Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday, 24 October 2016

NGÔ QUANG TRƯỞNG - VUA HÀM NGHI - ĐẠI SỨ TƯ BẢN

LÊ XUÂN NHUẬN * TRUNG-TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG



TRUNG-TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG
ĐẠI-BIỂU CHÍNH-PHỦ TẠI VÙNG I



TƯ-LỆNH Quân-Ðoàn I & Quân-Khu I Ngô Quang Trưởng được hầu hết mọi người khâm-phục. Ông đã dành nhiều tâm-trí, công-sức, và thì-giờ vào các cuộc hành-quân hơn là vào công việc văn-phòng. Ông thường-xuyên mặc chiến-phục, đội mũ sắt, mang áo giáp, bay đến tận từng đồn+chốt khắp Quân-Khu, để quan-sát, nghiên-cứu tình-hình tại chỗ, và kiểm-tra tác-phong kỷ-luật của các cấp quân-nhân. Bản-thân ông ít thích truy-hoan, nên cấm sĩ-quan thuộc quyền đến khiêu-vũ ở các nhà hàng ca+vũ+nhạc, khiến các Tỉnh-Trưởng và Thị-Trưởng tại Quân-Khu I cấm luôn cả các phòng trà ca-nhạc tổ-chức khiêu-vũ cho bất-cứ giới khách hàng nào.
Ðó là tóm-tắt những nét chính về Tướng Trưởng được nhiều người nhận thấy hoặc đồn miệng với nhau.
Riêng đối với tôi, ông còn là Ðại-Biểu Chính-Phủ, tức Thủ-Hiến, của Vùng I, nhất là sau khi Tòa Ðại-Biểu Chính-Phủ đã bị giải-tán, chức-vụ Phụ-Tá Hành-Chánh cho Tư-Lệnh Quân-Khu cũng bị bãi-bỏ luôn. Tư-Lệnh Quân-Ðoàn/Quân-Khu cử-nhiệm các Tiểu-Khu-Trưởng và Ðặc-Khu-Trưởng kiêm-nhiệm Tỉnh-Trưởng và Thị-Trưởng. Tư-Lệnh Quân-Ðoàn/Quân-Khu trực-tiếp điều-khiển Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng sở-tại, đồng-thời cũng là Chủ-Tịch Hội-Ðồng Bình-Ðịnh & Phát-Triển cầm đầu công-tác chuyên-môn của đa-số các Bộ quan-trọng thuộc Chính-Quyền Trung-Ương thực-hiện trong lãnh-thổ Quân-Khu mình. Tóm lại, Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng là Trưởng Chính-Quyền tại Miền Trung.
Tôi trích sao riêng gửi cho ông biết điều-khoản trong Sắc-Lệnh của Thủ-Tướng quy-định việc tôi, Giám-Đốc Ngành Đặc-Biệt cấp Vùng, trực-tiếp báo-cáo tình-hình lên Tư-Lệnh Quân-Khu, liên-quan đến an-ninh và chính-trị nội-bộ, thuộc thẩm-quyền của Ðại-Biểu Chính-Phủ, là chức-vụ mà ông kiêm-nhiệm hiển-nhiên.
Sau đó, tôi chính-thức tường-trình lên ông những vấn-đề nội-chính của Quốc-Gia. 
Vấn-Ðề Quân-Nhân Vô-Kỷ-Luật
Khi người lính ở trong quân-sở hoặc quân-cứ thì quân-phong quân-kỷ có thể được xem là việc riêng trong gia-đình Quân-Lực; nhưng một khi người lính đã đi ra ngoài thì mọi ngôn-ngữ cử-chỉ dù nhỏ-nhặt cũng ít nhiều ảnh-hưởng đến mối quan-hệ giữa Quân và Dân.
So với tổng-số quân-nhân tại-ngũ thì tỷ-lệ cá-nhân vô-kỷ-luật chỉ là một con số nhỏ; nhưng những việc làm sai-quấy của số ít này đã gây bất-bình và ác-cảm không ít trong dân-nhân đối với binh-giới nói chung, tạo thành một vấn-đề trong lãnh-vực chính-trị nội-bộ của chế-độ Việt-Nam Cộng-Hòa.
Khi nào có một người nào vi-phạm luật-pháp hoặc luật-lệ hiện-hành mà mặc quân-phục rõ-ràng hoặc tự-xưng là quân-nhân, thì Cảnh-Sát chỉ cần báo cho Quân-Cảnh đến chấp-lý mà thôi. Thế là Cảnh-Sát, ở đây, là Cảnh-Sát Sắc-Phục, không theo-dõi, thống-kê, phân-loại, so-sánh tăng/giảm, tìm hiểu nguyên-nhân, v.v...; vả lại, dù có muốn cũng không làm được, vì không biết rõ tính-danh, số quân-tịch, cấp-bậc, đơn-vị, nội-dung sự phạm-pháp, cách giải-quyết, và kết-quả thế nào.
Nhưng đó lại là một vấn-đề nội-chính. Nó thuộc phạm-vi nghiên-cứu của Ngành Ðặc-Biệt (Cảnh-Sát Ðặc-Biệt); nó xảy ra trong vùng sinh-hoạt của người dân, là vùng mà tôi đã đề-nghị và Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu sở-quan đã đồng-ý giao cho Ngành Ðặc-Cảnh chịu trách-nhiệm về an-ninh chung; và nó cũng là một mục-tiêu hoạt-động hàng ngày của chính Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng.
Phải bảo-toàn hình-ảnh tốt đẹp của người chiến-sĩ đang hy-sinh xương máu trên chiến-trường; phải duy-trì mối tình khắng-khít cá+nước quân−dân; phải xóa sạch mọi tỳ-vết, không để cho kẻ thù khai-thác vơ đũa cả nắm chê-bai hàng-ngũ Quốc-Gia chúng ta.
Lần đầu tiên là vào cuối năm 1973, tôi nêu đề-tài này lên trong một buổi họp đặc-biệt của nhóm người tạm gọi là Ủy-Ban Phối-Hợp Tình-Báo Quân-Khu I, mà Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng giao cho Đại-Tá Hoàng Mạnh Ðáng, Tham Mưu Trưởng, đại-diện, chủ-tọa các buổi họp hằng tuần. Tôi lấy Quốc-Lộ số I là con đường bộ huyết-mạch nối liền từ Thủ-Đô Sài-Gòn ra các tỉnh Miền Trung và miệt ngoài, đoạn từ Sa-Huỳnh cực-Nam của Tỉnh Quảng-Ngãi ra đến Ðèo Hải-Vân cực-Bắc của Tỉnh Quảng-Nam, trong đó có Thị-Xã Ðà-Nẵng, để làm bối-cảnh điển-hình. Trên con đường này, không những chỉ có sự đi lại của mọi tầng-lớp và thành-phần dân-nhân, các loại ngoại-kiều, mà còn có sự hiện-diện thường-xuyên và tập-trung hoạt-động của mọi cơ-quan và đơn-vị thi-hành luật-pháp và duy-trì an-ninh trật-tự chung. Vào thời-điểm đó, trung-bình hai tháng là có một vụ quân-nhân dùng súng bắn bừa vào xe đò chở đầy hành-khách đang chạy trên Quốc-Lộ số I, gây thương-tích cho một vài thường-dân.
Trong phòng làm việc của Đại-Tá Ðáng có một bộ-phận giống như chi-nhánh của hệ-thống nội-đàm mà tôi đoán là máy chính nằm trong phòng làm việc của Trung-Tướng Trưởng. Có lẽ ông đã mở máy mà nghe Ủy-Ban chúng tôi thảo-luận những gì.
Lần họp kế sau, Đại-Tá Ðáng khéo-léo nhắc chúng tôi đừng đề-cập nhiều những vấn-đề nội-bộ, ý nói vì có Người Bạn Ðồng-Minh (viên-chức CIA cố-vấn của Ðặc-Cảnh) và thông dịch-viên cùng nghe.
Tôi còn nhớ ngày xưa, khi tôi còn làm giám-đốc chương-trình phát-thanh “Tiếng Nói Quân Ðội” tại Ðệ-Nhị Quân-Khu, tôi phải đệ-trình bản thảo bài xã-luận của tôi viết hằng ngày lên cho Thiếu-Tướng (sau này là Trung-Tướng) Lê Văn Nghiêm, Tư-Lệnh Quân-Khu, duyệt trước, để được đọc trên Ðài vào chiều cùng ngày và được đăng trên báo “Tin Tức” phổ-biến khắp Quân-Khu vào sáng hôm sau. Có một lần, bài xã-luận của tôi nhắc-nhở tài-xế quân-xa tuân giữ luật-lệ lưu-thông khi lái xe trên đường thành-phố.
Tôi quan-niệm rằng: khi một người lính, dù là hạng chót (binh nhì), đứng gác ở một cổng đồn, anh ta có quyền chận đường một ông Bộ-Trưởng; khi một nhân-viên Quan-Thuế (dù là hạ-đẳng) soát hàng ở một phi-trường, anh ta có quyền lục xách một viên đại-tướng; vậy thì, khi một đại-diện Cảnh-Sát (dù là sơ-cấp) kiểm-soát xe cộ, tại sao anh ta lại không có quyền chỉ-dẫn đúng luật đi đường cho các tài-xế quân-xa?
Tướng Nghiêm phê vào bên lề bản thảo của tôi hai chữ “con cú”. Phòng Năm chúng tôi đoán ý ông cho rằng bài xã-luận ấy có phần cay-cú hoặc xoi-mói như “cú vọ” (?), nên đã xếp bỏ.
Phần đông cấp trên không muốn nghe người khác nói đến khuyết-điểm của cấp dưới thuộc phần trách-nhiệm của mình.
Tuy nhiên, việc của tôi thì tôi vẫn phải làm. Ngoài Tư-Lệnh Quân-Khu ra, tôi còn báo-cáo lên Trưởng Ngành Ðặc-Biệt Trung-Ương, là Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây. Nơi đây chuyển lên Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia kiêm Ðặc-Ủy-Trưởng Trung-Ương Tình-Báo, là Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, để ông trình tiếp lên Tổng-Thống. Như thế thì Trung-Ương vẫn biết đến vấn-đề đó như thường.
Sau đó, tôi không trình-bày sự-việc nói trên trong các buổi họp như thế nữa. Tôi làm công-văn báo-cáo hằng tháng lên Tư-Lệnh Quân-Khu.
So-sánh thì thấy, vào cuối năm 1973, trung-bình hai tháng mới có một vụ, gây thương-tích cho một vài thường-dân; nhưng đến mấy tháng đầu năm 1975, liền trước ngày thất-thủ Quân-Khu địa-đầu này, tổng-số thống-kê mỗi tháng đã lên đến cả chục vụ, gây cả tử-thương cho nhiều hành-khách, trong đó có một số là quân-nhân, và có lần cho cả một tu-sĩ của Ðạo Kitô.
Vấn-Đề Kiểm-Soát các Cựu-Can & Cựu-Cán Việt-Cộng
Phong-trào phản-đối Chiến-Tranh Việt-Nam ở Hoa-Kỳ và một số nước khác đã mở đường cho Hiệp-Ðịnh Paris 1973. Hậu-quả trầm-trọng và cụ-thể nhất là Mỹ giảm bớt dần dần để rồi chấm dứt hẳn viện-trợ cho Việt-Nam Cộng-Hòa.
Sau vụ Việt-Cộng tổng-tấn-công Tết Mậu-Thân năm 1968, hoạt-động của Quân-Lực cũng như của Ðặc-Cảnh gia-tăng tối-đa; do đó, số cán-bộ, bộ-đội, và cơ-sở địch bị bắt cũng gia-tăng rất nhiều. Chính-Quyền phải xây-cất thêm trại tạm giam ở mỗi Tỉnh, một số trại giam thuộc Trung-Ương, và một trại tập-trung tại mỗi Vùng Chiến-Thuật, để gom lại các phần-tử nguy-hiểm được đưa từ các Tỉnh về.
Thực-sự, trách-nhiệm của Ngành Ðặc-Cảnh chỉ giới-hạn trong việc bắt hung-thủ và nghi-can, điều-tra, lập hồ-sơ truy-tố trước Ủy-Ban An-Ninh, hoặc chuyển nội-vụ qua Tòa Án Quân-Sự Mặt Trận; còn thì chỉ đích-thân tạm giữ một số ít đối-tượng đặc-biệt trong một thời-gian ngắn cần-thiết cho việc hỏi cung hoặc xây-dựng thành mật-viên, tại Trung-Tâm Thẩm-Vấn là nơi hội đủ các điều-kiện tiêu-chuẩn tối-thiểu được sự cố-vấn và yểm-trợ trực-tiếp của các chuyên-gia Hoa-Kỳ.
Ngoài ra, chế-độ giam-giữ và đối-xử trước khi thành-án thì thuộc phần đảm-trách của các Trại Tạm Giam ở phía Sắc-Phục của Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực, Trung-Tâm Cải-Huấn thuộc Bộ Nội-Vụ, hoặc Trại Giam Tù-Binh Cộng-Sản Việt-Nam thuộc Bộ Quốc-Phòng; và sau khi thành-án thì do Tổng-Nha Cải-Huấn hoặc Bộ Tổng-Tham-Mưu quản-lý và kiểm-soát cho đến ngày các đương-nhân được trả tự-do.
Tuy thế, Ngành Ðặc-Cảnh vẫn là cái đích chính của mọi sự chỉ-trích liên-quan đến tù và trại giam. Do đó, Ngành Ðặc-Cảnh bị đặt trong một tình-trạng tiến/thoái lưỡng-nan.
Một mặt thì hứng chịu phần lớn dư-luận công-kích là chế-độ có quá nhiều tù và trại giam: trại giam thì thiếu tiện-nghi, mà tù thì bị ngược-đãi, thậm-chí tiếng lóng “bị nhốt chuồng cọp”, là một hình-thức kỷ-luật áp-dụng ở đâu ngoài Ngành Ðặc-Cảnh, cũng bị dịch sai và hiểu lầm một cách có ác-ý là tù bị nhốt chung chuồng với cọp.
Một mặt thì phải rút ngắn thời-gian điều-tra, lập hồ-sơ; riêng tại Trung-Tâm Thẩm-Vấn thì phải đi trước các trại giam khác về việc: tăng thêm thức ăn; trổ thêm cửa sổ; tăng thêm hệ-thống ánh-sáng và vệ-sinh, y-tế; giảm bớt số người giam chung trong mỗi phòng―nghĩa là tăng thêm phòng giam, nhưng đồng-thời lại phải giảm bớt tổng-số phòng giam!
Tình-hình chung được đặt dưới sự kiểm-soát thường-xuyên và bất-thần của vô-số tổ-chức và nhân-vật: trong Chính-Quyền thì ngoài các Thanh-Tra nội-bộ từ cấp Trung-Ương xuống đến cấp Vùng còn có Biện-Lý, các phái đoàn Viện Giám-Sát, Dân-Biểu, các cơ-quan Y-Tế, Xã-Hội, v.v...; ngoài Chính-Quyền thì có các tu-sĩ thuộc mọi giáo-hội, các hội-đoàn từ-thiện, các nhà báo, v.v..., chưa kể áp-lực từ các nhóm tranh-đấu, như “Phong-Trào Ðòi Cải-Thiện Chế-Ðộ Lao-Tù”, v.v...
Căng nhất là vào cuối năm 1972, giai-đoạn chuẩn-bị gấp rút cho Hiệp-Ðịnh Paris 1973, Chính-Quyền Trung-Ương trù-liệu giảm bớt trại giam bằng cách đóng cửa, hoặc bỏ bớt một số phòng, và giảm-thiểu tù bằng nhiều cách: chỉ giữ lại một số can-phạm quan-trọng và nguy-hiểm nhất, còn thì trả tự-do cho những cá-nhân được sự bảo-lãnh của thân-nhân là công-chức hoặc sĩ-quan cao-cấp của Việt-Nam Cộng-Hòa; cho những phần-tử có khai-báo thật-thà được hưởng quy-chế hồi-chính-viên; chuyển những cán+cơ hoạt động có vũ-trang qua diện tù-binh để trao-trả cho đối-phương; phóng-thích, nhưng chỉ-định cư-trú, một số đông những cựu-can, cựu-cán có tiền-án tiền-tích hoạt-động cho Việt-Cộng, tuy không hội đủ yếu-tố để bị kết tội giam lâu nhưng bị xét thấy có hại cho an-ninh chung, và những cán-binh tuy xin ra hồi-chánh nhưng tránh né khai-báo và có chỉ-dấu là trá-hàng, v.v...Ngoại-trừ các tù-nhân đang còn thụ-án và các tù-binh đang chờ được trao trả cho bên kia, tất cả các thành-phần trên đều là đối-tượng cho Ngành Ðặc-Cảnh giám-thị, theo-dõi, và nếu cần thì đương-đầu.
Nhưng Ngành Ðặc-Cảnh lại không được hỏi ý-kiến về nơi chỉ-định cư-trú cho các đối-tượng này.
Thời-gian đó, nhiệm-sở của tôi là Vùng II. Một hôm, trong một buổi họp của Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu II, tại Nha-Trang, Phó Tư-Lệnh là Đại-Tá Nguyễn Đứt, chủ-tọa, đã ra lệnh cho Bộ Tham-Mưu thuộc quyền hội-ý với các Tỉnh-Trưởng để chọn một Tỉnh trong Quân-Khu làm địa-hạt chỉ-định cư-trú chung cho tất cả các cựu-can, cựu-cán và hồi-chính-viên đặc-biệt nói trên tập-trung về từ các Tỉnh và Thị-Xã khác khắp Quân-Khu.
Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu II không mời Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Vùng II cùng dự buổi họp này.
Bản-thân tôi vốn có những quan-hệ công-vụ chặt-chẽ với các sĩ-quan cao-cấp đứng đầu các cơ-quan Quân-Báo và Quân-An ở cấp Quân-Ðoàn và Quân-Khu, nên tuy không được mời đến nhưng tôi vẫn lợi-dụng điều đó để đến dự các buổi họp nội-bộ của họ mỗi sáng sớm tại Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn/Quân-Khu.
Qua chỉ-thị của Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu II, tôi thấy rõ là Trung-Ương muốn thay-thế các trại giam hữu-hình, mà diện-tích chỉ xấp-xỉ một ô phố, bằng những trại giam vô-hình, mà sức chứa là lãnh-thổ của cả một Tỉnh, vô-vàn rộng lớn hơn. Biện-pháp ấy chắc-chắn sẽ bị đả-phá dữ-dội hơn, nhất là bởi giới truyền-thông nước ngoài, tai-hại vô cùng cho chế-độ Miền Nam.
Không thể im-lặng đồng-tình, tôi đã đứng lên phát-biểu ý-kiến:
– Tôi tin là sẽ không có một Tỉnh-Trưởng nào, nếu thật-sự là Tỉnh-Trưởng, mà lại thuận nhận cho Tỉnh mình trở thành một địa-phương quản-thúc tù.
Ðại-tá Đứt bất-bình, nhìn thẳng mặt tôi:
– Anh tưởng là tôi không trừng-phạt được các Tỉnh-Trưởng nào không tuân lệnh của Quân-Khu sao?
Cũng như phần đông các nhà lãnh-đạo ở cấp quốc-gia, ông quan-niệm mỗi Tỉnh-Trưởng chỉ là một Tiểu-Khu-Trưởng, nên lấy con mắt quân-sự mà nhìn chính-sự, và áp-đặt mệnh-lệnh hành-pháp bằng kỷ-luật nhà-binh.
Sau khi nghe ý-kiến của tôi qua thông-dịch-viên, các viên-chức cao-cấp trong Bộ Tư-Lệnh Cố-Vấn Quân-Sự và Viện-Trợ Kinh-Tế của Hoa-Kỳ (MAC-CORDS) đã đưa ngón tay-cái chĩa lên trời về phía tôi mà gật gật đầu. Thấy thế, tôi không nói gì thêm.
Sau đó, không có Tỉnh nào được chọn làm lãnh-thổ quản-thúc tù chính-trị cho toàn Vùng II.
*
Biện-pháp áp-dụng từ đó cho đến sau ngày đã có Hiệp-Ðịnh Paris là cho trở về quê cũ, người nào làng nấy, cư-trú cố-định và hạn-chế đi lại, các cựu-can cựu-cán và hồi-chính-viên đặc-biệt mà tin-tức tình-báo cũng như nhận-xét của các giới-chức Cải-Huấn thuộc Bộ Nội-Vụ và Phục-Hoạt thuộc Bộ Chiêu-Hồi đã xếp vào loại “mìn ngụy-trang”, “khổ-nhục-kế”, chưa cho phép tự-do hoàn-toàn.
Tùy theo sự xếp loại, các phần-tử ấy phải đến trình-diện mỗi tháng, mỗi hai tuần, hoặc mỗi tuần, tại Phòng Ðặc-Cảnh Quận sở-tại; tại đây, nhân-viên chuyên-trách có lập một cuốn sổ, để các đương-nhân khi đến thì ghi tên, tuổi, địa-chỉ, ngày giờ đến trình-diện, và ký tên vào, làm bằng-chứng đã được kiểm-soát để lưu hồ-sơ.
Tại Vùng I, tin-tức nội-tuyến cho biết có một số phần-tử thuộc diện nói trên đã tái-hoạt-động cho Việt-Cộng. Tôi liền đích-thân đến thử một số Xã thuộc Tỉnh Quảng-Nam để tìm hiểu tại chỗ xem sao.
Về việc trình-diện: có một số người liên-hệ đã ăn nên làm ra, hoặc đã trở thành đảng-viên quan-trọng của Việt-Nam Quốc-Dân Ðảng, không còn đến trình-diện tại Phòng Ðặc-Cảnh Quận hoặc Cuộc Cảnh-Sát Xã nữa, mà chính nhân-viên hữu-trách phải mang sổ đi tìm, bất-cứ ở đâu, lúc nào, có khi gặp rồi mà còn phải chờ chực, để được đối-tượng ký-chỉ vào sổ trình-diện, cho có hình-thức là đã kiểm-soát họ rồi.
Về việc chỉ-định cư-trú và hạn-chế đi lại: dân-chúng được tự-do đi lại và cư-trú; trừ một ít trường-hợp đặc-biệt, Cảnh-Sát không soát-xét tờ khai gia-đình; Cảnh-Sát cũng ít phối-hợp công-tác với Xã-Trưởng. Do đó, có một số phần-tử nguy-hiểm đã rời khỏi địa-phương; họ được các Chủ-Tịch Ủy-Ban Hành-Chánh Xã nguyên-quán cấp giấy phép cho chính-thức ra đi, nhất là vào các thị-xã, đặc-biệt là vào Ðà-Nẵng, là những nơi họ bị cấm đến, để thoát khỏi sự kiểm-soát của cơ-quan an-ninh và dễ tái-hoạt-động sau khi đã đổi vùng. Lúc đầu thì ít, về sau thì càng ngày càng nhiều.
Cả một vấn-đề hệ-trọng như thế, mà mấy năm trời không ai hay biết gì.
Vấn-Đề Dân Quê Bỏ Làng Ði Theo Việt-Cộng
Vào khoảng cuối năm 1973, trung-bình vài tháng mới có một vài thanh-nam miền quê vắng nhà lâu ngày; điều-tra thì được biết họ đã lén-lút vào rừng theo cộng-quân.
Tôi cũng cho lập bảng thống-kê hàng tháng về sự-kiện này thì thấy con số mỗi ngày một gia-tăng.
Cũng như đối với các vấn-đề khác, tôi ra lệnh cho cấp dưới ghi-nhận, báo-cáo, lập bảng thống-kê, rồi so-sánh mức-độ và cường-độ tăng/giảm thế nào, không phải chỉ để biết suông mà thôi.
Tôi đã chỉ-thị cho các Sở Ðặc-Cảnh Tỉnh/Thị trình lên Tỉnh-Trưởng sở-tại với đề-nghị có biện-pháp ngăn+trừng. Tôi cũng đã trình lên Tư-Lệnh Quân-Khu, đồng-thời trình lên Trưởng Ngành Ðặc-Cảnh Trung-Ương, để các nơi này trình tiếp lên cho Tổng-Thống được biết về vấn-đề này.
Về phần Cảnh-Lực thì tại mỗi Xã cũng như mỗi Phường đều có một Cuộc Cảnh-Sát, nhưng chỉ là Cảnh-Sát Sắc-Phục, kiểm-soát vệ-sinh, điều-khiển lưu-thông, kiểm-tra dân-số, chấp-lý các vụ vi-phạm luật-lệ hình-sự và thể-lệ hành-chánh hiện-hành. Ðúng ra thì họ cũng có bổn-phận ngăn-chận không để người dân từ vùng Quốc-Gia di-chuyển qua vùng cộng-sản, vì là vi-phạm quy-định hành-chánh; nhưng phần lớn họ chỉ giới-hạn nhiệm-vụ trong việc thỉnh-thoảng xét hỏi giấy tờ những người khả-nghi, còn những gì hằng ngày có liên-quan đến cộng-sản, tức là chính-trị, thì họ phó mặc cho Ngành Ðặc-Cảnh đảm-đương.
  Trung-Ương không thiết-lập cơ-cấu Ðặc-Cảnh xuống thấu cấp Xã, mặc dù Việt-Cộng từ xưa đã biết xây-dựng cơ-sở từ cấp Tổ Tam-Tam leo lần lên cấp Khóm Thôn, trong từng Xã một, rồi tiến lên cấp cao hơn.
Ðể đối-phó với Việt-Cộng ở cấp Xã, Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia chỉ-định Trưởng Cuộc Cảnh-Sát Xã kiêm-nhiệm đại-diện Ngành Ðặc-Cảnh tại địa-phương mình; nhưng hầu hết các viên-chức này không am-thạo, mà cũng không ham-thích, công-tác chính-trị và phản-gián, vả lại không có nhân-viên đặc-trách tại Cuộc để giữ phần-hành chuyên-môn, nên tuy có đại-diện mà cũng gần như không.

Dù theo lý-thuyết thì mỗi Cuộc đều có một vài nhân-viên phụ-trách Chương-Trình “Phụng Hoàng”, xem như để đương-đầu với Việt-Cộng, nhưng trên thực-tế thì đa-số các nhân-viên này chỉ là những thư-ký văn-phòng, lấy tài-liệu từ Ủy-Ban Phụng-Hoàng Quận, hầu hết do Ngành Ðặc-Cảnh cung-cấp, để lập hồ-sơ, thống-kê, biểu-đồ, về tình-hình hạ-tầng cơ-sở địch, chỉ để thuyết-trình mỗi khi có phái-đoàn đến thanh-tra hoặc mang đi họp, chứ hiếm khi tự mình thu-thập tin-tức hoặc tự mình tìm bắt tên Việt-Cộng nào.
Về phần chính-quyền Xã thì tuy có một Ủy-Ban Hành-Chánh nhưng nhiều nơi mọi việc đều do một mình Xã-Trưởng nắm trong tay.
Thật ra, các vấn-đề quan-trọng đều do chính-quyền Quận chủ-trì. Xã-Trưởng chỉ dự họp, dự lễ, ký các loại hộ-sự chứng-thư; cũng có nơi thì lập danh-sách nhận tiền trợ-cấp di-tản, bồi-thường thiệt-hại chiến-tranh, v.v...
Hầu hết Xã-Trưởng đều không quan-tâm đến việc dân làng bỏ trốn theo đối-phương; nhưng, dù có bận lòng thì cũng không làm gì được, vì không có lực-lượng, không chỉ-huy được Cảnh-Sát hay Nghĩa-Quân. Ða-số Xã-Trưởng chỉ có mặt trong Xã vào ban ngày, còn ban đêm thì về ngủ ở quận-lỵ hoặc tỉnh-lỵ cho được an-toàn.
Trong tình-trạng chiến-tranh, nòng-cốt của chính-quyền Xã là một trung-đội Nghĩa-Quân, do một hạ-sĩ-quan thuộc Chi-Khu biệt-phái đến chỉ-huy. Lực-lượng quân-sự này canh gác một số yếu-điểm vào ban đêm.
Từ năm 1973, Quân-Lực thành-lập thêm một tổ-chức lãnh-thổ cấp Xã, gọi là Phân-Chi-Khu, do một sĩ-quan đứng đầu, chỉ-huy đơn-vị Nghĩa-Quân nói trên.
Phân-Chi-Khu hầu như là một văn-phòng tham-mưu hơn là một bộ chỉ-huy hành-quân. Và không phải Phân-Chi-Khu-Trưởng nào cũng ở lại tại Xã vào ban đêm.
Phân-Chi-Khu-Trưởng, có lính dưới quyền, trở thành một thế-lực mâu-thuẫn với Xã-Trưởng.
Trong một đại-hội Phân-Chi-Khu thuộc Quân-Khu I tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Nghĩa-Quân Hòa-Cầm, ở ngoại-ô Ðà-Nẵng, do Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu chủ-tọa, nhiều Phân-Chi-Khu-Trưởng đã chỉ-trích các Xã-Trưởng là già-yếu, học-lực thấp, thiếu năng-động, v.v... trong lúc không có mặt các Xã-Trưởng.
Tổng-Thống Thiệu đã gợi ý cho các Phân-Chi-Khu-Trưởng kiêm-nhiệm Xã-Trưởng thay thế các người này.
Báo-chí đã tường-thuật cái nhíu mày của Đại-Sứ Hoa-Kỳ, và đặt câu hỏi: tổng-thống nghĩ gì khi đòi xóa bỏ tư-cách dân-cử của Xã-Trưởng, là nhân-vật được dân bầu vào Hội-Ðồng Xã và Hội-Ðồng này cử ra, trong lúc Hội-Ðồng Xã là một đơn-vị dân-cử cơ-bản trên đường dân-chủ-hóa để còn tiến tới bầu-cử Quận-Trưởng, Tỉnh-Trưởng, Thị-Trưởng, là các cấp còn lại trong hệ-thống Chính-Quyền Quốc-Gia?
Dân làng bỏ theo Việt-Cộng là một căn bệnh truyền-nhiễm. Chính-Quyền đã không ngừa bệnh mà cũng không chữa bệnh đúng cách. Chế-độ không chịu nhìn thấy những nguyên-nhân đánh mất niềm tin của người dân, và cũng không chịu chọn những phương-sách thích-ứng để khôi-phục lại niềm tin ấy, vì đã đặt quân-sự lên trên chính-trị và dân-sự, cả sau khi tình-hình đất nước đã mở vận-hội cho thế đối đầu quân-sự được bổ-sung thêm bằng thế đấu-tranh chính-trị trực-diện với kẻ thù. Vấn-đề này đã vượt lên trên khả-năng và trách-nhiệm của một Tư-Lệnh Quân-Khu, tức Chính-Quyền Vùng, đặc-biệt là Tướng Trưởng, viên tướng biên-thùy không có tham-vọng chính-trị nên giới-hạn cái nhìn tình-hình trong con mắt nhà-binh.
Riêng tại Vùng I, vào những tháng cuối-cùng của Việt-Nam Cộng-Hòa, trung-bình mỗi tháng đã có hằng chục vụ dân làng bỏ vùng Quốc-Gia vào rừng núi sống với Việt-Cộng: không còn lẻ-tẻ từng người lâu lâu lén-lút một lần, mà là cả gia-đình, nhiều gia-đình đồng loạt, công-khai chuyển-nhượng nhà đất và thanh-toán tài-sản, ồn-ào chuẩn-bị, và ngang-nhiên kéo đi, cả giữa ban ngày, trước mắt các cơ-cấu chính-quyền và đơn-vị quân-lực tại hương-thôn.
*
Trong các buổi họp tại Quân-Khu, các cấp lãnh-đạo không đề-cập gì đến các vấn-đề then-chốt mà tôi đã nêu ra như trên.
Dù phía Việt-Nam Cộng-Hòa có cố giữ kín trong nội-bộ, nhưng chắc gì phía Hoa-Kỳ đã không nắm được những điểm khuyết/nhược đó trong sách-lược và thực-lực của Ðồng-Minh mình...


TÂN THIỆN TÂM * VUA HÀM NGHI

 ​


Gia đình vua Hàm Nghi

Vị vua duy nhất của triều Nguyễn chỉ lấy một vợ, không lập thứ phi. Tuy lấy một người vợ Pháp, ông vẫn mặc áo dài, khăn đóng như khi ở quê nhà và vẫn dạy con nhớ về quê hương bản xứ. Ông đã từng nói với các con mình: “Các con chưa thể là một người Việt tốt, thì hãy là một người Pháp tốt”.
Vua Hàm Nghi tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Lịch (sinh năm 1872). Ông là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Thanh Nhàn. Ông là em ruột của vua Kiến Phúc và vua Đồng Khánh. Gia đình Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai có lẽ là một trong những gia đình vương gia đặc biệt nhất trong lịch sử khi có tới 3 người con đã từng lên ngôi vua.

Chỉ có điều lên ngôi giữa thời loạn lạc, nên vì lý do này, lý do khác mà thời gian tại vị của cả ba vị vua này đều tương đối ngắn ngủi. Hiện nay, tại Kiên Thái Vương phủ nằm trên đường Phan Đình Phùng (Thành phố Huế), những hậu duệ trong gia đình Kiên Thái Vương vẫn thờ Vua Hàm Nghi và một số vị vua khác của triều Nguyễn.


Nguyễn Phúc Ưng Lịch từ nhỏ đã cùng mẹ ruột sống ở ngoài phủ. Tuổi thơ của ông trải qua cảnh dân dã, bần hàn, chứ không được nuôi dạy trong xa hoa, phú quý.

Trước khi Vua Hàm Nghi lên ngôi, các vị vua trước đó đều có tư tưởng nhún nhường với Pháp. Đó chính là lý do mà các đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết quyết định đưa Nguyễn Phúc Ưng Lịch lên ngôi vua với niềm tin rằng, một vị vua trẻ, chưa bị nhiễm các thói xa hoa, phù phiếm sẽ vẫn còn giữ được tinh thần tự tôn dân tộc, sẽ chịu đựng được gian khổ và kiên cường cùng nhân dân đứng lên chống Pháp.
Chuyện kể lại rằng năm Ưng Lịch 13 tuổi, Tôn Thất Thuyết sai sứ giả đến đón ông về để lên ngôi vua. Lúc đó, Ưng Lịch còn hoảng sợ, không dám mặc áo mũ được sứ giả dâng lên. Ngày 2 tháng 8 năm 1884, Ưng Lịch làm lễ lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Hàm Nghi. Khi lên ngôi, Vua Hàm Nghi mới 13 tuổi.


Tuy lên ngôi từ lúc rất nhỏ tuổi, nhưng có lẽ vì chịu ảnh hưởng của các Phụ chính Đại thần như Tôn Thất Thuyết, nên từ nhỏ Vua Hàm Nghi đã sớm có tinh thần yêu nước, căm thù giặc Pháp. Năm 1885, ông theo Tôn Thất Thuyết chạy về vùng Tuyên Hóa, Quảng Bình, chịu không biết bao nhiêu đói khổ, bệnh tật và thời tiết khắc nghiệt để chống Pháp.
Nhưng càng chịu đựng gian khổ nhiều, tinh thần yêu nước của vị vua trẻ càng mãnh liệt. Ông đã viết Chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu yêu nước và nhân dân nổi dậy chống Pháp dành độc lập. Chiếu Cần Vương được Vua Hàm Nghi viết ngay tại vùng Tân Sở.
Là một vị vua trẻ, can đảm, dám từ bỏ vinh hoa phú quý để vào vùng rừng núi nuôi chí chống Pháp nên Vua Hàm Nghi nhận được sự ủng hộ đông đảo của các sĩ phu yêu nước và quần chúng nhân dân. Chiếu Cần Vương do ông viết đã tạo ra được một phong trào Cần Vương vô cùng rầm rộ những năm sau này, khiến thực dân Pháp không ít lần đau đầu tìm cách dẹp bỏ.

Thực dân Pháp đã nhiều lần mua chuộc Vua Hàm Nghi, nhưng ông đều từ chối. Ông nói: “Ta ưa chết trong rừng hơn là về làm vua mà ở trong vòng cương tỏa". Chính vì thế mà thực dân Pháp đã tìm kế bắt ông. Năm 1888, Vua Hàm Nghi bị Trương Quang Ngọc, kẻ hầu cận cho ông làm phản. Bọn chúng đã bắt Vua Hàm Nghi đưa về nộp cho Pháp. Khi đó Vua Hàm Nghi mới 17 tuổi. Để ngăn chặn tầm ảnh hưởng của Vua Hàm Nghi đối với phong trào Cần Vương đang nổi dậy khắp nơi, thực dân Pháp đã đày Vua Hàm Nghi sang Algerie.


Thượng tuần tháng Giêng năm 1889, Vua Hàm Nghi bị Pháp đưa sang Algerie trên một chiếc tàu Pháp mang tên Biên Hòa. Nơi dừng chân của ông là Alger, thủ đô của Algerie. Tại đây, Vua Hàm Nghi bị giam lỏng cách Alger chừng vài cây số. Đây là một vùng hoang dã trên dãy đồi Mustapha Supereur. Vua Hàm Nghi sống trong một villa nhỏ ở đây, có tên gọi là Villa des pins hay còn gọi là Biệt thự Tùng Hiên. Đó là một ngôi biệt thự nhỏ xung quanh có sân rộng, có vườn hoa và đường đi vào nhà có hai rặng thông.


Vua Hàm Nghi những ngày bị đi đầy
Lúc mới bị đày sang Algerie, Vua Hàm Nghi kiên quyết không chịu học tiếng Pháp vì cho rằng học tiếng Pháp là mặc nhiên thừa nhận lũ thực dân đã cướp nước mình. Mọi việc giao tiếp, trò chuyện với những người xung quanh ở Algerie, Vua Hàm Nghi đều thông qua một người phiên dịch. Nhưng sau vài năm sống ở Algerie, ông nhận ra rằng Algerie tuy là thuộc địa của Pháp nhưng người dân bản địa ở đây đều là những người rất thân thiện, gần gũi và tốt bụng, hoàn toàn không mang những âm mưu, lòng dạ thâm độc như những tên thực dân sang xâm chiếm Việt Nam.

Chỉ sau một thời gian học tiếng Pháp, ông đã nói thông thạo như người Pháp và ngày càng kết bạn được với nhiều người sống ở Algerie. Tuy là một vị vua bị lưu đày và bị thực dân Pháp cho người theo dõi, quản thúc, nhưng sự xuất hiện của Vua Hàm Nghi ở xứ sở thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi vẫn là một sự kiện lớn, gây chú ý cho những người dân sống ở đây. Ông được chính quyền và nhân dân ở đây chào đón rất nhiệt liệt. Sau này, chính vì tư cách của ông, một cốt cách nhã nhặn, hài hòa nhưng vô cùng mạnh mẽ mà ông càng được người dân bản quán yêu quý.

Sau vài năm sống ở đây, Vua Hàm Nghi đã quen với nhiều trí thức cũng như văn nghệ sĩ tại Alger. Ở tuổi ngoài 20, ông đã thường xuyên sinh hoạt trong môi trường này. Cũng chính trong hoàn cảnh đó, Vua Hàm Nghi bắt đầu phát huy được năng khiếu nghệ thuật của mình. Ông học vẽ, học chụp ảnh và tham gia vào nhiều cuộc triển lãm. Nhờ tài hoa của mình nên ở Alger, Vua Hàm Nghi được giới thượng lưu trí thức ngưỡng mộ, bất kể ông là một người da vàng bị lưu đày.

Cùng quãng thời gian Vua Hàm Nghi bị lưu đày sang Alger, một vị thẩm phán tên là Francois Laloe cũng được điều từ nước Pháp sang giữ chức vụ Chánh Biện lý Tòa Thượng thẩm Alger. Ông Francois Laloe là người thuộc dòng dõi quý tộc lớn tại miền nam nước Pháp. Ở Pháp, ông được xếp vào tầng lớp quý tộc được trọng vọng. Khi sang Alger, ông cũng được giới quý tộc ở đây tôn kính và là người có tiếng nói, có ảnh hưởng trong vùng.

Chánh Biện lý Tòa Thượng thẩm Francois Laloa góa vợ. Ông chỉ có một cô con gái tên là Marcelle Laloe, lúc sang Algerie mới khoảng 16 tuổi. Là một trong những trí thức lớn, một viên chức đứng đầu của ngành Tư pháp ở xứ thuộc địa, trong quãng thời gian sống ở Algerie, ông Francois Laloe thường xuyên góp mặt vào những buổi sinh hoạt văn hóa-văn nghệ dành cho giới thượng lưu ở Thủ đô Alger được tổ chức tại gia đình bà Nam tước De Vialar. Đây là một gia đình rất thân thiết và quý mến Vua Hàm Nghi, nơi Vua Hàm Nghi thường xuyên qua lại, thậm chí còn sinh hoạt ở đó.


Nhờ mối quan hệ thân tình này, cũng vốn là người được số đông trong giới thượng lưu ở Alger yêu quý, nên vua Hàm Nghi và gia đình ông Francois Laloe nhanh chóng trở nên thân thiết với nhau. Là người có tư tưởng tiến bộ, ông Francois Laloe đã rất khuyến khích cô con gái trẻ tuổi của mình trò chuyện giao thiệp với Vua Hàm Nghi – một người dân một nước thuộc địa của Pháp đang bị lưu đày nhưng có xuất thân hoàng tộc cao quý và hơn cả là có một nhân cách đẹp, một tâm hồn đẹp.
Tuy Vua Hàm Nghi hơn Marcelle Laloe 13 tuổi, nhưng không vì thế mà khoảng cách tuổi tác trở thành rào cản đối với họ. Được tiếp xúc với Vua Hàm Nghi nhiều lần trong những buổi sinh hoạt tại biệt thự của bà Nam tước De Vialar, Marcelle Laloe ngày càng có cảm tình với Vua Hàm Nghi. Dần dần, tình cảm của Marcelle Laloe và Vua Hàm Nghi ngày càng trở nên sâu đậm.

Tuy ông Francois Laloe có xuất thân quý tộc Pháp, nhưng mối quan hệ này của cô con gái duy nhất được ông vô cùng ủng hộ. Chỉ một thời gian sau đó, ông Francois Laloe đã đồng ý cho con gái Marcelle Laloe làm lễ đính hôn với Vua Hàm Nghi.
Quãng thời gian Vua Hàm Nghi và cô Marcelle Laloe mới nảy sinh tình cảm, người dân xứ Bắc Phi thường nhìn thấy Vua Hàm Nghi và Marcelle ngồi trên chiếc xe song mã và cùng đi chơi. Nếu Marcelle mặc trang phục của một cô gái phương Tây, thì Vua Hàm Nghi mặc trang phục truyền thống của Việt Nam: áo dài, khăn xếp.


Một cô gái da trắng và một chàng trai da vàng, với hai lối phục trang hết sức khác nhau, thường xuyên đi dạo trên cỗ xe song mã, đã để lại nhiều kỷ niệm khó quên đối với người dân bản xứ khi đó. Nhưng không vì thế mà hai người không trở nên đẹp đôi trong mắt mọi người.
Ngày 4/11/1904, 15 năm sau khi bị lưu đày sang Algerie, Vua Hàm Nghi kết hôn với Marcelle Laloe, con gái của ông Francois Laloe. Hôn lễ được tổ chức trọng thể và sang trọng tại Thánh đường của Tòa Tổng Giám mục Alger, với sự góp mặt của đông đảo tầng lớp thượng lưu, trí thức tại đây. Ông Francois Laloe là người đứng ra làm chủ hôn cho đám cưới của con gái và cựu Hoàng xứ An Nam.


Vua Hàm Nghi trở thành vị vua đầu tiên của triều Nguyễn, cũng là vị vua đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam kết hôn với một người phụ nữ phương Tây. Trong lễ thành hôn của Vua Hàm Nghi và Marcelle Laloe, khi cô dâu Marcelle vận một chiếc váy cưới lộng lẫy thì Vua Hàm Nghi vẫn mặc đúng chiếc áo dài đen cổ truyền của quê hương, đầu đội khăn xếp.
Chính vị Tổng Giám mục Alger là người đã ban phép lành cho Vua Hàm Nghi và Marcelle Laloe. Kể từ đó, Marcelle Laloa trở thành La Princesse d’Annam – tức là “Vương phi của nước An Nam”, hay “Vợ của vua An Nam” (vì theo truyền thống của nhà Nguyễn trước đó, vợ của vua không được lập là hoàng hậu, chỉ được lập là vương phi. Đến thời vua Bảo Đại, do hoàn cảnh bắt buộc, Bảo Đại mới phải lập bà Nam Phương làm Nam Phương Hoàng hậu).


Đám cưới của Vua Hàm Nghi và Marcelle năm 1904 được xem là một sự kiện lớn và vô cùng đặc biệt tại Alger, một sự kết hợp đặc biệt giữa một cô gái có xuất thân quý tộc Pháp và một vị vua của một nước thuộc địa Pháp bị lưu đày. Rất nhiều người dân ở Thủ đô Alger đặc biệt quan tâm đến sự kiện này. Họ đã kéo nhau đến đứng xung quanh khu vực nhà thờ để tận mắt chứng kiến lễ cưới và chiêm ngưỡng đôi vợ chồng trẻ khi họ bước ra khỏi thánh đường.
Sau khi kết hôn, Vua Hàm Nghi và bà Marcelle Laloe sống rất hạnh phúc. Hai ông bà rất yêu thương và tôn trọng nhau. Bà Marcelle Laloe theo Thiên Chúa giáo, còn Vua Hàm Nghi vẫn theo Đạo Phật chứ không cải đạo theo vợ. Ông vẫn ăn vận theo lối cũ và sống theo lối của một người phương Đông. Nhưng ông vô cùng tôn trọng tín ngưỡng của vợ và vẫn thường đưa bà đi lễ ở Nhà thờ Thánh Philippe, nhà thờ của Tòa Tổng Giám mục Alger. Thỉnh thoảng, Vua Hàm Nghi vẫn viết thư về Huế thông báo tình hình với người thân và nhờ mua cau trầu, thuốc lá gửi sang.

Vua Hàm Nghi và bà Marcelle Laloe sinh được 3 người con. Người con đầu của ông bà là Công chúa Như Mai (1905 – 1999), người con thứ hai là Công chúa Như Lý (1908 – 2005), người con thứ ba là Hoàng Tử Minh Đức (1910 – 1990). Cả 3 người con của Vua Hàm Nghi đều sinh ra và lớn lên tại Alger.
Dù không thể đưa các con trai, con gái của mình về quê hương, nhưng vua Hàm Nghi vẫn dạy con cái mọi điều về lịch sử Việt Nam, về truyền thống yêu nước và những lần chống ngoại xâm kiên cường của người Việt. Ông cũng không quên kể cho con cái nghe về các đời vua triều Nguyễn và câu chuyện lưu lạc của cuộc đời mình. Ở Alger, khi nói chuyện với những người hầu cận là người Việt Nam, vua Hàm Nghi vẫn dùng tiếng Việt. Ông thường nói với con cái mình rằng: “Các con chưa thể là một người Việt Nam tốt thì trước hết hãy là một người Pháp tốt”.

Sự dạy dỗ con cái của Vua Hàm Nghi đã được thể hiện ở chính nhân cách đẹp cũng như sự giỏi giang và lòng tự trọng của con cái ông sau này. Hoàng tử Minh Đức (người con trai duy nhất của vua Hàm Nghi) khi lớn lên đã vào học tại trường Võ bị, rồi phục vụ trong quân đội Pháp.
Tuy nhiên năm 1946, khi nhận được lệnh sang Đông Dương làm nhiệm vụ, Hoàng tử Minh Đức đã kiên quyết từ chối. Hoàng tử Minh Đức đã nói: “Tôi không thể cầm súng bắn lại đồng bào tôi. Nếu Chính phủ Pháp muốn đưa tôi ra trước tòa án quân sự thì tôi phải chịu. Nhưng tôi không thể đi sang Việt Nam đánh giặc cho người Pháp và chống lại người Việt Nam”. Sau này, người Pháp đã đưa Hoàng tử Minh Đức sang phục vụ cho một đơn vị lính Lê Dương ở Algerie.


Ông về hưu với quân hàm Đại tá. Hoàng tử Minh Đức có lập gia đình nhưng không có con, ông mất năm 1990, thọ 80 tuổi. Qua cách cư xử của Hoàng tử Minh Đức, người ta có thể thấy tinh thần khẳng khái của Vua Hàm Nghi một thời, khi ông đã từ chối mọi ngai vàng, mọi phú quý để cùng nhân dân đánh giặc. Dù ở hoàn cảnh khác nhau, vị thế khác nhau, nhưng Hoàng tử Minh Đức đã chứng tỏ mình đã được Vua Hàm Nghi nuôi dạy, giáo dục cặn kẽ, để không làm những việc trái với đạo lý, phản bội nhân dân.
Vua Hàm Nghi có 3 người con, thì cả 3 người đều thành đạt. Người con đầu của Vua Hàm Nghi là Công chúa Như Mai là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên đỗ Thạc sĩ Nông Lâm, mà lại đỗ Thủ khoa. Giống như cha mình, Công chúa Như Mai thường phục sức theo kiểu phụ nữ Việt Nam. Công chúa Như Mai là một hiện tượng được báo chí Pháp vô cùng quan tâm. Có lần một nhà báo Pháp hỏi Công chúa Như Mai vì sao lại ăn mặc như thế, Công chúa đáp lại: “Ăn mặc như thế là thể theo ý muốn của Vua Hàm Nghi”.


Sau khi đỗ Thủ khoa Thạc sĩ Nông Lâm, Công chúa Như Mai về Alger sống với Vua Hàm Nghi một thời gian rồi quay trở lại Pháp sống và làm việc. Bà đi đến vùng Dordogne và Correne, miền Trung nước Pháp, đưa những kỹ thuật trồng trọt đem giúp dân nghèo ở vùng này và được nhân dân địa phương hết sức quý trọng. Bà không lập gia đình mà cả đời dành cho sự nghiệp nghiên cứu và lao động. Khi còn sống, bà là một người phụ nữ Pháp vô cùng giàu có và thường xuyên đi làm từ thiện, cứu giúp người nghèo. Bà sống trong một lâu đài ở miền Trung nước Pháp cho đến cuối đời.
Trong số 3 người con của Vua Hàm Nghi, người duy nhất có cơ hội trở về Việt Nam là Công chúa Như Lý. Bà sinh năm 1908 – mất năm 2005. Công chúa Như Lý kết hôn với một quý tộc Pháp và sống một cuộc đời sung túc trong một lâu đài ở miền Trung nước Pháp. Trong chuyến trở về Việt Nam khi còn sống, bà đã kể về cha mình – Vua Hàm Nghi – như một người đàn ông vô cùng tuyệt vời, yêu nước đến hơi thở cuối cùng và cũng vô cùng yêu thương vợ con.


Ông giữ cốt cách của một người Việt cho đến hơi thở cuối cùng. Đến tận những năm cuối đời, ông vẫn mặc trang phục dân tộc, vẫn thường xuyên nói tiếng Việt và vẫn ăn các món ăn Việt Nam. Công chúa Như Lý kể, vì biết không còn cơ hội quay về Việt Nam, nuôi ước mơ đánh Pháp, nên Vua Hàm Nghi dồn hết tâm sức vào việc vẽ tranh, chụp ảnh, sáng tác nghệ thuật.
Ông vẽ được rất nhiều bức tranh đẹp, được giới trí thức, nghệ sĩ ở Alger đánh giá rất cao. Những bức tranh của ông, sau khi ông mất, những người con của ông giữ lại như những kỷ vật quan trọng của gia đình. Những bức tranh này không được các con của Vua Hàm Nghi rao bán. Nhưng thỉnh thoảng nếu có người nào ngưỡng mộ và thân thiết với Vua Hàm Nghi đến thăm, gia đình vẫn tặng cho họ một bức tranh của ông làm kỷ niệm.




Vua Hàm Nghi - Những năm cuối đời

Theo lời kể của Công chúa Như Lý, Vua Hàm Nghi mất vào ngày 14 tháng 1 năm 1944 tại Alger, vì căn bệnh ung thư dạ dày. Ông mất trong đúng giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ II đang diễn ra vô cùng ác liệt. Lúc đó tất cả những người con của Vua Hàm Nghi đều ở Pháp và nước Pháp đang bị quân Đức của Hitler chiếm đóng nên không một người con nào của Vua Hàm Nghi có thể rời khỏi Pháp về Alger để dự đám tang của cha mình.

Đến tận lúc mất năm 1944, vua Hàm Nghi vẫn sống vô cùng hạnh phúc với bà Marcelle Laloe. Sau này khi vua qua đời, bà Laloe về sống với các con ở Pháp, rồi cũng qua đời tại đây.

Thân Thiện Tâm
(Sưu tầm và tổng hợp


__,_._,___


CHUYỆN CÁC ĐẠI SỨ TƯ BẢN




Đại sứ Mỹ đạp xe từ Hà Nội đi Huế

An Bình




Đại sứ Mỹ đạp xe 840 km từ Hà Nội đi Huế bất chấp mưa rét .
Đại sứ Mỹ Ted Osius đã thực hiện chuyến đạp xe dài 840 km từ Hà Nội vào Huế trong những ngày miền bắc trải qua đợt mưa rét khắc nghiệt hiếm gặp. Dọc hành trình, ông và các thành viên trong đoàn đã gặp gỡ người dân địa phương và có các hoạt động ý nghĩa nhằm thúc đẩy quan hệ Việt-Mỹ.




Đại sứ Ted Osius đã bắt đầu chuyến đạp xe mang tên “Hành trình Mới” tại Ô Quan Chưởng ở khu phố cổ Hà Nội ngày 24/1 và đi qua một loạt tỉnh thành trước khi kết thúc tại Huế .




Nhà ngoại giao Mỹ cho biết ông chọn xuất phát ở đó bởi nơi này có ý nghĩa quan trọng về lịch sử và văn hoá đối với người dân thành phố, đồng thời cũng mang dấu ấn quan hệ Việt-Mỹ. Cách đây 5 năm, Mỹ đã tài trợ 74.500 USD thông qua Quỹ Đại sứ Bảo tồn Văn hoá để bảo tồn di tích lịch sử Ô Quan Chưởng.




Cùng đạp xe với Đại sứ Mỹ có 14 cua-rơ khác, cả người Việt và người nước ngoài. Hành trình dự kiến kéo dài 8 ngày. Đại sứ quán Mỹ cho biết chuyến đạp xe đánh dấu giai đoạn tiếp theo của mối quan hệ ngày càng vững mạnh giữa Mỹ và Việt Nam. Sự kiện cũng nêu bật tầm quan trọng của hợp tác giáo dục, bảo vệ môi trường, tăng trưởng kinh tế, chăm sóc sức khoẻ và di sản văn hoá giữa hai nước.




Đoàn đạp xe đã gặp thời tiết không thuận lợi trong nửa đầu hành trình nhưng các cua-rơ đều rất quyết tâm hoàn thành các chặng đường mỗi ngày.




Dọc hành trình đạp xe, Đại sứ Osius và các thành viên trong đoàn đã ghé thăm nhiều nơi, trong đó có Trung tâm cứu hộ, bảo tồn và phát triển sinh vật Cúc Phương thuộc Vườn quốc gia Cúc Phương tại Nho Quan, Ninh Bình.




Đại sứ Mỹ lại gần một con cầy mực, được xếp vào một trong những loài thuộc Sách đỏ Việt Nam.




Rời Ninh Bình, đoàn đạp xe tiếp tục cuộc hành trình tới Thanh Hóa. Nhà ngoại giao Mỹ cho biết cảnh quan trên đường họ đi qua rất đẹp.




Đại sứ Ted Osius nổi tiếng là người thích đạp xe. Trong thời gian công tác tại Việt Nam vào những năm 1990, ông từng đạp xe gần 2.000 km từ Hà Nội tới Thành phố HCM.




Đại sứ Mỹ tới thăm đền Lam Kinh tại Thọ Xuân, Thanh Hóa.




“Ở đền Lam Kinh, tôi đã có dịp biết thêm về lịch sử Việt Nam mà tôi rất yêu thích, về Vua Lê Thái Tổ và viếng thăm mảnh đất sinh thành của ông”, nhà ngoại giao Mỹ viết.




Đại sứ Mỹ thắp hương ở đền thờ phu nhân Vua Lê Lợi và viếng thăm lăng mộ của bà.




Đại sứ Osius tham gia trồng cây để thúc đẩy phát triển bền vững.




Nhà ngoại giao Mỹ trò chuyện với một người dân địa phương tại Thanh Hóa. Ông Osius nói khá thành thạo tiếng Việt bởi đã học tiếng Việt từ năm 1996 khi mới đến Việt Nam làm việc.




Các cua-rơ đạp xe khoảng 50-95 km mỗi ngày.




Đoàn đạp xe trên đường tới Hà Tĩnh trong ngày thứ 4 của “Hành trình Mới”.




Đại sứ Mỹ và các thành viên trong đoàn gặp gỡ người dân địa phương trong một điểm dừng chân ở tỉnh Hà Tĩnh.




“Chúng tôi gặp những người Việt Nam tuyệt vời, nồng hậu và dễ gần ở tỉnh Hà Tĩnh, và ngắm những phong cảnh đẹp”, Đại sứ Ted Osius viết trong nhật ký của hành trình.




Đại sứ Mỹ cầm tay các em nhỏ trong chuyến thăm Làng trẻ em mồ côi Hà Tĩnh. Tại đây, ông đã trao tặng các mũ bảo hiểm và máy sưởi.




Nhà ngoại giao Mỹ hôn trán một em nhỏ.




Các cua-rơ chinh phục những cung đường vòng vèo, đầy thử thách để tiếp tục tới tỉnh Quảng Bình.




Đoàn đạp xe ngày 28/1 đã tới thăm động Phong Nha-Kẻ Bàng tại tỉnh Quảng Bình.




Vào sáng ngày 29/1, Đại sứ Mỹ và đoàn đã tới thăm Đại học Quảng Bình. “Ở Đại học Quảng Bình, tiếng Anh là mối quan tâm của mọi người. Nhiều sinh viên đã đặt câu hỏi bằng tiếng Anh rất tốt về những kỹ năng mà họ cần phát triển để thành công. Tôi đã đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của tiếng Anh và việc tận dụng những nguồn thông tin trực tuyến là rất dễ dàng”, ông Ted Osius nói.




Sau Quảng Bình, Đại sứ Mỹ và đoàn sẽ tiếp tục cuộc hành trình tới Quảng Trị. Chuyến đạp xe sẽ kết thúc vào ngày 31/1 tại Huế.

A.B.

Nguồn: http://baomai.blogspot.fr/2016/02/ai-su-my-ap-xe-tu-ha-noi-i-hue.html


Đại sứ các nước tại Việt Nam sẽ thăm hang Sơn Đoòng vào tháng 5



Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Nhân quyền và Lao động, ông Tom Malinowski (VOA photo - Khánh An)

10.03.2016
Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Nhân quyền và Lao động, ông Tom Malinowski, sẽ cùng với 10 đại sứ tại Việt Nam của các nước như Mỹ, Úc, Canada, Thụy Điển, Argentina, Italy… khám phá hang Sơn Đoòng, là hang động được xem là lớn nhất thế giới hiện nay, vào tháng 5 tới.

Các giới chức ở Quảng Bình cho báo giới biết chương trình khám phá hang Sơn Đoòng được thiết kế dành riêng cho đại sứ các nước tại Việt Nam với sự phối hợp của Ban thư ký Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và công ty Oxalis.

Trước khi tham gia vào chương trình, đại sứ các nước sẽ được huấn luyện để bảo đảm sức khỏe và kỹ năng cần thiết cho chuyến đi. Chi phí chuyến đi sẽ do các đại sứ tự trả. Được biết, hiện một tour thám hiểm, khám phá Sơn Đoòng có giá vé đến 3.000 đôla/người. Mỗi tour chỉ giới hạn 8 khách và có hơn 30 người phục vụ.

Hang Sơn Đoòng thuộc quần thể hang động Phong Nha – Kẻ Bàng, thuộc xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Đây được xem là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới từng được phát hiện cho tới nay.

Một phim tài liệu về hang Sơn Đoòng của đài ABC của Mỹ tuần rồi đã thắng giải phim tài liệu và tin tức tại Liên hoan phim New York Drone Film Festival.

Hang Sơn Đoòng gần đây còn nổi tiếng vì được đoàn làm phim King Kong 2 của Hollywood chọn lựa cho các cảnh quay trong bộ phim lớn này. Tuy nhiên, việc thực hiện quay phim ở hang động nổi tiếng này đã bị loại vào phút chót vì các nhà làm phim Mỹ muốn bảo vệ môi trường nguyên sơ của Sơn Đoòng.

Các giới chức Quảng Bình nói việc tổ chức tour dành riêng cho đại sứ các nước là nhằm để quảng bá hình ảnh Di sản Thiên nhiên Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, nơi được mệnh danh là “vương quốc của hang động”.

Theo Thanh Niên, Vietnam Plus, VnExpress, Tiền Phong
 
 


MAI THANH TRUYẾT * NGÀY TRÁI ĐẤT



Ngày Trái Đất 2016   Cây Xanh Cho Toàn Cầu

MAI THANH TRUYẾT




Chúng ta bước vào năm thứ 46 của Ngày Trái Đất, ngày 22 tháng Tư năm 2016. Ngày nầy được xem như là ngày nhắc nhở hơn 7 tỷ người trên trái đất cần nên có thêm cảm hứng, trao đổi ý kiến, khơi dậy ước mơ, và nhứt là vận động và kích thích để mọi người cần hành động để bảo vệ môi trường sống của tất cả chúng ta. Hàng năm có trên một tỷ người khắp nơi, tùy theo điều kiện hiện có của mỗi quốc gia, tổ chức các cuộc vui chơi, vận động cho mọi người ý thức nhiều hơn nữa về tình trạng môi trường chung cho thế giới và riêng cho từng quốc gia.




Chủ đề cho Ngày Trái Đất năm nay là làm thế nào để đạt mục tiêu trồng 7,8 tỷ cây xanh cho trái đất. Và để nhằm đáp ứng những kết ước ở Thượng đỉnh COP21 vừa qua là làm thế nào để chấm dứt việc sử dụng năng lượng hóa thạch và thay thế bằng 100% năng lượng thay thế.
Trong suốt 45 năm qua, Ngày Trái Đất đã được cổ súy rất nhiều tại Hoa Kỳ, và từ đó, Cơ quan Bảo vệ Môi trường (US EPA) đã thông qua các dự luật như Luật Làm Sạch Không khí (Clean Air Act), Luật Tăng cường Phẩm chất Nước (Water Quality Improvement Act), Luật Bảo vệ Các Động vật có Nguy cơ bị diệt chủng (Endangered Species Act) và nhiều luật liên quan đến Môi trường khác.


Khái niệm về Ngày Trái Đất đã được đệ nạp đầu tiên do cố Thượng Nghị Sĩ Gaylord Nelson của tiểu bang Wisconsin, mất vào năm 2005. Phần thưởng dành cho ông là Phần thưởng Huy chương Tổng thống cho Tự do (President Medal of Freedom Award).
Nhưng, nhìn lại 46 năm qua, chúng ta đã làm được gì cho trái đất?

Không phải bi quan mà nói, nhưng thực tế cho thấy rằng, chúng ta càng làm cho Trái Đất "xấu thêm".
Nhiều vấn đề ngày càng trầm trọng hơn như sự hâm nóng toàn cầu ngày càng tăng dần:
Lượng khí thải carbonic CO2 đã vượt qua nồng độ 400mg/m3 không khí tạo nên tình trạng đão lộn thời tiết mưa-gió-bão-lụt bất thường trong ba năm vừa qua do Trung tâm Mauna Loa Observatory (Hawaii) công bố vào tháng 6/2013, một điểm tới hạn trong không khí theo quan điểm của một số nhà khoa học, vì khi đạt được định mức nầy, nguy cơ thay đổi thời tiết bất thường trên trái đất sẽ khó kiểm soát được. 

Cộng thêm việc phá rừng để phát triển quốc gia càng làm tình trạng trên trầm trọng thêm ra. Và tình trạng hạn hán và ngập mặn hiện tại ở Việt Nam (3/2016) là một trường hợp điển hình chứng minh, ngoài việc xây các đập thủy điện làm giảm dòng chính lưu của sông Mekong ở thượng nguồn, và nguyên nhân quan trọng hơn nữa là do việc phá rừng ở hai bên Mekong, và việc phá rừng tràm, rừng đước để nuôi tôm ở vùng Bạc Liêu, Cà Mau làm cho sự nhiễm mặn trầm trọng thêm hơn.
Tầng ozone trên thượng tầng khí quyển ngày càng bị tàn phá hơn nữa do các khí thải nhà kính do sự phát triển kỹ nghệ và công nghệ mới…
Tóm lại, hệ sinh thái ngày càng tệ hại hơn so với 46 năm về trước!


Lịch sử Ngày Trái Đất




Ngày Trái Đất đầu tiên được tổ chức là ngày 21 tháng 3 năm 1970, ngày đầu tiên của mùa Xuân, sau khi nhà vận động hòa bình John McCornell đã đệ nạp một dự thảo đề nghị lên UNESCO để xác định ngày vinh danh Trái Đất.

Một tháng sau đó, Thượng Nghị sĩ Gaylord Nelson sáng lập một Ngày Trái Đất khác để tạo ra một sự tỉnh thức (awareness) về việc bảo vệ môi trường sống cho con người. Đó là Ngày 22 tháng 4 năm 1970. Trước đó, ngày nầy chỉ áp dụng cho Hoa Kỳ mà thôi.
Mãi đến năm 1990, Nelson thuê Denis Hayes, một nhà hoạt động chính trị vừa mới tốt nghiệp Đại học Stanford, làm điều hợp viên cho ông để vận động khắp nước Mỹ và thuyết phục Dân biểu Pete McCloskey thuộc Calofornia làm Đồng Chủ tịch cho chiến dịch vận động hành lang cho Ngày Trái Đất. Và, ngày nầy biến thành Ngày Trái Đất của thế giới với 141 quốc gia công nhận ngay sau đó.


Cuộc Hành trình của Ngày Trái Đất


Từ ngày thành lập, một hệ thống Mạng lưới Ngày Trái Đất (Earth Day Network) được thiết lập để cố súy việc tham gia của tất cả người dân sống trên địa cầu, và có trách nhiệm hành động trên toàn thế giới. Ngày nầy năm 1990 ghi nhận có 200 triệu người trên 141 quốc gia tham dự.

School children take part in an awareness programme on the eve of World Earth
Day in Mirzapur, Uttar Pradesh on Tuesday. Photo: PTI

Ngày Trái Đất năm 2000, có 5000 NGO về môi trường và 184 quốc gia hưởng ướng. Trong năm nầy, Hayes tập trung vận động về vấn đề năng lượng sạch và sự hâm nóng toàn cầu. Từ đó, Nghị định thư Kyoto (Kyoto Protocol) về môi trường toàn cầu ra đời tại Kyoto, Japan năm 1997, đặt nền tảng cho sự giảm thiểu sự phóng thích khí thải CO2 vào không khí lấy tiêu chuẩn vào năm 1990.
Ngày Trái Đất năm 2010, để kỷ niệm 40 năm, 225.000 người tụ tập trước National Mall bắt đầu cuộc đi bộ cho việc thay đổi khí hậu toàn cầu và kết ước trồng 1 tỷ cây cho thế giới. Kết ước nầy đã hoàn tất năm 2012.




Năm vừa qua, để kỷ niệm 45 năm ngày Trái Đất, Mạng lưới Ngày Trái Đất tung ra chiến dịch vận động Thế hệ Xanh (Green Generation) nhằm mục đích giảm thiểu sự phát thải khí carbonic qua việc áp dụng các nguồn năng lượng thay thế, kêu gọi sự tiêu thụ năng lượng một cách bền vững (sustainable), sáng kiến tạo ra và thực thi nền kinh tế xanh (green economy). Muốn được vậy, chúng ta cần phải triệt để làm những việc sau đây:


Cần có thêm nhiều chiến lược cải cách tích cực hơn nữa;
Luật lệ về môi sinh nghiêm khắt và cứng rắn hơn.
Tại sao chúng ta phải cổ súy Ngày Trái Đất?




Hiện tại, vấn đề hâm nóng toàn cầu là một vấn đề thiết yếu cho thế giới, vì có thể nói sự gia tăng khí CO2 vào bầu khí quyển là do CON NGƯỜI. Và sự gia tăng nầy ngày càng trầm trọng hơn, bất thường hơn so với giai đoạn từ 1300 năm trước cho đến năm 1900.
Như đã trình bày ở phần trên, khi nhiệt độ không khí tăng lên, các hiện tượng như: các luồng khí nóng tạo ra nhiều hơn, bệnh tật lan rộng nhanh hơn, vùng sinh thái cho thú vật và cây cỏ thay đổi do sự khắc nghiệt của nhiệt độ, mưa bão và hạn hán bất thường và thay đổi thường xuyên v.v…

Các ảnh hưởng trên làm đảo lộn cơ thể và cuộc sống của con người:
§ Con Cóc Vàng (Golden Toad) là động vật đầu tiên bị tiệt chủng do hiện tượng trên.
§ Hiện tượng nầy gây ra thêm sự truyền nhiễm các bịnh như bịnh sốt rét, bịnh Lyme (bọ chét có trên thân thể của con nai), bịnh sốt xuất huyết (dengue) v.v…
Các nhà khoa học tiên đoán rằng, sự hâm nóng toàn cầu có thể tăng từ 1,4 đến 6oC vào cuối thế kỷ 21 nầy. Điều nầy cũng đã được Thượng đỉnh COP21 lập lại tại Paris vào tháng 12, 2015. Nhiều khoa học gia tiên đoán rằng:

§ Sẽ có trên 60.000 người chết hàng năm do sự biến đổi trên, trong đó 95% nạn nhân sống trong các quốc gia đang phát triển.
§ Về sức khỏe: Nếu nhiệt độ tăng cộng thêm độ ẩm của không khí kéo dài nhiều ngày, và ban đêm nhiệt độ không hạ thấp xuống, hiện tượng trên có thể làm chết người. Tính khí con người có thể thay đổi và trở nên nóng tánh dễ dàng hơn.


§ Thiên tai: Mưa gió bất thường, nóng lạnh thay đổi đột ngột ảnh hưởng lên sức khỏe và mức an toàn của con người (nạn cháy rừng xảy ra do khí nóng kéo dài nhiều ngày). Nóng nơi nầy sẽ tạo ra ẩm ướt nơi khác, từ đó, tình trạng lũ lụt và hạn hán sẽ thường xảy ra cho nhân loại.
§ Phẩm chất không khí giảm: Tình trạng trên làm cho lớp khí ozone gần đất (ground-level ozone) tăng thêm làm cho con người khó thở..
§ Dị ứng: Khí nóng và khí CO2 tăng cao sẽ làm cây cỏ mọc nhanh hơn, do đó tạo ra dị ứng cho con người, thí dụ như phấn của cây Ivy độc (poison ivy) làm giảm khả năng sinh sản.


§ Bịnh tật lan tràn: Khí nóng sẽ làm nước biển ấm hơn, chính vì thế vi trùng bịnh kiết lỵ và một số bịnh dịch khác có thể di chuyển theo dòng nước ấm và dịch sẽ lan rộng nhanh hơn.
§ Ảnh hưởng lên thực phẩm: Nguy cơ ảnh hưởng lên mức sản xuất ngủ cốc, rau đậu, trái cây, gia súc, và nghề đánh cá. Sự thay đổi khí hậu có thể làm tăng giá thực phẩm tiêu dùng lên khoảng 50% đến 60% cho năm 2030.


§ Mức sản xuất ngủ cốc và gia súc giảm do nạn hạn hán và ngập lụt xảy ra bất thường.
§ Ở các vùng nhiệt đới như ở Việt Nam, việc trồng trọt dựa theo gió mùa sẽ phải thiết lập hệ thống dẩn thủy nhập điền để duy trì mức sản xuất. Do đó, chi phí sẽ tăng cao và năng suất sẽ thấp đi.
§ Vì thay đổi khí hậu, đất sẽ dễ bị chai cằn vì độ ẩm làm cho đất không có đủ điều kiện "nghĩ ngơi" và tái tạo lại tính màu mờ thiên nhiên.
§ Côn trùng và sâu bọ nảy sinh nhiều hơn nếu mùa nóng kéo dài.
§ Sau cùng, kỹ nghệ đánh cá sẽ giảm thiểu vì nước biển nóng lên và rong rêu sẽ sinh sôi nảy mở nhiều hơn làm giảm lượng oxygen trong nước, từ đó, ảnh hưởng lên mức sinh sản của cá tôm.

Tất cả sẽ làm giảm thiểu nguồn lương thực cho con người và nạn đói có thể xảy ra ở nhiều nơi vì các nước giàu không còn nhiều khả năng để cưu mang các quốc gia nghèo như Phi Chầu và Á Châu.

Những tệ trạng đã và đang xảy ra cho chúng ta như dự kiến trên đây do chính chúng ta là thủ phạm.



Vì vậy, chúng ta cần tỉnh thức hơn nữa để vận động Mạng lưới Ngày Trái Đất. Hiện tại, Mạng Lưới quốc tế nầy thu hút trên 22.000 tổ chức NGO trên khắp 192 quốc gia, quy tụ hơn 30.000 nhà giáo dục, điều hợp hàng ngàn dự án phát triển và bảo vệ môi trường hàng năm.


Tuy vậy vẫn chưa đủ!
Sự lưu tâm, cổ súy, và cam kết vận động cho Ngày Trái Đất vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn.
Ngày Trái Đất phải thực sự là một diễn biến dân sự lớn nhứt thế giới để mọi người cùng hiểu và cùng làm với nhau để bảo vệ Trái Đất của chúng ta.

Những cản ngại cho Ngày Trái Đất

Những thương thuyết quốc tế về viễn tượng hâm nóng toàn cầu bắt đầu từ Thượng đỉnh Rio de Janeiro (Rio Summit), Ba Tây năm 1992. Vào năm 1997, Nghị định Thư Kyoto ra đời ở Japan với nhiều quyết định cho toàn cầu trong đó, tất cả các quốc gia hứa sẽ giảm sự phát thải khí carbonic (CO2) vào năm 2005 ngang bằng với lượng phát thải của mỗi quốc gia ở năm 1995. Đều nầy đã được nhắc lại ở Nghị định thư Kyoto (Kyoto Protocol) một lần nữa vào năm 2005, ở Chương trình Hành động ở Bali (Bali Action Plan) năm 2007, và nhắc nhở việc thực thi ở Copenhagen năm 2009 với mục tiêu chung là giới hạn sự hâm nóng toàn cầu dưới 20C.


Và từ đó đến nay, qua nhiều hội nghị, để cuối cùng kỳ Hội nghị kỳ thứ 21 ra đời từ ngày 30 tháng 11 cho đến 11 tháng 12, tại Paris đã diễn ra "Hội nghị kỳ thứ 21 về Thỏa thuận Khái niệm Căn bảnvề Thay đổi Khí hậu của mọi Thành viên Liên Hiệp Quốc" (21th Session of the Conference of the Parties to the United Nations Framework Convention on Climate Change – UNFCCC). Đây là một thượng đỉnh hết sức quan trọng cần thiết để đi đến một giải pháp đồng thuận về sự biến đổi khí hậu áp dụng cho mọi quốc gia nhằm mục tiêu gìn giữ sự hâm nóng toàn cầu tăng trưởng dưới 20C cho đến cuối thế kỷ 21 nầy.


Theo thống kê năm 2014, trong 10 quốc gia thải khí nhà kính nhiều nhứt tạo ra 70% tổng lượng khí thải, trong đó Liên hiệp Âu Châu (LHAC), gồm 28 quốc gia thành viên (EU) phát thải 4 tỷ tấn khí Carbonic, chiếm hạng ba sau Trung Cộng và Hoa Kỳ (7,2 tỷ). Tuy nhiên, hiện tại (2016) có chín quốc gia trong LHAC đã đạt được mục tiêu quy định cho năm 2020 về năng lượng tái tại.
Hiện tại, Trung Cộng là quốc gia phát thải khí carbonic (CO2) lớn nhứt vào không khí vào khoảng 10 tỷ tấn, chiếm khoảng 21% lượng khí thải toàn cầu. Theo thống kê năm 2014, TC tiêu thụ 1.962,4 triệu tấn than, tức 50,6% tổng lượng than trên thế giới.

Từ các số liệu trên cho thấy là thế giới cần phải có biện pháp chế tài như thế nào để chận đứng việc sử dụng năng lượng hóa thạch của các quốc gia đông dân số và đang phát triển như Trung cộng và Ấn Độ (phát thải 2,9 tỷ).
Vì vậy, Ngày Trái Đất vẫn là một ngày quan trọng cho thế giới cần lưu tâm về giá trị của Nhân loại, vì đây là một hướng bảo vệ môi sinh tích cực nhứt.

Bạn làm gì cho Ngày Trái Đất nầy?


Cung cách hành xử của chúng ta đối mặt trước vấn nạn hâm nóng toàn cầu là cần phải có những hành động tích cực thích ứng với xã hội và môi trường chúng ta đang sinh sống.

Đó là:
· Cùng nhau vận động với chính quyền sở tại để thúc đẩy tiến trình áp dụng và thực thi những lời hứa trong Thượng đỉnh COP21;
· Ủng hộ vận động cho các dân cử địa phương cũng như trung ương có khuynh hướng bảo vệ môi sinh và đề xướng chính sách cân bằng phát triển/môi trường;
· Và sau hết, đối với mỗi người trong chúng ta, việc thay đổi và điều chỉnh cuộc sống hàng ngày cho thích ứng với nguy cơ hiện tại như: tiết kiệm năng lượng, xử dụng nước sinh họat hợp lý, không bừa bãi hay phí phạm, và nhất là lượng hấp thụ lương thực, thực phẩm cần phải được hạn chế vừa đủ cung ứng cho nhu cầu cơ thể mà thôi.

Có được như vậy, may ra, chúng ta vừa bảo vệ được sức khỏe, vừa có thể kéo dài thêm đời sống của hành tinh chúng ta đang cư ngụ. Ngày Trái Đất trong suy nghĩ mới không phải là ngày 22 tháng tư hàng năm, mà phải là Ngày Trái Đất là Mỗi Ngày (Earth Day is Every Day).

Hướng đến Tương Lai



Climate Education Week - April 16-23
Earth Day's Global 2016 Theme: Trees For The Earth.


Qua các dữ kiện nêu trên, điều cần thiết là mỗi chúng ta trong cộng đồng thế giới cần phải có quyết tâm và nghị lực để thúc đẩy việc giảm thiểu sự phát thải khí nhà kính. Phát nguồn từ mỗi chúng ta trong gia đình, lan tỏa ra ngoài cộng đồng; để rồi từ đó gợi hứng cho từng thành phố và từng quốc gia. Có được như vậy, chính chúng ta mới xứng đáng là công dân của toàn cầu.


Và Ngày Trái Đất năm nay nhắm mục tiêu trong 5 năm tới, và để kỷ niệm 50 năm thành lập là chúng ta "phải" trồng cho được 7,8 tỷ cây xanh.
Tại sao phải là 7,8 tỷ cây xanh?


Vì trái đất trung bình mất 15 tỷ cây xanh hàng năm, tương đương với 48 sân đá banh trong mỗi phút. Và để đánh dấu Ngày Trái Đất thứ 50 vào năm 2020 việc trồng 7,8 tỷ cây xanh tương ứng với dân số trên thế giới vào thời điểm nầy là 7,8 người – Một Cây Xanh cho Mỗi Người dân toàn cầu.


Làm như vậy, mỗi chúng ta sẽ đóng góp vào ba mục tiêu chánh. Đó là:
Cây xanh làm dịu bớt sự thay đổi khí hậu và sự ô nhiễm. Việc trồng cây hấp thụ khí carbonic trong bầu khí quyển của chúng ta. Theo tính toàn, chỉ cần 96 cây cũng đủ để hấp thụ khí CO2 của một người thở ra trong một năm; Cây xanh cũng hấp thụ các mùi và các khí khác như Oxid Nitrogen (NOx), khí Ammoniac (NH3), Sulfur dioxid (SO2), và Ozone (O3), cũng như cây xanh tác dụng như một "máy lọc" những hạt bụi nhỏ (particulate) trong không khí.
Cây xanh bảo vệ sự đa dạng sinh học (bio-diversity). Trồng cây đúng vị trí, cây sẽ bảo vệ sự tiệt chủng của một số loài vật cũng như cung cấp vùng trú ẩn cho một số loài khác và tái lập lại nguyên trạng hệ sinh thái đã bị con người hủy hoại.

Cây xanh giúp đở cộng đồng và bảo vệ nguồn sống của con người. Trồng cây xanh là giúp cho cộng đồng hoàn thành được mục tiêu kinh tế dài hạn và sự bền vững môi trường cũng như cung cấp thực phẩm, năng lượng, và lợi tức v.v…Nhiều nghiên cứu cho thấy nếu trường học được che phủ bởi cây xanh sẽ giảm thiểu các bịnh về phổi và bịnh suyễn (asthma) cũng như giúp đở các em học sinh bị chứng ADHA tập trung hơn. (ADHD-Attention Deficit Hyperactivity Disorder). Cây xanh cũng có liên quan mật thiết với việc giảm thiểu tội ác, làm tăng thêm giá trị của căn nhà bạn, làm cho sự kết nối với xã hội cao hơn (higher social cohesion), cùng nhiều yếu tố xã hội và tâm lý khác v.v…


Đó là hàng trăm Hành động vì Cây Xanh và cho Cây Xanh!




Hiện đã có 176 Quốc gia và 50 Tiểu bang Hoa Kỳ đáp ứng cho Ngày Trái Đất năm nay.
Tại London, một nhóm chuyên viên quốc tế trong ngày 22/4 năm 2015 đã yêu cầu tất cả chính quyền của mỗi quốc gia cần thi hành triệt để và cam kết trong cuộc chiến "biến đổi khí hậu" là thực hiện "xã hội không carbon vào năm 2050" (zero-carbon society).


Nhiều NGO khẩn thiết kêu gọi và cho rằng thời điểm nầy là "cơ hội cuối cùng" cho việc giảm thiểu và chấm dứt sự hâm nóng toàn cầu.
Tất cả kêu gọi quyết tâm hành động:
Giới hạn sự gia tăng nhiệt độ dưới 2oC cho thế kỷ 21;
Cố gắng giữ mức phát thải CO2 dưới 1.000 gigatonnes (billion tonnes);
Tạo dựng Xã hội không carbon vào năm 2050;
Tinh thần liên đới: Nước giàu giúp nước nghèo;
Đẩy mạnh công nghệ và sáng kiến "sạch";
Chiến lược toàn cầu cần thông báo cho thế giới biết về sự thiệt hại do sự thay đổi khí hậu;
Bảo vệ hệ sinh thái bằng cách bảo vệ rừng và vùng biển, hai nơi hấp thụ khí carbonic;
Cung cấp và viện trợ tài chánh cho các quốc gia phát triển nhằm tiết giảm việc phát thải khí nhà kính.




Người viết hy vọng những thông tin trên giúp cho người Việt hải ngoại và quốc nội nhận diện rõ hơn nguy cơ của sự hâm nóng toàn cầu và mối quan tâm của thế giới trước vấn nạn nầy.




Đối với người Việt chúng ta, mọi phí phạm cho dù nhỏ nhoi cũng đã góp phần vào việc Hâm Nóng Toàn Cầu như: - tránh lạm dụng nguồn nước sạch, - tránh phí phạm nguồn thực phẩm (nhứt là khi đi ăn ở các nhà hàng All you can eat), - tránh phí phạm nguồn giấy (in ấn cần hai mặt giấy, dùng giấy recycled, trong nhu cầu vệ sinh cần tiết kiệm nước như nếu đi "1" cần bấm nút "1/2 bồn cầu, đi "2" bấm cả bổn v.v…), - tránh phí phạm xăng dầu (tắt máy xe khi không cần thiết, lạm dụng máy lạnh trong xe, xài xe ít tốn năng lượng, v.v…), - trong nhà chỉ bật đèn khi cần thiết, ra vào nhớ tắt điện, - máy điện toán cần phải tắt sau khi sử dụng, v.v…


Ý thức được và làm được những sự việc "nhỏ nhoi" kể trên cũng đã góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ môi trường sống của chính chúng ta và của toàn cầu…




Và có làm như thế, các thế hệ về sau, sẽ không trách cứ chúng ta đã để lại một món nợ Môi Trường cho chúng.
Nên nhớ, chúng ta hiện diện và sống trên hành tinh nầy chỉ là một sự vay mượn, và khi ra đi…chúng ta phải để lại cho thế hệ sau một Môi Trường Nguyên Thủy trong sạch như lúc đầu…

Mong lắm thay!
Mai Thanh Truyết
Kỷ niệm Ngày Trái Đất 22-4-2016

Lời Đức Dalai Lama: Khi con người còn sống, chúng ta phải nghĩ đến các thế hệ tương lai: Một môi trường sạch được xem là nhân quyền giống như bao quyền khác. V


GÁI VIỆT HẢI NGOẠI



Thêm 1 cô gái trẻ gốc Việt khiến cả nước Mỹ phải… rung chuyển!
 VTL  March 29, 2016  2 Comments


 
http://vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=868769&stc=1&d=1458931747


Tan Le mong muốn đưa thiết bị Emotiv Insight trở nên thông dụng hơn với người tiêu dùng. Ảnh: SMH
Trong vài năm qua, thị trường công nghệ “tự theo dõi” đã phát triển tới các thiết bị giúp đo huyết áp, nhiệt độ cơ thể, đo chất lượng không khí, đo giấc ngủ và lượng hấp thụ muối. Insight hứa hẹn sẽ đọc được suy nghĩ con người, theo Sydney Morning Herald.
Emotiv Insight là một thiết bị đội trên đầu bằng nhựa có hai màu trắng và đen, có 4 tua, chúng được bịt lại bằng các bộ cảm biến polymer, ôm quanh đầu người sử dụng. Đây là bộ thiết bị đo sóng não không dây do công ty Emotiv của Le sản xuất năm 2013.

http://vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=868770&d=1458931746


nsight được đội ngũ Emotiv thiết kế ở San Francisco, Mỹ, được phát triển tại phòng thí nghiệm ở Sydney, Australia, lập trình phần mềm tại Hà Nội rồi sản xuất phần cứng tại TP HCM, Trung Quốc và Philippines. Thiết bị có phần mềm hỗ trợ đo lường năng lượng, mối quan tâm, sự hứng thú hoặc sự thư giãn của một người, đồng thời sử dụng suy nghĩ để điều khiển các đồ vật thông qua máy móc. Phần Brain Visualiser sẽ cho thấy dữ liệu, sóng alpha, beta và delta trong thành vỏ não của họ. Nó là một đồ vật giải trí hấp dẫn với bất kỳ ai quan tâm đến những gì đang xảy ra trong đầu mình.


Emotiv đã thu hút được các quỹ để đưa Insight vào sản xuất. Chiến dịch Kickstarter được đưa ra hồi tháng 8/2013 và là một trong chiến dịch gây quỹ thành công nhất trong lịch sử của trang web. Hơn 400 người đóng góp hơn 1,6 triệu USD để đưa thiết bị nghe này thành hiện thực.
Le đánh cược rằng trên thị trường có nhu cầu về một thiết bị trị giá khoảng 300 USD có thể giúp người sử dụng biết não họ đang hoạt động như thế nào, điều khiển các vật thông qua suy nghĩ giúp người đó tập trung ở mức độ cao nhất.


Các công ty quảng cáo đã thể hiện mối quan tâm về việc ghi lại phản ứng của khách hàng. Năm ngoái, Disney đã hợp tác với Emotiv để giám sát một nhóm người khi họ xem quảng cáo và chương trình truyền hình. Thiết bị Insight được sử dụng để điều khiển quả bóng trong buổi công diễn Star War ở Mỹ. Các nhà nghiên cứu ở Toronto, Canada, cũng sử dụng hai chiếc máy này với công nghệ theo dõi mắt, ghi lại những gì mọi người nhìn và não của họ phản ứng khi họ đi qua siêu thị và lướt qua các kệ hàng.
Insight nằm trong một chiếc hộp màu trắng thanh lịch với hướng dẫn đơn giản. Nhịp tim, mạch đập trên da, nhịp thở và thay đổi huyết áp khi chúng ta bị stress hoặc phấn khích. Công ty sẽ tăng cường phần mềm độc quyền có thể nói cho chúng ta biết mình bình tĩnh hay bị khuấy động, tập trung hay bị phân tán.


Emotiv nhắm tới xâm nhập vào thị trường thiết bị điện não đồ (EEG) với sản phẩm có thể đội trên đầu và cầm tay được với giá thành rẻ hơn máy móc dành cho bệnh viện. EEG đã tồn tại được gần một thế kỷ, do Hans Berger, chuyên gia về tâm thần học người Đức, phát minh ra vào những năm 1920. Thiết bị có thể phát hiện hoạt động xung điện trong não thông qua các cảm biến trên da đầu.


http://vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=868771&stc=1&d=1458931747



Tan Le cùng thiết bị EPOC, giúp chuyển biểu đạt nụ cười và cái nháy mắt của cô sang một robot tạo ra từ computer. Ảnh: SMH

Cách đây 8 năm, Emotiv đã cho ra mắt bộ ống nghe đầu tiên của công ty, gọi là EPOC. Thực tế nó khá phức tạp, chỉ phù hợp với các kỹ thuật viên trong phòng thí nghiệm và nhà nghiên cứu sử dụng. Insight khó sản xuất hơn và chi phí cũng đắt hơn so với EPOC.

“Nếu như EPOC được thiết kế để thực hiện nghiên cứu trong phòng thí nghiệm mà bạn sẽ thực hành ở bệnh viện, thì Insight là một bước tiến xa hơn vào thị trường dành cho những người yêu thích các sản phẩm công nghệ. Nó dành cho người đánh giá cao công nghệ và hiểu rằng cần có một chút khéo léo trong việc sắp xếp hoàn chỉnh các cảm biến để có được hình ảnh của toàn bộ não”, Le nói.
Sydney Morning Herald đánh giá có thể một ngày con người sẽ có các mô cấy nhỏ trong thái dương giúp chúng ta bật đèn lên bằng ý nghĩa về nó, những người bị tê liệt do bệnh nơ ron vận động có thể giao tiếp dễ dàng bằng ý nghĩ của họ.
Thách thức hiện nay của Le là tìm hiểu xem chiếc EEG có thể đeo dùng để làm gì. Các thiết bị của Emotiv không phù hợp với các máy EEG truyền thống và không có mục đích đó, nhưng với các bệnh nhân đang phải chịu cơn tai biến thì cơ hội được theo dõi ở nhà có thể là điều thay đổi cả cuộc đời. Mặc dù Insight chưa được phép sử dụng cho mục đích y học, nhưng Le hy vọng nó sẽ có tiềm năng tạo nên sự khác biệt ở những nước đang phát triển.
“Cuối cùng, chúng tôi cố gắng mở rộng phân đoạn thị trường vượt qua bên ngoài cộng đồng khoa học, vượt qua cộng đồng ưa thích công nghệ chuyên nghiệp, và hướng tới đúng trung tâm của thị trường tiêu dùng rộng lớn”, Le nói.

http://vietbf.com/forum/attachment.php?attachmentid=868772&stc=1&d=1458931747


Le cho thấy sóng não thể hiện trên smartphone từ Insight. Ảnh: SMH

Cô bé vào đại học năm 16 tuổi

Tan Le cùng mẹ là Mai Ho, bà và người em gái tên Minh đến Australia năm 1981. Lớn lên ở Melbourne, Le nhớ mẹ mình phải vất vả kiếm sống bằng cách hàng ngày làm việc hai ca trong các trang trại và nhà máy sản xuất ô tô để dành dụm tiền học cho hai con.

Sau đó nhờ vốn tiếng Anh và những đồng tiền dành dụm được, bà Mai Ho đi học và thành lập một trong những doanh nghiệp về tin học đầu tiên ở Footscray. Bà còn được bầu làm thị trưởng của Maribyrnong và phó thị trưởng Footscray.
“Bà không phàn nàn về khó khăn mà giúp chúng tôi hiểu vì sao bà làm điều đó và bà mong gì ở chúng tôi”, Le nói về mẹ mình.
Ở tuổi 16, Tan Le đã vào vào thẳng Đại học Monash và nhận được học bổng của KPMG trong quá trình học. Cô tốt nghiệp loại ưu ở hai chuyên ngành luật và thương mại, chuyên sâu về kế toán. Năm 1998, Le trở thành người gốc Việt đầu tiên đạt danh hiệu Người Australia trẻ tiêu biểu, một giải thưởng thường niên dành cho những cá nhân dưới 27 tuổi có thành tích xuất sắc, ảnh hưởng lớn đến cộng đồng.
Thời điểm ấy cô là chủ tịch của Trung tâm dịch vụ nhân lực Việt – Australia. Trước đó, khi mới 15 tuổi, Le đã lãnh đạo nhiều nhóm thiện nguyện chuyên giúp đỡ người nhập cư quanh nơi mình sống là vùng Footscray (phía tây Melbourne) tìm việc và ổn định cuộc sống. Nhờ giải thưởng của chính phủ Australia mà tên tuổi của Le sớm lan tỏa, giúp cô có mặt trong nhiều sự kiện quan trọng. Cô từng gặp gỡ các cựu thủ tướng Australia gồm Gough Whitlam, Bob Hawke và John Howard và dần dần vượt qua nỗi sợ nói trước đám đông.
Hiện Le làm việc tại trụ sở chính của Emotiv ở thung lũng Silicon, San Francisco, nhưng cô thường xuyên trở về Việt Nam bởi cô chọn quê hương là nơi xây dựng sự nghiệp, theo đuổi tầm nhìn.
Tại Thung lũng Silicon, Le nói rằng mọi người thường ký hợp đồng 4 năm, vì đó là khoảng thời gian một nhân viên mới tham gia vào hầu hết các dự án khởi nghiệp, ở thời điểm đó họ có thể bán ra sản phẩm và chuyển sang thử thách mới. Tuy nhiên Le cho hay cô không xác định cuộc đời mình bằng những khoảng thời gian 4 năm đó. Mỗi ngày bước vào văn phòng cô cảm thấy rất hào hứng về những gì sắp làm cùng đồng nghiệp.
Theo Le, trước mắt cô có nhiều triển vọng của cuộc sống, có rất nhiều cách để thành công, nhiều cách để tạo nên sự khác biệt trên thế giới.
“Điều chúng tôi cố gắng làm sáng tạo là thứ mà chưa từng có trước đây. Tôi tin rằng sẽ có thời điểm trong tương lai khi nhìn lại nó đã có mặt ở khắp nơi. Đó là sự phát triển tự nhiên theo cách chúng ta kết nối với thế giới xung quanh mình. Tôi muốn nhìn lại cuộc đời mình và nói: Tôi đã mở ra điều gì đó chưa từng tồn tại trước đó. Tôi đã tạo nên sự ảnh hưởng”, Le nói.
Theo Emotiv Technology Vietnam, Tan Le hồi 1998 được bầu chọn là một trong 30 người phụ nữ dưới 30 tuổi thành công nhất Australia. Từ 2000 đến nay, cô liên tục có tên trong danh sách “Who’s Who of Australian Women”.
Năm 2010, Le nằm trong danh sách của Fast Company về Những phụ nữ ảnh hưởng nhất thế giới trong lĩnh vực công nghệ, trong danh sách của Forbes về 50 cái tên cần biết trong năm 2011, chỉ có hai người gốc Á.
Từ 2009, Le đứng vào hàng ngũ Nhà lãnh đạo trẻ toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới. Mới đây nhất, cô trở thành một trong những gương mặt tham gia diễn thuyết tại Hội nghị những người phụ nữ quyền lực nhất thế hệ kế tiếp (lần thứ hai) của tạp chí Fortune. Được bình chọn là top 2 phụ nữ quyền lực nhất về Công nghệ thông tin tại Australia và Newzeland.


Nguon: Vietbf

http://www.quehuongngaymai.com/forums/showthread.php?230629
 

No comments:

Post a Comment