Thursday, December 4, 2014
LE TAM ANH * BÓI TOÁN

Một tù nhân sờ mu rùa
(Để tưởng nhớ một người bạn tù đã ra đi)
letamanh
Những năm gần đây, báo chí trong và ngoài nước thường xuyên đề cập đến hiện tượng, mà theo “Biện Chứng Pháp” của Mac-Lenin, thì không bao giờ có thể xảy ra trong “Thế giới Cộng Sản” được! Trong một chế độ theo chủ nghĩa “vô thần”, lúc mới nổi lên đã chủ trương phá chùa, đập miếu, nhà thờ biến thành nơi chứa lương thực…! Người cộng sản không tin có Phật, Chúa, Thần thánh gì cả suốt một thời gian dài mấy mươi năm… Cho đến một ngày, chính những “đảng viên” quỳ gối cúng bái, đốt vàng mả, tin phong thủy, sùng bái những phù thủy gọi là “nhà ngoại cảm”; thì người ta mới chợt hiểu ra!
Tôi còn nhớ kỷ niệm lúc còn ở tù trong các trại tập trung từ Nam ra Bắc Việt Nam. Kỷ niệm về một “Tù Nhân Sờ Mu Rùa” rất ư là lợi hại đã cùng với tôi “rong chơi” từ hết trại tù nầy đến trại từ khác với hàng bao nhiêu chuyện về “Tử vi. Tướng số” Ông bạn già “Thầy Bói” của tôi, vì say mê “bốc quẻ, chấm lá số” mà phải bị cùm, bị truất phần ăn… Nhưng cũng từ trong nơi cùm gông đó, anh ta cũng có thời được cưng chiều, ăn no để “nói dóc”!
Anh lớn hơn tôi chừng năm sáu tuổi, người to con, không cao lắm nhưng bệ vệ. Lúc sau nầy không có đủ thức ăn nuôi cơ thể, có lúc anh ốm như bộ xương biết đi, hai mắt lồi ra, mỗi lần xin được bi thuốc lào, rít lên một hơi là ngả bổ xuống sàn giãy đành đạch…
Xuất thân là một Sĩ Quan Phòng 7 Đơn vị 101, làm việc tại Bộ TTM, ăn nói lưu loát, miệng “có quai có xách”! Tên cúng cơm là Đoàn Thế Lộc.
Anh nổi tiếng ngay những ngày đầu vào tù. Chúng tôi thường xuyên bu chung quanh anh, chờ cả giờ đồng hồ để xin anh nói cho một vài điều. Có lúc năn nỉ anh xem hộ Tử vi sao hạn của chính mình rồi đến vợ con ở bên ngoài ra sao. Thù lao cho anh là những điếu thuốc lúc còn trong Nam, những bi thuốc lào hay là một vài cục đường, một vài khúc khoai mì lúc đã ở Bắc Kỳ - Hoàng Liên Sơn - Lao Cai - Yên Bái - Vĩnh Phú…
Đoàn Thế Lộc “quảng cáo” cho mình rằng: Hồi còn “huy hoàng”, anh ta thường xuyên xem tử vi cho các ông bà Tướng Tá trong Bộ TTM. Nghề xem Tử vi của anh không biết ra sao, nhưng ăn nói rất lưu loát, đâu ra đó, hấp dẫn, tạo niềm tin cho người đối diện. Dĩ nhiên là lúc còn trong tù, anh nói quá khứ cho từng “tù nhân” đều nghe rất… hay, rất đúng. Nhưng về tương lai thì ai mà biết được!
Chúng tôi ở với nhau trong Nam cho đến năm 1977, lúc đó là mùa hè tại trại tù Long Giao. Anh Lộc và tôi ăn cơm chung, ngủ cạnh sát nhau. Hôm đó nhằm vào rằm tháng Năm, tôi không nhớ ngày Dương Lịch. Anh vừa ăn trưa với tôi vừa nói:
- Ba hôm nữa là mình huy hoàng!
Tôi ngạc nhiên nhìn anh nói vặn:
- Đừng nói là được thả về gặp vợ con, rồi Mỹ nó đưa máy bay rước tụi mình như anh từng nói nha!
Anh từ tốn cười, cầm khúc củ mì đưa vào miệng, vừa nhai vừa nói:
- Còn hơn việc thả về nữa, tụi mình sẽ xuống tàu ra khơi
- Vừa thôi cha! Tỉnh lại đi, anh lấy đâu ra cái tin trời đánh đó?
- Tao bấm tử vi của tao và của mầy, hai số cùng có “Mã khốc khách” và tương hội trong ba ngày nữa. Tao thấy mình được xe đưa đến NewPort (Tân Cảng), sau đó xuống tàu.
- Rồi sao? Chúng đưa cho Hà Bá nhai phải không?
- Tao nghĩ chúng sẽ đưa tụi mình ra Hạm Đội 7 để trao đổi!
Tôi trợn mắt nạt anh:
- Thôi đi! Đừng có mơ, anh bị bệnh hoang tưởng rồi.
Anh cười phân bua:
- Không tin thì ba ngày nữa mày sẽ thấy, chừng đó phải lạy tao mới nói tiếp!
Mà quả thật, buổi sáng ngày thứ ba như anh nói, chúng tôi có lệnh ở nhà chờ, không đi “lao động” bên ngoài. Lúc 7:30 sáng, bốn xe sơn màu xanh bịt bùng chạy vào đậu ở sân tập họp. Sau đó là lệnh tập trung ngoài sân nghe lệnh. Lần nầy là cán bộ thứ dữ “lên lớp”. Sau một hồi nói về chính sách khoan hồng và nhân đạo của Đảng, ông ta ra lệnh mọi người đem hết đồ đạc cá nhân ra sắp hàng chờ “tổng vệ sinh”!
Thì ra mấy xe bịt bùng đó là những xe hấp hơi. Tất cả áo quần và chăn mền từng cá nhân được cho vào cốp xe. Tiếng máy nổ, tiếng hơi xì khè khè, tiếng thì thầm bàn tán…! Lúc chờ đến phiên mình, anh Lộc khều tôi và mấy bạn ngồi gần nói nhỏ:
- Hôm nay tổng vệ sinh để chuyển chúng mình đi - Hãy vui lên, tốt!
Tôi nhớ ba hôm trước anh đã nói câu nầy nên bán tín bán nghi. Nhưng tôi vẫn phản đối ý nghĩ hoang tưởng của anh:
- Thôi cha nội, đừng có tuyên truyền. Lo giữ sức khỏe mà chống với thời gian tù đi.
Sở dĩ tôi không tin lời anh ta vì trước đó mấy tháng, trong giờ “học tập”, một Bộ Đội nói với chúng tôi: “Các anh cứ tin lời tôi nói, chừng nào nhà nước gọi tên các anh để thả về mà các anh không thấy vui mừng nữa; đó mới đúng thời gian “học tập” tốt!”. Ở tù đến khi không còn cảm thấy vui khi được tự do, có nghĩa là con người của ta thành chai đá, thành vô cảm rồi. Như vậy còn gì hy vọng được về
Nhưng sau cơm chiều, mọi việc lại bắt đầu “ứng” với “quẻ” Tử vi. Người đầu tiên được gọi xách theo “hành trang” là tôi, đến tiếp theo một vài chục người nữa mới đến tên anh Lộc. Tất cả xếp hàng, cứ ba chục mạng, ngồi sau một chiếc xe Motolova màu xanh lá cây. Anh Lộc cố lết đến gần bên tôi cao giọng:
- Mầy thấy chưa! Tao nói như thần mà! Tí nữa mình sẽ ra Tân Cảng và xuống tàu…
Tôi tiếp:
- Ra Hạm Đội 7 ăn hamburger!
Anh ta cười nham nhở:
- Nhớ qua bên Mỹ tụi mình phải ở chung với nhau để mai kia một nọ giúp đỡ nhau. Mà rồi họ sẽ đưa vợ con mình qua. Họ đã cất cư xá Sĩ Quan cho mình rồi. Nhớ phải ở gần nhau…!
Xe chở tù cũng ra đến Tân Cảng. Tất cả xuống xe tay xách nách mang lĩnh cà lĩnh kĩnh nào lon Guigoz, nào đàn Guitar tự chế. Có anh còn bê theo một con gà mái đẻ mập ú ù. Con gà vợ anh ta từ Bình Giả thăm nuôi. Anh nhốt nó bên giường, chia khẩu phần cho gà, gà đền ơn bằng cách đẻ trứng cho anh xơi!
Lần lượt rồi cũng xuống tàu, xuống tận đáy tàu, ngồi sắp lớp trên những rác và bụi xi măng. Ngồi sát nách nhau, không có chổ ngã lưng. Lòng tàu cao và phía trên chỉ chừa một lỗ nhỏ thông hơi. Hai giờ đầu tiên có mấy thằng ngợp thở, mùi xi măng và bụi bay chui vào mũi… Chỉ có một giây thừng từ trên cái lỗ nhỏ thòng xuống một thùng để chứa phân, nước tiểu. Cũng cái giây đó thòng xuống hàng ngày những lương khô Trung Cộng cho cái đám người mà theo như ông Thầy Bói, Nhà Ngoại Cảm Đoàn Thế Lộc là: Sắp trở thành những giá trị trao đổi với Mỹ… Đang nghẹt thở và sắp chết!
Anh ngồi bên tôi không một tiếng nói suốt từ khi thấy anh sáng tròn của một lổ trên trần tàu rọi xuống, Cứ sáng thì chỉ phía bên trái hông tàu, chiều thì đổi qua hông phải. Như thế có nghĩa là chúng tôi “được” chở ra Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa” để… lưu đày!
Anh Lộc bấm tử vi, biết được ngày giờ di chuyển, biết được “thiên cơ” trong muôn vàn “duyên nghiệp”. Nhưng vì quá chủ quan suy diễn theo tin thời sự dựng chuyện chuyền miệng nhau trong tù, nên anh phê phán “bản tin” tử vi theo ý mình! Tôi phục tài bấm số tử vi của anh. Có những việc anh đoán trúng phốc cho những người ngoài, nhưng bản thân anh thì không đoán được.
***
Ra Bắc một thời gian “treo chén” anh lại ra chiêu xem tử vi. Anh nói với tôi là bình sanh anh chỉ mê học xem tử vi vì theo anh, nó là một môn khoa học, rõ ràng, mạch lạc và… chính xác! Với tài ăn nói vui vẻ, cởi mở và hòa đồng, anh được anh em tù cùng cảnh ngộ “nuôi”; nhất là những anh thường được gia đình gởi quà, hay có người vợ thương yêu, bằng tàu vượt rừng từ Nam ra Bắc thăm nuôi!
Anh xem tử vi nổi tiếng, nổi tiếng đến tai cán bộ trại giam bởi một anh tù làm anten (báo cáo viên) nằm bên kia dãy sàn ngủ. Anh được “mời” lên ngồi làm bản tự kiểm và sau đó bị “cùm hai chân” một tuần lễ về cái tội gieo rắc mê tín dị đoan, làm cho trại sinh không an tâm tin tưởng Đảng và Nhà Nước.
Có điều lạ là, sau một tuần lễ nằm cùm, con người anh lại khác hẳn. Anh “bị” liên tiếp, hết trưởng trại đến cán bộ giáo dục, cán bộ quản giáo… lần lượt “mời” xơi nước trà hút thuốc lá. Có hôm anh đi từ sáng đến tối mịt mới bò về chỗ ngủ, bê theo một xách, trong đựng chừng hai ký củ mì luộc.
Anh dựng đầu chúng tôi dậy đãi củ mì và gải bụng cười:
- Hôm nay được “chén” một bữa no!
Tôi chặn đầu:
- Anh khai ngay, từ ngày bị cùm ra đến giờ, luôn được cán bộ “chiếu cố”, có phải đang bán đứng anh em để được no, được về sớm phải không?
- Lại nói bậy, im cái miệng thối mày đi! Nói nhỏ cho tụi mầy nghe, đừng có học đi học lại, lỡ tụi anten nó báo cáo thì…
Chúng tôi bao quanh lấy anh, tay thì bốc củ mì, tai vễnh ra, miệng thì nhai… Anh chậm rãi:
- Tao xem tử vi cho bọn chúng!
- Trời! Thật không? Tụi nó nhốt anh, cùm anh vì cái tội xem bói toán. Mà bây giờ lại nhờ anh xem tử vi cho chúng là sao?
Anh kéo ống thuốc lào trên vách xuống, lấy cây chọc vào nõ, vê một bi thuốc… Rồi thong thả theo tiên ông… Một lúc sau, cảm thấy hết phê, anh chầm chậm “khai”:
- Hôm tao bị cùm, nằm trên sàn xi măng lạnh quá, tao nghĩ là sẽ chết vì bị lạnh lưng và đói. Mấy con gián cứ đến nhâm nhi ngón chân của tao. Vách bên kia là một ông cha đang bị cùm, hình như là Cha Song mới vừa chuyễn về từ trại Cổng Trời. Cha hay hát thánh ca và đọc kinh. Hình như ông không sợ gì, kể cả bị cùm từ các trại nầy dến trại khác.
Tao nằm như thế được hai hôm thì có một thằng áo vàng bước vào nhìn tao. Hắn có vẻ buồn, trẻ măng. Tao bèn lên tiếng: “ Chào cán bộ! Ông đang có chuyện buồn phiền gia đình. Ông mới vừa mất của!” Bò vàng ngạc nhiên nhìn tao, đến sát bên hỏi tao: “Sao anh biết tôi bị mất của?”
Tao nói: “Thì nếu cán bộ có mất thì tôi sẽ nói tiếp còn không thì thôi. Nhưng cán bộ tuổi con gì, sanh ngày giờ gì thì tôi mới nói đúng được!” Hắn nhìn trước ngó sau rồi kề tai nói nhỏ với tao. Tao nghĩ, trong chốn lao tù, chỗ tận cùng là nơi cùm gôm xiềng xích mà nó còn sợ có người rình nghe nữa thì hết ý.
Tôi nóng ruột thúc:
- Nói ngắn gọn thôi cha! Rồi sao?
Vẫn ra vẻ quan trọng, móc trong túi ra một cục thuốc lào to, nhìn mọi người cười:
- Hút đi! thuốc hạng nhất Hải Phòng đó! Cán bộ trực trại thưởng cho tao hồi chiều!… Thằng nhãi con “thành thật khai báo” với tao là nó vừa mất chiếc xe đạp xịn mua ở dưới phố Yên Bái, đạp về đến bến phà Âu Lâu thì bị mất lúc nó dựng xe vào quán ăn tô bún riêu. Tao hỏi tuổi và ngày giờ sanh rồi nói với nó là hãy về tìm ở cách nhà nó bốn cây số về hướng Đông sẽ lấy lại được.
Nó lật đật chạy đi không kịp nói gì thêm. Sau khi tao hết bị cùm, về lán
thì mầy với thằng Chánh Ruồi dìu tao thê thảm, tưởng không gượng dậy
được. Ai ngờ chiều hôm sau cán bộ trại xuống gọi tao lên phòng làm việc.
Tao tưởng lại bị cùm nữa về cái tội tuyên truyền mê tín với cán bộ nhà
nước!
Nói đến đây, anh Lộc lại làm một bi thuốc lào “câu giờ”! Một đám bu quanh la lên nóng ruột:
- Hút lẹ lên, khai mau! Còn đi ngủ mai cuốc đất!
- …Cha cán bộ trại mời tao ngồi, rót nước trà đậm, rút thuốc lá mời tao
chứ không phải mời thuốc lào. Tao ngạc nhiên đứng như trời trồng. Hắn ta
cười mời một lần nữa. Hắn nói: “Anh tài thật, cán bộ Văn đã tìm được
chiếc xe đạp theo hướng anh chỉ và đã bắt được tên trộm lấy cắp chiếc xe
đạp”.
Tao mừng quá, nghĩ là mình “chó táp phải ruồi”, bèn đủng đỉnh ngồi xuống
ra cái điều tài thánh! Thế là từ bữa đó tao liên tục được chiếu cố, hết
thằng nầy đến thằng khác “lãnh” lên xem tử vi thay vì đi cuốc đất với
tụi mầy! Bây giờ thì tụi nó tin tưởng tao còn hơn cha mẹ nó…
Thằng Chánh Ruồi cười nham nhở:
- Anh Lộc! Hôm sau có gì anh bỏ vào bọc đem về cho tụi em ăn với nha! Coi bộ anh mập ra và đẹp trai…
- Mầy chỉ được cái nịnh.
Anh Lộc từ đó cho đến ngày về Nam luôn là một ông thầy bói tử vi có hạng của tù và là Thầy của bọn bò vàng. Nhưng khi được thả về, anh tiếp tục cái nghề “sờ mu rùa” không phải dễ. Anh mướn một xe xích lô, hàng ngày đạp ra đường kiếm khách.
Thằng Chánh Ruồi cười nham nhở:
- Anh Lộc! Hôm sau có gì anh bỏ vào bọc đem về cho tụi em ăn với nha! Coi bộ anh mập ra và đẹp trai…
- Mầy chỉ được cái nịnh.
Anh Lộc từ đó cho đến ngày về Nam luôn là một ông thầy bói tử vi có hạng của tù và là Thầy của bọn bò vàng. Nhưng khi được thả về, anh tiếp tục cái nghề “sờ mu rùa” không phải dễ. Anh mướn một xe xích lô, hàng ngày đạp ra đường kiếm khách.
Nếu có khách gọi là anh có “mối tử vi”! Trong lúc đạp xe, người ngồi
trên xe được gợi ý về tướng số, tiếp theo là bấm quẻ. Nếu “khách” lạ
khoái thì cả hai cùng dừng lại ở đâu đó để “xem cho kỹ”. Cuối cùng thì
khách “hồ hởi phấn khởi" trả tiền xe lẫn tiền “thầy”!
Năm 1984, tôi từ vùng Kinh tế mới Đồng Nai dẫn vợ lên Sài Gòn thăm gia
đình ba má, tôi gặp anh đang khệnh khạng trên chiếc xích lô không khách ở
góc đường Bà Hạt và Nguyễn Duy Dương. Mừng quá, chúng tôi vào quán uống
nước nói chuyện tránh nắng trưa.
Anh nhìn vợ tôi và nói: “Chị đừng để nó vượt biên một mình, không được
đâu. Sẽ có ngày cả gia đình qua Mỹ bằng máy bay…!” Tôi cười nhìn anh chế
diễu: “Giống như cái tin anh nói xuống tàu ra Hạm Đội 7 năm nào chứ
gì!” Anh cười: “Thì để xem!”
Anh đã nói đúng khi chúng tôi lên máy bay qua Hoa Kỳ, không những chỉ
gia đình tôi mà còn cả tập thể những gia đình là tù nhân chính trị suốt
bao nhiêu năm từ Nam ra Bắc. Anh đã nói đúng nhiều việc, nhưng chính anh
không thể nào bấm trúng lá số của chính anh khi anh nằm trên giường
bệnh vì bệnh gan, kết quả của những năm anh hay “ăn bậy” trong trại tù.
Anh nằm xuống ở Nam California sau khi đưa hết vợ và bầy con của anh
định cư trên xứ tự do. Từ ngày biết mình bị bệnh đến khi nhắm mắt, anh
vẫn “sờ mu rùa” cho những thằng bạn tù thỉnh thoảng đến thăm anh trên
giường bệnh, trong nhà thương hay những ngày cuối cùng ở một apartment
trên trường Flower ở Garden Grove. Một ông “thầy bói”, một “nhà ngoại
cảm”, một thầy “sờ mu rùa” vốn xuất thân từ đơn vị ẩn danh 101, một tù
nhân đáng nhớ đã vĩnh viễn ra đi.
Cali Mùa Đông 2013
ANTON VO * THÀ CHẾT TRÊN BIỂN CẢ
Thà chết trên biển cả!
Anton Vo

Một đêm hãi hùng vào năm
1964, trong khi cha mẹ tôi đang ngồi ăn cơm trong nhà tại thành phố Nha
Trang thì có 2 cán bộ Cộng sản vào nhà bắn chết cha tôi. Chúng định giết
mẹ tôi luôn nhưng mẹ tôi lúc đó đang mang thai nên chúng bỏ đi.
Ba tháng sau, vào tháng
12 năm 1964 tôi chào đời, không bao giờ được trông thấy mặt cha tôi cả.
Trước đó cha tôi làm việc cho người Mỹ tại Nha Trang. Ðến năm 1967 thì
mẹ tôi tái giá và tôi được đưa về ở với bà ngoại tôi.
Khi về ở với bà ngoại thì
tôi phải tự lo lấy mọi việc một mình, không ai giúp đỡ cả. Sau đó bà
tôi quyết định gửi tôi vào nhà tu Công Giáo tại Nha Trang. Tôi đi tu từ
lúc 5 tuổi và mỗi tháng về nhà 1, 2 lần để thăm bà ngoại tôi thôi.
Khi Cộng Sản chiếm miền
Nam vào năm 1975, tu viện phải đóng cửa và tôi phải về nhà bà ngoại tôi.
Lúc đó tôi đã 11 tuổi rồi. Khi xong Trung Học, muốn vào trường Ðại Học
rất khó khăn. Mặc dù tôi đã thi đậu, nhưng vì lý lịch cha tôi không phải
là đảng viên Cộng sản nên tôi không được nhận. Nhưng khi tôi đậu được
điểm rất cao vào kỳ thi năm sau thì họ cho tôi vào học. Tôi học môn văn
chương Việt-Nam và sau khi tốt nghiệp cũng không kiếm được việc làm vì
gia đình tôi không phải thuộc thành phần đảng viên Cộng Sản.
Trong khi tôi học ở Trung
Học và Ðại Học tôi đã định vượt biên nhiều lần mà không được Lúc tôi
học lớp 11 tôi vượt biên bằng thuyền thì bị bắt. Họ nhốt tôi 3 tháng,
mỗi ngày cho ăn 2 bát cơm không, sau đó mẹ tôi và bà tôi lo đút lót tiền
cho công an nên họ thả tôi ra.
Sau khi xong Trung Học
tôi lại vượt biên lần nữa và cũng bị bắt. Lần này vì tôi đã trên 18 tuổi
nên họ giam tôi 1 năm. Mẹ tôi và bà ngoại tôi lại phải chạy tiền đút
lót để tôi được thả. Vào tù nếu không có tiền thì sẽ bị công an đánh
đập, nếu có tiền thì cái gì cũng xong hết. Khi tôi tốt nghiệp xong Ðại
Học được đi dậy học tại trường Trung Học Lý Tự Trọng. Sau đó một năm tôi
lại vượt biên lần thứ tư và lần này tôi đã may mắn đi thoát.
Tôi phải vuợt biên vì ở
Việt-Nam tôi không thể làm gì được mặc dù tôi có bằng cấp nhưng vì không
phải đảng viên Cộng Sản nên không thể nào thăng tiến được. Do đó tôi
liều mình vượt biên, Thà chết trên biển cả hơn là sống tại Việt-Nam.
Chúng tôi có tất cả 42 người trong chuyến đi. Gom góp tiền bạc mua tầu
để vượt biên. Chúng tôi khởi hành ngay tại bờ biển Nha Trang lúc 4 giờ
sáng. Khi được hiệu lệnh cả 42 người chúng tôi chỉ có đúng 5 phút là
phải leo lên tầu.
Chúng tôi lênh đênh trên
biển cả 2 tuần lễ. Hai ngày đầu ai cũng bị say sóng. Chung quanh, trên
dưới chúng tôi chỉ có trời và biển. chúng tôi bị một cơn bão lớn nhưng
may mắn qua khỏi. Chúng tôi đã chấp nhận cái chết từ ngay lúc bước chân
lên tầu rồi nên tâm hồn rất thanh thản.
Sau 1 tuần, thì chúng tôi
hết nước và lương thực, chúng tôi phải tìm cách bắt cá và ăn cá sống.
Ðến ngày thứ 10 thì tầu của chúng tôi chết máy. Chúng tôi không biết làm
gì nữa. Qua đến ngày thứ 11 thì chúng tôi gặp một chiếc tầu lớn, họ cho
chúng tôi nước uống và thực phẩm nhưng không giúp sửa máy móc của tầu
chúng tôi được. Ðến ngày thứ 12, chúng tôi gặp được 3 ghe đánh cá của
người Phi Luật Tân, chúng tôi vời họ lại và điều đình xin họ kéo chúng
tôi vào bờ và chúng tôi sẽ trả tiền. Họ bằng lòng và chúng tôi vào được
một hòn đảo.
Trong 2 tuần lênh đênh
trên biển cả thì nhóm chúng tôi có 2 người chết vì uống nước biển, chúng
tôi phải liệng xác họ xuống biển. Khi đến bờ biển chúng tôi lăn quay ra
ngủ trên bãi cát vì kiệt sức, sau đó mở choàng mắt dậy thì thấy nằm
trong nhà thương và 2 ngày sau người ta chuyển chúng tôi đến trại tị
nạn, ở đây chúng tôi gặp rất đông người tị nạn đã đến trước chúng tôi.
Tại trại định cư trên đảo
Palawan người ta cho chúng tôi ăn uống đàng hoàng, cung cấp chỗ tắm rửa
và ngủ nghê. Chúng tôi cảm thấy sung sướng vì đã thoát tay Cộng Sản
nhưng vẫn ưu tư về tương lai. 40 người chúng tôi được chia vào những căn
lều khác nhau. Sau 3 tuần chúng tôi được đi học tiếng Anh mỗi tuần 1
giờ. Trong khi đó thì có rất nhiều phái đoàn từ mọi quốc gia đến thẩm
vấn nhận người tỵ nạn.
Tôi mới đầu được phái đoàn Pháp Quốc phỏng vần nhưng họ không nhận, cũng may vì tôi chỉ thích vào Mỹ thôi. Lần sau tôi được phái đoàn Mỹ phỏng vấn nhưng cũng không được nhận. Họ nói rán đi chờ lần tới. Tôi ở thêm một năm tại trại Palawan qua 5 lần phỏng vấn và lần sau cùng tôi được chấp nhận cho định cư tại Hoa Kỳ. Chúng tôi được chuyển sang trại Bataan để chờ vào Mỹ. Tính lại tôi đã phải ở Phi Luật Tân gần 3 năm.
Tôi mới đầu được phái đoàn Pháp Quốc phỏng vần nhưng họ không nhận, cũng may vì tôi chỉ thích vào Mỹ thôi. Lần sau tôi được phái đoàn Mỹ phỏng vấn nhưng cũng không được nhận. Họ nói rán đi chờ lần tới. Tôi ở thêm một năm tại trại Palawan qua 5 lần phỏng vấn và lần sau cùng tôi được chấp nhận cho định cư tại Hoa Kỳ. Chúng tôi được chuyển sang trại Bataan để chờ vào Mỹ. Tính lại tôi đã phải ở Phi Luật Tân gần 3 năm.
Tôi sung sướng rời khỏi
Palawan nhưng phải công nhận tôi có rất nhiều kỷ niệm ở đó. Khi đã quen
thuộc với nếp sống, tôi đã giúp rất nhiều người cùng hoàn cảnh bớt nhớ
nhà, khuyên nhủ họ chấp nhận và làm quen với nếp sống mới. Tại đây chúng
tôi luôn luôn có hy vọng được một nước thứ ba chấp nhận cho vào định
cư, dù không biết là đi đâu, nhưng luôn có hy vọng .
Tôi phải ở lại Bataan hơn
1 năm vì giấy tờ trục trặc phải làm đi làm lại. Tại đây tôi đi học buổi
sáng để trau dồi thêm tiếng Anh, đến chiều tôi lại giúp giáo sư Mỹ dịch
cho người Việt biết nếp sống và phong tục nước Mỹ. Ngoài ra tôi còn
giúp phái đoàn Mỹ thẩm vấn người tị nạn. Buổi tối tôi giúp dậy tiếng
Việt cho trẻ em và cuối tuần tôi giúp nhà thờ. Khi tôi rời Bataan tôi
hơi buồn vì ở đó tôi đã có quá nhiều kỷ niệm và suy nghĩ nhiều về tương
lai khi vào Mỹ là đi học thêm hay kiếm việc làm ngay.
Khi tôi đến thành phố
Buffalo, TB. Nữu Ước, tôi đã khóc rất nhiều vì tôi không hiểu người ta
nói gì và người ta cũng không hiểu tôi nói gì vì giọng nói quá khác
biệt. Tôi lo lắng không biết tôi sẽ sống làm sao tại nước Mỹ này. Ngày
nào tôi cũng lo âu và khóc lóc. Sau đó một tuần tôi thầm nghĩ mình phải
làm cái gì chứ để sống còn. Hai tuần lênh đênh trên mặt biển và 3 năm ở
đảo tôi sống được cơ mà. Thế là dưới cái lạnh lẽo tuyết giá tại Buffalo,
mỗi ngày tôi lội bộ 30 phút để đến trường, học thêm tiếng Mỹ từ 8 giờ
sáng đến 2 giờ chiều, Sáu tháng sau tôi đã tự túc được nhiều và tôi
quyết định ghi danh học tại Ðại Học Buffalo để lấy bằng cấp.
Năm đầu tiên thật là khó
khăn, vì vị giáo sư nói nhanh quá tôi không theo kịp. Tôi phải đem vào
lớp máy thu băng để về nhà học thêm và đọc nhiều sách hơn. Sau một năm
cố gắng như vậy, điểm trung bình của tôi đã khá hơn nhiều. Tôi cảm thấy
sung suớng và tự tin hơn. Tôi đã có bạn bè người Mỹ và vì đó tôi trau
dồi thêm tiếng Mỹ. Tôi lại phải tìm việc làm bán thời gian để kiếm tiền
để sinh sống và thỉnh thoảng gửi về giúp mẹ và bà ngoại tôi.
Sau 4 năm chuyên cần học
tập tôi đã ra truờng và tìm được việc làm tại Memphis là nơi ấm áp hơn
và tôi nghĩ là tôi đã thực sự may mắn.
GS. PHẠM CAO DƯƠNG * BIỂN ĐÔNG
Nhân Vụ Thượng Đỉnh Asean Nhóm Họp Ở
Naypyidaw, Miễn Điện, 12-13 Tháng 11 Năm 2014 Và Tranh Chấp Biển Đông Sẽ
Là Một Chủ Đề Tranh Cãi, Nhắc Lại Gợi Ý Về Hai Công Tác Cần Phải Làm
Phạm Cao Dương, TS
November 29, 20140 Bình Luận
Nhân Vụ Thượng Đỉnh Asean Nhóm Họp Ở Naypyidaw, Miễn Điện, 12-13 Tháng 11 Năm 2014 Và Tranh Chấp Biển Đông Sẽ Là Một Chủ Đề Tranh Cãi, Nhắc Lại, Gợi Ý Về Hai Công Tác Cần Phải Làm
Thường xuyên duyệt xét lại tất cả những bản đồ thế giới đã được ấn hành liên hệ tới Hoàng Sa và Trường Sa để nếu cần yêu cầu sửa đổi.
Nhân dịp Thượng Đỉnh ASEAN Lần Thứ 25 họp ở Naypyidaw, Miến Điện với chủ đề tranh chấp Biển Đông và Hoa Kỳ trở lại Á Châu-Thái Bình Dương, tiếp tục vận động đổi tên South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) hay Mer de Chine (Biển Trung Hoa), những danh xưng quốc tế, thành Southeast Asia Sea (Biển Đông Nam Á) hay Mer de l’Asie du Sud-Est.
Bài này khởi sự được viết sau khi vụ Hội Địa Lý Quốc Gia (National Geographic Society) của người Mỹ ghi chú không đúng về quần đảo Hoàng Sa đã tạm thời được giải quyết với sự đồng ý sửa lại của tổ chức này.
Đây là một thành công quan trọng mà người Việt Nam nói chung đã đạt nhờ sự lên tiếng và tranh đấu của các giáo sư, học giả, các cơ quan hay tổ chức nghiên cứu chuyên môn và của những người Việt yêu nước bình thường cả trong lẫn ngoài nước. Có điều đây mới chỉ là bước mở đầu vì National Geogaphic Society không phải là cơ quan hay nhà xuất bản duy nhất sản xuất và phát hành bản đồ ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Còn rất nhiều cơ quan và nhà xuất bản khác cũng làm những công việc tương tự. Việc làm sáng tỏ và tranh đấu để có sự điều chỉnh cho đúng sự thực do đó cần phải được tiếp nối.
Trong bài này người viết xin được đưa ra hai gợi ý cần phải làm vào lúc này.
Thứ nhất là người Việt ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước lớn như Pháp, Anh, Úc, Nhật, Đức, Gia Nã Đại và các nước Bắc Âu… cần phải duyệt lại tất cả những tài liệu đã được phổ biến liên hệ tới không riêng Quần Đảo Hoàng Sa mà luôn cả Quần Đảo Trường Sa và nếu cần, phải vận động để điều chỉnh.
Thứ hai là phải xét lại danh xưng South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) hay Mer de Chine (Biển Trung Hoa) và đổi thành Southeat Asia Sea hay Mer de l’Asiedu Sud-Est(Biển Đông Nam Á).
Cả hai gợi ý này đều có những lý do riêng và đều có thể thực hiện được nếu mọi người Việt Nam nhất là các nhà cầm quyền ở trong nước đều muốn làm vì năm 2014 chúng ta lại ở vào những vị thế và thời điểm vô cùng thuận lợi, thuận lợi hơn hồi năm 2010 rất nhiều. Tôi xin được trình bày lại với những chi tiết như sau:
Thứ nhất: Thường xuyên duyệt xét lại tất cả những bản đồ đã được ấn hành hay phổ biến trên mạng
Lý do của việc làm này là bản đồ có thể được phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau: trên mạng, in rời từng bản để treo tường hay in trong sách hay thành tập gọi là atlas dưới nhiều khổ lớn nhỏ, dầy mỏng khác nhau, có tỷ lệ khác nhau, từ đó chi tiết được trình bày hay ghi chú khác nhau, đồng thời cũng có thể là những cầu đồ (globes). Gợi ý để mọi người cùng làm ở đây là người Việt ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước lớn như Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Nhật, Đức và các nước Bắc Âu… cần phải thường xuyên duyệt lại tất cả những tài liệu đã được phổ biến này và nếu cần, có thể vận động để điều chỉnh. Hoa Kỳ là một trường hợp điển hình. Chúng ta thử bắt đầu một chút bằng quốc gia có nhiều liên hệ với Việt Nam này. Điều nên nhớ là công việc duyệt xét này, vói một kiến thức không cần thật cao về các ngôn ngữ liên hệ, ai cũng có thể làm được, nhất là các thanh thiếu niên thuộc thế hệ trẻ ở các học đường, chưa nói tới các người làm ở các thư viện.
Ở Hoa Kỳ, ngoài National Geographic, còn có những nhà xuất bản khác không kém quen thuộc đối với học giới nói chung, các nhà địa lý học hay các thày dạy sử địa nói riêng, như Hammond, Rand McNally, DK, Oxford University Press, Merriam-Webster, Random House, Snithsonian, Harper Collins…Các tài liệu này vì được ấn hành bằng tiếng Anh nên cùng lúc được xuất bản và phổ biến ở các nước nói tiếng Anh như Gia Nã Dại, Úc, Anh…Các bản đồ của các nhà xuất bản này phần lớn dùng các tên Paracel hay Spratly, những tên quốc tế, rồi đã hoặc là để trống (Oxford Atlas of the World, 2005; Oxford New Concise World Atlas, 2009; Random House Compact World Atlas, 2006; Smithsonian Handy World Atlas, 2004) hoặc đề sovereignty disputed hay disputed – chủ quyền tranh chấp hay tranh chấp ( Hammond World Atlas,2009; Hammond Concise World Atlas,(?); DK World Atlas, Digital Mapping for the 21th Century,2007, DK Concise Atlas of the World, 2007) hoặc đề là claimed by (đòi chủ quyền bởi) rồi kể tên các quốc gia (Rand Mcnally, Answer Atlas, the Geography Resource for Students, 2006). Riêng cuốn Merriam-Webster,s Geographic Dictionary, 2007, vì là từ điển nên ngoài tên quốc tế lại ghi thêm các tên Xi-sha Qndao (Trung Hoa), Quần Đảo Hoàng Sa (Việt Nam) và Hi-ra-ta gun-tô (Nhật Bản) trước khi ghi các chi tiết khác.
National Geographic có lẽ là một trường hợp cá biệt. Các bản đồ in của hội này cũng đã ghi chú y như họ đã ghi chú trên mạng (National Geographic Family Reference Atlas of the World, 2010; National Geographic Visual of the World Atlas,2009; National Geographic Collegiate Atlas of the World (?). Cần để ý là trong thời gian chiến tranh Việt Nam, ngay từ những ngày đầu, National Geographic Society đã chú ý rất nhiều đến cuộc chiến đấu chống Cộng của người Việt. Họ đã viết và đã phổ biến rất nhiều bài về đề tài này một cách có cảm tình với phía ngưòi Việt Quốc Gia.
Vậy tại sao với tư cách là một hội khoa học họ lại thay đổi thái độ một cách vội vã, thiếu vô tư và thiếu thận trọng so với những nhà xuất bản khác nặng về kinh doanh, thương mại hơn như vậy? Qua sự kiện này câu hỏi được đặt ra người ta có thể tin tưởng vào tinh thần khoa học, vô vị lợi của người Mỹ đến mực nào?
Việt Nam (miền Bắc) cũng dùng các danh xưng Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha) của Trung Quốc trên các bản đồ của mình
Trở về với Việt Nam, việc dùng các danh xưng Tây Sa và Nam Sa, gốc của người Tàu, thay vì Hoàng Sa và Trường Sa trong tiếng Việt, không phải là không có. Sự kiện này sở dĩ đã xảy ra có thể là do sự dễ dãi, dẫn xuất từ tính “thế nào xong thôi” - một thói quen mà một sử gia người Mỹ mà người viết (PCD) tạm thời quên mất tên, nói người Việt Nam cần bỏ nếu muốn tiến bộ – của người Việt. Nó cũng có thể là do sự cẩu thả của người làm sách hay vẽ bản đồ nhưng nó cũng có thể do chủ trương của người cầm quyền đương thời liên hệ tới quốc tế chủ nghĩa và nhu cầu của tình thế và của chiến tranh thể hiện qua văn thư của Thủ Tướng Chính Phủ Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng gửi cho đồng chí của ông là Tổng Lý Quốc Vụ Viện Nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Chu Ân Lai, ngày 14 tháng 9 năm 1958 và cách giải thích của những người có trách nhiệm ở miền Bắc đương thời. Có điều giải thích ra sao cũng vậy.
Bút sa là gà phải chết! Khi những tranh chấp xảy ra, người Tàu đã dùng những tài liệu do chính người Việt tạo ra mà họ có được trong tay này làm chứng cớ để biện minh cho chủ quyền của họ ở các quần đảo hai bên đang tranh chấp. Bài viết nhan đề “Xisha and Nansha Islands belong to China” (Tây Sa và Nam Sa thuộc Trung Quốc) đăng trên tờ Beijing Review, cơ quan ngôn luậnchính thức của chính quyền Cộng Sản Bắc Kinh bằng Anh ngữ, số 21, ra ngày 25 tháng 5 năm 1979 cho người ta thấy điều đó. Bài này không ghi tên tác giả mà chỉ ghi là một bài bình luận của ký giả Tân Hoa Xã, có lẽ để tránh không bị coi là chính thức, nhưng ai cũng biết Tân Hoa Xã là cơ quan thông tấn chính thức của nhà nước Trung Hoa Cộng Sản.
Trong bài bình luận này, ngoài những lập luận và chứng cớ bằng ngôn từ, tác giả đã viện dẫn tới các bản đồ chính thức của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (miền Bắc) ấn hành trước năm 1975. Các bản đồ này đã gọi các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng tên Trung Hoa đọc theo tiếng Việt là Tây Sa và Nam Sa của chúng kèm theo những ghi chú chứng tỏ các quần đảo này là thuộc Trung Hoa. Tác giả bài báo đã nêu lên một số trường hợp làm thí dụ:
Thí dụ thứ nhất: Bản đồ thế giới vẽ và ấn hành bởi Cục Bản Đồ (?) của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam năm 1960 đã ghi rõ bằng tiếng Việt “Quần Đảo Tây Sa (Trung Hoa)” và “Quần Đảo Nam Sa (Trung Hoa)”. Nguyên bản tiếng Anh để chữ China (Trung Hoa) trong ngoặc đơn rồi tất cả trong ngoặc kép “ the Xisha Islands (China)”, “the Nansha Islands (China)” thành người viết bài này (PCD) không rõ chữ China này là ghi đúng như trên bản đồ của Việt Nam hay do tác giả bài viết trên tờ Beijing Review thêm vô.
Thí dụ thứ hai: Những bản đồ Việt Nam xuất bản bởi Cục Địa Đồ Hà Nội vào tháng 5 năm 1964 và những bản đồ thế giới ấn hành tháng 5 năm 1972 cùng những bản đồ chính trị thế giới do Cục Đo Đạc và Bản Đồ Quốc Gia Hà Nội ấn hành tháng 3 năm 1974 ghi các quần đảo này bằng tên Trung hoa viết bằng tiếng Việt Nam. Không bao giờ các quần đảo này được ghi bằng tên tiếng Việt là “Quần Đảo Hoàng Sa” và “Quần Đảo Trường Sa” như sau này, theo tác giả bài báo.
Thí dụ thứ ba: Một bài học về Trung Quốc dành cho lớp 9 trong một cuốn sách giáo khoa về địa lý do Nhà Xuất Bản Giáo Dục Hà Nội ấn hành năm 1974 có câu “Vòng cung hợp bởi các quần đảo Nam Sa và Tây Sa, đảo Hải Nam, Đài Loan, Quần Đảo Bành Hồ… tạo thành một bức “trường thành” che chở cho Trung Hoa Lục Địa.” Có nhiều diễn tả tương tự đã được thấy trong các sách giáo khoa của Bắc Việt Nam.
Thí dụ thứ tư: Kinh độ phía đông của Việt Nam. Ngày 15 tháng 5 năm 1975, non một tháng sau ngày quân đội Việt Nam (Cộng Sản) tiến chiếm sáu đảo của Quần Đảo Trường Sa, tờ Quân Đội Nhân Dân cho đăng một bản đồ Việt Nam bao gồm cả Quần Đảo Trường Sa và khẳng định là địa điểm cực đông của lãnh thổ Việt Nam nằm ở 109 độ 29 phút Đông. Điều này (theo bài báo) chứng tỏ Việt Nam đã chiếm đóng lãnh thổ của Trung Quốc. Mặt khác, một tài liệu nhan đề Địa Lý Thiên Nhiên Việt Nam và Các Vùng Thiên Nhiên của Lãnh Thổ Việt Nam (?) do Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam và Nhà Xuất Bản Khoa Học và Kỹ Thuật Việt Nam, Hà Nội ấn hành năm 1970 lại xác định điểm cực đông của lãnh thổ Việt Nam nằm ở 109 độ 21 phút Đông thay vì 109 độ 29 Đông, chênh nhau 8 phút. Tác giả bài báo cho rằng dù có tăng thêm 8 phút cho lãnh thổ Việt Nam, Nam Sa vẫn không thuộc Việt Nam vì Nam Sa nằm ở 109 độ 30 phút đông của lãnh thổ Việt Nam (cũng theo bài báo).
Qua những thí dụ kể trên, người ta thấy lập luận của phía Trung Hoa có những điều bất ổn. Ba thí dụ đầu căn cứ vào những tài liệu được ấn hành từ trước năm 1975, khi Việt Nam còn bị chia đôi và có xuất xứ từ miền Bắc Việt Nam trong khi các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo Hiệp Định Genève mà Trung Quốc có tham dự và đóng vai trò tích cực, là do miền Nam quản trị. Lập luận của Trung Quốc trong trường hợp này không có giá trị vì nó cũng giống như lập luận của họ đối với văn thư Phạm Văn Đồng gửi cho Châu Ân Lai. Nói cách khác, những gì miền Bắc làm đối với Hoàng Sa và Trường Sa là không có giá trị pháp lý căn cứ vào Hiệp Định Genève, trừ phi họ vin cớ là sau khi miền Bắc thắng trận, lẽ phải là lẽ phải của kẻ thắng.
Một câu hỏi được nêu lên là tại sao các nhà làm sách và làm bản đồ ở miền Bắc thời trước năm 1975 lại dùng những danh xưng của người Tàu thay vì các danh xưng của người Việt để gọi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa? Câu trả lời có thể là vì thời gian đó là thời gian Việt Nam và Trung Hoa là hai nước Cộng Sản “anh em”, em không giữ được thì đưa cho anh thay vì để người ngoài chiếm mất, đồng thời đó cũng là thời gian chiến tranh, Cộng Sản Việt Nam cần sự giúp đỡ của Cộng Sản Trung Quốc và vai trò của Trung Quốc nói chung và của các cố vấn Trung Quốc nói riêng rất mạnh, không ai có thể chống lại. Do đó, việc dùng ngôn từ của Trung Quốc hay việc chép nguyên văn từ các tài liệu do các cố vấn Trung Quốc đưa cho ở đây cũng chỉ là một điều bình thường giống hệt như trong các cuộc chỉnh huấn trong quân đội hay cải cách ruộng đất và việc dùng danh xưng Quân Đội Nhân Dân thay thế cho danh xưng Vệ Quốc Đoàn mang nặng tinh thần quốc gia chủ nghĩa.
Khó ai có thể ngờ Trung Quốc trước sau như một khiến cho những gì các nhà làm bàn đồ hay sách giáo khoa về địa lý ở miền Bắc đã làm ở thời đó sau này đã gây ra bất lợi cho cả đất nước Việt Nam. Ở đây ta chưa kể tới sự kiện là việc ấn loát có thể là do người Tầu thực hiện. Về vấn đề kinh độ, 109 độ 21 hay 29 phút chỉ là của Việt Nam lục địa tức phần chính của Việt Nam mà thôi. Các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa không được trình bày trong tài liệu được viện dẫn.
Ngoài ra người ta cũng phải để ý là tháng 5 năm 1975 miền Bắc mới chiếm được miền Nam và tự coi là có trách nhiệm trên toàn thể lãnh thổ của miền Nam trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Thời gian quá ngắn nên những tài liệu tờ Quân Đội Nhân Dân dùng cho bài viết của họ vẫn là tài liệu cũ của miền Bắc. Họ chưa có đủ thì giờ để cập nhật hóa những gì phải làm. Các học giả trong nước có trách nhiệm phối kiểm và làm sáng tỏ những chi tiết này.
Các tên quốc tế như South China Sea hay Mer de Chine cần phải được thay thế bằng Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est hay Biển Đông Nam Á
Đây là một vấn đề lẽ ra phải được nêu lên từ lâu nhưng hầu như ít ai để ý đến hoặc chưa có dịp. Năm 2010 chúng ta đã để lỡ một cơ hội có thể coi là ngàn năm một thuở vì Việt Nam trong năm 2010 là chủ tịch luân phiên của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN), đồng thời trong tháng 4 năm này cuộc họp thượng đỉnh của Hiệp Hội đã diễn ra ở Hà Nội. Với tư cách chủ nhà và ở cương vị chủ tịch, nhà nước Cộng Sản Việt Nam có thể đưa ra đề nghị để hội nghị cứu xét và thông qua.
Năm nay, 2014, chúng ta lại có một cơ hội mới: Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 25 lại họp trong hai ngày 11 và 12 tháng tại Naypiyidaw, Miến Điện với vấn đề tranh chấp ở Biển Đông là nội dung chính. Chưa hết, cùng ngày 12, Hiệp Hội Châu Á (Asia Society cũng họp ở New York với đề tài hơi khác vì ngoài tranh chấp người ta còn nói tới hợp tác và phát triển; đồng thời tham dự chỉ có các học giả Mỹ và Tầu. Cũng vậy, trong hai ngày 17 và 18 một hội nghị quốc tế về Biển Đông cũng họp ở Đà Nẵng với đề tài tương tự. Tất nhiên là vì sự hung hãn của Trung Quốc và sự phức tạp của khối các nước Đông Nam Á một sự thỏa thuận khó có thể đạt được trong hoàn cảnh hiện tại, dù cho chỉ là tiến tới một Bộ Quy Tắc Ứng Xử COC. Tuy nhiên một sự kiện vô cùng quan trọng đã được các nhà bình luận quan tâm là thái độ tích cực của Hoa Kỳ từ sau khi nước này xoay trục trở lại với Á Châu – Thái Bình Dương.
Một tham dự viên Hội Thảo Asia Society, nhà phân tích địa lý chính trị người Mỹ Robert Kaplan, đã so sánh tình hình Biển Đông hiện tại với sự thống trị của Trung Quốc với tình hình vùng biển Caribbean và sự thống trị của Mỹ từ giữa thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Ở Biển Caribbean Mỹ đã đẩy các cường quốc Âu Châu ra khỏi vùng này. Còn ở Biển Đông Trung Quốc cũng có những hoạt động tương tự. Lý do khiến cho Trung Quốc có thể thống trị ỏ Biển Đông là vì bắt đầu từ năm 2008 hải quân Trung Quốc đã đủ sức mạnh để phô trương với thế giới bên ngoài và vì Hoa Kỳ quá bận rộn ở khu vực Trung Đông trong một thời gian quá dài mà bỏ quên châu Á khiến cho chiến lược chuyển trục bị muộn mất 20 năm.
Có nhiều lý do phải đổi tên cho vùng biển đang tranh chấp:
Thứ nhất: Tên South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) trong tiếng Anh và tên Mer de Chine (Biển Trung Hoa) hay Mer de Chine Méridionale trong tiếng Pháp không thích hợp với thực tại địa lý nói chung của biển này. Chúng đã được đặt ra và được chấp nhận từ nhiều thế kỷ trước, khi người Âu Châu mới tới vùng Đông Nam Á. Lúc đó họ đã biết hay đã quen với Trung Quốc nhiều hơn là với các xứ Đông Nam Á đương thời, trong khi trên thực tế biển này ba mặt phía nam, phía tây, phía đông được vây quanh bởi các nước Đông Nam Á, chỉ một phần phía bắc là tiếp giáp với Trung Quốc. Khi một danh xưng do người ngoài đặt cho và không hợp lý với thực tại dịa phương, người ta cần phải đổi đi cho hợp lý hơn thay vì để nguyên một cách thụ động và cứ thế mà dung, từ đó gây ra những hiểu lầm và bối rối lẽ ra có thể tránh được. Nên để ý là Indonesia xưa kia bị gọi là Nam Dương Quần Đảo. Sau khi độc lập nước này đã được đổi tên là Indonesia.
Thứ hai: Biển này nằm ở giữa các quốc gia Đông Nam Á, trong tương lai, với đà phát triển trên nhiều mặt của Hiệp Hội ASEAN, sẽ là một cái hồ, một thứ Địa Trung Hải của toàn vùng. Nó sẽ giúp cho mọi sự tiếp xúc, trao đổi và hợp tác, nói chung, từ kinh tế, tài chánh, thương mại đến văn hóa, giáo dục… được dễ dàng vì giao thông bằng đường thủy luôn luôn thuận lợi với những số lượng lớn hơn gấp bội so với đường bộ hayđường hàng không nếu người ta biết tổ chức và khai thác. Tên South China Sea hay Mer de Chine không nói lên được tầm quan trọng này, chưa kể tới những ý nghĩa tiềm ẩn cò thể bị khai thác của hai chữ China hay Chine trong hai danh xưng này.
Thứ ba: Đổi tên từ South China Sea hay Mer de Chine thành Biển Đông Nam Á không có nghĩa là ta từ bỏ danh xưng Biển Đông hay Đông Hải của Việt Nam vì Biển Đông hay Đông Hải là những tên riêng của người Việt để dùng trong nội bộ mình. Các nước khác chắc chắn cũng có những tên riêng của để gọi biển này của họ. Vì là của riêng người ta vẫn có thể tiếp tục dùng những danh xưng này như những danh xưng truyền thống với những ý nghĩa vừa đúng với vị trí của biển này đối với người dân địa phương, vừa tình cảm của chúng. Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est sẽ chỉ là những danh xưng quốc tế thích hợp hơn để dùng trên các văn kiện hay trong các buổi họp quốc tế, trên các địa đồ thế giới và cho các nước không nằm trong vùng.
Thứ tư: Dùng danh xưng Biển Đông Nam Á hay Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie dư Sud-Est sẽ giúp cho các học giả, các nhà ngoại giao, các chính khách Việt Nam, mỗi khi phải tiếp xúc với thế giới bên ngoài, tránh được sự khó chịu khi phải dùng những tên vừa không do mình đặt ra vừa không đúng với thực tại địa lý mà còn hàm chứa ảnh hưỏng và sức mạnh quá lớn của Trung Quốc. Không những thế chúng còn mang các quốc gia Đông Nam Á lại gần với nhau hơn, đồng thời có thể tạo ra cho người dân của các quốc gia này một ý thức mới, ý thức thuộc về một khối người có nhiều điểm tương đồng, có những quyền lợi chung cần được khai thác với nhau trong hòa bình và cùng nhau bảo vệ nhất là trong phạm vi môi trường thiên nhiên vào lúc Trung Quốc đang nỗ lực kỹ nghệ hóa các tỉnh đông nam của họ.
Kết luận:
Với những lý do trên đây, và còn nhiều lý do khác nữa mà người viết, trong một bài báo ngắn gọn hay vì nhất thời tế nhị, không thể kể ra hết, việc thay thế các danh xưng South China Sea trong tiếng Anh và Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale trong tiếng Pháp bằng danh xưng Southeast Asia Sea hay Mer de l ‘Asie du Sud-Est là một việc làm cần thiết và thích hợp cho sự phát triển nhanh chóng và mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á như người ta đã và đang thấy. Nó nói lên sự bình đẳng và ý chí kết hợp của các nước trong vùng. Ngưòi ta có thể không thích ý kiến quốc tế hóa các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì nó liên hệ tới chủ quyền về lãnh thổ và lãnh hải của riêng từng nước, nhưng người ta có thể chấp nhận, nếu không nói là hoan nghênh việc làm này như một cái tên thuần túy và đơn giản.
Các quốc gia Đông Nam Á đã có một tổ chức chung; đã đến lúc các quốc gia này phải có một cái gì cụ thể chung. Một vùng biển chung mang danh Biển Đông Nam Á ít ra qua danh xưng của nó là biểu tượng cho cái gì chung đó vậy. Trở về với Việt Nam, người viết xin được nhắc lại là tên Biển Đông Nam Á nếu được chấp nhận chỉ là tên gọi một vùng biển nằm giữa khu vực Đông Nam Á cho hợp lý mà thôi. Nó phản ánh tính cách “của chung” của tất cả các nước Đông Nam Á mà Trung Quốc chỉ có một phần phía bắc, là của chung của cả khối ASEAN chú không phải là của riêng của một nước nào.
Riêng về vấn đề chủ quyền, chủ quyền về lãnh thổ hay lãnh hải là do quốc tế công pháp, những luật về mặt biển, về thềm lục địa được qui định dựa trên các yếu tố địa lý, địa chất, nhất là lịch sử…Người Mỹ trong thế kỷ 21 không thể đẩy người Tầu ra khỏi Biển Đônghay ngược lại, giống như đã đẩy người Anh, người Pháp ra khỏi vùng Biển Caribbean hồi thế kỷ 19, nhưng người Mỹ có thể đẩy lui người Tầu về vị trí cũ của nước Tâu, đúng như lịch sử và địa lý, không để họ lấn át các nước Đông Nam Á, thực hiện chủ quyền trên cả vùng Lưỡi Bò như họ đã và đang làm trong mấy năm gần đây và trong hiện tại.
Đổi tên South China Sea hay Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale thành Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asia du Sud-Est là một bước tiến khởi đầu vậy. Nó hoàn toàn hợp với thực tại địa lý và đáp ứng lại nhu cầu hợp tác toàn vùng để cùng phát triển về mọi phương diện trong chiều hướng phát triển chung của cả nhân loại.
Phạm Cao Dương, TS
Phạm Cao Dương, TS
November 29, 20140 Bình Luận
Nhân Vụ Thượng Đỉnh Asean Nhóm Họp Ở Naypyidaw, Miễn Điện, 12-13 Tháng 11 Năm 2014 Và Tranh Chấp Biển Đông Sẽ Là Một Chủ Đề Tranh Cãi, Nhắc Lại, Gợi Ý Về Hai Công Tác Cần Phải Làm
Thường xuyên duyệt xét lại tất cả những bản đồ thế giới đã được ấn hành liên hệ tới Hoàng Sa và Trường Sa để nếu cần yêu cầu sửa đổi.
Nhân dịp Thượng Đỉnh ASEAN Lần Thứ 25 họp ở Naypyidaw, Miến Điện với chủ đề tranh chấp Biển Đông và Hoa Kỳ trở lại Á Châu-Thái Bình Dương, tiếp tục vận động đổi tên South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) hay Mer de Chine (Biển Trung Hoa), những danh xưng quốc tế, thành Southeast Asia Sea (Biển Đông Nam Á) hay Mer de l’Asie du Sud-Est.
Bài này khởi sự được viết sau khi vụ Hội Địa Lý Quốc Gia (National Geographic Society) của người Mỹ ghi chú không đúng về quần đảo Hoàng Sa đã tạm thời được giải quyết với sự đồng ý sửa lại của tổ chức này.
Đây là một thành công quan trọng mà người Việt Nam nói chung đã đạt nhờ sự lên tiếng và tranh đấu của các giáo sư, học giả, các cơ quan hay tổ chức nghiên cứu chuyên môn và của những người Việt yêu nước bình thường cả trong lẫn ngoài nước. Có điều đây mới chỉ là bước mở đầu vì National Geogaphic Society không phải là cơ quan hay nhà xuất bản duy nhất sản xuất và phát hành bản đồ ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Còn rất nhiều cơ quan và nhà xuất bản khác cũng làm những công việc tương tự. Việc làm sáng tỏ và tranh đấu để có sự điều chỉnh cho đúng sự thực do đó cần phải được tiếp nối.
Trong bài này người viết xin được đưa ra hai gợi ý cần phải làm vào lúc này.
Thứ nhất là người Việt ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước lớn như Pháp, Anh, Úc, Nhật, Đức, Gia Nã Đại và các nước Bắc Âu… cần phải duyệt lại tất cả những tài liệu đã được phổ biến liên hệ tới không riêng Quần Đảo Hoàng Sa mà luôn cả Quần Đảo Trường Sa và nếu cần, phải vận động để điều chỉnh.
Thứ hai là phải xét lại danh xưng South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) hay Mer de Chine (Biển Trung Hoa) và đổi thành Southeat Asia Sea hay Mer de l’Asiedu Sud-Est(Biển Đông Nam Á).
Cả hai gợi ý này đều có những lý do riêng và đều có thể thực hiện được nếu mọi người Việt Nam nhất là các nhà cầm quyền ở trong nước đều muốn làm vì năm 2014 chúng ta lại ở vào những vị thế và thời điểm vô cùng thuận lợi, thuận lợi hơn hồi năm 2010 rất nhiều. Tôi xin được trình bày lại với những chi tiết như sau:
Thứ nhất: Thường xuyên duyệt xét lại tất cả những bản đồ đã được ấn hành hay phổ biến trên mạng
Lý do của việc làm này là bản đồ có thể được phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau: trên mạng, in rời từng bản để treo tường hay in trong sách hay thành tập gọi là atlas dưới nhiều khổ lớn nhỏ, dầy mỏng khác nhau, có tỷ lệ khác nhau, từ đó chi tiết được trình bày hay ghi chú khác nhau, đồng thời cũng có thể là những cầu đồ (globes). Gợi ý để mọi người cùng làm ở đây là người Việt ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước lớn như Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Nhật, Đức và các nước Bắc Âu… cần phải thường xuyên duyệt lại tất cả những tài liệu đã được phổ biến này và nếu cần, có thể vận động để điều chỉnh. Hoa Kỳ là một trường hợp điển hình. Chúng ta thử bắt đầu một chút bằng quốc gia có nhiều liên hệ với Việt Nam này. Điều nên nhớ là công việc duyệt xét này, vói một kiến thức không cần thật cao về các ngôn ngữ liên hệ, ai cũng có thể làm được, nhất là các thanh thiếu niên thuộc thế hệ trẻ ở các học đường, chưa nói tới các người làm ở các thư viện.
Ở Hoa Kỳ, ngoài National Geographic, còn có những nhà xuất bản khác không kém quen thuộc đối với học giới nói chung, các nhà địa lý học hay các thày dạy sử địa nói riêng, như Hammond, Rand McNally, DK, Oxford University Press, Merriam-Webster, Random House, Snithsonian, Harper Collins…Các tài liệu này vì được ấn hành bằng tiếng Anh nên cùng lúc được xuất bản và phổ biến ở các nước nói tiếng Anh như Gia Nã Dại, Úc, Anh…Các bản đồ của các nhà xuất bản này phần lớn dùng các tên Paracel hay Spratly, những tên quốc tế, rồi đã hoặc là để trống (Oxford Atlas of the World, 2005; Oxford New Concise World Atlas, 2009; Random House Compact World Atlas, 2006; Smithsonian Handy World Atlas, 2004) hoặc đề sovereignty disputed hay disputed – chủ quyền tranh chấp hay tranh chấp ( Hammond World Atlas,2009; Hammond Concise World Atlas,(?); DK World Atlas, Digital Mapping for the 21th Century,2007, DK Concise Atlas of the World, 2007) hoặc đề là claimed by (đòi chủ quyền bởi) rồi kể tên các quốc gia (Rand Mcnally, Answer Atlas, the Geography Resource for Students, 2006). Riêng cuốn Merriam-Webster,s Geographic Dictionary, 2007, vì là từ điển nên ngoài tên quốc tế lại ghi thêm các tên Xi-sha Qndao (Trung Hoa), Quần Đảo Hoàng Sa (Việt Nam) và Hi-ra-ta gun-tô (Nhật Bản) trước khi ghi các chi tiết khác.
National Geographic có lẽ là một trường hợp cá biệt. Các bản đồ in của hội này cũng đã ghi chú y như họ đã ghi chú trên mạng (National Geographic Family Reference Atlas of the World, 2010; National Geographic Visual of the World Atlas,2009; National Geographic Collegiate Atlas of the World (?). Cần để ý là trong thời gian chiến tranh Việt Nam, ngay từ những ngày đầu, National Geographic Society đã chú ý rất nhiều đến cuộc chiến đấu chống Cộng của người Việt. Họ đã viết và đã phổ biến rất nhiều bài về đề tài này một cách có cảm tình với phía ngưòi Việt Quốc Gia.
Vậy tại sao với tư cách là một hội khoa học họ lại thay đổi thái độ một cách vội vã, thiếu vô tư và thiếu thận trọng so với những nhà xuất bản khác nặng về kinh doanh, thương mại hơn như vậy? Qua sự kiện này câu hỏi được đặt ra người ta có thể tin tưởng vào tinh thần khoa học, vô vị lợi của người Mỹ đến mực nào?
Việt Nam (miền Bắc) cũng dùng các danh xưng Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha) của Trung Quốc trên các bản đồ của mình
Trở về với Việt Nam, việc dùng các danh xưng Tây Sa và Nam Sa, gốc của người Tàu, thay vì Hoàng Sa và Trường Sa trong tiếng Việt, không phải là không có. Sự kiện này sở dĩ đã xảy ra có thể là do sự dễ dãi, dẫn xuất từ tính “thế nào xong thôi” - một thói quen mà một sử gia người Mỹ mà người viết (PCD) tạm thời quên mất tên, nói người Việt Nam cần bỏ nếu muốn tiến bộ – của người Việt. Nó cũng có thể là do sự cẩu thả của người làm sách hay vẽ bản đồ nhưng nó cũng có thể do chủ trương của người cầm quyền đương thời liên hệ tới quốc tế chủ nghĩa và nhu cầu của tình thế và của chiến tranh thể hiện qua văn thư của Thủ Tướng Chính Phủ Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng gửi cho đồng chí của ông là Tổng Lý Quốc Vụ Viện Nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Chu Ân Lai, ngày 14 tháng 9 năm 1958 và cách giải thích của những người có trách nhiệm ở miền Bắc đương thời. Có điều giải thích ra sao cũng vậy.
Bút sa là gà phải chết! Khi những tranh chấp xảy ra, người Tàu đã dùng những tài liệu do chính người Việt tạo ra mà họ có được trong tay này làm chứng cớ để biện minh cho chủ quyền của họ ở các quần đảo hai bên đang tranh chấp. Bài viết nhan đề “Xisha and Nansha Islands belong to China” (Tây Sa và Nam Sa thuộc Trung Quốc) đăng trên tờ Beijing Review, cơ quan ngôn luậnchính thức của chính quyền Cộng Sản Bắc Kinh bằng Anh ngữ, số 21, ra ngày 25 tháng 5 năm 1979 cho người ta thấy điều đó. Bài này không ghi tên tác giả mà chỉ ghi là một bài bình luận của ký giả Tân Hoa Xã, có lẽ để tránh không bị coi là chính thức, nhưng ai cũng biết Tân Hoa Xã là cơ quan thông tấn chính thức của nhà nước Trung Hoa Cộng Sản.
Trong bài bình luận này, ngoài những lập luận và chứng cớ bằng ngôn từ, tác giả đã viện dẫn tới các bản đồ chính thức của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (miền Bắc) ấn hành trước năm 1975. Các bản đồ này đã gọi các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng tên Trung Hoa đọc theo tiếng Việt là Tây Sa và Nam Sa của chúng kèm theo những ghi chú chứng tỏ các quần đảo này là thuộc Trung Hoa. Tác giả bài báo đã nêu lên một số trường hợp làm thí dụ:
Thí dụ thứ nhất: Bản đồ thế giới vẽ và ấn hành bởi Cục Bản Đồ (?) của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam năm 1960 đã ghi rõ bằng tiếng Việt “Quần Đảo Tây Sa (Trung Hoa)” và “Quần Đảo Nam Sa (Trung Hoa)”. Nguyên bản tiếng Anh để chữ China (Trung Hoa) trong ngoặc đơn rồi tất cả trong ngoặc kép “ the Xisha Islands (China)”, “the Nansha Islands (China)” thành người viết bài này (PCD) không rõ chữ China này là ghi đúng như trên bản đồ của Việt Nam hay do tác giả bài viết trên tờ Beijing Review thêm vô.
Thí dụ thứ hai: Những bản đồ Việt Nam xuất bản bởi Cục Địa Đồ Hà Nội vào tháng 5 năm 1964 và những bản đồ thế giới ấn hành tháng 5 năm 1972 cùng những bản đồ chính trị thế giới do Cục Đo Đạc và Bản Đồ Quốc Gia Hà Nội ấn hành tháng 3 năm 1974 ghi các quần đảo này bằng tên Trung hoa viết bằng tiếng Việt Nam. Không bao giờ các quần đảo này được ghi bằng tên tiếng Việt là “Quần Đảo Hoàng Sa” và “Quần Đảo Trường Sa” như sau này, theo tác giả bài báo.
Thí dụ thứ ba: Một bài học về Trung Quốc dành cho lớp 9 trong một cuốn sách giáo khoa về địa lý do Nhà Xuất Bản Giáo Dục Hà Nội ấn hành năm 1974 có câu “Vòng cung hợp bởi các quần đảo Nam Sa và Tây Sa, đảo Hải Nam, Đài Loan, Quần Đảo Bành Hồ… tạo thành một bức “trường thành” che chở cho Trung Hoa Lục Địa.” Có nhiều diễn tả tương tự đã được thấy trong các sách giáo khoa của Bắc Việt Nam.
Thí dụ thứ tư: Kinh độ phía đông của Việt Nam. Ngày 15 tháng 5 năm 1975, non một tháng sau ngày quân đội Việt Nam (Cộng Sản) tiến chiếm sáu đảo của Quần Đảo Trường Sa, tờ Quân Đội Nhân Dân cho đăng một bản đồ Việt Nam bao gồm cả Quần Đảo Trường Sa và khẳng định là địa điểm cực đông của lãnh thổ Việt Nam nằm ở 109 độ 29 phút Đông. Điều này (theo bài báo) chứng tỏ Việt Nam đã chiếm đóng lãnh thổ của Trung Quốc. Mặt khác, một tài liệu nhan đề Địa Lý Thiên Nhiên Việt Nam và Các Vùng Thiên Nhiên của Lãnh Thổ Việt Nam (?) do Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam và Nhà Xuất Bản Khoa Học và Kỹ Thuật Việt Nam, Hà Nội ấn hành năm 1970 lại xác định điểm cực đông của lãnh thổ Việt Nam nằm ở 109 độ 21 phút Đông thay vì 109 độ 29 Đông, chênh nhau 8 phút. Tác giả bài báo cho rằng dù có tăng thêm 8 phút cho lãnh thổ Việt Nam, Nam Sa vẫn không thuộc Việt Nam vì Nam Sa nằm ở 109 độ 30 phút đông của lãnh thổ Việt Nam (cũng theo bài báo).
Qua những thí dụ kể trên, người ta thấy lập luận của phía Trung Hoa có những điều bất ổn. Ba thí dụ đầu căn cứ vào những tài liệu được ấn hành từ trước năm 1975, khi Việt Nam còn bị chia đôi và có xuất xứ từ miền Bắc Việt Nam trong khi các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo Hiệp Định Genève mà Trung Quốc có tham dự và đóng vai trò tích cực, là do miền Nam quản trị. Lập luận của Trung Quốc trong trường hợp này không có giá trị vì nó cũng giống như lập luận của họ đối với văn thư Phạm Văn Đồng gửi cho Châu Ân Lai. Nói cách khác, những gì miền Bắc làm đối với Hoàng Sa và Trường Sa là không có giá trị pháp lý căn cứ vào Hiệp Định Genève, trừ phi họ vin cớ là sau khi miền Bắc thắng trận, lẽ phải là lẽ phải của kẻ thắng.
Một câu hỏi được nêu lên là tại sao các nhà làm sách và làm bản đồ ở miền Bắc thời trước năm 1975 lại dùng những danh xưng của người Tàu thay vì các danh xưng của người Việt để gọi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa? Câu trả lời có thể là vì thời gian đó là thời gian Việt Nam và Trung Hoa là hai nước Cộng Sản “anh em”, em không giữ được thì đưa cho anh thay vì để người ngoài chiếm mất, đồng thời đó cũng là thời gian chiến tranh, Cộng Sản Việt Nam cần sự giúp đỡ của Cộng Sản Trung Quốc và vai trò của Trung Quốc nói chung và của các cố vấn Trung Quốc nói riêng rất mạnh, không ai có thể chống lại. Do đó, việc dùng ngôn từ của Trung Quốc hay việc chép nguyên văn từ các tài liệu do các cố vấn Trung Quốc đưa cho ở đây cũng chỉ là một điều bình thường giống hệt như trong các cuộc chỉnh huấn trong quân đội hay cải cách ruộng đất và việc dùng danh xưng Quân Đội Nhân Dân thay thế cho danh xưng Vệ Quốc Đoàn mang nặng tinh thần quốc gia chủ nghĩa.
Khó ai có thể ngờ Trung Quốc trước sau như một khiến cho những gì các nhà làm bàn đồ hay sách giáo khoa về địa lý ở miền Bắc đã làm ở thời đó sau này đã gây ra bất lợi cho cả đất nước Việt Nam. Ở đây ta chưa kể tới sự kiện là việc ấn loát có thể là do người Tầu thực hiện. Về vấn đề kinh độ, 109 độ 21 hay 29 phút chỉ là của Việt Nam lục địa tức phần chính của Việt Nam mà thôi. Các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa không được trình bày trong tài liệu được viện dẫn.
Ngoài ra người ta cũng phải để ý là tháng 5 năm 1975 miền Bắc mới chiếm được miền Nam và tự coi là có trách nhiệm trên toàn thể lãnh thổ của miền Nam trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Thời gian quá ngắn nên những tài liệu tờ Quân Đội Nhân Dân dùng cho bài viết của họ vẫn là tài liệu cũ của miền Bắc. Họ chưa có đủ thì giờ để cập nhật hóa những gì phải làm. Các học giả trong nước có trách nhiệm phối kiểm và làm sáng tỏ những chi tiết này.
Các tên quốc tế như South China Sea hay Mer de Chine cần phải được thay thế bằng Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est hay Biển Đông Nam Á
Đây là một vấn đề lẽ ra phải được nêu lên từ lâu nhưng hầu như ít ai để ý đến hoặc chưa có dịp. Năm 2010 chúng ta đã để lỡ một cơ hội có thể coi là ngàn năm một thuở vì Việt Nam trong năm 2010 là chủ tịch luân phiên của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN), đồng thời trong tháng 4 năm này cuộc họp thượng đỉnh của Hiệp Hội đã diễn ra ở Hà Nội. Với tư cách chủ nhà và ở cương vị chủ tịch, nhà nước Cộng Sản Việt Nam có thể đưa ra đề nghị để hội nghị cứu xét và thông qua.
Năm nay, 2014, chúng ta lại có một cơ hội mới: Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 25 lại họp trong hai ngày 11 và 12 tháng tại Naypiyidaw, Miến Điện với vấn đề tranh chấp ở Biển Đông là nội dung chính. Chưa hết, cùng ngày 12, Hiệp Hội Châu Á (Asia Society cũng họp ở New York với đề tài hơi khác vì ngoài tranh chấp người ta còn nói tới hợp tác và phát triển; đồng thời tham dự chỉ có các học giả Mỹ và Tầu. Cũng vậy, trong hai ngày 17 và 18 một hội nghị quốc tế về Biển Đông cũng họp ở Đà Nẵng với đề tài tương tự. Tất nhiên là vì sự hung hãn của Trung Quốc và sự phức tạp của khối các nước Đông Nam Á một sự thỏa thuận khó có thể đạt được trong hoàn cảnh hiện tại, dù cho chỉ là tiến tới một Bộ Quy Tắc Ứng Xử COC. Tuy nhiên một sự kiện vô cùng quan trọng đã được các nhà bình luận quan tâm là thái độ tích cực của Hoa Kỳ từ sau khi nước này xoay trục trở lại với Á Châu – Thái Bình Dương.
Một tham dự viên Hội Thảo Asia Society, nhà phân tích địa lý chính trị người Mỹ Robert Kaplan, đã so sánh tình hình Biển Đông hiện tại với sự thống trị của Trung Quốc với tình hình vùng biển Caribbean và sự thống trị của Mỹ từ giữa thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Ở Biển Caribbean Mỹ đã đẩy các cường quốc Âu Châu ra khỏi vùng này. Còn ở Biển Đông Trung Quốc cũng có những hoạt động tương tự. Lý do khiến cho Trung Quốc có thể thống trị ỏ Biển Đông là vì bắt đầu từ năm 2008 hải quân Trung Quốc đã đủ sức mạnh để phô trương với thế giới bên ngoài và vì Hoa Kỳ quá bận rộn ở khu vực Trung Đông trong một thời gian quá dài mà bỏ quên châu Á khiến cho chiến lược chuyển trục bị muộn mất 20 năm.
Có nhiều lý do phải đổi tên cho vùng biển đang tranh chấp:
Thứ nhất: Tên South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) trong tiếng Anh và tên Mer de Chine (Biển Trung Hoa) hay Mer de Chine Méridionale trong tiếng Pháp không thích hợp với thực tại địa lý nói chung của biển này. Chúng đã được đặt ra và được chấp nhận từ nhiều thế kỷ trước, khi người Âu Châu mới tới vùng Đông Nam Á. Lúc đó họ đã biết hay đã quen với Trung Quốc nhiều hơn là với các xứ Đông Nam Á đương thời, trong khi trên thực tế biển này ba mặt phía nam, phía tây, phía đông được vây quanh bởi các nước Đông Nam Á, chỉ một phần phía bắc là tiếp giáp với Trung Quốc. Khi một danh xưng do người ngoài đặt cho và không hợp lý với thực tại dịa phương, người ta cần phải đổi đi cho hợp lý hơn thay vì để nguyên một cách thụ động và cứ thế mà dung, từ đó gây ra những hiểu lầm và bối rối lẽ ra có thể tránh được. Nên để ý là Indonesia xưa kia bị gọi là Nam Dương Quần Đảo. Sau khi độc lập nước này đã được đổi tên là Indonesia.
Thứ hai: Biển này nằm ở giữa các quốc gia Đông Nam Á, trong tương lai, với đà phát triển trên nhiều mặt của Hiệp Hội ASEAN, sẽ là một cái hồ, một thứ Địa Trung Hải của toàn vùng. Nó sẽ giúp cho mọi sự tiếp xúc, trao đổi và hợp tác, nói chung, từ kinh tế, tài chánh, thương mại đến văn hóa, giáo dục… được dễ dàng vì giao thông bằng đường thủy luôn luôn thuận lợi với những số lượng lớn hơn gấp bội so với đường bộ hayđường hàng không nếu người ta biết tổ chức và khai thác. Tên South China Sea hay Mer de Chine không nói lên được tầm quan trọng này, chưa kể tới những ý nghĩa tiềm ẩn cò thể bị khai thác của hai chữ China hay Chine trong hai danh xưng này.
Thứ ba: Đổi tên từ South China Sea hay Mer de Chine thành Biển Đông Nam Á không có nghĩa là ta từ bỏ danh xưng Biển Đông hay Đông Hải của Việt Nam vì Biển Đông hay Đông Hải là những tên riêng của người Việt để dùng trong nội bộ mình. Các nước khác chắc chắn cũng có những tên riêng của để gọi biển này của họ. Vì là của riêng người ta vẫn có thể tiếp tục dùng những danh xưng này như những danh xưng truyền thống với những ý nghĩa vừa đúng với vị trí của biển này đối với người dân địa phương, vừa tình cảm của chúng. Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est sẽ chỉ là những danh xưng quốc tế thích hợp hơn để dùng trên các văn kiện hay trong các buổi họp quốc tế, trên các địa đồ thế giới và cho các nước không nằm trong vùng.
Thứ tư: Dùng danh xưng Biển Đông Nam Á hay Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie dư Sud-Est sẽ giúp cho các học giả, các nhà ngoại giao, các chính khách Việt Nam, mỗi khi phải tiếp xúc với thế giới bên ngoài, tránh được sự khó chịu khi phải dùng những tên vừa không do mình đặt ra vừa không đúng với thực tại địa lý mà còn hàm chứa ảnh hưỏng và sức mạnh quá lớn của Trung Quốc. Không những thế chúng còn mang các quốc gia Đông Nam Á lại gần với nhau hơn, đồng thời có thể tạo ra cho người dân của các quốc gia này một ý thức mới, ý thức thuộc về một khối người có nhiều điểm tương đồng, có những quyền lợi chung cần được khai thác với nhau trong hòa bình và cùng nhau bảo vệ nhất là trong phạm vi môi trường thiên nhiên vào lúc Trung Quốc đang nỗ lực kỹ nghệ hóa các tỉnh đông nam của họ.
Kết luận:
Với những lý do trên đây, và còn nhiều lý do khác nữa mà người viết, trong một bài báo ngắn gọn hay vì nhất thời tế nhị, không thể kể ra hết, việc thay thế các danh xưng South China Sea trong tiếng Anh và Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale trong tiếng Pháp bằng danh xưng Southeast Asia Sea hay Mer de l ‘Asie du Sud-Est là một việc làm cần thiết và thích hợp cho sự phát triển nhanh chóng và mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á như người ta đã và đang thấy. Nó nói lên sự bình đẳng và ý chí kết hợp của các nước trong vùng. Ngưòi ta có thể không thích ý kiến quốc tế hóa các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì nó liên hệ tới chủ quyền về lãnh thổ và lãnh hải của riêng từng nước, nhưng người ta có thể chấp nhận, nếu không nói là hoan nghênh việc làm này như một cái tên thuần túy và đơn giản.
Các quốc gia Đông Nam Á đã có một tổ chức chung; đã đến lúc các quốc gia này phải có một cái gì cụ thể chung. Một vùng biển chung mang danh Biển Đông Nam Á ít ra qua danh xưng của nó là biểu tượng cho cái gì chung đó vậy. Trở về với Việt Nam, người viết xin được nhắc lại là tên Biển Đông Nam Á nếu được chấp nhận chỉ là tên gọi một vùng biển nằm giữa khu vực Đông Nam Á cho hợp lý mà thôi. Nó phản ánh tính cách “của chung” của tất cả các nước Đông Nam Á mà Trung Quốc chỉ có một phần phía bắc, là của chung của cả khối ASEAN chú không phải là của riêng của một nước nào.
Riêng về vấn đề chủ quyền, chủ quyền về lãnh thổ hay lãnh hải là do quốc tế công pháp, những luật về mặt biển, về thềm lục địa được qui định dựa trên các yếu tố địa lý, địa chất, nhất là lịch sử…Người Mỹ trong thế kỷ 21 không thể đẩy người Tầu ra khỏi Biển Đônghay ngược lại, giống như đã đẩy người Anh, người Pháp ra khỏi vùng Biển Caribbean hồi thế kỷ 19, nhưng người Mỹ có thể đẩy lui người Tầu về vị trí cũ của nước Tâu, đúng như lịch sử và địa lý, không để họ lấn át các nước Đông Nam Á, thực hiện chủ quyền trên cả vùng Lưỡi Bò như họ đã và đang làm trong mấy năm gần đây và trong hiện tại.
Đổi tên South China Sea hay Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale thành Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asia du Sud-Est là một bước tiến khởi đầu vậy. Nó hoàn toàn hợp với thực tại địa lý và đáp ứng lại nhu cầu hợp tác toàn vùng để cùng phát triển về mọi phương diện trong chiều hướng phát triển chung của cả nhân loại.
Phạm Cao Dương, TS
DIỄN VĂN TỐT NGHIỆP
Lễ tốt nghiệp Trung học : Bạn chẳng có gì đặc biệt! - YouTube

Giáo sư David McCollough Jr khi đọc bài diễn văn gây sốc.
Phát biểu trong lễ tốt nghiệp của các học sinh lớp 12 Trường trung học Wellesley High ở bang Massachusetts (Mỹ)tuần trước, giáo sư tiếng Anh David McCollough Jr đã gây sốc khi nói thẳng:“Các em chẳng có gì đặc biệt”.
Trước các học sinh của mìnhđang xúng xính trong bộ đồng phục tốt nghiệp giống nhau, đang háo hức cầm trên tay tấm bằng, McCollough dõng dạc nói rằng “Các em chẳng có gì là đặc biệt”,“chẳng có gì là phi thường”! Một gáo nước lạnh như được giội xuống mọi thành tích vẻ vang của trường!
Được chăm bẵm quá mức
Trước bao ánh mắt mở to sửng sốt, McCollough điềm nhiên nói tiếp: “Các em đã được hầu hạ tận miệng, nâng niu mỗi ngày, được nuông chiều, được bảo bọc cẩn thận. Vâng, người lớn đã ôm hôn các em, cho các em ăn, lau miệng… cho các em. Họ dạy dỗ, hướng dẫn, lắng nghe,động viên và an ủi các em. Các em được nâng niu, phỉnh phờ, dỗ ngon dỗ ngọt, được nghe toàn những lời nài nỉ.
Các em được người lớn ngợi khen đến tận trời xanh, được gọi là cục cưng. Đúng vậy đó. Chúng tôi đã ở bên cạnh các em trong các trò chơi, vở kịch, các cuộc biểu diễn âm nhạc, hội chợ khoa học. Những nụ cười tỏa sáng khi các em bước vào phòng, đáp lại mỗi tin nhắn trên Twitter của các em là những tiếng hô hào hứng. Và giờ các em đã chinh phục được trường trung học. Nhưng đừng lầm tưởng rằng các em là đặc biệt. Không có chuyệnđó đâu nhé!”.
Đến đây, McCollough dẫn các học sinh vào một hiện thực đang chờ đợi mình. “Mỗi năm có ít nhất 3,2 triệu học sinh tốt nghiệp từ hơn 37.000 trường trung học trên toàn quốc. Đó là 37.000 học sinh tiêu biểu của các trường, 37.000 chủ tịch hội học tập, 92.000 giọng ca nổi bật, 340.000 vận động viên…
Nhưng tại sao lại tự giới hạn chúng ta ở trường trung học thôi? Hãy thử
nghĩ xem. Nếu cả triệu người mới có một người như các em thì trên thế
giới 6,8 tỉ dân này sẽ có tới gần 7.000 người như các em. Hãy nhìn toàn
cảnh. Hành tinh của chúng ta không phải là trung tâm Hệ mặt trời, Hệmặt
trời không phải là trung tâm Ngân hà, Ngân hà cũng chẳng phải là trung
tâm vũ trụ. Các nhà thiên văn đã khẳng định vũ trụ không có trung tâm
đâu, do đó các em không thể là “cái rốn” của vũ trụ. Ngay cả tỉ phú Mỹ
nổi tiếng Donald Trump cũng chẳng là “cái đinh” gì”.
McCollough dẫn dắt tiếp: “Người Mỹ chúng ta giờ đây yêu các danh hiệu hơn là những thành công thật sự. Chúng ta coi danh hiệu là mục tiêu và sẵn sàng thỏa hiệp, tự hạ thấp các chuẩn mực, hoặc phớt lờ thực tế khi cho rằng đó là cách nhanh nhất hoặc duy nhất để có được những thứ có thể đem ra khoe mẽ, để có một vị trí tốt hơn trong xã hội… Hậu quả là chúng ta đang coi rẻ các trải nghiệm đáng giá, thế nên việc xây dựng một cơ sở y tế ở Guatemala trở thành chìa khóa để chạy xin vào học tại Bowdoin (học viện nghệ thuật nổi tiếng ở Mỹ) hơn là việc này vì cuộc sống của người dân Guatemala”.
Hạnh phúc không tự tìm đến
McCollough nhấn mạnh mục tiêu thật sự của giáo dục không phải đem lại lợi thế vật chất mà là sự hiểu biết, yếu tố quan trọng của hạnh phúc. “Trước khi các em tỏa đi khắp nơi, tôi kêu gọi các em hãy làm những gì mình yêu thích và tin tưởng. Hãy kháng cự lại sự thỏa mãn nhất thời, vẻ lóng lánh bề ngoài của vật chất, sự tê liệt của lòng tự mãn. Hãy xứng đáng với những lợi thế mà mình có”.
Sau khi khuyên các học sinh hãy tiếp tục đọc sách thường xuyên, phát triển ý thức về đạo đức, khẳng định cá tính, dám ước mơ, làm việc chăm chỉ và tư duy độc lập, yêu những người mình yêu hết mình, McCollough nhắc nhở: “Hãy làm như vậy một cách nhanh chóng, bởi mỗi giây phút đều quý giá. Cuộc sống hạnh phúc, có ý nghĩa là một thành tựu đòi hỏi nỗ lực, chứ không phải là thứ từ trên trời rơi xuống vì các em là người tốt hay vì cha mẹ đưa đến tận tay các em.
Các em hãy nhớ rằng những người tạo dựng nên nước Mỹ đã nỗ lực bảo đảm quyền được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Mưu cầu là một động từ, và tôi nghĩ các em sẽ không có nhiều thời gian đểnằm ườn một chỗ xem mấy trò nhảm nhí trên YouTube. Đừng mong chờ cảm hứng và niềmđam mê sẽ tự tìm đến với các em. Hãy đứng dậy, bước ra bên ngoài, tự mình khám phá, tìm kiếm cảm hứng cùng niềm đam mê và hãy giữ chắc nó bằng cả hai bàn tay”.
Kết thúc phát biểu của mình, ông McCollough nhắn nhủ các học sinh hãy tự chủ, độc lập, sáng tạo không vì sựthỏa mãn do hành động đó mang lại, mà vì những điều tốt đẹp nó đem đến cho người khác. “Và khi đó, các em sẽ phát hiện sự thật vĩ đại và lạ lùng của cuộc sống.Đó là lòng vị tha, sống vì người khác, và đó là điều tuyệt vời nhất các em có thể làm được cho bản thân. Những niềm vui ngọt ngào nhất trong cuộc sống chỉ đến khi các em nhận ra rằng mình không có gì là đặc biệt”.
Sự quan tâm thái quá của người lớn khiến cái tôi của bọn trẻ phình to. Do đó, tôi nghĩ chúng cần một cách suy nghĩ mới. Đưa chúng vào đời với cái tôi quá lớn chẳng khác nào làm hại chúng
McCollough khẳng định. Trả lời phỏng vấn Fox News, McCollough giải thích ông muốn các học sinh hiểu rằng chúng phải nỗ lực nếu muốn thành công trong cuộc đời.
Sưu tầm
Wednesday, December 3, 2014
BẢO GIANG * ĐÈN CÙ
Đèn Cù, bản cáo trạng trước khi đèn bị cháy?

Bảo Giang (Danlambao)
-
Tôi đã đọc đến những trang cuối của Đèn Cù rồi đây. Có một điều tôi chờ đợi, tôi muốn thấy, nhưng không thấy. Lạ hơn, cũng không có, dù chỉ là một tư tưởng nhỏ của sự giải thoát cho người, cho những lớp voi giấy, ngựa giấy hay chó giấy ra khỏi cái khung sườn của CS. Trái lại, dù là người ở ngoài, thú ở trong, vẫn là một cảnh vừa chạy, vừa đuổi, tít mù theo cái vòng quay của nó. Nó vẫn quay và làm chết người. Niềm đau là người không lối thoát!
Tôi đã đọc đến những trang cuối của Đèn Cù rồi đây. Có một điều tôi chờ đợi, tôi muốn thấy, nhưng không thấy. Lạ hơn, cũng không có, dù chỉ là một tư tưởng nhỏ của sự giải thoát cho người, cho những lớp voi giấy, ngựa giấy hay chó giấy ra khỏi cái khung sườn của CS. Trái lại, dù là người ở ngoài, thú ở trong, vẫn là một cảnh vừa chạy, vừa đuổi, tít mù theo cái vòng quay của nó. Nó vẫn quay và làm chết người. Niềm đau là người không lối thoát!
Khi “Đêm giữa ban ngày” và tác giả của nó đã vượt qua cõi chết,
đem ra trước công luận những hình ảnh, những thân phận người đang phải
sống dưới bóng tối, dù bên ngoài trời đã sáng, làm cho nhiều người phát
kinh hoàng về một góc độ của cuộc sống thực trong “thiên đường cộng sản”.
Khi ấy, dù chẳng nói ra, nhiều người có thêm một dịp được nhìn tận mắt,
nghe tận tai câu chuyện, cuộc sống của người ở phía bên kia. Những câu
chuyện mà có lẽ cái nhà nước CS ấy, dù rất tinh thông nghề láo lếu, gian
trá, vẫn không thể há mồm ong óng lên là cuốn sách do “thế lực thù
địch” đặt hàng để viết ra. Tuy thế, tôi vẫn cho đó chỉ là những nét
phẩy, nét vẽ đơn điệu của bên thắng thế dành cho bên yếu thế của họ
trong quá trình tranh giành quyền lợi cá nhân trên nỗi thống khổ, lao
nhọc và đau thương của đồng bào Việt Nam. Nó không hề phản ảnh, hay nói
lên được cái gian trá, đểu cáng đến tột cùng mà chế độ ấy, trong đó bao
gồm cả bản thân phía bị gọi là thua, yếu thế đã gây ra cho đồng bào của
mình. Tôi đâm ra lạnh nhạt, vô cảm, dửng dưng với câu chuyện “đêm giữa ban ngày”.
Tuy thế, tôi vẫn nghĩ rằng, rồi ra sẽ có được những tác phẩm với những
đường kẻ rõ nét hơn, sắc bén hơn, trung thực hơn khi soi dọi vào những
khuôn mặt mo đã làm nên hình thù của một chế độ bệnh hoạn phía bên kia
bờ vĩ tuyến 17, để không phải chỉ ở bên kia vĩ tuyến, nhưng trên toàn
cõi Việt Nam đã rơi vào trong tang thương. Ở đó, có đầu rơi, có máu
chảy. Có nhiều người chết. Chết bằng nhiều kiểu, cách khác nhau. Người
bị giết lén, bị chặt đầu bằng dao mã tấu của HCM. Kẻ bị chết vì mùa đấu
tố. Người chết vì bom, vì mìn của Lê Duẩn trên đường “giải phóng”. Kẻ
bị thả trôi sông vì không theo giặc cộng. Người bị bêu đầu vì làm việc
cho Cộng Hòa. Đủ kiểu, đủ cách sẽ được phơi bày trên những trang giấy
trọng tính nhân văn. Ở đó, những sự thật dẫu là tàn bạo, man rợ đều
không thể bị che khuất bởi những làn mây đen, dù tác giả đã viết nó
trong một ngày không có nắng. Để nhờ đó, lịch sử được soi sáng và những
bạo tàn, gian dối có cơ may đón nhận sự tha thứ từ đồng bào hơn là tiếp
tục che dấu để tồn đọng sự hận thù trong lòng dân tộc. Sự chờ đợi ấy đến
nay vẫn chưa có. Tuy nhiên, từ trong bóng đêm đã thấp thoáng một bóng
Đèn Cù,
“Người ta không đốt đèn rồi để nó ở dưới gầm giường, nhưng là đặt trên giá cao để soi sáng cho cả nhà” (Lc, 8,16).
Khi nói đến cái đèn, người ta liên tưởng ngay đến đặc tính của nó là
chiếu sáng và đẩy lui đi bóng tối. Nghĩa là, nhờ ánh sáng của đèn người
ta nhìn thấy rõ những sự vật đang nằm trong bóng tối. Hơn thế, ánh sáng
còn tạo ra nguồn lực, sức nóng, nguồn sống cho con người. Mất đi đặc
tính chiếu sáng, sức nóng, đèn không còn là chính mình. Tuy nhiên, Đèn
Cù trong nhân gian Á Châu, Việt Nam (và có thể do chính tác giả mượn chữ
của nó, để diễn nghĩa) không phải là loại đèn dùng để soi sáng, tỏa
nhiệt, tạo nguồn động lực sống, xóa tan bóng đêm. Nhưng là loại đèn được
thiết trì với mục đích giải trí cho đôi mắt, tạo niềm vui nho nhỏ cho
người thưởng lãm.
Theo đó, ánh sáng, sức nóng từ ngọn đèn sẽ tác dụng
tạo ra nguồn động lực làm chuyển động những khung hình, trên ấy có những
hạng mục voi giấy, ngựa giấy, chó giấy... cùng theo nhau, đuổi nhau
chạy vòng quanh trong lồng đèn, tạo cho người xem một cảm giác là lạ,
thích thú. Ánh sáng ấy khi tỏ khi mờ, đôi khi lóe lên, chiếu dọi ra bên
ngoài qua những hình thú nhấp nhô, để khách thưởng lãm nhìn rõ mặt từng
hình thú voi giấy, ngựa giấy, chó giấy đang quay tít kia mà bàn tán, chê
khen. Phận thú, mặc cho lời bàn tán, nó vẫn tiếp tục quay như điên, như
cuồng, chẳng khi ngừng lại cho đến khi đèn hết dầu hoặc đèn bị cháy.
I. Những hạng mục trong Đèn Cù
Như tôi đã nhắc đến ở trên, một trong những điều thú vị của Đèn Cù là
ánh sáng của nó, dù không tỏ, vẫn làm cho vòng quay phải quay, vẫn giúp
cho người đứng xem, nhìn được vài, ba đường nét nổi bật, cũng như những
góc khuất của đoàn thú đang chạy vòng vòng trước mặt. Nghĩa là, sau
những vòng quay, chẳng một con thú nào không được điểm đanh với những
hình dạng, đặc tính riêng của nó. Cũng thế, mời bạn trở lại chuyện cái
Đèn Cù Việt Nam, chúng ta nhìn thử xem thế nào?
a. Dàn voi đi đầu: Hồ chí Minh
Gần 80 năm qua, chẳng ai có số liệu chính xác trong tay, nhưng chắc hẳn
là không có dưới 5, 7 chục ngàn những bài viết dài ngắn, lớn nhỏ, từ
trung ương xuống địa phương, của những người thổi ống đu dủ và của cả
những kẻ đã bỏ của chạy lấy người, mang tính lừa gạt cao, đầy tình tiết
thêu dệt về nhân vật Hồ Chí Minh với mục đích làm cho người dân thuộc
thế kỷ 14, 15 tin rằng, đó là một lãnh tụ anh minh, vĩ đại. Hơn thế, còn
ngoa ngữ Y là một loại cha già kiểu cha già tộc dân... bán khai nào đó,
mà Việt cộng có công lớn khi nhập cảng Y vào Việt Nam! Cùng chủ đích,
cũng có hàng chục cuốn sách của các tác giả khác nhau, vẽ vời ra những
góc cạnh, hình ảnh giả tưởng như "ông thánh", như “cái đỉnh chói lọi”
"vừa đi đường vừa..." với mục đích "dựa hơi", thổi ống, kiếm sống, kiếm
phần đỉnh chung.
Chẳng ai trong số những tác giả này, ở trong nước hay
hải ngoại đã nói lên được một vài nét thật, đặc tính, hay những cốt lõi
(tốt, xấu, bần tiện) đã làm nên hình ảnh, con người, sự nghiệp và đời
sống của Y. Tất cả đều vơ vào, loanh quanh, ngụy biện, tuyên truyền, dối
trá với những lý do của lịch sử, thuộc về lịch sử, đã đầu độc dân
chúng, đầu độc dư luận, gây ra một sự ngộ nhận lớn trong lịch sử.
Nay sự kiện xem ra đã đổi khác đôi phần. Qua dòng chữ vắn vỏi: “Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi” (buổi
đấu tố bà Nguyễn thị Năm) trong Đèn Cù (trang 82) của Trần Đĩnh, người
ta đã có thể nhìn hiểu một cách thấu đáo hơn, cặn kẽ hơn và đánh giá
đúng hơn về tư cách, về lương tri, về đời sống và về phẩm chất bần tiện,
cùng những hành vi tồi bại của HCM, mà chẳng cần phải đọc cả ngàn ngàn
trang sách, báo chê khen nào khác nữa. Bởi vì, có cộng chung hàng tấn
sách báo mà CS vẽ vời ca tụng Y lại với nhau, cũng không thể bào chữa,
khoả lấp, tẩy xóa được cái hình ảnh, cái tư cách cực hèn của một chủ
tịch nước, chủ tịch đảng cộng sản đã bịt râu che mặt đến dự cuộc đấu tố
người ân nhân của đảng, của nước do chính mình lựa chọn về cách đấu và
người đấu.
Chỉ cần một câu ấy “cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi” là
quá đủ để vẽ nên trọn hình ảnh của một tên hề, (hề mới vẽ râu sơn mặt).
Là quá đủ để cho hàng ngàn tấn sách báo tâng bốc kia thành rác rưởi, và
đủ chứng liệu để lịch sử xếp cho y một chỗ đứng nào đó, bắt buộc phải có
trong lịch sử Việt (dẫu muốn quăng nó đi, cũng không quăng đi được!).
Thật vậy, trước đây guồng máy tuyên truyền của CS luôn phát đi những
điều gian dối, nhiều người, kể cả hàng ngũ cán cộng trung cao cấp của
cs, cứ tưởng HCM là một lãnh tụ, người tổ chức và đứng đầu guồng máy
lãnh đạo của nhà nước cộng sản tại miền Bắc là người tử tế, có tư cách.
Nay qua nhiều tài liệu lịch sử đã phơi bày, qua ánh Đèn Cù của Trần
Đĩnh, thực tế lại hề quá hề. HCM chẳng phải là kẻ đã tạo ra cái khung
lồng đèn ấy. Trái lại, Y chỉ là hề, kẻ đứng đầu trong các hạng mục voi
giấy ngựa giấy, chó giấy chạy vòng vòng, quay tít trong cái lồng đèn để
làm trò vui tai lạ mắt cho những kẻ điều khiển là Liên sô và Tàu cộng mà
thôi! Trần Đĩnh kể:
“Bác xuất ngoại, trong ATêKa chúng tôi rất mực vui. Đâu có biết đại
thí sinh Hồ Chí Minh sắp dự cuộc khẩu thí mà nếu trúng tuyển thì đất
nước sẽ đoạn tuyệt hẳn với thế giới. (tr,45) (Tại sao lại đoạn tuyệt với thế giới, ở đó không phải là tổ chức của loài người chăng?). Sau đó, nghe truyền đạt Stalin đã phân công Trung Quốc “phụ trách” Việt Nam,… (tr 49) Lúc
ấy chưa nhận hết hàm nghĩa của từ phụ trách. Đúng, thế nào là phụ
trách? Là phải ốp sát, kèm chặt ở bên! Đồng chí La có tư cách song
trùng: vừa đại sứ cách trở vừa thường xuyên đụng đầu bàn bạc ở cương vị
“phụ trách.”(tr.51). Nên biết chính Bác tự nguyện nhận mình chỉ
nêu ra được có tác phong, còn tư tưởng, lý luận thì để cho Mao Chủ tịch.
Được lãnh tụ ráo riết giáo dục, (điều lệ thêm câu “lấy tư tưởng Mao
Trạch Đông làm kim chỉ nam,” điện đảng gửi Đảng Cộng sản Trung Quốc viết
Đảng Lao động Việt Nam nguyện học tập Đảng Cộng Sản Trung Quốc, học tập
tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lãnh đạo nhân dân Trung Quốc (tr.
49)”
Cuộc voi chạy thê thảm là thế, nhưng ngay sau khi được chuẩn nhận như là
chú voi chạy đầu, là HCM hóa... Cáo! Tác phong đổi hẳn. Trong lần
đầu gặp HCM (1957), Trần Đức Thảo đã được dặn dò kỹ lưỡng. Thấy lạ,
Thảo hỏi:
- Nếu không được xưng tôi thì xưng bằng gì?
- Đồng chí có thể xưng bằng “con,” hay bằng “cháu,” và phải
gọi Người bằng “bác” như đồng bào vẫn gọi... Những mệnh lệnh
này là quan trọng, đồng chí phải ghi nhớ cho kỹ, kẻo làm hỏng
cuộc diện kiến với “Người”... (Trần Đức Thảo. Những Lời Trăn(g) Trối, 2014).
Đó là tình cảnh trước và sau khi gặp Mao. Trước đó, HCM đã viết thư gởi
Stalin, xin được trả 100 đô la Mỹ một tháng để có tiền sống và đi hoạt
động. Rồi ngày 31-10-52, Hồ Chí Minh viết thư, trình cái đề án gọi là
cải cách ruộng đất ở VN với sự giúp đỡ của hai viên cô vấn Tàu để xin
Stalin phê chuẩn. HCM đã giữ đúng thứ, bậc trong hạng mục nô lệ, giúp
việc cho ngươi. Y đã toại nguyện mộng làm nô lệ được trả công. Chỉ tiếc
rằng, Y không lường trước được là cái thư xin 100 đô la một tháng, xin
phép ngoại nhân để giết người Việt Nam của Y rồi ra sẽ được phơi bày ra
trước công luận! Nó trở thành bản án muôn đời cho chính kẻ viết ra nó!
Với bên ngoài thì HCM khúm núm, quỳ gối như thế, nhưng quay vào trong,
HCM lại có ngay cho mình hai thái độ là ông chủ nhớn, và kẻ đại bất
lương. Ông chủ dựa hơi làm chủ như Trần Đức Thảo ghi lại. Bất lương
chính là việc viết "địa chủ ác ghê" dùng làm cơ sở cho các cuộc
đấu tố, đã trực tiếp giết chết 200 ngàn sinh mạng vô tội. Rồi làm bại
hoại nền luân lý, đạo đức của xã hội Việt Nam.
Trước đây, cái chết của bà Năm trong ngày Hồ Chí Minh khai hội múa dao,
gọi là cải cách ruộng đất ở miền Bắc đã được nhiều kẻ tung hứng và đưa
ra những tin tức thất thiệt, cho là Hồ Chí Minh không biết. Hoặc giả,
không có ý giết người (BT, HT), nhưng vì Lê Qúy Ba một cố vấn và phụ
trách mảng Việt Nam của Tàu ra lệnh, nên Hồ Chí Minh phải gật đầu. Từ
việc loanh quanh biện hộ này đã cho thấy Hồ Chí Minh vốn dĩ chỉ là một
loại voi giấy chạy đầu, dưới quyền chỉ bảo sai khiến của Lê Qúy Ba. Đến
nay, những giở giáo, bênh đỡ, che đậy ấy đã thực sự bị lột trần ra
rồi.
Hồ Chí Minh không những chỉ là kẻ viết ra bản cáo trạng gian dối,
bất lương, ngậm máu độc phun người, có một không hai trong lịch sử để mở
đầu cho cuộc đấu tố đầy vong ân bội nghĩa để vui lòng chủ nhân Tàu. Y
còn “bịt râu che mặt đến dự một buổi” trong cuộc đấu tố ấy nữa.
Chắc đọc xong 8 chữ này, các ống đu dủ của Y cái thì bể, cái bị xì hơi,
hết cách thổi! Những tấn sách, những tên tuổi vẽ vời về Y tự nhiên cháy
đen thui.
Bởi lẽ, những hành động của Y thể hiện trong việc viết bản cáo
trạng "địa chủ ác ghê" đã là một việc làm bất cương không ai có
thể tưởng tượng ra, nay lại đích thân đi mở đầu cuộc đấu bằng cách che
râu dấu mặt thì có khác gì những quân khủng bố. Hỏi xem, chúng ta phải
liệt Y vào hạng mục nào cho xứng? Đó có phải là một tội ác cực lớn đối
với con người và tổ quốc Việt Nam không?.
Với con người, nó đã trực tiếp lấy đi sinh mạng của 200 ngàn người và
làm cho hàng trăm ngàn gia đình khác phải tan nát. Với Tổ Quốc, nó đã
giết chết nền luân lý đạo đức và văn hóa của Việt Nam bằng sách lược của
CS, ép thúc con đấu cha, vợ đấu chồng, anh chị em, thân nhân đấu nhau.
Với đồng bào, nó đã phân chia ra thành giai cấp, với khẩu hiệu “Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ”
để triệt hạ tình nghĩa đồng bào, tiêu diệt tình người trong xóm thôn.
Tạo ra một xã hội băng hoại niềm tin.
Ở đó, tất cả chỉ còn phụ thuộc vào
gian trá và nói dối nhau theo bản cáo trạng của HCM mà sống. Với tôn
giáo, nó đã đập phá, hủy hoại niềm tin lành thánh vào thần linh của con
người bằng cách tạo ra chiêu bài "bài trừ mê tín dị đoan" để phá chùa,
đập đền thờ, xô đổ đình miếu và đốt nhà thờ. Sau đó, đưa hình ảnh và cái
đầu lâu của Hồ chí Minh vào đình chùa, miếu đền, nơi tôn nghiêm như là
một hình thức suy tôn mới để phỉ báng tôn giáo. Với chỉ bấy nhiêu thôi,
đất nước Việt Nam đủ tan hoang, và tang thương chưa?
b. Voi dày mả tổ: Trường Chinh Đặng Xuân Khu
Trước đây, người Việt Nam đã rõ ngọn nguồn về một tên tuổi lừng danh
trong đảng cộng sản. Kẻ này vang danh khét tiếng với những hành động
thiếu hẳn nhân tính trong vai trò chỉ đạo cuộc đấu tố 1953-1956. Tính
công, Y chỉ đứng sau Hồ Chí Minh trong việc sát hại gần 200 ngàn người
Việt Nam để cướp toàn bộ tài sản của họ. Y là Đặng Xuân Khu thường được
biết đến qua tên hiệu Trường Chinh. Trần Đĩnh viết "Với tôi, anh có thể làm tổng bí thư suốt đời”.
Sau cái chết oan ức của 200 ngàn người, và ảnh hưởng quá nghiêm trọng
do cuộc đấu tố 53-56 tạo ra, Đặng Xuân Khu đã mất chức TBT vào tay Lê
Duẩn. Khi đã bị hạ tầng công tác, Khu còn được vinh dự mang thêm “huy
chương” là kẻ đấu tố bố mẹ đẻ, và là kẻ vong ân, bội nghĩa khi dự phần
vào cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm.
Ở đây, tôi cũng xin nói rõ một điều là, tôi chưa đọc được trang sách nào
khả tín nói đến chuyện Đặng Xuân Khu về Hành Thiện đấu tố bố mẹ mình,
và cũng chưa thấy ai chứng thực rằng đã thấy Trường Chinh làm chuyện
này, nhưng có lẽ là do bố mẹ của Khu cũng bị vạ lây trong mùa đấu tố mà
Khu bị mang lấy cái tiếng này chăng? Bị tiếng vì quả báo? Nhưng chuyện
Khu nhúng chàm trong vụ giết người ân nhân của mình thì không thể chối
cãi được.
Trước đây đã có nhiều người nói đến, nay Đèn Cù của Trần Đĩnh
huỵch toẹt ra là: “Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt”
(ĐC 82). Có nghĩa là TC có mặt từ đầu đến cuối nhưng phải che mặt đeo
kính vì sợ người ngoài nhận diện? Đã hèn thế, còn lệnh cho Trần Đĩnh "cần
một bài báo viết nổi bật lên khung cảnh sôi sục, sinh động của cuộc đấu
tố để ca ngợi sức mạnh của bần cố nông được phát động, còn tội ác thì
tôi cứ theo tài liệu, cáo trạng của đội... chi tiết, khai thác Văn."
(ĐC 82). Mục đích Trần Đĩnh không viết ra, nhưng có lẽ Y không đến để
khóc thương bà Năm. Nhưng là đến chỉ đạo đánh cho gọn, đánh cho đẹp?
Chuyện đấu tố là thế. Trước đó, cây lý luận lớn nhất của đảng cộng sản
đã được biết đến là kẻ rước voi về dày mả tổ, kẻ muốn xin cho Việt Nam
vào làm chư hầu cho Trung cộng. Tháng 8-1951 trong văn thư với bảng hiệu
“Ủy ban hành chánh kháng chiến VNDCCH năm thứ 7”, nhân danh TBT đảng Lao Động (CS) lúc bấy giờ, Chinh viết lời kêu gọi đồng bào Việt Nam “bỏ chữ Quốc Ngữ học chữ Tàu. Bỏ thuốc Tây dùng thuốc tễ của Tàu”
mà Y khoác lác là “hay nhất hoàn cầu”, như là một điều kiện để xin cho
VN được làm chư Hầu cho Tàu. Vì “Tàu không những chỉ là bạn, nhưng còn
là thày của ta nữa”.Về lý luận có lẽ không ai hơn Khu thật. Bởi vì nhờ
Đặng Xuân Khu, CS đã tạo ra được những bản văn Ô nhục nhất để lưu lại
trong dòng lịch sử của Việt Nam! Phục chưa nào?
Một người như thế, bất cứ ai nghe đến đều phải rùng mình rợn tóc gáy.
Nhưng CS thì hãnh diện và tác giả của Đèn Cù, một chàng trai hào hiệp,
được Lê Đức Thọ khen là có tài (chắc không phải là tài viết bậy theo
CS?) đã sống, tiếp xúc và làm việc nhiều với Trường Chinh ngay từ lúc 19
tuổi. Là người đã xưng tôi với Trường Chinh ngay từ lần tiếp xúc lần
đầu tiên, có lẽ nào không hề hay biết gì đến những tội thuộc diện trời
không tha, đất không dung của Y? Đã thế, còn coi Y là người lý tưởng của
mình thì rất lạ. Có phải vì gần mực mà bị đen hay không? Ở đây, tôi
không quy trách bất cứ một điều gì cho tác giả, chỉ dám nêu lên một thắc
mắc là: Không biết tác giả đã yêu và coi Trường Chinh là lý tưởng của
mình về phương diện nào? Về tư cách và hành vi của Y trong cuộc đấu tố
chết 200 ngàn đồng bào Việt Nam, hay là hợp thỉnh, đồng mưu với Y trong
việc rước voi về dày mả tổ và xin làm chư hầu cho Trung cộng?
c. Dàn ngựa Tầu: Lê Duẩn, Lê Đức Thọ…
Trong Tam Quốc có kể lại một câu chuyện rất bất nhân về nhân vật Lữ Bố là: Khi
được Trác tặng con ngựa thì Lữ Bố giết chủ là Đinh Nguyên, theo Trác,
gọi Đổng Trác là cha. Đến khi bị Đổng Trác phỗng tay trên, chiếm mất
Điêu Thuyền con gái nuôi của tư đồ Vương Doãn thì cầm họa kích giết Đổng
Trác. Sau cùng bị Tào Tháo... cứa cổ.
Rồi hôm nay, trong Đèn Cù có câu chuyện Lê Duẩn, Lê Đức Thọ... nổi lên
như một cặp ngựa chiến của thời đại trong tay của Trung cộng đã tàn phá
non sông Việt Nam và gây ra cái chết của gần ba triệu sinh linh trong
cuộc chiến từ 1954-1975. Trần Đĩnh viết: “Cụ Hồ, Trường Chinh, Giáp
không muốn ngả theo Mao, nhưng Duẩn tin rằng theo sấm sét của tư tưởng
“Lê-nin thời ba dòng thác cách mạng” thì sẽ giải phóng thống nhất đất
nước... Duẩn theo Mao hẳn rồi,”( tr.258). Tiết lộ này, xem ra chẳng
có gì là mới mẻ cả. Trái lại, nó chỉ có khả năng đúng được một phần
(Duẩn theo Mao), còn một phần lớn khác (Minh, Chinh, Giáp không theo Mao
mở cuộc chiến) có khi là một chứng gian!
Thật vậy, mọi người từ quê ra tỉnh đã biết và biết rất rõ là Lê Duẩn đã
nhiều lần tỏ bày hết tâm tư nguyện vọng của một kẻ tôi đòi, nô bộc với
Mao qua những lần giáp mặt hay không giáp mặt với Mao là: “Cuộc chiến đánh Mỹ, giải phóng miền Nam là chúng tôi đánh cho Trung Quốc, cho Liên Xô”... “Sở
dĩ chúng tôi kiên trì chiến đấu là vì Mao chủ Tịch,... Cuộc chiến đấu
của chúng tôi là phụ thuộc vào công việc của Mao chủ tịch!” Rõ ràng
là ngựa Tàu hại nước Việt. Tuy nhiên khi nhìn lại, những tuyên bố dầy nô
lệ tính của Duẩn sẽ chẳng có gì là khó hiểu và chẳng phải tự ý làm.
Trái lại, đó chỉ là phản ứng lấn vai của những con ngựa trong bầy muốn
chứng tỏ mình là con khoẻ mạnh, hung hăng để cho chủ nhân vừa ý, đóng
dây cương vào cổ mà thôi. Với người, đó là tâm tư nguyện vọng của hạng
nô lệ, tôi đòi, sợ chủ nhân không biết được lòng dạ khuyển mã của mình
mà tin dùng kẻ khác chăng?
Có lẽ thế! bởi vì cùng đi theo hệ tư tưởng nô lệ, nê tập đoàn cộng sản
từ Minh, Chinh, Duẩn, Đồng, Giáp, kéo theo cả một dàn gọi là lãnh đạo
cho đến hôm nay đều dòm chừng nhau, tranh công, hạ gối, sẵn sàng làm bất
cứ điều gì để chủ nhân Tàu sủng ái, đóng dây cương vào cổ, đặt vòng
xích vào chân như dấu ấn chứng nhận là người của chủ. Sau đó, cúi đầu
dưới ngọn roi mà phục vụ cho chủ nhân, miễn là, sau đó, họ được phép
đứng dậy hò hét, nghênh ngang với các “đồng chí” trong đảng. Còn đối với
nhân dân, một tập thể vốn dĩ đã bị coi là nô lệ trong chế độ CS thì cần
chi phải lưu tâm tới nữa. Thống khổ ư? Nhân Quyền ư? Tự Do, Độc Lập ư,
Tôn giáo ư? Tất cả đều là không! Lý do, khi tập đoàn lãnh đạo, đảng đã
là nô lệ cho ngoại nhân thì người dân sẽ còn là hạng mục gì khác?
Đây chính là điểm khác biệt lớn nhất trong tư duy của những người lãnh
đạo ở miền Nam như Tổng Thống Diệm, TT Thiệu, với các tay lãnh đạo trong
hàng ngũ của đảng CS tại miền Bắc. Tư duy lãnh đạo của những nhà lãnh
đạo ở miền Nam với Thế giới, với đồng minh, với nhân dân là tự chủ, là
nhân bản, là bình đẳng, là tôn trọng, là luật pháp. Trong khi đó, cái tư
duy cốt lõi của lãnh đạo CS Bắc Việt với CS QT là ngắn gọn hơn. Nô lệ
và phụ thuộc. Theo đó, những người lãnh đạo ở miền Nam trước 1975 sẵn
sàng lấy tính mệnh của mình để bảo vệ quyền lợi, quyền sống của người
dân, bảo vệ đất đai, sông núi, biển đảo của tổ quốc. Trong khi đó, vì
muốn có quyền lực trong tay, từ HCM, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, cho đến
những kẻ kế thừa sau này đều có một quyết sách như nhau. Bên ngoài thì
cúi đầu nhận roi, sẵn sàng dâng đất, dâng biển đảo của tổ quốc cho kẻ
thù của dân tộc. Bên trong, sẵn sàng giết hại, tù đày đồng bào của
mình, hoặc giả, chà đạp quyền sống, quyền lợi, phúc sinh của người dân
để đẹp lòng chủ nhân phương Bắc!
Cần bằng chứng ư? Hãy hỏi thăm những quan cán đầu tỉnh ở Hà Tĩnh xem họ
có được phép đến vùng xây dựng gọi là Formosa ở Vũng Áng để kiểm soát
xem có bao nhiêu công nhân Tàu đến làm việc không có giấy phép ở đây hay
không? (theo báo Vietnamnet ngày 8-8-2014 cho biết, khu xây dựng
Formosa có hơn 4000 công nhân Tàu đang làm việc, nhưng chỉ 200 người có
giấy phép. Số còn lại không giấy tờ nhập cảnh, nhưng các quan chức địa
phương không được phép vào kiểm tra). Đấy chủ quyền đất nước dưới tay cộng sản là thế đấy! Còn nói chi đến Hoàng Sa Trường Sa ớ tút mút ngoài biển làm gì?
Trở lại câu chuyện của dàn ngựa Tàu và cái Đèn Cù. Trước hết, HCM đã
được xếp hạng siêu nô lệ cho Liên Xô từ lâu. Hơn thế, còn được coi là
con đẻ của Tàu. Chủ nhân Tàu đã che chắn cho Y từng bước. Từ việc y mang
tên Lý Thụy rồi cho lấy Tăng Tuyết Minh do Dĩnh Siêu, vợ của Chu Ân Lai
làm mai mối. Lại đặt cho cái tên là Hồ Quang, đóng vai Thiếu tá trong
Bát Lộ Quân của Chu Đức. Ít lâu sau, Hồ Quang được hộ tống vào Việt Nam
dưới sự chỉ đạo, phụ trách của Lê Qúy Ba, Trần Canh, được đôn lên làm
chủ tịch đảng rồi chủ tịch nước. Được chủ nhân Tàu cung cấp toàn bộ, từ
vũ khí lương thực cho đến quân trang, quân dụng để gọi là chống Pháp,
mở cuộc đấu tố, giết hại cho hết những người Quốc Gia. Rồi đánh trống
thổi kèn theo chiêu bài giải phóng dân tộc, cướp lấy chính quyền, đẩy
chiến tranh ra khỏi đất Trung cộng. Nhưng trên hết, từ Hoa Nam, HCM được
huấn luyện, được đưa vào Việt Nam với chủ trương Hán hóa Việt Nam, đẩy
Việt Nam vào làm chư hầu cho Trung cộng. Công trạng ấy, ai sánh bằng?
Đến cái gai trong mắt, nếu có phải nhường bước cho HCM, có lẽ Duẩn cũng
cam lòng vì số phận. Phiền vì cái gai Trường Chinh còn kia, Duẩn ăn ngủ
sao yên. Duẩn mất ăn mất ngủ vì Chinh đã khôn ngoan khi biết ruột dạ của
Hồ là rắp tâm đưa Việt Nam vào vòng nô lệ cho Tàu, Khu đã nhanh tay,
nhanh chân mà thảo ra cái văn thư với bảng hiệu “Ủy Ban Kháng Chiến” và
kêu gọi người Việt Nam “bỏ học chữ Quốc Ngữ mà học tiếng Tàu” để xin làm
chư hầu cho Trung cộng. Việc thì không chắc thành, nhưng cái văn thư
ấy, cái ruột dạ ấy đã làm mát lòng mát dạ quan thầy bành trướng phương
Bắc. Nay nhất thời vì vụ đấu tố, uy tín trong nội bộ của Khu có bị giảm
sút đôi chút, nhưng nếu sau này, Tàu cộng muốn thực hiện sách lược kéo
Việt Nam vào làm vùng tự trị như nội Mông thì Trường Chinh còn trẻ hơn
Hồ, chắc chắn phải có ngày chủ nhân lại đưa Y trở lại cái vị thế số một
chư hầu ở nam bang. Khi đó Duẩn ra sao? Đây chính là cái lo trong gan
phổi của Duẩn, Y không tranh thắng với Khu trong phương cách xin làm nô
lệ cho Tàu cũng không được.
Ấy là chưa kể đến Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp, cả hai đã từng sang
theo hầu HCM ở Côn Minh. Người thì theo lệnh của Hồ đã nhanh tay ký
phăng cái công hàm, công nhận chủ quyền của Trung Cộng ở Hoàng Sa và
Trường Sa, mà theo những văn bản và lịch sử được quốc tế công nhận là
của Việt Nam và đang ở dưới sự kiểm soát của chính phủ miền Nam. Kẻ thì
theo kế của Trần Canh cố vấn, sẵn sàng đánh Pháp rồi đánh Mỹ đến người
Việt Nam cuối cùng cũng đánh. Đánh xong là nhà hoang, đất Việt Nam bỏ
trống. Nhìn mảnh đất màu mỡ này thì còn hạnh phúc nào lớn hơn cho người
anh em Trung cộng. Từng đoàn từng lũ kéo sang mà đóng cọc, làm nhà rồi
bỏ phiếu xin làm chư hầu cho Trung cộng. Kế ấy mà thành thì ai dám tranh
công với Đồng với Giáp? Chinh, Đồng, Giáp đều theo gương Hồ để được
bụng Tàu, có lẽ nào Duẩn không theo? Nay đang ngồi ở trên cái ghế TBT mà
được Tàu cộng đóng dây cương vào cổ, đặt vòng xích vào chân thì vai trò
siêu nô lệ của Duẩn có ai dám vào đó mà tranh?
Tóm lại, Duẩn cũng chỉ là một hạng mục trong cái tập đoàn CSVN có cơ hội
đi chầu và tỏ lòng tùng phục chủ nhân Tàu cộng mà thôi. Nhưng người
phóng viên của tờ báo gọi là “sự thật” của cộng sản từ những năm 49-50 ở
Atêka khi mới 19 tuổi, nay đầu đã bạc lại nhìn không ra. Lại bảo Hồ,
Chinh, Giáp không theo Mao tham chiến là sai. Qúa Sai. Sai vì hai lý do:
Việc riêng là vì “còn yêu Chinh và ghét Duẩn”. Và về việc công, có lẽ
người phóng viên ở trong rừng năm xưa cho rằng người Việt Nam chưa bị
giải phóng, chưa từng thấm thiên đường CS. Cũng chẳng có mấy người biết
đọc biết viết như ở trong Atêka, nên tác giả áp dụng sách tuyên truyền
của đảng. Cứ viết bừa, viết cho lấy được bất chấp hậu quả, chẳng biết
đúng sai. Và cũng không biết, cái lối viết ấy là hại người hại mình. Nó
là một sai lầm lớn. Sai không thuốc chữa nếu như không muốn nói là gian!
Trước hết, nó chẳng lừa được ai, còn cho mọi người thấy là hình như tác
giả đang viết cho thời 1949-50, hoặc chưa bước chân vào thành phố. Bênh
HCM, TC, VNG bằng luận điệu này thà lấy lửa đốt chính mình đi còn hơn!
I I. Chuyện xin làm chư hầu và công hàm bán nước trong Đèn Cù. (kỳ sau)
10-2014
Đèn Cù, bản cáo trạng trước khi đèn bị cháy (P2)
I I. Chuyện xin làm chư hầu và công hàm bán nước
Tôi cho rằng, đọc Đèn Cù nhiều người sẽ tức như bị bò đá. Mặc dù chẳng
mấy người có kinh nghiệm về chuyện bị bò đá là như thế nào, tuy nhiên,
tất cả đều cảm nhận được ý của câu nói ví “ngu như bò”. Nó ngu vậy mà
mình bị nó đá thì chắc là tức lắm!? Thật vậy, trong Đèn Cù ngoài câu
chuyện dở hơi, bò đá: "Minh, Chinh, Giáp không muốn đánh miền Nam, chỉ
nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ là muốn giải phóng miền Nam bằng võ lực” như ở
đoạn trên tôi đã đề cập đến, bạn cẩn thận, sẽ còn bị nhiều cú bò đá khác
nữa.
a. Chuyện xin làm chư hầu cho Trung cộng
Trần Đĩnh, gặp Trường Chinh từ khi lên Atêka vào tuổi 19, đã sống ở
trong những khu nhà lá ấy, đã lên hội trường học tập, đã nhận lệnh viết
tường thuật vụ án của bà Năm. Đã nghe chuyện "tới bến" của Trường Chinh,
đã bàn chuyện thích "gái nạ dòng" của Hồ Chí Minh. Chuyện "quá dài"
của Chu Đức do "bác" mang về. Tóm lại, đủ cả, chuyện lớn chuyện nhỏ,
chuyện ta, chuyện người, chuyện chính trị, chuyện quân sự đều lần lượt
theo nhau vào Đèn Cù, cùng quay tít. Kể cả chuyện Trần Đĩnh được đề cử
sang Trung Quốc du học cũng có ý kiến của Chinh. Việc Chinh muốn viết
nhật ký để "tập hợp" nhân sự chống Duẩn, cũng có mặt Đĩnh. Nhưng có một
chuyện, chuyện thật lớn. Chuyện liên hệ đến vận mệnh của đất nước.
Chuyện Trường Chinh vào tháng 8-1951, viết văn thư, nhân danh TBT đảng
CS, dưới cái bảng hiệu “Ủy ban hành chánh kháng chiến năm thứ 7” kêu gọi
đồng bào Việt Nam "bỏ chữ quốc Ngữ mà học chữ Tàu. Bỏ thuốc tây, dùng
thuốc Tàu" để xin làm chư hầu cho Trung Cộng vì TC không chỉ là bạn ta
nhưng còn là thầy của ta nữa: "ai cũng biết, mình Đĩnh thì không? Nên
nhớ, đây là văn thư đầu tiên mang dấu ấn đặc biệt của tập đoàn nô lệ,
lấy danh tính Việt Nam, bán nước cầu vinh được gởi đi khắp nơi. Tờ báo
Tiếng Dội ở mãi Sài Gòn, chẳng thuộc hạng mục của CS, cũng đăng bản văn
này, và có lẽ ở trong Atêka cũng cho học tập nhiều? Chuyện nổ như thế,
lẽ nào Trần Đĩnh ở Atêka lại không hay? Và không có một chữ nào về nó
trong Đèn Cù! Lạ, đến lạ!
Bảo Trần Đĩnh không biết, cũng không được. Bảo Trần Đĩnh có thông đồng
nên dấu đi cũng không xong! Vì nói thế là tôi có lỗi với tác giả. Có lỗi
vì nói thế có khác gì bảo Trần Đĩnh đã… khuyết tật cả mắt, tai mũi họng
lại thêm gian dối. Khuyết tật vì chuyện nổ ra từ trong lán nứa với mình
mà không biết, làm sao biết những chuyện ở xa mà viết? Có chăng là nói
gian! Thật là khó nghĩ.
Quả thật, đây chính là một trong những điểm đáng thất vọng của Đèn Cù.
Vẫn biết Đèn Cù được giới thiệu như là “truyện tôi”. Nhưng “Truyện tôi”
không có nghĩa là không có liên hệ đến truyện người, truyện nhà, truyện
nước. Đặc biệt, trong trường hợp này lại vì Truyện Nước mà Trần Đĩnh
thoát ly, bỏ nhà để dinh tê về Ateka. Về Ateka là lo về việc nước? Khi
lo việc nước, có người cầm súng chiến đấu, người đào hầm, kẻ vót chông,
kẻ gài mìn. Có người cầm bút thông tin tuyên truyền. Khi làm thông tin
thì có tin tức nào liên hệ đến việc Nước mà không truyền đi cho mọi
người được biết! Như thế, nhiệm vụ Vì Nước của Trần Đĩnh không nhỏ, lẽ
nào Đĩnh lại không một chữ về chuyện này sau mấy chục năm? Cho phép tôi
nghi ngờ về cái tinh thần nhân bản, nghi ngờ về tinh thần kẻ sĩ vì nước
của tác giả trong chuyện này! Nghi ngờ vì có thể đây là một bí ẩn ghê
gớm lắm, hay là cái nhục của đảng CS, nên tác giả đến hôm nay đầu đã
bạc, đảng tịch đã bị truất vẫn không dám viết ra! Và nghi ngờ là nó có
liên quan đến ông "tướng sợ làm chủ quản cả tinh thần" như tác giả đã
xác nhận trong Đèn Cù?
Ai cũng biết, đây là một chuyện có ảnh hưởng đến thể diện, danh tính và
vận mệnh tồn vong của đất nước. Kết quả thành hay bại của thì không do
tờ giấy đó tạo ra. Tuy nhiên, tác giả Đèn Cù, người có sinh hoạt trực
tiếp trong một thời gian dài với kẻ đã viết ra bản văn ô nhục này mà
không một lời nhắc đến nó trong tác phẩm "để đời" của mình xem ra là có
lỗi với đất nước. Có lỗi vì thiếu sót, hay vì Trường Chinh là mẫu lý
tưởng của tác giả thì đều là có lỗi. Đây không phải là cái lỗi với một
ai, nhưng là lỗi với đất nước. Một kẻ sĩ nếu vì đất nước mà dung túng
những hành vi của kẻ bán nước thì chắc không thể được gọi là kẻ sĩ. Có
chăng là kẻ đồng mưu với tội bán nước?
Chẳng ai nghĩ tác giả đồng mưu, chỉ thắc mắc tại sao không một dấu vết
trong Đèn Cù, đã thế lại còn bao che cho Khu không phải là kẻ phù Tàu.
Thử hỏi, người viết ra bản văn ấy không phò Tàu thì trên thế gian này
liệu còn kẻ nào phò Tầu nữa hay sao? Cũng thế, nếu Trường Chinh không
phò Tàu thì Đồng, Giáp, Duẩn, Thọ và sau này là những Mười, Linh,
Phiêu, Kiệt, Mạnh, Dũng, Sang, Trọng… tuy có cúi người như gập mình
xuống đất trước những quan cán Tàu… đều không phò Tàu.
Họ chỉ làm việc theo nghị quyết bán nước của đảng CS vỏn vẹn có 16 chữ để đổi lấy vinh hoa thôi! Rồi cái việc Phạm Vũ Luận, cách đầy vài ba năm đưa ra dự thảo cho trẻ em bậc tiểu học, học tiếng Tàu chắc cũng không phải là có ý phò Tàu. Có lẽ Luận chỉ lo trước cho các em mai sau bị mang quốc tịch Tàu theo chủ trương của CS nhưng không biết tiếng lạ thì trăm đường khổ. Nên Luận đề ra chương trình này để giúp các em mà thôi! Chuyện có đáng gì mà om xòm! Vâng, chả đáng gì, xin cám ơn cái “lòng tốt” của bác đảng nhá. Tuổi trẻ Việt Nam khôn hơn những lý luận nô lệ ấy nhiều.
Họ chỉ làm việc theo nghị quyết bán nước của đảng CS vỏn vẹn có 16 chữ để đổi lấy vinh hoa thôi! Rồi cái việc Phạm Vũ Luận, cách đầy vài ba năm đưa ra dự thảo cho trẻ em bậc tiểu học, học tiếng Tàu chắc cũng không phải là có ý phò Tàu. Có lẽ Luận chỉ lo trước cho các em mai sau bị mang quốc tịch Tàu theo chủ trương của CS nhưng không biết tiếng lạ thì trăm đường khổ. Nên Luận đề ra chương trình này để giúp các em mà thôi! Chuyện có đáng gì mà om xòm! Vâng, chả đáng gì, xin cám ơn cái “lòng tốt” của bác đảng nhá. Tuổi trẻ Việt Nam khôn hơn những lý luận nô lệ ấy nhiều.
b. Chuyện Hoàng Sa, Trường Sa và công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng
Trần Đĩnh viết: “Tôi hỏi anh (Bút Thép) một vấn đề mọi người đang bận
tâm: tại sao ta và Diệm đang tranh nhau Hoàng Sa cả ở trên báo mà đùng
một cái ta lại công nhận và hoan nghênh Trung Quốc thu hồi Hoàng Sa?-
Mày ấu trĩ bỏ mẹ! Theo hiệp định Genève thì chỗ ấy dưới vĩ tuyến 17 phải
là của Diệm. Để cho ông anh Trung Quốc chứ không để Mỹ nó vào nó xây
căn cứ hải quân sát nách à? (tr 105). Thế là tôi nghĩ ngay - y như Đảng lúc bấy giờ -- mai kia ta cần, bạn lại trả cho ta, đi đâu mà mất, miễn là về phe ta.”
Hy vọng bạn không bị bò đá, và cũng đừng quăng cuốn sách đi. Người cộng
sản là thế đấy. Tổ quốc của họ không hơn tổ có. Nó không nặng bằng chén
cơm! Nó sẵn sàng đổi, dâng cả cái giang sơn này cho kẻ ngoại để được
ngồi trên một cái ghế. Nó không có cái tính nhân văn, yêu tổ quốc
thương đồng bào như người Việt Nam chúng ta. Họ có thể nhắc đến một địa
danh, nơi mà chúng ta đã khóc. Hơn thế, đã đổ máu ra để bảo vệ trước
đây, và nay bao người lại bị vào tù, bị CS tra tấn vì bảo nó là của Việt
Nam, như nhắc đến một câu chuyện diễu, chuyện lá cải, dửng dưng không
một chút bận lòng. Bạn ủy mị, bạn là dân, bạn khóc sông, khóc núi, khóc
tổ quốc quê hương, xót đồng bào tang thương.
Họ mạnh mẽ hơn ta, họ dày dạn hơn ta. Họ là đảng viên cộng sản, là quan cán, họ có khóc là khóc “Mao chủ tịch”. Có thờ là “thờ Stalin” để kiếm phần sôi. Ai rỗi hơi mà khóc Hoàng Sa, Trường Sa! Khóc cho một địa danh mà lãnh đạo của họ đã đem dâng, đem bán cho Tàu cách đây hơn nửa thế kỷ trước, để lấy tiền mua súng đạn, mua dép râu, mũ cối vào Nam thịt người anh em mình. Để tôi khóc, anh khóc, cô nhi quả phụ khóc, con dân Việt Nam khóc, Mẹ Việt Nam khóc.
Họ mạnh mẽ hơn ta, họ dày dạn hơn ta. Họ là đảng viên cộng sản, là quan cán, họ có khóc là khóc “Mao chủ tịch”. Có thờ là “thờ Stalin” để kiếm phần sôi. Ai rỗi hơi mà khóc Hoàng Sa, Trường Sa! Khóc cho một địa danh mà lãnh đạo của họ đã đem dâng, đem bán cho Tàu cách đây hơn nửa thế kỷ trước, để lấy tiền mua súng đạn, mua dép râu, mũ cối vào Nam thịt người anh em mình. Để tôi khóc, anh khóc, cô nhi quả phụ khóc, con dân Việt Nam khóc, Mẹ Việt Nam khóc.
Phần họ thì cười! Cười như một chuyện mua vui, không một phản ứng. Thực
lòng, đọc đến đoạn viết này, tôi thấy buồn. Buồn tê tái. Tôi thấm nỗi
buồn dù đã biết rất rõ về sách lược tam vô và nghề tẩy não của họ. Tôi
vẫn bất ngờ khi thấy tác giả, một người được đánh giá là “còn nhân bản
tính” không theo Duẩn, Thọ mở chiến tranh vào miền Nam, sợ làm chảy máu
đồng bào Việt Nam, nhưng lại rất hời hợt khi nhắc đến nỗi đau, quặn
thắt tim lòng người Việt Nam về chuyện Phạm Văn Đồng công khai dâng đất
của Tổ Quốc Việt Nam cho Trung cộng. Đã hời hợt thế, xem ra còn khá là
vui vẻ, thoái mái, và hài hòa, đồng cảm với đảng cộng sản trong ý nghĩ
của mình "Thế là tôi nghĩ ngay - y như Đảng lúc bấy giờ - mai kia ta cần, bạn lại trả cho ta, đi đâu mà mất, miễn là về phe ta". Thú thật, muốn quẳng mẹ cuốn sách đi.
Xưa nghĩ thế, nay khi viết Đèn Cù, vào năm 2014, tác giả nghĩ gì? Có
bảo vệ cái ý nghĩ xưa hay không? Đây có phải là một tội phạm với đất
nước không? Hay là vì tinh thần vô sản quốc tế? Và vì tình hữu nghị, vì
16 chữ vàng? Và tôi muốn hỏi rằng: thưa tác giả Trần Đĩnh, nay ta đã cần
lấy lại hay chưa? Và bạn sắp trả lại cho ta hay chưa? Hay nó sẽ nuốt
gọn, phần con dân Việt Nam nếu bảo Hoàng Sa, Trường Sa là đất của Việt
Nam là sẽ bị tập đoàn CS đưa vào nhà tù, là rước lấy họa vào thân? Thật
là kinh hãi vì cái lối lý luận đầy trí tuệ này.
Vì nó lý luận như thế ấy, nên khi người Việt Nam bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa là sai?. Sai nom thấy. Sai vì không hiểu chuyện. Sai vì không biết ý đồ của tác giả và nhà nước cộng sản đã sắp sẵn một kế hoạch lớn là” Chờ khi Việt Nam làm chư hầu cho Trung Cộng, Việt Nam trở thành một khu tự trị dưới quyền lãnh đạo của Bắc Kinh thì chẳng cần đòi, Trường Sa, Hoàng Sa lại thuộc về ta! Kế hoạch lớn của CS đấy, còn ai không phục nào?
Vì nó lý luận như thế ấy, nên khi người Việt Nam bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa là sai?. Sai nom thấy. Sai vì không hiểu chuyện. Sai vì không biết ý đồ của tác giả và nhà nước cộng sản đã sắp sẵn một kế hoạch lớn là” Chờ khi Việt Nam làm chư hầu cho Trung Cộng, Việt Nam trở thành một khu tự trị dưới quyền lãnh đạo của Bắc Kinh thì chẳng cần đòi, Trường Sa, Hoàng Sa lại thuộc về ta! Kế hoạch lớn của CS đấy, còn ai không phục nào?
Rồi chuyện “Thành Đô”, chuyện về những hiệp thương biên giới để đưa Nam
Quan, Bản Giốc, Lão Sơn, Tục Lãm, quá nửa vịnh Bắc Bộ… sang đất người
cũng thế. Tất cả là máu xương là nỗi đau của Dân Tộc, Trần Đĩnh cũng
không một lần nhắc đến. Không nhắc đến một chữ không phải là vì Trần
Đĩnh bị khuyết tật tai mũi họng. Hay không có liên hệ với “truyện tôi”,
nhưng có lẽ là chuyện chẳng đáng lo. Mai kia cũng là của ta hết. Bạn ta
giữ thì cũng như là ta, “bên kia biên giới cũng là anh em” nhỉ?
(Tố Hữu). Cộng sản là thế, họ đi buôn xương bán máu dân tộc, đã toan
tính như thế nên việc những Điếu Cày, Phương Uyên, Việt Khang… vào tù
không có chi là lạ!
III. Chuyện xét lại
Câu chuyện về xét lại là chuyện lớn nhất trong Đèn Cù, nó gần như trải
dài trên toàn bộ cuốn sách. Nó lớn và trải dài cũng là phải. Bởi lẽ, nó
chính là động lực để cho Đèn Cù ra đời. Ra đời vì nhiều lý do. Trước
hết, giới thiệu thành phần chủ lực của xét lại gồm Hoàng Minh Chính, tác
giả và một số bằng hữu trong nhóm bạn văn thơ, báo chí như Lê Đạt, Huy
Văn, Trần Châu… là nhóm không thích chiến tranh nê kẻ bị bắt, kẻ bị tù.
Rồi bị khai trừ đảng!
Thứ hai, tố giác đích danh dàn ngựa Tàu do Duẩn, Thọ, Hữu dẫn đầu, chủ chiến mở chiến tranh vào nam, làm chết đồng bào mình, lại còn ép thiếu tá Hồ Quang trong đội quân của Chu Đức ở Quảng Đông, hiện được bố trì làm chủ tịch nhà nước Việt cộng “không được bỏ phiếu, không được nói gì trong đại hội”, phần Chinh, Giáp thì sửa soạn quần áo vào va ly mà đi nghỉ mát ngoài hoang đảo. Thứ ba, tỏ nỗi thất vọng vì tam xên Minh, Chinh, Giáp… yếu quá, bị đè nên phải theo Mao! "Nhưng rồi Trường Chinh mà tôi rất tin là chống Mao đã cuốn cờ… Và Bác cũng lui vào sau cánh gà nốt, góp phần vào cuộc diễn tấu hùng ca bằng những bài thơ thúc trống trận" (tr263). Làm tác giả bị vạ lây!
Thứ hai, tố giác đích danh dàn ngựa Tàu do Duẩn, Thọ, Hữu dẫn đầu, chủ chiến mở chiến tranh vào nam, làm chết đồng bào mình, lại còn ép thiếu tá Hồ Quang trong đội quân của Chu Đức ở Quảng Đông, hiện được bố trì làm chủ tịch nhà nước Việt cộng “không được bỏ phiếu, không được nói gì trong đại hội”, phần Chinh, Giáp thì sửa soạn quần áo vào va ly mà đi nghỉ mát ngoài hoang đảo. Thứ ba, tỏ nỗi thất vọng vì tam xên Minh, Chinh, Giáp… yếu quá, bị đè nên phải theo Mao! "Nhưng rồi Trường Chinh mà tôi rất tin là chống Mao đã cuốn cờ… Và Bác cũng lui vào sau cánh gà nốt, góp phần vào cuộc diễn tấu hùng ca bằng những bài thơ thúc trống trận" (tr263). Làm tác giả bị vạ lây!
Tôi đang có một thắc mắc lớn. Không biết là tác giả Đèn Cù đã về thành
phố chưa, hay ông ta vẫn còn là phóng viên cho báo “sự thật” của CS ở
trong những khu nhà vách nứa ở Atêka?
Sở dĩ tôi thắc mắc như thế là vì muốn biết cho chắc ông ta đang ở đâu?
Nếu như ông ta đang ở Atêka mà viết hướng dẫn dư luận như thế là đúng
sách của nhà nước Việt cộng. Cứ nói bừa, phát thanh bừa cũng có người
nghe, vì chẳng có chuyện gì khác ngoài cái chữ… bừa! Nhưng nếu đã về
sống ở thành phố, nhất là đang ở vào thời đại thông tin toàn cầu mà tác
giả viết bừa theo cái kiểu tuyên truyền ấy thì thật là khó coi, nếu như
không muốn nói là ấu trĩ. Bởi vì:
Thứ nhất, Đèn Cù là thao thức lớn của tác giả, là nỗi đau của “xét lại”.
Độc giả là những người ở thế kỷ 21, đang sống cách cái thời của tác giả
ở Atêka đến 60 năm. Có thể nói, vì đi sau, họ nghe, biết khá rõ về
thành tích, tư cách, tính thiện ác của từng nhân vật trong dàn voi giấy,
ngựa giấy, chó giấy mà tác giả thường nhắc đến ra sao. Họ chờ tác giả,
cho họ thấy được những sự thật liên quan đến những đương sự này để họ
có thêm những dữ kiện mà đánh giá thực hư hơn là nghe tuyên truyền. Kết
quả, chuyện chờ không thấy.
Lại thấy, một lối xảo thuật tuyên truyền chính gốc của CS trong thập niên 50, 60 thế kỷ trước, muốn lôi kéo những người đi sau về với cái tư tưởng rêu mốc, bệnh hoạn cho rằng HCM tốt lắm, thương dân lắm. Chinh “đáng làm bí thư suốt đời” và Giáp không tham chiến! Trong khi đó, cho đến khi tay bắt chuồn chuồn, Hồ Chí Minh vẫn viết: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người (Hồ không nói gì đến hy sinh của cán bộ, của đảng). Dù sao chúng ta cũng phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”(Di chúc).
Lại thấy, một lối xảo thuật tuyên truyền chính gốc của CS trong thập niên 50, 60 thế kỷ trước, muốn lôi kéo những người đi sau về với cái tư tưởng rêu mốc, bệnh hoạn cho rằng HCM tốt lắm, thương dân lắm. Chinh “đáng làm bí thư suốt đời” và Giáp không tham chiến! Trong khi đó, cho đến khi tay bắt chuồn chuồn, Hồ Chí Minh vẫn viết: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người (Hồ không nói gì đến hy sinh của cán bộ, của đảng). Dù sao chúng ta cũng phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”(Di chúc).
Chẳng lẽ Trần Đĩnh không có cảm nhận, viết như thế là sai, là gian ư?
Gian vì muốn lôi kéo những người đi sau vào cuộc thương ghét, hận thù
của chính tác giả đã trải qua. "Yêu Chinh, ghét Duẩn" tạo ra cái hỏa mù
là cộng sản với tam xên Minh, Chinh, Giáp tốt, không muốn mở chiến
tranh, là ông thánh, là đỉnh cao vòi vọi! Người đi sau không nên có
thành kiến với những nhân vật này. Trái lại, cứ việc bái lạy y! Có
trách, có chống thì chỉ nên chống dàn ngựa Tàu là Duẩn, Thọ, Hữu mà
thôi. Rồi thêm sai vì tác giả đã không dám nhìn một thực tế là.
Ngay từ trước thời di cư 1954, chẳng còn ai xa lạ với những khuôn mặt cùng hung, cực ác trong tập đoàn cộng sản Hồ Chí Minh. Dân chúng đã quá sợ hãi những cảnh cán bộ, đảng viên CS đem dao mã tấu đến gõ cửa nhà dân vào giữa đêm rồi. Chẳng ai muốn nghe theo chúng nữa. Và đó cũng là lý do họ tháo chạy khỏi miền Bắc, trong đó có cả cha mẹ và anh em của tác giả đấy.
Ngay từ trước thời di cư 1954, chẳng còn ai xa lạ với những khuôn mặt cùng hung, cực ác trong tập đoàn cộng sản Hồ Chí Minh. Dân chúng đã quá sợ hãi những cảnh cán bộ, đảng viên CS đem dao mã tấu đến gõ cửa nhà dân vào giữa đêm rồi. Chẳng ai muốn nghe theo chúng nữa. Và đó cũng là lý do họ tháo chạy khỏi miền Bắc, trong đó có cả cha mẹ và anh em của tác giả đấy.
Chuyện rõ ràng như thế, lẽ nào tác giả không biết? Không biết nên cứ
thổi ống làm Đèn Cù tự bốc hỏa, cháy nham nhở. Nó làm chính tác giả bị
tổn thương, bị đồng hóa với làng thổi. Bởi vì, sớm, muộn gì cộng sản
cũng bị tiêu diệt. Càng thổi ống đu đủ cho Y bao nhiêu là làm hại chính
bản thân mình và xã hội bấy nhiêu. Vẫn biết, vết chân trâu đi trong trời
mưa có đọng lại chút nước, nhưng không dễ làm người đi sau trượt té
xuống vũng bùn. Cũng chẳng ai muốn đầm mình trong vũng nước ấy.
Nghĩa là, người Việt Nam hôm nay dù chưa thoát ách cộng sản, nhưng tầm kiến thức của họ không phải chỉ đặt vào trong những hàng chữ to mà quý ông đã viết, đã dán ở khắp đầu đường đến xó chợ ở trong lòng phố, lại còn kéo cả về nông thôn mà khuấy động nữa. Nói toạc ra là, cái thời đại oanh liệt cán cộng dùng dao mã tấu chém chữ đã chết rồi. Người dân Việt sẽ không nằm trong cái vũng bùn ấy mà ọp ẹp như loài cóc, Hồ Chí Minh “oán sối, oán sối” và chờ “bạn ta sẽ trả đất lại cho ta” đâu. Trái lại, sẽ là cuộc đứng dậy để có một ngày mai không cộng sản. Theo đó, chuyện tuyên truyền cho CS chẳng lừa được ai nữa. Nó không đáng một đồng xu. Đồng xu vốn đã chẳng còn giá trị, nay càng mạt hơn, vì mua một bó rau muống cũng phải cần đến 5, 7 ngàn đồng!
Nghĩa là, người Việt Nam hôm nay dù chưa thoát ách cộng sản, nhưng tầm kiến thức của họ không phải chỉ đặt vào trong những hàng chữ to mà quý ông đã viết, đã dán ở khắp đầu đường đến xó chợ ở trong lòng phố, lại còn kéo cả về nông thôn mà khuấy động nữa. Nói toạc ra là, cái thời đại oanh liệt cán cộng dùng dao mã tấu chém chữ đã chết rồi. Người dân Việt sẽ không nằm trong cái vũng bùn ấy mà ọp ẹp như loài cóc, Hồ Chí Minh “oán sối, oán sối” và chờ “bạn ta sẽ trả đất lại cho ta” đâu. Trái lại, sẽ là cuộc đứng dậy để có một ngày mai không cộng sản. Theo đó, chuyện tuyên truyền cho CS chẳng lừa được ai nữa. Nó không đáng một đồng xu. Đồng xu vốn đã chẳng còn giá trị, nay càng mạt hơn, vì mua một bó rau muống cũng phải cần đến 5, 7 ngàn đồng!
Nói thế là thẳng mực, chẳng nghiêng bên tàu, cũng chẳng đổ sang tây. Chỉ
tiếc. Tiếc vì mãi đến hôm nay, sau hơn 40 năm bị khai trừ ra khỏi cái
tổ chức CS, tác giả vẫn như người trong cơn mê sảng, đầu óc quay cuồng
như ngày bị tước mất lá bài miễn tử là tấm thẻ đảng! Thật tội! Bạn tôi
bảo, vì bị tẩy não, bị nhồi sọ quá lâu, nên tác giả không hiểu được lý
do tại sao, một bà mẹ, do chính tác giả viết trong cuốn sách này, chắp
tay lạy người con mà bà đã cưu mang, đã đẻ dứt ruột ra, sau khi anh ta
bỏ nhà ra đi theo cộng sản và trở về, thay vì ôm lấy con vào lòng?
Chẳng lẽ tác giả không biết đó cũng là trường hợp của chính bản thân, hay của những cha mẹ có con cái đi theo Việt cộng ư? Có phải họ không muốn nhìn con? Không, không phải thế. Họ chỉ không muốn nhìn thấy cái gian dối do con cái của họ mang vào nhà thôi! Bà không còn thương con, không muốn dạy cho nó trở thành người tử tế hay sao? Thưa, bà đã biết là không có thuốc chữa. Bằng chứng ư? Chính Trần Đĩnh đã đau xót lẫn tiếc nuối khi bị khai trừ ra khỏi cái tổ chức đầy gian trá ấy, thay vì vui mừng mở tiệc vì nhìn thấy ánh sáng mới của cuộc đời!
Chẳng lẽ tác giả không biết đó cũng là trường hợp của chính bản thân, hay của những cha mẹ có con cái đi theo Việt cộng ư? Có phải họ không muốn nhìn con? Không, không phải thế. Họ chỉ không muốn nhìn thấy cái gian dối do con cái của họ mang vào nhà thôi! Bà không còn thương con, không muốn dạy cho nó trở thành người tử tế hay sao? Thưa, bà đã biết là không có thuốc chữa. Bằng chứng ư? Chính Trần Đĩnh đã đau xót lẫn tiếc nuối khi bị khai trừ ra khỏi cái tổ chức đầy gian trá ấy, thay vì vui mừng mở tiệc vì nhìn thấy ánh sáng mới của cuộc đời!
Trần Đĩnh viết “tình cờ gặp Minh Trường, phóng viên nhiếp ảnh Thông
tấn xã năm 1971 đã cùng tôi vào vùng rốn lụt của Hải Dương. Anh thuộc
lớp người đầu tiên về Sài Gòn chiến thắng. Nhưng anh đã nếm một chiến
bại đớn đau. Hơn một năm sau kể lại với tôi, giọng anh vẫn run run như
nghẹn lại... Thì mẹ anh mở cửa. Thì mẹ liền chắp hai tay lạy: - Anh còn
sống thì tôi mừng nhưng anh về thì tất cả các đứa con bao lâu nay sống
với tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đã bị các anh lôi đi tù hết mất
rồi. Anh về thì nhà này tan nát, thì tôi trơ trọi. Thôi, tôi xin anh,
anh đi với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên..:.(tr486). Trần Đĩnh có là một trong những Minh Trường này không? Thật là tội cho bà mẹ Việt Nam.
Nhớ lại, từ khi bắt dầu đọc những dòng tô son, kẻ phấn, sơn phết dầu
bóng ở bên ngoài cái Đèn Cù của nhà báo Ngô Nhân Dụng, tôi không nghĩ là
mình sẽ viết đôi ba điều. Nhưng nay, tôi buộc tôi phải viết. Viết vì
tác giả vẫn cứ “nửa nạc, nửa mỡ” cho cái chủ thuyết cộng sản ấy là vô
địch, là con đường thần kỳ đi mở nước. Mở nước từ người rừng đến đỉnh
cao thiên đường cộng sản trong những cuộc đấu tố. Nên tác giả không dám
viết lên một sự thật là người Việt Nam từ già đến trẻ, từ Bắc đến Nam,
từ thành thị cho đến nông thôn, từ trong ra ngoài, ngay từ cái thời tác
giả bỏ nhà lên rừng đã khẳng định một cách chắc chắn rằng:
Chính cái tập đoàn và hệ thống cộng sản dưới tay của Hồ Quang theo lệnh của Nga Tàu đã tiêu diệt cuộc sống nhân bản của người Việt Nam, không phải chỉ ở trong thời chiến, mà còn cả sau khi hết chiến tranh nữa. Chính tập đoàn cộng sản này đã đẩy cả nước và đồng bào Việt Nam rơi vào cuộc sống thống khổ như ngày hôm nay. Tai họa này chẳng phải chỉ có phe Duẩn, Thọ, Hữu gây ra, như tác giả đã viết. Trái lại, tất cả đều là những hạng mục voi giấy, ngựa giấy, chó giấy dưới trướng của Hồ, trong cái khung đèn do Tàu cộng thiết kế để gây họa cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Chính cái tập đoàn và hệ thống cộng sản dưới tay của Hồ Quang theo lệnh của Nga Tàu đã tiêu diệt cuộc sống nhân bản của người Việt Nam, không phải chỉ ở trong thời chiến, mà còn cả sau khi hết chiến tranh nữa. Chính tập đoàn cộng sản này đã đẩy cả nước và đồng bào Việt Nam rơi vào cuộc sống thống khổ như ngày hôm nay. Tai họa này chẳng phải chỉ có phe Duẩn, Thọ, Hữu gây ra, như tác giả đã viết. Trái lại, tất cả đều là những hạng mục voi giấy, ngựa giấy, chó giấy dưới trướng của Hồ, trong cái khung đèn do Tàu cộng thiết kế để gây họa cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Riêng chuyện xét lại, câu chuyện đã làm cho tác giả đau đớn khôn nguôi,
theo tôi, nó không to lớn như tác giả tưởng tượng, và nó cũng chẳng cứu
được thêm một vài người dân nào. Trái lại, có thể vì nó mà có thêm
nhiều người bị chết oan. Bởi vì, không phải đến nay người ta mới nhìn
thấy chuyện “xét lại” ra sao, là gì? Trái lại, ngay từ đầu, câu chuyện
xét lại đã phơi ra giữa ban ngày như một thế cờ. Nó được xếp đặt và diễn
tiến rất thuận buồm xuôi gió làm lợi cho tập đoàn cộng sản mở chiến
tranh vào Nam.
Trước hết, ai cũng biết chuyện voi đầu đàn, voi dày mả tổ đã bị Tàu cộng
xích cổ, cột chân rồi. Chủ nhân bảo nó quỳ, nó không dám đứng. Nay nếu
tậu thêm được một dàn ngựa nữa để cho nó hết lòng hết sức, ganh nhau
phục vụ cho mưu đồ của chủ nhân thì tại sao họ lại không làm? Ấy là chưa
kể đến mối lợi dùng dàn ngựa mới cho đàn voi kia phải tuyệt đối giữ
lòng trung thành với chủ. Một lợi, mười lợi, có trăm điều lợi ấy, tại
sao Trung cộng không lợi dụng?
Hỏi thế là đã trả lời cho toàn bộ việc Duẩn Thọ hết lòng theo Mao, phục vụ Mao và Minh, Chinh, Đồng, Giáp cũng đã hết dạ trung thành với Tàu như thế nào rồi. Nên khi chủ nhân Tàu dùng dàn ngựa mới cho công tác nô lệ thì lẽ dĩ nhiên, việc ra lệnh cho Hồ Chí Minh vờ im lặng, không bỏ phiếu, bảo Chinh cuốn cờ, cho Giáp vờ dọn đồ vào vali để tạo cảnh giả là nằm trong kế hoạch. Kết quả của kế hoạch này chính là cái vụ “xét lại” được tạo ra. Nó được tạo ra để giúp cho kế hoạch thêm hoàn hảo.
Hỏi thế là đã trả lời cho toàn bộ việc Duẩn Thọ hết lòng theo Mao, phục vụ Mao và Minh, Chinh, Đồng, Giáp cũng đã hết dạ trung thành với Tàu như thế nào rồi. Nên khi chủ nhân Tàu dùng dàn ngựa mới cho công tác nô lệ thì lẽ dĩ nhiên, việc ra lệnh cho Hồ Chí Minh vờ im lặng, không bỏ phiếu, bảo Chinh cuốn cờ, cho Giáp vờ dọn đồ vào vali để tạo cảnh giả là nằm trong kế hoạch. Kết quả của kế hoạch này chính là cái vụ “xét lại” được tạo ra. Nó được tạo ra để giúp cho kế hoạch thêm hoàn hảo.
Bởi lẽ, cả Trung Cộng cũng như tập đoàn cộng sản đều biết rất rõ ràng
rằng, nếu được quyền có ý kiến thì sẽ có đến 80% hoặc nhiều hơn, tính
trên tổng số dân miền Bắc không muốn có chiến tranh với miền Nam. Họ
không muốn có chiến tranh với miền Nam vì nhiều lý do: Chiến tranh lâu
quá rồi, cô nhi quả phụ nhiều quá rồi, ai cũng sợ chết. Ai cũng muốn có
bát cơm no, có giấc ngủ yên là hài lòng. Kế đến, rất nhiều người có
thân nhân, người quen cuốn gói chạy vào Nam, nay mỡ chiến tranh là cầm
súng Nga Tàu đi giết chính anh em, cha mẹ, bà con của mình hay sao?
Đã thế, sau cuộc đấu tố làm rúng động và thảm xát lòng người tại miền Bắc, người còn sống đã nhìn ra bộ mặt hiếu chiến tham tàn của tập đoàn cộng sản. Có ai muốn tiếp tục làm tôi mọi cho chúng mở chiến tranh đâu? Có nhà văn nhà báo, anh công nhân, anh nông dân nào thích chiến tranh? Theo đó, Trần Đĩnh cũng chỉ là một trong số 80% trên. Nhưng, Việt cộng rất cần một số người như Đĩnh có tên trong nhóm xét lại để làm mồi cho chiến tranh bùng phát.
Đã thế, sau cuộc đấu tố làm rúng động và thảm xát lòng người tại miền Bắc, người còn sống đã nhìn ra bộ mặt hiếu chiến tham tàn của tập đoàn cộng sản. Có ai muốn tiếp tục làm tôi mọi cho chúng mở chiến tranh đâu? Có nhà văn nhà báo, anh công nhân, anh nông dân nào thích chiến tranh? Theo đó, Trần Đĩnh cũng chỉ là một trong số 80% trên. Nhưng, Việt cộng rất cần một số người như Đĩnh có tên trong nhóm xét lại để làm mồi cho chiến tranh bùng phát.
Lý do, Trung cộng thích chiến, nhưng cũng đã có kinh nghiệm khi đánh
nhau với Mỹ ở Triều Tiên. Đánh Mỹ thì dứt khoát không thể thắng nó được,
nhưng vẫn muốn đánh. Đánh nó để nổ, để cho người ngoài biết là Tàu cộng
không sợ Mỹ! Tàu hơn Nga! Tuy nhiên, Tàu cộng không muốn đánh Mỹ ở
trong nước Tàu, mà muốn kêu mấy dàn ngựa, vài thớt voi ở phía nam nhập
cuộc để kéo chiến tranh ra khỏi nước. Bởi lẽ, đến thời điểm đó, nỗi lo
canh cánh bên lòng của Trung cộng là Mỹ sẽ giúp Đài Loan tấn cho Trung
cộng một trận. Hay trả cho Trung cộng mấy quả bom vì vụ Trung cộng đưa
hàng triệu quân sang Triều Tiên tấn Mỹ.
Nên Trung cộng, kẻ mang cuồng bệnh bành trướng có khi nào không hiếu chiến, có khi nào không muốn đẩy chiến tranh xuống miền Nam? Trước là tránh cảnh tàn phá trong nước, tự giải tỏa bớt áp lực của Mỹ từ vụ Triều Tiên và Đài Loan. Sau là thực hiện cuộc chiến tiêu hao người ở phương Nam để tiện cho việc đưa người sang chiếm lấy đất trống nhà hoang mà lại được tiếng là giúp đỡ người anh em cùng đảng giải phóng đất nước, đánh quân xâm lược!
Kế hoạch ấy ai không biết, đọc qua vài sự kiện thời sự là người ta có thê đọc vanh vách được cái kế hoạch của Trung cộng. Khổ nỗi, tập đoàn voi giấy, ngựa giấy, chó giấy thì không! Đã thế, cứ hung hăng như con bọ xít, tưởng rằng tình hữu nghị hữu hảo, cá nhân thì được Tàu sủng ái, chống lưng, nên nhất định tranh nhau lao đầu vào cuộc chiến đánh miền Nam cho Trung cộng. Xưa thế, nay cũng vẫn vậy.
Nên Trung cộng, kẻ mang cuồng bệnh bành trướng có khi nào không hiếu chiến, có khi nào không muốn đẩy chiến tranh xuống miền Nam? Trước là tránh cảnh tàn phá trong nước, tự giải tỏa bớt áp lực của Mỹ từ vụ Triều Tiên và Đài Loan. Sau là thực hiện cuộc chiến tiêu hao người ở phương Nam để tiện cho việc đưa người sang chiếm lấy đất trống nhà hoang mà lại được tiếng là giúp đỡ người anh em cùng đảng giải phóng đất nước, đánh quân xâm lược!
Kế hoạch ấy ai không biết, đọc qua vài sự kiện thời sự là người ta có thê đọc vanh vách được cái kế hoạch của Trung cộng. Khổ nỗi, tập đoàn voi giấy, ngựa giấy, chó giấy thì không! Đã thế, cứ hung hăng như con bọ xít, tưởng rằng tình hữu nghị hữu hảo, cá nhân thì được Tàu sủng ái, chống lưng, nên nhất định tranh nhau lao đầu vào cuộc chiến đánh miền Nam cho Trung cộng. Xưa thế, nay cũng vẫn vậy.
Két quả, lợi chưa thấy đã thấy từng đàn voi, từng dàn ngựa dàn hàng ra
quyết chiến giết tự do. Một bên thì khua chiêng đánh trống thúc dục mọi
giới phải lao đầu vào cuộc chiến đánh thuê mở rộng nước cho Trung cộng.
Một bên thì ỡm ờ, vờ không thích chiến tranh, tạo ra một cảnh giả để cho
một số người mắc bẫy! Nhân đó tạo ra một cái tên gọi là “xét lại” cho
hợp thời. Nhà nước cộng sản liền theo kế hoạch, tóm lấy năm bảy “đồng
chí” có công, có tên tuổi, làm cho những kẻ lừng khừng khác hoảng sợ.
Không muốn chiến cũng phải khua chiêng đánh trống lao đầu vào chỗ chết. Dĩ nhiên, chuyện xét lại nổ ra chỉ có một mục đích để “rung cây nhát khỉ”, trấn áp những kẻ lừng khừng, làm cái đòn bẩy buộc mọi người phải tuyệt đối theo chỉ đạo của đảng lao vào cuộc chiến. Nó không nổ ra để triệt hạ đối phương như Stalin đã từng thanh toán đối thủ. Nếu nó có mục đích triệt hạ thì Trần Đĩnh, Hoàng Minh Chính… đã đi mò tôm lâu rồi, làm gì có Đèn Cù. Và làm gì có cảnh kẻ bị kết tội mà vẫn được lãnh đạo gọi đến chuyện trò, anh anh, em em!
Không muốn chiến cũng phải khua chiêng đánh trống lao đầu vào chỗ chết. Dĩ nhiên, chuyện xét lại nổ ra chỉ có một mục đích để “rung cây nhát khỉ”, trấn áp những kẻ lừng khừng, làm cái đòn bẩy buộc mọi người phải tuyệt đối theo chỉ đạo của đảng lao vào cuộc chiến. Nó không nổ ra để triệt hạ đối phương như Stalin đã từng thanh toán đối thủ. Nếu nó có mục đích triệt hạ thì Trần Đĩnh, Hoàng Minh Chính… đã đi mò tôm lâu rồi, làm gì có Đèn Cù. Và làm gì có cảnh kẻ bị kết tội mà vẫn được lãnh đạo gọi đến chuyện trò, anh anh, em em!
Cục diện chính “xét lại” là thế. Duẩn, Thọ, Hữu, hay Chinh, Đồng, Giáp
cũng chỉ là một dàn ngựa chạy cờ dưới trướng của HCM theo lệnh của
Trung cộng, đi mở biên cương cho Tàu xuôi về phương nam mà thôi. Ngoài
ra chẳng có một lý lẽ nào khác.
Bằng chứng ư? Đèn Cù ra đời 8/2014 Trần Đĩnh cũng không có một chữ, một ý
tưởng dù nhỏ cho thấy là “xét lại” có ước mong Đèn bị cháy, Cộng sản bị
tiêu diệt để cho dân nhờ. Trái lại chỉ là than thở, thất tình, tuyệt
vọng, tiếc cho việc ”xét lại” không có cơ hội quay và bị triệt hạ. Kế
đến, cuộc chơi cũng đã được xác minh là cần phải có do Nguyễn Trung
Thành, người trực tiếp thụ ủy vụ án. Người đi bắt xét lại và rồi cũng là
người xin xét lại vụ án, bảo Đĩnh: “Là người tra cứu hồ sơ của bất
cứ ai lọt vào danh sách ứng cử ủy viên trung ương trước mỗi đại hội. Một
thế lực khủng trong hậu đài. Thế mà đùng một cái Nguyễn Trung Thành gửi
thư đề nghị Trung ương xóa vụ án “xét lại” Nguyễn Trung Thành hơi đắn
đo, rồi nói: - Thì là oan… Là đặt ra, dựng lên... chứ sự thật không có
gì cả” ( tr.524).
Ngoài cái trò chơi giả tưởng ấy, về mặt chính diện, "xét lại" tự bản
chất chỉ là một hiện tượng hữu danh vô hại của những người không thích
chiến tranh. Nó tuyệt đối không có tư duy ưu tư vì dân tộc. Nói toạc ra
là nhóm xét lại ấy, dù có đôi lúc tác giả dùng ngôn từ rất to như “lật
đổ, chống đảng” nhưng thực tế là họ chưa có, hoặc không bao giờ có tư
tưởng kết luận chủ nghĩa Cộng sản là sai lầm. Và đảng CS là một thảm họa
cho con người và cho đất nước.
Tập thể này cần phải bị tiêu diệt, bị đào thải ra khỏi xã hội. Họ tuyệt đối không nhìn nhận chủ thuyết này đã tàn phá luân thường đạo lý của xã hội, làm băng hoại đời sống con người. Họ hoàn toàn không nhận ra rằng, bao lâu chế độ cộng sản còn tồn tại, bấy lâu dân tộc Việt Nam còn bị đối xử như loại nô lệ của thời bán khai. Ở đó sẽ còn là hận thù chồng chất trên hận thù, Ở đó còn gian trá chồng trên gian trá.
Ở đó là sự tan nát những truyền thống tốt đẹp từ gia đình ra đến làng thôn, mang nghĩa đồng bào mà bao nghìn năm do cha ông gây dựng nên. Ở đó là cuộc dấu tố hành hạ niềm tin lành thành của người dân vào tôn giáo. Ở đó là có phá chùa đập miếu đốt nhà thờ.
Tập thể này cần phải bị tiêu diệt, bị đào thải ra khỏi xã hội. Họ tuyệt đối không nhìn nhận chủ thuyết này đã tàn phá luân thường đạo lý của xã hội, làm băng hoại đời sống con người. Họ hoàn toàn không nhận ra rằng, bao lâu chế độ cộng sản còn tồn tại, bấy lâu dân tộc Việt Nam còn bị đối xử như loại nô lệ của thời bán khai. Ở đó sẽ còn là hận thù chồng chất trên hận thù, Ở đó còn gian trá chồng trên gian trá.
Ở đó là sự tan nát những truyền thống tốt đẹp từ gia đình ra đến làng thôn, mang nghĩa đồng bào mà bao nghìn năm do cha ông gây dựng nên. Ở đó là cuộc dấu tố hành hạ niềm tin lành thành của người dân vào tôn giáo. Ở đó là có phá chùa đập miếu đốt nhà thờ.
Nói cách khác, cái “xét lại” của họ không có tư duy từ bỏ và tiêu diệt
chủ thuyết cộng sản tại Việt Nam. Họ không thấy điều cần phải làm. Họ
cũng không giống 80 % dân số kể trên, là những người đã không thích
chiến tranh, lại còn muốn tiêu diệt tập đoàn cộng sản Hồ Chí Minh nữa.
Họ chỉ chống nhau, chống kẻ đã đẩy họ ra khỏi cuộc “cơm no bò cỡi”, mất
cuộc xe hơi nhà lầu, mất hưởng lộc mà thôi. Qủa thật, cộng sản nào thì
cũng là cộng sản.
Dù còn trong vòng, bị khai trừ hay bỏ chạy cũng vẫn cùng một tư duy. Sợ sự thật. Không bao giờ dám tự nhận là đã sai lầm đi theo cộng sản để gây ra tai họa cho đồng bào và cho đất nước của mình. Bằng chứng, Hoàng Minh Chính, người được coi là lãnh tụ của nhóm, trong chuyến đi gọi là chữa bệnh tại Hoa Kỳ, vẫn rặt một luận điệu Hồ là đích thực, là cứu nước. Nhưng nhóm này, nhóm khác đi sai đường lối, sai chủ trương của đảng. Xem ra tất cả là quanh co dối trá. Dối trá đúng như Gobachev đánh giá về họ: “Cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”. Đèn Cù khó là ngoại lệ!
Dù còn trong vòng, bị khai trừ hay bỏ chạy cũng vẫn cùng một tư duy. Sợ sự thật. Không bao giờ dám tự nhận là đã sai lầm đi theo cộng sản để gây ra tai họa cho đồng bào và cho đất nước của mình. Bằng chứng, Hoàng Minh Chính, người được coi là lãnh tụ của nhóm, trong chuyến đi gọi là chữa bệnh tại Hoa Kỳ, vẫn rặt một luận điệu Hồ là đích thực, là cứu nước. Nhưng nhóm này, nhóm khác đi sai đường lối, sai chủ trương của đảng. Xem ra tất cả là quanh co dối trá. Dối trá đúng như Gobachev đánh giá về họ: “Cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”. Đèn Cù khó là ngoại lệ!
IV. Lý lịch Hồ Chí Minh và thân phận tác giả trong Đèn Cù
danlambaovn.blogspot.com
I V . Lý lịch Hồ chí Minh trong Đèn Cù.
Có
người sẽ bảo là “rách việc” khi tôi đề cập đến phần lý lịch của Hồ chí
Minh trong loạt bài viết về Đèn Cù. Bị trách, tôi nhận. Nhưng không thể
không viết. Bởi lẽ, một trong những nỗi thắc mắc lớn của người Việt Nam
hiện nay, ngoài việc muốn biết về “ số phận Việt Nam” qua mật ước ở
Thành Đô là việc bạch hóa lý lịch thật của Hồ chí Minh. Ông ta là thiếu
tá Hồ Quang, ngưòi Tàu, gốc Hẹ, đảng viên đảng cộng sản Tàu theo hồ sơ
của quân ủy trung ương Trung cộng vừa công bố, hay là Nguyễn sinh Cung
người làng Kim Liên? Hai điểm thắc mắc này ai cũng muốn biết và nó có
khả năng đưa đến cai chết bất đắc kỳ tử cho chế độ CS tại Việt Nam. Bởi
lẽ, khi người dân Việt Nam biết Hồ chí Minh là người Tàu, biết được mật
ưóc Thành Đô, đảng cộng sản phải tan theo bánh xe Cù thị. Tiếc là, cho
đến nay hai nguồn chứng cớ quan trọng nhất, đều nằm trong tay phía cộng
sản, không ai có thể tiếp cận được.
Thứ nhất, Tất cả những hồ sơ
liên quan đến Nguyễn ái Quốc từ 1925 đến 1933 và sau này, đều nằm trong
tay KGB của Nga và cụm tình báo Hoa Nam. Nên sự đổi thay, nếu có, cả vệc
tráo đổi người theo nguồn tin là Nguyễn ái Quốc đã chết về bệnh lao sau
khi ra khỏi tù ở Hồng Kông vào năm 1933, cũng hoàn toàn nằm trong tay
hai tổ chức này. Thứ hai, việc DNA cái xác của Hồ chí Minh đang nằm phơi
khô ở Ba Đình cũng không có cơ hội thực nghiệm và giảo nghiệm trước khi
chế độ này bị triệt tiêu. Mật ước Thành Đô cũng chung số phận.
Tuy
nhiên, không phải vì những trở ngại này mà người ta ngừng đi tìm kiếm
sự thật. Trái lại, bằng nhiều hình thức khác nhau, các nhà nghiên cứu
cũng đưa ra dược những lý lẽ rất mạnh mẽ để bảo vệ cho luận cứ của mình
trong việc đặt nghi vấn về lý lịch của Hồ chí Minh, qua tài liệu mở, qua
những cuốn sách được cho là của Hồ chí Minh, trong đó có Ngục Trung
Nhật Ký. Đây là một tập thơ viết bằng chữ Hán, không có tên tác giả và
đã gây ra khá nhiều tranh cãi về tác quyền. Việt cộng thì đánh bóng và
công bố đây là tập thơ của Hồ chí Minh … vổ được. Hơn thế, còn nâng cấp
nó lên là hàng “ tài sản văn hóa” của dân tộc…. tầu ô.
Ở chiều ngược
lại, có nhiều bài viết, trong đó phải kể đến cuốn “ Ngục Trung nhật Ký
không phải là của Hồ chí Minh” do học gỉa Lê hữu Mục dày công nghiên
cứu, biên soạn và đã được phát hành mấy năm trưóc đây. Kế đến, những bài
phân tích chững chạc, mạch lạc của giáo sư Tâm Việt, giáo sư Lê trí
Viễn, ông Đỗ thông Minh, có cùng quan điểm và nhận được nhiều sự biểu
đồng tình tích cực. Cá nhân tôi có đề cập đến vấn đề này đôi ba lần
trong loạt bài “Tác già Ngục Trung Nhật Ký không phải là ngưòi Việt
Nam”.
Dĩ nhiên, những bài viết này chưa có đủ tài liệu dẫn chứng một cách xác thực đi kèm. Tất cả là những suy luận, những phán đoán. Những suy luận, phán đoán ấy đã dựa vào những quy luật nhất định, có giá trị về thời gian và bối cảnh mà tập thơ đã hoàn thành. Tất cả đều định hình theo quy luật về thơ như thể thơ, phong thơ, ý thơ, tứ thơ, khổ thơ, nghĩa thơ, hồn thơ, đạo thơ, và văn tự của thơ trên văn bản mà chứng minh. Sự chứng minh, phán đoán, theo tôi, là có thể chấp nhận được, nhưng nó vẫn chưa là chứng từ để kết luận.
Nay trong Đèn Cù, tác giả Trần Đĩnh, đưa ra một đoạn viết khá ngắn, không một dẫn chứng, liên quan đến tập thơ và lý lịch của HCM. Đĩnh viết;“ Tàu Tưởng bắt tù Cụ Hồ chỉ cốt để báo cho biết nó chả ngọng Cụ là cộng sản, cụ muốn họat động thì hãy chịu cuơng tỏa của nó... Nhờ tập thơ giãi bầy tâm sự trong tù với Tàu Tưởng, tôi đây yêu nước chứ không cộng sản, rồi nhờ có thêm người - như Hồ Học Lãm nói với Trương Phát Khuê, Cụ đã được ra tù và cùng với Nguyễn Hải Thần lãnh đạo Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội.” ( trang 37). Sự thật thế nào?
Đọc thoáng qua, ai cũng thấy,
đây là một đoạn viết ngắn, khá ngắn, nhưng nó lại mang một sức chuyên
chở ý rất nặng và rất lớn. Lớn như một tờ giấy chứng thực tập thơ là của
Hồ chí Minh? Nặng hơn hàng trăm, hàng nghìn những trang báo, bài viết
của những dịch giả như Huệ Chi, Nam Trân, Đỗ văn Hỷ…. và những bài thuộc
diện thổi ống nói về tập thơ của các nhà văn, nhà báo Việt cộng, cộng
lại. Bởi lẽ, Đĩnh ở vào cái vị thế mà những người kia không bao giờ có.
Đĩnh gần “ Hồ”, Đĩnh biết nhiều, biết hết mọi chuyện về “ bác”. HCM có
thể nói đùa, bỡn với Đĩnh ” thế người ta đi đái cũng theo à?”, trong lúc
những người khác nếu có dịp tiếp xúc với Hồ theo từng nhóm, từng đoàn
thì việc giữ cho cái trống ngực khỏi đập loạn nhịp đã là may mắn rồi,
nói chi đến câu truyện thân tình. Họ chỉ viết theo tiếng kẻng!
Theo
đó, khi Đĩnh viết về tập thơ, quyết đoán như thế, chuyện người ngoài có
tin hay không mặc kệ. Riêng cánh làng thổi thì mừng đến rơi nước mắt.
Rồi những đôi mắt xanh sao, vàng vọt, lơ láo lo lắng vì không biết trả
lời ra sao trước những thách đố cho rằng tập thơ ấy không phải là của Hồ
chí Minh đều dồn về Đĩnh, coi Đĩnh như là cứu chúa. Dù chẳng quen biết
Đĩnh, nhưng nếu cần bầu Đĩnh vào vai trò thủ lãnh bảo vệ tập thơ là của “
bác” thì tất cả đều giơ tay. Lý do, ngay chuyện kín “ cụ Hồ che râu đến
dự một buổi”, nói ra là bôi tro trát trấu vào mặt “bác”, là đụng vào
cái búa của đảng, Đĩnh cũng huỵch toẹt ra rồi. Chuyện này ai dám nói,
dám viết? Đĩnh dám viết là có chứng cớ, là khả tín?
Chẳng biết sự khả
tín ra sao, đã thấy Bùi Tín vội vàng nhảy vào dựa hơi, ăn ké ” Tôi có
thể chứng thực những điều Trần Đĩnh viết ra là chân thực” ( Người đẹp
nhất trong Đèn Cù). Lạ thật, không biết Bùi Tín lấy tư cách gì, tiêu
chuẩn nào mà cấp giấy chứng thực cho Trần Đĩnh? Bạn tôi bảo. Lạ quái gì.
Cộng đảng viên nào cũng cò cái bệnh lạ này như nhau. Bệnh đảng. Bệnh ồm
ộp từ vũng nước dưới chân trâu! Ngửa mặt lên là bằng trời. Chỉ tại cái
vũng nước quá cạn!
Liệu cái “chứng thật”, cái “thế giá” này có đủ
khả năng đánh bạt, đánh đổ toàn bộ những lý luận, những bài viết cho
thấy Hồ chí Minh là người Tàu, gốc Hẹ và tác giả tập thơ Ngục Trung Nhật
Ký không phải là của Hồ chí Minh ( Nguyễn Sinh Cung ) hay không? Tôi
cho là bất khả, ngoại trừ hai trường hợp sau:
Thứ nhất. Nếu họ
trưng ra được tất cả những tài liệu theo năm tháng cùng với những hình
ảnh từ 1932- 1943 là những năm mà người ta gọi 10 mất tung tích của Hồ
chi Minh được công bố gắn liền với giấy chứng nhận DNA trên cái xác phơi
khô của HCM do những cơ quan chức năng thẩm quyền quốc tế đảm nhận. Khi
ấy, cái “tổ hợp” thắc mắc kia không đánh cũng tan. Sẽ có nhiều người
phải bẻ bút. Trong đó có thể có cả tôi. Ít nhất là tôi sẽ có bài xám hối
và xin lỗi độc giả về những loạt bài có liên hệ đến lý lịch và tập thơ
NTNK. Tuy nhiên, việc đưa ra bằng chứng về những tội ác mà HCM đã phạm
với dân tộc và đất nước Việt Nam tôi vẫn cứ tiếp tục. Vì đó là bổn phận
của ngưòi cầm bút phải đi tìm sự thật và truyền đi sự thật.
Thứ
hai. Một khi không có được những chứng liệu như đã nói ở trên, thì chính
đoạn viết ấy lại là sự xác định Hồ chí Minh là người Tàu và tập thơ
không phải là của Nguyễn sinh Cung. Khi đó, những câu chuyện của làng
thổi như những bài ca vô tận về “ Người hay ngợm” chỉ còn là tiếng ọp ẹp
trong vũng nước dưới chân trâu như đã từng, và Đèn Cù khéo mà tự bốc
hỏa. Nó thiêu rụi cả tác giả và cả cánh làng thổi từ xưa đến nay. Trừ
trường hợp tác gỉa cho thấy đây là một đoạn văn mở ngược ý, để chứng
minh Hồ chí Minh là người Tàu, yêu nước Tàu và không phải là tác giả của
Ngục Trung Nhật Ký? Nghĩa là Đĩnh muốn dùng một số nội dung “ râu ông
cắm cằm bà” của một số bài thơ để phản chứng cho đoạn viết vô lý của
minh. Bởi vì, Đĩnh đã biết HCM là người Tàu, và tập thơ là của ngưòi
khác. Nhưng không thể viết theo ý mình, nên phải chọn cách tránh né, nói
ngưọc này để diễn đạt ý muốn viết?
Đến đây, tôi chưa có kết
luận là bạn nên ngả theo phía nào trước. Tuy nhiên, việc tìm ra sự thật
trong đoạn viết của Trần Đĩnh là “ chân thật” là khả tín như làng thổi
tung hê theo ý của họ, hay nó lại là “ tôi đây yêu nước Tàu, không phải
cộng sản”, không có một khó khăn nào hết. Trái lại, nó sẽ phơi bày ra
ánh sáng công luận chỉ sau một câu hỏi: Dựa vào những tiêu chuẩn nào để
Trần Đĩnh viết ra đoạn văn đầy tính xác quyết như giấy chứng nhận về lý
lịch, rồi ban cấp cho Hồ chí Minh là tác giả của tập thơ NTNK? Theo tôi
câu trả lời gồm có hai phần. Thứ nhất, tìm hiểu về sự gần gũi và cái thế
giá cá nhân của Trần Đĩnh với HCM. Thứ hai, phân đoạn viết trên thành
ba phần để tìm lời giải đáp.
A. Sự gần gũi và thế giá của Trần Đĩnh.
Không
ai phủ nhận Trần Đĩnh có sự liên hệ khá gần gũi với HCM trong một thời
gian dài tử Atêka cho đến sau này. Gần gũi đến nỗi, Trẫn Đĩnh và bạn hữu
có thể thoải mài tán gẫu về chuyện thích ” gái nạ dòng của Hồ”. Hơn thế
còn gần gũi ngay cả khi Y đi đái nữa. Đĩnh viết (1960?): “Sau bữa cơm
trưa, thấy Cụ quần áo cánh nâu đi vòng ra sau dẫy nhà tranh đến rặng
chuối thay hàng rào, tôi đi theo.Cụ thuốc lá ngậm miệng, tay vén ống
quần lên đái. Thấy tôi gần như ở ngay bên, cụ quay ngoát lại hỏii, điếu
thuốc khẽ lật bật ở môi: “Người ta đái cũng theo à?” Không ạ, cháu...”.
Thế đứng sát vào người ta nhòm gì?” Câu tra hỏi đủa bỡn đã đóng một dấu
ấn phơi phới vào quan hệ bác cháu. ( tr 181)
Một người có hoàn
cảnh như thế thì hẳn nhiên là có thể nắm rất vững về giọng nói, âm nói
và cách nói chuyện bằng tiếng Việt của Hồ chí Minh? Đây là một lợi thế
tốt hơn là chứng cớ tốt để Trần Đĩnh, một ngưòi được giao trách nhiệm
viết tiểu sử cho Hồ chí Minh, viết “ bất khuất” đưa ra đoạn viết xác
quyết ở trên. Thoáng qua, nó khả tìn và chắc chắn hơn những chuyện vẽ
vời của cánh làng thổi, làng dịch, làng ăn ké. Tuy nhiên, nó vẫn có đầy
khuyết tật cần phải vạch ra.
Thứ nhất. Tất cả những sự kiện về
Nguyễn sinh Cung từ Làng Kim Liên, đến khi vào Huế theo học, kế bị đuổi
học, rồi lưu lạc vào Phan Thiết. Xuống tàu xin làm bồi bép. Đến pháp thì
xin vào học trường thuộc địa. Sau thất bại về đường công danh, học vấn,
Thành đi theo cộng sản Pháp. Sang Liên Sô, vào tù ở Hồng Kông 1931. Rồi
về hang Pác pó 1941. Lại sang Tàu, đổi thành Hồ chí Minh, bị Tàu Tưởng
bắt, thì Trần Đĩnh hoàn toàn dựa vào những những sách báo của đảng cộng
sản làm tuyên truyền.
Đĩnh viết “Mừng Đảng 30 tuổi, mừng Cụ Hồ 70, mừng
15 năm thành lập nướcViệt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ngoài ba đại khánh còn
Đại hội lần thứ ba của Ðảng. Tháng 3, Tố Hữu triệu tập mấy người lập
nhóm viết tiểu sử Hồ Chí Minh với danh nghĩa Ban nghiên cứu lịch sử
đảng. Gồm Tố Hữu, Phạm Bình (Ban nghiên cứu lịch sử đảng),Nguyễn Huy
Tưởng, Hoài Thanh và tôi. Hai nhà văn vào tận quê Cụ sưu tầm tài liệu.
Phạm Bình cung cấp tài liệu.
Tôi víết. Cố nhiên cũng sưu tầm cả tài
liệu. Hai nhà văn trở ra với nhiều điều giật gân. Cụ sinh năm 1891! Cụ
Khiêm, anh trai Cụ nói thế, có bằng chứng hẳn hoi trong gia đình và họ
hàng. Báo cáo với Cụ thì Cụ nói của người ta thế nào thì cứ để thế không
sửa gì hết. Hai nhà văn và tôi bảo nhau: Bác muốn dân dễ nhớ nên lấy
tròn 1890. (tr167)
Đến khi bắt tay vào việc, Trần Đĩnh đã xác
nhận phải viết theo cái búa chỉ đưòng, không viết theo đìều mình biết,
Đĩnh kể ”Phải viết một loạt bài về lịch sử đảng, tôi đã đọc những tài
liệu về chuyện này. Lẽ tất nhiên đều ỉm đi, cho tất cả vào cái sọt giấy
vĩ đại là sự quên, sự lờ, sự nhắm mắt lại. Gọn một chữ là sự gian dối.
Để đổi lấy uy tín đảng (trang192) Nghĩa là phải bỏ qua mọi tài liệu,
Đĩnh đã viết bằng sự gian dối để được lòng đảng. Tôi rất trân trọng,
ngưỡng mộ lòng quả cảm của Trần Đĩnh trong câu viết này. Tôi tin rằng,
đây chính là tiếng nói tự đáy lòng Đĩnh. Đáy lòng còn có hình ảnh của
một bà mẹ kính yêu và tổ Quốc Việt Nam trong Đĩnh.
Như thế, câu
trả lời đã có. Trần Đĩnh không viết theo những tài liệu, theo chứng cứ
có thể là có thật, hay những điều Trần Đĩnh nghe, biết. Trái lại, Trần
Đĩnh đã viết bằng sự giả dối, viết dưói cái búa của đảng cộng sản. Cái
búa này, cho đến nay chưa bao giờ rời xa Đĩnh! Theo đó, sự gần gũi thân
tình, biết hết về HCM tự nhiên mất gía trị. Nó không thể nói lên, hoặc
chứng mình cho những điều Trần Đĩnh biết và viết là giống nhau. Từ đó sự
khả tín và “ chân thật” có lẽ cũng không còn.
Bởi lẽ, nếu có biết rất
thật âm thanh ấy không phải là âm thanh của người Việt Nam thuần túy.
Giọng nói ấy là giọng nói của một ngưòi ngoại, thuộc dòng phát âm độc âm
như Việt Nam,và có vóc dáng hao hao Viêt Nam, nhưng không phải là cái
lề thói thổ âm, kiểu cách, điệu bộ của người ở vùng làng Kim Liên, Nam
Đàn. Trần Đĩnh cũng phải lờ nó đi, không được phép thắc mắc và phải viết
bằng sự giả dối, và uy tín đảng!
Ấy là chưa kể đến phần tâm lý
luôn nằm sâu trong lòng Đĩnh là:” gần vua như gần cọp”. Sự gần gũi giữa
đôi bên không phải là một quan hệ ngang hàng, thân cận, nhưng là một
thuộc hạ khá thấp, tiếp xúc với một lãnh tụ cao nhất, không tránh khỏi
những cảm xúc tâm lý bất ổn. Lại không phải là một gián điệp do địch gài
vào, nên không để ý, hay không đánh giá, không thắc mắc người đối diện
mình là ai. Thay vào đó là sự tôn kính và tôn sùng lãnh tụ ngay từ trước
ngày bước chân vào Atêka, nên không thể có sự tìm hiểu cách thế nói
chuyện, giọng âm có khác với người Việt Nam hay không. Trái lại, nhìn
tất cả những sự việc giả dối chung quanh cá nhân người này bằng cái nhìn
tôn kinh, tôn sùng lãnh tụ, nên nếu có thấy cái lối phát âm khác lạ,
kiểu nói khác lạ, Trần Đĩnh cũng sẵn sàng đánh lừa chính mình bằng nhận
định. “ bác” ở ngoại lâu quá nên nóí líu cả lưỡi, đôi khi quên mẹ nó cả
tiếng Việt. Hay nói tiếng Tàu. Nói chữ Đ lại ra chữ L”. Giống như cuốn
băng duy nhất HCM trả lời trong cuộc phỏng vấn với phóng viên Nhật. Như
thế, sự gần gũi tự nó không thể là một chứng cớ, một điểm tựa giúp cho
Trần Đình trong trường hợp viết đoạn văn như giấy chứng nhận ở trên. Sự
xác thực của nó chỉ còn dựa vào nội dung của tập thơ NTNK.
B. Ba đỉểm chính trong đoạn viết của Trần Đình.
1. Những lý do được đưa ra khi HCM bị bắt ở Túc Vinh:
a.
Trần Đĩnh xác định: HCM bị bắt vì là cộng sản:” Tưởng bắt tù Cụ Hồ chỉ
cốt để báo cho biết nó chả ngọng Cụ là cộng sản”. Trong tập thơ cũng có
một bài có thể chứng minh tác giả là cộng sản thuộc đảng cộng sản Phúc
Kiến.
b. Lý do bị bắt do nhà nuớc Việt cộng công bố: bị tình nghi
là gián điệp: “Khi kiểm tra căn cước tuần cảnh phát hiện ra rằng ngoài
chứng minh thư của: Quốc Tế phản xâm lược hiệp hội Việt Nam, phân hội”
ra. Hồ chí Minh còn mang theo thẻ hội viên đặc biệt của “ Quốc Tế Tân
Văn Xã”, và giấy thông hành quân dụng của Văn Phòng Tư lệnh Đệ Tứ chiến
khu cấp…. tất cả các giấy tờ đều cấp năm 1940, đã qúa thời gian sử dụng.
Họ nghi Hồ chí minh là gián điệp nên bắt giữ”.
(www.lichsuvietnam.vn/hom.php?option.). Không cho biết tên, tuổi ở trong
những loại giấy tờ này.
C. Lý do Hồ bị bắt do Tầu Tưởng (chữ của
Trần Đĩnh) công bố. Tàu Tưởng không có công bố lý do khi bắt Hồ chí
Minh. Tuy nhiên việc đưa tác giả đi rong trên phố cho bà con xem mặt,
như nhà nước Việt cộng đâ cho dẫn tù binh Mỹ riễu phố ở Hà Nội vào những
năm cuối 1960 hay đầu 1970 để nuôi thêm lòng căm thù của nhân dân với
đối phương thì tác giả cho biết bị bắt vì tội làm Hán gian. Hán gian với
Tầu Tưởng có thể hiểu là hoạt động cho phát xít Nhật, hay là nằm vùng
cho Tàu cộng. “ Ngoài phố tranh nhau xem Hán gian, Hán gian ta vốn thực
vô can, Vô can vẫn bị nghi là có. Thực khiến lòng ta lạnh tới gan ( Trên
Đừờng Phố , người dịch Nam Trân) .
c. Lý do bị bắt do chính tác giả đưa ra:
“ Ta người ngay thẳng lòng trong trắng,
Lại
bị tình nghi là Hán gian” (Đường đời hiểm trở) Đây có lẽ là lý do đúng
nhất. Và còn hơn cả sự đúng nữa. Chính tác giả đã xác định bản thân là
ngưòi Tàu.
Chi tiết nào chứng minh tác giả là người Tàu? Tác giả
là người Tàu vì một lẽ rất đơn giản. Khi một người Tàu bị bắt vì nghi
án làm việc cho ngoại bang, cho đối phương chống lại nhà cầm quyền đương
thời, đương nhiên bị gọi là bọn Hán gian. Nếu tác giả là ngưòi Việt
hoạt động cho Việt cộng, cho Nga, cho Tàu khi bị bắt ở Mỹ, ở Pháp, ở Úc
hay ở bên Tàu đều bị gọi là Việt gian. Người này không bao giờ bị gọi là
Mỹ gian, Pháp Gian hay là Hán gian. Cũng thế, khi một người Tàu phạm
cùng loại tội bị bắt tại Việt Nam, tại Mỹ, tại nguyên quán đều bị gọi là
Hán gian. Ở đây, chính tác giả đã xác nhận bị nghi là Hán gian. Rồi
ngoài phố cũng tranh nhau coi Hán gian. Chẳng lẽ Hán gian này lại có thể
là người Việt ư?
Xin hỏi, những phi công của Hoa Kỳ, bị bắt và
bị đưa đi tiễu phố ở Hà Nội cho dân ném đá, xỉ vả và bạn của tác giả
nhẩy ra vờ đấm hụt để khỏi bị quy vào thành phần, họ bị gọi là gì? Bọn
xâm lược đế quốc Mỹ, bọn Mỹ gian, hay là Việt Gian, Hán gian? Nếu những
tù binh này bị gọi là Việt gian, là Hán gian thì tôi chấp nhận cái lý
Hán gian trên là ngưòi Việt. Rồi những người Việt Nam hoạt động cho Việt
Nam Cộng Hoà, làm việc cho Pháp bị Hồ chí Minh chém lén, họ có bị ghép
vào tội là Hán gian hay không? Hỏi là trả lời. Ngắn gọn, người mang quốc
tịch nào, khi bị bắt vì có hoạt động nguy hiểm chống lại chính quyền
đương thời hay hoạt động cho kẻ thù của quốc gia sở tại thì bị gọi bằng
chính cái tên nước mà kẻ đó đeo trên mình. Theo đó, tác gỉa chính là một
người Trung Hoa, mà chúng ta thường có thói quen gọi là người Tàu. Kế
đến, khi Tàu Tưởng đưa tác giả đi rong ngoài phố cho dân chúng nhìn mặt
thì càng quả quyết là sau những cuộc hỏi cung, Tàu Tưởng đã biết rõ tác
giả là ai, ở đâu, đã bị tình nghi có liên hệ với tổ chức nào chống lại
chính quyền đương thời. Về điểm này, thưa ông Trần Đĩnh, ý ông thế nào?
Tác giả có phải là người Việt Nam không? Phần tôi, xin cám ơn tác giả
Trần Đĩnh đã dùng phản đề, ngầm ý, để giúp cho độc giả nhìn rõ chân
tướng tác giả là người Tàu rất yêu nước Tàu!
2. “Nhờ tập thơ giải bày tâm sự trong tù với Tàu Tưởng.”
Phải
công nhận đây là một ý kiến rất lạ lùng và rất đặc sắc mà tác giả Trần
Đĩnh đã khám phá ra, đã nêu ra làm chủ đề cho đoạn viết này. Thật vậy,
nỗi lòng, tâm sự u uẩn của một người có thể giải bày trọn vẹn ra cho
người ngoài, người đối diện với mình qua những bài thơ, để nhờ đó tạo sự
cảm thông. Một nàng kiêu sa, ngúng nguẩy, không thèm tiếp chuyện ai
kia, nhưng khi đọc được dòng tâm sự của chàng về mình qua những dòng thơ
trữ tình thì lòng mềm ra như bún. Cũng thế, một Tầu Tưởng mặt mũi đỏ
gay, đang hò hét vang cả nhà, bất chợt nhận được một tập thơ của một
ngưòi tù trong tay, Y không thể không liếc mắt đọc qua. Đọc rồi đưa đến
cảm thông. Nhưng nếu người tù trao cho Tàu Tưởng một xấp giấy đầy những
lời trần tình thống thiết, bi ai hay biện minh thì những trang giấy ấy
có nhiều cơ hội bị quăng vào xọt rác. Tại sao thế nhỉ?
Điều này
thì chính Trần Đĩnh biết rõ hơn ai hết. Viết bình luận, thời sự, phê
bình, viết báo thì dựa vào những sự kiện trước mặt, có sẵn mà viết, mà
bình, mà giải. Viết văn thì dùng trí óc hư cấu từ câu chuyện có thật của
mình, của người hay bất chợt bắt gặp trong đời mà vẽ vời, văn hoa thành
truyện, thành tiểu thuyết.
Nó không buộc phải chưng dẫn sự kiện. Đến
thơ, lại là một chuyên đề hoàn toàn khác biệt với những khuynh hướng
trên. Thơ là hơi thở, là nghĩa sống của tâm hôn. Ở trong thơ không là
những dòng chử chạy theo sự kiện gian dối, búa liềm. Nó là chân thật, là
thao thức của tâm hồn. Nó là tiếng nói từ đáy lòng, là những dòng chữ
tuôn chảy, vươn tới đỉnh cao đẹp và chân thiện. Nó là cái đẹp tinh khôi
thuần khiết của nhân bản tính, nên ngưòi ta gọi nó là thơ, hồn thơ. Cũng
thế, ở trong Ngục Trung Nhật Ký hầu như có tất cả mọi vẻ đẹp cao đẹp
của một tập thơ. Nó không có một dấu hiệu nào là dùng dao mã tấu chém
chữ, nó lại cũng chân thật đến điên rồ nhận mình là Hán gian.
Thật
vậy. Ngục Trung Nhật Ký hầu như có mọi tố chất tạo nên một vẻ đẹp thanh
cao của một người yêu nước, yêu nước thiết tha. Bỗng nhiên, vì một lý
do nào đó, nhất thời thân bị giam trong nhà lao. Cuộc giam cầm này xem
ra không cho ông một nỗi đau đớn của thể xác, nhưng chém vào lòng ông
một nhát dao trí mạng. Hán gian! Và từ hai chữ này, tác giả đã trải nỗi
lòng của mình ra theo từng bước chân, trên từng trang giấy với những nhà
lao đã qua. Mà lạ, không một nhà lao nào để lại trong ông nỗi oán than
về thể xác. Nhưng tất cả như làm héo úa lòng ông vì tiêu pha ngày tháng
vô ích trong khi tổ quốc vẫn có thể cần đến ông trong một công việc gì,
dù là nhỏ bé. Bất cứ người nào đọc NTNK cũng dều thương cảm cho số phận
của cánh chim bàng trong lồng.Tiếc là khi ra đi, chung cuộc, ông không
để lại tên tuổi quê quán để cho người đời sau kính vọng ông.
Nhưng
bỗng dưng, HCM … vồ được tập thơ, cho ngưởi dịch ra tiếng Việt rồi nham
nhở hô hoán, thổi phồng lên “ nỗi lòng của bác ở trong tù”. Và nay,
Trần Đĩnh, người rất gần gũi với Hồ chí Minh, lại cho rằng, nhờ tập thơ
tâm sự, giải bày nỗi lòng này mà Tầu Tưởng tha cho “bác”. Thật, cái trí
tưởng tượng của chàng thanh niên 19 tuổi lên Atêka ngày nào vẫn còn vượt
đi ngàn dặm. Nhưng không biết, những bài thơ nào được coi là tiêu biểu
mà Trần Đĩnh gọi là “giải bày tâm sự trong tù với Tàu Tưởng, tôi đây yêu
nước, chứ không cộng sản”. Liệu có phải là bài này hay không?
Nhà nhà hoa kết với đèn giăng,
Quốc khánh reo vui cả nước mừng;
Lại đúng hôm nay ta bị giải,
Oái oăm giá cản cánh chim bằng “Tết Song thập bị giải đi Thiên Bảo” (Người dịch: Nam Trân)
Hay
là : Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận, Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh
.Trong ngục người nhàn nhàn quá đỗi, Chí cao mà chẳng đáng đồng chinh.
“Buồn bực” (Người dịch: Nam Trân)
Nếu là một trong hai bài này
thì rõ ràng tác giả biện minh ông ta không phải là cộng sản, nhưng là
một người rất yêu nước, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ cho quê hương.
Nhưng đó là quê hương Tàu chứ không phải quê hương Việt Nam. Vì ngày
“Tết Song Thập” chính là ngày Quốc Khánh của Trung Hoa Dân Quốc. Ông
buồn. Buồn vì ngày mà cả nước mừng reo vui, (có thể ông đã từng góp công
góp sức cho ngày này). Nay, thân ông như một cánh chim bàng, vẫn sẵn
sàng vì tổ quốc mà lại bị coi là Hán gian phản quốc, bị rẻ khinh chẳng
đáng giá một dồng xu!
Nỗi lòng của ông không chỉ có bấy nhiêu.
Nhưng vượt lên trên cả những nỗi oan tình, oán than, dù cô quạnh trong
chốn nhà giam, tác giả vẫn không oán hờn người bắt mình. Thay vào đó là
một khí phách lớn, bỏ qua mọi tỵ hiềm, oán giận cá nhân mà viết lờì kêu
gọi đồng bào trong cả nước hãy nghe theo lời Tổng Thống Tưởng giới Thạch
mà chiến đấu chống phát xít Nhật và tiêu diệt tập đoàn cộng sản Mao
Trạch Đông. Đã thế, còn ca tụng những chiến công của những viên tướng
của Tưởng đã chiến thắng Tầu Mao ở Chiết Giang như là những anh hùng của
dân tộc. Tác giả viết:
Đọc lời giáo huấn của ông Tưởng (Người dịch: Đỗ Văn Hỷ)
Gian khó không lùi, vẫn tiến lên,
Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên;
Quyết tâm gắng gỏi và kiên nghị,
Nhất định thành công sẽ có phen
Tướng quân Lương Hoa Thịnh thăng chức phó tư lệnh (Người dịch: Trần Đắc Thọ)
Đốc quân ngày trước vùng Tương, Chiết,
Chống giặc năm nay mạn Miến, Điền;
Lừng lẫy uy danh, thù mất mật,
Khải hoàn mừng trước, xướng thành thiên.
Phần
cá nhân tác giả thì ngồi nhìn trời, ngắm trăng mà bước đi theo cái đạo
trung trinh, cái nghĩa tiết tháo của vườn Đào: “Cành lá khéo in hình Dực
Đức, Vần hồng sáng mãi dạ Quan Công: ( Tức Cảnh, người dịch Nam Trân).
Có thế, đây quả thật là những bài thơ có khả năng giãi bày lòng yêu nước
của tác giả với Tàu Tưởng. Ai đọc cũng có thể thấy được nỗi lòng vì đất
nước của tác giả. Hơn thế, biết rõ Tổ quốc của tác giả là nước Trung
Hoa. Như thế, tác giả tuyệt đối không phải là Nguyễn Sinh Cung( Nguyễn
ái Quốc). Đã thế, tâm hồn tác giả xem ra hiền hậu, khoan dung, hoàn toàn
khác biệt với cái độc ác, vô lương, bá đạo, bất nghĩa của Hồ chí Minh.
3. Những cuộc gặp gỡ và vận động xin trả tự do cho tác giả và cho Hồ chí Minh.?
Đến
đây, tôi buộc tôi phải có cái tiểu đề cho rõ ràng để phân biệt cho hai
trường hợp, tác giả Ngục Trung Nhật Ký và Hồ chí Minh. Bởi lẽ, tôi không
thể lừa tôi, tôi không thể lừa dối bạn đọc và dư luận. Lý do, mọi người
đã nhìn thấy rõ đây là hai người hoàn toàn khác nhau, nhưng xem ra nhà
nuớc và cộng đảng Việt cộng lại cứ ỡm ở cho hai cái khác này quy vào một
người chỉ vì ăn phải bả của HCM. Và đây có phải là điểm mà Trần Đĩnh
muốn cho mọi người nhìn thấy sự thật bằng phản đề chăng?
Thú
thật, tôi rất ngạc nhiên, không biết tác giả lấy tài liệu ở đâu ra, hay
chính HCM nói cho Trần Đĩnh nghe là nhờ ông Hồ học Lãm nói giúp, nên
Trương phát Khuê đã thả Hồ chí Minh ra. Trong khi đó theo tài liệu được
ghi lại của Quốc Dân Đảng Việt Nam thì :” Sau khi xin phép Trưong phát
khuê vào thăm Nguyễn tường Tam thì cũng xin thăm luôn Hồ chí Minh, dù
không biết Minh là ai. Sau đó hai họ Vũ và Nghiêm đề ghị BCH/VNVMĐMH,
đứng ra can thiệp xin trả tự do cho Tam và Minh, Lần lượt sau đó hai
người này được trả tự va do và về trụ sở của VNCMĐMH để chờ hậu bổ ủy
viên”(Chương II: “VIỆT NAM CÁCH MẠNG ĐỒNG MINH HỘI Hoàng văn Đào). Tôi
không viết về chyện ai đã vận động để Trương phát Khuê trả tự do cho
HCM. Vì một bên có tài liệu, một bên nói bằng….mồm. Và cả hai cùng chẳng
ăn nhập gì đến những cuộc thăm viếng và làm thay dổi đời tạm giam của
tác giả. Bởi lẽ, chính tác giả kể về chuyện này, chẳng có Nghiêm, chẳng
có Vũ. Cũng chẳng có Hồ học Lãm, như sau:
Lính tráng tuần canh nhìn nhẵn mặt,
Hôm nay mới được gặp văn nhân;
Người trông nho nhã, ai không thích,
Mái tóc ta xanh lại mấy phần. (Khoa viên họ Trần tới thăm.(Người dịch: Nam Trân)
Hay nói về tấm thịnh tình của cố cựu khi đến thăm tác giả? Đây có phải là nhưng ngưòi bạn đồng môn ngày trước hay không?
Họ Ngũ trưởng khoa với họ Hoàng,
Thấy ta cùng cực động lòng thương;
Ân cần thăm hỏi và cưu giúp,
Như nắng bừng lên giữa giá sương (Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng .Người dịch: Huệ Chi). Thế là quá rõ ràng.
4. Phần ngoại đề:
Hãy
tạm bỏ quên những khác biệt về tài liệu sang một bên. Một câu hỏi cần
phải trả lời ngay để có thể tìm ra sự thật của câu chuyện là. Nếu tập
thơ là của Hồ chí Minh thì khi nào Hồ chí Minh đã dùng tập thơ này để
giãi bày, tâm sự nỗi lòng với Tầu Tưởng? Có phải là vào giai đoạn trước
khi Hồ chí Minh được thả chăng? Sự thường là thế. Nhưng nếu có việc trao
tập thơ này cho Tàu Tưởng, theo tôi, một trong ba trường hợp sau đã xảy
ra và Hồ chí Minh đều mất mạng.
1. Hồ chí Minh không bao giờ
được Trương phát Khuê trả tự do, và có thể bị vùi xác trong chốn nhà
lao. Sẽ không có sự việc cho HCM gia nhập vào VNCMĐMH và đưa về Việt
Nam.
2. Hai là sẽ giải giao cho Pháp để lấy tiền mua vài lít
rượi đế! Vì Pháp đang cần bắt và sẵn sàng trả tiền cho ai bắt được những
tên Việt cộng đầu xỏ ở Việt Nam.
3. Thứ ba quan trọng hơn cả, Hồ chí Minh đã lĩnh được cái búa của Mao trưóc khi ra khỏi nhà lao. Tại sao lại như vậy?.
Đơn
giản là trước kia Tàu Tưởng chỉ nghi tác giả là Hán gian. nhưng qua tập
thơ tác giả lại lòi ra là tên cộng sản thuộc đảng ủy Phúc kiến. Đây,
Tác giả viết :“Một canh…. Hai canh… lại ba canh, Trằn Trọc băn khoăn
giấc chẳng thành. Canh bốn, canh năm vửa chợp mắt, Sao vàng Năm Cánh
mộng hồn quanh “( Không ngủ được, người dịch Nam Trân.) Cở đỏ Sao vàng
là cờ của đảng cộng sản ở Phúc Kiến. Tàu Tưởng biết rất rõ lá cờ này.
Khi đó cộng sản tại Việt Nam chưa du nhập là cờ này vào tổ chức của họ.
Theo đó, tác giả thật sự có lẽ đã không còn. Ông ta đã chết vì Tàu Tưỡng
hay vì cái búa của Mao? Hoặc giả, đã biến tưóng thành một người khác?
Nhưng tại sao lại phải chết?
Giả sử Hồ chí Minh là tác giả. Khi
biết Hồ chí Minh là cộng sản, nếu Tàu Tưởng không bán Hồ cho Pháp thì
cũng sẽ phát tán tin tức, cho phổ diến rộng rãi những bài thơ của Hồ,
một kẻ phản đảng cộng ở Phúc Kiến, ca tụng Tưỏng Giới Thạch, ca tụng
Lương tướng quân, kẻ thù không đợi trời chung với Mao cho các tù nhân
trong tù đều biết mà noi gương. Mục đích này dĩ nhiên chẳng tử tế gì,
nhưng là nhờ tay những tù nhân cộng sản cuồng tín của Mao ở trong tù
thịt Hồ chí Minh. Bởi lẽ, kẻ chống Mao như Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu còn
không tránh được cái búa của Mao, xá chi một tên tù quèn An Nam như Hồ
chí Minh! Rồi làm gì có cảnh Trương phát Khuê nuôi cộng sản, bỏ cả tiền
lộ phí và phát quân trang quân dụng, vũ khí cho Hồ chí Minh, đưa Minh về
Nam lập nghiệp, giúp Mao trạch Đông đánh phá phía sau lưng tổ chức của
Trương?
Về phía Mao, nếu Tàu Tưởng đã mua chuộc đưọc tên phản
đảng, đã bảo vệ y và đám tù của Mao không thịt được Hồ chí Minh thì Hồ
cũng không tránh được cái búa tạ của Mao trên đường về Việt Nam. Làm gì
có chuyện Mao cung phụng cho Hồ từ gái, đến nhân sự cố vấn, tiền bạc và
quân trang quân dụng để Hồ giúp Tưởng, đánh Mao? Như thế, chỉ có một lý
lẽ duy nhất để Hồ sống sót. Y là Hồ Quang, người của Mao, là gián điệp
của Hoa Nam, được những tên nằm vùng dưói trướng của Tàu Khuê bảo vệ.
Hơn thế, còn tìm cách để Khuê cho Hồ về nam lập phòng tuyến cho Tàu
Tưởng, nhưng thực tế là làm việc cho Mao?
Ấy là chưa kể đến
trường hợp, khi tập thơ được dùng để “giải bày tâm sự với Tàu Tưởng”. Nó
không còn nằm ở trong tay Hồ chí Minh nữa. Làm gì có chuyện Tàu Tưởng
chỉ xin chép lấy bản sao làm kỷ niệm, còn bản chính màu xanh nhạt với
ngày tháng đề 8-1932- 9-1933 trả lại cho Hồ chí Minh đem về Việt Nam,
giao cho “ bầy em “ dịch ra tiếng Việt mà ộp ẹp, ê a?
Tóm lại qua
đoạn văn ngắn trên, tôi cho rằng, Trần Đĩnh không muốn đốt chính mình.
Trần Đĩnh chẳng ngô nghê. Trái lại, Trần Đĩnh cò thể có một chủ đích
khác? Tuy nhiên, kết luận của đoạn viết này là khá rõ:
- Tác giả NTNK là một người Hán. Nếu Hồ chí Minh là Tác giả NTNK thì Y là người Tàu.
- Không có nhiều chứng cớ cho thấy Tàu Tưởng biết Hồ chí Minh là cộng sản.
- Tập thơ không phải là của Hồ chí Minh, nên không có chuyện dùng tập thơ để giãi bày với Tàu Tưởng.
-
Những ngưòi hoạt động để cứu Hồ chí Minh và những người đến thăm tác
giả là những người hoàn toàn khác biệt. Không có liên hệ gì với nhau, và
những cuộc thăm viếng cũng có mục đích khác nhau. Một bên vì muốn cứu
một người Việt Nam mới bị bắt giam, nhưng không ai biết lý lịch của y ra
sao, là ai, cũng không biết y là kẻ theo cộng sản. Chỉ nghe Khuê nói Y
là người Việt Nam, tên là Hồ chí Minh và mới bị bắt giam. Một bên, có
thể là đến thăm bạn đồng môn đồng liêu trước kia, nhưng nay bị vướng vào
vòng lao lý vì đã lầm đường theo cộng sản Phúc Kiến. Những cuộc viếng
thăm này có lẽ chỉ có mục đích thăm bạn, và nhờ ảnh hưởng của họ, hy
vọng bạn xưa bớt bị cực hình ở trong tù của Tưởng mà thôi. Nhưng Hồ chí
Minh vì lý do nào đó vồ được tập thơ và gây ra nghi án văn học này thì
chưa có lời giải đáp.
- Sự chủ quan mang tính xác định của Trần
Đĩnh trong đoạn viết này sẽ là nguyên cớ làm cháy Đèn Cù. Ngoại trừ
trường hợp Đĩnh đã viết bằng sự gian dối cho vừa lòng đảng! Đó lại là
một câu chuyện khác!
V. Thân phận tác giả với Đèn Cù.
Bảo Giang
Đèn Cù bản cáo trạng trước khi đèn bị cháy (P4)
Bảo Giang (Danlambao) -
...Dù đứng nhìn từ bất cứ góc cạnh nào, theo tôi, Đèn Cù của Trần Đĩnh
miên viễn có một cuộc sống vững chắc trong lòng nhân gian. Cuộc sống và
giá trị của nó về mặt luân lý, đạo đức xã hội sẽ được nói đến nhiều hơn
về mặt “ biến động “ chính trị. Nó còn sống mãi trong nhân gian bời vì,
bản thân cái Đèn Cù, trước đây rất gần gũi với cuộc sống đời thường. Nay
nó lại nhắc cho ta thấy cảnh lang sói của đảng cộng. Trước kia nó mang
tính hài, mua vui cho người bằng những hình ảnh voi giấy ngựa giấy. Nay,
vẫn là những voi giấy, ngựa giấy, chó giấy, nhưng bằng hình người, bằng
quan cán, đã làm bại hoại nền văn hóa và luân thường đạo lý của xã hội
Việt Nam, bằng cách che râu dấu mặt, bằng sự áp đặt cho nhau một thứ
luật lệ không có hàm tính người. Mà khởi đầu là hình ảnh tồi bại của Hồ
Chí Minh. Với chỉ tám chữ “cụ” Hồ che râu đi dự đấu tố (một buổi)”, tác
giả đã phô diễn trọn vẹn hình ảnh, và đạp nát tên tuổi và sự nghiệp cực
vĩ đại của Hồ Chí Minh. Một sự nghiệp phản luân lý, phản đạo đức mà có
lẽ không có kẻ thứ hai dưới bầu trời này làm được...
*
V. Thân phận tác giả và người dân Việt trong Đèn Cù
Trần Đĩnh viết: “tôi đã tự nguyện làm thủ phạm tàn phá trước hết vào
chính ngay mình. Tôi vốn yêu viết. Nhưng đã không viết nổi. Đứa thủ phạm
là tôi bắt tôi viết dưới bóng tối của Thù Hằn và Dối Trá”. Đúng
thế, Trần Đĩnh đã tự nguyện đi vào con đường này khi trở thành một đảng
viên cộng sản. Nhưng xem ra đó không phải là một trường hợp đơn lẻ của
tác giả. Trái lại, còn là số phận của rất nhiều người như ông. Nghĩa là,
chẳng có ai ngờ hình ảnh của Đèn Cù với những voi giấy ngựa giấy, chó
giấy bằng người trong cái vòng quay mê sảng kia lại là số phận, hay trói
buộc vận mệnh của đất nước và người Việt Nam vào với nó!
Cuộc sống của cái Đèn Cù gắn liền với những vòng quay. Tác giả đã nhìn
ra những vòng quay, đã vẽ lại chuyện của nó, mở ra cuộc sống của Đèn Cù.
Ở đó, những hình thú xuất hiện từ 1930 đến nay đều như những đàn voi
giấy, ngựa giấy, chó giấy làm người, cứ thay nhau mê sảng, chạy đuổi
theo những vòng quay ma quái, bất kể đến sự khốn khổ của con người, bất
kể đến sinh mệnh và sự sống còn của cả một dân tộc. Để ở đó, thân phận
của tác giả, của con người bị đè nghiến, bị chà đạp.
Ở đó, niềm tin của tôn giáo bị lăng mạ, bị xúc phạm. Luân thường đạo lý và văn hóa nhân bản của dân tộc bị triệt hạ và đất nước dần mất chủ quyền. Trong nhà mất cha mẹ, mất anh em, ra ngoài mất tình nghĩa, mất láng giềng, mất xóm thôn. Mất trọn từ tinh thần đến vật chất. Gọn một câu là mất trắng. Sự mất trắng được tác giả định hình một cách sắc bén, rõ nét. Nó là kết quả từ việc nhà nước CS đưa ra định nghĩa về người đảng viên. Trần Đĩnh viết:
Ở đó, niềm tin của tôn giáo bị lăng mạ, bị xúc phạm. Luân thường đạo lý và văn hóa nhân bản của dân tộc bị triệt hạ và đất nước dần mất chủ quyền. Trong nhà mất cha mẹ, mất anh em, ra ngoài mất tình nghĩa, mất láng giềng, mất xóm thôn. Mất trọn từ tinh thần đến vật chất. Gọn một câu là mất trắng. Sự mất trắng được tác giả định hình một cách sắc bén, rõ nét. Nó là kết quả từ việc nhà nước CS đưa ra định nghĩa về người đảng viên. Trần Đĩnh viết:
”Định nghĩa đảng viên là ngọc là vàng của đảng cho nên vào tổng kiểm
thảo, Tố Hữu yêu cầu học viên rất ngặt. Hễ là con em hay liên quan với
địa chủ, học viên đều phải thành khẩn tự khai báo với đảng mọi sai lầm
tội lỗi của bản thân, chẳng hạn đồng tình, về hùa với gia đình, thậm chí
cùng với gia đình trực tiếp đàn áp, bóc lột nông dân... Thứ hai, phải
vạch ra mọi thủ đoạn đàn áp, bóc lột nông dân cùng tội ác của bố mẹ, gia
đình, họ hàng địa chủ, cường hào gian ác. Thứ ba trên cơ sở thành khẩn
khai báo kia mà tuyên bố là căm thù bố mẹ, tỏ ra đã dứt khoát lập trường
vô sản, đoạn tuyệt với kẻ thù giai cấp. Không đạt yêu cầu căm thù bố
mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ thì bản tổng kiểm thảo bị “phá sản”, học viên
đó phải ngồi học lại cho tới khi nào lập trường vô sản, lập trường nông
dân thắng, anh ta công khai tuyên bố căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ
mình (mới thôi). Tố Hữu làm đúng lời Bác Hồ thôi”. (trang 74-75)
Có ai không rùng mình, không kinh hoảng, không lạnh người khi đọc đoạn
viết kể ra những quy định, những nguyên tắc căn bản làm thước đo cho lập
trường vô sản của các học viên (đoàn, đảng viên) cộng sản không? Có ai
ngờ rằng trong lòng của tổ chức này lại có những điều khoản man rợ với
chủ trương, trước là chối bỏ quyền làm người của con người, khước từ
quyền có quan hệ tình cảm yêu thương với cha mẹ và gia đình. Sau còn
phải “công khai tuyên bố căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ” như là điều kiện tiên quyết để bày tỏ lập trường vô sản hay không?
Tôi thực sự kinh hoàng sợ hãi khi đọc lại những dòng chữ này. Lúc đầu
mắt tôi hoa lên không thể tin vào chữ. Tâm trí tôi không thể tưởng tưởng
ra được là trên đời này lại có một thứ giáo điều vô giáo dục đến như
thế. Mà nào có phải chỉ có bấy nhiêu đâu. Sau khi học viên đã “công khai tuyên bố căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ” là người Việt Nam, người đảng viên còn phải thể hiện mình theo bản điều lệ đảng, trong ấy có ghi rõ “lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam, ”...
Đảng Lao động Việt Nam nguyện học tập Đảng Cộng Sản Trung Quốc, học tập
tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lãnh đạo nhân dân Trung Quốc (tr.
49)”. Theo đó, chẳng còn một chút hình bóng Việt Nam nào ở trong lòng họ
nữa. Thật kinh hãi quá.
Tôi thường đọc sách. Thỉnh thoảng có đọc những cuốn sách nói về đời sống
trong hoang dã. Ở đó, nhiều tác giả viết về đời sống của những bầy sư
tử, bầy cọp hay những đàn voi, bầy ngựa. Họ mô tả về cuộc sống hài hòa
của từng đàn với sự góp mặt của ba hay bốn thế hệ. Chúng không thể
chuyện trò với nhau, nên đôi khi có những cuộc tranh chiến, nhưng thường
là rất ngắn, mang tính cá thể hơn là tập thể. Chúng có những tiếng kêu,
những biểu lộ cho nhau biết sự đau đớn, sự vui mừng, đôi khi là giận
dữ. Nhưng tuyệt đối, không bao giờ có sự biểu lộ là đoạn tuyệt với nhau.
Càng không bao giờ coi nhau như kẻ thù. Vậy mà trong tổ chức của đảng cộng sản VN, một tổ chức tự ban cho mình đủ mọi danh nghĩa, danh hiệu, từ mức độ tiến bộ, đến trí tuệ đỉnh cao, tiến hóa hơn hẳn những trí tuệ của con người, kể cả con người thời cổ đại hay con người của hôm nay, mà có những quy định trong kiểm điểm, tự phê, kiểm thảo đòi buộc học viên phải “công khai tuyên bố căm thủ bố mẹ, đoạn tuyệt bố mẹ” để tỏ lập trường vô sản với đảng thì quả là sự kinh hoàng đến kinh tởm. Khi đọc những điều lệ, quy định này, tôi thực sự không biết đây là tổ chức của người hay của ma? Nếu bảo là tổ chức của ma quái thì chắc không đúng. Mà bảo là của người thì có lẽ càng sai. Bởi vì, Lưu Cộng Hòa, (một học viên?) đã cay đắng bảo với Trần Đĩnh là: “Nay nhận mình là con vật mới đúng đấy” (tr 244)
Càng không bao giờ coi nhau như kẻ thù. Vậy mà trong tổ chức của đảng cộng sản VN, một tổ chức tự ban cho mình đủ mọi danh nghĩa, danh hiệu, từ mức độ tiến bộ, đến trí tuệ đỉnh cao, tiến hóa hơn hẳn những trí tuệ của con người, kể cả con người thời cổ đại hay con người của hôm nay, mà có những quy định trong kiểm điểm, tự phê, kiểm thảo đòi buộc học viên phải “công khai tuyên bố căm thủ bố mẹ, đoạn tuyệt bố mẹ” để tỏ lập trường vô sản với đảng thì quả là sự kinh hoàng đến kinh tởm. Khi đọc những điều lệ, quy định này, tôi thực sự không biết đây là tổ chức của người hay của ma? Nếu bảo là tổ chức của ma quái thì chắc không đúng. Mà bảo là của người thì có lẽ càng sai. Bởi vì, Lưu Cộng Hòa, (một học viên?) đã cay đắng bảo với Trần Đĩnh là: “Nay nhận mình là con vật mới đúng đấy” (tr 244)
Tôi không biết nhận định của Lưu Cộng Hòa đúng hay sai. Tuy nhiên, tôi
cho rằng đoạn viết về định nghĩa và những quy định để tạo nên người đoàn
đảng viên CS là một đoạn văn quan trọng và kinh dị nhất trong Đèn Cù.
Quan trọng vì nó đã cho mọi người thấy rõ chủ trương vô gia đình và
những phương cách triệt hạ, tiêu diệt tình cảm gia đình ở trong lòng các
đoàn đảng viên CS. Kinh dị, vì nó không chỉ là một phương cách đào tạo
cán bộ bằng thuần lý thuyết. Trái lại, là một phương cách triệt để trong
thực hành. Hơn thế, còn là một điều kiện duy nhất.
Bởi vì “Không đạt yêu cầu căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ thì bản tổng kiểm thảo bị “phá sản”. Nghĩa là điều kiện này không đạt, chưa đạt, học viên phải học tập lại cho đến khi đạt mới thôi! Như thế, chính cái quy luật “tự phê, tự kiểm thảo” này là đầu mối của tất cả mọi bất hạnh của Việt Nam từ 80 năm qua. Từ đấu tố, gây tội ác, chiến tranh, cho đến nghèo đói tụt hậu, nước mất chủ quyền, mất đất đai, biển đảo và đạo đức của xã hội bị băng hoại đều bắt nguồn từ cái luật lệ man di này.
Bởi vì “Không đạt yêu cầu căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ thì bản tổng kiểm thảo bị “phá sản”. Nghĩa là điều kiện này không đạt, chưa đạt, học viên phải học tập lại cho đến khi đạt mới thôi! Như thế, chính cái quy luật “tự phê, tự kiểm thảo” này là đầu mối của tất cả mọi bất hạnh của Việt Nam từ 80 năm qua. Từ đấu tố, gây tội ác, chiến tranh, cho đến nghèo đói tụt hậu, nước mất chủ quyền, mất đất đai, biển đảo và đạo đức của xã hội bị băng hoại đều bắt nguồn từ cái luật lệ man di này.
Nhớ lại, từ hơn 80 năm qua, người ta không xa lạ gì với những câu chuyện
ở làng này, huyện nọ, tỉnh kia, con cái phải đấu tố cha mẹ dưới áp lực
từ cái búa, cái liềm của Hồ chí Minh. Ngay trong “Chứng từ của một Giám Mục” cũng có ghi lại một câu chuyện rất thương tâm, đau đớn như sau: “một
người phụ nữ đứng tuổi, rất thương người cha già chị chăm sóc hằng
ngày. Chị nói với bố “Ông có biết tôi là ai không?” người cha ngậm ngùi,
trước nhìn đứa con dứt ruột mình đẻ ra và nói: Thưa bà, con là người đẻ
ra bà ạ.” (tr. 393).
Tuy nhiên, xưa nay, chưa có ai nhìn thấy, hay nghe ai nói đến sự kiện đảng CS buộc các đoàn đảng viên trong kiểm thảo phải “công khai tuyên bố căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt bố mẹ” như là một điều kiện tiên quyết để bày tỏ lập trường vô sản của bản thân. Cũng không ai biết các phương cách thực hiện chủ trương vô gia đình, triệt hạ tình cảm trong gia đình của cộng sản như thế nào. Nên hầu như đều cho rằng, việc các đội gọi là “cải cách” làm áp lực, đẩy con cái ra đấu tố cha mẹ, với lời dụ dỗ của cán bộ là “làm như thế để cứu cha mẹ và cứu chính mình”, chỉ là những hành động lạm dụng quyền lực nhất thời của những kẻ vô giáo dục, trong hàng ngũ cán cộng vô văn hóa tự tung tự tác mà thôi. Đó không phải là một chủ trương, một sách lược lớn của cộng sản nhằm tiêu diệt nền tảng của các gia đình trong xã hội.
Tuy nhiên, xưa nay, chưa có ai nhìn thấy, hay nghe ai nói đến sự kiện đảng CS buộc các đoàn đảng viên trong kiểm thảo phải “công khai tuyên bố căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt bố mẹ” như là một điều kiện tiên quyết để bày tỏ lập trường vô sản của bản thân. Cũng không ai biết các phương cách thực hiện chủ trương vô gia đình, triệt hạ tình cảm trong gia đình của cộng sản như thế nào. Nên hầu như đều cho rằng, việc các đội gọi là “cải cách” làm áp lực, đẩy con cái ra đấu tố cha mẹ, với lời dụ dỗ của cán bộ là “làm như thế để cứu cha mẹ và cứu chính mình”, chỉ là những hành động lạm dụng quyền lực nhất thời của những kẻ vô giáo dục, trong hàng ngũ cán cộng vô văn hóa tự tung tự tác mà thôi. Đó không phải là một chủ trương, một sách lược lớn của cộng sản nhằm tiêu diệt nền tảng của các gia đình trong xã hội.
Nay thì mọi chuyện đã phơi bày, đã được xác minh. Đèn Cù như một bản cáo
trạng luân lý, phơi bày tất cả những tội ác phạm đến con người và phạm
đến nền luân lý, đạo đức của xã hội Việt Nam do cộng sản thực hiện. Theo
đó việc các đội đấu áp lực, buộc con cái đấu tố bố mẹ, không phải là
chuyện tự tung tự tác của những thành phần vô giáo dục trong đảng cộng
sản tạo ra.
Trái lại, đây là một trong những phương cách cơ bản trong sách lược vô gia đình của CS mà mọi học viên (đoàn đảng viên) cộng sản phải có nhiệm vụ thực hiện trong đời sống của công chúng đế phá hoại đời sống của các gia đình, ngõ hầu tận diệt tình cảm của các cá nhân trong các gia đình. Đánh bật con người ra khỏi nơi nương tựa vững chắc nhất là gia đình. Để từ đó, mọi người mất chỗ tựa, chỉ còn biết nhìn vào đảng và bước đi theo mệnh lệnh của CS.
Theo chủ trương này, việc che râu dấu mặt đi dự đấu tố, việc viết bản cáo trạng (bản đấu tố) “địa chủ ác ghê” với nội dung ngậm máu phun người để mở đầu cho cuộc đấu tố nhân dân Việt Nam do Hồ Chí Minh thực hiện, không phải đơn thuần là sự biểu lộ cái tư cách đểu cáng, tồi bại, tối bất lương của cá nhân Y. Nhưng còn là bài học thực tế cho mọi cán bộ đảng viên cộng sản phải noi theo nữa. Bằng chứng là:
Trái lại, đây là một trong những phương cách cơ bản trong sách lược vô gia đình của CS mà mọi học viên (đoàn đảng viên) cộng sản phải có nhiệm vụ thực hiện trong đời sống của công chúng đế phá hoại đời sống của các gia đình, ngõ hầu tận diệt tình cảm của các cá nhân trong các gia đình. Đánh bật con người ra khỏi nơi nương tựa vững chắc nhất là gia đình. Để từ đó, mọi người mất chỗ tựa, chỉ còn biết nhìn vào đảng và bước đi theo mệnh lệnh của CS.
Theo chủ trương này, việc che râu dấu mặt đi dự đấu tố, việc viết bản cáo trạng (bản đấu tố) “địa chủ ác ghê” với nội dung ngậm máu phun người để mở đầu cho cuộc đấu tố nhân dân Việt Nam do Hồ Chí Minh thực hiện, không phải đơn thuần là sự biểu lộ cái tư cách đểu cáng, tồi bại, tối bất lương của cá nhân Y. Nhưng còn là bài học thực tế cho mọi cán bộ đảng viên cộng sản phải noi theo nữa. Bằng chứng là:
“Chu Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách ruộng đất Nghệ-Tĩnh, bắc ghế
ngồi trên thềm cao chỉ tay vào mặt mẹ đẻ chắp tay đứng ở dưới sân dằn
giọng: -Tao với mi không mẹ không con mà chỉ là kẻ thù giai cấp của
nhau. Tao có phận sự tiêu diệt mi mà mi thì nhất định sẽ chống lại... Bà
mẹ cắn lưỡi không chết. Ít lâu sau, nhảy giếng tự tử thành... Chu Văn
Biên ký lệnh xử tử bất kỳ ở đâu... - Biên nay làm gì? - Đề bạt thứ
trưởng nông nghiệp!”(tr 109)
Chu Văn Biên có là một học viên trong khóa học cao cấp trong Atêka hay
không, không thấy Trần Đĩnh nhắc đến. Nhưng việc làm của tên cẩu trệ
này, và việc y được đề bạt lên hàng thứ trưởng từ thành tích chỉ vào mặt
mẹ mà đấu tố, đã chứng minh một cách quyết liệt là Y đã được đào tạo
rất bài bản theo đúng chủ trương của CS. Nó đã chứng minh CS có chủ
trương tận diệt tình cảm của con người ngay từ trong gia đình. Nó đã
chứng minh CS chính là thủ phạm làm phá sản nền văn hóa nhân bản của dân
tộc, làm băng hoại nền luân lý đạo đức của xã hội Việt Nam.
Dĩ nghiên, sự tàn phá luân thường đạo lý của xã hội do CS chủ trương, chưa ngừng lại ở đó. Trái lại, nó còn tiếp diễn về lâu về dài và ở dưới nhiều hình thức khác nhau. Nơi trường học, trong giáo dục, đào tạo, chẳng nơi nào trẻ em được giáo dục, được đào tạo với một tinh thần nhân bản hướng thượng, “Tiên học lễ, Hậu học văn” phải thảo hiếu với cha mẹ, kính trọng ông bà, bảo vệ tình nghĩa đồng bào. Trái lại, ở bất cứ nơi đâu cũng chỉ thấy những khẩu hiệu thúc giục mọi giới, mọi cấp, học tập theo gương đạo đức “cụ” Hồ. Mà cái đạo đức lớn nhất của Hồ Chí Minh lại chính là việc viết ra bản đấu tố “địa chủ ác ghê” để ngậm máu phun người, và sau đó “che râu đi dự đấu tố” người ân nhân, và giết vợ từ con!
Dĩ nghiên, sự tàn phá luân thường đạo lý của xã hội do CS chủ trương, chưa ngừng lại ở đó. Trái lại, nó còn tiếp diễn về lâu về dài và ở dưới nhiều hình thức khác nhau. Nơi trường học, trong giáo dục, đào tạo, chẳng nơi nào trẻ em được giáo dục, được đào tạo với một tinh thần nhân bản hướng thượng, “Tiên học lễ, Hậu học văn” phải thảo hiếu với cha mẹ, kính trọng ông bà, bảo vệ tình nghĩa đồng bào. Trái lại, ở bất cứ nơi đâu cũng chỉ thấy những khẩu hiệu thúc giục mọi giới, mọi cấp, học tập theo gương đạo đức “cụ” Hồ. Mà cái đạo đức lớn nhất của Hồ Chí Minh lại chính là việc viết ra bản đấu tố “địa chủ ác ghê” để ngậm máu phun người, và sau đó “che râu đi dự đấu tố” người ân nhân, và giết vợ từ con!
Ở trên, nhắc đến Chu Văn Biên, một kẻ chỉ vào mặt mẹ mà đấu tố để được
đề bạt lên hàng thứ trưởng, mà không nhắc đến Nguyễn Tư Nghiêm, một
người đã giả điên, bị đưa vào nhà thương điên, khi từ chối, không thể
nói căm thù bố mẹ được, dù chỉ là nói giả vờ cho qua mắt đảng là một
thiếu sót lớn. Qua câu chuyện dù nhỏ, nhưng tôi cho rằng nó mang một ý
nghĩa cực lớn, như một bài học luân lý làm người đầu tiên cho những đảng
viên cộng sản phải nhận biết. Tiếc rằng, lý lẽ sống của họ là lòng căm
thù, là gian dối và tội ác.
Nên ngay cha mẹ, người sinh thành, dưỡng dục cho họ khôn lớn, họ còn căm thù, còn đoạn tuyệt, thì cái gương của Tư Nghiêm chẳng đáng là gì để bận tâm. Khéo mà nó đã như một truyện cười cho khóa học kiểm thảo ấy! Tôi thực sự ngưỡng mộ Nguyễn tư Nghiêm trong câu chuyện này. Nhờ đoạn viết này, mà người Việt Nam có thêm được một ít hiểu biết về cái tổ chức không có “hàm tính người” đang ngự trị trên phần đất Việt Nam. Và có thêm một lý lẽ chính đáng nữa để cương quyết loại trừ cái tổ chức vô luân này ra khỏi xã hội Việt Nam.
Nên ngay cha mẹ, người sinh thành, dưỡng dục cho họ khôn lớn, họ còn căm thù, còn đoạn tuyệt, thì cái gương của Tư Nghiêm chẳng đáng là gì để bận tâm. Khéo mà nó đã như một truyện cười cho khóa học kiểm thảo ấy! Tôi thực sự ngưỡng mộ Nguyễn tư Nghiêm trong câu chuyện này. Nhờ đoạn viết này, mà người Việt Nam có thêm được một ít hiểu biết về cái tổ chức không có “hàm tính người” đang ngự trị trên phần đất Việt Nam. Và có thêm một lý lẽ chính đáng nữa để cương quyết loại trừ cái tổ chức vô luân này ra khỏi xã hội Việt Nam.
Trở lại thân phận của tác giả trong Đèn Cù. Tôi cho rằng, vì cái quy
luật không có hàm tính người trong kiểm thảo, và hình ảnh của Nguyên Tư
Nghiêm, mà trong gần 600 trang giấy trải lòng, Trần Đĩnh đã không viết
ra thân phận của mình từ những hư cấu văn chương, khiếm thị, hay từ
những bi quan yếm thế, thất bại. Trái lại, tác giả đã viết bằng cái minh
mẫn từ những vòng quay. Khi thì nó đưa Trần Đĩnh lên cung mây với khát
vọng của tuổi trẻ hòa thân vào nghiệp nước, hăng hái lên đường để góp
phần mình vào việc tranh đấu cho đất nước thoát cảnh ngoại xâm với mong
ước có Hòa Bình, Tự Do, Dân Chủ và Độc Lập.
Khi thì nó nuông chìu, ưu ái tác giả hơn người bằng những lời khen thưởng. Và rồi nó đưa tác giả vào một đường lên hãnh diện lớn “Được gần gũi và biết và mến phục một dân tộc vĩ đại, một văn hóa vĩ đại. Được nói một ngôn ngữ nhiều người nói nhất hành tinh.” (Tr.153). Tưởng thế là lên tít trên cao, cao mãi với đảng cộng không nhân tính. Không bao giờ ngờ đến chuyện có một ngày rơi trở lại làm người. Người có nhân!
Khi thì nó nuông chìu, ưu ái tác giả hơn người bằng những lời khen thưởng. Và rồi nó đưa tác giả vào một đường lên hãnh diện lớn “Được gần gũi và biết và mến phục một dân tộc vĩ đại, một văn hóa vĩ đại. Được nói một ngôn ngữ nhiều người nói nhất hành tinh.” (Tr.153). Tưởng thế là lên tít trên cao, cao mãi với đảng cộng không nhân tính. Không bao giờ ngờ đến chuyện có một ngày rơi trở lại làm người. Người có nhân!
Dù không ngờ, chuyện ấy đã đến. Từ đỉnh cao, trong mơ ước đi lên, nó đạp
Trần Đĩnh xuống hàng chó ngựa trong cuộc tranh giành vòng quay xin làm
nô lệ cho ngoại bang của lãnh đạo. Bản thân tác giả bị hạ tầng công tác,
đi lao công trong nhà máy. Dĩ nhiên, đi lao động không phải là cực
hình, sự cực hình chính là bị đày ải như một tên nô lệ. Bấy nhiêu vẫn
chưa đủ ê chề, nó đạp Trần Đĩnh ra khỏi cuộc chơi bằng một mảnh giấy
khai trừ, để Trần Đĩnh rơi vào trong hoảng loạn, ray rức, tủi hổ, nối
tiếc và đầy những ân hận!
Trần Đĩnh viết về mình như thế có lẽ là thật. Rất thật. Nhưng tôi cho
rằng, đó không đơn giản là số phận của riêng tác giả. Trái lại, nó còn
là số phận của con dân Việt Nam nữa! Bởi vì khi Trần Đĩnh lên Atêka, có
hàng hàng lớp lớp người Việt Nam đã thực lòng ra đi theo bước chân sơn
hà nguy biến. Mục đích của họ là cứu nước khỏi cuộc xâm lăng của thực
dân Pháp.
Ước mơ lên cao là thế, nhưng cái vòng quay ma quỷ, vô gia đình do Nguyễn Ái Quốc đưa vào Việt Nam theo lệnh của Mao từ 1930, được Hồ Quang tiếp nối từ sau 1933, đã không quay theo ước mong của người Việt Nam. Trái lại, nó quay sang Tàu, nó dần dần giết chết và thay đổi cả bộ nào của người dân Việt, để ở đó không còn sức sống. Ở đó chỉ còn lại những thân phận nô lệ bạc nhược, không tự chủ. Tệ hơn thế, bị vùi dập như thân chó ngựa trong cuộc đấu tố. Ở đó, nhân bản đạo lý và con người bị đào thải ra bên lề xã hội. Rồi được thay vào đó là lối sống, lẽ sống của xã hội là chủ nghĩa CS chỉ có đúng năm chữ để hành sự: Gian trá và tội ác.
Ước mơ lên cao là thế, nhưng cái vòng quay ma quỷ, vô gia đình do Nguyễn Ái Quốc đưa vào Việt Nam theo lệnh của Mao từ 1930, được Hồ Quang tiếp nối từ sau 1933, đã không quay theo ước mong của người Việt Nam. Trái lại, nó quay sang Tàu, nó dần dần giết chết và thay đổi cả bộ nào của người dân Việt, để ở đó không còn sức sống. Ở đó chỉ còn lại những thân phận nô lệ bạc nhược, không tự chủ. Tệ hơn thế, bị vùi dập như thân chó ngựa trong cuộc đấu tố. Ở đó, nhân bản đạo lý và con người bị đào thải ra bên lề xã hội. Rồi được thay vào đó là lối sống, lẽ sống của xã hội là chủ nghĩa CS chỉ có đúng năm chữ để hành sự: Gian trá và tội ác.
Từ cuộc thống trị của tội ác và phi nhân bản của CS, ngoài cái chết của
hơn 172 ngàn người dân vô tội với hàng trăm ngàn gia đình phải ly tán,
là nền luân lý đạo hạnh và văn hóa nhân bản của xã hội Việt Nam cũng bị
đào bới tận gốc rễ. Những tội đại ác, con giết cha mẹ, chồng giết vợ,
tình nhân giết nhau theo gương Hồ Chí Minh giết Nông Thị Xuân ngày càng
nhiều. Và tận cuối đáy của xã hội là hàng năm có đến hàng trăm ngàn trẻ
sơ sinh chưa nhìn thấy cuộc đời đã mất mạng vì cái “đạo đức” được gọi là đạo đức Hồ Chí Minh.
Một thứ “đạo đức” mà những thiếu niên, những bà mẹ trẻ chưa nhìn thấy mặt con, đã bị CS nhồi sọ ngay từ trước khi bước chân vào học đường. Và lớn lên trong một xã hội chỉ biết khai mở phần “hạ bộ” với những gian trá, lừa đảo. Không bao giờ có được những bài học đạo đức hướng thượng theo tinh thần của Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung. Kết quả, nghĩa trang Hài Nhi mỗi lúc một mọc lên như nấm ở trên mọi phần đất nước. Và rất thản nhiên, nhà nước mở ra những trung tâm gọi là nạo, cạo thai cho lũ trẻ! Rồi bên cạnh sách lược đào tạo cán bộ, đảng viên với lòng “căm thù bố mẹ và đoạn tuyệt với bố mẹ”, cộng sản còn thi hành sách lược “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, buộc mọi người phải tham gia vào những cuộc đấu tố giết người.
Kết quả, luân thường đạo lý và tình nghĩa đồng bào của Việt Nam cũng đã tan bay theo những dòng máu chảy trong vu khống, đầy oan khiên của đồng bào mình. Từ đó, nó tiếp tục đẩy dân ta vào vòng cùng khốn và bị nghiền nát dưới cái chủ nghĩa vô gia đình, vô tổ quốc vô tôn giáo của CS. Và đây, mới chính là cái ý nghĩa đích thực xuống hàng chó ngựa trong xã hội cộng sản do cái vòng quay ma quỷ của nó tạo ra.
Một thứ “đạo đức” mà những thiếu niên, những bà mẹ trẻ chưa nhìn thấy mặt con, đã bị CS nhồi sọ ngay từ trước khi bước chân vào học đường. Và lớn lên trong một xã hội chỉ biết khai mở phần “hạ bộ” với những gian trá, lừa đảo. Không bao giờ có được những bài học đạo đức hướng thượng theo tinh thần của Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung. Kết quả, nghĩa trang Hài Nhi mỗi lúc một mọc lên như nấm ở trên mọi phần đất nước. Và rất thản nhiên, nhà nước mở ra những trung tâm gọi là nạo, cạo thai cho lũ trẻ! Rồi bên cạnh sách lược đào tạo cán bộ, đảng viên với lòng “căm thù bố mẹ và đoạn tuyệt với bố mẹ”, cộng sản còn thi hành sách lược “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, buộc mọi người phải tham gia vào những cuộc đấu tố giết người.
Kết quả, luân thường đạo lý và tình nghĩa đồng bào của Việt Nam cũng đã tan bay theo những dòng máu chảy trong vu khống, đầy oan khiên của đồng bào mình. Từ đó, nó tiếp tục đẩy dân ta vào vòng cùng khốn và bị nghiền nát dưới cái chủ nghĩa vô gia đình, vô tổ quốc vô tôn giáo của CS. Và đây, mới chính là cái ý nghĩa đích thực xuống hàng chó ngựa trong xã hội cộng sản do cái vòng quay ma quỷ của nó tạo ra.
Vòng quay chưa dừng lại ở đó. Trái lại, còn trêu người, lửng lơ với câu
chuyện được xét lại. Việc cá nhân là xét lại bản án xét lại của Trần
Đĩnh. Việc chung là xét lại sách lược đấu tố trong cải cách ruộng đất.
Vẽ ra con đường dân chủ giả hiệu. Kết quả, tất cả chỉ là những ngôn từ
trống rỗng, nhằm mục đích xoa dịu sự phẫn uẫn của mỗi cá nhân hay tập
thể cho trôi qua với thời gian. Sau đó, cộng sản lại bước sang một bước
lừa gạt kế tiếp. Hoặc giả, thả thêm những cái lưỡi câu mới nhằm móc chặt
vào cổ họng của từng cá nhân để không ai có thể lên tiếng.
Như thế, cuộc khai trừ Trần Đĩnh ra khỏi đảng như là một kết quả phải đến của hai sự sai lầm cộng chung lại. Một bên vì sai lầm tin và đi theo đảng. Một bên thì lợi dụng con người, bắt nó làm phương tiện cho một chủ trương của nhà nước. Cuộc khai trừ ấy có khác gì sự sai lầm của người dân đi theo CS, để rồi bị đuổi cùng giết tận do chính sách lược mà CS dành sẵn cho những người vì mơ ước có Độc Lập, có Tự Do mà lên đường?
Như thế, cuộc khai trừ Trần Đĩnh ra khỏi đảng như là một kết quả phải đến của hai sự sai lầm cộng chung lại. Một bên vì sai lầm tin và đi theo đảng. Một bên thì lợi dụng con người, bắt nó làm phương tiện cho một chủ trương của nhà nước. Cuộc khai trừ ấy có khác gì sự sai lầm của người dân đi theo CS, để rồi bị đuổi cùng giết tận do chính sách lược mà CS dành sẵn cho những người vì mơ ước có Độc Lập, có Tự Do mà lên đường?
Nó khác gì một cuộc tổng lừa bịp trong chiến tranh giải phóng miền nam để “xây lại bằng mười năm xưa”,
để bao nhiêu người miền Nam nhẹ dạ theo nó và bao nhiêu con cháu của họ
từ Nam đến Bắc đã mất mạng, ngụp lặn trong bể máu của dân tộc, để thỏa
mãn cho một nhu cầu quyền lực giai đoạn của cộng sản, và mở rộng biên
giới cho Tàu cộng! Sau cùng, hàng trăm ngàn người chết trên biển khơi,
hàng triệu người phải bỏ nước đi tìm Tự Do, và hàng triệu người đi tù.
Rồi cả nước phải ngồi chung trong một cái trại tù nô lệ kéo dài từ Bắc
đến Nam. Với những hình ảnh ấy phơi bày, Đèn Cù không phải chỉ nói lên
thân phận của một vài cá nhân, mà còn là thân phận của người Việt Nam,
trong đó có cả tác giả nữa!
VI. Trần Đình và Đèn Cù trong cuộc sống nhân gian
Thật rất khó để có được cái nhìn bao quát, đầy đủ về Đèn Cù. Khó vì,
người đứng bên đây nhìn thấy cái đầu. Kẻ đứng bên kia lại thấy cái đuôi.
Người thấy con voi, kẻ thấy bầy lang sói. Ấy là chưa kể đến những góc
khuất mang tính bí hiểm. Nói về Đèn Cù, khác gì câu chuyện người đứng
bên kia sông, người đứng bên này, cùng tả vê dòng nước đang cuồng cuộn
trước mặt. Hẳn nhiên là có nhiều khác biệt, nhiều góc khuất. Nói chẳng
bao giờ cùng. Đặc biệt, trong hoàn cảnh của Việt Nam hôm nay, cái nhìn
về Đèn Cù còn có thể là một đối nghịch, khó gần, khó gỡ!
Người ở trong nước vì cuộc sống, tìm đọc Đèn Cù có lẽ không nhiều. Và
cái mục đích đi tìm cũng khác nhau. Nhưng hầu như đều có chung một ý
tưởng: Táo bạo, táo bạo quá. Viết thế này thì chết. Chả biết chữ chết họ
muốn dành cho đảng cộng sản, dành cho Hồ Chí Minh hay dành cho Trần
Đĩnh?
Người ở bên kia đại dương, cũng háo hức tìm dọc, xem Trần Đĩnh viết gì.
Họ thấy nhiều điểm khuất, nhiều góc tối, nhiều điều khác với ý nghĩ của
họ. Họ chưa hay không nhìn nhận những điểm sáng nổi bật làm nên danh
phận Đèn Cù. Kết quả là nhiều cái thở dài. Lại tuyên truyền, hảo tuyên
truyền. Tác giả mà không đội quần đảng lên đầu, không viết theo tiếng
kẻng mà còn sống được ư? Lại vẫn chung một đường thổi với kịch sĩ “mặt
thật”, thợ mò “đỉnh cao vòi vọi”, thợ bu “thắng cuộc”! Phần cá nhân, tôi
cũng không có ngoại lệ.
Trước hết, tôi đã viết ra đôi, ba góc khuất trong Đèn Cù. Mục đích không
phải để “vạch lá tìm sâu” vì nó nhiều quá rồi, cần gì phải vạch. Cũng
không để phản bác cái nhìn “một bên” của tác giả. Trái lại, tôi chỉ muốn
mở rộng thêm ra, làm sáng tỏ thêm những góc khuất, có thể là tác giả đã
biết rất rõ, như trường hợp HCM là người Tàu? Y đã nói và viết tiếng
Hẹ, tiếng nói của người “khách gia” khi đến thăm Móng Cái vào năm 1960.
Xin nhớ, đây là lần đầu tiên HCM đến, tại sao Y lại thành thục khu vực,
lại biết rõ cả ở góc bên kia đường là nơi ở của một chị bí thư?
Những thắc mắc này đã tiềm ẩn trong Trần Đĩnh từ những năm đó, lẽ nào Trần Đĩnh không ngộ ra âm thanh, cũng như cách nói tiếng Việt của HCM? Tuy nhiên, Trần Đĩnh phải nhắm mắt lại, tạm “quăng nó vào trong cái thùng rác vĩ đại là sự quên”. Bởi lẽ, nó là những điểm chết, điểm bí mật của nhà nước mà trong hoàn cảnh này, mạng sống của con người cần giữ lại để có thể lưu ký về sau, hơn là một thách thức, quá lớn vào lúc này?
Những thắc mắc này đã tiềm ẩn trong Trần Đĩnh từ những năm đó, lẽ nào Trần Đĩnh không ngộ ra âm thanh, cũng như cách nói tiếng Việt của HCM? Tuy nhiên, Trần Đĩnh phải nhắm mắt lại, tạm “quăng nó vào trong cái thùng rác vĩ đại là sự quên”. Bởi lẽ, nó là những điểm chết, điểm bí mật của nhà nước mà trong hoàn cảnh này, mạng sống của con người cần giữ lại để có thể lưu ký về sau, hơn là một thách thức, quá lớn vào lúc này?
Theo đó, tôi viết ra những điểm mà lẽ ra trong Đèn Cù phải có, phải bàn
đến trong lẽ thật. Không có ý gì khác. Bởi lẽ, chính tôi cũng biết,
đường còn dài, những người trong cuộc như tác giả không còn nhiều. Nếu
họ không viết ra, thì ai sẽ viết đây? Những đời sau lấy gì để làm bằng
chứng là nó thuộc thời của tội ác mà trị tội ác? Sự đòi hỏi, nhìn chung
là như thế, nhưng thực tế, ai cũng biết là không hề dễ dàng gì. Lý lẽ
thì có nhiều, thực tế chỉ có một. Cái búa của CS chưa lúc nào rời xa
Trần Đĩnh. Cũng thế, Quản Trọng không chết theo chủ là công tử Củ, chẳng
ai cho đó là bất trung, vì sự “còn” của Quản Trọng không phải là vô
ích. Hy vọng, sự “còn” của Trần Đĩnh cũng sẽ hữu ích cho việc giải đáp
và soi sáng cho nhiều góc tối còn thiếu sót trong Đèn Cù.
Trong khi đó, đảng và nhà nước CS mới lướt qua mấy hàng, răng đã nghiến
ken két. Cái chốt lựu đạn đã mở ra rồi, chì còn một cái ném nữa là xong!
Thật ra, việc nhà nước và đảng cộng sản muốn biếu không Trần Đĩnh một
cái búa, hay một quả lựu đạn thì quá dễ dàng. Nhưng làm thế là tự sát,
là tự xác định những điều Trần Đĩnh viết về Hồ Quang, về đảng, về chủ
trương đường lối cũng như phương án sử dụng nhân sự vào các vị trí cấp
cao, trọng điểm của đảng, của nhà nước là hoàn toàn chính xác.
Giết người là nghề của họ, nhưng trường hợp này xem ra rất khó diệt khẩu. Nên đành phải ngậm bồ hòn! Uất từng đám, nghẹn từng cơn mà không thể ra tay. Bởi vì, trời đã sinh ra “bác” muôn mặt, muôn gian trá, đã che râu dấu mặt đi làm chuyện gian ác hại người, còn sinh ra Trần Đĩnh để cho Y viết lại những chuyện ấy vào sách sử, thì đành chịu vậy. Phải chi nó viết vào cái thời... chưa “giải phóng” miền Nam thì đã nhờ Lê Văn Tám! Nói thế là Đèn Cù và tác giả luôn nằm trong nguy cơ bị đốt. Nếu nhà nước chưa tặng Trần Đĩnh cái búa không phải là vì cộng sản tử tế. Trái lại, chỉ là một cái may cho Trần Đĩnh.
Giết người là nghề của họ, nhưng trường hợp này xem ra rất khó diệt khẩu. Nên đành phải ngậm bồ hòn! Uất từng đám, nghẹn từng cơn mà không thể ra tay. Bởi vì, trời đã sinh ra “bác” muôn mặt, muôn gian trá, đã che râu dấu mặt đi làm chuyện gian ác hại người, còn sinh ra Trần Đĩnh để cho Y viết lại những chuyện ấy vào sách sử, thì đành chịu vậy. Phải chi nó viết vào cái thời... chưa “giải phóng” miền Nam thì đã nhờ Lê Văn Tám! Nói thế là Đèn Cù và tác giả luôn nằm trong nguy cơ bị đốt. Nếu nhà nước chưa tặng Trần Đĩnh cái búa không phải là vì cộng sản tử tế. Trái lại, chỉ là một cái may cho Trần Đĩnh.
Nhưng dù đứng nhìn từ bất cứ góc cạnh nào, theo tôi, Đèn cù của Trần
Đĩnh miên viễn có một cuộc sống vững chắc trong lòng nhân gian. Cuộc
sống và giá trị của nó về mặt luân lý, đạo đức xã hội sẽ được nói đến
nhiều hơn về mặt “ biến động “ chính trị. Nó còn sống mãi trong nhân
gian bời vì, bản thân cái Đèn Cù, trước đây rất gần gũi với cuộc sống
đời thường. Nay nó lại nhắc cho ta thấy cảnh lang sói của đảng cộng.
Trước kia nó mang tính hài, mua vui cho người bằng những hình ảnh voi giấy ngựa giấy. Nay, vẫn là những voi giấy, ngựa giấy, chó giấy, nhưng bằng hình người, bằng quan cán, đã làm bại hoại nền văn hóa và luân thường đạo lý của xã hội Việt Nam, bằng cách che râu dấu mặt, bằng sự áp đặt cho nhau một thứ luật lệ không có hàm tính người. Mà khởi đầu là hình ảnh tồi bại của Hồ Chí Minh.
Trước kia nó mang tính hài, mua vui cho người bằng những hình ảnh voi giấy ngựa giấy. Nay, vẫn là những voi giấy, ngựa giấy, chó giấy, nhưng bằng hình người, bằng quan cán, đã làm bại hoại nền văn hóa và luân thường đạo lý của xã hội Việt Nam, bằng cách che râu dấu mặt, bằng sự áp đặt cho nhau một thứ luật lệ không có hàm tính người. Mà khởi đầu là hình ảnh tồi bại của Hồ Chí Minh.
Với chỉ tám chữ “cụ” Hồ che râu đi dự đấu tố (một buổi)”, tác giả đã phô
diễn trọn vẹn hình ảnh, và đạp nát tên tuổi và sự nghiệp cực vĩ đại của
Hồ Chí Minh. Một sự nghiệp phản luân lý, phản đạo đức mà có lẽ không có
kẻ thứ hai dưới bầu trời này làm được. Những bạo chúa từ kim cổ như
Kiệt, Trụ, Tần Thủy Hoàng, hay Hitler, Stalin, kể cả Mao Trạch Đông đã
giết hàng trăm ngàn người, hàng triệu người, đều phải cúi đầu chào thua.
Bởi vì, xét về bạo ác họ không thua Hồ Chí Minh, nhưng chẳng một ai trong họ dám che râu dấu mặt đi dự một cuộc giết người ân nhân như Hồ đã làm. Như thế, tên tuổi ấy, việc che râu dấu mặt ấy mãi còn là hình ảnh sống động, còn là câu chuyện truyền tụng trong nhân gian. Rồi ra, nó sẽ còn là câu chuyện răn đe con trẻ trong nhân gian phải giữ lấy đạo làm người, “ Mày liệu đấy, ông Trời có mắt, không để cho mày che râu dấu mặt đi làm chuyện gian ác, giết người đâu!
Bởi vì, xét về bạo ác họ không thua Hồ Chí Minh, nhưng chẳng một ai trong họ dám che râu dấu mặt đi dự một cuộc giết người ân nhân như Hồ đã làm. Như thế, tên tuổi ấy, việc che râu dấu mặt ấy mãi còn là hình ảnh sống động, còn là câu chuyện truyền tụng trong nhân gian. Rồi ra, nó sẽ còn là câu chuyện răn đe con trẻ trong nhân gian phải giữ lấy đạo làm người, “ Mày liệu đấy, ông Trời có mắt, không để cho mày che râu dấu mặt đi làm chuyện gian ác, giết người đâu!
Sau những câu chuyện ấy là đầy dẫy những hình ảnh của những voi giấy
ngựa giấy chó giấy đã kinh qua kiểm thảo, thành lãnh đạo sau khi đã “công khai tuyên bố căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt bố mẹ”,
là những người đã mang nặng đẻ đau, làm lụng vất vả cách này hay cách
khác để nuôi sống chính bản thân họ. Để từ bài kiểm thảo này, kẻ thì trở
thành cán nhớn buôn dân bán nước, kẻ thì chỉ vào mặt mẹ đang quỳ dưới
thềm như:
“Chu Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách ruộng đất Nghệ-Tĩnh, bắc ghế ngồi trên thềm cao chỉ tay vào mặt mẹ đẻ chắp tay đứng ở dưới sân dằn giọng: - Tao với mi không mẹ không con mà chỉ là kẻ thù giai cấp của nhau. Tao có phận sự tiêu diệt mi”. Ôi sao cái bài diễn này lại giống HCM và đúng như lời của Lưu Cộng Hòa sau cuộc kiểm thảo đã nói đến thế “Nay nhận mình là con vật mới đúng đấy” (tr. 244).
“Chu Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách ruộng đất Nghệ-Tĩnh, bắc ghế ngồi trên thềm cao chỉ tay vào mặt mẹ đẻ chắp tay đứng ở dưới sân dằn giọng: - Tao với mi không mẹ không con mà chỉ là kẻ thù giai cấp của nhau. Tao có phận sự tiêu diệt mi”. Ôi sao cái bài diễn này lại giống HCM và đúng như lời của Lưu Cộng Hòa sau cuộc kiểm thảo đã nói đến thế “Nay nhận mình là con vật mới đúng đấy” (tr. 244).
Kết quả của những câu chuyện ấy là hình ảnh của bà mẹ Việt Nam. Bà rất
thương yêu con cái của mình. Nhưng bà đã phải chằp tay lạy đứa con khi
nó trở về nhà, thay vì ôm con vào lòng chỉ vì nó đã thoát ly gia đình và
đi theo tập đoàn vô gia đình, đầy gian dối của Hồ Chí Minh. Bà lạy một
cách nhẹ nhàng mà đau đớn. Bà không có cái uất ức, bộc trực như người em
nhỏ bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người, phải gào thét lên khi
nhìn thấy mặt mũi của những tên cộng sản: “đảng cộng sản đi chết đi” (Nguyễn phương Uyên). Bà nén nước mắt rơi “Tôi lạy anh, anh hãy đi theo các đồng chí của anh đi. Xin anh để cho chúng tôi yên”.
Bà đã thay mặt những người đàn bà Việt Nam mà nói lên nỗi đau đớn tận lòng bà. Bà đẻ ra con, nào ngờ nó học được cái thói che râu dấu mặt gian trá của Hồ Chí Minh! Bà nào muốn đuổi con đi, nhưng không thể để nó đem cái gian trá và tội ác với đồng bào vào nhà Việt Nam! Chỉ ngần ấy thôi Đèn Cù của Trần Đĩnh đã không bao giờ chết trong nhân gian.
Bà đã thay mặt những người đàn bà Việt Nam mà nói lên nỗi đau đớn tận lòng bà. Bà đẻ ra con, nào ngờ nó học được cái thói che râu dấu mặt gian trá của Hồ Chí Minh! Bà nào muốn đuổi con đi, nhưng không thể để nó đem cái gian trá và tội ác với đồng bào vào nhà Việt Nam! Chỉ ngần ấy thôi Đèn Cù của Trần Đĩnh đã không bao giờ chết trong nhân gian.
Tuy nhiên, Trần Đĩnh còn làm được nhiều hơn thế trước khi đèn tắt, trước
khi dậu đổ. Anh như người bị nghiện rồi cai nghiện. Sau hơn bốn mươi
năm cai nghiện Trần Đĩnh nhận ra cái bàn đèn (bác đảng) là một thứ tội
ác. Khi ngủi thấy mùi thuốc của bàn đèn, của con nghiện là Trần Đĩnh ói
mửa. Trần Đĩnh kể: “Phải viết một loạt bài về lịch sử đảng, tôi đã
đọc những tài liệu về chuyện này. Lẽ tất nhiên đều ỉm đi, cho tất cả vào
cái sọt giấy vĩ đại là sự quên, sự lờ, sự nhắm mắt lại. gọn một chữ là
sự gian dối. Để đổi lấy uy tín đảng” (tr. 192)
Viết thế là Trần Đĩnh đã công khai xác nhận, tất cả những gì Trần Đĩnh viết có liên quan đến đảng cộng sản đều là viết bằng sự gian trá, không có nhân bản tính, không có sự thật. Nghĩa là, những “Tiểu sử Hồ Chí Minh”, “Bất Khuất”, hay nhật ký của Phạm Hùng, Lê Văn Lương... không được Trần Đĩnh viết ra bằng tài liệu thật, bằng cái trí năng, bằng sự chân thật của người. Trái lại, Trần Đĩnh đã phải viết ra những cuốn sách ấy từ cái bút đặt dưới cái búa của cộng sản.
Nó là sự gian trá và tuyên truyền. Nay đã hết nghiện, trở lại đời sống bình thường của người, Trần Đĩnh đã công khai rút lại, hay phủ nhận những cuốn sách đó không phải là trí tuệ, tâm huyết của Đĩnh, nhưng là sự gian trá của người đảng viên chỉ biết tuyên truyền và dối trá theo lệnh từ cái búa đảng!
Viết thế là Trần Đĩnh đã công khai xác nhận, tất cả những gì Trần Đĩnh viết có liên quan đến đảng cộng sản đều là viết bằng sự gian trá, không có nhân bản tính, không có sự thật. Nghĩa là, những “Tiểu sử Hồ Chí Minh”, “Bất Khuất”, hay nhật ký của Phạm Hùng, Lê Văn Lương... không được Trần Đĩnh viết ra bằng tài liệu thật, bằng cái trí năng, bằng sự chân thật của người. Trái lại, Trần Đĩnh đã phải viết ra những cuốn sách ấy từ cái bút đặt dưới cái búa của cộng sản.
Nó là sự gian trá và tuyên truyền. Nay đã hết nghiện, trở lại đời sống bình thường của người, Trần Đĩnh đã công khai rút lại, hay phủ nhận những cuốn sách đó không phải là trí tuệ, tâm huyết của Đĩnh, nhưng là sự gian trá của người đảng viên chỉ biết tuyên truyền và dối trá theo lệnh từ cái búa đảng!
Kế đến, như một lời tạ ơn gia đình, tạ ơn đồng bào vì những bao dung để
Trần Đĩnh được trở lại kiếp sống nhân bản của con người. Đồng thời cũng
như một lời tạ tội với gia đình, tạ lỗi với đồng bào vì những hành động
nông nổi của tác giả đã góp sức tuyên truyền cho tội ác để nó có thêm cơ
hội tàn phá quê hương Việt Nam. Trần Đĩnh viết:
“Mấy chục năm sau, sống với đất nước đang dần dần nhận diện được kẻ đã đày ải mình, tôi bắt đầu cảm nhận thấy hạnh phúc. Ít nhất tôi đã nhận ra tội ác và lên án nó giữa lúc nó đang có bộ mặt huy hoàng nhất, có niềm tin gần như trọn vẹn của dân. Ít nhất tôi đã đương đầu, không quỳ gối trước nó. Cũng như đã ngay thẳng nhận mình từng đi theo nó, tội ác.” (tr. 497)
Lời xin lỗi, nhận mình đã nhúng tay vào với tội ác của Trần Đĩnh làm xúc động lòng người. Tôi ngưỡng mộ và nể trọng Trần Đĩnh vì những lời tự tâm này. Ngưỡng mộ Trần Đĩnh, sau vấp ngã, đã đứng dậy, đem cái tâm của mình vào ngòi bút để cùng với đồng bào lên án và tiêu diệt sự ác. Và nể trọng lòng quả cảm của một kẻ sĩ có tâm với đồng bào, với gia đình và đất nước. Xin chúc mừng anh đã giả từ bàn đèn và về với cuộc sống chân tình của một dân tộc đầy nghĩa cả.
“Mấy chục năm sau, sống với đất nước đang dần dần nhận diện được kẻ đã đày ải mình, tôi bắt đầu cảm nhận thấy hạnh phúc. Ít nhất tôi đã nhận ra tội ác và lên án nó giữa lúc nó đang có bộ mặt huy hoàng nhất, có niềm tin gần như trọn vẹn của dân. Ít nhất tôi đã đương đầu, không quỳ gối trước nó. Cũng như đã ngay thẳng nhận mình từng đi theo nó, tội ác.” (tr. 497)
Lời xin lỗi, nhận mình đã nhúng tay vào với tội ác của Trần Đĩnh làm xúc động lòng người. Tôi ngưỡng mộ và nể trọng Trần Đĩnh vì những lời tự tâm này. Ngưỡng mộ Trần Đĩnh, sau vấp ngã, đã đứng dậy, đem cái tâm của mình vào ngòi bút để cùng với đồng bào lên án và tiêu diệt sự ác. Và nể trọng lòng quả cảm của một kẻ sĩ có tâm với đồng bào, với gia đình và đất nước. Xin chúc mừng anh đã giả từ bàn đèn và về với cuộc sống chân tình của một dân tộc đầy nghĩa cả.
Như thế, dẫu là muộn màng, nhưng quá đủ, điều mà nhiều người chờ nay đã
thấy. Trần Đĩnh không công khai công bố chống cộng sản, không kêu gọi
đồng bào và các đoàn đảng viên đứng lên đập nát cái vòng quay ma quỷ
đang tàn phá quê hương Việt Nam. Nhưng xem ra, Đèn Cù trong thực tế đã
làm nhiều hơn cả những điều nhiều người mong đợi. Trần Đĩnh đã đem lương
tri của cuộc sống nhân bản sau 40 năm tủi hổ, nối tiếc, dàn vặt, đạp
nát hình tượng Hồ chí Minh. Đạp nát cái khung hình và khẩu hiệu mà CS đã
rêu rao trong suốt 80 năm qua chỉ bằng đúng tám chữ vỏn vẹn ““cu” Hồ che râu đi dự một buổi”
đấu tố ân nhân là bà Nguyễn Thị Năm!
Hàng nghìn tấn sách, báo của làng thổi ống đu đủ viết về cái gọi là đạo đức HCM đã thành đống giấy dơ bẩn, đống rác đầy ký sinh. Nó phải bị đào thải. Theo đó, nếu hình tượng của HCM chưa được cộng sản chính thức đeo cho tấm khăn che mặt, hay chưa bị dân chúng treo lên, cũng chưa bị đạp đổ từ những nơi nó đang chiếm ngự, cũng không còn ý nghĩa gì. Bạn tôi bảo “Anh bán thịt chó không cần biết chữ, chỉ cần treo cái đầu chó lên trước quán thay cho những hàng chữ quảng cáo là đủ”!
Hàng nghìn tấn sách, báo của làng thổi ống đu đủ viết về cái gọi là đạo đức HCM đã thành đống giấy dơ bẩn, đống rác đầy ký sinh. Nó phải bị đào thải. Theo đó, nếu hình tượng của HCM chưa được cộng sản chính thức đeo cho tấm khăn che mặt, hay chưa bị dân chúng treo lên, cũng chưa bị đạp đổ từ những nơi nó đang chiếm ngự, cũng không còn ý nghĩa gì. Bạn tôi bảo “Anh bán thịt chó không cần biết chữ, chỉ cần treo cái đầu chó lên trước quán thay cho những hàng chữ quảng cáo là đủ”!
Vâng, trên đất nước ta, hình ảnh của cái đầu chó và những người bán thịt
chó, biết chữ hay không biết chữ, vẫn còn nhiều. Nhưng tôi hy vọng, sau
Đèn Cù, sẽ có nhiều tiếng nói dõng dạc hơn, can đảm hơn, vững tin hơn,
mạnh mẽ hơn và đồng loạt hơn, thay vì những tiếng ọp ẹp trong vũng nước
dưới chân trâu, để cùng với mọi người, nhất là hỗ trợ lớp trẻ nhìn lại
bản thân, nhìn lại con đường của quốc gia, của gia đình của dân tộc mà
có được những hành động đồng thuận, thích ứng với trào lưu mới. Trào lưu
xây dựng một đất nước trong yên vui, thái bình, thịnh trị.
Ở đó người dân có quyền sống, sống trong tình nhân bản. Ở đó, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng tự do xây đựng lấy đời sống hạnh phúc cho cá nhân và gia đình cũng như tập thể của mình được hoàn toàn tôn trọng. Ở đó, nền tảng văn hóa, luân lý đạo đức của xã hội phải được phục hồi, phục hoạt triệt để. Ở đó, trẻ vào học đường được học những bài học tử tế về lòng yêu nước thương nói về. tình bác ái về lòng cao thượng. Nhờ đó, hình ảnh của cái đầu chó cũng dần biến khỏi các cửa tiệm.
Ở đó người dân có quyền sống, sống trong tình nhân bản. Ở đó, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng tự do xây đựng lấy đời sống hạnh phúc cho cá nhân và gia đình cũng như tập thể của mình được hoàn toàn tôn trọng. Ở đó, nền tảng văn hóa, luân lý đạo đức của xã hội phải được phục hồi, phục hoạt triệt để. Ở đó, trẻ vào học đường được học những bài học tử tế về lòng yêu nước thương nói về. tình bác ái về lòng cao thượng. Nhờ đó, hình ảnh của cái đầu chó cũng dần biến khỏi các cửa tiệm.
Cám ơn tác giả Trần Đĩnh, đã cho những đọc giả đi sau nhìn rõ tận mặt,
những bộ mặt thật của một tập thể đã và đang sống với luật lệ vô gia
đình, vô xã hội, vô tổ quốc, vô tôn giáo của cái bàn đèn cộng sản tại
Việt Nam.

Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 340
Wednesday, December 3, 2014
HOÀNG TRẦN * LÊ ĐỨC ANH
Đại tướng Lê Đức Anh ‘sám hối’?
Hoàng Trần (Danlambao) - Nhân dịp sinh nhật lần thứ 94 của cựu chủ tịch nước Lê Đức Anh, báo VietNamNet đã có bài phỏng vấn tiêu đề “Đại tướng Lê Đức Anh trăn trở Lời Thề ở Trường Sa”
Động thái trên như để bào chữa trước các thông tin khẳng định đại tướng
Lê Đức Anh khi còn đương chức chính là thủ phạm đã tiếp tay cho Trung
Cộng đánh chiếm đảo Gạc Ma (Trường Sa) vào ngày 14/3/1988.
Trong vai trò là bộ trưởng bộ quốc phòng, Lê Đức Anh đã ra lệnh cho hải
quân Việt Nam ‘không được nổ súng’, dẫn đến hậu quả hải quân Trung Cộng
dễ dàng đánh chiếm đảo Gạc Ma và ra tay thảm sát 64 người lính hải quân
Việt Nam chỉ sau một trận chiến ngắn.
Hành động bán nước của Lê Đức Anh đã được thiếu tướng Lê Mã Lương tiết lộ hôm 14/6/2014 tại hội thảo Minh Triết Biển Đông.
Đại tướng ‘đau lòng’?
Hiện nay, dù đã về hưu nhưng đại tướng Lê Đức Anh vẫn là một thế lực
đáng sợ trong giới chóp bu Ba Đình. Nhân vật này là người đỡ đầu quyền
lực cho thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, còn con trai ông Anh là Lê Mạnh Hà
đang giữ chức phó chủ tịch ủy ban nhân dân TP.HCM.
Trong bài phỏng vấn được đăng trên báo VietNamNet hôm 30/11/2014, Lê Đức
Anh nói rằng sau khi xảy ra ‘cuộc đụng độ’ tại Gạc Ma, ông ta đã ra
Trường Sa và cảm thấy ‘đau lòng’ khi nói ‘lời thề giữ gìn chủ quyền biển
đảo’.
"Tôi ra Trường Sa đúng dịp kỷ niệm ngày truyền thống bộ đội Hải quân
và ngay sau khi vừa diễn ra cuộc đụng độ giữa bộ đội Hải quân của ta với
tàu chiến của Hải quân Trung Quốc ở các đảo Gạc Ma, Chữ Thập. Lúc bấy
giờ, tôi thấy cần thiết phải ra Trường Sa. Khi nói lời thề giữ gìn chủ
quyền biển đảo ở Trường Sa, tôi đau lòng nhìn thấy một đất nước trải qua
bao nhiêu năm chiến tranh mà vẫn không trọn vẹn, Hoàng Sa bị lấy mất
rồi....", báo VietNamNet trích lời đại tướng Lê Đức Anh nói.
Trước vong linh của 64 chiến sỹ hải quân Việt Nam đã hy sinh vì lệnh
không được nổ súng, ông Lê Đức Anh có thực sự đau lòng hay không? Chỉ
biết rằng sau trận Hải chiến Trường Sa năm 1988, Lê Đức Anh đã trực tiếp
‘đi đêm’ với Trung Cộng, dẫn tới kết quả là Hội Nghị Thành Đô diễn ra
vào năm 1990.
Sám hối hay ngụy biện?
Hậu quả Mật nghị Thành Đô với vai trò của Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Nguyễn
Văn Linh… đã khiến Việt Nam bị mất hàng chục ngàn km vuông lãnh hải,
lãnh thổ vào tay Trung Cộng.
Gần đây, Trung Quốc đang ráo riết xây sân bay quân sự trên đảo Gạc Ma,
biến nơi này thành một tiền đồn uy hiếp toàn bộ khu vực miền Nam của
Việt Nam.
Những phát biểu trên của đại tướng Lê Đức Anh là một lời sám hối lúc
tuổi già, hay chỉ là một lời biện minh về hành vi tiếp tay bán nước cho
Trung Cộng?
Nếu thực sự sám hối, ông Lê Đức Anh hãy công khai cho toàn dân biết về
những thỏa ước mà bộ chính trị đảng CSVN đã bí mật ký kết với Trung Cộng
tại Hội nghị Thành Đô năm 1990.
Ngược lại, mọi lời biện minh đều trở thành giả dối. Lê Đức Anh và bộ
chính trị đảng cộng sản Việt Nam sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm trước dân
tộc bởi tội danh phản quốc về hành vi bán nước cho Trung Cộng.
SƠN TRUNG * CHÙM KHẾ NGỌT
Trương Thế Phát là một thương gia trẻ ở kinh đô Thăng Long. Ông có tàu
bè chở hàng đi buôn bán ờ trong và ngoài nước. Khi quân Pháp tiến đánh
thành Hà Nội, và chiếm Bắc Ninh, Thái Nguyên, ông lên tàu đem gia đình
ra ngoại quốc. Sau bao ngày lênh đênh trên biển cả, gia đình ông đến
Xiêm La, rồi định cư tại đây. Nhờ có tàu bè, ông mang theo một mớ gia
sản nên khi qua Xiêm ông đã có sẵn một gia tài. Với tài kinh doanh, ông
đã gây dựng một sự nghiệp khá lớn, gồm các cửa tiệm kim hoàn, cửa tiệm
vải vóc lụa là, và trà thất Mây Tần.
Là một nhà kinh doanh, công việc bận rộn, nhưng òng luôn thương nhớ quê hương . Ông nhớ Hà Nội ba mươi sáu phố phường, với năm cửa Ô xưa. Ôi! Những cô gái hàng Đào, hàng Bạc . .. má đỏ, môi hồng, quần điều, áo lụa trắng, đeo xà tích bạc. Ông nhớ cốm Vòng, nhớ phở , nhớ xôi và bánh cuốn Hà Nội. Ông nhớ Hồ Gươm, hồ Tây, chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột. . . Xiêm La có nhiều chùa lớn và nhiều lễ hội nhưng không đâu bằng hội chùa Hương.. .
Ông nhớ những bài hát ru, những điệu quan họ. Xiêm La có nhiều trái cây nhưng không bằng nhãn, vải, cam, quít. . . Hà Nội. Ở Xiêm La ông có nhiều bạn mới, nhưng lòng ông vẫn nhớ nhung các bạn Hà Nội và những kỷ niệm thời ấu thơ. Nhất là buổi đầu, ngôn ngữ bất đồng, phong tục xa lạ, thực phẩm khác mùi vị làm cho ông chao đảo như con thuyền không lái.
Lúc bấy giờ nhiều người trong nước cũng bỏ nước ra đi. Họ ra đi mang theo một bầu nhiệt huyết , một lý tưởng cao siêu là khôi phục đất nước, giải phóng dân tộc. Có nhiều nhóm hoạt động. Họ từ trong nước ra. Họ cũng từ Trung Quốc, Nhật Bản sang Xiêm hoạt động. Họ ở lại Xiêm mà cũng có người đi qua , đi lại. Tuy là nhiều tổ chức khác nhau, tựu trong có hai nhóm. Một nhóm thuộc phe quốc gia, một phái thuộc phe quốc tế .
Trà thất Mây Tần do con trai của ông là Trương Thế Đạt trông coi, còn các tiệm khác thì do phu nhân, con trai thứ và các con gái ông quản lý. It lâu sau, Trương Thế Phát mất, cơ nghiệp truyền lại cho phu nhân và các con. Trương Thế Đạt tiếp tục kinh doanh trà thất Mây Tần .
Là một nhà kinh doanh, công việc bận rộn, nhưng òng luôn thương nhớ quê hương . Ông nhớ Hà Nội ba mươi sáu phố phường, với năm cửa Ô xưa. Ôi! Những cô gái hàng Đào, hàng Bạc . .. má đỏ, môi hồng, quần điều, áo lụa trắng, đeo xà tích bạc. Ông nhớ cốm Vòng, nhớ phở , nhớ xôi và bánh cuốn Hà Nội. Ông nhớ Hồ Gươm, hồ Tây, chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột. . . Xiêm La có nhiều chùa lớn và nhiều lễ hội nhưng không đâu bằng hội chùa Hương.. .
Ông nhớ những bài hát ru, những điệu quan họ. Xiêm La có nhiều trái cây nhưng không bằng nhãn, vải, cam, quít. . . Hà Nội. Ở Xiêm La ông có nhiều bạn mới, nhưng lòng ông vẫn nhớ nhung các bạn Hà Nội và những kỷ niệm thời ấu thơ. Nhất là buổi đầu, ngôn ngữ bất đồng, phong tục xa lạ, thực phẩm khác mùi vị làm cho ông chao đảo như con thuyền không lái.
Lúc bấy giờ nhiều người trong nước cũng bỏ nước ra đi. Họ ra đi mang theo một bầu nhiệt huyết , một lý tưởng cao siêu là khôi phục đất nước, giải phóng dân tộc. Có nhiều nhóm hoạt động. Họ từ trong nước ra. Họ cũng từ Trung Quốc, Nhật Bản sang Xiêm hoạt động. Họ ở lại Xiêm mà cũng có người đi qua , đi lại. Tuy là nhiều tổ chức khác nhau, tựu trong có hai nhóm. Một nhóm thuộc phe quốc gia, một phái thuộc phe quốc tế .
Trà thất Mây Tần do con trai của ông là Trương Thế Đạt trông coi, còn các tiệm khác thì do phu nhân, con trai thứ và các con gái ông quản lý. It lâu sau, Trương Thế Phát mất, cơ nghiệp truyền lại cho phu nhân và các con. Trương Thế Đạt tiếp tục kinh doanh trà thất Mây Tần .
Trà
thất Mây Tần ở thủ đô Bangkok là một nơi trai thanh gái lịch lui tới tấp
nập. Không những người Xiêm La mà người Cao Miên, Lào, Trung Quốc, Ấn
Độ đều thường xuyên tới uống trà, và thưởng thức ca vũ nhạc. Một hôm,
có mấy người khách Á Đông tới trà thất Mây Tần uống trà, uống rưọu ,
Trương Thế Đạt nhận ra có một số khách là người Việt Nam.
Ông bèn tới chào hỏi, mới biết họ quả là người Việt Nam. Nghe giọng nói của họ, ông nhận ra họ là người Bắc, người Trung, và người Nam. Ông hỏi thăm họ thì họ cho biết họ qua đây lập nghiệp. Trương Thế Đạt rất vui mừng khi gặp lại đồng bào Việt Nam. Tâm trạng hai bên thật vui vẻ như câu thơ “ Thiên lý tha hương ngộ cố tri ”. Họ hỏi ông tại sao đặt tên trà thất là Mây Tần.
Ông nói ông rất yêu quê hương, lòng luôn nhớ băm sáu phố phường Hà Nội. “Hồn quê theo ngọn Mây Tần xa xa” Dần dần, hai bên quen nhau, Trương Thế Đạt mời họ về nhà chơi. Kể từ đó hai bên liên lạc thân mật. Sau một thời gian, khách hiểu rõ gia đình Trương là một gia đình yêu nước, vì không cam tâm làm tôi tớ bọn ngoại xâm mà bỏ nước ra đi.
Vì quen thân, họ cũng cho biết họ thuộc đảng cách mạng tiến bộ Việt Nam, được thế lực quốc tế như Liên Xô, Trung Quốc yểm trợ, thế lực rất mạnh, bám rễ trong và ngoài nước, có mục đích bài phong đả thực, xây dựng một xã hội công bằng tự do, người không bóc lột người. Đảng có Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hùynh Thúc Kháng tham gia, và có khoảng mười triệu đảng viên. Lực lượng đảng trong nước đã vùng lên như Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám đã chiếm được nhiều tỉnh trong nước, giết vô số thực dân Pháp.
Trương Thế Đạt nghe họ nói vậy cũng tin tưởng, ủng hộ cho họ một số vàng để làm quỹ hoạt động cứu quốc. Trương Thế Đạt mất, con trai là Trương Thế Vinh nối nghiệp cha kinh doanh trong ngoài, và ông cũng giữ mối liên lạc với tổ chức quốc tế, và cũng đóng góp vàng bạc cho họ. Trà thất Mây Tần và nhà của Trương Thế Vinh trở thành nơi ẩn náu và hoạt động của đảng cách mệnh. Ông được chi bộ đảng khen ngợi là “ nhân sĩ yêu nước”, và những Việt kiều ở Thái Lan theo cộng sản được gọi là “ Việt kiều yêu nước”.
Gia đình Trương Thế Vinh đã được chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa gửi giấy ban khen là gia đình yêu nước, đã có công với cách mạng. Sau 1945, đệ nhị thế chiến chấm dứt, Việt Minh cướp chính quyền. Một số dân chúng vì nạn đói, vì sợ cộng sản và thực dân Pháp nên đã bỏ nước sang Lào, Miên, Xiêm La, hoặc Pháp.
Những người Việt Nam sinh sống tại Xiêm La ngày càng đông, và những người theo phe cộng sản càng mạnh. Năm 1954, hiệp định Geneve chia đôi Việt Nam. Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa giao thương với Xiêm La tức Thái Lan, và đặt tòa đại sứ tại Bangkok. Những đảng viên cộng sản Việt Nam ra mặt công khai hoạt động. Họ ra sức vận động Việt kiều tại Thái Lan về xây dựng đất nước. Chính sách này cũng được phát triển nhiều nơi như Pháp, Lào, Miên. .
Họ bảo đất nước ngày nay cần nhiều bàn tay đóng góp. Việt Nam nay đã tiến lên xã hội chủ nghĩa, nông dân có ruộng cày, thoát khỏi cảnh làm nô lệ cho bọn phú nông địa chủ; xã hội bây giờ không còn nạn người bóc lột người. Sinh viên học sinh được tự do học hành, không phài đóng học phí mà còn được chính phủ nuôi ăn học, cấp sách vở cho đến khi thành tài. Trong nước ai cũng có công ăn việc làm, không ai thất nghiệp.
Họ gửi tặng ông nhiều sách báo, có nhiều thơ ca, âm nhạc và tiểu thuyết ca ngợi sự lãnh đạo tài ba của đảng và chính phủ. Trần Thế Vinh tuy sinh tại Thái Lan, nhưng được nghe cha ông ca tụng về con người và đất nước Việt Nam, nay lại được nghe thêm những lời tuyên truyền của cộng sản nên càng thêm yêu nước, và càng nhớ quê hương. Ông luôn luôn mở đài Hà Nội, và và những bài thơ, bản nhạc đã gieo vào lòng ông tình yêu quê hương, tổ quốc.
Quê hương là chùm khế ngọt. ..
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học,
Con về rợp bướm vàng bay
. . . . . . . .
Quê hương là cầu tre nhỏ,
Mẹ về nón lá nghiêng che.
Là hương hoa đồng cỏ nội,
Bay trong giấc ngủ đêm hè. . .
Lúc bấy giờ công việc buôn bán ngày càng khó khăn khiến Trương Thế Vinh chán nản. Nay được cán bộ cộng sản kêu gọi và khuyến khích, vì vậy ông quyết định trở về góp sức xây dựng quê hương. Ông nay được ban khen là gia đình có công với cách mạng. Nếu về Việt Nam chắc ông sẽ được đảng và nhà nước quý trọng. Con đường tương lai rộng mở trước mắt ông.
Ta về ta tắm ao ta!
Ông muốn trở về tắm ao ta, về làm người hùng cứu nước, còn hơn là sống ở quê người, dù là triệu phú cũng có mặc cảm là kẻ tha phương cầu thực, kẻ lưu đày, là công dân bậc hai !
Ông bèn tới chào hỏi, mới biết họ quả là người Việt Nam. Nghe giọng nói của họ, ông nhận ra họ là người Bắc, người Trung, và người Nam. Ông hỏi thăm họ thì họ cho biết họ qua đây lập nghiệp. Trương Thế Đạt rất vui mừng khi gặp lại đồng bào Việt Nam. Tâm trạng hai bên thật vui vẻ như câu thơ “ Thiên lý tha hương ngộ cố tri ”. Họ hỏi ông tại sao đặt tên trà thất là Mây Tần.
Ông nói ông rất yêu quê hương, lòng luôn nhớ băm sáu phố phường Hà Nội. “Hồn quê theo ngọn Mây Tần xa xa” Dần dần, hai bên quen nhau, Trương Thế Đạt mời họ về nhà chơi. Kể từ đó hai bên liên lạc thân mật. Sau một thời gian, khách hiểu rõ gia đình Trương là một gia đình yêu nước, vì không cam tâm làm tôi tớ bọn ngoại xâm mà bỏ nước ra đi.
Vì quen thân, họ cũng cho biết họ thuộc đảng cách mạng tiến bộ Việt Nam, được thế lực quốc tế như Liên Xô, Trung Quốc yểm trợ, thế lực rất mạnh, bám rễ trong và ngoài nước, có mục đích bài phong đả thực, xây dựng một xã hội công bằng tự do, người không bóc lột người. Đảng có Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hùynh Thúc Kháng tham gia, và có khoảng mười triệu đảng viên. Lực lượng đảng trong nước đã vùng lên như Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám đã chiếm được nhiều tỉnh trong nước, giết vô số thực dân Pháp.
Trương Thế Đạt nghe họ nói vậy cũng tin tưởng, ủng hộ cho họ một số vàng để làm quỹ hoạt động cứu quốc. Trương Thế Đạt mất, con trai là Trương Thế Vinh nối nghiệp cha kinh doanh trong ngoài, và ông cũng giữ mối liên lạc với tổ chức quốc tế, và cũng đóng góp vàng bạc cho họ. Trà thất Mây Tần và nhà của Trương Thế Vinh trở thành nơi ẩn náu và hoạt động của đảng cách mệnh. Ông được chi bộ đảng khen ngợi là “ nhân sĩ yêu nước”, và những Việt kiều ở Thái Lan theo cộng sản được gọi là “ Việt kiều yêu nước”.
Gia đình Trương Thế Vinh đã được chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa gửi giấy ban khen là gia đình yêu nước, đã có công với cách mạng. Sau 1945, đệ nhị thế chiến chấm dứt, Việt Minh cướp chính quyền. Một số dân chúng vì nạn đói, vì sợ cộng sản và thực dân Pháp nên đã bỏ nước sang Lào, Miên, Xiêm La, hoặc Pháp.
Những người Việt Nam sinh sống tại Xiêm La ngày càng đông, và những người theo phe cộng sản càng mạnh. Năm 1954, hiệp định Geneve chia đôi Việt Nam. Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa giao thương với Xiêm La tức Thái Lan, và đặt tòa đại sứ tại Bangkok. Những đảng viên cộng sản Việt Nam ra mặt công khai hoạt động. Họ ra sức vận động Việt kiều tại Thái Lan về xây dựng đất nước. Chính sách này cũng được phát triển nhiều nơi như Pháp, Lào, Miên. .
Họ bảo đất nước ngày nay cần nhiều bàn tay đóng góp. Việt Nam nay đã tiến lên xã hội chủ nghĩa, nông dân có ruộng cày, thoát khỏi cảnh làm nô lệ cho bọn phú nông địa chủ; xã hội bây giờ không còn nạn người bóc lột người. Sinh viên học sinh được tự do học hành, không phài đóng học phí mà còn được chính phủ nuôi ăn học, cấp sách vở cho đến khi thành tài. Trong nước ai cũng có công ăn việc làm, không ai thất nghiệp.
Họ gửi tặng ông nhiều sách báo, có nhiều thơ ca, âm nhạc và tiểu thuyết ca ngợi sự lãnh đạo tài ba của đảng và chính phủ. Trần Thế Vinh tuy sinh tại Thái Lan, nhưng được nghe cha ông ca tụng về con người và đất nước Việt Nam, nay lại được nghe thêm những lời tuyên truyền của cộng sản nên càng thêm yêu nước, và càng nhớ quê hương. Ông luôn luôn mở đài Hà Nội, và và những bài thơ, bản nhạc đã gieo vào lòng ông tình yêu quê hương, tổ quốc.
Quê hương là chùm khế ngọt. ..
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học,
Con về rợp bướm vàng bay
. . . . . . . .
Quê hương là cầu tre nhỏ,
Mẹ về nón lá nghiêng che.
Là hương hoa đồng cỏ nội,
Bay trong giấc ngủ đêm hè. . .
Lúc bấy giờ công việc buôn bán ngày càng khó khăn khiến Trương Thế Vinh chán nản. Nay được cán bộ cộng sản kêu gọi và khuyến khích, vì vậy ông quyết định trở về góp sức xây dựng quê hương. Ông nay được ban khen là gia đình có công với cách mạng. Nếu về Việt Nam chắc ông sẽ được đảng và nhà nước quý trọng. Con đường tương lai rộng mở trước mắt ông.
Ta về ta tắm ao ta!
Ông muốn trở về tắm ao ta, về làm người hùng cứu nước, còn hơn là sống ở quê người, dù là triệu phú cũng có mặc cảm là kẻ tha phương cầu thực, kẻ lưu đày, là công dân bậc hai !
Ôi! Nước ta nay đã độc lập,
không còn bọn thực dân Pháp xâm chiếm quê hương. Vì thực dân Pháp mà
nhân dân ta khốn khổ điêu tàn . Vì thực dân Pháp mà tổ phụ ông phải bỏ
quê hương mà đi. Nay là một dịp để ông trở về quê hương, về 36 phố
phường Hà Nội và năm cửa Ô xưa! Tình yêu quê hương không còn là một mớ
tình cảm bâng khuâng mà đã biến thảnh sự thực.
Ông lo bán nhà cửa, hàng hóa và các cơ sở kinh doanh thu được năm trăm lượng vàng và mười ngàn đô la Mỹ. Sau khi đã thanh toán mọi thứ, ông đã đến tòa đại sứ Việt Nam tại Vọng Các (Bangkok) ghi tên hồi hương. Toà đại sứ Việt Nam tại Thái Lan đã lo mọi sự. Tất cả Việt kiều tại Thái Lan sẽ cùng nhau về Việt Nam bằng đường hàng không sang Cambodge rồi từ đó sẽ đi xe ô tô hay máy bay về Việt Nam.
Sau khi đoàn Việt kiều Thái Lan về đến Cambodge, họ được chuyển ngay lên xe ô tô Liên Xô là loại xe bốn bề kín mít chở ngay về Quảng Bình Việt Nam. Khi về đến biên giới Việt Nam, cả đám được cán bộ cộng sản đeo súng yêu cầu xuống xe để vào một trung tâm, bốn bề rào kín và có lính gác.
Họ bảo các Việt kiều tạm ở lại đây một thời gian để học tập đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước. Họ ra lệnh các Việt kiều tập họp lại, gia đình nào theo gia đình đó.Họ bảo mọi người không được ra khỏi trung tâm nếu không được trung tâm cho phép. Họ đưa mọi người vào hội trường. Viên thủ trưởng tỏ ra rất lịch sự. Ông nói:
Chào các đồng bào và các đồng chí,
Hôm nay tôi xin thay mặt mặt đảng và chính phủ chào mừng những người con yêu trở về tổ quốc.
Ông vừa dứt lời, mọi người vui vẻ hoan hô, tiếng vỗ tay nghe vang như tiếng pháo.
Tiếp theo, ông nói:
Thưa các đồng chí và đồng bào,
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, những người ngoại quốc đã ước mơ trong một đêm được trở thành người Việt Nam. Các đồng bào và đồng chí nay đã thành người nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.Trước tiên, yêu cầu mọi người giao nộp thẻ căn cước, thẻ quốc tịch và khai sinh ngoại quốc để Nhà nước làm thủ tục hành chánh.
Ông nói xong thì lui bước, để cho một đại biểu khác lên tiếng yêu cầu đồng bào làm bản tự khai hồ sơ, lý lịch, nhất là phải kê khai vàng bạc, kim cương, hạt xoàn và đô la. Trong khi mọi người tập trung ở hội trường, cán bộ cộng sản đã vào phòng khám xét hành lý của Việt kiều. Những ai có chìa khóa va ly hay khóa các hộp kín, họ đến bảo nhỏ giao nộp chìa khóa cho họ làm thủ tục kiểm tra. Ngay hôm đó, họ bắt mọi người giao nộp vàng, kim cương, nữ trang và đô la.
Ông cán bộ nói:
Đảng phải giữ tài sản cho đồng bào vì sợ bọn biệt kích Mỹ ngụy cướp của giết người.. Cứ yên tâm đưa chính phủ giữ dùm, rồi chính phủ sẽ trả lại cho các gia đình sau khi tình hình đã được ổn định.
Các gia đình Việt kiều được cán bộ rút sổ tay, xé giấy viết biên nhận bằng những tờ giấy vàng úa xấu xí với những giòng chữ nghệch ngoạc, không rõ chữ viết và con số, và cũng không ghi ngày tháng, tên chủ nhân tài sản cũng như chữ ký và tên người nhận:
Đã nhận 300 miếng kim loại bề ngoài màu vàng. . . Đã nhận một ngàn tiền nước ngoài. . . Đã nhận hai mươi viên đá nhỏ óng ánh. . .
Tiếp theo, mọi người làm thủ tục y tế. Mọi người phải vào phòng kín, cởi hết áo quần để y sĩ khám xét. Không thử máu, không nghe tim mạch, mà chỉ khám tổng quát. Thủ tục này thì cũng nhanh thôi, ngoại trừ những ai còn cất giấu tài sản trong người là bị tịch thu và bị phê bình, kiểm thảo.
Đến đây thì các Việt kiều đã biết mình đã lầm, đã mắc gian kế. Họ cũng như Thúy Kiều trong ngày đầu gặp Mã giám sinh đã kêu lên:
Ông lo bán nhà cửa, hàng hóa và các cơ sở kinh doanh thu được năm trăm lượng vàng và mười ngàn đô la Mỹ. Sau khi đã thanh toán mọi thứ, ông đã đến tòa đại sứ Việt Nam tại Vọng Các (Bangkok) ghi tên hồi hương. Toà đại sứ Việt Nam tại Thái Lan đã lo mọi sự. Tất cả Việt kiều tại Thái Lan sẽ cùng nhau về Việt Nam bằng đường hàng không sang Cambodge rồi từ đó sẽ đi xe ô tô hay máy bay về Việt Nam.
Sau khi đoàn Việt kiều Thái Lan về đến Cambodge, họ được chuyển ngay lên xe ô tô Liên Xô là loại xe bốn bề kín mít chở ngay về Quảng Bình Việt Nam. Khi về đến biên giới Việt Nam, cả đám được cán bộ cộng sản đeo súng yêu cầu xuống xe để vào một trung tâm, bốn bề rào kín và có lính gác.
Họ bảo các Việt kiều tạm ở lại đây một thời gian để học tập đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước. Họ ra lệnh các Việt kiều tập họp lại, gia đình nào theo gia đình đó.Họ bảo mọi người không được ra khỏi trung tâm nếu không được trung tâm cho phép. Họ đưa mọi người vào hội trường. Viên thủ trưởng tỏ ra rất lịch sự. Ông nói:
Chào các đồng bào và các đồng chí,
Hôm nay tôi xin thay mặt mặt đảng và chính phủ chào mừng những người con yêu trở về tổ quốc.
Ông vừa dứt lời, mọi người vui vẻ hoan hô, tiếng vỗ tay nghe vang như tiếng pháo.
Tiếp theo, ông nói:
Thưa các đồng chí và đồng bào,
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, những người ngoại quốc đã ước mơ trong một đêm được trở thành người Việt Nam. Các đồng bào và đồng chí nay đã thành người nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.Trước tiên, yêu cầu mọi người giao nộp thẻ căn cước, thẻ quốc tịch và khai sinh ngoại quốc để Nhà nước làm thủ tục hành chánh.
Ông nói xong thì lui bước, để cho một đại biểu khác lên tiếng yêu cầu đồng bào làm bản tự khai hồ sơ, lý lịch, nhất là phải kê khai vàng bạc, kim cương, hạt xoàn và đô la. Trong khi mọi người tập trung ở hội trường, cán bộ cộng sản đã vào phòng khám xét hành lý của Việt kiều. Những ai có chìa khóa va ly hay khóa các hộp kín, họ đến bảo nhỏ giao nộp chìa khóa cho họ làm thủ tục kiểm tra. Ngay hôm đó, họ bắt mọi người giao nộp vàng, kim cương, nữ trang và đô la.
Ông cán bộ nói:
Đảng phải giữ tài sản cho đồng bào vì sợ bọn biệt kích Mỹ ngụy cướp của giết người.. Cứ yên tâm đưa chính phủ giữ dùm, rồi chính phủ sẽ trả lại cho các gia đình sau khi tình hình đã được ổn định.
Các gia đình Việt kiều được cán bộ rút sổ tay, xé giấy viết biên nhận bằng những tờ giấy vàng úa xấu xí với những giòng chữ nghệch ngoạc, không rõ chữ viết và con số, và cũng không ghi ngày tháng, tên chủ nhân tài sản cũng như chữ ký và tên người nhận:
Đã nhận 300 miếng kim loại bề ngoài màu vàng. . . Đã nhận một ngàn tiền nước ngoài. . . Đã nhận hai mươi viên đá nhỏ óng ánh. . .
Tiếp theo, mọi người làm thủ tục y tế. Mọi người phải vào phòng kín, cởi hết áo quần để y sĩ khám xét. Không thử máu, không nghe tim mạch, mà chỉ khám tổng quát. Thủ tục này thì cũng nhanh thôi, ngoại trừ những ai còn cất giấu tài sản trong người là bị tịch thu và bị phê bình, kiểm thảo.
Đến đây thì các Việt kiều đã biết mình đã lầm, đã mắc gian kế. Họ cũng như Thúy Kiều trong ngày đầu gặp Mã giám sinh đã kêu lên:
Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!.
Vài ngày sau, các Việt kiều được phân phối về các thôn xóm ở miền Bắc.
Gia đình Trương Thế Minh được phân phối về một làng ở Quảng Bình. Ông
chất vấn cán bộ :
-Chúng tôi xin về Hà Nội là quê hương của tôi và đã được tòa đại sứ Việt Nam ở Bangkok chấp thuận. Nay sao các ông lại bắt tôi về Quảng Bình?
Tên cán bộ trong ban Việt kiều yêu nước nói:
- Nay chúng ta đang xây dựng Hà Nội thành một thủ đô to lớn và văn minh hơn mười, hơn trăm lần xưa. Hà Nội tương lai sẽ có những tòa cao 100, 200 tầng, vĩ đại hơn Mỹ. Vi là xây cất chưa xong, nên chưa có nhà cho đồng bào ở. Vậy ông tạm ở lại Quảng Bình một thời gian, rồi sẽ đưa gia đình về Hà Nội sau.
-Chúng tôi xin về Hà Nội là quê hương của tôi và đã được tòa đại sứ Việt Nam ở Bangkok chấp thuận. Nay sao các ông lại bắt tôi về Quảng Bình?
Tên cán bộ trong ban Việt kiều yêu nước nói:
- Nay chúng ta đang xây dựng Hà Nội thành một thủ đô to lớn và văn minh hơn mười, hơn trăm lần xưa. Hà Nội tương lai sẽ có những tòa cao 100, 200 tầng, vĩ đại hơn Mỹ. Vi là xây cất chưa xong, nên chưa có nhà cho đồng bào ở. Vậy ông tạm ở lại Quảng Bình một thời gian, rồi sẽ đưa gia đình về Hà Nội sau.
Biết rằng phản đối cũng vô ích cho nên
gia đình ông phải lên xe về Quảng Bình. Gia đình ông được đổ xuống quốc
lộ I, rồi được công an dẫn bộ tới một làng nhỏ, cách quốc lộ vài cây
số. Làng này cho ông một miếng đất ven sông để ở và canh tác. Nơi ông ở
là bãi sông vắng, cách xa xóm làng vài cây số.
Ông là một kẻ ngụ cư. Hơn nữa, ông là một kẻ nguy hiểm. Dân làng không ai dám giao thiệp cùng gia đình ông vì họ coi gia đình ông như một những kẻ gián điệp từ ngoại quốc về để phá hoại xã hội chủ nghĩa. Tiền của mất sạch, gia đình ông trở thành kẻ bần cùng nhất nước, cô đơn nhất nước. Thư ông gửi đi không có hồi âm. Ông không nhận được lá thư nào từ Thái Lan hay Hà Nội. Ở Thái Lan, ông có tài sản, bạn bè, nhưng về đây, quê hương Việt Nam,Trương Thế Vinh và gia đình bị lưu đày và cấm cố.
Gia đình ông vì yêu nước mà trở về nay lại bị coi là kẻ thù của dân tộc. Sống ở Thái Lan, ông tự coi là người xa lạ, nay về Việt Nam, ông lại trở thành người xa lạ trên quê hương mình. Ông suy nghĩ xa gần mà lòng đau như cắt. Ông trách ông ngu dại. Nước Thái Lan đã cho ông nương tựa, giúp ông làm giàu, con cái ông học hành thành tựu, thế mà ông bỏ Thái Lan mà về Việt Nam, về quê mẹ, nhưng quê mẹ đã giết gia đình ông, cướp đoạt tài sản và hy vọng của ông! Kẻ sát nhân cướp bóc chính là những kẻ mà ông đã nuôi nấng, kẻ đã rao giảng tự do, nhân đạo và bình đẳng! Ông đã bỏ mồi bắt bóng! Ông là người ngu xuẩn nghe theo những lời phỉnh nịnh để rồi làm hại mình và con cháu!
Ông là một kẻ ngụ cư. Hơn nữa, ông là một kẻ nguy hiểm. Dân làng không ai dám giao thiệp cùng gia đình ông vì họ coi gia đình ông như một những kẻ gián điệp từ ngoại quốc về để phá hoại xã hội chủ nghĩa. Tiền của mất sạch, gia đình ông trở thành kẻ bần cùng nhất nước, cô đơn nhất nước. Thư ông gửi đi không có hồi âm. Ông không nhận được lá thư nào từ Thái Lan hay Hà Nội. Ở Thái Lan, ông có tài sản, bạn bè, nhưng về đây, quê hương Việt Nam,Trương Thế Vinh và gia đình bị lưu đày và cấm cố.
Gia đình ông vì yêu nước mà trở về nay lại bị coi là kẻ thù của dân tộc. Sống ở Thái Lan, ông tự coi là người xa lạ, nay về Việt Nam, ông lại trở thành người xa lạ trên quê hương mình. Ông suy nghĩ xa gần mà lòng đau như cắt. Ông trách ông ngu dại. Nước Thái Lan đã cho ông nương tựa, giúp ông làm giàu, con cái ông học hành thành tựu, thế mà ông bỏ Thái Lan mà về Việt Nam, về quê mẹ, nhưng quê mẹ đã giết gia đình ông, cướp đoạt tài sản và hy vọng của ông! Kẻ sát nhân cướp bóc chính là những kẻ mà ông đã nuôi nấng, kẻ đã rao giảng tự do, nhân đạo và bình đẳng! Ông đã bỏ mồi bắt bóng! Ông là người ngu xuẩn nghe theo những lời phỉnh nịnh để rồi làm hại mình và con cháu!
Vài năm sau, chiến tranh Việt Mỹ bùng nổ, miền Bắc bắt thanh niên nam nữ “sinh bắc tử nam”. Trương Thế Minh có một trai, một gái. Con trai ông phải vào bộ đội rồi tử thương tại chiến trường miền Nam. Con gái ông phải đi thanh niên xung phong, lâm bệnh rồi chết trên Trường Sơn. Hai vợ chồng cắng đắng nhau. Bà trách ông nhẹ dạ tin lời kẻ cướp. Bà không chịu nổi đời sống kham khổ và nỗi uất hận về bị lường gạt nên mắc bệnh, không thuốc men mà chết. Còn ông, trong cơn đau khổ, uống rượu say rồi chửi cộng sản. Kết cuộc ông bị công an bắt bỏ tù rồi chết trong trại tù Thái Nguyên.
NGUYYỄN QUANG * BÀ HENRIETTE BÙI QUANG CHIÊU
Bà bác sĩ Bùi Quang Chiêu - người con gái
thứ 3 của ông Bùi Quang Chiêu.
Năm nay bà đúng 100 tuổi và bà là nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam
Hiện bà đang sinh sống tại Pháp
Nữ bác sĩ VN đầu tiên – Henriette Bùi Quang Chiêu
Bà bác Sĩ Henriette Bùi Quang Chiêu bắt đầu vào trường Y Khoa năm 1926. Thời bấy giờ, đại học còn rất ít sinh viên nữ, và ngành Y khoa lại càng hiếm hoi hơn. Sau mười năm “tu luyện” nội trú trong các bệnh viện, bà chọn ngành chuyên môn là Sản Phụ Khoa, với luận án bác sĩ được tưởng thưởng huy chương. Bà trở thành bác sĩ gốc Việt đầu tiên xuất thân từ Ðại Học Y Khoa Paris.
Nhân vật đặc biệt
Người mà chúng tôi tìm kiếm cho chuyến thăm viếng này là bà Bác Sĩ Henriette Bùi Quang Chiêu.Bác Sĩ Henriette Bùi Quang Chiêu sinh tại Hà Nội ngày 8 tháng 9, 1906, là ái nữ của ông Bùi Quang Chiêu, người miền Nam, và bà Vương Thị Y.
Sau khi ông Bùi Quang Chiêu tốt nghiệp Kỹ Sư Canh Nông tại Pháp quốc, ông trở về Việt Nam làm việc trong ngành chuyên môn. Là người của khoa học, ông Chiêu lại nổi tiếng về lập trường chính trị. Ông sáng lập đảng Lập Hiến, sở hữu tờ báo “La Tribune Indochinoise.” Mặc dầu hoạt động trong khuôn khổ bất bạo động, theo lập hiến để đòi quyền tự trị, ông là người Tây du, đi cùng đường hướng với cụ Phan Châu Trinh, người Ðông du, dưới con mắt của người Pháp thuộc địa, ông là người có tinh thần quốc gia nguy hiểm, không khác nào người làm cách mạng.
Ðảng Cộng Sản Việt Nam thì xem ông như một chướng ngại vật có tầm vóc nên Việt Minh không ngần ngại sát hại ông cùng rất nhiều nhà yêu nước khác, đồng thời buộc tội ông là người hợp tác với chính quyền Pháp thuộc địa.
Con gái ông Bùi Quang Chiêu, là bà Henriette Bùi Quang Chiêu, thừa hưởng tính chất năng nổ, hoạt bát từ người mẹ, đồng thời được sống trong môi trường thuận lợi: gia đình khá giả, có kiến thức của hai nền văn hóa Âu Á, được thêm sự giáo dục phóng khoáng. Vì nền tảng ấy, từ rất sớm, bà đã thể hiện cá tính độc lập với năng lực khác thường. Sống ở Saigon khi còn bé, vào tiểu học năm 1915 “l’École Primaire Superieure des jeunes filles,” sau đó bà vô Lycée Marie Curie. Cô học sinh Henriette là một người thông minh, lại có tính bướng bỉnh nhưng không kém phần hoạt kê, dí dỏm. Bà đỗ bằng tiểu học Certificat d’Études với thứ hạng cao, rồi sau đó nằng nặc đòi thân phụ cho đi học ngành Y khoa ở Paris như người anh Henri của bà.
Gởi con gái đi xa gia đình, vào thời bấy giờ là chuyện hy hữu. Bà Henriette cứ tiếp tục “quấy nhiễu” thân phụ mẫu, đòi được sang Pháp du học. Cuối cùng, ông bà phải chiều ý. Cô tiểu thư Henriette Bùi ra bến tàu Sài Gòn, xuất ngoại mùa Hè 1921, khi chưa tròn tuổi 15.
Henriette vào Lycée d’Agen và Bordeau năm 1922-25, thuộc miền Tây Nam nước Pháp. Cô học sinh gốc Á hấp thụ đời sống Âu Tây một cách tự nhiên, lấy bằng tú tài năm 1926 dưới sự giám hộ của giáo sư triết Madame Meyerson, nơi bà thường gặp nữ bác học Marie Curie. Bà bắt đầu vào trường Y Khoa năm 1926. Thời bấy giờ, đại học còn rất ít sinh viên nữ, và ngành Y khoa lại càng hiếm hoi hơn. Sau mười năm “tu luyện” nội trú trong các bệnh viện, bà chọn ngành chuyên môn là Sản Phụ Khoa, với luận án bác sĩ được tưởng thưởng huy chương. Bà trở thành bác sĩ gốc Việt đầu tiên xuất thân từ Ðại Học Y Khoa Paris. Lúc ấy, bà vừa tròn 28 tuổi. Sự kiện bà hồi hương năm 1935 là một biến cố quan trọng, làm chấn động dư luận xã hội và truyền thông thời bấy giờ.
Về Việt Nam, Bác Sĩ Henriette Bùi được bổ nhiệm làm trưởng khoa Hộ Sinh ở Chợ Lớn, và là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên có trách nhiệm chăm lo hệ thống bệnh viện thuộc địa thời ấy. Với cá tính độc lập, bướng bỉnh, bà thường gặp nhiều khó khăn với các “ông tây thuộc địa,” và sự tranh chấp, đố kỵ xảy ra gần như hàng ngày. Tương truyền, bà từ chối mặc y phục Âu Tây để người Pháp kính nể hơn. Giới bác sĩ Pháp thời ấy nói rằng, nếu bà mặc y phục Việt Nam, người ta sẽ lầm tưởng bà là một “bà mụ đỡ đẻ” hơn là một bác sĩ sản khoa. Bà cương quyết từ chối, vẫn cứ tiếp tục hãnh diện trong bộ y phục Việt Nam của mình!
Không những thế, bà không ngừng chống đối sự kỳ thị, về giới tính và chủng tộc. Trong nghề, bà để hết tâm huyết, công sức mở các lớp huấn luyện các bà mụ sản khoa. Một trong những chế độ kỳ thị trắng trợn thời ấy là, cho dầu cùng là bác sĩ, những đồng nghiệp cùng khoa bảng lãnh lương cao gấp 10 lần nữ bác sĩ bản xứ. Ðơn giản, vì các đồng nghiệp ấy là… người Pháp. Bà nhất định tranh đấu, đòi quyền bình đẳng, cho bà, cho nữ giới bản xứ, và cho cả bệnh nhân người bản xứ. Người Pháp rất bực mình về thái độ của bà; họ tố cáo bà “làm cách mạng.”
Trong cuộc sống xã hội, Bác Sĩ Henriette Bùi hành xử rất “Tây.” Bà làm những việc gần như không thể chấp nhận được cho nữ giới thời ấy: bơi lội trong các hồ bơi tập thể, lái xe hơi. Bà chỉ tiếc là đã bỏ cuộc trong việc học lái máy bay!
Cuối năm 1950, bà lại sang Nhật Bản học châm cứu, rồi trở về Pháp hành nghề trong ngành chuyên môn mới, rất thành công tại Paris.
Ðến năm 1966 bà gia nhập một tổ chức từ thiện, trước khi tổ chức “Medecins Sans Frontière” (Bác Sĩ Không Biên Giới) được thành lập. Khi chiến tranh Việt Nam bùng nổ dữ dội, bà tận tụy chữa trị mọi người, không phân biệt bạn, thù. Bà trở về Pháp năm 1971, làm việc đến năm 1976. Về hưu, bà vẫn tiếp tục công du khắp lục địa.
Về đường gia đình, nữ Bác Sĩ Henriette Bùi thành hôn với ông Vương Quang Nhượng, luật sư nổi tiếng của Tòa Án Sài Gòn, cũng là người bạn thân của thân phụ bà. Hai người ly dị hai năm sau. Sau đó, bà sống với người bạn đời mà bà từng quen biết khi ông còn đi học ở Paris. Ðó là ông Nguyễn Ngọc Bích, người từng tốt nghiệp Kỹ Sư Cầu Cống từ trường nổi tiếng bậc nhất xứ Pháp, “École Polytechnique,” vốn chỉ dành riêng cho sinh viên uu tú nhất của nước Pháp và thế giới thời ấy.
Ông Nguyễn Ngọc Bích thuộc thành phần người quốc gia, yêu nước chân
chính, đáp lời tiếng gọi quê hương, gia nhập phong trào kháng chiến
chống thực dân Pháp, ông được các anh em đồng đội tin tưởng và ngưỡng
mộ, bầu làm Khu Bộ Phó Khu 9. Ảnh hưởng của ông càng ngày rộng lớn, và
vì ông từ chối gia nhập Ðảng Cộng Sản, ông bị Việt Minh gài cho quân đội
Pháp bắt trong vùng tỉnh Sóc Trăng. Dù bị tra tấn, ông nhất định không
tiết lộ tên thật, và bị lên án tử hình.
Những năm đau khổ nhất trong cuộc đời của bà Henriette Bùi là khi cha và anh bà bị Việt Minh ám sát tháng 9, 1945. Rồi đến 1947, người bạn đời của bà, kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích, bị Việt Minh gài cho quân đội Pháp bắt, rồi bị lên án tử hình. Ðược tin không lành, bà Henriette Bùi ráo riết tìm các bạn học trường Polytechnique cùng chồng, là những người nay trở thành những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng trong chính quyền Pháp, nhờ can thiệp.
Kết quả, ông Nguyễn Ngọc Bích được chuyển sang danh sách trao đổi tù binh, thay vì án tử hình. Ðổi lại, ông không được trở lại Việt Nam, mà phải sang Pháp lưu trú. Tại đây, ông trở lại trường Y khoa và thành tài trong mấy năm sau. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại trở thành giáo sư dạy môn Vật Lý tại trường Y Khoa. Chuyện liên hệ ngẫu nhiên: giảng sư Nguyễn Ngọc Bích lại là thầy của Bác Sĩ Vũ Ngọc Quỳnh, người gần gũi ông nhất (Bác Sĩ Quỳnh cũng có mặt trong buổi thăm viếng với phái đoàn) và cũng là thầy của Bác Sĩ Nguyễn Tấn Phát, người bắt được liên lạc với bà Bác Sĩ Henriette Bùi.
Phái đoàn đến thăm viếng bà Henriette Bùi tại nhà dưỡng lão sang trọng thuộc Quận 19, Paris. Bà tiếp phái đoàn 8 người trong một phòng khách rộng lớn, trên lầu cao có cả sân thượng. Trên đường đến thăm bà, tất cả những người trong phái đoàn ai cũng hân hoan nhưng lo ngại, không biết bà sẽ như thế nào. Ðến khi gặp mặt, mọi người đều vui mừng, thán phục thấy bà tuy tuổi đã cao, nhưng vẫn khỏe mạnh, minh mẫn ở tuổi 105.
Bà vui mừng nắm tay từng người, hỏi han từ đâu đến và hành nghề gì. Bà vui mừng khi biết các bác sĩ từ Hoa Kỳ đến thăm. Bà rất thoải mái trong bầu không khí trẻ trung không gò bó, ai cũng gọi “bà Henriette,” thay vì gọi “bà cụ” hay “bác sĩ.” Khi bác sĩ Hoàng Lan xin chữ ký, bà để chức vụ “M.D. Henriette Bùi Quang Chiêu” chứ không dùng chữ Docteur vì biết Bác Sĩ Hoàng Lan đến từ Hoa Kỳ. Kể ra những chi tiết để thấy bà vẫn còn minh mẫn, và vẫn còn tính… nghịch ngợm, khôi hài.
Trong lúc trò chuyện, bà hay hỏi lại tên người này người kia vì bà hay quên những gì trong hiện tại, trái lại những gì trong quá thì bà nhớ rất rõ. Bà đọc lại bài vè thật dài, học được khi còn bé, cho mọi người hiện diện cùng nghe. Rồi bà quay qua hỏi người mà bà từng đỡ cho ông được sinh ra 75 năm trước: “Ông là ai?” Người này trả lời: “Dạ thưa, con là Nguyễn Duy Tân.” Bà thản nhiên phát ra một câu không chờ đợi: “A! ông ắt phải là một ông lớn.” Mọi người hiện diện trong phòng cười rộ lên. Bà tỏ ra phấn chấn, vì biết câu nói đùa của mình được mọi người tán thưởng.
Ðộng tác của bà cụ 105 tuổi nay đã chậm, nhưng tư duy vẫn rất nhạy bén. Nói về quá khứ, bà nhớ từng chi tiết một, và khi hỏi bà có hận thù cộng sản đã giết cha và anh của bà không? Bà trả lời: “Không oán hận, vì đó là lịch sử.” Bà nói, mọi chuyện hãy “để cho lịch sử phán xét.”
Trên hai tiếng đồng hồ rộn tiếng cười, đột nhiên bầu không khí trở nên nghiêm trang khi ông bà Bác Sĩ Lương Vinh Quốc Khanh và Bác Sĩ Hoàng Lan trao tặng bà tấm phù điêu thủy tinh, vinh danh bà và cũng để đánh dấu ngày 3 tháng 6, 2011, ngày kỷ niệm phái đoàn của Hội Nghiên Cứu Y Khoa Việt-Mỹ đến thăm viếng. Cảm động, bà ôm lấy tặng vật vào lòng, một hình ảnh xúc động, dễ thương!
Trời đã trưa, phái đoàn ngỏ ý mời bà dùng buổi cơm trưa ngoài phố, bà đồng ý ngay. Có người đỡ bà đứng dậy, rồi bà tự động cầm lấy cán xe (walker), thong dong đi một mình đến gọi thang máy để xuống lầu. Nhà hàng ăn ngoài phố không xa nơi bà cư trú. Khi đẩy xe bà đến, tất cả nhân viên của nhà hàng niềm nở đón tiếp như thượng khách; bà là khách thường xuyên ở đây!
Sau gần năm tiếng đồng hồ được trò chuyện, sinh hoạt cùng bà, mọi người đưa bà trở lại nơi cư ngụ. Bịn rịn, cảm động, bà bắt tay từng người, bảo: “Phải trở lại thăm bà nữa nhé.” Khi chúng tôi chúc bà sức khỏe và trường thọ, bà phán: “Bà sẽ sống đến 121 tuổi để lấy giải sống lâu hơn một bà người Pháp sống đến 120 tuổi.”
Bác Sĩ Henriette Bùi, biểu tượng của cộng đồng người Việt hải ngoại cũng như tại Paris nói riêng, một nhân vật đặc biệt, chứng nhân của cả một thế kỷ Việt Nam đầy biến động.
Qua đời năm 2012
Bà Henriette Bùi Quang Chiêu qua đời lúc 8 giờ 30 phút ngày 27/04/2012 tại Paris – Pháp.
Theo tâm nguyện của bà, sau khi hỏa táng, tro cốt của bà được phân làm hai nơi: Dòng tộc họ Bùi ở Huyện Mỏ Cày Bắc lưu giữ một phần, phần còn lại được an táng kế bên mộ phần của chồng tức kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích trong khuôn viên Tòa Thánh Bến Tre
.Nguyễn Quang
Những năm đau khổ nhất trong cuộc đời của bà Henriette Bùi là khi cha và anh bà bị Việt Minh ám sát tháng 9, 1945. Rồi đến 1947, người bạn đời của bà, kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích, bị Việt Minh gài cho quân đội Pháp bắt, rồi bị lên án tử hình. Ðược tin không lành, bà Henriette Bùi ráo riết tìm các bạn học trường Polytechnique cùng chồng, là những người nay trở thành những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng trong chính quyền Pháp, nhờ can thiệp.
Kết quả, ông Nguyễn Ngọc Bích được chuyển sang danh sách trao đổi tù binh, thay vì án tử hình. Ðổi lại, ông không được trở lại Việt Nam, mà phải sang Pháp lưu trú. Tại đây, ông trở lại trường Y khoa và thành tài trong mấy năm sau. Tuy nhiên, ông không hành nghề bác sĩ và lại trở thành giáo sư dạy môn Vật Lý tại trường Y Khoa. Chuyện liên hệ ngẫu nhiên: giảng sư Nguyễn Ngọc Bích lại là thầy của Bác Sĩ Vũ Ngọc Quỳnh, người gần gũi ông nhất (Bác Sĩ Quỳnh cũng có mặt trong buổi thăm viếng với phái đoàn) và cũng là thầy của Bác Sĩ Nguyễn Tấn Phát, người bắt được liên lạc với bà Bác Sĩ Henriette Bùi.
Phái đoàn đến thăm viếng bà Henriette Bùi tại nhà dưỡng lão sang trọng thuộc Quận 19, Paris. Bà tiếp phái đoàn 8 người trong một phòng khách rộng lớn, trên lầu cao có cả sân thượng. Trên đường đến thăm bà, tất cả những người trong phái đoàn ai cũng hân hoan nhưng lo ngại, không biết bà sẽ như thế nào. Ðến khi gặp mặt, mọi người đều vui mừng, thán phục thấy bà tuy tuổi đã cao, nhưng vẫn khỏe mạnh, minh mẫn ở tuổi 105.
Bà vui mừng nắm tay từng người, hỏi han từ đâu đến và hành nghề gì. Bà vui mừng khi biết các bác sĩ từ Hoa Kỳ đến thăm. Bà rất thoải mái trong bầu không khí trẻ trung không gò bó, ai cũng gọi “bà Henriette,” thay vì gọi “bà cụ” hay “bác sĩ.” Khi bác sĩ Hoàng Lan xin chữ ký, bà để chức vụ “M.D. Henriette Bùi Quang Chiêu” chứ không dùng chữ Docteur vì biết Bác Sĩ Hoàng Lan đến từ Hoa Kỳ. Kể ra những chi tiết để thấy bà vẫn còn minh mẫn, và vẫn còn tính… nghịch ngợm, khôi hài.
Trong lúc trò chuyện, bà hay hỏi lại tên người này người kia vì bà hay quên những gì trong hiện tại, trái lại những gì trong quá thì bà nhớ rất rõ. Bà đọc lại bài vè thật dài, học được khi còn bé, cho mọi người hiện diện cùng nghe. Rồi bà quay qua hỏi người mà bà từng đỡ cho ông được sinh ra 75 năm trước: “Ông là ai?” Người này trả lời: “Dạ thưa, con là Nguyễn Duy Tân.” Bà thản nhiên phát ra một câu không chờ đợi: “A! ông ắt phải là một ông lớn.” Mọi người hiện diện trong phòng cười rộ lên. Bà tỏ ra phấn chấn, vì biết câu nói đùa của mình được mọi người tán thưởng.
Ðộng tác của bà cụ 105 tuổi nay đã chậm, nhưng tư duy vẫn rất nhạy bén. Nói về quá khứ, bà nhớ từng chi tiết một, và khi hỏi bà có hận thù cộng sản đã giết cha và anh của bà không? Bà trả lời: “Không oán hận, vì đó là lịch sử.” Bà nói, mọi chuyện hãy “để cho lịch sử phán xét.”
Trên hai tiếng đồng hồ rộn tiếng cười, đột nhiên bầu không khí trở nên nghiêm trang khi ông bà Bác Sĩ Lương Vinh Quốc Khanh và Bác Sĩ Hoàng Lan trao tặng bà tấm phù điêu thủy tinh, vinh danh bà và cũng để đánh dấu ngày 3 tháng 6, 2011, ngày kỷ niệm phái đoàn của Hội Nghiên Cứu Y Khoa Việt-Mỹ đến thăm viếng. Cảm động, bà ôm lấy tặng vật vào lòng, một hình ảnh xúc động, dễ thương!
Trời đã trưa, phái đoàn ngỏ ý mời bà dùng buổi cơm trưa ngoài phố, bà đồng ý ngay. Có người đỡ bà đứng dậy, rồi bà tự động cầm lấy cán xe (walker), thong dong đi một mình đến gọi thang máy để xuống lầu. Nhà hàng ăn ngoài phố không xa nơi bà cư trú. Khi đẩy xe bà đến, tất cả nhân viên của nhà hàng niềm nở đón tiếp như thượng khách; bà là khách thường xuyên ở đây!
Sau gần năm tiếng đồng hồ được trò chuyện, sinh hoạt cùng bà, mọi người đưa bà trở lại nơi cư ngụ. Bịn rịn, cảm động, bà bắt tay từng người, bảo: “Phải trở lại thăm bà nữa nhé.” Khi chúng tôi chúc bà sức khỏe và trường thọ, bà phán: “Bà sẽ sống đến 121 tuổi để lấy giải sống lâu hơn một bà người Pháp sống đến 120 tuổi.”
Bác Sĩ Henriette Bùi, biểu tượng của cộng đồng người Việt hải ngoại cũng như tại Paris nói riêng, một nhân vật đặc biệt, chứng nhân của cả một thế kỷ Việt Nam đầy biến động.
Qua đời năm 2012
Bà Henriette Bùi Quang Chiêu qua đời lúc 8 giờ 30 phút ngày 27/04/2012 tại Paris – Pháp.
Theo tâm nguyện của bà, sau khi hỏa táng, tro cốt của bà được phân làm hai nơi: Dòng tộc họ Bùi ở Huyện Mỏ Cày Bắc lưu giữ một phần, phần còn lại được an táng kế bên mộ phần của chồng tức kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích trong khuôn viên Tòa Thánh Bến Tre
.Nguyễn Quang
HỨA HOÀNH * BÙI QUANG CHIÊU
Ai giết ông Bùi Quang Chiêu ? (1873-1945)
Hứa Hoành
- Bùi Quang Chiêu and the Constitution Party in French Cochinchina 1917-1930” của R.B. Smith.
- Souverains et Notabilités D'indochine” của Phủ toàn quyền Pháp tại Hà Nội ấn hành năm 1943 (do
TS Vũ Ngự Chiêu phát kiến, cho mượn và cho phép sử dụng.
- Việt Nam Niên Biểu Vật Chí của Chính Đạo.
- Nhà Cách Mạng Nguyễn Thế Truyền của Đặng Hữu Thụ, Paris.
- Lịch Sử Báo Chí Việt Nam của Huỳnh Văn Tòng...
Tác giả trân trọng cám ơn quí vị có phương danh nêu trên.
Bà bác sĩ Bùi Quang Chiêu - người con gái
thứ 3 của ông Bùi Quang Chiêu.
Năm nay bà đúng 100 tuổi và bà là nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam
Hiện bà đang sinh sống tại Pháp
HOÀN CẢNH LỊCH SỬ, TIỂU SỬ ÔNG BÙI QUANG CHIÊU.
Hai năm 1916-1917 đánh dấu sự bộc phát tinh thần ái quốc của người Việt khắp 3 Kỳ, dưới chế độ Pháp cai trị. Tại Sàigòn, tháng 2/1916, cuộc khởi nghĩa “cứu đại ca” tức “Phan Xích Long hoàng
đế” thất bại. Các lãnh tụ của phong trào bị hành hình. Các hoạt động của những hội kín chống Pháp (Thiên Địa Hội) tại Nam Kỳ chựng lại. Tại Trung Kỳ, cuộc khởi nghĩa non của vua Duy Tân tháng 5/1916 nổ ra tại Huế, bị bại lộ ngay từ lúc mới bắt đầu. Lãnh tụ Trần Cao Vân bị giết. Vua Duy Tân bị lưu đày qua đảo Réunion. Hai biến cố đó làm cho tinh thần của phong trào Duy Tân (1905) phát động từ hơn 10 năm trước, đã phát triển mạnh mẽ trong những năm kế tiếp, bị giao động mạnh.
Ở Bắc Kỳ cũng có các hội kín (đảng chính trị), phần lớn hướng về vị lãnh tụï nhiều uy tín, đang sống lưu vong tại Hoa Nam là cụ Phan Bội Châu. Đường lối hoạt động cách mạng của cụ Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) của Tôn Dật Tiên.
Tháng 4/1917, ông Lương Ngọc Quyến cùng với ông Đội Cấn và một số binh sĩ phá khám, chiếm tỉnh lỵ Thái Nguyên, tuyên bố độc lập. Chỉ được mấy hôm, viện binh Pháp từ Hà Nội kéo lên, đàn áp đẫm máu. Hai lãnh tụ cuộc khởi nghĩa là ông Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn phải tự sát.
Trước sự thất bại liên tục của các phong trào võ trang khởi nghĩa, một vài nhân vật trẻ, xuất thân từ môi trường văn hóa Âu Tây hồi hương, đã tìm ra một đường lối tranh đấu khác, tuần tự, ôn hòa và công khai hơn. Họ dùng phương tiện truyền thông là báo chí. Nam Kỳ vào mấy thập niên đầu của thế kỷ 20, lớp thanh niên hấp thụ văn hóa Tây phương và du học từ bên Pháp trở về tăng dần. Họ đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển văn hóa giáo dục của người Pháp tại thuộc địa, đồng thời cũng mạnh dạn bày tỏ chính kiến, nguyện vọng của người bản xứ.
Chính lớp người này đã chọn lựa và dấn thân vào một đường lối tranh đấu
bất bạo động. Đây là một phương pháp tranh đấu công khai, ôn hòa, đòi
hỏi những sự nhượng bộ, cải thiện, tiệm tiến để cuối cùng đạt mục tiên
tối hậu. Nó không phải là nhu nhược, hay bất đắc dĩ như cộng sản hiếu
chiến phê phán. Kinh nghiệm ở Ấn Độ đã chứng minh “tranh đấu bất bạo
động là một đường lối đầy nghị lực mạnh mẽ.” Đó là phương cách giải
phóng con người không qua bạo động, chém giết, khủng bố, bạo hành. Lịch
sử các quốc gia Á Phi giành độc lập sau thế chiến II, là một chứng minh
hùng hồn.
Tại Đông Nam Á, tất cả các thuộc địa Anh, Pháp, Hòa Lan, Mỹ lần lượt thu hồi độc lập mà không đổ máu, hay đổ máu tối thiểu (Indonesia), là một đường lối khôn ngoan, bảo vệ được nhân lực, tài lực và vật lực của quốc gia, để kiến tạo đất nước sau khi độc lập. Chỉ trừ Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của cộng sản, trước sau tiến hành hai cuộc chiến tranh (1945 - 54 và 1960 - 1975) chống lại hai
cường quốc đại công nghiệp.
Tại Đông Nam Á, tất cả các thuộc địa Anh, Pháp, Hòa Lan, Mỹ lần lượt thu hồi độc lập mà không đổ máu, hay đổ máu tối thiểu (Indonesia), là một đường lối khôn ngoan, bảo vệ được nhân lực, tài lực và vật lực của quốc gia, để kiến tạo đất nước sau khi độc lập. Chỉ trừ Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của cộng sản, trước sau tiến hành hai cuộc chiến tranh (1945 - 54 và 1960 - 1975) chống lại hai
cường quốc đại công nghiệp.
Ông Hồ và đảng CSVN dùng số nhân lực và tài nguyên ít ỏi của mình để gây
chiến tranh không cần thiết cho độc lập, nhưng cần thiết cho đảng CS để
làm tay sai cho CSQT, bành trướng chủ nghĩa CS qua các lân quốc.
Tiền phong tranh đấu ôn hòa, công khai là ông Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phú Khai. Nguyễn Phú Khai sinh năm 1887 tại Bà Rịa, du học bên Pháp, được Pièrre Loti đỡ đầu, đậu kỹ sư, phục vụ trong quân đội Pháp một thời gian. Về Sàigòn, Nguyễn Phú Khai cùng với Bùi Quang Chiêu lập tờ báo “La Tribune Indigène (Diễn Đàn Bản Xứ) từ năm 1917. Ba năm sau, Khai trở lại Pháp, vận động cho VN được tự trị. Đường lối của Nguyễn Phú Khai và Bùi Quang Chiêu đi sớm hơn Hồ Chí Minh khi ký “Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946”, để được Pháp nhìn nhận “VN là nước tự do, được tự trị trong liên Bang Đông Dương và Liên Hiệp Pháp” tới 26 năm.
Tại Paris, Khai cùng Nguyễn Khắc Vệ (người Trà Vinh), đậu tiến sĩ luật năm 1926, lập ra tờ “La Tribune Annamite”. Tuy nhiên mục tiêu vận động của Nguyễn Phú Khai không kết quả. Tờ báo này bị đình bản năm 1921. Trở lại VN, Nguyễn Phú Khai tiếp tục tranh đấu bằng cách hô hào mở mang kinh tế, tranh thương với Hoa kiều. Tranh đấu bền bỉ và lâu dài cho mục tiêu độc lập của xứ sở là ông Bùi Quang Chiêu.
Ông Chiêu là một khuôn mặt chính trị lớn của Nam Kỳ. Về đường lối, chủ trương của ông giống với đường lối của ông Phạm Quỳnh. Có lúc người ta gọi Bùi Quang Chiêu là Phạm Quỳnh của Nam Kỳ. Hai ông từng gặp nhau trong mục tiêu muốn nước nhà độc lập theo chính thể lập hiến.
Bùi Quang Chiêu sinh năm 1873 tại làng Đa Phước (sau gọi Đại Điều), quận Mõ Cày, tỉnh Bến Tre. Họ Bùi là một thế gia vọng tộc ở Nam Kỳ vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ông nội của Bùi Quang Chiêu là Bùi Quang Nghị, đậu cử nhân năm 1842, không ra làm quan, ở nhà phụng dưỡng cha mẹ. Hai người em kế của ông Nghị đều đậu cử nhân: Bùi Quang Phong làm án sát Nam Định, sau đổi về Vĩnh Long. Người em út là Bùi Hữu Thanh làm tri phủ Phước Tuy, sau làm đốc học Biên hòa. Thân phụ của Bùi Quang Chiêu là Bùi Quang Đại và thân mẫu là bà Phan Thị Thân. Thuở nhỏ Chiêu học trường Chasseloup Laubat, rồi du học bên Algérie trước khi qua Pháp, vào học trường Thuộc địa.
Năm 1889 Trường Thuộc Địa được thứ trưởng Eugène Étienne thành lập, gồm hai phân khoa bản xứ và Pháp. Mười năm sau, giám đốc Étienne Aymonier báo cáo rằng đã có 49 học viên bản xứ ra trường. Quá bán học viên là người gốc Miên (25 người). Trong số 17 người Việt, có nhiều nhân vật khá lừng lẫy: bác vật canh nông Bùi Quang Chiêu, giáo sư Lê Văn Chính ở Quốc Tử Giám, Thân rọng Huề, Lê Văn Miên họa sĩ nổi danh, sau làm giám đốc trường Pháp -Nam ở Vinh”. (Chính đạo “Việt Nam Niên Biểu Vật Chí” trang 564).
Năm 1911, cậu bồi tàu Nguyễn Tất Thành gặp ông Bùi Quang Chiêu sang Pháp trên cùng chuyến tàu ấy. Thấy người thiếu niên chịu khó, có óc tiến thủ, ông Chiêu thân mật nói chuyện, rồi khuyên cậu sang Pháp nên tìm cách vào học trường Thuộc Địa. Vừa tới Pháp, Nguyễn Tất Thành nắn nót viết hai lá đơn gởi Tổng Thống Pháp và Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa xin được theo học trường Thuộc Địa, để ra làm quan cho Pháp. Đơn bị bác, mặc dù cậu Thành có viện dẫn học vị của cha là “Phó bảng”, tức thuộc hàng quan lại của Nam triều. Phải chi người Pháp thấy xa, cho cậu ta vào học, sau này sẽ có thêm những Thân Trọng Huề, Trương Như Đính, Phan Kế Toại,.. sẵn sàng bảo vệ quyền lợi nước Đại Pháp.
Sau khi tốt nghiệp trường Thuộc Địa, Bùi Quang Chiêu tiếp tục theo học “Học Viện Nông Nghiệp Quốc Gia”, đậu kỹ sư.
Hồi hương, Bùi Quang Chiêu cùng luật sư Dương Văn Giáo, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, Nguyễn Phan Long, Nguyễn Phú Khai.... thành lập Đảng Lập Hiến (Constitutionalist party) Ông Chiêu đắc cử “Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ”, là cơ quan tư vấn cao cấp nhứt tại miền Nam. Tại Trung Kỳ có “Viện Dân Biểu” và Bắc Kỳ có “Viện Nhân Dân Đại Biểu Bắc Kỳ”. Sau vài nhiệm kỳ hội đồng, Bùi Quang Chiêu đắc cử “Nghị Viên Nam Kỳ” tại “Thượng Hội Đồng Thuộc Địa Paris” năm 1932. Ngoài ra, ông Chiêu cũng là hội viên Hội Đồng Kinh Tế Lý Tài Đông Dương.
BÙI QUANG CHIÊU VÀ CHỦ TRƯƠNG TRANH ĐẤU ÔN HÒA:
Khi làm Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, ông Chiêu thường viết trên báo “Diễn đàn bản xứ” nhiều bài để bày tỏ nguyện vọng cùng đưa những yêu sách đối với nhà cầm quyền. Ông Chiêu nhân danh đảng Lập Hiến, yêu cầu người Pháp ban bố cho VN một bản hiến pháp làm nền tảng cai trị như người Anh đã làm với Úc Đại Lợi và Gia Nã Đại. Ông Chiêu cũng chủ trương nâng cao dân trí trước khi độc lập hoàn toàn.
Tiền phong tranh đấu ôn hòa, công khai là ông Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phú Khai. Nguyễn Phú Khai sinh năm 1887 tại Bà Rịa, du học bên Pháp, được Pièrre Loti đỡ đầu, đậu kỹ sư, phục vụ trong quân đội Pháp một thời gian. Về Sàigòn, Nguyễn Phú Khai cùng với Bùi Quang Chiêu lập tờ báo “La Tribune Indigène (Diễn Đàn Bản Xứ) từ năm 1917. Ba năm sau, Khai trở lại Pháp, vận động cho VN được tự trị. Đường lối của Nguyễn Phú Khai và Bùi Quang Chiêu đi sớm hơn Hồ Chí Minh khi ký “Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946”, để được Pháp nhìn nhận “VN là nước tự do, được tự trị trong liên Bang Đông Dương và Liên Hiệp Pháp” tới 26 năm.
Tại Paris, Khai cùng Nguyễn Khắc Vệ (người Trà Vinh), đậu tiến sĩ luật năm 1926, lập ra tờ “La Tribune Annamite”. Tuy nhiên mục tiêu vận động của Nguyễn Phú Khai không kết quả. Tờ báo này bị đình bản năm 1921. Trở lại VN, Nguyễn Phú Khai tiếp tục tranh đấu bằng cách hô hào mở mang kinh tế, tranh thương với Hoa kiều. Tranh đấu bền bỉ và lâu dài cho mục tiêu độc lập của xứ sở là ông Bùi Quang Chiêu.
Ông Chiêu là một khuôn mặt chính trị lớn của Nam Kỳ. Về đường lối, chủ trương của ông giống với đường lối của ông Phạm Quỳnh. Có lúc người ta gọi Bùi Quang Chiêu là Phạm Quỳnh của Nam Kỳ. Hai ông từng gặp nhau trong mục tiêu muốn nước nhà độc lập theo chính thể lập hiến.
Bùi Quang Chiêu sinh năm 1873 tại làng Đa Phước (sau gọi Đại Điều), quận Mõ Cày, tỉnh Bến Tre. Họ Bùi là một thế gia vọng tộc ở Nam Kỳ vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ông nội của Bùi Quang Chiêu là Bùi Quang Nghị, đậu cử nhân năm 1842, không ra làm quan, ở nhà phụng dưỡng cha mẹ. Hai người em kế của ông Nghị đều đậu cử nhân: Bùi Quang Phong làm án sát Nam Định, sau đổi về Vĩnh Long. Người em út là Bùi Hữu Thanh làm tri phủ Phước Tuy, sau làm đốc học Biên hòa. Thân phụ của Bùi Quang Chiêu là Bùi Quang Đại và thân mẫu là bà Phan Thị Thân. Thuở nhỏ Chiêu học trường Chasseloup Laubat, rồi du học bên Algérie trước khi qua Pháp, vào học trường Thuộc địa.
Năm 1889 Trường Thuộc Địa được thứ trưởng Eugène Étienne thành lập, gồm hai phân khoa bản xứ và Pháp. Mười năm sau, giám đốc Étienne Aymonier báo cáo rằng đã có 49 học viên bản xứ ra trường. Quá bán học viên là người gốc Miên (25 người). Trong số 17 người Việt, có nhiều nhân vật khá lừng lẫy: bác vật canh nông Bùi Quang Chiêu, giáo sư Lê Văn Chính ở Quốc Tử Giám, Thân rọng Huề, Lê Văn Miên họa sĩ nổi danh, sau làm giám đốc trường Pháp -Nam ở Vinh”. (Chính đạo “Việt Nam Niên Biểu Vật Chí” trang 564).
Năm 1911, cậu bồi tàu Nguyễn Tất Thành gặp ông Bùi Quang Chiêu sang Pháp trên cùng chuyến tàu ấy. Thấy người thiếu niên chịu khó, có óc tiến thủ, ông Chiêu thân mật nói chuyện, rồi khuyên cậu sang Pháp nên tìm cách vào học trường Thuộc Địa. Vừa tới Pháp, Nguyễn Tất Thành nắn nót viết hai lá đơn gởi Tổng Thống Pháp và Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa xin được theo học trường Thuộc Địa, để ra làm quan cho Pháp. Đơn bị bác, mặc dù cậu Thành có viện dẫn học vị của cha là “Phó bảng”, tức thuộc hàng quan lại của Nam triều. Phải chi người Pháp thấy xa, cho cậu ta vào học, sau này sẽ có thêm những Thân Trọng Huề, Trương Như Đính, Phan Kế Toại,.. sẵn sàng bảo vệ quyền lợi nước Đại Pháp.
Sau khi tốt nghiệp trường Thuộc Địa, Bùi Quang Chiêu tiếp tục theo học “Học Viện Nông Nghiệp Quốc Gia”, đậu kỹ sư.
Hồi hương, Bùi Quang Chiêu cùng luật sư Dương Văn Giáo, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, Nguyễn Phan Long, Nguyễn Phú Khai.... thành lập Đảng Lập Hiến (Constitutionalist party) Ông Chiêu đắc cử “Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ”, là cơ quan tư vấn cao cấp nhứt tại miền Nam. Tại Trung Kỳ có “Viện Dân Biểu” và Bắc Kỳ có “Viện Nhân Dân Đại Biểu Bắc Kỳ”. Sau vài nhiệm kỳ hội đồng, Bùi Quang Chiêu đắc cử “Nghị Viên Nam Kỳ” tại “Thượng Hội Đồng Thuộc Địa Paris” năm 1932. Ngoài ra, ông Chiêu cũng là hội viên Hội Đồng Kinh Tế Lý Tài Đông Dương.
BÙI QUANG CHIÊU VÀ CHỦ TRƯƠNG TRANH ĐẤU ÔN HÒA:
Khi làm Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, ông Chiêu thường viết trên báo “Diễn đàn bản xứ” nhiều bài để bày tỏ nguyện vọng cùng đưa những yêu sách đối với nhà cầm quyền. Ông Chiêu nhân danh đảng Lập Hiến, yêu cầu người Pháp ban bố cho VN một bản hiến pháp làm nền tảng cai trị như người Anh đã làm với Úc Đại Lợi và Gia Nã Đại. Ông Chiêu cũng chủ trương nâng cao dân trí trước khi độc lập hoàn toàn.
Về phương diện nào đó, có thể coi ông Bùi Quang Chiêu là một trong những
người VN đầu tiên đặt nền tảng cho tư tưởng tự do dân chủ ở VN vào đầu
thế kỳ 20. Bùi Quang Chiêu là một trong những trí thức hấp thụ văn hóa
Tây phương, đã tạo được uy tín lớn đối với chính trường Pháp. Ông Chiêu
được một số thức giả Pháp đồng tình và binh vực cho VN như ông Charles
Bellan, cựu công sứ Pháp tại Đông Dương bằng cách viết bài ủng hộ. Trước
đó người Pháp có thái độ tự tôn, coi người Việt là những kẻ tôi tớ,
thừa hành, nhưng với các ông Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, Nguyễn Thế
Truyền, Phan Văn Trường... đã dõng dạc nói thẳng và vạch mặt họ về
những chỗ sai lầm, tạo được sự kính trọng tư cách của những người tranh
đấu công khai, ôn hòa. Lập trường chính trị của Bùi Quang Chiêu và đảng
Lập Hiến còn phản ánh trong chủ trương “Pháp Việt đề huề” của toàn quyền
Albert Sarraut.
Năm 1925, đảng Lập Hiến có gởi cho toàn quyền Đông Dương là A. Varenne một thỉnh nguyện thư, nội dung như sau:
“....Đảng Lập Hiến đòi hỏi một chế độ báo chí tự do hơn, một địa vị xứng đáng cho người Việt trong các chức vụ hành chính, một sự đối đãi bình đẳng giữa công chức người Việt với công chức Pháp, nới rộng điều kiện hành nghề cho người Việt Nam muốn mở văn phòng luật sư, quyền tự do đi lại trong và ngoài các xứ Đông Pháp, và quyền tự trị riêng cho xứ Nam Kỳ.....”
Với tờ “La Tribune Indochinoise” (Diễn Đàn Đông Dương) ra đời năm 1926 có thể coi là tờ báo đối lập ôn hòa, gây được ảnh hưởng trong giới trí thức và trưởng giả ở Sàigòn. Báo ra đời năm 1926, do Bùi Quang Chiêu và các bạn thuộc đảng Lập Hiến, là cơ quan chính thức của đảng nầy”. (“Lịch sử, báo chí VN” Huỳnh Văn Tòng, trang 168) Một bài báo trên “Diễn Đàn Đông Dương” viết:
“.....Khẩu hiệu Pháp Việt đề huề mà chúng tôi nêu lên, chắc là không làm hài lòng một số đồng bào đang bực tức vì bao nhiêu bất công. Đó là chuyện tự nhiên, vì không phải tất cả những người thuộc lứa tuổi 20 đều ham làm cách mạng, vả lại chúng tôi cũng không dám tìm cách thuyết phục cho kẻ khác làm như chúng tôi.....” (“Lịch sử báo chí VN” Huỳnh Văn Tòng, trang 168).
Năm 1925, đảng Lập Hiến có gởi cho toàn quyền Đông Dương là A. Varenne một thỉnh nguyện thư, nội dung như sau:
“....Đảng Lập Hiến đòi hỏi một chế độ báo chí tự do hơn, một địa vị xứng đáng cho người Việt trong các chức vụ hành chính, một sự đối đãi bình đẳng giữa công chức người Việt với công chức Pháp, nới rộng điều kiện hành nghề cho người Việt Nam muốn mở văn phòng luật sư, quyền tự do đi lại trong và ngoài các xứ Đông Pháp, và quyền tự trị riêng cho xứ Nam Kỳ.....”
Với tờ “La Tribune Indochinoise” (Diễn Đàn Đông Dương) ra đời năm 1926 có thể coi là tờ báo đối lập ôn hòa, gây được ảnh hưởng trong giới trí thức và trưởng giả ở Sàigòn. Báo ra đời năm 1926, do Bùi Quang Chiêu và các bạn thuộc đảng Lập Hiến, là cơ quan chính thức của đảng nầy”. (“Lịch sử, báo chí VN” Huỳnh Văn Tòng, trang 168) Một bài báo trên “Diễn Đàn Đông Dương” viết:
“.....Khẩu hiệu Pháp Việt đề huề mà chúng tôi nêu lên, chắc là không làm hài lòng một số đồng bào đang bực tức vì bao nhiêu bất công. Đó là chuyện tự nhiên, vì không phải tất cả những người thuộc lứa tuổi 20 đều ham làm cách mạng, vả lại chúng tôi cũng không dám tìm cách thuyết phục cho kẻ khác làm như chúng tôi.....” (“Lịch sử báo chí VN” Huỳnh Văn Tòng, trang 168).
Trong một thời gian khá dài từ năm 1926 đến 1941, là năm tờ báo đóng
cửa, đường lối của ông Chiêu vẫn là ca ngợi lập trường Pháp Việt đề huề
như chủ trương của ông Phạm Quỳnh ở Bắc.
Khi Bùi Quang Chiêu đặt thẳng vấn đền “đòi hỏi một bản hiến pháp cho Nam Kỳ” vì từ trước tới nay, thuộc địa nầy bị cai trị không có một quy chế nào rõ rệt cả. Toàn quyền A. Varenne cho biết không đủ thẩm quyền giải quyết, chỉ có quốc hội Pháp mới có quyền định đoạt. Vì thế ông Bùi Quang Chiêu quyết định sang Pháp tranh đấu, vận động cho Nam Kỳ có một bản hiến pháp. Do đó ông Chiêu nhứt định qua Pháp vận động (1926). Tuy vậy, mối hy vọng đó không thành tựu.
Khi Bùi Quang Chiêu đặt thẳng vấn đền “đòi hỏi một bản hiến pháp cho Nam Kỳ” vì từ trước tới nay, thuộc địa nầy bị cai trị không có một quy chế nào rõ rệt cả. Toàn quyền A. Varenne cho biết không đủ thẩm quyền giải quyết, chỉ có quốc hội Pháp mới có quyền định đoạt. Vì thế ông Bùi Quang Chiêu quyết định sang Pháp tranh đấu, vận động cho Nam Kỳ có một bản hiến pháp. Do đó ông Chiêu nhứt định qua Pháp vận động (1926). Tuy vậy, mối hy vọng đó không thành tựu.
Ông Bùi Quang Chiêu trở về Sàigòn tay không. Khi ông về tới Sàigòn, lớp
trí thức tư sản tổ chức biểu tình đón ông tại bến tàu. Đồng thời, những
tay thực dân, chủ đồn điền, vốn coi Nam Kỳ là vương quốc của họ, cũng
huy động một nhóm người quá khích, tổ chức cuộc phản biểu tình để phá
rối. Hai bên xô xát hỗn loạn. Tờ “Đông Pháp Thời Báo” thuật lại biến cố
đó như sau:
“Một cảnh trí ngoài sự tưởng tượng của người ta: dân chúng nườm nượp kéo đến bến tàu Nhà Rồng như nước lũ. Đường nào đường nấy chật nức người ta, từ trước Sở Thương Chánh cho tới Quai de Belgique, qua cầu, thẳng tuốt bến tàu. Tàu tới trễ, dân chúng lũ lượt tới càng đông. Ngẫu nhiên vì vụ Nguyễn An Ninh bị bắt, mà Chiêu được nhân dân tiếp đón long trọng. Cả ngàn thanh niên hộ tống đi hai hàng, tay đeo bảng vàng, huy hiệu đảng Jeune Annam, vừa đi chậm theo Bùi Quang Chiêu vừa hô khẩu hiệu: “Phải thả Nguyễn An Ninh”. Phía phản biểu tình của Pháp cho người nhào vô phá hoại. Một tên Tây con, côn đồ lẻn vào gần, và đá đít Bùi Quang Chiêu một cái. Thế là dân chúng như nước vỡ bờ, túa chạy theo đánh đấm mấy chú Tây. Nếu không có cảnh sát can thiệp kịp, thế nào cũng có án mạng, người chết.” (sách “Nguyễn An Ninh” của Phương Lan, trang 157).
Khi ở Pháp, ông Bùi Quang Chiêu có viết một loạt bài báo đăng trên tờ “Việt Nam Hồn” của ông Nguyễn Thế Truyền. Nói về lai lịch tờ “Việt Nam Hồn”, cụ Đặng Hữu Thụ, tác giả sách “Nhà cách
mạng Nguyễn Thế Truyền” sưu tầm tài liệu tại các văn khố Pháp, cho biết:
“Việc ra báo “Việt Nam Hồn” bằng tiếng Việt là ý kiến của ông Nguyễn Ái Quốc. Vào khoảng cuối năm 1922 đầu năm 1923, Quốc phổ biến trong giới Việt kiều ở Pháp một tờ truyền đơn, kêu gọi họ
mua báo nầy, do chính ông ta làm chủ bút. Lời kêu gọi ấy viết theo thể thức một bài vè: “Hồn Nam Việt”.
“Ở trong thế giới, ông nói, tàu bay,
Việc lạ tin hay, ngày ngày thường có.
Nào ai muốn rõ phải có nhật trình,
Mình ở gia đình, mắt soi vạn lý.
Á, Âu, Úc, Mỹ.....rút lại một tờ
.........
“Mong mỏi người mình, mở mày mở mặt.
Báo nầy sẽ đặt tên “Việt Nam Hồn”
Mỗi tháng hai lần, mỗi lần trăm bản.
Xin anh em bạn, ai có muốn coi,
Cắt giữ cho tôi, cái toa mãi (order).
Mấy lời chứng thị, thư bất tận ngôn,
Chúc ‘Việt Nam Hồn’: vạn tuế, vạn vạn tuế”
Phía dưới có câu: “cắt cái toa nầy, gởi cho M. Nguyễn Ái Nước, 3 rue du Marche des Patriarches,
Paris 5.” Đoạn dưới để một khoảng trống cho người mua điền tên, họ, địa chỉ. Ông có ghi thêm:
“Nếu không đủ 100 người xem, thì không thể làm được.”
Đó là cách thức của ông Hồ mượn đầu heo nấu cháo, định ra báo “Việt Nam Hồn”, nhưng thất bại vì không đủ số người đặt mua.
Đến cuối năm 1925, ông Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô được hai năm rưỡi, ông Nguyễn Thế Truyền mới thực hiện ra tờ báo “Việt Nam Hồn” riêng do chính ông làm chủ nhiệm. Trên danh nghĩa, tờ
“Việt Nam Hồn” do ông Nguyễn Ái Quốc sáng lập, nhưng không có một bài viết nào, vì khi báo ra đời, ông đã đi Liên Xô, mà “Việt Nam Hồn” để cổ động trong giới người Việt sinh sống tại Pháp.......”. “Bác” không có ra tờ báo “Việt Nam hồn” nào, mà chỉ có báo “Việt Nam ....lèo”.
(Tài liệu của Đặng Hữu Thụ, đã nêu ở trên, trang 73).
Tờ báo “Việt Nam hồn” của ông Nguyễn Thế Truyền là nguyệt san, viết bằng 3 thứ tiếng Việt, Pháp, Hán. Có vài số như số 10, 14 đều viết bằng quốc ngữ. Trước khi tờ báo đầu tiên chào đời, ông Nguyễn Thế Truyền có tung ra tờ truyền đơn cổ động:
“Nghĩ lắm lúc thâm gan, tím ruột,
Vạch trời kia mà tuốt gươm ra,
Cũng xương, cũng thịt cũng da,
Cũng hòn máu đỏ, con nhà Lạc Long.
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Mấy mươi năm nhơ nhuốc lầm than,
Thương ôi, Đại Việt giang san,
Thông minh đã sẵn, không ngoan cũng thừa....”
(Sách đã dẫn, trang 76).
Trong những bài báo của ông, nhiều lần ông đòi hỏi người Pháp ban bố tự do dân chủ cho VN, nâng cao dân trí, mở mang kinh tế để tiến dần đến chỗ tự trị, như thế sẽ tránh được hỗn loạn. Theo ông, nếu VN độc lập mà hỗn loạn, dân trí còn ở trình độ thắp kém sẽ làm mồi cho CS. Trong một bài viết bằng tiếng Pháp, đăng trên báo “Việt Nam Hồn” của ông Nguyễn Thế Truyền, tựa “Pour le dominion Indochinois”, đăng liên tiếp trên 4 số báo, ông Chiêu tố cáo chánh sách dùng rượu đầu độc dân tộc VN:
“Nếu ở VN sở trường học cũng nhiều như ở tiểu bài rượu và thuốc phiện, thì dân VN sẽ là dân có học thức vào bậc nhứt thế giới. Trẻ con đi học buộc phải nạp giấy khai sanh cho nhà trường, nhưng nếu trẻ con đi mua một lượng thuốc phiện, thì không phải nạp giấy tờ gì. Quyền tự do độc nhất mà người VN chúng tôi được hưởng là quyền tự đầu độc bằng rượu và thuốc phiện. Khắp lãnh thổ chằng chịt những tiểu bài rượu, mà oái oăm thay, các tiểu bài nầy đập vào mắt quần chúng bằng ngọn cờ ba sắc, cắm một cách kiêu hãnh trên mái nhà. Trên hay dưới lá cờ, có mấy chữ R. A.. Đó là chữ tắt của rượu Regie alcool.”
Trong thời gian ở Pháp, ông Nguyễn Thế Truyền nhiều lần đi diễn thuyết về nạn độc quyền nấu và bán rượu của Pháp. Cụ Đặng Hữu Thụ viết về việc nầy như sau: “Ở Nam Kỳ, rượu được một công ty Pháp độc quyền nấu và do chính phủ bán. Vì độc quyền nấu rượu dành cho các công ty Pháp, nên các người VN phải làm nghề nấu rượu theo phương thức cổ truyền bị phá sản, mất kế sinh nhai.
Khi mới thành lập, công ty rượu “Sociète Française des Distilleries de L'indochine có số vốn 2 triệu francs. Vì lợi tức nhiều, các cổ phần tăng gia mau chóng, số vốn tăng lên vào năm 1926 là 33 triệu
francs. Lợi tức năm 1926 của công ty là 21 triệu francs. Mỗi cổ phần năm 1901 là 55 francs, đến năm 1926 bán tới 6.600 francs. Chủ tịch công ty rượu là ông A. R. Fontaine. Các ty rượu mở khắp
nơi. Làng nào cũng có. Các quan lại VN được chỉ thị của cấp trên phải làm cho rượu bán chạy, tiêu thụ được nhiều. Quan phủ, huyện nào mà trong hạt của mình, rượu bán được nhiều nhứt, thì chóng được thăng thưởng. Vì vậy, có nhiều vị quan buộc mỗi xã phải tiêu thu một số lượng rượu nhứt định. Việc bắt rượu lậu gây ra nhiều tệ đoan. Nhà đoan đi xét rượu lậu, thấy ở bờ rào hay ở ruộng của người nào, có giấu men rượu và dụng cụ nấu rượu, cùng rượu lậu, là người ấy bị đưa ra tòa phạt vạ, phạt tù rất nặng nề, không kể tiền bồi thường thiệt hại cho nhà đoan.” (Sách đã dẫn, trang 233).
Đặc biệt vào năm 1928, khi có vụ án Đồng Nọc Nạn, tờ báo “La Tribune Indochinoise” có đăng tải vụ này, tường thuật vắn tắt diễn tiến vụ án, kết án gia đình Mã Ngân đã cấu kết với ông phủ Huấn
giựt đất của gia đình Mười Chức. Vụ án đẫm máu đã làm thiệt mạng cò hiến binh Pháp và 3 người trong gia đình Mười Chức. (Xem thêm “Vụ án Đồng Nọc nạn” trong sách “Nam Kỳ Lục Tỉnh I”, cùng tác giả).
Năm 1929, ông Bùi Quang Chiêu cùng luật sư Dương Văn Giáo đi Calcutta, để dự phiên họp của đảng Quốc Đại Ấn Độ. Nhân cơ hội nầy, hai ông có ghé thăm viện đại học Tagore Santiniketan, mặc dầu không gặp được thi hào Tagore. Năm sau, thi hào Tagore trên đường đi Nhựt Bổn, có ghé qua Sàigòn, gặp và nói chuyện với ông Chiên. Nhân dịp này, ông Chiêu có viết nhiều bài báo ca ngợi cả Gandhi lẫn đường lối cai trị của Anh ở Ấn Độ. Trong thời gian từ năm 1932 tới 1941, ông Chiên hoạt động ở Pháp với tư cách Nghị sĩ Đông Dương trong Thượng hội đồng quốc gia Pháp. Khi ở vào tuổi 70, có lần ông Bùi Quang Chiêu tâm sự với một người bạn thân là “quá tin vào thiện chí của Pháp, nên mất nhiều thời gian theo đuổi mục đích”. Năm 1942, ông Chiêu về hưu tại quê nhà, được mấy năm thì trở lên Sàigòn, ngụ tại nhà riêng ở Phú Nhuận. Tháng 8/1945, Nhựt đột ngột đầu hàng. Từ bóng tối, Việt Minh nhảy ra cướp chính quyền, tự cho mình có quyền cai trị cả nước. Việc làm đầu tiên của Việt Minh, tức CS trá hình là khủng bố, ám sát, bắt cóc, cho “mò tôm” những người không chịu hợp tác với họ, hoặc vì có uy tín hơn họ. Ông Bùi Quang Chiêu cũng không thoát khỏi cái chết oan nghiệt.
AI GIẾT ÔNG BÙI QUANG CHIÊU?
Chúng tôi xin ghi lại nguyên văn bức thư của bà bác sĩ Renée Bùi, ái nữ của ông Bùi Quang Chiêu kể lại. Đây là tài liệu mới nhứt, chưa được tiết lộ dưới bất cứ hình thức nào:
Virginia 29 Avril 1999
Kính gửi: Cụ Hứa Hoành
Kính thưa cụ,
Trước hết tôi thành thật xin cụ vui lòng lượng thứ cho việc hồi âm quá trễ của tôi. Xin muôn vàn cảm tạ sự thông cảm cho.
Tuy tôi không được hân hạnh quen biết cụ, nhưng tôi biết cụ qua các sách cụ viết về miền Nam, tủ sách của tôi có sách “Nam Kỳ Lục Tỉnh”, và quyển “Các giai thoại Nam Kỳ Lục Tỉnh” cùng một số bài cụ đăng trong các tạp chí xuất bản ở bên nầy.
Thưa cụ, tôi thật vừa cảm động vừa vui mừng khi được cụ cho biết có ý muốn viết về các nhân vật miền Nam, trong đó có ông thân sinh tôi, vì đó là cái ước vọng của tôi từ lâu. Nhưng vì tôi là lớp sinh sau, biết rất ít về quá trình hoạt động của thân phụ mình. Khi vừa đến tuổi có thể hiểu rộng thêm về các chuyện bên ngoài, ngoài cái phận sự của người con gái......thì lại gặp biến cố tao loạn.
Phần nữa tôi không biết viết văn, và không được quen biết ai trong giới nhà văn, để nhờ nói lại giải oan cho Papa [cha] tôi, đã bị Việt Minh CS gán cho hai chữ “Việt gian” rồi xử tử.
Nay tôi xin nói những gì mẹ tôi thuật lại, vì lúc đó tôi đã ở riêng và đi xa Sàigòn. Lúc có lịnh tản cư (9/1946), mẹ tôi ngại vì lý do nào người không có nói nhưng đã khuyến được Papa tôi tản cư về Phú Lâm, là quê của mẹ tôi, và nhà ở trong đất của chùa Giác Hải, gần chỗ của gia đình Nguyễn Chí Nhiều cũng tản cư về đó. Tôi không biết chắc ngày ba tôi bị bắt là ngày nào. Mẹ tôi chỉ nói là một hôm, lúc đó cũng cuối tháng 9, lối 24 hay 25 gì đó, có một người đến tìm, nói là “có thư của ông Dương Văn Giáo [luật sư, bạn của ông Bùi Quang Chiêu] gởi cho Papa tôi (1). Trước kia ông Giáo cũng cùng Papa tôi hoạt động, cùng đi diễn thuyết nhiều nơi bên Pháp, chỉ trích vấn đề thuộc địa......nên Papa tôi nhận thư. Không ngờ là họ mượn kế để tìm bắt Papa tôi. Nên vài giờ sau đó, họ ập đến bắt Papa tôi. Mẹ tôi và 3 người con trai (1 anh và 2 em kế tôi), một em gái út đang chơi ở nhà ông Nguyễn Chí Nhiều thoát khỏi. Họ áp đem xuống ghe, vì chùa có ngọn rạch ăn thông với sông ông Buông [rạch ông Buông tại Phú Lâm, có cầu bắc ngang để xe lửa chạy từ Sàigòn về Tân An] và giải về khám Chợ Đệm [tức là chành lúa của ông Võ Lợi Trinh]. Họ giữ Papa tôi ở chỗ riêng. Mẹ tôi và mấy anh em thì cũng nhốt trong một vựa lúa. Ở đây mẹ tôi có gặp ông Trần Quang Vinh [Cao Đài]. Một, hai hôm sau, mẹ tôi có gặp ông Nguyễn Văn Trấn, người nầy trước là học trò được học bổng của trường Phú Lâm, và mẹ tôi lúc ấy lãnh thầu cung cấp thực phẩm cho nhà trường, để nấu ăn cho học trò nội trú. Mẹ tôi thường hay giúp đỡ các anh chị học sinh [ có học bổng] xuống trực, và người nầy [Nguyễn Văn Trấn] đã được mẹ tôi cho tiền bạc hoặc bánh trái gì đó (đây là mẹ tôi nói lại như vậy). Nguyễn Văn Trấn nhận ra mẹ tôi nên hỏi: - Tôi nghe nói chị ở chùa mà? Mẹ tôi nói:
- Dạ tội cũng vẫn ở chùa Giác Hải từ hồi trước đến giờ.
Ông Trấn ngẫm nghĩ một chút rồi bảo:
- Cho chị ra chùa Long Tuyền ngoài nầy, chị chịu không? [tức ra khỏi vựa lúa là chỗ làm khám giam]. Dĩ nhiên mẹ tôi mừng và ưng chịu ngay. Chỉ khi ra ở chùa, mẹ tôi được vị hòa thượng cho biết là họ đã xử bắn Papa tôi rồi ngày hôm trước, và hòa thượng nói:
- Tôi có xin họ cho tới đắp cho ông nhà cái áo mưa tôi đang mặc, vì họ đã xô xuống mô đất đào sẵn, và lúc ấy trời mưa lâm râm. Hòa thượng có làm bài vị để ngày tháng, nhưng chúng tôi chưa có dịp nào đến chùa để xem lại, vì vùng ấy suốt thời kỳ Cộng Hòa Nam Kỳ (1946), cũng không có an ninh.
Qua thời kỳ chính phủ Nguyễn Văn Tâm, chúng tôi cải táng, nhặt tấm áo mưa, đem về chôn ở đất nhà Phú Nhuận để kỷ niệm. Có người lúc ấy nói lại là chính Trần Văn Giàu là người đã làm việc ấy
[sát hại].....Trong khi họ đem Papa tôi lên kết tội nầy nọ, cũng có nhiều người trí thức có cảm tình thời ấy, đã xin họ cho Papa tôi, và họ nói Papa tôi rất bình tĩnh, cãi lý với bọn Việt Minh, và có nói:
- Các người có tha hay xử tôi cũng vậy thôi. Tôi đã già, chết nay hay chết mai cũng thế, nhưng cái chết của tôi sẽ đi vào lịch sử, chừng ấy ai có công tội mới hay (Papa tôi mất năm ấy đã 73 tuổi).
Khi quân Pháp trở lại, họ đem hết các trại giam về Đồng Tháp Mười. Tôi quên nói thêm là họ còn lên Chợ Lớn, bắt anh thứ ba tôi là bác sĩ Louis Bùi, giám đốc hai trại bài lao Chợ Rẫy. Và khi cho ở
khám Chợ Đệm, thì gia đình chúng tôi mất luôn 4 người con trai. Và cho đến ngày nay, chúng tôi không thể nào tìm biết là họ đã mất khi nào? và mất ở đâu?
“Hùm chết để da, người ta chết để tiếng”. Với thời gian mọi sự việc lắng đọng thì trắng đen đều được minh bạch. Chúng tôi vẫn biết Papa chúng tôi sẽ có một chỗ đứng trong lịch sử tranh đấu. Papa tôi là người không thích bạo động. Những cái khuyên âm thầm, hay che chở cho những người có chí hướng (yêu nước).....Từ việc đề xướng “Đảng Lập Hiến”, đến khuyến khích các nhà giàu cho con du học, len vào việc thương mại: như làm nhà máy xay lúa để cạnh tranh với Hoa kiều, lập dọc suốt bến Bình Đông, Bình Tây Chợ Lớn, lập ngân hàng (VN ngân hàng), lập “Hội khuyến học Nam Kỳ”, Samipic (Trí, Đức, Thể Dục),cấp học bổng cho học sinh, để khuyến khích nghề tằm tang (dệt lụa) ở Tân Châu, tới nay các bô lão còn nhắc tên.
Tại Pháp, ông [Bùi Quang Chiêu] vận động lập “Đông Dương Học Xá” cho tất cả du học sinh các nước trú ngụ. Những việc làm nầy thật không đáng kể, nhưng cũng là đóng góp vào việc cung cấp phương tiện cho kẻ đến sau. Lúc ban sơ, Papa tôi cùng với các người bạn, lập ra “An Nam học đường” (Phú Nhuận).
Qua bao nhiêu biến cố nước nhà, chúng tôi không còn giữ được tài liệu, sách báo hay hình ảnh gì cả. Những gì tôi nhớ, tôi không dám nói là chính xác về thời gian, chắc nhiều việc cần phải nghiên cứu lại. Tôi hết sức cảm tạ cụ đã quan tâm đến Papa tôi, và qua bao nhiêu tài liệu khác đã làm sáng tỏ tấm lòng thương nước, thương xứ sở của Papa tôi, các con cháu của dòng họ Bùi Mõ Cày không dám quên ơn.
Trân trọng kính chào và kính chúc cụ luôn anh khương trường thọ để còn làm nhiều lợi ích cho lịch sử nước nhà và kính chúc quý quyến vạn an.
(Thư riêng của bà bác sĩ Renée Bùi Quang Chiêu gởi cho tác giả)
Về cái chết của ông Bùi Quang Chiêu sách cộng sản viết: “Đến năm 1945, Nhựt thao túng trên lãnh thổ VN, ông cùng gia đình về Mõ Cày, nhưng không bao lâu lại trở lên Sàigòn làm tay sai cho thực dân Pháp (?). Bùi Quang Chiêu bị nhân dân xử tử hình tại Chợ Đệm ngày 29/9/1945”. (Từ điển “Nhân vật lịch sử VN” của Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Bá Thế, NXB Khoa Học Xã Hội,
1992).
Đó là cách nói lấy được, chụp mũ, vu khống cho những nạn nhân đã bị VNCS sát hại một cách mờ ám. Tới nay, hơn 50 năm qua, cộng sản có chứng minh, đưa ra bằng chứng ông Bùi Quang Chiêu,
Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phạm Quỳnh.......và hàng ngàn nạn nhân của họ là “Việt gian”, là “phản quốc”?
Những vị cao niên sống ở miền Nam còn nhớ, cuối tháng 8 /1945, từ bóng tối Việt Minh nhảy ra cướp chính quyền, lập ra “Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ”, Trần Văn Giàu tự xưng chủ tịch. Giàu liền lập một ủy ban chuyên khủng bố, ám sát, núp dưới danh nghĩa “Quốc gia tự vệ cuộc” do Nguyễn Văn Trấn cầm đầu. Nhiệm vụ của cái gọi là “Quốc gia tự vệ cuộc”, chuyên lùng sục, bắt bớ, ám sát và thủ tiêu (trấn nước thả trôi sông gọi là “mò tôm”) sau khi kết tội “Việt gian”, “phản quốc”. Hai chữ “Việt gian”, cũng do ông Hồ bắt chước hai tiếng “Hàn gian” của Mao Trạch Đông.
“Trong cuốn 'Lịch Sử đảng CSVN' tên tuổi của hai ông (Trần Văn Giàu và Dương Bạch Mai) không thấy ghi chép. Trong cuộc họp xứ ủy Nam Bộ ở Cây Mai (Chợ Lớn) ngày 23/9/1945, cũng như cuộc họp xứ ủy mở rộng ở Thiên Hộ (Mỹ Tho) ngày 25/10/1945, người có trách nhiệm không phải là ông Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, mà là Hoàng Quốc Việt, Lê Duẫn, Tôn Đức Thắng.......(Hồ sơ “Đệ Tứ QTVN” do “Tủ sách nghiên cứu” Paris xuất bản năm 2000, trang 40).
Theo mật lịnh của ông Hồ, vì sợ phe Trần Văn Giàu chiếm quyền, lập ra một chính quyền cộng sản độc lập với phe ông Hồ ngoài Bắc, nên sai Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lãnh tức tốc vào Nam. Việt đại diện cho đảng CSĐD, Lãnh đại diện cho Tổng bộ Việt Minh vào Sàigòn, tuyên bố tước chính quyền (Chủ tịch Lâm ủy HC), đảng quyền (chức bí thư) của Trần Văn Giàu. Rồi Hồ cũng ra lịnh giải tán “Thanh Niên Tiền Phong”, lập ra “Thanh Niên Cứu Quốc”, là tổ chức của Hồ. Những người cùng phe với Trần Văn Giàu như Dương Bạch Mai, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Nguyên....đều bị triệu ra Bắc để trị tội. Nguyễn Văn Nguyên “lâm nạn” giữa đường như Nguyễn Bình năm 1951. Thạch bị án treo vì ông Hồ đã trót “mượn đỡ” tên Phạm Ngọc Thạch lồng trong danh sách “Chính phủ lâm thời” cho có vẻ “toàn quốc” mà không hỏi ý kiến, hoặc quen biết, gặp gỡ trước. Chuyện các nhân vật thuộc phe Trần Văn Giàu còn dài dài, chúng tôi sẽ nhắc đến trong những bài sau.
Trên đường vào Nam, Hoàng Quốc Việt được lịnh theo dõi đường đi nước bước của ông Tạ Thu Thâu, rồi mật báo cho Việt Minh tại Quảng Ngãi hạ sát. Đầu tháng 9/1945. theo lịnh riêng của ông Hồ, Phạm Văn Bạch được đưa lên làm chủ tích “Ủy ban hành chánh Nam Bộ”, làm bình phong để Lê Duẫn, Phạm Hùng, Phan Trọng Tuệ chỉ huy từ bóng tối. Sau khi truyền lịnh đảo chính bí mật Trần Văn Giàu, Hoàng Quốc Việt củng cố lại quyền hành chỉ huy của phe ông Hồ, rồi giao cho Lê Duẫn, Phan Trọng Tuệ, Phạm Hùng.... Chuyện “đảo chính bí mật” nầy tới nay ít ai được biết. Khi Pháp xua quân tiến chiếm các tỉnh Nam Bộ, thay vì lo tổ chức kháng cự, lập kế hoạch tản cư dân chúng, thì “Ủy ban hành chánh” và “Xứ ủy Nam Bộ” lo chạy xa, chạy an toàn trước hết, theo đúng kế hoạch “chạy được an toàn là một thắng lợi” của ông Hồ ở Bắc. Họ bỏ mặc dân chúng tản cư trong hỗn loạn. Họ còn bắt dân quân chặn bước tiến của Pháp, để cán bộ đầu não Việt Minh chạy cho an toàn như ở Cái Nước (Năm Căn), Cao Lãnh, Mỹ Tho.....
“Mùa hè năm 1989, nhân dịp qua Pháp, ông Trần Văn Giàu cũng chứng thực những điều nói trên.Khi hỏi ai đã giết Tạ Thu Thâu ở Quảng Ngãi, ông Giàu quả quyết không phải ông vì lúc đó người có trách nhiệm là ông Hoàng Quốc Việt, được đảng cử ra thay ông (“Hồ sơ đệ tứ quốc tế VN”, sách đã dẫn, trang 41).
Như vậy các ông Nguyễn Văn Trấn, Trần Văn Giàu hay Dương Bạch Mai......chỉ là những kẻ thừa hành lịnh của Hồ Chí Minh. Họ trực tiếp làm những việc thất đức ấy cũng chỉ vì vâng lịnh Hồ Chí
Minh.
Cũng như nhiều vị từng tranh đấu chống Pháp để giành độc lập dưới hình thức nầy hay hình thức khác ở khắp ba Kỳ, ông Bùi Quang Chiêu không chết vì sự khủng bố sát hại của thực dân Pháp, mà ngã gục trước lòng thù hận và ganh tị của chính đồng bào mình. Việt Minh hồi trước và cộng sản bây giờ, cam tâm làm tay sai cho ngoại bang để phản bội dân tộc và đất nước. Việc ông Hồ ra lịnh sát hại, khủng bố, ám sát, thủ tiêu những người yêu nước thuộc các đảng quốc gia (Việt Cách, Việt quốc, Cao Đài, Hòa Hảo...là một tội với quốc gia dân tộc và là một vết nhơ trong lịch sử.
HỨA HOÀNH
Chú thích:
- Trong bức thư của bà Renée Bùi gởi cho chúng tôi, những chữ nằm trong dấu ngoặc [...] là do chúng tôi thêm vào, làm cho rõ nghĩa hơn.
(1) Luật sư Dương Văn Giáo (1890 - 1945) đậu tiến sĩ luật. Đêm 24/9/1945, ông Giáo được một số đảng phái quốc gia bầu làm thủ tướng chính phủ lâm thời, có ông Phan Văn Hùng làm bộ trưởng quốc phòng (phiên họp tại số 28 đường Marins (Thủy Binh Chợ Lơn). Chính phủ nầy có cờ đỏ giữa nền xanh, một ngôi sao vàng 5 cánh, nằm trên nền xanh....
Luật sư Giáo bị Việt Minh bắt cùng đêm với ông Bùi Quang Chiêu, sau đó xử tử tại Chợ Đệm cuối tháng 9/1945.
“Một cảnh trí ngoài sự tưởng tượng của người ta: dân chúng nườm nượp kéo đến bến tàu Nhà Rồng như nước lũ. Đường nào đường nấy chật nức người ta, từ trước Sở Thương Chánh cho tới Quai de Belgique, qua cầu, thẳng tuốt bến tàu. Tàu tới trễ, dân chúng lũ lượt tới càng đông. Ngẫu nhiên vì vụ Nguyễn An Ninh bị bắt, mà Chiêu được nhân dân tiếp đón long trọng. Cả ngàn thanh niên hộ tống đi hai hàng, tay đeo bảng vàng, huy hiệu đảng Jeune Annam, vừa đi chậm theo Bùi Quang Chiêu vừa hô khẩu hiệu: “Phải thả Nguyễn An Ninh”. Phía phản biểu tình của Pháp cho người nhào vô phá hoại. Một tên Tây con, côn đồ lẻn vào gần, và đá đít Bùi Quang Chiêu một cái. Thế là dân chúng như nước vỡ bờ, túa chạy theo đánh đấm mấy chú Tây. Nếu không có cảnh sát can thiệp kịp, thế nào cũng có án mạng, người chết.” (sách “Nguyễn An Ninh” của Phương Lan, trang 157).
Khi ở Pháp, ông Bùi Quang Chiêu có viết một loạt bài báo đăng trên tờ “Việt Nam Hồn” của ông Nguyễn Thế Truyền. Nói về lai lịch tờ “Việt Nam Hồn”, cụ Đặng Hữu Thụ, tác giả sách “Nhà cách
mạng Nguyễn Thế Truyền” sưu tầm tài liệu tại các văn khố Pháp, cho biết:
“Việc ra báo “Việt Nam Hồn” bằng tiếng Việt là ý kiến của ông Nguyễn Ái Quốc. Vào khoảng cuối năm 1922 đầu năm 1923, Quốc phổ biến trong giới Việt kiều ở Pháp một tờ truyền đơn, kêu gọi họ
mua báo nầy, do chính ông ta làm chủ bút. Lời kêu gọi ấy viết theo thể thức một bài vè: “Hồn Nam Việt”.
“Ở trong thế giới, ông nói, tàu bay,
Việc lạ tin hay, ngày ngày thường có.
Nào ai muốn rõ phải có nhật trình,
Mình ở gia đình, mắt soi vạn lý.
Á, Âu, Úc, Mỹ.....rút lại một tờ
.........
“Mong mỏi người mình, mở mày mở mặt.
Báo nầy sẽ đặt tên “Việt Nam Hồn”
Mỗi tháng hai lần, mỗi lần trăm bản.
Xin anh em bạn, ai có muốn coi,
Cắt giữ cho tôi, cái toa mãi (order).
Mấy lời chứng thị, thư bất tận ngôn,
Chúc ‘Việt Nam Hồn’: vạn tuế, vạn vạn tuế”
Phía dưới có câu: “cắt cái toa nầy, gởi cho M. Nguyễn Ái Nước, 3 rue du Marche des Patriarches,
Paris 5.” Đoạn dưới để một khoảng trống cho người mua điền tên, họ, địa chỉ. Ông có ghi thêm:
“Nếu không đủ 100 người xem, thì không thể làm được.”
Đó là cách thức của ông Hồ mượn đầu heo nấu cháo, định ra báo “Việt Nam Hồn”, nhưng thất bại vì không đủ số người đặt mua.
Đến cuối năm 1925, ông Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô được hai năm rưỡi, ông Nguyễn Thế Truyền mới thực hiện ra tờ báo “Việt Nam Hồn” riêng do chính ông làm chủ nhiệm. Trên danh nghĩa, tờ
“Việt Nam Hồn” do ông Nguyễn Ái Quốc sáng lập, nhưng không có một bài viết nào, vì khi báo ra đời, ông đã đi Liên Xô, mà “Việt Nam Hồn” để cổ động trong giới người Việt sinh sống tại Pháp.......”. “Bác” không có ra tờ báo “Việt Nam hồn” nào, mà chỉ có báo “Việt Nam ....lèo”.
(Tài liệu của Đặng Hữu Thụ, đã nêu ở trên, trang 73).
Tờ báo “Việt Nam hồn” của ông Nguyễn Thế Truyền là nguyệt san, viết bằng 3 thứ tiếng Việt, Pháp, Hán. Có vài số như số 10, 14 đều viết bằng quốc ngữ. Trước khi tờ báo đầu tiên chào đời, ông Nguyễn Thế Truyền có tung ra tờ truyền đơn cổ động:
“Nghĩ lắm lúc thâm gan, tím ruột,
Vạch trời kia mà tuốt gươm ra,
Cũng xương, cũng thịt cũng da,
Cũng hòn máu đỏ, con nhà Lạc Long.
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Mấy mươi năm nhơ nhuốc lầm than,
Thương ôi, Đại Việt giang san,
Thông minh đã sẵn, không ngoan cũng thừa....”
(Sách đã dẫn, trang 76).
Trong những bài báo của ông, nhiều lần ông đòi hỏi người Pháp ban bố tự do dân chủ cho VN, nâng cao dân trí, mở mang kinh tế để tiến dần đến chỗ tự trị, như thế sẽ tránh được hỗn loạn. Theo ông, nếu VN độc lập mà hỗn loạn, dân trí còn ở trình độ thắp kém sẽ làm mồi cho CS. Trong một bài viết bằng tiếng Pháp, đăng trên báo “Việt Nam Hồn” của ông Nguyễn Thế Truyền, tựa “Pour le dominion Indochinois”, đăng liên tiếp trên 4 số báo, ông Chiêu tố cáo chánh sách dùng rượu đầu độc dân tộc VN:
“Nếu ở VN sở trường học cũng nhiều như ở tiểu bài rượu và thuốc phiện, thì dân VN sẽ là dân có học thức vào bậc nhứt thế giới. Trẻ con đi học buộc phải nạp giấy khai sanh cho nhà trường, nhưng nếu trẻ con đi mua một lượng thuốc phiện, thì không phải nạp giấy tờ gì. Quyền tự do độc nhất mà người VN chúng tôi được hưởng là quyền tự đầu độc bằng rượu và thuốc phiện. Khắp lãnh thổ chằng chịt những tiểu bài rượu, mà oái oăm thay, các tiểu bài nầy đập vào mắt quần chúng bằng ngọn cờ ba sắc, cắm một cách kiêu hãnh trên mái nhà. Trên hay dưới lá cờ, có mấy chữ R. A.. Đó là chữ tắt của rượu Regie alcool.”
Trong thời gian ở Pháp, ông Nguyễn Thế Truyền nhiều lần đi diễn thuyết về nạn độc quyền nấu và bán rượu của Pháp. Cụ Đặng Hữu Thụ viết về việc nầy như sau: “Ở Nam Kỳ, rượu được một công ty Pháp độc quyền nấu và do chính phủ bán. Vì độc quyền nấu rượu dành cho các công ty Pháp, nên các người VN phải làm nghề nấu rượu theo phương thức cổ truyền bị phá sản, mất kế sinh nhai.
Khi mới thành lập, công ty rượu “Sociète Française des Distilleries de L'indochine có số vốn 2 triệu francs. Vì lợi tức nhiều, các cổ phần tăng gia mau chóng, số vốn tăng lên vào năm 1926 là 33 triệu
francs. Lợi tức năm 1926 của công ty là 21 triệu francs. Mỗi cổ phần năm 1901 là 55 francs, đến năm 1926 bán tới 6.600 francs. Chủ tịch công ty rượu là ông A. R. Fontaine. Các ty rượu mở khắp
nơi. Làng nào cũng có. Các quan lại VN được chỉ thị của cấp trên phải làm cho rượu bán chạy, tiêu thụ được nhiều. Quan phủ, huyện nào mà trong hạt của mình, rượu bán được nhiều nhứt, thì chóng được thăng thưởng. Vì vậy, có nhiều vị quan buộc mỗi xã phải tiêu thu một số lượng rượu nhứt định. Việc bắt rượu lậu gây ra nhiều tệ đoan. Nhà đoan đi xét rượu lậu, thấy ở bờ rào hay ở ruộng của người nào, có giấu men rượu và dụng cụ nấu rượu, cùng rượu lậu, là người ấy bị đưa ra tòa phạt vạ, phạt tù rất nặng nề, không kể tiền bồi thường thiệt hại cho nhà đoan.” (Sách đã dẫn, trang 233).
Đặc biệt vào năm 1928, khi có vụ án Đồng Nọc Nạn, tờ báo “La Tribune Indochinoise” có đăng tải vụ này, tường thuật vắn tắt diễn tiến vụ án, kết án gia đình Mã Ngân đã cấu kết với ông phủ Huấn
giựt đất của gia đình Mười Chức. Vụ án đẫm máu đã làm thiệt mạng cò hiến binh Pháp và 3 người trong gia đình Mười Chức. (Xem thêm “Vụ án Đồng Nọc nạn” trong sách “Nam Kỳ Lục Tỉnh I”, cùng tác giả).
Năm 1929, ông Bùi Quang Chiêu cùng luật sư Dương Văn Giáo đi Calcutta, để dự phiên họp của đảng Quốc Đại Ấn Độ. Nhân cơ hội nầy, hai ông có ghé thăm viện đại học Tagore Santiniketan, mặc dầu không gặp được thi hào Tagore. Năm sau, thi hào Tagore trên đường đi Nhựt Bổn, có ghé qua Sàigòn, gặp và nói chuyện với ông Chiên. Nhân dịp này, ông Chiêu có viết nhiều bài báo ca ngợi cả Gandhi lẫn đường lối cai trị của Anh ở Ấn Độ. Trong thời gian từ năm 1932 tới 1941, ông Chiên hoạt động ở Pháp với tư cách Nghị sĩ Đông Dương trong Thượng hội đồng quốc gia Pháp. Khi ở vào tuổi 70, có lần ông Bùi Quang Chiêu tâm sự với một người bạn thân là “quá tin vào thiện chí của Pháp, nên mất nhiều thời gian theo đuổi mục đích”. Năm 1942, ông Chiêu về hưu tại quê nhà, được mấy năm thì trở lên Sàigòn, ngụ tại nhà riêng ở Phú Nhuận. Tháng 8/1945, Nhựt đột ngột đầu hàng. Từ bóng tối, Việt Minh nhảy ra cướp chính quyền, tự cho mình có quyền cai trị cả nước. Việc làm đầu tiên của Việt Minh, tức CS trá hình là khủng bố, ám sát, bắt cóc, cho “mò tôm” những người không chịu hợp tác với họ, hoặc vì có uy tín hơn họ. Ông Bùi Quang Chiêu cũng không thoát khỏi cái chết oan nghiệt.
AI GIẾT ÔNG BÙI QUANG CHIÊU?
Chúng tôi xin ghi lại nguyên văn bức thư của bà bác sĩ Renée Bùi, ái nữ của ông Bùi Quang Chiêu kể lại. Đây là tài liệu mới nhứt, chưa được tiết lộ dưới bất cứ hình thức nào:
Virginia 29 Avril 1999
Kính gửi: Cụ Hứa Hoành
Kính thưa cụ,
Trước hết tôi thành thật xin cụ vui lòng lượng thứ cho việc hồi âm quá trễ của tôi. Xin muôn vàn cảm tạ sự thông cảm cho.
Tuy tôi không được hân hạnh quen biết cụ, nhưng tôi biết cụ qua các sách cụ viết về miền Nam, tủ sách của tôi có sách “Nam Kỳ Lục Tỉnh”, và quyển “Các giai thoại Nam Kỳ Lục Tỉnh” cùng một số bài cụ đăng trong các tạp chí xuất bản ở bên nầy.
Thưa cụ, tôi thật vừa cảm động vừa vui mừng khi được cụ cho biết có ý muốn viết về các nhân vật miền Nam, trong đó có ông thân sinh tôi, vì đó là cái ước vọng của tôi từ lâu. Nhưng vì tôi là lớp sinh sau, biết rất ít về quá trình hoạt động của thân phụ mình. Khi vừa đến tuổi có thể hiểu rộng thêm về các chuyện bên ngoài, ngoài cái phận sự của người con gái......thì lại gặp biến cố tao loạn.
Phần nữa tôi không biết viết văn, và không được quen biết ai trong giới nhà văn, để nhờ nói lại giải oan cho Papa [cha] tôi, đã bị Việt Minh CS gán cho hai chữ “Việt gian” rồi xử tử.
Nay tôi xin nói những gì mẹ tôi thuật lại, vì lúc đó tôi đã ở riêng và đi xa Sàigòn. Lúc có lịnh tản cư (9/1946), mẹ tôi ngại vì lý do nào người không có nói nhưng đã khuyến được Papa tôi tản cư về Phú Lâm, là quê của mẹ tôi, và nhà ở trong đất của chùa Giác Hải, gần chỗ của gia đình Nguyễn Chí Nhiều cũng tản cư về đó. Tôi không biết chắc ngày ba tôi bị bắt là ngày nào. Mẹ tôi chỉ nói là một hôm, lúc đó cũng cuối tháng 9, lối 24 hay 25 gì đó, có một người đến tìm, nói là “có thư của ông Dương Văn Giáo [luật sư, bạn của ông Bùi Quang Chiêu] gởi cho Papa tôi (1). Trước kia ông Giáo cũng cùng Papa tôi hoạt động, cùng đi diễn thuyết nhiều nơi bên Pháp, chỉ trích vấn đề thuộc địa......nên Papa tôi nhận thư. Không ngờ là họ mượn kế để tìm bắt Papa tôi. Nên vài giờ sau đó, họ ập đến bắt Papa tôi. Mẹ tôi và 3 người con trai (1 anh và 2 em kế tôi), một em gái út đang chơi ở nhà ông Nguyễn Chí Nhiều thoát khỏi. Họ áp đem xuống ghe, vì chùa có ngọn rạch ăn thông với sông ông Buông [rạch ông Buông tại Phú Lâm, có cầu bắc ngang để xe lửa chạy từ Sàigòn về Tân An] và giải về khám Chợ Đệm [tức là chành lúa của ông Võ Lợi Trinh]. Họ giữ Papa tôi ở chỗ riêng. Mẹ tôi và mấy anh em thì cũng nhốt trong một vựa lúa. Ở đây mẹ tôi có gặp ông Trần Quang Vinh [Cao Đài]. Một, hai hôm sau, mẹ tôi có gặp ông Nguyễn Văn Trấn, người nầy trước là học trò được học bổng của trường Phú Lâm, và mẹ tôi lúc ấy lãnh thầu cung cấp thực phẩm cho nhà trường, để nấu ăn cho học trò nội trú. Mẹ tôi thường hay giúp đỡ các anh chị học sinh [ có học bổng] xuống trực, và người nầy [Nguyễn Văn Trấn] đã được mẹ tôi cho tiền bạc hoặc bánh trái gì đó (đây là mẹ tôi nói lại như vậy). Nguyễn Văn Trấn nhận ra mẹ tôi nên hỏi: - Tôi nghe nói chị ở chùa mà? Mẹ tôi nói:
- Dạ tội cũng vẫn ở chùa Giác Hải từ hồi trước đến giờ.
Ông Trấn ngẫm nghĩ một chút rồi bảo:
- Cho chị ra chùa Long Tuyền ngoài nầy, chị chịu không? [tức ra khỏi vựa lúa là chỗ làm khám giam]. Dĩ nhiên mẹ tôi mừng và ưng chịu ngay. Chỉ khi ra ở chùa, mẹ tôi được vị hòa thượng cho biết là họ đã xử bắn Papa tôi rồi ngày hôm trước, và hòa thượng nói:
- Tôi có xin họ cho tới đắp cho ông nhà cái áo mưa tôi đang mặc, vì họ đã xô xuống mô đất đào sẵn, và lúc ấy trời mưa lâm râm. Hòa thượng có làm bài vị để ngày tháng, nhưng chúng tôi chưa có dịp nào đến chùa để xem lại, vì vùng ấy suốt thời kỳ Cộng Hòa Nam Kỳ (1946), cũng không có an ninh.
Qua thời kỳ chính phủ Nguyễn Văn Tâm, chúng tôi cải táng, nhặt tấm áo mưa, đem về chôn ở đất nhà Phú Nhuận để kỷ niệm. Có người lúc ấy nói lại là chính Trần Văn Giàu là người đã làm việc ấy
[sát hại].....Trong khi họ đem Papa tôi lên kết tội nầy nọ, cũng có nhiều người trí thức có cảm tình thời ấy, đã xin họ cho Papa tôi, và họ nói Papa tôi rất bình tĩnh, cãi lý với bọn Việt Minh, và có nói:
- Các người có tha hay xử tôi cũng vậy thôi. Tôi đã già, chết nay hay chết mai cũng thế, nhưng cái chết của tôi sẽ đi vào lịch sử, chừng ấy ai có công tội mới hay (Papa tôi mất năm ấy đã 73 tuổi).
Khi quân Pháp trở lại, họ đem hết các trại giam về Đồng Tháp Mười. Tôi quên nói thêm là họ còn lên Chợ Lớn, bắt anh thứ ba tôi là bác sĩ Louis Bùi, giám đốc hai trại bài lao Chợ Rẫy. Và khi cho ở
khám Chợ Đệm, thì gia đình chúng tôi mất luôn 4 người con trai. Và cho đến ngày nay, chúng tôi không thể nào tìm biết là họ đã mất khi nào? và mất ở đâu?
“Hùm chết để da, người ta chết để tiếng”. Với thời gian mọi sự việc lắng đọng thì trắng đen đều được minh bạch. Chúng tôi vẫn biết Papa chúng tôi sẽ có một chỗ đứng trong lịch sử tranh đấu. Papa tôi là người không thích bạo động. Những cái khuyên âm thầm, hay che chở cho những người có chí hướng (yêu nước).....Từ việc đề xướng “Đảng Lập Hiến”, đến khuyến khích các nhà giàu cho con du học, len vào việc thương mại: như làm nhà máy xay lúa để cạnh tranh với Hoa kiều, lập dọc suốt bến Bình Đông, Bình Tây Chợ Lớn, lập ngân hàng (VN ngân hàng), lập “Hội khuyến học Nam Kỳ”, Samipic (Trí, Đức, Thể Dục),cấp học bổng cho học sinh, để khuyến khích nghề tằm tang (dệt lụa) ở Tân Châu, tới nay các bô lão còn nhắc tên.
Tại Pháp, ông [Bùi Quang Chiêu] vận động lập “Đông Dương Học Xá” cho tất cả du học sinh các nước trú ngụ. Những việc làm nầy thật không đáng kể, nhưng cũng là đóng góp vào việc cung cấp phương tiện cho kẻ đến sau. Lúc ban sơ, Papa tôi cùng với các người bạn, lập ra “An Nam học đường” (Phú Nhuận).
Qua bao nhiêu biến cố nước nhà, chúng tôi không còn giữ được tài liệu, sách báo hay hình ảnh gì cả. Những gì tôi nhớ, tôi không dám nói là chính xác về thời gian, chắc nhiều việc cần phải nghiên cứu lại. Tôi hết sức cảm tạ cụ đã quan tâm đến Papa tôi, và qua bao nhiêu tài liệu khác đã làm sáng tỏ tấm lòng thương nước, thương xứ sở của Papa tôi, các con cháu của dòng họ Bùi Mõ Cày không dám quên ơn.
Trân trọng kính chào và kính chúc cụ luôn anh khương trường thọ để còn làm nhiều lợi ích cho lịch sử nước nhà và kính chúc quý quyến vạn an.
(Thư riêng của bà bác sĩ Renée Bùi Quang Chiêu gởi cho tác giả)
Về cái chết của ông Bùi Quang Chiêu sách cộng sản viết: “Đến năm 1945, Nhựt thao túng trên lãnh thổ VN, ông cùng gia đình về Mõ Cày, nhưng không bao lâu lại trở lên Sàigòn làm tay sai cho thực dân Pháp (?). Bùi Quang Chiêu bị nhân dân xử tử hình tại Chợ Đệm ngày 29/9/1945”. (Từ điển “Nhân vật lịch sử VN” của Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Bá Thế, NXB Khoa Học Xã Hội,
1992).
Đó là cách nói lấy được, chụp mũ, vu khống cho những nạn nhân đã bị VNCS sát hại một cách mờ ám. Tới nay, hơn 50 năm qua, cộng sản có chứng minh, đưa ra bằng chứng ông Bùi Quang Chiêu,
Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phạm Quỳnh.......và hàng ngàn nạn nhân của họ là “Việt gian”, là “phản quốc”?
Những vị cao niên sống ở miền Nam còn nhớ, cuối tháng 8 /1945, từ bóng tối Việt Minh nhảy ra cướp chính quyền, lập ra “Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ”, Trần Văn Giàu tự xưng chủ tịch. Giàu liền lập một ủy ban chuyên khủng bố, ám sát, núp dưới danh nghĩa “Quốc gia tự vệ cuộc” do Nguyễn Văn Trấn cầm đầu. Nhiệm vụ của cái gọi là “Quốc gia tự vệ cuộc”, chuyên lùng sục, bắt bớ, ám sát và thủ tiêu (trấn nước thả trôi sông gọi là “mò tôm”) sau khi kết tội “Việt gian”, “phản quốc”. Hai chữ “Việt gian”, cũng do ông Hồ bắt chước hai tiếng “Hàn gian” của Mao Trạch Đông.
“Trong cuốn 'Lịch Sử đảng CSVN' tên tuổi của hai ông (Trần Văn Giàu và Dương Bạch Mai) không thấy ghi chép. Trong cuộc họp xứ ủy Nam Bộ ở Cây Mai (Chợ Lớn) ngày 23/9/1945, cũng như cuộc họp xứ ủy mở rộng ở Thiên Hộ (Mỹ Tho) ngày 25/10/1945, người có trách nhiệm không phải là ông Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, mà là Hoàng Quốc Việt, Lê Duẫn, Tôn Đức Thắng.......(Hồ sơ “Đệ Tứ QTVN” do “Tủ sách nghiên cứu” Paris xuất bản năm 2000, trang 40).
Theo mật lịnh của ông Hồ, vì sợ phe Trần Văn Giàu chiếm quyền, lập ra một chính quyền cộng sản độc lập với phe ông Hồ ngoài Bắc, nên sai Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lãnh tức tốc vào Nam. Việt đại diện cho đảng CSĐD, Lãnh đại diện cho Tổng bộ Việt Minh vào Sàigòn, tuyên bố tước chính quyền (Chủ tịch Lâm ủy HC), đảng quyền (chức bí thư) của Trần Văn Giàu. Rồi Hồ cũng ra lịnh giải tán “Thanh Niên Tiền Phong”, lập ra “Thanh Niên Cứu Quốc”, là tổ chức của Hồ. Những người cùng phe với Trần Văn Giàu như Dương Bạch Mai, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Nguyên....đều bị triệu ra Bắc để trị tội. Nguyễn Văn Nguyên “lâm nạn” giữa đường như Nguyễn Bình năm 1951. Thạch bị án treo vì ông Hồ đã trót “mượn đỡ” tên Phạm Ngọc Thạch lồng trong danh sách “Chính phủ lâm thời” cho có vẻ “toàn quốc” mà không hỏi ý kiến, hoặc quen biết, gặp gỡ trước. Chuyện các nhân vật thuộc phe Trần Văn Giàu còn dài dài, chúng tôi sẽ nhắc đến trong những bài sau.
Trên đường vào Nam, Hoàng Quốc Việt được lịnh theo dõi đường đi nước bước của ông Tạ Thu Thâu, rồi mật báo cho Việt Minh tại Quảng Ngãi hạ sát. Đầu tháng 9/1945. theo lịnh riêng của ông Hồ, Phạm Văn Bạch được đưa lên làm chủ tích “Ủy ban hành chánh Nam Bộ”, làm bình phong để Lê Duẫn, Phạm Hùng, Phan Trọng Tuệ chỉ huy từ bóng tối. Sau khi truyền lịnh đảo chính bí mật Trần Văn Giàu, Hoàng Quốc Việt củng cố lại quyền hành chỉ huy của phe ông Hồ, rồi giao cho Lê Duẫn, Phan Trọng Tuệ, Phạm Hùng.... Chuyện “đảo chính bí mật” nầy tới nay ít ai được biết. Khi Pháp xua quân tiến chiếm các tỉnh Nam Bộ, thay vì lo tổ chức kháng cự, lập kế hoạch tản cư dân chúng, thì “Ủy ban hành chánh” và “Xứ ủy Nam Bộ” lo chạy xa, chạy an toàn trước hết, theo đúng kế hoạch “chạy được an toàn là một thắng lợi” của ông Hồ ở Bắc. Họ bỏ mặc dân chúng tản cư trong hỗn loạn. Họ còn bắt dân quân chặn bước tiến của Pháp, để cán bộ đầu não Việt Minh chạy cho an toàn như ở Cái Nước (Năm Căn), Cao Lãnh, Mỹ Tho.....
“Mùa hè năm 1989, nhân dịp qua Pháp, ông Trần Văn Giàu cũng chứng thực những điều nói trên.Khi hỏi ai đã giết Tạ Thu Thâu ở Quảng Ngãi, ông Giàu quả quyết không phải ông vì lúc đó người có trách nhiệm là ông Hoàng Quốc Việt, được đảng cử ra thay ông (“Hồ sơ đệ tứ quốc tế VN”, sách đã dẫn, trang 41).
Như vậy các ông Nguyễn Văn Trấn, Trần Văn Giàu hay Dương Bạch Mai......chỉ là những kẻ thừa hành lịnh của Hồ Chí Minh. Họ trực tiếp làm những việc thất đức ấy cũng chỉ vì vâng lịnh Hồ Chí
Minh.
Cũng như nhiều vị từng tranh đấu chống Pháp để giành độc lập dưới hình thức nầy hay hình thức khác ở khắp ba Kỳ, ông Bùi Quang Chiêu không chết vì sự khủng bố sát hại của thực dân Pháp, mà ngã gục trước lòng thù hận và ganh tị của chính đồng bào mình. Việt Minh hồi trước và cộng sản bây giờ, cam tâm làm tay sai cho ngoại bang để phản bội dân tộc và đất nước. Việc ông Hồ ra lịnh sát hại, khủng bố, ám sát, thủ tiêu những người yêu nước thuộc các đảng quốc gia (Việt Cách, Việt quốc, Cao Đài, Hòa Hảo...là một tội với quốc gia dân tộc và là một vết nhơ trong lịch sử.
HỨA HOÀNH
Chú thích:
- Trong bức thư của bà Renée Bùi gởi cho chúng tôi, những chữ nằm trong dấu ngoặc [...] là do chúng tôi thêm vào, làm cho rõ nghĩa hơn.
(1) Luật sư Dương Văn Giáo (1890 - 1945) đậu tiến sĩ luật. Đêm 24/9/1945, ông Giáo được một số đảng phái quốc gia bầu làm thủ tướng chính phủ lâm thời, có ông Phan Văn Hùng làm bộ trưởng quốc phòng (phiên họp tại số 28 đường Marins (Thủy Binh Chợ Lơn). Chính phủ nầy có cờ đỏ giữa nền xanh, một ngôi sao vàng 5 cánh, nằm trên nền xanh....
Luật sư Giáo bị Việt Minh bắt cùng đêm với ông Bùi Quang Chiêu, sau đó xử tử tại Chợ Đệm cuối tháng 9/1945.
VIẾT TỪ SAIGON * CỘNG SẢN VÀ DU ĐẢNG
Thẻ đảng và số má giang hồ
Mon, 12/01/2014 - 16:57 — VietTuSaiGon
Điều này chỉ cho thấy đã đến lúc điểm số của đảng viên đã ngang hàng được với đại ca xã hội đen. Các đại ca xã hội đen dựa vào uy tín sát máu của họ để vay mượn, còn các đảng viên lại dựa vào uy tín đảng để lừa gạt. Tiền cho các đại ca xã hội đen mượn, chắc chắn sẽ lấy lại được vì đây là luật chơi của họ, họ có thể mất mạng nhưng không chấp nhận mất uy tín trong giới xã hội đen, trừ khi họ cùng đường và hết đất sống, phải bỏ xứ mà đi. Nhưng nếu bỏ xứ mà đi, khi có tiền, bọn họ cũng quay về trả lại cho “khổ chủ” và không quên trả lãi, xin lỗi. Nhưng với các đảng viên thì khác, không những bị mất tiền mà có khi còn mất thêm nhiều thứ khác, kể cả tính mạng.
Như vậy, kể ra thẻ đảng còn ghê hơn cả số má giang hồ. Nhưng vì sao người ta lại dễ dàng tin vào một cái thẻ đảng, lại chấp nhận đánh đổi tài sản với cái thứ mà bán nó chưa mua được một ổ bánh mì? Vì cơ chế đảng trị đã cho các đảng viên quá nhiều thứ, họ như một ông vua, bà chúa trên xứ sở của họ. Lòng tham và sự thoả hiệp của đa phần người dân đã đẩy bản thân đa số này đến chỗ mù quán, toa rập với cái ác, xem cái ác là một cơ hội cho bản thân. Và cái giá phải trả đã hiện ra trước mắt.
Với giới giang hồ, tầm cỡ của một tay giang hồ được giới xã hội đen gọi
là “có số có má”, nói cách khác là “số má giang hồ”, tay nào càng có số
má càng chiếm vị trí cao trong giới xã hội đen và càng có cơ hội phát
huy, mở rộng thế lực, địa bàn hoạt động. Với các đảng viên, số má của họ
chính là chức vụ, quyền lực trong bộ máy nhà nước.
Trong giới giang hồ, số má cỡ như Năm Cam, Dung Hà, nếu đi vay tiền,
cũng có thể vay vài chục tỉ đồng nhờ vào số má nhưng chẳng có cái thẻ
nào để rút ra thị uy đối phương khi vay, và để có số má giang hồ, cả Năm
Cam, Dung Hà cùng hàng loạt các đại ca khác phải đánh đổi rất nhiều
thứ, kể cả sinh mạng. Nhưng để có thẻ đảng, những đảng viên chỉ cần bỏ
ra vài chục ngàn đồng để làm thẻ, vẫn vay được mấy chục tỉ nhờ vào thẻ
đảng.
Câu chuyện Nguyễn Thị Bích An chuyên viên ủy ban kiểm tra tỉnh ủy Hòa
Bình dùng 2 tấm thẻ đảng viên của mình để “cắm”, đã “ẵm” trọn hơn 6,4 tỷ
đồng của gia đình ông, bà Việt - Tâm. Chưa hết, với cái “oai” chuyên
viên, Nguyễn Thị Bích An cũng đã vay của bà Lê Thị Phương, chủ cửa hàng
vật liệu sắt thép Hải Phương gần 600 triệu đồng. Nhưng, đây chưa phải là
con số cuối cùng… Chuyện các đảng viên lừa gạt trong thời gian gần đây
đã làm cho nhiều người bàng hoàng về thế lực xã hội đỏ, xã hội đen tại
Việt Nam.
Tại sao người ta lại dễ dàng mang tài sản đi thế chấp, vay tiền đưa cho
cán bộ đảng chỉ vì đảng viên đưa ra cho họ xem hai tấm thẻ đảng “làm
bằng chứng danh dự”? Và có phải xã hội đỏ đã qua mặt xã hội đen trong
hành xử giang hồ?
Ở câu hỏi thứ nhất, vấn đề được mở rộng sang một hướng khác, chủ nghĩa
tuyên truyền, mị dân kèm theo thủ đoạn đe nẹt, trấn áp và khủng bố tinh
thần những ai có ý hướng phản đối chủ nghĩa Cộng sản vô hình trung làm
cho đa phần nhân dân đi đến chỗ khiếp sợ đảng và hùa theo đảng mặc dù
không tin, mặt khác, nó cho thấy một thứ quyền uy đáng sợ từ phía đảng,
khiến cho nhân dân không muốn tin vẫn phải tin vào thứ quyền lực của
đảng. Hàng triệu ông bán bánh bao, bà bán phở ở các vỉa hè, đường phố,
đầu hẻm muốn yên thân làm ăn phải nhờ cậy đến sức mạnh của đảng, phải
đút lót từ anh dân phòng quèn cho đến tay nhân viên an ninh khu vực.
Mặc dù điều này cũng đáng thông cảm vì nhân dân thấp cổ bé miệng, không
còn đường sống, phải cam chịu. Nhưng trên thực tế, người ta không dừng ở
đó, những bà bán phở, ông giết lợn còn muốn phô trương thanh thế của
mình với các đồng nghiệp bằng cách đút lót, mua chuộc càn bộ an ninh,
cán bộ nhà nước để chiếm vị trí đắc địa so với đồng nghiệp… Tất cả những
hành vi này nếu không gọi là thoả hiệp với Cộng sản thì gọi là gì? Và
tất cả những hành vi này không mang “tính đảng” thì mang tính gì đây?
Thoả hiệp, toa rập, đút lót, tham nhũng, đội trên đạp dưới, đó là những
biểu hiện mang đậm chất đảng mà người dân đang vấp phải. Và cũng bởi
tính thoả hiệp này mà người ta ngày càng lún sâu vào chỗ u mê, hết thuốc
chữa. Một tấm thẻ đảng, với những người có tư duy dân chủ, tiến bộ, nó
chẳng đáng để đổi lấy một ổ bánh mì, thậm chí nó còn cho thấy một loại
nhân cách không được bình thường đang nấp mình sau tấm thẻ đỏ, đằng sau
tấm thẻ có thể là thủ đoạn, là máu lạnh, sẵn sàng đạp lên đồng loại để
làm giàu… Nhưng có người (thậm chí nhiều người!) đã tin vào nó, đã mang
cả tài sản của mình đi thế chấp cho đảng viên mượn, để bị lừa, ôm hận!Điều này chỉ cho thấy đã đến lúc điểm số của đảng viên đã ngang hàng được với đại ca xã hội đen. Các đại ca xã hội đen dựa vào uy tín sát máu của họ để vay mượn, còn các đảng viên lại dựa vào uy tín đảng để lừa gạt. Tiền cho các đại ca xã hội đen mượn, chắc chắn sẽ lấy lại được vì đây là luật chơi của họ, họ có thể mất mạng nhưng không chấp nhận mất uy tín trong giới xã hội đen, trừ khi họ cùng đường và hết đất sống, phải bỏ xứ mà đi. Nhưng nếu bỏ xứ mà đi, khi có tiền, bọn họ cũng quay về trả lại cho “khổ chủ” và không quên trả lãi, xin lỗi. Nhưng với các đảng viên thì khác, không những bị mất tiền mà có khi còn mất thêm nhiều thứ khác, kể cả tính mạng.
Như vậy, kể ra thẻ đảng còn ghê hơn cả số má giang hồ. Nhưng vì sao người ta lại dễ dàng tin vào một cái thẻ đảng, lại chấp nhận đánh đổi tài sản với cái thứ mà bán nó chưa mua được một ổ bánh mì? Vì cơ chế đảng trị đã cho các đảng viên quá nhiều thứ, họ như một ông vua, bà chúa trên xứ sở của họ. Lòng tham và sự thoả hiệp của đa phần người dân đã đẩy bản thân đa số này đến chỗ mù quán, toa rập với cái ác, xem cái ác là một cơ hội cho bản thân. Và cái giá phải trả đã hiện ra trước mắt.
Nhưng câu chuyện không phải dừng ở đây, nó cho thấy đất nước đang thật
sự lâm nguy bởi lòng người tan rã, niềm tin bị đánh tráo, giá trị phẩm
hạnh bị băng hoại đến tận gốc. Bởi hơn ba mươi năm sống trượt dài trên
đà tiến bộ loài người, cái mà người Việt Nam đang gánh chịu bây giờ là
một xã hội vô hướng, vô hồn, tin vào cái ác cũng như tin vào những giá
trị huyễn hoặc. Trong khi đó, kẻ ngoại xâm đang lăm le bờ cõi, đang ngày
đêm rỉa rói lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam.
Còn có mối nguy nào hơn khi mà hành xử của xã hội đỏ đã không còn coi kỉ
cương, pháp luật ra gì và mức độ giảo hoạt, xảo trá của họ ghê gớm hơn
nhiều lần so với xã hội đen. Một xã hội mà xã hội đen lộng hành, xã hội
đỏ bòn rút, áp bức thì xã hội đó nên gọi là gì?
LÊ DIỄN ĐƯC * BIỂU TƯỢNG
Dân chủ và biểu tượng
Tue, 12/02/2014 - 17:48 — ledienduc
Lê Diễn Đức
Lê Diễn Đức
Winston Churchill, cựu Thủ tướng Anh quốc, có lần nói đùa nhưng rất
có lý rằng, "Dân chủ là mô hình dở nhất của một chính quyền, trừ tất cả
những mô hình được biết tới từ trước đến nay".
Tức là Dân chủ không phải là một mô hình hoàn hảo, nhưng là liệu pháp
giải quyết tốt nhất mà nhân loại có được trong lịch sử của mình.
Nhìn nhận rõ nhất các giá trị dân chủ là những người đã từng trải qua hệ
thống phi dân chủ. Karl Popper (1902 – 1994), nhà triết học người Áo,
người đề xuất các ý tưởng về một xã hội mở trong đó sự bất đồng chính
kiến được chấp nhận và được xem như một tiền đề để tiến tới việc xây
dựng một xã hội hoàn thiện, viết rằng, "một ai đó từng sống trong một mô
hình quyền lực độc tài mà không thể loại bỏ nó nếu không đổ máu, sẽ
hiểu rằng, mặc dù dân chủ, không phải là hoàn thiện, nhưng nó tạo nên
một cái gì đó để suy nghĩ và xứng đáng chết vì nó".
Tôi là người đã trải qua hai chế độ cộng sản ở Việt Nam và Ba Lan. Tôi
đã tới và trải nghiệm tự do dân chủ ở nhiều quốc gia như Đức, Pháp, Úc,
Canada hay Mỹ, là chứng nhân của sự sụp đổ chế độ cộng sản ở Ba Lan (năm
1989) và chứng kiến tiến trình xây dựng dân chủ nhọc nhằn, khó khăn
nhưng thành công trên đất nước này qua 25 năm nay. Vì thế tôi là người
hiểu biết và trân trọng các giá trị dân chủ, mà theo tôi, trước hết là
quyền được bầu cử tự do, báo chí truyền thông tự do và nhà nước được tạo
nên trên nền tảng của các định chế có khả năng kiểm soát trật tự xã
hội.
Dân chủ là số đông, dù không nhất thiết đồng ý, nhưng phải biết tôn
trọng chính kiến của thiểu số còn lại. Bởi vì dân chủ được xây dựng trên
hệ thống của các lập trường, quan điểm đối nghịch nhưng song song là sự
thoả hiệp.
Trong chế độ dân chủ, các đảng phái hoặc tổ chức chính trị, ít nhất hai,
tranh giành quyền lực nhà nước, cạnh tranh nhau bằng các chương trình,
mà xã hội thông qua lá phiếu cử tri uỷ nhiệm cho họ quyền quản trị điều
hành đất nước.
Trong trường hợp, không một đảng chính trị nào đạt được đa số tuyệt đối
số phiều bầu, hoặc đa số ghế trong quốc hội, một chính phủ liên minh sẽ
được thành lập với sự tham gia của đối thủ. Tuy nhiên, tiếng nói quyết
định cuối cùng sẽ thuộc về đảng mạnh hơn.
Hans Kelsen (1881-1973), một nhà luật học người Mỹ gốc Áo nói rằng, "Dân
chủ, không thể chối cãi và chắc chắn, là một nhà nước đảng trị". Có
nghĩa rằng, các đảng phái chính trị thực thi vai trò tổ chức cũng như
chuyển tải ý nguyện chính trị của nhân dân, đồng thời là trung gian giữa
nhân dân với các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, sự tranh đua các mục đich chính trị không loại trừ khả năng
tìm kiếm giải pháp chung. Dân chủ đặt ra sự tranh đua, nhưng không phải
tranh đua cho bản thân nó. Logic của thể chế đòi hỏi sự sáng suốt xây
dựng sự thoả hiệp. Không có sự thoả hiệp và đồng thuận về lập trường,
nhiều khi chỉ là sự bắt buộc phải chấp nhận nó ở vị thế thiểu số, sẽ
không thể vận hành được bộ máy dân chủ. Diễn đàn nằm trong khuôn khổ các
định chế dân chủ để tìm kiếm sự thoả hiệp giữa các đảng phái chính trị
chính là quốc hội đa đảng. Dân chủ khác biệt với các thể chế không dân
chủ là, sự thoả hiệp trong nó không chỉ là khả năng có thể mà còn là sự
mong muốn.
Leszek Kolakowski (1927 - 2009) người Ba Lan, một trong số ít các nhà
triết học của Đông Âu giành được sự thừa nhận ở đỉnh cao tri thức ở châu
Âu và thế giới, nói rằng, "Dân chủ là một công cụ chuyển tải những cuộc
xung đột giữa các cá nhân và cho phép giải quyết, đôi khi thậm chí loại
bỏ, đôi khi làm suy yếu đi, mà không cần sử dụng bạo lực".
Những người tham gia các cuộc tranh luận xã hội, cần phải có ý thức tôn
trọng chính kiến khác mình. Điều này sẽ tạo ra nên sự hài hoà, ổn định
trật tự và kìm hãm những cảm xúc xã hội cực đoan. Các chế độ độc tài ở
mọi nơi luôn luôn gạt bỏ sự thoả hiệp và tiêu diệt khả năng phát triển
của các khuynh hướng chính trị khác ngoài khuynh hướng mà chúng định
hướng.
Việt Nam hiện nay nằm trong hệ thống chính trị độc đảng cầm quyền của
Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN), không có lực lượng đối lập trong quốc
hội. Đây là một nền cai trị hoàn toàn áp đặt, không có sự lựa chọn tự do
của cộng đồng xã hội. Không một khuynh hướng chính trị nào khác ngoài ý
thức hệ Mác-Lenin chen chân được vào quốc hội. Cho nên tất cả các kỳ
họp của cái gọi là "quốc hội" bao giờ cũng "thành công tốt đẹp" và các
chủ trương, chính sách đạt đồng thuận đến hơn 90%.
Trong một bối cảnh như thế, đi tìm một biểu tượng chung cho Tổ quốc
Việt Nam, ví dụ lá cờ chẳng hạn, thậm chí cho phong trào tranh đấu dân
chủ là chưa đúng thời điểm.
Hiện nay đã hình thành một số nhóm dân sự trong nước, như Hội Phụ nữ
Nhânquzền, Hội Cựu Tù binh Lương tâm, Con đường Việt Nam, Hội Anh em Dân
chủ, Hội Nhà báo Độc lập, Hội FC-NO U, v.v... Mỗi hội, nhóm đều có
logo riêng, thể hiện đường lối, tiêu chí hoạt động của mình. Tuy nhiên
những hoạt động của các hội, nhóm này đang trong bước khởi đầu, rất manh
mún, chưa đủ mạnh để thu hút một phong trào xã hội rộng lớn trên bình
diện cả nước, nên logo chỉ dừng lại ở vị trí biểu tượng của nhóm ấy mà
thôi.
Biểu tượng của phong trào tranh đấu xã hội thường tự nó nảy sinh từ
phong trào và mặc nhiên được thừa nhận, ví dụ như hoa hồng ở Georgia,
màu cam ở Ukraina, mảnh vải Jeans ở Belarus, hoa lài ở Tunesia, hay cái
dù ở Hông Kông...
Chọn lựa biểu tượng của Tổ quốc Việt Nam, lại càng khó hơn với một chiều
dài lịch sử phức tạp, dường như triều đại sau luôn xoá bỏ mọi biểu
tượng của triều đại trước, chiến tranh Nam- Bắc huynh đệ tương tàn, rồi
cả nước bị đẩy vào vòng cai trị của ĐCSVN.
Do đó mọi sự chọn lựa hiện hay, ví dụ lá cờ biểu tượng cho tổ quốc Việt
Nam, cho dù lý luận như thế nào về sự ra đời hay cội nguồn, cũng đều chỉ
là của một thiểu số, không được nhân dân ba miền của một nước Việt Nam
thống nhất chọn lựa dân chủ thông qua một quốc hội do dân bầu ra, hoặc
thậm chí một cuộc trưng cầu dân ý. Vì thế không thể nào áp đặt biểu
tuợng của một thiểu số nào đó lên phần còn lại. Mọi tranh cãi, cố lý
giải cho khuynh hướng của mình đều mất thời gian và không đi đến đâu.
Tuy nhiên, vì đấu tranh và mong muốn Việt Nam có một xã hội tự do dân
chủ và công bằng, từng nhóm thiểu số có quyền gìn giữ và trân trọng biểu
tượng của mình, thậm chí cả khi biểu tượng chung được lựa chọn dân chủ
mà không phù hợp với mong muốn riêng.
Dân chủ là một mục tiêu chung tối thượng, không thể vì biểu tượng nọ, logo kia của từng hội, nhóm thiểu số mà cản trở nó.
Dân chủ cũng là một sân chơi bình đằng và lành mạnh với những nguyên tắc
phổ quát bất di bất dịch. Chấp nhận dân chủ thì phải chấp nhận các
nguyên tắc ấy của luật chơi.
Dân chủ và tự do không buộc ai phải đứng dưới là cờ hay biểu tượng của một thiểu số nào trong cuộc tranh đấu.
XUÂN DƯƠNG * MIỀN TRUNG
03/12/2014
Chuyện “mãn truyền” và giọt mồ hôi của người miền Trung
Xuân Dương
(GDVN) - Giọt mồ hôi của người dân ở đâu cũng mặn, với miền Trung nắng lửa, gió lào lại càng mặn hơn nơi khác...
Bốn năm trước, vào ngày 21/8/2010, ông Hồ Xuân Mãn được trao tặng danh
hiệu Anh hùng LLVT nhân dân sau hai nhiệm kỳ làm Bí thư tỉnh ủy Thừa
Thiên - Huế (2000-2010).
Bốn năm sau ngày ông Mãn trở thành “anh hùng”, đài Tiếng nói Việt Nam
đưa tin: “Chuyện anh hùng "rởm" Hồ Xuân Mãn bị “lột” danh hiệu”. Bản tin
viết: “Có lẽ, nếu đi kèm danh hiệu được tôn vinh, không có các khuyến
khích vật chất hay các điều kiện mang lại lợi lộc khác (ví như kéo dài
tuổi công tác, thời gian tại vị…) thì chưa chắc người ta đã bất chấp
liêm sỉ như vậy? Có ai đó đã nói nhân dân tinh tường lắm, những người
một lòng vì nước vì dân thì dù không có huân chương đỏ ngực nhưng vẫn
được dân tin yêu, quí trọng, tôn thờ. Ngược lại, thì chỉ làm bia miệng
để người đời khinh bỉ” [1].
Có lẽ ngôn từ báo chí không thể tìm các từ ngữ nào nặng nề hơn so với
các từ mà VOV.VN đã dùng như “bất chấp liêm sỉ” hay “người đời khinh
bỉ”.
Đọc tin bài về ông Mãn, không hiểu sao người viết lại cảm thấy buồn buồn
khi nghĩ đến mảnh đất cố đô với những tà áo tím mộng mơ và giọng nói
nhẹ như sương sớm lan tỏa trên núi Ngự, sông Hương, dòng sông mà Tố Hữu
đã phải thốt lên: “trời trong veo, nước trong veo…”.
Vì sao mảnh đất hiền hòa với những con người rất đỗi dịu dàng, thanh
cao, với di tích cố đô được cả thế giới công nhận ấy lại có một người
con lạc lối như ông Hồ Xuân Mãn?
Chắc chắn mười năm ông Mãn ngự trên vị trí cao nhất của mảnh đất cố đô,
không ít người đã xem ông là hình mẫu lý tưởng cho con, cho cháu và cũng
cho chính bản thân mình noi theo? Phải chăng đó chính là nguyên nhân
khiến cho Thừa Thiên - Huế hôm nay lại được nhắc đến với sự cố mà hầu
hết người dân thường còn hiểu, chỉ một vài lãnh đạo cao nhất tỉnh này là
không hiểu?
Thông tin UBND tỉnh Thừa Thiên – Huế quyết định dừng dự án khu du lịch
nghỉ dưỡng quốc tế World Shine trên đèo Hải Vân với những giải thích của
ông Nguyễn Văn Cao, Chủ tịch UBND tỉnh khiến cho người ta cảm thấy có
cái gì đó thật khó chấp nhận.
Vị Chủ tịch này khẳng định, rằng Thừa Thiên - Huế đã làm đúng quy trình
và “đã thông qua Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh thẩm định dự án”, rằng “Nếu
như phân tích thì có những quy hoạch quốc phòng riêng, lâu nay phía tỉnh
cũng chưa rõ lắm, giờ nắm rõ rồi thì dừng thôi" [2].
Khi vụ việc bị truyền thông đặt vấn đề và dư luận xã hội chê trách thì
ông Cao vội đổ trách nhiệm cho cấp dưới: “Ban quản lý Khu kinh tế (KKT)
Chân Mây - Lăng Cô khi cấp phép đã qua Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh. Ai có ý
kiến với việc đó rồi thì phải chịu trách nhiệm".
Phụ họa với quan điểm của ông Cao, đại tá Trần Đình Phòng, Chỉ huy
trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thừa Thiên - Huế cho rằng "Quân khu V
nói đất cấp cho dự án thuộc đất quân sự cấp độ 1 là không phải. Cả đèo
Hải Vân là đất cấp độ 1 thì kinh tế phát triển kiểu gì? Có những cái cần
phục vụ quốc phòng nhưng cũng phải phát triển đất nước nữa" [3].
Nghe ông Chủ tịch Cao trao đổi với truyền thông người ta cứ ngỡ ông nói
về chuyện mua mớ rau, con cá chứ không phải chuyện 200 ha đất với hơn
5.000 tỷ đồng làm ăn với người Trung Quốc. Thật kỳ lạ, trên ông Cao còn
vị Bí thư nổi tiếng (giải nhì chơi golf sân 18 lỗ), dưới ông còn cả Bộ
đội, Công an, Tài nguyên Môi trường… vậy mà “lâu nay phía tỉnh cũng chưa
rõ lắm”. Thế thì các ông ngồi đó làm gì, sao các ông lại phủi tay cho
rằng “ai có ý kiến với việc đó rồi thì phải chịu trách nhiệm”? Làm đến
Chủ tịch một tỉnh mà về an ninh quốc gia lại nói rằng “tỉnh cũng chưa rõ
lắm”. Với phát ngôn như thế người dân nên hiểu thế nào về khả năng lãnh
đạo của vị chủ tịch này?
Có phải mấy vị lãnh đạo cao nhất tỉnh Thừa Thiên - Huế không được cấp
dưới báo cáo nên không biết tỉnh nhà có dự án trên đèo Hải Vân? Hay là
có biết nhưng vì các vị chưa “bút phê gà chết” nên không thể quy trách
nhiệm cho các vị? Còn với ông đại tá Phòng, liệu ông có thể chứng minh
dự án cho người Trung Quốc thuê trên đèo Hải Vân thực sự góp phần “phát
triển đất nước”?
Bốn năm sau khi ông Hồ Xuân Mãn về hưu, người ta thấy cái văn hóa “Xuân
Mãn” vẫn chưa thực sự hưu hẳn, vẫn lảng vảng trong lời ăn, tiếng nói,
việc làm của một “bộ phận không nhỏ” lãnh đạo Thừa Thiên - Huế hiện tại.
Có điều ông Mãn gian dối một cách thầm kín khi khai báo thành tích, đến
nỗi nghe nói các đồng đội cũ muốn tố cáo ông phải mất hai năm mới sưu
tầm được bản thành tích “anh hùng” mà ông khai báo, còn một số người kế
tục sự nghiệp của ông ở Thừa Thiên - Huế hiện nay một mặt thì công khai
khẳng định họ “làm đúng quy trình”, mặt khác lại ỡm ờ “ai có ý kiến với
việc đó rồi thì phải chịu trách nhiệm”. Vậy thì phải cùng nhau tìm xem
những ai là người phải chịu trách nhiệm?
Cổng thông tin điện tử UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế cho thấy, trong danh
mục “các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh”, Ban Quản lý khu kinh tế
Chân Mây-Lăng Cô là một đơn vị tương đương cấp sở. Ban Quản lý này đã
công bố 73 thủ tục cho các cá nhân, đơn vị đầu từ vào KKT Chân Mây-Lăng
Cô [4].
Là cấp dưới trực thuộc UBND tỉnh, ông Trưởng ban quản lý KKT Chân
Mây-Lăng Cô có dám tự mình ký kết hợp đồng với đối tác Trung Quốc mà
không thông qua Tỉnh ủy và UBND không? Điều này chắc chắn là không xảy
ra, vậy thì người phải chịu trách nhiệm chính cho việc phê duyệt dự án
phải là Bí thư tỉnh ủy, ông Nguyễn Ngọc Thiện và Chủ tịch UBND Thừa
Thiên-Huế ông Nguyễn Văn Cao chứ không phải ai khác.
Không dũng cảm nhận thiếu sót cũng là một biểu hiện của sự gian dối
giống ông Hồ Xuân Mãn, nhưng còn tệ hơn ông Mãn là có người đang định đổ
hết trách nhiệm cho cấp dưới của mình.
![]() |
Từ chuyện những người “kế tục sự nghiệp” của ông Mãn ở Thừa Thiên-Huế,
người ta có thể liên tưởng đến khá nhiều chuyện khác, chẳng hạn chuyện
người “kế tục dòng tộc” của ông Trần Văn Truyền.
Đại tá Đoàn Thế Tân, người phát ngôn Công an tỉnh Bến Tre cho biết, sắp
tới Công an tỉnh sẽ kiểm tra những vấn đề liên quan tới tài sản của Đại
uý Trần Hoàng Anh, cán bộ công an tỉnh, con trai ông Trần Văn Truyền.
Theo Vietnamnet.vn, vị đại úy này mới 33 tuổi, nghĩa là mới làm việc
được khoảng 10 năm nhưng đã có khối tài sản đáng giá hơn chục tỷ [5]. Sơ
sơ trừ tất cả chi phí sinh hoạt, mỗi năm vị đại úy này “tiết kiệm” được
khoảng một tỷ?
Nếu quả thật Công an Bến Tre sẽ kiểm tra tài sản của đại úy Trần Hoàng
Anh thì thế nào rồi cũng có lúc người ta sẽ nghĩ đến một gia đình cán bộ
khác ở tận ngoài Bắc. So về gia thế, hai ông bố đều có phẩm hàm tương
đương, sự khác nhau là một vị đã hưu còn một đương chức. Hậu duệ của hai
vị này tuổi cũng tương đương, đều ngoài 30, đều “dồn điền đổi thửa” tại
quê nhà, dinh thự của vị ngoài Bắc tuy đang xây dựng nhưng đã được
Vnexpress đánh giá là khoảng hơn 4 tỷ [6]. Ở Bắc sau khi ông bố bị UB
KTTƯ nhắc nhở phải “tự phê bình nghiêm túc” thì con trai từ lãnh đạo cấp
phòng trở thành lãnh đạo cấp sở, còn ở Nam không biết vị đại úy nọ sẽ
thế nào?
Cổ nhân nói “trong các tội bất hiếu, không có con nối dõi (mãn truyền)
là bất hiếu lớn nhất”. Câu chuyện “Mãn Truyền” nếu kết thúc ở đây thì
quả thật khó ăn khó nói với bàn dân thiên hạ. Còn nếu mà “Truyền tiếp”,
tỷ như bắt chước Bến Tre, tìm xem con ông Bí thư tỉnh nọ ngoài Bắc lấy
đâu lắm tiền mà “dồn điền đổi thửa”, mà xây dinh cơ khủng thì mới là nhà
có phúc, mới để lộc cho con, cho cháu mai sau.
Vào Nam, ra Bắc rồi thì cũng đến lúc phải quay lại khúc ruột miền Trung,
vậy thì cần đặt câu hỏi: “Thừa Thiên - Huế dừng dự án ai phải bồi
thường thiệt hại cho đối tác”? Làm ăn kinh tế đừng có mơ đến chuyện hữu
nghị láng giềng năm chữ bảy chữ, nhất là với những kẻ tham lam muốn nuốt
cả thiên hạ. Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng thì đã
rõ, vấn đề là chỉ rõ ai thiếu trách nhiệm gây hậu quả?
Chủ trương, đường lối phải do tỉnh ủy, đứng đầu là ông Nguyễn Ngọc Thiện
chỉ đạo, thực hiện phải do UBND đứng đầu là ông Nguyễn Văn Cao quyết,
đó là hai người chịu trách nhiệm chính, liên quan sẽ là các bộ phận như
Ban quản lý KKT Chân Mây-Lăng Cô, Sở Kế hoạch Đầu tư, Tỉnh đội Thừa
Thiên-Huế …
Không thể lấy tiền thuế của dân để trả giá cho sự thiếu trách nhiệm của
quan chức. Song song với việc kiểm điểm trách nhiệm, nếu có vi phạm cần
có biện pháp phong tỏa tài sản để nếu cần thì đấu giá lấy tiền mà đền.
Còn một việc khác cũng là việc cần làm ngay, ấy là đưa ngay những vị có
liên quan đến dự án trên đèo Hải Vân ra Bệnh viện hữu nghị Việt Xô kiểm
tra sức khỏe, tránh để sau này họ lại bị bệnh hiểm nghèo như ông Hồ Xuân
Mãn, rồi lại phải mất công phải truy tìm cái bệnh viện quốc tế miền
trung nào đó đã cấp cho họ cái chứng nhận “bệnh hiểm nghèo”!
Giọt mồ hôi của người dân ở đâu cũng mặn, với miền Trung nắng lửa, gió
lào lại càng mặn hơn nơi khác. Đó là một thực tế, chẳng phải văn hóa cao
siêu gì mới nhận thức được.
Tài liệu tham khảo:
[2] http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/thua-thien-hue-bat-ngo-dung-du-an-tren-deo-hai-van-3112674.html
X.D.
Tuesday, December 2, 2014
LÊ HẢI LĂNG * NGƯỜI VIỆT XẤU XÍ
Người nước CHXHCNVN xấu xí bởi vì đâu?
Lê Hải Lăng (Danlambao)
- Báo Thanh niên có ra một loạt bài Người Việt “xấu xí”. Mô tả những tệ
trạng chẳng hạn như ra nước ngoài ăn cắp vặt, thói hư tật xấu... Tại
sao người Việt XHCNVN hành động xấu xí? Trong phạm vi bài này người viết
xin mạn đàm một vài câu chuyện liên quan đến đề tài. Cái gốc gác nguyên
nhân gây ra hậu quả từ thế hệ này thế hệ khác phần tựu trung do nền
giáo dục học đường xã hội chủ nghĩa, phần bởi truyền nhiễm từ lối sống
cung cách cán bộ, quan chức bắt nguồn hạ tầng cơ sở tới trung ương. Đó
là chưa nói đến dây chuyền hành chánh đảng trị tạo mọi người mọi ngành
theo một cái khuôn thước xảo trá, bịp bợm.
Bao nhiêu cái hội, mặt trận, đoàn thể thanh niên... họp hành, vỗ tay đạt
chỉ tiêu do đảng đề ra làm con người trong cái lưới đảng giăng chỉ biết
khen ngợi phục tùng mệnh lệnh, chứ không có phát huy sáng kiến. Nếu có
thì cũng bị phê bình chỉ trích rồi dìm xuống.
Làm sao thắc mắc một khi mặt trận, hội, đoàn thể đảng đặt ra như là một
lố cánh tay nối dài phụ họa tô son vẽ phấn cho đảng. Ra ngõ thấy khẩu
hiệu giăng mắc khắp nơi “Đảng quang vinh muôn năm”, “Đời đời nhớ ơn bác, đảng”.
Rồi đi từ sai lầm này tới sai lầm khác, sửa, chỉnh đốn chạy lòng vòng
trong cái cối xay sâu mọt tàn tạ cốt lõi. Cái lừa lọc giả dối cả một hệ
thống chuyên chở một dòng sông 70 năm chảy quanh co không lối thoát.
Người đứng đầu nhà nước ra lệnh CCRĐ giết 172 ngàn người hơn cả đại dịch
rồi giở trò cầm khăn lau nước mắt. Nhà thơ Chế Lan Viên đã dối với lòng
mình cổ xúy người lính lao vào tuyến lửa để rồi cuối đời chua chát sám
hối:
“Mậu Thân hai ngàn người xuống đồng bằng.
Chỉ một đêm còn sống có ba mươi
Ai chịu trách nhiệm về cái chết hai ngàn người ấy
Tôi
Tôi người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình...”
Ông Trần Huy Liệu bán rẻ lương tâm khi vẽ ra theo trí tưởng tượng anh hùng Lê Văn Tám để chiêu dụ đồng bào xem đó mà làm gương chiêm ngưỡng. Ông Lê Duẫn lợi dụng xương máu nhân dân làm tay sai cho cộng sản quốc tế khi nói: “Ta đánh cho Liên Sô, cho Trung quốc”. Khi đất nước cai trị bằng thợ hoạn heo, thợ cạo mũ cao su, y tá vườn... dĩ nhiên người cũng như heo (lợn) chịu mất mạng lưỡi dao đồ tể. Cây cối, rừng núi phải tiêu tùng trong bàn tay gã tiều phu vụng về chặt phá, đồng thời đem đi bán ngoại bang kiếm tiền bỏ túi. Người chưa mang bệnh trầm trọng bị chích thuốc lại càng tê liệt tế bào xương tủy bởi bàn tay thợ chích bất xứng ngu đần.
Khi cả thế giới ghê tởm lên án tội ác cộng sản diệt chủng, đã đạp đổ
tượng đài lãnh tụ thì ở cái xứ “đỉnh cao trí tuệ” từ chóp bu đảng trưởng
tới hội viên tập đoàn xã hội đen kiên cố cầm cái liềm và cái búa của
thời đồ đểu độc ác tàn bạo phi nhân rồi định hướng chuyện mộng mị XHCN,
bắt 90 triệu dân lẹt đẹt chạy theo hụt hơi mà không thấy mặt trời giữa
ban ngày. Với sự tuyên truyền lấy giả dối làm sự thật, thanh thiếu niên
lớn lên bị nhồi sọ tẩy não thì chính họ bị nhập tâm rồi bắt chước “kiểu
đảng” trong sinh hoạt thực tại cuộc đời. Họ nghe đài báo hôm nay hạ một
trăm máy bay địch, ngày mai bộ đội ta giết hàng ngàn tên lính đánh thuê.
Trong lúc họ ra nghĩa trang nhìn ngổn ngang mộ địa phe ta. Thấy đảng
phịa ra cái gì ai cũng phải bắt buộc răm rắp nghe theo. Riết rồi họ bắt
chước thói quen của kẻ cai trị là “lừa lọc, gian xảo, hiểm ác, mưu mô,
quỷ quyệt...”. Trong dân gian có câu nói: “Mất mùa là tại thiên tai. Được mùa là tại thiên tài đảng ta”
đảng đưa dân vào ngỏ bí ăn bo bo sống qua ngày đảng chụp cái mũ tại vì
chiến tranh để lại. Đảng tiếp tay cho nhau tham nhũng gây kinh tế kiệt
quệ dây chuyền. Ai đứng lên góp ý phê phán sách lược đảng vu khống “tay
sai phản động”.
TT Dũng đã nói: “Tôi chưa bao giờ kỷ luật ai”. Lời tuyên bố chứng
minh ông đã trắng trợn bao che cho bao nhiêu kẻ dưới quyền lợi dụng
chức vụ lạm dụng quyền hành đua nhau làm giàu trên xương máu nhân dân.
TBT Trọng phát biểu: “Không thể chống tham nhũng, vì chống tham nhũng triệt để sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn vong của đảng và chế độ.”
Ông đã lộ rõ cái bản chất độc đoán kiêu căng coi rẽ sự sống còn dân tộc
dưới trướng đảng. Ông cũng đã xảo ngôn đánh lừa dư luận khi cái giàn
khoan HD981 cắm cọc ông tuyên bố: “Tình hình biển Đông không có gì là mới”. Lúc Mỹ ra Nghị quyết và vì nhiều lý do làm Trung cộng tạm dời HD981 đi, ông Trọng mang thêm cái tội cướp công khi nói: “Chúng ta dã giành được thắng lợi lớn”.
CT Sang đi thăm ngư dân Đà Nẵng nhấn mạnh: “Bà con ngư dân chúng ta rất dũng cảm... bám biển để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng”.
Xúi dục dân tay không vào chỗ bị hải tặc (mà ĐT Phùng Quang Thanh gọi
là bạn tri kỷ) để đương đầu với bắt đói tiền chuộc cướp, giết, đánh tàu
chìm... trong lúc công an quân đội rảnh tay mang súng đi cướp đất Đầm
Vươn, Văn Giang, Dương Nội... và tạo ra trò chơi “tự phát” để bắt người
biểu tình chống bành trướng Trung cộng là Bùi Thị Minh Hằng với trò vu
khống 2 xe đi hàng ba gây rối công cộng.
Khi thành phố Hà Nội ngập lụt lại bị Bí thư thành ủy đổ tội “Tại người dân không chịu lo”. Quan làm việc lớn dành thì giờ sắp xếp đo đạc đất đai để nuôi cái hầu bao không đáy, không có thì giờ lo lắng cho dân là thế.
Từ lời nói cho tới hành vi của những người cai trị không có một chút
trách nhiệm tối thiểu. Họ tự soi mặt trong gương chắc phải thấy hiện
nguyên hình “xấu xí”. Họ há miệng ra chống tham nhũng họ thấy rõ mồn một
hai hàm răng tham lam chính mình. Họ lên án mông lung “thế lực thù địch
nhân dân” nhưng chính họ đi đêm dâng biển bán đất cho giặc. Họ ca tụng
tự do bằng luật rừng và còng số 8. Họ mạo danh dân chủ rồi kết tội ai
kêu gào dân chủ. Họ bàn luận nhân quyền rồi tha hồ bắt người bỏ tù thả
ra từng đợt để trao đổi lợi lộc. Thế thì khó mà trách cứ vì đâu kinh tế
xuống tận đáy vực sâu. Vì đâu mất đất biên giới, vịnh Bắc bộ, Hoàng Sa
Trường Sa, rừng đầu nguồn, bô xít Tây Nguyên, đất ở Trà Vinh, Huế, Đà
Nẵng, Hà Tĩnh... Không thể lấp liếm đỗ thừa cho hậu quả chiến tranh nữa
rồi. Cái màn đe dọa, khủng bố, thủ tiêu ăn sâu vào tạng phủ cán bộ, cho
nên không lạ gì hàng ngày người dân chết trong đồn công an.
Buồn lây phi công chiêu đãi viên vận chuyển hàng ăn cắp để lên mặt báo
từ Nhật. Buồn khi biết người du lịch, du sinh ra nước ngoài giữ thói ăn
cắp, gạt gẫm, không trọng nhân cách. Buồn làm ngoại giao bên Phi Châu
buôn lậu đầy xe sừng tê giác,. Buồn những chuyến bay trong nước có người
đã ăn cắp áo phao dùng cứu khi hoạn nạn. Buồn máy bay dừng chưa đủ an
toàn có người vội vàng mở cửa thoát hiểm để đi ra trước. Buồn cho số
phận 118 cô gái chịu cực hình cởi truồng cho các ông già ngoại quốc xem
để quyết định chọn vợ.
Thật là tủi hổ khi cả bộ chính trị, cả cái nhà nước, cả cái quốc hội
nghiễm nhiên nhìn bà mẹ dân oan chết đói chết bệnh trước vườn hoa Mai
Xuân Thưởng. Thật là đau lòng ngắm TBT Lê Khả Phiêu có ngà voi trong nhà
khi có người nôm voi tới đầu sông rồi đu giây đi học. Thật là xót xa dạ
bào khi CT Bình Dương ở nhà riêng hàng trăm tỉ trong lúc có người vợ tự
tử để chống có cơ hội xin cái sổ nghèo nuôi con. Thật là não nề nhìn
cha con dòng họ nhà Thủ Dũng dẫm bước trên vàng, trên lớp lớp giấy đô la
trong lúc có kẻ sống trên nước bãi giữa dưới cầu Long Biên. Buồn ơi là
buồn nhìn người đàn bà khiếu kiện bao nhiêu năm trắng tay đành đoạn cởi
truồng la làng trước sở thanh tra. Gom những cái buồn người nhà nước
CHXHCNVN này lại ta đặt câu hỏi tại đâu sinh ra những hình ảnh “xấu xí”
như thế.
Không lạ gì khi 800 tờ báo một ông cai quản, bí đề tài thì xoay qua săn
tin trộm cướp, giết người, tai nạn xe cộ lưu thông, tình địch quan lớn
quan nhỏ, chân dài chân ngắn từng giờ từng phút. Những chuyện thế này
xảy ra cũng nhờ Tố Hữu đã đem vào học đường: “Giết, giết nữa đi bàn tay không kịp nghĩ”.
40 ngàn cái đầu phô bày xã hội loạn lạc đâm chém giành giật này nọ thế
kia. Ai vượt ra ngoài sợ hãi bị trù dập đóng cửa, treo giò hành nghề.
Viết bài yêu quê hương “tản mạn đảo xa” bị sập tiệm cửa đóng then gài,
đành ca bài yêu nước là yêu Trung cộng để được sống còn đi làm chui báo
khác nuôi thân.
Chuyện đời đôi khi bần cùng sinh đạo tặc. Báo chí bị dồn vào chân tường
chọn sống hay chết. Sống thì bắt buộc phải cầm bút làm họa sĩ tô vẽ theo
quy luật của một Tổng biên tập. Phải đành đoạn nhìn từng tập đoàn sâu
đua nhau đục khoét công quỹ. Phải khoanh tay làm kẻ bàng quan ngắm nhìn
cán bộ, quan quyền cướp đất nông dân giữa thanh thiên bạch nhật mà không
dám đưa tin một hàng chữ lên mặt báo. Nhìn mặt nhau đua nhau viết về
thị hiếu để câu khách như chuyện án mạng ngũ rồi giết tinh nhân trong
nhà nghỉ. Chuyện giết người rồi đốt phi tang. Chuyện kẻ dùng vật nhọn
đâm vô chỗ kín con gái. Chuyện chân dài Hoàng Hải Yến bán dâm đại gia.
Kiều Trinh thế này, Công Phượng thế kia, Đàm Vĩnh Hưng chiếc xe dát
vàng. Tố tham nhũng thì bị gài bẫy đi tù. Đụng chạm tới biển đảo thì bị
công an đòi lên làm việc. Viết hay nói lên những sai lầm của quan đỏ nhà
nước thì quy tội chống phá lật đổ, phá hoại đoàn kết. Nhưng nhà đảng
lại dùng những tay bồi bút chuyên nghiệp trong các tờ báo lớn của đảng
đi bày chuyện hạ nhục những thành phần trí thức góp tiếng nói phản biện.
Núp bóng tối đảng quyền để bôi nhọ đánh lén.
Cái bệnh tuyên truyền cố hửu nói láo cho bằng được để củng cố quyền hành
của băng đảng độc tài cai trị. Vô hình chung đưa con thuyền đất nước
chìm dần vào hố thẳm từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...
Không lạ gì sau Tháng Tư 75 một số người Bắc vô thăm bà con trong Nam
đem theo chén và đũa để tặng. Tội nghiệp cho họ là đảng giáo dục họ “kềm
kẹp” thế nào thì họ nghe theo thế. Tôi có dịp lên ngồi trong chiếc máy
bay tại Hà Nội để đi Huế. Hành khách lên máy bay ngồi đã lâu trời lại
nóng. Ai nấy lại lấy tay phẩy quạt. Tôi hỏi một nhân viên đồng phục của
hảng con rồng lộn: “Này em sao phi cơ không nổ máy mở máy lạnh?” Thay vì
nói một câu mát lòng dễ nghe anh ta trả lời đốp chát: “Đ.M người ta sợ
hao xăng không biết à?”.
Một lần tôi đi xe đò từ Đồng Xoài về bến Hàng Xanh, Thị Nghè. Tôi ngồi
băng sau tài xế. Bất ngờ anh lơ xe tới vỗ vai tôi nói: “Đưa mượn cái xắt
chận trước kiếng để công an không thấy phía trước ngồi hai người”. Tôi
chưa kịp đồng ý hay không, anh ta giật cái xắt rồi ngang nhiên đem lên
chấn phía trong cửa kiếng. Tôi nhìn lui thấy mấy hàng ghế trống. Tôi
nói: “Ở phía sau dư chỗ sao không bảo ông khách đó lui sau ngồi”. Anh ta
nói: “Đ. M mượn một chút xíu mà làm khó dễ”.
Đường xa ngủ gà ngủ gật tôi và người em trong gia đình tới gần bến xe đỗ
bánh mới phát giác ra cái xách không cánh mà bay. Tôi vặn hỏi ông tài
xế. Ông ta trả lời gọn lõn: “Đ.M xe dừng cho công an kiểm soát bao nhiêu
trạm, mấy đứa bán hàng rong leo cửa giật rồi đi tìm chúng nó mà hỏi”.
Tôi biết tôi bị cướp cạn dàn cảnh. Khi năm ba người phu xích lô tới
giành giật kéo tay tôi đi xe của họ. Tôi nhớ lại những ngày có chính
sách ngăn sông cấm chợ, dựng nên nhiều trạm kiểm soát bao nhiêu tài xế
con buôn dùng đủ mọi mánh khóe để qua mặt thủ đoạn ác độc thâu lượm hết
hàng hóa hơn bỏ sót của cán bộ, công an. Tôi không buồn bị mất cắp mà
tôi vui nữa là khác. Vì nhờ ở trong tăm tối mới sáng mắt thấy cái nhà
nước XHCNVN xấu xí gây ra đại họa mà tìm cách chống lại nó. Khi người
rừng làm luật xấu xí rừng xanh, người rừng ngồi xử án xấu xí thì cái mặt
anh hề Công Lý càng nở nụ cười tươi vui cùng với nụ cười bí hiểm trên
đôi môi đỏ ngầu máu thắm của người rừng xấu xí cai trị. Người nước
CHXHCNVN xấu xí cả thân xác lẫn tinh thần. Vì có tự do dân chủ đâu mà
đạp đổ cái xấu dựng nên cái toàn bích hoàn hảo cho được.
Tháng 12, 2014
|
Monday, December 1, 2014
HUY PHƯƠNG * TẠI BỞI VÌ...
'Tại, bởi, vì, do...'
Tạp ghi Huy Phương
“Toét mắt là tại hướng đình.
Cả làng cùng toét đâu mình riêng em!”
Cả
làng chúng nó ăn dơ, ở dáy, rửa mặt bằng cái nước cống chảy ra từ
những đống phân, mà cứ đổ riệt cho nguyên nhân mắt toét là tại cái đình
làng, xây không đúng hướng theo phong thủy nên mới ra cớ sự “cả làng
cùng toét” này.
Bà Nguyễn Thị Kim Tiến, đương kim bộ
trưởng Bộ Y Tế CSVN, chính là loại “toét mắt” này. Vào bốn tháng đầu năm
nay (2014) tại Việt Nam, hơn 7,000 trường hợp trẻ em mắc bệnh sởi,
trong đó 108 trẻ em đã thiệt mạng; trong số này, có bốn em chết ngay
sau khi chích ngừa. Bệnh sởi không phải là một bệnh hiểm nghèo và thuốc
chủng bệnh này không phải là một thứ thuốc chưa được ai phát minh.
Vậy thì lỗi tại ai? Xin nghe nhân vật “mắt toét” đứng đầu Bộ Y Tế giải thích: Tại, bởi, vì, do:
- Tại dân không chịu chích thuốc ngừa (đổ cho tại tuyên truyền, vận động kém).
- Bởi bệnh viện quá tải (thiếu ngân sách, nhưng không thiếu tiền xây khu dưỡng nghỉ, xây khu ăn chơi, xây nhà cố tổ).
- Vì thiếu vệ sinh, khiến lây lan trong dân chúng.
- Do ông trời, là cấp lãnh đạo thời tiết. Theo sách vở thì nguyên nhân mắc bệnh sởi là do thời tiết chuyển mùa, khí hậu thay đổi thất thường, tạo điều kiện cho virus bệnh sởi phát triển.
Đúng là “không phải tại chúng mình,” như tên một bài hát cũ, không phải tại anh, cũng không phải tại em, mà tại ông trời!
Cùng với những bê bối tệ hại trong ngành y tế, dư luận đòi hỏi người đứng đầu ngành có trách nhiệm phải từ chức, chỉ trong ba ngày, các blogger và Facebooker nhận được hơn 5,198 chữ ký đòi bộ trưởng Y Tế từ chức, nhưng bà cho rằng mình không thể từ chức trong lúc đang phải giành giật sự sống cho các em.
Loại “mắt toét’ như bộ trưởng Y Tế hiện nay có rất nhiều ở Việt Nam, vụ nổi tiếng và buồn cười nhất là vụ cầu treo ở Lai Châu. Đáng lẽ giám đốc công trình xây cầu treo vùng cao Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu, khi đứt dây cáp làm ít nhất tám người chết, khoảng 30 người bị thương nặng, phải đem ra tử hình, thì Thiếu Tướng Trần Duân, giám đốc công an tỉnh Lai Châu, bỗng dưng nhảy ra cứu chúa, cho rằng nguyên nhân gây sập cầu treo là “tại, bởi, vì, do” quá tải khi “đoàn người đưa tang cùng đi trên cầu vì người Mông khi khiêng quan tài thường đi rất nhanh.”
Trong địa hạt văn hóa, trong tình hình sách lậu, sao chép, dốt nát như cuốn “Tự Điển Tiếng Việt,” thì bà Mai Thị Hương, trưởng phòng Quản Lý Xuất Bản của Cục Xuất Bản, cho biết mỗi năm cục tiếp nhận từ 28,000 tới 30,000 đầu sách phát hành, đó là chưa kể các xuất bản phẩm văn hóa, nên “tại, bởi, vì, do” Phòng Quản Lý Xuất Bản chỉ có 10 người, mà làm nhiều việc nên không thể đọc kiểm duyệt hết các cuốn sách có trên thị trường.
Một Hương “mắt toét” khác là Lan Hương, nhà xuất bản Lao Động, trong vụ “hề Công Lý mặc quần lót” thì đổ tội cho “tại, bởi, vì, do” cái tên phụ trách vẽ bìa vô danh nào đó tắc trách, chỉ đơn giản tìm kiếm hình trên Internet, chỉ nhận ra cái “cán cân công lý” mà “không nhận ra tấm hình ghép ảnh diễn viên Công Lý nên dẫn đến sai phạm như đã thấy.” Bà này còn bào chữa thêm “một vài đại lý kiểm hàng không kỹ nên có sót một ít,” thật ra người đại lý kiểm hàng chỉ nhận cho đủ số để bán thu tiền, còn bầy đoàn của nhà xuất bản Lao Động đều có mắt như mù.
Phía “mắt toét” bên kinh tế thì cho rằng, suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động mạnh mẽ tới Việt Nam đặc biệt từ 2008 đến nay, mặc dù đã triển khai nhiều chính sách ứng phó nhưng kinh tế Việt Nam tiếp tục gặp khó khăn, lạm phát cao, nhập siêu, lãi suất cao gây khó khăn cho doanh nghiệp, tỷ giá chưa ổn định, dự trữ ngoại hối còn mỏng... “tại, bởi, vì, do” “khủng hoảng nợ công bên Châu Âu!”
Đập thủy điện Đăk Mek 3 ở Kon Tum bị vỡ một khoảng lớn, chỉ vì một chiếc xe ben đụng! Người ta tìm thấy thân đập thủy điện chỉ được xây bằng toàn đất, cát, đá và cốt sắt mong manh chỉ bằng chiếc đũa!
“Mắt toét” Sở Xây Dựng Kon Tum đổ lỗi cho “việc thi công đập của nhà đầu tư khác với hồ sơ thiết kế của đơn vị tư vấn. Tại thời điểm hiện nay, đơn vị tư vấn cũng chưa được chủ đầu tư trả lời chính thức về việc thi công theo hồ sơ thiết kế nào!” Với các quy định cũng như nghị định do chính phủ ban hành hiện hành cho việc xây dựng các công trình “xây đập thủy điện vừa hay nhỏ cũng như xây nhà,” chủ đầu tư có quyền chỉ định đơn vị tư vấn, giám sát, thi công; đơn vị nhà nước không có quyền tham gia.
Nếu đập thủy điện vỡ, chết dân, thì nhà nước, tức chính phủ, tức đảng xin...đứng ngoài cuộc.
Ông Đinh La Thăng, bộ trưởng Giao Thông Vận Tải, khi biện minh cho những yếu kém, tắc trách của ngành giao thông, đã đưa ví dụ ngay nhà máy Toyota rất hiện đại cũng có lúc phải thu hồi hàng triệu xe. Ông không biết rằng vì tôn trọng quyền lợi của khách hàng và nhận sai sót của mình, mỗi lần thu hồi xe để sửa chữa, hãng sản xuất xe phải tốn kém hàng tỷ bạc. Gặp trường hợp này liệu các loại “mắt toét” của ông có dám làm không, hay “lẫn như trạch” hát bài “tại, bởi, vì, do” và cuối cùng là phủi tay, chấm hết, ai chết mặc ai.
Đường hầm rỉ nước, xa lộ mới khánh thành đã lún thấp, cầu xe qua cán bể lòi ra “xi măng cốt tre,” công trình xây dựng trên cao để vật liệu rơi xuống đè chết dân, đầy tớ nhân dân không cần trách nhiệm. Họ sống bằng “chi phí bôi trơn,” có làm có ăn chứ không phải vì lương tâm trách nhiệm!
Ông John Isbell, cộng tác viên cao cấp của Cambridge Systematics, một nhà cung cấp dịch vụ quốc tế, cho rằng, “Tham nhũng là một trong những nguyên nhân chính cản trở sự phát triển của ngành vận tải Việt Nam.” Hiện nay chi phí “bôi trơn” của ngành này là 8%, cao gấp hai lần Ấn Độ.
Cứ tưởng tượng, chi phí đầu tư cho phi trường Long Thành khoảng $8 tỷ thì “chi phí bôi trơn” là bao nhiêu? Con số là $648 triệu sẽ vào túi ai?
Người ta nhận địa vị, bổng lộc, ân huệ của phe đảng, nhưng trách nhiệm đối với dân, với quê hương, tương lai của đất nước là không, kiểu “sống chế mặc bây, tiền thầy bỏ túi!” Bản chất đổ trách nhiệm cho người khác trong chế độ này không gì rõ bằng câu thơ của Bút Tre: “Mất mùa là tại thiên tai, được mùa là bởi thiên tài đảng ta.”
Ngay như thực trạng về sự suy thoái đạo đức của Việt Nam hiện nay, người ta cũng nêu lý do “tại, bởi, vì, do:” “Nước ta chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn hóa phương Tây, tiếp cận với nền kinh tế thị trường nên sẽ có nhiều mặt tiêu cực tác động đến đạo đức, tư duy và lối sống của nhân dân.” Vậy thì các nước phương Tây này chắc phải suy thoái đạo đức, thối tha gấp nghìn lần Việt Nam.Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội hỗn loạn, vô đạo đức, băng hoại, suy đồi, tham nhũng, trộm cắp, mại dâm, giết người, xì ke ma túy... đáng lẽ những người lãnh đạo hôm nay phải nhận trách nhiệm về đảng khi không còn có thể, sau 40 năm, đổ cho “tại, bởi, vì, do” tàn dư của Mỹ Ngụy nữa, thì một loại “mắt toét cao cấp” là Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đổ tội cho một cái đình khác, đó là: “Các thế lực thù địch, phản động chưa hề từ bỏ âm mưu, hoạt động chống phá Việt Nam; ráo riết thực hiện 'diễn biến hòa bình,' hội nhập quốc tế để tác động, chuyển hóa nội bộ, hỗ trợ, kích động chống phá gây mất ổn định chính trị, xã hội.”
Vậy thì lỗi tại ai? Xin nghe nhân vật “mắt toét” đứng đầu Bộ Y Tế giải thích: Tại, bởi, vì, do:
- Tại dân không chịu chích thuốc ngừa (đổ cho tại tuyên truyền, vận động kém).
- Bởi bệnh viện quá tải (thiếu ngân sách, nhưng không thiếu tiền xây khu dưỡng nghỉ, xây khu ăn chơi, xây nhà cố tổ).
- Vì thiếu vệ sinh, khiến lây lan trong dân chúng.
- Do ông trời, là cấp lãnh đạo thời tiết. Theo sách vở thì nguyên nhân mắc bệnh sởi là do thời tiết chuyển mùa, khí hậu thay đổi thất thường, tạo điều kiện cho virus bệnh sởi phát triển.
Đúng là “không phải tại chúng mình,” như tên một bài hát cũ, không phải tại anh, cũng không phải tại em, mà tại ông trời!
Cùng với những bê bối tệ hại trong ngành y tế, dư luận đòi hỏi người đứng đầu ngành có trách nhiệm phải từ chức, chỉ trong ba ngày, các blogger và Facebooker nhận được hơn 5,198 chữ ký đòi bộ trưởng Y Tế từ chức, nhưng bà cho rằng mình không thể từ chức trong lúc đang phải giành giật sự sống cho các em.
Loại “mắt toét’ như bộ trưởng Y Tế hiện nay có rất nhiều ở Việt Nam, vụ nổi tiếng và buồn cười nhất là vụ cầu treo ở Lai Châu. Đáng lẽ giám đốc công trình xây cầu treo vùng cao Sơn Bình, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu, khi đứt dây cáp làm ít nhất tám người chết, khoảng 30 người bị thương nặng, phải đem ra tử hình, thì Thiếu Tướng Trần Duân, giám đốc công an tỉnh Lai Châu, bỗng dưng nhảy ra cứu chúa, cho rằng nguyên nhân gây sập cầu treo là “tại, bởi, vì, do” quá tải khi “đoàn người đưa tang cùng đi trên cầu vì người Mông khi khiêng quan tài thường đi rất nhanh.”
Trong địa hạt văn hóa, trong tình hình sách lậu, sao chép, dốt nát như cuốn “Tự Điển Tiếng Việt,” thì bà Mai Thị Hương, trưởng phòng Quản Lý Xuất Bản của Cục Xuất Bản, cho biết mỗi năm cục tiếp nhận từ 28,000 tới 30,000 đầu sách phát hành, đó là chưa kể các xuất bản phẩm văn hóa, nên “tại, bởi, vì, do” Phòng Quản Lý Xuất Bản chỉ có 10 người, mà làm nhiều việc nên không thể đọc kiểm duyệt hết các cuốn sách có trên thị trường.
Một Hương “mắt toét” khác là Lan Hương, nhà xuất bản Lao Động, trong vụ “hề Công Lý mặc quần lót” thì đổ tội cho “tại, bởi, vì, do” cái tên phụ trách vẽ bìa vô danh nào đó tắc trách, chỉ đơn giản tìm kiếm hình trên Internet, chỉ nhận ra cái “cán cân công lý” mà “không nhận ra tấm hình ghép ảnh diễn viên Công Lý nên dẫn đến sai phạm như đã thấy.” Bà này còn bào chữa thêm “một vài đại lý kiểm hàng không kỹ nên có sót một ít,” thật ra người đại lý kiểm hàng chỉ nhận cho đủ số để bán thu tiền, còn bầy đoàn của nhà xuất bản Lao Động đều có mắt như mù.
Phía “mắt toét” bên kinh tế thì cho rằng, suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động mạnh mẽ tới Việt Nam đặc biệt từ 2008 đến nay, mặc dù đã triển khai nhiều chính sách ứng phó nhưng kinh tế Việt Nam tiếp tục gặp khó khăn, lạm phát cao, nhập siêu, lãi suất cao gây khó khăn cho doanh nghiệp, tỷ giá chưa ổn định, dự trữ ngoại hối còn mỏng... “tại, bởi, vì, do” “khủng hoảng nợ công bên Châu Âu!”
Đập thủy điện Đăk Mek 3 ở Kon Tum bị vỡ một khoảng lớn, chỉ vì một chiếc xe ben đụng! Người ta tìm thấy thân đập thủy điện chỉ được xây bằng toàn đất, cát, đá và cốt sắt mong manh chỉ bằng chiếc đũa!
“Mắt toét” Sở Xây Dựng Kon Tum đổ lỗi cho “việc thi công đập của nhà đầu tư khác với hồ sơ thiết kế của đơn vị tư vấn. Tại thời điểm hiện nay, đơn vị tư vấn cũng chưa được chủ đầu tư trả lời chính thức về việc thi công theo hồ sơ thiết kế nào!” Với các quy định cũng như nghị định do chính phủ ban hành hiện hành cho việc xây dựng các công trình “xây đập thủy điện vừa hay nhỏ cũng như xây nhà,” chủ đầu tư có quyền chỉ định đơn vị tư vấn, giám sát, thi công; đơn vị nhà nước không có quyền tham gia.
Nếu đập thủy điện vỡ, chết dân, thì nhà nước, tức chính phủ, tức đảng xin...đứng ngoài cuộc.
Ông Đinh La Thăng, bộ trưởng Giao Thông Vận Tải, khi biện minh cho những yếu kém, tắc trách của ngành giao thông, đã đưa ví dụ ngay nhà máy Toyota rất hiện đại cũng có lúc phải thu hồi hàng triệu xe. Ông không biết rằng vì tôn trọng quyền lợi của khách hàng và nhận sai sót của mình, mỗi lần thu hồi xe để sửa chữa, hãng sản xuất xe phải tốn kém hàng tỷ bạc. Gặp trường hợp này liệu các loại “mắt toét” của ông có dám làm không, hay “lẫn như trạch” hát bài “tại, bởi, vì, do” và cuối cùng là phủi tay, chấm hết, ai chết mặc ai.
Đường hầm rỉ nước, xa lộ mới khánh thành đã lún thấp, cầu xe qua cán bể lòi ra “xi măng cốt tre,” công trình xây dựng trên cao để vật liệu rơi xuống đè chết dân, đầy tớ nhân dân không cần trách nhiệm. Họ sống bằng “chi phí bôi trơn,” có làm có ăn chứ không phải vì lương tâm trách nhiệm!
Ông John Isbell, cộng tác viên cao cấp của Cambridge Systematics, một nhà cung cấp dịch vụ quốc tế, cho rằng, “Tham nhũng là một trong những nguyên nhân chính cản trở sự phát triển của ngành vận tải Việt Nam.” Hiện nay chi phí “bôi trơn” của ngành này là 8%, cao gấp hai lần Ấn Độ.
Cứ tưởng tượng, chi phí đầu tư cho phi trường Long Thành khoảng $8 tỷ thì “chi phí bôi trơn” là bao nhiêu? Con số là $648 triệu sẽ vào túi ai?
Người ta nhận địa vị, bổng lộc, ân huệ của phe đảng, nhưng trách nhiệm đối với dân, với quê hương, tương lai của đất nước là không, kiểu “sống chế mặc bây, tiền thầy bỏ túi!” Bản chất đổ trách nhiệm cho người khác trong chế độ này không gì rõ bằng câu thơ của Bút Tre: “Mất mùa là tại thiên tai, được mùa là bởi thiên tài đảng ta.”
Ngay như thực trạng về sự suy thoái đạo đức của Việt Nam hiện nay, người ta cũng nêu lý do “tại, bởi, vì, do:” “Nước ta chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn hóa phương Tây, tiếp cận với nền kinh tế thị trường nên sẽ có nhiều mặt tiêu cực tác động đến đạo đức, tư duy và lối sống của nhân dân.” Vậy thì các nước phương Tây này chắc phải suy thoái đạo đức, thối tha gấp nghìn lần Việt Nam.Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội hỗn loạn, vô đạo đức, băng hoại, suy đồi, tham nhũng, trộm cắp, mại dâm, giết người, xì ke ma túy... đáng lẽ những người lãnh đạo hôm nay phải nhận trách nhiệm về đảng khi không còn có thể, sau 40 năm, đổ cho “tại, bởi, vì, do” tàn dư của Mỹ Ngụy nữa, thì một loại “mắt toét cao cấp” là Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đổ tội cho một cái đình khác, đó là: “Các thế lực thù địch, phản động chưa hề từ bỏ âm mưu, hoạt động chống phá Việt Nam; ráo riết thực hiện 'diễn biến hòa bình,' hội nhập quốc tế để tác động, chuyển hóa nội bộ, hỗ trợ, kích động chống phá gây mất ổn định chính trị, xã hội.”
Bây giờ không phải “cả làng cùng toét”
mà là cả nước “toét mắt.” Chắc phải xoay “hướng Ba Đình” đi thôi. Xoay
không được thì đập bỏ nó đi. Và bây giờ chúng ta phải hiểu “tại, bởi,
vì, do” ở đâu, ở cái số phận nghiệt ngã của đất nước Việt Nam phải chịu
nạn suốt hơn nửa thế kỷ này với bao nhiêu chết chóc, lầm than và bây
giờ là băng hoại, vô đạo, bất nhân.
Không có can đảm chỉ mặt, đặt tên,
không có can đảm cắt đi cái khối ung nhọt đó, thì không thể nào khá lên
cho bằng chị, bằng em được.
Sunday, November 30, 2014
GS. LÊ HỒNG THỌ
GS Hồng Lê Thọ bị bắt với cáo buộc "tuyên truyền chống chế độ"
Giáo sư Hồng Lê Thọ, chủ nhân trang blog Người Lót Gạch, một trí thức
kiều bào về nước, vừa bị bắt giam vào khuya ngày 29 tháng 11 theo điều
258 Bộ Luật hình sự Việt Nam. Đây là trường hợp mới nhất tại Việt Nam bị
bắt theo điều luật mà lâu nay bị lên án là mơ hồ nhằm trấn áp các tiếng
nói phản biện trong nước.
Người ‘thoát Trung’ mạnh mẽ
Tin tức về việc ‘bắt quả tang’, rồi ‘khám xét nhà khẩn cấp’ và ‘bắt
giam’ giáo sư Hồng Lê Thọ, chủ nhân trang blog Người Lót Gạch được blog
nguyentandung loan đi sớm nhất.
Cổng thông tin của Bộ Công An có thông tin tương tự như trên trang blog
nguyentandung. Theo đó cơ quan an ninh điều tra Thành phố Hồ Chí Minh
theo tin tố cáo của quần chúng đã tiến hành biện pháp nghiệp vụ của họ
đối với ông Hồng Lê Thọ, sinh năm 1949, hiện ngụ tại số 32 Cửu Long,
phường 15, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
Cơ quan điều tra cho rằng ông Hồng Lê Thọ cho đăng trên mạng các bài
viết với nội dung mà cơ quan này cho là ‘có nội dung xấu, thông tin sai
lệch, làm giảm uy tín, mất lòng tin trong nhân dân với cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội, công dân theo điều 258 Bộ luật hình sự’.
Theo tôi tựu trung lại anh là người có quan điểm rất ôn hòa về chính trị. Không bao giờ có chuyện nói anh vi phạm điều 258, chuyện lợi dụng cái này, lợi dụng cái kia hay vấn đề dân chủ để lật đổ chế độ hay tuyên truyền chống phá chế độ. Thậm chí khi nói chuyện với tôi anh phê phán thẳng một số quan điểm cực đoan
Nhà báo Phạm Chí Dũng
Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, một người biết rõ về giáo sư Hồng Lê Thọ,
cho biết những nhận xét của bản thân đối với người vừa bị bắt như sau:
Tôi đã quen biết anh Thọ nhiều năm nay và tôi rất có tình cảm với anh
Thọ. Tôi cho đó là một người trí thức có tinh thần dân tộc cao, một
trong những người đưa ra đường lối ‘thoát Trung’ mạnh mẽ nhất, tách bạch
và có chiều sâu nhất. Anh Thọ là một Việt Kiều Nhật, anh rành cả tiếng
Pháp và tiếng Anh, trang Người Lót Gạch của anh có thể nói gần như là
trang duy nhất ở Việt Nam điểm tin bằng tiếng Pháp và tiếng Anh, cung
cấp lượng thông tin bổ ích cho độc giả. Anh cũng là người có kiến thức
sâu trong khá nhiều lĩnh vực và có quan hệ với nhóm Việt Studies ở Hoa
Kỳ và một số nước Phương Tây.
Theo tôi tựu trung lại anh là người có quan điểm rất ôn hòa về chính
trị. Không bao giờ có chuyện nói anh vi phạm điều 258, chuyện lợi dụng
cái này, lợi dụng cái kia hay vấn đề dân chủ để lật đổ chế độ hay tuyên
truyền chống phá chế độ. Thậm chí khi nói chuyện với tôi anh phê phán
thẳng một số quan điểm cực đoan; nhưng tôi không biết Nhà nước này bắt
anh để làm gì?Nếu không vì một lý do gì đặc biệt và ẩn giấu, người ta
phải công khai tất cả mọi chuyện, minh bạch hóa, không thể bắt giữ công
dân một cách tùy tiện, mà đặc biệt vẫn sử dụng điều luật 258 mà quốc tế
lên án.
Nhà báo Phạm Chí Dũng cũng có ý kiến về việc bắt giữ giáo sư Hồng Lê Thọ
mà được nói là do những bài viết đăng trên Internet có nội dung xấu,
thông tin sai lệch như cơ quan an ninh điều tra nêu ra:
Uy tín xã hội và năng lực cá nhân của anh Hồng Lê Thọ là vấn đề mà tôi cho rằng khi muốn bắt giữ anh, Nhà nước phải cân nhắc, phải thận trọng nếu không sẽ gặp phản ứng rắc rối và lớn chuyện từ phía Hoa Kỳ và Phương Tây
Nhà báo Phạm Chí Dũng
Theo tôi khó có thể đánh giá qua những bài viết, những bài đăng lại
trên trang Người Lót Gạch để qui ra tội chống phá chính quyền. Thực sự
tôi không đọc khá thường xuyên trang Người Lót Gạch vì bận quá nhiều
việc; nhưng chúng tôi gặp nhau thường xuyên nói chuyện. Trước khi anh
Thọ bị bắt khoảng hai tuần, chúng tôi có gặp nhau uống cà phê, và tôi
thấy anh Thọ vẫn ổn, ôn hòa và anh nói về những bài viết, bài đăng lại
trên trang Người Lót Gạch thì không có vấn đề gì cả. Đó là theo anh ta
nhận định, và tôi cũng nghĩ rằng nếu Nhà nước muốn bắt những người bị
coi là bất đồng chính kiến vào thời điểm này thì Nhà nước Việt Nam phải
rất cân nhắc về chuyện làm sao họ có đủ lý do, đủ cơ sở, không thể đưa
ra những lý do tùy tiện như trước đây, đặc biệt đối với những người như
anh Hồng Lê Thọ. Tôi biết trong nhóm trí thức Việt Kiều, nhất là nhóm
luôn có mong ngóng, mong đợi đóng góp những ý kiến phản biện để xây dựng
kinh tế, xã hội, kể cả góp ý về một số vấn đề chính trị đối với Nhà
nước Việt Nam, anh Thọ là người có uy tín và anh luôn đưa ra những gợi
ý, những đóng góp mà tôi cho có giá trị. Anh cũng là người mà ở trong
nước không phải ít người biết đâu, khá nhiều người biết anh, đặc biệt
trong giới dân chủ- nhân quyền. Thành thử uy tín xã hội và năng lực cá
nhân của anh Hồng Lê Thọ là vấn đề mà tôi cho rằng khi muốn bắt giữ anh,
Nhà nước phải cân nhắc, phải thận trọng nếu không sẽ gặp phản ứng rắc
rối và lớn chuyện từ phía Hoa Kỳ và Phương Tây.
Bắt theo tố giác
Việc tiến hành khám xét và bắt giữ giáo sư Hồng Lê Thọ, chủ nhân trang
blog Người Lót Gạch, còn được nói là theo tin tố giác của quần chúng.
Nhà báo Phạm Chí Dũng có ý kiến về điều này:
Tuy nhiên so với những nhân vật bất đồng chính kiến khác trước đây, lần này cơ quan an ninh điều tra lại dựa vào tố giác của quần chúng, đó là một hiện tượng khá bất thường, một cụm từ khá lạ được ứng vào trường hợp này
Nhà báo Phạm Chí Dũng
Về mặt tố giác của quần chúng, đó là một cụm từ chung trong pháp luật
và điều tra xét hỏi bên ngành công an, điều đó không có gì sai vì tố
giác của quần chúng là một cơ sở để có thể dẫn đến bắt giữ, bắt giam một
nhân vật, một đối tượng hình sự nào đó. Tuy nhiên so với những nhân vật
bất đồng chính kiến khác trước đây, lần này cơ quan an ninh điều tra
lại dựa vào tố giác của quần chúng, đó là một hiện tượng khá bất thường,
một cụm từ khá lạ được ứng vào trường hợp này. Tôi biết trong thực tế
điều tra, xét hỏi ở Việt Nam, thường người ta áp dụng cơ sở tố giác của
quần chúng đối với tội phạm là những trường hợp đối tượng hình sự; chứ
không phải những đối tượng hoạt động chính trị, những nhân vật bất đồng
chính kiến, hoặc dân chủ, đấu tranh cho nhân quyền. Trường hợp này áp
dụng với anh Hồng Lê Thọ, tôi cho là khá lạ. Điều đó cho tôi một chút hy
vọng là anh Thọ có thể sẽ không bị bắt lâu. Có thể qua một quá trình
điều tra nào đó ngắn hạn, cơ quan Nhà nước: các cơ quan công an, chính
quyền cũng sẽ phải thả anh ra.
Vào chiều ngày 27 tháng 11 vừa qua, một nhóm sinh viên tại Hà Nội cũng
bị lực lượng chức năng ập vào nhà khám xét, bắt đưa về đồn Công an cũng
như tịch thu một số tài liệu về dân chủ, nhân quyền của những sinh viên
này. Việc làm đó cũng được nói là do có tố cáo của người dân những sinh
viên này tàng trữ chất cháy, chất nổ. Facebooker Lý Quang Sơn phản bác
về cơ sở có tố cáo để đột nhập vào phòng trọ của các bạn như sau:
Họ viện cớ dùng đơn tố cáo để xâm nhập vào nhà chúng tôi. Tôi nói tôi
hoàn toàn có thể dùng đơn tố cáo bất kỳ một quan tham nhũng nào, và
ngay ngày mai tôi yêu cầu họ phải xông vào nhà quan tham nhũng đó để
điều tra. Tôi thách đố họ làm điều đó, nhưng họ không thể làm được, họ
không nói gì.
Điều 258 vô lý
Việc khám nhà và bắt giữ giáo sư Hồng Lê Thọ, chủ nhân trang blog Người
Lót gạch, là trường hợp mới nhất bị bắt giữ theo điều 258 Bộ Luật Hình
sự Việt Nam. Điều luật này lâu nay bị nhiều người quan tâm cho rằng mơ
hồ và Nhà nước lập ra để dễ bề trấn áp những tiếng nói đối lập, phản
biện.
Hiện nay có hai trường hợp cũng đang bị truy tố và giam giữ với cáo buộc
‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức, công dân’ theo điều 258 là blogger Anh Basam
Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự Nguyễn thị Minh Thúy.
'Ông Thọ có nhiều cống hiến cho đất nước'
30 tháng 11 2014 Cập nhật lúc 17:33 ICT
Ông Hồng Lê Thọ, chủ blog ‘Người lót gạch’, vừa bị công an bắt giam vào
tối thứ Bảy ngày 29/11 tại Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra về tội
‘Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo
điều 258 Bộ luật Hình sự.
Thông tin bắt người này được thông báo trên trang chủ của Bộ Công an Việt Nam và đã được gia đình ông Hồng Lê Thọ xác nhận.
Trao đổi với BBC, ông Đinh Kim Phúc, nhà nghiên cứu Biển Đông và là một cộng sự gần gũi với ông Thọ, nói ông ‘ngạc nhiên’ trước tin ông Thọ bị bắt.
“Anh Thọ có nhiều cái phục vụ cho đất nước. Tôi đánh giá anh ấy là người rất tốt, chẳng phải đối tượng nguy hiểm gì,” ông Phúc nói.
Theo lời ông Phúc thì trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, ông Thọ là ‘Việt kiều yêu nước ở Nhật Bản’ từng ‘nằm cản đường xe tăng Mỹ’.
Sau năm 1975, ông Thọ ‘từng công tác tại Đại sứ quán Việt Nam ở Nhật Bản’ và ‘là bạn rất thân với ông Lê Minh Hương, người từng là Bộ trưởng Công an’.
“Từ khi anh Thọ từ Nhật Bản về nước sống đến nay, chúng tôi đã cộng tác với nhau nghiên cứu nhiều vấn đề về chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông,” ông Phúc nói, và ông nhận xét ông Thọ là người ‘có kiến thức rất uyên bác và có nhiều tài liệu quý bằng tiếng Nhật về chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông’.
Ông Phúc không đồng tình với lý do bắt ông Thọ theo thông báo của công an, và nói rằng: “Hiện nay các blog đăng bài lẫn nhau là việc làm phổ biến ở Việt Nam chứ không riêng gì anh Thọ.”
“Trong trang blog của mình, anh Thọ không viết bài nào, chỉ đăng bài viết của người khác từ những trang khác,” ông Phúc nói thêm. “Anh ấy không biểu tình chống Trung Quốc, không ký tên kêu gọi điều này điều kia.”
Trao đổi với BBC, ông Đinh Kim Phúc, nhà nghiên cứu Biển Đông và là một cộng sự gần gũi với ông Thọ, nói ông ‘ngạc nhiên’ trước tin ông Thọ bị bắt.
“Anh Thọ có nhiều cái phục vụ cho đất nước. Tôi đánh giá anh ấy là người rất tốt, chẳng phải đối tượng nguy hiểm gì,” ông Phúc nói.
Theo lời ông Phúc thì trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, ông Thọ là ‘Việt kiều yêu nước ở Nhật Bản’ từng ‘nằm cản đường xe tăng Mỹ’.
Sau năm 1975, ông Thọ ‘từng công tác tại Đại sứ quán Việt Nam ở Nhật Bản’ và ‘là bạn rất thân với ông Lê Minh Hương, người từng là Bộ trưởng Công an’.
“Từ khi anh Thọ từ Nhật Bản về nước sống đến nay, chúng tôi đã cộng tác với nhau nghiên cứu nhiều vấn đề về chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông,” ông Phúc nói, và ông nhận xét ông Thọ là người ‘có kiến thức rất uyên bác và có nhiều tài liệu quý bằng tiếng Nhật về chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông’.
Ông Phúc không đồng tình với lý do bắt ông Thọ theo thông báo của công an, và nói rằng: “Hiện nay các blog đăng bài lẫn nhau là việc làm phổ biến ở Việt Nam chứ không riêng gì anh Thọ.”
“Trong trang blog của mình, anh Thọ không viết bài nào, chỉ đăng bài viết của người khác từ những trang khác,” ông Phúc nói thêm. “Anh ấy không biểu tình chống Trung Quốc, không ký tên kêu gọi điều này điều kia.”
HÀ NHÂN VĂN * TRUNG CỘNG XÂM LƯỢC
Bắc Kinh quyết cắt yết hầu VN!
Hà Nhân Văn
BỐI CẢNH Á ĐÔNG – TBD
Sau thượng đỉnh APEC và G20 Úc Đại Lợi,
CT Tập Cận Bình công du đảo quốc Fiji, 45% gốc Ấn Độ, mở hầu bao chi
viện không hoàn trả 50 triệu đô, họp thượng đỉnh các đảo quốc Nam TBD
ngoại trừ Tây Samoa, lãnh thổ Hoa Kỳ. Tháng 9, tân Thủ tướng Ấn vừa đắc
cử đã đến Fiji, TT Modi Ấn coi Fiji là một “tiền đồn thân hữu”, nối liền
TBD và Ấn Độ Dương.
Với chính sách cố hữu “Phóng tài hóa
thu nhân tâm”, “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn; Đồng tiền đi sau
là đồng tiền dại!”, CT Tập Cận Bình chi ngay tại chỗ, vương quốc Tonga
được chi 45 triệu. Đảo quốc Vanuatu cũng được chi xôm tụ, lớn hơn cả
Tonga. Vương quốc này dành riêng một đảo “cỏ xanh đến tận chân trời” cho
Nhật Bản nuôi bò ăn thịt, chở về Kobé Nhật, cho vào lò sát sinh, xuất
cảng qua Tàu và VN, gọi là “bít tết bò Kôbê” và phở tái bò Kôbé (trước
đây giá 35$US một tô ở Hà Nội). Bắc Kinh rất ham có một đảo cỏ nuôi bò
như Nhật ở Vanuatu.
TC ham những gì ở các đảo Nam TBD? Tài nguyên không đáng kể, đưa và mang về cái gì ở các đảo quốc thần tiên này? Lãnh đạo Bắc Kinh từ thời Mao Chu, trông thấy các đảo Nam TBD mà ham! Đưa người xuống đây là ưu tiên. Nhớ lại năm đầu nội các Obama, theo tin AFP dạo ấy, bà NT Hillary Clinton qua Tàu gặp NT Dương Khiết Trì, bà làm cao, chỉ gặp Trì ở Thẩm Quyến, tình cờ bà Hillary hỏi Trì: “Cái gì khó khăn nhất của Trung Hoa bây giờ?”.
Họ Dương cao hứng dại dột bật miệng nói: nạn Nhân mãn! Bà Hillary giật mình, bà ý thức được ngay nguy cơ rất lớn của thế giới mà ĐNA và Nam TBD là mục tiêu số một của Bắc Kinh vào thời đại này. Cái nguy cơ ấy trải dài từ ĐNA qua phía Nam và phía Tây. Bất hạnh, rất bất hạnh VN lại là địa bàn chiến lược tiên khởi. Nghĩa là phải làm chủ VN mới có thể làm chủ ĐNA – Biển Đông, tiến xuống Nam TBD.
CON ĐƯỜNG MỚI TẬP CẬN BÌNH!
Bố trí và chuẩn bị đã từ rất lâu. Thập
niên 1970 sau khi Mỹ rút khỏi VN, cố vấn TC ào vào Nam Vang, bảo trợ chế
độ Miên Cộng Pol Pot, với hơn 1500 cố vấn TC. Ý đồ của Mao là nổi bềnh
lên, lấy Cao Miên (Pol Mot) làm trọng điểm, áp đảo VN, nhoài tay qua
Thái Lan, tung tiền như nước vào Mã Lai và chính phủ trung lập thân Cộng
Sukarno Nam Dương, nơi mà Mao – Chu đặt hy vọng nơi 1.5 triệu Hoa kiều,
đảng CS Nam Dương, hợp tác với TT Sukarno, có thể nói là đảng CS Hoa
kiều.
Biển Đông vắng mặt hạm đội 7 Hoa Kỳ,
hạm đội Nga không làm nao núng Bắc Kinh. Sau khi cướp được quần đảo
Hoàng Sa, Bắc Kinh đã đặt được đầu cầu chiến lược Biển Đông – ĐNA. Chiến
lược Đại dương Nam tiến của Đặng Tiểu Bình nối tiếp chủ trương Đại Hán
bành trướng của Mao Trạch Đông. Và nay, Tập Cận Bình quyết thực hiện.
Không thể tin và không bao giờ tin Tập Cận Bình với giọng lưỡi hòa hoãn
của ông ta từ APEC Bắc Kinh đến thượng đỉnh ASEAN Miến Điện và thượng
đỉnh G20 Brisbane, Úc Đại lợi. Phải nói rằng, chiến lược chuyển trục của
Obama là một phần đóng góp lớn của Hillary từ khi gặp Dương Khiết Trì
nhận được chỉ dấu nhân qua cửa miệng họ Dương!
Da trắng đã trung hòa ở khắp nơi, chỉ
còn lại Nam TBD với Úc và Tân Tây Lan, đảo quốc như Fiji, Tonga, Samoa,
Vanuatu vẫn nằm trong tay Úc mà Mỹ không bao giờ bỏ rơi. Pháp còn lại
một chút ở Tahiti, Nouvelle Calédonie với Nouméa nơi CĐVN giàu có nhất
Nam TBD. Ở thế sống còn, Tập Cận Bình vẫn chấp nhận đương đầu tiến tới
bằng con đường hòa hoãn và phóng tài hóa.
LỢI DỤNG KHÓ KHĂN CỦA MỸ
Qua thượng đỉnh APEC Bắc Kinh, TC quyết
đi tới, xin lập lại bài trước: hòa hoãn với Nhật Bản, xiết chặt tay với
Đài Loan và ngầm phá TPP của Mỹ. Nay, Bắc Kinh đã gần như nắm được 12
quốc gia trong APEC. Nga Sô mất uy tín trong thượng đỉnh G20, tiền hội
nghị, các nước G7 và nhiều nước khác Á Phi lạnh lùng ra mặt với Putin.
Sau phiên khoáng đại khai mạc, Putin lạnh lùng bỏ hội nghị trở về Nga.
Bắc Kinh bất chiến tự nhiên thành thắng lớn, vừa có cơ hội ngang vai vế
với Mỹ ở G20 Úc.
Thẳng đường, họ Tập lao vào Nam TBD.
Tập phu nhân mặc y phục hải đảo (Fiji). Cuộc tiếp đón cực kỳ long trọng.
Tất cả các nguyên thủ đảo quốc Nam TBD đều theo nhau đến Fiji triều
kiến, ước lượng Bắc Kinh chi trên 500 triệu cho chuyến công du của họ
Tập đến Fiji. Họ Tập chớp thời cơ, có thể nói ông là đại đệ tử của Kim
Dung, ông đã đạt được “tuyệt chiêu”: xử Ls. Lâm Đại Đại, con gái của
Thống đốc Lâm Bưu dám giương cao ngọn cờ quyết tử đòi xử Mao Xếnh Xáng!
Dùng tòa án để giải quyết biến cố sinh viên Hồng Kông nổi dậy. Rất gai góc! Đối ngoại, hòa hoãn với Nhật, Liên Âu, Úc, Ấn Độ … không đụng Mỹ nhưng triệt để khai thác tình hình phân hóa nội bộ Mỹ 2 năm còn lại của HP Obama, huyền ngọc sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vẫn là Obamacare, vấn đề di dân, thuế và ngân sách. Đối ngoại cũng sẽ khó khăn không kém, phải đương đầu với 3 “mặt trận lớn”. Với Nga và Ukraine, với Syria – Iraq và khủng bố Nhà nước Hồi giáo chặt đầu người, với Palestine Hamas và Do Thái, với Afghanistan hậu chiến chiến tranh.
Dùng tòa án để giải quyết biến cố sinh viên Hồng Kông nổi dậy. Rất gai góc! Đối ngoại, hòa hoãn với Nhật, Liên Âu, Úc, Ấn Độ … không đụng Mỹ nhưng triệt để khai thác tình hình phân hóa nội bộ Mỹ 2 năm còn lại của HP Obama, huyền ngọc sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vẫn là Obamacare, vấn đề di dân, thuế và ngân sách. Đối ngoại cũng sẽ khó khăn không kém, phải đương đầu với 3 “mặt trận lớn”. Với Nga và Ukraine, với Syria – Iraq và khủng bố Nhà nước Hồi giáo chặt đầu người, với Palestine Hamas và Do Thái, với Afghanistan hậu chiến chiến tranh.
Tập Cận Bình mở “mặt trận” HP và pháp
trị ở quốc nội. Cuộc thanh trừng vĩ đại, vượt rất xa 2 cuộc thanh trừng
của Mao Trạch Đông: 1. Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng (1955-1959).
2. “Cuộc cách mạng văn hóa 10 năm”!
Bây giờ Tập Cận Bình chuyển hóa. Điều
đầu tiên và căn bản nhất “Phải nắm chặt VN bằng bất cứ giá nào. Chiến
lược cốt lõi của Tập Cận Bình trước sau vẫn là VN. VN trước hết!”
HẢI VÂN – ĐÀ NẴNG
TC sẽ không đánh VN bằng quân sự, trên
bộ và dưới biển. Bài học 1997 “dạy cho VN một bài học” thất bại ở Thượng
du VN, rốt cuộc để lại 60,000 (tài liệu mới nhất 2013: sáu mươi ngàn
xác chết GPQ TQ). Sau thượng đỉnh Việt – Trung Thành Đô 1990 với các mật
ước đôi bên đã ký kết, Bắc Kinh theo một chiến lược mới: “Dạy cho VN
một bài học Không tiếng súng” để VNCS tự dâng hiến “lấy lại đất cũ của
TQ” (!), Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường thực hiện theo lớp lang từ thời
Mao Trạch Đông “lấy xưa để phục vụ nay” (!). Làm mới cái xưa, viết lại
cái xưa như “VN là đất cũ của TQ” (!) và hoàn tất cái nay bằng tài hóa,
không cần súng đạn.
TỪ CÁI NHÌN CỦA TÌNH BÁO!
Năm 2005, tình cờ, rất tình cờ một nhân
vật cao niên ở Hồng Kông đã nắm được một tài liệu gọi là nghiên cứu mật
mà lại không mật cuả tình báo chiến lược Á Đông về đại kế hoạch Đoạt
chiếm VN và Biển Đông của TC, gọi là cuộc “giải phóng không tiếng súng
để lấy lại đất cũ của TQ từ thời Tần – Hán” (!).
Tưởng đâu là chuyện giả tưởng ai ngờ lại là chuyện thật 100% qua vụ dân Vũng Áng nổi dậy đánh phá nhà máy gang thép Formosa và qua 2 vụ: trước đây và nay do Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Đảng bộ TP Đà Nẵng theo lệnh bộ Chính trị ĐCSVN thực hiện (NTD chỉ là một).
Theo tấm bản đồ mà một nhà báo lão niên có được, đại cương chia VN ra làm 10 vùng: 1. Đông Bắc. 2. Tây Bắc thượng du. 3. Đồng bằng sông Hồng. 4. Bắc Trung bộ. 5. Nam Trung bộ. 6. Tây Nguyên. 7. Đông Nam bộ. 8. Đồng bằng Cửu Long. 9. Hoàng Sa. 10. Trường Sa. Thượng du coi như đã ổn định với vùng tự do mậu dịch được ghi trong Thông cáo chung Tập Cận Bình và Trương Tấn Sang 2013, TC tha hồ tự tung tự tác.
Thí dụ Hè vừa qua, tỉnh ủy Quảng Ninh cho TC thuê cả trăm mẫu đất rừng với thời hạn 149 năm do công nhân TC khai thác, phá rừng trồng cây nông nghiệp. Đồng bằng sông Hồng lấy khu công nghiệp Quỳnh Phụ, Thái Bình làm tiêu biểu (Quỳnh Côi và Phụ Dực). Số báo này, tôi chỉ bàn sơ lược. Hải Vân và Hòa Vang nằm giữa vùng chiến lược số một của TC từ Nghệ An đến Quảng Nam, với trọng điểm Vũng Áng – Hà Tĩnh và Hải Vân – Hòa Vang (Thừa Thiên – Quảng Nam).
Tưởng đâu là chuyện giả tưởng ai ngờ lại là chuyện thật 100% qua vụ dân Vũng Áng nổi dậy đánh phá nhà máy gang thép Formosa và qua 2 vụ: trước đây và nay do Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Đảng bộ TP Đà Nẵng theo lệnh bộ Chính trị ĐCSVN thực hiện (NTD chỉ là một).
Theo tấm bản đồ mà một nhà báo lão niên có được, đại cương chia VN ra làm 10 vùng: 1. Đông Bắc. 2. Tây Bắc thượng du. 3. Đồng bằng sông Hồng. 4. Bắc Trung bộ. 5. Nam Trung bộ. 6. Tây Nguyên. 7. Đông Nam bộ. 8. Đồng bằng Cửu Long. 9. Hoàng Sa. 10. Trường Sa. Thượng du coi như đã ổn định với vùng tự do mậu dịch được ghi trong Thông cáo chung Tập Cận Bình và Trương Tấn Sang 2013, TC tha hồ tự tung tự tác.
Thí dụ Hè vừa qua, tỉnh ủy Quảng Ninh cho TC thuê cả trăm mẫu đất rừng với thời hạn 149 năm do công nhân TC khai thác, phá rừng trồng cây nông nghiệp. Đồng bằng sông Hồng lấy khu công nghiệp Quỳnh Phụ, Thái Bình làm tiêu biểu (Quỳnh Côi và Phụ Dực). Số báo này, tôi chỉ bàn sơ lược. Hải Vân và Hòa Vang nằm giữa vùng chiến lược số một của TC từ Nghệ An đến Quảng Nam, với trọng điểm Vũng Áng – Hà Tĩnh và Hải Vân – Hòa Vang (Thừa Thiên – Quảng Nam).
Từng bước một, từ Thanh Hóa trở vào Hà Tĩnh rồi từ Đà Nẵng – Hòa Vang, Hội An ngược lên Hải Vân, toàn vùng chiến lược của tổ tiên ta từ thời vua Lê Thánh Tôn và chúa Nguyễn Đàng trong như tôi đã trình bày sơ lược vào số báo trước.
Đối với TC, đây là vùng quan trọng bậc
nhất, điểm tối trọng giữa tuyến chiến lược Nghệ An Hà Tĩnh và Quảng Nam
với Chu Lai, trực tiếp quan hệ với chiến lược bành trướng của TC ở Nam
Lào, đúng hơn là toàn bộ xứ Lào mà Bắc Kinh nhắm tới từ thập niên 1950.
Vùng này chỉ cần “bước qua” là đã sang tới Lào. Bắc Kinh đánh cắp được 2 tài liệu căn bản. Một, của VNCH phát triển kinh tế thời hậu chiến. Hai, Đại học Harvard, Viện phát triển quốc tế với 13 đề án mà HNV tôi đã trình bày trên mục này trước đây. Bắc Kinh tổng hợp lại làm mồi dụ dỗ Hà Nội.
Riêng Bắc Trung bộ, Bắc Kinh nắm được Nguyễn Bá Thanh, xuất thân bần cố, ủy viên TƯĐ. Đầu tư và phát triển trên một địa bàn qui mô, một vòng cánh cung lớn, phía Nam là Giá Liên chiểu – Dung Quất sẽ là một hành lang chủ yếu trên trục giao thông quốc gia Nam Bắc.
Tiếp Đà Nẵng trên đường Đông Tây là Tiên Phước-Quế Sơn. Thị trấn hạt nhân là Tam Kỳ và Vạn Tường. Khôi phục sân bay Chu lai, nâng cấp phi trường quốc tế Đà Nẵng, Hà Nội ham quá. Ai mà không ham! Những ai am tườngthì đây chỉ là một phần nội dung chính yếu của Mỹ để lại và kế hoạch phát triển của Đại học Harvard (1993), Bắc Kinh có được xào lại làm mồi dụ Hà Nội!
Kế hoạch vùng Bắc Trung bộ mới là chính yếu của Bắc Kinh, cực kỳ nguy hiểm cho VN ngay từ hôm nay và ngày mai con cháu, chắt, chút, chít. Vùng này với 670 km duyên hải, 23 con sông, thềm lục địa nhiều tài nguyên, chính yếu là gỗ. Vùng hoa gấm của kỹ nghệ du lịch, thật là “rừng vàng biển bạc”, tuy dân vẫn còn nghèo, một kho tài nguyên nhân lực. Ở đây, tôi chỉ giới hạn ở vùng Hải Vân, Bạch Mã, Cảnh Dương, Lăng Cô, cảng biển Chân Mây… Bắc Kinh đã có sẵn kế hoạch nay mới thòi ra! Chính yếu của nó là cắt đôi VN.
Vùng Hải Vân núi non trùng trùng điệp điệp, thuộc tỉnh Thừa Thiên, trước năm 1945 gọi là Thừa Thiên Phủ Doãn (kinh thành), quần đảo Hoàng Sa trực thuộc Thừa Thiên, do sắc dụ của vua Bảo Đại năm 1934. Sách Đại Nam Nhất Thống chí – bộ Học, Quốc Sử giám triều Duy Tân lại đặt Hải Vân vào tỉnh Quảng Nam. Tôi chép ra đây để quí độc giả dùng làm học liệu cho giới trẻ:
Vùng này chỉ cần “bước qua” là đã sang tới Lào. Bắc Kinh đánh cắp được 2 tài liệu căn bản. Một, của VNCH phát triển kinh tế thời hậu chiến. Hai, Đại học Harvard, Viện phát triển quốc tế với 13 đề án mà HNV tôi đã trình bày trên mục này trước đây. Bắc Kinh tổng hợp lại làm mồi dụ dỗ Hà Nội.
Riêng Bắc Trung bộ, Bắc Kinh nắm được Nguyễn Bá Thanh, xuất thân bần cố, ủy viên TƯĐ. Đầu tư và phát triển trên một địa bàn qui mô, một vòng cánh cung lớn, phía Nam là Giá Liên chiểu – Dung Quất sẽ là một hành lang chủ yếu trên trục giao thông quốc gia Nam Bắc.
Tiếp Đà Nẵng trên đường Đông Tây là Tiên Phước-Quế Sơn. Thị trấn hạt nhân là Tam Kỳ và Vạn Tường. Khôi phục sân bay Chu lai, nâng cấp phi trường quốc tế Đà Nẵng, Hà Nội ham quá. Ai mà không ham! Những ai am tườngthì đây chỉ là một phần nội dung chính yếu của Mỹ để lại và kế hoạch phát triển của Đại học Harvard (1993), Bắc Kinh có được xào lại làm mồi dụ Hà Nội!
Kế hoạch vùng Bắc Trung bộ mới là chính yếu của Bắc Kinh, cực kỳ nguy hiểm cho VN ngay từ hôm nay và ngày mai con cháu, chắt, chút, chít. Vùng này với 670 km duyên hải, 23 con sông, thềm lục địa nhiều tài nguyên, chính yếu là gỗ. Vùng hoa gấm của kỹ nghệ du lịch, thật là “rừng vàng biển bạc”, tuy dân vẫn còn nghèo, một kho tài nguyên nhân lực. Ở đây, tôi chỉ giới hạn ở vùng Hải Vân, Bạch Mã, Cảnh Dương, Lăng Cô, cảng biển Chân Mây… Bắc Kinh đã có sẵn kế hoạch nay mới thòi ra! Chính yếu của nó là cắt đôi VN.
Vùng Hải Vân núi non trùng trùng điệp điệp, thuộc tỉnh Thừa Thiên, trước năm 1945 gọi là Thừa Thiên Phủ Doãn (kinh thành), quần đảo Hoàng Sa trực thuộc Thừa Thiên, do sắc dụ của vua Bảo Đại năm 1934. Sách Đại Nam Nhất Thống chí – bộ Học, Quốc Sử giám triều Duy Tân lại đặt Hải Vân vào tỉnh Quảng Nam. Tôi chép ra đây để quí độc giả dùng làm học liệu cho giới trẻ:
Núi Hải Vân: ở cách huyện Hòa Vang 38
dặm về phía bắc, mạch này từ các núi Đại Tu Nông, núi Tiểu Tu Nông,
núiTía và núi Kiền Kiền ở biên giới Ai Lao về phía tây, từngđợt kéo đến,
ngọn núi trùng điệp, cao vót từng mây thẳng đến sát biển; trên có cửa
Hải Vân, là chỗ tiếp giáp giữa Thừa Thiên và Quảng Nam về phía bắc cửa
quan ải thì xem Thừa thiên phủ chí, phía nam cửa thuộc địa phận huyện
Hòa Vang. Trước cửa quan chừng vài ba trượng, đá núi dựng đứng rất là
hiểm dốc.
Trước kia họ Trịnh từng đắp lũy để chống Tây Sơn, nên gọi là đỉnh Lũy. Phía nam chân núi là núi Thông Sơn, tục gọi hòn Hành, năm Minh mệnh thứ 4 cho tên là núi Định Hải, có xây pháo đài ở đây; phía tây có núi Sen, núi Sảng là chỗ đường trạmđi qua, năm thứ 7, đều đổi tên làm Thạch Lĩnh, đường núi gập ghềnh, cây đá lẫn lộn; chân núi phía nam kề liền vụng biển, có ghềnh đá đứng sững ở bờ biển, cao thấp lô nhô, như hình non bộ, sóng biển đập vào, nước phun như mưa. Ngoài biển về phía đông bắc nổi vọt một ngọn, năm Minh Mệnh thứ 21 cho tên là đảo Ngự Hải, ở đó có đặt đàiPhong Hỏa, phía bắc của biển Đà Nẵng (sách đã dẫn, Q. VII, tỉnh Quảng Nam, bản dịch, tt. 146-147).
Trước kia họ Trịnh từng đắp lũy để chống Tây Sơn, nên gọi là đỉnh Lũy. Phía nam chân núi là núi Thông Sơn, tục gọi hòn Hành, năm Minh mệnh thứ 4 cho tên là núi Định Hải, có xây pháo đài ở đây; phía tây có núi Sen, núi Sảng là chỗ đường trạmđi qua, năm thứ 7, đều đổi tên làm Thạch Lĩnh, đường núi gập ghềnh, cây đá lẫn lộn; chân núi phía nam kề liền vụng biển, có ghềnh đá đứng sững ở bờ biển, cao thấp lô nhô, như hình non bộ, sóng biển đập vào, nước phun như mưa. Ngoài biển về phía đông bắc nổi vọt một ngọn, năm Minh Mệnh thứ 21 cho tên là đảo Ngự Hải, ở đó có đặt đàiPhong Hỏa, phía bắc của biển Đà Nẵng (sách đã dẫn, Q. VII, tỉnh Quảng Nam, bản dịch, tt. 146-147).
Sách địa lý Đất nước ta chép về Hải Vân
như sau: “Cửa ải cao 6m. Trước kia có chức “phòng thủ” và quân đội
đóng, có “kinh thiên lý” để theo dõi tàu nước ngoài vào Đà Nẵng. Đỉnh
đèo có lũy, địa giới Quảng Nam. Từ đèo, nhìn phía tây, núi non trùng
điệp, phiá đông, bể lớn bao la. Phía tây bắc là phá Hà Trung.
Phía nam một chi núi chạy ra biển rồi dừng lại với bán đảo Sơn Trà. Dưới mặt, vịnh Đà Nẵng trong vòng bán nguyệt. Xa xa cù lao Chàm. Bãi biển Đà Nẵng, cát vàng, cây xanh. Đám núi Sơn Trà. Tất cả, nối vào dãy núi phía tây. Đây là môït trong những phong cảnh đẹp nhất của nước ta. Đường đèo đi hết 20 km: lên 10 km, xuống 10 km. Đà Nẵng cách đỉnh Hải Vân 25 km (từ ngã ba Đường 1A rẽ vào 5 km). (sđd, Hoàng Đạo Thý chủ biên, nxb KHXH, HN 1989).
Phía nam một chi núi chạy ra biển rồi dừng lại với bán đảo Sơn Trà. Dưới mặt, vịnh Đà Nẵng trong vòng bán nguyệt. Xa xa cù lao Chàm. Bãi biển Đà Nẵng, cát vàng, cây xanh. Đám núi Sơn Trà. Tất cả, nối vào dãy núi phía tây. Đây là môït trong những phong cảnh đẹp nhất của nước ta. Đường đèo đi hết 20 km: lên 10 km, xuống 10 km. Đà Nẵng cách đỉnh Hải Vân 25 km (từ ngã ba Đường 1A rẽ vào 5 km). (sđd, Hoàng Đạo Thý chủ biên, nxb KHXH, HN 1989).
Hải Vân quan ngày xưa
Biến cố CSVN nhượng Hải Vân cho Bắc
Kinh 50 năm, chỉ là một phần kế hoạch xâm lăng VN không tiếng súng mà
tình báo Á Đông đã nắm được mấu chốt. Không phải chỉ một Hải Vân! Hải
Vân chỉ là một điểm, một tên gọi của toàn bộ kế hoạch bao trùm toàn vùng
rừng núi. Thừa Thiên – Quảng Nam, vượt xa Trường Sơn, xin lập lại nối
tiếp với Lào, đất rộng nguòi thưa. Cắt đôi, cắt ba VN bằng các vùng đầu
tư phát triển của TC. Tài liệu còn cho biết: một là nấp dưới nhãn hiệu
khu du lịch sinh thái sẽ xây các khu nghỉ mát ở vùng rừng núi Bạch Mã mà
Pháp đã mở mang trước năm 1940. Đây cũng là trung tâm huấn luyện hướng
đạo VN trước năm 1945.
Hải Vân quan ngày nay
Từ từ, tằm ăn dâu, TC sẽ mở một sinh lộ mới, vượt Trường Sơn, vượt qua Lào, làm chủ cả Trường Sơn, cắt ngang yết hầu VN, Thừa Thiên và Quảng Nam. Thời hạn 50 năm đâu phải là ngắn, đủ để phá vỡ thế đất sinh tồn và thống nhất Bắc Nam về mọi mặt, nghĩa là TC án ngữ quốc lộ số 1, làm chủ đường hầm Hải Vân khi có biến.
TIẾN HÀNH CƯỚP HẢI VÂN VÀ HÒA VANG
Hải
Vân và Hòa Vang là phên dậu chiến lược quan trọng nhất của Đà Nẵng. Bắc
Kinh đã hạ xong Cồn Dầu qua tay sai Nguyễn Bá Thanh và tập đoàn đầu nậu
Việt – Trung, đáng lẽ, cho TC thuê Hải Vân đã từ lâu. Trước hết, như
Thượng du miền Bắc, sẽ phá rừng cho nhẵn nhụi, thu góp hết danh mộc đem
về Tàu, sau đồi, địa, núi phá tan vị trí chiến lược truyền thống của VN,
đem công nhân đổ vào vùng núi Hải Vân – Hòa Vang biến thành Tô giới
(the Concession) trong 50 năm rồi tính sau. Hải Vân, đường hầm và quốc
lộ 1, đường xe lửa xuyên Việt mặc nhiên nằm trong bàn tay vô hình của
Bắc Kinh. Gần nhất, Bắc Kinh sẽ phá tan miền đất địa gấm hoa thiêng
liêng của VN, chưa nói đến vấn đề tâm linh và phong thủy.
Rồi
Ngũ hành sơn sẽ như thế nào? Đoạt Hải Vân dù 50 năm, đây là mưu sâu
chước hiểm vô cùng độc của TC. Xin mở bản đồ ra, nhìn vào miền núi rừng
Hải Vân và toàn bộ Quảng Nam – Thừa Thiên sẽ như thế nào khi ông Ba Đỏ
chễm chệ đứng trên đỉnh núi Hải Vân? Theo tài liệu của tình báo Á Đông,
lập khu du lịch sinh thái và công nghệ Hải Vân – Bạch Mã chỉ là một diện
dưới cái mũ đầu tư. Cái điểm chính là vô hình vô ảnh cắt đôi VN, mở
đường qua Lào và từ Lào lại trở về Biển Đông: Đà Nẵng là tâm điểm.
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VNCS CHỐNG LẠI
Tướng Thống, QĐNDVN lên tiếng cực kỳ
chống lại “sự cố” Đảng ủy Thừa Thiên hay bất cứ ai chủ trương cho TC đầu
tư và thuê Hải Vân 50 năm. Đồng thời tin từ Hà Nội ngày 22-11 vừa qua,
bộ QPVNCS cũng cực lực chống lại việc cho thuê Hải Vân, một hành động vô
cùng ngang ngược, dám ngang nghiên cắt yết hầu của Tổ quốc.
HÀ NHÂN VĂN
Saturday, November 29, 2014
TRẦN GIA PHỤNG * NGỤC TRUNG NHẬT KÝ
Hồ Chí Minh: Kẻ trộm thơ
Trần Gia Phụng (Danlambao)
- Hồ Chí Minh (HCM) được chế độ cộng sản (CS) xem là một nhà thơ lớn.
Các giáo sư, các nhà nghiên cứu văn học CS thi nhau bốc thơm. Trong các
kỳ thi trung học dưới mái trường CS, thơ HCM thường được đưa ra làm đề
tài cho các em học sinh bình giải.
Theo viện Văn học Hà Nội, thi phẩm vĩ đại nhất của HCM là quyển Ngục trung nhật ký
viết bằng chữ Hán, xuất bản tại Hà Nội năm 1960, gồm 132 bài thơ, đại
đa số là tứ tuyệt (thơ 4 câu 7 chữ). Viện nầy cho biết HCM “đã viết trong cảnh lao tù từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943” (1).
Ngục trung nhật ký đã được dịch qua chữ Việt, phát hành hàng trăm ngàn
bản ở trong nước và cũng đã được dịch ra nhiều thứ tiếng ở hải ngoại.
Nhà nghiên cứu Lê Hữu Mục, nguyên là giáo sư văn chương Việt Nam tại Đại
học Văn khoa Huế và Đại học Văn khoa Sài Gòn, sau năm 1975 định cư tại
Montreal, Canada, đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng tập thơ nầy và chứng minh
rằng đa số các bài thơ trong Ngục trung nhật ký do một người Trung Hoa tên là “Già Lý” sáng tác, và chỉ có khoảng trên dưới 10 bài tứ tuyệt là của HCM. (2)
Giáo sư Lê Hữu Mục đã phân tách tỉ mỉ tác phẩm nầy và đưa ra nhận xét như sau: "Phần
phân tích ở trên chứng thực già Lý là chủ nhân của những bài thơ xây
dựng theo kĩ thuật thơ Đường; những bài thơ nầy chiếm hết ba phần tư tác
phẩm. Phần còn lại có thể coi là của Hồ Chí Minh. Tôi chỉ nói là có thể
vì tôi không khẳng định được rõ ràng bài thơ nào đích thực là của Hồ
Chí Minh, bài thơ nào thuộc về các tác giả khác." (3)
Chỉ cần nhìn sơ qua hình bìa nguyên bản quyển Ngục trung nhật ký cũng đã thấy mâu thuẫn ngay từ đầu. Tấm bìa nguyên thủy của sách nầy ghi rõ ngày, tháng và năm sáng tác là 29-8-1932 / 10-9-1933, trong khi Viện Văn học cho rằng HCM sáng tác tập thơ nầy trong hai năm 1942 và 1943.
Ngoài những nghiên cứu của giáo sư Lê Hữu Mục, còn có những phát hiện
khá thú vị khác về tài cóp thơ hoặc là trộm thơ của người khác của HCM.
Ví dụ trong tuyển tập Quốc Học, trường tôi do nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành tại Huế năm 1996, có đăng bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của HCM.
Tuyển tập nầy chú giải rằng bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” là của HCM gởi cho Võ Nguyên Giáp năm 1954, và "mới được phát hiện". Giáo sư Tuệ Quang Tôn Thất Tuệ, trong bài "Ai là tác giả bài Tầm hữu vị ngộ?" (4),
cho rằng nếu bài thơ nầy của một lãnh tụ (HCM) tặng cho một viên tướng
(Võ Nguyên Giáp), được sáng tác năm 1954, cả hai đang cầm quyền và cầm
quân, mà sao đến năm 1990 mới được phát hiện? Hai người nầy đều là những
nhân vật quan trọng đầu não của chế độ CS, mà sao bài thơ có thể thất
lạc một thời gian dài (1954-1990)? Giáo sư Tuệ Quang đi sâu vào chi tiết
bài thơ và nhận xét: "Tóm lại, bài thơ "Tầm hữu vị ngộ", xét về hình thức lẫn nội dung, không phù hợp với thi cách và khuynh hướng của ông Hồ".
Hai câu chuyện trên đây còn đang được tranh cãi, nhưng qua đến câu chuyện bài thơ dưới đây thì có lẽ khó cãi. Số là trong sách Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6,
(5), đăng bản phiên âm bài thơ bằng chữ Hán của HCM gởi cho trung tướng
Trần Canh (sau lên đại tướng). Bài thơ nầy còn được in trong sách Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh (6). Nguyên văn bản phiên âm bài thơ như sau:
Tặng Trần Canh Đồng Chí
Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi.
Bản dịch nghĩa của sách nầy:
Tặng Đồng Chí Trần Canh
Rượu ngọt “sâm banh” trong chén ngọc dạ quang
Sắp uống, tỳ bà trên ngựa đã giục giã
Say sưa nằm lăn nơi sa trường, anh đừng cười nhé!
Chớ để một tên địch nào trở về.
(Theo đúng nguyên văn trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6 tr. 101.)
![]() |
Hồ Chí Minh và Trần Canh |
Trần Canh (Chen Geng) lúc đó là một viên trung tướng thân cận của Mao
Trạch Đông, đang là ủy viên dự khuyết ban Chấp hành Trung ương đảng
CSTQ, tư lệnh quân khu Vân Nam kiêm chính ủy binh đoàn số 4, chủ tịch Ủy
ban Nhân dân tỉnh Vân Nam. Hồ Chí Minh trực tiếp xin Mao Trạch Đông gởi
Trần Canh qua làm cố vấn quân sự cho Việt Minh (VM).
Theo lệnh Mao Trạch Đông, Trần Canh đến Thái Nguyên gặp HCM vào cuối
tháng 7-1950. Trong chiến dịch biên giới, Võ Nguyên Giáp dự tính tấn
công Cao Bằng, nhưng Trần Canh chủ trương đánh Đông Khê. Theo Trần Canh,
địa thế Cao Bằng hiểm trở, công sự phòng thủ kiên cố và quân Pháp ở đây
đông, nên khó tấn công. Trong khi đó, Đông Khê tuy nhỏ, nhưng giữ một
vị trí chiến lược quan trọng trên phòng tuyến giữa Cao Bằng và Lạng Sơn;
quân Pháp ở đây ít, dễ tấn công hơn. Cuối cùng, VM vâng theo ý kiến của
Trần Canh.
Ngày 16-9-1950, VM dùng chiến thuật biển người theo kiểu Trung Cộng,
tung khoảng 10,000 quân tấn công Đông Khê, một cứ điểm nhỏ do 260 quân
Pháp trấn giữ. Đông Khê ở phía đông nam Cao Bằng, phía bắc Thất Khê.
(Thất Khê ở phía tây bắc Lạng Sơn). Sau ba đêm và hai ngày kịch chiến
(16 đến 18-9-1950), VM chiếm Đông Khê.
Trận Đông Khê là trận thắng đầu tiên của VM, cô lập Cao Bằng và cắt đứt
tỉnh lộ số 4, nối Cao Bằng với Lạng Sơn. Sau trận nầy, Trần Canh còn cố
vấn cho Võ Nguyên Giáp thi hành kế hoạch “công đồn đả viện”, chận đánh
riêng biệt hai cánh quân do hai trung tá Pháp chỉ huy. Cánh quân của
trung tá Marcel Lepage rời Thất Khê tiến lên Đông Khê, bị VM phục kích ở
Cốc Xá (nam Đồng Khê) ngày 8-10-1950. Trong khi đó, đơn vị của trung tá
Pierre Charton rút khỏi Cao Bằng ngày 3-10-1950, cũng bị VM phục kích
ngày 10-10-1950 tại đồi 477, tây nam Đông Khê.
Trong hai trận nầy, số quân Pháp vừa tử trận, vừa bị bắt làm tù binh lên
đến 4,000 binh sĩ, 354 hạ sĩ quan và 98 sĩ quan, trong đó có hai sĩ
quan cấp trung tá. Đây là trận thất bại nặng nề đầu tiên của Pháp kể từ
khi chiến tranh bắt đầu năm 1946. Ngoài số thương vong và thất thoát võ
khí trên đất, lần đầu tiên 15 chiến đấu cơ của Pháp bị súng cao xạ của
VM do Trung Cộng viện trợ, bắn hạ. Ngược lại, hai cuộc phục kích nầy là
chiến thắng lớn lao nhất của VM từ năm 1946, hoàn toàn do quyết định của
tướng TC.
Theo ghi chú dưới bài thơ HCM tặng Trần Canh trong sách Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6,
tr. 101, thì HCM gởi bài thơ nầy cho Trần Canh trước ngày 9-10-1950,
nghĩa là HCM chúc mừng Trần Canh sau trận thắng Đông Khê ngày 18-9-1950,
nhưng trước hai trận VM phục kích ở phía nam Đông Khê tháng 10-1950.
Đọc bài thơ nầy, ai cũng cảm thấy phảng phát âm hưởng bài thơ rất nổi
tiếng của Vương Hàn đời Đường bên Trung Hoa là bài “Lương Châu từ”, được
phiên âm như sau:
Lương Châu Từ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Trần Trọng San dịch:
Bài Hát Lương Châu
Rượu bồ đào, chén dạ quang
Muốn say, đàn đã rền vang giục rồi
Sa trường say ngủ ai cười
Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu?
So sánh hai bài thơ tứ tuyệt “Tặng đồng chí Trần Canh” của HCM và “Bài
hát Lương Châu” của Vương Hàn, cách nhau cả hơn một ngàn năm, mỗi bài
thơ chỉ có 28 chữ, mà hai bài thơ chỉ khác nhau có bảy chữ. Đó là hai
chữ đầu bài thơ (“bồ đào” thay bằng “hương tân” tức rượu champagne; và
năm chữ câu cuối). Còn hai câu giữa hoàn toàn giống nhau, nghĩa là hết
ba phần tư (3/4) bài thơ nguyên là của bài “Lương Châu từ” của Vương
Hàn.
Câu kết bài thơ HCM tặng Trần Canh trong tổng thể cả bốn câu của bài thơ, thật là vô duyên và lại lạc đề, vì ý nghĩa câu nầy chẳng ăn nhập gì đến ý nghĩa ba câu trên của bài thơ. Ba câu trên đang nói chuyện uống rượu trong một cái chén dạ quang sang trọng, phải vội vàng ra đi theo tiếng nhạc xuất quân, dù có say sưa ngoài chiến trường thi xin mọi người đừng cười... Bài thơ đang đến hồi sảng khoái, hào hùng thì HCM lại kết luận trật chìa một cách vô duyên, chẳng có hồn thơ, làm mất hứng thơ: “Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi”. (Chớ để một tên địch nào trở về). Đang nói chuyện xin đừng cười kẻ lỡ say ngoài chiến trường sao mà “chớ để một tên địch nào trở về”, thì thật là lãng nhách.
Trong khi đó, câu kết của Vương Hàn “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Từ xưa chinh chiến mấy người về),
vừa hào hùng phù hợp với ý tưởng ba câu thơ trên, vừa là tâm trạng của
những chiến binh xông pha trận mạc, biết rằng chiến tranh có những rủi
ro không sao đoán trước được, nên từ xưa đến nay, những người ra đi xông
pha chiến trận, thì mấy người trở về? Vì vậy mới xin đừng cười kẻ lỡ
say trên đường ra trận. Lời thơ trong câu kết của Vương Hàn vang lên như
là một điệu nhạc vừa hùng tráng và cũng vừa bi ai. (Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.)
Trừ trường hợp Trần Canh là người dốt nát, không biết đọc chữ thì Trần
Canh mới không phát hiện được HCM chép lại thơ Vương Hàn. Tuy nhiên,
Trần Canh là người đã từng đủ điều kiện để theo học khóa 1 trường võ bị
Hoàng Phố (Quảng Châu) tháng 5-1924, nổi tiếng học giỏi và được mệnh
danh là một trong ba nhân tài của Hoàng Phố (Hoàng Phố tam kiệt), đã
từng là hiệu trưởng trường Lục quân Bành Dương, đã lên tới cấp trung
tướng, đang giữ chức tư lệnh quân khu Vân Nam kiêm chính ủy binh đoàn số
4, chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Vân Nam.
Chắc chắn Trần Canh có một trình độ học vấn căn bản và vốn là một quân nhân, Trần Canh phải biết bài thơ trứ danh về chiến tranh của Vương Hàn, nhất là hai câu chót: “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu / Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, hầu như là hai câu nằm lòng của giới nhà binh. Nay HCM lại “múa rìu qua mắt thợ”, lấy nguyên văn hai câu thơ của Vương Hàn làm quà tặng cho đồng hương con cháu của Vương Hàn. Trần Canh nghĩ sao về việc nầy?
Chắc chắn Trần Canh có một trình độ học vấn căn bản và vốn là một quân nhân, Trần Canh phải biết bài thơ trứ danh về chiến tranh của Vương Hàn, nhất là hai câu chót: “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu / Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, hầu như là hai câu nằm lòng của giới nhà binh. Nay HCM lại “múa rìu qua mắt thợ”, lấy nguyên văn hai câu thơ của Vương Hàn làm quà tặng cho đồng hương con cháu của Vương Hàn. Trần Canh nghĩ sao về việc nầy?
Phải chăng đây là thơ “tập cổ” theo lối người xưa? Nếu tập cổ thì mượn
một câu chứ không mượn 3/4 bài, và ít nhất khi in lại cũng ghi là thơ
tập cổ từ thơ của ai? Hay đây là lối đánh lận con đen trí trá cố hửu của
HCM? Nếu ai biết thì chối là thơ tập cổ, nếu ai không biết thì khoe là
thơ của HCM và đăng vào sách, lưu truyền về sau. Ngày nay, chỉ cần chép
nguyên văn một câu của người khác mà không đề xuất xứ, thì bị ghép vào
tội đạo văn, ăn cắp thơ. Trong bài thơ nầy, HCM ăn cắp những ba phần tư
(3/4) bài thơ của Vương Hàn.
Đúng là HCM, chủ tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức nhà nước cộng sản
Bắc Việt Nam, xứng đáng là chủ tịch trộm thơ liều lĩnh. Thế mà đảng CSVN
luôn luôn kêu gọi học tập đạo đức HCM tức là học luôn cách trộm thơ hay
trộm công trình sáng tác của người khác. Có thể do nhờ học tập đạo đức
kiểu đó nên viên hiệu phó Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội đã đạo văn
luận án tiến sĩ của người khác.
Chỉ khác một điều là vào đầu năm nay (2014) có người tố cáo viên hiệu phó ăn cắp sở hữu trí tuệ của người khác, mà chẳng ai chịu tố cáo HCM đã trộm thơ của người khác. Nếu viên hiệu phó Đại Học Bách Khoa Hà Nội công khai thừa nhận đã trộm luận văn của người khác vì đã học theo gương đạo đức HCM, thì hy vọng có thể khỏi bị truy tố.
Chỉ khác một điều là vào đầu năm nay (2014) có người tố cáo viên hiệu phó ăn cắp sở hữu trí tuệ của người khác, mà chẳng ai chịu tố cáo HCM đã trộm thơ của người khác. Nếu viên hiệu phó Đại Học Bách Khoa Hà Nội công khai thừa nhận đã trộm luận văn của người khác vì đã học theo gương đạo đức HCM, thì hy vọng có thể khỏi bị truy tố.
Chẳng những trộm thơ, mà HCM còn trộm tư tưởng của người khác. Ví dụ rõ
nét nhất còn được các trường học ở Việt Nam hiện nay truyền tụng như là
tư tưởng HCM, là câu mà HCM đã phát biểu trong cuộc học tập chính trị
khoảng hơn 3,000 giáo viên ngày 13-9-1958 tại Hà Nội: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.” (7). Câu nầy, HCM ăn cắp nguyên ý của Quản Trọng, tể tướng ngước Tề thời Xuân Thu (722-479 trước CN). Quản Trọng nói: “Nhất niên chi kế mạc ư thụ cốc; thập niên chi kế mạc ư thụ mộc; bách niên chi kế mạc ư thụ nhân.”
(Kế một năm trồng lúa; kế mười năm trồng cây; kế trăm năm trồng người.)
Nếu kể chuyện HCM đạo văn thì còn nhiều chuyện nữa, kể cả bản Tuyên
ngôn ngày 2-9-1945 của HCM...
Lãnh tụ số một của CSVN còn như thế, thì trách chi hiệu phó Đại Học Bách
Khoa Hà Nội trộm luận án và trách chi nền văn hóa giáo dục CSVN suy sụp
và xuống cấp.
Toronto, 26-11-2014
______________________________________
Chú thích:
(1) Lê Hữu Mục trích dẫn, Hồ Chí Minh không phải là tác giả “Ngục trung nhật ký”, Toronto: Văn Bút Hải Ngoại, 1990, tt. 12-13.)
(2) Lê Hữu Mục, sđd. tr. 112. ("Ông già họ Lý" là người bị giam chung
với HCM vào đầu thập niên 30 tại khám lớn Victoria ở Hồng Kông.)
(3) Lê Hữu Mục, sđd. tr. 94.
(4) Tạp chí Hương Văn, California, số 5, tháng 2-1999, tt. 91-96.
(5) Nxb. Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội in lần thứ hai, năm 2000, trang 101.
(6) Hà Nội: Nxb. Văn Học, 1990, tt. 39-40.
(7) Báo Nhân Dân ngày 14-9-1958.
TIN THẾ GIỚI

Tin tức / Việt Nam
Bắc Kinh tung kế hoạch phát triển một loạt mỏ dầu ở Biển Đông và biển Bột Hải
29.11.2014
Đây là lần đầu
tiên chính phủ Trung Quốc đề ra kế hoạch để khai thác một cách quy mô
các mỏ dầu lớn tại Biển Đông, có khả năng sản xuất hơn 10 triệu tấn mỗi
năm, dựa trên các số liệu ước tính trong kế hoạch của Trung Quốc cho
những năm từ 2014-2020.
Bản tin của tờ báo Đài Loan nói rằng kế
hoạch khai thác các mỏ dầu trong vùng biện tranh chấp ở Biển Đông chắc
chắn sẽ đưa tới xung đột giữa Trung Quốc với các nước láng giềng. Trung
Quốc trước đó đã đụng độ với Nhật Bản ở Biển Hoa Đông và với Việt Nam
sau sự cố giàn khoan dầu Hải Dương 981.
Theo một cuộc nghiên cứu
của Ủy ban Kinh tế của Liên Hiệp Quốc vào năm 1966, biển Hoa Đông là khu
vực có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới, ước lượng từ 3 tỉ tới 7 tỉ tấn.
Bắc
Kinh đã dò tìm dầu khí trong một diện tích rộng khoảng160.000 km vuông
trên Biển Đông, và ước tính khu vực này chứa uóc lượng 5,22 tỉ tấn dầu
khí, trị giá hơn 325 tỉ mỹ kim.
Theo ước tính của Nhật báo
Thương mại Hong Kong, thì tăng trưởng GDP của Trung Quốc có thể tăng lên
từ 1 đến 2%, nếu Bắc Kinh chỉ khai thác có một phần ba nguồn tài nguyên
dầu khí to lớn này trong hai thập niên tới.
Nguồn: Want China Times, Khamphavn http://www.voatiengviet.com/content/bac-king-tung-ke-hoach-phat-trien-mot-loat-mo-dau-o-bien-dong-va-bien-bot-hai/2538634.html
Tin tức / Hoa Kỳ
Số du khách từ Trung Quốc đến Hoa Kỳ dự kiến sẽ gia tăng
Mike O’Sullivan
28.11.2014
San Francisco là điểm dừng chính của du khách Trung Quốc, và một
thoả thuận giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, loan báo tại Bắc Kinh trong tháng
này, hứa hẹn sẽ thu hút thêm du khách từ Trung Quốc sang thăm các nơi ở
Hoa Kỳ.
Các thành phố chính ở duyên hải miền tây Hoa Kỳ là những điểm đến không thể bỏ qua đối với các đoàn du khách Trung Quốc, với các thắng cảnh như cây cầu Golden Gate ở San Francisco. Ông Lý Hồng, người cùng đến đây với cô con gái, có ấn tượng rất mạnh.
Ông Hồng nói cảnh thật là đẹp. Cô con gái ông cho biết đây là lần đầu tiên đến Hoa Kỳ. Theo cô, nước Mỹ thực là xinh đẹp, và không giống như Trung Quốc, nơi các thành phố lớn đều có vấn đề ô nhiễm. Ở đây cô nhìn thấy bầu trời xanh và mây trắng. Cô nói ấn tượng đầu tiên rất tốt đẹp.
Số du khách từ Trung Quốc theo dự kiến sẽ tăng lên kể từ khi có thông báo hồi đầu tháng 11 rằng cả hai nước sẽ gia hạn thị thực ra vào nước nhiều lần cho doanh nhân và du khách từ một năm hiện nay tăng tới mức tối đa là 10 năm.
Ông Harry Chen thuộc công ty Joy Holiday có trụ sở ở San Francisco chuyên tổ chức các ‘tua’ ở châu Á đi thăm các thành phố và thắng cảnh của Hoa Kỳ, gồm cả các công viên quốc gia. Ông nói sự thay đổi trong quy chế về thị thực sẽ có lợi cho nền kinh tế của cả hai nước:
“Và tôi cũng nghĩ rằng đây là một cách tuyệt hảo để hai nền văn hoá học hỏi lẫn nhau, xây dựng tình hữu nghị và sự thông cảm.”
Ba người bạn từ Trung Quốc ngồi trên một ghế dài ở một trong các thắng cảnh của San Francisco, là Cung điện Mỹ thuật, với ngôi nhà xây tròn kiểu Hy Lạp nằm vắt vẻo bên bờ một cái hồ ven biển. Cô Ni Xi từ Thẩm Quyến cho biết cô và các bạn vừa bắt đầu chuyến thăm Hoa Kỳ.
Cô cho biết sẽ ở lại San Francisco suốt ngày, rồi đi thăm Los Angeles, nơi họ sẽ đi mua sắm trong ba hay bốn ngày. Rồi sau đó họ sẽ đi Grand Canyon để viếng cảnh, và Las Vegas để xem các sòng bạc và tham quan đây đó.
Đó là một hành trình thông thường. Trong thời gian ở San Francisco, du khách thích đến các khu phố đặc biệt. Các đoàn du khách ngừng chân ở Haight-Ashbury, thiên đường ma tuý của giới trẻ trong thập niên 1960, và Quận Castro của giới đồng tính luyến ái.
Người hướng dẫn du lịch LanKun Weidner nói du khách Trung Quốc nhận thấy sự đa dạng rất hấp dẫn:
“Bạn được thấy dân chúng từ khắp mọi nơi, rồi thức ăn và kiến trúc, thậm chí cả những phong cách sinh hoạt.”
Khắp thành phố, công ty của cô Linda Lee, có tên là “All About Chinatown” cống hiến các tua đi bộ. Cả du khách Tây phương và Trung Quốc đều tìm hiểu về lịch sử di dân Trung Quốc ở bờ biển miền Tây Hoa Kỳ.
Một số quang cảnh trông rất quen thuộc, ví dụ như một cửa hàng bán thuốc đông y. Một người đàn ông sau quầy đang giã các dược thảo thành bột. Nhưng một số quang cảnh khác rất mới lạ - như một cửa hàng Trung Quốc tí hon sản xuất loại bánh gọi là ‘fortune cookies,’- những chiếc bánh giòn rỗng ruột chứa một mảnh giấy nhỏ đoán vận may - một thức ăn tráng miệng Mỹ gốc Hoa sáng chế ở California.
Cô Linda Lee nói nhiều câu lạc bộ tư nhân ở Chinatown, tức phố Tàu này, rất mới lạ đối với du khách từ Trung Quốc. Một số đã có từ thế kỷ thứ 19 và vẫn là một nơi được bảo tồn:
“Tất cả các câu lạc bộ tư nhân này đều do người Trung Hoa thành lập để tự bảo vệ mình và để họ cảm thấy như ở quê nhà.”
Đó là một phần của câu chuyện về San Francisco, và câu chuyện về nước Mỹ, mà ngày càng nhiều du khách từ Trung Quốc đang trải nghiệm.
Các thành phố chính ở duyên hải miền tây Hoa Kỳ là những điểm đến không thể bỏ qua đối với các đoàn du khách Trung Quốc, với các thắng cảnh như cây cầu Golden Gate ở San Francisco. Ông Lý Hồng, người cùng đến đây với cô con gái, có ấn tượng rất mạnh.
Ông Hồng nói cảnh thật là đẹp. Cô con gái ông cho biết đây là lần đầu tiên đến Hoa Kỳ. Theo cô, nước Mỹ thực là xinh đẹp, và không giống như Trung Quốc, nơi các thành phố lớn đều có vấn đề ô nhiễm. Ở đây cô nhìn thấy bầu trời xanh và mây trắng. Cô nói ấn tượng đầu tiên rất tốt đẹp.
Số du khách từ Trung Quốc theo dự kiến sẽ tăng lên kể từ khi có thông báo hồi đầu tháng 11 rằng cả hai nước sẽ gia hạn thị thực ra vào nước nhiều lần cho doanh nhân và du khách từ một năm hiện nay tăng tới mức tối đa là 10 năm.
Ông Harry Chen thuộc công ty Joy Holiday có trụ sở ở San Francisco chuyên tổ chức các ‘tua’ ở châu Á đi thăm các thành phố và thắng cảnh của Hoa Kỳ, gồm cả các công viên quốc gia. Ông nói sự thay đổi trong quy chế về thị thực sẽ có lợi cho nền kinh tế của cả hai nước:
“Và tôi cũng nghĩ rằng đây là một cách tuyệt hảo để hai nền văn hoá học hỏi lẫn nhau, xây dựng tình hữu nghị và sự thông cảm.”
Ba người bạn từ Trung Quốc ngồi trên một ghế dài ở một trong các thắng cảnh của San Francisco, là Cung điện Mỹ thuật, với ngôi nhà xây tròn kiểu Hy Lạp nằm vắt vẻo bên bờ một cái hồ ven biển. Cô Ni Xi từ Thẩm Quyến cho biết cô và các bạn vừa bắt đầu chuyến thăm Hoa Kỳ.
Cô cho biết sẽ ở lại San Francisco suốt ngày, rồi đi thăm Los Angeles, nơi họ sẽ đi mua sắm trong ba hay bốn ngày. Rồi sau đó họ sẽ đi Grand Canyon để viếng cảnh, và Las Vegas để xem các sòng bạc và tham quan đây đó.
Đó là một hành trình thông thường. Trong thời gian ở San Francisco, du khách thích đến các khu phố đặc biệt. Các đoàn du khách ngừng chân ở Haight-Ashbury, thiên đường ma tuý của giới trẻ trong thập niên 1960, và Quận Castro của giới đồng tính luyến ái.
Người hướng dẫn du lịch LanKun Weidner nói du khách Trung Quốc nhận thấy sự đa dạng rất hấp dẫn:
“Bạn được thấy dân chúng từ khắp mọi nơi, rồi thức ăn và kiến trúc, thậm chí cả những phong cách sinh hoạt.”
Khắp thành phố, công ty của cô Linda Lee, có tên là “All About Chinatown” cống hiến các tua đi bộ. Cả du khách Tây phương và Trung Quốc đều tìm hiểu về lịch sử di dân Trung Quốc ở bờ biển miền Tây Hoa Kỳ.
Một số quang cảnh trông rất quen thuộc, ví dụ như một cửa hàng bán thuốc đông y. Một người đàn ông sau quầy đang giã các dược thảo thành bột. Nhưng một số quang cảnh khác rất mới lạ - như một cửa hàng Trung Quốc tí hon sản xuất loại bánh gọi là ‘fortune cookies,’- những chiếc bánh giòn rỗng ruột chứa một mảnh giấy nhỏ đoán vận may - một thức ăn tráng miệng Mỹ gốc Hoa sáng chế ở California.
Cô Linda Lee nói nhiều câu lạc bộ tư nhân ở Chinatown, tức phố Tàu này, rất mới lạ đối với du khách từ Trung Quốc. Một số đã có từ thế kỷ thứ 19 và vẫn là một nơi được bảo tồn:
“Tất cả các câu lạc bộ tư nhân này đều do người Trung Hoa thành lập để tự bảo vệ mình và để họ cảm thấy như ở quê nhà.”
Đó là một phần của câu chuyện về San Francisco, và câu chuyện về nước Mỹ, mà ngày càng nhiều du khách từ Trung Quốc đang trải nghiệm.
Giá dầu lao dốc sau hội nghị Opec
- 29 tháng 11 2014
Giá
dầu thô Brent đã chạm mức thấp nhất trong vòng bốn năm, ở mức 71,12
đôla một thùng, vào sáng ngày thứ Sáu, trước khi phục hồi về mức mức
trên 73 đôla.
Giá dầu thô Brent trước đã giảm 5 đôla một thùng vào
ngày thứ năm sau khi OPEC thông báo không sẽ không thay đổi kế hoạch
sản xuất sau buổi họp mặt ở Vienna.
12 thành viên OPEC đã quyết định duy trì sản lượng 90 triệu thùng dầu mỗi ngày như đã nhất trí trước đó vào tháng 12 năm 2011.
Giá dầu ở Mỹ đã giảm còn 67.75 đô la một thùng, thấp nhất kể từ tháng năm 2010.
Sau
cuộc họp ở Vienna, Tổng Thư ký OPEC Abdallah Salem el-Badri cho biết tổ
chức này sẽ không tìm cách đẩy giá dầu bằng việc cắt giảm sản lượng.
“Có sự sụt giảm giá, thế nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc chúng ta nên phản ứng nóng vội", ông nói.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2014/11/141129_brent_price_new_low
Trong khi đồng Mỹ Kim cứ lên giá liên tục so với các ngoại tệ chính yếu khác thì đồng Yen của nền kinh tế đứng hàng thứ ba thế giới là Nhật Bản lại sụt giá mạnh và còn có thể sụt nữa. Vì sao lại như vậy và hậu quả cho các nền kinh tế khác trên thế giới sẽ là gì? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu nguyên do và ảnh hưởng của sự chuyển động ấy qua phần phân tích cùa chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Xin quý thính giả theo dõi cách Việt Long nêu vấn đề như sau đây.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng hôm Thứ Ba 17 vừa qua, Thủ tướng Nhật là ông Shinzo Abe loan báo quyết định giải tán Quốc hội để tổ chức bầu cử sớm vào ngày 14 tháng tới. Việc ấy xảy ra sau khi có thống kê xác nhận kinh tế Nhật lại bị suy trầm nữa trong Quý Ba vừa kết thúc vào Tháng Chín. Trước đó, vào ngày 31 Tháng 10, Ngân hàng Trung ương Nhật cũng quyết định sẽ lại bơm thêm tiền theo phương pháp gọi là "gia tăng mức lưu hoạt có hạn định" hay "quantitative easing" gọi tắt là QE với số lượng cực lớn, dự trù là tương đương với hơn 700 tỷ đô la mỗi năm, cho đến khi kinh tế ra khỏi suy trầm hoặc lạm phát lên tới 2% thì mới ngưng.
Việt Long: Chúng ta lần lượt tìm hiểu hiện tượng này để phần nào thấy trước được biến động ấy. Trước hết, xin ông nói về kinh tế Nhật và những lý do khiến tiền Nhật sẽ còn mất giá nữa.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nhật Bản có vấn đề trường kỳ là nạn dân số sút giảm với tỷ trọng rất lớn của người cao niên lớn tuổi – mà người ta gọi là nạn lão hóa dân số. Lý do sâu xa này khiến mức tiêu thụ sút giảm và hàng họ mất giá. Trong khi đó, vì mở ra làm ăn với toàn cầu, kinh tế Nhật vẫn có ưu điểm là nơi đầu tư ổn định khiến thiên hạ trút tiền mua đồng Yen để tìm cơ hội kiếm lời trên thị trường Nhật. Kết hợp hai chuyện 1) dân số và tiêu thụ giảm khiến kinh tế bị nạn giảm phát – disinflation – và 2) nội tệ lên giá dẫn tới hiện tượng giá cả trong nước sụt đều làm người dân càng tiết kiệm và đình hoãn chi tiêu để chờ khi giá hạ hơn nữa. Hoàn cảnh éo le ấy khiến các doanh nghiệp Nhật bị điêu đứng. Đầu tư giảm vì mức lời sụt dẫn tới việc cắt lương và mở ra vòng xoáy lẩn quẩn: lương hạ càng đánh sụt mức tiêu thụ và làm kinh tế đình trệ.
Sự chuyền động lớn này giải thích vì sao kinh tế Nhật bị suy trầm liên tục từ hai thập niên đã qua. Thế rồi, chiếm đa số áp đảo sau cuộc bầu cử vào cuối năm 2012, Chính quyền của Thủ tướng Abe mới áp dụng chánh sách cải cách táo bạo, được gọi là Abemomics, nhắm vào ba hướng gọi là "ba mũi tên". Thứ nhất là cố tình gây lạm phát qua biện pháp tăng chi để bơm tiền vào kinh tế theo cái ý khuyến khích dân chúng hãy mua ngay đi kẻo mai này hàng lên giá. Thứ hai là cải tiến môi trường kinh doanh để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư bằng cách giảm thuế doanh nghiệp, khi đó thuộc loại cao nhất địa cầu. Thứ ba là cải tổ toàn bộ cơ chế kinh tế, xã hội và chính trị Nhật để tìm sức bật mới....
Việc tăng chi chưa có kết quả thì Ngân hàng Trung ương Nhật áp dụng biện pháp tăng mức lưu hoạt, tức là bơm thêm tiền vào kinh tế, với một số lượng tương đối cao gấp đôi Hoa Kỳ. Vì thế mà tiền Nhật mới mất giá. Khi đồng Yen mất giá thì hàng hóa của Nhật lại trở thành rẻ hơn, tức là dễ xuất khẩu hơn, nên sẽ gây sức ép cho các nền kinh tế sống nhờ xuất khẩu, thí dụ như kinh tế Đức và Trung Quốc.
Việt Long: Xin được hỏi ông một câu là vì biện pháp tăng
chi ngân sách, Nhật Bản hiện mắc nợ nhiều nhất, có thể lên tới 250% tổng
sản lượng kinh tế. Thưa ông, đấy không là một vấn đề sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng đấy là một vấn đề, nhất là khi ta nhớ đến khoản tiền lời phải thanh toán, có khi chiếm một tỷ trọng lớn của các khoản chi ngân sách như nếu phân lời đi vay mà lên tới 2% thì tiền lời sẽ lên tới 80% của số tổng thu về thuế khóa.
Nhưng, có một thực tế văn hóa và tâm lý mà mình nên chú ý. Khoản công trái rất cao của Nhật có hai đặc tính. Thứ nhất, tuyệt đại đa số là "nội trái", được yết giá bằng đồng Yen, tức là "Nhật nợ Nhật" chứ không nợ ngoại quốc. Thứ hai, chủ nợ của đa số các khoản nợ ấy lại là Ngân hàng Trung ương Nhật, nghĩa là chủ nợ cũng là chủ nhà in giấy bạc và nhờ vậy có quyền quyết định về phân lời cao thấp khi bơm tiền ra.
Vì thế, thị trường tài chánh Nhật vẫn ổn định và không bị giao động nặng - trong khi dân Nhật bấm bụng bảo nhau cho nhà nước vay tiền trong tinh thần liên đới gọi là "rau cháo có nhau". Khi Trung Quốc càng tỏ vẻ hung hăng đe dọa quyền lợi của Nhật thì người dân Nhật lại càng chịu đựng và hậu thuẫn chính quyền để cố gắng vượt khó khăn kinh tế. Bây giờ ta mới nói đến chuyện ngoại hối là hối suất đồng Yen....
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa là câu chuyện còn rắc rối hơn vậy nếu ta nhìn trong trường kỳ.
Khoảng 40 năm trước, có lúc tiền Nhật quả thật là quá rẻ mà nhiều người đã quên mất rồi vì phải hơn 300 đồng Yen mới ăn một Mỹ Kim. Khi kinh tế toàn cầu bị tổng suy trầm vào các năm 2008-2009 và tiền Mỹ mất giá thì là lúc đồng Yen lên giá, một đô la chưa ăn được 80 Yen vào năm 2011. Nó chỉ bắt đầu sụt vào cuối năm 2012, rồi dập dình cả năm 2013 qua tới 2014 ở mức trăm đồng ăn một Mỹ Kim. Bây giờ mới sụt mạnh và còn sụt nữa, có thể tới 150 hay thậm chí 200 đồng vào một hai năm tới. Nhưng so với cái giá 300 hay 350 vào những năm 1970-1975 thì vẫn chỉ bằng phân nửa mà thôi.
Việt Long: Thưa về lâu dài thì ý nghĩa sẽ ra sao?
Nhìn trong lâu dài thì điều ấy có nghĩa là gì? Là trong khoảng 40 năm, có lúc tiền Nhật tăng giá gấp bốn so với đô la và doanh nghiệp Nhật bị thất thế khi cạnh tranh với doanh nghiệp Hoa Kỳ hay với thiên hạ. Họ phải tìm lợi thế bằng cách khác, chứ không nhờ tiền rẻ mà dễ bán hàng hơn.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin lấy một thí dụ nổi bật nhất là nền kinh tế đứng sau nước Nhật và cũng lệ thuộc mạnh vào xuất khẩu, đó là kinh tế Đức. Sau đó mới tới Nam Hàn và Trung Quốc.
Trong giai đoạn khó khăn sau vụ Tổng suy trầm thì doanh nghiệp Nhật bị mất sức cạnh tranh so với doanh nghiệp Đức, coí thể là mất tới hơn một phần ba trong các năm 2010 đến 2012. Thí dụ như tại Mỹ này thì ta thấy xe hơi của Đức bán chạy hơn xe Nhật. Ngoài lợi thế từ chuyện tiền Nhật lên giá, ta không quên rằng khi đó Trung Quốc dốc sức đầu tư vào khu vực nội địa là xây dựng hạ tầng cơ sở như cầu đường và gia cư địa ốc hơn là xuất khẩu.
Nhờ vậy mà Đức trở thành đầu máy cứu vãn cả khối Euro. Bây giờ, cả hai lợi thế ấy của kinh tế Đức đều hết vì tiền Nhật mất giá và kinh tế Trung Quốc co cụm, mất khả năng nhập khẩu. Khi kinh tế Đức cũng suy trầm như người ta bắt đầu thấy từ tháng trước thì cả Âu Châu sẽ lâm nạn, nhất là khi các nước phải chấp hành chính sách cải tổ hệ thống ngân hàng theo yêu cầu của Hội đồng Ổn định Tài chính.
Việt Long: Phải chăng vì vậy mà hồi nãy ông mới nói đến một trận chiến ngoại tệ giữa các quốc gia khi tiền Nhật sụt giá?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Quả thật là Ngân hàng trung ương của Âu Châu có phản ứng bơm thêm tiền khiến đồng Euro sẽ mất giá. Nam Hàn cũng vừa có động thái hạ lãi suất, y như trường hợp của Trung Quốc. Ít ai nói ra cái chữ dễ sợ là một trận chiến về ngoại tệ nhưng sự thật thì xứ nào cũng kích thích kinh tế qua các biện pháp tiền tệ hay tín dụng với hậu quả là làm giảm tỷ giá đồng bạc so với các ngoại tệ khác. Các nước Á châu hiện lâm vào hoàn cảnh đó.
Khốn nỗi, người ta không thể xuất khẩu lên cung trăng để phục hồi kinh tế mà phải bán hàng cho nhau. Khi kinh tế trì trệ thì các nước nhập khẩu ít hơn và xứ nào sống nhờ xuất khẩu sẽ bị hại nhất vì dù có làm giảm giá đồng bạc thì cũng chưa thoát hiểm mà còn phải trả hóa đơn cao hơn khi mua hàng xứ khác với đồng tiền mất giá. Đấy cũng là bài toán nan giải cho ngân hàng trung ương của Việt Nam.
Một cách chậm rãi, thế giới đang gặp nguy cơ suy sụp nặng một cách cứ tưởng như bất ngờ và ngoài khối công nghiệp hóa, có chín nền kinh tế lớn bị nhiều bất trắc nhất, đó là Trung Quốc, Liên bang Nga, Brazil, Chile, Argentina, Ấn Độ, Indonesia, Turkey và Nam Phi. Ngoại lệ duy nhất vẫn là Hoa Kỳ dù tiền Mỹ lên giá, và hôm qua Thứ Ba 25, bộ Thương mại Hoa Kỳ đã điều chỉnh đà tăng trưởng theo hướng cao hơn.
Việt Long: Ông vừa nói đến sự kiện là "một cách chậm rãi, thế giới đang gặp nguy cơ suy sụp nặng một cách bất ngờ". Cách đây hơn một năm, trong dịp phân tích Hội nghị Ban chấp hành Trung ương kỳ bảy tại Hà Nội, ông có nói đến hiện tượng mà các nhà vật lý gọi là "cát truồi", nghĩa là một cách chậm rãi người ta cứ lặng lẽ tích lũy thêm những yếu tố thất quân bình cho tới khi có sự sụp đổ bất ngờ. Phải chăng, chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng đó khi các nước đều cố hạ giá đồng bạc để thoát hiểm mà rốt cuộc lại kéo nhau vào khủng hoảng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng cái gọi là trật tự kinh tế chính trị của các nước là điều gì đó vô cùng phức tạp vì là kết quả của nhiều động thái khác nhau.
Về trường hợp Việt Nam thì tờ World Affairs vừa có bài bút ký khá dài của nhà báo Michael Totten với đề tựa rất lạ, đó là "Phải chăng đã đến ngày tàn của đảng Cộng sản Việt Nam"? Ra khỏi chuyện Việt Nam thì ta nhớ tới kế hoạch Nga bán năng lượng cho Tầu. Họ tưởng khôn khi nhận tiền bằng đồng Nguyên của Tầu thay vì đô la Mỹ. Nào ngờ dầu thô sụt giá và đồng Nguyên sẽ còn mất giá nữa trong trận chiến ngoại hối sắp tới trong khi đô la lên giá. Kết quả là Nga thu về đồng bạc mất giá trong khi vẫn phải trang trải các khoản nhập khẩu khác bằng tiền Mỹ. Tức là Tổng thống Vladimir Putin có thể hoành hành tại Ukraine và cùng Trung Quốc thì coi thường Hoa Kỳ chứ đang bị thiệt cả hai đầu. Những chuyện như vậy đang chậm rãi xảy ra trước mắt chúng ta mà ít ai chịu để ý!
Việt Long: Xin cảm tạ ông Nghĩa về lời cảnh báo này.
Trận chiến ngoại tệ sắp tới
Trong khi đồng Mỹ Kim cứ lên giá liên tục so với các ngoại tệ chính yếu khác thì đồng Yen của nền kinh tế đứng hàng thứ ba thế giới là Nhật Bản lại sụt giá mạnh và còn có thể sụt nữa. Vì sao lại như vậy và hậu quả cho các nền kinh tế khác trên thế giới sẽ là gì? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu nguyên do và ảnh hưởng của sự chuyển động ấy qua phần phân tích cùa chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Xin quý thính giả theo dõi cách Việt Long nêu vấn đề như sau đây.
Thế giới sẽ gặp biến động về ngoại hối
Việt Long: Xin kính chào ông Nghĩa. Cách đây một tháng, khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đưa ra một dự báo bi quan về tình hình kinh tế toàn cầu, thì trên diễn đàn này ông nói đến việc Mỹ Kim lên giá so với các ngoại tệ khác và nhấn mạnh là thế giới sẽ gặp nhiều biến động về ngoại hối. Từ mấy ngày qua, người ta lại thấy đồng Yen của Nhật sụt giá mạnh so với tiền Mỹ và nhiều loại ngoại tệ khác. Nhật Bản có sản lượng kinh tế đứng hàng thứ ba của thế giới sau Hoa Kỳ và Trung Quốc và là một quốc gia xuất cảng rất mạnh. Khi tiền Nhật sụt giá như vậy thì ảnh hưởng sẽ ra sao cho các nền kinh tế khác? Chúng tôi nêu vấn đề trong mục đích tìm hiểu về những biến động ngoại hối mà ông đã nhắc đến từ tháng trước.Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng hôm Thứ Ba 17 vừa qua, Thủ tướng Nhật là ông Shinzo Abe loan báo quyết định giải tán Quốc hội để tổ chức bầu cử sớm vào ngày 14 tháng tới. Việc ấy xảy ra sau khi có thống kê xác nhận kinh tế Nhật lại bị suy trầm nữa trong Quý Ba vừa kết thúc vào Tháng Chín. Trước đó, vào ngày 31 Tháng 10, Ngân hàng Trung ương Nhật cũng quyết định sẽ lại bơm thêm tiền theo phương pháp gọi là "gia tăng mức lưu hoạt có hạn định" hay "quantitative easing" gọi tắt là QE với số lượng cực lớn, dự trù là tương đương với hơn 700 tỷ đô la mỗi năm, cho đến khi kinh tế ra khỏi suy trầm hoặc lạm phát lên tới 2% thì mới ngưng.
Khi đồng Yen mất giá thì hàng hóa của Nhật lại trở thành rẻ hơn, tức là dễ xuất khẩu hơn, nên sẽ gây sức ép cho các nền kinh tế sống nhờ xuất khẩu, thí dụ như kinh tế Đức và Trung Quốc.Những biến cố dồn dập ấy giải thích vì sao tiền Nhật mất giá so với các ngoại tệ khác như Mỹ Kim hay đồng Euro của Âu Châu. Nếu nhìn trong dài hạn thì việc đồng Yen mất giá là sự chuyển động dễ hiểu với hậu quả có thể là một trận chiến về ngoại tệ giữa các nền kinh tế lớn trên thế giới khiến nhiều quốc gia khác, kể cả Trung Quốc, sẽ lâm vào khó khăn trong các năm tới.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Việt Long: Chúng ta lần lượt tìm hiểu hiện tượng này để phần nào thấy trước được biến động ấy. Trước hết, xin ông nói về kinh tế Nhật và những lý do khiến tiền Nhật sẽ còn mất giá nữa.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nhật Bản có vấn đề trường kỳ là nạn dân số sút giảm với tỷ trọng rất lớn của người cao niên lớn tuổi – mà người ta gọi là nạn lão hóa dân số. Lý do sâu xa này khiến mức tiêu thụ sút giảm và hàng họ mất giá. Trong khi đó, vì mở ra làm ăn với toàn cầu, kinh tế Nhật vẫn có ưu điểm là nơi đầu tư ổn định khiến thiên hạ trút tiền mua đồng Yen để tìm cơ hội kiếm lời trên thị trường Nhật. Kết hợp hai chuyện 1) dân số và tiêu thụ giảm khiến kinh tế bị nạn giảm phát – disinflation – và 2) nội tệ lên giá dẫn tới hiện tượng giá cả trong nước sụt đều làm người dân càng tiết kiệm và đình hoãn chi tiêu để chờ khi giá hạ hơn nữa. Hoàn cảnh éo le ấy khiến các doanh nghiệp Nhật bị điêu đứng. Đầu tư giảm vì mức lời sụt dẫn tới việc cắt lương và mở ra vòng xoáy lẩn quẩn: lương hạ càng đánh sụt mức tiêu thụ và làm kinh tế đình trệ.
Sự chuyền động lớn này giải thích vì sao kinh tế Nhật bị suy trầm liên tục từ hai thập niên đã qua. Thế rồi, chiếm đa số áp đảo sau cuộc bầu cử vào cuối năm 2012, Chính quyền của Thủ tướng Abe mới áp dụng chánh sách cải cách táo bạo, được gọi là Abemomics, nhắm vào ba hướng gọi là "ba mũi tên". Thứ nhất là cố tình gây lạm phát qua biện pháp tăng chi để bơm tiền vào kinh tế theo cái ý khuyến khích dân chúng hãy mua ngay đi kẻo mai này hàng lên giá. Thứ hai là cải tiến môi trường kinh doanh để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư bằng cách giảm thuế doanh nghiệp, khi đó thuộc loại cao nhất địa cầu. Thứ ba là cải tổ toàn bộ cơ chế kinh tế, xã hội và chính trị Nhật để tìm sức bật mới....
Việc tăng chi chưa có kết quả thì Ngân hàng Trung ương Nhật áp dụng biện pháp tăng mức lưu hoạt, tức là bơm thêm tiền vào kinh tế, với một số lượng tương đối cao gấp đôi Hoa Kỳ. Vì thế mà tiền Nhật mới mất giá. Khi đồng Yen mất giá thì hàng hóa của Nhật lại trở thành rẻ hơn, tức là dễ xuất khẩu hơn, nên sẽ gây sức ép cho các nền kinh tế sống nhờ xuất khẩu, thí dụ như kinh tế Đức và Trung Quốc.
Đồng đôla Mỹ và euro Âu Châu. AFP PHOTO.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng đấy là một vấn đề, nhất là khi ta nhớ đến khoản tiền lời phải thanh toán, có khi chiếm một tỷ trọng lớn của các khoản chi ngân sách như nếu phân lời đi vay mà lên tới 2% thì tiền lời sẽ lên tới 80% của số tổng thu về thuế khóa.
Nhưng, có một thực tế văn hóa và tâm lý mà mình nên chú ý. Khoản công trái rất cao của Nhật có hai đặc tính. Thứ nhất, tuyệt đại đa số là "nội trái", được yết giá bằng đồng Yen, tức là "Nhật nợ Nhật" chứ không nợ ngoại quốc. Thứ hai, chủ nợ của đa số các khoản nợ ấy lại là Ngân hàng Trung ương Nhật, nghĩa là chủ nợ cũng là chủ nhà in giấy bạc và nhờ vậy có quyền quyết định về phân lời cao thấp khi bơm tiền ra.
Vì thế, thị trường tài chánh Nhật vẫn ổn định và không bị giao động nặng - trong khi dân Nhật bấm bụng bảo nhau cho nhà nước vay tiền trong tinh thần liên đới gọi là "rau cháo có nhau". Khi Trung Quốc càng tỏ vẻ hung hăng đe dọa quyền lợi của Nhật thì người dân Nhật lại càng chịu đựng và hậu thuẫn chính quyền để cố gắng vượt khó khăn kinh tế. Bây giờ ta mới nói đến chuyện ngoại hối là hối suất đồng Yen....
Nguy cơ suy sụp
Việt Long: Như ông vừa trình bày thì có phải chăng là việc tiền Nhật mất giá là một hiện tượng có những lý do sâu xa và lâu dài hay không?Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa là câu chuyện còn rắc rối hơn vậy nếu ta nhìn trong trường kỳ.
Khoảng 40 năm trước, có lúc tiền Nhật quả thật là quá rẻ mà nhiều người đã quên mất rồi vì phải hơn 300 đồng Yen mới ăn một Mỹ Kim. Khi kinh tế toàn cầu bị tổng suy trầm vào các năm 2008-2009 và tiền Mỹ mất giá thì là lúc đồng Yen lên giá, một đô la chưa ăn được 80 Yen vào năm 2011. Nó chỉ bắt đầu sụt vào cuối năm 2012, rồi dập dình cả năm 2013 qua tới 2014 ở mức trăm đồng ăn một Mỹ Kim. Bây giờ mới sụt mạnh và còn sụt nữa, có thể tới 150 hay thậm chí 200 đồng vào một hai năm tới. Nhưng so với cái giá 300 hay 350 vào những năm 1970-1975 thì vẫn chỉ bằng phân nửa mà thôi.
Việt Long: Thưa về lâu dài thì ý nghĩa sẽ ra sao?
Nhìn trong lâu dài thì điều ấy có nghĩa là gì? Là trong khoảng 40 năm, có lúc tiền Nhật tăng giá gấp bốn so với đô la và doanh nghiệp Nhật bị thất thế khi cạnh tranh với doanh nghiệp Hoa Kỳ hay với thiên hạ. Họ phải tìm lợi thế bằng cách khác, chứ không nhờ tiền rẻ mà dễ bán hàng hơn.
Một cách chậm rãi, thế giới đang gặp nguy cơ suy sụp nặng một cách cứ tưởng như bất ngờ và ngoài khối công nghiệp hóa.Việt Long: Bây giờ ta mới nhìn qua xứ khác. Thưa ông, đồng Yen mà mất giá như vậy thì hậu quả sẽ là thế nào với các nước khác?
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin lấy một thí dụ nổi bật nhất là nền kinh tế đứng sau nước Nhật và cũng lệ thuộc mạnh vào xuất khẩu, đó là kinh tế Đức. Sau đó mới tới Nam Hàn và Trung Quốc.
Trong giai đoạn khó khăn sau vụ Tổng suy trầm thì doanh nghiệp Nhật bị mất sức cạnh tranh so với doanh nghiệp Đức, coí thể là mất tới hơn một phần ba trong các năm 2010 đến 2012. Thí dụ như tại Mỹ này thì ta thấy xe hơi của Đức bán chạy hơn xe Nhật. Ngoài lợi thế từ chuyện tiền Nhật lên giá, ta không quên rằng khi đó Trung Quốc dốc sức đầu tư vào khu vực nội địa là xây dựng hạ tầng cơ sở như cầu đường và gia cư địa ốc hơn là xuất khẩu.
Nhờ vậy mà Đức trở thành đầu máy cứu vãn cả khối Euro. Bây giờ, cả hai lợi thế ấy của kinh tế Đức đều hết vì tiền Nhật mất giá và kinh tế Trung Quốc co cụm, mất khả năng nhập khẩu. Khi kinh tế Đức cũng suy trầm như người ta bắt đầu thấy từ tháng trước thì cả Âu Châu sẽ lâm nạn, nhất là khi các nước phải chấp hành chính sách cải tổ hệ thống ngân hàng theo yêu cầu của Hội đồng Ổn định Tài chính.
Việt Long: Phải chăng vì vậy mà hồi nãy ông mới nói đến một trận chiến ngoại tệ giữa các quốc gia khi tiền Nhật sụt giá?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Quả thật là Ngân hàng trung ương của Âu Châu có phản ứng bơm thêm tiền khiến đồng Euro sẽ mất giá. Nam Hàn cũng vừa có động thái hạ lãi suất, y như trường hợp của Trung Quốc. Ít ai nói ra cái chữ dễ sợ là một trận chiến về ngoại tệ nhưng sự thật thì xứ nào cũng kích thích kinh tế qua các biện pháp tiền tệ hay tín dụng với hậu quả là làm giảm tỷ giá đồng bạc so với các ngoại tệ khác. Các nước Á châu hiện lâm vào hoàn cảnh đó.
Khốn nỗi, người ta không thể xuất khẩu lên cung trăng để phục hồi kinh tế mà phải bán hàng cho nhau. Khi kinh tế trì trệ thì các nước nhập khẩu ít hơn và xứ nào sống nhờ xuất khẩu sẽ bị hại nhất vì dù có làm giảm giá đồng bạc thì cũng chưa thoát hiểm mà còn phải trả hóa đơn cao hơn khi mua hàng xứ khác với đồng tiền mất giá. Đấy cũng là bài toán nan giải cho ngân hàng trung ương của Việt Nam.
Một cách chậm rãi, thế giới đang gặp nguy cơ suy sụp nặng một cách cứ tưởng như bất ngờ và ngoài khối công nghiệp hóa, có chín nền kinh tế lớn bị nhiều bất trắc nhất, đó là Trung Quốc, Liên bang Nga, Brazil, Chile, Argentina, Ấn Độ, Indonesia, Turkey và Nam Phi. Ngoại lệ duy nhất vẫn là Hoa Kỳ dù tiền Mỹ lên giá, và hôm qua Thứ Ba 25, bộ Thương mại Hoa Kỳ đã điều chỉnh đà tăng trưởng theo hướng cao hơn.
Việt Long: Ông vừa nói đến sự kiện là "một cách chậm rãi, thế giới đang gặp nguy cơ suy sụp nặng một cách bất ngờ". Cách đây hơn một năm, trong dịp phân tích Hội nghị Ban chấp hành Trung ương kỳ bảy tại Hà Nội, ông có nói đến hiện tượng mà các nhà vật lý gọi là "cát truồi", nghĩa là một cách chậm rãi người ta cứ lặng lẽ tích lũy thêm những yếu tố thất quân bình cho tới khi có sự sụp đổ bất ngờ. Phải chăng, chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng đó khi các nước đều cố hạ giá đồng bạc để thoát hiểm mà rốt cuộc lại kéo nhau vào khủng hoảng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng cái gọi là trật tự kinh tế chính trị của các nước là điều gì đó vô cùng phức tạp vì là kết quả của nhiều động thái khác nhau.
Về trường hợp Việt Nam thì tờ World Affairs vừa có bài bút ký khá dài của nhà báo Michael Totten với đề tựa rất lạ, đó là "Phải chăng đã đến ngày tàn của đảng Cộng sản Việt Nam"? Ra khỏi chuyện Việt Nam thì ta nhớ tới kế hoạch Nga bán năng lượng cho Tầu. Họ tưởng khôn khi nhận tiền bằng đồng Nguyên của Tầu thay vì đô la Mỹ. Nào ngờ dầu thô sụt giá và đồng Nguyên sẽ còn mất giá nữa trong trận chiến ngoại hối sắp tới trong khi đô la lên giá. Kết quả là Nga thu về đồng bạc mất giá trong khi vẫn phải trang trải các khoản nhập khẩu khác bằng tiền Mỹ. Tức là Tổng thống Vladimir Putin có thể hoành hành tại Ukraine và cùng Trung Quốc thì coi thường Hoa Kỳ chứ đang bị thiệt cả hai đầu. Những chuyện như vậy đang chậm rãi xảy ra trước mắt chúng ta mà ít ai chịu để ý!
Việt Long: Xin cảm tạ ông Nghĩa về lời cảnh báo này.
HOA KỲ VÀ TRUNG QUỐC

Trung Quốc phản công, Mỹ sẵn sàng chưa?
Không ảnh chụp hoạt động tân tạo của Trung Quốc ở Đá Chữ Thập
Courtesy of IHS
Phía nam, chỉ xâm lấn Việt Nam, vì sao?
Hôm thứ ba Philippines bất chấp lời kêu gọi của Trung Quốc, đã đưa
ra toà xét xử 9 ngư dân Trung Quốc đánh bắt rùa biển trong hải phận
tranh chấp, tuyên phạt mỗi người 102 ngàn đô la hoặc phải chịu 6 tháng
tù. Hình như Việt Nam chưa làm như vậy bao giờ, trong khi Trung Quốc
vẫn bắt giữ tàu cá và ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc. Lý do vì sao?
Có thể là vì giữa Việt Nam với Trung Quốc còn có mối quan hệ giữa hai
đảng Cộng sản cầm quyền. Hai nước đã nỗ lực giải quyết vấn đề tranh
chấp lãnh thổ, lãnh hải dựa trên mối quan hệ đó hơn là trên căn bản mối
quan hệ ngoại giao thông thường.
Khi đã giải quyết một cách khác thường như vậy thì cũng có thể có những cam kết khác thường mà ngoài hai đảng Cộng sản ra không ai được biết.
Khi đã giải quyết một cách khác thường như vậy thì cũng có thể có những cam kết khác thường mà ngoài hai đảng Cộng sản ra không ai được biết.
Nhưng giả sử có sự cam kết như vậy thì vì sao phía Trung Quốc vẫn bắt
giữ tàu cá và ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc mà không cần một phán
quyết tư pháp nào, và Việt Nam phải đóng tiền mới chuộc được dân của
mình về?
Thực ra, không thể đoan chắc hai bên có cam kết điều gì và cam kết ra
sao; nhưng hành động độc đoán như vậy của Trung Quốc mới cho thấy rõ
bản chất hiếp bức nước nhỏ của một xứ chuyên hành xử theo kiểu bá quyền
nước lớn. Và qua đó người ta cũng thấy cái thế khó xử của Việt Nam, ở vị
thế một nước nhỏ yếu hơn nhiều mà lại nằm vào vị trí “môi hở răng
lạnh”, luôn luôn hứng chịu mọi sự áp chế từ hằng ngàn năm nay.
Tuy nhiên, nhìn lại, Miến Điện cũng ở vào vị trí sát cạnh nước lớn
Trung Quốc không khác gì Việt Nam, nhưng tại sao Bắc Kinh không hiếp bức
được như đối với Việt Nam?
Vị trí địa lý và mối quan hệ giữa Miến Điện với Trung Quốc, so với
quan hệ Trung Quốc-Việt Nam xem ra có những điểm khác biệt rất căn bản.
Trước hết về yếu tố địa chính trị, Miến Điện không nằm ở vị trí chắn
đường thuỷ lộ và vùng biển phía nam của Trung Quốc.
Địa thế biên giới Miến-Hoa rất hiểm trở, không dễ tiến quân xâm chiếm. Miến Điện vốn là một vương quốc hùng mạnh, nhiều lần có chiến tranh với Thái Lan. Cho đến thế kỷ trước Trung Quốc cũng chưa phát triển được như ngày nay, nên mãi đến nay Trung Quốc mới nhắm vào Miến Điện vì cần đầu tư vào những đập thủy điện ở Miến, và muốn có những căn cứ nhìn ra Ấn Độ Dương.
Địa thế biên giới Miến-Hoa rất hiểm trở, không dễ tiến quân xâm chiếm. Miến Điện vốn là một vương quốc hùng mạnh, nhiều lần có chiến tranh với Thái Lan. Cho đến thế kỷ trước Trung Quốc cũng chưa phát triển được như ngày nay, nên mãi đến nay Trung Quốc mới nhắm vào Miến Điện vì cần đầu tư vào những đập thủy điện ở Miến, và muốn có những căn cứ nhìn ra Ấn Độ Dương.
Trong khi đó giữa Việt Nam với Trung Quốc, ngày nay thì mang nặng mối
quan hệ giữa hai đảng Cộng sản, và từ xưa đã có những đặc tính văn hoá,
xã hội, văn minh, chủng tộc gần gũi. Dân tộc Lạc Việt vốn thuộc giòng
Bách Việt, là chủng tộc phát xuất từ chủng cổ Mã Lai (Indonésien- theo
Pháp Ngữ) là giống người giỏi nghề biển, thạo nghề rừng, từng chiếm hữu
từ quần đảo Indonesia đến tận bờ nam sông Dương tử.
Chủng Cổ Mã Lai của giòng Bách Việt về sau lại hoà nhập với Đại chủng
Á từ phía bắc sông Dương Tử tràn xuống, từ khoảng thời gian cách nay
chừng 5 ngàn năm, thành chủng Nam Á. Qua mấy ngàn năm giòng Bách Việt và
chủng Nam Á bị dân tộc Trung Hoa từ phía bắc thôn tính và đồng hoá dần,
chỉ còn lại xứ Đại Việt giữ được giòng giống và lãnh thổ ở miền Bắc
Việt Nam ngày nay, là phần còn lại của xứ Âu lạc sau thời gian bị đẩy
lùi xa về phía nam.
Vào thời kỳ đó các dân tộc ở từ địa giới Chiêm Thành trở đi, cả cao nguyên miền Trung Việt Nam ngày nay với Thuỷ Lục Chân Lạp và Nam Thái, Miến Điện... vẫn thuộc chủng Cổ Mã Lai, mãi về sau Tây nguyên, Chiêm Thành, Thuỷ Chân Lạp mới hoà nhập với dân tộc Việt.
Vào thời kỳ đó các dân tộc ở từ địa giới Chiêm Thành trở đi, cả cao nguyên miền Trung Việt Nam ngày nay với Thuỷ Lục Chân Lạp và Nam Thái, Miến Điện... vẫn thuộc chủng Cổ Mã Lai, mãi về sau Tây nguyên, Chiêm Thành, Thuỷ Chân Lạp mới hoà nhập với dân tộc Việt.
Dân tộc Việt và dân tộc Nam Trung Hoa có nguồn gốc chủng tộc gần gũi
như vậy, nên người Trung Hoa luôn luôn muốn thu phục chủng tộc Việt mà
họ coi là dân Bách Việt thoát ly sự đồng hoá. Ngược lại, người Việt
không hề coi mình là đồng chủng với Trung Hoa, khi cao nguyên Tây bắc và
Trung phần vẫn có cư dân gần như thuần chủng cổ Mã Lai.
Và do đó vào những thời kỳ hưng thịnh và chiến thắng như trong triều đại ngắn ngủi của vua Quang Trung, nhà vua cũng từng ngỏ ý muốn chiếm lại lãnh thổ cổ xưa của Việt tộc từ Lưỡng Quảng rồi lựa thế lấn dần tới bắc Hồ Nam, vì cổ sử của Việt Nam ghi rõ Động Đình Hồ trên sông Dương tử là nơi phát xuất truyền thuyết Lạc Long Quân.
Và do đó vào những thời kỳ hưng thịnh và chiến thắng như trong triều đại ngắn ngủi của vua Quang Trung, nhà vua cũng từng ngỏ ý muốn chiếm lại lãnh thổ cổ xưa của Việt tộc từ Lưỡng Quảng rồi lựa thế lấn dần tới bắc Hồ Nam, vì cổ sử của Việt Nam ghi rõ Động Đình Hồ trên sông Dương tử là nơi phát xuất truyền thuyết Lạc Long Quân.
Như vậy ta mới thấy mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc rất tế nhị và
cũng rất phức tạp, vừa thân thiết như cùng huyết thống vừa hận thù nhau
truyền kiếp, khiến Việt Nam luôn luôn phải chịu cái ách và phải giải cái
ách bành trướng xâm lấn của Trung Quốc từ ngày lập nước Văn Lang cách
nay mấy ngàn năm.
Không thể chung đường
Dù sao chăng nữa, đó cũng không phải lý do Trung Quốc đòi cưỡng chiếm
cả biển Đông, và không phải chỉ biển Đông mà còn cả thị trường châu Á
và xa hơn nữa, theo con đường tơ lụa thế kỷ 21 mà Bắc Kinh đang quảng
bá.
Muốn thế, Trung Quốc phải tìm mọi cách không chế Nhật Bản và đẩy bật
ảnh hưởng kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ ra khỏi châu Á. Có phải nhân lúc
Hoa Kỳ vướng bận ở Trung Đông và Ukraine, mà Chủ tịch Tập Cận Bình vừa
khai mào cuộc phản công ở hai hội nghị thượng đỉnh APEC và G-20? Trong
khi Hoa Kỳ còn “mắc cạn” với Hiệp định TPP cho thị trường tự do châu Á
Thái Bình Dương thì ông Tập Cận Bình tung ra đề nghị về FTAAP tạo thị
trường tự do cho cả 21 quốc gia APEC.
Sau đó ở Brisbane, Australia, hai
nhà lãnh đạo Úc-Hoa hân hoan công bố hiệp ước thị trường tự do song
phương, trong ý đồ rõ ràng của Bắc Kinh nhằm lôi kéo châu Đại dương ra
khỏi mối quan hệ với Hoa Kỳ cùng liên minh quân sự Mỹ-Nhật-Úc-Ấn được
cho là đang manh nha hình thành.
Tử những hành động của Trung Quốc, khung cảnh thế giới ngày nay tựa
như tình hình thế giới hồi gần giữa thế kỷ 20 khi các thế lực quân sự
kinh tế hùng mạnh đi đến chỗ đối đầu nhau, tranh giành thuộc địa, giành
thị trường, nguồn nguyên liệu, khởi phát chiến tranh...
Nhưng vẫn còn mối hy vọng rằng ngày nay thế giới đã học được nhiều
bài học lớn về chiến tranh trong thế kỷ 20, con người cũng lãnh hội được
bài học về tinh thần thực tế, không đặt nặng lý tưởng về chủ nghĩa, hay
quốc gia, chủng tộc, tôn giáo.
Tinh thần thực tế là ý hướng theo đuổi cuộc sống hoà bình, thịnh vượng, hạnh phúc bằng mọi cách, mọi giá, không đặt nặng tự ái dân tộc, quốc gia, chỉ nhắm tới phúc lợi kinh tế và cuộc sống hưng vượng. Ngoại trừ những khu vực ở Trung Đông và Phi châu còn bị kích động và ép buộc bởi những kẻ hoạt đầu chính trị, tôn giáo cực đoan, còn hầu hết Âu Á Mỹ chỉ nhắm đến cạnh tranh kinh tế trong hoà bình như mục tiêu hàng đầu.
Tinh thần thực tế là ý hướng theo đuổi cuộc sống hoà bình, thịnh vượng, hạnh phúc bằng mọi cách, mọi giá, không đặt nặng tự ái dân tộc, quốc gia, chỉ nhắm tới phúc lợi kinh tế và cuộc sống hưng vượng. Ngoại trừ những khu vực ở Trung Đông và Phi châu còn bị kích động và ép buộc bởi những kẻ hoạt đầu chính trị, tôn giáo cực đoan, còn hầu hết Âu Á Mỹ chỉ nhắm đến cạnh tranh kinh tế trong hoà bình như mục tiêu hàng đầu.
Tuy vậy, trở lại vấn đề biển Đông, người ta thấy có nhiều điều kém
lạc quan vì chính sách bành trướng ngang nhiên của Trung Quốc.
Tuần qua Philippines đã hành động rất tế nhị và khôn khéo. Khi đưa
ngư dân Trung Quốc ra tòa xử, Philippines đã giữ được thể diện quốc gia
và cho Trung Quốc thấy rõ lập trường bảo vệ chủ quyền, đồng thời khi
tuyên phán một bản án để có thể thả ngay các bị cáo, Manila vẫn tỏ ra
chấp thuận và thi hành yêu cầu của Bắc Kinh đòi trả tự do vô điều kiện
cho ngư dân của họ.
Tuy nhiên, nói đến cạnh tranh hoà bình, người ta thấy những hành động
nhằm giải quyết hoà bình của Philippines và Việt Nam không hề ngăn được
Trung Quốc trong sách lược vươn cánh tay dài ra tới Trường Sa, nằm
trong chiến lược bành trướng xa hơn nữa để thực hiện con đường tơ lụa
thế kỷ 21. Trung Quốc đang bồi đắp đá Chữ Thập mà họ chiếm của Việt Nam ở
Trường Sa thành căn cứ có sân bay và hải cảng, cùng lúc cũng tân tạo
nhiều cồn đá thành đảo lớn và những căn cứ kiên cố ở giữa Trường Sa, sau
khi Đài Loan tái tạo đảo Ba Bình thành căn cứ quân sự có đường băng cho
máy bay lên xuống.
Cùng lúc, tại Diễn đàn Hương Sơn ở Bắc Kinh, Trung Quốc cao giọng quảng bá cho cái gọi là cấu trúc an ninh mới dựa trên quan niệm "người châu Á lo việc an ninh cho châu Á".
Mùi khói súng?
Song song với màn khai pháo kinh tế thương mại ở thượng đỉnh APEC và
G-20, có phải Bắc Kinh đang mở màn trận phản công chiến lược và quyết
đẩy Hoa Kỳ ra khỏi châu Á?
Hoa Kỳ dường như đã dự phòng tình huống nay từ khi thực thi chiến
lược chuyển trục sang châu Á. Nhưng Bộ trưởng quốc phòng Chuck Hagel lại
vừa từ chức sau những trì trệ về an ninh quốc phòng ở Iraq,
Afghanistan, giữa lúc Liên Bang Nga quyết tâm giành chiếm Crimea và đông
Ukraine. Bộ trưởng Hagel là người thay mặt cho Hoa Kỳ khẳng định chính
sách chuyển trục sang châu Á trong những lúc hành pháp Mỹ không rảnh tay
để khẳng định lập trường ở những hội nghị liên quan đến an ninh quốc
phòng châu Á. Sự ra đi của ông khiến dậy lên mối lo ngại Hoa Kỳ lơ là
vói châu Á vì tình hình Trung Đông và Ukraine.
Tuy nhiên, xét lại, chính sách chuyển trục ấy đã được hình thành từ
đầu nhiệm kỳ của Tổng thống Obama, nhưng chỉ được chính thức công bố
cách nay ba năm. Bộ trưởng Hagel từng thay mặt hành pháp Mỹ khẳng định
chính sách chuyển trục, chính điều đó đã nói lên rằng Hoa Kỳ không lúc
nào lơ là với châu Á.
Vậy phải chăng nay là lúc Hoa Kỳ điều chỉnh, củng cố chiến lược an
ninh quốc phòng để hỗ trợ chính sách kinh tế thương mại nhằm giành thị
trường ở châu Á, đối đầu với Trung Quốc, đồng thời củng cố phòng thủ
châu Âu?
Mùi khói súng dường như phảng phất đâu đây. Trung Quốc phát triển
hùng mạnh và nhanh chóng không khác Đức, Nhật thời xưa, gợi lại ký ức
rất mới của loài người về những cuộc chiến tranh giành chiếm thuộc địa
và thị trường từ cuối thập niên 1930. Đức vươn nhanh như Phù Đổng chỉ
trong hơn hai thập niên sau thể chiến thứ nhất, rồi khai chiến ở châu
Âu, sau đó Nhật tung quân chiếm các thuộc địa của Anh-Pháp-Mỹ ở Đông Nam
Á, các hạm đội hàng không mẫu hạm dưới bóng cờ Mặt Trời tung hoành khắp
Thái Bình Dương...
Cho đến năm 1945 thì khởi đầu cuộc chiến tranh lạnh, mà Việt Nam là một xứ sở nạn nhân đau thương nhất, mãi đến 1975 mới tắt đi mồi lửa nồi da xáo thịt. Nhưng người Việt lại tiếp tục đổ máu vì Trung Quốc, do hậu quả của những sai lầm tồn tại từ thời chiến tranh lạnh, trong khi mối thương đau của cả dân tộc chưa hề có dấu hiệu ngưng lành.
Cho đến năm 1945 thì khởi đầu cuộc chiến tranh lạnh, mà Việt Nam là một xứ sở nạn nhân đau thương nhất, mãi đến 1975 mới tắt đi mồi lửa nồi da xáo thịt. Nhưng người Việt lại tiếp tục đổ máu vì Trung Quốc, do hậu quả của những sai lầm tồn tại từ thời chiến tranh lạnh, trong khi mối thương đau của cả dân tộc chưa hề có dấu hiệu ngưng lành.
Tập Cận Bình muốn áp đặt luật chơi trên trường quốc tế như thế nào ?
Thụy My, theo Le Figaro/ blog Thụy My
Ảnh bên:Tập Cận Bình luôn nuôi mộng vượt qua Mỹ, thành đại cường hàng đầu thế giới
Theo nhật báo Le Figaro, người đứng đầu Trung Quốc đang tập trung quyền lực trong tay nhằm đạt cho được các tham vọng.
Lần đầu tiên từ mười năm qua, Bắc Kinh là chủ nhà hội nghị thượng đỉnh
APEC vào đầu tháng 11. Chủ tịch Trung Quốc đã sắp đặt mọi thứ sẵn sàng
trước hội nghị quan trọng này.
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương gồm 21 nước thành viên ; trong đó có Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản ; chiếm 40% dân số thế giới và 46% trao đổi thương mại toàn cầu. Tập Cận Bình, vốn đã chú tâm củng cố quyền lực từ khi lên làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) kiêm Chủ tịch nước cách đây gần hai năm, ngự trị trong các buổi tiếp tân trong lớp áo của vị hoàng đế đỏ, hiện thân của sức mạnh nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Trong dịp này, dân Bắc Kinh được nghỉ sáu ngày…để cho bầu trời không còn bị ô nhiễm và không làm ảnh hưởng đến « sự hài hòa » được tuyên truyền lâu nay. Chủ tịch Trung Quốc chú tâm giảm bớt tình hình căng thẳng ở các địa phương, nhằm trưng ra hình ảnh một cường quốc không còn mặc cảm và có tinh thần trách nhiệm.
Từ ba mươi năm qua, Trung Quốc nhấn mạnh đến « sự cất cánh hòa bình ». Từ ngữ này đã biến mất trong các bài diễn văn chính thức. François Godement, giám đốc chương trình Châu Á- Trung Quốc của European Council on Foreign Relation nhận xét : « Bắc Kinh không còn nói về sự hài hòa trong quan hệ quốc tế, cũng như việc dân chủ hóa đối với vai trò của các nước nhỏ ».
Trong ba thập kỷ, Trung Quốc đã làm theo khuyến cáo của Đặng Tiểu Bình, cha đẻ chính sách cải cách kinh tế, « giấu đi những gì sáng chói và gắn bó với những góc tối » trong chính sách đối ngoại. Nay thì Tập Cận Bình muốn đảm bảo « giấc mơ Trung Hoa », đó là sự hùng cường và vị thế vừa tìm lại được.
1) Phải chăng người đứng đầu Trung Quốc từ nay kiểm soát được tất cả các đòn bẩy quyền lực?
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành trung ương ĐCSTQ được đánh dấu với ý hướng của Tập Cận Bình : nắm lại một nền tư pháp bị suy yếu bởi nạn thông đồng lợi ích ở địa phương. Đây không phải là việc xây dựng một nền tư pháp độc lập, nhưng là việc tập trung hóa, tách rời khỏi ảnh hưởng địa phương, với nét mới là cho phép kháng cáo.
Biện pháp này nằm trong chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình, tăng cường dấu ấn của ông ta lên chế độ. Trong hai năm, ông Tập đã lập ra vô số các ủy ban mà ông ta là chủ tịch : quốc phòng, an ninh, kiểm soát internet, cải cách kinh tế…không có lãnh vực quan trọng nào thoát tầm tay của ông Tập cả.
Tập Cận Bình là lãnh đạo Trung Quốc được báo chí nhà nước nêu tên nhiều nhất kể từ thời người sáng lập chế độ là Mao Trạch Đông đến nay. Nhiều nhà quan sát khẳng định sau Người cầm lái vĩ đại, chưa có lãnh đạo nào khác thâu tóm bằng ấy quyền lực. François Godement xác nhận : « Người Trung Quốc nói rằng mọi con đường đều dẫn đến cá nhân Tập Cận Bình ». Chính sách đối ngoại cũng không thoát khỏi quy luật này, và từ nay được điều phối ở cấp Hội đồng An ninh Quốc gia do ông Tập lãnh đạo.
2) Sự liên minh với nước Nga của ông Putin có là điều đáng ngại cho phương Tây ?
Ngay từ cuộc gặp đầu tiên với Tổng thống Nga, Tập Cận Bình đã thổ lộ là cá tính hai người có rất nhiều điểm chung…tuy không nói rõ là những điểm gì. Họ cùng sùng bái quyền lực độc đoán, cùng thống nhất với nhau trong việc chối từ các giá trị phương Tây (dân chủ, nhân quyền, tự do), và trong nỗi hoài nhớ đế chế Liên Xô cũ. Trong một bài diễn văn, Tập bày tỏ sự tiếc nuối là không ai ở Liên Xô có can đảm chặn lại sự sụp đổ của hệ thống xô-viết và sự tan rã của đế chế này.
Các biện pháp trừng phạt Matxcơva của phương Tây do cuộc khủng hoảng Ukraina, đã khiến Nga vội gieo mình vào cánh tay Trung Quốc, đang đói năng lượng và nhờ đó có được khách hàng mới. François Godement ghi nhận : « Trung Quốc nhận ra điểm yếu của Liên hiệp châu Âu và Hoa Kỳ trong cuộc khủng hoảng này, thấy đây là cơ hội để thủ lợi về kinh tế mà chẳng mất mát gì cả ».
Các lãnh đạo phương Tây hiện không cảm thấy là đáng ngại. Một nhà ngoại giao cho rằng đây không phải là « một sự xích lại gần lâu bền. Trung Quốc đã tiến xa hơn so với Nga. Đây là một liên minh ý thức hệ cơ hội, chống lại những gì đến từ phương Tây ».
3) Trung Quốc vẫn luôn đối đầu với Hoa Kỳ ?
Tập Cận Bình đã có cuộc gặp song phương với Barack Obama bên lề thượng đỉnh APEC. Ngoại trưởng Mỹ John Kerry trước đó đã tiếp Dương Khiết Trì, cựu Ngoại trưởng này là cố vấn Nhà nước Trung Quốc tại Boston, để làm giảm nhẹ căng thẳng Mỹ-Trung trước cuộc gặp.
Cho rằng đã tiến quá nhanh, Bắc Kinh không còn chấp nhận danh sách các nhà ly khai mà các vị khách Mỹ đưa ra đòi trả tự do. Và các lãnh đạo Trung Quốc cũng không ngần ngại công khai nói lên những bất đồng với Washington. Các chủ đề không thiếu : cuộc khủng hoảng Hồng Kông, nhân quyền, căng thẳng tại Biển Đông và Biển Hoa Đông với các láng giềng Đông Nam Á và Đông Bắc Á, tin tặc.
François Godement khẳng định : « Trung Quốc chấp nhận nguyên tắc đối đầu chiến lược với Hoa Kỳ. Bắc Kinh ý thức được rằng dù tầm mức không bằng Washington, nhưng cho rằng thời gian sẽ đứng về phía mình »…Sự suy yếu của phương Tây làm tăng nhanh tốc độ đi lên của Trung Quốc, mà nền kinh tế có thể gấp đôi so với Hoa Kỳ vào năm 2030 theo một số ước đoán. Đại cường này lúc đó có thể trở nên mờ nhạt hơn.
4) Phải chăng các nước láng giềng châu Á có lý, khi lo sợ tham vọng lãnh thổ của Bắc Kinh ?
Các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc đáp ứng một mệnh lệnh bên trong của ĐCSTQ : vượt qua tất cả các dạng cạnh tranh nội bộ về dân tộc chủ nghĩa, và sử dụng làm công cụ để thay thế cho ý thức hệ cộng sản quá cố. Từ khi Tập Cận Bình lên ngôi, Trung Quốc đã khiến cho đa số các nước láng giềng ở Biển Đông lo ngại.
Tháng 11/2013, Bắc Kinh đã gây ra bão ngoại giao khi đơn phương quy định vùng nhận dạng phòng không trên phần lớn Biển Hoa Đông, bao trùm cả quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đang do Nhật Bản kiểm soát nhưng Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền.
Tháng 5/2014, Trung Quốc cho kéo một giàn khoan đến vùng biển Hoàng Sa, Việt Nam, gây ra khủng hoảng nghiêm trọng với Hà Nội. Bắc Kinh liên tục tiến hành các hoạt động xây dựng để khẳng định chủ quyền tại Biển Đông, nơi họ yêu sách đến 90% : khu vực chiến lược này là nơi giao thoa của các tuyến đường hàng hải quan trọng, và một số đảo cũng được Malaysia, Brunei, Việt Nam, Philippines, Đài Loan đòi hỏi chủ quyền. Tháng 10/2014, Bắc Kinh còn xây dựng đường băng trên một trong các hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, được đặt tên lại là Yongxing, trở nền điểm tiền tiêu của tham vọng trên biển Trung Quốc.
Lấn dần từng bước theo kiểu tằm ăn dâu, Trung Quốc ghi điểm trong cuộc xung đột lãnh thổ « lịch sử » mà các giải pháp xem ra từ nay trong tầm tay họ. Trong cuộc đấu với Hoa Kỳ, chính quyền Trung Quốc dòm ngó xem Washington có thể bảo vệ các đồng minh của mình đến mức nào.
François Godement nhấn mạnh : « Trung Quốc giảm căng thẳng xuống lúc sắp diễn ra hội nghị thượng đỉnh vừa qua. Bắc Kinh có khả năng giảm tần suất và cường độ xảy ra các sự cố trong những tháng gần đây, chứng tỏ một sự phối hợp ngoại giao và sự nắm quyền rất chặt chẽ của Tập Cận Bình, nhất là đối với quân đội. Các nước trong khu vực hết sức lo ngại».
5) Trung Quốc có còn cần đến quyền lực mềm để tác động ?
Cho dù triển khai mạng lưới các Viện Khổng tử cùng khắp - công cụ để truyền bá văn hóa Trung Hoa - ngoại giao kinh tế vẫn là đòn bẩy chính của quyền lực mềm Trung Quốc. Với 4.500 tỉ đô la dự trữ ngoại hối, Bắc Kinh có năng lực tấn công khủng khiếp. Đầu tư trực tiếp Trung Quốc ra nước ngoài không ngừng phá các kỷ lục. Năm 2014, con số này có thể vượt ngưỡng 100 tỉ đô la. Bắc Kinh ban bố các ân huệ kinh tế theo lợi ích của chính mình và theo không khí chính trị với các đối tác.
Trung Quốc chủ yếu đầu tư vào châu Phi, tại đây Bắc Kinh đã vượt qua ảnh hưởng của Mỹ. Trao đổi thương mại với châu lục này tăng 30% kể từ năm 2000. Trung Quốc đầu tư nhắm vào các dự án hạ tầng của Nhà nước, mà không quan tâm đến chế độ ấy như thế nào. Mô hình quản lý « không dân chủ » của Bắc Kinh được một số nước hoan nghênh, và cũng được dùng để tự ca ngợi trong nội bộ.
Cũng nhờ châu Phi mà Trung Quốc đảm bảo được nguồn cung năng lượng. Ảnh hưởng Bắc Kinh tại lục địa mà các lá phiếu có trọng lượng khá trong các cuộc bỏ phiếu tại Liên Hiệp Quốc, là một vũ khí đáng ngại để tạo nên liên minh. Trong số 54 nước châu Phi, chỉ có ba nước công nhận Đài Loan (Burkina Faso, Swaziland, Sao Tomé-et-Principe). Nhưng thường là để nói không và hiếm khi có sáng kiến.
Bắc Kinh tỏ ra thận trọng trong việc nhận trách nhiệm quốc tế phù hợp với trọng lượng kinh tế của mình, đóng vai trò người ổn định trong các cuộc khủng hoảng lớn trên thế giới. Trung Quốc chờ đợi đến khi đạt đến sức mạnh tối đa để áp đặt trên trường quốc tế.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20141127-tap-can-binh-muon-ap-dat-luat-choi-tren-truong-quoc-te-nhu-the-nao/
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương gồm 21 nước thành viên ; trong đó có Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản ; chiếm 40% dân số thế giới và 46% trao đổi thương mại toàn cầu. Tập Cận Bình, vốn đã chú tâm củng cố quyền lực từ khi lên làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) kiêm Chủ tịch nước cách đây gần hai năm, ngự trị trong các buổi tiếp tân trong lớp áo của vị hoàng đế đỏ, hiện thân của sức mạnh nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Trong dịp này, dân Bắc Kinh được nghỉ sáu ngày…để cho bầu trời không còn bị ô nhiễm và không làm ảnh hưởng đến « sự hài hòa » được tuyên truyền lâu nay. Chủ tịch Trung Quốc chú tâm giảm bớt tình hình căng thẳng ở các địa phương, nhằm trưng ra hình ảnh một cường quốc không còn mặc cảm và có tinh thần trách nhiệm.
Từ ba mươi năm qua, Trung Quốc nhấn mạnh đến « sự cất cánh hòa bình ». Từ ngữ này đã biến mất trong các bài diễn văn chính thức. François Godement, giám đốc chương trình Châu Á- Trung Quốc của European Council on Foreign Relation nhận xét : « Bắc Kinh không còn nói về sự hài hòa trong quan hệ quốc tế, cũng như việc dân chủ hóa đối với vai trò của các nước nhỏ ».
Trong ba thập kỷ, Trung Quốc đã làm theo khuyến cáo của Đặng Tiểu Bình, cha đẻ chính sách cải cách kinh tế, « giấu đi những gì sáng chói và gắn bó với những góc tối » trong chính sách đối ngoại. Nay thì Tập Cận Bình muốn đảm bảo « giấc mơ Trung Hoa », đó là sự hùng cường và vị thế vừa tìm lại được.
1) Phải chăng người đứng đầu Trung Quốc từ nay kiểm soát được tất cả các đòn bẩy quyền lực?
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành trung ương ĐCSTQ được đánh dấu với ý hướng của Tập Cận Bình : nắm lại một nền tư pháp bị suy yếu bởi nạn thông đồng lợi ích ở địa phương. Đây không phải là việc xây dựng một nền tư pháp độc lập, nhưng là việc tập trung hóa, tách rời khỏi ảnh hưởng địa phương, với nét mới là cho phép kháng cáo.
Biện pháp này nằm trong chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình, tăng cường dấu ấn của ông ta lên chế độ. Trong hai năm, ông Tập đã lập ra vô số các ủy ban mà ông ta là chủ tịch : quốc phòng, an ninh, kiểm soát internet, cải cách kinh tế…không có lãnh vực quan trọng nào thoát tầm tay của ông Tập cả.
Tập Cận Bình là lãnh đạo Trung Quốc được báo chí nhà nước nêu tên nhiều nhất kể từ thời người sáng lập chế độ là Mao Trạch Đông đến nay. Nhiều nhà quan sát khẳng định sau Người cầm lái vĩ đại, chưa có lãnh đạo nào khác thâu tóm bằng ấy quyền lực. François Godement xác nhận : « Người Trung Quốc nói rằng mọi con đường đều dẫn đến cá nhân Tập Cận Bình ». Chính sách đối ngoại cũng không thoát khỏi quy luật này, và từ nay được điều phối ở cấp Hội đồng An ninh Quốc gia do ông Tập lãnh đạo.
2) Sự liên minh với nước Nga của ông Putin có là điều đáng ngại cho phương Tây ?
Ngay từ cuộc gặp đầu tiên với Tổng thống Nga, Tập Cận Bình đã thổ lộ là cá tính hai người có rất nhiều điểm chung…tuy không nói rõ là những điểm gì. Họ cùng sùng bái quyền lực độc đoán, cùng thống nhất với nhau trong việc chối từ các giá trị phương Tây (dân chủ, nhân quyền, tự do), và trong nỗi hoài nhớ đế chế Liên Xô cũ. Trong một bài diễn văn, Tập bày tỏ sự tiếc nuối là không ai ở Liên Xô có can đảm chặn lại sự sụp đổ của hệ thống xô-viết và sự tan rã của đế chế này.
Các biện pháp trừng phạt Matxcơva của phương Tây do cuộc khủng hoảng Ukraina, đã khiến Nga vội gieo mình vào cánh tay Trung Quốc, đang đói năng lượng và nhờ đó có được khách hàng mới. François Godement ghi nhận : « Trung Quốc nhận ra điểm yếu của Liên hiệp châu Âu và Hoa Kỳ trong cuộc khủng hoảng này, thấy đây là cơ hội để thủ lợi về kinh tế mà chẳng mất mát gì cả ».
Các lãnh đạo phương Tây hiện không cảm thấy là đáng ngại. Một nhà ngoại giao cho rằng đây không phải là « một sự xích lại gần lâu bền. Trung Quốc đã tiến xa hơn so với Nga. Đây là một liên minh ý thức hệ cơ hội, chống lại những gì đến từ phương Tây ».
3) Trung Quốc vẫn luôn đối đầu với Hoa Kỳ ?
Tập Cận Bình đã có cuộc gặp song phương với Barack Obama bên lề thượng đỉnh APEC. Ngoại trưởng Mỹ John Kerry trước đó đã tiếp Dương Khiết Trì, cựu Ngoại trưởng này là cố vấn Nhà nước Trung Quốc tại Boston, để làm giảm nhẹ căng thẳng Mỹ-Trung trước cuộc gặp.
Cho rằng đã tiến quá nhanh, Bắc Kinh không còn chấp nhận danh sách các nhà ly khai mà các vị khách Mỹ đưa ra đòi trả tự do. Và các lãnh đạo Trung Quốc cũng không ngần ngại công khai nói lên những bất đồng với Washington. Các chủ đề không thiếu : cuộc khủng hoảng Hồng Kông, nhân quyền, căng thẳng tại Biển Đông và Biển Hoa Đông với các láng giềng Đông Nam Á và Đông Bắc Á, tin tặc.
François Godement khẳng định : « Trung Quốc chấp nhận nguyên tắc đối đầu chiến lược với Hoa Kỳ. Bắc Kinh ý thức được rằng dù tầm mức không bằng Washington, nhưng cho rằng thời gian sẽ đứng về phía mình »…Sự suy yếu của phương Tây làm tăng nhanh tốc độ đi lên của Trung Quốc, mà nền kinh tế có thể gấp đôi so với Hoa Kỳ vào năm 2030 theo một số ước đoán. Đại cường này lúc đó có thể trở nên mờ nhạt hơn.
4) Phải chăng các nước láng giềng châu Á có lý, khi lo sợ tham vọng lãnh thổ của Bắc Kinh ?
Các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc đáp ứng một mệnh lệnh bên trong của ĐCSTQ : vượt qua tất cả các dạng cạnh tranh nội bộ về dân tộc chủ nghĩa, và sử dụng làm công cụ để thay thế cho ý thức hệ cộng sản quá cố. Từ khi Tập Cận Bình lên ngôi, Trung Quốc đã khiến cho đa số các nước láng giềng ở Biển Đông lo ngại.
Tháng 11/2013, Bắc Kinh đã gây ra bão ngoại giao khi đơn phương quy định vùng nhận dạng phòng không trên phần lớn Biển Hoa Đông, bao trùm cả quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đang do Nhật Bản kiểm soát nhưng Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền.
Tháng 5/2014, Trung Quốc cho kéo một giàn khoan đến vùng biển Hoàng Sa, Việt Nam, gây ra khủng hoảng nghiêm trọng với Hà Nội. Bắc Kinh liên tục tiến hành các hoạt động xây dựng để khẳng định chủ quyền tại Biển Đông, nơi họ yêu sách đến 90% : khu vực chiến lược này là nơi giao thoa của các tuyến đường hàng hải quan trọng, và một số đảo cũng được Malaysia, Brunei, Việt Nam, Philippines, Đài Loan đòi hỏi chủ quyền. Tháng 10/2014, Bắc Kinh còn xây dựng đường băng trên một trong các hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, được đặt tên lại là Yongxing, trở nền điểm tiền tiêu của tham vọng trên biển Trung Quốc.
Lấn dần từng bước theo kiểu tằm ăn dâu, Trung Quốc ghi điểm trong cuộc xung đột lãnh thổ « lịch sử » mà các giải pháp xem ra từ nay trong tầm tay họ. Trong cuộc đấu với Hoa Kỳ, chính quyền Trung Quốc dòm ngó xem Washington có thể bảo vệ các đồng minh của mình đến mức nào.
François Godement nhấn mạnh : « Trung Quốc giảm căng thẳng xuống lúc sắp diễn ra hội nghị thượng đỉnh vừa qua. Bắc Kinh có khả năng giảm tần suất và cường độ xảy ra các sự cố trong những tháng gần đây, chứng tỏ một sự phối hợp ngoại giao và sự nắm quyền rất chặt chẽ của Tập Cận Bình, nhất là đối với quân đội. Các nước trong khu vực hết sức lo ngại».
5) Trung Quốc có còn cần đến quyền lực mềm để tác động ?
Cho dù triển khai mạng lưới các Viện Khổng tử cùng khắp - công cụ để truyền bá văn hóa Trung Hoa - ngoại giao kinh tế vẫn là đòn bẩy chính của quyền lực mềm Trung Quốc. Với 4.500 tỉ đô la dự trữ ngoại hối, Bắc Kinh có năng lực tấn công khủng khiếp. Đầu tư trực tiếp Trung Quốc ra nước ngoài không ngừng phá các kỷ lục. Năm 2014, con số này có thể vượt ngưỡng 100 tỉ đô la. Bắc Kinh ban bố các ân huệ kinh tế theo lợi ích của chính mình và theo không khí chính trị với các đối tác.
Trung Quốc chủ yếu đầu tư vào châu Phi, tại đây Bắc Kinh đã vượt qua ảnh hưởng của Mỹ. Trao đổi thương mại với châu lục này tăng 30% kể từ năm 2000. Trung Quốc đầu tư nhắm vào các dự án hạ tầng của Nhà nước, mà không quan tâm đến chế độ ấy như thế nào. Mô hình quản lý « không dân chủ » của Bắc Kinh được một số nước hoan nghênh, và cũng được dùng để tự ca ngợi trong nội bộ.
Cũng nhờ châu Phi mà Trung Quốc đảm bảo được nguồn cung năng lượng. Ảnh hưởng Bắc Kinh tại lục địa mà các lá phiếu có trọng lượng khá trong các cuộc bỏ phiếu tại Liên Hiệp Quốc, là một vũ khí đáng ngại để tạo nên liên minh. Trong số 54 nước châu Phi, chỉ có ba nước công nhận Đài Loan (Burkina Faso, Swaziland, Sao Tomé-et-Principe). Nhưng thường là để nói không và hiếm khi có sáng kiến.
Bắc Kinh tỏ ra thận trọng trong việc nhận trách nhiệm quốc tế phù hợp với trọng lượng kinh tế của mình, đóng vai trò người ổn định trong các cuộc khủng hoảng lớn trên thế giới. Trung Quốc chờ đợi đến khi đạt đến sức mạnh tối đa để áp đặt trên trường quốc tế.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20141127-tap-can-binh-muon-ap-dat-luat-choi-tren-truong-quoc-te-nhu-the-nao/
TQ mở hội thảo cổ vũ khái niệm 'Châu Á là của người Á Châu'
Hôm 23 tháng 11, các nhà phân tích công bố một phúc trình, nói rằng
dự án lấp biển quy mô do chính quyền Trung Quốc thực hiện trên một bãi
đá ngầm nhỏ bé nằm cách Hoa Lục tới 500 hải lý, sẽ cho phép Trung Quốc
đáp phi cơ quân sự tại đó, và như vậy, giúp Bắc Kinh mở rộng phạm vi
hoạt động trong Biển Đông.
Phúc trình của giới phân tích được đưa ra giữa lúc một tổ chức có liên kết với Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc chủ trì một hội nghị quốc tế ở Bắc Kinh hôm thứ Sáu và thứ Bảy vừa qua, với mục đích khẳng định lời kêu gọi của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hãy thiết lập một cấu trúc an ninh khu vực mới, được dựa trên khái niệm “Châu Á là của người Á Châu”, một khái niệm nhằm tìm cách giảm thiểu vai trò của Hoa Kỳ trong khu vực.
Lên tiếng tại Hội thảo Hương Sơn diễn ra hôm thứ Sáu và thứ Bảy, Thứ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân nói rằng “Các nước Á Châu có trách nhiệm đầu tiên đối với an ninh khu vực của họ.”
Trong bài diễn văn quan trọng nhất tại hội thảo này ở Bắc Kinh, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, Tướng Thường Vạn Toàn nói rằng Trung Quốc muốn các nước hãy “vượt lên trên lối tư duy của thời Chiến Tranh Lạnh”, ám chỉ những liên minh của Hoa Kỳ trong khu vực Á Châu-Thái Bình Dương, mà Trung Quốc coi là nhằm mục đích kiềm chế Trung Quốc.
Bản tin lưu ý rằng Tướng Thường Vạn Toàn rất ít khi lên tiếng trước công chúng. Trong bài diễn văn, ông nói rằng Trung Quốc muốn tăng cường các cuộc tham vấn giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, và nói rằng Bắc Kinh muốn củng cố các thủ tục để ứng phó với các cuộc khủng hoảng, qua đó nhắc đến một thoả thuận mới đây giữa Chủ tịch nước Trung Quốc và Tổng Thống Obama.
Tham gia hội thảo quốc tế này có các chuyên gia an ninh phương Tây, và một số vị tham tán quân sự, kể cả từ Hoa Kỳ, nhưng các giới chức cao cấp nhất trong chính phủ của Tổng Thống Obama đã từ chối lời mời.
Hôm 20 tháng 11, Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đã thông qua nghị quyết kêu gọi giải quyết hòa bình các cuộc tranh chấp ở Biển Đông và biển Hoa Đông.
Quốc hội Mỹ ra nghị quyết H.Res-714, tái khẳng định sự ủng hộ của chính phủ và quốc hội Mỹ đối với các nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình trong các vùng biển này.
Nghị quyết nhấn mạnh Mỹ ủng hộ và bảo vệ tự do hàng hải và hàng không tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương theo luật pháp quốc tế.
Nguồn: Global Times, AFP
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-mo-hoi-thao-co-vu-khai-niem-chau-a-cua-nguoi-a-chau/2532249.html
CẠNH TRANH TÀU NGẦM TRUNG - MỸ Ở BIỂN ĐÔNG VÀ BIỂN HOA ĐÔNG
BienDong.Net: Nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng cường quốc biển, Bắc Kinh đang ra sức phát triển lực lượng tàu ngầm của họ. Địa bàn hoạt động chính của tàu ngầm Trung Quốc hiện nay là Biển Đông và biển Hoa Đông.
Trung Quốc đã xây dựng căn cứ tàu ngầm ở Vịnh Á Long - Tam Á gần đảo Hải Nam, bao gồm cả hầm ngầm. Căn cứ tàu ngầm trong Vịnh Á Long, hướng ra Biển Đông này có thể chứa được cả tàu ngầm hạt nhân chiến lược và tàu ngầm thông thường.
Gần đây, Trung Quốc mới hoàn thành đường ống ngầm để tàu ngầm có thể di chuyển vào trong hầm ngầm tại vùng biển gần đảo Hải Nam, Trung Quốc. Căn cứ theo các hình ảnh chụp từ vệ tinh, các nhà quan sát quân sự cho rằng, tàu ngầm Trung Quốc có thể từ hầm thông qua đường ống ngầm bí mật này xuất kích ra Biển Đông mà không bị các máy bay trinh sát Mỹ đang giám sát các hoạt động quân sự của Trung Quốc tại vùng biển này phát hiện. Vì vậy, mọi động thái liên quan đến tàu ngầm ở khu vực này đều là lĩnh vực có độ bảo mật cao nhất.
Theo báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ trước Quốc hội Mỹ, hải quân Trung Quốc hiện có 56 tàu ngầm tấn công, gồm: 51 tàu động cơ diesel, 5 tàu động cơ hạt nhân (trong đó có 3 tàu động cơ hạt nhân có thể mang tên lửa đạn đạo). Trong năm nay, Trung Quốc sẽ trang bị cho các tàu này tên lửa hành trình Julang - 2 với tầm bắn 740 km, từ Tây Thái Bình Dương có thể bắn tới Hawai, nếu từ miền Trung Thái Bình Dương có thể bắn tới California. Trung Quốc dự kiến sẽ tăng thêm 5 tàu loại này, giúp hải quân Trung Quốc nâng cao đáng kể sức mạnh răn đe hạt nhân trên biển. Những tàu ngầm được trang bị ngư lôi và tên lửa hành trình chống hạm sẽ giúp Bắc Kinh thực hiện mục tiêu chuẩn bị sẵn sàng cho quân đội Trung Quốc chiến đấu và giành thắng lợi trong chiến tranh cục bộ ở thời đại thông tin hiện nay.
Trong trường hợp chiến sự nổ ra, Trung Quốc có thể huy động các tàu ngầm, không quân và sức mạnh tên lửa từ trên bờ và trên biển với hệ thống chỉ huy hiện đại, điều hành các lực lượng, xử lý thông tin từ máy tính tới tình báo. Trung Quốc đã có nhiều tiến bộ trên bình diện tác chiến tàu quân sự, tàu ngầm. Gần đây, Đô đốc Samuel Locklear, Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ đã phải thừa nhận về “sự tiến bộ rất đáng kể năng lực tàu ngầm của Trung Quốc. Đồng thời, ông cũng bày tỏ sự không hài lòng về kế hoạch cắt giảm hạm đội tàu ngầm của Mỹ từ 55 chiếc xuống còn 42 chiếc vào năm 2029.
Ông Dean Cheng, chuyên gia quân sự Quỹ Heritage của Mỹ nhận định “tàu ngầm là vũ khí quan trọng nhất, ngoài bom hạt nhân, vì chúng có khả năng tàng hình, ít tiếng ồn và có khả năng xuất hiện ở khắp mọi nơi. Trong trường hợp xảy ra một cuộc xung đột trên biển, tàu ngầm có khả năng sẽ gây đổ máu đầu tiên cho đối phương”.
Việc Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động của tàu ngầm ở Biển Đông và biển Hoa Đông để thực hiện mục tiêu xây dựng cường quốc biển rõ ràng ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích an ninh và việc triển khai chính sách “tái cân bằng chiến lược” ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ. Để đối phó với hạm đội tàu ngầm Trung Quốc đang gia tăng, từ cuối năm 2013, Hải quân Mỹ đã điều động 6 máy bay tuần biển và săn tàu ngầm hiện đại nhất P - 8 Poseidon đến căn cứ Kadena (ở Okinawa Nhật Bản), theo dõi nhất cử nhất động của tàu ngầm Trung Quốc. Đây là hành động của Mỹ đáp trả lại việc Bắc Kinh đơn phương tuyên bố áp đặt vùng nhận diện phòng không ở Hoa Đông. Cả Tokyo và Washington khẳng định họ không có nghĩa vụ phải tuân thủ quy định của Trung Quốc trong khu vực này, trong khi Bắc Kinh đã đe dọa sử dụng vũ lực để duy trì quyền kiểm soát hầu hết biển Hoa Đông.
Quần đảo Okinawa có tầm quan trọng đối với chiến lược của Mỹ bởi nó án ngữ một bề của biển Hoa Đông, nơi đang có tranh chấp chủ quyền gay gắt giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Đó cũng là nơi Mỹ có căn cứ gần nhất tới Biển Đông nơi Trung Quốc đang sa vào tranh chấp chủ quyền với một loạt nước Đông Nam Á.
Theo báo The Wall Street Journal (WSJ), chiếc P - 8 có các thiết bị do thám gồm radar, vệ tinh định vị và ống kính hồng ngoại. Hoặc các phao dò sóng sonar hình ống, tổ bay có thể thả xuống biển để nó nổi khoảng 8 giờ dò tìm các vật thể lặn dưới biển. Một số nhà quan sát nhận định P - 8 có khả năng “thay đổi cuộc chơi” ở Biển Đông. P - 8 đạt tốc độ cao 907 km/giờ, có khả năng săn tàu ngầm, tàu nổi, thu thập tin tình báo, trinh sát và giám sát biển.
Máy bay tuần biển P - 8 làm việc với các vệ tinh có nhiệm vụ giám sát các căn cứ tàu ngầm, và thả các máy nghe dưới lòng biển để nghe tiếng tàu ngầm di chuyển, phối hợp với các tàu mặt nước có thiết bị sonar dò tìm dưới nước. Một khi xác định được mục tiêu tiềm tàng, chiếc P - 8 liền thả các phao chìm mang thiết bị dò tìm sonar, sau đó bay vòng vòng trên khu vực này để nhận tín hiệu từ phao chìm truyền lên.
Máy bay P - 8 có bán kính tác chiến 2.222 km và hoạt động 4 giờ trước khi bay trở về căn cứ. Điều có nghĩa từ căn cứ Kadena (ở Okinawa Nhật Bản), máy bay P - 8 có thể bay đến phía nam Biển Đông. Đại tá Mike Parker, Chỉ huy Lực lượng số 72 Hải quân Mỹ xác nhận “khả năng của máy bay cho phép chúng tôi xuống đến tận phía nam của Biển Đông… Chúng tôi vẫn thường xuống đó. Chúng tôi có đủ khả năng xác định vị trí của tàu ngầm, và nếu cần, thông báo cho họ rằng chúng tôi biết họ ở đâu”. Mặt khác, Mỹ đang xúc tiến các bước để cho phép máy bay P - 8 thậm chí hoạt động nhiều thời gian hơn trên Biển Đông. Đó là việc đàm phán thỏa thuận với các nước trong khu vực Biển Đông để cho máy bay P - 8 sử dụng sân bay của các nước này trong các phi vụ dò tìm tàu ngầm.
Với mục tiêu biến Biển Đông thành nơi hoạt động chính của tàu ngầm Trung Quốc trước khi vươn ra các vùng biển xa, dĩ nhiên Trung Quốc không hài lòng với các hoạt động của máy bay P - 8. Tháng 8/2014 đã xảy ra vụ tiêm kích J - 11 của Trung Quốc bay cản đầu một chiếc P - 8 của Hải quân Mỹ ở Bắc Biển Đông. Phía Mỹ nói rằng máy bay P - 8 lúc đó đang hoạt động trong không phận quốc tế, cách đảo Hải Nam hơn 200 km.
Hình ảnh do Mỹ công bố cho thấy chiến đấu cơ của Trung Quốc nhào lộn và khoe vũ khí ngay trước mũi P - 8, phía trên đảo Hải Nam, nơi Trung Quốc có căn cứ tàu ngầm. Phía Trung Quốc khẳng định phi công của họ bay an toàn và yêu cầu Mỹ ngừng các chuyến bay trinh sát gần căn cứ của Trung Quốc.
Những động thái nói trên của Trung Quốc và Mỹ cho thấy một cuộc cạnh tranh gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông. Mỹ hiểu rất rõ rằng việc Trung Quốc sử dụng lực lượng tàu ngầm để khống chế Biển Đông đe dọa nghiêm trọng lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực. Do vậy Mỹ đã phải tăng cường lực lượng để giám sát hoạt động của tàu ngầm Trung Quốc. Việc Trung Quốc gia tăng hoạt động của tàu ngầm ở Biển Đông và biển Hoa Đông và cuộc cạnh tranh Trung - Mỹ trong lĩnh vực tàu ngầm đã thôi thúc các nước khác trong khu vực vào cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực tàu ngầm.
Các chuyến đi của tàu ngầm Trung Quốc qua eo biển Malacca vào Ấn Độ Dương đang gây mối lo ngại cho Ấn Độ. Tháng 8/2014, Ấn Độ đã cho ra mắt tàu chiến chống ngầm tự sản xuất đầu tiên và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã cam kết sẽ tăng cường sự phòng thủ để “không kẻ nào dám coi thường Ấn Độ”. Tháng 9/2014, ngay trước chuyến thăm Ấn Độ của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, tàu ngầm lớp Song - 039 của Trung Quốc đã ghé thăm một cảng biển ở thủ đô Colombia của Srilanka. Ấn Độ Dương lâu nay được coi là “sân nhà” của Ấn Độ, việc Trung Quốc mở rộng phạm vi hoạt động của tàu ngầm ra Ấn Độ Dương đe dọa trực tiếp lợi ích an ninh của Ấn Độ. Do vậy, Ấn Độ phải tăng cường khả năng chống lại tàu ngầm của mình để đối phó. Ấn Độ đang tăng cường hạm đội 15 tàu ngầm và sẽ dành 13 tỷ USD để chế tạo tàu ngầm trong nước.
Các nước khác trong khu vực cũng tìm cách đối phó. Việt Nam đã tiếp nhận 2 tàu ngầm lớp Kilo từ Nga và sẽ nhận 4 chiếc còn lại từ nay đến năm 2016 trong tổng hợp đồng trị giá 2 tỷ USD ký năm 2009; Indonesia có kế hoạch vận hành 12 tàu ngầm và sẽ mua 2 chiếc từ Công ty đóng tàu Daewoo của Hàn Quốc. Úc đang tìm cách thay thế 6 tàu ngầm diesel lớp Collins cũ, nước này đang cân nhắc việc chi 17,6 tỷ USD để trang bị 12 tàu ngầm mới. Singapore, hiện có 6 tàu ngầm, đã đặt mua thêm 2 chiếc khác từ công ty ThyssenKrupp của Đức. Đài Loan hiện có 4 tàu ngầm, nhưng 2 chiếc đã quá hạn sử dụng và chỉ dùng để huấn luyện. Để đối phó với mối đe dọa thôn tính từ Trung Quốc đại lục, Đài Loan có kế hoạch tự chế tạo các tàu ngầm của riêng mình và đang cần sự trợ giúp của Mỹ trong lĩnh vực này.
Việc Trung Quốc liên tục tăng cường ngân sách quốc phòng, tập trung vào phát triển hải quân, trong đó có lực lượng tàu ngầm không chỉ tạo cớ cho Mỹ tăng cường lực lượng săn tàu ngầm ở khu vực để kiềm chế Trung Quốc mà đã đẩy các nước khu vực vào một cuộc chạy đua vũ trang mới trong lĩnh vực tàu ngầm, gây nguy cơ bất ổn ở khu vực. Mặc dù các nước đang cố gắng tăng cường lực lượng tàu ngầm để đối phó với Trung Quốc, nhưng xem ra chỉ có Mỹ mới đủ khả năng tạo ra sự răn đe với Trung Quốc trong lĩnh vực tàu ngầm để duy trì ổn định ở Biển Đông và biển Hoa Đông./.
BDN
NHỮNG ĐỘNG THÁI MỚI CỦA MỸ LIÊN QUAN ĐẾN BIỂN ĐÔNG
Thứ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân nói rằng 'Các nước Á Châu có trách nhiệm đầu tiên đối với an ninh khu vực của họ'.
24.11.2014
Phúc trình của giới phân tích được đưa ra giữa lúc một tổ chức có liên kết với Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc chủ trì một hội nghị quốc tế ở Bắc Kinh hôm thứ Sáu và thứ Bảy vừa qua, với mục đích khẳng định lời kêu gọi của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hãy thiết lập một cấu trúc an ninh khu vực mới, được dựa trên khái niệm “Châu Á là của người Á Châu”, một khái niệm nhằm tìm cách giảm thiểu vai trò của Hoa Kỳ trong khu vực.
Lên tiếng tại Hội thảo Hương Sơn diễn ra hôm thứ Sáu và thứ Bảy, Thứ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân nói rằng “Các nước Á Châu có trách nhiệm đầu tiên đối với an ninh khu vực của họ.”
Trong bài diễn văn quan trọng nhất tại hội thảo này ở Bắc Kinh, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, Tướng Thường Vạn Toàn nói rằng Trung Quốc muốn các nước hãy “vượt lên trên lối tư duy của thời Chiến Tranh Lạnh”, ám chỉ những liên minh của Hoa Kỳ trong khu vực Á Châu-Thái Bình Dương, mà Trung Quốc coi là nhằm mục đích kiềm chế Trung Quốc.
Bản tin lưu ý rằng Tướng Thường Vạn Toàn rất ít khi lên tiếng trước công chúng. Trong bài diễn văn, ông nói rằng Trung Quốc muốn tăng cường các cuộc tham vấn giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, và nói rằng Bắc Kinh muốn củng cố các thủ tục để ứng phó với các cuộc khủng hoảng, qua đó nhắc đến một thoả thuận mới đây giữa Chủ tịch nước Trung Quốc và Tổng Thống Obama.
Tham gia hội thảo quốc tế này có các chuyên gia an ninh phương Tây, và một số vị tham tán quân sự, kể cả từ Hoa Kỳ, nhưng các giới chức cao cấp nhất trong chính phủ của Tổng Thống Obama đã từ chối lời mời.
Hôm 20 tháng 11, Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đã thông qua nghị quyết kêu gọi giải quyết hòa bình các cuộc tranh chấp ở Biển Đông và biển Hoa Đông.
Quốc hội Mỹ ra nghị quyết H.Res-714, tái khẳng định sự ủng hộ của chính phủ và quốc hội Mỹ đối với các nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình trong các vùng biển này.
Nghị quyết nhấn mạnh Mỹ ủng hộ và bảo vệ tự do hàng hải và hàng không tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương theo luật pháp quốc tế.
Nguồn: Global Times, AFP
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-mo-hoi-thao-co-vu-khai-niem-chau-a-cua-nguoi-a-chau/2532249.html
CẠNH TRANH TÀU NGẦM TRUNG - MỸ Ở BIỂN ĐÔNG VÀ BIỂN HOA ĐÔNG
BienDong.Net: Nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng cường quốc biển, Bắc Kinh đang ra sức phát triển lực lượng tàu ngầm của họ. Địa bàn hoạt động chính của tàu ngầm Trung Quốc hiện nay là Biển Đông và biển Hoa Đông.
Trung Quốc đã xây dựng căn cứ tàu ngầm ở Vịnh Á Long - Tam Á gần đảo Hải Nam, bao gồm cả hầm ngầm. Căn cứ tàu ngầm trong Vịnh Á Long, hướng ra Biển Đông này có thể chứa được cả tàu ngầm hạt nhân chiến lược và tàu ngầm thông thường.
Gần đây, Trung Quốc mới hoàn thành đường ống ngầm để tàu ngầm có thể di chuyển vào trong hầm ngầm tại vùng biển gần đảo Hải Nam, Trung Quốc. Căn cứ theo các hình ảnh chụp từ vệ tinh, các nhà quan sát quân sự cho rằng, tàu ngầm Trung Quốc có thể từ hầm thông qua đường ống ngầm bí mật này xuất kích ra Biển Đông mà không bị các máy bay trinh sát Mỹ đang giám sát các hoạt động quân sự của Trung Quốc tại vùng biển này phát hiện. Vì vậy, mọi động thái liên quan đến tàu ngầm ở khu vực này đều là lĩnh vực có độ bảo mật cao nhất.
Theo báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ trước Quốc hội Mỹ, hải quân Trung Quốc hiện có 56 tàu ngầm tấn công, gồm: 51 tàu động cơ diesel, 5 tàu động cơ hạt nhân (trong đó có 3 tàu động cơ hạt nhân có thể mang tên lửa đạn đạo). Trong năm nay, Trung Quốc sẽ trang bị cho các tàu này tên lửa hành trình Julang - 2 với tầm bắn 740 km, từ Tây Thái Bình Dương có thể bắn tới Hawai, nếu từ miền Trung Thái Bình Dương có thể bắn tới California. Trung Quốc dự kiến sẽ tăng thêm 5 tàu loại này, giúp hải quân Trung Quốc nâng cao đáng kể sức mạnh răn đe hạt nhân trên biển. Những tàu ngầm được trang bị ngư lôi và tên lửa hành trình chống hạm sẽ giúp Bắc Kinh thực hiện mục tiêu chuẩn bị sẵn sàng cho quân đội Trung Quốc chiến đấu và giành thắng lợi trong chiến tranh cục bộ ở thời đại thông tin hiện nay.
Trong trường hợp chiến sự nổ ra, Trung Quốc có thể huy động các tàu ngầm, không quân và sức mạnh tên lửa từ trên bờ và trên biển với hệ thống chỉ huy hiện đại, điều hành các lực lượng, xử lý thông tin từ máy tính tới tình báo. Trung Quốc đã có nhiều tiến bộ trên bình diện tác chiến tàu quân sự, tàu ngầm. Gần đây, Đô đốc Samuel Locklear, Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ đã phải thừa nhận về “sự tiến bộ rất đáng kể năng lực tàu ngầm của Trung Quốc. Đồng thời, ông cũng bày tỏ sự không hài lòng về kế hoạch cắt giảm hạm đội tàu ngầm của Mỹ từ 55 chiếc xuống còn 42 chiếc vào năm 2029.
Ông Dean Cheng, chuyên gia quân sự Quỹ Heritage của Mỹ nhận định “tàu ngầm là vũ khí quan trọng nhất, ngoài bom hạt nhân, vì chúng có khả năng tàng hình, ít tiếng ồn và có khả năng xuất hiện ở khắp mọi nơi. Trong trường hợp xảy ra một cuộc xung đột trên biển, tàu ngầm có khả năng sẽ gây đổ máu đầu tiên cho đối phương”.
Việc Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động của tàu ngầm ở Biển Đông và biển Hoa Đông để thực hiện mục tiêu xây dựng cường quốc biển rõ ràng ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích an ninh và việc triển khai chính sách “tái cân bằng chiến lược” ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ. Để đối phó với hạm đội tàu ngầm Trung Quốc đang gia tăng, từ cuối năm 2013, Hải quân Mỹ đã điều động 6 máy bay tuần biển và săn tàu ngầm hiện đại nhất P - 8 Poseidon đến căn cứ Kadena (ở Okinawa Nhật Bản), theo dõi nhất cử nhất động của tàu ngầm Trung Quốc. Đây là hành động của Mỹ đáp trả lại việc Bắc Kinh đơn phương tuyên bố áp đặt vùng nhận diện phòng không ở Hoa Đông. Cả Tokyo và Washington khẳng định họ không có nghĩa vụ phải tuân thủ quy định của Trung Quốc trong khu vực này, trong khi Bắc Kinh đã đe dọa sử dụng vũ lực để duy trì quyền kiểm soát hầu hết biển Hoa Đông.
Quần đảo Okinawa có tầm quan trọng đối với chiến lược của Mỹ bởi nó án ngữ một bề của biển Hoa Đông, nơi đang có tranh chấp chủ quyền gay gắt giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Đó cũng là nơi Mỹ có căn cứ gần nhất tới Biển Đông nơi Trung Quốc đang sa vào tranh chấp chủ quyền với một loạt nước Đông Nam Á.
Theo báo The Wall Street Journal (WSJ), chiếc P - 8 có các thiết bị do thám gồm radar, vệ tinh định vị và ống kính hồng ngoại. Hoặc các phao dò sóng sonar hình ống, tổ bay có thể thả xuống biển để nó nổi khoảng 8 giờ dò tìm các vật thể lặn dưới biển. Một số nhà quan sát nhận định P - 8 có khả năng “thay đổi cuộc chơi” ở Biển Đông. P - 8 đạt tốc độ cao 907 km/giờ, có khả năng săn tàu ngầm, tàu nổi, thu thập tin tình báo, trinh sát và giám sát biển.
Máy bay tuần biển P - 8 làm việc với các vệ tinh có nhiệm vụ giám sát các căn cứ tàu ngầm, và thả các máy nghe dưới lòng biển để nghe tiếng tàu ngầm di chuyển, phối hợp với các tàu mặt nước có thiết bị sonar dò tìm dưới nước. Một khi xác định được mục tiêu tiềm tàng, chiếc P - 8 liền thả các phao chìm mang thiết bị dò tìm sonar, sau đó bay vòng vòng trên khu vực này để nhận tín hiệu từ phao chìm truyền lên.
Máy bay P - 8 có bán kính tác chiến 2.222 km và hoạt động 4 giờ trước khi bay trở về căn cứ. Điều có nghĩa từ căn cứ Kadena (ở Okinawa Nhật Bản), máy bay P - 8 có thể bay đến phía nam Biển Đông. Đại tá Mike Parker, Chỉ huy Lực lượng số 72 Hải quân Mỹ xác nhận “khả năng của máy bay cho phép chúng tôi xuống đến tận phía nam của Biển Đông… Chúng tôi vẫn thường xuống đó. Chúng tôi có đủ khả năng xác định vị trí của tàu ngầm, và nếu cần, thông báo cho họ rằng chúng tôi biết họ ở đâu”. Mặt khác, Mỹ đang xúc tiến các bước để cho phép máy bay P - 8 thậm chí hoạt động nhiều thời gian hơn trên Biển Đông. Đó là việc đàm phán thỏa thuận với các nước trong khu vực Biển Đông để cho máy bay P - 8 sử dụng sân bay của các nước này trong các phi vụ dò tìm tàu ngầm.
Với mục tiêu biến Biển Đông thành nơi hoạt động chính của tàu ngầm Trung Quốc trước khi vươn ra các vùng biển xa, dĩ nhiên Trung Quốc không hài lòng với các hoạt động của máy bay P - 8. Tháng 8/2014 đã xảy ra vụ tiêm kích J - 11 của Trung Quốc bay cản đầu một chiếc P - 8 của Hải quân Mỹ ở Bắc Biển Đông. Phía Mỹ nói rằng máy bay P - 8 lúc đó đang hoạt động trong không phận quốc tế, cách đảo Hải Nam hơn 200 km.
Hình ảnh do Mỹ công bố cho thấy chiến đấu cơ của Trung Quốc nhào lộn và khoe vũ khí ngay trước mũi P - 8, phía trên đảo Hải Nam, nơi Trung Quốc có căn cứ tàu ngầm. Phía Trung Quốc khẳng định phi công của họ bay an toàn và yêu cầu Mỹ ngừng các chuyến bay trinh sát gần căn cứ của Trung Quốc.
Những động thái nói trên của Trung Quốc và Mỹ cho thấy một cuộc cạnh tranh gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông. Mỹ hiểu rất rõ rằng việc Trung Quốc sử dụng lực lượng tàu ngầm để khống chế Biển Đông đe dọa nghiêm trọng lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực. Do vậy Mỹ đã phải tăng cường lực lượng để giám sát hoạt động của tàu ngầm Trung Quốc. Việc Trung Quốc gia tăng hoạt động của tàu ngầm ở Biển Đông và biển Hoa Đông và cuộc cạnh tranh Trung - Mỹ trong lĩnh vực tàu ngầm đã thôi thúc các nước khác trong khu vực vào cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực tàu ngầm.
Các chuyến đi của tàu ngầm Trung Quốc qua eo biển Malacca vào Ấn Độ Dương đang gây mối lo ngại cho Ấn Độ. Tháng 8/2014, Ấn Độ đã cho ra mắt tàu chiến chống ngầm tự sản xuất đầu tiên và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã cam kết sẽ tăng cường sự phòng thủ để “không kẻ nào dám coi thường Ấn Độ”. Tháng 9/2014, ngay trước chuyến thăm Ấn Độ của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, tàu ngầm lớp Song - 039 của Trung Quốc đã ghé thăm một cảng biển ở thủ đô Colombia của Srilanka. Ấn Độ Dương lâu nay được coi là “sân nhà” của Ấn Độ, việc Trung Quốc mở rộng phạm vi hoạt động của tàu ngầm ra Ấn Độ Dương đe dọa trực tiếp lợi ích an ninh của Ấn Độ. Do vậy, Ấn Độ phải tăng cường khả năng chống lại tàu ngầm của mình để đối phó. Ấn Độ đang tăng cường hạm đội 15 tàu ngầm và sẽ dành 13 tỷ USD để chế tạo tàu ngầm trong nước.
Các nước khác trong khu vực cũng tìm cách đối phó. Việt Nam đã tiếp nhận 2 tàu ngầm lớp Kilo từ Nga và sẽ nhận 4 chiếc còn lại từ nay đến năm 2016 trong tổng hợp đồng trị giá 2 tỷ USD ký năm 2009; Indonesia có kế hoạch vận hành 12 tàu ngầm và sẽ mua 2 chiếc từ Công ty đóng tàu Daewoo của Hàn Quốc. Úc đang tìm cách thay thế 6 tàu ngầm diesel lớp Collins cũ, nước này đang cân nhắc việc chi 17,6 tỷ USD để trang bị 12 tàu ngầm mới. Singapore, hiện có 6 tàu ngầm, đã đặt mua thêm 2 chiếc khác từ công ty ThyssenKrupp của Đức. Đài Loan hiện có 4 tàu ngầm, nhưng 2 chiếc đã quá hạn sử dụng và chỉ dùng để huấn luyện. Để đối phó với mối đe dọa thôn tính từ Trung Quốc đại lục, Đài Loan có kế hoạch tự chế tạo các tàu ngầm của riêng mình và đang cần sự trợ giúp của Mỹ trong lĩnh vực này.
Việc Trung Quốc liên tục tăng cường ngân sách quốc phòng, tập trung vào phát triển hải quân, trong đó có lực lượng tàu ngầm không chỉ tạo cớ cho Mỹ tăng cường lực lượng săn tàu ngầm ở khu vực để kiềm chế Trung Quốc mà đã đẩy các nước khu vực vào một cuộc chạy đua vũ trang mới trong lĩnh vực tàu ngầm, gây nguy cơ bất ổn ở khu vực. Mặc dù các nước đang cố gắng tăng cường lực lượng tàu ngầm để đối phó với Trung Quốc, nhưng xem ra chỉ có Mỹ mới đủ khả năng tạo ra sự răn đe với Trung Quốc trong lĩnh vực tàu ngầm để duy trì ổn định ở Biển Đông và biển Hoa Đông./.
BDN
NHỮNG ĐỘNG THÁI MỚI CỦA MỸ LIÊN QUAN ĐẾN BIỂN ĐÔNG
BienDong.Net: Trước những hành động hiếu chiến của Trung Quốc ở Biển
Đông trong thời gian qua, nhất là việc Trung Quốc đang ráo riết lấn biển
mở rộng các bãi, xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa để xây dựng căn
cứ quân sự làm thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông, gần đây Mỹ có nhiều
biểu hiện tỏ ra cứng rắn hơn trên vấn đề Biển Đông.
Trong cuộc gặp với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh ngày 12/11/2014, bên lề Hội nghị cấp cao APEC, Tổng Thống Mỹ Barack Obama khẳng định Mỹ có lợi ích cơ bản trong vấn đề tự do hàng hải và tranh chấp lãnh thổ ở khu vực cần được giải quyết hòa bình theo luật pháp quốc tế.
Chỉ 3 ngày sau cuộc gặp với Chủ tịch Tập Cận Bình ở Bắc Kinh, phát biểu tại Đại học Queensland, Australia, bên lề Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 8 Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20) ngày 15/11/2014, Tổng thống Barack Obama cảnh báo về nguy cơ xung đột nhãn tiền ở khu vực Châu Á, khi Trung Quốc tranh giành chủ quyền với các nước láng giềng. Ông Obama nhận định vấn đề tranh chấp lãnh thổ, trên các hòn đảo hay bãi đá, có thể bùng phát thành nguy cơ đối đầu. Trong đó, Trung Quốc hiện là quốc gia liên quan đến một loạt tuyên bố chủ quyền gây tranh cãi với các quốc gia Đông Nam Á trên Biển Đông và với Nhật Bản trên biển Hoa Đông. Đồng thời, ông Obama nhấn mạnh Trung Quốc “phải tuân thủ các quy tắc và luật lệ giống như các quốc gia khác, dù trong lĩnh vực thương mại hay các vấn đề trên biển” và phản đối sự ép buộc, đe dọa của các nước lớn đối với các nước nhỏ.
Ngày 20/11/2014, Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đã thông qua một loạt nghị quyết, trong đó có nghị quyết tái khẳng định sự cần thiết phải tìm giải pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, cho các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Biển Hoa Đông. Nghị quyết mang mã số H.Res - 714, do Hạ nghị sỹ đảng Dân chủ Eni Faleomavaega bảo trợ, đã được Ủy ban Đối ngoại Hạ viện nhất trí thông qua, trong đó tái khẳng định sự ủng hộ của Chính phủ và Quốc hội Mỹ đối với các nỗ lực tìm giải pháp hòa bình và trên cơ sở các nguyên tắc luật pháp quốc tế đã được các nước công nhận đối với các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và biển Hoa Đông.
Nghị quyết một lần nữa khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ đối với tự do hàng hải, sử dụng các vùng biển và vùng trời ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương theo luật pháp quốc tế. Nghị quyết H.Res - 714 cũng lên án mọi hành động cưỡng chế hoặc sử dụng vũ lực gây cản trở các quyền tự do tại các vùng biển và không phận quốc tế; hối thúc Trung Quốc kiềm chế thực thi quyết định Vùng Nhận dạng phòng không (ADIZ) ở biển Hoa Đông, coi đây là một hành động đi ngược quyền tự do bay qua không phận quốc tế, đồng thời yêu cầu nước này không có các hành động tương tự tại các vùng biển khác của Châu Á - Thái Bình Dương.
Nghị quyết kêu gọi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các đồng minh, bạn bè của Mỹ và các nước có tranh chấp cùng nhau nỗ lực tìm giải pháp hòa bình cho các tranh chấp, thông qua việc thiết lập một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Đây là lần đầu tiên Ủy ban đối ngoại Hạ viện Mỹ thông qua một nghị quyết về Biển Đông. Các năm trước, nghị quyết về Biển Đông đã được trình ra Hạ viện Mỹ nhưng chưa được thông qua. Trong năm 2014, đây là lần thứ hai Quốc hội Mỹ thể hiện thái độ mạnh mẽ đối với sự leo thang căng thẳng của Trung Quốc tại các vùng biển tranh chấp. Hồi tháng 7/2014, với toàn bộ phiếu thuận, Thượng viện Mỹ đã nhất trí thông qua Nghị quyết mang mã số S.Res 412 về Biển Đông, phê phán việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam và yêu cầu Trung Quốc quay lại nguyên trạng trước ngày 01/5/2014.
Cùng thời điểm Nghị quyết H.Res - 714 được thông qua, Ủy ban đánh giá kinh tế và an ninh Mỹ - Trung (USCC) công bố Báo cáo nói rằng các chính sách của Trung Quốc làm căng thẳng quan hệ song phương. Báo cáo chỉ rõ quan hệ an ninh giữa 2 cường quốc thế giới đã xấu đi trong năm 2014 trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông và biển Hoa Đông, các tranh chấp lãnh thổ gia tăng và tiềm năng Mỹ - Trung đối đầu gây thương vong có nguy cơ leo thang thành "một cuộc khủng hoảng chính trị lớn".
Báo cáo nhấn mạnh các máy bay và tàu quân sự Trung Quốc đã đối đầu với máy bay và tàu Mỹ “nhiều lần kể từ cuối năm 2013..., trong đó quân nhân Trung Quốc đã có cách hành xử không an toàn, không chuyên nghiệp và hung hăng có thể dẫn đến thiệt hại về người hay một cuộc khủng hoảng chính trị lớn”.
Báo cáo của USCC kêu gọi Quốc hội Mỹ tăng ngân sách cho Hải quân Mỹ hiện diện ở Châu Á - Thái Bình Dương nhằm duy trì tình trạng sẵn sàng chiến đấu và “đối trọng với năng lực quân sự ngày càng tăng lên của Trung Quốc”.
Ngày 21/11/2014, Washington một lần nữa chính thức lên tiếng trước động thái bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông, kêu gọi Trung Quốc dừng ngay lập tức mọi hành vi xây dựng đảo nhân tạo thông qua phát biểu của Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Mỹ Jeffrey Pool. Ông Pool cho rằng dự án lấp biển xây đảo nhân tạo của Bắc Kinh tại khu vực Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa là một hành động phi pháp trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Ông Pool bày tỏ: “Chúng tôi kêu gọi Trung Quốc dừng ngay kế hoạch xây đảo nhân tạo và thực hiện các sáng kiến ngoại giao nhằm khuyến khích tất cả các bên kiềm chế đối với những hành động tương tự”.
Những động thái trên đây cho thấy Mỹ hết sức lo ngại sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông ảnh hưởng đến việc triển khai chính sách “tái cân bằng chiến lược ở Châu Á - Thái Bình Dương” nói chung và lợi ích của Mỹ ở Biển Đông nói riêng./.
BDN
Trong cuộc gặp với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh ngày 12/11/2014, bên lề Hội nghị cấp cao APEC, Tổng Thống Mỹ Barack Obama khẳng định Mỹ có lợi ích cơ bản trong vấn đề tự do hàng hải và tranh chấp lãnh thổ ở khu vực cần được giải quyết hòa bình theo luật pháp quốc tế.
Chỉ 3 ngày sau cuộc gặp với Chủ tịch Tập Cận Bình ở Bắc Kinh, phát biểu tại Đại học Queensland, Australia, bên lề Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 8 Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20) ngày 15/11/2014, Tổng thống Barack Obama cảnh báo về nguy cơ xung đột nhãn tiền ở khu vực Châu Á, khi Trung Quốc tranh giành chủ quyền với các nước láng giềng. Ông Obama nhận định vấn đề tranh chấp lãnh thổ, trên các hòn đảo hay bãi đá, có thể bùng phát thành nguy cơ đối đầu. Trong đó, Trung Quốc hiện là quốc gia liên quan đến một loạt tuyên bố chủ quyền gây tranh cãi với các quốc gia Đông Nam Á trên Biển Đông và với Nhật Bản trên biển Hoa Đông. Đồng thời, ông Obama nhấn mạnh Trung Quốc “phải tuân thủ các quy tắc và luật lệ giống như các quốc gia khác, dù trong lĩnh vực thương mại hay các vấn đề trên biển” và phản đối sự ép buộc, đe dọa của các nước lớn đối với các nước nhỏ.
Ngày 20/11/2014, Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đã thông qua một loạt nghị quyết, trong đó có nghị quyết tái khẳng định sự cần thiết phải tìm giải pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, cho các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Biển Hoa Đông. Nghị quyết mang mã số H.Res - 714, do Hạ nghị sỹ đảng Dân chủ Eni Faleomavaega bảo trợ, đã được Ủy ban Đối ngoại Hạ viện nhất trí thông qua, trong đó tái khẳng định sự ủng hộ của Chính phủ và Quốc hội Mỹ đối với các nỗ lực tìm giải pháp hòa bình và trên cơ sở các nguyên tắc luật pháp quốc tế đã được các nước công nhận đối với các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và biển Hoa Đông.
Nghị quyết một lần nữa khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ đối với tự do hàng hải, sử dụng các vùng biển và vùng trời ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương theo luật pháp quốc tế. Nghị quyết H.Res - 714 cũng lên án mọi hành động cưỡng chế hoặc sử dụng vũ lực gây cản trở các quyền tự do tại các vùng biển và không phận quốc tế; hối thúc Trung Quốc kiềm chế thực thi quyết định Vùng Nhận dạng phòng không (ADIZ) ở biển Hoa Đông, coi đây là một hành động đi ngược quyền tự do bay qua không phận quốc tế, đồng thời yêu cầu nước này không có các hành động tương tự tại các vùng biển khác của Châu Á - Thái Bình Dương.
Nghị quyết kêu gọi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các đồng minh, bạn bè của Mỹ và các nước có tranh chấp cùng nhau nỗ lực tìm giải pháp hòa bình cho các tranh chấp, thông qua việc thiết lập một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Đây là lần đầu tiên Ủy ban đối ngoại Hạ viện Mỹ thông qua một nghị quyết về Biển Đông. Các năm trước, nghị quyết về Biển Đông đã được trình ra Hạ viện Mỹ nhưng chưa được thông qua. Trong năm 2014, đây là lần thứ hai Quốc hội Mỹ thể hiện thái độ mạnh mẽ đối với sự leo thang căng thẳng của Trung Quốc tại các vùng biển tranh chấp. Hồi tháng 7/2014, với toàn bộ phiếu thuận, Thượng viện Mỹ đã nhất trí thông qua Nghị quyết mang mã số S.Res 412 về Biển Đông, phê phán việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam và yêu cầu Trung Quốc quay lại nguyên trạng trước ngày 01/5/2014.
Cùng thời điểm Nghị quyết H.Res - 714 được thông qua, Ủy ban đánh giá kinh tế và an ninh Mỹ - Trung (USCC) công bố Báo cáo nói rằng các chính sách của Trung Quốc làm căng thẳng quan hệ song phương. Báo cáo chỉ rõ quan hệ an ninh giữa 2 cường quốc thế giới đã xấu đi trong năm 2014 trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông và biển Hoa Đông, các tranh chấp lãnh thổ gia tăng và tiềm năng Mỹ - Trung đối đầu gây thương vong có nguy cơ leo thang thành "một cuộc khủng hoảng chính trị lớn".
Báo cáo nhấn mạnh các máy bay và tàu quân sự Trung Quốc đã đối đầu với máy bay và tàu Mỹ “nhiều lần kể từ cuối năm 2013..., trong đó quân nhân Trung Quốc đã có cách hành xử không an toàn, không chuyên nghiệp và hung hăng có thể dẫn đến thiệt hại về người hay một cuộc khủng hoảng chính trị lớn”.
Báo cáo của USCC kêu gọi Quốc hội Mỹ tăng ngân sách cho Hải quân Mỹ hiện diện ở Châu Á - Thái Bình Dương nhằm duy trì tình trạng sẵn sàng chiến đấu và “đối trọng với năng lực quân sự ngày càng tăng lên của Trung Quốc”.
Ngày 21/11/2014, Washington một lần nữa chính thức lên tiếng trước động thái bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông, kêu gọi Trung Quốc dừng ngay lập tức mọi hành vi xây dựng đảo nhân tạo thông qua phát biểu của Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Mỹ Jeffrey Pool. Ông Pool cho rằng dự án lấp biển xây đảo nhân tạo của Bắc Kinh tại khu vực Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa là một hành động phi pháp trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Ông Pool bày tỏ: “Chúng tôi kêu gọi Trung Quốc dừng ngay kế hoạch xây đảo nhân tạo và thực hiện các sáng kiến ngoại giao nhằm khuyến khích tất cả các bên kiềm chế đối với những hành động tương tự”.
Những động thái trên đây cho thấy Mỹ hết sức lo ngại sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông ảnh hưởng đến việc triển khai chính sách “tái cân bằng chiến lược ở Châu Á - Thái Bình Dương” nói chung và lợi ích của Mỹ ở Biển Đông nói riêng./.
BDN
TỔNG THỐNG MỸ BARACK OBAMA VÀ CHỦ TỊCH TRUNG QUỐC TẬP CẬN BÌNH CÔNG KÍCH NHAU TẠI ÚC
BienDong.Net: Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cùng đến Úc để tham dự Hội nghị G20. Người đứng đầu nước Mỹ và Trung Quốc đã tận dụng cơ hội này để công kích lẫn nhau nhằm tạo lợi thế trong triển khai chiến lược của mình đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói chung và đối với Biển Đông nói riêng. Tổng thống Obama tranh thủ thúc đẩy chính sách “tái cân bằng chiến lược” ở Châu Á – Thái Bình Dương và can dự sâu thêm vào Biển Đông; còn Chủ tịch Tập Cận Bình tranh thủ thúc đẩy “giấc mơ Châu Á – Thái Bình Dương”, thực hiện mục tiêu độc chiếm Biển Đông.
Phát biểu tại Đại học Queensland, Australia, bên lề hội nghị thượng đỉnh lần thứ 8 Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20) hôm 15/11/2014, Tổng thống Obama cảnh báo về nguy cơ xung đột nhãn tiền ở khu vực Châu Á, khi Trung Quốc tranh giành chủ quyền với các nước láng giềng. Ông Obama nhận định vấn đề tranh chấp lãnh thổ, trên các hòn đảo hay bãi đá, có thể bùng phát thành nguy cơ đối đầu. Trong đó, Trung Quốc hiện là quốc gia liên quan đến một loạt tuyên bố chủ quyền gây tranh cãi với các quốc gia Đông Nam Á trên Biển Đông và với Nhật Bản trên biển Hoa Đông.
Trong bài phát biểu của mình, ông Obama nhắc lại quan điểm Mỹ hoan nghênh sự lớn mạnh của Trung Quốc, nếu quốc gia này thể hiện được vai trò trách nhiệm và hòa bình trên thế giới. Tuy nhiên, Trung Quốc "phải tuân thủ các quy tắc và luật lệ giống như các quốc gia khác, dù trong lĩnh vực thương mại hay các vấn đề trên biển".
Người đứng đầu Nhà Trắng nhấn mạnh rằng một trật tự an ninh hiệu quả ở Châu Á không thể dựa trên sự ảnh hưởng hay ép buộc, đe dọa của các nước lớn đối với nước nhỏ, mà cần dựa trên nền tảng tôn trọng lẫn nhau.
Trong bài phát biểu, Tổng thống Obama cam kết rằng Washington sẽ vẫn hiện diện mạnh mẽ trong khu vực; khẳng định chính sách xoay trục của Mỹ tại Châu Á là có thực và vẫn đang được thực hiện. Nói về các lợi ích lâu dài của Mỹ ở khu vực, ông Obama nhấn mạnh: "Các thế hệ người Mỹ đã phục vụ và chết ở đây để người dân Châu Á - Thái Bình Dương có thể sống tự do. Vì vậy, không ai có thể nghi ngờ quyết tâm hay cam kết của chúng tôi đối với các đồng minh trong khu vực"; đồng thời tuyên bố: "Chúng tôi sẽ tiếp tục làm sâu sắc thêm các cam kết của mình mỗi ngày, sử dụng mọi phương thức - ngoại giao, quân sự, kinh tế, sự phát triển, và sức mạnh các giá trị của chúng tôi".
Bằng bài phát biểu của mình tại Đại học Queensland, Australia, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã phát đi những cảnh báo mạnh mẽ đối với Trung Quốc. Lời cảnh báo được đưa ra chỉ vài ngày sau chuyến thăm chính thức Bắc Kinh và dự Hội nghị cấp cao APEC đầu tháng 11/2014 cho thấy rõ những bất đồng lớn giữa Washington và Bắc Kinh về các vấn đề an ninh khu vực.
Trong khi đó, Người đứng đầu Trung Quốc, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình lại có những lời lẽ tỏ ra hòa dịu khi phát biểu tại Quốc hội Úc ngày 17/11/2014 ngay sau Hội nghị thượng đỉnh G20. Trong bài phát biểu dài tại Quốc hội Úc, ông Tập nhấn mạnh: “Nhìn nhận lịch sử cho thấy, các nước cố theo đuổi vũ lực trong quá trình phát triển đều thất bại”… “Hòa bình là quý giá và cần được bảo vệ. Quan điểm lâu dài của Trung Quốc là giải quyết hòa bình các tranh chấp với các nước có liên quan, giải quyết tranh chấp về lợi ích hàng hải thông qua đối thoại và tham vấn”.
Các nhà phân tích cho rằng, phát biểu mang tính chất ‘hòa bình’ này của Tập Cận Bình có vẻ trái ngược với những hành động hung hăng hiếu chiến của Bắc Kinh ở Biển Đông và biển Hoa Đông thời gian qua. Trên thực tế thì quân đội Trung Quốc không bác bỏ khả năng xảy ra xung đột trong tranh chấp biển. Ông Tập đã đưa ra những lời biện hộ cho hành động sai trái của Bắc Kinh rằng Trung Quốc “phải luôn đề cao cảnh giác chống lại các yếu tố có thể lấy đi hòa bình” và ưu tiên cho giám sát và phòng thủ ở khu vực Biển Đông, Hoa Đông.
Nhiều nhà quan sát cho rằng với ngân sách quốc phòng ngày càng lớn Trung Quốc đang tự trang bị các khả năng để xử lý vấn đề nhiều hơn là chuyện phòng thủ hay giám sát các biên giới hàng hải, thậm chí có ý kiến cho rằng Trung Quốc đang chuẩn bị cho một cuộc chiến trên biển. Một báo cáo gần đây của Diplomat nhấn mạnh rằng, các lực lượng vũ trang của Trung Quốc đang mở rộng khả năng tấn công đổ bộ, gia tăng can dự vào các tranh chấp lãnh thổ. Một số học giả cứng rắn của Trung Quốc cũng tán thành quan điểm “sức mạnh quân sự quy mô lớn” cần được phát triển để ngăn chặn việc bị “lâm vào thế bị động” bởi các nước khác.
Giữa lúc Trung Quốc đang đẩy mạnh các hoạt động ở Biển Đông để hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” sai trái, tiến tới độc chiếm Biển Đông như hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam; xây dựng sân bay trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa; lấn biển, mở rộng các bãi ở Hoàng Sa và Trường Sa thì dư luận quốc tế không thể tin vào những lời nói hoa mỹ mà ông Tập Cận Bình nêu ra trong bài phát biểu của mình tại Quốc hội Úc hôm 17/11 vừa qua.
Các nhà phân tích đều cho rằng lời nói và hành động của Trung Quốc không đi đôi với nhau. Ông Tập chính là người đã khẳng định thêm những đánh giá của các nhà phân tích đó là “nói một đằng làm một nẻo”. Từ khi lên nắm quyền ở Bắc Kinh, ông Tập đã thi hành một chính sách hết sức cứng rắn với các nước láng giềng ven biển của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông, nhưng trong các bài phát biểu thì ông lại dùng những lời hoa mỹ để lừa bịp dư luận.
Ý đồ của ông Tập là muốn dùng những lời nói hoa mỹ này để đẩy Mỹ ra khỏi khu vực nói chung và Biển Đông nói riêng. Cho dù ông Tập cố gắng tìm mọi cách để đánh lừa dư luận, nhưng qua các hành động thực tế của Bắc Kinh thì cộng đồng quốc tế đều thấy rõ “bộ mặt” thật của Bắc Kinh là kẻ bành trướng bá quyền.
Ngược lại, đối với Mỹ, mặc dù ông Obama phát biểu với những lời khá mạnh mẽ nhưng các nước đều thấy rõ vai trò của Mỹ trong việc duy trì hòa bình ổn định khu vực; hầu hết các nước trong khu vực đều ủng hộ chính sách “xoay trục” của Mỹ bởi đây là nhân tố quan trọng kiềm chế và ngăn chặn sự bành trướng trên biển của Trung Quốc.
Lời qua tiếng lại giữa ông chủ Nhà Trắng và ông chủ ở Trung Nam Hải cho thấy cạnh tranh Trung – Mỹ ở khu vực nói chung và ở Biển Đông, biển Hoa Đông sẽ ngày càng gay gắt. Để duy trì vị trí siêu cường số 1 của mình Mỹ cần bảo vệ những lợi ích chiến lược của Mỹ ở khu vực, trong đó có Biển Đông và biển Hoa Đông.
Ý đồ của Trung Quốc muốn gạt Mỹ ra khỏi cuộc chơi ở khu vực khó có thể thực hiện được bởi chính các nước trong khu vực cần đến sự hiện diện của Mỹ để làm nhân tố đối trọng với sự lấn lướt, hăm dọa của Bắc Kinh./.
BDN
MỸ KHẲNG ĐỊNH CHÍNH SÁCH “XOAY TRỤC” Ở CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ TĂNG CƯỜNG CAN DỰ VÀO BIỂN ĐÔNG
BienDong.Net: Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cùng đến Úc để tham dự Hội nghị G20. Người đứng đầu nước Mỹ và Trung Quốc đã tận dụng cơ hội này để công kích lẫn nhau nhằm tạo lợi thế trong triển khai chiến lược của mình đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói chung và đối với Biển Đông nói riêng. Tổng thống Obama tranh thủ thúc đẩy chính sách “tái cân bằng chiến lược” ở Châu Á – Thái Bình Dương và can dự sâu thêm vào Biển Đông; còn Chủ tịch Tập Cận Bình tranh thủ thúc đẩy “giấc mơ Châu Á – Thái Bình Dương”, thực hiện mục tiêu độc chiếm Biển Đông.
Phát biểu tại Đại học Queensland, Australia, bên lề hội nghị thượng đỉnh lần thứ 8 Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20) hôm 15/11/2014, Tổng thống Obama cảnh báo về nguy cơ xung đột nhãn tiền ở khu vực Châu Á, khi Trung Quốc tranh giành chủ quyền với các nước láng giềng. Ông Obama nhận định vấn đề tranh chấp lãnh thổ, trên các hòn đảo hay bãi đá, có thể bùng phát thành nguy cơ đối đầu. Trong đó, Trung Quốc hiện là quốc gia liên quan đến một loạt tuyên bố chủ quyền gây tranh cãi với các quốc gia Đông Nam Á trên Biển Đông và với Nhật Bản trên biển Hoa Đông.
Trong bài phát biểu của mình, ông Obama nhắc lại quan điểm Mỹ hoan nghênh sự lớn mạnh của Trung Quốc, nếu quốc gia này thể hiện được vai trò trách nhiệm và hòa bình trên thế giới. Tuy nhiên, Trung Quốc "phải tuân thủ các quy tắc và luật lệ giống như các quốc gia khác, dù trong lĩnh vực thương mại hay các vấn đề trên biển".
Người đứng đầu Nhà Trắng nhấn mạnh rằng một trật tự an ninh hiệu quả ở Châu Á không thể dựa trên sự ảnh hưởng hay ép buộc, đe dọa của các nước lớn đối với nước nhỏ, mà cần dựa trên nền tảng tôn trọng lẫn nhau.
Trong bài phát biểu, Tổng thống Obama cam kết rằng Washington sẽ vẫn hiện diện mạnh mẽ trong khu vực; khẳng định chính sách xoay trục của Mỹ tại Châu Á là có thực và vẫn đang được thực hiện. Nói về các lợi ích lâu dài của Mỹ ở khu vực, ông Obama nhấn mạnh: "Các thế hệ người Mỹ đã phục vụ và chết ở đây để người dân Châu Á - Thái Bình Dương có thể sống tự do. Vì vậy, không ai có thể nghi ngờ quyết tâm hay cam kết của chúng tôi đối với các đồng minh trong khu vực"; đồng thời tuyên bố: "Chúng tôi sẽ tiếp tục làm sâu sắc thêm các cam kết của mình mỗi ngày, sử dụng mọi phương thức - ngoại giao, quân sự, kinh tế, sự phát triển, và sức mạnh các giá trị của chúng tôi".
Bằng bài phát biểu của mình tại Đại học Queensland, Australia, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã phát đi những cảnh báo mạnh mẽ đối với Trung Quốc. Lời cảnh báo được đưa ra chỉ vài ngày sau chuyến thăm chính thức Bắc Kinh và dự Hội nghị cấp cao APEC đầu tháng 11/2014 cho thấy rõ những bất đồng lớn giữa Washington và Bắc Kinh về các vấn đề an ninh khu vực.
Trong khi đó, Người đứng đầu Trung Quốc, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình lại có những lời lẽ tỏ ra hòa dịu khi phát biểu tại Quốc hội Úc ngày 17/11/2014 ngay sau Hội nghị thượng đỉnh G20. Trong bài phát biểu dài tại Quốc hội Úc, ông Tập nhấn mạnh: “Nhìn nhận lịch sử cho thấy, các nước cố theo đuổi vũ lực trong quá trình phát triển đều thất bại”… “Hòa bình là quý giá và cần được bảo vệ. Quan điểm lâu dài của Trung Quốc là giải quyết hòa bình các tranh chấp với các nước có liên quan, giải quyết tranh chấp về lợi ích hàng hải thông qua đối thoại và tham vấn”.
Các nhà phân tích cho rằng, phát biểu mang tính chất ‘hòa bình’ này của Tập Cận Bình có vẻ trái ngược với những hành động hung hăng hiếu chiến của Bắc Kinh ở Biển Đông và biển Hoa Đông thời gian qua. Trên thực tế thì quân đội Trung Quốc không bác bỏ khả năng xảy ra xung đột trong tranh chấp biển. Ông Tập đã đưa ra những lời biện hộ cho hành động sai trái của Bắc Kinh rằng Trung Quốc “phải luôn đề cao cảnh giác chống lại các yếu tố có thể lấy đi hòa bình” và ưu tiên cho giám sát và phòng thủ ở khu vực Biển Đông, Hoa Đông.
Nhiều nhà quan sát cho rằng với ngân sách quốc phòng ngày càng lớn Trung Quốc đang tự trang bị các khả năng để xử lý vấn đề nhiều hơn là chuyện phòng thủ hay giám sát các biên giới hàng hải, thậm chí có ý kiến cho rằng Trung Quốc đang chuẩn bị cho một cuộc chiến trên biển. Một báo cáo gần đây của Diplomat nhấn mạnh rằng, các lực lượng vũ trang của Trung Quốc đang mở rộng khả năng tấn công đổ bộ, gia tăng can dự vào các tranh chấp lãnh thổ. Một số học giả cứng rắn của Trung Quốc cũng tán thành quan điểm “sức mạnh quân sự quy mô lớn” cần được phát triển để ngăn chặn việc bị “lâm vào thế bị động” bởi các nước khác.
Giữa lúc Trung Quốc đang đẩy mạnh các hoạt động ở Biển Đông để hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” sai trái, tiến tới độc chiếm Biển Đông như hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam; xây dựng sân bay trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa; lấn biển, mở rộng các bãi ở Hoàng Sa và Trường Sa thì dư luận quốc tế không thể tin vào những lời nói hoa mỹ mà ông Tập Cận Bình nêu ra trong bài phát biểu của mình tại Quốc hội Úc hôm 17/11 vừa qua.
Các nhà phân tích đều cho rằng lời nói và hành động của Trung Quốc không đi đôi với nhau. Ông Tập chính là người đã khẳng định thêm những đánh giá của các nhà phân tích đó là “nói một đằng làm một nẻo”. Từ khi lên nắm quyền ở Bắc Kinh, ông Tập đã thi hành một chính sách hết sức cứng rắn với các nước láng giềng ven biển của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông, nhưng trong các bài phát biểu thì ông lại dùng những lời hoa mỹ để lừa bịp dư luận.
Ý đồ của ông Tập là muốn dùng những lời nói hoa mỹ này để đẩy Mỹ ra khỏi khu vực nói chung và Biển Đông nói riêng. Cho dù ông Tập cố gắng tìm mọi cách để đánh lừa dư luận, nhưng qua các hành động thực tế của Bắc Kinh thì cộng đồng quốc tế đều thấy rõ “bộ mặt” thật của Bắc Kinh là kẻ bành trướng bá quyền.
Ngược lại, đối với Mỹ, mặc dù ông Obama phát biểu với những lời khá mạnh mẽ nhưng các nước đều thấy rõ vai trò của Mỹ trong việc duy trì hòa bình ổn định khu vực; hầu hết các nước trong khu vực đều ủng hộ chính sách “xoay trục” của Mỹ bởi đây là nhân tố quan trọng kiềm chế và ngăn chặn sự bành trướng trên biển của Trung Quốc.
Lời qua tiếng lại giữa ông chủ Nhà Trắng và ông chủ ở Trung Nam Hải cho thấy cạnh tranh Trung – Mỹ ở khu vực nói chung và ở Biển Đông, biển Hoa Đông sẽ ngày càng gay gắt. Để duy trì vị trí siêu cường số 1 của mình Mỹ cần bảo vệ những lợi ích chiến lược của Mỹ ở khu vực, trong đó có Biển Đông và biển Hoa Đông.
Ý đồ của Trung Quốc muốn gạt Mỹ ra khỏi cuộc chơi ở khu vực khó có thể thực hiện được bởi chính các nước trong khu vực cần đến sự hiện diện của Mỹ để làm nhân tố đối trọng với sự lấn lướt, hăm dọa của Bắc Kinh./.
BDN
BienDong.Net
MỸ KHẲNG ĐỊNH CHÍNH SÁCH “XOAY TRỤC” Ở CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ TĂNG CƯỜNG CAN DỰ VÀO BIỂN ĐÔNG
BienDong.Net: Trước những đồn đoán hoài nghi về chính sách của Mỹ đối
với Châu Á - Thái Bình Dương và đối với Biển Đông, gần đây các nhà lãnh
đạo Mỹ liên tiếp khẳng định lại chính sách “tái cân bằng chiến lược” ở
Châu Á - Thái Bình Dương nói chung và quan điểm của Mỹ đối với vấn đề
Biển Đông nói riêng.
Ngày 5/11/2014, phát biểu tại Trường Quan hệ quốc tế Cao cấp Johns Hopkins, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tái khẳng định tầm quan trọng của Châu Á - Thái Bình Dương trong chính sách toàn cầu của Mỹ. Một mặt, ông Kerry coi việc củng cố quan hệ Mỹ - Trung là “một bộ phận chủ chốt” của chính sách “tái cân bằng chiến lược” ở Châu Á - Thái Bình Dương.
Về vấn đề Biển Đông, Ngoại trưởng John Kerry nhấn mạnh: “Mỹ có lập trường mạnh về cách thức mà các yêu sách được theo đuổi và cách thức các tranh chấp được giải quyết”. Tuyên bố này của Ngoại trưởng Mỹ đã xác định một cách rõ ràng hơn quan điểm của Mỹ trên vấn đề Biển Đông từ chỗ “quan tâm” lên thành “có lập trường” đối với cách thức mà các bên theo đuổi các yêu sách ở Biển Đông và cách thức giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Trước đó, trong một phát biểu công khai của mình, Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Michael Fuchs ngày 11/7/2014 nói rằng: “Mỹ rất quan tâm đến cách thức mà các nước giải quyết tranh chấp cũng như việc các yêu sách của các nước có phù hợp với luật biển hay không?”. Quan điểm mới của Mỹ được ông John Kerry đưa ra tạo cho Mỹ một khả năng rộng lớn hơn trong can dự vào hành động của các nước liên quan đến đòi hỏi chủ quyền và xử lý tranh chấp ở Biển Đông.
Ngày 15/11/2014, trong bài diễn văn phát biểu tại Đại học Queensland, Australia, bên lề Hội nghị Thượng đỉnh lần 8 Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20), Tổng thống Mỹ Barack Obama khẳng định chính sách “tái cân bằng chiến lược” của Mỹ ở Châu Á - Thái Bình Dương; nhấn mạnh Mỹ là một phần quan trọng đối với thế cân bằng sức mạnh tại Châu Á và Washington mong muốn gia tăng vai trò của mình trong khu vực. “Chúng tôi sẽ tiếp tục tham gia sâu sắc hơn, sử dụng mọi yếu tố thuộc về sức mạnh Mỹ”, ông nói.
Tổng thống Obama khẳng định Mỹ sẽ hợp tác chặt chẽ với các nước nhằm tăng cường vị thế của họ, từ đó, những nước lớn không thể “bắt nạt các quốc gia nhỏ bé” - cụm từ thường dùng trong một số tài liệu tham khảo liên quan đến vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Ông Obama nhấn mạnh Washington đang lên kế hoạch chia sẻ sức mạnh trên biển cùng các nước ở Châu Á, đồng thời, tìm ra điểm chung về lợi ích quân sự với Việt Nam cũng như tăng cường khả năng hàng hải của nước này.
Ông Obama bày tỏ mong muốn tìm ra điểm chung về lợi ích quân sự cũng như tăng cường khả năng hàng hải của Việt Nam và tăng cường quan hệ với các nước Châu Á khác. “Mỹ sẽ tiếp tục mở rộng hợp tác với các các cường quốc đang lên và các nền kinh tế đang lên. Chúng tôi dự định hỗ trợ Việt Nam theo đuổi những cải cách kinh tế và khả năng hàng hải mới. Chúng tôi sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện với Indonesia, nước là ví dụ điển hình cho sự đa dạng... Chúng tôi sẽ tiếp tục mở rộng quan hệ với Malaysia, trung tâm đang phát triển của các doanh nghiệp và của sự sáng tạo. Chúng tôi hỗ trợ cho vai trò lớn hơn ở Châu Á - Thái Bình Dương của Ấn Độ”, ông Obama nói.
Mặt khác, Tổng thống Obama yêu cầu Trung Quốc phải tuân thủ những quy tắc về ứng xử trên Biển Đông với các nước láng giềng. Ông nhấn mạnh: “Chúng tôi sẽ hỗ trợ nỗ lực của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) nhằm đạt đến một bộ quy tắc ứng xử chung với Trung Quốc để tăng cường luật pháp quốc tế trên Biển Đông”. Đồng thời ông Obama tỏ ý muốn các nước lớn như Ấn Độ tăng cường hỗ trợ và đảm nhận những trọng trách lớn hơn tại Châu Á - Thái Bình Dương. Ông Obama nói: “Cùng nhau, chúng ta có thể cải thiện an ninh, duy trì tự do hàng hải và khuyến khích các nước giải quyết tranh chấp lãnh thổ một cách hòa bình”.
Trước đó, ngày 13/11/2014, phát biểu tại Diễn dàn cấp cao Đông Á tổ chức ở Myanmar, Tổng thống Barack Obama yêu cầu các bên thực hiện nghiêm túc đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), yêu cầu chấm dứt các hoạt động lấp biển mở rộng các bãi ở Biển Đông để duy trì nguyên trạng ở Biển Đông.
Đáng chú ý là bên lề Hội nghị G20 tại Úc, ngày 16/11/2014 với sự tham gia của Tổng thống Brack Obama, Hội nghị Thượng đỉnh của 3 nước Mỹ, Nhật, Úc đã ra Tuyên bố lần đầu tiên kêu gọi giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, đồng thời khẳng định việc thúc đẩy tự do, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở khu vực./.
BDN
Ngày 5/11/2014, phát biểu tại Trường Quan hệ quốc tế Cao cấp Johns Hopkins, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tái khẳng định tầm quan trọng của Châu Á - Thái Bình Dương trong chính sách toàn cầu của Mỹ. Một mặt, ông Kerry coi việc củng cố quan hệ Mỹ - Trung là “một bộ phận chủ chốt” của chính sách “tái cân bằng chiến lược” ở Châu Á - Thái Bình Dương.
Về vấn đề Biển Đông, Ngoại trưởng John Kerry nhấn mạnh: “Mỹ có lập trường mạnh về cách thức mà các yêu sách được theo đuổi và cách thức các tranh chấp được giải quyết”. Tuyên bố này của Ngoại trưởng Mỹ đã xác định một cách rõ ràng hơn quan điểm của Mỹ trên vấn đề Biển Đông từ chỗ “quan tâm” lên thành “có lập trường” đối với cách thức mà các bên theo đuổi các yêu sách ở Biển Đông và cách thức giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Trước đó, trong một phát biểu công khai của mình, Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Michael Fuchs ngày 11/7/2014 nói rằng: “Mỹ rất quan tâm đến cách thức mà các nước giải quyết tranh chấp cũng như việc các yêu sách của các nước có phù hợp với luật biển hay không?”. Quan điểm mới của Mỹ được ông John Kerry đưa ra tạo cho Mỹ một khả năng rộng lớn hơn trong can dự vào hành động của các nước liên quan đến đòi hỏi chủ quyền và xử lý tranh chấp ở Biển Đông.
Ngày 15/11/2014, trong bài diễn văn phát biểu tại Đại học Queensland, Australia, bên lề Hội nghị Thượng đỉnh lần 8 Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20), Tổng thống Mỹ Barack Obama khẳng định chính sách “tái cân bằng chiến lược” của Mỹ ở Châu Á - Thái Bình Dương; nhấn mạnh Mỹ là một phần quan trọng đối với thế cân bằng sức mạnh tại Châu Á và Washington mong muốn gia tăng vai trò của mình trong khu vực. “Chúng tôi sẽ tiếp tục tham gia sâu sắc hơn, sử dụng mọi yếu tố thuộc về sức mạnh Mỹ”, ông nói.
Tổng thống Obama khẳng định Mỹ sẽ hợp tác chặt chẽ với các nước nhằm tăng cường vị thế của họ, từ đó, những nước lớn không thể “bắt nạt các quốc gia nhỏ bé” - cụm từ thường dùng trong một số tài liệu tham khảo liên quan đến vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Ông Obama nhấn mạnh Washington đang lên kế hoạch chia sẻ sức mạnh trên biển cùng các nước ở Châu Á, đồng thời, tìm ra điểm chung về lợi ích quân sự với Việt Nam cũng như tăng cường khả năng hàng hải của nước này.
Ông Obama bày tỏ mong muốn tìm ra điểm chung về lợi ích quân sự cũng như tăng cường khả năng hàng hải của Việt Nam và tăng cường quan hệ với các nước Châu Á khác. “Mỹ sẽ tiếp tục mở rộng hợp tác với các các cường quốc đang lên và các nền kinh tế đang lên. Chúng tôi dự định hỗ trợ Việt Nam theo đuổi những cải cách kinh tế và khả năng hàng hải mới. Chúng tôi sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện với Indonesia, nước là ví dụ điển hình cho sự đa dạng... Chúng tôi sẽ tiếp tục mở rộng quan hệ với Malaysia, trung tâm đang phát triển của các doanh nghiệp và của sự sáng tạo. Chúng tôi hỗ trợ cho vai trò lớn hơn ở Châu Á - Thái Bình Dương của Ấn Độ”, ông Obama nói.
Mặt khác, Tổng thống Obama yêu cầu Trung Quốc phải tuân thủ những quy tắc về ứng xử trên Biển Đông với các nước láng giềng. Ông nhấn mạnh: “Chúng tôi sẽ hỗ trợ nỗ lực của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) nhằm đạt đến một bộ quy tắc ứng xử chung với Trung Quốc để tăng cường luật pháp quốc tế trên Biển Đông”. Đồng thời ông Obama tỏ ý muốn các nước lớn như Ấn Độ tăng cường hỗ trợ và đảm nhận những trọng trách lớn hơn tại Châu Á - Thái Bình Dương. Ông Obama nói: “Cùng nhau, chúng ta có thể cải thiện an ninh, duy trì tự do hàng hải và khuyến khích các nước giải quyết tranh chấp lãnh thổ một cách hòa bình”.
Trước đó, ngày 13/11/2014, phát biểu tại Diễn dàn cấp cao Đông Á tổ chức ở Myanmar, Tổng thống Barack Obama yêu cầu các bên thực hiện nghiêm túc đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), yêu cầu chấm dứt các hoạt động lấp biển mở rộng các bãi ở Biển Đông để duy trì nguyên trạng ở Biển Đông.
Đáng chú ý là bên lề Hội nghị G20 tại Úc, ngày 16/11/2014 với sự tham gia của Tổng thống Brack Obama, Hội nghị Thượng đỉnh của 3 nước Mỹ, Nhật, Úc đã ra Tuyên bố lần đầu tiên kêu gọi giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, đồng thời khẳng định việc thúc đẩy tự do, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở khu vực./.
BDN