Wednesday, August 31, 2016
TRẦN TRUNG ĐẠO * MAO TRẠCH ĐÔNG
Tóm tắt quan điểm của Mao Trạch Đông về chiến tranh Việt Nam và "Mặt trận Giải phóng Miền Nam"
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Trong
suốt cuộc chiến Việt Nam, quan điểm chính trị và quân sự của Mao Trạch
Đông thay đổi nhiều lần. Từ một Mao chủ hòa sau hiệp định Geneva trở
thành một Mao chủ chiến trong giai đoạn đầu của cuộc chiến vào thập niên
1960 và lần nữa trở về với Mao chủ hòa sau Thông Cáo Chung Thượng Hải
ngày 27 tháng Hai 1972.
Mao và lý luận “chiến tranh giải phóng dân tộc”
Phát xuất từ quan điểm cố hữu “lấy nông thôn bao vây thành thị”
và cũng vì không đủ khả năng để trực tiếp đương đầu với Mỹ, Mao chủ
trương gây khó khăn cho Mỹ, kẻ thù chính của Trung Cộng trong giai đoạn
từ 1949 đến 1972, qua hình thức chiến tranh cách mạng tại bất cứ quốc
gia nào Mỹ đang có quyền lợi hay có thể tạo ảnh hưởng.
Trong dịp tiếp phái đoàn báo chí Chile ngày 23 tháng Sáu 1964, Mao tuyên bố: “Chúng tôi chống chiến tranh, nhưng chúng tôi ủng hộ các cuộc chiến chống chủ nghĩa đế quốc do các dân tộc bị áp bức phát động”. Từ Phi Châu, Nam Mỹ, và Á Châu, Mao tích cực yểm trợ võ khí và cơ sở lý luận cho các phong trào “giải phóng dân tộc”, chống “đế quốc thực dân”.
Các phong trào Maoist lan rộng khắp nơi, từ Nepal bên rặng Hy Mã Lạp
Sơn ở Á Châu cho đến tận những cánh đồng ở Ecuador, Nam Mỹ.
Trong mắt Mao, ba “anh hùng” được xem là những lãnh tụ tiêu biểu của
phong trào “giải phóng dân tộc” là Hồ Chí Minh tại Á Châu, Fidel Castro
tại Nam Mỹ, và Ben Bella tại Phi Châu. Trong số ba “anh hùng” đó, Hồ Chí
Minh và đảng CSVN vì lý do ý thức hệ và địa lý chính trị, được Mao quan
tâm nhất và bằng mọi giá phải nắm chặt trong tay.
Khi phong trào giải thực bước vào giai đoạn chót vào cuối thập niên
1960, hầu hết các nước thuộc địa đã được trao trả quyền độc lập hoàn
toàn hay độc lập trong khuôn khổ thịnh vượng chung. Hai trong số ba nước
tiên phong gồm Algeria và Cuba nghiêng về phía Liên Xô, Mao chỉ còn lại
một đàn em trung thành duy nhất ở Á Châu là CS Bắc Việt. Mao tìm mọi
cách để kiểm soát CSVN về mọi mặt từ giáo dục tuyên truyền, đường lối
lãnh đạo cho đến kinh tế, văn hóa, xã hội.
Mao và quan điểm về chiến tranh Việt Nam
- Sau hiệp định Geneva 1954 đến 1964: Trung Cộng là nguồn
cung cấp duy nhất cho CS Bắc Việt, không chỉ từ chén cơm manh áo mà cả
lý luận tư tưởng. Nói chung đời sống từ vật chất đến tinh thần của đảng
CSVN lệ thuộc sâu xa vào đảng CSTQ. Khắp miền Bắc, từ công sở đến gia
đình, hình ảnh của Mao được đặt trên mức linh thiêng.
Hồ Chí Minh và lãnh đạo CSVN đã thi hành một cách nghiêm chỉnh hầu hết
các mệnh lệnh đầy tai họa từ Mao và các chính sách phi nhân này đã dẫn
đến cái chết oan uổng của nhiều trăm ngàn người dân Việt Nam vô tội qua
các chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất. Sau tổn thất nặng nề trong chiến
tranh Triều Tiên, Mao có ý định tập trung vào các chính sách đối nội, và
cũng muốn CSVN đặt thứ tự ưu tiên vào việc CS hóa xã hội miền Bắc
trước. Tuy nhiên, để đồng thuận với đảng CSVN anh em, Mao cũng đã tích
cực yểm trợ quân sự trong chủ trương CS hóa Việt Nam bằng võ lực. Tổng
số viện trợ quân sự của Trung Cộng trong giai đoạn này gồm 320 triệu
yuan, 270 ngàn súng ngắn, 10 ngàn pháo, 200 triệu viên đạn, 2.02 triệu
đạn pháo, 1 ngàn xe tải, 25 máy bay, 1.18 triệu bộ quân phục.
- 1964 đến 1965: Thái độ của Mao đối với chiến tranh trở
nên kiên quyết hơn. Cuối năm 1964, Hồ Chí Minh chủ trương cân bằng ảnh
hưởng giữa Liên Xô và Trung Cộng mong nhận được viện trợ của cả hai để
theo đuổi mục tiêu CS hóa toàn cõi Việt Nam. Điều này làm Mao lo lắng.
Mao sai Đặng Tiểu Bình, lúc đó là Tổng Bí Thư đảng CSTQ, bí mật thăm Hà
Nội và hứa viện trợ Hà Nội một tỉ yuan nếu Hà Nội từ chối viện trợ của
Liên Xô. Ngoài ra, Mao cũng cứng rắn chống lại mọi sáng kiến chấm dứt
chiến tranh Việt Nam bằng phương tiện đàm phán. Mao nói thẳng với
Kosygin, Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Liên Xô, trong chuyến viếng thăm
của ông ta tới Bắc Kinh ngày 11 tháng Hai, 1965, “Liên Xô không được dùng Việt Nam để mặc cả với Mỹ”.
Mao cũng từ chối đề nghị của Liên Xô về một phiên họp thượng đỉnh giữa
ba đảng CS để thảo luận về đường lối chiến tranh Việt Nam. Mao xem đảng
CSVN chẳng khác gì một xứ bộ của đảng CSTQ.
- 1965 đến 1972: Khi chiến tranh Việt Nam gia tăng cường
độ, Lê Duẩn, trưởng phái đoàn đại diện đảng CSVN, trong chuyến viếng
thăm Trung Cộng tháng Tư 1965, đã chính thức yêu cầu Mao gởi quân sang
Việt Nam. Đáp lại lời thỉnh cầu của Lê Duẩn, Mao gia tăng hàng loạt viện
trợ quân sự cho CS Bắc Việt. Tháng Sáu 1965, các sư đoàn Quân Giải
phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào miền Bắc Việt Nam. Đến tháng Ba 1968,
tổng số quân Trung Cộng có mặt tại miền Bắc là 320 ngàn quân với tất cả
phương tiện yểm trợ và trang bị vũ khí đầy đủ.
Các cuộc dội bom ồ ạt của Mỹ lên miền Bắc gây tổn hại trầm trọng trong
mọi lãnh vực kinh tế, quốc phòng của CS Bắc Việt. Cùng lúc đó, Liên Xô,
các nước CS Đông Âu, và đồng minh của Mỹ Tây Âu khuyến khích CS Bắc Việt
và Mỹ ngồi vào bàn hội nghị để tìm cách giải quyết chiến tranh Việt
Nam. CS Bắc Việt đồng ý. Chủ trương của lãnh đạo CS Bắc Việt lúc đó là
vừa đánh vừa đàm để tận dụng mọi cơ hội có lợi nhất cho mục đích tối hậu
CS hóa Việt Nam và đồng thời dùng bàn hội nghị để mặc cả Mỹ giảm mức độ
ném bom. Ngoài ra, Hồ Chí Minh lo ngại Mỹ sẽ tăng cường thêm 100 ngàn
quân tại miền Nam như y đã trao đổi với Mao vào tháng Sáu 1965.
Mao thì khác. Mao chống đối phương pháp thương thuyết và chủ trương kéo
dài chiến tranh càng lâu càng tốt. Chủ trương kéo dài chiến tranh của
Mao phát xuất từ ba lý do: (1) Mao muốn tiếp tục làm tiêu hao khả năng
của Mỹ, (2) chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Mao trong thế giới thứ ba, (3)
dùng chiêu bài chống đế quốc xâm lược để củng cố vai trò cai trị của
Mao tại lục địa Trung Quốc.
- Thông Cáo Chung Thượng Hải 1972 đến 30-4-1975: Quan hệ
giữa Trung Cộng và Liên Xô ngày càng xấu và khó có cơ hội hòa giải giữa
hai nước CS hàng đầu. Chỉ riêng năm 1969, đã có tới 400 vụ đụng độ dọc
biên giới. Đáp lại ý định rút lui khỏi Việt Nam của TT Richard Nixon,
Mao nghĩ đã đến lúc phải bắt tay với Mỹ để tránh bị bao vây cả hai mặt
bằng hai kẻ thù mạnh nhất nhì trên thế giới. Sau chuyến viếng thăm Trung
Cộng của TT Richard Nixon cuối tháng Hai 1972, tới phiên Mao cổ võ một
giải pháp hòa bình cho cuộc chiến Việt Nam mà trước đó không lâu ông ta
đã chống lại.
Mao và “Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam”
Hôm nay cả thế giới đều biết những tổ chức được gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam” hay “Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” đều chỉ là các bộ phận thuộc đảng bộ miền Nam do Trung Ương Cục Miền Nam, tên mới của Xứ ủy Nam Bộ đảng Lao Động, lãnh đạo.
Tổ chức gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam” (MTDTGPMNVN) hay thường được gọi tắt là “Mặt trận Giải phóng Miền Nam” được thành lập ngày 20 tháng 12, 1960 với mục đích: “Đoàn
kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây
chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ;
thành lập một chính quyền liên minh dân tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam,
thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững
hòa bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất
Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và
thế giới."
Bí thư Trung Ương Cục đầu tiên là Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ chính tri
đảng Lao Động Việt Nam. Tháng 10 năm 1964, nhu cầu quân sự gia tăng,
Nguyễn Chí Thanh được điều vào Nam làm Bí thư Trung ương Cục kiêm Bí thư
Quân ủy Miền. Từ 1967 đến 1975, Trung ương Cục miền Nam đặt dưới sự
lãnh đạo của Phạm Hùng, Ủy viên Bộ chính trị kiêm Chính ủy các lực lượng
vũ trang miền Nam. Đầu năm 1961, “Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam”
cũng được Trung Ương Cục Miền Nam thành lập. Dù chỉ trên danh nghĩa,
“quân giải phóng” này lẽ ra phải trực thuộc “MTDTGPMNVN”, tuy nhiên,
theo nội dung chỉ thị của Tổng Quân ủy CSVN tháng 1 năm 1961 nhấn mạnh:
"Quân giải phóng miền Nam Việt Nam là một bộ phận của Quân đội nhân dân
Việt Nam, do Đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo".
Đáp ứng nhu cầu tạo thế đối trọng với chính phủ VNCH, ngày 8 tháng 6, 1969, Trung Ương Cục thành lập thêm một tổ chức mới gọi là “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” do Huỳnh Tấn Phát, đảng viên CS từ thời 1945 làm Chủ tịch và Nguyễn Thị Bình làm Bộ trưởng Ngoại Giao.
Nhân dịp đánh dấu 40 năm hiệp định Paris, các cơ quan tuyên truyền của đảng ca ngợi bà Bình là "nhà ngoại giao sáng tạo linh hoạt".
Điều đó không đúng. Về nguyên tắc lãnh đạo, vai trò của “Chính phủ Lâm
thời” trong đó có “Bộ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Thị Bình” chỉ là mặt nổi
đối ngoại, tất cả lời ăn tiếng nói của bà đều được chỉ thị từ đảng ủy
bên trong, đứng đầu là Lê Đức Thọ. Chắc bà Bình cũng phải thừa nhận,
dưới sự lãnh đạo của đảng CS, mọi "sáng tạo linh hoạt" cá nhân là những
điều cấm kỵ.
Dù sao, trước 1975, nhờ che đậy dưới mục đích rất nhân bản và lương thiện “dân
tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân
chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hòa bình, thi hành chính sách trung
lập”, “MTDTGPMNVN” đã thu hút khá đông “trí thức” miền Nam về phía
họ và nhanh chóng làm suy yếu cơ chế chính trị dân chủ còn rất non trẻ ở
miền Nam.
- Mao ve vãn các lãnh đạo “Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam”:
Không ai hiểu con bằng cha mẹ, tác giả của sách vở mà CSVN dùng là của
Mao và đường lối CSVN dùng cũng là của Mao đã từng áp dụng tại Trung
Quốc như trường hợp Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc,
gọi tắt là Chính Hiệp sau 1949. Chủ tịch của các Hiệp Chính này không ai
khác hơn là những lãnh đạo tối cao của đảng. Mao Trạch Đông chủ tịch
khóa I (1949-1954), Chu Ân Lai chủ tịch các khóa II, III, IV
(1954-1976), Đặng Tiểu Bình chủ tịch khóa V (1978-1983) Đặng Dĩnh Siêu
chủ tịch khóa VI (1983-1988), Lý Tiên Niệm chủ tịch khóa VII (1988-1992)
v.v…
Qua kinh nghiệm lãnh đạo Chính Hiệp tại Trung Quốc, Mao biết dù sao vẫn
còn tồn tại một thành phần ngây thơ trong hàng ngũ “MTDTGPMNVN” nên sau
Thông Cáo Chung Thượng Hải, Mao tìm cách khai thác và ve vãn hàng ngũ
này. Điều Mao dự đoán không sai nhưng không đủ thế và lực để tạo ra ảnh
hưởng lớn. Sau 1975 các thành phần ngây thơ này tập trung dưới hình thức
Câu Lạc Bộ Kháng Chiến và nhiều trong số họ đã bị bắt.
Mao tiếp Nguyễn Thị Bình tại Bắc Kinh ngày 29 tháng Hai 1972 và nói với bà Bình “Chúng
ta thuộc vào một gia đình. Bắc Việt, Nam Việt, Đông Dương, Triều Tiên
cùng một gia đình và chúng ta ủng hộ lẫn nhau. Nếu các bạn thành công
tại hội nghị Paris, không chỉ Nam Việt mà Bắc Việt cũng đạt đến mức bình
thường hóa với Mỹ ở mức độ nào đó”.
Tháng 11, 1973, Nguyễn Hữu Thọ và phái đoàn MTDTGPMNVN thăm Bắc Kinh.
Phái đoàn của y được Mao tiếp đón nồng nhiệt và hứa các khoản viện trợ
không hoàn trả. Các thành viên trong phái đoàn MTDTGPMNVN ngạc nhiên
trước cách đối xử khác biệt của Mao. Trương Như Tảng, Bộ trưởng Tư Pháp
của “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”, kể
lại trong vài ngày đầu thăm viếng Bắc Kinh, các lãnh đạo Bắc Kinh tưởng
Trương Như Tảng là người của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nên tỏ ra lạnh
nhạt, nhưng khi biết y là thành phần của phái đoàn Nguyễn Hữu Thọ, họ đã
trở nên niềm nở.
- Mao và chủ trương hai nước CS Việt Nam: Chiều ngày 11
tháng 8, 1975, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc Daniel P. Moynihan, hai
lần đưa tay phủ quyết đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc của cả Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa lẫn Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam sau khi đơn gia nhập của
Nam Hàn bị bác bỏ tuần trước đó. Với lãnh đạo CSVN, việc hai miền CS
Việt Nam cùng tham gia vào LHQ chỉ là một chiến thuật đối ngoại về mặt
nhà nước, nhằm “hợp thức hóa” việc cưỡng chiếm miền Nam của Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa và gia tăng áp lực buộc Hoa Kỳ phải viện trợ để “tái thiết
Việt Nam”. Về mặt lãnh đạo, chỉ do một đảng CSVN mà thôi.
Mao biết khuynh hướng thân Liên Xô trong lãnh đạo CSVN và hy vọng lãnh
đạo CSVN tại miền Nam hay gốc miền Nam sẽ có một khuynh hướng khác.
Những ve vãn của Mao đối với MTDTGPMNVN cũng chỉ là hành động “còn nước
còn tát”. Bắt được ý định đó, Hoa Kỳ đưa ra một “giải pháp trọn gói” tức
cả bốn nước Đông Nam Á gồm Bắc Hàn, Nam Hàn, Bắc Việt, Nam Việt cùng
vào LHQ. Trung Cộng không chấp nhận. Mao, vào thời gian đó, sức khỏe yếu
dần nhưng đã đóng vai trò quyết định trong “giải pháp trọn gói” của
Mỹ.
Mao và lãnh đạo Trung Cộng khi ủng hộ chủ trương hai Việt Nam không phải
phát xuất từ lòng thương xót Việt Nam Cộng Hòa hay người dân miền Nam
mà chỉ muốn tiếp tục chi phối chính trị Việt Nam qua vai trò của Cộng
Hòa Miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên để trả giá cho chính sách đó bằng việc
chấp nhận Nam Hàn vào LHQ, Mao cho rằng không tương xứng. Vì Mao không
đồng ý “giải pháp trọn gói” tức cả bốn nước cùng vào LHQ nên chiều ngày
11 tháng 8, 1975, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc Daniel P. Moynihan Mỹ
phủ quyết CS Bắc Việt và CS Nam Việt.
Tìm hiểu quan điểm của Mao qua các giai đoạn của cuộc chiến để thấy phía
sau những khẩu hiệu tuyên truyền đường mật, dã tâm của Mao vẫn là khống
chế Việt Nam bằng mọi cách. Tập Cận Bình hãnh diện là truyền nhân của
Mao, do đó, đọc lại Mao để có thể đo lường những bước đi tới của họ Tập.
Ngoài các đặc điểm kế thừa từ Mao, Tập Cận Bình còn đi xa hơn khi tham
vọng bành trướng cả Á Châu.
CSVN ngày nay không còn chọn lựa nào khác hơn là quy phục Trung Cộng để
tiếp tục tồn tại và duy trì quyền cai trị đất nước. Chọn lựa duy nhất
của các tầng lớp người Việt Nam yêu nước hiện nay là đóng góp hết sức
mình vào cuộc vận động dân chủ tại Việt Nam. Dân chủ hóa Việt Nam là
phương cách “thoát Trung” đúng đắn và phù hợp với sự phát triển văn minh
thời đại nhất. Mục tiêu đầu tiên trong tiến trình dân chủ hóa là tháo
gỡ cho được cơ chế chính trị xã hội độc tài CS hiện nay.
31.08.2016
_____________________________________
Tham khảo:
- Discussion between Mao Zedong and Nguyen Thi Binh. December 29, 1972. Wilson Center.
- Chen Jian (1995), China's Involvement in the Vietnam War, 1964-69, Cambridge University Press.
- Rosemary Foot, John Gaddis, Andrew Hurrell (2002). Order and Justice in International Relations. Oxford.
- Yang Kuisong (2002). Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the
Indochina War, 1949-1973. Woodrow Wilson International Center for
Scholars.
- Qiang Zhai (2002). China & The Vietnam Wars, 1950-1975. University of North Carolina Press.
- Eric J Ladley (2007) Balancing Act: How Nixon Went to China and Remained a Conservative. iUniverse.
- Trương Quảng Hoa. Hồi kí cố vấn Trung Quốc. Diendan.org.
- New York Times, August 7, 1975 và August 12, 1975
- Trần Gia Phụng (2016). Lịch Sử Sẽ Phán Xét, Nhà xuất bản Non Nuoc, Toronto, Canada.
Tuesday, August 30, 2016
CẢNH QUAN THẾ GIỚI
Những cây cầu tự nhiên độc đáo ở Ấn Độ
Chia sẻ
Dân bộ tộc Khasi ở bang Meghalaya thuần hóa rễ cây qua hàng trăm năm thành những cây cầu vững chắc vượt sông.
Tại đông bắc Ấn Độ, gần biên giới Bangladesh, bang Meghalaya toàn núi
non xanh rì với những rừng cây nhiệt đới rậm rạp và năm nào cũng mưa
nhiều. Làng Mawsynram là nơi có lượng mưa tới 11.873mm mỗi năm, đoạt
danh hiệu "nơi ướt át nhất Trái Đất". Trong mùa mưa từ tháng Sáu tới
tháng Chín, những dòng nước cuồn cuộn sau các cơn mưa như trút khiến ta
không thể lội bộ qua sông được.
Trước đây, bộ tộc Khasi sống ở vùng này thường làm cầu tre vượt suối. Nhưng những cây cầu như thế không chịu được những trận mưa dữ dội, nhanh chóng bị mục gẫy khiến người ta không thể qua lại hai bên bờ.
Khoảng 180 năm trước, các bô lão Khasi tìm đến một giải pháp khác. Rễ cây cao su được luồn vào trong các ống rỗng làm từ thân cây cau, mọc dài ra giữa sông. Các rễ cây được chăm chút cẩn thận trong nhiều năm, cho tới khi chúng mọc sang được tới bờ bên kia và tạo thành bộ khung, rồi dần dần thành cây cầu đủ chắc chắn cho con người đi qua.
Có thể phải mất từ 15 đến 20 năm để tạo dựng được một mạng lưới chắc, khỏe các cây cầu làm từ rễ cây nối liền hai bờ sông. Khác với cách xây dựng truyền thống, cầu rễ cây ở Meghalaya ngày càng trở nên vững chắc hơn và không bao giờ cần phải bảo dưỡng hay xây lại. Những cây cầu khỏe nhất đã có trên 100 năm tuổi.
Người Khasi theo truyền thống mẫu hệ. Người chồng chuyển đến sống ở làng của vợ sau khi cưới, còn trẻ con thì mang họ mẹ. Biron Nongbri, một giáo viên tiểu học ở thị trấn gần đó đã chuyển tới Nongriat sống sau khi kết hôn. Bà ngoại vợ anh là người đã giúp xây dựng cầu Umshiang.
Cầu sắt này là một trong ba cây cầu giúp cắt ngắn hành trình tới Nongriat. Trước đây, người ta cần đi theo đường rừng từ Cherrapunji tới Nongriat, vượt qua cầu cây Umshiang và Mawsaw. Nay, lối đi cũ hầu như bị bỏ hoang, khiến cho các cây cầu làm bằng rễ cây ít được dùng hơn trước.
http://www.bbc.com/vietnamese/culture_social/2015/05/150526_indias-amazing-living-root-bridges_pix_vert_cul
14 sông, hồ kỳ diệu nhất hành tinh
- 31 tháng 3 2015
Trên Trái Đất có những vùng nước đẹp choáng ngợp khiến ta không khỏi sững sờ.
- Suối vạn hoa Grand Prismatic, Mỹ. Suối Prismatic Spring sặc sỡ nhiều màu sắc là suối nước nóng lớn nhất ở Công viên Quốc gia Yellowstone của Mỹ. Suối rộng 90m và sâu trên 50m. Nơi đây tập trung nhiều khoáng chất, khiến tụ nhiều dải màu sắc từ đỏ tới xanh, được tạo thành từ các nhóm vi khuẩn ưa nhiệt khác nhau ở mỗi dải màu. Phần trung tâm có màu xanh lam rực rỡ là nơi cực nóng, với nhiệt độ lên tới 87 độ C.
- Hồ Đốm, Canada. Hồ alkaline này có nhiều khoáng chất, đặc biệt là sulphates, và có một lượng nhỏ chất bạc và titanium. Các điểm lốm đốm hình tròn xuất hiện trong mùa hè khi nước bốc hơi gần hết. Nằm ở British Columbia, hồ này được người địa phương gọi là Kliluk, và được cho là rất thiêng. Trong Đại chiến Thế giới I, người ta đã lấy muối ở hồ này để chế chất nổ.
- Hồ Retba, Senegal. Trông giống như một hồ bơi khổng lồ chứa đầy nước ngọt màu dâu tây, hồ Retba có độ mặn rất cao, khiến con người có thể dễ dàng nổi trên mặt nước. Đây cũng là nơi nhiều diêm dân tới lấy muối. Hồ nằm gần vùng bờ biển Đại Tây Dương của Senegal. Sắc hồng rực rỡ của nước hồ được tạo thành từ một loại vi tảo ưa mặn có tên là Dunaliella salina, vốn tạo ra sắc đỏ nhằm hấp thụ nắng mặt trời. Màu sắc ở hồ đặc biệt sặc sỡ trong mùa khô.
- Thác máu, Nam Cực. Nằm trong những khối đông cứng ở vùng đông Nam Cực, một thác nước màu đỏ tươi chảy xuống từ các vết nứt của sông băng Taylor. Dòng nước chảy ra từ một cái hồ siêu mặn vốn đã nằm dưới sông băng này suốt hai triệu năm. Khi dòng nước giàu chất sắt chảy ra, sắt phản ứng với ô-xi trong không khí tạo thành chất rỉ sét, và do đó khiến cho dòng thác nước mang sắc đỏ rực rỡ. Cộng đồng vi khuẩn có từ cổ xưa sinh sống trong hồ rất có thể sẽ đem lại cho con người những manh mối để tìm hiểu về cuộc sống thời tiền sử của Trái Đất và của các hành tinh khác.
- Sông Cano Cristales, Colombia. Trong một thời gian ngắn từ tháng Chín đến tháng Mười Một hàng năm, nước sông đổi từ trong veo thông thường sang rực rỡ sắc cầu vồng. Các sắc đỏ, lam, lục và cam được tạo ra bởi một loài cây rất đặc biệt của địa phương, cây Macarenia Clavigera nở hoa trong nước, và các loại rêu, tảo khác. Sông này nằm ở vùng hẻo lánh của dãy núi Serranía de la Macarena. Nó đã bị đóng cửa cho đến giữa thời thập niên 2000 do phiến quân hoạt động trong khu vực.
- Hồ Sôi, Dominica. Hồ luôn sôi sùng sục và bốc hơi nghi ngút. Hồ nằm cao trên Công viên Quốc gia Morne Trois Pitons, và bạn chỉ có thể đến được bằng cách leo bộ rất vất vả. Nước hồ được liên tục làm nóng do dòng nham thạch chảy bên dưới, khiến hơi nước và khí nóng bốc lên khoảng không trên mặt hồ. Việc bơi lội ở hồ có thể gây chết người.
Salar de Uyuni, Bolivia. Địa điểm rộng 10.582 cây số vuông này là ruộng muối lớn nhất thế giới. Những đụn muối nằm chằng chịt như mạng nhện rải rác khắp nơi. Trong mùa mưa, sa mạc muối bị nước tràn từ các hồ kế bên gây ngập và trở thành một tấm gương khổng lồ phản chiếu lên bầu trời. Khu vực này là một nguồn lithium to lớn.- Hồ bậc thang Pamukkale Travertine, Thổ Nhĩ Kỳ. Những hồ nước màu ngọc lam nằm như bậc thang trên triền đá vôi này là nơi từng có những dòng suối nước nóng giàu khoáng chất chảy qua. Còn được gọi là Lâu đài Bông, khu địa hình bậc thang Pamukkale nằm cạnh thành phố La Mã cổ Hieropolis. Toàn khu địa hình này cùng thành phố cổ được gộp chung được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới.
- Hồ hắc ín, Trinidad. Hồ La Brea sền sệt nhớt này là nơi tụ hội tự nhiên lớn nhất chất hắc ín trên thế giới. Hồ được cho là nằm giữa hai đoạn đứt gãy, là nơi chất dầu dưới lòng đất trào lên. Hồ cũng là nơi cất giữ quý giá các động vật hóa thạch bị kẹt trong lớp nhựa dính nhớp nháp.
- Hồ Loktak, Ấn Độ. Hồ thấp thoáng nhiều đảo trôi nổi (phumdi): đó là các khối lớn các thảm thực, đất và các chất hữu cơ khác kết gắn với nhau. Phumdi lớn nhất phủ rộng tới hơn 40 cây số vuông. Rất đa dạng về sinh học, hồ là nơi có những loài động vật bị đe dọa tuyệt chủng như trăn ́n Độ và vượn hoolock. Hồ cũng là nơi cấp nước cho một dự án thủy điện.
- Hồ chứa Manicouagan, Canada. Còn được gọi là "Con mắt Quebec", hồ Manicougan được hình thành khi một thiên thạch lao xuống Trái Đất hàng trăm triệu năm trước. Ở phần chính giữa có một vòng tròn dâng cao lên, mà điểm cao nhất là núi Babel. Hồ có diện tích gần 2.000 cây số vuông.
- Chuỗi hồ Plitvice, Croatia. Trong một công viên quốc gia có rừng bao phủ ở Croatia, một chuỗi 16 hồ nước liên kết với nhau thành tầng thác nước. Các hồ nước được tách khỏi nhau bằng các đập đá vôi tự nhiên. Được tuyên bố là Công viên Quốc gia vào năm 1949, chuỗi hồ Plitvice là Địa điểm Di sản Thế giới của UNESCO. Công viên rất đa dạng về sinh học, bao gồm cả các loài động vật quý hiếm như mèo rừng, chồn nâu và chó sói.
- Các hồ Kelimutu Crater, Indonesia. Trên đỉnh núi lửa Kelimutu của Indonesia là ba hồ miệng núi lửa, mỗi hồ có một màu khác nhau. Các hồ nằm cạnh nhau, cùng bên trong miệng núi lửa Kelimutu. Chúng đổi màu theo từng giai đoạn, chuyển từ xanh lam sang xanh lục, đỏ, đen và thậm chí cả màu chocolate nâu hoặc trắng. Ba hồ nước có nhiệt độ khác nhau và thành phần hóa học khác nhau.
- Hồ Champagne, New Zealand. Trông giống như bên trong một ly rượu sâm-banh, khí carbon dioxide liên tục nhả bọt trong hồ Champagne. Suối nước nóng được hình thành khoảng 900 năm trước và có nhiệt độ bề mặt khoảng 74 độ C. Ở ven hồ là sắc màu cam rực rỡ với rất nhiều chất silica, asen và antimon sulfur kết tủa. Ở đó, trong các khối đá xung quanh cũng chứa nhiều chất kết tủa thuỷ ngân, thallium, vàng và bạc.
NGƯỜI VIỆT TẠI PHÁP
Người Việt tại Pháp kiến nghị đòi Trung Quốc tôn trọng phán quyết Biển Đông
Người
biểu tình Việt Nam và Philippines trước lãnh sự quán Trung Quốc ở
Makati, Manila đòi Bắc Kinh tôn trọng phán quyết Biển Đông, 06/08/2016.REUTERS/Romeo Ranoco
Trên trang web change.org dành riêng cho những kiến nghị trên mạng, đã xuất hiện một bản kiến nghị đòi hỏi « Tôn trọng phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực ngày 12/07/2016 liên quan đến tranh chấp Biển Đông ». Kiến nghị viết bằng ba thứ tiếng Anh, Pháp, Việt do CRAFV (Hội đồng đại diện các hội Pháp-Việt) đề xướng.
Bản kiến nghị
tố cáo những hành động quân sự của Trung Quốc tại Biển Đông từ nhiều
thập kỷ qua. Trước hết là việc chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng
Hòa năm 1974. Đến năm 1988, đến lượt Đá Gạc Ma (Johnson Reef) thuộc
Trường Sa, năm 1995 Trung Quốc chiếm giữ Đá Vành Khăn (Mischief Reef) và
xây lên một căn cứ hải quân. Năm 2012 bãi cạn Scarborough của
Philippines lọt vào tay Bắc Kinh.
Đáng chú ý là năm 2012 Trung Quốc đã cắt đứt dây cáp một tàu thăm dò của
Việt Nam, năm 2014 cho kéo giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Những hành vi đánh đắm tàu đánh cá Việt
Nam, bắt cóc ngư dân…tiếp diễn trong nhiều năm. Và từ năm 2014 Bắc Kinh
đã cho xây dựng các hòn đảo nhân tạo cùng với cơ sở hạ tầng có thể phục
vụ mục đích quân sự tại quần đảo Trường Sa.
Kiến nghị nhắc lại phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye
(PCA) ngày 12/07/2016 đã khẳng định « đường lưỡi bò » do Trung Quốc tự
vẽ để yêu sách chủ quyền trên 90% diện tích Biển Đông là không có cơ sở
pháp lý, bác bỏ lý lẽ « quyền lịch sử », đồng thời buộc Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về việc phá hoại hệ sinh thái biển. Bắc Kinh không chấp nhận phán quyết.
Bản kiến nghị viết : « Với mục đích ủng hộ duy trì hòa bình thế
giới, chúng tôi, công dân Pháp và châu Âu, gốc Việt, Việt kiều và những
người Việt sống ở Việt Nam kêu gọi các cơ quan chính trị Pháp, châu Âu
và toàn thế giới tìm các biện pháp thích hợp để yêu cầu Trung Quốc tôn
trọng phán quyết của PCA, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) ». Đồng thời « dừng mọi hành động xây dựng bất hợp pháp các đảo nhân tạo, sách nhiễu ngư dân Việt Nam ».
Sau khi thu thập chữ ký, bản kiến nghị sẽ được gởi đến tổng thống, ngoại
trưởng và Quốc hội Pháp, chủ tịch Nghị viện Châu Âu và Ủy ban Châu Âu,
đại sứ tại Pháp của các nước Trung Quốc, Việt Nam, Philippines và các
nước ASEAN khác, Hoa Kỳ, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, đại diện Đài Loan, các
cơ quan truyền thông Pháp và châu Âu.
Trả lời RFI Việt ngữ, ông Vũ Ngọc Cẩn, chủ tịch MCFV (Mouvement des
Citoyens Français d’origine Vietnamienne – Phong trào Công dân Pháp gốc
Việt), một hiệp hội là thành viên của CRAFV đã cho biết thêm một số chi
tiết liên quan đến kiến nghị.
TRẦN PHONG VŨ * TUẤN KHANH
Đọc “Khu định cư mới của ‘Việt cộng’ ở Quận Cam, USA”
Suy nghĩ từ bài viết của Tuấn Khanh tiêu đề: “Khu Định Cư Mới của ‘Việt cộng’ Ở Quận Cam, USA”
Bạn
bè từ quốc nội vừa gửi cho tôi bài viết mới của tác giả Tuấn Khanh với
tựa đề nêu trên. Đọc đi đọc lại tới lần thứ ba, tôi không khỏi suy
tư.Trước hết vì những điều tác giả thấy xảy ra ngay tại Sài Gòn Nhỏ, nơi
được mệnh danh là thủ đô của tập thể người Việt Nam tị nạn hải ngoại và
cũng là nơi cư ngụ của gia đình, con cái tôi. Chỉ một sự kiện bài được
một tác giả trẻ đã thành danh ở trong nước viết đã là một thôi thúc
khiến tôi phải quan tâm và không thể không lên tiếng. Ngoài giá trị
chứng từ của một bài viết nặng ký, tác giả còn cho tôi thấy tinh thần
dân tộc, lòng yêu nước, thương nòi và thái độ bao dung nhưng thẳng thăn,
can trường dám nói lên sự thật của ông.
Tuấn Khanh là ai?
Ông tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh sinh
ngày 1-10-1968, và là một tác giả nổi tiếng từ khi còn rất trẻ. Ngoài
đam mê âm nhạc, Tuấn Khanh còn là một nhà báo có hạng. ông đã cộng tác
với nhiều tờ báo trong nước, như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Lao Động.
Ông đã được đài truyền hình Rai Italia
của Ý trao tặng giải thưởng về âm nhạc. Vào năm 2001, ông được chọn là
một trong 10 nhân vật trẻ của Đông Nam Á trong một cuộc bình chọn do tạp
chí East Magazine tổ chức. Năm 2005, đài VTV mời Tuấn Khanh điều khiển
trò chơi truyền hình mang tên Trò chơi âm nhạc. Năm 2007 ông là thành
viên Ban giám khảo chương trình Việt Nam Idol.
Gần
đây, Tuấn Khanh tuyên bố sẽ chấm dứt sáng tác tình ca phù phiếm để
chuyển qua những đề tài xã hội. Điều đáng chú ý là ông sẽ không xin phép
kiểm duyệt các đĩa nhạc do ông thực hiện. Điều này có nghĩa là những
sáng tác của ông hoàn toàn tự do bay bổng không chịu bất cứ ràng buộc
nào của bộ Thông Tin Tuyên Truyền nhà nước.
Trong
mấy năm qua, kể từ khi Bắc Kinh công khai có những hành vi xâm lăng
biển đảo của Việt Nam(1), tác giả Tuấn Khanh đã viết những ca khúc chống
Tàu cộng, khơi gợi tình yêu nước, chống ngoại xâm và được giới trẻ
trong nước nhiệt liệt hưởng ứng. Điển hình như bài “Trái Tim Việt
Nam”(2) hiện được google post lên mạng như một tác phẩm tiêu biểu của
ông dưới dạng một video link có kèm hình ảnh hàng trăm thanh niên nam nữ
quốc nội đang cuồng nhiệt tham dự một cuộc biểu tình chống Trung cộng
xâm lăng Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.
Bản nhạc có những lời ca như “Việt
Nam phải vẹn tuyền / Không thẹn cùng tổ tiên… Hãy cất tiếng nói để mãi
lưu truyền / Lời thề giữ lấy nước Nam vẹn tuyền… Em có nghe chăng nước
non Việt Nam / Rên xiết phân ly trong tay kẻ gian…Nếu có chết ngày nào /
Thì cho thấy đất nước tôi Tư Do…”
Ngoài việc sáng tác nhạc, ông cũng viết
nhiều bài mang tính phản biện liên quan tới hiện tình đất nước. Bên cạnh
những bài mang nội dung chống bọn bá quyền Bắc Kinh, ông còn viết những
bài về thảm họa cá chết hàng loạt ở Vũng Áng, Hà Tĩnh mới đây.
Đánh
giá về tính đấu tranh, dư luận trong nước cho rằng nhạc của Tuấn Khanh
và cả những bài viết của anh, đã tác hại cho chế độ không kém nhạc Việt
Khang. Nhưng sở dĩ nhà nước bắt giam Việt Khang mà không dám động đến
ông chỉ vì ảnh hưởng của ông trong cũng như ngoài nước quá lớn. Hà Nội
sợ bứt giây động rừng nên đành ngậm miệng. Tương tự như trường hợp cô
giáo Trần Thị Lam với bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?” Không bắt, không trù giập được thì “tha làm phúc”!
Nội dung bài viết mới của Tuấn Khanh
Mở đầu, Tuấn Khanh viết:
“Trên con đường dài dẫn ra biển Hungtington Beach, Quận Cam, có những khu nhà rất đẹp mà chủ hầu hết là người Việt… Bạn tôi, một người đã sống ở nơi này, gần bằng thời gian của thế hệ người Việt đầu tiên đặt chân đến Mỹ sau tháng 4/1975, nói rằng đó là những khu định cư mới của ‘Việt cộng’.Những ngôi nhà đó được mua rất nhanh trong khoảng vài năm gần đây – mỗi căn từ 450.000 cho đến hơn 1 triệu USD, cho thấy có một nguồn ngoại tệ khổng lồ được chuyển ra khỏi nước Việt Nam, để xây dựng một ước mơ thầm kín và khác biệt bên ngoài tổ quốc của mình. Phần lớn những người này đều nói giọng miền Bắc, mới. Họ có một lối diễn đạt thời thượng thật dễ gây ấn tượng.Anh bạn tôi, một người làm real estate – môi giới mua bán bất động sản ở Mỹ – kể lại cuộc trò chuyện với một khách hàng như vậy, và được biết nhà được mua ngay bằng tiền mặt, mà người khách dằn giọng “tiền tươi!”
Cũng
như phần đông bà con tị nạn ở Mỹ, tôi từng nghe rất nhiều tin đồn
tương tự về chuyện thời gian gần đây những đại gia trong nước, trong số
không thiếu những tay tham nhũng gộc thuộc cơ chế cầm quyền Hà Nội, Sài
Gòn đã và đang ồ ạt qua sinh sống và mua những căn nhà cả triệu mỹ kim ở
các khu sang trọng tại Sài Gòn Nhỏ thuộc miền nam tiểu bang California,
Hoa Kỳ. Tuy nghe vậy nhưng không mấy ai biết rõ thực hư ra sao. Vì thế
khi đọc bài viết của tác giả Tuấn Khanh từ quốc nội gửi ra tôi không
khỏi ngạc nhiên sửng sốt. Thật ra đây không phải là lần đầu tiên tôi
mang cảm giác này. Ngày từ cuối năm 2015, thời gian Bộ Chính Trị đảng
cộng sản Việt Nam đang ráo riết chuẩn bị Đại Hội đảng lần thứ 12, tôi đã
từng một lần choáng váng khi đọc trên mạng Chân Dung Quyền Lực(i) đưa
tin chi tiết kèm theo hình ảnh tiết lộ về sản nghiệp đồ sộ của ông
Nguyễn Xuân Phúc, trong đó có những căn biệt thự khang trang, bề thế ở
ngay Quận Cam vào thời gian ông ta còn giữ chức phó Thủ tướng dưới trào
Nguyễn Tấn Dũng.
Bài
viết của Tuấn Khanh không chỉ nói tới những đại gia Việt Nam ẵm tiền từ
trong nước qua tậu biệt thự ở nam California mà còn ở nhiều nơi khác
như Texas chẳng hạn. Tác giả cho hay:
“Không chỉ ở nơi đó, nhiều năm gần đây, cộng đồng Việt Nam ở Texas cũng hay nói với nhau rằng khu Bellaire đang ngày càng nhiều những người chạy khỏi Việt Nam hợp pháp như vậy. Thậm chí, không chỉ xuỳ tiền nhanh để mua nhà – lớp người này rất nhiều tiền – họ mua luôn các cơ sở thương mại. Từ các tiệm nail với giá vài chục ngàn cho đến các siêu thị giá trên chục triệu USD, một thế hệ khác chính kiến, khác tư duy đang len lỏi vào các cộng đồng Việt Nam chống Cộng để mong an cư và sinh tồn. Nơi quần cư cho tiếng Việt, văn hoá Việt không chấp nhận chế độ cộng sản mà tác giả Trầm Tử Thiêng từng gọi là ‘một Việt Nam bên ngoài Việt Nam’”.
Tuân Khanh cho biết thêm:
“Có lẽ vì vậy, mà ở các khu người Việt, biển quảng cáo của các luật sư di trú ngày càng nhiều. Trên đài phát thanh hay truyền hình cũng ra rả các lời mời tư vấn tìm hiểu cách lấy thẻ xanh để được ở lại nước Mỹ.”
Đứng
trên lãnh vực kinh doanh, thương mại thuần túy, chẳng ai trách giới
luật sư hay các cơ quan truyền thông quảng bá cho những dịch vụ này.
Giản dị vì đây thuộc phạm vi nghề nghiệp của họ, là một trong những dịch
vụ làm ăn để kiếm sống của giới này. Vả chăng ngoài những tay tham
nhũng trong hệ thống cầm quyền đảng và nhà nước CSVN và đông đảo những
kẻ thời cơ biết ăn chia với những kẻ quyền thế để làm giầu trên xương
máu dân đen rồi tìm đường qua Mỹ, cũng còn có nhiều đồng bào qua định cư
tại đây là bà con thân nhân của những người đã bỏ nước đi tị nạn sau
cơn hồng thủy 75.
Tuy
nhiên, nếu nhìn sâu vào đàng sau những hiện tượng khác lạ trong giới
làm truyền thông, cách riêng các hệ thống truyền hình đang nở rộ ở nam
bắc California, những người còn quan tâm tới thân mệnh quê hương, dân
tộc không thể không nhận ra những chỉ dấu cần đặt câu hỏi. Có người
nói, cách tốt nhất để phân biệt lập trường chính trị giữa các đài truyền
hình, phát thanh là hãy quan sát cách chọn tin, đưa tin, nội dung các
chương trình hội luận thời sự và dàn xướng ngôn của mỗi đài là đủ rõ.
Trên thực tế có đài chỉ loan tin thế giới và những loại tin “cán chó” ở
quốc nội mà luôn tránh né những tin được đảng và nhà nước CSVN coi là
“nhạy cảm”. Cụ thể trong thời gian gần đây, những đài này không hề đưa
tin về những cuộc biểu tình với hàng chục ngàn đồng bào ở Nghệ Tĩnh
trương cao khẩu hiệu đỏi hỏi nhà cầm quyền phải minh bạch thảm họa cá
chết đồng loạt và trục xuất vĩnh viễn Formosa khỏi Vũng Áng. Giới hâm mộ
âm nhạc trong cộng đồng cũng than phiền về một trung tâm nọ đã dùng
tiền và những lời hứa hẹn để mua đứt những ca sĩ nổi tiếng từng hát
những bản nhạc đấu tranh chống Trung cộng xâm lược và một chính quyền
“hèn với giặc, ác với dân” từng làm rung động lòng người thưởng ngoạn
trong và ngoài nước. Giữa kẻ bị mua và tổ hợp dùng tiền từ đâu đó, âm
mưu làm bặt đi những tiếng hát đấu tranh được coi là vưu vật của cộng
đồng tị nạn, ai nặng tội hơn đối với những người không chấp nhận CS, mọi
người đều đã rõ(ii).
Với những lời lẽ mỉa mai, châm biếm, tác
giả Tuấn Khanh đã can đảm, công khai chỉ rõ bộ mặt gian manh, giả danh
yêu nước thương nói của những kẻ từng lớn tiếng tuyên bố là “chống Mỹ
cho đến cái lai quần” là “đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào” nhưng ngày nay lại
là những kẻ đang tìm đường qua ấn thân trên đất nước kẻ thù và cũng là
nơi định cư cả triệu đồng bào một thời bị họ coi là “ngụy” là “tay sai
đế quốc Mỹ”!
Bài viết cho hay:
“Sẽ là một điều chua chát, nếu nhìn lại lịch sử. Dù nước Mỹ vẫn bị gọi là thua trận và bị “đuổi” khỏi Việt Nam theo các văn bản tuyên truyền, nhưng đích đến giờ đây của nhiều quan chức Việt Nam vẫn là nước Mỹ chứ không là đồng minh số một Trung Quốc. Thậm chí các quan chức, giới tư bản đỏ hiện tại của Việt Nam còn bỏ ra rất nhiều tiền để được trụ lại quốc gia thù địch đó, cho họ và cho con cái của họ.”Nhiều người Việt Nam sống bằng đồng tiền lương thiện ít ỏi của mình tại Mỹ đã ngạc nhiên hỏi rằng “họ là ai, sao giàu vậy”. Thật không dễ trả lời…”
Đan cử chứng từ của một người bạn đang sống đời tị nạn ở Mỹ, Tuấn Khanh viết:
“Anh Mến, một người sống ở Kansas hơn 10 năm, trong một cuộc gặp ngẫu nhiên đã thảng thốt kể rằng ông chứng kiến những người Việt đến Mỹ mua một lúc 2, 3 căn nhà. Thậm chí họ còn luôn đón mua hàng chục chiếc iPhone đời mới nhất để gửi về, so với ông đến nay vẫn còn mắng con khi thấy chúng xài viết chì được phân nửa đã vứt đi.”
Trước câu hỏi ngẩn ngơ, ngỡ ngàng của
người bạn tên Mến là “Việt Nam bây giờ dễ kiếm tiền lắm hả anh?” tác giả
bản nhạc “Trái Tim Việt Nam” cảm thấy lúng túng, khó giải thích cho bạn
hiểu, dù cả hai đều là người Việt và cùng đang dùng ngôn ngữ mẹ để đối
thoại với nhau.
Xác định rằng việc kiếm tiền trong nước
không dễ dàng thì lý giải sao cho thông trước bắng chứng ông Mến đã thấy
tận mắt là có những người Việt vừa chân ướt chân ráo tới Mỹ đã có thể
mua một lúc 2, 3 căn nhà “to đùng” bằng “tiền tươi” không cần phải vay
ngân hàn! Nhưng nếu bảo rằng dễ thì biết trả lời với bạn ra sao khi ở
Việt Nam ngày nay hàng triệu gia đình dân vẫn đang phải sống dưới mức
nghèo khó? Mà bằng cách nào có thể giấu bạn khi hàng ngày gần như mỗi
người đều thấy trên mạng hình ảnh những em bé phải giãi nắng dầm mưa
được cha mẹ bọc trong bao nylon kéo qua sông suối, hoặc run rẩy bước
trên những cây cầu khỉ mong manh, sau đó lê la ngồi học dưới những mái
trường dột nát, kể cả những lớp học lộ thiên!
Tác giả viết:
“Thật khó mà giải thích với ông Mến, dù cùng là người nói tiếng Việt với nhau. Vì ngay ở quê hương lúc này, hàng triệu người đang nuốt các bữa ăn công nhân hàng ngày tệ bạc đến mức như công khai bào mòn tuổi xuân của họ. Những vùng quê đói nghèo phải xin gạo trợ cấp mỗi năm, nhưng đầy dẫy các quan lớn vẫn lên nhà cao, tậu xe to và viết các dự án xây tượng đài hàng ngàn tỉ.”
Tuy đang sống trên đất nước xa xôi bên
kia bờ biển Thái Bình, nhờ tai mắt của bạn bè thân sơ, tác giả Tuấn
Khanh vẫn có được những thông tin thật chính xác để nhận biết những gì
đang xảy ra bên ngoài đất nước liên hệ tới những con người, những sự
việc trong sinh hoạt hàng ngày bên cạnh anh. ông thấy được con số những
người bỏ nước qua sống ở Mỹ hiện nay không còn là mấy chục hay một vài
trăm… mà hàng ngàn, hàng chục ngàn người. Hiển nhiên nó đã trở thành một
cao trào. Trong số những người đi, không chỉ giới hạn những thành phần
tạm coi như là làm ăn lương thiện, nay có tiền thấy cần phải rời xa mảnh
đất của tổ tiên nhưng bất hạnh đã trở thành hang ổ những cạm bẫy không
chỉ đe dọa an sinh mạng sống bản thân mà còn di lụy tới tương lai con
cháu họ sau này. Hơn thế, nó còn bao gồm cả những khuôn mặt lớn nhất của
chế độ hiện nay, những kẻ thừa mứa tiền bạc, đến lúc phải tìm kế “hạ
cánh an toàn”. Điều mỉa mai đối với tác giả là nơi “hạ cánh an toàn” của
những tay đầu sỏ này không phải là quê hương của ông bạn “bốn tốt” và
“mười sáu chữ vàng” Đại Hán mà lại là xứ Cờ Hoa, đất nước của “ba đời
Tổng Thống” mà họ từng tuyên bố vung vít đã đánh bại và không giấu diếm
thái độ khinh khi, miệt thị!
Từ những thông tin tại chỗ, ông ghi nhận
được cả những sinh hoạt từng ngày, từng mùa của những người mới tới. Từ
chuyện tìm nơi an ninh, sang trọng để mua nhà lớn nhà nhỏ tới việc chọn
trường ốc cho con cháu, dĩ nhiên là trường tốt không chỉ về mặt học vấn
mà cả về chuẩn mực luân lý, đạo đức…
Một đoạn trong bài, tác giả Tuấn Khanh ghi lại lời bạn anh:
“Trường St. Polycarp(3) ở thành phố Stanton, Quận Cam, là một trong những trường tư thục Công giáo mà nhiều gia đình người Việt dù tốn tiền nhưng vẫn hay gửi con vào vì mong chúng học kiến thức, và học được cả đức tin. Thỉnh thoảng, cũng có những gia đình đem con đến và cho con cái làm quen với Jesus thay cho học tin vào một lãnh tụ. Năm ngoái, chiếc xe đỗ trước cửa trường đưa đứa trẻ vào học, có cả ông bà theo để xem nơi học thế nào. Đó là những người vẫn còn mang đậm phong thái cán bộ với quần áo, giày dép vả cả giọng nói.Khi gia đình này bước qua sân trước, vòi nước tự động tưới cây bất ngờ bị hư, nên làm tràn ra một vũng nước. Người phụ nữ lớn tuổi bước qua, càu nhàu “Thế này là không được. Phải nói nhà trường xem lại coi chứ thế này thì đi hư hết cả giày”. Thấy tôi là người Việt, đang đứng gần ở nơi bán hàng gây quỹ cho trường, nên bà nói luôn, “Anh có làm ở đây không, ông nên nói với ban giám hiệu.”
Đúng
là cung cách hành xử của một công dân biết rõ quyền của mình. Có điều
là khi đang nắm quyền sinh ở trong nước tuồng như các ông lớn, bà bé này
vì vô tình hay hữu ý đều chỉ biết đến quyến nạt nộ dân đen thôi!
Sau khi ghi lại câu chuyện trên đây, thấy chuyện người, Tuấn Khanh nghĩ tới chuyện xảy ra thường xuyên ở quê nhà, ông viết:
“Tôi nhớ đến Sài Gòn, Hà Nội… nhớ những ngày nước ngập lụt lội đến tận giường. Nhớ đến những mùa nhập học hàng ngàn phụ huynh vật vã, lê lết khắp nơi chạy trường cho con mình, dù phải gửi lót tay. Có lẽ người Việt đã quen sống vất vả và chịu đựng nên mọi thứ quen dần, đến khi tiếp cận với một đời sống tự do và dân chủ, ai cũng hăng hái tìm và thể hiện quyền của mình. Dĩ nhiên vòi nước được sửa ngay sau đó không lâu, mà ban giám hiệu không đổ thừa cho biến đổi khí hậu hay thiếu tiền ngân sách. Gia đình đó khi quay lại hôm sau, chắc sẽ hài lòng và nghĩ mình được tôn trọng, khác với những ngày tháng mà bao nhiêu người dân ở quê hương giận dữ với hiện trạng nhưng thấy mình luôn bị biến thành trò hề. Bài học của cuộc sống đơn giản hiện rõ trên gương mặt của gia đình đó, mà tôi thấy, là sự tự tin và quyền của con người, có thể rất khác khi họ ở Việt Nam, bị cảnh sát giao thông ngoắc xe vào vô cớ, đã vội móc túi tìm vài trăm ngàn để lướt qua nan đề thật nhanh,”
Nhắc lại câu nói nổi tiếng của nhà văn
John Mason và cũng là một nhà hùng biện “You were born an original.
Don’t die a copy – Bạn được sinh ra như một nguyên bản, xin đừng chết
như một phó bản”, tác giả Tuấn Khanh đẩy suy tư của ông đi thật xa tít
tắp tới bến bờ lịch sử đất nước, giống nòi với “những người muôn năm cũ”
và gần gũi như mấy triệu bà con đã liều mình vượt biên vượt biển, coi
nhẹ mạng sống tìm đường chạy thoát khỏi nơi có thể làm họ mất bản sắc,
cho dẫu đấy là nơi chốn nhau cắt rốn của mình.
Ông viết:
“Đã có rất nhiều người ra đi, để được thấy mình và con cái của mình được sống như là chính mình, như một nguyên bản. Nhiều năm sau 1975, vẫn có những dòng người ra đi rất xa khỏi quê hương để tìm lại phần nguyên bản của mình… Lịch sử thế giới chắc sẽ lại phải ghi thêm một chương kỳ lạ. Con người và muông thú lên thuyền ông Noah để gột sạch mình cho một thế giới mới, nhưng người Việt hôm nay lại lặng lẽ lên chiếc thuyền mong cứu chuộc nguyên bản của đời mình, cứu chuộc một cuộc sống đơn giản, thật thà và tự do.”
Con người luôn bao dung, giầu tình thương
và tinh thần nhân bản nơi Tuấn Khanh đã khiến ông nhận ra không phải
chỉ những người từ bao đời nay vốn mang sẵn tính “thiện bẩm sinh” mà
ngay cả những kẻ do cảnh ngộ nhất thời bị biến thành máu lạnh, sẵn sang
làm điều gian ác nhưng khi đã “buông dao đồ tể” bỏ nơi tăm tối tìm về
ánh sáng… cũng chỉ là để tìm lại chính mình.
Nhận định của tác giả trong đoạn văn trên
đây khiến tôi nghĩ tới tâm sự của ca sĩ Mỹ Lệ trong một bài viết trên
mạng vừa đọc được hôm rồi mang tiêu đề “Vì sao người Việt Quốc Nội lại đua nhau ‘tháo chạy’ khỏi thiên đường Cộng Sản?”
Được biết Mỹ Lệ là một ca sĩ nổi tiếng.
Bà có hai con gái ở tuổi lên 10. Vì thương con, lo lắng cho tương lai
của con, bà gác sự nghiệp ca hát qua một bên, tìm mọi cách cho con qua
Đức du học. Mỹ Lệ tâm sự: “Là
một người mẹ không ai muốn xa con, nhất là khi con mới hơn 10 tuổi.
Nhưng, chỉ có cách đó, tôi mới bảo vệ được con mình khỏi bị đầu độc!”
Nói tới từ “đầu độc” ở đây, Mỹ Lệ không
chỉ nói theo nghĩa tinh thần, tâm linh hay trí tuệ. Điều này vốn dĩ là
mối lo tâm phúc của những người dân phải ép mình sống dưới chế độ cộng
sản. Bà muốn nói tới những loại thực phẩm “bẩn” mà từ trên xuống dưới
người ta đang toa rập với nhau tiếp tục chế biến, nuôi trồng bằng mọi
thứ độc dược giết người để bán ra thị trường. Nó len lỏi vào tủ lạnh,
vào xó bếp, trên mâm ăn để giữa người với người, thản nhiên giết nhau tư
từ trên đất nước ta hôm nay.
Tinh
thần nhân bản và lòng yêu thương của Tuấn Khanh không thể cột chặt ông ở
khía cạnh bao dung. Vì thế khi nghĩ tới cảnh hàng hàng lớp lớp người ta
chen nhau bỏ nước ra đi cho dù để bảo vệ nguyên bản, ông không khỏi
thảng thốt nêu lên câu hỏi: “Nhưng
tại sao chúng ta không thể là nguyên bản ở quê hương mình? Vì sao chúng
ta phải sống không là chính mình nơi chôn nhau cắt rốn của mình?”
Kết thúc, Tuấn Khanh viết:
“Tôi đang hình dung người đàn ông có xe hơi đắt tiền không bỏ xe giữa con đường ngập nước ở Sài Gòn mà ông ta cùng nhiều con người nữa đang ướt sủng sẽ đi thẳng đến cơ quan nhà nước để hỏi rằng vì sao? Tôi hình dung gia đình Việt Nam di cư đến Mỹ đó sẽ không chất vấn một ban giám hiệu ngoại quốc về của công, mà sẽ cất tiếng nói như vậy trên chính đất nước mình? Một cuộc sống thật và đơn giản – nguyên bản vì sao đang phải bị đánh tráo bằng những phiên bản vô hồn và nhạt nhẽo?Chúng ta được dặn dò hãy chỉ nên lo làm ăn, và đừng quan tâm đến chuyện gì khác. Và nhiều người Việt đã mất rất nhiều thời gian để làm được điều đó rồi giật mình nhìn thấy thế giới này không chỉ no đủ là tất cả. Không ít người giàu có, thậm chí quan chức đã dồn tất cả để ra đi và đổi một cuộc sống khác. Thậm chí đó là cuộc sống mà trước đây họ bảo vệ và coi những kẻ từ bỏ, ra đi là thù nghịch.Cuộc sống đang như vậy. Rất hiện thực. Khi viết một bài trước đây, một bạn trẻ, có khuynh hướng dư luận viên, đã nhắn cho tôi “vậy cứ nghèo đi, nghèo hoài đi”. Dĩ nhiên, đó lại là một khái niệm khác, mà nếu hiểu những gì tôi viết ắt bạn trẻ ấy sẽ không nói như vậy. Vì câu hỏi của tôi rất rõ rằng chúng ta – người Việt, đang cố giàu lên và sau đó sẽ là gì?”
Rời màn hình tôi tự hỏi: liệu những lời
tâm huyết của người tác giả này có chạm được tới trái tim, khối óc của
những con người vô cảm, những kẻ thờ ơ với con người, với vận mạng dân
tộc, nhưng tên tay sai chạy cờ, những dư-luận-viên, nhất là những kẻ
đang nắm giữ vận mạng đất nước hôm nay?
Nam California cuối tháng 8, 2016
Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline hiệu đính và phụ chú.
DCVOnline:
(1) Trong lịch sử cận đại, Trung Cộng xâm lăng Việt Nam vào những năm 1974 – hải chiến Hoàng Sa với Hải quân Việt Nam Cộng hoà; 1979 xâm lăng trên đất liền ở các tỉnh vùng viên giới phía bắc nước CHXHCN Việt Nam; 1988 hải chiến Gạc Ma giữa tàu khu trục của Trung Cộng và tàu vận tải của CHXHCN Việt Nam.
(2) Tên của video clip, dài 3 phút, là “Trái Tim Việt Nam”, Tuấn Khanh sáng tác và hát, Talamot thực hiện video clip bằng hình ảnh những cuộc biểu tình trong tháng 12, 2007. Video do talamotWEARE1 đưa lên mạng YouTube ngày 23 tháng 12, 2007; có 167.286 lượt xem (tính đến tháng 8, 2016)
(3) Trường St. Polycarp do các linh mục dòng Columban thành lập năm 1959. Từ 1962 đến 1978 ban giảng huấn là nữ tu dòng Tông đồ Thánh thiện. Hiện nay trường có từ lớp 1 đến lớp 8. Khẩu hiệu của trường St. Polycarp là “Mater Mea, Fiducia Mea”, “Mẹ tôi, Niềm tin của tôi”. “Mẹ” ở đây là bà Maria, mẹ của Jesus Christ. Ngoài 650 USD phí hành chánh mỗi năm cho mỗi học sinh, học phí là 5.600 USD cho mỗi em; gia đình có 2 con theo học sẽ trả 9000 USD; gia đình 3 con hay nhiều hơn con sẽ đóng học phí 11.500 USD. Nguồn: http://www.stpolycarpschool. org/
(1) Trong lịch sử cận đại, Trung Cộng xâm lăng Việt Nam vào những năm 1974 – hải chiến Hoàng Sa với Hải quân Việt Nam Cộng hoà; 1979 xâm lăng trên đất liền ở các tỉnh vùng viên giới phía bắc nước CHXHCN Việt Nam; 1988 hải chiến Gạc Ma giữa tàu khu trục của Trung Cộng và tàu vận tải của CHXHCN Việt Nam.
(2) Tên của video clip, dài 3 phút, là “Trái Tim Việt Nam”, Tuấn Khanh sáng tác và hát, Talamot thực hiện video clip bằng hình ảnh những cuộc biểu tình trong tháng 12, 2007. Video do talamotWEARE1 đưa lên mạng YouTube ngày 23 tháng 12, 2007; có 167.286 lượt xem (tính đến tháng 8, 2016)
(3) Trường St. Polycarp do các linh mục dòng Columban thành lập năm 1959. Từ 1962 đến 1978 ban giảng huấn là nữ tu dòng Tông đồ Thánh thiện. Hiện nay trường có từ lớp 1 đến lớp 8. Khẩu hiệu của trường St. Polycarp là “Mater Mea, Fiducia Mea”, “Mẹ tôi, Niềm tin của tôi”. “Mẹ” ở đây là bà Maria, mẹ của Jesus Christ. Ngoài 650 USD phí hành chánh mỗi năm cho mỗi học sinh, học phí là 5.600 USD cho mỗi em; gia đình có 2 con theo học sẽ trả 9000 USD; gia đình 3 con hay nhiều hơn con sẽ đóng học phí 11.500 USD. Nguồn: http://www.stpolycarpschool. org/
Trần Phong Vũ:
(i) Theo giới thạo tin trong nước thì trang mạng này là do tay chân Nguyễn Tấn Dũng lập ra nhằm hạ bệ một loạt những khuôn mặt có thể sẽ là khắc tinh của ông ta trong địp Đại Hội đảng CS thứ 12 hồi đâu năm nay, trong số, ngoài Nguyễn Xuân Phúc còn có cả Trần Đại Quang.
(ii) Người viết tự hứa sẽ trở lại vấn đề này trong một bài khác.
(i) Theo giới thạo tin trong nước thì trang mạng này là do tay chân Nguyễn Tấn Dũng lập ra nhằm hạ bệ một loạt những khuôn mặt có thể sẽ là khắc tinh của ông ta trong địp Đại Hội đảng CS thứ 12 hồi đâu năm nay, trong số, ngoài Nguyễn Xuân Phúc còn có cả Trần Đại Quang.
(ii) Người viết tự hứa sẽ trở lại vấn đề này trong một bài khác.
No comments:
Post a Comment