PHAN TUẦN SAN * ĐƯỜNG VÀO ĐIA NGỤC
OP-34A - Đường Vào Địa Ngục
Sau sô thực tập đêm tại Sông Mao vào Giáng
Sinh năm 1963, toán chúng tôi được nghỉ hai tuần phép. Ai về nhà nấy.
Tôi, Đa,Tuấn về Sài Gòn, các anh em khác kẻ về Tùng Nghĩa, người về Sông
Mao, Long Khánh. Trong thời gian nghỉ, tôi nhận được lệnh liên lạc với
thiếu tá Sam để nhận công tác. Tôi về đến nhà được hai ngày chưa kịp đến
sở, Thiếu Tá Sam đã đến gặp tôi.
Ông trao cho tôi 12 tấm cheques, mỗi tấm
50,000 đồng với lời dặn: “ những tấm cheques này được trao lại cho vợ
con, cha mẹ của những người đi công tác”, và chỉ có hiệu lực khi chúng
tôi đã đặt chân xuống mục tiêu (MT). 50,000 đồng lúc bấy giờ là một món
tiền rất lớn (nếu tôi nhớ không lầm, một lượng vàng lúc đó chỉ độ 3,4
ngàn đồng mà thôi).
Tôi thầm nghĩ, người Mỹ đánh giá mạng sống
của chúng tôi hơi cao đấy, nhưng chúng tôi tình nguyện ra đi để xâm nhập
vào lòng đất địch không phải vì đồng tiền của Mỹ, mà vì chúng tôi theo
đuổi lý tưởng của tuổi trẻ Việt Nam, phụng sự đất nước, bảo vệ chính
nghĩa Quốc Gia. Nhưng thôi, có còn hơn không! Đằng nào chúng tôi cũng đã
chấp nhận ra đi vào cõi chết, thân nhân chúng tôi có được đền đáp đôi
chút, chúng tôi cũng thấy ấm lòng.
Những ngày vui của chúng tôi qua mau. Thấm
thoát đã đến ngày tập trung. Tôi từ giã người vợ trẻ và đứa con thơ mới
được một tuổi để lên đường. Vợ tôi không biết tôi đi đâu và làm gì! Bấy
lâu nay, nàng vẫn tưởng tôi còn phục vụ ở số 3 Bạch Đằng. Tôi thường
vắng nhà đi công tác vài ba tháng, nửa năm là chuyện thường, nàng không
hề để ý, hỏi han. Tội nghiệp thay! Nếu tôi có mệnh hệ nào, nàng sẽ trở
thành góa phụ trong lúc tuổi còn quá trẻ. Con tôi, khi lớn lên, sẽ không
thể hình dung được bố nó là ai.
Nhiều đêm nằm bên vợ con, tôi thầm thở dài,
trằn trọc nhìn giấc ngủ vô tư của vợ con. Tôi thương thân mình, thương
cho vợ, cho con. Đành thôi! Đất nước loạn ly, phải đòi hỏi những cống
hiến của tuổi trẻ chúng tôi. Nếu chúng tôi không chịu thiệt thòi, mất
mát,ai sẽ là người sẽ thay thế chúng tôi? Nếu chúng tôi cũng hòa nhập
vào giòng đời bàng quan trước thế sự, mảnh đất tự do miền Nam này đến
bao giờ mới thực sự thanh bình, thoát khỏi móng vuốt đe dọa của lũ quỷ
đỏ vô thần cộng sản Bắc Việt xâm lược? Thế là tôi gạt nước mắt, âm thầm
vĩnh biệt vợ con ra đi.
Chúng tôi vào phòng “hành quân” ở trại
Quyết Thắng, Long Thành. Tất cả đều có mặt đầy đủ. Một vài anh có đôi
chút ưu tư, nhất là những anh lớn tuổi, vợ con đùm đề. Còn các anh trẻ
độc thân thì vẫn vui như tết, không cần biết đến ngày mai sẽ làm gì, đi
đâu. Đại úy Sang, trưởng trại đến gặp chúng tôi, thông báo có chút thay
đổi. Địch có vẻ đã cài được người vào ta, nên kế hoạch bị lộ từ nửa năm
nay. Từ tháng 10 đến tháng 12, Sở bị mất 3 toán không có tin tức gì.
Hình như tất cả đều bị bắt ngay vừa chạm đất. Tôi bàng hoàng. Tôi có ba
người bạn học là Vũ Văn Hùng, Vũ Văn Chương, Nông Ngọc Mão mới đi tháng
trước. Tôi còn nhớ những khuôn mặt đầy vẻ hào hứng, tự tin của tụi nó
khi tôi đến chia tay tại cửa phòng hành quân. Vậy mà bây giờ tôi đã mất
tụi nó vĩnh viễn rồi. Trong khi chờ đợi lệnh mới, chúng tôi bắt đầu vào
một chương trình ôn luyện, chỉ được đi phép mỗi cuối tháng sau khi lãnh
lương.
Khoảng giữa năm 1964, tôi nhận được lệnh của Sở đi tuyển mộ và thành lập toán Leaper chỉ có 8 người:
1- Đinh Công Châu (dân tộc Mường) Toán trưởng
2- Bùi Văn Giao (dân tộc Mường) Toán phó
3- Nguyễn Văn Thái (dân tộc Kinh) Truyền tin
4- Nguyễn Văn Tính (dân tộc Kinh)
5- Đinh Viết Nam (dân tộc Thổ,Cao Bằng)
6- Dương Văn Liễu (dân tộc Thổ)
7- Hoàng Văn Dõng (dân tộc Thổ)
8- Hoàng Văn Thế (dân tộc Thổ)
Tháng 10 năm 1964, lệnh trên cho toán Leaper
lên đường trước với lời giải thích là tôi còn có công tác nên toán Bear
của chúng tôi sẽ đi sau. Khi toán của Châu lên đường, tôi hàng ngày
liên lạc với Ban Chỉ Huy trại để nghe ngóng tin tức. Một tuần sau, tôi
nhận được tin buồn, cả toán Leaper đều mất tích! Sở không bắt được liên
lạc ngay từ cái đêm thả! Tôi thầm lo, nhưng không dám phổ biến tin này
sợ anh em trong toán nản lòng hay hoảng sợ rồi rã ngũ về nhà.
Sau này tôi được biết thêm, cả toán bị dân
quân du kích đón bắt ngay khi dù còn đang lơ lửng trên không. Giao và
Nam bị bắn chết khi cố gắng trốn chạy. Còn lại, tất cả bị bắt sống.
(hiện nay, Nguyễn Văn Tính định cư ở Melbourne, Úc Châu, số còn lại định
cư tại Mỹ. Vừa qua, tất cả đều đã được Mỹ bồi thường cho mỗi người
40,000 Mỹ Kim.). Một tháng sau, chúng tôi nhận được lệnh cấm trại 100%.
Chúng tôi chỉ được quanh quẩn ở khu gọi là “phòng hành quân”. Cho tới
lúc đó, toán chúng tôi vẫn có mặt đầy đủ:
1- Tôi, trưởng toán.
2- Linh Văn Đa(dân tộc Thổ, Lạng Sơn)Toán phó
3- Hoàng Anh Tuấn (dân tộc Kinh) Truyền Tin
4- Đàm Văn Liên (dân tộc Tày, Cao Bằng)
5- Vy Văn Sình (dân tộc Tày)
6- Lô Viết San (dân tộc Tày)
7- La Văn Gioỏng (dân tộc Thổ)
8- Sẻ Khìu Sáng (dân tộc Thái Đen, Sơn La)
9- Lò Văn On (dân tộc Thái Đen)
10- Đinh Viết Lợi (dân tộc Mường)
11- Đinh Công Thạch (dân tộc Mường)
12- Bùi Văn Chính (dân tộc Mường)
Ngày 11/12/1964 (khoảng cuối tháng 10 Âm
Lịch), lúc 4 giờ sáng, chúng tôi ra phi trường Long Thành cùng với vũ
khí, quân trang quân dụng, lên một phi cơ Caribou đen thùi lũi để bay đi
Nha Trang. Ở đây, chúng tôi ăn uống, nghỉ ngơi tới chiều. 7 giờ tối,
chúng tôi lên máy bay hướng thẳng Thái Lan, có đại úy Dũng, sĩ quan liên
lạc bên cạnh cố vấn Mỹ đi theo. Chúng tôi đáp xuống phi trường U Ta
Pao, và được chuyển sang một chiếc DC6B không sơn phù hiệu gì cả. Phi
hành đoàn toàn là người Mỹ.
Đại úy Dũng lên máy bay, nói vắn tắt kế
hoạch OP34A mà chúng tôi phải thi hành. Ngoài nhiệm vụ chính là kiểm
soát, thâu lượm tin tức trên Trục lộ 20 Tây Bắc giáp biên giới Lào-Việt,
chúng tôi còn có nhiệm vụ “nằm vùng” tại quê nhà của mỗi người. Tuấn có
nhiệm vụ nối liên lạc với anh em trên trục lộ Bắc Ninh-Bắc Giang ngược
lên đến Chũ. Đa về vùng Cao Bằng, Lạng Sơn. Riêng tôi, phải tìm mọi cách
kết nối các đơn vị nằm vùng rải từ Hà Nội đến Thanh Hóa. Lệnh này chỉ
được phổ biến mật cho từng người vào giờ phút chót khi máy bay sắp cất
cánh. Sau đó, đại úy Dũng bắt tay từng người và chúc chúng tôi thành
công.
11 giờ 10 đêm hôm đó, máy bay chở chúng tôi
thẳng về hướng Tây Bắc của tổ quốc Việt Nam . Mục tiêu hay điểm đáp của
chúng tôi là Công Trường 40 (chuyên nuôi bò) ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn
La, chỉ cách biên giới Lào có 17 km. Dân vùng này đa số là người dân
tộc Thái Đen. 1 giờ 15 sáng, máy bay hạ thấp dần, và chúng tôi được lệnh
chuẩn bị.Đêm nay cuối tháng, không trăng sao. Đứng ở cửa máy bay, tôi
chỉ thấy một mầu đen bao la. Tôi được biết khi đến không phận Lào-Việt
Nam,máy bay phải bay rất cao để tránh Rada và các đài quan sát của địch,
chỉ hạ thấp khi đến gần mục tiêu. Nếu nhận được ám hiệu, chúng tôi phải
nhẩy ngay, nếu không, máy bay sẽ bay thẳng và trở về chờ chuyến khác.
Tôi quay nhìn về phía sau để kiểm soát lần chót toán của mình. Bỗng đèn
xanh bật sáng, không nghĩ ngợi, tôi lao mình vào khỏang không gian mờ
mịt.
Khi dù bật mở, tôi nhìn xuống và nhận ra
ngay mục tiêu ở phía dưới xa, chênh chếch bên trái tôi do ngọn lửa được
đốt theo hình chữ “T” như đã được quy định. Tôi là người nhẩy đầu tiên,
nên hơi xa mục tiêu. Những dù phía sau thả gần mục tiêu hơn.
Thay vì lái dù theo hướng mục tiêu ngay,
nhưng vốn tính thận trọng, tôi để dù rơi tự do, định khoảng nửa chừng sẽ
điều chỉnh hướng cũng không muộn để tôi có thời giờ quan sát động tĩnh ở
bên dưới. Được nửa chừng, sau khi quan sát thấy những bóng dù lơ lửng
trên chữ “T” đang hạ dần xuống nhưng khu vực vẫn yên tĩnh, tôi chuẩn bị
lái dù hướng về mục tiêu. Tôi mới nắm hai sợi dây điều khiển, bỗng nhiều
tràng súng nổ ròn rã. Do ánh lửa hắt lên không trung, tôi thấy rõ ba
anh bị trúng đạn khi dù chỉ còn cách mặt đất chừng vài chục mét. Từ phía
chữ “T” hai bóng dù khạc đạn bắn trả, mà sau này tôi biết được là của
Toán phó Đa và Đàm Văn Liên, một cựu quân nhân kỳ cưu từ thời còn quân
đội Liên Hiệp Pháp.
Nguy rồi! Chúng tôi đã bị địch phục kích,
được địch chờ đón ngay tại mục tiêu! Tôi lái vội dù vào mé rừng. Một
loạt đạn cầy trước mặt tôi khi chân vừa chạm đất. Tôi ôm súng lăn vào
bụi rậm. Một cánh dù hạ xuống cách tôi khoảng trăm mét. Tôi thấy hình
dáng quen thuộc của Tuấn truyền tin, vội thét “Tuấn, tao đây”. Tuấn ôm
súng lao về phía tôi, không kịp kéo theo máy truyền tin vì địch đang bắn
xối xả về phía nó.
Chúng tôi chạy ngược hướng chữ “T” lên một
sườn núi cây cối rậm rạp. Lên được sườn núi rồi, chúng tôi mới an tâm vì
núi đá nhấp nhô tạo nên những chướng ngại vật che chở chúng tôi. Tôi và
Tuấn nấp sau một mô đá lớn chằng chịt những lá “han” (một loại lá khi
chạm vào gây ngứa ngáy vô cùng) nhìn xuống mục tiêu. Bọn du kích lô nhô
trong ánh lửa bập bùng hình như đã bao vây khắp cả vùng. Những người còn
sống sót đều bị bắt và tập trung vào giữa. Một toán du kích đang lao về
phía chúng tôi. Tôi và Tuấn lùi dần về phía đỉnh núi, ẩn trong một cái
hang thiên nhiên. Hang tuy không sâu lắm, nhưng khá kín đáo vì dây leo
và cây cỏ xen lẫn với lá “han” che kín khắp cả. Chúng tôi ai nấy đều mệt
lả người.
Tất cả mọi thứ đều bị mất hết, kể cả bản đồ,
địa bàn, máy thu phát tín hiệu. Chúng tôi chỉ còn giữ được cây súng và
vài ba băng đạn cùng cây dao đi rừng và một bi-đông nước. Tôi bàn với
Tuấn đợi trời sáng, mặt trời mọc để định hướng rồi sẽ lần theo hướng Tây
để đi về biên giới Lào. Tôi biết rằng điểm đáp của chúng tôi chỉ cách
biên giới Lào có 17 km. Chúng tôi nhất định phải thoát sang Lào, dù bên
đó chúng tôi có lọt vào Cánh Đồng Chum, căn cứ của bọn Pathet Lào nhưng
cũng còn hơn là lẩn quẩn ở đây chờ tụi du kích đến bắt. Trong tình hình
này, theo tôi, có thể bộ đội Bắc Việt cũng đã được điều động đến đây để
bao vây chúng tôi.
Hôm đó, chúng tôi lần xuống bên kia chân
núi, lọt vào một vùng rừng hoang vu không dấu chân người. Chúng tôi cứ
thế luồn lách đi, đi mãi theo hướng Tây. Ngày đi, đêm nghỉ, vì ban đêm
chúng tôi không thể định hướng. Qua ngày thứ ba, chúng tôi hết nước( một
bi-đông được xử dụng trong ba ngày đã là một kỷ lục đối với chúng tôi
rồi!). Bụng đói meo vì chúng tôi đã đánh mất tất cả lương khô ngay từ
ngày đầu. Ba ngày nay, chúng tôi chỉ ăn toàn là đọt chuối rừng, thỉnh
thoảng vớ được một, hai nải chuối chín cầm hơi. Tới một thung lũng, bất
ngờ chúng tôi phát giác ra được một con suối nhỏ, nước chảy róc rách
luồn qua những bụi nứa mênh mông chằng chịt. Nhìn Tuấn, môi nứt nẻ cười
méo mó, tôi cũng không cầm được nỗi vui mừng muốn kêu lên nhưng kịp hãm
lại được. Có thể chúng tôi vẫn còn ở trong lòng địch, phải cẩn thận. Tôi
canh chừng để Tuấn xuống múc hai bi-đông nước đầy. Chúng tôi nghỉ lại
bên bờ suối một đêm.
Hôm sau, chúng tôi thám sát mở rộng, tìm ra
được một con đường mòn, có lẽ do những người vào rừng chặt nứa tạo nên.
Chúng tôi đoán là có bản làng ở gần đây. Tuấn nói là hồi đêm khi nó
canh gác cho tôi ngủ, nó nghe có tiếng gà gáy ở phương nào vọng lại. Tôi
không để ý lắm vì nghĩ là đó chỉ là tiếng gà rừng. Nay phát giác ra con
đường mòn này, tôi tin chắc là chung quanh phải có bản làng. Đã có bản
làng, nhất định phải có vườn tược, nương rẫy. Bây giờ đã chớm Đông, là
mùa khoai sắn ở miền Bắc.
Tôi bàn với Tuấn, cứ theo hướng con đường
mòn mà đi, nhưng tránh xa lề đường để phòng gặp dân đi rừng. Chúng tôi
lần mò đi cho tới khi mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu, quả nhiên bắt gặp
một nương sắn (khoai mì). Tôi bảo Tuấn nấp trong bụi canh chừng cho tôi
vào nhổ sắn. Tôi nhổ được chừng chục gốc, bẻ lấy củ ôm vào rừng. Chúng
tôi rút sâu vào rừng khoảng một tiếng đồng hồ thì dừng lại. Hôm đó,
chúng tôi được một bữa no căng bụng. Tôi ước tính, có lẽ chúng tôi đã
sang tới bên phần đất của Lào, nên chủ quan, nổi lửa để lùi sắn. Sau này
tôi mới biết đó là một lầm lỗi tai hại nhất mà chúng tôi sẽ phải nhận
lãnh hậu quả ghê gớm sau này.
Qua ngày hôm sau, Tuấn bàn là phải lấy thêm
sắn để làm lương thực đi đường, vì kinh nghiệm những ngày qua cho chúng
tôi thấy lương thực là vấn đề sinh tử của chúng tôi trên đường đào
thoát. Đây cũng là một ý kiến tai hại mà lúc đó tôi không nhận ra. Chúng
tôi lần mò tới nương sắn cũ. Lần này, tôi canh gác để Tuấn vào nhổ.
Được một lát, tôi nghe một tiếng “rắc” khô khan, có lẽ Tuấn vô ý làm gẫy
cây sắn? Tôi chưa kịp nhìn, một tiếng quát vang lên nghe như một tiếng
súng nổ ngang đầu:
- Dơ tay lên! Các anh đã bị bắt.
Tôi giật mình nhìn quanh. Bọn du kích không biết từ đâu tới đã vây kín chúng tôi. Không còn lối thoát. Vậy là chúng tôi bị bắt.
Một tên du kích mặt trẻ măng xông tới, tay
cầm cây CKC quật túi bụi trên chúng tôi bắt nằm xuống. Bọn chúng lột
giầy rồi trói thúc ké chúng tôi lại rồi giaỉ về một bản gần đó. Dân bản
phần đông ăn mặc theo lối người Thái vùng Tây Bắc, không biết được thông
báo từ hồi nào đã đến đứng đầy ở sân trụ sở Ủy Ban Nhân Dân Xã. Chúng
tôi bị giải tới giữa sân cờ. Một tên quát “nằm xuống”, tôi chưa kịp phản
ứng thì một báng súng AK đã giáng lên người khiến tôi ngã chúi về phía
trước kéo Tuấn ngã theo. Bọn chúng bắt chúng tôi quỳ giữa sân. Một tên
có vẻ là Xã Đội Trưởng, đội nón cối đeo xà cột bước ra. Hắn nhếch cặp
môi thâm xì, cười nham hiểm bầy ra mấy cái răng vàng bựa khói thuốc lào:
- Chúng mày có chạy đàng giời cũng không thoát khỏi lực lượng quân đội nhân dân bách chiến bách thắng của chúng tao!
Sau đó hắn kể tội chúng tôi. Nào là đồ phản
quốc, lính đánh thuê, làm gián điệp cho giặc. Dân làng đứng reo hò đả
đảo vang trời. Trong tiếng reo hò man rợ đó, tôi nghe những tiếng thét
“giết hết chúng nó đi, để làm gì lũ giặc biệt kích đó”, khiến tôi xanh
mặt, thầm nghĩ chắc mạng mình tới đây là hết. Rồi những hòn đá, khúc cây
tới tấp đổ lên thân mình chúng tôi. Tôi bị một hòn đá ném ngay sau ót,
máu chẩy dầm dìa xuống cổ. Tuấn bị một khúc cây ngay trán nằm lăn lộn,
máu chẩy đầy hai tay đang ôm lấy mặt.. Cứ tình hình này, có lẽ chúng tôi
sẽ bị dân làng hành hạ chết tươi bằng một lối giết người của thời
thượng cổ. Tên Xã Đội Trưởng nhìn chúng tôi lăn lộn một hồi rồi mới đưa
tay ra cản dân chúng, miệng thét bọn du kích dẫn chúng tôi vào trong trụ
sở. Chúng tôi thoát chết, có lẽ tên Xã Đội Trưởng cũng chỉ muốn dằn mặt
chúng tôi.
Sau này, chúng tôi được biết là sở dĩ
chúng tôi bị lộ khi trên đường đào thoát vì có một em bé chăn trâu trên
đường về nhà thấy mấy gốc sắn bị nhổ nên khi về mách với cha mẹ. Cha mẹ
chúng lên xã trình báo. Ngoài ra cũng có người trong bản trông thấy khói
bay lên từ trong rừng không cách xa nương sắn bao nhiêu. Tôi tự giận
mình đã quá vụng về và chủ quan, tưởng đã thoát được sang xứ Lào, không
ngờ vẫn còn quanh quẩn trong vùng Mộc Châu! Thật uổng công cho chúng tôi
đã miệt mài học về những trường hợp xử trí trong mưu sinh thoát hiểm!
Giá mà chúng tôi chịu khó nhai sắn sống cầm hơi, giá mà chúng tôi không
trở lại nhổ thêm sắn. Giá mà. . .giá mà. .
.Tôi lắc đầu xua đuổi những chữ “giá mà”
quái ác đó đi. Tên Xã Đội Trưởng còn cho chúng tôi biết thêm là tất cả
những toán nhẩy Bắc của chúng tôi từ trước đến nay không có toán nào
thoát. Toán nào cũng bị dàn chào ngay tại bãi đáp. Chúng tôi bị bán
đứng! Địch đã xâm nhập vào bộ máy chính quyền VNCH của chúng tôi. Theo
tên Xã Đội Trưởng, sau khi nhận được tin sẽ có một toán Biệt kích nhẩy
xuống Mộc Châu, một trung đoàn bộ đội trên đường đi B (tức vào Nam) đã
được lệnh dừng lại ở biên giới Lào để chặn bắt chúng tôi. Tôi ngao ngán
thở dài.
Chúng tôi là những con vật hy sinh, bị ném
vào hỏa ngục một cách lạnh lùng không thương xót. Tuổi trẻ chúng tôi đã
bị lợi dụng. Lý tưởng của chúng tôi đã bị bẻ cong. Chúng tôi đang trên
đường đi vào Địa Ngục. Người ta thường bảo có mười tầng địa ngục, nhưng
theo tôi, đường vào địa ngục cộng sản Bắc Việt còn thăm thẳm và khủng
khiếp hơn truyền thuyết về địa ngục của Diêm Vương nhiều!
Chúng tôi được giao cho một đơn vị công an
vũ trang, sau đó bị giải về trại tù Thanh Liệt (Hà Đông). Tại đây, tôi
gặp lại anh em còn sống sót của toán. Chúng tôi bị kiên giam (mỗi người
đều bị cùm chân, xích tay nhốt riêng rẽ trong một căn phòng chật hẹp tối
om). Tuy vậy, tôi cũng tìm hiểu được những gì đã xẩy đến cho anh em
trong toán. Vy Văn Sình, Lò Văn On, Đinh Công Thạch bị bắn chết tại chỗ,
còn lại bị bắt sống ngay tại mục tiêu. Toán phó Đa bị chúng tra tấn dã
man để hỏi tin tức về tôi và Tuấn. Không ai trong chúng tôi tiết lộ về
công tác và nhiệm vụ thật sự của toán. Đó là một điểm son và là một niềm
an ủi cho đến ngày nay.
1967, toàn bộ chúng tôi được chuyển đi giam
giữ tại trại tù Phong Quang (Yên Bái). Đây là nơi giam giữ tù hình sự
gồm đủ loại đầu trộm đuôi cướp, hãm hiếp, giết người. Nhưng đối với
chúng tôi họ rất kính nể. Họ thường tỏ thái độ chống báng chế độ, chán
ghét lũ công an,bộ đôi, và luôn tin tưởng VNCH sẽ thắng. Họ thường an ủi
chúng tôi “ Các anh cứ yên tâm, chẳng bao lâu nữa quân đội Cộng Hòa sẽ
ra đây giải thoát chúng mình” Chính nhờ họ mà chúng tôi lấy lại được
niềm tin vào sự tất thắng của chính nghĩa Quốc Gia và cảm thấy tương lai
không hẳn là mù mịt.
1970, Chúng tôi được chuyển về giam tại trại Tân Lập (Vĩnh Phú)
Tháng 8 năm 1972, Bất thình lình chúng tôi
bị chuyển trại. Sau này nghe loáng thoáng bọn cán binh nói chuyên với
nhau là việc chuyển trại để ngăn ngưà việc Mỹ có thể đột kích giải cứu
tù binh Mỹ. Tuy trong trại chúng tôi chưa hề thấy có anh Mỹ nào bị nhốt ở
đây. Sự kiện này ít ra cũng đã giúp chúng tôi củng cố thêm niềm tin để
cố kéo dài kiếp sống nô lệ khổ sai thời thượng cổ.
Đoàn Molotova đưa chúng tôi ngược hướng Bắc
đến tỉnh Hà Giang. Chúng tôi được đưa vào trại Quyết Tiến, tục gọi là
Cổng Trời. Tôi không biết tại sao người ta lại đặt cái tên Cổng Trời cho
trại tù ở mãi đỉnh cao nhất của đất nước này. Có lẽ đây là cái mốc chót
của trần gian. Ai đã tới đây thì chỉ có nước là lên trời tức thiên đàng
chứ không có ngày về, vì đây là một trại tù khủng khiếp nhất so với tất
cả các trại tù mà tôi đã đi qua. Khủng khiếp từ sự hành hạ thể xác, lao
động khổ sai, về cái đói kinh niên và nhất là về cái lạnh cắt da vào
những tháng cuối năm.
Tại đây tôi có nghe kể về nữ sĩ Thụy Ý (nếu
tôi nhớ sai tên xin độc giả đính chính dùm) thuộc nhóm Nhân Văn Giai
Phẩm bị đầy ải ở đây. Bà đã dùng đũa chọc mắt gắp ra đưa cho cán bộ và
nói: “tao chỉ cần nhìn chế độ của chúng mày bằng một con mắt thôi”! Ghê
gớm thay đởm lược của một người đàn bà! Cũng ở đây, tôi được biết không
lực Mỹ đã oanh kích 11 ngày đêm liên tục xuống thành phố Hà Nội, khiến
bọn Việt Cộng phải đem một số anh em chúng tôi ra trói vào chân cầu Long
Biên để làm áp lực với Mỹ. Tôi rùng mình vì sự dã man, khát máu, không
chút tình người của bè lũ cộng sản Bắc Việt.
Ngày 30/4/1975, tôi nhớ rất rõ cái ngày
khủng khiếp này! Khi chúng tôi đang tập trung ở sân trại để sửa soạn đi
lao động như thường lệ. Chúng tôi ngạc nhiên vì đã quá giờ mà không thấy
tên cán bộ quản giáo nào tới phân công. Bỗng nhiên bọn vệ binh ở khu
nhà gần cổng túa ra reo hò ầm ĩ, súng trong tay bắn chỉ thiên rầm rầm
như pháo Tết. Tôi nghe bọn chúng la hét “chúng ta thắng rồi! Miền Nam đã
hoàn toàn được giải phóng”! Nhiều tên ôm nhau khóc như cha chết. Chúng
tôi ngơ ngác nhìn nhau. Lát sau, tên quản giáo chạy tới, mặt mày hớn hở.
- “Hôm nay các anh được nghỉ lao động. Quân
Đội Nhân Dân đã chiếm được dinh Tổng Thống ngụy quyền Sài Gòn. Miền Nam
đã hoàn toàn được giải phóng. Các anh về lán sinh hoạt. Chúng tôi sẽ cho
các anh liên hoan để mừng ngày đại thắng của quân dân ta. Mỹ đã cút,
ngụy đã nhào. Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm, Đảng Cộng Sản Việt Nam
quang vinh muôn năm. Các anh hô to cùng tôi. Giải tán”
Tôi đứng dậy như người mất hồn. Tuấn nhào
tới ôm lấy tôi khóc nức nở. Tôi cũng bật khóc trên vai nó như một đứa
trẻ. Thế là hết! Bao nhiêu năm tháng tù đầy khổ sai như một tên nô lệ
thời thượng cổ ở cái địa ngục khủng khiếp nhất trần gian này, chúng tôi
vẫn cố gắng sống vì tin vào sự chiến thắng cuối cùng của chính thể VNCH,
của chính nghĩa Quốc gia. Tất cả bây giờ đều sụp đổ tan tành. Chúng tôi
loạng choạng đi về lán như những bóng ma không hồn trong một cõi âm ti
thăm thẳm tanh nồng của loài quỷ dữ.
Tháng Giêng 1979, Tôi và một số anh em phải
chia tay. Không biết các anh em khác bị chuyển đi trại nào. Riêng tôi bị
đưa về trại 5 Lam Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa. Tại đây tôi gặp nhà thơ
Nguyễn Chí Thiện. Tôi nghe nói Đại Úy Phan Nhật Nam cũng bị giam tại đây
nhưng tôi không được gặp vì ông bị biệt giam.
1980, Tôi lại bị chuyển đến trại Thanh
Phong, thuộc địa phận Thanh Hóa. Tôi ở trại này hơn 4 năm. Tháng 9/1984,
nhân ngày Quốc Khánh của Việt Cộng, tôi nhận được lệnh tha.
Hai mươi năm thoi thóp trong địa ngục, một
loại địa ngục khủng khiếp có một không hai của nhân loại, tôi sống sót
trở về trên một chuyến tầu xuôi Nam . Hạnh phúc được gặp lại vợ con như
vất vưởng xa vời không hề ăn nhập vào thân xác tôi. Tôi có còn là một
con người không? Tôi có còn là tôi không? Vợ con tôi chắc gì còn hiện
hữu hay chấp nhận tôi như một người thân thương khi chứng kiến một bóng
ma lê lết trở về từ cõi âm ti rùng rợn? Tầu lửa xập xình trôi, trôi mãi
như đưa tâm hồn tôi lịm dần trở về cõi u mê nào đó của hai mươi năm về
trước........
Phan Tuấn Sơn
DU TỬ LÊ * LÊ ĐẠT
DU TỬ LÊ * LÊ ĐẠT & HÈN ĐẠI NHÂN
Chúng
ta cùng biết, nhà thơ Lê Ðạt là một trong những kiện tướng của Phong
Trào Nhân Văn-Giai Phẩm, giữa thập niên 50 ở miền Bắc. Nhưng có dễ ít
người biết rằng, ông còn là một nhà văn, với những truyện ngắn mang đầy
tính trào lộng, sâu sắc tới dữ dội, không thua gì những bài thơ xung phá
thẳng vào thành trì chế độ. (1)
Nếu ở lãnh vực thi ca, với thi phẩm nổi tiếng “Bóng Chữ,” Lê Ðạt cho thấy sự cật lực của ông trong nỗ lực phá rừng, xẻ núi cho thi ca
có được
một chân trời, một bình Nếu ở lãnh vực thi ca, với thi phẩm nổi tiếng “Bóng Chữ,” Lê Ðạt cho thấy sự cật lực của ông trong nỗ lực phá rừng, xẻ núi cho thi ca
Bằng giọng văn châm biếm, trào phúng mà sức quyến rũ là cả một từ
trường mạnh mẽ ngùn ngụt đẩy, xô người đọc hăm hở uống từng trang sách
của mình, Lê Ðạt, một lần nữa, đưa thể truyện ngắn, tới một chân trời
mới.
Chân trời hay những cánh cửa...
... mà, 15 truyện ngắn trong tuyển tập “Hèn Ðại Nhân”
mở ra cho người đọc, là những chân trời, hay những cánh cửa ẩn dụ, lênh
láng tiếng cười và, cùng lúc, nước mắt.
Căn bản, là thi sĩ, nên suốt lộ trình văn xuôi mang tên “Hèn Ðại
Nhân” của Lê Ðạt, người đọc cũng gặp không biết bao nhiêu những đoạn văn
như thơ. Những nhân cách hóa bất ngờ mà, người ta thường chỉ thấy được,
nơi những tài năng ngoại khổ.
Những bất ngờ đầy thi tính này, lại luôn song hành, kề cận những hình
ảnh hay ý tưởng rất đời thường, rất mỉa mai... Khiến người đọc khó lòng
giữ được thăng bằng cảm thức.
Bước vào thế giới truyện ngắn mang tên “Hèn Ðại Nhân” của Lê Ðạt,
người đọc như một con diều giấy, mà chữ nghĩa của tác giả là sợi giây tơ
nõn, vô hình; nhưng có khả năng thả ném con diều lên chín tầng mây. Ðể
rồi, chỉ cần một chớp mắt hớ hênh, sợi giây chữ nghĩa của tác giả, lại
giựt, ném con diều xuống bùn, đất.
Như trong truyện ngắn đầu tiên, truyện “Bài Haiku,” khi đề cập tới
một nhân vật có tên là Yôda, một danh tướng buông gươm, cởi áo tìm về
nẻo đạo, và ước mơ cuối cùng, được thở hơi thở thi ca: Hơi thở Hài Cú,
bên cạnh một Basô, bất tử. Lê Ðạt viết:
“Hình như đấng tối cao cũng chứng cho lòng thành của người kiếm sĩ
dốc lòng đổi nghiệp, nên những hạt mộng bỗng nẩy mầm, trái tim quen với
sự sát phạt, như bầy chim ngậm những chồi xanh thả Mùa Xuân phủ bóng rợp
lục chiến trường trơ trụi ngày xưa. Tướng quân Yôđa bỗng làm thơ... Và
thơ ông được truyền tụng chẳng kém gì những chiến tích thuở trước.”
Từ trái qua: Nhà thơ Du Tử Lê, nhà văn Lê Ðạt, nhà văn Nguyễn Ðức Tùng tại Hà Nội 2007. (Hình: Tác giả cung cấp)
Những cụm từ “hết sức dân chủ” và “thông qua bỏ phiếu kín” là những
cụm từ phản ảnh sinh hoạt thời đại, sinh hoạt đời thường, hiện tại, của
xã hội Việt Nam hôm nay.
Những tương phản, như những đối cực triệt để giữa hư cấu và, đời
thường, là những cặp song sinh bất thường, nếu không muốn nói là “quái
thai,” đầy rẫy trong cõi văn xuôi Lê Ðạt.
Tuy nhiên, như đã nói, căn bản, tác giả là thi sĩ, nên cách gì, người
đọc cũng vẫn gặp được nơi tác phẩm này, những ví von, những so sánh hay
những nhân cách hóa bất ngờ, như những ngụm nước mưa đầu nguồn, mà một
lữ hành không chờ đợi trong cuộc hành trình sa mạc, giằng giặc của mình.
Cũng ngay nơi truyện ngắn vừa kể, về Basô, tác giả của những bài thơ
Hài Cú tiêu biểu nhất của thể thơ Nhật Bản này, sau khi tỉnh rượu, bỏ
đi, khiến trên một chục nhà danh họa, cuối cùng chẳng một ai ghi được
chân dung Basô, Lê Ðạt viết:
“Trời chuếnh choáng gió như thế này, ai mà lại hóa dại ngồi một chỗ, khi con đường trước mặt tung tăng như một lời mời viễn du.”
Rồi, cũng chỉ với một dấu chấm nhỏ bé, Lê Ðạt lại bất ngờ giựt con
diều (người đọc,) chúi nhủi xuống bùn, đất, với phản diện, tuy không
khốc liệt, nhưng mênh mang ẩn dụ thấm thía, rằng:
“Cuộc vẽ bỏ dở và mãi cho đến giờ, Basô vẫn chưa có chân dung.
Người thì thậm xấu hát thì thậm hay. Ai có được bức chân dung Trương
Chi? Không biết Basô có thậm xấu như Trương Chi không, nhưng thơ Basô
quả thậm hay...”
Cũng vậy, trong truyện ngắn “Vùng May Rủi,” một chuyện hư cấu khác,
viết về hai người bạn già bỏ cả một đời chỉ để tìm cách đạt tới “chiến
thắng” sau cùng, với những vòng quay, những con số trong một canh bạc.
Sòng bài ở đây, hiển nhiên, chỉ là một thế thân của định mệnh.
Khi mô tả những viên bi lăn tới, như những vòng lăn lạnh lẽo cuốn theo bao nhiêu sinh mạng về cõi chết, Lê Ðạt viết:
“Ðịnh mệnh soi mình lúc ẩn lúc hiện trên viên bi ngà quay ngược chiều
với chiếc cần quay kim loại lanh canh nơi đáy đĩa thăm thẳm... Hạnh
phúc... hạnh phúc sẽ rơi vào con số nào? Dăm tháng nửa năm, một phát
súng lại nổ ngay cửa sòng bài chấm dứt một cuộc lần tìm may rủi bất tận.
Có phải may rủi nằm trong thân phận con người?”
Và, chỉ ít dòng sau, khi mô tả sự ra về thất vọng, bẽ bàng của hai con thiêu thân manh tâm kình chống định mệnh, Lê Ðạt viết:
“Rồi hai người lặng lẽ ra về. Con đường đảo ngây ngất mùi hương vào
xuân và những đôi trai gái đang giải khát môi nhau trên ghế đá. Tiếng
chuông từ tháp giáo đường lanh lảnh báo mùa phục sinh nở hoa.”
Phải chăng, nhờ những đối cực triệt để kia, mà cõi văn xuôi Lê Ðạt, đã có được cái ma lực huyễn hoặc, lôi cuốn?
Cái ma lực của hạnh phúc hư ảo và đớn nhục, nhức buốt mà vẫn ắp đầy thi tính!
Nó như một thứ nhân cách phức hợp, chập chùng trong mỗi sinh vật được chỉ danh là con người, trên mặt địa cầu này.
Du Tử Lê
Chú thích:
(1): Tên thật là Ðào Công Ðạt, ông sinh ngày 10 tháng 9 năm 1929 tại
Yên Bái; mất ngày 21 tháng 4 năm 2008, tại Hà Nội. Là một trong vài nhân
vật chính thuộc Phong Trào Nhân Văn-Giai Phẩm, ông nổi tiếng với bài
thơ nhan đề “Nhân câu chuyện mấy người tự tử,” đăng trong Nhân Văn số 1,
đề ngày 20 tháng 9 năm 1961. Trong bài này có những câu được nhiều
người nhắc nhớ tới hôm nay như: “Anh công an nơi ngã tư đường phố / chỉ
đường cho / xe chạy / xe dừng / rất cần cho luật giao thông / nhưng đem
bục công an đặt giữa trái tim người / bắt tình cảm ngược xuôi / theo
luật lệ đi đường nhà nước / có thể gây nhiều đau xót / ngoài đời.” Sinh
thời, cố thi sĩ Hoàng Cầm từng nhấn mạnh, Lê Ðạt, bạn ông, tự nhận là
một thứ “phu chữ.” Vì, với thơ cũng như văn, Lê Ðạt rất kỹ tính, cẩn
thận chọn từng chữ. Ðôi khi chỉ một chữ thôi, cũng đủ khiến ông suy
nghĩ, dằn vặt nhiều ngày.
(2) Tác phẩm này xuất bản tại Việt Nam, 1998.
*Bài viết này cũng đã đăng trên nguoiviet.com - NN chú thích *
Thursday, November 27, 2014
PXD * LÊ ĐẠI LÃNG
Đọc “Đường Phía Bắc” của Lê Đại Lãng
Ngay sau chiến thắng của phe cộng sản tại Việt Nam tháng Tư năm 1975, một sự
kiện bi tráng đã xảy ra và kéo dài liên tục trong hơn 15 năm: đó là cuộc vượt
biên của nhân dân Việt Nam nhằm đào thoát ra khỏi chế độ cộng sản.
Cuộc đào thoát thoạt tiên xảy ra tại vùng đất thua trận miền Nam. Từ lâu, dân
miền Nam là “bà con gần” với thế giới tự do, cho nên trong cơn hoạn nạn ngay
trên đất nước của mình, thì phản ứng tự nhiên là chạy tới tìm nhờ bà con. Cũng
từ lâu, khi nói tới vượt biên, hầu hết chúng ta chỉ nghe nói những địa chỉ tới
của các con thuyền lén lút ra khơi là Thái Lan, Mã Lai, Indonesia, Phi Luật Tân,
Úc. \
Từ các bến bãi miền Nam, thuyền tị nạn tìm đến các bến bờ vùng Nam Á ấy là
lẽ tự nhiên – về địa lý cũng như về sự tin cậy. Thế nhưng đường tị nạn còn một
hướng nữa, về phía Bắc, mà hầu hết đều tấp vô bến Hồng Kông. Một số người vượt
biên từ các tỉnh cực bắc của VNCH cũ, như Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam,
Quảng Ngãi có khuynh hướng chạy ngược lên hướng Bắc vì đường gần hơn. Nhưng xem
kỹ lại thì đa số người tị nạn trong các trại Hồng Kông có vẻ là những người ra
đi từ miền Bắc Việt Nam, là miền đất thuộc phe thắng trận năm 1975.
Có cái gì như là nghịch lý ở đây. Dân thua trận, bị đối xử tàn tệ không sống
nổi phải chạy trốn, cái đó hiểu được. Nhưng dân của phe thắng trận cũng chạy
trốn là tại làm sao? Câu hỏi này có lẽ được giải đáp lâu rồi: vì chế độ chính
trị. Cuộc thắng trận năm 1975 như một trái pháo bông nổ tung sáng rực trong chốc
lát, sau đó tắt ngóm và màn đêm lại bao trùm như cũ, kể cả trên miền Bắc chiến
thắng. Và lầm than khắp nơi, không kể nam hay bắc. Và có lẽ “theo gương” dân
miền Nam, dân miền Bắc cũng ra đi để tìm một cuộc đời đáng sống hơn.
“Đường Phía Bắc” (*) là một cuốn sách thu góp nhiều mẩu chuyện của người vượt
biên từ đất Bắc, ghi lại trong cung cách tiểu thuyết hóa để thành một câu truyện
mạch lạc các nhân vật có liên kết với nhau. Gọi là đường phía bắc, tác giả có
dụng ý đưa ra một hình ảnh đối ngược với đường phía nam là những chuyến hải hành
tỏa ra nhắm đến các nước Đông Nam Á, vốn gần với phần phía dưới của nước Việt
Nam. Ngược lại, đích đến của đường phía bắc chỉ có một: Hồng Kông.
Thảm cảnh của những chuyến vượt biên thì quá nhiều, nam cũng như bắc. Nhưng
từ trước đến nay người ta ít biết cảnh thực của những chuyến vượt biên từ miền
Bắc, vì, như tác giả giải bày trong lời giới thiệu đầu sách:
“Con đường ngược bắc của những cá nhân ấy lại được kể thì thầm như tội đồ
xưng tội, tội tổ tông, tội bỏ nước, tội đi tìm chỗ sống, chỉ dành riêng cho kẻ
muốn nghe, không có tiếng mõ nhịp, chỉ có những bàn chân xếp thành dấu chấm in
trên đất trên nước qua vạn dặm hành trình.”
Là người từng làm việc thiện nguyện tại các trại tiếp người vượt biên tại
Hồng Kông, tác giả có nhiều dịp được nghe những “lời kể thì thầm” của biết bao
là mảnh đời về chuyến hải hành không dài lắm từ vịnh Bắc Bộ đến Hồng Kông. Không
dài nhưng không phải là không gian nan và nhiều thảm cảnh, đặc biệt khác hẳn
những gì chúng ta vẫn nghe từ các người vượt biên miền Nam, đi “đường phía
Nam”.
Cuốn sách mở đầu với một hoạt cảnh đầy kịch tính của một người còn trẻ đóng
vai bộ đội đi phép trở về đơn vị đóng ở vùng ven biển, phải đóng thật khéo để có
thể vượt qua vô số trạm kiểm soát của công an nhằm bắt giữ bất cứ ai trên các
chuyến xe đò có vẻ khả nghi là đi về vùng biển để vượt biên. Với một bút pháp
rất nghệ thuật, tác giả đã cho Hải, người thanh niên ấy, có những ngôn ngữ cùng
hành vi y hệt một anh bộ đội dày dạn bất cần đời, khiến đám công an đâm “nể” và
cho anh ta đi thoát, để câu chuyện vượt biên về phía bắc của anh ta có thể bắt
đầu. Và cũng chính hiện tượng canh phòng kỹ lưỡng này của công an cho thấy vào
thời điểm kể truyện này chuyện vượt biên đã xảy ra khá nhiều ở các vùng biển
miền Bắc rồi.
Chuyến hải hành của con thuyền chở 60 người ra đi trót lọt. Nó đi về hướng
bắc một cách chậm chạp hơn người ta tưởng: dự tính bảy ngày sẽ tới Hồng Kông,
nhưng hơn mười ngày hãy còn ven biển đảo Hải Nam. Lâu lâu lại tìm cách đổ bộ vào
bờ, công an Trung Quốc bắt gặp thì không làm khó dễ gì, trái lại sẵn sàng đi mua
hộ dầu và thức ăn, chỉ tuyệt đối cấm người trên thuyền lên bờ. Lần nào họ cũng
đếm và ghi lại số người trên thuyền, rồi ra lệnh cho đi tiếp. Vào cuối thập niên
1980, Trung Quốc và Việt Nam còn kình chống nhau, nên họ có vẻ có cảm tình với
người tị nạn vượt thoát khỏi Việt Nam. Nhưng họ không nhận người tị nạn, và
người tị nạn cũng nhắm tới một nơi khác chứ không phải một nước Trung Quốc cộng
sản: họ chỉ cần tới Hương Cảng.
Nhưng đoạn đường không xa ấy cũng có lắm tai ương, và chiếc thuyền vượt biên
của Hải đi đã không bao giờ đến đích. Nó bị một cơn bão biển đánh giạt vào bờ và
vỡ tan tành. Chuyện kỳ lạ là Hải và đứa con gái còn nhỏ của anh sống sót cùng
với vài người bạn thân của anh, và họ lại gắng “mưu sinh” bằng cách đi ăn xin.
Rồi đứa nhỏ chết, rồi cơ may lại tới, bọn họ lại nhập vào một đám khác có
thuyền, rồi lại lên đường.
Chúng ta ít khi nghe được lời mô tả những hãi hùng của một trận bão biển, vì
người đã trải qua thì ít khi còn trở về được để kể cho chúng ta nghe. Thảng hoặc
có sống sót trở về thì cũng khó có đủ ngôn từ để diễn tả cơn thịnh nộ của biển
khơi, vì nó vượt khỏi các ý niệm và ngôn ngữ thông thường của con người ở trên
mặt đất.
“Cái hình rẽ quạt từ trên trời càng lúc càng tỏa rộng, như năm ngón tay
quái thú úp chụp xuống những con người bơ vơ bé nhỏ. Trong tích tắc, thuyền bị
sóng nhồi lên đến tuyệt đỉnh cao, cao đến mức không thể cao nữa, rồi từ đỉnh cao
ấy, vụt xuống một thung lũng bốn bề là nước đen dựng thành tường. Tiếng ré kinh
hoàng của tất cả bị hút ngay vào bức tường đen, mất biệt, như sự thẩm âm tuyệt
hảo nhất do tạo hóa cấu thành. Từ đỉnh sóng xuống vực sâu, rồi từ vực sóng
thuyền tung lên đỉnh sóng, Hải nghe tiếng hét thất thanh của lão Mục:
- Con…ơi ơi…!
Tiếng hét xoáy tít vào tiếng nước reo hăm hở, ác độc. Thần biển đang hể
hả xoa tay, chờ từng sinh mạng nạp mình. Trong giây phút ấy, lạ thay bé Ngọc vẫn
trừng mở mắt, nhìn chằm chằm bức tường nước sùng sục quanh thuyền. Hải ôm chặt
con, chàng nhìn thấy bóng dáng Đức Phật, chàng nhìn thấy thánh giá của Chúa Giê
su, chàng nhìn thấy hồn thiêng của cha mình sừng sững trên sóng, dưới vực thẳm,
đang nắm tay nhau kết thành vòng tròn lớn, cùng ca hát bài ca luân hồi sinh tử.
Hải trừng mắt. Chàng muốn thấy kỹ cái tích tắc vô thường mà đời người không
tránh khỏi. Chàng sắp dắt con xuống yết kiến thủy thần. Chàng sẽ cười khà vào
mặt lão già có chòm râu bạc lướt thướt và đôi mắt buồn thăm thẳm:
- Ông đã thắng!
- Ta lúc nào cũng thắng.
- Trẻ thơ có tội gì?
- Trót sinh ra làm người.
- Tôi đi tìm đất sống.
- Đất nào sống được nói ta nghe.
- Không phải nơi tôi được sinh ra. Nơi tôi có quyền ca khi hoa nở, nơi
tôi có quyền khóc khi tôi muốn và nơi không có lão già râu bạc như ông.
- Ha…ha…ngươi tưởng không có người như ta là ngươi sống được ư…ha…ha…ta
cho ngươi thấy.
Thủy thần vụt tan ra thành xoáy nước, vỗ tay reo. Lão cong mình thành một
ngọn sóng, ngọn sóng dài hơn chiều dài của chiếc thuyền chở Hải. Lão trườn lên
lặn xuống không biết bao nhiêu lần. Đột nhiên, lão đổi trò chơi, lão xoay tít
trên không gian đen như vũng nước trâu nằm, hất tung cả chiếc thuyền lao vào hư
vô nín lặng…”
Nhưng qua các tai biến với vô số tình cờ, chúng ta biết thêm được một số
điều, không phải chỉ trên biển cả, mà ở trong nước Tàu. Trước hết là thảm cảnh
của cuộc “nạn kiều” xảy ra cho số người Hoa Kiều bị nhà nước Việt Nam đuổi về
Tàu mươi năm trước. Họ là những người Tàu sinh sống ở Việt Nam đã lâu đời, bỗng
vì sự xích mích giữa hai nước mà phải biến thành nạn kiều, phải dứt bỏ sản
nghiệp lẫn đời sống tinh thần tình cảm đã xây dựng trên đất nước Việt Nam để về
cố quốc, một thứ “nước cũ” nghèo nàn nay đã thành xa lạ đối với họ và cũng chẳng
hào hứng gì để đón họ trở về. Vì thế nên mới có cảnh:
“Cái vẻ trù phú của cảng Hải Bắc chỉ làm tăng nỗi bơ vơ lạc lõng của nạn
dân nạn kiều sống trên bãi biển. Ngoại trừ một nhà thương thí do Cao Ủy Tỵ Nạn
Liên Hiệp Quốc thành lập năm 1979, các nạn kiều bị đuổi về nước năm 78 chẳng
được hưởng một quy chế gì rõ ràng. Đầu tiên, họ được bố trí lên các nông trường
ở tỉnh Quảng Tây.
Chịu không nổi đời sống ở đó họ trốn về miền biển và cắm lều
sống trên bãi cát bằng nghề đánh cá. Họ làm vệ sinh cá nhân ngay trên bãi, lấy
cát lấp lại chờ sóng lên dọn sạch. Nhóm nạn kiều sống ở Bắc Hải đã bị lãng quên
hoàn toàn. Không ai cần biết đến họ và họ cũng chẳng trông chờ vào ai. Lương
thực của họ là biển cả mênh mông (tê tái) ngoài xa kia. Trung Quốc coi họ là nạn
dân người Việt, nhà nước Việt Nam lại coi họ là nạn Kiều. Sức ép của hai thể chế
đẩy những người này ra tận mé nước và không thể ra xa hơn được nữa. Những đứa
trẻ sinh ra trên cát nóng chờ ngày theo cha mẹ ra khơi bắt cá. Không một ngôi
trường nào chịu chứa những đứa trẻ sinh nhầm đất nước ấy.”
Không đi vượt biên về hướng Bắc thì làm sao đám người Việt này gặp được một
cái thành phố ma với bốn kỳ nhân ở trong đó từ thời cách mạng Vệ Binh Đỏ, những
chuyện lạ lùng đã xảy ra giữa thế kỷ 20. Từ thuyền họ thấy có một thành phố trên
bãi biển bèn tấp vào kiếm ăn. Nhưng khi bước lên bờ họ mới nhận ra đó là một
thành phố không có người ở.
Và khi “thám hiểm” vào trong, họ gặp một cái nhà với
bốn người ở, có thể gọi là bốn quái nhân, những linh hồn sống duy nhất của thành
phố bỏ hoang này. Một người tương đối còn lành lặn nhất là Hồng lão, hồi 1966 là
giáo sư đại học Thanh Hoa, bị vệ binh đỏ hành hạ rồi đưa đi tập trung lao động,
cuối cùng về đây, một công trường cải tạo, nhưng về sau mọi người bỏ đi hết, chỉ
còn lại bốn người không biết về đâu. Người thứ hai là một bác sĩ y khoa, với một
câu chuyện ly kỳ, tàn khốc:
“Tôi ngồi trong nhà mà run sợ. Vì tôi là trí thức hành nghề theo học
thuật phương Tây thì ắt là hữu khuynh tư bản rồi. Thình lình, cánh cửa nhà cha
mẹ tôi bị đạp tung, một đội Vệ binh Đỏ tay cầm gậy gộc xông vào. Chúng dõng dạc
tuyên bố gia đình tôi thuộc thành phần trí thức tư sản, rồi xông vào đập phá đồ
đạc. Chúng giựt tranh treo tường, đập tủ chén, xô ngã bàn thờ, không còn một thứ
gì còn gọi là nguyên vẹn.
Thậm chí chiếc áo có thêu kim tuyến của mẹ tôi cũng bị
kết là tư sản, chúng lấy kéo cắt nát. Cha mẹ tôi, em trai tôi và tôi nữa bị
chúng bắt quì gối ngay giữa phòng trước. Sau đó, chúng xởn hết tóc chúng tôi,
còng tay và dẫn đi diễu phố. Hết ngày, chúng dẫn về, lấy roi da đánh đập chúng
tôi ngất đi rồi mới bỏ đi, không quên khóa trái cửa căn nhà. Gia đình tôi là kẻ
thù của nhân dân.”
Ở một đất nước mà từ nghìn xưa đã có những hiền triết nêu cao chữ Nhân như
một khám phá bản chất cao đẹp của con người, mà nay lại được điều hành bởi một
bạo chúa mác-xít hoàn toàn vô nhân, đẩy con người vào những trạng thái không thể
tưởng tượng nổi:
“Trong suốt bốn ngày, chúng tôi không có gì để ăn. Chén bát đã bể hết.
Chỉ còn ít mì gói nhai sống. Chúng tôi sợ hãi và đói khát. Sáng sớm hôm sau
chúng nó lại tới, lại hành hạ, lại đi diễu phố, lại bị đánh bằng roi da. Trời
ơi, đảng ơi…!
Điện đã bị cúp hết. Căn nhà tối mù. Bên ngoài mưa rơi nức nở. Chúng tôi
ngồi nghĩ đến cái chết. Phải rồi, sao không chết đi để hết nhục, để bớt đau khổ
thấy mình thua cả chó. Chắc là đã quá nửa đêm. Tiếng mưa rơi tê tái quá! Làm sao
để tự ải đây? Cha tôi suy nghĩ, mẹ tôi suy nghĩ, còn tôi thì nát óc. Đứa em trai
trên gác thượng chắc cũng đang suy nghĩ. Thình lình tôi nhìn thấy con dao rọc
giấy ở chân bàn. Bọn Vệ binh Đỏ hẳn đã làm rơi nó. Trời đã gửi thiên sứ xuống.
Tạ ơn trời.
Tôi là bác sĩ. Tôi biết là nếu động mạch cổ bị cắt thì các mạch máu
sẽ ngưng hoạt động và người ta chết tức khắc, chết tức khắc, chắc chắn như thế.
Đây là cách chết nhanh nhất và vô phương cứu chữa. Cha mẹ tôi chưa tin hẳn vào
lời giải thích của tôi. Người hỏi có đúng là chết dễ như thế không? Tôi phải lấy
bằng bác sĩ ra để đảm bảo với người là chắc chắn như thế. Cuối cùng mẹ tôi bảo:
‘Tạ ơn trời, sao lại dễ thế được. Tạ ơn trời đã ban cho tôi đứa con học ngành
y’. Người nói hoài như thế, mắt long lanh sung sướng. Cha tôi bảo: ‘Con là người
duy nhất biết việc, vậy hãy cắt cổ cha mẹ trước rồi hãy tự cắt cổ
con’.”
Kể ra, đi vượt biên mà có những cuộc gặp gỡ ly kỳ, mang lại những hiểu biết
lạ lùng như thế này thì cũng… đáng công khó. Trên thế giới giữa thế kỷ 20 hẳn
không ở đâu có được những chuyện tương tự như thế của nước Tàu.
Trải qua tất cả những thảm cảnh cùng cực cho một đời người, cuối cùng Hải
cũng đến được vùng đất hứa, là thành phố Hương Cảng. Trong trí tưởng tượng của
người vượt biên, đó là tự do, là thiên đường, nhưng đầu tiên họ phải vô các trại
tiếp cư, mà thực chất là nhà tù. Sống dưới chế độ nghèo khổ và bị tước đoạt hết
quyền làm người của chủ nghĩa cộng sản, người ta háo hức ra đi để tìm một đời
đáng sống hơn, và tưởng rằng phần nhân loại còn lại có bổn phận “phải” lo toan
mọi việc cho họ.
Đúng là có những tổ chức để lo toan, nhưng không xuể, vì lo
được một thì người ta kéo đến mười. Tiếng réo gọi của Tự Do thật là thần bí.
Tiếng réo gọi của một đời sống sung túc xứng đáng với phẩm giá cũng mạnh mẽ lạ
thường. Cũng làm thân con người, sao ở nơi kia người ta sung sướng, còn tôi thì
quá nhục nhằn? Sao tôi không thể chuyển đổi đời sống của tôi? Cái bến bờ xa xa
kia đã hớp hồn bao nhiêu người Việt Nam vào nửa sau thế kỷ 20, miền Nam thì có
đường phía nam, miền Bắc thì có đường phía bắc.
Tác giả Lê Đại Lãng đã có công và có lòng ghi lại các câu chuyện, các hoạt
cảnh của con đường vượt biên của đồng bào miền Bắc, miền đất đã chiến thắng
trong cuộc chiến vừa là tương tàn giữa những người con cùng một mẹ, vừa là giữa
hai ý thức hệ chia đôi thế giới trong thế kỷ 20. Văn tài của ông đã tạo dựng lại
biết bao số phận, biết bao thảm cảnh, biết bao nỗi hy vọng lẫn thất vọng của
những con người Việt Nam bao năm chôn vùi trong chế độ toàn trị vừa hé mắt nhìn
thấy ánh sáng của tự do xa xa ở phía chân trời, và đã nung nấu cái khát vọng
phải đến cho được nơi chân trời đó. Con thủy lộ không dài giữa vịnh Bắc Bộ đến
Hồng Kông cũng ngầm chứa bao hiểm nguy chết người, và quả đã giết vô số người sử
dụng nó với những phương tiện quá mỏng manh. Cuốn Đường Phía Bắc là một kho
chứng liệu sống của ý chí vượt khỏi địa ngục với tất cả thảm cảnh của nó.
Người điểm cuốn sách này biết là mình chưa làm hết công việc giới thiệu toàn
bộ tác phẩm trong bài viết này, vì chỉ mới nói chuyện đi đường mà chưa đề cập
chuyện đến nơi. Khi đến nơi thì câu chuyện đã có một không gian khác, tinh thần
khác, và chất chứa những cái ly kỳ khác. Vậy đành khất với độc giả trong một bài
viết khác.
Thứ Sáu 13 tháng 4, 2012.
P.X.Đ
TIN THẾ GIỚI
NATO lo ngại hành động của Nga ở Đông Ukraine và ‘quân sự hóa’ Crimea
Đại tướng Hoa Kỳ Philip Breedlove, Tổng tư lệnh quân đội NATO nói “một số lớn” binh sĩ Nga vẫn hoạt động ở miền đông Ukraine
Tổng tư lệnh quân đội của NATO nói rằng “một số lớn” binh sĩ Nga vẫn
hoạt động ở miền đông Ukraine, hình thành một “xương sống” tạo điều kiện
cho các phần tử đòi ly khai chống các lực lượng của chính phủ.
Đại tướng Philip Breedlove của Không lực Hoa Kỳ phát biểu như vậy với các phóng viên báo chí ở Kiev hôm thứ Tư, sau cuộc họp với các giới chức lãnh đạo chính phủ Ukraine.
Trong khi đó, Thủ tướng Đức Angela Merkel hôm thứ Tư nói rằng các biện pháp chế tài đang được áp dụng đối với Nga là “không thể tránh khỏi” và rằng “sự kiên nhẫn” là cần thiết để vượt qua cuộc khủng hoảng Ukraine.
Phát biểu trước Quốc hội ở Berlin, bà Merkel nói rằng không có gì có thể giải thích hoặc biện minh cho việc Nga sáp nhập Crimea, và không có gì có thể biện minh cho sự can thiệp “trực tiếp hoặc gián tiếp” của Nga vào Ukraine.
http://www.voatiengviet.com/content/nato-lo-ngai-hanh-dong-cua-nga-o-dong-ukraine-va-quan-su-hoa-crimea/2535885.html
Đại tướng Philip Breedlove của Không lực Hoa Kỳ phát biểu như vậy với các phóng viên báo chí ở Kiev hôm thứ Tư, sau cuộc họp với các giới chức lãnh đạo chính phủ Ukraine.
Đại tướng Breedlove nói: “Chúng tôi thấy ngay bên trong Ukraine một số
lớn binh sĩ Nga tham gia các hoạt động chủ yếu vào huấn luyện, cố vấn hỗ
trợ và giúp các lực lượng được Nga hậu thuẫn ở miền đông. Chúng tôi
không thấy các lực lượng tác chiến triển khai, nhưng chúng tôi thấy binh
sĩ hiện diện ở đó, đặc biệt hình thành một xương sống, cố vấn và huấn
luyện cho các lực lượng được Nga hậu thuẫn ở miền đông.”
Đại tướng Breedlove nói rằng Hoa Kỳ tiếp tục cam kết hỗ trợ Ukraine về
tài chính, trang thiết bị và cố vấn chuyên môn để giúp Ukraine đối phó
hữu hiệu hơn với tình hình ở miền đông nước này.
Ông cũng bày tỏ lo ngại rằng các lực lượng đòi ly khai được Nga hậu
thuẫn “có khả năng và sẽ có thể sẽ chiếm thêm lãnh thổ dọc theo lằn ranh
đối kháng với các lực lượng chính phủ.
Moscow đã nhiều lần bác bỏ bất cứ sự tham gia quân sự chính thức nào ở
Ukraine, và nói rằng các binh sĩ Nga sát cánh chiến đấu với các phần tử
nổi dậy ở Ukraine là những người tình nguyện.
Đại tướng Breedlove cũng cảnh báo về điều mà ông gọi là việc Moscow
“quân sự hóa” Crimea, bán đảo của Ukraine ở Hắc Hải bị Nga sáp nhập hồi
tháng 3, có thể được sử dụng để thiết đặt kiểm soát lên toàn khu vực Hắc
Hải.
Ông Breedlove nói: “Các khả năng đang được thiết đặt tại Crimea sẽ hình thành ảnh hưởng lên hầu như toàn vùng Hắc Hải.”
Giới chức này nói NATO đang “theo dõi các dấu hiệu” mà Nga có thể sẽ di chuyển một phần kho vũ khí hạt nhân của họ đến Crimea.
Bộ Quốc phòng Nga hôm thứ Tư cho hay họ đã phái 14 chiến đấu cơ phản lực
đến bán đảo Crimea theo khuôn khổ của kế hoạch phi đội gồm 30 chiến đấu
cơ sẽ đồn trú trên bán đảo này.Trong khi đó, Thủ tướng Đức Angela Merkel hôm thứ Tư nói rằng các biện pháp chế tài đang được áp dụng đối với Nga là “không thể tránh khỏi” và rằng “sự kiên nhẫn” là cần thiết để vượt qua cuộc khủng hoảng Ukraine.
Phát biểu trước Quốc hội ở Berlin, bà Merkel nói rằng không có gì có thể giải thích hoặc biện minh cho việc Nga sáp nhập Crimea, và không có gì có thể biện minh cho sự can thiệp “trực tiếp hoặc gián tiếp” của Nga vào Ukraine.
http://www.voatiengviet.com/content/nato-lo-ngai-hanh-dong-cua-nga-o-dong-ukraine-va-quan-su-hoa-crimea/2535885.html
Ukraina gia nhập NATO : Con đường dài đầy chông gai
Do sức ép, đe dọa của Nga, chính quyền Kiev tỏ thái độ kiên quyết muốn
đưa Ukraina gia nhập Liên minh Bắc Đại Tây Dương – NATO. Thế nhưng, để
làm được việc này, Kiev phải thỏa mãn nhiều điều kiện như từ bỏ quy chế «
không liên kết », cải tổ và hiện đại hóa quân đội, trưng cầu dân ý.
Theo giới phân tích, con đường gia nhập NATO của Ukraina còn dài, đầy
chông gai và bấp bênh.
Cách nay 10 năm, ông Petro Porochenko đã từng khẳng định tiến trình
Ukraina gia nhập NATO giống như ánh sáng cuối đường hầm. Ngày 24/11 vừa
qua, trên cương vị Tổng thống, ông cam kết cho tổ chức trưng cầu dân ý
về chủ đề này, một khi đã hội tụ đủ các điều kiện, nhưng không cho biết
các chi tiết cụ thể.
Sau cuộc bầu cử lập pháp tháng 10/2014, liên minh thân phương Tây cầm
quyền tại Kiev đã coi việc gia nhập NATO như là một ưu tiên mới. Công
việc đầu tiên phải làm, là từ nay đến cuối năm, sẽ sửa đổi Hiến pháp, « hủy bỏ quy chế không liên kết của Ukraina » và « tái thúc đẩy chính sách để gia nhập NATO ».
Dường như giới lãnh đạo chính trị Ukraina đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn
của xã hội : Theo các cuộc thăm dò dư luận, trong bối cảnh xẩy ra cuộc
xung đột quân sự ở miền đông, tỷ lệ người dân ủng hộ Ukraina vào NATO đã
tăng vọt, lên tới 51%, trong tháng 11/2014, thay vì chỉ có 20% trong
tháng 10/2013.
Tuy nhiên, theo bà Alisa Lockwood, chuyên gia thuộc trung tâm tư vấn IHS
Country Risk, trụ sở tại Luân Đôn, Anh Quốc, được AFP trích dẫn, « điều
quan trọng cần ghi nhận là ông Porochenko không gợi ý việc gia nhập
NATO ngay trong thời gian tới. Ông nói đến trưng cầu dân ý vào khoảng
năm 2020. Từ nay đến đó, rất nhiều việc có thể thay đổi, không có gì bảo
đảm là ông sẽ vẫn tại chức » và « đó là một cách trì hoãn vấn đề, xem xét sau, đồng thời vẫn thừa nhận tầm quan trọng của việc gia nhập NATO trong công luận ».
Thực vậy, nếu chỉ có quyết tâm thì chưa đủ, để có thể thực hiện nhiều
cải cách sâu rộng, nếu như một ngày nào đó Ukraina muốn đáp ứng tất cả
các điều kiện rất chặt chẽ của NATO.
Chỉ riêng trong lĩnh vực kỹ thuật, Ukraina phải có một quân đội hiện đại
và hoàn toàn tương tác với quân đội của các thành viên khác trong NATO,
trong lúc quân đội Ukraina hiện nay quá yếu kém, trang bị tồi tàn và
rất tham nhũng.
Ngoài những khó khăn này, Ukraina còn phải đối mặt với sự tức giận và
phản đối quyết liệt của Nga. Trong những ngày qua, Matxcơva đã công khai
nhắc nhở Kiev nên đứng ngoài mọi khối và vạch ra lằn ranh đỏ đối với
phương Tây, khi đòi phải có bảo đảm 100% là Ukraina không gia nhập NATO.
Quả thực là Matxcơva coi việc Kiev vào NATO là một ác mộng và không
ngừng tố cáo khối quân sự này xích lại gần biên giới Nga, bất chấp những
lời hứa không đón tiếp thêm các thành viên là láng giềng của Nga được
đưa ra trong thời kỳ khối cộng sản Đông Âu sụp đổ.
Ngay từ năm 1994, Ukraina đã liên kết với NATO trong khuôn khổ quan hệ
đối tác hòa bình, sau đó gia tăng trao đổi và đối thoại với khối này,
nhưng đến tháng 06/2010, thì từ bỏ hẳn dự án gia nhập NATO và khẳng định
quy chế « không liên kết ».
Ngoài cản trở của Nga, việc Ukraina gia nhập NATO cũng gây chia rẽ trong
nội bộ khối này, giữa một bên là các nước thành viên lâu đời, như Pháp,
Đức, lưỡng lự trong việc tiếp nhận Kiev, và bên kia là các thành viên
mới, như Ba Lan, Litva thì ủng hộ mạnh mẽ.
Ngày 23/11, trên tạp chí Spiegel, Ngoại trưởng Đức Frank-Walter
Steinmeier tuyên bố ủng hộ Ukraina có quan hệ đối tác với NATO, chứ
không phải là thành viên. Trong khi đó, ông Anders, Fogh Rassmussen, hồi
tháng Tám vừa qua, khi còn giữ chức Tổng Thư ký NATO, thì nhắc lại là
Ukraina có thể gia nhập khối này, nếu muốn.
Giới quan sát cho rằng, về mặt chiến lược, NATO không mặn mà với ý tưởng
kết nạp các nước có tranh chấp lãnh thổ với Nga, ví dụ NATO đã từ bỏ
các cuộc đàm phán về việc gia nhập của Gruzia, sau khi xẩy ra một cuộc
chiến tranh chớp nhoáng giữa Nga và nước này, năm 2008.
Ông Vassyl Filiptchouk, thuộc Trung tâm nghiên cứu chính trị quốc tế Kiev, nhắc lại : « Các
thành viên NATO không có khả năng đạt được đồng thuận liên quan đến
việc trừng phạt Nga. Do vậy, việc chấp nhận trong hàng ngũ Liên minh một
nước đang có xung đột vũ trang với Nga, đó là phim khoa học viễn tưởng »
http://vi.rfi.fr/quoc-te/20141126-ukraina-gia-nhap-nato-con-duong-dai-day-chong-gai/Giá dầu giảm làm Nga thiệt hại
Giá dầu giảm khiến Nga có thể thiệt đến 100 tỉ đôla một năm, trong lúc
trừng phạt của phương Tây đã khiến Nga mất 40 tỉ, theo Bộ trưởng Tài
chính của Nga.
Ông Anton Siluanov phát biểu hôm thứ Hai tại một diễn đàn ở Moscow.
Có đồn đoán nói Nga có thể cắt sản lượng dầu chừng 300.000 thùng một ngày để nâng giá.
Tổng thống Vladimir Putin đã nói Nga có thể chịu “hậu quả thảm khốc” vì trừng phạt, giá dầu giảm và đồng rouble mất giá.
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa (Opec) có thể sẽ cắt giảm sản lượng để hỗ trợ giá.
Iran, Libya và Venezuela đã kêu gọi Opec làm việc này.
Bộ trưởng năng lượng Nga Alexander Novak tuần rồi nói Moscow cân nhắc việc cắt giảm, nhưng chưa có quyết định.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2014/11/141124_russia_oil_effect
Đồng ruble đang ngày càng mất giá. Ảnh: Người qua đường đi ngang một điểm đổi ngoại tệ ở Moskva (Nguồn: AFP)
Nga đang thiệt hại tới 140 tỷ USD (113 tỷ euro) mỗi năm do các biện pháp trừng phạt của Phương Tây liên quan đến cuộc xung đột ở Ukraine và giá dầu tụt dốc, song Tổng thống nước này Vladimir Putin khẳng định những thiệt hại về kinh tế là "không đến mức tai hại".
Theo ông Siluanov, giá dầu sụt giảm cũng khiến nền kinh tế Nga thiệt hại "khoảng 90 đến 100 tỷ USD mỗi năm". Tuy nhiên, ông hạ thấp tác động của các biện pháp trừng phạt với các thiệt hại về kinh tế khi cho rằng giá dầu thô mới là yếu tố quyết định.
Hôm 21/11, Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak cho biết nước này đang cân nhắc cắt giảm sản lượng dầu để tăng giá. Theo ông Novak, Nga không có phương tiện kỹ thuật để nhanh chóng tăng hay giảm sản lượng dầu như Saudi Arabia, song Moskva đang nghiêm cứu "tính thiết thực của những biện pháp như vậy".
Trong bài trả lời phỏng vấn hãng tin TASS hôm 23/11, Tổng thống Nga Putin nói rằng giá đồng Ruble sụt giảm chỉ làm tổn hại nền kinh tế Nga "ở một chừng mực nào đó", đồng thời tuyên bố xem nhẹ việc Phương Tây liệt một loạt quan chức và doanh nhân Nga thân cận với ông vào danh sách đen, cho rằng quyết định trừng phạt họ nhằm tác động đến ông là dựa trên "một giả thuyết sai lầm"./
.http://www.vietnamplus.vn/nga-thiet-hai-140-ty-usd-do-lenh-trung-phat-va-gia-dau-giam/292947.vnp
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2014/11/141124_russia_oil_effect
Nga thiệt hại 140 tỷ USD do lệnh trừng phạt và giá dầu giảm
(Vietnam+)
Nga đang thiệt hại tới 140 tỷ USD (113 tỷ euro) mỗi năm do các biện pháp trừng phạt của Phương Tây liên quan đến cuộc xung đột ở Ukraine và giá dầu tụt dốc, song Tổng thống nước này Vladimir Putin khẳng định những thiệt hại về kinh tế là "không đến mức tai hại".
Hãng tin RIA Novosti dẫn phát biểu của Bộ trưởng Tài chính Nga Anton
Siluanov tại một diễn đàn kinh tế ở Moskva cho hay: "Chúng tôi thiệt hại
khoảng 40 tỷ USD mỗi năm do các biện pháp trừng phạt mang động cơ địa
chính trị".
Theo ông Siluanov, giá dầu sụt giảm cũng khiến nền kinh tế Nga thiệt hại "khoảng 90 đến 100 tỷ USD mỗi năm". Tuy nhiên, ông hạ thấp tác động của các biện pháp trừng phạt với các thiệt hại về kinh tế khi cho rằng giá dầu thô mới là yếu tố quyết định.
Hôm 21/11, Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak cho biết nước này đang cân nhắc cắt giảm sản lượng dầu để tăng giá. Theo ông Novak, Nga không có phương tiện kỹ thuật để nhanh chóng tăng hay giảm sản lượng dầu như Saudi Arabia, song Moskva đang nghiêm cứu "tính thiết thực của những biện pháp như vậy".
Trong bài trả lời phỏng vấn hãng tin TASS hôm 23/11, Tổng thống Nga Putin nói rằng giá đồng Ruble sụt giảm chỉ làm tổn hại nền kinh tế Nga "ở một chừng mực nào đó", đồng thời tuyên bố xem nhẹ việc Phương Tây liệt một loạt quan chức và doanh nhân Nga thân cận với ông vào danh sách đen, cho rằng quyết định trừng phạt họ nhằm tác động đến ông là dựa trên "một giả thuyết sai lầm"./
.http://www.vietnamplus.vn/nga-thiet-hai-140-ty-usd-do-lenh-trung-phat-va-gia-dau-giam/292947.vnp
Chuck Hagel ra đi có ảnh hưởng tới VN?
- 25 tháng 11 2014
Tổng thống Barack Obama đã loan báo việc ông Chuck Hagel từ chức hôm 24/11
Giới quan sát cho rằng việc Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel
rút khỏi nhiệm sở không có ảnh hưởng lớn tới quan hệ Việt-Mỹ.
Thứ Hai ngày 24/11, Tổng thống Barack Obama xác nhận ông Hagel sẽ từ chức sau chưa đầy hai năm nắm quyền.
Hiện dư luận còn đang đồn đoán ông bị buộc phải từ chức hay tự
nguyện ra đi. Một điều rõ ràng, là quan hệ giữa ông trong vai trò bộ
trưởng với tổng thống và nội các, nhấ́t là Ủy ban An ninh Quốc gia, đã
lâm vào tình trạng "cơm không lành, canh không ngọt" từ lâu nay.
Ông từng than phiền rằng ông bị "quản lý quá tỉ mỉ" (micromanaged).
Thượng nghị sỹ Cộng hòa John McCain hôm thứ Hai nói trên một đài phát
thanh ở bang Arizona rằng ông Hagel “rất rất mệt mỏi” về quan hệ của
mình với Nhà Trắng.
Ngoài lý do quan hệ không tốt với chính quyền Obama, người ta còn đoán
thêm các lý do khác dẫn tới sự ra đi của ông, như thiếu hiểu biết về
Trung Đông trong bối cảnh cuộc chiến chống Nhà nước Hồi giáo (IS) đang
hồi gay gắt; thậm chí ông là vật tế thần cho chính sách ngoại giao và
an ninh ẻo lả của ông tổng thống...
Nói những điều đó để thấy rằng, không có lý do gì trong những đồn đoán liên quan tới Việt Nam, hay khu vực Đông Nam Á.
'Không suy xuyển'
Tiến sỹ Ian Storey, chuyên gia về Đông Nam Á tại Singapore, nói theo ông
việc ông Hagel từ chức "không có ảnh hưởng gì tới quan hệ Mỹ-Việt,
kể cả trong lĩnh vực quốc phòng".
Sẽ rất khó cho chính quyền Obama thuyết
phục các bạn bè và đồng minh trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là
Việt Nam, về cam kết xoay trục sang châu Á-Thái Bình Dương cũng như đối
với an ninh khu vực.
Có ý kiến cho rằng ông Chuck Hagel, một trong các cựu chiến binh cuộc
chiến Việt Nam, có thể có tình cảm riêng đặc biệt nào đó với Việt
Nam và do vậy có khả năng đóng góp nhiều hơn cho quan hệ hai bên.
Đó chỉ là cách nhìn cảm tính, và theo Tiến sỹ Storey, một bộ trưởng
mạnh với hiểu biết thấu đáo hơn về an ninh như Robert Gates mới thực sự
có ảnh hưởng cho quan hệ giữa Hoa Kỳ với các nước trong khu vực, trong
đó có Việt Nam.
Tiến sỹ Zachary Abuza, chuyên gia về an ninh khu vực Đông Nam Á, thì cho
rằng sự kiện ông Chuck Hagel từ chức có thể gây ra ảnh hưởng về tâm
lý.
"Ông Hagel vừa hoãn thăm Việt Nam vì tình hình Iraq và Syria. Ông ta sẽ
không thực hiện chuyến đi này trước khi rời nhiệm sở."
Quá trình lựa chọn người thay thế Hagel, theo ông Abuza, sẽ lâu dài và
khó khăn trong khi hai đảng đều tập trung vào cuộc bầu cử 2016.
"Sẽ rất khó cho chính quyền Obama thuyết phục các bạn bè và đồng minh
trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, về cam kết xoay trục
sang châu Á-Thái Bình Dương cũng như đối với an ninh khu vực."
Tiến sỹ Zachary Abuza nói: "Tuy việc từ chức sẽ không ảnh hưởng nhiều
tới các chi tiết đã hoạch định như điều 60% lực lượng hải quân tới châu
Á-Thái Bình Dương, các cuộc tập trận và thăm hải cảng dự kiến, dư
luận trong khu vực chắc chắn sẽ quan ngại rằng Hoa Kỳ quá bận rộn về
các vấn đề khác và không thể hỗ trợ trước sự mạnh bạo gia tăng của Trung
Quốc".
Ông cũng cho rằng, Bắc Kinh đã bỏ nhiều nỗ lực ngoại giao để thuyết phục
các nước trong khu vực rằng Hoa Kỳ không phải là đối tác đáng tin cậy.
"Việc Hagel hoãn thăm Việt Nam đã đưa ra các tín hiệu sai lệch cho
Hà Nội, và việc ông từ chức chắc sẽ gây thêm quan ngại. Hà Nội sẽ
muốn biết chắc hơn về cam kết đối với an ninh khu vực cũng như tự do
hàng hải [của Hoa Kỳ]."
Ai thay Hagel?
Chuck Hagel, 68 tuổi, từng tham chiến ở Việt Nam và từng làm thượng nghị
sỹ đảng Cộng hòa cho tiểu bang Nebraska quê hương ông trong 12 năm, là
bộ trưởng quốc phòng từ năm 2013.
Ông sẽ vẫn tại vị cho tới khi chính quyền Mỹ xác nhận người kế nhiệm ông.
Ông đã từng chỉ trích việc Hoa Kỳ can dự vào Iraq mặc dù bỏ phiếu để Washington lâm chiến.
Ông Hagel thay ông Leon Panetta trong cương vị bộ trưởng quốc phòng
trong nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của ông Obama và đóng vai trò giảm
cường độ hai cuộc chiến của Mỹ tại Afghanistan và Iraq cùng lúc giúp
chính quyền ông Obama chuyển cán cân quân sự sang châu Á.
Tuy nhiên ông bị cho là lựa chọn sai cho vị trí bộ trưởng quốc phòng,
và hiện đang có một danh sách các "ứng viên" có thể thay thế ông.
Trong các nhân vật khả dĩ có bà Michèle Flournoy, cựu trợ lý bộ trưởng
quốc phòng; ông Ash Carter, cựu thứ trưởng quốc phòng, hoặc ông John
Hamre, người cũng từng giữ chức thứ trưởng.
Thế nhưng dù là ai, thì người đó cũng phải làm việc trong hai năm cuối
nhiệm kỳ Obama, và phải cân nhắc kỹ lưỡng là liệu sẽ có đủ hỗ trợ và
điều kiện để làm tròn nhiệm vụ của mình hay không trước quyền lực tập
trung to lớn hiện nay của Ủy ban An ninh Quốc gia.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2014/11/141125_hagel_resignation_vietnam
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2014/11/141125_hagel_resignation_vietnam
Việt Nam ‘phản đối trừng phạt Nga 26 tháng 11 2014
Ông Nguyễn Phú Trọng đã gặp Tổng thống Vladimir Putin
Nga và Việt Nam ra tuyên bố chung nói việc “áp đặt cấm vận đơn
phương… sẽ làm mất ổn định và gia tăng căng thẳng trong quan hệ quốc
tế”.
Đây là một phần của Tuyên bố đưa ra trong chuyến thăm Nga của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.
Ông Trọng vừa kết thúc chuyến thăm, kéo dài từ 23 đến 26/11.
Tại Moscow, ông đã gặp các lãnh đạo Nga, trong đó có Tổng thống Vladimir Putin.
Tuyên bố chung của hai nước viết: “Hai bên nhất trí rằng, sự can thiệp
từ bên ngoài vào xung đột trong nước của các quốc gia có chủ quyền, áp
đặt cấm vận đơn phương không tính đến đặc thù chính trị nội bộ, sắc tộc,
tôn giáo, văn hóa và các đặc thù khác sẽ làm mất ổn định và gia tăng
căng thẳng trong quan hệ quốc tế.”
“Hai bên nhấn mạnh không chấp nhận sự can thiệp bằng vũ lực từ bên ngoài
vào công việc của các quốc gia có chủ quyền, trái với các chuẩn mực
luật pháp quốc tế.”
Tuyên bố này được cho là nhằm phản đối lệnh trừng phạt của Mỹ và châu Âu vì vai trò của Nga trong khủng hoảng ở Ukraine.
Nga và Việt Nam cũng tuyên bố “kiên quyết bác bỏ mọi mưu toan xét lại
kết quả của Chiến tranh thế giới thứ II, phủ định vai trò quyết định của
nhân dân Liên Xô trong chiến thắng thế lực phát xít và chủ nghĩa quân
phiệt”.
Trong phần liên quan tranh chấp Biển Đông, tuyên bố nói tranh chấp ở
châu Á – Thái Bình Dương “cần được các bên liên quan giải quyết chỉ bằng
biện pháp hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, trên cơ
sở luật pháp quốc tế”.
Chuyến thăm của ông Nguyễn Phú Trọng được xem là khẳng định quan hệ truyền thống giữa hai nước.
Tuyên bố chung nói cuộc gặp của ông với Tổng thống Putin “diễn ra trong
bầu không khí hữu nghị truyền thống, cởi mở và tin cậy lẫn nhau”.
Thừa Thiên - Huế dừng dự án ở đèo Hải Vân
26 tháng 11 2014
Tỉnh Thừa Thiên - Huế cho dừng một dự án ở đèo Hải Vân sau những phản đối liên quan lý do quốc phòng an ninh.
Ông Nguyễn Văn Cao, Chủ tịch tỉnh Thừa Thiên - Huế, tuyên bố tỉnh chủ
động cho dừng dự án khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine - Huế
trên đèo Hải Vân.
"Chúng tôi quyết định dừng dự án, không triển khai nữa và tiến tới thu hồi", ông Cao nói với trang tin VnExpress chiều 26/11.
"Nếu như phân tích thì có những quy hoạch quốc phòng riêng, lâu nay phía tỉnh cũng chưa rõ lắm, giờ nắm rõ rồi thì dừng thôi.”
Quyết định được gửi tới nhà đầu tư, Công ty cổ phần Thế Diệu, do Công ty
TNHH World Shine Hong Kong thành lập, đăng ký đầu tư tại Thừa Thiên -
Huế từ tháng 10/2013.
Chủ doanh nghiệp này là người Trung Quốc.
Theo VnExpress, tỉnh Thừa Thiên - Huế giao cho Ban quản lý khu kinh tế
Chân Mây - Lăng Cô, đơn vị cấp giấy chứng nhận đầu tư, có trách nhiệm
làm việc với Công ty Cổ phần Thế Diệu để xem xét việc có bồi thường dự
án.
Ông Cao nói thêm rằng tỉnh vẫn chờ kết luận của Thủ tướng.
"Chúng tôi vẫn đang chờ ý kiến cuối cùng của Thủ tướng Chính phủ và Bộ
Quốc phòng. Thủ tướng có quyết định dừng hay thu hồi thì phía tỉnh
nghiêm túc chấp hành."
Trước đó, ngày 20/11, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế có báo cáo gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xin ý kiến.
Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng gửi một đoàn vào kiểm tra.
Dự án 200 ha tại khu vực mũi Cửa Khẻm muốn xây dựng khu nghỉ mát cùng căn hộ với tổng vốn đầu tư 250 triệu đôla.
Tuy vậy, nhiều ý kiến đã phản đối, nói rằng địa điểm này quan trọng về an ninh quốc phòng.http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/11/141126_haivan_project_halted

Wednesday, November 26, 2014
CAO ĐẮC TUẤN * GIÃ TỪ SAIGON
Giã Từ Sài Gòn"
Ta hãy đọc những ca khúc miền Bắc cộng sản trong thời chiến tranh:
Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) - Tóm
lược: Bài hát "Giã Từ Sài Gòn" không là một bài hát thịnh
hành trong miền Nam trước năm 1975 và ít người biết đến. Tuy
nhiên, bài hát có những nét đặc sắc qua lời ca êm ái, giai
điệu nhẹ nhàng, và tiết tấu chậm buồn. Bài hát nói lên tâm
tình một anh lính trẻ thuộc Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) trong
chuyến đi rời Sài Gòn ra đơn vị lần đầu sau ba tháng quân
trường. Với cách diễn tả cân bằng, cách dùng chữ đơn sơ và
chân thật, tác giả mô tả anh lính có nhiều tình cảm với đồng
đội, người yêu, thành phố, và núi rừng đất nước. Những chi
tiết đặc thù cá nhân về anh lính giúp người nghe có một hình
ảnh cụ thể về bối cảnh chiến tranh trong miền Nam và hiểu thêm
tâm tư anh. Bài hát biểu lộ bản chất hiền hòa và lòng yêu
nước của người lính VNCH, khác hẳn với những bài hát "Nhạc
đỏ" của cộng sản sặc mùi chém giết và hận thù.
*
Bạn bức xúc, một độc giả Dân Làm Báo, yêu cầu tôi viết
một bài về bản nhạc "Giã Từ Sài Gòn." Bài hát không được
thịnh hành lắm và do đó có ít tài liệu về lời ca, nốt nhạc,
và tác giả. Cả bạn bức xúc và tôi không biết tên tác
giả bài hát. Tôi chưa từng nghe và biết bài này trước đó,
nhưng chắc chắn là bài hát được viết bởi một nhạc sĩ miền
Nam trước 1975. Có đề cập trên mạng cho biết tác giả có thể
là Tú Nhi (tức ca sĩ Chế Linh), nhưng tin này chưa được kiểm
chứng. Danh sách những tác phẩm của Tú Nhi trên mạng không có
bài "Giã Từ Sài Gòn." Nếu độc giả biết ai là tác giả xin cho
biết. Nhan đề của bài hát cũng không rõ rệt. Có vài trang
mạng ghi là "Giã Biệt Sài Gòn." Tuy nhiên, tôi nghĩ "Giã Từ
Sài Gòn" đúng hơn vì đó là câu ngay trong bài hát.
Chưa từng nghe bài hát trước đó là một thử thách cho người
viết về bài hát. Đó là vì khác với các thể loại nghệ thuật
khác (thơ, tiểu thuyết, hội họa, phim ảnh, kiến trúc), âm nhạc
thường đòi hỏi một thời gian lắng nghe để thưởng thức. Có
những ca khúc mới nghe ta đã thích liền. Có những ca khúc phải
nghe thật lâu, nghe đi nghe lại mới thấy hay, mới cảm nhận được
ý nghĩa lời ca. Không biết tác giả là ai cũng tạo chút khó
khăn vì ta không biết cuộc đời, nghề nghiệp, gia đình, thân thế,
và các tác phẩm khác để có chút manh mối trong việc tìm
hiểu ý nghĩa bài hát.
Ngược lại, các sự thiếu sót này cũng có lợi trong việc tìm
hiểu bài hát. Vì mới nghe bài hát lần đầu, tôi có được cảm
xúc và ấn tượng nguyên thủy, và không bị chi phối bởi những ý
thích trong quá khứ. Ngoài ra, vì không biết tác giả, tôi có
được nhận xét khách quan hơn và không bị ảnh hưởng bởi các
tác phẩm khác của tác giả.
Khi tôi mới nghe "Giã Từ Sài Gòn" lần đầu, tôi không có cảm
xúc hoặc ấn tượng mạnh lắm, nhưng tôi nhận ra giai điệu nhẹ
nhàng rất thích hợp với ngôn từ chân thật biểu lộ nỗi niềm
tha thiết của anh lính cho đồng đội, người yêu, và quê hương đất
nước. Tôi tiếp tục nghe, mỗi ngày, mỗi đêm. Nghe đi nghe lại.
Dần dà, tôi thấy hứng thú. Khi nghe tới lần thứ 114 (trong vòng
một tuần), tôi biết là tôi phải viết về bài này, và không
ráng nghĩ kế thối thác với bạn bức xúc (đùa chút thôi).
Nguyên văn lời bài hát như sau.
Cùng trang cùng lứa
chúng tôi cùng đơn vị thương mến nhau chung một toán
Giã từ Sài Gòn yêu,
nửa đêm tâm sự lính kiếp tha hương đồng hành
Vui chung cuộc hành trình,
phong sương chưa lần bước, ba tháng dài được là bao
Hỏi em em lại khóc,
bàn tay xin níu lại xin thời gian chưa qua mau.
Ngày xa thành phố,
nỗi vui cùng nỗi buồn đầy ắp ba-lô nặng lắm
Tám thằng trong chúng tôi,
đứa nghiêng vai ngồi tiếc nuối, đứa khoanh tay nhìn trời
Xa nhau trong vài giờ,
không gian thì lại cách xa ngút ngàn rồi em ơi
Gió Sông Hương lạnh lắm,
phải chăng sông núi lạnh hay tại vì anh xa em?
Bao nhiêu thương nhớ giăng đầy
Bọn tôi cũng gượng cười mà lòng nghe buồn riêng vấn vương
Khói thuốc chưa lần châm mồi
Chưa từng quen mùi mà giờ thì nghe ấm môi.
Đêm nay viết cánh thư tình
Đêm đã khuya rồi mà lời lòng chưa vừa ý
Giờ buồn người ở phương xa, vẩn vơ từ đêm qua.
Đời trai nghiệp lính
biết đi là gian khổ nhưng vẫn đi cho thoải chí
Mấy thuở được làm quen
đó đây sông cùng núi, chia sẻ đau thương ngọt bùi
Cho nên dù người thương
cho nên dù người nhớ, ba tháng dài được bao nhiêu?
Có yêu thương thành phố,
phải yêu thương núi rừng mới là người trai hiên ngang.
Trong bài này, tôi sẽ trình bày nhận xét về nội dung và hình
thức của "Giã Từ Sài Gòn." Ngoài ra, như trong các bài viết
về âm nhạc trước, tôi sẽ chú trọng thảo luận về các khía
cạnh văn chương của lời nhạc.
A. Bối cảnh cho câu chuyện trong bài hát:
Để có thể hiểu rõ ý nghĩa và tâm tư anh lính, ta nên có chút
khái niệm về bối cảnh chiến tranh tại miền Nam trước 1975. Tôi
sẽ chỉ chú trọng đến hai khía cạnh của bối cảnh này liên hệ
đến bài hát: Vấn đề gia nhập quân đội và các binh chủng của
quân lực VNCH (QLVNCH). Tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết mà chỉ
nói qua những chi tiết giúp ta hiểu thêm về anh lính trong bài
hát.
1. Gia nhập quân đội:
Trong suốt chiến tranh Việt Nam, chính quyền kêu gọi thanh niên
gia nhập quân đội qua những sắc luật Tổng động viên. Sau cuộc
Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, lệnh Tổng Động Viên kêu gọi
thanh niên từ 18 tới 43 tuổi. Tới năm 1972, tuổi 18 sụt xuống
một tuổi thành 17 (Nguyễn Quý Đại 2013). Dưới lệnh Tổng động
viên, mọi thanh niên trong tuổi động viên phải gia nhập quân đội,
trừ phi được hoãn dịch. Có nhiều trường hợp hoãn dịch: nghề
nghiệp (thí dụ nhân viên chính quyền), sức khỏe, gia cảnh (thí
dụ con một), và học vấn.
Hoãn dịch vì lý do học vấn dựa vào tuổi tác và lớp học.
Thời VNCH, trung học có hai cấp: trung học đệ nhất cấp, từ lớp
đệ thất (lớp 6) tới lớp đệ tứ (lớp 9); và trung học đệ nhị
cấp, từ lớp đệ tam (lớp 10) cho tới đệ nhất (lớp 12) (Huỳnh
2013). Để được ra trường trung học, phải thi đậu các kỳ thi
Trung học đệ nhất cấp (sau lớp 9), Tú Tài I (sau lớp 11) và Tú
Tài II (sau lớp 12). Sau này, kỳ thi trung học đệ nhất cấp
được bãi bỏ, và tiếp theo là Tú Tài I, chỉ còn Tú Tài (tức
Tú Tài II). Vào niên khóa 1969-1970, các lớp được đổi lại như
sau: đệ thất, lục, ngũ, tứ, tam, nhị, nhất được đổi thành 6,
7, 8, 9, 10, 11, và 12, theo thứ tự đó.
Nếu bạn học đúng tuổi hoặc trễ một năm thì được hoãn dịch.
Nếu bạn học trễ hai năm trở lên thì phải nhập ngũ. Đúng tuổi
là 11 tuổi bắt đầu học lớp 6, 17 tuổi bắt đầu học lớp 12, 18
tuổi bắt đầu học năm thứ nhất Đại học, v.v. Nếu bạn rớt Trung
học đệ nhất cấp (lúc còn kỳ thi) hoặc chỉ học tới lớp 10
và tới tuổi động viên (do đó trễ tuổi), thì bạn chỉ học ba
tháng quân trường và thành binh nhì. Nếu bạn đậu Trung học đệ
nhất cấp (hoặc miễn thi vì kỳ thi đã hủy bỏ), nhưng rớt Tú
Tài I, và bị trễ tuổi, thì sẽ đi học hạ sĩ quan, ra trường
với cấp bậc trung sĩ. Vì vậy mới có câu "Rớt Tú Tài, anh đi trung sĩ/ Em ở nhà lấy Mỹ bồng con."
Nếu bạn đậu Tú Tài I nhưng rớt Tú Tài II và trễ tuổi, thì
sẽ đi học sĩ quan trừ bị ở Trường Bộ Binh Thủ Đức, ra trường
với cấp bậc Chuẩn Úy. Nếu bạn đậu Tú Tài II, nhưng trễ tuổi
hoặc rớt các năm đại học và bị trễ tuổi, bạn có thể đi học
Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, hoặc học sĩ quan trừ bị ở
Trường Bộ Binh Thủ Đức. Để vào Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt,
bạn phải qua một cuộc thi tuyển gay go. Học trình ở Trường Võ
Bị Quốc Gia Đà Lạt từ năm 1966 là bốn năm. Tốt nghiệp Đà Lạt
tương đương với bằng Cử Nhân, và có cấp bậc Thiếu úy (Nguyễn
Ngọc Chính).
Với tỉ lệ đậu Tú tài I khoảng 15-30% và Tú tài II khoảng 30-45%
(Huỳnh 2013), số học sinh phải tòng ngũ khá cao. Hầu hết học
sinh sinh viên nào trong tuổi động viên tại miền Nam đều có bạn
bè là quân nhân trong VNCH.
2. Các đơn vị trong QLVNCH:
QLVNCH được phát triển qua nhiều giai đoạn: Giai đoạn hình thành
(1945-1954), giai đoạn phát triển lần thứ nhất (1954-1968), và
giai đoạn phát triển lần thứ nhất (1968-1975) (Nguyễn 2001,
819-881). Câu chuyện anh lính trong bài "Giã Từ Sài Gòn" rất có
thể xảy ra vào giai đoạn thứ hai khi cuộc chiến trở nên ngày
càng khốc liệt. Trong giai đoạn này, QLVNCH có khoảng hơn một
triệu quân nhân: chủ lực quân có khoảng 450 ngàn (trong đó 152
ngàn thuộc các sư đoàn bộ binh, và phần còn lại thuộc các
binh chủng và các đơn vị yểm trợ), lực lượng địa phương quân
có khoảng 325 ngàn và nghĩa quân khoảng 200 ngàn. Nữ quân nhân
có khoảng 4 ngàn (Nguyễn 2001, 865).
QLVNCH gổm có Lục Quân, Không Quân, và Hải Quân. Trong phần sau
đây, tôi chỉ nói về lục quân vì đó là ngành của anh lính trong
"Giã Từ Sài Gòn."
Một cách đại khái, lục quân VNCH chia ra làm hai loại: cố định
và lưu động. Lực lượng cố định gồm có các đơn vị bộ binh
(BB), địa phương quân (ĐPQ), và nghĩa quân (NQ). Lực lượng lưu
động gồm có ba binh chủng Tổng Trừ Bị (ND, TQLC, BĐQ), và vài
đơn vị đặc biệt khác (thí dụ Biệt Cách Dù). Các đơn vị khác
gồm có Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Quân Cảnh, Quân Cảnh
Điều Tra Tư Pháp, và Quân Nhạc. Chi tiết về lịch sử, các giai
đoạn hình thành, các lực lượng, trường huấn luyện, của QLVNCH
có thể được tham khảo các nguồn trên Internet hoặc sách vở,
tài liệu (Xem, thí dụ như, Nguyễn 2001).
Các sư đoàn BB thường trấn thủ khá cố định tại tỉnh hoặc quân
khu. "Sư đoàn bộ binh chỉ hoạt động trong khu vực quân khu và khu chiến
thuật của mình, rất ít ra khỏi vùng trách nhiệm, ngoại trừ một vài biệt
lệ" (Phạm). Các lực lượng ĐPQ và NQ trú đóng tại địa phương của họ và
thực hiện mục tiêu “càn quét và giữ đất” (Long Điền). ĐPQ và NQ không
được trang bị đầy đủ và có những yểm trợ như pháo binh hoặc
không quân như BB và các đơn vị Tổng Trừ Bị, nhưng họ đóng góp
đáng kể trong việc gìn giữ quê hương.
Các đơn vị Tổng Trừ Bị khác với các sư đoàn bộ binh ở chỗ họ luôn
luôn di động khắp mọi miền đất nước để đáp ứng với đòi hỏi khẩn cấp của
những mặt trận mà những đơn vị BB hay ĐPQ và NQ không giải quyết được
(Phạm). "Vai trò của ba binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Biệt
Động Quân không có sự trùng hợp, bởi sự phân nhiệm chiến đấu từ lúc khởi
đầu các binh chủng này được hình thành" (Phạm).
Tinh thần tác chiến và tâm lý lính VNCH thường bị ảnh hưởng
bởi hội chứng gia đình (family syndrome). Lính VNCH bị bất lợi
trầm trọng bởi hiện tượng này (Kleinen, 273). Vợ con họ sống
trong các khu nhà xập xệ gần trại lính hoặc nhiều khi ở ngay
trong căn cứ quân sự. Lính VNCH khi đánh trận, lo lắng cho an ninh
của gia đình vợ con, nhiều khi đào ngũ để về với gia đình
(sđd.) Đó là một phần lý do tại sao các đơn vị lưu động chiến
đấu rất dũng cảm vì binh sĩ không phải lo lắng đến gia đình
đang an toàn tại các trại lính xa chiến trường. Quân cộng sản
rất sợ các đơn vị TQLC, BĐQ, và ND vì các đơn vị này thiện
chiến và dũng cảm. Ngược lại, các đơn vị lưu động này có bất
lợi là họ thường xa gia đình khi đi đánh trận. Câu chuyện về
các vợ lính VNCH phải lo cho con cái khi chồng đi xa rất là
thông thường, và là một trong những hy sinh ít được biết đến
trong chiến tranh.
Trong những tháng đầu năm 1975, quan trọng hơn hết là hội chứng
gia đình. Tuy không bào chữa cho sự xụp đổ của quân đội VNCH,
hội chứng gia đình là chính yếu để hiểu những biến cố vào
cuối tháng ba năm 1975 (Veith 2012, 329). Vào tháng ba năm 1975, khi
lệnh di tản chiến thuật ban ra, Quân Khu I và II trở thành thảm
họa, nhiều toàn thể đơn vị xụp đổ khi binh sĩ đào ngũ để về
cứu vợ con (sđd., 441).
Hội chứng gia đình và tinh thần chiến đấu của lính VNCH được
chứng minh qua trận Xuân Lộc vào tháng tư năm 1975. Đây là trận
đánh vĩ đại nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Khi được
tin ba sư đoàn quân cộng sản (sau này được tăng cường thêm hai sư
đoàn và một trung đoàn) tiến tới Xuân Lộc, tướng Lê Minh Đảo
chuẩn bị cuộc phòng thủ. Một trong những chuẩn bị hay nhất là
di tản hầu hết gia đình binh sĩ của sư đoàn 18 BB đang trấn
đóng Xuân Lộc về Long Bình, gần Biên Hòa (Veith 2012, 441). Khi
biết gia đình được an toàn về Long Bình, các chiến sĩ của sư
đoàn 18 BB và ĐPQ, hỗ trợ bởi các tiểu đoàn BĐQ và ND, chiến
đấu thật anh dũng mặc dù thiếu thốn đạn dược và quân liệu vì
Mỹ cắt viện trợ. Với quân số ít hơn một phần ba quân số
địch, chiến sĩ VNCH đẩy lui các đợt tấn công biển người, và
gây tổn thương nặng nề cho quân cộng sản. Trận Xuân Lộc được coi
như là trận đánh oai hùng nhất của QLVNCH và cho thấy lòng can
đảm, quyết tâm, và ý chí của chiến sĩ VNCH (Le Gro 2006,
173-174; Davidson 1988, 170; Tucker 1999, 185; Noyes).
Trong bối cảnh chiến tranh này, các chi tiết về nhập ngũ và
các binh chủng VNCH giúp ta hiểu rõ thêm vài đặc điểm cá nhân
của anh lính trong "Giã Từ Sài Gòn" như sẽ được trình bày sau.
Khi biết thêm những chi tiết này, những nhân vật trong bài hát
không còn xa lạ với người nghe. Người nghe cảm thấy gần gũi
với anh lính và hiểu rõ được tâm tư anh lính qua lời anh kể lể
trong bài hát.
B. Bài hát là
lời tâm sự một anh lính trẻ trong chuyến đi ra đơn vị lần đầu
và cho thấy vài đặc điểm cá nhân về anh lính:
Bài hát là lời tâm sự của một anh lính trẻ, vừa mới hoàn
tất ba tháng huấn luyện ở quân trường, cùng các bạn đồng ngũ
đi ra đơn vị, xa rời Sài Gòn. Tác giả kể câu chuyện qua miệng
anh lính. Chúng ta hãy nghe câu chuyện anh lính qua từng câu ca.
Các anh lính cùng cỡ tuổi và ở trong cùng đơn vị và thương mến nhau trong một toán (Cùng trang cùng lứa/ chúng tôi cùng đơn vị/ thương mến nhau chung một toán).
Với "một toán" và "cùng đơn vị," ta có thể hiểu chắc họ ở
trong cùng một tiểu đội. Tuy tác giả không nói rõ tuổi tác
họ, ta cũng hiểu họ chưa tới hai mươi, có lẽ là độ 17-18, và
gia nhập quân đội dưới lệnh Tổng động viên, như sẽ được phân
tách sau.
Các anh lính trong toán phải giã từ Sài Gòn để tới đơn vị
vùng chiến tranh. Chuyến đi xảy ra lúc nửa đêm và họ có dịp
tâm tình với nhau trong chuyến đi (Giã từ Sài Gòn yêu/ nửa đêm tâm sự lính/ kiếp tha hương đồng hành).
Ta không rõ quê quán các anh ở đâu, nhưng với lời lẽ thương yêu
Sài Gòn, các anh chắc sống rất lâu ở tại Sài Gòn và vùng
phụ cận như Gia Định, Gò Vấp.
Đây là chuyến đi tới vùng khói lửa đầu tiên của các anh vì
các anh chưa có dịp bước phong sương sau ba tháng quân trường (Vui chung cuộc hành trình /phong sương chưa lần bước/ ba tháng dài được là bao).
Tác giả nhắc lại "ba tháng" hai lần trong bản nhạc, cho thấy
đó là khoảng thời gian đặc biệt trong đời lính. Đó là ba
tháng huấn luyện quân sự đầu tiên cho mọi thanh niên nhập ngũ,
trừ các trường đặc biệt như Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Ba
tháng quân trường này thường được thụ huấn tại Trung tâm Huấn
luyện Quốc gia Quang Trung. Trung tâm này là nơi đào tạo binh sĩ
và giai đoạn đầu cho Hạ Sĩ Quan và Sĩ Quan, tọa lạc tại địa phận
Quán Tre, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định (Wikipedia. 2014a). Với binh sĩ,
sau ba tháng quân trường, họ được đưa ra chiến trường, như
trường hợp các anh lính trong "Giã Từ Sài Gòn." Với hạ sĩ
quan và sĩ quan, họ trở về trường huấn luyện để tiếp tục
chương trình huấn luyện như Trường Đồng Đế ở Nha Trang hoặc
Trường Bộ Binh ở Thủ Đức (sau này chuyển về Long Thành). Độc
giả có thể tìm hiểu thêm về các chương trình huấn luyện QLVNCH
ở các nguồn thích hợp.
Anh lính chia tay với người yêu trước khi lên đường ra đơn vị.
Cuộc chia tay đó chắc không xảy ra vào đêm các anh lên đường, mà
chắc xảy ra trước đó, có thể tại Vườn Tao Ngộ ở Quang Trung.
Cuộc tiễn đưa đó hẳn nhiên là buồn. Người yêu anh lính không
muốn xa anh vì không biết cuộc đời chinh chiến của anh sẽ ra
sao. Nàng khóc, níu kéo anh, mong muốn thời gian bên nhau được
kéo dài thêm (Hỏi em em lại khóc/ bàn tay xin níu lại/ xin thời gian chưa qua mau).
Ngày anh xa Sài Gòn, ba lô anh đầy ắp đồ năng chĩu, tâm tư anh buồn vui lẫn lộn (Ngày xa thành phố/ nỗi vui cùng nỗi buồn/ đầy ắp ba-lô nặng lắm).
Ta có thể hiểu tại sao anh buồn, vì anh xa người thân, người
yêu, và cả thành phố Sài Gòn mến thương. Nhưng tại sao anh cũng
vui? Trong các đoạn sau, ta sẽ hiểu tại sao. Đó là vì anh sẽ
có dịp thỏa chí tang bồng hồ thỉ, đi khắp nơi sông núi rừng
̣để bảo vệ non sông, làm tròn bổn phận người trai thời loạn.
Nhóm anh, tám anh lính mới ra quân trường, chờ lên đường ra đơn
vị. Mỗi người có tâm trạng khác nhau. Người thì tiếc nuối
thời gian đã qua, vui với gia đình, người thân yêu. Người thì ưu
tư, không biết chuyện gì sẽ xảy đến, khoanh tay nhìn trời (Tám thằng trong chúng tôi/ đứa nghiêng vai ngồi tiếc nuối/ đứa khoanh tay nhìn trời).
Đơn vị các anh lính ở Huế (Gió sông Hương), cách Sài gòn chỉ độ vài giờ, nhưng sự xa cách thật ngút ngàn (Xa nhau trong vài giờ/ không gian thì lại cách/ xa ngút ngàn rồi em ơi).
Nhóm chữ "vài giờ" trong "Xa nhau trong vài giờ" không có ý thời
gian, mà là không gian. Chi tiết khoảng cách chỉ vài giờ đi,
cho ta biết phương tiện chuyên chở các anh là máy bay vì khoảng
cách giữa Sài Gòn và Huế khoảng 650 km, không thể nào đi bằng
xe được. Thời bấy giờ, chuyên chở binh sĩ thường qua phi cơ cánh
quạt hoặc trực thăng. Loại phi cơ thường dùng là Hercules
C-130A, máy bay cánh quạt bốn máy, bay với vận tốc khoảng 500
km/ giờ và tầm bay (range) khoảng 3.500 km. Máy bay C-119 cũng
được dùng, nhưng không thông dụng bằng C-130A. Loại trực thăng
thường dùng là Bell UH-1 Huey với vận tốc khoảng 200 km/giờ và
tầm bay khoảng 500 km, không thể nào chuyên chở các anh lính ra
Huế. Trực thăng Chinook CH-47 cũng được dùng trong việc chuyên
chở binh sĩ, với sức chở 33-55 lính, vận tốc khoảng 240 km/ g
và tầm bay độ 740 km. Tuy nhiên, trực thăng thường dùng để chuyên
chở binh sĩ trong lúc hành quân, và it khi dùng để chở tân binh
ra đơn vị. Ngoài ra, trực thăng thường dùng ở các quân khu, và
ít dùng ở phi trường Tân Sơn Nhất. Hơn nữa, Chinook CH-47 thường
được dùng là vận tải quân liệu, trọng pháo, v.v. Do đó, nhóm
các anh lính chắc là được chuyên chở bằng Hercules C-130A với
sức chở khoảng 60 - 70 lính với đầy đủ quân trang.
Huế có phi trường Phú Bài, cách Huế độ 15 km về phía Nam, là
nơi mà "từng đón những chuyến bay C130 chở hàng trăm Cảnh Sát Dã Chiến"
(Lê 2014) thời Phật giáo biểu tình. Chuyến bay chở các anh
lính trên chiếc C-130A từ phi trường Tân Sơn Nhất lúc nửa đêm,
và đáp xuống phi trường Phú Bài sau gần hai tiếng đồng hồ bay.
Từ phi trường Phú Bài, các anh lính được xe đưa về Huế tới
đơn vị, ̣đi qua sông Hương, có thể lúc hai ba giờ sáng. Anh lính
cảm thấy lạnh lẽo, không biết vì gió sông Hương hay vì xa người
yêu (Gió sông Hương lạnh lắm/ phải chăng sông núi lạnh/ hay tại vì anh xa em).
Tới nơi rồi, sau khi thu xếp về trại lính, nỗi buồn xa cách
mới thực sự thấm. Các anh thương nhớ những người thân yêu,
thành phố Sài Gòn dấu ái. Nỗi buồn dâng cao, nhưng các anh cố
nén và gượng cười với nhau, mỗi người theo đuổi tâm tư nhung
nhớ riêng (Bao nhiêu thương nhớ giăng đầy/ Bọn tôi cũng gượng cười/ mà lòng nghe buồn riêng vấn vương).
Các anh lính trẻ, tuổi 17-18, chưa học xong trung học, hoặc bỏ
học đi làm, chưa từng biết hút thuốc, môt thói quen xấu của
thanh niên thời loạn. Nhưng xa nhà, nhớ người yêu, các anh châm
điếu thuốc đầu tiên trong đời, và cảm thấy ấm lòng trong cơn
lạnh (Khói thuốc chưa lần châm mồi/ Chưa từng quen mùi/ mà giờ thì nghe ấm môi).
Rồi màn đêm buông xuống, anh lính trẻ xa nhà, nhớ người yêu da
diết, viết lá thư tình cho nàng. Nhưng viết đi viết lại mà vẫn
chưa vừa ý, có lẽ không có ngôn từ nào diễn tả được tâm
trạng anh ta. Và anh cứ vẩn vơ nghĩ đến người yêu, nhớ nhung
nàng xa xôi tại Sài Gòn (Đêm nay viết cánh thư tinh/ Đêm đã khuya rồi mà lời lòng chưa vừa ý/ Giờ buồn người ở phương xa/ Vẩn vơ từ đêm qua).
Nhưng anh không thể nhớ nhung người yêu mãi, vì anh là lính
tráng. Anh biết cuộc đời lính cực khổ, nhưng anh chấp nhận vì
anh được thỏa chí tung hoành. Làm sao mà anh có dịp đi đó đi
đây, băng rừng xuyên núi, vui với thiên nhiên đất trời, chia sẻ
vui buồn với các bạn đồng ngũ? (Đời trai nghiệp lính/ biết đi
là gian khổ/ nhưng vẫn đi cho thoải chí/ Mấy thuở được làm quen/ đó đây
sông cùng núi/ chia sẻ đau thương ngọt bùi).
Vì vậy, sau ba tháng quân trường ngắn ngủi, cho dù có người yêu
thương nhớ, anh vẫn biết là anh phải thương yêu cả núi rừng
lẫn thành phố, anh mới đúng là người trai kiêu hùng (Cho nên
dù người thương/ cho nên dù người nhớ/ ba tháng dài được bao nhiêu?/ Có
yêu thương thành phố/ phải yêu thương núi rừng/ mới là người trai hiên
ngang).
Câu "Có yêu thương thành phố phải yêu thương núi rừng mới là người trai hiên ngang"
cho thấy bản chất mộc mạc, gần như là "ngây thơ" của anh lính.
Tác giả không giải thích tại sao đã yêu thương thành phố, thì
phải yêu thương núi rừng mới là người trai hiên ngang. Nhưng ta
hiểu tại sao. Thành phố và núi rừng có đặc tính khác hẳn
nhau. Thông thường, ít ai yêu thích cả hai cuộc sống. Những
người thích sống thành phố thường không thích núi rừng, và
ngược lại. Vậy ai là người có thể thích cả hai cuộc sống?
Hỏi tức là trả lời. Chỉ có những người yêu thương đất nước
thực sự mới có thể yêu thương cả thành phố lẫn núi rừng, vì
cả hai đều thuộc về đất nước. Lòng yêu thương thành phố, núi
rừng, non sông, biểu hiện một ý chí cao cả hơn chuyện chém
giết quân thù.
Bài hát nói lên bản chất hiền hòa, đầy nhân bản và tình người của dân miền Nam trước 1975:
Điểm nổi bật nhất của bài hát là anh lính không hề nhắc đến
chiến tranh, mặc dù anh đang là một tân binh đang đi ra đơn vị nơi
chiến trường. Anh không nói gì đến súng đạn, chỉ nói đến ba
lô nặng chĩu vui buồn. Anh cũng không hề nói đến kẻ thù, lính
cộng sản, và những tội ác quân cộng sản gây ra trên quê hương.
Với anh, điều hạnh phúc là anh được dịp tung hoành nơi rừng
núi vả chia sẻ ngọt bùi với các bạn đồng ngũ. Anh lính phản
ảnh bản chất hiền lành và đầy tình nghĩa qua lời tâm sự chân
thành.
Chúng ta đã thấy tính chất hiền hòa nhân bản của người miền
Nam trước trong các bài hát tôi viết trước đây, từ Một Mai Giã
Từ Vũ Khí, Sương Trắng Miền Quê Ngoại, cho tới Tám Nẻo Đường
Thành, Tình Thiên Thu. Các bài hát viế́t về lính do các tác
giả quân đội phục vụ trong Cục Tâm Lý Chiến không hề có lời
nguyền rủa quân cộng sản hoặc kích thích lính VNCH giết quân
thù, ngay cả khi tội ác của cộng sản đang được phơi bày.
Ta hãy đọc những ca khúc miền Bắc cộng sản trong thời chiến tranh:
Nổ máy lên ta một dạ xung phong... Trước quân thù là chỉ biết có tiến công ("Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng").
Từ ngày đô thị vùng lên chị em mình đi tải đạn để các anh đi diệt
thù... Lòng người đang độ mùa xuân trào dâng niềm vui đánh Mỹ... Đường
về đô thị còn xa ngày nay đi diệt thù cứu nước có ta có mình ("Cô Gái Sài Gòn Đi Tải Đạn").
Tay vót chông miệng hát không nghỉ... Mỗi mũi chông nhọn hoắc căm
thù... Xiên thây quân cướp nào vô đây... Ê quân xâm lăng gian ác bay
muốn vào mũi chông sẵn sàng đây ("Cô Gái Vót Chông").
Anh đi trước hàng quân, tiến về giải phóng nông thôn, tiến về thành
phố thân yêu đạp trên xác thù... Mỗi bước ta đi vùi thây quân giặc cướp
nước, mỗi bước ta đi diệt tan bao bốt đồn thù... Mỗi bước ta đi giặc Mỹ
tan tành sợ hãi, nhưng lực lượng ta mỗi ngày một lớn lên ("Mỗi Bước Ta Đi").
Lời thôi thúc phải đánh tan giặc kia... Và khi phá lộ chặn đánh xe
giặc qua... Ta chào mùa xuân thành phố diệt Mỹ ngụy... Mùa xuân thắng
lợi giặc Mỹ sẽ phải tan... Nam Bắc hai miền chung tay diệt Mỹ ("Cùng Hành Quân Giữa Mùa Xuân").
Áo bà ba súng quàng vai hôm sớm ra đi... ghi chiến công giết giặc lẫy
lừng... nối tiếp nhau làng quê nổi dậy, đồn giặc tan thắm lại màu xanh ("Những Cô Gái Đồng Bằng Sông Cửu Long").
Ta thấy lời ca trong "Nhạc Đỏ" đầy rẫy hận thù, giết chóc, và
thúc dục kêu gọi dân đánh Mỹ diệt Ngụy. Những câu "diệt thù,"
"mũi chông nhọn hoắc," "xiên thây," "đạp trên xác thù," "vùi thây
quân giặc," "diệt tan bao bốt đồn thù," "phá lộ chặn đánh xe giặc,"
"diệt Mỹ ngụy," "giết giặc," "đồn giặc tan" cho thấy tinh thần tàn
bạo ác độc của quân cộng sản trong chiến tranh. Đó là không kể
những bài ca ngợi Hồ Chí Minh, kẻ thù dân tộc.
Lời ca có những chi tiết cho biết vài dữ kiện cá nhân của anh lính:
Bài hát "Giã Từ Sài Gòn" có lời ca nhẹ nhàng, nói về chuyến
đi ra đơn vị đầu tiên của anh lính trẻ và các bạn đồng ngũ.
Bài hát có những chi tiết giúp ta có được những dữ kiện cá
nhân về anh lính. Biết được những đặc điểm này giúp người nghe
tưởng tượng ra hình ảnh cụ thể và quý trọng tâm tư anh. Những
chi tiết khá đặc thù về anh lính giúp người nghe hiểu thêm
được bối cảnh xã hội tại miền Nam trước 1975 và tâm tình
người lính trong thời chiến tranh. Những chi tiết về việc tòng
quân, các binh chủng được trình bày ở trên và có thể được tìm
hiểu thêm qua các trang mạng (Xem, thí dụ như, Nguyễn Ngọc Chính)
hoặc sách vở, tài liệu (Xem, thí dụ như, Nguyễn 2001).
1. Cấp bậc, tuổi tác, trình độ học vấn, và binh chủng:
Bài hát không nói rõ cấp bậc, tuổi tác, trình độ học vấn,
và binh chủng của anh lính. Nhưng qua những chi tiết kín đáo, ta
có thể suy diễn như sau.
Trước hết, anh rất có thể là lính trơn (trơn vì không đeo lon),
cấp bậc binh nhì (thực ra là không có cấp bậc). Đó là vì anh
chỉ có ba tháng quân trường là đã được đưa ra đơn vị. Binh nhì
là cấp bậc thấp nhất, rồi đến binh nhất. Sau đó là các cấp
hạ sĩ quan. Sau đó là các cấp sĩ quan (Wikipedia 2014b).
Là binh nhì, anh lính trong "Giã Từ Sài Gòn," có thể có trình
độ học vấn không quá lớp 10, như cho biết trên về các điều
kiện hoãn dịch vì lý do học vấn. Anh ta không thuộc vào người
rớt Tú Tài I vì nếu vậy, anh sẽ được đi học Hạ sĩ quan. Nếu
không đi học thì anh ta làm gì? Ta không rõ anh ta ngưng học từ
lúc nào, nhưng có điều khá chắc chắn là anh ta không thuộc
hạng du đãng phá làng phá xóm, hoặc những kẻ trốn quân dịch.
Đó là vì dựa vào lời lẽ tâm sự, anh lính có nhiều tình cảm,
bản chất hiền hòa, có phần lãng mạn (viết thư tình), không
biết hút thuốc trước khi đi lính. Ở Sài Gòn, những người trốn
quân dịch thường phải ở nhà luôn luôn, không đi ra ngoài vì
cảnh sát soát giấy tờ thường xuyên trên đường phố. Anh lính
không phải là người trốn quân dịch vì anh biểu lộ tình yêu
nước và muốn là người trai hiên ngang, đi đây đi đó, vui với núi
rừng. Ta chỉ có thể phỏng đoán là anh ngưng học và đi làm
phụ giúp gia đình, hoặc có thể nuôi đàn em nhỏ.
Vì anh học trễ tuổi hoặc không đi học mà đến tuổi động viên,
anh chắc lả ở tuổi động viên nhỏ nhất, tức là 18 tuổi trước
năm 1972 hoặc 17 tuổi năm 1972 và sau đó.
Ta hãy thử suy đoán anh lính thuộc binh chủng nào.
Qua lời tâm sự kể lể, anh không thể thuộc Không Quân hoặc Hải
Quân vì hai ngành này có những trường huấn luyện đặc biệt và
anh lính cho thấy rõ là yêu thích "núi rừng" chứ không phải bay
trên cao hoặc sông biển. Do đó, anh chỉ có thể thuộc Lục Quân,
bộ binh hoặc một trong ba binh chủng Tổng Trừ Bị: Nhảy Dù (ND),
Thủy Quân Lục Chiến (TQLC), và Biệt Động Quân (BĐQ).
Anh lính tỏ ý thích "đi cho thoải chí," "đó đây sông cùng núi" và
"yêu thương núi rừng." Vì vậy, anh không thể thuộc các sư đoàn
BB, ĐPQ, hoặc NQ. Còn chi tiết nữa là anh có vẻ gắn bó với
Sài Gòn, rất có thể sinh trưởng tại Sài Gòn, càng cho thấy
anh không phải là BB, ĐPQ hoặc NQ thường đóng đồn ở các thành
phố, thị xã, thôn quê, nơi họ sinh sống.
Do đó, anh chắc thuộc binh chủng lưu động: ND, BĐQ, và TQLC. Ta
hãy xem xét anh thuộc binh chủng nào. Chi tiết "núi rừng" cho
thấy anh không phải là TQLC, vì TQLC "giữ nhiệm vụ khởi đầu từ năm
1954 là hành quân thủy bộ, kiểm soát vùng biển và sông ngòi Miền Nam"
(Phạm). Anh cũng không thể là BĐQ, vì BĐQ thường nhận binh sĩ,
hạ sĩ quan, và sĩ quan từ bộ binh hoặc các binh chủng khác.
Ngoài ra, BĐQ có trường huấn luyện riêng ở Dục Mỹ (Wikipedia
2014c). Ta thấy xác suất anh thuộc binh chủng ND rất cao. Có
nhiều chứng cớ cho kết luận này.
Trước hết, "[k]hông giống như những đơn vị khác của QLVNCH, Sư
Đoàn Nhảy Dù chỉ nhận những Quân Nhân hoàn toàn tình nguyện"
(Võ và Nguyễn 2010, 82). Đó là vì binh sĩ ND thường tham gia
các trận chiến khốc liệt, có thương vong rất cao. Lính ND có
tiếng là can đảm, thiện chiến. Hàng năm, số người tình nguyện
"trung bình khoảng 4000 thanh niên trai trẻ" (sđd.). Anh
lính cho thấy là người thích đi đây đi đó, vào ra núi rừng,
thành phố. Do đó, chuyện anh tình nguyện vào ND rất hợp lý.
Thứ nhì, chương trình huấn luyện cho binh sĩ ND khoảng ba tháng,
và tại vùng Sài Gòn. Sau 9 tuần quân trường tại Trung Tâm Huấn
Luyện Quang Trung, các tân binh nhảy dù được huấn luyện kỹ
thuật nhảy dù tại căn cứ Hoàng Hoa Thám trong ba tuần (Võ và
Nguyễn, 2010, 82, 92).
Với những lý do trên, ta có thể suy đoán ra anh lính là một
binh sĩ ND. Ta thấy anh tình nguyện đi ND mặc dù biết cuộc sống
lính ND rấ̀t gian nan khó nhọc (biết đi là gian khổ/ nhưng vẫn đi cho thoải chí).
2. Anh lính là người Nam chính gốc:
Một chi tiết thú vị nữa là anh lính chắc là người Nam chính
gốc. Tôi dùng nhóm chữ "Nam chính gốc" hoặc "Nam kỳ chính gốc"
có chút khôi hài để chỉ người sinh trưởng trong miền Nam, có
"gốc rễ" miền Nam lâu đời, và không phải là người Bắc di cư,
hoặc người Bắc hay Trung di chuyển tới miền Nam sinh sống. Tôi đi
đến kết luận anh lính chắc là người Nam chính gốc vì vài chi
tiết biểu lộ trong bài hát sau đây.
Trước hết, anh rất yêu thương Sài Gòn, cho thấy anh có nhiều kỷ
niệm và sinh sống tại Sài Gòn lâu năm. Đặc biệt, anh dùng "tha hương"
khi nói về chuyện rời Sài Gòn ra đơn vị. Ý nghĩa "tha hương"
có vẻ phóng đại nhưng cho thấy các anh lính rất có "gốc rễ"
ở Sài Gòn. Cái tình yêu thương đó có vẻ chứa chan và sâu sắc
hơn những người di cư vào Sài Gòn. Chuyện đó cũng chưa hẳn là
đúng vì có rất nhiều người, tuy di cư vào Sài Gòn vẫn có
lòng thương yêu Sài Gòn vì họ sinh sống từ lúc còn nhỏ và coi
Sài Gòn như quê nhà mình. Nhưng một chi tiết quan trọng hơn
khiến tôi khẳng định anh là dân Nam kỳ chính gốc. Đó là câu
"lòng nghe buồn riêng vấn vương" và "nghe ấm môi."
Tại sao hai câu đó cho thấy anh lính là dân Nam kỳ chính gốc? Ta hãy đọc lại cả câu: "Bao nhiêu thương nhớ giăng đầy/ Bọn tôi cũng gượng cười mà lòng nghe buồn riêng vấn vương" và "Khói thuốc chưa lần châm mồi/ Chưa từng quen mùi/ mà giờ thì nghe ấm môi." Đặc biệt, câu "Khói thuốc chưa lần châm mồi/ Chưa từng quen mùi/ mà giờ thì nghe ấm môi"
dính líu đến bốn giác quan: thị giác (thấy khói thuốc),
thính giác (nghe), khứu giác (mùi), xúc giác (ấm môi). Câu "Chưa từng quen mùi/ mà giờ thì nghe ấm môi" có nghĩa bây giờ anh lính nghe mùi khói thuốc và cảm thấy ấm môi.
Ta hãy chú trọng vào nhóm chữ "nghe mùi" và "nghe buồn." Bạn
có bao giờ "nghe" được mùi vị thơm của khói thuốc hoặc "nghe"
được nỗi buồn không? Hoặc "nghe" được cảm giác ấm áp trên môi
không? Hoặc không nhất thiết là khói thuốc hay mùi thơm, bạn có
thể nào "nghe" (dùng tai) mùi hoặc nỗi buồn được không? Chắc
chắn là không. Ta chỉ có thể "ngửi" mùi hoặc "cảm nhận" nỗi
buồn được thôi. Tôi không tin là tác giả đang cố tình dùng kỹ
thuật mỹ từ để đem lại hình ảnh mới lạ cho "nghe mùi" hoặc
"nghe buồn" vì thực ra "nghe mùi" hoặc "nghe buồn" là cách dùng
rất thông dụng trong miền Nam.
Chỉ có dân miền Nam chính gốc mới dùng "nghe mùi" và "nghe
buồn." Người Bắc hoặc người Trung ít khi dùng nhóm chữ đó. Ta
phải hiểu đó là nét độc đáo của dân "Nam kỳ" và đó là lý do
tại sao dân miền Nam có cách ăn nói thật bình dân. Tôi sẽ không
đi sâu thêm nữa về các khía cạnh văn hóa dân "Nam kỳ," "Bắc
kỳ," hoặc "Trung kỳ" và so sánh các khía cạnh này. Một cách
đại khái, với người miền Nam chính gốc, có lẽ giác quan họ
dùng nhiều nhất là "nghe." (Đây là câu nói đùa.) Tôi không rõ
nguồn gốc thế nào, nhưng cũng có thể người miền Nam thích nghe
lời đồn, nghe ngóng, và bàn tán tin tức. Họ thường dùng "nghe
thấy" và dùng "nghe" trong hầu hết mọi trường hợp. Có thể
đời sống nhàn nhã, ruộng lúa phì nhiêu, trai gái hát hò bên
sông rạch hàng đêm, và dân nghe lời ca tiếng hát thường xuyên.
Cũng có thể người miền Nam có tính lãng mạn, dùng mỹ từ cho
các câu ví von, thét rổi quen đi, và người dân quên đi ý nghĩa
"nghe" là dùng thính giác.
Dân các miền khác cũng có lối dùng từ ngữ đặc thù và đó
cũng là điểm độc đáo của tiếng Việt đã khiến biết bao nhiêu
người ngoại quốc khi học tiếng Việt phải điên đầu. Thí dụ như
người Bắc dùng "buồn nôn" trong khi người Nam dùng "muốn ói."
Khi nói đến chuyện bài tiết, người Bắc dùng "buồn" nhưng người
Nam dùng "mắc." Hẳn nhiên điều đó không có nghĩa là người Bắc
sầu não ("buồn") trong việc "nôn" hay bài tiết, hoặc người Nam
thích thú ("muốn") trong việc ói mửa ̣hoặc khó chịu vướng víu
("mắc") trong việc bài tiết.
"Nghe mùi" và "nghe buồn" chỉ là hai thí dụ nhỏ trong hàng
ngàn cách dùng chữ hoặc động từ của người miền Nam chính
gốc. Tôi có một cô bạn người Nam chính gốc. Cô ta hay nói "em
bắt điện thoại" (thay vì "nhấc/bật/ mở điện thoại.") Có lần
tôi nói chọc cô, "Điện thoại em có tội tình gì mà em bắt nó?
Bộ em định bắt nó bỏ vô bót hả?" Cô ta ngẩn người ra, và mặc
dù cô ta biết tôi hay nói đùa giỡn, cô ta không hiểu có gì đáng
cười với câu chọc đó. Đó là vì cô dùng chữ "bắt" trong "bắt
điện thoại" quá thường và không thấy gì kỳ cục.
Tôi không muốn bị coi là phân biệt Nam Trung Bắc, nhưng sự thật
là mỗi miền có cách ăn nói và diễn tả ý tưởng khác nhau, và
đó là điểm đặc thù mỗi miền. Thực ra, đó cũng là điểm đặc
sắc của dân tộc Việt Nam, và là điểm tốt đẹp vỉ nó cho thấy
tính chất đa dạng của dân tộc ta.
Trở về anh lính trong "Giã Từ Sài Gòn," anh ta đúng là dân Nam
kỳ chính gốc mới có cách nói "nghe mùi" và "nghe buồn" như
vậy. Có thể sẽ có người nói, "Tác giả mới là người Nam kỳ
chính gốc, không phải là anh lính." Tuy nhiên, như đã trình bày
trước, những gì tác giả viết là gán ghép cho anh lính. Bài
hát là lời của anh lính, không phải là lời của tác giả. Tác
giả vẫn có thể là người Bắc di cư, quen thuộc lối nói của
người Nam, dùng lời người Nam vì muốn tạo ra nhân vật người
Nam. Cũng rất có thể tác giả là người Nam chính gốc, không có
ý định tạo ra nhân vật người Nam, nhưng mô tả anh lính với
cách nói của người Nam một cách không cố tình. Trong cả hai
trường hợp, nhân vật anh lính vẫn là đối tượng ta chú ý, và
anh lính được tả là người Nam chính gốc. Thực ra ai cũng có
thể đoán được anh lính là người Nam chính gốc, vì đa số dân
miền Nam thời ấy là người Nam chính gốc. Tuy nhiên, cái suy
đoán dựa vào lối ăn nói của anh chính xác hơn và cho ta thêm
phần hiểu biết về những đặc thù của người miền Nam.
Đọc tới đây, chắc chắn có nhiều độc giả la lên, "Thằng cha
Cao-Đắc Tuấn này khùng rồi. Suy diễn lung tung hết. Từ một bài
hát với lời lẽ bình thường mà suy diễn ra đủ mọi chuyện về
anh lính. Nào là anh ta 18 tuổi, trình độ học chưa quá lớp 10.
Nào là anh ta bỏ học đi làm, là người hiền lành, đi lính binh
nhì, tình nguyện vào Nhảy Dù, chia tay bạn gái trong Vườn Tao
Ngộ. Nào là anh ta cùng các tân binh đồng đội ra Huế trên máy
bay C-130A trong đêm khuya, đáp xuống phi trường Phú Bài sau gần
hai tiếng bay. Và bây giờ lại dám kết luận anh ta là dân Nam kỳ
chính gốc."
Nếu bị trách, tôi xin chịu tội. Tôi lỡ là người thích viết
văn, làm thơ, và nghe nhạc, nên có trí tưởng tượng dồi dào.
Nếu độc giả nào trách tôi, thì cũng nên châm chước dùm vì tôi
có thói quen thưởng thức một bài hát dựa vào suy diễn chủ
quan.
Diễn giải một ca khúc là ý kiến chủ quan trong việc thưởng thức ca khúc đó:
Có hai lý do bào chữa cho tôi.
Thứ nhất, những suy diễn, kết luận của tôi, chắc chắn không
đúng 100%. Ngoài những câu đoán, tôi còn phạm nhiều ngụy biện
luận lý. Tuy nhiên, những suy đoán, lý luận của tôi không hoàn
toàn vô căn cứ. Bài hát tiết lộ những chi tiết rõ rệt và cụ
thể phản ảnh tình trạng xã hội và chiến tranh bấy giờ. Dựa
vào những chi tiết này, cộng với những chứng cớ liên hệ khá
chặt chẽ, tôi đưa ra những kết luận. Do đó, những kết luận
này không phải là đoán mò, mà được hỗ trợ bởi những bằng cớ
và lý luận xác đáng.
Thứ nhì, và là lý do quan trọng nhất, bài này không phải là
một bài bình luận hay diễn giải chính trị nghiêm trọng. Đây
chỉ là ý kiến chủ quan của tôi về một tác phẩm nghệ thuật.
Thưởng thức nghệ thuật có tính chất chủ quan, và không nhất
thiết phải dựa vào một diễn giải khách quan đúng. Tôi có thể
hiểu sai ý tác giả, nhưng điều đó không quan trọng bằng tiến
trình tôi suy diễn trong việc đem cái diễn tả của tác giả lồng
vào cái nhìn chủ quan của tôi trong lúc tôi thưởng thức tác
phẩm của tác giả.
Có thể những diễn giải của tôi về anh lính trong "Giã Từ Sài
Gòn" và chuyến đi ra đơn vị́ của anh hoàn toàn sai bét. Tuy
nhiên, hình ảnh một thanh niên người miền Nam trẻ tuổi hiền
lành, đầy tình với bạn đồng ngũ, người yêu, và thành phố, ra
đi tới chiến tuyến lần đầu trong một chuyến bay đêm lạnh lẽo,
không có sự hận thù quân giặc, trong khi tình nguyện vào binh
chủng oai hùng nhất, có tiếng là can trường và phải hy sinh
nhiều nhất trong các trận đánh khốc liệt, để bảo vệ non sông
với lòng yêu nước cao cả, tạo cho tôi cảm xúc bùi ngùi và xót
xa cho những hy sinh của chiến sĩ VNCH.
Đó là cách tôi thưởng thức bài hát.
C. Ca khúc có lối diễn tả cân bằng, giản dị, và ít vần điệu cho thấy nét mộc mạc đơn sơ của anh lính:
Về phương diện hình thức và cách diễn tả, tác giả kể câu
chuyện anh lính trẻ một cách hữu hiệu, nói lên được bản chất
hiền hòa và lòng yêu nước của một người lính VNCH tiêu biểu.
Cộng với giai điệu chầm chậm, nhẹ nhàng, tiết tấu đều đều,
bài hát giúp người nghe cảm nhận tâm tư buồn vui lẫn lộn, cô
đơn, ray rứt thương nhớ người yêu, và nỗi niểm yêu thương đất
nước của anh lính trẻ.
Đặc điểm của lối diễn tả là sự vừa phải, cân bằng của kỹ
thuật viết. Tác giả không dùng những kỹ thuật diễn tả thật
nổi bật, mà chỉ dùng từ ngữ giản dị, phù hợp với câu
chuyện. Tác gỉả dùng từ ngữ nhẹ nhàng, pha lẫn nét "dễ
thương" của các anh lính trẻ 17-18 tuổi, mới ra đơn vị lần đầu.
Tác giả kể câu chuyện dùng cả kỹ thuật "kể" và "cho thấy"
một cách dung hòa. Trong phiên khúc đầu, tác giả giới thiệu
các nhân vật trong câu chuyện, gồm có các anh lính cùng trang
lứa, và người yêu của nhân vật chính. Rồi tác giả kể chuyến
đi ra đơn vị với những hình ảnh cụ thể như nét chấm phá cho
bức tranh câu chuyện.
Để ý là tác giả dùng "chúng tôi," và "bọn tôi" ("Cùng trang cùng lứa chúng tôi," "Tám thằng trong chúng tôi," "Bọn tôi cũng gượng cười"),
cho thấy anh lính nặng tình đồng đội cho dù mới xong quân
trường. Tinh thần đồng đội này được nhắc đi nhắc lại nhiều
lần trong bài hát ("thương mến nhau," "đồng hành," "vui chung," "đứa nghiêng vai," "đứa khoanh tay," "chia sẻ đau thương ngọt bùi").
Ta không lấy làm lạ về tình "huynh đệ chi binh" của các chiến
sĩ QLVNCH. Đặc biệt, với binh chủng ND, tình đồng đội còn thắm
thiết hơn vì ND thường đánh trận dữ dội, và có nhiều dịp để
chia sẻ đau thương và giúp đỡ lẫn nhau. Với các anh lính trẻ,
họ hiểu chuyện đó hơn ai hết thẩy vì họ tình nguyện gia nhập
ND, chấp nhận cuộc đời gian khổ. Tình huynh đệ chi binh không
cần phải được phát triển trong những ngày chiến đấu vào sinh
ra tử bên nhau, mà đã được hình thành ngay từ lúc gia nhập gia
đình "thiên thần mũ đỏ" ND.
Tác giả "cho thấy" những hình ảnh cụ thể nhưng rất gây ấn
tượng cho cuộc hành trình đầu tiên ra đơn vị. Tác giả dùng từ
ngữ tượng hình để mô tả các anh lính trẻ với thái độ ngẩn
ngơ trẻ con (nghiêng vai ngồi tiếc nuối, khoanh tay nhìn trời, gượng cười, khói thuốc chưa lần châm mồi). Các từ ngữ anh lính dùng cũng rất đơn sơ giản dị, không cầu kỳ ("nặng lắm," "em ơi," "lạnh lắm"),
biểu lộ tâm hồn chất phác hiền lành. Ngoài ra, tác giả tả
anh lính vẩn vơ nghĩ đến người yêu, viết thư tình mãi mà chưa
xong. Câu "Gió Sông Hương lạnh lắm, phải chăng sông núi lạnh hay tại vì anh xa em?"
cho thấy tình yêu anh dành cho người yêu thật thắm thiết và
chân thành. Với những mô tả như vậy, ta không thể hình dung ra
chiến sĩ ND can trường xông pha ngoài trận mạc. Điều đó có làm
yếu kém ý tưởng hay không? Đương nhiên là không. Thực ra, những
diễn tả ngơ ngác, vẩn vơ, hiền lành của các anh lính còn làm
mạnh ý tác giả hơn nữa, vì tác giả đang muốn vẽ ra hình ảnh
các chàng trai trẻ hiền hòa đầy tình cảm và có lòng yêu nước
thiết tha.
Bài hát dùng rất ít vần điệu nhưng dủng chữ đơn giản. Toàn
thể bài hát chỉ có một vài câu có chút vần điệu (Giờ buồn người ở phương xa/ Vẩn vơ từ đêm qua).
Ta nên hiểu tác giả cố tình chọn không vần điệu, để tạo nét
chân thật và mộc mạc cho anh lính. Vần điệu giúp bài hát có
âm tiết trôi chảy nhưng có thể khiến lời nói anh lính trở nên
màu mè, gượng ép. Cũng như trong thơ, vần giúp câu thơ trôi
chảy, dễ nghe, nhưng đôi khi có sự gò bó trong cách diễn tả,
vì ý tứ phải theo vần. Vì vậy, thơ theo thể loại tự do giúp
người viết có dịp diễn tả ý phong phú, chính xác, và hiệu
quả hơn.
Gần giống như thơ, lời ca trong bài nhạc, khi không bị gò bó
bởi vần điệu, diễn tả ý tưởng chính xác và thể hiện tâm
trạng chân thật hơn. Một điểm bất lợi của lời ca là cấu trúc
mỗi đoạn bị chi phối bởi số phách trong mỗi ô nhịp và do đó
không thể có những ngắt quãng tùy ý. Ngược lại, một lợi điểm
là lời ca được diễn tả qua giai điệu lên xuống và tiết tấu
nhịp nhàng, nên có được những tác dụng của âm thanh mà thơ
thường không có (trừ phi được ngâm với lối ngâm thơ thích hợp).
Những câu trong "Giã Từ Sài Gòn" dùng từ ngữ đơn giản, rất it
mỹ từ. Vì lời ca là lời anh lính, tác giả muốn dùng lời ca
để phản ảnh bản chất, cá tính, và con người của anh. Thí dụ,
câu "tám thằng trong chúng tôi, đứa nghiêng vai ngồi tiếc nuối, đứa khoanh tay nhìn trời" tả cảnh tượng chính xác, không mơ hồ, và dùng từ ngữ đơn giản. Câu "Khói thuốc chưa lần châm mồi, chưa từng quen mùi mà giờ thì nghe ấm môi" cho thấy sự chân thật và có chút gì "ngây thơ vô tội" của một cậu trai 18 tuổi. Ngay cả trong câu chót, "Có yêu thương thành phố, phải yêu thương núi rừng mới là người trai hiên ngang," ta thấy có cái gì chất phác, mộc mạc, hơi chút quê mùa trẻ con, và không có triết lý gì cao sa.
D. Kết Luận:
Ca khúc "Giã Từ Sài Gòn" là một bài hát diễn tả tâm tình
một anh lính trẻ, mới rời quân trường và ra đơn vị lần đầu.
Qua cách diễn tả cân bằng, đơn giản, tác giả cho thấy bản chất
hiền hòa, đầy tình cảm, của anh lính với nỗi niềm yêu thương
đấ̃t nước, người yêu, và cuộc đời lính. Những chi tiết cụ thể
trong bài hát cho biết vài đặc điểm cá nhân anh lính và giúp
người nghe hiểu được tình trạng xã hội miền Nam trong thời
chiến tranh và cảm thấy gần gũi với anh lính hơn.
Tuy những đặc điểm cá nhân này không nhất thiết đại diện cho
tất cả chiến sĩ VNCH, các khía cạnh nhân bản đầy tình người
và lòng yêu nước quả thật tiêu biểu tinh thần người miền Nam
trước 1975 và chiến sĩ VNCH. Tinh thần ấy khác hẳn tinh thần
hiếu chiến và tàn ác mà giới lãnh đạo cộng sản đưa vào đầu
óc binh sĩ cộng sản qua những bài hát kích động giết chóc và
hận thù.
CẢM TẠ
Tôi có lời cảm tạ anh Vũ Đông Hà và các bạn trên trang mạng Dân Làm Báo, nhất là các bạn emSAIGON, Sài gòn, daubetangthuong, mythanh, và bức xúc,
đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp
tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu của bạn bức xúc.
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Davidson, Phillip B. 1988. Vietnam at War: The History: 1946-1975. Presidio Press, California, U.S.A.
2. Huỳnh Minh Tú. 2013. Nhìn lại nền Giáo dục VNCH : Sự tiếc nuối vô bờ bến. 1-12-2013.
http://tuxtini.com/2013/12/01/nhin-lai-nen-giao-duc-vnch-su-tiec-nuoi-vo-bo-ben/ (truy cập 16-11-2014).
http://tuxtini.com/2013/12/01/nhin-lai-nen-giao-duc-vnch-su-tiec-nuoi-vo-bo-ben/ (truy cập 16-11-2014).
3. Kleinen, John. 2004. Framing 'the Other': A critical review of
Vietnam War movies and their Representation of Asians and Vietnamese, in
"Asia in Europe, Europe in Asia," edited by Srilata Ravi, Mario Rutten,
Beng-Lan Goh, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore.
4. Le Gro, William E. 2006. Vietnam from Cease-Fire to Capitulation. University Press of the Pacific, Hawaii, U.S.A.
5. Lê Văn Lân. 2014. Nhìn lại phi trường Phú Bài. 24-9-2014. http://khoahocnet.com/2014/09/24/bs-le-van-lan-nhin-lai-phi-truong-phu-bai/ (truy cập 21-11-2014).
6. Long Điền. Không rõ Ngày. Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của QLVNCH.
http://batkhuat.net/tl-dpq-ng-qlvnch.htm (truy cập 19-11-2014).
http://batkhuat.net/tl-dpq-ng-qlvnch.htm (truy cập 19-11-2014).
7. Nguyễn Đức Phương. 2001. Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập. Làng Văn, Ontario, Canada.
8. Nguyễn Ngọc Chính. Không rõ ngày. Ngôn ngữ lính tráng Sài Gòn xưa. November 12, 2014 http://thoibao.com/ngon-ngu-linh-trang-sai-gon-xua/ (truy cập 19-11-2014).
9. Nguyễn Quý Đại. 2013. Thủ Đức Một Thời Khó Quên. 14-12-2013.
http://hoiquanphidung.com/showthread.php?12833-Th%E1%BB%A7-%C4%90%E1%BB%A9c-M%E1%BB%99t-Th%E1%BB%9Di-Kh%C3%B3-Qu%C3%AAn (truy cập 19-11-2014).
http://hoiquanphidung.com/showthread.php?12833-Th%E1%BB%A7-%C4%90%E1%BB%A9c-M%E1%BB%99t-Th%E1%BB%9Di-Kh%C3%B3-Qu%C3%AAn (truy cập 19-11-2014).
10. Noyes III, Harry F. Không rõ Ngày. Heroic Allies.
http://www.vietamericanvets.com/Page-Records-HeroicAllies.htm (truy cập 25-11-2014).
http://www.vietamericanvets.com/Page-Records-HeroicAllies.htm (truy cập 25-11-2014).
11. Phạm Phong Dinh. Không rõ ngày. Tại sao QLVNCH lập ra ba binh
chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân? Đăng 20-6-2014.
http://nktlittlesaigon.blogspot.com/2014/06/tai-sao-qlvnch-lap-ra-ba-binh-chung.html (truy cập 19-11-2014).
http://nktlittlesaigon.blogspot.com/2014/06/tai-sao-qlvnch-lap-ra-ba-binh-chung.html (truy cập 19-11-2014).
11. Tucker, Spencer C. 1999. Vietnam. The University Press of Kentucky, Kentucky, U.S.A.
12. Veith, George J. 2012. Black April – The Fall of South Vietnam 1973-1975. Encounter Books, New York, U.S.A.
13. Võ Trung Tín và Nguyễn Hữu Viên. 2010. Binh chủng Nhảy Dù - 20 Năm Chiến Sự. California, U.S.A.
14. Wikipedia. 2014a. Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Quang Trung. Thay đổi chót: 3-8-2014.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Trung_t%C3%A2m_Hu%E1%BA%A5n_luy%E1%BB%87n_Qu%E1%BB%91c_gia_Quang_Trung (truy cập 19-11-2014).
http://vi.wikipedia.org/wiki/Trung_t%C3%A2m_Hu%E1%BA%A5n_luy%E1%BB%87n_Qu%E1%BB%91c_gia_Quang_Trung (truy cập 19-11-2014).
15. Wikipedia. 2014b. Quân hàm Quân lực Việt Nam Cộng hòa. 8-8-2014.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n_h%C3%A0m_Qu%C3%A2n_l%E1%BB%B1c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a (truy cập 20-11-2014).
http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n_h%C3%A0m_Qu%C3%A2n_l%E1%BB%B1c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a (truy cập 20-11-2014).
16. Wikipedia. 2014c. Trung tâm Huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ. Thay đổi chót: 3-8-2014.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Trung_t%C3%A2m_Hu%E1%BA%A5n_luy%E1%BB%87n_Bi%E1%BB%87t_%C4%91%E1%BB%99ng_qu%C3%A2n_D%E1%BB%A5c_M%E1%BB%B9 (truy cập 20-11-2014).
http://vi.wikipedia.org/wiki/Trung_t%C3%A2m_Hu%E1%BA%A5n_luy%E1%BB%87n_Bi%E1%BB%87t_%C4%91%E1%BB%99ng_qu%C3%A2n_D%E1%BB%A5c_M%E1%BB%B9 (truy cập 20-11-2014).
© 2014 Cao-Đắc Tuấn
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 339
VIỆT LONG * MỸ KIM
Trận chiến ngoại tệ sắp tới
Trong khi đồng Mỹ Kim cứ lên giá liên tục so với các ngoại tệ chính yếu
khác thì đồng Yen của nền kinh tế đứng hàng thứ ba thế giới là Nhật Bản
lại sụt giá mạnh và còn có thể sụt nữa. Vì sao lại như vậy và hậu quả
cho các nền kinh tế khác trên thế giới sẽ là gì? Diễn đàn Kinh tế tìm
hiểu nguyên do và ảnh hưởng của sự chuyển động ấy qua phần phân tích cùa
chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Xin quý thính giả theo dõi cách
Việt Long nêu vấn đề như sau đây.
Thế giới sẽ gặp biến động về ngoại hối
Việt Long: Xin kính chào ông Nghĩa. Cách đây một tháng, khi
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đưa ra một dự báo bi quan về tình hình kinh tế
toàn cầu, thì trên diễn đàn này ông nói đến việc Mỹ Kim lên giá so với
các ngoại tệ khác và nhấn mạnh là thế giới sẽ gặp nhiều biến động về
ngoại hối. Từ mấy ngày qua, người ta lại thấy đồng Yen của Nhật sụt giá
mạnh so với tiền Mỹ và nhiều loại ngoại tệ khác. Nhật Bản có sản lượng
kinh tế đứng hàng thứ ba của thế giới sau Hoa Kỳ và Trung Quốc và là một
quốc gia xuất cảng rất mạnh. Khi tiền Nhật sụt giá như vậy thì ảnh
hưởng sẽ ra sao cho các nền kinh tế khác? Chúng tôi nêu vấn đề trong mục
đích tìm hiểu về những biến động ngoại hối mà ông đã nhắc đến từ tháng
trước.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng hôm Thứ Ba 17 vừa qua, Thủ tướng
Nhật là ông Shinzo Abe loan báo quyết định giải tán Quốc hội để tổ chức
bầu cử sớm vào ngày 14 tháng tới. Việc ấy xảy ra sau khi có thống kê xác
nhận kinh tế Nhật lại bị suy trầm nữa trong Quý Ba vừa kết thúc vào
Tháng Chín. Trước đó, vào ngày 31 Tháng 10, Ngân hàng Trung ương Nhật
cũng quyết định sẽ lại bơm thêm tiền theo phương pháp gọi là "gia tăng
mức lưu hoạt có hạn định" hay "quantitative easing" gọi tắt là QE với số
lượng cực lớn, dự trù là tương đương với hơn 700 tỷ đô la mỗi năm, cho
đến khi kinh tế ra khỏi suy trầm hoặc lạm phát lên tới 2% thì mới ngưng.
Khi đồng Yen mất giá thì hàng hóa của Nhật lại trở thành rẻ hơn, tức là dễ xuất khẩu hơn, nên sẽ gây sức ép cho các nền kinh tế sống nhờ xuất khẩu, thí dụ như kinh tế Đức và Trung Quốc.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Những biến cố dồn dập ấy giải thích vì sao tiền Nhật mất giá so với các
ngoại tệ khác như Mỹ Kim hay đồng Euro của Âu Châu. Nếu nhìn trong dài
hạn thì việc đồng Yen mất giá là sự chuyển động dễ hiểu với hậu quả có
thể là một trận chiến về ngoại tệ giữa các nền kinh tế lớn trên thế giới
khiến nhiều quốc gia khác, kể cả Trung Quốc, sẽ lâm vào khó khăn trong
các năm tới.
Việt Long: Chúng ta lần lượt tìm hiểu hiện tượng này để phần
nào thấy trước được biến động ấy. Trước hết, xin ông nói về kinh tế Nhật
và những lý do khiến tiền Nhật sẽ còn mất giá nữa.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nhật Bản có vấn đề trường kỳ là nạn dân số sút
giảm với tỷ trọng rất lớn của người cao niên lớn tuổi – mà người ta gọi
là nạn lão hóa dân số. Lý do sâu xa này khiến mức tiêu thụ sút giảm và
hàng họ mất giá. Trong khi đó, vì mở ra làm ăn với toàn cầu, kinh tế
Nhật vẫn có ưu điểm là nơi đầu tư ổn định khiến thiên hạ trút tiền mua
đồng Yen để tìm cơ hội kiếm lời trên thị trường Nhật. Kết hợp hai chuyện
1) dân số và tiêu thụ giảm khiến kinh tế bị nạn giảm phát – disinflation
– và 2) nội tệ lên giá dẫn tới hiện tượng giá cả trong nước sụt đều làm
người dân càng tiết kiệm và đình hoãn chi tiêu để chờ khi giá hạ hơn
nữa. Hoàn cảnh éo le ấy khiến các doanh nghiệp Nhật bị điêu đứng. Đầu tư
giảm vì mức lời sụt dẫn tới việc cắt lương và mở ra vòng xoáy lẩn quẩn:
lương hạ càng đánh sụt mức tiêu thụ và làm kinh tế đình trệ.
Sự chuyền động lớn này giải thích vì sao kinh tế Nhật bị suy trầm liên
tục từ hai thập niên đã qua. Thế rồi, chiếm đa số áp đảo sau cuộc bầu cử
vào cuối năm 2012, Chính quyền của Thủ tướng Abe mới áp dụng chánh sách
cải cách táo bạo, được gọi là Abemomics, nhắm vào ba hướng gọi
là "ba mũi tên". Thứ nhất là cố tình gây lạm phát qua biện pháp tăng chi
để bơm tiền vào kinh tế theo cái ý khuyến khích dân chúng hãy mua ngay
đi kẻo mai này hàng lên giá. Thứ hai là cải tiến môi trường kinh doanh
để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư bằng cách giảm thuế doanh nghiệp,
khi đó thuộc loại cao nhất địa cầu.
Thứ ba là cải tổ toàn bộ cơ chế kinh tế, xã hội và chính trị Nhật để tìm
sức bật mới.... Việc tăng chi chưa có kết quả thì Ngân hàng Trung ương
Nhật áp dụng biện pháp tăng mức lưu hoạt, tức là bơm thêm tiền vào kinh
tế, với một số lượng tương đối cao gấp đôi Hoa Kỳ. Vì thế mà tiền Nhật
mới mất giá. Khi đồng Yen mất giá thì hàng hóa của Nhật lại trở thành rẻ
hơn, tức là dễ xuất khẩu hơn, nên sẽ gây sức ép cho các nền kinh tế
sống nhờ xuất khẩu, thí dụ như kinh tế Đức và Trung Quốc.
Đồng đôla Mỹ và euro Âu Châu. AFP PHOTO.
Việt Long: Xin được hỏi ông một câu là vì biện pháp tăng chi
ngân sách, Nhật Bản hiện mắc nợ nhiều nhất, có thể lên tới 250% tổng sản
lượng kinh tế. Thưa ông, đấy không là một vấn đề sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng đấy là một vấn đề, nhất là khi ta
nhớ đến khoản tiền lời phải thanh toán, có khi chiếm một tỷ trọng lớn
của các khoản chi ngân sách như nếu phân lời đi vay mà lên tới 2% thì
tiền lời sẽ lên tới 80% của số tổng thu về thuế khóa.
Nhưng, có một thực tế văn hóa và tâm lý mà mình nên chú ý. Khoản công
trái rất cao của Nhật có hai đặc tính. Thứ nhất, tuyệt đại đa số là "nội
trái", được yết giá bằng đồng Yen, tức là "Nhật nợ Nhật" chứ không nợ
ngoại quốc. Thứ hai, chủ nợ của đa số các khoản nợ ấy lại là Ngân hàng
Trung ương Nhật, nghĩa là chủ nợ cũng là chủ nhà in giấy bạc và nhờ vậy
có quyền quyết định về phân lời cao thấp khi bơm tiền ra.
Vì thế, thị trường tài chánh Nhật vẫn ổn định và không bị giao động nặng
- trong khi dân Nhật bấm bụng bảo nhau cho nhà nước vay tiền trong tinh
thần liên đới gọi là "rau cháo có nhau". Khi Trung Quốc càng tỏ vẻ hung
hăng đe dọa quyền lợi của Nhật thì người dân Nhật lại càng chịu đựng và
hậu thuẫn chính quyền để cố gắng vượt khó khăn kinh tế. Bây giờ ta mới
nói đến chuyện ngoại hối là hối suất đồng Yen....
Nguy cơ suy sụp
Việt Long: Như ông vừa trình bày thì có phải chăng là việc tiền Nhật mất giá là một hiện tượng có những lý do sâu xa và lâu dài hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa là câu chuyện còn rắc rối hơn vậy nếu ta nhìn trong trường kỳ.
Khoảng 40 năm trước, có lúc tiền Nhật quả thật là quá rẻ mà nhiều người
đã quên mất rồi vì phải hơn 300 đồng Yen mới ăn một Mỹ Kim. Khi kinh tế
toàn cầu bị tổng suy trầm vào các năm 2008-2009 và tiền Mỹ mất giá thì
là lúc đồng Yen lên giá, một đô la chưa ăn được 80 Yen vào năm 2011. Nó
chỉ bắt đầu sụt vào cuối năm 2012, rồi dập dình cả năm 2013 qua tới 2014
ở mức trăm đồng ăn một Mỹ Kim. Bây giờ mới sụt mạnh và còn sụt nữa, có
thể tới 150 hay thậm chí 200 đồng vào một hai năm tới. Nhưng so với cái
giá 300 hay 350 vào những năm 1970-1975 thì vẫn chỉ bằng phân nửa mà
thôi.
Việt Long: Thưa về lâu dài thì ý nghĩa sẽ ra sao?
Nhìn trong lâu dài thì điều ấy có nghĩa là gì? Là trong khoảng 40 năm,
có lúc tiền Nhật tăng giá gấp bốn so với đô la và doanh nghiệp Nhật bị
thất thế khi cạnh tranh với doanh nghiệp Hoa Kỳ hay với thiên hạ. Họ
phải tìm lợi thế bằng cách khác, chứ không nhờ tiền rẻ mà dễ bán hàng
hơn.
Một cách chậm rãi, thế giới đang gặp nguy cơ suy sụp nặng một cách cứ tưởng như bất ngờ và ngoài khối công nghiệp hóa.-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Việt Long: Bây giờ ta mới nhìn qua xứ khác. Thưa ông, đồng Yen mà mất giá như vậy thì hậu quả sẽ là thế nào với các nước khác?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin lấy một thí dụ nổi bật nhất là nền
kinh tế đứng sau nước Nhật và cũng lệ thuộc mạnh vào xuất khẩu, đó là
kinh tế Đức. Sau đó mới tới Nam Hàn và Trung Quốc.
Trong giai đoạn khó khăn sau vụ Tổng suy trầm thì doanh nghiệp Nhật bị
mất sức cạnh tranh so với doanh nghiệp Đức, coí thể là mất tới hơn một
phần ba trong các năm 2010 đến 2012. Thí dụ như tại Mỹ này thì ta thấy
xe hơi của Đức bán chạy hơn xe Nhật. Ngoài lợi thế từ chuyện tiền Nhật
lên giá, ta không quên rằng khi đó Trung Quốc dốc sức đầu tư vào khu
vực nội địa là xây dựng hạ tầng cơ sở như cầu đường và gia cư địa ốc hơn
là xuất khẩu. Nhờ vậy mà Đức trở thành đầu máy cứu vãn cả khối Euro.
Bây giờ, cả hai lợi thế ấy của kinh tế Đức đều hết vì tiền Nhật mất giá
và kinh tế Trung Quốc co cụm, mất khả năng nhập khẩu. Khi kinh tế Đức
cũng suy trầm như người ta bắt đầu thấy từ tháng trước thì cả Âu Châu sẽ
lâm nạn, nhất là khi các nước phải chấp hành chính sách cải tổ hệ thống
ngân hàng theo yêu cầu của Hội đồng Ổn định Tài chính.
Việt Long: Phải chăng vì vậy mà hồi nãy ông mới nói đến một trận chiến ngoại tệ giữa các quốc gia khi tiền Nhật sụt giá?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Quả thật là Ngân hàng trung ương của Âu Châu
có phản ứng bơm thêm tiền khiến đồng Euro sẽ mất giá. Nam Hàn cũng vừa
có động thái hạ lãi suất, y như trường hợp của Trung Quốc. Ít ai nói ra
cái chữ dễ sợ là một trận chiến về ngoại tệ nhưng sự thật thì xứ nào
cũng kích thích kinh tế qua các biện pháp tiền tệ hay tín dụng với hậu
quả là làm giảm tỷ giá đồng bạc so với các ngoại tệ khác. Các nước Á
châu hiện lâm vào hoàn cảnh đó.
Khốn nỗi, người ta không thể xuất khẩu lên cung trăng để phục hồi kinh
tế mà phải bán hàng cho nhau. Khi kinh tế trì trệ thì các nước nhập khẩu
ít hơn và xứ nào sống nhờ xuất khẩu sẽ bị hại nhất vì dù có làm giảm
giá đồng bạc thì cũng chưa thoát hiểm mà còn phải trả hóa đơn cao hơn
khi mua hàng xứ khác với đồng tiền mất giá. Đấy cũng là bài toán nan
giải cho ngân hàng trung ương của Việt Nam.
Một cách chậm rãi, thế giới đang gặp nguy cơ suy sụp nặng một cách cứ
tưởng như bất ngờ và ngoài khối công nghiệp hóa, có chín nền kinh tế lớn
bị nhiều bất trắc nhất, đó là Trung Quốc, Liên bang Nga, Brazil, Chile,
Argentina, Ấn Độ, Indonesia, Turkey và Nam Phi. Ngoại lệ duy nhất vẫn
là Hoa Kỳ dù tiền Mỹ lên giá, và hôm qua Thứ Ba 25, bộ Thương mại Hoa Kỳ
đã điều chỉnh đà tăng trưởng theo hướng cao hơn.
Việt Long: Ông vừa nói đến sự kiện là "một cách chậm rãi, thế
giới đang gặp nguy cơ suy sụp nặng một cách bất ngờ". Cách đây hơn một
năm, trong dịp phân tích Hội nghị Ban chấp hành Trung ương kỳ bảy tại Hà
Nội, ông có nói đến hiện tượng mà các nhà vật lý gọi là "cát truồi",
nghĩa là một cách chậm rãi người ta cứ lặng lẽ tích lũy thêm những yếu
tố thất quân bình cho tới khi có sự sụp đổ bất ngờ. Phải chăng, chúng ta
đang chứng kiến một hiện tượng đó khi các nước đều cố hạ giá đồng bạc
để thoát hiểm mà rốt cuộc lại kéo nhau vào khủng hoảng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng cái gọi là trật tự kinh tế chính
trị của các nước là điều gì đó vô cùng phức tạp vì là kết quả của nhiều
động thái khác nhau.
Về trường hợp Việt Nam thì tờ World Affairs vừa có bài bút ký khá
dài của nhà báo Michael Totten với đề tựa rất lạ, đó là "Phải chăng đã
đến ngày tàn của đảng Cộng sản Việt Nam"? Ra khỏi chuyện Việt Nam thì ta
nhớ tới kế hoạch Nga bán năng lượng cho Tầu. Họ tưởng khôn khi nhận
tiền bằng đồng Nguyên của Tầu thay vì đô la Mỹ.
Nào ngờ dầu thô sụt giá và đồng Nguyên sẽ còn mất giá nữa trong trận
chiến ngoại hối sắp tới trong khi đô la lên giá. Kết quả là Nga thu về
đồng bạc mất giá trong khi vẫn phải trang trải các khoản nhập khẩu khác
bằng tiền Mỹ. Tức là Tổng thống Vladimir Putin có thể hoành hành tại
Ukraine và cùng Trung Quốc thì coi thường Hoa Kỳ chứ đang bị thiệt cả
hai đầu. Những chuyện như vậy đang chậm rãi xảy ra trước mắt chúng ta mà
ít ai chịu để ý!
Việt Long: Xin cảm tạ ông Nghĩa về lời cảnh báo này.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/EconomicForum/the-coming-currency-war-vl-nxn-11252014141408.htmlTuesday, November 25, 2014
NGỌC ẨN * KINH TẾ VIỆT NAM
Kinh tế Việt Nam sẽ sụp đổ trong những năm sắp tới?!
Ngọc Ẩn (Danlambao) - Nhìn
vào sự tranh dành ngân hàng giữa các nhóm đảng viên CSVN để sống còn.
Nhóm của chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đang tranh dành với nhóm của
thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Ông Nguyễn Sinh Hùng đang tranh dành chức
Thủ Tướng với ông Dũng, nếu không có tiền thì khó lòng thắng ông Dũng.
Nhóm Nguyễn Tấn Dũng đang nắm hệ thống ngân hàng. Khi kinh tế kiệt quệ
thì nhóm nào còn tiền sẽ thắng. Tại sao tôi lại dự đoán kinh tế CSVN sẽ
sụp đổ trong tương lai gần?
1. Những dấu hiệu đã bắt đầu hiện rõ tương tự như kinh tế Mỹ trong thời
suy thoái những năm 2008-2010. Những ngân hàng nhỏ khánh tận và phải
nhập vào những ngân hàng lớn. Sau đó những ngân hàng lớn cũng khánh tận
và chính phủ Mỹ phải in dollars để cứu những ngân hàng lớn. Thị trường
chứng khoán và địa ốc tuột dốc thê thảm. Hiện tượng này đang xảy ra tại
VN.
2. Nợ công quá cao. Phải dùng 65% tổng sản lượng quốc gia để trả nợ. Đây
là con số chính thức do đảng CSVN xác nhận. Thực tế có thể còn cao hơn.
3. Chi quá nhiều công quỹ để trả lương cho hệ thống chính phủ và hệ thống đảng vận hành song song rất tốn kém.
4. Chi phí quá nặng nuôi một bộ phận công an quá đông để đàn áp và cướp của dân.
5. Quốc gia Miến Điện đang phục hồi dân chủ và đầu tư ngoại quốc đang đổ vào Miến Điện sẽ làm giảm đầu tư vào Việt Nam.
6. Nam Hàn đang đầu tư vào nhân công rẽ ở Bắc Hàn. Chủ tịch Bắc Hàn Kim
Jong-Un giết các tay chân thân Tàu, và Kim Jong-Un đang chống TQ. Dân
Bắc Hàn sẽ chết đói và Kim Jong-Un sẽ không còn chọn lựa nào khác là mở
cửa mời Nam Hàn xây dựng thêm cơ xưởng ở Bắc Hàn giúp tạo công ăn việc
làm. Cách đây 40 năm TQ dưới thời Đặng Tiểu Bình đã bắt tay với Mỹ để
cứu đói dân TQ. Hiện tại Nam Hàn đã có công ty sản xuất tại bên trong
Bắc Hàn. Nam Hàn sẽ chọn đầu tư vào Bắc Hàn thay vì Việt Nam vì ít hao
tốn tiền chuyên chở cộng thêm nhân công rẽ và không bị bất đồng ngôn
ngữ. Kim Jong-Un vừa lên tiếng kêu gọi trở lại bàn đàm phán vô điều kiện
với 6 quốc gia về vấn đề võ khí nguyên tử mà trước đây Bắc Hàn đã tẩy
chay. Kin Jong-Un đang muốn xích gần hơn với Nam Hàn để kiếm ăn.
7. Ngư phủ VN không dám ra Hoàng Sa và Trường Sa đánh cá vì sợ TQ húc chìm tàu. Nhiều triệu người sống nhờ biển sẽ thất nghiệp.
8. Hàng trăm tàu đánh cá lớn của TQ vào biển VN bắt cá, tôm, mực, rùa
mỗi ngày. TQ dùng các loại lưới cào thì chỉ trong vòng 2 năm biển miền
Bắc và miền Trung VN sẽ hết cá.
Chúng ta phân tích điểm số 1: Chính phủ Mỹ đã cho in cả nghìn tỷ dollars
để cứu hệ thống ngân hàng khỏi bị sụp đổ trong thời kỳ suy thoái. Những
ngân hàng lớn của Mỹ như Bank of America, Citi Bank, và hai ngân hàng
liên bang Fannie Mae and Freddie Mac, JP Morgan phải mượn chính quyền
liên bang cả 200 tỉ Mỹ kim cho mỗi ngân hàng. Thế giới hiện tại vẫn sử
dụng Mỹ kim làm bản vị trao đổi hàng hóa, thực phẩm, do đó Hoa Kỳ có thể
in tiền để cứu nguy kinh tế mà không sợ các quốc gia khác không nhận Mỹ
kim. Khi hệ thống ngân hàng Việt Nam bị sụp đổ thì đảng CSVN không thể
in tiền VN để trả nợ ngoại quốc hoặc nhập cảng hàng hóa vì tiền "Đồng"
của VN không có giá trị bên ngoài VN, và chắc chắn là không có sức mạnh
như Mỹ kim. Người dân VN muốn bảo vệ tài sản thì nên cất giữ Mỹ kim,
vàng hoặc gửi tiền ở các ngân hàng ngoại quốc. Đảng CSVN trong những
ngày sắp tới sẽ bòn rút ngoại tệ từ dân. Để cứu nguy kinh tế nội địa thì
đảng CSVN sẽ bán công phố phiếu ngắn hạn, dài hạn và cướp quý kim và
ngoại tệ của dân. Sau khi những biện pháp đó không ngăn chận được được
kinh tế sụp đổ thì đảng CSVN sẽ in rất nhiều tiền để mua hàng hóa, thực
phẩm nội địa đem xuất cảng, và như thế tiền VN sẽ lạm phát và thực phẩm
tiếp tục tăng giá không biết tới đâu?
Chúng ta tiếp tục phân tích điểm thứ 2, 3 và 4: Cả 3 điểm này có liên hệ
với nhau. Trước hết chúng ta cần chia nợ công ra làm hai loại. Loại thứ
nhất là nợ người dân trong nước do đảng CSVN phát hành công khố phiếu,
loại này ít phải lo hơn loại nợ thứ 2 là nợ vay từ ngân hàng ngoại quốc.
Loại nợ thứ nhất có thể trả bằng tiền VN và có thể giật nợ mà người dân
chẳng làm gì được chế độ độc tài toàn trị. Loại nợ thứ 2 phải trả bằng
Mỹ kim hoặc Euro. VN hiện nay mang loại nợ thứ 2 rất nhiều.
Hệ thống chính quyền của CSVN bao gồm hệ thống chính phủ và hệ thống
đảng. Ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là đảng trưởng đảng CSVN nhưng
đảng không trả lương cho ông ta. Ông Trọng nhận lương từ tiền thuế của
dân để phục vụ cho đảng CS, khi ông về hưu thì dân tiếp tục nai lưng trả
tiền hưu. Một ông Chủ Tịch Huyện của hệ thống chính phủ lại kèm theo
một ông Huyện Ủy của hệ thống đảng, cả 2 ông đều lãnh lương từ tiền thuế
của dân. Khi tiền lương ít ỏi của công nhân nghèo bị trừ một phần để
gọi là xóa đói giảm nghèo nhưng thực chất là đảng CSVN bóc lột công nhân
để nuôi những người Huyện Ủy, Tỉnh Ủy, Quân Ủy và ủy ban thường vụ BCT
đảng CSVN. Công nhân làm kiệt sức để trả lương cho các ngài Ủy... chỉ
ngồi không ăn bác vàng, bên cạnh đó người dân phải đóng tiền tham nhũng
cho cả 2 người, Chủ Tịch Huyện và Huyện Ủy. Công nhân cần phải mạnh mẽ
chống lại việc trừ lương để xóa đói giảm nghèo và mọi hành động bóc lột
khác từ "đảng" cho đến khi đảng CSVN ngưng trả lương cho các ủy viên
đảng CSVN. Nhân viên của đảng CSVN, làm việc đảng thì đảng trả lương chứ
hà cớ gì bắt dân trả lương? Đảng CSVN bắt công nhân nghèo phải trả
lương cho những ủy viên nhà giàu là việc làm đầy áp bức, bóc lột.
Đảng CSVN chu cấp hậu đãi, trang bị vũ khí và dụng cụ điện tử tối tân
cho một tập thể rất lớn công an và dư luận viên. Họ chỉ có mục đích theo
dõi, đàn áp dân và tham nhũng. Đảng CSVN cần kiếm tiền nhanh chóng để
trả lương hàng tháng cho công an bằng cách tăng giá xăng, giá điện,
nước, tiền học phí và thu phí đi đường. Đảng CSVN còn làm ngơ hay khuyến
khích công an ăn cướp tài sản của dân để bớt chi phí cho đảng và Nhà
Nước. Nhà báo Trương Minh Đức đang khiếu nại việc Trung Tá công an tên
Hòa và đám công an đàn em mới vừa cướp tiền, laptop computer, dụng cụ
điện tử của ông Đức. Nếu việc này không được đem ra xử thì chúng ta phải
hiểu là ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và ông Đại tướng Trần Đại Quang
khuyến khích công an đi ăn cướp để trừ vào phần đảng CSVN trả thiếu cho
lực lượng công an. Công an cũng cướp nhà cướp đất, chận xe thu tiền mãi
lộ của dân và đảng CSVN coi đó là tiền thưởng, tiền huê hồng của lực
lượng công an do dân trả. Cái thời ăn cướp lén lút chận đường cướp của
lúc trời tối rồi bỏ chạy đã qua. Ở trong thiên đường XHCN VN thì cướp
không cần bỏ chạy mà còn đứng đó đánh, chửi mắng nạn nhân và bỏ tù nạn
nhân. Bọn cướp là bọn công an nhân dân và tướng cướp nằm trong BCT.
Những kẻ nằm trong BCT đảng CSVN đã từng là những tên ăn cướp. Hồ Chí
Minh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Tấn Dũng đều là
những tên cướp nhà, cướp đất, cướp tài sản của dân.
Chúng ta phân tích điểm 7 và 8: Xuất cảng hải sản mang lại một nguồn lợi
nhiều tỷ Mỹ kim hằng năm giúp ngư dân nuôi sống gia đình và tạo công ăn
việc làm cho hàng trăm ngàn người kể cả ngư phủ và công nhân chế biến,
xuất cảng thủy sản. Tàu của ngư phủ VN bị tàu TQ húc chìm, ngư phủ VN bị
hải quân TQ đánh đập, cướp hải sản mà đảng và Nhà Nước CSVN không dám
đứng ra bảo vệ thì tương lai số người thất nghiệp sẽ tăng cao. Hoàng Sa
và Trường Sa đang biến thành ngư trường của TQ. Hàng trăm tàu đánh cá TQ
mang lưới cào vào vùng biển VN để càn quét tất cả hải sản từ nhỏ đến
lớn mà nhà cầm quyền CSVN vẫn đồng ý như thế. Chỉ trong vòng 2 năm thì
biển miền Trung và miền Bắc sẽ hết hải sản thì gia đình ngư dân chết
đói.
VN là một quốc gia với hệ thống hành chánh quá tốn kém do trả lương cho
nhân viên của cả hệ thống "đảng" và "chính phủ". Đảng CSVN nuôi một tổ
chức công an quá đông chỉ để bảo vệ đảng CSVN và bọn tham nhũng chứ
không bảo vệ tổ quốc. Nhà Nước trả lương cho các đại biểu quốc hội do họ
chọn lựa chứ không do dân chọn. ĐBQH chỉ biết làm theo lệnh đảng CSVN
và không phục vụ quyền lợi người dân. Đầu tư từ ngoại quốc bị cạnh tranh
khốc liệt với những quốc gia như Miến Điện, Thái Lan, Indonesia và
tương lai là Bắc Hàn. Đảng CSVN tăng giá xăng, điện, nước để kiếm tiền
nuôi công an và "đảng" khiến giá thành sản phẩm cao và đưa đến yếu thế
cạnh tranh với các nước láng giềng. Ngoài biển thì bị TQ cướp hải sản và
ngư dân thất nghiệp cộng thêm tham nhũng tràn lan sẽ đánh sập kinh tế
VN.
Tất cả những thứ đó đang xảy ra và kinh tế sẽ sập trong tương lai gần.
Việc trước mắt là cần ngưng trả lương cho các "đảng ủy", các ĐBQH vô
tích sự và cắt giảm chi phí dành cho công an để giảm bớt gánh nặng. Tăng
kinh phí bảo vệ ngư dân để ngành xuất cảng hải sản tiếp tục tạo công ăn
việc làm. Đảng CSVN luôn tuyên bố cần ổn định để phát triển kinh tế. Ổn
định thế nào khi ngư dân không dám ra Hoàng Sa và Trường Sa đánh bắt
hải sản? Trong đất liền thì công an cướp tài sản, giết dân? Tất cả những
thay đổi vừa kể chỉ có thể thực hiện khi chúng ta thay thế tất cả ê kíp
lãnh đạo hiện tại bằng phương pháp tự do ứng cử và tự do bầu cử. Chỉ
như thế thì người có thực tài sẽ được dân chọn ra lãnh đạo đất nước.
Việt cộng bầu cho Việt cộng thì muôn đời vẫn là Việt cộng.
24/11/2014
HUỲNH TÂM * BÍ MẬT THÀNH ĐÔ
BÍ MẬT THÀNH ĐÔ
HUỲNH TÂM
Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 4)
Huỳnh Tâm (Danlambao) - Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, Nguyễn Văn Linh tuyên bố "3 quyết tâm" khẳng định trung thành với "Bác" đảng Trung Cộng:
- Chúng tôi quyết tâm sửa chữa những sai lầm về chính sách trong quá khứ và không bao giờ quên ơn đảng BCT/TW Trung Cộng. "Ngã
môn hữu quyết tâm giải quyết quá khứ chánh sách đích thất ngộ hòa vĩnh
viễn bất hội vong kí cảm tạ song phương BCT/ Trung quốc trung bộ".
- Chúng tôi quyết tâm khôi phục lại chính sách Trung Cộng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, năm xưa đã quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai đảng và
hai nước. "Ngã môn quyết tâm khôi phục hồ chí minh chủ tịch đích
trung quốc quốc gia chánh sách, tại quá khứ đích nhất niên lí nhất trực
thị lưỡng đảng, lưỡng quốc chi gian đích truyền thống hữu hảo quan hệ".
- Việt Nam quyết tâm dựa vào quan hệ tốt đẹp với Trung Cộng là điểm khởi
đầu cơ bản của thời kỳ này, xem Hoa Kỳ là kẻ thù, đối đầu trực tiếp với
Trung Cộng Quốc. "cơ vu dữ trung quốc quốc gia trọng điểm cơ sở
lương hảo quan hệ việt xác định đích xuất phát điểm thị giá nhất thì kì,
khán đáo mĩ quốc thị vi địch nhân, dữ trung quốc trực tiếp đối kháng".
"Kỷ yếu" ấn định đàm phán biên giới Trung-Việt
Sau khi Bắc Kính lặp đi lặp lại, phải tiến hành nhanh thỏa thuận về dự
thảo văn bản "Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản về việc giải quyết vấn đề
biên giới của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam". (Quan vu giải quyết trung hoa nhân dân cộng hòa quốc
hòa Việt Nam xã hội chủ nghĩa cộng hòa quốc biên giới lĩnh thổ vấn đề
đích cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị) để rồi còn ký kết những bản "tóm tắt" đàm phán khác. [1]
Ngày 18 tháng 10 năm 1993, Trưởng phái đoàn chính phủ Trung Quốc Tiền Kỳ
Tham đã thực hiện một chuyến đi đặc biệt đến Hà Nội, với người đứng đầu
phái đoàn chính phủ Việt Nam Vũ Khoan, chuẩn bị định ngày ký kết "Thỏa
thuận nguyên tắc cơ bản về việc giải quyết vấn đề biên giới nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam".
Trong "Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản" (cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị) hai bên khẳng định trên cơ sở "chung sống tồn tại" (hòa bình cộng xử),
thông qua tham vấn giữa hai nước, bao gồm Biển Đông và biên giới đất
liền, cả hai đều thực tế thiết lập chủ quyền biên giới mới của hai quốc
gia Trung-Việt. "Trọng tâm hiện hành về giải quyết vấn đề biên giới đất
liền và Vịnh Bắc Bộ. Đồng thời, tiếp tục đàm phán về các vấn đề hàng hải
để đạt được một giải pháp cơ bản và lâu dài", (mục tiền tập trung
giải quyết lục địa biên giới hòa bắc bộ loan vấn đề, dữ thử đồng thì, kế
tục tựu hải thượng đích vấn đề tiến hành đàm phán, dĩ tiện thủ đắc nhất
hạng cơ bổn hòa trường cửu đích giải quyết bạn pháp). Về vấn đề biên giới đất liền cần có "các nguyên tắc cơ bản" (cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị)
còn quy định rằng "Thỏa thuận cả hai bên đồng ý trên cơ sở một góc cạnh
cung về Hòa ước Pháp-Thanh ngày 26 tháng 6 năm 1887", tiếp tục thảo
luận Hòa ước Pháp-Thanh ngày 20 tháng 6 năm 1895". Sau đó thảo luận vòng
tròn chương trình cô đọng hơn (song phương đồng ý dĩ trung pháp 1887 niên 6 nguyệt 26 nhật thiêm đính đích "tục nghị giới vụ chuyên điều"). Hòa ước ngày 20 tháng 6 năm 1895 (tục nghị giới vụ chuyên điều phụ chương).
Nếu công nhận Hòa ước Pháp-Thanh hay phủ nhận cũng nhắm vào mục đích
phát triển cho phù hợp hiện tình chủ quyền và phân định biên giới theo
quy định "Kỷ yếu 1990", nó như một tài liệu xây dựng đàm phán chủ quyền
của hai quốc gia. Những bản đồ biên giới đất liền được vẽ theo quy định
của (pháp luật?) cho phù hợp những điểm đánh dấu ranh giới, như là cơ sở
của tất cả các đường biên giới đã được phê duyệt đối với Trung
Quốc-Việt Nam", và giải quyết tranh chấp những vấn đề khu vực. Ân định
cuối cùng hai bên ký hiệp ước biên giới. ("1990 niên luận văn tập"
tha thị giá dạng nhất cá kết cấu tài liệu, biên giới địa đồ tương án
chiếu giới bi đích pháp luật chế định, nhân vi sở hữu đích biên giới đô
bị phê chuẩn vi y cư Trung quốc - Việt Nam). [2]
Hai bên lấy quyết định rằng: "Hai bên nhất trí thi hành pháp luật quốc
tế cho phù hợp với luật biển thông lệ của quốc tế, thông qua các cuộc
đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ. "Để kết thúc, cả hai bên cần thực hiện
những nguyên tắc công bằng và xem xét tất cả các trường hợp có liên quan
Vịnh Bắc Bộ, bảo đảm giải pháp công bằng". [3]
Hai bên cũng đồng ý thành lập Nhóm công tác chung trên thực địa biên
giới đất liền, theo quy định thực tế phân biệt lập hồ sơ, bản đồ, khảo
sát thực địa, so sánh bản đồ với thực địa v.v... và Nhóm chuyên viên đàm
phán, sau khi hai Nhóm thực hiện thành công một đoạn công tác, trình
lên đoàn đại biểu Chính phủ xem xét và hướng dẫn, mọi phân chia do hai
Nhóm làm việc chung từ biên giới đất liền đến Vịnh Bắc Bộ, luôn luôn
thảo luận những điểm tranh chấp giữa hai nước để giải quyết vấn đề, cần
thiết việc soạn thảo hiệp ước biên giới và các thỏa thuận phân chia Vịnh
Bắc Bộ, lập hồ sơ đầy đủ sau khi ký thay mặt Chính phủ. "Những nguyên
tắc cơ bản của thỏa thuận", (cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị). Đối với việc giải quyết cuối cùng của biên giới giữa hai nước phải đặt nền tảng pháp lý vững chắc.
Ngày 07 tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư
Giang Trạch Dân (江泽民), Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng (李鹏) và Tổng Bí thư
Đỗ Mười (杜梅), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng của Việt Nam Võ Văn Kiệt (在北京)
tham dự buổi lễ giao dịch "điếu ngư thái quốc tân quán"
(Diaoyutai State Guesthouse) tại Bắc Kinh Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam
đã ký kết "Hiệp định biên giới tạm thời". Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Tiền Kỳ Tham hội đàm với Vũ Khoan (武宽) để thảo luận về các cuộc đàm phán
biên giới và các vấn đề quan hệ song phương. Ông ta cũng đã gặp Bộ
trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm (阮孟琴). Đạt được những đồng
thuận quan trọng trong đàm phán giữa hai Chính phủ rất cụ thể:
- Thứ nhất, đàm phán giải quyết biên giới đất liền, Vịnh Bắc Bộ và vấn
đề phân giới cắm mốc. Trong tinh thần khó khăn lúc đầu đến hôm nay Việt
Nam cho trôi qua, quá dễ dàng chấp nhận mọi chủ động đề nghị từ phía
Trung Cộng và xem thường chủ quyền quốc gia.
- Thứ hai, trong quá trình giải quyết, Việt Nam thiếu năng động không có
dấu hiệu nào nỗ lực vì chủ quyền, trong khi đó phía Trung Cộng cố gắng
duy trì bình tĩnh, tránh tối đa một số điều khó chịu bởi không lấy được
trọn vẹn ý theo bản đồ biên giới đã định, Trung Cộng chủ động ngoại giao
mềm (hành sử theo luật giang hồ thay cho súng đạn, mua chuộc trao đổi
quyền lợi sai khiến thành phần có trách nhiệm đàm phán) tránh được mọi
tranh chấp biên giới đất liền lẫn Biển Đông.
Ngày 30 tháng 11 năm 1992, Thủ tướng
Trung Quốc Lý Bằng chính thức thăm thiện chí Việt Nam. Đây là việc bất
bình thường quan hệ song phương, các nhà lãnh đạo Trung Quốc lần đầu
tiên đến thăm Việt Nam sau khi chiến tranh biên giới 17-2-1979 và 1984.
Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng tổ chức
các cuộc đàm phán cấp Chính phủ. Lý Bằng lấy quyết định thông cáo chung,
Võ Văn Kiệt thực hiện: Nay chính thức hai Chính phủ Trung Quốc-Việt Nam
dựa trên cơ sở "Năm nguyên tắc" (hòa bình, thân thiện, ổn định, công
bằng và hợp lý trật tự quốc tế mới).[4]
Hai bên đã quyết tâm và nhất trí bắt đầu tiến hành đàm phán càng sớm
càng tốt theo quy định của Trung Quốc, những cấp Chính quyền thi hành
đúng quy tắc định mức và thừa nhận luật pháp quốc tế, việc giải quyết ưu
tiên về lãnh thổ và lãnh hải những vấn đề gây tranh cãi không còn mang
quyết định đàm phán, hai bên không được thực hiện tự lập riêng biên giới
hay hành động đưa đến phức tạp tranh chấp. Lý Bằng thành lập công thức
On/Off cho phép đèn xanh Võ Văn Kiệt theo tiêu chuẩn (Năm nguyên tắc)
bước vào trò chơi nhượng lãnh thổ, lãnh hải vừa mới ra đời trong hoàn
cảnh bi đát nhất tại thủ đô Hà Nội Việt Nam. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh
Tâm.
7. Cơ chế đàm phán bán biên giới Việt Nam
Trong "Kỷ yếu", qui định soạn thảo cơ chế đàm phán theo cấp Chính phủ,
thành phần đại biểu của hai bên tương ứng, các cuộc đàm phán được tổ
chức luân phiên tại hai nước. Trưởng phái đoàn của cả hai bên luân phiên
chủ trì đàm phán. Cơ chế đàm phán cấp Chính phủ, chủ yếu thực hiện liên
quan đến biên giới lãnh thổ và lãnh hải, nhiệm vụ soạn thảo nghị sự cho
những cuộc đàm phán chính thức của Chính phủ, và hướng dẫn công tác cho
hai nhóm chuyên gia để xem xét và xác nhận kết quả sau những cuộc đàm
phán, hai bên sinh hoạt chung trong Nhóm công tác và các Nhóm chuyên
gia.
Ngày 30 tháng 12 năm 1999. Tiền Kỳ Tham và Nguyễn Mạnh Cầm chính thức ký
vào "Hiệp ước biên giới đất liền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam". Sau đó, ấn định vào ngày 25 tháng 12 năm
2000 ký "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Hợp tác lãnh hải vùng Vịnh Bắc Bộ, và vùng đặc quyền kinh tế được
thỏa thuận trên phân định ranh giới thềm lục địa". Cơ chế này đã được kế
thừa theo ý của "Bác" đã ba lần ký liên tục thỏa thuận "Hiệp ước Vạn
Lịch nhượng hải và Vịnh Bắc Bộ" (Hiệp ước 1000 năm) của những năm 1957,
năm 1961 và 1963, nhượng lãnh hải cho Trung Quốc, "Bác" thành công vĩ
đại, cho đến nay toàn dân Việt Nam hầu hết bị ám lệnh che khuất không
biết sự kiện này! Do đó "Bác" được nhân dân Việt Nam công nhận thánh
nhân và "Cha già dân tộc" người sáng lập của chủ nghĩa xã hội.
Trung Quốc chủ động thiết lập mức độ 1: Khái quát theo cơ chế đàm phán
cấp Chính phủ về biên giới đất liền, liên quan với Nhóm phân chia Vịnh
Bắc Bộ, và phần cơ chế đàm phán của các Nhóm công tác và các Nhóm chuyên
gia. Mức độ 2: Khởi động tiến hành đàm phán hàng hải. Hai Nhóm công tác
và Nhóm chuyên gia là một phần của các đoàn đại biểu Chính phủ của hai
nước. Mức độ 3: Phân chia biên giới đất liền do các Nhóm làm việc chung
tại miền Bắc và Vịnh Bắc Bộ, Nhóm chuyên gia được thành lập hổ trợ cho
các Nhóm công tác, bao gồm biên giới đất liền, các vùng đất liền tại
biên giới, mỗi Nhóm lập bản đồ theo hướng dẫn của các chuyên gia kỹ
thuật, các tập đoàn chuyên gia thiết lập bản đồ điều chỉnh Vịnh Bắc Bộ.
Ngày 19 tháng 10 năm 1993, Trưởng phái
đoàn Trung Quốc, Thứ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền và Trưởng phái
đoàn chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Thứ trưởng Vũ Khoan tại
Hà Nội, Việt Nam đã ký Hiệp ước "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, về việc giải quyết biên giới theo nguyên tắc
cơ bản của thỏa thuận", vấn đề giải quyết biên giới lãnh thổ và lãnh
hải giữa hai nước đặt trên nền móng công bằng và hợp lý, để củng cố và
phát triển tình hữu nghị láng giềng tốt và hợp tác cùng có lợi giữa hai
nước, ý nghĩa này rất quan trọng bởi chính phủ Trung Quốc chủ động đấy
Việt Nam đi đến ý muốn của mình. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Cuối cùng đã có kết quả của các cuộc đàm phán biên giới đất liền
Từ những ngày 22 tháng 2 năm 1994 đến ngày 22-ngày 25 tháng 3.
Trung-Việt phân chia biên giới đất liền, hai Nhóm công các chung miền
Bắc và Vịnh Bắc Bộ, tổ chức vòng đàm phán đầu tiên tại Hà Nội Việt Nam.
Kể từ đó, Trung-Việt đàm phán biên giới đất liền bước vào giai đoạn giải
quyết cụ thể các vấn đề biên giới.
Việt Nam thường thực hiện phân định biên giới đất liền theo cảm tính đơn
giản như đã được phân định theo hiệp ước cơ sở? (VN dâng hiến biên
giới). Trung Quốc vẫn chưa hài lòng thường cho rằng những nguồn thông
tin về văn bản có con số không được ước tính đúng mức, còn thiếu sót.
Dẫn đến một số khác biệt giữa hai nước trên các đường biên giới sẽ có
tranh cãi chưa phải lúc kết quả.
Trong thực tế nó phản ánh những sự xung đột và tranh chấp quyền lợi ích
giữa hai quốc gia, họ chưa bao giờ nghĩ đến liên quan đời sống của nhân
dân biên giới. Tại biên giới có những làng dân cư sinh sống xem mảnh đất
nhỏ một khiêm tốn tài sản, tự cho là đất hoang khai phá làm của riêng,
thường là nguồn gốc khẩu phần sống của một hộ gia đình.
Lộ trình đàm phán trong nội địa biên giới đất liền của Việt Nam đang dẫn
đến vòng hai đàm phán, hai bên thông qua việc trao đổi đất liền tại
ranh giới, căn cứ trên đường phân định của bản đồ, trái lại Trung Quốc
không xác nhận khu vực tổng số 289, cho rằng chưa phù hợp theo đường
biên giới, theo bao phủ diện tích khoảng 233 km², Trung Quốc khiếu nại
vì lý do kỹ thuật vẽ bản đồ tổng cộng có 125 km² trong khu vực liên quan
đến mâu thuẫn, chênh lệch khoảng 6 km², hai bên tranh chấp trong khu
vực 164 km². Liên quan đến tổng diện tích 227 km². Hầu hết các khu vực
tranh chấp biên giới lợi ích thực sự, nó rất khó khăn cho việc thương
lượng và giải quyết bởi vì khu vực này nằm sâu trong lãnh thổ của Việt
Nam.
Tháng 7 năm 1997, Tổng Bí thư Đỗ Mười
đến Trung Quốc, Giang Trạch Dân đưa ra những yêu cầu đối thoại về biên
giới và đề nghị tích cực phấn đấu cho năm 2000. Đỗ Mười vì "đảng sống
nước tan" đồng ý ký "Hiệp ước biên giới đất liền". Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm.
Nguyễn Mạnh Cầm tuyên bố ba điều:
- Trong đường biên giới đối với tiến trình hòa giải, chúng tôi thực hiện ba đề nghị cho phía Việt Nam.
Đầu tiên, Pháp-Thanh đã xác nhận về sự phát triển theo quy định và phù
hợp riêng của thời ấy, nay khoanh định lại những văn bản mới, vẽ lại bản
đồ, cho phù hợp xây dựng, và theo quy định của pháp luật dựa trên cơ sở
"Kỷ yếu Thành Đô 1990" đánh dấu lại ranh giới, cho tất cả đối với đường
biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Thứ hai, sau khi kiểm tra chéo vẫn không thể thống nhất về đường biên
giới và vị trí đánh dấu ranh giới, nay đã nhận ra rất nhiều sai sự thật,
hai bên sẽ cùng nhau tiến hành điều tra thực địa, xem xét sự tồn tại
của một loạt các tình huống trong khu vực, phù hợp với tinh thần hiểu
biết lẫn nhau và vùng đất định cư của dân. Hiệp thương hữu nghị, tìm
kiếm giải pháp công bằng và hợp lý.
Thứ ba, sau khi đường biên giới đã được phê duyệt, khu vực biên giới
thuộc thẩm quyền nhiều hơn bên (TQ), bên kia sẽ được trả lại một số lĩnh
vực vô điều kiện theo nguyên tắc, (nói mà không trả lại). Quản lý biên
giới để tạo thuận lợi cho sự chấp nhận ra đi (đất bị mất), bởi hai bên
thông qua tham vấn thân thiện, hiểu biết lẫn nhau, là tinh thần công
bằng và hợp lý điều chỉnh thích hợp. Kể từ đó, Nhóm làm việc chung phân
chia biên giới đất liền đã dành hơn hai năm, kiểm tra 164 km², về phía
đường biên giới trong khu vực tranh chấp.
Tháng 2 năm 1999, Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam bổ nhiệm Tổng bí thư
Lê Khả Phiêu và ông ta đến Trung Quốc báo cáo thành tích của đảng
"Bác". Lê Khả Phiêu trình báo để Chủ tịch Giang Trạch Dân hiểu tình hình
Việt Nam:
− BCT/TW Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, từ nay thực hiện các nguyên
tắc "16 ký tự" cho sự phát triển quan hệ song phương Trung Quốc-Việt
Nam, cụ thể là "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng tốt và
hợp tác toàn diện".
Trên lưng của Lê Khả Phiêu có dấu ấn 16
ký tự, "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng tốt và hợp tác
toàn diện". (trường kì ổn định, diện hướng vị lai, mục lân hữu hảo,
toàn diện hợp tác) đánh dấu bước ngoặc thời đại nô lệ. Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm. [5]
Giữa hai nước thiết lập quan hệ trong khuôn khổ phát triển của thế kỷ 21.
Cả hai bên đã đồng ý rằng giải quyết sớm vấn đề biên giới giữa hai nước
quá phù hợp với quyền lợi ích trên căn bản và nguyện vọng chung của nhân
dân hai nước. Hai bên quyết tâm đẩy nhanh quá trình đàm phán, nâng cao
hiệu quả công tác đảng, như đã ký kết vào năm 1999, "Hiệp ước biên giới
đất liền", việc xây dựng đường biên giới chung giữa hai nước đã trở
thành biên giới hòa bình, thân thiện và ổn định.
Hai bên cũng giải quyết đất liền khu vực định cư, quan trọng vấn đề biên
giới sẽ đạt được sự đồng thuận và tôn trọng ranh giới giữa các điều
kiện hai nước cư trú dài hạn, sản xuất và đời sống, không phải vì việc
phân định biên giới giữa hai nước gây ra một cú sốc lớn.
8. Trung Cộng lưu hồ sơ chính trị của "Bác" về động lực "bán nước còn đảng"
Có hai sự đồng thuận Trung Cộng-Việt Cộng đạt được trên cơ sở đàm phán
biên giới đất liền do Trung Cộng cung cấp một hồ sơ chính trị của Hồ Chí
Minh, làm động lực mạnh mẽ thúc đẩy đảng Cộng sản Việt Nam im lặng và
chấp nhận quyết tâm đàm phán càng sớm càng tốt.
Theo sự nhất trí của hai nhà lãnh đạo, Tiền Kỳ Tham và Nguyễn Mạnh Cầm,
cố gắng thúc đẩy phía Việt Nam xác định thái độ thực dụng để thông qua
các cuộc đàm phán với phía Trung Quốc nhằm giải quyết biên giới đất đai
trong khu vực tranh chấp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến quyền lợi
ích sống còn tại biên giới.
Tháng 5 năm 1999, một lần nữa Tiền Kỳ Tham đe dọa sẽ hạ đàm phán biên
giới không thông qua chính phủ Việt Nam, ông đã gửi thư tới Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm. Trong nội dung lá thư của
Tiền Kỳ Tham, bày tỏ rằng phía Việt Nam phải thực sự nhất trí, hy vọng
các nhà lãnh đạo hàng đầu Việt Nam hãy nhìn tình hình chung, tiến hành
quyền lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, mong rằng chân thành thực
dụng và thân thiện phản ánh đầy đủ, đưa khu vực tranh chấp còn lại phải
vào giải pháp biên giới giữa hai nước giải quyết đúng cách, cả trên
đường địa giới cho tất cả các khu vực tranh chấp để đạt được thỏa thuận,
các nhà lãnh đạo của cả hai nước đảm bảo rằng trong khi kết thúc thời
hạn quy định đàm phán biên giới đất liền, cho tiến hành nhanh việc ký
kết giữa Trung-Việt "Hiệp ước biên giới đất liền". Một khi hiệp ước cắm
cột mốc đã thành hình sẽ thấy Việt Nam đứng trước nguy cơ bất lợi mất
nhiều đất liền tại biên giới, đối với "Hòa ước Pháp-Thanh ngày 26 tháng 6
năm 1887" thiết lập một ranh giới cắm 240 cột mốc và 24 huyện đánh dấu
phân định biên giới Trung-Việt. Còn hiện tại trên hồ sơ cột mốc của
"Hiệp ước Trung Cộng-Việt Cộng 1999" sơ khởi đã có đến 1120 cột mốc,
trong những ngày tháng tiếp theo số cột mốc còn nhiều khả năng tăng lên,
mỗi bước tiến của một cột mốc Trung Quốc tất nhiên đất liền của Việt
Nam teo mạnh.
Tiền Kỳ Tham còn đề nghị thêm. Hai bên chấp nhận lịch sử khu vực không
gây tranh cãi, nên khẳng định một cách thực tế, không làm tăng sự khác
biệt giữa hai nước không nên thay đổi hiệp định trước đó của chính phủ
đã công nhận đường biên giới; đối với khu vực tranh chấp, theo đúng thỏa
thuận đã quy định của pháp luật mốc giới và tuân thủ các số liệu quy
định, để xác định đường biên giới; liên quan đến các khu dân cư, theo
đúng với sự đồng thuận quan trọng đã đạt được từ các nhà lãnh đạo của cả
hai nước, phải đồng tôn trọng, không vì phân định biên giới mà gây ra
sốc cho nhân dân, tạo điều kiện mọi mặt như sinh cư và sản xuất của
thường dân phải được bảo đảm sống đời vĩnh cửu tại biên giới.
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm nhanh chóng trả
lời. Phía Việt Nam giải quyết đất liền biên giới, và tôi đồng ý thúc đẩy
đàm phán biên giới đất liền càng sớm càng tốt.
Nguyễn Mạnh Cầm đề nghị rằng hai bên cần phải dựa trên tinh thần hiểu
biết và hỗ trợ lẫn nhau, trong việc xem xét đầy đủ các yếu tố khác nhau
và quyền lợi hợp pháp của tất cả các bên và chủ quyền của mỗi nước, quá
trình lịch sử, địa hình, nhu cầu thẩm quyền, cuộc sống biên giới và cơ
sở bảo vệ cho tương lai của nhân dân được ổn định trong khu vực biên
giới, nhanh chóng thu hẹp sự khác biệt, để tìm kiếm một giải pháp để hai
bên đồng chấp nhận, theo sự nhất trí của cả hai bên Việt Nam-Trung
Quốc.
Tiền Kỳ Tham chủ động hướng dẫn các nhà đàm phán Việt Nam, ông kêu gọi
trong các cuộc đàm phán phải tìm kiếm sự thật thông qua những sự kiện,
giải thích đầy đủ cơ sở pháp lý, tìm kiếm một giải pháp công bằng và hợp
lý cho đôi bên.
Ngày 25 tháng 7 năm 1999. Tiền Kỳ Tham tham dự cuộc họp ASEAN và APEC
(APEC), ông đã gặp hai lần với Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Bộ
trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm. Thảo luận về các vấn đề khu vực và
quốc tế, ông nắm bắt cơ hội này làm một số ngoại giao đẩy Việt Nam tiến
hành đàm phán biên giới.
Ngày 11 tháng 9, Tiền Kỳ Tham gặp Nguyễn Mạnh Cầm đề xuất giải quyết các
vấn đề của khu vực tranh chấp phải được thực tế, Việt Nam xem xét tích
cực các đề nghị phản ánh quyền lợi của cả hai quốc gia được cân đối và
những giải pháp tổng thể, hai bên có thể đạt được một sự hiểu biết về
điều căn bản này, hướng dẫn Nhóm công tác biên giới đất liền làm việc.
Tiền Kỳ Tham hy vọng các nhà lãnh đạo phía Việt Nam sẽ thực hiện nghiêm
túc đàm phán để đồng thuận giữa hai bên giải quyết khu định cư.
Tiền Kỳ Tham giới thiệu sự nghiệp của Nguyễn Mạnh Cầm. Nguyễn Mạnh Cầm
sinh ra vào năm 1929 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Việt Nam, trong
những năm 1950 ông học tiếng Nga tại Học viện Nga ngữ, và Học viện Chính
trị Hành chánh tại Bắc Kinh, cũng là một gián điệp lỗi lạc của Trung
Quốc đã từng làm đại sứ ở Hungary, Đức, Liên Xô, là một nhà ngoại giao
cao cấp quen thuộc với các cuộc đàm phán biên giới. Nguyễn Mạnh Cầm còn
báo cáo cho Tiền Kỳ Tham biết về nội tình của phía Việt Nam nhằm để
Trung Quốc hiểu được điểm yếu của từng người, ông sẵn sàng chấp nhận nỗ
lực lớn hơn để tìm một giải pháp cho vấn đề biên giới.
Trong ủy ban đàm phán Trung Quốc-Việt Nam có ba cấp độ: Trưởng phái đoàn
Chính phủ cấp Bộ trưởng Ngoại giao. Nhóm công tác chung, và Nhóm chuyên
gia đàm phán. Việt Nam đề nghị vào ngày 20-28 tháng 10 năm 1999, Trưởng
phái đoàn của hai Chính phủ gặp nhau tại Bắc Kinh. Đề nghị này được
phía Trung Quốc chấp nhận vì thấy thuận lợi cho cả hai về tầm nhìn chung
giải quyết cân bằng gói lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam.
Kể từ đó, trong các cuộc đàm phán của Trung Quốc-Việt Nam bao thành một
gói hàng giải pháp lãnh hải, lãnh thổ Việt Nam, bao gồm tất cả các vấn
đề nhạy cảm và khó khăn lâu nay tồn đọng chưa tính sổ, do đó khi đàm
phán đạt được một thỏa thuận sơ bộ biên giới đất liền được xem là một
trong những bước đột phá của Trung-Việt. Sau khi đàm phán khó khăn hơn
một tháng, hai bên tranh chấp quá lâu khu vực biên giới, cuối cùng thỏa
thuận đầy đủ như ý Trung Quốc. Kể từ đó, hai bên tiến hành đàm phán soạn
thảo hiệp ước, đặt tất cả khả năng của mình vào hồ sơ phổ quát liên
quan đến kết quả của các cuộc đàm phán và soạn thảo hiệp ước biên giới
đất liền Trung-Việt.
Những chuyên viên của hai bên hợp tác đắc lực, đàm phán trong vòng 20
ngày và đêm, thành hình dự thảo hiệp ước cho tất cả các điều khoản và
thành tựu trọn vẹn văn bản điều ước quốc tế chuẩn bị tiến hành vẽ bản
đồ, sau đó cho xuất bản về "Hiệp định biên giới đất liền và đường ranh
giới Trung-Việt".
Trước khi ký kết hiệp ước chính thức, Trung Quốc-Việt Nam tổ chức lễ ký
tắt hiệp ước. Trưởng phái đoàn cấp Chính phủ cả hai bên đồng thỏa thuận
mỗi văn bản và bản đồ cần được ký tên của mỗi bên, chữ ký đã lưu vào văn
bản của hiệp ước, tạo thành hồ sơ chứng nhận. Do số lượng lớn, hai bên
đồng ký tên trong một giờ, ngần ấy hồ sơ văn bản và bản đồ hiệp ước.
Ngày 30 tháng 12 năm 1999. Lịch sử biên
giới Việt Nam không còn gắn liền với những mảnh đất của quê hương, vì
nguyên do bất lực của Cộng sản để mất những làng, xã tại biên giới, nay
chính thức chia lìa tổ quốc. Ngày ghi nhận của lịch sử này, nó đang ở
điểm cuối của một ngày đi qua thế kỷ 20, bước vào điểm khởi đầu của ngày
mai thế kỷ 21. Đó là ngày Trung Quốc-Việt Nam đồng tham gia buổi lễ ký
kết tại Hà Nội "Hiệp ước biên giới đất liền Việt-Trung", đã kéo dài 18
năm, đánh dấu sự kết thúc chiến tranh. Cuộc cắm cột mốc biên giới đất
liền đang thực hiện bước thứ hai. Nhưng vẫn còn nhiều thử thách lịch sử
dân tộc Việt Nam nếu không biết biến cải tự thoát xát xa Trung. Đối với
Việt Nam, từ đây sẽ nẩy sinh quá nhiều tác động quan trọng và đang đứng
trước ngưỡng cửa mất nước. Và ngày 06 tháng 7 năm 2000, hai bên trao đổi
phê chuẩn hiệp ước, bắt đầu có hiệu lực. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Trung Quốc-Việt Nam phân định Vịnh Bắc Bộ
Buổi lễ ký kết được tổ chức vào tối ngày 30 tháng 12 năm 1999, tại Trung
tâm Hội nghị Quốc tế Hà Nội Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc
Tiền Kỳ Tham và Phó Thủ tướng Chính phủ Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam
Nguyễn Mạnh Cầm đồng ký "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt". Tại
buổi lễ ký kết, Tiền Kỳ Tham thực hiện một bài phát biểu ngắn: "Hiệp ước
biên giới đất liền Trung-Việt" đã được chính thức ký kết, đánh dấu hai
bên hòa bình, thân thiện và ổn định đất liền biên giới vào thế kỷ 21,
không chỉ sẽ trực tiếp mang lại lợi ích cho người dân các tỉnh biên
giới, mà còn thúc đẩy hai bên quan hệ nhà nước và thúc đẩy hợp tác toàn
diện giữa hai nước trong các lĩnh vực khác nhau, thúc đẩy hòa bình và ổn
định khu vực có ý nghĩa rất lớn.
Ngày 29 tháng 4 năm 2000, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nhân dân Trung Quốc
khóa 9, Đại hội thứ 10 thông qua nghị quyết phê duyệt "Hiệp ước biên
giới đất liền Trung-Việt"; cùng năm vào tháng 9, Việt Nam mở Đại hội lần
thứ X cũng theo quyết định phê duyệt điều ước quốc tế này.
Ngày 06 tháng 7 năm 2000, Trung Quốc và Việt Nam tổ chức buổi lễ phê
chuẩn "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt" tại Bắc Kinh. Chính thức
công bố hiệu lực 1000 theo lời nguyện của "Bác" tại hội nghị Bắc Kinh
ngày 07 tháng 7 năm 1955.
Tháng 11 năm 2000, Trung Quốc và Việt Nam thừa nhận phù hợp với "Hiệp
ước biên giới đất liền Trung-Việt", và trong hai cuộc đàm phán biên giới
hai phái đoàn cấp cao Chính phủ thành lập một ủy ban phân định ranh
giới chung. Đến cuối năm 2008, hoàn thành tất cả các công việc phân giới
cắm cột mốc và hoàn thành lĩnh vực xây dựng. Dự trù của hai bên sẽ trải
qua cắm mốc 8 năm, mới kết thúc ngày cắm cột mốc.
Việt Nam-Trung Quốc bắt đầu mở những cuộc đàm phán, thương lượng hiệp
ước hoặc thỏa thuận biên giới lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, và đàm phán phân
định ranh giới cùng một lúc. Nhưng cuộc đàm phán phân định biển là một
chủ đề mới phải vận dụng nhiều ngôn ngữ ngoại giao. Trước mắt Việt Nam
thua thiệt đã quá nhiều bởi mất đất, và chuẩn bị mất Vịnh Bắc Bộ và Biển
Đông, thế nhưng vẫn không chuẩn bị thực tế đàm phán, phân định ranh
giới để cho Trung Cộng tùy duyên dẫn đi đâu theo đó, cách làm này của
Việt Nam xem như vô trách nhiệm, họ không cần thiết chú ý "nước còn hay
đã mất", cho nên những nhà ngoại giao Trung Quốc không lấy gì làm lạ,
gọi những nhà lãnh đạo Việt Nam với hai từ "linh động".
Phía Việt Nam sợ nhất đàm phán phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ, bởi
trong vùng Vịnh gặp phải một cục bứu thối chính trị của "Bác" quá vĩ đại
đã bán đứng vùng Vịnh 1000 năm. Đàm phán nhất định sẽ thất bại, trả một
giá quá đắt đỏ, gặp nhiều phức tạp đưa đến khó khăn. Bước vào giai đoạn
đàm phán vùng Vịnh truyền thống của Việt Nam, Trung Quốc thường hay tìm
lý cớ phản đối, thực sự đã dẫn đến xung đột. Nổi bật nhất quốc gia nào
quan tâm đến Vịnh Bắc Bộ, chiến thắng sẽ ở trong lòng bàn tay. Trong khi
đó Tiền Kỳ Tham đã có quá nhiều kinh nghiệm đàm phán về biên giới lãnh
thổ và lãnh hải với 14 quốc gia lân bang, đáng kể nhất là biên giới Liên
Xô, Ân Độ, trái lại hai nhà ngoại giao của Việt Nam thiếu kinh nghiệm
lại thân cha đẻ Trung Cộng, chính xác hơn những nhân vật này được nên
người MSS là do Trung Cộng đào tạo.
Sự nghiệp vĩ đại của Hồ Chí Minh, tìm đường bán nước không thể chối cãi
Hồ Chí Minh đã 3 lần liên tục ký "Hiệp ước Vạn Lịch nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc-Việt Nam" (Vạn lịch điều ước đích lĩnh thổ nhượng bộ hòa bắc bộ loan, Trung Quốc-Việt Nam): [6]
- Tháng 11 năm 1957. Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Thư
ký đã ký, vấn đề biên giới lãnh thổ và lãnh hải Vịnh Bắc Bộ quan trọng
nhượng cho Trung Quốc, được dựa trên cơ sở chủ quyền 1000 năm. (1957
niên 11 nguyệt Việt Nam cộng sản đảng hòa bí thư xử đích trung ương ủy
viên hội dĩ kinh thiêm thự, biên giới vấn đề, bắc bộ loan trọng yếu đích
nhượng bộ, trung quốc đích lĩnh hải, thị cơ vu chủ quyền thiên niên). [7]
- Năm 1961, Phạm Văn Đồng thay mặt Hồ Chí Minh cùng với Chu Ân Lai xác
định lại một số nguyên tắc về pháp luật chủ quyền Vịnh Bắc Bộ, hai Chính
phủ quyết định giải quyết lãnh hải. (1961 niên, Phạm Văn Đồng, Hồ
Chí Minh đại biểu Chu Ân Lai trọng tân bắc bộ đích chủ quyền loan đích
nhất ta pháp luật nguyên tắc, lưỡng quốc chánh phủ quyết định tương giải
quyết lĩnh thổ). [8]
- Năm 1963, Phạm Văn Đồng thay mặt Hồ Chí Minh cùng với Chu Ân Lai ký
"Hiệp ước Vịnh Bắc Bộ". Trung Quốc-Việt Nam thiết lập tư vấn ranh giới
và tôn trọng lẫn nhau hoặc nhượng lãnh hải. Cấm tuyệt đối chính quyền
địa phương hay cộng đồng xâm lấn lãnh hải. (1963 niên, Phạm Văn Đồng,
Hồ Chí Minh đại biểu chu ân lai thiêm thự liễu "Bắc Bộ loan đích điều
ước". Trung Quốc-Việt Nam biên cảnh kiến lập liễu tư tuân hòa tương hỗ
tôn trọng hòa lĩnh thổ nhượng bộ. cấm chỉ địa phương chánh phủ hoặc xã
khu lĩnh thổ đích xâm phạm). [9]
Tất cả những hiệp ước trên đều liên quan đến khai thác thủy sản, tương
ứng thẩm quyền 3-12 dặm lãnh hải của Việt Nam, cũng như các bên thực
hiện quy định về hợp tác nghề cá. 3-12 hải lý cho vùng biển bên ngoài
khoảng cách đường cơ sở lãnh hải giữa hai nước, ba "Hiệp ước" trên, ngư
dân giữa hai nước tại khu vực được thành lập tổ hợp tác hành nghề đánh
cá chung "Tự do ra biển", tôn trọng sinh hoạt thói quen của ngư dân đã
sống hai thế hệ, có thể liên hiệp tự do hoạt động khai thác biển, dầu
khí, môi trường, du lịch v.v... tạo thành hai cộng đồng ngư dân ở phía
Bắc của Vịnh Bắc Bộ và ngư trường truyền thống quyền đánh bắt cá của
Trung Quốc.
Ngày 07 tháng 7 1955, Cộng hòa Nhân dân
Chính phủ Trung Quốc. Kỷ niệm ngày "Bác" dâng Vịnh Bắc Bộ. Và sau này
cũng chính nơi đây Hồ Chí Minh đã ký 3 lần hiệp ước, gọi tắt là "Hiệp
ước Vạn Lịch" (1000 Năm). Nguồn ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Sau khi ký kết "Hiệp ước nguyên tắc cơ bản"; Tiền Kỳ Tham hào hứng khoe
với BCT/TW Việt Công về tập thơ Trung Quốc "Ngục thất trong tù" của Hồ
Chí Minh, cho rằng "Bác" rất yêu văn hóa truyền thống quê hương (chính
Tiền Kỳ Thân tiết lộ "Bác" là người Hán). Trong những năm đầu của "Bác"
tham gia vào các hoạt động cách mạng tại quê hương cùng với Mao Chủ tịch
(毛泽东), Chu Ân Lai (周恩来) và các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc ngày
nay họ đều là thế hệ cũ đã từng giả mạo trên chính trường Trung
Quốc-Việt Nam tình bạn sâu sắc. Vì vậy chuyến thăm lần này Tiền Kỳ Tham
là người hiểu rõ về Hồ Chí Minh nhờ đọc nhiều tư liệu lưu trữ tại CPC và
MSS.
Tiền Kỳ Tham nói tiếp: Tôi có đã ý thức sâu sắc rằng tình hữu nghị
Trung-Việt phát nguồn gốc từ văn hóa "Bác" nhập lậu vào Việt Nam, nhân
dân Việt Nam tự tin vào Hồ Chí Minh đó là điều hạnh phúc nhất của đất
nước này. Mao Trạch Đông (毛泽东), Chu Ân Lai (周恩来) và Hồ Chí Minh (胡志明)
cẩn thận canh tác và chăm bón phân người trồng tình hữu nghị bắt rễ sâu
trong trái tim của nhân dân Việt Nam. Đây là sự phát triển tài sản giá
trị nhất mà Trung Quốc mong đợi. Mối quan hệ từ trước đến nay đã được
thiết lập trên cơ chế đảng trị không thương lượng với người dân Việt
Nam, nay đàm phán một trò chơi nhất trí của những lãnh đạo Trung Quốc và
Việt Nam như đã ký "Hiệp ước nguyên tắc cơ bản".
Bài đã đăng:
- Kỳ 1
- Kỳ 2
- Kỳ 3
_______________________________________
Chú thích:
[1] (关于解决中华人民共和国和越南社会主义共和国边界领土问题的基本原则协议).
[2] ("1990年论文集", 它是这样一个结构材料, 边界地图将按照界碑的法律制定, 因为所有的边界都被批准为依据中国-越南).
[3] (双方应按照公平原则并考虑北部湾的所有有关情况, 以取得一项公平的解决办法).
[4] (在和平共处五项原则的基础上, 建立和平, 稳定, 公正, 合理的国际新秩序).
[5] (长期稳定, 面向未来, 睦邻友好, 全面合作).
[6] (万历条约的领土让步和北部湾, 中国 - 越南)
[7] (1957年11月越南共产党和秘书处的中央委员会已经签署, 边界问题, 北部湾重要的让步, 中国的领海, 是基于主权千年)
[8] (1961年, 范文同, 胡志明代表周恩来重新北部的主权湾的一些法律原则,两国政府决定将解决领土).
[9] (1963年, 范文同, 胡志明代表周恩来签署了 "北部湾的条约". 中国-越南边境建立了咨询和相互尊重和领土让步。禁止地方政府或社区领土的侵犯).
Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 5)
Huỳnh Tâm (Danlambao) -
Sau vài tháng chưa nguôi ngoai cái hội nghị bí mật Thành Đô, Bắc Kinh
không cho Hà Nội tùy tiện an phận, gửi chỉ thị độc đến Nguyễn Văn Linh,
Đỗ Mười hãy tiếp nhận mật lệnh mới, dù đang bất tỉnh cũng phải đứng lên
vặn lấy sức người thực hiện "bình thường hóa quan hệ Trung-Việt" theo
chỉ thị nghị quyết "Kỷ yếu" đã định. Đồng thời Tiền Kỳ Thâm đã 2 lần bí
mật gặp Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười và nhiều lần hẹn gặp Thứ
trưởng thứ nhất Bộ ngoại giao Việt Nam Đinh Nho Liêm để thúc giục, tiến
hành gấp rút nghị quyết Trung-Việt, nhằm nhanh chóng đạt giải pháp chính
trị "đảng còn nước mất", buộc đảng Cộng sản Việt Nam tận dụng hết khả
năng chạy theo tiến trình toàn diện chính trị. Tất nhiên không thể cưỡng
lại ý Bắc Kinh, phải chấp nhận diễn biến "bình thường hóa quan hệ
Trung-Việt" vì đảng sống thuận theo ý Bắc Kinh, chính bóng hình lờ mờ
của "Bác" xưa nay vẫn làm thân "lược cài" cho chiến sách bành trướng hết
sức tàn nhẫn không còn lối thoát nào khả thi cho dân tộc Việt Nam, ngày
nay lộ trình ấy đảng "Bác" vẫn tiếp tục thi đua cho đến ngày tàn đất
Việt.
Hoạt động của những nhà lãnh đạo Trung Quốc, từ thời Mao cho đến chí
ngày nay, đều được CPC ghi chép và lưu lại. Chúng tôi tìm được toàn bộ
văn bản của "Hiệp ước nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ Vạn Niên", chiến
tranh biên giới Việt-Trung 1970-1988, "Kỷ yếu Thành Đô 1990", và Hiệp
ước phân định biên giới lãnh thổ, lãnh hải Việt-Trung v.v... Nguồn: Quân
ủy Trung ương Trung Quốc (CPC). Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Quả nhiên cả dân tộc Việt Nam không ngờ rằng chính Hồ Chí Minh đưa đường
chỉ lối cho Trung Cộng thực hiện hạ tầng cơ sở "tư tưởng, chủ quyền,
bành trướng" vào ở trong lòng đất nước Việt Nam, bởi Hồ Chí Minh với
Trung Cộng đồng ký một hiệp ước giá trị 10.000 năm, vào ngày 07 tháng 7
năm 1955, "Hiệp ước nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ Vạn Niên", (điều ước
đích lĩnh thổ nhượng bộ hòa Bắc Bộ loan phàm niệm vạn niên). Cho phép
Trung Cộng khởi sự khai thác theo từng thời kỳ.[1]
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng tiếp nối "Kỷ yếu bí mật Thành Đô
1990", đối với Trung Cộng "Quý di tích lịch sử" giá trị phi thường,
tương đương 10.000 năm của "Hồ". Đúng lúc Trung Cộng chọn thời điểm chạy
nước rút bôi sạch từng phần Việt Nam. "Bác" đảng quyết liệt hơn, thừa
dịp đẩy cơ nghiệp Cộng sản Việt Nam tiến nhanh về hướng Bắc Kinh, cho
nên trong đàm phán đã chấp nhận thành lập "Hai nhóm chuyên viên và công
tác phân định lãnh thổ biên giới đất liền và lãnh hải vùng Vịnh Bắc Bộ
Việt Nam", một bình phong, trái độn của mưu đồ đại Hán.
Ở thời điểm này "Kỷ yếu Thành Đô" chưa lấy quyết định đàm phán Biển
Đông. Khởi đầu bộ máy điều hành cướp vùng, thành lập 2 Nhóm chuyên viên
vô trách nhiệm đàm phán sơ bộ và giám sát tiến trình phân định biên
giới. Nhóm công tác có trách nhiệm đo đạt phân định lãnh thổ, lãnh hải
và thiết lập cột mốc tại miền Bắc Việt Nam và vùng Vịnh Bắc Bộ.
1- Nhóm chuyên viên đàm phán và giám sát tiến trình phân định biên
giới. 2 - Nhóm công tác đo đạt phân định lãnh thổ, lãnh hải và thiết lập
cột mốc tại miền Bắc Việt Nam và vùng Vịnh Bắc Bộ. Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm.
Sau 6 tháng hoạt động của "Kỷ yếu Thành Đô", do Trung Quốc chủ trì đàm phán, phía Việt Nam phải tuân thủ qui lệ đã định. Cho nên trong những buổi đàm phán phía Trung Quốc thường nói ví von "Ta dắt trâu đi cày" (ngã môn thủy ngưu lê điền) và Việt Nam tự hào "Điều ấy vẫn còn hãnh diện vì bạn" (tha nhưng nhiên vi nhĩ kiêu ngạo). Đặc biệt phía đảng Cộng sản Việt Nam, tăng cường hỗ trợ công tác cho nhóm Trung Quốc, mở rộng qui hoạch, chuyên sâu vào lãnh thổ phía Bắc và loang rộng khỏi vùng Vịnh Bắc Bộ, ra đến tận vùng Biển Đông 120 hải lý thuộc chủ quyền Việt Nam. Một điều phi lý khác nhà nước Việt Nam phủ nhận quyền sống của ngư dân vốn đã được hưởng quyền đánh bắt cá theo truyền thống ngư trường trong Vịnh. Trái lại đảng Cộng sản Việt Nam không theo qui ước nào, tự chấp nhận và cho phép ngư dân Trung Quốc hoạt động rộng rãi tại Vịnh Bắc Bộ. Nhờ vậy Nhóm công tác Trung Cộng tạo ra mọi việc đã rồi, thừa dịp Trung Cộng lấy quyết định đặt lại cơ sở pháp lý cho đàm phán ngày mai.
9 - Chuẩn bị liên kết bán đứng biên giới Việt Nam
Trước khi đàm phán đại diện Chính phủ Trung Cộng và Nhóm chuyên viên
Trung Cộng chủ động tiến hành phân tích tình hình và nghiên cứu cẩn thận
từng kế hoạch hoạt động tại vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam. Vào thời
điểm đó Pháp còn để lại nhân viên kiểm soát mặt biển trong Vịnh Bắc Bộ,
trái lại phía Trung Cộng không có nhân viên kiểm soát biển ở đây. Trung
Cộng tự thấy yếu thế về pháp lý so với phía Việt Nam. Khi ấy Trung Cộng
không thể ngồi khoanh tay nhìn vùng Vịnh Bắc Bộ không có bóng chủ quyền
Trung Cộng, vì nguyên nhân muốn bành trướng phải tự tạo ra một thứ chủ
quyền bằng khả năng cướp, họ tự cho rằng chấp hành nghiêm chỉnh luật
pháp quốc tế, "Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển" và vịn vào "Hiệp
định nguyên tắc cơ bản" Trung-Việt Nam vừa ký kết làm cơ sở đàm phán.
Trung Cộng tự tin rằng hành động có tính chính đáng, thừa sức thuyết
phục và kêu gọi Việt Cộng "hãy trở về đại lộ bên phải Bắc Kinh". (thỉnh
hồi đáo chánh xác đích đạo lộ, Bắc Kinh).
Photo 1 - Hiệp ước Pháp-Thanh 1885, đánh dấu ranh giới xây dựng cột
mốc ngoài khơi giữa sông Bắc Luân cửa Vịnh Bắc Bộ, cột mốc cao 1,7 m
trên mặt nước, rộng 0,7 mét, dày 0,4 mét, vật liệu xây dựng nền đá biển
vào tháng 4 năm 1890, cách cửa sông Bắc Luân 2km. Vị trí này có đáy biển
sâu; theo Pháp-Thanh tại đầu cửa sông là một trong những thủy lộ quan
trọng nhất của miền Bắc Việt Nam, thủy quân Tầu ô kéo vào Việt Nam và
tiến xuống thành Thăng Long đều xuất phát từ nơi này.
Chính phủ nhà Thanh và Pháp ký tại Thiên Tân ngày 9 tháng 6 năm 1885.
"Thanh-Pháp Hiệp ước Việt Nam" quy định theo điều ước quốc tế, biên
giới giữa hai nước kể từ Trúc Sơn từ cộng đồng, thông qua sông Bắc Luân
từ Đông sang Tây, ở trung tâm của ranh giới sông Phòng Thành Cảng đường
biên giới với Việt Nam, từ cửa sông Bắc Luân hướng Đông có Trúc Sơn địa
hình thu hẹp đến hang động Bắc Cương Ải, dài hơn 200 km, toàn bộ đoạn
này có di tích Tiêu Trí và Cộng Lập theo đánh dấu ranh giới cột mốc từ
số 1-33. Cửa sông như là ranh giới đất liền, ven sông đá đứng thiên
nhiên, những cuốn sách ghi chép điểm đánh dấu ranh giới gồm có "Đại
thanh khâm châu giới", "Đương thì phòng thành chúc khâm châu phủ hạt" và
cuốn sách "Đại Nam".
Photo 2 - Cột mốc của "Hiệp ước phân định biên giới lãnh thổ, lãnh
hải Việt-Trung" xây dựng năm 2006 cách cửa sông Bắc Luân 150m. Đối với
quy định Thanh-Pháp Hiệp ước Việt Nam" nay đã biến mấy. Việt Nam không
còn Trúc Sơn, động Bắc Cương Ải, di tích Tiêu Trí, Cộng Lập, ven sông đá
đứng thiên nhiên và cột mốc ranh giới từ số 1-33, dài hơn 200 km không
còn trên bản đồ của Việt Nam. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm. [2]
Trung Cộng thừa biết khó cãi đổi căn bản pháp lý của vùng Vịnh Bắc Bộ,
cũng khó cướp được ngư trường đánh bắt cá truyền thống của ngư dân Việt
Nam. Do vấn đề này Trung Cộng cần phải giải quyết càng sớm càng tốt,
trước mắt tạo ra một hồ sơ lợi ích chung liên quan đến đời sống của ngư
dân Trung Cộng được phép sinh cư tại vùng Vịnh, trong buổi đàm phán phía
Trung Quốc đưa ra vấn đề hai dân tộc chung sống, hy vọng phía Việt Nam
có thể ngồi xuống hội thảo giải quyết vấn đề Vịnh Bắc Bộ, toàn dân trong
Vịnh chấp nhận chung sống nhưng Trung Cộng không bao giờ chấp nhận hòa
bình.
Trong khi chờ đợi đàm phán, vào đầu tháng 8, Tiền Kỳ Tham đi trước một
bước thật dài, thực hiện chuyến đi đặc biệt đến đảo Hải Nam, thăm thị
trấn Quỳnh Hải Đàm (Ho Qionghai), cửa cảng thuyền cá Lâu Trấn (Louzhen).
Nghe báo cáo của Nguyễn Sùng Vũ (Ruan Chongwu) tỉnh trưởng đảo Hải Nam,
sau đó tiến hành điều tra thực địa, từ bờ biển đến toàn vùng Vịnh Bắc
Bộ. Lần này Tiền Kỳ Tham trở lại đàm phán, thay đổi quan điểm, ông đem
về cho phía Trung Cộng một mưu đồ cướp lãnh hải, và quyết tâm can thiệp
vào vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam.
Ngày 15-18 tháng 8 năm 1994, cấp cao Chính phủ Trung Cộng-Việt Cộng bước
vào vòng 2 đàm phán, tổ chức tại Hà Nội. Tiền Kỳ Tham thay mặt phái
đoàn chính phủ Trung Cộng tham gia vào các cuộc đàm phán. Vũ Khoan
Trưởng phái đoàn Việt Nam chủ trì hội nghị, phát biểu:
- Việt Nam đánh giá cao mỗi bên tiến bộ đàm phán biên giới, Việt Nam đề
nghị phân định từng phần biên giới đất liền tại miền Bắc và thực hiện
cắm cột mốc, sau đó giải quyết đàm phán Vịnh Bắc Bộ và những vị trí quan
trọng ngoài Biển Đông.
Tiền Kỳ Tham không chấp nhận liền đọc một bài tham luận dài nội dung
nhấn mạnh tầm quan trọng của Trung Cộng tại Vịnh Bắc Bộ, liên tục đề
nghị phân định lãnh hải theo vị trí dân cư hai thế hệ, người Hán ở đâu
cột mốc hiện diện đến đó!
Vũ Khoan phát biểu:
− Tôi đánh giá đàm phán biên giới đất liền có tiến bộ, tuy nhiên lưu ý
rằng cuộc đàm phán biên giới cần duy trì một bầu không khí tốt, trước
khi giải quyết hai bên phải tuân thủ nghiêm ngặt liên quan đến việc ký
kết vào hiệp ước biên giới để cho phù hợp với các thỏa thuận theo "Hiệp
định tạm thời" đã qui định, thẩm quyền xử lý theo tình hình cụ thể, hai
bên cần tăng cường thành viên Chính phủ và các ban ngành địa phương liên
quan với nhau tại thực địa biên giới.
Tiền Kỳ Tham, đặt ra đàm phán trước khi phân giới Vịnh Bắc Bộ, quan điểm
cho rằng lịch sử luật học đã chỉ rõ từ lúc có ngư dân Trung Cộng sống
trên Vịnh đó là chủ quyền theo quan hệ quốc tế. Thực tế quyền đánh cá
truyền thống trong Vịnh thuộc quyền quốc gia Trung Cộng, lưu ý rằng đời
sống dân cư ngư nghiệp, hoạt động thủy sản gần 1,38 triệu người, tại 3
tỉnh Quảng Tây, Hải Nam và Quảng Đông Trung Cộng vấn đề này có liên quan
trực tiếp đến quyền đánh bắt cá, đời sống của ngư dân cần ổn định trong
xã hội.
Tiền Kỳ Tham long trọng nói với phía Việt Nam, hai bên sẽ phân chia Vịnh
Bắc Bộ phải đạt được thỏa thuận, trước tiên phía Việt Nam nên tôn trọng
ngư dân Trung Cộng trong Vịnh Bắc Bộ, bao gồm quyền đánh bắt cá truyền
thống trong vùng biển tranh chấp. Chính phủ Trung Cộng sẽ không tha thứ
cho các tàu vũ trang Việt Nam cướp tài sản của ngư dân Trung Cộng đang
đánh bắt cá và gây ra các sự cố khác.
Tiền Kỳ Tham còn cảnh cáo: Phía Việt Nam cần lưu ý rằng, các cuộc đàm
phán phân chia Vịnh Bắc Bộ, phải có điều khoản qui định quyền đánh cá
truyền thống của ngư dân Trung Quốc, một trong những yếu tố quan trọng
phải được xem xét phân định công bằng. Hơn nữa, các bộ phận của các cuộc
đàm phán Vịnh Bắc Bộ, là sự cần thiết cuối cùng cho một hình thức hợp
pháp, do ngư dân Trung Cộng quyết định quyền này, hy vọng sắp xếp cho
hợp lý và hợp tác song phương trong ngành thủy sản sau khi phân định.
Không thấy Vũ Khoan Trưởng đoàn Việt Nam phát biểu ý kiến và phản ứng!
Hai nhóm chuyên viên và công tác phân định lãnh thổ biên giới đất
liền và lãnh hải vùng Vịnh Bắc Bộ Việt Nam, cụng ly uống cạn, vui mừng
hoàn thành sứ mạnh bán nước của "Bác" đảng ta. Nguồn: MSS.
Hiệp định phân định vượt qua sự khác biệt.
Ngày 18, Tiền Kỳ Tham bí mật tham vấn cho Vũ Khoan, về quan hệ song
phương và các vấn đề khác có liên quan khu vực Vịnh Bắc Bộ, trao đổi
quan điểm quốc tế. Một lần nữa nhắc nhở cá nhân Vũ Khoan:
− Khi cuộc đàm phán chính thức, giọng điệu của bạn và tôi, vẫn duy trì
yên tĩnh tình hình Vịnh Bắc Bộ, đến khi đàm phán biên giới đất liền quan
trọng nhất đối với sự phát triển quan hệ song phương, và sau đó chúng
ta âm thầm xử lý đúng đắn các vấn đề có liên quan đến Vịnh Bắc Bộ.
Tiền Kỳ Tham đến Hà Nội, gặp gỡ Chủ tịch Việt Cộng Lê Đức Anh, Phó Thủ
tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm. Chuyến thăm lần này
được Chủ tịch nước Lê Đức Anh tiếp đón, ngày hôm ấy Lê Đức Anh có một
yêu cầu nhờ Tiền Kỳ Tham chuyển thông điệp của các nhà lãnh đạo Việt Nam
"Đã chấp hành tốt nghị quyết của đảng, xin Chủ tịch Giang Trạch Dân hãy
tin tưởng BCT/TW VN, một lòng ân quốc và kính chúc khang ninh".
Lê Đức Anh còn trịnh trọng nói rằng "Việt Cộng và Trung Cộng có nhiều
điểm cơ bản tương đồng trong hệ thống xã hội, các chính sách hiện hành,
Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và các thành phần cùng mức độ
đồng thuận cao về vấn đề "cắt" lãnh thổ và lãnh hải để phát triển quan
hệ hữu nghị với Trung Cộng, quan hệ Việt Cộng -Trung Cộng người một nhà,
không thể thay đổi lòng, cũng không thể giảm tình anh em. Về vấn đề
này, các nhà lãnh đạo Việt đã thể hiện quyết tâm và có thể Trung Cộng tự
tin sâu sắc.
19 tháng 8 năm 1994, hai phái đoàn cấp cao Chình phủ Việt Cộng -Trung
Cộng gồm Tiền Kỳ Tham và Vũ Khoan đi thực địa biên giới Việt Nam, khởi
hành từ Hà Nội đến cổng Ải Nam Quan 180 km, hành trình từ Hà Nội đến Nam
Ninh mất khoản 10 giờ, đường xá Việt Nam không được tốt, còn 6 hay 7
giờ nữa sẽ đến Ngã Môn biên giới. Trên đường đi theo hướng những tỉnh
phía Bắc của Việt Nam.
Vũ Khoan cho biết: Chúng tôi băng qua cầu sông Hồng ra vùng ngoại ô.
Chẳng bao lâu chúng tôi đã đến đồng bằng sông Hồng là đại bình nguyên
thượng. Nhìn ra cửa sổ thấy toàn cảnh "nhất mã bình xuyên", và những con
đường rộng; hai bên đường có những khu nhà nông dân và cánh đồng lúa
bậc thang, chắp vá vào nhau tuyệt đẹp. Buổi chiều đến Nam Ninh, sáng hôm
sau chúng tôi dậy sớm, dùng một bữa ăn đơn giản, xem lại lộ trình.
Chúng tôi lên đường đi dọc theo lộ lớn, một trong những hướng Bắc, địa
hình thấp và cao. Lái xe qua Bắc Ninh, chúng tôi đi qua ngọn núi phía
bắc Việt Nam, từ các lĩnh vực rộng tầm nhìn dần dần thu hẹp lại, và sau
đó chúng tôi sẽ đi bộ qua những con đường núi.
Chúng tôi đến Lạng Sơn, khoảng cách rất gần biên giới Trung-Việt. Trong
thỏa thuận thực địa, chúng tôi đến thăm chợ của nông dân. Nơi đây biên
giới Trung-Việt không còn bao lâu nữa sẽ mở cửa giao thương phát triển
nhanh chóng, có rất nhiều sản phẩm từ Trung Cộng chuyển qua Việt Nam,
sản phẩm công nghiệp chủ yếu là đồ tiêu thụ. Người dân địa phương nói
với tôi, Bia của Trung Cộng sản xuất nổi tiếng nhất. Điểm cuối cùng
chúng tôi đã đến là cổng Hữu Nghị vào lúc 13 giờ 40 cùng ngày. Tôi đi bộ
qua cổng đánh dấu "tình bạn", nơi trở về miền ấy đã một lần ra đi. Sau
một lúc nghỉ giải lao, chúng tôi chuẩn bị lên pháo đài Kim Kê Sơn kiểm
tra tình hình biên giới Việt Cộng-Trung Cộng.
Trong cuộc đàm phán biên giới vòng 2 giữa hai cấp Chính phủ, sự phân
định phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ gặp khó khăn nghiêm trọng, kẻ bán sợ vỡ
nợ, kẻ mua hối thúc. Trong các cuộc đàm phán, hai bên tiếp tục tăng
cường hổ trợ và yêu cầu lợi ích về mình. Trung Cộng tuyên bố rằng Vịnh
Bắc Bộ đã phù hợp với cái gọi là kinh độ 108 độ trong khoảng 3 phút và
13 giây dòng mô tả bởi chính phủ nhà Thanh của Trung Quốc và chính phủ
Pháp đã phân định như thế.
Ngày 20-ngày 22 tháng 6 năm 1995 Hà Nội. Các bộ phận chuyên viên tổ chức
đàm phán, Nhóm làm việc chung đàm phán vòng thứ 5, hai bên đã làm nóng
cuộc tranh luận, không có thỏa thuận nào đạt được trong quá trình đàm
phán về toàn bộ biên giới Việt Nam, trong ngày kết thúc đàm phán không
đem lại kết quả bởi Trung Cộng đòi chia cổ phần lãnh thổ và lãnh hải quá
nhiều.
Ngày 13 tháng 7 năm 1995, đàm phán biên giới vòng 3 giữa hai cấp Chính
phủ, tổ chức tại Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài Bắc Kinh. Tiền Kỳ Tham
chủ trì cuộc đàm phán. Cụ thể trình bày quan điểm thuộc hệ thống lịch sử
Trung Cộng ở phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ và vị trí phân định ranh giới.
Phía Trung Cộng tố cáo, kể từ khi ký "Hiệp uớc nguyên tắc cơ bản", phía
Việt Nam đơn phương mở rộng kiểm soát phía Bắc, công bố đấu thầu Vịnh
Bắc Bộ trong vùng biển truyền thống, thứ đến hoạt động không bình thường
của ngư dân Việt Nam cướp một tàu đánh cá Trung Cộng, cuộc sống và an
toàn tài sản của ngư dân Trung Cộng đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng.
Trung Cộng rất quan tâm về việc đàm phán của Nhóm làm việc chung ở vòng
thứ 5, chú trọng ủng hộ vị trí ngược lại Vịnh Bắc Bộ có kinh độ 108 độ 3
phút 13 giây dòng.
Vào thời điểm này, vì lý do gì Vũ Khoa không kêu gọi các bên thể hiện
đàm phán chân thành, mà để Tiền Kỳ Tham phía Trung Cộng tự đứng ra xử lý
tranh chấp thủy sản thông qua các cuộc đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ,
Vũ Khoa còn cho rằng "đây là giải pháp đúng đắn cho hai nước".
Tiền Kỳ Tham la lớn tiếng, hỡi Vũ Khoan hãy nghe những lời của tôi, và
nhớ rằng Việt Nam đã ký kết với Trung Cộng "Hiệp ước 1993" và "Hiệp ước
nguyên tắc cơ bản", nếu phá vỡ phân chia Vịnh Bắc Bộ sẽ bế tắc như những
năm 1970. Ông cảnh báo, Trung Cộng nhất định đi tới mục đích, tin rằng
Việt Nam sẽ không đi thụt lùi, các nhà lãnh đạo Việt Nam không còn lý do
nào quay đầu trở lại đã đến lúc cần thể hiện quyết tâm cao.
Những thành viên trong Bộ Chính trị Trung Cộng cùng Phó Thủ tướng Lý
Bằng gặp Vũ Khoan. Chúng tôi sắp xếp cho Vũ Khoan đến Sơn Đông truy cập
rộng rãi một số dữ liệu nghị sự đàm phán đã quyết định trước, nói đúng
hơi Vũ Khoan đi nhận mệnh lệnh mới.
Sau khi ông Vũ Khoan từ Sơn Đông trở về Bắc Kinh, nói với Tiền Kỳ Tham
rằng, ông đã đi thăm quê hương Khổng Tử ở Khúc Phụ, Sơn Đông, có để lại
tại đó một ấn tượng rất sâu sắc. Sau khi trở về Việt Nam, ông Vũ Khoan
viết "Viếng thăm quê hương Khổng Tử", một tờ báo đảng Hà Nội xuất bản
trên chủ đề "Tuần lễ Quốc tế". Bài báo giới thiệu Vũ Khoan "Càng có
nhiều đối tác cũ đang bắt rễ sâu vào đất màu mỡ của lịch sử Trung Quốc,
các thế hệ Việt Nam tương lai không có lý do nào từ chối sự bắt rễ sâu
thêm". Chỉ cần một phát biểu này đã chứng minh được đảng Cộng sản Việt
Nam chủ ý mượn Khổng Tử đẩy dân tộc Việt Nam vào hòa biến Trung Cộng.
Tháng 11 năm 1995 Tổng Bí thư Đỗ Mười, chính thức viếng thăm Bắc Kinh,
không biết ông ta đã ký Hiệp ước gì để kết thúc tranh luận, đàm phán
phân chia Vịnh Bắc Bộ. Trong chuyến thăm lần này, hai nhà lãnh đạo tái
khẳng định các nguyên tắc trên cơ sở tinh thần của tình hình chung qua
cuộc họp cấp cao Chính phú. Đỗ Mười khẳng định trước đây giữa hai nước
đã đạt được và hiểu biết lẫn nhau, cùng ăn, cùng hưởng mọi công bằng có
hợp lý và tinh thần tham vấn thân thiện, phù hợp với luật pháp quốc tế,
luôn có sự tham khảo quốc tế, thông qua đàm phán hòa bình, một giải pháp
thích hợp vấn đề biên giới giữa hai nước tồn tại. Hai nhà lãnh đạo nhất
trí thúc đẩy vượt qua quá khứ, khác biệt tranh chấp ranh giới Vịnh Bắc
Bộ của những năm 1970. Ngày nay thành lập các khuôn khổ chính trị mới và
định hướng trong suốt những nỗ lực đàm phán của cả hai bên để thúc đẩy
quan hệ song phương Trung-Việt.
Ngày 14 tháng 2 năm 1996, Tiền Kỳ Tham đến Bằng Tường biên giới Quảng
Tây và Việt Nam tham dự buổi lễ cử hành khai mạc phục hồi đường sắt. Thứ
trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Khoan phát biểu tại buổi lễ: "Cả hai bên
đều khẳng định vai trò quan trọng của tỉnh Quảng Tây và Việt Nam trao
đổi nhiều hơn trong lịch sử của đường sắt, Trung Cộng đã từng hỗ trợ
cuộc chiến cho Việt Nam chống Pháp. Cả hai bên đều tin rằng đây là mở
đường sắt một lần nữa báo trước sự phát triển của mối quan hệ Trung Cộng
và Việt Cộng hứa hẹn tương lai một nhà chung".
Sau lễ khai mạc phục hồi đường sắt, Vũ Khoa mời ông Tiền Kỳ Tham đến
Lạng Sơn tham vấn về quan hệ song phương biên giới. Đây là chuyến thăm
đặc biệt Vũ Khoa muốn trao đổi. Điểm hẹn Khách sạn Kim Sơn thành phố
Lạng Sơn. Tại nơi này Tiền Kỳ Tham đưa ra ba đề xuất:
Thứ nhất, đàm phán phân định ranh giới toàn vùng Vịnh Bắc Bộ, có thể đạt
được bởi các nhà lãnh đạo hiểu biết lẫn nhau tình hình chung của hai
nước, công bằng, hiệp thương hữu nghị, "sự đồng thuận là tư tưởng chỉ
đạo năm 1993", hai bên đã ký các nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận" như
là một cơ sở pháp lý chung.
Thứ hai, cả hai bên cần tiếp tục trao đổi ý kiến trên cơ sở lý tưởng,
đưa ra đường lối và các yếu tố khác có liên quan quan hệ song phương.
Trung Cộng sẽ đưa ra dòng ý tưởng của mình.
Thứ ba, cả hai bên cần đạt được một sự hiểu biết "nội bộ" trên nguyên
tắc công bằng. Trong khi đó toàn bộ quá trình đàm phán cần thiết nhất
phân định lãnh thổ phía Bắc và lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, hai bên sắp xếp cho
hợp lý và ngư dân của hai phía hoạt động bình thường trong vùng Vịnh
Bắc Bộ.
Ba đề nghị của Tiền Kỳ Tham đưa ra, Vũ Khoan đồng ý và nhất trí. Vũ
Khoan phát biểu: Phía Việt Nam sẽ tuân thủ giải pháp Vịnh Bắc Bộ sẽ đàm
phán phân định lại Biển Đông. Tuy nhiên, phải bảo vệ an ninh cho ngư dân
Trung Cộng hoạt động bình thường trong Vịnh Bắc. Vũ Khoan còn cho biết:
Phía Việt Nam cần xem xét sau khi hoàn thành phân giới cắm mốc tại Vịnh
Bắc Bộ.
Tiền Kỳ Tham hài lòng và trao đổi:
− Phân giới cắm mốc và bảo vệ ngư dân của Trung Cộng tại Vịnh Bắc Bộ là
hai vấn đề phải tách rời ra, vấn đề bản thân thủy sản của Vịnh Bắc Bộ
khác với phân giới cắm mốc, Việt Nam chỉ xem phần lãnh thổ quan trọng,
đối với Trung Cộng quan tâm ưu tiên hàng đầu vấn đề thủy sản. Tôi nhấn
mạnh rằng mối quan tâm của Trung Cộng về các vấn đề thuỷ sản sẽ không hy
sinh lợi ích của ngư dân khi phân định chưa kết thúc. Hai thằng Tàu cãi
qua cãi lại kết cuộc chỉ thấy một thằng Tàu.
Ngày 04 tháng 3 đến 11 năm 1996, trong sự phân chia Vịnh Bắc Bộ, Nhóm
làm việc chung tổ chức đàm phán vòng thứ 6 tại Bắc Kinh. Hai bên đã trao
đổi quan điểm về các nguyên tắc bình đẳng, công bằng, cả hai xác nhận
tầm quan trọng cơ bản, đồng ý trao đổi ý kiến càng sớm càng tốt về Vịnh
Bắc Bộ. Điều này làm cho phía Việt Nam phấn khởi đi đúng đàm phán của
Trung Cộng muốn gì được náy.
Ngày 18 đến 23 tháng 9 năm 1996, Tiền Kỳ Tham đứng đầu phái đoàn Chính
phủ Trung Cộng, dẫn phái đoàn đến Hà Nội, tham dự đàm phán biên giới
vòng thứ 4. Trong các cuộc đàm phán, Tiền Kỳ Tham tập trung quan điểm và
lấy luật pháp Trung Cộng hù thiên hạ, ông ta giải thích chi tiết, ý
muốn cho ra một quái thai Vịnh Bắc Bộ. Ông cho rằng Trung Cộng và Việt
Cộng cần mối quan hệ tổng thể chính trị có cân bằng phân định cơ bản
nhất của tình hình biên giới. Hai nước đồng có dân cư sống trong Vịnh
Bắc Bộ, tạo nên cơ sở đàm phán song phương hàng hải ven bờ biển. Hai bên
xem xét lại vùng Vịnh Bắc Bộ và chiều dài bờ biển đối diện với đất liền
v.v...để đạt được các mục tiêu chung cho cân bằng lợi ích của cả hai.
Mục đích của luật pháp là công bằng, thân thiện, kinh tế hợp lý, phù hợp
chính trị, và căn bản lợi ích của nhân dân hai nước.
Vũ Khoan cho rằng:
- Theo hình thành cơ sở Vịnh Bắc Bộ, phía Trung Cộng được phân chia
nhiều hơn dự định, điều này đã có quyết định trong chuyến viếng thăm
Trung Quốc vào tháng 11 năm 1995 của BCT/TW Tổng Bí thư Đỗ Mười và các
nhà lãnh đạo Việt Cộng, đã thực sự trao toàn quyền xử lý cho Trung Cộng.
Không còn gì để báo cáo một cách trung thực. Sau đó, ông giải thích chi
tiết các quan điểm của BCT/TW đảng. Ông cho biết phía Việt Cộng tin
rằng Trung Cộng xem xét lại ranh giới cho công bằng, đầu tiên yếu tố địa
lý tự nhiên và địa lý đặc biệt.
Vũ Khoan lạc quan cho rằng, Vịnh Bắc Bộ là động mạch giao thông Biển
Đông, một cửa ngỏ Vịnh Bắc Quốc tế của Việt Nam không thể mất, bởi tầm
quan trọng sống còn đối với Việt Nam. Ông đề xuất Vịnh Bắc Bộ phân định
ranh giới từ phía đảo Hải Nam Trung Quốc không thể so sánh với đất liền
Việt Nam.
Về vấn đề này, Trung Cộng ngay lập tức phản pháo cho rằng đảo Hải Nam là
một tỉnh duyên hải của Trung Quốc. Nó là một hòn đảo trong toàn bộ Biển
Đông, tạo thành đại dương được hưởng các quyền cơ bản và phân định tác
dụng tương tự theo luật pháp quốc tế về Biển. Cuối cùng, Tiền Kỳ Tham
một lần nữa nghiêm túc đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ và mở rộng ý tưởng
phân giới cắm mốc. Trong vòng đàm phán này, hai bên đã nhất trí thành
lập một nhóm tham vấn chuyên gia Biển, thực hiện không chính thức về các
vấn đề liên quan đến chương trình đường ranh giới lãnh hải.
Ngày 18 tháng 9 năm 1996, Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Khoan thường xuyên
quan hệ song phương với Tiền Kỳ Tham, trao đổi quan điểm khu vực và quốc
tế. Vào ngày 19 tháng 9, các thành viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng
Trần Đức Lương đã gặp phái đoàn chính phủ Trung Cộng.
Năm 1996 đến năm 1997, hai Nhóm công tác lãnh hải tổ chức đàm phán vòng
3, phân chia vùng Vịnh Bắc Bộ, quan điểm Việt Nam ủng hộ phân định hàng
hải, lần này mới vào cuộc đàm phán đã nhận được đột phá, đạt được sự
đồng ý phân định Vịnh Bắc Bộ theo dân cư Trung Quốc.
Thầm lặng bán lãnh thổ và lãnh hải
Tháng 7 năm 1997, Tổng Bí thư Đỗ Mười đi thăm Trung Cộng. Tiền Kỳ Tham
đến Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài thăm phái đoàn Chính phủ Việt Nam,
và tham khảo trước nghị trình cuộc đàm phán chung của Ủy ban ranh giới
tổ chức tại Đại sảnh đường Điếu Ngư Đài, tập trung vào việc phân chia
Vịnh Bắc Bộ tuy có vài quan điểm gây khó cuối cùng thông qua, phía Trung
Cộng đưa ra luận điệu rõ ràng trong buổi đàm phán không lấy cân bằng
làm đột phá, bởi trên tay Trung Quốc có nhiều lá bài "đảng tham sống sợ
chết", lúc này Tiền Kỳ Tham đứng lên giảng cái lý của kẻ mạnh. Đỗ Mười
ngồi im phăng phắc chỉ biết lấy quyết định đồng ý làm mục phiêu sinh tồn
cho đảng nhu nhược.
Ngày 13-đến 15 tháng 7 năm 1997, tổ chức tại Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư
Đài Bắc Kinh đàm phán biên giới vòng thứ 5, cấp Thứ trưởng Ngoại giao
tham dự. Trong vòng đàm phán lần này, Việt Nam bắt đầu đưa ra nghị sự
biên giới đất liền làm đầu đề có nhóm soạn thảo "Hiệp ước", hai bên đồng
ý. Và hai bên đã trao đổi quan điểm đàm phán toàn bộ khu vực Vịnh Bắc
Bộ, cũng được tối đa đồng thuận, thu hẹp sự khác biệt, hai bên
Trung-Việt phấn đấu để di chuyển cột mốc vào lãnh thổ phía biên giới
Việt Nam ? Được xem vị trí cột mốc căn bản của chủ quyền hai nước. Sau
đó duy trì một cơ chế tham vấn chính thức của nhóm chuyên gia biên giới,
phấn đấu để tìm mọi đồng thuận lẫn nhau, hai bên nhất trí cùng nhau
"Phổ biến kế hoạch phân định biên giới Trung-Việt", (lưu hành đích hoa
phân phương án Trung-Việt). Đã 17 năm trôi qua (1997-2014) nhân dân Việt
Nam chưa hề biết nội dung (Phổ biến kế hoạch phân định biên giới).
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Cộng Tiền Kỳ Tham gặp Phó Thủ tướng Thứ
trưởng Ngoại giao Việt Cộng Vũ Khoan và đoàn tùy tùng, đưa ra quyết định
đàm phán, phân chia thủy sản Vịnh Bắc Bộ, ông cho rằng trái tim của vấn
đề lớn đều nằm trong đàm phán Vịnh Bộ Bộ.
Kể từ khi khởi động lại các cuộc đàm phán về biên giới Trung-Việt vào
năm 1992, Trung Cộng đã nhiều lần khuyến cáo vấn đề Vịnh Bắc Bộ với phía
Việt Nam, nhấn mạnh đàm phán để giải quyết phân định Vịnh Bắc Bộ và các
vấn đề thủy sản cùng một lúc. Thực chất Trung Cộng muốn chiếm Biển Đông
lại muốn tránh xâm lăng cho nên chuyển qua Vịnh Bắc Bộ nếu được toàn
thắng cả hai cùng lúc lưỡng tiện.
Suốt quá trình đàm phán phân định lại miền Bắc và Vịnh Bắc Bộ, theo quy
định đã ký kết, phía Trung Cộng vũ trang tàu biển hoạt động trong Vịnh
Bắc Bộ, đã tuyên bố long trọng bảo vệ ngư dân Trung Cộng tránh cướp
biển. Cho đến thời điểm cuối cùng của cuộc đàm phán, vấn đề này đã trở
nên rõ ràng chỉ còn lại đôi điều trở ngại không quan trọng lắm đối với
các cuộc đàm phán trước đây thường phước tạp, cuối cùng Việt Nam cũng đã
hiểu mọi mặt chính trị trong đàm phám, và để hiểu tại sao người Trung
Cộng khẳng định làm sạch biên giới, thủy sản Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông,
từ nay mỗi khi Trung Cộng hoạt động trong vùng liên quan lãnh thổ hay
lãnh hải của Việt Nam đều có thông báo trươc.
Trên thực tế, Trung Cộng chú trọng như vậy để sắp xếp lại Biển Đông, lấy
được Vịnh Bắc Bộ và vùng đảo Bạch Long Vĩ, tất nhiên Biển Đông trong
tầm tay, mọi liên quan đến sinh kế của ngư dân chỉ là một trong muôn lý
do cho phép kẻ muốn thôn tính lân bang. Đúng hơn, Bộ Ngoại giao Việt Nam
có nhiệm vụ bán lãnh hải và lãnh thổ cho Trung Cộng, qua một tiểu bang
của Chính phủ mà đảng gọi thật kêu với cái tên quá dài "trách nhiệm với
nhân dân, là một vấn đề chính trị có ảnh hưởng đến sự ổn định địa phương
và xã hội", (đối nhân dân phụ trách, thị ảnh hưởng đương địa xã hội ổn
định đích chánh trị vấn đề).
Tiền Kỳ Tham cho biết:
− Quá ngạc nhiên, các nhà đàm phán Việt Nam không thể hiểu nổi phía
Trung Cộng vì sao cứ nằng nặc, nhấn mạnh lãnh thổ miền Bắc và lãnh hải
Vịnh Bắc Bộ. Nay mới kết thúc này, như tôi đã nhiều lần tham khảo ý với
đồng chí Vương Nghị (Wang) sau khi tôi thực hiện trách nhiệm và tìm kiếm
giải pháp cụ thể đã thành công phần đầu.
Tháng 2 năm 1999, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm Trung Quốc, được Giang
Trạch Dân tiếp đón, hai bên đồng thuận, quyết định năm 2000 đàm phán để
xác định, giải quyết lãnh thổ biên giới, lãnh hải Vịnh Bắc Bộ và Biển
Đông.
Tháng 12 năm 1999, Tiền Kỳ Tham và Vũ Khoan tham dự lễ ký "Hiệp ước biên
giới đất liền Trung-Việt", (Trung-Việt lục địa biên giới điều ước) Sau
lễ ký kết. Trong cuộc họp, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đưa ra quan điểm
chính trị luộm thuộm, không tập trung vào Vịnh Bắc Bộ hay thủy sản mà
hiệp ước đã ban hành, thiếu sự chú ý không quan tâm, và chưa hề tham
khảo với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân. Nếu ông Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu
xem việc nước nhạt nhẽo như nước ốc, thì đàm phán "Xác định ranh giới
Vịnh Bắc Bộ và giải quyết đánh bắt cá" sẽ thông qua không khó.
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu cũng có một ý khác thường, ông cho biết về đàm
phán "Xác định ranh giới Vịnh Bắc Bộ và giải quyết đánh bắt cá". Ông đã
thảo luận cùng với các nhà lãnh đạo Việt Nam là sẵn sàng tích cực ủng
hộ. Ông còn nói rằng trên lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tại Vịnh Bắc Bộ
có thể phía Trung Quốc tiến hành ngay lập tức không cần thông qua đàm
phán, đồng thời đàm phán phân định ranh giới không trở ngại.
Vị trí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu rất quan trọng cho cả hai bên, ông ta
kịp thời đã bật đèn xanh để bắt đầu thoả hiệp phân định ranh giới của
hai nước xem ra đàm phán thủy sản cũng không trở ngại đã được giải quyết
trên nguyên tắc đồng thuận ngoài đàm phán, Lê Khả Phiêu đã tạo điều
kiện cắm cột mốc cho ngững tháng sau này. Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm
sau một thời gian dài với chức vụ Bộ Trưởng ngoại giao nay từ chức.
Ngày 28 tháng 11 năm 2000, ông Nguyễn Dy Niên được Chính phủ Việt Nam bổ
nhiệm tân Bộ Trưởng Ngoại giao, còn ông Vũ Khoan được bổ nhiệm làm Bộ
trưởng Bộ Thương mại. Bộ trưởng Bộ Ngoại thương và Kinh tế Trung Quốc
Thạch Nghiễm Sanh (Shi Guangsheng) gửi công văn chúc mừng Vũ Khoan.
Nguyễn Dy Niên vừa nhậm chức Bộ trưởng Bộ Ngoại, hạnh phúc lớn nhất nhận
được điện tín chúc mừng của Tiền Kỳ Tham, tự xem một sự công nhận chính
thức của triều Trung Cộng.
Ngày 31 tháng 1 năm 2000, Lý Gia Trung (Li Jiazhong) cũng được bổ nhiệm
Đại sứ Trung Cộng tại Việt Nam. Sau khi Nguyễn Duy Niên nhậm chức Bộ
trưởng Bộ Ngoại ông bày tỏ và hy vọng Trung Cộng là nơi đầu tiên ông đến
thăm, ông kêu gọi các nhà lãnh đạo Trung Cộng đàm phán lãnh thổ và lãnh
hải giữa Việt Cộng-Trung Cộng. Tiền Kỳ Tham gửi công văn mời Nguyễn Dy
Niên đến thăm Trung Cộng.
Ngày 24-đến 26 tháng 2 năm 2000, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Dy
Niên chính thức thăm Trung Cộng. Thủ tướng Chu Dung Cơ và Lý Bằng tương
ứng, tiếp Nguyễn Dy Niên tại Hội trường đại sảnh Trung Nam Hải.
Vào ngày 25, Bộ trưởng Ngoại giao Tiền Kỳ Tham với Nguyễn Dy Niên hội
đàm chính thức tại Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài. Trong các cuộc đàm
phán, đề cập nhiều về quan hệ song phương, trao đổi khu vực và quan điểm
toàn diện tình hình quốc tế, Tiền Kỳ Tham cứ nói xoen xoét về sự tập
trung phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ. Hai bên cần nỗ lực để làm tốt
công việc tỷ lệ diện tích và thỏa thuận thủy sản trên biển.
Năm 1995, các nhà lãnh đạo Trung Cộng thường phản ánh lợi ích và khái
niệm chung "cán cân phân định ranh giới". Những nhà lãnh đạo Việt Nam
cũng đã đồng ý nội dung trong cuộc trò chuyện tương tự, miễn là cả hai
bên phù hợp với sự nhất trí của lãnh đạo hai nước, thực tế Trung Cộng
khám phá đảng Cộng sản Việt Nam nhu nhược "Nọa nhược dữ tà ác địch nhân
đích nhân", ham sống sợ chết, tứ đó Trung Cộng tha hồ tạo ra tiền lệ cho
những giải pháp đối phó với Việt Cộng hay giải quyết gọn nhẹ lãnh thổ
biên giới, và kiểm soát toàn vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam.
______________________________________
Chú thích:
[1] (中越领导人成都秘密会晤内幕 - 中共辽宁省委党史研究室).
[2] Photo 1 - 1885年6月9日, 清政府和法国在天津签定的 (中法越南条约), 条约规定, 两国边界自竹山起界,
循北伦河自东向西, 以河心为界线. 防城港市与越南的边界线, 从竹山的北伦河口至峒中的北岗隘, 长200多公里, 全段以石碑为标致,
共立1至33号界碑. 其中以河为界的, 双方各于已方河岸相对立石, 以山为界的则双方共立一块界碑, 一面书 "大清国钦州界"
(当时防城属钦州府辖), 一面书 "大南" (即越南).
Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 6)
Huỳnh Tâm (Danlambao) - Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham tuyên bố trong hội nghị đàm phán tại Hà Nội:
− Đã đến lúc chúng tôi xử lý vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, thẳng thắn,
thu về toàn bộ lãnh hải, nay phân giới cắm cột mốc chỉ là một động tác
giả hình, nhằm che khuất lòng dân của bạn phẫn uất, chúng tôi thực hiện
những gì dưới sự đồng tình của quý đồng chí. Đàm phán đã trở thành một
phần quan trọng, chúng tôi muốn phân định ranh giới lãnh thổ và lãnh
hải, đây là một hồ sơ Biển Đông cho phép hợp thức hóa trước Liên Hiệp
Quốc, các bạn là người hổ trợ cho chúng tôi. Một điều nữa, tác động lên
lưng ngư dân Việt Nam, mục đích của nó có liên quan đến việc duy trì ổn
định trong khu vực Vịnh Bắc Bộ, cũng là một vấn đề chính trị mà nhà nước
Việt Nam phải thi hành đúng luật pháp? Hy vọng, Việt Nam bắt đầu tiến
hành ngay lập tức, sau khi cơ chế đàm phán thủy sản có hiệu lực, phân
giới cắm mốc Vịnh Bắc Bộ và thủy sản sẽ được giải quyết theo qui định
lịch sử đảng đã có từ trước vào thời Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai ký hiệp
ước, ngày 07 tháng 7 năm 1955, "Hiệp ước nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ
Vạn Niên".
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên (阮怡年) đáp rằng:
− Đồng ý, trên cơ sở Trung Quốc thúc đẩy đàm phán phân định lãnh thổ,
phía Việt Nam sẵn sàng làm việc, cùng nhau đi về hướng tương lai. Ông
nói thêm: Việt Nam đã nhận thức đầy đủ các mối quan tâm của Trung Quốc,
trước nhất thỏa thuận phân giới cắm mốc đã được ký kết cùng một lúc với
nghề cá tại Vịnh Bắc Bộ, hai bên có khả năng tạo thành hợp tác khai thác
thủy sản. (Nguyễn Duy Niên đề nghị cá nhân hai đảng làm ăn chung).
Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương
Nghị (trái) và Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội Lý Gia Trung (Li Jiazhong).
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Thúc đẩy hiệp định đánh bắt cá vùng Vịnh Bắc Bộ
Tháng 4 năm 2000, đàm phán phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ trong khuôn
khổ của Trung Quốc và Việt Nam, như đã phát động thành lập Nhóm chuyên
gia đàm phán thủy sản. Tuy nhiên, Việt Nam đã nhiều lần làm trì hoãn đàm
phán vì lý do kỹ thuật tư vấn, nội dung đàm phán khác nhau với Trung
Quốc sẽ không có lợi cho Việt Nam.
Ngày 14 tháng 9 năm 2000, Tiền Kỳ Tham đi New York tham dự Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc lần thứ 55. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên bí mật
gặp tại trụ sở chính LHQ, hai bên trao đổi quan điểm, tập trung thảo
luận những vấn đề tồn tại về Vịnh Bắc Bộ và đưa ra công thức phân định
ranh giới theo chiều sâu đã đề nghị đàm phán lần trước.
Tiền Kỳ Tham cho rằng:
− Trong sự phân chia Vịnh Bắc Bộ, đã bước vào đàm phán ở giai đoạn quan
trọng. Việt Nam đồng ý Vịnh Bắc Bộ thành lập một khu vực đánh cá chung,
đó là một bước tiến quan trọng được thực hiện thành công trong cuộc đàm
phán vừa qua. Bây giờ, cả hai bên cần đẩy mạnh đàm phán về thỏa thuận
thủy sản, Việt Nam cần thiết phải đảm bảo các thỏa thuận phân giới cắm
mốc và ký kết thỏa thuận thủy sản cùng một lúc. Tôi cũng bày tỏ hy vọng
phía Việt Nam thực hiện càng sớm càng tốt quyết định chính trị về tỷ lệ
thu nhận chủ quyền cho cả hai vấn đề phân định ranh giới khu vực.
Nguyễn Duy Niên hăng hái bày tỏ đáp ứng nguyện vọng và tham gia cùng với
Tiền Kỳ Tham trong việc kêu gọi các phái đoàn Chính phủ và các bộ phận
của cả hai Nhóm tại Vịnh Bắc Bộ tăng cường công tác làm việc tốt hơn.
Tiền Kỳ Tham định hướng lại mục tiêu phương tiện cho hai nhà lãnh đạo
cấp Chính phủ hướng tới nỗ lực đàm phán. Nguyễn Duy Niên hoàn toàn đồng ý
hứa sẽ ký "Hiệp định phân định ranh giới lãnh hải" và "Hiệp định nghề
cá" trong vùng Vịnh Bắc Bộ, nay thuộc chủ quyền Trung Cộng.
Bộ Trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Niên (trái) và Thứ trưởng Lê Công Phụng (黎功奉). Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Ngày 25 tháng 10 năm 2000, Trưởng phái đoàn chính phủ Trung Quốc Vương
Nghị (Wang Yi), và Trưởng phái đoàn Chính phủ Việt Nam Lê Công Phụng
(黎功奉), đồng tổ chức đàm phán không chính thức về Vịnh Bắc Bộ, đạt được
thỏa thuận sơ bộ về kế hoạch kiểm tra đường tuyến Vịnh Bắc Bộ, đàm phán
đã thực hiện được một bước đột phá quan trọng lãnh hải. Ngày hôm sau,
Vương Nghị và Lê Công Phụng gặp nhau ngoài nghị sự đàm phán cả hai ông
đồng khẳng định sự nhất trí, giúp hai bên phá vỡ bế tắc bấy lâu. Trong
đàm phán ngày hôm sau mang lại một biến động mới, các chuyên gia hai bên
trở lại làm việc với sự nhất trí, phù hợp nghị sự của hai cấp cao Chính
phủ đã tiến đến sự hình thành một đường biên phân định phổ biến.
Tiền Kỳ Tham quan tâm vấn đề nghề cá của ngư dân Trung Quốc, ông luôn
tìm hiểu quan điểm của đối tác, đem về Trung Quốc một chiến thắng lớn cả
hai mặt lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam. Ông thường thúc đẩy hai cơ
quan ngoại giao cùng nhau tiến bộ, đáng kể nhất trong đàm phán thủy sản,
gọi là giải pháp trọn gói "phân định ranh giới và nghề cá Vịnh Bắc Bộ".
Ngày 21 tháng 11 năm 2000, Nhóm chuyên gia của Trung Cộng trì hoãn đàm
phán Thủy sản, phản đối Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên chưa thúc
đẩy phân giới cắm cột mốc của Vịnh Bắc Bộ, đặc biệt trong quá trình đàm
phán đã phân định thủy sản và liên quan đến sinh cư của ngư dân Việt
Nam. Trung Quốc cho rằng, trong giai đoạn cuối của đàm phán ở thời điểm
quan trọng này, hai bên cần phải thúc đẩy mạnh mẽ mức độ cao chính trị,
bảo đảm ký kết và thỏa thuận phân định thủy sản.
Ngày 05 tháng 12, Trung Cộng tự phân định lãnh hải và thủy sản không
thông qua đàm phán, thời gian này Trung Cộng tung ra biểu đồ thực địa
theo ý của kẻ cướp. Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Niên bình
thản không có nửa lời nào phản đối, lạnh nhạt với đất nước Việt, vì
Trung Cộng đe dọa công bố "bạch thư chính trị Việt Cộng", bởi Việt Cộng
xưa nay sống nhờ hơi thở của Trung Cộng, các nhà đàm phán Việt Cộng thấy
rõ điều này, cho nên đầu hàng trước áp lực, rõ ràng nhất Trung Cộng
hướng dẫn Việt Cộng, bảo sao làm vậy, ngồi nghiêm chỉnh trong bàn tròn
đàm phán, chọn lấy gật đầu làm điều cầu sống, bảo đảm đảng tồn tại.
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên trong bài phát biểu thay cho đa tạ,
lời đáp của các nhà lãnh đạo Việt Nam hổ trợ mạnh mẽ, thiết lập nghề
đánh bắt cá chung trong vùng Vịnh Bắc Bộ, hy vọng Trung Cộng lấy quyết
định để phía Việt Nam sẵn sàng làm mọi việc với Trung Cộng, hai bên tích
cực thảo luận bằng thái độ anh em và trên môi với những thỏa thuận hài
lòng tình đồng chí.
Ngày 13-đến 15 tháng 7 năm 1997, tổ chức đàm phán biên giới vòng thứ 5
tại Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài Bắc Kinh. "Hiệp ước biên giới đất
liền Trung-Việt", "Hiệp định mở rộng phân định Vịnh Bắc Bộ Việt Nam" và
"Hiệp định Việt Nam hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ". Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm.
Ngày 18 tháng 12, tại vùng Vịnh Bắc Bộ, các bộ phận của Nhóm chuyên viên
và công tác làm việc chung, trải qua 18 cuộc đàm phán đã nhất trí phân
định được lãnh hải và ngư trường trong Vịnh. Trưởng đoàn đại biểu của
hai Chính phủ đồng xác định lãnh hải của Việt Nam không đáng kể, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Vịnh vẽ lại bản đồ đính kèm tọa
độ, địa lý theo những điểm có dân cư và văn bản Hiệp định Vịnh Bắc Bộ
đồng ý trên nguyên tắc phân định lại tất cả.
Cho đến nay, Trung Cộng mới xem xét đầy đủ những trường hợp có liên quan
đến phía miền Bắc Việt Nam và Vịnh Bắc Bộ, theo nguyên tắc Trung Cộng
ra giá thành, mọi thứ phải phù hợp lý luận công bằng theo kiểu cách Hán,
Việt Cộng chấp nhận thông qua trò chơi hiệp thương hữu nghị, tất cả
những cuộc đàm phán quan trọng ở giai đoạn cần thiết đã hoàn thành và
xác định ranh giới. Nay trong Vịnh Bắc Bộ tương đối ổn định ranh giới.
Lúc này, nhảy ra một Ban hội Thẩm sắp xếp lại ngư trường thủy sản, sau
khi phân định giải quyết ranh giới, bao gồm cả việc xác định các nguyên
tắc hợp tác lâu dài giữa hai thủy sản quốc gia, mô tả hơn 30.000 km²
thuộc Trung Cộng trong khu vực đánh cá chung biên giới và vùng chuyển
tiếp, nếu Việt Nam muốn soạn thảo hợp tác nghề cá tại Vịnh Bắc Bộ phải
theo văn bản hiệp ước.
Ngày 12-đến 14 tháng 12 năm 2000, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Hà
Nội. Cả hai Bộ Ngoại giao Trung Cộng-Việt Cộng, chạy đua nước rút, đàm
phán hiệp định cho phần cuối cùng. Vương Nghị trưởng đoàn Ngoại giao
Trung Quốc và phía Việt Nam có Thứ trưởng Lê Công Phụng, chính thức đàm
phán lần thứ 3. Sau hai ngày đàm phán vấn đề Vịnh Bắc Bộ chủ yếu chính
phương thức thỏa thuận phân định biển, hai bên nhận ra phía Vịnh Bắc Bộ
và khu vực tổng thể không cân bằng lợi ích chung. Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm.
Việt Cộng tiếp nhận trái đắng hòa bình trên đôi môi Bắc Kinh.
Nhìn lại, Việt Cộng-Trung Cộng phân chia đất nước Việt Nam qua đàm phán
lãnh thổ biên giới đất liền và lãnh hải tại vùng Vịnh Bắc Bộ đã có quá
nhiêu mâu thuẫn bên trong đàm phán, gián tiếp cho phép Trung Cộng chủ
động lần lượt xoắn từ từ lấy trọn vẹn tài nguyên biển Việt Nam. Từ năm
1992 trở đi kết quả phân giới cắm mốc hoàn toàn bất thường, ai mạnh
người đó kiểm soát và thừa hưởng gia tài Việt Nam.
Sau khi "Kỷ yếu" bí mật Thành Đô 1990) có hiệu lực, Việt Cộng khởi động
"mất nước còn đảng" chấp hành mệnh lệnh 16 chữ vàng "ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai, láng giềng tốt và hợp tác toàn diện" và nghiêm thủ
áp dụng lịch trình đàm phán theo thỏa hiệp: - 18 năm đàm phán biên giới
đất liền (1990-2008), 20 năm đàm phán Biển Đông (1990-2010), 30 năm đàm
phán thuộc quốc (1990-2020) [1].
Hôm nay chúng tôi xin trình bày trước 10 năm đàm phán Vịnh Bắc Bộ
(1990-2001), theo lịch trình đã đàm phán: 2 lần đàm phán cấp chuyên
viên, 7 lần đàm phán cấp Chính phủ, 3 lần đàm phán cấp Thứ trưởng, 3 lần
đàm phán cấp Nhóm chuyên gia, 6 lần đàm phán cấp Nhóm chuyên gia thủy
sản, 7 lần đàm phán cấp Nhóm chuyên gia bản đồ ngoài thực địa, 18 lần
đàm phán cấp Nhóm công tác phân định Vịnh Bắc Bộ. [2] Trung Cộng quá vui
mừng tiết lộ về chiến thắng phân định lãnh hải, lấy được vùng Vịnh Bắc
Bộ của Việt Nam, qua mưu sách mật độ thâm giao "Tình đồng chí, tình anh
em" và độc đáo trong lịch sử ngoại giao của Trung Cộng, nhờ những "mật
nghị" với Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Duy
Niên, Nông Đức Mạnh và Trần Đức Lương và hiện nay "10 hiệp ước" của
Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng v.v...
Ngày 24 tháng 12 năm 2000, Chủ tịch Việt Nam Trần Đức Lương chính thức
thăm Trung Quốc. Ngày 25, Giang Trạch Dân hội đàm chính thức với Trần
Đức Lương, hai nhà lãnh đạo đánh giá cao về biên giới. Sau cuộc hội đàm,
hai nguyên thủ quốc gia cùng tham dự buổi lễ ký kết 2 Hiệp ước "Hiệp
định Trung Quốc-Việt Nam phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác
nghề cá Vịnh Bắc Bộ".
Lễ ký kết được tổ chức tại Đại lễ đường Bắc Kinh. Bộ trưởng Ngoại giao
Việt Nam Nguyễn Duy Niên thay mặt chính phủ ký "Hiệp ước Trung Cộng-Việt
Cộng hợp tác đặc quyền kinh tế" và "Hiệp định phân định thềm lục địa".
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Trần Diệu Bang và Bộ trưởng Bộ Thủy sản Việt
Nam Tạ Quang Ngọc (Xie Guangyu) đã ký "Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hiệp định hợp
tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ".
Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (L) và đối tác Thứ trưởng
Ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng (R) dấu hiệu trên các tài liệu về việc phê
duyệt hiệp ước phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa trong Vịnh Bắc Bộ ký tại Hà Nội ngày 30 tháng 6 năm 2004. Tài liệu
ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Ngày 25 tháng 6 năm 2004. Sau khi ký kết những hiệp định, mỗi bên theo
quy định của pháp luật phê chuẩn công bố hiệu lực. Quốc hội Nhân dân
Trung Quốc lần thứ X, thông qua cuộc họp "Hiệp định phân định vùng Vịnh
Bắc Bộ". Trước đó, vào ngày 15, Quốc hội Việt Nam lần thứ XI phê chuẩn
thông qua 2 văn bản "Hiệp ước Trung Cộng- Việt Cộng hợp tác đặc quyền
kinh tế" và "Hiệp định phân định thềm lục địa".
Ngày 30 tháng 6 năm 2004 tại Hà Nội. Quan hệ Trung- Việt đàm phán biên
giới, người đứng đầu phái đoàn Trung Quốc, Thứ trưởng Ngoại giao Vương
Nghị và người đứng đầu phái đoàn Chính phủ Việt Nam Thứ trưởng Bộ Ngoại
giao Vũ Dũng trao đổi "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" đã phê chuẩn.
Cùng ngày hai Bộ Ngoại giao trao đổi những điều ghi chú trong "Hiệp định
Việt Nam hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định phân định vùng Vịnh
Bắc Bộ", đồng thỏa thuận công bố hiệu lực.
"Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ mở rộng", hai bên Trung Quốc và Việt
Nam xác định chủ quyền tại ranh giới biển, còn lại các đường ranh giới
Vịnh Bắc Bộ từ cửa biển xuyên biên giới sông Bắc Luân, khoảng mở rộng về
phía Nam đã thỏa thuận niêm phong hàng hải tại phía Bắc của Vịnh, là
khoảng năm trăm (500) cây số.
"Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ mở rộng". Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Trung Cộng ngạo mạn, Việt Cộng quá đê nhục
Chuyển giao thế kỷ 21, thông qua các nỗ lực chung của Trung Cộng và Việt
Cộng, nay giải quyết thành công được hai vấn đề lớn về biên giới mà từ
lâu Trung Cộng tố cáo Việt Cộng trì trệ quan hệ song phương, tuyên bố:
− Ngày nay quan hệ song phương Trung-Việt sẽ phát triển sâu rộng biên
giới, phục vụ các lợi ích cơ bản và lâu dài cho nhân dân hai nước; "Hiệp
ước biên giới đất liền Trung-Việt" và "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ
mở rộng", đánh dấu hai nước hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác biên
giới đất liền và biên giới biển, mà còn tiếp tục làm phong phú thêm song
phương 16 chữ vàng "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng
tốt và hợp tác toàn diện", (Trường kì ổn định, diện hướng vị lai, mục
lân hữu hảo, toàn diện hợp tác) [3] theo khuôn khổ ý nghĩa quan hệ thuộc
quốc, để thúc đẩy sự phát triển lành mạnh và ổn định quan hệ của hai
nước trong thế kỷ mới, đặt trên nền tảng vững chắc.
"Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ mở rộng" đã có hiệu lực, đánh dấu sự ra
đời một biên giới biển đầu tiên của Trung Cộng. Việt Cộng thông qua
tham vấn của Trung Cộng, giải quyết thành công giữa hai nước trong Vịnh
Bắc của vấn đề phân định biển, pháp luật của chế độ biển phù hợp với
thực hành hiện đại.
Hải giám Trung Cộng kiểm soát vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Mở rộng phân định biển Vịnh Bắc Bộ Việt Nam, đã thể hiện đầy đủ lòng
người hàng xóm của Trung Cộng thông qua một "giải pháp thương lượng" [4]
với các vấn đề phân định biển, Việt Cộng chân thành có liên quan sâu
sắc với Trung Cộng, sẽ giúp tăng cường tin cậy lẫn nhau giữa Trung Cộng
và các nước láng giềng trong các đại dương xung quanh, thúc đẩy sự phát
triển của mối quan hệ của Trung Cộng với các nước láng giềng, quan trọng
đối với việc duy trì hòa bình và ổn định.
Việt Cộng để giải quyết đất đai biên giới, phía bắc Vịnh Bắc Bộ kinh
nghiệm cho thấy không tranh chấp khi phân định biển chỉ bằng cách tôn
trọng những cơ sở luật pháp quốc tế, có sự tham khảo thông lệ quốc tế,
tôn trọng lịch sử và khách quan sự thật, xem xét các lợi ích cơ bản và
lâu dài của nhân dân hai nước, tư vấn bình đẳng, hiểu biết lẫn nhau, tìm
kiếm công lý giải pháp công bằng và hợp lý để đạt được kết quả chiến
thắng liên tục.
Để đạt được một kết quả chiến thắng này nhờ Việt Cộng tôn trọng lịch sử
và thực tế của Trung Cộng. Ở đây, tôn trọng lịch sử và tôn trọng sự thật
khách quan không phải là mâu thuẫn nhưng mục đích bổ sung để hiểu tại
sao sự việc xảy ra, để hiểu rõ hơn tình hình thực tế, để làm rõ sự khác
biệt của Việt Cộng và tranh chấp, khác biệt và tranh chấp nội dung, tính
chất và mức độ thực hiện bản án chính xác thuận lợi để tìm giải pháp
tốt hơn. Tiêu chuẩn để đánh giá sự thành công của các cuộc đàm phán giữa
hai bên dựa trên lịch sử, địa lý, chủ quyền, quyền tài phán và quyền
lợi chính sách thực dụng, công bằng, hợp lý, hợp pháp, lợi ích của hai
bên đã chính thức hiệu lực và được duy trì hai nhà nước tốt. [5]
Nếu như Việt Cộng phổ biến những sự kiện lịch sử này thì hay biết mấy,
nếu "Bác" của đảng phát biểu như Trung Cộng vì quyền lợi của nhân dân,
tất nhiên quá tuyệt vời. Tại sau vậy, bởi vì đảng không có gì để thể
hiện lòng thành đối với nhân dân Việt Nam! Ôi rất tiếc nhân dân Việt Nam
đã quá thiệt thòi, đôi vai nặng trĩu chịu đựng kiếp người và đã mệt mỏi
ý chí, sống dưới chế độ vô hồn, tuy có chính phủ nhà nước Cộng sản cũng
như không bởi nó độc trị.
Cho đến nay đã có câu trả lời thỏa đáng, Việt Cộng thực sự đầu hàng
Trung Cộng, chấp nhận "đảng còn nước mất" để rồi ký vào "Hiệp ước biên
giới đất liền Trung-Việt" và "Hiệp định mở rộng phân định Vịnh Bắc Bộ",
do Trung Cộng chủ động soạn thảo và Việt Cộng vô tư ký!
Bài đã đăng:
_________________________________________
Chú thích:
[1] - 18年陆地边界谈判 (1990-2008年), 20年的谈判中海 (1990-2010), 30岁以下的联合国谈判 (1990-2020).
[2] - 10年谈判北部湾 (990-2001年) 的, 按照协商的时间表: 2谈判专家级, 7级政府的谈判, 3次副部长级会谈,
3倍的水平谈判团队专家介绍, 6级的渔业谈判专家小组, 7次野外地图上水平谈判小组, 北部湾的18倍, 工作组级别会谈划界。
[3] "长期稳定, 面向未来, 睦邻友好, 全面合作".
[4] Sự sống còn của một dân tộc trên căn bản đàm phán với đối phương,
không thể áp dụng "giải pháp thương lượng" đồng nghĩa chấp nhận nhượng
địa của Việt Nam cho Trung Cộng theo như lời Tiền Kỳ Tham tuyên bố "giải
pháp thương lượng". Sau đó Việt Cộng ngoan ngoãn cặm cụi thi hành, cho
thấy Việt Nam không còn chủ quyền quốc gia.
[5] Báo cáo Điện thoại: 010-64192948 ngư nghiệp Trung Quốc Command Center.
Bộ Nông nghiệp, Thủy sản và câu cá Harbor giám sát khu vực biển Nam Trung Hoa 020--87776584.
Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 7)
Huỳnh Tâm (Danlambao)
- Việt Nam có Vịnh Bắc Bộ là một vịnh nửa kín, được bao quanh bởi đất
liền giữa Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc. Vịnh Bắc Bộ là tuyến
đường biển phía Tây Nam của Biển Đông, có diện tích khoảng 126.250 km2
(36.000 hải lý vuông), chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km (176 hải
lý), nơi hẹp nhất ở cửa Vịnh rộng khoảng 207,4 km (112 hải lý).
Bờ Vịnh Bắc Bộ thuộc 10 tỉnh, thành phố của Việt Nam với tổng chiều dài
763 km, Vịnh có hai cửa: eo biển Quỳnh Châu nằm giữa bán đảo Lôi Châu và
đảo Hải Nam với bề rộng 35,2 km (19 hải lý) và cửa chính của vịnh từ
đảo Cồn Cỏ (Việt Nam) tới đảo Hải Nam (Trung Quốc) rộng 207,4 km (112
hải lý).
Phần vịnh của Việt Nam có khoảng 2.300 đảo, đá ven bờ, đặc biệt có đảo
Bạch Long Vĩ nằm cách đất liền Việt Nam khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam
Trung Quốc khoảng 130 km. Phía Trung Quốc có một số ít đảo nhỏ ở phía
Đông Bắc vịnh như đảo Vị Châu, Tà Dương.
Trước đó vào ngày 07 tháng 7 năm 1955. Hồ Chí Minh đã ký bán cho bành
trướng 35% Vịnh Bắc Bộ, gọi là "Hiệp ước nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ
Vạn Niên" giá trị 10.000 năm, để xóa mất đường ranh giới biển của Hiệp
ước Pháp-Thanh (Thiên Tân 1885). Bành trướng không thể ngồi yên trước
một miến mồi Vịnh Bắc Bộ quá hấp dẫn, gây sóng giótình tình thêm phức
tạp là điều không trách khỏi.
Theo lời của Nguyễn Duy Niên tuyên bố:
− "Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ" đã ký tại Việt Nam lần này, Việt Nam
được hưởng 53,23% tổng diện tích của vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc được hưởng
46,77%. Theo kết quả công bằng trong các cơ sở pháp lý và hoàn cảnh cụ
thể của Vịnh Bắc Bộ. Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ đã ký tại Việt Nam
cho phép mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc là một sự kiện quan trọng, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc quản lý Vịnh Bắc Bộ và duy trì sự ổn định
mở rộng vùng Vịnh Bắc Bộ, để tăng sự tin tưởng lẫn nhau và thúc đẩy hợp
tác toàn diện giữa hai nước để đóng góp thịnh vượng cho.....
Nói chung, đảng của Nguyễn Duy Niên tráo trở không thua "Bác", Vịnh Bắc
Bộ mà "Bác" bán trước đó là 35%, thế hệ sau của "Bác" bán thêm 12,77%,
nâng lên tổng số 46,77% về tài nguyên của bành trướng trong Vịnh Bắc Bộ.
"Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ" đã ký tại Việt Nam lần này, Việt Nam
chỉ được hưởng 53,23% tổng diện tích của vịnh Bắc Bộ; Vịnh Bắc Bộ mà
"Bác" bán trước đó là 35%, thế hệ sau của "Bác" bán thêm 12,77%, nâng
lên tổng số 46,77% về tài nguyên của bành trướng trong Vịnh Bắc Bộ. Tài
liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Vịnh Bắc Bộ là nơi lưu trữ tài nguyên thiên nhiên, có một trữ lượng dầu
khí, khí đốt tiềm năng phong phú, sinh vật, khoáng sản vô lượng "bạc
biển", một kho tàng tài nguyên chưa khai thác dưới lòng Vịnh, nó còn
nguyên sinh của địa cầu. Tiếp theo Việt Nam còn có hai trữ lượng thiên
nhiên ưu đãi lớn nhất Đông Dương, một Vịnh Bắc Bộ có nhiều ngư trường
hải sản và vựa lúa 6 tỉnh miền Nam Việt Nam.
Vịnh Bắc Bộ có vị trí chiến lược quan trọng, cũng là cửa ngõ giao lưu từ
lâu đời của Việt Nam ra thế giới, có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế, thương mại quốc tế, ngoại giao, lẫn quốc
phòng an ninh của Việt Nam.
Trước những năm 1970, Vịnh Bắc Bộ bởi thuộc chủ quyền của Việt Nam theo
Hiệp ước Pháp-Thanh (Thiên Tân 1885). Ngư dân Việt Nam đánh bắt cá trong
Vịnh Bắc Bộ gọi là ngư trường Đông, ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá bên
ngoài đảo Hải Nam gọi là ngư trường phía Tây biển Đông. Dân cư trong
Vịnh có câu ví von: Ngư dân Việt Nam-Trung Quốc sinh cư đôi miền "nước
sông-biển không xâm phạm lẫn nhau". Hai cộng đồng ngư dân Việt-Hoa chưa
bao giờ hợp tác đánh bắt cá với nhau trong Vịnh Bắc Bộ. Tuy Hồ Chí Minh
có bán vùng đảo Bạch Long Vĩ và một phần Vịnh giá trị 10.000 năm, nay
"Bác" đã có tội cướp nước không dung thứ, hết đời "Bác" đảng tiến hành
bán cửa biển cửa sông của Vịnh Bắc Bộ. [1]
Đến những năm 1970, quan hệ Trung-Việt Nam xấu đi, Trung Cộng có nhiều
lợi thế thượng phong đã từng viện trợ toàn bộ chiến tranh cho Việt Cộng,
và chiến thắng nhờ xâm lược Việt Nam 1969 tại biên giới, chiếm Hoàng Sa
Biển Đông 1974, ngày 17 tháng 2 năm 1979 chiếm biên giới 6 tỉnh phía
Bắc, chiếm tranh Lão Sơn 1984, chiếm đảo Gạc Ma Trường Sa Biển Đông 1988
và Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, Việt Cộng khởi động bước đầu rước
Trung Cộng vào Vịnh Bắc Bộ chiếm vùng đảo Bạch Long Vĩ. Loạn tình thế
đưa ngư dân vào tranh chấp khai thác vùng Vịnh, cộng đồng ngư dân Trung
Quốc trang thiết bị tàu đánh bắt cá chuyên nghiệp, một thách đố mới đem
đến bất lợi cho ngư dân Việt Nam. Trung Cộng cũng đã có máu bành trướng,
bắt đầu chơi trội luật pháp rừng Cộng sản, sử dụng biện pháp kiểm soát
ngư dân Việt Nam, bắn phá ghe thuyền, tịch thu tàu đánh cá, thảm sát ngư
dân trong thềm lục địa Việt Nam, một lịch sử biển cả hãi hùng nhất nhân
loại tại Vịnh Bắc Bộ chưa ai biết đến, bao nhiêu tội ác đó người Việt
Cộng đừng vội cho mình có tính chính đáng khai tử dân tộc Việt Nam và Hồ
Chí Minh là nguồn gốc sự khởi sinh những tội ác đó.
Sau những năm 1990, quan hệ Trung-Việt được cải thiện, nhưng hai bên
mượn ngư dân làm phương tiện tranh chấp, Trung Cộng thừa cơ hội đảng
"Bác" tự nhu nhược tấn công tới tấp, từ đó tiến hành cướp Biển Đông và
kết quả thằng anh em Việt Cộng chiến thắng vẻ vang, đất nước Việt Nam
ngã gục trong vòng tay Việt Cộng, một linh hồn sống của Trung Cộng từ
khi có đảng có "Bác".
Năm 1974, Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu tổ chức các cuộc đàm phán về
phân định Vịnh Bắc Bộ, đặc biệt chiến lược của Cộng sản "bình thường hóa
quan hệ song phương". Năm 1999 hai nước ký hiệp ước đầu tiên về biên
giới đất liền để tiến đến "bình thường hóa song phương", nói chung mỗi
lần ký hiệp ước Việt Nam phải dâng hiến đất cho Hán. Sau đó gia tốc đàm
phán Vịnh Bắc Bộ, Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Biển Đông. Việt Cộng đã hứa
thi công cắm mốc phân định lãnh thổ, lãnh hải và Biển Đông trước năm
2020.
Buổi lễ ký phê chuẩn Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ. Thứ trưởng Ngoại
giao Trung Quốc Vương Nghị (L) và đối tác Thứ trưởng Ngoại giao Việt
Nam Vũ Dũng (R). 3 tài liệu được phê duyệt cùng ngày gồm "Hiệp ước phân
định lãnh hải", "vùng đặc quyền kinh tế" và "thềm lục địa trong Vịnh Bắc
Bộ". Ký ngày 30 tháng 6 năm 2004 tại Hà Nội Việt Nam. Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm.
Chùng tôi xin gửi đến công luận, tìm hiểu nguyên nhân Việt Cộng tạo ra
những điêu linh cho dân tộc Việt Nam mang thân phận nhục hèn, dưới góc
độ vô căn "bình trị thiên" của Việt Cộng. Và hôm nay một trong nhiều hồ
sơ bằng sự thật đã chứng minh Việt Nam nhượng lãnh thổ, lãnh hải và Biển
Đông cho Trung Cộng. Hy vọng công luận Việt Nam bình tĩnh trước khi tự
giải mã:
Trung Quốc-Việt Nam, Hiệp định phân chia lãnh hải, bao gồm cả lãnh thổ, vùng Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông
Việt Cộng lưu bản Việt ngữ:
Ngày 25 tháng 12 năm 2000, hai nước đã ký hiệp ước "Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiệp ước trong lãnh hải
Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế" và "hiệp ước phân định ranh giới
thềm lục địa". Ngoài lời mở đầu của hiệp ước, có đính kèm bản đồ xác
minh 11 điểm đảo, lần đầu tiên xác nhận sự phân chia phía Bắc của Vịnh
Bắc Bộ có cả hai cơ sở pháp lý và ranh giới, rõ ràng nhất về phạm vi của
Hiệp định này, thứ 2-5 với 21 xác định điểm quan trọng phân định ranh
giới lãnh hải ở phía Bắc Vịnh, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa;
hiệp ước cũng xác định dầu khí qua biên giới, khí đốt và phát triển tài
nguyên khoáng sản khác, cũng như các nguyên tắc của hiệp ước về các vấn
đề bảo tồn và sử dụng tài nguyên sinh học. Bây giờ, hai cơ quan lập pháp
đã thông qua hiệp ước này đánh dấu biên giới biển ở Vịnh Bắc Bộ theo mô
tả.
Ngày 25 tháng 6 năm 2004, Cuộc họp của Quốc hội Nhân dân Trung Quốc lần
thứ X, đã bỏ phiếu thông qua quyết định phê chuẩn hiệp định "Cộng hòa
Nhân dân Trung Quốc và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về hợp tác
trong lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế" và "hiệp ước phân
định ranh giới thềm lục địa". Trước đó, Việt Nam đại hội XI của trong
cuộc họp thứ 5, vào ngày 15 tháng 6 đã thông qua nghị quyết phê chuẩn
thỏa thuận các hiệp ước. Hiện nay, Trung Quốc và Việt Nam đang hoàn tất
thủ tục tố tụng, có hiệu lực pháp luật của "Hiệp định phân định Vịnh Bắc
Bộ".
Trung Cộng kiểm soát chặt chẽ phân định lãnh hải và thủy sản.
Tranh chấp đánh bắt cá là một tranh chấp quan trọng giữa Trung Quốc và
Việt Nam, nay mở rộng Vịnh Bắc Bộ, vì vậy ngoài việc xác định ranh giới,
việc sắp xếp thủy sản là một phần quan trọng đàm phán biên giới của khu
vực phía Bắc Vịnh. Hai bên sẽ có được phân định và giải quyết vấn đề
thủy sản gắn liền với lợi ích của cả hai bên để tìm kiếm một điểm thỏa
hiệp, được ký kết cùng một thời điểm "trong Hiệp định hợp tác nghề cá
Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ". Sau khi có hiệu lực
"Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá", điều
kiện các lực lượng hai bên thi hành.
Việc ký kết những hiệp ước, cho sự lợi ích ổn định lâu dài của biên giới
giữa Trung Quốc và Việt Nam trong khu vực Vịnh Bắc Bộ, cùng nhau thúc
đẩy phát triển lành mạnh của quan hệ song phương phù hợp với lợi ích căn
bản của Trung Quốc. Tuy nhiên, phía Việt Nam phải rút số lượng lớn tàu
cá ra khỏi ngư trường truyền thống, cũng là tác động phát triển 3 tỉnh
thủy sản Quảng Đông, Quảng Tây và Hải Nam của Trung Quốc. Trên 6000 tàu
thuyền đánh bắt cá hoạt động ở phía Tây vùng Vịnh, và bây giờ họ được
quyền trở lại phần phía Đông của vùng biển Vịnh Bắc Bộ, riêng tỉnh Hải
Nam có 59% tàu thuyền đánh bắt cá trong vùng biển Vịnh Bắc Bộ, theo
"Hiệp định hợp tác nghề cá", Hải Nam lên kế hoạch từ năm 2003, mỗi năm
phát triển 570 thuyền đánh bắt cá. 2002-2006 có 1,2 triệu ngư dân và
phát triển 2471 thuyền đánh cá. Để đáp ứng với sự thay đổi này, nhà nước
Trung Cộng đã xây dựng kế hoạch ngư dân, một phần kinh phí dành xây
dựng cơ sở ngư nghiệp.
Trung Cộng cho ra đời một kế hoạch ranh giới ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ,
Việt Cộng chấp nhận dâng hiến Vịnh Bốc Bộ. Từ đó Việt Nam có Biển cũng
như không, ngày nay nhân dân không có cá để ăn, muốn ăn phải mua cá của
ngư dân Hán. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Trung Cộng làm chủ quần đảo Trường Sa.
Vấn đề phân định ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam, bao gồm cả đất
liền, vịnh Bắc Bộ và Biển Đông thành ba phần. Đàm phán biên giới đất
liền Việt Nam kéo dài 22 năm, vào ngày 30 tháng 12 năm 1999 đã ký "Hiệp
ước biên giới đất liền Việt-Trung". Đến cuối năm 2003, quá trình phân
giới cắm mốc hơn một nửa đã được dựng lên, hai bên phấn đấu để xác định
nửa còn lại của năm nay, các những cột mốc lớn thay cho đài tưởng niệm.
Cho đến nay, lãnh hải đang tranh chấp tại vùng biển Biển Đông. Vào năm
1995 phía Việt Nam đã thành lập một tiểu tổ chuyên gia trên biển. Cuộc
đàm phán về tranh chấp vấn đề quần đảo Trường Sa. Ban tư vấn hàng hải
hiện nay vẫn tiếp tục hoạt động. Tuân thủ các nguyên tắc của cơ chế, các
vấn đề phía trước đã qui định, phấn đấu thông qua đàm phán hòa bình và
tìm ra giải pháp lâu dài.
Bản phối kế hoạch ranh giới lãnh thổ và ranh giới trên đường Biển Đông 1/9 điểm.
Điểm 1 quan trọng vĩ độ 21 độ 28 phút 12,5 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 04.3 giây;
Điểm 2 quan trọng vĩ độ 21 độ 28 phút 01,7 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 01,6 giây;
Điểm 3 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 50,1 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 57,7 giây;
Điểm 4 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 39,5 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 51,5 giây;
Điểm 5 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 28,2 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 39,9 giây;
Điểm 6 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 23,1 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 38,8 giây;
Điểm 7 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 08,2 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 43,7 giây;
Điểm 8 quan trọng vĩ độ 21 độ 16 phút 32 giây kinh độ đông 108 độ 08 phút 05 giây;
Điểm 9 quan trọng vĩ độ 21 độ 12 phút 35 giây kinh độ đông 108 độ 12 phút 31 giây;
Vùng đặc quyền kinh tế của Trung Cộng:
Điểm 10 ranh giới vĩ độ 20 độ 24 phút 05 giây kinh độ đông 108 độ 22 phút 45 giây;
Điểm 11 ranh giới vĩ độ 19 độ 39 phút 33 giây kinh độ đông 107 độ 55 phút 47 giây;
Điểm 12 ranh giới vĩ độ 19 độ 39 phút 33 giây kinh độ đông 107 độ 31 phút 40 giây;
Điểm 13 ranh giới vĩ độ 19 độ 25 phút 26 giây kinh độ đông 107 độ 21 phút 00 giây;
Điểm 14 ranh giới vĩ độ 19 độ 25 phút 26 giây kinh độ đông 107 độ 12 phút 43 giây;
Điểm 15 ranh giới vĩ độ 19 độ 16 phút 04 giây kinh độ đông 107 độ 11 phút 23 giây;
Điểm 16 ranh giới vĩ độ 19 độ 12 phút 55 giây kinh độ đông 107 độ 09 phút 34 giây;
Điểm 17 ranh giới vĩ độ 18 độ 42 phút 52 giây kinh độ đông 107 độ 09 phút 34 giây;
Điểm 18 ranh giới vĩ độ 18 độ 13 phút 49 giây kinh độ đông 107 độ 34 phút 00 giây;
Điểm 19 ranh giới vĩ độ 18 độ 07 phút 08 giây kinh độ đông 107 độ 37 phút 34 giây;
Điểm 20 ranh giới vĩ độ 18 độ 04 phút 13 giây kinh độ đông 107 độ 39 phút 09 giây;
Điểm 21 ranh giới vĩ độ 17 độ 47 phút 00 giây kinh độ đông 107 độ 58 phút 00 giây;
Phía Trung Cộng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhân dân toàn quốc quyết định
phê duyệt "Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam về hiệp ước trong lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế
và hiệp ước phân định thềm lục địa".
Hiệp ước thông qua 25 tháng 6 năm 2004.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhân dân toàn quốc lần thứ X đã quyết định họp
lần thứ X: chấp thuận của Bộ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền thay mặt
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 25 tháng 12 năm 2000, ký tại
Bắc Kinh với nước "Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, hợp tác với Trung
Quốc", phân chia lãnh hải trong Vịnh Bắc Bộ, cùng 2 Hiệp ước "Đặc quyền
kinh tế vùng Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp ước phân định thềm lục địa".
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc hợp
tác trong lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
thỏa thuận theo phân định.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (sau
đây gọi là "các Bên ký kết"), nhằm củng cố và phát triển quan hệ hữu
nghị truyền thống và láng giềng tốt mối quan hệ giữa hai nước và dân
tộc, để duy trì và thúc đẩy sự ổn định, phát triển ở phía Bắc Vịnh, tôn
trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nguyên tắc không xâm lược
(nonaggression) lẫn nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau,
bình đẳng và cùng có lợi, sống chung hòa bình dựa trên các nguyên tắc
của tinh thần hiểu biết lẫn nhau và tham vấn thân thiện, giải pháp công
bằng cho vấn đề phân chia tinh thần Vịnh Bắc Bộ, đồng ý như sau:
Điều khoản I
Đầu I - Vào năm 1982, theo các Chính phủ đã ký kết "Công ước Liên Hợp
Quốc về Luật biển" [2], công nhận những nguyên tắc của luật pháp quốc tế
và thực tiễn quốc tế, trong việc xem xét đầy đủ của tất cả các trường
hợp có liên quan của vịnh Bắc Bộ, dựa trên nguyên tắc công bằng, thông
qua hiệp thương hữu nghị để xác định hai nước chủ quyền vùng lãnh hải
phía Bắc Vịnh, các đường phân chia giữa các vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa.
Đầu II - Trong Hiệp định này, "Vịnh Bắc Bộ" có nghĩa là phía Bắc của
Trung Quốc và Việt Nam, hai lãnh thổ đất ven biển, bán đảo Lôi Châu đảo
Hải Nam phía Đông Trung Quốc và phía Tây bờ biển đất liền Việt Nam bao
quanh bởi vịnh nửa kín, ranh giới phía Nam của nó có kể từ khi tọa độ
địa lý của các vĩ độ 18 độ 30 phút 19 giây, kinh độ đông 108 độ 41 phút
17 giây, của đảo Oanh Ca Hải Nam Trung Quốc, trên miệng của rìa ngoài
cùng của những điểm nổi bật ở Việt Nam bằng cách bờ biển Việt Nam mờ
nhạt với tọa độ địa lý vĩ độ 16 độ 57 phút 40 giây, kinh độ 107 độ kết
nối 08 phút thẳng giữa điểm 42 giây. Các bên đã ký kết xác định phạm vi
của khu vực này tạo thành hiệp ước phân định lãnh hải.
Điều khoản II
Các Bên ký kết đồng ý rằng hai vùng lãnh hải trong Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa ranh giới bao gồm 21 điểm ranh giới sau
tuần tự kết nối trong một đường thẳng để xác định tọa độ địa lý của nó
như sau:
Điểm 1 quan trọng vĩ độ 21 độ 28 phút 12,5 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 04.3 giây;
Điểm 2 quan trọng vĩ độ 21 độ 28 phút 01,7 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 01,6 giây;
Điểm 3 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 50,1 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 57,7 giây;
Điểm 4 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 39,5 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 51,5 giây;
Điểm 5 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 28,2 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 39,9 giây;
Điểm 6 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 23,1 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 38,8 giây;
Điểm 7 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 08,2 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 43,7 giây;
Điểm 8 quan trọng vĩ độ 21 độ 16 phút 32 giây kinh độ đông 108 độ 08 phút 05 giây;
Điểm 9 quan trọng vĩ độ 21 độ 12 phút 35 giây kinh độ đông 108 độ 12 phút 31 giây;
Điểm 10 quan trọng vĩ độ 20 độ 24 phút 05 giây kinh độ đông 108 độ 22 phút 45 giây;
Điểm 11 biển giới vĩ độ 19 độ 57 phút 33 giây kinh độ đông 107 độ 55 phút 47 giây;
Điểm 12 biển giới vĩ độ 19 độ 39 phút 33 giây kinh độ đông 107 độ 31 phút 40 giây;
Điểm 13 biển giới vĩ độ 19 độ 25 phút 26 giây kinh độ đông 107 độ 21 phút 00 giây;
Điểm 14 biển giới vĩ độ 19 độ 25 phút 26 giây kinh độ đông 107 độ 12 phút 43 giây;
Điểm 15 biển giới vĩ độ 19 độ 16 phút 04 giây kinh độ đông 107 độ 11 phút 23 giây;
Điểm 16 biển giới vĩ độ 19 độ 12 phút 55 giây kinh độ đông 107 độ 09 phút 34 giây;
Điểm 17 biển giới vĩ độ 18 độ 42 phút 52 giây kinh độ đông 107 độ 09 phút 34 giây;
Điểm 18 biển giới vĩ độ 18 độ 13 phút 49 giây kinh độ đông 107 độ 34 phút 00 giây;
Điểm 19 biển giới vĩ độ 18 độ 07 phút 08 giây kinh độ đông 107 độ 37 phút 34 giây;
Điểm 20 biển giới vĩ độ 18 độ 04 phút 13 giây kinh độ đông 107 độ 39 phút 09 giây;
Điểm 21 biển giới vĩ độ 17 độ 47 phút 00 giây kinh độ đông 107 độ 58 phút 00 giây.
Điều khoản III
Điều I - Các qui định của Hiệp định, điểm ranh giới đầu tiên đến 9 điểm
đường biên giới phân chia giữa hai nước trong ranh giới lãnh hải trong
Vịnh Bắc Bộ.
Điều II - Theo đoạn đầu tiên của đường ranh giới lãnh hải phân chia hai
nước theo hướng thẳng đứng trên vùng lãnh hải, đáy biển và lòng đất dưới
đáy.
Điều III - Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bất kỳ thay đổi
địa hình không thay đổi điểm quan trọng đầu tiên đến 7 điểm ranh giới
quy định trong đoạn đầu tiên của văn bản này, theo ranh giới lãnh hải
giữa hai nước.
Điều khoản IV
Hiệp định, thứ hai theo yêu cầu của phần 9 vòng tròn trỏ đến các điểm
quan trọng của các điểm 21 là đường phân chia giữa hai nước ở phía Bắc
Vịnh vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Điều khoản V
Điều II - Theo yêu cầu của các điểm ranh giới đầu tiên đến 7 điểm của
hai đường tròn ranh giới lãnh hải với các đường màu đen vẽ trên 2 bên ký
kết hợp đồng hợp tác quy mô hệ thống đo cho 10.000 của cảng sông Bắc
Luân, bản đồ chuyên đề các điểm ranh giới đầu tiên 7-21 điểm giữa hai
nước tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ranh
giới với một đường màu đen, âm mưu của các Bên ký kết khiến cùng đo quy
mô 1/500000 Vịnh Bắc Bộ trên toàn bản đồ. Trên đường thẳng của đất liền.
Sông Bắc Luân trên bản đồ chuyên đề và phía Bắc Vịnh vẽ hình đầy đủ của Hiệp định này. Itrf-96 sử dụng bản đồ tọa độ.
Điều II - Hiệp định cung cấp cho các tọa độ địa lý của tất cả các tầng
lớp xã hội là tất cả các vị trí trên số tiền lấy từ bản đồ. Hiệp định
này chia đường vẽ trên bản vẽ của Hiệp định này, chỉ nhằm mục đích minh
họa.
Điều khoản VI
Các Bên ký kết sẽ tôn trọng lẫn nhau được xác định theo quy định của
Hiệp định này, hai vùng lãnh hải tương ứng trong vùng Vịnh Bắc Bộ, vùng
đặc quyền kinh tế, chủ quyền thềm lục địa và chủ quyền tài phán.
Điều khoản VII
Nếu bất kỳ dầu khí và khí đốt, khoáng sản khác điều Hiệp định biên độ mở
rộng kiến tạo, các bên sẽ xây dựng hoặc thông qua tham vấn thân thiện
đối với tiền gửi của việc chia sẻ hiệu quả nhất và công bằng của các
thỏa thuận phát triển để phát triển doanh thu [3].
Điều khoản VIII
Các Bên đồng ý tham vấn về việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sinh
học ở vùng Vịnh Bắc Bộ và phát triển bền vững và các vấn đề liên quan
về hợp tác song phương trong vùng đặc quyền kinh tế của miền Bắc Vịnh
bảo tồn tài nguyên sinh học, quản lý và sử dụng.
Điều khoản IX
Theo thỏa thuận giữa hai nước trên các vùng lãnh hải phía Bắc vịnh, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phân định ranh giới giữa các bên về
các quy tắc của pháp luật quốc tế về vị trí các luật biển không có bất
kỳ ảnh hưởng hoặc làm phương hại.
Điều khoản X
Đối với các bên có tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng
Hiệp định này, khi phát sinh phải được giải quyết thông qua hiệp thương
hữu nghị và đàm phán.
Điều khoản XI
Hiệp định này phải được sự chấp thuận của các Bên ký kết, và ngày hiệu
lực lúc trao đổi văn kiện đã phê chuẩn của đại diện Chính phủ. Phê chuẩn
tại Hà Nội và hai bên đồng hoán đổi cho nhau.
Hiệp định này làm thành 2 bản
Ngày 25 tháng 12 năm 2004 tại Bắc Kinh.
Mỗi bản có cả hai ngôn ngữ Trung Quốc và Việt Nam, hai văn bản giá trị như nhau.
Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc (中华人民共和国)
Ngoại trưởng Trung Quốc
(Ký tên)
Đường Gia Triền (唐家璇)
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (越南社会主义共和国)
Ngoại trưởng Việt Nam
(Ký tên)
Nguyễn Duy Niên (阮怡年)
Tài liệu này liên quan một Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nhân dân Toàn quốc
phê duyệt "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam về hiệp ước lãnh hải Vịnh Bắc Bộ", "vùng đặc quyền kinh tế" và
"hiệp ước phân định ranh giới thềm lục địa".
Vùng thủy sản phổ biến trong hải đồ ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Trung Cộng-Việt Cộng lưu 2 bản Việt-Hoa ngữ
中国与越南, 协议的领土划分,
包括境内, 北部湾和中国南海.
(拯救中国共产党中国:
__________________________________
Bài đã đăng:
Chú thích:
[1] Nhân dân Việt Nam muốn biết Hiệp ước hãy tìm đọc tài liệu 10 Hiệp
ước bán cửa biển cửa sông của Vịnh Bắc Bộ của Trương Tấn Sang và Tập Cận
Bình.
[2] Trung Cộng không chứng minh được chữ ký của "Công ước Liên Hợp Quốc
về Luật biển", xác nhận điều này, tất cả chỉ là một dối trá giữa hai
đảng Trung Cộng và Việt Cộng.
[3] Một vấn đề đen tối mới, nhân dân Việt Nam chưa bao nghe doanh thu
này, và ai là nhân vật có trách nhiệm với tài khoản của dầu khí và khí
đốt tại Biển Đông.
KÍNH HÒA * ĐÈN CÙ II
Đèn Cù tập 2: Bí ẩn cung đình đỏ và thân phận con người
Bích chương quảng cáo Đèn Cù tập 2 của Trần Đĩnh.
Courtesy Người Việt Books
Tác phẩm Đèn cù phần 2 của nhà văn Trần Đĩnh sẽ ra mắt bạn đọc trong
thời gian tới đây. Những dòng tự sự về thân phận con người trong chế độ
cộng sản cũng như những bí ẩn chính trị bị che dấu tiếp tục được phơi
bày. Sau đây là góc nhìn của một trong những độc giả đầu tiên của Đèn cù
phần hai.
Hồng cung bí sử
“Ông Lê Trọng Nghĩa xuất thân là một sinh viên khoa Luật, thông
thạo nhiều thứ tiếng. Năm 23 tuổi (tức 1945) ông làm thuyết khách gặp gỡ
Trần Trọng Kim, thuyết phục chỉ huy Nhật ở Trại Bảo an binh và tham gia
đàm phán với Tổng chỉ huy quân đội Nhật ở Hà Nội. Chia sẻ về công việc
của mình, ông nói: "Tôi theo dõi tất cả các vấn đề có quan hệ tới đối
phương như Pháp, Mỹ, và các nước khác có liên quan đến cách mạng Việt
Nam. Dựa vào những tin tức đó, Bộ Chính trị đưa ra chủ trương, quyết
sách". Giai đoạn Cách mạng Tháng 8, ông Nghĩa đại diện chính quyền Việt
Minh liên hệ với quân đội Nhật. Chủ trương lúc đó của Việt Nam là chỉ
huy quân giải phóng đánh vào quân Nhật đang co cụm ở Thái Nguyên để mở
đường Nam tiến.”
Đó là đoạn trích từ bài báo ngày 11/10/2014 trên báo mạng Vnexpress
tại Việt nam. Bài báo này ghi nhận cảm nghĩ của ông Lê Trọng Nghĩa về
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng thời cũng ghi vắn tắt tiểu sử của ông
Nghĩa, một người từng đứng đầu ngành tình báo Việt nam và giữ vai trò
quan trọng nhất trong cuộc cướp chính quyền tháng Tám năm 1945.
Điều mà báo này không nhắc đến là chuyện ông Nghĩa bị bắt, không án trong cái gọi là vụ án xét lại chống Đảng.
Sự thành công của cách mạng tháng tám không phải là sự tổ chức sắc sảo từ đầu đến cuối của đảng cộng sản Việt nam mà là một khoảng trống về quyền lực lúc ấy trên bán đảo Đông Dương.
-Trần Đĩnh
Điều này lại được tác giả Trần Đĩnh ghi nhận rất chi tiết trong phần hai cuốn tự truyện Đèn Cù. “Nhưng
thân phận cựu Đại tá tình báo Lê Trọng Nghĩa không quan trọng bằng tiết
lộ của ông về cuộc cách mạng tháng tám mà Trần Đĩnh ghi lại”.
Theo tiết lộ này thì trong tháng tám 1945 những người đứng đầu Việt minh, mà nòng cốt là đảng cộng sản đã ra quân lệnh số 1 tấn công quân đội Nhật bản đang chiếm đóng Đông dương lúc ấy. Trong khi đó thì bộ phận Việt minh ở Hà nội do ông Lê Trọng Nghĩa đứng đầu thương lượng thành công với quân đội Nhật để lên nắm chính quyền. Ông Hồ Chí Minh và các cố vấn của ông đều không biết việc này. Và khi những đội quân Việt minh đầu tiên tiến về Hà nội từ Việt bắc vẫn phải xin phép quân đội Nhật.
Theo tiết lộ này thì trong tháng tám 1945 những người đứng đầu Việt minh, mà nòng cốt là đảng cộng sản đã ra quân lệnh số 1 tấn công quân đội Nhật bản đang chiếm đóng Đông dương lúc ấy. Trong khi đó thì bộ phận Việt minh ở Hà nội do ông Lê Trọng Nghĩa đứng đầu thương lượng thành công với quân đội Nhật để lên nắm chính quyền. Ông Hồ Chí Minh và các cố vấn của ông đều không biết việc này. Và khi những đội quân Việt minh đầu tiên tiến về Hà nội từ Việt bắc vẫn phải xin phép quân đội Nhật.
“Điều này có nghĩa là sự thành công của cách mạng tháng tám không
phải là sự tổ chức sắc sảo từ đầu đến cuối của đảng cộng sản Việt nam mà
là một khoảng trống về quyền lực lúc ấy trên bán đảo Đông Dương.”
Những tiết lộ lịch sử ấy ắt hẳn là điều mà nhiều người quan tâm đến
lịch sử và chính trị Việt nam mong đợi từ quyển sách Đèn Cù tập 2 sắp
xuất bản, cũng như họ đã mong đợi từ phần một quyển tự truyện này.
Một điều có lẽ cũng sẽ gây ngạc nhiên cho người đọc khi Đèn cù 2 tiết
lộ rằng Lê Duẫn đã từng tiếp xúc với tình báo Mỹ, mặc dù sau đó tại đại
hội trung ương đảng lần thứ 9 ông là người đứng đầu phái thân Mao chủ
trương dùng bạo lực để tiến đánh miền Nam.
Nhà văn nhà báo Trần Đĩnh, ảnh chụp năm 1998. Hình do ông cung cấp.
Cũng liên quan đến ông Lê Duẫn, những điều Trần Đĩnh ghi chép lại cho
biết rằng sự “bất kính” của ông Duẫn đối với ông Hồ đã bắt đầu từ khi
ông được huấn luyện bởi các bậc đàn anh như Trần Phú, Hà Huy Tập, những
người được Quốc tế cộng sản công nhận chứ không phải là ông Hồ, một kẻ
bị thất sủng, dù ông cũng là người được Đệ tam quốc tế đào tạo từ rất
lâu.
Người ta cũng sẽ ngạc nhiên khi biết rằng Trần Đĩnh nghi ngờ nhân vật
Trần Xuân Bách khi ông này đề ra những ý tưởng cải cách chính trị cởi
mở hơn cho Việt nam.
Và những câu chuyện thâm cung bí sử về những nhân vật chính trị một
thời của đảng cộng sản Việt nam tiếp tục được ghi lại qua ngòi bút dí
dỏm của Trần Đĩnh, người chỉ khiêm tốn đặt tên cho quyển sách đầy ắp tư
liệu lịch sử của ông là “Truyện tôi”.
Những chi tiết lịch sử ấy Trần Đĩnh gọi là “Hồng cung bí sử”.
Thân phận con người
Những sự kiện lịch sử dù bị che dấu, cũng sẽ dần dần lộ ra trong thời đại thông tin toàn cầu này, “điều mà Trần Đĩnh đem đến nhiều nhất cho người đọc chính là sự mô tả thân phận con người trong và dưới chế độ cộng sản.”
Những nhân vật trong guồng máy như các ông Lê Liêm, Bùi Công Trừng,
Đặng Kim Giang, Ung Văn Khiêm,… những người có công gầy dựng nên đảng
cộng sản bị đối xử một cách tàn khốc khi sa cơ thất thế, bị chính các
đồng chí ngày hôm qua của họ giáng xuống những bản án nặng nề. Trần Đĩnh
viết:
Đất nước bị mắc phải một giống vi trùng có tên là tính đảng. Nó kháng lại mọi yêu cầu tử tế của con người.
-Trần Đĩnh
“Đất nước bị mắc phải một giống vi trùng có tên là tính đảng. Nó kháng lại mọi yêu cầu tử tế của con người.”
Ông viết thêm là ở nước Việt nam, nhờ có đảng mà cái gì cũng là hai
mặt, hai mang. Và những tư tưởng giai cấp mà đảng cộng sản đem vào Việt
nam đã để lại những sự đảo điên vô cùng nghiêm trọng cho xã hội Việt
nam:
“Nó gây sốc đảo điên dân tộc, nó đem vào lập trường đấu tranh giai
cấp, đi vào trong mọi quan hệ xã hội, họ hàng gia đình, bạn bè để đấu
tố nhau, xin mạng nhau.”
Tuy nhiên cuộc đấu đá quyền lực của những người lãnh đạo cộng sản không làm họ xao nhãng việc cai trị. Trần Đĩnh viết tiếp:
“Tôi lạ là các bộ óc đầy hằn học, nghi ngờ nhau như vậy vẫn nhất trí được với nhau trong việc trị dân.”
Sự phản kháng của dân chúng trước sự toàn trị ngặt nghèo của đảng
được Trần Đĩnh mô tả lại qua những buổi trò chuyện dài giữa ông và anh
thanh niên vá xe đạp. Qua đó người đọc thấy sự phản ứng rất đặc biệt của
người dân dưới chế độ cộng sản: Không có những cuộc biểu tình, những
cuộc nổi dậy mà có sự châm biếm các giới lãnh đạo, sự biến thái của ngôn
ngữ để chuyển tải những câu chuyện khôi hài đen.
Đọc Đèn cù tập 2 người ta cũng thấy một mối quan hệ đặc biệt giữa
những người bất đồng chính kiến, những người bị chế độ lên án với những
nhân viên an ninh theo dõi họ. Họ tồn tại song song nhau, khai thác
nhau. Bộ máy an ninh dày đặt đã gieo rắc sự sợ hãi vào trong lòng dân
chúng, và cả những người có cương vị trong xã hội.
Trong xã hội ấy một khi người ta ngại tiếp xúc với các cơ cấu của bộ máy quyền lực chính là lúc người ta bắt đầu có biểu hiện của sự khủng hoảng tâm thần do bị đàn áp về tinh thần. Đó là nhận xét của Trần Đĩnh về những thân phận con người xung quanh mình và ông thường xuyên tự nhắc mình rằng trong cái sợ đó “phải ứng phó làm sao cho đúng cốt cách một con Người”.
Trong xã hội ấy một khi người ta ngại tiếp xúc với các cơ cấu của bộ máy quyền lực chính là lúc người ta bắt đầu có biểu hiện của sự khủng hoảng tâm thần do bị đàn áp về tinh thần. Đó là nhận xét của Trần Đĩnh về những thân phận con người xung quanh mình và ông thường xuyên tự nhắc mình rằng trong cái sợ đó “phải ứng phó làm sao cho đúng cốt cách một con Người”.
Dù biết rằng bất cứ sự so sánh nào cũng khập khiễng, nhưng câu chuyện
về những nhân vật cộng sản Việt nam mà Trần Đĩnh ghi lại, không khỏi
gợi cho độc giả nhớ đến cuốn tiểu thuyết chính trị của nhà văn Pháp
Andre Malraux mang tựa đề “Thân phận con người”, mô tả cuộc nổi
dậy của lực lượng cộng sản tại Thượng hải, Trung quốc vào những năm
1930. Người ta thấy nhiều âm mưu, nhiều sự bội phản, nhiều sự cơ hội, và
trên hết là sự ảo tưởng mà Trần Đĩnh gọi là sự Mộng tưởng. Sự mộng
tưởng vào chủ nghĩa cộng sản ám ảnh tác giả lớn đến mức mà ông lập lại
đến hai lần trong phần hai của tác phẩm Đèn cù:
“Mộng tưởng không trọng lượng nhưng đè sập biết bao đời người.”
Tin, bài liên quan
- Một ông Hồ khác
- Sự Thật cuối cùng đến quá trễ!
- Những độc giả đầu tiên của Đèn Cù
- http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-rolling-lantern-volume-2-kh-11252014115127.html
Monday, November 24, 2014
CHÙA KHẢI TƯỜNG- GIA ĐỊNH
CHÙA KHẢI TƯỜNG Ở CÁI THIA Ngôi chùa nơi vua Minh Mạng chào đời
10/08/2012 03:10
Theo quyển Ngũ gia tông phái ký của hòa thượng Hải Tịnh (bản khắc năm 1875) thì lúc Tây chiếm thành Gia Định, hòa thượng Tế Tín Chánh Trực đang lánh nạn tại Sắc tứ Từ Ân và đang bệnh nặng. Biết không thoát khỏi nên vào ngày 20 tháng 7 năm Giáp Thìn (1864), hòa thượng cho triệu tập tăng chúng hai chùa và ủy thác Quốc Ân Khải Tường tự cho hòa thượng Tiên Giác - Hải Tịnh, đồng thời cũng ủy thác cho pháp sư Trí Thông (chùa Từ Ân) làm phó trụ trì, Giám quản Quốc Ân Khải Tường tự. Rồi đại lão hòa thượng viên tịch, nước mất nhà tan, tổ ấn bị chôn vùi, sự ủy thác chỉ còn là danh nghĩa.
Theo dòng người di tản, một số đệ tử ngài cầu pháp với tổ đình Sắc tứ
Kim Chương, trong số này có Hòa thượng Chơn Thành, pháp danh Thanh Đặng
(1847-1919) đời thứ 41 phái Lâm tế. Lúc mất chùa có lẽ ngài còn là một
tiểu tăng. Không mang theo được những di vật của Quốc Ân Khải Tường tự,
khoảng năm 1862, ngài về tới đình Hội Thọ rồi sau đó dựng chùa Khải
Tường ở Cái Thia (ấp Mỹ Phú, xã Mỹ Đức Đông, H.Cái Bè, Tiền Giang hiện
nay) để hoài niệm. Chùa mới, Phật mới, chỉ có cái tên còn lưu giữ, nhưng
chẳng được an cư. Năm 1947, Tây đánh vô chợ Cái Thia, chùa Khải Tường
phải một lần nữa dời vô vàm rạch Ông Lữ để lánh nạn.
Nằm khiêm nhường bên bờ rạch Ông Lữ, chùa Khải Tường ít người biết
đến, ngay cả trong sách Phật giáo Tiền Giang lược sử những ngôi chùa
được xuất bản gần đây thống kê 56 tự viện ở Cái Bè cũng không có tên
Khải Tường tự. Nhưng có lẽ dòng chảy văn hóa tiếp tục không hề đứt đoạn.
Tháng 9.2011, chùa Quốc Ân Khải Tường được phục dựng tại số 18 Đất Mới,
xã Long Phước, H.Long Thành, Đồng Nai. Lịch sử ngôi chùa được nhắc lại
song cũng còn nhiều điều chưa minh bạch.
Ngọc Phan - Hoàng Phương
Chùa Khải Tường- Gia Định
Chùa Khải Tường là một ngôi cổ tự, trước đây tọa lạc trên một
gò cao tại ấp Tân Lộc, thuộc Gia Định xưa. Ở vị trí ấy nay là Bảo tàng
Chứng tích chiến tranh, số 28, Võ Văn Tần, Quận 3, Thành
phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đây có thể được kể là ngôi già lam cổ nhất
nhì ở vùng đất ấy, nhưng đã bị phá hủy dưới thời Pháp thuộc.
Đây là bản đồ 3D đầu tiên và có lẽ là duy nhất đến nay của TP Sài gòn
Theo các chi tiết trên bản đồ ta có thể cho rằng bản đồ này được vẽ sớm hơn năm 1881, có thể là vào năm 1874 hay 1875. Đại úy hay thuyền trưởng Fauvre đã vẽ bản đồ này dựa trên bản đồ 2D trước đó. Ông đã lặn lội khắp thành phố Sài gòn để hòan tất hình vẽ nhà cửa dinh thự một cách chính xác
Theo các chi tiết trên bản đồ ta có thể cho rằng bản đồ này được vẽ sớm hơn năm 1881, có thể là vào năm 1874 hay 1875. Đại úy hay thuyền trưởng Fauvre đã vẽ bản đồ này dựa trên bản đồ 2D trước đó. Ông đã lặn lội khắp thành phố Sài gòn để hòan tất hình vẽ nhà cửa dinh thự một cách chính xác
Chùa Khải Tường trong bản đồ này nằm bên trên của dinh Norodom đằng sau dãy nhà hai tầng đầu tiên của trường Collège Chasseloup Laubat nằm ở ngã tư NKKN và NTMK ngày nay.
chùa Khải Tường ở Cái Thia bên bờ rạch Ông Lữ(ấp Mỹ Phú, xã Mỹ Đức Đông, H.Cái Bè, Tiền Giang hiện nay - Ảnh: H.P
Chân dung hòa thượng Chơn Thành - Ảnh: H.P
Chùa Quốc Ân Khải Tường
Tọa lạc tại số 18 Đất Mới - Xã Long Phước - Huyện Long Thành – Tỉnh Đồng Nai
Tưởng phật bằng Ngọc Bích
1. Lịch sử
Vào khoảng năm Giáp Ngọ (1844), Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc (1725-1821,
là người đem chi phái Lâm Tế dòng đạo Bổn Nguyên vào miền Nam Việt Nam
trước tiên), vâng lời thầy theo lớp người lưu dân từ
Đồng Nai xuống phía Nam. Trên đường đi, nhà sư gặp một tăng sĩ không
rõ họ tên, cùng lứa tuổi và họ đã kết thành huynh đệ. Đến nơi ở mới là
làng Tân Lộc (có tư liệu viết là làng Hoạt Lộc hay xóm
Chợ Đũi), hai nhà sư cùng khai phá rừng và dựng lên am lá thờ Phật.
Vài năm sau, nhà sư vô danh kia tách ra lập am riêng, cách am cũ vài
mươi mét, để tiện việc tu hành.
Đến năm Nhâm Thân (1752), Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc tu bổ am lá thành chùa, và đặt tên là chùa Từ Ân,
với ngụ ý là "nhờ lòng từ bi và ân huệ của đức Phật mà bá tánh được
bình
an, tạo được cuộc sống ấm no và hạnh phúc nơi vùng đất mới". Cũng
khoảng thời gian đó, nhà sư vô danh cũng tu bổ am lá (dựng khoảng năm
1844) thành chùa, và đặt tên là chùa Khải
Tường, với ngụ ý là "mở rộng phước lành cho bá tánh". Vì thế
khi thực dân Pháp tiến chiếm Gia Định, họ gọi chùa Khải Tường là chùa
Trước (pagode Avancée) còn chùa Từ Ân là chùa Sau chùa Từ Ân hiện nay tọa lạc ở số 23 đường Tân Hóa, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh
Chùa Từ Ân đã được dời về đường Tân Hóa, bên rạch ông Buông vào khoảng cuối thế kỷ XIX
Bài vị Hòa thượng Liên Hoa và hoàng cô (bên phải từ ngoài nhìn vào)
Căn cứ một số tư liệu, thì vào ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi (25 tháng 5
năm 1791), thứ phi Trần Thị Đang (Thuận Thiên Cao Hoàng hậu) sinh
Nguyễn Phúc Đảm (về sau là vua Minh Mạng) nơi hậu liêu chùa
Khải Tường, khi chúa Nguyễn Phúc Ánh đến đây trốn tránh quân Tây Sơn.
Năm 1804, để tạ ơn che chở, vua Gia Long (tức vị chúa trên) đã gửi vào
dâng cúng một tượng Phật A-di-đà lớn, ngồi trên tòa sen,
cao 2,5 m bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng.
Gia Long (1762 – 1820) là vị Hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương
triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là
Nguyễn Phúc Ánh (thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802
đến khi qua đời năm 1820.Chúa Nguyễn Phúc Ánh (Anh)ngoài ra còn có tên
là Chủng và Noãn

Vua Gia Long thời trẻ
Tượng Phật A-di-đà do vua Gia Long dâng cúng năm 1804
cao 2,5 m bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng
Tượng Phật A-di-đà do vua Gia Long dâng cúng năm 1804 đem về chưng trong dinh Norodom
Vua Minh Mạng, cũng gọi là Minh Mệnh (1791 – 1841), tức Nguyễn Thánh Tổ, là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn, Được xem là một ông vua năng động và quyết đoán, Minh Mạng đã đề xuất hàng loạt cải cách từ nội trị đến ngoại giao, trong đó có việc ngăn chặn quyết liệt ảnh hưởng phương Tây đến Việt Nam -Nguyễn Phúc Đảm (hay gọi là Kiểu)
Ấn của vua Minh Mạng
Ấn Khâm văn chi tỷ, thời Minh Mệnh năm thứ 8 (1827) trọng lượng 137 lạng vàng
10.
Ấn Sắc mệnh chi bảo
“Thập
tuế hoàng kim nhị bách nhị thập tam lạng lục tiền – Minh Mạng bát niên
thập nguyệt cát nhật tạo”. (Nghĩa là: Vàng 10 tuổi nặng 223 lạng 6
tiền – đúc vào ngày lành tháng 10 năm Minh Mạng thứ 8, 1827).
Lăng vua Minh Mạng ở Huế
Phong cảnh quanh Lăng Minh Mạng
Hồ nước trước lăng
Bia đá ở lăng Minh Mạng
Năm 1832, kỷ niệm nơi cha mẹ ông từng ở, và cũng là nơi sinh ra ông,
vua Minh Mạng sai xuất bạc trùng tu chùa, đồng thời cho "mộ sư đến ở,
cấp ruộng tự điền" để lo việc lễ tiết hàng năm
Năm 1858, quân Pháp đánh phá cửa Hàn (Đà Nẵng). Năm sau (1859) lại vào
tấn công Gia Định, Pháp chia quân đóng rải rác tại Trường Thi, đền Hiển
Trung (pagode aux Mares) và các chùa: Khải Tường
(pagode Barbé), Kiểng Phước (pagode des Clochetons), Cây Mai (pagode
des Pruniers).
Riêng chùa Khải Tường, Đại úy Thủy quân lục chiến Pháp tên Barbé nhận
nhiệm vụ dẫn quân vào chiếm giữ. Barbé cho đem tượng Phật bỏ ngoài sân,
cưỡng bức các sư phải rời chùa. Khi ấy, quan Kinh lược
Nguyễn Tri Phương được triều đình cử vào Nam lập Đại đồn Chí Hòa chống
Pháp, và chiều ngày 7 tháng 12 năm 1860, quân Việt phục kích giết chết
Barbé, khi viên sĩ quan này cỡi ngựa đi tuần đêm từ
chùa Khải Tường đến đền Hiển Trung (trong vòng thành Ô Ma).
Viên Trung úy Hải quân người Pháp là Léopold Pallu đã sang Sài Gòn tham chiến, sau này kể lại:
“Buổi chiều hôm đó, Đại úy thủy quân Barbet cưỡi ngựa đi tuần tra như
thường lệ. Bọn sát nhân rình rập trong một bụi cây...Ông bị đột kích
bằng giáo té ngay xuống ngựa. Bọn An Nam liền cắt đầu, bò
qua các bụi rậm và cỏ cao trở về giới tuyến cũ của thành Kỳ Hòa. Sáng
hôm sau, người ta thấy phần thân thể còn lại (của Barbet) bị kéo bỏ bên
vệ đường; con ngựa bị thương nằm bất động kế bên. Người
ta kể lại rằng khi cái đầu ông Đại úy đem đến đặt bên khay trầu của vị
tướng An Nam, thì ông này liền đếm tiền thưởng mà không nói gì, rồi sau
đó mới thốt ra một lời tiếc thương. Đại úy Barbet có
thân hình và một sức mạnh lực sĩ, nhiều người An Nam đều biết mặt
ông”...
Năm 1867, theo nhà văn Sơn Nam, thì chùa Khải Tường trở thành trường
học con trai nhằm đào tạo giáo viên. Năm 1880, chùa Khải Tường bị tháo
dỡ, trường dời qua cơ sở mới là trường Chasseloup Laubat
xây cất xong khoảng 1877 Khi tháo dỡ, tấm hoành phi “Quốc ân Khải
Tường tự” được chuyển về chùa Từ Ân (nay ở đường Tân Hóa, thuộc quận 6,
Thành phố Hồ Chí Minh) cất giữ còn pho tượng Phật kể trên
phải dời đi nhiều nơi, sau cùng được đem trưng bày trong Viện bảo tàng
Quốc gia Sài Gòn, nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Thành phố Hồ Chí
Minh.
Viện bảo tàng Quốc gia Sài Gòn, nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Thành phố Hồ Chí Minh.
nh sảnh chính dinh thống đốc Nam kỳ. Dinh này được hòan tất năm 1873 và được đặt tên là dinh Norodom.
Số phận long đong của tượng Phật chùa Khải Tường: gã đại úy Barbet vất ra ngòai sân vì chùa Khải Tường không đủ chổ cho người của hắn, ai đó nhặt lấy mang về dinh thống đốc bằng gỗ trước khi được người Pháp trưng bày bên trong sảnh của dinh Norodom như một thứ chiến lợi phẩm.
Sau đó tượng được tặng lại cho Vện Bảo Tàng xưa nhất Đông Dương ở đường Nôrodom rồi định cư ở Viện Bảo tàng Blanchard de la Brosse cho đến ngày nay
Trường Lê Quý Đôn -chụp 1947
Trường hiện nay
Thời gian sau, trên nền chùa bỏ hoang này, Pháp cho xây cất một dinh
thự dành cho quan chức trong bộ máy cai trị. Trước năm 1963, dùng làm
Trường Đại học Y dược. Sau khi chế độ của Tổng thống Ngô
Đình Diệm bị lật đổ, các tướng lãnh cho các cố vấn quân sự đến trú
đóng.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cơ sở trên được dùng làm Bảo tàng Chứng tích chiến tranh.
2. Nàng Hai Bến Nghé
Tên tuổi của chùa Khải Tường cùng viên quan ba Pháp Barbé, còn được
loan truyền qua câu chuyện Nàng Hai Bến Nghé. Tương truyền rằng:
Nàng Hai và Tri yêu thương nhau nhưng vì hoàn cảnh éo le nàng phải
nhận lấy lãnh binh Sắc làm chồng. Một lần thua trận, Sắc bị quan trên
khiển trách, sẵn mang tâm trạng buồn bực, nên khi nghe quân
mật báo việc Tri thường có cử chỉ thân mật với vợ mình, Sắc rất ghen
tức. Một hôm Sắc cho người giả danh vợ mời Tri tới nhà bàn công việc
gắp. Khi hai người gặp nhau, Sắc rời khỏi nơi ẩn nấp bước
ra tri hô, ghép họ vào tội lăng loàn và cho lính đóng bè thả trôi sông
cả hai người.
Một hai hôm sau viên quan ba Barbé, đóng binh ở chùa Khải Tường đang
đi săn, bất ngờ gặp một bè chuối trôi trên đó có một người đàn ông và
một người đàn bà. Theo dòng, hai con sấu lớn hung hãn,
quẫy đuôi bám riết đuổi theo bè. Barbé liền nổ súng, sấu sợ hãi lặn
trốn mất. Khi bè được vớt lên, người con trai tức Tri bị sấu cắn cụt mất
một chân, đã chết. Phần người con gái là nàng Hai còn
thoi thóp thở. Sau khi được chăm sóc, thấy cô trẻ đẹp nên Barbé ép cô
phải chung sống với mình. Nàng Hai ưng thuận với điều kiện là được trở
về nhà để thu xếp việc riêng.
Gặp nàng Hai về, Lãnh binh Sắc cho bắt cô với lời cáo buộc: tội thông
đồng, mãi dâm với đối phương. Sắc cho giam nàng Hai dưới hố sâu, cho ăn
xương cá và cơm hẩm. Thời may Trương Định đi tuần
ngang, lệnh cho đem cô lên và nghe hết mọi chuyện oan trái này...
Nơi chùa Khải Tường, hôm đó trời vừa sụp tối, nghe lính canh báo tin
có Nàng Hai đến xin gặp. Barbé mừng rỡ phóng ngựa ra đón. Còn cách cô
gái chừng mười thước, quân Việt mai phục hai bên đường ào
ra. Ngựa bị giáo dài đâm ngã quỵ, hất Barbé ngã xuống và lập tức bị
chém chết. Hôm đó là ngày 7 tháng 12 năm 1860.
Hơn hai tháng sau, viện binh của Pháp từ Thượng Hải kéo đến Sài Gòn
rầm rộ. Sau vài trận chiến ác liệt, đại đồn Chí Hòa bị hạ. Sau những
ngày mịt mù khói lửa ấy, không ai tìm thấy cô gái nơi đâu,
chẳng biết sống hay đã chết. Nhưng trong dân gian còn truyền tụng mãi
hình ảnh người thiếu phụ bị thả trôi sông và đã góp công chống Pháp.
Hai tác giả người Pháp là Le Vardier và De Maubryan ghi cô tên là Thị
Ba, và họ đã kể lại mối tình éo le của cô gái trong tác phẩm “Scènes de
la vie Anamite - Khi Hoa” (Nhà xuất bản P.Ollendorff,
Paris, 1884). Theo tác phẩm thì Lãnh binh Sất và Thị Ba đều bị chết
đạn, khi quân Pháp tấn công vào bản doanh của nghĩa quân.
Viên sĩ quan Barbé chết, quân Pháp rất tức giận. Bởi vậy, họ chiếm lấy
tấm bia đá (trên có khắc bi văn của Phan Thanh Giản soạn năm 1858) do
vua Tự Đức sai chở từ Huế về Gò Công, để dựng nơi mộ ông
ngoại mình là Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng, làm bia mộ Barbé ở nghĩa
trang Mạc Đĩnh Chi (cũ). Mãi cho đến năm 1999, tấm bia mới được dựng tại
mộ ông Hưng, tính ra tấm bia đá mang tên hai người chết
một Pháp một Việt này đã luân lạc đúng 140 năm (1859-1999).
Tấm bia đã luân lạc đúng 140 năm (1859-1999)
THANH VÂN * VŨNG NƯỚC MƯA
THANH VÂN
Tôi có đọc đâu đây, trong một tác phẩn nào đó của một thi hào, rằng một
ngày kia nhân loại sẽ cảm thấy khiếp đảm khi chỉ cần nhìn thấy một nắm
bụi nhỏ! Nếu trong quá khứ, tôi đã có lần tỏ ý nghi ngờ hay chế diễu lời
tiên đoán của thi hào đó, thì giờ đây, tôi hoàn toàn đồng ý với ông
ta...
Từ vài tuần nay, những kỷ niệm của thời thơ ấu chợt trở lại ám ảnh và dằn vặt tôi. Có lẽ ảnh hưởng của cơn sốt nặng đang hành hạ tôi đã mở lại trong trí nhớ tôi những cánh cửa tưởng chừng như đã đóng kín từ mấy chục năm nay. Vì một cớ gì đó không cần hiểu, tôi đã chợt nhớ lại được vì sao tôi cảm thấy run sợ, khiếp đảm, không phải khinhìn một nắm bụi nhỏ như nhà thi sĩ tiên đoán , mà khi tôi đứng trước một vũng nước mưa.
Sợ hãi một vũng nước mưa! Mới nghe qua có vẻ là một chuyện khôi hài vô lý. Nhưng bạn hãy suy nghĩ kỹ lại xem: Khi còn thơ ấu, có khi nào bạn nhớ là đã đứng trước một vũng nước mưa ở ngoài đường, nhìn thấy bầu trời rọi lại trong đó và có một cảm tưởng thật hiện thực, quá hiện thực đến làm bạn phải run rẩy, rằng một hố thẳm sâu hoắm đang ở dưới chân bạn, một hố thẳm xuyên tuốt qua bên kia mặt đất? Chỉ cần bước một bước nhỏ nữa thôi là bạn sẽ rơi và biến mất vào cái hố đó...
Có khi nào bạn đã mạnh dạn bước chân vào vũng nước mưa để phá tan đi cái
cảm giác đó chưa? Riêng tôi thì, thú thật, chưa bao giờ tôi có can đãm
làm việc đó. Giờ đây, sau mấy chục năm, kỷ niệm trở về và tôi nhớ lại,
tôi chưa bao giờ dám bước chân vào vũng nước mưa vì quá lo sợ những hậu
quả có thể xảy ra cho tôi. Trong khi các bạn đi cùng với tôi lội vào
vũng nước một cách thích thú và vô tư thì tôi đã cẩn thận đi vòng quanh
để vượt qua nó.
năm...sáu...! Không còn lâu nữa đâu mày...tám...
Một tiếng rên rỉ chợt thoát ra khỏi cổ họng tôi cùng lúc với
tiếng cười khoái trá, ác độc của thằng Quốc. Mắt tôi như mờ đục đi , và
giờ đây nhớ lại, tôi chắc chắn là khi đó tôi đã gần như ngất đi vì sợ
hãi.
Nhưng rồi phép lạ đã đến. Bằng một cử chỉ gọn gàng và nhanh nhẹn, Luân kéo ngược thằng Quốc ra xa vũng nước và tôi được thoát hiểm. Luân đứng đó, mặt tái xanh vì giận dữ: _Quốc, mày chỉ là một thằng khốn kiếp, mày đáng được người ta đối xử lại với mày như mày đã cư xử với người khác.... Nói xong câu đó, Luân đã làm một việc ngoài sức tưởng tượng của tôi.Mặc dù thằng Quốc nặng hơn nó nhiều , đôi tay gầy và cứng của Luân đã nhấc bổng nó lên khỏi mặt đất và theo đà đó liệng mạnh thằng Quốc vào ngay giữa vũng nước cách đó chừng một thước.
Quốc đã té sắp vào vũng nước mà chiều sâu chỉ chừng khoảng
vài phân tây. Vậy mà thân hình nó hoàn toàn chìm sâu vào trong đó! Tôi
nhìn thấy thân hình nó xoay tròn và bé dần dần lại khi chìm vào vùng
trời không một đám mây kia. Thằng Quốc rú lên và đúng như lời nó tả cho
tôi nghe vài giây trước đây, tiếng rú hãi hùng của nó nhỏ dần, nhỏ dần
như đang vọng lại từ một hố thẳm xa xôi,vô tận....
Thân hình to lớn của nó giờ chỉ bé bằng một con búp bê, xong rồi chỉ còn
là một chấm nhỏ....Thật là một cảnh tượng khó quên, vậy mà sao trong
bao nhiêu năm dài này, nó chỉ lờ mờ trong trí óc tôi như kỷ niệm mông
lung của một cơn ác mộng.
Tôi nhìn Luân, mặt Luân cũng xanh dờn vì kinh ngạc và sợ hãi. Mắt và miệng nó mở lớn nhìn chăm chú vào mặt hố, đôi tay của nó còn đang nổi đầy gân xanh vì sự cố gắng vừa qua để liệng thằng Quốc xuống vũng nước. Cách đây ba tuần, khi tôi đã hoàn toàn lành bệnh, tôi có nhờ một thám tử tư nổi tiếng điều tra hộ. Hồ sơ lưu trữ của các báo địa phương không được đầy đủ lắm, nhưng trong số báo ra ngày hai mươi tháng chín năm 1963, năm đó tôi vừa được tám tuổi, có một đoạn ngắn như sau: Sự mất tích của một em bé.
“Sau hai mươi ngày tìm kiếm tận tình, cảnh sát đã không tìm ra manh mối
nào trong vụ mất tích của em Nguyễn Bảo Quốc, mười một tuổi. Em Quốc đã
mất tích từ hôm mồng chín tháng này. Người ta không hiểu em có đi khỏi
thành phố hay không, tuy nhiên ở trạm xe buýt và ga xe lửa, không ai nhớ
là đã nhìn thấy em trong ngày đó và những ngày vừa qua. Hồ nước sâu
nhất trong vùng dã được rà rất kỹ càng nhưng cũng không đem lại được một
tin tức gì. Hiện giờ cuộc tìm kiếm vẫn đang tiến hành. Ai có tin tức gì
về em Quốc xin hãy liên lạc ngay với sở cảnh sát hay với gia đình của
em...”
Người thám tử tư đã quả quyết với tôi là Nguyễn Bảo Quốc không bao giờ trở lại thành phố, tên của nó không có trong hồ sơ lưu trư õcủa Quân Đội hay sở cảnh sát liên bang từ năm 1963 đến nay... Giờ đây, tôi đã trở thành một tay bơi lội nổi tiếng, tôi cũng đã từng trượt từ những thác nước cao xuống bằng xuồng cao su, tôi đa õtừng dự những cuộc đua thuyền trên sông lớn, nhưng dù vậy, chưa bao giơ øtôi đủ can đảm lội qua một vũng nước mưa, trong đó, bầu trời trong xanh vẫn hiện ra như một sự thôi miên, lôi cuốn đầy cám dỗ nhưng cũng đầy đe dọa.... |
__._,_.___
Posted by: ThanhVanTN@aol.com
DƯƠNG THU HƯƠNG * CHỦ NGHĨA NGU DÂN
Sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân
Vốn thích nhạc không lời nhưng đôi khi tôi vẫn nhớ về một câu hát cũ,
“Anh ở đầu sông, em cuối sông. Chung nhau dòng nước Vàm Cỏ Đông…” Lãng
mạn sao, những cặp tình nhân cùng uống chung một dòng nước. Và hạnh
phúc thay những kẻ có thể sống cả đời bên một con sông êm đềm, qua
những mùa lúa chín không tiếng súng, những trưa hè có thể nép mình dưới
bóng các rặng cây. Nhưng đó là chuyện cổ tích.
Lịch sử cận đại của người Việt Nam đã diễn ra trong khói bom và tiếng nổ của đạn pháo. Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ chia cắt đến tận lòng sâu của mỗi gia đình. Sự nhầm lẫn, cự bất khả tri không chỉ xẩy ra giữa hai nền văn hoá Đông-Tây mà còn xẩy ra ngay giữa lòng dân tộc Việt, giữa các thành viên trong một gia đình, một dòng họ, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa bên thắng cuộc và bên thua cuộc, giữa người trong nước và những người sống ngoài biên giới… Tóm lại, những người Việt cũng bị chia cách bởi những con sông. Những con sông thiếu vắng những cây cầu.
NV. Dương Thu Hương
Khoảng cách giữa người với người có thể còn dài rộng hơn sông, sâu hơn
vực thẳm, thế nên, dù trên địa hạt văn chương, tôi coi Albert Camus
cao hơn hẳn Jean Paul Sartre, tôi vẫn phải công nhận câu nói nổi tiếng
của Sartre là một nghiệm sinh có tính nhân loại, “Tha nhân là địa ngục
của ta.”
Đây là kinh nghiệm của chính tôi.
Năm 1994, tôi sang Pháp lần đầu, được một nhóm “Việt kiều yêu nước” đón tiếp. Có lẽ tên ấy được đặt ra khi nhóm này tham gia vào phong trào chống chiến tranh và người cầm đầu nhóm ấy đã từng là phiên dịch cho ông Lê Đức Thọ trong các hội nghị đàm phán hưu chiến ở Paris. Khoảng năm 1990, cũng nhóm này đứng lên lấy chữ ký của Việt kiều trí thức ở Mỹ, Đức, Úc và Pháp trong bản kiến nghị yêu cầu nhà nước và đảng cộng sản Việt Nam mở rộng dân chủ. Sau bản kiến nghị ấy, họ bị cấm về nước một thời gian khá dài, thậm chí còn bị gọi là “các phần tử phản động”.
Như thế, phải hiểu là giữa nhóm Việt kiều này với tôi có chung mục đích tranh đấu cho quyền sống của người dân Việt Nam. Có lẽ cũng vì lý do ấy, họ đón tôi, ít nhất đấy là điều tôi nghĩ. Cuộc đón tiếp diễn ra nồng nhiệt, dường như mang mầu sắc bạn hữu. Tuy nhiên, chỉ một thời gian sau, tôi nhận thấy giữa họ với tôi có rất nhiều điểm bất đồng, đặc biệt là sự nhìn nhận về cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Tôi tự nhủ,
“Người ta sống trên đời, thường tụ thành bè, còn bạn là thứ quý hiếm, nó còn quý hiếm hơn tình yêu vì không có bệ đỡ tình dục. Tình bạn đòi hỏi một sự cảm thông sâu sắc, những phẩm chất tương đồng, và cơ duyên để có thể cùng nhìn về một hướng, cùng đi theo một ngả. Vì lẽ đó, tình bạn không thể có được một cách dễ dãi. Không có thứ tình cảm nào không cần thử thách, cho dù là tình yêu, tình bạn hay tình đồng đội, tất thảy đều cần phải nung qua lửa mới biết vàng thau”.
Nghĩ thế, tôi chọn thái độ im lặng, lảng tránh các cuộc tranh cãi, vì nếu không là bạn, hà tất phí nước bọt để đôi co?
Tôi biết rõ rằng, đối với nhóm Việt kiều này cuộc chiến tranh chống Mỹ là cần thiết, là niềm kiêu hãnh, là đài vinh quang của dân tộc Việt Nam. Đối với tôi, đó là sự nhầm lẫn lớn nhất trong lịch sử, là cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất, tàn khốc nhất đã xảy ra trong một tình thế đen trắng lẫn lộn, các khái niệm bị đánh tráo, kẻ tham gia cuộc chiến ở phía Bắc nhầm lẫn do trói buộc bởi ngôn từ, kẻ tham chiến ở phương Nam bị cuốn vào dòng chảy của cuộc Chiến tranh Lạnh, và cả hai bên đều bị đặt vào thế đã rồi.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là bài học đau đớn nhất, nhục nhã nhất cho dân tộc Việt Nam, mà kẻ chịu trách nhiệm không chỉ là người Mỹ mà còn là chính những người lãnh đạo cộng sản phía Bắc. Trong cuộc chiến tranh ấy, dân tộc Việt tự biến mình thành vật đệm giữa hai toa tầu, là đám lính đánh thuê cho hai hệ thống tư tưởng trái chiều đang tiến hành cuộc chiến tranh Lạnh. Trong suốt một thập kỷ, nước Việt Nam đã thực sự biến thành cái cối xay thịt khổng lồ nhất trong lịch sử của toàn thể loài người.
Vì lẽ ấy, theo tôi, cả người thắng lẫn người thua phải biết sám hối, và nếu muốn lật trang cho lịch sử đất nước, trước hết kẻ thắng phải biết câm mồm lại đừng huyênh hoang nữa; còn kẻ thua cũng phải biết câm mồm lại, thôi chửi rủa, cả hai phía không nên tiếp tục đào bới cái thây ma lên mà ngửi. Nếu không đủ can đảm nhìn nhận vấn đề như nó vốn thế, họ chỉ còn là đám thú rừng bị lọt xuống một cái bẫy của lịch sử và không bao giờ có thể nhẩy lên khỏi hố sâu.
Năm 2005, tôi trở lại Pháp.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” chủ động mời tôi đến ăn cơm tối với họ để trao đổi tình hình. Tôi nhận lời. Bữa cơm ấy diễn ra ở một quán ăn thuộc quận 13. Trước khi đến Paris, tôi đã ở Turin (Ý) một tuần. Trong tuần lễ đó, khá nhiều báo Ý đã phỏng vấn tôi và đã đăng bài tức khắc. Một trong số các bài báo ấy, có đề tựa “Mười triệu người chết trong cuộc chiến Việt Nam”.
Trong các cuộc phỏng vấn tại Turin, tôi đã kể lại hai điều:
- Thứ nhất, khi làm người viết thuê cho các ông tướng, tôi được nghe họ nói với nhau: Chúng ta chỉ công bố con số thật sự khi người Mỹ bồi thường chiến tranh. Như thế, con số phía Mỹ đưa ra (khoảng 5 triệu tử vong) lẫn con số chính quyền Việt Nam đưa ra (hai triệu rưỡi) đều là số sai sự thật.
- Thứ hai, chỉ khi đến Turin tôi mới biết lính các nước chết ra sao và nhờ có sự so sánh ấy, tôi mới biết thân phận người lính và người dân Việt Nam đau khổ đến mức nào. Năm 2005, cuộc chiến tranh đang xảy ra ở Iraq. Báo mỗi ngày đều đăng tin bao nhiêu lính Mỹ, bao nhiêu lính Iraq tử vong. Nếu con số đó chạm tới năm chục đã khiến các nhà báo làm rộn lên, chất vấn tổng thống. Khi số tử vong chạm đến số 100 thì sự căng thẳng trong chính trường đã khiến Nhà Trắng điên đầu. Trong chiến tranh Việt-Mỹ, mỗi lần B52 bay qua, chỉ hai ba phút, dân thường, thanh niên xung phong chết hai trăm, ba bốn trăm, thậm chí nơi đông hơn sáu trăm người nhưng không có một dòng trên báo, không một câu trên đài phát thanh. Không ai hay biết, kể cả người Việt lẫn người nước ngoài.
Tôi nói với các nhà báo Ý:
“Tới tận năm nay, gần sáu mươi tuổi tôi mới thấm thía sự khác biệt giữa kiếp người. Nhờ đọc báo phương Tây, tôi mới biết là người Mỹ và người Iraq chết như người, chết theo kiểu người. Chúng tôi, những người Việt Nam, chúng tôi chết như kiến, chúng tôi chết như ruồi, chúng tôi chết như lá khô rụng, cái chết của chúng tôi hoà lẫn bùn đen, và tan trong câm lặng.”
Vì ở Turin có những Việt kiều liên hệ chặt chẽ với nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris và gửi báo cho họ nên trong bữa cơm tối hôm ấy, tôi bắt buộc phải bàn cãi với họ về chủ đề chiến tranh Việt-Mỹ. Tôi đã thuật lại cho họ nghe sự tổn thất to lớn của dân tộc khi những người lãnh đạo mắc chứng vĩ cuồng. Rất nhiều trận xảy ra khi lực lượng trinh sát thăm dò địa hình địa vật không kỹ, bộ phận hậu cần chuẩn bị khí tài chưa đủ nhưng cấp chỉ huy ham lập thành tích nên cứ đẩy lính ra chiến trường, kết quả là đại bại. Trong khi ở chiến trường xác lính chết ngập suối, nước không chảy được, chim cắt chim kền kền ăn thịt no đến mức không bay lên nổi, lệnh ở Hà Nội vẫn tiếp tục giục tấn công. May mắn là còn có những vị tướng biết thương dân, thương lính, khóc đỏ mắt, quyết định rút quân và làm báo cáo giả để gỡ tội.
Hồi ấy, tổng tư lệnh của cuộc chiến là Lê Duẩn, đã đưa ra khẩu hiệu:
“Dân tộc chúng ta là dân tộc anh hùng, chỉ có thắng không có thua.
Quân đội chúng ta là quân đội anh hùng, chỉ có tiến không có lùi.”
Điều đó có nghĩa: Chỉ tiến công, không phòng thủ!
Xưa nay, trong lịch sử ngàn năm chống ngoại xâm của dân tộc, bao giờ chúng ta cũng lùi về rừng núi để chờ thời gian mài mòn lòng kiêu ngạo lẫn ý chí quân địch, cũng là để khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt quật ngã chúng, cũng là để củng cố quân đội rồi chờ thời cơ thuận lợi mới huy động binh lính và dân chúng tổng tấn công. Khẩu hiệu của ông Lê Duẩn đưa ra là một sự sáng tạo thuần tuý, một ý thơ bay bổng, xuất phát từ tham vọng và lòng kiêu mạn cộng sản. Nhưng thơ phú là thứ chỉ để ngâm ngợi khi gió mát trăng thanh, thơ mà trà trộn với chiến tranh nó biến thành núi xương sông máu.
Đám tướng lĩnh không dám tuyên bố thẳng thừng, nhưng đều hiểu ngầm rằng lãnh tụ của họ là một kẻ vĩ cuồng.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris nghe tôi nói xong thì hai nhân vật chủ chốt phản ứng dữ dội. Ông X bảo:
- Mục tiêu biện minh cho phương pháp. Muốn thắng cuộc trong chiến tranh thì phải chấp nhận tất cả.
Ông Y phản ứng với con số Mười triệu:
- Con số đó không thật. Ở nước Pháp chúng tôi có các biện pháp khoa học về dân số để chứng mình là con số ấy sai. Làm sao chị có thể nghe theo mấy thằng tướng ngu ấy được?
Tôi im lặng không đáp. Nhưng hôm sau, tôi có nhờ ông Phan Huy Đường, lúc đó còn dịch sách của tôi, nói lại với ông Y:
- Nhờ Đường nói với ông bạn của Đường là về Việt Nam chớ mở mồm mà bảo mấy ông tướng là ngu. Bởi vì, rất nhiều hạ sĩ quan thời đó (trung uý, đại uý, thiếu tá…) biết rõ rằng sinh mạng họ được bảo tồn là nhờ những ông tướng thực sự thương lính và không ham thành tích như tướng Vũ Lăng. Bây giờ, nếu không giải ngũ họ cũng đã leo lên đại tá hoặc thiếu tướng. Nếu ông Y mở mồm bảo tướng của họ là thằng ngu hẳn họ sẽ cho một báng súng vào đầu, hiền hoà nhất họ cũng khạc vào mặt.
Đấy là phản ứng duy nhất của tôi. Trong thâm tâm, tôi quyết định chia tay.
Tôi nghĩ, đám người này cần cuộc chiến tranh chống Mỹ như người đàn bà cần son phấn. Giữa họ với ta chẳng còn điều gì đáng nói. Một cuộc chia tay vĩnh viễn là điều hợp lý hơn cả. Không cần kiệt xuất thông minh, chỉ cần chịu khó quan sát sẽ thấy ngay rằng cộng đồng người Việt ở nước Pháp là một cộng đồng không bản sắc, sống co cụm, một bầy thỏ ngoan ngoãn đối với chính quyền. Họ không gây ra các vụ lộn xộn như người da đen và người Arab theo đạo Hồi, nhưng họ cũng chẳng có tiếng nói, chẳng có một gương mặt nào trên các diễn đàn quyền lực. Vì bản chất nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó nên họ thành công ở mức trung bình, trở thành kỹ sư, bác sĩ, nha sĩ, giáo viên đã là giấc mơ tột đỉnh. Hội nhập vào xã hội Pháp chưa lâu, sự tự tin vào bản thân chưa đủ, họ lại bị ám ảnh bởi thân phận lớp người Việt Nam nhập cư trước họ, những người lính thợ bị thực dân cưỡng bức rời quê hương sang Pháp phục vụ tại một số nhà máy làm thuốc súng để thay thế cho các công nhân Pháp ra chiến trường.
Năm 1937, để dự phòng chiến tranh, bộ trưởng Bộ Thuộc Địa và Quân Đội (ministre de la Colonie et de la Défense) Georges Mandel dự tính tuyển 80.000 người Đông Dương. Tháng 6 năm 1940 đám thanh niên Việt Nam được dẫn đến hải cảng Pháp gồm: 10.750 người trung kỳ, 7.000 người miền Bắc, 2.000 người miền nam. Đám lính thợ này đã bị đối xử như những con vật, bị dồn vào sống trong những khu nhà tồi tàn, không điện và thiếu nước, không nơi vệ sinh, không lò sưởi và thức ăn không đủ nửa khẩu phần. Mùa đông, những kẻ khốn khổ ngủ trên sàn, đại tiểu tiện ngay bên ngoài cửa, người nọ dẫm vào phân người kia. Đói khát, họ phải đào rễ củ và hái rau dại về ăn.
Cái sự thật tàn nhẫn này bị vùi trong câm lặng. Cho đến đầu thế kỷ XXI, mới có vài nhà báo Pháp lên tiếng. Sau đó, Bernard Kouchner, vốn là một ngôi sao cánh tả nhưng sau thất bại của Ségolen Royal trong cuộc tranh cử 2007, đã nhận lời làm bộ trưởng bộ ngoại giao cho chính phủ Sarkozy mới chính thức lên tiếng xin lỗi vì: “Nước Pháp đã đối xử với những người lính thợ Việt Nam như đối với súc vật.”
Trong thực tiễn, nước Pháp đã đối xử với đám lính thợ Việt Nam còn tệ hơn súc vật bởi khi cưỡng chế thanh niên Việt Nam sang Pháp, họ dồn đám người này xuống hầm tầu còn tầng trên, thoáng mát hơn thì để dành cho… những con bò. Cái kinh nghiệm tồi tệ ấy được cấy trong tim như một quá khứ sầu thảm, cộng đồng người Việt không thể tránh khỏi mặc cảm của những kẻ vừa là dân nhập cư, vừa mang nhãn hiệu “Được lôi ra từ vùng đất thuộc địa”. Thế nên, cuộc sống tinh thần của họ dường như đột ngột khởi sắc, bừng bừng ánh sáng khi cuộc chiến tranh Việt-Mỹ xẩy ra. Tại sao?
Dễ hiểu thôi, tinh thần „Bài Mỹ“ là chất xi-măng gắn kết một số đông quốc gia trên thế giới, không chỉ các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa nhưng ngay cả các nước phương Tây. Hành vi của nước Mỹ không chỉ gợi lên lòng căm thù nhưng kèm theo đó cả sự sợ hãi. Nếu có tiền lệ một nước nhược tiểu bị Mỹ chà nát thì sẽ đến lượt các nước khác theo thành ngữ, “Không bao giờ có lần thứ nhất, lần thứ hai mà lại không có lần thứ ba”.
Vả chăng, về mặt lý, cuộc chiến này không thể biện minh, “Không một người Việt Nam nào mang bom sang giết người Mỹ.”
Dù cộng sản hay không cộng sản thì sự thực là không có một người Việt Nam nào cầm dao hoặc cầm súng sang tận nước Mỹ để giết một người Mỹ, hoặc ngay đến một con bò trong trang trại Mỹ cũng không.
Vì thế, lương tâm nước Mỹ phải thức tỉnh. Các vụ biểu tình phản đối chiến tranh trước toà Nhà Trắng của Mỹ điệp với các cuộc biểu tình trước sứ quán Mỹ tại các nước khác. Tiếng hát và ngọn lửa tự thiêu của trí thức Mỹ đốt nóng cả châu Mỹ La-tinh và châu Âu.
Vào thời điểm ấy, người Việt Nam nhập cư chống chiến tranh được hưởng một sự ưu đãi vô tiền khoáng hậu. Đi đến đâu họ cũng được thăm hỏi, giúp đỡ, được coi là người của “một dân tộc anh hùng”. Và, trên các diễn đàn chống chiến tranh, đại diện của “tổ chức Việt kiều yêu nước” được xuất hiện bên cạnh những nhân vật quan trọng bản xứ mà nếu không nhờ ân sủng của cuộc chiến này, không bao giờ họ có cơ hội và có tư thế tiếp xúc. Để ví von, có thể nói rằng: Những con chim vốn nép mình trong bóng tối nhờ ánh đạn lửa mà được nhô đầu ra và há mỏ cất tiếng kêu.
Thế nên, họ cần cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Lòng ích kỷ, cái kiêu ngã của con người quả là vô giới hạn. Những kẻ sống ở một phương trời, cần máu đồng bào phải đổ ở một phương trời khác để tô điểm cho cuộc sống tinh thần của chính mình.
Chiến tranh thật đẹp khi nó được tạo bằng máu xương kẻ khác!
Từ đây, tôi nghi ngờ hai từ “yêu nước”. Phía sau danh từ này có vô vàn tâm trạng, có vô số động cơ, hoặc xác thực, hoặc ngầm ẩn, hoặc có ý thức, hoặc vô thức.
Danh từ nào cũng lập lờ và cũng có khả năng phản lại nghĩa chính thống.
Như thế, giữa người Việt với người Việt cũng bị chia cách bởi những con sông vô hình. Chắc chắn cũng còn khá lâu mới bắc được cầu qua những con sông ấy.
Chiến tranh Việt-Mỹ đã qua, nhưng sau đó không lâu cái tên Việt Nam lại dội lên trên các kênh thông tin quốc tế. Lần này, là một thứ ồn ào dơ dáy. Chẳng còn là người anh hùng bé nhỏ dám đương đầu với đế quốc Mỹ mà là tác giả của Khổ nạn Thuyền nhân. Ở châu Âu, phái đoàn Việt Nam không còn được chào đón bằng cờ và hoa mà bằng cà chua và trứng thối. Tôi nhớ rằng lần đi châu Âu, ông Võ Văn Kiệt đã hứng trọn một quả trứng thối vào giữa mặt còn đến lượt ông Phan Văn Khải thì thoát nạn nhờ sự bố trí, dàn cảnh công phu của cảnh sát Pháp.
Sự đời vốn đổi thay như các lớp tuồng. Điều khốn khổ cho người Việt Nam là dường như họ chỉ được biết đến trong các tình huống đau khổ. Kể từ khi làn sóng “Thuyền nhân” dịu đi, Việt Nam gần như chẳng còn gì để nhớ. Cứ nghe đài phương Tây thì biết, người ta chỉ nhắc tới hai từ Việt Nam khi nhắc tới cuộc chiến tranh Việt-Mỹ, bởi rất nhiều trí thức phương Tây, đặc biệt là các văn nghệ sĩ đã tham gia vào phong trào chống chiến tranh và tuổi trẻ của họ gắn bó với những kỷ niệm của một thời sôi động. Tuy nhiên, ngay cả những người kiên nhẫn nhất và hiểu biết Việt Nam nhiều nhất cũng chưa dám quả quyết rằng họ nắm được sự thực về cuộc chiến tranh này. Điều đó, quá khó khăn.
Một lần, một nhà văn Pháp hỏi tôi:
- Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?
Tôi đáp:
- Một nửa là thói quen của hàng ngàn năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân.
Anh bạn chưng hửng:
- Mày không đùa đấy chứ? Ai có thể tin nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế.
Tôi cười:
- Rất nhiều thứ quái gở ở phương Tây lại là sự thực đơn giản ở phương Đông. Và ngược lại.
Bây giờ, tôi xin giải thích “thứ lý thuyết quái gở” này.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ được đảng cộng sản phát động với lời tuyên bố: Đánh đuổi quân xâm lược Mỹ.
Năm 1964, tôi mười bẩy tuổi. Vào tuổi ấy, tất thảy thanh niên ở miền Bắc không có quyền nghe đài nước ngoài, không có ti-vi, không có máy quay đĩa, không có bất cứ nguồn thông tin nào ngoài báo chí cộng sản và đài phát thanh trung ương. Lần đầu tiên, tôi được nghe những bài hát nước ngoài là năm tôi mười sáu tuổi. Mùa hè năm 1963, anh họ tôi là phiên dịch tiếng Nga dẫn tôi cùng đứa em trai đến nhà ông chuyên gia mỏ thiếc Tĩnh Túc ở Hà Nội.
Ông bà ấy đón tiếp rất tử tế, ngoài việc chiêu đãi bánh ngọt và nước
trà chanh, còn mở máy quay đĩa cho chúng tôi nghe. Cảm giác của tôi lúc
đó là choáng váng, như muốn chết. Đó là cảm giác thật sự khi con người
lạc vào một thế giới mà họ vừa cảm thấy ngây ngất vừa cảm thấy như
ngạt thở. Đĩa nhạc đó là của Roberto… (không nhớ họ), một giọng ca Ý
tuyệt diệu nhưng chết trẻ. Những bài hát tôi nghe là các bài nổi tiếng
cổ truyền: Ave Maria, Santa Lucia, Paloma, Sérénade, Histoire d’amour,
Besame Mucho…
Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga nọ, tôi bước đi loạng choạng. Lần đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc sống của chúng tôi là cuộc sống của những kẻ bị nhốt dưới hầm. Những bài hát kia là một thứ ánh sáng mà lần đầu tiên tôi được thấy. Ánh sáng đó rọi từ một thế giới khác, hoàn toàn ở bên ngoài chúng tôi. Kể lại chuyện này, để hậu thế nhớ rằng, thời đại của chúng tôi là thời đại của một thứ chủ nghĩa ngu dân triệt để. Một thứ chủ nghĩa ngu dân tàn bạo, nó buộc con người sống như bầy súc vật trong một hàng rào được xây nên bằng đói khát, hà hiếp và tối tăm.
Khi con người bị điều khiển cùng một lần bằng tiếng gào réo của dạ dầy và cái bỏng rát của roi vọt thì họ không thể là người theo nghĩa thực sự. Chủ nghĩa ngu dân là thứ lá chắn mắt ngựa, để con vật chỉ được quyền chạy theo chiều mà ông chủ ra lệnh. Khi tất cả những con ngựa đều chạy theo một hướng, ắt chúng tạo ra sức mạnh của “bầy chiến mã”, nhất là khi, trong máu chúng đã cấy sẵn chất kích thích cổ truyền “chống xâm lăng”.
Với lũ trẻ là chúng tôi thời ấy, danh từ Xâm lăng dùng để chỉ: quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh, và bây giờ là quân Mỹ. Danh từ ấy đồng nghĩa với Tô Định, Mã Viện, Thoát Hoan… Tóm lại, Mỹ là lũ giặc phương Bắc nhưng mũi lõ, mắt xanh, tóc vàng.
Ngôn ngữ vốn là một nhà tù, mà chúng tôi không có điều kiện để tiếp cận với các nguồn thông tin khác, các ngôn ngữ khác, nên hiển nhiên chúng tôi là đám tù binh ngoan ngoãn sống trong nhà tù ấy, đinh ninh rằng mình ra đi là để bảo vệ non sông.
Bởi vì, tổ tiên chúng tôi đã quen chết hàng ngàn năm để chống lại những kẻ thù mạnh hơn họ bội phần, chúng tôi cũng sẵn sàng ra chiến trường chống quân xâm lược Mỹ theo đúng cách thức ấy.
Đó là lý do tôi nói, “sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân”.
© Dương Thu Hương
Đây là kinh nghiệm của chính tôi.
Năm 1994, tôi sang Pháp lần đầu, được một nhóm “Việt kiều yêu nước” đón tiếp. Có lẽ tên ấy được đặt ra khi nhóm này tham gia vào phong trào chống chiến tranh và người cầm đầu nhóm ấy đã từng là phiên dịch cho ông Lê Đức Thọ trong các hội nghị đàm phán hưu chiến ở Paris. Khoảng năm 1990, cũng nhóm này đứng lên lấy chữ ký của Việt kiều trí thức ở Mỹ, Đức, Úc và Pháp trong bản kiến nghị yêu cầu nhà nước và đảng cộng sản Việt Nam mở rộng dân chủ. Sau bản kiến nghị ấy, họ bị cấm về nước một thời gian khá dài, thậm chí còn bị gọi là “các phần tử phản động”.
Như thế, phải hiểu là giữa nhóm Việt kiều này với tôi có chung mục đích tranh đấu cho quyền sống của người dân Việt Nam. Có lẽ cũng vì lý do ấy, họ đón tôi, ít nhất đấy là điều tôi nghĩ. Cuộc đón tiếp diễn ra nồng nhiệt, dường như mang mầu sắc bạn hữu. Tuy nhiên, chỉ một thời gian sau, tôi nhận thấy giữa họ với tôi có rất nhiều điểm bất đồng, đặc biệt là sự nhìn nhận về cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Tôi tự nhủ,
“Người ta sống trên đời, thường tụ thành bè, còn bạn là thứ quý hiếm, nó còn quý hiếm hơn tình yêu vì không có bệ đỡ tình dục. Tình bạn đòi hỏi một sự cảm thông sâu sắc, những phẩm chất tương đồng, và cơ duyên để có thể cùng nhìn về một hướng, cùng đi theo một ngả. Vì lẽ đó, tình bạn không thể có được một cách dễ dãi. Không có thứ tình cảm nào không cần thử thách, cho dù là tình yêu, tình bạn hay tình đồng đội, tất thảy đều cần phải nung qua lửa mới biết vàng thau”.
Nghĩ thế, tôi chọn thái độ im lặng, lảng tránh các cuộc tranh cãi, vì nếu không là bạn, hà tất phí nước bọt để đôi co?
Tôi biết rõ rằng, đối với nhóm Việt kiều này cuộc chiến tranh chống Mỹ là cần thiết, là niềm kiêu hãnh, là đài vinh quang của dân tộc Việt Nam. Đối với tôi, đó là sự nhầm lẫn lớn nhất trong lịch sử, là cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất, tàn khốc nhất đã xảy ra trong một tình thế đen trắng lẫn lộn, các khái niệm bị đánh tráo, kẻ tham gia cuộc chiến ở phía Bắc nhầm lẫn do trói buộc bởi ngôn từ, kẻ tham chiến ở phương Nam bị cuốn vào dòng chảy của cuộc Chiến tranh Lạnh, và cả hai bên đều bị đặt vào thế đã rồi.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là bài học đau đớn nhất, nhục nhã nhất cho dân tộc Việt Nam, mà kẻ chịu trách nhiệm không chỉ là người Mỹ mà còn là chính những người lãnh đạo cộng sản phía Bắc. Trong cuộc chiến tranh ấy, dân tộc Việt tự biến mình thành vật đệm giữa hai toa tầu, là đám lính đánh thuê cho hai hệ thống tư tưởng trái chiều đang tiến hành cuộc chiến tranh Lạnh. Trong suốt một thập kỷ, nước Việt Nam đã thực sự biến thành cái cối xay thịt khổng lồ nhất trong lịch sử của toàn thể loài người.
Vì lẽ ấy, theo tôi, cả người thắng lẫn người thua phải biết sám hối, và nếu muốn lật trang cho lịch sử đất nước, trước hết kẻ thắng phải biết câm mồm lại đừng huyênh hoang nữa; còn kẻ thua cũng phải biết câm mồm lại, thôi chửi rủa, cả hai phía không nên tiếp tục đào bới cái thây ma lên mà ngửi. Nếu không đủ can đảm nhìn nhận vấn đề như nó vốn thế, họ chỉ còn là đám thú rừng bị lọt xuống một cái bẫy của lịch sử và không bao giờ có thể nhẩy lên khỏi hố sâu.
Năm 2005, tôi trở lại Pháp.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” chủ động mời tôi đến ăn cơm tối với họ để trao đổi tình hình. Tôi nhận lời. Bữa cơm ấy diễn ra ở một quán ăn thuộc quận 13. Trước khi đến Paris, tôi đã ở Turin (Ý) một tuần. Trong tuần lễ đó, khá nhiều báo Ý đã phỏng vấn tôi và đã đăng bài tức khắc. Một trong số các bài báo ấy, có đề tựa “Mười triệu người chết trong cuộc chiến Việt Nam”.
Trong các cuộc phỏng vấn tại Turin, tôi đã kể lại hai điều:
- Thứ nhất, khi làm người viết thuê cho các ông tướng, tôi được nghe họ nói với nhau: Chúng ta chỉ công bố con số thật sự khi người Mỹ bồi thường chiến tranh. Như thế, con số phía Mỹ đưa ra (khoảng 5 triệu tử vong) lẫn con số chính quyền Việt Nam đưa ra (hai triệu rưỡi) đều là số sai sự thật.
- Thứ hai, chỉ khi đến Turin tôi mới biết lính các nước chết ra sao và nhờ có sự so sánh ấy, tôi mới biết thân phận người lính và người dân Việt Nam đau khổ đến mức nào. Năm 2005, cuộc chiến tranh đang xảy ra ở Iraq. Báo mỗi ngày đều đăng tin bao nhiêu lính Mỹ, bao nhiêu lính Iraq tử vong. Nếu con số đó chạm tới năm chục đã khiến các nhà báo làm rộn lên, chất vấn tổng thống. Khi số tử vong chạm đến số 100 thì sự căng thẳng trong chính trường đã khiến Nhà Trắng điên đầu. Trong chiến tranh Việt-Mỹ, mỗi lần B52 bay qua, chỉ hai ba phút, dân thường, thanh niên xung phong chết hai trăm, ba bốn trăm, thậm chí nơi đông hơn sáu trăm người nhưng không có một dòng trên báo, không một câu trên đài phát thanh. Không ai hay biết, kể cả người Việt lẫn người nước ngoài.
Tôi nói với các nhà báo Ý:
“Tới tận năm nay, gần sáu mươi tuổi tôi mới thấm thía sự khác biệt giữa kiếp người. Nhờ đọc báo phương Tây, tôi mới biết là người Mỹ và người Iraq chết như người, chết theo kiểu người. Chúng tôi, những người Việt Nam, chúng tôi chết như kiến, chúng tôi chết như ruồi, chúng tôi chết như lá khô rụng, cái chết của chúng tôi hoà lẫn bùn đen, và tan trong câm lặng.”
Vì ở Turin có những Việt kiều liên hệ chặt chẽ với nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris và gửi báo cho họ nên trong bữa cơm tối hôm ấy, tôi bắt buộc phải bàn cãi với họ về chủ đề chiến tranh Việt-Mỹ. Tôi đã thuật lại cho họ nghe sự tổn thất to lớn của dân tộc khi những người lãnh đạo mắc chứng vĩ cuồng. Rất nhiều trận xảy ra khi lực lượng trinh sát thăm dò địa hình địa vật không kỹ, bộ phận hậu cần chuẩn bị khí tài chưa đủ nhưng cấp chỉ huy ham lập thành tích nên cứ đẩy lính ra chiến trường, kết quả là đại bại. Trong khi ở chiến trường xác lính chết ngập suối, nước không chảy được, chim cắt chim kền kền ăn thịt no đến mức không bay lên nổi, lệnh ở Hà Nội vẫn tiếp tục giục tấn công. May mắn là còn có những vị tướng biết thương dân, thương lính, khóc đỏ mắt, quyết định rút quân và làm báo cáo giả để gỡ tội.
Hồi ấy, tổng tư lệnh của cuộc chiến là Lê Duẩn, đã đưa ra khẩu hiệu:
“Dân tộc chúng ta là dân tộc anh hùng, chỉ có thắng không có thua.
Quân đội chúng ta là quân đội anh hùng, chỉ có tiến không có lùi.”
Điều đó có nghĩa: Chỉ tiến công, không phòng thủ!
Xưa nay, trong lịch sử ngàn năm chống ngoại xâm của dân tộc, bao giờ chúng ta cũng lùi về rừng núi để chờ thời gian mài mòn lòng kiêu ngạo lẫn ý chí quân địch, cũng là để khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt quật ngã chúng, cũng là để củng cố quân đội rồi chờ thời cơ thuận lợi mới huy động binh lính và dân chúng tổng tấn công. Khẩu hiệu của ông Lê Duẩn đưa ra là một sự sáng tạo thuần tuý, một ý thơ bay bổng, xuất phát từ tham vọng và lòng kiêu mạn cộng sản. Nhưng thơ phú là thứ chỉ để ngâm ngợi khi gió mát trăng thanh, thơ mà trà trộn với chiến tranh nó biến thành núi xương sông máu.
Đám tướng lĩnh không dám tuyên bố thẳng thừng, nhưng đều hiểu ngầm rằng lãnh tụ của họ là một kẻ vĩ cuồng.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris nghe tôi nói xong thì hai nhân vật chủ chốt phản ứng dữ dội. Ông X bảo:
- Mục tiêu biện minh cho phương pháp. Muốn thắng cuộc trong chiến tranh thì phải chấp nhận tất cả.
Ông Y phản ứng với con số Mười triệu:
- Con số đó không thật. Ở nước Pháp chúng tôi có các biện pháp khoa học về dân số để chứng mình là con số ấy sai. Làm sao chị có thể nghe theo mấy thằng tướng ngu ấy được?
Tôi im lặng không đáp. Nhưng hôm sau, tôi có nhờ ông Phan Huy Đường, lúc đó còn dịch sách của tôi, nói lại với ông Y:
- Nhờ Đường nói với ông bạn của Đường là về Việt Nam chớ mở mồm mà bảo mấy ông tướng là ngu. Bởi vì, rất nhiều hạ sĩ quan thời đó (trung uý, đại uý, thiếu tá…) biết rõ rằng sinh mạng họ được bảo tồn là nhờ những ông tướng thực sự thương lính và không ham thành tích như tướng Vũ Lăng. Bây giờ, nếu không giải ngũ họ cũng đã leo lên đại tá hoặc thiếu tướng. Nếu ông Y mở mồm bảo tướng của họ là thằng ngu hẳn họ sẽ cho một báng súng vào đầu, hiền hoà nhất họ cũng khạc vào mặt.
Đấy là phản ứng duy nhất của tôi. Trong thâm tâm, tôi quyết định chia tay.
Tôi nghĩ, đám người này cần cuộc chiến tranh chống Mỹ như người đàn bà cần son phấn. Giữa họ với ta chẳng còn điều gì đáng nói. Một cuộc chia tay vĩnh viễn là điều hợp lý hơn cả. Không cần kiệt xuất thông minh, chỉ cần chịu khó quan sát sẽ thấy ngay rằng cộng đồng người Việt ở nước Pháp là một cộng đồng không bản sắc, sống co cụm, một bầy thỏ ngoan ngoãn đối với chính quyền. Họ không gây ra các vụ lộn xộn như người da đen và người Arab theo đạo Hồi, nhưng họ cũng chẳng có tiếng nói, chẳng có một gương mặt nào trên các diễn đàn quyền lực. Vì bản chất nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó nên họ thành công ở mức trung bình, trở thành kỹ sư, bác sĩ, nha sĩ, giáo viên đã là giấc mơ tột đỉnh. Hội nhập vào xã hội Pháp chưa lâu, sự tự tin vào bản thân chưa đủ, họ lại bị ám ảnh bởi thân phận lớp người Việt Nam nhập cư trước họ, những người lính thợ bị thực dân cưỡng bức rời quê hương sang Pháp phục vụ tại một số nhà máy làm thuốc súng để thay thế cho các công nhân Pháp ra chiến trường.
Năm 1937, để dự phòng chiến tranh, bộ trưởng Bộ Thuộc Địa và Quân Đội (ministre de la Colonie et de la Défense) Georges Mandel dự tính tuyển 80.000 người Đông Dương. Tháng 6 năm 1940 đám thanh niên Việt Nam được dẫn đến hải cảng Pháp gồm: 10.750 người trung kỳ, 7.000 người miền Bắc, 2.000 người miền nam. Đám lính thợ này đã bị đối xử như những con vật, bị dồn vào sống trong những khu nhà tồi tàn, không điện và thiếu nước, không nơi vệ sinh, không lò sưởi và thức ăn không đủ nửa khẩu phần. Mùa đông, những kẻ khốn khổ ngủ trên sàn, đại tiểu tiện ngay bên ngoài cửa, người nọ dẫm vào phân người kia. Đói khát, họ phải đào rễ củ và hái rau dại về ăn.
Cái sự thật tàn nhẫn này bị vùi trong câm lặng. Cho đến đầu thế kỷ XXI, mới có vài nhà báo Pháp lên tiếng. Sau đó, Bernard Kouchner, vốn là một ngôi sao cánh tả nhưng sau thất bại của Ségolen Royal trong cuộc tranh cử 2007, đã nhận lời làm bộ trưởng bộ ngoại giao cho chính phủ Sarkozy mới chính thức lên tiếng xin lỗi vì: “Nước Pháp đã đối xử với những người lính thợ Việt Nam như đối với súc vật.”
Trong thực tiễn, nước Pháp đã đối xử với đám lính thợ Việt Nam còn tệ hơn súc vật bởi khi cưỡng chế thanh niên Việt Nam sang Pháp, họ dồn đám người này xuống hầm tầu còn tầng trên, thoáng mát hơn thì để dành cho… những con bò. Cái kinh nghiệm tồi tệ ấy được cấy trong tim như một quá khứ sầu thảm, cộng đồng người Việt không thể tránh khỏi mặc cảm của những kẻ vừa là dân nhập cư, vừa mang nhãn hiệu “Được lôi ra từ vùng đất thuộc địa”. Thế nên, cuộc sống tinh thần của họ dường như đột ngột khởi sắc, bừng bừng ánh sáng khi cuộc chiến tranh Việt-Mỹ xẩy ra. Tại sao?
Dễ hiểu thôi, tinh thần „Bài Mỹ“ là chất xi-măng gắn kết một số đông quốc gia trên thế giới, không chỉ các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa nhưng ngay cả các nước phương Tây. Hành vi của nước Mỹ không chỉ gợi lên lòng căm thù nhưng kèm theo đó cả sự sợ hãi. Nếu có tiền lệ một nước nhược tiểu bị Mỹ chà nát thì sẽ đến lượt các nước khác theo thành ngữ, “Không bao giờ có lần thứ nhất, lần thứ hai mà lại không có lần thứ ba”.
Vả chăng, về mặt lý, cuộc chiến này không thể biện minh, “Không một người Việt Nam nào mang bom sang giết người Mỹ.”
Dù cộng sản hay không cộng sản thì sự thực là không có một người Việt Nam nào cầm dao hoặc cầm súng sang tận nước Mỹ để giết một người Mỹ, hoặc ngay đến một con bò trong trang trại Mỹ cũng không.
Vì thế, lương tâm nước Mỹ phải thức tỉnh. Các vụ biểu tình phản đối chiến tranh trước toà Nhà Trắng của Mỹ điệp với các cuộc biểu tình trước sứ quán Mỹ tại các nước khác. Tiếng hát và ngọn lửa tự thiêu của trí thức Mỹ đốt nóng cả châu Mỹ La-tinh và châu Âu.
Vào thời điểm ấy, người Việt Nam nhập cư chống chiến tranh được hưởng một sự ưu đãi vô tiền khoáng hậu. Đi đến đâu họ cũng được thăm hỏi, giúp đỡ, được coi là người của “một dân tộc anh hùng”. Và, trên các diễn đàn chống chiến tranh, đại diện của “tổ chức Việt kiều yêu nước” được xuất hiện bên cạnh những nhân vật quan trọng bản xứ mà nếu không nhờ ân sủng của cuộc chiến này, không bao giờ họ có cơ hội và có tư thế tiếp xúc. Để ví von, có thể nói rằng: Những con chim vốn nép mình trong bóng tối nhờ ánh đạn lửa mà được nhô đầu ra và há mỏ cất tiếng kêu.
Thế nên, họ cần cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Lòng ích kỷ, cái kiêu ngã của con người quả là vô giới hạn. Những kẻ sống ở một phương trời, cần máu đồng bào phải đổ ở một phương trời khác để tô điểm cho cuộc sống tinh thần của chính mình.
Chiến tranh thật đẹp khi nó được tạo bằng máu xương kẻ khác!
Từ đây, tôi nghi ngờ hai từ “yêu nước”. Phía sau danh từ này có vô vàn tâm trạng, có vô số động cơ, hoặc xác thực, hoặc ngầm ẩn, hoặc có ý thức, hoặc vô thức.
Danh từ nào cũng lập lờ và cũng có khả năng phản lại nghĩa chính thống.
Như thế, giữa người Việt với người Việt cũng bị chia cách bởi những con sông vô hình. Chắc chắn cũng còn khá lâu mới bắc được cầu qua những con sông ấy.
Chiến tranh Việt-Mỹ đã qua, nhưng sau đó không lâu cái tên Việt Nam lại dội lên trên các kênh thông tin quốc tế. Lần này, là một thứ ồn ào dơ dáy. Chẳng còn là người anh hùng bé nhỏ dám đương đầu với đế quốc Mỹ mà là tác giả của Khổ nạn Thuyền nhân. Ở châu Âu, phái đoàn Việt Nam không còn được chào đón bằng cờ và hoa mà bằng cà chua và trứng thối. Tôi nhớ rằng lần đi châu Âu, ông Võ Văn Kiệt đã hứng trọn một quả trứng thối vào giữa mặt còn đến lượt ông Phan Văn Khải thì thoát nạn nhờ sự bố trí, dàn cảnh công phu của cảnh sát Pháp.
Sự đời vốn đổi thay như các lớp tuồng. Điều khốn khổ cho người Việt Nam là dường như họ chỉ được biết đến trong các tình huống đau khổ. Kể từ khi làn sóng “Thuyền nhân” dịu đi, Việt Nam gần như chẳng còn gì để nhớ. Cứ nghe đài phương Tây thì biết, người ta chỉ nhắc tới hai từ Việt Nam khi nhắc tới cuộc chiến tranh Việt-Mỹ, bởi rất nhiều trí thức phương Tây, đặc biệt là các văn nghệ sĩ đã tham gia vào phong trào chống chiến tranh và tuổi trẻ của họ gắn bó với những kỷ niệm của một thời sôi động. Tuy nhiên, ngay cả những người kiên nhẫn nhất và hiểu biết Việt Nam nhiều nhất cũng chưa dám quả quyết rằng họ nắm được sự thực về cuộc chiến tranh này. Điều đó, quá khó khăn.
Một lần, một nhà văn Pháp hỏi tôi:
- Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?
Tôi đáp:
- Một nửa là thói quen của hàng ngàn năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân.
Anh bạn chưng hửng:
- Mày không đùa đấy chứ? Ai có thể tin nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế.
Tôi cười:
- Rất nhiều thứ quái gở ở phương Tây lại là sự thực đơn giản ở phương Đông. Và ngược lại.
Bây giờ, tôi xin giải thích “thứ lý thuyết quái gở” này.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ được đảng cộng sản phát động với lời tuyên bố: Đánh đuổi quân xâm lược Mỹ.
Năm 1964, tôi mười bẩy tuổi. Vào tuổi ấy, tất thảy thanh niên ở miền Bắc không có quyền nghe đài nước ngoài, không có ti-vi, không có máy quay đĩa, không có bất cứ nguồn thông tin nào ngoài báo chí cộng sản và đài phát thanh trung ương. Lần đầu tiên, tôi được nghe những bài hát nước ngoài là năm tôi mười sáu tuổi. Mùa hè năm 1963, anh họ tôi là phiên dịch tiếng Nga dẫn tôi cùng đứa em trai đến nhà ông chuyên gia mỏ thiếc Tĩnh Túc ở Hà Nội.
Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga nọ, tôi bước đi loạng choạng. Lần đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc sống của chúng tôi là cuộc sống của những kẻ bị nhốt dưới hầm. Những bài hát kia là một thứ ánh sáng mà lần đầu tiên tôi được thấy. Ánh sáng đó rọi từ một thế giới khác, hoàn toàn ở bên ngoài chúng tôi. Kể lại chuyện này, để hậu thế nhớ rằng, thời đại của chúng tôi là thời đại của một thứ chủ nghĩa ngu dân triệt để. Một thứ chủ nghĩa ngu dân tàn bạo, nó buộc con người sống như bầy súc vật trong một hàng rào được xây nên bằng đói khát, hà hiếp và tối tăm.
Khi con người bị điều khiển cùng một lần bằng tiếng gào réo của dạ dầy và cái bỏng rát của roi vọt thì họ không thể là người theo nghĩa thực sự. Chủ nghĩa ngu dân là thứ lá chắn mắt ngựa, để con vật chỉ được quyền chạy theo chiều mà ông chủ ra lệnh. Khi tất cả những con ngựa đều chạy theo một hướng, ắt chúng tạo ra sức mạnh của “bầy chiến mã”, nhất là khi, trong máu chúng đã cấy sẵn chất kích thích cổ truyền “chống xâm lăng”.
Với lũ trẻ là chúng tôi thời ấy, danh từ Xâm lăng dùng để chỉ: quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh, và bây giờ là quân Mỹ. Danh từ ấy đồng nghĩa với Tô Định, Mã Viện, Thoát Hoan… Tóm lại, Mỹ là lũ giặc phương Bắc nhưng mũi lõ, mắt xanh, tóc vàng.
Ngôn ngữ vốn là một nhà tù, mà chúng tôi không có điều kiện để tiếp cận với các nguồn thông tin khác, các ngôn ngữ khác, nên hiển nhiên chúng tôi là đám tù binh ngoan ngoãn sống trong nhà tù ấy, đinh ninh rằng mình ra đi là để bảo vệ non sông.
Bởi vì, tổ tiên chúng tôi đã quen chết hàng ngàn năm để chống lại những kẻ thù mạnh hơn họ bội phần, chúng tôi cũng sẵn sàng ra chiến trường chống quân xâm lược Mỹ theo đúng cách thức ấy.
Đó là lý do tôi nói, “sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân”.
© Dương Thu Hương
TRẦN LÊ HẠNH AN * JOHN KERRY…
TỪ CHUYỆN KÉO GHẾ CỦA ÔNG JOHN KERRY…
TRẦN LÊ HẠNH AN
Chương trình “Thời sự” của Đài Truyền hình VN (VTV1), phần tin “Quốc tế” - lúc 12 giờ 20’ trưa ngày 1/8/2014; đưa tin “Khai mạc vòng đối thoại chiến lược Ấn - Mỹ lần thứ năm”. Cùng với lời PTV, hình ảnh cận cảnh: Ngoại trưởng Mỹ John Kerry cùng lên bục họp báo với người đồng cấp nước chủ nhà là bà Sushma Swaraj. Khi tới nơi chiếc bàn chủ tọa, ông John Kerry chủ động bước sang bên phải bà Sushma Swaraj, rồi nhanh nhẹn đưa cả hai tay kéo chiếc ghế ra để cho bà Ngoại trưởng Ấn ĐỘ vào ngồi, sau mới về chỗ dành cho mình. Động tác thuần thục của ông như của một người “phụ tá” vậy.
Là khán giả xem truyền hình, tôi không tin vào mắt mình nữa. Một cử chỉ không chút “ngoại giao” tí nào mà tôi chứng kiến hoặc nghe ai kể bao giờ; nhưng nó thật tự nhiên, dung dị, cực kỳ “ăn khớp” với hoàn cảnh đến độ “hoàn hảo”, lại rất “đàn ông”. Vì thế, tôi có thể nói rằng đó là cử chỉ “siêu ngoại giao”, không còn là “ngoại giao” thông thường nữa. (Ông John Kerry không là “nhà ngoại giao” chuyên nghiệp).
Chuyện kéo ghế của vị Ngoại trưởng Mỹ là rất nhỏ, vô cùng nhỏ với ông John Kerry; nhưng trong suy nghĩ của tôi, nó là “tinh hoa” của nền ngoại giao “siêu đẳng” Hoa Kỳ; đưa đến cho chúng ta “thông điệp” về mức độ, tầng nấc và vị thế của mối quan hệ chiến lược, bạn bè thân tín giữa Ấn Độ và Mỹ hiện giờ.
Sao ở nước người ta, lại có thể có những con người như thế - Những người với tầm vóc văn hóa nó như thế nào để toàn tâm toàn ý phụng sự công việc kín cạnh, khéo léo đến nhường vậy? Câu hỏi này ám ảnh tôi suốt mấy tiếng đồng hồ và có lẽ sẽ còn lâu nữa, nó làm tôi liên tưởng tới một vài chuyện cũ cách đây đã mấy chục năm – Những chuyện nhỏ nhưng cũng không nhỏ chút nào, mà tôi đã tận mắt chứng kiến như hình ảnh “rất nhỏ nhặt” trên đây của ông John Kerry.
Chuyện thứ nhất. Vào cuối năm 1975, tôi có công việc đi qua cổng chính Dinh Độc Lập (nay là Hội trường Thống Nhất – TP. Hồ Chí Minh). Lúc đầu, tôi dừng xe cốt chỉ để ngắm khung cảnh và kiến trúc tòa nhà lộng lẫy, đồ sộ này để thỏa trí thưởng lãm, tò mò của mình thôi – một người lính trẻ.
TRẦN LÊ HẠNH AN
Chương trình “Thời sự” của Đài Truyền hình VN (VTV1), phần tin “Quốc tế” - lúc 12 giờ 20’ trưa ngày 1/8/2014; đưa tin “Khai mạc vòng đối thoại chiến lược Ấn - Mỹ lần thứ năm”. Cùng với lời PTV, hình ảnh cận cảnh: Ngoại trưởng Mỹ John Kerry cùng lên bục họp báo với người đồng cấp nước chủ nhà là bà Sushma Swaraj. Khi tới nơi chiếc bàn chủ tọa, ông John Kerry chủ động bước sang bên phải bà Sushma Swaraj, rồi nhanh nhẹn đưa cả hai tay kéo chiếc ghế ra để cho bà Ngoại trưởng Ấn ĐỘ vào ngồi, sau mới về chỗ dành cho mình. Động tác thuần thục của ông như của một người “phụ tá” vậy.
Là khán giả xem truyền hình, tôi không tin vào mắt mình nữa. Một cử chỉ không chút “ngoại giao” tí nào mà tôi chứng kiến hoặc nghe ai kể bao giờ; nhưng nó thật tự nhiên, dung dị, cực kỳ “ăn khớp” với hoàn cảnh đến độ “hoàn hảo”, lại rất “đàn ông”. Vì thế, tôi có thể nói rằng đó là cử chỉ “siêu ngoại giao”, không còn là “ngoại giao” thông thường nữa. (Ông John Kerry không là “nhà ngoại giao” chuyên nghiệp).
Chuyện kéo ghế của vị Ngoại trưởng Mỹ là rất nhỏ, vô cùng nhỏ với ông John Kerry; nhưng trong suy nghĩ của tôi, nó là “tinh hoa” của nền ngoại giao “siêu đẳng” Hoa Kỳ; đưa đến cho chúng ta “thông điệp” về mức độ, tầng nấc và vị thế của mối quan hệ chiến lược, bạn bè thân tín giữa Ấn Độ và Mỹ hiện giờ.
Sao ở nước người ta, lại có thể có những con người như thế - Những người với tầm vóc văn hóa nó như thế nào để toàn tâm toàn ý phụng sự công việc kín cạnh, khéo léo đến nhường vậy? Câu hỏi này ám ảnh tôi suốt mấy tiếng đồng hồ và có lẽ sẽ còn lâu nữa, nó làm tôi liên tưởng tới một vài chuyện cũ cách đây đã mấy chục năm – Những chuyện nhỏ nhưng cũng không nhỏ chút nào, mà tôi đã tận mắt chứng kiến như hình ảnh “rất nhỏ nhặt” trên đây của ông John Kerry.
Chuyện thứ nhất. Vào cuối năm 1975, tôi có công việc đi qua cổng chính Dinh Độc Lập (nay là Hội trường Thống Nhất – TP. Hồ Chí Minh). Lúc đầu, tôi dừng xe cốt chỉ để ngắm khung cảnh và kiến trúc tòa nhà lộng lẫy, đồ sộ này để thỏa trí thưởng lãm, tò mò của mình thôi – một người lính trẻ.
Thế nhưng tiếng kêu cót két của chiếc dao cạo rỉ sơn từ tay người thợ
đang cạo rỉ cánh cổng dinh gần nơi tôi đứng, cứ ùa ập vào tai khiến tôi
phải để mắt tới công việc của người có vẻ mặt và thân hình đã nhàu nát
này. Nhìn kỹ, đó là một người đàn ông khoảng 60 tuổi, áo quần lấm láp rỉ
sắt và bụi sơn màu ghi xanh, đầu đội mũ vải mềm màu cũng lẫn với màu áo
quần đang mặc.
Một tay người này cầm con dao cạo 3 cạnh hình chiếc dũa, tay kia cầm
giấy ráp đang cuộn vào bốn ngón tay. Người này tay nọ thay tay kia liên
tục cạo cao, liên tục lau lau, chùi chùi từng hoa văn, từng song sắt.
Đôi mắt ông nheo nheo, tập trung cao độ vào từng động tác với sự nhẫn
nại đến chi ly. Chứng kiến cái ông này lầm lũi làm việc một mình giữa
trời nắng gắt của chiều Sài Gòn, mồ hôi mồ kê nhễ nhại khiến tôi cứ ngây
người ra nhìn ông ta làm việc mà quên khuấy mất chuyện của mình là ngắm
tòa dinh trước mặt như dự định.
Một mình ông già cạo quẹt, lau chùi mải miết để làm sạch sơn, rỉ cánh
cổng; không có ai cai quản, không có ai thúc bách mà dốc hết bình sinh
của mình ra làm việc say sưa, chăm chút, ngon lành. Một người lao động
chân tay nặng nhọc giữa cái thành phố vừa giải phóng đang tràn ngập cờ
hoa; lũ lượt như trẩy hội những người lính áo xanh lá cây súng ống bên
mình...
Chắc chắn cái ông này là “sản phẩm” của “chế độ cũ”; ở miền Bắc XHCN còn
lâu mới có mẫu người “hâm” thế này – Lòng tôi lấp ló chút “trịch
thượng” của “người giải phóng” mà chợt nghĩ vậy! Nhiều năm sau này, và
nhất là bây giờ, thì tôi xếp sự “kính nể” người phu cạo rỉ sắt (chắc
chắn cụ đã sang “Thế giới Người Hiền” rồi) cùng sự nể phục như với ông
Kerry.
Chuyện thứ hai. Giữa thập niên 1990, để chuẩn bị cho “Hội nghị thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ - lần thứ 7”, diễn ra tại Hà Nội vào tháng 11 năm 1997, Chính phủ Việt Nam đã quyết định trùng tu Nhà hát Lớn Hà Nội với kinh phí 156 tỷ đồng, tương đương khoảng 14 triệu đô la Mỹ. Việc quá quan trọng và rất khó nữa, nên gười ta kén một người con nhà nòi, gốc Hà Nội là KTS Hoàng Đạo Kính (con trai của Nhà Văn hóa lớn vừa là Nhà “Hà Nội học” Hoàng Đạo Thúy) làm Giám đốc BQL dự án “Cải tạo, tu bổ Nhà hát Lớn - Hà Nội”.
Chuyện thứ hai. Giữa thập niên 1990, để chuẩn bị cho “Hội nghị thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ - lần thứ 7”, diễn ra tại Hà Nội vào tháng 11 năm 1997, Chính phủ Việt Nam đã quyết định trùng tu Nhà hát Lớn Hà Nội với kinh phí 156 tỷ đồng, tương đương khoảng 14 triệu đô la Mỹ. Việc quá quan trọng và rất khó nữa, nên gười ta kén một người con nhà nòi, gốc Hà Nội là KTS Hoàng Đạo Kính (con trai của Nhà Văn hóa lớn vừa là Nhà “Hà Nội học” Hoàng Đạo Thúy) làm Giám đốc BQL dự án “Cải tạo, tu bổ Nhà hát Lớn - Hà Nội”.
Dự án được bắt đầu năm 1995 và hoàn thành 2 năm sau đó, với sự tham gia của 100 nhân công và dưới sự giám sát của KTS người Pháp gốc Việt là ông Hồ Thiệu Trị,
tác giả đồ án trùng tu. Sỡ dĩ có cuộc góp sức rất “ai oán” này (?), KTS
Hồ Thiệu Trị được giới thiệu gặp đồng nghiệp Hoàng Đạo Kính. Vừa mới
gặp nhau, ông Trị đã vồ vập tâng bốc: “Anh Kính là một người rất hiểu
biết về kiến trúc và lịch sử của những công trình kiến trúc Hà Nội.
Có thể nói, anh Kính là người đầu tiên gieo cho tôi những kiến thức quí
giá về kiến trúc và sự hiểu biết về Hà Nội”. Còn về phía ông Hoàng Đạo
Kính, tác giả Điền Minh cho biết thêm: “Và cũng từ sự gặp gỡ tình cờ của
2 con người từ 2 phương trời xa xôi, qua trao đổi, KTS Hoàng Đạo Kính
rất cảm phục trước những hiểu biết về nét kiến trúc Pháp của KTS Hồ
Thiệu Trị và mong mỏi ông tham gia vào “Dự án cải tạo Nhà hát Lớn” để
đóng góp công sức cho đất nước”. (“Nhà hát lớn Hà Nội là công trình vĩ
đại nhất đời tôi” - Điền Minh, bài tham dự cuộc thi viết/ tìm kiếm 100
nhân vật Hà Nội do Báo TT&VH phát động -Thứ Sáu, 09/04/2010 09:55).
Kết quả của cuộc “gặp gỡ tình cờ của 2 con người từ 2 phương trời xa xôi" này, sự góp mặt “ai oán” - trên góc nhìn bi hài của công cuộc “trùng tu”, như chúng ta và báo chí đã từng phanh phui: Chất lượng trùng tu công trình là tệ hại, méo mó, làm giảm tính lịch sử, văn hóa tiêu biểu của Nhà Hát Lớn.
Có thể dẫn ra đây 3 trong vô vàn những bằng chứng mà bất cứ ai cũng có thể tìm hiểu và tự nhận biết được. Thứ nhất, hệ thống bậc thềm: Thềm Nhà Hát Lớn xưa là những phiến đá xanh được đục đẽo thủ công đều tăm tắp. Những viên lát ngoài cùng của mỗi bậc, có gờ hoa văn chạm nổi đắc dụng chống trượt. Bề mặt từng viên đá dầu rất phẳng nhưng vẫn còn nguyên là những vết đục nhỏ bằng đầu đinh nên có độ bám cao cho người lên xuống không bị té ngã.
Kết quả của cuộc “gặp gỡ tình cờ của 2 con người từ 2 phương trời xa xôi" này, sự góp mặt “ai oán” - trên góc nhìn bi hài của công cuộc “trùng tu”, như chúng ta và báo chí đã từng phanh phui: Chất lượng trùng tu công trình là tệ hại, méo mó, làm giảm tính lịch sử, văn hóa tiêu biểu của Nhà Hát Lớn.
Có thể dẫn ra đây 3 trong vô vàn những bằng chứng mà bất cứ ai cũng có thể tìm hiểu và tự nhận biết được. Thứ nhất, hệ thống bậc thềm: Thềm Nhà Hát Lớn xưa là những phiến đá xanh được đục đẽo thủ công đều tăm tắp. Những viên lát ngoài cùng của mỗi bậc, có gờ hoa văn chạm nổi đắc dụng chống trượt. Bề mặt từng viên đá dầu rất phẳng nhưng vẫn còn nguyên là những vết đục nhỏ bằng đầu đinh nên có độ bám cao cho người lên xuống không bị té ngã.
Thềm Nhà Hát Lớn là dấu tích tài hoa của biết bao người thợ đá thủ công
VN “trơ gan cùng tuế nguyệt” suốt cả trăm năm tồn tại, vẫn nguyên sơ
không hề bị nứt vỡ; đã lưu dấu chân bao thế hệ nghệ sĩ, khán thính giả,
chính khách và lớp lớp con dân nước Việt - đặc biệt hàng vạn những bàn
chân trần của đồng bào, tự vệ Hà Nội vùng lên làm cuộc Cách mạng Tháng
8/1945 lịch sử; những cuộc mít tinh tưng bừng của hàng vạn cán bộ, bộ
đội, thanh niên, học sinh, nhân dân trước mỗi lễ xuất quân vào Nam chiến
đấu thời kháng chiến “chống Mỹ, cứu nước”…
Thế mà khi trùng tu, người ta phá bỏ hoàn toàn hệ thềm Nhà Hát Lớn cũ vô
giá này, thay bằng một bộ thềm đá mới mà những phiến đá được gia công
bằng máy cưa máy mài nhẵn thín, lát lên trông như mọi vỉa hè tầm thường.
Khả năng chống trơn trượt gần như “bằng không” vì bề mặt không còn
đường gờ hoa văn của đầu mỗi bậc đá.
Thứ 2: Mái vòm phía trong khán trường hiện vẫn còn…để chờ (một nhà họa
sĩ tài danh của thì “tương lai”). Vì thế, khán thính giả khi nhìn lên
mái vòm hiện tại, chỉ thấy lờ nhờ những hình thù vô cảm bằng những vệt
sơn xanh “lơ tơ mơ” trên nền trắng không chút thẩm mỹ suốt gần 1/5 thế
kỷ nay. Thứ 3: chất lượng bên trong: Mấy năm sau ngày Nhà Hát Lớn trùng
tu được khai thác trở lại, người viết bài này có dịp đi cùng một nhà văn
tới gặp Nghệ sĩ Ưu tú Hoàng Ánh Nguyệt để có “công chuyện” của cơ
quan.
Chị Nguyệt vốn là diễn viên Đoàn Chèo Thanh Hóa, cũng nguyên là Đại biểu
Quốc hội. Thời điểm này, chị Nguyệt đang giữ chức “Phó phòng Tổ chức
hoạt động Nhà Hát Lớn Hà Nội” – phụ trách mảng “dịch vụ”. Bấy lâu nay dư
luận xã hội và báo chí đã sôi sục lên vì công trình trùng tu “tai
tiếng” này khá nhiều rồi, nên tiện thể khi tới đây, chúng tôi cũng muốn
tìm hiểu thêm chất lượng công trình sau sửa chữa. Hiểu ý của khách, chị
Nguyệt liền dẫn chúng tôi tới ngay gian hậu sảnh sát sân khấu chính, rồi
chỉ thẳng vào mấy vũng nước rõ to đang lênh láng và nói: “Đấy các anh
xem, bị dột nhiều lắm, nước vẫn đọng lại đó từ mấy hôm nay rồi. Còn
những gì gì nữa thì em không biết”.
Chúng tôi nghĩ, cả hai KTS chắc chắn là phải rất tài giỏi mới "ru ngủ" được cả một hội đồng cực kỳ “khó tính” của Bộ Văn hóa và Thành phố Hà Nội để được tin dùng chứ. Họ phải cẩn trọng “chọn mặt gửi vàng” chứ không thể “gửi trứng cho ác” được. Thế mà sao giữa “kỳ vọng” và “kết quả”, giữa “niềm tin” và “thực tế” nó lại lồ lộ những thứ quá “bẽ bàng” vậy? Không lẽ hai người tài danh kia, khi thực thi “công vụ” bị chi phối bởi “ma đưa lối, quỹ dẫn đường” à? Câu hỏi vẫn còn nguyên đối với tất cả mỗi chúng ta khi quan tâm tới một danh thắng.
Chuyện thứ ba. Tôi nhớ mang máng, có lần Nhà văn Nguyên Ngọc, người vô cùng yêu quý và đau đớn vì Hà Nội đang bị tàn phá mọi phía, đã tuyệt vọng mà la lên rằng: Hà Nội của ta đẹp thật, đẹp khủng khiếp, đẹp đến mức người ta đã phá nó ghê gớm, phá nó riết ráo thế mà nó vẫn còn đẹp như vậy. (Tôi có thể xin lỗi Nhà văn đáng kính, nếu như không nhớ được nguyên văn câu cảm thán của ông).
Về mặt này của phố xá Thủ đô Hà Nội, xin dẫn ra đây có mấy cơ quan “chóp bu” của trung ương và Hà Nội đã đi “tiên phong”. Đó là một cơ quan của Quốc hội đóng tại số nhà 22 phố Lý Thường Kiệt và Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đóng tại số nhà 46, phố Tràng Thi, Phường Hàng Bông, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Nhà 22 phố Lý Thường Kiệt vốn là một công sở thời Pháp thuộc.
Chúng tôi nghĩ, cả hai KTS chắc chắn là phải rất tài giỏi mới "ru ngủ" được cả một hội đồng cực kỳ “khó tính” của Bộ Văn hóa và Thành phố Hà Nội để được tin dùng chứ. Họ phải cẩn trọng “chọn mặt gửi vàng” chứ không thể “gửi trứng cho ác” được. Thế mà sao giữa “kỳ vọng” và “kết quả”, giữa “niềm tin” và “thực tế” nó lại lồ lộ những thứ quá “bẽ bàng” vậy? Không lẽ hai người tài danh kia, khi thực thi “công vụ” bị chi phối bởi “ma đưa lối, quỹ dẫn đường” à? Câu hỏi vẫn còn nguyên đối với tất cả mỗi chúng ta khi quan tâm tới một danh thắng.
Chuyện thứ ba. Tôi nhớ mang máng, có lần Nhà văn Nguyên Ngọc, người vô cùng yêu quý và đau đớn vì Hà Nội đang bị tàn phá mọi phía, đã tuyệt vọng mà la lên rằng: Hà Nội của ta đẹp thật, đẹp khủng khiếp, đẹp đến mức người ta đã phá nó ghê gớm, phá nó riết ráo thế mà nó vẫn còn đẹp như vậy. (Tôi có thể xin lỗi Nhà văn đáng kính, nếu như không nhớ được nguyên văn câu cảm thán của ông).
Về mặt này của phố xá Thủ đô Hà Nội, xin dẫn ra đây có mấy cơ quan “chóp bu” của trung ương và Hà Nội đã đi “tiên phong”. Đó là một cơ quan của Quốc hội đóng tại số nhà 22 phố Lý Thường Kiệt và Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đóng tại số nhà 46, phố Tràng Thi, Phường Hàng Bông, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Nhà 22 phố Lý Thường Kiệt vốn là một công sở thời Pháp thuộc.
Trên khu đất này, xưa chỉ có một tòa nhà 3 tầng tường quét màu vôi vàng,
khiêm tốn nằm dưới tán nhiều cây cổ thụ, phía trước là mấy bồn hoa và
thảm cỏ xanh rất đẹp. Cách nay trên 30 năm, công trình cũ rồi vườn cây
cả bồn hoa bị đốn hạ và được xây lên ở phía trước lẫn phía sau 2 tòa nhà
cao lớn 4 – 5 tầng (cực kỳ thô bạo về mặt kiến trúc) như hiện nay. Cảnh
quan của cả đoạn phố bị thay đổi vô cùng oan uổng.
Nhà số 46, phố Tràng Thi vốn là Dinh thự của con trai cụ Hoàng Cao Khải
là Hoàng Trọng Phu. Chả hiểu thế nào mà người ta lại xây chen vào cả hai
phía tả - hữu gồm: bên trái là tòa nhà 3 tầng như “dãy nhà tập thể”;
bên phài là lố nhố những căn nhà 1 tầng; phía sau, lúc trước là nhà từ
đường kiểu Á đông cổ kính, được thay bằng một dãy nhà 4 tầng…khiến tòa
dinh thự kiểu Pháp cổ chỉ cao có 2 tầng bị “nuốt” ngắc ngứ, trông chẳng
còn thể thống gì nữa. Hà Nội thì có 2 DN tiêu biểu ở khoản này: Nhà Bưu
điện bờ Hồ và Nhà “Hàm cá mập” (vốn là Ga tàu điện bờ Hồ). Hai công
trình tiêu biểu đặc biệt, bởi sự phá hoại cảnh quan nên thơ trầm tịch
của Hồ Hoàn Kiếm – “Lẵng hoa” trong lòng Hà Nội.
Trên cái đà này, suốt mấy chục năm tiếp theo, Hà Nội ta, từ trung ương tới địa phương, từ các cơ quan “quân - dân - chính - đảng”, doanh nghiệp, đến người dân…liên tục triệt hạ nhiều trụ sở, biệt thự, khu vườn – cả những vườn hoa như “Vườn hoa chéo” Hàn Thuyên, vốn có nhiều cây cổ thụ tán lá xum xuê ở phố Trần Hưng Đạo – Hàn Thuyên, để lập cây xăng, suốt ngày gây ô nghiễm cho khu nhà tập thể số 9 Trần Hưng Đạo (Bộ Nội thương cũ) và nhiều nhà dân cận kề.
Thật là “Hà Nội của ta đẹp thật, đẹp khủng khiếp, đẹp đến mức người ta đã phá nó ghê gớm, phá nó riết ráo” nên làm sao để “mà vẫn còn đẹp” nữa! (?) - Xin phép Nhà văn Nguyên Ngọc, được thưa lại vậy.
TLHA
( Tác giả gửi cho QTXM)
Trên cái đà này, suốt mấy chục năm tiếp theo, Hà Nội ta, từ trung ương tới địa phương, từ các cơ quan “quân - dân - chính - đảng”, doanh nghiệp, đến người dân…liên tục triệt hạ nhiều trụ sở, biệt thự, khu vườn – cả những vườn hoa như “Vườn hoa chéo” Hàn Thuyên, vốn có nhiều cây cổ thụ tán lá xum xuê ở phố Trần Hưng Đạo – Hàn Thuyên, để lập cây xăng, suốt ngày gây ô nghiễm cho khu nhà tập thể số 9 Trần Hưng Đạo (Bộ Nội thương cũ) và nhiều nhà dân cận kề.
Thật là “Hà Nội của ta đẹp thật, đẹp khủng khiếp, đẹp đến mức người ta đã phá nó ghê gớm, phá nó riết ráo” nên làm sao để “mà vẫn còn đẹp” nữa! (?) - Xin phép Nhà văn Nguyên Ngọc, được thưa lại vậy.
TLHA
( Tác giả gửi cho QTXM)
NGUYỄN ANH MINH * BÁO CHÍ VIỆT NAM
Báo chí Việt Nam 'tuyệt vọng câu khách'?
Nguyễn Anh Minh
Gửi cho BBC từ Sài Gòn
- 22 tháng 11 2014
Báo
chí Việt Nam hiện đang không thoát khỏi guồng quay số hóa, điện tử hóa
nhưng dường như đang loay hoay giữa ngã ba đường và xu hướng thấy rõ
nhất là lá cải hóa.
Chưa có một tờ báo mạng nào được xem
là chuyên nghiệp, thông tin chuẩn xác, đáng tin cậy. Nói như một nhà
bình luận trong nước, cả làng báo (mạng) là “một vườn cải xum xuê”.
Sụt giảm
Theo
Bộ Thông tin-Truyền thông Việt Nam, tính đến ngày 26/12/2013, toàn quốc
có 838 cơ quan báo in với 1.111 ấn phẩm, 70 báo điện tử, 19 tạp chí
điện tử và 265 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí.
Trong số hơn 800 tờ báo, số báo sống được nhờ lượng phát hành chỉ trên dưới 10 tờ, theo một số nhà báo trong nước.
Vài
năm trở lại đây, những báo có số phát hành hàng đầu như Tuổi trẻ, Thanh
niên, Công an TPHCM, Phụ nữ… cũng sụt giảm lượng phát hành ở mức rất
đáng kể.
Phó tổng biên tập của một tờ báo vừa kể tiết lộ, lượng
phát hành của tờ báo đã giảm tới 1/3 chỉ trong vòng hai năm, còn khoảng
200 ngàn bản/kỳ.
Số phát hành của tờ báo thường được giữ bí mật và
con số công khai thường lớn hơn nhiều so với thực tế, một cách để duy
trì quảng cáo.
Tại Việt Nam, cho dù có tới 800 tờ báo in, nhưng số
tờ báo bán được (bán trên sạp báo và đặt báo dài hạn) cũng chỉ tính
trên con số 10.
Thời gian vừa qua, hầu hết những “phóng viên”,
“nhà báo” bị bắt với cáo buộc tống tiền các doanh nghiệp đến từ nhóm báo
này. Một cách khác để tồn tại là “đánh thuê” theo đơn đặt hàng dưới cái
gọi là “hợp đồng truyền thông”, tức là được trả tiền để viết “đánh” ai
đó.
Tuy những tờ báo này ít được xã hội biết đến nhưng cứ có bài được dán mác “chống tiêu cực” là cũng đủ để ai đó gặp rắc rối.
Tuy
nhiên, cách tồn tại này ngày càng tỏ ra mong manh, nhất là trước hiện
tượng báo mạng, trang tin điện tử trăm hoa đua nở và chuyện “được/bị lên
báo” nay trở thành “thường ngày ở huyện”.
Sự phát triển của internet, của các thiết bị đọc điện tử dẫn đến việc đọc tin tức trên mạng trở nên phổ biến.
Tính
tới tháng 11/2012, có khoảng 31,3 triệu người dùng Internet ở Việt Nam
(chiếm gần hơn 35 % dân số cả nước, theo Trung tâm Internet Việt Nam.
Hầu hết người dùng Internet đều ở tuổi từ 20-40.
Có người nói tại
Việt Nam hiện nay, mạng xã hội là nguồn tin chính. Thực ra đây cũng chỉ
là phỏng đoán. Chưa có nghiên cứu thực sự nào chứng minh điều này.
Nhưng xu hướng lá cải hóa nền báo chí là điều nhiều người thấy rõ.
Để hiểu thêm về xu hướng của báo chí Việt Nam, cần thiết phải nhìn vào nguồn tài chính để các tòa báo tồn tại.
Trong
khi báo in sụt giảm và nhiều tờ báo đang chuyển qua hình thức kỹ thuật
số, tại thị trường Việt Nam, quảng cáo trên truyền hình vẫn chiếm đa số.
Theo một thống kê, năm 2012, doanh thu quảng cáo toàn thị trường đạt 20.400 tỷ đồng, tăng 30% so với năm 2011.
Trong
đó, truyền hình chiếm 18.246 tỷ đồng, tăng 136% so với năm 2011; quảng
cáo trên báo in và tạp chí giảm khoảng 8%, đạt 2.151 tỷ đồng và phát
thanh giảm gần 20%, với chưa đầy 25 tỷ đồng.
Tính theo tỷ lệ,
quảng cáo trên báo in chiếm khoảng 8%, truyền hình 78%, internet 9% và
quảng cáo ngoài trời chiếm 4%. Tuy nhiên, năm ngoái doanh thu quảng cáo
trên báo đã giảm 1,3% trong khi các phương tiện truyền thông khác giữ
con số tốt hơn nhiều.
Điều này khiến nhiều tờ báo phải đấu tranh để tồn tại bởi việc sụt giảm doanh thu.
Cuộc chiến “câu view”
Để
tồn tại, các tờ báo điện tử Việt Nam buộc phải bước vào cuộc chiến “câu
view” (tăng lượt xem) bằng gần như mọi giá. Các đề tài liên quan đến
sex, giật gân, người giàu có, người đẹp, các nhân vật giải trí của giới
bình dân (chiếm đa số)… được khai thác triệt để…
Có thể nói, trong
cuộc chiến tranh giành miếng bánh nhỏ bé của thị trường quảng cáo
online chưa thực sự lớn mạnh, nhiều báo mạng lao vào tranh đua bằng
chiêu bài lá cải một cách tuyệt vọng.
Những từ khóa gây sốc, cho
dù hầu hết vi phạm những quy tắc của báo chí đứng đắn về tính khách
quan, trung dung của người làm báo, được tận dụng tối đa nhằm thu hút
lượt đọc.
“Kinh hoàng”, “nghẹn lòng”, “đắng lòng”, “hé lộ”, “bóc
mẽ”, “gây sốc”, “bất ngờ”… là những động từ, tính từ chủ quan của tờ báo
được tận dụng tối đa trên các hàng tít.
Báo mạng cũng là giới
“sáng tạo” ra những khái niệm mới và khiến chúng phổ biến: “giàu như đại
gia” (cho dù không biết đại gia này có bao nhiêu tiền, nhà to thế nào),
“đẹp như hotgirl” (?).
Nhiều tờ
báo, thậm chí sẵn sàng đưa lên những câu chuyện gần như không có tính
báo chí, chỉ miễn có người kích chuột vào là được. Một tờ báo mạng hồi
đầu năm khai thác chuyện một cô gái không nhịn được đã “ị đùn” trên xe
khách đường dài.
Bài báo “bốc mùi” này tuy sau bị phê phán, nhưng đối với những người làm báo, đó có thể xem là “thành công” bởi “câu được view”.
Người
ta giờ đây cũng sẵn sàng đưa lên đủ loại tin đồn chưa được kiểm chứng,
thậm chí dùng những thứ được tung lên mạng xã hội, không qua thẩm định
và tác nghiệp của phóng viên, miễn là thu hút trí tò mò.
Các tờ
báo mạng đều na ná giống nhau ở đề tài, ngôn ngữ. Có một điểm chung là
họ đều nhắm đến những từ khóa “sốc, sex” mà họ cho là thu hút độc giả để
đưa lên tít.
Ngôn ngữ của báo mạng dần giống như truyện kiếm hiệp
Kim Dung với “đuổi giết” thành “truy sát”, “cô gái”, “người đàn bà” nay
thành “thiếu nữ”, “thiếu phụ”, “góa phụ”, con nhà giàu có giờ trở thành
“thiếu gia”, “tiểu thư”, thậm chí nhiều báo còn dùng “nữ tiểu thư”
(chắc để phân biệt với “nam tiểu thư”?).
Ngoài “cưỡng dâm”, giờ đây người ta còn viết “cưỡng hôn”, ý nói hôn người khác mà không được cho phép.
Trong cuộc đua câu view, nhiều thứ chuẩn mực đã bị xem nhẹ.
Thậm chí, nhiều việc rất nghiêm túc cũng bị “cuộc chiến câu view” làm cho trở thành nhảm nhí.
Đưa
tin về thủ tướng Yingluck Shinawatra, thay vì tập trung nội dung chính
trị, một số tờ báo mạng chỉ nhìn vào dung mạo và trang phục của bà kiểu
“Ngắm thủ tướng Thái Lan xinh đẹp, quyến rũ”. Nhưng những bài như vậy,
lại ăn khách.
Xu hướng này diễn ra trên ấn bản điện tử của cả
những tờ báo xưa nay được xem là nghiêm túc, chuyên nghiệp như Tuổi trẻ,
Thanh niên hay Pháp luật TPHCM.
Không phải không có những nỗ lực làm báo điện tử nghiêm túc, chuyên nghiệp như VietnamNet từng là một ví dụ.
Tuy
nhiên, do vòng quay của xã hội, của thị hiếu bình dân, tờ báo này thay
vì nghiêm túc như buổi đầu, nay cũng dùng đủ trò câu khách lá cải để thu
hút độc giả trẻ, những người dường như thích tin tức giật gân, thỏa mãn
trí tò mò hơn là tìm những thông tin bổ ích, giúp tiến bộ.
Phải
chăng xã hội nào thì báo chí đó? Với những gì đang diễn ra trên mặt báo,
có thể có những liên tưởng về người đọc Việt Nam ngày nay, họ là ai.
Ở
bất cứ quốc gia nào cũng có người thích tin tức lá cải và những tờ báo
lá cải. Khác với Việt Nam ở chỗ: ngoài báo lá cải, còn có nhiều tờ báo
đàng hoàng, nghiêm túc.
Chắc chắn ở Việt Nam vẫn có một bộ phận
độc giả có trình độ cần những thông tin nghiêm túc, có ích, những tờ báo
mạng chuyên nghiệp và đây cũng là đòi hỏi của một xã hội tiến bộ.
Nhưng chưa xuất hiện những tờ báo như thế ở quốc gia 90 triệu dân này.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả Nguyễn Anh Minh từ Sài Gòn, Việt Nam.
Sunday, November 23, 2014
TIN TRUNG QUỐC

23-11-2014
Hàng loạt tướng Trung Quốc tự sát vì bị điều tra tham nhũng?
Phúc Duy/ Thanh niên
Ảnh bên:Lính Trung Quốc trong một cuộc duyệt binh - Ảnh: Reuters
Trong vòng ba tháng gần đây, 3 tướng quân đội Trung Quốc đã tự sát vì bị
điều tra tham nhũng. Các nhà quan sát chính trị xem những vụ tự tử này
là hậu quả từ chiến dịch chống tham nhũng của Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình.
Vụ mới đây nhất là ông Mã Phát Tường, Phó đô đốc, Phó Chính
ủy Hải quân Trung Quốc tự sát sau khi nhảy từ tầng 13 của tòa nhà 15
tầng là trụ sở Hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA)
tại thủ đô Bắc Kinh. Tờ The Washington Times (Mỹ) thì cho rằng ông Mã nhảy từ cửa sổ tầng 15 vào ngày 13.11.
Ban đầu vụ tự sát của ông Mã được giữ bí mật, nhưng tin đồn về vụ
việc đã được lan truyền trên các trang mạng ở Trung Quốc. Thông tin đồn
đoán từ các mạng xã hội Trung Quốc cho rằng Quân ủy Trung ương Trung
Quốc đã triệu tập ông Mã để tiến hành điều tra tham nhũng, khiến ông
trầm cảm, dẫn đến tự sát.
Ông Mã lần cuối cùng được nhìn thấy tại thành phố cảng Chu San (Trung
Quốc) vào ngày 22.10, sau khi ông hoàn tất sứ mạng phối hợp tìm kiếm
máy bay mất tích (chuyến bay MH370) của hãng hàng không Malaysia Airlines (mất tích từ ngày 8.3).
Tuy nhiên, chính quyền Trung Quốc và truyền thông nhà nước Trung Quốc vẫn chưa chính thức xác nhận ông Mã đã tự sát. Nhưng tờ South China Morning Post (Hồng Kông) hôm 16.11 xác nhận ông Mã nhảy lầu tự vẫn thông qua cuộc phỏng vấn với một cựu quan chức hải quân PLA.
Nhà quan sát chính trị Tang Jingyuan ở Trung Quốc nhận định việc ông
Mã tự tử không được chính quyền Trung Quốc công bố thông tin chính thức
là nhằm che đậy những vụ tham nhũng của các quan chức cấp cao hơn ông Mã
trong quân đội, theo trang tin chuyên về Trung Quốc China Topix của Mỹ ngày 22.11.
Vài ngày trước đó, thiếu tướng Song Yuwen, Phó chính ủy Quân khu Cát Lâm (Trung Quốc), được cho đã treo cổ tự sát, theo tờ The Washington Post (Mỹ). Ông Song là một trong số 8 quan chức Trung Quốc bị bắt gần đây với cáo buộc tham nhũng.
Vào ngày 2.9, thiếu tướng Hải quân Jiang Zhonghua cũng nhảy lầu
tự sát từ một tòa nhà cao tầng thuộc căn cứ hải quân ở tỉnh Chiết Giang.
Đến nay, trên 200 quan chức cấp cao PLA bị điều tra với cáo buộc tham nhũng, theo China Topix, nổi cộm nhất là tướng Từ Tài Hậu, nguyên Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc.
Các điều tra viên chống tham nhũng
của Trung Quốc mới đây đã tìm thấy khoảng 1 tấn tiền mặt (bao gồm USD,
euro, nhân dân tệ) cùng nhiều tài sản quý giá khác trong tầng hầm ngôi
nhà xa xỉ của ông ở Bắc Kinh, và phải điều động hơn 10 xe tải mới chở
hết số tài sản này, Reuters dẫn thông tin của tạp chí Phoenix Weekly (Hồng Kông) ngày 20.11 cho biết.
Theo tạp chí The Diplomat (trụ sở ở Nhật Bản), chiến dịch
chống tham nhũng của ông Tập đến nay đã khiến cho 56 quan chức cấp cao
rớt chức, nhưng trong số này chỉ có 3 quan chức của PLA, bao gồm ông Từ.
China Topix cho rằng chiến dịch chống tham nhũng của ông Tập
có thể sẽ khiến cho thêm nhiều vị tướng, quan chức cấp cao Trung Quốc
phải tự sát.
Đá Chữ Thập (Vĩnh Thử Tiều - Yongshu Reef ) là đảo đầu tiên có đường băng cho máy bay cất cánh và hạ cánh - DR
Trung
Quốc đang xây một đảo nhân tạo trên một bãi đá của quần đảo Trường Sa, ở
Biển Đông và trên đảo nhân tạo này có thể có một sân bay nhỏ. Đó là
tiết lộ của phát ngôn viên Lầu năm góc hôm qua, 21/12/2014.
Theo
lời phát ngôn viên Lầu năm góc Jeffrey Poole, đây không phải là lần đầu
tiên Bắc Kinh xây một đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa, nhưng đảo được
xây trên Đá Chữ Thập, mà Trung Quốc gọi là Vĩnh Thử Tiều (Yongshu Reef)
là đảo đầu tiên mà trên đó có một đường băng cất cánh và một đường băng
hạ cánh. Phát ngôn viên bộ Quốc phòng Mỹ nói thêm là trên đảo nhân tạo
này cũng có một hải cảng có thể tiếp nhận các chiến hạm.
Theo một
báo cáo do tuần báo IHS Jane’s Defence công bố hôm qua, với các hình
ảnh chụp từ vệ tinh, công trình xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc đã
bắt đầu từ cách đây ba tháng trên Đá Chữ Thập. Đảo nhân tạo này có chiều
dài 3 km và chiều ngang từ 200 đến 300 mét.
Các tác giả bản báo
cáo cho biết đây là dự án thứ tư mà Trung Quốc xây dựng ở quần đảo
Trường Sa trong thời gian từ 12 đến 18 tháng qua và đây là dự án đầy
tham vọng nhất.
Theo đánh giá của tạp chí IHS Jane’s Defence, dự án mới trên Đá Chữ Thập « dường
như là được thiết kế để buộc các bên khác phải từ bỏ những đòi hỏi chủ
quyền của họ, hay ít ra giúp cho Trung Quốc có một vị thế mạnh hơn nếu
sau này có đàm phán về những tranh chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa ».
Trong
tháng 10 vừa qua, Bắc Kinh cũng đã thông báo xây một đường băng trên
đảo Phú Lâm (mà Trung Quốc gọi là Vĩnh Hưng) thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Liên
quan đến Biển Đông, Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ ngày 20/11 vừa qua đã
thông qua một nghị quyết tái khẳng định sự cần thiềt phải tìm giải pháp
hoà bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, cho các tranh chấp lãnh thổ ở
Biển Đông, cũng như biển Hoa Đông.
Nghị quyết cũng tái khẳng định
sự ủng hộ của Mỹ đối với tự do lưu thông hàng giải, sử dụng vùng biển
và vùng trời ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương theo đúng luật pháp quốc tế.
23 tháng 11 2014
Thị trường chứng khoán New York đã ngay lập tức phản ứng trước việc
Trung Quốc giảm lãi suất và phát biểu của lãnh đạo ECB
Việc Trung Quốc cắt lãi suất và lãnh đạo ngân hàng trung ương Âu châu
đưa ra nhận xét đã khiến các thị trường toàn cầu khởi sắc.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc vừa giảm mức lãi suất tiền gửi có kỳ hạn
một năm từ 3,0% xuống 2,75% nhằm thúc đẩy kinh tế trong nước.
Cùng lúc, Mario Draghi, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Âu châu (ECB) nói
ông sẽ "tăng áp lực" nhằm kích thích kinh tế châu Âu, vốn đang vật lộn
với những khó khăn.
Chỉ trong vòng nửa giờ sau khi mở cửa hôm thứ Sáu vừa rồi, chỉ số công
nghệ Dow Jones ở Mỹ đã tăng gần 1% lên mức cao kỷ lục mới, 17.866 điểm.
Tác động trực tiếp
Nửa giờ sau khi mở cửa hôm thứ Sáu, Dow Jones tăng gần 1%, đạt mức cao
kỷ lục mới, 17.866 điểm.
Tại Anh, chứng khoán ngành khai mỏ tăng từ 3% đến 5%; Năm cổ phiếu tăng
giá mạnh nhất thuộc về các hãng dầu khí hoặc khai mỏ.
Tiền Úc và New Zealand cũng mạnh lên, cho thấy sự phụ thuộc thương mại
của hai nước này vào Trung Quốc.
Tại Anh, các loại chứng khoán ngành khai mỏ tăng từ 3% đến 5%, với hy
vọng lớn là doanh số bán sản phẩm thô sang Trung Quốc sẽ tăng.
Năm cổ phiếu tăng giá mạnh nhất thuộc về các hãng dầu khí hoặc khai
mỏ.
Đồng tiền tệ của Úc và New Zealand cũng mạnh lên, cho thấy sự phụ
thuộc thương mại của hai nước này vào Trung Quốc.
Việc cắt giảm lãi suất của Trung Quốc, điều đã gây kinh ngạc cho các
thị trường, là lần cắt giảm đầu tiên kể từ 2012 tới nay và bắt đầu có
hiệu lực vào hôm thứ Bảy.
Lãi suất cho vay thời hạn một năm cũng giảm từ 6% xuống 5,6%.
Hôm thứ Năm, các số liệu cho thấy sản lượng của các nhà máy Trung Quốc
đã giảm lần đầu tiên trong vòng sáu tháng qua.
Mức tăng trưởng kinh tế đã chững lại ở mức thấp nhất trong vòng năm năm
qua, đạt 7,3% trong quý trước.
Để cân đối cho tác động của việc giảm lãi suất đối với những người gửi
tiền tiết kiệm, ngân hàng trung ương Trung Quốc nói sẽ cho phép các
ngân hàng được linh hoạt trong việc áp dụng mức lãi suất tiền gửi cao
hơn, tới tối đa là 1,2 lần so với mức lãi suất căn bản mà ngân hàng
trung ương đưa ra thay vì chỉ 1,1 lần.
Phát biểu của Chủ tịch ECB
Cũng trong hôm thứ Sáu, ông Draghi khi phát biểu tại Frankfurt nói rằng
ông quyết tâm sử dụng các biện pháp, chẳng hạn như tiến hành mua tài
sản với quy mô lớn, để đảm bảo châu Âu không rơi vào một cuộc khủng
hoảng mới.
Ông nói: "Chúng tôi sẽ làm những gì phải làm nhằm tăng mức lạm phát và
các dự đoán lạm phát càng nhanh càng tốt."
Lạm phát ở khối các nước sử dụng đồng tiền chung euro hồi tháng trước
chỉ đạt 0,4%, thấp hơn nhiều so với mức 2% mà ECB muốn có.
Chủ tịch ECB, ông Draghi nói: "Chúng tôi sẽ làm những gì phải làm nhằm
tăng mức lạm phát và các dự đoán lạm phát càng nhanh càng tốt."
Nếu các nỗ lực hiện thời không đem lại kết quả, thì ông Draghi nói ECB
sẽ "thậm chỉ mở rộng thêm các kênh khác mà chúng ta có thể can thiệp
vào được".
Với nhiều người, đây là một tín hiệu rõ ràng cho thấy ECB sẽ sớm tiến
hành mua trái phiếu chính phủ.
Kinh tế ở khối eurozone trong quý ba năm nay chỉ đạt tăng trưởng 0,2% so
với quý hai.
Đức, vốn là nước mạnh trong khối, chỉ tăng trưởng có 0,1% sau khi bị
giảm xuống cũng ở mức đó trong quý trước.
Cổ phiếu ở các thị trường chứng khoán chính của châu Âu đã tăng lên mức
cao nhất trong vòng tám tuần qua sau bài phát biểu của ông Draghi.
'Sức mạnh Trung Quốc'
Trung Quốc đã rất nôn nóng trong việc muốn chứng tỏ cho thế giới thấy
nước này sẽ không tiếp tục phát triển chậm lại trong lĩnh vực kinh tế.
Hồi đầu tháng, Chủ tịch Tập Cận Bình nói với các quan chức kinh doanh
hàng đầu tại Hội nghị Thượng đỉnh Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương rằng các rủi ro mà kinh tế Trung Quốc đang đối diện là "không
đáng sợ đến thế".
Ông nói chính phủ Trung Quốc tin rằng họ sẽ qua được những nguy hiểm.
Ông nói ngay cả khi kinh tế Trung Quốc chỉ tăng trưởng 7% thì nước này
vẫn dẫn trước so với các nền kinh tế khác trên thế giới.
NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM
Ngày Nhà giáo Việt Nam
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2014-11-19
RFA
Hằng năm, đến hẹn lại lên, cứ đến dịp 20 tháng 11, ngày Hiến chương
nhà giáo Việt Nam, thầy cô và học sinh lại được dành cho một ngày để học
trò đến thăm thầy cô cùng những đoá hoa dâng tặng, những lời chúc tụng
thể hiện sự kính trọng và không ngoại trừ cả những gói quà chất nặng
tình vật chất. Với một số học sinh con nhà khá giả, phong bì tặng thầy
cô giáo là một thứ cơ hội để các em gần gũi với thầy cô và tự tin hơn
trong học tập. Nhưng với những học sinh nghèo, những phong bì chở cả nỗi
hanh hao, gầy guộc và đau khổ của các bậc làm cha làm mẹ phải chịu một
cuộc đời lao động chật vật, sinh nhai lao đao.
Ai là người thầy đáng kính?
Một cô giáo tên Hải, hiện đang dạy tại một trường cấp hai ngoại thành Hà Nội, chia sẻ: “Bên
trường chị thì thứ năm này sẽ có mít tinh kỷ niệm, nhưng chị không quan
tâm. Chị cũng nghe thế thôi chứ chị không quan tâm, 20 – 11 của chị thì
chị đi thăm thầy cô của chị, còn chị không quan tâm, học sinh đang học
của chị không được phép đến nhà chị. Bao giờ nó ra trường, trở thành học
sinh cũ thì nếu muốn, nó đến thăm thì hãy đến thăm.”
Theo cô Hải, việc có hay không có một ngày Hiến chương nhà giáo đối
với cô không phải là quan trọng, nếu không nói là không cần thiết. Vấn
đề chính vẫn là một môi trường giáo dục lành mạnh, trong trẻo. Nghĩa là
một môi trường mà ở đó giáo viên yên tâm để dạy học, còn học sinh thì
học hành một cách vô tư, có vui chơi, có học hành và không cảm thấy việc
học là một thứ gì đó ngột ngạt và khó chịu.
Chị cũng nghe thế thôi chứ chị không quan tâm, 20 – 11 của chị thì
chị đi thăm thầy cô của chị, còn chị không quan tâm, học sinh đang học
của chị không được phép đến nhà chị. Bao giờ nó ra trường, trở thành học
sinh cũ thì nếu muốn, nó đến thăm thì hãy đến thăm
Một cô giáo tên Hải
Nhưng để đạt được điều đó trong hiện tại, còn khó hơn cả việc bắt một
con lạc đà chui qua lổ kim, rất khó. Cô Hải cũng đưa ra nhận xét rằng
bấy lâu nay cô vẫn theo dõi vấn đề cải cách giáo dục và luôn quan sát
các “nhà cải cách” giáo dục nhưng càng quan sát, càng theo dõi chỉ làm
cho cô thêm thất vọng mà thôi. Bởi lẽ, từ xưa đến giờ, một số nhà giáo
uy tín đều đưa ra quan điểm phải có người thầy tốt mới có những học sinh
tốt.
Nhưng thử đặt vấn đề sâu xa hơn một chút, chúng ta luôn kêu gào rằng
phải giáo dục, đào tao ra những người thầy tốt và điều đó đã diễn ra
hàng chục năm nay càng khiến cho nền giáo dục càng ngày càng thực dụng
và bệ rạc. Tại sao chúng ta chỉ đặt vấn đề ở chỗ đào tạo ra những thầy
giáo tốt mà chúng ta không tự hỏi lấy đâu ra những vị thầy của những
thầy giáo tốt? Đây mới là câu hỏi mấu chốt. Bởi lẽ, cần phải có những vị
thầy dạy của các thầy giáo tốt mới cho ra những thầy giáo tốt và học
sinh tốt, đó là qui luật.
Nhà văn hóa học sinh, sinh viên Hà nội
Và khi hỏi về một vị thầy của các thầy giáo tốt, người ta buộc phải
nói đến hệ thống tư tưởng trong giáo dục cũng như cái lõi, hạt nhân tư
tưởng của nó. Hay nói khác đi là một nền giáo dục tốt phải có một hệ
thống triết lý giáo dục thật tốt, khoa học và coi trọng nhân tính. Nếu
một hệ thống giáo dục chỉ mãi miết chạy theo thành tích, bằng cấp và
doanh thu thì đến một ngày nào đó, cả hệ thống giáo dục này sẽ chuyển
hoá thành một thế lực phản giáo dục, và đây là thời điểm Việt Nam đang
nổi trội tính phản giáo dục của mình.
Chính vì thiếu một hệ thống triết lý giáo dục xuyên suốt và nhầm
tưởng tư tưởng Mác - Lê Nin là triết lý giáo dục nên càng ngày, cơ chế
giáo dục Việt Nam càng lún sâu vào thực dụng, coi trọng vật chất nhưng
lại thiếu vắng sự cao quí của tinh thần thông tuệ. Và đây cũng là nguyên
nhân dẫn đến chuyện Việt Nam hiện tại rất khó tìm ra một người thầy
đáng kính cho học sinh.
Tại sao chúng ta chỉ đặt vấn đề ở chỗ đào tạo ra những thầy giáo tốt
mà chúng ta không tự hỏi lấy đâu ra những vị thầy của những thầy giáo
tốt? Đây mới là câu hỏi mấu chốt. Bởi lẽ, cần phải có những vị thầy dạy
của các thầy giáo tốt mới cho ra những thầy giáo tốt và học sinh tốt, đó
là qui luật
Giáo dục sẽ đi về đâu?
Một thầy giáo khác, hiện đang dạy tại một trường chuyên ở Hà Nội, yêu cầu không nêu tên, chia sẻ: “Từ
thời phong kiến đã có rồi, nó như một sự bồi đắp. Đó là một ngày để tôn
vinh, để nhắc nhở một điều gì đó thì nên làm, thế giới họ vẫn làm. Tuy
nhiên trong bối cảnh hiện nay thì không nên làm vì nó bị phai mất rồi.
Vì thành ra nó không phải là ngày để tôn vinh thầy giáo. Bởi người ta
nghĩ thầy giáo trở thành một thứ tựa như là quan chức trong giáo dục,
buộc anh hối lộ, anh mua bán.. Tất cả những mối quan hệ hiện nay, về đạo
đức, tình cảm… đều có sự mua bán trong đó.”
Theo vị thầy giáo này, câu hỏi giáo dục Việt Nam sẽ đi về đâu là câu
hỏi đáng nêu và cần giải quyết một cách triệt để, rốt ráo trong hiện tại
nếu muốn đất nước này phát triển hoặc chí ít cũng không bị tụt hậu. Để
giải quyết câu hỏi giáo dục Việt Nam sẽ đi về đâu, cần trả lời được ba
vấn đề: Hình ảnh của người thầy trong tâm thức học trò; Giá trị kiến
thức học trò đã lĩnh hội và; Cấu trúc giáo dục nền tảng.
Yếu tố thực dụng trong giáo dụng cũng như hệ thống tri thức tuy không
lỗi thời nhưng lại biên soạn trên nền giáo án quá sức lỗi thời, lạc hậu
đã khiến cho đại đa số học sinh mất hết cảm hứng đi học bởi ngay bản
thân người thầy cũng không hứng thú gì trong việc đi dạy
Ở khía cạnh thứ nhất, hình ảnh của thầy cô giáo trong tâm thức học
trò, có thể nói là tệ hại một cách thảm bại theo tỉ lệ một ngàn/ một
trăm/ mười/ năm/ ba/ một. Nghĩa là một ngàn vị thầy thì có một trăm vị
tạm gọi là có tư cách nhà giáo trong mắt học sinh, và trong một trăm vị
đó, có mười vị được học sinh trân trọng nhưng chưa chắc đã được phụ
huynh các em coi trọng bởi nhiều yếu tố nhạy cảm.
Trong mười vị đó, có thể có năm vị được cha mẹ học sinh cũng như các
em học sinh coi trọng nhưng khó bề mà gần gũi, chia sẻ tri thức bởi
khoảng cách về những yêu cầu tài chánh mua bán kiến thức của họ. Trong
năm vị thì có ba vị rất có thể là những thầy giáo bao dung, sẵn sàng
chia sẻ những khó khăn của học sinh và coi trọng lương tri nhà giáo. Và
trong ba vị đó, chỉ có thể hy vọng có một vị nhà giáo bao dung, sẵn sàng
chia sẻ tri thức cũng như coi trọng nhân cách, phẩm hạnh của con người,
xứng đáng làm một vị thầy mẫu mực. Nhưng con số một này cũng chỉ mang
tính ước lệ, chỉ là hy vọng thôi!
Và chính vì hình ảnh người thầy quá tệ hại trong học sinh cũng là tác
dụng ngược của việc trao truyền kiến thức, nhân cách. Và, yếu tố thực
dụng trong giáo dụng cũng như hệ thống tri thức tuy không lỗi thời nhưng
lại biên soạn trên nền giáo án quá sức lỗi thời, lạc hậu đã khiến cho
đại đa số học sinh mất hết cảm hứng đi học bởi ngay bản thân người thầy
cũng không hứng thú gì trong việc đi dạy. Động cơ tiền lương và tiền dạy
thêm để bù lỗ cho khoản đầu tư đút lót lúc vào nghề đã khiến các thầy
cô dù không muốn cũng vắt học sinh ra nước để lấy tiền. Đó là điều đáng
xấu hổ trong giáo dục Việt Nam.
Và, nói về cấu trúc nền giáo dục Việt Nam, chỉ có thể nói nhanh gọn
một câu là cấu trúc giáo dục xã hội chủ nghĩa. Mà theo nhận xét của vị
thầy giáo này, mọi cấu trúc giáo dục xã hội chủ nghĩa của các nước Cộng
sản trên thế giới này đều mang lại một kết cục đáng buồn là tài năng và
sự sáng tạo bị thui chột. Và hằng năm, cứ thêm một lần Hiến chương nhà
giáo, lại thêm một lần suy ngẫm về giá trị phẩm hạnh của con người nói
chung và của nhà giáo nói riêng!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
http://www.rfa.org/vietnamese/reportfromvn/opi-abt-teach-day-11192014053548.html
Những góc khuất của ngày Nhà giáo Việt Nam
Ngành giáo dục ở VN lại đón thêm 1 ngày lễ vinh danh thầy cô giáo vào
ngày 20/11. Hòa Ái có bài ghi nhận chia sẻ của giáo viên về các góc
khuất của ngày tri ân dành cho những người chọn nghiệp “trồng người”.
Không phải đợi đến ngày 20/11 ký ức về trường học, bục giảng, bạn bè
và thầy cô mới tràn về nhưng trong không khí ngày tri ân nhà giáo VN
hình ảnh về cô giáo lớp 1 của Hòa Ái ngồi bên tủ thuốc lá nhỏ ở ven
đường hiện rõ mồn một trong tâm tưởng hơn bao giờ hết. Lâu lắm mới có
dịp về quê và lần nào cũng vậy, Hòa Ái tìm đến thăm cô giáo đã tận tình
dạy cho mình đánh vần từng chữ trong bản chữ cái tiếng Việt, cầm tay cho
Hòa Ái nắn nót từ chữ “O” đầu tiên. Phong thái người thầy đầu đời của
Hòa Ái vẫn như xưa của hơn 30 năm về trước nhưng dáng vẻ tiều tụy hơn
nhiều sau vài lần thăm gặp. Vóc người gầy gò, gương mặt hốc hác, mái tóc
bạc trắng của một bà giáo già đơn thân hưu trí kiên nhẫn ngồi bán từng
điếu thuốc lá với nụ cười buồn thi thoảng trên môi mỗi khi nhớ về kỷ
niệm nào đó trong nghề gõ đầu trẻ của mình.
Cả năm có 1 ngày vinh danh nhà giáo, học
trò cũng đến tặng quà cho xong thủ tục. Việc này đã thành lệ rồi. Thật
ra chẳng còn tình cảm gì. Nhiều khi cảm giác như mua bán, nịnh nọt
nhau, không có nhiều tình cảm nữa.
- Một thầy giáo ở VN
Hòa Ái hỏi thăm cô có nhiều học trò đến thăm nhân ngày Nhà giáo VN
hay không? Cô từ tốn trả lời rằng “không có” và chậm rãi tâm tình quanh
năm suốt tháng cô vẫn thường nhận được từ tay của học trò, con cháu của
học trò ghé tạt qua với 1 bọc chè, 1 bịch nước mía hay 1 ổ bánh mì cùng
lời hỏi thăm “Bà giáo giữ gìn sức khỏe nghen!”. Cô giáo lớp 1 của Hòa Ái
nói rằng cô trân quý những tình cảm thân thương như vậy dù cô không có
kỷ niệm nào trong ngày Nhà giáo VN, nói thêm rằng cô thương lắm những
người học trò ở quê nhà, có thể ngày trước họ học không giỏi, họ không
thể “bay cao” với những ước mơ vì hoàn cảnh nào đó nhưng ít nhiều cô
biết được rằng họ đã thành “nhân”, không phải vướng vào “đầu trộm đuôi
cướp”, không làm điều xấu trong xã hội.
Ngày lễ 20/11 năm nay, Hòa Ái không liên lạc được với cô giáo lớp 1
của mình, tuy nhiên lại có cơ hội tiếp xúc qua điện thoại với những thầy
cô giáo khác ở VN. Họ đón nhận ngày lễ vinh danh họ như thế nào? Một
thầy giáo ở VN chia sẻ:
“Thật ra ngày xưa nghề giáo là nghề cao quý nhất trong tất cả các
nghề. Ngày xưa có thể đúng vì là nghề dạy người nhưng bây giờ nhiều cái
tiêu cực, nhiều việc xảy ra trong ngành giáo dục, thầy trò nhiều khi
không giống ngày xưa nữa. Cảm giác như thương mại hóa tất cả, dịch vụ
hết nên cảm giác tình cảm thầy trò bao năm càng dạy càng không gần gũi
càng không thân thiết. Ngày xưa nhớ lại thuở học trò đi thăm thầy cô ý
nghĩa hơn. Bây giờ làm giáo viên thấy học trò nói chung thờ ở với thầy
cô. Cả năm có 1 ngày vinh danh nhà giáo, học trò cũng đến tặng quà cho
xong thủ tục. Việc này đã thành lệ rồi. Thật ra chẳng còn tình cảm gì.
Nhiều khi cảm giác như mua bán, nịnh nọt nhau, không có nhiều tình cảm
nữa”.
Nhiều giáo viên cho đài ACTD biết ngày 20/11 mỗi năm, Ban Phụ huynh
có một cuộc họp để tặng quà cho thầy cô giáo. Bên cạnh đó giáo viên cũng
nhận quà tặng bằng tiền được trích trong quỹ phúc lợi của nhà trường.
Đa số giáo viên ở VN cảm thấy ngày vinh danh Nhà giáo không còn đúng như
ý nghĩa ban đầu. Đối với họ ngày lễ này đã bị biến thành ngày của sự
“đổi chác” vì mục đích nào đó. Trong khi nhiều phụ huynh phải đau đầu
nghĩ đến những khoản chi cho quà cáp, phong bì gửi đến thầy cô giáo
trong ngày 20/11 với hy vọng con em mình được quan tâm giúp đỡ nhiều hơn
thì không ít giáo viên nhận lấy trong tâm trạng xót xa vì cho rằng nghề
giáo đang dần không được tôn trọng trong xã hội ngày nay.
Nỗi buồn của nhà giáo
Học sinh lớp 1
Trong những năm qua khi công nghệ thông tin bùng phát trong nước,
ngày càng có nhiều giáo viên gặp trở ngại trong công tác do họ kết nối
với cộng đồng một cách nhanh chóng qua internet và cất lên tiếng nói
chính kiến về những tiêu cực trong ngành giáo dục cũng như những vấn đề
của xã hội quan tâm. Họ bị đồng nghiệp và học sinh xa lánh. Và ngày
20/11 là ngày họ cảm thấy bị lạc lõng, buồn tủi nhất. Cô giáo Xuân Mai ở
Vĩnh Long tâm sự với Hòa Ái những gì cô đang trãi qua trong cuộc đời
dạy học hơn 30 năm:
Cô có nỗi buồn là những việc mình làm là
vì cộng đồng, vì đất nước, vì quê hương của mình rõ ràng vậy nhưng thầy
cô giáo không hiểu. Những giáo viên đảng viên thì nghĩ mình là phản
động.
- Cô giáo Xuân Mai
“Cô có nỗi buồn là những việc mình làm là vì cộng đồng, vì đất
nước, vì quê hương của mình rõ ràng vậy nhưng thầy cô giáo không hiểu.
Những giáo viên đảng viên thì nghĩ mình là phản động. Còn những thầy cô
giáo hiểu biết thì cũng không dám lên tiếng. Người ta biết những việc
làm của mình là đúng nhưng người ta không dám nói vì sợ hãi. Chỗ cô ở là
nông thôn, người ta đâu có đọc báo trên internet này kia nọ. Em tưởng
tượng giáo viên dạy toán giờ này mà còn nói ‘yêu nước là phải chống Mỹ’.
Giáo viên dạy văn thì không biết ‘Nhân văn Giai phẩm’ là gì, bây giờ
vẫn nói Lê Văn Tám là anh hùng liệt sĩ. Thầy cô ít tai chịu đọc báo trên
internet lắm. Quan niệm của thầy cô giáo là báo chí phản động không nên
đọc, không nên xem, chỉ xem những báo trong nhà trường quy định. Cho
nên trong mắt những thầy cô đó cho rằng cô là phản động”.
Có phải giáo viên nào cũng cảm thấy không tự hào về cái nghề cao quý
mà họ đã chọn cũng như không còn niềm vui khi được tri ân nữa? Hòa Ái
được dịp trao đổi với thầy giáo Hoa Nguyễn ở Hoa Kỳ. Người thầy
giáo 78 tuổi này bắt đầu cuộc đời của một giáo viên dạy lớp 1 từ năm
1956, và dừng lại ở vị thế là một hiệu trưởng trường trung học vào năm
1975. Ông giáo già Hoa Nguyễn năm nào cũng sắp xếp thời gian về VN họp
mặt với học trò và đồng nghiệp, trả lời câu hỏi đặt ra của Hòa Ái:
“Nhìn chung tôi có thể nói rất hãnh diện về nghề giáo của mình.
Không có gì là buồn lòng. Tất cả những việc làm trong nghề giáo dục đều
là hãnh diện, nhất là sau này học trò lớn lên thành đạt mỗi lần gặp đều
khoanh tay cúi đầu chào ‘thưa thầy’ làm tôi cảm động vô cùng. Mặc dù
nghề giáo lúc nào cũng vậy, đời sống đạm bạc lắm, tuy nhiên về tinh thần
thì rất tốt. Tôi rất hãnh diện được làm một nhà giáo VN trong suốt 19
năm trong thời gian đó”.
Ngày Nhà giáo VN năm nay đến với thầy cô giáo với nhiều hoa, cũng có
thể là nhiều quà cùng bức thư cảm ơn của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo
Phạm Vũ Luận, nhấn mạnh đội ngũ thầy cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục
quán triệt Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, tâm tư thầm kín của
đại đa số giáo viên hiện nay ước mong họ có thể họ nói lên tiếng lòng
một cách chân chính như của thầy giáo Hoa Nguyễn trong ngày nhân danh
họ. Phải chăng ước nguyện này là món quà xa xỉ nhân ngày họ được tri ân?
Một cô giáo tên Hải
Nhưng để đạt được điều đó trong hiện tại, còn khó hơn cả việc bắt một
con lạc đà chui qua lổ kim, rất khó. Cô Hải cũng đưa ra nhận xét rằng
bấy lâu nay cô vẫn theo dõi vấn đề cải cách giáo dục và luôn quan sát
các “nhà cải cách” giáo dục nhưng càng quan sát, càng theo dõi chỉ làm
cho cô thêm thất vọng mà thôi. Bởi lẽ, từ xưa đến giờ, một số nhà giáo
uy tín đều đưa ra quan điểm phải có người thầy tốt mới có những học sinh
tốt.
Nhưng thử đặt vấn đề sâu xa hơn một chút, chúng ta luôn kêu gào rằng
phải giáo dục, đào tao ra những người thầy tốt và điều đó đã diễn ra
hàng chục năm nay càng khiến cho nền giáo dục càng ngày càng thực dụng
và bệ rạc. Tại sao chúng ta chỉ đặt vấn đề ở chỗ đào tạo ra những thầy
giáo tốt mà chúng ta không tự hỏi lấy đâu ra những vị thầy của những
thầy giáo tốt? Đây mới là câu hỏi mấu chốt. Bởi lẽ, cần phải có những vị
thầy dạy của các thầy giáo tốt mới cho ra những thầy giáo tốt và học
sinh tốt, đó là qui luật.
Nhà văn hóa học sinh, sinh viên Hà nội
Tại sao chúng ta chỉ đặt vấn đề ở chỗ đào tạo ra những thầy giáo tốt mà chúng ta không tự hỏi lấy đâu ra những vị thầy của những thầy giáo tốt? Đây mới là câu hỏi mấu chốt. Bởi lẽ, cần phải có những vị thầy dạy của các thầy giáo tốt mới cho ra những thầy giáo tốt và học sinh tốt, đó là qui luật
Yếu tố thực dụng trong giáo dụng cũng như hệ thống tri thức tuy không lỗi thời nhưng lại biên soạn trên nền giáo án quá sức lỗi thời, lạc hậu đã khiến cho đại đa số học sinh mất hết cảm hứng đi học bởi ngay bản thân người thầy cũng không hứng thú gì trong việc đi dạy
http://www.rfa.org/vietnamese/reportfromvn/opi-abt-teach-day-11192014053548.html
Những góc khuất của ngày Nhà giáo Việt Nam
Ngành giáo dục ở VN lại đón thêm 1 ngày lễ vinh danh thầy cô giáo vào ngày 20/11. Hòa Ái có bài ghi nhận chia sẻ của giáo viên về các góc khuất của ngày tri ân dành cho những người chọn nghiệp “trồng người”.
Không phải đợi đến ngày 20/11 ký ức về trường học, bục giảng, bạn bè và thầy cô mới tràn về nhưng trong không khí ngày tri ân nhà giáo VN hình ảnh về cô giáo lớp 1 của Hòa Ái ngồi bên tủ thuốc lá nhỏ ở ven đường hiện rõ mồn một trong tâm tưởng hơn bao giờ hết. Lâu lắm mới có dịp về quê và lần nào cũng vậy, Hòa Ái tìm đến thăm cô giáo đã tận tình dạy cho mình đánh vần từng chữ trong bản chữ cái tiếng Việt, cầm tay cho Hòa Ái nắn nót từ chữ “O” đầu tiên. Phong thái người thầy đầu đời của Hòa Ái vẫn như xưa của hơn 30 năm về trước nhưng dáng vẻ tiều tụy hơn nhiều sau vài lần thăm gặp. Vóc người gầy gò, gương mặt hốc hác, mái tóc bạc trắng của một bà giáo già đơn thân hưu trí kiên nhẫn ngồi bán từng điếu thuốc lá với nụ cười buồn thi thoảng trên môi mỗi khi nhớ về kỷ niệm nào đó trong nghề gõ đầu trẻ của mình.
Cả năm có 1 ngày vinh danh nhà giáo, học trò cũng đến tặng quà cho xong thủ tục. Việc này đã thành lệ rồi. Thật ra chẳng còn tình cảm gì. Nhiều khi cảm giác như mua bán, nịnh nọt nhau, không có nhiều tình cảm nữa.Hòa Ái hỏi thăm cô có nhiều học trò đến thăm nhân ngày Nhà giáo VN hay không? Cô từ tốn trả lời rằng “không có” và chậm rãi tâm tình quanh năm suốt tháng cô vẫn thường nhận được từ tay của học trò, con cháu của học trò ghé tạt qua với 1 bọc chè, 1 bịch nước mía hay 1 ổ bánh mì cùng lời hỏi thăm “Bà giáo giữ gìn sức khỏe nghen!”. Cô giáo lớp 1 của Hòa Ái nói rằng cô trân quý những tình cảm thân thương như vậy dù cô không có kỷ niệm nào trong ngày Nhà giáo VN, nói thêm rằng cô thương lắm những người học trò ở quê nhà, có thể ngày trước họ học không giỏi, họ không thể “bay cao” với những ước mơ vì hoàn cảnh nào đó nhưng ít nhiều cô biết được rằng họ đã thành “nhân”, không phải vướng vào “đầu trộm đuôi cướp”, không làm điều xấu trong xã hội.
- Một thầy giáo ở VN
Ngày lễ 20/11 năm nay, Hòa Ái không liên lạc được với cô giáo lớp 1 của mình, tuy nhiên lại có cơ hội tiếp xúc qua điện thoại với những thầy cô giáo khác ở VN. Họ đón nhận ngày lễ vinh danh họ như thế nào? Một thầy giáo ở VN chia sẻ:
“Thật ra ngày xưa nghề giáo là nghề cao quý nhất trong tất cả các nghề. Ngày xưa có thể đúng vì là nghề dạy người nhưng bây giờ nhiều cái tiêu cực, nhiều việc xảy ra trong ngành giáo dục, thầy trò nhiều khi không giống ngày xưa nữa. Cảm giác như thương mại hóa tất cả, dịch vụ hết nên cảm giác tình cảm thầy trò bao năm càng dạy càng không gần gũi càng không thân thiết. Ngày xưa nhớ lại thuở học trò đi thăm thầy cô ý nghĩa hơn. Bây giờ làm giáo viên thấy học trò nói chung thờ ở với thầy cô. Cả năm có 1 ngày vinh danh nhà giáo, học trò cũng đến tặng quà cho xong thủ tục. Việc này đã thành lệ rồi. Thật ra chẳng còn tình cảm gì. Nhiều khi cảm giác như mua bán, nịnh nọt nhau, không có nhiều tình cảm nữa”.
Nhiều giáo viên cho đài ACTD biết ngày 20/11 mỗi năm, Ban Phụ huynh có một cuộc họp để tặng quà cho thầy cô giáo. Bên cạnh đó giáo viên cũng nhận quà tặng bằng tiền được trích trong quỹ phúc lợi của nhà trường. Đa số giáo viên ở VN cảm thấy ngày vinh danh Nhà giáo không còn đúng như ý nghĩa ban đầu. Đối với họ ngày lễ này đã bị biến thành ngày của sự “đổi chác” vì mục đích nào đó. Trong khi nhiều phụ huynh phải đau đầu nghĩ đến những khoản chi cho quà cáp, phong bì gửi đến thầy cô giáo trong ngày 20/11 với hy vọng con em mình được quan tâm giúp đỡ nhiều hơn thì không ít giáo viên nhận lấy trong tâm trạng xót xa vì cho rằng nghề giáo đang dần không được tôn trọng trong xã hội ngày nay.
Nỗi buồn của nhà giáo
Học sinh lớp 1
Cô có nỗi buồn là những việc mình làm là vì cộng đồng, vì đất nước, vì quê hương của mình rõ ràng vậy nhưng thầy cô giáo không hiểu. Những giáo viên đảng viên thì nghĩ mình là phản động.“Cô có nỗi buồn là những việc mình làm là vì cộng đồng, vì đất nước, vì quê hương của mình rõ ràng vậy nhưng thầy cô giáo không hiểu. Những giáo viên đảng viên thì nghĩ mình là phản động. Còn những thầy cô giáo hiểu biết thì cũng không dám lên tiếng. Người ta biết những việc làm của mình là đúng nhưng người ta không dám nói vì sợ hãi. Chỗ cô ở là nông thôn, người ta đâu có đọc báo trên internet này kia nọ. Em tưởng tượng giáo viên dạy toán giờ này mà còn nói ‘yêu nước là phải chống Mỹ’. Giáo viên dạy văn thì không biết ‘Nhân văn Giai phẩm’ là gì, bây giờ vẫn nói Lê Văn Tám là anh hùng liệt sĩ. Thầy cô ít tai chịu đọc báo trên internet lắm. Quan niệm của thầy cô giáo là báo chí phản động không nên đọc, không nên xem, chỉ xem những báo trong nhà trường quy định. Cho nên trong mắt những thầy cô đó cho rằng cô là phản động”.
- Cô giáo Xuân Mai
Có phải giáo viên nào cũng cảm thấy không tự hào về cái nghề cao quý mà họ đã chọn cũng như không còn niềm vui khi được tri ân nữa? Hòa Ái được dịp trao đổi với thầy giáo Hoa Nguyễn ở Hoa Kỳ. Người thầy giáo 78 tuổi này bắt đầu cuộc đời của một giáo viên dạy lớp 1 từ năm 1956, và dừng lại ở vị thế là một hiệu trưởng trường trung học vào năm 1975. Ông giáo già Hoa Nguyễn năm nào cũng sắp xếp thời gian về VN họp mặt với học trò và đồng nghiệp, trả lời câu hỏi đặt ra của Hòa Ái:
“Nhìn chung tôi có thể nói rất hãnh diện về nghề giáo của mình. Không có gì là buồn lòng. Tất cả những việc làm trong nghề giáo dục đều là hãnh diện, nhất là sau này học trò lớn lên thành đạt mỗi lần gặp đều khoanh tay cúi đầu chào ‘thưa thầy’ làm tôi cảm động vô cùng. Mặc dù nghề giáo lúc nào cũng vậy, đời sống đạm bạc lắm, tuy nhiên về tinh thần thì rất tốt. Tôi rất hãnh diện được làm một nhà giáo VN trong suốt 19 năm trong thời gian đó”.
Ngày Nhà giáo VN năm nay đến với thầy cô giáo với nhiều hoa, cũng có thể là nhiều quà cùng bức thư cảm ơn của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận, nhấn mạnh đội ngũ thầy cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục quán triệt Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, tâm tư thầm kín của đại đa số giáo viên hiện nay ước mong họ có thể họ nói lên tiếng lòng một cách chân chính như của thầy giáo Hoa Nguyễn trong ngày nhân danh họ. Phải chăng ước nguyện này là món quà xa xỉ nhân ngày họ được tri ân?
VTV xin lỗi vì chương trình ‘phản cảm’
-
23 tháng 11 2014
VTV cho rằng 'Nhặt xương cho thầy' được lên lịch phát sóng không phù hợp
- 23 tháng 11 2014
Đài
Truyền hình Việt Nam (VTV) vừa phải đưa ra lời xin lỗi và bị phạt 30
triệu đồng sau khi bị dư luận phản ứng về một phim hoạt hình được cho
là bôi bác hình ảnh người thầy.
Phim hoạt hình ‘Nhặt xương cho
thầy’ được phát sóng trên kênh giải trí VTV3 trong chương trình Quà
tặng cuộc sống vào lúc tối muộn ngày 19/11 – tức là sát ngày 20/11,
ngày theo truyền thống ở Việt Nam là để tôn vinh các thầy cô giáo.
Sau
khi phát sóng, ‘Nhặt xương cho thầy’ đã gây phản ứng mạnh mẽ trên
truyền thông và mạng xã hội vì nó được cho là đã ‘bôi xấu hình ảnh
người thầy Việt Nam vào lúc xã hội đang tôn vinh người thầy’.
‘Vô tình sơ suất’
‘Quà
tặng cuộc sống’ là một chương trình mang tính giáo dục giải trí
thông qua những câu chuyện ngắn gọn để chuyển tải những bài học về đạo
đức, về cách ứng xử trong cuộc sống đến với khán giả, nhất là khán giả
nhỏ tuổi.
Phim hoạt hình ‘Nhặt xương cho thầy’ đã mô tả hình ảnh
một ông thầy đồ vừa sỹ diện hão vừa giả dối vừa tham ăn tục uống tranh
hết phần ăn của học trò.
Trên trang chủ của mình, VTV đã gọi đây là ‘sơ suất đáng tiếc ngoài mong muốn’.
“Đài
truyền hình Việt Nam chân thành gửi tới quý khán giả và đặc biệt là các
nhà giáo lời xin lỗi,” VTV viết trong lời xin lỗi đăng trên trang chủ
của họ vào tối ngày 21/11.
Theo giải thích của VTV thì đây là ‘sai
sót của bộ phận duyệt chương trình’ khi lên lịch cho phim hoạt hình
này lên sóng vào thời điểm không thích hợp.
Cũng liên quan đến
việc này, Bộ Thông tin-Truyền thông đã ra quyết định phạt VTV 30
triệu đồng vì ‘vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản’.
Ông
Trương Minh Tuấn, thứ trưởng Bộ Thông tin-Truyền thông, được tờ Tuổi
Trẻ dẫn lời nói phim hoạt hình ‘Nhặt xương cho thầy’ đã ‘xúc phạm đến
tình cảm thiêng liêng của cả xã hội’.
Trực thuộc chính phủ, VTV
là đài truyền hình lớn nhất Việt Nam và là một trong bốn cơ quan
truyền thông quan trọng nhất của chính quyền.
Trước đó, VTV cũng
‘gây bão’ dư luận khi chương trình ‘Chuyển động 24h’ của họ đã có một
phóng sự điều tra mang tính hình sự tố cáo cầu thủ Công Phượng của đội
tuyển bóng đá U19 Việt Nam gian lận tuổi.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/11/141123_vtv_apologises_teachers
Bức xúc với chương trình “vô duyên” của VTV3 trong Ngày Nhà giáo
NHẶT XƯƠNG CHO THẦY
Tối qua (19/11), chương trình Quà tặng cuộc sống phát sóng lúc 22 giờ 10 phút trên kênh VTV3 với đoạn phim hoạt hình ngắn “Nhặt xương cho thầy”.
Phim phỏng theo truyện cười dân gian Việt Nam với hình ảnh người thầy
phản cảm, tham ăn vô độ, ăn hết phần của trò và bắt trò dọn xương. Với
sự thông minh của học trò, người thầy đã có bài học đắt giá.
Điều đáng nói là đoạn phim lại được phát sóng đúng vào tối ngày 19/11,
khi khắp nơi trên dọc dài dải đất Việt Nam, từ người già đến trẻ, học
sinh đến phụ huynh, đặc biệt là các thầy cô giáo, náo nức đón chào Ngày
Nhà giáo Việt Nam 20/11, ngày tôn vinh những người thầy, nghề cao quý
nhất trong những nghề cao quý.
Cô Nguyễn Kim Anh, giáo viên trường Trung học phổ thông Phan Huy Chú
(Đống Đa, Hà Nội) buồn rầu nói: “Ngày Nhà giáo Việt Nam mà VTV3 lại đưa
một câu chuyện bôi bác nghề giáo. Thật là buồn!”
Là giáo viên dạy văn, cô Kim Anh bảo các câu chuyện dân gian cô đều nắm
rõ, hiểu được ý nghĩa triết lý sau đó. “Câu chuyện ấy, VTV3 phát lúc nào
cũng được, chúng tôi xem vẫn cười thoải mái, người xem vẫn nhận được
thông điệp. Nhưng phát trên kênh chính thức tối 19/11 thì hơi nhẫn tâm
với hàng triệu người làm thầy, nhân ngày lễ của họ. Không chỉ bản thân
tôi, đây có lẽ cũng là tâm trạng rất nhiều giáo viên, cán bộ ngành giáo
dục khi xem chương trình Quà tặng cuộc sống tối qua," cô Kim Anh chia
sẻ.
Cũng theo cô Kim Anh, ngay sau khi xem chương trình đó, dù đã muộn, cô
vẫn không thể cầm lòng, gọi điện thoại chia sẻ nỗi niềm với các đồng
nghiệp và họ cũng đều có chung cảm nhận như cô.
Cô Phạm Thị Tú, giáo viên trường Trung học phổ thông Nguyễn Thái Bình
(tỉnh Thái Bình) chia sẻ: “Có rất nhiều câu chuyện cảm động về tình thầy
trò và có giá trị giáo dục cao nhưng VTV3 không làm mà lại đi phát sóng
tập phim đó. Là một nhà giáo, xem một đoạn phim như thế đúng ngày hội
nghề, tôi thấy rất tủi lòng. Họ chẳng sai, nhưng làm mình buồn…”
Sự thất vọng không chỉ có ở các giáo viên. Chị Nguyễn Thị Điền (Hà Đông,
Hà Nội) cho biết, trong bữa cơm tối qua, chị vừa nói với con về ý nghĩa
của Ngày Nhà giáo Việt Nam, về tình thầy trò, về những vất vả hy sinh,
công lao to lớn của thầy cô thì tối VTV3 lại chiếu đoạn phim này. “Khi
đó, cả hai bố mẹ cùng con ngồi xem, tôi chẳng biết phải nói với con thế
nào. Cảm giác như bị ai tát vào mặt,” chị Điền chia sẻ.
Cũng theo chị Điền, Quà tặng cuộc sống là một chương trình hay, nhiều ý
nghĩa, có tính giáo dục cao nên chị cũng khuyến khích con xem. “Tuy
nhiên, tối qua thì chương trình hơi… vô duyên. Tôi cũng không hiểu sao
họ lại phát sóng tập phim đó vào đúng dịp vinh danh các nhà giáo, dịp để
học sinh hiểu sâu sắc hơn về bài học ‘tôn sư trọng đạo’, về đạo lý làm
người, để các em biết tri ân những người thầy. Một chương trình giáo dục
nhưng phát sóng không đúng thời điểm lại chẳng khác gì là phản giáo
dục,” chị Điền bức xúc nói./.
https://www.youtube.com/watch?v=1p3vNQE0RaQ
http://www.vietnamplus.vn/buc-xuc-voi-chuong-trinh-vo-duyen-cua-vtv3-trong-ngay-nha-giao/292291.vnp
NHẶT XƯƠNG CHO THẦY
24-11-2014
Vụ "Nhặt xương cho thầy" - đôi điều cần nói thêm
Baron Trịnh/ Blog Baron Trịnh
Liên quan đến câu chuyện "Nhặt xương cho thầy" được chiếu trên VTV3 và bị dư luận ném đá dữ dội đến mức bộ 4T phải phạt nhà đài 30 triệu
cho hành vi này. Chuyện phạt có đúng thẩm quyền hay không được các diễn
đàn báo chí bàn luận thì tôi không quan tâm, stt này là nói về dư luận
xã hội cho clip này.
Cá nhân tôi thấy clip này là bình thường. Bởi lẽ, theo quan điểm của
tôi, giá trị của người thầy, người cô là do chính học trò của họ đánh
giá. Cùng một người thầy thì sự đánh giá của học trò xấu tốt đều có cả.
Và ở một xã hội mà truyền thống "tôn sư trọng đạo" đã bị tầm thường hóa
(do cả nguyên nhân từ người thầy, từ học trò, từ cơ quan quản lý giáo
dục và từ xã hội) thì những chuyện như thế không có gì là lạ.
Có rất nhiều các thầy cô giáo bất bình với VTV, theo tôi điều đó cũng là
bình thường, bởi lẽ clip này được đăng tải vào một thời điểm mà xã hội
An-nam - dù thích hay không thích - đang kỷ niệm này truyền thống của
thầy cô.
Bên cạnh luồng dư luận "bức xúc hộ" các thầy cô, thì có một luồng dư
luận cho rằng điều này là đúng, bởi lẽ ngành giáo dục có "một bộ phận
không nhỏ" thầy cô như thế, thậm chí cho rằng các thầy cô đạo đức giả
nên kêu lên để giả vờ họ là người đàng hoàng, thế nên clip này là nói
đúng thực tế.
Ở một xã hội mà các giá trị giáo dục bị đảo lộn, từ hệ thống quản lý đến
nhận thức của cần-lao, thì nhan nhản những "con sâu thầy cô" là điều
khó tránh khỏi. Nhưng còn đó có rất nhiều các thầy cô tâm huyết với
nghề, có lòng tự trọng nghề nghiệp và là tấm gương sáng cho các thế hệ
học trò. Chẳng hạn người đăng tải clip này đầu tiên trên FB là bạn tôi,
một người thầy đã và đang đào tạo ra các thầy cô giáo, là một người thầy
chân chính và được các thế hệ học trò của anh kính trọng.
Thế nên, những người đang "xỉa xói" các thầy cô giáo theo kiểu "vơ đũa
cả nắm" nên tự vấn lại bản thân. Bởi lẽ, trong cuộc đời một con người,
ai cũng sẽ có một "người thầy" của mình. Cho dù có những người nói rằng,
họ chẳng học được cái gì ở hệ thống giáo dục An-nam, mà "thầy" của họ
là internet, là google,... thì họ cũng nên hiểu rằng, không tự nhiên có
những tài nguyên tri thức đó cho họ học hỏi. Đặc biệt là đám người mà
ngoại ngữ chỉ biết mỗi 2 từ hello và i love you. Phần lớn, những tài
nguyên tri thức trên mạng intetnet, lẫn trong sách báo của xứ An-nam,
đều do các thầy cô tập hợp từ tri thức của nhân loại và Việt hóa cho các
bạn.
Cuối cùng, cá nhân tôi đánh giá rằng, những người đang ném đá các giá
trị của thầy cô giáo (mà trong đó có rất nhiều bạn làm nghề giáo) thì họ
là những người thiếu tri thức và cực đoan với cuộc sống. Bởi lẽ, họ
không phân biệt nổi mối quan hệ "thầy - trò" và mối quan hệ "người dạy -
người học" trong nền giáo dục hiện nay.
Ngẫn thế, thì biết gì mà bi-bô đánh giá về giá trị, về đạo đức của thầy
cô. Đã si-da tốt nhất đừng xông pha hiến máu. Tôi thật!!!
Theo blog Baron Trịnh
http://bolapquechoa.blogspot.ca/2014/11/vu-nhat-xuong-cho-thay-oi-ieu-can-noi.html
Cá nhân tôi thấy clip này là bình thường. Bởi lẽ, theo quan điểm của tôi, giá trị của người thầy, người cô là do chính học trò của họ đánh giá. Cùng một người thầy thì sự đánh giá của học trò xấu tốt đều có cả. Và ở một xã hội mà truyền thống "tôn sư trọng đạo" đã bị tầm thường hóa (do cả nguyên nhân từ người thầy, từ học trò, từ cơ quan quản lý giáo dục và từ xã hội) thì những chuyện như thế không có gì là lạ.
Theo blog Baron Trịnh
http://bolapquechoa.blogspot.ca/2014/11/vu-nhat-xuong-cho-thay-oi-ieu-can-noi.html
TƯỞNG NĂNG TIẾN* QUỐC HỘI
Cầu Tiêu & Quốc Hội
Wed, 11/19/2014 - 02:31 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Cách tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội Việt nam có quá
nhiều điều bất cập, có lẽ đấy chính là nguyên nhân khiến cho kết quả
việc lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội là một việc làm vô ích và không có
hiệu quả như mong muốn. Kết quả cuối cùng thì cũng đã thấy, tức là
chẳng có ai mất chức, hay bị cách chức như nhiều người kỳ vọng, nghĩa là
mọi cái vẫn giữ y nguyên.
Tôi có việc phải trở lại Singapore, chút xíu. Ai nói gì thì nói, tôi cứ Vietnam Airlines mà chọn mặt gửi vàng.
Đi hãng hàng không của ta, ít ra, cũng có ba cái lợi: khỏi
phải nói tiếng nước người, được nghe mọi thông báo của phi
hành đoàn bằng tiếng nước mình, và vừa bước chân vào khoang
máy bay là các em tiếp viên phát ngay cho vài ba tờ báo tiếng
Việt. Đọc báo nhà nước không chỉ đỡ mệt mà còn thấy khoẻ
thêm vì thường chỉ có những tin tức (cùng hình ảnh) vô cùng
lạc quan về đồng bào và tổ quốc.
Y như rằng, ngay trang đầu đã có tin vui:
8h45 sáng, thay mặt ban kiểm phiếu, Trưởng ban Đỗ Văn Chiến đã
lần lượt công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh chủ
chốt...
Chủ tịch Quốc hội nhận định, những vị trong danh sách lấy phiếu
đều có trọng trách liên quan tới vấn đề lớn. “Đối với những lĩnh vực
nóng như ngân hàng, giáo dục, y tế, xây dựng thì Quốc hội đòi hỏi trách
nhiệm cao hơn. Phiếu tín nhiệm cao của Quốc hội là sự động viên khích lệ
đồng thời là sự đánh giá kết quả đất nước đạt được thời gian qua. Còn
phiếu tín nhiệm thấp thể hiện sự đòi hỏi nghiêm túc đối với người được
lấy phiếu để các vị này có thể hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao”,
Chủ tịch Quốc hội nhận xét.
Cũng theo ông, Quốc hội đã hoàn thành trọng trách nhân dân cả
nước giao về đánh giá tín nhiệm bước đầu. Đây sẽ là cơ sở để các lần sau
rút kinh nghiệm khi tiến hành quy trình này ở các cấp HĐND.
“Kết quả cuối cùng rất tốt”, người đứng đầu cơ quan lập pháp chốt.
Thật là là “phấn khởi” và yên tâm biết mấy: “Quốc hội đã hoàn
thành trọng trách nhân dân cả nước giao về đánh giá tín nhiệm bước đầu”
và tất cả “47 chức danh chủ chốt” đều vẫn được tín nhiệm như
thường, dù tỉ số (thấp/cao) cũng có xê xích phần nào hay chút
đỉnh.
Phải uống mừng với được, dù chỉ là mừng thầm. Đợi máy bay bình phi, tôi nói nhỏ với một em tiếp viên:
- Cho chú hai chai Vodka Smirnoff nha.
Nói là “chai” cho nó oai, chớ dung tích chỉ 50ml nhỏ xíu xiu
hà, ngó thấy “thương” lắm. Nốc xong hết trơn vẫn chả thấy bõ
bèn gì mà niềm vui (về “trọng trách do nhân dân giao phó cho
quốc hội đã hoàn thành”) vẫn cứ còn âm ỉ nên tôi nói khẽ với
một em tiếp viên khác, vừa chợt đến:
- Khi nào rảnh, cho chú hai lon Heineken.
- Hai lận sao?
- Thì khỏi mất công cháu phải đi tới đi lui, mỏi cẳng, chớ sao!
Tôi nhâm nhi đậu phụng với bia xong thì sự “hồ hởi” cũng
nguôi dần nên ngủ thẳng một giấc cho đến khi máy bay đáp xuống
phi trường Changi, Singapore.
Đến lúc này mới thấy là bụng hơi nằng nặng. Đúng là mình
có hơi quá chén nhưng chả lẽ trước nềm vui “vỡ oà” của cả
nước mà mình giữ thái độ lạnh lùng (không uống giọt nào) thì
coi sao được, đúng không.
Vừa bước ra khỏi máy bay là đi ngay đến W.C. Dù hơi vội vã
trong việc “xả bầu tâm sự” nhưng tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên
là sao cầu tiêu, cầu tiểu của họ trắng tinh và sạch bóng vậy
nè – Trời?
Phần lớn restroom ở trong tất cả những sân bay quốc
tế đều sạch sẽ nhưng sạch quá cỡ thợ mộc, sạch như lau như li
thì thiệt là chưa từng thấy, và có lẽ chỉ có ở cái phi
trường này thôi.
Tôi chỉ bớt kinh ngạc khi bước ra, và nhìn thấy trên bức
tường bên phải lối đi có bức hình một phụ nữ chừng đã đứng
tuổi (đeo bảng tên Loh Kam Beng) đang cầm chổi tươi cười, với câu
chào (“Good Afternoon”) cùng hàng chữ “Please rate our toilet - Xin
chấm điểm nhà vệ sinh của chúng tôi,” và bên dưới là 5 cái
nút tròn ghi thang điểm theo thứ tự: tuyệt hảo, tốt, trung
bình, tệ, rất tệ.
Thường dân Loh Kam Beng và thường dân Tưởng Năng Tiến ở phi trường Changi. Ảnh: NCB
Chỉ có chuyện vệ sinh trong cầu tiêu mà sao thiên hạ lại
thực hiện một cách đàng hoàng, rõ ràng, minh bạch, và tiện
dụng dữ vậy cà? Không dưng tôi bỗng nhớ lại chuyện lấy phiếu
tín nhiệm (kín) của quốc hội ở nước ta, bữa rồi, và chợt cảm thấy có hơi ... ngường ngượng!
Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng phát biểu trước QH sáng 14.11 - Ảnh: Ngọc Thắng
Nhìn kỹ bức ảnh với nét tự tín và tươi vui của người phụ
trách việc chùi rửa phòng tiêu tiểu ở Singapore, rồi liên tưởng
đến bức hình (chụp sáng 14 tháng 11) của ông Chủ Tịch Quốc
Hội Việt Nam – trông âu lo và ngượng ngập ra mặt – khiến tôi
cũng có đôi chút ... lăn tăn: Quả là không có nghề nào đê tiện
hay hèn hạ, chỉ có tư cách của người hành nghề mới là điều
cần phải quan tâm.
Thì cũng “lăn tăn đôi chút” thế thôi chớ một anh già nát
rượu (cỡ tôi) mà “quan tâm” nhiều quá về chuyện triều đình (e)
cũng không... tiện lắm. Không khéo lại còn rách việc thêm ấy
chứ. Phát biểu linh tinh là tù tội như không chớ đâu phải
chuyện giỡn, mấy cha?
Chui vào taxi, lục xục một hồi mới kiếm ra cái địa chỉ của
nơi tạm trú ngụ lần rồi: Hotel 81 Gold, 20 Lorong 20 Geyleng,
Singapore 398738.
Gọi là khách sạn cho nó sang chứ thực ra đây chỉ là một
thứ phòng ngủ rẻ tiền, với một cái giường bé xíu xiu, và
cái phòng tắm nhỏ chưa bằng một nửa ... cái giường. Đất ở
Singapore không rẻ, và riêng ở Phố Đèn Đỏ Geyleng (chắc) phải
mắc cũng cỡ kim cương nên phòng chật, và giá cả “không nhân
nhượng” là chuyện tất nhiên.
Biết vậy nhưng tôi vẫn muốn trở lại khu này, trở lại những
quán cà phê ở hai con hẻm 20 và 21 (Lorong 20 & 21) với hy
vọng được gặp lại những khuôn mặt đồng hương cũ – những phụ
nữ mà tôi đã có dịp tiếp chuyện mấy tuần lễ trước, và đã
giới thiệu họ (cũng trên diễn đàn này) như Những Cánh Bèo Trôi Ở Geyleng.
Sở dĩ họ trôi dạt đến đây vì Việt Nam không còn chỗ chen
chân cho những người bán hàng rong hay bán vé số nữa. Singapore
tuy cũng chật hẹp nhưng lòng người, xem chừng,vẫn còn rộng
rãi.
Đây là một đảo quốc giầu có, với lợi tức bình quân đầu
người hàng năm cao nhất nhì thế giới. Dân bản xứ không ai phải
đi làm điếm, bán hàng rong, hoặc đi ăn xin nên họ “nhường” việc
làm này cho những người Việt tha hương – đang bị đẩy đến bước
đường cùng.
Người Singapore không chỉ hào phóng mà còn vô cùng cởi mở.
Họ chấp nhận đến bốn thứ ngôn ngữ chính thức khác nhau: tiếng
Anh, tiếng Mã, tiếng Tầu, và tiếng Tamil.
Bán giấy chùi miệng là một nghề tương đối mới mẻ của
người Việt ở Singapore. (Cũng có người bán vé số nhưng rất ít
vì ai cũng ngại phải “ngậm” những tấm vé không bán kịp trước
giờ sổ). Dù thời hạn cho phép “du lịch” chỉ trong vòng một
tháng, mỗi một chuyến đi – sau khi trừ chi phí máy bay và ăn ở –
trung bình một người chịu khó đi bán không ngừng (chừng mười
hai tiếng mỗi ngày) có thể để dành được từ tám trăm đến một
ngàn đô. Một năm nếu đi được vài lần thì mang về được ba bốn
ngàn Mỹ Kim.
Thực khách ở Singapore không ai cần giấy chùi miệng nhưng họ
vẫn vui vẻ (và tế nhị) chia sẻ vài đồng tiền lẻ với những
kẻ không may ở nước láng giềng, qua hình thức bán/mua. So với
dịch vụ xuất khẩu lao động rất nhiêu khê, tốn kém, phải cầm
cố nhà cửa, và bị lường gạt đều đều thì “thương vụ” bán
giấy chùi miệng (rất lương thiện này) quả một là phát kiến
thần tình, rất đáng được hoan nghênh.
Tắm rửa xong, tôi ngủ một giấc cho đến khuya rồi lò dò ra
quán đầu đường kêu hai chai bia Carlsberg và một đĩa cơm gà Hải
Nam. Cơm giá chỉ ba đô Singapore thôi, nghĩa là chưa tới 2 đồng 50
xu tính theo Mỹ Kim bản vị. Chỉ có điều là hơi ít nhưng với
tôi thì ăn không thành vấn đề, uống mới là ... chủ yếu!
Chưa kịp nhấp môi đã nghe tiếng gọi:
- Ủa, chú còn ở Sing hả? Qua đây ngồi chơi với tụi con đi...
Bàn góc bên kia già trẻ toàn là đàn bà, con gái. Tôi cầm
chai bia xề lại, với cái cảm giác dễ chịu như vừa gặp lại
người thân:
- Sao không ai làm ăn buôn bán gì ráo trọi mà tụ tập hết cả xóm ở đây vậy cà?
- Tụi con ngồi chơi với con Bẩy chút xíu, mai nó về rồi.
- Sao vậy?
- Visa hết hạn chú à.
- Kỳ này Bẩy đi kiếm “bộn” không?
- Không dám “bộn” đâu! Trừ tiền ăn, tiền ghép phòng chưa chắc
còn ngàn đô mà đi bộ ròng rã cả tháng trời thiếu điều muốn
“gớt” cái cẳng ra luôn. Làm gái như hai con này mới khá, chớ
bán giấy thì cũng như đi ăn xin thôi, được nhiêu đó cũng mừng
muốn chết rồi.
- Đợt sau qua lại nhằm mùa Noel với tết Tây chắc đỡ hơn nhiều.
- Không chắc có qua được nữa không đó. Nghe nói họ sắp “xiết”
lại rồi. Người mình qua mỗi lúc một đông và qua liền liền như
vậy mà ai chịu cho thấu ...
- Thiệt, nếu không qua đây được nữa thì ở nhà riết biết làm gì ra mà ăn ...
Câu chuyện giữa chúng tôi dù lan man tới đâu, cuối cùng, vẫn
dẫn vào một cái ngõ cụt. Tương lai, rõ ràng, không rộng mở cho
những cô gái và những người đàn bà Việt Nam mà tôi gặp lại
khuya nay – ở Geyleng.
Họ là những người mẹ, người chị đã tảo tần thương khó để giữ cho dân tộc này chưa đến nỗi bị diệt vong. Tôi nhớ là đã có đọc (đâu đó) câu này của Solzhenitsyn khi ông nhắc đến phụ nữ của nước Nga, vào thời Stalin.
Ở Geleyng dường như người ta không ngủ nhưng dù sao thì đêm
vẫn cứ tàn dần, rồi trời bắt đầu hửng sáng. Chúng tôi,
cuối cùng, rồi chia tay. Ai đi đường nấy.
Khu Đèn Đỏ Geyleng. Ảnh: NCB.
Tôi mệt mỏi lê bước trở lại khách sạn mà lòng nặng trĩu.
Tuy uống khá nhiều bia nhưng trong cái váng vất của hơi men
tôi vẫn cứ còn nhớ đến “kết quả tốt đẹp của cuộc lấy phiếu tín
nhiệm của quốc hội, đối với 47 chức danh chủ chốt” vừa qua. Tín
nhiệm cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp gì cũng vẫn cứ còn tín
nhiệm như thường. Nghĩa là vẫn vẫn ... y như cũ. Tuyệt nhiên
chả có chút thay đổi nào ráo trọi.
Lại chợt nghĩ đến lời của ông T.B.T Nguyễn Phú Trọng:
“Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến
hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.
”Nhà đương cuộc Hà Nội vẫn chưa tiến đến giai đoạn đổi mới
(thật) nên sẽ còn rất nhiều thế hệ con dân Việt Nam đến Geyleng
để bán thân, hay bán giấy, nếu người dân của đất nước láng
giềng vẫn còn tiếp tục mở rộng vòng tay chào đón chúng ta.
Thiệt là quá đã, và quá đáng!
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Cách tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội Việt nam có quá
nhiều điều bất cập, có lẽ đấy chính là nguyên nhân khiến cho kết quả
việc lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội là một việc làm vô ích và không có
hiệu quả như mong muốn. Kết quả cuối cùng thì cũng đã thấy, tức là
chẳng có ai mất chức, hay bị cách chức như nhiều người kỳ vọng, nghĩa là
mọi cái vẫn giữ y nguyên.
Tôi có việc phải trở lại Singapore, chút xíu. Ai nói gì thì nói, tôi cứ Vietnam Airlines mà chọn mặt gửi vàng.
Đi hãng hàng không của ta, ít ra, cũng có ba cái lợi: khỏi
phải nói tiếng nước người, được nghe mọi thông báo của phi
hành đoàn bằng tiếng nước mình, và vừa bước chân vào khoang
máy bay là các em tiếp viên phát ngay cho vài ba tờ báo tiếng
Việt. Đọc báo nhà nước không chỉ đỡ mệt mà còn thấy khoẻ
thêm vì thường chỉ có những tin tức (cùng hình ảnh) vô cùng
lạc quan về đồng bào và tổ quốc.
Y như rằng, ngay trang đầu đã có tin vui:
8h45 sáng, thay mặt ban kiểm phiếu, Trưởng ban Đỗ Văn Chiến đã
lần lượt công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh chủ
chốt...
Chủ tịch Quốc hội nhận định, những vị trong danh sách lấy phiếu
đều có trọng trách liên quan tới vấn đề lớn. “Đối với những lĩnh vực
nóng như ngân hàng, giáo dục, y tế, xây dựng thì Quốc hội đòi hỏi trách
nhiệm cao hơn. Phiếu tín nhiệm cao của Quốc hội là sự động viên khích lệ
đồng thời là sự đánh giá kết quả đất nước đạt được thời gian qua. Còn
phiếu tín nhiệm thấp thể hiện sự đòi hỏi nghiêm túc đối với người được
lấy phiếu để các vị này có thể hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao”,
Chủ tịch Quốc hội nhận xét.
Cũng theo ông, Quốc hội đã hoàn thành trọng trách nhân dân cả
nước giao về đánh giá tín nhiệm bước đầu. Đây sẽ là cơ sở để các lần sau
rút kinh nghiệm khi tiến hành quy trình này ở các cấp HĐND.
“Kết quả cuối cùng rất tốt”, người đứng đầu cơ quan lập pháp chốt.
Thật là là “phấn khởi” và yên tâm biết mấy: “Quốc hội đã hoàn
thành trọng trách nhân dân cả nước giao về đánh giá tín nhiệm bước đầu”
và tất cả “47 chức danh chủ chốt” đều vẫn được tín nhiệm như
thường, dù tỉ số (thấp/cao) cũng có xê xích phần nào hay chút
đỉnh.
Phải uống mừng với được, dù chỉ là mừng thầm. Đợi máy bay bình phi, tôi nói nhỏ với một em tiếp viên:
- Cho chú hai chai Vodka Smirnoff nha.
Nói là “chai” cho nó oai, chớ dung tích chỉ 50ml nhỏ xíu xiu
hà, ngó thấy “thương” lắm. Nốc xong hết trơn vẫn chả thấy bõ
bèn gì mà niềm vui (về “trọng trách do nhân dân giao phó cho
quốc hội đã hoàn thành”) vẫn cứ còn âm ỉ nên tôi nói khẽ với
một em tiếp viên khác, vừa chợt đến:
- Khi nào rảnh, cho chú hai lon Heineken.
- Hai lận sao?
- Thì khỏi mất công cháu phải đi tới đi lui, mỏi cẳng, chớ sao!
Tôi nhâm nhi đậu phụng với bia xong thì sự “hồ hởi” cũng
nguôi dần nên ngủ thẳng một giấc cho đến khi máy bay đáp xuống
phi trường Changi, Singapore.
Đến lúc này mới thấy là bụng hơi nằng nặng. Đúng là mình
có hơi quá chén nhưng chả lẽ trước nềm vui “vỡ oà” của cả
nước mà mình giữ thái độ lạnh lùng (không uống giọt nào) thì
coi sao được, đúng không.
Vừa bước ra khỏi máy bay là đi ngay đến W.C. Dù hơi vội vã
trong việc “xả bầu tâm sự” nhưng tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên
là sao cầu tiêu, cầu tiểu của họ trắng tinh và sạch bóng vậy
nè – Trời?
Phần lớn restroom ở trong tất cả những sân bay quốc
tế đều sạch sẽ nhưng sạch quá cỡ thợ mộc, sạch như lau như li
thì thiệt là chưa từng thấy, và có lẽ chỉ có ở cái phi
trường này thôi.
Tôi chỉ bớt kinh ngạc khi bước ra, và nhìn thấy trên bức
tường bên phải lối đi có bức hình một phụ nữ chừng đã đứng
tuổi (đeo bảng tên Loh Kam Beng) đang cầm chổi tươi cười, với câu
chào (“Good Afternoon”) cùng hàng chữ “Please rate our toilet - Xin
chấm điểm nhà vệ sinh của chúng tôi,” và bên dưới là 5 cái
nút tròn ghi thang điểm theo thứ tự: tuyệt hảo, tốt, trung
bình, tệ, rất tệ.
Thường dân Loh Kam Beng và thường dân Tưởng Năng Tiến ở phi trường Changi. Ảnh: NCB
Chỉ có chuyện vệ sinh trong cầu tiêu mà sao thiên hạ lại
thực hiện một cách đàng hoàng, rõ ràng, minh bạch, và tiện
dụng dữ vậy cà? Không dưng tôi bỗng nhớ lại chuyện lấy phiếu
tín nhiệm (kín) của quốc hội ở nước ta, bữa rồi, và chợt cảm thấy có hơi ... ngường ngượng!
Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng phát biểu trước QH sáng 14.11 - Ảnh: Ngọc Thắng
Nhìn kỹ bức ảnh với nét tự tín và tươi vui của người phụ
trách việc chùi rửa phòng tiêu tiểu ở Singapore, rồi liên tưởng
đến bức hình (chụp sáng 14 tháng 11) của ông Chủ Tịch Quốc
Hội Việt Nam – trông âu lo và ngượng ngập ra mặt – khiến tôi
cũng có đôi chút ... lăn tăn: Quả là không có nghề nào đê tiện
hay hèn hạ, chỉ có tư cách của người hành nghề mới là điều
cần phải quan tâm.
Thì cũng “lăn tăn đôi chút” thế thôi chớ một anh già nát
rượu (cỡ tôi) mà “quan tâm” nhiều quá về chuyện triều đình (e)
cũng không... tiện lắm. Không khéo lại còn rách việc thêm ấy
chứ. Phát biểu linh tinh là tù tội như không chớ đâu phải
chuyện giỡn, mấy cha?
Chui vào taxi, lục xục một hồi mới kiếm ra cái địa chỉ của
nơi tạm trú ngụ lần rồi: Hotel 81 Gold, 20 Lorong 20 Geyleng,
Singapore 398738.
Gọi là khách sạn cho nó sang chứ thực ra đây chỉ là một
thứ phòng ngủ rẻ tiền, với một cái giường bé xíu xiu, và
cái phòng tắm nhỏ chưa bằng một nửa ... cái giường. Đất ở
Singapore không rẻ, và riêng ở Phố Đèn Đỏ Geyleng (chắc) phải
mắc cũng cỡ kim cương nên phòng chật, và giá cả “không nhân
nhượng” là chuyện tất nhiên.
Biết vậy nhưng tôi vẫn muốn trở lại khu này, trở lại những
quán cà phê ở hai con hẻm 20 và 21 (Lorong 20 & 21) với hy
vọng được gặp lại những khuôn mặt đồng hương cũ – những phụ
nữ mà tôi đã có dịp tiếp chuyện mấy tuần lễ trước, và đã
giới thiệu họ (cũng trên diễn đàn này) như Những Cánh Bèo Trôi Ở Geyleng.
Sở dĩ họ trôi dạt đến đây vì Việt Nam không còn chỗ chen
chân cho những người bán hàng rong hay bán vé số nữa. Singapore
tuy cũng chật hẹp nhưng lòng người, xem chừng,vẫn còn rộng
rãi.
Đây là một đảo quốc giầu có, với lợi tức bình quân đầu
người hàng năm cao nhất nhì thế giới. Dân bản xứ không ai phải
đi làm điếm, bán hàng rong, hoặc đi ăn xin nên họ “nhường” việc
làm này cho những người Việt tha hương – đang bị đẩy đến bước
đường cùng.
Người Singapore không chỉ hào phóng mà còn vô cùng cởi mở.
Họ chấp nhận đến bốn thứ ngôn ngữ chính thức khác nhau: tiếng
Anh, tiếng Mã, tiếng Tầu, và tiếng Tamil.
Bán giấy chùi miệng là một nghề tương đối mới mẻ của
người Việt ở Singapore. (Cũng có người bán vé số nhưng rất ít
vì ai cũng ngại phải “ngậm” những tấm vé không bán kịp trước
giờ sổ). Dù thời hạn cho phép “du lịch” chỉ trong vòng một
tháng, mỗi một chuyến đi – sau khi trừ chi phí máy bay và ăn ở –
trung bình một người chịu khó đi bán không ngừng (chừng mười
hai tiếng mỗi ngày) có thể để dành được từ tám trăm đến một
ngàn đô. Một năm nếu đi được vài lần thì mang về được ba bốn
ngàn Mỹ Kim.
Thực khách ở Singapore không ai cần giấy chùi miệng nhưng họ
vẫn vui vẻ (và tế nhị) chia sẻ vài đồng tiền lẻ với những
kẻ không may ở nước láng giềng, qua hình thức bán/mua. So với
dịch vụ xuất khẩu lao động rất nhiêu khê, tốn kém, phải cầm
cố nhà cửa, và bị lường gạt đều đều thì “thương vụ” bán
giấy chùi miệng (rất lương thiện này) quả một là phát kiến
thần tình, rất đáng được hoan nghênh.
Tắm rửa xong, tôi ngủ một giấc cho đến khuya rồi lò dò ra
quán đầu đường kêu hai chai bia Carlsberg và một đĩa cơm gà Hải
Nam. Cơm giá chỉ ba đô Singapore thôi, nghĩa là chưa tới 2 đồng 50
xu tính theo Mỹ Kim bản vị. Chỉ có điều là hơi ít nhưng với
tôi thì ăn không thành vấn đề, uống mới là ... chủ yếu!
Chưa kịp nhấp môi đã nghe tiếng gọi:
- Ủa, chú còn ở Sing hả? Qua đây ngồi chơi với tụi con đi...
Bàn góc bên kia già trẻ toàn là đàn bà, con gái. Tôi cầm
chai bia xề lại, với cái cảm giác dễ chịu như vừa gặp lại
người thân:
- Sao không ai làm ăn buôn bán gì ráo trọi mà tụ tập hết cả xóm ở đây vậy cà?
- Tụi con ngồi chơi với con Bẩy chút xíu, mai nó về rồi.
- Sao vậy?
- Visa hết hạn chú à.
- Kỳ này Bẩy đi kiếm “bộn” không?
- Không dám “bộn” đâu! Trừ tiền ăn, tiền ghép phòng chưa chắc còn ngàn đô mà đi bộ ròng rã cả tháng trời thiếu điều muốn “gớt” cái cẳng ra luôn. Làm gái như hai con này mới khá, chớ bán giấy thì cũng như đi ăn xin thôi, được nhiêu đó cũng mừng muốn chết rồi.
- Đợt sau qua lại nhằm mùa Noel với tết Tây chắc đỡ hơn nhiều.
- Không chắc có qua được nữa không đó. Nghe nói họ sắp “xiết” lại rồi. Người mình qua mỗi lúc một đông và qua liền liền như vậy mà ai chịu cho thấu ...
- Thiệt, nếu không qua đây được nữa thì ở nhà riết biết làm gì ra mà ăn ...
Câu chuyện giữa chúng tôi dù lan man tới đâu, cuối cùng, vẫn
dẫn vào một cái ngõ cụt. Tương lai, rõ ràng, không rộng mở cho
những cô gái và những người đàn bà Việt Nam mà tôi gặp lại
khuya nay – ở Geyleng.
Họ là những người mẹ, người chị đã tảo tần thương khó để giữ cho dân tộc này chưa đến nỗi bị diệt vong. Tôi nhớ là đã có đọc (đâu đó) câu này của Solzhenitsyn khi ông nhắc đến phụ nữ của nước Nga, vào thời Stalin.
Ở Geleyng dường như người ta không ngủ nhưng dù sao thì đêm
vẫn cứ tàn dần, rồi trời bắt đầu hửng sáng. Chúng tôi,
cuối cùng, rồi chia tay. Ai đi đường nấy.
Khu Đèn Đỏ Geyleng. Ảnh: NCB.
Tôi mệt mỏi lê bước trở lại khách sạn mà lòng nặng trĩu.
Tuy uống khá nhiều bia nhưng trong cái váng vất của hơi men
tôi vẫn cứ còn nhớ đến “kết quả tốt đẹp của cuộc lấy phiếu tín
nhiệm của quốc hội, đối với 47 chức danh chủ chốt” vừa qua. Tín
nhiệm cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp gì cũng vẫn cứ còn tín
nhiệm như thường. Nghĩa là vẫn vẫn ... y như cũ. Tuyệt nhiên
chả có chút thay đổi nào ráo trọi.
Lại chợt nghĩ đến lời của ông T.B.T Nguyễn Phú Trọng:
“Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến
hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.
”Nhà đương cuộc Hà Nội vẫn chưa tiến đến giai đoạn đổi mới
(thật) nên sẽ còn rất nhiều thế hệ con dân Việt Nam đến Geyleng
để bán thân, hay bán giấy, nếu người dân của đất nước láng
giềng vẫn còn tiếp tục mở rộng vòng tay chào đón chúng ta.
Thiệt là quá đã, và quá đáng!
TƯỞNG NĂNG TIẾN* BIẾT TẠ ƠN AI?
Biết Tạ Ơn Ai
Sun, 11/23/2014 - 19:55 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Đời vẫn vốn không nương người thất thế.
Nguyễn Tất Nhiên
Những ngày cận lễ, tôi hân hạnh nhận được qua email một bài viết mới (“Thanksgiving 2014 & Dân Việt Tỵ Nạn”) của nhà văn Giao Chỉ. Xin được trích dẫn đôi đoạn ngắn để chia sẻ cùng độc giả:
Quả thực người Mỹ đã có đầy đủ lý do để giữ gìn truyền thống với ngày Lễ Tạ ơn vào tháng 11 mỗi năm. Lịch sử ghi rằng vào năm 1620 có một nhóm gia đình người Anh theo Tin Lành đã đi tìm đất mới để sống đời tự do tín ngưỡng...
Trải qua một năm đầu với mùa đông khắc nghiệt, không đủ thực
phẩm, không có đủ quần áo, không có nơi cư trú nên di dân đã phải chôn
cất 46 người. Qua năm sau, mùa gặt 1621 thành công, di dân cùng dân da
đỏ bản xứ tổ chức tiệc mừng lễ tạ ơn trên đất Mỹ.
Đó là ngày lễ hội đầu tiên tại Mỹ Châu và truyền thống còn mãi đến ngày nay...
Đạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau: Bất cứ ai tị nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư.
Như vậy chúng ta hiểu một cách giản dị là nếu đã đến Mỹ thì sẽ có
cơ hội trở thành người Mỹ. Căn cứ vào điều khoản của luật 1790, một đạo
luật khác đã ra đời năm 1975 có tên là Indochina Migration and Refugee
Act...
Khi miền Nam xụp đổ tháng 4-1975 đợt di tản đầu tiên của người
Việt đã mở ra một đầu cầu quan trọng cho lịch sử di dân từ Châu Á. Những
chuyến đi vô cùng mạo hiểm của thuyền nhân đã làm thành thiên anh hùng
ca của con đường đi tìm tự do với hàng ngàn con tàu May Flower của dân
Việt đã ra đi trong đó nhiều di dân không bao giờ đến được miền đất Hứa...
Và dù 5 ăn 5 thua con tàu Mayflower Việt Nam đã ra đi từ khắp miền duyên hải có khi chỉ là những chiếc ghe nhỏ bé mong manh.
Người Việt đã vì nhiều lý do để ra đi suốt bao nhiêu năm qua. Và
danh từ Boat People trong tự điển thế giới đã không còn cùng ý nghĩa xưa
cũ để chỉ những người sinh sống ở trên thuyền. Boat People ngày nay có
nghĩa là người Việt đã đi tìm tự do bằng thuyền vượt biển Nam Hải.
Lịch sử các cuộc di dân của nhân loại đã đưa đến nhận định rằng
Ta không thể lựa chọn sinh quán, nhưng ta có thể chọn lựa để sống ở miền
đất mà chúng ta yêu quý. (You cannot choose the land you birth, but you can choose the land you love).
Nhận định này, tiếc thay, không hẳn đã hoàn toàn đúng với
tuyệt đại đa số người Việt đang sống lây lất ở Cambodia. Phần
lớn họ không được chính phủ sở tại xem là cư dân hợp pháp nên
vẫn cứ là những boat people (bấp bênh sinh sống trên thuyền) ở Biển Hồ, và nhiều bến bờ khác nữa xuôi theo dòng sông Tonlé Sap.
Ảnh NCB – November 2014
Sau một chuyến đi thăm đồng hương ở đất nước này, nhà báo Văn Quang kết luận:
“Hầu hết là người Việt Nam lưu lạc qua Campuchia vì nhiều lý do khác
nhau. Nhưng tựu chung họ là những người đi kiếm sống ở một vùng tưởng
rằng đó là đất hứa... Trước hay sau họ cũng phải tìm đường đi thôi.
Nhưng đi đâu, làm cái gì để sống là những hòn đá tảng níu chân họ lại.
Rồi bao nhiêu đời vẫn cứ thay nhau lầm than cơ cực ở nơi xứ người này,
không có lối thoát. Họ vẫn chỉ có một ý nghĩ, ở đây họ còn có chiếc
thuyền, dù rách nát, nhưng họ vẫn có một nghề chài lưới kiếm sống qua
ngày. Đi nơi khác, chẳng biết bấu víu vào đâu!”
Ảnh NCB – November 2014
Trong bản tường trình (The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia) của MIRO
– Minority Rights Organization – phổ biến vào tháng 3 năm 2014, tổ
chức này đã ví von đám người Việt đang sinh sống nơi đây là
“những kẻ đang sống ngoài cửa thiên đàng.” Ngay giữa thiên đàng
của xứ Chùa Tháp (ngó bộ) cũng không hạnh phúc hay tự do gì
cho lắm, nói chi đến thân phận của những kẻ còn “kẹt” ở bên
ngoài.
Họ “kẹt” cái gì vậy Trời?
Xin thưa cái ... quốc tịch Cambodia.
Nhà văn Giao Chỉ cho biết “Đạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau: Bất cứ ai tị nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư.” Cao
Miên không phải là Mỹ Quốc nên xứ sở này không có luật lệ gì
đàng hoàng và rõ ràng, cùng với những lời lẽ “vàng ngọc”
như vậy.
Vô số người Việt sinh đẻ ở Miên còn chưa được cấp cái giấy
khai sinh, nói chi đến những thứ xa xỉ như thẻ căn cước hay quốc
tịch. Và không quốc tịch cũng có nghĩa là không có quyền
tiếp cận với tất cả những dịch vụ và quyền lợi tối thiểu
như người dân bản xứ: không y tế, không giáo dục, không có quyền
sở hữu đất đai hay tài sản …
Thực ra thì những người dân trôi sông lạc chợ này cũng chả
ai biết (hay dám) đòi hỏi quyền lợi gì ráo trọi. Tất cả chỉ
mong được sống cho nó yên thên thôi nhưng sự mong muốn giản dị
này – xem chừng – vẫn còn rất xa tầm tay của họ.
Chính phủ Cambodia đang tiến hành một cuộc kiểm tra dân số
mà nhiều quan sát viên cho rằng mục đích chính của nó là nhắm
vào đám dân Việt Nam đang ngụ cư ở đất nước này. Ông Sok Hieng –
công nhân xây cất, 33 tuổi, sinh ở Nam Vang nhưng có bố mẹ gốc
việt – bầy tỏ sự lo âu: “Tôi sợ rằng mình sẽ buộc phải rời
khỏi Cambodia vì tôi chưa có thẻ căn cước. Khi tôi đến Việt Nam,
họ coi tôi là người Miên; tôi ở giữa người Miên và người Việt.”
(Sean Teehan & Phak Seangly. “Vietnamese wary of planned census.” The Phnom Penh Post 26 August 2014).
Nỗi lo sợ của Sok Hieng đã trở thành sự thực vào hai tháng sau, vân theo The Phnom Penh Post,
số ra ngày 3 tháng 10 năm 2014: “Chỉ trong vòng một ngày 142
người di dân bất hợp pháp Việt Nam đã bị trả qua biên giới – Census deportations hit 142 in single day."
Cùng với sự bất an, nếp sống bấp bênh và nghèo khó là nét
nổi bật trong sinh hoạt hàng ngày của đa số dân Việt ở
Cambodia – theo như tường trình của thông tín viên Quốc Việt, RFA:
“Hầu hết người Việt sống trên làng nổi, theo bờ sông đều không có đất
đai sản xuất nên họ bắt buộc lăn lộn lén lút đi đánh bắt cá. Các gia
đình đều muốn cho con em có nơi chỗ ăn học để vươn lên trong xã hội và
đóng góp cho đất nước tuy nhiên tất cả đều không có khả năng.”
Nhiều năm trước, sau khi chia tay đồng bào mình ở Cambodia –
vào tháng 12 năm 2008 – nhà báo Văn Quang vẫn còn ngoái nhìn,
với rất nhiều ái ngại:
“Hình ảnh những bà cụ già lưng còng lom khom trên chiếc ghe mỏng
manh, những đứa trẻ con người Việt tháo láo mắt nhìn khách lạ, những gia
đình 7-8 đứa con sống lúc nhúc trên chiếc ghe rách tơi tả còn bám theo
tôi mãi.”
Đến hôm nay chúng tôi mới lò dò đến xứ sở này, và kinh
ngạc nhận ra rằng hình ảnh của “những bà cụ già lưng còng lom khom
trên chiếc ghe mỏng manh, những đứa trẻ con người Việt tháo láo mắt
nhìn khách lạ” vẫn còn nguyên vẹn như xưa. Thời gian, dường như,
không hề trôi trên những bến nước ở nơi đây.
Ảnh NCB. November 2014
Chúng tôi ghé làng nổi Kandal và Chong Kok, thuộc xã Phsar
Chhnang – tỉnh Kampong Chhnang – nằm ở phần đuôi của Biển Hồ (nơi
hiếm có khách du lịch nào lai vãng) vào cuối tháng 11 năm
2014. Theo lời ông trưởng thôn: nơi đây có 931 gia đình người
Việt, nhân khẩu chính xác là 4,760, tất cả đều là người Việt
hay gốc Việt.
Người Miên và người Chàm không sống trên ghe, và họ có quyền
lựa chọn một lối sống bình thường (trên bờ) như đa phần nhân
loại. Số dân Việt Nam đang trôi nổi ở xứ Chùa Tháp thì không.
Họ là thứ sắc dân vô tổ quốc (stateless ethnic Vietnamese, theo
như cách gọi chính thức của các N.G.O đang hoạt động ở
Cambodia) nên không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai, và
buộc phải chấp nhận một nếp sống rất bồng bềnh, và vô cùng
bấp bênh – như hiện cảnh.
Chúng tôi đi ghe vòng vòng thăm hỏi và trò chuyện với chừng
chục gia đình người Việt, những thuyền nhân (boat people) ở
Kampong Chhnang. Không ai chuẩn bị gì ráo trọi cho mùa
Thanksgiving này cả. Họ hoàn toàn không có chút khái niệm gì
về Lễ Tạ Ơn. Họ biết tạ ơn ai, và “tạ” về chuyện gì đây?
Ảnh NCB – November 2014
Đời vẫn vốn không nương người thất thế.
Nguyễn Tất Nhiên
Những ngày cận lễ, tôi hân hạnh nhận được qua email một bài viết mới (“Thanksgiving 2014 & Dân Việt Tỵ Nạn”) của nhà văn Giao Chỉ. Xin được trích dẫn đôi đoạn ngắn để chia sẻ cùng độc giả:
Quả thực người Mỹ đã có đầy đủ lý do để giữ gìn truyền thống với ngày Lễ Tạ ơn vào tháng 11 mỗi năm. Lịch sử ghi rằng vào năm 1620 có một nhóm gia đình người Anh theo Tin Lành đã đi tìm đất mới để sống đời tự do tín ngưỡng...
Trải qua một năm đầu với mùa đông khắc nghiệt, không đủ thực
phẩm, không có đủ quần áo, không có nơi cư trú nên di dân đã phải chôn
cất 46 người. Qua năm sau, mùa gặt 1621 thành công, di dân cùng dân da
đỏ bản xứ tổ chức tiệc mừng lễ tạ ơn trên đất Mỹ.
Đó là ngày lễ hội đầu tiên tại Mỹ Châu và truyền thống còn mãi đến ngày nay...
Đạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau: Bất cứ ai tị nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư.
Như vậy chúng ta hiểu một cách giản dị là nếu đã đến Mỹ thì sẽ có
cơ hội trở thành người Mỹ. Căn cứ vào điều khoản của luật 1790, một đạo
luật khác đã ra đời năm 1975 có tên là Indochina Migration and Refugee
Act...
Khi miền Nam xụp đổ tháng 4-1975 đợt di tản đầu tiên của người
Việt đã mở ra một đầu cầu quan trọng cho lịch sử di dân từ Châu Á. Những
chuyến đi vô cùng mạo hiểm của thuyền nhân đã làm thành thiên anh hùng
ca của con đường đi tìm tự do với hàng ngàn con tàu May Flower của dân
Việt đã ra đi trong đó nhiều di dân không bao giờ đến được miền đất Hứa...
Và dù 5 ăn 5 thua con tàu Mayflower Việt Nam đã ra đi từ khắp miền duyên hải có khi chỉ là những chiếc ghe nhỏ bé mong manh.
Người Việt đã vì nhiều lý do để ra đi suốt bao nhiêu năm qua. Và
danh từ Boat People trong tự điển thế giới đã không còn cùng ý nghĩa xưa
cũ để chỉ những người sinh sống ở trên thuyền. Boat People ngày nay có
nghĩa là người Việt đã đi tìm tự do bằng thuyền vượt biển Nam Hải.
Lịch sử các cuộc di dân của nhân loại đã đưa đến nhận định rằng
Ta không thể lựa chọn sinh quán, nhưng ta có thể chọn lựa để sống ở miền
đất mà chúng ta yêu quý. (You cannot choose the land you birth, but you can choose the land you love).
Nhận định này, tiếc thay, không hẳn đã hoàn toàn đúng với
tuyệt đại đa số người Việt đang sống lây lất ở Cambodia. Phần
lớn họ không được chính phủ sở tại xem là cư dân hợp pháp nên
vẫn cứ là những boat people (bấp bênh sinh sống trên thuyền) ở Biển Hồ, và nhiều bến bờ khác nữa xuôi theo dòng sông Tonlé Sap.
Ảnh NCB – November 2014
Sau một chuyến đi thăm đồng hương ở đất nước này, nhà báo Văn Quang kết luận:
“Hầu hết là người Việt Nam lưu lạc qua Campuchia vì nhiều lý do khác
nhau. Nhưng tựu chung họ là những người đi kiếm sống ở một vùng tưởng
rằng đó là đất hứa... Trước hay sau họ cũng phải tìm đường đi thôi.
Nhưng đi đâu, làm cái gì để sống là những hòn đá tảng níu chân họ lại.
Rồi bao nhiêu đời vẫn cứ thay nhau lầm than cơ cực ở nơi xứ người này,
không có lối thoát. Họ vẫn chỉ có một ý nghĩ, ở đây họ còn có chiếc
thuyền, dù rách nát, nhưng họ vẫn có một nghề chài lưới kiếm sống qua
ngày. Đi nơi khác, chẳng biết bấu víu vào đâu!”
Ảnh NCB – November 2014
Trong bản tường trình (The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia) của MIRO
– Minority Rights Organization – phổ biến vào tháng 3 năm 2014, tổ
chức này đã ví von đám người Việt đang sinh sống nơi đây là
“những kẻ đang sống ngoài cửa thiên đàng.” Ngay giữa thiên đàng
của xứ Chùa Tháp (ngó bộ) cũng không hạnh phúc hay tự do gì
cho lắm, nói chi đến thân phận của những kẻ còn “kẹt” ở bên
ngoài.
Họ “kẹt” cái gì vậy Trời?
Xin thưa cái ... quốc tịch Cambodia.
Nhà văn Giao Chỉ cho biết “Đạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau: Bất cứ ai tị nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư.” Cao
Miên không phải là Mỹ Quốc nên xứ sở này không có luật lệ gì
đàng hoàng và rõ ràng, cùng với những lời lẽ “vàng ngọc”
như vậy.
Vô số người Việt sinh đẻ ở Miên còn chưa được cấp cái giấy
khai sinh, nói chi đến những thứ xa xỉ như thẻ căn cước hay quốc
tịch. Và không quốc tịch cũng có nghĩa là không có quyền
tiếp cận với tất cả những dịch vụ và quyền lợi tối thiểu
như người dân bản xứ: không y tế, không giáo dục, không có quyền
sở hữu đất đai hay tài sản …
Thực ra thì những người dân trôi sông lạc chợ này cũng chả
ai biết (hay dám) đòi hỏi quyền lợi gì ráo trọi. Tất cả chỉ
mong được sống cho nó yên thên thôi nhưng sự mong muốn giản dị
này – xem chừng – vẫn còn rất xa tầm tay của họ.
Chính phủ Cambodia đang tiến hành một cuộc kiểm tra dân số
mà nhiều quan sát viên cho rằng mục đích chính của nó là nhắm
vào đám dân Việt Nam đang ngụ cư ở đất nước này. Ông Sok Hieng –
công nhân xây cất, 33 tuổi, sinh ở Nam Vang nhưng có bố mẹ gốc
việt – bầy tỏ sự lo âu: “Tôi sợ rằng mình sẽ buộc phải rời
khỏi Cambodia vì tôi chưa có thẻ căn cước. Khi tôi đến Việt Nam,
họ coi tôi là người Miên; tôi ở giữa người Miên và người Việt.”
(Sean Teehan & Phak Seangly. “Vietnamese wary of planned census.” The Phnom Penh Post 26 August 2014).
Nỗi lo sợ của Sok Hieng đã trở thành sự thực vào hai tháng sau, vân theo The Phnom Penh Post,
số ra ngày 3 tháng 10 năm 2014: “Chỉ trong vòng một ngày 142
người di dân bất hợp pháp Việt Nam đã bị trả qua biên giới – Census deportations hit 142 in single day."
Cùng với sự bất an, nếp sống bấp bênh và nghèo khó là nét
nổi bật trong sinh hoạt hàng ngày của đa số dân Việt ở
Cambodia – theo như tường trình của thông tín viên Quốc Việt, RFA:
“Hầu hết người Việt sống trên làng nổi, theo bờ sông đều không có đất
đai sản xuất nên họ bắt buộc lăn lộn lén lút đi đánh bắt cá. Các gia
đình đều muốn cho con em có nơi chỗ ăn học để vươn lên trong xã hội và
đóng góp cho đất nước tuy nhiên tất cả đều không có khả năng.”
Nhiều năm trước, sau khi chia tay đồng bào mình ở Cambodia –
vào tháng 12 năm 2008 – nhà báo Văn Quang vẫn còn ngoái nhìn,
với rất nhiều ái ngại:
“Hình ảnh những bà cụ già lưng còng lom khom trên chiếc ghe mỏng
manh, những đứa trẻ con người Việt tháo láo mắt nhìn khách lạ, những gia
đình 7-8 đứa con sống lúc nhúc trên chiếc ghe rách tơi tả còn bám theo
tôi mãi.”
Đến hôm nay chúng tôi mới lò dò đến xứ sở này, và kinh
ngạc nhận ra rằng hình ảnh của “những bà cụ già lưng còng lom khom
trên chiếc ghe mỏng manh, những đứa trẻ con người Việt tháo láo mắt
nhìn khách lạ” vẫn còn nguyên vẹn như xưa. Thời gian, dường như,
không hề trôi trên những bến nước ở nơi đây.
Ảnh NCB. November 2014
Chúng tôi ghé làng nổi Kandal và Chong Kok, thuộc xã Phsar
Chhnang – tỉnh Kampong Chhnang – nằm ở phần đuôi của Biển Hồ (nơi
hiếm có khách du lịch nào lai vãng) vào cuối tháng 11 năm
2014. Theo lời ông trưởng thôn: nơi đây có 931 gia đình người
Việt, nhân khẩu chính xác là 4,760, tất cả đều là người Việt
hay gốc Việt.
Người Miên và người Chàm không sống trên ghe, và họ có quyền
lựa chọn một lối sống bình thường (trên bờ) như đa phần nhân
loại. Số dân Việt Nam đang trôi nổi ở xứ Chùa Tháp thì không.
Họ là thứ sắc dân vô tổ quốc (stateless ethnic Vietnamese, theo
như cách gọi chính thức của các N.G.O đang hoạt động ở
Cambodia) nên không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai, và
buộc phải chấp nhận một nếp sống rất bồng bềnh, và vô cùng
bấp bênh – như hiện cảnh.
Chúng tôi đi ghe vòng vòng thăm hỏi và trò chuyện với chừng
chục gia đình người Việt, những thuyền nhân (boat people) ở
Kampong Chhnang. Không ai chuẩn bị gì ráo trọi cho mùa
Thanksgiving này cả. Họ hoàn toàn không có chút khái niệm gì
về Lễ Tạ Ơn. Họ biết tạ ơn ai, và “tạ” về chuyện gì đây?
Ảnh NCB – November 2014
THANH VÂN* TẤM THẺ BÀI
Tấm thẻ bài
Mười hai năm rồi em không gặp anh và sẽ không bao giờ gặp được anh nữa vì anh đã bỏ mình trong trại cải tạo đã sáu năm qua.
Sáng nay nhận được thơ bạn anh từ Quê Hương gởi sang, nói đã làm xong
nhiệm vụ em nhờ, đã đưa được hài cốt của anh từ Vĩnh Phú về Huế, nơi anh
đã sinh ra, đã lớn lên, nơi chúng mình đã gặp nhau và thề nguyền sẽ yêu
nhau mãi mãi, em buồn vui lẫn lộn.
Anh ơi, em vui vì biết anh đã về lại được Quê Hương nhưng em xót xa khi
đọc đến đoạn bạn anh viết về những gian nan phải vượt qua khi đi tìm mộ
anh, vì tất cả chỉ là núi rừng hoang dại, mổi người tù chết đi chỉ được
vùi sơ với miếng đá nhỏ ghi tên họ và ngày lìa đời cắm trên nấm mộ
thấp.
Đau
đớn nhất cho em là khi đọc đến đoạn bạn anh kể xác thân đã rã mục của
anh vẫn còn được bao trong chiếc áo len em tặng anh ngày xưa, chiếc mền
dù bao phủ thân anh vẩn còn nguyên nhưng nơi xương cổ anh có mang
thêm sợi xích nhỏ với tầm thẻ bài bằng nhôm ghi rõ tên họ và lý do bị
quản thúc là "phản quốc"!
Anh ơi, đã chết rồi mà thân thể còn mang nặng nhục nhằn. Có chế độ nào dã man hơn chế độ Việt Nam ngày nay ?
Vậy mà ngày xưa anh đã hãnh diện biết bao về Quê Hương,Tổ Quốc của mình.
Thật ra thì Quê hương vẫn còn đó, hai tiếng Việt Nam vẩn sống trong tim
cả triệu người Việt xa xứ, nhưng với người ở lại, người đang trả nợ
máu, người đã chết vùi thây trong núi rừng thì hai tiếng Việt Nam đè
nặng tâm hồn.
Hôm nay đọc thơ bạn anh, nhớ lại đoạn
đường đã qua của mình, sao lòng em thật nhiều đau xót. Năm nay mùa Xuân
đến chậm vì mùa Đông không muốn đi, đã tháng ba tháng tư mà khí hậu vẩn
còn lạnh, nhưng cái lạnh ngoài trời có thấm chi với cái lạnh, cái buồn
của người Việt ly hương, mổi năm khi tháng tư về ?
Sáng nay em nhớ anh,em nhớ anh thật nhiều. Tháng tư làm em mất anh, giờ
tháng tư lại trở về, trên tay em cầm tấm thẻ bài có ghi tên họ và lý do
hai đứa mình xa nhau. Đau đớn quá anh nhỉ, hai tiếng "Phản Quốc" như
muôn ngàn lưởi dao đâm vào tim em.
Em
nhớ ngày nào, mổi lần đi hành quân về, anh đến thăm em, mắt môi rạng
rỡ. Mổi lần được huy chương là một ngày vui của hai đứa mình. Anh đến
khoe với em và hai đứa lại ra Đập Đá nhìn trăng, nghe tiếng sáo diều lơ
lửng trên không, anh mỉm cười hãnh diện vì sự thanh bình của Quê Hương,
cái thanh bình mà anh đã đem mạng sống ra để bảo vệ. Các huy chương đó
ngày nay lại là bản án tử hình của các anh.
Tháng tư là mùa Xuân phải không anh ?
Mùa Xuân ở đây cũng như mùa Xuân của Huế xưa. Nhà nào cũng có một vài
khóm hồng đang e ấp nở, nhà em lại có thêm cây anh đào đang rực đỏ với
nằng Xuân. Quê Hương người đẹp quá, nhưng sao lòng em vẩn thấy mất mát
ngậm ngùi.
Em đang ngồi yên với tấm thẻ bài nhục
nhã đau thương đã ôm ấp thân xác anh trong sáu năm qua dưới lòng huyệt
lạnh, và em đang thả hồn về ngày hai đứa mình còn nhau. Tiếng đàn réo
rắt ma quái, quyến rủ dị thường của người nhạc sĩ vô danh trong "Ru khúc
mộng thường" đưa em về lại những ngày xưa cũ, những êm đềm của một mùa
trăng xưa.
Ở đây không có tiếng sáo diều lơ lững
trên không, cũng không có những nữ sinh áo trắng mổi sáng từ Vĩ Dạ đi
ngang qua Đập Đá để đến trường nhưng tiếng đàn của người nghệ sĩ tài
hoa kia đã đưa em về lại Quê Hương, có trăng sáng, có trời xanh, có
mộng ước bình thường. Không hiểu sao sáng nay tiếng đàn ma quái đó ám
ảnh em, phải chi tất cả mọi người trên trái đất này đều yêu thơ, yêu
nhạc thì ngày nay mình đâu có mất nhau, anh chết sáu năm đâu phải mang
thêm tấm thẻ bài nhục nhã.
Với tiếng Tây ban cầm độc tấu cô đơn
nhưng đầy ắp tâm sự, em chắc người nhạc sĩ có cái tên cũng lạ như
tiếng đàn phải có một nội tâm thật đẹp, một tâm sự thật buồn. Tên ông ta
là "Vô Thường". Phải rồi anh nhỉ, tất cả chỉ là hư vô, tất cả chỉ là
bình thường, chỉ có tình người, tình Quê Hương là vĩnh cửu.
Nếu tiếng đàn của người Tây ban Nha
mang âm điệu hoang dại của một dân tộc nồng nàn ham sống, thì tiếng tây
ban cầm của Vô Thường mang âm giai của một người lạc lõng, một kẻ du
mục, một kẻ đang đi tìm miền đất hứa. Tiếng đàn khi thổn thức, khi vỗ
về, khi chia xẻ thương đau, tiếng đàn mang dư âm của tiếc thương nhung
nhớ, của tình yêu đã có và đã bay xa, của Quê Hương hiện hữu nhưng quá
tầm tay với, của những mộng ước bình thường nhưng đã vời vợi xa bay.
Anh ơi, tiếng đàn ray rứt của người
nhạc sĩ vô danh kia đã cho em ý thức được sự mất mát lớn lao của đời em,
tấm thẻ bài nhục nhã trong tay em đã nói lên sự uất hận ngàn đời của
người dân Việt phải xa lìa tổ quốc thân yêu.
Quê Hương vẫn còn đó nhưng đã nhuộm
màu, thành phố Huế của chúng mình còn đó nhưng đã đổ nát quạnh hiu. Nếu
biết không có ngày trở lại, thì ngày xưa em đã rủ anh đi khắp hang cùng
ngõ hẻm, đã yêu thương tâm sự với anh nhiều hơn. Quê Hương người tuy đẹp
tuy giàu nhưng vẩn thiếu cái đậm đà giữa những người cùng huyết thống,
thiếu khói lam chiều trên mái tranh xa, thiếu tiếng sáo diều lơ lửng
đêm trăng, thiếu tiếng hò mái đẩy, thiếu tiếng rao hàng trên sông vắng
mổi đêm khi khuya về sáng. Giờ chỉ còn lại đây tấm thẻ bài nhục nhằn của
anh, của những người ngày xưa đã lấy "Tổ Quốc" làm lẽ sống và giờ đã
chết vùi thây khắp các núi rừng gần trại tập trung với hai chữ "Phản
Quốc" đè nặng linh hồn.
Quê Hương! Quê Hương! Em đang nhớ nhung
hay đang thù hận đây ? Xưa em hãnh diện về Quê Hương gấm vóc bao nhiêu
thì giờ nhìn tấm thẻ bài khốn khổ với hai chữ "Phản Quốc" em lại thù
ghét Quê Hương bấy nhiêu.
Hãy trả lại cho em Quê Hương ngày cũ,
ngày nào còn lũ giặc đỏ, còn hai chữ "Phản Quốc" trên cổ các người ngã
ngựa thì ngày đó em còn xa lìa Quê Hương.
Lạy trời cho con giấc mộng bình thường,
cho còn tìm lại được quê xưa, ngày còn lá me bay, còn sân cỏ mướt chứ
không phải như bây giờ, sân cỏ làm nông trường, sức người thay máy móc,
nhiên liệu, trâu bò.
Em sẽ thay anh mang tấm thẻ bài vào cổ,
em sẽ mang nó với niềm hãnh diện vô biên của một người đã có người yêu
suốt đời hy sinh cho lý tưởng, em cũng mang nó để nhắc nhở những người
xa xứ hãy hướng về Quê Hương ngục tù khốn khổ mà làm một cái gì để thắp
sáng ngày về.
Thật ra thì đã mười hai năm qua, lòng
người đã có phần nào thay đổi. Tháng Tư vẫn mang đến ngậm ngùi, thương
tiếc nhưng rồi cuộc sống chạy theo đồng hồ, những nhu cầu cấp bách hàng
ngày đã làm tâm hồn nhụt dần chí khí. Phải chi những tấm thẻ bài có ghi
hai chữ "Phản Quốc" của các anh hùng đã hy sinh cho đất nước được gởi
qua cho mổi người xa xứ thì ngày về của kẻ ly hương chắc sẽ gần hơn.
Trong tận cùng linh hồn, em chắc người
dân nào khi xa quê cũng hoài vọng một ngày về, và dù có mất gốc đến đâu
thì cũng có một giờ phút trong đời mơ ước về lại quê xưa, thăm lại
ngôi nhà cũ.
Anh ơi, giờ em mới hiểu nỗi xúc động
tận cùng của bà giáo sư người Pháp dạy em năm em học lớp sáu. Bà đã khóc
khi hát cho chúng em nghe một bài nói về thành phố nơi bà đã sinh ra,
bài hát lời lẽ thật đơn sơ mộc mạc nhưng sao người nghe thấy ngậm ngùi
thổn thức. Bài hát chỉ có thế này:
Quand tout renaît à l’espérance
Et que l’hiver fut loin de nous
Quand la nature est reverdie
Quand l’hirondelle est de retour
J’aime à revoir ma Normandie
C’est le pays qui m’a donné le jour
Em tạm dịch là :
Khi nào hy vọng trở về
Và khi mùa Đông đã đi xa
Khi thiên nhiên trở lại xanh thẳm
Khi chim én trở về cùng ta
Tôi mơ ước nhìn lại Normandie
Là nơi tôi đã chào đời.
Anh ơi, tình hoài hương bàng bạc trong
lòng mọi dân tộc. Em cũng đã khóc khi hát lại bài này. Em không mơ ước
nhìn lại Normandie của bà giáo sư người Pháp nhưng em mơ ước nhìn lại
xứ Huế nghèo nàn, thơ mộng của em ngày xưa.
Em mơ ước nhìn lại một Việt Nam tự do đầy
tình người, một Việt Nam mà em sẽ hãnh diện mang tấm thẻ bài có ghi hai
chử "Phản Quốc" của anh để trở về đi trong lá me bay, trong giòng người
cùng huyết thống, cùng lý tưởng, vì anh ơi, dù muôn vàn thay đổi, em
muôn đởi vẫn là con bé Việt Nam thích lang thang khắp phố phường cho tóc
bay, cho hồn mơ mộng và cho lá rơi đầy trên vai trên áo. Còn ở đây,
cuộc sống sao quá vội vàng, bon chen, lừa lọc. Người ta yêu nhau cũng
vội, ghét nhau còn vội vàng hơn.
Mùa Xuân quê người, nhưng cũng là mùa
Đông của người xa xứ đang mất mát như em. Tiếng đàn tức tưởi cô đơn của
người nhạc sĩ vô danh cũng là tiếng khóc nghẹn ngào của người đã mất hết
niềm tin, chỉ còn lại Tấm Thẻ bài ghi lại một thời Hạnh Phúc Xưa và
đánh dấu một sự nhục nhằn khốn khổ của người ở lại ngày nay.
Cầm tấm thẻ bài bằng nhôm bóng loáng
trên tay, em liên tưởng đến trăm ngàn cái khác đang bị vùi sâu dưới
lòng đất mẹ cùng những người con yêu của Tổ Quốc. Em chợt nhớ đến hai
câu hát mở đầu trong bài Rêveries của Shumann:
"Ce soir dans le jardin du ciel
Les étoiles ont fleuri comme un bouquet d’argent"...
Em
hình dung ra một ngày gần đây, trăm ngàn tấm thẻ bài bằng nhôm đó sẽ
trở thành những bó hoa bằng bạc nở trên bầu trời để soi sáng và chỉ
đường cho những người con xa xứ trở về giải phóng Quê Hương.
Tháng 4 năm 1987
(Thương gởi hương hồn anh tôi đã chết ở trại cải tạo Vĩnh Phú,Bắc Việt tháng 11 năm 1983)
Thanh Vân
Mười hai năm rồi em không gặp anh và sẽ không bao giờ gặp được anh nữa vì anh đã bỏ mình trong trại cải tạo đã sáu năm qua.
Sáng nay nhận được thơ bạn anh từ Quê Hương gởi sang, nói đã làm xong
nhiệm vụ em nhờ, đã đưa được hài cốt của anh từ Vĩnh Phú về Huế, nơi anh
đã sinh ra, đã lớn lên, nơi chúng mình đã gặp nhau và thề nguyền sẽ yêu
nhau mãi mãi, em buồn vui lẫn lộn.
Anh ơi, em vui vì biết anh đã về lại được Quê Hương nhưng em xót xa khi
đọc đến đoạn bạn anh viết về những gian nan phải vượt qua khi đi tìm mộ
anh, vì tất cả chỉ là núi rừng hoang dại, mổi người tù chết đi chỉ được
vùi sơ với miếng đá nhỏ ghi tên họ và ngày lìa đời cắm trên nấm mộ
thấp.
Đau
đớn nhất cho em là khi đọc đến đoạn bạn anh kể xác thân đã rã mục của
anh vẫn còn được bao trong chiếc áo len em tặng anh ngày xưa, chiếc mền
dù bao phủ thân anh vẩn còn nguyên nhưng nơi xương cổ anh có mang
thêm sợi xích nhỏ với tầm thẻ bài bằng nhôm ghi rõ tên họ và lý do bị
quản thúc là "phản quốc"!
Anh ơi, đã chết rồi mà thân thể còn mang nặng nhục nhằn. Có chế độ nào dã man hơn chế độ Việt Nam ngày nay ?
Vậy mà ngày xưa anh đã hãnh diện biết bao về Quê Hương,Tổ Quốc của mình.
Thật ra thì Quê hương vẫn còn đó, hai tiếng Việt Nam vẩn sống trong tim
cả triệu người Việt xa xứ, nhưng với người ở lại, người đang trả nợ
máu, người đã chết vùi thây trong núi rừng thì hai tiếng Việt Nam đè
nặng tâm hồn.
Hôm nay đọc thơ bạn anh, nhớ lại đoạn
đường đã qua của mình, sao lòng em thật nhiều đau xót. Năm nay mùa Xuân
đến chậm vì mùa Đông không muốn đi, đã tháng ba tháng tư mà khí hậu vẩn
còn lạnh, nhưng cái lạnh ngoài trời có thấm chi với cái lạnh, cái buồn
của người Việt ly hương, mổi năm khi tháng tư về ?
Sáng nay em nhớ anh,em nhớ anh thật nhiều. Tháng tư làm em mất anh, giờ
tháng tư lại trở về, trên tay em cầm tấm thẻ bài có ghi tên họ và lý do
hai đứa mình xa nhau. Đau đớn quá anh nhỉ, hai tiếng "Phản Quốc" như
muôn ngàn lưởi dao đâm vào tim em.
Em
nhớ ngày nào, mổi lần đi hành quân về, anh đến thăm em, mắt môi rạng
rỡ. Mổi lần được huy chương là một ngày vui của hai đứa mình. Anh đến
khoe với em và hai đứa lại ra Đập Đá nhìn trăng, nghe tiếng sáo diều lơ
lửng trên không, anh mỉm cười hãnh diện vì sự thanh bình của Quê Hương,
cái thanh bình mà anh đã đem mạng sống ra để bảo vệ. Các huy chương đó
ngày nay lại là bản án tử hình của các anh.
Tháng tư là mùa Xuân phải không anh ?
Mùa Xuân ở đây cũng như mùa Xuân của Huế xưa. Nhà nào cũng có một vài
khóm hồng đang e ấp nở, nhà em lại có thêm cây anh đào đang rực đỏ với
nằng Xuân. Quê Hương người đẹp quá, nhưng sao lòng em vẩn thấy mất mát
ngậm ngùi.
Em đang ngồi yên với tấm thẻ bài nhục
nhã đau thương đã ôm ấp thân xác anh trong sáu năm qua dưới lòng huyệt
lạnh, và em đang thả hồn về ngày hai đứa mình còn nhau. Tiếng đàn réo
rắt ma quái, quyến rủ dị thường của người nhạc sĩ vô danh trong "Ru khúc
mộng thường" đưa em về lại những ngày xưa cũ, những êm đềm của một mùa
trăng xưa.
Ở đây không có tiếng sáo diều lơ lững
trên không, cũng không có những nữ sinh áo trắng mổi sáng từ Vĩ Dạ đi
ngang qua Đập Đá để đến trường nhưng tiếng đàn của người nghệ sĩ tài
hoa kia đã đưa em về lại Quê Hương, có trăng sáng, có trời xanh, có
mộng ước bình thường. Không hiểu sao sáng nay tiếng đàn ma quái đó ám
ảnh em, phải chi tất cả mọi người trên trái đất này đều yêu thơ, yêu
nhạc thì ngày nay mình đâu có mất nhau, anh chết sáu năm đâu phải mang
thêm tấm thẻ bài nhục nhã.
Với tiếng Tây ban cầm độc tấu cô đơn
nhưng đầy ắp tâm sự, em chắc người nhạc sĩ có cái tên cũng lạ như
tiếng đàn phải có một nội tâm thật đẹp, một tâm sự thật buồn. Tên ông ta
là "Vô Thường". Phải rồi anh nhỉ, tất cả chỉ là hư vô, tất cả chỉ là
bình thường, chỉ có tình người, tình Quê Hương là vĩnh cửu.
Nếu tiếng đàn của người Tây ban Nha
mang âm điệu hoang dại của một dân tộc nồng nàn ham sống, thì tiếng tây
ban cầm của Vô Thường mang âm giai của một người lạc lõng, một kẻ du
mục, một kẻ đang đi tìm miền đất hứa. Tiếng đàn khi thổn thức, khi vỗ
về, khi chia xẻ thương đau, tiếng đàn mang dư âm của tiếc thương nhung
nhớ, của tình yêu đã có và đã bay xa, của Quê Hương hiện hữu nhưng quá
tầm tay với, của những mộng ước bình thường nhưng đã vời vợi xa bay.
Anh ơi, tiếng đàn ray rứt của người
nhạc sĩ vô danh kia đã cho em ý thức được sự mất mát lớn lao của đời em,
tấm thẻ bài nhục nhã trong tay em đã nói lên sự uất hận ngàn đời của
người dân Việt phải xa lìa tổ quốc thân yêu.
Quê Hương vẫn còn đó nhưng đã nhuộm
màu, thành phố Huế của chúng mình còn đó nhưng đã đổ nát quạnh hiu. Nếu
biết không có ngày trở lại, thì ngày xưa em đã rủ anh đi khắp hang cùng
ngõ hẻm, đã yêu thương tâm sự với anh nhiều hơn. Quê Hương người tuy đẹp
tuy giàu nhưng vẩn thiếu cái đậm đà giữa những người cùng huyết thống,
thiếu khói lam chiều trên mái tranh xa, thiếu tiếng sáo diều lơ lửng
đêm trăng, thiếu tiếng hò mái đẩy, thiếu tiếng rao hàng trên sông vắng
mổi đêm khi khuya về sáng. Giờ chỉ còn lại đây tấm thẻ bài nhục nhằn của
anh, của những người ngày xưa đã lấy "Tổ Quốc" làm lẽ sống và giờ đã
chết vùi thây khắp các núi rừng gần trại tập trung với hai chữ "Phản
Quốc" đè nặng linh hồn.
Quê Hương! Quê Hương! Em đang nhớ nhung
hay đang thù hận đây ? Xưa em hãnh diện về Quê Hương gấm vóc bao nhiêu
thì giờ nhìn tấm thẻ bài khốn khổ với hai chữ "Phản Quốc" em lại thù
ghét Quê Hương bấy nhiêu.
Hãy trả lại cho em Quê Hương ngày cũ,
ngày nào còn lũ giặc đỏ, còn hai chữ "Phản Quốc" trên cổ các người ngã
ngựa thì ngày đó em còn xa lìa Quê Hương.
Lạy trời cho con giấc mộng bình thường,
cho còn tìm lại được quê xưa, ngày còn lá me bay, còn sân cỏ mướt chứ
không phải như bây giờ, sân cỏ làm nông trường, sức người thay máy móc,
nhiên liệu, trâu bò.
Em sẽ thay anh mang tấm thẻ bài vào cổ,
em sẽ mang nó với niềm hãnh diện vô biên của một người đã có người yêu
suốt đời hy sinh cho lý tưởng, em cũng mang nó để nhắc nhở những người
xa xứ hãy hướng về Quê Hương ngục tù khốn khổ mà làm một cái gì để thắp
sáng ngày về.
Thật ra thì đã mười hai năm qua, lòng
người đã có phần nào thay đổi. Tháng Tư vẫn mang đến ngậm ngùi, thương
tiếc nhưng rồi cuộc sống chạy theo đồng hồ, những nhu cầu cấp bách hàng
ngày đã làm tâm hồn nhụt dần chí khí. Phải chi những tấm thẻ bài có ghi
hai chữ "Phản Quốc" của các anh hùng đã hy sinh cho đất nước được gởi
qua cho mổi người xa xứ thì ngày về của kẻ ly hương chắc sẽ gần hơn.
Trong tận cùng linh hồn, em chắc người
dân nào khi xa quê cũng hoài vọng một ngày về, và dù có mất gốc đến đâu
thì cũng có một giờ phút trong đời mơ ước về lại quê xưa, thăm lại
ngôi nhà cũ.
Anh ơi, giờ em mới hiểu nỗi xúc động
tận cùng của bà giáo sư người Pháp dạy em năm em học lớp sáu. Bà đã khóc
khi hát cho chúng em nghe một bài nói về thành phố nơi bà đã sinh ra,
bài hát lời lẽ thật đơn sơ mộc mạc nhưng sao người nghe thấy ngậm ngùi
thổn thức. Bài hát chỉ có thế này:
Quand tout renaît à l’espérance
Et que l’hiver fut loin de nous
Quand la nature est reverdie
Quand l’hirondelle est de retour
J’aime à revoir ma Normandie
C’est le pays qui m’a donné le jour
Et que l’hiver fut loin de nous
Quand la nature est reverdie
Quand l’hirondelle est de retour
J’aime à revoir ma Normandie
C’est le pays qui m’a donné le jour
Em tạm dịch là :
Khi nào hy vọng trở về
Và khi mùa Đông đã đi xa
Khi thiên nhiên trở lại xanh thẳm
Khi chim én trở về cùng ta
Tôi mơ ước nhìn lại Normandie
Là nơi tôi đã chào đời.
Khi nào hy vọng trở về
Và khi mùa Đông đã đi xa
Khi thiên nhiên trở lại xanh thẳm
Khi chim én trở về cùng ta
Tôi mơ ước nhìn lại Normandie
Là nơi tôi đã chào đời.
Anh ơi, tình hoài hương bàng bạc trong
lòng mọi dân tộc. Em cũng đã khóc khi hát lại bài này. Em không mơ ước
nhìn lại Normandie của bà giáo sư người Pháp nhưng em mơ ước nhìn lại
xứ Huế nghèo nàn, thơ mộng của em ngày xưa.
Em mơ ước nhìn lại một Việt Nam tự do đầy
tình người, một Việt Nam mà em sẽ hãnh diện mang tấm thẻ bài có ghi hai
chử "Phản Quốc" của anh để trở về đi trong lá me bay, trong giòng người
cùng huyết thống, cùng lý tưởng, vì anh ơi, dù muôn vàn thay đổi, em
muôn đởi vẫn là con bé Việt Nam thích lang thang khắp phố phường cho tóc
bay, cho hồn mơ mộng và cho lá rơi đầy trên vai trên áo. Còn ở đây,
cuộc sống sao quá vội vàng, bon chen, lừa lọc. Người ta yêu nhau cũng
vội, ghét nhau còn vội vàng hơn.
Mùa Xuân quê người, nhưng cũng là mùa
Đông của người xa xứ đang mất mát như em. Tiếng đàn tức tưởi cô đơn của
người nhạc sĩ vô danh cũng là tiếng khóc nghẹn ngào của người đã mất hết
niềm tin, chỉ còn lại Tấm Thẻ bài ghi lại một thời Hạnh Phúc Xưa và
đánh dấu một sự nhục nhằn khốn khổ của người ở lại ngày nay.
Cầm tấm thẻ bài bằng nhôm bóng loáng
trên tay, em liên tưởng đến trăm ngàn cái khác đang bị vùi sâu dưới
lòng đất mẹ cùng những người con yêu của Tổ Quốc. Em chợt nhớ đến hai
câu hát mở đầu trong bài Rêveries của Shumann:
"Ce soir dans le jardin du ciel
Les étoiles ont fleuri comme un bouquet d’argent"...
Les étoiles ont fleuri comme un bouquet d’argent"...
Em
hình dung ra một ngày gần đây, trăm ngàn tấm thẻ bài bằng nhôm đó sẽ
trở thành những bó hoa bằng bạc nở trên bầu trời để soi sáng và chỉ
đường cho những người con xa xứ trở về giải phóng Quê Hương.
Tháng 4 năm 1987
(Thương gởi hương hồn anh tôi đã chết ở trại cải tạo Vĩnh Phú,Bắc Việt tháng 11 năm 1983)
Thanh Vân
(Thương gởi hương hồn anh tôi đã chết ở trại cải tạo Vĩnh Phú,Bắc Việt tháng 11 năm 1983)
Thanh Vân
VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
10 tiệm phở Việt ngon nức tiếng tại thành phố không ngủ New York
PNO - Tại New York phở là món ăn yêu thích của
không chỉ người Việt xa quê mà còn của người bản xứ. Thành phố không ngủ
này có rất nhiều quán phở, trong đó có 10 địa điểm đáng đến nhất theo
bình chọn của trang web uy tín về phong cách sống thrillist.com
Califonia, Houston, New Orleans và cả New
York ở Mỹ đều là những nơi tập trung nhiều nhà hàng món Việt. Đương
nhiên phở là món ăn đáng tự hào chiếm được phần lớn sự yêu thích của
không chỉ người Việt xa quê mà còn lan tỏa, khiến bao thực khách quốc tế
mê mẩn. Tại thành phố không ngủ New York, bạn có thể thưởng thức hương
phở nồng nàn ở 10 quán dưới đây.
1. Nha Trang One
One Nha Trang là tiệm phở yêu thích của đông đảo thực khách khi có
dịp ghé đến Chinatown. Nhiều thực khách trong số đó còn chia sẻ rằng họ
chẳng ngại xa xôi để chạy xe đến đây và chỉ để thưởng thức hương vị yêu
thích của tô phở bò truyền thống với những lát thịt mỏng, mềm thớ dọn
kèm nước sốt sa tế đặc biệt.
Ngoài phở, nhiều thực khách cũng vô cùng thích món chả giò cuốn rau diếp và bạc hà, bún chả, hay mực ướp sả chiên giòn.
2. Bun-ker
Nếu bạn phát hiện ra một đám đông đang đi về phía đường Metropolitan
Ave vào giấc trưa thì bạn đã đến đúng nơi cần tìm rồi. Sự chờ đợi ở một
khía cạnh nào đó thực sự là giá trị, và nhiều người cũng sẵn sàng chờ
đợi để được thưởng thức tô phở bò, gà ấn tượng với nhiều thảo mộc và gia
vị. Để tăng thêm hương vị cho món phở bò, ông Tú chủ của Bun-ker cho
biết ông có cho thêm hành tây, bạch đậu khấu, cây hồi và quế vào nước
dùng. Còn với món phở chay ông cho thêm vào bắp cải muối, rễ sen, tỏi
tây và nấm hương khô để tăng thêm vị ngọt nước dùng.
3. Saiguette
Đừng vội thất vọng bởi những chiếc tô nhựa đựng phở! Bởi điều đó cũng
không làm mất đi hương vị ngon tuyệt của tô phở tại Saiguette đâu. Khi
sợi phở, thịt bò tươi thái lát, hành tây, húng quế được hòa quyện với
nhau trong hương vị nhẹ nhàng, thuần túy của nước phở, chấm cùng sốt cay
nóng, bạn sẽ chẳng còn để ý mình đang ăn trong tô nhựa.
4. Cơm tấm Ninh Kiều
Có khá nhiều lựa chọn cho món phở tại đây từ món phở tái, nạm, bò
viên… đến một tô đặc biệt với những món ăn kèm tùy thích như cánh gà,
đùi gà, gân, lòng bò và bò viên.
Ngoài phở, tại đây còn phục vụ các món đặc sản như bún riêu, bún mắm, cháo lòng, bún bò Huế theo thực đơn thay đổi mỗi ngày.
5. Phở Hoài
Phở Hoài kinh doanh ở khu này được gần 15 năm nay. Bí quyết cho món
phở ngon được ông chủ quán bật mí đến từ nước dùng được ninh nhỏ lửa
trong ít nhất sáu giờ, kết hợp với sợi phở mảnh và món bò viên được làm
theo công thức gia truyền.
6. Sao Mai
Không giống như các “đối thủ” tại khu Chinatown với thực đơn chạy dài
các món phở, cửa hàng phở tại 203 1st Ave đã tinh giảm danh sách phở
của mình thành 7 lựa chọn. Bốn trong số đó là sự kết hợp giữa nước dùng
bò tinh tế với sụn, sườn non, bò viên, bò tái. Trong khi ba lựa chọn còn
lại kết hợp hải sản, thịt gà, rau và đương nhiên là cả những lát bò
mỏng, mềm thơm ngọt.
7. Nightingale 9
Lý do khiến các món phở bò và phở gà tại Nightingale 9 trở nên đặc
biệt đó là việc cho thêm vào nồi nước lèo tiêu sọ cùng các loại rau mùi
đặc trưng của Việt Nam. Thêm nữa chủ nhân của tiệm phở còn chăm chút cho
món ăn kèm phở với đầy đủ tỏi ngâm, chanh, ớt và rau mùi.
8. Thanh Đa
Nằm trên đường Brooklyn, Thanh Đa được xem là một trong những điểm
dừng chân đáng tin cậy cho những “tín đồ” của món phở Việt. Không chỉ có
dàn nhân viên thân thiện, những tô phở đầy ắp thịt, hành tây, và lá
húng quế thơm lừng tại Thanh Đa mới thực sự là lý do khiến nhiều thực
khách quay lại đây những lần tiếp sau.
9. An Choi
An Choi là một trong số ít quán mà nước dùng được các đầu bếp ninh
trong quá trình dài 24 giờ. Món phở bò đặc biệt của An Choi có đầy đủ
đuôi, sườn, gân, thịt bò. Và đó cũng là một trong số ít những quán phở ở
New York thêm nhiều ngò gai xắt nhuyễn lên trên như là cách làm tăng
hương vị cho món phở của mình.
10. Phở Bằng
Ngoài hương vị ngon tuyệt của nước dùng bò thơm lừng hương vị thảo
mộc, một trong những lý do phở Bằng được nhiều người yêu thích đó là bạn
chỉ phải trả giá vừa cho một tô phở cỡ lớn.
Nằm trên con đường náo nhiệt của khu phố Tàu, quán phở Việt này thực
sự khiến những thực khách của nó xuýt xoa trong hương vị của phở, nước
dùng và nước xốt ăn kèm. Ngoài phở, ở đây còn có nhiều món Việt ngon
tuyệt như chả giò đậu phộng, bún thịt nướng, cơm tay cầm, cơm niêu…
TRÚC LINH
(Theo ww
Bánh mì Việt 'đang có chỗ đứng ở London'
22 tháng 11 2014 Cập nhật lúc 20:39 ICT
Câu chuyện về Loan Phan và Vân Trần, nằm trong số những người đầu tiên
mang bánh mì kẹp Việt Nam tới London, cho thấy đồ ăn mang đậm bản sắc
Việt không chỉ đang có chỗ đứng mà còn cả tiềm năng phát triển có qui
mô.
XIN XEM HÌNH ẢNH BÁNH MÌ VIỆT NAM
http://wsodprogrf.bbc.co.uk/vietnamese/dps/2014/11/viet~fbanhmipkg~f1308~f22~f11_16x9_med.mp4
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2014/11/141120_banh_mi_viet_o_london
Luân Đôn ‘phải lòng’ bánh mì Việt Nam?
Ngọc Quyên
Tường thuật từ London
Câu
chuyện về Loan Phan và Vân Trần, nằm trong số những người đầu tiên mang
bánh mì kẹp Việt Nam tới London, cho thấy đồ ăn mang đậm bản sắc Việt
không chỉ đang có chỗ đứng mà còn cả tiềm năng phát triển có qui mô.
Loan
Phan chỉ vài tháng tuổi khi cùng cha mẹ di cư vào Anh sau Cuộc chiến
Việt Nam theo làn sóng tị nạn của thuyền nhân. Vào thập niên 1980, tìm
được đồ ăn Việt Nam ở London là việc không dễ.
Nhưng Loan may mắn
vì sinh trưởng trong gia đình cha mẹ đều giỏi nấu ăn. Ông Bảy, người cha
của chị, từng là đầu bếp có tiếng khi còn ở Việt Nam.
Thế nhưng đâu là nguồn cảm hứng để Loan mở một cửa hàng bánh mì?
“Mỗi
khi chúng tôi muốn ăn bánh mì là ba mẹ phải đi mua nguyên liệu và mất
hàng tiếng đồng hồ làm nhân bánh,’’ Loan giải thích. “Và cứ như vậy
trong nhiều năm, lúc nào muốn ăn bánh mì là chúng tôi lại phải lặp lại
qui trình này.’’
Vì vậy ý tưởng mở tiệm Bánh Mì Bảy của Loan là để gia đình mình và bạn bè “có thể thưởng thức bánh mì bất cứ khi nào họ muốn.”
Trong
khi đó, Vân Trần, sinh viên từ Hà Nội sang Anh học tập, đã tìm tới bánh
mì như món ăn để quảng bá đồ ăn Việt tới khách hàng tại London.
“Hồi nhỏ khi lớn lên ở Hà Nội, sáng nào ngủ dậy việc đầu tiên tôi làm là đi chợ với mẹ.”
Loan Phan cùng gia đình nhập cư vào Anh sau Cuộc chiến Việt Nam.
Vì vậy khi đến thăm khu chợ
Broadway ở phía đông London, Vân cảm nhận được sự thân thương và quen
thuộc của một phiên chợ Việt Nam. “Mọi thứ ngoài chợ đều rất tươi
ngon, khác hẳn với những đồ ăn mình tìm thấy trong siêu thị. Ở đó có rất
nhiều gian hàng bán đủ loại món ăn, thế nhưng không có đồ ăn Việt Nam.”
Và
thế là Vân cùng một người bạn đã quyết định mở một gian hàng bán bánh
mì tại khu chợ này. Trong vài năm, chị và người bạn đã làm bánh mì ở nhà
và dùng xe đạp để chở bánh mì tới chợ phiên vào mỗi thứ Bảy hàng tuần.
Nhưng
các dự định của Vân không chỉ dừng ở đó. “Chúng tôi muốn tạo ra một
không gian để có thể truyền đạt được những giá trị văn hóa Việt Nam và
cho tất cả những gì mình yêu thích và trân trọng không gian đó.”
Sống
đúng với di sản của mình trong thời toàn cầu hóa hẳn có vị đắng xen lẫn
ngọt ngào, nhưng hành trình của bạn sẽ có thành quả khi người ta bắt
đầu chào đón và trân trọng chính các giá trị và nền văn hóa đó.
'Bỏ ngân hàng mở nhà hàng'
Trong
một bước có thể xem là khác thường, Vân, sinh viên tốt nghiệp Đại học
Oxford, đã bỏ việc làm tại một ngân hàng danh tiếng ở London và mở nhà
hàng có tên Bánh Mì 11.
Vân Trần bỏ công việc tại một ngân hàng ở London để mở nhà hàng.
“Chuyển đổi từ một nhân viên
ngân hàng sang làm riêng trong ngành ẩm thực là sự thay đổi một trời
một vực,” Vân chia sẻ. “Từ một công việc khá an toàn với rất ít sự
cố, hàng ngày mình đi làm vào 9 giờ sáng và ngồi trước máy tính, tới
một môi trường mà mình phải làm chủ tất cả những quyết định của mình và
không có ai chỉ đường vạch lối.”
Vậy mở tiệm chuyên bán bánh mì
Việt Nam ở London, nơi ẩm thực thế giới gốc Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật
Bản đã bắt rễ hàng chục năm, gặp phải những thách thức gì?
“Bánh
mì Việt Nam lúc đó là một khái niệm hoàn toàn mới ở London, nhưng chúng
tôi muốn biến bánh mì thành một sản phẩm thành công về thương mại,”
Loan Phan nói.
Tuy nhiên liệu một món ăn nhanh đậm nét Việt Nam có
thể có chỗ đứng trong một thành phố đầy sự cạnh tranh như London hay
không? Cả Loan và Vân đều thấy tự tin về cái gọi là “yếu tố độc đáo.”
“Bánh
mì Việt Nam khác hẳn với những loại sandwich khác. Nó như là một bữa
cơm của người Việt trong một ổ bánh mì, có đầy đủ mọi thứ như thịt
nướng, rau thơm, với tất cả những mùi vị đặc trưng cho một bữa cơm
Việt Nam”, Vân nói.
Ngoài ra, thông qua bánh mì, Vân muốn giới thiệu đến các bạn quốc tế những giá trị văn hóa ẩm thực Việt Nam.
“Người
Việt ướp thịt rất lâu trước khi nấu, người Việt ăn theo mùa, người
Việt ngày nào cũng đi chợ và ăn thức ăn của ngày hôm đó. Và khi các vị
khách hiểu được những giá trị đó, họ sẽ cảm nhận được ẩm thược Việt
Nam khác các ẩm thực khác như thế nào, và họ rất thích,” Vân nói thêm.
Nhưng
liệu bánh mì Việt Nam có tiềm năng để trở thành món nằm trong chuỗi
cửa hàng thực phẩm đồ ăn nhanh trên toàn cầu hay không, hay nó chỉ bó
hẹp trong phạm vi kinh doanh gia đình?
“Tôi nghĩ bánh mì có tiềm năng trở thành đồ ăn nhanh được biết đến rộng rãi như McDonalds,” Loan chia sẻ.
'Banh mi' đang là cụm từ trở nên quen thuộc như sushi hay dim sum
Nhận định của Loan dường như
không phải là không có cơ sở. Kể từ khi chị mở Bánh Mì Bảy vào năm 2006,
nay đã có tới cả chục cửa hàng bánh mì khác mọc lên ở London.
“Tuy
nhiên, có những yếu tố độc đáo của bánh mì Việt Nam mà có thể sẽ rất
khó để đưa quy trình sản xuất hàng loạt, vì tất cả các nguyên liệu đều
phải rất tươi, ” Loan nói thêm.
Có thể thấy rằng ẩm thực Việt Nam
nói chung dường như đang ngày càng khẳng định được thế mạnh tại thị
trường London. Có chăng sự thiếu vắng hiện tại là những chuỗi cửa hàng
lớn của người Việt giống như Pizza Express, Pret A Manger, Itsu, hay
Wagamama.
Liệu Loan và Vân có trở thành một Alan Yau, ông chủ của Wagamama hiện có tới 110 nhà hàng tại Anh Quốc, hay không?
Xét về mức độ nhiệt huyết và đam mê, rất có thể họ sẽ làm được.
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm của tác giả, là sinh viên hiện du học tại London
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2014/11/141120_london_phai_long_banh_mi_vietnam
PHÙNG CUNG
Nguyễn Hữu Đang
Con người Phùng Cung và những bài thơ hay trong tập Xem Đêm
Thân ái tặng NXB Văn Hóa - Thông Tin
cũng là một Đạm Tiêm đem thơ trả lại người được giải oan
N.H.Đ
Cách đây ba năm, khi tôi còn ở quê (Thái Bình) và Phùng Quán còn sống
bên Hồ Tây, ông khoe với tôi tập thơ hãy còn là bản thảo của Phùng Cung
mà ông khen hết lời. Tôi nửa tin nửa ngờ: văn xuôi thì qua truyện ngắn
Con ngựa già của Chúa Trịnh nổi tiếng, Phùng Cung đã tỏ ra có nghệ thuật
vững, còn Phùng Cung làm thơ thì chưa chắc đã hay. Nhưng khi được đọc
bản thảo, dù khó tính, tôi cũng thích thú. Nhiều bài hay, có những bài
đáng coi là tuyệt tác. Và tôi cùng ông Quán cố gắng tạo điều kiện cho
tác phẩm ra đời.Con người Phùng Cung và những bài thơ hay trong tập Xem Đêm
Thân ái tặng NXB Văn Hóa - Thông Tin
cũng là một Đạm Tiêm đem thơ trả lại người được giải oan
N.H.Đ

Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin đã sốt sắng nhận làm bà mụ đỡ đẻ cho đứa con tinh thần này của Phùng Cung. Khi đón nhận nó với cái tên ngộ nghĩnh Xem Đêm, tôi nghĩ ngay đến một câu của thi hào cổ đại Horace như đã "ứng" vào trường hợp này: "Tôi sẽ không chết tất cả"[1] (ngụ ý sau khi thi sĩ qua đời, tác phẩm của ông là một phần con người ông sẽ còn sống mãi), Phùng Cung cũng hoàn toàn tin tưởng lạc quan ở sức sống lâu dài của thơ ông như Horace nghĩ về thơ mình. Và cố nhiên bấy lâu ông hằng mong thơ ông chóng thoát ly bản thảo để sức sống kia được thử thách và cống hiến.
Thơ Phùng Cung tích lũy trong thầm lặng khắc kỷ đã phải nằm chờ hơn hai mươi năm dưới lớp bụi thờ ơ, như Hằng Nga ngủ trong rừng, chưa có Hoàng tử Đẹp trai đến đánh thức, nay một phần được in là tín hiệu việc quản lý văn nghệ có khả năng mở ra một thời kỳ đổi mới -một thời kỳ mà Ehrenbourg[2] gọi là "đợt tan băng giá"- chí ít cũng hứa hẹn sẽ phóng khoáng hơn trước. Hứa hẹn chung với mọi người thì chưa chắc đã thực hiện được, nhưng riêng với Phùng Cung thì rõ ràng ông là một cây bút vốn bị hoàn cảnh không bình thường kìm hãm, đang giành lại chỗ đứng dưới mặt trời. Nếu không, sẽ chẳng bao giờ chúng ta biết đến một tập thơ đáng trân trọng.
Tập Xem đêm đem lại cho chúng ta những vẻ đẹp bất ngờ trong môi trường nông thôn cũ (chưa cơ khí hóa, điện khí hóa, tập thể hóa), nơi có hai nét đặc trưng cổ truyền là quang cảnh thanh bình và tinh thần thuần phác mà văn học thường phản ánh như sự đền bù cho tình trạng nghèo khổ, lạc hậu, hai nét đặc trưng mà những đồng bào đi sinh sống ở nước ngoài thường nhớ tới như diện mạo quê hương. Nói cho đúng, đó là hình ảnh tổng hợp những nét chung của nông thôn miền châu thổ sông Hồng trong một quãng dài lịch sử ngàn năm, một hình ảnh mà tác giả tha thiết giữ trong ký ức vì ông đã quyến luyến nó từ "thời mũi rãi". Cái nôi yêu quý ngày xưa đã trở thành nguồn cảm hứng phong phú ngày nay cho một tâm hồn bén nhậy.
Hiện thực ở đây đã được chắt lọc qua rung động thẩm mỹ nên thơ mộng, nhưng cũng rất thật. Thân quen biết mấy, những cánh đồng bát ngát, ruộng lúa, bãi ngô, vườn dâu, nương vừng, xóm trại, khúc sông, bến đò, quán chợ, giếng đình, giàn trầu, giàn bí, lũy tre, ao bèo, củ khoai, nải chuối, quả ổi, trái ớt, hoa bưởi, hoa cau ... và cả một thế giới động vật nhộn nhịp những trâu, bò, gà, chó, chim, cò, giun, dế, chuồn chuồn, đom đóm... xung quanh những con người lam lũ, hiền lành, có cô con gái "ý tứ soi gương đáy nón", có truyện cũ chàng trai si tình "đề thơ vạt áo", có người mẹ trẻ "sữa con so ướt yếm", có người vợ đảm về chợ tối "bước sấp ngửa" ... Bấy nhiêu hình ảnh tràn ngập không gian vang vọng tiếng gọi đò, tiếng sáo diều, tiếng tù và, tiếng chó sủa, tiếng ru con ... Tất cả chung đúc lại thành bức tranh quê quen thuộc mà một Anh Thơ hay một Đoàn Văn Cừ đã có lần ghi chép thật thà, mộc mạc, hoặc kết thành một khúc nông ca (bucolique) mà Virgile[3] đã để lại mẫu mực.
Nhưng tập Xem đêm không chỉ có thế. Do tự nhiên thuận lợi hay sáng suốt lựa chọn, Phùng Cung đã tìm được cho thói quen tằn tiện lời nói của mình một địa hạt đắc dụng là địa hạt thơ, nó đòi hỏi phong cách diễn đạt hàm súc. Thơ hai-kai của Nhật Bản mà thế giới đánh giá cao đã chứng tỏ khả năng truyền cảm, gợi ý tối đa của lời văn tối thiểu.
Tuy vậy Phùng Cung cũng chưa yên tâm mà vẫn đầu tư biết bao công sức để tìm những lời thơ "xuất thần", tìm không mệt mỏi như dân hải đảo mò ngọc trai. Ôi công sức của Phùng Cung, có lẽ bậc thầy Đỗ Phủ cũng phải bằng lòng vì đã mặc nhiên thực hiện câu thề nguyền của nhà đại thi hào đối với thơ: "Lời không làm cho người ta kinh hãi thì chết cũng chưa thôi" (Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu).
Bằng một thứ ngôn ngữ cô đọng như tinh chất, tế nhị như hương thơm, ông mời bạn đọc làm quen với một Nàng Thơ đẹp kín đáo duyên lặn vào trong và khó tính, để tìm hiểu đến trở thành tri kỷ. Tôi tin rằng với nhiệt tình yêu thơ, vào cuộc họ sẽ nhận ra tác giả gắn bó với tình người và sự thanh cao. Có điều là vào cuộc ở đây cần đến cảm quan trực giác nhiều hơn là trí tuệ thông minh.
Mặt khác, ngoài hai tính cô đọng và tế nhị phù hợp với thơ nói chung, ngôn ngữ Xem đêm còn đậm đà tính dân gian phù hợp vời đề tài thôn dã, được vận dụng điêu luyện trong những vần thơ êm nhẹ như cánh cò bay mà làm rộn lên trong tâm trí chúng ta lời ăn tiếng nói của bao thế hệ ông, cha.
Chúng ta hiểu vì sao nhà thơ Quang Huy, trong bài giới thiệu in ở đầu sách, đã khẳng định hoàn toàn khách quan, công bằng: "Phùng Cung xứng đáng là bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ".
Chính nghệ thuật ngôn từ đã là một trong những yếu tố quan trọng làm cho thơ Phùng Cung độc đáo. Độc đáo là một tiêu chuẩn văn học khó đạt được mà Guy de Maupassant[4] đề cao đanh thép như thách đố: Nhà văn xứng đáng với tên gọi ấy phải biết nhìn như chưa từng có ai nhìn như thế, biết nói như chưa từng có ai nói như thế.
Nhờ chiều sâu vốn sống và biết nhìn, biết nói như tính độc đáo yêu cầu, Phùng Cung đã tìm ra cái mới, cái lạ. Nhưng cái mới, cái lạ thường làm cho độc giả bỡ ngỡ, có khi không hiểu. Tôi muốn nói đến những điểm tối nghĩa trong Xem đêm, những điểm dễ bị người ta chê trách, hoặc là ẩn ý mà người ta không nghĩ tới, hoặc là bỏ lửng mà người ta không đoán ra, hoặc là ước lệ riêng về cách viết mà người ta không chấp nhận. Có thể đó là những sáng tạo chưa hoàn chỉnh, nhuần nhuyễn nhưng tác giả có quyền mạnh bạo đem thí nghiệm.
Cũng có thể, như trong âm nhạc cổ điển, hội họa hiện đại, đó là những
sản phẩm đặc biệt mà người muốn thưởng thức phải có "vốn" để thưởng
thức. Nếu không ... nếu không thì người "ngoại đạo" bao giờ cũng thiệt
vì "ngoại đạo", người "vô minh" bao giờ cũng bị thiệt vì "vô minh",
chính kẻ viết bài này cũng đã "ngoại đạo", "vô minh" đối với một số điểm
tối trong Xem đêm[5].
Còn về phía người làm thơ, dù không đi vào quỹ đạo những trường phái
thơ kín mít, người làm thơ tự tín, tự trọng cũng tán thành lời nhắn nhủ
của nhà phê bình trứ danh Pháp Sainte Beuve (1804-1869): Thi sĩ không
nên vì tham vọng chiều ý được hết thảy mọi người mà "pha loãng nước hoa
của mình".
Không phải vô lý nếu đã trên một trăm năm rồi, người ta nêu trách nhiệm tìm hiểu của người đọc là phải "đọc tích cực", phải "tự tìm ra thìa khóa", phải "đi gặp tác giả ở giữa đường". Về những điểm tối trong Xem đêm, tôi có ấn tượng tác giả tin tưởng và chờ đợi chúng ta sẽ thông cảm bổ sung, vì cái kho ngôn từ của ông dù đã phong phú cũng không đủ để ông bộc lộ được hết ý mình. Nhìn dưới góc độ tiến hóa chung, quần chúng hưởng ứng những sáng tạo của nhân tài như thế là phần năng động, phát huy trong sự phân công lao động xã hội.
Sau khi nhận biết thế mạnh và những đòi hỏi của tác giả để thực hiện độc đáo, chúng ta tìm hiểu tác phẩm tận gốc của nó là nguồn cảm hứng. Trên kia nói nguồn cảm hứng thứ nhất (về thẩm mỹ) của Xem đêm là những vẻ đẹp nông thôn đã hấp dẫn tác giả từ thuở nhỏ. Một nguồn cảm hứng nữa (về tư tưởng) đã đưa đến việc sáng tác hàng loạt những bài thơ chiếm gần nửa nội dung tác phẩm là tình thương cao cả của con người Phùng Cung.
Không phải ông chỉ thương số phận bất hạnh con người, mà thương cả số phận bất hạnh loài vật và cỏ cây là những sinh vật chung sống với người như hàng xóm, như bạn bè.
Ở đây hiện tượng xa lạ với hành động của một nhân vật lãng mạn, sướt mướt tưởng tượng bông hoa chết như người, rồi thương hoa, khóc hoa, chôn hoa. Cũng không phải trường hợp nhà văn dùng thủ thuật nhân cách hóa trong bút pháp hoặc mượn loài vật làm ẩn dụ để nói người. Ở đây hiện tượng là con người Phùng Cung trong đời thường, với tư cách là một sinh vật, có ý thức đồng loại với những sinh vật khác và lấy đạo đức bác ái đối xử với đồng loại, cụ thể là thật sự có tình cảm với loài vật, cỏ cây.
Tôi biết Phùng Cung không chịu ảnh hưởng của thuyết luân hồi - kiếp nghiệp trong đạo Phật mà tình thương của ông cũng chan hòa rộng khắp đến mức trở thành ý kiến hiếu sinh đại đồng.
Cố nhiên tình thương ấy theo trật tự lô-gích ắt phải bắt đầu từ nhân loại và giành ưu tiên cho những người thân nhất. Trước hết, đi vào quá khứ, ông thương bà thân sinh quanh năm khó nhọc tảo tần miếng cơm, manh áo, nuôi con đến bước trưởng thành:
Mồ hôi mẹ
Tháng ngày đăm đăm
nhỏ giọt
Con níu giọt mồ hôi
Đứng dậy làm người
(Mẹ, trang 8)
Rồi thương người vợ hiền đã cùng mình chia sẻ cuộc đời điêu đứng:
Em vất vả
Tối ngày tất tả
Lưng áo em
Ngoang vôi trắng xóa Cái trắng này vắt tận trong xương
(Mồ hôi xương, trang 33)
Đến thương một nhà thơ:
Không phải vô lý nếu đã trên một trăm năm rồi, người ta nêu trách nhiệm tìm hiểu của người đọc là phải "đọc tích cực", phải "tự tìm ra thìa khóa", phải "đi gặp tác giả ở giữa đường". Về những điểm tối trong Xem đêm, tôi có ấn tượng tác giả tin tưởng và chờ đợi chúng ta sẽ thông cảm bổ sung, vì cái kho ngôn từ của ông dù đã phong phú cũng không đủ để ông bộc lộ được hết ý mình. Nhìn dưới góc độ tiến hóa chung, quần chúng hưởng ứng những sáng tạo của nhân tài như thế là phần năng động, phát huy trong sự phân công lao động xã hội.
*
Sau khi nhận biết thế mạnh và những đòi hỏi của tác giả để thực hiện độc đáo, chúng ta tìm hiểu tác phẩm tận gốc của nó là nguồn cảm hứng. Trên kia nói nguồn cảm hứng thứ nhất (về thẩm mỹ) của Xem đêm là những vẻ đẹp nông thôn đã hấp dẫn tác giả từ thuở nhỏ. Một nguồn cảm hứng nữa (về tư tưởng) đã đưa đến việc sáng tác hàng loạt những bài thơ chiếm gần nửa nội dung tác phẩm là tình thương cao cả của con người Phùng Cung.
Không phải ông chỉ thương số phận bất hạnh con người, mà thương cả số phận bất hạnh loài vật và cỏ cây là những sinh vật chung sống với người như hàng xóm, như bạn bè.
Ở đây hiện tượng xa lạ với hành động của một nhân vật lãng mạn, sướt mướt tưởng tượng bông hoa chết như người, rồi thương hoa, khóc hoa, chôn hoa. Cũng không phải trường hợp nhà văn dùng thủ thuật nhân cách hóa trong bút pháp hoặc mượn loài vật làm ẩn dụ để nói người. Ở đây hiện tượng là con người Phùng Cung trong đời thường, với tư cách là một sinh vật, có ý thức đồng loại với những sinh vật khác và lấy đạo đức bác ái đối xử với đồng loại, cụ thể là thật sự có tình cảm với loài vật, cỏ cây.
Tôi biết Phùng Cung không chịu ảnh hưởng của thuyết luân hồi - kiếp nghiệp trong đạo Phật mà tình thương của ông cũng chan hòa rộng khắp đến mức trở thành ý kiến hiếu sinh đại đồng.
Cố nhiên tình thương ấy theo trật tự lô-gích ắt phải bắt đầu từ nhân loại và giành ưu tiên cho những người thân nhất. Trước hết, đi vào quá khứ, ông thương bà thân sinh quanh năm khó nhọc tảo tần miếng cơm, manh áo, nuôi con đến bước trưởng thành:
Mồ hôi mẹ
Tháng ngày đăm đăm
nhỏ giọt
Con níu giọt mồ hôi
Đứng dậy làm người
(Mẹ, trang 8)
Rồi thương người vợ hiền đã cùng mình chia sẻ cuộc đời điêu đứng:
Em vất vả
Tối ngày tất tả
Lưng áo em
Ngoang vôi trắng xóa Cái trắng này vắt tận trong xương
(Mồ hôi xương, trang 33)
Đến thương một nhà thơ:
Nửa thế kỷ
Bị lưu đày
Trong cõi tung hô. (Tội nghiệp, trang 37)
Thương một gia đình cùng kiệt xác xơ:
Rổ không hờ hững quang treo
Nắng thả chào mào nghiêng nghé
Chó vẽ bóng gầy sân bếp
Gió khều tã vã múa may
(Gia cảnh, trang 19)
Thương những người xiêu bạt kiếm ăn:
Cửa liếp nối xa xăm
Người đi từ dạo đói
Chiều ghé sân hoang.
(Nắng hàn vi, trang 45)
Thương xóm nghèo:
Trang trại trưa hè khát bữa
Lẻ tấm
Búng đèn
Đũa mắm
Đểnh đoảng mùi cháo - canh
Gịuc cả xóm cởi trần.
Cháo - canh, trang 23)
Thương người cán bộ phụ nữ luống tuổi, phải về hưu non, sống khó khăn trong nghề bán rượu lậu, ba-lô nặng chĩu:
Nửa đời
Nước thải
Hưu non
Vã mồ hôi son
Tảo tần chiều sớm
"Cuốc lủi" lưng vơi
Ngẫm câu tục ngữ[6]
Mắt trước mắt sau
Kinh hoàng di lụy
Tóc bạc vào mùa
Răng hơi bị đuối
Trệu trạo trái sung
Ruột tím cơ hàn.
(Tím cơ hàn, trang 102)
Thương người con gái chết đuối:
Chớm tuổi yếm son
Em hay xấu hổ...
Chiều mưa ấy
Dốc ao trơn
Em sẩy chân
Bất ngờ - ân hận
...
Xóm khóc - ngậm ngùi
Từ đấy ao hoang
...
(Ao hoang, trang 49)
Thương những người nằm dưới đất:
Lạnh nhịp sương rơi
Chiều - gạo đổ
Dế gào chân mộ
Trăng lên.
(Nghĩa trang, trang 25)
Nhìn sang thế giới bên kia, ông thương những cô hồn lang thang:
Gió nã từng cơn
Bùa trấn trạch
Nấp trong giấy bản
Bến đò, quán chợ, ngã ba
Vật vã mùi cháo thí đêm hè.
(Cháo thí, trang 32)
Đã nghĩ đến những nghịch cảnh chung ở thế giới bên kia, hẳn Phùng Cung không quên những nghịch cảnh chung ở thế giới bên này. Ông thương đồng bào chịu gian khổ trong vùng lũ lụt:
Đê tiền triều gẫy khúc
Đồng ngập trắng
Con lềnh đềnh cõng vắng bơi suông
Thương em đứng giữa mùa nước mắt.
(Mùa nước mắt, trang 47)
Thương những người già trong kháng chiến phải bòn sức lao động sản xuất, đói vẫn hoàn đói:
Giặc quấy
Làng queo quắt
Tụi trẻ đi - đi hết
Dờ dật sức già gãi đất...
Cái đói tròn
Lăn kín bốn mùa
(Gãi đất, trang 65)
Thương những người chết trận, nạn nhân của chiến tranh khốc liệt và chủ nghĩa anh hùng dã man thời phong kiến:
Mỗi chiến thắng
Một lần gươm tắm rượu
Ruồi vẫn qua lùng máu
sa trường
(Gươm báu, trang 68)
Thương giai cấp nông dân sống cơ cực không lối thoát trong nền sản xuất lạc hậu:
Mặt trịn nắng
Ngả màu chum, vại
Hì hụi lối mòn tử đạo
Lưng cơm chan đẵm phong trần.
(Phong trần, trang 71)
Thương một dân tộc tàn lụi sau một thời cường thịnh huy hoàng:
Chiều Phan Rang xanh đau
ngọc nát
Nắng Chiêm Thành quanh quất
tháp hoang
(Tháp Chàm, trang 84)
Thương nhân dân nước nào đó sống lầm than dưới cường quyền:
Phải đâu nhật thực triền miên
Ngày tối hơn đêm...
Quỳ gối chống tay vẫn còn sợ ngã
Mặt đất quá cheo leo.
(Đêm vó ngựa, trang 20)
Đến đây tôi muốn giới thiệu một Phùng Cung lãng mạn "như ai", thương tiếc những mối tình không trọn, cố nén lòng giữ giọt lệ khi gặp lại hai người yêu cũ, một đã thành sư bác mà vẫn chưa quên những ngày dan díu:
...
Nhìn trước nhìn sau
Em khẽ khóc
...
Ngại đường tu dang dở
Em vội lau nước mắt
...
Trót nhớ mãi
Một chiều nghiêng lụy.
(Nghiêng lụy, trang 100)
Người thứ hai dáng dấp gian truân, tiều tụy, không còn đủ can đảm nhìn người cũ:
...
Lâu lắm gặp em
Em chỉ khóc quay đi
Bước héo
Áo gầy
Gió va nón cũ
Tôi hiểu em
Tôi chẳng nói được gì.
(Gặp em, trang 29)
Với lòng trắc ẩn ân cần đến có thể cưng chiều, ông mủi lòng về những tâm hồn trong sáng nhưng yếu đuối, không chịu nổi một sự buồn phiền nhỏ, như người phụ nữ thảo hiền đa cảm, khóc vì lo người thân phải chờ mong, tủi thân vì thiên nhiên cản trở:
Bước sấp ngửa
Em về chợ tối
Gió bãi khoai quấn quít
Làm em mau nước mắt
Đèn con xóm trại đang chờ.
(Về chợ tối, trang 101)
Người được thương không có điều gì bi thảm, chỉ vì đức hạnh mà xúc động ngây thơ nên ông vì quý mến mà vỗ về, an ủi. Một tình thương dẹp dịu như ánh trăng thu!
Cũng với lòng trắc ẩn ân cần ấy, ông hận cho những cánh bèo trôi nổi không cùng:
Lênh đênh muôn dặm
nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh
(Bèo, trang 7)
Ông không thể cầm lòng trước cảnh những quả chuối mới trổ, bấy bớt như trẻ sơ sinh mà phải chịu rét mướt mùa đông, thân trần trụi:
Gió bấc về
Chuối vừa mới trổ
Dằn vật lỗi mùa
Băn khoăn chung chiếc khố
Lấy gì che chắn gió xung quanh.
(Chùm gió bấc, trang 96)
Nếu trong thơ Đường, hoa đào vô tình bên cái chết bi thảm của người con gái ốm tương tư, vẫn thản nhiên "cười với gió Đông" thì, trong thơ Việt Nam, Phùng Cung
Thương cây đào ốm
Xuân về chẳng nụ hoa
Lá gầy run gió lạnh.
(Cây đào, trang 21)
Vì ốm, cây đào thiếu vẻ đẹp trong mùa xuân đã là đau khổ nhưng sự sống chưa mất hẳn, còn cây cà:
...
Cõi bẩn thỉu
Cố xanh, cố tím.
...
mà bị sâu róm ăn hết lá, nhất định cây cà sẽ chết:
Cành suông chết điếng tím, xanh.
(Chết điếng, trang25)
Đối với cây, dù ông quan tâm như vậy, tình thương của ông cũng không nhiều bằng đối với loài vật có tri giác như người[7]. Điều đó ngẫu nhiên phù hợp với một luồng tư tưởng tiên phong hiện nay trên thế giới đòi cho loài vật được đối xử như người, muốn mở rộng dân chủ và đạo lý đến loài vật là đối tượng mà nhà văn kiêm nhà sử học Pháp Michelet (1789-1874) gọi thân thiết là "những anh em hạ đẳng của chúng ta". Phùng Cung không chú ý đến luồng tư tưởng ấy và những phong trào hưởng ứng[8], song đối với ông, thương loài vật như thể thương người là một đạo đức đi đôi với đạo đức "thương người như thể thương thân".
Tình thương của Phùng Cung đối với loài vật cũng như đối với người và cây, bắt nguồn từ ước mơ sẽ không còn thảm cảnh trên trái đất này, một ước mơ quá đẹp đã là một trong những động cơ của các tôn giáo lớn, các chủ nghĩa xã hội cũ và mới. Đâu phải chuyện hão! Từ thời tiền sử, sau khi con người homo sapiens (con người trí tuệ, tinh khôn) xuất hiện, ước mơ và hy vọng không bao giờ hết đã chiếm nửa cuộc sống loài người.
Nặng lòng ước mơ, Phùng Cung buồn rầu nhìn cái chết của con dế bé bủn và vô tội, biết "gào chân mộ", biết "tìm lại tiếng mình đêm trước", bỗng
...
Chiều mưa dội
Nước dềnh sân
Một xác dế bồng bềng.
(Dủi, trang 61)
Ông càng bùi ngùi về cái chết của con chào mào
Dây bẫy cần
Cánh xõa gió bung biêng
...
(Gốc vườn, trang 62)
Lại còn lũ gà con "nhú đôi cánh sữa" gặp rét thấu xương:
Gió bấc về
Gà con lên cơn sốt
Nhong nhóc đi, đứng
Chen nhau tìm chỗ ấm
Cẳng gầy lội gió.
(Chùm gió bấc, trang 96)
Đều là thảm cảnh. Trong chuỗi thảm cảnh của loài vật được ông phản ánh trong Xem đêm có lẽ số phận con trâu mà bài Ê ẩm hé mở cho thấy, làm ông đau xót hơn cả, đau xót và công phẫn. Kiếp trâu bạc bẽo, bạn hiền của người mà bị đối xử dã man đến cực độ, lúc khỏe kéo cầy là "đầu cơ nghiệp", khi kiệt lực bị giết để người ta ăn thịt lại còn lột da bưng trống.
Bên cạnh thảm cảnh của con trâu là thảm cảnh của con cua, con vạc; cả hai đều hèn mọn:
Cua đồng (trang 34)
Phận lấm
Tối ngày đào khoáy
Lưng nắng vẽ
Hoa văn tiền sử
Chài chãi đồng chiêm
Mấy kiếp rồi.
Bị lưu đày
Trong cõi tung hô. (Tội nghiệp, trang 37)
Thương một gia đình cùng kiệt xác xơ:
Rổ không hờ hững quang treo
Nắng thả chào mào nghiêng nghé
Chó vẽ bóng gầy sân bếp
Gió khều tã vã múa may
(Gia cảnh, trang 19)
Thương những người xiêu bạt kiếm ăn:
Cửa liếp nối xa xăm
Người đi từ dạo đói
Chiều ghé sân hoang.
(Nắng hàn vi, trang 45)
Thương xóm nghèo:
Trang trại trưa hè khát bữa
Lẻ tấm
Búng đèn
Đũa mắm
Đểnh đoảng mùi cháo - canh
Gịuc cả xóm cởi trần.
Cháo - canh, trang 23)
Thương người cán bộ phụ nữ luống tuổi, phải về hưu non, sống khó khăn trong nghề bán rượu lậu, ba-lô nặng chĩu:
Nửa đời
Nước thải
Hưu non
Vã mồ hôi son
Tảo tần chiều sớm
"Cuốc lủi" lưng vơi
Ngẫm câu tục ngữ[6]
Mắt trước mắt sau
Kinh hoàng di lụy
Tóc bạc vào mùa
Răng hơi bị đuối
Trệu trạo trái sung
Ruột tím cơ hàn.
(Tím cơ hàn, trang 102)
Thương người con gái chết đuối:
Chớm tuổi yếm son
Em hay xấu hổ...
Chiều mưa ấy
Dốc ao trơn
Em sẩy chân
Bất ngờ - ân hận
...
Xóm khóc - ngậm ngùi
Từ đấy ao hoang
...
(Ao hoang, trang 49)
Thương những người nằm dưới đất:
Lạnh nhịp sương rơi
Chiều - gạo đổ
Dế gào chân mộ
Trăng lên.
(Nghĩa trang, trang 25)
Nhìn sang thế giới bên kia, ông thương những cô hồn lang thang:
Gió nã từng cơn
Bùa trấn trạch
Nấp trong giấy bản
Bến đò, quán chợ, ngã ba
Vật vã mùi cháo thí đêm hè.
(Cháo thí, trang 32)
Đã nghĩ đến những nghịch cảnh chung ở thế giới bên kia, hẳn Phùng Cung không quên những nghịch cảnh chung ở thế giới bên này. Ông thương đồng bào chịu gian khổ trong vùng lũ lụt:
Đê tiền triều gẫy khúc
Đồng ngập trắng
Con lềnh đềnh cõng vắng bơi suông
Thương em đứng giữa mùa nước mắt.
(Mùa nước mắt, trang 47)
Thương những người già trong kháng chiến phải bòn sức lao động sản xuất, đói vẫn hoàn đói:
Giặc quấy
Làng queo quắt
Tụi trẻ đi - đi hết
Dờ dật sức già gãi đất...
Cái đói tròn
Lăn kín bốn mùa
(Gãi đất, trang 65)
Thương những người chết trận, nạn nhân của chiến tranh khốc liệt và chủ nghĩa anh hùng dã man thời phong kiến:
Mỗi chiến thắng
Một lần gươm tắm rượu
Ruồi vẫn qua lùng máu
sa trường
(Gươm báu, trang 68)
Thương giai cấp nông dân sống cơ cực không lối thoát trong nền sản xuất lạc hậu:
Mặt trịn nắng
Ngả màu chum, vại
Hì hụi lối mòn tử đạo
Lưng cơm chan đẵm phong trần.
(Phong trần, trang 71)
Thương một dân tộc tàn lụi sau một thời cường thịnh huy hoàng:
Chiều Phan Rang xanh đau
ngọc nát
Nắng Chiêm Thành quanh quất
tháp hoang
(Tháp Chàm, trang 84)
Thương nhân dân nước nào đó sống lầm than dưới cường quyền:
Phải đâu nhật thực triền miên
Ngày tối hơn đêm...
Quỳ gối chống tay vẫn còn sợ ngã
Mặt đất quá cheo leo.
(Đêm vó ngựa, trang 20)
Đến đây tôi muốn giới thiệu một Phùng Cung lãng mạn "như ai", thương tiếc những mối tình không trọn, cố nén lòng giữ giọt lệ khi gặp lại hai người yêu cũ, một đã thành sư bác mà vẫn chưa quên những ngày dan díu:
...
Nhìn trước nhìn sau
Em khẽ khóc
...
Ngại đường tu dang dở
Em vội lau nước mắt
...
Trót nhớ mãi
Một chiều nghiêng lụy.
(Nghiêng lụy, trang 100)
Người thứ hai dáng dấp gian truân, tiều tụy, không còn đủ can đảm nhìn người cũ:
...
Lâu lắm gặp em
Em chỉ khóc quay đi
Bước héo
Áo gầy
Gió va nón cũ
Tôi hiểu em
Tôi chẳng nói được gì.
(Gặp em, trang 29)
Với lòng trắc ẩn ân cần đến có thể cưng chiều, ông mủi lòng về những tâm hồn trong sáng nhưng yếu đuối, không chịu nổi một sự buồn phiền nhỏ, như người phụ nữ thảo hiền đa cảm, khóc vì lo người thân phải chờ mong, tủi thân vì thiên nhiên cản trở:
Bước sấp ngửa
Em về chợ tối
Gió bãi khoai quấn quít
Làm em mau nước mắt
Đèn con xóm trại đang chờ.
(Về chợ tối, trang 101)
Người được thương không có điều gì bi thảm, chỉ vì đức hạnh mà xúc động ngây thơ nên ông vì quý mến mà vỗ về, an ủi. Một tình thương dẹp dịu như ánh trăng thu!
Cũng với lòng trắc ẩn ân cần ấy, ông hận cho những cánh bèo trôi nổi không cùng:
Lênh đênh muôn dặm
nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh
(Bèo, trang 7)
Ông không thể cầm lòng trước cảnh những quả chuối mới trổ, bấy bớt như trẻ sơ sinh mà phải chịu rét mướt mùa đông, thân trần trụi:
Gió bấc về
Chuối vừa mới trổ
Dằn vật lỗi mùa
Băn khoăn chung chiếc khố
Lấy gì che chắn gió xung quanh.
(Chùm gió bấc, trang 96)
Nếu trong thơ Đường, hoa đào vô tình bên cái chết bi thảm của người con gái ốm tương tư, vẫn thản nhiên "cười với gió Đông" thì, trong thơ Việt Nam, Phùng Cung
Thương cây đào ốm
Xuân về chẳng nụ hoa
Lá gầy run gió lạnh.
(Cây đào, trang 21)
Vì ốm, cây đào thiếu vẻ đẹp trong mùa xuân đã là đau khổ nhưng sự sống chưa mất hẳn, còn cây cà:
...
Cõi bẩn thỉu
Cố xanh, cố tím.
...
mà bị sâu róm ăn hết lá, nhất định cây cà sẽ chết:
Cành suông chết điếng tím, xanh.
(Chết điếng, trang25)
Đối với cây, dù ông quan tâm như vậy, tình thương của ông cũng không nhiều bằng đối với loài vật có tri giác như người[7]. Điều đó ngẫu nhiên phù hợp với một luồng tư tưởng tiên phong hiện nay trên thế giới đòi cho loài vật được đối xử như người, muốn mở rộng dân chủ và đạo lý đến loài vật là đối tượng mà nhà văn kiêm nhà sử học Pháp Michelet (1789-1874) gọi thân thiết là "những anh em hạ đẳng của chúng ta". Phùng Cung không chú ý đến luồng tư tưởng ấy và những phong trào hưởng ứng[8], song đối với ông, thương loài vật như thể thương người là một đạo đức đi đôi với đạo đức "thương người như thể thương thân".
Tình thương của Phùng Cung đối với loài vật cũng như đối với người và cây, bắt nguồn từ ước mơ sẽ không còn thảm cảnh trên trái đất này, một ước mơ quá đẹp đã là một trong những động cơ của các tôn giáo lớn, các chủ nghĩa xã hội cũ và mới. Đâu phải chuyện hão! Từ thời tiền sử, sau khi con người homo sapiens (con người trí tuệ, tinh khôn) xuất hiện, ước mơ và hy vọng không bao giờ hết đã chiếm nửa cuộc sống loài người.
Nặng lòng ước mơ, Phùng Cung buồn rầu nhìn cái chết của con dế bé bủn và vô tội, biết "gào chân mộ", biết "tìm lại tiếng mình đêm trước", bỗng
...
Chiều mưa dội
Nước dềnh sân
Một xác dế bồng bềng.
(Dủi, trang 61)
Ông càng bùi ngùi về cái chết của con chào mào
Dây bẫy cần
Cánh xõa gió bung biêng
...
(Gốc vườn, trang 62)
Lại còn lũ gà con "nhú đôi cánh sữa" gặp rét thấu xương:
Gió bấc về
Gà con lên cơn sốt
Nhong nhóc đi, đứng
Chen nhau tìm chỗ ấm
Cẳng gầy lội gió.
(Chùm gió bấc, trang 96)
Đều là thảm cảnh. Trong chuỗi thảm cảnh của loài vật được ông phản ánh trong Xem đêm có lẽ số phận con trâu mà bài Ê ẩm hé mở cho thấy, làm ông đau xót hơn cả, đau xót và công phẫn. Kiếp trâu bạc bẽo, bạn hiền của người mà bị đối xử dã man đến cực độ, lúc khỏe kéo cầy là "đầu cơ nghiệp", khi kiệt lực bị giết để người ta ăn thịt lại còn lột da bưng trống.
Bên cạnh thảm cảnh của con trâu là thảm cảnh của con cua, con vạc; cả hai đều hèn mọn:
Cua đồng (trang 34)
Phận lấm
Tối ngày đào khoáy
Lưng nắng vẽ
Hoa văn tiền sử
Chài chãi đồng chiêm
Mấy kiếp rồi.
Vạc (trang 28)
Nắng táp cánh đồng
xơ xác
Bước liêu xiêu
Cái vạc ăn ngày.
Hai bài thơ trên cùng với những bài Gia cảnh, Nắng hàn vi, Cháo - canh, Mùa nước mắt, Gãi đất, Nắng cũ, Ra Tết, Bánh trôi, Bữa đẹp, Nhỏ to, Nắng thừa, Dập gẫy, ... và hàng chục bài nữa, làm nổi lên cái hiện thực nghèo khổ của nông dân Việt Nam đến nay vẫn chưa hết. Con cua, con vạc khốn khổ gợi cho người ta nghĩ đến hàng bao nhiêu triệu gia đình nông dân đuối kém đang mong đến lượt mình được "xóa đói giảm nghèo".
Bình luận tập Xem đêm, một tờ báo xuất bản ở Đức nhận xét:
"Một đặc điểm của Xem đêm là không có bài nào động chạm trực tiếp đến các biến cố lịch sử trong đời sống dân tộc mấy chục năm qua", thay vào đó là "Những mảnh cắt từ một nông thôn Việt Nam nghèo khổ" và "Phùng Cung, ở mặt này của hiện thực, đã đạt tới độ sâu sắc chưa từng thấy trong thơ ca Việt Nam mấy chục năm đổ lại đây".
Một tháng sau bài báo nói trên, đài phát thanh Úc cũng lên tiếng khen ngợi tập Xem đêm, so sánh thơ Phùng Cung với thơ Octavio Paz (Mê-hi-cô) và Seamus Heaney (Ai-len) là hai người được tặng giải văn học Nobel, để rút ra nét gần gũi, tương đồng giữa ba cây bút.
Còn trong nước, bào Tiền Phong (Chủ nhật) ra ngày 18-8-1996 viết: "Sự trở về" của Phùng Cung gây ấn tượng cho làng thơ không phải chỉ vì sự đột ngột của nó mà còn vì sự tinh luyện của hồn thơ, của câu, chữ."
Báo Tuồi trẻ (Chủ nhật) ra quãng từ 6 đến 12 tháng 10-1996 viết: "Thời gian xuýt phủ rêu lên tên ông nhưng lưỡi dao thơ ông kịp cạo rơi màu quên lãng ấy".
Chẳng có "ban bệ" nào nâng đỡ, thơ Phùng Cung tự lực gặt hái đã tỏ ra là một thành tựu được dư luận rộng rãi chú ý, hoan nghênh. Và tất nhiên có nhiều người muốn biết thi pháp nào đưa đến thành công ấy. Nhưng Phùng Cung là người làm thơ không theo một lý thuyết vay mượn nào, kể cả những lý thuyết đã có uy thế một thời; ông cũng không tự đặt ra lý thuyết để áp dụng. Giá có ai thân mật hỏi "Thế nào là thơ hay?", "Phải làm những gì để thơ hay?", chắc ông sẽ chẳng có một "khoa học làm thơ" trong túi để đưa ra giới thiệu, mà sẽ khiêm tốn trả lời né tránh như là mình chỉ biết vâng theo tình cảm, xúc động, ngẫu hứng và ngôn ngữ quen dùng.
Nói khái quát, thơ Phùng Cung đã hình thành trong thực tiễn ghi nhận tinh tế và sâu sắc những phản ứng tự nhiên của tâm hồn và nhân cách trước hiện thực: hiện thực nhiều vẻ đẹp làm ông say mê thì nội dung thơ ông thẩm mỹ; hiện thực nhiều thảm cảnh khiến ông xót thương thì nội dung thơ ông hướng thiện. Phải nói ngày là ông coi trọng hướng thiện hơn thẩm mỹ. Ở điểm này thái độ Phùng Cung giống thái độ Romain Rolland (1866-1944), nhà văn Pháp nổi tiếng (được tặng giải văn học Nobel năm 1915), người đã từng tuyên bố: "Tôi sẵn sàng đặt lòng từ thiện lên bậc giá trị cao hơn nghệ thuật trăm lần[9]".
Chính vì thơ Phùng Cung xuất phát từ sự phản ứng tự nhiên của tâm hồn và nhân cách trước hiện thực nên trong khi thơ Lê Đạt muốn "vượt vũ môn" để tìm sức sống nơi bóng chữ thì thơ Phùng Cung -cũng như thơ Trần Dần đã được Hội nhà văn tặng giải thưởng năm ngoái- vẫn chân chỉ, trung thành với bóng người. Cái bóng của Phùng Cung là bóng một con người nhân hậu, khoan hòa, có lý tưởng công bằng, bác ái, yêu đời, yêu nước và làm thơ chưa đẫy sức. Chưa đẫy sức vì hoàn cảnh chưa thuận lợi cũng có, vì bản thân thơ chưa trưởng thành cũng có. Nếu tôi được ủy quyền chọn lại những bài thơ trong tập Xem đêm, tôi sẽ loại đi ít nhất một phần tư với lòng tin tưởng tác giả sẽ không dừng lại chỗ ấy.
Nắng táp cánh đồng
xơ xác
Bước liêu xiêu
Cái vạc ăn ngày.
Hai bài thơ trên cùng với những bài Gia cảnh, Nắng hàn vi, Cháo - canh, Mùa nước mắt, Gãi đất, Nắng cũ, Ra Tết, Bánh trôi, Bữa đẹp, Nhỏ to, Nắng thừa, Dập gẫy, ... và hàng chục bài nữa, làm nổi lên cái hiện thực nghèo khổ của nông dân Việt Nam đến nay vẫn chưa hết. Con cua, con vạc khốn khổ gợi cho người ta nghĩ đến hàng bao nhiêu triệu gia đình nông dân đuối kém đang mong đến lượt mình được "xóa đói giảm nghèo".
Bình luận tập Xem đêm, một tờ báo xuất bản ở Đức nhận xét:
"Một đặc điểm của Xem đêm là không có bài nào động chạm trực tiếp đến các biến cố lịch sử trong đời sống dân tộc mấy chục năm qua", thay vào đó là "Những mảnh cắt từ một nông thôn Việt Nam nghèo khổ" và "Phùng Cung, ở mặt này của hiện thực, đã đạt tới độ sâu sắc chưa từng thấy trong thơ ca Việt Nam mấy chục năm đổ lại đây".
Một tháng sau bài báo nói trên, đài phát thanh Úc cũng lên tiếng khen ngợi tập Xem đêm, so sánh thơ Phùng Cung với thơ Octavio Paz (Mê-hi-cô) và Seamus Heaney (Ai-len) là hai người được tặng giải văn học Nobel, để rút ra nét gần gũi, tương đồng giữa ba cây bút.
Còn trong nước, bào Tiền Phong (Chủ nhật) ra ngày 18-8-1996 viết: "Sự trở về" của Phùng Cung gây ấn tượng cho làng thơ không phải chỉ vì sự đột ngột của nó mà còn vì sự tinh luyện của hồn thơ, của câu, chữ."
Báo Tuồi trẻ (Chủ nhật) ra quãng từ 6 đến 12 tháng 10-1996 viết: "Thời gian xuýt phủ rêu lên tên ông nhưng lưỡi dao thơ ông kịp cạo rơi màu quên lãng ấy".
Chẳng có "ban bệ" nào nâng đỡ, thơ Phùng Cung tự lực gặt hái đã tỏ ra là một thành tựu được dư luận rộng rãi chú ý, hoan nghênh. Và tất nhiên có nhiều người muốn biết thi pháp nào đưa đến thành công ấy. Nhưng Phùng Cung là người làm thơ không theo một lý thuyết vay mượn nào, kể cả những lý thuyết đã có uy thế một thời; ông cũng không tự đặt ra lý thuyết để áp dụng. Giá có ai thân mật hỏi "Thế nào là thơ hay?", "Phải làm những gì để thơ hay?", chắc ông sẽ chẳng có một "khoa học làm thơ" trong túi để đưa ra giới thiệu, mà sẽ khiêm tốn trả lời né tránh như là mình chỉ biết vâng theo tình cảm, xúc động, ngẫu hứng và ngôn ngữ quen dùng.
Nói khái quát, thơ Phùng Cung đã hình thành trong thực tiễn ghi nhận tinh tế và sâu sắc những phản ứng tự nhiên của tâm hồn và nhân cách trước hiện thực: hiện thực nhiều vẻ đẹp làm ông say mê thì nội dung thơ ông thẩm mỹ; hiện thực nhiều thảm cảnh khiến ông xót thương thì nội dung thơ ông hướng thiện. Phải nói ngày là ông coi trọng hướng thiện hơn thẩm mỹ. Ở điểm này thái độ Phùng Cung giống thái độ Romain Rolland (1866-1944), nhà văn Pháp nổi tiếng (được tặng giải văn học Nobel năm 1915), người đã từng tuyên bố: "Tôi sẵn sàng đặt lòng từ thiện lên bậc giá trị cao hơn nghệ thuật trăm lần[9]".
Chính vì thơ Phùng Cung xuất phát từ sự phản ứng tự nhiên của tâm hồn và nhân cách trước hiện thực nên trong khi thơ Lê Đạt muốn "vượt vũ môn" để tìm sức sống nơi bóng chữ thì thơ Phùng Cung -cũng như thơ Trần Dần đã được Hội nhà văn tặng giải thưởng năm ngoái- vẫn chân chỉ, trung thành với bóng người. Cái bóng của Phùng Cung là bóng một con người nhân hậu, khoan hòa, có lý tưởng công bằng, bác ái, yêu đời, yêu nước và làm thơ chưa đẫy sức. Chưa đẫy sức vì hoàn cảnh chưa thuận lợi cũng có, vì bản thân thơ chưa trưởng thành cũng có. Nếu tôi được ủy quyền chọn lại những bài thơ trong tập Xem đêm, tôi sẽ loại đi ít nhất một phần tư với lòng tin tưởng tác giả sẽ không dừng lại chỗ ấy.
Chủ nhật - 22/09/2013 13:14
Bà Kim Thoa đọc Xem Đêm
(Dân Việt) - “Xem đêm” - một tập thơ xuất sắc về nông thôn đồng bằng Bắc bộ của nhà thơ Phùng Cung vừa được Hội Nhà văn Hà Nội trao giải Thành tựu trọn đời.
Trò chuyện với phóng viên Dân Việt về niềm vinh hạnh này, bà Ngô Thị Kim Thoa - vợ của nhà thơ cho hay: Tôi năm nay cả tuổi ta đã là 81, sức khỏe rất tệ nay yếu mai đau vì những năm tháng lao lực thời trẻ. Được mời đến lễ trao giải hôm 10.10, tôi rất muốn đi mà không nhấc nổi chân nên không thể có mặt để nói lời cảm ơn Hội đồng xét giải. Tôi nói với con trai út đi nhận giải thay bố là thôi cũng xem như đây là một chút an ủi cho những ngày thống khổ của cả gia đình mình...
Bà Kim Thoa và tập thơ “Xem đêm” của nhà thơ Phùng Cung.
Còn nhớ một bài thơ ông viết: “Gạo đong từng bữa/Cơm bữa nào em thổi cũng xuê/Mâm chiều vui lửng dạ/Có lẽ nào em nhỉ/Cả nhà ta quân tử/Đỏ lửa lần hồi/Thiếu gạo vẫn thừa cơm”. Hình như cái đói khổ không làm ông sầu muộn mà an nhiên với sự nghèo?
- Bởi vì tính ông nhà tôi rất khí khái, giàu tự trọng, sau những năm gặp nạn, ông không tiếp xúc với ai, kể cả bạn bè rất thân cũ hồi xưa. Ai thương hại hoàn cảnh gia đình mà đề nghị giúp đỡ, ông cũng từ chối hết. Ngay cả những năm về sau này, khi vụ án Nhân văn giai phẩm đã nhạt màu, không còn nghiêm trọng nữa, được Nhà nước quyết định trợ cấp, ông nhà tôi cũng cương quyết không nhận. Sau mọi người phải nói mãi, rằng nhà tôi hãy vì tôi mà nhận để tôi đỡ một phần khó khăn. Những năm tháng ấy, nhà tôi còn không có nổi tiền để trả tiền điện hàng tháng. Vợ chồng tôi thường thức trắng đêm dập đinh, rán bánh để kiếm tiền nuôi con.
Từ một cô gái con nhà dòng dõi quan lại (ông nội bà Kim Thoa làm quan trong triều đình Nguyễn -PV), kết hôn với ông Phùng Cung để rồi cả đời lận đận lao khổ vì chồng, có khi nào bà oán trách số phận?
- Nghĩ lại 12 năm 6 tháng chồng tôi “chịu nạn”, không lúc nào tôi không khóc, khóc vì quá thương chồng, thương mình, thương con. Ngày ông bị bắt đi, tôi từ cơ quan chạy vội về nhà thấy tan hoang hết cả, 2 đứa con trai đầu đứa mới lên 4, đứa 2 tuổi, chúng còn mừng rỡ khoe với tôi bố được đi ô tô. Tôi đang là một xét nghiệm viên của Trường ĐH Dược Hà Nội, lương rất thấp, vậy nên cứ còm cõi làm thêm để kiếm tiền nuôi con và đi tiếp tế cho chồng.
Một năm hai lần, dịp nghỉ hè và tết, tôi lặn lội một thân một mình đi theo ông, đằng đằng đi hết các trại từ Bất Bạt (Sơn Tây) lên Yên Bái, Lào Cai, vừa đi vừa tránh bom Mỹ. Mỗi lần gặp chồng được nửa tiếng đồng hồ, chỉ kịp nhìn thấy chồng đã phải quay về. Những lúc ấy tôi tự hỏi, có phải mình tuổi Thân nên khổ, trên đời này còn có ai khổ như tôi nữa không?
Khi Phùng Cung được trở về, cuộc sống ông bà vô cùng chật vật nuôi lớn 3 người con trai, lúc ấy ông có còn sáng tác không?
- Hầu như không, những bài thơ trong tập “Xem đêm” chủ yếu là sáng tác khi ông đi cải tạo, sau này về thì nhớ lại, chép ra. Để in được tập này vào năm 1995, gia đình tôi phải cám ơn ông Phùng Quán và ông Nguyễn Hữu Đang vô cùng.
Với tôi, tôi chỉ thấy nếu tập thơ không được in, không đến được với người đọc thì là một điều đáng buồn vì chồng tôi sinh trưởng ở nông thôn, ông làm thơ chỉ để ca ngợi quê hương, viết về cái hay cái đẹp. Ví dụ bài thơ này: “Sáng nay may mắn ra đường/Đi một quãng/Gặp toàn người Đẹp/Tôi sung sướng/Trào nước mắt/Muốn đưa lưng/Làm thảm trải lối đi” (May mắn).
“Em mải vá đồng/Nhịp đò đưa ngấm lạnh/Tay run rẩy khỏa bùn/Lay động sao Hôm”. (Thơ Phùng Cung)
Tình yêu nông thôn trong thơ của nhà thơ Phùng Cung vô cùng nồng đượm đến độ mọi cảnh vật bình dị đều hóa lung linh. Bà có nghĩ nông thôn, người nông thôn là cảm hứng lớn nhất trong đời thơ của ông?
- Cái này nhiều người cũng đã nói. Ông nhà tôi sinh trưởng ở nông thôn Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc), bố mẹ là người gắn với củ khoai hạt lúa nên ông yêu làng quê tha thiết. Vì yêu quê hương nên khi có giặc, ông hăng hái đi kháng chiến, 17 tuổi đã làm chủ tịch liên xã, còn lôi kéo cả mấy người em trai đi cùng, bỏ lại cha mẹ già. Nhưng cuối cùng, vì gia đình bị quy thành phần địa chủ, cha chồng tôi bị bắt giam và qua đời ở Thái Nguyên.
Hết cha rồi đến bản thân chịu nạn, nhưng chưa lúc nào ông không yêu Tổ quốc, yêu quê hương và nhất là yêu Tiếng Việt. Tôi nghĩ vì tình yêu Tiếng Việt mà ông đã làm được tập “Xem đêm” như vậy.
Xin cảm ơn bà!
Ngọc Anh (thực hiện)
NGUYỄN THIÊN THỤ * THẦN THOẠI VIỆT NAM

THẦN THOẠI VIỆT NAM
NGUYỄN THIÊN THỤ
Thần thoại (Myth ) là những câu chuyện thiêng liêng, huyền bí nói về nguồn gốc
thế giới, và thế giới được cấu tạo ra như thế nào và gồm những loài vật nào.
Các vai chính trong thần thoại là các thần linh, tiên thánh. Thần thoại có lẽ
được sáng tạo trong thời tiền sử, được truyền khẩu qua bao đời và được tin là
thật. Nhưng cũng nhiều người không tin, họ cho đó chỉ là nhãn hiệu của
các tôn giáo hay các nền văn hóa.
Truyện đời xưa là truyện đã lâu đời. Truyện thần tiên là truyện về các bậc tiên
thánh như truyện Tấm Cám. Thật ra giữa truyện đời xưa và truyện thần tiên chỉ
khác nhau là nhân vật chính. Thần thoại cũng giống truyện thần tiên, quái dị
nhưng khác nhau ở chỗ thần thoại nói về nguồn gốc thế giới và dân tộc.
Mircea Eliade đã nghiên cưới thần thoại, và định nghĩa thần
thoại là lịch sử thiêng liêng, kể lại một biến cố đã xảy ra từ thuở hồng
hoang mới khai thiên lập địa . Nói một cách khác, thần thoại là lịch
sử các đấng siêu nhiên (Etres surnaturels ). Và điều tất yếu, chính các đấng
siêu nhiên này đóng một vai trò chính trong lịch sử và vũ trụ.Nước nào cũng có
thần thoại, nhưng mỗi nước có màu sắc khác nhau tùy theo quan niệm triết lý của
mỗi dân tộc.
Từ trước, người ta chỉ trích thần thoại là
hoang đường. Quan niệm duy lý đã có từ thế kỷ VI với Xénophane (565-470tr.TL )
khi ông chỉ trích thi sĩ Homère và Hésiode đã làm thơ kể truyện thần thoại dân
gian. Nhưng khoảng thế kỷ XX, người ta đã chú trọng đến thần thoại, và thần thoại
được đem giảng dạy, nghiên cứu ở đại học. Trong các thần thoại, thần thoại La
Hy được người ta chú trọng nhất, coi như đó là trung tâm của văn học, triết học
của nhân loại.
Thuở ban đầu, người ta đã chú trọng đến các vấn đề triết
lý, và siêu hình. Con người tự hỏi ai sinh ra vũ trụ? Ai sinh ra con nguời? Con
người từ đâu đến rồi đi về đâu? Truyện Bàn Cổ của Trung Hoa đã giải thích
nguyên nhân cấu tạo vũ trụ:
Hỗn mang chi sơ,
Vị phân thiên điạ.
Bàn Cổ thủ xuất,
Thủy phân âm dương.
Thiên khai ư tý,
Địa tịch ư sửu,
Nhân sinh ư dần. . .
Bàn Cổ là người đầu tiên tạo dựng nên vũ trụ, nghĩa là
ông có trước trời đất. Ông sinh ra rồi mới phân ra âm dương để cho vạn vật biến
hóa. Mỗi ngày ông biến đổi 9 lần, mỗi lần cao thêm 10 thước. Trời cũng cao
thêm, đất cũng dày thêm chừng ấy. Ông sống mười tám ngàn năm nên trời thật cao,
đất thật dày.
Khi ông khóc, nước mắt ông chảy làm ngập hai sông Hoàng Hà và Dương Tử. Hơi thở của ông thành gió thổi. Khi ông vui thì trời quang mây tạnh, lúc ông giận dữ thì trới đất âm u. Lúc ông chết, thân ông rã thành năm hòn núi lớn trong thiên hạ. Hai con mắt ông làm nên mặt trời, mặt trăng. Mỡ chảy thành biển cả và sông ngòi. Tóc đâm rễ vào đất sinh thảo mộc. Sâu bọ trên xác ông làm thành loài người. Truyện này đã nói lên vũ trụ quan của Trung Quốc.
Khi ông khóc, nước mắt ông chảy làm ngập hai sông Hoàng Hà và Dương Tử. Hơi thở của ông thành gió thổi. Khi ông vui thì trời quang mây tạnh, lúc ông giận dữ thì trới đất âm u. Lúc ông chết, thân ông rã thành năm hòn núi lớn trong thiên hạ. Hai con mắt ông làm nên mặt trời, mặt trăng. Mỡ chảy thành biển cả và sông ngòi. Tóc đâm rễ vào đất sinh thảo mộc. Sâu bọ trên xác ông làm thành loài người. Truyện này đã nói lên vũ trụ quan của Trung Quốc.
Thần thoại Ấn Độ cũng nói lên vũ trụ quan của Bà La Môn giáo. Vũ trụ ban đầu là
Ngã (Atman )mang hình người. Ngã nhận thấy Ngã cô độc, buồn rầu. Ngã phân mình
làm hai, thành ra người đàn ông và người đàn bà, họ giao hợp sinh con cái thành
loài người. Người đàn bà tự hỏi: Chàng phân mình ra làm ta, tại sao chàng lại
giao hợp với ta. Không được, ta phải ẩn đi. Nàng hóa thành bò cái, chàng hóa
thành bò đực. Nàng hóa thành ngựa, dê, chàng cũng biến thành ngựa dê cùng nàng
giao hợp thành ra muôn loài.
Thần thọai La Mã cũng có cách giải thích quan điểm triết lý của họ. Trời (
Ouranos ) và Đất ( Gaes) đã phối hợp mà tạo thành một loài, gọi là Titan. Các
Titan có một vóc dạng phi thường và có môt sức khỏe vô song. Những Titan
này là những thần linh. Có 12 Titan danh tiếng ngự trị ở Olympe:
-Zeus ( Jupiter ) là chúa tể Thiên đình, là thần Mưa, thần
Mây, thần Sấm Sét.
-Aphrodite (Vénus) :nữ thần Aùi tình
-Hermes ( Mercure ), con của Zeus, thần Thương Mãi.
-Ares (Mars), con của Zeus, thần Chiến Tranh.
Ngoài ra còn có các vị thần khác như Hypérien là cha Mặt
Trời, Mặt Trăng và Bình Minh; Ocean là Hải Thần; Dyonysos là Thổ Thần.
Nói chung, thần thoại có mục đích giải lý do hiên hữu của vũ trụ của muôn loài,
muôn việc trong vũ trụ. Phần lớn cho thượng đế là chúa tể vũ trụ. Dưới thượng đế
là các thần linh , mỗi thần linh phụ trách một vài việc. Thần Sông ( Hà Bá,
Long vương )cai quản sông ngòi; thần núi ( Sơn thần ) cai quản núi rừng. Thần
Mưa, thần Gió, thần Sấm Sét phụ trách việc làm mưa gió trong vũ trụ. Thần Bếp
(Táo quân) trông coi việc nhà. Thần Đất (Thổ Địa ) trông coi an ninh trong
vùng. Tuy cho thượng đế là thần linh tối cao, nhưng mỗi tôn giáo, mỗi quốc gia
có quan niệm khác nhau về thượng đế, ai cũng cho là thượng đế của mình là cao cả.
Những tư tưởng về thượng đế là căn cứ vào lý nhân quả: vũ trụ tại sao tồn tại?
Họ trả lời vũ trụ là do một đấng sáng tạo, là ông Trời, hay một vị thần linh nào
đó như ông Bàn Cổ, tạo ra. Nhưng lý nhân quả cũng gặp vấn nạn, bế tắc. Nếu căn
cứ vào lý nhân quả, thượng đế sinh vũ trụ, vậy ai sinh ra thượng đế?
Không thể truy tìm mãi, người ta bảo Thượng đế
là nguyên nhân thứ nhất. Thượng đế tự sinh ra. Nếu nói như vậy thì con người và
vạn vật cũng có thể do ngẫu nhiên. Nhiều triết gia cho rẳng Không sinh ra Hữu.
Vậy ai sinh ra Không? Phật giáo bảo vạn vật do các nhân tụ họp mà thành. Điều
này có vẻ hợp với khoa học. Gió, mưa là do không khi di chuyển. Không có thần
mây, thần mưa và thần gió như trong truyện Trung Quốc.
Về thượng đế, mỗi tôn giáo có quan niệm khác
nhau. Phật giáo cũng như Khổng giáo tin có thượng đế nhưng thượng đế ở Phật
giáo rất đặc biệt. Phật giáo quan niệm vũ trụ liên tiếp tồn tại và di chuyển,
linh hồn sau khi chết chuyển qua 6 thế giới ( lục đạo luân hồi). Trong sáu thế
giới, thế giới cao nhất là thiên giới tức nơi thượng đế ở, có chư tiên, chư
thánh. Thế giới bậc nhì là nhân giới. Ngoài ra có địa ngục giới, tu la giới, ngạ
quỷ và súc sinh.
Chúng sinh có thiện căn cao nhât sẽ trở thành thượng đế cai quản
vùng trời. Có rất nhiều thiên giới, do đó có nhiều thượng đế. Nhưng thượng đế
không vĩnh viễn. Sau một thời gian, thượng đế sẽ phải chuyển qua thế giới khác.
Đức Phật kiếp trước cũng đã ở Thiên giới. Đức Phật không là Thượng đế mà là bậc
đạo sư của nhân giới và thiên giới. Mục đích của Phật giáo là Niết Bàn chứ
không phải Thiên giới.
Nho giáo tin có Thượng đế nhưng Nho giáo cũng như Phật
giáo chú trọng việc thựïc hành điều thiện, tu nhân tích đức chứ không cầu tha lực.
Thần Linh nếu có cũng phải căn cứ vào tội và phước của mỗi người chứ không phải
ai năng cúng bái là được lên Thiên Đường, hoặc dùng gươm giáo, quyền lực để mở
rộng lãnh thổ thượng đế. Kinh Thư có câu:
« Hoàng thiên vô thân duy đức thị
phu »
(Trời không thân riêng ai, người có đức thì được trợ
giúp)
Khổng Tử nói: « hoạch tội ư thiên, vô sở đảo giả
« ( Có tội với Trời còn cầu nguyện vào đâu được. )
Người Việt Nam cũng theo óc duy lý mà chỉ trích Thượng Đế
vì Thượng đế đã bất công, đày đọa con người
Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,
Giết đuối người trên cạn mà chơi!
( Cung oán )
Trời ơi, trời ở không cân,
Kẻ ăn không hết, người mần không ra!
( Ca dao)
Nhìn chung, chúng ta cũng có thần thoại thuộc loại triết
lý nhưng ít. Có lẽ tiền nhân không thích chép và thích kể loại này.
Phần nhiều truyện loại này quy cho ông trời quyền quyết định mọi việc. Thí dụ
truyện sau đây giải thích tại sao con người phải chết:
Ông Trời sai sứ giả truyền lênh như sau:
-Người già, người lột vỏ,
Rắn già, rắn bỏ vào săng ( hòm ).
Sứ giả vì quên , đọc lộn:
Rắn già rắn lột vỏ,
Người già, người bỏ vào săng.( Gỗ )
Vì vậy mà rắn già lột vỏ mà sống, còn nguời già chết phải
đem chôn.
Truyện sau đây giải thích tại sao loài vât không nói được:
Một nhà phú hộ nuôi trẻ giữ trâu bò. Mục đồng ham chơí,
không dắt trâu qua cánh đồng nhiều cỏ, mà lại cột nó lại một chỗ.Trước khi ra về,
mục đồng lấy mo cau quết bùn đắp ngoài bụng. Khi về nhà, phú ông thấy bụng trâu
bò căng phồng, khen thằng bé giỏi, biết cho trâu bò ăn no căng bụng. Trâu bò tức mình nói:
-No chi mà no,
Trong mo ngoài đất.
Không tin thì lật ra mà coi.
Phú ông bèn lau sạch bùn, thấy bụng trậu bò lép kẹp với
cái mo cau buộc ngoài.
Thằng bé bị đòn, khóc lóc thảm thiết. Oâng bụt bèn lấy
nhang làm phép, châm vào miệng trâu bò. Từ đó trâu bò và loài vật không nói nữa.
Nhìn kỹ miệng trâu bò, nay hãy còn những chấm đen do hương châm vào mà thành.
Nếu khoa học có mục đích giải thích các nguyên do của vạn vật và vũ trụ, thần
thoại cũng có mục đích đó nhưng với phương pháp, nguyên tắc và dụng cụ khác
nhau. Điểm trước hết là thần thoại xuất hiện vào buổi đầu của nhân loại, khi
nhân loại chưa đạt một nền văn minh cao, còn khoa học thì xuất hiện sau. Thần
thoại thì vẫn giữ màu sắc nguyên sơ trong khi khoa học tiến dần, từ thời thạch
khi lên thời đại đồ đồng, và thời đại nguyên tử. Thần thoại mang hình thức chuyện
cổ tích, cón khoa học theo phương pháp thực nghiệm. Nói một cách khác, thần thoại
là hình thái khoa học của thời đầu tiên của nhân loại.
Nếu khoa học có mục đích giải thích các nguyên do của vạn vật và vũ trụ, thần
thoại cũng có mục đích đó nhưng với phương pháp, nguyên tắc và dụng cụ khác
nhau. Điểm trước hết là thần thoại xuất hiện vào buổi đầu của nhân loại, khi
nhân loại chưa đạt một nền văn minh cao, còn khoa học thì xuất hiện sau. Thần
thoại thì vẫn giữ màu sắc nguyên sơ trong khi khoa học tiến dần, từ thời thạch
khi lên thời đại đồ đồng, và thời đại nguyên tử. Thần thoại mang hình thức chuyện
cổ tích, cón khoa học theo phương pháp thực nghiệm. Nói một cách khác, thần thoại
là hình thái khoa học của thời đầu tiên của nhân loại.
Thần thoại là gạch nối giữa lich sử và văn
chương truyền khẩu. Đó là sáng tạo của nhân dân qua bao chặng đường lịch sử.
Khi nghiên cứu văn chương truyền khẩu, chúng ta phải kể đến thần thoại là một bộ
phận gần gũi với lịch sử. Thần thoại khác cổ tích. Cổ tích đã chuyện đã lâu đời
truyền tụng trong dân gian. Thần thoại cũng khác truyện tiên, thánh, ma quỷ,
truyện kinh dị vì các truyện này không có tính triết lý, lịch sử. Tuy
nhiên giữa thần thoại và ma quái cũng có điều khó phân biệt.
Nhiều nhà nghiên cứu quá khích ca tụng thần
thoại, coi thần thoại có giá trị cao hơn lịch sử. Augustin Thierre đã nhận định
lịch sử thật chỉ tìm thấy trong những giai thoại truyền kỳ, đó là sử truyền tụng
sống động và ba phần tư là thật hơn những cái mà ta gọi là lịch sử. Thật vậy, một
số sử gia đã coi thần thoại là chân sử (histoire vraie) để phân biệt với giai
thoại, ngụ ngôn là ngụy sử ( histoire fausse). Người ta cho thần thoại là chân
sử vì nó nói lên nguồn gốc loài người, nguồn gốc dân tộc. Chân sử khác ngụy sử
vì một bên thiêng liêng, còn một bên trần tục .
Thần thoại Việt Nam nổi bật nhất về mặt lịch sử. Về mặt này, thần thoại cho biết
về:
-Nguồn gốc dân tộc: Họ Hồng Bàng.
-Lịch sử dân tộc: cuộc chiến đấu chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam: Phù Đổng,
Hai bà Trưng, Nhất dạ trạch.
-Sinh hoạt của nhân dân Việt Nam: Phong tục: bánh chưng, dưa hấu, trầu cau.
Thần thoại hay việc thờ cúng và lễ hội là để tưởng niệm các bậc anh hùng vị quốc
vong thân, có tính cách lịch sử chứ không có tính cách tôn giáo như ở các nước
khác.
Thần thoại còn có giá trị nhân chủng. Nhà
nhân chủng học C. Strehlow đã hỏi các thổ dân Uùc châu tại sao họ thực hiện các
lễ nghi như thế, họ trả lời rằng vì tổ tiên họ đã làm như vậïy. Giống người Kai
ở Nouvell-Guinée cho rằng họ phải tuân theo tục lệ tổ tiên, thần thánh của họ
đã làm trước kia. Những tín đồ Hồi giáo cũng trả lời là họ phải làm theo những
điều mà các thần linh đã làm ở buổi đầu tiên.
Trên đây, chúng tôi đã trình bày sơ lược về thần thoại
vài quốc gia. Sau đây, chúng tôi xin nói về thần thoại Việt Nam.
Thần thoại Việt Nam đầu tiên đưọc chép lại trong hai quyển Việt Điện U Linh Tập
và Lĩnh Nam Chích Quái.Theo Dương Quảng Hàm, Việt Điện U Linh tập có thể do một
nho gia đời Lý hay đời Trần sáng tác mà Lý Tế Xuyên chỉ là kẻ nối tiếp. Việt Điện
U Linh Tập gồm 27 truyện, chia làm ba mục:
1.Nhân quân: ( các vị vua, cung phi ) Sĩ Nhiếp, Phùng
Hưng, Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử, hai bà Trưng, Mị Ê. .
2. Nhân thần: ( Các bề tôi ) : Lý Ôâng Trọng, Lý Thường Kiệt, Phạm Cự Lượng. .
.
3. Hạo khí anh linh: ( khí lớn linh thiêng ): thần Đồng Cổ, thần Bạch Mã, thần
Tản Viên. .
.
.
Về quyển Lĩnh Nam Chích Quái thì Dương Quảng Hàm nhận định rằng quyển này do một
tác giả vô danh soạn từ trước, sau hai ông Vũ Quỳnh và Kiều Phú hiệu chính và đề
tựa năm 1493. Hai quyển Việt Điện U Linh Tập và Lĩnh Nam Chích Quái góp nhặt những
thần thoại, những cổ tích ở nước ta như truyện Hồng Bàng, bạch trĩ, dưa hấu,
bánh chưng, Phù Đổng thiên vương, Lý Oâng Trọng, Chử Đồng Tử, Từ Đạo Hạnh,
Không Lộ, thần Tản Viên. . .
Lê Quý Đôn thì cho rằng Việt Điện U Linh Tập do Lý Tế Xuyên soạn vào năm
Khai Hựu đời Trần; còn Lĩnh Nam Chích Quái do Trần Thế Pháp soạn và Vũ Qưỳnh
đề tựa.
Dẫu sao, hai tác phẩm này đã ra đời khoảng Lý, Trần ( thế kỷ XI- XV ). Chính Vũ
Quỳnh đã nói:
Bản liệt truyện này làm ra, không biết làm từ đời nào,,
và người nào làm, ngờ rằng các bậc hồng sinh thạc nho đời Lý, Trần thảo
sáng ra, rồi các bậc hiếu cổ bác nhã ngày nay nhuận sắc lại.
Thật ra, trong hai sách trên, chỉ có một số là thần thoại,
còn một số là truyện ký lịch sử hay truyện quái dị. Các nhân vật phần lớn là Việt
Nam, chỉ một vài nhân vật ngoại quốc như Sĩ Nhiếp, Mỵ Ê. Về nguồn gốc truyện
thì có ba:
-truyền
thuyết dân gian
-Việt sử
-Truyện ký Trung Quốc.Truyện ký Trung Quốc khá nhiều như Tam Quốc Chí của Trần
Thọ( thế kỷ 3 ) là xưa nhất. Sau đó là Giao Châu Ký của Triệu Xương và Giao
Châu Ký của Tăng Cổn.
Đọc kỹ các thần thoại Việt Nam,
chúng ta nhận thấy nhiều điểm khác với thần thoại ngoại quốc.
1. THỜI GIAN VÀ CHỦNG LOẠI
Các nhân vật trong truyện Trung Quốc và La Hy là các siêu nhân. Họ
ra đời trước nhân loại. Họ là thần thánh, ở cõi trời hay cõi tiên thánh, không
thuộc loài người. Còn các nhân vật trong thần thoại Viêt Nam xuất
thân là người. Kinh Đương Vương, Lạc Long Quân, Aâu Cơ là giống Rồng Tiên
nhưng vẫn thuộc loài người, thuộc dòng dõi Viêm Đế bên Trung Quốc. Nhân vật
cổ nhất trong thần thoại Việt Nam
là Kinh Dương vương trong truyện họ Hồng Bàng. Kinh Dương vương làm vua nước
Xích Quỷ vào năm nhâm tuất (2879 tr.TL? ). So với Bàn Cổ, Kinh Dương Vương sống
sau khoảng 50 ngàn năm.
2. HÌNH DÁNG
Các vị thần linh trong thần thoại Trung Quốc, La Hy là siêu nhiên
nên có hình dáng khác loài người. Nói đúng hơn, họ có hình dáng giống loài vật,
nửa người nửa thú. Vua Phục Hy đầu người mình cá,bà Nữ Oa đầu người đuôi cá,
Những Titan có hình dạng kỳ quái như có 50 đầu, một trăm đầu. Vì chúng có hình
dung cổ quái nên cha trời ( Ouranos) muốn trừ bỏ chúng, đem chúng giam ở
âm phủ (Tartare ). Những vị thần Hy Lạp như Pan, con của Hermès có đầu sừng dê.
Thần Silène nửa người nửa ngựa, thần Satyre nửa người nửa dê.
Ngoài ra có
thần Cyclopes có nghĩa là mắt tròn vì thần có một mắt tròn to giữa trán, lại có
thân hình cao to hơn ngọn núi. Những vị thần linh Aán Độ cũng có hình dáng kỳ lạ.
Thần Agni có hai đầu, bảy lưỡi và bốn tay; thần Brahman có bốn cánh tay,
năm đầu nhưng bị chặt đi một còn bốn; thần Shiva bán nam bán nữ, có sinh thực
khí nam nằm trên sinh thực khí nữ, ba mắt, bốn cánh tay. . .
Còn trong thần thoại Việt Nam không có ai có hình dáng kỳ dị. Phù Đổng thiên vương và Lý Oâng Trọng cao lớn nhưng vẫn là con người.
3. ĐẠO HẠNH
Nhìn chung, các thần linh Trung Quốc, Aán Độ và La Hy rất độc ác. Cha Trời đã bắt giam các con vì hình dung chúng xấu xí. Rốt cuộc, Cha Trời cũng bị con là Cronos giết chết. Cronos lên nắm quyền nhưng lại ăn thịt các con vì sợ chúng chiếm ngôi báu. Các thần Aán Độ đi đến đâu đốt phá đến đó. Một số thần linh phạm tội loạn luân.
Cronos lấy em gái là Rhéa, và Zeus lấy Héra là em song sinh. Thần Brahman An Độ phạm tội dâm loạn với em gái là nàng Samdhyâ, tức vợ của Shiva. Một truyện khác kể rằng Brahman say mê con gái của mình là Ushas. Truyện Satan có nhiều bản khác nhau viết về nguồn gốc nhân loại. Milton đã theo Genesis mà viết Paradise Lost . Satan phạm nhiều tội ác: phản Thượng Đế, xúi dục Eve ăn trái cấm, hiếp dâm con gái y tên là Sin.
Các vị thần ngoại quốc phần lớn là hung thần, tàn sát dân lành, bắt phải cúng tế mạng người. Thần Moloch được dân Phénicien, Carthage thờ cúng. Dân chúng phải đem con đến cúng tế. Khi đứa trẻ bị đặt vào hai bàn tay tượng thần thì sẽ tụt vào lòng tượng thần đang nung nóng. Mỗi lần tế như vậy có đến hàng trăm trẻ con bị giết. Cha mẹ đứa trẻ không được khóc lóc hoặc tỏ lòng thương xót.
Những nhà giàu có thường đi mua trẻ nhà nghèo chết thay cho con mình. Năm 307 trước Tây Lịch, thành bị vây, sợ thần thịnh nộ, các trưởng giả phải đem con ra tế. Lần này có khoảng 200 trẻ bị đốt. Người ta phải đánh trống, đánh chiêng để át tiếng la hét và kêu khóc thảm thiết của trẻ. Truyện này giống truyện Hà Bá cưới vợ của Trung Quốc. Tại một vùng nọ, dân có tục cưới vợ cho Hà Bá. Mỗi năm phải đem dâng một mỹ nhân, nghĩa là đem một cô gái khoảng 15 còn trinh bạch ném xuống sông cho Hà Bá làm vợ. Năm kia, môt vị huyện quan được đổi về trấn nhậm vùng này. Ộng được mời tham dự buổi cưới vợ này.
Ông yêu cầu được xem mặt mỹ nhân. Ông chê cô này xấu quá, không xứng làm vợ Hà Bá. Ông yêu cầu một bà đồng xuống thưa với Hà Bá xin đình hoãn để chọn người đẹp hơn. Một lát sau, ông bực bội bảo bà đồng này chậm quá, đi mãi không về trình báo. Ông sai một bà đồng khác xuống thưa chuyện Hà Bá.
Một bà đồng được ném xuống sông, nhưng cũng không thấy trở về. Oâng bảo các vị hương hào rằng bọn đồng cốt không biết nói năng, phải gửi một vị chức cao học rộng trong địa phương xuống bẩm báo với Hà Bá. Bọn chức sắc trong vùng sợ xanh mặt, phải quỳ xuống xin tha tội. Từ đó, việc cưới vợ cho Hà Bá mới chấm dứt!
Các vị thần linh Việt Nam hiền lành hơn, đạo hạnh hơn. Lạc Long Quân thương dân như con đẻ. Vua thường chơi thủy cung, mỗi khi dân chúng có điều gì kêu lên : « Bố đi đằng nào không đến mà cứu chúng con », vua liền về ngay.
Tuy nhiên, về phương diện tình cảm, đôi khi các nhân vật thần thoại Việt Nam cũng phạm lỗi. Đế Minh sinh Đế Nghi và Lộc Tục. Đế Nghi làm vua Trung Hoa, Lộc Tục ( Kinh Dương Vương ) làm vua Xìch Quỷ (Việt Nam ).Đế Nghi sinh Đế Lai. Lạc Long Quân lấy Aâu Cơ, con gái Đế Lai là anh em họ. Lĩnh Nam Chích Quái thì viết Aâu Cơ là vợ Đế Lai. Nếu theo Sử thì Lạc Long Quân lấy cháu gái, còn theo Lĩnh Nam Chích Quái thì lấy vợ của anh họ.
Theo Lĩnh Nam Chích Quái, thần núi Tản Viên là một trong 50 người theo mẹ lên núi. Sơn Tinh lấy con gái Hùng Vương, như vậy là chú lấy cháu họ làm vợ, và gọi anh ruột là cha vợ hay sao?
Ngô Sĩ Liên khi bàn về chuyện này viết như sau:
Xét về ngoại sử, sách Thông Giám ( Trung Hoa) thì Đế Lai là con Đế Nghi. Cứù theo truyện chép ở đây thì Kinh Dương Vương là em Đế Nghi. Vậy mà lại dâu gia với nhau! Ấy vì đời hồng hoang, lễ nhạc chưa tỏ rõ cho nên như thế đó chăng?
Sau này về thời Lê mạt, Ngô Thời Sĩ viết Việt Sử Tiêu Aùn thì bỏ hết các thần thoại vì ông cho là hoang đường và sai lầm. Ngô Sĩ Liên cũng bỏ hết một mớ thần thoại trong các sử liệu trước, ông còn giũ lại một vài truyện quan trọng. Ngô Sĩ Liên là người ôn hòa và nhận định đúng.
So với thần thoại ngoại quốc, thần thoại Việt Nam nhân bản hơn. Khoảng một, hai, ba ngàn năm trước Tây lịch, con người là bầy thú hoang, sống theo bản năng, chưa có lễ nghi luật lệ, phong tục. Lúc này chưa có giai cấp, chưa có quyền tư hữu, loài người sống tập thể trong các hang động. Khoảng năm , sáu trăm năm trước Tây lịch, một số thánh nhân mới xuất hiện như đức Phật Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử, Chrisrt. . ..
Nhìn chung, các thần linh Trung Quốc, Aán Độ và La Hy rất độc ác. Cha Trời đã bắt giam các con vì hình dung chúng xấu xí. Rốt cuộc, Cha Trời cũng bị con là Cronos giết chết. Cronos lên nắm quyền nhưng lại ăn thịt các con vì sợ chúng chiếm ngôi báu. Các thần Aán Độ đi đến đâu đốt phá đến đó. Một số thần linh phạm tội loạn luân.
Cronos lấy em gái là Rhéa, và Zeus lấy Héra là em song sinh. Thần Brahman An Độ phạm tội dâm loạn với em gái là nàng Samdhyâ, tức vợ của Shiva. Một truyện khác kể rằng Brahman say mê con gái của mình là Ushas. Truyện Satan có nhiều bản khác nhau viết về nguồn gốc nhân loại. Milton đã theo Genesis mà viết Paradise Lost . Satan phạm nhiều tội ác: phản Thượng Đế, xúi dục Eve ăn trái cấm, hiếp dâm con gái y tên là Sin.
Các vị thần ngoại quốc phần lớn là hung thần, tàn sát dân lành, bắt phải cúng tế mạng người. Thần Moloch được dân Phénicien, Carthage thờ cúng. Dân chúng phải đem con đến cúng tế. Khi đứa trẻ bị đặt vào hai bàn tay tượng thần thì sẽ tụt vào lòng tượng thần đang nung nóng. Mỗi lần tế như vậy có đến hàng trăm trẻ con bị giết. Cha mẹ đứa trẻ không được khóc lóc hoặc tỏ lòng thương xót.
Những nhà giàu có thường đi mua trẻ nhà nghèo chết thay cho con mình. Năm 307 trước Tây Lịch, thành bị vây, sợ thần thịnh nộ, các trưởng giả phải đem con ra tế. Lần này có khoảng 200 trẻ bị đốt. Người ta phải đánh trống, đánh chiêng để át tiếng la hét và kêu khóc thảm thiết của trẻ. Truyện này giống truyện Hà Bá cưới vợ của Trung Quốc. Tại một vùng nọ, dân có tục cưới vợ cho Hà Bá. Mỗi năm phải đem dâng một mỹ nhân, nghĩa là đem một cô gái khoảng 15 còn trinh bạch ném xuống sông cho Hà Bá làm vợ. Năm kia, môt vị huyện quan được đổi về trấn nhậm vùng này. Ộng được mời tham dự buổi cưới vợ này.
Ông yêu cầu được xem mặt mỹ nhân. Ông chê cô này xấu quá, không xứng làm vợ Hà Bá. Ông yêu cầu một bà đồng xuống thưa với Hà Bá xin đình hoãn để chọn người đẹp hơn. Một lát sau, ông bực bội bảo bà đồng này chậm quá, đi mãi không về trình báo. Ông sai một bà đồng khác xuống thưa chuyện Hà Bá.
Một bà đồng được ném xuống sông, nhưng cũng không thấy trở về. Oâng bảo các vị hương hào rằng bọn đồng cốt không biết nói năng, phải gửi một vị chức cao học rộng trong địa phương xuống bẩm báo với Hà Bá. Bọn chức sắc trong vùng sợ xanh mặt, phải quỳ xuống xin tha tội. Từ đó, việc cưới vợ cho Hà Bá mới chấm dứt!
Các vị thần linh Việt Nam hiền lành hơn, đạo hạnh hơn. Lạc Long Quân thương dân như con đẻ. Vua thường chơi thủy cung, mỗi khi dân chúng có điều gì kêu lên : « Bố đi đằng nào không đến mà cứu chúng con », vua liền về ngay.
Tuy nhiên, về phương diện tình cảm, đôi khi các nhân vật thần thoại Việt Nam cũng phạm lỗi. Đế Minh sinh Đế Nghi và Lộc Tục. Đế Nghi làm vua Trung Hoa, Lộc Tục ( Kinh Dương Vương ) làm vua Xìch Quỷ (Việt Nam ).Đế Nghi sinh Đế Lai. Lạc Long Quân lấy Aâu Cơ, con gái Đế Lai là anh em họ. Lĩnh Nam Chích Quái thì viết Aâu Cơ là vợ Đế Lai. Nếu theo Sử thì Lạc Long Quân lấy cháu gái, còn theo Lĩnh Nam Chích Quái thì lấy vợ của anh họ.
Theo Lĩnh Nam Chích Quái, thần núi Tản Viên là một trong 50 người theo mẹ lên núi. Sơn Tinh lấy con gái Hùng Vương, như vậy là chú lấy cháu họ làm vợ, và gọi anh ruột là cha vợ hay sao?
Ngô Sĩ Liên khi bàn về chuyện này viết như sau:
Xét về ngoại sử, sách Thông Giám ( Trung Hoa) thì Đế Lai là con Đế Nghi. Cứù theo truyện chép ở đây thì Kinh Dương Vương là em Đế Nghi. Vậy mà lại dâu gia với nhau! Ấy vì đời hồng hoang, lễ nhạc chưa tỏ rõ cho nên như thế đó chăng?
Sau này về thời Lê mạt, Ngô Thời Sĩ viết Việt Sử Tiêu Aùn thì bỏ hết các thần thoại vì ông cho là hoang đường và sai lầm. Ngô Sĩ Liên cũng bỏ hết một mớ thần thoại trong các sử liệu trước, ông còn giũ lại một vài truyện quan trọng. Ngô Sĩ Liên là người ôn hòa và nhận định đúng.
So với thần thoại ngoại quốc, thần thoại Việt Nam nhân bản hơn. Khoảng một, hai, ba ngàn năm trước Tây lịch, con người là bầy thú hoang, sống theo bản năng, chưa có lễ nghi luật lệ, phong tục. Lúc này chưa có giai cấp, chưa có quyền tư hữu, loài người sống tập thể trong các hang động. Khoảng năm , sáu trăm năm trước Tây lịch, một số thánh nhân mới xuất hiện như đức Phật Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử, Chrisrt. . ..
Thành thử, chúng ta không nên đem lễ giáo , đạo lý Khổng, Phật mà phê phán các nhân vật tiền sử. Có điều đáng nói là tại sao người ta không sáng tác những chuyện anh hùng, đạo đức mà lại viết những chuyện dâm loạn ngay trong phạm vi tôn giáo? Hay đó là sự thực mà thế nhân chỉ kể lại mà không sáng tác (Thuật nhi bất tác )?
Nói tóm lại, thần thoại Việt Nam mang tính nhân bản và dân tộc
No comments:
Post a Comment