Monday, August 29, 2016
TRẦN GIA PHỤNG * NGÔ ĐÌNH DIỆM
Tại sao ông Ngô Đình Diệm không làm Thủ tướng năm 1945?
Trần Gia Phụng (Danlambao) - ...Khi
gặp nhau, ông Diệm cho Hayashi biết ông ta không có ý định làm thủ
tướng theo lời mời của vua Bảo Đại, mà ông Diệm chỉ muốn một điều là Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để về Việt Nam thay thế vua Bảo Đại. Ông Diệm tỏ ra bất
bình Hayashi không báo cho ông biết tin tức đảo chính ngày 9-3, vì
Hayashi liên lạc cá nhân khá thân tình với ông Diệm trong thời gian
người Nhật bảo vệ ông Diệm ở Sài Gòn. Một lý do khác khiến ông Diệm từ
chối lời mời của vua Bảo Đai vì ông Diệm nhận định rằng tình hình người
Nhật đang suy yếu một cách nhanh chóng, và thật là thiếu sáng suốt nếu
lập chính phủ dưới sự chiếm đóng của người Nhật. Cuối cùng, theo đề nghị
của Hayashi, ông Diệm viết thư cho vua Bảo Đại bằng tiếng Pháp, từ chối
lời mời của nhà vua, đơn thuần chỉ vì lý do sức khỏe...
*
1. Vua Bảo Đại tìm kiếm người xưa
Sau khi đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945, Nhật Bản quyết định trao trả độc
lập lại cho Việt Nam. Vua Bảo Đại tuyên bố độc lập ngày 11-3-1945 và tìm
chọn người lập chính phủ. Nhà vua nhờ người Nhật tìm quan Lại bộ thượng
thư cũ (năm 1933) là Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn, nhưng đợi mãi không gặp,
vua giao cho học giả Trần Trọng Kim làm thủ tướng.
![]() |
Vua Bảo Đại |
Vua Bảo Đại xác nhận điều nầy trong đạo dụ số 5 ngày 17-4-1945, chuẩn y nội các Trần Trọng Kim. Nhà vua tuyên bố: "Trẫm
đã định giao quyền tổ-chức Nội-các mới cho nguyên Lại bộ thượng-thư
Ngô-đình-Diệm và đã nhờ Quí-quan tối-cao Cố-vấn [Nhật tên Masayuki
Yokoyama] và sắc phong Ngự-tiền văn-phòng gửi thư và đánh điện tuyên
triệu. Nhưng ngày hôm qua Quí-quan tối cao Cố-vấn phúc rằng Ngô khanh
đau không về chầu được." (Nguyễn Duy Phương, Lịch-sử và nội-các đầu tiên Việt-Nam, Hà-Nội: Việt-Đông xuất-bản cục, 1945, tr. 4.)
Kể lại chuyện vua Bảo Đại gợi ý việc lập chính phủ, Trần Trọng Kim thuật như sau:
“Tôi tâu rằng: "Việc lập chính phủ, Ngài nên dùng người đã dự định từ
trước, như Ngô-Đình-Diệm chẳng hạn, để có tổ chức sẵn sàng. Tôi nay
phần thì già yếu bệnh tật, phần thì không có đảng phái và không hoạt
động về chính trị, tôi xin Ngài cho tôi về nghỉ.
Ngài nói: “Trẫm có điện gọi cả Ngô-Đình-Diệm về, sao không thấy về.
Tôi tâu: “Khi tôi qua Sài Gòn, có gặp Ngô-Đình-Diệm và ông ấy bảo
không thấy người Nhật nói gì cả. Vậy hoặc có sự gì sai lạc chăng. Ngài
cho điện lần nữa gọi ông ấy về. Còn tôi thì xin Ngài cho tôi ra Bắc.
Ngài nói: "Vậy ông ở đây nghỉ ít lâu, xem thế nào rồi hãy ra Bắc.
Lúc ấy tôi mệt nhọc lắm, và có mấy người như bọn ông Hoàng-Xuân-Hãn
đều bảo tôi thử trở lại. Tôi chờ đến gần mười ngày. Cách đó ba bốn hôm
tôi lại đi hỏi ông tối cao cố vấn Nhật xem có tin tức gì về ông Diệm
chưa. Trước thì cố vấn Nhật nói chưa biết ông Diệm ở đâu, sau nói ông
Diệm đau chưa về được. Đó là lời tối cao cố vấn, chứ tự ông Diệm không
có điện riêng xác định lại.
Vua Bảo Đại thấy tình thế kéo dài mãi cũng sốt ruột, triệu tôi vào bảo tôi chịu khó lập chính phủ mới.” (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tt. 49-50.)
Như thế, theo Trần Trọng Kim, vua Bảo Đại thực tâm có ý muốn tìm Ngô
Đình Diệm về Huế lập chính phủ, nhưng sau lần thứ hai nhờ người Nhật,
thì được tin ông Diệm đau không về Huế được. Vua Bảo Đại phải mời Trần
Trọng Kim làm thủ tướng. Trần Trọng Kim kiếm cách từ chối, thì vua Bảo
Đại nói:
“Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải là
độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu
không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tức họ lập cách cai
trị theo thể lệ nhà binh thì rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa
vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.
Tôi thấy vua Bảo Đại thông minh và am hiểu tình thế liền tâu rằng:
“Nếu vì quyền lợi riêng, tôi không dám nhận chức gì cả, song Ngài nói vì
nghĩa vụ đối với nước, thì dù sao tôi cũng cố hết sức...” (Trần Trọng Kim, sđd. tr. 51.)
Ông Kim nói đã gặp ông Diệm ở Sài Gòn, vì khi ông Kim từ Bangkok về đến
Sài Gòn ngày 30-3-1945 và tạm trú ba ngày tại nhà một người Nhật tên là
Mitsuhiro Matsushita, thì ông Kim gặp ông Diệm tại đây. Đây là lần đầu
tiên hai người gặp nhau. (Masaya Shiraishi, “The Background to the Formation of the Tran Trong Kim Cabinet in April 1945: Japanese Plans for Governing Vietnam”, đăng trong sách Indochina In The 1940s and 1950s, Takashi Shiraishi và Motoo Furuta chủ biên, New York: Cornell, 1992, tr. 138.)
2. Chủ trương của người Nhật
Về phía người Nhật, người Nhật tính toán thật kỹ ngay từ khi mới đến
Đông Dương năm 1940. Người Nhật chủ trương chẳng những duy trì sự cai
trị của người Pháp mà còn khuyến khích và tăng cường sự hợp tác giữa hai
bên Pháp-Nhật. Bộ tổng tham mưu quân đội Nhật và đại tướng Hideki Tojo,
thủ tướng Nhật từ 17-10-1941 đến 22-7-1944, cho rằng loại bỏ người Pháp
ở Đông Dương đồng nghĩa với việc người Nhật phải tăng quân tại Đông
Dương và nhứt là phải lo tổ chức hành chánh và bảo vệ Đông Dương cùng
những hệ lụy phức tạp khác. Lúc đó, Đông Dương là thuộc địa của thực dân
da trắng duy nhứt ở Đông Nam Á dưới sự kiểm soát của người Nhật.
(Masaya Shiraishi, bđd., sđd. tt. 114-115.)
Tuy nhiên, người Nhật vẫn chuẩn bị những lá bài dự bị để ứng phó với
tình thế khi cần. Ví dụ trường hợp Trần Trọng Kim và Kỳ Ngoại Hầu Cường
Để với Ngô Đình Diệm.
![]() |
Trần Trọng Kim |
Trần Trọng Kim (1882-1953), sinh tại Hà Tĩnh, học trường Vinh, rồi
trường thông sự Ninh Bình. Năm 1905, ông qua Pháp học trường Thương mại
La Salle tại Lyon, sau chuyển qua học trường Thuộc Địa ở Paris, rồi
trường Sư phạm Melun. Tốt nghiệp năm 1911, ông về nước dạy học rồi làm
thanh tra tiểu học và cuối cùng hưu trí năm 1942. Ông viết nhiều sách
giá trị về văn chương, triết học, nhất là bộ Việt Nam sử lược, xuất bản
lần đầu năm 1920 tại Hà Nội. Do những trao đổi về văn hóa với người
Nhật, Trần Trọng Kim bị người Pháp nghi ngờ và theo dõi. Năm 1943, người
Nhật đưa Trần Trọng Kim vào Sài Gòn cùng Dương Bá Trạc, rồi đưa hai ông
cùng Trần Văn Ân và Nguyễn Văn Sâm qua Singapore, đầu năm 1944. Tại đây
ông Trạc từ trần vào cuối năm 1944. Đầu năm 1945, ông Kim đi Bangkok.
Sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945, đại uý Michio Kuga, thuộc văn
phòng liên lạc quân đội Nhật ở Sài Gòn qua Bangkok đưa ông Kim về Việt
Nam ngày 30-3. Trần Trọng Kim đến Huế ngày 5-4-1945 và được mời triều
yết vua Bảo Đại ngày 7-4-1945.
Trường hợp Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và Ngô Đình Diệm cũng do người Nhật sắp
đặt. Cường Để qua Nhật từ 1906, thời phong trào Đông du. Pháp biết được
hoạt động Đông du, liền liên lạc với Nhật và yêu cầu Nhật trục xuất
nhóm Đông du để đổi lại nhiều quyền lợi kinh tế ở Đông Dương. Phan Bội
Châu và Cường Để phải rời Nhật Bản năm 1909. Riêng Cường Để, sau một
thời gian lưu lạc ở Trung Hoa và các nước Âu Châu, trở lại Nhật năm 1915
theo lời mời của chính khách Nhật là Inukai Ki (Khuyển Dưỡng Nghị). Từ
đó, Cường Để âm thầm hoạt động giữa Nhật Bản và Trung Hoa. Năm 1936,
Cường Để thành lập Việt Nam Độc Lập Vận Động Đồng Minh Hội. Tổ chức nầy
đổi tên thành Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội năm 1938, gọi tắt là Đồng
Minh Hội, trụ sở chính tại Tokyo, với sự giúp đỡ của đại tá tình báo
Nhật là Takaji Wachi. Đồng Minh Hội ra mắt ngày 12-3-1939.
![]() |
Cường Để |
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để liên lạc ở trong nước với giáo phái Cao Đài ở Tây
Ninh, giao cho Trần Quang Vinh và Trần Văn Ân phụ trách liên lạc miền
Nam, Ngô Đình Diệm và Phan Thúc Ngô phụ trách liên lạc miền Trung, Dương
Bá Trạc, Vũ Đình Dy và Nguyễn Xuân Chữ phụ trách liên lạc miền Bắc.
(Trần Mỹ Vân, A Vietnamese Royal Exile in Japan, Prince Cường Để
(1882-1951), New York: Routledge, 2005, tt. 142-143.) Trong số những
người theo Cường Để trên đây, năm 1943, Vũ Đình Dy ở Hà Nội và Phan Thúc
Ngô ở Huế, qua Nhật gặp Cường Để. (Masaya Shiraishi, bđd. sđd. tt.
116-118.)
Ngô Đình Diệm (1901-1963) xuất thân từ Trường Hậu bổ Huế năm 1921, làm
quan lên dần tới thượng thư bộ Lại năm 1933, nhưng từ chức ba tháng sau
đó. Ông tham gia Quang Phục Hội do Cường Để lãnh đạo năm 1939. Ông Diệm
bị Pháp nghi ngờ nên vào tháng 7-1944, viên thư ký Tòa lãnh sự Nhật ở
Huế là Masao Ishida nhờ hiến binh Nhật (Kempeitai) giúp bảo vệ ông Diệm.
Người Nhật đưa ông Diệm vào Đà Nẵng, rồi đưa ông Diệm đáp máy bay quân
sự Nhật vào Sài Gòn. Từ đó, ông Diệm được đạo quân Nhật đồn trú ở Sài
Gòn trực tiếp bảo vệ. (Masaya Shiraishi, bđd, sđd, tr. 118.)
Được tin Ngô Đình Diệm bị Pháp theo dõi và đe dọa, từ Vĩnh Long, giám
mục Ngô Đình Thục, gởi cho đô đốc Jean Decoux, toàn quyền Pháp ở Đông
Dương, một thư viết tay bằng tiếng Pháp đề ngày 21-8-1944, với lời lẽ
rất thống thiết bảo lãnh em mình. (Nguyên văn thư nầy được photocopy và
đăng trong sách Nguyên Vũ, Paris Xuân 96, Houston, Nxb. Văn Hóa, tr. 172 và đăng lại trên Internet.)
3. Nhật quyết định đảo chánh
Trong khi đó, người Nhật gởi Vũ Đình Dy từ Nhật về lại Sài Gòn với mục
đích là thay mặt Cường Để liên lạc với các thành phần thân Nhật và kiếm
cách đưa họ qua Nhật. Vũ Đình Dy cùng Ngô Đình Diệm hội họp với nhóm
hoạt động chính trị thân Nhật như Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn... Cuộc họp
đưa đến thỏa thuận vào tháng 10-1944 là cùng nhau hợp tác dưới sự lãnh
đạo của Ngô Đình Diệm, đồng thời đề nghị người Nhật thành lập một chính
quyền mới do ông Diệm lãnh đạo khi điều kiện thuận lợi. Cũng vào tháng
10-1944, thiếu tướng Saburo Kawamura, tham mưu trưởng đạo quân Nhật đồn
trú tại Sài Gòn đi Nhật, đưa Lê Toàn cùng một đồng đội của Toàn đi theo.
(Masaya Shiraishi, bđd, sđd, tr. 118.)
Những biến chuyển trên đây cho thấy là sắp đến lúc quân đội Nhật tổ chức
lật đổ chính quyền Pháp ở Đông Dương. Thật vậy, trong cuộc họp ngày
14-9-1944, Hội đồng tối cao Kế hoạch Chiến tranh của Nhật Bản bàn về
“Những biện pháp đối với Đông Dương thuộc Pháp nhằm đối phó với sự thay
đổi tình hình”, vì lúc đó tại Âu Châu, Đức bắt đầu thất bại, chính phủ
Vichy thân Đức ở Pháp do thống chế Pétain cầm đầu sụp đổ vào tháng
8-1944, và thiếu tướng Charles de Gaulle về Paris lập chính phủ lâm
thời.
Trong cuộc họp nầy, Hội đồng tối cao Kế hoạch Chiến tranh dự tính rằng
biện pháp quân sự ở Đông Dương chỉ được sử dụng trong hoàn cảnh không
thể tránh được. Điều nầy phản ảnh chủ trương của giới quân sự cao cấp,
không muốn sử dụng quân đội để lật đổ chính quyền Pháp tại Đông Dương,
bởi vì lúc đó Nhật đang tập trung lực lượng cho chiến dịch Philippines.
Tuy nhiên, giới quân sự Nhật ở Đông Dương lại diễn dịch quyết định ngày
14-9 rằng đã đến lúc cần phải lật đổ Pháp bằng quân sự. Khi từ Tokyo về
Sài Gòn, thiếu tướng Kawamura ra lệnh soạn thảo dự án cai trị Đông
Dương sau cuộc đảo chánh quân sự.
Theo Hidezumi Hayashi, lúc đó là trung tá hiến binh Nhật đồng thời là
phụ tá chính trị cho thiếu tướng Kawamura, thì bản dự thảo nầy phỏng
theo cách cai trị của quân đội Nhật ở các vùng khác do Nhật chiếm đóng
tại Đông Nam Á. Hayashi không đồng ý kế hoạch nầy vì ba lý do: 1) Quân
đội Nhật ở Đông Dương cần tập trung ở Cánh đồng Chum (Lào), vì vậy không
nên dính sâu vào những vấn đề chính trị. 2) Đông Dương không đủ tài
nguyên cần thiết cho cuộc cai trị của quân đội. 3) Cần thu phục nhân tâm
dân bản xứ Đông Dương nhằm đừng đẩy họ về phía Đồng minh Tây phương. Để
lôi kéo họ thì cần thỏa mãn nguyện vọng sâu xa của họ là giải thoát
khỏi ách thống trị của Pháp, nghĩa là phải trả độc lập cho họ. Tuy
nhiên, không thể tức khắc chuyển giao nền hành chánh trung ương (toàn
quyền Pháp ở Đông Dương) cho ba nước Việt, Miên, Lào, nên quân đội Nhật
phải tạm thời đảm trách một thời gian cho đến khi chuyển giao được cho
ba nước nầy.
Dựa trên những quan niệm trên đây, Hayashi đưa ra đề nghị trao trả độc
lập cho ba nước Đông Dương và thành lập một chính quyền thân Nhật ở Việt
Nam do Cường Để đứng đầu và Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Ngày
27-12-1944, Hayashi trình lên thiếu tướng Saburõ Kawamura, nay là tham
mưu trưởng Quân đoàn 38 vì từ tháng 12-1944, đạo quân Nhật đồn trú ở Sài
Gòn được chuyển đổi thành Quân đoàn 38. Thiếu tướng Kawamura chính thức
thừa nhận kế hoạch Hayashi trong một cuộc họp quân sự trong ngày hôm
sau 28-12-1944. (Masaya Shiraishi, bđd, sđd, tr. 120-121.)
Tuy nhiên nhiên kế hoạch nầy phải đợi sự chấp thuận của tân tư lệnh Quân
đoàn 38 là trung tướng Yuichi Tsuchihashi. Sau khi bàn giao đơn vị cũ ở
Timor, trung tướng Tsuchihashi đến Sài Gòn ngày 14-11-1944 và nhận chức
vụ mới là tư lệnh Quân đoàn 38 ngày 14-12-1944 thay trung tướng
Kazumoto Machijiri. Ngay sau đó, trung tướng Tsuchihashi rời Sài Gòn đi
Hà Nội ngày 18-12-1944 để gặp toàn quyền Pháp tại Đông Dương là đô đốc
Jean Decoux. Như thế, kế hoạch của Hayashi được thiếu tướng Kawamura
thông qua, nhưng chưa được tân tư lệnh Quân đoàn 38 chấp thuận.
Từ tháng 4-1944, Mamoru Shigemitsu lên làm bộ tưởng bộ Ngoại giao Nhật
Bản. Ông nầy liền hối thúc việc lật đổ chính quyền Pháp tại Đông Dương.
Shigemitsu cho rằng trao trả độc lập cho các nước trong vùng Nhật chiếm
đóng, sẽ gây trở ngại cho Mỹ hay Tây Âu khó trở lui các nước nầy dầu
Nhật Bản thất trận. (Masaya Shiraishi, bđd., sđd. tt. 121-122.)
Đại tướng Yoshihiro Umezu, tham mưu trưởng quân đội Nhật, trả lời đồng ý
trên nguyên tắc, nhưng cần phải nghiên cứu cẩn thận và chuẩn bị đầy đủ.
Tuy nhiên, do việc quân đội Nhật thất bại ở Philippines, nên quân đội
Nhật nay cũng muốn sớm làm chủ Đông Dương, để biến Đông Dương thành hậu
cứ của quân đội Nhật ở Đông Nam Á. Vì vậy, tháng 12-1944, đạo quân Nhật
đồn trú ở Sài Gòn được đổi thành Quân đoàn 38. Lúc đó, ngày 11 và
12-1-1945, phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc mạnh mẽ khắp Đông Dương và trên Biển
Đông, gây thiệt hại nặng cho hải quân Nhật tại vùng nầy. Người Nhật cho
rằng đó là dấu hiệu lực lượng Đồng minh sắp đổ bộ Đông Dương. Tuy việc
đổ bộ không xảy ra, nhưng người Nhật nghĩ rằng đã đến lúc phải dứt khoát
lật đổ Pháp ở Đông Dương. Người Nhật lo ngại nhà cầm quyền Pháp ở Đông
Dương vâng lệnh chính phủ De Gaulle, làm nội ứng cho quân Đồng minh thì
rất tai hại cho quân Nhật.
Như thế là giữa bộ Ngoại giao và bộ tổng tư lệnh quân đội Nhật ở Tokyo
đồng thuận việc lật đổ nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương, nhưng lại xảy ra
những bất đồng khác trong nội bộ người Nhật, nhất là việc giao cho ai
lãnh đạo Việt Nam và việc sắp đặt bộ máy hành chánh tại Đông Dương giữa
giới ngoại giao và giới quân sự. Cuộc tranh cãi trong nội bộ người Nhật
gay gắt đến nỗi vào đầu tháng 3-1945, đại sứ Nhật Shunichi Matsumoto từ
chức, trước khi quân Nhật đảo chánh.
4. Không mời Cường Để
Riêng về vấn đề nhà cầm quyền Việt Nam, để tránh xáo trộn, gây thêm khó
khăn, bộ Ngoại giao Nhật cũng như bộ Tổng tham mưu quân đội Nhật quyết
định duy trì vua Bảo Đại ở ngôi báu, giữ nguyên nền hành chánh bản xứ,
không đưa hoàng thân Cường Để về nước thay thế vua Bảo Đại. Tháng
1-1945, có một phái đoàn từ Tokyo đến Việt Nam vận động đưa Cường Để lên
ngôi. Thiếu tướng tham mưu trưởng Quân đoàn 38 là Kawamura hỏi ý trung
tướng tư lệnh là Tsuchihashi, thì Tsuchihashi trả lời: “Tốt nhất là từ chối.”
Cuối tháng 2-1945, một nhân vật từ Tokyo đến Sài Gòn, nói với trung
tướng Tsuchihashi là nên đưa Cường Để về Sài Gòn, thì Tsuchihachi trả
lời gay gắt: "Đưa ông ta về đây thì phải biết rằng khi ông ta đến phi cảng Sài Gòn, tôi sẽ gởi ông ta ra nhà tù Côn Sơn." (Masaya Shirashi, bđd. sđd. tr. 135.)
Sau cuộc đảo chánh thành công ngày 9-3-1945 trên toàn Đông Dương, cố vấn
tối cao Masayuki Yokoyama, tổng lãnh sự Akira Konagaya và lãnh sự Taizo
Watanabe đến điện Thái Hòa, trong hoàng cung ở Huế, sáng 11-3-1945,
triều yết vua Bảo Đại. Mở đầu cuộc đàm đạo, vua Bảo Đại thẳng thắn bày
tỏ nỗi kinh ngạc của nhà vua với Yokoyama là tại sao ông đại sứ không
nói chuyện với hoàng thân Cường Để là người sát cánh với chính quyền
Nhật trong cuộc tranh đấu chống Pháp, mà lại đến hoàng cung nói chuyện
với nhà vua. Đáp lại, Yokoyama cho rằng việc Cường Để đã qua, không còn
thích hợp. Yokoyama giải thích với vua Bảo Đại về những hành động mới
nhứt của Nhật trên toàn cõi Đông Dương và tuyên bố “muốn đem châu Á trả về cho người châu Á.” Ông ta còn nói rằng ông ta “có nhiệm vụ dâng nền độc lập”
lên vua Bảo Đại, đồng thời kêu gọi Việt Nam cùng các nước Đông Dương
gia nhập khối Đại Đông Á do Nhật đứng đầu. Khối nầy đã được chính phủ
Nhật công bố thành lập ngày 1-8-1940, cách đó 5 năm. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Xuân Thu, 1990, tr. 158-159.)
Ngay chiều 11-3-1945, vua Bảo Đại triệu tập Cơ mật viện, các thượng thư,
các hoàng thân để thảo luận tình hình mới. Cuộc họp đưa đến kết quả là
nhà vua cùng các thượng thư Phạm Quỳnh (bộ Lại), Hồ Đắc Khải (bộ Hộ),
Ưng Hy (bộ Lễ), Bùi Bằng Đoàn (bộ Hình), Trần Thanh Đạt (bộ Học), Trương
Như Đính (bộ Công) đồng ký Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Phạm Quỳnh soạn.
Như thế, sau hơn 60 năm bị người Pháp bảo hộ từ năm 1884, nay nước Việt
Nam chính thức độc lập do tình hình thế giới biến chuyển và do sự can
thiệp của Nhật Bản. Sau đó, Phạm Quỳnh cùng toàn thể 5 thượng thư từ
chức.
Vua Bảo Đại liền triệu tập nhân sĩ khắp nước về Huế để thăm dò việc
thành lập chính phủ mới. Nhà vua nghĩ rằng người có thể đáp ứng được
tình thế mới là cựu thượng thư bộ Lại Ngô Đình Diệm. Nhà vua liền nhờ
người Nhật tìm kiếm ông Diệm để mời ông ra chấp chính. Người Nhật trả
lời không kiếm được ông Diệm mặc dầu ông đang sống ở Sài Gòn.
Vua Bảo Đại liền mời Trần Trọng Kim, nhưng như trên đã viết, ông Kim đề
nghị nhà vua nhờ người Nhật tìm kiếm Ngô Đình Diệm lần nữa. Lần nầy,
người Nhật giao việc liên lạc với ông Diệm cho Hidezumi Hayashi, trung
tá hiến binh Nhật. Hayashi là tác giả kế hoạch ngày 27-12-1944, đề nghị
đưa hoàng thân Cường Để về Việt Nam cầm quyền và đưa Ngô Đình Diệm lên
làm thủ tướng. Ông Diệm lúc đó đang ở Vĩnh Long với giám mục Ngô Đình
Thục.
Khi gặp nhau, ông Diệm cho Hayashi biết ông ta không có ý định làm thủ
tướng theo lời mời của vua Bảo Đại, mà ông Diệm chỉ muốn một điều là Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để về Việt Nam thay thế vua Bảo Đại. Ông Diệm tỏ ra bất
bình Hayashi không báo cho ông biết tin tức đảo chính ngày 9-3, vì
Hayashi liên lạc cá nhân khá thân tình với ông Diệm trong thời gian
người Nhật bảo vệ ông Diệm ở Sài Gòn. Một lý do khác khiến ông Diệm từ
chối lời mời của vua Bảo Đai vì ông Diệm nhận định rằng tình hình người
Nhật đang suy yếu một cách nhanh chóng, và thật là thiếu sáng suốt nếu
lập chính phủ dưới sự chiếm đóng của người Nhật. Cuối cùng, theo đề nghị
của Hayashi, ông Diệm viết thư cho vua Bảo Đại bằng tiếng Pháp, từ chối
lời mời của nhà vua, đơn thuần chỉ vì lý do sức khỏe. (Masaya
Shiraishi, bđd., sđd., tt. 137-138.)
Trần Trọng Kim cũng được thông báo cho biết tin nầy, nên ông Kim mới
nhận lời mời lần thứ hai của vua Bảo Đại, đứng ra thành lập nội các.
(Masaya Shiraishi, bđd sđd. tt. 138-139.) Nội các Trần Trọng Kim trình
diện ngày 17-4-1945, gồm những nhà trí thức khoa bảng cùng chuyên viên,
và đặc biệt không có người thân Nhật, dầu nội các nầy do Nhật bảo trợ.
Kết luận
Ngay từ khi mới đến Đông Dương, chính sách của Nhật là kiểm soát Đông
Dương nhưng vẫn để cho Pháp cai trị Đông Dương, để Nhật khỏi bận tâm
chuyện hành chánh và an ninh, cho đến khi tình thế bắt buộc, mới lật đổ
Pháp ở Đông Dương ngày 9-3-1945. Trong lúc khó khăn, Nhật lại càng không
muốn tạo thêm khó khăn mới, nên không thay đổi nền quân chủ ở Việt Nam.
Vì vậy, dầu Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và Ngô Đình Diệm đã từng sát cánh
hoạt động với người Nhật, cũng không được người Nhật đưa về nước cầm
quyền. Theo Trần Trọng Kim, có thể vì người Nhật không chọn Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để mà chọn vua Bảo Đại, nên người Nhật không mời Ngô Đình Diệm.
(Trần Trọng Kim, sđd. tt. 49-50.)
Về phía Ngô Đình Diệm, có thể ông Diệm không vui lòng khi thấy người
Nhật không thực tâm và thờ ơ với mình, chuyển lời mời của vua Bảo Đại
đến ông quá trễ, và nhất là khi thấy tình thế của người Nhật không được
sáng sủa, Nhật đang suy yếu dần, ông Diệm liền từ chối lời mời của vua
Bảo Đại.
Có người đặt ra một câu hỏi là nếu Kỳ Ngoại Hầu Cường Để về làm vua và
ông Diệm làm thủ tướng năm 1945, thì Việt Nam sẽ đi về đâu? Câu hỏi
không bao giờ có phần trả lời vì không thể quay ngược thời gian để làm
lại lịch sử.
30.08.2016
SONG CHI * NGƯỜI VIỆT KHEN CHÊ
Người Việt và xu hướng khen ngợi nồng nhiệt hay thất vọng thái quá
Chủ Nhật, 08/28/2016 - 18:05 — songchi
Âu cũng là tự nhiên, thường tình. Bàn tay còn có ngón dài ngón ngắn huống hồ cả một dân tộc hơn 90 triệu người, trong và ngoài nước. Nhưng điều đáng buồn hơn là sự khác biệt đó đã tạo nên sự chia rẽ trong người Việt, dù ở trong hay ngoài nước. Nếu như cộng đồng người Việt hải ngoại hơn 40 năm nay có biết bao nhiêu đảng phái, tổ chức chống Cộng nhưng vẫn không thể ngồi lại với nhau vì mục đích chung thì ở trong nước cũng không khá hơn, nhiều cá nhân, nhiều nhóm, tổ chức dân sự thành lập nhưng cũng chưa thể kết nối thành một phong trào chung.
Song Chi.
Một nhà thơ nổi tiếng trên mạng xã hội vì có những bài thơ 5 chữ mang
tính thời sự xã hội, nói lên những bức xúc, vui buồn, cảm nghĩ của mình
trước những sự trái tai gai mắt thường ngày. Nhiều người thích vì những
bài thơ ấy đơn giản, dễ nhớ dễ thuộc, nói đúng những điều họ cảm, họ
nghĩ. Mặt khác, trên mạng xã hội, báo chí “lề trái” có rất nhiều cây bút
viết blog, viết báo, chính luận hay, nhưng chỉ có một nhà thơ ấy với
những bài thơ 5 chữ nói chuyện thời sự, có lẽ vì vậy mà ông được nhiều
người biết.
Và rồi, do thiện cảm, do đồng tình với những suy nghĩ của nhà thơ, một
số người đã xem nhà thơ ấy như một người bất đồng chính kiến, dám nói
lên sự thật và dám đấu tranh không chỉ chống lại những cái xấu của xã
hội mà cả cái chế độ cộng sản thối nát này.
Cho đến khi nhà thơ viết bài “Đôi lời” trên facebook của mình khen ông Nguyễn Phú Trọng liêm khiết, tin “lãnh đạo ta không bán nước cho Tàu”, bộc bạch: “Tôi
không thích cộng sản, nhưng vẫn ghi nhận, thậm chí biết ơn những gì chế
độ đã làm cho đất nước từ ngày đổi mới. Chúng ta từ một nước cực nghèo
mà được thế này là quá tốt rồi….Tôi tin sớm muộn đất nước mình sẽ có dân
chủ và tự do thực sự. Tạm thời chưa có được cái đích tốt đẹp ấy thì tạm
hài lòng với những gì đã có, và chung sức cùng đồng bào đấu tranh (một
cách xây dựng) để đạt được điều ấy” và khen cả dàn lãnh đạo chính phủ mới vận hành được… Sau đó ông còn nhắc lại những ý của mình bằng một bài thơ.
Dư luận lập tức dậy sóng, nhiều ý kiến chỉ trích, kể cả nặng nề, cho
rằng nhà thơ đã nói ngược lại, thậm chí phản bội lại những gì đã viết.
Có người còn đặt ra giả thuyết phải chăng facebook của ông bị hack, hay
ông bị sức ép nào đó từ phía công an nên buộc phải viết thế. Cuối cùng,
nhà thơ viết thêm một bài “Thông điệp hôm nay. Cải chính” nói rõ rằng không bị an ninh hay ai gây sức ép cả:
“Xưa nay tôi vẫn thế, cái gì chưa được thì nói, một cách đàng hoàng
và xây dựng. Cái gì hay thì khen, nhỏ cũng khen, thậm chí còn cố tìm cái
tốt để khen.
Tôi thực sự vui mừng vì đất nước đã đổi mới, đời sống người dân khá
hơn xưa, có thể nói đổi đời. Trong chừng mực nào đó người dân đã có tự
do và dân chủ. Cả nhân quyền. Đảng lãnh đạo đất nước thì có vai trò lớn
trong việc này và phải ghi nhận. Còn tham nhũng, tiêu cực này nọ là
chuyện khác, chuyện nghiêm trọng, và tôi sẽ tiếp tục phản biện về chuyện
này.
Vì biết không còn cách nào khác, tôi chỉ mong đảng đổi mới hơn nữa.
Tôi lên tiếng với hy vọng đảng và nhà nước nhận thấy vấn đề và có chính
sách thích hợp.”
Thiết tưởng quan điểm như thế là quá rõ. Là chỉ muốn đóng góp xây dựng
cho đất nước và cho đảng. Mong đảng đổi mới. Ghi nhận những cái tốt,
công ơn của đảng và chỉ ra những cái xấu trong xã hội để mong đảng “đổi
mới hơn nữa”, “nhận thấy vấn đề và có chính sách thích hợp.”
Trước đây có lẽ là do không nói rõ (?) nên nhiều người hiểu nhầm thái độ
“phản biện với tinh thần xây dựng, đóng góp” của nhà thơ thành ra thái
độ của một người bất đồng chính kiến hay đấu tranh dân chủ.
Trường hợp của nhà thơ nói trên không phải là ít trong xã hội VN. Do
những nguyên nhân lịch sử, xã hội VN trong suốt thế kỷ XX cho tới tận
thời điểm hiện tại vẫn có nhiều mâu thuẫn, xung đột về chính trị, và
người Việt là một dân tộc vẫn còn nhiều bất đồng, chia rẽ sâu sắc về
quan điểm, thái độ, tư tưởng chính trị, giữa người thuộc nhóm này với
nhóm khác, giữa người miền Bắc và người miền Nam, giữa người trong nước
và ở nước ngoài, giữa các tổ chức, đảng phái khác nhau.
Không thể phủ nhận là nhờ có internet, nhờ có sự giao lưu gián tiếp hay
trưc tiếp với thế giới bên ngoài qua các kênh truyền thông, qua tìm
hiểu, nghe kể, thậm chí nhìn thấy tận mắt và so sánh giữa thực tế đời
sống ở VN và các nước tự do, dân chủ, phát triển..., con số người Việt
nhận ra những cái tệ hại, thua kém của VN so với nhiều nước khác, những
bất công, phi lý trong xã hội và cái dở, cái tệ của nhà nước ngày càng
nhiều. Và cũng ngày càng nhiều người thuộc mọi lứa tuổi, thành phần, kể
cả những người từng cầm súng dưới màu cờ của đảng cộng sản, con em gia
đình cán bộ, đảng viên…lên tiếng phản biện, chỉ trích nhà cầm quyền hoặc
nói lên sự thật xã hội, sự thật lịch sử.
Nhưng không phải ai cũng quyết liệt tư tưởng 100%. Không phải ai cũng
nghĩ được rằng “cộng sản không thể tự thay đổi, sửa đổi mà chỉ có thể bị
thay thế, bị đào thải vĩnh viễn” (nhiều người cho rằng Boris Yelsin,
Cựu Tổng thống đầu tiên của nước Nga thời hậu Xô viết đã nói một câu ý
tương tự nhưng tôi tìm trong hàng loạt quotes nổi tiếng về chủ nghĩa
cộng sản của ông, không thấy có câu này)
Trên chặng đường dài của sự thay đổi về nhận thức, có người rõ ràng,
thậm chí quyết liệt, có người chỉ chịu thừa nhận đảng “ta” bây giờ có
nhiểu cái sai nhưng trước kia đảng “ta” không thế. Có người hiểu rõ bản
chất của đảng cộng sản ngay từ đầu và toàn bộ lịch sử đảng cộng sản VN
chỉ là một sự tuyên truyền, dối trá, người dân đã bị lừa, nhưng cũng có
những người vẫn cho rằng đảng cộng sản có công “xóa bỏ chế độ thực dân
phong kiến, đánh Pháp đuổi Mỹ, thống nhất đất nước”. Có người cho đến
giờ phút này vẫn tin rằng bác Hồ vẫn là vị thánh, mọi chuyện là do những
người khác và các thế hệ sau làm sai, nếu còn bác thì mọi chuyện đã
khác v.v…
Nghĩ về tương lai VN cũng thế, có người mong muốn một sự thay đổi toàn
diện để chuyển đổi sang mô hình thể chế chính trị tự do, dân chủ, tam
quyền phân lập, pháp trị, đa đảng, và đảng cộng sản phải biến đi giống
như mọi nước Đông Âu hậu cộng sản khác, nhưng có người vẫn hy vọng vào
sự “tự làm sạch”, “tự đổi mới” của đảng…
Sự khác biệt trong suy nghĩ, quan điểm, nhận thức đó như đã nói, lả hệ
quả của lịch sử bị chia cắt, chia rẽ trầm trọng, cộng với “nghệ thuật”
tuyên truyền, nhồi sọ qua bao thế hệ của đảng cộng sản và do từng cá
nhân mỗi người với xuất thân, “lý lịch”, trải nghiệm cuộc sống khác
nhau.
Những người sinh ra và lớn lên hoàn toàn trong chế độ XHCN ở miền Bắc
hoặc gia đình, bản thân có nhiều ràng buộc, nhận được nhiều bổng lộc của
chế độ thường khó thay đổi hơn, khó chấp nhận những sự thật hoàn toàn
trái ngược với những gì họ đã từng được giáo dục, từng tin. Nhất là về
tên gọi, ý nghĩa, mục đích thật sự của cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu
nước giải phóng miền Nam” hay những sự thật về nhân vật Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, cũng chính những người như vậy nếu thay đổi thì lại rõ ràng, dứt
khoát, không bao giờ còn chút mơ hồ, hy vọng gì nữa vào cái đảng này,
chế độ này. Ví dụ như đại tá-nhà báo Bùi Tín, nhà văn Dương Thu Hương,
cựu sĩ quan an ninh, nhà báo Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, người lính-blogger
Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, blogger Nguyễn Lân Thắng… và rất nhiều người
khác.
Trong khi đó, lại có trường hợp những người ở miền Nam, trước đây thuộc
thành phần chống lại chế độ VNCH hay còn gọi là thành phần “thân Cộng”,
đến khi ra nước ngoài đã hàng chục năm nay, được sống trong một quốc gia
tự do, dân chủ, tiến bộ, tôn trọng nhân quyền nhưng vẫn “thân Cộng” và
vẫn mong muốn, hy vọng vào những cơ hội hợp tác với nhà cầm quyền VN.Âu cũng là tự nhiên, thường tình. Bàn tay còn có ngón dài ngón ngắn huống hồ cả một dân tộc hơn 90 triệu người, trong và ngoài nước. Nhưng điều đáng buồn hơn là sự khác biệt đó đã tạo nên sự chia rẽ trong người Việt, dù ở trong hay ngoài nước. Nếu như cộng đồng người Việt hải ngoại hơn 40 năm nay có biết bao nhiêu đảng phái, tổ chức chống Cộng nhưng vẫn không thể ngồi lại với nhau vì mục đích chung thì ở trong nước cũng không khá hơn, nhiều cá nhân, nhiều nhóm, tổ chức dân sự thành lập nhưng cũng chưa thể kết nối thành một phong trào chung.
Trở lại với chuyện từng cá nhân, nếu người Việt nói chung bình tĩnh hơn,
đừng đòi hỏi bất cứ ai cũng phải rõ ràng dứt khoát 100% ngay về quan
điểm, nhận thức, dần dần theo thời gian con người sẽ tự thay đổi, còn
nếu không thay đổi thì ai sao mọi người cũng sẽ nhìn thấy và tự đánh giá
được.
Bên cạnh đó, dường như tâm trạng sốt ruột trước thời cuộc, tình thế và
sự biến chuyển quá chậm chạp của VN trong lúc đa số người dân vẫn bàng
quan với hiện trạng đất nước hay sợ hãi, cầu an, nên khi có bất cứ ai
dám lên tiếng, dám có những bài viết nói lên sự thật, phản biện, chỉ
trích nhà cầm quyền hoặc có những hành động như xuống đường biểu tình
chống Trung Quốc, đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ cho người
VN…chúng ta thường có khuynh hướng yêu mến, khen ngợi nồng nhiệt cũng
như hy vọng, tin tưởng nhiều vào người đó. Để rồi khi thấy người đó có
những hạn chế về quan điểm hay nhược điểm nào đó trong tính cách thì lại
thất vọng thái quá. Điều này đã từng xảy ra không phải chỉ một vài lần.
Cả hai thái cực có lẽ đều không nên.
Con đường đấu tranh để thay đổi tương lai, vận mệnh đất nước, dân tộc VN
là một con đường dài, gian nan và là trách nhiệm chung của tất cả con
dân Việt trong và ngoài nước, không của riêng ai, trong đó mỗi người dù
góp phần nhỏ bé, hay chỉ đi được một chặng đường cũng đã là quý. Và
chặng đường ấy sẽ ngắn hơn nếu ngày càng nhiều người hơn, cùng nắm tay
nhau, cùng đi được bên nhau.
NS. TUẤN KHANH* HỒNG KÔNG
Hồng Kông: không tự do, điện ảnh cũng chết mòn

Chủ Nhật, 08/28/2016 - 11:54 — tuankhanh
Có lẽ đã lâu lắm rồi, người mê điện ảnh Việt Nam đã dần quên đi thói
quen săn tìm phim Hồng Kông của mình. Kể từ năm 1997, sau khi được giao
về cho Trung Quốc, vùng kinh đô điện ảnh độc đáo của Châu Á đã như bị
hòa tan vào và khuynh hướng làm phim theo chủ trương, cũng như dưới
đường kéo kiểm duyệt của Bắc Kinh, khiến mọi thứ nhạt dần, hay nói một
cách khác là đang chết.
Từng là vùng đất tiên phong của điện ảnh châu Á, Hồng Kông có vị trí là
một trong những ngành công nghiệp giải trí điện ảnh lớn nhất và sáng tạo
nhất, luôn làm say mê hàng triệu triệu khán giả của mọi phần trên thế
giới với sắc thái riêng biệt của mình. Nơi đây còn tự hào là từng có các
nhà xuất khẩu phim và truyền hình nội dung lớn nhất, với khoảng từ 200
đến 300 sản phẩm mỗi năm trong thập niên 80 và 90. Nhưng giờ đây thì
Hồng Kông chỉ còn cho ra mắt được khoảng 20 phim một năm. Nếu tính thêm
các phim hợp tác với đại lục thì con số có thể nâng lên khoảng 50 phim,
nhưng hầu hết các phim đều phải dựa vào Quỹ Phát triển Điện ảnh (Film
Development Fund) mới có thể làm nổi.
Giáo sư Cheuk Pak Tong, giảng dạy về điện ảnh tại Đại học Hong Kong
Baptist University, nói rằng thị trường truyền thống bị mất dần, mà
người sản xuất phim ở Hồng Kông chỉ còn thị trường địa phương với khoảng
7 triệu người. “Đây là một thị trường nhỏ nên thậm chí không đủ sức để
thu hồi chi phí. Hơn nữa, vì hệ thống kiểm duyệt phim ở Trung Quốc,
nhiều bộ phim Hồng Kông nếu muốn giữa bẳn sắc riêng của mình, thì lại
không được duyệt để có trên màn hình ở Đại Lục. Đây là một lý do tại sao
ngành công nghiệp điện ảnh Hồng Kông bắt đầu co lại”, ông Cheuk Pak
Tong nói.
Những nhà làm phim ở Hồng Kông còn đối diện với vấn nạn từ các nhà sản
xuất mới, nhiều tiền từ Trung Quốc chạy sang với nhiều đòi hỏi kiểu trọc
phú. Phần lớn những sản phẩm này sau khi ra đời thường được gọi là phim
Trung Quốc và cũng không còn được bao nhiêu màu sắc độc đáo vùng kinh
đô điện ảnh này.
Fernado Eloy, nhà sản xuất phim Magnum Opus ở Macau, thì còn bi quan
hơn, “nó đang hấp hối, chắc trong khoảng 5 hay 6 năm nữa”, ông Elloy
nói. Nhà sản xuất này cũng như giới làm phim đang ngụ ý vào khoảng thời
gian sau năm 2020, tức Hồng Kông sẽ bị kiểm soát toàn bộ và mất hết giá
trị riêng của nền điện ảnh tiếng Quảng của mình. Ngày nay, nhiều nhà làm
phim ở Hồng Kông đã lẳng lặng di chuyển cơ ngơi của mình vào Trung Quốc
do thị trường lớn, giá rẻ và cũng có nghĩa là ký vào giấy cam kết sản
xuất phim theo nguyên tắc của Tổng cục Nhà nước Báo chí, Xuất bản, Phát
thanh, Điện ảnh và Truyền hình Trung Quốc. Ông Fernando Eloy nói rằng
nhiều bộ phim được sản xuất bởi nhà sản xuất Hồng Kông hay các diễn viên
Hồng Kông, nhưng phần tiêu đề sẽ phải ghi là Trung Quốc đại lục. Ngoài
ra, cũng có một lượng phim Trung Quốc đem qua sản xuất tại Hồng Kông, và
giả vờ như là một bộ phim Hồng Kông để dễ mua bán. Loại phim này đang
làm “hư” chất Hồng Kông truyền thống, mà bất cứ ai yêu dòng sản phẩm
thuần chất này đều cảm thấy buồn bã.
Từ một nơi sản xuất phim tự do và đầy cảm hứng, giờ đây, điện ảnh Hương
Cảng phải đánh vật hàng ngày với các quy định của Tổng cục Nhà nước Báo
chí, Xuất bản, Phát thanh, Điện ảnh và Truyền hình. Các mục kiểm duyệt
ghi rõ là phim muốn được chiếu ở đại lục, cấm không được có các yếu tố
chuyện tình một đêm, ngoại tình, hiếp dâm, loạn luân, thủ dâm hay tình
dục với xác chết. Thậm chí có những mục cấm mơ hồ như “trụy lạc” mà biên
giới của ý tưởng này thì không rõ là như thế nào.
Từ 2008, Cục này còn cho ra thêm một sắc lệnh mới là “chống lại tinh
thần sai lầm và bóng ma bạo lực, quái vật, ma quỷ và miêu tả vô nhân đạo
khác, kể chuyện kỳ lạ và siêu nhiên với mục đích kinh dị làm người
xem sợ hãi”. Nói một cách khác, phim ma – một loại phim đặc thù ăn khách
của Hồng Kông cũng bị khai tử trong đại lục. Các “hướng dẫn mới” này
thật sự là một cú sốc choáng váng cho ngành công nghiệp điện ảnh Hồng
Kông, nơi mà ma quỷ, siêu nhiên luôn là mặt hàng chủ lực. Bắc Kinh thì
giải thích rằng đất nước đang cố gắng để “kiểm soát và làm sạch các tác
động tiêu cực các loại sản phẩm này đối với xã hội, và bảo vệ sức khỏe
tâm lý của thanh thiếu niên”. Kết quả là sau gần 10 năm của cuộc bảo vệ
ấy, Hồng Kông giương cờ trắng, và nhường thị phần này cho Thái Lan, Hàn
Quốc, Nhật trong nỗi buồn không biết tỏ cùng ai.
“One movie, two versions” (một cuốn phim, hai phiên bản) là cách nói
nhại lại nguyên tắc chính trị của Bắc Kinh dành cho Hồng Kông “một quốc
gia, hai chế độ”. Để vào được thị trường Bắc Kinh, từ sau 1997, các nhà
làm phim Hương Cảng phải luôn quay thêm các phần “phù hợp” với yêu cầu
của kiểm duyệt. Bản chiếu ở Hồng Kông luôn khác với bản chiếu ở đại lục.
Thế nhưng mòn mỏi với việc phải tuân phục các quy định vô lý và chằng
chịt phản nghệ thuật này, các nhà làm phim Hồng Kông cũng đã khép dần
lại công việc của mình.
Một năm, Trung Quốc chỉ cho phép chiếu 34 phim nước ngoài trong nước, và
để được ghi danh vào 5000 phòng chiếu trong nước này, không chỉ là
người sản xuất phim trong nước, ngay cả các sản phẩm lớn của Hollywood
cũng phải răm rắp cắt sửa và thay đổi kịch bản theo yêu cầu kiểm duyệt.
Thế nhưng tháng 4 vừa rồi, khi bộ phim ngắn Ten Years giành được giải
trong 2016 Hong Kong Film Awards, một làn gió hy vọng đang trỗi lên với
những nhà làm phim Hương Cảng. Bắc Kinh thì tức giận và cố làm lơ, thậm
chí tìm cách ngăn chận nội dung phim đến được với khán giả, nhưng phim
Ten Years là câu chuyện mà người Hồng Kông nói với nhau nhiều nhất và
suy tư về cuộc sống của mình nhiều nhất lúc này.
Phim Ten Years được thực hiện với ngân sách khoảng 500.000 đô la Hồng
Kông (tức khoảng 64.000 USD), nhưng ngay sau khi trình chiếu được một
tuần, đã thu về hơn 5 triệu đô la Hồng Kông. Trong năm câu chuyện ngắn
của mình, mỗi một đạo diễn khác nhau, Ten Years - Mười năm khắc họa một
Hồng Kông trong tương lai gần như phải vật lộn dưới sự kìm kẹp thắt chặt
của chính quyền Trung Quốc. Năm câu chuyện nói về sự âm thầm hủy diệt
ngôn ngữ Quảng đông ở Hồng Kông và thay bằng tiếng Quan Thoại, kiểm
duyệt sách báo và tự do tư tưởng, thậm chí là nói về một phụ nữ tự
thiêu, biểu tình để đòi quyền của con người…
Suốt tháng 7 và tháng 8 vừa rồi, bộ phim Ten Years của Hồng Kông đã đi
khắp các rạp và các buổi trình chiếu quan trọng trên thế giới và được
rầm rộ chào đón. Những nhà làm phim Hồng Kông tràn ngập một niềm hy vọng
rằng sau sự kiện của phim Ten Years, điện ảnh tại đây sẽ khỏi sắc sau
hơn một thập kỷ chìm dần và hòa tan với điện ảnh từ đại lục.Cho đến lúc phim Ten Years được trình chiếu lần đầu, không khí đời sống ở Hồng Kông cũng bắt đầu ngột ngạt hơn rất nhiều. Đã có năm chủ tiệm sách dám phát hành các tựa sách “nhạy cảm”bị biến mất khỏi Hồng Kông, cảnh sát thì đã bắn đạn chỉ thiên trong cuộc đụng độ đêm giữa người biểu tình và lực lượng an ninh trong dịp năm mới.
“Rất nhiều người nói với chúng tôi: chúng tôi không cần phải chờ đợi mười năm. Tất cả điều này đã xảy ra “, ông Ng Ka-Leung, một trong những đạo diễn của Ten Years nói. Những người bình luận phim này nói rằng khán giả xem phim bước ra mang những tâm trạng khác nhau. Có người thì như buồn bã, nhưng có người thi như được tiếp thêm năng lượng mới.
“Chúng tôi dùng nghệ thuật để nói về tương lai, và để nói rằng chúng tôi không từ bỏ hy vọng”, đạo diễn Ng Ka-Leung nói, mặc dù không rõ ông nói về Hồng Kông hay nói về một tương lai khác của nền điện ảnh Hồng Kông, giữa những niềm tuyệt vọng.
JORG VON ROHLAND * NGƯỜI TRUNG CỘNG
Ký giả Đức viết về người Trung quốc tại Việt Nam: hung hãn và không biết tôn trọng là gì
![]() |
Khách Trung Quốc tranh cướp hoa quả tại một điểm du lịch. |
Jörg von Rohland (Bayernkurier) * Quang Trung (Diễn Đàn Việt Nam 21) chuyển dịch
- 27/08/2016 (DĐVN21) - Đối với chính quyền và nhiều người Trung quốc
từ ngữ "tôn trọng" là một từ ngữ xa lạ. Trong khi Trung Quốc xây dựng
bất hợp pháp các đảo nhân tạo nhằm hỗ trợ yêu sách lãnh thổ của mình thì
người dân mải mê đi du lịch. Đặc biệt là ở nước láng giềng Việt Nam,
nhiều người Trung quốc có những hành xử rất khiếm nhã.
Theo số liệu chính thức thì mỗi năm có khoảng 120 triệu người Trung quốc
đi du lịch nước ngoài. Mặc dù giữa Việt Nam và Trung quốc đang có tranh
chấp đảo tại Biển Đông, số lượng người Trung quốc du lịch ở Việt Nam
mỗi năm khoảng 5 triệu người, đứng hàng thứ nhất, kế tiếp là người Nga.
Hiển nhiên đa số những người đi theo tour du lịch trọn gói từ Trung quốc
đến các phi trường quốc tế Việt Nam không thuộc thành phần đại gia. Dầu
sao ở nước cộng sản này so ra vẫn rẻ.
Du khách Trung quốc tại Hội An (ảnh RFA) (*)
Mặc dù vậy người Trung quốc mặc cả đến từng xu. Một thành viên của Hội
Đức-Việt ở Nha Trang là ông Lothar Hüpner, người sống từ 10 năm nay ở
ngoại ô của một khu du lịch nổi tiếng cho biết "người bán hàng than
phiền về những khách du lịch này, khi thương lượng giá cả họ tỏ ra quá
khích, khiến thể diện người Trung quốc bị liệt vào hạng thấp nhất".
Hình ảnh khách du lịch Trung quốc ăn cắp chuối của một bà bán hàng (vì
giá cả đối với họ quá đắt) đã lan truyền trên các trang mạng xã hội.
Theo ông Hübner, mỗi du khách Trung quốc thường chi cho chuyến du lịch
Việt Nam tổng cộng khoảng 400 USD. Ông Đức 67 tuổi này, trước làm nghề
kim hoàn ở Hamburg, còn trích dẫn tường thuật của báo chí địa phương: "vậy mà còn có những chào mời cho chuyến du lịch trọn gói chỉ có 200 USD, bởi vậy ở đây bị bóc lột lừa đảo không thương tiếc".
Từ tháng 5 năm nay, báo chí luôn than phiền lối hành xử mất dạy của
những hãng du lịch Trung quốc tại các thành phố du lịch Nha Trang, Hội
An và Đà Nẵng.
Con số người Trung quốc đi du lịch đã tăng lên gấp 5 lần
Trong vòng một năm nay, số khách Trung quốc du lịch ở Nha Trang đã tăng
lên gấp 5 lần nhưng các hãng du lịch tại địa phương chẳng cơm cháo gì
được. Hồi tháng 5 năm nay các xe buýt của hãng Trung quốc có tên "Silent
Beach" đã tràn ngập thành phố. Thì ra với sự giúp đỡ tận tình của một
cựu quan chức của sở du lịch hãng xe buýt này đã sử dụng giấy tờ giả để
chạy xe. Quan chức này và gia đình ông ta đã tận tình bao che cho hãng
đó. Sau đó họ đã bị phạt tiền nặng và trên 20 xe buýt đồng loạt biến mất
khỏi thành phố.
Trung quốc bành trướng
Người Trung quốc không ngần ngại lộng hành ở các nơi khác. "Họ lợi dụng sự hiếu khách của nơi đây và tạo cho mình một hệ thống riêng biệt trong vùng",
ông Hübner dẫn lời tường thuật của báo chí địa phương. Theo đó các
hướng dẫn viên du lịch Trung quốc hành nghề không cần giấy phép lao
động. Tại những di tích thắng cảnh quan trọng các hướng dẫn viên này còn
xấc xược xuyên tạc lịch sử Việt Nam theo chiều hướng có lợi cho Trung
quốc vì Việt Nam đã bị Trung quốc đô hộ một ngàn năm. "Danh sách liệt
kê những hành vi láo xược và thủ đoạn làm ăn phạm pháp của những người
Trung quốc tổ chức du lịch còn dài hơn nữa, nhưng tôi nghĩ rằng, mọi
người ở đây đều hiểu là người Trung quốc chẳng kiêng nể quốc gia nào
cả", ông Hübner nói.
Dân chúng hết sức bức xúc, ngay cả những nhân viên biên phòng Việt Nam
cũng khó mà giữ được sự điềm tĩnh. Họ rất khó chịu với nhiều hộ chiếu
của người Trung quốc và không chịu đóng dấu nhập cảnh. Theo báo Tin Tức
Tuổi Trẻ, lý do dễ hiểu là trên hộ chiếu của người Trung quốc có in hình
chìm "biên giới chín đoạn" yêu sách 80% Biển Đông là của họ. Tờ báo
trên cho biết là thiết kế mới này bắt đầu được in trên các hộ chiếu
Trung quốc từ năm 2012. Người cầm hộ chiếu kiểu này không được đóng dấu
nhập cảnh Việt Nam trên hộ chiếu mà thay vào đó chỉ nhận được một tờ
giấy rời. Một quan chức nói với tờ báo rằng việc cấp chiếu khán rời nhấn
mạnh quan điểm của Việt Nam không công nhận "biên giới chín đoạn" này
dưới bất cứ hình thức nào.
Hồi cuối tháng bảy một nhân viên hải quan tại phi trường quốc tế Tân Sơn
Nhất đã gây căng thẳng khi ông ta không những không đóng dấu vào hộ
chiếu cho một phụ nữ đến từ Thượng Hải mà còn viết một lời nhắn rất
không thân thiện "Fuck you" vào đó! Vụ này đã gây một cơn bão phẫn nộ ở
Trung quốc và Tòa Lãnh sự Trung quốc ở Việt Nam đòi hỏi phải phạt nặng
nhân viên đó để tương lai chắc chắn không xảy ra chuyện tương tự nữa.
Các tòa án quốc tế không có ý nghĩa gì đối với Trung quốc
Trung quốc tỏ ra hoàn toàn không có ấn tượng gì về phán quyết của tòa án
trọng tài Den Haag (The Hague) rằng sự tranh chấp lãnh thổ của Trung
quốc ở Biển Đông là vô căn cứ. Nhân dịp này Việt Nam một lần nữa khẳng
định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và một phần của Trường Sa.
Người Trung quốc coi thường bản án này, tuyên bố phán quyết của Den Haag
không có giá trị và thản nhiên tiếp tục công việc xây dựng ở Biển Đông.
Tờ báo New York Times gần đây cho phổ biến nhiều hình ảnh chụp từ vệ
tinh làm cho cuộc tranh chấp tiếp tục nóng lên. Các hình ảnh cho thấy sự
lấp đầy các rặng san hô ở Biển Đông. Khoan nói tới sự hư hại về môi
trường: Trên những đảo nhân tạo này người ta thấy những phi đạo cất/hạ
cánh mới toanh cũng như những tháp và hăng ga chứa máy bay. Tờ New York
Times cho rằng những cơ sở xây chắc chắn này dùng cho việc quân sự. Tuy
những hình ảnh không cho thấy những phi cơ quân sự trên phi đạo nhưng
trong những hăng ga có thể chứa bất cứ phi cơ quân sự nào của quân đội
Trung quốc. Dĩ nhiên Trung quốc phủ nhận những điều này. Cho đến hôm nay
Bắc Kinh vẫn tránh nói đến từ "quân sự hóa" Biển Đông.
(*) Hình ảnh do DĐVN21 thêm vào
Sunday, August 28, 2016
LÊ XUYÊN
TIỂU THUYẾT GIA
VĂN CHƯƠNG NAM BỘ
– Viên Linh
Ðược bạn ra đề tài viết về “đồng quê miền Nam” Lê Xuyên viết truyện đầu tiên trong đời : Chú Tư Cầu.
Nhà văn Lê Xuyên mất khoảng 21:30 ngày 2/3/2004 tại Sài Gòn, hai ngày
sau một cuộc họp mặt tưởng niệm đã được diễn ra trọng thể tại một hội
trường ở Hoa Kỳ, với di ảnh người quá cố và một bình hoa bày trên diễn
đàn, cùng rất đông văn nghệ sĩ trí thức, bạn đồng nghiệpnăm xưa, và thân
hữu độc giả hâm mộ, đã tới nhắc nhở về anh, kể chuyện về anh, trong
không khí trang nghiêm mà ấm áp.
Diễn giả Võ Long Triều, nguyên chủ nhiệm nhật báo Ðại Dân Tộc mà Lê
Xuyên là tổng thư ký Tòa soạn, vừa cất tiếng đọc bài tưởng niệm “Lê
Xuyên ơi !…” thì nghẹn ngào, không đọc được nữa, khiến nhà thơ Ðỗ Quí
Toàn phải đọc thay. Lần lượt lên phát biểu có tác giả Viên Linh, từng
viết truyện dài cho tờ Dân Ý khi Lê Xuyên cũng làm tổng thư ký, và các
nhà văn Thảo Trường, ông Hoài Sơn, ký giả Vũ Ánh…
Người viết bài này những năm trước 1975 đã bốn lần phỏng vấn Lê Xuyên,
mỗi lần phỏng vấn theo một đề tài riêng, không kể những cuộc trò chuyện
vô đề, lúc này lúc khác, khi ở tờ báo này, lúc ở tòa soạn khác, hay nơi
quán xá, hội trường câu lạc bộ báo chí, v.v… Trong những lần đó, đề tài
“Tác phẩm đầu tay” là thú vị nhất.
Trong nghiệp văn, cho dù nổi tiếng đến đâu, hậu vận ra sao mặc lòng, đứa
con đầu đời của một nhà văn – tức là tác phẩm đầu tay của nhà văn đó –
hầu như chiếm một chỗ lớn nhất, đẹp nhất, trong trí tưởng của người sáng
tạo ra nó. Trường hợp vào nghề của Lê Xuyên rất đẹp. Mà tác phầm đầu
tay của ông, có thể nói là hiếm hoi, lại là tác phẩm nổi tiếng nhất,
quan trọng nhất của ông.

Nhà văn Lê Xuyên nói về tác phẩm “Chú Tư cầu”
“Chú Tư Cầu, một chuyện tình kể trong bốn bức tường nhà giam, hễ nghe ai đá động tới là tôi không được mấy yên bụng.
“Ý kiến, cảm tưởng của tôi về tác phẩm đầu tay ? Thật là khó nói. Vì
việc tôi vào nghề báo cũng như viết truyện dài đầu tiên đăng trên nhựt
báo, bất quá cũng chỉ là một vấn đề số mạng.
“Ðành rằng hồi còn nhỏ, hồi còn đi học tôi cũng thích làm văn, làm thơ,
nhưng quả tình tôi không ngờ có ngày mình lọt được vô nghề này. Truyện
dài đầu tay của tôi là ‘Chú Tư Cầu’ đăng trên nhựt báo ‘Sài Gòn Mai.’
Ðang thất nghiệp, tôi được anh Vương Hữu Ðức (lúc bấy giờ là tổng thư ký
tòa soạn nhựt báo Sài Gòn Mai) gọi tới để làm phụ với anh, và cũng
chính anh Ðức đã bảo tôi viết cho tờ S.M. một truyện dài ‘đồng quê miền
Nam.’ Có lẽ vì tin tưởng phần nào ở tôi, và chắc do khiếu ‘đánh hơi’ nhà
nghề nên anh Ðức chỉ ‘hạ lịnh’ vỏn vẹn cho tôi như thế. Và tôi bắt đầu
viết ‘Chú Tư Cầu.’
“Cũng may là hồi còn kẹt trong tù, tôi được mấy anh em ở miệt quê kể cho
nghe rất nhiều câu chuyện sống với đầy đủ tình tiết (mà Chú Tư Cầu là
một) và trước khi bị kẹt, có một thời gian tôi về ẩn náu tại miền Tây,
nên chụp vô chuyện Chú Tư Cầu là tôi viết phăng tới liền, chớ nếu không,
thì ‘tang gia bối rối’ biết bao nhiêu !
“Giả sử lúc bấy giờ anh Ðức bảo tôi viết truyện gián điệp hay truyện ma
gì đó, tôi cũng viết như thường. Như vậy chẳng do ‘phần số,’ chẳng do
‘thiên định’ là gì ?
“Chưa hết. Sau này, khi tôi viết truyện thứ ba hay thứ tư gì đó, trong
một lúc ‘tâm tình cởi mở’ với tôi, ông chủ nhiệm S.M. có tiết lộ rằng
hồi tôi mới bắt đầu viết truyện ‘Chú Tư Cầu,’ có người mấy lần khuyên
ông nên ‘cúp’ truyện này để thay thế vào một truyện khác, nhưng ông
không nghe. (nhưng chắc có lúc ông gần xiêu lòng !) Lời tiết lộ nầy (tuy
rất ‘vô hại’) cũng đủ làm cho tôi muốn đổ mồ hôi hột. Giả sử ông chủ
nhiệm chịu nghe lời khuyến cáo ấy ? – thì làm gì có trọn truyện ‘Chú Tư
Cầu’ – cái được gọi là ‘tác phẩm đầu tay’ của tôi ! Và làm gì còn có Lê
Xuyên trên cõi đời này !
“Tất cả chỉ là một thứ hên xui khá toát mồ hôi lạnh đối với một kẻ sống
về nghề văn, nghề báo. Bởi vậy, ngày nay, hễ nghe ai đá động đến chuyện
‘tác phẩm đầu tay’ là tôi không được mấy ‘yên trong bụng.’ Ðời tôi, tôi
còn phải đương đầu rất nhiều với sự hên xui kia mà ! Và bộ hên hoài được
sao ?”
Trong phần trả lời, nhà văn Lê Xuyên có nhắc tới mấy chữ “hồi còn kẹt
trong tù.” Ðộc giả có thể không rõ lắm, nếu không tìm hiểu thêm về ông.
Lê Xuyên tên thật Lê Bình Tăng, sinh năm 1927 tại Cần Thơ, hoạt động cầm súng chống Pháp từ trước năm 20 tuổi.
Ở tuổi có ý thức chính trị, ông tham gia đảng phái, cùng hoạt động
chung, ở chung phòng với một đảng viên khác rất nổi tiếng là Phạm Thái.
Người sau này từng xuất bản tờ báo tranh đấu có tên Tự Quyết ở Sài Gòn.
Một nhà cách mạng lão thành khác của đảng Ðại Việt, là ông Hoài Sơn, có
lên Diễn Ðàn hôm 5/3/2004 kể rằng Lê Xuyên người thì gầy gò nhỏ bé, nặng
có hơn bốn mươi mấy ký lô, nhưng “nhận định thời cuộc rất sắc bén.” Tuy
vậy ông ít nói. “Nếu Phạm Thái nói không ngừng, anh em trong phòng gọi
là ‘máy nói,’ thì Lê Xuyên bị gọi là ‘máy câm.’”
Lê Xuyên, vì hoạt động đảng phái, nên ở tù thời gia đình trị Đệ Nhất
Cộng Hòa miền Nam. Mãi 1960 mới được thả. Một nhà văn nói nhiều có khi
chỉ viết được những cuốn sách mỏng; còn Lê Xuyên đã sản xuất những cuốn
sách khoảng bảy, tám trăm trang. Không có cuốn truyện nào của ông mỏng
hơn bốn trăm trang cả. Chú Tư Cầu: 907 trang. Ðêm Không Cùng: 639 trang.
Rặng Trâm Bầu: 419 trang. Vợ Thầy Hương: 496 trang. Vùng Bão Lửa: 543
trang.
Nhà Văn Lê Xuyên
Những Ngày Cuối Đời
– Văn Quang
Gần 10 giờ đêm 2/3/2004, chị Lê Xuyên điện thoại cho tôi báo tin anh Lê
Xuyên vừa mất lúc 9 giờ 20, tức là cách đó nửa giờ. Lời chị kèm theo rất
chân tình :
– Tôi gọi cho anh trước khi gọi cho nhà đòn.
Tôi hiểu ý chị và phải nói tôi hiểu từ lâu mới đúng. Gia đình anh chị
trong hoàn cảnh sinh sống rất khó khăn chật vật, vì thế nên tôi đã dặn
chị trước : nếu có chuyện gì cần chị cứ gọi cho tôi. Tôi không tin vào
tôi mà tin vào tình yêu thương của bạn bè từ khắp nơi luôn sẵn sàng giúp
đỡ Lê Xuyên nên hứa ngay : Chị cứ lo mọi việc cho tang lễ của anh, còn
chuyện khác để anh em chúng tôi lo. Chị vui vẻ :
– Nếu thế tôi an tâm rồi.
Buông điện thoại, tôi hoàn toàn không ngạc nhiên trước cái tin buồn này.
Từ hai năm nay, Lê Xuyên nằm một chỗ, có thể nói thẳng nằm đó chờ ngày
“về với ông bà”. Một năm trước đây thôi, anh phải vào bệnh viện, chị
cũng gọi cho tôi, chị cho tôi xem giấy “nhập viện” của anh và số tiền
phải trả. Tôi cũng lại làm cái nhiệm vụ thông báo cho một số anh em ở
nước ngoài để kiếm tiền trả bệnh viện. Không phải chỉ có riêng chúng tôi
mà còn những người quen khác của anh, những người bạn đồng hương, những
người học cùng trường cùng lớp, có cả những người không hề quen biết
cũng xúm nhau vào chung lo. Hầu như ai cũng hiểu rằng ngày “ra đi” của
anh không xa.
Nhưng may mắn, anh vẫn còn qua được vài mùa xuân. Những lần sau này tôi
đến thăm anh, anh nằm đó nhưng tỉnh táo, không nói chuyện được song hỏi
nhiều điều, anh vẫn nhớ, vẫn hiểu. Khi anh gật đầu, thỉnh thoảng có được
một nụ cười, đôi mắt ánh lên một niềm vui. Nhất là khi tôi cố gợi lại
một vài câu chuyện vớ vẩn từ hồi xa xưa chúng tôi gặp nhau ở ngoài đường
hoặc ở toà soạn một vài tờ báo.
Để cho anh được sống lại với những kỷ niệm cũ, tôi kể lại một buổi sáng
sớm vào khoảng năm 1971-72, sau một đêm đánh chắn với vợ chồng ông chủ
báo Kịch Ảnh đường Cống Quỳnh, tôi lái xe về nhà. Qua đường Lê Lai, tôi
thấy Lê Xuyên cúi đầu đi trên hè phố. Tôi đậu xe sát lại, Lê Xuyên vẫn
chưa thèm nhận ra là xe của ai. Tôi bóp còi, lúc đó anh mới ngước lên
nhìn và toét miệng cười. Ít khi ông Lê Xuyên cười lắm. Tôi đẩy cửa xe,
thò đầu ra hỏi :
– Ăn sáng chưa ?
– Chưa… gì hết trọi, có tiền đâu mà ăn.
– Lên đây, tôi đưa ông đi ăn sáng.
Leo lên xe, anh hỏi thẳng :
– Đêm qua được hay thua ?
– Được.
– Nhà không còn một xu, tui để tiền trong túi cũng hết luôn.
Tôi cười và hiểu cái sự “hết tiền trong túi” của anh dù mới lãnh lương.
Móc trong cóp xe, tôi chia cho anh một nửa số tiền được bạc đêm hôm qua
và dặn dò rất kỹ :
– Mang về toà soạn cất vào ngăn kéo để tiêu dần đấy.
– Ừ, tốt. Ông ăn sáng chưa, cho tôi đi với. Lâu rồi không được ăn đồ Tây.
Tôi cười :
– Ra Givral hay Brodard, ông thích chỗ nào.
– Đâu cũng được.
Chúng tôi ra Givral, sáng sớm tinh mơ chỉ có hai bàn có khách. Tôi gọi
mì jambon là món “đặc sản” ở đây còn Lê Xuyên gọi omelette jambon ngồi
nhai bỏm bẻm lấy làm thú vị lắm. Ăn xong tôi bảo ông có tiền rồi, lấy xe
taxi về toà soạn, tôi phải về nhà thay quần áo rồi còn vào phải vào sở
chào cờ vì hôm nay là sáng thứ hai. Lê Xuyên cười hì hì :
– Cả đời tôi chưa biết chào cờ là cái gì. Tôi chỉ chào ông chủ báo khi
lần đầu tiên đến làm. Ngô Quân cũng thế mà Hồ Anh cũng thế.
Thỉnh thoảng tôi đưa bài đến báo Thời Thế, đôi khi vào buổi trưa, tôi
lại rủ Lê Xuyên đi ăn trưa, hôm có tiền thì chui vào Chợ Lớn ăn cơm Tàu
Bát Đạt. Có lần tôi rủ :
– Chúng tớ có cái phòng thuê ở trên lầu ba để thỉnh thoảng chơi phé, lấy
tiền sâu gửi lại tay quản lý nên bất cứ lúc nào cần phòng là có ngay.
Ông có muốn nằm lại đây một buổi không ?
Bản tính anh hiền lành nên hỏi lại :
– Nằm làm gì, tôi phải về làm việc chứ.
– Ông ngây thơ thật hay ngây thơ cụ, ông cứ lên với tôi là biết ngay “nằm làm gì”. Ông muốn Tàu cũng có mà ta cũng có.
Dĩ nhiên đến nước này thì ông bạn tôi phải hiểu, nhưng ông lắc đầu quầy
quậy như anh con trai mới lớn bị bà mẹ bắt lấy vợ sớm. Tôi đưa ông trở
lại toà soạn và xác nhận với anh em rằng “Lê Xuyên nó đứng đắn thật các
ông ạ”. Một ông bạn tôi cãi : “Nó nhát chứ đứng đắn cái gì”. Thôi thì
nhát cũng được, đứng đắn cũng được nhưng nó không giống tụi mình. Và một
điều ai cũng nhận thấy là chưa bao giờ thấy mặt Lê Xuyên ở bất cứ cái
phòng trà tiệm nhảy nào, ngay cả chỗ đông người anh cũng tránh. Tôi cứ
lẩm cẩm ngồi nhắc lại từng chuyện khiến anh thú lắm, đó là lúc anh được
sống với dĩ vãng.
Cũng vào khoảng thời gian đó, tờ báo Thời Thế có một loạt bài điều tra
phóng sự về một vụ tham nhũng của một ông “Tướng Vùng”. Ông Tướng nhờ
một Đại tá và một Trung tá gặp tôi để nhờ tôi can thiệp. Tôi chẳng biết
trắng đen ra sao, nhưng đã có lời nhờ thì tôi làm. Tôi gọi điện thoại
cho Lê Xuyên để nói với anh những gì tôi được nghe và đề nghị anh “thông
cảm” cho ngưng loạt bài đó kẻo làm mất uy tín của một người chỉ huy
vùng chiến thuật. Lê Xuyên nói ngay :
– Ông nói thì tôi nghe, nhưng để tôi thu xếp với anh em cho có đầu có đuôi.
Sau đó tôi điện thoại cho ông chủ báo Hồ Anh, lúc đó tôi mới biết đã có một hai ông nghị sĩ dân biểu can thiệp, nhưng Lê Xuyên vẫn cứ tiếp tục cho đăng loạt bài này. Ông Hồ Anh bảo tôi cứ nói chuyện với Lê Xuyên, nếu anh ấy chịu thì không có gì trở ngại.
Chỉ có thế thôi. Rất bất ngờ, hôm sau tôi đọc được hàng chữ trên trang nhất : “Vì có người bạn chúng tôi can thiệp nên chúng tôi thấy cần phải chấm dứt loạt phóng sự này”.
Quả thật đó là điều khiến tôi hết sức cảm động và ngay lúc đó tôi trở
nên áy náy vì biết đâu đó là một sự thật mà công sức của anh phóng viên
trẻ đã bỏ ra bị tôi “kỳ đà cản mũi”. Tôi gọi lại cho Lê Xuyên, anh chỉ
cười :
– Thông cảm với phóng viên rồi, nó bảo ngưng cũng được, viết thế đủ rồi.
Tôi rủ anh đi ăn trưa, anh nói :
– Tôi vừa ngưng phóng sự mà đi ăn với ông thì khác gì đi ăn hối lộ. Thôi
hôm nào ông được bạc mình lại đi ăn đồ Tây. Hôm nay tôi bận quá ông ạ.
Lê Xuyên cúp máy và tôi thì cứ ân hận, chẳng hiểu vì sao. Chuyện này còn
có nhiều nhân chứng còn sống ở đâu đó, may ra họ còn nhớ. Tôi thì chẳng
bao giờ quên.
Hơn mười năm sau, khi tôi ở trại cải tao ra, Thanh Thương Hoàng dẫn tôi đến thăm Lê Xuyên. Anh ngồi bán thuốc lá lẻ ở một góc phố (*). Chiếc quầy thuốc bé tẹo nhưng cũng đủ che hết tấm thân gầy gò của anh. Chúng tôi nhìn nhau và cùng cảm thông rất sâu sắc cái thân phận mình lúc này. Anh chớp mau mắt nói như để an ủi hơn mười hai năm tù của tôi :
Hơn mười năm sau, khi tôi ở trại cải tao ra, Thanh Thương Hoàng dẫn tôi đến thăm Lê Xuyên. Anh ngồi bán thuốc lá lẻ ở một góc phố (*). Chiếc quầy thuốc bé tẹo nhưng cũng đủ che hết tấm thân gầy gò của anh. Chúng tôi nhìn nhau và cùng cảm thông rất sâu sắc cái thân phận mình lúc này. Anh chớp mau mắt nói như để an ủi hơn mười hai năm tù của tôi :
– Trông ông vẫn cứ phong độ như ngày nào
Tôi thẳng thừng thương bạn :
– Còn ông, trông chán bỏ mẹ. Đ… khóc được chứ…
Hai bàn tay bạn tôi run lên, lật bật đút chiếc chìa khoá vào ngăn tủ
kính để mấy gói ba số năm bán lẻ (hồi đó ba số năm quý lắm) :
– Hút thuốc lá không ?
– Không, tớ hút thuốc lào quen rồi, về đây hút thứ nặng hơn mới đủ đô.
Thanh Thương Hoàng rủ sang bên con hẻm phía trước ăn sáng. Đó là con hẻm
lối đi vào một ngôi chùa hay ngôi đình gì đó. Không có hủ tíu, Lê Xuyên
phải chạy đi gọi ở một nơi nào quen bán chịu cho anh ở gần đó. Lê Xuyên
trở lại với con người thật của anh. Vẫn hiền lành, cười tủm và chân
quê. Phải nhìn thấy cái cười tủm của anh mới biết tại sao anh viết về
những cuộc tình của những đôi trai gái đồng ruộng miền Nam hay đến như
thế, láu cá đến như thế.
Tôi nhủ thầm : Thằng cha này tâm ngẩm tầm ngầm mà ghê lắm đấy. Nó không
nói mà chỉ viết nên nó viết được nhiều hơn mình. Chỉ có nó mới viết được
những “dòng chảy ngầm” của trai gái thôn quê miền Nam thật đến thế và
hấp dẫn đến thế. Lê Xuyên khác với một số những cây bút hoàn toàn Nam Bộ
như Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam ở chính cái “thật” của anh, tiểu thuyết
của anh không màu mè, không lý luận, không khoác bộ áo nghiên cứu sưu
tầm về phong tục tập quán dưới hình thức này hoặc dáng vẻ khác. Từng
động tác, từng thái độ, từng lối ứng xử trong nhân vật của anh cứ như
những con người thật lồ lộ đang ở trước mặt chúng ta vậy.
Trước mặt tôi, ông già Lê Xuyên vẫn còn cái hóm hỉnh riêng, nhưng bây
giờ thì như anh nói : “..Đếch viết nữa”. Tôi hỏi không viết được hay
không thích ? Câu trả lời của anh gọn lỏn : “Bỏ đi Tám”. Tôi không thể
hiểu nổi ba chữ “bỏ đi Tám” mà anh dùng. Có một nỗi chua chát nào đó
trong cái tâm sự thật của anh ? Đến cái thẻ chứng minh nhân dân anh cũng
không muốn làm nên anh ở nàh anh mà anh không có tên trong sổ hộ khẩu,
cứ như ở lậu, công dân lậu. Thái độ đó có đồng nghĩa với sự “Bỏ đi Tám”
của anh không ? Chỉ có anh mới hiểu và bây giờ anh mang theo anh về thế
giới bên kia.
Cách đây vài năm, tôi có viết một bài về Lê Xuyên và may mắn nhận được sự giúp đỡ thiết thực của khá nhiều bạn bè. Trong đó có một vài tờ báo muốn đăng lại những truyện dài của anh, tôi hỏi, anh chỉ lắc đầu: “Chẳng còn cuốn nào” và cả chị Lê Xuyên cũng không kiếm được cuốn nào cả.
Cách đây vài năm, tôi có viết một bài về Lê Xuyên và may mắn nhận được sự giúp đỡ thiết thực của khá nhiều bạn bè. Trong đó có một vài tờ báo muốn đăng lại những truyện dài của anh, tôi hỏi, anh chỉ lắc đầu: “Chẳng còn cuốn nào” và cả chị Lê Xuyên cũng không kiếm được cuốn nào cả.
Ba năm sau cùng, anh không còn sức để ngồi bán thuốc lá lẻ nữa. Thỉnh
thoảng tôi và Nguyễn Thuỵ Long đến thăm anh, cố dìu anh ra quán cà phê
cuối ngõ ngồi lai rai tâm sự vặt. Hai năm sau này thì dù chúng tôi có cố
lôi anh đi cũng không nổi nữa. Anh như cái bóng trong góc tối của gian
phòng chật chội vây quanh bởi hàng trăm thứ lỉnh kỉnh nào bàn ghế, chai
lọ, giường tủ. Chỉ có cô con gái út săn sóc cho anh, bà vợ và các con
lớn của anh vất vả với công việc hàng ngày.
Cái chết đến từ từ theo từng ngày giờ buồn tênh, dường như anh chán cả cái sống và cái chết, không thèm chú ý đến nó nữa.
Khi tôi đến với anh lần cuối là lúc các con anh đang thay quần áo cho
anh trước khi nhập quan. Cái thân hình gầy gò trần trụi của anh phơi ra,
tất cả chỉ còn có thế. Tôi chuyển ngay cho chị số tiền mà tôi mới gửi
e-mail tối hôm qua thông tin về sự ra đi của anh, nhanh chóng được đáp
ứng. Các bạn ở Virginia, San Jose, Santa Ana yêu cầu tôi chuyển tiền đến
lo tang lễ cho anh. Một người bạn đưa ngay đến 2 triệu và mang đến vòng
hoa đầu tiên của bạn bè Sài Gòn. Hôm sau chị Lê Xuyên với bà con đến
phúng :
– Có các bác bạn văn của nhà tôi giúp nên tôi mạnh tay làm đủ thứ việc
cho nhà tôi. Mạnh vì gạo bạo vì tiền, có phải không các bác ? Không có
bạn bè, tôi chẳng còn biết xoay sở ra sao.
Tôi nói với chị :
– Chắc sẽ còn nữa, có một số anh em chưa gửi về kịp, xin chị an tâm đi tiếp con đường ai cũng phải đi.
Buổi chiều ngày 5/3, đúng hai giờ lễ động quan bắt đầu, giữa trời nắng
chang chang, chúng tôi đưa người quá cố đến nghĩa trang Bình Hưng Hoà.
Có rất nhiều người bên hè phố lặng lẽ tiễn đưa anh. Đám tang nhà văn Lê
Xuyên không ồn ào như đám tang của những nhà nghệ sĩ mà ở đây người ta
cho rằng đó là những “nhà nghệ sĩ lớn”, nhưng những con người thầm lặng
ấy đưa tiễn anh với tất cả tấm lòng mình. Họ không nói gì, không có kèn
saxo như trong đám tang Trịnh Công Sơn, không có những giọt nước mắt dài
ngắn thở than của những danh ca nghệ sĩ, không có những bài “điếu văn”
lâm ly bi đát, nhưng đám tang Lê Xuyên đầy ắp những tình yêu thương từ
xa xưa đọng lại, từ bốn phương, tám hướng lãng đãng bay về phủ kín khung
trời Sài Gòn.
(*) Xe thuốc lá đẩy nằm trên đường Nguyễn Tri Phương Q10
(chú thích motthoisaigon)
Về nhà văn lão thành Lê Xuyên
– Nguyễn Việt
Tháng 3/2011 là tháng tròn 7 năm ngày mất của nhà văn lão thành Lê
Xuyên. Và khi nhắc đến tên ông, không kể giới văn nghệ sĩ, ký giả còn đa
số mọi người dân miền Nam khi xưa và đến bây giờ hình như từ trong nước
ra đến hải ngoại đều biết đến tên ông qua tác phẩm “Chú Tư Cầu”, một
giọng văn giản dị nhưng xúc tích nhiều ngôn từ, ngữ điệu của người miệt
đồng bằng sông Cửu Long.
Tôi nhớ mãi một kỷ niệm khó quên, do là người trong ban biên tập của
nhật báo Trắng Đen, phụ trách trang trong tức trách nhiệm với những bài
vở chuyên mục và cả những feuilleton (tiểu thuyết trường thiên tải đăng
mỗi ngày) từ các nhà văn tên tuổi bấy giờ như Trần Đức Lai, Vị Thủy, Lê
Xuyên, bà Lan Phương, Trương Đạm Thủy, Kim Sơn, Từ Khánh Phụng, Thương
Lan v.v…
Nhà văn Lê Xuyên lúc đó đang làm tổng biên tập bên báo Dân Ý (có trụ sở
tòa soạn trên đường Gia Long, đối diện rạp long Phụng) nhưng báo nào mời
ông viết feuilleton ông cũng gật đầu cái rẹt. Tính ra, lúc đó mỗi ngày
nhà văn Lê Xuyên phải nạp bài cho 3, 4 tờ báo và còn chịu trách nhiệm
bài vở bên tờ Dân Ý. Nhiều người nói ông phát tài, với chức vụ và các
feuilleton đó, mỗi tháng ông lãnh lương cũng gần cả trăm ngàn. Nên biết
với tên tuổi của nhà văn Lê Xuyên, không báo nào trả tiền tác quyền dưới
15 ngàn/tháng (những nhà văn khác chỉ ở khoảng 10 đến 12 ngàn) mà vàng
lúc đó chỉ trên 30 ngàn/lượng. Vậy mà ông vẫn đi chiếc vespa cà tang
“thời Bảo Đại còn ở truồng tắm mưa” (theo lời dí dỏm của các đồng nghiệp
với ông).
Ông chủ báo Trắng Đen giao nhiệm vụ cho tôi, người phụ trách các
feuilleton “không để chừa trắng tiểu thuyết của ai với lời cáo lỗi : tác
giả bị bệnh bất ngờ, xin cáo lỗi tạm ngưng 1 kỳ”. Ông chủ báo còn nhấn
mạnh, nhất là những tiểu thuyết đang “ăn khách” của Trần Đức Lai, Lê
Xuyên.
Chính vì lẽ đó, đôi khi có nhà văn bị cảm cúm thật, đôi khi vì quá mệt
mỏi bởi các bài vở khác không còn thời gian… viết. Nhà văn Lê Xuyên thì
thường xuyên, nói theo ngôn từ hiện đại ngày nay là bị quá tải, nên luôn
luôn trễ giờ hay quên “nộp bài” cho báo. Tôi phải ngồi nặn… thêm khúc
không có bài để không “cáo lỗi cùng bạn đọc”. Nhưng mình đâu phải cha đẻ
cốt truyện, cho nên những đoạn văn ấy chỉ dám tả cảnh, hay trở lại hồi
tưởng v.v… cho trang báo lúc nào cũng đầy chữ. Mà qua bên báo Dân Ý hối
ông nộp cũng không xong, đành phải thất lễ.
Một hôm nhà văn Lê Xuyên – sau khi quên nộp bài – ông đến không như
những nhà văn khác với bộ mặt giận dỗi – một phần do tự ái, bởi những
báo khác nếu không nộp bài kịp giờ thì họ chừa trắng – ông đến lại cười
cười nói với tôi “chú mày muốn chia lương với tao sao ?” biết câu nói
đùa, nhưng tôi vẫn phải thanh minh “ông chủ báo không cho em để trắng
tiểu thuyết của ai, qua hối anh viết cũng không xong, đành viết theo
kiểu vô thưởng vô phạt nhằm trám chỗ chờ anh giao bài tiếp thôi mà”. Nhà
văn Lê Xuyên, vẫn nụ cười nhân hậu nói : “Ừ để tao cố gắng giao bài cho
chú mày đều đặn”.
Tính nhà văn Lê Xuyên là như vậy, và nghề viết feuilleton cũng thường gặp những trường hợp này.
Lê Hoàng Nguyễn (tổng hợp)

Nhà văn Lê Xuyên & Chú Tư Cầu

Với lối văn tả thực duyên dáng, với cách thức khai thác đời sống tình dục của một anh chăn vịt “tưng tửng’’, Lê Xuyên đã dẫn dắt người đọc vào cái không gian thanh thoát đầy quyến rũ của đồng quê Nam Bộ và làm cho người đọc thích thú với những cuộc tình nóng bỏng, kể cả những cảm xúc… trần tục.
Nguyễn Ngọc Chính
Văn chương miền Nam, khoảng từ 1950 đến 1975, có 4 nhà văn nổi tiếng được mệnh danh là Tứ Đại Văn Hào Nam Bộ: Hồ Hữu Tường, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc và Lê Xuyên (1). Đó là theo nhà thơ Sa Giang Trần Tuấn Kiệt, nhưng theo Nguyễn Ngu Í, Tứ Đại Văn Hào chỉ còn là Tam Kiệt: Hồ Biểu Chánh, Lê Văn Trương và Lê Xuyên.
Dù là Tứ Đại hay Tam Kiệt,
họ đã chiếm một chỗ đứng quan trọng trên văn đàn với phong cách viết
hoàn toàn Nam Bộ, từ lời ăn tiếng nói đến cách suy nghĩ và hành động.
Văn phong của họ khác hẳn với các nhà văn “di cư” từ miền Bắc vào Nam
năm 1954 vốn mang nặng hình thức văn chương hoa mỹ theo phong cách Tự
Lực Văn Đoàn và dĩ nhiên lập trường chính trị của họ cũng khác hẳn.
Trong Văn Học Miền Nam, Võ Phiến nhận xét: “Thời
kỳ 1954-1975, các nhà văn gốc Nam khi nói đến chiến tranh trên đất nước
thường chỉ nói về cuộc chiến chống Pháp mà tránh cuộc chiến chống cộng.
Viết truyện như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, viết ký như Vũ Bình, đều thế.
Đến lượt Lê Xuyên, ông cũng thế. Mặt khác, các vị gốc Bắc thì chuyên về
cuộc sống và con người đô thị, còn các vị gốc Nam thường viết về nông
dân, nông thôn. Lê Xuyên cũng thế. Chuyện ấy dễ hiểu. Người Nam chưa
biết qua chế độ cộng sản thì không mặn nồng với việc chống cộng; người
Bắc di cư, bao nhiêu văn nhân, nghệ sĩ trí thức vào Nam đều sống ở đô
thị nên chỉ biết viết về đô thị”.
Điểm nổi bật là trong cả Tứ Đại lẫn Tam Kiệt đều
có mặt nhà văn kiêm nhà báo Lê Xuyên, điều này cho thấy vai trò không
kém phần quan trọng của Lê Xuyên trong văn học miền Nam hay nói một cách
khác cụ thể hơn là trong “văn chương miệt vườn”. Người đọc văn Lê Xuyên
có thể là giới bình dân, lao động, thợ thuyền, nông dân nhưng bên cạnh
đó cũng phải kể đến giới trí thức miền Nam, kể cả những người Bắc “di
cư” vào Nam năm 1954.
Đầu
thập niên 1960, truyện kiếm hiệp của Kin Dung (2) đã tạo một cơn sốt
trên báo hàng ngày tại miền Nam với những tiểu thuyết “feuilleton” đăng
nhiều kỳ trên một số nhật báo. Nổi tiếng nhất là Cô Gái Đồ Long với bản dịch của Tiền Phong Từ Khánh Phụng được đăng trên báo Đồng Nai năm 1961.
Trong
bối cảnh văn chương kiếm hiệp của Kim Dung đang thu hút người đọc vào
thời đó thì sự xuất hiện của Lê Xuyên với tác phẩm đầu tay Chú Tư Cầu
đã tạo được tiếng vang trên mặt báo dưới dạng tiểu thuyết nhiều kỳ viết
theo kiểu “feuilleton” hàng ngày. Một đằng Kim Dung viết theo lối kiếm
hiệp được dịch ngay từ nguyên bản đăng trên Hồng Kông Minh Báo… một đằng là chuyện sông nước miền Tây với những tình tiết éo le và đối thoại mộc mạc, “rặc” kiểu Nam Bộ.
Nhật báo Sài Gòn Mai đăng Chú Tư Cầu trong suốt hai năm liền, từ tháng 2/1961 đến tháng 2/1963. Sau đó Chú Tư Cầu
được xuất bản thành sách lần đầu tiên vào tháng 3/1963 tại Sài Gòn. Đến
tháng 4/2006, với sự đồng ý của bà quả phụ Lê Xuyên, nhà xuất bản Tiếng
Vang tái bản Chú Tư Cầu tại hải ngoại.
Về phần bố cục, Chú Tư Cầu không
phân thành chương mà chia thành 5 phần và thêm “phần cuối” tức Phần
Kết. Tác phẩm kể lại cuộc đời đầy sóng gió của một chàng trai chăn vịt
nhưng lại có số đào hoa, anh không “dê” gái mà gái vẫn chạy theo… rần
rần. Đã có đến bốn người phụ nữ đi qua đời Tư Cầu, mỗi người một vẻ, mỗi
người có nét đẹp riêng của… hoa đồng cỏ nội.
Trước
hết là Phấn, bạn gái cùng quê của chàng ở Rạch Chiếc, gần quận lỵ Trà
Ôn. Ở phần đầu, Tư Cầu gọi Phấn là “mầy”, xưng “tao” rất tự nhiên như
hồi còn bé… Lê Xuyên viết về hai đứa chăn vịt:
“Phấn
mười sáu tuổi, Tư Cầu mười bảy tuổi, vậy mà Phấn có vẻ khôn lanh hơn
nhiều. Cách thức anh ta sống thật cũng y như hồi còn sáu, bảy tuổi, hồi
còn chơi “cất nhà chòi” bằng ống sậy và lá chuối với Phấn…”.
Lần đầu trong đời, Tư Cầu nhìn Phấn bằng ánh mắt khác lạ khi hai đứa ở trong chòi vịt: “Ánh
sáng của cây rọi mù-u không là bao nhưng cũng đủ soi cả căn chòi nhỏ
xíu. Vừa lúc đó, Phấn ở phía sau đi vào. Nó tắm dưới bàu nước sau chòi
có thay đồ thay đạc gì đâu mà chiếc quần đang mặc vẫn khô rang. Cô ta
quấn trên ngực một chiếc khăn rằn hẹp khổ, một tay giữ chặt hai mối khăn
ở sau lưng.
…
Cảnh tượng đó có hơi lạ mắt đối với Tư Cầu. Anh ta nhìn trân trối khuôn
ngực vun nhọn dưới tấm khăn rằn nhỏ hẹp còn ướt nước. Mọi khi anh ta
đâu thấy có như vậy. Thật tình anh ta lấy làm lạ vì đâu biết mấy đứa con
gái mới lớn lên thường ngày hay nịt vú sát rạt”.
Phấn
táo bạo, chủ động hiến thân cho Tư Cầu. Kể từ đó, một cuộc tình theo
kiểu “người lớn” đã đi vào đời của hai trẻ chăn vịt. Và cũng kể từ đó Tư
Cầu âu yếm gọi Phấn bằng “em”, tiếng “em” vẫn thường hay lẫn lộn với
tiếng “mầy, tao” ngày nào:
“Tư Cầu cười hề hề chạy lại nắm tay cô ta dẫn vào chòi:
– Thôi, thôi, người ta chịu thua rồi mà! Qua đây có chuyện gì không em?
– Có chuyện mới qua chớ bộ ở không qua đây khơi khơi vậy hả?
– Thì người ta biết rồi mà!
Tư Cầu vừa nói vừa choàng một tay ôm ngang lưng cô ta kéo sát vào mình. Phấn để yên một hồi rồi xô ra, vùng vằng nói:
– Hồi tối thấy ghét anh quá…
Nói
tới đó, cô đỏ bừng mặt, cúi gằm đầu xuống, tay mân mê mấy cái nút bóp
trên áo túi. Tư Cầu nghe cô ta nói vậy hơi hoảng vì không biết cô ta
muốn gì và rụt rè hỏi:
– Sao em?… Có sao không em?
Phấn nguýt yêu nó:
– Còn hỏi có sao nữa… kỳ quá! Từ nay sắp lên em…
Cô bỏ lửng ngang câu, ôm ghì lấy Tư Cầu rồi sụt sịt khóc. Tư Cầu vừa gỡ cô ta ra vừa hỏi:
– Coi kìa, ai làm gì mà khóc?
– Anh không biết anh làm gì hả? Mới có hồi tối đó bây giờ lại giở giọng đó ra rồi…
Tư Cầu chắc lưỡi :
–
Khổ quá, ai có giở giọng gì ra đâu. Thì có cái gì nói phứt ra coi được
hông. Thiệt đàn bà con gái hễ rớ tới là hay rắc rối tổ mẹ.
– Thì ai biểu rớ tới rồi kêu.
Nói tới đó, Phấn lấy tay quệt mạnh chùi nước mắt, nhưng rồi lại mếu máo:
– Tui biết mà! Anh làm bộ vậy chớ có thương yêu gì tui đâu… Bây giờ dĩ lỡ ra rồi, có sao đi nữa tui cũng phải ráng chịu.
Tư Cầu dậm chân, chắc lưỡi:
– Trời thần ơi! Thì ai có làm gì đâu mà kể lể khóc than hổng biết. Em làm sao kỳ quá Phấn à!
– Ừ, tui kỳ…
–
Em cứ vậy hoài! Có cái gì thì em cứ nói thẳng bạch tuột ra cho anh
nghe, chớ em cứ lắt léo quanh co như vậy, bà nội ai cũng không biết
đường đâu mà rờ nữa…”
Ở
cuối Phần I, Phấn rủ Tư Cầu trốn nhà lên Sài Gòn để sống với nhau và
cũng để tránh cuộc hôn nhân cưỡng ép do mẹ cô sắp đặt. Qua ngòi bút mộc
mạc của Lê Xuyên ta thấy một Tư Cầu chất phác đáng thương trên bước
đường bỏ nhà đi Sài Gòn, lúc nào cũng sợ bị người ta bắt bớ, vả lại đây
là lần đầu tiên anh được đi xe hơi:
“…
Hai đứa nó vừa ra gần tới lộ cái thì chiếc xe đò dưới La-Ghi lên cũng
vừa chạy trờ tới. Anh lơ trên xe thấy có người ôm gói nên dơ tay kêu lớn
:
– Đi Trà Ôn hông cô Hai?
Tư
Cầu thấy xe chạy ầm ầm tới rồi có người chỉ tay về phía anh ta la hét
nên vội ngồi thụp xuống dưới bên bờ mẫu. Phấn tức mình vừa lôi nó lên
vừa đưa tay ngoắc xe lại. Chiếc xe còn lê xa độ mười thước rồi mới ngừng
hẳn. Phấn vừa rảo bước vừa cằn nhằn Tư Cầu:
– Anh mần gì kỳ cục vậy! Xe đò nó mời khách chớ bộ nó ăn thịt ăn cá gì anh sao anh lại trốn hả?
Tư Cầu xẻn lẻn đáp:
– Vậy hả! Thuở giờ anh có đi xe đi cộ gì đâu mà biết. Vậy mà anh tưởng nó chỉ chỗ tính bắt tụi mình chớ!…”
Đến
chợ Trà Ôn, Phấn đưa 5 đồng để Tư Cầu hớt tóc còn mình thì vào chợ mua
quần áo cho Tư Cầu. Lê Xuyên tả tâm trạng của cậu trai miệt vườn tại
tiệm hớt tóc “sang trọng” ở Trà Ôn:
“Tư
Cầu xớ rớ đi vô tiệm. Một anh thợ đã chực sẵn, thấy khách vô vội lấy
tấm khăn choàng phủi phạch phạch lên trên chiếc ghế trống và nói:
– Ngồi đây cậu Hai.
Tư Cầu ấp úng:
– Dạ, tui… hớt tóc.
Anh thợ nhìn cái đầu chùm bum của anh ta, mỉm cười giơ tay chỉ lên ghế:
– Mời cậu Hai ngồi vô!
Tư
Cầu rón rén ngồi lên mép cái ghế có nệm êm, có lưng dựa và tay dựa đàng
hoàng và ngồi cứng đơ giữ lưng thẳng băng. Anh thợ sẽ kéo nó xích vô và
choàng khăn vào:
– Cậu Hai hớt kiểu nào: đờ-mi cua, ma-ninh, hay ca-rê?
Tư Cầu lúng túng không biết trả lời làm sao nên đành nói đại:
– Chú hớt như kiểu cũ.
– Dạ, bị đầu cậu tóc ra bùm xùm quá mất hết cái chớn cũ nên tôi hổng phân biệt nó ra kiểu nào hết.
– Vậy hả! À, mà hớt chải cũng được đó chú!
– Được rồi, hớt chải… nhưng cao hay thấp?
Tư
Cầu nghĩ bụng ở trên này sao hớt tóc mà cũng rắc rối quá, ở dưới vườn
hễ leo lên ghế là anh thợ rút tông-đơ đẩy liền. Không biết phải hớt cao
hay thấp như thế nào nên Tư Cầu trả lời phóng chừng:
– Chú hớt cho… vừa vừa cũng được…
Anh thợ đoán sơ cũng hiểu được người khách của mình mới ở dưới vườn lên nên không hỏi thêm nữa và bắt tay vào việc…”
Ngay
đầu Phần II xuất hiện một anh “khách trú” tên Lâm Sanh, từ Trà Ôn lên
Sài Gòn làm tài phú cho một tiệm bán sắt vụn ở Chợ Lớn. Họ đi cùng
chuyến xe Trà Ôn – Cần Thơ… “Đó là một anh khách trú trạc hai mươi
lăm tuổi, mặc áo sơ-mi, quần tây dài, tay xách cặp da căng phồng. Thấy
có người chen bên cạnh, Phấn nhíu mày nhích vô sát bên cạnh Tư Cầu. Cô
ta càng bực mình hơn nữa khi thấy anh khách này lại còn ló ra ngoài cửa
xí xô xí xào một hồi với một người đứng dưới đất, có lẽ là bà con ra
tiễn chân.

Tiểu thuyết “Chú Tư Cầu”, bản in ở Sàigòn
Sau
khi người nhà đi về rồi, anh khách mới quay nhìn sang Phấn và có vẻ
muốn bắt chuyện làm quen. Anh ta cầm cái nón cối vừa quạt quạt vừa nói
bâng quơ:
– Cha, nóng nực quá! Không biết chừng nào xe mới chịu chạy cho!
Phấn ngạc nhiên vì sao anh khách này nói tiếng ta sao sõi quá. Mới hồi nãy đây, ảnh còn tía lia như… chìm tàu kia mà…”
Chẳng
mấy chốc, anh “khách trú” đã chiếm được cảm tình của Phấn, hai người
nói chuyện “trên trời dưới đất” còn Tư Cầu thì say xe, ngủ gà ngủ gật.
“Chiếc
xe chạy tới khoảng đường xấu nên dằn dữ… và bỗng nhiên Phấn nhận thấy
một bên vai của mình được dựa êm vào một bên ngực của anh khách, không
biết từ hồi nào! Chiếc xe càng xóc, cô càng có một cảm giác dễ chịu và
sao thấy được an tâm thêm rất nhiều. Và cũng thật kỳ lạ chưa bao giờ
Phấn thấy Tư Cầu xa cách mình như vậy…”
Đến
Cần Thơ thì trời đã sập tối, không còn chuyến xe nào về Sài Gòn. Chú Ba
(tên thân mật của Lâm Sanh và cũng trùng hợp với Cô Ba, tên trong nhà
của Phấn) đề nghị đi tàu vì có thể mướn ghế bố nghỉ qua đêm, nếu mướn
phòng trọ chờ chuyến xe sớm thì phải đăng ký mà trong người Tư Cầu
“không có đến một mẩu giấy lận lưng”.
Chàng
thanh niên miệt vườn chất phác của chúng ta trở thành nạn nhân của mối
tình “chớp nhoáng” giữa Phấn và chú Ba. Là con người từng trải, hắn bàn
điều hơn lẽ thiệt cho cô nghe: Sài Thành không phải là đất sống cho một
kẻ đôn hậu, quê mùa như Tư Cầu:
“Tôi
thấy anh Tư đây là người hiền hậu thiệt thà, như vậy lên trển ảnh còn
khổ nhiều, và chắc em Ba cũng không được sung sướng gì! Ban đầu thì cái
gì cũng được, cũng êm cũng ráng với nhau hết, nhưng lâu ngày chầy tháng,
tránh sao cho khỏi cái chuyện vấp váp, và tới chừng ấy sanh ra cắn đắn
nhau! Lúc đó, dầu có tính khôn tính dại, tính thiệt tính hơn gì nữa thì
cũng đã lỡ ra rồi… Đến nước này chỉ còn cách ráng chịu đựng nhau được
chút nào hay chút nấy…
…Thương
yêu nhau đâu phải để làm hại đời nhau. Tôi dám nói chắc điều này với em
Ba: dắt anh Tư đi lang bang như vậy là em hại đời ảnh. Tôi biết chắc
rằng anh Tư không thể nào sống sung sướng trên Sàigòn. Như vậy có phải
em Ba hại đời ảnh hay không? Mà em hại luôn đời của em Ba… Tôi biết em
Ba là một người chung tình, em Ba không nỡ lòng nào buông rơi anh Tư, và
cũng vì vậy mà rồi đây hai người sẽ khổ lây với nhau, bỏ thì thương,
vuơng thì tội…”
Phấn
bị thuyết phục vì những lời ngon ngọt của Chú Ba và hai người bàn kế để
gạt Tư Cầu xuống tàu về lại Trà Ôn. Những lời cuối cùng của cô dành cho
Tư Cầu tựa như lời trối trăn, lời sám hối trong khi đó Tư Cầu ngây thơ
chẳng hiểu vì sao Phấn lại bỗng “tình cảm” đến như vậy:
“Anh
Tư!… Dầu mai kia mốt nọ, giữa tụi mình có xảy ra sự gì thì anh nên xét
lại dùm em. Em có tính cái gì đi nữa thì em cũng nghĩ đến anh trước, em
hổng muốn cho anh phải lụy nhiều vì em. Em nói đây có đất trời làm
chứng, dầu sao đi nữa, em cũng thương anh trước nhứt, nhiều nhứt, em nhớ
anh hoài hoài… em nói vậy, anh có tin được hông, anh Tư?”
Không
dè Tư Cầu sau khi nhận 60 đồng từ tay Phấn để lên bờ mua bánh mì và xá
xíu thì tàu đi Sài Gòn nhổ neo. Tư Cầu lúc quay lại “lớ quớ” xuống chiếc
tàu đi Nam Vang vì tàu đi Sài Gòn và Nam vang đậu khít nhau, giờ chạy
cũng xát nhau nên một người chất phác như Tư Cầu bị lộn là điều dĩ
nhiên…

Nhà văn Lê Xuyên (1927-2004)
Trên tàu đi Nam Vang Tư Cầu gặp một ông khách đứng tuổi xưng là chú Bảy gốc ở Châu Đốc, ông nói với chàng: “Nam Vang đi dễ khó dìa”. Tư Cầu đáp lại bằng những lời chân chất: “Có lẽ chú nói đúng. Tui đi phen này chắc ở biệt luôn chớ hết quay dìa được…”.
Sau khi nghe chuyện của Tư Cầu, chú Bảy nói ngay: “Chú
em sao thiệt thà quá đỗi… Cái con ngựa bà trời với thằng điếm bảy da đó
sắp đặt đâu sẵn hết rồi: đứa đi trước, đứa còn lại bày đặt sai chú em
mua bánh mì để khơi luôn cho có cặp… Mà lẫm ngẫm ra tụi nó coi vậy mà ăn
ở cũng có nhơn lắm, nó còn để lại cho chú em sáu chục đồng để ăn đường
dìa xứ…”
…
Ôi thôi chú em ơi, tình đời nó chó đẻ như vậy đó, hơi sức đâu mình tức.
Chú em đi chuyến này ráng lo làm ăn đi rồi coi đám nào tử tế chấm một
đám… Tụi mình đàn ông con trai đâu có sợ ế vợ!
…
Mất con này thì kiếm con khác, chớ bộ cần nó lắm sao! Có mợ thì chợ
cũng đông, mà bằng không có mợ thì chợ cũng không thua gì… Bộ chú em
tính ở vậy suốt đời để thờ nó sao?”
Chú
Bảy cám cảnh thương tình Tư Cầu nên khi tới Nam Vang chú giới thiệu
chàng giúp việc cho tiệm cơm người chị ruột chú là cô Năm. Tại Nam Vang,
Tư Cầu có dịp sống “bạt mạng cô hồn”, tiếp xúc với phường trộm cắp, đám
dao búa và được lọt vào mắt xanh của cô Ba Xá Lỵ, một gái “nặc nô” xinh
đẹp, uy trấn một góc xã hội du côn nho nhỏ trên đất Chùa Tháp. Đó là
người đàn bà thứ hai đi qua đời cuộc đời “đào hoa” của Tư Cầu. Dưới đây
là hình ảnh của Cô Ba, chị thằng Năm “bò bía”, trong mắt Tư Cầu khi hai
người gặp nhau lần đầu tiên:
“Tư
Cầu để ý ngay đến đôi mắt sắc như dao sáng ngời ngời đang nhìn mình,
như cặp con mắt của một con thú dữ đang rình mồi, kế đến đôi hàm răng
đang nhe ra cạp cạp lấy mấy mắt ô môi. Tư Cầu tưởng tượng như là đôi hàm
răng ấy nhọn lểu, bén lẻm và trắng bóng một cách lạ thường… Phải rồi,
đứng trước chị thằng Năm, Tư Cầu có cái cảm giác như là đứng trước một
con cọp cái tơ…
…
Con gái ở chợ dầu sao cũng không ô dề kịch cợm như con gái ở đồng. Nghĩ
vậy, tự nhiên nó mỉm cười và nhìn kỹ từ mái tóc xức dầu mướt rượt bới
lơi trên lưng của con Ba, đến cánh tay trần, tuy không được mấy no tròn
nhưng trắng hồng và loang loáng lông măng mịn nhuyễn, đến cườm tay bên
trái có đeo một chiếc vòng bạc to tướng làm bằng nhiều hình vũ nữ Aspara
chạm dính liền lại…”
Ba
Xá Lỵ “chịu” Tư Cầu vì tấm lòng nhân hậu và hào hiệp của chàng trong
khi có một tay anh chị giang hồ khác tên Sáu Cẩu “trồng cây si” cô Ba từ
mấy năm nay. Ba Xá Lị đã nói huỵch tẹt với Sáu Cẩu:
“Anh
em với nhau, tao nói với mầy hoài: với tao thì cái gì cũng phân minh
đâu đó hết. Tao cho mầy cái gì thì mầy biết hưởng cái đó đi, chớ đừng
lằng nhằng đòi hỏi lôi thôi rắc rối gì khác nữa. Tụi mình đâu phải là
thứ hạng đàn bà con gái, đàn ông con trai bắt buộc phải sống cho có đầu
có đuôi, có luật có lệ như thiên hạ vậy được… Tao nói sơ sơ vậy chắc mầy
dư hiểu rồi. Tụi mình ở chung với nhau lâu quá mà!”
Rốt
cuộc Cô Ba và Chú Tư đều dính vào “lưới tình”, cả hai say mê nhau như
điếu đổ. Lê Xuyên tả lại cảnh lần đầu tiên hai đứa lạc vào tình yêu ở
cuối Phần II: “Dưới ánh đèn dầu vừa đủ sáng, anh ta tò mò nhìn lên:
đôi mắt con Ba long lanh một cách dị thường, mái tóc đen nhánh của nó xổ
tung vắt lên đôi vai trắng nõn, rũ cả xuống ngực Tư Cầu… và Tư Cầu càng
nhìn kỹ càng thêm hoa mắt vì cái ức không gì ràng buộc kia. Phần con
Ba, tự nãy giờ nó vẫn rình sát Tư Cầu. Nó mỉm cười đắc ý rồi từ từ rướn
mình lên ấp lấy mặt của người yêu”.
Tuy
nhiên, sau một thời gian sống hạnh phúc trên đất Chùa Tháp, vì nhớ quê,
Tư Cầu tính chuyện hồi cố hương sau hơn một năm lưu lạc với số tiền để
dành được hơn 1.000 đồng. Anh có rủ cô Ba về quê, nhưng cô ta biết… “chốn ruộng đồng không phải là chốn môi sinh thích thú” nên từ chối dù vẫn nặng lòng yêu anh:
“Em
quen sống như… con ngựa sút xiềng ở giữa chốn thị thành, rồi dìa dưới
làm sao xoay trở được? Đây nè: đi cấy, đi gặt gì em cũng… bù trất, xuống
ruộng thì sợ đỉa, còn nấu cơm, nấu nước gì cũng không ngơ, ăn nói thì
lụp chụp, tánh tình lông bông… như vậy làm sao em có thể làm dâu, làm
con hai bác ở dưới được! Em nói thiệt tình như vậy chớ hổng phải em dám
chê bai gì đâu… chắc anh dư rõ bụng em!”
Ở Phần III, Tư Cầu về xứ mang theo những món quà “tình nghĩa” của xứ Chùa Tháp: Ba Xá Lỵ tặng chiếc vòng đeo tay cho vợ… “hổng biết chừng nào cưới”
của anh, Sáu Cẩu tặng tía Tư Cầu chiếc xà-rông tơ của người Miên và Năm
Bò Bía tặng anh cái ống vố hút thuốc “xí” được của một ông Tây!
Về
đến Rạch Chiếc, Tư Cầu tưởng chừng như “cá gặp nước”, mừng mừng tủi
tủi… rồi bỗng để ý đến tiếng “chú” mà tụi trẻ con gọi mình… “Tự
nhiên, anh ta đưa tay sờ sờ cằm rồi cúi xuống nhìn từ ngực đến chân và
tự hỏi: “Có lẽ mình già rồi chăng? Hay tụi con nít mới lớn lên thấy
mình… lạ mắt nên gọi như vậy?!”.
Bà
Hai, mẹ Tư Cầu, kể lại chuyện Phấn lấy chồng Khách Trú, có về thăm quê
vài lần và lần nào cũng đến nhà hỏi thăm tin tức chàng… “và có bồng
theo một đứa con trai đầu lòng được bốn năm tháng gì đó… Đứa nhỏ cũng
ngộ lắm, mà sao tao coi bộ nó… giống mầy đó Tư?”.
Bà còn nói thêm, “Nó
thương mầy, nó hổng muốn nói ra sợ mầy lo quýnh đít lên, rồi đổ bể tùm
lum hết. Nó muốn giữ kín để sau này yên bề yên phận rồi nói ra cũng
không muộn gì…”. Bà Hai an ủi: “Thôi Tư à, dầu sao phần nó cũng như phần mầy, ai nấy thảy đều êm thắm hết, thì mầy cũng nên… xính xái cho rồi”.
Phấn còn giúp đỡ gia đình anh trong cơn ngặt nghèo nên bà rất cảm kích: “Hồi
con Phấn nó dìa đây, trước khi trở lên Chợ Lớn nó có đưa cho tao một
trăm đồng bạc, tội nghiệp… tao hổng chịu lấy mà nó cứ nài ép hoài… Nói
nào ngay, nhờ có số tiền ấy mà hồi tía mầy ổng đau liệt giường liệt
chiếu mới có chút đỉnh để lo thuốc thang cho ổng, hông thôi cũng chịu
chết!”
Cha mẹ Tư Cầu bàn đến chuyện cưới vợ cho anh để… “tính chuyện mần ăn lâu dài”, họ sợ Tư Cầu “một thân một mình thì đâu có biết lo xa dành dụm để gầy dựng cơ nghiệp như người ta được”. Tư Cầu trả lời một cách thành thật:
“Con
tuy chưa có già gì nhưng đời của con kể cũng như chán chê lắm rồi. Nay
tía má muốn kiếm vợ cho con để yên bề gia thất lo tu chỉnh mần ăn với
người ta… thì con xin vưng lời, chớ tía má biểu con chọn canh kén cá hay
làm eo làm sách gì nữa!”
Ông
Hai để ý đến đứa con gái của người bạn bên La-ghì, đó là đứa con gái
Miên lai mà họ xin đem về nuôi từ hồi còn bú. Ông Hai phân tích để vợ
hiểu: “Bà phải biết thằng Tư nhà mình là một thằng hay dại gái, cái
thứ đàn ông con trai mà coi lù khù như vậy thì thường hay u mê ám chướng
vì đàn bà. Tui hỏi bà: nếu mình muốn kiếm vợ cho nó mà lại nhè lựa một
con sắc sảo, khôn lanh, tui đố khỏi rồi đây nó bị con vợ nó xỏ mũi cho
mà coi!”
Như vậy là người đàn bà thứ ba xuất hiện trong đời Tư Cầu. Lê Xuyên tả cảnh cô Thơm, người vợ tương lai của Tư Cầu: “…
Vừa lúc đó con Thơm vén màn bưng khay nước ra. Nó cúi đầu chào tía má
Tư Cầu, nhưng làm bộ như không thấy có Tư Cầu đứng như trời trồng ở gần
đó. Tư Cầu liếc nhìn nhanh về phía người vợ tương lai cả mình: ờ, kể ra
cũng… coi được, trong ngày trọng đại này con Thơm… tóc tai láng mướt,
quần áo sát rạt, Tư Cầu để ý nhứt đến đôi mắt to và hơi sâu, đến nước da
bánh ít, đến mái tóc hơi dợn sóng của nó… những nét đặc biệt của một
thiếu nữ gốc Miên”.
Trước
Thơm, hai người đàn bà đến với Tư Cầu đều “dễ dàng” như “bắt cóc bỏ
dĩa” nhưng sao đêm tân hôn với Thơm, dù cưới hỏi chính thức, sao lại “cà
trật cà duộc” đến thế:
“…
Ờ, Tư Cầu mới nghĩ ra: đàn bà thiệt là khó hiểu, thiệt không biết đâu
mà rờ. Đứa dễ đứa khó… đứa nào cũng làm cho Tư Cầu, nếu không sợ sệt,
không lo âu thì cũng phải bực mình. Mà Tư Cầu thuận lấy vợ đây cốt là để
cho được rảnh trí yên thân…
Nghĩ
đến đó, anh ta càng thêm nổi nóng. Và không thèm suy tính gì nữa anh ta
bỏ gối lăn qua ôm ghịt lấy con Thơm kéo lôi ra phía giữa chõng… Nhưng
mặc cho anh ta kéo, con Thơm nắm cứng lấy thành chõng và hai chân nó còn
chòi đạp nghe rầm rầm. Tư Cầu tức mình lấy chân quặp chặt lấy chân của
con Thơm không cho nó cựa quậy gì nữa…
Bỗng
con Thơm buông hai tay níu thành chõng ra để chụp lấy bàn tay của Tư
Cầu. Tư Cầu định giật ra nhưng con Thơm đã lẹ làng quay đầu ra cắn mạnh
một cái vào cườm tay của anh ta. Tư Cầu vừa kêu “ái” vừa thuận chân đạp
luôn con Thơm một cái. Anh ta quay về nằm ở chỗ cũ và vừa xoa xoa trên
chỗ bị cắn đau vừa hít hà liền miệng.
Đoạn
anh ta vùng ngồi dậy định chuyến này làm cho lại gan với con Thơm,
nhưng vừa lúc đó anh ta nghe có tiếng tằng hắng của tía mình ở ngoài nhà
trên, rồi tiếp theo những tiếng ho, tiếng trở mình của mấy người khác ở
trong nhà… Đúng là ai nấy đều thức hết rồi. Tư Cầu lẩm bẩm: “Ở trong
này con mắc dịch này nó làm rầm rầm như vật lộn vậy, mà ở ngoài người ta
không thức hết sao được!”. Anh ta lại nằm trở xuống lại, thở dài sườn
sượt rồi lẩm bẩm: “Ứ hự, bậy bạ lăng nhăng cũng hổng xong mà cưới hỏi
đàng hoàng cũng hổng… êm!”
Thơm
chỉ ở nhà chồng đúng 2 ngày, 2 đêm rồi đùng đùng khăn gói về nhà mình.
Đến đây người đọc mới thấy cái “khéo” của Lê Xuyên trong việt giải quyết
mâu thuẫn giữa hai vợ chồng mới cưới. Bà mẹ của Thơm dắt con về lại nhà
chồng và ra lịnh cho Tư Cầu thu hẹp lại chiếc chõng của hai đứa. Bà
giải thích với Tư Cầu:
“Ậy,
mầy cứ nhắm mắt nghe theo lời tao một chuyến này coi! Mầy để cho tao…
sửa sang ni tấc cái chõng này lại thì hai vợ chồng tụi bây mới hòa thuận
êm ấm với nhau được… Tư à, tao có qua… cái cảnh của tụi bây hiện nay
nên tao biết: con Thơm nó cũng thương mầy chớ hổng phải không, nhưng
ngặt cái vợ chồng tụi bây mới cưới ràng ràng, con nhỏ chưa quen. Mầy
hổng biết chớ ông già bà cả hồi xưa thường nói chỗ ăn chỗ nằm cũng có
điều kỵ điều hạp ghê lắm đó Tư à!… Tao biểu mầy làm như vầy cũng gần như
là người ta… đốt phong long xổ xui vậy!”
Thật
ra, cũng chẳng có gì lạ lùng về việc sửa bớt ni tấc chiếc chõng mà mẹ
của Thơm cho là giống như “đốt phong long”. Đó chẳng qua là một thứ… tác
động tâm lý mà ông già bà cả ngày xưa đem ra áp dụng, để mong… xổ xui
và cho mọi việc được tốt lành. Đêm đầu tiên trên chõng mới diễn ra “êm
đẹp” đối với cả Thơm lẫn Tư Cầu khi hai đứa nằm bên nhau:
“Thơm
toan nhoài mình định lăn ra xa nhưng đành chịu phép vì cái chõng đã
không còn rộng thênh thang như trước để nó có thể dễ… có cớ xoay trở,
lăn qua lộn lại được nữa. Thêm vào đó, con Thơm cũng thấy nóng hổi ở sau
lưng, vì dư biết Tư Cầu nằm sát bên cạnh tuy nó quay mặt vô trong vách.
Con
Thơm không thấy bực mình như mấy lần trước, mà chỉ thấy hơi khó chịu
như khi nó thử ăn chơi một miếng trầu… Và nó tự nghĩ: “Phải mà cái chõng
chật thì Tư Cầu, chồng mới cưới của mình nằm sát khít một bên chớ
sao!”. Còn Tư Cầu cũng nhận thấy con Thơm không quá vùng vằng như trước
nữa, tuy con này vẫn còn cự nự đôi chút, nhưng đó là một thứ cự nự không
làm phật ý Tư Cầu! Trái hẳn lại, Tư Cầu còn thấy thêm… khoái khoái và
thầm mang ơn bà mẹ vợ: “Bà già ở bển mà hay đa!”.
Cơn
gió bụi bắt đầu xảy ra trên đất nước, Sài Gòn bị dội bom, và cuộc đời
của Tư Cầu tưởng đã “yên bề gia thất” nhưng sao vẫn không yên. Phấn về
quê để gặp Tư Cầu, rủ chàng đi xây dựng lại cuộc sống lứa đôi đã từng
dang dở. Cô cũng cho chàng biết đứa con trai của cô vốn là con ruột của
chàng. Thơm bắt gặp quả tang hai lén lút nên ghen lồng lộn. Rốt cuộc
Phấn phải trở về Sài Gòn, tiếp tục sống với Chú Ba như cũ.
Thời
đó, trong các Sóc Thổ, người Miên nổi dậy phong trào ”cáp duồng”, giết
sạch người Việt. Cô Thơm vốn là gốc Miên nhưng đã từng được cha mẹ Việt
Nam nuôi từ thở ấu thơ, rồi khi lớn lên lấy chồng Việt nên cũng bị người
Miên cho là thứ… “Miên gian”. Trong một chuyến về quê thăm cha mẹ nuôi,
cô bị bọn Miên hãm hiếp và bị chúng hạ sát. Tư Cầu điên tiết giết chúng
để báo thù cho vợ.
Rồi
Tư Cầu nghe theo lời người anh ruột gia nhập vào nhóm du kích kháng
chiến. Anh bị bắt giải lên Sài Gòn, được chuyển qua dinh cơ của một
trung úy người Pháp có phận sự canh giữ các tù nhân trước khi giải họ đi
Côn Đảo. Không ngờ viên sĩ quan này là chồng hờ của cô Ba Xá Lỵ ở Nam
Vang ngày nào!
Tình
cũ gặp nhau, cô Ba Xá Lỵ hết lòng giúp đỡ Tư Cầu để được gần gũi ân ái
với chàng. Một hôm, Tư Cầu theo nhóm tù nhân đến tiệm bán cây mà viên
trung úy đã đặt mua, tình cờ anh gặp lại Phấn, vợ tên Khách trú Lâm
Sanh, chủ nhân tiệm bán cây! Không ngờ Tư Cầu gặp lại cả hai người trên
đất Sài Gòn.
Phấn
gạn hỏi nguồn cơn người yêu cũ của mình, rồi hiệp cùng cô Ba Xá Lỵ giúp
đỡ Tư Cầu “đào thoát khỏi trại giam”. Cả hai người tình xưa đều hết
mình lo lắng cho Tư Cầu nhưng bản thân anh lại… thấy khổ: “Lên trên
này hai bà hùa vô… xé xác phanh thây! Tây nó có bố thì dầu cho ngặt
nghèo thế mấy cũng có đường trốn, chớ hai bà mà ráp vô thì có nước tui
độn thổ mới toàn mạng được!”
Tại
căn nhà do Phấn thuê, Tư Cầu bị lính tuần tiễu bố ráp nên bị bắt đưa về
bót cảnh sát Catinat để cho bọn “bao bố” nhìn mặt. Những tên chỉ điểm
thuộc “đội bao bố” vì không biết chàng có dính dáng với bọn Việt Minh
công tác ở thành phố hay không nên không thể xác nhận chàng là Việt Minh
nội thành và cho nên chàng được tha.
Tư
Cầu lại về quê. Tình hình ở đây căng thẳng nên chàng nhập vào toán du
kích kháng chiến địa phương, theo lời giải thích rất đơn giản của Tư Cầu
về cuộc kháng chiến chống Pháp: “… tụi này hổng có ưa thực dân thì…
đánh giặc chơi. Mai kia mốt nọ đâu đó bình yên hết rồi thì tụi này cũng
rã đám dìa cầm cày cầm cuốc trở lại chớ làm vương làm tướng gì!”.
Trong
cuộc tấn công lính Tây, Tư Cầu cùng đồng đội hạ sát được tên sĩ quan,
chồng hờ của cô Ba Xá Lỵ nhưng lại không cứu được cô vì tên chánh trị
viên đã giết cô ta. Tư Cầu toan báo thù cho người yêu cũ nhưng hắn đã
kịp thời “cao bay xa chạy”. Mâu thuẫn trong nội bộ du kích ngày một gia
tăng đến độ Tư Cầu phải bỏ xứ để tránh đụng chạm.
Nhớ
lời dặn chú Bảy trên chuyến tàu đi Nam Vang năm xưa, Tư Cầu lên “tỵ
nạn” tại Châu Đốc, tìm chú Bảy và cất một cái chòi trông coi vườn tược
cho chú. Chàng chiếm được trái tim cô Thắm và được chú Bảy gả con gái
cưng. Đó là người đàn bà thứ tư đi qua cuộc đời Tư Cầu.
Không
như những mối tình trước, Tư Cầu tìm thấy ở Thắm những nét khác lạ.
Thắm không có sự lấn lướt, sành sỏi đến độ đanh đá như Phấn, không có
những nét giang hồ anh chị như Ba Xá Lị và cô cũng không giống với Thơm,
cô gái lai Miên. Bên Thắm, Tư Cầu thấy mình thật thanh thản, yên bình
với một thứ tình cảm khác lạ và cũng khó tả. Chúng ta đọc đoạn văn dưới
đây của Lê Xuyên để hiểu thế nào là chuyện tình đồng quê:
“Con Thắm liếc xéo anh ta:
– Có gì đâu… Anh sao khó hiểu quá trời hè!
Tư Cầu mỉm cười đáp:
–
Em muốn hiểu hả? Thì đây: sở dĩ anh nói em không giống nhiều người đàn
bà con gái khác mà anh từng gặp là vì gần em, anh thấy sao mình bình
tĩnh quá chớ không bộp chộp như mấy người kia… Và vì vậy mà anh biết
chắc là chuyến này anh có thể… ở luôn tại xứ này được. Đó em chịu chưa!
Con Thắm cười lỏn lẻn:
– Tưởng cái gì chớ như vậy… thì được.
– Mà được… nhiều hay ít?
– Để nữa rồi mới rõ nhiều hay ít chớ bây giờ… ít xịt hà!”
Ở
Phần Kết, người đọc thấy Tư Cầu tuy ít học nhưng con người chân chất
của anh đã hành sử một cách “nhân bản” với tấm lòng “vị tha”, đầy ắp
tình người. Anh đã thả tên “quan một” khi hắn bị bắt làm tù binh, đơn
giản chỉ vì vợ của viên sĩ quan này cũng sắp tới ngày sinh như vợ anh ở
nhà. Anh nói:
“Tui
tính mình thả ông quan một này dìa cho rồi. Thêm người chết nữa, anh em
mình cũng chẳng lợi lộc gì mà để khổ cho vợ con người ta. Vợ ổng cũng
gần ngày sanh… Mình cũng nên để phước dìa sau…”
Nhưng
tấm lòng bao dung đó được đền đáp bằng một quả “moọc-chê” của viện binh
Pháp khi Tư Cầu còn cố quay lại đưa cho viên thiếu úy bộ quần áo
“xi-vin” để thay bộ “trây-di”: “Đây, tui chạy vụt lên để đưa cho ông
bộ quần áo này để bận thay vào bộ trây-di kia. Tui sợ ông đi làng chàng
gặp mấy cha nội khác họ… bắt lại thì… uổng cái công tụi này thả ông
quá!”
Ngay
khi đó, một tiếng nổ đinh tai điếc óc làm văng đất lên tứ tung… Tư Cầu
chưa kịp nhào xuống tránh là đưa tay ôm lấy một bên ngực, buột miệng
chửi thề: “Đ.m. trúng tao rồi Tám ơi.”
Bác Năm, người du kích lớn tuổi, ghé sát xuống mặt Tư Cầu, giọng nửa như oán trách, nửa như xót thương:
– Chú Tư… sao qua nói hoài mà chú hổng chịu nghe!… Chú có thương thiên hạ thì cũng vừa vừa nó…
Tư Cầu cau mày làm bác Năm im bặt, rồi Tư Cầu phều phào nói:
– Bác Năm, làm sao… bác lo chở tui… dìa nhà… cho kịp…
Bác Năm gật đầu lia lịa :
– Được mà! Kịp mà!
Nhưng
đã không kịp. Dù sao Tư Cầu cũng đuợc an ủi vì trong lúc lâm chung,
thằng em vợ của chàng đọc cho chàng nghe bức thư báo tin mừng của Cô
Thắm. Và đây là đoạn kết của Chú Tư Cầu:
“Nét mặt Tư Cầu có vẻ tươi tỉnh lại đôi chút. Anh ta đưa tay ra dấu cho thằng Ba cúi sát mặt xuống:
– Trai hay… gái..
Thằng Ba sốt sắng đáp liền:
–
Trai. Chị Hai chỉ mong anh dìa dữ lắm! Đây nè, chỉ có viết thơ kêu em
đem qua cho anh (vừa nói, thằng Ba vừa móc túi lấy một tờ giấy gấp làm
tư, mở banh ra trao cho anh rể).
Tư
Cầu lẩy bẩy cầm lấy lá thơ và tờ giấy run run trên bàn tay đã mòn sức.
Anh ta nhăn mặt, chớp mắt liền mấy cái: những dòng chữ trên lá thơ như
nhòe hẳn đi. Anh ta khẽ lắc đầu buông thõng tay xuống:
– Em Ba… em đọc…
Thằng Ba nhẹ rút tờ giấy ra khỏi mấy ngón tay đã bắt đầu đờ cứng của anh rể, rồi vừa sịt mũi mếu máo đọc:
“Mình,
Em
sanh con trai hồi năm giờ chiều ngày mùng tám mình à. Em đợi hoài đợi
hủy mà chẳng thấy mình về. Nhớ lời mình dặn, em sẽ đặt tên nó là Kỳ. Nó
có chút xíu nhưng tía má nói nó giống mình lắm. Mình bắt được thơ này…”
Bác Năm bỗng đưa tay khều nhẹ thằng Ba và thở dài bảo:
– Thôi em…
Thằng
Ba cúi xuống nhìn Tư Cầu. Nó bỗng kinh hãi đứng rột dậy, bước lùi lại
phía sau một bước, rồi khóc òa lên. Mắt Tư Cầu đứng tròng và một tia máu
nhỏ chảy rỉ nơi khóe miệng hãy còn phảng phất giữ một nụ cười…
Bác
Năm rút lấy bức thơ nơi tay thằng Ba xếp kỹ lại, cúi xuống nhét vô túi
áo Tư Cầu, đoạn kính cẩn đưa tay vuốt mắt kẻ xấu số, rồi cầm lấy hai mí
chiếu đắp phủ lên xác chết…
Dưới
mé ruộng, một con chim vịt cất tiếng kêu thảm thiết trong đám cây điên
điển và bay vụt lên làm những cánh hoa vàng úa rơi lả tả trên mặt nước,
để rồi lững lờ trôi đi… trôi đi….
Ở phía kinh Cầu Muống, tiếng súng vẫn còn nổ đều đều…”
Văn
phong của Lê Xuyên có điểm đặc biệt là hầu như chỉ cần viết đối thoại
theo lối Nam Bộ mà thành truyện. Nhà văn Hồ Biểu Chánh khi viết văn theo
kiểu “văn dĩ tải đạo” còn dựa theo những lời khuyên răn dạy bảo của các
bậc thánh hiền. Lê Xuyên thì không, không dựa vào thánh hiền, không rêu
rao theo khuynh hướng đạo nghĩa. Lê Xuyên viết khơi khơi mà vẫn hấp dẫn
người đọc, khiến họ yêu mến lớp dân quê hiền lành, lòng ngay dạ thẳng.
Lê
Xuyên không viết văn dài dòng. Ông không cần tả cảnh, tả người, tả vật,
tả tâm trạng, tức là không tả những cái mà giới bình dân cho là “vòng
vo tam quốc”. Thay vào đó, ông dùng lối văn “cằn nhằn cẳn nhẳn”, cãi lẫy
ồn ào và có khi còn chửi thề một cách tự nhiên.
Nhà văn Văn Quang nhận xét: “Vẫn
hiền lành, cười tủm và chân quê. Phải nhìn thấy cái cười tủm của anh
mới biết tại sao anh viết về những cuộc tình của những đôi trai gái đồng
ruộng miền Nam hay đến như thế, láu cá đến như thế. Tôi nhủ thầm: Thằng
cha này tẩm ngẩm tầm ngầm mà ghê lắm đấy. Nó không nói mà chỉ viết nên
nó viết được nhiều hơn mình. Chỉ có nó mới viết được những “dòng chảy
ngầm” của trai gái thôn quê miền Nam thật đến thế và hấp dẫn đến thế”.
Văn
Lê Xuyên không chải chuốt, nhưng vẫn ẩn hiện chút mượt mà tựa như mái
tóc chải dầu dừa pha hương sả hay mùi dầu bông lài của cô thôn nữ. Với
lối văn tả thực duyên dáng, với cách thức khai thác đời sống tình dục
của một anh chăn vịt “tưng tửng’’, Lê Xuyên đã dẫn dắt người đọc vào cái
không gian thanh thoát đầy quyến rũ của đồng quê Nam Bộ và làm cho
người đọc thích thú với những cuộc tình nóng bỏng, kể cả những cảm xúc…
trần tục.
Trong Chú Tư Cầu, Lê Xuyên dùng ngôn ngữ Nam Kỳ Lục Tinh vào thời tiền chiến như “nói thẳng bạch tuột”, “rắc
rối không biết đâu mà rờ”, “làm cho xất bất xang bang”, “đụng đâu xâu
đó”, “mấy con nập nợn” (tức là mấy cô gái dâm đãng, lẳng lơ), “anh làm
cái điệu đó thì mụ nội em cũng lìa”, “mùi bạt mạng” (để ca tụng giọng ca
vọng cổ), “giận lẫy xẩy cùi”, “lo than củi” (chăm sóc vợ đẻ), “ba trật
bốn vuột”, “xủ quẻ” (coi bói) … Đó là cả một kho tàng ngôn ngữ Nam Bộ
đối với những người muốn tìm lại dấu tích của một nền văn hóa thời kháng
chiến chống Pháp.
Do
ảnh hưởng của lối viết truyện “feuilleton” hàng ngày trên báo những tác
phẩm của Lê Xuyên rất dài, có thể gọi là “trường thiên tiểu thuyết”,
không có cuốn truyện nào của ông mỏng hơn bốn trăm trang. Chú Tư Cầu dày 907 trang, Ðêm Không Cùng 639 trang, Rặng Trâm Bầu 419 trang, Vợ Thầy Hương 496 trang và Vùng Bão Lửa 543 trang.
Tâm sự với nhà văn Viên Linh, Lê Xuyên cho biết việc ông bước vào nghề báo cũng như viết truyện dài trên báo “bất quá cũng chỉ là một vấn đề số mạng” và Chú Tư Cầu chỉ là một sự góp nhặt những chuyện tình được kể trong bốn bức tường nhà giam mà ông được nghe.
“Ðành
rằng hồi còn nhỏ, hồi còn đi học tôi cũng thích làm văn, làm thơ, nhưng
quả tình tôi không ngờ có ngày mình lọt được vô nghề này. Truyện dài
đầu tay của tôi là ‘Chú Tư Cầu’ đăng trên nhựt báo ‘Sài Gòn Mai.’ Ðang
thất nghiệp, tôi được anh Vương Hữu Ðức (lúc bấy giờ là Tổng thư ký tòa
soạn nhựt báo Sài Gòn Mai) gọi tới để làm phụ với anh, và cũng chính anh
Ðức đã bảo tôi viết cho tờ S.M. một truyện dài ‘đồng quê miền Nam.’ Có
lẽ vì tin tưởng phần nào ở tôi, và chắc do khiếu ‘đánh hơi’ nhà nghề nên
anh Ðức chỉ ‘hạ lịnh’ vỏn vẹn cho tôi như thế. Và tôi bắt đầu viết ‘Chú
Tư Cầu.’
“Cũng
may là hồi còn kẹt trong tù, tôi được mấy anh em ở miệt quê kể cho nghe
rất nhiều câu chuyện sống với đầy đủ tình tiết (mà Chú Tư Cầu là một)
và trước khi bị kẹt, có một thời gian tôi về ẩn náu tại miền Tây, nên
chụp vô chuyện ‘Chú Tư Cầu’ là tôi viết phăng tới liền, chớ nếu không,
thì ‘tang gia bối rối’ biết bao nhiêu!
“Giả
sử lúc bấy giờ anh Ðức bảo tôi viết truyện gián điệp hay truyện ma gì
đó, tôi cũng viết như thường. Như vậy chẳng do ‘phần số,’ chẳng do
‘thiên định’ là gì?
Độc
giả thường gắn cái tên Lê Xuyên với Chú Tư Cầu nhưng thật ra giữa hai
con người đó là cả một khoảng cách biệt quá xa. Chú Tư Cầu là nhân vật
“đào hoa” với 4 người đàn bà trong khi Lê Xuyên lại là một nhà văn xề
xòa, “chăm chỉ hạt bột” nếu không muốn nói là… “cù lần”. Nhưng tựu
chung, cả hai đều mang tính “chân chất” của người Miền Nam, từ cách sống
cho đến lối suy nghĩ.
Lê
Xuyên còn là một nhà báo tầm cỡ, tận tụy với công việc. Ông có mặt tại
tòa soạn từ 5 giờ sáng và chỉ về nhà lúc 9 hay 10 giờ tối. Lê Xuyên là
một người chồng thủy chung, dù bà vợ có tật thích “đỏ đen”, nhưng ông
hết lòng lo cho gia đình. Về đến nhà nhiều khi còn phải lo giặt quần áo
cho các con còn nhỏ. Có nhiều phụ nữ trẻ đẹp, giàu có thường xuyên đến
tòa soạn trong giờ ăn trưa, họ mến tài năng, đức độ, sự hào sảng của một
người đàn ông lý tưởng, Lê Xuyên đều từ chối.
Sau
năm 1975 người ta mới thấy rõ con người “nhẫn nhục” của Lê Xuyên. Một
con người “khí tiết” đã chịu sống an phận trong nghèo khổ, hằng ngày
ngồi sau tủ thuốc lá lẻ tại ngã tư đường Bà Hạt – Ngô Quyền, Chợ Lớn…
khi cảm thấy ngòi bút không còn là của mình.
Nhà văn Văn Quang một đồng nghiệp thân thiết từ thời mới vô nghề đã thông báo những dòng tin này đến mọi người:
“Lê
Xuyên đã ra đi lúc 21 giờ ngày 2 tháng 3 năm 2004 nhằm ngày 12 tháng 2
Giáp Thân tại tư gia số 523/238/146 Nguyễn Tri Phương, Quận 10, Sàigòn”.
Ông ra đi sau 2 năm trời bệnh hoạn vì cơ cực và nghèo khổ nhưng nụ cười luôn nở trên môi.
***
Chú thích:
(1)
Lê Xuyên (1927 – 2004): tên thật là Lê Bình Tăng, sinh ngày 1/11/1927,
tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, năm 1945 đậu DEPSI (Diplôme d’étude primaire
superieure indochinoise). Từng hoạt động cho Đại Việt Quốc Dân Đảng. Ông
vào nghề báo bằng sự giới thiệu của Vương Hữu Đức – Tổng Thư Ký tờ Sài Gòn Mai (1963) với trách nhiệm viết tiểu thuyết trường thiên. Trước đó ông chỉ làm thơ.
Tác phẩm văn xuôi đầu tiên có tên Chú Tư Cầu xuất bản năm 1963 và lập tức được đón nhận nồng nhiệt đến độ từ đó ngươi ta gọi ông với biệt danh thân thương là Chú Tư Cầu Lê Xuyên. Những tác phẩm đi sau cũng bán rất chạy như: Rặng Trâm Bầu, Vợ Thầy Hương (1965), Đêm Không Cùng (1966), Kinh Cầu Muống (1968), Vùng Bão Lửa (1969), Nguyệt Đồng Xoài (1970).
Trong
thời gian từ năm 1963 tới 1975 ông đã từng giữ chức Tổng Thư Ký cho Dân
Ý, Thời Thế, Thân Phong… và được xem như là người rất tận tụy, có trách
nhiệm với vai trò nhà báo của mình.
(2)
Kim Dung (sinh ngày 6/2/1924) là một trong những nhà văn ảnh hưởng nhất
của văn học Trung Quốc hiện đại. Ông còn là người đồng sáng lập Hồng Kông Minh Báo, ra đời năm 1959 và là tổng biên tập đầu tiên của tờ báo này.
Từ
năm 1955 đến 1972 ông đã viết tổng cộng 15 cuốn tiểu thuyết. Sự nổi
tiếng của những bộ truyện đó khiến ông được coi là người viết tiểu
thuyết võ hiệp thành công nhất. 300 triệu bản in (chưa tính một lượng
rất lớn những bản lậu) đã đến tay độc giả của Trung Hoa Đại lục, Hồng
Kông, Đài Loan, châu Á và đã được dịch ra các thứ tiếng Việt, Hàn, Nhật,
Thái, Anh, Pháp, Indonesia. Tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành
phim truyền hình, trò chơi điện tử.
Dịch giả đưa Kim Dung lên cơn sốt tại Việt Nam được ghi nhận là Tiền Phong Từ Khánh Phụng với bản Cô gái Đồ Long (dịch Ỷ thiên Đồ long ký), đăng trên báo Đồng Nai năm 1961. Thực ra trước đó, đã có một số bản dịch như Bích huyết kiếm của Từ Khánh Phụng (báo Đồng Nai), Anh hùng xạ điêu của Đồ Mập (báo Dân Việt), Thần điêu đại hiệp (Thần điêu hiệp lữ) của Vũ Tài Lục và Hải Âu Tử (báo Mới). Tuy nhiên, truyện kiếm hiệp vẫn được xem là thứ giải trí rẻ tiền.
Bản dịch Cô gái Đồ Long
mới tạo nên cơn sốt truyện Kim Dung trong các tầng lớp độc giả từ bình
dân đến trí thức. Một số nhà văn nhà báo lấy bút danh theo tên nhân vật
trong truyện Kim Dung như Hư Trúc, Kiều Phong… Nhiều nhà văn nổi tiếng
tham gia bình luận Kim Dung như Bùi Giáng, Bửu Ý, công phu nhất là Đỗ
Long Vân với loạt bài Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung.
Sau
1975, các tác phẩm của Kim Dung bị nhà nước Việt Nam liệt vào danh sách
cấm cùng với các tác gia kiếm hiệp khác như Cổ Long, Trần Thanh Vân…
với lý do “văn hóa đồi trụy phản động”. Tuy nhiên, các bản sách cũ vẫn
được lén lút lưu giữ và được nhiều người truyền tay đọc.
Đầu thập niên 1990, với chủ trương Đổi Mới,
chính quyền Việt Nam giảm bớt sự cấm đoán gắt gao với văn hóa văn nghệ.
Một số phim và sách võ hiệp cũ được phát hành lại. Để dễ xin phép xuất
bản, thoạt tiên sách không ghi đúng tên tác giả mà lấy các bút danh khác
như Nhất Giang, về sau mới ghi đúng tên Kim Dung, Cổ Long.
Thêm
vào đó, sự phát triển của Internet giúp các bản dịch cũ lưu truyền rộng
rãi, ban đầu dưới dạng scan từng trang sách, sau đó là dạng văn bản do
những người hâm mộ gõ lại. Sau 1975, nhà văn Vũ Đức Sao Biển là người
đầu tiên viết khảo luận về Kim Dung, các bài của ông đăng trên tập san Kiến thức Ngày nay, sau in thành bộ Kim Dung giữa đời tôi (4 quyển).
No comments:
Post a Comment