chỉ quan trọng về mặt tiếp vận/logistic mà
còn quan trọng về các ý nghĩa/implications chính trị. Nó sẽ cho phép HK
đạt được mục đích ở CA-TBD và đưa quan hệ với VN lên một tầm cao mới
(1.usa.gov/1HSb1az).
Nếu đầu tháng Sáu 2012 ông Panetta viếng VN với các tín hiệu như vậy thì
chỉ một tháng sau, tức tháng Bảy, VN đáp lễ bằng cách phái Chủ Tịch
Nước Trương Tấn Sang đi Nga và cho ra kết quả là Nga được thiết lập cơ
sở sửa chữa hải quân ở Cam Ranh. Trong khi TQ cứ lấn sân ở Biển Đông
thì Nga ở thế ngư ông, vừa bán hàng cho VN vừa tạo sự hiện diện dù yếu
ớt, chẳng giúp gì về an ninh cho VN cả, vì ngu sao mà giúp khi TQ là một
khách hàng ngon ăn hơn.
Tháng Ba 2013, Bộ Trưởng Quốc Phòng Nga Sergei Shoigu Shoigu viếng VN,
hối thúc đồng nhiệm Phùng Quang Thanh chấp thuận việc xây nhà
nghỉ/resort 5 sao cạnh Cam Ranh cho lính Nga, GS Carl Thayer nhận xét "Trong
khi Nga trên danh nghĩa không lập căn cứ vì do nhạy cảm từ phía VN,
nhưng thực tế là họ đang tạo sự hiện diện lâu dài - và sự hiện diện này
đòi hỏi máy bay và tàu chiến thuờng xuyên lai vãng" (bit.ly/19oNAKp).
Nga đang trong tiến trình xây dựng hạm đội tàu ngầm Kilo-class cho VN,
các chuyên viên Nga cần đóng ở Cam Ranh để huấn luyện đội thuỷ thủ tàu
ngầm VN. Có lợi thế này, Nga ép VN nhượng quyền đặc biệt tiếp cận Cam
Ranh cho họ, trong khi VN cần Nga hơn là Nga cần VN, một sự cần sai
chỗ.
Tháng Mười Một 2014, Việt Nam ký với Nga một thỏa ước để Nga dễ dàng sử
dụng vịnh Cam Ranh. Theo đó, các chiến hạm Nga chỉ cần thông báo trước
khi vào, không hạn chế bao nhiêu lần, trong khi HK và các nước khác chỉ
được vào mỗi năm một lần (bit.ly/19oOyGK). Hơn nữa, các chiến hạm Mỹ trong thời gian qua chỉ cập được cảng Đà Nẵng. Sắp xếp này rõ ràng là có vấn đề.
Sự kiện hôm 11 tháng Ba 2015, HK công khai lên tiếng rằng VN đã cho Nga
sử dụng Cam Ranh để máy bay chở xăng Il-78 tanker tiếp xăng trên không
trung cho máy bay bomber chiến lược Tu-95MS Bear có khả năng mang bom
nguyên tử đe dọa đảo Guam của HK, qua sự xác nhận của tướng Bộ Binh TBD
Vincent Brooks (bit.ly/1yg8l1B),
thì đó là giọt nước làm tràn ly. Nó làm cho VN, qua Đại Sứ Phạm Quang
Vinh trong hội thảo CSIS hôm 24/3/2015, phải thanh minh thanh nga rằng
VN không chủ trương cho một nước nào khác sử dụng các căn cứ quân sự của
mình để đe dọa một nước thứ ba. Nhưng rõ ràng VN đã vi phạm cái không
thứ ba trong chính sách "3 không" mà tướng Nguyễn Chí Vịnh ra rã rao để
xoa bóp TQ. Những ứng xử này đi ngược quyền lợi dân tộc, làm chậm tiến
trình và phạm vi cộng tác quốc phòng HK-VN.
BT Quốc Phòng Nga xác nhận đã dùng máy bay Il-78 tankers để tiếp xăng
cho Tu-95MS Bear bombers, cất cánh ở căn cứ Trung Đông, từ hồi tháng
Giêng 2014 và sau đó.
Tướng Vịnh từng nói ủng hộ sự hiện diện của quân đội HK trong vùng miễn
là nó đóng góp vào sự hòa bình của khu vực. Vậy mà Nga hiện diện không
hòa bình ở Cam Ranh thì được, còn HK hiện diện hòa bình thì không
được, tại sao?
TQ trông kín đáo có vẻ hỗ trợ Nga vì có cùng chung mục đích là thách
thức vai trò lãnh đạo thế giới của HK. TQ càng vui hơn khi thấy chuyện
máy bay Nga làm phức tạp thêm mối quan hệ HK-VN. Từ sai lầm này qua sai
lầm khác, CSVN đang cắn cái tay đem thức ăn đến cho mình.
Chuyến đi HK của TBT Nguyễn Phú Trọng vào cuối tháng Năm 2015 (sau khi
đi TQ vào 17-20 tháng Tư) là một chuyến đi không dễ dàng của phe bảo thủ
thân TQ, phe này như một sinh vật đang bị đe dọa sắp tuyệt chủng. Bởi
vì thân TQ và đi chầu TQ trước để nhận sự chỉ giáo, cho nên Trọng đa
phần sẽ không chịu uống rượu mời, không mở Cam Ranh cho HK để làm mất
lòng TQ, không dám hạn chế máy bay Nga để làm mất lòng Nga và các hợp
đồng mua vũ khí bị trở ngại. Hậu quả trong bang giao là việc HK dỡ bỏ
hoàn toàn cấm vận vũ khí sát thương sẽ không xảy ra, mà chỉ xem xét từng
trường hợp một, cùng sự mất trớn trong việc hợp tác quốc phòng HK-VN.
Hậu quả trong nội bộ đảng CSVN là phe muốn ngả về HK có thể loại hẳn
phe thân TQ trong Đại Hội 12, hay gay cấn hơn, là một sự thanh trừng lẫn
nhau. Liệu có ai nghĩ rằng khi siêu cường lãnh đạo thế giới cần di
chuyển một quân cờ chiến lược thì sẽ làm gì khi bị cản trở hay không? -
Không có giải pháp dễ dàng cho CSVN.
Tác giả Mu Lao trên báo TQ Huanqia hôm 17/3/15 viết rằng Hà Nội đang cầm
mồi Cam Ranh lắc qua lắc lại trước mặt hai quyền lực đang thèm chảy
nước bọt. Lao cho rằng VN vừa khổ vừa sướng, khổ vì không biết phải giải
quyết làm sao với HK, sướng vì dùng vịnh Cam Ranh để mặc cả với Nga và
HK. Lao nói rằng TQ cần quan tâm theo sát các động thái của HK và VN
trong vấn đề Cam Ranh, dù HK-VN thỏa thuận công khai hay kín đáo. Điều
này cho thấy phe bảo thủ của ông Trọng không có nhiều khoảng trống chung
quanh để xoay trở (bit.ly/1E88R8X).
VN cần xoay 180 độ việc sử dụng vịnh Cam Ranh trong tương quan Nga và
HK. Nga là quyền lực đang suy, vùng cận Nga và biên cương còn không giữ
nỗi. HK vẫn là siêu cường số một trong thế kỷ 21 và đã định hình vị thế
giàu mạnh của họ ở CA-TBD, đã chấm Subic Bay và vịnh Cam Ranh chung lại
là căn cứ quân sự của họ. Điều này có lợi cho VN trong việc bảo vệ Biển
Đông nói riêng và an ninh đất nước nói chung. Một dân tộc thông minh thì
không thể làm những quyết định để gây bất hạnh cho các thế hệ tương lai
của nòi giống VN mình.
30/3/2015
HOÀNG TRẦN * VÙNG LÊN HỠI CÔNG NHÂN VIỆT NAM
Công nhân tiếp tục đình công trên diện rộng
Hàng chục ngàn công nhân nhà máy Pou Yuen đình công phản đối luật cướp do quốc hội CSVN vừa ban hành. Video: Lao Động Việt.
Hoàng Trần (Danlambao)
- Các cuộc đình công của công nhân đã bước sang ngày thứ 7 liên tiếp và
không có dấu hiệu dừng lại. Ngày 1/4/2014, làn sóng đình công đã nhanh
chóng vượt khỏi tầm kiểm soát của chế độ cộng sản. Từ Sài Gòn, phong
trào đấu tranh của công nhân đã lan tràn sang các tỉnh lân cận như Long
An, Bình Dương…
Luật bảo hiểm xã hội – Luật cướp.
Mục đích của các cuộc đình công nhằm phản đối luật bảo hiểm xã hội vừa
được quốc hội cộng sản thông qua. Điều 60 của bộ luật này với những
điều khoản bất hợp lý có thể khiến hàng triệu công nhân Việt Nam mất
trắng một phần tiền lương vào tay chế độ CS.
Điều luật mới sẽ có hiệu lực vào năm 2016, theo đó một phần tiền lương
công nhân đóng cho bảo hiểm xã hội sẽ không được nhận ngay sau khi nghỉ
việc, mà phải chờ đến năm 55 tuổi (đối với nữ) và 60 tuổi (đối với nam)
mới được nhận.
Ví dụ: Một anh công nhân 30 tuổi đã làm việc 10 năm, mỗi tháng anh ta và
công ty sẽ đóng khoản tiền trị giá 26% tiền lương vào bảo hiểm xã hội.
Dù vậy, khi anh ta nghỉ việc thì sẽ không được nhận ngay số tiền bảo
hiểm xã hội mà mình đã đóng góp 10 năm qua. Theo luật mới, người công
nhân sẽ phải chờ 30 năm sau, tức khi đã đủ 60 tuổi thì mới nhận được số
tiền trên.
So với mức độ trượt giá hiện nay, số tiền sau 30 năm bị nhà nước ‘giữ
tạm’ có lẽ chỉ còn là mớ giấy lộn. Mà chưa biết khi ấy có rút tiền được
hay không.
Nói một cách ngắn gọn, luật bảo hiểm xã hội vừa được thông qua chính là
điều luật cho phép chế độ CSVN công khai ăn cướp đồng lương vốn đã còm
cõi của hàng chục triệu người lao động cả nước.
Từ đình công đến biểu tình lan rộng.
Trước luật cướp công khai như trên, từ ngày 26/3/2015, hàng chục ngàn
công nhân Pou Yuen (Bình Tân, Sài Gòn) đã đồng loạt đình công phản đối
luật bảo hiểm xã hội mới. Cuộc biểu tình kéo dài nhiều ngày liên tục
khiến hoạt động của khu công nghiệp Tân Tạo gần như bị gián đoạn hoạt
động.
Ngày 31/3/2015, sức ép từ các cuộc đình công đã buộc ông thứ trưởng Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội (Bộ LĐTBXH), ông Doãn Mậu Diệp và các
quan chức thuộc Liên đoàn Lao động đến ‘đối thoại’ với công nhân nhà
máy Pou Yuen.
Nhiều công nhân đã bỏ ra ngoài để tiếp tục biểu tình khi nghe các quan
chức CSVN mị dân với những lời hứa hão. Sau cuộc ‘đối thoại’ bất thành,
Bộ LĐTBXH lập tức ban hành công điện khẩn ra lệnh “xử lý cá nhân lợi
dụng tình hình kích động, lôi kéo người lao động ngừng việc, đình công”.
Ảnh: Facebook Bùi Quang Thắng
Cùng ngày, ông Đặng Ngọc Tùng – chủ tịch tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam đã ra lời kêu gọi khẩn cấp gửi đến công nhân, yêu cầu '‘không để kẻ
xấu lợi dụng, kích động, xúi dục làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp và tình
hình an ninh trật tự tại địa phương’'.
Hàng ngàn CA cũng đã được huy động ‘trực chiến’ tại công ty Pou Yuen và
toàn bộ khu công nghiệp Tân Tạo, quận Bình Tân, Sài Gòn.
Bất chấp những nỗ lực xoa dịu tình hình của nhà cầm quyền CSVN, các cuộc
biểu tình của công nhân tiếp tục được lan rộng tại nhiều tỉnh thành
trên quy mô lớn. Sáng ngày 1/4/2015, Sài Gòn đình công sang ngày thứ 7
liên tiếp tại Bình Tân và quận 12 và không hề có dấu hiệu dừng lại.
Các cuộc biểu tình của công nhân khiến giao thông trên tuyến đường Sài
Gòn – Long An tê liệt nhiều giờ. Giới công nhân lao động tại Bình Dương,
Long An cũng đã nhập cuộc, nhiều nhà máy đã phải phải ngưng sản xuất vì
hầu hết công nhân bỏ ra về.
Vỡ quỹ bảo hiểm xã hội.
Nhìn chung, phong trào đình công cho đến thời điểm này đều diễn ra một
cách ôn hoà, trật tự. Trong khi đó, chế độ CSVN đang lộ rõ sự căng
thẳng. Bộ máy công an trị đã được lệnh túc trực chuẩn bị đối phó khi
phong trào dâng cao.
Đây được coi là bước ngoặt lớn đối với phong trào đấu tranh của giới
công nhân Việt Nam, lần đầu tiên người lao động cùng đoàn kết đứng lên
chống lại những điều sai trái trong bộ luật lao động.
Trong các cuộc đình công đòi quyền lợi chính đáng vừa qua, chế độ CSVN
được xác định chính là thủ phạm đã gây ra sự bất công đối với giới công
nhân cả nước. Qua đó, người ta sẽ dễ dàng nhận ra rằng đảng CSVN không
hề đại diện cho giai cấp công nhân như những gì họ tuyên truyền.
Các cuộc đình công trước đây chủ yếu vẫn là những mâu thuẫn giữa người
lao động và công ty. Phía doanh nghiệp thường dễ dàng chấp nhận và thoả
hiệp trước những yêu cầu của công nhân. Xung đột giữ công nhân và giới
chủ có thể giải quyết được, vì cả hai bên đều cần nhau.
Tuy nhiên, cuộc đình công kéo dài liên tiếp 7 ngày qua là xung đột giữa
người lao động và chế độ CSVN. Cho đến thời điểm này, chế độ CSVN vẫn
tiếp tục tỏ ra không khoan nhượng. Do đó, làn sóng đình công sẽ tiếp tục
gia tăng mạnh hơn trong những ngày tới.
Thậm chí, CSVN có muốn khoan nhượng cũng không thể được. Vì quỹ lương
hưu và bảo hiểm xã hội do CSVN nắm giữ đã cạn kiệt, chuẩn bị bước sang
giai đoạn đổ vỡ. Để cứu vãn tình thế, CSVN tung quái chiêu ‘giữ tạm’
tiền công nhân, vài chục năm sau tiếp tục màn xù nợ như kịch bản đánh tư
sản, đổi tiền tại miền Nam sau năm 75.
TRẦN QUỐC VIỆT * VÙNG LÊN, CÔNG NHÂN VIỆT NAM
Chúng ta phải lên tiếng ủng hộ công nhân!
Trần Quốc Việt (Danlambao)
- Vì quyền lợi thiết thân của mình, hàng ngàn công nhân đã và đang đình
công để phản đối luật bảo hiểm mới mang tính chất cướp đoạt công khai
và lường gạt trắng trợn bao công sức khó nhọc của họ. Lên tiếng ủng hộ
họ chính là sự đồng hành của lương tâm chúng ta với sự đấu tranh của
công nhân, và là một trong những bước đầu tiên để kêu gọi lực lượng công
nhân đông đảo hướng về tương lai tự do và dân chủ chung, một nền tảng
thể chế bảo đảm bền vững quyền lợi của họ và mở ra những chân trời mới
sáng lạn cho tất cả mọi người Việt Nam hôm nay và ngày mai.
Những người đấu tranh cho tự do và dân chủ đứng trong và bên ngoài các
tổ chức dân sự tuy còn non yếu nhưng đông đảo nên và phải lên tiếng mạnh
mẽ ủng hộ họ, cùng sát cánh đồng hành tinh thần và chính nghĩa với họ,
cùng đứng trên điểm xuất phát chung là quyền lợi của họ để từ từ tiến về
mục tiêu tự do và dân chủ chung mà chúng ta đã và đang ươm trồng, nuôi
dưỡng, và đấu tranh không ngừng trong suốt hàng chục năm nay.
Hãy nhìn vào lịch sử thế giới đấu tranh bất bạo động - một chọn lựa mang
tính chiến lược và đạo đức - để học hỏi những bài học chiến thuật đấu
tranh của rất nhiều dân tộc và từ đấy ta thấy rõ chiến thuật họ dùng và
áp dụng chúng một cách linh hoạt và sáng tạo trong hoàn cảnh và tình
hình trong từng thời điểm ở Việt Nam.
Những nhà cựu lãnh đạo phong trào tuổi trẻ phản kháng Otpor, phong trào
lật đổ thành công chế độ độc tài ở Nam Tư vào năm 2000, đưa ra lời
khuyên quan trọng là đa số mọi người đều không quan tâm về nhân quyền.
Họ quan tâm về những vấn đề thiết thực hơn và trước mắt hơn như điện
nước, giáo dục, sinh kế, hay những quyền lợi sát sườn khác. Chúng ta
thấy rõ điều này hơn khi thấy cuộc tuần hành vì cây xanh ở Hà Nội, vô số
các cuộc biểu tình của tiểu thương phản đối việc phá các chợ truyền
thống để xây những khu trung tâm thương mại mà ảnh hưởng lớn đến việc
buôn bán của họ, những cuộc phản đối vì môi trường sống bị ô nhiễm nặng
nề, những vụ người dân phản đối tập thể việc cưỡng đoạt đất đai như ở
Dương Nội, vân vân. Tập trung vào những vấn đề dân sinh này không chỉ dễ
thành công hơn mà còn an toàn hơn và dễ gầy dựng phong trào ở cơ sở
hơn. Nhân dân thuộc mọi tầng lớp sẽ đứng hẳn và dứt khoát về phía những
phong trào và tổ chức dân sự nào có tầm nhìn mà hứa hẹn sẽ làm cho cuộc
sống của họ tốt đẹp hơn không những cho ngày mai mà cho ngay từ bây
giờ.Và đa phần những cuộc phản kháng nhỏ và thực tế này dễ thành công,
từ đấy phong trào lớn dần theo những chiến thắng nhỏ này đến những chiến
thắng nhỏ khác. Đây chính là những mồi lửa và những cuộc diễn tập cho
những cuộc biểu tình lớn đồng loạt và liên tục của hàng trăm ngàn người
trong tương lai cho những mục tiêu lâu dài hơn và chiến lược hơn.
Măt khác, nói về bao cảnh đời và số phận khốn khổ và bị tàn hại dưới chế
độ độc tài là một chiến lược không hay. Ai cũng biết hết, và người dân
chỉ càng trở nên sợ hãi hơn, co cụm hơn, cam phận hơn, thụ động hơn và
ích kỷ hơn. Chưa bao giờ có cuộc biểu tình thực sự của xã hội ở Việt Nam
để phản đối việc công an giết người trong các đồn công an ngoại trừ
những sự phản đối nhỏ nhoi và thoáng qua của các gia đình nạn nhân và
thân hữu. Còn đa phần những người không liên quan cũng tức giận lắm
nhưng không làm gì hết. Quyền lợi thực tế, chứ không phải sự phẫn nộ,
mới chính là nhân tố tạo thời cơ.
Lich sử đã minh họa những lời họ khuyên chúng ta.
Phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan khởi đi và lớn mạnh mau chóng phần nào từ khẩu hiệu ngàn, ngàn vàng của họ là "Không có bánh mỳ nếu không có tự do."
Giả sử họ sửa khẩu hiệu ấy lại thành “Không có tự do nếu không có bánh
mỳ” thì lịch sử, cơ hội, vận may, và lòng dân biết đâu không đứng về
phía phong trào được đứng đầu bởi một người thợ điện thất học và hoàn
toàn vô danh. Hãy nhớ lời của Abraham Lincohn: "Với lòng dân, chẳng có gì có thể thất bại. Không lòng dân, chẳng có gì có thể thành công." Lòng
dân, xét cho cùng, chính là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến họ
nhất. Thử nhìn lại hàng chục cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam
diễn ra trong những năm gần đây. Số lượng người tham gia hầu như rất ít
mặc dù không ai có thể nói rằng yêu nước là không thiêng liêng hay không
chính đáng. Đa số mọi người không xuống đường vì họ thờ ơ với tất cả
những gì nằm ngoài mối quan tâm và quyền lợi thiết thực của họ. Đám đông
xuống đường vì nước còn ít hơn cả những đám đông chen lấn vì miếng ăn
miễn phí.
Gandhi giành độc lập cho Ấn Độ nhờ vạch ra chiến lược xuất sắc. Ông chọn
muối làm điểm xuất phát để kích hoạt lòng dân với mục tiêu chiến lược
là tẩy chay, không ủng hộ, và làm lợi cho đế quốc Anh. Nhiều người cười
ông vì họ cho rằng luật về muối của người Anh tuy bất công nhưng quá nhỏ
nhặt và không đáng quan tâm bằng chuyện độc lập và tự do. Họ chỉ thấy
đường chân trời, còn Gandhi hình dung và lát những viên gạch mở đường
đến chân trời. Hay nói cách khác, họ chỉ thấy rừng mà không thấy cây còn
Gandhi thấy cả hai. Ông nói: “Ngoài không khí và nước, muối có lẽ là chất cần thiết nhất của sự sống”, đặc biệt muối cũng là “gia vị duy nhất của người nghèo.”
Ông và những người cộng sự đã đọc nhiều cuốn sách về muối, nghiên cứu và
tìm ra lộ trình tốt nhất cho cuộc tuần hành muối, vận dụng tối đa
truyền thông trong nước và thế giới để đưa tin hàng ngày về cuộc tuần
hành, và chính ông dẫn dầu cuộc tuần hành này. Hai mươi lăm ngày đi trên
chuyến đường dài 350 cây số để đến bờ biển, ông bước xuống biển vốc lên
nắm bùn và muối rồi nói với mọi người rằng “Với muối này tôi đang lam lung lay nền móng đế quốc Anh.”
Phải mất 17 năm sau Ấn Độ mới giành được độc lập, nhưng chiến thắng
tượng trưng khởi đi từ muối là bước kích hoạt quan trọng nhất để đẩy lùi
tâm lý nô lệ ra khỏi lòng dân Ấn và lên men lòng dân về nền độc lập và
tự do. Chiến thắng tượng trưng đầu tiên này đã rút ngắn con đường đưa
đến độc lập của Ấn độ đến 350 cây số và rút ngắn rất nhiều máu xương và
oán thù phải đổ ra cho cuộc chiến tranh bạo động cho cùng mục tiêu.
Có rất nhiều lý do khiến cộng sản sụp đổ. Trước nhất chế độ sụp đổ từ từ
vì thối nát, bất tài, và lòng tham không đáy ngày càng nhiều. Nhà văn
Mỹ Hemingway đã tóm tắt lại trong hai hàng trong tác phẩm “Mặt trời Cũng Mọc”:
“Anh bị phá sản như thế nào?”
“Hai cách. Dần dần rồi bất ngờ.”
Chế độ cộng sản chết dần do nó nhưng chết bất ngờ do nhân dân khi họ
đứng lên đòi quyền lợi chính đáng của mình. Toàn bộ các cuộc mạng ở Đông
Âu đều không bắt nguồn từ ý muốn công khai là sẽ lật đổ chế độ mà từ
các yêu cầu chế độ phải tôn trọng hiến pháp, nhân quyền, và phải tôn
trọng quyền lợi của người dân. Đây chính là những viên gạch mở đường đến
huyệt mộ của chế độ cộng sản. Từ đấy chúng ta thấy yêu cầu cấp bách là
phải ủng hộ, và nếu được nên đứng sau các cuộc phản kháng như cuộc đình
công của công nhân hiện nay hay cuộc phản đối chặt cây hàng loạt ở Hà
Nội
Con đường đến chân trời là con đường khởi đi từ những viên gạch nhỏ
nhất, tầm thường nhất, nhưng không có chúng mọi chân trời hy vọng đều là
ảo vọng ru ngủ mình trong giấc mộng triền miên.
LÊ DIỄN ĐỨC * TỘI ÁC VIỆT CỘNG
Từ cây xanh đến con sông, một tội ác không thể tha thứ
Wed, 03/25/2015 - 02:51 — ledienduc
Lê Diễn Đức
Nếu đến thành phố St. Petersburg, ta mới thấy được tầm nhìn xa của Pie Đại đế trong việc quy hoạch đô thị.
Cách đây hơn 300 năm, vào năm 1703, Pie Đại đế đã phát lệnh khởi công xây dựng thành phố Sankt Peterburg. Vào lúc ấy phương tiện đi lại thông dụng là xe ngựa, vậy mà hơn 300 năm sau, những con phố chính ở khu trung tâm với cây xanh và vỉa hè rộng thênh thang vẫn đủ mở những con đường hai chiều, mỗi chiều hai ba lằn xe hơi. Kinh nghiệm của Pie Đại đế sau những cuộc đi thăm viếng phuơng Tây cùng với đầu óc viễn kiến đã làm cho S. Petersburg trở thành một thành phố du lịch đẹp nổi tiếng nước Nga.
Năm 1990 nước Đức thống nhất. Một phần tư lãnh thổ hợp nhất với ba phần từ còn lại, đã ngốn hàng ngàn tỷ D Mác mà vẫn không thể cân bằng được mức sông Đông-Tây. Chi phí lớn nhất cho tiến trình hội nhập Đông Đức với Tây Đức là giải quyết bảo vệ môi sinh, thậm chí một số nhà máy phải đóng cửa vì mức độ xả nước thải công nghiệp ra sông gây ô nhiễm quá lớn.
Ba Lan, nơi tôi sống nhiều năm, sau khi gia nhập Liên minh châu Âu năm 2005, đã nhận được hàng chục tỷ euro cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, tiền đầu tư cải thiện môi trường chiếm tỷ trọng rất cao, nếu không nói là nhiều nhất.
Chặt đốn cây ở Ba Lan trong thành phố cần phải có giấy phép của cơ quan chức năng nhưng không phải đối với loại cây nào cũng có thể cho phép. Chặt đốn cây xanh có tuổi trên 10 năm trong sân vườn nhà của mình cũng đòi hỏi phải có giấy phép. Tiền phạt cho những vi phạm tổn hại cây xanh được quy định cao đến mức gần như phi lý.
Sau khi chế độ cộng sản Ba Lan sụp đổ vào năm 1989, từ thập niên 90 đến thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, thủ đô Warsaw như một công trường xây dựng. Quy hoạch và phát triển thành phố từ cấu trúc của xã hội chủ nghĩa cũ thật khó khăn. Khắp nơi, ở đâu cũng thấy cần cẩu, người ta xây những khu nhà mới hay những ngôi nhà cao chọc trời ở giữa trung tâm, các nhà ga tàu điện ngầm mọc lên, nhưng tôi không nhìn thấy một cây xanh nào bị đốn, mà chỉ thấy các thảm cỏ và cây xanh được trồng thêm.
Quy hoạch và phát triển đô thị đòi hỏi phải có tầm nhìn dài hạn cho hàng chục, hàng trăm năm sau. Nếu chỉ làm đến đâu biết đến đấy, theo lối ăn xổi ở thì, thì tương lai không biết sẽ phải bỏ ra bao nhiêu tiền cho đủ để cứu vãn môi trường bị huỷ hoại.
Kế hoạch chặt đốn 6.700 cây xanh ở Hà Nội là thể hiện cái nhìn một chiều ở tầm rất thấp.
Tôi chưa thấy hay nghe nói có một thành phố nào trên thế giới chặt đốn hàng ngàn cây xanh cổ thụ đồng loạt và vội vã như thế.
Nếu đến thành phố St. Petersburg, ta mới thấy được tầm nhìn xa của Pie Đại đế trong việc quy hoạch đô thị.
Cách đây hơn 300 năm, vào năm 1703, Pie Đại đế đã phát lệnh khởi công xây dựng thành phố Sankt Peterburg. Vào lúc ấy phương tiện đi lại thông dụng là xe ngựa, vậy mà hơn 300 năm sau, những con phố chính ở khu trung tâm với cây xanh và vỉa hè rộng thênh thang vẫn đủ mở những con đường hai chiều, mỗi chiều hai ba lằn xe hơi. Kinh nghiệm của Pie Đại đế sau những cuộc đi thăm viếng phuơng Tây cùng với đầu óc viễn kiến đã làm cho S. Petersburg trở thành một thành phố du lịch đẹp nổi tiếng nước Nga.
Năm 1990 nước Đức thống nhất. Một phần tư lãnh thổ hợp nhất với ba phần từ còn lại, đã ngốn hàng ngàn tỷ D Mác mà vẫn không thể cân bằng được mức sông Đông-Tây. Chi phí lớn nhất cho tiến trình hội nhập Đông Đức với Tây Đức là giải quyết bảo vệ môi sinh, thậm chí một số nhà máy phải đóng cửa vì mức độ xả nước thải công nghiệp ra sông gây ô nhiễm quá lớn.
Ba Lan, nơi tôi sống nhiều năm, sau khi gia nhập Liên minh châu Âu năm 2005, đã nhận được hàng chục tỷ euro cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, tiền đầu tư cải thiện môi trường chiếm tỷ trọng rất cao, nếu không nói là nhiều nhất.
Chặt đốn cây ở Ba Lan trong thành phố cần phải có giấy phép của cơ quan chức năng nhưng không phải đối với loại cây nào cũng có thể cho phép. Chặt đốn cây xanh có tuổi trên 10 năm trong sân vườn nhà của mình cũng đòi hỏi phải có giấy phép. Tiền phạt cho những vi phạm tổn hại cây xanh được quy định cao đến mức gần như phi lý.
Sau khi chế độ cộng sản Ba Lan sụp đổ vào năm 1989, từ thập niên 90 đến thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, thủ đô Warsaw như một công trường xây dựng. Quy hoạch và phát triển thành phố từ cấu trúc của xã hội chủ nghĩa cũ thật khó khăn. Khắp nơi, ở đâu cũng thấy cần cẩu, người ta xây những khu nhà mới hay những ngôi nhà cao chọc trời ở giữa trung tâm, các nhà ga tàu điện ngầm mọc lên, nhưng tôi không nhìn thấy một cây xanh nào bị đốn, mà chỉ thấy các thảm cỏ và cây xanh được trồng thêm.
Quy hoạch và phát triển đô thị đòi hỏi phải có tầm nhìn dài hạn cho hàng chục, hàng trăm năm sau. Nếu chỉ làm đến đâu biết đến đấy, theo lối ăn xổi ở thì, thì tương lai không biết sẽ phải bỏ ra bao nhiêu tiền cho đủ để cứu vãn môi trường bị huỷ hoại.
Kế hoạch chặt đốn 6.700 cây xanh ở Hà Nội là thể hiện cái nhìn một chiều ở tầm rất thấp.
Tôi chưa thấy hay nghe nói có một thành phố nào trên thế giới chặt đốn hàng ngàn cây xanh cổ thụ đồng loạt và vội vã như thế.
Vấn đề thay những cây quá già, bị sâu mọt, có thể gây hiểm hoạ giao
thông, ở đâu người ta cũng làm, nhưng chỉ thay thế những cây xấu ấy bằng
cây khác, tuyệt nhiên không có tình trạng đốn hàng trăm cây trên một
con phố, kể cả những cây còn xanh tốt như ở Hà Nội. Nếu cây cối gây cản
trở cho các dự án phát triển đô thị thì công trình buộc phải bảo quản
tối đa cây xanh và có biện pháp di dời thích hợp.
Cây xanh là lá phổi của thành phố. Những cây xà cừ, cây sấu, hoa sữa
với tuổi thọ cả trăm năm, mang trên mình những thăng trầm lịch sử, che
chắn mưa gíó, mang bóng mát cho con người, là một trong những nét đặt
thù của thủ đô Hà Nội trữ tình và lãng mạn.
Bỗng nhiên bị tước đoạt vô căn cứ một phần dưỡng khí, người Hà Nội
nổi giận, biểu tình phản đối quả thật hợp lý. Chưa cần nói tới việc đằng
sau kế hoạch chặt đốn cây có nhữmg lợi ích mờ ám nào của các quan chức
lãnh đạo thành phố Hà Nội mà công luận đang đòi hỏi phải làm rõ.
Khi câu chuyện cây xanh Hà Nội vẫn đang là chủ đề nóng thì nghe nói
người ta đang cho phép doanh nghiệp tư nhân lấp sông Đồng Nai.
Hệ thống sông Đồng Nai cung cấp nước sinh hoạt cho 18 triệu người
thuộc 11 tỉnh thành gồm Sài Gòn, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà
Rịa - Vũng Tàu, Long An, Tây Ninh, Lâm Đồng, Đắk Nông, Ninh Thuận và
Bình Thuận.
Nước sông Đồng Nai đang có các chỉ số ô nhiễm vượt quy chuẩn. Chất
lượng nước từ con sông này đang bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ, vi
sinh, kim loại nặng… Các nhà khoa học, cơ quan chức năng đều khẳng định
nguyên nhân là do nguồn nước thải từ các khu công nghiệp, dân cư… và sự
quản lý yếu kém của các cơ quan liên quan.
Theo ông Lê Văn Tuấn, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nước và Môi
trường (Bộ Xây dựng), hệ thống sông Đồng Nai đang bị ô nhiễm trầm trọng.
Mỗi ngày con sông tiếp nhận trên 500 ngàn mét khối nước thải công
nghiệp từ trên 60 khu công nghiệp và gần 2 triệu mét khối nước thải sinh
hoạt từ các khu đô thị, trong đó trên 60% nước thải công nghiệp và 85%
nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý. Dự kiến đến năm 2020, tổng lượng
nước thải đô thị, nước thải công nghiệp thải ra sông Đồng Nai mỗi ngày
có thể lên đến gần 4,5 triệu mét khối.
Ông Tuấn cho rằng, nếu các tỉnh thành trong lưu vực không có đột phá
trong xử lý nước thải, bảo vệ nguồn nước thì hệ thống sông Đồng Nai sẽ
càng ngày càng ô nhiễm nặng nề và có nguy cơ trở thành dòng sông “chết”!
Thế mà, gần đây, nhà chức trách Đồng Nai bằng quyết định 2230/QĐ-UBND
ngày 21/07/2014 và quyết định số 2827/QĐ-UBND ngày 15/09/2014, đã cho
phép Công ty Toàn Thịnh Phát lấp một phần sông Đồng Nai để thi công dự
án “Cải tạo cảnh quan và phát triển đô thị ven sông Đồng Nai”, còn có
tên là dự án "The Pegasus Riverside".
Công trình này có chiều dài 1,3 ki lô mét, từ Công viên Nguyễn Văn
Trị đến cầu Rạch Cát, thành phố Biên Hòa, dự kiến hoàn thành vào năm
2022 với tổng mức đầu tư là 3 ngàn 200 tỷ đồng.
Tổng diện tích đất của dự án là 84 ngàn mét vuông, trong đó phần lấn
sông hơn 77 ngàn 200 mét vuông, chiếm trên 90% diện tích, đoạn lấn ra
sông xa nhất đến hơn 100m (đoạn từ cầu tàu nhà máy nước Biên Hòa), theo
báo Xây dựng điện tử thuộc Bộ Xây dựng.
Thông thường về nguyên tắc xây dựng, thiết kế ven sông, biển bao giờ
cũng dành đất để làm hành lang bảo vệ có khi đến 50 mét. Đây là điều bắt
buộc và không một dự án nào, nhất là dự án thương mại, có thể vi phạm.
Cho phép công ty Toàn Thịnh Phát đầu tư, nhà chức trách Đồng Nai đã đạp
bỏ lên nguyên tắc cơ bản nhất.
Dự án lấp sông sẽ bê tông hóa lòng sông làm thay đổi dòng chảy, ảnh
hưởng đến hệ sinh vật và làm mất đi cơ chế tự bảo vệ, tự làm sạch của
dòng sông. Điều đáng quan ngại nữa là khi dòng chảy thay đổi thì sẽ làm
xói lở bờ bên kia, đặc biệt nguy hiểm đối vời khu dân cư đông đúc…
Nhà chức trách Đồng Nai đã không lấy ý kiến của người dân mà cũng
không hề hỏ ý kiến các chuyên gia của Ủy ban bảo vệ lưu vực sông Đồng
Nai. Ông Bùi Cách Tuyến đã nói với báo giới:
“Họ làm độc lập. Chúng tôi không được tham vấn. Với tư cách là Phó chủ
tịch Ủy ban bảo vệ lưu vực sông Đồng Nai, tôi không biết và với tư cách
là Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường, tôi cũng không hay về dự án
này.”
Hiện vẫn chưa có phương án cụ thể nào trong một ngày gần để xử lý
tổng thể nước sông Đồng Nai trước nguy cơ ô nhiễm, thì việc cho lấp một
phần sông dáng thêm một đòn cho dòng sông "chết" hẳn!
Cái giá để phục hồi đối với sông Đồng Nai rồi sẽ rất khủng khiếp,
chắc chắn lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh tế sẽ không thể đủ để bù
đắp cho chi phí cải thiện môi trường.
Vì những quyền lợi ích kỷ hôm nay, nhà chức trách Hà Nội và Đồng Nai
đã xem nhẹ hậu quả từ những quyết định ấu trĩ và ngu xuẩn. Vì đồng tiền
mà thiển cận, làm ngơ trước hiểm hoạ huỷ diệt môi trường là tội ác.
Hãy xem lại lương tri và tỉnh ngộ khi còn kịp!
© Lê Diễn Đức - RFA
CÁNH CÒ * ĐỒNG KHÔ HỒ CẠN
Đồng khô hồ cạn.
Tue, 03/31/2015 - 11:34 — canhco
Chưa hết, đối với cơ quan lập pháp, từ trước tới nay người dân đã quen trong nếp nghĩ đại biểu quốc hội chỉ là người làm cảnh cho chế độ, mọi hoạt động của Quốc hội đều được chỉ đạo từ Đảng và nếu có phát ngôn mạnh mẽ đến đâu thì cũng chỉ là kịch bản dùng để biểu diễn hơn là soi thẳng các dấu hiệu sai trái của hành pháp như các nước khác.
Thế nhưng lần này đồng hành cùng với người dân Hà Nội đại biểu Nguyễn Sỹ Cương đã chứng minh rằng UBND Hà Nội đã vi phạm Luật Thủ Đô và ông khẳng định mấy tay trực tiếp ký ban hành quyết định đốn cây xanh Hà Nội phải bị xử lý trước pháp luật.
Và sự lên tiếng kịp thời này đã làm cho ông Nguyễn Thế Thảo chùn tay không còn lúng túng châm chế cho quyết định sai trái mà ông ta là người gián tiếp chịu trách nhiệm. Sự lên tiếng kịp thời ấy của một đại biểu quốc hội đã làm người dân mạnh dạn ùn ùn kéo nhau diễu hành kể cả sau khi UBND thành phố chính thức dừng dự án chặt chém này. Người dân nêu ra một lý do khác: Chúng tôi kéo nhau diễu hành vì không muốn các ông tiếp tục đánh lừa qua chiến thuật kéo dài thời gian và lẳng lặng che dấu, phi tang các bằng chứng nhũng lạm của mình.
Vậy là người đại biểu đã “vùng lên” thoát khỏi cái vòng tròn nhỏ hẹp mà đảng không muốn ông bước ra.
Có khi nào chúng ta tưởng tượng được một lực lượng 90 ngàn công nhân đồng loạt đình công mà không có bất cứ một sự dẫn dắt hay chỉ đạo nào? Lạ hơn nữa họ đình công không phải tranh đấu với chủ như quy luật muôn đời, mà họ đình công chống lại nhà nước, nơi đáng ra có bổn phận bảo vệ quyền lợi của người công nhân.
5 ngày liên tiếp, 90 ngàn con người ấy tập trung chống lại luật Bảo hiểm xã hội mà họ cho là không phù hợp với thực tế đời sống công nhân. Luật mới không cho phép người công nhân rút tiền Bảo hiểm xã hội của mình một lần khi không còn làm việc mà phải chờ tới khi về hưu mới được cái quyền ấy, cái quyền mà trong luật BHXH năm 2006 đã cho phép.
Tại sao Bộ Lao động và Thương binh xã hội lại đề nghị quốc hội thay đổi luật này thì người ta đang bàn cãi. Phải chăng do quỹ BHXH đã bị thâm thủng nên nếu phát cho công nhân một lần thì sẽ khủng hoảng?
Dù bất cứ lý do gì cũng cho thấy một sự thật, 90 ngàn con người không phải là một con số, nó là một lực lượng quần chúng. Lực lượng này có khả năng phá vỡ mọi lực cản từ trước tới nay kể cả cái lõi chính sách an sinh xã hội của nhà nước đã phá sản. Khi chính sách BHXH biến thành con tin của nhà nước thì người công nhân phản ứng là chuyện bình thường, nhưng cái không bình thường ở chỗ, 90 ngàn con người phản ứng một lượt, điều mà có nằm mơ chính quyền Viện Nam cũng khó mà nghĩ tới.
Cộng với những biến chuyển mới tinh ấy một bài viết làm cho người theo dõi thời sự giật mình: Trên tờ báo Đảng, Sài Gòn Giải Phóng, giật một cái tít làm người đọc bật dậy vì không thể tin vào mắt của mình: Đồng khô hồ cạn.
Sấm Trạng Trình từng giải mã rằng khi nào đồng khô hồ cạn thì lúc ấy mới ra thái bình. Ai tin thì tin, ai không tin thì vào mạng mà xem, báo SGGP Online đăng vào ngày 26 tháng Ba, đúng vào lúc công nhân Pou Yuen đình công toàn diện. Bài báo có nội dung Tây Nguyên vào cao điểm hạn hán, nhiều sông suối, ao hồ chỉ còn trơ đáy, hàng ngàn hécta cây trồng thiếu nước, người dân đang vét những giọt nước cuối cùng để chống hạn.
Trên thực tế, người dân đã biết lấy lại quyền của mình bằng cách mang nguồn mạch tranh đấu tưới lên vùng đất cằn cỗi bấy lâu của sự vô cảm, chính nhà nước mới là người đang cầm gàu cố vét từng giọt nước tưới những biến cố tệ hại đang làm khô hạn lòng tin của quần chúng trên toàn bộ hệ thống.
Sau khi công an Hà Nội chính thức cho báo chí biết cái gọi là Dư
Luận Viên phá hoại cuộc tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma không phải là người
của công an và ông Tướng công an Nguyễn Đức Chung xác định DLV không bao
giờ tụ tập biểu tình thì nhóm anh chị em từ trước tới giờ luôn bị bọn
DLV nhục mạ, hành hung hay công khai sách nhiễu có cảm giác là chính
sách đối xử với người khác chính kiến của nhà nước có vẻ thay đổi, ít ra
là hòa dịu hơn hay nói cách khác họ không muốn bị bọn này bôi xấu hình
ảnh của công an nhiều hơn nữa.
Thế nhưng không phải dư luận viên mới làm những việc không suy nghĩ,
mà ngay cả một trí thức “lớn” đôi khi cũng không thoát khỏi sự tâng bốc
và sợ hãi, dẫn đến hèn hạ mà một hiệu trưởng đại học không thể có. Đó là
hiệu trưởng trường Đại học Lâm nghiệp Trần Văn Chứ, người ký văn bản hù
dọa trí thức và sinh viên trong trường có tham gia chống đối việc chặt
cây xanh tại Hà Nội khi cho rằng nhà trường nhận được thông báo của công
an thành phố Hà Nội, Phòng PA38, đề nghị nhà trường xử lý những người
mà ông Chứ cho là vi phạm.
Không may cho ông, giống như cách mà tướng Chung đối xử với dư luận
viên, phòng PA 38 thẳng thừng phủ nhận việc này, và để lấp liếm ông Chứ
cho rằng lỗi của cậu đánh máy đã diễn tả lệch lạc văn bản mà ông vô ý ký
tên.
Công an Hà Nội phản ứng trước hai sự việc rất nhanh nhạy và có thể
nói hiếm có làm không ít người ngạc nhiên. Thì ra sau khi sống quá lâu
trong sự phi lý người dân đánh giá việc cần phải làm của cơ quan giữ gìn
luật pháp thậm chí rất đỗi bình thường lại trở nên lạ lùng, đáng trân
trọng. Thời của kẻ bị bầm dập đã trỗi lên chăng?
Tại Khánh Hòa, một chuyện lạ nữa cũng liên quan đến pháp luật lần này
làm cho giới luật sư ngạc nhiên lẫn vui mừng! Đó là chàng luật sư trẻ
tuổi Võ An Đôn dám ngang nhiên giữa tòa đòi khởi tố Hội đồng Xét xử
trong phiên sơ thẩm vì Hội đồng này đã không đưa một số tình tiết vật
chứng vào vụ án, làm sai lệch cơ bản tội danh dẫn đến xét xử không đúng
pháp luật, cụ thể là ra bản án trái pháp luật.
Bất cứ quốc gia nào theo thể chế dân chủ thì đề nghị này không có gì
là lạ lùng, nhưng với Việt Nam, nơi luật sư không được tòa án nhìn dưới
lăng kính luật pháp, Tòa án, Hội đồng xét xử và Viện kiểm sát là người
của đảng thì đề nghị chối tai này đã đánh thức sự quan tâm của xã hội,
còn giới luật sư thì đương nhiên vui mừng vì đã có người dám làm thay
cho họ.
Đề nghị này tuy chưa chính thức thực hiện nhưng cho thấy kẻ bị nhìn
dưới ánh mắt ban phát xưa nay là bị cáo, kể cả luật sư, thấp hơn hẳn so
với Tòa án, Viện Kiểm sát và nhất là Hội đồng xét xử, nay đã dám lên
tiếng thể hiện quyền bảo vệ thân chủ trước luật pháp cho thấy sự chuyển
hướng của sức mạnh công dân đã từ từ lấn sâu vào tư pháp, khu vực bất
khả xâm phạm từ khi người cộng sản thực thi công lý theo cách của họ từ
hồi cải cách ruộng đất.Chưa hết, đối với cơ quan lập pháp, từ trước tới nay người dân đã quen trong nếp nghĩ đại biểu quốc hội chỉ là người làm cảnh cho chế độ, mọi hoạt động của Quốc hội đều được chỉ đạo từ Đảng và nếu có phát ngôn mạnh mẽ đến đâu thì cũng chỉ là kịch bản dùng để biểu diễn hơn là soi thẳng các dấu hiệu sai trái của hành pháp như các nước khác.
Thế nhưng lần này đồng hành cùng với người dân Hà Nội đại biểu Nguyễn Sỹ Cương đã chứng minh rằng UBND Hà Nội đã vi phạm Luật Thủ Đô và ông khẳng định mấy tay trực tiếp ký ban hành quyết định đốn cây xanh Hà Nội phải bị xử lý trước pháp luật.
Và sự lên tiếng kịp thời này đã làm cho ông Nguyễn Thế Thảo chùn tay không còn lúng túng châm chế cho quyết định sai trái mà ông ta là người gián tiếp chịu trách nhiệm. Sự lên tiếng kịp thời ấy của một đại biểu quốc hội đã làm người dân mạnh dạn ùn ùn kéo nhau diễu hành kể cả sau khi UBND thành phố chính thức dừng dự án chặt chém này. Người dân nêu ra một lý do khác: Chúng tôi kéo nhau diễu hành vì không muốn các ông tiếp tục đánh lừa qua chiến thuật kéo dài thời gian và lẳng lặng che dấu, phi tang các bằng chứng nhũng lạm của mình.
Vậy là người đại biểu đã “vùng lên” thoát khỏi cái vòng tròn nhỏ hẹp mà đảng không muốn ông bước ra.
Có khi nào chúng ta tưởng tượng được một lực lượng 90 ngàn công nhân đồng loạt đình công mà không có bất cứ một sự dẫn dắt hay chỉ đạo nào? Lạ hơn nữa họ đình công không phải tranh đấu với chủ như quy luật muôn đời, mà họ đình công chống lại nhà nước, nơi đáng ra có bổn phận bảo vệ quyền lợi của người công nhân.
5 ngày liên tiếp, 90 ngàn con người ấy tập trung chống lại luật Bảo hiểm xã hội mà họ cho là không phù hợp với thực tế đời sống công nhân. Luật mới không cho phép người công nhân rút tiền Bảo hiểm xã hội của mình một lần khi không còn làm việc mà phải chờ tới khi về hưu mới được cái quyền ấy, cái quyền mà trong luật BHXH năm 2006 đã cho phép.
Tại sao Bộ Lao động và Thương binh xã hội lại đề nghị quốc hội thay đổi luật này thì người ta đang bàn cãi. Phải chăng do quỹ BHXH đã bị thâm thủng nên nếu phát cho công nhân một lần thì sẽ khủng hoảng?
Dù bất cứ lý do gì cũng cho thấy một sự thật, 90 ngàn con người không phải là một con số, nó là một lực lượng quần chúng. Lực lượng này có khả năng phá vỡ mọi lực cản từ trước tới nay kể cả cái lõi chính sách an sinh xã hội của nhà nước đã phá sản. Khi chính sách BHXH biến thành con tin của nhà nước thì người công nhân phản ứng là chuyện bình thường, nhưng cái không bình thường ở chỗ, 90 ngàn con người phản ứng một lượt, điều mà có nằm mơ chính quyền Viện Nam cũng khó mà nghĩ tới.
Cộng với những biến chuyển mới tinh ấy một bài viết làm cho người theo dõi thời sự giật mình: Trên tờ báo Đảng, Sài Gòn Giải Phóng, giật một cái tít làm người đọc bật dậy vì không thể tin vào mắt của mình: Đồng khô hồ cạn.
Sấm Trạng Trình từng giải mã rằng khi nào đồng khô hồ cạn thì lúc ấy mới ra thái bình. Ai tin thì tin, ai không tin thì vào mạng mà xem, báo SGGP Online đăng vào ngày 26 tháng Ba, đúng vào lúc công nhân Pou Yuen đình công toàn diện. Bài báo có nội dung Tây Nguyên vào cao điểm hạn hán, nhiều sông suối, ao hồ chỉ còn trơ đáy, hàng ngàn hécta cây trồng thiếu nước, người dân đang vét những giọt nước cuối cùng để chống hạn.
Trên thực tế, người dân đã biết lấy lại quyền của mình bằng cách mang nguồn mạch tranh đấu tưới lên vùng đất cằn cỗi bấy lâu của sự vô cảm, chính nhà nước mới là người đang cầm gàu cố vét từng giọt nước tưới những biến cố tệ hại đang làm khô hạn lòng tin của quần chúng trên toàn bộ hệ thống.
VIỆT TỪ SAIGON * TÔI ÁC VIẸT CỘNG
Ai biến dân An Nam thành súc vật?
Wed, 04/01/2015 - 02:36 — VietTuSaiGon
Quá trình xếp hàng từ nửa đêm cho đến chiều hôm sau để chờ miếng ăn, mỗi ngày đều phải xếp hàng, người trong gia đình phải thay phiên nhau xếp hàng chờ miếng ăn suốt mười ba năm (1975 – 1988) sau đó là cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với hàng núi các trò trí trá của giới chức Cộng sản, họ đứng đằng sau các loại dịch vụ để người thân, gia đình họ thao túng thị trường, biến thị trường trở thành sân sau của các quan chức mà ở đó, mọi thủ đoạn, mọi sự ép chế, áp bức và bóc lột đều có đủ.
Chính quá trình mười ba năm dài sống trong tăm tối của chụp mũ, xếp hàng chờ miếng ăn và hốt hoảng, lo sợ tương lai, lo sợ cái đói để rồi tiếp theo là một thứ cơ chế tạo ra môi trường đội trên đạp dưới, nịnh nọt vì đồng tiền bát gạo đã đẩy phần rất lớn người Việt rơi vào tình trạng đạp lên nhau mà sống, bất chấp để làm giàu.
Hệ quả của quá trình sống từng ngày, thở từng ngày trong vô cảm, mưu toan và sợ hãi đã đẩy số đông người Việt Nam đến chỗ bạc nhược với chính mình, không thiếu những kẻ lười biếng, trông đợi vào lòng thương của người khác và cũng không thiếu những kẻ cơ hội, giẫm đạp lên số phận của đồng loại để làm giàu. Nhưng cho dù có giàu có, tiền bạc đầy túi thì tính khí, tập khí của họ vẫn là kẻ bạc nhược, sự bạc nhược này di truyền sang những thế hệ sau. Nhiều bạn trẻ không bao giờ dành ra được nửa giờ đồng hồ để đọc sách và suy tư về bản thân, gia đình, đất nước nhưng lại sẵn sàng bỏ ra một buổi, vài buổi, thậm chí vài ngày đứng xếp hàng ngoài nắng để được ăn miễn phí.
Điều này cho thấy khả năng suy tư của các bạn trẻ đã bị thui chột tự bao giờ. Đương nhiên, cái lỗi lớn nhất vẫn thuộc về môi trường sống. Nhưng ai đã tạo ra một môi trường, tạo ra một sinh quyển bệ rạc như hiện tại? Điều này phải hỏi đến nhà cầm quyền, phải hỏi đến chính sách vĩ mô cũng như những chủ trương lãnh đạo đất nước của họ. Không ai khác có thể trả lời được câu hỏi này.
Nhưng, vấn đề hiện tại, chính sách hiện tại vẫn là quan trọng nhất. Vì sao cho đến hiện tại, khái niệm “AnNamist” lại trở nên nổi trội đối với người Việt Nam? Điều này phải xem lại cách quản lý của nhà nước. Nếu nhà nước quản lý chặt chẽ, có những điều khoản qui định cấm các hoạt động dẫn đến hành vi man di mọi rợ như ném đồ chơi miễn phí cho khách hàng tranh giành, ném ấn đầu năm cho người ta giành giật, ném phết cầu may để người ta đánh nhau mà giành giật… Làm những cái bánh chưng, những dĩa bê thui, tô mỳ Quảng, chiếc bánh tét, tô hủ tiếu lớn nhất, lập kỉ lục… Để rồi người ta xúm xít vào mà tùng xẻo, giành lấy cho mình một miếng như một loại bổng lộc… Thì làm sao đến nông nỗi tệ hại như vậy?!
Đằng này, không những không cấm mà hầu như nhà nước còn cổ xúy, đứng ra xác nhận kỉ lục, đứng ra bảo vệ những cuộc phân phát thức ăn miễn phí, báo chí trong nước tuy không ca tụng nhưng cũng đưa tin như một sự kiện trọng đại, một nét văn hóa của đất nước. Tất cả những hoạt động đó đều là tiếp tay cho sự giẫm đạp, cho tranh đoạt và máu tham của con người.
Chuyện người Việt, đặc biệt là lớp trẻ chen chúc nhau, giành giật
miếng ăn ở Hà Nội, Đồng Nai, Sài Gòn, Cần Thơ… nghe ra quá quen thuộc.
Từ chuyện xếp hàng rồng rắn, chen chúc và lội lên nhau, giẫm đạp nhau để
có miếng sushi, xúm nhau hôi bia của xe tai nạn, thản nhiên bưng trái
cây (vải, nhãn) của xe bị tai nạn rơi xuống vực… Và vài ngày trở lại đây
là xúm xít giành giật từng phần đồ chơi người ta ném từ trên tầng cao
xuống và chen lấn vì miếng ăn ở Sài Gòn. Tất cả, nhìn theo cách nào cũng
rơi vào trạng thái thèm ăn của súc vật chứ không phải của con người văn
minh. Tại sao phần lớn người Việt Nam, giới trẻ Việt Nam lại trở nên tệ
hại như thế?
Câu trả lời không đơn giản, nhưng cũng không quá phức tạp. Có hai vấn
đề: Căn tính người Việt thời xã hội chủ nghĩa và; Phương cách quản lý
của nhà nước hiện tại.
Phải nói rằng đây là căn tính của người Việt thời xã hội chủ nghĩa
chứ không phải thời nào khác. Cũng có thể ở thời phong kiến và thuộc
địa, người Việt cũng có tính cách này nhưng chỉ ở mức cam chịu, cúi đầu
trước quyền lực phong kiến và nhận ơn của đức vua hoặc của “mẫu quốc”
nhưng chí ít cũng có tư thế, cũng khiêm cung và đĩnh đạt, không xô bồ,
chụp giựt như hiện tại.
Nguyên nhân của tính chụp giựt, coi trọng miếng ăn của phần đông
người Việt hiện tại đều do thời kinh tế bao cấp, con người hoảng sợ vì
mất miếng ăn, vì thiếu đói và tù tội, con người phải quì lụy miếng ăn
như một thứ cứu cánh và con người không còn suy nghĩ được gì khác ngoài
chuyện phải thông minh để khỏi mất miếng ăn, khỏi bị đánh đập và khỏi
phải tù tội.Quá trình xếp hàng từ nửa đêm cho đến chiều hôm sau để chờ miếng ăn, mỗi ngày đều phải xếp hàng, người trong gia đình phải thay phiên nhau xếp hàng chờ miếng ăn suốt mười ba năm (1975 – 1988) sau đó là cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với hàng núi các trò trí trá của giới chức Cộng sản, họ đứng đằng sau các loại dịch vụ để người thân, gia đình họ thao túng thị trường, biến thị trường trở thành sân sau của các quan chức mà ở đó, mọi thủ đoạn, mọi sự ép chế, áp bức và bóc lột đều có đủ.
Chính quá trình mười ba năm dài sống trong tăm tối của chụp mũ, xếp hàng chờ miếng ăn và hốt hoảng, lo sợ tương lai, lo sợ cái đói để rồi tiếp theo là một thứ cơ chế tạo ra môi trường đội trên đạp dưới, nịnh nọt vì đồng tiền bát gạo đã đẩy phần rất lớn người Việt rơi vào tình trạng đạp lên nhau mà sống, bất chấp để làm giàu.
Hệ quả của quá trình sống từng ngày, thở từng ngày trong vô cảm, mưu toan và sợ hãi đã đẩy số đông người Việt Nam đến chỗ bạc nhược với chính mình, không thiếu những kẻ lười biếng, trông đợi vào lòng thương của người khác và cũng không thiếu những kẻ cơ hội, giẫm đạp lên số phận của đồng loại để làm giàu. Nhưng cho dù có giàu có, tiền bạc đầy túi thì tính khí, tập khí của họ vẫn là kẻ bạc nhược, sự bạc nhược này di truyền sang những thế hệ sau. Nhiều bạn trẻ không bao giờ dành ra được nửa giờ đồng hồ để đọc sách và suy tư về bản thân, gia đình, đất nước nhưng lại sẵn sàng bỏ ra một buổi, vài buổi, thậm chí vài ngày đứng xếp hàng ngoài nắng để được ăn miễn phí.
Điều này cho thấy khả năng suy tư của các bạn trẻ đã bị thui chột tự bao giờ. Đương nhiên, cái lỗi lớn nhất vẫn thuộc về môi trường sống. Nhưng ai đã tạo ra một môi trường, tạo ra một sinh quyển bệ rạc như hiện tại? Điều này phải hỏi đến nhà cầm quyền, phải hỏi đến chính sách vĩ mô cũng như những chủ trương lãnh đạo đất nước của họ. Không ai khác có thể trả lời được câu hỏi này.
Nhưng, vấn đề hiện tại, chính sách hiện tại vẫn là quan trọng nhất. Vì sao cho đến hiện tại, khái niệm “AnNamist” lại trở nên nổi trội đối với người Việt Nam? Điều này phải xem lại cách quản lý của nhà nước. Nếu nhà nước quản lý chặt chẽ, có những điều khoản qui định cấm các hoạt động dẫn đến hành vi man di mọi rợ như ném đồ chơi miễn phí cho khách hàng tranh giành, ném ấn đầu năm cho người ta giành giật, ném phết cầu may để người ta đánh nhau mà giành giật… Làm những cái bánh chưng, những dĩa bê thui, tô mỳ Quảng, chiếc bánh tét, tô hủ tiếu lớn nhất, lập kỉ lục… Để rồi người ta xúm xít vào mà tùng xẻo, giành lấy cho mình một miếng như một loại bổng lộc… Thì làm sao đến nông nỗi tệ hại như vậy?!
Đằng này, không những không cấm mà hầu như nhà nước còn cổ xúy, đứng ra xác nhận kỉ lục, đứng ra bảo vệ những cuộc phân phát thức ăn miễn phí, báo chí trong nước tuy không ca tụng nhưng cũng đưa tin như một sự kiện trọng đại, một nét văn hóa của đất nước. Tất cả những hoạt động đó đều là tiếp tay cho sự giẫm đạp, cho tranh đoạt và máu tham của con người.
Chuyện này không thể nói khác đi được, không thể đổ lỗi cho người dân
mà phải có một sự nhìn nhận khách quan, nhà cầm quyền hiện tại phải
nhìn thấy cái lỗi của những lãnh đạo đi trước và phải biết nhìn thấy sự
thiếu sót của giới lãnh đạo hiện tại để ít ra cũng không tiếp tục đẩy
đất nước đến chỗ hỗn độn như bây giờ.
Muốn làm được chuyện này, cần phải bớt đi lối nói hàm hồ và tráo trở
như một cán bộ quản lý văn hóa ở Hà Nội theo kiểu “chặt cây không cần
phải hỏi dân…”, “tranh ấn, cướp ấn là một hoạt động văn hóa, lộc thì
phải giành mới có…” và “lễ hội thành công tốt đẹp, không có sự giành
giật nào như báo chí đưa tin…”. Tất cả những phát biểu như vậy không
những tráo trở, láo khoét mà còn làm ảnh hưởng đến nhiều thế hệ đang
sống dưới sự quản lý văn hóa của nhà cầm quyền, biến xã hội thành một
cái chuồng của những con vẹt nói khoét và những con lợn tham ăn.
Những phát biểu và hành động (quản lý) hiện tại của nhiều quan chức
có quyền lực trong nhà nước chỉ dẫn đến nguy cơ đất nước không những tụt
hậu, man di mọi rợ mà đến một lúc nào đó, người Việt sẽ cắn xé nhau,
giết tróc nhau vì miếng ăn như một bầy súc vật. Và lúc đó, kẻ đứng vỗ
tay không ai khác ngoài chính kẻ đã cổ xúy và tạo ra nó. Đó mới là vấn
đề!
TƯỞNG NĂNG TIẾN * BÁC VÀ MẸ VIỆT CỘNG
Tượng Mẹ & Tượng Bác
Wed, 04/01/2015 - 11:41 — tuongnangtien
Sổ Tay Thượng Dân K. Tien
Công chúng đương thời thì bàng quan, thờ ơ với “tượng đài,” thứ mà Nhà nước đang hào phóng ban phát … bằng tiền thuế của họ.
Lý Trực Dũng
Cuối cùng, tượng đài Mẹ Việt Nam Anh Hùng cũng đã hoàn tất, và khánh thành vào ngày 24 tháng 3 vừa qua. Dư luận – xem ra – không được đồng tình lắm với công trình kiến trúc cấp quốc gia, lớn nhất Đông Nam Á (với kinh phí 411 tỉ) của hoạ sĩ của Đinh Gia Thắng và kiến trúc sư Nguyễn Luận.
Thiên hạ chê rằng ... mắc!
Ảnh: vnexpress
Kể thì cũng hơi mắc thiệt, nếu chỉ thấy cái đầu của mẹ Nguyễn Thị Thứ giữa một đống đá lô nhô nhưng nếu nhìn bao quát cả quần thể kiến trúc tượng đài (“gồm 8 trụ huyền thoại ngay trước cổng vào, mỗi trụ cao 11,2 m; đường kính hơn 1,2 m làm bằng đá hoa cương”) thì mới thấy giá cả cũng phải chăng thôi.
Đó là chưa kể công phu khắc họa trên 8 trụ “hình ảnh bà mẹ Bắc Bộ hiền lành, phúc hậu; mẹ Trung Bộ tảo tần, nắng mưa, can trường; mẹ Tây Nguyên dù cái bụng không no nhưng vẫn dành từng hạt bắp cho bộ đội; mẹ Nam Bộ kiên trung, bất khuất…”
Nói tóm lại, và nói cho công bằng, là rẻ rề hà. Hơn nữa, theo nhà phê bình mỹ thuật Lê Quốc Bảo thì “ không thể lấy con số 400 tỷ để đem ra đo với giá trị nghệ thuật vì giá trị nghệ thuật là vô giá.”
Thằng chả nói đúng!
Cứ chăm chăm xoáy vô chuyện tiền bạc không những đã kỳ mà còn có thể làm cho qúi mẹ buồn lòng nữa, nhất là “mẹ Tây Nguyên dù cái bụng không no nhưng vẫn dành từng hạt bắp cho bộ đội”! Mà không phải chỉ có mẹ Tây Nguyên thôi đâu nha. Các mẹ ở sóc Bom Bo, huyện Bù Đăng (tỉnh Bình Phước) cũng chịu chơi hết biết luôn:
“Cách mạng cần gạo nhiều để đánh Mỹ,
Sóc Bom Bo sẵn có cối chày đây,
Người Bom Bo sẵn có đôi bàn tay
Với tình yêu nước và thù giặc ngày ngày.”
Tiếng Chầy Trên Sóc Bom Bo – Xuân Hồng
Mấy mẹ Vân Kiều hay mẹ Pa Kô (ở Huế) cũng vậy, cũng đều chơi xả láng, sáng về sớm:
“Gạo ngàn cân em gùi ra chiến trường.
Bộ đội giải phóng ơi yên tâm mà đánh thắng giặc Mỹ.”
Cô Gái Pa Kô – Huy Thục
Chỉ có điều đáng tiếc là thời son trẻ của các mẹ đều đã qua tự lâu rồi, và cuộc sống hôm nay đã khác xưa nhiều lắm. Bây giờ mà “cách mạng (lại) cần gạo nhiều để đánh Mỹ,” đánh Tầu, hay đánh ai đó nữa thì chắc chắn là sóc Bom Bo không còn “sẵn cối chầy” đâu.
Tiế́n sĩ Trần Đăng Tuấn đã báo động lâu rồi: “Khi bạn lên vùng cao, bế các cháu bé bé lên, sẽ thấy chúng nhẹ bỗng.”
Sao kỳ vậy?
Kỳ khỉ gì. Tụi nhỏ “nhẹ bỗng” vì chúng đói quá thôi! Kể từ khi “bộ đội giải phóng đánh thắng giặc Mỹ” thì người dân ở những vùng cao vẫn phải ăn mèng méng, củ mài, rau rác, hay chuột, nhái thay cơm. Làm gì còn có gạo (“ngàn cân”) để gùi ra chiến trường, như hồi đó nữa.
Đói rách là tình trạng phổ biến đối với tất cả mọi sắc dân bản địa ở những vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. Còn tuyệt vọng, phẫn uất, và sợ hãi là tâm cảm chung của họ.
Ngày 21 tháng 7 năm 2004, BBC đi tin: “Vietnam refugees emerge from hiding.” (Những người tị nạn Việt Nam xuất hiện từ nơi ẩn trốn). Bản tin này có trích dẫn lời của một nạn nhân: “Tôi hoan hỉ chết ngay tại nơi này, hơn là trở lại Việt Nam và chết ở đó.” (I would be happy to die right here, rather than go back to Vietnam and die there).
Ngày 20 tháng 12 năm 2014, từ Phnom Penh, Quốc Việt (RFA) cũng phổ biến một bản tin tương tự: “Một nhóm người Thượng gồm 8 người đã mạo hiểm ra khỏi rừng rậm để gặp Liên Hiệp Quốc, và yêu cầu cơ quan quốc tế này can thiệp.” Họ cũng lập lại một lời yêu cầu, y như những kẻ đồng cảnh, trước đó:
“Liên Hiệp Quốc chở đi chỗ nào cũng được, quan trọng là đừng chở về Việt Nam. Vì chúng tôi sợ Việt Nam, công an Việt Nam đánh đập…”
Khoảng cách của hai bản tin dẫn thượng là đúng một thập niên. Giữa thời gian này là ba biến động lớn: năm 2001, năm 2004 – ở Tây Nguyên – và năm 2011 ở Mường Nhé. Hệ quả, riêng tại địa danh cuối, theo tường thuật của Thanh Trúc (RFA) “đã khiến hàng trăm người phải bỏ trốn vào rừng, và bản án 63 năm tù giam (trong phiên toà ngày 28 tháng 5 năm 2013) cho 8 bị can ở Tây Nguyên với tội danh là gây hằn thù, kỳ thị, chia rẻ dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.”
Cả ba biến động này, xem ra, chả hề làm cho nhà đương cuộc Hà Nội bận tâm một xíu xiu nào ráo trọi. Họ đều coi như đều là chuyện nhỏ nên tiếp tục đàn áp không nương tay với những sắc dân bản địa. Chỉ trong vòng ba tháng đầu năm nay (năm 2015) khán thính giả của VOA,̀ RFA, và Phnom Penh Post đã được biết thêm hàng chục bản tin về tình trạng vượt biên từ Việt Nam:
“Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” (Lý Hồng Xuân. Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn. Văn Nghệ: California 2000, 177).
“Bọn bành trướng Bắc Kinh” (xem chừng) đang muốn tràn sang lần nữa, và “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì mỗi lúc lại càng tệ hại hơn! Tuy nhiên, mọi sai lầm – cuối cùng – đã được “sửa sai” và “đền bù” bằng một cái tượng đài hoành tráng với 8 trụ “huyền thoại,” ngay trước cổng vào, mỗi trụ cao 11,2 m; đường kính hơn 1,2 m làm bằng đá hoa cương.
Theo vnexpress: “Trên 8 trụ khắc họa hình ảnh bà mẹ Bắc Bộ hiền lành, phúc hậu; mẹ Trung Bộ tảo tần, nắng mưa, can trường; mẹ Tây Nguyên dù cái bụng không no nhưng vẫn dành từng hạt bắp cho bộ đội ; mẹ Nam Bộ kiên trung, bất khuất…”
Ý Trời! Gạo nghìn cân gùi ra chiến trường đều đều, cùng với hàng vạn mạng người đã bỏ mình cho “cách mạng” mà “đền bù” chỉ có mỗi một cái hình “mẹ Tây Nguyên dù cái bụng không no” thôi sao?
Chơi vậy, ngó bộ, có hơi hẹp à nha.
Tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây Nguyên. Ảnh và chú thích:baotanghochiminh
Không dám hẹp đâu. Đã có sẵn một pho tượng hoành tráng khác “đặc biệt dành riêng” cho đồng bào ở những vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng rồi – theo như tường trình của Tuổi Trẻ Online:
“Tối 9-12, tại TP Pleiku (Gia Lai) đã diễn ra lễ khánh thành tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây nguyên... Tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây nguyên được khởi công xây dựng tháng 10-2010 tại quảng trường Đại đoàn kết, TP Pleiku. Tượng Bác cao 10,8m đặt trên bệ cao 4,5m được đúc bằng chất liệu đồng. Phía sau và hai bên tượng Bác là phù điêu bằng đá tự nhiên có chiều dài 58m, cao 11m, hình vòng cung với nhiều cánh sen, thể hiện nét đẹp văn hóa các dân tộc Tây nguyên như nhà rông, rượu cần, cồng chiêng...Tổng kinh phí xây dựng công trình là 230 tỉ đồng.”
Thạch thư toàn văn bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam. Ảnh: cadn.com
Thấy chưa: chỉ mình ên đám Tây Nguyên mà đã được “hưởng” nguyên một pho tượng Bác, trị giá tới 230 tỉ đồng rồi. Đó là chưa kể chuyện nhà thầu còn khuyến mại (thêm) một bức thạch thư hoàn toàn miễn phí nữa – theo mô tả báo Công An Nhân Dân:
Công chúng đương thời thì bàng quan, thờ ơ với “tượng đài,” thứ mà Nhà nước đang hào phóng ban phát … bằng tiền thuế của họ.
Lý Trực Dũng
Cuối cùng, tượng đài Mẹ Việt Nam Anh Hùng cũng đã hoàn tất, và khánh thành vào ngày 24 tháng 3 vừa qua. Dư luận – xem ra – không được đồng tình lắm với công trình kiến trúc cấp quốc gia, lớn nhất Đông Nam Á (với kinh phí 411 tỉ) của hoạ sĩ của Đinh Gia Thắng và kiến trúc sư Nguyễn Luận.
Thiên hạ chê rằng ... mắc!
Ảnh: vnexpress
Kể thì cũng hơi mắc thiệt, nếu chỉ thấy cái đầu của mẹ Nguyễn Thị Thứ giữa một đống đá lô nhô nhưng nếu nhìn bao quát cả quần thể kiến trúc tượng đài (“gồm 8 trụ huyền thoại ngay trước cổng vào, mỗi trụ cao 11,2 m; đường kính hơn 1,2 m làm bằng đá hoa cương”) thì mới thấy giá cả cũng phải chăng thôi.
Đó là chưa kể công phu khắc họa trên 8 trụ “hình ảnh bà mẹ Bắc Bộ hiền lành, phúc hậu; mẹ Trung Bộ tảo tần, nắng mưa, can trường; mẹ Tây Nguyên dù cái bụng không no nhưng vẫn dành từng hạt bắp cho bộ đội; mẹ Nam Bộ kiên trung, bất khuất…”
Nói tóm lại, và nói cho công bằng, là rẻ rề hà. Hơn nữa, theo nhà phê bình mỹ thuật Lê Quốc Bảo thì “ không thể lấy con số 400 tỷ để đem ra đo với giá trị nghệ thuật vì giá trị nghệ thuật là vô giá.”
Thằng chả nói đúng!
Cứ chăm chăm xoáy vô chuyện tiền bạc không những đã kỳ mà còn có thể làm cho qúi mẹ buồn lòng nữa, nhất là “mẹ Tây Nguyên dù cái bụng không no nhưng vẫn dành từng hạt bắp cho bộ đội”! Mà không phải chỉ có mẹ Tây Nguyên thôi đâu nha. Các mẹ ở sóc Bom Bo, huyện Bù Đăng (tỉnh Bình Phước) cũng chịu chơi hết biết luôn:
“Cách mạng cần gạo nhiều để đánh Mỹ,
Sóc Bom Bo sẵn có cối chày đây,
Người Bom Bo sẵn có đôi bàn tay
Với tình yêu nước và thù giặc ngày ngày.”
Tiếng Chầy Trên Sóc Bom Bo – Xuân Hồng
Mấy mẹ Vân Kiều hay mẹ Pa Kô (ở Huế) cũng vậy, cũng đều chơi xả láng, sáng về sớm:
“Gạo ngàn cân em gùi ra chiến trường.
Bộ đội giải phóng ơi yên tâm mà đánh thắng giặc Mỹ.”
Cô Gái Pa Kô – Huy Thục
Chỉ có điều đáng tiếc là thời son trẻ của các mẹ đều đã qua tự lâu rồi, và cuộc sống hôm nay đã khác xưa nhiều lắm. Bây giờ mà “cách mạng (lại) cần gạo nhiều để đánh Mỹ,” đánh Tầu, hay đánh ai đó nữa thì chắc chắn là sóc Bom Bo không còn “sẵn cối chầy” đâu.
Tiế́n sĩ Trần Đăng Tuấn đã báo động lâu rồi: “Khi bạn lên vùng cao, bế các cháu bé bé lên, sẽ thấy chúng nhẹ bỗng.”
Sao kỳ vậy?
Kỳ khỉ gì. Tụi nhỏ “nhẹ bỗng” vì chúng đói quá thôi! Kể từ khi “bộ đội giải phóng đánh thắng giặc Mỹ” thì người dân ở những vùng cao vẫn phải ăn mèng méng, củ mài, rau rác, hay chuột, nhái thay cơm. Làm gì còn có gạo (“ngàn cân”) để gùi ra chiến trường, như hồi đó nữa.
Đói rách là tình trạng phổ biến đối với tất cả mọi sắc dân bản địa ở những vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. Còn tuyệt vọng, phẫn uất, và sợ hãi là tâm cảm chung của họ.
Ngày 21 tháng 7 năm 2004, BBC đi tin: “Vietnam refugees emerge from hiding.” (Những người tị nạn Việt Nam xuất hiện từ nơi ẩn trốn). Bản tin này có trích dẫn lời của một nạn nhân: “Tôi hoan hỉ chết ngay tại nơi này, hơn là trở lại Việt Nam và chết ở đó.” (I would be happy to die right here, rather than go back to Vietnam and die there).
Ngày 20 tháng 12 năm 2014, từ Phnom Penh, Quốc Việt (RFA) cũng phổ biến một bản tin tương tự: “Một nhóm người Thượng gồm 8 người đã mạo hiểm ra khỏi rừng rậm để gặp Liên Hiệp Quốc, và yêu cầu cơ quan quốc tế này can thiệp.” Họ cũng lập lại một lời yêu cầu, y như những kẻ đồng cảnh, trước đó:
“Liên Hiệp Quốc chở đi chỗ nào cũng được, quan trọng là đừng chở về Việt Nam. Vì chúng tôi sợ Việt Nam, công an Việt Nam đánh đập…”
Khoảng cách của hai bản tin dẫn thượng là đúng một thập niên. Giữa thời gian này là ba biến động lớn: năm 2001, năm 2004 – ở Tây Nguyên – và năm 2011 ở Mường Nhé. Hệ quả, riêng tại địa danh cuối, theo tường thuật của Thanh Trúc (RFA) “đã khiến hàng trăm người phải bỏ trốn vào rừng, và bản án 63 năm tù giam (trong phiên toà ngày 28 tháng 5 năm 2013) cho 8 bị can ở Tây Nguyên với tội danh là gây hằn thù, kỳ thị, chia rẻ dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.”
Cả ba biến động này, xem ra, chả hề làm cho nhà đương cuộc Hà Nội bận tâm một xíu xiu nào ráo trọi. Họ đều coi như đều là chuyện nhỏ nên tiếp tục đàn áp không nương tay với những sắc dân bản địa. Chỉ trong vòng ba tháng đầu năm nay (năm 2015) khán thính giả của VOA,̀ RFA, và Phnom Penh Post đã được biết thêm hàng chục bản tin về tình trạng vượt biên từ Việt Nam:
- Thêm 7 người Thượng từ VN trốn sang Campuchia (RFA)
- Hơn 30 người Thượng ở Campuchia tiếp tục lẩn trốn (VOA)
- Campuchia: 36 người Thượng đã bị bắt và trao cho Việt Nam (RFA)
- Thêm 8 người Thượng VN bỏ chạy sang Campuchia (RFA)
- Người Thượng Việt Nam ở Campuchia vẫn vô vọng (RFA)
- Thêm 4 người Thượng Việt Nam bị Campuchia trục xuất (VOA)
- More Montagnard arrive (The Phnom Penh Post)
- Montagnard presence denied (The Phnom Penh Post)
- After Montagnard, threats (The Phnom Penh Post)
- Armed police sweep village in ongoing hunt for asylum seekers (The Phnom Penh Post)
“Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” (Lý Hồng Xuân. Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn. Văn Nghệ: California 2000, 177).
“Bọn bành trướng Bắc Kinh” (xem chừng) đang muốn tràn sang lần nữa, và “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì mỗi lúc lại càng tệ hại hơn! Tuy nhiên, mọi sai lầm – cuối cùng – đã được “sửa sai” và “đền bù” bằng một cái tượng đài hoành tráng với 8 trụ “huyền thoại,” ngay trước cổng vào, mỗi trụ cao 11,2 m; đường kính hơn 1,2 m làm bằng đá hoa cương.
Theo vnexpress: “Trên 8 trụ khắc họa hình ảnh bà mẹ Bắc Bộ hiền lành, phúc hậu; mẹ Trung Bộ tảo tần, nắng mưa, can trường; mẹ Tây Nguyên dù cái bụng không no nhưng vẫn dành từng hạt bắp cho bộ đội ; mẹ Nam Bộ kiên trung, bất khuất…”
Ý Trời! Gạo nghìn cân gùi ra chiến trường đều đều, cùng với hàng vạn mạng người đã bỏ mình cho “cách mạng” mà “đền bù” chỉ có mỗi một cái hình “mẹ Tây Nguyên dù cái bụng không no” thôi sao?
Chơi vậy, ngó bộ, có hơi hẹp à nha.
Tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây Nguyên. Ảnh và chú thích:baotanghochiminh
Không dám hẹp đâu. Đã có sẵn một pho tượng hoành tráng khác “đặc biệt dành riêng” cho đồng bào ở những vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng rồi – theo như tường trình của Tuổi Trẻ Online:
“Tối 9-12, tại TP Pleiku (Gia Lai) đã diễn ra lễ khánh thành tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây nguyên... Tượng đài Bác Hồ với các dân tộc Tây nguyên được khởi công xây dựng tháng 10-2010 tại quảng trường Đại đoàn kết, TP Pleiku. Tượng Bác cao 10,8m đặt trên bệ cao 4,5m được đúc bằng chất liệu đồng. Phía sau và hai bên tượng Bác là phù điêu bằng đá tự nhiên có chiều dài 58m, cao 11m, hình vòng cung với nhiều cánh sen, thể hiện nét đẹp văn hóa các dân tộc Tây nguyên như nhà rông, rượu cần, cồng chiêng...Tổng kinh phí xây dựng công trình là 230 tỉ đồng.”
Thạch thư toàn văn bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam. Ảnh: cadn.com
Thấy chưa: chỉ mình ên đám Tây Nguyên mà đã được “hưởng” nguyên một pho tượng Bác, trị giá tới 230 tỉ đồng rồi. Đó là chưa kể chuyện nhà thầu còn khuyến mại (thêm) một bức thạch thư hoàn toàn miễn phí nữa – theo mô tả báo Công An Nhân Dân:
Phía tay phải của Tượng đài Bác là 54 trụ đá bazan được ghép tỉ
mỉ với 3 tầng với tên gọi công trình là “Đại Đoàn Kết” thể hiện lòng
đoàn kết của 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam. Đó cũng là tâm
nguyện của Bác trong bức thư của Người gửi “Đại hội các dân tộc thiểu số
miền Nam, họp tại Pleiku” vào ngày 19-4-1946 được khắc toàn văn trên
Đài thạch bằng đá granite rộng 3m, cao 4,2m, dày 2,5m và nặng hơn 135
tấn đặt tại phía trái Quảng Trường: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay
Mán... Gia Rai hay Ê Đê, Xơ Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số
khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống
chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau...”
Thư Bác viết đã hơn nửa thế kỷ qua mà đọc (lại) vẫn cứ muốn ứa nước mắt:“Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.”
Lúc đói, mỗi người sẵn lòng giúp cho Nhà Nước hàng ngàn
cân gạo; khi no, Đảng và Chính Phủ cũng không ngần ngại giúp
lại cho nhân dân hàng ngàn tượng đài, nặng hàng ngàn tấn, với
kinh phí hàng ngàn tỉ bạc chi từ tiền thuế của họ. Chơi kiểu
đó (e) chó cũng nổi điên, chớ đừng nói chi người – bất kể̉ là
Kinh hay Thượng.
- tuongnangtien's
- http://www.rfavietnam.com/node/2520
HOA KỲ VÀ Á CHÂU THÁI BÌNH DƯƠNG
Tin tức / Thế giới / Châu Á
Mỹ: Trung Quốc xây Vạn lý Trường Thành trên Biển Đông
Tư Lệnh lực lượng Thái Bình Dương của Mỹ, Đô
Đốc Harry Harris Jr., khẳng định chính sách tái cân bằng lực lượng sang
khu vực Thái Bình Dương của chính phủ Mỹ đang đi đúng hướng
02.04.2015
Các công trình lắp đất xây đảo nhân tạo của Trung Quốc trong Biển Đông
đã khiến người ta hoài nghi về các ý đồ của Trung Quốc, và tự hỏi liệu
Bắc Kinh thực sự muốn hợp tác hay là có ý định đối đầu với các cường
quốc khác trong khu vực.
Đó là lời bình luận của Tư Lệnh lực lượng Thái Bình Dương của Mỹ, bày tỏ quan tâm về việc Trung Quốc đang xây điều mà ông miêu tả là một bức “Vạn lý Trường Thành bằng Cát” trên Biển Đông.
Báo The Wall St. Journal hôm 31 tháng Ba tường thuật rằng trong một phát biểu công khai, trực tiếp chỉ trích các công trình xây cất của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa, Tư Lệnh lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương, Đô Đốc Harry Harris Jr., nói Bắc Kinh đang xây “một vạn lý trường thành” trên vùng biển đang trong vòng tranh chấp.
Đó là lời bình luận của Tư Lệnh lực lượng Thái Bình Dương của Mỹ, bày tỏ quan tâm về việc Trung Quốc đang xây điều mà ông miêu tả là một bức “Vạn lý Trường Thành bằng Cát” trên Biển Đông.
Báo The Wall St. Journal hôm 31 tháng Ba tường thuật rằng trong một phát biểu công khai, trực tiếp chỉ trích các công trình xây cất của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa, Tư Lệnh lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương, Đô Đốc Harry Harris Jr., nói Bắc Kinh đang xây “một vạn lý trường thành” trên vùng biển đang trong vòng tranh chấp.
Đô Đốc Harris được trích lời nói rằng: “Khi xét toàn diện các hành động
khiêu khích của Trung Quốc đối với các nước giành chủ quyền nhỏ hơn, sự
thiếu minh bạch của cái đường 9 đoạn và tình trạng bất cân xứng giữa khả
năng của Trung Quốc so với các nước láng giềng nhỏ - thì thật không
đáng ngạc nhiên là quy mô của các công trình xây các đảo nhân tạo đặt ra
những nghi vấn nghiêm trọng về ý đồ của Trung Quốc.”
Ông cho rằng cái đường 9 đoạn mà Trung Quốc vạch ra để đòi chủ quyền
trên hầu hết Biển Đông, không phù hợp với luật quốc tế, Ông nói việc
Trung Quốc xúc tiến các hoạt động cải tạo các bãi đá với quy mô chưa
từng thấy trước đây là điều “rất đáng lo ngại”.
Australia, một đồng minh lâu năm của Mỹ, cũng bày tỏ quan tâm và năm
ngoái, chính phủ Úc ký hiệp định củng cố hợp tác quân sự với Nhật Bản
như một cách để tăng khả năng quốc phòng trước sức mạnh quân sự ngày
càng tăng của Trung Quốc.
Tư Lệnh lực lượng Thái Bình Dương của Mỹ khẳng định chính sách tái cân
bằng lực lượng sang khu vực Thái Bình Dương của chính phủ Mỹ đang đi
đúng hướng trong mục tiêu chuyển 60% lực lượng sang Á Châu-Thái Bình
Dương trước năm 2020. Washington đã điều tàu đổ bộ mới nhất của Hải quân
Hoa Kỳ, chiếc USS America sang khu vực. Đây là một tàu đổ bộ được thiết
kế để chở một số lượng lớn binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến phục vụ các
nhiệm vụ quân sự và cứu trợ nhân đạo. Tàu có bãi đáp cho các loại chiến
đấu cơ và máy bay trực thăng.
Đô đốc Harris Jr. kêu gọi tất cả các bên liên quan phải tuân thủ Tuyên
bố về cách ứng xử trên Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc đã ký với ASEAN,
cam kết sẽ kiềm chế các hoạt động “gây phức tạp hay làm leo thang căng
thẳng trong khu vực”.
Tư Lệnh lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương nói bằng cách duy trì sự hiện
diện của Hoa Kỳ trong khu vực, trong tình huống khủng hoảng xảy ra, “Mỹ
có thể dễ dàng điều lực lượng Hải quân có khả năng ứng phó nhanh tới
nơi, hầu duy trì tình trạng an ninh và ổn định khu vực.”
Nguồn: WSJ, Worldpress
http://www.voatiengviet.com/content/my-trung-quoc-xay-van-ly-truong-thanh-tren-bien-dong/2702970.html
Ông Harris nói thông qua việc bơm cát lên các rạn san hô và phủ bê tông, Trung Quốc đã tạo dựng hơn 4 cây số vuông diện tích đảo nhân tạo.
Trung Quốc hiện đang tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông với một số nước láng giềng.
Bắc Kinh biện hộ rằng công việc cải tạo và xây đảo nhận tạo của họ là hoàn toàn hợp pháp vì Trung Quốc "giữ chủ quyền ở hầu hết" Biển Đông.
Trong những tháng vừa qua, xuất hiện nhiều bức ảnh mô tả việc xây đảo nhân tạo của Trung Quốc tại Trường Sa, trong đó có cả một đường băng, mà nước này có thể sẽ sử dụng cho mục đích quân sự.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2015/04/150401_china_greatwall_sand
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2015/02/150220_china_scs_reefs
Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, Phó Đô đốc Robert Thomas, kêu gọi
các nước Đông Nam Á hãy thành lập một lực lượng hải quân hỗn hợp để tuần
tra Biển Đông, nơi những tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc bùng phát
và đang ngày càng căng thẳng hơn.
Hãng tin Bloomberg dẫn lời Phó Đô đốc Robert Thomas, phát biểu tại cuộc Triển lãm Hàng Hải và Hàng Không Không gian Quốc tế ở Langkawi, Malaysia, hôm 17 tháng Ba rằng các nước Đông Nam Á có thể hợp tác về vấn đề an ninh biển, trong khi cùng lúc, tôn trọng chủ quyền và vùng duyên hải của nhau, tương tự như trong các nỗ lực chống hải tặc trong vùng Vịnh Aden.
Hoa Kỳ cũng nhân dịp này trấn an các nước đồng minh trong khu vực rằng Mỹ sẽ hậu thuẫn họ chống lại những hành động của Trung Quốc, là nước đòi chủ quyền đối với 4/5 diện tích Biển Đông.
Lời trấn an này được đưa ra trong bối cảnh Trung Quốc đẩy mạnh công tác bồi đắp các bãi cạn, nơi mà Việt Nam, Đài Loan, Brunei, Philippines và Malaysia cũng tuyên bố chủ quyền.
Phó Đô đốc Robert Thomas nói rằng “nói thì dễ, làm thì khó” về phương diện chính sách cũng như phương diện tổ chức, nhưng ông hứa rằng Hạm Đội 7 sẽ sẵn sàng hỗ trợ “nếu các nước ASEAN dẫn đầu công tác tổ chức theo hướng đó.”
Tin trên trang mạng Marinelink nói rằng Trung Quốc ngày càng tăng áp lực đối với một số nước ASEAN, và chỉ trong vài tháng, Bắc Kinh đã biến đổi một số rạn san hô nhỏ và bãi đá ở Biển Đông thành 6 căn cứ quân sự nhỏ, đe dọa các nước nhỏ hơn như Philippines và Việt Nam, và củng cố vị thế quân sự tại một vùng biển là nơi qua lại của hơn 1/3 tàu chở hàng thương mại của thế giới.
Washington hồi gần đây đã bày tỏ quan ngại về tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh trong vụ tranh chấp Biển Đông.
Hãng thông tấn của nhà nước Trung Quốc tố cáo Mỹ có "cảm giác bất an theo kiểu của những tên cướp biển", sau khi phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ Jen Psaki nói các công trình của Trung Quốc bồi đắp và xây đảo nhân tạo trong vùng biển đang trong vòng tranh chấp ở Biển Đông đã "làm tăng sự lo âu trong khu vực về ý đồ của Trung Quốc."
Bà Psaki cho biết Hoa Kỳ sẽ tiếp tục nêu lên mối quan tâm với Trung Quốc và kêu gọi tất cả các bên hãy tránh có những hoạt động gây bất ổn.
Tân Hoa Xã cho rằng những lời bình luận của bà Psaki rõ ràng "thiên vị và không có lợi cho việc giải quyết các tranh chấp cũng như củng cố hòa bình và ổn định".http://www.voatiengviet.com/content/my-keu-goi-cac-nuoc-dong-nam-a-phoi-hop-tuan-tra-bien-dong/2686732.html
\Trung Quốc 'xây trường thành bằng cát'
- 1 tháng 4 2015
Quan chức Hoa Kỳ nói kế hoạch xây dựng cải tạo đảo của Trung Quốc ở Biển Đông đang gây nghi vấn nghiêm trọng.
Chỉ
huy Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Harry Harris, vừa đưa ra
bình luận trên trong một bài phát biểu tại Australia hôm thứ Ba 31/3.Ông Harris nói thông qua việc bơm cát lên các rạn san hô và phủ bê tông, Trung Quốc đã tạo dựng hơn 4 cây số vuông diện tích đảo nhân tạo.
Trung Quốc hiện đang tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông với một số nước láng giềng.
Bắc Kinh biện hộ rằng công việc cải tạo và xây đảo nhận tạo của họ là hoàn toàn hợp pháp vì Trung Quốc "giữ chủ quyền ở hầu hết" Biển Đông.
Trong những tháng vừa qua, xuất hiện nhiều bức ảnh mô tả việc xây đảo nhân tạo của Trung Quốc tại Trường Sa, trong đó có cả một đường băng, mà nước này có thể sẽ sử dụng cho mục đích quân sự.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2015/04/150401_china_greatwall_sand
TQ xây đảo làm bàn đạp ở Biển Đông
Hãng tin Anh quốc Reuters vừa có bài phân tích về chiến
lược phát triển đảo nhân tạo và tham vọng ở Biển Đông của Trung
Quốc.Hãng
này nói việc xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc diễn ra nhanh chóng
nhằm tạo bàn đạp cho Bắc Kinh mở rộng phạm vi hoạt động của hải quân,
không quân, tuần duyên và ngư nghiệp, gây quan ngại cho các nước xung
quanh.
Theo các bức hình mà Philippines mới công bố, Trung Quốc đã xây dựng và cải tạo khá nhiều trên sáu đảo nhỏ và bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa, đồng thời bắt đầu công việc trên đảo thứ bảy.
Một điểm gây quan ngại nhất là việc phát triển các hải cảng và điểm tiếp dầu, cộng thêm các đường băng khiến Bắc Kinh có thể uy hiếp toàn bộ Biển Đông.
Reuters dẫn lời một quan chức ngoại giao phương Tây nói: "Các công trình này lớn và tham vọng hơn chúng ta từng nghĩ. Về nhiều khía cạnh, khi kế hoạch này tiếp tục được phát triển thì sẽ đặc biệt khó khăn [cho các nước] trong việc đương đầu với Trung Quốc ở Biển Đông".
Các nước Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền với các đảo ở Biển Đông. Trừ Brunei, các nước kia đều cho củng cố cơ sở của mình trên các đảo mà họ kiểm soát.
Tuần rồi tạp chí Janes's Defence của Anh có đăng tải phân tích dựa trên hình ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đang xây dựng trên Hughes Reef, cũng thuộc Trường Sa, mà Việt Nam gọi là Đá Tư Nghĩa.
Janes's Defence nói đây là một công trình lớn, được xây dựng trên diện tích 75.000 mét vuông mà Trung Quốc dùng cát kiến tạo từ tháng Tám năm ngoái.
Bên cạnh đó, tạp chí này đăng hình ảnh Bãi Chữ thập mà Trung Quốc đã bồi đắp thành đảo có độ dài hơn 3km để xây đường băng.
Tất nhiên, ngoài việc sử dụng các cơ sở hạ tầng nói trên cho mục đích chiến lược và an ninh, Trung Quốc có thể dùng để tiếp vậ́n cho tàu cá hay tàu tuần tra biển của mình.
Reuters nói từ tháng Bảy rằng nhà chức trách Trung Quốc đã khuyến khích ngư dân ra đánh bắt xa bờ ở Trường Sa.
Tuy nhiên, mục tiêu trước nhất vẫn là nhằm kiểm soát Biển Đông và kiềm chế các đối thủ, như Việt Nam, quốc gia đang nắm giữ nhiều đảo và bãi cạn ở Trường Sa.
Zhang Baohui, chuyên gia về quốc phòng Trung Quốc tại Đại học Lingnan, Hong Kong, nói các kế hoạch cải tạo phát triển của Trung Quốc đều nhắm tới khía cạnh an ninh.
Trung Quốc đã thấm thía sự thiếu vắng các cơ sở xa bờ của mình vào hồi năm ngoái, khi trợ giúp Malaysia tìm kiếm máy bay MH370 mất tích ở Ấn Độ Dương.
Các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc, theo Reuters, biết rằng nước này cần gấp rút xây dựng các cơ sở ở biển khơi nếu muốn trở thành cường quốc đại dương, tức có khả năng hoạt động xa bờ, trước năm 2050.
Trung Quốc đã lập ADIZ ở Biển Hoa Đông năm 2013 nhưng cho tới nay chưa thấy loan báo gì về kế hoạch nào khác.
Roilo Golez, cựu cố vấn an ninh quốc gia của Philippines, nói vào đầu năm 2016 các công trình cải tạo ở Biển Đông của Trung Quốc có lẽ sẽ gần hoàn tất và Bắc Kinh sẽ công bố việc thiết lập ADIZ tại đây trong vòng ba năm tới.
Reuters dẫn lời ông nói: "Họ đang làm dần từng bước. Họ đang thực sự nỗ lực."
Theo các bức hình mà Philippines mới công bố, Trung Quốc đã xây dựng và cải tạo khá nhiều trên sáu đảo nhỏ và bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa, đồng thời bắt đầu công việc trên đảo thứ bảy.
Một điểm gây quan ngại nhất là việc phát triển các hải cảng và điểm tiếp dầu, cộng thêm các đường băng khiến Bắc Kinh có thể uy hiếp toàn bộ Biển Đông.
Reuters dẫn lời một quan chức ngoại giao phương Tây nói: "Các công trình này lớn và tham vọng hơn chúng ta từng nghĩ. Về nhiều khía cạnh, khi kế hoạch này tiếp tục được phát triển thì sẽ đặc biệt khó khăn [cho các nước] trong việc đương đầu với Trung Quốc ở Biển Đông".
Các nước Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền với các đảo ở Biển Đông. Trừ Brunei, các nước kia đều cho củng cố cơ sở của mình trên các đảo mà họ kiểm soát.
Quan ngại từ 2014
Bắt đầu từ giữa năm 2014, Philippines bày tỏ quan ngại về các công trình của Trung Quốc, nhất là việc xây dựng đường băng trên bãi Gạc Ma.Tuần rồi tạp chí Janes's Defence của Anh có đăng tải phân tích dựa trên hình ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đang xây dựng trên Hughes Reef, cũng thuộc Trường Sa, mà Việt Nam gọi là Đá Tư Nghĩa.
Janes's Defence nói đây là một công trình lớn, được xây dựng trên diện tích 75.000 mét vuông mà Trung Quốc dùng cát kiến tạo từ tháng Tám năm ngoái.
Bên cạnh đó, tạp chí này đăng hình ảnh Bãi Chữ thập mà Trung Quốc đã bồi đắp thành đảo có độ dài hơn 3km để xây đường băng.
Tất nhiên, ngoài việc sử dụng các cơ sở hạ tầng nói trên cho mục đích chiến lược và an ninh, Trung Quốc có thể dùng để tiếp vậ́n cho tàu cá hay tàu tuần tra biển của mình.
Reuters nói từ tháng Bảy rằng nhà chức trách Trung Quốc đã khuyến khích ngư dân ra đánh bắt xa bờ ở Trường Sa.
Tuy nhiên, mục tiêu trước nhất vẫn là nhằm kiểm soát Biển Đông và kiềm chế các đối thủ, như Việt Nam, quốc gia đang nắm giữ nhiều đảo và bãi cạn ở Trường Sa.
Zhang Baohui, chuyên gia về quốc phòng Trung Quốc tại Đại học Lingnan, Hong Kong, nói các kế hoạch cải tạo phát triển của Trung Quốc đều nhắm tới khía cạnh an ninh.
Trung Quốc đã thấm thía sự thiếu vắng các cơ sở xa bờ của mình vào hồi năm ngoái, khi trợ giúp Malaysia tìm kiếm máy bay MH370 mất tích ở Ấn Độ Dương.
Các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc, theo Reuters, biết rằng nước này cần gấp rút xây dựng các cơ sở ở biển khơi nếu muốn trở thành cường quốc đại dương, tức có khả năng hoạt động xa bờ, trước năm 2050.
Vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông?
Cũng có suy luận rằng tất cả các động thái nói trên sẽ dẫn tới việc thiết lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông.Trung Quốc đã lập ADIZ ở Biển Hoa Đông năm 2013 nhưng cho tới nay chưa thấy loan báo gì về kế hoạch nào khác.
Roilo Golez, cựu cố vấn an ninh quốc gia của Philippines, nói vào đầu năm 2016 các công trình cải tạo ở Biển Đông của Trung Quốc có lẽ sẽ gần hoàn tất và Bắc Kinh sẽ công bố việc thiết lập ADIZ tại đây trong vòng ba năm tới.
Reuters dẫn lời ông nói: "Họ đang làm dần từng bước. Họ đang thực sự nỗ lực."
Tin tức / Việt Nam
Mỹ kêu gọi các nước Đông Nam Á phối hợp tuần tra Biển Đông
Đại
sứ Nga Konstantin Vnukov tuyên bố Việt Nam và Nga là hai nước có chủ
quyền độc lập không cần phải đi theo sự chỉ đạo của bất kỳ quốc gia thứ
ba nào khác
19.03.2015
Hãng tin Bloomberg dẫn lời Phó Đô đốc Robert Thomas, phát biểu tại cuộc Triển lãm Hàng Hải và Hàng Không Không gian Quốc tế ở Langkawi, Malaysia, hôm 17 tháng Ba rằng các nước Đông Nam Á có thể hợp tác về vấn đề an ninh biển, trong khi cùng lúc, tôn trọng chủ quyền và vùng duyên hải của nhau, tương tự như trong các nỗ lực chống hải tặc trong vùng Vịnh Aden.
Hoa Kỳ cũng nhân dịp này trấn an các nước đồng minh trong khu vực rằng Mỹ sẽ hậu thuẫn họ chống lại những hành động của Trung Quốc, là nước đòi chủ quyền đối với 4/5 diện tích Biển Đông.
Lời trấn an này được đưa ra trong bối cảnh Trung Quốc đẩy mạnh công tác bồi đắp các bãi cạn, nơi mà Việt Nam, Đài Loan, Brunei, Philippines và Malaysia cũng tuyên bố chủ quyền.
Phó Đô đốc Robert Thomas nói rằng “nói thì dễ, làm thì khó” về phương diện chính sách cũng như phương diện tổ chức, nhưng ông hứa rằng Hạm Đội 7 sẽ sẵn sàng hỗ trợ “nếu các nước ASEAN dẫn đầu công tác tổ chức theo hướng đó.”
Tin trên trang mạng Marinelink nói rằng Trung Quốc ngày càng tăng áp lực đối với một số nước ASEAN, và chỉ trong vài tháng, Bắc Kinh đã biến đổi một số rạn san hô nhỏ và bãi đá ở Biển Đông thành 6 căn cứ quân sự nhỏ, đe dọa các nước nhỏ hơn như Philippines và Việt Nam, và củng cố vị thế quân sự tại một vùng biển là nơi qua lại của hơn 1/3 tàu chở hàng thương mại của thế giới.
Washington hồi gần đây đã bày tỏ quan ngại về tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh trong vụ tranh chấp Biển Đông.
Hãng thông tấn của nhà nước Trung Quốc tố cáo Mỹ có "cảm giác bất an theo kiểu của những tên cướp biển", sau khi phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ Jen Psaki nói các công trình của Trung Quốc bồi đắp và xây đảo nhân tạo trong vùng biển đang trong vòng tranh chấp ở Biển Đông đã "làm tăng sự lo âu trong khu vực về ý đồ của Trung Quốc."
Bà Psaki cho biết Hoa Kỳ sẽ tiếp tục nêu lên mối quan tâm với Trung Quốc và kêu gọi tất cả các bên hãy tránh có những hoạt động gây bất ổn.
Tân Hoa Xã cho rằng những lời bình luận của bà Psaki rõ ràng "thiên vị và không có lợi cho việc giải quyết các tranh chấp cũng như củng cố hòa bình và ổn định".http://www.voatiengviet.com/content/my-keu-goi-cac-nuoc-dong-nam-a-phoi-hop-tuan-tra-bien-dong/2686732.html
Trung Quốc chỉ trích giới chức Mỹ đề nghị ASEAN cùng tuần tra Biển Đông
Phát
ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hồng Lỗi, ngày 20/3 tuyên bố ‘Chúng
tôi hy vọng Mỹ sẽ tôn trọng nghiêm ngặt cam kết không đứng về bên nào
trong các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ.’
20.03.2015
Trung Quốc chỉ trích một tư lệnh hải quân hàng đầu của Mỹ về đề
nghị các nước ASEAN thành lập một lực lượng hải quân hỗn hợp cùng tuần
tra Biển Đông.
Trong lời kêu gọi hôm 17/3, Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, Phó Đô đốc Robert Thomas, cũng hứa rằng hạm đội của ông sẽ cung cấp hỗ trợ cho công tác tuần tra vùng biển đang có tranh chấp này.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hồng Lỗi, ngày 20/3 tuyên bố ‘Chúng tôi hy vọng Mỹ sẽ tôn trọng nghiêm ngặt cam kết không đứng về bên nào trong các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ.’
Ông Hồng nói thêm rằng phát biểu của Phó Đô đốc Thomas không giúp giải quýêt tranh chấp Biển Đông một cách thỏa đáng và cũng không đóng góp cho hòa bình-thịnh vượng trong khu vực.
Ông Hồng nhắc lại cam kết lâu nay của Bắc Kinh là giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng và tham vấn với các nước trực tiếp liên quan.
Theo người phát ngôn Hồng Lỗi, Trung Quốc và ASEAN đã đề nghị một sáng kíên chung qua đó các bên sẽ bảo vệ hòa bình, ổn định Biển Đông một cách độc lập.
Bắc Kinh một lần nữa thúc giục Hoa Kỳ ngưng đưa ra các tuyến bố vô trách nhiệm mà thay vào đó, hãy có thêm hành động có ích làm gia tăng lòng tin lẫn nhau và hòa bình khu vực.
Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ cho rằng các nước Đông Nam Á có thể hợp tác về vấn đề an ninh biển và cùng lúc tôn trọng chủ quyền của nhau, tương tự như trong các nỗ lực chống hải tặc trong vùng Vịnh Aden.
Washington đã nhiều lần bày tỏ quan ngại về đường lưỡi bò của Bắc Kinh dành chủ quyền gần như trọn vẹn Biển Đông, nơi mà các nước láng giềng bao gồm Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền.
Theo Press Trust of India /Global Times
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-chi-trich-de-nghi-asean-cung-tuan-tra-bien-dong-cua-my/2688438.html
Trong lời kêu gọi hôm 17/3, Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, Phó Đô đốc Robert Thomas, cũng hứa rằng hạm đội của ông sẽ cung cấp hỗ trợ cho công tác tuần tra vùng biển đang có tranh chấp này.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hồng Lỗi, ngày 20/3 tuyên bố ‘Chúng tôi hy vọng Mỹ sẽ tôn trọng nghiêm ngặt cam kết không đứng về bên nào trong các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ.’
Ông Hồng nói thêm rằng phát biểu của Phó Đô đốc Thomas không giúp giải quýêt tranh chấp Biển Đông một cách thỏa đáng và cũng không đóng góp cho hòa bình-thịnh vượng trong khu vực.
Ông Hồng nhắc lại cam kết lâu nay của Bắc Kinh là giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng và tham vấn với các nước trực tiếp liên quan.
Theo người phát ngôn Hồng Lỗi, Trung Quốc và ASEAN đã đề nghị một sáng kíên chung qua đó các bên sẽ bảo vệ hòa bình, ổn định Biển Đông một cách độc lập.
Bắc Kinh một lần nữa thúc giục Hoa Kỳ ngưng đưa ra các tuyến bố vô trách nhiệm mà thay vào đó, hãy có thêm hành động có ích làm gia tăng lòng tin lẫn nhau và hòa bình khu vực.
Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ cho rằng các nước Đông Nam Á có thể hợp tác về vấn đề an ninh biển và cùng lúc tôn trọng chủ quyền của nhau, tương tự như trong các nỗ lực chống hải tặc trong vùng Vịnh Aden.
Washington đã nhiều lần bày tỏ quan ngại về đường lưỡi bò của Bắc Kinh dành chủ quyền gần như trọn vẹn Biển Đông, nơi mà các nước láng giềng bao gồm Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền.
Theo Press Trust of India /Global Times
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-chi-trich-de-nghi-asean-cung-tuan-tra-bien-dong-cua-my/2688438.html
TẠP CHÍ VIỆT NAM
Thượng Viện Mỹ báo động về Biển Đông : Cơ hội cho Việt Nam
Vào lúc chính quyền Obama đang đau đầu với các hồ sơ nóng bỏng tại vùng Trung Cận Đông - từ Iran, Irak, Syria, cho đến Israel, Palestine và mới đây là Yemen - không kể đến vấn đề Nga và Ukraina, bốn Nghị sĩ hàng đầu tại Thượng viện Hoa Kỳ hôm 19/03/2015 đã công bố một bức thư báo động về mối đe dọa mà các hành động quá đáng của Trung Quốc tại Biển Đông đang đặt ra cho chính nước Mỹ cũng như cho các đồng minh và đối tác của Mỹ trong khu vực.
Các tác giả bức thư đã yêu cầu Washington phải có ngay một chính sách toàn diện để đối phó với hiểm họa đó, đồng thời đề nghị một số biện pháp cụ thể có thể được áp dụng trong đối sách chống lại các hành vi quá đáng của Trung Quốc trên biển đã được các Thượng nghị sĩ nêu bật.
Tầm mức quan trọng của bức thư này được đánh giá là rất lớn, do đó Việt
Nam cần phải tranh thủ động lực mà lời kêu gọi này sẽ tất yếu tạo ra để
vận động quốc tế giúp Việt Nam ngăn chặn mưu đồ bành trướng của Trung
Quốc tại Biển Đông, vừa đe dọa hòa bình và ổn định trong khu vực, vừa
trực diện tấn công vào chủ quyền và lợi ích của Việt Nam.
Một lời cảnh báo của cả Thượng viện Mỹ
Tầm quan trọng của lá thư gởi đích danh hai Bộ trưởng Quốc phòng -
Ashton Carter - và Ngoại giao John Kerry của Mỹ trước hết nằm ở uy tín
và uy thế của bốn người đồng ký tên. Hai Thượng nghị sĩ John McCain và
Bob Corker, thuộc đảng Cộng hòa, hiện là Chủ tịch hai tiểu ban trọng yếu
trong Thượng viện Mỹ là Quân vụ và Đối ngoại. Hai người thuộc đảng Dân
chủ đồng ký tên vào là các ông Jack Reed và Bob Menendez, cũng là thành
viên cao cấp ("ranking member") của hai tiểu ban vừa kể, một vị trí tương đương với chức Phó Chủ tịch tiểu ban.
Căn cứ vào tư cách của bốn tác giả bức thư, có thể nói không sai rằng ý
kiến nêu lên cũng là ý kiến của toàn thể Thượng viện Mỹ, chứ không phải
là quan điểm cá nhân của những người ký tên.
Tầm quan trọng của bức thư còn thể hiện qua việc văn kiện này, dù mang
hình thức cá nhân (của bốn Thượng nghị sĩ gởi đích danh cho hai vị Bộ
trưởng), nhưng đã được công bố rộng rãi tương tự như một lá thư ngỏ, cho
thấy rõ mục tiêu đánh động và vận động công luận để gây áp lực trên
hành pháp Mỹ.
Bản cáo trạng nhắm vào mưu đồ thay đổi hiện trạng Biển Đông
Về mặt nội dung, có thể nói bức thư là một bản cáo trạng đối với các
hành động bồi đắp đảo nhân tạo và xây dựng mà Trung Quốc đang rốt ráo
tiến hành trên các rạn san hô và bãi đá ngầm mà nước này đang chiếm đóng
tại Biển Đông.
Trong bức thư dài ba trang mà RFI Việt ngữ có bản sao, các tác giả chủ yếu lên án các "hoạt
động cải tạo đất mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang tiến hành tại quần
đảo Trường Sa vùng Biển Hoa Nam (tên quốc tế của Biển Đông)", những hoạt động đã từng bị Giám đốc Tình báo Quốc gia Mỹ James Clapper đánh giá là "hung hăng", nhằm "bành trướng sự hiện diện và củng cố các yêu sách chủ quyền của mình".
Đối với bốn Thượng nghị sĩ tác giả của bức thư, các hoạt động của Trung
Quốc là một mối đe dọa không chỉ đối với Mỹ, mà đối với cả các nước
trong khu vực, và cộng đồng quốc tế nói chung. Lá thư ghi nhận :
"Các hoạt động cải tạo đất và xây dựng của Trung Quốc trên vô số hòn
đảo ở quần đảo Trường Sa, và các năng lực tiềm tàng về chỉ huy, điều
hành, giám sát, khống chế quân sự mà các khoảnh đất mới này mang lại, là
một thách thức trực tiếp, không chỉ đối với lợi ích của Mỹ và khu vực,
mà còn đối với toàn bộ cộng đồng quốc tế".
Một cách cụ thể, các tác giả nêu bật tốc độ nhanh chóng của công việc cải tạo đất mà Bắc Kinh đang tiến hành : "Theo
sự hiểu biết của chúng tôi, đa phần công việc này đã được hoàn tất chỉ
nội trong một năm qua, và nếu tốc độ xây dựng hiện nay được duy trì, thì
Trung Quốc có thể hoàn tất công trình cải tạo dự định ngay vào năm
tới".
Quy mô to lớn của các công trình cũng được nhấn mạnh: "Đá Ga Ven
(Gaven Reef) đã có thêm 114.000 m² đất mới từ tháng Ba năm 2014, và Đá
Gạc Ma (Johnson Reef), trước đây là một bãi ngầm, ngày nay đã trở thành
một 'hòn đảo' (nổi trên mặt nước) rộng 100.000 m². Công việc cải tạo và
xây dựng đã làm cho Đá Chữ Thập (Fiery Cross) tăng diện tích hơn 11 lần kể từ tháng Tám năm ngoái (2014)."
Đối với bốn Thượng nghị sĩ Mỹ : "Trong khi các nước khác xây dựng
trên những khoảnh đất hiện hữu, Trung Quốc lại thay đổi kích thước, cấu
trúc và tính năng hình thể của những thực thể địa lý này. Đây là một
thay đổi về chất có vẻ được dùng để thay đổi nguyên trạng Biển Đông".
Các tác giả của bức thư đã bác bỏ lập luận của Ngoại trưởng Trung Quốc
Vương Nghị gần đây theo đó các hoạt động cải tạo đất của Trung Quốc
không đe dọa hay tác động tới nước khác.
Đối với các Thượng nghị sĩ Mỹ, hành động của Trung Quốc ít ra là đã vi
phạm Bản Tuyên bố Ứng xử tại Biển Đông DOC ký kết với ASEAN, nhưng nếu
Bắc Kinh tìm cách quân sự hóa các đảo nhân tạo mà họ đã xây dựng, hay
dùng các đảo này để củng cố yêu sách chủ quyền của mình, thì "hành vi khiêu khích như vậy sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho hòa bình và ổn định của
khu vực".
Cũng rất đáng lo ngại là các hòn đảo nhân tạo, với các cơ sở quân sự và
hậu cần trên đó, có thể khiến cho Trung Quốc bạo dạn hơn trong việc
tuyên bố một vùng nhận dạng phòng không trên một phần hay toàn bộ Biển
Đông.
Bốn đề nghị cụ thể nhằm đối phó với Trung Quốc
Tóm lại, trước việc Trung Quốc "cố tình dùng các phương pháp cưỡng chế phi quân sự (non military) để thay đổi nguyên trạng cả ở Biển Đông lẫn Biển Hoa Đông",
các Thượng nghị sĩ đã yêu cầu chính quyền Mỹ và các đối tác trong khu
vực có một đối sách toàn diện mà Quốc hội Mỹ sẵn sàng ủng hộ. Các tác
giả bức thư còn đề xuất một số biện pháp cụ thể mà chính quyền nên áp
dụng.
Nhận xét về các đề nghị của bốn Thượng nghị sĩ Mỹ, trả lời ban Việt ngữ
RFI qua thư điện tử, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, trường Đại học Maine (Hoa
Kỳ) đã nhấn mạnh đến tính chất khả thi rất cao của các biện pháp được đề
xuất :
« Các biện pháp đề xuất cụ thể có tính chất khả thi rất lớn, và đây
là những điều mà Chính quyền Obama đang thực hiện nhưng không đồng bộ và
nhất quán. Đó là lý do tại sao bốn Thượng nghị sĩ công bố lá thư của
họ để vừa khuyến cáo chính quyền Obama, vừa gây dư luận trong và ngoài
nước để ủng hộ và thúc đẩy những biện pháp đang theo đuổi.
1/ Tung ra một cách đồng đều hơn các thông tin tình báo về những hoạt
động gây mất an ninh của Trung Quốc nhằm gặt hái được những kết quả
tích cực thông qua dư luận trong và ngoài nước. Đây là một đề xuất rất
dễ thi hành và không tốn nhiều công sức.
2/ Xem lại các hình thức hợp tác an ninh với Trung Quốc, nên duy trì
hình thức nào nếu Trung Quốc ngưng xây cất và nên chấm dứt hình thức nào
hay có hình thức nào mới để phạt Trung Quốc nếu Trung Quốc cứ tiếp tục
các hoạt động bồi đắp và xây dựng trên các đảo. Đây là việc rất khả thi
vì nó có tính chất đơn phương, nhưng Mỹ phải chuẩn bị dư luận để có thể
tiến hành tốt.
3/ Tìm cách giúp các đối tác trong khu vực Biển Đông tăng cường khả
năng bảo vệ an ninh cho chính họ và cho khu vực cũng như thế giới. Việc
này cũng rất khả thi vì có tính chất đơn phương. Ví dụ như cứ mỗi lần có
tin Trung Quốc bồi đắp hay xây cất trên các đảo thì Mỹ có thể viện cớ
vì lý do giúp bảo vệ an ninh cho khu vực và cho thế giới để cung cấp các
phương tiện và các vũ khí cần thiết cho Philippines, Việt Nam và
Malaysia nếu các nước này yêu cầu.
Và việc này phải được thi hành một cách nhất quán và lâu dài, chứ
không phải là phản ứng nhất thời. Do việc cung cấp này là để bảo vệ an
ninh cho bao nhiêu người trong khu vực và trên thế giới, Mỹ không nên
gắn liền nó với những điều kiện tiên quyết, như là vấn đề nhân quyền,
vốn có thể dần dần được giải quyết qua các kênh khác nhau. Không thể đem
việc sống còn và quyền lợi to lớn của khu vực và thế giới làm con tin.
4/ Thúc đẩy thêm quan hệ ngoại giao với các nước ASEAN và những nước
khác trên thế giới để ủng hộ thông thương trên biển cả trong khu vực Ấn
Độ Dương và Thái Bình Dương. Đây cũng là đề xuất rất khả thi vì đây là
vấn đề lợi ích chung. »
Việt Nam cần năng động hơn trong việc tố cáo Trung Quốc
Câu hỏi đặt ra là trước diễn biến mới liên quan đến chính sách Biển Đông
của Mỹ này, Việt Nam có thể làm gì để tranh thủ điều kiện thuận lợi hơn
đó. Trên vấn đề này, Giáo sư Long có suy nghĩ rất đơn giản :
« Muốn chống lại chiến lược bồi đắp đảo nhân tạo để chiếm ngự Biển
Đông thì Việt Nam, một nước bị thiệt hại lớn nhất, phải liên tục dùng dư
luận quần chúng trong và ngoài nước gây áp lực đối với Trung Quốc. Việt
Nam có lên tiếng mạnh và liên tục thì mới tạo cơ hội cho các nước khác
có thể lên tiếng cùng với Việt Nam và có thể đóng vai trò tích cực cùng
với Việt Nam.
Việt Nam không nên tiếp tục phản ứng với những câu nhỏ nhẹ như là: «
Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Chủ quyền của Việt Nam trên hai
quần đảo này không ai chối cãi được. » Vấn đề không phải là chủ quyền
không ai chối cãi được mà là có ai muốn bỏ công sức giúp đỡ Việt Nam chỉ
vì chủ quyền và quyền lợi riêng của Việt Nam hay không ».
Trả lời phỏng vấn của RFI Tiếng Việt qua điện thoại, Giáo sư Ngô Vĩnh
Long nhắc lại rằng bức thư của bốn Thượng nghị sĩ Mỹ rất quan trọng đối
với chính sách của Hoa Kỳ tại Biển Đông, và Việt Nam cần phải biết tận
dụng để đối phó với chiến lược bồi đắp đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang
đẩy mạnh nhằm chiếm hữu toàn bộ Biển Đông.
RFI : Tại sao bốn Thượng nghị sĩ Mỹ lại thấy cần phải gây sức ép trên Bộ Quốc phòng và Ngoại giao Mỹ trên vấn đề Biển Đông ?
Ngô Vĩnh Long : Đây đúng là họ vừa gây sức ép, vừa tạo hậu thuẫn
cho Bộ Quốc phòng và Ngoại giao Mỹ. Lý do được lá thư nói thẳng thừng là
trong khi Trung Quốc đã cố tình dùng các biện pháp đe dọa không quân sự
(non military) để thay đổi hiện trạng ở Biển Đông và Biển Hoa Đông thì
các quan chức Mỹ chỉ nói chung chung về một chiến lược rộng lớn hơn
nhưng chưa làm gì cụ thể cả.
Lá thư nhắc nhở, thật ra là khiển trách một cách khéo léo, rằng Thượng
viện của Mỹ đã thấy những hoạt động của Trung Quốc có hại cho vấn đề an
ninh chung trong hai khu vực nói trên, và đó là lý do tại sao đạo luật
Ngân sách Quốc phòng năm 2015 (National Defense Authorization Act of
2015) có điều khoản bắt buộc hai bộ Quốc phòng và Ngoại giao phải thường
xuyên báo cáo về tình trạng an ninh trên biển, đặc biệt là trên khu vực
Biển Đông và Biển Hoa Đông..., nhưng chính quyền Mỹ dù biết chuyện,
nhưng lại lơ là.
Cho nên Thượng viện Mỹ - chứ không đơn thuần là bốn Thượng nghị sĩ, vì
bốn người này đứng đầu hai ủy ban quan trọng nhất của Thượng viện là
Quân sự, Quốc phòng và Ngoại giao – đã nhắc nhở và khiển trách để hai bộ
này lưu ý.
RFI : Phải chăng chính trường và chính sách Biển Đông của Mỹ đã
để lộ một vài yếu tố đáng ngại khiến cho các Thượng nghị sĩ phải lên
tiếng ? Và đặc biệt trong đó có một người rất quan tâm đến Việt Nam là
ông John McCain ?
Ngô Vĩnh Long : Đúng thế. Trong những tháng qua ở Mỹ có rất nhiều
tranh cãi trong nội bộ trên vấn đề có nên tiếp tục duy trì hoặc là tăng
cường sự hiện diện của Hoa Kỳ ở vùng Trung Đông hay không. Có rất nhiều
áp lực trong nội bộ Mỹ, cũng như là từ các chính khách ở vùng Trung
Đông, theo đó Mỹ không những nên duy trì mà còn phải tăng cường sự hiện
diện ở Trung Đông. Tình hình ở Afghanistan, Yemen… đã giúp cho những
người muốn thúc đẩy việc này có tiếng nói lớn hơn.
Vì lý do trên, trong bộ Quốc Phòng, bên Bộ binh (Army) muốn duy trì và
tăng cường sự hiện diện ở Trung Đông, bởi vì nếu tăng cường sự hiện diện
của Mỹ ở vùng Biển Hoa Đông và Biển Đông thì họ không có vai trò. Và họ
cũng được một số người bên Không quân (Air Force) ủng hộ, bởi vì nếu có
chiến tranh hay là cần thả bom ở vùng Trung Đông hay ở các nước chung
quanh, thì Không quân mới có vai trò,
Ngoài ra, ở Biển Đông, Trung Quốc lại dùng các biện pháp « không quân sự » -
như thư của các Thượng nghị sĩ có nêu lên. Thì bên Bộ Quốc phòng và
phía quân sự nói rằng nếu đó chỉ là những biện pháp không quân sự thì
không cần phải can thiệp.
Các Thượng nghị sĩ đã bác bỏ ý kiến trên, cho rằng đây là một vấn đề lâu
dài, nguy hiểm không những cho an ninh của Mỹ mà cả cho Thế giới. Nếu
để cho chiến tranh xẩy ra, tình hình sẽ rất khó khăn. Vì vậy họ muốn là
Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và kể cả chính quyền Obama là phải có một
chính sách (ngăn chặn) tương đối rõ ràng, nếu không Trung Quốc sẽ tiếp
tục gây hấn.
RFI : Bức thư của các Thượng nghị sĩ có tầm mức rất quan trọng ?
Ngô Vĩnh Long : Vâng. Trước hết là họ cảnh báo các cơ quan chính
quyền Mỹ. Điểm thứ hai là họ muốn dư luận của Mỹ và trên thế giới hiểu
được tầm quan trọng của các vấn đề ở Biển Đông và Biển Hoa Đông hay là
của vấn đề an ninh trên biển.
Cho nên, một trong những đề nghị cụ thể của họ là bắt các cơ quan Mỹ, các bộ của Mỹ là phải « tung ra một cách đều đặn hơn các thông tin tình báo về các hoạt động gây bất an ninh của Trung Quốc » để cho có thể thu được sự ủng hộ của dư luận Mỹ và trên thế giới.
RFI : Tính chất khả thi của các biện pháp được các Thượng nghị sĩ
đề xuất ? Dường như có một số biện pháp cũng đang được Chính quyền
Obama tiến hành ?
Ngô Vĩnh Long : Vâng. Đúng là có một số biện pháp chính quyền Obama đang tiến hành…, nhưng một cách vụn vặt.
Thư này muốn giúp cho chính quyền Obama có một chính sách nhất quán, cụ
thể hơn…, không những đối với vấn đề Biển Đông và Biển Hoa Đông, mà còn
đối với cả chính sách xoay trục qua Châu Á như thế nào, trong đó có
nhiều vấn đề khác.
RFI : Việt Nam có thể tranh thủ điều gì để chống lại chiến lược bồi đắp đảo nhân tạo của Trung Quốc ?
Ngô Vĩnh Long : Một việc có thể làm rất dễ là tạo dư luận, cho dư
luận thế giới, dư luận trong khu vực biết vấn đề nguy hiểm, mất an ninh
mà Trung Quốc đã gây ra cho khu vực là như thế nào. Lá thư của các
Thượng nghị sĩ cũng góp phần vào việc tìm kiếm sự ủng hộ của dư luận.
Nên càng có nhiều thông tin, càng nói nhiều về vấn đề này, giải thích
cho thế giới, giải thích cho người dân trong nước và khu vực là những
hành động của Trung Quốc gây nguy hiểm cho mọi người như thế nào. Đây
cũng là dịp để Việt Nam - nước bị thiệt hại nhiều nhất – nói lên cho mọi
người biết những khó khăn của mình, để người ta có thể giúp Việt Nam.
Tôi nghĩ là Việt Nam từ trước đến nay hơi quá e dè trong vấn đề nói
thẳng, nói thực cho dân chúng Việt Nam cũng như trên thế giới về những
gì Trung Quốc đã làm ở trong khu vực mà có hại cho Việt Nam. Theo tôi,
Việt Nam phải nói thêm trên vấn đề này, chứ không thể, cứ mỗi lần xẩy ra
chuyện thì lại nói « Chủ quyền trên đảo Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam », cứ tiếp tục nói đi nói lại như vậy thì không thu hút được ai… »
Biển Đông : Cựu cố vấn Mỹ Kissinger « tiếp tay » cho Trung Quốc
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (P) với cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, Bắc Kinh, 17/03/2015.REUTERS/Feng Li/Pool
Cựu Ngoại trưởng kiêm Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ thời Tổng thống Richard
Nixon Henry Kissinger thường bị đánh giá là thân Trung Quốc. Suy nghĩ
này một lần nữa có thể được kiểm chứng qua đề nghị mới nhất hôm
28/03/2015 của ông liên quan đến tranh chấp Biển Đông, bị cho là đã « tiếp tay » cho Bắc Kinh trong mưu đồ thâu tóm toàn bộ Biển Đông.
Theo hãng tin Mỹ Bloomberg, trong một cuộc gặp gỡ với giới báo chí ở
Singapore, bên lề tang lễ cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu, ông
Kissinger đã khuyên Trung Quốc và Hoa Kỳ nên theo gương cố lãnh đạo
Trung Quốc Đặng Tiểu Bình để giảm thiểu tình trạng căng thẳng, liên quan
đến các tranh chấp chủ quyền giữa Bắc Kinh với các láng giềng tại vùng
Biển Đông.
Đề nghị của tác nhân tiến trình hòa giải Bắc Kinh-Washington vào đầu thập niên 1970 thoạt nhìn rất có lý. Ông Kissinger cho rằng ông Đặng Tiểu Bình « đã giải quyết một vài vấn đề thời đó dựa trên phương châm không nhất thiết mọi điều đều phải xử lý ở thế hệ hiện tại. Có lẽ nên đợi thế hệ sau, nhưng đừng làm cho vấn đề xấu đi thêm ».
Theo các nhà quan sát, vào lúc tình hình Biển Đông căng thẳng hẳn lên với việc Bắc Kinh ngày càng có thêm những động thái quyết đoán nhằm áp đặt chủ quyền của Trung Quốc trên 80% Biển Đông, buộc Washington phải can thiệp, xoay trục qua châu Á, và cam kết bảo vệ các đồng minh của mình trong khu vực, lời khuyên của ông Kissinger gắn liền với một quan điểm của ông Đặng Tiểu Bình về tranh chấp biển đảo thường xuyên được nhắc đến : Tạm gác tranh chấp để cùng nhau khai thác.
Đây chính là diễn giải của Giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Úc, trả lời hãng Bloomberg, khi ông cho rằng « Nếu đề nghị của Kissinger được lắng nghe, lời khuyên khôn ngoan của Đặng Tiểu Bình có thể giúp Trung Quốc giữ được thể diện. Một khi các bên tranh chấp tạm gác vấn đề chủ quyền để đồng khai thác, điều đó có thể gỡ bỏ một nhân tố gây căng thẳng trong quan hệ Mỹ Trung ».
Tuy nhiên, việc ông Kissinger khuyên Mỹ và Trung Quốc giảm bớt đối đầu đã bị một số chuyên gia cho là nhằm tiếp tay cho Bắc Kinh khống chế toàn bộ Biển Đông.
Theo nhà phân tích Ấn Độ Subahash Kapila trên báo mạng Eurasia Review ngày hôm qua, thì tình hình căng thẳng hiện nay trên Biển Đông lại bắt nguồn từ chính các hành động leo thang của Trung Quốc nhằm xâm chiếm toàn bộ Biển Đông. Và « chính những động thái gây mất ổn định của Trung Quốc tại vùng chiến lược quan trọng là Biển Đông đã thúc đẩy chính sách xoay trục của Mỹ qua Châu Á Thái Bình Dương ».
Đề nghị của tác nhân tiến trình hòa giải Bắc Kinh-Washington vào đầu thập niên 1970 thoạt nhìn rất có lý. Ông Kissinger cho rằng ông Đặng Tiểu Bình « đã giải quyết một vài vấn đề thời đó dựa trên phương châm không nhất thiết mọi điều đều phải xử lý ở thế hệ hiện tại. Có lẽ nên đợi thế hệ sau, nhưng đừng làm cho vấn đề xấu đi thêm ».
Theo các nhà quan sát, vào lúc tình hình Biển Đông căng thẳng hẳn lên với việc Bắc Kinh ngày càng có thêm những động thái quyết đoán nhằm áp đặt chủ quyền của Trung Quốc trên 80% Biển Đông, buộc Washington phải can thiệp, xoay trục qua châu Á, và cam kết bảo vệ các đồng minh của mình trong khu vực, lời khuyên của ông Kissinger gắn liền với một quan điểm của ông Đặng Tiểu Bình về tranh chấp biển đảo thường xuyên được nhắc đến : Tạm gác tranh chấp để cùng nhau khai thác.
Đây chính là diễn giải của Giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Úc, trả lời hãng Bloomberg, khi ông cho rằng « Nếu đề nghị của Kissinger được lắng nghe, lời khuyên khôn ngoan của Đặng Tiểu Bình có thể giúp Trung Quốc giữ được thể diện. Một khi các bên tranh chấp tạm gác vấn đề chủ quyền để đồng khai thác, điều đó có thể gỡ bỏ một nhân tố gây căng thẳng trong quan hệ Mỹ Trung ».
Tuy nhiên, việc ông Kissinger khuyên Mỹ và Trung Quốc giảm bớt đối đầu đã bị một số chuyên gia cho là nhằm tiếp tay cho Bắc Kinh khống chế toàn bộ Biển Đông.
Theo nhà phân tích Ấn Độ Subahash Kapila trên báo mạng Eurasia Review ngày hôm qua, thì tình hình căng thẳng hiện nay trên Biển Đông lại bắt nguồn từ chính các hành động leo thang của Trung Quốc nhằm xâm chiếm toàn bộ Biển Đông. Và « chính những động thái gây mất ổn định của Trung Quốc tại vùng chiến lược quan trọng là Biển Đông đã thúc đẩy chính sách xoay trục của Mỹ qua Châu Á Thái Bình Dương ».
Còn chuyên gia Trang Gia Dĩnh, giảng sư tại Đại học Quốc gia Singapore, trả lời hãng Bloomberg, cũng tự hỏi : « Liệu Trung Quốc có sẵn sàng tự kiềm chế trong hành động bồi đắp đảo nhân tạo ở Biển Đông hay không ? ».
Câu hỏi này cũng được đặt ra cho các nước khác, và trong bối cảnh đó
Hoa Kỳ có thể làm gì để giảm nhiệt. Tóm lại, theo chuyên gia này, vấn đề
giảm bớt căng thẳng ở Biển Đông không phải là đơn giản.
Một nhân tố khác cũng khiến giới quan sát quan ngại. Đó là chủ trương
của ông Đặng Tiểu Bình từng được phía Trung Quốc nêu bật là tạm gác
tranh chấp chủ quyền, cùng nhau khai thác, một chủ trương đang được
Trung Quốc thúc đẩy.
Vấn đề đặt ra là câu nói của Đặng Tiểu Bình còn có một vế tiên quyết mà
guồng máy tuyên truyền của Bắc Kinh ít đề cập đến : đó là « Chủ quyền về ta »
(Chủ quyền thuộc ngã). Trong bối cảnh đó, rõ ràng là Bắc Kinh sẽ không
từ bỏ tham vọng trên Biển Đông, sau khi đã công bố tấm bản đồ hình lưỡi
bò đòi chủ quyền trên gần như toàn bộ vùng biển này.
Lời cố vấn của ông Kissinger nhắm vào cả hai nước Mỹ và Trung Quốc, nhưng rõ ràng là sẽ có tác dụng trói tay Mỹ.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150331-bien-dong-cuu-co-van-my-kissinger-%C2%AB-tiep-tay-%C2%BB-cho-trung-quoc/Kissinger: Mỹ nên noi gương kiên nhẫn của TQ về vấn đề Biển Đông
30.03.2015
Hãng tin Bloomberg số ra ngày hôm nay trích lời cựu Ngoại Trưởng Mỹ
Henry Kissinger nói rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc nên tháo ngòi nổ và giảm
thiểu tính cách cấp bách của cuộc tranh luận về vấn đề Biển Đông, để mở
đối thoại về vấn đề này.
Theo ông Kissinger, Hoa Kỳ nên noi theo gương kiên nhẫn của Trung
Quốc, thể hiện rõ nhất qua hành động của cố lãnh tụ Trung Quốc Đặng Tiểu
Bình, trong cố gắng xoa dịu các cuộc tranh chấp chủ quyền chồng chéo
trên Biển Đông.
Lên tiếng tại Singapore nơi ông đến dự tang lễ của cố Thủ Tướng Lý
Quang Diệu, Henry Kissinger giải thích rằng ông Đặng Tiểu Bình trước đây
đã giải quyết một số vấn đề mà ông phải đối mặt bằng cách chấp nhận
rằng không phải vấn đề nào cũng phải được giải quyết trong thế hệ hiện
tại, mà có lẽ “nên chờ thêm một thê hệ nữa, thay vì làm cho tình hình
càng xấu hơn”.
Hoa Kỳ mới đây đã trấn an các nước đồng minh rằng Mỹ sẽ hậu thuẫn họ
chống lại những tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh, đòi chủ quyền hơn 4/5
diện tích Biển Đông. Phản ứng lại, Trung Quốc tăng sức ép đối với một số
quốc gia thuộc Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á-ASEAN, đẩy mạnh các dự
án bồi đắp xây đảo trên các bãi cạn trong vùng biển mà các nước khác
trong vùng, kể cả Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền.
Ảnh
vệ tinh cho thấy Trung Quốc đang xây nhiều bãi đá cách xa bờ biển nước
này hàng trăm kilomet. Trên một bãi đá, Trung Quốc đã mang đến nhiều đất
đến nỗi tạo được một đảo mới.
Các cuộc đối thoại giữa Mỹ và Trung Quốc có thể khởi sự vào tháng 9
năm nay, khi Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama và Chủ tịch nước Trung Quốc
Tập Cận Bình sẽ hội kiến theo kế hoạch đã định trước. Hai nền kinh tế
lớn nhất thế giới đang tìm cách đẩy mạnh hợp tác và xoa dịu những căng
thẳng, kể cả những căng thẳng liên quan tới các cuộc tranh chấp giữa
Trung Quốc và các nước láng giềng của Trung Quốc trong khu vực.
Hồi tuần trước, ông Kissinger đã gặp ông Tập Cận Bình tại Bắc Kinh.
Hãng tin Bloomberg tường thuật rằng dịp này ông Tập nói với ông
Kissinger rằng: “Trung Quốc coi các quan hệ với Hoa Kỳ là vô cùng quan
trọng, và muốn thấy hai bên tăng cường hợp tác để có thể giải quyết tốt
hơn những bất đồng”.
Ông Kissinger đến Singapore dự đám tang của Thủ Tướng đầu tiên của
Singapore Lý Quang Diệu. Nhà cựu ngoại giao Mỹ đã cùng hàng trăm ngàn
người Singapore đến nghiêng mình trước linh cữu cựu Thủ Tướng Lý Quang
Diệu tại Quốc hội Singapore.
Ông Kissinger nói “thế giới đã trở thành tốt đẹp hơn nhờ ông Lý Quang
Diệu. Ông Lý đã dạy cho chúng ta về cách người Á Châu suy nghĩ về những
vấn đề và giải thích cho chúng ta ý nghĩa thực tế của thế nào là phát
triển”.
Ông Kissinger, năm nay 91 tuổi, là Ngoại Trưởng Hoa Kỳ dưới thời Tổng
Thống Nixon. Ông được cho là kiến trúc sư trong chuyến đi lịch sử của
Tổng Thống Nixon sang thăm Trung Quốc năm 1972, đã đưa hai nước xích lại
gần nhau, và mở rộng quan hệ bang giao với nhau, qua đó làm thay đổi
cán cân lực lượng trên thế giới, và cuối cùng thay đổi cả cục diện chiến
tranh Việt Nam.
Bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc ở Biển Đông.
Trong khi đó, một bản tin của trang mạng quốc phòng Defensenews.com
hôm 28/3 nói vấn đề Biển Đông có tầm quan trọng sống còn đối với Việt
Nam, bởi vì an ninh quốc gia và phát triển kinh tế của Việt Nam gắn liền
với cuộc tranh chấp về chủ quyền Biển Đông với Trung Quốc.
Trang mạng tin tức quốc phòng trích lời ông Hoàng Anh Tuấn, Giám đốc
Viện Nghiên cứu các vấn đề Đối ngoại và Chiến lược của Việt Nam, phát
biểu tại một buổi hội thảo ở Paris mang chủ đề “Những thách thức an ninh
của Việt Nam trong năm 2015” nhận định rằng nếu xảy ra xung đột ở Biển
Đông thì điều này sẽ gây phương hại cho lưu thông hàng hải đối với Pháp
và EU.
Hội thảo này do Viện Nghiên cứu Chiến lược của Học viện Quốc phòng
Pháp tổ chức, có sự tham dự của Đại sứ Pháp Christian Lechervy, nguyên
cố vấn về các vấn đề Châu Á của Pháp. Ông Lechervy được dẫn lời nói rằng
Pháp có quyền lợi gắn chặt với khu vực này. Ông nói:
"Sự qua lại của các lực lượng Pháp ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cực
kỳ quan trọng cho chiến lược răn đe hạt nhân của nước Pháp. Những căng
thẳng phát sinh từ tranh chấp hàng hải và lãnh thổ là mối quan ngại sâu
sắc của Paris và các đồng minh trong khu vực.”
Đại sứ Lechervy nói đó là lý do Pháp đang làm việc với các nước đồng minh, nhất là Mỹ và Australia.
Trong khi đó, Phó Chủ tịch phụ trách quan hệ quốc tế của Viện Quốc
gia về Ngôn ngữ và Văn minh phương Đông (INLOC) Marie-Sybille de Vienne,
cho rằng Trung Quốc hiện không phải đối mặt với thách thức quân sự đáng
kể nào trong khu vực. Bà Vienne nói Đài Loan không được công nhận là
một nước, Việt Nam thì ngân sách quốc phòng thấp hơn nhiều so với nhu
cầu cần có, chi tiêu quân sự của các thành viên ASEAN không đáng kể so
với Trung Quốc. Và Singapore tuy có công nghệ cao, nhưng cũng không phải
là một thách thức đối với Trung Quốc.
Bà Vienne nói Việt Nam còn lệ thuộc quá nặng nề vào thương mại với
Trung Quốc, hàng hoá Trung Quốc chiếm tới 28% trong tổng số hàng nhập
khẩu, và dự kiến sẽ chiếm hơn 50% vào năm 2020.
Trước cuộc hội thảo tại Paris, ông Hoàng Anh Tuấn đã có mặt tại Diễn
đàn Bruxelles, lần đầu tiên trong 10 năm hội nghị này đã mời Việt Nam
tham dự, phản ánh mối quan tâm sâu xa của các nước Châu Âu về vấn đề
Biển Đông.
Nguồn: Bloomberg, Defensenews.
Dù rắc rối nghi thức, Mỹ chấp nhận tiếp Nguyễn Phú Trọng
Báo chí Việt Nam ngày 13/02 vừa qua loan tin là, khi gởi lời chúc năm Ất Mùi đến chính phủ và nhân dân Việt Nam, Ngoại trưởng John Kerry đã nhắc lại việc chính quyền Mỹ mời tổng bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng sang thăm Hoa Kỳ.
Nhưng cho tới nay, chưa có thông tin chính thức gì là cụ thể ông Nguyễn
Phú Trọng được ai hoặc cấp nào mời thăm nước Mỹ. Người ta chỉ được biết
chính là phía Hà Nội đã gợi ý với Washinton mời tổng bí thư Đảng sang
thăm Hoa Kỳ, chứ không phải phía Mỹ chủ động mời. Thời điểm chuyến viếng
thăm cũng chưa được xác định, nhưng có thể là vào khoảng tháng 7 năm
nay.
Phát biểu tại Đại học Quốc gia Hà Nội ngày 06/03, đại sứ Mỹ tại Việt Nam
Ted Osius đã xác nhận thông tin về chuyến đi thăm Hoa Kỳ của ông Nguyễn
Phú Trọng trong năm nay, nhưng ông chỉ nói chung chung là " theo lời
mời của phía Hoa Kỳ " ( theo bản dịch của đại sứ quán Mỹ, nguyên văn
tiếng Anh là "at our invitation" ) và cũng không nói rõ là chuyến viếng
thăm này sẽ diễn ra lúc nào.
Dầu sao đây sẽ là lần đầu tiên một lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam viếng
thăm kẻ thù củ, đúng 40 năm sau khi chiến tranh kết thúc. Chuyến đi này
cũng diễn ra đúng vào dịp Hoa Kỳ và Việt Nam kỷ niệm 20 năm tái lập
quan hệ ngoại giao.
Đối với giáo sư Jonathan London, nhà xã hội học và cũng là một chuyên
gia về Việt Nam, thuộc đại học City University of Hong Kong, chuyến đi
của ông Nguyễn Phú Trọng phản ánh tính chất phức tạp trong quan hệ
Mỹ-Việt, cũng như tính chất phức tạp trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam.
Chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng đến Hoa Kỳ sẽ có ý nghĩa như thế nào
là tùy thuộc vào thông điệp mà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam mang
theo. Đó là nhận định của luật sư Vũ Đức Khanh, Canada, và cũng là tác
giả nhiều bài viết về Việt Nam trên báo chí quốc tế.
Theo lời giáo sư Jonathan London, phía Mỹ ban đầu cảm thấy không được
thoải mái lắm với việc đón tiếp ông Nguyễn Phú Trọng, nhưng cuối cùng họ
cũng chấp nhận mời tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, vì thấy rằng hai
nước cần phải thúc đẩy hơn nữa quan hệ song phương:
Nhưng chuyến đi này lại đặt ra nhiều vấn đề về mặt nghi thức tiếp đón,
bởi vì mặc dầu là nhân vật số một của chế độ Hà Nội, trên danh nghĩa,
ông Trọng chỉ là lãnh đạo một đảng cầm quyền, giống như Đảng Dân chủ.
Ông Nguyễn Phú Trọng cũng không có đối tác trực tiếp nào khác ở Hoa Kỳ
ngoài chủ tịch Đảng Dân chủ. Theo lời giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về
Việt Nam thuộc Học viện Quốc phòng Úc, phía tổng thống Barack Obama đã
từ chối tiếp tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam như một thượng khách tại
Phòng Bầu dục ở Nhà Trắng.
Như vậy thì cụ thể ông Nguyễn Phú Trọng có thể được tổng thống Obama
tiếp đón ở đâu và như thế nào, luật sư Vũ Đức Khanh nêu lên những nơi mà
tổng thống Obama có thể tiếp lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó
có Camp David, nơi mà các tổng thống Hoa Kỳ vẫn thường đón tiếp các lãnh
đạo nước ngoài..
Theo giáo sư Jonathan London, nếu muốn được Hoa Kỳ tiếp đón như thượng
khách, thì Hà Nội phải chứng tỏ những tiến bộ thật sự về mặt nhân quyền
và dân chủ :
Có một lý do có thể giải thích vì sao tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cố
sang thăm Hoa Kỳ cho bằng được, đó là ông muốn nâng cao tính chính đáng
cho Đảng Cộng sản Việt Nam, trong bối cảnh Đại hội Đảng lần thứ 12 sẽ
được triệu tập vào đầu năm tới. Hà Nội cũng đã chính thức mời tổng thống
Obama sang thăm Việt Nam nhân dịp đi dự thượng APEC ở Manila và dự
thượng đỉnh ASEAN ở Kuala Lumpur.
Trước khi viếng thăm Hoa Kỳ, ông Nguyễn Phú Trọng sẽ đi Trung Quốc theo
lời mời của tổng bí thư kiêm chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, có thể là
trong tháng này. Hà Nội cũng đã mời ông Tập Cận Bình sang thăm Việt
Nam. Nếu cả hai lãnh đạo Hoa Kỳ và Trung Quốc đều thăm Việt Nam trong
năm nay, thì đây sẽ là một sự kiện ngoạn mục.
Theo nhận định của giáo sư Carl Thayer, chuyến viếng thăm Trung Quốc của
Tổng bí thư Trọng hứa hẹn rằng mối quan hệ song phương sẽ tiếp tục đi
lên. Trung Quốc có lẽ sẽ gây áp lực để Việt Nam không tiến hành các hành
động pháp lý với tranh chấp trên biển Đông, và không tiến quá gần Hoa
Kỳ. Áp lực của Trung Quốc lên Hàn Quốc để không lắp đặt hệ thống phòng
thủ tên lửa đạn đạo chứng tỏ Trung Quốc có thể chỉ thị cho Việt Nam để
ngăn chặn việc tiếp nhận vũ khí từ Hoa Kỳ. Việt Nam muốn Trung Quốc đảm
bảo rằng sẽ không có những vụ tương tự như giàn khoan HD 981 trong tương
lai.
Cũng theo giáo sư Car Thayer, bởi vì Tổng bí thư Trọng sắp đi Hoa Kỳ sau
chuyến thăm Trung Quốc, ông sẽ có lợi thế khi đối thoại với Tập Cận
Bình. Nếu Trung Quốc ép quá đáng hoặc không chấp thuận đề nghị của Việt
Nam, Việt Nam có thể lựa chọn thúc đẩy mối quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa
Kỳ. Ngược lại, nếu Tập Cận Bình thỏa hiệp, ông Trọng có thể sử dụng nó
để làm lợi thế khi đối thoại với Hoa Kỳ.
Nhưng đối với luật sư Vũ Đức Khanh, Việt Nam không thể cứ mãi đi theo
chính sách ngoại giao « đu dây » giữa hai cường quốc Mỹ Trung, mà đến
lúc phải dứt khoát « chọn bạn mà chơi ».
Bấm vào link dưới đây để nghe toàn bộ tạp chí với phần phỏng vấn luật sư Vũ Đức Khanh và giáo sư Jonathan London:
No comments:
Post a Comment