Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday, 24 October 2016

ARISTOTLE - CÁ CHẾT - TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIỂN

NÔNG DUY TRƯỜNG * ARISTOTLE

Chính Trị Luận - Aristotle


  LỜI GIỚI THIỆU

 

Bối cảnh lịch sử

Khoảng 4000 năm trước, ở Âu châu chỉ có những giống dân du mục. Từ sông Danube, một giống dân du mục tiến dần về phương nam để tìm những đồng cỏ xanh tốt hơn và dừng chân ở bán đảo Greece. Họ lấy tên thủy tổ của họ là Hellene để làm tên gọi. Người Trung Hoa sau này phiên âm Hellene thành Hy Lạp, và ta cũng quen theo lối gọi này.[1] Ngày nay, Hy Lạp dùng  địa danh để đặt tên nước của họ: Greece.  Tên chính thức là Cộng hòa Hellenic.
Thời cổ, Hy Lạp không phải là một nước thống nhất như ngày nay mà gồm nhiều thành phố được tổ chức như những quốc gia gọi là thị-quốc; mỗi thị-quốc độc lập với nhau và có cách tổ chức chính trị khác nhau. Các thị-quốc nổi tiếng gồm có Athens, Thebes, và Sparta. Tuy cùng một chủng tộc nhưng dân thị-quốc này lại coi dân thị-quốc khác như thù địch và chém giết lẫn nhau. Sparta và Athens là hai thái cực. Dân Sparta được huấn luyện để sống khắc kỷ từ nhỏ, một đời sống giản dị và cực kỳ trọng võ. Trái lại, dân Athens sống xa hoa, theo công nghệ và yêu chuộng thương mại. Về chính trị các thị quốc Hy Lạp đều theo quân chủ. Sau khi vua Alcmaeon băng hà vào năm 753 trước Thiên Chúa giáng sinh (BC), Athens được tổ chức theo dân chủ nghị viện: công dân được quyền bầu nghị viên, nhưng chức vụ thẩm phán vẫn dành cho quý tộc. Đến thế kỷ thứ 5  (BC), Athens hoàn toàn theo thể chế dân chủ trực tiếp. Mọi công dân đều trực tiếp tham gia việc nước: nghị luận, bàn cãi, bầu bán, biểu quyết, vân vân. Do đó, Athens được coi là nơi có chế độ dân chủ đầu tiên, nơi mà mọi người dân đều được tham gia chính sự. Tuy nhiên, đây cũng là nhược điểm, vì "quyết định của chính phủ thường chậm trễ, dân chúng quen thói bàn bạc, cãi cọ nhau, mồm mép giỏi mà hành động dở, dễ chia rẽ vì những lẽ nhỏ nhặt."[2] Dầu sao, nhờ tính chất tự do tư tưởng mà Athens trở thành một môi trường thuận lợi cho các triết gia như Socrates và sau đó, học trò ông là Plato đã phát triển học thuật đủ mọi ngành. Từ đó, Athens trở  thành trung tâm tư tưởng và học thuật của cả bán đảo Hy Lạp; sau này, chính là cái nôi văn hóa và tư tưởng của Tây phương.

Aristotle: Thân thế và sự nghiệp

Aristotle không những là một trong những triết gia vĩ đại của Cổ Hy Lạp mà còn của thế giới Tây phương. Ông sinh năm 384 và mất năm 322 (BC) tại Stagira, một thị trấn nhỏ phía đông thành phố Salonica, sát biên giới vương quốc Macedonia. Xuất thân từ một gia đình trí thức, cha của Aristotle là ngự y của vua Macedonia nên từ nhỏ, Aristotle đã được học về thiên nhiên và sinh vật qua quan sát cũng như qua các tài liệu y học của phụ thân.
Mười bảy tuổi, Aristotle tới Athens du học, đúng vào thời điểm Athens vừa được hồi sinh sau cuộc chiến với Sparta và mau chóng trở thành trung tâm văn hóa của toàn khu vực nói tiếng Hy Lạp. Athens được coi là quê hương của kịch nghệ, của ngôn ngữ thời thượng, trung tâm buôn bán và trao đổi sách vở của toàn cõi Hy Lạp. Ngoài văn chương và thương mại, Athens cũng là trung tâm của học thuật vì ngay từ thời đó đã có hai trường đại học được thành lập. Một là Viện Đại học Athens dạy đủ mọi ngành học và thuật cai trị. Trường thứ hai là Học Viện của Plato, học trò của Socrates-người được coi là ông tổ của Triết học Hy Lạp. Aristotle theo học tại Học Viện dưới sự hướng dẫn của Plato trong suốt 20 năm và nghiên cứu đủ mọi ngành học thuật từ toán học, văn học, sinh vật học cho đến triết học. Có thể nói Aristotle không chỉ là một sinh viên mà đã trở thành trợ giáo của Plato tại Học Viện.[3] Aristotle chú trọng đặc biệt đến siêu hình học (metaphysics)-môn học nghiên cứu về "ý tưởng," những gì bên ngoài và ở bên kia thực tại, không phụ thuộc vào giác quan- cùng thiên văn học và chính trị học.
Chính trị học, đối với người Hy Lạp, không những chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật. Học Viện Plato không chỉ dạy những môn học và nghiên cứu có tính lý thuyết; đây cũng là nơi huấn luyện chính trị và đào tạo các chính trị gia, đặc biệt về phương diện lập pháp. Plato không phải chỉ là một triết gia, một học giả trong tháp ngà. Ông đặc biệt chú trọng tới tính ứng dụng của chính trị học. Plato tin rằng chỉ có triết học chân chính mới hướng dẫn đúng đắn cách hành xử của con người, và cũng như Khổng Tử ở Đông phương mong muốn truyền bá Đạo của mình tới các bậc quân vương, Plato du hành sang Syracuse để cố vấn cho vua Dinysius đệ nhị, một bạo quân, cách cai trị theo "Vương đạo" trong suốt 16 năm nhưng chẳng thành công, giống trường hợp Khổng Tử đã thất bại sau 14 năm chu du thiên hạ để tìm một minh quân.[4]
Trong những năm cuối đời, Plato trước tác một tác phẩm đồ sộ gồm 12 quyển mang tựa đề: Luật Pháp. Những tư tưởng trong Luật Pháp đã phần nào ảnh hưởng đến tác phẩm Chính Trị Luận của Aristotle sau này. Đối với Aristotle, Plato là một người thầy vĩ đại (dù sau này tư tưởng của Aristotle có phần tương phản với Plato trên bình diện triết học), và xứng đáng là một vĩ nhân, như trong những vần thơ ai điếu do Aristotle viết cho thầy: "Ông (Plato) là một người mà kẻ xấu cũng không được quyền ca tụng, người duy nhất và có lẽ là người đầu tiên đã chứng tỏ một cách rõ rệt bằng chính cuộc đời và tư tưởng của mình, là để được hạnh phúc chính là làm một người tốt."[5]
Năm 347, Plato qua đời ở tuổi 80. Trong năm này, có hai sự kiện đánh dấu một bước ngoặt lớn trong đời Aristotle. Quê hương Stagira của ông bị quân đội của vua Philip xứ Macedonia tiêu diệt khiến ông trở thành một kẻ mất quê hương.Sự kiện thứ hai, quan trọng hơn, là người kế nhiệm Plato làm Viện Trưởng không được Aristotle và một số đồng môn khác tâm phục. Hai sự kiện này khiến Aristotle từ giã Athens, bắt đầu du hành đây đó và đem sở học ra áp dụng trong suốt 12 năm dài. Trên cuộc hành trình này, Aristotle cùng người bạn đồng môn Xenocrates, người sau này trở thành Viện Trưởng của Học Viện, liên lạc với các bạn đồng môn sống rải rác khắp bán đảo Hy Lạp, nhằm truyền bá học thuật của Plato. Trước hết, Aristotle và Xenocrates vượt biển Algea đến Troad nơi có hai người bạn đồng môn là Erastus và Coriscus cư ngụ. Troad là một thị-quốc nằm ở phía đông bắc núi Ida, còn về phía nam núi Ida là thị quốc Atarneus đang do nhà độc tài Hermias cai trị. Erastus và Coriscus, cũng noi gương thầy, làm "cố vấn chính trị" cho Hermias, rằng muốn cai trị lâu dài thì phải cai trị khoan dung và nhân hậu hơn là độc tài sắt máu. Hermias nghe theo lời dậy này và phong đất Assus cho Erastus và Coriscus Tại đây, cùng với Aristotle và Xenocrates, họ thành lập một Học Viện thu hút được sự tham dự của học sinh từ các miền lân cận. Aristotle trở thành bạn thân của Hermias và được nhà vua gả cháu gái cho làm vợ. Tại triều đình của Hermias, Aristotle có dịp được quan sát tận mắt chế độ quân chủ và rút ra được nhiều bài học từ những điều nghe thấy; đồng thời cũng học được những nguyên tắc về thương mại, và ngân hàng từ thị quốc này.
Sau một thời gian sinh sống tại đây, Aristotle dọn sang đảo Lesbos, và từ Lesbos Aristotle được vua Philip của xứ Macedonia vời đến Pella, thủ đô của Macedonia để dạy học cho hoàng tử Alexander từ lúc ông hoàng này mới 13 cho đến khi 19 tuổi. Alexander trở thành Đại đế (Alexander the Great) năm 20 tuổi.[6] Cho đến nay, không còn sử liệu nào cho biết Aristotle đã dạy Alexander những gì, nhưng những tài liệu còn sót lại nói rằng Aristotle đã gửi cho Alexander 2 luận cương về "thuật làm vua" và "cai trị các thuộc địa." Ngoài các môn học về văn chương-chủ yếu là qua trường ca Odyssey của Homer và triết học Hy Lạp-Aristotle còn dạy Alexander về khoa học thiên nhiên. Có lẽ đó là lý do sau này Alexander tưởng thưởng cho công trình nghiên cứu khoa học của Aristole 800 lạng vàng từ chiến lợi phẩm của chiến trường miền Đông. Khi Alexander lên làm vua và bắt đầu chinh chiến, Aristotle còn ở lại Macedonia thêm một thời gian nữa trước khi về lại trung tâm văn hóa và học thuật của Hy Lạp.
Năm 335, Aristotle trở về Athens và mở trường Lyceum. Trường này nằm bên cạnh Học Viện Plato, do người bạn đồng môn Xenocrates, người đã có một thời cùng Aristotle bôn ba truyền bá sở học của Plato, làm Viện trưởng. Tuy nhiên, Athens lúc này không phải là Athens tự do của 12 năm trước. Alexander đã chiếm đóng toàn cõi Hy Lạp và đặt Athens làm đất bảo hộ của Macedonia dưới quyền quản trị của Toàn quyền Antipater thuộc Liên Minh Corinth. Trong cương vị Toàn quyền, Antipater ủng hộ khái niệm chính trị quả đầu (oligarchy), một chế độ chính trị dựa trên giai cấp có tài sản, nên cai trị Athens theo chiều hướng đó, thay vì để Athens sinh hoạt dưới thể chế dân chủ như trước kia. Một điều ngẫu nhiên lý thú là Antipater và Aristotle đã từng quen biết nhau từ trước tại Macedonia và vẫn giữ liên lạc thường xuyên, nay lại tái ngộ ở Athens trong hai địa vị khác nhau Tuy nhiên, tình bạn giữa hai người vẫn khắn khít như xưa và những chính sách của Antipater đã ảnh hưởng không ít đến những tác phẩm của Aristotle sau này. Một cách cụ thể, Aristotle chủ trương xây dựng một thể chế "trung dung" ủng hộ giai cấp có tài sản. Các tác phẩm của Aristotle viết về hiến pháp và lịch sử hiến pháp của Athens cho thấy ông cũng theo sát những diễn biến chính trị của Athens do Lycurgus, một chính trị gia lỗi lạc của Athens và cũng đồng thời là bạn đồng song với Aristotle, tiến hành tại Athens (tư tưởng của Lycurgus cũng được các học giả đời sau nghiên cứu và đề cập đến trong các tác phẩm của họ). Lycurgus là lãnh tụ của đảng dân chủ theo chủ trương của Demosthenes là khôi phục lại vị thế của Athens trước khi bị Alexander  thống trị.
Mặc dù Lycurgus là một người chủ trương dân chủ, nhưng vì muốn khôi phục lại Athens, Lycurgus đã áp dụng một số chính sách của Sparta cho dân Athens: đó là chương trình cưỡng bách huấn luyện quân sự. Mỗi thanh niên Athens phải học tập quân sự trong hai năm. Thêm vào đó là một đạo luật cấm mua làm nô lệ những người tự do đã bị bắt làm tù binh trong chiến tranh. Những chính sách này được Aristotle thể hiện trong Quyển VII của Chính Trị Luận. Năm 328, một biến cố nghiêm trọng ảnh hưởng lớn lao đến Aristotle và học viện Lyceum. Callisthenes, là học trò và là cháu ruột của Aristotle, trước đó từng là bộ trưởng thông tin của Alexander, bị Alexander ra lệnh xử tử vì tham gia vào âm mưu thí vua. Callistenes có tham gia vào âm mưu này hay không, không có tài liệu nào còn lưu lại xác định được việc này, nhưng vì ông chống lại chỉ thị bắt triều thần phải quỳ lạy khi triều kiến nhà vua (tục này Alexander học được từ xứ Ba Tư), Callistenes bị giết khiến cả Lyceum phẫn nộ và "xét lại" tài năng của Alexander.
Năm 324, Alexander hạ lệnh bắt dân Hy Lạp phải vinh danh ông như thần thánh và cho phép những người bị Hy Lạp bị lưu đày được trở về. Chuyện chưa ngã ngũ, Alexander băng hà. Nhân cơ hội này, Athens tuyên bố chiến tranh với Macedonia và đòi lại tự do. Tại Athens, Toàn quyền Antipater đương nhiên trở thành đối tượng của cuộc chiến và Aristotle vì là bạn của Antipater, cũng đành phải bỏ Athens sang tị nạn tại xứ Chalcis. Ông qua đời tại đây vào năm 322.
Sau khi Aristotle qua đời, có hai sự kiện chứng tỏ ảnh hưởng của Aristotle trên nền chính trị của Athens. Sự kiện thứ nhất là Bản Hiến pháp của Athens do Antipater soạn thảo năm 321 sau khi dẹp xong cuộc nổi dậy của Athens 2 năm trước đó. Bản Hiến pháp này phản ảnh tư tưởng chính trị của Aristotle và tiếp nối chính sách của Lycurgus như sau: quyền đầu phiếu giới hạn trong số dân Athens có tài sản từ 2000 drachmas trở lên, nghĩa là giới hạn trong giới trung lưu; những người có một số tài sản vừa phải và còn trẻ để làm nghĩa vụ quân sự. Sự kiện thứ hai là việc Demetrius, học trò của Aristotle, lên cai trị Athens và biến những gì Aristotle đã dạy tại Lyceum thành luật.
Ảnh hưởng của Aristotle, tuy nhiên, không chỉ giới hạn tại Hy Lạp hay tại Athens. Triết lý theo trường phái Aristotle đã trở thành nền tảng cho triết học Duy Thực tại Tây phương. Về phương diện triết lý chính trị, Chính Trị Luận trở thành kinh điển cho khoa chính trị học tại Tây phương đến ngày nay.
Chính Trị Luận
Aristotle viết Chính Trị Luận năm 350 trước Thiên Chúa giáng sinh (BC). Cuốn sách này được xem là căn bản cho Chính trị học Tây phương và ảnh hưởng sâu rộng tới các tư tưởng gia đời sau như Cicero, St. Augustine, Aquinas, và các lý thuyết gia khác thời Trung Cổ. Các lý thuyết gia hiện đại như Machiavelli, Hobbes, và các nhà tư tưởng thời Khai Sáng đều dựa trên nền tảng này mà phê phán lý thuyết và mô hình chính trị kiểu Aristotle. Nhờ vậy, họ đã phát triển nên các hệ tư tưởng mới. Vì thế, dù ta đồng ý hay không với lập luận và lý thuyết của Aristotle, hiểu rõ các nguyên lý căn bản mà Aristotle đã đề ra vẫn là điều cần thiết để có thể hiểu được các nhà tư tưởng thời Khai sáng và Hậu hiện đại.
Trong Chính Trị Luận, Aristotle dùng phương pháp luận lý quy nạp, đi từ đơn vị xã hội nhỏ nhất là gia đình tới xã hội và cuối cùng là quốc gia, để tìm ra những đặc tính thiết yếu mà nhà nước phải có để trở thành một nhà nước lý tưởng. Ngoài phương pháp quy nạp, Aristotle cũng dùng phương pháp so sánh giữa mô hình nhà nước "lý tưởng" và mô hình nhà nước trong thực tế và đưa ra những nguyên lý xây dựng một nền chính trị mang lại "điều tốt nhất" cho con người.
Chính Trị Luận có 8 quyển. Quyển I mang tựa đề "Lý thuyết về Gia đình," gồm 13 chương. Aristotle mở đầu Chương 1 bằng nhận xét bất hủ: "mỗi một cộng đồng được thiết lập nhằm đạt tới một cái tốt nào đó; vì hoạt động của con người luôn luôn nhằm đạt được cái mà nó nghĩ là tốt. Nhưng, nếu tất cả các cộng đồng đều nhắm đến một cái tốt, thì nhà nước hay cộng đồng chính trị-cộng đồng cao nhất và bao trùm tất cả các cộng đồng-phải nhắm tới cái tốt cao cả hơn mọi cái tốt khác, và phải là cái tốt ở mức độ cao nhất." Trong Quyển I, Aristotle dùng phương pháp luận lý phân tích và truy nguyên các hình thức quần tụ của con người từ đơn vị nhỏ nhất là gia đình, đến làng mạc, rồi đến quốc gia.
Trong Quyển I, Aristotle nhắc đến vai trò của nô lệ (C. 3, 4 & 5) khi phân tích các thành phần tạo nên hộ gia đình. Mối tương quan trong hộ gia đình gồm có quan hệ giữa chủ nhân và nô lệ, giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ với con cái. Lập luận của Aristotle về nô lệ dĩ nhiên là không còn hợp với thời đại chúng ta, nhưng nô lệ là một thành phần không thể thiếu được trong xã hội Hy lạp thuở đó. Ở đây, ta cũng cần mở một dấu ngoặc về sinh hoạt kinh tế của Athens thời bấy giờ. Như đã dẫn trên đoạn bối cảnh lịch sử, người Hy lạp chuộng xa hoa, không ưa lao động chân tay, nên nền kinh tế dựa vào sức lao động của nô lệ là chính để sản xuất. Không có nô lệ để sản xuất và phụ nữ lo việc nhà thì đàn ông Hy lạp không còn thì giờ để mà suy tưởng những việc cao xa,[7] tựa như kẻ sĩ trong xã hội ta và Tàu thời trước, nho sĩ để móng tay dài lượt thượt và không được làm việc lao động chân tay (sic).
Theo Aristotle, có hai loại nô lệ: những kẻ sinh ra đã là nô lệ và những kẻ bị buộc làm nô lệ. Aristotle lập luận như sau: những kẻ nào mà trời sinh ra kém thông minh, không làm gì được khác hơn là chỉ làm những việc lao động chân tay, thì những kẻ ấy trời sinh ra làm nô lệ; đó là những kẻ không có đủ trí phán đoán khôn ngoan. Aristotle còn cho rằng đối với những người như vậy có được chủ nhân là điều tốt cho họ (C. 5). Ngoài ra, những kẻ chiến bại là những kẻ bị buộc làm nô lệ. Người Hy lạp, trong đó có Aristotle, lý luận rằng những kẻ chiến bại chắc chắn phải "kém" hơn người chiến thắng chứ nếu không thì thua làm sao được? Như vậy, bị bắt làm nô lệ thì cũng hợp với luận lý mà thôi.
Trong Chương 12, Q. I, Aristotle luận về vai trò phụ nữ trong hộ gia đình. Dĩ nhiên, những nhận định này cũng tương tự như quan niệm về nô lệ, nay đã lỗi thời nhưng có lý trong bối cảnh xã hộ đương thời. Aristotle quan niệm: "người nam do bản chất tự nhiên, ngoại trừ trường hợp bị tật bẩm sinh, thích hợp với vai trò chỉ huy hơn là người nữ; cũng tương tự như với tuổi tác và sự chín chắn thích hợp với vai trò chỉ huy hơn tuổi trẻ thiếu khôn ngoan." Aristotle không nói "chỉ huy" cái gì, nhưng nhận định thêm rằng vai trò người chồng đối với vợ cũng giống như vai trò của nhà lãnh đạo chính trị đối với các công dân, và vai trò của người cha đối với con cái cũng giống như của nhà vua đối với thần dân. Quan niệm của Aristotle về phụ nữ cũng là quan niệm của Tây phương về vai trò phụ nữ là lo việc quản trị gia đình. Ngay cả Thánh kinh của Ki tô giáo cũng quan niệm tương tự như vậy. Về phương diện chính trị, trong thời đại "văn minh" của chúng ta, phụ nữ cũng chỉ mới có quyền đầu phiếu từ năm 1893 tại New Zealand, và tại Mỹ từ năm 1920.
Quyển II gồm 12 chương. Trong phần đầu của Quyển II từ Chương 1 đến 8, Aristotle bàn về các nhà nước lý tưởng trên lý thuyết. Aristotle phê bình mô hình nhà nước lý tưởng của Plato, một nhà nước được xây dựng theo kiểu "cộng sản nguyên thủy," trong đó mọi của cải, vật chất đều được chia sẻ giữa các thành viên của cộng đồng (C. 1, 2, 3, 4 &5). Từ chương 6 đến 8, Aristotle phản bác mô hình của các lý thuyết gia khác như Phaleas, Hippodamus. Trong các chương 9-12, Aristotle nhận diện các nhà nước mà theo ông đã tiến đến gần lý tưởng như Sparta, Crete, và Carthage cùng với những khuyết điểm sâu sắc mà các nhà nước này mắc phải và đã đưa đến sự suy vong sau này.
Từ đó, Aristotle đưa ra nhận định là chẳng khi nào con người có thể đạt được một nhà nước lý tưởng (như Plato chủ trương), nhưng con người có thể xây dựng được cho mình một chế độ tốt nhất có thể được. Đó là một chế độ trung dung, giữa chế độ Dân chủ [khi nói đến dân chủ thời cổ Hy lạp, chúng ta phải hiểu đó là dân chủ trực tiếp, mọi người dân đều tham gia vào chính trị từ nghị luận việc công đến thi hành luật pháp] và chế độ Quả đầu (thiểu số cai trị nhưng không phải là quý tộc).[8]
Quyển III gồm 18 chương và chủ đề của Quyển III là khảo sát về bản chất công dân và các mô hình hiến pháp. Quyển III cũng là trọng tâm của Chính Trị Luận. Trong Chương 1, Aristotle cho rằng tư cách công dân của một người không được tạo nên chỉ vì người đó sinh ra và cư trú trên một đất nước nào đó. Tư cách công dân chỉ cần có một tiêu chuẩn để xác định: công dân là người có quyền tham gia chính sự và giữ những chức vụ trong chính quyền (Chương 1, §12)[9].
Tuy nhiên, có quyền tham gia chính sự và giữ chức vụ trong chính quyền không có nghĩa là người dân sẽ trở thành một công dân tốt. Aristotle đưa ra một câu hỏi thiết yếu: liệu một người tốt sẽ trở thành một công dân tốt chăng? Theo Aristotle, hai điều này thuộc hai phạm trù khác nhau. Ông đưa ra một hình ảnh so sánh người dân trong một nước với những người thủy thủ trên một con tàu, mỗi người có một nhiệm vụ riêng biệt phải thi hành; người thì lo việc lái tàu, người lo việc chèo chống, vân vân. Mỗi người đều phải làm "tốt" phần việc của mình. Tuy nhiên, tất cả đều có một nhiệm vụ chung là giữ cho con tàu được an toàn, đi được tới mục tiêu đã định. Công dân cũng vậy, mục đích tối hậu là giữ cho sự an toàn của chế độ, và đó là "đức hạnh" chung của mọi công dân (C.4, § 3). Công dân, dù giữ chức vụ lãnh đạo hay chỉ là dân thường, cũng cần phải có kiến thức và khả năng để biết lãnh đạo cũng như biết tuân phục (§15). Riêng đối với nhà lãnh đạo, Aristotle còn đòi hỏi phải có thêm một đức tính ngoài những đức tính mà mọi công dân đều có: đó là sự "khôn ngoan chính trị."
Trong Chương 6, Aristotle phân tích các chế độ chính trị được thể hiện qua các loại hiến pháp khác nhau. Một chế độ chính trị là "cách thức tổ chức quốc gia theo các cơ quan cai trị" (C.6, §1). Vì bản năng tự nhiên của con người là sống quần tụ với nhau hầu đạt được đời sống tốt đẹp hơn lúc sống đơn lẻ; do đó, mục đích tối hậu của mọi chế độ là tạo dựng và bảo vệ đời sống tốt đẹp cho mọi người. Chế độ nào đạt được mục đích này là chế độ đúng đắn; ngược lại, chế độ nào chỉ phục vụ cho quyền lợi của giới cầm quyền là chế độ bất công, vì quốc gia là sự kết hợp của những con người tự do và bình đẳng (C.6, § 9).
Trong các Chương 6 - 8, Aristotle phân tích các loại chế độ đúng đắn và các biến thể sai lầm của các chế độ này. Theo Aristotle, cơ cấu chính trị do hiến pháp đặt ra là cơ cấu tối thượng. Cơ cấu này có thể do Một người, Vài người, hay Đa số nắm giữ. Aristotle phân loại các chế độ chính trị như sau: Quân chủ (một người), Quý tộc (vài người), và Đa số (gồm các công dân có tài sản-Aristotle dùng từ "polity" để chỉ chế độ này). Dù dưới hình thức nào, khi cơ cấu tối thượng này cai trị nhằm đem lại cái "tốt" chung cho mọi người, thì nhất thiết nó phải là cơ cấu chính trị đúng đắn và tốt. Nếu các chế độ kể trên chỉ lo cho quyền lợi riêng thì chúng được coi như bị biến thái thành những chế độ xấu xa, như Bạo chúa (tyranny) thay cho Quân chủ, Quả đầu (oligarchy, thiểu số chỉ lo cho quyền lợi của dân giàu) thay cho Quý tộc, và Dân chủ (democracy) thay cho Đa số (Aristotle và người Hy lạp thời đó quan niệm rằng dân chủ là chế độ chỉ lo cho quyền lợi của dân nghèo). Thế còn trường hợp trong một nước có đa số là dân giàu và thiểu số là dân nghèo thì sao? Aristotle cho rằng con số nhiều, ít chỉ có tính tương đối, và nhấn mạnh một chế độ được xem là chế độ quả đầu nếu những người cai trị lo cho quyền lợi của người giàu (bất kể số người này nhiều hay ít), và một chế độ được xem là dân chủ nếu do thành phần dân nghèo cai trị (C.8, § 7).
Trong Chương 9, Aristotle bàn đến các nguyên tắc của chế độ Quả đầu và Dân chủ, dựa trên khái niệm về công bằng và bình đẳng. Những người theo chế độ Dân chủ cho rằng vì mọi người sinh ra đều bình đẳng, như vậy trên căn bản công bằng, mọi người đều có quyền ngang nhau. Những người theo chế độ Quả đầu lại nghĩ khác: nếu mọi người giàu nghèo khác nhau thì theo công lý, họ cũng có những quyền khác nhau; những người đóng góp cho nhà nước một đồng không thể có ngang quyền với những người đóng góp một trăm đồng. Theo Aristotle, cả hai lập luận trên đều sai lầm vì cả hai phe đều đưa ra nhận định và phán xét dựa trên quyền lợi của mình. Và Aristotle đã nói một câu bất hủ: "mọi người, như một quy luật, đều là những quan tòa không ngay thẳng khi phán đoán những gì có liên quan đến quyền lợi riêng tư của mình" (C.9, §2). Thêm vào đó, nhận định sai lạc của hai phe nằm ở chỗ không nắm vững mục tiêu tối hậu của nhà nước. Quốc gia không phải chỉ là một tập hợp của dân chúng cư ngụ trên cùng một lãnh thổ, hay là nơi để dân chúng buôn bán giao dịch dễ dàng với nhau, hay để cùng chống lại những hiểm họa. Tất cả những điều này cần, nhưng chưa đủ, vì chỉ có thể tạo nên đời sống xã hội chứ chưa tạo thành một quốc gia. Mục đích tối hậu của quốc gia là hướng tới một đời sống "tốt," và các mối dây ràng buộc xã hội chỉ là phương tiện để đạt tới mục đích này mà thôi (§13). Do đó, những ai, qua tài nănghành động của mình, cống hiến nhiều cho quốc gia, thì sẽ được hưởng nhiều vinh dự hơn (§15). Đây là lý thuyết phân bố công lý gọi là bình đẳng theo tỷ lệ, và dựa trên tài năng. Qua đây, Aristotle bác bỏ lập luận xây dựng quốc gia dựa trên giai cấp xã hội.
Trong Chương 10, Aristotle bàn đến một vấn đề quan trọng cho việc tổ chức quốc gia. Đó là thành phần nào sẽ nắm quyền tối thượng: dân nghèo, dân giàu, thành phần ưu tú, một người có tài năng kiệt xuất, hay một bạo chúa? Nếu thành phần đa số-không kể thành phần đó giàu hay nghèo-tịch thu của cải của thành phần thiểu số để chia cho nhau, thì đất nước sẽ bị tiêu hủy. Nếu thành phần ưu tú nắm quyền, thì đa số còn lại sẽ không có cơ hội để tham chính và giữ trọng trách trong chính quyền. Nếu chỉ có một người cai trị, thì tuyệt đại đa số sẽ chẳng bao giờ có cơ hội tham  chính. Và Aristotle đưa ra một đề nghị là "Pháp Trị," tức là hãy để luật pháp, chứ không phải con người có quyền tối thượng, vì con người luôn luôn để tư lợi và tình cảm xen vào.
Trong các chương còn lại của Quyển III, từ Chương 11 đến 18, Aristotle phân tích sự lợi hại của "Nhân trị" và "Pháp trị." Aristotle ghi nhận rằng, rất có thể có một người hay một nhóm người siêu tuyệt hơn mọi người, chỉ một mực chăm lo cho cái tốt chung của quốc gia, và theo luận lý tự nhiên thì người này hay nhóm người này nắm quyền tối thượng là thuận lý. Tuy nhiên, Aristotle cũng lưu ý: những người như vậy là "thần thánh chứ không phải là con người" (C.13).
Quyển IV gồm 16 chương. Trong Quyển IV, Aristotle luận về các mô hình hiến pháp (chế độ) và các dạng khác nhau của từng mô hình trong thực tế. Aristotle cho rằng, chính trị cũng giống như nghệ thuật và khoa học cần được xem xét không những dưới lăng kính lý tưởng, mà còn trong bản chất thực tế; nghĩa là, nhận định xem mô hình nào là mô hình tối hảo trong một tình huống đặc thù nào đó; đâu là phương cách hữu hiệu nhất để duy trì một chế độ; tính theo trung bình giữa các nước,thì mô hình nào là mô hình tốt nhất; các dạng chế độ chính có những biến thể nào khác nhau; và đặc biệt chú trọng đến hai chế độ Dân chủ và Quả đầu. Thêm vào đó, Aristotle nhấn mạnh luật pháp phải tương ứng với hiến pháp, chứ không phải ngược lại. Aristotle định nghĩa hiến pháp là "cách thức tổ chức cơ cấu chính quyền trong một nước, cách thức phân bố quyền lực được ấn định, chủ quyền tối thượng được xác định, và mục tiêu tối hậu của quốc gia mà mọi cơ quan và toàn thể dân chúng nhắm tới" (C.1, §10). Nói một cách khác, hiến pháp là cơ sở, trên đó, mọi luật pháp của quốc gia được ban hành.
Trong Chương 2 -10, Aristotle liệt kê các chế độ khác nhau và phân tích một cách tỉ mỉ những ưu điểm cũng như nhược điểm của các chế độ này, nhất là các biến thể của nó như quả đầu, bạo chúa, và dân chủ.
Từ Chương 11-16, Aristotle phân tích xem đâu là mô hình chính trị, một cách tổng quát, khả thi nhất cho đa số các quốc gia. Aristotle đưa ra khái niệm về mô hình chế độ hỗn hợp giữa quả đầu và dân chủ mà ông gọi là "polity" (đã nói đến trong Quyển III) và cách thức tổ chức chế độ theo kiểu này. Aristotle cũng quan niệm rằng, trong một tập thể, cái tốt nhất bao giờ cũng là số trung bình cộng, không thái quá mà cũng không bất cập. Và trong một xã hội, tầng lớp trung lưu chính là số trung bình cộng đó. Aristotle viết: "Những kẻ ở hai cực-cực đẹp, cực khỏe, cực sang, cực giàu và những kẻ ở cực đối nghịch, cực nghèo, cực yếu, cực hạ tiện-là những kẻ khó lòng hành động theo lý trí" (C.11, §5). Quan niệm này cũng tương tự như quan niệm "trung dung" của Khổng Tử bên Đông phương.
Quyển V gồm 12 chương, mang tựa đề "Nguyên nhân của cách mạng và sự thay đổi chế độ." Quan điểm hiện đại về cách mạng thường mang theo ý nghĩa tích cực, đổi cái cũ thay bằng cái mới, tích cực hơn, tiến bộ hơn. Tuy nhiên, cách mạng, theo ý nghĩa Aristotle dùng, thuần túy chỉ là sự thay đổi chế độ, mang tính khách quan, không tốt cũng không xấu. Chế độ mới có thể tốt hơn, nhưng cũng có thể xấu hơn chế độ vừa mới "bị" cách mạng. Thành thử, từ ngữ "phản cách mạng" không có ý nghĩa gì hết theo quan niệm của Aristotle.
Mười hai chương của Quyển V được chia làm 2 phần. Phần đầu, từ Chương 1-4, nêu lên các nguyên nhân tổng quát tạo ra cách mạng. Nguyên nhân tạo ra cách mạng, theo Aristotle, là do sự diễn dịch khác nhau của các thành phần dân chúng khác nhau về công lý và bình đẳng. Những người theo dân chủ quan niệm rằng, hễ những ai bình đẳng trên một phương diện, thì cũng bình đẳng trên mọi phương diện (mọi người đều sinh ra như nhau, nên cũng bình đẳng như nhau); những người theo quan niệm quả đầu lại quan niệm rằng những ai không bình đẳng trên một phương diện nào đó, thì tất yếu cũng không bình đẳng (trên phương diện của cải, chẳng hạn). Hai quan niệm xung đột này đưa đến tranh chấp và hành vi dấy loạn. Nhưng do đâu mà người ta nổi loạn? Aristotle (C.2) đưa ra ba động cơ chính: động cơ tâm lý, mục tiêu của tranh chấp, và các điều kiện dẫn đến tranh chấp. Động cơ tâm lý chính là những cảm xúc và nhiệt tình đối với sự bình đẳng. Những kẻ thua thiệt đấu tranh để được bình đẳng với những người khác; những người thuộc thành phần khá giả đấu tranh để bảo vệ địa vị xã hội của mình. Mục tiêu tranh chấp của cả hai phe không gì khác hơn là "danh" và "lợi." Danh và lợi cũng là điều kiện đưa đến tranh chấp: khi là mục tiêu, danh-lợi tạo ra bất mãn vì con người muốn chiếm đoạt các mục tiêu này; khi là điều kiện, danh-lợi dẫn đến bất mãn vì người ta thấy kẻ khác được hưởng nhiều danh vọng và lợi lộc hơn mình.
Phần hai, từ Chương 5-12, nêu lên các nguyên nhân đặc thù tạo ra cách mạng và thay đổi chế độ chính trị, cùng những phương cách bảo vệ chế độ. Trong chế độ dân chủ, nguyên nhân gây ra sự sụp đổ chế độ là những kẻ mị dân, tức là những chính khách lợi dụng thành kiến, cảm xúc, sợ hãi, hy vọng, và ngay cả lòng ái quốc để khích động đám đông cho mưu đồ chính trị (trong thế kỷ 20 ta thấy có rất nhiều chính trị gia mị dân, điển hình nhất là Hitler).[10] Tất cả những kẻ mị dân khi lên nắm quyền đều trở thành độc tài, bạo ngược. Chế độ Quả đầu bị sụp đổ vì giai cấp thiểu số thống trị đàn áp và đối xử bất công với đa số bị trị (các chế độ độc đảng ngày nay là hình thức rõ rệt nhất của chế độ Quả đầu). Chế độ Quý tộc bị sụp đổ vì giai cấp cai trị đã đi chệch khỏi nguyên tắc công bình của chế độ, nhất là khi chức vụ được sử dụng như phương tiện để mưu lợi cho cá nhân (C.8, §15).
Để bảo vệ một chế độ, Aristotle đề nghị phải giáo dục quần chúng sao cho người dân sống và hành động theo đúng tinh thần của hiến pháp tạo dựng ra chế độ. Một câu nói khá quen thuộc với chúng ta này nay là: "người dân nào, chế độ đó." Tuy nhiên, Aristotle khuyến cáo là việc giáo dục công dân không chỉ nhằm giáo dục họ để thi hành những cái hay, cái đẹp của chế độ, mà còn là giáo dục để họ biết và tránh làm những điều khiến chế độ suy vong (C.9, §13). Aristotle còn trở lại với đề tài giáo dục trong Quyển VIII.
Quyển VI gồm 8 chương, bàn về các phương thức thiết lập chế độ Dân chủ và Quả đầu, liên quan đến ba ngành của chính quyền: hành pháp, tư pháp và lập pháp. Tư tưởng căn bản của dân chủ là tự do, và đó cũng là mục đích chính của chế độ dân chủ. Tự do, theo Aristotle gồm 2 phần: thứ nhất là tự do chính trị, nghĩa là mọi người dân đều có thể tham chính (qua bầu cử vào các chức vụ trong chính quyền), và ý kiến của đa số được coi là ý kiến chung, được mọi người công nhận (thiểu số phục tùng đa số); thứ hai là tự do dân sự, qua đó người dân sống theo ý mà mình thích, bao hàm ý nghĩa tự do là không bị chính quyền xâm phạm. Các đặc tính của chế độ dân chủ gồm có: mọi công dân đều có quyền tranh cử vào các chức vụ của chính quyền, không ai giữ một chức vụ nào trong chính quyền quá hai lần; mọi chức vụ trong chính quyền đều được trả lương, và nhiệm kỳ của chức vụ cũng không kéo dài quá lâu (C.2).
Aristotle liệt kê 4 mô hình dân chủ được tạo nên tùy theo thành phần dân chúng. Chế độ dân chủ tốt nhất là chế độ mà quần chúng gồm đa số là nông dân. Aristotle lý luận rằng, vì nông dân là những người không có nhiều tài sản và phải bận rộn vì đồng áng nên không có thì giờ tham gia vào các cuộc nghị hội. Quần chúng nông dân cần lợi hơn cần danh, nên họ chỉ cần có quyền bầu ra các viên chức chính quyền và quyền bãi miễn viên chức chính quyền nếu không hoàn thành trách vụ. Chế độ dân chủ tốt thứ hai là chế độ gồm những người sống bằng nghề chăn nuôi; chế độ này cũng tương tự như chế độ gồm đa số nông dân. Hai chế độ dân chủ còn lại do thương nhân, công nhân hay giới lao động tạo nên, theo Aristotle, là những chế độ dân chủ tệ hại và không bền vững, vì hai giới này sống gần thành thị, thường lai vãng đến các nơi nghị hội và tạo ra các xáo trộn chính trị.
Sau chế độ dân chủ, Aristotle bàn đến việc xây dựng chế độ quả đầu. Chế độ quả đầu tốt nhất là chế độ dung hợp giữa quả đầu (thuần túy) và dân chủ, một chế độ được gọi là "polity." Chính quyền được chia làm hai "viện": hạ viện dành cho dân có ít của cải, và thượng viện dành cho dân có nhiều của cải hơn (đã nói đến ở Chương 2).
Trong Chương 8, Aristotle luận về các cơ quan chính quyền cần thiết cho một quốc gia. Các cơ quan do Aristotle đề nghị hơn 2000 năm trước vẫn còn được tổ chức trong các mô hình hiện nay; cụ thể là cơ quan kiểm soát thị trường nhằm bảo đảm cho việc buôn bán và thi hành các giao kèo được đúng đắn và trật tự. Cơ quan thứ nhì nhằm kiểm soát các bất động sản, công cũng như tư, và bảo trì công thự và đường xá. Cơ quan thứ ba cũng tương tự như cơ quan thứ nhì, nhưng liên quan đến các khu vực ngoài thành phố và rừng núi (kiểm lâm). Cơ quan thứ tư là ngân khố để thu giữ tiền của nhà nước và để trả lương cho nhân viên. Cơ quan thứ năm là văn khố lưu giữ tất cả mọi khế ước, tài liệu công cũng như tư. Cơ quan thứ sáu là cơ quan thi hành các bản án, giam giữ tội phạm. Trên những cơ quan cần thiết này để điều hành sinh hoạt, một quốc gia còn cần các cơ quan sau đây: quốc phòng, thanh tra tài chính các cơ quan chính quyền và quốc dân nghị hội.
Aristotle bàn về các lý tưởng chính trị và các nguyên tác giáo dục trong Quyển VII. Quyển VII được chia làm 3 phần. Phần thứ nhất luận về lý tưởng chính trị và bản chất của đời sống hạnh phúc nhất và tốt nhất. Với lý luận quy nạp, Aristotle đi từ nhận xét về cá nhân con người, rồi suy ra đến quốc gia. Theo Aristotle, đời sống con người có ba cái "tốt": những cái tốt thuộc vật chất ngoại tại, tức là những cái tốt thuộc thể chất, và những cái tốt thuộc tinh thần. Những cái tốt thuộc về tinh thần là những điều cao cả nhất, như can đảm, khôn ngoan và các đức hạnh khác. Những đức hạnh này chẳng phải do số phận tạo nên mà có sẵn ngay trong mỗi người. Aristotle kết luận, "đời sống tốt đẹp nhất cho quốc gia và cá nhân là đời sống đức hạnh được trang bị bởi những cái tốt vật chất ngoại tại, và thể chất, những điều kiện cần thiết để cho con người có thể tham dự vào các hoạt động đem lại sự tốt lành cho quốc gia" (C.1). Tuy nhiên, trong thực tế, đời sống tốt đẹp nhất của con người là đời sống như thế nào? Aristotle cho rằng có hai loại: đời sống thiên về thực tiễn và đời sống thiên về tư tưởng. Đời sống thực tiễn cao nhất là đời sống chính trị và đời sống tư tưởng cao nhất là đời sống hợp với triết học (C.2, 3).
Phần thứ hai luận về các điều kiện cần thiết cho một quốc gia, được coi là lý tưởng, gồm các điều kiện như: dân số, bản chất của dân chúng, cấu trúc xã hội, và lãnh thổ cùng vị thế địa lý của quốc gia. Nhưng dân số, lãnh thổ như thế nào thì được coi là lý tưởng? Đông dân quá hay ít dân quá đều có hại. Aristotle đưa ra công thức cho một dân số lý tưởng là "con số lớn nhất-qua kiểm tra dân số (chứ không phải ước lượng)-cần thiết để nhà nước đạt được mức độ tự túc" (C.4). Về lãnh thổ cũng vậy, Aristotle chọn trung đạo; rộng lớn quá hay nhỏ hẹp quá đều bất cập. Về bản chất của dân chúng, nhận xét của Aristotle khá lạ với chúng ta ngày nay vì cho rằng tâm tính của con người do vị thế địa lý quyết định. Có ba loại người phân chia theo địa lý: thứ nhất, những người ở vùng lạnh lẽo của Âu châu có ý chí cao nhưng kém khéo léo và thông minh; thứ hai, những người ở Á châu khéo léo và thông minh nhưng kém ý chí; thứ ba, dân Hy Lạp là giống dân có cả hai đặc tính này (C.7). Về phương diện cấu trúc xã hội, Aristotle nhận định rằng cần phân biệt hai thành phần trong xã hội; đó là thành phần nguyên tố gồm những công dân tham gia tích cực vào sinh hoạt chính trị của đất nước, và thành phần thứ hai gọi là "các điều kiện cần thiết," bao gồm những thành viên phụ của xã hội tức là những người làm những việc lao động cần thiết để cho thành phần nguyên tố có thể tham gia sinh hoạt chính trị. Trong một nước, xã hội cần phải được tổ chức để cung ứng 6 dịch vụ sau: sản xuất nông sản, sản xuất đồ thủ công và nghệ thuật, quốc phòng, đất đai cho dân sự và quân sự, tôn giáo, sau cùng là lập pháp và tư pháp (C.8).
Trong một nhà nước "lý tưởng" theo quan niệm của Aristotle, công dân là những người tự do, có cùng gốc gác ưu tú mới là thành phần được tham gia vào chính sự; thành phần lao động bình dân, vì không có thì giờ nhàn rỗi để học hành thành người có đức hạnh, nên không thể tham gia chính sự. Tuy nhiên, thành phần này cũng là công dân và trên nguyên tắc phải được tham gia chính sự. Đây là một vấn nạn cho mô hình nhà nước lý tưởng của Aristotle, cho nên, ông chủ trương rằng thành phần lao động sẽ gồm những nô lệ. Mô hình nhà nước lý tưởng của Aristotle, như vậy, sẽ gồm hai thành phần: công dân thuộc giai cấp ưu tú quý tộc và lao động là nô lệ. Những công dân trẻ tuổi lo việc quốc phòng, trung niên lo việc cai trị và lão niên lo việc tế tự. Theo cách sắp xếp này, công dân sẽ tuần tự theo lứa tuổi của mình mà phục vụ quốc gia (C.9).
Phần thứ ba từ Chương 12-17 bàn về các nguyên tắc tổng quát của giáo dục. Nền giáo dục quốc gia, theo Aristotle phải là một nền giáo dục toàn diện về thể chất cũng như tinh thần. Aristotle cũng quan niệm rằng, giáo dục ảnh hưởng đến tư cách công dân và muốn xây dựng đạo đức công dân thì phải bắt đầu từ xây dựng đạo đức cá nhân vì cả hai loại đạo đức này-cơ bản-giống nhau (đã bàn ở Quyển III). Việc hôn nhân cũng là một vấn đề trọng đại trong việc xây dựng một nhà nước lý tưởng gồm những công dân khỏe mạnh. Về phương diện sinh lý học, Aristotle cho rằng thể chất của cha mẹ ảnh hưởng đến thể chất của con cái. Aristotle đề nghị là người chồng nên lớn tuổi hơn người vợ, từ 17 đến 20 tuổi, và lứa tuổi thích hợp nhất cho việc lập gia đình và sinh sản là người chồng 37 tuổi, người vợ 18 tuổi. Khi con cái lớn lên, việc giáo dục cần được quan tâm đặc biệt để trẻ em phát triển về thể chất cũng như đức tính: không nên để trẻ nhỏ từ 5 đến 7 tuổi ở gần dân nô lệ và tuyệt đối cấm không cho nghe những lời tục tĩu hoặc những hình ảnh dâm ô. Điều này quan trọng đến nỗi nhà nước phải ra luật cấm trên toàn quốc. Sau 7 tuổi, giáo dục trẻ em nên chia làm hai giai đoạn: từ 7 tuổi đến dậy thì và từ dậy thì tới 21 tuổi.
Aristotle dành ra Quyển VIII để bàn về giáo dục. Giáo dục là nhiệm vụ của quốc gia và nhà nước phải xây dựng một hệ thống giáo dục đồng nhất cho mọi công dân. Aristotle đề nghị 4 môn học cho chương trình giáo dục: đọc-viết, thể dục, âm nhạc, và hội họa. Âm nhạc, theo Aristotle, là một môn học quan trọng, không phải chỉ là môn học để giải trí, mà là môn học để sử dụng thì giờ nhàn rỗi một cách đúng đắn.[11] Hơn thế nữa, bản chất của âm nhạc là sự hòa hợp âm thanh, và do đó sẽ khiến cho tâm hồn dễ đạt được sự cân bằng giữa tình cảm và lý trí (C.5).
Aristotle cũng đề nghị là dạy cho trẻ em phát triển thể chất trước khi phát triển tinh thần. Cho nên, trẻ em nên được tập thể dục trước, vì huấn luyện thể chất sẽ giúp trẻ em phát triển các tập quán tốt như kỷ luật tự giác, rồi đến âm nhạc, sau rốt mới đến các môn học về tri thức.
Aristotle mở đầu Chính Trị Luận bằng lập luận rằng "nhà nước, hay cộng đồng chính trị là cái tốt cao nhất" và lý do để nhà nước hiện hữu là để giúp cho công dân sống một đời sống "tốt." Do đó, việc giáo dục công dân trở thành những người dân đạo đức là điều tối quan trọng. Khi một nước có được những người dân vừa học thức lại vừa đức hạnh, dĩ nhiên đất nước đó phải trở nên tốt hơn. Đó cũng là kết luận tự nhiên khi Aristotle chấm dứt Chính Trị Luận bằng chương luận về giáo dục.
Mặc dù đã trên hai ngàn năm, với một số nhận định về nô lệ và phụ nữ đã không còn hợp thời nữa, nhưng Chính Trị Luận vẫn là một kiệt tác nêu lên những câu hỏi căn bản của đời sống chính trị "lý tưởng" của mọi quốc gia, và là một trong những tác phẩm kinh điển của khoa Chính trị học Tây phương.
Mùa Xuân 2008
Nông Duy Trường
© Học Viện Công Dân

[1] Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử Thế giới, trang 65. Văn Nghệ tái bản tại Hoa Kỳ, 1994.
[2] Sđd, trang 68.
[3] Ernest Barker, The Politics of Aristotle, Oxford University Press, 1956.
[4] Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử Thế giới, trang 139, Văn Nghệ, 1994
[5] Sđd., trang xiv.
[6] Đại đế Alexander đã chinh phục toàn bộ bán đảo Hy Lạp, Ai Cập, và đế quốc Ba Tư (trải dài từ nước Albany ngày nay cho đến Pakistan). Đại đế Alexander nổi danh vì ông đã lập nên một đế quốc và chinh phục một vùng đất rộng lớn, 22 triệu dặm vuông, khi mới 20 tuổi và trên con đường trường chinh trong 10 năm này, Alexander chưa hề thua một trận nào hết. http://killeenroos.com/1/AlexGre.htm#Alexander%20and%20Ancient%20Warfa
[7] Clayton, Edward. (2006). Aristotle: Politics [bản điện tử] tại http://www.iep.utm.edu/a/aris-pol.htm#SH7d
[8] Moschella, Melissa Classic Note, 2000. Bản điện tử tại: http://www.gradesaver.com/classicnotes/authors/about_aristotle.html
[9] Các phân đoạn như § 12 dựa theo theo bản dịch của Ernest Barker, Oxford University Press, 1946.
[10] H. L. Mencken, một nhà báo, nhà văn tiểu luận nổi tiếng của Mỹ trong nửa đầu thế kỷ 20, định nghĩa kẻ mị dân là "những người đi rao giảng một lý thuyết mà y biết là không đúng cho những người mà y biết là ngu ngốc."
[11] Thì giờ nhàn rỗi là điều hết sức quan trọng đối với người Hy Lạp, vì người ta không thể suy tư tới những điều cao xa, đem đến hạnh phúc (thực sự) cho mình nếu phải vất vả lao động. Niềm vui sau khi xem các vở kịch là sự thư giãn sau khi làm việc mệt nhọc; thời giờ nhàn rỗi tự nó đã là niềm vui, là hạnh phúc nội tại, không cần đến điều gì khác bên ngoài.

CHARLES A. O MAKMOT * TỰ DO


Quyết tâm không còn là nô lệ nữa thì ta tự do 

Charles A.O. Makmot - Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch - Tôi và vài người bạn đang đọc đi đọc lại cuốn sách miễn phí tuyệt vời, Từ Độc tài Đến Dân chủ của Gene Sharp. Chương tôi thích nhất là chương ba có tựa đề “Quyền lực đến từ đâu?” Trong chương này tác giả trích truyện ngụ ngôn Trung Hoa vào thế kỷ thứ mười bốn của Lưu Cơ:



Một ông lão ở nước Chu còn sống nhờ bắt khỉ phục vụ mình. Người nước Chu gọi ông là “hầu công”.


Mỗi buổi sáng, ông lão đều tập họp bọn khỉ lại ở ngoài sân, rồi ra lệnh cho con khỉ già nhất dẫn cả bọn lên núi hái trái cây. Theo luật mỗi con khỉ phải nộp một phần mười số trái cây hái được cho ông lão. Con nào không làm đúng như thế sẽ bị đánh bằng roi dã man. Tất cả những con khỉ đều khổ sở vô cùng, nhưng không dám than van.


Ngày nọ, một con khỉ nhỏ hỏi những con khỉ khác:


“Có phải ông lão đã trồng tất cả các cây ăn trái này?”


Những con này nói: “Không, chúng mọc tự nhiên.”


Con khỉ nhỏ hỏi thêm: “ Vậy chúng ta có thể lấy trái cây mà chẳng cần xin phép ông lão?”


Những con này đáp: “ Đúng, chúng ta ai lấy cũng được.”


Con khỉ nhỏ hỏi tiếp: “Như vậy, tại sao chúng ta nên lệ thuộc vào ông lão; tại sao tất cả chúng ta phải phục vụ lão?”


Con khỉ nhỏ chưa nói dứt lời thì tất cả những con khỉ khác bất ngờ ngộ ra và thức tỉnh.


Ngay tối hôm ấy, canh chừng thấy ông lão đã ngủ say, bọn khỉ phá hủy tất cả các rào chắn của trại đã giam cầm chúng, rồi phá hủy tan tành cả trại. Chúng cũng lấy tất cả trái cây ông lão cất trong kho đem vào rừng, và không bao giờ trở lại. Ông lão cuối cùng chết đói.


Gene Sharp chẳng do dự trích thêm lời bàn của Úc Ly Tử:


“Trên đời có nhiều kẻ trị dân bằng thủ đoạn chứ không phải bằng đạo lý chính nghĩa. Thử hỏi họ có khác gì hầu công trong truyện. Họ không biết mình dại. Vì một khi người dân hiểu ra, thủ đoạn của họ chẳng còn dùng được nữa.”


Câu hỏi xác đáng cho tôi và tôi tin cũng cho các bạn tôi những người yêu nước là: Quyền lực của người lãnh đạo của bất luận quốc gia nào xuất phát từ đâu? Nếu chúng ta có thể hiểu thấu được cách thức quyền lực chính trị hoạt động này, chúng ta có thể vận dụng sự thấu hiểu ấy tốt hơn. Vì thế tôi muốn bàn đến vài điểm rất quan trọng mà Lưu Cơ đã ám chỉ trong ngụ ngôn rất hay của ông:


1. Ông lão còn sống nhờ bắt khỉ phục vụ mình.


Truyện kể ông lão còn sống nhờ bắt khỉ phục vụ mình. Hãy lưu ý truyện không nói bọn khỉ còn sống nhờ phục vụ ông lão. Những con khỉ này có thể tự sống được như chúng đã tự sống được trong biết bao nhiêu năm trời trước khi ông lão đến bắt chúng phục vụ ông. Chắc hẳn lúc ấy ông còn trẻ khi chúng bắt đầu phục vụ ông rồi từ đấy cả một thế hệ khỉ ra đời chỉ biết phục vụ ông.


Ngày xưa chắc hẳn ông đã làm nên kỳ tích anh hùng là rào chiếm đất đai, hạ sát những loại thú ăn thịt khỉ cho nên những con khỉ cảm thấy có bổn phận phục vụ ông. Mặt khác, ông lão có thể đánh bại con khỉ đầu đàn và rồi đe dọa giết sạch tất cả các con khỉ còn lại. Như vậy, bọn khỉ có thể sợ quá phải khuất phục.


2. Mỗi buổi sáng, ông lão đều tập họp bọn khỉ lại ở ngoài sân, rồi ra lệnh cho con khỉ già nhất dẫn cả bọn lên núi…


Ông lão chọn ra những con khỉ cầm đầu dựa trên những phẩm chất biểu lộ nhưng ông cũng lưu tâm đến phong tục văn hóa của khỉ. Vì vậy con khỉ lớn tuổi nhất, có lẽ cũng mạnh nhất, được chọn làm con khỉ đầu đàn và trách nhiệm của nó là chỉ huy những con khác.


3. Theo luật mỗi con khỉ phải nộp một phần mười số trái cây hái được cho ông lão.


Ai đặt ra luật này, tôi hỏi? Tại sao một phần mười mà không một phần trăm? Những con khỉ mà trước khi ông lão xuất hiện đều tự do hái và ăn trái cây nhiều vô kể trong thiên nhiên có được hỏi ý kiến về luật này? Tôi chắc chắn có nhiều con khỉ hỏi con khỉ đầu đàn những câu hỏi này. Tôi tự hỏi con khỉ đầu đàn trả lời chúng ra sao.


4. Con nào không làm đúng như thế sẽ bị đánh đập dã man.


Tôi chợt nảy ra câu hỏi thú vị là: Làm thế nào ông lão tuy không đi vào rừng để đếm mỗi ngày mỗi con khỉ hái được bao nhiêu trái cây mà lại biết được con khỉ nào không nộp đủ 10%? Phải chăng, dưới sự chỉ dẫn của con khỉ đầu đàn, ông đã chỉ định vài con khỉ làm công việc “kiểm kê” vào lúc cuối ngày khi tất cả những con khỉ đi hái trái cây trở về? Phải chăng những con khỉ được giao việc kiểm kê không phải hái trái cây mà chúng còn được hưởng thành quả lao động của bạn mình ở một nơi đặc biệt mà ông lão đã dành riêng cho chúng? Phải chăng chúng đã chọn ra 10% trái cây nào ngon nhất và to nhất từ trong đống trái cây của bạn mình nên nhờ thế ăn ngon hơn những con khỉ khác rất nhiều. Bởi lẽ đàn khỉ chắc hẳn hái được rất nhiều trái cây cho nên những con khỉ làm công việc kiểm kê này tha hồ mà chọn lựa trái cây vì ông lão không ngừng ban cho chúng rất nhiều trái cây để bọn chúng luôn trung thành với ông.


Biết ông lão không phải lúc nào cũng ở gần bên và chắc tin tưởng chúng mà giao chìa khóa nhà kho, những con khỉ được hưởng đặc quyền này có thể ăn xén trái cây trong kho mà ông lão không biết?


Phải chăng ông lão thực sự có thời gian và sức lực để đánh bọn khỉ bằng roi? Tôi nghĩ ông chọn những con khỉ khỏe nhất để thay ông đánh những con khỉ khác.


5. Tất cả những con khỉ đều khổ sở vô cùng, nhưng không dám than van.


Lời khẳng định này thật thú vị và rất gợi mở bởi lẽ chắc hẳn có vài con khỉ được ban nhiều đặc quyền. Phải chăng nhiều con khỉ khổ sở nhưng vẫn tin tưởng cuộc sống của chúng dù sao cũng tốt hơn dưới sự bảo vệ của ông lão? Phải chăng ông hay đe dọa bọn khỉ là những loại thú ăn thịt chúng rồi sẽ quay trở lại đến mức chúng đành cam phận? Phải chăng những con khỉ trẻ ra đời dưới sự thống trị của ông không thể nào liên hệ với quá khứ nên chỉ biết phục tùng theo? Hay những con khỉ lớn tuổi hơn, sau vài lớp học với ông lão về quá khứ kinh hoàng của chúng, chỉ truyền đạt lại những chuyện đáng sợ về những con khỉ bị hổ báo ăn thịt?


Phải chăng chúng cố tình quên những câu chuyện về tự do? Khi chúng tự do đi lại khắp nơi trong rừng, khi chúng thích đâu ngủ đó? Phải chăng có thể chúng làm như không biết sự thật là tất cả các luật lệ đều được tất cả các con khỉ tán thành?


Tại sao, với tất cả những đau khổ này, chúng không dám than van? Phải chăng vì than van bị cấm hay có thể bị trừng phạt với nhiều roi vọt hay còn tàn tệ hơn?


6. Ngày nọ, một con khỉ nhỏ hỏi những con khỉ khác: “Có phải ông lão đã trồng tất cả các cây ăn trái này?” Những con này nói: “Không, chúng mọc tự nhiên.” Con khỉ nhỏ hỏi thêm: “ Vậy chúng ta có thể lấy trái cây mà chẳng cần xin phép ông lão?” Những con này đáp: “ Đúng, chúng ta ai lấy cũng được.”


Những câu hỏi rất trọng tâm! Những câu hỏi này không chỉ đi thẳng vào điểm then chốt của nỗi khổ đau của chúng mà những câu hỏi này còn được con khỉ nhỏ hỏi một cách rất thông minh. Con khỉ này chắc hẳn đã bị những con khỉ khác khỏe hơn làm việc cho ông lão bắt nạt nhiều nhất nhưng dẫu sao nó vẫn thương những con khỉ đồng loại. Nó ắt hẳn đã nghe mẹ kể những chuyện về thời tự do ngày xưa nên ao ước những ngày tự do ấy trở lại.


Khi chúng vào rừng hái trái, tôi đoán nó nhanh chóng tách ra khỏi đàn. Nó ắt hẳn đã tiếp xúc với những con khỉ chưa bao giờ chịu cảnh nô lệ. Nhưng thay vì xin tỵ nạn và ở lại với những con khỉ tự do ấy, nó chọn quay trở về với đàn và chia sẻ những câu chuyện này với những con khỉ bạn. Nó quyết chí tự học hỏi rất cần cù cách thức giải phóng đồng loại mình.


Nó càng ngày càng can trường hơn bất chấp bao hăm dọa và răn đe của con khỉ đầu đàn và những con khỉ khác nịnh hót ông lão. Vào ngày nó hỏi câu hỏi ấy, nó tự nhiên trở thành thủ lãnh của đàn khỉ.


Lời đáp cho những câu hỏi này ắt hẳn phải là kết quả của nhiều lần huấn luyện mà nó đã hướng dẫn cho một số con khỉ được tuyển chọn để dạy chúng rằng chúng có thể tự do và cũng chỉ cho chúng thấy trái cây thực ra là quyền của tất cả con khỉ.


Tại sao lại phải hỏi? Vì lời giải cho cuộc đấu tranh đầy thử thách của chúng đã luôn luôn có sẳn ở trong lòng chúng! Hãy lưu ý là những câu hỏi của con khỉ nhỏ cũng diễn ra theo từng giai đoạn và ắt hẳn trước đấy những câu hỏi này ban đầu đã được đặt ra cho một nhóm nhỏ những con khỉ nhỏ. Khi số lượng thành viên nòng cốt tăng lên với những con khỉ càng biết nhiều hơn và khôn ngoan hơn thì chính tự do đã luôn luôn có sẳn ở trong lòng chúng bắt đầu thể hiện!


7. Con khỉ nhỏ hỏi tiếp: “Như vậy, tại sao chúng ta nên lệ thuộc vào ông lão; tại sao tất cả chúng ta phải phục vụ lão?”


Sau khi cuộc mưu tìm tự do của tất cả con khỉ đã chín muồi, con khỉ nhỏ nhưng khôn ngoan hỏi câu hỏi sinh tử mà phá tan xiềng xích gông cùm đang giam hãm chúng!


8. Con khỉ nhỏ chưa nói dứt lời thì tất cả những con khỉ khác bất ngờ ngộ ra và thức tỉnh.


Thật là ngày tuyệt vời khi tất cả những con khỉ bao gồm con khỉ đầu đàn, các con khỉ thi hành luật một phần mười và những con khỉ đánh roi trừng phạt thảy đều trở nên thấu hiểu và nhận thức tất cả chúng đều đang ở trong nhà tù. Con khỉ đầu đàn và lũ khỉ nịnh nọt chắc xấu hổ và ân hận biết bao.!


Tuy nhiên chúng mau chóng tha thứ cho nhau và nghĩ ra kế hoạch.


9. Ngay tối hôm ấy…


Tại sao vào chính ngay đêm ấy? Vì không có con khỉ nào, sau khi khám phá mình có thể tự do, lại muốn ở tù thêm dù chỉ một ngày. Tự do trở thành nhu cầu khẩn thiết và cấp bách mà chẳng có gì ngăn chặn được.


10. …canh chừng thấy ông lão đã ngủ say,..


Tại sao giữa đêm khuya vắng lặng? Tại sao không giữa ban ngày để chúng có thể nhìn rõ ràng hơn cái gì chúng cần phải phá hủy? Và tại sao chờ ông lão ngủ say? Tại sao, chúng đánh lúc ông lão dể bị tổn thương nhất?


11. Bọn khỉ phá hủy tất cả các rào chắn của trại đã giam cầm chúng, rồi phá hủy tan tành cả trại.


Tại sao lại phá hủy tất cả các rào chắn của trại giam nếu chúng không dự định trở lại? Vì những ai đã thoát được sẽ không muốn những kẻ khác phải trải qua cảnh nô lệ như mình! Ông lão biết đâu có thể lại đi bắt bầy khỉ mới về phục vụ ông?


Chúng phá tan tành cả trại. Chúng không để lại dấu vết nào của cuộc đời nô lệ của chúng trước đây.


11. Chúng cũng lấy tất cả trái cây ông lão cất trong kho…


Tại sao không để lại cho ông một ít trái cây ông có ở trong kho? Vì trước tiên tất cả trái cây đều thuộc về chúng cho nên chúng phải lấy lại. Bất công đã gây ra phải được sửa sai.


12. đem vào rừng…


Tại sao không đuổi ông lão đi và ở lại trong nhà ông, qua đấy chế nhạo ký ức tàn ác của ông? Chính là vì lý do chúng hành động không phải vì căm thù mà vì công lý. Chúng cũng không muốn chính cách đối xử tàn ác như thế có chỗ để lại trỗi dậy lần nữa. Chúng ra đi bỏ lại đằng sau tất cả mọi thứ.


13. và không bao giờ trở lại.


Chúng đã hoàn toàn từ bỏ trong tâm hồn và thể chất cách đối xử độc đoán mà chúng đã chịu đựng và sẽ không bao giờ trở lại với tình cảnh ấy.


14. Ông lão cuối cùng chết đói.


Điều thú vị là chúng để cho ông lão sống. Ông đã già rồi, chúng có thể giết ông lão để thỏa mãn sự trả thù nhưng thay vì thế chúng quyết định từ chối cho ông chính điều mà giúp ông còn sống. Đó là sự phục vụ, phục tùng, và trung thành của chúng.


Ông lão chỉ còn lại một số phận duy nhất. Chết đói.


“Trên đời có nhiều kẻ trị dân bằng thủ đoạn chứ không phải bằng đạo lý chính nghĩa. Thử hỏi họ có khác gì hầu công trong truyện. Họ không biết mình dại. Vì một khi người dân hiểu ra, thủ đoạn của họ chẳng còn dùng được nữa.”


Vậy, quyền lực đến từ đâu?


Charles A.O. Makmot


Nguồn:


Dịch từ blog Afrikanpatriot ngày 4/5/2012. Tựa đề của người dịch là lời của Étienne de La Boétie trong tác phẩm kinh điển đầu tiên về bất bạo động “Discourse on Voluntary Servitude” được viết ra cách đây gần 500 năm.


https://afrikanpatriot.wordpress.com/2012/05/04/the-monkey-master-fable-whence-comes-the-power/


Bản tiếng Việt:



Trần Quốc Việt
danlambaovn.blogspot.com
__._,_.___

Sunday, May 8, 2016

PHẠM HOÀNG CHƯƠNG * TỪ TRẠI TÙ

Từ Trại Tù Ra Biển Khơi - 

Phạm Hòang Chương



Tác giả là một nhà giáo hưu trí, cư dân Riverside, đã góp nhiều bài viết đặc biệt cho giải thưởng Việt Báo từ năm đầu tiên, và nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2009. Bài sau đây trích từ báo xuân Việt Báo Tết Giáp Ngọ 2014.


Tôi quen Khoa ở trại tỵ nạn Chimawan, Hongkong, cuối 1983, ghe hai đứa cùng vượt biên xuất phát từ Nha Trang, Bình Thuận cùng một thời điểm tính qua Phi mà bị bão thổi lên Hongkong, nhưng anh và tôi sĩ quan khác ngành nên không thân nhau mấy. Khoa tánh xuề xòa, trước làm Tình báo bên An ninh quân đội, nên phái đoàn Mỹ tin cậy, giao anh nhiệm vụ kiểm tra coi ai là lính thiệt, ai là lính giả khai man để được đi định cư Mỹ.

Anh Hùng, người tổ chức vượt biên cho tôi tháp tùng năm đó là đại úy CTCT, ngày xưa ở tù ngoài Bắc tám năm, còn Khoa tù tám năm Campuchia, nên hai người này cùng cảnh ngộ mới thật là thân nhau. Qua Mỹ, hai người lại tình cờ ở gần nhau, người Orange County, người Long Beach. Anh Hùng bán địa ốc, Khoa làm thầu khoán xây cất sửa nhà, sửa điện, plumbing, ráp cửa garage, thay bồn nước nóng, cắt cỏ…cái gì cũng biết.

Năm kia, nhân trên San Jose tổ chức hội Ái hữu tỵ nạn Chimawan họp mặt, anh lái xe chở anh Hùng và tôi lên dự tiệc, coi có gặp người quen cũ không. Nhờ chuyến đi đó mà anh thân với tôi hơn, gọi phone thăm, ghé nhà chơi, vui vẻ tới sửa giùm điện, nước, gas, thay bồn nước nóng, thay cửa garage bị hư trong nhà. Bất cứ cái gì hư… gọi một tiếng là anh tới, sốt sắng mua đồ, thay, sửa, mau mắn làm được hết… Tôi có nhà mà không biết sửa nhà, tự nhiên được một ông bạn “handyman” tới giúp đỡ các việc linh tinh trong nhà, thật là may mắn. Có lần tôi than, “Già ở một mình mà con cái bạn bè đều ở xa, lỡ lái xe bị “panne” trên freeway đêm hôm, không biết gọi ai tới cứu…”, anh buột miệng liền, “thì có tôi, gọi tôi, tôi lái xe tới cứu cho”, làm tôi nín lặng, cảm động.

Bạn bè sống chung thời kỳ Chimawan cũ nay ở tứ tán, chỉ có tôi và anh Hùng ở gần, nay anh Hùng mất, chỉ còn tôi, nên Khoa thường xuyên ghé thăm trò chuyện, tâm sự. Hai đứa cũng lăn lộn thăng trầm đủ nghề ở Cali, nếm đủ cả thành công lẫn thất bại nên thông cảm nhau lắm.
Hồi mới qua anh đi rửa chén cho nhà hàng lấy tiền mặt, rồi đi học nghề, làm chủ thầu, điều động đám thợ Mễ đi chỗ này chỗ nọ, bây giờ kinh tế suy, không có việc, đành làm công cho hãng Mỹ sửa chữa nhà cửa, chung cư, ăn lương tháng, khi làm ở L.A, Long Beach, Chino Hills, khi ở Riverside… Thấy nhà tôi mát mẻ, yên tĩnh, thích lắm, nhờ coi khu này có ai rao bán, cho anh hay để mua một căn như vậy để nay mai về hưu ở gần cho vui.


Một lần anh ghé tôi loay hoay thay cái motor điện xay rác ở sink nhà bếp bị hư, tôi đứng gần coi, anh bảo đừng đụng người anh, coi chừng bị giựt. Tôi nói đùa:
– Mạng tôi lớn lắm, đừng lo.
Tôi nấu cà phê, anh sửa xong, tôi lấy bánh Pháp ra mời ngồi ăn, vui chuyện kể con người có số, tôi chết hụt mấy lần mà Trời cứu: hồi trẻ đi lính đang gác đồn mấy tháng không sao, vừa được chuyển vô Trung tâm hành quân làm thì đồn bị đánh úp nửa đêm, cụt tay cụt chân chết biết bao nhiêu lính; lần khác trong một cuộc cãi cọ, bị lính say đập chai bia lên đầu nứt sọ mà không sao; qua Mỹ lái xe đêm khuya bị tài xế chạy ngược chiều đâm sầm vào mà lách kịp trong nháy mắt… Anh buột miệng kể mạng anh cũng lớn, năm 75 ở tù bên Campuchia cũng bị đánh nứt sọ mà không chết, bị cai tù VC đập cây lên đầu bất tỉnh, rồi xối nước cho tỉnh tra hỏi tiếp vì nghi làm cho CIA, làm tôi giật mình trố mắt:


– Anh làm chức gì mà bị nhốt tuốt bên đó vậy?


– Tôi trước làm cho DAO (Defend attack office) thuộc CIA Mỹ, VC được tình báo cho biết nên bắt tôi, nhưng chưa có bằng chứng, bèn đưa tôi qua đó nhốt riêng, ở chung với các thành phần làm cho Mỹ. Nó tra hỏi tôi, bắt đưa cái code để mở computer truy tìm danh sách nhân viên tình báo làm cho Mỹ. Tôi nói, “Tôi không biết, mà dù có biết đi nữa, tôi cũng không thể tiết lộ”. Nó tức giận cầm cái chày đạp lên đầu tôi nứt sọ, tôi bất tỉnh té xỉu. Nó dội nứớc lên đầu lên mặt cho tỉnh, tiếp tục tra tấn tiếp….



– Thì anh có tiết lộ, Mỹ cũng đã thua rút về nước hết rồi, đâu có biết mà trừng phạt anh? Mà sao họ không mang theo tất cả những người làm tình báo giúp họ như anh về Mỹ, lại bỏ rơi lại đây cho VC làm thịt? Thật là nguy hiểm cho tánh mạng, không riêng anh, mà cả gia đình anh nữa.
– Mỹ đi nhưng người của họ để lại nhiều lắm, làm sao mình biết được kế hoạch của họ ra sao. Tôi đã lỡ thề giữ bí mật suốt đời khi làm cho DAO rồi. Mình mà tiết lộ bí mật đó thì suốt đời như ngồi trên lửa, lo sợ không biết chết lúc nào… mà cũng chắc gì VC để cho mình yên thân khi đã khai ra. Anh thấy như Osama Bin Ladin được Pakistan che dấu bảo vệ kỹ lưỡng như vậy mà Mỹ còn theo dõi ám sát được.


– Anh đi Thủ đức khoá mấy?
– Khóa 27.
– Ủa, tôi cũng khóa 27… nhưng khóa đó đông quá, thặng dư nên họ chuyển tôi ra Đồng Đế học khóa 2/68.
– Tôi có cử nhân luật, nên chỉ học Thủ đức hết giai đoạn một là họ đưa về Nha quân pháp, tuyển chọn đưa qua làm tình báo cho Mỹ…. Tới ngày mãn khóa, tôi được gọi vô trường dự lễ gắn lon chuẩn úy cho có lệ. Nhưng thực ra tôi mang lon trung úy giả định. Đám bác sỹ cũng vậy, đâu có tốt nghiệp hay chiến đấu gì cũng được gắn lon trung úy giả định như tôi. Họ gửi tôi qua Mỹ học. Khi về, làm cho DAO thuộc CIA, hay đi máy bay với Mỹ hết vùng này qua vùng kia, chụp không ảnh, nghiên cứu địa hình…..


– Vậy sao? Tôi chưa hề nghe có vụ như vậy..
– Anh biết, sau lần chết hụt đó, được mấy năm, nó tìm ra manh mối về tôi, chuyển tôi qua trại khác, bắt ăn uống khổ sở, lao động vất vã, ba đứa mà có một tô cơm hẩm rắc muối. Một đêm nọ, có hai thằng xách súng vô chỗ tôi nằm, kêu dọn đồ đi theo chúng. Tôi đã chuẩn bị cái chết sẵn trong đầu rồi nên không sợ hãi. Lâu lâu tụi nó vẫn đêm khuya đang ngủ, hùng hổ vô dẫn người ra bìa rừng, rồi nghe tiếng súng nổ, anh em không bao giờ thấy mặt lại… Một thằng ném cho tôi bộ đồ bộ đội xanh cứt ngựa, bảo thay đồ, nó ấn cái nón cối lên đầu tôi, nhưng tóc tôi nhiều và dài tới vai-cả mấy năm trời đâu có được cắt tóc, thấy không giống bộ đội, mới dẫn tôi tới một trạm gác nhỏ, nói thằng lính trong đó hớt tóc cho tôi. Tôi không biết tụi này tính làm gì. Nếu thủ tiêu tôi thì cần gì mất công cắt tóc, thay đồ làm chi. Một thằng lái Honda chở tôi, hai đứa kia lái Honda khác theo sau, đi trong rừng ban đêm, tới trạm khác lại thay cặp khác lái theo hộ tống, hai tên cũ quay về… Có vẻ như chúng nó dẫn tôi đi đâu xa lắm, trình diện ai đó… Lúc nào cái thằng ngồi kèm với tôi cũng theo chặt tôi, hai thằng kia theo sau hộ tống từng chặng một, rồi đổi người. Qua tối hôm sau thì tới Tây Ninh biên giới Việt Nam, chúng bỏ tôi vô đồn lính gác ăn qua loa rồi kêu đi ngủ, tụi nó trao đổi xầm xì gì với nhau một lúc. Tôi nghe loáng thoáng là mai chúng đưa tôi về Saigon, lúc đó tôi hết sợ, biết là được cứu thoát rồi…



– Bà con anh có ai làm lớn ở ngoài mà cứu ra khỏi tù hay vậy?
– Má tôi chạy một ông đảng viên gộc (1) ở Saigon 30 cây vàng chứ ai cứu, họ đưa thẳng tôi từ tù ở Campuchia qua Saigon, chở ra Phan thiết bỏ nằm ở nhà ga mấy ngày, sau đó đưa tôi ra ghe đi vựợt biên luôn.
– Trời…sao bà già biết đường dây gộc đó hay vậy? Ngừời nào mà móc nối bã với ông gộc đó cũng là thứ dữ lắm. Hồi bã đi thăm nuôi anh, có khi nào úp mở nói mánh chuyện đó cho anh biết trước không?
– Làm gì có… Thăm nuôi, nó đứng bên cạnh dỏng tai nghe, ở đó mà dám nói chuyện đại sự… Bã chỉ cho biết là thằng em tôi đã về “ở” với cậu Năm rồi, mà cậu Năm thì chết đã lâu, tôi ngẫm nghĩ thấy lạ không dám hỏi, sau mới hiểu ra là em tôi bị chúng giết chết trong tù. Nó đại úy làm bên an ninh. Còn lại có tui là con một.


Thấy tôi trố mắt chăm chú nghe, Khoa kể tiếp như thuộc lòng câu chuyện từ lâu:
– Sáng ra cái thằng phụ trách tôi chở tôi từ biên giới Tây Ninh về Saigon, thấy chiều còn nắng, nên nó ngừng ở ngoại ô, chờ sụp tối mới chở tôi vô thành phố, vì ban đêm an toàn hơn, không ai thấy rõ mặt tôi.
Nó chở tôi vô dinh ông đó, đèn đuốc sáng choang, trình giấy tờ hai ba chỗ, tôi thấy lính gác đi qua đi lại ngoài vườn trong nhà đông lắm. Ông đó lúc đó làm lớn ở Saigon, ở trong cái dinh khổng lồ của ông lớn nào chế độ cũ bỏ lại, lính nói chuyện với nhau có lúc nhắc tên ổng, tôi nghe được. Vô phòng khách, ổng kêu tôi ngồi xuống, hỏi thăm vài ba câu rồi sai lính đưa tôi đi tắm thay một bộ đồ công nhân hỏa xa, rồi mời vô ngồi ăn cơm chung bàn. Lính mỗi lần trình báo điều gì, đều kính cẩn kêu “Chú Sáu, chú Sáu”. Sau này suy nghĩ mãi, tôi mới đoán biết ổng là ai, hồi làm CIA tôi thấy tên đó trong danh sách những người đặc biệt làm việc với Mỹ hoài mà không biết là ai. Ổng hoạt động ở Củ Chi. Té ra ổng làm việc cho cả hai bên. Bà vợ ngồi phòng khách, lâu lâu đứng dậy đi tới đi lui liếc nhìn tôi. Ổng nói, “Tôi chỉ cứu anh một lần này. Hiện giờ người ta đang truy nã anh khắp Saigon, tới các nhà bà con bạn bè anh kiếm bắt anh, anh phải rất cẩn thận. Tôi không muốn thấy anh lại, nếu bị bắt lại đừng nói tên tôi. Tôi muốn anh phải đi thật xa… ra khỏi nước. Ở lại ngày nào là nguy cho cả anh lẫn tôi. Bây giờ anh là nhân viên hỏa xa. Ngay đêm nay sẽ có xe hộ tống anh ra ga Phan thiết, ra chợ anh sẽ gặp lại gia đình anh và biết chuyện gì sẽ tới…”. Ổng đưa tôi cái căn cước mới có hình tôi, một thẻ nhân viên hỏa xa và một ít tiền. Nói xong là có lính đưa tôi ra xe liền.”
Tôi chép miệng:
– Công nhận, tụi đảng viên cao cấp có trình độ ăn nói khôn ngoan, dùng chữ vắn tắt, nói lửng lơ, đủ cho mình hiểu chứ không dùng từ ngữ “giúp vượt biên”, sợ sau này có gì đổ bể xảy ra, mình không thể dùng từ đó “đập” lại họ được.

– Bởi vậy mới làm lớn được, đâu phải ba đứa công an cán bộ thất học ăn nói bậy bạ như bây giờ.
Tôi lo lắng hỏi:
– Anh ở nhà ga, lỡ công an thấy lạ, tới hỏi, nói lớ ngớ lộ chuyện chết..
– Ga Phan thiết đông lắm, họ bảo tôi nằm ngủ trên băng ghế dài với cái “balô” và tấm mền ở các toa xe lửa trống một vài hôm, chờ sẽ có người đón đi. Chỗ đó tàu ra Bắc vô Nam liền liền mỗi ngày, nhân viên cán bộ di chuyển cũng ngủ tạm ở các toa xe trống như tôi nên chả ai để ý hỏi tôi. Tôi có thẻ nhân viên hỏa xa đóng dấu đàng hoàng nên cũng không lo, chỉ sợ gặp người quen nhận ra hỏi han lôi thôi. Mỗi sáng tôi ra chợ mua thức ăn rồi về lại toa xe ngồi, ngắm thiên hạ. Lần thứ ba ra chợ, tôi giựt mình thấy vợ tôi, có hai thằng công an kè kè bên cạnh, mắt nhìn láo liên.

Tôi lấy vợ dân Phan thiết năm 74, qua năm sau VC vô thì đi tù, vợ chồng xa nhau tám năm bây giờ mới gặp lại, tôi bồi hồi xúc động, nhưng không dám gọi. Bà ấy nhìn dáo dác, thấy tôi, mắt sáng lên, nhưng lật đật quay mặt phóng tầm mắt ngay đi phía khác. Tôi hiểu ngay công an địa phương đi theo người nhà để lùng kiếm tôi, vội cúi mặt, lẻn trốn chỗ khác, rồi về lại toa xe lửa. Hai hôm sau, ban đêm có người tới chỗ tôi, mang lon sĩ quan, chắc làm chức vụ lớn, thấy tôi nằm, xung quanh có nhiều người còn thức, bảo tôi đứng dậy chuẩn bị “đi công tác”. Tôi hiểu ý, đứng lên dọn đồ xách “balô”, đi theo ổng ra ngoài có xe hơi đậu, leo lên ngồi. Xe chạy thẳng ra hướng biển, gió mát thổi lồng lộng. Tới chỗ nhà nọ, hắn ngừng xe, đi vô nhà dắt ra cái Honda, rồ máy bảo tôi lên ngồi đàng sau. Tôi loay hoay khoác ba lô trên lưng, hắn nói:

– Anh không cần hành lý này nữa đâu, vứt đi..
Rồi hắn chạy xe len lỏi mấy vòng trong mấy ngõ cụt, đậu truớc một bãi biển vắng vẻ có một chiếc ghe và mấy bóng người đứng lố nhố gần đó. Hắn hất hàm bảo tôi xuống xe:

– Vợ anh đang chờ anh dưới đó, xuống đi. Coi chừng cẩn thận… Chúc đi may mắn…
Tôi ngỡ ngàng, cảm ơn rồi chạy xuống bãi. Vợ tôi chạy tới ôm chầm lấy, kéo tay xuống ghe… Có khoảng mười mấy người vừa đàn ông vừa đàn bà, trong đó tôi nhận ra vài người bà con bên vợ. Người chỉ huy là một anh trung úy tôi quen, tên Hà, đang cãi nhau với chủ ghe tại sao hứa bán ghe 2 “lốc” mà giờ chót giao ghe F10 nhỏ xíu… Tôi nghe qua, biết ngay bà già tôi trước đây thương lượng mua ghe của ông già này, lão hứa đưa ghe lớn mà giờ chót tráo trở đưa ghe nhỏ, còn bãi là đã mua của công an địa phương rồi, nhắm chuyện đã lỡ, có dằng co cũng vô ích, không còn thì giờ nữa, mà tên ngồi Honda trên kia thì đi đi lại lại có vẻ sốt ruột, kêu nhổ neo cho mau, đành xua tay bảo Hà, “thôi thôi, chuyện lỡ rồi anh, mình đi cho rồi.” Chủ bán ghe ở lại, tất cả lên ghe. Tài công giựt máy nổ, ghe xình xịch rời bến. Tôi nhìn quanh thấy mấy cuộn dây dừa thật to, bốn cây tre dài bốn thước, mười can dầu, nước uống đầy đủ, thức ăn chuẩn bị tươm tất, có cả bốn cây súng M16. Hà nói có hải bàn, hải đồ ở buồng lái.



Ghe đi khoảng được trăm mét, tôi nhìn lên bờ thấy tên đi Honda bắt đầu rồ máy rời bãi, bỏ chạy biến mất trong bóng đêm.
Tối hôm sau thì ghe đang chạy, vướng phải lưới đánh cá của dân giăng chìm bên dưới, mấy ghe cá xa xa chạy lại tính gây sự, Hà bèn lôi súng ra bắn mấy phát khiến họ bỏ chạy. Tụi tôi xúm lại cắt lưới dính vô chân vịt, chạy tiếp… Mấy tiếng sau ghe lại mắc kẹt vô lưới nữa, lưới đánh cá chỗ khác. Lại lụi hụi cắt lưới. Qua ngày sau thì trời nổi cơn bão lớn, chắc ra tới hải phận quốc tế rồi. Từ xa sóng cao bằng cái nhà lầu hai tầng ầm ầm kéo tới, ai nấy nhắm mắt sợ hãi chờ chết thì tự nhiên tới gần ghe, sóng nó cúi xuống thấp chui lòn dưới ghe qua bên kia… Lạ thiệt… Chiếc ghe hẹp nhỏ xíu, mỏng manh mà sóng to gió lớn dập vùi nghiêng ngả, tôi kêu đám thanh niên cột chặt bốn thanh tre dài vào hai bên bờ ghe,mỗi bên hai cây, để làm ghe rộng ra, hóa giải các ngọn sóng đập vào, cản nước khỏi tràn vô, nhờ vậy mà ghe chỉ chòng chành qua lại nhưng lúc nào cũng giữ được thăng bằng, không cách chi bị sóng đánh chìm qua một bên nỗi. Đó là lý do tại sao ông chủ ghe bỏ vào mấy cây tre dài khi bán ghe cho đám vượt biên mấy ngày trước. Có lần sóng mạnh như muốn hất tung chiếc ghe lên trời, tôi phải bắt đàn bà con nít nằm mọp dưới đáy ghe, lấy mấy cuộn dây dừa ra ràng chằng chịt qua lại bên trên để giữ họ khỏi bị hất văng xuống nước.



Thấy tài công không rành coi hải bàn ngòai biển lớn, tôi dành lấy, soi đèn pin coi, nhờ ở tù nhiều năm học được của anh em bạn tù hải quân, hướng dẫn lái ghe tắp vô Phi. Nhưng thấy bờ biển Phi trước mặt không xa mà không tới gần được, ghe cứ quay tròn chứ không đi thêm được, coi lại bản đồ thì ra có cái hố nước xoáy sâu, đường kính dài tới mười cây số nên ghe cứ lòng vòng mắc kẹt ở đó hoài. Tôi phải cho lái lên phía bắc, tắp vô chùm đảo Hoàng sa tụi Tàu chiếm đóng từ 1974. Tui bảo anh em quăng mấy cây súng xuống biển, sợ Tàu thấy nó nả súng bắn mình oan mạng. Lúc đó Tàu với VN là kẻ thù, nên họ cho một chiếc tàu tới ghe tụi tôi nhảy xuống tra hỏi khám xét, nói tiếng Tàu xì xồ nên chẳng ai hiểu gì. Vợ tôi sợ, muốn quăng mấy lượng vàng đem theo xuống nước, tôi bảo đừng, cứ dấu trong mình, tụi này đâu phải hải tặc cướp biển. Viên chỉ huy toán lính gọi máy liên lạc với trên đồn chở tới một thông dịch viên, hỏi tụi này bằng tiếng Việt rồi dịch lại tiếng Tàu cho tên chỉ huy tàu lớn. Biết dân VN vượt biên, họ có vẻ an tâm, thông dịch viên bảo ghe đi theo họ vô đồn trong những con đường nước có thả phao đỏ hai bên, không được đi ra ngoài, sẽ bị đá ngầm đâm lủng ghe. Họ cho thức ăn, xì dầu, đồ hộp thừa mứa. Tụi tôi ở lại gần đồn họ đêm đó, tờ mờ sáng họ đã ra dấu đuổi đi, cho mấy thùng dầu để đi tiếp lên phía bắc.



– Tụi lính Tàu tử tế quá nhỉ…
– Tôi cũng nghĩ vậy… nhưng chính vì mấy thùng dầu đó mà ghe tôi tắt máy giữa biển sau đó. Loại dầu đó dành cho tàu lớn xài, ghe nhỏ xài loại dầu khác. Thế là chạy mới được một ngày, ghe khọt khẹt một lúc rồi tắt máy, nổi lênh đênh giữa vùng nước tối đen bao la… Mà bão thì ở đâu ngay lúc đó ầm ầm kéo tới… Lênh đênh giữa trời tối như mực, gió tung ghe lên xuống liên hồi… Bị nhồi xóc liên tục, ai cũng lăn ra ói mửa nằm đài la liệt… Tôi là người cuối cùng kiệt sức lăn ra lịm đi, mơ mơ màng màng không biết là đang ở trên vùng biển nào, phó mặc cho số mệnh, nghĩ có lẽ ghe đang trên đường lên Đài Loan hay lạc lõng vô vịnh Bắc Việt, gần đảo Hải Nam. Thình lình không hiểu sao, tôi cảm thấy như gió bão đẩy ghe vùn vụt, hay như có bàn tay Ơn Trên phù hộ, nâng ghe lên cho gió thổi ào ào đẩy ghe thật nhanh…

Không biết bao lâu, khi tôi tỉnh cơn mê ngồi dậy thì thấy ghe đã dập dềnh tắp vô bờ biển, xa xa hàng trăm ghe đánh cá thắp đèn sáng rực. Mọi người lục đục quanh tôi ngồi dậy ngó dáo dác, tháo dây dừa ra, vì bể lặng, sóng êm, ghe nổi bềnh bồng… Có vài chiếc ghe nhỏ tụi thanh niên Bắc kỳ vượt biên từ mạn Hải phòng tới, lảng vảng ở bờ, gần ghe tôi, nói tiếng Bắc kỳ rổn rảng. Tôi gọi hỏi thăm, tụi nó nói đây là bờ biển Trung quốc, giữa Hải nam và Hongkong, chúng nói tụi Tàu biên phòng không cho lên bờ, cũng không bắt giữ ghe vượt biên từ Việt Nam, chỉ xua tay đuổi đi tiếp về phía bắc. Ghe tui mừng quá, coi như thoát chết, đám thanh niên lấy mấy cây chèo ra, cứ men theo bờ biển mà chèo đi.

Có lần thấy một bãi biển vắng, tụi tôi lén tắp vô, xách can nhựa chạy lên kiếm mấy cái giếng múc lấy nước uống, ai dè công an ở đâu xuất hiện, xách súng ra la ó, xua đuổi. Nhưng thấy múc nước họ cũng chờ, để yên cho múc đầy, rồi đi theo xuống chỗ ghe đậu coi có ai trốn ở lại không. Một ngày sau thì ghe tắp vô Macao, thành phố sòng bạc nổi tiếng Á châu. Cảnh sát xuống ghi số ghe, tịch thu các giấy tờ cá nhân coi từ đâu tới. Sợ họ đuổi đi, tụi tôi phá hư máy, để được tiếp nhận. Coi giấy tờ xong, biết từ Việt Nam tới, họ nói bằng tiếng Anh, “Ở đây, chúng tôi một tuần chỉ có một ngày nhận dân tỵ nạn tới, đó là ngày thứ sáu, hôm nay mới thứ năm, chúng tôi buộc lòng phải đuổi các anh đi. Đi thêm nửa ngày nữa, các anh sẽ tới Hongkong, ở đó họ nhận tỵ nạn… Nhưng nếu họ hỏi, không được nói ở đây đẩy qua đó…”

Họ tử tế cho một chiếc ghe tốt hơn, nhận chìm ghe cũ, bắt chúng tôi dời qua ghe mới, rồi cho một tàu nhỏ kéo đi qua Hongkong. Thấy Hongkong hiện ra xa xa là tàu tháo dây cáp, vẫy tay chào chúng tôi, bỏ quay về lại Macao. Khi ghe tụi tôi cập bến, cảnh sát tới tịch thu giấy tờ, hỏi ai là chỉ huy. Tôi bảo Hà để tôi nhận là chỉ huy, vì có giấy tờ làm cho CIA của Mỹ trước kia. Giấy tờ này, gồm cả hình ảnh mặc đồ lính, bằng cử nhân luật trước 75, vợ tôi chuẩn bị sẵn một phong bì bao bịch nylon, đưa tôi lúc gặp nhau dưới ghe ở bờ biển Phan thiết. Họ hỏi đi từ đâu tới. Tôi nói từ Việt Nam. Họ hỏi sao đi ghe của Macao. Tôi nói tại ghe tôi hư máy tắp vô Macao, Macao cho ghe khác rồi đuổi đi. Họ ghi chép tên họ cấp bậc chức vụ tôi, báo ngay cho phái đoàn Mỹ biết… Phái đoàn điện về Washington, và ba hôm sau ông boss Mỹ cũ của tôi bay qua Hongkong gặp tôi, gửi gấm cho phái đoàn Mỹ tại Hongkong. Tôi trở nên cố vấn tin cậy của họ, làm việc trực tiếp với một bà xếp Mỹ. Bất cứ vấn đề gì liên quan tới nhân sự làm cho Mỹ trước kia, họ đều hỏi ý kiến tôi.


Trong mấy tháng ở Hongkong, tôi đã giúp biết bao nhiêu người tỵ nạn tình ngay mà lý gian, chỉ vì họ vô tình khai gian, hay giấy tờ không đầy đủ. Tôi bắt họ nói thật, nếu đúng là cựu quân nhân mới bảo đảm với bà boss, để giữ uy tín mình… Anh biết, người ta đã tin mình, mình không nên vì tình cảm cá nhân, hay mủi lòng thương hại mà làm chuyện gian dối, Mỹ sẽ khinh cả đám. Ở đây tôi gặp anh Hùng, đại úy Hải, Thiện, anh… thằng Danh. Anh nhớ thằng Danh, cái thằng láu cá, nó đâu có đi lính ngày nào mà xưng là thiếu úy. Nghe có người mách nó lấy giấy tờ anh nó là thiếu úy nhảy dù qua đây, mặt hai anh em giống nhau y hệt, nên không ai biết. Lúc đó, tôi nghĩ tới hoàn cảnh chính tôi, em thì bạc phước bị VC giết, còn mình thì có phước được qua đây như nó, công trình vượt biên một lần đi chín phần chết, một phần sống chứ đâu phải dễ, nên làm ngơ… Nó mới 22 tuổi, còn cả một tương lai trước mặt, cho nó có cơ hội giúp đỡ mẹ già, anh khổ ở lại…

– Hồi đó tôi được chuyển qua Phi học ESL mấy tháng không gặp anh. Hình như anh đi thẳng Mỹ.
-Tôi và anh Hùng được đi thẳng Mỹ vì tình cảnh đặc biệt, kể ra dài lắm. Ông boss CIA cũ của tôi bên Mỹ nhờ một ông bạn đại tư bản ở Boston bảo trợ tôi, cho vợ chồng tôi ở nguyên một cái nhà to khỏi trả tiền rent, đưa tôi đi làm ngay trong hãng của ổng. Tôi qua đó tháng 8/84, mấy tháng sau mùa đông tới… ôi chao là lạnh, tuyết rơi, lạnh chịu không nỗi, thời gian đó tôi liên lạc được với bạn bè bên Nam Cali nên tính chuyện lén dọn về Cali ở, tính thầm trong bụng chứ không dám cho ông sponsor hay, sợ ổng buồn. Ổng tốt quá, nên mình ngại, sợ ổng nghĩ mình chê tiểu bang của ổng, được voi đòi tiên. Qua Little Saigon được hai tuần tôi có gọi phone về xin lỗi ổng. Ổng nói, “OK, nếu mày không có việc làm, cứ qua trở lại đây, tao sẵn sàng tiếp đón”. Nhưng nói vậy chứ mặt mũi nào mình chạy qua đó lại. Tôi làm cho nhà hàng, rồi ghi danh đi học trường tư, học điện, plumbing, contruction… rồi sau cùng lấy bằng thầu khoán contractor luôn. Làm chỗ này chỗ kia vùng Orange County, Long beach, Los…. Tôi làm ăn cũng được, mua chung cư cho thuê, nhà ở, đất nhà… đầu tư… lu bù bây giờ chỉ còn có cái nhà đang ở ở Santa Ana là trả off, mấy cái kia tiêu hết.

– Cái đất 3 acres có nhà ở Peris họ tịch thu bán short sale anh nhờ tôi làm đơn mua giùm lúc trước, tới đâu rồi, sao thấy im lìm…
– Họ bán cho người khác rồi. Người đó qualified hơn anh.
– Anh giỏi thật, đủ nghề, lăn lộn chìm nỗi nhiều phen mà cũng không khá được. Rõ ràng con người có số. Những người ở tù CS như mình qua đuợc Mỹ, coi như đã trả xong cộng nghiệp, tưởng thoát khổ, bắt đầu ăn nên làm ra, coi vậy mà không phải vậy. Đâu phải ai tới Mỹ cũng thành triệu phú. Anh chịu khổ tám năm tù, lẽ ra giờ này bù lại phải được an nhàn phè phỡn, mà tới giờ con cái vẫn chưa thành đạt, còn phải đi làm. Tôi ở tù ít hơn, qua đây học hành, lao động, năm chìm bảy nỗi, đôi phen mất job mất nhà, về hưu mấy năm sau mới trả off cái nhà này, rồi được tiền hưu, medicare…

– Số tôi cực hơn anh nhiều…
– Mà thôi, so với các dân tộc khác qua Mỹ tìm cơ hội, nhiều người Mễ vượt biên qua Mỹ đói khát chết khô ở biên giới, nhiều người Hoa bỏ tiền qua đây đi làm lậu, có bầu, du lịch đẻ con để lấy quốc tịch Mỹ, người Trung đông qua ở lậu bị INS sau truy ra có liên hệ quân khủng bố trục xuất về nước, hay dân Phi châu vượt biên ngang biển Ý đại lợi tới Âu châu chết chìm liên tục… mình được như vầy là may mắn lắm rồi.

– Tất nhiên…
– Lại so với bao nhiêu người giờ này còn ở VN, cướp giật, làm điếm, bán thức ăn độc hại để kiếm lời, bệnh viện bê bối, giáo dục nhồi sọ, tương lai con cái đen tối, thì mình còn hơn nhiều, phải không anh Khoa

– Tất nhiên rồi chứ còn gì nữa…

Phạm Hoàng Chương

NGUYỄN MINH QUANG * VÌ SAO CÁ CHẾT HÀNG LOẠT

VÌ SAO CÁ CHẾT HÀNG LOẠT DỌC DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG?
Nguyễn Minh Quang, P.E.
30-4-2016
Hinh 0-CaChet TienPhong

Cá chết dọc duyên hải miền Trung. Nguồn: báo Tiền Phong


SƠ LƯỢC VỀ TÁC GIẢ

Tác giả là Kỹ sư Công chánh Chuyên nghiệp (Professional Civil Engineer) của Tiểu bang California. Tốt nghiệp Kỹ sư Công chánh tại Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ, Sài Gòn năm 1972; Trưởng ty Kế hoạch của Ủy ban Quốc gia Thủy lợi thuộc Bộ Công chánh và Giao thông đến tháng 4 năm 1975. Tốt nghiệp Cao học Thủy lợi tại Ðại học Nebraska, Hoa Kỳ năm 1985; Chuyên viên Thủy học (Hydrologist) của Sở Quản trị Thủy lợi, Broward County, Florida đến năm 1989. Từ năm 1990 đến 2015, Kỹ sư Giám sát trưởng (Senior Supervising Engineer) của Stetson Engineers Inc., một công ty cố vấn về thủy lợi và ô nhiễm nguồn nước, thành lập năm 1957 ở Los Angeles.


PHẦN TÓM TẮT


Từ hai tuần nay, hiện tượng cá chết hàng loạt dọc duyên hải miền Trung được báo chí trong nước đặc biệt chú ý. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cá chết bất thường là do nước biển bị ô nhiễm, có yếu tố gây độc, ở khu công nghiệp Vũng Áng (Hà Tĩnh) rồi bị dòng hải lưu đẩy về phía nam lan vào tận Thừa Thiên-Huế và các tỉnh phía Nam. Còn Bộ Tài nguyên và Môi trường thì kết luận rằng: chưa có bằng chứng về sự liên hệ giữa Formosa với hiện tượng cá chết, và hai yếu tố chính được xác định có liên quan đến vụ cá chết hàng loạt bao gồm độc tố hóa học do con người thải ra từ đất liền và thủy triều đỏ tức tảo nở hoa.


Ngay sau khi hiện tượng cá chết hàng loạt được phổ biến, các cơ quan chuyên môn ở trong nước và các chuyên viên Việt Nam ở nước ngoài đã đưa ra những nhận xét sơ khởi để giải thích hiện tượng cá chết, chẳng hạn sự phân hủy của nước thải từ bờ và từ Khu công nghệ Vũng Áng, chất cyanide hay chất thải từ giàn khoan của Trung Quốc, độc tố hóa học do con người thải ra từ đất liền và thủy triều đỏ tức tảo nở hoa, và nhiễm độc kim loại nặng. Nhưng những nhận xét nầy, kể cả kết luận của Bộ Tài nguyên và Môi trường, thì rất mơ hồ hoặc không có dữ kiện minh chứng.


Có những bằng chứng vững chắc và đáng tin cậy để kết luận rằng hiện tượng cá chết hàng loạt dọc duyên hải miền Trung là do chất ammonia ở trong nước thải do nhà máy Formosa xả ra biển qua đường ống ngầm được ngư dân phát hiện và ghi hình ảnh. Ammonium, được phát hiện ở nồng độ vượt tiêu chuẩn cho phép ở Lăng Cô (khoảng 0,4 mg/L), phù hợp với dòng hải lưu và với nồng độ ammonia có thể có trong nước thải từ tiến trình luyện than coke của nhà máy luyện thép Formosa (có thể lên đến 668 mg/L). Cá rất nhạy cảm với ammonia; cá nước ngọt có thể chết ở nồng độ 0,2-0,5 mg/L và cá nước mặn có thể chết ở nồng độ thấp hơn. Trong quá khứ, ammonia đã giết khoảng 110 tấn cá trong sông Fuhe ở Hubei, Trung Hoa vào năm 2013 và khoảng 1.000 tấn cá trong nhánh phía tây của sông Nile ở Rosetta, Egypt vào năm 2015.


Ngày 25 tháng 4, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo các bộ ngành khẩn trương làm rõ nguyên nhân gây hiện tượng hải sản chết bất thường tại các địa phương, nhưng hành động nầy dường như đã quá trễ. Công việc quan trọng và cần thiết nhất hiện nay là ngưng hoàn toàn việc xả thải từ Khu kinh tế Vũng Áng và theo dõi phẩm chất của nước biển ở những độ sâu thích hợp trong những vùng bị ảnh hưởng trước đây và thông báo rộng rãi đến người dân cho đến khi trở lại bình thường như trước.


Việc tiếp theo là làm thế nào để “thảm họa” nầy sẽ không còn tái diễn trong tương lai, bắt đầu từ Formosa. Trước hết, cần phải duyệt xét lại tiến trình hoạt động, phẩm và lượng của nước thải từ nhà máy luyện thép, và hiệu quả của nhà máy lọc nước thải hiện nay của Formosa. Giấy phép xả thải hiện nay cần phải được thu hồi để thay thế bằng một giấy phép mới để có thể kiểm soát những chất ô nhiểm độc hại phát xuất từ một nhà máy luyện thép. Tiếp theo là duyệt xét xem nhà máy lọc nước thải hiện hửu của Formosa có thể loại bỏ các chất ô nhiễm được liệt kê trong giấy phép mới hay không. Nếu không, cần phải xây thêm một nhà máy lọc nước thải mới để lọc sơ khởi nước thải từ nhà máy luyện than coke trước khi cho vào nhà máy lọc nước thải hiện hửu. Lọc sơ khởi bằng phương pháp yếm khí có thể cải thiện đáng kể khả năng phân hủy sinh học của nước thải từ nhà máy luyện than coke, và tạo điều kiện thuận lợi cho giai đoạn tiếp theo bằng phương pháp hiếu khí. Trong trường hợp nhà máy lọc nước thải hiện hửu không thể lọc nước thải từ nhà máy lọc sơ khởi, một nhà máy lọc nước thải hoàn toàn mới cần được xây dựng.


PHẦN DẪN NHẬP


Từ hai tuần nay, các phương tiện truyền thông trong nước đã liên tục loan tin về hiện tượng cá chết hàng loạt dọc duyên hải miền Trung. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) Quảng Bình, “… từ kết quả phân tích mẫu nước, mẫu cá chết, nguyên nhân bước đầu được xác định là do nguồn nước bị ô nhiễm, có yếu tố gây độc. Hiện tượng cá chết bất thường là do nước biển bị ô nhiễm ở khu công nghiệp Vũng Áng (Hà Tĩnh), theo dòng hải lưu Bắc cực-Xích đạo, nguồn nước ô nhiễm ở Hà Tĩnh bị đẩy về phía nam lan vào tận Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế và các tỉnh phía Nam.” Còn ở Thừa Thiên-Huế, “… nguyên nhân cá chết hàng loạt là do pH nước thay đổi đột ngột, chất lượng phú dưỡng (PO4) tăng cao đột ngột khiến cá bị thiếu ô xy cục bộ.” [1]


Ngay sau khi được báo cáo, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) đã họp khẩn với các đơn vị chức năng của Bộ, vào ngày 20 tháng 4, để gấp rút làm rõ nguyên nhân gây ra hiện tượng cá chết hàng loạt dọc duyên hải miền Trung. “Kết luận cuộc họp, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng, hiện tượng cá chết hàng loạt có nhiều nguyên nhân trong đó không loại trừ nguyên nhân cá chết là do môi trường bị ô nhiễm. Bộ trưởng khẳng định: ‘Trách nhiệm của Bộ TN&MT là phải khẩn trương đẩy nhanh tiến độ làm rõ nguyên nhân cá chết hàng loạt ở ven biển miền Trung trong những ngày vừa qua. Phải làm rõ việc có hay không cá chết là do ô nhiễm môi trường’.” [2]


Vào ngày 27 tháng 4, Bộ TN&MT đã công bố kết quả điều tra. Thứ trưởng TN&MT Võ Tuấn Nhân cho biết “… chưa có bằng chứng kết luận về sự liên hệ giữa Formosa và các nhà máy hoạt động ở Vũng Áng đối với hiện tượng cá chết hàng loạt gần đây” và “… sau các khảo sát và điều tra của các cơ quan chức năng Việt Nam và các nhà khoa học, hai yếu tố chính được xác định có liên quan đến vụ cá chết hàng loạt bao gồm độc tố hóa học do con người thải ra từ đất liền và thủy triều đỏ tức tảo nở hoa.” [3] Nguyên nhân thứ nhất thì quá mơ hồ, còn nguyên nhân thứ hai thì đã bị Hội nghề cá Việt Nam bác bỏ [4].


Vì sao cá chết hàng loạt dọc duyên hải miền Trung? Bài viết nầy cố gắng trả lời câu hỏi đó dựa trên những dữ kiện không đầy đủ được đăng tải trên báo chí trong nước trong thời gian qua.


DIỄN BIẾN CỦA HIỆN TƯỢNG CÁ CHẾT






Hình 1: Vùng duyên hải miền Trung có cá chết hàng loạt. Nguồn: Zing.vn


Hiện tượng cá chết hàng loạt bắt đầu vào đầu tháng 4, từ Kỳ Phương, Hà Tĩnh cho đến Lăng Cô, Đà Nẵng (Hình 1). “Ngày 6/4, tình trạng cá chết được ngư dân phát hiện tại vùng biển một số xã, phường của thị xã Kỳ Anh (Hà Tĩnh), rồi tiếp diễn ở vùng biển xã Quảng Đông (huyện Quảng Trạch, Quảng Bình). Những ngày sau đó, các vùng biển Nhân Trạch (huyện Bố Trạch), Quang Phú và Bảo Ninh (TP Đồng Hới)… cũng ghi nhận tình trạng tương tự. Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản (Tổng cục Thủy sản) ghi nhận các loài cá chết dạt vào bờ đều sống ở tầng đáy vùng biển gần bờ. Đến ngày 19/4, tình trạng xảy ra diện rộng hơn, ghi nhận ở vùng biển Quảng Trị, Thừa Thiên–Huế… Theo ghi nhận từ các địa phương, đến ngày 22/4, tình trạng cá chết không còn xuất hiện.” [5]


Theo Ông Nguyễn Viết Nghĩa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hải Sản, thì “… khả năng nguyên nhân cá chết do độc chất là rất lớn.” Ông Nghĩa đề nghị các địa phương khuyến cáo tàu cá dừng khai thác ven bờ. Việc tác động của độc chất đối với cá nổi ít hơn so với loài sống ở tầng đáy. Các địa phương nên khuyến cáo ngư dân khai thác cá ở tầng đáy đánh bắt xa khu vực ảnh hưởng của độc tố. [5]


Hình 2: Độ lớn và tầng sinh sống của cá chết. Nguồn: VNE [6]


Những loại cá chết là loại sống ở độ sâu từ 30 m trở lên. Số cá chết dạt vào bờ có độ lớn khác nhau, có khi cân nặng đến 35 kg (Hình 2) [6]. Có khoảng 80 tấn cá chết bất thường dạt vào bờ biển miền Trung [7]. Trong số đó, khoảng 10 đến 15 tấn ở Hà Tĩnh, 25 tấn ở Quảng Bình, 30 tấn ở Quảng Trị, và khoảng 6.000 con ở Thừa Thiên-Huế


Huế


Hình 3: Ước lượng số cá chết dọc duyên hải miền Trung. Nguồn: báo DT [7]


NHẬN XÉT SƠ KHỞI VỀ NGUYÊN NHÂN CÁ CHẾT


Tính đến hôm nay, một số nhận xét sơ khởi đã được đưa ra, từ các cơ quan chuyên môn ở trong nước và các chuyên viên Việt Nam ở nước ngoài, để giải thích lý do tại sao có hiện tượng cá chết hàng loạt dọc duyên hải miền Trung. Nhưng các nhận xét sơ khởi đó hoặc mơ hồ hoặc không có dữ kiện minh chứng.


Trước tiên, Sở NN&PTNT Quảng Bình cho rằng hiện tượng cá chết bất thường là do nước biển bị ô nhiễm, có yếu tố gây độc, ở khu công nghiệp Vũng Áng (Hà Tĩnh). Nguồn nước ô nhiễm ở Hà Tĩnh, theo dòng hải lưu Bắc cực-Xích đạo, bị đẩy về phía nam lan vào tận Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế và các tỉnh phía Nam [1]. Nhận xét nầy có vẻ phù hợp với thực tế, nhưng mơ hồ về tình trạng ô nhiễm của nước biển và yếu tố gây độc làm cá chết.


Tiến sĩ (TS) Vũ Thanh Ca, Vụ Hợp tác quốc tế và Khoa học công nghệ (Tổng cục Biển và hải đảo), thì cho rằng “… lý do khiến cá biển chết hàng loạt có thể là do nước thải từ bờ đã phân hủy mạnh, gây nên cạn kiệt ôxy trong các tầng nước dưới mặt.” TS Nguyễn Hữu Dũng, từng làm việc ở Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, cũng có cùng nhận xét nhưng “… chỉ rõ hơn nguồn chất thải khiến môi trường biển bị biến động đột ngột khả năng cao có nguồn gốc từ khu công nghiệp Vũng Áng (Hà Tĩnh).” [8] Nhận xét nầy chỉ là suy đoán vì không có dữ kiện minh chứng.


Ngoài nước thải từ bờ, chất cyanide từng được Trung Quốc sử dụng trong việc đánh bắt cá hoặc chất thải từ giàn khoan mà trước đây Trung Quốc từng đặt ở cửa vịnh Bắc Bộ cũng được xem là những nguyên nhân có thể làm chết cá hàng loạt ở ven biển miền Trung [8]. Cũng như nhận xét của TS Vũ Thanh Ca và Nguyễn Hữu Dũng, hai nhận xét nầy cũng chỉ là suy đoán vì không có dữ kiện minh chứng.


Kết quả điều tra do Bộ TN&MT thực hiện cũng không xác định được nguyên nhân trực tiếp ngoài “… hai yếu tố chính được xác định có liên quan đến vụ cá chết hàng loạt bao gồm độc tố hóa học do con người thải ra từ đất liền và thủy triều đỏ tức tảo nở hoa.” [1] Kết quả điều tra cũng không cho biết đặc tính của độc tố hóa học (tên, nồng độ…) như thế nào và thải ra từ đâu. Nói cách khác, Bộ TN&MT chưa xác định được nguyên nhân của hiện tượng cá chết hàng loạt ở miền Trung.


Một nhận xét khác, từ các chuyên viên Việt Nam ở nước ngoài, cho rằng “… việc cá chết liên quan đến nhiễm độc kim loại nặng và những tác hại lâu dài của nó.” Các kim loại nặng nầy gồm có chì (Pb), thủy ngân (Hg), cadmium (Cd), arsenic (As), và bạc (Ag) [9]. Cũng như các nhận xét trước, nhận xét nầy cũng chỉ là suy đoán vì không có dữ kiện minh chứng. Hơn thế nữa, kết quả phân tích các mẫu nước thu thập ở khu vực đầm Lập An ở Lăng Cô đã không phát hiện các kim loại nặng nêu trên, ngoại trừ chromium (Cr). Tuy nhiên, kết quả phân tích cũng không phát hiện hexavalent chromium (CrVI), một hợp chất cực độc của chromium [10].


BẰNG CHỨNG VỮNG CHẮC VÀ ĐÁNG TIN CẬY NHẤT


Trước hết, nước thải từ Formosa đã được xả ra biển bằng một đường ống ngầm dưới biển. Người đầu tiên phát giác ra việc xả thải là ngư dân Nguyễn Xuân Thành ở Hà Tĩnh.


“… Vào ngày 21/4, một ngư dân tên Nguyễn Xuân Thành (36 tuổi) trú thôn Ba Đồng, phường Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh (Hà Tĩnh) cho biết, trước đó vào ngày 4/4, trong khi lặn xuống biển “săn” cá, anh bất ngờ phát hiện một đường ống xả thải khổng lồ “cắm” xuống biển. Theo anh Thành, đường ống này được chôn dưới đáy biển, phủ phía trên là một lớp đất cùng nhiều đá hộc, bao tải cát; chiều dài của đường ống khoảng 1,5 km; đường kính 1,1m. Một đầu của đường ống nối từ khu vực dự án Formosa (khu kinh tế Vũng Áng, TX Kỳ Anh), đầu còn lại nối liền với 3 đoạn đường ống nhỏ (mỗi đoạn dài khoảng 2m, đường kính khoảng 40 cm). ‘Vào thời điểm phát hiện, tôi thấy đường ống này phun nước rất mạnh. Nước phun từ đường ống ra có màu vàng đục, nhừa nhựa, mùi hôi thối, khi ngửi thì cảm thấy rất ngạt thở’, anh Thành nói. Sau khi phát hiện đường ống trên, ngư dân này đã tới Đồn biên phòng Đèo Ngang (thuộc Bộ đội biên phòng Hà Tĩnh) trình báo, đồng thời vẽ lại sơ đồ và vị trí của đường ống cho đơn vị này nắm được.” [11]






Hình 4: Đường ống xả thải của Formosa. Nguồn: báo ĐV [12]


Anh Hoàng Văn Đoán, người tự nguyện lặn xuống ghi hình các hình ảnh của cống ngầm (Hình 4), mô tả: “Họ dùng đá đè lên những ống này để dân không thể nhìn thấy được. Trong đó còn có 3 ống to và cao khoảng 2 mét phía trên đậy nắp cao su, mỗi lần xả ra thì nắp cao su lại bung lên, còn khi không xả thải thì ống cao su này đậy nắp ống lại. Mới hôm qua tôi mới lặn xuống thì không còn thấy họ xả nữa, có lẽ là sau khi thông tin báo chí đăng thì họ đã cho ngừng xả rồi”. [12]


Thứ hai, nước thải từ đường ống ngầm có chứa ammonia (NH3)/ammomium (NH4+) ở nồng độ cao. Có hai bằng chứng vững chắc và đáng tin cậy để kết luận như thế: (1) Formosa là một nhà máy luyện thép, nên phải luyện than đá thành than coke. Nước thải trong tiến trình nầy chứa nhiều chất ô nhiễm vô cơ, trong đó có ammonia (NH3) ở nồng độ cao. Theo một nghiên cứu cho nhà máy lọc nước thải của Công ty luyện than Coke Taiyuan ở Trung Hoa, nồng độ của ammonia (NH3-N) trong nước thải từ tiến trình luyện than coke thay đổi từ 230 đến 668 milligrams per liter (mg/L) [13]. (2) Kết quả phân tích các mẫu nước thu thập ở khu vực đầm Lập An, Lăng Cô cho thấy nồng độ của ammomium (NH4+-N) trong nước biển vượt quá tiêu chuẩn (khoảng 0,4 mg/L so với 0,1 mg/L). Trong thực tế, nồng độ của ammonia (NH3) trong nước biển cao hơn rất nhiều vì chỉ có một phần rất nhỏ ammonia biến thành ammonium (NH4+). Như vậy, sự hiện diện của ammonia trong nước biển phù hợp với sự hiện diện của ammonia trong nước thải từ Formosa.


Thứ ba, cá rất nhạy cảm với ammonia. Cá nước ngọt thì ít nhạy cảm hơn cá nước mặn. Nồng độ ammonia từ 0,2 đến 0,5 mg/L có thể giết hết cá trong bồn nuôi cá nước ngọt [14]. Trong các bồn nuôi cá nước mặn, nồng độ an toàn của ammonia là zero [15]. Cá có thể chết hàng loạt nếu nước bị ô nhiễm ammonia, và hiện tượng nầy đã xảy ra nhiều lần trên thế giới. Vào năm 2013, 110 tấn cá trong sông Fuhe ở tỉnh Hubei, Trung Hoa chết hàng loạt vì ô nhiễm nước thải có chứa 196 mg/L ammonia từ một nhà máy hóa chất ở Yingcheng, ngoại ô của Wuhan [16]. Vào năm 2015, cá chết hàng loạt trong nhánh tây của sông Nile ở Rosetta. Bộ Y tế phải tiêu hủy khoảng 1.000 tấn cá chết trong một số chợ cá của đồng bằng sông Nile [17].


NHỮNG VIỆC CẦN PHẢI LÀM


Theo các nguồn tin của báo chí trong nước, sau khi nghe Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng báo cáo tình hình, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ thị “… các Bộ Khoa học và Công nghệ, Công an, Quốc phòng, Công Thương, Y tế, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam chủ động phối hợp, hỗ trợ các Bộ Tài nguyên và Môi trường, NN và PTNT, khẩn trương làm rõ nguyên nhân gây hiện tượng hải sản chết bất thường tại các địa phương này.” [18] Nhưng việc truy tầm nguyên nhân của hiện tượng cá chết hàng loạt dường như đã quá trễ vì việc xả nước thải đã được ngưng từ lâu và nước thải đã được nước biển làm loãng đến mức độ không còn phát hiện được các chất ô nhiễm, nếu có.


Công việc quan trọng và cần thiết nhất hiện nay là ngưng hoàn toàn việc xả thải từ Khu kinh tế Vũng Áng và theo dõi phẩm chất của nước biển trong những vùng bị ảnh hưởng trước đây và thông báo rộng rãi đến người dân cho đến khi trở lại bình thường như trước. Các mẫu nước biển phải được thu thập ở những độ sâu thích hợp, nhất là vùng chung quanh miệng ống xả của Khu kinh tế Vũng Áng.


Việc tiếp theo là làm thế nào để “thảm họa” nầy sẽ không còn tái diễn trong tương lai, bắt đầu từ Formosa. Công việc nầy cần nhiều thời gian, quyết tâm, nỗ lực và khả năng kỹ thuật.


Trước hết, cần phải duyệt xét lại tiến trình hoạt động, phẩm và lượng của nước thải từ nhà máy luyện thép, và hiệu quả của nhà máy lọc (xử lý) nước thải hiện nay của Formosa. Theo giấy phép cấp cho Formosa ngày 11/12/2013 của Bộ TN&MT, tuy phẩm chất của nước thải trước khi vào và sau khi ra khỏi nhà máy lọc nước thải được theo dõi, nhưng chỉ theo dõi những chất ô nhiễm thông thường như nhiệt độ nước xả thải không quá 40 độ C; độ pH từ 5,5-9; chất rắn lơ lửng: 117 mg/L; tổng dầu mỡ khoảng 11,7 mg/L; tổng phenol: 0,585 mg/L tổng xyanua [cyanide]: 0,585 mg/L; ni-tơ [nitrogen]: 70,2 mg/L; thủy ngân: 0,0117 mg/L [19]. Như vậy, giấy phép nầy không thích hợp để kiểm soát những chất ô nhiểm độc hại phát xuất từ một nhà máy luyện thép, chẳng hạn như nhà máy luyện thép Formosa-Hà Tĩnh. Do đó, giấy phép nầy cần phải được thu hồi để thay thế bằng một giấy phép mới; trong đó, bao gồm các chất ô nhiễm vô cơ như ammonia, cyanogen, sulphocyanogen; các hợp chất hữu cơ đơn vòng (heterocyclic compounds) như pyridine, furan và dioxane; và các hợp chất có mùi thơm đa vòng (polycyclic aromatic compounds) như phenol, napththalene, và quinoline. Những chất ô nhiễm nầy rất khó phân hủy sinh học trong điều kiện hiếu khí (aerobic conditions) [13].


Tiếp theo là duyệt xét xem nhà máy lọc nước thải hiện hửu của Formosa có thể loại bỏ các chất ô nhiễm được liệt kê trong giấy phép mới hay không. Nếu không, cần phải xây thêm một nhà máy lọc nước thải mới để lọc sơ khởi (pre-treatment) nước thải từ nhà máy luyện than coke trước khi cho vào nhà máy lọc nước thải hiện hửu. Nhiều nghiên cứu cho thấy lọc sơ khởi bằng phương pháp yếm khí (anaerobic treatment) có thể cải thiện đáng kể khả năng phân hủy sinh học của nước thải từ nhà máy luyện than coke, và tạo điều kiện thuận lợi cho giai đoạn tiếp theo bằng phương pháp hiếu khí [13]. Trong trường hợp nhà máy lọc nước thải hiện hửu không thể lọc nước thải từ nhà máy lọc sơ khởi, một nhà máy lọc nước thải hoàn toàn mới cần được xây dựng.


KẾT LUẬN


Từ hai tuần nay, hiện tượng cá chết hàng loạt dọc duyên hải miền Trung được báo chí trong nước đặc biệt chú ý. Hiện tượng nầy bắt đầu vào đầu tháng 4, từ Kỳ Phương, Hà Tĩnh rồi lan dần về phía nam đến Lăng Cô, Đà Nẵng; đến ngày 22 tháng 4 thì tình trạng cá chết không còn xuất hiện nữa. Có khoảng 80 tấn cá chết đã dạt vào bờ biển miền Trung. Những loại cá chết là loại sống ở độ sâu từ 30 m trở lên và có độ lớn khác nhau, có khi cân nặng đến 35 kg.


Theo Sở NN&PTNT Quảng Bình, cá chết bất thường là do nước biển bị ô nhiễm, có yếu tố gây độc, ở khu công nghiệp Vũng Áng (Hà Tĩnh) rồi bị dòng hải lưu đẩy về phía nam lan vào tận Thừa Thiên-Huế và các tỉnh phía Nam. Ngay sau khi được báo cáo, Bộ TN&MT đã làm việc gấp rút để làm rõ nguyên nhân, và vào ngày 27 tháng 4, đã công bố kết quả điều tra là chưa có bằng chứng kết luận về sự liên hệ giữa Formosa và các nhà máy hoạt động ở Vũng Áng đối với hiện tượng cá chết, và hai yếu tố chính được xác định có liên quan đến vụ cá chết hàng loạt bao gồm độc tố hóa học do con người thải ra từ đất liền và thủy triều đỏ tức tảo nở hoa. Nguyên nhân thứ nhất thì quá mơ hồ, còn nguyên nhân thứ hai thì đã bị Hội nghề cá Việt Nam bác bỏ.


Ngay sau khi hiện tượng cá chết hàng loạt được phổ biến, một số nhận xét sơ khởi đã được đưa ra, từ các cơ quan chuyên môn ở trong nước và các chuyên viên Việt Nam ở nước ngoài, để giải thích tại sao có hiện tượng cá chết hàng loạt. Các nhận xét nầy bao gồm sự phân hủy mạnh mẽ của nước thải từ bờ và từ Khu công nghệ Vũng Áng, chất cyanide từng được Trung Quốc sử dụng trong việc đánh bắt cá hoặc chất thải từ giàn khoan mà trước đây Trung Quốc từng đặt ở cửa vịnh Bắc Bộ, độc tố hóa học do con người thải ra từ đất liền và thủy triều đỏ tức tảo nở hoa, và nhiễm độc kim loại nặng. Nhưng những nhận xét sơ khởi nầy, kể cả kết luận của Bộ TN&MT, thì rất mơ hồ hoặc không có dữ kiện minh chứng.


Điều đó không có nghĩa là không biết nguyên nhân! Có những bằng chứng vững chắc và đáng tin cậy để kết luận rằng hiện tượng cá chết hàng loạt dọc duyên hải miền Trung là do chất ammonia ở trong nước thải do nhà máy Formosa xả ra biển qua đường ống ngầm được ngư dân Nguyễn Xuân Thành phát hiện và thợ lặn Hoàng Văn Đoán ghi hình ảnh. Ammonium đã được phát hiện ở nồng độ vượt tiêu chuẩn cho phép ở Lăng Cô (khoảng 0,4 mg/L), cách Vũng Áng khoảng 250 km về phía nam. Sự kiện nầy phù hợp với dòng hải lưu và với nồng độ ammonia có thể có trong nước thải từ tiến trình luyện than coke của nhà máy luyện thép Formosa (có thể lên đến 668 mg/L). Hơn nữa, cá rất nhạy cảm với ammonia, chỉ cần nồng độ từ 0,2 đến 0,5 mg/L có thể giết chết cá nước ngọt và cá nước mặn có thể chết ở nồng độ thấp hơn. Trong quá khứ, ammonia đã giết khoảng 110 tấn cá trong sông Fuhe ở Hubei, Trung Hoa vào năm 2013 và khoảng 1.000 tấn cá trong nhánh phía tây của sông Nile ở Rosetta, Egypt vào năm 2015.


Ngày 25 tháng 4, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo các bộ ngành khẩn trương làm rõ nguyên nhân gây hiện tượng hải sản chết bất thường tại các địa phương. Tuy nhiên, việc truy tầm nguyên nhân dường như đã quá trễ vì việc xả nước thải đã được ngưng từ lâu và nước thải đã được nước biển làm loãng đến mức độ không còn phát hiện được các chất ô nhiễm, nếu có.


Công việc quan trọng và cần thiết nhất hiện nay là ngưng hoàn toàn việc xả thải từ Khu kinh tế Vũng Áng và theo dõi phẩm chất của nước biển trong những vùng bị ảnh hưởng trước đây và thông báo rộng rãi đến người dân cho đến khi trở lại bình thường như trước. Các mẫu nước biển phải được thu thập ở những độ sâu thích hợp, nhất là vùng chung quanh miệng ống xả của Khu kinh tế Vũng Áng.


Việc tiếp theo là làm thế nào để “thảm họa” nầy sẽ không còn tái diễn trong tương lai, bắt đầu từ Formosa. Công việc nầy cần nhiều thời gian, quyết tâm, nỗ lực và khả năng kỹ thuật.


Trước hết, cần phải duyệt xét lại tiến trình hoạt động, phẩm và lượng của nước thải từ nhà máy luyện thép, và hiệu quả của nhà máy lọc nước thải hiện nay của Formosa. Giấy phép xả thải hiện nay cần phải được thu hồi để thay thế bằng một giấy phép mới để có thể kiểm soát những chất ô nhiểm độc hại phát xuất từ một nhà máy luyện thép. Tiếp theo là duyệt xét xem nhà máy lọc nước thải hiện hửu của Formosa có thể loại bỏ các chất ô nhiễm được liệt kê trong giấy phép mới hay không. Nếu không, cần phải xây thêm một nhà máy lọc nước thải mới để lọc sơ khởi nước thải từ nhà máy luyện than coke trước khi cho vào nhà máy lọc nước thải hiện hửu. Nhiều nghiên cứu cho thấy lọc sơ khởi bằng phương pháp yếm khí có thể cải thiện đáng kể khả năng phân hủy sinh học của nước thải từ nhà máy luyện than coke, và tạo điều kiện thuận lợi cho giai đoạn tiếp theo bằng phương pháp hiếu khí. Trong trường hợp nhà máy lọc nước thải hiện hửu không thể lọc nước thải từ nhà máy lọc sơ khởi, một nhà máy lọc nước thải hoàn toàn mới cần được xây dựng.
____
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]       Duy Tuấn, Hải Sâm, và Quang Thành. 20 tháng 4 năm 2016. “Cá chết trắng biển miền Trung, nghi nhiễm độc từ Vũng Áng.” VietnamNet. http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/300459/ca-chet-trang-bien-mien-trung-nghi-nhiem-doc-tu-vung-ang.html
[2]        TH. 20 tháng 4 năm 2016. “Khẩn trương làm rõ nguyên nhân cá chết hàng loạt ở ven biển miền Trung.” Thanh Tra. http://thanhtra.com.vn/xa-hoi/moi-truong/khan-truong-lam-ro-nguyen-nhan-ca-chet-hang-loat-o-ven-bien-mien-trung_t114c1143n102609
[3]        RFA. 27 tháng 4 năm 2016.  “Việt Nam công bố kết quả điều tra nguyên nhân cá chết hàng loạt.” RFA. http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/vn-announce-result-of-investigation-of-mass-fish-deaths-04272016094546.html
[4]        Mạnh Nguyễn. 28 tháng 4 năm 2016.  ”Hội nghề cá: Cá chết do chất độc, không phải do thủy triều đỏ!” BizLive. http://bizlive.vn/chinh-tri-xa-hoi/hoi-nghe-ca-ca-chet-do-chat-doc-khong-phai-do-thuy-trieu-do-1698112.html
[5]        Phạm Hòa và Thắng Quang. 24 tháng 4 năm 2016. “5 câu hỏi vụ cá chết hàng loạt ở ven biển miền Trung.” Zing.vn. http://news.zing.vn/5-cau-hoi-vu-ca-chet-hang-loat-o-ven-bien-mien-trung-post644367.html
[6]        Nhóm Phóng viên. 26 tháng 4 năm 2016. “Cá chết lan rộng ở miền Trung như thế nào.” VNExpress. http://vnexpress.net/infographics/thoi-su/ca-chet-lan-rong-o-mien-trung-nhu-the-nao-3393340.html?utm_source=home&utm_medium=box_infographics_home&utm_campaign=boxtracking
[7]        Ngọc Diệp, Cấn Cường, Chiến Thắng, và Quang Phong. 28 tháng 4 năm 2016. “Toàn cảnh vụ cá chết hàng loạt tại biển miền Trung.” Dân Trí. http://dantri.com.vn/xa-hoi/toan-canh-vu-ca-chet-hang-loat-tai-bien-mien-trung-20160428081426098.htm
[8]        Phạm Hương. 23 tháng 4 năm 2016.  “Giả thiết về nguyên nhân cá chết hàng loạt ở miền Trung.” PhapLuatSo. http://www.phapluatso.com/gia-thiet-ve-nguyen-nhan-khien-ca-chet-hang-loat-o-mien-trung.html
[9]        Trần Thị Thanh Thỏa, Thiều Mai Lâm và Trương Nguyện Thành. 26 tháng 4 năm 2016. “Chuyện bé như hạt gạo hay thảm họa quốc gia: Nguy cơ ngộ độc kim loại nặng ở ven biển miền Trung và những tác hại lâu dài.”  Vietnam Journal of Science. http://www.vjsonline.org/news/chuy%E1%BB%87n-b%C3%A9-nh%C6%B0-h%E1%BA%A1t-g%E1%BA%A1o-hay-th%E1%BA%A3m-h%E1%BB%8Da-qu%E1%BB%91c-gia-nguy-c%C6%A1-ng%E1%BB%99-%C4%91%E1%BB%99c-kim-lo%E1%BA%A1i-n%E1%BA%B7ng-ven-bi%E1%BB%83n-mi%E1%BB%81n-trung
[10]      Châu An. 27 tháng 4 năm 2016. “Cá chết hàng loạt ở miền Trung: Những điều còn che giấu.”  Đất Việt. http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/tin-tuc-thoi-su/ca-chet-hang-loat-o-mien-trung-nhung-dieu-con-che-giau-3306926/
[11]      Bảo Khánh. 28 tháng 4 năm 2016. “Nhìn lại toàn cảnh vụ cá chết hàng loạt ở miền Trung.” Đời sống Pháp luật. http://www.doisongphapluat.com/tin-tuc/tam-diem-du-luan/nhin-lai-toan-canh-vu-ca-chet-hang-loat-o-mien-trung-a143359.html
[12]      Cúc Phương. 25 tháng 4 năm 2016. “Cá chết không rõ nguyên nhân: Thuê chuyên gia nước ngoài.” Đất Việt. http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/tin-tuc-thoi-su/ca-chet-khong-ro-nguyen-nhan-thue-chuyen-gia-nuoc-ngoai-3306639/
[13]      Bing Li, Ying-lan Sun, and Yu-ying Li. October 28, 2005. “Pretreatment of coking wastewater using anaerobic sequencing batch reactor (ASBR).” National Center for Biotechnology Information (NCBI). http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1390660/
[15]      Robert Boumis. Accessed April 29, 2016. “How does ammonia affect my saltwater aquarium?” Demand Media. http://pets.thenest.com/ammonia-affect-saltwater-aquarium-12090.html
[16]      Jethro Mullen. September 5, 2013. “Tons of poisoned fish clog river in China’s Hubei province.” CNN. http://www.cnn.com/2013/09/05/world/asia/china-river-dead-fish/
[17]      The Cairo Post. July 22, 2015. “’Ammonia poisoning’ blamed fro mass fish die-off in Egypt’s Delta: official.”  The Cairo Post. http://thecairopost.youm7.com/news/160486/news/ammonia-poisoning-blamed-for-mass-fish-die-off-in-egypts-delta-official
[18]      Hoàng Đoan. 25 tháng 4 năm 2016.  “Thủ tướng chỉ đạo khẩn trương tìm nguyên nhân cá chết hàng loạt.” Soha. http://soha.vn/thu-tuong-chi-dao-khan-truong-tim-nguyen-nhan-ca-chet-hang-loat-20160425184551776.htm
[19]      Kiên Trung và Duy Tuấn. 26 tháng 4 năm 2016. “Giấy phép xả thải của Formosa có gì?” VietnamNet. http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/tam-diem/301418/giay-phep-xa-thai-cua-formosa-co-gi.html
__._,_.___

No comments:

Post a Comment