Thursday, May 21, 2015
TRẦN NHẬT PHONG * CHUYỆN MỘT THUYỀN NHÂN
Chuyện một thuyền nhân Việt mất con
Tác giả/Nhân vật: Trần Nhật Phong |12-05-2015| 56 lần xem |
|
Vượt biên và tới được Hoa Kỳ vào năm 1985, suốt hàng chục năm
nay ông Tăng Bảo Can, hiện đang sống ở nam California, vẫn đi tìm đứa
con gái bị hải tặc Thái Lan bắt đi trong hành trình lênh đênh trên biển
khơi.
Cô con gái 14 tuổi của ông bị đem đi mất ngày 26/10/1984, khi con tàu
chở gia đình ông cùng nhiều người khác đã tới được hải phận quốc tế.
“Đó là chuyến đi rất đau thương. Nó khiến cho tôi khóc bao phen, mà
đến giờ mỗi khi có ai hỏi tới là nó vô tình gợi lại vết thương như dao
khứa mỗi ngày, mỗi đêm.”
“Tôi là đàn ông, phải cố chịu đựng nỗi ám ảnh [mất con] để tranh đấu
mà sống, nhưng vợ tôi bị trầm cảm cho tới tận ngày hôm nay,” ông Can
nói.
Trong hành trình kéo dài năm ngày, tàu của ông đã bị cướp ba lần, và
tai họa mất con xảy ra khi hải tặc nhảy lên tàu vào lần thứ tư.
“Trên chuyến tàu có bốn cô gái, hai cô 17 tuổi, hai cô 14 tuổi, trong đó có con gái tôi.”
“Khi lên tàu, chúng xô hết thanh niên ra, trong đó có con gái tôi.
Tôi cố gắng ôm giữ cháu, và những lời cuối cùng cháu nói với tôi là ‘Ba
đừng bỏ con, ba ơi cứu con’, vợ tôi khi còn nằm trong khoang thuyền,
không biết chuyện gì đang xảy ra ở ngoài.”
“Hải tặc bắt con gái tôi cởi bỏ quần áo, mà tôi nghĩ là để chúng tìm vàng, nhẫn giấu trong người. Con gái tôi đã chống cự lại.”
“Có lẽ bởi vậy nên chúng đẩy con gái tôi sang chiếc tàu của chúng.
Đó là những giây phút quá hãi hùng, khi mà tôi phải chứng kiến cảnh đứa
con gái yêu thương bị cướp khỏi vòng tay và ngoái lại cầu cứu.”
“Không có một chút khí giới trong tay, nhưng sự sống hay chết đối
với tôi khi đó không còn quan trọng. Tôi bất chấp nỗi sợ, cố giành con
gái lại từ tay một tên cướp biển có lẽ khoảng 20 tuổi, rồi bị một tên
cầm giáo đâm sau lưng khiến tôi bất tỉnh.”
“Con gái tôi rất can đảm, cháu không khóc mà ngoái nhìn tôi. Tôi nhớ
giọt lệ lăn tròn trên mặt cháu. Hình ảnh đó ám ảnh tôi suốt ba chục
năm nay.”
Ông Can cho biết ông cùng một số người khác từng qua Thái Lan để tìm
kiếm, và đã có hai gia đình may mắn tìm được con cũng bị cướp biển Thái
Lan bắt đi từ khi mới được vài tháng tuổi.
Cách đây ba năm, ông Can thành lập hội South East Asia Missing
Children Foundation – Hội những đứa trẻ Đông Nam Á bị mất tích, với hy
vọng chưa bao giờ nguôi ngoai là mình và những người cùng cảnh ngộ sẽ
tìm thấy được những đứa con đã bị thất lạc.
“Phép lạ cũng sẽ đến cho con gái tôi, đến cho gần 100 gia đình có con
thất lạc [tham gia Hội]. Tôi không được hỗ trợ nhiều, nhưng tôi sẽ cố
gắng đi làm thật nhiều để có tiền cho hội từ thiện này của chúng
tôi,” ông Can nói.
Trần Nhật Phong
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/05/150511_boatpeople_missing_childrenPHẠM G. ĐẠI * NGÀY TRỞ VỀ
Ngày Trở Về
(Trong Hồi Ký NNTCC)
Tác Giả: Phạm G. Đại
Chúng
tôi lục tục xuống xe, lích kích khiêng các ba lô túi xách cá nhân vào
bên trong cái cổng có tên "Hàm Tân Z-30D" và được chỉ định tập trung
vào một khu vực sâu phía bên trong trại .
Chín mươi người chiếm hẳn một góc sân trong tư thế nghỉ ngơi kẻ đứng người ngồi dưới tàn cây rợp bóng mát.
Trên khuôn mặt những người tù cuối cùng này có một điểm giống nhau là sự bình thản và nhẫn nại.
Sự
bình thản là kinh nghiệm nhiều năm ở tù đã tạo cho họ có được một đức
tính biết âm thầm chịu đựng, biết chờ đợi và biết bình tĩnh trước mọi
tình huống.
Chính
sự bình tâm trước mọi thử thách gian nguy và thái độ can trường chịu
đựng một cách bền bỉ mọi hình phạt tàn khốc của kẻ thù phủ lên người
họ, đã dần dần biến đổi môi trường sống của người tù thành thuận lợi
hơn.
Hoặc
giả vì cái nghiệp lực to lớn phủ chụp xuống toàn dân miền Nam khi nước
đã mất vừa lui đi? Hoặc kẻ thù sau bao nhiêu năm trả thù đã hả hê và
bây giờ họ chợt nhận thấy rằng mình đã xuống tay quá mạnh trên lưng kẻ
thất trận cùng một mầu da nên dừng bớt lại?
Cộng
thêm vào đó là lòng nhân đạo của người tù đã lấy ân báo oán, "lấy trí
nhân mà thay cường bạo" khi cứu giúp thuốc men cho các khu gia binh và
dân chúng quanh vùng, khi chia sẻ điếu thuốc, ấm trà, ly cà phê với các cán bộ, cán binh của trại giam đã làm cho họ phải suy nghĩ về tình người?
Tất
cả những sự việc bề ngoài tuy trông rất bình thường đó lại là những
yếu tố quan trọng cảm hóa kẻ thù, lấy được lòng dân, và xoay chiều cơn
sóng dữ đã bao lần muốn nuốt sống mạng người tù; để đạt được điều ấy,
hàng ngàn tù nhân đã ngã gục và nằm sâu trong lòng đất Mẹ.
Sau
một thời gian dài suốt chín năm vừa qua, được gia đình đến thăm nom và
tiếp tế đủ thứ từ ăn uống đến thuốc men, quần áo vật dụng, thì chúng
tôi đã có một "tài sản" khá nhiều, khá bề bộn, dù là đã bỏ lại tại trại
cũ Nam Hà nhiều thứ lỉnh kỉnh, nên chưa đến nỗi như đồ đạc trong
truyện "Hoàng Trừu" ngày xưa
Đó
là chưa kể đến những thứ mà các bạn về trước đã để lại như cây đàn ghi
ta, bình ấm pha trà, các sách truyện quý kể cả các cuốn kinh về tôn
giáo mà chúng tôi buộc phải mang theo vào Nam vì đó là những kỷ niệm
của người đã rời trại giao cho người ở lại.
Thêm
vào đó, những người tù trước khi ra khỏi cổng trại tù vẫn còn phải
chịu một lần kiểm soát gắt gao nữa và các sách báo kinh điển như vậy sẽ
bị tịch thu ngay. Bởi thế kinh nghiệm của những người được về trước để
lại cho người sau là càng gọn nhẹ càng tốt để tránh bị đám trực trại
làm khó dễ hay hạnh họe trong lúc kiểm tra.
Trong
những năm tháng tù đầy, có nhiều sự việc bất ngờ xẩy ra làm cho đời
sống tù nhân thêm vất vả khốn đốn mà chuyển trại là một. Chuyển trại
luôn là điều đáng e ngại nhất vì ngoài sự cực nhọc lao đao của thân xác
là sự bất định của một tương lai không biết sẽ đi về đâu. Dầu
sao đi nữa thì việc chuyển trại lần này coi như tạm xong.
Đây
không phải lần đầu tiên chúng tôi chuyển trại và có thể cũng chưa chắc
đã là lần cuối, cho nên cách tốt nhất là chấp nhận hiện tại rồi từ
từ tính sau, bởi vậy chúng tôi mỗi người sẵn sàng bên cạnh hành trang
của mình chờ đợi thủ tục nhập trại.
Thủ
tục này như mọi lần thì bao gồm điểm danh từng người để bàn giao quân
số cho trại mới, nhắc nhở về tuân thủ nội quy và kế nữa là mỗi người tù
tự mở ba lô của mình ra cho trực trại khám xét từng vật dụng một trong
đó; thứ nào được cho qua thì mới được đem vào, còn lại là tịch thu
hết.
Điều
lạ lùng là lần đầu tiên thủ tục khám xét để nhập trại tại Hàm Tân đã
được thông qua chứ họ không lục tung lên tất cả mọi thứ trong tư trang
mỗi người như những lần nhập trại tại miền Bắc.
Có
thể đây là một dấu hiệu tốt hay chăng? Cái gì thì cũng phải đợi
một thời gian nữa xem sao vì họ đã lường gạt người tù quá nhiều lần rồi
nên bây giờ chúng tôi thẩy đều thận trọng.
Trong
khi chúng tôi vẫn đang đứng bên cạnh tư trang của mình thì cánh cổng
trại chợt được đẩy rộng ra hơn vì có mấy tay cán bộ, cán binh đem các
xâu chìa khóa vào và lần lượt mở còng hết cho các tù nhân.
Thái
độ của họ tỏ ra thân thiện mà tôi tin rằng đó là do cấp trên đã ra
lệnh cho họ đối xử như vậy, chứ không đầy hận thù như tại trại giam
Long Thành mười hai năm trước khi còng tay chúng tôi để chuyển đến trại
Thủ Đức trên đường ra Bắc lưu đầy .
Tôi lấy bàn tay trái xoa bóp cổ cánh tay phải một chút vì có chỗ hơi bị sưng lên vì cái còng số tám.
Ba ngày trời rồi cổ tay phải của tôi mới được thong dong rời khỏi cổ tay trái của anh Hai Hầu.
Ba
ngày rồi trên tầu hỏa hay khi xuống xe lửa về trại Hàm Tân, anh Hai
Hầu đi đâu thì tôi phải đi theo, ngược lại cũng vậy và cả tôi lẫn anh
Hai Hầu đều không than phiền gì dù là cái còng có hơi nhỏ một chút.
Sau đó thì có vài tay có lẽ là cấp chỉ huy mà họ gọi là "Ban" đến để nói
chuyện với nội dung tóm tắt là anh em chúng tôi được chuyển vào Nam để
"tiếp tục cải tạo chờ ngày về đoàn tụ gia đình".
"Ban"
đề cập một số những giáo điều mà chúng tôi chẳng ai buồn nghe vì sau
ba ngày di chuyển trên xe lửa thật mệt mỏi, ai cũng chỉ muốn cho xong
mọi thủ tục để tìm chỗ nghỉ ngơi mà thôi.
Mười
lăm phút nói chuyện để chào đón chín mươi người từ miền Bắc vào Nam,
và không thấy ai có ý kiến gì nên mấy tay cán bộ này bảo nhóm trật tự
hướng dẫn chúng tôi về buồng giam trong một khu vực riêng, biệt lập nằm
bên trái sân trại.
Bấy
giờ là buổi chiều, từ lúc mới vào trại, tôi vẫn nhìn ra phía ngoài
cổng, nắng đang nhuộm vàng trên những ngọn lá Buông từ xa rồi tắt xuống
dần thân cây và hắt những sợi vàng yếu ớt của một ngày sắp hết thành
những vệt dài loang vào trong sân.
Lúc
đó tuy là mùa Hạ nhưng khi ánh nắng dịu đi thì dưới đất không còn bốc
lên cái nóng hừng hực của ngày Hè nữa, mà hơi mát từ trong không khí
tỏa xuống thật dễ chịu. Sau này tôi mới biết nơi này mát một phần là nhờ
trại nằm gần bên một nhánh sông được tách ra thành các dòng suối nhỏ
nước chảy róc rách ngày đêm xuyên qua khu rừng và chạy vòng quanh trại.
Trước
kia, nơi đây là mật khu rừng Lá của VC mà họ vẫn thường chận các xe đò
liên tỉnh để hăm dọa hành khách, bắt hành khách vào trong khu rừng này
để tuyên truyền về "giải phóng" về "cách mạng" mất cả nửa ngày mới thả
cho ra về. Nếu là quân nhân hay công chức thì bị bắt dẫn đi luôn.
Tôi
có hai người cháu trai lúc còn bé đi theo chuyến xe đò liên tỉnh này,
hai cháu cũng bị bắt vô đây nghe thuyết giảng mấy tiếng đồng hồ rồi mới
được thả cho về lại Sàigòn vì các cháu chỉ là học sinh.
Lúc về tới nhà mấy ngày sau mà hai cháu vẫn
còn hãi sợ . Hình ảnh những súng AK chĩa về phía hành khách đang ngồi
bệt xuống đất trong rừng, và những chiếc khăn rằn quấn quanh cổ với
những bộ mặt dữ tợn. Các cháu nói không quên được dù sau này đã trưởng
thành.
Sau
khi chiếm miền Nam thì cái mật khu này được biến thành trại tập trung
"cải tạo" để giam giữ cả tù hình sự lẫn tù chính trị chế độ cũ. Thời
gian những năm trước, trại này cũng nổi tiếng là khắc nghiệt, ngược đãi
tù nhân với bàn tay sắt.
Số lượng tù nhân chết vì kiệt sức, vì vượt trại và bị bệnh tật không phải là ít.
Dòng
đời vẫn trôi nhanh và tôi cũng không tưởng tượng ra được một ngày nào
đó như hôm nay tôi lại có mặt trong khu rừng Lá này, không phải để nghe
như các hành khách xe đò ngày xưa những tuyên truyền của VC - giống
như những giáo điều bài bản rập khuôn và rỗng tuyếch mà tôi đã phải
nghe mười mấy năm nay - mà chính tôi và những người tù đồng cảnh ngộ
đang sống ngay bên trong trại giam của họ dựng lên tại nơi này.
Dầu
sao thì tôi cũng đã vào đến trong Nam và điều thực tế là gần gia đình
hơn và khí hậu miền Nam cũng ôn hòa hai mùa mưa nắng sẽ tốt và thích
hợp cho sức khỏe chúng tôi nhiều hơn.
Một
điều đáng mừng là gia đình cũng bớt vất vả ngược xuôi từ Nam ra Bắc
trong những chuyến thăm nuôi đã như là huyền thoại vào tận rừng sâu núi
thẳm để tiếp tế cho chúng tôi.
Một
điểm nữa, không hiểu sao khi vào đến đây thì trong tôi niềm hy vọng
lại chợt loé lên hình ảnh một ngày trở về sẽ không còn xa nữa- nghĩa là
tôi sẽ có một ngày nào đó được trở lại thành phố Sàigòn, cái thành phố
mà tôi đã phải u buồn trong câm nín, đau buồn trong tang tóc mà lặng lẽ
bỏ nó ra đi cái ngày mà miền Nam vừa mất vào tay kẻ thù phương Bắc.
Miền
Nam, hai tiếng đó như một cái gì thật là gần gũi và yêu thương mà sau
mười hai năm lưu đầy xa vắng, nay tôi mới có dịp quay về để hít thở lại
bầu không khí ấm áp này.
Tôi
đang miên man suy nghĩ thì đã bước đến cửa buồng và quay về thực tại
vì các tiếng động ồn ào, tiếng nói lao xao của các bạn. Chúng tôi thẩy
các ba lô vật dụng cá nhân lên chỗ nằm rồi đi tìm nước tắm một cái đã,
mọi việc khác tính sau.
Buồng
giam này cũng giống như hàng mấy chục cái buồng giam mà tôi đã trải
qua, mỗi buồng cũng chứa đến sáu chục người. Tụi tôi ở làm ba buồng, hai
buồng lớn và một căn nhỏ trên mấy bực tam cấp là dành cho các ông
tướng.
Đây
là lần đầu tiên từ mười ba năm qua mà chúng tôi, các dân sự hay cấp úy
cấp tá, được ở chung cùng một khu, cùng chung một sân, không có bờ
tường hay hàng rào kẽm gai ngăn cách với các ông tướng.
Tất
cả tụi tôi, những người tù cuối cùng đều tập trung trong khu này trừ
một số trong các anh đã ở Hàm Tân trước thì được phái ra ngoài như là tự
giác để canh giữ các lán trại hay chăn nuôi gia súc và heo bò tăng gia
cho trại.
Phía
trước mặt khu vực chúng tôi ở là bờ tường, còn phía bên hông trái là
hàng rào dây kẽm gai, chừa ra một cái cổng ra vào, thông ra sân lớn; và
phía bên kia sân chạy dọc vào sâu bên trong là các khu dành cho tù hình
sự.
Đặc điểm của trại này là có hai khu giam giữ một dành cho tù hình sự nữ và một cho nam.
Trong ba căn buồng giam dành cho chúng tôi, hai căn lớn là sàn xi măng bên dưới và có một tầng trên là sạp gỗ.
Buồng giam ở đây tương đối thoáng mát hơn các buồng giam ngoài Bắc vì có nhiều cửa sổ và trông sạch sẽ hơn nhiều.
Chỉ
có căn dành cho các ông tướng thì ngăn ra làm mấy phòng nhỏ và mỗi anh
đều có một chiếc giường cá nhân thoải mái để nằm chứ không phải nằm
trên sàn.
Nơi dành cho các anh ở là một căn nhà nhỏ trông rất tươm tất, không có hình dáng một buồng giam như chúng tôi đang ở dưới này.
Mấy
ông tướng vào những năm sau cùng thì rất là thân, có dịp liên lạc nói
chuyện thường xuyên với chúng tôi, và tâm sự nhiều với nhau chứ không
còn ngăn cách và biệt lập như những năm đầu khi mới ra Bắc.
Chúng tôi thường gọi mấy ông tướng bằng "anh" chứ không có còn gọi theo cấp bậc chức vụ cũ nữa.
Trong
các ông tướng thì chúng tôi quen biết hết vì gập nhau hàng ngày, và
thường có dịp thì cùng tham gia văn nghệ chung với anh Lê Minh Đảo, anh
Lê Văn Thân.
Tình
thân mỗi người mỗi khác nhau nhưng tôi lại thân và kính mến nhiều hơn
với các anh Mạch Văn Trường, Trần Bá Di, và anh Tất, mà tôi coi như
những người anh lớn và học hỏi được nhiều về cách sống của các anh.
Anh Đảo thì rất văn nghệ, mau mắn và có giọng cười thật là phóng khoáng dễ mến.
Anh
vừa đàn vừa hát nhiều bản do anh sáng tác nhưng hay nhất và cảm động
nhất vẫn là bài "Mẹ" mà anh làm ra để tặng người Mẹ hiền.
Anh
Di thì dáng người cao lớn như anh Trường nhưng gầy hơn, miệng lúc nào
cũng nở nụ cười thật tươi khi gập hay trò truyện với anh em chúng
tôi. Điểm đặc biệt ở anh Di mà tôi nhận thấy nổi bật là anh lúc nào cũng
giữ được tinh thần lạc quan và tinh thần chiến hữu bền chặt với anh em
cấp dưới trong tù.
Anh
Giai thì dáng hơi gù gù giống như vai hùm của võ tướng thời xưa và
nhiều lúc tôi thấy anh hay cười mỉm chi như vừa tìm ra được một điều gì
đắc ý vậy khi đang nói chuyện với các đàn em.
Anh Thân thì học được thuật châm cứu của ông thầy người Tầu khi còn ở trại Hà Tây ngoài Bắc.
Ông
người Tầu này bị bắt khi đi hái thuốc tại biên giới Việt-Trung và bị
khép vào tội gián điệp, và là một ông thầy đã từng cứu giúp nhiều anh em
chúng tôi bằng phương pháp châm cứu thật độc đáo.
Những
người dân sống tại vùng biên giới Việt-Trung, nếu thiếu thận trọng như
ông thầy Tầu này khi mải mê đi hái lá rừng làm thuốc thì rất dễ bị lạc
qua địa phận bên kia, và sẽ bị bắt ngay về tội xâm nhập lãnh thổ, dò
la hay gián điệp.
Ông là
một người có tài châm cứu như thần mà tôi khâm phục vì chính
mắt tôi đã mục kích những lần ông chữa đủ thứ bệnh cho các anh em tù
nhân chính trị với hai cây kim bạc dài đến gần hai tấc đâm lút vào bụng
hay vào sống lưng.\
Ông
luôn đem theo một họa đồ mà tôi rất thích ngắm nghía nhưng chẳng hiểu
gì cả vì đầy những huyệt đạo trên cơ thể con người để chỉ dẫn thêm cho
anh Thân.
Ngoài tài về châm cứu ra, anh Thân còn có biệt tài về thổi ống sáo.
Buổi
chiều khi đi lao động về, sau bữa cơm đạm bạc, tôi thường ngồi trên
chiếc ghế đá trong sân trước buồng để hưởng một chút thanh tịnh của một
ngày sắp tàn.
Những
khoảng thời gian đó là lúc anh Thân bắt đầu lấy ống sáo ra và tiếng
sáo của anh bay từ căn nhà trên bực tam cấp đó vi vu thoảng trong gió
chiều xuống buồng chúng tôi làm tôi thấy tâm hồn mình lâng lâng một cảm
giác mênh mang khó tả trong ánh chiều tà.
Tiếng
sáo ấy chắc không thể đem ra so sánh với tiếng sáo của Trương Lương
ngày xưa vì hai hoàn cảnh khác nhau nhưng để lại trong tôi những cảm xúc
buồn vui lẫn lộn.
Lúc
anh thổi, đầu anh hơi cúi xuống như đang để hết những tâm sự của mình
vào trong tiếng sáo nên khi nghe dù là tôi nhìn thấy anh hay không nhìn
thấy anh chăng nữa, trước mắt tôi vẫn hiện rõ một khuôn mặt hiền hậu
xương xương nuớc da sạm nắng với nụ cười mím luôn trên môi và đôi mắt
hiền lành nhưng luôn vương vấn một nỗi niềm u uẩn khó tả.
Có
lúc tôi nghe tiếng sáo mà thấy lòng mình vui theo, nhưng nhiều khi
tiếng sáo ấy thật buồn da diết như lời trần tình của một vị tướng, một
chiến sĩ đã không làm tròn được bổn phận giữ nước của mình và đã sa vào
trong tay giặc.
Đôi
khi tôi chạy lên phòng để nói với anh rằng anh thổi sáo thật tuyệt vời
dù là anh học chưa bao lâu, những lúc đó anh chỉ cười, nụ cười hiền
hậu cám ơn, nụ cười mà không bao giờ xóa nhòa trong trí nhớ của tôi.
Có
khi tôi lại không có can đảm nghe thêm nữa và bỏ vào trong buồng lên
chỗ nằm tìm cuốn sách để đọc bởi vì tiếng sáo ấy lướt đi như làn gió nhẹ
bay bay trong không trung của mấy buồng giam chúng tôi như đã khơi dậy
trong tôi niềm đau sâu kín trong lòng về thân phận tù đầy của mình, về
sự tan vỡ của gia đình, về niềm nhớ không nguôi thành phố mang tên
Sàigòn, về tương lai có nhiều hứa hẹn hơn nhưng vẫn còn xa vời.
Anh
Trường thì thân với tôi như anh em khi còn ngoài Bắc vì chúng tôi đều
chung một thầy học đạo. Thầy Tâm đã nhận anh Trường và tôi làm đệ tử.
Thỉnh thoảng tôi lại có dịp ăn bữa cơm chay với thầy, anh Trường và cả
ông Xoàn nữa do thầy nấu nướng và chế biến; trong khi ăn thầy thường kể
những câu chuyện về đạo Phật trong đời sống dân gian ngày trước rất là hay và thật lạ lùng.
Tôi
cũng có một kỷ niệm đáng nhớ với anh Trường khi ngoài Bắc họ loan báo
đổi tiền. Anh từ bên buồng giam của mấy ông tướng đưa cho tôi hai trăm
đồng qua bờ tường để nhờ tôi đổi dùm. Lúc đó dù là ở Nam Hà cũng đã
thoải mái hơn, nhưng các anh vẫn bị hạn chế nhiều trong bốn bức tường ít
tiếp xúc với bên ngoài bằng tụi tôi, cho nên tiền bên các anh đều phải
tuồn qua bên chúng tôi để tìm cách đổi cho kịp.
Chúng
tôi trong buồng bèn gom tiền lại nhờ anh H. là tự giác đi ra ngoài
trại qua đám cán bộ nhờ đổi dùm - nhưng không may hôm đó họ khám tất cả
mọi người ra vào trại kể cả tự giác và trật tự nên anh H. bị tịch thu
hết số tiền mang ra.
Tối
hôm đó tôi nằm mơ thấy mình mặc một bộ quần áo rất sạch sẽ, áo sơ mi
và quần tây mầu trắng thì đột nhiên có một con gà từ buồng bên
cạnh chạy qua và nhẩy vào người tôi rồi loang đầy máu đỏ lên chiếc quần
trắng đó. Tôi vội hất con gà ra nhìn cái quần bị vấy máu thì giật mình
tỉnh dậy. Có thể là một điềm xấu.
Sáng dậy, tôi bèn đem giấc mơ ra hỏi thầy Tâm thì thầy không nói gì chỉ bảo tôi ráng niệm Phật và thầy cũng sẽ cầu nguyện cho.
Chiều
hôm đó trực trại kêu mười mấy người trong đó có tôi qua khu bên Văn
Hóa "làm việc". Chúng tôi được biết là phải viết kiểm điểm vì lưu trữ
tiền "ngân" vi phạm nội quy của trại. Lúc đó tôi mới hiểu là giấc mơ đã
báo cho điềm không hay. Tôi viết và nhận số tiền hai trăm đồng là của
tôi vì không muốn họ làm khó dễ anh Trường vì sao anh cũng là cấp tướng
còn tôi dầu sao chỉ là phó thường dân.
Họ
thu hết các bài kiểm điểm đem ra khỏi trại, tịch thu hết tất cả số
tiền lần đó nhưng rất may là sau đó vụ này từ từ êm đi. Tiền đi thay
cho các tai ương khác như ông bà thường nói chăng.
Tôi
nhắn với anh Trường là số tiền đã bị tịch thu rồi và tôi nhận số tiền
hai trăm ấy là của tôi và xin lỗi anh đã không làm tròn lời hứa nhưng
anh rất vui vẻ và không trách cứ gì tôi cả.
Anh
Trường cũng như anh Hai Hầu đều lớn tuổi hơn tôi nhiều và coi tôi như
người em trai. Anh Trường được thả ra sau hơn mười sáu năm tù, khi anh
ra về tôi có ra gập anh nói chuyện chốc lát và anh siết chặt tay tôi
cũng vẫn với nụ cười tươi và tiếng nói rổn rảng. Anh vẫy tay chào mọi
người còn lại và nói mong sẽ sớm gập lại hết các anh em ở Sàigòn một
ngày không xa.
Tình
chiến hữu ngày xưa quyện vào tình những người tù đồng cảnh ngộ hôm nay
nhất là cùng ở tù với nhau trong giai đoạn cuối này đã trở thành một
thứ tình cảm gắn bó không khác gì anh em một nhà.
Trong
những lần trại có đợt thả như vậy, và mỗi khi nhìn thấy các người tù
được ra về thì tôi lại mừng cho các bạn mình . Tôi mường tượng ra cảnh
họ tối nay sẽ đoàn tụ quây quần bên bữa cơm gia đình với nụ cười trong
nước mắt, nghĩ về mình còn ở lại thì tôi không khỏi buồn và thấy thật
nhiều trống vắng trong tâm hồn vì mất một số bạn hữu không biết bao giờ
gập lại? Buồng giam càng ngày lại càng buồn tẻ hơn vì người càng lúc
càng thưa dần.
Dầu sao mười mấy năm trong tù cũng tôi luyện cho tôi quen dần đi với những đợt thả không có tên mình.
Lúc
đầu khi họ kêu ra sân ngồi tập hợp lại để nghe đọc tên, tôi rất hăng
hái đi ra với hy vọng có tên mình trong danh sách được thả, nhưng bao
lần tên tôi như bị lãng quên, nên riết rồi tôi cũng chán và mỗi lần như
vậy lại cáo ốm nằm trong buồng vì biết chẳng bao giờ có tên mình.
Vả lại nghe thấy tên các bạn thân thì bên cạnh niềm vui cho bạn là nỗi chán chường của người còn ở lại.
Nỗi
chán chường này bắt nguồn từ tình bạn như thường ăn cơm chung, cùng
chia sẻ những nỗi mệt nhọc trong các giờ lao động ngoài nắng mưa hay
những buổi chiều dạo bước trên sân tâm sự với nhau, thì đột nhiên họ có
tên ra về để lại tôi ngồi ăn một mình, không ai tâm sự, là một trống
vắng một nỗi buồn da diết trong tâm hồn khó bù lấp ngay được.
Thời
gian vẫn lặng lẽ trôi qua, thấm thoát mà chúng tôi đã vào Nam được một
năm. Khi vào đây tôi mới biết là trong Nam cũng còn giam giữ chưa thả
hết tù chính trị chế độ cũ.
Chín
mươi người chúng tôi từ trại Ba Sao Nam Hà là những người tù cuối cùng
trên toàn đất Bắc chuyển trại vào Nam tháng Năm năm một chín tám tám.
Trong
Nam lúc ấy, trại Hàm Tân còn khoảng hơn sáu mươi người nữa là những
người tù cuối cùng còn lại ở miền Nam hợp lại với nhau thành khoảng một
trăm năm mươi tư người tù chính trị là những người tù cuối cùng trên
toàn quốc đang bước qua năm thứ mười bốn.
Một
trăm năm mươi tư người tù đó là số sau cùng còn lại của hàng triệu
người đã bước chân vô các trại giam tập trung kể từ sau khi miền Nam rơi
vào tay Cộng Sản phương Bắc.
Khi
toán tù từ Bắc nhập vào toán trong Nam, có những người bạn cùng đơn vị
ngày xưa lưu lạc giang hồ bao nhiêu năm trời và qua bao nhiêu là trại
giam từ Nam ra Bắc rồi từ Bắc vào Nam, bỗng chốc hội ngộ nhau tại Hàm
Tân Z-30D mới biết là bạn mình vẫn còn ở lại đây, giống như bài hát:
-"Anh
ở đây bạn bè anh cũng ở đây, áo rách xác xơ thân gầy cùng nhau chung
kiếp lưu đầy...chiều chiều ra trông đàn én kiếm mồi thấp thoáng bay qua.
Toa liền toa tầu đi trong bóng hoàng hôn, tiếp nối những dư âm buồn
thành thơ ray rứt tâm hồn..."
Chúng
tôi gập lại nhau mừng rỡ một phần vì những giai đoạn cam go nhất trong
cuộc đời tù tội hầu như đã qua và trong cái không gian dù còn nhiều tù
túng và hạn chế này nhưng niềm hy vọng đã lóe sáng lên cho một ngày
trở về.
Tuy
nhiên, không ai biết rằng và chúng tôi cũng không ai ngờ rằng phải chờ
đến bốn năm sau nữa thì họ mới thả hết hơn một trăm năm mươi người tù
này làm nhiều đợt nhỏ lớn khác nhau.
Mặt
khác ở bên ngoài xã hội, năm một chín bẩy chín thì Mẹ và hai em út của
tôi được ra đi đoàn tụ qua Mỹ theo chương trình ODP mà anh thứ Ba tôi
đã bảo lãnh từ 11 năm trước. Chắc chỉ có trong các nước Cộng Sản thì
việc xin ra đi nước ngoài cho người dân mới bị làm khó dễ và thủ tục
lâu la đến 11 năm như vậy. Năm sau, một chín chín mươi thì vợ chồng
Tuyết em gái kế tôi là cô Năm ra đi cũng theo chương trình này qua
California.
Năm một chín chín mốt thì đến lượt gia đình Khánh, em gái tôi là cô Sáu rời khỏi VN qua Mỹ là chuyến chót.
Kể
cả vợ chồng Thu, em gái tôi cô Bẩy đi vượt biên mười mấy năm trước nữa
thì gia đình anh thứ Hai tôi là độc nhất còn ở lại Sàigòn.
Những
người trụ cột cho việc thăm nuôi tôi trong tù bao nhiêu năm qua đã lần
lượt rời quê hương qua Thái Lan trên đường qua Mỹ định cư. Lúc đó chỉ
còn hai con tôi đảm nhận vai trò đi thăm nuôi tôi trên những chuyến xe
đò của ông Tô mà thôi.
Cùng
lúc đó thì bên ngoài kể từ đầu của thập niên chín mươi niềm hy vọng,
nỗi mong đợi bấy lâu là chương trình H.O đã bùng lên thành sự thật một
cách rạng rỡ (là chương trình Nhân Đạo: Humanitarina Operation của
chính phủ Hoa Kỳ dành cho các gia đình có thân nhân đã ở trong trại giam
tập trung từ ba năm trở lên được đi định cư tại Hoa Kỳ.)
Một
mặt thì trại vẫn thả nhỏ giọt những người tù, một mặt thì bên ngoài
các chương trình H.O 1, H.O 2, H.O 3... vẫn tiến hành đều đặn, cứ vài
tháng lại có một đợt H.O ra đi.
Trong khi đó thì chúng tôi những người tù cuối cùng vẫn còn bị giam giữ trong bốn bức tường của Z-30D Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải.
Tâm
trạng vui buồn lẫn lộn của những người còn lại ít ỏi đó thật là khó mà
diễn tả được. Thỉnh thoảng, chúng tôi lại nhận được tin từ thăm nuôi
vào cho biết những gia đình H.O nào đã lên máy bay qua Thái Lan, gia
đình nào đang chờ đợi chuyến bay.
Một
trong những niềm vui và an ủi là một số các bạn tù được ra về những
năm trước nghe chúng tôi đã về Nam nên vào thăm mua quà và cả két bia
nữa, nhân dịp cũng để từ giã chúng tôi luôn vì các anh đã có tên trong
danh sách H.O sắp lên máy bay qua Mỹ định cư cùng gia đình.
Khi ra khu thăm nuôi gập lại nhau thì không nén được niềm xúc động.
Cuộc
đời nhiều lúc cũng khó mà lý giải được vì các người bạn đứng đây lúc
trước đều là tù nhân như nhau nhưng bây giờ chúng tôi còn trong trại
giam mà các bạn đó lại sắp bước vào cuộc đời tươi sáng trên phần đất Tự
Do.
Chỉ
có thể tin rằng con người ta mỗi người đều có số mạng khác nhau, hay
khi mà nghiệp lực đã hết thì thong dong ra về, người nghiệp lực chưa hết
thì còn ở lại mà thôi.
Trong
hơn ba năm kể từ một chín tám tám, trại chỉ thả số lẻ là năm mươi tư
người làm nhiều lần khác nhau, trong đó có nhà văn quân đội PNN ra
trại năm chín mươi, cho nên đến đầu năm một chín chín hai thì tổng số
còn lại là một trăm người.
Số một trăm người này lần lượt ra khỏi trại làm ba đợt: tháng Giêng, tháng Hai và cuối tháng Tư đầu tháng Năm.
Đợt thứ nhất gồm 42 người trong đó có các anh Lãm, Tỷ, Diễm, Chương "Tây Ninh", Tống, Điền, Nghi, v.v.
Nhắc
đến anh Tỷ thuộc Phủ Đặc Ủy thì mới thấy con người ta sống chết quả là
có số mạng, cái chết nhiều khi đến thật dễ dàng nhưng có lúc gập bao
tai nạn bệnh tật mà vẫn thoát lưỡi hái của Thần Chết thật kỳ diệu.
Khi
còn ngoài Bắc, tôi nằm cùng sàn trên với anh Tỷ, một buổi sáng thức
dậy, anh đứng lên để tháo cái dây cột mùng ra khỏi sợi dây kẽm thì có lẽ
chóng mặt hay sao đó anh mất thăng bằng nên té từ trên độ cao hơn hai
thước, đầu cắm xuống đất.
Bên
dưới là các thùng gánh nước bằng sắt, đầu anh đập vào đúng một thùng
sắt tây đầy nước, nhưng rất may là tối hôm trước không hiểu anh nào đã
đậy thùng nước với cái chậu thau nhôm chia cơm; nhờ có chậu thau đó mà
anh đã không bị bể đầu. Cái chậu thau đó như một cái đệm đã cứu mạng
anh.
Mọi
người đều hỏi anh cần đi bệnh xá không thì anh nói là không sao chỉ
choáng váng thôi và một hai ngày sau thì thấy anh bình thường trở lại
không có biến chứng gì nguy hiểm.
Khi
mới vào Hàm Tân khoảng hai năm thì một buổi tối anh Tỷ đau lăn lộn tại
chỗ nằm, chúng tôi đứng chung quanh cũng bối rối chưa biết làm sao và
không hiểu nguyên nhân gì mà anh đau dữ dội như vậy, may có anh Nhơn
nhanh trí chạy qua bên bệnh xá mời một bác sĩ (anh là BS cũ tại bệnh
viện Sàigòn ngày trước và bị bắt sau này vì vụ án "âm mưu lật đổ chính
quyền"). Qua chẩn đoán vị BS này nghi là sưng ruột dư nên kêu cấp cứu.
Vì
thiếu phương tiện hay người tù không được ưu tiên hay sao nên anh Tỷ
chỉ được một tay cán bộ chở bằng xe gắn máy từ đó trên con đường sỏi rất
là xóc cả cây số mới ra tới ngoài lộ trên đường đến bệnh viện.
Dù
ngồi đằng sau xe gắn máy xóc cả tiếng đồng hồ như vậy nhưng rất may là
vẫn còn đến bệnh viện kịp, vì nếu để lâu cái ruột dư mà bị bể ra thì
theo anh BS - có thể gây tử vong.
Khi
mổ thì phòng mổ mở cửa sổ và bụi bậm tha hồ bay vào phòng chẳng
có phương thức khử trùng gì cả. Sau khi ca mổ xong thì nhà thương họ bôi
đầy mật ong lên vết mổ nói là để sát trùng vì không có thuốc. Vậy mà
anh vẫn sống ngon lành.
Đợt
thả lớn thứ nhì là sau Tết vào ngày 20 tháng Hai với 38 người trong đó
có PKNiệm, TQ Lựu, Tấn "bầu", HĐ Sung hay "Sung Bụi", đại tá PV Phô,
LM Sơn, LT Lạt, BQ Nghĩa (cũng là bạn cờ tướng của tôi đã từng đấu với
nhau bất phân thắng bại trong mấy năm ở trại này).
Số tám chục người ra khỏi trại vào hai đợt đầu năm một chín chín hai này là những người tù đã bước sang năm thứ mười bẩy.
Vào
cuối tháng Hai sau hai đợt thả ấy thì tổng số những người tù trong
trại giam Z-30D còn lại đúng hai mươi người, trong đó có tôi.\
Danh
sách hai mươi người cuối cùng còn sót lại bao gồm bốn ông tướng là Lê
Minh Đảo, Lê Văn Thân, Đỗ Kế Giai và Trần Bá Di, mười lăm anh em nữa là
hai anh Bửu Uy và trung úy Thắng trong Phủ Đặc ủy; ba cảnh sát là hai
trung tá NH Hải, TV Xoàn, thiếu tá PT Ngưu; người về từ Việt Nam Thương
Tín Hoàng Hiểu; thiếu úy PRU trinh sát tỉnh Hòa "điếc"; anh Miên "hồi
chánh viên"; ANQĐ là đại tá Sảo, Hãn, trung tá Hiếu, Kiên, thiếu tá
Mẫn; lực lượng đặc biệt là thiếu tá LH Minh, nhà văn Thảo Trường TD
Hinh và tôi thuộc tòa đại sứ HK.
Hai mươi người cuối này được "biên chế" vào hết đội 23 còn đội 20 trước kia được "giải thể".
Từ
đó thì tôi đi lao động chung với các vị tướng và đại tá đàn anh trong
lúc sinh hoạt của đội 23 hoàn toàn khác hẳn vì ra lao động chỉ còn lấy
lệ mà thôi. Chúng tôi đi ra ngoài để tăng gia về rau xanh, trồng bí
mướp, khổ qua cho bữa ăn có thêm dinh dưỡng chứ không còn phải lao động
nữa.
Có
nhiều anh thì đi câu cá hay nấu nướng, viết thư cho gia đình. Tóm lại
là chế độ cưỡng bách lao động từ mười mấy năm qua dành cho chúng tôi
nay đã cáo chung và hầu như họ thả lỏng cho những người còn sót lại của
đội 23 này được thoải mái như thể chỉ còn sống trong trại để chờ ngày
về mà thôi.
Thời
gian này quả thật so với quãng đời lưu đầy ngày trước thì khác nhau
thật xa, tôi không còn cảm thấy không khí tù tội chung quanh mình, không
còn cảm thấy những cảm giác nghẹt thở của trại giam, tuy nhiên
tôi không khỏi băn khoăn vì chúng tôi còn lại quá ít, hai mươi người
sống bên cạnh hàng ngàn tù hình sự đủ loại tội trạng.
Hàng rào kẽm gai được đẩy lùi thêm vào trong và khu vực
của chúng tôi thu hẹp lại vào một góc nhỏ gồm căn nhà dành cho bốn ông
tướng và mười mấy anh em chúng tôi sống trong nhà kho sửa laị thành
phòng ngủ; và lần đầu tiên trong cuộc đời tù tội, chúng tôi mỗi người có
một chiếc giường cá nhân đàng hoàng giống như bốn đàn anh trên căn nhà
kia.
Nghĩ
lại tôi mới thấy các giấc chiêm bao khi xưa còn lưu đầy ngoài Bắc thật
linh ứng. Như giấc mộng chiêm bao của thầy tôi ngoài Bắc khi còn ở
trại Nam Hà, thầy đã thấy tôi là một trong những con cá cuối cùng còn
quẫy đuôi nằm thoi thóp trên lòng sông mà nước đã trơ cạn đến đáy.
Và hệt
như giấc mộng, cánh cửa tù đã đóng lại sau lưng chúng tôi hai mươi
người tù cuối cùng vào cuối tháng Tư và đầu tháng Năm năm một chín chín
hai. Như giấc mộng rất linh hiển tôi đã nằm mơ khi mới ra Bắc - thấy
một vị Thánh Mẫu hiền hậu và uy nghiêm ngồi trên ngai và Ngài đã phán
cho tôi ngay từ lúc đầu rằng: "Cộng Sản nó không bao giờ muốn thả anh
đâu, nhưng rồi cuối cùng họ cũng phải thả".
Điều
mà Ngài phán đã ứng nghiệm với những người tù cuối cùng - dù đã phải
trải qua bao gian truân, cay đắng và tủi nhục suốt mười bẩy năm trời
dài đằng đẵng đó nhưng họ vẫn luôn luôn nuôi dưỡng một niềm hy vọng hòa
lẫn niềm vui tự hào rằng mình đã sống sót và có mặt trong ngày trở về.
Phạm G. Đại
CÁNH CÒ * CHIẾC BÌNH PHÙ THỦY
Chiếc bình phù thủy.
Sun, 05/17/2015 - 09:00 — canhco
Tôi lại theo một hướng khác suy cùng nghĩ cạn cho ông. Hay là ông đang đóng vai Hàn Tín luồn trôn giữa chợ cho một kế sách nào đó mà Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương yêu cầu ông phải đóng tròn vai của một người em đối với thằng anh to xác?
Lại nghĩ, không đâu, làm sao buộc được ông vào cái vai quá khó này. Ông không thể là thánh để chịu nhục cho hàng trăm kẻ đang ngồi trong Bộ chính trị hưởng lợi. Làm sao, người nào có khả năng giải thích trước lịch sử về cái mà ông đang làm và lời mà ông đang nói? Họ chỉ có thể đẩy ông thêm vào ô nhục nếu có biến động xảy ra mà thôi. Với tư thế lớn nhất trong quân đội như vậy không lẽ tâm thức ông không đủ trưởng thành để biết rằng lời nói ấy là biểu hiện sự yếu đuối đến thảm hại. Không những yếu đuối nó còn gửi một thông điệp cho Trung Quốc biết rằng: Hãy an lòng tấn công, chúng tôi sẽ không phản ứng.
Tôi thấy có gì đấy giống giống như Trọng Thủy.
Mà ngày nay thì Trọng Thủy không thiếu tại Việt Nam. Chúng tôi tập sống chung với chúng như sống chung với lũ. Chúng cười nói xênh xang trong các hội nghị. Chúng ẩn mình thật sâu trong những cung điện được che chắn bằng các cụm từ đẹp đẽ. Lịch sử đang lập lại và người Việt chờ xem số phận đất nước sẽ bi đát tới đâu. Chúng tôi chờ Trong Thủy lộ mặt như chờ sự thật đắng cay đang bao trùm đất nước này. Và không lẽ gã họ Trọng lớn nhất lại là ông?
Tôi cũng không tin vào sự diễn giải này. Ông không đủ khả năng và tư cách để làm một TrongThủy vì dù sao thì Trọng Thũy cũng từng một lúc yêu Mỵ Châu thật tình. Còn ông, ông có yêu ai ở cái cung đình này không thưa ông?
Trung Quốc vẫn sừng sững ở Biển Đông. Vẫn sừng sững và uy nghi kéo dàn khoan vào Việt Nam. Vẫn hùng dũng rượt đuổi ngư dân Việt Nam chạy dài ra khỏi vùng biển mà Việt Nam từng có thời làm chủ. Trung Quốc vẫn lẫm liệt tuyên bố cấm đánh bắt cá như hàng năm họ vẫn làm và đổi lại những hùng dũng, những sừng sững, những uy nghi lẫm liệt ấy là một chiếc bình con con mang tặng cho ông Bộ trưởng Quốc Phòng trong ngày hai nước bắt tay nhau đậm tình đồng chí tại biên giới phía Bắc vào ngày 15 tháng 5 vừa rồi.
Tính chất phủ thủy không thiếu trong chiếc bình con con này bởi nó chứa trọn cả Biển Đông trong đấy.
Ông ôm chiếc bình trong tay với đôi mắt rưng rưng xúc cảm. Tôi cố nghĩ rằng ông xúc cảm không vì chiếc bình mà xúc cảm cho thân phận của mình. Sự hy sinh to lớn của một người lính trước táo tợn của quân thù làm sao không xúc cảm cho được. Có khi báo chí không chụp được những giọt nước mắt mà ông cố nuốt vào trong cũng như những điều đang xảy ra chắc gì mọi người biết hết?
Nhưng khổ nỗi tôi lại nhớ tới câu ông từng nói trước đây: “Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông nên đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng”.
Có rất nhiều người ghét cá nhân ông Phùng Quang Thanh, Đại tướng, Phó Bí
thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam. Ghét khi thấy
ông ngày càng rơi sâu vào vòng tay Trung Quốc. Ông Phùng tỏ ra không
muốn che dấu lòng trung thành của mình đối với phương Bắc và lòng trung
thành ấy cứ có dịp là khoe ra như sợ để trong lòng sẽ bị ức chế mà sinh
bệnh.
Nhưng tôi lại cố lắng lòng để tìm ra một hướng khác, khả dĩ có thể biện
minh cho những cáo buộc mà dư luận luôn ném vào ông với những lời lẽ
nặng nề nhất. Dù gì thì ông cũng là một Bộ trưởng Quốc phòng, nơi từng
đào tạo, chỉ huy, và chiến đấu với cả ba lực lượng hùng hậu của thế
giới: hết Tây tới Mỹ và cả Tàu nữa.
Tôi cố hình dung cho bằng được hình ảnh tiều tụy của ông sau mỗi lần
nhận trách nhiệm của Bộ chính trị, Ban chấp hành trung ương, gặp và trao
đổi, ký kết gì đấy với Trung Quốc. Ông suy sụp, hay ít ra ông sẽ tìm
cách nói những lời chung chung như phụ tá của ông là tướng Nguyễn Chí
Vịnh, người cũng song hành từng bước gặp Tàu với ông nhưng lời lẽ tuyên
bố khác xa ông. Ông Vịnh khôn khéo đến quỷ quyệt, không ai có thể bắt
nọn và nhất là bẻ câu chữ của ông ta vào con đường mà Bắc Kinh vẽ ra.
Ông có vẻ vô tư hơn ông Vịnh nên mọi tuyên bố của ông gặp ngay phản ứng,
mà phản ứng lớn chứ không nhỏ từ dư luận. Vấp mồm hay chủ đích đều dại
dột. Tôi nghĩ ông dại dột chứ không đến nỗi nào phản quốc một cách lộ
liễu đến như thế.
Tại hội nghị của Chính phủ với địa phương triển khai Nghị quyết, ngày 29
tháng 12 năm 2014 trong tư cách là Bộ trưởng Quốc phòng ông đã tâm tình
rằng: “Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ
từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho
Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc”.
Như hàng triệu người khác, ban đầu tôi ngạc nhiên, sau đó là nổi giận,
khinh bỉ lẫn tuyệt vọng cho cái quân đội mang tiếng của nhân dân này.
Vài tháng sau mới lắng lòng xuống, một mình âm thầm tự phân tích tại sao
ông nói câu nói ấy giữa lúc Trung Quốc không một chút ngại ngần lấn
chiếm từng phần đất của tổ quốc.
Ban đầu tôi cho là ông sợ chiến tranh. Chiến tranh tang tóc và nguy hại
cho đất nước như Việt Nam từng kinh qua trong ngần ấy năm đã làm kiệt
quệ con người lẫn tài nguyên không dễ gì tái tạo. Ông phát biểu trong
suy nghĩ ấy, suy nghĩ của một người dân bình thường, của một công dân
từng bị chiến tranh tàn phá và từ đó nghe tới chiến tranh là sợ hãi như
chim sợ cành cong. Con người trong ông đã nói thật và tôi thông cảm trăm
phần cho cái tính người bình thường ấy.
Nhưng khổ, tôi lại khó chống cự lại ý tưởng rằng ngoài một con người
bình thường ra ông là một người lính, mà không phải một người lính bình
thường. Lính hơn cả lính. Ông có quyền ra lệnh xử bắn bất cứ anh lính
nào vì cái bản ngã của con người để khi xung trận lại thụt lui trước kẻ
thù. Dưới tay ông không biết bao nhiêu tướng tá ông cần làm gương để chỉ
huy. Ông không thể nói với họ rằng quân đội ta yếu nên phải hy sinh,
phải thụt lui để giữ hòa bình cho đất nước.
Hòa bình không thể có khi quân đội cúi đầu trước ngoại bang, nhất là khi
quân đội nước ấy được người lãnh đạo cao nhất quỵ lụy bằng thứ ngôn ngữ
của kẻ bại trận.Tôi lại theo một hướng khác suy cùng nghĩ cạn cho ông. Hay là ông đang đóng vai Hàn Tín luồn trôn giữa chợ cho một kế sách nào đó mà Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương yêu cầu ông phải đóng tròn vai của một người em đối với thằng anh to xác?
Lại nghĩ, không đâu, làm sao buộc được ông vào cái vai quá khó này. Ông không thể là thánh để chịu nhục cho hàng trăm kẻ đang ngồi trong Bộ chính trị hưởng lợi. Làm sao, người nào có khả năng giải thích trước lịch sử về cái mà ông đang làm và lời mà ông đang nói? Họ chỉ có thể đẩy ông thêm vào ô nhục nếu có biến động xảy ra mà thôi. Với tư thế lớn nhất trong quân đội như vậy không lẽ tâm thức ông không đủ trưởng thành để biết rằng lời nói ấy là biểu hiện sự yếu đuối đến thảm hại. Không những yếu đuối nó còn gửi một thông điệp cho Trung Quốc biết rằng: Hãy an lòng tấn công, chúng tôi sẽ không phản ứng.
Tôi thấy có gì đấy giống giống như Trọng Thủy.
Mà ngày nay thì Trọng Thủy không thiếu tại Việt Nam. Chúng tôi tập sống chung với chúng như sống chung với lũ. Chúng cười nói xênh xang trong các hội nghị. Chúng ẩn mình thật sâu trong những cung điện được che chắn bằng các cụm từ đẹp đẽ. Lịch sử đang lập lại và người Việt chờ xem số phận đất nước sẽ bi đát tới đâu. Chúng tôi chờ Trong Thủy lộ mặt như chờ sự thật đắng cay đang bao trùm đất nước này. Và không lẽ gã họ Trọng lớn nhất lại là ông?
Tôi cũng không tin vào sự diễn giải này. Ông không đủ khả năng và tư cách để làm một TrongThủy vì dù sao thì Trọng Thũy cũng từng một lúc yêu Mỵ Châu thật tình. Còn ông, ông có yêu ai ở cái cung đình này không thưa ông?
Trung Quốc vẫn sừng sững ở Biển Đông. Vẫn sừng sững và uy nghi kéo dàn khoan vào Việt Nam. Vẫn hùng dũng rượt đuổi ngư dân Việt Nam chạy dài ra khỏi vùng biển mà Việt Nam từng có thời làm chủ. Trung Quốc vẫn lẫm liệt tuyên bố cấm đánh bắt cá như hàng năm họ vẫn làm và đổi lại những hùng dũng, những sừng sững, những uy nghi lẫm liệt ấy là một chiếc bình con con mang tặng cho ông Bộ trưởng Quốc Phòng trong ngày hai nước bắt tay nhau đậm tình đồng chí tại biên giới phía Bắc vào ngày 15 tháng 5 vừa rồi.
Tính chất phủ thủy không thiếu trong chiếc bình con con này bởi nó chứa trọn cả Biển Đông trong đấy.
Ông ôm chiếc bình trong tay với đôi mắt rưng rưng xúc cảm. Tôi cố nghĩ rằng ông xúc cảm không vì chiếc bình mà xúc cảm cho thân phận của mình. Sự hy sinh to lớn của một người lính trước táo tợn của quân thù làm sao không xúc cảm cho được. Có khi báo chí không chụp được những giọt nước mắt mà ông cố nuốt vào trong cũng như những điều đang xảy ra chắc gì mọi người biết hết?
Nhưng khổ nỗi tôi lại nhớ tới câu ông từng nói trước đây: “Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông nên đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng”.
Theo dõi kỹ những phát biểu của ông không phải vì thù ghét nhưng muốn
tìm cho ra chân lý tại sao một Bộ trưởng Quốc phòng lại có những ý tưởng
của loài bò sát như vậy. Va chạm căng thẳng kiểu gì mà giặc ngoài biển
lộng hành còn tướng trong đất liền thì ôm hôn kẻ gây hấn một cách thắm
thiết hơn cả Trọng Thủy hôn Mỵ Châu trước khi ăn cắp nỏ thần?
Rồi tôi lại cố nghĩ theo hướng khác: nào phải mình ông ủng hộ tất cả
những chính sách mà Đảng đang theo. Hầu hết Bộ chính trị, Ban chấp hành
Trung ương đều cách này hay cách khác có cùng nguyện vọng như ông nhưng
họ khôn ngoan hơn ông nên không lộ liễu quá. Do kém thông minh ông trở
thành ngọn giáo, tự nguyện tìm cách cắm sâu vào yết hầu đất nước.
Khi người dân hèn với chính quyền thì tự do, công lý của họ sẽ mất. Khi
chính quyền hèn với giặc thì chắc chắn nước sẽ mất mà nhà cũng tan
theo.
Và chắc gì chức Tổng bí thư sắp tới ông nắm được lâu khi bàn cờ Biển
Đông vừa được kẻ thù cũ của ông xóa đi đánh lại với người tình Trung
Quốc
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 364
Thursday, May 21, 2015
VIẾT TỪ SAIGON * KHEN CHÊ
Chuyện khen chê, nịnh nọt
Mon, 05/18/2015 - 08:58 — VietTuSaiGon
Trong chương trình truyền hình trực tiếp do một nhóm phóng viên Mỹ thực
hiện tại hang động Sơn Đoòng, Quảng Bình, có một số xen Phó Thủ tướng Vũ
Đức Đam lội nước, băng rừng, cùng đi với đoàn thám hiểm và trả lời
phòng vấn bằng tiếng Anh. Phong cách của ông khá năng động nhưng cũng
không có gì là đặc biệt lắm. Nhưng các báo trong nước lại khen lấy khen
để rằng ông là một người rất năng động, làm đẹp hình ảnh Việt Nam, thậm
chí có blogger còn cho rằng đó là hình ảnh mà cô thích nhất, để lại
trong cô ấn tượng đẹp nhất trong chương trình… Nói chung là đủ các kiểu
tán dương.
Thử đặt lại vấn đề: Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam có cảm thấy bị nhột khi
nghe người ta tán như vậy hay không? Và tại sao các báo, đài, blogger
lại thi nhau tán không tiếc chữ về ông Phó Thủ tướng?
Cũng xin nhắc lại, trước đây báo chí trong nước từng ca ngợi hình ảnh
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam năng động, linh hoạt khi ông ra sân chơi bóng
với các cựu tuyển thủ đội tuyển quốc gia Việt Nam, trong trận này, ông
ghi bàn và được các báo tung hô hết mức có thể.
Ở câu hỏi đầu, khi nghe người ta khen vậy ông Phó Thủ tướng có cảm thấy
nhột hay không? Có thể có mà cũng có thể không. Có nhột trong trường hợp
ông là một trí thức, có hiểu biết và có lòng tự trọng. Bởi dù sao đi
nữa, ông cũng là người từng du học ở phương Tây, chuyện nói tiếng Anh là
chuyện bắt buộc, hơn nữa, trên cương vị một Phó Thủ tướng, có bằng này
bằng nọ mà lại không biết tiếng Anh, không giao tiếp được bằng một ngôn
ngữ quốc tế thì còn ra thể thống gì nữa.
Trong chuyện này, rất có thể tất cả các báo trong nước cố ý khen ông Đam
để chửi cả cái nền giáo dục hổ lốn hiện tại. Nếu như vậy, phải nói rằng
các báo chơi quá thâm, bởi vì trong số các quan chức thuộc ban bệ trung
ương và ban bệ cấp tỉnh, thậm chí cấp huyện đều có bằng cao học, thạc
sĩ, phó tiến sĩ, rồi tiến sĩ. Bằng cấp đầy rẫy ra đấy. Thử hỏi bất kì
một quan chức cấp trung ương ở Hà Nội thử ông ta có bằng loại gì, chắc
chắn phải là bằng tiến sĩ hoặc phó tiến sĩ, bèo nhất cũng là thạc sĩ.
Nhưng để học và thi các tấm bằng này, tiêu chuẩn đầu tiên của các học
viên/nghiên cứu sinh là phải thông thạo tiếng Anh, phải đạt một điểm số
nhất định về tiếng Anh, đó là tiêu chuẩn đầu tiên. Nhưng, ở Việt Nam có
rất nhiều ông thạc sĩ, tiến sĩ đang giữ chức to bự từ cấp tỉnh đến cấp
trung ương, liệu các ông này có nói được tiếng Anh, có nghe và hiểu được
tiếng Anh? E rằng khó, nếu không nói là mù tịt!
Như vậy, lời khen của các báo trong nước vô hình trung làm lộ một gương
mặt giáo dục hết sức dối trá và thô bỉ của Việt Nam, các phi vụ mua bằng
bán chức được phơi bày sau khi một ông Phó Thủ tướng đứng ra nói vài
câu tiếng Anh và các báo khen lấy khen để, tự hào về hình ảnh của ông.
Chừng đó coi như đủ! Và đứng trên khía cạnh này, ông Phó Thủ tướng sẽ
rất nhột, rất khó chịu nếu ông đặt danh dự quốc gia lên trên cái tôi và
tính hảo ngọt của ông.
Ngược lại, có thể ông không thấy bị nhột và thỏa mãn nếu như ông cũng là
một trong những trục phe cánh chính trị nào đó. Cũng tìm riêng cho bản
thân một thế mạnh thông qua thế lực bồi bút cài cắm ở các báo (các thế
lực chính trị tại Việt Nam luôn thao túng một tờ báo nào đó và chuyện
này hiện ra rất rõ trong các cuộc tranh quyền, trước các đại hội) thì
đây sẽ là cơ hội để ông đạp một đối thủ nào đó.
Đến đây, chuyện khen ông Phó Thủ tướng, nịnh nọt ông Phó Thủ tướng là
chuyện rất bình thường trong báo chí nhà nước, chẳng có gì đáng bàn. Vấn
đề đáng bàn nhất không nằm ở chỗ tại sao các báo lại dễ dàng khen chê
như vậy nữa mà nằm ở chỗ khác.
Cái “chỗ khác” ấy chính là hình như giới quan chức trung ương nhà nước
Việt Nam vẫn còn trong tình trạng chẳng có gì để nói, ù ù cạc cạc nửa
nạc nửa mỡ, dốt không ra dốt mà giỏi thì chắc chắn không giỏi, khó có ai
để tìm ra một biểu hiện trí tuệ. Chính vì vậy, khi ông Đam biểu hiện
một chút “thông thái” thông thạo ngoại ngữ thì trở nên tiêu biểu, xuất
sắc, trở thành để tài hot để khen, để nịnh nọt.
Mà báo chí càng khen, càng nịnh nọt, càng bốc thơm ông Đam lại càng cho
thấy sự thối nát, tệ hại, tù mù trong hệ thống quan chức trung ương,
quan lại địa phương của Việt Nam hiện tại. Chuyện nào cũng có hai mặt
của nó.
Khen, nịnh cũng có mặt phải, đó là làm cho ai đó trở nên kì vĩ sau lớp
màng bốc thơm nhưng đồng thời cũng làm lộ mặt trái của nó, làm lộ rõ
phông nền của sự việc. Nói ra thành mạo phạm, chứ cách khen như vậy
không bằng chửi. Chuyện này có khác nào khen một người biết đọc, biết
viết giữa một đám mù chữ trong làng. Trong khi đó, muốn đi ra khỏi làng,
việc đầu tiên là phải biết đọc. Và hơn hết là phải biết tự trọng!
TƯỞNG NĂNG TIẾN * BA SÀM
Chuyện Ba Sàm & Bản Cáo Trạng Của V.K.S.N.D
Wed, 05/20/2015 - 06:58 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Bản cáo trạng này gồm 8 trang, với rất nhiều chi tiết thừa thãi nên đã được blogger Người Buôn Gió “cô đọng” như sau:
- 3 trang đầu miêu tả việc các đối tượng lập blog, lập trang mạng, đây là việc quá bình thường trong một đất nước đang có hàng chục triệu ngươi sử dụng mạng internet. Việc liệt kê quá trình lập blog, bảo mật, đăng ký sử dụng mạng, lập thư điện tử....bất kỳ ai lên mạng đều làm như vậy. Có gì mà phải vẽ ra đến 3 trang như ly kỳ, âm mưu toan tính, hiểm hóc ?
- 2 trang chỉ liệt kê tên của các bài viết, chỉ liệt kê đúng cái tiêu đề.
- 2 trang nêu lý lịch bị cáo.
- 1/2 trang kết luận.
- 1/ 4 trang của bản cáo trạng liệt kê lượng người đọc, còm men.
- Chỉ có 1/4 trang trong 8 trang cáo trạng có vẻ đúng nghĩa bản cáo trạng, nhưng đó là kết luận giám định của bộ thông tin và truyền thông khẳng định các bài viết mà hai bị cáo đưa lên là xuyên tạc đường lối của Đảng, bôi nhọ cá nhân, xâm phạm lợi ích cá nhân tổ chức... còn xâm phạm thế nào, thiệt hại ra sao, cá nhân nào bị thiệt hại... không thấy nói đến.
Cả cái bản cáo trạng lẫn kết luận hồ sơ của Bộ Công An, Viện Kiểm Sát tối cao mà chỉ kể lể dài dòng chuyện lý lịch, việc đăng ký sử dụng mạng, lập hòm thư rồi nêu tên các bài viết. Sau đó ngắn gọn nói rằng giám định Bộ Thông Tin Truyền Thông nói là có tội, thế là thành có tội mang ra xử. Không thấy phân tích chứng cứ, lập luận khoa học kết tội. Rặt áp đặt chủ quan, cảm tính. Một bản cáo trạng và kết luận hồ sơ như vậy thì cần gì hai cơ quan tố tụng lớn nhất đất nước phải dùng sạch bách thậm chí quá hạn điều tra mới viết ra được.
Và tại sao Bộ Công An có cơ quan an ninh văn hoá không giám định các bài viết mà để cho một cơ quan dân sự, không liên quan gì đến việc tố tụng đứng ra giám định và kết luận việc có tội hay không có tội.
Xét về mạnh cạnh tranh độc giả, thì chính các bị cáo là đối thủ cạnh tranh với bộ Thông Tin Truyền Thông trong việc chiếm lĩnh thị trường thông tin.
Vậy vụ án này thật khôi hài và bỉ ổi. Kẻ được nêu tên là bị hại thì chính là kẻ khởi tố, điều tra vụ án. Đối thủ cạnh tranh thị trường lại được mời làm giám định thiệt hại, kết luận có tội. Một vụ án được những kẻ tham gia tố tụng như vậy trông mong gì minh bạch.
Cá nhân tôi không mong gì chuyện “minh bạch” trong vụ án này, hoặc bất cứ một vụ án nào, ở nước C.H.X.H.C.N Việt Nam. Tôi cũng không có máu “khôi hài” nên không nhìn ra những khía cạnh “riễu cợt” trong bản cáo trạng thượng dẫn.
Tôi chỉ thấy cách luận tội của V.K.S.N.D (“xuyên tạc đường lối của Đảng, bôi nhọ cá nhân...làm ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”) sao “cù nhầy” và “buồi dái”quá thôi. Coi: cả “tập đoàn lãnh đạo” hiện nay đều lấm lem bê bết từ đầu đến chân, có sót chỗ nào để mà “bôi nhọ” được nữa – mấy cha? Tương tự, còn có ai tin tưởng gì vào “Đảng, Chính phủ, Quốc hội, và Nhà nước...” đâu mà kết án con người ta “làm ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng” – hả Trời?
Vài tháng trước, trên trang thư tín của tuần báo Trẻ (phát hành từ Dallas, Texas – ngày 26 tháng 2 năm 2015) có vị độc giả phát biểu rằng: “CS chiếm miền Nam bằng cái miệng.” Ý tưởng này khiến tôi nhớ đến một cân nói của nhà báo Huy Đức: “Trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh rõ ràng là một trong những nhà lập ngôn xuất sắc nhất.”
Quả tình, Bác và Đảng đã chiếm được cả nước – chứ không riêng chi miền Nam – bằng mồm chứ còn gì nữa. Nhưng thời thế đã khác rồi. Bây giờ mà vẫn còn hy vọng giữ được quyền bính cũng chỉ nhờ vào cái miệng (mình) và bịt miệng kẻ khác thì quả là một chuyện rất viển vông.
Thử nghe Thông Tấn Xã Việt Nam “khoe hàng” chút xíu nha:
“Website của TTXVN tại địa chỉ http://news.vnanet.vn là một trong những trang thông tin chính thức và là trang duy nhất ở trong nước cung cấp những thông tin mới nhất, tin cậy bằng bốn ngữ (Việt, Anh, Pháp, Tây Ban Nha) về tình hình Việt Nam và thế giới, là cầu nối để độc giả khắp nơi trên thế giới hiểu về Việt Nam và con người Việt Nam...
Tôi thấy chính sách thông tin như hiện nay, ta chỉ từ thua đến thua.
Cái gì chớ sách sử là tui né, và né tới cùng. Đọc chán thấy mẹ!
Né của nào, Trời trao của đó. Khi khổng khi không (cái) chị
Trương Anh Thụy, người phụ trách nhà xuất bản Cành Nam, gửi cho
một thùng sách to đùng. Nó nặng đến độ mà con mẹ đưa thư
phải ôm bằng cả hai tay, chân đá cửa rầm rầm, vừa đá vừa lầu
bầu văng tục chửi thề tá lả.
Tôi thì hớn hở tưởng rằng (dám) có người gửi cho thùng rượu. Thiệt là tưởng bở, và tưởng năng thối!
Mở ra (ôi thôi) ngoài mấy cuốn Những Lời Trăng Trối, vừa tái bản, của Trần Đức Thảo là “nguyên” một bộ sách (Nhìn Lại Sử Việt)
của Lê Mạnh Hùng. Cả bộ dám gần chục cuốn, cuốn nào cũng
khoảng 500 – 300 trăm trang. Ngó mà thiếu điều muốn ... xỉu!
Và hình như tôi cũng đã ngất đi một lúc khá lâu vì đang bị
cúm nên hơi mệt. Mở mắt ra, người ngợm rã rời, chả thiết bò
dậy nữa. Tôi bật TV nằm xem cho đến khi chán rồi vớ đại một
cuốn đọc chơi, và tin chắc rằng – chỉ vài phút thôi – là mình
sẽ tiếp tục ngủ luôn cho tới mốt.
Vậy mà tôi đọc một mạch gần hết tập IV, tập viết về “Nhà
Nguyễn Gia Miêu: Từ Gia Long Đến Cách Mạng 19/8.” Theo lời giới
thiệu của NXB thì bộ thông sử Việt Nam của Tiến Sĩ Lê Mạnh
Hùng “vừa cập nhật vừa đạt những tiêu chuẩn gắt gao nhất của
sử học hiện đại.”
Bà nội mẹ tui cũng không biết “tiêu chuẩn gắt gao nhất của sử
học hiện đại” nó “gắt gao” ra sao (và “gắt” tới cỡ nào lận)
nhưng viết sử mà thứ thường dân vớ vẩn như tui đọc cũng thấy
hấp dẫn là “hay” quá xá rồi.
Ông Lê Mạnh Hùng không cường điệu, không khoe khoang kiến thức,
rất ít tư kiến, và hoàn toàn không có cái vụ ... bình lọan
hay bình sảng! Lâu lâu, ổng mới bình thản “chêm” thêm một câu
ngăn ngắn rất thâm trầm và rất đáng đồng tiền bát gạo.
Riêng ở chương 17, tiểu mục 17.2 – viết về “Các đảng phái chính
trị tiền phong của giai đoạn mới (1923-1927) – Lê Mạnh Hùng ghi
nhận một số những sự kiện rất thú vị, xin được tóm lược:
"Trong lúc những người lưu vong bên ngoài tìm một con đường mới cho cách mạng Việt Nam qua Tâm Tâm Xã thì bên trong nước cũng xuất hiện một số đảng phái chính trị xã hội trong nước.
Đảng chính trị đầu tiên là Đảng Lập Hiến của Bùi
Quang Chiêu. Đảng này có thể được coi như là đại biểu của tầng
lớp đại địa chủ Pháp hóa tại miền Nam. Mục tiêu chính của
Đảng này không phải là giành độc lập cho Việt Nam mà có tính
cách khiêm tốn hơn: đó là đấu tranh để chính quyền Pháp phải
cải cách đường lối cai trị, ban hành một số quyền tự do dân
chủ và đôi xử với người Việt ngang hàng như đối với người
Pháp...
Sau Đảng Lập Hiến, một số đảng khác cũng xuất hiện. Khác với Đảng Lập Hiến,
các đảng sau này phần lớn có mục tiêu đấu tranh giành độc
lập cho đất nước chứ không phải chỉ đòi thêm quyền lợi cho
người Việt...
Đảng đầu tiên thành lập có tính cách chính trị là Việt Nam Nghĩa Đoàn mà
sáng lập viên bao gồm một số những người hoạt động tích cực
lúc bấy giờ như Nguyễn Văn Phùng, Tôn Quang Phiệt, Đặng Thái
Mai, Phạm Thiều, Nguyễn Quốc Túy, Trần Thiệu Ngũ, Nguyễn Văn
Ngọc v.v...
Sau Việt Nam Nghĩa Đoàn là Hội Phục Việt được
thành lập từ những người hoạt động cũ trong phong trào Duy Tân
bị bắt và nhốt chung với nhau trong nhà tù Côn Đảo...
Cũng trong giai đoạn này tại Hà Nội, Nam Đồng Thư Xã
xuất hiện. Được thành lập cuối năm 1925 bởi một nhóm giáo viên
và tiểu thương trong đó quan trọng nhất là Phạm Tuấn Tài,
Phạm Tuấn Lâm em của ông Phạm Hoàng Trân (tức Nhượng Tống), Nam Đồng Thư Xã có mục tiêu vừa thương mãi vừa chính trị...
Trong lúc Hội Phục Việt và Nam Đồng Thư Xã hoạt động ở Bắc và Trung Kỳ thì ở Nam Kỳ nhóm Jeune Annam hay đảng Thanh Niên
được thành lập vào năm 1926. Khác với tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ
nơi mà sự đàn áp của Pháp và Nam Triều gay gắt hơn, tại Nam
Kỳ vì là một thuộc địa các quyền tự do có được bảo đảm hơn
thành ra đảng thanh niên này có thể hoạt động một cách công
khai mặc dầu không được chính quyền công nhận... (Lê Mạnh Hùng. Nhìn Lại Sử Việt. Vol. 4. Arlington, VA: Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2013. 5 vols.).
Chèng ơi! Sao đất nước còn bị đô hộ mà hội đoàn, đảng phái
xuất hiện công khai, và tùm lum (khắp nơi) vậy cà? Thảo nào
mà ông Nguyễn Chí Thiện, đã có lúc, phải la làng:
Ôi, thằng Tây mà trước kia người dân không tiếc máu xương đánh đuổi
Nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng
Nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng
Mà bàn tay tên cai trị thực dân hóa ra êm ả!
Nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng
Nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng
Mà bàn tay tên cai trị thực dân hóa ra êm ả!
Sống với “lũ thú rừng” thì miễn có vụ hội đoàn và đảng
phái, đã đành, chỉ lập vài trang mạng thôi mà cũng đã phải đi
tù cả nút. Ngày 6 tháng 2 năm 2015, Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối
Cao cho phổ biến bản Cáo Trạng quyết định truy tố ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy ra trước Tòa án NDTP Hà Nội theo khoản 2, Điều 258.
Bản cáo trạng này gồm 8 trang, với rất nhiều chi tiết thừa thãi nên đã được blogger Người Buôn Gió “cô đọng” như sau:
- 3 trang đầu miêu tả việc các đối tượng lập blog, lập trang mạng, đây là việc quá bình thường trong một đất nước đang có hàng chục triệu ngươi sử dụng mạng internet. Việc liệt kê quá trình lập blog, bảo mật, đăng ký sử dụng mạng, lập thư điện tử....bất kỳ ai lên mạng đều làm như vậy. Có gì mà phải vẽ ra đến 3 trang như ly kỳ, âm mưu toan tính, hiểm hóc ?
- 2 trang chỉ liệt kê tên của các bài viết, chỉ liệt kê đúng cái tiêu đề.
- 2 trang nêu lý lịch bị cáo.
- 1/2 trang kết luận.
- 1/ 4 trang của bản cáo trạng liệt kê lượng người đọc, còm men.
- Chỉ có 1/4 trang trong 8 trang cáo trạng có vẻ đúng nghĩa bản cáo trạng, nhưng đó là kết luận giám định của bộ thông tin và truyền thông khẳng định các bài viết mà hai bị cáo đưa lên là xuyên tạc đường lối của Đảng, bôi nhọ cá nhân, xâm phạm lợi ích cá nhân tổ chức... còn xâm phạm thế nào, thiệt hại ra sao, cá nhân nào bị thiệt hại... không thấy nói đến.
Cả cái bản cáo trạng lẫn kết luận hồ sơ của Bộ Công An, Viện Kiểm Sát tối cao mà chỉ kể lể dài dòng chuyện lý lịch, việc đăng ký sử dụng mạng, lập hòm thư rồi nêu tên các bài viết. Sau đó ngắn gọn nói rằng giám định Bộ Thông Tin Truyền Thông nói là có tội, thế là thành có tội mang ra xử. Không thấy phân tích chứng cứ, lập luận khoa học kết tội. Rặt áp đặt chủ quan, cảm tính. Một bản cáo trạng và kết luận hồ sơ như vậy thì cần gì hai cơ quan tố tụng lớn nhất đất nước phải dùng sạch bách thậm chí quá hạn điều tra mới viết ra được.
Và tại sao Bộ Công An có cơ quan an ninh văn hoá không giám định các bài viết mà để cho một cơ quan dân sự, không liên quan gì đến việc tố tụng đứng ra giám định và kết luận việc có tội hay không có tội.
Xét về mạnh cạnh tranh độc giả, thì chính các bị cáo là đối thủ cạnh tranh với bộ Thông Tin Truyền Thông trong việc chiếm lĩnh thị trường thông tin.
Vậy vụ án này thật khôi hài và bỉ ổi. Kẻ được nêu tên là bị hại thì chính là kẻ khởi tố, điều tra vụ án. Đối thủ cạnh tranh thị trường lại được mời làm giám định thiệt hại, kết luận có tội. Một vụ án được những kẻ tham gia tố tụng như vậy trông mong gì minh bạch.
Cá nhân tôi không mong gì chuyện “minh bạch” trong vụ án này, hoặc bất cứ một vụ án nào, ở nước C.H.X.H.C.N Việt Nam. Tôi cũng không có máu “khôi hài” nên không nhìn ra những khía cạnh “riễu cợt” trong bản cáo trạng thượng dẫn.
Tôi chỉ thấy cách luận tội của V.K.S.N.D (“xuyên tạc đường lối của Đảng, bôi nhọ cá nhân...làm ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”) sao “cù nhầy” và “buồi dái”quá thôi. Coi: cả “tập đoàn lãnh đạo” hiện nay đều lấm lem bê bết từ đầu đến chân, có sót chỗ nào để mà “bôi nhọ” được nữa – mấy cha? Tương tự, còn có ai tin tưởng gì vào “Đảng, Chính phủ, Quốc hội, và Nhà nước...” đâu mà kết án con người ta “làm ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng” – hả Trời?
Vài tháng trước, trên trang thư tín của tuần báo Trẻ (phát hành từ Dallas, Texas – ngày 26 tháng 2 năm 2015) có vị độc giả phát biểu rằng: “CS chiếm miền Nam bằng cái miệng.” Ý tưởng này khiến tôi nhớ đến một cân nói của nhà báo Huy Đức: “Trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh rõ ràng là một trong những nhà lập ngôn xuất sắc nhất.”
Quả tình, Bác và Đảng đã chiếm được cả nước – chứ không riêng chi miền Nam – bằng mồm chứ còn gì nữa. Nhưng thời thế đã khác rồi. Bây giờ mà vẫn còn hy vọng giữ được quyền bính cũng chỉ nhờ vào cái miệng (mình) và bịt miệng kẻ khác thì quả là một chuyện rất viển vông.
Thử nghe Thông Tấn Xã Việt Nam “khoe hàng” chút xíu nha:
“Website của TTXVN tại địa chỉ http://news.vnanet.vn là một trong những trang thông tin chính thức và là trang duy nhất ở trong nước cung cấp những thông tin mới nhất, tin cậy bằng bốn ngữ (Việt, Anh, Pháp, Tây Ban Nha) về tình hình Việt Nam và thế giới, là cầu nối để độc giả khắp nơi trên thế giới hiểu về Việt Nam và con người Việt Nam...
“Với 63 phân xã tại tất cả các tỉnh thành trong nước và 27 phân xã nước
ngoài ở cả 5 châu lục, cùng nguồn thông tin trao đổi trực tuyến liên
tục 24/24 giờ với 42 hãng thông tấn và tổ chức báo chí quốc tế là một ưu
thế mà không một cơ quan báo chí nào của Việt Nam sánh được ...”
“Ưu thế” tới cỡ đó mà T.T.X.V.N lại không có độc giả. Thiên hạ
chỉ đua nhau vào xem Thông Tấn Xã Vỉa Hè thôi. Và đây có lẽ
đây mới là nguyên do (đích thực) khiến cho Trương Duy Nhất,
Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Ngọc Già, Hồng Lê Thọ, Nguyễn Hữu
Vinh, Nguyễn Thị Minh Thuý ... phải bị trừng trị – hay bị trả
thù, theo như cách nhìn của Người Buôn Gió!
Sự kiện người dân tẩy chay mọi hình thức truyền thông của nhà
nước không phải là lỗi (hoặc tội) của Ba Sàm và của giới
T.T.X.V.H. Đây chỉ là hiện tượng (“vỡ trận”) tự nhiên, báo
trước ngày tàn của chế độ thôi!
LÊ DIỄN ĐỨC * NHÂN QUYỀN
Quan hệ Việt- Mỹ và nhân quyền cho Việt Nam
Wed, 05/20/2015 - 19:25 — ledienduc
Lê Diễn Đức
Quan hệ hai nước Mỹ Việt rất tươi sáng. Đó là phát biểu của đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Ossius trong cuộc phỏng vấn của VOV (Radio The Voice of Vietnam) ngày 13 tháng 5 năm 2015.
Quan hệ hai nước Mỹ Việt rất tươi sáng. Đó là phát biểu của đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Ossius trong cuộc phỏng vấn của VOV (Radio The Voice of Vietnam) ngày 13 tháng 5 năm 2015.
Đã sắp hết nửa năm 2015, tôi không nhìn thấy một sự kiện nào đặc biệt
khả dĩ mang chút hy vọng mong manh về việc cải thiện nhân quyền cho Việt
Nam.
Các cuộc họp của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) chuẩn bị nhân sự cho Đại
hội Đảng vào năm 2016, chuyến đi thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng trước khi có chuyến công du qua Mỹ, không nói lên bất cứ điều
gì sáng sủa về khả năng cải thiện nhân quyền. Củng cố và duy trì sự
lãnh đạo tuyệt đối của ĐCSVN đối với nhà nước và xã hội, tiếp tục chính
sách "đoàn kết và hữu nghị" với Trung Quốc là thông điệp rõ ràng được
phát ra từ người lãnh đạo cao nhất của Đảng.
Đại sứ Ted Ossius nói rằng, chuyến công du Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng "là
một chuyến thăm có ý nghĩa lịch sử to lớn khi lần đầu tiên Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng sang thăm Mỹ. Đây là cơ hội để
chúng ta nêu bật lên tầm quan trọng và những tiến bộ hai nước đạt được
trong thời gian qua. Chúng tôi sẽ đón tiếp Tổng Bí thư Nguyến Phú Trọng
với những nghi thức cấp cao nhất. Chuyến thăm sẽ là cơ hội đế chúng ta
nhấn mạnh đến những cơ hội mới trong tương lai làm sâu sắc hơn quan hệ
giữa hai nước".
Xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam qua Mỹ năm 2014 đạt 35 tỷ USD và trong
năm 2015 sẽ đạt 40 tỷ USD. Mỹ trở thành thị trường lớn nhất của Việt
Nam, một nước phát triển kinh tế chủ yếu nhờ hàng xuất khẩu. Mỹ cũng
chiếm gần hai phần ba số tiền kiều hối 12 tỷ USD gửi về Việt Nam (năm
2014). Cho nên dù bắt tay hữu hảo với Trung Quốc để dựa dẫm và duy trì
sự hệ thống cai trị độc quyền, Việt Nam không thể bỏ qua yếu tố Mỹ quan
trọng, ít nhất trong kinh tế.
Chuyến thăm Hoa Kỳ của Nguyễn Phú Trọng sẽ nhắm tới việc phát huy mối
quan hệ hiện tại, nhưng chẳng bao giờ có thiện chí làm cân bằng quan hệ
giữa Trung Quốc và Mỹ, bởi vì Nguyễn Phú Trọng, như chung ta biết, thuộc
phe phái ngả vào vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh.
Nói rằng đón Nguyễn Phú Trọng với nghi thức cao nhất là cách nói ngoại
giao mập mờ, vì thực chất ông Trọng sẽ chẳng được đón tiếp với nghi thức
"state visit", cao lắm cũng chỉ "official visit", dù có gặp gỡ Tổng
thống Obama nhưng có lẽ không diễn ra tại phòng Bầu Dục của Nhà Trắng.
Tuy nhiên, chuyến công du của Nguyễn Phú Trọng có thể nói là một bước
lùi của Mỹ trong vấn đề buộc Việt Nam cải thiện nhân quyền. Khả năng trả
tự do cho các tù nhân lương tâm để làm quà trong chuyến đi này rất khó
xảy ra.
Trong chiến lược xoay trục an ninh qua châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ nhìn
thấy Việt Nam như là một đối tác có thể ngăn chặn tham vọng của Trung
Quốc nhằm bảo vệ lợi ích tự do hàng hải của mình trong khu vực. Người Mỹ
cho rằng họ có quyền tự do hàng không, hàng hải trên mọi vùng biển,
ngoại trừ vùng lãnh hải 12 hải lý của các quốc gia. Những hành động bành
trướng của Trung Quốc trên Biển Đông ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi
của nước Mỹ. Vì thế, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Daniel Russel đã nói rằng:
“Chúng ta phải ngăn chặn thái độ thách thức như thế”.
Hoa Kỳ biết rất rõ mối quan hệ mặn mà của nhà cầm quyền Việt Nam với
Trung Quốc, nhưng cũng nhìn thấy một tinh thần chống xâm lược phương Bắc
mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam và ngay cả trong tập đoàn lãnh đạo hiện
nay, một bộ phận khác cũng có khuynh hướng hợp tác với Mỹ để ngặn chặn
hiểm hoạ Trung Quốc. Do đó trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Việt Nam
được đặt vào vị trí hợp tác toàn diện.
Nên nhớ rằng Mỹ cũng đã từng có quan hệ rất tốt với các nước Cộng sản ở
châu Âu trước năm 1989 và cả với Libya dưới chế độ của Gaddafi.
Là một quốc gia dân chủ lâu đời và là một cường quốc tự do đứng đầu thế
giới, chính phủ Mỹ buộc phải có nghĩa vụ và trách nhiệm đưa vấn đề dân
chủ, nhân quyền lên bàn trong mọi thương thuyết. Đôi khi nó là một vấn
đề mang tính mặc cả với đối phương trong đàm phán. Điều này cũng giúp
cho vấn đề nhân quyền ở một số quốc gia được cải thiện. Nhưng xét toàn
diện, trong quan hệ Việt-Mỹ hiện tại, nhân quyền không phải là điều kiện
cốt yếu.
Nhân có cuộc Đối thoại Nhân quyền Mỹ-Việt lần thứ 19 diễn ra tại Hà Nội
trong hai ngày 7-8/5, Tom Malinowski, trưởng phái đoàn Mỹ, đã trả lời
cuộc phỏng vấn của Phạm Đoan Trang, một nhà báo độc lập tại Việt Nam,
xoay quanh chủ đề “TPP, khả năng tham gia của Việt Nam và những lợi ích,
rủi ro đối với Việt Nam”.
"Tôi có thể khẳng định là Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tham vấn rất, rất chặt chẽ
khối xã hội dân sự Việt Nam trong quá trình chúng tôi giám sát việc Việt
Nam thực thi các cam kết sau khi vào TPP, nếu hiệp định kia được ký
kết. Do đó, tiếng nói của những người đang đấu tranh vì nhân quyền và
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một tiếng nói vô cùng mạnh mẽ. Nó đã
vươn xa ra ngoài Việt Nam, được cả thế giới lắng nghe, và sẽ tiếp tục
được lắng nghe..." - Tom Malinowski nói.
Ông Malinowski nói Việt Nam hiện đang giam tù hơn 100 tù nhân lương tâm, con số này có giảm so với 160 người trong năm 2013.
Mỹ muốn Việt Nam trả tự do cho một số tù nhân lương tâm trong thời gian
tới khi Quốc hội Mỹ cân nhắc về Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình
Dương-TPP. Nếu có một động thái nhân nhượng nào đó của phía nhà cầm
quyền Việt Nam thì cũng chỉ là chiến thuật đổi chác, không giải quyết
được cốt lõi của vấn đề.
Tất cả những hoạt động trên phù hợp với chức năng và bổn phận của một
người đặc trách về Dân chủ- Nhân quyền như ông Malinowski. Về thực chất,
nhân quyền không phải là điều kiện quyết định Việt Nam có được Hoa Kỳ
chấp nhận tham gia hay không.
Trong bài diễn văn hôm 8 tháng 5 tại trụ sở hãng Nike ở Beaverton, Tổng
thống Obama cũng nói là nếu Việt nam hay bất kỳ đối tác nào khác không
thõa mãn những điều kiện đặt ra thì họ sẽ không được chấp nhận vào TPP.
Thế nhưng ông Obama chỉ nhắc đến những điều khoản về lao động, về môi
trường, về đầu tư, về sở hữu trí tuệ, hoàn toàn không nói một chữ nào về
nhân quyền. Cho nên hiểu rằng , nếu không tôn trọng nhân quyền Viêt Nam
sẽ bị loại khỏi TPP là ngộ nhận!
Bài viết "Some administration officials defend trade pact as national security policy"
của David Nakamura và Steven Mufson trên "Washington Post" ngày 18
tháng 5 năm 2015 cho thấy TPP nằm trong vòng đai chiến lược ngặn chặn
Trung quốc, và Mỹ cần đến Việt Nam.
Tôi cho rằng, Việt Nam sẽ được gia nhập TTP với những ân huệ của Hoa Kỳ
về thời gian thực hiện các cam kết, bất luận nhân quyền có đạt được tiến
bộ nhiều hay ít. Đành rằng, Việt Nam không thể nuốt lời, như đã từng
làm khi gia nhập WTO năm 2007, mà chắc chắn sẽ phải thực hiện các điều
khoản ký kết sau một thời gian nào đấy. Mà khi đã thực hiện, thì một
hành lang pháp lý sẽ mở ra, nới lỏng những nút thắt về dân chủ, nhân
quyền.
Như vậy Hoa Kỳ chỉ là tác nhân thúc đẩy và tạo điều kiện, còn để xã hội
có đầy đủ các tiêu chuẩn về dân chủ và nhân quyền hay không hoàn toàn
nằm ở phía người dân Việt Nam. Nhà nước độc tài toàn trị nếu có thay đổi
cũng chỉ là sự bắt buộc, phải trang điểm để đối phó, lừa bịp dư luận.
Bản chất của nó là một chế độ bóp nghẹt quyền của con người để cai trị.
Muốn có dân chủ và tự do thì phải tranh đấu giành lấy nó.
© Lê Diễn Đức
NGUYỄN THỊ TỪ HUY * VŨ ĐIỆU CỘNG SẢN
Vũ điệu nào của sọt rác ?
Sat, 05/16/2015 - 17:32 — nguyenthituhuy
Trong cuốn lịch sử văn học đó, nhất định phải đặt đầu đề cho một chương là : « Đại hội bịch rác Việt Nam khóa IX ». Cái sọt rác làm nên bịch rác hay các bịch rác làm nên sọt rác ? Câu hỏi này các nhà văn của HNVVN sẽ trả lời như thế nào ? Tôi không biết, nhưng trong tư cách người nghiên cứu, tôi sẽ có câu trả lời riêng của mình.
Tôi nhắc lại rằng tôi biết rõ, trong đánh giá của các nhà văn vĩ đại xứ An nam xã hội chủ nghĩa, tôi chỉ là cái đinh rỉ. Nhưng một khi cái danh xưng « nhà văn » đã bị chính những người viết văn bôi cho nhem nhuốc đến như thế, đã bị chính những người viết văn sỉ nhục đến như thế, thì thà cứ làm cái đinh rỉ.
Giữa lúc quốc gia nguy biến này, chúng ta hãy chờ xem cái sọt rác sẽ nhảy vũ điệu nào trong đại hội của nó và những bịch rác sẽ khiêu vũ như thế nào trong cái sọt của chúng ?
Hãy chờ xem cái vũ hội toàn quốc được tổ chức bằng tiền thuế của những người dân bị cướp đất, cướp nhà, bị đánh đập, phải bán mình làm nô lệ tình dục…, bằng tiền thuế của bố mẹ của những đứa bé phải chui túi ni lông hay đu cáp qua sông đi học...
Hãy chờ xem các « nhà văn » trong sọt rác nhảy những vũ điệu nào trên những xác ngư dân chết ngoài biển, trên những xác người vô tội chết trong đồn công an, trên những xác phụ nữ tự thiêu, trên những xác nông dân tự vẫn, trên nỗi bất hạnh của chính những đồng nghiệp nhà văn bị đuổi việc, bị bắt bớ, bị giam lỏng, bị tù đày…
Chờ xem…
Paris, 16/5/2015
Nguyễn Thị Từ Huy
Vài lời nói thêm:
Nhân một số bình luận của Hoàng Ngọc Tuấn trên facebook của Hoàng Ngọc Trâm, mà tôi cho là rất xác đáng, nếu nhìn từ logic riêng của Hoàng Ngọc Tuấn, tôi thấy cần phải giải thích cho rõ vì sao đối với tôi vụ gạch tên 9 nhà văn lại bộc lộc những ý nghĩa quan trọng.
Tôi ghi nhanh ở đây vài ý, sau này sẽ phát triển các phân tích để có thể thấy rõ hơn cách vận hành của hệ thống toàn trị, thông qua vụ việc này.
Nói như thế này thì sẽ rõ ràng hơn một chút : vụ gạch tên 9 nhà văn dưới sự chỉ đạo của Hữu Thỉnh.
Nghĩa là các nhà văn Tp HCM không tự nguyện gạch tên mấy người đó, mà họ làm việc ấy theo lệnh của Hữu Thỉnh. Bản chất vấn đề nằm ở đó. Họ là một thứ công cụ bị Hữu Thỉnh điều khiển.
Thực ra, Hữu Thỉnh có thể chỉ đạo đưa tên chín người đó ra khỏi danh sách, với cùng một lý do. Nhưng tại sao Hữu Thỉnh vẫn để tên họ trong danh sách và buộc các thành viên hội nhà văn ở Tp HCM gạch tên họ? Ta có thể thấy hai mục đích rõ ràng :
Việt Nam hiện nay đang đối diện với rất nhiều thảm họa. Báo chí, lề
phải, lề trái, đều đang ngày ngày phơi bày, theo cách của mình, các thảm
họa đó. Cũng như nhiều người khác, tôi bị đặt vào trạng thái lo lắng và
bất an mỗi khi nhận một thông tin mới về Việt Nam. Tuy vậy, không hiểu
tại sao thông tin về vụ việc gạch tên 9 nhà văn tại Tp HCM vừa rồi khiến
tôi bận tâm đến mức mất ngủ. Đến mức trong giấc mơ tôi nhìn thấy một nữ
và một nam nhà văn trẻ mà tôi quen, hai gương mặt khả ái, cầm bút tay
phải và cầm tờ danh sách tay trái. Và tôi hoảng hốt kêu lên : « Không
phải là bạn đấy chứ ! Đừng là bạn nhé ! Bạn không làm việc đó nhé ! Phải
vậy không, bạn không gạch tên những người đó, phải không ? » Dĩ nhiên
tôi chẳng thể nào có được câu trả lời trong giấc mơ. Nhưng nhờ thế mà
tôi biết tôi vẫn còn rất nặng nợ với văn chương.
Tôi bị thúc đẩy đến nỗi phải viết tiếp vài dòng về vụ việc này, để có thể ngủ được tối nay.
Không phải là tôi không băn khoăn khi gõ tay xuống bàn phím. Những dòng
này có thể khiến cho tập thể hội viên HNVVN căm ghét tôi. Nhưng ngẫm ra
thì chẳng ai có thể ghét tôi bằng chính tôi. Tôi ngày ngày căm ghét bản
thân vì thấy mọi thứ suy tàn xung quanh mà chẳng làm được gì. Bao nhiêu
người chết oan, bao nhiêu người bị đánh oan, bao nhiêu vụ án bất công,
mất đất, mất đảo, mất truyền thống, quốc thể bị sỉ nhục… tôi chẳng làm
được gì. Như thế chẳng phải là đáng ghét sao ? Chẳng ai có thể ghét tôi
hơn bản thân tôi. Nếu có ai trên đời này căm ghét tôi nhất thì đó là
chính tôi.
Vậy hãy cứ để cho người khác căm ghét tôi, và hãy nói ra những gì tôi nghĩ.
Chữ « Sọt rác » mà Dư Thị Hoàn dùng để định nghĩa HNVVN rồi đây sẽ đi
vào lịch sử văn học. Có thể là chính tôi sẽ làm điều đó, sẽ đưa từ đó
vào trong một cuốn lịch sử văn học của Việt Nam thời kỳ bi thảm này, mà
nhất định tôi phải viết, khi nào tôi có thời gian cho nó.
Có thể sẽ có những người khác làm việc đó trước tôi, nhưng việc viết một
cuốn lịch sử văn học là món nợ mà tôi phải trả cho văn chương, cho cái
thứ đã làm nên quá khứ của tôi, và vẫn còn đang ám ảnh hiện tại của tôi.
Cuốn lịch sử văn học ấy sẽ phải lột tả đúng những gì tôi nhìn thấy, sẽ
phân tích đúng như những gì tôi nhận thức.
Trước hết, cuốn lịch sử văn học ấy sẽ phải chỉ ra được dòng chảy kháng
cự, có khi âm thầm, nhưng mãnh liệt và liên tục từ thế hệ này qua thế hệ
khác của những người bảo vệ nền văn học chân chính, trả cho họ vị trí
xứng đáng của họ, cái vị trí mà hiện nay dòng chính đang tước đoạt của
họ.
Sau đó, cuốn sách sẽ mô tả và lý giải sự suy thoái của văn học dưới ách
cai trị của hệ thống toàn trị cộng sản, sẽ đánh giá lại toàn bộ những
gì đang làm nên diện mạo thống trị hiện nay trong nền văn học, sẽ không
lảng tránh bất kỳ tên tuổi nào, dù là nhà văn hay nhà thơ hay nhà phê
bình hay chủ tịch hội hay viện trưởng hay giáo sư đại học hay nhà giáo
nhân dân, tóm lại là sẽ đặt « người nào, vật nào, chỗ nấy ».
Việt Nam đang trong vòng xoáy của bạo lực, của bất công, của sự suy đồi
đạo đức và sự điêu tàn về văn hóa ; đang dần dần rơi vào vòng kiểm soát
toàn diện của Trung Quốc. Thế hệ sau phải biết được nhà văn Việt Nam,
trong cái sọt rác của mình, đã đóng góp vào quá trình vong thân, vong
bản, vong quốc ấy như thế nào. Họ phải biết được dưới đế chế của Hữu
Thỉnh và những người đội ông ta lên đầu trong suốt chừng đó năm, văn học
và xã hội đã điêu tàn như thế nào. Đó cũng chính là món nợ mà tôi phải
trả cho các thế hệ tương lai.Trong cuốn lịch sử văn học đó, nhất định phải đặt đầu đề cho một chương là : « Đại hội bịch rác Việt Nam khóa IX ». Cái sọt rác làm nên bịch rác hay các bịch rác làm nên sọt rác ? Câu hỏi này các nhà văn của HNVVN sẽ trả lời như thế nào ? Tôi không biết, nhưng trong tư cách người nghiên cứu, tôi sẽ có câu trả lời riêng của mình.
Tôi nhắc lại rằng tôi biết rõ, trong đánh giá của các nhà văn vĩ đại xứ An nam xã hội chủ nghĩa, tôi chỉ là cái đinh rỉ. Nhưng một khi cái danh xưng « nhà văn » đã bị chính những người viết văn bôi cho nhem nhuốc đến như thế, đã bị chính những người viết văn sỉ nhục đến như thế, thì thà cứ làm cái đinh rỉ.
Giữa lúc quốc gia nguy biến này, chúng ta hãy chờ xem cái sọt rác sẽ nhảy vũ điệu nào trong đại hội của nó và những bịch rác sẽ khiêu vũ như thế nào trong cái sọt của chúng ?
Hãy chờ xem cái vũ hội toàn quốc được tổ chức bằng tiền thuế của những người dân bị cướp đất, cướp nhà, bị đánh đập, phải bán mình làm nô lệ tình dục…, bằng tiền thuế của bố mẹ của những đứa bé phải chui túi ni lông hay đu cáp qua sông đi học...
Hãy chờ xem các « nhà văn » trong sọt rác nhảy những vũ điệu nào trên những xác ngư dân chết ngoài biển, trên những xác người vô tội chết trong đồn công an, trên những xác phụ nữ tự thiêu, trên những xác nông dân tự vẫn, trên nỗi bất hạnh của chính những đồng nghiệp nhà văn bị đuổi việc, bị bắt bớ, bị giam lỏng, bị tù đày…
Chờ xem…
Paris, 16/5/2015
Nguyễn Thị Từ Huy
Vài lời nói thêm:
Nhân một số bình luận của Hoàng Ngọc Tuấn trên facebook của Hoàng Ngọc Trâm, mà tôi cho là rất xác đáng, nếu nhìn từ logic riêng của Hoàng Ngọc Tuấn, tôi thấy cần phải giải thích cho rõ vì sao đối với tôi vụ gạch tên 9 nhà văn lại bộc lộc những ý nghĩa quan trọng.
Tôi ghi nhanh ở đây vài ý, sau này sẽ phát triển các phân tích để có thể thấy rõ hơn cách vận hành của hệ thống toàn trị, thông qua vụ việc này.
Nói như thế này thì sẽ rõ ràng hơn một chút : vụ gạch tên 9 nhà văn dưới sự chỉ đạo của Hữu Thỉnh.
Nghĩa là các nhà văn Tp HCM không tự nguyện gạch tên mấy người đó, mà họ làm việc ấy theo lệnh của Hữu Thỉnh. Bản chất vấn đề nằm ở đó. Họ là một thứ công cụ bị Hữu Thỉnh điều khiển.
Thực ra, Hữu Thỉnh có thể chỉ đạo đưa tên chín người đó ra khỏi danh sách, với cùng một lý do. Nhưng tại sao Hữu Thỉnh vẫn để tên họ trong danh sách và buộc các thành viên hội nhà văn ở Tp HCM gạch tên họ? Ta có thể thấy hai mục đích rõ ràng :
- Trừng phạt những người tham gia Văn đoàn độc lập.
- Buộc những người còn ở trong HNVVN, qua hành vi gạch tên, tự công nhận rằng họ chấp nhận vô điều kiện mệnh lệnh của Hữu Thỉnh, chấp nhận làm công cụ cho Hữu Thỉnh điều khiển. Dĩ nhiên, qua đó, Hữu Thỉnh có thể cảm nhận đầy đủ quyền lực vô biên của mình, và các « nhà văn » cũng chính thức xác lập vị thế nô bộc của mình. Mà Hữu Thỉnh, như tất cả mọi người đều biết, chẳng có tài năng gì. Chẳng có tài năng gì mà có thể đạt tới một thứ quyền lực như thế, mà khiến cho gần cả ngàn « nhà văn » Việt Nam phải phục tùng như thế trong suốt chừng đó năm. Để thấy sự thảm hại đang ở mức nào.
Logic quyền lực – phục tùng này không chỉ đặc thù riêng của thiết chế
HNVVN, nó là đặc thù của mọi thứ thiết chế tồn tại trong hệ thống toàn
trị, nó chính là đặc trưng của hệ thống toàn trị.
Hệ thống toàn trị chỉ có thể sụp đổ khi các cá nhân từ chối phục tùng và từ chối vận hành theo logic của nó.
Trong vụ việc gạch tên có chỉ đạo này, chúng ta thấy, một khi mà các nhà
văn còn công khai cái vai trò công cụ của mình, không chút ngượng
ngùng, đến mức như thế, thì hệ thống toàn trị Việt Nam còn lâu lắm mới
có thể sụp đổ. Và đồng thời ta cũng hiểu vì sao nó không thể (hoặc chưa
thể) sụp đổ ở Việt Nam trong tương lai gần.
TIN TƯC VÀ BÌNH LUẬN
Liệu căng thẳng Mỹ Trung sẽ diễn ra cuộc chiến tranh chớp nhoáng?
Việc Trung Quốc xây dựng các đảo nổi một cách trái phép trong vùng
biển tranh chấp với các nước đã khiến Hoa kỳ xem xét lại chính sách
quân sự của mình nhằm buộc Trung Quốc phải ứng xử có trách nhiệm tại Bây nên một cuộc chiến chớp nhoáng giữa hai nước hay không ?
Cái muốn ấy không gì khác hơn là dầu hỏa tại Biển Đông nơi có trữ lượng khổng lồ có thể biến Trung Quốc thành cường quốc số 1 trong thế kỷ tới.
Có hay không một cuộc chiến Biển Đông?
Ông Việt Phương, thư ký riêng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng với kinh nghiệm sau hơn nửa thế kỷ theo chân ông Đồng trên chính trường, cho biết nhận xét của mình:
-Tôi nghĩ chuyện căng thẳng thì nó sẽ có xu hướng gia tăng nhưng mà xảy ra chiến tranh chớp nhoáng hay là xung đột chớp nhoáng thì tôi nghĩ là khó xảy ra ít nhất là trong tương lai gần, tại vì mỗi bên họ vẫn cần một môi trường ổn định, hòa bình hơn là xảy ra các xung đột trực tiếp. Hai bên mặc dù có những mâu thuẫn về lợi ích nhưng cái mâu thuẫn này nó chưa đủ lớn để có thể đưa cả hai bên vào một cuộc chiến.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/does-us-china-hv-lightning-war-05212015061954.html
Đầu tháng 4 năm 2015 Trung Quốc công khai cải tạo lại các bãi đá nằm
trong quần đảo Trường Sa và tuyên bố rằng việc bồi đắp các đảo này vì
chúng thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Bắc Kinh. Giới quan sát
quân sự đánh giá rằng bên cạnh ý đồ dùng 7 nơi này khẳng định chủ quyền
của mình trên Biển Đông, đây còn là công trình nhằm biến chúng thành
những tàu sân bay không thể đánh chìm, nó là tấm đệm để chiến đấu cơ
Trung Quốc dùng làm nơi chuyển tiếp tấn công các tàu chiến hay khu vực
vượt khỏi tầm bay như Việt Nam hay Philippines.
Mưu đồ xây dựng căn cứ quân sự trên Biển Đông
Ngày 8 tháng 5, Bộ Ngoại giao Mỹ tố cáo hoạt động bồi đắp ở Quần đảo
Trường Sa của Trung Quốc và khẳng định sự nghi ngờ rằng Bắc Kinh muốn
thiết lập các căn cứ quân sự trên Biển Đông.
Sau đó hãng tin Reuters cho biết Bộ trưởng Quốc phòng Ash Carter đã
yêu cầu xem xét việc điều động máy bay hải quân giám sát các đảo nhân
tạo này, đồng thời nếu cần có thể điều tàu quân sự tiến vào trong phạm
vi 12 hải lý tại 7 bãi đá Trung Quốc đang xây dựng.
Đô đốc Harry Harris, tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ cho rằng
Bắc Kinh đang xây dựng một "Vạn Lý Trường Thành bằng cát" trên Biển
Đông.
Quan sát các động thái nguy hiểm và có tính toán của Bắc Kinh, ngày
30 tháng 4, chuyên gia David Archibald thuộc Viện Chính trị Thế giới
(IWP) có trụ sở tại Washington đã viết trên American Thinker bài nhận
định có tên “7 lý do Trung Quốc sẽ phát động chiến tranh vào năm 2017”(1)
Đối với Nhật Bản để phát động cuộc chiến tại vùng Biển Hoa Đông,
David Archibald cho rằng ngày nay các chương trình truyền hình hằng đêm
tại Trung Quốc đều nhắc đi nhắc lại cuộc xâm lăng của Nhật là cách chuẩn
bị lòng căm thù của dân chúng Trung Quốc để phát động cuộc chiến tranh
với Nhật Bản.
Bài viết cũng nhấn mạnh ở điểm Trung Quốc có thái độ tự phụ vì một
nền kinh tế mạnh nhưng trong diễn biến gần đây kinh tế nước này đang có
nguy cơ vỡ bong bóng hàng loạt cũng là lý do Bắc Kinh gây hấn với láng
giềng, mạnh miệng với Mỹ nhằm thách thức một cuộc chiến tranh mới để tự
bào chữa thất bại kinh tế trước khi nó sụp đổ.
David Archibald đưa ra một thực tế nữa cho thấy Trung Quốc tự coi mình là trung tâm của thế giới và hoàn toàn nhìn qua lăng kính lợi ích của riêng mình. Điều này dẫn đến việc Trung Quốc không thể chấp nhận được những điều không diễn ra theo cách mà nước này muốn.Trung Quốc có thái độ tự phụ vì một nền kinh tế mạnh nhưng trong diễn biến gần đây kinh tế nước này đang có nguy cơ vỡ bong bóng hàng loạt cũng là lý do Bắc Kinh gây hấn với láng giềng, mạnh miệng với Mỹ nhằm thách thức một cuộc chiến tranh mới để tự bào chữa thất bại kinh tế
Cái muốn ấy không gì khác hơn là dầu hỏa tại Biển Đông nơi có trữ lượng khổng lồ có thể biến Trung Quốc thành cường quốc số 1 trong thế kỷ tới.
Có hay không một cuộc chiến Biển Đông?
Ông Việt Phương, thư ký riêng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng với kinh nghiệm sau hơn nửa thế kỷ theo chân ông Đồng trên chính trường, cho biết nhận xét của mình:
-Không thể, không thể nào. Cả hai bên đều không muốn, cả loài
người đều không muốn. Không có điều kiện để mà đánh nhau đâu, hăm dọa
nhau thế thôi. Cái gọi là Biển Đông là đứng về Việt Nam mà nói còn đứng
về Philippines thì họ gọi chính thức tên của cái biển ấy là Biển Tây chứ
không phải là Biển Đông đâu. Có 7 nước có chủ quyền ở đấy chứ không
phải một mình hoặc là Việt Nam hay Trung Quốc đâu. Nơi ấy là nơi chở 2/3
hành khách và các thứ hàng hóa của thế giới, cái anh Tập Cận Bình bảo
là của tao đấy, tao có cái lưỡi bò 90% ở Biển Đông là nó nói bậy nói
láo, ai cũng biết thế rồi.
Sau khi Ngoại trưởng John Kerry thất bại trong việc thuyết phục Trung
Quốc từ bỏ tham vọng xây dựng và phát triển những cơ sở bất hợp pháp
trên Biển Đông, ngày 19 tháng 5, ông Jim Talent một cựu Thượng Nghị sĩ
Mỹ viết một bài đăng trên National Review (2) kêu gọi chính
phủ Mỹ phải thực tế hơn trước hành động của Bắc Kinh vì theo ông nếu Mỹ
tiếp tục dùng chính sách ngoại giao thì chưa đủ để ngăn chặn tham vọng
của Trung Quốc.
Tim Talent cũng nhấn mạnh sự quyết đoán của Trung Quốc khi nước này
luôn coi thường Luật pháp quốc tế, Trung Quốc không hề tin vào trật tự
thế giới và từ đó họ luôn mang tâm thế của kẻ mạnh đương nhiên phải được
hưởng lợi nhiều hơn.
Tôi nghĩ chuyện căng thẳng thì nó sẽ có xu hướng gia tăng nhưng mà xảy ra chiến tranh chớp nhoáng hay là xung đột chớp nhoáng thì tôi nghĩ là khó xảy ra ít nhất là trong tương lai gần, tại vì mỗi bên họ vẫn cần một môi trường ổn định, hòa bình hơn là xảy ra các xung đột trực tiếp
TS Lê Hồng Hiệp
Ông Tim Talent nhận định, một nhà ngoại giao như ông John Kerry mà
vẫn không thuyết phục được Bắc Kinh từ bỏ chính sách bá quyền nước lớn
thì Mỹ cần phải xem xét lại toàn bộ các chính sách của mình đối với
Trung Quốc, bao gồm cả các giải pháp quân sự.
Mặc dù chủ tịch Tập Cận Bình cho rằng mối quan hệ của hai nước vẫn ổn
định nhưng việc khăng khăng giữ quan điểm Biển Đông thuộc sở hữu của
Trung Quốc không thể làm Mỹ yên tâm khi nước này giữ vững lập trường
quay trở lại châu Á Thái bình dương của mình.
Nhìn từ Việt Nam, mặc dù Ngoại trưởng John Kerry thất bại trong việc
thuyết phục Bắc Kinh và Jim Talent cho rằng Mỹ phải có những biện pháp
quân sự nhưng Đại tá Phạm Xuân phương, từng công tác nhiều năm trong Cục
Chính trị cho rằng biện pháp ngoại giao vẫn sẽ được hai bên tiếp tục
nhằm tránh cuộc chiến tranh chớp nhoáng:
-Thực ra lúc này không phải là lúc chiến tranh chớp nhoáng nhanh
chóng được tôi thấy trong thời đại hiện nay còn nhiểu cách nói chuyện
với nhau chán. Thực ra mà nói thì Mỹ cũng có những cái nguyên tắc của
họ.
Từ nhận định này Đại tá Phạm Xuân Phương cho rằng chính Việt Nam cũng
phải thay đổi chính sách của mình cho phù hợp với đối sách hiện nay
nhằm tự bảo vệ mình:
-Đối với Trung Quốc chúng ta phải bớt chân phương đi một chút.
Trong đối sách với Trung Quốc chúng ta chân phương quá, chúng ta hiền
lành quá. Một đối thủ một đối tác như thế có lẽ không chân phương được.
Phải học cái cách đánh dứ. Đối sách thì tùy tình hình có lúc thể này có
lúc thế khác nhưng chúng ta phải học lối chơi cao thủ hơn. Chúng ta đừng
tự gò mình trong bất kỳ một công thức nào cả. Trong trường hợp nào đó
mà có một nước thứ ba mà họ giang tay với mình thì tại sao mình từ chối
chằng hạn?
Năm ngoái khi Trung Quốc mang giàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam thì Hoa kỳ đã lên tiếng công khai phản đối. Năm nay
hành động này đang được lập lại và phải chăng đây sẽ là cơ hội cho Mỹ
mạnh tay hơn? TS Lê Hồng Hiệp, Nghiên cứu viên Khách mời tại Viện Nghiên
cứu Đông Nam Á (ISEAS) cho biết nhận xét của ông:-Tôi nghĩ chuyện căng thẳng thì nó sẽ có xu hướng gia tăng nhưng mà xảy ra chiến tranh chớp nhoáng hay là xung đột chớp nhoáng thì tôi nghĩ là khó xảy ra ít nhất là trong tương lai gần, tại vì mỗi bên họ vẫn cần một môi trường ổn định, hòa bình hơn là xảy ra các xung đột trực tiếp. Hai bên mặc dù có những mâu thuẫn về lợi ích nhưng cái mâu thuẫn này nó chưa đủ lớn để có thể đưa cả hai bên vào một cuộc chiến.
Cái xu hướng lâu dài thì mâu thuẫn và những cạnh tranh quyền lợi
giữa hai nước càng ngày càng gia tăng nhưng sẽ có những cao trào và cũng
sẽ có những bước điều chỉnh đế cho nó lắng xuống và giống như những cơn
sóng nhỏ nó sẽ khó vượt qua giới hạn để xảy ra các cuộc xung đột.
Hầu hết các chuyên gia cho rằng mặc dù cố kềm chế để tìm cái lợi
trong tình trạng ổn định nhưng chắc chắn Hoa Kỳ sẽ phản ứng mạnh mẽ nếu
Trung Quốc cứ tiếp tục thử thách sự kềm chế này.
Thứ năm, 21/05/2015
Mỹ phô trương kỹ năng đổ bộ tại hội nghị với lãnh đạo quân sự châu Á
Một
chiếc tàu đổ bộ của Hải quân Hoa Kỳ tiến nhanh về bờ biển tại Căn cứ
Không quân Bellows, Oahu, Hawaii trong một cuộc diễn tập đổ bộ chung,
19/5/2015.
21.05.2015
Thủy quân lục chiến và thủy thủ Mỹ hôm thứ Tư trình diễn kỹ thuật
đổ bộ binh lính lên bãi biển, trước sự chứng kiến của các nhà lãnh đạo
quân sự đến từ các nước ven Thái Bình Dương.
Chỉ huy quân đội của 23 nước đến dự Hội nghị tác chiến đổ bộ (PALS)
đẩu tiên do Hải quân Hoa Kỳ tổ chức tại Hawaii, quy tụ các vị chỉ huy
lực lượng đổ bộ nước ngoài triển khai chủ yếu ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương.
Tham dự sự kiện có những nước đồng minh đã ký hiệp định quốc phòng
với Mỹ như Nhật Bản và Philippines, cũng như các đối tác khác của Mỹ như
Malaysia, Singapore và Việt Nam.
Sáng sớm thứ Ba, các chỉ huy lực lượng đổ bộ nước ngoài được mời tham
quan căn cứ không quân Hickam, gần Honolulu, trong một chuyến bay 20
phút trên vùng biển quanh đảo Oahu tới tàu tấn công đổ bộ USS Essex và
các tàu khác, để xem quân lực Mỹ trình diễn kỹ năng.
Ban tổ chức nói mục tiêu nhắm tới là thảo luận về cách thức mà quân
đội các nước có thể phát triển khả năng đổ bộ và phối hợp hoạt động.
Phía Mỹ cho biết Trung Quốc không được mời đến dự hội nghị vì như vậy
là trái luật cấm hoạt động trao đổi giữa hai quân đội tại những sự kiện
như thế này.
Hội nghị đầu tiên này được tổ chức giữa lúc tranh chấp lãnh thổ giữa
Trung Quốc với các nước láng giềng đang ngày càng nóng dần trong khu vực
châu Á-Thái Bình Dương.
Nguồn: AP, Reuters
Tin tức / Việt Nam
Trung Quốc xua đuổi máy bay Mỹ trên biển Đông
21.05.2015
Hải quân Trung Quốc hôm qua đã cảnh cáo một máy bay trinh sát của
Hoa Kỳ bay trên các hòn đảo nhân tạo mà Bắc Kinh đang xây dựng ở biển
Đông, và 8 lần yêu cầu máy bay này phải rút đi.
Theo phóng viên của CNN có mặt trên chuyến bay, khi các phi công
người Mỹ đáp lại rằng máy bay của họ đang bay ở không phận quốc tế, thì
người phát tín hiệu của Trung Quốc nhấn mạnh rằng họ là hải quân Trung
Quốc và yêu cầu máy bay phải “đi chỗ khác”.
Lời cảnh báo được đưa ra khi chiếc P8-A Poseidon, máy bay trinh sát tối tân nhất của Mỹ, bay ở độ cao thấp nhất là 4.500 mét.
Mỹ hết sức là quan tâm, thậm chí là rất
lo ngại vì tất cả các hoạt động của Trung Quốc, đặc biệt là các căn cứ
mà Trung Quốc đang xây dựng, mang tính chất tấn công và mang tính chất
theo dõi, khống chế các hoạt động hàng hải, hàng không qua khu vực này,
mà lợi ích của Mỹ là trực tiếp và rất là lớn.
Ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam.
Vụ việc mới nhất này cộng với chuyện Trung Quốc mới đây yêu cầu máy
bay quân sự Philippines rời khỏi các khu vực quanh đảo Trường Sa ở biển
Đông cho thấy khả năng Bắc Kinh đang tìm cách áp đặt vùng cấm bay quân
sự trên các hòn đảo mới xây dựng.
Ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, nhận định với VOA Việt Ngữ về diễn biến mới nhất này:
“Hơn ai hết, Mỹ hết sức là quan tâm, thậm chí là rất lo ngại vì tất
cả các hoạt động của Trung Quốc, đặc biệt là các căn cứ mà Trung Quốc
đang xây dựng, mang tính chất tấn công và mang tính chất theo dõi, khống
chế các hoạt động hàng hải, hàng không qua khu vực này, mà lợi ích của
Mỹ là trực tiếp và rất là lớn. Chắc chắn là với một nước có nền quốc
phòng phát triển thì Mỹ hơn ai hết hiểu rõ sự nguy hiểm và tính chất
nghiêm trọng của các công trình mà Trung Quốc đang làm, cho nên phản ứng
đó có lý do của nó”.
Phát biểu trong buổi họp báo ngày hôm nay, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết ông không hay biết về vụ việc.
Tuy nhiên, ông Hồng Lỗi tuyên bố rằng Trung Quốc “có quyền tiến hành
theo dõi vùng không phận và lãnh hải để bảo vệ chủ quyền quốc gia và
ngăn chặn các tai nạn trên biển”.
CNN dẫn lời chỉ huy máy bay trinh sát của Mỹ ở châu Á cho biết rằng
chiếc P8-A Poseidon đã bị “thách thức” 30 phút, và ông tin rằng lời cảnh
báo xuất phát từ trạm radar trên các đảo mới xây của Trung Quốc.
Một số chuyên gia an ninh lo ngại về nguy cơ xảy ra đụng độ, nhất là sau khi một quan chức Mỹ tuần trước nói rằng Ngũ Giác Đài đang cân nhắc triển khai chiến hạm và máy bay quân sự tới để bảo tự do hàng hải quanh các đảo mà Trung Quốc xây dựng.
Một số chuyên gia an ninh lo ngại về nguy cơ xảy ra đụng độ, nhất là sau khi một quan chức Mỹ tuần trước nói rằng Ngũ Giác Đài đang cân nhắc triển khai chiến hạm và máy bay quân sự tới để bảo tự do hàng hải quanh các đảo mà Trung Quốc xây dựng.
Về kế hoạch này, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam nói rằng các bên cần phải “thận trọng”.
Ông nói thêm: “Nếu như không cẩn thận thì tình hình này sẽ dẫn tới
đụng độ của các nước lớn như Trung Quốc và Mỹ. Nếu như sự xuất hiện đó
[của Mỹ] mà không tuân thủ pháp luật, không tuân thủ các quy định,
nguyên tắc luật pháp quốc tế mà vì các lợi ích của mình thì rõ ràng nó
sẽ dẫn đến sự đụng độ. Nếu không khống chế, không kiểm soát được, phân
biệt rõ ràng trắng đen, thì có thể dẫn đến hậu quả rất lớn”.
Nếu không cẩn thận thì tình hình này sẽ
dẫn tới đụng độ của các nước lớn như Trung Quốc và Mỹ. Nếu như sự xuất
hiện đó [của Mỹ] mà không tuân thủ pháp luật, không tuân thủ các quy
định, nguyên tắc luật pháp quốc tế mà vì các lợi ích của mình thì rõ
ràng sẽ dẫn đến sự đụng độ. Nếu không khống chế, không kiểm soát được,
phân biệt rõ ràng trắng đen, thì có thể dẫn đến hậu quả rất lớn”
Ông Trần Công Trục nói.
Những tuần qua, quan chức Hoa Kỳ đã nhiều lần bày tỏ lo ngại về các hoạt động lấp biển, xây đảo của Trung Quốc tại các vùng biển tranh chấp ở biển Đông.
Phát biểu với báo giới trong chuyến thăm Việt Nam trong tuần, Phó Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken nói rằng Trung Quốc đã “đơn phương thay đổi hiện trạng ở biển Đông bằng cách hành động lấp biển”.
Nhà ngoại giao này nói: “Các dự án lấn biển, xét về quy mô và khả
năng quân sự hóa, có thể gây mất ổn định và gây thêm căng thằng cho khu
vực. Chúng tôi kêu gọi tất cả các bên tuyên bố chủ quyền kiềm chế, không
gây ra các hành vi gây hấn và xử lý tranh chấp một cách hòa bình, và
thông qua các cơ chế luật pháp”.
Trong khi đó, một bài bình luận trên tờ Hoàn cầu Thời báo nói rằng Mỹ
“đang đùa với lửa”. Tờ báo lá cải thuộc cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng
sản Trung Quốc coi đó là một hành động nguy hiểm, và là một cuộc chiến
gián tiếp của Mỹ nhắm vào Trung Quốc.
Còn về phía Việt Nam, phát biểu tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 9 Quốc
hội khóa 13 hôm 20/5, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt
Nam Nguyễn Thiện Nhân nói rằng nhiều cử tri “lo lắng” về việc Bắc Kinh
xây đảo ở biển Đông.
Cũng tại phiên họp này, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, bảo
vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn, thách
thức, trước những diễn biến phức tạp ở Biển Đông.
Trước đó, Chủ tịch Trương Tấn Sang được báo chí trong nước dẫn lời
phát biểu tại một cuộc gặp cử tri ở TP HCM rằng “không có chuyện sợ hay
không sợ” Trung Quốc trong vấn đề biển Đông.
Tin tức / Việt Nam
Đô Đốc Mỹ tuyên bố hậu thuẫn ASEAN đoàn kết chống Trung Quốc
20.05.2015
Các hoạt động của Trung Quốc cải tạo đất chung quanh các bãi cạn
trong vùng biển có tranh chấp ở Biển Đông đang phương hại tới tự do và
ổn định, và có nguy cơ khích động căng thẳng, thậm chí có khả năng dẫn
tới xung đột, theo lời phát biểu của Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ Antony
Blinken tại một cuộc họp báo ở Jakarta hôm nay, 20 tháng 5.
Ông Blinken được hãng thông tấn Reuters dẫn lời nói tại cuộc
họp báo rằng: “Trong bối cảnh Trung Quốc tìm cách xây dựng những lâu
đài bằng cát thành những vùng lãnh thổ có chủ quyền, và vạch lại các
ranh giới của nước này trên biển, thì các động thái này đang làm xói mòn
sự tin tưởng trong khu vực, tác động đến niềm tin của giới đầu tư”.
Vẫn theo thứ trưởng ngoại giao Mỹ, cách ứng xử của Trung Quốc “có
nguy cơ tạo ra một tiền lệ là các nước lớn được tự do lấn át các nước
nhỏ hơn, khích động căng thẳng, tạo bất ổn, thậm chí có thể dẫn tới xung
đột”.
Hoa Kỳ và Trung Quốc đã đối đầu nhau về cuộc tranh chấp Biển Đông hôm
thứ Bảy vừa qua, khi Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ John Kerry trong lúc đến
thăm Trung Quốc đã yêu cầu Bắc Kinh hành động để giảm thiểu căng thẳng.
Đáp lời Ngoại Trưởng Kerry, Trung Quốc tuyên bố ý chí của họ để bảo vệ
các lợi ích của mình là “vững như bàn thạch”.
Tại cuộc họp báo ở Jakarta, Thứ Trưởng Blinken nói các nước cần phải
quản lý các đòi hỏi chủ quyền chồng chéo theo đường lối ngoại giao. Ông
nói Hoa Kỳ vẫn giữ lập trường là không ngả về phe nào, nhưng ‘cực lực
chống đối các hành động có mục đích khẳng định chủ quyền bằng vũ lực hay
bằng cách doạ nạt” các bên khác.
Ông Blinken khẳng định Hoa Kỳ sẽ tiếp tục khuyến khích tất cả các
nước tranh giành chủ quyền Biển Đông giải quyết những bất đồng theo
những cung cách hành xử thông thường được quốc tế công nhận.
Các hình ảnh vệ tinh mới đây cho thấy Trung Quốc đang đạt những bước
tiến nhanh chóng trong các công trình lắp đất xây đảo tại quần đảo
Trường Sa, và Trung Quốc đang xây một phi đạo có thể được sử dụng bởi
máy bay quân sự, và có dấu hiệu là một phi đạo thứ nhì cũng sắp sửa được
xúc tiến.
Tờ The Wall Street Journal hôm 19/5 trích lời lãnh đạo cao
cấp thứ nhì của lực lượng Hải quân Hoa Kỳ, Nữ Đô Đốc Michelle Howard,
yêu cầu Trung Quốc giải thích các hoạt động lấp đất xây đảo ở Biển Đông.
Bà cho biết Mỹ sẽ hỗ trợ các quốc gia Đông Nam Á, nếu các nước này chọn
giải pháp đoàn kết với nhau chống lại Bắc Kinh.
Đô Đốc Howard nói: “Tôi nghĩ đã tới lúc Trung Quốc nên thảo luận về ý
nghĩa của các hoạt động cải tạo đất của họ. Từ quan điểm riêng của tôi,
không ai có thể nói là họ làm như vậy để xây một khu nghỉ mát trên đó.
Thế cho nên, ai đó cần giải thích vì sao họ lại có những hoạt động đó.”
The Wall St. Journal tường thuật rằng Đô Đốc Michelle Howard
đưa ra lời phát biểu đó trong một cuộc phỏng vấn hôm thứ Ba vừa rồi,
phát biểu mà tờ báo bình luận là đã "góp phần tăng sức ép để đòi Trung
Quốc phải đáp ứng những lời chỉ trích đối với các công trình xây đảo
nhân tạo của Trung Quốc trong các vùng biển tranh chấp”.
Hoa Kỳ đang cân nhắc việc điều các máy bay hoặc tàu hải quân Mỹ đến
gần các đảo tân tạo, một động thái có phần chắc sẽ làm leo thang tình
hình, một tình huống mà Trung Quốc đã lên tiếng bày tỏ "quan ngại sâu
sắc".
Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Trung Quốc chưa bình luận về phát biểu của Đô Đốc Howard.
Theo một bản tin của PressTv, một tàu hải quân Mỹ và tàu chiến Trung
Quốc đã đối đầu nhau ở Biển Đông, sau khi Ngũ Giác Đài loan báo quyết
định giám sát khu vực.
Đô Đốc Michelle Howard hôm qua cho biết trong cuộc đối đầu này, hai
bên đã áp dụng những quy tắc mà hai bên đã thoả thuận trước đó, để xử lý
những vụ đối đầu không định trước trên biển.
Tàu hải quân Mỹ, chiếc USS Forth Worth, gặp tàu hải quân Trung Quốc
gần quần đảo Trường Sa, và hai bên cùng tôn trọng các quy tắc có sẵn một
cách chuyên nghiệp, theo lời Đô Đốc Michelle Howard.
Mới đây Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter đề xuất một số giải
pháp, trong đó có việc điều máy bay trinh sát Mỹ bay trên không phận
Biển Đông, và điều động tàu chiến tới phạm vi 12 hải lý cách quần đảo
Trường Sa.
Nguồn: Reuters, The Wall Street Journal
Nguồn: Reuters, The Wall Street Journal
Tin tức / Việt Nam
Singapore cảnh báo Biển Đông là 'một tai nạn sắp xảy ra'
20.05.2015
Bộ trưởng Quốc phòng Singapore kêu gọi ASEAN và Trung Quốc hãy ‘cấp
tốc hoàn tất’ một hiệp định nhằm tháo ngòi cho các căng thẳng đang leo
thang ở Biển Đông.
Báo The Straits Times của Singapore trích lời ông Ng Eng Hen đề nghị
Trung Quốc và các nước tranh giành chủ quyền ở Biển Đông nên ký một thoả
thuận có tính ràng buộc pháp lý, cấm sử dụng sức mạnh quân sự trong các
cuộc tranh chấp có nguy cơ bùng nổ.
Ông Ng nói làm như vậy sẽ giảm bớt những tính toán sai lầm ngoài
biển, và cho phép tất cả mọi bên giải quyết các cuộc tranh chấp một cách
hoà bình, dựa trên phép hành xử thông thường và khuôn khổ pháp lý.
Tiến sĩ Ng đưa ra lời cảnh báo đó trước một cử toạ gồm 23 lãnh đạo
hải quân hàng đầu đến từ khắp nơi trên thế giới, để tham dự cuộc Triển
lãm và Hội nghị Phòng vệ Biển lần thứ 10 tại Trung tâm Triển lãm Changi.
Theo lời Bộ trưởng Quốc phòng Singapore, trong tư cách một nước không
dính líu tới cuộc tranh giành chủ quyền ở Biển Đông, Singapore không về
phe nào trong các cuộc tranh chấp biển đảo ở đây, nhưng Singapore quan
tâm về nguy cơ xảy ra các biến cố trên biển, thậm chí nguy cơ xảy ra
xung đột cũng đang tăng cao.
Tiến sĩ Ng nói các cuộc tranh chấp lãnh thổ này nằm trong số những
thách thức về hàng hải có tiềm năng làm gián đoạn các tuyến hàng hải
thương mại trong khu vực này của thế giới, tác động tới Singapore và nền
kinh tế toàn cầu.
Bản tin của Bloomberg trích lời Chuẩn Đô Đốc Lai Chung Han của
Singapore, đề nghị một khung sườn khu vực để quản lý các hoạt động tàu
ngầm trong vùng.
Ông nói các nước trong khu vực có thể khởi sự bằng cách trao đổi
thông tin về những giàn khoan dầu, và lịch trình đi lại của các tàu chở
hàng lớn. Ông Lai nói ASEAN có thể dựa vào kinh nghiệm của NATO, thiết
lập Văn phòng Liên lạc Quốc tế để Tàu ngầm có đường thoát và giải cứu
trong các trường hợp khẩn cấp.
Ông Lai nói với số lượng tàu ngầm ngày càng nhiều trong khu vực, có thể nói Biển Đông là 'một tai nạn đang sắp xảy ra'.
4 nước hội viên ASEAN, là Việt Nam, Malaysia, Philippines và Brunei,
cùng với Trung Quốc và Đài Loan, là những nước có tuyên bố chủ quyền
từng phần hoặc toàn phần ở Biển Đông.
Nguồn: The Straits Times, Bloomberg'
Trận chiến cá da
trơn nổ ra tại Thượng viện Hoa Kỳ
Michael Bowman
20.05.2015
Hôm thứ Ba, cuộc tranh luận ở thượng viện Hoa Kỳ về một dự luật
nhằm tạo điều kiện cho sự phê chuẩn một hiệp ước tự do thương mại của 12
nước Vành đai Thái Bình Dương đã trở thành vụ cãi vã về vấn đề cá basa.
Theo tường thuật của thông tín viên Michael Bowman của đài VOA tại trụ
sở quốc hội Mỹ, vụ tranh cãi này nêu bật những trở ngại chính trị trong
nước đối với chương trình lập pháp thương mại, trong khi các nhà làm
luật tranh đấu cho vô số các lợi ích của dân chúng địa phương bị ảnh
hưởng bởi cạnh tranh quốc tế.
Các quốc gia đang ra sức hình thành Hiệp định Hợp tác Thương mại Xuyên Thái Bình Dương có kim ngạch thương mại hàng nghìn tỉ đô la mỗi năm. Nhưng cuộc đàm phán đang gặp khó khăn vì vụ tranh cãi về cá da trơn, một công nghiệp khu vực của Hoa Kỳ mà sản lượng hàng năm chưa đầy 1 tỉ đô la.
Các quốc gia đang ra sức hình thành Hiệp định Hợp tác Thương mại Xuyên Thái Bình Dương có kim ngạch thương mại hàng nghìn tỉ đô la mỗi năm. Nhưng cuộc đàm phán đang gặp khó khăn vì vụ tranh cãi về cá da trơn, một công nghiệp khu vực của Hoa Kỳ mà sản lượng hàng năm chưa đầy 1 tỉ đô la.
Vụ tranh cãi nổ ra ở thượng viện hôm thứ Ba khi Thượng nghị sĩ Đảng
Cộng Hòa John McCain chỉ trích một biện pháp mà Việt Nam và các nước TPP
khác cảm thấy hoài nghi: tăng cường hoạt động kiểm tra của chính phủ
Hoa Kỳ đối với một loại cá tương tự cá da trơ sản xuất tại Châu Á.
“Mục đích thực sự của chương trình cá da trơn là tạo một rào cản
thương mại để bảo vệ một số nhỏ nông dân nuôi cá da trơn ở 2 hay 3 tiểu
bang miền Nam, một trong những chương trình bảo hộ mậu dịch có tính chất
trắng trợn và cẩu thả nhất mà tôi gặp phải trong suốt thời gian phục vụ
tại thượng viện Hoa Kỳ”.
Luật nông nghiệp năm 2008 của Mỹ đòi hỏi phải có một chế độ kiểm tra
mới đối với cá da trơn do Bộ Nông Nghiệp điều hành. Tất cả các hải sản
bày bán ở Mỹ đều do Cơ quan quản lý Thực phẩm và Dược phẩm kiểm tra.
Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain sau một cuộc họp tại Thượng viện.
Ông McCain cho biết chương trình đang làm tổn thương các lợi ích kinh tế lớn hơn của Hoa Kỳ.
“10 quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương đã gửi thư đến Đại diện Thương
mại Hoa Kỳ để cảnh báo rằng văn phòng cá da trơn của Bộ Nông nghiệp Mỹ
đang phương hại đến cuộc đàm phán TPP. Ít nhất một quốc gia, đó là Việt
Nam, đã đe dọa sẽ tiến hành các biện pháp trả đũa thương mại”.
Theo Thượng nghị sĩ Đảng Cộng Hòa Roger Wicker, vấn đề thực sự không
phải là chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, mà là sức khỏe của khách hàng Mỹ. Ông
Wicker đại diện cho bang Mississippi, một trong những nơi sản xuất cá
da trơn lớn nhất nước Mỹ.
“Đây là về vấn đề an toàn thực phẩm cho người Mỹ ở 50 tiểu bang,
những người xứng đáng được biết loại cá mà họ đang ăn là không bị nhiễm
độc”.
Ông Wiker cho biết hải sản do Châu Á sản xuất thường bị phát hiện có mức độ hóa chất cao và các chất gây ô nhiễm khác.
“Chúng ta đang nói về bệnh ung thư! Nhiều sản phẩm nước ngoài đơn
giản là không được xử lý trong các điều kiện vệ sinh mà chúng ta rất chú
trọng ở Hoa Kỳ đối với cá da trơn nuôi ở các trang trại của chúng ta”.
Cuộc tranh cãi này ở thượng viện cho thấy thách thức của việc hoàn
thành một hiệp ước thương mại tự do giữa 12 quốc gia, tất cả đều có
những lợi ích cần được quảng bá và bảo vệ.
Ông Claude Barfield, chuyên gia về vấn đề thương mại của Viện Doanh nghiệp Mỹ, cho biết như sau.
“Chúng ta có 12 quốc gia, chiếm khoảng 1/3 kim ngạch thương mại thế
giới. Do đó hiệp ước này lớn hơn so với cuộc đàm phán ba bên cho Hiệp
định Thương mại Tự do Bắc Mỹ dưới thời Clinton, hay 16, 17 cuộc đàm phán
song phương dưới thời Tổng thống George W. Bush”.
Ông Barfield nói Hoa Kỳ sẽ giành phần thắng trong một số lĩnh vực của
đàm phán thương mại và nên thỏa hiệp trong một số lĩnh vực khác, nhưng
Hoa Kỳ nên giữ vững niềm tin là hiệp định TPP rốt cuộc sẽ mang lại những
lợi ích lâu dài cho nước Mỹ.
Thứ năm, 21/05/2015
'Mỹ phải đạt hiệp ước TPP nếu không muốn bị tổn thất'
20.05.2015
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Kerry nói rõ: Hoặc là Hoa Kỳ ký hiệp định
thương mại tự do Thái Bình Dương bao gồm nhiều lãnh vực, hoặc chấp nhận
nguy cơ bị bỏ lại đằng sau trong công cuộc cạnh tranh kinh tế toàn cầu.
Ông Kerry nói: “Nếu chúng ta không đạt được các thỏa thuận mậu dịch
tự do trong vùng châu Á Thái Bình Dương, thì điều đó không có nghĩa là
sẽ không có có thỏa thuận ấy, mà chỉ có nghĩa là chúng ta có thể không
dự phần vào các thỏa thuận và có thể không hình thành chúng.
Thương viện đang bị lôi cuốn vào một cuộc tranh luận về thỏa thuận
thương mại khổng lồ với 12 quốc gia thuộc Vành đai Thái Bình Dương,
trong bối cảnh các nhà lập pháp vật lộn với rất nhiều vấn đề quyền lợi
quốc gia và địa phương có thể bị tác động bởi công cuộc cạnh tranh quốc
tế.
Hình thức mới về Hiệp định Thương mại
Nếu được chung quyết, Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, hay TPP sẽ là
hiệp định thương mại tự do lớn nhất trong lịch sử. Theo Viện Brookings,
nó sẽ tác động đến 1/3 toàn bộ công cuộc mậu dịch thế giới và khoảng 40%
tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu.
Ông Kerry mô tả đó là một hiệp định lịch sử.
“TPP không phải là thỏa thuận thương mại kiểu thời ông bà chúng ta.
Nó không phải là hiệp định thương mại thời cha mẹ chúng ta. Thậm chí
cũng không phải là hiệp định thương mại thời anh chị chúng ta. Đây là
một thực thể mới, rất mới, và cuối cùng đây là một hiệp định của thế kỷ
thứ 21.”
Hiệp định bao gồm Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam.
Những người chỉ trích hiệp định gồm các nghiệp đoàn lao động và các
tổ chức môi trường, là những người lo ngại rằng hiệp định sẽ đưa tới
việc mất đi công ăn việc làm ở Hoa Kỳ và xói mòn các tiêu chuẩn về môi
trường.
Sẽ lâm khó khăn nếu không có thỏa thuận
Nhân công tại một nhà máy Boeing ở tiểu bang Washington miền tây Hoa
Kỳ đã tụ tập để nghe ông Kerry phản bác những mối quan ngại đó. Ông
Kerry nhấn mạnh rằng giải pháp không phải là đóng cửa giao thương, mà là
nằm trong việc chuyển hóa hệ thống để nó mang lại hiệu quả cho tất cả
mọi người. Ông cảnh báo về thời buổi khó khăn kinh tế sắp tới nêu như
Hoa Kỳ quyết định không tham gia.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ nói: “Kết quả sẽ là các cửa hàng khép kín và các
bảng hiệu ‘đóng cửa’ ở mọi nơi từ đầu này đến đầu kia nước Mỹ. Chúng ta
có thể thấy nhân công bến cảng nhận giấy báo sa thải trong tay thay vì
những tàu container nhả khói ra vào các cảng.”
Ông Kerry giải thích: “Giải pháp không phải là rút ra khỏi chính các
hiệp định thương mại, hay tìm cách đình chỉ việc toàn cầu hóa, bởi vì đó
là điều không thể làm được. Toàn cầu hóa không có tay ga chạy ngược.”
Ông Simon Lester, một chuyên gia về chính sách thương mại và ủng hộ
mậu dịch tự do tại Viện Cato, thừa nhận sự quan ngại về việc mất đi công
ăn việc làm, nhưng nói xét cho cùng thì Hoa Kỳ sẽ khá hơn với mậu dịch
tự do.
Ông Lester nói với đài VOA: “Nó tốt hơn cho giới tiêu thụ, nó hạ thấp
giá cả, và mặc dầu có thể gây ra tình trạng mất việc trong một số công
nghiệp, nó lại tạo ra công ăn việc làm trong những ngành công nghiệp
khác khi chúng ta mở cửa ra thị trường nước ngoài.”
Ông Kerry cũng nói nếu Hoa Kỳ dự phần vào thỏa thuận, Washington sẽ
có thể định ra các tiêu chuẩn quốc tế về lao động, thương mại và môi
trường. Không chiếm một chỗ ở bàn thảo luận, theo ông, thì những nước
khác sẽ quyết định tương lai và chất lượng mậu dịch quốc tế.
http://www.voatiengviet.com/content/ong-kerry-noi-my-can-dat-hiep-uoc-tpp-neu-khong-muon-ton-that/2779220.html
Tàu tác chiến Mỹ-Trung chạm trán trên Biển Đông
Tàu USS Fort Worth (LCS-3) trên đường tới dự triển lãm hải quân IMDEX Asia tại căn cứ Changi, Singapore, 18/05/2015REUTERS/Edgar Su
Trong
một cuộc tuần tra gần đây trên Biển Đông, tàu tác chiến của Mỹ và Trung
Quốc đã sử dụng các quy tắc mà hai nước đã thỏa thuận cho các cuộc gặp
nhau bất ngờ trên biển.
Hãng tin
Bloomberg News hôm nay, 20/05/2015 trích lời Đô đốc Michelle Howard,
Phó Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ, cho biết là tàu tác chiến tuần
duyên USS Fort Worth gần đây đã gặp một tàu quân sự của Trung Quốc ở khu
vực gần quần đảo Trường Sa.
Đô đốc Howard cho biết là Hoa Kỳ đã thỏa thuận với Trung Quốc về việc sử dụng các quy tắc ứng xử cho những cuộc gặp bất ngờ trên biển để tránh xảy ra đụng độ giữa hai bên. Những quy tắc đó đã được hai tàu tác chiến nói trên sử dụng khi gặp nhau trong lúc tuần tra.
USS Fort Worth là chiếc tàu tác chiến tuần duyên đầu tiên của Mỹ được điều đến Biển Đông để tuần tra tại vùng biển chung quanh quần đảo Trường Sa, nơi mà nhiều nước, chủ yếu là Việt Nam, Trung Quốc và Philippines, đang tranh chấp chủ quyền.
Nhưng nữ Đô đốc Mỹ không nói rõ là chiếc USS Fort Worth đã đi vào phạm vi 12 hải lý (22 km) chung quanh quần đảo Trường Sa hay không. Bà cũng không cho biết chi tiết của vụ chạm trán giữa hai tàu tác chiến Mỹ-Trung.
Những quy tắc về gặp nhau bất ngờ trên biển chắc chắn là sẽ được sử dụng nhiều hơn, bởi vì Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter chủ trương mở rộng tuần tra trên vùng Biển Đông, kể cả khu vực trong phạm vi 12 hải lý chung các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây dựng trên quần đảo Trường Sa.
Kế hoạch này là nhằm bảo đảm quyền tự do lưu thông hàng hải và là một chiến dịch mà Hoa Kỳ thường xuyên tiến hành. Năm ngoái, Mỹ đã tiến hành chiến dịch « Tự do hàng hải » đối với 19 quốc gia, trong đó có Indonesia, Philippines và Việt Nam.
Theo Bloomberg News, nữ Đô đốc Howard, phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên chỉ huy một chiến hạm của Hải quân Mỹ, cho rằng đã đến lúc Trung Quốc phải giải thích rõ mục tiêu của các công trình bồi đắp, mở rộng đảo ở Biển Đông.
http://vi.rfi.fr/20150520-my-trung
Đô đốc Howard cho biết là Hoa Kỳ đã thỏa thuận với Trung Quốc về việc sử dụng các quy tắc ứng xử cho những cuộc gặp bất ngờ trên biển để tránh xảy ra đụng độ giữa hai bên. Những quy tắc đó đã được hai tàu tác chiến nói trên sử dụng khi gặp nhau trong lúc tuần tra.
USS Fort Worth là chiếc tàu tác chiến tuần duyên đầu tiên của Mỹ được điều đến Biển Đông để tuần tra tại vùng biển chung quanh quần đảo Trường Sa, nơi mà nhiều nước, chủ yếu là Việt Nam, Trung Quốc và Philippines, đang tranh chấp chủ quyền.
Nhưng nữ Đô đốc Mỹ không nói rõ là chiếc USS Fort Worth đã đi vào phạm vi 12 hải lý (22 km) chung quanh quần đảo Trường Sa hay không. Bà cũng không cho biết chi tiết của vụ chạm trán giữa hai tàu tác chiến Mỹ-Trung.
Những quy tắc về gặp nhau bất ngờ trên biển chắc chắn là sẽ được sử dụng nhiều hơn, bởi vì Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter chủ trương mở rộng tuần tra trên vùng Biển Đông, kể cả khu vực trong phạm vi 12 hải lý chung các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây dựng trên quần đảo Trường Sa.
Kế hoạch này là nhằm bảo đảm quyền tự do lưu thông hàng hải và là một chiến dịch mà Hoa Kỳ thường xuyên tiến hành. Năm ngoái, Mỹ đã tiến hành chiến dịch « Tự do hàng hải » đối với 19 quốc gia, trong đó có Indonesia, Philippines và Việt Nam.
Theo Bloomberg News, nữ Đô đốc Howard, phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên chỉ huy một chiến hạm của Hải quân Mỹ, cho rằng đã đến lúc Trung Quốc phải giải thích rõ mục tiêu của các công trình bồi đắp, mở rộng đảo ở Biển Đông.
http://vi.rfi.fr/20150520-my-trung
Đối đầu Mỹ - Trung trên không phận Biển Đông
Phi cơ trinh sát không người lái MQ-8B Fire Scout trên chiến hạm USS Fort Worth.@navymil
Tuy
không có một hiệp ước hay luật lệ nào quy định về các vùng nhận dạng
phòng không ADIZ, nhưng vùng này vẫn được một số quốc gia thiết lập
nhằm kiểm soát những khu vực ngoài biên giới quốc gia, với quy định là
các máy bay dân dụng và quân sự của nước ngoài phải tự thông báo “thân thế” mỗi khi bay vào vùng này, nếu không có thể bị không quân của nước này bay lên chặn lại.
Trung
Quốc đã bị Hoa Kỳ và Nhật Bản chỉ trích kịch liệt khi tuyên bố vào năm
2013 thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở vùng Biển Hoa Đông, nơi mà
Bắc Kinh và Tokyo đang tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Senkaku/Điếu
Ngư. Nay Washington càng quan ngại hơn trước khả năng Trung Quốc cũng sẽ
thiết lập một vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông, một khi hoàn
tất các công trình bồi đắp, mở rộng các đảo đang tranh chấp, vì trên các
đảo này sẽ có cả các phi đạo cho phi cơ quân sự.
Vào tuần trước, khi Hoa Kỳ điều chiến hạm USS Fort Worth, một trong những tàu hiện đại nhất của hải quân Mỹ, đến tuần tra lần đầu tiên ở vùng Biển Đông, một phi cơ trinh sát không người lái và một chiếc trực thăng Seahawk cũng đã cất cánh từ chiến hạm để tuần tra trên không phận vùng biển này. Tuy hải quân Mỹ không nhắc gì đến những công trình bồi đắp đảo của Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa, nhưng những hoạt động của chiến hạm USS Fort Worth rõ ràng là nhằm chứng tỏ năng lực của Mỹ đối phó với khả năng Trung Quốc tuyên bố thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông.
Tuy nhiên, theo hãng tin Reuters, trong điều kiện hiện nay ở Biển Đông, Bắc Kinh rất khó mà bảo đảm việc tuân thủ vùng nhận dạng phòng không. Cho dù Trung Quốc sẽ có hai phi đạo quân sự ở Trường Sa, cộng thêm phi đạo được mở rộng trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa, nhưng theo các chuyên gia và các giới chức quân sự Mỹ, vùng Biển Đông rất lớn, mà tầm hoạt động của các phi cơ Trung Quốc thì có giới hạn. Ví dụ như quần đảo Trường Sa nằm cách Hoa lục đến 1.100 km, tức là rất xa các căn cứ không quân của Trung Quốc. Cho dù có thêm các đảo nhân tạo, cũng sẽ rất khó cho Trung Quốc bảo đảm việc tôn trọng vùng nhận dạng phòng không ở một khu vực xa về phía Nam như thế.
Tại vùng Biển Hoa Đông hiện nay, quân đội Hoa Kỳ và Nhật hoàn toàn không tuân thủ vùng nhận dạng phòng không của Trung Quốc. Hai hãng hàng không lớn của Nhật là ANA Holdings và Japan Airlines cũng phớt lờ quy định của Trung Quốc. Một nghiên cứu gần đây của Phòng nghiên cứu Quốc hội gần đây cho thấy là mặc dù không quân Trung Quốc tích cực giám sát vùng này bằng hệ thống radar đặt dọc theo các bờ biển, nhưng khả năng bảo đảm việc tuân thủ vùng nhận dạng phòng không ở biển Hoa Đông rất hạn chế. Các phi cơ của Trung Quốc không thể có mặt thường xuyên trên không phận Hoa Đông.
Theo Reuters, kiểm soát không phận vùng Biển Đông lại còn khó khăn hơn đối với Trung Quốc do tính chất phức tạp của tranh chấp chủ quyền biển đảo và do nguy cơ đụng độ với lực lượng hải quân và không quân Mỹ tại vùng này. Nhất là Lầu Năm Góc hiện đang xem xét phương án triển khai chiến hạm và chiến đấu cơ đến gần các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây ở Trường Sa để bảo đảm sự tự do lưu thông hàng hải chung quanh các đảo này.
Hiện giờ Bắc Kinh chỉ dám uy hiếp láng giềng Manila. Gần đây, ít nhất là 6 lần Trung Quốc đã yêu cầu các phi cơ của Philippines rời khỏi khu vực quần đảo Trường Sa, nhưng các phi cơ này đã không tuân lệnh.
http://vi.rfi.fr/20150518-my-trung//
TPP không chỉ đơn thuần là một hiệp định thương mại mà còn bao gồm một số tiêu chuẩn nền tảng về môi trường và lao động, sở hữu trí tuệ, và an toàn thực phẩm. Nếu được thông qua thì TPP sẽ mở rộng cảnh cửa thương mại cho 12 nước thành viên châu Á–Thái Bình Dương cũng như tạo điều kiện hội nhập sâu rộng hơn vào nền các nền kinh tế giữa các bên.
Nếu gia nhập vào được TPP, mà cho đến nay nhiều chuyên gia cho rằng chỉ còn vấn đề thời gian, Việt Nam sẽ tiếp cận sâu rộng hơn vào hai nền kinh tế lớn nhất thế giới – Hoa Kỳ và Nhật Bản. Thỏa thuận này chắc chắn sẽ giúp nâng cao triển vọng kinh tế của Việt Nam; và với mức lương tương đối vẫn còn thấp so với một số nước khác trong TPP, Việt Nam có nhiều tiềm năng chuyển mình thành một trung tâm xuất khẩu đầy hứa hẹn.
Nhưng thực chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong chế độ một đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam tự biến mình thành nhà nước bằng cách tiếm quyền làm chủ của người dân, biến tài sản nhà nước thành tài sản riêng của một đảng và biến nền kinh tế quốc gia thành nền kinh tế phe nhóm phục vụ cho lợi ích của một đảng.
Đây không chỉ cho thấy một chính quyền không chính danh mà còn là một chính quyền thiếu minh bạch và không có trách nhiệm, vì gần như không có nước nào trong TPP có nền kinh tế lấy doanh nghiệp nhà nước làm chủ đạo, ngăn cấm công nhân lập công đoàn độc lập, tội phạm hóa quyền chính trị và những ý kiến trái chiều với chính quyền.
Khi đàm phán về hiệp định này, Việt Nam đã liên tục bác bỏ đề xuất liên quan đến những quy tắc đối với các tổng công ty và doanh nghiệp do nhà nước quản lý. Điều này nêu bật lên sự bất cân đối giữa các nền kinh tế trong nhóm TPP và làm suy yếu trọng tâm của hiệp định vốn đề cao sự cạnh tranh bình đẳng, môi trường làm việc an toàn, bảo vệ môi sinh và quyền con người.
Liệu Hoa Kỳ có bỏ qua những chi tiết trên khi tiếp tục đàm phán để đưa Việt Nam vào TPP? Và liệu hiệp định này có thúc đẩy Việt Nam cải thiện tình trạng nhân quyền vốn đã bị nhiều nước chỉ trích trong gần nửa thể kỷ qua?
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry cũng tái khẳng định trong chuyến thăm Trung Quốc hồi cuối tuần qua rằng TPP nhắm đến nâng cao các tiêu chuẩn thương mại, tính minh bạch và trách nhiệm; đồng thời thiết lập các tiêu chuẩn cao đối với các vấn đề như môi trường, lao động, doanh nghiệp nhà nước, và sở hữu trí tuệ.
Những điều kiện tương tự cũng đã từng được mang ra đàm phán khi Việt Nam ký hiệp định song phương với Hoa Kỳ năm 2000 và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, nhưng cho đến nay thì hồ sơ nhân quyền và môi trường chính trị tại Việt Nam vẫn không có gì thay đổi.
Thậm chí, theo Tổ chức Theo dõi Nhân quyền và báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thì môi trường làm việc của công nhân và số người bất đồng chính kiến với nhà nước bị bắt giam mỗi năm mỗi tồi tệ hơn.
Trong khoảng thời gian đàm phán TPP với Hoa Kỳ, Việt Nam đã bắt và kết án hơn 150 nhân vật bất đồng chính kiến trong khi số người được trả tự do chỉ được thưa thớt trên đầu ngón tay.
Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ về Dân chủ, Nhân quyền và Lao động, ông Tom Malinowski, trong buổi Đối thoại Nhân quyền Việt–Mỹ tại Hà Nội đầu tháng Năm vừa qua cũng nhấn mạnh rằng vấn đề nhân quyền “sẽ có tác động rất lớn đối với tiến trình đàm phán TPP”.
Cho đến nay, công đoàn độc lập – hệ thống bảo vệ công nhân mà chính giới cộng sản đã từng lên án thời thực dân – vẫn không thể hoạt động độc lập tại Việt Nam, ngoài Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam chiếm độc quyền lãnh đạo.
Bài học quá khứ WTO phần nào cho thấy thương mại không giúp Việt Nam cải thiện môi trường lao động, chính trị và tình trạng nhân quyền. TPP có thể thúc đẩy thương mại Việt Nam nhưng sẽ không mang lại nhiều cải cách chính trị cơ bản – điều mà nhiều người dân Việt Nam đang mong đợi.
Việc Việt Nam gia nhập TPP và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu tất nhiên là sự lựa chọn đúng đắn. TPP sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam giảm sự lệ thuộc quá nhiều vào nước láng giềng phương Bắc, mang lại cơ hội to lớn về kinh tế .
Tuy nhiên, quá trình đàm phán và gia nhập cần phải có sự tham gia của toàn dân, và giới lãnh đạo cộng sản cần đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu.
Hiện trạng một đảng độc quyền chính trị chỉ chiếm khoảng 5% dân số nhân danh toàn dân để đàm phán những vấn đề hệ trọng của quốc gia rõ ràng là thiếu minh bạch và không chính trực.
Hơn nữa, nếu nhu cầu về các quy định mới trong việc quản lý doanh nghiệp nhà nước, các quyền lao động và cơ chế phổ quát bảo vệ công dân của mình đều bị giới lãnh đạo cộng sản gạt sang một bên thì ai sẽ là người được hưởng lợi nhiều nhất từ TPP?
Nhiều người cho rằng chủ đề nhân quyền mà phía Hoa Kỳ đặt ra nghiêng nặng về nghi thức ngoại giao, nhưng nếu giới lãnh đạo cộng sản quan tâm và đặt nặng lợi ích quốc gia và quyền của người dân Việt Nam thì chủ đề này ngay từ đầu đã không cần mang ra bàn đàm phán.
Thiết lập nền tảng hệ thống chính trị minh bạch để có một chính quyền đại diện cho người dân một cách chính danh và đặt nặng lợi ích quốc gia mới có thể tạo dựng một nền kinh tế khả tin và bền vững.
Đó cuối cùng cũng là các tiêu chuẩn mà TPP đang hướng đến trong cách tiếp cận thương mại, phát triển và đầu tư trong nền kinh tế toàn cầu.
Bài viết phản ánh quan điểm và văn phong riêng của các tác giả, hiện đang sống tại Canada.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2015/05/150520_vietnam_tpp
Vào tuần trước, khi Hoa Kỳ điều chiến hạm USS Fort Worth, một trong những tàu hiện đại nhất của hải quân Mỹ, đến tuần tra lần đầu tiên ở vùng Biển Đông, một phi cơ trinh sát không người lái và một chiếc trực thăng Seahawk cũng đã cất cánh từ chiến hạm để tuần tra trên không phận vùng biển này. Tuy hải quân Mỹ không nhắc gì đến những công trình bồi đắp đảo của Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa, nhưng những hoạt động của chiến hạm USS Fort Worth rõ ràng là nhằm chứng tỏ năng lực của Mỹ đối phó với khả năng Trung Quốc tuyên bố thiết lập vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông.
Tuy nhiên, theo hãng tin Reuters, trong điều kiện hiện nay ở Biển Đông, Bắc Kinh rất khó mà bảo đảm việc tuân thủ vùng nhận dạng phòng không. Cho dù Trung Quốc sẽ có hai phi đạo quân sự ở Trường Sa, cộng thêm phi đạo được mở rộng trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa, nhưng theo các chuyên gia và các giới chức quân sự Mỹ, vùng Biển Đông rất lớn, mà tầm hoạt động của các phi cơ Trung Quốc thì có giới hạn. Ví dụ như quần đảo Trường Sa nằm cách Hoa lục đến 1.100 km, tức là rất xa các căn cứ không quân của Trung Quốc. Cho dù có thêm các đảo nhân tạo, cũng sẽ rất khó cho Trung Quốc bảo đảm việc tôn trọng vùng nhận dạng phòng không ở một khu vực xa về phía Nam như thế.
Tại vùng Biển Hoa Đông hiện nay, quân đội Hoa Kỳ và Nhật hoàn toàn không tuân thủ vùng nhận dạng phòng không của Trung Quốc. Hai hãng hàng không lớn của Nhật là ANA Holdings và Japan Airlines cũng phớt lờ quy định của Trung Quốc. Một nghiên cứu gần đây của Phòng nghiên cứu Quốc hội gần đây cho thấy là mặc dù không quân Trung Quốc tích cực giám sát vùng này bằng hệ thống radar đặt dọc theo các bờ biển, nhưng khả năng bảo đảm việc tuân thủ vùng nhận dạng phòng không ở biển Hoa Đông rất hạn chế. Các phi cơ của Trung Quốc không thể có mặt thường xuyên trên không phận Hoa Đông.
Theo Reuters, kiểm soát không phận vùng Biển Đông lại còn khó khăn hơn đối với Trung Quốc do tính chất phức tạp của tranh chấp chủ quyền biển đảo và do nguy cơ đụng độ với lực lượng hải quân và không quân Mỹ tại vùng này. Nhất là Lầu Năm Góc hiện đang xem xét phương án triển khai chiến hạm và chiến đấu cơ đến gần các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây ở Trường Sa để bảo đảm sự tự do lưu thông hàng hải chung quanh các đảo này.
Hiện giờ Bắc Kinh chỉ dám uy hiếp láng giềng Manila. Gần đây, ít nhất là 6 lần Trung Quốc đã yêu cầu các phi cơ của Philippines rời khỏi khu vực quần đảo Trường Sa, nhưng các phi cơ này đã không tuân lệnh.
http://vi.rfi.fr/20150518-my-trung//
Việt Nam: Lợi ích quốc gia và TPP
LS Vũ Đức Khanh & BS Võ Tấn Huân
Gửi cho BBC từ Canada
- 20 tháng 5 2015
Việc
Việt Nam gia nhập TPP và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu tất
nhiên là sự lựa chọn đúng đắn. Tuy nhiên, lãnh đạo Cộng sản cần đặt lợi
ích quốc gia và quyền lợi của công dân lên hàng đầu trong mục tiêu phát
triển kinh tế và đất nước.
TPP tại Hoa Kỳ
Tại Hoa Kỳ, một số nhân vật bảo thủ gần đây đã lên tiếng mạnh mẽ kêu gọi chính quyền Obama minh bạch hóa các chi tiết liên quan đến Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership – TPP). TPP đã bị cáo buộc gây ra những bí mật không cần thiết và có thể làm nguy hiểm đến công ăn việc làm trên đất Mỹ. Ngay chính các đảng viên Đảng Dân chủ [Hoa Kỳ], vốn phần lớn bị chi phối bởi các tổ chức lao động, cũng lên tiếng đồng thuận với những lời chỉ trích đó.TPP không chỉ đơn thuần là một hiệp định thương mại mà còn bao gồm một số tiêu chuẩn nền tảng về môi trường và lao động, sở hữu trí tuệ, và an toàn thực phẩm. Nếu được thông qua thì TPP sẽ mở rộng cảnh cửa thương mại cho 12 nước thành viên châu Á–Thái Bình Dương cũng như tạo điều kiện hội nhập sâu rộng hơn vào nền các nền kinh tế giữa các bên.
Nếu gia nhập vào được TPP, mà cho đến nay nhiều chuyên gia cho rằng chỉ còn vấn đề thời gian, Việt Nam sẽ tiếp cận sâu rộng hơn vào hai nền kinh tế lớn nhất thế giới – Hoa Kỳ và Nhật Bản. Thỏa thuận này chắc chắn sẽ giúp nâng cao triển vọng kinh tế của Việt Nam; và với mức lương tương đối vẫn còn thấp so với một số nước khác trong TPP, Việt Nam có nhiều tiềm năng chuyển mình thành một trung tâm xuất khẩu đầy hứa hẹn.
Kinh tế thị trường XHCN
Đất nước 90 triệu dân hiện đang do Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền chính trị đã bỏ nền kinh tế kế hoạch tập trung vào thập niên 1980, và chuyển hướng sang nền kinh tế đặc thù chủ nghĩa tư bản phe nhóm – hoặc còn được gọi nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa bởi giới lãnh đạo cộng sản.Nhưng thực chất nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong chế độ một đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam tự biến mình thành nhà nước bằng cách tiếm quyền làm chủ của người dân, biến tài sản nhà nước thành tài sản riêng của một đảng và biến nền kinh tế quốc gia thành nền kinh tế phe nhóm phục vụ cho lợi ích của một đảng.
Đây không chỉ cho thấy một chính quyền không chính danh mà còn là một chính quyền thiếu minh bạch và không có trách nhiệm, vì gần như không có nước nào trong TPP có nền kinh tế lấy doanh nghiệp nhà nước làm chủ đạo, ngăn cấm công nhân lập công đoàn độc lập, tội phạm hóa quyền chính trị và những ý kiến trái chiều với chính quyền.
Khi đàm phán về hiệp định này, Việt Nam đã liên tục bác bỏ đề xuất liên quan đến những quy tắc đối với các tổng công ty và doanh nghiệp do nhà nước quản lý. Điều này nêu bật lên sự bất cân đối giữa các nền kinh tế trong nhóm TPP và làm suy yếu trọng tâm của hiệp định vốn đề cao sự cạnh tranh bình đẳng, môi trường làm việc an toàn, bảo vệ môi sinh và quyền con người.
Nhân quyền ở Việt Nam và TPP
Ngoài các thỏa thuận kinh tế thì Việt Nam còn đang vướng mắc một số chướng ngại khác liên quan đến vấn đề mang tính cơ bản và phổ quát, cụ thể là quyền con người và công đoàn độc lập.Liệu Hoa Kỳ có bỏ qua những chi tiết trên khi tiếp tục đàm phán để đưa Việt Nam vào TPP? Và liệu hiệp định này có thúc đẩy Việt Nam cải thiện tình trạng nhân quyền vốn đã bị nhiều nước chỉ trích trong gần nửa thể kỷ qua?
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry cũng tái khẳng định trong chuyến thăm Trung Quốc hồi cuối tuần qua rằng TPP nhắm đến nâng cao các tiêu chuẩn thương mại, tính minh bạch và trách nhiệm; đồng thời thiết lập các tiêu chuẩn cao đối với các vấn đề như môi trường, lao động, doanh nghiệp nhà nước, và sở hữu trí tuệ.
Những điều kiện tương tự cũng đã từng được mang ra đàm phán khi Việt Nam ký hiệp định song phương với Hoa Kỳ năm 2000 và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, nhưng cho đến nay thì hồ sơ nhân quyền và môi trường chính trị tại Việt Nam vẫn không có gì thay đổi.
Thậm chí, theo Tổ chức Theo dõi Nhân quyền và báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thì môi trường làm việc của công nhân và số người bất đồng chính kiến với nhà nước bị bắt giam mỗi năm mỗi tồi tệ hơn.
Trong khoảng thời gian đàm phán TPP với Hoa Kỳ, Việt Nam đã bắt và kết án hơn 150 nhân vật bất đồng chính kiến trong khi số người được trả tự do chỉ được thưa thớt trên đầu ngón tay.
Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ về Dân chủ, Nhân quyền và Lao động, ông Tom Malinowski, trong buổi Đối thoại Nhân quyền Việt–Mỹ tại Hà Nội đầu tháng Năm vừa qua cũng nhấn mạnh rằng vấn đề nhân quyền “sẽ có tác động rất lớn đối với tiến trình đàm phán TPP”.
Cho đến nay, công đoàn độc lập – hệ thống bảo vệ công nhân mà chính giới cộng sản đã từng lên án thời thực dân – vẫn không thể hoạt động độc lập tại Việt Nam, ngoài Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam chiếm độc quyền lãnh đạo.
Minh bạch và lợi ích quốc gia
Ngoài hai trụ cột nhà nước pháp quyền [thượng tôn pháp luật] và xã hội dân sự, để phát triển xã hội công bằng thì Việt Nam cần có một nền kinh tế thị trường chuẩn mực. Hiện nay, khi Đảng Cộng sản Việt Nam đặt nền kinh tế doanh nghiệp nhà nước làm chủ đạo và độc quyền kiểm soát cả ngành tòa án lẫn chính trị thì sự minh bạch và công bằng rất khó tồn tại – nếu không muốn nói là không thể – để đảm bảo một nền kinh tế bền vững, chuẩn mực và mang tính cạnh tranh cao.Bài học quá khứ WTO phần nào cho thấy thương mại không giúp Việt Nam cải thiện môi trường lao động, chính trị và tình trạng nhân quyền. TPP có thể thúc đẩy thương mại Việt Nam nhưng sẽ không mang lại nhiều cải cách chính trị cơ bản – điều mà nhiều người dân Việt Nam đang mong đợi.
Việc Việt Nam gia nhập TPP và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu tất nhiên là sự lựa chọn đúng đắn. TPP sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam giảm sự lệ thuộc quá nhiều vào nước láng giềng phương Bắc, mang lại cơ hội to lớn về kinh tế .
Tuy nhiên, quá trình đàm phán và gia nhập cần phải có sự tham gia của toàn dân, và giới lãnh đạo cộng sản cần đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu.
Hiện trạng một đảng độc quyền chính trị chỉ chiếm khoảng 5% dân số nhân danh toàn dân để đàm phán những vấn đề hệ trọng của quốc gia rõ ràng là thiếu minh bạch và không chính trực.
Hơn nữa, nếu nhu cầu về các quy định mới trong việc quản lý doanh nghiệp nhà nước, các quyền lao động và cơ chế phổ quát bảo vệ công dân của mình đều bị giới lãnh đạo cộng sản gạt sang một bên thì ai sẽ là người được hưởng lợi nhiều nhất từ TPP?
Nhiều người cho rằng chủ đề nhân quyền mà phía Hoa Kỳ đặt ra nghiêng nặng về nghi thức ngoại giao, nhưng nếu giới lãnh đạo cộng sản quan tâm và đặt nặng lợi ích quốc gia và quyền của người dân Việt Nam thì chủ đề này ngay từ đầu đã không cần mang ra bàn đàm phán.
Thiết lập nền tảng hệ thống chính trị minh bạch để có một chính quyền đại diện cho người dân một cách chính danh và đặt nặng lợi ích quốc gia mới có thể tạo dựng một nền kinh tế khả tin và bền vững.
Đó cuối cùng cũng là các tiêu chuẩn mà TPP đang hướng đến trong cách tiếp cận thương mại, phát triển và đầu tư trong nền kinh tế toàn cầu.
Bài viết phản ánh quan điểm và văn phong riêng của các tác giả, hiện đang sống tại Canada.
Wednesday, May 20, 2015
VIỆT CỘNG TRÁO THỦY TINH THỂ
Ác quỷ áo trắng
Ngành
y tế Việt Nam lại vừa có thêm một “cơn chấn động”, khi bệnh viện (BV)
Mắt Hà Nội đã nhẫn tâm đánh tráo thuỷ tinh thể của hơn 3,000 bệnh nhân.
Người dân đang lo sợ vì ngành y bây giờ có lắm “ác quỷ”.
Ngành
y tế Việt Nam lại vừa có thêm một “cơn chấn động”, khi bệnh viện (BV)
Mắt Hà Nội đã nhẫn tâm đánh tráo thuỷ tinh thể của hơn 3,000 bệnh nhân.
Người dân đang lo sợ vì ngành y bây giờ có lắm “ác quỷ”.
Vụ đánh tráo thuỷ tinh thể, xem ra còn nguy hiểm, nhẫn tâm hơn cả vụ bớt xén vaccine, “nhân bản” kết quả xét nghiệm,…
Bệnh viện Mắt Hà Nội. Nguồn: Internet
Theo
các bác sỹ chuyên khoa về Mắt, thủy tinh thể là chiếc đĩa trong suốt
nằm ở phía bên trong mắt, nó tập trung các tia sáng đi vào võng mạc để
tạo thành hình ảnh sắc nét rõ ràng, như thấu kính của máy ảnh tập trung
hình ảnh vào phim. Thủy tinh thể có chức năng như một thấu kính hội tụ
công suất 20D nằm sau mống mắt và tham gia vào qúa trình điều tiết của
mắt. Sự đục mờ này ngăn không cho tia sáng lọt qua, kết quả là võng mạc
không thu được hình ảnh và thị lực bệnh nhân suy giảm dẫn đến mù lòa.
Bệnh đục mờ thủy tinh thể được xem là bệnh mù có thể chữa được. Chữa
bằng cách thay thuỷ tinh thể nhân tạo.
Phẫu thuật thay thuỷ tinh thể.
Giám
đốc bệnh viện Mắt Hà Nội đã bị tố giác khi cho đấu thầu thuỷ tinh thể,
các chất liệu như dịch nhầy rẻ tiền để sử dụng khi phẫu thuật thay thuỷ
tinh thể cho hơn 3,000 bệnh nhân. Tuy được thay thuỷ tinh thể rẻ tiền
của nước khác, nhưng bệnh nhân vẫn phải trả phí là 6,5 triệu đồng/mắt
($300)-chi phí khi dùng thuỷ tinh thể của Mỹ. Hơn nữa, mỗi ống dịch nhầy
chỉ được dùng cho một bệnh nhân, thì bác sỹ của bệnh viện này đem chia
và dùng chung cho từ 4-5 bệnh nhân; một bộ dao mổ sử dụng cho 10 ca.
Những người có bảo hiểm y tế (BHYT), bệnh viện được BHYT trả, nhưng bà
gíam đốc BV này chỉ đạo phải thu thêm mỗi bệnh nhân có BHYT 1 triệu đồng
($50).
Chẳng
đặng đừng, người bệnh mới phải đến bệnh viện để được cứu chữa, thì
chính nơi này, họ bị các vị lương y lừa phỉnh, tráo trở, và làm tiền
trắng trợn. Mà chẳng đâu xa, chuyện lừa gạt bệnh nhân lại xảy ra tại
bệnh viện chuyên khoa Mắt ở ngay thủ đô.
Người
tốt trong ngành y tế vẫn còn. Đó là các bác sỹ dám đứng ra tố giác giám
đốc BV, muốn làm sáng tỏ mọi ngách tối của kẻ tán tận lương tâm. Vụ này
không được làm ra ánh sáng, sẽ còn biết bao bệnh nhân bị lừa? Không ai
biết được. Chỉ có một điều ai cũng biết, tương tự như tình trạng bác sỹ ở
BV Hoài Đức khi tố giác vụ “nhân bản” kết quả xét nghiệm, đó là “tính
mạng”, sự bình an của những bác sỹ dũng cảm đứng ra tố giác luôn bị đe
doạ. Cụ thể là bác sỹ tố cáo vụ tráo thuỷ tinh thể không những bị kỷ
luật, mà còn bị “xã hội đen” tông xe làm ngã gãy tay. Lương y bây giờ
cũng có “tay chân” là “xã hội đen”, thì người dân lành biết cậy vào đâu?
Người
tốt trong ngành y còn quá ít, mà xung quanh họ lại có quá nhiều kẻ bất
nhân, “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”, kể cả những người lãnh đạo
cao cấp được cho là “liêm minh chính đại” cũng không còn được tin tưởng
bởi sự dung túng, bao che của họ với thuộc cấp. Cụ thể là những lá thư
tố cáo đã được gửi đi từ lâu, nhưng chính quyền Hà Nội kết luận vụ tráo
thuỷ tinh thể chỉ là…“sai sót”. Sai sót có thể là 1, hoặc 2 ca, chứ
không thể nào lên đến hàng ngàn ca! Dung túng, bao che, có thể vì sợ tai
tiếng, ảnh hưởng đến “thi đua-khen thưởng”, nhưng cũng có thể vì “cùng
một đường dây”, đã “ăn đồng chia đều” thì không thể đổ tội hết cho cấp
dưới khi có chuyện xảy ra.
Loại
thuỷ tinh thể gía rẻ chỉ dùng được vài năm, sau đó nếu hư, họ không thể
thay được thuỷ tinh thể lần nữa, và họ sẽ mù. Như vậy, hành động đánh
tráo thuỷ tinh thể chính là tội ác; bà giám đốc BV Mắt Hà Nội chỉ đạo vụ
này chính là ác quỷ vì đã nhẫn tâm “ăn” thuỷ tinh thể của người đang
cần ánh sáng, mà hầu hết họ là những người lớn tuổi, người nghèo.
Chưa
bao giờ người dân hoảng loạn, lo sợ như lúc này, khi mà những người
chuyên chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ, cứu chữa người bệnh không chỉ yếu kém
về khả năng chuyên môn, nghề nghiệp, mà còn mất lương tâm, đạo đức của
người thầy thuốc. Một khi những ác quỷ áo trắng này còn tồn tại, sẽ vẫn
chưa hết những nguy cơ đe doạ người bệnh, và cả những người chưa bệnh.
Bình An
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 364
LỄ HỘI ĐÈN HOA SEN NAM HÀN
LỄ HỘI ĐÈN HOA SEN NAM HÀNLễ hội đèn lồng hoa sen là một nét văn hóa truyền thống của người Hàn Quốc vào dịp Phật Đản sinh. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất của Hàn Quốc, một dịp để những người con Phật kỷ niệm ngày một bậc vĩ nhân đã ra đời.
Trong
lễ hội này, đã có hơn 50.000 đèn lồng các loại làm rực sáng trung tâm
thủ đô Seoul. Lễ hội năm nay còn có sự hiện diện của lãnh đạo Phật giáo
hơn 20 quốc gia đến dự Hội Nghị Hòa Bình Thế Giới và Thống Nhất Nam-Bắc
Hàn, trong đó có phái đoàn của Phật giáo Việt Nam.
Buổi tối hôm nay ngày 19 tháng 5 năm 2012, chúng tôi đi “rước đèn” dự lễ Hội Đèn Hoa Sen hay Liên Đăng Hội, Yeon Deung Hoe (Lotus Lantern Assembly hay Festival).
Phật tử tụng kinh cầu nguyện trong buổi lễ.
Các Tăng sĩ chuẩn bị cho lễ diễu hành.
Một Phật tử mang y phục truyền thống chuẩn bị cho lễ diễu hành.
(Kim Hong-Ji/Reuters)
Đoàn Phật tử Việt Nam diễu hành.
Đèn lồng hình hoa sen, loài hoa biểu trưng cho sự thanh tịnh theo Phật giáo
Lồng đèn có chữ Phật
Tại chùa Bongeunsa có triển lãm lồng đèn và dậy cách làm lồng đèn bằng giấy bản Đại Hàn Hanji này.
Mỗi chiếc đèn với giá cúng dường tối thiểu 20 Mỹ kim. Cũng xin nói
thêm, nếu muốn, ta có thể mua đèn treo thường trực ở các ngôi chùa để
cầu nguyện, cầu xin, tạ ơn, làm phước… với một giá nào đó tùy theo loại
đèn. Ngày rằm, mùng một, ngày lễ hội đèn được nhà chùa thắp lên. Hình
thức cúng dường này là một cách gây quĩ cho chùa rất đáng nên làm. Các
chùa Việt Nam nên bắt chước. Trước là cúng dường, trang trí chùa, sau là
gây quĩ.
Ngoài ra cũng có hội chợ Phật giáo với hàng trăm gian hàng với sự tham dự của Phật giáo Đại Hàn và của nhiều nước trên thế giới.
Chưa bao giờ chúng tôi dự một lễ rước đèn Phật đản vĩ đại như thế
này. Buổi lễ qui tụ tất cả các giáo phái, chùa chiền, thiền viện của
Phật giáo trên toàn cõi Nam Hàn và thế giới.
Bắt đầu vào lúc 8 giờ tối, phát xuất từ sân vận động Đại Học Phật
giáo Đông Quốc (Dongguk) đi qua khu Đông Đại Môn (Dongdaemun) tới chùa
Jogyesa (조계사), ngôi chùa chính của giáo phái lớn nhất Nam Hàn hiện nay.
Một dòng trường giang đèn và xe hoa. Một biển người, ước tính là có
trên 300.000 người tham dự đêm nay. Lồng đèn thiên hình vạn trạng, muôn
mầu muốn sắc. Mỗi chiếc đèn mang một tâm hồn và ý nghĩa riêng. Lễ Đèn
Hoa Sen minh họa đủ mọi mặt của Phật giáo nói chung nhưng nhất là của
Phật giáo Đại Hàn. Mầu sắc Phật giáo Đại Hàn khác biệt với Phật giáo ở
các nơi khác.
Lễ Hội Đèn Hoa Sen dĩ nhiên đèn hoa sen là chủ điểm.
Hoa sen đủ mầu, đủ sắc.\
Đủ loại hoa sen:
Hoa sen búp
Hoa sen hé nở
Hoa sen mới nở
Hoa sen nở rộ, mãn khai
đài hột sen
Lá sen
Dĩ nhiên nhân mùa Phật Đản, lễ Đèn Hoa Sen phải minh họa diễn tả lại sự tích, cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
từ lúc hoàng hậu Maya nằm mơ thấy con voi trắng rồi thụ thai ngài.
lúc mới sinh ra
tại vườn Lâm Tì Ni
(ảnh của tác giả).
Cho tới khi ngài nhập nát bàn.
Dĩ nhiên với nhiều vị Phật khác,
Phật đi với Rồng ứng với tượng Nước (ảnh của tác giả)
Phật đi với voi ứng với tượng Gió, không gian
và các Bồ Tát, La Hán, Thần Hộ Pháp, Tứ Thiên Vương khác… .
Các linh vật liên hệ với Phật giáo thế giới và Phật giáo Đại Hàn
.
Voi
Phương Rồng
Phượng
Rồng trắng
Cá hóa long
Nghê
Sư tử
Dĩ nhiên cũng phải có những xe hoa minh họa giáo lý, triết thuyết Phật giáo. Tiêu biểu nhất là câu nói “Ta là Phật đã thành, người là Phật chưa thành”.
Dĩ nhiên lễ hội Đèn Hoa Sen mang đậm mầu sắc văn hóa Phật Giáo Đại
Hàn như thấy qua các màn trình diễn văn hóa dân tộc Đại Hàn của các tham
dự viên và của các tăng ni.
Những trang phục cổ truyền Đại Hàn gọi là Hàn Phục (Hanbok) (Hanbok;
bok biến âm với Hán Việt phục, với Việt ngữ bọc là lớp bao, bao bọc. Áo
quần là lớp vỏ bọc che thân. Theo b=v, ta có bọc = vóc, một thứ vải; vải
vóc).
của phái nữ:
của phái nam
của vua chúa
Ca vũ nhạc dân tộc. Hiển nhiên không thể không có vũ nhạc trống đặc
thù pangut của Đại Hàn liên hệ với đồng bóng (Sự Tương Đồng Giữa Cổ`Sử
Đại Hàn với Cổ Sử Việt).
“Bốc đồng”
2015
|
No comments:
Post a Comment