Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday 26 October 2016

NHẬT BẢN - TRUYỆN KIỀU -NGUYỄN PHÚ TRỌNG

TS. PHAN VĂN SONG * NHẬT BẢN

Nhựt Bổn, Những Nghịch Lý (2)
Cùng Hoàn Cảnh, Cùng Bối Cảnh, Cùng Gốc Văn Hóa :
Nhựt Bổn Cường Quốc, Việt Nam Tụt Hậu
Phan Văn Song
 
 
Cuối tháng Giêng chúng tôi đã chia sẻ cùng quý vị một bài học về chuyện ngườiNhựt để học kinh nghiệm người cho chúng ta người Việt hành sử. Trong bài 1, bắt đầu một loạt bài về nước Nhựt, chúng ta thấy rõ sức Sanh tồn của Dân Tộc Nhựt, sức phấn đấu của trong dân tộc Nhựt trong những cái bất thuận từ thiên nhiên, địa lý cả đến tài nguyên. Và như chúng ta đã thấy cái nghịch lý đầu tiên của Nhựt Bổn là cái thiếu thốn tài nguyên, trong một địa thế chật hẹp. Với 126 818 000 dân, đứng hàng thứ 10 các quốc gia đông dân nhứt thế giới, nhưngchen chúc sống chỉ trên 377 944 cây số vuông gồm núi non, nhiều hơn đồng bằng, nên ¾ dân chúng chật hẹp nhường nhịn chia xẻ cùng nhau sống trong những đô thị khổng lồ.Đây là một đặc điểm của Nhựt Bổn : các Đại Đô Thị và những Tập Hợp Đại Đô Thị. Tập Hợp Đại Đô Thị Nhựt Bổn là một hành lang dọc bờ Thái Bình Dương dài trên 1500 cây số và hẹp khoảng 100 cây số chiều ngang.
Bài học 1 tóm tắt trong một câu. Sự giàu có phát triển của Nhựt Bổn là do cái nghèo nàn của đất nước Nhựt. Nhật giàu có nhờ phẩm chất của Con Người Nhật, nhưng nay lại khổ vì số lượng của những Con Người, nạn nhơn mãn, của người Nhật. Tóm lại : Nhật Bổn, một đất nước vì nghèo tài nguyên, nên bắt buộc phải giao thương, sáng tạo, lấy công làm lời, lấy tài lực thay tài nguyên.
Sự thành công đặc biệt của Nhật Bổn  ấy chứng mình cho chúng ta một sự thật căn bản : chẳng phải sự giàu có do tài nguyên, tài vật, hầm mõ, dầu khí thiên nhiên, đá quý, mà đất nước giàu mạnh phú cường, mà do sáng kiến, tài năng Con người. Đất Nước giàu mạnh  là do Con người. Tài nghệ Con Người hơn hẳn Tài Nguyên Thiên Nhiên.
Vì vậy xin quý lãnh đạo Việt Nam, quý nhà viết sử, quý nhà kinh tế bỏ đi cái câu giáo đầu muôn thuở, là « đất nước ta rừng vàng, bạc biển, tài nguyên giàu có, thiên nhiên đải ngộ » đi ! Và tài năng Con Người do đâu ra ? Do ngành Giáo Dục ! Giáo Dục, Huấn Nghiệp, Nghiên Cứu, Sáng Kiến. Nhật Bổn cải tiến liên tục hệ thống huấn luyện, từ nghiên cứu, đến huấn luyện nghề nghiệp. Chính nhờ kỷ thuật cao mà các sản phẩm Nhật Bổn được thị trường thế giới chọn lựa ưa chuộng. Hãy vứt, hãy bỏ đi cái thói làm láo ăn gian, làm ẩu làm dối, kiểu Tàu hay Việt đi !
Dân tộc Việt Nam ta có đầy đủ những đức tính để thành công. Đất nước ViệtNam ta có đầy đủ điều kiện để phát triển !
Nhật Bổn là một đất nước nghèo nàn, không có tài nguyên, thiên nhiên bạc đải.
Hoàn Cảnh và Bối Cảnh cũng y chang Việt Nam.
Cái giàu và sức mạnh của Nhật Bổn chỉ là Con Người Nhật Bổn !
Con Người Việt Nam ?
Con người Việt Nam ta có khác chi ? Cùng một gốc văn hóa Khổng Giáo !
Như vậy, Khổng Giáo không phải là một « hàng rào cản trở ». Dẫu rằng, dưới thời Nhà Nguyễn, Khổng Nho cản trở tiên tiến, nhưng đấy là do đám quan lại, trí thức Tống Nho, thủ cựu, ngu đần cũng như ngày nay đám quan lại trí thứcđảng viên đảng Cộng Sản đương quyền, và cũng như nước Nhật trước thời Minh Trị, đám quan lại trí thức của họ cũng thủ cựu lạc hậu kém gì ta đâu ? Nhưng tại sao đám ngu quan Nhật thời Minh Trị thức tỉnh được ? Mong rằng trong các quan chức đảng viên Việt Nam Cộng Sản đương quyền còn tý tự trọng và ý thức để thức tỉnh trước Hán họa diệt chủng !
Tại sao Nhật Bổn ngày nay cường quốc ? Còn tại sao, Việt Nam vẫn lẹt đẹt là một quốc gia lạc hậu đang bị Việt Cộng và Cộng Sản quốc tế bán đứng cho Tàu Cộng ?
Cùng Những Yếu Tố : Nhưng Chỉ Thành Công Với Nhật ? :
Yếu Tố 1 : Tôn Giáo :
Thần Giáo Nhật Bổn : Một Tôn Giáo đơn thuần Dân tộc Nhật.
Thần Giáo Nhật Bổn là tôn giáo xưa nhứt của nước Nhật. Gốc gác rất xa xưa. Từ thời khai man, lập quốc, thoạt đầu chỉ là một tập hợp các lễ lạc cúng bái của thổ dân địa phương, một tập hợp các tập tục, các huyền thoại, các lễ bái. Một loại tập hợp cúng bái sùng kính dị đoan, thần thánh, đồng bóng, liên hệ dính líu đến những truyền thuyết, huyền thoại. Sự mê tín ấy, tạo một không gian tín ngưởng  và một văn hóa huyền thoại,đầy thần đầy thánh cho những cư dân đầu tiên của đất nước Nhựt. Họ tin vào các thần thánh của thiên nhiên : kamis. Những tập tục khác, mê tín khác đến từ Cao ly, cũng du nhập, trộn với mê tín bản địa biến thành một loại mê tín dân gian, tạo ngay khoảng thế kỷ thứ 7 trước Tây Lịch, những tập tục, những mê tín, cúng bái hoàn toàn tánh chất Nhật Bổn.
Một Lịch Sử Sống Động :
Vào cuối thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch, Thần Giáo cổ truyền bị Khổng Giáo xóa, xong Khổng Giáo cũng lại bị Phật Giáo, nhập vào Nhật khoảng năm 552, vào được Quốc Giáo Hóa năm 624 chiếm chổ. Từ đó, một lịch sử tôn giáo đầy xáo trộn sống động tranh giành ảnh hưởng, lắm khi thạnh về Phật Giáo, có lúc thạnh về Thần Giáo. Thần Giáo rất mạnh, vào khoảng giữa thế kỷ thứ 17, khi các Lãnh Chúa Mikados, bị các Vương quan Shoguns tước hết quyền hành, từ những năm 1186, lấy Thần Giáo làm biểu tương Tôn Giáo Dân Gian để chống lại Tôn Giáo Trung Ương Triều đình là Phật Giáo của các Vương quan ấy. Sau khi Hiến Pháp được cải tổ do Minh Trị Thiên Hoàng, khi nước Nhật mở cửa cho văn minh tây phương, khi quyền lực Thiên hoàng lấy lại quyền lực các Vương quan Shoguns, Thần Giáo cũng được nhìn nhận là Quốc Giáo. Từ nay, các sư sãi Phật Giáo không có quyền làm lễ cúng bái trong các đền Thần Giáo nữa như lúc xưa, và các bài kinh Phật Giáo không được đọc ở các đến Thần Giáo. Các giáo sĩ Thần Giáo đều biến thành công chức quốc gia, và mỗi công dân Nhật đều phải có tên đăng bạ trong đền Thần Giáo nơi mình cư ngụ.
Chúng ta có thể kết luận rằng ngày nay, Thần Giáo và Phật Giáo đều có ảnh hưởng với văn hóa Nhật dưới dạng một tổng hợp tín ngưởng xưa rất hòa hợp. Ngày nay, người Nhật Bổn theo tục lệ Thần Giáo trong những trường hợp lớn của đời sống như Ngày Sanh, Ngày Lễ Hôn phối…nhưng chọn Phật Giáo cho Tang lễ cúng kiến Cha mẹ. Vì vậy, thống kê Nhựt có con số lỳ lạ là 110 Triệu tín đồ Thần Giáo (85% Tổng dân số Nhật) và 92 Triệu Phật tử (72% người Nhật)
Hãy so sánh Tôn Giáo Nhật với Tôn Giáo Việt Nam.
Người Việt chúng ta, Tôn Giáo thật sự là Thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên.
Tuy thường được giới thiệu là Tam Giáo đồng hành : Lão Khổng Phật, nhưng thực sựđó chỉ là một tổng hợp rất xưa giữa Tổ Tiên Giáo, Thờ cúng Trời Đất, Ông Thiên, Ông Địa ; Ông Thần Làng, Ông Chìa Vôi,…cộng với Phật, Khổng, Lão và ngày nay cả với những Tôn Giáo du nhập Tây Phương Chúa Giê su vàĐức Mẹ. Nhưng Việt Nam không được hệ thống hóa, quốc hóa, có những hiện tượng, tập tục mê tín lẫn lộn nhưng chưa có một chánh sách, một tỗ chức rõ ràng như Nhật Bổn. Tóm lại tổ chức là quan trọng :
Nhưng hãy nhìn vào tổ chức xã hội Nhật để tìm con đường đạo đức để ta bắt chước làm theo.
Nhật :
Với người Nhật, cầu nguyện trong một Đình, Chùa, Nhà Thờ Thần Giáo không bắt buộc phải là một thiện nam tín nữ của Thần Giáo. Người Nhật không đặt thành vấn đề phải cắt nghĩa cử chỉ  hay vai trò cái mê tín hay sự tín ngưởng của mình. Vái lạy, thắp nhang hương chỉ là một hành động, một cử chỉ dân tộc, cử chỉ biểu hiện sự tham dự của cá nhơn đó đối với cộng đồng quốc gia. Người Nhật sẳn sàng tham dự một lễ lạc Thần Giáo trong một Nhà Thờ của làng, của xóm, để tỏ lòng quý mến đối với cộng đồng láng giềng, với tổ tiên chung với môi trường sống chung dù cá nhơn nầy có một tôn giáo hoàn toàn khác Phật Giáo thuần túy, Thiên Chúa Giáo La mã hay Tin lành.
Các Nhà Thờ Thần Giáo Nhật (jinja) gồm hai loại. Loại nhỏ, miyas, thường gặp ở thôn quê, các làng, các thôn, chúng tôi tạm dịch là miểu (để so sánh với Việt Nam ta). Và loại lớn, yashiros, ví như đình của Việt Nam ta. Ở Nhật hiện nay có khoảng 85 ngàn Đình (và 78 ngàn Chùa Phật Giáo). Các đình, miểu thường xây mặt hướng về phía Nam, rất ít chưng bày cầu kỳ. Các đình, miểu thường được xây cất xa những nơi tập tụ nhà cửa của người dân, xa lánh hồng trần, cát bụi, không có hình ảnh các đấng thần linh, chung quanh được bao bọc bởi thiên nhiên, một khu rừng nhỏ xanh tươi, một giòng suối xanh, biểu tượng của thanh tịnh, trong sáng. Bước vào trong, một bàn thờ bằng gỗ trắng, với một tấm gương bằng kim khí đánh bóng (hãy nhìn gương để biết mình là ai ? Nhìn mặt, vấn tâm), biểu hiện sự học hỏi và sáng tạo, một « gohei », biểu hiện sự trong sáng (những giải giấy trắng cột trên đầu một cây gậy gỗ), một tràng hạt, một thanh kiếm, để tưởng nhớ đến Soussanô No, người anh của Thái Dương Thần Nữ Amatérasu, và một vật nhỏ kỷ niệm (một hòn đá quý, một viên ngọc, một trăng sức bằng bạc, một cây bonzaï, một cái quần, một cái áo, một bộ quần áo …) biển hiện hình ảnh của vị thần (kami).
Buổi lễ là một buổi cầu nguyện, inori, sau đến một lễ tẩy trần, để trừ tà, đuổi uế, với nước đựng trong một cái vại, chozuya, các tín hữu có thể rửa tay hay súc miệng bằng cái gáo với nước tẩy trần ấy. Dâng cúng thường bằng hoa, trái cây, cơm và rượu saké.
Tín hữu đi vào đình miểu duới cổng Torii, cổng cao, với hai thanh gỗ nằm ngang. Sơn mầu đỏ chói, cổng có thể được dựng bằng gỗ, bằng đá, bằng đồng và cũng có thể bằng bê tông cốt sắt hay cả với gạch và si măng. Cổng biểu tượng biên giới giữa tăm tối trần tục và trong sáng thần linh (một truyền thuyết cho rằng cổng là nơi con gà trống của làng xóm đậu mỗi sáng để cất tiếng gáy mời Thần Amaterasu Mặt Trời đến).
Nơi các đình miểu xưa, các torii thường được dưng bằng cây bàng. Các đường dẫn vào đình miểu đềuđược soi bằng các đèn đá đặt dọc theo hai bên, và cuối cùng trước đền có hai con « khuyển-chó giữ chùa » koma inu, hình dáng rất sư tử, một con mở miệng, một con ngậm miệng, hoặc cũng thể nhiều đình miểu lại do các con cáo, con hồ, con chồn giữ nhà. Chồn được người Nhật xem là biểu tượng của thần linh, kami.
Các thầy tu, thầy cúng, kannouchis, họp thành một hệ thống có đẳng cấp chuyên lo về thờ phượng, và bảo quản các đình miểu làng xóm. Hệ thống thầy cúng ấy cũng lo việc giảng dạy, truyền bá giáo lý, âm nhạc, nhặc lý và cả những vũ điệu lễ lạc.
Một đặc điểm : Nhật bổn : mỗi đình miểu ở mỗi làng xóm, địa phương đặc biệt chỉ thờ phượng Thần riêng biệt ởđịa phương ấy. Mỗi làng, mỗi xóm, mỗi địa phương, có Thần riêng của địa phương ấy.
Cũng như ở Việt Nam ta, mỗi làng Việt ta, đều có riêng Thần làng của địa phương ấy.
Các đình miếu Nhật cũng là nơi để tụ tập các lễ lạc khác ngoài nơi cúng kiến thờ phượng. Tóm lại, Thần Giáo Nhựt bổn là linh hồn dân gian Nhật. Tất cả thiên nhiên Nhật Bổn là một biểu tượng của các thần linh. Tất cả phải đi tìm cái trong sáng và hòa hợp. Người tín đồ Nhật đi tìm sự trong sáng trong nội tâm đễ sống hòa hợp với thiên nhiên, và cũng để bảo quản giữ gìn một thiên nhiên trong lành trong một cái trật tự tự nhiên.
Thần Giáo Nhật Bổn không phải là một Tôn Giáo, nên sống dung hòa dễ dàng với mọi Tôn Giáo. Và nhờ vậy là một chất keo đoàn kết dân tộc.
Và Việt Nam ta ?
Với Đạo Tổ Tiên, thờ cúng ông Bà, với Tứ Ơn :Ơn Trời Đất, Ơn Tổ Tiên, Ơn Tổ Quốc, Ơn Đồng Bào, mỗi người Việt Nam chúng ta bất kể tín ngưởng Tôn Giáo, chúng ta cũng có thể với Tứ Ơn làm chất keo đượm tình Đại Việt, đoàn kết Dân Tộc Việt. Đấy là Đạo Việt.
Và Phật Giáo ?
Sáng nay, đang ngồi viết bài nầy, bổng đọc bài Dấu Lặng của Đạo Phật Trong Văn Hóa Nhật của tác giả Trần Kiêm Đoàn. Rất tâm đắc và rất đồng ý với quan điểm của bài viết, xin phép mượn tác giả vài ý để góp vào quan điểm chúng tôi về văn hóa và con người Nhật, hai yếu tố lớn của sự thành công của quốc gia Nhật trên thế giới.
Xin phép trích ý kiến của tác giả Trần Kiêm Đoàn  để trả lời câu hỏi trên:
« Tại sao đạo Phật truyền vào Trung Hoa thành động mà khi vào Nhật Bản thành tịnh hay tĩnh? Đạo Phật đến Trung Hoa khi tư tưởng vô vi trong Đạo Đức kinh của Lão Tử, khuynh hướng phiêu dật trong Nam Hoa kinh của Trang Tử và giềng mối chỉnh chu trong Tứ thư, Ngũ kinh của Khổng Tử đang trở thành nếp nghĩ hàng trăm năm của toàn xã hội. Họ phải vận dụng đạo Phật như một phương tiện động để đánh thức mạch sống “vô ký ngủ quên” thuần Trung Quốc đang dật dờ trong cung đường triết lý!Ngược lại, Phật giáo vào Nhật Bản khi trào lưu tư tưởng của dân tộc hải đảo này đang nóng hổi với niềm tự hào đầy ngã tính của con cháu Thái Dương Thần Nữ. Bên cạnh đó, dòng cuồng lưu năng động của Thần đạo, Võ sĩ đạo và Lãnh chúa đang dâng trào. Nhật Bản đã vận dụng Phật giáo như một dòng suối tươi mát êm đềm làm điều hòa cơn sóng động đang dâng lên trong cả giới bình dân và quý tộc. »
Tác giả Trần Kiêm Đoàn còn rõ ràng phân tách thêm : « Tinh thần quốc gia cực đoan Nhật mà không có bom nguyên tử của Mỹ trói lại thì giới quân phiệt sẽ biến Nhật thành một đạo quân Mông Cổ tự nướng mình trên lưng ngựa hay phơi thây giữa sa mạc trên đường xâm lăng hai phần ba thế giới. Nhưng sau khi bại trận rồi mà không có tinh thần Phật giáo thì Nhật đã trở thành một chiến trường du kích đầy máu lệ chứ làm sao tỉnh táo để vươn lên hàng cường quốc kinh tế số một như ngày nay…”.Rõ ràng văn hóa Nhật Bản được phát triển và gắn liền với văn hóa Phật giáo và Thần đạo như câu nói dân gian xứ này: “Sinh theo Thần, chết theo Phật”.
Và còn nhận định một cách rõ ràng hơn :« Quan sát thực tế: một ngôi nhà ở, hay một đơn vị gia cư truyền thống, thường có bàn thờ Thần đạo đối diện với cửa chính và bàn thờ Phật được thiết trí sâu vào bên trong. Người Nhật thờ Thần đạo như người Việt thờ tổ tiên. Chỉ khác nhau là Thầnđạo Nhật được xem như một sức mạnh truyền thống và tổng hợp các thần linh để ngự trị và chinh phục, còn tổ tiên người Việt thuộc về dòng tộc và kế thừa. Cho nên vị thế thờ tự của người Việt là sự kết hợp “tiền Phật hậu linh”. Nghĩa là trong cùng một bàn thờ thiết kế tượng Phật trước và tổ tiên ông bà ở vị trí phía sau; trong lúc người Nhật thì “tiền trấn, hậu phù”. Nghĩa là thờThần để giữ gìn, đối trị với thế lực xâm chiếm và thờ Phật để phù trợ, cứu giúp. Phật và Thần song song mà riêng biệt, mỗi bên có một vị thế riêng. Thần giúp giữ cửa, Phật giúp tu hành. Có thể nói Phật và Thần lo hai mặt khác nhau của đời sống. Cho nên trong suốt hơn nghìn năm lịch sử Phật giáo Nhật Bản khi thịnh, khi suy nhưng Thần và Phật kết hợp nhau ở thế hỗ trợ, tương hòa trong đời sống tâm linh của người Nhật. ».
Yếu Tố 2 : Con Người Và Kinh Tế :
Sự thành công đặc biệt của Nhật Bổn  ấy chứng mình cho chúng ta một sự thật căn bản : chẳng phải sự giàu có do tài nguyên, tài vật, hầm mõ, dầu khí thiên nhiên, đá quý, mà đất nước giàu mạnh phú cường, mà do sáng kiến, tài năng Con người. Đất Nước giàu mạnh  là do Con người. Tài nghệ Con Người hơn hẳn Tài Nguyên Thiên Nhiên.
Phải, Con Người nếu muốn, thì làm được tất cả. Phải có ý chí và quyết tâm.
Đúng ! Nhưng chưa đủ, phải có tổ chức và kỷ luật !Cái nầy chúng ta rất thiếu thốn.
Đặc diểm của nghệ thuật thành công của Nhật Bổn là dung hoà được hai khu vực kỹnghệ, được tổ chức khác nhau. Khu đại công ty, nổi tiếng mà thế giới đều biết đến và ngưởng mộ. Và các tiểu công nghệ, hoặc làm gia công hoặc là vệ tinh các đại công ty. Nhưng cái đặc biệt là hoàn toàn gần như không có công ty quốc doanh, nhà nước gì cả. Hệ thống quốc doanh rất nhỏ chỉ 3%. Toàn là tư nhơn, tư hữu cả. Khác hẳn với Việt Nam ngày nay ;(và ngay cả với Pháp nữa !)
 Việt Nam Phải Học Bài Học Nầy ! Phải Tư Doanh Hóa
Việt Nam muốn như Nhật Bổn phải hoàn toàn giao cho giới tư nhơn điều hành quản trị các xí nghiệp. Tư nhơn hóa thực sự chứ không phải lột quân phục, Đảng phục, tư hữu hoá các xí nghiệp quốc Doanh Việt Nam, bằng thường dân hóa cán bộ đảng viên Đảng Cộng sản đâu ! (Kiểu Nga, kiểu Tàu ngày nay)
Tư Doanh hóa công thương nghiệp Việt Nam là mở cửa cho tư nhơn vào đầu tư, chia cổ phần cổ phiếu, và để tư nhơn quản trị.
Muốn vậy phải tổ chức giáo dục đào tạo những quản trị viên thực sự có nghề nghiệp, kinh nghiệm quản trị, … Sau 40 năm cướp nước, cầm quyền Cộng Sản đã xóa bỏ tánh tự tin, tánh tự chủ của người dân Việt Nam. Muốn làm thương mại phải có một văn hóa thương mại, trung tín thật thà, tự tin vào sức mạnh của mình. Đằng nầy, với văn hóa và não trạng Cộng Sản là một văn hóa nói láo, nói gạt, không nói sự thật, dấu diếm, sợ sự thật, không trung, không tín …thi làm sao làm ăn, trao đổi thương mại với ai được ?
Vì vậy phải thay đổi não trạng, thay đổi văn hóa, vứt bỏ con đường Xã hội Chủ nghĩa. Thay thế chế độ do Đảng Cộng sản đề xướng, bằng một chế độ Tự do, do người dân thật tình, thực sự làm chủ. Khoa học, tổ chức, nghề nghiệp, kỷ luật, trật tự, đạo đức, giữ chữ Tín với khách, trọng chữ Trung với dân…đó là những điều kiện để có một Việt Nam tương lai phú cường và hạnh phúc.
Hồi Nhơn Sơn, Những Ngày Tàn Đông.
Phan Văn Song

TẠ QUANG KHÔI * TRUYỆN KIỀU




Nhận xét vui về Truyện Kiều : những cái Nhất đáng chú ý.


.
Người đáng ghét nhất : Kim Trọng
Nguyễn Du giới thiệu Kim Trọng :”Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa”.Điều đó có đúng không ?
Khi dự hội Đạp Thanh, Kim tình cờ gặp chị em Thúy Kiều. Chàng mê ngay nhan sắc Kiều, tìm cách thuê nhà bên cạnh nhà Kiều, rồi ngày ngày rình rập.
Một hôm, đang ngồi trong nhà, Kim thoáng thấy bóng Kiều trong vườn nhà nàng, vội chạy ra ngay. Nhưng chàng không còn thấy nàng đâu nữa. Chàng vẩn vơ đứng bên hàng rào để chò Kiều. Chàng tình cờ trông thấy chiếc thoa mắc kẹt trên một cành cây trong vườn nhà nàng. Chàng mừng rỡ “giơ tay, với lấy về nhà”. Khi phải giơ tay, với lấy thì có nghĩa Kim đã thò tay sang nhà hàng xóm để ăn cắp đồ. Vậy mà khi Kiều trở lại vườn để tìm thoa, Kim đã lên tiếng rêu rao :
”Thoa này bắt được hư không,
“Biết đâu Hợp phố mà mong châu về.”
Bắt được hư không có nghĩa là tình cờ mà nhặt được, không phải với tay sâu vào vườn nhà hàng xóm. Như vậy, hào hoa phong nhã ở chỗ nào ?

Vì chiếc thoa ăn cắp mà Kim làm quen được với Thúy Kiều, rồi cùng nhau thề thốt tính chuyện tương lai. Nhưng chuyện hôn nhân chưa được thu xếp thì Kiều phải bán mình để chuộc cha. Trước khi theo Tú Bà và Mã Giám Sinh đi Lâm Truy, nàng đã nhờ em, Thúy Vân, thay mình đáp lời thề với Kim Trọng :
“Một mình nàng ngọn đèn khuya,
“Áo dầm giọt lệ, tóc se mái sầu.
“Phận dầu dầu vậy cũng dầu,
“Trót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời.
“Công trình kể biết mấy mươi,
“Vì ta khăng khít cho người dở dang.
“Thề hoa chưa ráo chén vàng,
“Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa
Thúy Vân chợt thức giấc, thấy chị không ngủ mà còn ngồi than thở, bèn hỏi :
Cơ trời dâu bể đa đoan,
“Một nhà để chị riêng oan một mình.
“Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh
“Nỗi riêng còn mắc với tình chi đây ?
Lúc đó Kiều mới cho biết nàng đã thề thốt với Kim Trọng, nhờ em thay lời để rả nghĩa cho chàng. Tất nhiên Thúy Vân nhận lời. Thế là Kim Trọng và Thúy Vân thành vợ chồng. Khi hai người đã thành vợ chồng tức là lời thề của Kiều đã được giải, coi như hết nợ với Kim Trọng. Vậy mà khi Kiều gặp lại chàng Kim sau mười lăm năm luân lạc, Kim vẫn đòi nợ.
Một lời đã trót thâm giao,
“Dưới dày có đất, trên cao có trời.
“Dẫu rằng vật đổi sao rời,
“Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh.
“Duyên kia có phụ chi tình,
“Mà toan chia gánh chung tình làm hai.
Như vậy có nghĩa là khi lấy Thúy Vân và có con với Vân không phải là giải lời thề cũ sao ?
Kim Trọng đúng là người đáng ghét nhất.
Người đáng thương nhất : Thúy Kiều.
Giác Duyên nhận xét về Kiều như sau :
“Người sao hiếu nghĩa đủ đường,
“Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi ?”
Khi Kiều còn nhỏ, một ông thầy tướng đã đoán :
“Anh hoa phát tiết ra ngoài,
“Nghìn thu bạc mệnh một đới tài hoa”.
Theo thuyết Nhân Quả của đạo Phật, khi con người sinh ra đều mang theo Duyên hay Nghiệp từ kiếp trước. Nghiệp là nợ phải trả. Thuyết Nhân Quả là một triết thuyết khoa học, không phải là điều mê tín dị đoan. Gieo nhân nào thì phải hái quả đó. Trồng táo thì ăn táo, không thể ăn đào hay mận được.
Kiếp trước, Kiều mắc nhiều nợ thì kiếp này phải trả.
Trong hội Đạp Thanh, mấy chị em Kiều đã thăm mộ Đạm Tiên. Kiều là người nhiều tình cảm nên đã khóc và làm thơ thương nhớ Đạm Tiên. Ngay đêm hôm đó, nàng mơ thấy một người đàn bà lạ, bèn hỏi :
“Rước mừng đón hỏi dò la.
“Đào nguyên lạc lối đâu mà tới đây ?
“Thưa rằng thanh khí xưa nay,
“Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên.
“Hàn gia ở mé Tây thiên,
“Dưới dòng nước chẩy, bên trên có cầu.
“Đã lòng hạ cố đên nhau,
“Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.
“Vâng trình hội chủ xem tường,
“Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.
“Âu đành quả kiếp nhân duyên,
“Cũng người một hội một thuyền đâu xa.
Sau đó, vì hiếu mà Kiều đã bán mình chuộc cha, trải qua 15 năm luân lạc, cho tới khi nhảy xuống sông Tiền đường, được Giác Duyên cứu, đưa về Chiêu ẩn am cùng tu cho đến ngày gặp lại gia đình.
Người vô liêm sỉ nhất : Hồ Tôn Hiến.
Nguyễn Du giới thiệu Hồ Tôn Hiến như sau :
“Có quan tổng đốc trọng thần
“Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.
“Ðẩy xe vâng chỉ đặc sai,
“Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung.”
Như vậy có nghĩa Hồ là một ông quan tài giỏi được vua tin cậy. Không những thế, Hồ còn là người sành tâm lý nên quyết định lợi dụng lòng thương yêu của Từ Hải dành cho Thúy Kiều.
“Lại riêng một lễ với nàng,
“Hai tên thể nữ, ngọc vàng nghìn cân”.
Và Hồ đã thành công. Từ Hải nghe lời khuyên của Kiều nên bằng lòng ra hàng. Từ cùng sứ thần của Hồ thề thốt gỉải binh để được làm quan trong triều. Vì tin ở lời thề đó, Từ không chú trọng vào việc đề phòng nữa.
“Tin lời thành hạ yêu minh,
“Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng.”
Thế là Từ bị chết đứng giữa trãn tiền khi Hồ Tôn Hiến trở mặt.
“Khí thiêng khi đã về thần,
“Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng”
Người đáng mến nhất : Hoạn Thư.
Hầu như người Việt Nam nào cũng biết tiếng Hoạn Thư, dù không đọc Truyện Kiều. Nhưng ít ai tìm hiểu cái ghen của nàng..Nguyễn Du giới thiệu Hoạn Thư như sau :
“Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
“Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư.
“Duyên đằng thuận nẻo gió đưa,
“Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
“Ở ăn thì nết cũng hay,
“Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
“Từ nghe vườn mới thêm hoa,
“Miệng người đã lắm, tin nhà thì không.
“Lửa tâm càng dập càng nồng,
“Giận người đen bạc ra lòng trăng hoa.
“Ví bằng thú thật cùng ta,
“Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên.
Theo phong tục cổ ngày xưa, trai có thể “năm thê, bảy thiếp” nên Hoạn thư sẵn sàng chấp nhận vợ nhỏ của chồng. Khi Thúc về thăm nhà, nàng chờ chồng báo tin có vợ nhỏ là chấp thuận ngay. Nhưng Thúc nhút nhát, lại cho rằng :
“Nghĩ đà bưng kín miệng bìn,
“Nào ai có khảo mà mình lựi xưng.”
Thúc ở nhà với vợ suốt một năm trời mà không tạo được cơ hội thú thật với vợ. Rồi :
“Thú quê thuần hức bén mùi,
“Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
“Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
“Một niềm quan tái, mấy nùa gió trăng.
“Tình riêng chưa dám rỉ răng,
“Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua :
“Cách năm, mây bạc xa xa,
“Lâm chuy cũng phải tính mà thần hôn.”
“Được lời như cởi tấc son,
“Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
Vì chờ chồng thú thật để sẵn sàng tha thứ mà Thúc cứ một mực giấu diếm, nên Hoạn Thư phải tìm cách bắt cóc Kiều về Vô Tích để hành hạ. Thế là Kiều trở thành một nữ tỳ của nhà họ Hoạn, Một hôm, Hoạn Thư muốn thưởng thức tiếng đàn của Kiều :
“Phải đêm êm ả chiều trời,
“Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.
“Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
“Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.
“Tiểu thư xem cũng thương tài,
“Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.”
Như vậy, Hoạn Thư cũng không phải là người độc ác. Thấy tình địch đàn hay thì cũng bớt giận.
Khi Thúc về thăm gia đình,, Hoạn Thư bắt Kiều đàn trong bữa tiệc tẩy trần. Lúc đó, chàng Thúc và Kiều mới hiểu ra cách đánh ghen của Hoạn Thư.
“Rằng :’Hoa nô đủ mọi tài
“Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe.
“Nàng đà tán hoán, tê mê,
“Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
“ Bốn dây như khóc như than,
“Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
“Cùng trong một tiếng tơ đồng,
“Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.”
Đã hả cơn ghen, Hoạn Thư cũng thương Kiều, cho nàng ra Quan Âm Các để viết kinh. Nhưng Kiều vẫn sợ Hoạn Thư có thể hành hạ mình nữa nên đã ăn cắp chuo6g vàng, khánh bạc trốn đi. Hoạn Thư không cho người đuổi theo để bắt về, vì có thể nàng cho rằng “thế là xong nợ”.
Sau này, Kiều dựa thế Từ Hải để báo ân trả oán, coi Hoạn Thư là “chính danh thủ phạm”.
“Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
“Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư..
“Thoắt trông nàng đã chào thưa :
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây ?”
“Đàn bà dễ có mấy tay,
“Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan.
“Dễ dàng là thói hồng nhan,
“Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều.”
Đứng trước hàng gươm dáo, sát khí đằng đằng, Hoạn Thư cũng “hồn lạc phách siêu”, nhưng vẫn bình tĩnh trả lời :
“Rằng :;Tôi chút phận đàn bà,
“Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
“Nghĩ cho khi các viết kinh,
“Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
“Lòng riêng, riêng cũng kính yêu,
“”Chồng chung chưa dễ ai chiều được ai.”
Kiều đành phải tha Hoạn, dù Hoạn là “chính danh thủ phạm”
Năm 1963, ở Saigon có một vụ đánh ghen rất dã man, khốn nạn. Bà trung tá  Thức sai người tạt acid vào mặt vũ nữ Cẩm Nhung, khiến cô vũ nữ xinh đẹp này bị mù cả hai mắt và mặt loang lở đềy sẹo. Bà Ngô Đình Nhu tỏ lòng thương nạn nhân, bỏ tiền đưa cô sang Nhật chạy chữa mà không được. Cô
vũ nữ này phải ngồi trong khu Eden để xin ăn. Rồi ít lâu sau thì qua đời. So sánh hai cuộc đánh ghen, người ta thấy Hoạn Thư là người có lòng nhân từ đáng mến.
Người ngoan ngoãn nhất : Thúy Vân
“Vân xem trang trọng khác vời,
“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
“Hoa cười ngọc thốt đoan trang.
“Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.”
Thúy Vân đẹp phúc hậu và thùy mị. Khi Kiều phải bán mình để cứu cha, xin  Vân thay mình để đáp lại lời thề với Kim Trọng, dù không yêu Kim, Vân vẫn nhận lời.
Sau này, khi Kiều đã trải qua 15 năm luân lạc, được đoàn tụ với gia đình, Vân xin nhường Kim lại cho chị dù đã có con với Kim :
Rằng :”Trong tác hợp cơ trời,
“Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.
“Gặp cơn bình địa ba đào,
“Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em.
“Cũng là phận cải duyên kim,
“Cũng là máu chảy ruột mềm chứ sao ?
“Những là rày ước mai ao,
“Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.
“Bây giờ gương vỡ lại lành,
“Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.
“Còn duyên may lại còn người.
“Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa
“Quả mai ba bảy đương vừa
“Đào non sớm lại se tơ kịp thì.”
Tất nhiên Kiều từ chối, nhưng Kim Trọng bằng lòng ngay và ép Kiều phải giữ lời thề xưa. Đúng là con người đáng ghét, đáng khinh. Chẳng thấy “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa” đâu. Khi bằng lòng lấy Thúy Vân có nghĩa là đã giải lời thề với nàng Kiều.
Người dại gái nhất : Từ Hải
Đường đường một đấng anh hào
“Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.
“Đội trời đạp đất ở đời,
“Họ Từ tên Hải, vốn người Việt Đông.”
Chính Hồ Tôn Hiến cũng phải công nhận >
Biết Từ là đấng anh hùng.”
Đồng thời cũng biết rõ cái yếu của Từ :
“Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.”
Thế là Hồ tìm cách mua chuộc Kiều sau khi đã thuyết hàng với cái lễ cho Từ “ngọc vàng gấm vóc” : :
“Lại riêng một lễ với nàng,
“Hai tên thể nữ, ngọc vàng nghìn cân”
Sau khi nhận “hối lộ” của Hồ Tôn Hiến, Kiều nghĩ rằng nếu Từ Hải ra hàng sẽ được làm quan trong triều, nàng sẽ là một mệnh phụ phu nhân trở về kinh đô gặp lại gia đình, nên đã sốt sắng khuyên Từ ra hàng :
“Rằng : Ơn Thánh đế dồi dào,
“Tưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu.
“Bình thành công đức bấy lâu,
“Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao.
“Ngẫm từ dấy việc binh đao,
“Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu.
“Làm chi để tiếng về sau,
“Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào.
“Sao bằng lộc trọng quyền cao,
“Công danh ai dứt lối nào cho qua.”
Từ Hải nghe bùi tai, nên :
Thế công Từ mới trở ra thế hàng.”
Hồ Tôn Hiến trở mặt, làm Từ chết đứng giữa trận tiền.
Người học dốt nhất : Thúc Sinh.
“Khách du bỗng có một người
“Kỳ Tâm họ Thúc, cũng nòi thư hương.
“Vốn người huyện Tích, châu Thường,
“Theo cha mở một ngôi hàng Lâm Truy.”
“Nòi thư hương” là cũng đi học đàng hoàng. Nhưng hơn mười năm sau (thập niên đăng hỏa) Thúc vẫn là một anh học trò, trong khi Kim Trọng và Vương  Quan đều đỗ đạt và đã ra làm quan.  Khi Kim Trọng được làm quan ở Lâm Truy, một đêm, Thúy Vân nằm mơ thấy chị. Lúc tỉnh dậy, nàng cho chồng biết.
Thăng đường chàng mới hỏi tra,
“Họ Đô có kẻ lại già thưa lên.
“Sự này đã ngoại mười niên
“Tôi đà biết mặt biết tên rành rành.
“Tú Bà với Mã Giám Sinh,
“Đi mua người ở Bắc Kinh đưa về.
Thúy Kiều tài sắc ai bì,
“Có nghề đàn, lại đủ nghề văn thơ.”
.........
“Chưa tường được họ được tên,
“Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tườn.”
Đã hơn mười năm mà chàng Tnúc vẫn là Thúc sinh viên thì quả là học dốt  nhất trần ai.
Ngoài những cái NHẤT đó, còn một điều cũng nên biết qua. Khi gia đình tìm thấy Kiều đang tu trong Chiêu ẩn am của Giác Duyên, Vương ông ép Kiều phải bỏ tu để về nhà sống với gia đinh. Kiều muốn tiếp tục đi tu, Vương Ông bèn nói :
“Phải điều cầu Phật cầu tiên,
“Tình xưa hiếu nọ ai đền cho đây”
Ông già này vì muốn ép con phải về nhà nên đã nói bậy nói bạ. Kiều bán mình để cứu cha không phải là đã trả hiếu sao ? Thúy Vân thay chị lấy Kim Trọng không phải là đã giải lời thề cho Kiều sao ?
Tạ Quang Khôi
3 tháng 3, 2016 
Góp ý về Nhân Vật Truyện Kiều
Thiếu Khanh

Trong một email giới thiệu một bài viết rất hay về Nhân Vật Truyện Kiều,Tác giả, ông Tạ Quang Khôi, nói người ta "tôn thờ Truyện Kiều một cách mù quáng."
Tôi mạo muội góp một chút ý kiến thô thiển về chỗ này.
*
Từ trước đến nay Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du không chỉ được ca tụng không thôi (thực ra không phải hoàn toàn là mù quáng đâu) mà cũng bị không ít người chê. Người khen và người chê Truyện Kiều không cùng đứng trên một mặt phẳng mà họ thuộc hai phạm trù riêng biệt, có lẽ không liên quan gì với nhau: Văn chương và luân lý. Người khen cho Truyện Kiều là một viên ngọc về văn chương, người chê cho Truyện Kiều là dâm thư, có hại cho tinh thần đạo đức của... phái nữ! ("Đàn ông chớ đọc Phan Trần / Đàn bà chớ đọc Thúy Vân Thúy Kiều"). Nhưng cũng có thể với quan niệm "Văn dĩ tải đạo" - Văn chương để chuyên chở đạo lý - mà người ta kết án cả mặt văn chương của Truyện Kiều. Việc chê Truyện Kiều về mặt luân lý để ghép tác phẩm vào hàng dâm thư thì cần được xem xét lại. Ngày nay cuộc sống đã thay đổi, các khái niệm đạo đức luân lý đã không còn như trước, nên lời chê đó có lẽ không còn hiệu lực nữa.  Thế thì ta bàn về chuyện khen ngợi.
Sự ca tụng Truyện Kiều về mặt văn chương, nếu xét từ thời điểm tác phẩm của thi hào Nguyễn Du ra đời có lẽ ta sẽ thấy dễ hiểu, và không có gì là quá đáng. Cách đây gần hai trăm năm,  ngôn ngữ văn học tiếng Việt đang ở mức độ mà, nói theo "phong cách" bây giờ,  "sự phát triển hoàn hảo còn ở phía trước," mặc dù từ lâu trước đó đã có những tác phẩm thơ nôm của Lê Thánh Tôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm....  Đọc thơ của các cụ ấy dường như chúng ta có cảm giác mình đọc... tư liệu văn học,  chớ ít thấy cảm xúc; ngay cả thơ nôm của cụ Trạng Trình giàu tính dân dã  mộc mạc cũng thế.  Mặt khác, và sở dĩ như thế, vì tác phẩm của các cụ chủ yếu là thuật sự, thuật hoài, kể lại các cảm nghĩ, cảm xúc của cá nhân mình trải nghiệm với cuộc sống, cũng của cá nhân tác giả, và... tải đạo, tức nhằm dạy đời với các quy ước luân lý đạo đức Nho giáo.  Trong tác phẩm của các cụ, ngay hiønh ảnh của chính tác giả đã khá lờ mờ; dù các cụ có mô tả một đối tượng nào khác thì cũng chỉ với vài nét chung chung, mơ hồ, được nhìn từ xa qua ống kính khuôn mẫu ước lệ. Không một con người nào, không một khuôn mặt nào được vẽ rõ ràng, nói chi đến có một cuộc đời nào được kể ra cho rành mạch. Đó là một trong những tính chất đặc trưng của thể loại văn học phổ biến trong giới nhà nho ngày trước, sản xuất những tác phẩm lụn vụn ngắn ngủn, với bốn câu, tám câu, từ hai mươi chữ (ngũ ngôn tứ tuyệt), 28 chữ (thất ngôn tứ tuyệt) 40 chữ (ngũ ngôn bát cú) và 56 chữ (thất ngôn bát cú). Một truyện ngắn trăm chữ ngày nay chỉ vẽ được vài nét bút sắt nhỏ ri ri, thì với 56 chữ người ta phải "nén" mọi thứ cần diễn tả, và độ nén ấy phải đậm đặc hơn cả các "file" nén .rar hay .zip trên máy tính bây giờ! Cho nên khi một tác phẩm "dài hơi" như Truyện Kiều ra đời đã làm cho người ta... choáng.
Truyện Kiều với 3.254 câu thơ  gồm 22.778 chữ đủ là  một kỷ lục ghê gớm rồi, lại mô tả rất nhiều con người thuộc nhiều thành phần trong xã hội thời đó là một chuyện rất mới. Nhưng điều đặc biệt và đặc sắc hơn hết là ngôn ngữ của thơ rất trau chuốc, bóng bẩy, khiến thể thơ lục bát đằm thắm của ca dao trở nên càng lộng lẫy sang trọng trong lâu đài văn học. Dù người ta có thể kể ra một số câu thơ  khá "vè" kiểu như  "Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân," hoặc  "Thanh minh trong tiết tháng ba /  Lệ là tảo mộ hội là đạp thanh" vân vân, nhưng so với nhiều truyện thơ dân gian khác ra đời sau, vào khoảng thế kỷ 19, như "Phạm Công Cúc Hoa," "Lâm Sanh Xuân Nương," "Thạch Sanh Lý Thông," "Trần Minh Khố Chuối", v.v.. thì Truyện Kiều quả là một viên ngọc mà quãng cách giá trị đối với các tác phẩm kia là quá xa.
Với ba cái nhất từ lúc bấy giờ: tác phẩm dài nhất, nội dung mô tả mới nhất, ngôn ngữ hay nhất, (chưa nói đến sự thành tựu rực rỡ của thể thơ Lục Bát của dân tộc trong tác phẩm) khiến người ta khen ngợi không tiếc lời là phải. Không mù quáng gì đâu.
Trước khi Truyện Kiều ra đời đã có bản dịch Chinh Phụ Ngâm rất hay của bà Đoàn Thị Điểm (dài 483 câu, có thuyết nói do Phan Huy Ích dịch) từ tác phẩm bằng Hán văn của Đặng Trần Côn; truyện thơ nôm Phan Trần (dài 954 câu, có chỗ nói Bà Đoàn Thị Điểm là tác giả), và có lẽ trễ một chút hoặc đồng thời với Truyện Kiều là truyện thơ Hoa Tiên (1.532 câu) của Nguyễn Huy Tự. (Cả Hoa Tiên và Phan Trần cũng đều "cải biên" từ những tác phẩm văn học Trung Quốc, như Truyện Kiều). Trong số ba tác phẩm đó, Chinh Phụ Ngâm được nói đến nhiều hơn cả. Thế nhưng lời khen ngợi về văn chương có vẻ chỉ tập trung nhiều nhất vào Truyện Kiều. Ngay cả điều này cũng không phải vô cớ. Suốt tác phẩm Chinh Phụ Ngâm người ta chỉ  nghe thấy một tiếng than dài não nuột và bất tuyệt của một người vợ lính, trong khi Truyện Kiều vẽ ra gần như cả một xã hội với nhiều tầng lớp người, với nhiều hoàn cảnh và tâm trạng phức tạp của người trong cuộc. Cụ Hoa Đường Phạm Quí Thích không quá lời khi nói rằng tác giả của nó, cụ Nguyễn Du có cái tâm và con mắt nhìn thấu suốt ngàn đời.
Trong Chinh Phụ Ngâm, theo cách mô tả ước lệ truyền thống, dung nhan người chinh phụ thế nào ta không rõ; ngoài việc nhớ chồng đi chinh chiến, sinh hoạt hàng ngày của nàng thế nào ta cũng không biết. Trong khi đó, mỗi nhân vật truyện Kiều được khắc họa rất rõ chân dung, đến nỗi không những danh tính của họ đã đi vào ngôn ngữ của chúng ta như những nhân vật điển hiønh, mà cả trong cuộc sống của xã hội hiện đại, tưởng chừng ta có thể nhìn thấy một số họ đang nhởn nhơ trước mắt: những Mã Giám Sinh "mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao," những tú bà "ăn gì to lớn đẫy đà làm sao,"vân vân.
Tôi không phải là nhà nghiên cứu văn học, thành ra đây là những cảm nhận cá nhân có thể là không đầy đủ và không sâu sắc,  nhưng tôi thấy người ta không "tôn thờ Truyện Kiều một cách mù quáng". Ông Tạ Quang Khôi nói người ta "tôn thờ Truyện Kiều một cách mù quáng" theo tôi là không đúng. Tuy nhiên những nhận xét của ông về các nhân vật Truyện Kiều (1) thì quả là không sai. Đây không phải là chuyện "ba phải," mà thuộc hai phạm trù khác nhau (cũng như có người khen ngợi văn chương Truyện Kiều trong khi người khác chê Truyện Kiều là dâm thư). Điều ông Tạ Quang Khôi nói là thuộc về lãnh vực xây dựng tâm lý nhân vật.
Các nhà văn xưa của ta có vẻ hoàn toàn không quan tâm đến khía cạnh này. Một phần là do nền văn học của ta lúc đó chưa phát triển, chưa có "nhà văn", và (cho nên) chưa có nhu cầu khắc họa tính cách nhân vật. (Trong khi trong văn học Tàu có những hình tượng điển hình nổi bật như Tôn Ngộ Không, Bát Giới... [Tây Du Ký], Tào Tháo, Trương Phi... [Tam Quốc Chí], Lỗ Trí Thâm, Lý Quì... [Thủy Hử] v.v...). Phần khác, có thể nào những cái bất cập trong tính cách các nhân vật truyện Kiều mà ông Tạ Quang Khôi nêu ra vốn đã có sẵn từ trong tác phẩm gốc của nó là bộ Phong Tình Lục của Tàu (2) mà khi mượn cốt truyện để "cải biên" thành Đoạn Trường Tân Thanh cụ Nguyễn Tiên Điền, tuy có con mắt thấu suốt nghìn đời nhưng vốn chưa quan tâm đầy đủ đến tâm lý nhân vật, đã không nhận ra sự thiếu nhất quán của các tính cách ấy chăng?
Nói Nguyễn Du chưa quan tâm đầy đủ, vì nên biết rằng Phong Tình Lục không phải là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học cổ Trung Quốc, và cô Kiều trong đó khá "phô" đã được cụ Tiên Điền "tút" lại mới đẹp đẽ thanh lịch tài hoa như thế đấy. Nhưng khi gọt dũa lại nhân vật, Nguyễn Du đã để sót những điều biểu lộ sự không nhất quán trong tính cách của họ như ông Tạ Quang Khôi đã vạch ra chính xác. Nhưng đó là sự thiếu sót của một tác giả cách đây hai trăm năm, thời văn học tiếng Việt chưa phát triển. Sau Nguyễn Du gần hai trăm năm, nhà văn Lê Văn Trương đã từng bị coi là người bất chấp tâm lý nhân vật trong các tiểu thuyết "người hùng" của ông đó thôi.
Thiếu Khanh.
(1) - Có thể đọc bài này của tác giả Tạ Quang Khôi ở đây:
http://truyenkimvankieu.blogspot.com/2009/12/16-nhan-vat-truyen-kieu-ta-quang-khoi.html (2) - Từ trước đến nay, nhiều người đinh ninh Truyện Kiều được Nguyễn Du mô phỏng từ tiểu thuyết Thanh Tâm Tài Nhân của Tàu (trước năm 1975 đã được dịch giả Tô Nam Nguyễn Điønh Diệm dịch ra tiếng Việt và được Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa VNCH xuất bản với tựa "Kim Vân Kiều Thanh Tâm Tài Tử" ). Gần đây có người phát hiện Thanh Tâm Tài Nhân là tác phẩm do một người Tàu dịch từ Truyện Kiều của Nguyễn Du sang chữ Hán. Trong số các nhà nghiên cứu đưa ra nhận định mới này, cụ Hương Ngạn Đào Tử Đàm Duy Tạo (thân phụ của hai Gs Đàm Trung Pháp và Đàm Trung Phán) trong tác phẩm "Truyện Kim Vân Kiều Giảo Đính Tường Giải" (tác phẩm còn dạng bản thảo chưa xuất bản), đã nêu bằng chứng khẳng định rằng Nguyễn Du dựa vào một cốt truyện trong bộ "Phong Tình Lục" của Tàu để sáng tác Đoạn Trường Tân Thanh, và rằng "cuốn tiểu thuyết Thanh Tâm Tài Nhân đích xác là dịch ở truyện Kim Vân Kiều ra". Có thể đọc "Truyện Kim Vân Kiều Giảo Đính Tường Giải" tại đây: http://kimvankieu.wordpress.com/ . Và vẫn còn có thể download bản thảo tác phẩm này tại đây: http://www.megaupload.com/?d=9QYH4NW8

BÍ MẬT CHUYẾN ĐI BẮC KINH

BÍ MẬT CHUYẾN ĐI BẮC KINH GẶP CHỦ TỊCH TẬP CẬN BÌNH CỦA HOÀNG BÌNH QUÂN, ĐẶC SỨ TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG - VietPress USA 

 
 
image
 
 
 
 
 
BÍ MẬT CHUYẾN ĐI BẮC KINH GẶP CHỦ TỊCH TẬP C...
BÍ MẬT CHUYẾN ĐI BẮC KINH GẶP CHỦ TỊCH TẬP CẬN BÌNH CỦA HOÀNG BÌNH QUÂN, ĐẶC SỨ TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG - description

Preview by Yahoo

 

BÍ MẬT CHUYẾN ĐI BẮC KINH GẶP CHỦ TỊCH TẬP CẬN BÌNH CỦA HOÀNG BÌNH QUÂN, ĐẶC SỨ TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG

Wednesday, March 02, 2016
Đặc phái viên Hoàng Thái Bình đại diện Tbt Nguyễn Phú Trọng đến Bắc Kinh gặp Chủ tịch Tập Cận Bình
VietPress USA (02-3-2016): Báo chí Nhà nước csVN và Trung Quốc đồng loạt loan tin rằng hôm Thứ Hai 29-2-2016, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tiếp ông Hoàng Bình Quân, đặc phái viên của Tân Tổng bí thư bám chức Nguyễn Phú Trọng đến Bắc Kinh để dâng sớ đặc biệt của Nguyễn Phú Trọng báo cáo diễn tiến nội bộ Đảng và Nhà nước csVN từ sau Đại hội đảng csVN lần thứ XII.

Bản Báo cáo nầy được gọi là "Thông Điệp" mà ông Nguyễn Phú Trọng cho biết rằng đảng csVN cam kết "Hai nước Việt-Trung luôn là láng giềng tốt, chia sẻ hệ thống chính trị giống nhau và có nhiều lợi ích chung. Phát triển một mối quan hệ song phương ổn định, đối ứng và hợp tác, vừa là trách nhiệm lịch sử vừa là yêu cầu thực tế, cũng như lợi ích căn bản và lâu dài của nhân dân hai nước”.

Vừa thay thế ông Trọng Lú cựu Tổng bí thư, ông tân Tbt Nguyễn Phú Trọng cho biết trong "Thông điệp" của ông ghi rõ rằng "mối quan hệ giữa hai đảng cộng sản hai nước luôn đóng vai trò hàng đầu trong quan hệ song phương và ông kêu gọi hai bên thực hiện đầy đủ sự đồng thuận đã đạt được của các lãnh đạo hai đảng ký kết; tăng cường các chuyến thăm cấp cao, hợp tác nhiều hơn trong lĩnh vực kinh tế, trao đổi giữa nhân dân hai nước, duy trì hòa bình và ổn định trên biển để góp phần vào hòa bình và thịnh vượng trong khu vực và trên thế giới".

Hoàng Bình Quân, đặc sứ của Tbt Nguyễn Phú Trọng
Đáp lại, Tổng Bí Thư kiêm Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nói rằng việc cử đặc phái viên qua lại giữa hai nước là một truyền thống nhằm giúp hai đảng trao đổi với nhau. Ông Tập Cận Bình ca ngợi hai bên đã thúc đẩy truyền thống đó sau Đại hội 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam, và điều đó có ý nghĩa lớn đối với việc tăng cường sự tin cậy lẫn nhau.

Ông Tập Cận Bình nói, Trung Quốc và Việt Nam cũng như đảng cộng sản hai nước cùng chia sẻ số phận. “Việc phát triển quan hệ song phương phù hợp với lợi ích căn bản của hai quốc gia và nhân dân”.

Sự thật đây chỉ là những điều hoa mỹ nói lừa bịp ra bên ngoài để đánh lạc dư luận quốc tế và che dấu đối với nhân dân Việt Nam mà thôi ! 

Tổ chứ R. H. tại Hoa Kỳ cho hay rằng:

1/-  Sau khi loại trừ ông Nguyễn Tấn Dũng ra khỏi mọi chức vụ, quyền lực và không còn vai trò gì trong đảng csVN; ông Tbt Nguyễn Phú Trọng quyết định cấm ông Nguyễn Tấn Dũng đi Mỹ họp Hội nghị Thượng đỉnh Sunnylands ngày 15 và 16-2-2016 với các lãnh đạo Quốc gia Khối ASEAN do TT Barack Obama mời; đồng thời buộc ông Nguyễn Tấn Dũng phải bàn giao chức vụ Thủ Tướng và mọi hồ sơ, tài vật, công thự nội trong vòng tháng 3-2016; nhưng bất ngờ bị áp lực của Hoa Kỳ do TT Barack Obama đưa ra là chỉ chấp thuận Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng còn trong nhiệm kỳ sẽ thay mặt chính quyền csVN đến dự Thượng đỉnh Synnylands chứ không chấp nhận Bộ trưởng Phạm Bình Minh làm trưởng phái đoàn (http://www.vietpressusa.com/2016/02/bi-my-ap-luc-tbt-nguyen-phu-trong-phai.html)

Trước áp lực của Hoa Kỳ, Tbt Nguyễn Phú Trọng đành để Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi họp Thượng đỉnh Sunnylands tại Rancho Mirage, nam California nhưng chỉ thị ông Nguyễn Tấn Dũng không được tuyên bố bất cứ điều gì liên quan đến Trung Quốc và tranh chấp Biển Đông (http://www.vietpressusa.com/2016/02/tbt-nguyen-phu-trong-ra-lenh-thu-tuong.html).

Thế nhưng tại Thượng đỉnh Sunnylands, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bất chấp lệnh của Tbt Nguyễn Phú Trọng, đã lên tiếng chỉ trích Trung Quốc xâm chiếm các đảo của Việt Nam, quân sự hóa Biển Đông và yêu cầu Hoa Kỳ can thiệp để Trung Quốc thi hành Bản Quy Tắc Ứng xử DOC về Biển Đông.

Vì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã hiên ngang chỉ trích Trung Quốc, trong khi Bản Tuyên Bố Chung của Thượng đỉnh Sunnylands đã hoàn toàn không đề cập đến tên của Trung Quốc. 

Tiếp theo vào ngày 19-2-2016, nhà nước csVN đã gởi lên Liên Hiệp Quốc một Công Hàm phản đối Trung Quốc đặt tên lửa trên đảo Phú Lâm (http://www.vietpressusa.com/2016/02/ha-noi-goi-cong-ham-len-lien-hiep-quoc.html).  

Hai sự kiện trên đây đã làm cho Trung Quốc giận giữ nên Tbt Nguyễn Phú Trọng phải vội vàng cử Đặc phái viên Hoàng Bình Quân đi Bắc Kinh để gởi một Thư sám hối ăn năm mà Tbt Nguyễn Phú Trọng gọi là "Thông Điệp".

Tổ chức R.H. Hoa Kỳ nói rằng Đặc sứ của Tbt Nguyễn Phú Trọng khẳng định đảng csVN trung thành với lý thuyết Cộng sản của Karl Mark và Lenin; đồng thời trung thành với Trung Quốc. "Thông Điệp" là một báo cáo ăn năn trần tình của Tbt Nguyễn Phú Trọng đổ hết lỗi cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã hết chức vụ và quyền hạn nhưng cố tình làm sai nên khẳng định rằng đảng csVN đã tước đảng tịch của Nguyễn Tấn Dũng không còn tư cách Ủy viên Trung ương Đảng nữa.

Theo truyền thống thì sau khi hết giữ chức vụ Thủ Tướng, các cựu Thủ Tướng thường vẫn còn tư cách Ủy vienêTrung ương Đảng và tiếp tục giữ chức vụ Cố vấn cho tân Thủ tướng Chính phủ. Nhưng trường hợp ông Nguyễn Tấn Dũng sau khi bị gạt ra khỏi cuộc tranh chức trong Đại hội Đảng csVN lần thứ XII, Tbt Nguyễn Phú Trọng loại trừ tư cách Ủy viên Trung ương Đảng của ông Nguyễn Tấn Dũng và không cho làm Cố vấn cho tân Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Trong những ngày tới, sau khi TT Barack Obama đến thăm Việt Nam vào tháng 5-2016 xong xuôi, ông Nguyễn Tấn Dũng phải bàn giao chức vụ cho tân Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và tiếp theo có thể ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị trừng phạt về tội lên tiếng chống Trung Quốc tại Hội nghị Thượng đỉnh Sunnylands 2016 và tội cho ký Công hàm phản đối Trung Quốc đặt tên lửa trên đảo Phú Lâm mà không thông qua Bộ Chính trị Trung ương Đảng csVN.

2/. Tổ chức R.H. Hoa Kỳ khẳng định rằng, trong phần công bố báo chí của Tbt Nguyễn Phú Trọng nói rằng ".. ông kêu gọi hai bên thực hiện đầy đủ sự đồng thuận đã đạt được của các lãnh đạo hai đảng ký kết.." (Xem bản tin của VOA: http://www.voatiengviet.com/content/dac-su-cua-ong-nguyen-phu-trong-gap-chu-tich-trung-quoc/3213453.html); thật ra "Thư báo cáo" được gọi là "Thông Điệp" của Tbt Nguyễn Phú Trọng cam kết rằng "Đảng csVN sẽ thực hiện đầy đủ các điểm đồng thuận đã được lãnh đạo hai đảng và hai chính phủ ký kết tại Hội Nghị Thành Đô ngày 03 và 04-9-1990 là sẽ sát nhập Việt Nam vào làm Khu Tự Trị của Trung Quốc trước năm 2020 (Tiết lộ của Thủ tướng Lý Bằng của Trung Quốc về Hội Nghị Thành Đô và hình ảnh: http://hoquang.org/2015/05/30/ly-bang-tiet-lo-hoi-nghi-thanh-do-1990/).

3/. Ngày 29-6-2015, khi Trung Quốc khai trương Ngân Hàng AIIB (Asian Infrastructure Investment Bank - Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Á Châu) với 47 quốc gia gia nhập làm thành viên và muốn dùng Nhân Dân Tệ của Trung Quốc đối đầu với Ngân Hàng Thế Giới (World Bank), Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (Asian Development Bank - ADB) của Hoa Kỳ thì chỉ sau 3 ngày sau, hôm 02-7-2015, Thị Trường Chứng Khoán (TTCK) của Trung Quốc bị bốc hơi trên 2.400 Tỷ USD.  Tiếp đến đợt thứ nhì chỉ cách 3 ngày sau đó, hôm 06-7-2015 TTCK của TQ bị mất trắng thêm trên 1.000 Tỷ USD! (http://www.vietpressusa.com/2015/07/thi-truong-chung-khoan-trung-quoc-lo.html).

Trung Quốc và Nga lên kế hoạch cấu kết tài chánh để làm sụp đổ đồng Dollar Mỹ (USD); nhưng Hoa Kỳ đã trở thành nước sản xuất và xuất khẩu xăng dầu lớn nhất thề giới từ cuối năm 2014. Hoa Kỳ hạ giá dầu thô xuống cho đến hiện tại là USD27.00/Barrel đã làm cho ngành kỹ nghệ xăng dầu của Nga phá sản vì giá thành sản phẩm dầu thô của Nga là trên USD50.00/Barrel. Nga bị kiệt quệ kinh tế nên các định chế tài chánh quốc tế đánh giá tín dụng của Nga xuống hàng Junk (Rác rưởi). 

Sau khi kinh tế tài chánh của Nga suy sụp, Nga còn bị lệnh cấm vận trừng phạt của Hoa Kỳ và Liên Âu (EU) nên liên minh Trung Quốc và Nga đã bị xóa bỏ.

Hôm nay ngày 02-3-2016, Tổ chức Moody's độc lập của Hoa Kỳ đã hạ giá mức Tín Dụng của Trung Quốc từ hạng "Ổn định" xuống  "bất ổn". Tổ chức R.H. tại Hoa Kỳ cho hay rằng, nỗi sợ hãi của Trung Quốc hiện nay là sợ bị Hoa Kỳ dùng Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương TPP để sẽ đánh sụp nền kinh tế tài chánh của Trung Quốc trong giai đoạn sắp tới.

Tổ chức R.H. Hoa Kỳ nói rằng, ngay sau khi Đại hội Đảng csVN lần XII ký chấp thuận cho Việt Nam tham gia TPP thì một phái đoàn kinh tế cao cấp của Trung Quốc qua Hà Nội họp mật với Tbt Nguyễn Phú Trọng và một số rất hạn chế các Ủy viên Bộ Chính Trị cùng với tân Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.

Kết quả cuộc họp mật nầy là từ nay mọi chỉ đạo giữa Trung Quốc và chính quyền csVN sẽ không đi thông qua các nguyên tắc giao dịch giữa hai chính phủ; mà hoàn toàn trao đổi các đại diện của hai Đảng mà thôi. Việc Tbt Nguyễn Phú Trọng cử Đặc phái viên Hoàng Đình Quân đi Bắc Kinh gặp Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Tập Cận Bình là bước đầu thi hành thỏa thuận nầy.

Lê Mạnh Hà, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ csVN
Vì Hiệp Định TPP sẽ hoàn toàn loại Trung Quốc ra khỏi thị trường của khối 12 quốc gia Á châu, nên hai đảng Cộng sản Trung Quốc và csVN thỏa thuận hợp tác chống lại Hoa Kỳ. Phía csVN giao nhiệm vụ cho một cán bộ tên là LÊ MẠNH HÀ, Phó Chủ Nhiệm Văn Phòng Chính Phủ, làm việc và nhận lệnh trực tiếp từ tân Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc và Tbt Nguyễn Phú Trọng để tổ chức các doanh nghiệp của Trung Quốc đầu tư kinh doanh sản xuất dưới danh nghĩa Công ty thuần túy của Việt Nam. Những Công ty Trung Quốc giả danh nầy sẽ có nhiệm vụ đứng đầu trong mọi việc xuất nhập hàng hóa của Trung Quốc cho thị trường trong Hiệp Định TPP.

Tổ chức R.H. Hoa Kỳ cũng nói rằng ông  Lê Mạnh Hà sinh ngày 08-10-1957 tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thứa Thiên - Huế, hiện là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ csVN tại Hà Nội. Ông Lê Mạnh Hà nguyên là Thành Ủy viên, Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Tp. HCM, kiêm Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông Tp.HCM. Ông Lê Mạnh Hà và ông Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc đều là ngườido Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa lên; nhưng nay chống đối ông Nguyễn Tấn Dũng một cách gay gắt và được Tbt Nguyễn Phú Trọng đặc biệt tin dùng.

Tbt Nguyễn Phú Trọng giao nhiệm vụ cho Lê Mạnh Hà làm Phó Chủ Nhiệm Văn Phòng Chính phủ kiêm phụ trách một cơ quan đặc biệt gạn lọc và loại trừ các Công ty đầu tư của Hoa kỳ hiện đang có và sắp đầu tư vào Việt Nam để không cho Hoa Kỳ có cơ hội cạnh tranh với các Công ty của Trung Quốc tại Việt Nam trong giai 
đoạn TPP sắp tới; mặc dầu trên danh nghĩa csVN đã ký tham gia TPP.

Nguyễn Công Khế, cựu Tổng Biên tập Báo Thanh Niên 
Tin nầy của R. H. Hoa Kỳ cũng cho hay rằng, ông Nguyễn Công Khế là cựu Tổng Biên tập báo Thanh Niên tại Việt Nam đã có công cùng với ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tấn công phá nát tổ chức và uy tín của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng để giúp ông Nguyễn Phú Trọng lên nắm chức Tổng Bí thư nhiệm kỳ mới; vì thế nay ông Tbt Nguyễn Phú Trọng tin dùng ông Nguyễn Công Khế và giao nhiệm vụ đi qua Hoa Kỳ phối hợp với một số cơ sở nằm vùng tại Mỹ, bao gồm một số Chủ Báo, Chủ Đài Truyền thanh, Truyền hình để theo dõi, móc nối mua chuộc những thành phần có vai vế trong cộng đồng Mỹ gốc Việt, tài trợ cho những người Mỹ gốc Việt ra tranh cử vào Quốc Hội, Thị trưởng, Nghị viên các thành phố để những người nầy sẽ làm việc cho csVN và Trung Quốc giai đoạn tới.

Tổ chức R.H. cho hay hiện nay ông Nguyễn Công Khế đang có mặt tại California, thu thập các tin tức về các Công ty hay cá nhân Hoa Kỳ đang đầu tư hoặc sắp đầu tư vào Việt Nam để chuyển cho ông Lê Mạnh Hà và tân Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trực tiếp trình cho Tbt Nguyễn Phú Trọng để có sách lược tìm cách loại trừ.

Một Chủ báo tại San Jose được xem là rất thân với ông Nguyễn Công Khế cho một thân hữu của VietPress USA biết rằng hiện con gái của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang thu xếp theo chồng là Việt Kiều Mỹ để về Mỹ cư trú; nhưng có thể chưa được phép vì sẽ còn trả lời nhiều cuộc điều tra trong thời gian tới. 

Nhóm của Chủ báo nầy cũng đang cùng với ông Nguyễn Công Khế tổ chức một hệ thống gọi là "Kết Nối" bằng cách cho công bố Ông A chụp hình với một viên chức Hoa Kỳ, Ông A chụp hình với ông B và ông B chụp hình với một lãnh đạo csVN.. Tổ chức nầy hiện đang tài trợ cho một Luật sư ở bắc California ra tranh cử. Tin R.H. từ Hoa thịnh Đốn nói rằng Hoa Kỳ đang quan tâm theo dõi chương trình trao đổi cán bộ đại diện Đảng giữa csVN và Trung Quốc cũng như các hoạt động của nhóm "Kết Nối" đang móc ngoặc tổ chức tình báo cho csVN và Trung Quốc tại Hoa Kỳ.

No comments:

Post a Comment