Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday 24 October 2016

HỘI NHÂN QUYỀN - CÁN NGỐ - TƯỞNG NĂNG TIẾN -

Saturday, May 14, 2016


LIÊN HỘI NHÂN QUYÈN



Tin Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Đại Thảm Họa Cá chết tại Việt Nam và Cao Ủy Nhân Quyền Vùng Đông Nam Á Châu


Trên đất nước Việt Nam bất hạnh, Nhân Quyền bị bạo lực ngụy quyền, chư hầu của đế quốc Trung cộng, chà đạp suốt 4 thập niên qua. Nay Nhân Quyền lại bị vùi dập thêm với đại thảm họa cá chết và biển Đông bị nhiễm độc. Cả nước chấn động, lòng dân lo âu, công phẩn. Không ai biết hậu quả vô cùng khốc hại cho môi trường, môi sinh và Nhân Quyền sẽ lan rộng và kéo dài đến bao nhiêu thập niên, bao nhiêu thế hệ nữa. Đối với người dân bình thường, ít có sự ngạc nhiên, bất ngờ bởi biến cố và thảm kịch đã diễn ra từ đầu tháng Tư năm nay, tại ‘’Tân Nhượng địa Trung cộng’’ được ngụy trang dưới cái tên ‘’Khu Kinh tế Vũng Áng’’ thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Chỉ có một nghi vấn, một nghi phạm và bọn đồng lõa với hành vi tội ác : Tội Diệt Ngư Chủng và Tội Diệt Nhân Chủng tại Việt Nam. Những kẻ cầm quyền – một tướng công an đứng đầu nhà nước - nhờ tính vô cảm, bản chất độc ác, căm thù, chuyên lừa gạt và dối trá, đã nín câm, không có một phản ứng nào đáng kể cho dù yếu ớt nhứt. Trái lại, chúng vừa phóng loa vu khống, chửi rủa, đe dọa, vừa mở cổng, xả cảng, xua lực lượng băng đảng xã hội đỏ đen, tràn ra đường phố, hành hung, đánh đập tàn nhẫn những người dân dám tuần hành cảnh báo công luận thế giới. Cộng sản đang thất bại trong chiến dịch trấn áp một dân tộc bất khuất. Dù bị bao vây, kiềm hảm nghiệt ngả nhưng dân tộc đó vẫn còn ‘’đủ sức để nhấc bổng thực tại’’, quyết tâm đòi quyền sống. Quyền được sống trong một chế độ tự do dân chủ, thấm nhuần nhân ái và công bằng xã hội. Quyền được sống giữa một môi trường trong sạch, tốt lành, mạnh khỏe, hòa thuận với thiên nhiên, đồng điệu với đất trời.

Những lời cảnh báo xuất phát từ lương tri và lương tâm của đông đảo đồng bào đi tuần hành tại quê nhà đã tạo nên những tiếng vang không biết biên cương. Tập đoàn độc tài tham nhũng Việt - Trung cấu kết với thế lực đế quốc tư bản đỏ không thể nào ngăn chặn được những tiếng vang của chứng nhân cho sự thật lịch sử cực kỳ đen tối đó. Nhiều đại sứ ngoại quốc có mặt tại Việt Nam đã phúc trình cho chính phủ của họ biết về đại thảm họa cá chết và biển Đông bị nhiễm độc. Riêng Văn phòng Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc Vùng Đông Nam Á châu ngay từ ngày 5 tháng Năm đã phổ biến một Thông cáo bày tỏ mối quan tâm về tác động độc hại đối với Nhân Quyền Việt Nam. Đặc biệt người đại diện cơ quan Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc không ngần ngại tố cáo những cuộc đàn áp, đánh đập dã man và giam cầm hàng trăm người dân yêu nước, hiếu hòa, đã biểu tình vì Nhân Quyền, cho Nhân Quyền và đòi Nhân Quyền. Rất tiếc có một số cơ sở truyền thông đại chúng quốc tế, nhứt là đài Á Châu Tự do và đài Tiếng Nói Hoa Kỳ, đã không cho đăng toàn văn Thông cáo vừa kể trên vì những lý do riêng nào đó.
Nhân dịp này, chúng tôi xin được giới thiệu toàn văn Thông Cáo Báo Chí của Văn Phòng Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đặc trách Vùng Đông Nam Á Châu ngày 5 tháng Năm 2016, kèm theo bản tiếng Việt của nhà phiên dịch Hà Tản Viên. Ngoài ra, chúng tôi cũng xin giới thiệu nguyên bản tin tiếng Pháp ngày 8 tháng Năm 2016, dưới tựa đề ‘’ Hanoï : manifestants pacifistes arrêtés’’ đọc thấy trên đài vô tuyến truyền thanh và truyền hình Thụy Sĩ cùng một số báo chí khác phát hành trong ngày. Như vậy, không phải chỉ ‘’có vài chục người mà có thể hàng trăm người biểu tình ôn hòa đã bị công an cộng sản hành hung, đánh đập tàn nhẫn và giam giữ độc đoán’’.


------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

THÔNG CÁO BÁO CHÍ – Văn Phòng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc Quan Ngại về Hậu Quả của Thảm Họa Môi Trường tại Việt Nam.
VỌNG CÁC/BANGKOK (ngày 5 tháng Năm 2016) – Văn Phòng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đặc trách Vùng Đông Nam Á Châu (OHCHR) hôm thứ Năm đã bày tỏ quan ngại về thảm họa cá chết hàng loạt một cách bí hiểm dọc bờ biển miền Trung Việt Nam làm nguy hại tới việc thực hiện nhân quyền tại Việt Nam, đặc biệt là quyền được có sức khỏe tốt và lương thực, thực phẩm thích đáng.
Văn Phòng Liên Hiệp Quốc hoạt động tại Vùng này cũng lo lắng về lối hành xử của công an đối với những người tham gia các cuộc biểu tình phản đối thảm họa cá chết và kêu gọi nhà cầm quyền phải tôn trọng quyền tự do hội họp đúng với pháp luật quốc tế.
Kể từ tháng Tư, các khối cá chết lên tới nhiều tấn đã trôi dạt vào dọc bờ biển dài khoảng 200 cây số tại các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Giới truyền thông nghi rằng nguyên nhân có thể xuất phát từ một nhà máy sản xuất đồ nhựa* trong khi nhà cầm quyền lại tuyên bố cá chết là do tảo độc của biển bùng phát.
Quyền được có môi trường an toàn, trong sạch, lành mạnh và bền vững là một thành phần không thể tách rời trong toàn bộ các Quyền con người phải được hưởng thụ, bao gồm các quyền sống, có sức khỏe, lương thực, nước sạch, y tế và vệ sinh. Tất cả những quyền đó đã được công nhận trong Công ước Quốc tế về các Quyền Văn hóa, Kinh tế và Xã hội mà CHXHCNVN là một thành viên.

Ông Laurent Meillan, Quyền Đại Diện Văn Phòng Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đặc trách Vùng Đông Nam Á Châu, đã nhấn mạnh rằng : “Nhà cầm quyền Việt Nam (cộng sản) cần phải ban hành các cơ chế pháp lý để bảo vệ môi trường chống lại các tác nhân gây tổn hại cho việc thực hiện nhân quyền. Đồng thời bảo đảm cho tất cả các nạn nhân, đặc biệt là ngư dân, được cứu trợ, đền bù hoặc bồi thường tương xứng với những thiệt hại của họ ”.
Ngày 1 tháng Năm, hàng trăm người đã cùng nhau tuần hành ôn hòa ở nhiều thành phố trên khắp Việt Nam để công khai bày tỏ phẫn nộ về thảm họa cá chết, sự kiện hiếm thấy này đã được nhà cầm quyền làm ngơ. Nhưng trong các cuộc tuần hành, ít nhất đã có vài chục người bị công an hành hung, đánh đập tàn nhẫn và tạm giam giữ độc đoán.

Văn Phòng Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc kêu gọi nhà cầm quyền (cộng sản) hãy tuân thủ đầy đủ quyền hội họp ôn hòa đã được bảo đảm trong Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị mà CHXHCNVN là một thành viên. Ông Laurent Meillan đã đưa ra lời thúc giục: “Chúng tôi đề nghị giới chức địa phương hãy tiến hành một cuộc điều tra độc lập, toàn diện và vô tư, không thiên vị về các báo cáo công an lạm dụng bạo lực đối với những người đi biểu tình ngày 1 tháng Năm.”
* Ghi chú của người dịch: “một nhà máy sản xuất đồ nhựa” – đúng ra là báo chí của nhà cầm quyền nêu nghi vấn và liên đới tới một nhà máy sản xuất thép của tập đoàn Formosa-Hà Tĩnh chủ đầu tư có xuất xứ từ Đài Loan và Trung Hoa Lục Địa.(*)
(*) Cần tham khảo thêm về ‘’Tân Nhượng Địa Trung Cộng’’ mang tên ‘’Khu Kinh Tế Vũng Áng’’, tỉnh Hà Tĩnh (LHNQVN-TS).
Bản dịch của Hà Tản Viên (Hà Nội).
----------------------------------------
NEWS RELEASE - UN Human Rights Office concerned about implications of environmental disaster in Viet Nam
BANGKOK (5 May 2016) – The UN Human Rights Office for South-East Asia (OHCHR) expressed concern on Thursday over the impact of mysterious mass fish deaths along Viet Nam’s central coast on the enjoyment of human rights in the country, in particular the right to health and food.
The Regional Office is also concerned about the treatment of those joining protests which erupted over the fish deaths, and called on authorities to respect the right to freedom of assembly in line with international law.
Since April, tonnes of dead fish have washed ashore along a 200-km stretch of coastline in Ha Tinh, Quang Binh, Quang Tri and Thua Thien-Hua Provinces. Media reports allege a plastics production plant could be to blame, although the government has stated the fish deaths were the result of a toxic algae bloom.
The right to a safe, clean, healthy and sustainable environment is integral to the full enjoyment of a wide range of human rights, including the rights to life, health, food, water and sanitation, recognized in the International Covenant on Cultural, Economic and Social Rights, to which Viet Nam is a party.
"Vietnamese authorities should adopt legal and institutional frameworks that protect against such environmental harm that interferes with the enjoyment of human rights, and ensure that all the persons negatively affected, in particular fishermen, have access to effective remedies," said Laurent Meillan, OHCHR’s Acting Regional Representative.
On May 1, hundreds of people organized peaceful rallies in several cities across the country to protest against the disaster in a rare show of public anger tolerated by the authorities. During these demonstrations at least a dozen participants were beaten and temporarily detained by police.
The UN Human Rights Office calls upon the Government to fully respect the right to peaceful assembly guaranteed under the International Covenant on Civil and Political Rights, to which Viet Nam is also a party. "We urge the Government to conduct an independent, thorough and impartial investigation of the reported cases of excessive use of force by law enforcement officers," said Meillan.
ENDS
------------------------------------------------------------------------------------------------------
Teletext
RTS UN RUBRIQUE ETRANGER PAGE 144 08.05.16 11:51
Hanoï : manifestants pacifistes arrêtés
Une centaine de personnes ont été interpellées dimanche à Hanoi après une manifestation

contre une société accusée d’être responsable d’une pollution maritime dans le centre du Vietnam.
Réunie devant l’opéra d’Hanoï, la foule a été rapidement dispersée par la police. Une centaine
de personnes ont été mises de force dans des bus.
Des millions de poissons et de palourdes mortes ont été retrouvés sur les côtes du centre du pays
ces dernières semaines. Le groupe taïwanais Formosa, qui possède un complexe sidérurgique
dans la région, est soupçonné de rejeter ses eaux usées dans la mer. Le groupe est déjà au cœur
de plusieurs scandales environnementaux.
--------------------------------------------------------------------------------------------














Genève ngày 11 tháng Năm năm 2016


Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ


Ligue Vietnamienne des Droits de l’Homme en Suisse


Vietnamese League for Human Rights in Switzerland.


*************************************************************





TÂM SỰ BẮC NAM


Dân miền Bắc xin có đôi lời với các bác miền Nam ( Hình xưa Sài Gòn 1975)


Sai lầm lớn nhất của miền Bắc chúng tôi là đi giải phóng miền Nam. Bởi sau cái ngày 30/4 có quá nhiều những thay đổi ngoài dự kiến của chúng tôi đã xảy ra tại miền Bắc Bởi khi đoàn quân miền Bắc kéo về mang theo lỉnh kỉnh toàn hàng tiêu dùng của miền Nam làm dân Bắc chúng tôi sững sờ. Những chiếc đồng hồ seiko của tư bản Nhật nhìn nó long lanh thẩm mỹ hơn quá nhiều cái anh pôn giốt cục mịch của Nga . Những chiếc quạt Nhật , Mỹ đứng cạnh anh quạt con cóc của Bắc Việt và anh quạt tai voi của Liên Xô không bảo hiểm trông chẳng khác gì công so với cú . Những cái đài chạy băng cát sét và băng cối chỉ thấy trong mơ giờ đã hiện ra trước mặt để thay thế cho mấy cái đài VEC206 củ chuối của Liên Xô Ôi !!!!! còn vô vàn các thứ khác không thể kể hết.
Chúng tôi khi đó tự hỏi . Ơ hóa ra dân trong Nam toàn dùng những thứ này à ? Hàng hóa tiêu dùng toàn đồ tốt như vậy chứng tỏ xã hội trong đó phải phát triển hơn chúng tôi và những nhà sản xuất ra thứ đó sẽ phải coi trọng con người hơn những nhà sản xuất của Liên Xô và Bắc Việt Tiếp đó lại là nguồn sách và truyện rất phong phú được giấu kín để đưa chui ra Bắc vì chúng tôi chủ trương đốt sạch sách báo trong Nam . Ôi văn hóa trong Nam phong phú và đa dạng quá . Rất nhân văn và điều đó làm chúng tôi thấy rất hoang mang bởi làm sao mà tẩy não được người miền Nam bây giờ Học tập cải tạo của chúng tôi nhằm mục đích để tẩy não người nam đã thất bại thảm hại bởi thấy các học viên toàn ngủ gật . Động não mãi chúng tôi cũng nhận ra rằng dùng kiến thức của khỉ thì không thể giáo dục được con người . 
Nếu cứ để cái văn minh của miền Nam mà tràn ra Bắc thì vô cùng nguy hiểm cho chế độ của chúng tôi . Một kế thượng sách là chúng tôi cứ giam mẹ nó lâu dài là các bác miền Nam hết đường về để chúng tôi bớt đi cái lo dân chí Chúng tôi vẫn tăng cường nhồi sọ dân Bắc là văn hóa miền Nam là đồ trụy , Vô nhân tính nhưng chúng tôi vẫn cố gắng cóp nhặt tiền để mua những đồ tiêu dùng của miền Nam và chỉ những cán bộ mới đủ tiền sở hữu chúng Và nhân dân miền Bắc của chúng tôi cũng dần dần vỡ ra rất nhanh rằng tại miền Bắc đang thực hiện chủ trương ngu dân và thần tượng hóa Đảng cùng lãnh tụ Trước 30/4 ngày Bác Hồ mất dân Bắc chúng tôi đứng dưới mưa bên loa công cộng khóc quá bố đẻ mình chết . Bác Lê Duẩn nghẹn ngào đọc điếu văn như cảm súc trào dâng hóa ra sau này mới biết Bác Duẩn giả vờ khóc vì Bác Duẩn đã hạ bệ Bác Hồ từ những năm 1960 , Thế mà Bác Duẩn cũng rớm nước mắt như đúng rồi .
 Có lẽ Bác Duẩn đã học Bác Hồ về diễn xuất trong vụ cải cách ruộng đất. Những người Bắc chúng tôi khi từ Nam ra lại thành một cái loa tuyên truyền kín đáo về văn minh miền Nam và thế là đồng bào miền Bắc chúng tôi lại nối tiếp con đường của người Nam thi nhau đu chân vịt tàu vượt biên sang tư bản để được cùng giãy chết với công dân bên đó Ôi !!!!! vô cùng tồi tệ . Khi kế hoạch ngu dân của chúng tôi bị phá sản. Nhân dân nhìn lãnh đạo và công an như nhìn kẻ thù . Ngồi quán nước thì 99% chửi chế độ quả thật không thể tồi tệ hơn. Giá mà đừng có giải phóng miền Nam để giờ này lãnh đạo chúng tôi vẫn là những thần tượng của nhân dân và đến đâu cũng được nhân dân vỗ tay sờ mông sờ đít và khóc rưng rức thì hạnh phúc biết mấy dẫu biết rằng đó chỉ là sự biểu cảm của những bộ não đã bị tê liệt vì thuốc lú nhưng như vậy chúng tôi vẫn thấy hạnh phúc dâng trào mặc dù dân chúng tôi khi đó chắc chắn vẫn đang ăn bo bo Thật sai lầm khi giải phóng miền Nam !
Nguồn : Fb Bùi Quang Hải https://www.facebook.com/SuThatViet…
Zip Zippo Tui tin chắc rằng tác giả bài viết ngắn này đã nói thay được cho suy nghĩ của người miền Bắc khi họ nghĩ về miền Nam sau ngày 30.4.1975. Xét ở mặt nào đó thì phải nói là miền Nam đã giải phóng được tư tưởng của miền Bắc.
FB Michael Nguyen : Đọc bài viết của bạn Nhơn Cao thì mình cũng xin tản mạn đôi điều về miền nam qua lời của bố mẹ và ông bà,chuyện có thật quanh quẩn ở làng xóm mình thôi. Ngày xưa ấy,khi mà người dân miền bắc là ông bà nội mình di cư vào nam năm 1954, xuất phát từ tỉnh Thái Bình bây giờ,vì ông nội làm bên y tế nên xin dc cái giấy để đưa bà nội của bố mình,tứ là mẹ của ông nội ra Hải Phòng để chữa bệnh,thực chất là đi lên tàu của quốc tế do cố tổng thống Diệm bấy giờ xin tài trợ dc.khi ra tới Hải Phòng thì kế hoạch bị lộ,bố mình bị một chú bộ đội dẫn đi mất(sau này các cụ bảo ngta dẫn con để buộc bố mẹ ở lại).may mắn sao phút cuối thì ông bà nội tìm dc bố mình do bố mình khóc to quá gây chú ý,còn chú bộ đội kia nhận là bố của bố mình nhưng bố mình bảo k phải,thế là mấy người nước ngoài dẫn bố mình tới chỗ trẻ lạc và ông bà nội mình tìm dc con để lên tàu vào nam.thời mới vào ông bà kể rằng sướng lắm,dc chính phủ cấp đất đã khai hoang,dc trợ cấp ăn uống ba năm nhưng nghe đâu nhiều hơn ba năm.mà các cụ thì chả quen ăn bơ và pho mát nên toàn đổ cái lon phomat loại 4 lít ra gốc bầu gốc bí để lấy cái lon múc nước.rồi chính phủ cho máy cày đi khai hoang ruộng hồi đó toàn cỏ lác với cỏ lăn.sau này khi cuộc sống đã yên ổn thì lại gặp chiến tranh.hồi đó cứ nghe nói việt cộng về là cả làng phải bỏ chạy vì ở ngoài bắc các cụ đã biết thế nào là việt cộng,mà mấy ông việt cộng đánh nhau thì cũng thôi,cứ nhè làng xóm dân ở mà chui vô đó đánh du kích nên dân phải bỏ làng mạc lại để cho quân chính phủ về đánh 
Em của bà ngoại mình có chồng đi lính mà nghe đâu bảo là dc mang theo vợ con ở trong mấy trại gia binh thì phải,nghe bà kể là làm vợ lính sướng lắm,sau đó ông tử trận năm mậu thân,về sau bà dc cấp tiền tử sĩ tương đương một gia tài hồi bấy giờ,nếu so sánh thời giá bây giờ cỡ 6 tỉ vì số tiền đó mua dc 6 mẫu ruộng,mà bây giờ 6 mẫu là 6 tỉ,mấy cậu thì dc chính phủ nhận vô trường gì quên tên rồi nhưng dc nuôi ăn học tới 18tuổi. Thời gian sau thì lính "giải phóng " miền nam vô,xưng là lính cụ Hồ vô giải phóng miền nam,mang toàn nồi đất với mấy thứ đồ nguyên thủy vào để tặng nhân dân vì nghe nói miền nam khổ cực lắm.rồi các chú xin một bữa cơm.thú thật là lúc đó ông bà nội sợ vãi cả cứt ra nên vội nấu cơm cho các anh ấy,lúc mang nồi gang với nồi nhôm ra nấu thì các chú ấy tròn mắt hỏi có phải bác là quan chức gì k mà nhà nấu cơm bằng nồi ấy,ông nội bảo ở đây ai cũng thế cả,các chú tẽn tò ra Có chú kia hỏi bố thường ngày ăn cơm với gì,bố mình ngây thơ bảo thường là thịt heo,chú bên cạnh nhổ nước bọt đánh toẹt bảo " nói phét,ăn thế có mà đào đất lên ăn à" .ông nội bảo ở đây ai cũng thế cả Rồi sau "giải phóng" có bà cụ kia vô nam thăm bà con,ghé nhà mình hỏi thăm,vừa mệt vừa đói nên hỏi xin bát chè tươi,ông nội đưa cho ly sữa nóng bà ấy uống một ngụm rồi nhổ toẹt ra đất bảo" xứ khổ,bát chè k có mà uống" 
Có anh kia cũng vào nam thăm bà con,vô quán thấy đá lạnh lạ quá mua làm quà,chú ấy cho vô bọc ni lông quấn kĩ rồi xách theo.vô tới nhà bà con mở ra thì chả còn gì chú ấy bảo "tiên sư bố bọn ăn cắp,giấu kĩ thế mà cũng lấy được,xứ man rợ"còn nhiều chuyện lắm và đảm bảo là sự thật nhé,à có chú kia thấy xe máy chả biết là cái gì hỏi một ông chú thì ông chú bảo đó là tivi,thế là chú ấy viết thư về nhà bảo ở trong nam tivi chạy đầy đường
++++++++++++++++++++
Bài post này đem về đây từ FB của Ròm .
Thêm một số hình ảnh vào thời điểm 1975 sau khi bắc cộng tràn vô miền Nam và thấy được cuộc sống của dân miền Nam VNCH tại Sài Gòn Xưa như thế nào.
Nam Ròm Xem loạt hình lần này ...thấy hông ưa hông thích gì đi nửa thì cứ mà chửi .... cho hả giận ....nhưng làm ơn đừng chửi tục tĩu quá lố giùm cái nha .... cám ơn nhiều .
Dang Nguyen Về thăm quê miền Bắc ...mang hành trang và quà cầm tay nè
Hùng Đinh Bây giờ không có phân biệt Bắc hay Nam, chỉ phân biệt 3 triệu và 90 triệu thôi à.

SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Bác Quang Trở Lại Trường Xưa

tuongnangtien's picture

Đã lâu, không biết là lâu cỡ chừng nào – dám tới hơn hai mươi năm trước – tôi có gặp Nguyễn Quyết Thắng, khi ông và gia đình ghé thăm California. Ngày ấy, con gái út của tôi vừa mới chập chững biết đi và tôi cũng vừa được bác sĩ gia đình báo tin là mình mắc bệnh viêm gan C.
Chúng tôi ngồi chơi ở nhà Lâm Văn Sang. Đó là lần đầu tiên tôi ngồi cụng ly với bạn bè mà không cảm thấy thoải mái hay an tâm cho lắm!
Loanh quanh bên bàn rượu là ái nữ của Thắng, một cô bé rất xinh, sắp đến tuổi dậy thì. Tôi nhìn cháu mà không khỏi trạnh lòng: "Chả biết bao giờ con mình mới lớn được đến bằng này, và e là mình khó thể sống sót cho đến ngày hôm ấy."
Vậy mà gần một phần tư thế kỷ đã qua. Các cháu đều đã trưởng thành. Thời gian qua nhanh quá. Mọi chuyện cũng đã phôi pha. Tôi không còn nhớ gì nhiều về buổi gặp gỡ vào chiều hôm đó, trừ giọng hát trầm ấm (và thiết tha) của người nhạc sĩ du ca:
 Nhìn diều đang lên cao, nghe sáo trúc reo
Nhìn về nơi thôn xa, trái tim con nở hoa
Nhìn đàn em thơ qua, nghe chúng múa ca
Nhìn vào lòng yêu thương, ngậm lúa thơm quê nhà
Nhìn về trường xưa im bóng trơ vơ
Đường về say sưa bước trên cỏ thưa
Nhìn thầy thân yêu tóc trắng phôi pha
Phấn trắng vẫn bay bay, tiếng nói vẫn đều đều
Chào thầy con đã về....Thầy cười vui hả hê....
Nguyễn Quyết Thắng. Ảnh: ducavn
Người học trò năm xưa về thăm thầy học cũ, sau một “cuộc chiến dài” nhưng vẫn còn giữ được nguyên tấm lòng hồn nhiên và đôn hậu:
Hôm xưa con ra đi, hòa mình với đời. 
Ôi bao xót thương cuộc chiến dài. 
Con yêu manh áo rách, 
con yêu dòng nước mắt, 
nên con yêu một ngày bình yên. 
Cuộc chiến Bắc/Nam chấm dứt vào tháng 4 năm 1975. Hơn bốn mươi năm đã qua nhưng đất nước chưa bao giờ có “một ngày bình yên” nào cả. Đã thế, giấc mơ được sống yên bình – xem ra – mỗi lúc một thêm xa ở Việt Nam.
Người dân chưa kịp mừng vì viễn ảnh hoà bình và thống nhất thì đã phải ghánh chịu vô số những tai ương liên tiếp, từ những kẻ cầm quyền: chiến dịch đánh tư sản mại bản, chính sách học tập cải tạo, chủ trương đổi tiền, kế hoạch kinh tế mới, chiến tranh Miên/Việt, phong trào thu vàng bán bãi vượt biên...
Những làn sóng vượt biên vẫn tiếp tục kéo dài cho đến tận hôm nay, với những đợt thuyền nhân mới. Tuy có tên gọi là nouveaux boat people nhưng không ai di chuyển bằng thuyền. Họ đi bằng máy bay với những lý do khác biệt: du lịch, du học, lấy chồng ngoại quốc, mang tiền ra nước ngoài đầu tư doanh nghiệp. Tất nhiên, cũng không ít kẻ đi chui – chui trong những chiếc xe tải – qua biên giới xứ người.
Những cái cột đèn – ở cả hai miền – vẫn đều cứ nhấp nhổm muốn đi, nếu chúng có chân. Người ta cũng thế, nếu có điều kiện hay phương tiện.
Sao thảm vậy?
Vì hơn nửa thế kỷ qua chưa bao giờ thực sự có “một ngày bình yên” ở đất nước này; đã thế, nỗi bất an còn lớn dần theo thời gian, theo như nhận định của một blogger – Nguyễn Hưng Quốc:
“Trước hết là thiếu an toàn về chính trị. Ở bình diện cá nhân, người ta có thể bị bắt bớ hay tra tấn bất cứ lúc nào nếu muốn có một tư duy độc lập và nếu muốn thực hiện quyền tự do ngôn luận. Ở bình diện quốc gia, dù nhà nước Việt Nam luôn xem sự ổn định là một trong những mục tiêu lớn nhất của họ, ai cũng biết, Việt Nam lúc nào cũng ẩn chứa đầy những nguy cơ bất ổn...
Thứ hai là thiếu an toàn về giao thông. Mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 10.000 người chết vì tai nạn xe cộ. Mười ngàn : tức mỗi ngày trung bình gần 30 nạn nhân. Đó là người chết. Con số những người bị thương tật chắc chắn sẽ nhiều hơn hẳn. Bởi vậy, ở Việt Nam, nhiều người nói, cứ mỗi lần bước ra khỏi cửa nhà là thấy phập phồng. Con đường nào cũng đầy bất trắc...
Nhưng quan trọng nhất là mất an toàn thực phẩm... Thịt : độc. Tôm cá : độc. Rau, trái và củ : độc. Cả không khí người ta thở, đặc biệt tại hai thành phố lớn, Hà Nội và Sài Gòn, cũng nhiễm đầy chất chì và thuỷ ngân: độc. Cả nước bị nhiễm đầy chất độc... Tôi cứ tự hỏi : Trong một khí quyển như thế, làm sao người Việt Nam có thể sống được và tương lai đất nước sẽ đi về đâu ?”
Giữa lúc “cả nước bị nhiễm đầy chất độc” và mọi người đang hoang mang tự hỏi “tương lai ... sẽ đi về đâu” thì ông Bộ Trưởng Công An (bỗng) về thăm  thầy xưa và trường cũ:
“Ngày 16/11, Đại tướng Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an đã đến thăm, chúc mừng thầy và trò Trường THPT Kim Sơn B (huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình). Cùng dự có đồng chí Nguyễn Thị Thanh, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình, đại diện lãnh đạo tỉnh Ninh Bình, huyện Kim Sơn và một số cơ quan chức năng của địa phương.”
Trần Đại Quang không trở lại trường xưa với tấm lòng hân hoan, thơ thới, phơi phới, và bình dị như Nguyễn Quyết Thắng:
Đường về say sưa bước trên cỏ thưa
Nhìn thầy thân yêu tóc trắng phôi pha
Phấn trắng vẫn bay bay, tiếng nói vẫn đều đều
Chào thầy con đã về
 Thầy cười vui hả hê...
Rời trường THPT Kim Sơn B vào năm 1971, bốn mươi ba năm sau Trần Đại Quang mới chợt nhớ lại chốn xưa, và trở về với cả một phái đoàn hùng hậu: những đồng chí Ủy Viên Trung Ương Đảng, Bí Thư Tỉnh Ủy, cùng không ít quan chức địa phương. Cuộc thăm viếng rầm rộ của trò Quang – xem ra – đã không làm cho những vị thầy học cũ “hả hê” mà chỉ khiến họ ngạc nhiên, lúng túng và (rõ ràng) khúm núm!
Trần Đại Quang không trở lại trường để “chào thầy con đã về” mà với mục đích khác. Ông chuẩn bị dư luận cho bước đường quan chức sắp tới của mình. Ông muốn làm nhoà bớt cái hình ảnh (“công an”) không mấy thân thiện đối với người dân, và cố tô vẽ một bức tranh lễ nghĩa (vốn vẫn thiếu) nơi những kẻ chuyên nghề thủ ác.
Giới truyền thông Việt Nam đủ thông minh để hiểu ngay ra công việc “định hướng” chuyên môn của họ. Cả “dàn đồng ca” được huy động cấp tốc để là đánh bóng (chân đèn) cho vị chủ tịch nước tương lai:
Tiếc là những nhà báo quốc doanh đã không nhắc đến “đại án” Đoàn Văn Vươn, và “trận đánh đẹp có thể ghi thành sách” ở Tiên Lãng do Đại Tá Đỗ Hữu Ca (Giám Đốc Công An Hải Phòng) chỉ huy, cùng với việc ông được thăng cấp tướng không lâu –  sau đó.
Ông Đỗ Hữu Ca - Giám đốc CA TP HP được thăng hàm Thiếu tướng. Ảnh & thú thích: báo Pháp Luật
Họ cũng quên chuyện Bộ Trưởng Bộ Công An Trần Đại Quang đã “ra lệnh khen thưởng cho công an tỉnh Phú Yên,” sau vụ Công Án Bia Sơn, và “Thư Kêu Cứu” của thân nhân những người tù trong vụ án tạo dựng (trắng trợn) này. Xin ghi lại một đoạn ngắn để rộng đường dư luận:
Thưa quý cấp! Chúng tôi là thân nhân của 22 tù nhân đang chịu mức án nặng nề trong vụ án “Ân Đàn Đại Đạo” làm đơn Giám đốc thẩm với sự khẩn thiết, mong muốn các cơ quan có thẩm quyền điều tra, xem xét lại vụ án vì có quá nhiều dấu hiệu oan sai như tôi đã nêu cụ thể trong Đơn Giám đốc thẩm ngày 10/10/2015 (một số báo, đài đã đăng thông tin về nội dung đơn Giám đốc thẩm này).
Đó là việc Tòa án Nhân dân tỉnh Phú Yên đã trọng cung, không trọng chứng. Trước tòa, ông Phan Văn Thu cùng 21 người đều phủ nhận việc Ân Đàn Đại Đạo có Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Quốc khánh…
Tòa cũng đã không đưa ra được bằng chứng để chứng minh cho cáo buộc này. Tuy nhiên, Tòa án đã vẫn giữ nguyên những kết luận trên trong bản tuyên án để buộc chồng tôi và các đệ tử của ông tội “âm mưu lật đổ chính quyền Nhân dân”...
Anh em ông Đoàn Văn Vươn, cùng nhiều gia đình khác – có lẽ – đã không bị vướng vào vòng lao lý, nếu đất đai và tài sản của họ không có giá trị gì nhiều về nguồn lợi kinh tế. Tương tự, hai mươi hai tín đồ của giáo phái Ân Đàn Đại Đạo – chắc chắn – cũng sẽ không phải lãnh đến mức án hai trăm chín mươi lăm năm tù, nếu Khu Du Lịch Sinh Thái Đá Bia trông bớt phần hấp dẫn và không gợi lòng tham của giới quan chức.
Một góc Khu du lịch sinh thái Đá Bia. Ảnh: báo Công An TPHCM.
Bên cạnh những vụ cướp bóc đất đai trắng trợn được bảo kê bởi cường quyền, thời gian Trần Đại Quang giữ chức Bộ Trưởng Công An còn xẩy ra vô số việc làm bẩn thỉu và đê tiện khác: ném bom phân, đổ chất bẩn vào nhà của những người dân bất đồng chính kiến. 
Chả trách mà thiên hạ coi ông Tân Chủ Tịch Nước là một vết nhơ: “Nguyên thủ quốc gia trước mắt thế giới đại diện cho danh dự và phẩm giá của một dân tộc. Một chủ tịch nước như ông Trần Đại Quang khác gì một vết lọ nghẹ quẹt lên mặt dân tộc Việt Nam?”
Nếu chỉ là một  cái “vết lọ nghẹ quẹt trên mặt” thì chùi cũng dễ thôi, chỉ sợ là vết gì khác dơ dáy hơn nhiều và vô phương tẩy rửa kìa.
Vết gì khác, cha nội?
Nghĩ chưa ra nhưng thôi, học theo gương của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, tôi đi làm việc khác. Kệ cha Bác. Chính trị gia sọt rác!

NS.TUẤN KHANH * TỪ THÀNH PHỐ

Tường trình từ thành phố bị bao vây


tuankhanh's picture


Trong nhiều ngày, thành phố bị bao vây rất đỗi ngặt nghèo. Bất kỳ ai cùng đều có thể nhìn thấy điều đó, theo bước chân của người xuống đường hay chỉ nhìn lén qua khung cửa sổ với những lời thì thào.
Rõ là thành phố bị bao vây. Những hàng rào thép gai được cài chặt kiên cố vào khung sắt rực đỏ dựng lên ở nhiều lối đi. Phối cảnh có khi là tháp nhà thờ cổ hay một kiến trúc có hơn trăm năm, khiến người ta nhớ đến một cuộc tấn công nào đó vào thời Trung cổ của các đoàn quân tàn bạo Vikings đến từ Bắc Âu, mục đích để bảo vệ thịnh vượng của mình bằng cướp phá và huỷ diệt kẻ khác.
Suốt trong nhiều ngày, không chỉ Sài Gòn mà nhiều thành phố khác cũng bị bao vây. Người dân bị giam hãm trong sự sợ hãi về môi trường sống của mình đột nhiên chuyển màu u ám. Hàng hàng lớp lớp sinh vật thiên nhiên chết gục trên bờ biển. Cảnh tượng như sấm truyền về ngày tận thế. Biển trở thành cửa địa ngục. Những thợ lặn nhoi người lên mặt nước, thở gấp và qua đời không nói kịp lời ai oán.
Suốt trong nhiều ngày, nhiều thành phố bị cầm giữ trong bí mật về cái chết mà tất cả vua quan đều lánh mặt. Bọn tôi tớ nói vài lời qua loa với đám đông đang xanh xao vì lo sợ. Bọn tôi tớ ấy chạy vội về nhận bữa ăn riêng đặc cách: sạch sẽ và an toàn như đã hứa để trả công cho sự dối trá.
Suốt trong nhiều ngày, thành phố thì thầm về những khu ghetto mới lập. Có thể đó là một sân vận động, nhưng cũng có thể là một văn phòng của cơ quan địa phương. Tất cả những nơi đó đều có một điểm chung: những loài súc sinh có gương mặt người được trao hiến pháp mới về quyền cắn xé bất cứ những ai có một linh hồn.
Thời đại của thành phố với những tấm bảng tuyên truyền về đạo đức Hồ Chí Minh, là những background ngập màu sắc, tạo nên một bức tranh hùng vĩ ghi lại từng gương mặt những người Việt yêu con cá, yêu giọt nước biển và yêu một tương lai không mù mờ u ám. Họ bị bao vây, đánh đập, chà đạp. Trẻ nhỏ bị giật tóc lôi trên đường. Những thanh niên bị đấm, bị xịt hơi cay mà khi chưa hề có ý định kháng cự. Những phụ nữ bị sờ soạng và đạp vào đầu. Máu. Internet như một loại truyền hình vĩnh cửu với các buối chiếu không dứt miễn phí cho vợ con, cha mẹ… của những bọn khát máu đánh người. Họ im lặng ngồi xem, có thể xem trong bữa ăn tối, với phần ăn là một con cá vô định.
Thành phố bị bao vây không chừa ngày nào. Mọi ngôi nhà bị đánh dấu như số phận của Moses. Mọi bà tổ trưởng trở thành kẻ cướp rình mò tự do của hàng xóm. Số phận con người nhỏ nhoi như ngọn cỏ. Đức Phật ở Sài Gòn không còn ngăn nổi một cuộc chiến nhằm vào con người, mà Ajàtasattu mê đắm cưỡng đoạt Vajji, trong suy nghĩ chỉ còn nụ cười xã hội chủ nghĩa.
Thành phố không chỉ bị bao vây bởi những kẻ muốn dẫm lên đồng loại để giới thiệu mình, mà còn bị bao vây bởi những đoàn diễu hành quanh thành phố với những cái lưỡi nhọn. Nhà thơ Zbigniew Herbert có nhắc tôi rằng đó là những cái lưỡi được mài nhọn, chực chờ để dùng hiến tế đồng loại. Những trái tim dám mơ về tương lai hay dám bật ra điều mình nghĩ có thể bị treo lên trong nhiều tuần, chết khô với hoài bão.
Thành phố bị vây chặt trong ngày của Mẹ. Một ngày của mẹ đẫm máu đáng nhớ trong ký ức của những người yêu tự do. Những người đàn bà bị chà đạp trong tiếng reo hò của nắm đấm và của đoàn diễu hành lưỡi nhọn: những kẻ hèn nhát và đê tiện luôn cầm loa nói át đi sự thật, nhưng không bao giờ dám tự cật vấn về cuộc đời sâu bọ mà họ đang mang là loại sự thật gì.
Những loại đê tiện và hèn nhát đó, có thể là một kẻ nghe hóng và lập tức nói để khoe khoang sự phân tích khôn ngoan của mình, có thể là một tên chủ báo đêm đêm che mặt vào nhà thổ nhưng thích nói giọng đạo đức. Tất cả gào thét và cùng che giấu một sự thật, như là một người phụ nữ bị đánh đập trên đường phố Công xã Paris cùng con của mình. Mọi giọng hò hét bạo dâm đều lạc đi vì phấn khích do an toàn ngồi trước máy tính, chưa bao giờ dám đặt chân xuống vỉa hè để phỏng vấn một con cá, nhưng lại mừng rỡ vì mình được sơn màu công lý của kẻ mạnh.
Tôi nhớ Wislawa Szymborska, bà viết và để lại trong cuộc đời đã sống và chiêm nghiệm, về giống loài suy đồi, qua các triều đại cộng sản:
Không có gì đồi trụy hơn là suy tưởng.

Cái thứ phóng túng này tràn lan như một giống cỏ dại

mà gió đem lại trên một mảnh đất dành cho hoa cúc.
Không có gì là thiêng liêng đối với bọn người suy tưởng.

Trâng tráo gọi mọi sự bằng tên,
những phân tích bạt mạng,
những tổng hợp sỗ sàng,
theo đuổi như điên cuồng và phóng đãng
những sự kiện trần truồng,
mân mê thật bẩn thỉu những chủ đề dễ kích ứng.
Tôi viết vội bản tường trình về thành phố bị bao vây, mọi thứ được bỏ vào một cái chai, thả vào tương lai. Tôi gửi đi với niềm hy vọng chưa bao giờ mạnh mẽ hơn lúc này. Vì lẽ, cùng tiếng loa công cộng vờ điềm tĩnh kêu gọi trật tự để che giấu cho bạo lực phi nhân được kích hoạt, tôi nhận thấy những tiếng hát vang – đã ngày càng lớn – của những con người công chính về một ngày mới sẽ đến tốt đẹp hơn.
Tôi có gửi thêm trong chai một câu chuyện cổ xưa của người Ấn Độ. Câu chuyện kể về những ngày tháng thế gian dị động. Ngày tháng có rất nhiều dạng súc sinh mang hình dáng người, trà trộn vào trần thế để tung hoành nhưng chúng sớm bị phát hiện, bởi vẫn còn nguyên vẹn trái tim loài súc sinh. Tôi muốn nói rằng chúng tôi – thế hệ chúng tôi, có cả những người rất trẻ – đã từng kiêu hãnh vì thật sự là con người trọn vẹn nơi thành phố đó.
——————–
Các bản dịch thơ, do Diễm Châu, Hoàng Ngọc Biên, NXB Trình Bầy.

TS. PHẠM CAO DƯƠNG * TƯƠNG LAI VIỆT NAM

Nhân Mùa Quốc hận 30 tháng Tư 2016, viết lại cho giới trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại: 


VIệc Dựng Tượng Đức Thánh Trần ở Little Saigon

Inline image 1


Phạm Cao Dương


Biến cố 30 tháng Tư 1975 đã bẩy tung người Việt Tị Nạn ra khắp thế giới, xa cách quê hương và người thân của họ cả ngàn vạn dặm. Đó là một sư thực lịch sử không ai chối cãi dược. Có điều trong cái rủi vẫn có cái may, biến cố này đã đưa tới sự hình thành của Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại, thành phần thứ hai của Dân Tộc việt Nam phát triển mạnh mẽ và độc lập đối với thành phần thứ nhất còn lại ở quê nhà. Hậu quả là đến ngày nay, sau người Anh của Thế Kỷ 19, chỉ còn người Việt Nam là có thể hãnh diện để dạy con cái mình rằng “Mặt trời không bao giờ lặn trên những phần đất có người Việt Nam cư ngụ”. Từ cuộc di cư vĩ đại này, sự hình thành của một Siêu Quốc Gia Việt Nam đã bắt đầu với những con người của thế giới hữu hình xuất phát từ mảnh đất nhỏ bé bên bờ phía tây của Thái Bình Dương. Nó đã được hoàn tất bằng một biến cố khác mang tính cách tâm linh, vô hình và truyền thống của dân tộc Việt: việc dựng tượng Đức Thánh Trần Hưng Đạo vào mùa thu năm 2014, 39 năm sau. Một cơ hội lớn, ngàn năm một thuở đã mở ra cho dân tộc chúng ta.
Tôi không rõ trên giấy tờ liên lạc với Toà Thị Chính Thành Phố Westminster, thuộc Quận Cam, California, ban tổ chức dựng tượng đã dùng danh xưng gì để gọi tượng nhưng ở đây tôi xin được phép dùng danh xưng là Tượng Đức Thánh Trần. Tôi dùng danh xưng Đức Thánh Trần là vì đây là danh xưng mà quảng đại dân gian Việt Nam từ Bắc chí Nam đã dùng và bây giờ ở Hải Ngoại nên dùng, để vừa tỏ ý sự tôn kính, vừa biểu lộ lòng yêu thương, gần gũi hơn là các danh xưng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hay Trần Hưng Đạo… những danh xưng được nói tới nhiều hơn trong học đường hay trong sách vở. Điều này cũng có nhiều lý do, tôi xin được lần lượt trình bầy trong bài viết này.


Đức Thánh Trần là nhân vật lịch sử duy nhất được dân gian coi là đã hiển linh che chở giúp đỡ mọi người, chống lại tà ma quỷ quái, từ đó được mọi người coi như một vị Thánh của cả dân tộc
Khác với các nhân vật lịch sử khác như Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Triệu Quang Phục, Lý Thường Kiệt, Lê Thái Tổ, Quang Trung Nguyễn Huệ …, tất cả đều có đền thờ và được dân chúng địa phương quanh năm hương khói và đến ngày kỵ đều được các quan lại địa phương hàng năm chính thức đến tế. Chỉ riêng có Trần Hưng Đạo ngoài đền thờ còn được coi là đã hiển linh để phủ hộ, giúp đỡ đồng bào của mình, che chở mọi người chống lại tà ma, quỉ quái. Đức Thánh Trần với các con trai và các gia tướng của Ngài như Yết Kiêu, Dã Tượng luôn luôn được truyền tụng là đã hiển linh trong các công tác này. Những chuyện như Phạm Nhan chuyên môn tìm ăn máu dơ của phụ nữ làm cho họ bị mắc bệnh, mảnh chiếu lấy từ đền thờ của ngài là những chuyện phổ thông trước đây ai cũng biết
Một sự kiện liên hệ khác ít ai biết tới là sự hiển linh của Đức Thánh Trần và sự tin tưởng của quần chúng vào sự hiển linh này đã đưa tới sự hình thành của một tôn giáo mới của người Việt gọi là Nội Giáo.Nội Giáo là tôn giáo từ bên trong để phân biệt với Ngoại Giáo du nhập từ bên ngoài mà ngài là vị thần chính được thờ. Nội Giáo là tôn giáo riêng của ngươì Việt Nam, của nước Việt Nam độc lập. Sự xuất hiện của Nội Giáo với Thánh Địa là Đền Kiếp Bạc đã nói lên tinh thần độc lập của người Việt mà cho tới thời Ngài chưa có. Cùng với Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một trong “Tứ Bất tử”[i] của người Việt, Ngài đã được thờ như vị Cha chung của cả dân tộc: l
Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ.
Tháng Tám âm lịch từ ngày 16 đến ngày 18 là ngày giỗ Đức Thánh Trần và trong 10 ngày từ 1 đến 10 Tháng Ba âm lịch là Ngày hội Phủ Giầy ở làng Tiên Hương, huyện Vụ Bản tỉnh Nam định là ngày giỗ Chúa Liễu Hạnh, hai ngày hội lớn được rất đông người tới dự trước kia, trước thời chiến tranh và đông hơn rất nhiều trong thời hiện tại. Hội Phủ Giầy được tổ chức hàng năm là hội lớn nhất, vui nhất, có nhiều trò chơi nhất. Con số người tham dự càng ngày càng gia tăng, gia tăng gấp bội so với thời Pháp thuộc, trong đó có rất đông các cán bộ Cộng Sản “đi xe con tới dự”.
Chưa hết, song song với truyền thống thờ Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh, người Việt Nam còn có tục lên đồng. Nếu Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh chỉ được chính thức thờ ở các đền thì trong dân gian, các ngài được thờ ở rải rắc khắp nơi qua các đền miễu do các cộng đồng địa phương lớn nhỏ, do tư nhân xây dựng và được các ông đồng, bà đồng coi giữ. Nơi đây các cuộc lên đồng thường xuyên được thực hiện, kể cả hiện tại ở Westminster, ở Garden Grove ở Hải Ngoại mà người viết đã có dịp nhiều lần tới dự và rất vui khi thấy một tín ngưỡng xưa, có thời bị bài bác, nay lại sống lại ở nơi đất khách quê người. Chính ở những nơi này, lịch sử của dân tộc Việt Nam, đúng hơn những bài dã sử, đã được gìn giữ xuyên qua những bài hát chầu văn, một thứ văn chương, âm nhạc vô cùng phong phú cho tới nay đã được nhiều học giả Việt Nam và ngoại quốc sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu một cách khoa học tương đối đầy đủ, tường tận và bao dung hơn.
Người Tàu và người Hy Lạp khi dời bỏ quê hương ra đi tị nạn hay lập nghiệp ở Hải Ngoại cũng đã mang theo thần linh của họ.
Cuối cùng, sự kiện các dân di cư tị nạn khi ra đi đã mang theo các thần của mình là một sự kiện đã xảy ra từ lâu trong lịch sử nhân loại. Dân Hy Lạp trong các thế kỷ thứ bảy và thứ tám kéo dài đến hết thế kỷ thứ năm trước Thiên Chúa, khi có những cuộc tranh chấp nội bộ ở các đô thị-quốc gia, những city-states, những polis, của họ, điển hình là hai đô thị Athens và Sparta, các phe bại trận bị loại trừ (ostracized, ostracism) phải bỏ xứ mà đi. Họ đã tạo nên một đường viền Hy Lạp chung quanh Địa Trung Hải với nhữngđô thị-quốc gia, những polis mới ở Nam Âu, ở Tây Á và luôn cả ở Phi Châu. Khi ra đi họ đã mang theo văn minh Hy Lạp và đặc biệt là các thần linh Hy Lạp của họ. Với những yếu tố văn minh, văn hóa và đặc biệt là tín ngưỡng này, những đô thị-quốc gia mới của họ, mặc dù vẫn giữ được những liên hệ lịch sử, văn minh và văn hoá với các đô thị mẹ ở chính quốc, đã trở thành hoàn toàn độc lập với các đô thị-quốc gia mẹ, đã tự mình đứng vững và phát triển, không còn bị các quốc gia-đô thị mẹ chi phối về phương diện chính trị và sinh hoạt hàng ngày nữa.
Người Tầu khi di cư ra khỏi quê hương của họ cũng làm những việc tương tự. Bằng chứng là các “chùa Tầu” đã hiện diện ở khắp thế giới và ở miền Nam Việt Nam rất nhiều, đặc biệt là ở Saigon. Tất cả đã trở thành những nơi thăm viếng mà du khách khi tới Saigon đều phải biết và ít nhiều ghé qua. Chính người viết bài này hồi trước năm 1975, khi dẫn sinh viên đi du khảo quanh vùng Thủ Đô Saigon, cũng đã ghé thăm những nơi được coi là “cổ tích liệt hạng” này. Điều đáng để ý là những nơi này luôn luôn có nhiều khách hành hương tới viếng trong đó rất đông là người Việt. Nơi đây khói hương ngày đêm nghi ngút, không bao giờ tàn lạnh.
Dựng tượng Đức Thánh Trần không chỉ là để tôn vinh một vị anh hùng có công ơn bậc nhất của cả dân tộc mà còn biểu lộ tinh thần độc lập của Người Việt Hải Ngoại là chỗ dựa tinh thần của người Việt nhằm hướng tới một Siêu Quốc gia Việt Nam của Thiên Niên Kỷ Thứ Ba
Cho tới nay, Cộng Đồng người Việt ở Hải Ngoại đã được ngoài 40 tuổi, đã trải qua giai đoạn sống còn, đã mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh về đủ mọi phương diện để trở thành thành phần thứ hai độc lập với thành phần thứ nhất của dân tộc Việt Nam.
Cộng Đồng Hải Ngoại của chúng ta trẻ trung hơn, năng động hơn, có tiềm năng hiểu biết cập nhật hơn, có nhiều khả năng phát triển hơn nhờ đã hình thành và phát triển trong những quốc gia tân tiến nhất trên thế giới, so với thành phần thứ nhất mỗi ngày già cỗi hơn, mòn mỏi hơn, kiệt lực hơn, không còn đủ khả năng nhận thức và ngay cả sử dụng những khả năng trí tuệ vẫn còn tồn tại không ít của mình. Tuổi trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại có thể vào và đã vào bất cứ một đại học danh tiếng nào nếu các em mong muốn và được cha mẹ khuyến khích. Rất đông các em đã đạt được điều này. Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại đã tự mình hội đủ mọi điều kiện để tự đứng vững. Chúng ta đã có đầy đủ nếu không nói là khá đông các chuyên viên trí thức thượng thặng từ các khoa học gia, các giáo sư đại học, các học giả tốt nghiệp từ các học viện lớn và hiện đang phục vụ trong các trung tâm, các viện nghiên cứu bậc nhất trên thế giới để góp sự hiện diện của mình với các sắc tộc khác. Chúng ta cũng đã có những chỉ huy cao cao cấp trong quân đội, kể cả tướng lãnh. Hãy tưởng tượng hình ảnh một vị chỉ huy dẫn đầu nhiều ngàn sĩ quan, binh sĩ dưới quyền, thuộc đủ mọi thành phần, chủng tộc, dẫn đầu các cuộc thao diễn, dẫn đầu họ chạy bộ hàng ngày hay nghiêm chỉnh chào cờ trong căn cứ của đơn vị mình. Vị chỉ huy đó là người Việt. Anh là vị tướng đi sát với binh sĩ của mình, tướng của trận mạc, không phải tướng của phe phái, nói cách khác, tướng cảnh. Con em của chúng ta đó! Hãnh diện biết là chừng nào! Chúng ta cũng có những chỉ huy trưởng khu trục hạm tối tân nhất của Hải Quân Hoa Kỳ, những nữ đại tá người nhỏ thó chỉ đứng đến nách những đồng sự hay thuộc cấp của mình nhưng vẫn được họ chào kính một cách trịnh trọng. Họ cũng là con em của chúng ta đó. Hãnh diện biết là chừng nào! Họ thuộc thế hệ một rưỡi, luôn cả thế hệ thứ hai của tị nạn Việt. Tất cả đều vẫn còn thông thạo tiếng Việt, đã trả lời dễ dàng, trôi chảy các cuộc phỏng vấn bằng tiếng Việt. Tất cả đều đã trở thành “người”, đã “nên người”, đã lập được sự nghiệp trên quê hương mới mà không cần tới sự trợ giúp của các “đỉnh cao trí tuệ của loài người”. Chưa hết! Bây giờ thì họ đã ngồi lại với nhau để trở thành một lực lượng quân nhân gốc Việt trong quân đội Hoa Kỳ và sẽ dẫn đường cho thế hệ thứ ba. Cầu mong các em sẽ thành công mỹ mãn. Trong địa hạt chính trị, người Việt nay cũng đã đi rất sâu và rất cao trong hệ thống chính quyền của nhiều nước, ở đủ cả ba ngành, ngay cả ở cấp trung ương. Nhiều người trẻ cũng đã xuất hiện và đã thành công xuất sắc. Họ thông thạo ngôn ngữ, được học, được sống và hiểu biết về xã hội nơi họ đang cư ngụ. Họ bắt đầu thay thế cho thế hệ cha anh đã đến tuổi xế chiều, nhưng vẫn hiểu biết về Việt Nam và thông thạo tiếng Việt. Trong tương lai, các em sẽ còn đi xa và lên cao hơn nữa.
Sang một địa hạt khác gần gũi với mọi người hơn là địa hạt giáo dục. Ở đây tôi chỉ nói vế các cấp trung tiểu học và mẫu giáo, những cấp học cơ bản liên hệ trực tiếp tới các em nhỏ của chúng ta trong cộng đồng. Con số những thày cô giáo người Việt hiện diện trong các trường địa phương mỗi ngày một nhiều. Nghề làm thày cô giáo không còn bị chê so với các nghề khác như trong những thập niên đầu. Nhiều người tỏ ra đã yêu mến nghề dạy học ngay từ khi còn học ở bậc trung và luôn cả tiểu học. Họ đã đạt được ước vọng và sau nhiều năm hành nghề vẫn tỏ ra yêu nghề hơn bao giờ hết. Nhiều người đã chuyển sang cấp chỉ huy làm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường khi chán phụ trách lớp. Nên nhớ là, ít ra là ở Mỹ, dạy ở cấp nào cùng được coi là quý, là trọng, không nhất thiết là ở bậc đại học, nơi kiếm được một chỗ làm rất khó vì rất hiếm vì sự cạnh tranh giữa các sắc dân Á Châu rất nhiều và nạn bè cánh, phe phái rất cũng không phải là hiếm. Yếu tố quan trọng mà các em phải dựa vào để lựa chọn là chính mình, là thiên tư và hạnh phúc của chính mình. Kinh ngiệm của cha mẹ, ông bà của các em và những người đi trước thuộc thế hệ của các ngài cũng vẫn còn là những gì đáng quý cho các em khi chọn ngành và nhất là khi hoạt động cộng đồng.
Để hướng về các con em nhỏ trong cộng đồng, riêng ở miền Nam California hàng trăm trung tâm Việt Ngữ đã được thành lập ở các chùa, các nhà thờ hay các lớp mượn của các trường địa phương trong những ngày cuối tuần do các thày cô đã về hưu hay các sinh viên đại học phụ trách. Hàng ngàn thày cô đã tham gia công tác này với hàng chục ngàn trẻ em được cha mẹ mang tới dự. Hãy tưởng tượng các vị này đã kiên trì, cố gắng như thế nào để cứ tình nguyện mỗi cuối tuần mỗi đến, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, thường xuyên dạy các em, không nửa chừng bỏ dở. Họ âm thầm làm công việc của mình và dường như ít được cộng đống biết đến, thăm viếng và khích lệ.
Cộng đồng của chúng ta đã độc lập, đã tự đứng vững và phát triển trong suốt 41 năm qua không hề phải nhờ và vào chính quốc. Trái lại, hàng chục tỷ đô la hàng năm đã được gửi về dưới hình thức này hay hình thức khác, làm giàu cho các cán bộ và các đại gia ở trong nước và gián tiếp giúp họ chuyển tiền ra ngoại quốc phòng ngừa khi tháo chạy. Có điều thay vì để yên cho thành phần thứ hai của dân tộc ở Hải Ngoại phát triển để hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau song song phát triển, cùng hướng tới một tương lai dài nhằm biến dân tộc Việt Nam thành một dân tộc lớn của nhân loại thì các “đỉnh cao trí tuệ” ở trong nước đã coi nó như một con gà đẻ trứng vàng, tìm cách ảnh hưởng tới nó, bắt nó đẻ nhiều hơn, thậm chí bắt và giết nó.
Lịch sử dân tộc Việt Nam phải được tính bằng ngàn năm
Trong một bài viết trước đây, nhằm kỷ niệm một ngàn năm Lý Thái Tổ từ Hoa Lư thiên đô ra Thăng Long, đăng trong Tập San Thế Kỷ 21,số 1, số ra mắt, người viết có đưa ra cái nhìn hơi khác về lịch sử của dân tộc Việt Nam. Đó là lịch sử phải được tính bằng ngàn năm với ba dấu mốc chính: 111 trước Tây Lịch, 1010 sau Tây Lịch và những năm hiện tại của thiên niên kỷ thứ ba mà chúng ta đang sống, chứ không thể chỉ tính bằng chục năm, bằng trăm năm như lịch sử bình thường. Nhìn như thế để chúng ta có thể thấy những điều vô nghĩa mà nhiều người đã và đang làm. Nhìn như thế đế chúng ta có thể lạc quan về tương lai của dân tộc Việt Nam qua sự hình thành của Cộng Đồng Người Việt ở Hải Ngoại trong thế kỷ 21này.
Cơ hội ngàn năm một thuở: Mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt cư ngụ
Sự hình thành của Cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại coi như thành phần thứ hai của dân tộc là một cơ hội ngàn năm một thuở chúng ta có được, sau khi người dân Việt Nam đã phải trải qua nhiều chục năm dài đầy chiến tranh, đau thương, chết chóc và bất hạnh. Biến cố bi thảm 1975 đã bẩy tung bà con chúng ta ra khắp thế giới để rồi sau ngót bốn mươi năm cũng họ, cũng những bà con đã bị bấy tung ra khắp thế giới, bây giờ là Người Việt Hải Ngoại đã định cư và đã thành công ở khắp năm châu, không nơi nào là không có. Chúng ta đã không có được một lãnh thổ duy nhất, một chính quyền chung nhưng chúng ta có những con người, có chung một lịch sử, một nguồn gốc, đã ra đi trong cùng một hoàn cảnh, một thời điểm. Nói một cách khác, chúng ta đã có một Siêu Quốc gia Việt Nam không có lãnh thổ, không có chính quyền, không có thủ đô nhưng tất cả đều nằm sâu thẳm trong lòng mọi người dân của mình. Một siêu quốc gia như vậy thích hợp hơn với sinh hoạt quốc tế trong thời hiện tại, thời mà biên giới giữa các nước đã mờ dần trước sự phát triển chung của cả loài người. Cũng nói cách khác, nếu trong thế kỷ 19, một học sinh người Anh được học rằng“Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh” thì khác đi một chút, kể từ thế kỷ 20, một học sinh Việt Nam phải được học rằng “Từ sau năm 1975, mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam cư ngụ.” Người Tầu cũng có thể nói câu tương tự. Họ cũng hiện diện ở khắp nơi trên thế giới nhưng vẫn không thể so sánh với người Việt. Lý do là vì người Tầu bỏ nước ra đi là họ chọn tha phương cầu thực, do họ chọn lựa còn người Việt thì không được chọn lựa. Sau ba chục năm triền miên đầy đau thương giết chóc với ít ra là bốn năm triệu người đã bị hy sinh, nước mắt tràn ngập khắp Trường Sơn, ra tận Biển Đông. Người Việt đã bất đắc dĩ phải ra đi mà không biết sẽ đi đâu. Đến bây giờ thì tự mình và với sự giúp đỡ của các chính quyền và của người địa phương, bất chấp những sự dè bỉu, mỉa mai của nhà cầm quyền ở trong nước trong những năm đầu, các cộng đồng Việt Nam ở khắp nới trên thế giới đã trở thành vững mạnh thực sự so với thành phần còn lại ở trong nước. Bổn phận của chúng ta là phải bảo vệ và phát triển nó. Chúng ta không thể để cho những người đang nhận sự giúp đỡ vô cùng to lớn của cộng đồng chúng ta, coi cộng đồng chúng ta là con gà mái đẻ trứng vàng bắt nó đẻ nhiều hơn, đẻ mãi, lợi dụng và giết nó. Chúng ta cũng phải lo cho chính chúng ta và con cháu chúng ta. Chúng ta đang sống ở đây và sẽ chết ở đây. Con cháu chúng ta cũng vậy. Những thế lực luôn luôn gây bất ổn từ bảy mươi năm qua sẽ không tha chúng ta, không để cho chúng ta yên. họ luôn luôn muốn làm chủ chúng ta rồi làm chủ con cháu chúng ta như họ đã làm ở trong nước, bây giờ là Cộng Đồng Người Việt ở Hải Ngoại, cơ hội ngàn năm một thuở của chung cả dân tộc, cơ hội sẽ đưa dân tộc ta thoát khỏi tình trạng nhỏ bé và chậm tiến. Bất cứ hành động nào phá hoại Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại đều là một tội đại ác đối với dân tộc Có điều họ sẽ bất cần, sẽ tiếp tục như họ đã làm trong quá khứ như các năm 1954, 1975. Nhưng họ sẽ không làm gì được chúng ta. Chiêu bài độc lập thống nhất không còn hiệu nghiệm nữa. Chuyện đó qua rồi. Cộng Đồng Hải Ngoại của chúng ta đã vững mạnh và luôn luôn được các nhà cầm quyền và luật pháp bản xứ che chở. Chúng ta cũng đã có đủ mọi khả năng để tự mình đứng vững, nhất là kể từ bây giờ, với sự phù hộ ngày đêm của Đức Thánh Trần và bên cạnh Ngài là Chúa Liễu Hạnh. Chúng ta không cần phải có sự giúp đỡ từ bên ngoài, nói trắng ra là từ những người này. Phạm Nhan đã bị chém đầu từ bảy thế kỷ trước tuy vẫn còn lảng vảng khắp nơi để kiếm máu dơ của phụ nữ nhưng y sẽ không làm gì được chúng ta vì chúng ta đã có Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh luôn luôn hiển linh và che chở cho chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau giữ cho tượng Ngài quanh năm sạch sẽ và nếu có, hương khói lúc nào cũng nghi ngút, để trở thành một thắng tích bất cứ ai ghé Little Saigon đều phải ghé qua để tỏ lòng tôn kính Ngài.
Để kết luận, tôi mượn chữ và ý của Nhà Văn Ngô Nhân Dụng[ii]. Chúng ta đã đứng vững ít ra là hai ngàn năm và chắc chắn sẽ còn đứng vững thêm nhiều ngàn năm nữa. Vấn đề là do chúng ta. Chúng ta đã khơi lại được mạch sống của bảy trăm năm trước. Chúng ta có sống lại được với sức sống do tiền nhân truyền lại cho chúng ta hay không? Điều này tùy thuộc ở chính chúng ta. Chúng ta sẽ coi quyền lực, danh lợi tiền bạc của cá nhân hay phe nhóm là trọng hay sự tồn vong và phát triển của cả Cộng Đồng, cả dân tộc Việt Nam và tới một giới hạn nào đó, sứ mạng Trời trao cho chúng ta là trọng. Điều này tùy thuộc ở chúng ta, điều mà bà con đang sống trên đất mẹ của chúng ta xem ra khó mà làm được vì dù có muốn họ cũng không được phép làm chưa kể tất cả đều đã quá mòn mỏi, khô cằn đến độ vô cảm, nếu không nói là kiệt lực. Tất cả chỉ còn trông cậy ở chúng ta và con cháu chúng ta. Hãy chứng tỏ chúng ta có đủ khả năng và bản lãnh; chúng ta dời bỏ quê hương ra đi không phải để tha phương cầu thực.

Little Sàigòn những ngày cuối xuân 2016

Phạm Cao Dương




GS. Phạm Cao Dương, một diễn giả mà BTC sắp xếp là đại diện thế hệ Cao Niên hôm nay, nhận được rất nhiều sự đồng tình qua những tiếng vỗ tay của những người tham dự
(Mời xem Youtube 3/6)
Video Phát biểu của GS. Phạm Cao Dương



SƠN TRUNG * AI KHÔN, AI DẠI?

SƠN TRUNG *  AI KHÔN, AI DẠI?

Trong cuộc thế hôm nay, có ba loại người Việt Nam: quốc gia, cộng sản và vô cảm. Thực ra trong thực trạng chính trị Việt Nam chỉ có hai phe: phe quốc gia và phe cộng sản.Trước những sự kiện kiện cay đắng xảy ra gần đấy khiến nhân dân và đa số đảng viên cộng sản đã giác ngộ. Một số vì quyền lợi vẫn bám, vẫn bênh vực Cộng đảng và chống phá phe quốc gia. Cuộc chống phá của họ thì nhiều lắm, người viết chỉ nêu lên một vài vấn đề cho hợp với khuôn khổ một bài báo.

Một tác giả đóng vai người ngoại quốc, phê bình dân Việt Nam ta: Dân hải ngoại ngu và phi lý vì miệng hô hào chống cộng lại gửi tiền về Việt Nam. Ý họ trách dân Việt ta ngu mà Mỹ cũng ngu, tại sao lại để hàng năm 7, 8 tỷ Mỹ kim chạy về Việt Nam mà không ngăn chận lại trong khi đó Mỹ mang công mắc nợ, nhiều tiểu bang sắp phá sản.

Người đó muốn mỉa mai dân ta nhưng người đó chỉ thấy một mà không thấy hai.

Tại sao dân ta gửi tiền về Việt Nam?

Người  Việt cộng lao động nước ngoài khi ở nhà cũng như khi ra hải ngoại luôn nghĩ đến gia đình, đất nước tối tăm, nghèo đói, có đi ra mới có bát cơm ăn và có it tiền gủi về cho cha mẹ. Có người chạy không đủ cơm ăn, thân bị bóc lột, trốn chui trốn nhủi như lao động Việt Nam ở Nga mà mỗi tháng vẫn tìm cách gửi tiền về nhà.
Người Việt Nam di tản cũng có nỗi buồn, một nỗi buồn lớn lao. Họ phải ra đi để giải thoát bản thân họ, con cái họ, và khi đến xứ người, hai bàn tay trắng khổ nhọc cũng cố gửi chút tiền về cho mẹ già, em dại. Họ khác lao động Việt Cộng vì họ là tư sản, là trí thức không phải vô sản và tin cộng sản như con cháu Cáo già!
Ở hải ngoại làm đủ nuôi miệng, người nghèo mỗi tháng không dư một hai trăm! Thế mà phải lo gửi nếu không thì bên đó bán nhà, đuổi mẹ ra đường hay mẹ già bị mấy thằng cháu ngoại, cháu nội xẻo thịt! Thảm lắm.Hơn nữa, việc gửi tiền này làm cho gia đình thiếu hụt, vụ chống sinh ra cắng đắng với nhau. Gửi tiền về là một sự thương và khổ. Sao người đó có thể mỉa mai lòng nhân ái và hiếu thảo của người dân Việt nơi tha hương? Nhưng xét về tâm lý và mục đich gửi tiền thì rõ ràng hai phe quốc gia và cộng sản lao động xứ người đều thương gia đình, phải gửi tiền về để cứu trợ gia đình chứ không phải ủng hộ Việt Cộng như tuần lễ vàng 1946. Lẽ tất nhiên cộng sản có lợi khi bắt lao động nước ngoài phải đóng tiền, cầm nhà thế ruộng cho cộng sản để được làm nộ lệ xứ người. Ngoài ra khi ra nước ngoài, người lao động phải nuôi bọn cán bộ quản lý công nhân, phải đóng 22% lợi tức cho chúng và bao nhiêu thứ tiền khác. Cộng sản cũng đắc lợi chỉ in tiền giấy để thu đô la. Con người có thời, thế, cơ. Cộng sản có khá đủ thuận lợi mà cơ trời đã dành cho họ để họ đi hết quảng đường trần. Quả báo không đến liền mà đến rất lâu và rất thảm khốc!Cộng sản Nga cũng huy hoàng lắm chứ nhưng rồi cũng bị đào thải!

Người Cộng sản dù chỉ là lao công, thợ thủ công, là nông dân nghèo, vì theo Cộng đảng nên lây cái "tự hào cộng sản". Họ khinh miệt da ta trắng, người ta mập, dân ta ăn mặc xênh xang, nhất là phụ nữ xanh mỏ đỏ môi,  quần loe, ống túm, tóc uốn quăn, mặt tô son phấn.  Nói chung, họ khinh bỉ ta không laio động, ăn bám, theo nếp sống tư sản đồi trụy!Họ ghét và căm thù cho nên họ đã xởn  tóc, cắt quần dân Miền Nam. Họ khinh quân ta hèn kém, tay sai Pháp Mỹ, còn họ anh hùng. Họ đã tự hào đánh thắng bốn tên đầu sõ quốc trong đó có tổ sư Mao và Đặng Tiểu Bình. Họ tự hào là lính đánh thuê quốc tế! Họ khinh Mỹ ngu dại. Ai đời đánh giặc mà không cầu thắng lại bỏ tiền đầu tư cho kẻ thù! Té ra Kim Dung không tưởng tượng mà trong thế giới này có nhiều "Độc Cô Cầu Bại"!

Nếu Cộng sản là chính phủ Mỹ, người Cộng sản dã man, tàn bạo, có thể ra lệnh cấm gửi tiền và bỏ tù những ai thương cha, nhớ mẹ! Nhưng người Mỹ không đến độ dã man như thế. Người Mỹ bao giờ cũng đối xử khéo léo tế nhị. Ra lệnh cấm gửi tiền sẽ bị dân Việt oán trách, thù hận và thế giới chê cười! Nhưng sự thật sâu xa. Người Mỹ thâm nho hơn ta tưởng. Bọn cộng sản luôn tự hào bách chiến bách thắng, coi Mỹ, Pháp, Canada, Anh quốc là khờ khạo, là đồ bị thịt ngu si! Có phải vậy không?


Trong những ngày tháng 1973, Mỹ cứ lui binh,- họ lui binh chứ không phải tháo chạy như Nguyễn Tiến Hưng nói, và họ có kế hoạch chứ toà Bạch Ốc không phải là vũng lầy như Nguyễn Kỳ Phong suy nghĩ- Ngươời Mỹ đóng vai thất trận, lui binh ở châu Á để khuyến khích Trung Cộng nhảy vào để lâm sự thể hôm nay. Những tài liệu ở tòa Bạch Ôc có thể một số là giả mạo để phô trương cái thất bại và suy yếu của Mỹ. Cùng nghiên cứu tài liệu tòa Bạch Ốc, sao Nguyễn Tiến Hưng lại chỉ trich Nguyễn Kỳ Phong. Theo thiển kiến, người Mỹ đau khổ mà thi hành khổ nhục kế. Người Mỹ can đảm thi hành khổ nhục kế thì nỗi đau của Việt Nam có thấm gì đâu! Trước và trong 1975, người Mỹ để các thành phố nguyên vẹn, để vàng bạc, và các hồ sơ mật..làm cho cộng sản nghĩ "Mỹ Ngụy" tháo chạy không kịp đốt tài liệu mật, không đốt nhà, phá cầu và giết hàng ngàn vạn người như Việt Cộng ở Huế trước khi tháo chạy về bên kia vỹ tuyến.
Để thành phố nguyên vẹn, để cho Việt Cộng hưởng mùi tư sản và "Mỹ Ngụy". Ăn no bò cưỡi thì đâu còn ý chí chiến đấu, và  xâu xé lẫn nhau! Như Trần Đức Thảo nhận định, Mỹ đổi chiến thuật, chiến lược. Trước Mỹ chủ trương chiến tranh, nay dùng sách lược tấn công hòa bình. Mỹ và các nước tư bản đầu tư, viện trợ, LHQ cho vay...để cho Cộng sản có nhiều tiền. Tâm lý cộng sản là tâm lý gian ác, phỉnh nhờ, dối trá. Ghét tư hữu, tư bản nhưng yêu tư hữu điên cuồng, bất chấp đạo nghĩa, ghét phong kiến tham quyền cố vị nhưng cộng sản nay cũng "cha truyền con nối." Trong chế độ quân chủ, các quan là những người có học, có tài và có đức.Hàng vương thân quốc thích, phần lớn chỉ có danh hư, không được tham dự chính quyền cũng như hạng tri phủ hàm, huyện hàm.. Trái lại cộng sản đưa vợ chồng, anh em, con cháu dốt nát vào trung ương và bộ viện." Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê!" Cầm nhiều tiền mà tay nào cũng trộm cướp gian tham thì bọn Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình, Lê Duẩn, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng... mỗi tên và đồng bọn có năng lực phá hoại bằng mấy trăm trái bom khinh khí và bom hạch tâm. Mỹ cần gì phài đánh đấm, cứ tọa sơn quan hổ đấu!Ai bảo" lao động là vinh quang"? Mỹ không cần lao động, cứ đem ít mồi thả câu và chờ đợi. Vàng đô la tự nhiên chạy về túi Mỹ. Mỹ đâu cần tuyên truyện dụ dỗ và lừa đảo như Cộng sản mà vẫn đại lợi!

Đó là Mỹ đã dùng không thành kế hoặc kế con ngựa thành Troy. Mỹ không như Pháp chở hàng triệu dân Bắc vào Nam. Mỹ bỏ mặc cho cộng sàn nghĩ là Mỹ tháo chạy không còn dám trở lại Việt Nam cho nên không mang thành phần quốc gia về Mỹ! Người quốc gia bị hy sinh mà người lính Mỹ cũng bị đối xử tàn tệ làm như chính phủ Mỹ, và nước Mỹ coi cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam là nỗi xấu hổ, tủi nhục!Mỹ chỉ dang tay khi số người vượt biên bị chết, bị cướp. Và khi đám lưu vong có công công ăn việc làm sẽ gửi tiền về Việt Nam. Việt Cộng nói mỗi năm họ được 7, 8 tỷ đô la của người Việt hải ngoại. Xin nhớ người Việt hải ngoại gửi tiền về giúp gia đình chứ không phải giúp cộng sản. Nhưng sự đời biến chuyển vô cùng, Việt Công không được ngon lành như thế đâu! Chắc gì 7,8 tỷ, có thể là hai, ba tỷ mà Việt cộng thổi phồng lên cho "hoành tráng"! Không thể tin vào những thông tin, những tài liệu và những tuyên bố của cộng sản! Người Mỹ khôn lắm. Họ như bà Quan Âm xòe tay cho Tề Thiên đại thánh tự hào tài nhảy bay! Chúng ta tâm hẹp trí đoản, thấy thế bực bội. Ngày xưa ta cần 7 triệu Mỹ kim để chống cộng mà không được, nay Việt Cộng bỗng dưng có, 8 tỷ Mỹ Kim! Nhưng Mỹ có suy nghĩ khác:


"Lo chi việc ấy mà lo
Kiến trong miệng chén mà bò đi đâu!



Không phải Việt Cộng mà Trung cộng cũng thế. Sau một thời gian cướp phá, gian lận và tham nhũng, các đảng viên cộng sản trở thành "tư bản đỏ", một số lớn bọn này đã bỏ nước mà đi và mang theo tài sản kếch xù sang Mỹ và các nước tư bản. Tục ngữ ta nói" Ký cọp cho cọp nó tha". Cọp không tha mà chính cộng sản đút vàng, đô la vào miệng cọp!Nước Mỹ ngoài cái " hữu xạ tự nhiên hương" còn có chính sách cởi mở, phóng khóng. Đó là mở cửa cho du khách, cho du học sinh và ra Chương trình EB-5 (viết tắt của Employment Base Fifth) là chương trình xin thẻ xanh Mỹ an toàn và nhanh nhất dành cho người nước ngoài đến Mỹ theo hình thức đầu tưChương trình được Chính phủ Mỹ khởi xướng từ năm 1990 và đã giúp cải thiện nhiều địa phương ở Mỹ nơi có tỷ lệ thất nghiệp cao hoặc kinh tế chậm phát triển. Năm 2003, Chính phủ Mỹ cho phép các dự án nằm trong khu vực khuyến khích đầu tư (Regional Centers) thu hút vốn đầu từ nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.Mỗi năm, Chính phủ Mỹ cấp 10.000 visa theo diện EB-5, trong đó có 3.000 visa theo diện đầu tư uỷ thác thông qua Regional Centers (vốn đầu tư 500 ngàn USD/suất) và số còn lại dành cho tự đầu tư (01 triệu USD/suất) vào Mỹ.


Cộng sản gộc cũng như thương gia đỏ miệng nói căm thù Mỹ nhưng bàn chân họ lại đi đến nước Mỹ. Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Xuân Phúc biết đâu đã là công dân Mỹ từ lâu! Mỹ lời chán. Hồ sơ Panama cho biết giả sử kiều hối về 7, 8 tỷ thì đô la xuất khẩu công khai và bí mật lên đến 80 tỷ? và tiền bí mật, tiền công khai đầu tư của Trung Cộng, Việt Cộng mỗi năm vào Mỹ mấy trăm, mấy ngàn tỷ đô? Ai dại ai khôn? Sấm Trạng Trình có câu :

Nguyễn đi thì Nguyễn lại về. Không biết Nguyễn nào về nhưng rõ ràng "đô la đi rồi đô la lại về túi Mỹ "!




 Tại sao dân ta cầu cứu Mỹ?

Ngày 9.5.2016, Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ viết thư xin Tổng Thống Hoa Kỳ Obama tạo nên cơ hội lịch sử cất tiếng cho nhân quyền, dân chủ, tự do tôn giáo trong chuyến viếng thăm Việt Nam sắp tới . Trước kia, nhiều lần đức Tăng Thống cũng yêu cầu tổng thống Mỹ can thiệp cho nhân quyền và tự do tôn giáo tại Việt Nam. Các hội đoàn Việt Nam cũng đã nhiều lần dâng thỉnh nguyện thư lên tổng thống Obama yêu cầu ông  giúp nhân dân Việt Nam thoát ách độc tài cộng sản, và xin Tổng Thống lên tiếng và nhân quyền và tự do, dân chủ tại Việt Nam. Tiếng nói của Tổng Thống Mỹ là tăng cường sức mạnh đấu tranh của người quốc gia hải ngoại!

Ngày nay, Trung Cộng chiếm biển Đông, bảo biển Đông là sân nhà của họ, cấm tàu các nước lưu thông, cấm dân Việt Nam, Philippines đánh cá ở Biển Đông, họ công khai cho biết Phạm Văn Đồng đã ký công hàm công nhận Trường Sa, Hoàng Sa là của Trung Cộng.

Bọn Việt Cộng im lặng, không dám chống đối vì họ cũng như Hồ Chí Minh đã người Trung Quốc ở trong hàng ngũ VIệt Cộng, bọn họ là gián điệp Trung Cộng cài vào hàng lãnh đạo Việt Cộng để thực hiện việc chiếm nước Việt Nam. Con gặp khó khăn thì kêu bố mẹ, anh em, nhưng tất cả đều bị cấy " sinh tử phù" của Trung Cộng. Vậy thì kêu ai?Hơn nữa, bọn họ lại sai công an, bộ đội đánh dân, cấm dân biểu tình, cấm dân chống Trung Cộng! Vậy dân ta thì phải làm sao?


Cái ông có đóng vai người ngoại quốc cũng mỉa mai rằng tại sao ta không tự tranh đấu mà cứ cầu xin người này người kia?

Ông này cũng là tay ngụy biện , tài năng bao nhiêu mà lên tiếng dạy mấy chục triệu con dân Việt Nam ư? Trong cuộc chiến cũng như trong cuộc đời, ta cần tự nỗ lực nhưng cũng cần sự hỗ trợ của bạn bè và đồng minh! Ta chăm chỉ lao động nhưng được sự giúp đỡ của tứ phương thì lại mau thành công. Có đồng minh thì hơn không có đồng minh, và hơn hẳn cái thế bị tứ phương thụ địch. Trong tam quốc Ngụy Thục Ngô, Thục và Ngô phải liên kết chống Ngụy. Trong thế chiến thứ hai, Liên Xô ghét Mỹ nhưng phải theo Mỹ vì một mình Liên Xô không thể chống Phát xít và tư bản. Trí óc bình thường ai cũng nghĩ thế!


Nước ta yếu, ta phải tranh đấu bằng nhiều cách trong đó có tranh đấu ngoại giao là cần thiết khi ta chưa có lực lượng quân sự giải phóng ViệtNam. Cũng như một người kia bị du côn vây đánh tất nhiên họ phải la làng, phải kêu cứu. Người nào, tổ chức nào,nước nào lúc lâm nguy mà chẳng kêu "SOS"!

Những câu " Bớ làng nước ơi!", SOS là tiếng kêu cầu cứu của kẻ lâm nạn, là chuyện bình thường, có gì mà mai mỉa. Tôi nghĩ người ngoại quốc phóng khoáng và nhân nghĩa hơn cộng sản, họ không có ý nghĩ ti tiện như thế!Không lẽ im lặng cho bọn cướp giết người cướp của. Sự cầu cứu là tâm lý và hành động chính đáng và phổ biến khi nguy cấp! Làm tay sai cho bọn côn đồ, bọn cường quyền mới đáng hổ thẹn, còn cầu cứu là chuyện đương nhiên sao lại mai mỉa? Khi ta gặp chuyện khó khăn, ta nói lên nỗi lòng ta cùng anh em, bạn bè để giải tỏa nỗi đau khồ đồng thời cầu xin sự giúp đỡ, nhất là về phương diện tinh thần! Cũng có trường hợp ta không van xin , cầu cứu mà cảnh cáo. Với bọn trẻ lưu manh, côn đồ, ta sẽ bảo chúng"Tao sẽ mách cha mày", hoặc" Chúng bay liệu hồn, chúng mày không thay đổi, chúng ta sẽ cho chúng mày một bài học".

Chúng ta cũng có thể nói với bậc phụ mẫu của chúng:"Các ông bà phải giáo dục mấy thằng con mất dạy của ông bà!"



Không biết người kia nghĩ sao về những lá thư của Hồ Chí Minh xin Nga, Tàu giúp vũ khí (trong khi họ kết tội Mỹ thả hàng tấn bom vào Việt Nam ), và việc Hồ Chí Minh sang Nga, Tàu nhận lệnh CCRD để tàn sát nhân dân Việt Nam. Sự việc nô lệ rõ ràng như thế mà họ Hồ và đồng bọn vẫn bô bô cái miệng "Không gì quý hơn độc lập, tự do"! Sự van xin cầu cứu và sự cúi đầu làm nô lệ, cúi đầu tuân lệnh giết dân của Hồ Chí Minh, cái nào là chính nghĩa?

Trước mắt hiện nay, thế giới chia hai phe: phe Mỹ và phe Trung Cộng. Theo Trung Cộng là làm tay sai , là bán nước cho Trung cộng.. Còn Mỹ là người anh hùng đang giang tay bảo vệ các tiểu quốc. Từ trước đến nay, Mỹ đã giúp kẻ thù cũ và đồng minh trở nên giàu mạnh, trong khi chư hầu của Liên Xô,Trung Cộng lâm vào đói khồ, chết chóc và mất tự do!Cứ suy nghĩ bình thường, ai cũng thấy Trung Cộng, Việt Cộng là kẻ thù của nhân dân ta. Xin đi sâu vào quần chúng để xem dân chúng chọn ai. Mỹ cùng ta chung trận tuyến chống Trung Cộng xâm lược. Ngoài Mỹ không ai đủ sức chống Trung Cộng. Anh, Pháp, Đức.. không là gì cả. Giữa Trung Cộng và Mỹ, dân ta ta kể cả Việt Cộng cũng thích Mỹ hơn. Nhìn xem thái độ của Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang trong các cuộc găp Tập Cận Bình và Obama, ta thấy thái độ củaViệt Cộng tỏ ra thân mật với Obama mà sợ hãi  Trung Cộng! Nhìn lại ngày xưa, ta thấy anh thông ngôn đi ngang hàng với cố vấn Mỹ, chuyện trò thân mật như bạn bè. Trong khi đó một anh Việt cộng cắp cặp cho cố vấn Liên Xô thì đi sau mấy bước, mặt tái xanh, chân tay run rẩy!
Bao lần Pháp muốn lôi kéo Việt Nam nhưng chính Pháp tự biết mình là kẻ hèn kém phải bưng cơm, rót nước cho Trung Cộng để xin cơm thừa canh cặn. Pháp cam phận nô bộc cho Trung Cộng, tại sao các ông họ Bùi, họ Vũ, các ông giáo sư, luật sư 80-90 tuổi đầu còn muốn làm gái, làm bồi? 80-90 rồi còn gì nữa mà mong! Tiếc thay cho những ông bà giáo sư đại học Huế và Đại Học Sai gon quên mất khí tiết người quân tử!Tại sao những người như Vũ Quốc Thúc cùng 36 con đười ươi lấp ló sau lưng, và anh nhà báo Osin Huy Đức lại khuyên ta không nên nhờ Mỹ, không nên theo Mỹ. Không nhờ Mỹ thì nhờ ai? Một mình ta đánh sao lại Trung Cộng? Không lẽ im lặng cúi đầu cho Trung cộng đánh đập, giết chóc? Ta tự lực nhưng cũng cần sự giúp đỡ của anh em bốn bể năm châu! Những kẻ lý luận như trên là đứng vào phe Trung Cộng, khuyên ta đầu hàng Trung Cộng. Những kẻ ấy là tay sai mà còn ra vẻ khôn ngoan dạy đời. Hãy nhìn xem một gia đình có mẹ nằm bệnh viện, nhà cửa sắp bị chiếm đoạt vì vay nợ xã hội đen. Người con gái da vàng phải đi làm để có tiền chữa bệnh cho mẹ, một một van xin bọn đầu gấu đừng đuổi nhà, và cầu cứu pháp luật che chở. Việc gửi tiền và van xin đó có trái luân lý mà bị ông kia mai mỉa. Tâm ông thật xấu.

Nếu quý ông là người Việt Nam, yêu nước Việt Nam có nhiều điều cần suy nghĩ về những sự kiện vô cùng phi lý::
-Tại sao Cộng sản ( Trung Cộng và Viêt Cộng)  nay nắm quyền cai trị, thâu tóm tài sản quốc gia thành tư sản đỏ mà lại bỏ nước sang Mỹ giống như  bọn "Mỹ Ngụy tháo chạy" và phản bội nước Cộng sản?
-Hồ Chí Minh là  HòTập Chương, gián điệp Trung Cộng cài vào trong hàng ngũ Việt Cộng để biến đảng Việt Cộng và quân đội Việt Cộng làm quân lê dương cho tham vọng bá quyền thế giới mà Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng có biết hay không? Lẽ nào không biết? Tại sao bọn họ im lặng? Nếu những tin tức trên là bịa đặt, do bọn phá hoại, phản động tung tin thật thiệt, tại sao trungt ương Cộng Đảng im lặng mà chỉ sai Bùi Tín, Vũ Thư Hiên đính đính một cách yếu ớt và khờ khạo?
-Ngày xưa Việt Cộng kêu gọi lòng yêu nước, nay sao bọn Nông Đức Mạnh, Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang  lại cúi đầu phục tùng Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình và ra lệnh công an đánh giết và bỏ tù nhân dân? Vậy Việt Cộng yêu nước, bác Cáo yêu nước, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp là yêu nước hay bán nước? Phải chăng Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình,  Lưu Thiếu Kỳ, Hồ Chií Minh đã lừa đảo nhân dân ta?




Trận chiến sắp tới là trận chiến của Á Châu, của toàn cầu, Việt Nam ta không lẻ loi. Chúng ta còn chờ ngọn gió Đông. Ngày Độc lập và Tự Do sẽ đến.

No comments:

Post a Comment