QUAN ĐIỂM NHÂN DÂN
Người dân Việt Nam hào hứng chờ đón TT Obama
Tổng thống Barack Obama đáp chuyên cơ Air Force One lên đường tới Việt Nam, ngày 21/5/2016.
Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ bắt đầu chuyến thăm Việt Nam vào đêm 22/5
với chặng dừng chân đầu tiên là Hà Nội. Lúc này, nhiều người trong thành
phố bày tỏ sự quan tâm lớn đến chuyến thăm cũng như hy vọng nhờ sự kiện
này mà quan hệ hai nước sẽ phát triển hơn nữa. An Tôn tường trình từ Hà
Nội.
Ít ngày trước khi Tổng thống Obama đến Hà Nội, thông tin liên quan đến
chuyến thăm xuất hiện càng thường xuyên trên các phương tiện truyền
thông, làm nhiều người trong thành phố càng tò mò, quan tâm. Đối với
những người hay phải đi lại trên đường, họ quan tâm đến danh sách 25
tuyến phố sẽ bị cấm hoặc hạn chế xe cộ để phục vụ đoàn xe của tổng thống
Mỹ. Đồng thời, tùy theo lứa tuổi và công việc, mối quan tâm của từng
người đến các khía cạnh cụ thể của chuyến thăm cũng khác nhau.
Nam thanh niên tên Thảo, 27 tuổi, nói anh ấn tượng về thông tin có đến
1600 người đi theo để phục vụ chuyến thăm thứ ba của một vị tổng thống
Mỹ đương nhiệm đến Việt Nam. Ngoài ra, Thảo cho rằng chuyến thăm là kết
quả của hơn hai thập niên hai nước bình thường hóa quan hệ. Anh nói:
“Đến thời điểm này thì hơn 20 năm bình thường hóa quan hệ rồi thì tôi
thấy cũng có nhiều cái mới, Mỹ đầu tư nhiều, hỗ trợ Việt Nam nhiều trong
các lĩnh vực, như thế có nhiều khả năng là đất nước mình phát triển
hơn”.
Còn Phạm Hương Giang, nữ sinh viên tại Đại học Ngoại thương Hà Nội, ngôi
trường được nhiều người gọi là Harvard của Việt Nam, lại quan tâm đến
bài phát biểu mà Tổng thống Obama dự kiến sẽ đọc trước khoảng 2000 khách
mời tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia. Giang nói:
“Tôi hy vọng là trong bài phát biểu của ông có thể nêu lên vấn đề dân
chủ hơn, tự do hơn ở Việt Nam. Về vấn đề về môi trường cũng nên cần phải
quan tâm. Đó là những vấn đề tôi nghĩ cần thiết để phát triển”.
Cũng tại Đại học Ngoại thương, nam sinh viên tên Đạt cho rằng Tổng thống
Obama không đơn thuần chỉ thăm xã giao mà có những mục đích cụ thể. Đạt
nêu nhận định:
“Xét về tình hình hiện nay thì chắc là sẽ có những biện pháp tăng cường
quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ, như là trong vấn đề Biển Đông hiện nay,
chắc sẽ có vấn đề đó. Thứ hai là tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp
nước ngoài vào Việt Nam. Hợp tác giữa hai bên có thể được củng cố thêm.
Ngoài về chính trị còn có cả về kinh tế nữa”.
Từ góc nhìn của người đi trước một vài thế hệ so với những người thuộc
lứa tuổi 20, ông Nguyễn Hồng Sơn, 74 tuổi, nhận xét về chuyến thăm sắp
tới:“Tôi nghĩ rằng chuyến thăm của Tổng thống Obama rất có lợi cho quan hệ hai nước. Hiện nay trên thế giới cán cân lực lượng có nhiều thay đổi. Tôi nghĩ Mỹ mà quan hệ với Việt Nam rất chặt chẽ thì rất có lợi cho Việt Nam cũng như cho Mỹ, cân bằng cán cân lực lượng trên thế giới”.
Ông Trần Việt Thái, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Học viện Ngoại giao Việt Nam.
Đối với những người trẻ tuổi trong số gần 70% dân số Việt Nam dưới 40
tuổi, tức là sinh ra sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, họ
chú ý đến tương lai của mối quan hệ hai nước hơn là việc hai nước từng
là kẻ thù của nhau. Ngay cả ông Sơn, thuộc thế hệ đã trải qua cuộc chiến
mà Việt Nam gọi là “Chống Mỹ cứu nước”, cũng cho rằng xây đắp cho tương
lai mới quan trọng.
Ông Sơn nói: “Quá khứ đã khép lại rồi. Nhân dân Việt Nam rất rộng lượng,
quên đi quá khứ. Và bây giờ tất cả nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân
Mỹ là nghĩ đến tương lai và xây dựng quan hệ hữu nghị giữa hai nước, để
cùng phát triển kinh tế, cùng ổn định chính trị. Mặc dù chế độ chính trị
hai nước khác nhau nhưng cái đó không hề quan trọng. Mục đích là để
giúp nhau phát triển kinh tế, thì đó là một cái rất tuyệt vời khi quan
hệ hai nước ngày càng thắt chặt”.
Với thái độ hồ hởi, ông Sơn cũng chia sẻ điều ông muốn thấy ở quan hệ
Việt Nam-Mỹ trong tương lai: “Cầu mong quan hệ Việt-Mỹ ngày càng phát
triển, ngày càng thắt chặt, để giúp đỡ nhau phát triển kinh tế”.
Điều ông Sơn nói cũng là ý nghĩ của những người trẻ tuổi như Hương Giang
và Đạt, các sinh viên của một trường đại học hàng đầu Việt Nam. Họ đều
đặc biệt quan tâm đến khía cạnh kinh tế của mối quan hệ, điều thiết thực
nhất đối với họ.
Hương Giang cho biết: “Đương nhiên là tôi nghĩ quan hệ hai nước ngày
càng tiến triển, và trở nên thân thiết, đó là điều bình thường, để cho
kinh tế hai nước ngày càng phát triển”.
Anh Đạt nói: “Khi hai bên có những hợp tác thắt chặt thì những cái rào
cản sẽ được xóa bỏ, kinh tế sẽ phát triển. Khi cháu tham gia vào lực
lượng kinh tế thì lương có thế cao hơn, nhiều doanh nghiệp vào Việt Nam
thì sẽ tạo cho cháu nhiều công ăn việc làm, lương cao”.
Trong khi những người dân bình thường hướng sự chú ý đến những khía cạnh
trực tiếp và thiết thực, các chuyên gia và nhà nghiên cứu có cái nhìn
sâu hơn về chuyến thăm của ông Obama cũng như quan hệ Việt-Mỹ.
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung
ương, đánh giá chuyến thăm của ông Obama là một bước phát triển trong
quan hệ hai nước trong bối cảnh Việt Nam vừa tăng cường hội nhập quốc tế
vừa gặp những thách thức về an ninh, chủ quyền ở Biển Đông. Ông Doanh
cho rằng hai nước có những thuận lợi khi tăng cường hơn nữa quan hệ vì
Mỹ và Việt Nam không có mâu thuẫn về lợi ích chiến lược trong khi về mặt
kinh tế hai nước không cạnh tranh với nhau mà lại bổ sung cho nhau.
Ông Doanh nói: “Hai nhà nước lại cũng chia sẻ những lợi ích chiến lược
với nhau. Không có những mâu thuẫn lợi ích chiến lược nào quan trọng.
Vậy cho nên là giữa hai nhà nước Việt Nam và Hoa Kỳ hoàn toàn có khả
năng sẽ xây dựng những mối quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn nữa. Tôi hy vọng
là sẽ có những hợp đồng hợp tác được ký kết trong chuyến thăm của Tổng
thống Hoa Kỳ Barack Obama”.
Từ góc độ người nghiên cứu và cố vấn chính sách đối ngoại, ông Trần Việt
Thái, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Học viện Ngoại giao
Việt Nam, đưa ra quan điểm thận trọng hơn về quan hệ hai nước.
Ông phân tích rằng trong quan hệ Việt-Mỹ có 4 khác biệt mà cũng là những
khó khăn, thách thức. Thứ nhất, Mỹ là siêu cường toàn cầu nên Mỹ nhìn
Việt Nam như một nhân tố trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, trong khi
Việt Nam nhìn Mỹ chủ yếu từ góc độ song phương. Hai nước có những mối
quan tâm chung ở khu vực Đông Nam Á, ở Biển Đông, song Việt Nam chưa
phải là đối tác ưu tiên hàng đầu của Mỹ.
Khác biệt thứ hai, theo ông Thái, là về hợp tác Mỹ muốn đi nhanh vì có
tiềm lực lớn trong khi Việt Nam muốn đi từ từ vì tiềm lực có hạn. Khác
biệt thứ ba là Việt Nam muốn ưu tiên thúc đẩy quan hệ trong các lĩnh vực
kinh tế, thương mại và đầu tư vì có nhu cầu cấp bách để phát triển, thế
nhưng Mỹ đã là nước phát triển nên chú trọng đến các lĩnh vực an ninh,
quân sự và quốc phòng. Cuối cùng, khác biệt ở những vấn đề do chiến
tranh và lịch sử để lại.
Ông Thái nói: “Nhìn lại 20 năm qua, quan hệ Việt-Mỹ từ đối thủ, từ kẻ
thù thành bạn bè, từ bạn bè thành đối tác, bước tiến rất quan trọng, rất
dài. Nhưng bên cạnh đó lực cản không phải là ít. Nhưng tôi muốn chuyển
đến một thông điệp thế này, chúng ta cần nhìn quan hệ Việt-Mỹ bằng con
mắt thực tế. Phải thấy rằng hợp tác là có lợi, nhất là trong bối cảnh
toàn cầu hóa, hội nhập. Cái thứ hai rất quan trọng là phải xử lý quan hệ
Việt-Mỹ bằng cái đầu lạnh. Nhìn vào thực tế mà nói, hợp tác là con
đường duy nhất đúng đắn để mà thúc đẩy quan hệ Việt-Mỹ có lợi cho cả hai
nước, có lợi cho hòa bình, ổn định ở khu vực”.
Liệu các nhà lãnh đạo, những người hoạch định chính sách của Việt Nam
cũng có nhận thức về những điều quan trọng mà giới nghiên cứu, cố vấn
nêu ra như trên hay không? Vị phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược
thuộc Bộ Ngoại gia Việt Nam cho rằng trong thời đại thông tin ngày nay,
các lãnh đạo Việt Nam nhận thức được đầy đủ các vấn đề đó.
Ông Thái cho biết: “Nếu không có được những nhân tố như vậy, có lẽ quan
hệ Việt-Mỹ đã không thể như ngày hôm nay. Chiến tranh đã lùi xa, 41 năm
rồi. Đã đến lúc phải đưa quan hệ song phương sang một trang mới. Cái tốt
nhất là cùng nhau nhìn về tương lai. Đó chính là những gì lãnh đạo Việt
Nam đang làm và đang suy nghĩ. Có thể tốc độ, cách làm khác nhau, nhưng
rõ ràng những gì đang diễn ra trong quan hệ Việt-Mỹ đang đi đúng xu
hướng như vậy”.
Chỉ còn hơn một ngày nữa, chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Obama sẽ thực sự
diễn ra. Những gì các nhà lãnh đạo cấp cao nhất của hai nước sẽ thỏa
thuận hoặc tuyên bố sẽ đặt ra lộ trình hoặc định hướng cho quan hệ hai
nước trong nhiều năm tới. Lúc này, căn cứ vào những điều hai nước đã đạt
được trong những năm qua, nhiều người dân và giới quan sát, phân tích
trông đợi chuyến thăm sẽ đi đến những kết quả cụ thể, hữu ích chứ không
chỉ dừng lại ở một cuộc thăm viếng xã giao.
Dân Hà Nội nói gì về chuyến thăm Obama?
4 giờ trước
Người dân làm ở nhiều lĩnh vực khác nhau như vệ sinh môi trường, tiệm
ảnh, thợ may, người lái xích lô ở Hà Nội nói về mong đợi của họ khi Tổng
thống Hoa Kỳ sang Việt Nam.
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/05/160521_nguyenquanga_obama_tripViệt - Mỹ: Thế chiến lược quan trọng hơn
18 tháng 5 2016 Cập nhật lúc 21:51 ICT
Nhân quyền vẫn nằm trong chính sách 'cây gậy và củ cà-rốt trong quan hệ
Mỹ - Việt và chiếm một 'tỷ lệ' nhỏ, trong khi 'thế chiến lược' giữa hai
nước quan trọng hơn, theo một nhà quan sát thời sự, chính trị Việt Nam
từ Nhật Bản.
danlambaovn.blogspot.com
Liên Minh Việt – Mỹ, không thể khác!
Bùi Quang Vơm (Danlambao)
19-5-2016
1- Đồng bằng sông Cửu Long đã khô kiệt. Nhiễm mặn theo những con sông đã lấn sâu vào đất liền 90 km. Gần 90% lúa và hoa mầu trên toàn bộ đồng bằng sẽ mất trắng. Hơn 20 triệu con người đang bị đói và khát từng ngày. Việt Nam đang từ quốc gia đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, đang có nguy cơ phải nhập gạo cứu đói. Nền đất tiếp tục lún sụt, ngày càng xuống thấp. Nước biển thâm nhập ngày càng sâu trong nội địa. Hơn 10% đất trồng lúa của cả nước sẽ trở thành đất phi canh tác. Hơn 20 triệu con người đang bị đe dọa không còn nguồn sống. Sẽ có cuộc di tản hướng tới các thành phố. Sẽ có bất ổn và rối loạn.
Đồng bằng sông Cửu Long đã chết. Không ai, không có biện pháp
nào cứu vãn được ngoài Trung Quốc. Chỉ có cách xả đủ nước
cho sông Mê kông, chỉ có cách trả lại lượng phù sa và lượng
cát như trước đây mới cứu được nạn khô kiệt, mới làm cho đất
toàn bộ đồng bằng ngừng lún sụt, và mới cứu được nạn xâm
mặn từ biển.
Giáo sư Marvin Ott, từ trường Johns Hopkins ở Hoa Kỳ, nói:
“Các con đập trên dòng Mekong có ý nghĩa chiến lược vì chúng cho phép
Trung Quốc quyền lực quyết định sự sống hay cái chết với các nền kinh tế
ở hạ nguồn trên cả vùng Đông Nam Á lục địa“.
Với 8 con đập khổng lồ đã xây, 5 con đập đang xây, và 7 con đập
khác nằm trong kế hoạch sẽ tiếp tục xây trên suốt chiều dài
2.200 km sông Lan Thương thuộc địa phận Trung Quốc, lưu lượng nước
sông Mêkông sẽ bị chặn lại trên đất Trung Quốc, dòng chảy trên
dòng sông Mê kông hòan toàn do các đập nước của Trung Quốc đóng
hay mở quyết định. Đồng bằng sông Cửu Long có thể sống hay
chết hòan toàn phụ thuộc vào ý chí của những người nắm quyền
ra lệnh Trung Quốc.
2- Đảo Chữ Thập có đường băng dài 3.250m m là đảo nhân tạo lớn
nhất khu vực Trường Sa do Trung Quốc kiểm soát, một đường băng
dài 2644m trên đảo đá Vành Khăn, nếu so với Trường sa lớn, thủ
đô của huyện đảoTrường sa Việt Nam, có chiều dài toàn đảo chưa
đến 600m, đường băng không qúa 500m, với tiềm lực quân sự vượt
rất xa Việt Nam trên toàn bộ bảy hòn đảo nhân tạo được bồi
đắp, cơi nới, khả năng khống chế và kiểm soát toàn bộ khu vực
Trường sa là không thể chối cãi. Trong tình huống chiến sự
xảy ra, Việt nam lập tức mất quyền kiểm soát đối với đảo
Trường Sa lớn ngay sau một loạt hoả lực áp đảo đầu tiên, tất
cả những gì Việt Nam có thể kháng cự không kéo dài quá một
giờ. Những đảo đá và những nhà giàn còn lại, Trung Quốc không
phải mất thêm súng đạn. Cùng với tên lửa chiến lược và tầu
ngầm hạt nhân của căn cứ hải quân Du Lâm trên đảo Hải Nam, vòng
cung Hoàng Sa và Trường Sa sẽ kiểm soát toàn bộ biển Đông.
Thực chất thì đến thời điểm này, Hoàng sa của Việt Nam đã
mất hẳn, Trường Sa không có cách gì giữ được. Biển sát bờ
thì chất thải từ các khu công nghiệp từ Quảng Ninh, Hải Phòng
xuống Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế có thể sẽ được sử dụng cho mục
đích xâm lược, sẽ đầu độc cá chết và môi trường sống của con
người bất cứ lúc nào, gây hoảng sợ, tạo ra rối loạn xã hội.
Biển xa bờ thì Trung Quốc chặn suốt vòng cung Hoàng Sa và
Trường Sa bằng tàu tuần duyên sẵn sàng bắt giữ và tịch thu ngư
cụ, phạt tiền, bằng lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương. Việt Nam
đã trở thành quốc gia không có biển.
3- Đất chết, biển mất, nội địa khắp các vùng hiểm yếu trên
cả nước, người Trung quốc chiếm giữ dưới danh nghĩa đầu tư 50
năm, 70 năm. Nếu kết hợp với khu vực Vũng Áng, Hà Tĩnh, Khu
nghỉ dưỡng trên đèo Hải Vân, Hội An, Đà Nẵng, khu du lịch Thưà
thiên Huế của các chủ đầu tư do chính quyền Trung Quốc trá hình
quản lý, cùng với vùng Tây nguyên với Bôxít Nhân cơ và Tân Rai,
thì toàn bộ miền Bắc Việt Nam bị cô lập và cách ly hòan
toàn.
Sau khi oanh tạc Hà Nội bằng hoả lực chiến lược, từ căn cứ tên
lửa Quảng Tây và căn cứ hải quân Du Lâm, đủ để cắt đứt mọi
liên lạc giữa Hà Nội với các quân khu, hơn 2 triệu bộ binh Trung
Quốc, ém sẵn từ hàng trăm km đường hầm, âm thầm chuẩn bị từ
sau cuộc chiến 1979, dọc suốt 1640 km biên giới phía Bắc, chỉ
trong vòng 3 tiếng, sẽ tràn ngập lãnh thổ. Biển Đông bị cách
ly. Tầu ngầm sẽ khép kín vịnh Bắc bộ từ căn cứ Du Lâm tới
Vũng Áng. Hoành Sơn bị kiểm soát. Toàn bộ Tây Nguyên bị khống
chế. Trong vòng ba ngày, toàn bộ miền bắc Việt Nam từ Nam Hà
Tĩnh trở lên lọt hòan toàn vào tay Trung Quốc. Không một sức
mạnh nào kịp can thiệp. Không một lực lượng nào có thể đảo
ngược tình huống. Trung Quốc sẽ tuyên bố với thế giới rằng
Trung Quốc thu hồi lãnh thổ chủ quyền theo Hiệp định Pháp Thanh
năm 1885, biên giới nước cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa kéo xuống
tới dãy Hoành Sơn, Hà Tĩnh.
4- Đó là một nguy cơ, một âm mưu được Trung Quốc chuẩn bị từ
rất lâu và thực hiện từng bước, không còn ai nghi ngờ, nhưng
không thể ngăn chặn. Một câu hỏi được đặt ra với mỗi người dân
Việt, là phải làm gì, làm như thế nào hay ngồi nhìn đất nước
từng tí một đang mất dần từng ngày vào tay Trung Quốc? Với
tiềm lực quân sự không bằng một phần hai mươi, Việt Nam không
thể tự bảo vệ. Nếu phải hy sinh phát triển kinh tế, giành hết
phần ngân sách quá sức cho quốc phòng, thì Việt Nam chỉ vài
năm cũng sẽ chết do tự sụp đổ. Việt Nam cần hòa bình, Việt Nam
muốn có hòa bình và của cải tài lực tập trung cho phát triển
kinh tế, để nhanh chóng thành một quốc gia hùng cường. Nhưng
Việt Nam cần một sức mạnh hạt nhân, một sức mạnh quân sự đủ
để răn đe và đối diện với sức mạnh dã tâm của Trung Quốc. Như
Nhật Bản, như Nam Hàn, như Đài Loan, và như Philipinnes, không có
con đường nào khác là liên minh với Mỹ. Và cũng vì có Mỹ, có
sự có mặt của Mỹ trong quan hệ với Việt Nam, với vai trò
người bảo vệ tự do trên toàn thế giới mà chiến tranh xâm lược
còn chưa diễn ra, còn phải chờ thời.
– Ngày 2/9/1945, ngay sau Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh,
diễn văn tiếp theo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Mỹ là nước
dân chủ, không có tham vọng về đất đai mà lại có công nhất trong việc
đánh bại kẻ thù của ta… nên ta coi Mỹ như một người bạn tốt”, theo tư
liệu Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Tập 1 (1945—1955), NXB Chính trị Quốc
gia.
– Trải bao thăng trầm trong quan hệ đầy khó khăn giữa hai nước,
ông John Kerry không che dấu sự xúc động: “Không ai có thể tưởng tượng
nổi Hoa Kỳ và Việt Nam bắt tay cùng mười quốc gia khác để đạt được một
cơ hội giao thương vô giá”, ông nói về Hiệp định TPP như thế.
– Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden khi chủ trì tiệc chiêu đãi Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng , đã lẩy hai câu Kiều đầy ý nghĩa, chân
thành như hai người thân quen:
“Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”.
– Người Mỹ đã sẵn sàng, chỉ còn đợi một thiện chí, một
quyết tâm từ phía Việt Nam, để dứt khoát đi cùng đường vì một
nền hòa bình, ổn định cho khu vực, vì một nền tự do hàng hải
phục vụ lợi ích của mỗi quốc gia, vì một thế giới bình
đẳng, tôn trọng chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải phù hợp với
luật pháp quốc tế, chống lại một cách hiệu quả mọi ý đồ và
hành vi bành trướng nước lớn, tham lam và ích kỷ, trong quan
hệ quốc tế.
5- Trước một Trung Quốc không che đậy dã tâm xâm lược và bành
trướng lãnh thổ. Trước một Trung Quốc luôn chủ trương một chính
sách thù địch với toàn bộ phần còn lại của thế giới, thèm
khát mộng bá chủ siêu cường, Việt Nam không thể cứ giữ quan
điểm làm bạn với tất cả. Trong khi Trung Quốc cố thủ chủ
trương đối đầu và giành giật ngôi bá chủ thế giới với Mỹ,
nếu lệnh cấm vận vũ khí sát thương được dỡ bỏ, những vũ khí
tối tân mà Mỹ giúp Việt Nam, có khả năng lọt vào tay Trung
Quốc thông qua cơ chế láng giềng hữu nghị Trung – Việt. Đấy là
điều không thể chấp nhận đối với lợi ích của Mỹ.
6- Một chính phủ Việt Nam chưa thực sự dân chủ, quyền quyết
định tối cao vẫn nằm trong tay một số ít nhà lãnh đạo, đó là
nguy cơ rủi ro, là tính bất ổn định, tính dễ thay đổi, khó
đoán trước của chính sách, là điều không phù hợp đối với một
Hiệp định An ninh cao cấp luôn mang tính nhạy cảm. Vì vậy, cho
dù không thay đổi thể chế chính trị, lập trường chính trị
không thể không dứt khoát giữa hòa bình, phát triển và sinh
mệnh quốc gia. Cho dù thể chế chính trị có thể khác biệt,
nhưng bạn và thù là lập trường phải được thống nhất. Không
thể cùng lúc là bạn với tất cả các phía đối kháng. Không
đối đầu với bất cứ ai, không là kẻ thù của ai, nhưng bạn thì
không thể là với tất cả. Với truyền thống nhân văn 4000 năm,
người Việt Nam yêu tự do và trân trọng tự do của mọi dân tộc.
Chính phủ Việt Nam cam kết thả ngay lập tức, vô điều kiện và
triệt để các tù nhân chính trị, từng bước khắc phục tình
trạng cảnh sát hoá chế độ hiện tại, cùng với các cải cách
theo hướng dân chủ khác.
7- Việt Nam là một nước yêu hòa bình. Việt nam không chủ trương
gây chiến tranh với bất cứ ai. Việt Nam không liên minh với người
này để chống người khác. Việt Nam không liên minh với bất kỳ
nước nào để chống lại nước thứ ba, nhưng Việt Nam có quyền và
Việt Nam cần liên minh với những sức mạnh chính đáng để tự
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia. Trước nguy cơ
mất chủ quyền biển đảo và nguy cơ mất nước vào tay chủ nghĩa
bành trướng, Việt Nam cần một Hiệp định an ninh chung với Mỹ.
Đó là một nhu cầu thiết yếu và phù hợp với hoàn cảnh và
nguyện vọng của nhân dân Việt Nam.
8- Mỹ là nước không có tham vọng lãnh thổ và không có truyền
thống xâm lược và nô dịch dân tộc khác. Nước Mỹ có lợi ích
gắn với chủ quyền của từng dân tộc và tự do trên toàn thế
giới. Nước Mỹ là nước duy nhất hiện nay quan tâm và tự chịu
trách nhiệm với nền hòa bình ổn định vì phát triển và thịnh
vượng của mỗi nước. Nước Mỹ hiện là nước duy nhất trên thế
giới có mối quan tâm và tự có trách nhiệm bảo vệ tự do toàn
cầu. Nước Mỹ là quốc gia duy nhất có sức mạnh kinh tế và
quốc phòng đủ để trấn áp mọi tham vọng phi lý, mọi hành vi vi
phạm luật pháp quốc tế.
9- Trung Quốc biết điều đó. Trung quốc biết rất rõ rằng Mỹ là
người duy nhất và đang là người nguy hiểm nhất đối với âm mưu
độc chiếm biển Đông của Trung Quốc. Một Hiệp định An ninh chung
giữa Việt Nam và Mỹ sẽ là lưỡi gươm cắt đứt cái lưỡi bò tham
vọng ngông cuồng nhưng ngu dốt của Trung Quốc. Bằng các thủ
đoạn, vừa tung con bài hữu nghị láng giềng vừa uy hiếp trừng
phạt kinh tế, vừa chặn nước gây hạn và nạn đói cho đồng bằng
sông Cửu Long, vừa cho Formosa và thuyền đánh cá thả, xả hóa
chất độc làm chết cá suốt bờ biển bốn tỉnh miền Trung, vừa
đe dọa bằng âm mưu gây bạo loạn lật đổ chế độ nếu theo Mỹ.
Nhưng Trung Quốc đã sai. Cách xử sự thâm độc và hèn hạ đã làm
thức tỉnh những cái đầu còn lú lẫn cuối cùng trong những
nhà lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam, đẩy những người này tới
quyết tâm nhượng bộ Mỹ để đạt bằng được một Hiệp định hợp
tác toàn diện thực sự với chính phủ Mỹ, bắt đầu bằng việc
dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương.
9- Mỹ tuyên bố dỡ bõ lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt
Nam và cam kết hỗ trợ Việt Nam trong cố gắng bảo vệ chủ quyền
chính đáng và hợp pháp của mình.
10- Dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương biểu hiện lòng tin
chiến lược giữa hai nước cựu thù Việt – Mỹ, là cản trở cuối
cùng để hai nước tiến tới Hiệp định đối tác toàn diện, tạo
điều kiện để hai nước phát triển đồng đều các mối quan hệ
tương quan, tiến tới nhất thể hoá các khác biệt về thể chế
chính trị và các đặc điểm về nhân quyền.
11- Chúng ta không chống nhân dân Trung Quốc. Nhưng một chính sách
gắn kết với Trung Quốc chỉ có thể thực hiện với một Trung
Quốc dân chủ, ủng hộ hòa bình, tôn trọng chủ quyền của quốc
gia láng giềng. Chúng ta sẽ cùng nhân loại và cùng nhân dân
Trung Quốc đấu tranh để Trung Quốc trở thành một siêu cường dân
chủ, giàu có và xứng đáng. Chủ nghĩa bành trướng lãnh thổ
lạc hậu, chủ nghĩa Đại Hán ích kỷ sẽ bị tiêu diệt cùng với
sự hoàn thiện nền dân chủ và chủ nghĩa nhân văn hiện đại.
Người Việt Nam và người Trung quốc sẽ sống mãi trong một nền
hòa bình thịnh vượng chung. Cương giới lãnh địa sẽ không còn là
giới hạn ngăn cách hai dân tộc rất gần nhau về truyền thống
văn hóa và cũng như những gắn kết với các dân tộc Bách Việt
anh em. Không có độc đảng, không có chủ nghĩa Mác, chỉ có
quyền tự do, hòa bình và thịnh vượng.
12- Việt Nam quyết tâm bằng mọi giá liên minh với Mỹ và cùng
với Mỹ từng bước hoàn thiện đưa quan hệ hai nước thành mẫu mực
cho mối quan hệ nhân văn hiện đại
__._,_.___HAN PHAN * NGƯỜI VIỆT HÈN HẠ
“Người việt nam hèn hạ” -
Một đoản văn làm sôi mạng xã hội
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2016-05-21
2016-05-21
Trang mạng xã hội lại một lần nữa dậy sóng bởi bài viết ngắn của một cô
gái rất trẻ nói về thực trạng đời sống xã hội cũng như tâm tính, văn
hóa, thói quen ứng xử của người Việt Nam mà dưới ánh mắt của cô nó đáng
được gọi là hèn hạ cùng với hai chữ Việt Nam không được viết hoa.
Thuyết phục
Bài viết dài nhưng thuyết phục và rất dễ gây tranh cãi nếu người đọc nó
với tư duy của những năm tháng mà đất nước được tô đầy những màu hồng
rực rỡ. Màu của chiến thắng, màu của lòng tự hào dân tộc, màu của cường
điệu và đôi khi tự cho phép vượt cả sự thật để xoa bóp cơ bắp teo tóp
của mình về mọi thứ, kể cả lòng nhân đạo và sự tự trọng cần thiết.
Bài viết có tên: “Người việt nam hèn hạ”, bắt đầu bằng một mệnh đề ngắn nhưng với sức mạnh của một trái bộc phá:
“Bài viết này sẽ không có một chữ việt nam nào được viết hoa. Bởi chúng
ta có xứng đáng được trân trọng như vậy không? Không hề.”
Lần lượt từng vấn đề một, tác giả bảy ra dưới ánh sáng của chiếc đèn
giải phẩu. Cô soi rọi những góc ẩn mà không ai muốn nhắc tới. Trước
nhất, Hân Phan viết về thế hệ của cô, những người lớn lên 40 năm sau khi
đất nước gom vể một mối:
“Gần 40 năm thống nhất, việt nam có hơn gì thời chiến ngoài đống xe máy
chạy đầy đường… trong túi ai cũng có một cái điện thoại di động? Dù nhà ở
không có, đất đai không có, bảo hiểm không có, tương lai cho con cái
không có… nhưng bia rượu chảy tràn lan mỗi ngày trong quán nhậu. Người
ta được ru giấc suốt 40 năm bằng niềm ước mơ cháy bỏng “cơm no, áo ấm.”
Hạnh phúc chỉ thế thôi! Muốn hạnh phúc hơn thì hãy làm giàu, làm giàu,
làm giàu! “Doanh nhân là chiến sĩ thời bình.” Cứt! Tôi ỉa vào cái khẩu
hiệu sặc mùi con buôn, đầy phân chợ trời đó! Tiếng súng không còn nổ
ngoài đường.
Một cuộc chiến khác đậm chất mafia, côn đồ, đảo Sicily chắc còn phải
chào thua nhà cầm quyền việt nam trước khả năng dùng “luật im lặng” của
họ với dân mình. Cuộc chiến đó là rình mò, là theo dõi, là cấm cản, là
kiểm duyệt, là vu cáo, là bắt bớ, là dùi cui, là tù đày, là chết không
lý do, là bị bịt miệng tại tòa, là con cháu theo lời lãnh đạo cầm gậy
gộc ra ngoài đồng ức hiếp ông bà cha mẹ chòm xóm của mình vì họ đang giữ
đất.
Trong khi họ giữ đất cho ai? Những đứa thanh niên đó nó đang nghĩ gì khi
quay lưng lại với dân tộc mình? Ðơn giản thôi. Nó tin rằng nếu trung
thành với cái thể chế mà nó đang phục vụ, thể chế đó sẽ cho nó công việc
ổn định, đặc quyền, đặc lợi hơn người. Vậy là nó nhắm mắt làm theo, coi
nhân dân là cỏ rác, cũng vì lợi ích cá nhân … gia đình nó- nếu nó có
nghĩ tới. Chứ ngoài ra, liệu còn cái lý tưởng cao đẹp nào có thể tin vào
lúc này? Ðừng nói với tôi là “lý tưởng Hồ Chí Minh” hay “lý tưởng cộng
sản” nhé! Hỏi những đứa mặc áo xanh cán bộ đoàn thử xem, nó nói có trôi
chảy không? Tôi đã thử rồi, rốt cuộc là ngồi im nghe tôi nói huyên
thuyên toàn những điều mà trường học gọi là “phản động.”
Đọc tới đây chắc nhiều người trong chúng ta vẫn cho rằng cô gái này
đang nói ai đấy chứ không phải mình….nhưng khoan đã, hãy bình tỉnh với
những giòng kế tiếp. Tôi chắc rằng trong đó sẽ có chúng ta, kể cả tôi,
người đang đọc thật kỹ từng con chữ để mong tìm ra có gì quá đà trong
bài viết này không, thế nhưng tôi chỉ thấy mình là một cá nhân trong đám
người khổ sở, sợ sệt, yếu ớt.
“Cuộc chiến này được khoác lên chiếc áo bảo vệ hòa bình, tự do, hạnh
phúc. Còn bên trong là để bảo vệ quyền lợi, quyền lực cho một nhóm người
gắn kết với nhau bằng những chiếc răng cùng gặm vào xương máu người
nghèo, người thất học, người bán buôn lương thiện hàng ngày. Những người
mỗi ngày chỉ biết tạ ơn trời phật đã cho chúng con một ngày yên ổn làm
ăn, không bị cán bộ thuế đến nhũng nhiễu, không bị CSGT thổi phạt kiếm
ăn, không bị đội dân phòng rượt đuổi, không bị ông chủ đẩy vào toa-lét
để sờ soạng, không bị cắt tiền tăng ca, không bị cho ăn cơm thiu ngộ
độc, không bị bệnh đột ngột phải vào bệnh viện nằm gầm giường chờ chết…
Thế là cái dân tộc đầy sợ sệt, bất an đó cuống cuồng kiếm tiền, cuống
cuồng vơ chỗ này, cấu chỗ kia để lo cho cái thân mình. Họ còn biết làm
gì nữa?
Và khi họ chăm chắm vào tiền và sự yên ổn cho mình, họ để mặc cho một
bọn ác khác lên ngôi, bọn này là sản phẩm của công thức: Bên trên, chúng
nhìn thấy cách hành xử của một chính quyền côn đồ, có tiền là ra luật +
Bên cạnh, chúng nhìn thấy những con người thờ ơ với người khác, chỉ còn
biết nghĩ tới mình + Bên dưới, chúng nhận ra một đám người khổ sở, sợ
sệt, yếu ớt = Chúng chợt nhận ra chúng có khả năng luồn cúi bên trên,
tránh né bên cạnh… ức hiếp bên dưới.”
Tác giả bài viết này là Hân Phan, cô sinh năm 1979, tốt nghiệp Luật,
đang là Giám đốc của 1 cty Truyền thông ở Sài Gòn. Sau một lúc vẽ ra
khung cảnh thật đang xảy ra chung quanh mình, tác giả lặng lẽ than thở:
“Sao mà tôi sợ bọn người đó như thế?”
Bọn đó tập trung vào các cơ quan công quyền, làm quản lý, làm công an, làm công chức,… làm “đầy tớ” của nhân dân!
Bọn công bộc đó đã cùng nhau đẩy những cụ già bỏ quê bỏ xứ, lên Sài Gòn
ngồi vạ vật dầm mưa dãi nắng suốt ngày đêm, ngày này qua tháng nọ để kêu
oan.
Tôi sợ bọn chúng vì bọn chúng đông quá, đông như kiến cỏ. Chúng nhan
nhản khắp nơi, ngày ngày bóp chết mọi ước mơ, triệt tiêu mọi khao khát,
thêm sự dốt nát của chúng vào nữa là hoàn hảo để tạo ra một nền kinh tế
xã hội thụt lùi đến chóng mặt, quay cuồng trong dối trá và danh lợi.
Ðáng sợ hơn, cuộc sống ấm êm no đủ của chúng nhờ vào tính cơ hội – thu
vén lại là sự thèm khát của những tầng lớp khác. Khiến cho những con
thiêu thân non trẻ khác lao vào như một cơ hội ngàn vàng.
Bọn này tiếp tay cho bọn con buôn cũng lưu manh không kém. Thế là chúng
ta ăn thức ăn có độc mỗi ngày, con cháu chúng ta uống sữa độc mỗi ngày,
chúng ta đi trên những con đường hiểm họa mỗi ngày, chúng ta tiêu dùng
những gì chúng mang tới, chúng ban phát, với giá mà chúng ấn định, với
mức thuế mà chúng muốn,… không còn một lựa chọn nào khác. Không biết làm
gì khác, không có phản ứng gì khác! Vì chúng ta lương thiện.
Tôi nghĩ đến bọn này khi tôi đọc tin về tên bác sĩ lợi dụng lúc mẹ của
bệnh nhi đi lấy giấy xét nghiệm, hắn hãm hiếp đứa bé mới 3 tuổi.
Tôi đọc tin ông bà chủ đánh trẻ làm công đến thương tật.
Tôi đọc tin một gã thanh niên có học chặt chém bạn gái mình thành từng khúc chỉ vì một chiếc xe máy và chút ít tài sản.
Tôi đọc tin bọn chủ… lơ xe vứt xác hành khách bị lèn chết giữa đường mà cả xe không ai phản ứng.
Tôi đọc tin nữ sinh phải ngủ với thầy giáo để được điểm tốt.
Tôi đọc tin người đi đường bị cướp, may mắn giật lại được túi tiền,
nhưng túi rách, tiền bay ra, xung quanh thiên hạ xúm lại nhặt, nhưng
không phải nhặt giúp, mà nhặt hết đi không chừa lại đồng nào. Thay vì bị
1 đứa cướp, anh ta bị cả con đường đè ra mà cướp… Còn rất nhiều tin.
Một dân tộc gì mà độc ác và hèn hạ thế? Dĩ nhiên không chỉ có mình tôi biết đau đớn vì những điều đó.”
Còn văn chương xã hội chủ nghĩa thì sao? Hân Phan không ngại chút nào
khi lôi ra từng cuốn sách đóng mốc lên meo của chủ thuyết văn chương
phải đạo, hay văn chương than khóc, cho chúng ta nhìn ngắm:
Chúng ta có cả một thứ to tát mà tôi tạm gọi là “nền văn chương than khóc.”
Trong những tác phẩm thi ca xuất bản từ khoảng 20 năm trở lại đây, tôi
không dám nói mình đọc nhiều hay nghe nhiều, nhưng tôi cố gắng đọc,
nghe, cố gắng tìm tòi, cố gắng tìm kiếm một tác phẩm nó xứng đáng làm
cho tôi thấy dân tộc việt nam của tôi thực sự là “cần cù, nhân hậu,
thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” một cách
đúng nghĩa.
– Loại mờ nhạt, rẻ tiền, xúc cảm vu vơ, vụn vặt, vô thưởng vô phạt.
– Loại có trăn trở, có suy tư, nhưng toàn đau đáu những nồi niềm xưa cũ, tương lai chả biết phải vứt đi đâu và vứt cho ai?
– Loại mạnh mẽ hơn, trực diện hơn, nhưng tầm vóc tác phẩm chỉ ở mức gẩy lên 1 tiếng đàn, rồi thôi!
Tinh thần chúng ta đang được nuôi dưỡng bằng những thứ chỉ đến mức đó thôi.”
Nút thắt của những điều mà tác giả vừa nói phải chăng chỉ do mô hình
sai lầm là chủ nghĩa cộng sản hay do sự dung túng, lộng hành và tiếm
quyền của người cộng sản? hay do xã hội đang run sợ trước họng súng đến
nỗi không còn một phản ứng nào đáng được gọi là con người? Hân Phan
thẳng thắn chỉ ra, chỉ một phần thôi, tuy rất lớn, và tất cả người Việt
phải nhìn thấy trách nhiệm ấy thuộc về mình, từng người một. Tác giả
viết:
“Vậy cái gì đã gây nên nông nỗi? Tôi không muốn tạo ra sự hiểu lầm là cái gì cũng do lỗi cộng sản.
Nhiều người rất cực đoan, nói ra cái gì sai, họ cũng đổ vấy hết cho cộng
sản. Nhưng cộng sản tệ đến thế mà cai trị được chúng ta đến ngày giờ
này, thì chúng ta cũng tệ không kém!
Tôi chỉ nghĩ đến một điều, cái gì đã làm cộng sản tồn tại lâu như thế?
Ngoài sự cấu kết quyền lực-quyền lợi để cùng bảo vệ lẫn nhau, cộng sản
đã làm gì để chúng ta thành ra một dân tộc việt nam hèn hạ tự trên xuống
dưới, từ già tới trẻ như ngày hôm nay? Ngoài sự mafia, côn đồ, trấn áp
bằng sợ hãi, giáo dục một cách ngu dân ra, chúng còn làm gì nữa?”
Là một người tốt nghiệp trường luật, Hân Phan hiểu rõ mình đang nói
gì khi chứng minh rằng đạo đức hỗ trợ pháp luật trong những ngóc ngách
mà pháp luật không thể vói tới. Đạo đức, tiếc thay đã biến dạng thành
khuôn mặt tươi cười của ác quỷ.
“Ai từng học luật đều biết, khi quy phạm pháp luật không điều chỉnh
được, thì hành vi con người sẽ phải điều chỉnh bởi quy phạm đạo đức.
Pháp luật không theo con người lên giường, vào toa-lét, xuống bếp. Nhưng
đạo đức theo ta khắp nơi, tận trong ngõ ngách tâm hồn. Pháp luật cũng
không ép tạo ra đạo đức. Chính sự vô thần vô thánh, không thừa nhận đức
tin mà cộng sản triệt để nhồi nhét từ khi họ nắm được dân tộc này đã hun
đúc ra những con người sẵn sàng bán thịt thối cho người ta ăn, đút sữa
độc vào miệng con nít, chém mẹ ruột, giết con đẻ, …Vì những người này họ
không sợ, hoặc họ tin rằng họ sẽ tránh được sự trừng trị của pháp luật.
Khi pháp luật không trị được mà người ta không sợ luân hồi, không sợ
quả báo, không sợ bị đày xuống địa ngục… thì họ còn sợ gì nữa? Việc gì
mà họ không dám làm?”
Tác giả hỏi mình mà sức mạnh của nó làm cho hầu hết chúng ta phải thổn thức, tác giả viết: “Tôi
có cảm giác như mình đang sống giữa một bầy đàn hỗn loạn nhưng hoang
vu, hỗn loạn về vật chất – nhưng hoang vu về tinh thần. Bạn có thấy như
thế không?”
Và bây giờ là chúng ta, tất cả chúng ta, những người có trách nhiệm
với ngôi nhà mang tên Việt Nam nhưng đang giương mắt nhìn ngoại bang cấu
kết với bọn lãnh đạo làm mất dần đất nước, hay ít ra mất hẳn cái gọi là
lòng yêu nước, vốn luôn bị lợi dụng trong các cuộc chiến tranh “thần
thánh”.
“Mặt phải, chúng ta ra rả trên báo mỗi ngày là “Mỹ đã đến biển Ðông,”
“bà Hillary dọa TQ không nên gây hấn,”… để mong lòng dân yên ổn. Mặt
trái, chúng ta tổ chức ngày hội gặp gỡ những lớp cán bộ đã từng được Tàu
đào tạo để cám ơn họ đã “dạy dỗ” cả đám chóp bu việt nam. “Ðĩ” chưa
từng thấy! Chưa có cái chính quyền nào mà “đĩ” như chính quyền việt nam
hiện tại. Dựa hơi mà cũng không biết dựa hẳn bên nào cho trót. Lá mặt lá
trái như thế bảo sao quốc tế nó không khinh?
Còn dân việt nam thì sao? Dám cầm súng đánh TQ hay đánh bất cứ thằng nào
xâm lược việt nam nữa không? Mà cầm súng để làm gì? Kết quả của gần 40
năm độc lập, ai cũng thấy cả rồi, không cần nói nữa.
Và cả bọn hèn hạ chúng ta đang ôm lấy nhau, hồi hộp chờ đợi hồi chuông báo tử.”
Hân Phan thố lộ với chúng tôi bài viết đã xuất hiện cách đây nhiều
năm, và mỗi lần nó ồn ào trở lại thì một lần gây tranh cãi. Cô cũng có ý
định sửa lại nó nhưng sau vài năm sự mong muốn ngày một nhạt dần vì
không có một dấu hiệu nào cho thấy một chút hy vọng, dù mong manh có thể
thay đổi xã hội và con người Việt Nam.
“Thật ra nếu mà cháu sửa thì cái ý nó sẽ khác đi một chút chứ không phải
là sửa từ ngữ, vì bài đó rất dài mà lúc đó còn lãng mạn, còn kỳ vọng
nhiều thứ lắm nhưng bây giờ thực sự nó khó làm cho người ta hy vọng. Khi
viết thì ý tứ bài đó nó có thể khác đi một chút.”
Khi được hỏi phản ứng của người đọc ra sao trước bài viết nặng ký như vậy, Hân cho biết:
“Trời ơi, người ta khen thì cũng có khen nhưng người ta vào người ta
chửi cháu không còn gì hết! Nhưng cháu không có phản hồi ai hết vì những
gì muốn nói thì mình đã nói hết rồi. Mình viết bài đó không phải để
tranh luận, nếu có người suy nghĩ khác người ta không đồng ý họ chửi
mình là thiếu giáo dục, không có tinh thần dân tộc…nhưng cháu nghĩ không
cần thiết tranh luận với những người đó. Chuyện người ta nghĩ khác mình
thì cũng là chuyện bình thường.
Hơn nữa thực ra cháu nghĩ là mình bị theo dõi lâu rồi, trong inbox hay
trong mail cháu vẫn để đó cho họ đọc vì họ càng đọc thì càng thấy mình
không có động cơ gì xấu hết mà mình chỉ muốn cho xã hội tốt hơn thôi nên
kệ họ. Cháu có rất nhiều bạn bè làm an ninh làm này làm kia nhưng cháu
vẫn coi mỗi người một con đường, mỗi người một chí hướng thì họ làm gì
họ làm còn mình cũng không có ý nghĩ hằn học hay cái gì cũng đổ cho cộng
sản…cho nên cháu không sợ. Việc gì phải sợ, sợ thì mình đã không viết
rồi.”
Đóng bài giới thiệu này lại tôi nhận ra thêm một điều nữa về mình:
Suốt cả bài viết mặc dù tác giả không hể viết hoa hai chữ Việt Nam,
nhưng tôi lại thiếu can đảm để làm điều ấy. Có một cảm giác mong manh
nào đó vẫn thiêng liêng lắm trong tiềm thức của tôi mặc dù biết rằng
chính mình không xứng đáng để viết hoa hai chữ Việt Nam nữa.
HOÀNG NGỌC TUẤN * CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Hoàng Ngọc-Tuấn (11.18.2013)
Ngày 23/10/2013 vừa rồi, ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố trước Quốc Hội: “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.” Câu nói của ông Trọng đã gây nên một làn sóng dư luận đầy phẫn nộ và chua chát, bởi nó hàm ý rằng nhân dân Việt Nam phải tiếp tục chịu đựng và hy sinh “tất cả vì chủ nghĩa xã hội” thêm một trăm năm nữa, thậm chí đến lúc đó thì cũng chưa chắc đã có kết quả gì!
http://tuoitre.vn/chinh-tri-xa-hoi/576098/du-thao-chua-vang-vong-nhu-loi-hieu-trieu.html
Ngay sau khi đọc câu nói đó của ông Trọng trên báo Tuổi Trẻ, tôi không thể nín cười, vì thấy cái trò hứa hẹn hão của Đảng CSVN giờ đây đã đi tới mức tận cùng của sự lố bịch.
“Chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” là cái quái gì vậy?
Nó chưa từng có trên đời này, nên chẳng ai có thể biết nó là cái quái gì, ngoại trừ những hình ảnh do Marx và Engels tưởng tượng và viết ra trong mấy cuốn sách cách đây gần hai thế kỷ. Tuy nhiên, có lẽ cho đến nay đại đa số người trên thế giới đều đã biết rõ rằng những hình ảnh tưởng tượng đó đã làm tiêu phí hàng trăm triệu sinh mạng trong nhân loại.
Từ những năm 20 của thế kỷ trước, Stalin đã không ngừng hứa hẹn với nhân dân Liên Xô về những hình ảnh của một “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” trong tưởng tượng; và để biến những hình ảnh tưởng tượng đó thành hiện thực, Stalin đã tịch thu tài sản, ruộng đất của hàng chục triệu người, đã bắt bớ, giam cầm, đày ải hàng chục triệu người, đã giết hàng chục triệu người, và đã đẩy gần 170 triệu người vào một cuộc sống khốn cùng. Sau khi Stalin chết (1953), Nikita Khrushchev lên thay thế và tiết lộ một phần của những tội ác ngút trời của Stalin, nhưng chính Khrushchev vẫn tiếp tục hứa hẹn với nhân dân Liên Xô về một “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”. Rồi cứ thế, các lãnh tụ tiếp theo vẫn tiếp tục lải nhải cái điệp khúc “xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” cho đến khi Liên Xô hoàn toàn sụp đổ vào năm 1991.
Ở Trung Quốc cũng vậy. Suốt hơn 60 năm nay, nhân dân Trung Quốc vẫn phải luôn luôn nghe cái điệp khúc “xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”, và chỉ riêng dưới thời Mao Trạch Đông thì đã có gần 70 triệu người phải chết oan để lót đường cho cái “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” ấy. Và đến bây giờ thì Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn cho rằng Trung Quốc chỉ mới xây dựng “những bước đầu tiên” của “chủ nghĩa xã hội”, nghĩa là chưa biết đến chừng nào mới có được một cái gọi là “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”!
Không chỉ ở những nước lớn như Liên Xô hay Trung Quốc, mà cả ở một nước cộng sản nhỏ bé và nghèo đói triền miên, như Cuba chẳng hạn, nhân dân cũng phải luôn luôn nghe cái điệp khúc quái ác đó. Trước khi Liên Xô sụp đổ, Chủ tịch Fidel Castro của Cuba vừa không ngừng ngửa tay nhận viện trợ của Liên Xô, vừa không ngừng gáy vang cái khẩu hiệu “xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”, làm ra vẻ như đó không phải một ảo ảnh, nhưng là một thực tế trước mắt, dù năm 1970 ông ta đã phải thú nhận sự thất bại thảm hại về kinh tế của Cuba. Thế rồi, năm 1991 Liên Xô sụp đổ, và chỉ 2 năm sau đó, chính Fidel Castro lại tuyên bố vào ngày 26/7/1993: “Hôm nay chúng ta không thể nói về cái chủ nghĩa xã hội tinh tuyền, lý tưởng, hoàn thiện mà chúng ta mơ ước, bởi vì cuộc sống bắt buộc chúng ta phải thoái bộ.”
Thì ra, khi Cuba còn nhận viện trợ của Liên Xô thì Fidel Castro làm ra vẻ như cái “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” đang trở thành hiện thực, nhưng khi Liên Xô sụp đổ và Cuba bắt đầu đói, thì cái “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” ấy lại chỉ còn là một… giấc mơ!
Một năm sau đó, năm 1994, Cuba bắt đầu lâm vào cảnh khốn đốn. Em ruột của Fidel là Raúl Castro, lúc đó là bộ trưởng quốc phòng, tuyên bố: “Sự đe doạ chính yếu không phải là những khẩu súng của Mỹ, mà là những hạt đậu — những hạt đậu mà dân Cuba không thể có để ăn”.
A ha, khi đói thì cũng phải dẹp luôn cả cái giấc mơ “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”! Nhưng ai đã đẩy dân Cuba vào cảnh khốn cùng, không có đậu để ăn? Tất nhiên Fidel và Raúl Castro cũng như toàn Đảng không hề thú nhận rằng chính họ là thủ phạm. Họ đổ lỗi cho một thủ phạm vô cùng mơ hồ: thủ phạm đó là… “cuộc sống”, như lời tuyên bố của Fidel năm 1993: “… cuộc sống bắt buộc chúng ta phải thoái bộ.”
Sau đó, tình trạng kinh tế của Cuba càng lúc càng trở nên tệ hại, và đến năm 2008 thì Fidel Castro… chạy làng, nhường ghế Chủ tịch lại cho Raúl Castro. Tháng 12/2010, Raúl Castro tuyên bố trước Quốc Hội: “Chúng ta đang dẫm bước lên một con đường mà con đường đó chạy dọc theo một bờ vực thẳm; chúng ta phải chỉnh đốn lại tình trạng này ngay bây giờ, nếu không thì quá trễ và chúng ta sẽ rơi xuống vực thẳm.”
Điều khôi hài lố bịch là Raúl Castro cố làm ra vẻ rằng cái “con đường chạy dọc theo bờ vực thẳm” ấy là do một thứ thiên tai vô hình và huyền bí nào đó thình lình tạo ra chứ không phải là do anh em nhà Castro và Đảng đã tạo ra sau suốt 50 năm cầm quyền. Trong tình trạng kinh tế khốn cùng, Raúl Castro kêu lên như vậy là để tự bào chữa cho việc chuyển hướng sang dạng thức kinh tế thị trường, cái dạng thức kinh tế tư bản chủ nghĩa mà suốt mấy mươi năm ròng rã Fidel Castro đã không ngừng chống lại và xem như là kẻ thù của “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”. Tiếp lời Raúl Castro, Ricardo Alarcón, Chủ tịch Quốc Hội, nói: “Vâng, Cuba sẽ mở cửa để đón nhận thị trường thế giới — đón nhận chủ nghĩa tư bản. Chúng ta sẽ ráng hết sức để duy trì chủ nghĩa xã hội, không phải là cái chủ nghĩa xã hội hoàn thiện mà tất cả chúng ta mơ ước, nhưng loại chủ nghĩa xã hội có thể có được ở đây, dưới những điều kiện mà chúng ta đang đối phó. Và chúng ta đã có sẵn những cơ chế thị trường ở Cuba.”
A ha, sau hơn 50 năm Castro và Đảng gáy vang về một “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”, rốt cuộc thì cái “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” ấy vẫn chỉ là một giấc mơ, rồi thậm chí họ không còn dám mơ cái giấc mơ ấy nữa, đành phải “ráng hết sức để duy trì” một thứ “chủ nghĩa xã hội” sống nhờ đường lối kinh tế tư bản!
Đó là chỉ mới nói đến sự thất bại ê chề của đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa, chứ chưa nói đến những hậu quả khủng khiếp khác. Thực trạng hiện nay ở mấy nước Cộng Sản cuối cùng trên thế giới cho thấy rằng, sau nhiều thập kỷ “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mọi phương diện của đời sống ở những nước đó đều trở nên càng ngày càng thảm hại, đạo đức càng ngày càng suy đồi, lương tâm càng ngày càng táng tận, những sự tham nhũng, thối nát, bất công, bạo ngược, áp bức, gian dối, lừa đảo càng ngày càng tăng nhanh. Nghĩa là, chỉ cần nhìn vào hiện trạng của những nước Cộng Sản hiện nay, thì một kẻ ngây dại nhất cũng có thể thấy ngay rằng cái hình ảnh của một “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” là một điều tuyệt đối bất khả.
Thế thì tại sao cho đến bây giờ các nhà cầm quyền của mấy nước Cộng Sản cuối cùng trên thế giới vẫn cố bám vào cái hình ảnh “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”? Liệu họ có thực tâm tin rằng “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” là cái mà họ sẽ có thể xây dựng được thành hiện thực?
Ngày 23/10/2013 vừa rồi, ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố trước Quốc Hội: “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.” Câu nói của ông Trọng đã gây nên một làn sóng dư luận đầy phẫn nộ và chua chát, bởi nó hàm ý rằng nhân dân Việt Nam phải tiếp tục chịu đựng và hy sinh “tất cả vì chủ nghĩa xã hội” thêm một trăm năm nữa, thậm chí đến lúc đó thì cũng chưa chắc đã có kết quả gì!
http://tuoitre.vn/chinh-tri-xa-hoi/576098/du-thao-chua-vang-vong-nhu-loi-hieu-trieu.html
Ngay sau khi đọc câu nói đó của ông Trọng trên báo Tuổi Trẻ, tôi không thể nín cười, vì thấy cái trò hứa hẹn hão của Đảng CSVN giờ đây đã đi tới mức tận cùng của sự lố bịch.
“Chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” là cái quái gì vậy?
Nó chưa từng có trên đời này, nên chẳng ai có thể biết nó là cái quái gì, ngoại trừ những hình ảnh do Marx và Engels tưởng tượng và viết ra trong mấy cuốn sách cách đây gần hai thế kỷ. Tuy nhiên, có lẽ cho đến nay đại đa số người trên thế giới đều đã biết rõ rằng những hình ảnh tưởng tượng đó đã làm tiêu phí hàng trăm triệu sinh mạng trong nhân loại.
Từ những năm 20 của thế kỷ trước, Stalin đã không ngừng hứa hẹn với nhân dân Liên Xô về những hình ảnh của một “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” trong tưởng tượng; và để biến những hình ảnh tưởng tượng đó thành hiện thực, Stalin đã tịch thu tài sản, ruộng đất của hàng chục triệu người, đã bắt bớ, giam cầm, đày ải hàng chục triệu người, đã giết hàng chục triệu người, và đã đẩy gần 170 triệu người vào một cuộc sống khốn cùng. Sau khi Stalin chết (1953), Nikita Khrushchev lên thay thế và tiết lộ một phần của những tội ác ngút trời của Stalin, nhưng chính Khrushchev vẫn tiếp tục hứa hẹn với nhân dân Liên Xô về một “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”. Rồi cứ thế, các lãnh tụ tiếp theo vẫn tiếp tục lải nhải cái điệp khúc “xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” cho đến khi Liên Xô hoàn toàn sụp đổ vào năm 1991.
Ở Trung Quốc cũng vậy. Suốt hơn 60 năm nay, nhân dân Trung Quốc vẫn phải luôn luôn nghe cái điệp khúc “xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”, và chỉ riêng dưới thời Mao Trạch Đông thì đã có gần 70 triệu người phải chết oan để lót đường cho cái “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” ấy. Và đến bây giờ thì Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn cho rằng Trung Quốc chỉ mới xây dựng “những bước đầu tiên” của “chủ nghĩa xã hội”, nghĩa là chưa biết đến chừng nào mới có được một cái gọi là “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”!
Không chỉ ở những nước lớn như Liên Xô hay Trung Quốc, mà cả ở một nước cộng sản nhỏ bé và nghèo đói triền miên, như Cuba chẳng hạn, nhân dân cũng phải luôn luôn nghe cái điệp khúc quái ác đó. Trước khi Liên Xô sụp đổ, Chủ tịch Fidel Castro của Cuba vừa không ngừng ngửa tay nhận viện trợ của Liên Xô, vừa không ngừng gáy vang cái khẩu hiệu “xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”, làm ra vẻ như đó không phải một ảo ảnh, nhưng là một thực tế trước mắt, dù năm 1970 ông ta đã phải thú nhận sự thất bại thảm hại về kinh tế của Cuba. Thế rồi, năm 1991 Liên Xô sụp đổ, và chỉ 2 năm sau đó, chính Fidel Castro lại tuyên bố vào ngày 26/7/1993: “Hôm nay chúng ta không thể nói về cái chủ nghĩa xã hội tinh tuyền, lý tưởng, hoàn thiện mà chúng ta mơ ước, bởi vì cuộc sống bắt buộc chúng ta phải thoái bộ.”
Thì ra, khi Cuba còn nhận viện trợ của Liên Xô thì Fidel Castro làm ra vẻ như cái “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” đang trở thành hiện thực, nhưng khi Liên Xô sụp đổ và Cuba bắt đầu đói, thì cái “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” ấy lại chỉ còn là một… giấc mơ!
Một năm sau đó, năm 1994, Cuba bắt đầu lâm vào cảnh khốn đốn. Em ruột của Fidel là Raúl Castro, lúc đó là bộ trưởng quốc phòng, tuyên bố: “Sự đe doạ chính yếu không phải là những khẩu súng của Mỹ, mà là những hạt đậu — những hạt đậu mà dân Cuba không thể có để ăn”.
A ha, khi đói thì cũng phải dẹp luôn cả cái giấc mơ “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”! Nhưng ai đã đẩy dân Cuba vào cảnh khốn cùng, không có đậu để ăn? Tất nhiên Fidel và Raúl Castro cũng như toàn Đảng không hề thú nhận rằng chính họ là thủ phạm. Họ đổ lỗi cho một thủ phạm vô cùng mơ hồ: thủ phạm đó là… “cuộc sống”, như lời tuyên bố của Fidel năm 1993: “… cuộc sống bắt buộc chúng ta phải thoái bộ.”
Sau đó, tình trạng kinh tế của Cuba càng lúc càng trở nên tệ hại, và đến năm 2008 thì Fidel Castro… chạy làng, nhường ghế Chủ tịch lại cho Raúl Castro. Tháng 12/2010, Raúl Castro tuyên bố trước Quốc Hội: “Chúng ta đang dẫm bước lên một con đường mà con đường đó chạy dọc theo một bờ vực thẳm; chúng ta phải chỉnh đốn lại tình trạng này ngay bây giờ, nếu không thì quá trễ và chúng ta sẽ rơi xuống vực thẳm.”
Điều khôi hài lố bịch là Raúl Castro cố làm ra vẻ rằng cái “con đường chạy dọc theo bờ vực thẳm” ấy là do một thứ thiên tai vô hình và huyền bí nào đó thình lình tạo ra chứ không phải là do anh em nhà Castro và Đảng đã tạo ra sau suốt 50 năm cầm quyền. Trong tình trạng kinh tế khốn cùng, Raúl Castro kêu lên như vậy là để tự bào chữa cho việc chuyển hướng sang dạng thức kinh tế thị trường, cái dạng thức kinh tế tư bản chủ nghĩa mà suốt mấy mươi năm ròng rã Fidel Castro đã không ngừng chống lại và xem như là kẻ thù của “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”. Tiếp lời Raúl Castro, Ricardo Alarcón, Chủ tịch Quốc Hội, nói: “Vâng, Cuba sẽ mở cửa để đón nhận thị trường thế giới — đón nhận chủ nghĩa tư bản. Chúng ta sẽ ráng hết sức để duy trì chủ nghĩa xã hội, không phải là cái chủ nghĩa xã hội hoàn thiện mà tất cả chúng ta mơ ước, nhưng loại chủ nghĩa xã hội có thể có được ở đây, dưới những điều kiện mà chúng ta đang đối phó. Và chúng ta đã có sẵn những cơ chế thị trường ở Cuba.”
A ha, sau hơn 50 năm Castro và Đảng gáy vang về một “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”, rốt cuộc thì cái “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” ấy vẫn chỉ là một giấc mơ, rồi thậm chí họ không còn dám mơ cái giấc mơ ấy nữa, đành phải “ráng hết sức để duy trì” một thứ “chủ nghĩa xã hội” sống nhờ đường lối kinh tế tư bản!
Đó là chỉ mới nói đến sự thất bại ê chề của đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa, chứ chưa nói đến những hậu quả khủng khiếp khác. Thực trạng hiện nay ở mấy nước Cộng Sản cuối cùng trên thế giới cho thấy rằng, sau nhiều thập kỷ “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, mọi phương diện của đời sống ở những nước đó đều trở nên càng ngày càng thảm hại, đạo đức càng ngày càng suy đồi, lương tâm càng ngày càng táng tận, những sự tham nhũng, thối nát, bất công, bạo ngược, áp bức, gian dối, lừa đảo càng ngày càng tăng nhanh. Nghĩa là, chỉ cần nhìn vào hiện trạng của những nước Cộng Sản hiện nay, thì một kẻ ngây dại nhất cũng có thể thấy ngay rằng cái hình ảnh của một “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” là một điều tuyệt đối bất khả.
Thế thì tại sao cho đến bây giờ các nhà cầm quyền của mấy nước Cộng Sản cuối cùng trên thế giới vẫn cố bám vào cái hình ảnh “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện”? Liệu họ có thực tâm tin rằng “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” là cái mà họ sẽ có thể xây dựng được thành hiện thực?
Tôi cho rằng đến hôm nay thì trong hàng ngũ các nhà cầm quyền của mấy
nước Cộng Sản cuối cùng trên thế giới không còn ai ngây thơ và ngu xuẩn
đến mức tin rằng “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” là cái có thể trở thành
hiện thực. Họ dư biết đó chỉ là ảo tưởng, nhưng họ vẫn cố sử dụng cái
hình ảnh “chủ nghĩa xã hội hoàn thiện” để lừa đảo nhân dân của họ, hòng
tiếp tục duy trì quyền lực, mà trong khối nhân dân ấy có những người vì
đã bị tẩy não suốt nhiều thập kỷ nên vẫn tin theo, còn những người chưa
bị tẩy não thì bị bạo lực vây quanh và chưa có điều kiện để chống lại và
lật đổ chế độ.
Cộng Sản duy trì quyền lực bằng cách liên tục tung ra những chiêu bài
“chính nghĩa” và “lý tưởng” dối trá nhằm lừa đảo nhân dân, và dùng mọi
biện pháp quỷ quyệt và tàn ác nhất để tẩy não nhân dân và khống chế nhân
dân.
Nguyễn Phú Trọng nói: “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng
CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn
thiện ở Việt Nam hay chưa.” Nói như thế là tận cùng của sự lố bịch, nhưng chẳng có gì đáng ngạc nhiên.
Suốt bao nhiêu năm qua, trên đường phố ở Việt Nam, ta vẫn luôn luôn thấy
những khẩu hiệu to tướng: “NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM MUÔN
NĂM” và “ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUANG VINH MUÔN NĂM”. Đọc kỹ những khẩu
hiệu đó và ngẫm nghĩ một chút thì nhiều người có thể thấy ra cả một sự
lừa đảo khủng khiếp.
Theo lý thuyết Marx-Lenin thì Chủ Nghĩa Xã Hội chỉ là giai đoạn chuyển
tiếp lên Chủ Nghĩa Cộng Sản. Khi lên đến Chủ Nghĩa Cộng Sản rồi thì nhà
nước tự tan rã, không còn Đảng Cộng Sản lãnh đạo nữa. Thế nhưng cái khẩu
hiệu “NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM MUÔN NĂM” lại hàm ý là
cái giai đoạn chuyển tiếp “xã hội chủ nghĩa” này sẽ dài “MUÔN NĂM”,
nghĩa là cho đến “MUÔN NĂM” nữa, nước Việt Nam này vẫn còn là “NƯỚC CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM”, và sẽ không bao giờ tiến lên đến Chủ
Nghĩa Cộng Sản! Và vì vậy cho nên “ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM” sẽ tiếp tục
lãnh đạo một cách “QUANG VINH” cho đến “MUÔN NĂM”! Xin nhấn mạnh: “MUÔN
NĂM” chứ không phải chỉ một hay vài thế kỷ!
Điều này chứng tỏ rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam có tham vọng quyền lực vô
hạn; và để thoả mãn tham vọng quyền lực vô hạn này, họ đã, đang và sẽ sử
dụng mọi biện pháp và thủ đoạn gian manh và tàn độc nhất để cai trị
nhân dân. Đối với những kẻ có tham vọng quyền lực vô hạn thì xương máu
của nhân dân chỉ là bạc lẻ.
Hoàng Ngọc-Tuấn
Sydney, Australia
SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến - Bãi Mả
Trong những câu thơ bút tre, đang lưu truyền rộng rãi ở Việt Nam, tôi thích nhất hai câu:
Tin nghe như sét đánh ngang
Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần!
Khách quan mà nói, ý thích của tôi dễ gây ngộ nhận là mình có hơi bị ác cảm với ông Hồ. Không dám đâu. Xin đừng ai nghĩ như vậy mà tội chết. Tôi khoái hai câu thơ trên chỉ vì sự duyên dáng của chính nó, thế thôi. Có những câu thơ bút tre khác nữa, cũng nói đến cái chết của ông Hồ nhưng tôi không thích mấy ─ thí dụ như:
Tin nghe như sét đánh gần
Bác Hồ đang sống từ trần chuyển sang!
Hoặc:
Vào trong hang Bác âm u
Chị em phụ nữ dở mũ ra chào!
Riêng hai vừa dẫn, theo thiển ý, đã kém duyên dáng lại thiếu phần thanh nhã. Nó diễn tả sự khinh miệt một cách sỗ sàng, của “chị em phụ nữ”, truớc vong linh của ông Hồ Chí Minh. Mà tỏ sự bất kính đối với một nguời đã khuất (cho dù họ là ai chăng nữa) là điều trái với văn hoá của dân tộc Việt, ở khắp mọi miền ─ nhất là miền nguợc, nơi mà phong tục tập quán có vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày hơn ở miền xuôi.
Nhân nhắc chuyện phong tục/tập quán của miền xuôi/ miền nguợc, tôi lại chợt nhớ cách đây không lâu, thi sĩ Trần Đăng Khoa, lúc cao hứng có tâm sự như sau:
“Vừa rồi tôi có đi Tây Nguyên dự lễ bỏ mả của gia đình ông Y Ngông Niết Đam. Nguời Eđê có một tục lệ rất đặc biệt. Khi nhà có nguời chết, gia đình con cháu hàng ngày vẫn nuôi nấng, vẫn mang cơm nuớc ra mộ, khi có điều kiện họ làm lễ bỏ mả.
Đó là bữa tiệc linh đình chia tay vĩnh viễn với nguời chết. Sau đó họ không quan tâm đến ngôi mộ ấy nữa, để linh hồn nguời chết được siêu thoát, không còn vướng víu cõi trần. Tôi cũng đã làm xong cái lễ bỏ mả cho thơ ca thời niên thiếu của tôi” [Trần Đăng Khoa, Chân Dung Và Đối Thoại (Hà Nội: Thanh Niên, 1988)].
Bỏ mả, thực ra, không phải là tập tục “rất đặc biệt” của nguời Eđê ở Tây Nguyên mà là tập tục chung ─ ở nhiều nơi ─ của nhiều nhóm nguời khác nữa. Nguời Roglai, nguời Rhadé, nguời Bahnar, nguời Djarai… ở miền Nam và miền Trung nước Việt đều có tục lệ
tương tự. Hơn nửa thế kỷ trước, học giả Toan Ánh có một bài viết ngắn và rất cô đọng về tập tục này ─ xin trích dẫn một đoạn ngắn:
“Đối với nguời Roglai ─ sắc dân sống rải rác các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, và Lâm Đồng ─ lễ cúng bỏ mả có nghĩa là nguời sống từ giã nguời chết. Lễ này đuợc cử hành sau mùa gặt hái đầu tiên, tính từ ngày nguời chết qua đời. Mùa gặt hái hòan tất, mọi nguời đều rảnh rang nên lễ cúng bỏ mả làm linh đình lắm. Có giết trâu mổ bò, mới thầy cúng làm lễ cho nguời khuất rồi đãi làng nuớc. Sau lễ bỏ mả là hết, ngôi mộ không đưọc ai chăm sóc nữa.
Nguời Rhadé, đa số sinh sống tỉnh Darlac và Quảng Đức, cũng có lệ bỏ mả vào mùa gặt năm sau. Nguời nhà ra mộ khóc lóc một lần cuối rồi mộ bị bỏ hẳn. Kỷ niệm của người chết cũng chìm dần vào quên lãng.
Người Bahnar ─ sắc dân sống ở Đông Nam Kômtum, Tây Bắc Pleiku, và phía Tây Bình Định ─ cũng chỉ chăm sóc mộ phần một năm... Sau đó họ làm lễ tạ rồi san phẳng, và từ đây không còn ai ngó tới. (“Tang Lễ Của Đồng Bào Thượng” ─ nhật báo Cách Mạng Quốc Gia, Sài Gòn, ngày 1 tháng 9 năm 1963).
Trong phần kết luận của bài báo này, Toan Ánh viết như thêm: “Gần đây nhiều đồng bào Thuợng đã di cư về gần chúng ta, có lẽ rồi đây phong tục của họ sẽ bị ảnh huởng của chúng ta mà có sự biến cải. Ánh sáng văn minh đã rọi vào nuớc Việt Nam, lẽ tất nhiên sự tiến bộ của chúng ta sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của đồng bào Thượng, anh em chúng ta.”
Tôi rất quí trọng tinh thần bao dung, coi tất cả mọi nguời sống trong nuớc Việt đều là anh em đồng bào, của học giả Toan Ánh; tuy nhiên, khi quan niệm là “có lẽ rồi đây phong tục của họ sẽ bị ảnh huởng của chúng ta mà có sự biến cải” nhưng không viết thêm rằng “và nguợc lại để cùng tiến bộ” thì tôi sợ ông hơi quá tự mãn về phong tục và tập quán của văn hoá miền xuôi.
Nói cách khác, và nói một cách hơi vô lễ, tôi e là Toan Ánh có hơi ethnocentric. (Và nói thiệt tình thì tôi chưa bao giờ gặp được bất cứ một nguời Việt Nam nào, ở miền xuôi, biết tỏ ra khiêm tốn chút đỉnh về văn hoá của họ. Và đây là một thảm kịch, sẽ còn nhiều màn, của dân tộc Việt)!
Giao lưu là hệ quả tất yếu khi có sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều nền văn hoá. Xin đơn cử một thí dụ về vấn đề này, bằng cách tiếp tục câu chuyện đang bỏ dở ─ chuyện “Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần.”
Tập tục bỏ mả của nguời miền cao, tôi trộm nghĩ, có nguồn gốc từ đời sống du canh. Do sự di chuyển không ngừng để tìm đất đai canh tác mới nên cơ hội trở lại nơi chốn cũ thăm viếng mộ nguời đã khuất rất mỏng manh; do đó, người ta cần làm lễ tạ mả để bớt áy náy khi phải bỏ mồ mả nguời thân.
Với thời gian, dân số mỗi lúc một tăng nhưng đất đai thì không. Diện tích đất đai giới hạn không cho phép phương thức tác du canh tiếp tục mãi mãi. Con người phải từ dần bỏ nếp sống này và làm quen với đời sống định canh hay bán định canh nơi miền sơn cuớc.
Từ đây, tuy có nhiều cơ hội gần gũi với mồ mả của những nguời đã khuất hơn nhưng tập tục bỏ mả vẫn còn được lưu truyền. Lý do, phần vì văn hoá bao giờ cũng biến đổi chậm hơn những đổi thay trong đời sống thường nhật; phần khác, quan trọng hơn, vì lý do kinh tế.
Khi những phuơng tiện kỹ thuật để hỗ trợ cho việc sản xuất vẫn còn ở mức độ thô sơ, khi đất đai canh tác bị giới hạn, và khi nhân khẩu mỗi lúc một tăng thì việc “hàng ngày vẫn nuôi nấng, vẫn mang cơm nuớc ra mộ” cho nguời đã khuất ─ theo phong tục của người Eđê, qua lời kể của Trần Đăng Khoa ─ là một thứ lễ nghi xa xỉ không thể kéo dài; do thế, bỏ mả là một tập tục thực tế và cần thiết cho chuyện sinh tồn của những nguời còn sống.
Cũng theo Toan Ánh, qua bài báo thượng dẫn: “Lễ tạ mả có thể cử hành ngay sau khi chôn cất nếu tang chủ quá nghèo. Chôn cất xong là thôi, nguời nhà cũng như dân làng không ai nhắc nhở đến nguời quá cố nữa vì mộ đã tạ rồi.”
Tôi uớc ao sao một số những nguời dân “làng” Ba Đình (ở đất ngàn năm văn vật) học được một phần nào sự khôn ngoan và thực tế ─ về tục lệ bãi mả này ─ từ những đồng bào Eđé, Rhađé, Bahnar, Djarai… Họ sẽ ra lăng hay ra mả ông Hồ Chí Minh khóc lóc thảm thiết một lần cuối rồi… san bằng nó đi cho cả nuớc được nhờ!
Tôi còn nhớ, Báo Nhân Dân – số ra ngày 31 tháng 8 năm 1999 ─ có đi tin “Cố Vấn Đỗ Muời Thăm Bộ Tư Lệnh Bảo Vệ Lăng Hồ Chủ Tịch”. Chỉ cái tiêu đề của bản tin không thôi cũng đủ khiến cho một nguời vô tâm nhất hoá phải băn khoăn. Có cả một Bộ Tư Lệnh chỉ để bảo vệ mộ phần của một nguời đã chết à?
Nguời dân Việt sùng bái ông Hồ Chí Minh đến độ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc mà vẫn hy sinh hàng vạn lực lượng lao động chỉ để thoả mãn cái thị dục hiếu danh cho một cá nhân hay sao? Theo chỗ tôi biết, e rằng không phải vậy đâu. Chỉ qua vài câu thơ bút tre, đã dẫn, cũng đủ biết dân chúng chán ngán ông Hồ (và cái lăng thổ tả của ông ấy) đến cỡ nào rồi.
Mà đâu có riêng chi quần chúng. Hãy nghe lời ta thán của một cán bộ cộng sản, ông Hoàng Hữu Quýnh: “…cái nấm mồ của Bác quá khổng lồ, quá tốn kém. Dại dột xây to hơn cả nấm mồ của Lê-nin. Cái lăng nằm trơ trọi ở Ba Đình, trong đó chỉ có một cái xác xanh xao tái nhợt mà có đến hàng ngàn, hàng vạn con nguời cung phụng ở đó…” ( Tôi Bỏ Đảng, tập I, trích từ Minh Võ. Phản Tỉnh Phản Kháng Thực Hay Hư, California: Thông Vũ 1999).
Vì dân trí thấp, và toàn toàn là đồ mất dậy vô giáo dục, nên không ai nhìn thấu được công ơn của Bác đối với dân tộc Việt chăng? Tất cả thành tích của Hồ Chí Minh đều được thêu dệt, tuởng tượng và ghi lại thành sách bởi chính ông ta nhưng làm bộ đề tên nguời khác ─ cho nó có vẻ khách quan và khả tín. Loại “sử liệu quí báu” này được Đảng khai thác đến cùng để thần thánh hóa ông Hồ, và biến ông ta thành một thứ mộc che cho tội ác của họ.
Nó cũng được dịch ra rất nhiều ngoại ngữ để các sử gia nước ngoài có cơ hội tìm hiểu về “thân thế và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ”, một ông “Thánh Francois bưng biền” Việt Nam, nếu nói theo nguyên văn ─ một cách cuờng điệu ─ của một ông ký giả ngoại quốc nào đó.
Suốt cuộc đời ông Hồ Chí Minh chỉ chuyên xài bạc giả. Sở dĩ ông ta bịp được nhiều nguời, trong nhiều năm là nhờ vào sự đồng lõa tích cực của cả một băng đảng chuyên làm bạc giả ─ Đảng Lao Động Việt Nam.
Cái lăng của ông Hồ Chí Minh cũng chỉ là biểu tượng cho sự tôn kính giả tạo đó mà thôi. Thực chất, “dân làng Ba Đình Hà Nội” đang thờ cúng ông Hồ Chí Minh như một thứ ma xó (với hy vọng) để giữ nhà và hù doạ những nguời yếu bóng vía.
Tôi thực tình không muốn xía vô chuyện phong tục tập quán và tín nguỡng của bất nhóm nguời nào, kể cả những nguời sống bằng xác chết. Tôi sẽ thôi không nhắc nhở đến ông Hồ Chí Minh nữa, nếu những nguời “dân làng Ba Đình Hà Nội” cũng thôi dùng những đồng tiền mồ hôi nuớc mắt của đồng bào tôi vào chuyện thờ phuợng ông Hồ.
Bòn rút xuơng máu của nguời sống để cung phụng cho nguời chết là điều bất trí. Dựa hơi nguời chết để sống là chuyện bất nhân. Có cái dân tộc nào bất hạnh đến độ phải chịu sự “lãnh đạo” của một đám nguời vừa bất nhân vừa bất trí như vậy không?
tuongnangtien's blog
http://www.rfavietnam.com/node/3258
Tin nghe như sét đánh ngang
Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần!
Khách quan mà nói, ý thích của tôi dễ gây ngộ nhận là mình có hơi bị ác cảm với ông Hồ. Không dám đâu. Xin đừng ai nghĩ như vậy mà tội chết. Tôi khoái hai câu thơ trên chỉ vì sự duyên dáng của chính nó, thế thôi. Có những câu thơ bút tre khác nữa, cũng nói đến cái chết của ông Hồ nhưng tôi không thích mấy ─ thí dụ như:
Tin nghe như sét đánh gần
Bác Hồ đang sống từ trần chuyển sang!
Hoặc:
Vào trong hang Bác âm u
Chị em phụ nữ dở mũ ra chào!
Riêng hai vừa dẫn, theo thiển ý, đã kém duyên dáng lại thiếu phần thanh nhã. Nó diễn tả sự khinh miệt một cách sỗ sàng, của “chị em phụ nữ”, truớc vong linh của ông Hồ Chí Minh. Mà tỏ sự bất kính đối với một nguời đã khuất (cho dù họ là ai chăng nữa) là điều trái với văn hoá của dân tộc Việt, ở khắp mọi miền ─ nhất là miền nguợc, nơi mà phong tục tập quán có vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày hơn ở miền xuôi.
Nhân nhắc chuyện phong tục/tập quán của miền xuôi/ miền nguợc, tôi lại chợt nhớ cách đây không lâu, thi sĩ Trần Đăng Khoa, lúc cao hứng có tâm sự như sau:
“Vừa rồi tôi có đi Tây Nguyên dự lễ bỏ mả của gia đình ông Y Ngông Niết Đam. Nguời Eđê có một tục lệ rất đặc biệt. Khi nhà có nguời chết, gia đình con cháu hàng ngày vẫn nuôi nấng, vẫn mang cơm nuớc ra mộ, khi có điều kiện họ làm lễ bỏ mả.
Đó là bữa tiệc linh đình chia tay vĩnh viễn với nguời chết. Sau đó họ không quan tâm đến ngôi mộ ấy nữa, để linh hồn nguời chết được siêu thoát, không còn vướng víu cõi trần. Tôi cũng đã làm xong cái lễ bỏ mả cho thơ ca thời niên thiếu của tôi” [Trần Đăng Khoa, Chân Dung Và Đối Thoại (Hà Nội: Thanh Niên, 1988)].
Bỏ mả, thực ra, không phải là tập tục “rất đặc biệt” của nguời Eđê ở Tây Nguyên mà là tập tục chung ─ ở nhiều nơi ─ của nhiều nhóm nguời khác nữa. Nguời Roglai, nguời Rhadé, nguời Bahnar, nguời Djarai… ở miền Nam và miền Trung nước Việt đều có tục lệ
tương tự. Hơn nửa thế kỷ trước, học giả Toan Ánh có một bài viết ngắn và rất cô đọng về tập tục này ─ xin trích dẫn một đoạn ngắn:
“Đối với nguời Roglai ─ sắc dân sống rải rác các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, và Lâm Đồng ─ lễ cúng bỏ mả có nghĩa là nguời sống từ giã nguời chết. Lễ này đuợc cử hành sau mùa gặt hái đầu tiên, tính từ ngày nguời chết qua đời. Mùa gặt hái hòan tất, mọi nguời đều rảnh rang nên lễ cúng bỏ mả làm linh đình lắm. Có giết trâu mổ bò, mới thầy cúng làm lễ cho nguời khuất rồi đãi làng nuớc. Sau lễ bỏ mả là hết, ngôi mộ không đưọc ai chăm sóc nữa.
Nguời Rhadé, đa số sinh sống tỉnh Darlac và Quảng Đức, cũng có lệ bỏ mả vào mùa gặt năm sau. Nguời nhà ra mộ khóc lóc một lần cuối rồi mộ bị bỏ hẳn. Kỷ niệm của người chết cũng chìm dần vào quên lãng.
Người Bahnar ─ sắc dân sống ở Đông Nam Kômtum, Tây Bắc Pleiku, và phía Tây Bình Định ─ cũng chỉ chăm sóc mộ phần một năm... Sau đó họ làm lễ tạ rồi san phẳng, và từ đây không còn ai ngó tới. (“Tang Lễ Của Đồng Bào Thượng” ─ nhật báo Cách Mạng Quốc Gia, Sài Gòn, ngày 1 tháng 9 năm 1963).
Trong phần kết luận của bài báo này, Toan Ánh viết như thêm: “Gần đây nhiều đồng bào Thuợng đã di cư về gần chúng ta, có lẽ rồi đây phong tục của họ sẽ bị ảnh huởng của chúng ta mà có sự biến cải. Ánh sáng văn minh đã rọi vào nuớc Việt Nam, lẽ tất nhiên sự tiến bộ của chúng ta sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của đồng bào Thượng, anh em chúng ta.”
Tôi rất quí trọng tinh thần bao dung, coi tất cả mọi nguời sống trong nuớc Việt đều là anh em đồng bào, của học giả Toan Ánh; tuy nhiên, khi quan niệm là “có lẽ rồi đây phong tục của họ sẽ bị ảnh huởng của chúng ta mà có sự biến cải” nhưng không viết thêm rằng “và nguợc lại để cùng tiến bộ” thì tôi sợ ông hơi quá tự mãn về phong tục và tập quán của văn hoá miền xuôi.
Nói cách khác, và nói một cách hơi vô lễ, tôi e là Toan Ánh có hơi ethnocentric. (Và nói thiệt tình thì tôi chưa bao giờ gặp được bất cứ một nguời Việt Nam nào, ở miền xuôi, biết tỏ ra khiêm tốn chút đỉnh về văn hoá của họ. Và đây là một thảm kịch, sẽ còn nhiều màn, của dân tộc Việt)!
Giao lưu là hệ quả tất yếu khi có sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều nền văn hoá. Xin đơn cử một thí dụ về vấn đề này, bằng cách tiếp tục câu chuyện đang bỏ dở ─ chuyện “Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần.”
Tập tục bỏ mả của nguời miền cao, tôi trộm nghĩ, có nguồn gốc từ đời sống du canh. Do sự di chuyển không ngừng để tìm đất đai canh tác mới nên cơ hội trở lại nơi chốn cũ thăm viếng mộ nguời đã khuất rất mỏng manh; do đó, người ta cần làm lễ tạ mả để bớt áy náy khi phải bỏ mồ mả nguời thân.
Với thời gian, dân số mỗi lúc một tăng nhưng đất đai thì không. Diện tích đất đai giới hạn không cho phép phương thức tác du canh tiếp tục mãi mãi. Con người phải từ dần bỏ nếp sống này và làm quen với đời sống định canh hay bán định canh nơi miền sơn cuớc.
Từ đây, tuy có nhiều cơ hội gần gũi với mồ mả của những nguời đã khuất hơn nhưng tập tục bỏ mả vẫn còn được lưu truyền. Lý do, phần vì văn hoá bao giờ cũng biến đổi chậm hơn những đổi thay trong đời sống thường nhật; phần khác, quan trọng hơn, vì lý do kinh tế.
Khi những phuơng tiện kỹ thuật để hỗ trợ cho việc sản xuất vẫn còn ở mức độ thô sơ, khi đất đai canh tác bị giới hạn, và khi nhân khẩu mỗi lúc một tăng thì việc “hàng ngày vẫn nuôi nấng, vẫn mang cơm nuớc ra mộ” cho nguời đã khuất ─ theo phong tục của người Eđê, qua lời kể của Trần Đăng Khoa ─ là một thứ lễ nghi xa xỉ không thể kéo dài; do thế, bỏ mả là một tập tục thực tế và cần thiết cho chuyện sinh tồn của những nguời còn sống.
Cũng theo Toan Ánh, qua bài báo thượng dẫn: “Lễ tạ mả có thể cử hành ngay sau khi chôn cất nếu tang chủ quá nghèo. Chôn cất xong là thôi, nguời nhà cũng như dân làng không ai nhắc nhở đến nguời quá cố nữa vì mộ đã tạ rồi.”
Tôi uớc ao sao một số những nguời dân “làng” Ba Đình (ở đất ngàn năm văn vật) học được một phần nào sự khôn ngoan và thực tế ─ về tục lệ bãi mả này ─ từ những đồng bào Eđé, Rhađé, Bahnar, Djarai… Họ sẽ ra lăng hay ra mả ông Hồ Chí Minh khóc lóc thảm thiết một lần cuối rồi… san bằng nó đi cho cả nuớc được nhờ!
Tôi còn nhớ, Báo Nhân Dân – số ra ngày 31 tháng 8 năm 1999 ─ có đi tin “Cố Vấn Đỗ Muời Thăm Bộ Tư Lệnh Bảo Vệ Lăng Hồ Chủ Tịch”. Chỉ cái tiêu đề của bản tin không thôi cũng đủ khiến cho một nguời vô tâm nhất hoá phải băn khoăn. Có cả một Bộ Tư Lệnh chỉ để bảo vệ mộ phần của một nguời đã chết à?
Nguời dân Việt sùng bái ông Hồ Chí Minh đến độ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc mà vẫn hy sinh hàng vạn lực lượng lao động chỉ để thoả mãn cái thị dục hiếu danh cho một cá nhân hay sao? Theo chỗ tôi biết, e rằng không phải vậy đâu. Chỉ qua vài câu thơ bút tre, đã dẫn, cũng đủ biết dân chúng chán ngán ông Hồ (và cái lăng thổ tả của ông ấy) đến cỡ nào rồi.
Mà đâu có riêng chi quần chúng. Hãy nghe lời ta thán của một cán bộ cộng sản, ông Hoàng Hữu Quýnh: “…cái nấm mồ của Bác quá khổng lồ, quá tốn kém. Dại dột xây to hơn cả nấm mồ của Lê-nin. Cái lăng nằm trơ trọi ở Ba Đình, trong đó chỉ có một cái xác xanh xao tái nhợt mà có đến hàng ngàn, hàng vạn con nguời cung phụng ở đó…” ( Tôi Bỏ Đảng, tập I, trích từ Minh Võ. Phản Tỉnh Phản Kháng Thực Hay Hư, California: Thông Vũ 1999).
Vì dân trí thấp, và toàn toàn là đồ mất dậy vô giáo dục, nên không ai nhìn thấu được công ơn của Bác đối với dân tộc Việt chăng? Tất cả thành tích của Hồ Chí Minh đều được thêu dệt, tuởng tượng và ghi lại thành sách bởi chính ông ta nhưng làm bộ đề tên nguời khác ─ cho nó có vẻ khách quan và khả tín. Loại “sử liệu quí báu” này được Đảng khai thác đến cùng để thần thánh hóa ông Hồ, và biến ông ta thành một thứ mộc che cho tội ác của họ.
Nó cũng được dịch ra rất nhiều ngoại ngữ để các sử gia nước ngoài có cơ hội tìm hiểu về “thân thế và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ”, một ông “Thánh Francois bưng biền” Việt Nam, nếu nói theo nguyên văn ─ một cách cuờng điệu ─ của một ông ký giả ngoại quốc nào đó.
Suốt cuộc đời ông Hồ Chí Minh chỉ chuyên xài bạc giả. Sở dĩ ông ta bịp được nhiều nguời, trong nhiều năm là nhờ vào sự đồng lõa tích cực của cả một băng đảng chuyên làm bạc giả ─ Đảng Lao Động Việt Nam.
Cái lăng của ông Hồ Chí Minh cũng chỉ là biểu tượng cho sự tôn kính giả tạo đó mà thôi. Thực chất, “dân làng Ba Đình Hà Nội” đang thờ cúng ông Hồ Chí Minh như một thứ ma xó (với hy vọng) để giữ nhà và hù doạ những nguời yếu bóng vía.
Tôi thực tình không muốn xía vô chuyện phong tục tập quán và tín nguỡng của bất nhóm nguời nào, kể cả những nguời sống bằng xác chết. Tôi sẽ thôi không nhắc nhở đến ông Hồ Chí Minh nữa, nếu những nguời “dân làng Ba Đình Hà Nội” cũng thôi dùng những đồng tiền mồ hôi nuớc mắt của đồng bào tôi vào chuyện thờ phuợng ông Hồ.
Bòn rút xuơng máu của nguời sống để cung phụng cho nguời chết là điều bất trí. Dựa hơi nguời chết để sống là chuyện bất nhân. Có cái dân tộc nào bất hạnh đến độ phải chịu sự “lãnh đạo” của một đám nguời vừa bất nhân vừa bất trí như vậy không?
tuongnangtien's blog
http://www.rfavietnam.com/node/3258
No comments:
Post a Comment