PHƯƠNG DUY * TRUYỆN TÙ CẢI TẠO
LẶN LỘI ĐƯỜNG XA
Vào truyện – Trên khu cải tạo Bù Gia Mập có một con đường đất đỏ dài trên dưới hai mươi cây số, chạy dài từ khu kinh tế mới Minh Hưng, quận Bù Đăng, đi vào sóc Bombo,vòng qua Đức Hạnh, Bù Đốp. Con đường được thiết lập từ thời Đệ Nhất cộng Hoà của Chính Phủ Ngô Đình Diệm với dự tính khẩn hoang lập ấp, thành lập các khu dinh điền, vừa để chế ngự một an toàn khu của phe Cộng Sản VN. Kế hoạch đã bị bỏ dở sau sự sụp đổ nền Đệ nhất Cộng Hoà. Con đường bị bỏ hoang. Nhiều đoạn, cây rừng mọc lan ra che phủ hết,đi dưới đường nhìn lên không thấy bầu trời.. Con đường nắng lên đầy bụi đỏ, mưa xuống lại lầy lội trơn trợt. Đàn bà con gái lặn lội thăm con thăm chồng, tất cả đều phải ba lô trên vai, dép guốc cầm tay mới ráng lết đi được... Trong truyện ngắn này, người viết xin ghi lại một vài hình ảnh nhỏ bé như một lời tri ân của đứa con đến các bà mẹ, lòng biết ơn của người chồng đến các bà vợ Việt Nam tuyệt vời, một đời vất vả hy sinh cho người thân yêu của họ trong khoảng thời gian cùng quẫn khó khăn nhất của xã hội miền Nam.
Nhận được thư của Thoại gửi về qua tay chị Trang, chị mới đi thăm chồng về, Giang cảm thấy lo lắng. Nói là lá thư cho có vẻ trang trọng. Thực ra, đó chỉ là một mảnh giấy nhỏ nhàu nát. Trong thư, Thoại thăm hỏi gia đình và mẹ con nàng vài câu, thêm vài câu vắn tắt cho biết anh đang bệnh nhiều, cần thuốc thang chữa trị. Thời buổi khó khăn, tìm kiếm cái ăn cho hai mẹ con đã thật vất vả. Mà cả nước đều thế, chứ đâu riêng gì gia đình nàng. Mấy năm trời đi tù cải tạo, Thoại biết hoàn cảnh gia đình không khá, anh chưa bao giờ đòi hỏi xin xỏ gì. Nay tình hình chắc phải tồi tệ lắm mới có chuyện viết thư nhắn gửi như vầy.
Vậy nàng phải thu xếp lên rừng một chuyến. Không đi, lỡ chồng có mệnh hệ gì, có lẽ sẽ ân hận suốt đời. Công việc làm ăn của Giang bây giờ càng lúc càng khó khăn. Ngành may mặc lúc trước gia công cón có đồng ra đồng vào. Kể từ khi bị buộc vào tổ hợp, rồi tiến lên hợp tác xã, chỉ còn đồng lương cố định chết đói hàng tháng cộng với ít tem phiếu mua gạo hẩm, nước mắm thối. Dạo sau này, đến gạo hẩm cũng không còn.
Tháng tháng mang tem sổ đến chỉ mua được khi thì ít mì sợi, lúc vài ký bo bo loại thực phẩm cho ngựa ăn. Nhà nước gọi nó là cao lương, nhưng nuốt vào miệng thế nào thì ỉa ra nguyện hột thế ấy. Vậy mà có khi cũng không có, phải nhận mớ ngô vàng cứng như đá hoặc bao củ lang củ sắn (khoai mì) hư thối hơn nửa. Thời những năm bốn mươi lăm, nghe nói miền Bắc người chết đói hàng loạt, nhưng hồi ấy nàng chưa sinh ra nên chẳng biết.
Còn lớn lên ở cái miền Nam nhiều lúa lắm gạo này, nàng chưa thấy có thời kỳ nào thế thảm như vậy. Lại còn cái vụ phải xin phép nghỉ vài ngày để đi thăm chồng. Rắc rối chứ đâu có đơn giản. Có nên về nhờ vả bố mẹ tí chút nào không? Cả hai bên bố mẹ đều đã già, ruộng vườn co cóp mấy chục năm đã bị tịch thu hết ngay từ những ngày đầu xã hội chủ nghĩa. Số còn lại giờ cũng phải vào tập đoàn làm ăn tập thể, chả còn gì mà trông mong. Lấy gì để mua sắm lên thăm Thoại đây? Giang đành ngó quanh quất trong nhà coi có gì còn tí chút giá trị, có thể tải được ra chợ.
Của đi thay người, nàng ngẫm nghĩ. Cái khánh vàng với bốn chữ Trăm Năm Hạnh Phúc lớn có con rồng và con phượng bao quanh thật lộng lẫy. Quà cưới của bạn bè tặng Thoại ngày xưa, dễ có được vài chỉ, đem bán đi chắc Thoại buồn, nàng cũng buồn. Nhưng thời buổi, cái khó bó cái khôn. Túng phải tính cứ biết làm sao? Giang ngậm ngùi lôi nó ra khỏi cái khung kiếng. Kể từ ngày “giải phóng”, số phận nó cũng giống như Thoại, phải chui vào nằm trong một xó kín trong nhà, không được ngồi trong tủ chè nữa. Chưng ra cho chúng nó dòm ngó, có mà chết. Hôm nay trong lúc túng cùng, thôi thì vĩnh. biệt. Giang gói nó lại bỏ vào giỏ rồi đem ra chợ. Vấn đề tài chánh coi như giải quyết xong.
Không phải cầu cứu tới ai, nhưng cũng nên cho bố mẹ Thoại biết một tiếng. Thoại đang đau ốm cần giúp đỡ. Bố Thoại có nghề y tá dạo, ông biết về thuốc men, thế nào chả có chút đỉnh cho con, còn mẹ ít nhất cũng có ít thức ăn cây nhà lá vườn cho con trai bà sống cầm cự qua ngày.
Tiện thể, nàng kéo thằng Quốc, em trai nàng đi theo. Nó còn trẻ, mạnh khoẻ nhanh nhẹn đỡ đần tay chân chút ít bớt vất vả. Kinh nghiệm của kỳ đi thăm nuôi lần trước vẫn còn nguyên trong trí. Dạo ấy Giang đi cùng mẹ chồng, may mắn liên lạc được ít gia đình rủ cùng đi chung, nương tựa, giúp đỡ khuyến khích nhau. Nếu không chắc đã bỏ về nửa đường. Xe đò từ Sài Gòn đi Phước Long, tới ngã tư Minh Hưng là điểm dừng cuối. Từ đây không còn xe chở khách, ngoại trừ xe bộ đội.
Nhưng xe của “quân đội nhân dân” thường ít khi cho nhân dân đi quá giang. Có lẽ có muốn cũng không còn chỗ, vì hàng ngày chả có mấy chuyến. Và chuyến nào trên xe cũng thường đầy ắp. Tới Minh Hưng trời đã xế chiếu. Muốn vào tới các trại cải tạo lao động ở trong rừng còn phải cuốc bộ rất xa theo con đường Mười.
Trại của Thoại ở gần nhất cũng cách trên mười cây số. Tay xách nách mang, có gia đình còn mang theo con nhỏ không biết làm sao để đi. Cuối cùng phải nhờ vả đến người dân địa phương, những người trong vùng kinh tế mới. Họ rành rẽ đường đi nước bước. Họ, có lẽ, trước đây cũng từ các thành phố đến, nhưng sau một thời gian cực khổ, đã quen lam lũ. Vả lại, đó là cơ hội cho họ kiếm thêm được ít đồng tiền đã trở nên rất hiếm hoi quý giá trên rừng này. Trẻ nhỏ thì dẫn đường. Người lớn thì nhận chuyên chở giùm hành lý.
Họ chịu hy sinh nhiều giờ để vừa giúp đỡ vừa có thêm phần phụ giúp gia đình. Giá cả thỏa thuận xong. Có gia đình cả nhà cùng đi làm hướng dẫn viên một loạt. Đoàn người bắt đầu cất bước từ lúc xế chiều, khi nắng còn đổ gay gắt. Thi thoảng, một chiếc molotova chạy ngang làm tung bụi đỏ mịt mù. Cứ cách quãng dăm bảy trăm thước, đoàn người phải dừng lại nghỉ. Đến được láng trại đầu tiên thì trời đã tối mịt. Mọi người mệt mỏi rã rời. Đoạn đường chỉ hơn mười cây số mà đi tới gần năm tiếng. Đã vậy, khi còn choạng vạng trời lại đổ ập cơm mưa.
Đường đồi lên xuống đã gập ghềnh, bây giờ thành trơn như bôi mỡ. Người đi thăm nuôi toàn là đàn bà con gái chưa quen với những con đường đất trơn trợt, guốc dép cởi ra cầm trên tay mà vẫn té lên ngã xuống, thật khổ ải. Ba lô trĩu nặng bờ vai nhỏ, Mưa lạnh đường trơn, chân đất vương Lặn lội thân cò pha nắng bụi, Đường xa lặng lẽ đến thăm chồng. Lần này, chuyến đi đột xuất, không có ai cùng đi, Giang nghĩ mình nên chuẩn bị kỹ lưỡng. Nàng về quê mang theo lá thư của Thoại cho bố mẹ đọc, cũng may quê Thoại gần thành phố, chỉ chừng hơn tiếng đồng hồ đi xe đò, có thể đi về trong ngày. Gần như dự đoán của Giang, Bố Thoại biết tình trạng sức khoẻ của con, có dự trữ sẵn mớ thuốc Thoại cần, nàng sẽ mua thêm.
Ông gửi kèm theo mấy hộp sữa đặc, một mặt hàng khá hiếm lúc này, cho con trai bổi dưỡng. Bà mẹ thì chuẩn bị một ít ruốc, một hộp mỡ, đậu phộng cây nhà lá vườn. Bà còn bảo mang theo ít cây trái trong vườn. Giang bảo mẹ chồng: - Mẹ đã thấy rồi. Đường xá đi lại rất khó khăn, Con đâu thể mang vác nhiều. - Thì cũng phải có gì cho nó chứ. Chả lẽ lên thăm nuôi chồng tay không. - Bây giờ thế này. Mẹ biết gia đình con, con cái còn nhỏ dại, đời sống cũng khó khăn lắm. Bố mẹ bây giờ già quá rồi. Thời buổi này chẳng làm gì ra tiền.
Thằng Thoại cũng cần chút ít phòng thân. Mẹ không có tiền cho, con cố mang ít quà của mẹ. Phần mày không cần mua sắm nữa, ráng chạy vạy dấm duí cho nó vài đồng. Bà nói mãi. Giang đành chấp nhận mang theo quà của mẹ, ngoại trừ trái cây hoa quả quá nặng nề. Nhưng bà bắt buộc cầm đi mấy cân bột, đậu xanh và ít đường thẻ. Bà bảo trong tù chúng nó thiếu thốn nên thèm ngọt. Nhà có sẵn, ráng mang đi cho bạn bè anh em nó có dịp “liên hoan”.
Thằng Quốc đang lúc rảnh rỗi, cũng sẵn sàng lên rừng. Có nó đi theo giúp đỡ, Giang quyết định cho con đi cùng. Thằng Xuân chưa đầy ba tuổi nhưng lanh và ngoan, có thể yê n tâm. Nên cho nó biết mặt bố. Kỳ trước lên rừng, nó chưa được đi vì nàng chưa biết rõ đường đi nước bước. Bây giờ đã có kinh nghiệm, thêm thằng Quốc bên cạnh. thêm tay thêm chân. Thoại chỉ mới gặp con một lần ở Trảng Lớn. Lúc ấy, thằng Xuân mới mấy tháng chưa biết gì. Hai cái ba lô đã chất cứng, đồ đạc bên ngoài vẫn còn nhiều, không biết nhét vào đâu. Thứ nào nàng cũng thấy cần cho chồng. Quà cáp của bố mẹ và thuốc men tối cần thiết không thể thiếu, dầu ăn, bột ngọt,tôm khô mặt hàng tồn trữ chiến lược không thể bỏ lại.
Còn mấy gói thuốc lá và bánh thuốc lào này thì tính sao? Giang thấy dạo sau này Thoại ngày càng ốm yếu, ho hen luôn miệng, muốn khuyên chàng bỏ hút thuốc đi mà biết nói như thế nào? Rừng núi khí hậu thời tiết lạnh lẽo, thân phận người tù, xa vắng gia đình, cha mẹ vợ con đã nhiều năm, rượu chè đã không có, chỉ còn làn khói thuốc cho ấm lòng, vơi đi nỗi nhớ nhung gia đình. Bỏ thì thương, vương thì tội. Vả lại, không có thuốc lào thuốc lá thật thì họ lại đi hút vớ vẩn những lá cây rừng độc hại thì còn nguy hiểm hơn. Thoại đã chẳng từng kể anh và các bạn tù đã dùng xác bã trà làm thuốc hút đó ư?
Trà khô được pha uống đến khi nước pha trắng gần như nước lã mới đem phơi khô, tẩm vào nước điếu đen thui để thành thuốc hút, chẳng ngon thì, “không mỡ xài đỡ đèn cầy”, cũng tạm ấm lòng “ngục sĩ trong khi vắng nhà”. Xong được mấy món đồ lại lo chuyện giấy tờ. Việc làm trong tổ hợp và đơn nghỉ phép đã có Thu lo giùm. Con nhỏ bạn gái chưa chồng, còn thong thả nên giúp bạn nhiệt tâm. Còn lại cái giấy phép đi đường từ mấy ông ‘kẹ’ ngoài phường là khá rắc rối. Ai đời cả năm mới xin phép đi thăm nuôi chồng một, hai lần mà y như rằng, cứ thấy nàng ló mặt ra tới là chúng hạnh hoẹ đủ thứ.
Nào là mọi việc đã có nhà nước lo, cô không phải lo, phải để cho chồng yên tâm học tập mới có kết quả, cứ thậm thụt lên xuống thăm nuôi thế thì làm sao tiến bộ? Nào là đi hoài như thế mất bao nhiêu công lao động. Ai cũng như cô thì còn ai xây dựng đất nước? Lần nào cũng phải đấm mõm cho bọn chúng, khi thì vài gói Samít, lúc dăm bao trà Thái Đức chúng mới chịu cấp giấy cho, còn ra giọng nhân nghĩa: - Nể lắm mới ký cho đó. Mấy phường khác thì còn lâu nghe chửa… Ra khỏi cánh cổng ủy ban, nàng còn nghe tiếng cười đểu của bọn chúng: - ĐM lũ nguỵ quân Sài Gòn Chúng nó ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc quá nhiều. Hèn chi vợ con chúng đứa nào cũng trắng da dài tóc. Từ nay cho chúng bay chết cả nút…
Xong xuôi giấy tờ, Giang chuẩn bị đi ngay. Nàng cùng em và con ra bến xe thật sớm. Thời buổi này, cái gì cũng của dân, do dân làm chủ, nhưng chủ chỉ đuợc phép ngó, không được phép rờ. Phải ưu tiên cho đầy tớ của dân là cán bộ, bộ đội. Bỏ tiền ra mua vé xe cũng ưu tiên cho cán bộ, thừa ra mới tới dân. Không sao, Giang biết cách xoay xở. Chỉ cần bỏ ra ít tiền lẻ cho người bán dạo hàng quanh bến xe là có vé chợ đen. Bọn cửa hàng thông đồng với đám viên chức cán bộ lợi dụng sự ưu tiên để mua giành hết vé, đem tuồn ra ngoài kiếm lời chia nhau, thành ra dân có chầu chực ba bốn ngày liền cũng chưa chắc có vé.
Chuyện đểu cáng thế nhưng lúc nào bọn chúng cũng giả bộ liêm chính, miệng lưỡi toàn là đạo đức cách mạng. Rặt một bọn vô liêm sỉ. Chiếc xe khách dồn người nêm như cối, không còn chỗ cựa. Hành khách leo lên ngồi cả trên mui, mừng vì may mắn có được một chỗ. Chị em Giang và con bị nhét vào giữa lòng xe nên không nhìn thấy quang cảnh bên đường. Của đáng tội, sau vài năm “giải phóng”, đất nước rặt một màu xám tro. Có còn gì khác để mà nhìn ngắm. Đâu đâu cũng một cảnh nhà cửa điêu tàn, cây cối xác xơ.
Càng đi xa Sài Gòn càng thấy sự hoang sơ tiêu điều của những vùng được mệnh danh là vùng kinh tế mới. Thật là thành quả. Giang nghĩ: hoa hôi kết thành quả đắng. Chiếc xe cũ kỹ già nua, bò ì ạch, thở hổn hển. Mãi rồi cũng lết được tới khu kinh tế mới Minh Hưng, điểm đến cuối cùng khi mặt trời đã bắt đầu ngả về Tây. Xuống xe, Giang cùng em và con bước vào một quán nước bên đường. Nỗi lo lắng bắt đầu dâng lên. Khi còn ở nhà, vì hăm hở muốn gặp chồng để biết đau ốm ra sao, phần vì những lo âu khác, nàng quên đi cái khó khăn này: đường còn xa, phương tiện chuyên chở không có, phải xoay xở ra sao?
Phải ngủ trọ lại một đêm rồi sáng mai lên đường? Vùng này kiếm ra một chỗ trọ cho ba người không dễ. Thằng Quốc liều mạng bàn là cứ đi, mười giờ đêm đến là cùng chứ gì? Thấy được nỗi khó khăn của người đàn bà trẻ, người chủ quán thương hại: - Để tôi hỏi thằng con trai tôi coi nó chịu dẫn đường giúp không? Nó vẫn hay giúp đỡ bà con mình ở thành phố lên. Có nó quen đường quen xá ở xó rừng này mới đi được. Tội nghiệp thằng nhỏ. Lâu nay chịu cực chịu khổ đã quen. Có hôm nó phải đi suốt đêm, gần sáng mới về tới nhà. Giang mừng rỡ theo chủ nhà đi điều đình với người con.
Giá cả thoả thuận xong xuôi, họ ăn uống qua loa rồi chuẩn bị lên đường ngay. Cậu con trai dẫn đường cùng Quốc mỗi người một ba lô, còn Giang bế con. Thỉnh thoảng mỏi tay lại cho thằng Xuân xuống đi bộ. Chỉ mới hơn năm giờ chiều mà trời đã choạng vạng. Ở rừng trời mau tối, người ta bảo vậy. Nàng rất mệt mà vẫn không dám nghỉ nhiều, con đường như dài vô tận. Hai chị em lúc này luân phiên thay đổi, khi thì đeo ba lô, khi bồng thằng Xuân. Nàng hơi hối hận đã mang con theo. Hai tay mỏi rã rời, hai chân như buộc chì không cất lên nổi. Đoạn đường, theo cậu dẫn đường chưa được phần ba. Trời đã thẫm màu. Cậu dẫn đường đi chặt nứa làm đuốc.
Kinh nghiệm đi rừng, lúc nào cũng phải có dao trên tay, cậu bảo thế. Đêm đã về,thằng Xuân sợ hãi không rời mẹ ra nữa. May mắn có một chiếc xe chạy ngang. Chiếc xe quân đội trên sư (đoàn) đi công tác bị hư dọc đường, khách đã chuyển qua xe khác về trước. Bây giờ xe mới sửa chữa xong quay về. Chiếc xe trống rổng dừng lại cho quá giang.
Người bộ đội lái xe còn đủ tình người để thông cảm cho đám người bơ vơ giữa rừng đêm. Giang cám ơn và trả tiền cho cậu bé dẫn đường để cậu quay về nhà, còn ba người leo lên xe. Đến trại cải tạo Thoại đang ở, trời đã hoàn toàn tối mịt, sương đêm rơi xuống ướt lạnh bờ vai, người lái xe dừng lại cho ba người xuống. Giang không quên lục tìm gói thuốc thơm biếu, cám ơn anh đã giúp đỡ. Người bộ đội cười nói không có chi, chúc gặp người thân vui vẻ rồi từ giã phóng xe đi. Anh về sư, còn phải đi thêm một quãng nữa.
Giang nhìn quanh. Bên tay phải ngay chỗ xuống xe, mấy dãy nhà lợp tôn. Là bộ phận khung (khung=ban chỉ huy một trại cải tạo thường cấp tiểu đoàn). Những tấm tôn mà kỳ thăm nuôi trước, Thoại đã kể cho nàng nghe: đó là những tấm tôn vấy máu anh em cải tạo.
Số là khi còn ở tại trại tập trung cải tạo Trảng Lớn, trại tù này trước đây do sư đoàn 25 bộ binh Mỹ thiết lập, sau năm 1972, họ rút về nước đã trao lại cho sư đoàn 25 bộ binh quân lực VNCH sử dụng làm căn cứ. Sau tháng Tư 1975, quân chính quy Bắc Việt tiếp thu đã sử dụng làm một trong những trại tập trung cải tạo Sĩ Quan Miền Nam VN trình diện tại Sài Gòn và vùng phụ cận. Gần hai năm trời tại trại với rất nhiều biến chuyển, những ông cai tù, người từ phía bên kia nhìn thấy cảnh ‘phồn vinh giả tạo’ của miền Nam đã có rất nhiều sáng tạo.
Khởi đầu là phong trào “tam đê” gồm có đài, đồng, đạp. Mỗi người phấn đấu để có một xe đạp làm chân, một đồng hồ trên tay và cái đài trên vai. Đó là thế hệ xã hội chủ nghĩa nhuốm màu tư bản sơ khởi. Khi phong trào đã lắng dịu thì đến chiến dịch “bốn vê”: vào, vơ,vét, về. Sau một thời gian vơ vét hết mọi thứ, kể cả những mảnh vụn kim khí từ những chiếc trực thăng, mang về cho một lực lượng lao động”chùa” khổng lồ, đám sĩ quan tù cải tạo giũa gọt, vẽ khắc, đánh bóng, làm thành những món quà quý giá như gương lược, kẹp trâm, những bộ điếu cày chạm trổ tinh vi. Đến cả những tấm ghi sắt lót làm sân bay cũng được gỡ sạch để phục vụ cho các “anh hùng cách mạng.”
Khi không còn gì để vơ vét, đêm nằm vắt trán suy nghĩ, nhìn lên nóc nhà họ thấy toàn là tôn. Hướng mắt về phía cửa sổ, bên ngoài là những bãi mìn phòng thủ nằm giữa những lớp kẽm gai, cỏ tranh mọc tốt cao quá đầu người. Lại suy nghĩ. Cỏ tranh này miền Bắc có lợp nhà thật tốt. Ở đây bọn Mỹ Nguỵ toàn lợp mái bằng tôn. Giời ơi! Nghĩ ra rồi, của ở trên đầu này chứ còn ở đâu nữa. Trong đầu của người cán bộ, những tấm tôn đã biến thành những hòm lớn hòm nhỏ, mai này đi phép mang về nhà thì quý vô cùng, tiện lợi lại bền hơn gỗ. Miền Bắc hiếm tôn thì chắc chắn có giá. Đúng là sáng tạo. Cụ Mác cụ Lê nói thì chẳng sai. Cám ơn các cụ. Nhờ tư tưởng của các cụ đã soi sáng cho đàn cháu biết tư duy. Bộ phận khung nhất trí soạn thảo kế hoạch.
Chỉ tiêu được đề ra: thi đua lao động lập thành tích mừng sinh nhật ‘Bác’. Quyết tâm đạt được mười ngàn bó tranh. Sau khi đã cắt hết tranh phía trong trại, kể cả quanh sân bay cũng chỉ được một phần ba, bộ phận cho lệnh tiến công ra ngoài rào, tức đi vào khu vực có gài mìn bẫy. Tranh tai đây cao và rất dầy. Cắt được hết thì không phải tới mười nghìn, mà có thể năm bẩy chục nghìn cũng có dư. Còn mìn bẫy thì sao? Có người hỏi. Dễ lắm, thủ trưởng nói: bảo đám tù cẩn thận, vừa cắt tranh vừa để mắt cảnh giác một tí có sao. Chính trị viên tiểu đoàn còn mạnh miệng hơn: Bọn nguỵ quân nguỵ quyền tội ác ngập đầu, được tha chết đã may mắn nhiều. Chúng mình ngày trước còn gian lao nguy hiểm gấp vạn lần ấy. Rồi có sao đâu.
Thôi. cứ thế mà làm. Lên giao ban nhận lệnh từ khung, anh em tù giật nẩy mình. Vài người đi vào bãi có sơ đồ, có dụng cụ dò mìn còn lo lắng, huống chi hàng mấy trăm con người hỗn độn đi vào lao động trong một vùng cỏ dầy chi chit che kín hết các dấu hiệu mìn bẫy, lẫn vào cỏ không nhìn thấy nhau, chết là chắc. Lệnh trên đưa ra không thể không thi hành, bị ghép vào tội nổi loạn, chống lại cách mạng tập thể cũng chết.
Thi hành thì. Mọi người vô cùng lo lắng, cầu trời khấn phật sao cho tai hoạ không xảy đến cho mình. Thật ích kỷ nhưng trước một cái chết vô lý chắc chắn biết nói gì? Hậu quả của buổi sáng lao động hôm ấy thật kinh hồn: chỉ sau hai giờ làm việc, một tiếng nổ long trời lở đất, tám mạng người ra đi, không ai trong số còn nguyện vẹn thi thể. Sự sợ hãi lên đến cao độ khi nhận lệnh đi thu nhặt xác bạn bè tử nạn.
Cũng may tiếng nổ làm quang đi vùng cỏ chung quanh. Buổi lao động được hủy bỏ. Sau ít ngày nghỉ ngơi cho công tác chôn cất những người xấu số, người sống sót lấy lại tinh thần, cán bộ khung vẫn tiến hành kế hoạch với một phương thức khác an toàn và nhân đạo hơn. Họ dùng xe chở đán người tù cải tạo đi về phía Cà Tum,Núi Bà. Ở vùng này có rất nhiều đồi tranh, xa xôi, tốn kém xăng dầu nhưng đỡ tốn máu.
Nhận được thư của Thoại gửi về qua tay chị Trang, chị mới đi thăm chồng về, Giang cảm thấy lo lắng. Nói là lá thư cho có vẻ trang trọng. Thực ra, đó chỉ là một mảnh giấy nhỏ nhàu nát. Trong thư, Thoại thăm hỏi gia đình và mẹ con nàng vài câu, thêm vài câu vắn tắt cho biết anh đang bệnh nhiều, cần thuốc thang chữa trị. Thời buổi khó khăn, tìm kiếm cái ăn cho hai mẹ con đã thật vất vả. Mà cả nước đều thế, chứ đâu riêng gì gia đình nàng. Mấy năm trời đi tù cải tạo, Thoại biết hoàn cảnh gia đình không khá, anh chưa bao giờ đòi hỏi xin xỏ gì. Nay tình hình chắc phải tồi tệ lắm mới có chuyện viết thư nhắn gửi như vầy.
Vậy nàng phải thu xếp lên rừng một chuyến. Không đi, lỡ chồng có mệnh hệ gì, có lẽ sẽ ân hận suốt đời. Công việc làm ăn của Giang bây giờ càng lúc càng khó khăn. Ngành may mặc lúc trước gia công cón có đồng ra đồng vào. Kể từ khi bị buộc vào tổ hợp, rồi tiến lên hợp tác xã, chỉ còn đồng lương cố định chết đói hàng tháng cộng với ít tem phiếu mua gạo hẩm, nước mắm thối. Dạo sau này, đến gạo hẩm cũng không còn.
Tháng tháng mang tem sổ đến chỉ mua được khi thì ít mì sợi, lúc vài ký bo bo loại thực phẩm cho ngựa ăn. Nhà nước gọi nó là cao lương, nhưng nuốt vào miệng thế nào thì ỉa ra nguyện hột thế ấy. Vậy mà có khi cũng không có, phải nhận mớ ngô vàng cứng như đá hoặc bao củ lang củ sắn (khoai mì) hư thối hơn nửa. Thời những năm bốn mươi lăm, nghe nói miền Bắc người chết đói hàng loạt, nhưng hồi ấy nàng chưa sinh ra nên chẳng biết.
Còn lớn lên ở cái miền Nam nhiều lúa lắm gạo này, nàng chưa thấy có thời kỳ nào thế thảm như vậy. Lại còn cái vụ phải xin phép nghỉ vài ngày để đi thăm chồng. Rắc rối chứ đâu có đơn giản. Có nên về nhờ vả bố mẹ tí chút nào không? Cả hai bên bố mẹ đều đã già, ruộng vườn co cóp mấy chục năm đã bị tịch thu hết ngay từ những ngày đầu xã hội chủ nghĩa. Số còn lại giờ cũng phải vào tập đoàn làm ăn tập thể, chả còn gì mà trông mong. Lấy gì để mua sắm lên thăm Thoại đây? Giang đành ngó quanh quất trong nhà coi có gì còn tí chút giá trị, có thể tải được ra chợ.
Của đi thay người, nàng ngẫm nghĩ. Cái khánh vàng với bốn chữ Trăm Năm Hạnh Phúc lớn có con rồng và con phượng bao quanh thật lộng lẫy. Quà cưới của bạn bè tặng Thoại ngày xưa, dễ có được vài chỉ, đem bán đi chắc Thoại buồn, nàng cũng buồn. Nhưng thời buổi, cái khó bó cái khôn. Túng phải tính cứ biết làm sao? Giang ngậm ngùi lôi nó ra khỏi cái khung kiếng. Kể từ ngày “giải phóng”, số phận nó cũng giống như Thoại, phải chui vào nằm trong một xó kín trong nhà, không được ngồi trong tủ chè nữa. Chưng ra cho chúng nó dòm ngó, có mà chết. Hôm nay trong lúc túng cùng, thôi thì vĩnh. biệt. Giang gói nó lại bỏ vào giỏ rồi đem ra chợ. Vấn đề tài chánh coi như giải quyết xong.
Không phải cầu cứu tới ai, nhưng cũng nên cho bố mẹ Thoại biết một tiếng. Thoại đang đau ốm cần giúp đỡ. Bố Thoại có nghề y tá dạo, ông biết về thuốc men, thế nào chả có chút đỉnh cho con, còn mẹ ít nhất cũng có ít thức ăn cây nhà lá vườn cho con trai bà sống cầm cự qua ngày.
Tiện thể, nàng kéo thằng Quốc, em trai nàng đi theo. Nó còn trẻ, mạnh khoẻ nhanh nhẹn đỡ đần tay chân chút ít bớt vất vả. Kinh nghiệm của kỳ đi thăm nuôi lần trước vẫn còn nguyên trong trí. Dạo ấy Giang đi cùng mẹ chồng, may mắn liên lạc được ít gia đình rủ cùng đi chung, nương tựa, giúp đỡ khuyến khích nhau. Nếu không chắc đã bỏ về nửa đường. Xe đò từ Sài Gòn đi Phước Long, tới ngã tư Minh Hưng là điểm dừng cuối. Từ đây không còn xe chở khách, ngoại trừ xe bộ đội.
Nhưng xe của “quân đội nhân dân” thường ít khi cho nhân dân đi quá giang. Có lẽ có muốn cũng không còn chỗ, vì hàng ngày chả có mấy chuyến. Và chuyến nào trên xe cũng thường đầy ắp. Tới Minh Hưng trời đã xế chiếu. Muốn vào tới các trại cải tạo lao động ở trong rừng còn phải cuốc bộ rất xa theo con đường Mười.
Trại của Thoại ở gần nhất cũng cách trên mười cây số. Tay xách nách mang, có gia đình còn mang theo con nhỏ không biết làm sao để đi. Cuối cùng phải nhờ vả đến người dân địa phương, những người trong vùng kinh tế mới. Họ rành rẽ đường đi nước bước. Họ, có lẽ, trước đây cũng từ các thành phố đến, nhưng sau một thời gian cực khổ, đã quen lam lũ. Vả lại, đó là cơ hội cho họ kiếm thêm được ít đồng tiền đã trở nên rất hiếm hoi quý giá trên rừng này. Trẻ nhỏ thì dẫn đường. Người lớn thì nhận chuyên chở giùm hành lý.
Họ chịu hy sinh nhiều giờ để vừa giúp đỡ vừa có thêm phần phụ giúp gia đình. Giá cả thỏa thuận xong. Có gia đình cả nhà cùng đi làm hướng dẫn viên một loạt. Đoàn người bắt đầu cất bước từ lúc xế chiều, khi nắng còn đổ gay gắt. Thi thoảng, một chiếc molotova chạy ngang làm tung bụi đỏ mịt mù. Cứ cách quãng dăm bảy trăm thước, đoàn người phải dừng lại nghỉ. Đến được láng trại đầu tiên thì trời đã tối mịt. Mọi người mệt mỏi rã rời. Đoạn đường chỉ hơn mười cây số mà đi tới gần năm tiếng. Đã vậy, khi còn choạng vạng trời lại đổ ập cơm mưa.
Đường đồi lên xuống đã gập ghềnh, bây giờ thành trơn như bôi mỡ. Người đi thăm nuôi toàn là đàn bà con gái chưa quen với những con đường đất trơn trợt, guốc dép cởi ra cầm trên tay mà vẫn té lên ngã xuống, thật khổ ải. Ba lô trĩu nặng bờ vai nhỏ, Mưa lạnh đường trơn, chân đất vương Lặn lội thân cò pha nắng bụi, Đường xa lặng lẽ đến thăm chồng. Lần này, chuyến đi đột xuất, không có ai cùng đi, Giang nghĩ mình nên chuẩn bị kỹ lưỡng. Nàng về quê mang theo lá thư của Thoại cho bố mẹ đọc, cũng may quê Thoại gần thành phố, chỉ chừng hơn tiếng đồng hồ đi xe đò, có thể đi về trong ngày. Gần như dự đoán của Giang, Bố Thoại biết tình trạng sức khoẻ của con, có dự trữ sẵn mớ thuốc Thoại cần, nàng sẽ mua thêm.
Ông gửi kèm theo mấy hộp sữa đặc, một mặt hàng khá hiếm lúc này, cho con trai bổi dưỡng. Bà mẹ thì chuẩn bị một ít ruốc, một hộp mỡ, đậu phộng cây nhà lá vườn. Bà còn bảo mang theo ít cây trái trong vườn. Giang bảo mẹ chồng: - Mẹ đã thấy rồi. Đường xá đi lại rất khó khăn, Con đâu thể mang vác nhiều. - Thì cũng phải có gì cho nó chứ. Chả lẽ lên thăm nuôi chồng tay không. - Bây giờ thế này. Mẹ biết gia đình con, con cái còn nhỏ dại, đời sống cũng khó khăn lắm. Bố mẹ bây giờ già quá rồi. Thời buổi này chẳng làm gì ra tiền.
Thằng Thoại cũng cần chút ít phòng thân. Mẹ không có tiền cho, con cố mang ít quà của mẹ. Phần mày không cần mua sắm nữa, ráng chạy vạy dấm duí cho nó vài đồng. Bà nói mãi. Giang đành chấp nhận mang theo quà của mẹ, ngoại trừ trái cây hoa quả quá nặng nề. Nhưng bà bắt buộc cầm đi mấy cân bột, đậu xanh và ít đường thẻ. Bà bảo trong tù chúng nó thiếu thốn nên thèm ngọt. Nhà có sẵn, ráng mang đi cho bạn bè anh em nó có dịp “liên hoan”.
Thằng Quốc đang lúc rảnh rỗi, cũng sẵn sàng lên rừng. Có nó đi theo giúp đỡ, Giang quyết định cho con đi cùng. Thằng Xuân chưa đầy ba tuổi nhưng lanh và ngoan, có thể yê n tâm. Nên cho nó biết mặt bố. Kỳ trước lên rừng, nó chưa được đi vì nàng chưa biết rõ đường đi nước bước. Bây giờ đã có kinh nghiệm, thêm thằng Quốc bên cạnh. thêm tay thêm chân. Thoại chỉ mới gặp con một lần ở Trảng Lớn. Lúc ấy, thằng Xuân mới mấy tháng chưa biết gì. Hai cái ba lô đã chất cứng, đồ đạc bên ngoài vẫn còn nhiều, không biết nhét vào đâu. Thứ nào nàng cũng thấy cần cho chồng. Quà cáp của bố mẹ và thuốc men tối cần thiết không thể thiếu, dầu ăn, bột ngọt,tôm khô mặt hàng tồn trữ chiến lược không thể bỏ lại.
Còn mấy gói thuốc lá và bánh thuốc lào này thì tính sao? Giang thấy dạo sau này Thoại ngày càng ốm yếu, ho hen luôn miệng, muốn khuyên chàng bỏ hút thuốc đi mà biết nói như thế nào? Rừng núi khí hậu thời tiết lạnh lẽo, thân phận người tù, xa vắng gia đình, cha mẹ vợ con đã nhiều năm, rượu chè đã không có, chỉ còn làn khói thuốc cho ấm lòng, vơi đi nỗi nhớ nhung gia đình. Bỏ thì thương, vương thì tội. Vả lại, không có thuốc lào thuốc lá thật thì họ lại đi hút vớ vẩn những lá cây rừng độc hại thì còn nguy hiểm hơn. Thoại đã chẳng từng kể anh và các bạn tù đã dùng xác bã trà làm thuốc hút đó ư?
Trà khô được pha uống đến khi nước pha trắng gần như nước lã mới đem phơi khô, tẩm vào nước điếu đen thui để thành thuốc hút, chẳng ngon thì, “không mỡ xài đỡ đèn cầy”, cũng tạm ấm lòng “ngục sĩ trong khi vắng nhà”. Xong được mấy món đồ lại lo chuyện giấy tờ. Việc làm trong tổ hợp và đơn nghỉ phép đã có Thu lo giùm. Con nhỏ bạn gái chưa chồng, còn thong thả nên giúp bạn nhiệt tâm. Còn lại cái giấy phép đi đường từ mấy ông ‘kẹ’ ngoài phường là khá rắc rối. Ai đời cả năm mới xin phép đi thăm nuôi chồng một, hai lần mà y như rằng, cứ thấy nàng ló mặt ra tới là chúng hạnh hoẹ đủ thứ.
Nào là mọi việc đã có nhà nước lo, cô không phải lo, phải để cho chồng yên tâm học tập mới có kết quả, cứ thậm thụt lên xuống thăm nuôi thế thì làm sao tiến bộ? Nào là đi hoài như thế mất bao nhiêu công lao động. Ai cũng như cô thì còn ai xây dựng đất nước? Lần nào cũng phải đấm mõm cho bọn chúng, khi thì vài gói Samít, lúc dăm bao trà Thái Đức chúng mới chịu cấp giấy cho, còn ra giọng nhân nghĩa: - Nể lắm mới ký cho đó. Mấy phường khác thì còn lâu nghe chửa… Ra khỏi cánh cổng ủy ban, nàng còn nghe tiếng cười đểu của bọn chúng: - ĐM lũ nguỵ quân Sài Gòn Chúng nó ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc quá nhiều. Hèn chi vợ con chúng đứa nào cũng trắng da dài tóc. Từ nay cho chúng bay chết cả nút…
Xong xuôi giấy tờ, Giang chuẩn bị đi ngay. Nàng cùng em và con ra bến xe thật sớm. Thời buổi này, cái gì cũng của dân, do dân làm chủ, nhưng chủ chỉ đuợc phép ngó, không được phép rờ. Phải ưu tiên cho đầy tớ của dân là cán bộ, bộ đội. Bỏ tiền ra mua vé xe cũng ưu tiên cho cán bộ, thừa ra mới tới dân. Không sao, Giang biết cách xoay xở. Chỉ cần bỏ ra ít tiền lẻ cho người bán dạo hàng quanh bến xe là có vé chợ đen. Bọn cửa hàng thông đồng với đám viên chức cán bộ lợi dụng sự ưu tiên để mua giành hết vé, đem tuồn ra ngoài kiếm lời chia nhau, thành ra dân có chầu chực ba bốn ngày liền cũng chưa chắc có vé.
Chuyện đểu cáng thế nhưng lúc nào bọn chúng cũng giả bộ liêm chính, miệng lưỡi toàn là đạo đức cách mạng. Rặt một bọn vô liêm sỉ. Chiếc xe khách dồn người nêm như cối, không còn chỗ cựa. Hành khách leo lên ngồi cả trên mui, mừng vì may mắn có được một chỗ. Chị em Giang và con bị nhét vào giữa lòng xe nên không nhìn thấy quang cảnh bên đường. Của đáng tội, sau vài năm “giải phóng”, đất nước rặt một màu xám tro. Có còn gì khác để mà nhìn ngắm. Đâu đâu cũng một cảnh nhà cửa điêu tàn, cây cối xác xơ.
Phải ngủ trọ lại một đêm rồi sáng mai lên đường? Vùng này kiếm ra một chỗ trọ cho ba người không dễ. Thằng Quốc liều mạng bàn là cứ đi, mười giờ đêm đến là cùng chứ gì? Thấy được nỗi khó khăn của người đàn bà trẻ, người chủ quán thương hại: - Để tôi hỏi thằng con trai tôi coi nó chịu dẫn đường giúp không? Nó vẫn hay giúp đỡ bà con mình ở thành phố lên. Có nó quen đường quen xá ở xó rừng này mới đi được. Tội nghiệp thằng nhỏ. Lâu nay chịu cực chịu khổ đã quen. Có hôm nó phải đi suốt đêm, gần sáng mới về tới nhà. Giang mừng rỡ theo chủ nhà đi điều đình với người con.
Giá cả thoả thuận xong xuôi, họ ăn uống qua loa rồi chuẩn bị lên đường ngay. Cậu con trai dẫn đường cùng Quốc mỗi người một ba lô, còn Giang bế con. Thỉnh thoảng mỏi tay lại cho thằng Xuân xuống đi bộ. Chỉ mới hơn năm giờ chiều mà trời đã choạng vạng. Ở rừng trời mau tối, người ta bảo vậy. Nàng rất mệt mà vẫn không dám nghỉ nhiều, con đường như dài vô tận. Hai chị em lúc này luân phiên thay đổi, khi thì đeo ba lô, khi bồng thằng Xuân. Nàng hơi hối hận đã mang con theo. Hai tay mỏi rã rời, hai chân như buộc chì không cất lên nổi. Đoạn đường, theo cậu dẫn đường chưa được phần ba. Trời đã thẫm màu. Cậu dẫn đường đi chặt nứa làm đuốc.
Kinh nghiệm đi rừng, lúc nào cũng phải có dao trên tay, cậu bảo thế. Đêm đã về,thằng Xuân sợ hãi không rời mẹ ra nữa. May mắn có một chiếc xe chạy ngang. Chiếc xe quân đội trên sư (đoàn) đi công tác bị hư dọc đường, khách đã chuyển qua xe khác về trước. Bây giờ xe mới sửa chữa xong quay về. Chiếc xe trống rổng dừng lại cho quá giang.
Người bộ đội lái xe còn đủ tình người để thông cảm cho đám người bơ vơ giữa rừng đêm. Giang cám ơn và trả tiền cho cậu bé dẫn đường để cậu quay về nhà, còn ba người leo lên xe. Đến trại cải tạo Thoại đang ở, trời đã hoàn toàn tối mịt, sương đêm rơi xuống ướt lạnh bờ vai, người lái xe dừng lại cho ba người xuống. Giang không quên lục tìm gói thuốc thơm biếu, cám ơn anh đã giúp đỡ. Người bộ đội cười nói không có chi, chúc gặp người thân vui vẻ rồi từ giã phóng xe đi. Anh về sư, còn phải đi thêm một quãng nữa.
Giang nhìn quanh. Bên tay phải ngay chỗ xuống xe, mấy dãy nhà lợp tôn. Là bộ phận khung (khung=ban chỉ huy một trại cải tạo thường cấp tiểu đoàn). Những tấm tôn mà kỳ thăm nuôi trước, Thoại đã kể cho nàng nghe: đó là những tấm tôn vấy máu anh em cải tạo.
Số là khi còn ở tại trại tập trung cải tạo Trảng Lớn, trại tù này trước đây do sư đoàn 25 bộ binh Mỹ thiết lập, sau năm 1972, họ rút về nước đã trao lại cho sư đoàn 25 bộ binh quân lực VNCH sử dụng làm căn cứ. Sau tháng Tư 1975, quân chính quy Bắc Việt tiếp thu đã sử dụng làm một trong những trại tập trung cải tạo Sĩ Quan Miền Nam VN trình diện tại Sài Gòn và vùng phụ cận. Gần hai năm trời tại trại với rất nhiều biến chuyển, những ông cai tù, người từ phía bên kia nhìn thấy cảnh ‘phồn vinh giả tạo’ của miền Nam đã có rất nhiều sáng tạo.
Khởi đầu là phong trào “tam đê” gồm có đài, đồng, đạp. Mỗi người phấn đấu để có một xe đạp làm chân, một đồng hồ trên tay và cái đài trên vai. Đó là thế hệ xã hội chủ nghĩa nhuốm màu tư bản sơ khởi. Khi phong trào đã lắng dịu thì đến chiến dịch “bốn vê”: vào, vơ,vét, về. Sau một thời gian vơ vét hết mọi thứ, kể cả những mảnh vụn kim khí từ những chiếc trực thăng, mang về cho một lực lượng lao động”chùa” khổng lồ, đám sĩ quan tù cải tạo giũa gọt, vẽ khắc, đánh bóng, làm thành những món quà quý giá như gương lược, kẹp trâm, những bộ điếu cày chạm trổ tinh vi. Đến cả những tấm ghi sắt lót làm sân bay cũng được gỡ sạch để phục vụ cho các “anh hùng cách mạng.”
Khi không còn gì để vơ vét, đêm nằm vắt trán suy nghĩ, nhìn lên nóc nhà họ thấy toàn là tôn. Hướng mắt về phía cửa sổ, bên ngoài là những bãi mìn phòng thủ nằm giữa những lớp kẽm gai, cỏ tranh mọc tốt cao quá đầu người. Lại suy nghĩ. Cỏ tranh này miền Bắc có lợp nhà thật tốt. Ở đây bọn Mỹ Nguỵ toàn lợp mái bằng tôn. Giời ơi! Nghĩ ra rồi, của ở trên đầu này chứ còn ở đâu nữa. Trong đầu của người cán bộ, những tấm tôn đã biến thành những hòm lớn hòm nhỏ, mai này đi phép mang về nhà thì quý vô cùng, tiện lợi lại bền hơn gỗ. Miền Bắc hiếm tôn thì chắc chắn có giá. Đúng là sáng tạo. Cụ Mác cụ Lê nói thì chẳng sai. Cám ơn các cụ. Nhờ tư tưởng của các cụ đã soi sáng cho đàn cháu biết tư duy. Bộ phận khung nhất trí soạn thảo kế hoạch.
Chỉ tiêu được đề ra: thi đua lao động lập thành tích mừng sinh nhật ‘Bác’. Quyết tâm đạt được mười ngàn bó tranh. Sau khi đã cắt hết tranh phía trong trại, kể cả quanh sân bay cũng chỉ được một phần ba, bộ phận cho lệnh tiến công ra ngoài rào, tức đi vào khu vực có gài mìn bẫy. Tranh tai đây cao và rất dầy. Cắt được hết thì không phải tới mười nghìn, mà có thể năm bẩy chục nghìn cũng có dư. Còn mìn bẫy thì sao? Có người hỏi. Dễ lắm, thủ trưởng nói: bảo đám tù cẩn thận, vừa cắt tranh vừa để mắt cảnh giác một tí có sao. Chính trị viên tiểu đoàn còn mạnh miệng hơn: Bọn nguỵ quân nguỵ quyền tội ác ngập đầu, được tha chết đã may mắn nhiều. Chúng mình ngày trước còn gian lao nguy hiểm gấp vạn lần ấy. Rồi có sao đâu.
Thôi. cứ thế mà làm. Lên giao ban nhận lệnh từ khung, anh em tù giật nẩy mình. Vài người đi vào bãi có sơ đồ, có dụng cụ dò mìn còn lo lắng, huống chi hàng mấy trăm con người hỗn độn đi vào lao động trong một vùng cỏ dầy chi chit che kín hết các dấu hiệu mìn bẫy, lẫn vào cỏ không nhìn thấy nhau, chết là chắc. Lệnh trên đưa ra không thể không thi hành, bị ghép vào tội nổi loạn, chống lại cách mạng tập thể cũng chết.
Thi hành thì. Mọi người vô cùng lo lắng, cầu trời khấn phật sao cho tai hoạ không xảy đến cho mình. Thật ích kỷ nhưng trước một cái chết vô lý chắc chắn biết nói gì? Hậu quả của buổi sáng lao động hôm ấy thật kinh hồn: chỉ sau hai giờ làm việc, một tiếng nổ long trời lở đất, tám mạng người ra đi, không ai trong số còn nguyện vẹn thi thể. Sự sợ hãi lên đến cao độ khi nhận lệnh đi thu nhặt xác bạn bè tử nạn.
Cũng may tiếng nổ làm quang đi vùng cỏ chung quanh. Buổi lao động được hủy bỏ. Sau ít ngày nghỉ ngơi cho công tác chôn cất những người xấu số, người sống sót lấy lại tinh thần, cán bộ khung vẫn tiến hành kế hoạch với một phương thức khác an toàn và nhân đạo hơn. Họ dùng xe chở đán người tù cải tạo đi về phía Cà Tum,Núi Bà. Ở vùng này có rất nhiều đồi tranh, xa xôi, tốn kém xăng dầu nhưng đỡ tốn máu.
Dù mở miệng ra là nêu cao chuyên chính vô sản, ca tụng sự tốt đẹp cũa con người xã hội chủ nghĩa, bản năng tham tư của cán bộ bộ đội ngày càng phát triển mạnh hơn. Càng ở lâu thì càng tham. Khi có lệnh chuyển trại lên rừng, các doanh trại được giao lại cho đơn vị khác, số tranh chưa cắt đủ thay thế tôn, nhưng tôn vẫn được tháo gỡ xuống hết để mang theo. Số tranh có sẵn được giàn trải ra thật mỏng cho đủ che kín mái. Vì vậy, khi hoàn thành, ở trong nhà không khác chi ở ngoài trời. Khi đơn vị mới tới, làm sao họ ở? Có anh ngứa miệng hỏi.
Đó là việc của họ, cán bộ trả lời, dĩ nhiên, họ lại sáng tạo, lao động vinh quang là ở chỗ này. Tôn mang lên rừng để lợp mái cho bộ phận khung, để gò thành hòm lớn hòm nhỏ cho cán bộ. Làm nhà cho khung xong mới tranh thủ dựng trại cho anh em. Lại sáng tạo. Không có cỏ tranh, nhưng rừng có đầy tre nứa, lồ ô. Đốn tre đốn gỗ về dựng nhà, mái và vách lợp bằng nứa đập dập đan vào nhau thành những tấm phên. Đó là cảnh những ngày đầu mới lên rừng lao động. Thoại đã kể cho nàng nghe như thế. Nàng đã ngậm ngùi thương cảm những người bất hạnh và gia đình của họ. Những người thân mãi mãi không bao giờ trở về chỉ vì những tấm tôn chẳng đáng giá là bao.
Giờ sau vài mùa mưa nắng, những tấm tôn lợp trên khung đã bắt đầu han rỉ, trông như một chứng tích đẫm máu của tám người bạn tù nằm xuống trên đất Trảng năm nào. Giang bước vào dãy nhà lợp tôn được gọi là bộ phận khung, hay ban chỉ huy trại để trình giấy tờ xin thăm nuôi đột xuất. Được biết thật bất ngờ là hầu hết anh em tù cải tạo đã có nhiệm vụ mới, được chuyển đến một vị trí sâu hơn phía trong cho công tác chuẩn bị xây dựng một nhà máy làm bột củ sắn (khoai mì) lớn nhất Động Nam Á Châu. Họ đã di chuyển cách đây hai ngày, chỉ còn một số ít anh em ở lại phụ giúp tháo gỡ (lại tháo gỡ) bộ phận khung mang đến vị trí mới. Hoàn tất xong sẽ đi sau.
Họ cho phép gia đình nàng tạm trú ngụ trong khu nhà thăm nuôi gọi là nhà khách, đồng thời khuyến cáo hôm sau nên quay trờ về vì đợt thăm nuôi chính thức chưa đến. Thật đau lòng biết bao. Chịu đựng đũ mọi gian khổ cốt để gặp chồng lại không toại nguyện. Giang ôm con vào lòng mà khóc. Có lẽ trời còn thương. Một số anh em cải tạo còn ở lại thấy khu nhà khách có ánh lửa thì họ mò đến. May mắn hơn nữa, trong đó có Quang, người bạn lính cùng đơn vị với Thoại ngày xưa. Chính hai người đã cùng nhau đi trình diện cải tạo, do đó đang ở tù chung một trại.
Quang sắp xếp chỗ ăn ở cho gia đình nàng. Cơm nước của tù chẳng có gì, ít bo bo và củ mì ăn với nước muối và lá tàu bay. Giang đem con xuống dòng suối rửa ráy qua loa. Nước suối lạnh như nước đá, dù bụi bám đầy người cũng chẳng tắm rửa nổi. Thấy bọn Quang loay hoay với nồi sắn luộc, nàng bảo Quốc lấy trong ba lô ra con gà rán sẵn thơm phức, gói xôi đậu xanh cùng ít bánh nếp mẹ chồng làm, bà biết Thoại thích bánh này của mẹ. - Mời anh Quang, các anh đến dùng cơm với chúng em. -
'
Thôi chị ạ! Gia đình chị cứ tự nhiên đi, Quang nói. Tụi tui kham khổ quen rồi. Với lại, để phần cho thằng Thoại nữa chứ. Vợ con lên thăm mà không có gì nó buồn chết. - Đừng ngại các anh ạ! Các thứ này Giang mang theo để dùng trong ngày thôi. Đến mai sẽ thiu thối hết. Các anh ăn thì cũng như anh Thoại thôi. Ảnh không được ăn là tại số ảnh xui không có mặt hôm nay.
Vả lại, em có ít thuốc men và đồ khô, không gặp được chồng thì có lẽ phải nhờ mấy anh chuyển đến giùm. Quốc ơi! chị có mang cà phê trong túi, em mang ra pha mời các anh uống đi em. Quang và các bạn không khách sáo nữa. Tất cả cùng ngồi xuống vừa hỏi thăm chuyện thành phố, tin tức bên ngoài, vừa thưởng thức cái bùi của nắm xôi, miếng thịt gà vừa béo vừa thơm. Thích nhất vẫn là hương vị của ly cà phê đen thật đậm kèm theo điếu thuốc thơm ấm cúng. Nước sôi nấu trong hộp qui gô có quai xách, vợt lọc cà phê làm bằng bao cát, vẫn không kém phần thú vị giữa cái lạnh núi rừng.
Tin tức vẫn chẳng có gì lạ. “Vũ như Cẫn” Thời gian như ngưng lại. Đời sống khó khăn hơn. Mọi việc ngày càng xấu đi. Quang thấy mẹ con nàng lặn lội thật vất vả mới lên được tới đây mà không gặp đuợc chồng thì quá tội nghiệp. Anh nhất định cùng các bạn bàn cách để hai người gặp gỡ nhau. Họ bàn thảo một hồi. Cuối cùng đi dến quyết định. Ngày mai Quang thức dậy thật sớm, khoảng bốn giờ sáng đi lên trại mới. Đường đất khá xa, đi và về cũng mất hơn ba giờ.
Quang sẽ báo cho Thoại biết có gia đình lên thăm. Trại mới chưa có nhà cửa rào dậu gì, chắc chắn mọi người đang trong công tác chặt cây, lấy gỗ về làm nhà. Quang bảo: - Tao sẽ ráng đi nhanh chân để về sớm trước giờ lao động. Tuy nhiên, lỡ có về muộn chút đỉnh thì tụi bay tìm cách bao che. Được rồi, chị Giang chuẩn bị ngay một mớ đồ dùng vào ba lô tôi mang đi trước cho Thoại.
Riêng chi sau tám giờ lên khung xin lấy lại giấy tờ, cho họ biết không gặp được chồng, chị quay trở về nghe không? Nhớ làm sao đừng để họ nghi ngờ và đoán biết kế hoạch của chúng ta, lôi thôi lắm. Sau đó chị giả vờ đi ngược trở về phía Minh Hưng. Khi đã đi xa thoát khỏi tầm mắt của họ, tôi sẽ đón chị đi vào rừng, chúng ta dùng lối mòn mà chúng tôi thường đi lao động ở phía sau trại, khoảng chừng hai cây số lại trổ ra con lộ lớn. Tới đây đã khá an toàn.Tôi đưa chị đi thêm một quãng đường nữa rồi quay trở lại. Chị cứ tiếp tục đi tiếp. Trong khi Thoại ở đầu bên kia đi ngược trở lại. Trên đường đi, chị sẽ gặp một trại cũ, anh em cải tạo đã dơì đi, bây giở trở thành một đơn vị sửa chữa công xa. Bộ đội đóng ở đây ít khi hỏi han tới tù cải tạo, dường như họ không có nhiệm vụ với tù.
Sát lề đường gần cổng trại này có một quán nước gọi là căng tin. Chủ quán là người dân thường được phép đến làm ăn liên hệ với bộ đội, thỉnh thoảng tiếp cả khách cải tạo nếu ai có dịp đi qua., bộ đội cũng không ngăn cấm. Chị vào quán ngồi uống nước quay mặt ra đường. Ai hỏi chuyện cứ bịa đại là thăm chồng đi nghĩa vụ. Khi nào Thoại đi qua, nó liếc vào quán sẽ thấy chị ngay. Tôi sẽ dặn nó khi đi qua quán, nhìn thấy chị rồi cứ tiếp tục đi thẳng. Chờ cho Thoại đi xa khoảng hơn trăm mét, chị hãy trả tiền rồi ra khỏi quán đi theo. Làm sao để nếu có người ngồi trong quán lúc đó không nghi ngờ. Ở một vườn sắn thật rậm rạp um tùm cách đó khoảng nửa cây số có một cái chòi nhỏ nằm rất sâu bên trong.
Cái chòi do bọn tù cải tạo chúng tôi dựng lên tránh mưa nắng khi đi lao động, bây giờ bỏ hoang, có sửa sang lại để làm điểm hẹn bí mật cho những chuyện thăm nuôi đột xuất như vầy. Chòi nằm giữa rẫy nên rất kín đáo. Thoại sẽ đón chị vào đó. Nhớ đừng để ai nhìn thấy chị gặp Thoại. Cũng nhớ nhìn trước nhìn sau truớc khi bước vào bìa rừng. Bây giờ bọn mình về trại cho chị và cháu nghỉ ngơi. Cố làm theo đúng kế hoạch. Bây giờ chị đưa ba lô hành lý đây tôi mang đi truớc. Quang và các bạn chào tạm biệt ra về. Kế hoạch được tiến hành như dự định. Quang báo cho Thoại biết trước và trở lại kịp giờ lao động, rồi đưa gia đình Giang đi vào lối mòn tắt trong rừng. Sau đó ra lộ đi kèm thêm một đoạn nữa rồi phải từ giã.
Hai chị em tiếp tục con đường. Thằng Quốc dường như qua một ngày vất vả hôm trước, không còn bao nhiêu sức, Giang phải chia bớt túi đồ cho nó, trong khi vẫn phải trông chừng con. Đường đồi lên đèo xuống dốc thật khổ. Đi vài chục bước lại phải dừng lại thở. Mãi rồi cái quán bên đường cũng hiện ra. Mừng vui hiện lên khoé mắt, Giang dẫn em và con vào giải khát, nghỉ ngơi, chờ chồng. Bên trong có mấy người bộ đội ngồi uống nước trà hút thuốc đưa đẩy cười nói với cô gái bán quán trông còn rất trẻ. Thấy bọn Giang bước vào, họ ngưng nói, mắt hướng về nàng có ý nghi ngờ. Nhưng họ không nói gì. Giang ngồi vào cái bàn ngay cạnh cửa, giả bộ chăm sóc con ăn uống.
Kỳ thực, đôi mắt cứ liếc nhìn ra đường trông ngóng. Thỉnh thoảng, một hai người tù cải tạo ăn mặc rách rưới, trông thật tang thương, trên tay ai cũng có một dao rựa lớn đi lướt qua nhưng không phải Thoại. Ngồi đã khá lâu, nàng cảm thấy bồn chồn. Đám bộ đội cũng đã bỏ đi. Đến lúc ấy, Thoại mới chợt hiện ra, cũng áo quần rách bươm, cũng con dao rựa trên tay. Anh liếc nhẹ vào quán rồi tỉnh bơ đi thẳng. Quốc thì thầm: “Ảnh tới rồi đó, chị thấy chưa?” - Thấy rồi! Đừng nói gì hết. Để anh đi một quãng xa đã, kẻo tụi nó nghi. Nhìn thân hình tiều tuỵ trong bộ đồ ăn xin của chồng, Giang thật mủi lòng.
Những kỳ thăm nuôi chính thức trước dù sao cũng còn khá tươm tất. Lúc này đang giờ lao động, phải ăn mặc như người đi lao động không thì lộ chuyện. Thật là buồn. Vợ lên thăm chồng mà gặp nhau không dám gọi. Nàng muốn bật khóc mà không dám, chỉ đưa nhẹ khăn tay lên lau mắt như có hạt bụi vướng vào. Ôi! Có thời đại nào người hãi sợ người như cái thời đại này. Vợ chồng thân yêu đầu ấp tay gối, gặp nhau phải làm ngơ như người xa lạ. Chờ cho Thoại đi khuất, nàng mới trả tiền bước ra khỏi quán. Tính đi ngược lại với hướng của Thoại một đoạn rồi mới băng rừng trở ra như dự tính, nhưng sao chân lại cứ theo bước chân chàng. Thì, một liều ba bảy cũng liều, đến đâu hay đến đó.
Thoại dường như cũng không kiềm chế nổi tình cảm, anh đã quay lại, đến gần vợ con, nắm lấy cái túi xách trên vai nàng kêu khẽ: - Em! Con! Giang thổn thức: “ Anh ơi!” rồi nước mắt tuôn rơi. Thoại vội lên tiếng an ủi: - Đừng khóc, tụi nó nghi ngờ là khổ cả lũ. Để anh xách túi đồ đi trước vào vườn sắn. Em cứ thế mà đi theo nhé! Rồi anh bỏ đi trước. Vườn sắn bỏ hoang, cỏ dại cao hơn đầu người mọc chằng chịt xen lẫn với cây sắn. Đang cố vạch đường tìm vào cái chòi giữa vườn, anh bỗng giật nẩy mình dừng lại. Loáng thoáng có tiếng người ở phía chòi. Hoá ra là mấy tay bộ đội đi săn. Bọn họ lần theo dõi dấu heo rừng về đào phá củ mì và tìm ra cái chòi. Thật là tiện cho họ, có chỗ để ẩn nấp rình mồi.
Thật may, Thoại nghĩ, gia đình mình chưa vào tới, không thì đã lộ tẩy. Không thể dùng chòi được nữa. Anh quay lui lại bảo Giang đừng tiến vào sâu nữa. Đáng buồn, vợ con lên thăm mà không có một nơi chỗ yên ổn để mừng rỡ, thăm hỏi, nói gì đến san sẻ tình nghĩa yêu thương. Đưa nhau đi đâu bây giờ? Trở lại căng tin, mỗi cách ấy. Vừa đi vừa nói chuyện. Anh dặn nàng nếu bị tra hỏi cứ trả lời túi xách nặng quá nhờ anh mang hộ nên đãi anh ly nước, hai người không có quan hệ, Một tên bộ đội chạy đến trước mặt anh lên tiếng hạch sách rất hách dịch như muốn ra uy: - Anh kia là cải tạo phải không?
Đang giờ lao động sao lang thang ở đây? Có phải móc nối với gia đình thăm nuôi lén lút chứ gì? Thoại tránh tiếng. Anh đưa con dao rựa ra trước mặt: - Tôi đang đi lao động trong rừng kiếm cây về làm cột. Gặp chị ấy con nhỏ lãi mang xách nặng nề nên giúp một tay, chứ không có liên hệ. Giang cũng đỡ lời: - Em lên sư đây cán bộ ơi! Sắp tới sư chưa? Cán bộ chỉ giùm. Đang mang xách nặng quá chưa biết làm sao thì có anh này giúp mang hộ. Tính lại quán mời ảnh cốc nước trả công ý mà! Anh chàng bộ đội được người đàn bà gọi là cán bộ, ra vẻ mát lòng đổi thái độ: - À cũng sắp tới rồi, đi vài quãng nữa thôi.
Chị có cần tôi giúp một tay? - Thôi, gần tới rồi thì không dám làm phiền cán bộ. Hắn bỏ đi miệng lầm bầm: “cha nào trên sư tốt số thế! Cứ như múi mít ấy”. Thoại không nói gì, nhìn chăm chú vào ly nước trên tay. Chờ hắn đi xa, anh nói nhỏ: - Đi đâu cũng gặp kỳ đà cản mũi, chán thật. Trong quán này tai vách mạch rừng, nói chuyện nguy lắm. Thôi mình đi ra, vừa đi vừa nói chuyện được đâu hay đó. Thuốc men đồ dùng Quang đã đưa cho anh rồi. Gặp nhau lén lút thật bất tiện. Bố mẹ ra sao? Cả bố mẹ em nữa?
Quốc lớn bộn ha?Làm ăn thế nào? Cho anh gửi lời thăm hỏi sức khoẻ mọi người. Nói ông bà cứ yên tâm, anh sẽ ráng giữ gìn sức khoẻ, ráng sống để về với em và con, với gia đình. Thôi, đưa em và con về. Có ở thêm cũng không gặp gỡ nói chuyện được. Theo anh biết, hàng ngày quán này có chuyến xe ra vào thị xã, không biết phía Minh Hưng hay Đức Hạnh. Em thử lại điều đình với chủ quán xem sao? - Đã lâu không gặp anh.
Chưa nói với nhau gì hết đã bảo đi về? Anh đau ốm ra sao?Nói thật cho em biết để em liệu. Giang khóc, “Chả lẽ vừa gặp nhau đã từ biệt ngay?” - Đành chịu vậy! Hoàn cảnh này em biết. Anh thèm muốn được ôm em và con vào lòng một chút mà đâu dám. Tụi nó bắt gặp là cùm chân biệt giam, khổ vô cùng. Em hãy về. Chủ yếu mang thuốc men đến được tay anh để có hy vọng chống chỏi bệnh tật, mới có ngày về với em. Thôi chịu thua số phận đi, đợi dịp thăm nuôi chính thức mình gặp nhau lâu hơn.
Nói bố mẹ đừng lo lắng thái quá. Anh nhất định sẽ trở về. Thoại đã nói thế, Giang còn biết nói sao. Nàng đứng dậy trả tiền, tiện thể hỏi thăm về chuyến xe hàng sắp tới để xin đi theo. Sáng mai mới có. Vậy lại phải cuốc bộ ra thị xã chiều nay. Giữa rừng, chỗ đâu mà trú.Mọi người kéo nhau ra khỏi quán. Đi bộ một quãng,nhìn chung quanh vắng lặng không có ai, Thoại choàng tay qua vai vợ hôn nhẹ lên mái tóc đượm mùi cháy nắng của nàng, ghì vội con vào lòng thì thầm với nó: Xuân con ơi! Ba nhớ thương mẹ và con thật nhiều. Con lên thăm mà ba không thể nói chuyện với con ba thật đau lòng.
Thôi con về nhớ ngoan ngoãn cho mẹ vui nghe không? Nói với ông bà nội ngoại là ba nhớ ông bà lắm. Mi tạm biệt ba cái coi nào! Thằng bé còn đang ngẩn ngơ dãy dụa trên tay anh, người đàn ông đối với nó vẫn còn xa lạ, gầy gò, rách rưới, lôi thôi như người ăn xin nó thường thấy ngoài chợ. Ông lại còn ôm mẹ con nó vào lòng. Chưa kịp cất tiếng khóc, bỗng dưng xuất hiện lù lù hai người bộ đội, một người hai mẹ con mới gặp lúc sáng. Anh này quắc mắt lên: - A ha! Láo lếu thật. Lũ nguỵ dám qua mặt cách mạng. Vậy mà chúng nó bảo là không có quan hệ. Tội lừa dối nhân dân, lừa gạt nhà nước nặng lắm có biết không? Đúng là bản chất Mỹ Nguỵ khó mà gột rửa. Cần phải cho đi cải tạo mút chỉ mới sáng mắt.
Cách mạng đã cách ly gia đình để tạo cơ hội yên tâm học tập, mà còn lén lút móc ngoặc với nhau. Này anh kia! Vi phạm nội qui của trại là mang tội có âm mưu chống đối cách mạng, không thành tâm hối cải… Hắn còn đang thuyết giảng, Thoại vội buông thằng bé xuống đất, quay qua nói nhanh với vợ, “Kiếm đường về đi”, rồi chụp vội con dao dưới chân nhãy phắt vào buị rậm trước mặt. Giang ôm lấy con, cùng đứa em trai đứng ngơ ngác, bơ vơ giữa con đường đất đỏ bụi mờ. Thoại có lủi kịp không? Về trại có sao không? Còn nàng, con nhỏ trên tay, về đâu đêm nay giữa núi rừng bao la với sương đêm lạnh buốt?
Đó là việc của họ, cán bộ trả lời, dĩ nhiên, họ lại sáng tạo, lao động vinh quang là ở chỗ này. Tôn mang lên rừng để lợp mái cho bộ phận khung, để gò thành hòm lớn hòm nhỏ cho cán bộ. Làm nhà cho khung xong mới tranh thủ dựng trại cho anh em. Lại sáng tạo. Không có cỏ tranh, nhưng rừng có đầy tre nứa, lồ ô. Đốn tre đốn gỗ về dựng nhà, mái và vách lợp bằng nứa đập dập đan vào nhau thành những tấm phên. Đó là cảnh những ngày đầu mới lên rừng lao động. Thoại đã kể cho nàng nghe như thế. Nàng đã ngậm ngùi thương cảm những người bất hạnh và gia đình của họ. Những người thân mãi mãi không bao giờ trở về chỉ vì những tấm tôn chẳng đáng giá là bao.
Giờ sau vài mùa mưa nắng, những tấm tôn lợp trên khung đã bắt đầu han rỉ, trông như một chứng tích đẫm máu của tám người bạn tù nằm xuống trên đất Trảng năm nào. Giang bước vào dãy nhà lợp tôn được gọi là bộ phận khung, hay ban chỉ huy trại để trình giấy tờ xin thăm nuôi đột xuất. Được biết thật bất ngờ là hầu hết anh em tù cải tạo đã có nhiệm vụ mới, được chuyển đến một vị trí sâu hơn phía trong cho công tác chuẩn bị xây dựng một nhà máy làm bột củ sắn (khoai mì) lớn nhất Động Nam Á Châu. Họ đã di chuyển cách đây hai ngày, chỉ còn một số ít anh em ở lại phụ giúp tháo gỡ (lại tháo gỡ) bộ phận khung mang đến vị trí mới. Hoàn tất xong sẽ đi sau.
Họ cho phép gia đình nàng tạm trú ngụ trong khu nhà thăm nuôi gọi là nhà khách, đồng thời khuyến cáo hôm sau nên quay trờ về vì đợt thăm nuôi chính thức chưa đến. Thật đau lòng biết bao. Chịu đựng đũ mọi gian khổ cốt để gặp chồng lại không toại nguyện. Giang ôm con vào lòng mà khóc. Có lẽ trời còn thương. Một số anh em cải tạo còn ở lại thấy khu nhà khách có ánh lửa thì họ mò đến. May mắn hơn nữa, trong đó có Quang, người bạn lính cùng đơn vị với Thoại ngày xưa. Chính hai người đã cùng nhau đi trình diện cải tạo, do đó đang ở tù chung một trại.
Quang sắp xếp chỗ ăn ở cho gia đình nàng. Cơm nước của tù chẳng có gì, ít bo bo và củ mì ăn với nước muối và lá tàu bay. Giang đem con xuống dòng suối rửa ráy qua loa. Nước suối lạnh như nước đá, dù bụi bám đầy người cũng chẳng tắm rửa nổi. Thấy bọn Quang loay hoay với nồi sắn luộc, nàng bảo Quốc lấy trong ba lô ra con gà rán sẵn thơm phức, gói xôi đậu xanh cùng ít bánh nếp mẹ chồng làm, bà biết Thoại thích bánh này của mẹ. - Mời anh Quang, các anh đến dùng cơm với chúng em. -
'
Thôi chị ạ! Gia đình chị cứ tự nhiên đi, Quang nói. Tụi tui kham khổ quen rồi. Với lại, để phần cho thằng Thoại nữa chứ. Vợ con lên thăm mà không có gì nó buồn chết. - Đừng ngại các anh ạ! Các thứ này Giang mang theo để dùng trong ngày thôi. Đến mai sẽ thiu thối hết. Các anh ăn thì cũng như anh Thoại thôi. Ảnh không được ăn là tại số ảnh xui không có mặt hôm nay.
Vả lại, em có ít thuốc men và đồ khô, không gặp được chồng thì có lẽ phải nhờ mấy anh chuyển đến giùm. Quốc ơi! chị có mang cà phê trong túi, em mang ra pha mời các anh uống đi em. Quang và các bạn không khách sáo nữa. Tất cả cùng ngồi xuống vừa hỏi thăm chuyện thành phố, tin tức bên ngoài, vừa thưởng thức cái bùi của nắm xôi, miếng thịt gà vừa béo vừa thơm. Thích nhất vẫn là hương vị của ly cà phê đen thật đậm kèm theo điếu thuốc thơm ấm cúng. Nước sôi nấu trong hộp qui gô có quai xách, vợt lọc cà phê làm bằng bao cát, vẫn không kém phần thú vị giữa cái lạnh núi rừng.
Tin tức vẫn chẳng có gì lạ. “Vũ như Cẫn” Thời gian như ngưng lại. Đời sống khó khăn hơn. Mọi việc ngày càng xấu đi. Quang thấy mẹ con nàng lặn lội thật vất vả mới lên được tới đây mà không gặp đuợc chồng thì quá tội nghiệp. Anh nhất định cùng các bạn bàn cách để hai người gặp gỡ nhau. Họ bàn thảo một hồi. Cuối cùng đi dến quyết định. Ngày mai Quang thức dậy thật sớm, khoảng bốn giờ sáng đi lên trại mới. Đường đất khá xa, đi và về cũng mất hơn ba giờ.
Quang sẽ báo cho Thoại biết có gia đình lên thăm. Trại mới chưa có nhà cửa rào dậu gì, chắc chắn mọi người đang trong công tác chặt cây, lấy gỗ về làm nhà. Quang bảo: - Tao sẽ ráng đi nhanh chân để về sớm trước giờ lao động. Tuy nhiên, lỡ có về muộn chút đỉnh thì tụi bay tìm cách bao che. Được rồi, chị Giang chuẩn bị ngay một mớ đồ dùng vào ba lô tôi mang đi trước cho Thoại.
Riêng chi sau tám giờ lên khung xin lấy lại giấy tờ, cho họ biết không gặp được chồng, chị quay trở về nghe không? Nhớ làm sao đừng để họ nghi ngờ và đoán biết kế hoạch của chúng ta, lôi thôi lắm. Sau đó chị giả vờ đi ngược trở về phía Minh Hưng. Khi đã đi xa thoát khỏi tầm mắt của họ, tôi sẽ đón chị đi vào rừng, chúng ta dùng lối mòn mà chúng tôi thường đi lao động ở phía sau trại, khoảng chừng hai cây số lại trổ ra con lộ lớn. Tới đây đã khá an toàn.Tôi đưa chị đi thêm một quãng đường nữa rồi quay trở lại. Chị cứ tiếp tục đi tiếp. Trong khi Thoại ở đầu bên kia đi ngược trở lại. Trên đường đi, chị sẽ gặp một trại cũ, anh em cải tạo đã dơì đi, bây giở trở thành một đơn vị sửa chữa công xa. Bộ đội đóng ở đây ít khi hỏi han tới tù cải tạo, dường như họ không có nhiệm vụ với tù.
Sát lề đường gần cổng trại này có một quán nước gọi là căng tin. Chủ quán là người dân thường được phép đến làm ăn liên hệ với bộ đội, thỉnh thoảng tiếp cả khách cải tạo nếu ai có dịp đi qua., bộ đội cũng không ngăn cấm. Chị vào quán ngồi uống nước quay mặt ra đường. Ai hỏi chuyện cứ bịa đại là thăm chồng đi nghĩa vụ. Khi nào Thoại đi qua, nó liếc vào quán sẽ thấy chị ngay. Tôi sẽ dặn nó khi đi qua quán, nhìn thấy chị rồi cứ tiếp tục đi thẳng. Chờ cho Thoại đi xa khoảng hơn trăm mét, chị hãy trả tiền rồi ra khỏi quán đi theo. Làm sao để nếu có người ngồi trong quán lúc đó không nghi ngờ. Ở một vườn sắn thật rậm rạp um tùm cách đó khoảng nửa cây số có một cái chòi nhỏ nằm rất sâu bên trong.
Cái chòi do bọn tù cải tạo chúng tôi dựng lên tránh mưa nắng khi đi lao động, bây giờ bỏ hoang, có sửa sang lại để làm điểm hẹn bí mật cho những chuyện thăm nuôi đột xuất như vầy. Chòi nằm giữa rẫy nên rất kín đáo. Thoại sẽ đón chị vào đó. Nhớ đừng để ai nhìn thấy chị gặp Thoại. Cũng nhớ nhìn trước nhìn sau truớc khi bước vào bìa rừng. Bây giờ bọn mình về trại cho chị và cháu nghỉ ngơi. Cố làm theo đúng kế hoạch. Bây giờ chị đưa ba lô hành lý đây tôi mang đi truớc. Quang và các bạn chào tạm biệt ra về. Kế hoạch được tiến hành như dự định. Quang báo cho Thoại biết trước và trở lại kịp giờ lao động, rồi đưa gia đình Giang đi vào lối mòn tắt trong rừng. Sau đó ra lộ đi kèm thêm một đoạn nữa rồi phải từ giã.
Hai chị em tiếp tục con đường. Thằng Quốc dường như qua một ngày vất vả hôm trước, không còn bao nhiêu sức, Giang phải chia bớt túi đồ cho nó, trong khi vẫn phải trông chừng con. Đường đồi lên đèo xuống dốc thật khổ. Đi vài chục bước lại phải dừng lại thở. Mãi rồi cái quán bên đường cũng hiện ra. Mừng vui hiện lên khoé mắt, Giang dẫn em và con vào giải khát, nghỉ ngơi, chờ chồng. Bên trong có mấy người bộ đội ngồi uống nước trà hút thuốc đưa đẩy cười nói với cô gái bán quán trông còn rất trẻ. Thấy bọn Giang bước vào, họ ngưng nói, mắt hướng về nàng có ý nghi ngờ. Nhưng họ không nói gì. Giang ngồi vào cái bàn ngay cạnh cửa, giả bộ chăm sóc con ăn uống.
Kỳ thực, đôi mắt cứ liếc nhìn ra đường trông ngóng. Thỉnh thoảng, một hai người tù cải tạo ăn mặc rách rưới, trông thật tang thương, trên tay ai cũng có một dao rựa lớn đi lướt qua nhưng không phải Thoại. Ngồi đã khá lâu, nàng cảm thấy bồn chồn. Đám bộ đội cũng đã bỏ đi. Đến lúc ấy, Thoại mới chợt hiện ra, cũng áo quần rách bươm, cũng con dao rựa trên tay. Anh liếc nhẹ vào quán rồi tỉnh bơ đi thẳng. Quốc thì thầm: “Ảnh tới rồi đó, chị thấy chưa?” - Thấy rồi! Đừng nói gì hết. Để anh đi một quãng xa đã, kẻo tụi nó nghi. Nhìn thân hình tiều tuỵ trong bộ đồ ăn xin của chồng, Giang thật mủi lòng.
Những kỳ thăm nuôi chính thức trước dù sao cũng còn khá tươm tất. Lúc này đang giờ lao động, phải ăn mặc như người đi lao động không thì lộ chuyện. Thật là buồn. Vợ lên thăm chồng mà gặp nhau không dám gọi. Nàng muốn bật khóc mà không dám, chỉ đưa nhẹ khăn tay lên lau mắt như có hạt bụi vướng vào. Ôi! Có thời đại nào người hãi sợ người như cái thời đại này. Vợ chồng thân yêu đầu ấp tay gối, gặp nhau phải làm ngơ như người xa lạ. Chờ cho Thoại đi khuất, nàng mới trả tiền bước ra khỏi quán. Tính đi ngược lại với hướng của Thoại một đoạn rồi mới băng rừng trở ra như dự tính, nhưng sao chân lại cứ theo bước chân chàng. Thì, một liều ba bảy cũng liều, đến đâu hay đến đó.
Thoại dường như cũng không kiềm chế nổi tình cảm, anh đã quay lại, đến gần vợ con, nắm lấy cái túi xách trên vai nàng kêu khẽ: - Em! Con! Giang thổn thức: “ Anh ơi!” rồi nước mắt tuôn rơi. Thoại vội lên tiếng an ủi: - Đừng khóc, tụi nó nghi ngờ là khổ cả lũ. Để anh xách túi đồ đi trước vào vườn sắn. Em cứ thế mà đi theo nhé! Rồi anh bỏ đi trước. Vườn sắn bỏ hoang, cỏ dại cao hơn đầu người mọc chằng chịt xen lẫn với cây sắn. Đang cố vạch đường tìm vào cái chòi giữa vườn, anh bỗng giật nẩy mình dừng lại. Loáng thoáng có tiếng người ở phía chòi. Hoá ra là mấy tay bộ đội đi săn. Bọn họ lần theo dõi dấu heo rừng về đào phá củ mì và tìm ra cái chòi. Thật là tiện cho họ, có chỗ để ẩn nấp rình mồi.
Thật may, Thoại nghĩ, gia đình mình chưa vào tới, không thì đã lộ tẩy. Không thể dùng chòi được nữa. Anh quay lui lại bảo Giang đừng tiến vào sâu nữa. Đáng buồn, vợ con lên thăm mà không có một nơi chỗ yên ổn để mừng rỡ, thăm hỏi, nói gì đến san sẻ tình nghĩa yêu thương. Đưa nhau đi đâu bây giờ? Trở lại căng tin, mỗi cách ấy. Vừa đi vừa nói chuyện. Anh dặn nàng nếu bị tra hỏi cứ trả lời túi xách nặng quá nhờ anh mang hộ nên đãi anh ly nước, hai người không có quan hệ, Một tên bộ đội chạy đến trước mặt anh lên tiếng hạch sách rất hách dịch như muốn ra uy: - Anh kia là cải tạo phải không?
Đang giờ lao động sao lang thang ở đây? Có phải móc nối với gia đình thăm nuôi lén lút chứ gì? Thoại tránh tiếng. Anh đưa con dao rựa ra trước mặt: - Tôi đang đi lao động trong rừng kiếm cây về làm cột. Gặp chị ấy con nhỏ lãi mang xách nặng nề nên giúp một tay, chứ không có liên hệ. Giang cũng đỡ lời: - Em lên sư đây cán bộ ơi! Sắp tới sư chưa? Cán bộ chỉ giùm. Đang mang xách nặng quá chưa biết làm sao thì có anh này giúp mang hộ. Tính lại quán mời ảnh cốc nước trả công ý mà! Anh chàng bộ đội được người đàn bà gọi là cán bộ, ra vẻ mát lòng đổi thái độ: - À cũng sắp tới rồi, đi vài quãng nữa thôi.
Chị có cần tôi giúp một tay? - Thôi, gần tới rồi thì không dám làm phiền cán bộ. Hắn bỏ đi miệng lầm bầm: “cha nào trên sư tốt số thế! Cứ như múi mít ấy”. Thoại không nói gì, nhìn chăm chú vào ly nước trên tay. Chờ hắn đi xa, anh nói nhỏ: - Đi đâu cũng gặp kỳ đà cản mũi, chán thật. Trong quán này tai vách mạch rừng, nói chuyện nguy lắm. Thôi mình đi ra, vừa đi vừa nói chuyện được đâu hay đó. Thuốc men đồ dùng Quang đã đưa cho anh rồi. Gặp nhau lén lút thật bất tiện. Bố mẹ ra sao? Cả bố mẹ em nữa?
Quốc lớn bộn ha?Làm ăn thế nào? Cho anh gửi lời thăm hỏi sức khoẻ mọi người. Nói ông bà cứ yên tâm, anh sẽ ráng giữ gìn sức khoẻ, ráng sống để về với em và con, với gia đình. Thôi, đưa em và con về. Có ở thêm cũng không gặp gỡ nói chuyện được. Theo anh biết, hàng ngày quán này có chuyến xe ra vào thị xã, không biết phía Minh Hưng hay Đức Hạnh. Em thử lại điều đình với chủ quán xem sao? - Đã lâu không gặp anh.
Chưa nói với nhau gì hết đã bảo đi về? Anh đau ốm ra sao?Nói thật cho em biết để em liệu. Giang khóc, “Chả lẽ vừa gặp nhau đã từ biệt ngay?” - Đành chịu vậy! Hoàn cảnh này em biết. Anh thèm muốn được ôm em và con vào lòng một chút mà đâu dám. Tụi nó bắt gặp là cùm chân biệt giam, khổ vô cùng. Em hãy về. Chủ yếu mang thuốc men đến được tay anh để có hy vọng chống chỏi bệnh tật, mới có ngày về với em. Thôi chịu thua số phận đi, đợi dịp thăm nuôi chính thức mình gặp nhau lâu hơn.
Nói bố mẹ đừng lo lắng thái quá. Anh nhất định sẽ trở về. Thoại đã nói thế, Giang còn biết nói sao. Nàng đứng dậy trả tiền, tiện thể hỏi thăm về chuyến xe hàng sắp tới để xin đi theo. Sáng mai mới có. Vậy lại phải cuốc bộ ra thị xã chiều nay. Giữa rừng, chỗ đâu mà trú.Mọi người kéo nhau ra khỏi quán. Đi bộ một quãng,nhìn chung quanh vắng lặng không có ai, Thoại choàng tay qua vai vợ hôn nhẹ lên mái tóc đượm mùi cháy nắng của nàng, ghì vội con vào lòng thì thầm với nó: Xuân con ơi! Ba nhớ thương mẹ và con thật nhiều. Con lên thăm mà ba không thể nói chuyện với con ba thật đau lòng.
Thôi con về nhớ ngoan ngoãn cho mẹ vui nghe không? Nói với ông bà nội ngoại là ba nhớ ông bà lắm. Mi tạm biệt ba cái coi nào! Thằng bé còn đang ngẩn ngơ dãy dụa trên tay anh, người đàn ông đối với nó vẫn còn xa lạ, gầy gò, rách rưới, lôi thôi như người ăn xin nó thường thấy ngoài chợ. Ông lại còn ôm mẹ con nó vào lòng. Chưa kịp cất tiếng khóc, bỗng dưng xuất hiện lù lù hai người bộ đội, một người hai mẹ con mới gặp lúc sáng. Anh này quắc mắt lên: - A ha! Láo lếu thật. Lũ nguỵ dám qua mặt cách mạng. Vậy mà chúng nó bảo là không có quan hệ. Tội lừa dối nhân dân, lừa gạt nhà nước nặng lắm có biết không? Đúng là bản chất Mỹ Nguỵ khó mà gột rửa. Cần phải cho đi cải tạo mút chỉ mới sáng mắt.
Cách mạng đã cách ly gia đình để tạo cơ hội yên tâm học tập, mà còn lén lút móc ngoặc với nhau. Này anh kia! Vi phạm nội qui của trại là mang tội có âm mưu chống đối cách mạng, không thành tâm hối cải… Hắn còn đang thuyết giảng, Thoại vội buông thằng bé xuống đất, quay qua nói nhanh với vợ, “Kiếm đường về đi”, rồi chụp vội con dao dưới chân nhãy phắt vào buị rậm trước mặt. Giang ôm lấy con, cùng đứa em trai đứng ngơ ngác, bơ vơ giữa con đường đất đỏ bụi mờ. Thoại có lủi kịp không? Về trại có sao không? Còn nàng, con nhỏ trên tay, về đâu đêm nay giữa núi rừng bao la với sương đêm lạnh buốt?
QD *ÔNG ĐỊA CỦA CHỊ QUYÊN
ÔNG ĐỊA CỦA CHỊ QUYÊN
Nhóm kỷ sư đìện chúng tôi được gọi là nhóm 787 (787 là model máy bay mới của hãng Boeing), khi nhóm này từ Seattle chuyển về Long Beach thì tôi đã nghe các bạn cùng sở đồn đãi về một phụ nữ ngưòi Á Châu có tục lệ “cầu nguyện” thần linh hàng ngày trước khi bắt đầu làm việc.
Đám bạn Mỹ của tôi đồn rằng chị ta có một khu vực nhỏ ngay tại bàn làm việc để thờ phượng “đấng huyền bí tối cao” của chị. Người ta méc tôi rằng thần thánh của chị là hình tượng nho nhỏ của một ông già to béo bụng phệ, nét mặt hiền lành, miệng cười thoải mái mà chị luôn miệng gọi là “Ông Địa”. ua lời các bạn tôi kể lại về phong tục kỳ lạ của ngưòi phụ nữ Á Châu này, khó khăn lắm tôi mới đoán ra là có một người phụ nữ Việt Nam nào đó lập bàn thờ “Ông Địa” tại bàn làm việc của chị ấy.
Khi người Á Đông chúng ta kính cẩn gọi là ông Địa thì đám bạn Mỹ của tôi lại đọc với âm thanh lệch lạc kể lại với tôi rắng chị khấn vái một ông thánh nào đó có tên được phát âm như ..”Ong Ỉa”…Nghe tên đó tôi bật cười. Thấy tôi cười các bạn cũng khoái chí cười theo. Các bạn tôi cười vì phong tục lạ đời còn tôi buồn cưòi vì lối phát âm độc đáo. Chị Việt Nam nào đó mà biết người ta gọi “Ông Địa” thiêng liêng của chị thành Ông “Ỉa” thì không biết chị ta sẽ phản ứng ra sao?
QD – Hình chụp năm 1977 sau 12 ngày lênh đênh trên biển và mới đến trại tị nan Hồng Kông được 3 ngày
Tôi nghe câu chuyện bàn thờ Ông Địa từ lâu nhưng chưa bao giờ biết các chi tiết cho đến một ngày đầu năm ngoái khi chương trình máy bay dân sự 787 bị đình trệ và nhóm Manufacturing Engineer do tôi quản lý dọn về building 801 tại Long Beach, California để hổ trợ cho các kỷ sư 787. Dọn về chỗ làm mới tôi chẳng ưng ý tí nào vì rất bất tiện. Từ văn phòng làm việc đến nhà vệ sinh và ngay nhà ăn cũng đều xa lạ, nội việc đi tìm mua một ly cà phê cho buổi sáng cũng phải mò mẩm mất hết cả ngày giờ.
Buổi sáng ngày đầu tiên làm việc tại building mới, cầm ly cà phê tôi băng qua các khu văn phòng để tìm đưóng xuống câu lạc bộ. Chợt nghe bên tai vang lên một giọng nói thật trầm bỗng của một phụ nữ Việt nam, vừa tiếng Anh pha với tiếng Việt, giọng nói miền Nam thật quen thuộc.
“Lạy ông Địa, hôm nay Quyên cúng nải chuối, cúng ly cà phê sữa, cúng một ổ bánh mì Ba Lẹ và cúng luôn trái cam tươi! Hôm nay là thứ hai ngày đầu tuần, công việc chúng con rất bận rộn nhưng chúng con xin ông Địa cho chúng con được bình an, xin ông Địa cho mấy ông QA Inspector (nguời kiểm soát kỷ thuật) không làm khó dễ chúng con. Nghe đồn bên mấy nhóm khác bắt đầu cho thôi việc vì ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế. Bọn chúng con có mấy đứa Việt Nam quèn xin ông Địa bảo vệ cho. Nếu có lay-off thì Ông Địa cho Lay-off mấy thằng Mễ hay mấy con Mỹ trắng..Lúc này mà bị lay-off thì cuộc đời tan nát hết, xin Ông Địa phù hộ, trăm lạy Ông Địa , ngàn lạy Ông Địa..”
Đang đi nhanh qua những văn phòng, nghe lời khấn vái tôi không nhịn được tính tò mò nên dừng lại và nhìn vào khu văn phòng bên cạnh. Thật bất ngờ, một cảnh tượng mà suốt 25 năm làm việc cho Boeing tôi chưa bao gìờ thấy qua. Trên bàn giấy làm việc ngổn ngang các họa đồ kỷ thuật (Blue Prints), các hoạch đồ của kỷ sư (Engineering Orders) bên góc bàn là một bàn thờ nho nhỏ. Giữa bàn thờ đúng như các bạn người Mỹ mô tả là hình tượng của ông Địa, nhỏ cở một nắm tay, da trắng trẻo bụng phệ với nụ cười thật tươi thật yêu đời. Trong cùng bàn thờ , dán trên vách là một tấm Bài vị. Trước mặt ông Địa là một hủ gạo, hủ muối và một ly nước đầy .
Giữa bàn thờ là một bát nhang, bát nhang không có nhang, bên cạnh có một ly cà phê, một ổ bánh mì và một trái cam. Nhìn thoáng qua nhưng tôi biết ngay sự bố trí rất là trang nghiêm và kính trọng. Đồi diện bàn thờ là một phụ nữ với mái tóc dài xỏa ngang vai đang lầm thầm khấn nguyện. Nhìn cảnh tượng này tôi thật sự xúc động. Cả một trời Tây và Ta hòa hợp. Ông Địa của Việt Nam đang tươi cười bên cạnh các họa đồ của chiếc phản lực cơ hiện đại nhất thế giới 787. Chiếc máy bay mang tất cả những kỷ thuật tân tiến nhất thế giới của loài người hiện đại.
Như có cảm giác bị người ta nhìn lén, người phụ nữ đột nhiên quay đầu nhìn lại, khi chị nhìn thấy tôi, mặt chị đỏ bừng. Hôm đó là lần đầu tiên tôi biết chị Nguyễn Thị Quyên.
Kỷ sư chương trình 787 của hãng Boeing rất đông tại nhiều nơi khác nhưng nhóm kỷ sư Việt Nam chính thức làm việc cho chương trình 787 tại Long Beach thật ra không bao nhiêu người.
Chị Quyên, Ann Bui, Tony Lưu và tôi là người quản lý và phụ giúp kỷ thuật từ chương trình vận tải cơ quân sự C-17 mới đổi qua để tiếp ứng vì công việc quá nhiều. Vì là nhóm quá nhỏ nên việc kết bạn của chúng tôi thật dễ dàng. Thường thì chúng tôi hẹn nhau xuống câu lạc bộ (Cafeteria) ăn trưa và tán gẩu. Ann Bùi và Tony Lưu tuổi khoảng 40 còn chị Quyên thì tôi không hỏi tuổi nhưng đoán khoảng chừng gần 60, vì tất cả mọi ngưòi đều kêu “chị” nên tôi cũng gọi chị là “chị Quyên”. Chị Quyên xưng chị, xưng em với tất cả mọi ngưòi và có lẽ không biết tuổi hơn con số 60 của tôi chị cũng xưng “chị Quyên” với tôi.
Chị Quyên, Ann Bui, Tony Lưu và tôi là người quản lý và phụ giúp kỷ thuật từ chương trình vận tải cơ quân sự C-17 mới đổi qua để tiếp ứng vì công việc quá nhiều. Vì là nhóm quá nhỏ nên việc kết bạn của chúng tôi thật dễ dàng. Thường thì chúng tôi hẹn nhau xuống câu lạc bộ (Cafeteria) ăn trưa và tán gẩu. Ann Bùi và Tony Lưu tuổi khoảng 40 còn chị Quyên thì tôi không hỏi tuổi nhưng đoán khoảng chừng gần 60, vì tất cả mọi ngưòi đều kêu “chị” nên tôi cũng gọi chị là “chị Quyên”. Chị Quyên xưng chị, xưng em với tất cả mọi ngưòi và có lẽ không biết tuổi hơn con số 60 của tôi chị cũng xưng “chị Quyên” với tôi.
Trong giờ ăn trưa với nhau, chúng tôi thường trêu chọc chị về chuyện cầu Ông Địa. Những lúc đó, chị với nét mặt thật nghiêm nghị giảng thao thao bất tuyệt về sự linh thiêng của Ông Địa. Theo chị Quyên, “Thổ Công hay Ông Địa là một vị Thần được dân gian thờ cúng rất quan trọng. Vì vị Thần nầy trông coi gia đình, dự định họa phúc. Trong gia đình muốn được bình an, và công việc làm ăn muốn được sung túc, tất cả đều do Thần Ông Địa trông coi và phò hộ. Thần Ông Địa đem lại tài lộc cho mọi người.
Đây là một tập quán tín vọng, xưa bày nay theo, cứ thế mà thờ, còn việc linh ứng có không tùy ở nơi người tin. Mỗi lần chị thuyết giảng về Ông Địa tôi thấy trong giọng nói, trong mắt chị thấp thoáng một nỗi buồn man mát. Trong ánh mắt đó tôi thầy có một uẩn khuất sự đau khổ mà dường như chị không muốn nói tới. Cho đến một buổi chiều vào cuối tháng Tư năm ngoái, vì công việc nhiều quá tôi phải ở lại làm thêm gìờ và tình cờ tôi bắt gặp chị đang ôm một tấm bài vị thờ Ông Địa với đôi mắt đỏ hoe. Hơn một giờ trò chuyện, trong cơn xúc động, chị Quyên kể cho tôi nghe câu chuyện thật đau lòng của chị hơn 30 năm về trước.
“Năm đó…năm 1977, cả nước nhất là miền Nam Việt Nam đói khổ lắm. Đối với dân ở thành phố Vũng Tàu như gia đình Quyên mà chính phủ gán cho thuộc thành phần có lý lịch “Ngụy” thì càng khó khăn hơn nữa. Thức ăn chính là hạt bo bo trộn với khoai sắn mà cũng không có đủ tiền để mua. Bao nhiêu vốn liếng tiền bạc dành dụm sau ngày cưới Quyên bán hết để lo cho anh Tuấn ra khỏi trại cải tạo. Tội nghiệp mẹ chồng của Quyên, bà hy sinh bán luôn căn nhà phía trước mà trước đây dùng làm nhà thờ tổ tiên để lo cho anh Tuấn và dự định là có dư chút tiền mua được một chiếc xe Honda cũ để anh chạy xe thồ kiếm sống cho cả gia đình hàng ngày.
Ngày đi đón anh Tuấn về nhà cũng là ngày cán bộ nhà nước đến từng nhà kêu gọi dân Vũng Tàu hợp tác với nhà nước trong chương trình “Kinh Tế Mới”. Mặc kệ họ la gào kêu gọi và kể cả hăm dọa Quyên gặp lại chồng sau mấy năm cách biệt, mừng như cuộc đời đưọc tái sinh. Nước mắt cho sự xum họp sao mà thấm thiết. Chỉ hai năm xa cách chồng mà Quyên cứ tưởng như là cả thế kỷ. Ngày xưa, anh Tuấn là một sĩ quan tốt nghiệp từ Võ Bị Đà Lạt, mỗi khi về phép anh thường đùa với Quyên khi nghe Quyên hát bài thơ Màu Tím Hoa Sim. “Áo anh sứt chỉ đường tà, vợ anh mất sớm mẹ già chưa khâu”, anh nói với Quyên làm gì có chuyện vớ vẫn chồng mất vợ đó. Anh và Quyên sẽ sống với nhau trên trăm tuổi, con cháu đầy đàn… đám cưới chưa đầy 2 tháng thì tháng Tư định mệnh 1975 đã đến và anh đi học tập từ đó…
Ngay ngày đầu tiên khi anh Tuấn được phép về lại với gia đình là Quyên đã thấy sự thay đổi nơi chồng mình. Ngoài vóc dáng ốm và đen đủi bên ngoài, anh Tuấn trở nên lầm lì ít nói. Ngày xưa anh nói nhiều chừng nào thì bây giờ anh lại ít nói chừng đó. Thỉnh thoảng anh cứ nhìn về phiá Tây Ninh nơi anh đã bị cải tạo hơn 2 năm và ngâm nho nhỏ mấy câu thơ thật buồn:
“Chim buồn, chim bay về núi
Cá buồn, cá chúi xuống sông
Người buồn, ra ngõ đứng trông
Ngõ thì thấy ngõ,
Người không thấy người!”
Cá buồn, cá chúi xuống sông
Người buồn, ra ngõ đứng trông
Ngõ thì thấy ngõ,
Người không thấy người!”
Anh ngâm thơ với giọng nghẹn ngào chẳng đúng như anh Tuấn rắn rỏi ngày xưa của Quyên. Quyên hỏi anh nhớ ai vậy, có phải nhớ cô nào không thì anh chỉ lắc đầu. Một đìều thật lạ là cứ mỗi ngày vào khoảng 5 giò sáng là anh thức dậy. Ra ngoài sân sau và 10 phút mới trở vào. Mấy ngày liên tục như vậy, Quyên tò mò len lén rình theo chồng xem thử anh dậy sớm làm gì ngoài đó. Quyên thấy anh đang lom khom qùy lạy một cái bàn thờ Ông Địa nho nhỏ mà anh tự lập ra hồi nào không ai biết. Trên bàn thờ vỏn vẹn có một đìếu thuốc đang bốc khói và anh khấn nguyện nho nhỏ:
“Con lạy ông thần, con lạy ông thần ban phước lành cho gia đình con đừng khổ nữa. Cho Hưng được siêu thoát và ..”.
Trong bóng tối tay Quyên run run đụng vào cánh cửa làm bật tiếng động, anh Tuấn vội im bặt và quay lại nhìn Quyên. Thấy Quyên anh ngượng ngùng và dang tay ôm gọn Quyên vào lòng, Anh bắt đầu kể lại chuyện tù đày của anh hai năm qua. Câu chuyện anh kể làm cả hai cùng khóc. Anh chỉ cho quyên bức tượng Ông Địa anh làm bàn thờ và nhắc đến người bạn cùng tù cải tạo tên Hưng đã hy sinh chết thay cho anh trong lần cả bọn trốn tù cũng là tác giả bài thơ mà anh hay thường ngâm một cách buồn bã.
Nghe anh kể mà Quyên không cầm được nước mắt, những đoạn đường anh đã đi qua đúng là địa ngục của trần gian. Buổi sáng vào rừng đốn cây để khai phá đất cho vùng “Kinh Tế Mới”, buổi trưa theo đoàn đi làm nhiệm vụ gỡ mìn, tối về thì học tập. Chính phủ khoan hồng cho các anh sống nhưng không cho các anh ăn. Các anh phải tự túc tìm cách mưu sinh, tự tìm cách làm ra thức ăn để sống. Sĩ quan cấp Trung Úy đúng ra anh chỉ cải tạo có 6 tháng hay 1 năm mà thôi nhưng đa số anh và các bạn kéo dài trên hai năm vì lý do tư tưởng không được “khai thông” sớm. Riêng anh thì bị thêm tội trốn trại cải tạo.
Từ Tây Ninh anh cùng 3 người bạn nhân chuyến chở gỗ rừng làm cầu để hổ trợ cho chiến tranh lúc đó đang lan tràn bên xứ Miên, anh và các bạn trốn trại thoát được vào rừng hơn 7 ngày đêm. Dự định là trốn qua xứ Thái nhưng thay vì đi Thái Lan các anh đi lạc vào khu vực cắm trại của lính Miên. Họ đánh đập các anh rất tàn nhẫn và giao lại cho bộ đội Việt Nam. Trong những người trốn tù cải tạo có Trung úy Hưng, anh ta độc thân nên vì bạn đã hy sinh cho những người có gia đình, anh Hưng nhận hết tội tổ chức vượt tù. Anh Tuấn chồng Quyên bị đánh gãy xương chân và bị bắt nhịn đói 3 ngày.
Anh Hưng bị đánh nát tay chân, lôi ra treo giữa cột cờ bỏ đói để làm gương cho những ngưòi dám chống đối . Anh Hưng hy sinh vài ngày sau đó, trước khi mất anh giao lại hình Ông Địa cho anh Tuấn nhờ anh giao lại người em gái tên Thu. Về được Sài Gòn anh Tuấn đi tìm Thu thì được biết cô này đã di tản ra nước ngoài từ lâu rồi. Anh Tuấn nói với Quyên rằng niềm tin đã bùng dậy nơi anh khi anh cận kề với cái chết. Ông Địa bây giờ là niềm tin là thần thánh tối cao trong cuộc đời còn lại của anh.
Sau năm 1977, Vũng Tàu cũng các thành phố khác tại Việt Nam bị nạn đói hoành hành. Anh Tuấn thay đổi tính tình rất nhiều. Từ một người lanh lẹ hoạt bát và gan dạ anh trở nên lầm lì và nhút nhác sợ hãi mọi điều. Anh tránh né mọi người và như sống cho thế giới riêng anh. Có lúc Quyên bắt gặp anh ngồi tư lự hàng giờ và thường lẩm bẩm một mình như người mất trí. Thương chồng vô cùng nhưng Quyên chỉ biết âm thầm khóc chứ đâu biết làm gì hơn.
Ngưòi ta nói anh bị ngãi Miên làm mất trí cần phải có bùa của người Miên ở mãi tận Châu Đốc mới trị được. Quyên nghe thì biết vậy chớ ăn còn không đủ cho đời sống hàng ngày lấy tiền đâu mà trị bịnh cho chồng. Hàng ngày, giao cho anh chiếc xe Honda để đi thồ kiếm sống, anh Tuấn cũng đi nhưng ra ngồi bến xe rồi cứ trầm ngâm, mơ màng đọc nho nhỏ bài ca “Chim buồn, chim bay về núi, Cá buồm, cá chúi xuống sông. Người buồn, ra ngõ đứng trông”, sáng đi chiều về anh không có lấy được một người khách nào hết. Trước khi nhập ngũ, anh Tuấn là sinh viên trường kỷ sư Phú Thọ. Quyên là sinh viên trường đại học Khoa Học.
Mớ vốn liến kiến thức của gia đình Quyên không đủ để thuyết phục chính quyền đương thời giúp cho một công việc làm. Không ai cho gia đình “Ngụy” một công việc nào hết, và cứ như vậy gia đình Quyên phải bán hết đồ trong nhà để mua gạo sống hàng ngày. Ngày Quyên đem bộ đồ cưới đi bán, anh Tuấn không nói năng chi chỉ nhìn Quyên bằng ánh mắt buồn vời vợi và tối hôm đó rủ Quyên đi biển dạo mát. Lâu lắm rồi mới có dịp cùng chồng ra biển, cũng lâu lắm rồi Quyên mới tìm thấy một chút hạnh phúc bên chồng.
Vũng Tàu có những bãi biển lý tưởng để nghĩ mát mà thiên nhiên đã ban tặng như Bãi Trước và Bãi Sau, anh Tuấn và Quyên thường đi Bãi Trước. Cũng tại nơi bờ biển này, Quyên gặp và yêu anh, tình yêu tuyệt vời của thời sinh viên đại học trước khi anh Tuấn theo lệnh động viên và nhập ngủ. Bãi Trước còn gọi là bãi Tầm Dương do có thể ngắm mặt trời lặn vào mỗi buổi chiều. Bải Trước có những hàng dừa chạy dọc theo bờ biển và giống như một vịnh nhỏ ít sóng, bãi cát dài phẳng và có hình vòng cung khá đẹp. Tay trong tay, anh Tuấn và Quyên, hai đứa như thường lệ mua hai trái bắp vừa đi dạo trên cát vừa gặm từng hạt bắp ngọt liệm và thơm lừng.
Trong cơn xúc động, Quyên nói nhỏ vào tai anh, báo cho anh biết Quyên đã có thai hơn ba tháng. Đứa con đầu lòng của Tuấn và Quyên. Anh cũng xúc động không kém, xiết chặt Quyên trong vòng tay rắn chắt của anh. Anh không nói gì hết nhưng trong ánh mắt của anh, Quyên thấy cả một bầu trời của sự vui mừng lẫn lo âu.
Chương trình vận động đi Kinh Tế Mới của chính phủ “ưu tiên” cho những gia đình có người mới cải tạo được trả về làm Quyên lo lắng vô cùng. Nhà thì hết gạo, Quyên phải chạy về nhà mẹ vay mượn từng bửa mà khổ nỗi nhà mẹ Quyên cũng nghèo tả tơi ăn cũng không còn đủ thì làm gì giúp Quyên được. Nhìn cái thai, đưá con mình càng càng càng lớn nhưng vì không đủ ăn làm gì có đủ chất dinh dưỡng cho con, Quyên đau đớn âm thầm chỉ biết khóc. Riêng anh Tuấn không biểu lộ sự lo lắng gì hết. Sáng sớm là anh và vài người bạn cứ cầm cần đi câu cá.
Hết Bãi Trước rồi đến Bãi Sau mặc kệ ông tổ trưởng dân phố hàng ngày đến tìm anh để hỏi về việc “trình nguyện” xây đựng vùng kinh tế mới. Anh làm việc gì coi bộ rất bí mật, có lúc anh đóng cửa phòng cả ngày không ra bên ngoài. Cho đến khi anh và các bạn đem những bình xăng thật lớn về chất đầy trong nhà thì anh mới cho biết là anh đang chuẩn bị đi làm ăn xa. Vài ngày sau đó anh mới cho Quyên biết là anh và các bạn tính tổ chức vượt biển đem gia đình đi ra nước ngoài tị nạn chính trị. Đến lúc này thì Quyên thấy anh trở nên hoàn toàn tỉnh trí.
Người chồng đức độ và đầy đàn ông tính của Quyên đã trở lại bình thường. Hàng đêm, hai vợ chồng Quyên thao thức trong những ước mơ thật đơn giản. Ra nước ngoài, anh sẽ tìm việc làm tạm sống và đi học trở lại. Vợ chồng Quyên cầu nguyện ơn lành nuôi dưỡng cho con và lo cho con học nên người. Gia đình Quyên sẽ sống một đời sống không còn thiếu ăn, thiếu mặc, không còn chiến tranh và hận thù, không còn bị kềm kẹp mất tự do căn bản của con người.
Hơn một tháng trời nghiên cứu và thào luận với Mẹ anh Tuấn, gia đình Quyên quyết định đăng ký đi làm ăn tại vùng kinh tế mới Gia Kiệm. Anh Tuấn tin rắng chỉ có cách đó mới tránh được sự dòm ngó của công an khu vực.
Đi kinh tế mới thì có quyền bán nhà và dự trữ lương thực mà không ai để ý tới. Căn nhà trị giá 20 cây vàng (lượng), mẹ anh Tuấn bán lại chỉ có 15 cây. Đóng cho tổ chức vượt biên 12 cây (4 lượng mỗi đầu người) số còn lại chỉ đủ mua lương thực và thuốc men dự trữ. Anh Tuấn lo cho Me và Quyên rất chu đáo, Mẹ đã gần 70 tuổi và Quyên thì mang thai. Như để tạo thêm niềm tin, tối nào anh cũng nhắc nhở Quyên cùng anh cầu nguyện Ông Địa. Anh cầu khẩn rất thành tâm và lúc nào cũng có ly ca phê hay thuốc lá thắp cho anh Hưng người bạn đã khuất bóng.
Ngày 17 tháng 4 năm 1977 là ngày ban tổ chức quyết định khởi hành. Trước đó vài ngày, Quyên cảm thấy trong người khó chịu nhưng vì không dám để chồng lo lắng, Quyên cắn răng chịu đựng. Nguyên một đêm nằm chờ trong thúng chai để được đón ra thuyền đánh cá lớn tại Bãi Sau, bụng dưới của Quyên cứ đau lâm râm. Như đã dự định trước, ban công an biên phòng đã được trả tiền trước nên không kiểm tra đêm đó.
Không một chút trở ngại, nhóm thúng chai chở người di tản ra thuyền lớn. Khoảng 15 người trẻ có già có và kể cả con nít được chuyển hết lên tàu tại Bãi Sau và con thuyền đánh cá từ từ ra khơi. Trong đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần, Quyên nhìn quê hương dần dần khuất sau ngọn đồi mà mắt nhòa lệ.
“Mẹ ơi, vĩnh biệt Mẹ, vĩnh biệt quê hương….Việt Nam ngàn đời yêu dấu…”
Chiếc thuyền đánh cá nhỏ thông thường chỉ có vài người đi làm cá bây giờ mang đi cả hơn 20 người nên nếu nhìn kỷ thì sẽ thấy sức nặng làm con thuyền trùng xuống và nghiêng hẳn qua một bên. Để cân bằng, anh tài công chỉ cách cho mọi ngưòi ngồi đều nhau trên các khu vực của chiếc thuyền. Khi chạy ra đến khu vực gần địa phận quốc tế thì thuyền chúng tôi gặp tàu tuần của chính phủ. Họ đi tuần tiểu vòng vòng khu vực thuộc hải phận Việt Nam. Thực sự đây chỉ là hình thức kiểm soát ngư dân vượt biên và một cách làm tiền của nhóm hải quan Việt Nam. Thấy tàu tuần cảnh chạy đến, anh tài công kêu mọi ngưòi xuống hết dưới lòng tàu (chỗ chứa cá) và cùng vài anh em trong đó có anh Tuấn giả bộ bắt đầu mang luới ra thả.
Đã nhận tiền trước, mấy cán bộ hải quan lờ chúng tôi và cho tàu tuần chạy thẳng về Bến Trước của Vũng Tàu. Chờ cho họ đi thật xa, chiếc thuyền của chúng tôi mới bắt đầu vượt ra hải phận quốc tế và hướng về phiá Nam thuộc địa phận Mã Lai, nơi mà chúng tôi muốn đến trạm trú để nhờ sự giúp đỡ của hội đồng Liên Hiệp Quốc. Đến lúc này thì tinh thần của mọi người mới bắt đầu cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Ra khỏi hải phận Việt Nam, chúng tôi đã bắt đầu thật sự nhận thấy mình đang trên con đường của bến bờ tự do mà chúng tôi từng mơ ước.
Từ Vũng Tàu theo lộ tình đã dự định, nếu thời tiết tốt chúng tôi chỉ cần 4 ngày là đến được bán đảo Mã Lai của Malaysia. Trên thuyền, chúng tôi có đủ nước và thức ăn khô cho 5 ngày. Từ bán đảo Mã Lai, chúng tôi hy vọng sẽ gặp tổ chức Liên Hiệp Quốc và sẽ được đưa về trại tị nạn tại Kuala Lumpur.
Hai ngày đầu tiên mặc dầu sóng êm biển lặng, trừ một vài thanh niên trong nhóm tất cả mọi ngưòi trên thuyền đều bị say sóng nằm liệt. Mẹ chồng Quyên nôn mửa liên tục, còn riêng Quyên thân thể đau nhức không chịu đựng nổi nên nằm liệt trong bong tàu. Thương Quyên, thương Mẹ, anh Tuấn cứ chạy lên chạy xuống lo nước uống và thuốc thang. Bụng dưới của Quyên càng lúc càng đau đớn Quyên lại càng cắn chặt răng chịu đựng không dám than thở một lời nào vì sợ ảnh hưởng tinh thần người chung quanh. Thuyền nhỏ người đông không đủ chỗ nằm, anh Tuấn hàng đêm nhường chỗ cho Mẹ và Quyên nằm.
Anh ra cạnh mé của khoang thuyền nằm canh chừng. Thuyền chở nặng nên mực nước cứ nhấp nhô đánh tạc vào ngưòi anh. Sợ ngủ quên và sóng đánh rớt xuống biển, anh lấy dây cột chặt thân mình vào khoang tàu. Cứ 5 mười phút anh lại trở đầu nhìn Quyên và Mẹ. Trong ánh mắt đầy lo âu của anh, Quyên thấy cả một bầu trời thương yêu trong đó. Lúc đó, tự nhiên bên dưới khoang tàu vang vọng lên bản nhạc “Sợi Nhớ Sợi Thương” của ai đó:
Anh ra cạnh mé của khoang thuyền nằm canh chừng. Thuyền chở nặng nên mực nước cứ nhấp nhô đánh tạc vào ngưòi anh. Sợ ngủ quên và sóng đánh rớt xuống biển, anh lấy dây cột chặt thân mình vào khoang tàu. Cứ 5 mười phút anh lại trở đầu nhìn Quyên và Mẹ. Trong ánh mắt đầy lo âu của anh, Quyên thấy cả một bầu trời thương yêu trong đó. Lúc đó, tự nhiên bên dưới khoang tàu vang vọng lên bản nhạc “Sợi Nhớ Sợi Thương” của ai đó:
”Bên nắng đốt – Bên mưa quây
Em dang tay – Em xòe tay
Chẳng thế nào – xua tan mây
Mà chẳng thế nào, che anh được
Chừ rút sợi thương, ấy mấy chăm mái lợp
Rút sợi nhớ, mấy đan vòm xanh
Nghiêng sườn đông, mà che mưa anh
Nghiêng sườn tây, xòa bóng mát
Rợp trời thương, ấy màu xanh suốt
Mà em nghiêng hết, ấy mấy về phương anh
Mà em nghiêng hết, ấy mấy về phương anh …”
Em dang tay – Em xòe tay
Chẳng thế nào – xua tan mây
Mà chẳng thế nào, che anh được
Chừ rút sợi thương, ấy mấy chăm mái lợp
Rút sợi nhớ, mấy đan vòm xanh
Nghiêng sườn đông, mà che mưa anh
Nghiêng sườn tây, xòa bóng mát
Rợp trời thương, ấy màu xanh suốt
Mà em nghiêng hết, ấy mấy về phương anh
Mà em nghiêng hết, ấy mấy về phương anh …”
Lúc đó Quyên muốn dang hết tay ra, xòe rộng tay, có thể nào che mưa dầm, nắng dãi cho người thương của Quyên. Cơn đau bụng bất chợt lại đến, nhìn hình ảnh của anh Tuấn tự nhiên Quyên thấy như đang đong đưa trước mặt và Quyên ngất liệm dần trong hình ảnh đó.
Không biết ngất đi bao lâu nhưng khi Quyên tỉnh lại thì trời bắt đầu đổ mưa. Cơn mưa tháng Tư thường thì chỉ là mưa phùn nhẹ nhẹ nhưng đối vói con thuyền nhỏ bé đang trôi dạt ngoài đại dương thì sóng biển thật dữ dội. Gío gầm thét đưa những con sóng khổng lồ nhồi chiếc thuyền đánh cá với 23 người vượt biển lên xuống như muốn nhận chìm. Nước tràn ngập hầm tàu vì máy hút nước không kịp hút ra. Anh Tuấn và vài ngưòi bạn nữa phụ giúp nhau dùng tay tát nước ra ngoài. Muốn giúp chồng, Quyên cố gượng dậy nhưng không làm sao gượng nổi. Hai chân tê dại và đầu óc cứ xoay vòng tròn.
Không biết làm gì hơn Quyên chợt nhớ đến lờì anh Tuấn. “Niềm tin sẽ bừng dậy khi con ngưòi đối diện với cái chết.” Quyên ôm chặt ông Thần Địa và lâm râm cầu nguyện: “cầu nguyện ông Thần, con cầu nguyện ông thần cho chúng con tai qua nạn khỏi, xin cơn bão tố hãy dừng và chúng con được thuận buồn xui gió được đến bến bờ tự do, con lạy ông Thần, ngàn lạy ông Thần…”. Không biết có phải vì lời cầu xin thành khẩn liên tục của Quyên chăng mà may mắn thay sau 2 ngày mưa bão và biển động, bầu trời trở lại bình thường trở lại nhưng sau cơn bão con thuyền có vài thiệt hại khá lớn. Cái la bàn dùng để chỉ phương hướng bị đánh văng xuống biển cùng lúc đó trong số những ngưòi đi trên thuyền có một cụ già 76 tuồi vì không chịu được sóng gió nên đã lìa đời trong đêm trước.
Việc mất cái la bàn chính (gắn với bộ phận lái của con tàu) là việc rất tai hại nhưng dầu gì chúng tôi vẫn còn cái la bàn nhỏ cầm tay nên việc định phương hướng cho thuyền đi cũng không khó gì lắm. Tuy nhiên, việc có người chết trên thuyền là một vấn đề lớn. Thuyền đã khởi hành hơn 5 ngày rồi mà chỉ thấy biển nước mênh mông, không thấy bến bờ đâu hết.
Anh Tuấn nói với Quyên là thuyền đã đi lạc hướng và tài công cố gắng định hướng nhưng không dám cho ai biết. Lúc bấy giờ trời thì bắt đầu nóng, xác người chết bắt đầu có mùi nhưng con cháu thân nhân của bà cụ mất đi nhất định thà chết chứ không cho Thủy táng (bỏ xác xuống biển). Anh Tuấn cùng các anh lớn tuổi trong nhóm lo âu vô cùng. Tình trạng này kéo dài chắc cả thuyền cùng chết hết. Đến ngày thứ Bảy thì thêm một em bé nữa bị kiệt sức và tắt hơi thở.
Anh Tuấn nói với Quyên là thuyền đã đi lạc hướng và tài công cố gắng định hướng nhưng không dám cho ai biết. Lúc bấy giờ trời thì bắt đầu nóng, xác người chết bắt đầu có mùi nhưng con cháu thân nhân của bà cụ mất đi nhất định thà chết chứ không cho Thủy táng (bỏ xác xuống biển). Anh Tuấn cùng các anh lớn tuổi trong nhóm lo âu vô cùng. Tình trạng này kéo dài chắc cả thuyền cùng chết hết. Đến ngày thứ Bảy thì thêm một em bé nữa bị kiệt sức và tắt hơi thở.
Quyên nằm bên mẹ anh Tuấn mà lòng vô cùng lo âu. Mẹ rất yếu. Không ăn gì cả đã hai ngày rồi và hơi thở thì thoi thóp thấy rõ. Nhìn ngưòi Mẹ chồng nhân từ với đôi mắt nhắm nghiền mà nước mắt Quyên không ngừng tuôn. Anh Tuấn thấy được điều khó khăn trước mắt nên càng lo buồn hơn nữa. Đến ngày thứ 7 thì thuyền bắt đầu chòng chành nhiều hơn vì gió lớn từ biển Đông Nam thổi vào. Đêm đó trong vòng tay tuyệt vọng của Quyên, Mẹ của anh Tuấn đã ra đi, vì quá kiệt sức nên Mẹ không một lời trối trăn. Ôm xác Mẹ trong tay Quyên cũng ngất liệm đi sau đó.
Từ thuở nhỏ Quyên rất sợ xác chết, chỉ trừ lần Ba Quyên tử trận và khi người ta mang xác Ba về nhà, thương Ba vô cùng nên Quyên mới ôm chầm lấy Ba chớ còn Quyên chưa bao giờ dám đứng gần người chết dầu chỉ nhìn họ trong quan tài. Mẹ anh Tuấn mất đi cả ngày rồi mà Quyên nào dám nói với anh. Quyên âm thầm khóc mà cũng không dám khóc thành tiếng. Anh Tuấn thì cứ tưởng mẹ ngủ mê man nên chỉ nói là để Mẹ ngủ cho lại sức. Đến khi phát hiện Mẹ đã mất anh chết lặng cả người. Trên khuôn mặt hốc hác vì thiếu ngủ, thiếu ăn đã nhiều ngày, Quyên thấy được nỗi khổ đau tột cùng của anh. Anh ôm xác mẹ và ngồi đó hàng giờ mà mắt nhìn đâu đâu của người mất hồn. Ôi còn nỗi đau khổ nào hơn được.
Thương Mẹ, thương chồng, mặc dầu đang bịnh hoạn Quyên cũng rán đứng lên lo công việc, một công việc đau khổ mà trong đời Quyên không bao giờ quên được. Thủy táng người mẹ chồng đáng kính trước đôi mắt khờ khờ dại dại như người điên của chồng mình….
“Thuyền của chúng tôi tiếp tục di chuyển về hướng Nam đến ngày thứ 9 thì cả nước và lương thực đều hết sạch mặc dầu những ngày trước đó chúng tôi đã bị bắt buộc tiết kiệm tối đa. 23 người trong thuyền chúng tôi đã Thủy táng hết 5 người. Anh Tuấn thì tinh thần trở nên rất yếu kém, ngày ngày cứ ngồi mắt nhìn xa xăm hướng về Việt Nam và ngâm nho nhỏ bài thơ.
“Chim buồn, chim bay về núi
Cá buồn, cá chúi xuống sông
Người buồn, ra ngõ đứng trông
Ngõ thì thấy ngõ,
Người không thấy người!”
Cá buồn, cá chúi xuống sông
Người buồn, ra ngõ đứng trông
Ngõ thì thấy ngõ,
Người không thấy người!”
Trước sự ra đi thật đột ngột của người Mẹ thân yêu, sựđau đớn làm cho anh Tuấn trong trình trạng nửa tỉnh nửa điên. Một vài lần chúng tôi thấy những con tàu buôn qua lại. Thấy tàu lớn chúng tôi mừng rỡ vô cùng, mọi ngưòi dầu đói và mệt lã cũng đều đứng dậy kêu gào cầu cứu. Mặc cho tiếng la hét kêu cứu vang trời, mặc cho dầu hiệu SOS (cầu cứu khẩn cấp: Xin hãy cứu lấy linh hồn chúng tôi), mặc cho chúng tôi đốt củi khô cho khói bay lên để làm tín hiệu, các tàu buôn đều làm ngơ và bỏ đi, họ không muốn chuốc lấy phiển toái khi phải đương dầu với làn sóng nguời VN tị nạn lúc đó đang ngập tràn các vùng Đông Nam Á.
Cơn đói khát hành hạ chúng tôi vật vã. Bản thân Quyên có lẽ vì quá đói nên những cơn đau bụng cũng giảm đi nhiều và kiệt sức dần. Khi con người lâm vào đường cùng vì cơn đói, bản năng sinh tốn khiến họ có thể làm những chuyện mà không ai tưởng tượng nổi. Chúng tôi vớt những con cá nhỏ bơi gần thuyền ăn sống mà không biết tanh hôi là gì. Không đủ thức ăn và nước uống, mọi ngươi đều dành nhau và thậm chí đánh nhau chỉ vì một con cá nhỏ. Quyên thì yếu lắm chỉ biết ngồi ôm anh Tuấn mà nước mắt tuôn không ngừng. Lúc đó Quyên vẫn còn nhớ đế cầu nguyện Ông Địa cho mọi người thoát qua khỏi giai đoạn đau khổ này.
Một buổi tối, trong trình trạng tuyệt vọng thì bỗng nhiên trời đổ cơn mưa. May thay trời còn thương cho mưa mà không có gió. Chúng tôi nhờ cơn mưa nên hứng được hơn 10 thùng nước. Nước mưa như những giọt nưóc Cam Lồ của đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu nạn. Nhờ nước mát hầu như mọi nguời trên thuyền đều tỉnh lại kể cả anh Tuấn.
Khi cơn mưa vừa dứt, đang ngủ bỗng nhiên chúng tôi đều bị đánh thức bởi những tiếng động thình thịch như có ai ném cái gì đó lên thuyền. Tỉnh dậy mới biết là đàn cá Chuồn (còn gọi là cá Chuồn Chuồn), ông Địa ơi, cá Chuồn không biết ở đâu mà bay tới tấp vào thuyền chúng tôi. Chúng tôi đồng thức dậy và xúm nhau lượm hết cá bỏ vào bao. Trong vòng không đầy 10 phút thôi chúng tôi lượm được hơn 100 con cá Chuồn. Sau này khi nhập vào trại tị nạn Quyên mới biết là thuyền đã đi qua một vùng cá Chuồn. Mưa làm động nước nên cá chuồn bay và tình cờ nhào vào thuyền của chúng tôi, chắc là do ông Địa dẫn dắt.”
Đói quá, không cần biết cá sống hay chết, đa số những người trên thuyền đều cầm từng con cá Chuồn bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Riêng anh Tuấn thì rất cẩn thận, không dám cho Quyên ăn nhiều, anh chỉ xé lấy thịt cá và mớm cho Quyên ăn như là cho em bé mới tập ăn. Quyên ăn thịt còn anh ăn xương cá. Nhai thịt cá sống Quyên thấy sao mà hương vị thật thơm tho và ngọt liệm. Trong cơn đói chúng tôi lúc đó gần như đã trở thành những con vật không hơn không kém, làm sao chỉ để thỏa mản cái bao tử dẹp lép hơn 5 ngày không có cái gì vào bụng.
“Ngày 29 tháng 4 năm 1977, đúng 12 ngày đêm thuyền chúng tôi rời khỏi Vũng Tàu.”
Kể đến đây giọng chị Quyên tự nhiên lạc đi. Chị khóc nức nở. Tôi biết có việc gì rất quan hệ xảy ra nên kiên nhẫn chờ chị kể tiếp. Giọng chị Quyên bỗng nhiên run run và đứt khoảng, tay chị nắm chặt và mắt cứ trân trối nhìn hình Ông Địa. Khuôn mặt chị trở nên thật …. liêu trai mà nhìn lúc này tôi cũng thấy hơi sợ sợ. Chỉ một thoáng giây thôi khuôn mặt chị Quyên trở lại bình thường và bắt đầu kể tiếp. Tôi biết là chị Quyên đang vào cơn xúc động thật lớn. Giọng chị Quyên lúc này nức nở như khóc.
“Tờ mờ sáng hôm đó, ngày 29 tháng 4 năm 1977 chúng tôi bắt đầu gặp nhiều tàu đánh cá treo cờ Thái Lan. Tàu đánh cá nhưng họ lại trang bị súng đạn đầy mình. Thấy thuyền chúng tôi, hai tàu cá Thái Lan phóng nhanh lại và kèm chặt hai bên. Nhìn cảnh tượng này tự nhiên anh tài công la lên giọng rất là hốt hoảng:
“Tất cả phụ nữ hãy xuống hết hầm tàu, có thể chúng ta gặp hải tặc Thái Lan rồi.” Bình tỉnh để tôi đối phó đừng chống cự nha.
Anh Tuấn vực Quyên đứng dậy và bắt Quyên ngồi núp dưới đống bao tời dùng để che cá khi tàu vớt lưới đem cá lên và dặn Quyên đừng cử động lên tiếng gì hết. Trên tàu còn 3 người phụ nữ khác nữa đều trốn hết dưới bong tàu.
Quyên nghe vài tiếng súng nổ và giọng lơ lớ của một người Thái nói tiếng Việt:
“Dừng lại không thôi tao bắn”
Trong cơn sợ gần như muốn đứng tim thì bỗng nhiên cơn đau bụng của Quyên chợt bùng lên. Đau như da xé thịt. Sau đó Quyên chỉ nghe tiếng la hét, tiếng chưởi thề và tiếng khóc cùng với tiếng súng nổ vang trời. Quyên ngất liệm trong cơn sợ hải và đau đớn tột cùng.
Khi Quyên tỉnh dậy đầu óc còn mơ hồ chưa tỉnh hẳn thì đã thấy anh Tuấn nằm cạnh bên mắt nhắm nghiền, bên ngực anh máu đỏ lan ra hết cả lồng ngực. Trong cơn sợ hãi Quyên cố lay gọi anh, người chồng yêu qúi của Quyên. Anh nằm đó, miệng như còn cười tủm tỉm nhưng không trả lời gì Quyên. Anh đã ra đi từ bao giờ. Quyên hét lên một tiếng hải hùng và một lần nữa ngất liệm bên cạnh xác của chồng mình.
Khi Quyên tỉnh dậy thì mới biết thuyền may mắn gặp tàu buôn của Hong Kong. Họ đi tải hàng đến Mã Lai và khi thấy một con thuyền bị cháy với hơn 10 nguời và vài xác chết trong đó họ đã ra tay cứu vớt. Họ cho biết Quyên bị hư thai đã khá lâu và bịnh rất nặng nên đưa vào bịnh viện cứu cấp còn lại những người khác được mang vào trại tị nạn Mã Lai.
Một tháng sau đó, Quyên cũng nhập trại. Gặp lại những người cùng thuyền thì mới biết trong 23 người chỉ còn 12 người sống sót. Theo những người còn sống sót trên thuyền kể lại, khi bọn hải tặc Thái lên tàu và việc trước tiên là chúng bắt ngay 3 phụ nữ mang lên tàu đánh cá của chúng, cùng lúc họ phát hiện ra Quyên thì anh Tuấn cùng 2 anh nữa trong thuyền vùng lên chống lại. Anh Tuấn chụp được súng của 1 tên hài tặc và bắn lại làm một tên chết và một tên bị thương nặng.
Chúng bắn xối xả vào thuyền và anh Tuấn cùng 2 ngưòi nữa bị trúng đạn. Khi không còn ai chống cự được nữa, trước sự van lạy của anh tài công, bọn hải tặc đốt thuyền để xoá chứng tích và bỏ đi. May mắn ngay sau đó thì có chiếc tàu buôn của ngưòi Hong Kong ngang qua. Thấy cảnh hiểm nghèo của người tị nạn những thương gia Hong Kong động lòng nên ra tay giúp đỡ”.
“Anh D.Q thấy đó (chị Quyên cũng gọi tôi là D.Q, tên mà các bạn Mỹ thường gọi tôi). Sự tự do của gia đình Quyên phải trả một giá bằng máu và nước mắt. Hoàn toàn máu và nước mắt, chị lập lại một cách cả quyết. Hơn 30 năm này Quyên sống hoài với kỷ niệm xưa. Quyên luôn luôn có ông Địa này, mang theo hình bóng người chồng tuyệt vời của Quyên thờ ông Địa. Năm ngoái Quyên và Ông Địa có về VN lại thăm Vũng Tàu. Có dịp đi dạo lại bờ biển cùng với Ông Địa trong xách tay làm Quyên vui lắm. Ông Địa không chịu gặm bắp như anh Tuấn, không cười to, không kể được chuyện vui để chọc Quyên cười như anh Tuấn ngày xưa nhưng Ông Địa lúc nào cũng chỉ cười toe toét. Quyên đem Ông Địa đi cùng hết Bãi Trước rồi Bãi Sau. Vậy mà đã hơn 30 năm..”
Hôm đó sau khi hết giờ làm việc khi chị Quyên đi về rồi thì tôi còn ở lại nhưng câu chuyện của chị làm tôi suy nghĩ nhiều lắm. Thật ra bên cạnh câu chuyện của chị Quyên còn có trăm ngàn câu chuyện “Vượt Biển Đông” khổ đau khác sau thời 1975 mà người ta đã kể đi kể lại từ nhiều năm nay. Rất nhiều người trong chúng ta đã trải qua giai đoạn cùng cực này, trong đó có tôi, Lê Thanh và nhiều bạn Sao Mai khác nữa. Cái khác với chúng tôi là chị Quyên vẫn một mực sống chung thủy với ngưới chồng thương yêu và thay chồng thờ Ông Địa, cầu nguyện ông Địa cho mọi người chung quanh chị được bình an. Điều làm tôi thán phục vô cùng là lòng trung trinh thờ chồng của chị Quyên.
Sau ngày nghe chuyện của chị Quyên, mỗi lần đi ngang qua bàn thờ Ông Địa. Tôi vái một lạy nhưng không bao giờ cầu nguyện gì hết. Mấy nguời bạn Việt Nam thấy vậy có lần hỏi tôi tại sao tôi vái lạy Ông Địa nhưng không cầu nguyện. Tôi chỉ mỉm cười mà không trả lời. Thực ra những lúc vái như thế trong đầu tôi đều thoáng qua một lời cầu nguyện:
“Lạy Ông Địa, xin cho chị Quyên, xin cho những người phụ nữ Việt Nam đầy tình nghĩa thủy chung thôi đừng khổ nữa….Xin Ông Địa luôn giúp chị Quyên có nhiều nghị lực trong đời sống. Xin Ông Địa đừng đi đâu nữa, xin Ông Địa ban cho người dân Việt Nam chúng tôi được những ngày thái bình, ấm no và hạnh phúc ngay trên quê mẹ… ”
QD – Tháng 4, 2010
SƠN TRUNG * CẬU NĂM CHÓ
CẬU NĂM CHÓ
SƠN TRUNG
Khi quân Tây Sơn đánh thắng quân Xiêm và đuổi chúa Nguyễn ra khỏi thành Gia Định, những quan quân chúa Nguyễn đều bị bắt giam. Liêu sinh là một sinh viên giỏi của Trường Tú Lâm cục, thuộc Viện Quốc học ở kinh đô. Chàng chưa đến ba mươi mà đã có ba bằng cử nhân và sau khi đỗ Thạc sĩ, sinh được nhận vào dạy ở Tú Lâm cục.
Lúc bấy giờ các thanh niên, sinh viên Nam hà và Bắc hà đều phải đi lính theo luật tổng động viên, nên Liêu sinh là một thầy giáo và cũng là một sĩ quan trong quân chúa Nguyễn. Vì vậy mà Liêu sinh cũng phải ngồi tù một thời gian. Tại trại giam, Liêu sinh gặp Lâm tiên sinh, cũng bị giam tại đây, vốn là thầy cũ của sinh tại Tú Lâm cục, là người bảo trợ sinh khi sinh làm luận án Thạc sĩ và tiến sĩ. Liêu sinh thông minh, tải ba, mà lại hết lòng đối xử trung hậu với thầy, cho nên Lâm tiên sinh yêu mến là phải.
Trước kia, nước ta tổ chức thi Hương tại các địa phương để lấy cử nhân và tú tài, sau này giáo dục canh tân, khoa học phát triển, thi hương chỉ lấy tú tàI, còn tiến sĩ , cử nhân là do các viện đạI học đào tạo. TạI Nam Hà , người Pháp Lan Tây đã giúp chúa Nguyễn đúc súng đại bác, chế tàu thủy. Viện Đại Học Quốc Gia lúc bấy giờ gồm nhiều trường như Khoa học Cục, Y học cục, Dược học cục, Pháp luật cục, Hành chánh cục, và Tú lâm cục. Tú lâm cục sinh sau đẻ muộn và yếu thế nhất. Trong khi các trường khác đã lập ban tiến sĩ từ hơn hai mươi năm trước, Tú lâm cục chỉ có cử nhân và thạc sĩ. Lâm tiên sinh lúc này làm Tổng thư ký viện Đại học quốc gia.
Do nhiệt tình xây dựng nền giáo dục quốc gia, tiên sinh đã hăng hái lập đề án tiến sĩ cho Tú lâm cục. Dự án của tiên sinh được hội đồng viện đại học Quốc Gia chấp thuận. Lâm tiên sinh tích cực xúc tiến việc thi tiến sĩ cho các sinh viện Tú Lâm cục. Do lòng ưu ái của Lâm tiên sinh, Liêu sinh là người được Lâm tiên sinh chọn làm người trình luận án tiến sĩ đầu tiên và sau đó thêm một hai người nữa thì chấm dứt vì mấy tháng sau, Nam Hà sụp đổ, giang sơn đổi chủ, Liêu sinh và Lâm tiên sinh đều bị bắt giam vì tội theo chúa Nguyễn.
Thầy trò gặp nhau trong trại giam, buổi đầu không biết thế nào, nhưng về sau, thấm nhuần ‘’tư tưởng cách mạng’’, và ‘’tác phong vô sản’’, trong các cuộc sinh hoạt của đội sản xuất, sinh đã tỏ ra tiến bộ vượt bực, thẳng thắn phê bình Lâm tiên sinh. Nguyên Lâm tiên sinh vốn thích hút ống vố, nhưng trong tù không có thuốc, Lâm tiên sinh đành ngậm cái ống vố không theo thói quen. Liêu sinh đứng lên phê bình Lâm tiên sinh là còn luyến tiếc cái cũ, chưa dứt khoát theo cách mạng, ôm ấp tư tưởng phản động, chống đối triều đình.
Vì tỏ ra tiến bộ, Liêu sinh được về nhà sớm. Và vì có chuyên môn về điền thổ, và cũng vì có anh chị đã theo quân Tây Sơn từ trước cho nên Liêu sinh được nhận vào ban Doanh điền Thủ Đức. Làm việc được ít lâu thì Liêu sinh bị tù vì tham nhũng sao đó. It lâu, Liêu sinh ra tù, làm nghề coi bói và tử vi cũng đắt khách. Trong lúc này, kinh tế toàn quốc sụp đổ, miền Nam Hà là vựa lúa mà dân chúng phải ăn khoai sắn thay cơm.
Toàn miền thất nghiệp, kinh tế vào tay tư bản Bắc Hà, bao nhiêu của cải bị vơ vét đem hết ra Bắc. Cơm không có đủ ăn mà cá thịt lại càng khan hiếm. Trong khi đó, kinh tế gia đình của sinh rất khá. vì sinh là người thông minh, tài giỏi và lanh lợi. Sinh rất yêu chó, nuôi hai ba con, ngày tắm hai ba lần, mua từng ký thịt bò cho chó ăn, trong khi đó, cậu không quan tâm đến bố mẹ cậu, mặc cho họ cơm rau qua ngày tháng, sống chết mặc thây! Vì vậy mà dân Thủ Đức gọi sinh là ‘’Cậu năm chó’’. Ai muốn xem bói, hay tìm thăm Liêu sinh, cứ hỏi nhà cậu Năm chó là trẻ già trai gái ai ai cũng biết!
Toàn miền thất nghiệp, kinh tế vào tay tư bản Bắc Hà, bao nhiêu của cải bị vơ vét đem hết ra Bắc. Cơm không có đủ ăn mà cá thịt lại càng khan hiếm. Trong khi đó, kinh tế gia đình của sinh rất khá. vì sinh là người thông minh, tài giỏi và lanh lợi. Sinh rất yêu chó, nuôi hai ba con, ngày tắm hai ba lần, mua từng ký thịt bò cho chó ăn, trong khi đó, cậu không quan tâm đến bố mẹ cậu, mặc cho họ cơm rau qua ngày tháng, sống chết mặc thây! Vì vậy mà dân Thủ Đức gọi sinh là ‘’Cậu năm chó’’. Ai muốn xem bói, hay tìm thăm Liêu sinh, cứ hỏi nhà cậu Năm chó là trẻ già trai gái ai ai cũng biết!
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 342
LÊ NGUYỄN * CỘNG SẢN GIAN ÁC
Chẳng hạn như Lê Duẩn nói ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc hay Lê Duẩn công khai chê Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhát như thỏ đế trong cuộc họp nội bộ, chuyện này không thể đổ cho phản động dựng chuyện nói xấu được?... Cũng như chuyện Trường Chinh đấu tố cha mẹ trong cải cách ruộng đất hay kêu gọi bỏ lối viết âu tây trở về với chữ Trung Quốc... bỏ bệnh viện cắt, đục, nạo, khoét dùng lại thuốc dán danh tiếng của Tàu!... Cũng như Hồ Chí Minh không biết Hoàng Sa, Trường Sa là của ai, chỉ biết lờ mờ đó là những bãi hoang chim ỉa nhưng lại mạnh miệng bảo thuộc hạ, nếu đồng chí Trung Quốc có muốn thì cho họ đi?...
Những chuyện như thế, ngày nay ai cũng biết và còn những chuyện khác chỉ có những ai “ở trong chăn cộng sản mới biết chăn có rận”. Rận... vô đạo, vô nhân, vô tâm, vô tư cách, vô nhân cách... chỉ rặt ròng một thứ “làm thì làm bậy, nói thì nói láo” như Hoàng Tùng, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn, Trần Độ, Phạm Quế Dương, Bùi Tín, Nguyễn Tuân, Nguyễn Khải, Dương Thu Hương, Vũ Thư Hiên, Trần Mạnh Hảo, Bùi Ngọc Tấn, Lê Hiếu Đằng, Huy Đức, Trần Đĩnh... Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, Nguyễn Quang Lập... mỗi người một góc nhìn khác nhau, mỗi người tiếp cận một góc nhỏ sự thật về lãnh đạo đảng, nhà nước và con người đảng tính nhiều tính thú của CSVN.
Không phải chỉ có bấy nhiêu tên tuổi là đủ để vẽ nên bức tranh xám xịt manh màu sắc đặc thù cộng sản mà còn một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên vì nhiều lý do, nói theo ngôn ngữ vu vơ của tuyên giáo là “...phần tử xấu, đối tượng bất mãn, không kiên định tự chuyển biến, tự chuyển hóa?...” tiết lộ chuyện thâm cung bí sử của làm bậy, nói láo trong nội bộ đảng CSVN.
Thế nhưng dù lý do nào đi nữa, dù còn hay không còn thần thánh lãnh tụ, dù còn hay không còn mê cuồng cộng sản, tất cả những người cộng sản này đều có chung một kết luận là “Cộng sản làm là làm bậy, nói là nói láo!”
Làm bậy, nói láo là đặc thù của CSVN do những cá nhân nguyên là cộng sản lẫn đang là cộng sản qua quá trình dài trải nghiệm đời sống cộng sản, sống trong nội bộ cộng sản đánh giá cán bộ đảng viên cộng sản chứ không do các thế lực xấu hay phản động lưu vong xuyên tạc, nói xấu... và ai cũng biết xuyên tạc, nói xấu “nói không thành có, cãi có thành không” là sản phẩm đặc thù của băng đảng chuyên làm là làm bậy, nói là nói láo CSVN làm ra, tàng trữ, phát tán tràn lan trong đời sống xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Những việc làm, lời nói của Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn được trích dẫn ở đầu bài là điển hình làm bậy, nói láo của lãnh đạo đảng CSVN và qua quá trình chứng kiến lời nói, việc làm của lãnh đạo to đến lãnh đạo bé, từ cộng sản cha đến cộng sản con cho mọi người thấy, chúng nó có cùng một mẫu số là làm bậy, nói láo truyền đời không thể chối cãi được và làm bậy, nói láo không ngừng phát triển trong đời sống cộng sản, chính xác là CSVN.
Đối với những ai can đảm, vượt qua sợ hãi vạch trần chuyện làm bậy nói láo của chúng trên mọi mặt đời sống. Cụ thể là không ai lạ với chuyện làm bậy, nói láo làm mất thể diện quốc gia của lãnh đạo cộng sản trên diễn đàn quốc tế về nhân quyền, nhân phẩm của người dân Việt Nam bị chà đạp thô bạo ai cũng biết. Thế mà nếu có ai can đảm vượt qua sợ hãi vạch trần chuyện làm bậy của chúng đều bị chúng sử dụng đặc thù làm bậy, nói láo bịa đặt vu khống, gán ghép điền vào sự kiện và thời gian cụ thể cho phù hợp với những con chữ đã qua sử dụng theo từng vụ việc như luận điệu sau đây:
“...Thời gian qua, được sự hà hơi, tiếp sức của các thế lực thù địch, một số cá nhân, tổ chức phản động không ngừng chống phá nhà nước ta bằng nhiều hình thức. Chúng luôn tìm cách móc nối, lôi kéo một số phần tử xấu, những đối tượng bất mãn chế độ ở trong nước để phá hoại, làm ra nhiều tài liệu chống phá nhà nước, phỉ báng chính quyền, tuyên truyền kích động nhân dân, công khai đòi lật đổ chế độ, sử dụng chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền kêu gọi nước ngoài can thiệp vào nội bộ Việt Nam....”
Đọc đoạn văn trên, chỉ nghe thấy những lời kết án, luận tội khơi khơi như “...thế lực thù địch... tổ chức phản động... móc nối, lôi kéo... phần tử xấu, đối tượng bất mãn... chống phá nhà nước, phỉ báng chính quyền... kêu gọi nước ngoài can thiệp vào nội bộ Việt Nam...” tuyệt nhiên bản luận tội không nói rõ, không chỉ ra phần tử xấu, đối tượng bất mãn đã nói viết, đã bày tỏ quan điểm chính kiến chống phá đảng, phỉ báng nhà nước, tuyên truyền kích động như thế nào?
Nội dung kết án quy chụp, vô bằng vô chứng này không khác gì bản luận tội bà Nguyễn Thị Năm - địa chủ yêu nước được bàn tay nhào nặn của tác giả C.B tức Hồ Chí Minh biến thành “địa chủ ác ghê” xử tội chết trong cải cách ruộng đất và không ai có thể phủ nhận, chối bỏ chuyện Hồ Chí Minh qua sự kiện bà Nguyễn Thị Năm là không làm bậy, không nói láo để giết người đàn bà yêu nước góp công, góp của không ít cho kháng chiến chống Pháp.
Đọc một đoạn văn khác về loại kết tội vu vơ của cung cách làm bậy, nói láo cộng sản theo khuôn mẫu Hồ Chí minh. Dù từ ngữ, câu cú có khác nhưng nội dung cũng không có gì khác, cũng chỉ là quy chụp, kết tội lợi dụng “tự do, dân chủ” tuyên truyền chống phá, kích động nhân dân chống đối chính quyền, xuyên tạc sự lãnh đạo của đảng nhà nước... với lời lẽ như sau:
“...Các đối tượng cơ hội chính trị thường lợi dụng bất cứ sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội nổi cộm để bịa đặt, xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước, kích động và vận động nhân dân chống đối chính quyền, xúc phạm danh dự cá nhân, làm mất niềm tin của nhân dân vào các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước...”
Đọc tài liệu lịch sử và chứng kiến tận mắt, nghe tận tai lời nói, việc làm của cán bộ đảng viên cộng sản đến quan chức lãnh đạo thuộc nhiều thế hệ, nhiều đời cộng sản, phải công nhận là kết luận “cộng sản làm là làm bậy, nói là nói láo” của những người sống trong chăn cộng sản quả tuyệt vời, quá chính xác không sai vào đâu được.
Đáng ghê tởm hơn là dù biết đồng bọn làm bậy trắng trợn chúng vẫn hùa vào nói láo lem lẻm để bảo vệ cho việc làm bậy của đồng bọn, bất chấp luật pháp, bất chấp đạo lý với lý lẽ tức cười như sau:
“...Bọn rận chủ phản động này cũng phải công nhận là chúng nó cũng có tài bới móc thật, cơ mà chúng nó quên một điều, đấy là nước Việt Nam chúng ta có luật pháp, có chính quyền chứ không vô bổ như bọn rận chủ phản động các ngươi! Mọi chuyện rồi sẽ có các lực lượng, cơ quan chuyên trách vào cuộc điều tra giải quyết, sẽ đảm bảo những lợi ích tối đa cho mọi người dân!...”
Có lẽ đến thời điểm này, những hành động vô luật vô pháp của cán bộ đảng viên, quan chức lãnh đạo các cấp nhan nhản xảy ra trước mắt hằng ngày đã trở thành phổ biến, chỉ có người mù mới không thấy và mở mồm nói láo trắng trợn như “...Việt Nam chúng ta có luật pháp... rồi sẽ có cơ quan chuyên trách điều tra... đảm bảo lợi ích tối ta cho mọi người dân(?)...”
Ngày nay người dân Việt Nam, có thể có cả những người ngoại quốc quan tâm đến Việt Nam đều biết Việt Nam xã nghĩa có một rừng luật nhưng chỉ sử dụng duy nhất có luật rừng hay diễn tả luật pháp Việt Nam theo cách hài hước, thông minh của những người dân cọ sát với môi trường xã hội chủ nghĩa “công lý xã nghĩa Việt Nam là tên của một diễn viên hài”
Có không biết bao nhiêu vụ án mà công an dùng nhục hình, tra tấn nghi phạm với những tội vớ vẩn gây chết người, cướp đi không ít mạng người dân vô tội với báo cáo cùng một kịch bản là chết do tự tử đến đứa con nít còn thấy sự vô lý của cái gọi là tự tử này? Thế mà khi thân nhân của nạn nhân khiếu nại, tố cáo tội ác của kẻ thủ ác, tố cáo nghi phạm có hành vi phạm tội giết người và để đối phó với chuyện làm bậy: một là cơ quan chức năng không nhận đơn khiếu nại, tố cáo; hai là cơ quan trách nhiệm đưa ra bản kết luận cho rằng không đủ yếu tố buộc tội; ba là cho rằng bản báo cáo của các điều tra viên thực hiện công tác điều tra đúng quy trình, tự tử là khách quan?... cụ thể là các vụ việc gây ra cái chết của ông Trịnh Xuân Tùng, Nguyễn Văn Khương, Hoàng Văn Ngài, Nguyễn Công Nhật, Ngô Thanh Kiều, cô Trần Thị Hải Yến...
Bên cạnh người dân chết trong đồn công an ngày càng tăng, là không biết bao nhiêu người bị tội oan, chết oan bởi tư duy độc ác hơn loài thú dữ “không tội đánh cho có tội, có tội đánh cho chừa...” và đã có biết bao nhiêu người không được may mắn, không có cơ hội như nạn nhân Nguyễn Thanh Chấn, Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng... sống sót để kêu oan mà phải chết oan, chết thế cho “đại gia” lắm tiền, cho quý tử của các quan chức đảng, nhà nước. Những vụ việc đã đang xảy ra trong nước Việt Nam như vừa nhắc đến, có phải là luật pháp xã nghĩa Việt Nam đảm bảo lợi ích tối đa cho mọi người dân?
Chắc chắn những việc làm bậy của công an cộng sản, tức là tra tấn, đánh đập nạn nhân cho đến chết rồi đổ cho tự tử, là làm đúng pháp luật? Chỉ có kẻ thiểu năng trí tuệ mới không biết, chuyện công an cộng sản làm bậy? Vậy vì cớ gì mà có nhiều kẻ bênh vực cho việc làm bậy này?... Có lẽ chỉ có một câu trả lời, một cách giải thích duy nhất là chúng cố tình nói láo, làm chứng gian để bao che cho nhau làm bậy mà thôi.
Thực ra chuyện hùa theo làm bậy nói láo của đám cộng con là công an, văn nô bồi bút, tuyên giáo... một phần do mê cuồng, phần khác do thiểu năng trí tuệ nên đáng thương hơn đáng giận dù hậu quả của chúng gây ra cũng không phải là không nghiêm trọng! Đáng giận chăng là chuyện làm bậy, nói láo của đám cộng sản cha là đám lãnh đạo trung, cao cấp của đảng, nhà nước CSVN. Chuyện làm bậy nói láo của đám lãnh đạo này không những đáng giận mà còn đáng quan ngại bởi làm bậy nói láo của đám cộng cha này đã để lại hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, khó khắc phục.
Cộng sản cha, chúng làm bậy nói láo bất chấp đạo lý nhân cách, bất chấp thể diện quốc gia, bất chấp sự sống còn của đất nước dân tộc – làm bậy chỉ nhằm mục đích duy nhất bảo vệ sự sống còn của đảng và nói láo dù biết rằng xã hội chủ nghĩa cuối thế kỷ này không biết đã có chưa nhưng ngoài miệng vẫn lem lẻm, lẻo lự chủ nghĩa xã hội là sự chọn lựa đúng đắn của toàn dân!
Cộng sản cha, chúng làm bậy nói láo bất chấp đạo lý nhân cách, bất chấp thể diện quốc gia, bất chấp sự sống còn của đất nước dân tộc – làm bậy chỉ nhằm mục đích duy nhất bảo vệ sự sống còn của đảng và nói láo dù biết rằng xã hội chủ nghĩa cuối thế kỷ này không biết đã có chưa nhưng ngoài miệng vẫn lem lẻm, lẻo lự chủ nghĩa xã hội là sự chọn lựa đúng đắn của toàn dân!
Muốn ngăn chận chuyện làm bậy nói láo sinh sôi nẩy nở trong đám cộng con phải dũng cảm đứng lên chống lại những kẻ làm bậy nói láo bất kể chúng là ai. Muốn triệt tận căn con bệnh làm bậy, nói láo của đám cộng cha, không còn cách nào khác là phải giải trừ độc tài cộng sản, xóa bỏ độc quyền lãnh đạo của đảng CSVN và thiết lập thể chế chính trị tự do dân chủ. Dù chính thể dân chủ không phải là chiếc đũa thần vạn năng chữa trị bá bệnh, không phải là chính thể hoàn hảo đẩy lùi ngu dốt, mê cuồng cộng sản nhưng chính thể dân chủ thừa sức ngăn chận, loại trừ chính trị gia, đảng chính trị cầm quyền làm bậy, nói láo tràn lan như trong chế độ độc tài toàn trị CSVN.
NGUYÊN HẠNH * ĐÓA SEN XANH
ĐÓA SEN XANH
NGUYÊN HẠNH *
Viết tặng ni cô Huệ Trân - người học trò cũ của tôi
Không ngờ tôi lại gặp em sau 30 năm trời không có tin tức của nhau. Em ở một phương trời, tôi một phương vậy mà vẫn có ngày hội ngộ trên xứ người, ngay tại thành phố tôi đang ở. Thì ra sông dù có nhiều khúc quanh cũng có lúc xuôi dòng!
Qua lời mời của một cô bạn cho hay là sẽ có một buổi trà đàm tại đạo tràng của cô ta, tôi đã nhận lời ngay bởi vì tôi vốn sẵn yêu thích những phút giây thanh thản và ấm cúng ngồi quây quần bên nhau như vậy!
Bước vào đạo tràng, sau khi yên ổn chỗ ngồi, nhìn lên phía diễn giả, trời ơi! tôi giật thót mình, không ngờ đó là em. Em cắt tóc ngắn, mặc áo tràng màu nâu sậm, dáng vẻ thanh thoát! Ngồi bên cạnh là người bạn đời của em - anh Trần quan Long - nhạc sĩ hay phổ nhạc những bài thơ của em. Thấy tôi, em bất chấp mọi người, vụt đứng dậy chạy xuống ôm chầm lấy tôi, cả thầy trò nước mắt rưng rưng, nhìn nhau nghẹn ngào không nói nên lời! Ôi vòng tay ấm áp tình thầy trò làm cho đôi mắt tôi không ngớt nhạt nhoà! Sau phút giây xúc động, em dìu tôi lên phía chỗ em ngồi, giới thiệu với mọi người đây là cô giáo dạy Toán ngày xưa khi em đang học lớp Đệ tứ trường Trưng Vương Sài Gòn. Em còn nhắc lại kỷ niệm khi tôi vào lớp em, vì sao em đã yêu mến cô giáo ngay sau vài tuần học.
Thì ra em đã bỏ rất nhiều năm tháng nghiên cứu miệt mài về giáo lý đạo Phật, đã từng đi nói chuyện nhiều nơi với người bạn đời cùng chí hướng, rất tâm đầu ý hợp. Sau lần ghé Đức, em sẽ qua Paris tiếp tục cuộc hành trình.
Cuộc gặp gỡ với em đã đưa tôi trở về dĩ vãng xa xưa! Ngày ấy tôi mới ra trường Sư Phạm và được bổ về dạy tại trường Trưng Vương Sài Gòn. Dạo đó, nhà trường chưa bắt học sinh mặc đồng phục, mà tôi lại dạy các lớp Đệ tứ, Đệ tam. Các em nữ sinh quá lớn, mặc áo dài hoa sặc sỡ đủ màu với quần dài đen, trong khi ở Huế, thời nữ sinh chúng tôi chỉ quen mặc những bộ đồ lụa dài nội hoá, màu trắng hoặc màu nhạt như hồng phấn hay mỡ gà mà thôi. Tôi thật quá bỡ ngỡ và hơi khớp khi đặt bước chân đầu tiên vào các lớp học. Còn nhớ khi đến trình diện bà Hiệu trưởng, bà đã nhìn tôi từ đầu đến chân rồi vừa cười vừa nói: "Cô còn nhỏ quá liệu có trị nổi học trò của tôi không?" Cũng may, dần dà các em nữ sinh đã thương mến tôi, coi tôi như một người chị rất gần gũi, không có vẻ gì xa cách giữa thầy trò cả.
Một hôm, tôi cho lớp em làm bài kiểm Toán, cả lớp im phăng phắc chăm chỉ lo làm bài, còn tôi thì đi lui đi tới xem thử các em có làm được không? Ngang qua chỗ em ngồi, thấy ánh nắng chiếu vào bài tập của em, sợ em bị chói mắt, tôi với tay khép bớt một cánh cửa sổ lại. Tôi đã làm với một cử chỉ tự nhiên như với bất cứ em học sinh nào, ai ngờ hành động của tôi đã làm cho em cảm động và em đã thương yêu cô giáo mình từ đó. Em đã dành cho tôi một tình thương đặc biệt và ganh tị ngay cả với những em nào cũng thương tôi như em.
Ngày tôi đổi về dạy trường Đồng Khánh Huế, xa trường, xa Sài Gòn, em đã khóc như mưa làm tôi bước lên máy bay mà vẫn xót xa trong lòng, đành chia tay nhau trong im lặng, buồn nhìn nhau thông cảm mà thôi.
Ngày đám cưới tôi, em đã gởi mừng quà cưới bằng một bức tranh thật lớn in hình đôi chim bồ câu đang âu yếm rù rì bên nhau!
Sau Mậu Thân, tôi vào Sài Gòn thì em đã đi xa, dò hỏi các em học trò cũ được biết em đã có gia đình, có con nhưng lại bị đổ vỡ nửa chừng. Rồi tình cờ khi đi Bưu điện, tôi đã gặp em, thầy trò ôm nhau nức nở nghẹn ngào, hàn huyên một lúc rồi chia tay, em phải về vì đường còn xa lắm!
Từ đó cho đến sau 30.04.75 tôi không hề gặp lại em, cho đến khi qua định cư ở Đức, đi đến đạo tràng lại gặp được em trong một lúc bất ngờ nhất, cuộc đời vẫn còn đem đến cho con người những niềm vui lạ lùng thật!
Qua vài ngày ở München, sau vài bữa cơm thân mật tại gia đình tôi, hai người lại đáp tàu đêm qua Paris trước khi trở về California. Tôi muốn tiễn đưa em một lần cuối, vội vã làm một ít thức ăn mang ra sân ga. Phút chia ly nào cũng ngập tràn luyến lưu bịn rịn nhất là khi mỗi người ở một phương trời quá xa xuôi vạn dặm và nhất là khi không biết có còn gặp lại nhau nữa hay không?
Sau khi về đến Mỹ, em đã gởi cho tôi một thùng quà, mở ra thấy 6 quyển sách đã xuất bản mà chính em là tác giả, kèm theo một bức thư lời lẽ thật dễ thương, đọc xong vẫn còn bùi ngùi vấn vương trong lòng mãi:
"Cô giáo dễ thương ơi!
Em tưởng đã hết duyên sao còn nợ nần nhau quá thế! Anh Long cứ nhìn giỏ thức ăn đêm mà cười hoài.. còn em thì trăn trở, không ngủ được vì bao xúc cảm ngổn ngang. Hai giờ sáng, mở xôi ra, rắc muối mè thơm lừng, vừa nhẩn nha thưởng thức vừa "rên rỉ" ... Cô giáo ơi!
Ngày xưa chỉ đóng cánh cửa sổ đã mệt em rồi, nay xôi đậu muối mè tất tả chạy ra ga cho kịp chuyến tàu đêm, em trả bài sao cho trọn hả cô giáo?
Cám ơn tình Chị
Cám ơn sự ân cần của Anh
Thương, "
Bảo Ngọc
Lật chồng sách ra, tôi càng choáng ngợp, không ngờ em lại còn giỏi viết lách, em đã xuất bản những tác phẩm sau đây:||
Gió sông Hồng
Sông núi thì thầm
Tâm Hương Tải Đạo
Vô Tự Thị Chân Kinh
Bình Thường Tâm Thị Đạo
Bước Chân Cùng Tử
Tôi nghĩ tác giả nào khi cầm bút là viết cho mình trước hết, viết vì nội tâm thúc dục mình muốn giải tỏa những ẩn ức, ước vọng, khao khát, viết vì muốn được cảm thông với kẻ khác. Nhưng còn em, tôi phục em quá, so với em tôi chỉ là một hạt cát giữa sa mạc vì vậy không bao giờ tôi dám nhận mình là nhà văn và cũng chưa bao giờ dám nhận lời mời tham dự các buổi họp mặt của các nhà văn nữ khắp nơi.
Càng đọc tôi càng say mê, càng bị lôi cuốn vào những bài em viết, Em đã thấu hiểu rất cao siêu và thấm nhuần rất nhiều về triết lý đạo Phật. Đạo Phật đã đi vào cuộc đời em như bóng với hình. Em cũng đã dày công nghiên cứu, học hỏi qua nhiều tháng năm mới có được một căn bản vững chắc như vậy. Trong khi sự hiểu biết của tôi chỉ "mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm" mà thôi.
Xin hãy cùng tôi đọc thử một đoạn văn sau đây:
........." Cái gì đây?
Tôi dừng vội lại, đến mức suýt ngã chúi về phía trước. Một bông hoa dại vàng rực rỡ từ khe nứt của lề đường xi măng.
Trời đang hừng hực nắng, nền xi măng tưởng như có thể bốc khói. Vậy mà bông hoa vẫn từ đó vươn lên, nở rộ. Vết xi măng nứt rất nhỏ, có sự tình cờ nào của bụi phấn hoa nhờ gió thoảng đưa qua? Hay sự vụng về của con chim nào tha hạt nhả rơi vào đó? Hay duyên của bông hoa vừa hội đủ từ kiếp nào? Hay duyên của chính tôi đã bước tới đúng Sát na này? Thật là kỳ diệu!
Quỳ xuống chưa đủ, tôi đưa tay sờ nhẹ cánh hoa như để chứng nghiệm đây là thật. Đúng. Đây là thật.
Không phải chỉ bông hoa là thật mà tôi sửng sốt vì thông điệp cực kỳ uyên nguyên, cực kỳ hiển lộ, bông hoa đang mang cho tôi cũng là sự thật. Đó là "THÔNG ĐIỆP CỦA SỰ HIỆN DIỆN CHÂN NHƯ, MẦU NHIỆM"
(Trích Bình Thường Tâm Thị Đạo)
Đúng là đạo Phật đã đi vào cuộc đời em như hình với bóng và em đã thấu hiểu đạo Phật là đạo Giác Ngộ.
Bây giờ tôi được tin em đã xuất gia, tôi càng cảm phục em hơn nữa nhưng tôi không ngạc nhiên và quá ngỡ ngàng khi hay tin này.
Trước đó em đã quan niệm rằng nếu định lực yếu kém, hãy dùng hình thức bên ngoài trợ lực, hình thức nào gần nhất với thân, hình thức nào ta có thể nhìn thấy, nhận thấy từng phút từng giây mới có thể liên tục nhắc nhở ta tinh tấn? Và hình thức bên ngoài gần nhất với thân mà dễ thấy dễ nhận hơn, đó là Mái tóc! Và em đã tìm tới một tu viện Sư Nữ, quỳ trước một Ni Sư xin được chứng minh trước Tam Bảo, lòng sám hối và quyết tâm tinh tấn tu học. Em đã xin xuống tóc như một hình thức tự nhắc nhở mình và em đã đưa lại cho bạn em chiếc lược đồi mồi rất đẹp mà bạn đã mua tặng vì từ nay em không dùng nữa!
Sau đó em đã chụp một tấm hình để gởi tặng tôi và hỏi tôi có ngạc nhiên lắm không? Tôi không ngạc nhiên mà chỉ cảm thấy lòng mình dâng lên một niềm cảm xúc rưng rưng!
Xuất gia là một ý định vô cùng cao quý nhưng cũng là một con đường vạn dặm với muôn ngàn khó khăn và gian nan không thể tưởng tượng, không phải ai cũng đi theo con đường này được. Có lần em đã nói với tôi: Chỉ cần chăm chỉ quét thôi, quét rác quét bụi thì tâm sạch, quét nghiệp thì tâm tịnh, quét vô minh thì trí tuệ hiển bày; dù biết vậy nhưng thực hành cho được đâu có dễ dàng! Và em cũng đã tâm sự rằng từ nhỏ em đã mê tiếng chuông công phu sớm từ đại hồng chung của ngôi Chùa gần nhà em. Tiếng chuông nương tâm người thỉnh chuông đã chậm rãi, nhẹ nhàng vượt không gian hạn hẹp, vượt thời gian cô đọng ngân tới đâu không ai hay, chỉ biết tiếng chuông công phu sớm đó chứng thực sự nhiệm mầu tột cùng của Bát nhã "Sắc tức thị không, không tức thị sắc ... "
Em còn xinh đẹp, dù cuộc tình duyên lần đầu đã tan vỡ nhưng hiện tại em đã có một người bạn đời rất tâm đắc, biết cảm thông và trân quý em, vật chất đầy đủ, nhà cửa khang trang, không vướng bận chuyện con cái phiền muộn, vậy mà em vẫn muốn xuất gia, buông xả tất cả chỉ để theo chân đức Phật mà thôi. Em đã thực hiện theo lời Phật dạy: "Con đường ta đã chỉ, đốt đuốc lên mà đi hay không là nơi mỗi chúng sanh!"
Cô Huệ Trân ơi!
Cô đã tìm con đường giải thoát để mà đi, bỏ lại đằng sau tất cả ưu tư phiền muộn của cuộc đời. Cô muốn theo sát bước chân vị Thái tử đã rời bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, bước những bước chân trần đầu tiên, quyết đi tìm những sự thật mầu nhiệm từng bị vô minh che lấp khiến muôn loài triền miên trong luân hồi đau khổ. Cô đã thắp sáng cho mình một niềm tin, một ngọn lửa tin yêu thuần khiết như phiến gỗ nâu chắc, để mãi mãi lớp than hồng vẫn còn đủ sưởi ấm Cô trong những ngày khoác áo nâu sòng, nương thân nơi cửa Phật.
Từ nơi xa xôi này, xin gởi đến Cô lòng mến phục vô biên của cô giáo ngày xưa. Xin được tặng một Đóa sen xanh tự trái tim người ngưỡng mộ.
Nguyên Hạnh HTD
Cảm tác của LXQuỳnh Như với “Đoá Sen Xanh”
Vô thường
Đời người tựa giấc chiêm bao,
Đang đi giữa hạ bổng vào cuối đông.
Tình yêu đương thuở mặn nồng ,
Bổng dưng bão cuốn theo dòng nước trôi.
Bỏ em lạc bước giữa đời.
Bơ vơ khắp ngã tìm nơi ẩn mình.
Làm sao hết kiếp ba sinh,
Đi sao cho hết đường tình xót xa .
Đời em bổng chốc phong ba ,
Còn đâu giây phút mặn mà thuở xưa?
Đời em đứng giữa gió mưa,
Mặc cho mưa gió đẩy đưa cuối dòng.
Còn đâu ước vọng mà mong,
Nương vào cửa Phật cho lòng bớt đau.
Cho tâm giãm bớt nỗi sầu,
Quỳ xin Đức Phật nhiệm mầu cưu mang.
Đưa tâm về chốn bình an,
Đưa hồn thoát khỏi muôn vàn đắng cay.
Con xin quỳ dưới Phật đài,
Quy y tam bảo, xin Ngài thứ tha.
Hồng trần một kiếp bôn ba,
Lang thang giữa cõi ta bà thế gian.
Chắc là nghiệp quả còn mang,
Tu thân kẻo quá muộn màng kiếp sau.
LXQuỳnhNhư 16- 03 – 2012
__._,_.___
NGUYỄN THỊ TỪ HUY * NGHỊCH LÝ NHÂN SỰ
NGHỊCH LÝ NHÂN SỰ
Fri, 10/24/2014 - 14:32 — nguyenthituhuy
Đánh giá về năng lực của đảng viên, đặc biệt là của các đảng viên đứng ở cương vị quản lý các cấp, hiện nay có hai luồng ý kiến khác nhau, khác đến mức đối lập nhau. Không cần phải so sánh các tin tức trên hai luồng báo chí đối lập (lề phải/lề trái) để có nhận xét này. Chỉ cần đọc báo chính thống cũng thấy được sự mâu thuẫn trong đánh giá về năng lực lãnh đạo và quản lý của hệ thống cán bộ.
Một mặt, bản thân các đảng viên tự coi mình là những người xuất sắc. Họ tự coi mình là « những người con ưu tú của dân tộc », đưa dân tộc « đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác » ; điều này được ghi trong hầu như các sách của nhà nước khi đánh giá về vai trò của đảng, và được ghi trên các khẩu hiệu chăng đầy các đường phố mỗi dịp lễ lạt, kể cả không lễ lạt.
Mặt khác, không ít người nhìn các đảng viên như là các tội phạm lịch sử đã đẩy dân tộc vào những thảm cảnh : nghèo đói, lạc hậu, giáo dục băng hoại, văn hóa suy đồi, tài nguyên kiệt quệ, đất nước lệ thuộc vào Trung Quốc. Nghĩa là xét về năng lực lãnh đạo và quản lý họ là những người rất kém cỏi. Kém cỏi thì mới để xảy ra tình trạng như vậy.
Tại sao cùng một đối tượng mà lại nhận được những đánh giá trái ngược đến như vậy ?
Ai trả lời được câu hỏi này ?
Khi bắt đầu viết blog này tôi đã tự nhủ mình rằng đây sẽ là không gian của các câu hỏi, rằng tôi sẽ đảm nhận cái vai trò của người đặt câu hỏi. Và hy vọng sẽ nhận được câu trả lời từ trí tuệ của mọi người, trong đó hy vọng lớn nhất đặt vào các bạn sinh viên, những người mà trong bối cảnh của nền giáo dục hiện nay chỉ được dạy cho cách học thuộc lòng, bị bắt phải học thuộc lòng, chứ không được dạy cho cách đặt câu hỏi, và cách tự tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi, tức là tự tìm kiếm cách giải quyết các vấn đề của cuộc sống thực tế.
Trở lại với câu hỏi trên đây và hai luồng ý kiến đối nghịch trên đây, bản thân tôi dĩ nhiên chẳng thể nào có được câu trả lời đầy đủ.
Ở đây, xin nhắc lại, tôi chỉ tập trung vào một điểm : ý kiến đánh giá về năng lực quản lý và lãnh đạo của đảng, mà đảng thì không trừu tượng, trái lại đảng hiện thân trong các thành viên của đảng, nghĩa là nói đến đảng là nói đến các đảng viên.
Và tôi giới hạn vấn đề vào một điểm nhỏ hơn nữa : LỰA CHỌN người để kết nạp đảng viên và để đặt vào vị trí quản lý. Về thời gian, chỉ xét từ thời điểm Việt Nam bắt đầu xây dựng và phát triển đất nước một cách độc lập, tức là từ sau 1975 ; bởi vì chính từ thời kỳ này mới có thể đánh giá năng lực quản lý và lãnh đạo công cuộc tái thiết và phát triển quốc gia trong hòa bình, về mọi mặt : kinh tế, giáo dục, văn hóa, khoa học…, nghĩa là bài này không đề cập đến thời kỳ chiến tranh.
Đảng viên cho rằng những người được lựa chọn là những người xuất sắc, có nghĩa là bản thân họ là những người xuất sắc. Trái lại, nhận định của một bộ phận xã hội cho rằng những người được đảng lựa chọn là kém năng lực. Nhận định này dựa trên tình trạng bê bối và băng hoại toàn diện của xã hội Việt Nam hiện nay.
Ta thử xét từ góc độ nhìn nhận của những người đảng viên.
Để công bằng thì phải nói rằng, trước khi việc bổ nhiệm nhân sự được tiến hành theo cách thức mua bán như hiện nay, tiêu chí lựa chọn của đảng quả là từng dựa trên năng lực, đảng đã muốn chọn những người xuất sắc, dĩ nhiên là xuất sắc theo thang đánh giá của đảng, trong đó có điều kiện về lý lịch và nhân thân. Lấy ví dụ về trường hợp kết nạp sinh viên vào đảng : người ta không chọn sinh viên kém để cho vào đảng. Để được vào đảng sinh viên phải thuộc diện xuất sắc, và theo tiêu chí hiện hành thì đó là những sinh viên được điểm cao, có hạnh kiểm tốt.
Tuy nhiên điểm của sinh viên lại tùy thuộc vào cách dạy, cách ra đề và cách đánh giá bài thi của giáo viên. Do vậy, trên thực tế, giữa một sinh viên đạt điểm cao và một sinh viên đạt điểm trung bình, khó biết được trên thực tế ai giỏi hơn ai. Với cách đánh giá kiểu bộ đề, bài văn mẫu, hiện nay, thì phẩm chất được đánh giá cao là trí nhớ tốt, khả năng học thuộc lòng, chứ không phải sự thông minh, sáng tạo và năng lực tư duy độc lập. Tuy vậy, không loại trừ việc những sinh viên đạt điểm cao là những sinh viên giỏi thực sự.
Và tiêu chí hạnh kiểm tốt ở trường học chúng ta đồng nghĩa với khả năng vâng lời, ở trình độ sinh viên thì đó là khả năng trung thành với lý tưởng của đảng. Các phẩm chất được dạy ở trường: yêu tổ quốc, yêu đồng bào, khiêm tốn, thật thà, dũng cảm (tất cả mọi học sinh đều phải học thuộc lòng, vì năm điều này được dán trong mọi trường học), trên thực tế bị xếp ở dưới cái yêu cầu phải trung thành với đường lối và nghị quyết của đảng. Càng về sau, yêu cầu trung thành với đảng càng trở thành tiêu chí thiết yếu trong việc lựa chọn cán bộ cho bộ máy nhà nước.
Trên thực tế, đảng cũng đã chọn được những người có năng lực, và có đạo đức. Bởi như đã nói, đảng không phải là cái gì trừu tượng, mà là từng đảng viên cụ thể, ở những vị trí cụ thể, và ở những địa phương cụ thể. Những con người cụ thể đó vẫn có thể có những cách làm việc, ứng xử riêng của mình, cho dù hiện nay bộ máy gần như muốn đồng hóa tất cả.
Hãy nhìn trường hợp Bí thư Hội An, ông Nguyễn Sự. Người đàn ông gầy gò đi một chiếc xe máy cũ tàng. Ông là người đã giữ linh hồn cho Hội An. Theo một cách khác, cũng có thể nói ông là người mang lại linh hồn cho Hội An, đã biến Hội An thành một thành phố được du khách yêu thích bậc nhất ở Việt Nam, vì đến Hội An họ nhìn thấy lịch sử, quá khứ, nhìn thấy các giá trị tinh thần. Lịch sử, quá khứ, bản sắc, các giá trị tinh thần là những thứ mà các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn đang mất dần. Sự biến dạng của chùa Trăm Gian là nỗi đau của người Hà Nội.
Và Thương xá Tax đang là nỗi đau của người Sài Gòn. Phá hết, hủy hoại hết như vậy thì làm gì còn lịch sử !!! Một dân tộc sẽ như thế nào nếu không có ký ức lịch sử ? Ông Nguyễn Sự không chỉ làm cho Hội An trở thành điểm du lịch yêu thích, ông đã giữ lại ký ức lịch sử cho không chỉ người Việt Nam. Du khách Nhật, du khách Trung Quốc, du khách Pháp đến Hội An đều có thể tìm lại hình ảnh tiền nhân của mình qua các dấu tích để lại ở thành phố nhỏ bé này, nó nhỏ đến mức gây cảm giác luyến tiếc cho những người dạo phố. Đó là cảm giác mà tôi đã có khi đến Hội An. Tôi đã ước gì Hội An rộng hơn, lớn hơn, có nhiều phố xá hơn, để có thể bù đắp thêm phần nào cho sự xuống cấp về tinh thần và văn hóa của đa số các thành phố khác trên đất nước này.
Tuy nhiên, chính ở điểm này mà ta có thể đặt vấn đề ngược lại. Có thể vì Hội An nhỏ như thế nên ông Nguyễn Sự mới giữ được nó như thế. Ở một thành phố lớn, nơi có nhiều quyền lực kinh tế xâu xé lẫn nhau, ông Nguyễn Sự có làm được điều mà ông đã và đang làm cho Hội An ?
Trường hợp Bí thư Hội An cho thấy rằng không phải toàn bộ đảng viên hay toàn bộ những người đang làm việc cho bộ máy đảng đều là những người thiếu năng lực quản lý hay thiếu đạo đức. Trong bộ máy vẫn còn có những người làm việc cho các giá trị chung của cộng đồng, và có đủ khả năng để làm việc đó. Nhưng những người như thế rất hiếm hoi. [Mở ngoặc để nêu một câu hỏi : tại sao, điều gì trong thể chế này không tạo điều kiện để có nhiều người như thế, trái lại khiến cho họ rơi vào tình trạng hiếm hoi, đơn độc, và ngày càng hiếm hoi hơn ? Câu hỏi này sẽ dẫn tới câu hỏi khác (mà câu trả lời không phải là mục đích của bài này) : một thể chế chính trị như thế nào thì khuyến khích được những người như ông Sự phát triển và tạo điều kiện cho họ xuất hiện phổ biến trong xã hội ?]
Nói về trường hợp ông Nguyễn Sự để tự nhắc nhở rằng : cần phải chống lại cỗ máy phi nhân của cơ chế độc đảng hiện hành, nhưng sẽ sai lầm nếu chống lại con người. Nếu một số lãnh đạo trong các cơ chế độc tài có thể từ bỏ lợi ích của mình (trường hợp gần đây nhất là Then Sen, hiện là đương kim tổng thống Miến Điện) là bởi họ có khả năng nhận ra tính phi nhân của bộ máy đang mang lại lợi ích cho riêng cá nhân họ nhưng lại làm hại cho cộng đồng của họ. Và họ nhận ra được điều đó nhờ phần nhân tính ở trong họ, vì họ là con người, và cái phần con người đó khiến họ có đủ lý trí và sức mạnh để tách ra khỏi bộ máy.
Câu hỏi là : trường hợp ông Nguyễn Sự rất hiếm hoi, vậy có nghĩa là việc ông được lựa chọn không đại diện cho cách lựa chọn người để kết nạp đảng viên và bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo các cấp ?
Xin nhắc lại câu hỏi ở cuối phần trước của bài này :
Trường hợp ông Nguyễn Sự rất hiếm hoi, vậy có nghĩa là việc ông được lựa chọn không đại diện cho cách lựa chọn người để kết nạp đảng viên và bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo các cấp ?
Câu trả lời có thể gây ngạc nhiên : kể cả trong bối cảnh mua bán chức quyền hiện nay, đảng vẫn tìm đến những người có năng lực và đạo đức để mời họ vào đảng, với điều kiện là những người đó không biểu hiện các quan điểm khác với quan điểm của đảng. Dĩ nhiên, với đối tượng này đảng bị từ chối nhiều, nhưng cũng không ít người nhận lời.
Trên thực tế, không thể phủ nhận rằng, dù không phải là tất cả thì có một bộ phận đảng viên là những người có năng lực, có trình độ, được đào tạo, hoặc nói theo cách mà họ tự nhìn nhận về mình : họ là những người xuất sắc. Điều này có thể gây ngạc nhiên cho những ai đang nhìn thấy đảng viên như những người yếu kém về năng lực quản lý; nhưng những điều tiếp theo đây sẽ có tác dụng làm giảm sự ngạc nhiên. Những suy nghĩ trong bài này chỉ giới hạn ở bộ phận đảng viên có năng lực.
Vấn đề sẽ là : vì sao những người được lựa chọn vốn là những người xuất sắc mà kết quả công việc của họ lại có thể khiến cho họ bị đánh giá là kém cỏi trong việc điều hành, quản lý, và vì thế phải chịu trách nhiệm lịch sử trước sự suy thoái của dân tộc ? Tại sao họ lại cùng nhau đưa cả đất nước vào tình trạng chung thảm hại hiện tại ?
Dưới đây là một lý giải, dĩ nhiên chỉ mang tính phiến diện.
Đảng vẫn tìm đến những người có năng lực và đạo đức để mời họ vào đảng, NHƯNG với các điều kiện của đảng : phải tham gia một khóa học « cảm tình đảng », sau khi kết thúc khóa học này phải viết một bài thu hoạch và chính dựa trên bài thu hoạch này mà đảng sẽ quyết định có kết nạp hay không.
Ngay từ bước đầu tiên của lớp « cảm tình đảng » này người đảng viên tương lai đã buộc phải lựa chọn giữ lại « năng lực » nào cho mình và phải đánh mất những năng lực nào của mình. Còn muốn làm lãnh đạo, phải học một khóa ở trường đảng Nguyễn Ái Quốc. Và từ lúc đó, mọi nguyên tắc đạo đức không còn quan trọng nữa trước sự trung thành đối với đảng. Trước sự đồng hóa của đảng, trước cám dỗ về lợi ích vật chất có được nhờ đảng, bao nhiêu đảng viên giữ được bản lĩnh của mình như ông Nguyễn Sự ?
Đã có nhiều bài trên báo chính thống nói thẳng rằng ông Nguyễn Sự là trường hợp hiếm hoi trong hàng ngũ lãnh đạo hiện thời. Vả chăng, một mình ông Nguyễn Sự cũng không thể cải thiện guồng máy chung của đảng; tâm huyết của ông, bản lĩnh của ông, đạo đức của ông cũng không ngăn cản được các cán bộ ngay trong thành phố Hội An của ông tham nhũng, vi phạm pháp luật, nghĩa là tha hóa và làm hại người khác, làm hại lợi ích chung để củng cố lợi ích riêng : tại thời điểm này đang diễn ra vụ việc Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự TP.Hội An bị thụ án vì lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản (tham khảo thêm thông tin cụ thể : http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141004/tam-giam-chi-cuc-truong-thi-h...).
Trở lại với thực tế của guồng máy đảng để thấy rằng : không ít người có năng lực nhận lời vào đảng. Họ có lý do để tự nhận rằng họ là những người xuất sắc, họ có lý do để nói rằng đảng cũng muốn tập hợp những người xuất sắc vào hàng ngũ của đảng. Nhưng điều mà có lẽ họ không nhận thấy, đó là sự xuất sắc của họ đã mất đi cùng với các lợi ích mà họ nhận được từ đảng.
Hoặc, cũng có thể nhìn theo cách khác : họ đã không dùng sự xuất sắc để phát triển các năng lực của chính họ, và phát triển cộng đồng chung. Trái lại sự xuất sắc của họ chỉ dùng vào việc phát triển lợi ích vật chất cho cá nhân họ và bảo vệ lợi ích của đảng và bảo vệ sự tồn tại vững chắc cho đảng, bởi lợi ích của đảng cũng là lợi ích của chính họ (cần xác định lại điều này : đảng chính là các đảng viên).
Đáng nói hơn, họ dùng sự xuất sắc của họ để làm lụn bại khả năng trí tuệ của những người khác, bằng cách tạo ra những môi trường trong đó năng lực trí tuệ không thể phát triển được, bởi đó là những môi trường nơi tự do bị bóp nghẹt, nơi các điều kiện sống và điều kiện làm việc bị bóp nghẹt. Không phải là họ không hiểu, trái lại họ hiểu rất rõ nhưng chủ động tạo ra môi trường như vậy nhằm hủy diệt các nguồn lực trí tuệ của quốc gia chỉ với mục đích duy nhất là bảo vệ lợi ích vật chất của họ, với cái giá là năng lực trí tuệ của chính họ cũng cùn mòn đi, tiêu biến đi.
Cần hiểu rằng giờ đây, ý thức hệ thuở ban đầu hoàn toàn không còn nữa khi mà bản thân người lãnh đạo cao nhất của đảng thừa nhận rằng chủ nghĩa xã hội là một thứ ảo vọng mà đến « cuối thế kỷ » này cũng chưa thể thấy mặt mũi nó ra sao. Lý tưởng đã hoàn toàn biến mất, cái còn lại chỉ là sức mạnh quái đản của lợi ích vật chất trong một xã hội tiêu thụ.
Điều này góp phần lý giải vì sao Việt Nam càng ngày càng sa sút trên nhiều phương diện, nhưng sự tồn tại của đảng không hề bị đe dọa. Các đảng viên xuất sắc đã dùng sự xuất sắc của họ để làm cho đất nước suy vong, làm băng hoại môi trường học thuật, làm cho trí tuệ của người dân sa sút, và để củng cố sức mạnh của đảng.
Chúng ta thấy rằng các giải pháp được lựa chọn để giải quyết các vấn đề của đất nước này hầu như luôn là những giải pháp đảm bảo cho quyền lợi vật chất của người có quyền quyết định, và quyền lợi của họ lại đi ngược với quyền lợi chung. Do đó mới có chuyện hết công ty này đến công ty kia thua lỗ đến trăm nghìn tỷ này đến trăm nghìn tỉ khác, công ty thua lỗ nhưng các cá nhân lãnh đạo công ty thì được lợi. Do đó mới có chuyện hàng bao nhiêu đại học không đủ tiêu chuẩn vẫn cứ được thành lập, đại học sa sút nhưng những người ký quyết định lập trường thì có lợi. Rồi hàng bao nhiêu dự án thua lỗ trên đất nước này, dự án thì lỗ nhưng người ký quyết định dự án thì lãi. Logic là như vậy, ai cũng có thể tìm thấy vô vàn dẫn chứng cho cái logic này.
Hãy xem xét một lĩnh vực cụ thể là giáo dục. Giám đốc của các đại học quốc gia, hiệu trưởng của các trường đại học, họ có kém không ? Không, không thể nói rằng tất cả họ đều kém cỏi. Trái lại, đa số họ đều là những người có năng lực.
Nhưng tại sao giáo dục lại thảm hại đến như vậy, đến mức chính họ là những người đầu tiên gửi con cái đi học nước ngoài ? Bởi lẽ họ đã không dùng trí tuệ của họ, sự xuất sắc của họ để xây dựng một nền giáo dục tiến bộ và hiệu quả, vì chính điều đó làm tổn hại đến đảng của họ, tức là làm tổn hại đến quyền lực và lợi ích vật chất của họ. Trường học càng thối nát, càng trì trệ, giáo viên càng lạc hậu, càng phục tùng, học sinh/ sinh viên càng kém hiệu biết, càng ngoan ngoãn thụ động, thì lợi nhuận của họ càng lớn, quyền lực của họ càng ổn định. Từ đó, phần nào có thể thấy động cơ làm việc của họ là gì, và ý nghĩa của đời sống đối với họ là gì...
Hoặc nhìn sang một lĩnh vực khác mà đại diện là Vinashin và Vinalines. Không thể nói các lãnh đạo của Vinashin và Vinalines là những người kém cỏi. Các công ty này thua lỗ không phải vì năng lực quản lý của người lãnh đạo kém, mà là vì « năng lực » quản lý được dùng cho việc phát triển túi tiền cá nhân nhờ vào sự thua lỗ của công ty.
Câu hỏi là : tại sao các đảng viên « xuất sắc » của Việt Nam không làm lợi cho mình dựa trên sự phát triển của đơn vị, dựa trên sự lớn mạnh của công ty, mà lại làm lợi cho mình dựa trên sự phá sản của công ty ? Tại sao mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung lại được họ xây dựng thành một mối quan hệ mâu thuẫn, lợi ích riêng hủy hoại lợi ích chung ? Tại sao họ không đặt hai loại lợi
Mong muốn các đảng viên (đặc biệt là các đảng viên cao cấp) biết đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích của đảng và lợi ích cá nhân phải chăng chỉ là một mong muốn huyễn tưởng ? Nó tạo ra một viễn cảnh cũng mang tính chất ảo như cái viễn cảnh chủ nghĩa xã hội mà thôi. Không cần đảng đặt quyền lợi của dân tộc cao hơn quyền lợi riêng của đảng, chỉ cần các đảng viên đặt quyền lợi dân tộc ngang bằng quyền lợi riêng của mình, thì có lẽ Việt Nam đã có một hình ảnh khá hơn rất nhiều hình ảnh mà ngày nay chúng ta đang có.
Liệu các đảng viên, nhất là các đảng viên ở cương vị lãnh đạo cao cấp (cũng như mọi người nói chung trong xã hội hiện thời) có thể xoay chuyển tí ti não bộ của mình để điều chỉnh tí ti chiều hướng suy nghĩ : gắn lợi ích của mình với lợi ích của dân tộc, và không để cho hai loại lợi ích này trở thành đối nghịch, không để cho lợi ích cá nhân đi ngược lại với lợi ích dân tộc. Chỉ cần một tí ti xoay chuyển đó thôi, vận mệnh của xứ sở này sẽ khác nhiều lắm.
Xin nhắc lại, câu hỏi của tôi là : giữa hai giải pháp, 1) vừa làm lợi cho bản thân vừa làm lợi cho đất nước và dân tộc, 2) làm lợi cho bản thân và làm hại đất nước và cộng đồng, tại sao các đảng viên xuất sắc của Việt Nam lại chọn giải pháp 2, nên khiến cho Việt Nam rơi vào tình trạng bi đát hiện nay ? Nghịch lý là các đảng viên càng « xuất sắc » thì đất nước càng thê thảm.
Một câu hỏi khác, không phải là không liên quan đến câu hỏi trên đây : tại sao cùng một mô hình chế độ chính trị độc tài cộng sản, nhưng đảng cộng sản Trung Quốc, với những vấn nạn mà nó tạo ra vẫn có thể đưa Trung Quốc trở thành một sức mạnh kinh tế, quân sự và khoa học ; trong khi đó đảng cộng sản Việt Nam cùng các đảng viên của mình lại đẩy Việt Nam vào tình trạng lạc hậu, nghèo đói, chậm tiến, suy thoái gần như toàn diện, không có một thành tựu nào đáng kể, và đang lệ thuộc càng ngày càng sâu sắc vào Trung Quốc ???
Paris, 30/10/2014
MÁY BAY VIỆT NAM CỘNG HÒA
MÁY BAY VIỆT NAM CỘNG HÒA
Chiếc máy bay đầu tiên được chế tạo tại Việt Nam, nó được sản xuất ở 3 căn cứ khác nhau và được ráp khâu cuối ở Tân Sơn Nhất.
Buổi giới thiệu chiếc máy bay đầu tiên do Không quân Việt Nam chế tạo.
Vietnam_PL-2_TP001_cockpit
Tiền Phong 001 trên bầu trời.
Máy bay đó có tên là "Tiền Phong 001" có nghĩa là “ngọn gió đi trước”, tên là “Tiền Phong 001”, vì dự định sau đó sẽ chế tạo thêm Tiền Phong 002, Tiền Phong 003 và 004 v.v..
Kỹ sư trưởng của công trình này là ông Nguyễn Tú.
Máy bay dùng để huấn luyện căn bản các phi công Việt Nam, vì vậy loại máy bay này được chế tạo theo kiểu máy bay cánh thấp giống khu truc, máy bay có hai ghế ngồi gần nhau với hai cần điều khiển song hành và có khả năng nhào lộn nhẹ nhàng thích hợp cho một chiến đấu cơ căn bản.
Chuyến bay thử nghiệm được thực hiện vào ngày 01/7/1972 (hoặc 1973), phi công đầu tiên bay thử là ông Võ Xuân Lành và ông Nguyễn Tú, máy bay đã bay nhiều vòng trên bầu trời Sài Gòn.
Nguồn ảnh: http://pazmany.com/wp/?attachment_id=286
( ==> https://www.facebook.com/lsvnqa/posts/811068242272016 )
____
Thập niên 1970 , Miền Nam Việt Nam đã chế được
xe La Dalat , máy bay Tiền Phong ... trong khi đó Đại Hàn chưa
chế được gì , nhưng nay thì Đại Hàn là 1 trong 10 nước kỹ nghệ
tiên tiến nhất thế giới còn VNCS chỉ giỏi về xạo .
Chính Không Quân Đại Hàn cũng có ý định này. Lúc đó, Đại Tá BAE, sĩ quan liên lạc Đại Hàn tại Việt nam, cũng là sĩ quan cùng học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu với Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân và Chuẩn Tướng Tham Mưu Phó Tiếp Vận có tới xem phi cơ Tiền Phong của chúng ta, và đã xin chính phủ Đại Hàn cử một phái đoàn do ThiếuTướng Lee, Tham Mưu Phó Tiếp Vận Không Quân Đại Hàn hướng dẫn sang Việt Nam để xem cung cách việc chế tạo.
Ngày nay, năm 2013, trình độ kỹ thuật (nói chung) giữa Việt Nam XHCN và Đại Hàn cao thấp như thế nào?
Vì đâu nên nổi?
HkThành
SI VIS PACEM, PARA BELLUM
TIỀN PHONG: Đây là tên của một chiếc phi cơ do Không Quân Việt Nam chế tạo, dựa theo “blueprint” của hãng Pazmany ở California.
Đây là tên của một chiếc phi cơ do Không Quân Việt Nam chế tạo, dựa theo “blueprint” của hãng Pazmany ở California.
Đáng lý ra, câu chuyện này phải do những người trong cuộc viết lại, vì họ đều có mặt tại Mỹ bây giờ. Chúng tôi sở dĩ viết ra để tự mình giải quyết những thắc mắc mà không ai giúp đỡ. Có viết sai thì mới có người lên tiếng để còn hiểu được sự thật bên trong.
Chiếc phi cơ TIỀN PHONG, có nghĩa là “ngọn gió đi trước”, dự trù sẽ trang bị cho Trường Phi Hành của Bộ Chỉ Huy Huấn Luyện của chúng ta, do ngân sách quốc gia Việt Nam đài thọ. Phần thiết kế dự án do Bộ Tư Lệnh Không Quân/Văn Phòng Tham Mư Phó Tiếp Vận phụ trách. Công tác thực hiện được phân phối cho Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận và các Sư Đoàn Không Quân cùng nhau đóng góp công sức của mình. Chính Không Quân Đại Hàn cũng có ý định này. Lúc đó, Đại Tá BAE, sĩ quan liên lạc Đại Hàn tại Việt nam, cũng là sĩ quan cùng học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu với Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân và Chuẩn Tướng Tham Mưu Phó Tiếp Vận có tới xem phi cơ Tiền Phong của chúng ta, và đã xin chính phủ Đại Hàn cử một phái đoàn do ThiếuTướng Lee, Tham Mưu Phó Tiếp Vận Không Quân Đại Hàn hướng dẫn sang Việt Nam để xem cung cách việc chế tạo. Chính vị này cũng cùng học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu với Trung Tướng TLKQ chúng ta. Dường như sau này, Đại Hàn đã chế tạo được phi cơ này để dùng vào việc huấn luyện.
Sau một thời gian bỏ nhiều công sức, rồi có một ngày, tại phi trường hết sức bận rộn như Tân Sơn Nhất(*), máy bay được mang ra bay thử. Không biết ai là người đầu tiên bay chiếc máy bay độc đáo này, nhưng biết rõ chỉ có ba người đã bay trên Tiền Phong 1. Đó là cố Thiếu Tướng Võ Xuân Lành, Trung Tá Lê Xuân Lan, và Trung Tá Nguyễn Tú.
Trước hết xin kể đến KQ Nguyễn Tú. Lúc đó đang phục vụ tại Văn Phòng Tham Mưu Phó Tiếp Vận, KQ Nguyễn Tú xuất thân khóa 55 Trường Võ Bị Không Quân Pháp, theo ngành kỹ sư cơ khí. Vào những năm 1964-65, anh sang Mỹ lấy bằng Master về Mechanical Engineering. Nói cách khác, anh Tú là người có khả năng vẻ ra một "blue print" để "design" một máy bay loại đồ chơi này chứ không cần phải mua "blue print" của người khác. Chiếc Tiền Phong 1 là máy bay nhỏ, cánh thấp, trang bị bánh mũi, hai chỗ ngồi cạnh nhau như trên T-37, hai đầu cánh có gắn hai bình xăng (**). Về khả năng bay, cũng gần như chiếc T-34 của các quân trường Mỹ một thời gian, nhưng sau được thay bằng T-37 nên không còn sản xuất T-34 nữa. Tuy chưa được bay T-34, nhưng khi nghe các bạn kể lại, chúng tôi rất lấy làm thích , nếu KQVN chúng ta có được một máy bay như vậy để huấn luyện. Một chiếc không khó lắm thì không mấy tốt, vì sau khi tốt nghiệp, khóa sinh sẽ khớp khi lên một chiếc ở đơn vị chiến đấu khó bay hơn máy bay của trường. Nhưng chiếc T-34 có nhiều khả năng, như bay phi cụ, bay nhào lộn không thua gì chiếc T-6 nhưng dễ lái hơn nhờ bánh mũi. Tóm lại, ai bay T-34 rồi thì có thể mường tượng chiếc Tiền Phong 1 cũng có những khả năng tương tự. Phòng lái có mui plastic một mãnh úp lên trông rất xinh đẹp và có vẻ "phản lực" lắm. Như trên đã kể, Nguyễn Tú có phải là một người lái bay thử không? Không! Nhưng Nguyễn Tú có mặt trên nhiều lần bay thử khi các hoa tiêu bay thử có điều không hiểu. Những khuyết điểm ghi nhận trong lúc bay thử đều đươc ghi chép cẩn thận để về sau sửa chữa kỹ càng. Nghĩa là Nguyễn Tú là kỹ sư trưởng dự án và là người theo dõi dự án từ đầu đến cuối, từ A đến Z, từ tổ chức lớn nhất như Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo thuộc Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận Không Quân đến các Không Đoàn Bảo Trì và Tiếp Liệu thuộc các Sư Đoàn Không Quân. Sở dĩ anh Tú phải bay, hay là được bay trong chuyến bay thử đầu tiên, tuy không hưởng lương phi hành, vì anh nắm vững kỹ thuật về máy bay này, vì anh nhận lãnh trách nhiệm hoàn thành phần chế tạo đúng chuẩn những gì thay đổi trong "blue print", vì anh là tinh thần của dự án.
Hoa tiêu bay thử chính là cố Thiếu Tướng Võ Xuân Lành, lúc đó là Tư Lệnh Phó Không Quân chúng ta. Ông xuất thân Trường Võ Bị Thủ Đức, theo học khóa 2 hoa tiêu tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, cùng khóa với các ông Vũ Thượng Văn, Trần Đình Hòe và Nguyễn Khắc Ngọc. Dường như ông cũng đã tốt nghiệp khóa B-25 tại Hoa Kỳ. Về nước,ông phục vụ tại TTHLKQ Nha Trang, chỉ huy phó TTHLKQ dưới quyền ông Từ Bộ Cam. Vào đầu năm 1964, ông chỉ huy Phi Đoàn 514 tại Biên Hòa, và Không Đoàn 23 khi thành lập Không Đoàn này, sau đó về Tân Sơn Nhất làm Tư Lệnh Phó Không Quân cho đến ngày cuối cùng. Ông đã bay trên nhiều loại máy bay của Không Quân Việt Nam, từ máy bay "Bà Già" MS-500, cho đến L-19, T-6, A-1H, T-37, F-5...Thích nghiệp bay, khiêm tốn, anh dũng, hòa mình với mọi người trong nghề hay chỉ là thợ đá banh, anh quân cảnh thục bi-da, uống bia Quân Tiếp Vụ, hút thuốc lá Ruby Queen Quân Tiếp Vụ...Ông là người đơn giản, không thích gái vì ông đã có gia đình mà ông dấu rất kỹ đến độ nhiều người cứ tưởng là ông vẫn sống độc thân, mãi cho đến khi đã sang Mỹ rồi, người ta mới biết ông có một gia đình hoàn chỉnh. Ông làm nhiều, nói ít. Mỗi khi dẫn một phái đoàn thăm viếng đơn vị, đơn vị trưởng đơn vị được, hay bị thăm viếng, đều biết đây không phải là phái đoàn ăn chơi, nên ráo riết chuẩn bị để trả lời những vụ việc đúng theo nhiệm vụ ấn định cho tổ chức liên hệ. Ông giải quyết vấn đề đến nơi đến chốn, và mười lần như một, báo cáo cặn kẽ cho Tư Lệnh Không Quân, đầy đủ, về tình như về lý. Ông là người mà trên dưới Không Quân ai cũng thương mến và cảm phục. Trái lại, ngoài Không Quân, những người biết ông nhiều có lẽ là các đội bóng tròn của sinh viên, các hội bóng lão tướng quanh vùng Saigon, Cho Lon, các đội bóng ở những tỉnh lẻ khi tổ chức giao hữu khi ông còn là Tư Lệnh Không Đoàn 23 ở Biên Hòa. Ông thành thật với người và với chính mình. Khi không rõ điều gì thì ông hỏi cho hiểu rõ, không ngại người ta chê mình thiếu sót về năng khiếu hay kiến thức. Nhờ vậy mà ông học nhanh, tiến bộ vững chắc trong ngành nghề của ông. Cũng như nhiều người, ông bay giỏi, nhưng khác hơn người là ông dùng tài năng của ông để phục vụ. Ông xông pha mọi chiến trường với vai một hoa tiêu không cần cấp bậc trên áo bay. Nhưng mọi người đều biết là ông khi ông lên tiếng trên máy vô tuyến trong những trường hợp cấp bách nhất. Nói về bay thử, đây là vụ đầu tiên, chứ không như Bob Hoover của hãng Northrop. Do đó, có nhiều điều chưa hiểu, ông thương lượng với anh hoa tiêu bay thử thứ hai là anh Lê Xuân Lan.
Lê Xuân Lan tốt nghiệp hạng nhì khóa 58A lấy tên Trần Duy Kỷ. Vì điểm tổng kết thua anh Chế Văn Nghĩa, nhưng điểm phi huấn của anh là số một. Anh được bổ nhiệm về Phi Đoàn 514 để được huấn luyện tiếp tục trên T-6G và A-1H. Từ đó anh là hoa tiêu khu trục chuyên nghiệp dưới cái lò đào tạo khó khăn này. Sau này, anh có dịp theo học A-37 và đã được chọn theo khóa huấn luyện viên A-37. Anh lưu lại Hoa kỳ rất lâu để làm sĩ quan liên lạc Không Quân, giải quyết những vấn đề loại hay không loại khóa sinh trên A-37 tại các quân trường dạy lái. Về nước, anh được bổ nhiệm về Văn Phòng Tham Mưu Phó Huấn Luyện của Bộ Tư Lệnh Không Quân. Sau đó, anh đã bay trên F-5 và một thời gian ngắn được bổ nhiệm về Văn Phòng Phụ Tá Phòng Không tại BTLKQ. Khi thành lập Trung Tâm Phòng Không Bắc, anh được cử làm Giám Đốc Trung Tâm Phòng Không Bắc cho đến cuối cùng. Cũng là một hoa tiêu can trường, đã từng lập nhiều chiến công trên mặt trận, mà lại có tài bay như một thiên phú. Nói ít, hiểu nhiều. Tự tin nhưng không khoe khoang. Có ngày anh hỏi tôi về những điều anh thắc mắc về chiếc máy bay Tiền Phong 1 . Anh bảo dường như máy bay không chịu đáp khi kéo là, mà cứ trôi mãi trên không. Nếu gặp gió ngang thì bị bê ra ngoài phi đạo dễ dàng. Chỉ vì mặt cánh nâng quá to, khi sát mặt đất tạo ra một gối khí động (air cushion) làm chân đáp quá ngắn không chạm được đất. Anh còn nói khi "roll" thì không ngọt vì như có sức cưỡng lại. Chỉ vì độ nhị diện quá to để làm cho phi cơ vững vàng khi bị gió động sẽ tự sửa chữa về thế bay trước. Muốn giải quyết hai khuyết điểm đó, có lẽ điều dễ thực hiện nhất là chặt bỏ bớt hai đầu cánh. Nhưng làm thế thì rất tốn công, nhất là hai đầu cánh có gắn hai bình xăng, một mặt tăng thêm trữ lượng xăng, mặt khác giảm được sức cản do luồng gió xoáy (**) tạo ra ở hai đầu cánh. Có lẽ anh Lan đã thảo luận với kỹ sư Tú, nhưng kết quả vẫn giữ nguyên như cũ. Và sau nhiều lần bay thử, chiếc máy bay Tiền Phong 1 được lưu giữ trong hangar của Sư Đoàn 5 Không Quân cho đến ngày tàn.
Đó là những gì tôi biết được về chiếc Tiền Phong 1. Làm máy bay cho Không Quân Việt Nam ta là một hãnh diện, là một mơ ước cho nhiều kỹ sư chưa tốt nghiệp. Do đó, có một hôm, Quân Cảnh phối hợp với Cảnh Sát mang về Bộ Tư Lệnh Không Quân tại Tân Sơn Nhất một chiếc máy bay (không biết có nên đặt tên là Tiền Phong 2 hay không?!). Chiếc này giống như chiếc O-1A, có cánh cao và dài, trang bị một động cơ của chiếc mô-tô Honda 50cc. Trong phòng lái ta thấy một chiếc ghế ngồi thường ở các phòng trà bỏ túi. Cũng có tay lái, cũng có đồng hồ. Chất lợp cánh và thân máy bay làm bằng loại kim khí hợp chất nhôm lấy từ các vĩ kiện hàng (palette) để các kiện hàng có thể thả từ máy bay vận tải có cửa phía sau như C-130, C-123, C-119. Hợp kim này rất chắc chắn nhưng rất nặng. Cánh quạt lấy từ một máy bay O-1A. Người chế tạo là một Trung Sĩ thuộc Sư Đoàn 5 Không Quân. Anh đã tốn nhiều công sức ráp lên chiếc Tiền Phong 2 trong một nhà chứa xe của anh, và ngày tốt đẹp đã đến, anh mang chiếc máy bay này ra xa lộ Đại Hàn (***)khoảng từ lộ Saigon-Tây Ninh nối liền với Quốc Lộ 4 từ Phú Lâm về Tân An. Vì cản trở lưu thông trên xa lộ Đại Hàn, nên Cảnh Sát kết hợp với Quân Cảnh mang tác giả và chiếc Thần Phong 2 về Bộ Tư Lệnh Không Quân. Chiếc này được lưu giữ ở ngay trước văn phòng của kỹ sư Tú ít nhất một tuần lễ. Thật là một thách đố cho các kỹ sư hàng không của chúng ta. Anh em tại BTLKQ thách nhau ai dám bay chiếc Tiền Phong 2, và mọi người đều hướng về vị Tư Lệnh của chúng ta mà... cười vỡ bụng.
Gman
Chú thích:
(*)Phi trường Tân Sơn Nhất vào thời điểm này có hai phi đạo song song, cứ mỗi 30 giây đều có một cất cánh hay hạ cánh. So với phi trường Kennedy ở New York cũng cùng một mức độ bận rộn, nhưng ở New York, chỉ có những phi cơ hàng không dân sự, có đi và đến với tốc độ ngang nhau, rất dễ điều hành hơn nhiều. Trong khi đó, tại Tân Sơn Nhất, nào là máy bay nhỏ như O-1A, có trực thăng UH-1 của Không Binh Hoa Kỳ đồn trú, có hàng không quốc tế lui tới, có A-1H của Biệt Đoàn 83, thật là linh tinh, nhất là khi vào tần số, cùng nghe một loạt ba thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, trên ba hệ thống vô tuyến FM, VHF và UHF, thật là có một không hai.
(**)Hai bình xăng ở hai đầu cánh làm giảm đi các luồng gió xoáy thường được gọi là tourbillons de Karmann(do nhà bác học Von Karmann người Đức tìm ra), vì áp suất dưới cánh to hơn áp suất khí quyển ở trên cánh, nên ở đầu cánh, không khí di chuyển từ dưới lên trên. Chiếc MD-11 có một vách chận nhỏ cũng có tác dụng chận luồng khí quyển này. Trên Tiền Phong 1 có sáng kiến để bình xăng ở đầu cánh cũng làm giảm sức cản do các luồng gió xoáy Karmann.
(***) Xa lộ Đại Hàn là do Công Binh Đại Hàn giúp đỡ xây cất. Đó là một vòng đai ven đô (belt) để ta có thể từ miền Nam đi về hướng miền Đông hay miền Trung thì khỏi cần chạy qua Đô Thị náo nhiệt Saigon-Cholon, mà đi thẳng đến đường đi Tây Ninh hoặc đi Biên Hòa(xa lộ Biên Hòa). Lúc đó, xa lộ này tương đối ít xe chạy, ngoài xe nhà binh và xe Lambretta-500cc chở khách địa phương.
( Biên Hùng chuyển )
****************
Source:
http://www.haingoaiphiemdam.net/Trang.aspx?Id=18TruyenNganPhongSu_237
_,_._,___
Hình xưa Chiếc máy bay đầu tiên được ráp vào thời VNCH
Chiếc máy bay đầu tiên được chế tạo tại Việt Nam, nó được sản xuất ở 3 căn cứ khác nhau và được ráp khâu cuối ở Tân Sơn Nhất.
Buổi giới thiệu chiếc máy bay đầu tiên do Không quân Việt Nam chế tạo.
Vietnam_PL-2_TP001_cockpit
Tiền Phong 001 trên bầu trời.
Theo nguồn của trang " Lịch sử Việt Nam qua ảnh "
CHIẾC MÁY BAY DO NGƯỜI VIỆT NAM CHẾ TẠO.Máy bay đó có tên là "Tiền Phong 001" có nghĩa là “ngọn gió đi trước”, tên là “Tiền Phong 001”, vì dự định sau đó sẽ chế tạo thêm Tiền Phong 002, Tiền Phong 003 và 004 v.v..
Kỹ sư trưởng của công trình này là ông Nguyễn Tú.
Máy bay dùng để huấn luyện căn bản các phi công Việt Nam, vì vậy loại máy bay này được chế tạo theo kiểu máy bay cánh thấp giống khu truc, máy bay có hai ghế ngồi gần nhau với hai cần điều khiển song hành và có khả năng nhào lộn nhẹ nhàng thích hợp cho một chiến đấu cơ căn bản.
Chuyến bay thử nghiệm được thực hiện vào ngày 01/7/1972 (hoặc 1973), phi công đầu tiên bay thử là ông Võ Xuân Lành và ông Nguyễn Tú, máy bay đã bay nhiều vòng trên bầu trời Sài Gòn.
Nguồn ảnh: http://pazmany.com/wp/?attachment_id=286
( ==> https://www.facebook.com/lsvnqa/posts/811068242272016 )
____
Thập niên 1970 , Miền Nam Việt Nam đã chế được
xe La Dalat , máy bay Tiền Phong ... trong khi đó Đại Hàn chưa
chế được gì , nhưng nay thì Đại Hàn là 1 trong 10 nước kỹ nghệ
tiên tiến nhất thế giới còn VNCS chỉ giỏi về xạo .
Chính Không Quân Đại Hàn cũng có ý định này. Lúc đó, Đại Tá BAE, sĩ quan liên lạc Đại Hàn tại Việt nam, cũng là sĩ quan cùng học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu với Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân và Chuẩn Tướng Tham Mưu Phó Tiếp Vận có tới xem phi cơ Tiền Phong của chúng ta, và đã xin chính phủ Đại Hàn cử một phái đoàn do ThiếuTướng Lee, Tham Mưu Phó Tiếp Vận Không Quân Đại Hàn hướng dẫn sang Việt Nam để xem cung cách việc chế tạo.
Ngày nay, năm 2013, trình độ kỹ thuật (nói chung) giữa Việt Nam XHCN và Đại Hàn cao thấp như thế nào?
Vì đâu nên nổi?
HkThành
SI VIS PACEM, PARA BELLUM
TIỀN PHONG: Đây là tên của một chiếc phi cơ do Không Quân Việt Nam chế tạo, dựa theo “blueprint” của hãng Pazmany ở California.
Đây là tên của một chiếc phi cơ do Không Quân Việt Nam chế tạo, dựa theo “blueprint” của hãng Pazmany ở California.
Đáng lý ra, câu chuyện này phải do những người trong cuộc viết lại, vì họ đều có mặt tại Mỹ bây giờ. Chúng tôi sở dĩ viết ra để tự mình giải quyết những thắc mắc mà không ai giúp đỡ. Có viết sai thì mới có người lên tiếng để còn hiểu được sự thật bên trong.
Chiếc phi cơ TIỀN PHONG, có nghĩa là “ngọn gió đi trước”, dự trù sẽ trang bị cho Trường Phi Hành của Bộ Chỉ Huy Huấn Luyện của chúng ta, do ngân sách quốc gia Việt Nam đài thọ. Phần thiết kế dự án do Bộ Tư Lệnh Không Quân/Văn Phòng Tham Mư Phó Tiếp Vận phụ trách. Công tác thực hiện được phân phối cho Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận và các Sư Đoàn Không Quân cùng nhau đóng góp công sức của mình. Chính Không Quân Đại Hàn cũng có ý định này. Lúc đó, Đại Tá BAE, sĩ quan liên lạc Đại Hàn tại Việt nam, cũng là sĩ quan cùng học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu với Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân và Chuẩn Tướng Tham Mưu Phó Tiếp Vận có tới xem phi cơ Tiền Phong của chúng ta, và đã xin chính phủ Đại Hàn cử một phái đoàn do ThiếuTướng Lee, Tham Mưu Phó Tiếp Vận Không Quân Đại Hàn hướng dẫn sang Việt Nam để xem cung cách việc chế tạo. Chính vị này cũng cùng học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu với Trung Tướng TLKQ chúng ta. Dường như sau này, Đại Hàn đã chế tạo được phi cơ này để dùng vào việc huấn luyện.
Sau một thời gian bỏ nhiều công sức, rồi có một ngày, tại phi trường hết sức bận rộn như Tân Sơn Nhất(*), máy bay được mang ra bay thử. Không biết ai là người đầu tiên bay chiếc máy bay độc đáo này, nhưng biết rõ chỉ có ba người đã bay trên Tiền Phong 1. Đó là cố Thiếu Tướng Võ Xuân Lành, Trung Tá Lê Xuân Lan, và Trung Tá Nguyễn Tú.
Trước hết xin kể đến KQ Nguyễn Tú. Lúc đó đang phục vụ tại Văn Phòng Tham Mưu Phó Tiếp Vận, KQ Nguyễn Tú xuất thân khóa 55 Trường Võ Bị Không Quân Pháp, theo ngành kỹ sư cơ khí. Vào những năm 1964-65, anh sang Mỹ lấy bằng Master về Mechanical Engineering. Nói cách khác, anh Tú là người có khả năng vẻ ra một "blue print" để "design" một máy bay loại đồ chơi này chứ không cần phải mua "blue print" của người khác. Chiếc Tiền Phong 1 là máy bay nhỏ, cánh thấp, trang bị bánh mũi, hai chỗ ngồi cạnh nhau như trên T-37, hai đầu cánh có gắn hai bình xăng (**). Về khả năng bay, cũng gần như chiếc T-34 của các quân trường Mỹ một thời gian, nhưng sau được thay bằng T-37 nên không còn sản xuất T-34 nữa. Tuy chưa được bay T-34, nhưng khi nghe các bạn kể lại, chúng tôi rất lấy làm thích , nếu KQVN chúng ta có được một máy bay như vậy để huấn luyện. Một chiếc không khó lắm thì không mấy tốt, vì sau khi tốt nghiệp, khóa sinh sẽ khớp khi lên một chiếc ở đơn vị chiến đấu khó bay hơn máy bay của trường. Nhưng chiếc T-34 có nhiều khả năng, như bay phi cụ, bay nhào lộn không thua gì chiếc T-6 nhưng dễ lái hơn nhờ bánh mũi. Tóm lại, ai bay T-34 rồi thì có thể mường tượng chiếc Tiền Phong 1 cũng có những khả năng tương tự. Phòng lái có mui plastic một mãnh úp lên trông rất xinh đẹp và có vẻ "phản lực" lắm. Như trên đã kể, Nguyễn Tú có phải là một người lái bay thử không? Không! Nhưng Nguyễn Tú có mặt trên nhiều lần bay thử khi các hoa tiêu bay thử có điều không hiểu. Những khuyết điểm ghi nhận trong lúc bay thử đều đươc ghi chép cẩn thận để về sau sửa chữa kỹ càng. Nghĩa là Nguyễn Tú là kỹ sư trưởng dự án và là người theo dõi dự án từ đầu đến cuối, từ A đến Z, từ tổ chức lớn nhất như Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo thuộc Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận Không Quân đến các Không Đoàn Bảo Trì và Tiếp Liệu thuộc các Sư Đoàn Không Quân. Sở dĩ anh Tú phải bay, hay là được bay trong chuyến bay thử đầu tiên, tuy không hưởng lương phi hành, vì anh nắm vững kỹ thuật về máy bay này, vì anh nhận lãnh trách nhiệm hoàn thành phần chế tạo đúng chuẩn những gì thay đổi trong "blue print", vì anh là tinh thần của dự án.
Hoa tiêu bay thử chính là cố Thiếu Tướng Võ Xuân Lành, lúc đó là Tư Lệnh Phó Không Quân chúng ta. Ông xuất thân Trường Võ Bị Thủ Đức, theo học khóa 2 hoa tiêu tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, cùng khóa với các ông Vũ Thượng Văn, Trần Đình Hòe và Nguyễn Khắc Ngọc. Dường như ông cũng đã tốt nghiệp khóa B-25 tại Hoa Kỳ. Về nước,ông phục vụ tại TTHLKQ Nha Trang, chỉ huy phó TTHLKQ dưới quyền ông Từ Bộ Cam. Vào đầu năm 1964, ông chỉ huy Phi Đoàn 514 tại Biên Hòa, và Không Đoàn 23 khi thành lập Không Đoàn này, sau đó về Tân Sơn Nhất làm Tư Lệnh Phó Không Quân cho đến ngày cuối cùng. Ông đã bay trên nhiều loại máy bay của Không Quân Việt Nam, từ máy bay "Bà Già" MS-500, cho đến L-19, T-6, A-1H, T-37, F-5...Thích nghiệp bay, khiêm tốn, anh dũng, hòa mình với mọi người trong nghề hay chỉ là thợ đá banh, anh quân cảnh thục bi-da, uống bia Quân Tiếp Vụ, hút thuốc lá Ruby Queen Quân Tiếp Vụ...Ông là người đơn giản, không thích gái vì ông đã có gia đình mà ông dấu rất kỹ đến độ nhiều người cứ tưởng là ông vẫn sống độc thân, mãi cho đến khi đã sang Mỹ rồi, người ta mới biết ông có một gia đình hoàn chỉnh. Ông làm nhiều, nói ít. Mỗi khi dẫn một phái đoàn thăm viếng đơn vị, đơn vị trưởng đơn vị được, hay bị thăm viếng, đều biết đây không phải là phái đoàn ăn chơi, nên ráo riết chuẩn bị để trả lời những vụ việc đúng theo nhiệm vụ ấn định cho tổ chức liên hệ. Ông giải quyết vấn đề đến nơi đến chốn, và mười lần như một, báo cáo cặn kẽ cho Tư Lệnh Không Quân, đầy đủ, về tình như về lý. Ông là người mà trên dưới Không Quân ai cũng thương mến và cảm phục. Trái lại, ngoài Không Quân, những người biết ông nhiều có lẽ là các đội bóng tròn của sinh viên, các hội bóng lão tướng quanh vùng Saigon, Cho Lon, các đội bóng ở những tỉnh lẻ khi tổ chức giao hữu khi ông còn là Tư Lệnh Không Đoàn 23 ở Biên Hòa. Ông thành thật với người và với chính mình. Khi không rõ điều gì thì ông hỏi cho hiểu rõ, không ngại người ta chê mình thiếu sót về năng khiếu hay kiến thức. Nhờ vậy mà ông học nhanh, tiến bộ vững chắc trong ngành nghề của ông. Cũng như nhiều người, ông bay giỏi, nhưng khác hơn người là ông dùng tài năng của ông để phục vụ. Ông xông pha mọi chiến trường với vai một hoa tiêu không cần cấp bậc trên áo bay. Nhưng mọi người đều biết là ông khi ông lên tiếng trên máy vô tuyến trong những trường hợp cấp bách nhất. Nói về bay thử, đây là vụ đầu tiên, chứ không như Bob Hoover của hãng Northrop. Do đó, có nhiều điều chưa hiểu, ông thương lượng với anh hoa tiêu bay thử thứ hai là anh Lê Xuân Lan.
Lê Xuân Lan tốt nghiệp hạng nhì khóa 58A lấy tên Trần Duy Kỷ. Vì điểm tổng kết thua anh Chế Văn Nghĩa, nhưng điểm phi huấn của anh là số một. Anh được bổ nhiệm về Phi Đoàn 514 để được huấn luyện tiếp tục trên T-6G và A-1H. Từ đó anh là hoa tiêu khu trục chuyên nghiệp dưới cái lò đào tạo khó khăn này. Sau này, anh có dịp theo học A-37 và đã được chọn theo khóa huấn luyện viên A-37. Anh lưu lại Hoa kỳ rất lâu để làm sĩ quan liên lạc Không Quân, giải quyết những vấn đề loại hay không loại khóa sinh trên A-37 tại các quân trường dạy lái. Về nước, anh được bổ nhiệm về Văn Phòng Tham Mưu Phó Huấn Luyện của Bộ Tư Lệnh Không Quân. Sau đó, anh đã bay trên F-5 và một thời gian ngắn được bổ nhiệm về Văn Phòng Phụ Tá Phòng Không tại BTLKQ. Khi thành lập Trung Tâm Phòng Không Bắc, anh được cử làm Giám Đốc Trung Tâm Phòng Không Bắc cho đến cuối cùng. Cũng là một hoa tiêu can trường, đã từng lập nhiều chiến công trên mặt trận, mà lại có tài bay như một thiên phú. Nói ít, hiểu nhiều. Tự tin nhưng không khoe khoang. Có ngày anh hỏi tôi về những điều anh thắc mắc về chiếc máy bay Tiền Phong 1 . Anh bảo dường như máy bay không chịu đáp khi kéo là, mà cứ trôi mãi trên không. Nếu gặp gió ngang thì bị bê ra ngoài phi đạo dễ dàng. Chỉ vì mặt cánh nâng quá to, khi sát mặt đất tạo ra một gối khí động (air cushion) làm chân đáp quá ngắn không chạm được đất. Anh còn nói khi "roll" thì không ngọt vì như có sức cưỡng lại. Chỉ vì độ nhị diện quá to để làm cho phi cơ vững vàng khi bị gió động sẽ tự sửa chữa về thế bay trước. Muốn giải quyết hai khuyết điểm đó, có lẽ điều dễ thực hiện nhất là chặt bỏ bớt hai đầu cánh. Nhưng làm thế thì rất tốn công, nhất là hai đầu cánh có gắn hai bình xăng, một mặt tăng thêm trữ lượng xăng, mặt khác giảm được sức cản do luồng gió xoáy (**) tạo ra ở hai đầu cánh. Có lẽ anh Lan đã thảo luận với kỹ sư Tú, nhưng kết quả vẫn giữ nguyên như cũ. Và sau nhiều lần bay thử, chiếc máy bay Tiền Phong 1 được lưu giữ trong hangar của Sư Đoàn 5 Không Quân cho đến ngày tàn.
Đó là những gì tôi biết được về chiếc Tiền Phong 1. Làm máy bay cho Không Quân Việt Nam ta là một hãnh diện, là một mơ ước cho nhiều kỹ sư chưa tốt nghiệp. Do đó, có một hôm, Quân Cảnh phối hợp với Cảnh Sát mang về Bộ Tư Lệnh Không Quân tại Tân Sơn Nhất một chiếc máy bay (không biết có nên đặt tên là Tiền Phong 2 hay không?!). Chiếc này giống như chiếc O-1A, có cánh cao và dài, trang bị một động cơ của chiếc mô-tô Honda 50cc. Trong phòng lái ta thấy một chiếc ghế ngồi thường ở các phòng trà bỏ túi. Cũng có tay lái, cũng có đồng hồ. Chất lợp cánh và thân máy bay làm bằng loại kim khí hợp chất nhôm lấy từ các vĩ kiện hàng (palette) để các kiện hàng có thể thả từ máy bay vận tải có cửa phía sau như C-130, C-123, C-119. Hợp kim này rất chắc chắn nhưng rất nặng. Cánh quạt lấy từ một máy bay O-1A. Người chế tạo là một Trung Sĩ thuộc Sư Đoàn 5 Không Quân. Anh đã tốn nhiều công sức ráp lên chiếc Tiền Phong 2 trong một nhà chứa xe của anh, và ngày tốt đẹp đã đến, anh mang chiếc máy bay này ra xa lộ Đại Hàn (***)khoảng từ lộ Saigon-Tây Ninh nối liền với Quốc Lộ 4 từ Phú Lâm về Tân An. Vì cản trở lưu thông trên xa lộ Đại Hàn, nên Cảnh Sát kết hợp với Quân Cảnh mang tác giả và chiếc Thần Phong 2 về Bộ Tư Lệnh Không Quân. Chiếc này được lưu giữ ở ngay trước văn phòng của kỹ sư Tú ít nhất một tuần lễ. Thật là một thách đố cho các kỹ sư hàng không của chúng ta. Anh em tại BTLKQ thách nhau ai dám bay chiếc Tiền Phong 2, và mọi người đều hướng về vị Tư Lệnh của chúng ta mà... cười vỡ bụng.
Gman
Chú thích:
(*)Phi trường Tân Sơn Nhất vào thời điểm này có hai phi đạo song song, cứ mỗi 30 giây đều có một cất cánh hay hạ cánh. So với phi trường Kennedy ở New York cũng cùng một mức độ bận rộn, nhưng ở New York, chỉ có những phi cơ hàng không dân sự, có đi và đến với tốc độ ngang nhau, rất dễ điều hành hơn nhiều. Trong khi đó, tại Tân Sơn Nhất, nào là máy bay nhỏ như O-1A, có trực thăng UH-1 của Không Binh Hoa Kỳ đồn trú, có hàng không quốc tế lui tới, có A-1H của Biệt Đoàn 83, thật là linh tinh, nhất là khi vào tần số, cùng nghe một loạt ba thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, trên ba hệ thống vô tuyến FM, VHF và UHF, thật là có một không hai.
(**)Hai bình xăng ở hai đầu cánh làm giảm đi các luồng gió xoáy thường được gọi là tourbillons de Karmann(do nhà bác học Von Karmann người Đức tìm ra), vì áp suất dưới cánh to hơn áp suất khí quyển ở trên cánh, nên ở đầu cánh, không khí di chuyển từ dưới lên trên. Chiếc MD-11 có một vách chận nhỏ cũng có tác dụng chận luồng khí quyển này. Trên Tiền Phong 1 có sáng kiến để bình xăng ở đầu cánh cũng làm giảm sức cản do các luồng gió xoáy Karmann.
(***) Xa lộ Đại Hàn là do Công Binh Đại Hàn giúp đỡ xây cất. Đó là một vòng đai ven đô (belt) để ta có thể từ miền Nam đi về hướng miền Đông hay miền Trung thì khỏi cần chạy qua Đô Thị náo nhiệt Saigon-Cholon, mà đi thẳng đến đường đi Tây Ninh hoặc đi Biên Hòa(xa lộ Biên Hòa). Lúc đó, xa lộ này tương đối ít xe chạy, ngoài xe nhà binh và xe Lambretta-500cc chở khách địa phương.
( Biên Hùng chuyển )
****************
Source:
http://www.haingoaiphiemdam.net/Trang.aspx?Id=18TruyenNganPhongSu_237
_,_._,___
ĐÀO VĂN BÌNH * NGƯỜI QUET RÁC
Vào sáng Chủ Nhật, có thể là do ngày nghỉ rảnh rỗi, một người đàn ông trung niên lúi húi quét dọn trước cửa nhà. Ông cầm chiếc chổi và đồ hốt rác quét sạch vỉa hè rồi quét dọc theo lề đường, cẩn thận gom tất cả đám cát, bao ny-lông, mẩu thuốc lá, ly giấy, lá khô và đủ thứ rác rưởi của xã hội văn minh vào thùng, đậy nắp cận thận, đặt ngay ngắn xuống lòng đường, để ngày mai xe rác của thành phố lấy đi. Khi nhận thấy vỉa hè và lòng đường đã khá sạch, ông toan thu dọn để bước vào nhà thì một thanh niên từ xa bước tới, miệng phì phèo điếu thuốc.
Chỉ cần nhìn cách ăn mặc và đi đứng người ta có thể nhận ra đây là một chàng thanh niên ngang tàng. Khi tới chỗ ông đang đứng, người thanh niên rít hơi cuối cùng rồi coi như không có ai, thản nhiên quăng mẩu thuốc lá xuống đường. Nhìn mẩu thuốc là nằm tênh hênh trên mặt vỉa hè sạch trơn, dường như nó có vẻ “phá hoại” và trêu ngươi, cho nên người đàn ông tức giận, lớn tiếng gọi người thanh niên:
-Này, yêu cầu quay lại nhặt tàn thuốc lá lên nghe!
Người thanh niên đã đi cách xa ông khoảng năm, sáu bước, nghe gọi thế quay đầu lại nhìn với vẻ hết sức ngạc nhiên. Anh ta ngạc nhiên vì có thể cả trăm lần quăng mẩu thuốc lá như thế này mà chẳng ai phản ứng gì, nay có một “gã điên” làm chuyện không giống ai. Anh ta quay lại, sẵng giọng hỏi:
-Ông nói gì?
-Yêu cầu cậu nhặt mẩu thuốc lá lên!
Mặt chàng thanh niên đỏ gay:
-Bộ đường phố này của ông hả?
Người đàn ông trả lời ngay:
-Không phải của tôi nhưng tôi tôi quét dọn sạch sẽ. Người tự trọng không bao giờ xả rác bừa bãi. Cậu hiểu điều đó không? Tôi yêu cầu cậu nhặt lên!
Tự ái bị tổn thương, người thanh niên không cần phân biệt đúng-sai, nói như gây sự:
-Không nhặt thì sao?
Sự lớn tiếng qua lại giữa hai bên làm người trong nhà chạy ra, người qua lại trên hè phố tò mò đứng lại. Cuối cùng tất cả đều thấy đây không phải chuyện đại sự cho nên xúm vào can gián. Cuối cùng người thanh niên hậm hực bỏ đi còn người đàn ông đứng phân bua một hồi rồi bực bội bước vào nhà.
***
Ba ngày sau, tại một khu phố khác cách đó khoảng năm, sáu con đường người ta thấy một vị sư đang quét rác tại cổng một ngôi chùa. Hôm nay là Thứ Hai chùa vắng, Phật tử đi làm hết, sau hai ngày cuối tuần bận rộn với sinh hoạt và lễ lạc, rác đã thấy lai rai trên sân. Ngoài ra, còn lá trên cây rụng xuống cho nên thầy trụ trì ra công quét dọn, vừa vận động vừa làm sạch trong ngoài. Đối với người xuất gia, quét rác cũng là “công phu”. Sau khi cổng chùa đã sạch sẽ, sư toan đẩy thùng rác trở vào thì một chàng thanh niên tà tà bước tới. Đây chính là anh chàng đã gây sự với người đàn ông quét rác ba ngày trước.
Khi đi tới cổng chùa, có thể do vô tình, do quán tính, cố tật, hoặc đãng trí, sau khi mở bao thuốc lá, chàng ta rút ra một điếu, châm lửa. Thấy bao thuốc đã hết, chàng ta quăng cả chiếc bao trống không dưới chân bức tường cạnh cổng chùa rồi thản nhiên bước đi. Thế nhưng khi bước đi khoảng năm, sáu thước, có thể do nhớ lại cuộc “đụng độ” với người đàn ông trước đây, chàng ta quay đầu lại xem sự thể như thế nào. Trái với phỏng đoán của mình, vị sư bình thản bước tới chân bức tường, cúi xuống nhặt bao thuốc lá lên, quay lại thùng rác, mở một bao rác nhỏ, bỏ bao thuốc lá trống vào bên trong, cột trở lại, bỏ vào thùng rác rồi lặng lẽ đẩy thùng rác vào bên trong sân chùa, không hề quay nhìn chàng thanh niên …đang ngạc nhiên đứng đó.
***
Ngày hôm sau, chàng thanh niên tới thăm vị sư. Sau khi giới thiệu mình chính là người xả rác trước cổng chùa. Chàng ta kể lại chuyện “đụng độ” với người đàn ông rồi hỏi:
-Thưa thầy, tại sao cùng một chuyện mà thầy lại có lối cư xử nhẹ nhàng hơn người đàn ông kia?
Sư hiền từ đáp:
-Người đàn ông đó là một công dân tốt. Một công dân tốt do làm tròn bổn phận của mình cho nên thường thẳng thắn nói lên cái sai của người khác để cùng nhau sửa chữa trong tinh thần ôn hòa. Tuy nhiên cách hành xử giữa một người thường và một người xuất gia có khác nhau. Người xuất gia không nói về cái lỗi của kẻ khác mà kham nhẫn để kẻ phạm lỗi giác ngộ mà tu sửa. Hai lối hành xử đó không cái nào hơn cái nào, “vạn pháp đều bình đẳng”, chỉ tùy duyên ứng xử mà thôi. Một căn nhà, một ngôi chùa, một khu phố hoặc nơi làm việc cần phải sạch sẽ. Sự sạch sẽ làm trang nghiêm cuộc sống và thế giới.
Ngay đầu óc chúng ta cũng cần sạch sẽ. Muốn sạch sẽ thì phải quét rác. Một chiếc máy điện tử muốn tốt cũng phải “đổ rác”. Đầu óc con người muốn thanh tịnh, sạch sẽ cũng phải “đổ rác”- đổ bớt rác rưởi của tâm hồn. Những ý nghĩ bất tịnh, tương tranh, thù hận, đố kỵ, tị hiềm, những tư tưởng loại trừ, kỳ thị, ghét bỏ đều là rác rưởi của tâm hồn. “Quét rác” và “đổ rác” là việc làm thường xuyên của người nào muốn tâm hồn thanh tịnh. Từ thanh tịnh mà có thanh thản. Vì thanh thản cho nên không động tâm. Vì tâm không động cho nên ít gây đổ vỡ.
***
Ba ngày sau, chàng thanh niên tìm tới nhà người đàn ông, nói lời xin lỗi. Chàng học được một bài học nơi sư, “ Thay vì xả rác xuống đường hoặc nơi công cộng thì nên xả bớt rác trong tâm hồn mình.”
Ngoài đức tính kham nhẫn, có thể sư đã đạt tới mức “vô phân biệt”. Sư cứ thấy rác thì quét mà không hề phân biệt rác từ cây đổ xuống, Phật tử xả ra, nam hay nữ, lạ hay quen cho nên rác của chàng thanh niên cũng thế thôi. Chính vì “vô phân biệt” cho nên sư không động tâm. Không động tâm cho nên sư đã quét rác trong trạng thái “vô tâm”. Mà vô tâm thì an lành./.
Đào Văn Bình
(California 20 Tháng 9, 2013)
HẠ VIỆN MỸ VÀ BIỂN ĐÔNG
HẠ VIỆN MỸ CHỈ TRÍCH MẠNH MẼ TRUNG QUỐC
BienDong.Net: Sáng 04/12/2014, với số phiếu ủng hộ tuyệt đối (100% phiếu tán thành), Hạ viện Mỹ đã thông qua Nghị quyết mang mã số H.Res - 714, nhấn mạnh sự cần thiết tìm giải pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, cho các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Hoa Đông. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Hạ viện Mỹ thông qua một nghị quyết liên quan tới vấn đề Biển Đông và Hoa Đông và chỉ trích đích danh Trung Quốc.
Nghị quyết tái khẳng định sự ủng hộ của Mỹ đối với các nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc luật pháp quốc tế đã được các nước công nhận đối với các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Hoa Đông.
Nghị quyết cũng một lần nữa khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ đối với tự do hàng hải, sử dụng các vùng biển và vùng trời ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương theo luật pháp quốc tế.
Nghị quyết nêu rõ các khu vực biển tại Châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm cả vùng biển và vùng trời, đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự thịnh vượng, ổn định và an ninh của khu vực cũng như thương mại toàn cầu. Các nước ASEAN và Trung Quốc đã thông qua Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông vào năm 2002, theo đó các bên cam kết tôn trọng và đảm bảo tự do hàng hải và hàng không tại Biển Đông theo các nguyên tắc luật pháp quốc tế đã được công nhận trên toàn thế giới, cũng như giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình, không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, căng thẳng đã gia tăng tại các khu vực biển và lãnh thổ có tranh chấp kể từ thời điểm đó.
Nghị quyết đã đưa ra các dẫn chứng cụ thể về các hành động hiếu chiến của Trung Quốc đối với các nước láng giềng ở Biển Đông và biển Hoa Đông như: tàu Trung Quốc đã cố tình đâm tàu tuần duyên Nhật Bản tại biển Hoa Đông; bắn tàu cá của Philippines; 2 lần cắt cáp tàu Việt Nam đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; sử dụng súng đe dọa 4 tàu đánh cá Việt Nam tại vùng biển gần quần đảo Trường Sa. Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc còn mời thầu thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào năm 2012 và hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam vào tháng 5/2014. Hơn 80 tàu Trung Quốc, trong đó có 7 tàu quân sự, đã được triển khai tại đây để hậu thuẫn hành động khiêu khích này.
Nghị quyết nhấn mạnh các tàu hộ tống giàn khoan Hải Dương 981 đã hăm dọa tàu cảnh sát biển Việt Nam, vi phạm Công ước các quy tắc quốc tế về phòng ngừa va chạm trên biển. Tàu Trung Quốc còn đâm va, sử dụng trực thăng và vòi rồng để ngăn cản các tàu Việt Nam, đồng thời thiết lập khu vực cấm qua lại với bán kính 3 hải lý xung quanh giàn khoan Hải Dương 981. Các hành động trên nhằm đơn phương thay đổi hiện trạng bằng vũ lực. Ngoài ra, Trung Quốc còn đơn phương tuyên bố thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên biển Hoa Đông với những quy định vi phạm Công ước Chicago của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế.
Nghị quyết của Hạ viện Mỹ nhấn mạnh, tự do hàng hải và việc sử dụng hợp pháp vùng biển và vùng trời đã được quy định trong luật pháp quốc tế chứ không phải do bất kỳ quốc gia nào ban phát. Mỹ quan ngại sâu sắc về những hành động đơn phương nhằm ngăn cản nước khác thực thi quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước đó thông qua những đòi hỏi chủ quyền không dựa trên luật pháp quốc tế hay tuyên bố thành lập đơn vị hành chính và quân sự trên các khu vực tranh chấp tại Biển Đông và Hoa Đông, cũng như áp dụng quy định đánh bắt cá mới tại các vùng tranh chấp, làm gia tăng căng thẳng trong khu vực.
Nghị quyết nêu rõ dù không phải là bên liên quan đến các tranh chấp biển tại Biển Đông hay biển Hoa Đông nhưng Mỹ có lợi ích trong việc giải quyết một cách hòa bình, thông qua con đường ngoại giao và phù hợp với luật pháp quốc tế đối với các đòi hỏi gây tranh cãi. Mỹ có lợi ích trong tự do hàng hải và hàng không, các hoạt động thương mại tự do không bị cưỡng ép, hăm dọa hoặc sử dụng vũ lực. Hạ viện Mỹ kêu gọi các bên làm rõ hoặc điều chỉnh yêu sách chủ quyền và các vùng biển theo luật pháp quốc tế.
Nghị quyết tái khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của chính phủ Mỹ đối với việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trên biển tại Biển Đông và biển Hoa Đông một cách hòa bình, đồng thời cam kết tiếp tục các nỗ lực nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một tiến trình hòa bình và phối hợp để giải quyết các tranh chấp này. Nghị quyết cũng tái khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Hạ viện Mỹ đối với tự do hàng hải và hàng không, lên án các hành động cưỡng ép, đe dọa hoặc sử dụng vũ lực bằng tàu quân sự hoặc dân sự nhằm cản trở sự tự do này tại các vùng biển quốc tế, thay đổi hiện trạng hoặc gây mất ổn định tại Châu Á - Thái Bình Dương.
Trong bản Nghị quyết, Hạ viện Mỹ hối thúc Trung Quốc kiềm chế, không thực thi Vùng nhận dạng phòng không mà nước này đơn phương tuyên bố tại biển Hoa Đông, không thiết lập các vùng nhận diện phòng không mới ở Biển Đông. Hạ viện Mỹ ủng hộ chính phủ Mỹ tiếp tục có những hành động duy trì tự do hàng hải, hàng không tại các vùng biển và vùng trời quốc tế tại Biển Đông và biển Hoa Đông.
Nghị quyết H.Res - 714 kêu gọi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các đồng minh, bạn bè của Mỹ và các nước có tranh chấp cùng nhau nỗ lực tìm giải pháp hòa bình cho các tranh chấp, thông qua việc yêu cầu các bên thực thi đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên (DOC), tiến tới thiết lập một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); khuyến khích chính phủ Mỹ tăng cường các quan hệ đối tác trong khu vực nhằm xây dựng năng lực trong nhận thức về biển, đảm bảo tự do hàng hải, duy trì hòa bình và ổn định cũng như sự tôn trọng đối với các nguyên tắc luật pháp đã được quốc tế công nhận.
Trước đó, Nghị quyết H.Res - 714 đã được Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ nhất trí thông qua ngày 21/11/2014. Bảy Hạ nghị sỹ cùng đỡ đầu Nghị quyết này là Eni F.H. Faleomavaega, Elliot Engel, Steve Chabot, Madeleine Bordallo, Ros - Latihnen, Ani Bera và Steve Stockman.
Hạ viện Mỹ lần đầu tiên thông qua Nghị quyết về Biển Đông và biển Hoa Đông với sự đồng thuận cao là do Trung Quốc gia tăng các hành vi đơn phương hiếu chiến với các nước láng giềng ở Biển Đông và biển Hoa Đông, nhất là từ đầu năm 2014, Trung Quốc đã đẩy mạnh các hoạt động làm thay đổi nguyên trạng, phá vỡ cân bằng lực lượng ở khu vực. Mỹ đã nhiều lần hối thúc Trung Quốc kiềm chế, hành xử có trách nhiệm, nhưng Trung Quốc vẫn phớt lờ các ý kiến của Mỹ và ngày càng hung hăng hơn. Điều này khiến các Hạ Nghị sỹ Mỹ thấy rằng cần thể hiện một lập trường mạnh mẽ phản đối Trung Quốc.
Việc Hạ viện Mỹ lần đầu tiên thông qua một Nghị quyết với những lời lẽ mạnh mẽ lên án Trung Quốc phản ánh rõ sự bức xúc và lo ngại của cơ quan lập pháp Mỹ đối với sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Các nội dung của Nghị quyết H.Res - 714 là sự hậu thuẫn mạnh mẽ cho các nước ven Biển Đông và biển Hoa Đông trong cuộc đối phó với chính sách bá quyền trên biển của Trung Quốc./.
BDN
BienDong.Net: Sáng 04/12/2014, với số phiếu ủng hộ tuyệt đối (100% phiếu tán thành), Hạ viện Mỹ đã thông qua Nghị quyết mang mã số H.Res - 714, nhấn mạnh sự cần thiết tìm giải pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, cho các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Hoa Đông. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Hạ viện Mỹ thông qua một nghị quyết liên quan tới vấn đề Biển Đông và Hoa Đông và chỉ trích đích danh Trung Quốc.
Nghị quyết tái khẳng định sự ủng hộ của Mỹ đối với các nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc luật pháp quốc tế đã được các nước công nhận đối với các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Hoa Đông.
Nghị quyết cũng một lần nữa khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ đối với tự do hàng hải, sử dụng các vùng biển và vùng trời ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương theo luật pháp quốc tế.
Nghị quyết nêu rõ các khu vực biển tại Châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm cả vùng biển và vùng trời, đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự thịnh vượng, ổn định và an ninh của khu vực cũng như thương mại toàn cầu. Các nước ASEAN và Trung Quốc đã thông qua Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông vào năm 2002, theo đó các bên cam kết tôn trọng và đảm bảo tự do hàng hải và hàng không tại Biển Đông theo các nguyên tắc luật pháp quốc tế đã được công nhận trên toàn thế giới, cũng như giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình, không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, căng thẳng đã gia tăng tại các khu vực biển và lãnh thổ có tranh chấp kể từ thời điểm đó.
Nghị quyết đã đưa ra các dẫn chứng cụ thể về các hành động hiếu chiến của Trung Quốc đối với các nước láng giềng ở Biển Đông và biển Hoa Đông như: tàu Trung Quốc đã cố tình đâm tàu tuần duyên Nhật Bản tại biển Hoa Đông; bắn tàu cá của Philippines; 2 lần cắt cáp tàu Việt Nam đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; sử dụng súng đe dọa 4 tàu đánh cá Việt Nam tại vùng biển gần quần đảo Trường Sa. Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc còn mời thầu thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào năm 2012 và hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam vào tháng 5/2014. Hơn 80 tàu Trung Quốc, trong đó có 7 tàu quân sự, đã được triển khai tại đây để hậu thuẫn hành động khiêu khích này.
Nghị quyết nhấn mạnh các tàu hộ tống giàn khoan Hải Dương 981 đã hăm dọa tàu cảnh sát biển Việt Nam, vi phạm Công ước các quy tắc quốc tế về phòng ngừa va chạm trên biển. Tàu Trung Quốc còn đâm va, sử dụng trực thăng và vòi rồng để ngăn cản các tàu Việt Nam, đồng thời thiết lập khu vực cấm qua lại với bán kính 3 hải lý xung quanh giàn khoan Hải Dương 981. Các hành động trên nhằm đơn phương thay đổi hiện trạng bằng vũ lực. Ngoài ra, Trung Quốc còn đơn phương tuyên bố thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên biển Hoa Đông với những quy định vi phạm Công ước Chicago của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế.
Nghị quyết của Hạ viện Mỹ nhấn mạnh, tự do hàng hải và việc sử dụng hợp pháp vùng biển và vùng trời đã được quy định trong luật pháp quốc tế chứ không phải do bất kỳ quốc gia nào ban phát. Mỹ quan ngại sâu sắc về những hành động đơn phương nhằm ngăn cản nước khác thực thi quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước đó thông qua những đòi hỏi chủ quyền không dựa trên luật pháp quốc tế hay tuyên bố thành lập đơn vị hành chính và quân sự trên các khu vực tranh chấp tại Biển Đông và Hoa Đông, cũng như áp dụng quy định đánh bắt cá mới tại các vùng tranh chấp, làm gia tăng căng thẳng trong khu vực.
Nghị quyết nêu rõ dù không phải là bên liên quan đến các tranh chấp biển tại Biển Đông hay biển Hoa Đông nhưng Mỹ có lợi ích trong việc giải quyết một cách hòa bình, thông qua con đường ngoại giao và phù hợp với luật pháp quốc tế đối với các đòi hỏi gây tranh cãi. Mỹ có lợi ích trong tự do hàng hải và hàng không, các hoạt động thương mại tự do không bị cưỡng ép, hăm dọa hoặc sử dụng vũ lực. Hạ viện Mỹ kêu gọi các bên làm rõ hoặc điều chỉnh yêu sách chủ quyền và các vùng biển theo luật pháp quốc tế.
Nghị quyết tái khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của chính phủ Mỹ đối với việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trên biển tại Biển Đông và biển Hoa Đông một cách hòa bình, đồng thời cam kết tiếp tục các nỗ lực nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một tiến trình hòa bình và phối hợp để giải quyết các tranh chấp này. Nghị quyết cũng tái khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Hạ viện Mỹ đối với tự do hàng hải và hàng không, lên án các hành động cưỡng ép, đe dọa hoặc sử dụng vũ lực bằng tàu quân sự hoặc dân sự nhằm cản trở sự tự do này tại các vùng biển quốc tế, thay đổi hiện trạng hoặc gây mất ổn định tại Châu Á - Thái Bình Dương.
Trong bản Nghị quyết, Hạ viện Mỹ hối thúc Trung Quốc kiềm chế, không thực thi Vùng nhận dạng phòng không mà nước này đơn phương tuyên bố tại biển Hoa Đông, không thiết lập các vùng nhận diện phòng không mới ở Biển Đông. Hạ viện Mỹ ủng hộ chính phủ Mỹ tiếp tục có những hành động duy trì tự do hàng hải, hàng không tại các vùng biển và vùng trời quốc tế tại Biển Đông và biển Hoa Đông.
Nghị quyết H.Res - 714 kêu gọi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các đồng minh, bạn bè của Mỹ và các nước có tranh chấp cùng nhau nỗ lực tìm giải pháp hòa bình cho các tranh chấp, thông qua việc yêu cầu các bên thực thi đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên (DOC), tiến tới thiết lập một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); khuyến khích chính phủ Mỹ tăng cường các quan hệ đối tác trong khu vực nhằm xây dựng năng lực trong nhận thức về biển, đảm bảo tự do hàng hải, duy trì hòa bình và ổn định cũng như sự tôn trọng đối với các nguyên tắc luật pháp đã được quốc tế công nhận.
Trước đó, Nghị quyết H.Res - 714 đã được Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ nhất trí thông qua ngày 21/11/2014. Bảy Hạ nghị sỹ cùng đỡ đầu Nghị quyết này là Eni F.H. Faleomavaega, Elliot Engel, Steve Chabot, Madeleine Bordallo, Ros - Latihnen, Ani Bera và Steve Stockman.
Hạ viện Mỹ lần đầu tiên thông qua Nghị quyết về Biển Đông và biển Hoa Đông với sự đồng thuận cao là do Trung Quốc gia tăng các hành vi đơn phương hiếu chiến với các nước láng giềng ở Biển Đông và biển Hoa Đông, nhất là từ đầu năm 2014, Trung Quốc đã đẩy mạnh các hoạt động làm thay đổi nguyên trạng, phá vỡ cân bằng lực lượng ở khu vực. Mỹ đã nhiều lần hối thúc Trung Quốc kiềm chế, hành xử có trách nhiệm, nhưng Trung Quốc vẫn phớt lờ các ý kiến của Mỹ và ngày càng hung hăng hơn. Điều này khiến các Hạ Nghị sỹ Mỹ thấy rằng cần thể hiện một lập trường mạnh mẽ phản đối Trung Quốc.
Việc Hạ viện Mỹ lần đầu tiên thông qua một Nghị quyết với những lời lẽ mạnh mẽ lên án Trung Quốc phản ánh rõ sự bức xúc và lo ngại của cơ quan lập pháp Mỹ đối với sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Các nội dung của Nghị quyết H.Res - 714 là sự hậu thuẫn mạnh mẽ cho các nước ven Biển Đông và biển Hoa Đông trong cuộc đối phó với chính sách bá quyền trên biển của Trung Quốc./.
BDN
Monday, December 15, 2014
RFI PHỎNG VẤN GS. VŨ QUỐC THÚC
GS Vũ Quốc Thúc: " Phải chọn con đường vì dân tộc"
ngày 08/12/2014. RFI
Tập hồi ký của Giáo sư Vũ Quốc Thúc có tựa đề “Thời đại của tôi” ( gồm 2 cuốn “ Nhìn lại 100 năm lịch sử “ ( xuất bản năm 2009 ) và “Đời tôi trải qua các thời biến” ( xuất bản năm 2010) đã được sang tiếng Anh và vừa được xuất bản tại Hoa Kỳ.
Đây là một sự kiện đáng chú ý bởi vì Giáo sư Vũ Quốc Thúc không những có nhiều đóng góp trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam trước năm 1975, mà còn từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa từ thời tổng thống Ngô Đình Diệm : Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục, Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, Quốc vụ khanh đặc trách Tái thiết và Phát triển...
Đặc biệt, GS còn là đồng tác giả hai bản phúc trình Stanley-Vũ Quốc Thúc ( 1961 ) và Phúc trình Lilienthal-Vũ Quốc Thúc ( 1968 ) về tái thiết thời hậu chiến. Ấy là chưa kể rất nhiều sách và bài khảo luận về các vấn đề chính trị, kinh tế bằng tiếng Việt và tiếng Pháp.
Sinh năm 1920, tức là năm nay đã 94 tuổi, có thể nói GS Vũ Quốc Thúc là một trong số hiếm hoi các nhân chứng trực tiếp của thời cuộc Việt Nam suốt gần 100 năm qua, từ thời chế độ Pháp thuộc năm 1900 cho đến thời chế độ Cộng sản, cụ thể là đến năm 2000. Toàn bộ 100 năm lịch sử đó đã được Giáo sư tóm gọn trong cuốn đầu của tập hồi ký, qua cái nhìn của người trong cuộc.
Khác với cuốn đầu, gần như thuần túy mang tính biên khảo, cuốn thứ hai mới thật sự là hồi ký Vũ Quốc Thúc, vì trong đó ông trình bày rất nhiều chi tiết về cá nhân, về gia đình, dòng tộc và sự nghiệp chính trị của ông. Nhưng Giáo sư Vũ Quốc Thúc cũng không quên đưa vào hồi ký những suy tư, nhưng trăn trở của ông về thời cuộc Việt Nam trước đây và hiện nay.
Ngày 08/12/2014 vừa qua, chúng tôi đã được Giáo sư Nguyễn Thái Sơn dẫn đến nhà riêng của Giáo sư Vũ Quốc Thúc ở Nanterre, nằm không xa khu La Défense, ngoại ô Paris, để phỏng vấn ông nhân dịp cuốn hồi ký được xuất bản bằng tiếng Anh tại Hoa Kỳ. Tuy năm nay đã 94 tuổi, nhưng bầu nhiệt huyết tuổi thanh xuân, lòng yêu nước thương nòi, nỗi lo cho tiền đồ dân tộc hầu như vẫn nguyên vẹn trong con người Giáo sư Vũ Quốc Thúc. Càng nói giọng của ông càng hùng hồn, lập luận càng khúc chiết, rành mạch, tưởng như Giáo sư vẫn còn đứng trên bục giảng đường đại học năm xưa.
Trích đoạn phỏng vấn :
GS Vũ Quốc Thúc: Thực ra, khi tôi viết cuốn hồi ký kể về nhiều câu chuyện liên quan đến bản thân và gia đình mình, tôi không hề nghĩ đến khả năng cuốn hồi ký đó được phổ biến cho nhiều người ngoài gia đình đọc.
Mục đích của cuốn hồi ký này là để cho cháu chắt tôi hiểu được tại sao ông cụ của mình đã phải rời bỏ quê hương sang định cư bên Pháp, khiến cho chúng mình bây giờ trở thành công dân Pháp, xem Pháp là quê hương chính, còn Việt Nam là quê hương thứ hai, mặc dù chúng ta không bao giờ quên cái quê hương thứ hai đó. Tôi muốn cho cháu chắt tôi biết trong hoàn cảnh nào tôi đã phải bỏ nước ra đi, để thấy tâm tư của một bậc tiền bối, đâu phải là ra đi chỉ mưu cầu những an ninh, lạc thú ở ngoại quốc, mà trái lại luôn luôn hướng về quê cha đất tổ.
Thành ra hồi ký tôi chỉ viết bằng tiếng Việt, xuất bản từ Mỹ vào năm 2010, tức là cách đây đã 4 năm rồi. Nếu tôi có ý đồ vận động dư luận các nước Tây Phương, nhất là ở Âu Châu hay là Mỹ, thì tôi đã viết bằng tiếng Pháp rồi, vì tôi đã được đào tạo ở Pháp trong bao nhiêu năm rồi, viết bằng tiếng Pháp dễ hơn ! Chứ còn biểu tôi viết bằng tiếng Anh thì, thú thật, trình độ Anh ngữ của tôi còn kém lắm ! Vì vậy nên có chuyện dịch ra tiếng Anh này.
Khi được đề nghị cho dịch cuốn hồi ký sang tiếng Anh thì tôi thấy không có gì trở ngại cả, bởi vì trong cuốn hồi ký của tôi, những sự việc xảy ra như thế nào thì tôi viết y như thế, không thêm, không bớt. Tôi tự xem mình như là một nhân chứng được mời ra trước tòa án lịch sử, tòa án dư luận trong nhiều thế hệ. Khi ra trước một tòa án như thế, nhân chứng phải tuyên thệ: " Tôi xin thề nói sự thực, tất cả sự thực và chỉ có sự thật". Tôi đã áp dụng đúng phưong châm dó trong cuốn hồi ký, không thêm mắm thêm muối cốt để tự mình khoa trương mình.
Trong hai cuốn hồi ký được dịch ra thì tôi chú trọng đến quyển hai, vì trong đó tôi kể nhiều chuyện riêng tư, chứ còn trong quyển một, tôi chỉ kể lại lịch sử, như là một thầy giáo giảng bài cho học sinh: Đây là những gì tôi đã được biết, đã được phổ biến, mà tôi còn nhớ để thuật lại, những điều mà tôi tin đó là sự thực.
RFI : Giáo sư có hy vọng là cuốn hồi ký này, khi được dịch sang tiếng Anh và xuất bản tại Hoa Kỳ, sẽ có tác động phần nào đến dư luận Mỹ, để họ hiểu rõ hơn về hoàn cảnh của Việt Nam trước đây và hiện nay?
GS Vũ Quốc Thúc : Tôi không dám ngông cuồng đến độ tin rằng cuốn sách của tôi sẽ làm sáng tỏ hơn nhiều chuyện hãy còn mờ ám trong lịch sử, nhất là trong quan hệ Việt - Mỹ. Nhưng tôi thấy rằng ở Hoa Kỳ, trước khi ra một biện pháp gì đó, hay thay đổi một chính sách nào đó, người ta thường thăm dò dư luận. Tôi coi việc phổ biến hồi ký của tôi phần nào như là một cách để họ thăm dò dư luận, không chỉ trong người Mỹ gốc Việt, mà cả những người Mỹ khác và dư luận thế giới.
Tại sao ? Là tại vì trong cuốn hồi ký của tôi, ngoài những chuyện mà tôi kể lại, mà có thể một số người nay mới biết về chi tiết, tôi còn có những suy tư về những chuyện trọng đại, như chính sách chống cộng, chiến tranh lạnh, việc Hoa Kỳ can thiệp...
Tôi hy vọng khi hồi ký được dịch sang Anh ngữ thì sẽ có nhiều người biết hơn, chứ còn nếu chỉ là bản tiếng Việt thì chỉ có một số nhỏ người Việt tha thiết với các vấn đề của dân tộc mới đọc thôi. Tôi cũng hy vọng là khi sách được dịch sang Anh ngữ, được phổ biến trong giới sành Anh ngữ, thì chính đồng bào Việt Nam ở quốc nội sẽ quan tâm hơn đến. Tầng lớp trẻ, nhất là những người du học ở nước ngoài, có khi đọc tiếng Anh còn dễ hơn đọc tiếng Việt và khi họ đọc được bản tiếng Anh, có thể họ sẽ trở lại tìm đọc nguyên bản tiếng Việt
Còn cuốn sách của tôi sẽ có tác động gì đến chính sách của Hoa Kỳ hay không, thì quả thật tôi không dám tin như thế, vì Hoa Kỳ có chính sách của họ, họ cứ làm. Ở đây họ chỉ thăm dò dư luận. Có thể họ sẽ dùng cuốn sách của tôi để biện minh cho một số biện pháp mà họ sẽ thi hành. Đó là hy vọng của tôi thôi.
RFI : Quan hệ Mỹ-Việt là vấn đề nhiều người quan tâm hiện nay, nhất là vì giới lãnh đạo Hà Nội hiện nay có vẻ muốn dựa nhiều hơn vào Hoa Kỳ và Hoa Kỳ thì muốn tăng cường quan hệ với Việt Nam, cụ thể gần đây họ đã bãi bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam. Trong hồi ký, Giáo sư đã nói nhiều đến thái độ của Mỹ trong thời gian chiến tranh Việt Nam, nhất là sau khi đã ký hiệp định Paris để có thể rút quân. Khi miền Bắc tấn công miền Nam, tức là vi phạm hiệp định Paris, Hoa Kỳ đã không có phản ứng gì, khiến miền Nam lọt vào tay Cộng sản. Nhìn lại giai đoạn lịch sử ấy, Giáo sư có nhận định như thế nào?
Giáo sư Vũ Quốc Thúc : Hoa Kỳ, cũng như tất cả các cường quốc khác, phải chú tâm trước hết đến uy tín quốc tế của họ, rồi đến những quyền lợi thực tế của họ. Thành ra, khi Hoa Kỳ can thiệp vào bất cứ nơi nào trên thế giới, mục đính trước tiên của họ là bảo vệ uy tín của đệ nhất siêu cường thế giới hiện nay, rồi nghĩ đến những quyền lợi thực tiễn, như là về dầu hỏa, về xuất cảng...
Chứ còn bảo rằng Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam để tranh đấu cho Việt Nam thì đời nào ! Cái đó về sau thì có thật đấy, tức là khi mà người ta gởi quân lính sang, trợ giúp khí giới, thì tất nhiên là người ta cũng muốn cho mình đạt được một kết quả nào đó. Chứ chính mình thì đời nào chúng ta chấp nhận cho ngoại quốc xen lấn vào, để rồi mình phải thi hành đường lối của ngoại quốc !
Chính quyền nào ở nước ta cũng vậy, Không một chính quyền nào, dù thiên tả hay thiên hữu, lại quên các vấn đề của dân tộc. Dù không công khai nói là bảo vệ quyền lợi dân tộc, nhưng trong thâm tâm, bất cứ chính quyền nào cũng phải nghĩ đến quyền lợi dân tộc.
Đâu phải một khi người ta nắm quyền được chính quyền là người ta quên hẳn quyền lợi dân tộc. Việt Nam mình đâu phải lúc nào cũng nhắm mắt theo các cường quốc ! Bao giờ mình cũng ý thức được quyền lợi trường tồn của dân tộc. Tôi tin là như thế. Đã là người Việt thì không thể nào phản bội quyền lợi dân tộc ! Dù muốn dù không, tiềm ẩn trong trái tim người ta vẫn có lòng yêu nước, vẫn nhớ lại những truyền thống oai hùng của dân tộc mình. Không ai dám phản bội Tổ quốc một cách trắng trợn.
RFI : Thưa Giáo sư, trong bối cảnh mà hiểm họa xâm lăng từ Trung Quốc ngày càng rõ nét, việc Hoa Kỳ bãi bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam là một điều tốt ?
Giáo sư Vũ Quốc Thúc : Việc mình trông cậy hoàn toàn vào ngoại bang để bảo vệ quyền lợi dân tộc là chuyện bất đắc dĩ. Trong hoàn cảnh lịch sử mà mình chưa đủ sức để tự bảo vệ, thì mình phải dựa vào một ngoại bang. Nhưng điều trước tiên là mình phải bồi dưỡng nội lực của mình đã, để có thể tự vệ được.
Khi nói bồi dưỡng lực lượng của chính mình, thì không chỉ có lực lượng quân sự mà thôi. Bây giờ ta có thể được Hoa Kỳ bán chịu một số vũ khí hiện đại, nhưng ta đâu có thể hưởng cái đó mãi ? Đến một lúc nào đó chúng ta phải trả nợ.
Mà vũ khí là để làm gì, để giết ai ? Tôi chỉ sợ là Việt Nam mình, nếu không cẩn thận, sẽ lại rơi vào tình trạng như xưa, tức là có hai phe trong nhân dân, một phe thì muốn dựa vào Trung Hoa, phe thì muốn dựa vào Hoa Kỳ. Hai phe đó tất nhiên là xung đột nhau. Hoa Kỳ sẽ dùng hai phe đó để sử dụng các vũ khí sát thương của họ. Chúng ta phải cẩn thận.
Nước ta còn nghèo, còn yếu, nếu mà chỉ nghĩ đến chuyện đánh nhau, thì chẳng qua là chúng ta xuất khẩu xương máu. Trước khi phải sử dụng đến vũ khí hiện đại thì mình phải dùng đến ngoại giao. Trong thế yếu hiện nay của Việt Nam, mình chỉ có thể len lõi giữa những xung đột của các cường quốc, vì quyền lợi của họ có khi là mâu thuẫn nhau, phải tìm cách lái cho họ đi đến chỗ phải bảo vệ chúng ta trên các diễn đàn ngoại giao.
RFI : Tránh một cuộc chiến tranh với Trung Quốc có vẻ cũng là đường lới hiện nay của các nhà lãnh đạo Hà Nội, phải làm hòa với Trung Quốc sau vụ khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981 . Nhưng đồng thời Việt Nam cũng đang cố tranh thủ thêm sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Trong cuốn hồi ký, Giáo sư gọi đó là chính sách đu dây giữa các cường quốc. Nhưng chính sách có nguy cơ sẽ đưa Việt Nam vào thế kẹt ?
Giáo sư Vũ Quốc Thúc : Trong vụ xung đột về giàn khoan, kết quả là Trung Quốc cũng đã rút giàn khoan đi. Cho nên tôi quan niệm thế này : phải luôn phân biệt chiến lược với chiến thuật. Về mặt chiến lược, phải nghĩ đến quyền lợi lâu dài của dân tộc, còn về mặt chiến thuật thì có khi ta phải đi đến một đồng minh này, có khi phải đi với một đồng minh khác.
Chiến lược lâu dài đối với tôi thì không có chuyện lựa chọn giữa Hoa Kỳ hay Trung Quốc, mà chỉ có con đường duy nhất là chọn lựa Việt Nam, tranh đấu cho Việt Nam. Cái gì có lợi cho Việt Nam, thì tôi làm, cái gì ngược lại với quyền lợi trường tồn của Việt Nam, thì tôi chống.
Người ta cứ luôn nói đến chính sách đu dây, nhưng bây giờ tôi nghĩ đến một hình ảnh khác, đó là cái bản lề. Nhìn bản đồ Việt Nam, tôi thấy nó chẳng khác chi bản lề, giúp cho cánh cửa, khi mở, khi đóng, khi quay về tai trái, khi quay về tay mặt. Cho tới nay, cái bản lề ấy chỉ đóng vai trò thụ động, thì tại sao ta không tìm cách điều khiển nó? Mình phải làm chủ cái bản lề ấy để mà ngăn chận, không cho bên nào lấn sang bên kia cả.
Nói cách khác, mình phải có một chính sách dân tộc rõ ràng. Phải có một lực lượng, hay một phần lực lượng để tự vệ đã, rồi mới có thể sử dụng cái vị trí bản lế ấy. Các lực lượng quốc tế nào định sử dụng ta như quân cờ thì lúc đó họ sẽ e dè. Lúc đó, chính là ta đã chọn lựa dân tộc.
RFI: Xin cám ơn Giáo sư Vũ Quốc Thúc.
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20141215-gs-vu-quoc-thuc-phai-chon-con-duong-vi-quyen-loi-dan-toc/
Sinh ra và lớn lên tại Thái Lan, người già nhất xóm nổi ven sông Hồng đang sống những năm cuối đời cùng người vợ trẻ trên con thuyền rách giữa mùa nước cạn kỷ lục.
Sa mạc' ở thủ đô/ Mực nước sông Hồng thấp kỷ lục
Nhìn từ trên cầu Long Biên, xóm nổi bãi Phúc Xá như những mảnh vụn chắp vá. Xóm nổi có 16 nhà với 3 nhà dựng trên bờ.
Mùa nước cạn, xóm nổi dạt vào bờ, người dân ở đây tận dụng thời gian đất không ngập nước để trồng rau, hoa quả cải thiện cuộcsống
Đến mùa nước lũ, những "ngôi nhà" lại trầm mình ra giữa sông, muốn ra xóm nổi thì phải gọi người mang thuyền vào đón.
Nhiều ngôi nhà lác đác trôi dạt dưới chân cầu Long Biên.
Móng nhà thường được làm từ thùng phi, hoặc tiết kiệm hơn là thùng xốp để có thể nổi được trên mặt nước mùa lũ.
Mỗi căn nhà khoảng 12 mét vuông, sinh hoạt chật chội, mất vệ sinh. Mùa nước cạn, họ chỉ có thể đi mua nước sạch để sinh hoạt với giá cao.
Tất cả mọi sinh hoạt đều diễn ra tên "bè gỗ", nhiều người muốn lên bờ, hay về quê nhưng không thể.
Nhưng cây cầu gỗ dẫn ra nhà cũng chênh vênh như chính cuộc đời của họ.
Bé Tâm Anh, 2 tuổi, có thể tự chơi một mình mà không sợ bị rơi xuống nước.
Cuộc sống của những thế hệ mầm non của xóm nổi chỉ gói gọn quanh xóm, thế giới chúng biết được thêm là qua tivi hoặc những người khách xuống thăm xóm.
Lên bờ là ước muốn của những người dân nơi đây, họ không muốn thế hệ sau của mình vẫn tiếp tục cuộc sống khốn khổ tại nơi này, nhưng rất khó.
Làng Cù Lần – khu du lịch chủ yếu hướng du khách đến những hoạt động ngoài trời, thư giãn hòa mình vào thiên nhiên núi rừng như đạp xe địa hình, thả diều, cưỡi ngựa, săn gà rừng, bắt cá suối, các hoạt động rèn luyện kỹ năng sống…là nơi tuyệt vời để tổ chức các hoạt động teambuilding.
Buổi tối tại Làng Cù Lần, quanh bếp lửa bập bùng, bạn cùng thưởng thức chóe rượu cần và hòa nhịp vào những vũ khúc tưng bừng của cồng chiêng bản địa Tây Nguyên.
Trước khi rời khỏi Khu Du lịch Làng Cù Lần, du khách có thể tham quan phòng tranh với diện tích 300m2 của các họa sĩ trong nước với hơn 100 bức tranh sơn dầu, sơn mài, bột màu… thể hiện tính biểu cảm, tính thẩm mỹ qua từng hình ảnh con người, sự vật.
Còn bằng nếu những tố giác, những nhận định, những suy luận có dữ kiện chính xác và khoa học thì một tay đại tham nhũng cực kỳ khủng như thế này mà đòi quánh giặc nội xâm, đòi nắm đầu chụp quần "què" cả mấy trăm ngàn, mấy triệu thằng con tham nhũng khác mà độp thì e rằng bàng dân thiên hạ rất khó tin. Con thú 3 Ếch chưa đến nỗi điên loạn mà tự mình lấy dao bầm mình.
Đại Nghĩa (Danlambao) -
Với đảng CSVN Hồ Chí Minh chỉ là một thần tượng “bị thêu dệt” quá đáng vì trong suốt cuộc đời của ông ta là một chuỗi dài đầy huyền thoại, giả dối với nhiều vinh-nhục. Nhất là về cuối đời, ông ta chỉ còn là một bóng mờ sau vũ đài chính trị.
Hiến Ước Âu châu 1: 3
Thế nhưng…
Từ nhiều năm nay, đặc biệt từ những năm khủng hoảng kinh tế tài chánh, quan niệm Kinh tế Thị trường Xã hội (Économie Sociale de marché / social economy of market) hay là Kinh tế Tự do Xã hội (libéralisme social / social liberalism ) được các nhà bình luận và nghiên cứu chánh trị-kinh tế Âu Tây bàn luận rất nhiều.
Quan niệm nầy được trình bày như là một cái mẫu quản trị kinh tế Âu Tây tương lai để phát triển Âu châu - lục địa của thế giới cũ (diển văn của Ngoại trưởng Pháp de Villepin năm 2002 trước Liên hiệp Quốc) lục địa của thế giới của Văn hóa trọng Con Người, Văn Hóa Nhơn bản - với một nền Văn Hóa đặt Con Người vào trọng tâm, trái với quan niệm gọi là trường phái Anh-Mỹ (anglo – saxon), trường phái Kinh tế Thị trường Tự do (Économie de marché libérale - liberal economy) của một thế giới mới có Văn minh kỹ thuật nhưng phát triển trong hổn loạn, không kiểm soát, thả nỗi theo luật cung cầu của thị trường (hay đúng hơn kiểm soát bắng kỹ thuật để tìm kết quả về lợi nhuận) và Con Người thường bị bỏ quên.
Những cuộc bầu cử vừa qua ở Pháp đã đưa đến những kết quả hoàn toàn bất lợi cho Tổng thống Hollande và Đảng Xã hội. Mặc dù Thủ tướng Manuel Valls cố vớt vát chuyển hướng Xã hội rất phái tả, sang hướng trung dung thuận cho những chương trình phát triển Kinh tế Thị trường, hướng Tự do Xã hội, với vị Bộ trưởng trẻ tuổi tân thời Emmanuel Macron, đã đưa lập luận rằng nền Kinh tế Tư bản thị trường tương lai của Liên Âu sẽ dần dần « mất chất xã hội » đem đến tranh luận và bàn cải, nhứt là ngay trong Đảng Xã hội.
Biển Đông vẫn căng thẳng do mưu đồ độc chiến Biển Đông của Trung Quốc. Reuters
Các đường gián đoạn lung tung và không nhất quán
Không có cơ sở pháp lý nào cho việc đòi chủ quyền lịch sử
Riêng trong trường hợp thứ ba là dùng đường đứt đoạn để xác định chủ quyền lịch sử, thì bản báo cáo xác định là yêu sách của Trung Quốc không phù hợp với luật quốc tế.
VIÊT NAM LÀM GÌ TQ lập vùng cấm bay ADIZ?
Quốc có kế hoạch thiết lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông và việc 'thoái thác trách nhiệm' ấy là 'không thể, không được phép', theo ý kiến một nhà phân tích tình hình khu vực từ Hà Nội.
Mười dấu hiệu cho thấy bóng dáng sụp đổ của một thể chế chính trị
Thứ Sáu, ngày 05 tháng 12 năm 2014
1/ Tham nhũng như một bầy sâu tha hồ đục khoét
Tháng 1- 2012, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành NQTW4 về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã nhận định: ”Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên - trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp - suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống…”
Trong vòng 25 năm qua, bọn sâu bọ tham nhũng ngày một đông, ngày mỗi mạnh và đã trở thành bầy đàn! Nó như căn bệnh ung thư đã di căn tới nhiều bộ phận của cơ thể. Nếu Đảng không quyết tâm diệt trừ tận gốc bọn sâu bọ tham nhũng của Đảng thì chính bọn này, một ngày nào đó không xa sẽ là thủ phạm “giết sống” Đảng Cộng sản Viêt Nam!
2/ Nợ công chồng chất, có thể dẫn đến vỡ nợ bất cứ lúc nào
Trong cách xử này việc thú nhận của bị cáo đóng một vai trò quan trọng (có thể là quan trọng nhất). Bị cáo phải tự nhận là kẻ thù. Không cần chứng cớ gì hết, chứng cớ được thay bằng lời thú tội của chính bị cáo.
Cái gọi là “Những vụ án Moskva” chỉ là những thí dụ lố bịch và đẫm máu nhất của trò hề về pháp luật trong chế độ cộng sản mà thôi. Các vụ việc cụ thể cũng như mức án chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Các vụ án chính trị được bày đặt như thế nào?
Đầu tiên cảnh sát mật, theo “gợi ý” của cán bộ đảng, “phát hiện” được một người nào đó là kẻ thù của chế độ, là cái gai của chính quyền vì anh ta công khai bảo vệ một quan điểm nào đó hoặc anh thảo luận quan điểm đó với bạn bè của mình. Nếu việc “phát hiện” thành công thì sẽ đến giai đoạn hai, giai đoạn đưa nạn nhân vào bẫy. Người ta sẽ sử dụng một kẻ khiêu khích để thu thập những “bằng chứng có tính chất phá hoại” hoặc doạ dẫm một kẻ nào đó và bắt phải kí những tài liệu vu khống mà cảnh sát đưa cho. Đa số các tổ chức bí mật là do chính cảnh sát lập ra để bẫy các phần tử bất đồng ý kiến. Chế độ cộng sản không tìm cách ngăn chặn mà ngược lại còn cố tình đẩy các công dân “không đáng” tin đến những hành động sai trái và tội lỗi khác nhau để trừng phạt họ.
Stalin đã làm như vậy, có cả tra tấn và không cần toà án. Ngay cả trong trường hợp có toà án và không tra tấn thì thực chất cũng vẫn thế: cộng sản thanh toán những người chống đối mình không phải vì họ vi phạm pháp luật mà chỉ vì họ là những phần tử chống đối. Vì vậy có thể nói rằng: đa số tù nhân chính trị thực chất là những người chống đối chế độ, nhưng theo quan điểm của luật pháp thì họ không phải là tội phạm. Nhưng người cộng sản lại cho rằng họ đáng bị trừng phạt dù không có cơ sở pháp lí để làm chuyện đó. (GIAI CẤP MỚI 5, 1)
III.3. Phương tiện truyền thông
Cộng sản duy vật nhưng họ chú trọng về tinh thần và tâm lý con người. Cán bộ cộng sản tuyên truyền xảo trá, luôn thổi phồng bịa đặt, tạo ra những huyền thoại như Lê Văn Tám, Kim Đồng. Ông Hồ đã giả danh Trần Dân Tiên, T. Lan để đề cao ông. Trong các bản tin, ông sản luôn kết luận ta thắng địch thua. Cộng sản thổi phồng thành tích như năng suất năm tấn lúa ở Thái Bình.
Trần Độ nhận định về bộ thông tin tuyên truyền cộng sản như sau:
Một là Bộ máy văn hoá thông tin rất hùng hậu với 600-700 tờ báo viết và hàng trăm đài phát thanh truyền hình, một hệ thống trường học hùng hậu để nhồi sọ chính trị, hàng nghìn báo cáo viên với những “lưỡi gỗ”, “nói lấy được”, để ngu hoá và mê hoặc nhân dân. Bộ máy này được trang bị hiện đại và đầy đủ, có quyền lực và tha hồ nói láo. (TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN IV,3)
III.4. Giáo dục
Cộng sản duy vật nhưng lại chú trọng giáo dục. Lenin nói:
-Cho tôi bốn năm để dạy trẻ, và những hạt tôi gieo trồng sẽ không bị tróc gốc"
-Để tôi huấn luyện trẻ con trong 8 năm thì chúng sẽ trở thành những người cộng sản [ 6]
Lenin chú trọng giáo dục nhưng với mục đích khác.Quân chủ và tư bản coi giáo dục là đào tạo nhân tài cho đất nước , dù cho những người đó ở giai cấp nào, để phục vụ quốc gia, trong khi cộng sản chỉ nhắm đào tạo thanh thiếu niên thành những người cộng sản, nghĩa là thành những ngưởi nuôi hận thù, tranh đấu, giết chóc, và tham nhũng. Mục đích của Lenin là bảo vệ ngai vàng của ông nhưng chế độ cộng sản của ông cũng chung số phận của triều đại Tần Thủy hoàng không thể trường sinh bất tử và lưu truyền vạn thế.
Nếu quân chủ không đào tạo thành những người tài đức song toàn thì họ cũng đào tạo được những người có học vấn, có văn chương, có chuyên môn, nhưng cộng sản với chính sách ngu dân chỉ đào tạo đa số những người ngu dốt, hống hách, gian tham và bóc lột, trộm cướp. Vì mục đich đào tạo lưc lượng cộng sản, cho nên họ nâng đỡ giai cấp vô sản, chọn người vô sản cho nên giáo dục càng xuống cấp, không đào tạo những kỹ sư, bác sĩ giỏi., mà tạo những bác sĩ chỉ cho aspirin, Vitamin B,C, và viết không nổi toa thuốc.
Đó là do chính sách hồng hơn chuyên .Chuyên tu, tại chức, trí thức hoá vô sản chỉ tạo ra một nền giáo dục hình thức. Việc đảng ủy cướp quyền của giáo sư , tự ý cho đỗ hoặc đánh rớt là một việc , sai lầm, bất công đưa đến tê nạn sinh viên học sinh kém, và mua bán bằng giả phổ biến từ trung học cho đến cấp tiến sĩ . Việc đem văn chương để tuyên truyền chính trị chỉ làm cho nhân dân chán văn chương, nghệ thuật.
Giáo dục của cộng sản còn mang ý nghĩa khác. Giáo dục, cải tạo nghĩa là dùng các thủ đoạn, phương pháp để bắt người sợ hãi mà quy phục, hoặc bưng tai, che mắt, tạo thành những tập quán cộng sản, tù đày, bắt sinh viên trí thức đi lao động thục tế, tẩy não, học tập chính trí, tuyên truyền lừa dối, bắt trẻ con mang khăn đỏ, ca tụng lãnh đạo, nhồi nét chính trị Marxist. Ngoài ra,
cộng sản bắt chước Nga, dùng kỹ thuật tâm lý để khủng bố nhân dân. Lenin đã áp dụng nghệ thuật tuyên truyền lừa dối để mong lộng giả thành chân. Lenin nói: Một điều dối trá được nhắc lại nhiều lần sẽ biến thành sự thực. [7] Cộng sản áp dụng kỹ thuật của Pavlov (1849-1936) về phản ứng có điều kiện để tuyên truyền và hành hạ nhân dân.
Lenin tin rằng sự tuyên truyền nhồi sọ là hữu ích cho quyền lợi công sản. Cộng sản muốn bãi bỏ gia đình vì vợ con là tư hữu mà họ nghĩ là cần phải bãi bỏ. Ngoài mục đích cộng sản hóa, diệt trừ tư hữu, cộng sản còn muốn cướp con cái nhân dân biến thành tôi tớ của đảng, biến chúng thành những cộng sản ngoan ngoản mù quáng hết lòng tôn thờ Marx, Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông. . . Giáo dục của cộng sản là tuyên truyền, nhồi sọ, làm ngu dân cho nên không đào tạo trí thức tài ba như Âu Mỹ.Cộng sản ban đầu khinh bỉ, thù hận trí thức nên Nga đã giết, tống xuất các trí thức để sau phải thuê chuyên viên tư bản trong kỹ nghệ. Mao coi khinh trí thức như cục phân, đề cao lao động chân tay, thù hận máy móc như Đặng Tiểu Bình lại chủ trương bốn hiện đại hóa trong đó khoia học, kỹ thuật là then chốt.
Cộng sản Việt Nam coi khinh khoa bảng. Những ai sống trong chế độ cộng sản lấy lý lịch bần nông làm bậc thang danh vọng nhưng khoảng 2000, cộng sản đi đó đi đây, thấy lãnh đạo nước người, ai cũng cử nhân, tiến sĩ cho nên bây giờ họ phong cho nhau hàng loạt tiến sĩ ma.
Cộng sản lấy chính trị làm mục tiêu cho nên thất bại trong kinh tế, giáo dục và văn hóa. Họ thái quá cho nên bất cập. Họ cũng có nhiều quan niệm sai lầm về giáo dục.
Đời nào cũng cần giáo dục nhưng giáo dục chỉ có một phần ảnh hưởng chứ không phải là tất cả. Tôn giáo nào cũng dạy điều lành mà có mấy ai làm lành? Ngay cả những tu sĩ cũng có nhiều kẻ bất lương! Nhưng tất cả những điều trên chỉ thành công rất hạn chế ở một số người tinh thần yếu và kiến thức kém. Những việc tẩy não, dạy chính trị, triết lý Marx -Lenin là việc vô ích. Dân chúng phải cúi đầu, những tù nhân phải câm nín vì họ phải nuốt uất hận chứ không phải họ thật tâm hàng phục. Cộng sản nói đạo đức c ách mạng nhưng mấy ai có đạo đức. Ông Hồ bán Phan Bội Châu, giết Nông thị Xuân và bán nước thì làm sao mà bọn đàn em có đạo đức? Ông Gorbachev, Yeltsin, Đặng Tiểu Bình, Triệu Tử Dương, Trần Xuân Bách, Nguyễn Kiến Giang há đã được đào tạo trong lò cộng sản nhưng sao họ chống Stalin, Mao Trạch Đông và đường lối Marx-Lenin?
Những văn nghệ sĩ một số bên ngoài ngoan ngoản theo đảng nhưng bên trong họ đã phản khảng như Hồ Dzếnh, Chế Lan Viên, Nguyễn Khải, Tô Hải .Chỉ có việc truyền dạy cái ác là dễ vì lên dốc khó mà xuống dốc rất dễ. Cộng sản đã thành công khi tuyên truyền, giáo dục thù hận, và dạy kỹ thuật cướp của giết người nhưng cộng sản không dạy văn minh và từ bi, bác ái. Cộng sản bắt chước Đức Quốc xã đào tạo thiếu nhi thành đồ tể. Cộng sản bắt chước Trung Hoa tru di tam tộc, điều tra lý lịch ba đời, và kết tội phong kiến , tư bản hoặc liên hệ ngoại quốc nhưng họ đã lầm vì giáo dục, gia đình, xã hội không có ảnh hưởng nhiều đến cá nhân. Trong khi dân Pháp chống Đức thì thống chế Petain theo Đức.
Trong khi vua Trần kháng chiến chống Nguyên thì Trần Ích Tắc theo Mông Cổ. Những thanh niên Việt Nam theo học Pháp thì có kẻ theo Pháp như Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh những vẫn có những kẻ chống Pháp như Bùi Quang Chiêu, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu. Marx và Engels con nhà tư bản lại chống tư bản là tại sao? Điều này cho thấy giáo dục chỉ có tác dụng một phần.
Tóm lại chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa đệ nhất gian manh ,tàn ác trong lịch sử nhân loại.
____
[1].+The best way to destroy the capitalist system is to debauch the currency
+The way to crush the bourgeoisie is to grind them between the millstones of taxation and inflation. http://www.brainyquote.com/quotes/authors/v/vladimir_ilyich_lenin.html
(The Economic Consequences of the Peace.J.M.Keynes, 1919.Chapter6, Europe After the Treaty.books.google.ca/books?isbn=1905641850...
[2].Một ký thóc sau khi xay giã thì còn hơn nửa ký gạo, được khoảng hai lon sữa bò . Người nông dân chỉ ăn được một bữa, người thành thị ăn được hai bữa.Còn công nhân viên cộng sản, lương một tháng chỉ đủ tiêu trong mười ngày hay hai tuần.Trong khi đó, thời chiến tranh, tại miền Nam, học bổng sinh viên Đai học Sư Phạm 1500. lương công chức hạng thấp nhất 3000-4000, tô phở ba đồng, vàng 3000-5000đồng một lượng, tạ gạo khoảng 150- 200 đồng.[3].Mao, the real Mao.Short, Philip (2001). Mao: A Life. Owl Books. p. 279. ISBN 0805066381. http://books.google.com/books?id=4y6mACbLWGsC&pg=PA279& mao+a+life+%27tens+of+thousands%27+died&ei=atxASrCwG5HIyASswqVE.Jean-Luc Domenach. Chine: L'archipel oublie. (China: The Forgotten Archipelago.) Fayard, 1992. ISBN 2-213-02581-9 pg 47 (Wikipedia)
[4].When one dies, it is a tragedy. When a million die, it is a statistic.
Death solves all problems — no man, no problem. http://en.wikiquote.org/wiki/Joseph_Stalin[5]. Oscar Chapuis, 14;Vụ án mạng đường Bacbiê Sài Gòn [Archive] - DatViet.com) Trong đêm 8 rạng ngày 9 tháng 12 năm 1928, một vụ ám sát quá cổ hủ thô bạo .... Theo tờ An Nam Hướng Truyền (Echo Annamite), Tôn Đức Thắng... tuyên bố như sau:
Trong đêm 8 rạng ngày 9 tháng 12 năm 1928, một vụ ám sát quá cổ hủ thô bạo đã diễn ra trong giữa phân bộ Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội(*) ở Nam Kỳ. Lê Văn Phát (bí danh Mỹ, Lang) bị đồng chí kết án tử hình vì tội phản bội, theo điều lệ của đảng, vì anh ta "ve vãn người chị em của chúng ta là Thị Nhứt". Tội của Phát là "không gạt bỏ tình riêng để toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng". Ba người trong số các đồng chí trẻ nhất của Phát (23, 24 và 26 tuổi) phải thi hành án quyết đã được tòa án cách mạng chuẩn y. Tôn Đức Thắng chủ trì tòa án, lúc đó 40 tuổi, đứng đầu kỳ bộ. Vì đâu, (vì tự ái, vì ghen tương?) án quyết thủ tiêu một đồng chí không tương xứng với "lỗi lầm", bí mật ấy vẫn âm u trong bóng tối.
Một vụ sát nhân chính thức, ba nạn nhân cùng một lúc, đáp lại vụ ám sát trên: Tòa đại hình Sài Gòn ngày 15 tháng 7 năm 1930 kết án tử hình ba người thi hành án quyết trên kia. Tòa chỉ tuyên phạt Tôn Đức Thắng (người sau này kế vị chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1969) 20 năm tù khổ sai, và Phạm Văn Đồng (về sau là thủ tướng của chính phủ Hồ Chí Minh) 10 năm tù cấm cố. Hai mươi ba người khác trong phân bộ phải chịu án tù tổng cộng 100 năm. Phân bộ Thanh Niên Nam Kỳ hoàn toàn tan vỡ.
Hai năm năm tháng sau vụ ám sát, trong hoàn cảnh phong trào nông dân thoái trào và thời kỳ khủng bố trắng, bọn cầm quyền bí mật chuẩn bị hành quyết những người bị kết án tử trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng 5 năm 1931.
Máy chém dựng sồ sộ trước cổng Khám Lớn Sài Gòn, lính cảnh sát xếp hàng dày đặc ngăn đón các con đường, chánh sở mật thám có mặt tại đó, tay lăm lăm khẩu súng lục. Vào lúc bốn giờ sáng, ba cái đầu người cách mạng trẻ tuổi rơi xuống sau tiếng hô cuối cùng "Đả đảo đế quốc Pháp".
Trong giờ liền theo đó trong Khám Lớn, tù chính trị - kể cả tù đàn bà - nổi lên phản đối: "Đả đảo khủng bố trắng! Đả đảo đế quốc Pháp!", rùm lên náo động cả châu thành. Nước vòi rồng chữa lữa tưới ngộp những người tù phản kháng, bọn ngục tốt táo bạo đánh đập họ, cùm chân họ vào khoen sắt.
Sử chính thức cùng truyện ký về lãnh tụ không bao giờ nhắc lại vụ sát nhân thô bỉ. Nó có thể làm lu mờ hình ảnh "người anh hùng Hắc Hải", Tôn Đức Thắng được phong danh hiệu như vậy để kỷ niệm cuộc nổi dậy tháng 4 năm 1919 trên chiến hạm Pháp mà người dân thuộc địa là Tôn Đức Thắng được đội thủy thủ Pháp chỉ định kéo lá cờ đỏ thượng lên.
Nếu ai muốn biết rõ hơn, thì đây:
Sáng ngày 9 tháng 12 năm 1928, mật thám phát hiện trong sân đàng sau căn phố số 5 đường Bacbiê, Sài Gòn, một xác người đàn ông đã bị biến dạng, mặt và tóc cháy xém, tay bị trói quặt sau lưng, họng bị cắt, ngực bị đâm hai chỗ.
Sau này người ta được biết người bị ám sát là Lê Văn Phát, đã từng là đại biểu đi dự Đại Hội lâm thời của Thanh Niên ở Hương Cảng. Sinh tại tỉnh Bến Tre, Phát làm thầy thuốc và cũng là hương lễ, một hương chức trông coi việc tế tự ở làng. Khi trở về Sài Gòn vào tháng 6 với danh nghĩa đại diện của Tổng Bộ bên cạnh Kỳ bộ Nam Kỳ - Kỳ bộ từ trước đến giờ do Tôn Đức Thắng chỉ huy. Thắng là người lớn tuổi hơn hết trong nhóm. Phát bị tòa án cách mạng do Tôn Đức Thắng chủ trì, xét xử bí mật và kết án tử hình vắng mặt. Người ta kết tội Phát "lạm dụng quyền hành do chức vụ đảng giao phó để hãm hiếp một nữ đồng chí."
Dù cho có những hình phạt nghiêm khắc theo như điều lệ qui định - mà Nguyễn Đình Tú phải nhớ kỹ khi gia nhập Thanh Niên năm 1926 - thì một hành vi không trong sáng (như uống rượu, cờ bạc, hay lui tới nhà điếm, cưới xin ngoài đảng, khước từ hoạt động chiến đấu do lãnh đạo giao phó) sẽ có thể dẫn tới bị khai trừ, chứ không phải tử hình như kẻ phản đảng (trốn sang trại địch, tự động hành động không có chỉ thị làm cho các đồng chí mất an toàn, chậm trễ thi hành chỉ thị, làm lộ bí mật của đảng, âm mưu phá đảng).
Kỳ bộ thành lập một tòa án vào đêm 29 tháng 11 gồm các đảng viên của Kỳ bộ Nam Kỳ và Tỉnh bộ Bến Tre tại nhà Bùi Văn Thêm, số 79 phố Pôlơ Bơlănsy. Trong số các thẩm phán đột xuất này có ba người là Trần Trương, Đặng Văn Sâm, Bùi Văn Thêm đã từng là thợ trong xưởng Kropff, nơi mà Tôn Đức Thắng làm cập rằng; Trần Trương và Nguyễn Tôn Nguyệt là bà con họ hàng với vợ Tôn Đức Thắng. Do đó uy tín của Thắng không phải chỉ vì có tuổi. Trước tiên ba thẩm phán trong phiên tòa đó bỏ phiếu chống tử hình. Nhưng áp lực của đa số là 5 thẩm phán kia làm xiêu lòng 3 người, họ tự lấn áp "tình cảm cá nhân" của mình đúng theo giáo lý (le catéchisme) do Quảng Châu đặt ra.
Trong số các đồng chí của Phát, ai sẽ là người thi hành án? Với nhiệm vụ khủng khiếp này, ba đồng chí trẻ tuổi nhất rút trúng thăm. Đó là Ngô Thiêm, bí thư Kỳ bộ, người Nghệ An; Nguyễn Văn Thinh, bí thư của Lê Văn Phát và là chủ bút tờ Công Nông Binh, sinh ở Gò Công; và Trần Thương, người Mỹ Tho. Họ còn phải đốt mặt Phát làm biến dạng xác chết theo sáng kiến của Thắng.
Sau đó Ngô Thiêm sang ngay Quảng Châu để báo cáo với Tổng bộ, mang theo biên bản của tòa án cách mạng. Tổng bộ phê phán bản án là "không tương xứng với lỗi lầm" rồi tuyên bố giải tán Kỳ bộ Nam Kỳ.
Mười sáu ngày sau vụ ám sát, sở mật thám nhận được tin tức do nhân viên "mật vụ ở nước ngoài" gửi về, nói đến tờ biên bản trên. Từ tháng 2 Tôn Đức Thắng đã bị bắt, rồi trong mùa hè, hơn hai chục chiến sĩ, dù có hay không dính líu tới vụ ám sát, lọt vào tay mật thám.
[7].“A lie told often enough becomes truth” http://thinkexist.com/quotes/vladimir_lenin/
Sa mạc' ở thủ đô/ Mực nước sông Hồng thấp kỷ lục
Chẳng ai nhớ nổi cụ thể cái xóm nổi giữa thủ đô (Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội) có từ bao giờ, ban đầu chỉ là một chiếc thuyền rách nát, rồi thành những mái nhà và rồi nên xóm. Gọi là xóm cho vui vậy chứ cả xóm mới có hơn chục nóc nhà nằm ven bãi sông, từ cầu Long Biên nhìn xuống như những tổ chim cu chơi vơi trong gió.
Nhìn từ trên cầu Long Biên, xóm nổi bãi Phúc Xá như những mảnh vụn chắp vá. Xóm nổi có 16 nhà với 3 nhà dựng trên bờ.
Mùa nước cạn, xóm nổi dạt vào bờ, người dân ở đây tận dụng thời gian đất không ngập nước để trồng rau, hoa quả cải thiện cuộcsống
Đến mùa nước lũ, những "ngôi nhà" lại trầm mình ra giữa sông, muốn ra xóm nổi thì phải gọi người mang thuyền vào đón.
Nhiều ngôi nhà lác đác trôi dạt dưới chân cầu Long Biên.
Cuộc sống của xóm nổi rất khó khăn, hầu hết cư dân ở đây là những người nghèo khó, tha phương khắp nơi tụ lại. Những mái nhà của họ đươc ghép bằng những thanh gỗ, tre, cót ép... mái nhà được lợp từ đủ thứ vật liệu tận dụng được.
Móng nhà thường được làm từ thùng phi, hoặc tiết kiệm hơn là thùng xốp để có thể nổi được trên mặt nước mùa lũ.
Mỗi căn nhà khoảng 12 mét vuông, sinh hoạt chật chội, mất vệ sinh. Mùa nước cạn, họ chỉ có thể đi mua nước sạch để sinh hoạt với giá cao.
Tất cả mọi sinh hoạt đều diễn ra tên "bè gỗ", nhiều người muốn lên bờ, hay về quê nhưng không thể.
Nhưng cây cầu gỗ dẫn ra nhà cũng chênh vênh như chính cuộc đời của họ.
Mỗi ngày, người lớn đều đi làm hết, những đứa chỉ có thể tự chơi, thơ thẩn một mình trên những chiếc cầu gỗ khá nguy hiểm này.
Bé Tâm Anh, 2 tuổi, có thể tự chơi một mình mà không sợ bị rơi xuống nước.
Cuộc sống của những thế hệ mầm non của xóm nổi chỉ gói gọn quanh xóm, thế giới chúng biết được thêm là qua tivi hoặc những người khách xuống thăm xóm.
Chính quyền đã có nhiều biện pháp hỗ trợ, những cuộc sống của xóm nổi vẫn chưa khởi sắc, những người sống ở đây vẫn chưa có khả năng cho con cái đi học đầy đủ. Những đứa trẻ này không hề đi học mẫu giáo, chỉ có thể tự chơi đùa với nhau trên bãi bồi cho đỡ cuồng chân sau mùa nước lũ.
Lên bờ là ước muốn của những người dân nơi đây, họ không muốn thế hệ sau của mình vẫn tiếp tục cuộc sống khốn khổ tại nơi này, nhưng rất khó.
Nhà thờ Bác Trạch
Giáo đường nguy nga nhất VN hiện nay
***
Nhà thờ Bác Trạch
VIDEO
Giáo xứ Bác Trạch ở xã Vân Trường huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình mới khánh thành nhà thờ Bác Trạch tháng 10/2013 . Đây là ngôi Thánh đường nguy nga, tráng lệ với nhiều đường nét hoa văn tỉ mỉ, cầu kì mang tính thẩm mỹ cao. Với quy mô và tầm vóc của mình, nhà thờ Bác Trạch là một trong số những giáo đường lớn nhất tại Việt Nam.
Tân Thánh đường được xây dựng với thời gian 7 năm (13/10/2006 -13/10/2013) và là nhà thờ thứ 6 trong lịch sử giáo xứ Bác Trạch. Nhà thờ Bác Trạch có chiều dài: 92,5m; chiều rộng: 32m, tháp chuông cao: 61m, tum đầu cao: 57m.
Tổng kinh phí xây dựng nhà thờ Bác Trạch là: 58,6 tỉ đồng.
Vật liệu xây dựng nhà thờ Bác Trạch: 46 vạn gạch, 351 tấn sắt, 527 tấn vôi, 2.859 tấn xi măng, 15 m3 gỗ lim, 1000 m2 đá các loại, khoảng 1000 m2 sơn trong ngoài, 122 tấm kính tranh; gần 100 tượng tròn, phù điêu, tranh vẽ các loại.
Hai tháp chuông treo bộ chuông gồm 6 quả. Trong đó, quả chuông lớn nhất có trọng lượng là 3 tấn.
Nhà thờ có gần 100 bức tượng, phù điều và tranh vẽ, cùng với hàng trăm bức tranh vẽ in trên kính; gần chục bộ cửa đại với những hình ảnh các thánh sống động và 100 bộ cửa trong kính ngoài chớp.
Ngoài sự đồ sộ, lộng lẫy, nguy nga, nhà thờ Bác Trạch còn được trang trí với những đường nét hoa văn rất tỉ mỉ và cầu kì từ cánh hoa hay đường chỉ nhỏ nhất.
Chúng ta hãy cùng xem một số hình ảnh về tân Thánh đường Giáo xứ Bác Trạch này – một trong những nhà thờ phải nói là đẹp nhất, cầu kì nhất về kiến trúc và trang trí ở Việt Nam từ trước đến giờ.
Mặt đứng trước nhà thờ Bác Trạch
Mô thức kiến trúc Hy Lạp ở sảnh bên nhà thờ Bác Trạch
Nhà thờ Bác Trạch nhìn từ phía sau
Mặt đứng sau nhà thờ Bác Trạch
Làng Cù Lần
Làng Cù Lần cách thành phố Đà Lạt chừng 20km, nằm giữa núi rừng xanh tốt, dưới chân núi Langbiang thuộc địa phận thôn Suối Cạn, xã Lát, huyện Lạc Dương, Lâm Đồng. Từ trung tâm thành phố Đà Lạt, du khách có thể đi theo đường đường Suối Vàng Suối Bạc để đến thăm ngôi làng, con đường sẽ đi qua những mặt hồ mênh mông, thơ mộng và xuyên qua những rừng thông bất tận, tuyệt đẹp.
Cái tên của ngôi làng được giải thích là đặt theo tên của loài cây Cù Lần mọc xem kẽ trong những rừng thông bạt ngàn, bao bọc và giữ lại vẻ hoang sơ cho cảnh vật nơi đây. Ngoài ra, xung quanh ngôi làng là nơi sinh sống của những con Cù Lần dễ thương, vẫn thường ưu ái gọi là loài động vật có "đôi mắt to tròn đẹp nhất thế gian", hễ gặp chút nguy hiểm, chúng lại ngại ngùng đưa tay che mặt để đề phòng.
Giữa không gian thiên nhiên tuyệt đẹp của núi rừng, làng Cù Lân mang vẻ đẹp hoang sơ với những ngôi nhà sàn truyền thống của đồng bào dân tộc K'Ho rất độc đáo. Không khí mát lạnh của cao nguyên Lâm Đồng càng khiến nơi đây dễ dàng trở thành chốn nghỉ dưỡng ưa thích của nhiều khách du lịch.
Đa số người dân bản địa nơi đây đã tản đi nơi khác mưu sinh, vì vậy, để ngôi làng truyền thống này không bị biến mất, một công ty du lịch đã quy hoạch và thực hiện các hoạt động bảo tồn, tôn tạo giữ lại những nét đẹp của ngôi làng dưới chân núi Langbiang.
Với định hướng phát triển theo mô hình du lịch, khám phá, du khách đến làng Cù Lần không những được nghỉ ngơi trong một không gian xanh tươi, yên bình giữa núi rừng mà còn được tham gia vào các hoạt động trải nghiệm vô cùng thú vị.
Bạn có thể trải nghiệm cảm giản ngồi trên xe Jeep chạy xung quanh ngôi làng, chiêm ngưỡng cảnh vật khi băng qua những đoạn đường uốn khúc, quanh co đến con suối róc rách nước chảy mát lạnh. Ngoài ra nếu đi theo một nhóm đông người, bạn cũng có thể thuê những chiếc bè được kết bằng cây tầm vông, chống sào đẩy trôi bè, ngắm nhìn cảnh vật thơ mộng xung quanh hồ.
Câu chuyện về Làng Cù Lần bắt đâu từ xuất xứ của cái tên Cù Lần. Cây Cù Lần vốn là loại cây dược liệu dùng để cầm máu các vết thương, cây Cù Lần cũng có thể được con người đẽo gọt trở thành những quà tặng du lịch mang nhiều ý nghĩa của núi rừng Tây Nguyên. Cũng có một loài động vật vừa giống khỉ, vừa giống gấu trúc, đôi mắt to tròn, đen láy, đẹp mang tên Cù Lần. Những con vật bé nhỏ này ( hay còn gọi là culi) có thể được nuôi như một loại thú cưng trong. Thung lũng Cù Lần nằm giữa rừng thông bạt ngàn, thân thương dường như đang bị mất đi, khi đa số dân cư nơi đây di tản đến vùng đất khác để mưu sinh. Chính vì vậy, đã có một con người xứ Quảng tìm đến vùng đất này, từng bước một tái hiện một ngôi làng thuần Việt với ý nghĩa hình thành một khu du lịch nông trang giữa cảnh rừng yên núi bình.
Gặp gỡ chủ nhân của Làng Cù Lần, anh Tuấn Anh say mê với những dự định về một ngôi làng thuần việt anh đang tâm huyết: “ Tôi muốn tái hiện một ngôi làng đẹp, lạc quan, không nghèo khó và rất ViệtNamgiữa núi rừng Tây Nguyên. Làng cù lần chính là sản phẩm tôi đang thực hiện ước mơ của chính mình. Tất cả những gì đẹp, thuần khiết nhất của làng quê Việt Nam từ xuồng ba lá của miền Tây Nam
Đến với Làng Cù Lần bạn sẽ tìm lại được cảm giác bình yên, thanh tịnh. Vẻ đẹp thiên nhiên hấp dẫn, một mô hình du lịch mang đậm tính văn hóa như Làng Cù Lần chắc hẳn sẽ mang lại nhiều ý nghĩa cho cuộc hành trình tại thành phố ngàn hoa – Đà Lạt !!!
Làng Cù Lần – khu du lịch chủ yếu hướng du khách đến những hoạt động ngoài trời, thư giãn hòa mình vào thiên nhiên núi rừng như đạp xe địa hình, thả diều, cưỡi ngựa, săn gà rừng, bắt cá suối, các hoạt động rèn luyện kỹ năng sống…là nơi tuyệt vời để tổ chức các hoạt động teambuilding.
Buổi tối tại Làng Cù Lần, quanh bếp lửa bập bùng, bạn cùng thưởng thức chóe rượu cần và hòa nhịp vào những vũ khúc tưng bừng của cồng chiêng bản địa Tây Nguyên.
Trước khi rời khỏi Khu Du lịch Làng Cù Lần, du khách có thể tham quan phòng tranh với diện tích 300m2 của các họa sĩ trong nước với hơn 100 bức tranh sơn dầu, sơn mài, bột màu… thể hiện tính biểu cảm, tính thẩm mỹ qua từng hình ảnh con người, sự vật.
Đi dọc Việt Nam, thưởng thức 12 món cơm ngon tuyệt
Món ăn chính của người Việt được biến tấu thành những loại cơm vô cùng đặc biệt.
- 10 món ăn sáng không thể bỏ qua ở Hà Nội
- Những món ăn kinh dị không dành cho thực khách yếu tim
- 10 món ăn Việt được báo nước ngoài khen nức nở
- 6 món ăn kinh dị nhất thế giới không nên thử nếu 'yếu tim'
Cơm là một thành phần không thể thiếu trong mọi bữa ăn của các gia đình Việt. Cùng với sự phát triển của văn hóa ẩm thực, món cơm Việt ngày càng phong phú với nhiều cách nấu, biến tấu khác nhau tùy từng vùng miền.
Cùng Tiin.vn đi dọc Việt Nam, khám phá 12 món cơm đặc trưng của các vùng:
1. Cơm Lam Tây Bắc
Cái tên cơm lam tưởng chừng như đơn giản nhưng đó lại là một món ăn mang đầy tính nghệ thuật. Muốn ăn cơm lam thì phải lên Tây Bắc, nơi có bản làng của người Thái, Tày, Nùng, Mông, Mường, Dao – những người nắm giữ sự tinh túy của hạt gạo vùng cao... “Lam” theo tiếng dân tộc có nghĩa là nướng chín một thứ nào đó trong ống nứa. Cơm lam cũng vậy. Sau khi cho gạo cho vào ống nứa non cùng nước suối nguồn, những ống nứa này sẽ được nướng trên lửa. Ống dùng nấu cơm lam phải còn tươi để khi cơm chín, hạt cơm quyện thêm một chút vị ngọt và mùi đặc trưng của tre. Nứa thường được chọn lúc bánh tẻ, non quá hay già quá đều không được.
Với kinh nghiệm của người dân bản địa thì khi nào ngửi thấy mùi thơm của cơm tức là cơm đã chín. Khi ăn, bạn bóc lớp nứa lấy lõi cơm và cắt từng miếng tròn đẹp mắt. Cơm có thể chấm muối vừng, muối lạc hoặc ăn kèm với các món ăn mặn.
Món cơm lam làm say lòng nhiều thực khách
2. Cơm nắm muối vừng
Đơn giản, dễ làm, rẻ tiền, chắc bụng, để được lâu là những ưu điểm vượt trội của món cơm nắm muối vừng. Món ăn này ngày xưa được các gia đình nông dân làm từ buổi tối để dành cho bữa sáng hôm sau hoặc để ăn đường khi phải đi xa. Ngày nay, người Hà Nội thường mua cơm nắm muối vừng trên vỉa hè, do những người từ các miền quê ra bán.
Cách làm món ăn này khá đơn giản. Gạo làm cơm nắm được xát 3 lần để đảm bảo độ trắng. Cơm nấu hơi nát một chút cho dễ nắm. Khi nắm cơm, người làm sẽ bọc chúng trong một tấm vải trắng, vừa nắm vừa xoay cho miếng cơm tròn đều, chú ý phải dùng lực vừa đủ để miếng cơm nắm được chặt tay.
Mỗi suất cơm nắm kèm muối lạc có giá 5 nghìn đồng, hoặc là 7 nghìn đồng nếu có thêm ruốc. Cơm nắm là một lựa chọn tốt cho người có ít thời gian và rất tiện để mang đi.
Cơm nắm được bán trên các vỉa hè khắp các đường phố Hà Nội. Gạo làm cơm nắm được xát tới 3 lần để đảm bảo độ trắng
Giá rẻ, để được lâu, cơm nắm là lựa chọn tốt cho người bận rộn
3. Cơm cháy Ninh Bình
Du khách thập phương về Ninh Bình trước là để thăm cố đô Hoa Lư sau là thưởng thức món cơm cháy đặc sản hơn 100 năm tuổi.
Cơm cháy ở Ninh Bình đặc biệt bởi hạt gạo nếp hương tròn, chắc. Khi nấu phải dùng nồi gang đun trên bếp củi thì mới giữ được hương vị truyền thống, miếng cơm cháy vàng thơm, vừa dẻo vừa ngon. Sau khi phơi từ 2 – 3 nắng, miếng cơm cháy được chiên giòn và dùng ngay trong ngày. Ăn kèm cơm cháy là nhiều loại thức ăn đa dạng từ thịt bò, thịt heo cho đến các loại rau như hành tây, nấm rơm, cà rốt và cà chua.
Cơm cháy ăn kèm ruốc, thịt dê
4. Cơm hến Huế
Cơm hến là một trong nhiều đặc sản mà người Huế dùng để tiếp đãi những vị khách phương xa. Món ăn thanh đạm này gồm cơm nguội, hến cùng ít rau sống trộn đều lên và thưởng thức. Vị ngọt của hến, vị bùi bùi của lạc rang, mùi thơm của rau sống cùng vị cay cay của ớt đã làm nên sức quyến rũ của món ăn này. Quả là không sai nếu nói khi đến Huế mà chưa ăn cơm hến thì xem như chưa từng đến đó.
Món cơm hến, đặc sản đất cố đô (Ảnh: Michaël Rheault)
5. Cơm âm phủ Huế
Cơm âm phủ Huế là một trong những món ăn đại diện tiêu biểu về nghệ thuật chế biến và đậm nét văn hóa ẩm thực Huế. Cơm Âm phủ gồm nhiều nguyên liệu như thịt heo luộc; chả lụa Huế; trứng chiên; tôm, nem chua; dưa gang; cà chua, ngò… Đặc biệt, thành phần chính của món ăn này là cơm phải được nấu bằng gạo thơm, mềm dẻo, chất lượng tốt.
Với hương vị hài hòa cùng lối bài trí phảng phất nét cung đình, cơm âm phủ Huế làm cho thực khách đã ăn một lần là nhớ mãi.
6. Cơm gà Tam Kỳ
Vượt qua cái nắng gió hanh hao của miền Trung, xuyên suốt quốc lộ 1A đoạn qua Tam Kỳ là lời mời nồng hậu của người dân địa phương cùng món đặc sản cơm gà nức tiếng.
Cơm gà thì nhiều vô số nhưng cơm gà Tam Kỳ mang đến sự khác biệt tinh tế từ nguyên liệu cho đến cách chế biến. Thịt gà bắt buộc phải là gà ta thả vườn, tuy con nhỏ nhưng cho thịt chắc, mềm, da mỏng. Gạo phải là loại thơm, nấu với nước luộc gà pha ít bột nghệ tạo màu vàng hấp dẫn, dẻo nhưng không bở. Khi nấu chín, da gà bên ngoài căng bóng, thịt bên trong chín mềm nhưng không bở.
Đĩa cơm gà Tam Kỳ như bức tranh ẩm thực với màu vàng của cơm, màu trắng của thịt gà, màu xanh của ngò, rau dăm như tái hiện khung cảnh làng quê miền Trung thật hài hòa và bình yên.
(Ảnh Internet)
7. Cơm Niêu Đà Nẵng
Có xuất xứ từ miền Trung nhưng cơm niêu đã lan rộng ra khắp cả nước bởi sự độc đáo trong cách thưởng thức. Tuy chỉ là một món cơm bình dân, nhưng nhờ cách chế biến tỉ mỉ đầy công phu nên rất nhiều người ưa thích.
Muốn có niêu cơm ngon thì trước tiên phải tìm cho được cái niêu vừa ý, nắp niêu phải kín, không vênh hay lệch. Gạo được vo sạch rồi cho vào niêu nấu chín. Khi cơm vừa cạn nước, được tiếp tục vùi vào trong tro, than trong khoảng 20 phút để cơm chín hẳn. Thưởng thức cơm niêu với các món cá kho tiêu, kho tộ cùng bát canh rau xanh mát, bất kỳ thực khách khó tính nào cũng phải hài lòng.
Niêu cơm vừa trắng lại vừa thơm, ăn cùng cá kho, thịt kho là ngon tuyệt (Ảnh: Pinee)
8. Cơm tấm Sài Gòn
Cơm tấm là món ăn bình dị nhưng nổi tiếng của đất Sài Gòn với nhiều nguyên liệu ăn kèm hấp dẫn như: sườn, phá lấu, chả, nem... khiến thực khách khó có thể bỏ qua. Với người Sài Gòn, ăn cơm tấm mãi cũng chẳng bao giờ thấy ngán.
Cơm tấm từng được gọi là cơm nhà nghèo vì nấu bằng hạt tấm (những mảnh hạt gạo vỡ vụn), còn ngày nay thì người ta phải xay gạo mới có đủ hạt tấm để nấu cho hàng triệu thực khách. Một đĩa cơm tấm ăn kèm với sườn, bì, chả, trứng, mỡ hành và nước mắm sẽ khiến cho các vị giác của bạn “tê liệt” bởi vị ngon của nó.
Cơm tấm – món ăn quen thuộc của người Sài Gòn (Ảnh: Đạt Thành)
9. Cơm ghẹ Phú Quốc
Món ăn dân dã của những ngư dân đảo Phú Quốc đã dần trở thành món đặc sản khi ai đó nhắc đến hòn đảo thanh bình này. Thực chất món cơm ghẹ chỉ là món cơm trộn và xào ăn cùng với thịt ghẹ đã được cách điệu từ món cơm trắng hàng ngày của người dân. Cái quan trọng nhất của món ăn này là thịt ghẹ bỏ vào chảo xào sau khi phi tỏi vàng cùng với hành tây, cơm trắng. Cơm khi xào xong được ăn kèm với dưa leo thái nhỏ, rau tươi, cà chua xắt lát dùng với nước mắm pha chế sẵn. Đây là món ăn ngon, giàu chất đạm, vị lạ đặc trưng rất ấn tượng và cũng rất khó quên.
Cơm ghẹ Phú Quốc (Ảnh PhuQuocTravel)
10. Cơm Dừa – Bến Tre
Nhắc tới Bến Tre là nghĩ đến những món ăn được chế biến từ dừa. Đặc biệt, người dân nơi đây đã biến món cơm dân dã hằng ngày trở thành một đặc sản lạ lẫm khi kết hợp với dừa - món cơm dừa.
Những trái dừa xiêm được cắt ngang làm một vật dụng chứa cơm và nước dừa dùng để nấu chín gạo. Sau đó, phần gạo và nước được hấp cách thủy để giữ trọn vẹn hương thơm, vị ngọt trong mỗi hạt cơm. Với trái dừa xinh xắn trắng ngà, mùi thơm beo béo của hạt cơm hòa quyện cùng làn khói bốc lên làm cho tất cả các giác quan của bạn khó có thể cưỡng lại được sự hấp dẫn.
Cơm dừa Bến Tre (Ảnh: Ngôi nhà ẩm thực)
11. Cơm rang
Cơm rang làm món ăn phổ biến mà miền nào cũng có. Mỗi nơi lại có cách chế biến khác nhau tạo nên sự đa dạng, phong phú của các món cơm rang trên khắp cả nước. Cơm rang vừa hội tụ tinh túy ẩm thực, vừa là cách để người Việt tiết kiệm triệt để số cơm không dùng hết để chế biến thành món ăn hấp dẫn.
Về cơ bản, để làm cơm rang bạn có thể tận dụng số cơm nguội, cho dầu hoặc mỡ vào chảo phi thơm hành, tỏi và cho cơm vào đảo cùng các gia vị. Bạn có thể kết hợp với rất nhiều thực phẩm khác nhau để chế biến cơm rang như: trứng, hải sản, thịt bò, dưa chua, đậu hà lan, ngô ngọt....
(Ảnh: Internet)
12. Cơm nị
Đây là một món cơm truyền thống của người Chăm, Châu Giang, An Giang, cơm nị thường ăn kèm với cà púa - một món ăn được chế biến từ thịt bò. Cơm nị là sự kết hợp giữa gạo và sữa, thêm một chút nho khô tăng thêm khẩu vị. Cơm nị - cà púa thơm mùi sữa, vị ngọt, béo kết hợp, cùng với vị bùi của lạc rang, vị cay của ớt khiến thực khách say lòng.
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 342
NGUYÊN THẠCH * NHỮNG TÊN HỀ
Nguyên Thạch (Danlambao) - Chủ nghĩa cộng sản dẫu ở đất nước nào cũng đều đào tạo ra những tên hề xuất chúng, những tên hề này, bất luận là Lê-Nin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, ĐM, Lê Hà Bá, Phành Quang Thun hay 3 Ếch... thì đều là những tên hề diễu gạt thiên hạ một cách thần sầu quỉ khóc. Thế mà vẫn có lắm kẻ cứ nghe, thiệt là đau như thiến.
Nhìn lại Việt Nam, nhận rõ chân tướng của những tên lãnh đạo của cả một đất nước có dân số không phải là nhỏ, lịch sử không phải là vừa, nếu chúng ta chỉ hướng theo những điều của sự nghịch lý thì e rằng con người ta sẽ nổ óc mất. Thế thì tại sao ta không xem những nghịch lý ấy như những màn đùa kịch của những con khỉ làm trò hề hầu may ra có được chút thư giãn. Tại sao không?
Nói về những "dương vật" cộng sản, nếu ai đó thắc mắc thắc rằng tại sao lại là dương vật mà không là nhân vật? Thì tôi đây luôn thích dùng ngắn gọn nhưng chứa đầy ý nghĩa và ấn tượng. Dương vật là ý tắt của trọn câu "nhân vật ở dương gian, tức là nhân vật ở dương thế, không phải là âm phủ hay địa ngục.
Dương vật là chỉ chung cho những nhân vật lãnh đạo của nhân loại, còn với những lãnh đạo của cộng sản thì dương vật là những thú vật lãnh đạo chỉ huy những người sống ở dương gian và biến dương gian đó thành địa ngục trần gian". Đó, ý của nó dài lòng thòng như vậy thì đừng nên trách tại sao tôi thích dùng chữ ngắn gọn cho đỡ tốn mực.
Nói về những "dương vật" cộng sản, nếu ai đó thắc mắc thắc rằng tại sao lại là dương vật mà không là nhân vật? Thì tôi đây luôn thích dùng ngắn gọn nhưng chứa đầy ý nghĩa và ấn tượng. Dương vật là ý tắt của trọn câu "nhân vật ở dương gian, tức là nhân vật ở dương thế, không phải là âm phủ hay địa ngục.
Dương vật là chỉ chung cho những nhân vật lãnh đạo của nhân loại, còn với những lãnh đạo của cộng sản thì dương vật là những thú vật lãnh đạo chỉ huy những người sống ở dương gian và biến dương gian đó thành địa ngục trần gian". Đó, ý của nó dài lòng thòng như vậy thì đừng nên trách tại sao tôi thích dùng chữ ngắn gọn cho đỡ tốn mực.
Vừa rồi, ông Vũ Đông Hà ở Dân Làm Báo có trình làng bài viết "Giữ nguyên trạng" và "vừa hợp tác vừa đấu tranh": ngư dân VN tiếp tục bị tấn công" mà ý chính là:
Cái gì Tàu cộng nó chiếm hôm qua thì đã là của chúng.
Cái gì Tàu cộng chiếm hôm nay thì đang là của chúng.
Cái gì Tàu cộng sẽ chiếm ngày mai thì sẽ là của chúng.
Và hôm nay thì: "Hợp tác" cùng Thủ tướng chống nội xâm!!! mà ý của ông Tưởng thú muốn phán rằng: Đánh "giặc nội xâm" trước - Không đánh được "giặc nội xâm" thì không thể đánh được ai. Ông Tưởng thú lại muốn giở trò mèo gì đây? Bộ muốn vận động để đại hội XII sắp tới bầu cho ông làm Tưởng thú thêm nhiệm kỳ lần thứ III hay sao?
Hôm nay cuối tuần, để tránh bị nổ óc, tui cũng mạn phép được nêu tên 3 Ếch ra đây hầu may ra có được chút "thư giãn" cho quí vị. Như trên, ông Thú đứng đầu cả một "tà phủ" hoành tráng hiên ngang tuyên bố xanh dờn: "Đánh giặc nội xâm trước..." tuy nghe cũng đã cái màn nhĩ nhưng không còn phê nữa. Lý do không còn phê là vì tui đã thấm nhuần ý tưởng của các bậc thánh hiền và sự thấm nhập ấy đã trở thành cố tật.
Ông Vũ Tìm, một nhà giáo, nhà thơ đã nhắc câu chữ Nho: "Nhất độ thất tín vạn sự bất tin" mà người mình diễn nôm ra là: "Một lần bất tín, vạn sự bất tin". Rồi tác giả còn lấy câu chuyện của 2 ông vua nước Sở và nước Tề ra để giảng giải về tầm quan trọng của cái chữ TÍN này.
Đức TÍN là một giá trị nhân bản được nhân loại mọi thời trân quý. Nhân đức này trở thành nền tảng cho mọi ứng xử của cả cá nhân lẫn tập thể. Vì thế, mọi người hãy cố gắng rèn luyện, gìn giữ, thực thi để tạo lập các mối tương quan chân thành với nhau. Đức TÍN nằm trong ngũ thường của nền giáo dục Việt Nam, nó giữ một vai trò rất quan trọng. Xã hội chỉ có thể phát triển quân bình và toàn diện khi đào tạo được những con người tín trung, tín nghĩa và tín thành; từ học đường đến thương trường, từ quan hệ gia đình đời thường đến các mối tương quan đa diện giữa người với người trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đó, chữ Tín nó quan trọng đến như vậy, thế mà ngay từ thuở ban sớm ban mai con thú về thành đã hùng hổ hét rất to vào ngày 02/8/2007: "Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu tôi không chống được tham nhũng, tôi xin từ chức ngay." (Lễ nhậm chức Thủ Tướng) Ngày 02/8/2007.(1)
Còn về mặt chủ quyền và Biển Đông, ông này gáy cũng chẳng thua bất cứ con ma nhà họ Hứa nào: "Tôi muốn nhấn mạnh rằng: "Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Chúng tôi luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó" (1)
Theo tôi nghĩ trên cơ bổn, chỉ có một số loài thú thì mới chóng quên thôi chứ đường đường nếu là loài người thì ai mà xóa trí nhớ nhanh như thế?. Và nếu tôi suy diễn vụ việc theo góc độ thư giãn thì chắc là "các thế lực thù địch, phản động" tìm cách bêu rêu, nói xấu lãnh đạo thôi chứ làm gì có chuyện một người đứng đầu guồng máy quốc gia lại tham nhũng, lại cướp giựt khủng thế?. Ai có bằng chứng cụ thể thì liên tục đăng trên công luận để quần chúng xem sao.
Còn bằng nếu những tố giác, những nhận định, những suy luận có dữ kiện chính xác và khoa học thì một tay đại tham nhũng cực kỳ khủng như thế này mà đòi quánh giặc nội xâm, đòi nắm đầu chụp quần "què" cả mấy trăm ngàn, mấy triệu thằng con tham nhũng khác mà độp thì e rằng bàng dân thiên hạ rất khó tin. Con thú 3 Ếch chưa đến nỗi điên loạn mà tự mình lấy dao bầm mình.
Chiện tham nhũng ở Việt Nam? Nó xưa như trái đất, nó là con bịnh trầm kha, là dịch ung thư ở giai đoạn cuối hết thuốc trị, nó đã thành quán tính, thành quốc sách của tập thể băng đảng thì chả lẽ đẹp hết sao được:
Nẫu giết ta thì ta giết nẫu
Giết hết rồi, ta sống với ai?.
Chuyện tham nhũng, chuyện Vinalines, Vinashin, chuyện ngân hàng, biệt thự lâu đài và muôn vàn chuyện khác mà đầu óc nhỏ bé của Thạch tui làm sao mà núm cho thấu hết được?. Đã vậy, hồi đầu năm 2014, ông tưởng thú còn bày sự đùa dai, cũng tuyên bố dập dựng xanh lè, nào là: "Phải mở rộng dân chủ", (2) nào là: "Chúng tôi tin rằng nhân quyền, tự do, dân chủ là xu hướng không thể đảo ngược và là đòi hỏi khách quan của xã hội loài người. Việt Nam không phải ngoại lệ, không đứng ngoài xu thế này".
Khiến một số người mừng húm và nghiêm trọng hơn sự vui mừng là còn đề nghị bầu Tưởng thú lên làm Tổng thống nữa chứ!. Đừng nói chi ai xa, ngay cả bản thân tui đây cũng rất kết nên trong bụng mừng thầm. Nhưng than ôi, tôi và một số người đã đã thất thểu vì bị sa vào bẫy nên "bé cái lầm" mắc cỡ thí mẹ khi thấy bao nhiêu nhà đấu tranh cho Dân Chủ ai đã ở trong tù thì phải "ủ tờ" tiếp tục, ai chưa bị bắt thì lần lượt sẽ vào tù, tưởng thú đã cho lịnh "bắt hết, nhốt hết".
Khiến một số người mừng húm và nghiêm trọng hơn sự vui mừng là còn đề nghị bầu Tưởng thú lên làm Tổng thống nữa chứ!. Đừng nói chi ai xa, ngay cả bản thân tui đây cũng rất kết nên trong bụng mừng thầm. Nhưng than ôi, tôi và một số người đã đã thất thểu vì bị sa vào bẫy nên "bé cái lầm" mắc cỡ thí mẹ khi thấy bao nhiêu nhà đấu tranh cho Dân Chủ ai đã ở trong tù thì phải "ủ tờ" tiếp tục, ai chưa bị bắt thì lần lượt sẽ vào tù, tưởng thú đã cho lịnh "bắt hết, nhốt hết".
Chủ nghĩa cộng sản dẫu ở đất nước nào cũng đều đào tạo ra những tên hề xuất chúng, những tên hề này, bất luận là Lê-Nin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, ĐM, Lê Hà Bá, Phành Quang Thun hay 3 Ếch... thì đều là những tên hề diễu gạt thiên hạ một cách thần sầu quỉ khóc. Thế mà vẫn có lắm kẻ cứ nghe, thiệt là đau thốn dế.
_______________________________________
Chú thích:
HUỲNH TÂM * BÍ MẬT THÀNH ĐÔ
Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 10)
Sĩ tiết của dân tộc Việt Nam đã mất hay vẫn còn?
Chúng tôi xin thưa trước, phải nói chân thành rằng: Chính người Trung Hoa còn không hiểu biết sâu sắc cái trò đời ý nghĩa mở rộng của 16 kim tự (4 tiêu chuẩn hòa nhập chung sống trong một quốc gia), huống chi người Việt Nam! Khi hiểu ra mới thấy đáng sợ hãi đất nước đã lâm nguy. Trước hết chúng ta cũng cần phải hiểu về nguyên tắc 16 chữ vàng là gì, sau khi biết hãy cùng nhau đứng lên tranh đấu bảo vệ chủ quyền của đất nước Việt Nam, đấu tranh đòi hỏi hủy bỏ "16 kim tự" bán nước và cướp lân bang do Trung Cộng-Việt Cộng thông đồng, chủ mưu đặt trên vai người Việt Nam những tiêu chuẩn phi lý.
Những đồng lõa Hoa Nam ẩn hiện trong BCT/BCH TƯ, quốc hội, chính quyền, quan chức, trí thức, học giả, văn nghệ và báo chí truyền thông của đảng v.v... ra rả ca tụng "16 kim tự" thiếu minh bạch, trên đôi môi trân tráo của đảng "Bác" truyền loan (4 tốt), quả là một lừa bịp vĩ đại, thay vì nguyên văn sự thật của "16 kim tự", chủ đích của nó (4 tiêu chuẩn Việt Nam hòa nhập chung sống chỉ trong một Trung Quốc).
Làm người Việt không hổ thẹn với lương tâm và dân tộc mình, từ chối những ràng buộc phi lý "16 kim tự" ngục tù của Trung Cộng. Dân tộc Việt Nam có tình cảm riêng, văn hóa riêng và chủ quyền riêng, chứ không phải thứ dân lưu khấu đến đường cùng chấp nhận "16 kim tự" không tưởng ôm vào đời sống. Đối với dân tộc Việt Nam, không thể nào chấp nhận làm kiếp nô lệ "16 kim tự" do Trung Cộng ban bố.
Trích đoạn bức ảnh từ cuốn sách Raymond Aubrac của tác giả Pascal Convert. NXB Seuil, phát hành tháng 5 năm 2011 Paris. Những tiết lộ mới về "Bác Hồ", hy vọng đảng ta học tập theo gương cách mạng ôm người. Sau một cơn giận dữ của bão tố, "Bác" cháu nằm bài xái một gốc đời thực. Photo này xin tặng toàn đảng Cộng sản, xem qua cho biết "Bác" và chúng cháu hành quân đêm lẫn ngày. Chúng tôi tặng trước công luận và sẽ viết trong loạt bài "Hồ Chí Minh, một gián điệp hoàn hảo". Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Việt Cộng liên hoan thành quả, sau 5 năm hội nghị bí mật Thành Đô 1990-1995
Những nhà lãnh đạo Việt Cộng họp mặt bí mật kỳ 1 tại Hà Nội, do Đại sứ Trung Cộng Lý Gia Trung triệu tập, mục đích liên đới mật thiết giữa những người Thành Đô đời trước và đời sau trong BCT/BCH TƯ đảng, thành lập một tổ chức bí mật cha đẻ của "Kỷ yếu bí mật Thành Đô", có tên "Bình thường hóa quan hệ song phương Trung-Việt". Trung Cộng buộc BCT/BCH TƯ VC thề nguyện tuyệt đối trung thành: Nguyên tắc 16 kim tự (4 tiêu chuẩn Việt Nam hòa nhập chung sống chỉ trong một Trung Quốc). Người dân Việt chỉ nghe không biết nguyên tắc của nó: "Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan" [1], trái lại lời hai tuyên truyền ấn tượng mơ hồ "Hữu nghị láng giềng, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" [2]. Trung Cộng chơi chữ, Luận học của chủ thuyết "Mịn" thuyết phục kẻ mơ hồ chết trong sự kém phân minh, đó là tình trạng người dân sống dưới chế độ không lương thiện và ém nhẹm thông tin có liên quan đến đại sự quốc gia và dân tộc Việt Nam.
Ngày 8 tháng 2 năm 1995 Hà Nội. Sau 5 năm tính sổ thành quả Hội nghị bí mật Thành Đô. Nguyễn Văn Linh cùng Đại sứ Trung Quốc Lý Gia Trung (Li Jiazhong). Tổng kết nguyên tắc chỉ đạo "Kỷ yếu bí mật Thành Đô" và trao đổi 16 chữ vàng (4 tiêu chuẩn Việt Nam hòa nhập chung sống chỉ một Trung Quốc). Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Thực chất 16 chữ vàng, do Trung Cộng điều khiển từ xa và chỉ đạo BCT/BCH TƯ, thấm nhuần trước khi hòa nhập theo mục đích chung: "Sơn thủy tương liên, lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan", (4 tiêu chuẩn Việt Nam hòa nhập chung sống chỉ một Trung Quốc) [3]. Kể từ đó, phát triển theo quan hệ song phương của Trung Quốc, Việt Nam qui phục làm chư hầu đời đời, cho nên bất cứ Tổng Bí thư nào cũng phải đi trên lộ trình đường sắt do Trung Cộng định hướng, cũng như trước kia "Bác" đã kinh qua độc đạo này.
Năm 1991 Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt vừa đắc cử vào BCT/BCH TƯ, chạy vạy hối hả đến Bắc Kinh yết kiến Giang Trạch Dân, Lý Bằng và nhập khóa hạnh đường đầu tiên "16 chữ vàng", đến đời Lê Khả Phiêu "16 kim tự" hiển linh biến thành "chân lý nô lệ".
Trong "Kỷ yếu Thành Đô", có qui định đảng Cộng sản Việt Nam thi hành theo hiến pháp Trung Quốc (CPPCC), qua phương châm 16 chữ vàng: "Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan", được diễn giải theo ý của Việt nhưng nội dung ác độc của Hán "Hữu nghị láng giềng, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai".
Những nhà lãnh đạo Trung Cộng phát động, chỉ đạo Việt Cộng thực thi theo khung tổng thể phát triển quan hệ song phương Việt-Trung, đảng "Bác" đánh dấu sau 5 năm Trung-Việt chung sống, tính đến nay đã có 3 đột phá, bước vào giai đoạn thống nhất Trung-Việt, và củng cố thực lực qua 16 chữ vàng, một định hướng tư tưởng nô lệ mới, Việt Cộng đã tiến hành thành công, sau hội nghị song phương bí mật Thành Dô. Theo chương trình hành động:
"Hữu nghị láng giềng" (Mục lân hữu hảo) yêu cầu hai bên phải làm người láng giềng tốt, người bạn tốt, trước sau như một, xử lý mọi vấn đề theo quan hệ song phương với tinh thần hữu nghị láng giềng.
"Hợp tác toàn diện" (Toàn diện hợp tác) phải không ngừng củng cố, mở rộng và sâu sắc sự giao lưu và hợp tác giữa hai đảng, hai nước trong mọi lĩnh vực, để mưu cầu hạnh phúc cho hai nước và nhân dân hai nước, đồng thời góp phần cho việc giữ gìn và thúc đẩy nền hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực.
"Ổn định lâu dài" (Trường kỳ ổn định), nhấn mạnh tình hữu nghị Trung-Việt là phù hợp lợi ích căn bản của hai đảng, hai nước và nhân dân hai nước, bất kỳ lúc nào, bất kỳ tình huống nào đều phải giữ sự ổn định và phát triển lành mạnh của quan hệ hữu nghị, khiến nhân dân hai nước đời đời hữu nghị với nhau.
"Hướng tới tương lai" (Diện hướng vị lai) phải xuất phát từ hiện nay, nhìn về lâu dài, kế thừa truyền thống, mở ra tương lai tốt đẹp hơn cho quan hệ Trung-Việt.
Mở rộng ngoại giao "16 kim tự" quan hệ song phương Việt Nam-Trung Quốc
Tháng 10 năm 1991, tân Tổng Bí thư Trung ương đảng Cộng sản Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đến Bắc Kinh. Hai nhà lãnh đạo đã đưa ra một thông cáo chung tuyên bố bình thường hóa quan hệ song phương Trung-Việt. Tổng bí thư Trung Quốc Giang Trạch Dân xác định lại. "16 kim tự" là nguyên tắc tư tưởng chỉ đạo đúng hướng, Việt Cộng phải học tập". Sau đó được ghi vào tuyên bố chung bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, hai đảng cấp cao Chính phủ ký hiệp định trao đổi nhân sự trong nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, công nghệ, văn hóa, quân sự, quốc phòng v.v... thăm viếng thường xuyên, và ký "Hiệp ước mở rộng hợp tác trong những lĩnh vực khác"?
Ngày 8 tháng 2 năm 1995 Hà Nội. Sau 5 năm tính sổ thành quả Hội nghị bí mật Thành Đô. Đỗ Mười yết kiến viên Đại sứ Trung Quốc Lý Gia Trung (Li Jiazhong). Tổng kết nguyên tắc chỉ đạo "Kỷ yếu bí mật Thành Đô" và trao đổi 16 chữ vàng (4 tiêu chuẩn Việt Nam hòa nhập chung sống chỉ một Trung Quốc). Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Vào đầu năm 1999, Chủ tịch Giang Trạch Dân thăm Việt Nam, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đề xuất thành quả "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, tình hữu nghị tốt, hợp tác toàn diện". Một lần nữa bành trướng nguyên tắc "16 kim tự", xác định chỉ đạo và khung tổng thể cho sự nghiệp phát triển quan hệ song phương của hai nước trong thế kỷ mới, đánh dấu quan hệ Trung-Việt bước vào một giai đoạn phát triển hòa nhập không ấn định điểm dừng lại. Đến cuối năm 2000, hai nước cũng đã ban hành về việc hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới, "Tuyên bố chung" cho sự phát triển tiếp tục của quan hệ song phương vào thiết lập các mục tiêu cụ thể trong khu vực (Khu tự trị).
Ngày 30 tháng 11 đến ngày 4 tháng 12 năm 2001. Tổng bí thư mới của đảng cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh đi thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, hội đàm với Tổng bí thư Giang Trạch Dân. Một lần nữa bổ túc nội dung "16 kim tự", hướng dẫn Nông Đức Mạnh thông hiểu chiến lược phát triển. Nhấn mạnh quan hệ song phương Trung-Việt trên cơ sở quan trọng nhất của phương châm 4 tốt: "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng tốt, hợp tác toàn diện tốt". Đặc biệt Giang Trạch Dân không bỏ lỡ cơ hội chỉ bảo Nông Đức Mạnh hiểu rõ thêm bình thường hóa quan hệ hai nước, với sự giao lưu và hợp tác trên các lĩnh vực giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Hai bên đã có những hoạt động chung quanh "Kỷ yếu Thành Đô" những Thông cáo chung năm 1991, 1992, 1994, 1995 và các Tuyên bố chung năm 1999 và 2000, lần lượt ký Hiệp ước biên giới trên đất liền, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ. Giang Trạch Dân lập lại sự ràng buộc giữa Việt-Trung, thực chất ông ta trao vòng số 8 cho Việt Cộng thưởng thức, một lối đe dọa khéo léo của những người Cộng sản.
Ngày 03 tháng 12 năm 2001, Tổng Bí thư Trung Quốc Giang Trạch Dân thăm Việt Nam. Thừa dịp tại xứ người họ Giang phát triển thêm nội dung "16 kim tự", hướng dẫn nguyên tắc mối quan hệ song phương.
"- Ổn định lâu dài", nhấn mạnh tình hữu nghị song phương Trung-Việt phù hợp với lợi ích căn bản của hai đảng và nhân dân hai nước, bất cứ lúc nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn duy trì phát triển ổn định và lành mạnh quan hệ hữu nghị giữa hai nước bạn từ thế hệ này sang thế hệ tới.
"- Hướng tới tương lai", tập trung vào các truyền thống lâu dài hiện nay, tạo ra một mối quan hệ tốt hơn trước kia và tương lai.
"- Láng giềng tốt", yêu cầu Việt Cộng ứng xử tốt, lễ độ đối với Trung Cộng, luôn luôn nêu cao tinh thần láng giềng tốt, những mối quan hệ hợp đồng với tất cả hoạt động đều có liên quan.
"- Hợp tác toàn diện tốt", tiếp tục củng cố, mở rộng giữa hai bên cho sâu sắc hơn, trao đổi song phương và hợp tác trong các lĩnh vực khác nhau để có lợi cho hai nước và nhân dân, và để bảo vệ và thúc đẩy khu vực hòa bình, ổn định và phát triển để đóng góp toàn diện.
Nguồn gốc của "16 kim tự" hay tinh thần 4 tốt đều phi lý không có điểm nào nhân dân Việt Nam sử dụng được, hóa ra những từ ngữ Trung Cộng trao tận tay cho Việt Cộng, chẳng qua chỉ là "16 liều độc dược", một liệu pháp kích thích đảng ôm nàng tiên "nâu". Cuộc sống của nhân dân Việt Nam tất nhiên bị lôi cuốn vào nhãn hiệu (4 tốt) mà Trung Cộng đã bào chế thành 4 viên thuốc để Việt Nam tự vẫn. Điều đáng sợ nhất những văn bản tuyên bố chung không có điều khoản nào qui định bắt buộc Trung Cộng tuân thủ và thực hiện đúng tinh thần 4 tốt. Việt Cộng phải ứng xử tốt với Trung Cộng, nói cách khác là trung thành! thậm chí một lời hứa trên đầu môi chót lưỡi Trung Cộng cũng không cho. Quan hệ song phương bất bình đẳng, chỉ có những khu tự trị mới chấp nhận phương thức cai trị 4 tốt của Trung Cộng.
Ngày 8 tháng 2 năm 1995 Hà Nội. Sau 5 năm tính sổ thành quả Hội nghị bí mật Thành Đô. Phạm Văn Đồng cùng Đại sứ Trung Quốc Lý Gia Trung (Li Jiazhong). Tổng kết nguyên tắc chỉ đạo 16 chữ vàng (4 tiêu chuẩn Việt Nam hòa nhập chung sống chỉ một Trung Quốc). Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Trong những cuộc đàm phán, Nông Đức Mạnh phát biểu:
- Đảng và chính phủ Việt Nam sẽ chịu sự hướng dẫn chính sách của Bắc Kinh để thúc đẩy quan hệ song phương Việt Nam-Trung Quốc, tính cách vững chắc hơn đang ở phía trước. Lần này đảng phát triển 16 chữ vàng (4 tốt) sâu sắc hơn.
Hai đảng đồng thuận mở rộng đại lộ "16 kim tự" thiết lập nguyên tắc quan hệ song phương giữa hai nước, những lãnh đạo BCT/BCH TƯ của hai đảng khẳng định đã đạt được bước tiến quan trọng rút ra từ Thành Đô. Hai nước đã ký kết một "hiệp ước biên giới trên đất liền", "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá". Hai đảng đã tiến hành trao đổi kinh nghiệm hợp tác kinh tế, thương mại, khai thác tài nguyên trên tầm cao mới, giao lưu hữu nghị giữa nhân dân hai nước, đặc biệt giới trẻ đã có những bước vươn xa, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (trung ương hồ chí minh cộng sản chủ nghĩa thanh niên đoàn) đến Trung Quốc thăm viếng Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc (trung quốc cộng sản chủ nghĩa thanh niên đoàn). Tất cả những sinh hoạt này, Trung Quốc hoàn toàn khuyến khích với mong muốn bồi dưỡng nhiều thế hệ trẻ vì lợi ích chiến lược "trăm năm trồng người" bởi "bác" đã chủ trương trồng người Việt hóa Hán từ lâu trên đất nước Việt Nam, sau khi tuyên bố An Nam khu, họ là những đảng viên máu xác Việt hồn Hán, hợp tác toàn diện giữa "răng hở môi lạnh", xưa nay Trung Cộng-Việt Cộng đã chuẩn bị những thế hệ thanh niên trên nền tảng bệ phóng tài năng vững chắc, biên giới láng giềng, hữu nghị, quan hệ, song phương sẽ hết hiệu lực!
Nông Đức Mạnh phát biểu:
- Tình hữu nghị Trung Cộng-Việt Cộng là một tài sản chung quý báu nhất của thời đại. Hai nhà lãnh đạo đã nhiều lần nhấn mạnh rằng trong thế kỷ mới, tiếp tục thực hiện nguyên tắc "16 kim tự", Trung Cộng hướng dẫn, không ngừng làm giàu tính đạo đức của đảng, phong phú và sâu sắc hơn ý nghĩa của nó, tình hữu nghị truyền thống Trung-Việt và hợp tác với một mức độ cao hơn của sự phát triển.
Đại diện Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân (阮善仁), và Bí thư thứ nhất Nguyễn Đắc Vinh (阮得荣). Liên hoan Thanh niên Việt Nam-Trung Quốc gồm 8 miền đất nước đại hội lần thứ II: "Ước mơ tuổi trẻ, xây đắp tương lai sáng ngời". Hoạt động sôi nổi của 8 thành phố lớn Liễu Châu, Bắc Hải, Khâm Châu, Quý Cảng, Ngọc Lâm, Cảng Phòng Thành, Sùng Tả và Việt Nam, gần 3.000 thanh niên Việt Nam tham dự và 5.600 thanh niên Trung Quốc hội tụ về thành phố Nam Ninh. Một hòa tan trước 2020. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm. [4]
Theo nhà phân tích ngoại giao Giáo sư Carl Thayer cho rằng: Lập trường của Bắc Kinh là hai nước Trung Cộng-Việt Cộng có thể là "đồng chí nhưng không phải đồng minh". Do đó Bắc Kinh bác bỏ những đề nghị của Việt Nam muốn tạo một liên minh quân sự giữa Hà Nội-Bắc Kinh. Sự thật quan hệ song phương Việt Cộng-Trung Cộng đã ấn định ranh giới thiên tử và bầy tôi. Trung Cộng chỉ muốn ràng buộc Việt Cộng sống trong khuôn khổ bang giao như ý nghĩa của "Tuyên bố chung, tháng 2 năm 1999". Có thể tóm lại thành 16 chữ vàng. Việt Nam không còn con đường nào khác để cứu mình!
Theo Dương Danh Dy, trước kia là tổng lãnh sự của Việt Nam tại Quảng Châu thì chính sách nhượng bộ của các lãnh đạo Việt Nam khoảng thập niên 1990 là một lỗi lớn vì đã đánh mất "bản lĩnh kiên cường, bất khuất" mà chỉ biết "gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp"... của Trung Quốc, ngay cả chấp nhận việc Trung Quốc can thiệp vào nhân sự cao cấp nhất trong chính quyền.
Nguyên tắc tư tưởng "16 kim tự", chỉ đạo phát triển quan hệ song phương TQ-VN.
Những nguyên tắc chủ đạo hướng dẫn hợp tác cơ bản của hai đảng Trung-Việt và khái niệm những quy định "16 chữ vàng". "Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan". Theo tư tưởng của Trung Cộng định nghĩa "16 kim tự" lẩn thẩn, cũng chính nó đã diễn dịch theo ý tưởng Trung Cộng dạy bảo đứa học trò Việt Cộng. Chưa hiểu thấu đáo đã thi hành "16 kim tự" bởi nguyên lai mệnh lệnh, Trung Cộng đẻ ra thứ tư tưởng quái thai "Chung sống dài hạn, giám sát lẫn nhau", "hoàn toàn tận tâm", "phương pháp tiếp cận" (gọi tắt là) "Nguyên tắc chỉ đạo".[5] Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thực sự hòa tan Việt Nam vào đại lục.
Nguyên tắc cơ bản.
- "Chung sống dài hạn", đề cập đến việc Trung Cộng-Việt Cộng đoàn kết trên mọi mặt và tiếp nhận chỉ đạo của Bắc Kinh. Học thuyết "16 kim tự" dành riêng cho những nhân vật lãnh đạo đã có sự nghiệp đảng, được đảng tín nhiệm lâu dài.
Với sự đấu tranh.
- "Giám sát lẫn nhau" Đảng Cộng sản Trung Quốc và đảng Cộng sản Việt Nam. Quyền chung chỉ trích lẫn nhau trong phạm vi pháp luật của đảng, giúp đỡ lẫn nhau, trên tinh thần bảo vệ lẫn nhau và quyền lợi chung của đảng Cộng sản.
Thực hiện sự nghiệp.
- "Hoàn toàn tận tâm" Trung Cộng hoàn toàn hướng dẫn đảng Cộng sản Việt Nam. Làm sống lại sự thịnh vượng của đảng, đấu tranh vì đảng vinh quang không vì xấu hổ mà làm suy giảm trung thành tuyệt đối với đảng.
Chỉ đạo tuyên truyền.
- "Phương pháp tiếp cận" tạo mọi điều kiện để cộng đồng hội nhập những chính sách của đảng và tận tụy hướng dẫn dư luận hiểu biết về đảng.
"Nguyên tắc chỉ đạo" là để duy trì và cải thiện sự hợp tác của đảng và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hệ thống chính trị của BCT/BCH TƯ Việt Nam phải thực hiện theo các hướng dẫn của Trung Cộng.
Kẻ phản quốc còn gì để tự hào "Thà mất nước còn hơn mất đảng". Qua những trang trí tại tư dinh của ông Lê Đức Anh. Cho thấy con người này hiện rõ bất lương, không cần đến những nhà tâm lý học chẩn mạch để đoán chứng. Sau lưng có lưỡng kỳ quốc Trung Cộng-Việt Cộng (2 lá cờ), ông ta có hai quốc tịch đảng, bí danh MSS Hoàng Đích. Sau lưng bên phải có khung chữ "Tâm" to tổ bố, chứng tỏ ông đã mất hết lương tâm, cho nên mượn khung họa chữ "Tâm" suy tình thế con người. Bên trái có quả cầu để chứng minh sự hiểu biết, trong khi ấy trình độ của Lê Đức Anh chỉ công nhân cạo mủ Cao su (địa vị mỗi người giá trị riêng). Hiện nay, trong nội bộ cao cấp của Việt Công có hiện tượng treo khung chữ "Tâm" và quả cầu tràn lan như Lê Đức Anh là một ví dụ, vì thấp hèn trí tuệ phải trang trí như thế hầu che sự ngu xuẩn. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Quang Minh Nhật Báo, loan tải cuộc phỏng vấn cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh, ngày 21 tháng 7 năm 1995. Ông phát biểu: "Chúng tôi đã nhút nhát, mất chủ quyền đó là điều chúng tôi đã làm được". Ông nhấn mạnh rằng "Ưu tiên hàng đầu phải là để bảo vệ quyền lợi của mình trên hết, trong khi duy trì tình bạn với đất nước mình đứng thứ hai, "Nhìn chung, chúng ta phải duy trì hòa bình và ổn định trong phát triển. Nếu những người hàng xóm cố tình không tốt với chúng tôi thì chúng tôi sẽ kiên quyết bảo vệ quyền lợi. "Lê Đức Anh nói. Đảng yếu đuối bởi người Việt Nam bất tài, chứ không phải lỗi lầm của đảng Cộng sản.
Thưa ông Lê Đức Anh:
- Nếu Việt Nam bị mất lãnh thổ, lãnh hải và chủ quyền quốc gia, sẽ không còn tồn tại trên trái đất này, vậy ông có suynghĩ này không.
- Điều này chúng tôi đã tự liệu "Thà mất nước còn hơn mất đảng"!
Đa tạ ông Lê Đức Anh cho chúng tôi một buổi đối thoại khó quên.
Thảo nào, Lê Đức Anh và BCT/BCH TƯ đảng phản quốc, thực hiện 4 tốt tài tình, xuất hiện khắp mọi nơi trên toàn quốc, với những quân đoàn của đảng xã hội đen, xã hội đỏ săn lùng đàn áp nhân dân yêu nước, theo chỉ thị luật pháp của Trung Cộng. Tất nhiên Việt Cộng đã chấp nhận ăn cơm Tàu với xì dầu được hướng dẫn "16 kim tự" trung thành nguyên tắc bành trướng cho đến khi nào đất nước Việt Nam toàn diện độc trị của Trung Cộng!
______________________________________
Chú thích:
[1] (nhân tử thủy điện tương quan, lý tưởng đích hỗ thao tác tính, văn hóa tương thông, mệnh vận tương quan).
[2] (nhân tử thủy điện tương quan, lý tưởng đích hỗ thao tác tính, văn hóa tương thông, mệnh vận tương quan).
[3] (4 nạp nhập tiêu chuẩn Việt trụ chỉ hữu nhất cá Trung Quốc).
[4] (việt nam tổ quốc trận tuyến trung ương ủy viên hội chủ tịch nguyễn thiện nhân hòa hồ chí minh cộng thanh đoàn trung ương thư ký xử đệ nhất thư ký nguyễn đắc vinh đồng lưỡng quốc thanh niên đại biểu giao lưu. đồ phiến lai nguyên).
[5] "sanh hoạt tòng trường viễn lai khán hỗ tương giam đố", "toàn lực", "bạn pháp" (xưng hô) "chỉ dẫn".
ĐẠI NGHĨA * HỒ CHÍ MINH
Giải thiêng huyền thoại Hồ Chí Minh
Đại Nghĩa (Danlambao) -
Với đảng CSVN Hồ Chí Minh chỉ là một thần tượng “bị thêu dệt” quá đáng vì trong suốt cuộc đời của ông ta là một chuỗi dài đầy huyền thoại, giả dối với nhiều vinh-nhục. Nhất là về cuối đời, ông ta chỉ còn là một bóng mờ sau vũ đài chính trị.
Khi đương thời, HCM là một nhà chính trị đầy tham vọng, tự tô vẽ cho mình hình ảnh một lãnh tụ siêu phàm cũng như ông tự phong mình là “cha già dân tộc”.
Nhà văn Đại tá QĐND Phạm Đình Trọng, trong bài “Ăn mày dĩ vãng” có đoạn vạch trần ý đồ gian xảo của ông HCM như sau:
“Ngay sau ngày 2-9-1945, hầu hết người dân Việt Nam vẫn ngơ ngác chưa biết HCM là ai!... HCM liền tự tay viết sách ‘Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch’ và ký tên người viết là Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện kể tưởng như chân thực nhưng vẫn như mang không khí huyền thoại, mang cảm hứng anh hùng ca. Trong tập sách đó cũng chính HCM tự nhận là Cha già dân tộc!” (ĐoiThoai online ngày 16-7-2009)
Cựu Đại tá QĐND Bùi Tín, cựu TBT báo Quân Đội Nhân Dân và báo Nhân Dân, người từng tiếp xúc với HCM đã trả lời phỏng vấn của Pv Trà Mi đài RFA như sau:
“Tôi coi ông ta không phải là thần thánh, chỉ là một con người bình thường như mọi người khác, tức là cũng có ưu điểm và khuyết điểm, có những đóng góp tích cực và tiêu cực...
Tuổi trẻ bây giờ quan trọng nhất là cần có tư duy độc lập. Tất cả những gì mình tiếp thu được nên sàn lọc qua bộ óc, suy nghĩ của mình xem đúng hay sai. Về việc họ ca ngợi đạo đức HCM, tôi nghĩ tuổi trẻ cần biết rõ là ông Hồ trong hoạt động cách mạng có sai lầm lớn là giả dối nhiều lắm. Một ví dụ đơn giản là ông tự viết ra quyển sách nói về tiểu sử của mình, ký tên là Trần Dân Tiên... trong đó còn ghi HCM không có vợ con, suốt đời chỉ nghĩ đến dân tộc, thế nhưng thật ra, ông ta có nhiều vợ.
Điều này đã được chứng minh đầy đủ như ông ta đã cưới bà Tăng Tuyết Minh ở Quảng Châu, Trung quốc, có rõ cả ngày giờ, giấy hôn thú, ảnh và thư từ cơ mà. Rồi sau này, khi ông về Hà Nội, người ta cũng biết chính ông Trần Quốc Hoàn bố trí cho ông một cô tên là Nông Thị Xuân, hàng tuần lễ vào gặp ông, và ông Hồ đã có con là anh Nguyễn Tất Trung nay đã hơn 50 tuổi”. (RFA online ngày 19-5-2007)
Trần Đĩnh, người viết tiểu sử Hồ Chí Minh nói rõ cô Xuân này là “con gái nuôi của bác”, ấy thế mà ông ta đã “loạn luân” với con gái nuôi của mình. Có nghĩa là đạo đức của ông không bằng một kẻ tầm thường. Chẳng những thế, ông ta không dám nhìn vợ, nhìn con và còn hơn thế nữa để cho Trần Quốc Hoàn tổ chức “thủ tiêu” vợ ông để ông giữ tiếng...
“...tôi bất thần nhớ đến cô Xuân, cô “con gái nuôi của bác”. Hỏi mấy người đứng tuổi nom có vẻ quen từ trên rừng. A, cô Xuân ấy hả? - Lấy chồng rồi. Chồng lái xe. Nhưng chết rồi! - Ố, sao trẻ thế mà chết? - Về quê Cao Bằng bị ô tô đè...” (Đèn cù I - trang 183)
“Nguyễn Tạo hay Tạo Cuội xì ra ở nhà Đinh Văn Đảng những chuyện tài đình về lý lịch Trần Quốc Hoàn và bà Xuân, vợ cụ Hồ bị Hoàn giết. Một lực bí ẩn trong nội bộ đảng đang muốn cho lộ dần ra những xó xỉnh của Hồng cung bí sử chăng?” (Đèn cù II - trang 322)
HCM là người luôn cố tạo cho mình một huyền thoại cao siêu qua những hành động giả dối ngay cả chuyện đôi dép râu của ông ta cũng vậy. Triết gia Trần Đức Thảo đã có một nhận định sâu sắc về bản chất của ông Hồ được ghi lại trong “TĐT Những lời trăn trối” như sau:
“...'ông cụ’ đã lần lượt ăn ở với nhiều phụ nữ một cách nghiêm túc, từng đã chính thức lập gia đình, từ đã có con ở Âu, ở Á. Nhưng ‘ông cụ’ vì đã cuồng vọng chính trị, mà phải chứng tỏ mình là người thanh khiết, thanh cao, có đức độ ‘cách mạng’ (cách mạng có cấm ai lấy vợ đâu!...) nên ‘ông cụ’ đã phải từ bỏ tất cả vợ con!” (TĐT... trang 348)
“Cụ Hồ là một tay chính trị nhiều thủ đoạn lắm chứ không phải là một tay hiền từ đâu!...
Cụ Hồ còn nêu gương sống thanh đạm, bắt làm nhà gỗ để cụ ở, nhưng chung quanh và những người thừa kế cụ, có ai theo gương sống thanh đạm như thế đâu. Bởi chung quanh đều biết tấm gương ấy chỉ là thứ đạo đức hình thức, bề ngoài, nhưng trong thực tế thì lại khác, ‘ông cụ’ vẫn sống rất là đầy đủ về mọi mặt, kể cả về vấn đề sinh lý”. (TĐT... trang 82-83)
“Cứ theo thực tại mà xét, thì ‘ông cụ’ là một con người cực kỳ vị kỷ, mang mặc cảm tự tôn tuyệt đối. Từ cách mang đôi dép râu bình dân, từ cách để hở ra cái áo lót nâu đơn sơ, thủng vài lỗ bên trong, từ cách không cài hết khuy áo sơ-mi, tới cách khoác hờ cái tấm nhựa bên ngoài... đó là những cách thức phô diễn đã được chọn lựa, cân nhắc rất kỹ...
Lối ăn mặc cố ý tỏ vẻ ‘bình dân’ trong đám người chính trị, hoặc giữa dân chúng như vậy là một cách tự tôn rất cao siêu!” (TĐT... trang 264)
Theo ông Hoàng Tùng, nguyên TBT báo Nhân Dân viết trong bài “Bí mật Hồ Chí Minh” thì ông Hồ đã tuân theo lệnh của Mao Trạch Đông đã phóng tay CCRĐ long trời lỡ đất nhằm tận diệt trí, phú, địa hào. Theo thống kê chính thức của nhà nước đăng trong cuốn Lịch sử Kinh tế Việt Nam tập 2 cho biết có 172.008 người (thực tế con số cao hơn nhiều) bị quy vào thành phần địa chủ và đã bị giết, trong đó có bà Nguyễn Thị Năm tự Cát Hanh Long là người “ơn” của đảng CSVN bị chính ông Hồ kết tội “Địa chủ ác ghê” và đem xử bắn đầu tiên.
“...mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi bác sang, nhất định bắt phải thực hiện cải cách ruộng đất. Sau thấy không thể từ chối được nữa, bác mới quyết định phải thực hiện CCRĐ trên đất Bắc”. (ĐanChimViet online ngày 4-7-2010)
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường khi trả lời báo Quê Mẹ nhân chuyến đi sang Pháp sau năm 1975 nói về cái cảnh đầu rơi máu chảy suốt 3 năm trời này như sau:
“Trong lịch sử từ hồi lập quốc đến nay chưa có một cuộc thanh trừng giết dân nào khủng khiếp tàn bạo như cuộc CCRĐ. Hầu như mọi cuộc đấu tố đều có sự nhúng tay của cố vấn Trung cộng. Điều đó cho thấy chính quyền HCM lệ thuộc ngoại bang như thế nào”. (Người Việt ngày 7-9-2004)
Sau khi gây án CCRĐ diệt chủng long trời lỡ đất ông HCM đã không có được cái bản lĩnh của một người lãnh đạo, sự thiếu can đảm và vô liêm sĩ không dám nhận lỗi đã bị một trí thức trẻ, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn khi trả lời Pv Duy Ái đài VOA vạch trần như sau:
“Và khi có nhân sĩ, như luật sư Nguyễn Mạnh Tường, góp ý rất chân thành với cụ Hồ về tầm quan trọng đối với đất nước trong việc cần phải xây dựng một nhà nước tôn trọng dân chủ, tôn trọng pháp luật thì cụ Hồ không những không áp dụng mà người góp ý còn bị hất hủi, trù dập hết sức nghiệt ngã.
Cụ Hồ cũng đã thể hiện sự tránh né trách nhiệm của người đứng đầu hệ thống chính trị trong vụ CCRĐ khi để Đại tướng Võ Nguyên Giáp đứng ra xin lỗi nhân dân và chỉ để một số nhân vật cấp dưới chịu kỷ luật”. (VOA online ngày 16-9-2010)
Tư cách của ông HCM được cựu Đại tá QĐND Phạm Quế Dương, người đã trả thẻ đảng sau khi tướng Trần Độ bị khai trừ đã trả lời phỏng vấn của Tuần báo Viet Tide ông cho thấy lão Hồ là người vong ân bội nghĩa như sau:
“Cụ Hồ làm nhiệm vụ đấu tranh cho dân tộc ông cũng phải nhờ nước ngoài. Ông về nước cũng phải nhờ bà con nhà giàu. Ông ở nhà thị xã, kêu gọi “Tuần lễ vàng” để lấy tiền của bà con. Đáng lẽ ông phải cảm ơn người ta mà ông lại quay lại đánh người ta. Chuyện đó đáng để lịch sử lên án”. (VietTide số 44, ngày 17-5-2002)
Ông HCM chẳng những đã nghe theo lệnh của quan thầy Trung cộng tàn sát dân mình trong phong trào CCRĐ, ông còn làm ngơ cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Công hàm ngày 14-9-1958 bán hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Tổ quốc để đổi lấy vũ khí xâm lược VNCH. Hành động thần phục cộng sản Thiên triều của ông Hồ đã gây mở dầu cho bọn CSVN ngày nay lệ thuộc 16 chữ vàng mà nguồn gốc được Triết gia Trần Đức Thảo nói rõ vai trò “cộng sản” của ông Hồ như sau.
“Cái mảng tối nên tìm hiểu là lúc được bố trí vào làm việc trong ‘Bát Lộ Quân’ của đảng cộng sản Tàu, với quân hàm thiếu tá thì ‘ông cụ’ đã tuyên thệ gia nhập đảng CSTQ vào lúc nào, do ai đỡ đầu? Tuyên thệ như thế thì có phải từ bỏ quốc tịch Việt Nam hay không?” (TĐT.. trang 254)
Khi vai trò lịch sử đã đi qua thì thần tượng chỉ còn như một bóng mờ. HCM khi còn sống mà đã phải chịu một số phận hẩm hiu vì thất thế trong cuộc tranh giành quyền lực mang dậm nét thắng-thua. Đã đến lúc cho phép ông “ngồi chơi xơi nước”.
“Pierre Brocheux nói: “...kể từ năm 1960 chính nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh mới thực sự là những người nắm quyền. Theo nghiên cứu của tôi thì cả một giai đoạn trước khi qua đời, ông Hồ bị cách ly khỏi quyền lực, tức là không hề có quyền gì. Ông ấy bị biến thành một biểu tượng”. (Đèn cù II - trang 633)
Nhà văn Vũ Thư Hiên, con trai cụ Vũ Đình Huỳnh nguyên Bí thư của HCM, trả lời phỏng vấn báo mạng Dân Luận nói về ông HCM cuối đời bị vô hiệu hóa như sau:
“Theo những nhận xét tôi nghe được từ những người cộng sản thâm niên đáng trọng, ngang hoặc còn hơn Lê Duẩn, thì Lê Duẩn là người nhiều tham vọng. Ông ta không cho phép mình hài lòng chỉ với chức vụ Bí thư thứ nhất, mà muốn hơn thế - một lãnh tụ vô song, một thần tượng trong ngôi đền cộng sản, nếu không hơn thì cũng ngang bằng HCM...
Chỉ biết năm 1965, trong một cuộc nói chuyện với cán bộ tuyên giáo ở Hưng Yên, trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Tố Hữu nói: ‘Ông cụ lẩm cẩm rồi, mọi việc bây giờ do anh Ba (Lê Duẩn) và tụi tôi giải quyết”. (DanLuan online ngày 7-12-2014)
Những lời kể của Trần Đĩnh cùng khớp với lời của Vũ Thư Hiên cho thấy rõ ràng bọn đàn em đã trước bỏ quyền lực cũng như xóa bỏ huyền thoại HCM ngay khi ông còn sống. Vậy thì mọi sự suy tôn hay sùng bái ông ta hay là Võ Nguyên Giáp đều là gian trá, đều là “ăn mày dĩ vãng”.
“Trưởng ban Nông nghiệp Phan Quang mới xuống Hưng Yên cùng Tố Hữu, nghe Tố Hữu nói với báo Hưng Yên là từ nay cần đề cao anh Lê Duẩn nhiều lên, anh sẽ là lãnh tụ, bác Hồ lẩm cẩm rồi”. (Đèn cù I - trang 245)
“Chúng tôi nghe nói cụ Hồ không biểu quyết. Nhiều lần giơ tay toan nói cụ đều bị Lê Đức Thọ ngăn, bảo nhường cho người khác”. (Đèn cù I - trang 265)
Cùng chuyện kể của Trần Đĩnh, cụ Nguyễn Văn Trấn, nhà cách mạng lão thành Nam bộ cũng nói rõ hơn chuyện ông Hồ bị thất sủng trong hồi ký “Viết cho mẹ và quốc hội” như sau:
“Tao nói cho mầy nghe nha, Bùi Công Trừng nói tiếp, về chuyện lão già HCM. Tao nghe thằng Thọ âm mưu lật đổ ông già, và lấy Nguyễn Chí Thanh thay, ông lão chỉ còn làm người chuyên nghiên cứu lý luận Mác-Lênin. Chuyện nước giao cho Nguyễn Chí Thanh...
Mày coi, coi có tội nghiệp không. Đồng chí HCM muôn ngàn kính mến của chúng ta bận bộ đồ lụa gụ, chủ trì hội nghị mà day mặt ra sân. Có lỗ tai tự nhiên nó phải hứng những lời công kích mạt sát Liên xô. Khi chướng tay quá quay vô, đưa tay để nói, thì thằng Thọ lễ phép Bắc Hà:
‘Bác để cho anh em nói đã mà’. Tao đếm lão Hồ, đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp ngăn. Cuối cùng ông cũng cho hội nghị nghe, ông nói ca dao bằng tiếng khóc: ‘Khi thương trái ấu cũng tròn, khi ghét bồ hòn cũng méo’ và ông nói xụi lơ: ‘thấy lợi người ta cho tên lửa vô, thấy bất lợi thì người ta rút ra. Có chi mà!” (GMvQH - trang 328)
Trong thời gian bị cho ngồi chơi xơi nước, ông Hồ bị đàn em cho đi qua Trung cộng “dưỡng lão”, đến cuối năm 1967 cho về nước để bàn chuyện tổng tấn công Tết Mậu Thân nhưng nằm trong âm mưu:
“Còn chuyện bác suýt chết, anh biết không? Kìa, hồi ký Vũ Kỳ đăng trên một số báo Văn nghệ Tết đó! Ông cụ về nước ban đêm bằng máy bay nhỏ. Đến sân bay Bạch Mai phát hiện đèn hiệu đã bị đặt lệch 15 độ, hạ cánh theo nó thì đâm cổ hết xuống khu ao đầm quanh đó. Anh phi công đành xin được hạ cánh mù, tức là theo thói quen. Thế mà không có vụ án đặt láo đèn hiệu, sợ không?” (Đèn cù II - trang 322).
Đảng CSVN rêu rao rằng tổ chức UNESCO vinh danh HCM, nhưng sự thật như thế nào được phóng viên Nguyễn An hỏi cựu Đại tá Bùi Tín trả lời như sau:
“Tôi đến tận UNESCO để tìm và tôi đã gặp bà Elisabeth là người phụ trách Thư viện của UNESCO lớn lắm và bà nắm tất cả hồ sơ chính thức của UNESCO, và bà ấy cũng biết ngay và trả lời tôi trong khoảng 40 phút về nội dung của vấn đề này. Bà xác định rõ lúc đầu có nghị quyết thật của UNESCO nhưng mà cái nghị quyết đó thông qua cái đề nghị viết sẵn của đoàn Việt Nam. Thế nhưng trước ngày kỷ niệm một năm thì cả một phong trào chống đối rất là mạnh mẽ, do đó mà UNESCO chủ trương là không đứng ra tổ chức cái đó nữa và để cho Việt Nam muốn tổ chức như thế nào thì tùy nhưng mà không được lấy danh nghĩa UNESCO”. (RFA online ngày 19-5-2008).
Trần Đĩnh “thất tình” với HCM, ông nói như sau:
“Biết cụ Hồ sau nghị quyết 9 đã bị phe Lê Duẩn cho ngồi chơi xơi nước, chúng tôi bắt đầu kém tin yêu cụ vì đã chịu thua Lê Duẩn, không bảo vệ đến cùng chân lý”. (Đèn cù I - trang 379)
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn trong bài viết “Tiến sĩ Nguyễn Quang A với ‘cụ Hồ’...” đã can đảm nói lên nhận định chân thật của mình về thần tượng HCM mà đảng CSVN trong ý đồ ra công đánh bóng:
“Nhưng việc chính quyền hiện nay vẫn không ngừng nghĩ ra nhiều kế sách, vẫn không tiếc tiền của (của dân) liên tục đầu tư vào việc tô vẽ, duy trì, tôn tạo sự sùng kính HCM trong dân chúng như một bậc thánh, một vị Phật cứu nhân độ thế là vấn đề không có gì khó hiểu vì đó là logic tất yếu của mọi chế độ độc tài…
Họ là những người đang cố duy trì một thần tượng có thể tiếp tục gây mê hoặc, ru ngủ dân chúng trên con đường lầm lạc, độc ác chỉ có lợi cho họ”. (DanLamBao online ngày 28-11-2012)
Hồ Chí Minh ngoài tài đóng kịch sử gia Trần Gia Phụng còn khám phá ra ông ta còn có tài “Trộm thơ” (*) rất là siêu việt, ngay cả tập thơ “Ngục trung nhật ký” đa số là của tác giả Già Lý, người Tàu được CSVN gán cho là của ông Hồ thì cũng là “chôm chỉa”.
Bài thơ “Lương Châu từ” nổi tiếng của Vương Hàn đời nhà Đường bên Tàu có cách đây hơn một ngàn năm vậy mà ông Hồ “cóp” lại khác nhau chỉ có 7 chữ. Như thế mới thấy được cái tè đạo thơ của “bác”.
Bác Hồ nhà ta làm thơ: “Tặng Trần Canh đồng chí”.
“Hương tân mỹ tữu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Địch nhân lưu phóng nhất nhân hồi”.
So sánh với bài thơ: “Lương Châu từ”.
“Bồ đào mỹ tữu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. (* Những chữ in đậm là khác nhau).
(ĐanChimViet online ngày 29-11-2014)
Đọc suốt bài viết này, độc giả mới thấy được lý do trong nhân gian Việt Nam có những câu hát, câu vè châm biếm được Trần Đĩnh, “người viết tiểu sử HCM” đưa vào “tự truyện của mình” để trêu cợt cho hậu thế thấy rằng một huyền thoại đã giải thiêng:
“Hôm qua em mơ thấy bác Hồ,
Chân bác dài bác đạp xích lô,
Em thấy bác em kêu xe khác,
Mắt trợn trừng bác mắng đồ ngu...
….
Cần Thơ có bến Ninh Kiều,
Dưới chân tượng bác đĩ nhiều hơn dân”.
(Đèn cù II - trang 121)
TƯỞNG NĂNG TIẾN * NGUYỄN QUANG LẬP
Nguyễn Quang Lập & Những Tiếng Kêu Ca
Wed, 12/10/2014 - 01:56 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Câu nói thường được nhân gian truyền tụng (“Kính thưa các đồng chí trong chi bộ. Kính thưa các đồng chí chưa bị lộ”) đã phản ảnh rốt ráo tinh thần đoàn kết, và truyền thống về tình đồng chí muôn năm vững bền của những đảng viên C.S. Việt Nam.
Trước sau bọ Lập xin làm một người lái đò nhỏ chở con thuyền SỰ THẬT đến với dân, chỉ vậy thôi, không có gì khác.
Có nhiều người, nhứt là những người khác phái – thỉnh thoảng – vẫn chê ỏng chê eo tui là “cái thằng khô khan tình cảm.” Hổng dám “khô” đâu. Thiên hạ, chả qua, vì hiểu lầm mà tưởng vậy (và tưởng vậy là tưởng năng thối) chớ thiệt tình là tui “ướt át” và cải lương muốn chết luôn.
Nói thiệt tình là tui đa cảm và mong manh như một cánh lá me non vậy đó. Chuyện nhỏ xíu xiu cũng có thể khiến tôi bị bồi hồi xúc động, và dư âm của sự xúc cảm thì cứ âm ỉ kéo dài (có khi) đến cả chục năm!
Cách đây đã lâu, vào ngày 28 tháng 12 năm 2007, tôi có đọc trên báo Công An Đà Nẵng một viết ngắn (“Ấm Lòng Tình Đảng Chan Chứa Lòng Dân”) về chuyến đi thăm của ônng Nông Đức Mạnh – tại huyện Hòa Vang, Đà Nẵng – mà tuốt tới bây giờ những dòng chữ (“đầm ấm đến nao lòng”) vẫn còn cứ như in trong trí nhớ:
“Bà con ùa ra, vây quanh Tổng Bí Thư, chân tình, ngây ngất như đón người thân trở về gia đình. Những cái bắt tay, những nụ cười rạng rỡ. Tất cả tạo nên sự đầm ấm đến nao lòng.”
Thiệt là cảm động hết biết luôn!
Đảng với dân – rõ ràng – tuy hai mà một, hay nói cách khác là dân với Đảng tuy một mà hai, nên tình cảm mới mặn nồng và thắm thiết (tới) cỡ đó. Còn tình đồng chí giữa những người trong Đảng với nhau thì (ôi thôi) thiết tha, khắng khít và gắn bó biết chừng nào mà nói:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
...
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Ảnh: vnq.edu.vn
Bỏ qua cái vụ dư luận dị nghị về chuyện “nắm lấy bàn tay” (ngó bộ hơi gay) thì ai cũng phải công nhận bài thơ “Tình Đồng Chí” của thi sĩ Chính Hữu rất hay. Lời bàn thêm (và bàn vô) của nhà văn Hoa Quỳnh cũng hay không kém:
“Tình đồng chí, tình thiêng liêng rất riêng của ‘Anh Bộ đội Cụ Hồ’ ấy được gìn giữ và thăng hoa trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, trên con đường Hồ Chí Minh trên biển hay đường Trường Sơn huyền thoại, trong mỗi trận đánh càn hay bên cánh võng trong dải rừng U Minh xanh ngút mắt, trong cả mỗi lời ca giữa hai trận đánh ‘Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn/ Hai đứa ở hai đầu xa thẳm/ Đường ra trận mùa này đẹp lắm’…
Tình đồng chí hun đúc thêm vẻ đẹp của lí tưởng tất cả vì độc lập tự do của Tổ Quốc. Và hôm nay, trên chiến tuyến bảo vệ sự bình yên của Tổ quốc, tình đồng chí thiêng liêng ấy vẫn chảy nồng nàn trong mỗi cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân đội nhân dân Việt Nam. Và chúng ta có quyền tin vào sự vững bền muôn thủa của giang sơn Tổ quốc.”
Giang sơn tổ quốc không chỉ “vững bền muôn thưở” mà mỗi lúc còn một thêm giàu mạnh và tươi đẹp, nhờ vào sự dẫn dắt của những đồng chí lãnh đạo vô cùng anh minh và tài đức – theo như nhận định của báo giới Canada:
“Từ khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận chức vào năm 2006, ông đã khiến xã hội Việt Nam thay đổi đáng kể. Việt Nam, từ một nước thế giới thứ ba tù túng, đã trở thành ‘Con rồng châu Á’ mới và tiếp theo là ‘Điều kỳ diệu Châu Á.’ Điều đó xảy ra chỉ trong chưa đầy một thập kỷ... Nhân dân Việt Nam đã kiên định vượt lên khỏi những tàn tích của ‘chiến tranh chống Mỹ’, cuộc chiến mà chúng ta vẫn được nghe nói đến.”
Bởi vậy, không phải là vô cớ mà khi còn tại chức đồng chí Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết đã từng tuyên bố: “Ngày nay, chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc...” Người kế nhiệm, đồng chí Trương Tấn Sang cũng không không nén được sự hân hoan: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”
Đây không phải là những nhận định (chủ quan) của riêng những đồng chí lãnh đạo quốc gia mà là đều là những sự thực (khách quan) đã được phản ảnh từ thế giới bên ngoài.
Theo Business Insider :Việt Nam đứng thứ 16 trong top 20 điểm đến đáng sống nhất, cao hơn Nhật Bản và Bỉ.
Tổ chức News Economics Foundation (NEF) cũng xếp hạng Việt Nam vào top 5 nước hạnh phúc nhất thế giới.
Dựa trên những dữ kiện này, cùng với công trình nghiên cứu nghiêm túc, Tiến Sĩ Viện trưởng Nguyễn Xuân Kiên (Viện Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế – Xã Hội Việt Nam và Đông Nam Á) khẳng định: “Với tiềm năng sẵn có của các doanh nghiệp hiện nay, chỉ 20 -30 năm nữa, Việt Nam sẽ là một trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới. 40 năm nữa, Việt Nam sẽ đứng trong top 15 nền kinh tế lớn nhất thế giới.”
Tất nhiên, không phải tất cả mọi nỗ lực phát triển đất nước đều xuôi thuận cả. Chúng ta vẫn còn đang gặp phải một số trở ngại và khó khăn nhất định vì tàn dư thối nát của chế độ cũ, vì âm mưu phá hoại của bọn thù địch nước ngoài, và (đôi khi) cũng vì sự chưa hoàn toàn chưa nhất trí giữa những đồng chí đảng viên trong công việc phân chia chiến lợi phẩm hay lợi nhuận.
Lúc “áo anh rách vai quần tôi có hai miếng vá” chả ai lại thèm muốn có thêm một mảnh y phục tả tơi của anh bạn đang cùng chiến đấu (kề bên) nhưng đến khi mỗi người làm chủ vài cái ngân hàng thì tình đồng chí, tất nhiên, phải khác. Tuy nhiên, dù có ở vào tình huống nào chăng nữa những người cộng sản Việt Nam vẫn không quên những đồng chí của mình.
Qua cuốn băng ghi âm giữa ông Hà Văn Thắm và nghĩa muội (bàn về việc “thâu tóm ngân hàng Bảo Việt”) anh em họ Hà vẫn nhắc đến những đồng chí vắng mặt một cách rất ân cần:
- Mà em có gặp mấy đồng chí đấy (Vietnamnet) không? Bọn nó định xử lý mấy đồng chí đấy thật nhưng mà không sao, em bảo không sao đâu, các bác ấy không ủng hộ, các bác ấy bảo vệ, công an nó còn có 1 đồng chí...
- Thì em phải bịa, em gọi điện để mà là mai kia gì đấy em sang, nhưng nghe giọng nó có vẻ hơi ngại ngại, có vẻ e dè, hay là mấy ông ấy sợ bị ai theo dõi.
- Thực ra thì có 1 cái văn bản 1 đồng chí nguyên công an gửi cho Thủ tướng đề nghị là điều tra, xem xét động cơ của Vietnamnet về chuyện viết ảnh hưởng đến uy tín của tài chính ngân hàng nhưng mà Bộ Chính trị phản ứng rất căng cái vụ đấy mà nên không sao, em bảo các anh ấy thế.
- Em gọi định nhờ vụ TOSY thôi nhưng mà có vẻ dè chừng quá.
- Thì có thể là nó cứ bảo là là anh nhờ các bác các đồng chí ấy, nên các đồng chí ấy ngại, có thể thế, cái thứ 2 nữa là là vụ này anh Son anh bảo vệ quyết liệt lắm, anh Son Bộ trưởng, trực tiếp anh Son ảnh chỉ đạo.
...
- Cái người ta quan tâm đến là chiêu chính trị đằng sau đấy ở việc thôn tính ấy,
- Chiêu chính trị là chiêu gì?
- Tức là đằng sau đấy là sẽ gồm nhưng thế lực nào đấu đá nhau như thế nào.
Ngay cả khi chuyện “đấu đá” không còn giữ kín được trong nội bộ, qúi vị lãnh đạo quốc gia vẫn cứ còn (cố) giữ được cái tình nên không hài tên ai trước công luận mà chỉ lịch sự gọi (nhau) là đồng chí Y hay đồng chí X... thôi. Thiệt là tế nhị và qúi hoá hết sức!
Sở dĩ Đảng ta giữ được mối thâm tình này là hoàn toàn nhờ vào di chúc (thiêng liêng) của Bác, trước lúc đi xa:
“Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.” ( Hồ Chí Minh Toàn Tập, Tập 12, NXB CTQG, H.2002, tr. 510).
Cả nước, kể cả đứa bé lên năm, đều biết như thế – trừ nhà văn Nguyễn Quang Lập:
“Trong một thời gian dài, ông Nguyễn Quang Lập đã viết và đăng tải lên mạng rất nhiều bài gây chia rẽ nội bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước … cơ quan An ninh điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã bắt quả tang, sau đó ra lệnh khám xét khẩn cấp và tạm giữ hình sự đối tượng Nguyễn Quang Lập, sinh năm 1956, hộ khẩu thường trú tại căn hộ B505 – Lô B2 – Chung cư Hoàng Anh – Gia Lai, 37 Nguyễn Văn Hưởng, phường Thảo Điền, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh.”
Coi:
Theo Business Insider :Việt Nam đứng thứ 16 trong top 20 điểm đến đáng sống nhất, cao hơn Nhật Bản và Bỉ.
Tổ chức News Economics Foundation (NEF) cũng xếp hạng Việt Nam vào top 5 nước hạnh phúc nhất thế giới.
Và trong khi toàn dân, toàn đảng đều nỗ lực không ngừng để giữ vị thế của một “con rồng Châu Á” của Việt Nam được “vững bền muôn thưở” mà Nguyễn Quang Lập lại “gây chia rẽ nội bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước” thì thằng chả bị bắt – theo điều 258 Bộ luật hình sự – là đúng người đúng tội rồi, chớ có oan ức gì đâu (mà kêu la um xùm vậy) mấy cha?
Trước sau bọ Lập xin làm một người lái đò nhỏ chở con thuyền SỰ THẬT đến với dân, chỉ vậy thôi, không có gì khác. Sống ở nước C.H.X.H.C.N.VN mà lại nằng nặc đò “chở con thuyền SỰ THẬT đến với dân” thì đi tù là cái chắc! Ở xứ sở này những đồng chí lãnh đạo đâu có sợ hãi bất cứ điều gì, ngoài sự thật!
CÁNH CÒ * GIÁO HOÀNG
Một chọn lựa cay đắng.
Sun, 12/14/2014 - 02:38 — canhco
Bà bạn người công giáo gọi điện cho mình thở dài thườn thượt bảo, buồn quá bà ơi, Đức Giáo Hoàng đầu hàng tụi ác ôn rồi, ngài không tiếp Đức Đạt Lai Lạt Ma!
Mình hụt hẫng, bàng hoàng và có phần trách móc. Hình ảnh nụ cười thánh thiện của ông hình như lịm tắt trong lòng mình.
“Hội nghị các giải Nobel Hòa bình” lần thứ 14 sẽ được diễn ra ở Roma sau khi công luận phản đối nó tại Nam Phi và một vài khôi nguyên hòa bình tẩy chay vì chính phủ Nam Phi từ chối không cho Đức Đạt La Lạt Ma tham dự.
Sáng hôm12 tháng 12, hãng tin Reuters cho biết Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã từ chối không gặp gỡ Đức Đạt Lai Lạt Ma. Từ vài tuần trước đây phái đoàn Tây Tạng đã dàn xếp một buổi hội kiến giữa Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng Tòa thánh Vatican đã từ chối lời đề nghị này.”
Đức Giáo Hoàng của người nghèo, bất hạnh nay bỗng nhiên quay mặt lại với người Tây Tạng bị bạc đãi ức hiếp và chà đạp.
Đức Giáo Hoàng của niềm tin mới nơi người Công giáo sau bao năm chìm đắm trong đức tin một chiều, đóng cửa với xã hội và chỉ làm những việc gì trực tiếp cho Chúa.
Ngài đã mạnh mẽ nói với giáo dân khắp thế giới rằng hãy tham gia vào các hoạt động chính trị, hãy hòa minh với xã hội để thấm nỗi đau của người chung quanh và hãy bỏ nỗi sợ hãi phía sau vì niềm tin vào công lý cuối cùng sẽ thắng.
Đức Giáo Hoàng với những cử chỉ lay động quả tim nhân loại ấy nay lại quay mặt đi với một nhân vật thánh thiện khác cũng theo đuổi những mục tiêu như ngài đặt ra. Đức Đạt La Lạt Ma đã suốt đời vì nhân dân Tây Tạng mà đấu mặt với tập đoàn vô nhân Bắc Kinh. Ngài không có một thứ khí giới nào trong tay, vũ khí duy nhất là tiếng nói của những nguyên thủ quốc gia vì hòa bình và công lý lên tiếng ủng hộ cho một đất nước bất hạnh nhất thế giới đang bị tiêu diệt dần mòn dưới thứ chủ nghĩa bành trướng của Bắc Kinh.
Cả ngày mình không yên. Cả ngày quần thảo với những ý nghĩ tiêu cực về con người đáng kính ấy. Bỗng nhiên nổi lên câu hỏi nếu ngay lúc này được cho phép diện kiến ngài và đặt một câu hỏi thì câu hỏi ấy sẽ là gì?
Trong thời gian trước đây Vatican đã có nỗ lực hàn gắn ngoại giao với Bắc Kinh nhằm tìm kiếm sự cho phép giáo hội Trung Quốc được tấn phong chức Giám mục vốn hàng chục năm qua chưa bao giờ được công khai nghi thức quan trọng này. Giám mục do nhà nước cộng sản dựng lên đã và đang hủy hoại niềm tin trong Ki tô hữu và hơn 50 triệu tín đồ Công giáo đang thực hiện niềm tin của họ dưới bóng tối của chủ nghĩa vô thần.
Mấy năm gần đây Trung Quốc đã phần nào nới lỏng việc quản thúc giáo hội và khả năng cho phép Vatican phong chức giám mục đang dần hiện rõ. Đây có phải là lý do khiến một vị Giáo hoàng có tư tưởng và hành động khai sáng, dấn thân như ngài phải chùn bước hay không? Và nếu phải chắc ông sẽ rất đau lòng cho quyết định của mình, một quyết định có thể làm sụp đổ niềm tin hàng tỷ người trên hành tinh này, kể cả người ngoại đạo như mình.
Nếu nhắm mắt thả lỏng tư tưởng để tưởng tượng giáo hội công giáo trong đất nước Trung Quốc hoạt động ra sao, và nhất là nó bị bao vây, cô lập sách nhiễu như thế nào đối với hơn 50 triệu giáo dân âm thầm trong đất nước khổng lồ ấy chắc chắn nhiều người như mình sẽ thấy được những hình ảnh không khác gì đang xảy ra tại các giáo xứ xa xôi nhỏ bé tại Việt Nam. Nơi ấy giáo xứ bị côn đồ ném vật dơ bẩn vào giáo đường, tu sĩ bị đánh đập, Giám mục bị chặn đường không cho hành lễ, nữ tu bị cấm không được giúp trẻ em nghèo khuyết tật và còn biết bao hình ảnh tối tăm khác nữa?
Nhân lên những hình ảnh ấy chắc chắn bức tranh về tự do tôn giáo tại Trung Quốc sẽ ảm đạm hơn rất nhiều và những hình ảnh đau lòng này buộc Đức Giáo Hoàng phải hy sinh, và sự hy sinh ấy đang làm ông đau đớn.
Một con người với đức tính nhân ái, khiêm nhường nhưng mạnh mẽ như ngài khó mà chịu được sự dằn vặt khi đưa ra một quyết định phản lại sức mạnh nội tâm của một chủ chiên vốn bị bó buộc vào mục tiêu truyền giáo khắc khe. Tiếng rên xiết của giáo hội Trung Quốc không cho phép ngài giữ danh hiệu một Giáo Hoàng của người người nghèo trong thế giới tư bản khi cùng lúc người nghèo và bị áp bức trong thế giới cộng sản hiện diện song hành.
Ngài phải chọn một trong hai. Phải hy sinh và chịu sự lên án của dư luận kể cả lòng bất mãn của giáo dân trên khắp thế giới. Sức ép ấy không có gì so sánh được và sự chịu đựng của ngài mới đáng cho mình suy nghĩ.
Ngài từng mạnh mẽ nói với giáo dân khắp thế giới rằng hãy tham gia vào các hoạt động chính trị, thì đây, ngài đang tham gia chính trị với một quyết định nao lòng. Ngài hòa mình với xã hội Trung Quốc để thấm nỗi đau của người Ki tô hữu và ngài bỏ mặc nỗi sợ hãi vì bị phán xét để tin rằng công lý cuối cùng sẽ thắng.
Nhận thức được điều này làm mình choàng tỉnh và ngay lập tức muốn tới hôn chân ông, một hình ảnh tỏa sáng hào quang hơn nữa trong trái tim của một người ngoại đạo.
Mình thấy rõ ngài quỳ gối cầu nguyện mà vai run bần bật. Đôi vai mạnh mẽ ấy phải vác trên vai hàng tỷ tín đồ nay lại phải vác thêm một thách thức kinh khủng của dư luận.
Mình cũng thấy sự hy sinh của ngài đang làm Bắc Kinh toại nguyện vì cứ tưởng là đã hạ gục một sức mạnh mới của niềm tin. Mình lại cả tin rằng sự toại nguyện ấy sẽ không bao lâu nếu bánh ít đi mà bánh quy không lại.
Thế giới sau một lúc bàng hoàng vì Vatican từ chối tiếp Đức Đạt La Lạt Ma sẽ theo dõi sự phản ứng của Bắc Kinh ra sao trước sự hy sinh khó tưởng tượng này. Nếu nhỏ mọn, Bắc Kinh sẽ bị tẩy chay khinh bỉ. Nếu thỏa hiệp thì Vatican là kẻ chiến thắng kéo vào lòng mình hơn 50 triệu tín đồ, một sức mạnh không nhỏ chút nào đối với một tôn giáo luôn bị o ép sách nhiễu và cưỡng bách hoạt động theo chủ trương của một chế độ độc tài toàn trị.
Năm mươi triệu con người ấy có lẽ đang cùng thầm thì cầu nguyện cho ngài, vị chủ chăn dám hạ mình chấp nhận sự phán xét của toàn thế giới để hy sinh cho đàn chiên lưu lạc của ông tại một đất nước mà không một sự thế chấp nào thô bỉ hơn khi công chính bị đòi hỏi để trao đổi cho chủ nghĩa bành trướng vô nhân.
Tiếp Đức Đạt La Lạt Ma là một chọn lựa dễ dàng, thế giới sẽ tung hô tinh thần bất chấp cường quyền bạo lực của ngài và trong tâm tưởng nhiều người Đức Giáo Hoàng sẽ được ghi thêm một điểm son. Không đưa tay ra với một người như ngài, Đức Giáo Hoàng đã chọn lựa con đường thánh giá với những viên đá nhọn ném vào mình. Sự chọn lựa ấy sẽ làm nhiều người đỗ vỡ và giáo hội công giáo toàn cầu sẽ gồng mình chấp nhận bao nhiêu phán xét.
Mình biết ngài sẽ khóc nhưng sau những giọt nước mắt ấy là hình ảnh sừng sững của hy sinh để thế giới thấy rõ hơn sự nhỏ mọn hèn hạ của một đất nước luôn tưởng rằng mình vĩ đại.
Hình ảnh nụ cười của ông từng là chất liệu chữa trị mối hoài nghi của mình trước các vấn đề đạo đức xã hội bỗng nhiên trở lại và mình cay đắng nói với lòng rằng cuộc sống còn quá nhiều hiềm nghi này cần một sự tha thứ như ngài. Ngài đang tha thứ cho chế độ ác tâm bằng những giọt nước mắt cũng như an ủi người lo âu bởi nụ cười từng làm hàng triệu con tim sống lại sau những mất mát trong cuộc sống.
MARK FRANCHETTI * NƯỚC NGA
Người Nga sống ngày mỗi tồi tệ hơn. Chiếc ghế quyền lực của Putin đang lắc
Sun, 12/14/2014 - 20:57 — ledienduc
Mark Franchetti
Mark Franchetti
Những người Nga giàu có đang bực bội với chính sách của Vladimir Putin, nhưng hiện tại họ sợ không dám nói ra. Lệnh trừng phạt và giá cả tăng cao khiến người dân ngày càng có ít tiền hơn trong bóp của mình. Putin cũng thấy nóng nực.
Dưới thời Putin, Valeria Ivanova đã có một cuộc sống giống như chiếc bánh rán trong bơ. Một người mẹ độc thân là giám đốc của một ngân hàng tư nhân. Lương của bà tương đương 5.000 đôla/tháng. Hơn gấp ba lần mức lương quốc gia trung bình.
Bà đi xe hơi phương Tây. Nghỉ phép ở nước ngoài. Bốn năm trước, bà mua một căn hộ với hai phòng ngủ. Trong kế hoạch năm nay bà sẽ đón năm mới ở Paris.ần đâu tiên Putin trở thành tổng thống cách đây 14 năm.
Giờ đây cũng là lần đầu tiên các tiêu chuẩn sống của bà Ivanova đã xấu đi nhanh chóng.
Kể từ tháng Giêng năm nay, thu nhập của bà - tính bằng đô la - giảm gần 40 phần trăm. Về giá trị tiền - cho đến khi bà còn tính nó bằng ngoại tệ - cũng bị mất đi từ số tiền gửi tiết kiệm. Khoản thanh toán tiền vay mua nhà hàng tháng tăng gấp đôi - bà vay bằng đô la, mà dường như lúc đó là một động thái hợp lý. Chẳng bao lâu có thể phải bán căn hộ này với sự mất mát. Hoặc phải chịu rủi ro bị ngân hàng thu hồi.
- Tôi cảm thấy bị thiệt hại - bà Ivanova, 35 tuổi, người đã đến Moscow vào năm 2002, cho biết - Bọn quỷ sứ đã lấy mất Paris rồi. Tôi sẽ trải qua năm mới với cha mẹ của mình ở Siberia.
Lý do nào gây ra rắc rối cho Valeria Ivanova? Một tổng hợp giết người - giá dầu mỏ rơi hàng ngày, địa chính trị quốc tế và sự thiển cận của Kremlin. Hiện tại Putin là người tạo nên sự xáo trộn - chính ông ta tấn công phương Tây về sự trừng phạt được đưa ra bởi cuộc khủng hoảng của Ukraine - trước một thách thức lớn nhất cho đến nay. Sử dụng những lời lẽ chống phương Tây, điện Kremlin cho biết trong tuần trước rằng, nước Nga đang trên bờ vực của một cuộc suy thoái kéo dài. Một nửa thu nhập của nước này đến từ việc bán dầu mỏ và khí đốt.
Trong vài tuần qua, giá dầu từ mức trung bình dài hạn là 100 đô la đã giảm giá gần 40 phần trăm mỗi thùng. Mỗi đô la giảm giá dầu toàn cầu làm Nga mất 2 tỷ đô la mỗi năm. Sự sụt giảm đột ngột của giá dầu mỏ đến bốn tháng sau khi Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu áp đặt các biện pháp trừng phạt cao nhất đối với Nga từ việc hỗ trợ quân sự cho quân ly khai ở Ukraine. Kết quả là, các ngân hàng nhà nước Nga đã bị cắt đứt với thị trường tín dụng phương Tây. Mặt khác, các ngân hàng tư nhân và công ty phải chịu đựng hiệu ứng domino. Ngày càng khó khăn để họ đến với nguồn vốn. Tìm cách thay thế là một nhiệm vụ khó khăn.
- Không có người xếp hàng sẵn sàng đầu tư vào nước ta - người đứng đầu của ngân hàng nhà nước lớn nhất của Nga Sberbank, German Gref, cho biết. - Trong cuộc chạy đua giành tiền bạc có sự cạnh tranh rất lớn.
Bộ trưởng Tài chính Nga Anton Siłuanow ước tính rằng vì các biện pháp trừng phạt Nga mất khoảng 40 tỷ đôla. Các khoản lỗ do giảm giá bán dầu đạt 90-100 tỷ đôla. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng ước tính này là quá lạc quan. Hoạ vô đơn chí - sự trừng phạt và giảm giá dầu - đồng rúp mất giá, trong năm nay đã mất gần 40 phần trăm so với đồng đôla.
Các ngân hàng trung ương Nga nhanh chóng bỏ ra 70 tỷ đôla để can thiệp bảo vệ đồng rúp. Tháng trước, ông đã quyết định cho phép đồng rúp biến động tự nhiên trên thị trường. Tuy nhiên, khi đối mặt với sự sụt giảm kỷ lục, trong tuần trước chính phủ một lần nữa can thiệp để bảo vệ đồng rúp và ngăn chặn sự suy sụp của ngân hàng. Lần này, 700 triệu USD được bỏ ra. Ngày càng nhiều người Nga đổi tiền rúp ra ngoại tệ.
Putin quyết liệt bảo vệ sự sáp nhập Crimea và cho rằng bằng việc làm này, lệnh trừng phạt của phương Tây sớm muộn cũng sẽ xảy ra . - Không có Crimea và Ukraine, các chính phủ phương Tây vẫn tìm thấy một lý do khác để kiềm chế sự hồi sinh Nga - Putin gầm lên. - Người ta đã kiềm chế Nga trong nhiều thế kỷ.
Tổng thống Nga tuyên bố đóng băng các ngưỡng thuế trong bốn năm và ra lệnh ân xá thuế cho vốn nước ngoài trở lại Nga.
Trong năm 2014, dòng chảy của vốn từ quốc gia này đã tăng gấp ba lần và đạt 80 tỷ bảng Anh. - Mặc dù đã nói với tất cả giọng điệu hiếu chiến, Điện Kremlin vẫn tức giận.
Họ hiểu rằng đây là một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng - Chris Weafer chuyên gia tư vấn cho các công ty có nhu cầu đầu tư vào Nga, cho biết - Vấn đề thực tế là, trong thực tế Putin không làm được bao nhiêu, bởi vì hai yếu tố chính thúc đẩy sự mất giá của đồng rúp, cũng như sự thiếu tín dụng và đầu tư nước ngoài mang yếu tố từ bên ngoài: sự trừng phạt và giảm giá của dầu - Weafer nói thêm.
Một dấu hiệu tích cực hiếm hoi? Sự giảm giá của đồng rúp đã mang lại một chút thư giãn cho khu vực khí đốt và dầu khí, vì kim ngạch xuất khẩu tính bằng đô la, còn các chi phí được tính chủ yếu bằng đồng rúp. Tuy nhiên, sự mất mát quá lớn của doanh thu từ việc bán dầu đang đẩy Nga đến bờ vực suy thoái.
Putin nói rằng nền kinh tế cần cho các thập kỷ tiếp phải với tăng trưởng từ 5-6 phần trăm mỗi năm. Nhưng tuần trước, Bộ trưởng Bộ Kinh tế đã thông báo rằng năm tới GDP sẽ giảm 0,8 phần trăm. Đồng rúp yếu làm cho nhập khẩu hàng tiêu dùng đắt tiền hơn. Tháng trước, lạm phát tăng đến 9 phần trăm. Tiếp theo có thể lên đến 12 phần trăm. Giá kiều mạch - sản phẩm cơ bản - đã tăng gấp đôi. Ngay cả gái mại dâm đã tăng giá dịch vụ.
Giám đốc Tình báo Nước ngoài Mikhail Fradkov cáo buộc Mỹ áp đặt các biện pháp trừng phạt và cuộc tấn công vào đồng rúp bằng cách điều chỉnh giá dầu. Tất cả, tất nhiên, để hạ bệ Putin. - Không ai muốn một nước Nga mạnh và độc lập - Fradkov nói. Đây là một khẳng định hoàn toàn không thuyết phục, nhưng là cách nói dành cho những người Nga bình thường. Phương tiện truyền thông nhà nước liên tục đổ lỗi các vấn đề kinh tế của Nga cho phương Tây. Các cuộc thăm dò cho thấy 60 phần trăm, người Nga bằng lòng như là một dấu hiệu về thái độ yêu nước: không cần hàng hóa phương Tây. Không khí chống Mỹ sâu và rộng rãi hơn trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
- Tất cả đều đẹp - Hãy đập ngực mình và hét lên "Mua hàng Nga" - một đạo diễn truyền hình bị sa thải vì những quan điểm phê phán của ông, đã nói như thế. - Nhưng hãy bắt đầu bằng cách cố gắng mua truyền hình Nga. Chúng ta không làm bất cứ điều gì khác hơn ngoài vũ khí. Hạnh phúc và thịnh vượng dựa trên tên lửa. Những thứ mà chúng ta không tìm thấy trong những chuyện chính thức của các cơ quan chức năng?
Nhưng thực tế là nền kinh tế đang chậm lại đáng kể, ngay cả trước khi sự ra đời của các lệnh trừng phạt và giảm giá dầu. Đồng rúp sụt giá trước sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng ở Ukraine. Hầu hết các chuyên gia đồng ý với ý kiến cho rằng Putin không biết cách hiện đại hóa nền kinh tế được hưởng lợi lớn từ việc bán dầu thô. Thay vì chi kỷ lục 50 tỷ đôla cho Olympic mùa đông ở Sochi - đứa bé yêu quý của tổng thống muốn cho thế giới thấy sức mạnh của Nga. - Họ đã sống tốt nhờ 3 ngàn tỷ thu được hàng năm từ việc bán dầu mỏ và khí đốt.
Chẳng có khuyến khích nào cho sự thay đổi và cải cách - Weafer nói. Trong năm 2018 Vladimir Putin có thể tái tranh cử. Nếu ông ta quyết định - tất cả trong các lần xuất hiện đã cho thấy điều đó - ông ta tiếp tục nắm quyền cho đến năm 2024. Lúc đó ông ta 72 tuổi. Sự ủng hộ ông đạt mức kỷ lục - trên 80 phần trăm - nhờ sự thịnh vượng mà ông ta mang lại và hiện đang bị đe dọa.
- Điều gì sẽ xảy ra khi người Nga thực sự bắt đầu phải chịu đựng? Đây chính là cuộc thử lửa thực tế với Putin - một đối tác kinh doanh của một trong những đầu sỏ chính trị giàu nhất nước Nga, cho biết. - Lúc đầu, mọi người tụ tập quanh ông ta, nhưng được bao lâu? Tầng lớp giàu có đã bắt đầu nổi giận về hướng đi của đất nước mà ông ta đang dẫn dắt, nhưng họ quá sợ để thể hiện.
Hôm nay, không thể lật đổ Putin. Tuy nhiên, ông ta bắt đầu cảm thấy hơi thở của mình trên lưng, khi mớ hỗn độn này kéo dài quá lâu. Trước chúng tôi là một thời gian khó khăn. Không chỉ đối với người Nga, mà còn đối với Putin - người nói chuyện cho biết thêm.
Bản Việt ngữ © Lê Diễn Đức
----------------------------------------------------------------
Bài dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan, đăng trên nhật báo Ba Lan "Polska The Times" ngày 13 tháng 12, 2014, tại link: http://www.polskatimes.pl/artykul/3682972,rosjanom-zyje-sie-coraz-gorzej-wladza-putina-drzy-juz-w-posadach,1,id,t,sa.html
- ledienduc's blog
- http://www.rfavietnam.com/node/2361
TƯỞNG NĂNG TIẾN * NGÀY LỄ LỚN
Dư Âm Của Một Ngày Lễ Lớn
Fri, 12/12/2014 - 03:24 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Đi nước ngoài, mới biết mình mất những gì.
Bùi Ngọc Tấn
Đi nước ngoài, mới biết mình mất những gì.
Bùi Ngọc Tấn
Mấy lúc gần đây, thỉnh thoảng, tôi vẫn có việc phải ghé qua Kampong Channang. Đây là một thành phổ nhỏ, nằm ở tả ngạn của dòng Tonlé Sap, cách thủ đô Nam Vang khoảng trăm cây số.
Tôi hay đi lơ ngơ qua những con phố ngập nắng (và ngập bụi) nhìn mấy bảng hiệu loằng ngoằng chữ Miên – đôi khi chữ Tầu – với ít nhiều lơ đãng. Riêng chiều qua, tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy một bảng gỗ nhỏ, trước một căn nhà, có ghi hàng chữ: KHMER KAMPUCHEA KROM HUMAN RIGHTS ASSOCIATION KG. CHANNANG.
Ảnh: Sovanrith
Thiệt không vậy cà? Tui đứng chết trân, nhìn chăm chăm vào tấm bảng mà không còn dám tin vào đôi mắt của mình nữa. Không lẽ ở một tỉnh lỵ xa xôi, và nhỏ bé (téo teo) đến thế này mà cũng có văn phòng Hiệp Hội Nhân Quyền Của Người Khmer Kampuchea Krom sao?
Cửa mở sẵn nên tôi bước vào bên trong. Phòng khách trống trơ, chỉ độc một cái bàn làm việc với điện thoại và computer nhưng không có ai hết trơn hết trọi.
Tần ngần một lát, tôi vừa định bước ra thì nghe tiếng gọi phía sau. Tôi quay lưng không hiểu cô gái muốn nói điều gì nhưng nhìn nét mặt và nụ cười tươi tắn của người đối diện thì đoán là mình đang được đón chào. Chả hiểu sao, tôi lại chợt nhớ đến hai câu thơ của Phan Ni Tấn:
Chả hiểu em nói cái gì
Nhìn không một đoá xuân thì cũng thương!
Cô bé xinh xắn và dễ thương quá sức. Chỉ tiếc là tôi đã qua cái tuổi gặp ai cũng có thể thương được (và thương đại) mất rồi. Lúng túng, tôi chỉ tay vào tấm bảng gỗ trước nhà lắp bắp:
- Human rights, human rights ...
Cô nhỏ nhắc lại (y chang) với giọng nói không dấu được ít nhiều hãnh diện:
- Human rights, human rights ...
Thiếu nữ nói thêm một tràng tiếng Khmer như có ý hỏi “tôi có cần giúp đỡ gì không?” Tôi không biết trả lời sao nên đành cười (trừ) đưa tay ra dấu từ biệt, rồi bẽn lẽn bỏ đi.
Tôi đi mà mặt đỏ vì hơi ngượng, và cũng vì giận cho sự dốt nát của chính mình. Phải chi tôi nói được chút xíu tiếng nước người thì đỡ “khổ” biết chừng nào.
Về đến nhà trọ, tôi “google” liền và khám phá ra rằng Trụ Sở Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc – the Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights (OHCHR) – đã có mặt ở xứ Chùa Tháp từ năm 1993 lận.
OHCHR Office in Phnom Penh. Ảnh:cambodia.ohchr.org
Họ còn có chi nhánh ở tỉnh Battambang. Còn những phân nhánh nho nhỏ, cỡ như ở Kampong Channang, như tôi vừa thấy chiều nay thì chắc chắn là vô số.
OHCHR Office in Battampang. Ảnh:cambodia.ohchr.org
Qua hôm sau, tôi nhờ một người bạn (dân bản xứ) đưa đi thăm Trụ Sở Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc ở thủ đô Nam Vang cho nó biết. Anh lắc đầu:
- Để bữa khác đi. Hôm nay lễ, chắc họ không mở cửa đâu.
- Lễ gì?
- National Human Rights Holiday. Đây là một trong những ngày lễ chính của Cambodia. Công sở, trường học, ngân hàng ... đều đóng cửa hết mà.
- Thiệt không cha nội?
- Thiệt chớ!
Bán tín bán nghi, tôi lại “google” nữa (Public holidays in Cambodia) và tìm được dòng chữ này đây: December 10. This national holiday was established to commemorate the United Nations General Assembly's adoption and proclamation of the Universal Declaration of Human Rights.
Ai mà dè cái xứ Chùa Tháp này lại đàng hoàng và văn minh dữ dội, vậy Trời?
Cùng ngày, ngày 10 tháng 12 năm 2014, Phom Penh Post có phóng sự (“Five-day march for rights”) thực hiện bởi Griff Tapper và Tat Oudom qua youtube.
Từ Phnom Penh, thông tín viên Quốc Việt (RFA) cũng có bài tường thuật: Hơn 200 tổ chức bảo vệ nhân quyền Campuchia cùng khoảng 6 ngàn dân chúng địa phương tổ chức biểu tình tuần hành khắp đường phố ở thủ đô Phnom Penh nhân Ngày Quốc tế Nhân quyền (10/12). Mục đình đòi chấm dứt tình trạng những hành vi tội ác đã không bị trừng phạt và có một tòa án độc lập.
Hàng người biểu tình Ngày Quốc tế Nhân quyền đòi chính phủ thả các nhà đấu tranh độc lập ngày 10/12/2014. Ảnh và chú thích: Quốc Việt.
Nhìn dân chúng Cambodia diễn hành khắp thủ đô, rồi tụ tập đông đảo trước quốc hội, cùng với hình ảnh của những tù nhân lương tâm của xứ sở họ khiến tôi lại thốt nhớ đến cái cách chào đón Ngày Quốc Tế Nhân Quyền (tại gia, chỉ cùng với chó và mèo) của một thành viên Mạng Lưới Blogger Việt Nam – cô Phạm Thanh Nghiên:
Tôi ăn mừng ngày Quốc Tế Nhân Quyền 10 tháng 12 sớm hơn 1 ngày. Cho nó... lành! vì theo kinh nghiệm đau thương quá khứ của năm trước, ngày 10 tháng 12 cũng là ngày côn-đồ-giả-dạng xuống đường để thực hiện quyền... cước võ tàu đối với những ai muốn tổ chức ăn mừng ngày trọng đại này của nhân loại. 10 tháng 12 cũng là sinh nhật 1 năm của Mạng Lưới Blogger Việt Nam mà tôi là một thành viên.
Để buổi tiệc kỷ niệm ngày Quốc Tế Nhân Quyền (QTNQ) được trang trọng tôi đã trang trí "nội thất nhà tù" của mình. Ở trên tường làm "phông" là 27 giấy "triệu tập" và giấy "phạt" (thật ra là 30 nhưng có tờ tôi xé trước mặt "họ", có tờ bé Múc nhà tôi xơi mất). 27 tờ giấy này cũng có nghĩa lắm đấy bạn. Nó cho thấy những câu viết "blogger Phạm Thanh Nghiên đã được trả tự do vào ngày 18/09/2012" tưởng vậy mà không phải vậy!
Cùng tham dự với tôi để ăn mừng ngày QTNQ năm nay là bé Múc và bé Bi Trố.
Nguồn ảnh:phamthanhnghien
Chào mừng NQTNQ tại gia có lẽ là cách an lành nhất mà một người Việt có thể thực hiện mà không bị hành hung hay xách nhiễu bởi những người đang cầm quyền tại Việt Nam. Làm khác đi là đổ máu như không, theo như thông tin của Dân Làm Báo:
Lúc 15:30' chiều ngày 9/12/2014, côn an CS đã huy động hàng chục những kẻ lạ mặt đánh đập dã man blogger Nguyễn Hoàng Vi. Đây là hành vi trả thù nghiêm trọng của nhà cầm quyền CSVN đối với Hoàng Vi vì các hoạt động vinh danh ngày Quốc tế Nhân quyền 10/12 và kỷ niệm tròn 1 năm ngày thành lập Mạng Lưới Blogger Việt Nam của cô.
Vụ tấn công xảy ra trước sự chứng kiến của hàng chục viên côn an, dân phòng đang bao vây và chốt chặn trước nhà riêng của Hoàng Vi tại hẻm 107 (đường Phan Văn Năm, quận Tân Phú, Sài Gòn).
Khi Hoàng Vi đang đi bộ gần nhà, cô bất ngờ bị 3 người phụ nữ lạ mặt lao xe đến tấn công. Hoàng Vi vừa tránh được cú lao xe đầy ác ý thì bất ngờ xuất hiện hàng chục kẻ lạ mặt khác chặn từ hai đầu xông đến túm tóc, rồi đánh đập cô túi bụi.
Trận đòn thù tàn ác của bọn chúng khiến Hoàng Vi nằm gục xuống đất.
Ảnh: Dân Làm Báo
N.N.Q.Q.T ở V.N đã được trang Dân Luận “tóm lược” với ít nhiều chua chát:
Ngày 10 tháng 12 hàng năm được tôn vinh là Ngày Nhân quyền Quốc tế, được các nước trên thế giới kỷ niệm, là ngày Liên Hợp Quốc công bố Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Ngày này vào năm 1948, bà Eleanor Roosevelt, nguyên Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ đã đại diện Liên Hợp Quốc tuyên đọc bản Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền lịch sử này tại Paris, Pháp. (Theo Wikipedia)
Cũng ngày này vào năm 2014, Mạng lưới blogger Việt Nam cùng các tổ chức XHDS khác đã tổ chức những hoạt động chào mừng ngày này như: phát Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, bóng bay vào ngày 8/12 tại Thành phố HCM, và Hà Nội ngày 10/12. Những hoạt động này hầu hết đều bị sách nhiễu, cản trở, thậm chí chính quyền nghi dùng côn đồ để tấn công các nhà hoạt động.
Một năm sau, tình hình nhân quyền của Việt Nam cũng không trở nên sáng sủa, thậm chí tồi tệ hơn khi hàng loạt những nhà hoạt động bị bắt mới, đánh đập hoặc sách nhiễu khi gần kề đến ngày Nhân quyền quốc tế. Chúng ta cùng điểm lại những sự vụ mới đây mà chính quyền đã gây ra với các nhà hoạt động.
- Bắt giam các tiếng nói đối lập...
- Hành hung những nhà hoạt động...
- Sách nhiễu, bắt bớ tùy tiện...
Những việc làm của chính quyền VN đối với những nhà hoạt động nhân quyền đi ngược lại với những gì VN đã cam kết khi gia nhập thành viên của Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, cũng như các khuyến nghị UPR của các nước mà Việt Nam chấp thuận.
Thả một người và bắt nhiều người khác có lẽ là chiêu bài quen thuộc của một thể chế độc Đảng. Tù nhân lương tâm VN vẫn là nguồn cung dồi dào cho những hợp động thương mại với quốc tế, hay đó chỉ là con bài để nội bộ lãnh đạo răn đe lẫn nhau? Những dự đoán sẽ mãi là dự đoán cho đến một ngày sự thật phơi bày khi quyền con người được tôn trọng trên quê hương Việt Nam. Chúng tôi tin là như vậy!
Bằng giờ này tháng trước, trong một cuộc phỏng vấn dành cho BBC, nhà văn Bùi Ngọc Tấn có đôi lời chua chát:
“Đi nước ngoài, mới biết mình mất những gì... Tôi sang châu Âu, tôi quan sát dáng người đi, nét mặt của họ khác dân mình lắm. Bên nhà chúng ta vừa đi vừa nghĩ mưu, thành ra ấn tượng nhất cho tôi là sự tự tin của bước chân, nét mặt người bên đó.”
Tôi chưa bao giờ có dịp đặt chân đến Âu Châu nên không thể biết “dáng đi nét mặt” của người dân nơi đây “khác dân mình” ra sao. Chỉ quanh quẩn vài ba nước láng giềng – như Cambodia, Lào, và Thái – tôi cũng có thể biết là chúng ta mất những gì, và cảm thấy rất xấu hổ chỉ vì mình là người Việt!
- tuongnangtien's blog
- http://www.rfavietnam.com/node/2359
TS.PHAN VĂN SONG * KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI
Nhơn Mùa Vọng Bàn Thử Luận Bàn Chánh Trị-Kinh Tế:
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI
Phan Văn Song
« Liên Hiệp (Âu châu) dành mọi nỗ lực để xây dựng lâu dài một Âu châu ... trên một nền Kinh tế Tự Do, Xã hội … »*Hiến Ước Âu châu 1: 3
Thế nhưng…
Từ nhiều năm nay, đặc biệt từ những năm khủng hoảng kinh tế tài chánh, quan niệm Kinh tế Thị trường Xã hội (Économie Sociale de marché / social economy of market) hay là Kinh tế Tự do Xã hội (libéralisme social / social liberalism ) được các nhà bình luận và nghiên cứu chánh trị-kinh tế Âu Tây bàn luận rất nhiều.
Quan niệm nầy được trình bày như là một cái mẫu quản trị kinh tế Âu Tây tương lai để phát triển Âu châu - lục địa của thế giới cũ (diển văn của Ngoại trưởng Pháp de Villepin năm 2002 trước Liên hiệp Quốc) lục địa của thế giới của Văn hóa trọng Con Người, Văn Hóa Nhơn bản - với một nền Văn Hóa đặt Con Người vào trọng tâm, trái với quan niệm gọi là trường phái Anh-Mỹ (anglo – saxon), trường phái Kinh tế Thị trường Tự do (Économie de marché libérale - liberal economy) của một thế giới mới có Văn minh kỹ thuật nhưng phát triển trong hổn loạn, không kiểm soát, thả nỗi theo luật cung cầu của thị trường (hay đúng hơn kiểm soát bắng kỹ thuật để tìm kết quả về lợi nhuận) và Con Người thường bị bỏ quên.
Những cuộc bầu cử vừa qua ở Pháp đã đưa đến những kết quả hoàn toàn bất lợi cho Tổng thống Hollande và Đảng Xã hội. Mặc dù Thủ tướng Manuel Valls cố vớt vát chuyển hướng Xã hội rất phái tả, sang hướng trung dung thuận cho những chương trình phát triển Kinh tế Thị trường, hướng Tự do Xã hội, với vị Bộ trưởng trẻ tuổi tân thời Emmanuel Macron, đã đưa lập luận rằng nền Kinh tế Tư bản thị trường tương lai của Liên Âu sẽ dần dần « mất chất xã hội » đem đến tranh luận và bàn cải, nhứt là ngay trong Đảng Xã hội.
Một đảng Xã hội mà chính Manuel Valls cho rằng đã quá cổ lỗ xĩ. Theo nhận xét riêng của chúng tôi thì nền Kinh tế tương lai chỉ là một vấn đề quan niệm nhỏ thôi. Cái khó là đi giữa hai làn đạn chánh trị do “người chánh trị”, “đảng phái chánh trị” tạo thành. Một nền Kinh tế tương lai phải dựa vào thực tế đời sống ngưới dân, một chánh sách tự do hành đông trong kinh doanh theo luật thị trường cung cầu, nhưng phải giữ đạo đức trong cạnh tranh, trong trao đổi quyền lợi chủ thợ nói tóm lại phải dựa vào một “thái độ đạo đức xã hội”. Khổ nỗi làm sao kết hợp,”cái tự do thả nổi” của kinh tế thị trường và cái gò bó luật lệ của luật “xã hội”!
Nhưng dù thế nào đi nữa thì toàn bộ các quốc gia thành viên Liên Âu (28 quốc gia) cũng phải ngồi lại với nhau để tìm cho được một mẫu số chung về tổ chức xã hội,mẫu số chung về kinh tế, để trả lời những bài toán nan giải về công ăn việc làm (tạo việc làm để đơn thuần chống nạn thất nghiệp không giải quyết được vấn đề tạo việc và xây dựng hệ thống chuyên nghiệp, tay nghề cho tương lai), những vấn đề phát triển đồng bộ cân bằng, những vấn đề dung hòa những điều kiện để phát triển, từ những suy nghĩ nghề nghiệp hóa công ăn việc làm đến những vấn đề liên quan đến nghề nghiệp như phụ túc liên đới bảo hiểm sức khỏe, dân sinh, xã hội, hưu trí...
. Điều quan trọng là, để có một nền kinh tế thị trường xã hội là phải được dựa trên ba cột trụ xã hội : Giáo dục (cưởng bách và miển phí cho đến có tay nghề), Y tế (miển phí-với một mạng lưới đi đến cấp huyện), Hưu trí và tuổi già được che chở ; nhưng vẫn giữ phần tiên tiến về mặt kỹ thuật, cạnh tranh, nghiên cứu ... do luật thị trường đòi hỏi.
Hiện nay, vào thế kỷ 21, Kinh tế Tự Do Xã hội vẫn còn ở trong địa hạt lý luận, trao đổi quan điểm.
1/ « … Một sự nhầm lẫn khổng lồ »
Nếu quan niệm Kinh tế Tự Do Xã hội vẫn chưa có một tương lai rõ ràng cũng bởi vì trong quá khứ, quan niệm ấy thiếu một lịch sử trong sáng. Từ ngữ nầy là một sự vá víu giữa những quan điểm khác nhau. Người đầu tiên đưa từ ngữ ấy vào chánh trường đã sử dụng như một khẩu hiệu tranh cử. Đó là ông Thủ tướng Đức, Tiến sĩ Ludwig Erhard (1897-1977).
Vào những năm ’50 của thế kỷ trước, ông được xem như là người cha đẻ của phép « mầu nhiệm (kinh tế) Đức », ông cũng là vị kinh tế gia lỗi lạc, giáo sư của Đại học Fribourg với lý thuyết « ordo libéralismus - trật tự của tự do kinh tế », một lý thuyết kinh tế, mô tả một nền kinh tế tuy được gọi là « tự do » nhưng được ông đóng khung trong những « luật lệ chặc chẽ ». Để tranh cử, và để chống lại những đôi thủ thuộc Đảng Xã hội đang đòi hỏi nới rộng những quyền hạn và vai trò kiểm soát của Nhà Nước ; để sửa sai và kiểm soát những kết quả của một chế độ kinh tế « Tư bản tự do» bằng những luật «công bằng xã hộỉ », ông bèn dùng một xảo thuật nghề nghiệp, lý thuyết hóa bằng ghép vào nhau những từ ngữ !Từ ngữ « xã hội » được ngay Ngài Thủ tướng, giáo sư kinh tế đại tài sử dụng để chận đứng những đòn lý luận của các đối thủ của ông.
Và ông chứng minh rằng « không gì xã hội bằng kinh tế thị trường (tự do) !» và ông ráp ngay Kinh tế thị trường tự do với tĩnh từ Xã hội. Nếu thoạt đầu chỉ là một khẩu hiệu tranh cử, với tài nghệ của ông, từ ngữ nầy biến thành một ý thức hệ, một quan niệm kinh tế, một trường phái kinh tế. Với những bài nhận định, phân tích khoa học để tạo một sự tin tưởng rộng rãi trong dân chúng, và từ ngữ nầy đã biến thành một chủ thuyết kinh tế
3/ Công Bằng Xã hội là gì ?
Cái khó khăn là làm sao cắt nghĩa được “công bằng xã hội”. Ai cũng mơ có công bằng xã hội, từ thuở khai thiên lập địa, nhà lãnh đạo quần chúng nào, nhà tiên tri nào cũng nói đến “công bằng xã hội”.
Ai mà không có một giấc mơ có một xã hội công bằng hơn, có một nền công lý trong sáng hơn để mỗi người đều có một chổ đứng, một địa vị xứng đáng với nhân phẩm của mình, và có cùng một cơ hội và những điều kiện chung, để hưởng mọi phát triển khoa học kỹ thuật? Nhưng đó là một khái niệm trừu tượng, khó khăn nhiều khi dẫn đến những bài giải hoàn toàn trái ngược nhau.
Thoạt tiên, quan niệm của Aristote (-384 TCN / -322 TCN) chia công lý thành hai loại: công lý chỉnh lưu và công lý phân phối (justice commutative et justice distributive). Một loại là mỗi ngưòi chỉ nhận những gì mỗi chúng ta đem lại nghĩa là “công lý được hưởng theo công đức”.
Loại thứ hai “công lý được trả theo nhu cầu”, nghĩa là tùy theo mỗi hoàn cảnh, mỗi người được hưởng phần công lý đó. Ai đúng ai sai? Thế nào là công bằng? Aristote và sau đó Thomas d’Aquin (Saint) (1228 – 1274) trả lời rằng tùy trường hợp, tùy điều kiện của khế ước cá nhơn hay cộng đồng. Trong một văn kiện khế ước, không nên làm thiệt thòi lẫn nhau, mỗi việc phải được trả giá đúng mức. Nhưng trong một công đồng, cũng như trong một gia đình chúng ta cũng dễ hiểu là mỗi người chỉ nhận một phần tối thiểu đúng với phần do lượng ước cá nhơn.
Sai lầm to! Vì tất cả những nỗ lực để đem lại những chia sẻ công bằng đều vô vọng. Triết lý gia nỗi tiếng người Mỹ John Rawls (1921-2002), sau những năm nghiên cứu, đi đến kết luận: công bằng xã hội chỉ thực hiện được “khi nào người ta ban phát tối đa cho những người thiệt thòi nhứt (có ít nhứt), nhưng vẫn giữ được mức tăng trưởng chung ở mức độ cao nhứt cho toàn thể mọi người”.
John Rawls nhận thấy rằng lấy của người nầy để chia cho kẻ khác không phải là cách làm đúng, vì không có phát triển, và sau cùng tất cả đều nghèo khó lần lượt: những ý thức hệ san bằng cách biệt trong xã hội đều bị phá sản ở mọi nơi, mọi người bình đẳng là một tư tưởng không tưởng.
Chúng ta phải biết tổ chức lại cuộc phân chia, một cách khôn khéo, để sự san bằng có thể được chấp nhận ở mọi người. Nhưng đâu là mức “tối thiểu” (hay là cái “tối đa” của những người có “tối thiểu”).Không ai trả lời được, cả John Rawls, cả nhà giải thưởng Nobel kinh tế 1998 Amartya Sen (1933 - ), người đã từng bỏ công nghiên cứu, chưa ai tính được một bài giải vừa lòng cả mọi người – “kẻ nhận vẫn cảm thấy chưa đủ - kể cho thấy đã quá thừa rồi”.(Thật là tâm trạng: “cho cũng nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu”)
Frederich Von Hayek đề nghị một cái nhìn khác. Có vẽ hợp tình hợp lý hơn, có vẽ “công bằng “ hơn. Ông đề nghị lựa chọn giữa “công bằng trong kết quả” hay “công bằng trong thủ tục”. Bởi làm sao đo lường được kết quả? (giữa những san bằng do trao đổi, bù trừ). Chúng ta thử nhìn vào một khía cạnh khác: thủ tục: bằng cách gì, chúng ta đánh giá? Trong phương pháp nầy, chúng ta không còn đánh giá con số người nghèo với con số người giàu để đo lường được sự bất công hay mất thăng bằng của một xã hội. Chúng ta phải đo lường bằng những thủ tục gì để nói đó là người giàu (hoặc người nghèo) ?
Trong một xã hội mà một luật rừng được áp dụng, kẻ thắng là kẻ có sức mạnh, kẻ giàu là kẻ cầm quyền, tịch thu, cướp giựt, tham nhũng, xã hội đó đương nhiên là một xã hội kém công bằng. Tài sản, sự giàu có của các nhà độc tài, của một nhóm mafia, băng đảng, bạn bè, đoàn thể, đảng viên không phải là những sự giàu có trong lương thiện, trong công bằng xã hội. Vậy thì:
4/ Kinh tế Thị Trường, làm giàu trong “công bằng”
Làm kinh doanh qua kinh tế thị trường có phải là cách làm ăn lương thiện, làm giàu trong công bằng ?
Có kẻ cho rằng làm ăn theo kinh tế thị trường là một cách làm ăn có tính cách bóc lột, lợi dụng.
Cũng có người bảo rằng làm ăn theo kinh tế thị trường là chuyện không thể không làm được, bất khả kháng, cái đường phải đi bắt buộc.
Nhóm thứ nhứt nói rằng kinh tế thị trường do dân nhà giàu bóc lột dân nghèo để càng ngày càng giàu hơn. Liên hệ không cân bằng giữa “sức lao động” và “của cải”. Quan hệ bất công nầy do nhiều nguyên nhơn tạo thành. Đệ tử của Marx nói đấy là do của tính cách “tư hữu” của “Tiền Vốn” (Tư bản) Vì là quan niệm “đầu tiên” của đầu tư là “tiền đâu”, Tiền Vốn, hay Chủ Vốn đóng một vai trò tối ưu trong tiến trình sản xuất. Sự mầt cân bằng giữa “kẻ có vốn – có tiền bỏ vốn bỏ tiền” và những kể không có gì cả, ngoài “sức lao động”. Người bỏ vốn, chủ nhơn, với thế thượng phong của tiến bạc, bóc lột kẻ làm công trả lương không tương xứng với sức sản xuất thực sự. Sự cách biệt, gọi là lợi nhuận, chủ nhơn hưởng trọn.
Ngày nay, với một nhản quan tiên tiến hơn, vài nhà kinh tế gia đưa ra thuyết chủ nhơn tài sản là chủ nhơn của thông tin, hay chủ nhơn của sự hiểu biết. Một khế ước giữa một kẻ “biết” và một kẻ “không biết” dỉ nhiên là bất bình đẳng. Sự “bất bình đẳng” trong khế ước ấy là khỏi đầu của mọi sự bóc lột. Bất bình đằng, bất công giữa ngưòi bán “biết” và người mua “không biết”, tay thợ nhà nghề “biết” và anh tay mơ, bạn hàng “không biết”, anh chủ nhà cho thuê nhà “biết” và anh đi thuê nhà “không biết”…và dỉ nhiên đó không gì khác hơn là quan hệ bất bình đẳng giữa anh chủ nhơn “biết” và anh công nhơn” không biết”
(trở lại thuyết mác –xít). Kinh doanh, thị trường là một sự “bất công” kẻ bán gạt người mua. Kinh tế thị trường là một sự lừa gạt kẻ giàu lầy của kể nghèo.
Làm gì có chuyện đó! Các đệ tử của trường phái thị trường tự do nhao nhao phản đối. Theo họ, khế ước là một trao đổi bổ sung luởng lợi. Kẻ chín phân người tám lạng. Mỗi người sẽ tìm trong đối thủ mình một đối tượng để trao đổi những dị biệt bổ sung cho nhau.Nếu ta phân tích các trao đổi tự nguyện, chúng ta sẽ thấy sự bổ sung của những dự tính rất chủ quan về quyền lợi trong sự lưạ chọn. Hãy nghĩ tới chuyện trao đổi giữa anh mù và anh què (“anh là cặp chơn của tôi và tôi là cặp mằt của anh”, và anh què được anh mù cỏng đi chơi – nhưng cỏng mệt sức hơn ngó)).
Frédéric Bastiat (1801 -1850) cho rằng thị trường là nơi trao đổi mà mọi người đều có lợi. Và Tư sản không phải là nguồn của sự bóc lột mà là phương tiện giúp chúng ta để chúng ta gặt hái những thành quả có thể trao đổi với những sáng tạo của những tư sản khác. Như vậy Tư sản là công bằng, Tư sản giúp chúng ta sáng tạo, đó là một sự ích lợi. Vì sáng tạo sử dụng cho nhu cầu của kẻ khác. Ngày nay ta thường nói khế uớc là lưởng lợi, là synallagmatique, hay Win-Win.
Thị trường là một sự cưỡng bách, đầy sức sống.Thị trường buộc chúng ta mỗi người phải suy nghĩ để làm sao có những sáng tạo để phục vụ nhu cầu của kẻ khác, và cũng sẳn sàng tiếp nhận những sáng tạo của kẻ khác. Và nếu chúng ta nhận định rõ ràng rằng sự “Giàu có”, “của cải”, “tài sản” không phải là một “lô hàng hóa chất đống một cách vô hiệu lực”, mà là những “sáng tạo” để phục vụ “nhu cầu” của công đồng, thì “Thị trường” là nơi có “công bằng” xã hội.
5/ Làm sao xóa đói giảm nghèo:
Thế nhưng sau 50 năm, sự bất công vẫn còn và chương trình Tư bản Xã hội vẫn chưa đạt được mục đích, trái lại còn được xem thất bại. Ngày nay mẫu Tư bản tự do kiểu “Anh Mỹ” (anglo-saxon) đang được xem là thực dụng hơn. Tại sao? Có lẽ những biện pháp được các nhà cầm quyền lựa chọn để “điều hòa thị trường” không thích hợp: vì lẽ các nhà chánh trị và các chuyên gia đã chọn sai vấn đề, họ xữ dụng lý thuyết và quản lý những tài sản và vốn liếng không phải của họ (cha chung không ai khóc).
Những nhà quản trị Cộng sản cũng đã sai vì lẽ ấy! Họ làm những sơ đồ, quy hoạch cho nhiều năm, kế hoạch ngũ niên, kế hoạch ba năm vân...vân…. Họ quên rằng đời sống kinh tế, chợ búa, thị trường là một quan niệm hằng ngày: chợ nhóm hằng ngày, theo dõi hằng ngày, tiên liệu.. Trong quan niệm kinh tế thị trưòng quan niệm cạnh tranh là quan niệm mở, chỉ có khách hàng là quan trọng. Luật thị trường là luật cung /cầu. Kinh tế thị trường là đấu tranh trong cái Cung.
Quan niệm phân phối tài sản do Nhà nước kiểm soát rất bị hạn chế: ngưòi có của không thụ động chờ cho Nhà nước lấy thuế mãi họ. Họ sẽ bỏ rơi Nhà nước, bằng cách hoặc hạn chế nghiệp vụ, bớt lợi tức, bớt thuế, hoặc bỏ ra đi, đầu tư ở nước khác. Ngày nay ở Pháp, lợi tức không còn là lợi tức của sản xuất (revenu d’activité) mà rất nhiều gia đình sống với lợi tức do cộng đồng giúp đở, đó là lợi tức liên đới (revenu de solidarité).
Mục đích Xã hội đã giết chết Kinh tế.
Vậy thì làm sao dung hòa được Kinh tế và Xã hội ?
6/ Tiến bộ xã hôi: phát triển kinh tế và tinh thần tương ái.
Và chúng ta trở lại với Ludwig Erhard, với quan niệm “Kinh tế thị trường -Tự Xã hội”. Khi một chế độ kinh tế được đặt trên nền tảng có một khế ước tự do, có một sự tự do kinh doanh và có một nền tài sản tư hữu, chế độ ấy sẽ đem lại sự tiến bộ xã hội và sự trách nhiệm
liên đới xã hội.
Phân tích kỹ qua thống kê chúng ta sẽ thấy nền kinh tế tự do và sự tiến bộ xã hội được cột chặc với nhau một cách tự nhiên:
Kinh tế thị trường tự do đem lại sáng kiến, đó là điều tất yếu. Sáng kiến đem lại tiến bộ vế mặc kỹ thuật, tạo những nhu cầu mới với những phương tiện mới. Không gian kinh tế do kỹ thuật mới sẽ tạo những sự bổ sung mới. Sự cạnh tranh là một động cơ để đoạt thành tích.
Thống kê cũng đo lường được là những quốc gia nghèo thường là những quốc gia thiếu tự do, với mức tăng trưởng kém. Trong một quốc gia giàu, sự cách biệt giàu nghèo sẽ dần dần được xóa bỏ rất nhanh. Bực thang giai cấp không còn một vấn đề nữa. Mặc dù người giàu và người nghèo vẫn còn, nhưng ý niệm ấy phải được suy diễn trong phạm vi của thế giới quốc gia ấy. Làn ranh nghèo (seuil de pauvreté) ở Huê kỳ khác lằn ranh nghèo ở Bangla Desh. Chúng ta phải phân tích xem, những thế hệ nghèo có cha truyền con nối hay người giàu hôm nay là con người nghèo đời trước. Sự tiến bộ xã hội là chiếc bánh ga-tô càng ngày cảng phồng to để chia xẻ cho mọi người.
7/ Tinh Thần Tương Ái còn đấy không ?
Thị trường đem lại giàu có. Giàu có không ban phát đều cho mọi người. Nhưng bằng những đường giây khác nhau, bằng những phương tiện khác nhau, của cải qua ngả liên đới xã hội cũng phân phối đến tay kẻ nghéo. “Lòng từ bi”, “lòng trắc ẩn” thủ cựu của thế giới Huê kỳ qua những nhà thờ nhắc nhở chúng ta một quan niệm tư nhiên của mọi tổ chức xã hội: đó là đạo đức, đó là luân lý: kẻ dư ăn dư mặc phải biết lo cho kẻ ngèo khó.
Trong một thế giới giàu có, nhiều tổ chức, nhiều hội đoàn, nhiều hội thiện nguyện lo cho những người nghèo khó. Ở Huê kỳ những hội từ thiện mọc lên như nấm. Ở Pháp cũng thế. Nhà cầm quyền có thể giúp đở bằng những biện pháp thuế khóa để khuyến khích lòng từ thiện của những người có của. Đó cũng là một cách gọt bớt sự cách biệt giàu nghèo, và cân bằng xã hội.
Thế giới Anh Mỹ, anglo-saxon, thực tiễn hơn, với văn hóa Tin Lành Giáo, cộng đồng được giải thoát rất sớm khỏi những ảnh hưởng chuyên chế, độc tài nên dễ có những tổ chức thiện nguyện lo việc xã hội. Trái lại trong các quốc gia của thế giới âu châu cũ, với những tập tục “Nhà nước chăm sóc” nhà nước lo cả, những đoàn thể thiện nguyện tự do tư nhơn không làm việc bằng những nhà thờ, vì nhà thờ cũng là một loại nhà nước.
Vì vậy quan niệm “kinh tế thị trường xã hội” mặc dù đã được sử dụng từ trên 50 năm nay ở Pháp ngày nay đã đi đến cái hạn chế của nó. Ngày mai cho Âu châu mở rộng chắc chắn một nền kinh tế kiểu “Anh Mỹ” sẽ đem ra ứng dụng. Nó thực tiển hơn. Nhưng nó cũng cần phải có một thời gian huấn luyện để quan niệm dân chủ và quan niệm trách nhiệm được học nằm lòng trong quần chúng. Các nước cựu Đông âu chắc gì hiểu biết dân chủ đúng mức và ý thức trách nhiệm rõ ràng như Anh quốc hay Huê kỳ không ? Đạo đức, trách nhiệm, chia sẻ, tương ái có đủ bao bọc cho một chương trình xã hội đầy tương ái ?
Bài nầy xin đóng góp một vài suy nghĩ cho những người cùng tâm tư về chánh trị- kinh tế, làm việc xã hội tương lai cho đất nước. Người Việt trong nước hay ở hải ngoại thường mơ một cái gì cho Việt Nam. Mỗi giấc mơ đều bị hạn chế, bởi thực tế.
Việt Nam có truyền thống “lá lành đùm lá rách”. Làng xã từ ngàn xưa có chế độ cấp ruộng đất cho những người nghèo khó để họ tự sanh sống. Phải chăng điều nầy mang ý nghĩa như chế độ “An Sanh Xã hội” ngày nay ?
Thiết tha mong những người Việt Nam ái quốc có trách nhiệm lãnh đạo đất nước hôm nay, hay ngày mai sẽ có khả năng tìm được con đường có Tự do, Dân chủ để Phát triển Xã hội.
Hồi Nhơn Sơn, Mùa Vọng 2014
Phan Văn Song
Ghi Chú:
Michel Albert : Capitalisme contre Capitalisme, coll Points, ed du Seuil, Paris 1998
Michel Albert : Une nouvelle Économie sociale de Marché ? Futuribles, 2003, n° 287
Friedrich A von Hayek : Droit Législation et Liberté, tome 2, Les Illusions de la justice sociale, P.U.F. Paris 1981 Michael Novak : Une Éthique économique, Les valeurs de l’économie de marché ed le Cerf La Boëtie 19
John Rawls : Une théorie de justice coll Livre de Poche, Hachette 1997 ;
www.libres.org : Dossier : Justice sociale, université d’été 1991
www.forumslions.net L’Europe de l’esprit et du cœur (n°544),Reconstruire les solidarités(n°549), Droits de propriété, devoirs de propriété (n°557)
Nhưng dù thế nào đi nữa thì toàn bộ các quốc gia thành viên Liên Âu (28 quốc gia) cũng phải ngồi lại với nhau để tìm cho được một mẫu số chung về tổ chức xã hội,mẫu số chung về kinh tế, để trả lời những bài toán nan giải về công ăn việc làm (tạo việc làm để đơn thuần chống nạn thất nghiệp không giải quyết được vấn đề tạo việc và xây dựng hệ thống chuyên nghiệp, tay nghề cho tương lai), những vấn đề phát triển đồng bộ cân bằng, những vấn đề dung hòa những điều kiện để phát triển, từ những suy nghĩ nghề nghiệp hóa công ăn việc làm đến những vấn đề liên quan đến nghề nghiệp như phụ túc liên đới bảo hiểm sức khỏe, dân sinh, xã hội, hưu trí...
. Điều quan trọng là, để có một nền kinh tế thị trường xã hội là phải được dựa trên ba cột trụ xã hội : Giáo dục (cưởng bách và miển phí cho đến có tay nghề), Y tế (miển phí-với một mạng lưới đi đến cấp huyện), Hưu trí và tuổi già được che chở ; nhưng vẫn giữ phần tiên tiến về mặt kỹ thuật, cạnh tranh, nghiên cứu ... do luật thị trường đòi hỏi.
Hiện nay, vào thế kỷ 21, Kinh tế Tự Do Xã hội vẫn còn ở trong địa hạt lý luận, trao đổi quan điểm.
1/ « … Một sự nhầm lẫn khổng lồ »
Nếu quan niệm Kinh tế Tự Do Xã hội vẫn chưa có một tương lai rõ ràng cũng bởi vì trong quá khứ, quan niệm ấy thiếu một lịch sử trong sáng. Từ ngữ nầy là một sự vá víu giữa những quan điểm khác nhau. Người đầu tiên đưa từ ngữ ấy vào chánh trường đã sử dụng như một khẩu hiệu tranh cử. Đó là ông Thủ tướng Đức, Tiến sĩ Ludwig Erhard (1897-1977).
Vào những năm ’50 của thế kỷ trước, ông được xem như là người cha đẻ của phép « mầu nhiệm (kinh tế) Đức », ông cũng là vị kinh tế gia lỗi lạc, giáo sư của Đại học Fribourg với lý thuyết « ordo libéralismus - trật tự của tự do kinh tế », một lý thuyết kinh tế, mô tả một nền kinh tế tuy được gọi là « tự do » nhưng được ông đóng khung trong những « luật lệ chặc chẽ ». Để tranh cử, và để chống lại những đôi thủ thuộc Đảng Xã hội đang đòi hỏi nới rộng những quyền hạn và vai trò kiểm soát của Nhà Nước ; để sửa sai và kiểm soát những kết quả của một chế độ kinh tế « Tư bản tự do» bằng những luật «công bằng xã hộỉ », ông bèn dùng một xảo thuật nghề nghiệp, lý thuyết hóa bằng ghép vào nhau những từ ngữ !Từ ngữ « xã hội » được ngay Ngài Thủ tướng, giáo sư kinh tế đại tài sử dụng để chận đứng những đòn lý luận của các đối thủ của ông.
Và ông chứng minh rằng « không gì xã hội bằng kinh tế thị trường (tự do) !» và ông ráp ngay Kinh tế thị trường tự do với tĩnh từ Xã hội. Nếu thoạt đầu chỉ là một khẩu hiệu tranh cử, với tài nghệ của ông, từ ngữ nầy biến thành một ý thức hệ, một quan niệm kinh tế, một trường phái kinh tế. Với những bài nhận định, phân tích khoa học để tạo một sự tin tưởng rộng rãi trong dân chúng, và từ ngữ nầy đã biến thành một chủ thuyết kinh tế
«Không nên nói như vậy, đây là một sư nhầm lẫn khổng lồ » Tiến sĩ Friedrich Von Hayek (1899 -1992), giải Nobel kinh tế 1974, vị trưởng tràng của trường phái Áo, của những trí thức gia thuộc phái « tự do chủ nghĩa » toàn thế giới, phải thốt lên câu nói nầy, để răng dạy anh đàn em học trò Ludwig Erhard đã dám mó tay mở cái nồi « luyện linh đơn », « cái hộp của Pandore » (hộp bửu bối). Và mặc dù Ngài Tiến sĩ Thủ tướng giáo sư kinh tế cố đưa ra những bài đính chánh, những lời hối hận, mọi việc đã trễ rồi: Con tàu « Kinh tế thị trườngTự do Xã hộỉ » đã có một đời sống độc lập, trôi theo những giòng tư tưởng chánh trị như một con thuyền không bến.
Chủ thuyết nầy đã phá vỡ nền kinh tế thị trường tự do và đánh bại « nhóm tự do » ở Đức. Vậy thì :
2 /Chủ thuyết Kinh tế Tự do Xã hội nói gì ?
Nền Kinh tế nầy, theo lý thuyết phải là một nền kinh tế thị trường tự do, nghĩa là bị ảnh hưởng và phát triển theo nhịp của luật Cung/Cầu của thị trường. Nhưng nó phải được kiểm soát, bổ sung, sửa sai bởi Nhà Nước, để san bằng sai biệt xã hội giai cấp, tạo công bằng xã hội, tạo sự liên đới bổ sung giữa những giai cấp, thành phần xã hội.
Khi được định nghĩa như vậy, chủ thuyết nầy được nhóm « dân chủ xã hội » Âu châu, và đặc biệt Đức, làm vũ khí tuyên truyền ngay. Họ sử dụng như « con đường thứ ba », đi giữa hai làn quá khích « kinh tế thị trường tự do » và « kinh tế chỉ đạo ».
Con đường kinh tế thứ ba nầy cũng được biến thành « con đường ngoại giao thứ ba » khi các nhà lãnh đạo Âu châu sử dụng nó để đứng giữa « Tư bản Tự do chủ nghĩa » Huê kỳ vả khối « Cộng đồng chủ nghĩa Đỏ » Liên Sô. Và cuối cùng, vào đầu thế kỷ thứ XXI, lại được tất cả những ai, có lý hay không có lý, sử dụng để lánh xa Huê kỳ, với W. Bush, với nhóm Tân Bảo thủ và các đồng minh, được nhận diện đó là « trường phái anglo – saxon » một cách miệt thị và đầy chủng tộc tánh. Một trường phái bị nguyền rủa, bị “tố giác, đánh giá” là một trường phái kinh tế thị trường hổn loạn, vô tồ chức, rừng rú.
Nhưng hiện nay với sự khủng hoảng của Liên Âu và đồng Euro, Trường phái nào thực sự « Xã hội »?
Thị trường tự do để tạo sự giàu có và phát triển trước, và sau đó dùng, để tổ chức Xã hội? Hay
Tự do và Xã hội song song với một sự phát triển đồng bộ, mặc dù có chậm hơn.
(Nước Anh phái Tự do với Tổng sản lượng/ đầu người 27 000 US$, Chỉ số phát triển 2, 8%, Chỉ số thất nghiệp 5% ; so sánh với nước Pháp, phái Tự do Xã hội : TSL/Ng 24 000 US$, Pt 1%, thất nghiệp 10%)
Chủ thuyết nầy đã phá vỡ nền kinh tế thị trường tự do và đánh bại « nhóm tự do » ở Đức. Vậy thì :
2 /Chủ thuyết Kinh tế Tự do Xã hội nói gì ?
Nền Kinh tế nầy, theo lý thuyết phải là một nền kinh tế thị trường tự do, nghĩa là bị ảnh hưởng và phát triển theo nhịp của luật Cung/Cầu của thị trường. Nhưng nó phải được kiểm soát, bổ sung, sửa sai bởi Nhà Nước, để san bằng sai biệt xã hội giai cấp, tạo công bằng xã hội, tạo sự liên đới bổ sung giữa những giai cấp, thành phần xã hội.
Khi được định nghĩa như vậy, chủ thuyết nầy được nhóm « dân chủ xã hội » Âu châu, và đặc biệt Đức, làm vũ khí tuyên truyền ngay. Họ sử dụng như « con đường thứ ba », đi giữa hai làn quá khích « kinh tế thị trường tự do » và « kinh tế chỉ đạo ».
Con đường kinh tế thứ ba nầy cũng được biến thành « con đường ngoại giao thứ ba » khi các nhà lãnh đạo Âu châu sử dụng nó để đứng giữa « Tư bản Tự do chủ nghĩa » Huê kỳ vả khối « Cộng đồng chủ nghĩa Đỏ » Liên Sô. Và cuối cùng, vào đầu thế kỷ thứ XXI, lại được tất cả những ai, có lý hay không có lý, sử dụng để lánh xa Huê kỳ, với W. Bush, với nhóm Tân Bảo thủ và các đồng minh, được nhận diện đó là « trường phái anglo – saxon » một cách miệt thị và đầy chủng tộc tánh. Một trường phái bị nguyền rủa, bị “tố giác, đánh giá” là một trường phái kinh tế thị trường hổn loạn, vô tồ chức, rừng rú.
Nhưng hiện nay với sự khủng hoảng của Liên Âu và đồng Euro, Trường phái nào thực sự « Xã hội »?
Thị trường tự do để tạo sự giàu có và phát triển trước, và sau đó dùng, để tổ chức Xã hội? Hay
Tự do và Xã hội song song với một sự phát triển đồng bộ, mặc dù có chậm hơn.
(Nước Anh phái Tự do với Tổng sản lượng/ đầu người 27 000 US$, Chỉ số phát triển 2, 8%, Chỉ số thất nghiệp 5% ; so sánh với nước Pháp, phái Tự do Xã hội : TSL/Ng 24 000 US$, Pt 1%, thất nghiệp 10%)
3/ Công Bằng Xã hội là gì ?
Cái khó khăn là làm sao cắt nghĩa được “công bằng xã hội”. Ai cũng mơ có công bằng xã hội, từ thuở khai thiên lập địa, nhà lãnh đạo quần chúng nào, nhà tiên tri nào cũng nói đến “công bằng xã hội”.
Ai mà không có một giấc mơ có một xã hội công bằng hơn, có một nền công lý trong sáng hơn để mỗi người đều có một chổ đứng, một địa vị xứng đáng với nhân phẩm của mình, và có cùng một cơ hội và những điều kiện chung, để hưởng mọi phát triển khoa học kỹ thuật? Nhưng đó là một khái niệm trừu tượng, khó khăn nhiều khi dẫn đến những bài giải hoàn toàn trái ngược nhau.
Thoạt tiên, quan niệm của Aristote (-384 TCN / -322 TCN) chia công lý thành hai loại: công lý chỉnh lưu và công lý phân phối (justice commutative et justice distributive). Một loại là mỗi ngưòi chỉ nhận những gì mỗi chúng ta đem lại nghĩa là “công lý được hưởng theo công đức”.
Loại thứ hai “công lý được trả theo nhu cầu”, nghĩa là tùy theo mỗi hoàn cảnh, mỗi người được hưởng phần công lý đó. Ai đúng ai sai? Thế nào là công bằng? Aristote và sau đó Thomas d’Aquin (Saint) (1228 – 1274) trả lời rằng tùy trường hợp, tùy điều kiện của khế ước cá nhơn hay cộng đồng. Trong một văn kiện khế ước, không nên làm thiệt thòi lẫn nhau, mỗi việc phải được trả giá đúng mức. Nhưng trong một công đồng, cũng như trong một gia đình chúng ta cũng dễ hiểu là mỗi người chỉ nhận một phần tối thiểu đúng với phần do lượng ước cá nhơn.
Sai lầm to! Vì tất cả những nỗ lực để đem lại những chia sẻ công bằng đều vô vọng. Triết lý gia nỗi tiếng người Mỹ John Rawls (1921-2002), sau những năm nghiên cứu, đi đến kết luận: công bằng xã hội chỉ thực hiện được “khi nào người ta ban phát tối đa cho những người thiệt thòi nhứt (có ít nhứt), nhưng vẫn giữ được mức tăng trưởng chung ở mức độ cao nhứt cho toàn thể mọi người”.
John Rawls nhận thấy rằng lấy của người nầy để chia cho kẻ khác không phải là cách làm đúng, vì không có phát triển, và sau cùng tất cả đều nghèo khó lần lượt: những ý thức hệ san bằng cách biệt trong xã hội đều bị phá sản ở mọi nơi, mọi người bình đẳng là một tư tưởng không tưởng.
Chúng ta phải biết tổ chức lại cuộc phân chia, một cách khôn khéo, để sự san bằng có thể được chấp nhận ở mọi người. Nhưng đâu là mức “tối thiểu” (hay là cái “tối đa” của những người có “tối thiểu”).Không ai trả lời được, cả John Rawls, cả nhà giải thưởng Nobel kinh tế 1998 Amartya Sen (1933 - ), người đã từng bỏ công nghiên cứu, chưa ai tính được một bài giải vừa lòng cả mọi người – “kẻ nhận vẫn cảm thấy chưa đủ - kể cho thấy đã quá thừa rồi”.(Thật là tâm trạng: “cho cũng nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu”)
Frederich Von Hayek đề nghị một cái nhìn khác. Có vẽ hợp tình hợp lý hơn, có vẽ “công bằng “ hơn. Ông đề nghị lựa chọn giữa “công bằng trong kết quả” hay “công bằng trong thủ tục”. Bởi làm sao đo lường được kết quả? (giữa những san bằng do trao đổi, bù trừ). Chúng ta thử nhìn vào một khía cạnh khác: thủ tục: bằng cách gì, chúng ta đánh giá? Trong phương pháp nầy, chúng ta không còn đánh giá con số người nghèo với con số người giàu để đo lường được sự bất công hay mất thăng bằng của một xã hội. Chúng ta phải đo lường bằng những thủ tục gì để nói đó là người giàu (hoặc người nghèo) ?
Trong một xã hội mà một luật rừng được áp dụng, kẻ thắng là kẻ có sức mạnh, kẻ giàu là kẻ cầm quyền, tịch thu, cướp giựt, tham nhũng, xã hội đó đương nhiên là một xã hội kém công bằng. Tài sản, sự giàu có của các nhà độc tài, của một nhóm mafia, băng đảng, bạn bè, đoàn thể, đảng viên không phải là những sự giàu có trong lương thiện, trong công bằng xã hội. Vậy thì:
4/ Kinh tế Thị Trường, làm giàu trong “công bằng”
Làm kinh doanh qua kinh tế thị trường có phải là cách làm ăn lương thiện, làm giàu trong công bằng ?
Có kẻ cho rằng làm ăn theo kinh tế thị trường là một cách làm ăn có tính cách bóc lột, lợi dụng.
Cũng có người bảo rằng làm ăn theo kinh tế thị trường là chuyện không thể không làm được, bất khả kháng, cái đường phải đi bắt buộc.
Nhóm thứ nhứt nói rằng kinh tế thị trường do dân nhà giàu bóc lột dân nghèo để càng ngày càng giàu hơn. Liên hệ không cân bằng giữa “sức lao động” và “của cải”. Quan hệ bất công nầy do nhiều nguyên nhơn tạo thành. Đệ tử của Marx nói đấy là do của tính cách “tư hữu” của “Tiền Vốn” (Tư bản) Vì là quan niệm “đầu tiên” của đầu tư là “tiền đâu”, Tiền Vốn, hay Chủ Vốn đóng một vai trò tối ưu trong tiến trình sản xuất. Sự mầt cân bằng giữa “kẻ có vốn – có tiền bỏ vốn bỏ tiền” và những kể không có gì cả, ngoài “sức lao động”. Người bỏ vốn, chủ nhơn, với thế thượng phong của tiến bạc, bóc lột kẻ làm công trả lương không tương xứng với sức sản xuất thực sự. Sự cách biệt, gọi là lợi nhuận, chủ nhơn hưởng trọn.
Ngày nay, với một nhản quan tiên tiến hơn, vài nhà kinh tế gia đưa ra thuyết chủ nhơn tài sản là chủ nhơn của thông tin, hay chủ nhơn của sự hiểu biết. Một khế ước giữa một kẻ “biết” và một kẻ “không biết” dỉ nhiên là bất bình đẳng. Sự “bất bình đẳng” trong khế ước ấy là khỏi đầu của mọi sự bóc lột. Bất bình đằng, bất công giữa ngưòi bán “biết” và người mua “không biết”, tay thợ nhà nghề “biết” và anh tay mơ, bạn hàng “không biết”, anh chủ nhà cho thuê nhà “biết” và anh đi thuê nhà “không biết”…và dỉ nhiên đó không gì khác hơn là quan hệ bất bình đẳng giữa anh chủ nhơn “biết” và anh công nhơn” không biết”
(trở lại thuyết mác –xít). Kinh doanh, thị trường là một sự “bất công” kẻ bán gạt người mua. Kinh tế thị trường là một sự lừa gạt kẻ giàu lầy của kể nghèo.
Làm gì có chuyện đó! Các đệ tử của trường phái thị trường tự do nhao nhao phản đối. Theo họ, khế ước là một trao đổi bổ sung luởng lợi. Kẻ chín phân người tám lạng. Mỗi người sẽ tìm trong đối thủ mình một đối tượng để trao đổi những dị biệt bổ sung cho nhau.Nếu ta phân tích các trao đổi tự nguyện, chúng ta sẽ thấy sự bổ sung của những dự tính rất chủ quan về quyền lợi trong sự lưạ chọn. Hãy nghĩ tới chuyện trao đổi giữa anh mù và anh què (“anh là cặp chơn của tôi và tôi là cặp mằt của anh”, và anh què được anh mù cỏng đi chơi – nhưng cỏng mệt sức hơn ngó)).
Frédéric Bastiat (1801 -1850) cho rằng thị trường là nơi trao đổi mà mọi người đều có lợi. Và Tư sản không phải là nguồn của sự bóc lột mà là phương tiện giúp chúng ta để chúng ta gặt hái những thành quả có thể trao đổi với những sáng tạo của những tư sản khác. Như vậy Tư sản là công bằng, Tư sản giúp chúng ta sáng tạo, đó là một sự ích lợi. Vì sáng tạo sử dụng cho nhu cầu của kẻ khác. Ngày nay ta thường nói khế uớc là lưởng lợi, là synallagmatique, hay Win-Win.
Thị trường là một sự cưỡng bách, đầy sức sống.Thị trường buộc chúng ta mỗi người phải suy nghĩ để làm sao có những sáng tạo để phục vụ nhu cầu của kẻ khác, và cũng sẳn sàng tiếp nhận những sáng tạo của kẻ khác. Và nếu chúng ta nhận định rõ ràng rằng sự “Giàu có”, “của cải”, “tài sản” không phải là một “lô hàng hóa chất đống một cách vô hiệu lực”, mà là những “sáng tạo” để phục vụ “nhu cầu” của công đồng, thì “Thị trường” là nơi có “công bằng” xã hội.
5/ Làm sao xóa đói giảm nghèo:
Biết rằng thị trường là công bằng, và chúng ta đã nhận định vậy, chúng ta làm sao quên được những hệ quả của nó, chúng ta làm sao không thấy những người vì bất tài hay vì không may bị thị trường bỏ quên hay đặt bên lề của một xã hội do lợi nhuận tạo thành ? Vì vậy quan niệm kinh tế thị trường xã hội mới được nghĩ tới: quan niệm nầy đề nghị những kết quả của thi trường phải được “kiểm soát” “dung hòa” “sửa saỉ”.
Dung hòa sửa sai là những quan niệm rất “kinh tế chỉ đạo”, nhưng ở đây được sử dụng để tổ chức một kinh tế, để kiểm soát một thị trường, để tránh sự bất công trên thị trường lao động. Nhà cầm quyền phài lãnh phần chỉ đạo ấy. Nhà làm luật phải tiên liệu một khuôn khổ luật lệ để tạo ra những khế ước quy định những liên hệ khế ước cộng đồng nghề nghiệp (conventions collectives) tránh những khế uớc cá nhơn (contrats individuels). Người ta vẫn ngại những sự cạnh tranh vô tổ chức. Nhà cầm quyền phải có bổn phận tạo một sự cạnh tranh công bằng. Không nên có những xí nghiệp quá lớn độc tôn, độc quyền giữ một quyền “sanh sát” đối với thị trường lao đông. Không nên có nhửng thị trường “phá giá sức lao đông” (dumping salarial) phá giá bằng những thuế xã hội (dumping sur taxes sociales) phá giá bằng những biện pháp thuế vụ (dumping fiscal).
Khu vực nào gặp khó khăn? (ở Pháp, Nông nghiệp, hay Kỷ nghệ May mặc…) chúng ta hãy giúp đở nâng đở bằng trợ cấp, bắng giúp đở, bằng tái cấu tạo (restructuration) bằng sáng kiến kỹ thuật, v..v. Tái phố trí, cân bằng, kiểm soát để điều hòa thị trường chưa đủ, nhà cầm quyển phải biết phân phối lại tài sản: bằng thuế vụ nhà cầm quyền gọt dủa bớt những tài sản lớn (Đánh thuế những nhà giàu : Impôt sur la fortune) để trợ cấp nhà nghèo.
Dung hòa sửa sai là những quan niệm rất “kinh tế chỉ đạo”, nhưng ở đây được sử dụng để tổ chức một kinh tế, để kiểm soát một thị trường, để tránh sự bất công trên thị trường lao động. Nhà cầm quyền phài lãnh phần chỉ đạo ấy. Nhà làm luật phải tiên liệu một khuôn khổ luật lệ để tạo ra những khế ước quy định những liên hệ khế ước cộng đồng nghề nghiệp (conventions collectives) tránh những khế uớc cá nhơn (contrats individuels). Người ta vẫn ngại những sự cạnh tranh vô tổ chức. Nhà cầm quyền phải có bổn phận tạo một sự cạnh tranh công bằng. Không nên có những xí nghiệp quá lớn độc tôn, độc quyền giữ một quyền “sanh sát” đối với thị trường lao đông. Không nên có nhửng thị trường “phá giá sức lao đông” (dumping salarial) phá giá bằng những thuế xã hội (dumping sur taxes sociales) phá giá bằng những biện pháp thuế vụ (dumping fiscal).
Khu vực nào gặp khó khăn? (ở Pháp, Nông nghiệp, hay Kỷ nghệ May mặc…) chúng ta hãy giúp đở nâng đở bằng trợ cấp, bắng giúp đở, bằng tái cấu tạo (restructuration) bằng sáng kiến kỹ thuật, v..v. Tái phố trí, cân bằng, kiểm soát để điều hòa thị trường chưa đủ, nhà cầm quyển phải biết phân phối lại tài sản: bằng thuế vụ nhà cầm quyền gọt dủa bớt những tài sản lớn (Đánh thuế những nhà giàu : Impôt sur la fortune) để trợ cấp nhà nghèo.
Thế nhưng sau 50 năm, sự bất công vẫn còn và chương trình Tư bản Xã hội vẫn chưa đạt được mục đích, trái lại còn được xem thất bại. Ngày nay mẫu Tư bản tự do kiểu “Anh Mỹ” (anglo-saxon) đang được xem là thực dụng hơn. Tại sao? Có lẽ những biện pháp được các nhà cầm quyền lựa chọn để “điều hòa thị trường” không thích hợp: vì lẽ các nhà chánh trị và các chuyên gia đã chọn sai vấn đề, họ xữ dụng lý thuyết và quản lý những tài sản và vốn liếng không phải của họ (cha chung không ai khóc).
Những nhà quản trị Cộng sản cũng đã sai vì lẽ ấy! Họ làm những sơ đồ, quy hoạch cho nhiều năm, kế hoạch ngũ niên, kế hoạch ba năm vân...vân…. Họ quên rằng đời sống kinh tế, chợ búa, thị trường là một quan niệm hằng ngày: chợ nhóm hằng ngày, theo dõi hằng ngày, tiên liệu.. Trong quan niệm kinh tế thị trưòng quan niệm cạnh tranh là quan niệm mở, chỉ có khách hàng là quan trọng. Luật thị trường là luật cung /cầu. Kinh tế thị trường là đấu tranh trong cái Cung.
Quan niệm phân phối tài sản do Nhà nước kiểm soát rất bị hạn chế: ngưòi có của không thụ động chờ cho Nhà nước lấy thuế mãi họ. Họ sẽ bỏ rơi Nhà nước, bằng cách hoặc hạn chế nghiệp vụ, bớt lợi tức, bớt thuế, hoặc bỏ ra đi, đầu tư ở nước khác. Ngày nay ở Pháp, lợi tức không còn là lợi tức của sản xuất (revenu d’activité) mà rất nhiều gia đình sống với lợi tức do cộng đồng giúp đở, đó là lợi tức liên đới (revenu de solidarité).
Mục đích Xã hội đã giết chết Kinh tế.
Vậy thì làm sao dung hòa được Kinh tế và Xã hội ?
6/ Tiến bộ xã hôi: phát triển kinh tế và tinh thần tương ái.
Và chúng ta trở lại với Ludwig Erhard, với quan niệm “Kinh tế thị trường -Tự Xã hội”. Khi một chế độ kinh tế được đặt trên nền tảng có một khế ước tự do, có một sự tự do kinh doanh và có một nền tài sản tư hữu, chế độ ấy sẽ đem lại sự tiến bộ xã hội và sự trách nhiệm
liên đới xã hội.
Phân tích kỹ qua thống kê chúng ta sẽ thấy nền kinh tế tự do và sự tiến bộ xã hội được cột chặc với nhau một cách tự nhiên:
Kinh tế thị trường tự do đem lại sáng kiến, đó là điều tất yếu. Sáng kiến đem lại tiến bộ vế mặc kỹ thuật, tạo những nhu cầu mới với những phương tiện mới. Không gian kinh tế do kỹ thuật mới sẽ tạo những sự bổ sung mới. Sự cạnh tranh là một động cơ để đoạt thành tích.
Thống kê cũng đo lường được là những quốc gia nghèo thường là những quốc gia thiếu tự do, với mức tăng trưởng kém. Trong một quốc gia giàu, sự cách biệt giàu nghèo sẽ dần dần được xóa bỏ rất nhanh. Bực thang giai cấp không còn một vấn đề nữa. Mặc dù người giàu và người nghèo vẫn còn, nhưng ý niệm ấy phải được suy diễn trong phạm vi của thế giới quốc gia ấy. Làn ranh nghèo (seuil de pauvreté) ở Huê kỳ khác lằn ranh nghèo ở Bangla Desh. Chúng ta phải phân tích xem, những thế hệ nghèo có cha truyền con nối hay người giàu hôm nay là con người nghèo đời trước. Sự tiến bộ xã hội là chiếc bánh ga-tô càng ngày cảng phồng to để chia xẻ cho mọi người.
7/ Tinh Thần Tương Ái còn đấy không ?
Thị trường đem lại giàu có. Giàu có không ban phát đều cho mọi người. Nhưng bằng những đường giây khác nhau, bằng những phương tiện khác nhau, của cải qua ngả liên đới xã hội cũng phân phối đến tay kẻ nghéo. “Lòng từ bi”, “lòng trắc ẩn” thủ cựu của thế giới Huê kỳ qua những nhà thờ nhắc nhở chúng ta một quan niệm tư nhiên của mọi tổ chức xã hội: đó là đạo đức, đó là luân lý: kẻ dư ăn dư mặc phải biết lo cho kẻ ngèo khó.
Trong một thế giới giàu có, nhiều tổ chức, nhiều hội đoàn, nhiều hội thiện nguyện lo cho những người nghèo khó. Ở Huê kỳ những hội từ thiện mọc lên như nấm. Ở Pháp cũng thế. Nhà cầm quyền có thể giúp đở bằng những biện pháp thuế khóa để khuyến khích lòng từ thiện của những người có của. Đó cũng là một cách gọt bớt sự cách biệt giàu nghèo, và cân bằng xã hội.
Thế giới Anh Mỹ, anglo-saxon, thực tiễn hơn, với văn hóa Tin Lành Giáo, cộng đồng được giải thoát rất sớm khỏi những ảnh hưởng chuyên chế, độc tài nên dễ có những tổ chức thiện nguyện lo việc xã hội. Trái lại trong các quốc gia của thế giới âu châu cũ, với những tập tục “Nhà nước chăm sóc” nhà nước lo cả, những đoàn thể thiện nguyện tự do tư nhơn không làm việc bằng những nhà thờ, vì nhà thờ cũng là một loại nhà nước.
Vì vậy quan niệm “kinh tế thị trường xã hội” mặc dù đã được sử dụng từ trên 50 năm nay ở Pháp ngày nay đã đi đến cái hạn chế của nó. Ngày mai cho Âu châu mở rộng chắc chắn một nền kinh tế kiểu “Anh Mỹ” sẽ đem ra ứng dụng. Nó thực tiển hơn. Nhưng nó cũng cần phải có một thời gian huấn luyện để quan niệm dân chủ và quan niệm trách nhiệm được học nằm lòng trong quần chúng. Các nước cựu Đông âu chắc gì hiểu biết dân chủ đúng mức và ý thức trách nhiệm rõ ràng như Anh quốc hay Huê kỳ không ? Đạo đức, trách nhiệm, chia sẻ, tương ái có đủ bao bọc cho một chương trình xã hội đầy tương ái ?
Bài nầy xin đóng góp một vài suy nghĩ cho những người cùng tâm tư về chánh trị- kinh tế, làm việc xã hội tương lai cho đất nước. Người Việt trong nước hay ở hải ngoại thường mơ một cái gì cho Việt Nam. Mỗi giấc mơ đều bị hạn chế, bởi thực tế.
Việt Nam có truyền thống “lá lành đùm lá rách”. Làng xã từ ngàn xưa có chế độ cấp ruộng đất cho những người nghèo khó để họ tự sanh sống. Phải chăng điều nầy mang ý nghĩa như chế độ “An Sanh Xã hội” ngày nay ?
Thiết tha mong những người Việt Nam ái quốc có trách nhiệm lãnh đạo đất nước hôm nay, hay ngày mai sẽ có khả năng tìm được con đường có Tự do, Dân chủ để Phát triển Xã hội.
Hồi Nhơn Sơn, Mùa Vọng 2014
Phan Văn Song
Ghi Chú:
Michel Albert : Capitalisme contre Capitalisme, coll Points, ed du Seuil, Paris 1998
Michel Albert : Une nouvelle Économie sociale de Marché ? Futuribles, 2003, n° 287
Friedrich A von Hayek : Droit Législation et Liberté, tome 2, Les Illusions de la justice sociale, P.U.F. Paris 1981 Michael Novak : Une Éthique économique, Les valeurs de l’économie de marché ed le Cerf La Boëtie 19
John Rawls : Une théorie de justice coll Livre de Poche, Hachette 1997 ;
www.libres.org : Dossier : Justice sociale, université d’été 1991
www.forumslions.net L’Europe de l’esprit et du cœur (n°544),Reconstruire les solidarités(n°549), Droits de propriété, devoirs de propriété (n°557)
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 342
TIN THẾ GIỚI
Đăng ngày 09-12-2014
Bộ Ngoại giao Mỹ : Đường chín đoạn ở Biển Đông phi lý và phi pháp
Biển Đông vẫn căng thẳng do mưu đồ độc chiến Biển Đông của Trung Quốc. Reuters
Vào lúc tranh cãi Manila-Bắc Kinh về vụ Philippines kiện đường lưỡi bò Trung Quốc ở Biển Đông bùng lên gay gắt trở lại, Washington lần đầu tiên chính thức nhập cuộc. Một văn kiện chính thức của Bộ Ngoại giao Mỹ, công bố ngày 05/12/2014 phân tích cặn kẽ yêu sách chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông trong bản đồ 9 đoạn và nêu bật các tính chất mơ hồ, phi lý và phi pháp của các đòi hỏi.
Trong bản nghiên cứu số 143 về các Ranh giới trên biển (Limits in the Seas) mang tựa đề : Trung Quốc Yêu sách trên biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông) - China Maritime Claims in the South China Sea, Vụ Đại dương và các vấn đề Khoa học và Môi trường Quốc tế của Bộ Ngoại giao Mỹ đã tập trung phân tích « các đòi hỏi chủ quyền trên biển của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đặc biệt là yêu sách của "đường gián đoạn" bao quanh các hòn đảo và vùng nước tại Biển Đông ».
Ngay trong phần mở đầu, tài liệu dài 24 trang, kèm theo rất nhiều bản đồ dẫn chứng, đã nhắc lại sự kiện Bắc Kinh gởi công hàm cùng tấm bản đồ 9 đường gián đoạn đến Liên Hiệp Quốc vào tháng 05/2009 để khẳng định chủ quyền Trung Quốc tại Biển Đông, một sự khẳng định đã bị các nước Việt Nam, Indonesia và Philippines phản đối, cho rằng tấm bản đồ đó không có cơ sở pháp lý dựa theo luật biển Liên Hiệp Quốc.
Bản đồ rất mơ hồ
Điểm đáng chú ý được bản báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ ghi nhận là vào năm 2011, Trung Quốc đã gởi thêm một công hàm khác đến Liên Hiệp Quốc, nhắc lại các yêu sách của họ đã được ghi trong công hàm năm 2009, và bổ sung thêm hàng chữ : « Chủ quyền của Trung Quốc, cùng với các quyền liên quan và quyền tài phán tại Biển Đông được chứng tỏ bằng vô số bằng chứng lịch sử và pháp lý ».
Vấn đề được Bộ Ngoại giao Mỹ nêu bật là : « Trung Quốc đã không làm rõ bằng luật lệ, tuyên cáo, hoặc văn kiện chính thức nào khác các cơ sở hay bản chất pháp lý của các yêu sách liên quan đến tấm bản đồ với đường gián đoạn ». Trong tình hình đó, nghiên cứu của Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra nhiều diễn giải khác nhau về các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc, để xem diễn giải nào phù hợp với luật pháp quốc tế về biển.
Bản báo cáo của Mỹ đã xem xét ba cách giải thích khác nhau về đường gián đoạn mà Trung Quốc vẽ ra trên Biển Đông : (1) Ranh giới xác định chủ quyền trên các hòn đảo, (2) Biên giới trên biển của một quốc gia - mà ở đây là Trung Quốc ; (3) Ranh giới xác định chủ quyền lịch sử.
Nhận định đầu tiên của bản báo cáo này là các đường gián đoạn đã được vẽ rất lung tung, không nhất quán. Trang 5 bản báo cáo ghi nhận : « Công việc mô tả các đường đứt đoạn của Trung Quốc về mặt địa lý rất phức tạp do mâu thuẫn giữa bản đồ năm 2009 và những tấm bản đồ khác cũng của Trung Quốc, chẳng hạn như bản đồ năm 1947, thậm chí cả các bản đồ đương đại (xuất bản năm 2013-2014) vì các bản đồ này cho thấy những đường gián đoạn có kích cỡ khác nhau và ở những vị trí khác nhau ».
Nhận xét khác là các đường gián đoạn – phân thành 9 vạch - lại gần bờ biển các nước bao quanh Biển Đông như Việt Nam, Philippines, Indonesia hay Malaysia, hơn là gần các hòn đảo, chưa nói đến việc rất xa bờ biển Trung Quốc. Một ví dụ : Vạch số 1 chỉ cách bờ biển Việt Nam 50 hải lý, và cách đảo Lý Sơn 36 hải lý ! Kỷ lục là vạch số 4, chỉ cách đảo Borneo của Malaysia 24 hải lý mà thôi.
Trong phần phân tích, các tác giả bản báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ đã thử tim hiểu xem phải chăng các đường gián đoạn của Trung Quốc được dùng để xác định ranh giới các đảo mà Trung Quốc đòi chủ quyền, hay là biên giới quốc gia của Trung Quốc. Trong hai giả thuyết này, các đường ranh đó hoàn toàn không phù hợp với luật lệ quốc tế hiện hành.
Riêng trong trường hợp thứ ba là dùng đường đứt đoạn để xác định chủ quyền lịch sử, thì bản báo cáo xác định là yêu sách của Trung Quốc không phù hợp với luật quốc tế.
Theo bản báo cáo, khi đòi hỏi chủ quyền lịch sử, một quốc gia phải công bố rộng rãi yêu sách đó để quốc tế biết đến. Điều này thường được thực hiện qua các thông báo chính thức. Thế nhưng các tấm bản đồ 9 đường gián đoạn khác nhau của Trung Quốc lại không chính xác hoặc không nhất quán, do đó không đáp ứng được điều kiện này.
Ngoài ra, theo báo cáo, yêu sách chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông cũng không đáp ứng ba yêu cầu căn bản : (1) Thẩm quyền không được hành xử một cách công khai, thực thụ và được mọi người biết đến ; (2) Thẩm quyền không được hành xử một cách liên tục ; (3) Thẩm quyền không có sự chấp thuận của các nước ngoài.
Lúc nào Trung Quốc cũng nói đến chủ quyền lịch sử không thể chối cãi của họ ở Biển Đông. Ngày 07/12/2014 chẳng hạn, theo tin Tân Hoa Xã, trong bản Tuyên bố lập trường về việc bác bỏ vụ kiện của Philippines, Bắc Kinh đã tái khẳng định rằng :
« Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các quần đảo ở Biển Đông (quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa và quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa) và các vùng biển lân cận. Các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông có từ hơn 2.000 năm trước đây. Trung Quốc là quốc gia đầu tiên phát hiện, đặt tên, khám phá và khai thác các nguồn tài nguyên ở Biển Đông, và là bước đầu tiên thực hiện quyền chủ quyền trên các đảo này.
Từ năm 1930 đến năm 1940, Nhật Bản đã chiếm cứ bất hợp pháp một số quần đảo trên Biển Đông trong cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Vào cuối của Chiến tranh Thế giới Thứ hai, Chính phủ Trung Quốc đã lại tiếp tục hành xử chủ quyền đối với các quần đảo ở Biển Đông... »
Đối với Bộ Ngoại giao Mỹ, lý luận của Trung Quốc về chủ quyền lịch sử của họ trên Biển Đông không đứng vững. Bản báo cáo kết luận : « Trừ phi Trung Quốc làm rõ rằng yêu sách chủ quyền gói trong các đường gián đoạn chỉ nhắm vào các đảo nằm bên trong và các vùng hải phận được tạo ra từ những thực thể địa dư theo quy định của luật biển quốc tế, như được phản ánh trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, nếu không thì yêu sách chủ quyền thể hiện qua các đường gián đoạn không phù hợp với pháp luật quốc tế về biển »http://vi.rfi.fr/chau-a/20141209-luoi-bo/
Thượng viện Canada thông qua dự luật công nhận 30/4 là Ngày Hành Trình Đến Tự Do
Hôm thứ Hai ngày 8/12 vừa qua, thượng viện Canada thông qua dự luật đề nghị công nhận ngày 30 tháng Tư hàng năm là Ngày Hành Trình Đến Tự Do. Đây là dự luật do thượng nghị sĩ Canada gốc Việt Ngô Thanh Hải đệ trình ra quốc hội.
Tưởng nhớ những người đã ra đi
Trả lời Thanh Trúc từ Ottawa, Canada, thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải trình bày chi tiết:
TNS Ngô Thanh Hải: Dự luật S-219 tôi dự định đưa ra năm rồi, tháng Mười 2013. Bởi vì năm 2015 là 40 năm thì tôi nghĩ cách mình có thể làm được là một dự luật tưởng niệm ngày 30 tháng Tư 75, nhớ lại hành trình chúng ta đi.
Trong dự luật tôi đưa ra là để tưởng nhớ làn sóng hai triệu người đã ra đi, để tưởng nhớ 250.000 người chết trên biển cả, để cám ơn Canada nhận 300.000 và để cám ơn chính phủ Canada và nhân dân Canada đã mở rộng vòng tay để đón tiếp chúng ta, cũng đồng thời để công nhận rằng Canada là quốc gia duy nhất được Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc trao giải thưởng Nelson là một giải thưởng đã đóng góp rất nhiều trong vấn đề tị nạn. Đó là có 5 điều tôi cám ơn và đồng thời để nhớ những người đã ra đi.
Thanh Trúc: Thưa ngay từ đầu dự luật S-219 được ông đặt tên như thế nào cho đến khi nó được quyết định đổi lại là Ngày Con Đường Tới Tự Do?
Trong dự luật tôi đưa ra là để tưởng nhớ làn sóng hai triệu người đã ra đi, để tưởng nhớ 250.000 người chết trên biển cả, để cám ơn Canada nhận 300.000.
-TNS Ngô Thanh Hải
TNS Ngô Thanh Hải: Cộng đồng mình nghĩ ngày 30 tháng Tư là Black April Day Tháng Tư Đen, thì tôi cũng đệ trình lên là Black April Day. Nhưng mà cộng đồng người Việt mình không nghĩ là thủ tướng và chính phủ cho rằng dùng chữ “black” nó hơi nhạy cảm.
Thứ hai, khi dùng chữ Black April Day dân Canada không rõ ý nghĩa của cái đó là gì. Thành ra thủ tướng Canada đề nghị là Journey To Freedom Day nó dễ hiểu hơn, đọc tới thì dân Canada hiểu rằng đó là ngày người Việt của mình bỏ nước ra đi, Journey To Freedom Day Hành Trình Đến Tự Do thì nó đầy đủ ý nghĩa hơn.
Tuy nhiên trong cái preambule lời nói đầu của tôi thì tôi để là đa số người Việt Canada đều coi ngày 30 tháng Tư năm 75 là Black April Day Ngày Tháng Tư Đen. Một số người thì cứ khăng khăng nói rằng ngày 30 tháng Tư là ngày quốc hận. Cộng đồng mình muốn dùng chữ 30 tháng Tư gì cũng được hết, khi đã được công nhân rồi mình có thể nói Ngày 30 tháng Tư Đen hoặc Ngày Quốc Hận cũng được như thường. Đó là lý do sửa đổi tên vì chử “black” rất là nhạy cảm và không rõ y nghĩ của dự luật.
Thanh Trúc: Thưa ông, báo Canadian Press phát hành ở Ottawa khi đưa tin dự luật S-219 do ông giời thiệu và đã được thượng viện Canada thông qua, sẽ gây sóng gió cho quan hệ ngoại giao Việt Nam Canada bởi chính phủ của thủ tướng Stephen Harper đang muốn tăng cường quan hệ với Việt Nam. Phía Việt Nam thì nói dự luật S-219 gởi một thông điệp không đúng đến người dân Việt Nam và đến cộng đồng quốc tế. Ông có lời bình luận nào về nhận xét này?
TNS Ngô Thanh Hải: Nếu như vậy thì Việt Nam không chịu nhìn sự thật. Nói rằng sẽ làm cản trở quan hệ giữa hai quốc gia thì đó là do chính phủ Việt Nam nêu lên mà thôi. Dự luật này không liên hệ gì đến chính phủ cộng sản Việt Nam cả. Hai triệu người bỏ nước ra đi, 250.000 người chết trên biển, 300.000 người được Canada đón nhận, đó là những thức tế không thể nào chối cãi được.
Dự luật này không nói gì đến vấn đề liên hệ ngoại giao Canada Việt Nam. Đó là một lý do mà Việt Nam nêu lên để làm áp lực với chính phủ Canada mà thôi. Cộng sản Việt Nam không công nhân sau 75 là có hơn hai triệu người Việt Nam mình đi tị nạn. Ở xứ tự do này mình không thể nào cấm cản được nhưng tôi thấy dự luật của tôi không có chú trọng đến vấn đề củ cộng sản Việt Nam mà chỉ chú trọng đến gần hai triệu người Việt Nam đã bỏ nước ra đi sau khi chiến tranh chấm dứt năm 1975.
Phản ứng của Việt Nam
Thanh Trúc: Theo chỗ ông biết thì Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Ottawa và Bộ Ngoại Giao Việt Nam thông qua Bộ Ngoại Giao Canada, đã có những phản ứng như thế nào đối với dự luật S-219 thưa ông?
TNS Ngô Thanh Hải: Tòa đại sứ Việt Nam tại Canada và chính phủ Việt Nam đã mướn một người để lobby và đánh phá cho dự luật này không được thông qua. Đó là chuyện của Tòa Đại Sứ Việt Nam và chính phủ cộng sản Việt Nam. Đối với tôi nó không có liên hệ gì cả bởi vì đó là cái dự luật chỉ đề cập đến những người tị nạn bỏ đất nước ra đi. Không bằng lòng hay không thích là chuyện của cộng sản Việt Nam chớ không phải chuyện của cộng đồng Việt Nam tại Canada hoặc trên thế giới. Phải nhìn đúng sự thật chứ đâu thể nào trốn tránh sự thật đó.
Lập luận của chính phủ Việt Nam thực ra tôi không muốn bàn đến, nói gì thì nói thực tế nó vẫn có đó và chúng ta phải công nhận thức tế đó.
Lập luận của chính phủ Việt Nam thực ra tôi không muốn bàn đến, nói gì thì nói thực tế nó vẫn có đó và chúng ta phải công nhận thức tế đó.
-TNS Ngô Thanh Hải
Thanh Trúc: Tờ Canadian Press cũng có nói rằng dự luật S-219 tuy đã được thượng viện thông qua nhưng còn phải chờ hạ viện. Cũng có ý kiến cho rằng còn lâu thì dự luật S-219 mới được mang ra thảo luận tại hạ viện. Ý của ông như thế nào?
TNS Ngô Thanh Hải: Vấn đề lâu hay chậm thì ăn thua công việc của hạ viện. Tuy nhiên tôi cũng cho biết rằng ngày hôm qua, thứ Tư ngày 11 tây tháng Mười Hai vào lúc 4 giờ 15, dự luật này đã được đệ nạp tại hạ viện do ông dân biểu Mark Atler đưa ra tại hạ viện, nó kêu là 1st reading. Còn cái 2nd reading và 3rd reading nữa rồi sau đó thì bỏ phiếu.
Sau khi mà hai viện chấp nhận thì mới có chữ ký của đại diện nữ hoàng, kêu là Royal Ascension. Có cái Royal Ascension đó rồi mình mới ra hạ viện và thượng viện.
Thanh Trúc: Ông kỳ vọng bao nhiêu chục phần trăm là S-219 này có thể ra thành luật được?
TNS Ngô Thanh Hải: Hy vọng dự luật thành công trong vòng năm tới bởi vì cái thứ nhất là tất cả những đảng phái đều phải công nhận cái thực tế và sự thật của dự luật này. Đảng Bảo Thủ cũng đã nhận thấy cái đó, đảng Tự Do cũng phải nhận thấy bởi vì đảng Tự Do cũng là một trong chính phủ thời đó đã chấp nhận người tị nạn cộng sản chúng ta. Và đảng Tân Dân Chủ cũng phải nhận cái thực tế đó.
Tôi hy vọng tất cả những đảng phái không vì áp lực của chính phủ Việt Nam mà không bỏ phiếu 100%. Nói tới chính trị là nói tới quyền lợi của từng đảng một thành ra tôi không biết nó như thế nào, tuy nhiên tôi hy vọng dự luật này sẽ ra đúng ngày 30 tháng Tư năm 2015.
Dự luật này bị cộng sản Việt Nam mướn người đánh phá thành ra cũng hơi khó khăn, mà hy vọng mình là con người làm việc ngay thẳng, hai là có sự yểm trợ của đồng bào và của cộng đồng thì tôi hy vọng dự luật được thông qua trong năm tới, kỷ niệm 40 năm chúng ta bỏ nước ra đi.
Thanh Trúc: Cảm ơn ông Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải.
Việt Nam hôm nay lên tiếng chỉ trích dự luật S-219 do thượng nghị sĩ Ngô thanh Hải bảo trợ và được thượng viện Canada thông qua.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao Việt Nam, ông Lê Hải Bình, nói dự luật yêu cầu công nhận ngày 30 tháng Tư là ngày kỷ niệm Hành Trình Đến Tự Do mà thượng viện Canada thông qua hồi đầu tuần này là một dự luật xuyên tạc lịch sử, vì chính trị cá nhân, khơi lại quá khứ đau buồn, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Vẫn theo lời ông Lê Hải Bình, việc thượng viện Canada thông qua dự luật này là đi ngược tình cảm của nhân dân Việt Nam, cộng đồng người Việt sống tại Canada cũng như mối quan hệ tốt đẹp giữa hai quốc gia.
VN phản đối dự luật Thượng viện Canada
- 13 tháng 12 2014
Bộ Ngoại giao Việt Nam vừa lên tiếng phản bác một dự luật vừa được Thượng viện Canada thông qua, trong đó lấy ngày 30/4 là ngày kỷ niệm người tỵ nạn cộng sản Việt Nam.
Dự luật S-219, do Thượng nghị sỹ gốc Việt Ngô Thanh Hải khởi xướng, được thông qua ngày 8/12. Tuy nhiên, nó còn phải qua Hạ viện.
Theo dự luật, ngày 30/4 hàng năm được cho là ngày kỷ niệm làn sóng người tỵ nạn từ Việt Nam sau khi cuộc chiến kết thúc năm 1975.
“Việt Nam phản đối việc Thượng viện Canada thông qua dự luật S-219 ngày 8/12/2014", người phát ngôn Lê Hải Bình được truyền thông trong nước dẫn lời nói hôm 12/12.
"Dự luật S-219 bao gồm những nội dung sai trái, xuyên tạc lịch sử, khơi lại quá khứ đau buồn, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam nhằm phục vụ những mục đích chính trị cá nhân”.
"Việc Thượng viện Canada thông qua dự luật S-219 đã đi ngược lại tình cảm của nhân dân Việt Nam, cộng đồng người Việt đang sinh sống tại Canada cũng như quan hệ đang phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Canada".
Trước đó, hôm 9/12, báo chí Canada dẫn lời một trong các quan chức Đại sứ quán Việt Nam ở Ottawa, ông Vũ Việt Dũng, nói việc này "sẽ gây ảnh hưởng xấu tới quan hệ song phương giữa Việt Nam và Canada, cũng như nỗ lực làm sâu rộng quan hệ trong cả các lĩnh vực thương mại và đầu tư".
Ông Dũng cho hay Đại sứ Việt Nam Tô Anh Dũng đã 'bày tỏ quan ngại' với Ngoại trưởng Canada John Baird về dự luật này, mà Việt Nam cho rằng sẽ 'gửi thông điệp không đúng' tới người dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế.
Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh cũng từng gửi thư cho người đồng nhiệm Canada về việc này.
'Tự do không miễn phí'
Trong một thông cáo, Nghị sỹ Hải đã cho hay ông rất 'vinh dự' được giới thiệu dự luật này.
“Dự luật này đề cập tới Ngày Con đường tới tự do, hay còn gọi là Ngày tháng Tư đen khi hàng nghìn người Việt rời khỏi Việt Nam để tìm tự do...", ông nói.
“Trong 39 năm qua, người Việt tại Canada đã tụ họp vào ngày 30/4 để kỷ niệm một sự khởi đầu mới và cảm ơn Canada. Năm 2015, cộng đồng người Việt sẽ kỷ niệm 40 năm ngày thuyền nhân tới định cư tại đây."
“Tự do không miễn phí và các thuyền nhân đã phải trả giá cho tự do bằng các chuyến đi nguy hiểm của mình."
Trong bài viết gửi BBC từ Canada hôm 11/12, Luật sư Vũ Đức Khanh cho rằng dự luật này là "cơ hội để hòa giải".
"Có ai có mất mát, đau thương trên chuyến "Hành trình đến Tự do" này mới cảm thông với Thượng nghị sỹ Ngô Thanh Hải, mới thấu hiểu được vì sao một đạo luật như thế này là liều thuốc chữa lành cơn bệnh mà gần 40 năm qua hàng triệu người Việt phải mang nó trong lòng," ông Khanh viết.
"Đưa ra trước ánh sáng và nói lên sự thật không phải là để trả thù trả oán gì ai hay để tiếp tục gieo thù hận mà để giúp chữa lành vết thương cũ, tạo cơ hội làm hòa với nhau và cuối cùng để sự thật phải được tôn trọng.
"Đó cũng là di sản yêu thương, nhân bản, tình tự dân tộc mà chúng ta để lại cho thế hệ tương lai," luật sư Khanh nêu quan điểm.
TQ phản bác về vụ kiện Biển Đông
- 12 tháng 12 2014
Trung Quốc nói vụ kiện mà Philippines khởi xướng lên tòa Trọng tài Liên Hiệp Quốc và được Việt Nam ủng hộ là 'không có tính pháp lý'.
Chiều thứ Năm 11/12, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nói với các nhà báo ở Hà Nội rằng: "Để bảo vệ các quyền và lợi ích pháp lý của mình ở Biển Đông có thể bị ảnh hưởng bởi vụ kiện Trọng tài Biển Đông, Việt Nam đã bày tỏ với Tòa trọng tài lập trường, quan điểm của mình đối với vụ kiện và đề nghị Tòa trọng tài quan tâm đến các quyền và lợi ích pháp lý đó của Việt Nam”.
Ông Bình cũng nói: "Lập trường nhất quán của Việt Nam là kiên quyết bác bỏ yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vùng nước phụ cận cũng như yêu sách “các quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với vùng nước, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển bên trong “đường đứt đoạn” do Trung Quốc đơn phương đưa ra”.
Tòa Trọng tài LHQ hiện đang thụ lý vụ kiện của Philippines đối với đường chủ quyền chín đoạn, còn gọi là đường lưỡi bò, của Trung Quốc tại Biển Đông.
Tuy Việt Nam không tham gia vụ kiện, nhưng việc trình bày quan điểm của mình và đề nghị tòa quan tâm cũng có thể coi như thái độ hậu thuẫn của Hà Nội.
Ngay lập tức, Trung Quốc lên tiếng phản bác.
Cũng chiều 11/12, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi bác bỏ tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa; đồng thời nói "Trung Quốc không bao giờ chấp nhận chủ quyền" của Việt Nam tại đây.
Ông Hồng nói tại Bắc Kinh: "Trung Quốc kêu gọi Việt Nam tôn trọng chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển của Trung Quốc và giải quyết các bất đồng trên cơ sở bằng chứng lịch sử và luật pháp quốc tế nhằm cùng gìn giữ hòa bình và ổn định tại Biển Đông".
Đặc biệt về vụ kiện của Philippines, hôm 7/12 chính phủ Trung Quốc đã công bố lập trường của mình nói Tòa Trọng tài LHQ không có tính pháp lý, và khẳng định Bắc Kinh sẽ không chấp nhận hoặc tham gia tố tụng.
Quan tâm
Theo Giáo sư Carlyle Thayer, nhà nghiên cứu về Việt Nam tại Canberra, Úc châu, Việt Nam đã gửi "thông báo quan tâm" (statement of interest) của mình tới Tòa Trọng tài LHQ.
Trong thông báo này, Việt Nam thừa nhận Tòa Trọng tài có quyền hợp pháp trong vụ kiện do Philippines khởi xướng từ tháng 1/2013. Hai điểm quan trọng khác là Việt Nam đề nghị tòa quan tâm, đồng thời bác bỏ yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc.
"Với thông báo này, Việt Nam không tham gia vụ kiện của Philippines nhưng đề nghị của Việt Nam sẽ được tòa ghi nhận và do vậy tầm quan trọng của vụ kiện sẽ được nâng lên."
Ông Thayer bình luận: "Nói cách khác, tuy vụ kiện vẫn chỉ là gip̃a hai quốc gia Philippines và Trung Quốc, các nhà trọng tài sẽ phải tính tới quyền lợi của các bên khác nữa".
Có thể Tòa Trọng tài sẽ mời Việt Nam trình bày về quyền lợi và quan tâm của mình, theo GS Thayer.
Đây là cách phản ứng thận trọng của Việt Nam trong bối cảnh Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đang chuẩn bị Hội nghị 10, có thể vào đầu tháng 1/2015.
Dù thế nào đi chăng nữa, động thái của Việt Nam sẽ khiến Trung Quốc khó khăn hơn trong việc bác bỏ tham gia vụ kiện do Philippines khởi xướng.
Chủ nhật, 14/12/2014
Trung Quốc đã bí mật thiết lập ADIZ trên Biển Đông?
Vùng nhận dạng phòng không trùng lắp giữa các nước Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Trung Quốc
11.12.2014
Trung Quốc có thể đã bí mật thiết lập khu nhận dạng phòng không – ADIZ trên Biển Đông, mà không tuyên bố công khai để tránh bị phản đối, theo tin của Trung tâm Thông tin Kanwa, có trụ sở đặt ở Canada.
Báo WantChinaTimes của Đài Loan hôm qua trích nguồn tin này nói rằng chính phủ Trung Quốc đã lên kế hoạch thiết lập hai khu nhận dạng phòng không bao trùm Biển Hoa Đông, và Biển Đông từ sau sự cố đảo Hải Nam năm 2001, khi một chiến đấu cơ J-811 của Trung Quốc và một máy bay do thám của Mỹ đâm vào nhau trên không, làm phi công Trung Quốc thiệt mạng, dẫn tới việc phi hành đoàn Mỹ gồm 24 người bị Trung Quốc bắt giữ và thẩm vấn.
Tháng 8 năm nay, một máy bay săn tàu ngầm P8 của Mỹ cũng đã chạm trán với một chiến đấu cơ J-11BH của Trung Quốc. Lúc đó, tạp chí quốc phòng IHS Jane's của Anh cho rằng chiến đấu cơ Trung Quốc đã khiêu khích chiếc máy bay P8 của Mỹ.
Ngũ Giác Đài đã phổ biến những đoạn phim quay cảnh vụ chạm trán này, cho thấy chiến đấu cơ Trung Quốc bẻ lái sang tay trái chỉ cách 10 thước trước mặt máy bay của Mỹ, rồi nghiêng cánh để phô trương vũ khí.
Sự cố này diễn ra gần ranh giới của khu đặc quyền kinh tế Trung Quốc, tức trong vòng 200 hải lý tính từ đảo Hải Nam. Trung tâm thông tin Kanwa xem đây là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc rất có thể đã thiết lập một khu nhận dạng phòng không trong khu vực, bởi vì chiếc máy bay của Mỹ đã bị nghênh cản bên trên vùng biển được coi là lãnh hải quốc tế.
Bản tin của Want China Times nói rằng kế hoạch thiết lập khu nhận dạng phòng không đã bị chính quyền Trung Quốc hoãn lại trong bối cảnh nước này chuẩn bị tổ chức hội nghị thượng đỉnh APEC ở Bắc Kinh vào tháng 11, để tránh bị các nước khác phản đối, đặc biệt là các nước đang tranh giành chủ quyền biển đảo với Trung Quốc, trong đó có Việt Nam.
Kanwa cho rằng sự kiện cộng đồng quốc tế đã lên án việc thiết lập khu nhận dạng phòng không trên Biển Hoa Đông trước đó cũng là một yếu tố khiến Bắc Kinh phải hoãn ý định này.
Vụ chạm trán này, theo Kanwa, cho thấy Trung Quốc đang tìm cách ngăn chận các phi cơ thám thính của Mỹ bay vào vùng đặc quyền kinh tế của họ, và sự xuất hiện của máy bay Mỹ cho thấy Hải quân Hoa Kỳ muốn theo dõi việc Trung Quốc điều các tàu ngầm vào các vùng biển cách khu đặc quyền kinh tế Trung Quốc 220 km về hướng Tây Nam trong Biển Đông.
Trung tâm thông tin Kanwa tiên đoán những vụ chạm trán như thế này sẽ gia tăng trong thời gian tới.
Nguồn: Want China Times, Nguoi Lao Dong
13 tháng 12 2014 Cập nhật lúc 22:35 ICT
Việt Nam không thể 'thoái thác trách nhiệm' lên tiếng nếu Trung
Quốc có kế hoạch thiết lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông và việc 'thoái thác trách nhiệm' ấy là 'không thể, không được phép', theo ý kiến một nhà phân tích tình hình khu vực từ Hà Nội.
Trao đổi với BBC hôm 13/12/2014, Tiến sỹ Khoa học Lương Văn Kế, nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế từ Đại học Quốc gia Hà Nội nói:
"Như thông tin mà chúng ta được biết, Trung Quốc đã bí mật triển khai cái gọi là Vùng nhận diện Phòng không, cái đó tôi nghĩ là nếu Việt Nam không nhanh chóng lên tiếng cùng các lực lượng bảo vệ hay yêu chuộng hòa bình khác, kể cả các cường quốc bên ngoài như Mỹ hay Nhật Bản...
"Thì Việt Nam gần như là thoái thác trách nhiệm, mà Việt Nam là nước bị ảnh hưởng lớn nhất mà mình lại thoái thác gần như là điều không thể, không được phép.
Nếu không nhanh chóng lên tiếng một cách kịp thời như vậy, thì chắc chắn Việt Nam sẽ không có khả năng để đòi lại quyền hợp pháp của mình ở Biển Đông
"Cho nên tôi nghĩ thời điểm này là thời điểm Việt Nam không thể chậm trễ hơn được nữa, nó (là) tình thế bắt buộc...
"Chuyện ADIZ đã từng diễn ra ở Biển Hoa Đông liên quan đến Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc rồi, thì những hành xử như vậy của Trung Quốc thì kịch bản các nước phải như thế nào, tôi nghĩ Việt Nam chắc chắn cũng không ở ngoài.
"Chỉ có điều là cái tỷ phần hay tỷ lệ nghiêm trọng ảnh hưởng đến Việt Nam sẽ cao hơn so với các nước kia, bởi vì các nước kia, Nhật Bản chẳng hạn chỉ là phần phía Nam của lãnh thổ Nhật Bản kéo dài mấy nghìn km thì cũng không phải là ảnh hưởng quá lơn,
"Nhưng đối với Việt Nam, toàn bộ mặt tiền Biển Đông của chúng ta (Việt Nam) kéo dài, toàn bộ diện tích Biển Đông 1 triệu km2, thì ảnh hưởng, đấy là không gian sinh tồn của mình trong tương lai, cho nên tôi nghĩ nếu Việt Nam không phản ứng quyết liệt vụ này thì sẽ rất là khó khăn."
'Thao tác đầu tiên'
Nhận xét của ông Kế được đưa ra sau khi Việt Nam mới đây đã đệ trình Tòa án Trọng tài Thường trực (PCA) của Quốc tế một bản Tuyên bố chính thức về các quyền của Việt Nam ở Biển Đông để lưu ý cơ quan trọng tài này về các quyền của mình trong vụ kiện chủ quyền ở Biển Đông giữa Philippines với Trung Quốc.
Bình luận về ý nghĩa Việt Nam chọn thời điểm này để liên hệ với Tòa án quốc tế, nhà phân tích nói:
"Đây là một tính toán của Việt Nam mà tôi nghĩ là nếu không nhanh chóng lên tiếng một cách kịp thời như vậy, thì chắc chắn Việt Nam sẽ không có khả năng để đòi lại quyền hợp pháp của mình ở Biển Đông...
"Tôi nghĩ trì hoãn tới thời điểm này Việt Nam có lẽ cũng đã tính toán kỹ, nhưng về tính toàn diện của yêu sách của Việt Nam, tôi nghĩ cũng chưa phải, bởi vì chắc chắn đây chỉ là thao tác đầu tiên mang tính chất đánh động thôi,
"Chứ chưa hẳn đã là một hệ thống pháp lý đầy đủ mà Việt Nam muốn đưa lên cho (Tòa án) Trọng tài Quốc tế.
"Thế còn về thời điểm tại sao lại vào hiện nay, tôi nghĩ có thể liên quan đến thái độ của Trung Quốc."
Trong bản Tuyên bố gửi Tòa án Trọng tài Thường trực quốc tế, Việt Nam đã thừa nhận cơ quan này có quyền tài phán với trường hợp của Philippines, điều đã bác bỏ quan điểm của Trung Quốc.
Ngoài ra, Việt Nam đề nghị Tòa án 'quan tâm đúng đắn' tới các quyền và lợi ích của Việt Nam, cũng như cho hay Việt Nam bác bỏ Đường 9 đoạn (hay Bản đồ đường Lưỡi bò) của Trung Quốc trên Biển Đông và xem tuyên bố đơn phương này của Trung Quốc là không có 'cơ sở pháp lý'.
'Sai lầm hoàn toàn'
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng thời điểm của động thái đưa ra tuyên bố 'là quá muộn', ông nói:
Nếu nghe theo, cùng khai thác với Trung Quốc, thì thực ra chúng ta đã sai lầm hoàn toàn
"Vào thời điểm này, theo quan điểm của tôi, Việt Nam đưa ra cũng hơi muộn, chứ không phải là sớm sủa gì. Đây chắc chắn là một sự tính toán rất kỹ lưỡng và trong tình thế Việt Nam không thể nào phản ứng khác được...
"Chủ trương có thể can thiệp hay đệ trình các yêu cầu, yêu sách của mình lên Tòa án Trọng tài Quốc tế đó là chuyện Việt Nam cũng đã có chủ trương, chỉ có điều cho đến bây giờ có thể nói là một sự tính toán rất kỹ lưỡng.
"Thứ hai là có thể có những kết quả thương thảo, những vấn đề diễn biến phức tạp về giải quyết tranh chấp chủ quyền của Philippines với Trung Quốc liên quan đến Trường Sa.
"Thì nếu Việt Nam không lên tiếng, trong quá trình thương thảo, nếu như Tòa án Trọng tài Quốc tế mà lại có những quyết định nào đó có lợi cho một trong hai bên, bất kể là Trung Quốc hay Philippines hay một nước nào khác, Việt Nam lại không có tiếng nói, thì chắc chắn Việt Nam sẽ thua thiệt."
Trong cuộc trao đổi hôm thứ Bảy với BBC, Tiến sỹ Khoa học Lương Văn Kế cũng bình luận và lưu ý về hai việc mà ông gọi là 'sách lược', 'chiêu bài' của Trung Quốc trong đối phó với Việt Nam trên Biển Đông, mà theo ông là việc cố thuyết phục Việt Nam 'cùng nhau khai thác' ở những khu vực địa điểm có tranh chấp hoặc đã đang bị biến thành vùng tranh chấp, bên cạnh việc tạo áp lực để tránh đưa các vụ việc tranh chấp đó ra quốc tế hay khu vực.
"Nếu nghe theo, cùng khai thác với Trung Quốc, thì thực ra chúng ta đã sai lầm hoàn toàn, quan điểm của tôi là không chấp nhận, một khi mà Trung Quốc không từ bỏ quan điểm chủ quyền thuộc về Trung Quốc, thì không thể cùng nhau khai thác được," nhà phân tích nói với BBC.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2014/12/141213_luongvanke_china_vn
http://www.voatiengviet.com/content/dong-rup-cua-nga-tiep-tuc-truot-gia/2555971.html
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/multimedia/2014/12/141213_luongvanke_china_vn
Đồng rúp của Nga tiếp tục trượt giá
12.12.2014
Giá trị đồng rúp của Nga đã tụt xuống mức thấp mới so với đồng đôla Mỹ và đồng euro, ngay cả khi ngân hàng trung ương của Moscow một lần nữa nâng lãi suất chủ chốt trong một nỗ lực nhằm vực dậy nền kinh tế đang sa sút của nước này.
Đồng nội tệ của Nga lần đầu tiên vượt lên trên mức 55 rúp đổi một đôla hôm thứ Năm, và cũng tụt xuống đáy mới so với đồng euro được sử dụng trong 18 nước thuộc khối đồng tiền chung châu Âu.
Giá trị đồng rúp đã giảm 42% trong năm nay. Nền kinh tế Nga đã chao đảo vì những biện pháp trừng phạt do Mỹ và châu Âu áp đặt do Tổng thống Vladimir Putin can thiệp ở Ukraine ủng hộ quân nổi dậy thân Nga, đang chiến đấu với lực lượng chính phủ Ukraine. Ngoài ra, dầu thô - một trụ cột của nền kinh tế Nga - đã sụt giá mạnh.
Ngân hàng trung ương đã tăng một điểm phần trăm lãi suất cơ bản lên 10,5%, một động thái nhằm giảm bớt áp lực bán tháo đồng rúp và làm chậm lại giá cả tiêu dùng tăng cao ở Nga. Ngân hàng cho biết lạm phát dự kiến sẽ đạt 10% trong năm nay và tiếp tục tăng trong những tháng đầu năm 2015.
Chính phủ Nga đã dự đoán nền kinh tế sẽ rơi vào suy thoái vào năm sau.
Đồng nội tệ của Nga lần đầu tiên vượt lên trên mức 55 rúp đổi một đôla hôm thứ Năm, và cũng tụt xuống đáy mới so với đồng euro được sử dụng trong 18 nước thuộc khối đồng tiền chung châu Âu.
Giá trị đồng rúp đã giảm 42% trong năm nay. Nền kinh tế Nga đã chao đảo vì những biện pháp trừng phạt do Mỹ và châu Âu áp đặt do Tổng thống Vladimir Putin can thiệp ở Ukraine ủng hộ quân nổi dậy thân Nga, đang chiến đấu với lực lượng chính phủ Ukraine. Ngoài ra, dầu thô - một trụ cột của nền kinh tế Nga - đã sụt giá mạnh.
Ngân hàng trung ương đã tăng một điểm phần trăm lãi suất cơ bản lên 10,5%, một động thái nhằm giảm bớt áp lực bán tháo đồng rúp và làm chậm lại giá cả tiêu dùng tăng cao ở Nga. Ngân hàng cho biết lạm phát dự kiến sẽ đạt 10% trong năm nay và tiếp tục tăng trong những tháng đầu năm 2015.
Chính phủ Nga đã dự đoán nền kinh tế sẽ rơi vào suy thoái vào năm sau.
NGƯỜI ĐƯA TIN * GIẢI TÁN CỘNG ĐẢNG
Giải tán đảng cộng sản để cứu nước mệnh lệnh của Dân Tộc Việt Nam
Người Đưa Tin (Danlambao) - Đã đến lúc người Việt Nam, không phân biệt thành phần, cần tính sổ đảng cộng sản từ ngày thành lập (1930) đến nay.
Cha đẻ đảng cộng sản lúc đương quyền cũng như khi chết đi, trong 24 năm cầm quyền (1945-1969) là Hồ Chí Minh đã tước đi sinh mạng hàng triệu người VN. Đồng bào miền bắc vì bị bưng bít thông tin và tuyên truyền nên đã sai lầm đặt lòng yêu nước vào tay HCM. Qua "Quả lừa lịch sử" (1) máu và nước mắt lẫn truyền thống đạo lý ngàn đời của người VN bỗng chốc hóa thành những cuộc đấu tố "long trời lỡ đất" khiến hàng trăm ngàn dân lành vô tội chết tức tưởi; nghiệt ngã nhất là trường hợp của bà Nguyễn Thị Năm, đại ân nhân của HCM và đảng cộng sản, bị chính HCM ký án tử hình. Hai bức thư HCM gởi Staline xin chỉ thị để thực hiện CCRĐ vẫn còn nằm trong cục lưu trữ quốc gia Nga (2) là bằng chứng không thể chối cãi HCM đã phạm tội ác chống loài người, di sản HCM để lại chỉ có tội ác và dối trá.
Hàng triệu người VN đã chết oan uổng chỉ để HCM và đảng cộng sản phục vụ Nga-Tàu, sẵn sàng đánh Mỹ đến người VN cuối cùng, sẵn sàng đốt cháy cả dãi Trương Sơn, sẵn sàng đẩy hàng triệu thanh niên nam nữ và cả trẻ em miền bắc vào cuộc chiến xâm lược miền nam VNCH, một đất nước có chủ quyền được Liên Hiệp Quốc công nhận.
Đảng cộng sản mệnh danh "Giải phóng dân tộc - Thống nhất đất nước" để nhấn cả nước chìm vào đói nghèo lạc hậu. Dân có nghèo và dân ngu dốt sẽ chỉ là chuyện nhỏ khi nghĩ đến điều có thật mà người VN không được phép quên đó là "đại họa mất nước" (3) thông qua Mật nghị Thành đô 1990 mà đảng cộng sản đã bí mật ký kết để VN thành một tỉnh tự trị của Tàu cộng vào năm 2020 (4). Người VN trong chế độ cộng sản có sống đúng nghĩa một con người hay tồn tại như một con vật, trách nhiệm trước tiên thuộc về những người tự nhận là trí thức thay vì miệt thị, ta thán đỗ hết lên những người dân đen - "Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn, cho nên quân nó dễ làm quan" (Tản Đà)
Phong trào "Chúng tôi muốn biết" không thể chỉ là "phong trào" rồi qua đi, với sự tham dự của mọi tầng lớp trong xã hội, kể cả hàng cựu tướng lãnh cộng sản cũng đồng tình đòi buộc đảng cộng sản, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng phải bạch hóa cho toàn dân văn bản gốc Mật nghị Thành Đô 1990 (5). Đảng cộng sản đã ký kết điều gì với Tàu cộng? Hành động bán nước của cộng sản đời đầu cũng như đời cuối không thể chỉ xem là chuyện nội bộ để đảng cộng sản chỉ trấn an các đảng viên, mà bỏ ngoài tai. Đòi hỏi "Quyền được biết" là đòi hỏi chính đáng của toàn dân tộc VN dù trong hay ngoài nước. Đất nước VN là của người VN, không của riêng bất kỳ đảng phái nào. Tổ quốc - Danh Dự - Trách nhiệm phải được đặt lên hàng đầu cho bất kỳ ai mang dòng máu VN trước hiểm họa Bắc thuộc, trừ kẻ nối giáo cho giặc chính là đảng cộng sản tính từ HCM đến nay, theo suy nghĩ cộng sản "Thà mất nước hơn mất đảng" như quan niệm của tên tướng tồi Lê Đức Anh. (6)
Phong trào "Chúng tôi muốn biết" Mật nghị Thành đô 1990 đã được đáp ứng bởi tác giả Huỳnh Tâm (7) với những bằng chứng thuyết phục, cả guồng máy độc quyền thông tin của tuyên giáo cộng sản không thể lên tiếng phản bác cách mạnh mẽ như đã từng, chứng tỏ tuyên giáo cộng sản đã cùng đường trong lý luận. Sự im lặng của đảng cộng sản là niềm "khích lệ" người VN không chỉ dừng lại ở "Chúng tôi muốn biết", mà rất cần thiết để nhân sĩ trí thức tử tế trong và ngoài nước kết hợp tiến đến hành động thiết thực "Cùng nhau cứu nước" thay cho các kiến nghị hoặc yêu cầu đã bị đảng cộng sản vứt vào sọt rác như đã từng. Đã đến lúc người VN nắm tay nhau thật chắc, đặt sự tồn vong của dân tộc lên trên tất cả mọi thứ, kể cả sự sống còn của cá nhân. Hy sinh bản thân để dân tộc trường tồn là một đại vinh hạnh không dễ có được cho kiếp người.
Nhân vật HCM rất cần được lôi ra ánh sáng về những tội ác của hắn có sự chỉ đạo của Nga Tàu qua câu nói do chính HCM thú nhận "Ai có thể sai, Staline và Lênin không thể sai được". Hoặc như các tên trí nô bưng bô bằng miệng "Bác Hồ ta đó chính là bác Mao", như tên bồi bút kiêm đồ tể của văn nghệ sĩ Tố Hữu "Yêu biết mấy khi con tập nói, tiếng đầu lòng con gọi Xít Ta Lin - Giết giết nữa, bàn tay không phút nghỉ...". Bằng chứng tội ác của HCM trong CCRĐ, thảm sát Huế Mậu Thân 1968 (8) là luận cứ thuyết phục cho hàng loạt bài viết của tác giả Huỳnh Tâm về tên gián điệp Tàu cộng Hồ Tập Chương / Hồ Chí Minh tức thiếu tá Hồ Quang do chính trang web của đảng cộng sản thú nhận (9) Tàu cộng cũng không ngần ngại công bố trên báo chính thống Tàu xác nhận HCM chính là thiếu tá Hồ Quang (10), và như vậy đảng cộng sản đã và đang nhận giặc làm cha. Rất cần phổ biến rộng rãi các bài viết của tác giả Huỳnh Tâm về nhân vật HCM tên gián điệp hoàn hảo của Tàu cộng (11) Từ cổ chí kim VN vẫn có bạo chúa, vẫn có Trần Ích tắc, Lê Chiêu Thống (Lê Mẫn Đế), nhưng nói về sự tàn ác thì không ai qua nổi HCM, chỉ có kẻ mang dòng máu ngoại bang mới có thể tàn sát đồng bào VN cách khát máu như tên giặc Tàu HCM/HTC.
Chỉ khi nào người VN vứt bỏ được hình tượng giả trá HCM mới có hy vọng người VN liên kết thành một khối để chống kẻ thù truyền kiếp phương bắc, giặc Tàu cộng. Đáng tiếc là cho đến giờ phút này, không ít quý ông/bà giáo sư, tiến sĩ, văn sĩ vẫn kết hợp với hạng người vô liêm sỉ để tung hê tên giết người diệt chủng HCM, dù họ biết rõ HCM là chánh phạm trong CCRĐ... Lực cản lớn nhất cho tiến trình dân chủ là não trạng "Cộng sản đời đầu tốt". Kệch cởm hơn, quỷ biện hơn là "thằng đó cộng sản nhưng nó tốt" (!?) Nếu là dân ít học còn có thể hiểu được vì là nạn nhân bị tuyên giáo cộng sản nhồi sọ từ khi còn ngồi bô, nhưng tầng lớp tự nhận là "trí thức", là "văn nghệ sĩ" đứng trên thiên hạ vì nằm trong "Cái Lồng Khôn" văn chương XHCN thì thật đáng tiếc. Chính họ tự nhận là trí thức như Mao từng nói "Trí thức không bằng cục phân". Bình tâm nhìn lại, không ai hiểu cộng sản bằng chính người từng theo cộng sản. "Góp phần giải mã một thế hệ dấn thân" của tiến sĩ Hà Sĩ Phu, người từng đi dưới "Tấm biển chỉ đường của đảng" để thấy người lương thiện không ai theo cộng sản. (12) "Nợ Cứt" ai còn nhớ và ai đã quên, người dân miền bắc từng phải để dành phân người như một thứ "hàng hóa" để đổi gạo và đảng viên cộng sản chân chính là những chuyên viên sàng lọc những viên sỏi mà người dân trộn vào phân để tăng "giá trị" số lượng sản xuất theo quy tắc "với sức người cứt cũng hóa thành cơm", phải chăng đó là tiền đề của khẩu hiệu một thời "với sức người sỏi đá cũng thành cơm" (?!) mà tuyên giáo cộng sản rêu rao trên các loa phường khắp cả nước. Trong lịch sử loài người, chuyện trao đổi hai chiều giữa nhân dân ỉa cứt và nhà nước nhận cứt "đánh giá chất lượng lao động sản xuất" để quy thành gạo, chắc chỉ có cộng sản Hà Nội độc quyền "Bết seo lơ" nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (13)
Việt Nam ngày nay, sau hơn 80 năm cộng sản xây dựng XHCN miền bắc và hơn 20 năm đổi mới từ chế độ bao cấp sang cơ chế "đồng sàng dị mộng" kinh tế thị trường định hướng XHCN, một đứa trẻ khi được sinh ra, lập tức được cộng sản xác nhận công dân gương mẫu, đóng cho cái mộc giữa trán hai chữ "nợ công", thứ tội "Tổ tông truyền" khốn nạn nhất mà chỉ có cái "Làng Bảo tồn" XHCN mới độc quyền "lãnh đạo tài tình, nhờ sự sáng suốt của đỉnh cao trí tuệ". (14)
Có thể nói mà không sợ sai trật rằng: Quan chức cộng sản tại VN ngày nay, trong mắt nhìn của đại đa số người dân VN cả trong và ngoài nước và cả bạn bè thế giới... chỉ là một lũ ăn hại, ăn cắp và bán nước buôn dân, hèn với giặc Tàu cộng lại rất ác với dân VN. Hành động đàn áp người bất đồng chính kiến, bịt miệng tự do ngôn luận, khiến người tử tế lâm nạn chỉ vì bị "bắt quả tang khi đang viết văn" như nhà văn Nguyễn Quang Lập, và "xâm phạm lợi ích nhà nước" như Gs Hồng Lê Thọ, và mới đây trong phiên xử phúc thẩm Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh về tội "Gây rối trật tự cộng cộng" vì đã dám "bành trướng" hai xe gắn máy có thể đi hàng ba (?!) Chưa nói tới những người đến tham dự "phiên tòa cộng khai" cũng bị côn an + côn đồ hành hung vì cái tội dám yêu người yêu nước. Hóa ra, tên trung tá côn an Vũ Văn Hiển, phường 6, quận ba đâu có bốc đồng khi tuyên bố trước bàn dân thiên hạ, tự do trong chế độ cộng sản chỉ là thứ "Tự do cái con c."
Báo chí nước ngoài chỉ trích luật của cộng sản về tội danh "Xâm phạm lợi ích nhà nước" của Điều 258 là mơ hồ, chỉ là lý do để đàn áp những người thể hiện quyền công dân cách ôn hòa, đảng cộng sản đã nhổ vào Luật quốc tế nhân quyền mà họ đã ký kết thực hiện. Thật ra cộng sản quy cho những người đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền "Xâm phạm lợi ích nhà nước" cũng đúng một phần, bởi thực tế cho thấy thứ gọi là nhà nước của dân, do dân và vì dân mà cộng sản hô hào chỉ là bánh vẽ, chế độ độc tài toàn toàn trị là thể chế đảng cử, dân bầu. Chính đảng viên cộng sản, Đại biểu Huỳnh Nghĩa (Đà Nẵng) cũng đòi bãi bỏ cơ chế đảng cử dân bầu, chẳng do bịa chuyện hay ai xúi giục cả (15).
Đã là nhà nước của cộng sản, tất nhiên lợi ích phe nhóm chỉ là của cộng sản, hoàn toàn không liên can đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Những người đấu tranh ôn hòa đã đụng chạm đến lợi ích của nhà nước cộng sản, vì lẽ đó họ bị đàn áp, trù dập thậm chí bị bắt giữ vì dám hăm he đá bể nồi cơm của đảng. Tuyên giáo cộng sản bịp bợm lu loa "nhà nước của dân" chỉ thể hiện tính lưu manh của đảng một cách triệt để qua hành động của quan chức cộng sản.
Người dân thấy gì qua "một bộ phận không nhỏ" đã làm nên chuyện lớn để báo chí chính thống của cộng sản cũng rên la "quốc nạn tham nhũng"? Tư cách của lãnh đạo cộng sản như Nguyễn Tấn Dũng thủ tướng, Trương Tấn Sang chủ tịch nước, Nguyễn Phú trọng tổng bí thư đảng cộng sản, Nguyễn Sinh Hùng chủ tịch Quốc Hội, chỉ riêng "Tập đoàn lũ bốn người" này thôi, chẳng những đã đẩy VN vào đói nghèo tụt hậu mà sự đấu đá tranh giành quyền lực do chúng gây ra, người dân đều lãnh nhận hậu quả không nhỏ. Tin vào cái mồm của thủ tướng "chuyên gia chống tham nhũng" khác nào thọ giáo tú ông/tú bà để được nghe chúng giảng đạo, sống thế nào cho ra người tử tế. Chưa nói tới tên tướng bộ trưởng quốc phòng cộng sản Phùng Quang Thanh xem việc Tàu cộng xâm lấn lãnh hải VN, bắn giết cướp tài sản của ngư dân VN chỉ là chuyện "Vợ chồng trong gia đình cãi nhau"?!
Trong một chế độ mà môn lịch sử thật của nước Việt bị cộng sản ném vào sọt rác, học sinh vui mừng xé đề thi môn sử vì khỏi phải thi cái thứ gọi là "lịch sử đảng". Chính sự giáo dục vong bản là cha đẻ ý thức hệ nô lệ, như Trường Chinh từng kêu gọi đồng bào VN bỏ chữ quốc ngữ để học chữ Tàu mà mục đích không có gì khác là làm chư hầu cho Tàu cộng. Khi mà kẻ cắp bị bắt quả tang nhiều lần, về nước được lên truyền hình toàn quốc để nói về "nếp sống văn hóa" của người VN, thì thật khốn nạn cho cả một dân tộc trên đà diệt vong văn hóa.
Việt Nam muốn lấy lại Hoàng Sa - Trường Sa từ tay Tàu cộng, vấn đề không chỉ là cộng sản phải "chui cửa hậu" vì không dám kiện quan thày, để ăn theo Philippin kiện Tàu cộng ra tòa án quốc tế. Cách khôn ngoan để phủ nhận đường lưỡi bò phi lý của Tàu cộng là phải thừa nhận tính chính danh chủ quyền lãnh hải của VNCH về Hoàng Sa trước 1975, như đài truyền hình VTV của cộng sản đã từng vinh danh 74 chiến sĩ VNCH đã hy sinh để bảo vệ Hoàng Sa của VN, dùng nhân chứng sống VNCH để phủ nhận tuyên bố lếu láo của Tàu cộng về hải phận thuộc chủ quyền VN, là hành động khôn ngoan và hợp lòng dân, nếu thật sự đảng cộng sản muốn bảo vệ toàn vẹn lãnh hải, lãnh thổ VN trước ý đồ xâm lược không ngừng nghĩ của kẻ thù truyền kiếp phương bắc.
Tiếc rằng, thói tật nói láo, ngậm máu phun VNCH là sở trường của đảng cộng sản, và thứ nuôi dưỡng chế độ cộng sản tồn tại đến hôm nay lại chính là tuyên truyền dối trá. Vì vậy, nếu đảng cộng sản thừa nhận tính chánh danh VNCH là một quốc gia có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, khác nào cộng sản thừa nhận hành động xâm lược miền nam VN là hành động vi phạm chủ quyền một nước được LHQ công nhận. Và Hiệp Định Paris 1973 mà cộng sản đã từng ký kết cũng như đã chà đạp để xâm lược miền Nam VN, lại một lần nữa có thể thành đề tài nóng bỏng cho việc phục hồi chánh thể VNCH qua Hiệp Định Paris 1973.
Muốn hay không đối với người cộng sản thì sự thật vẫn là sự thật: Chánh thể VNCH dù mất nước nhưng họ vẫn tồn tại trong lòng dân tộc trước 1945, cuộc bỏ phiếu bằng chân năm 1954 là bằng chứng hùng hồn đồng bào miền bắc không ít người hiểu rõ bản chất cộng sản khi quyết định di cư vào nam, đặc biệt là người miền nam khi TT Ngô Đình Diệm khai sinh nền đệ nhất VNCH. Thế hệ sinh sau 1975, không phải ai cũng bị tuyên giáo cộng sản cho vào rọ như thời VN chưa có Internet. Ngay như người từng theo cộng sản cũng muốn tẩy chay cộng sản, vì CNXH đưa ra chỉ để bịp thiên hạ, như lời "giáo sư Trần Phương, nguyên Phó thủ tướng Chính phủ và hiện là Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, đã đưa ra nhận xét về CNXH và chủ nghĩa Mác-Lênin trong dự thảo cương lĩnh của đảng như sau: "Chủ nghĩa Mác-Lênin có điều đúng và có điều sai, nhất là những dự đoán của Mác và Lênin về cái gọi là chủ nghĩa xã hội, sai rồi, mà rõ ràng là thực thi 70 năm đã thất bại rồi"!
Vậy, còn chờ gì nữa, toàn dân cả trong và ngoài nước không chung sức, chung lòng giải thể chế độ cộng sản, vứt bỏ hình tượng giả trá Hồ Chí Minh để cùng nhau, trước là chống sự xâm lược ngày càng ngạo mạn, thô bạo của Tàu cộng, sau là để xây dựng lại những gì mà VNCH đã làm được trước 1975 về nền giáo dục nhân bản và khai phóng, cũng như nền kinh tế vượt trội hơn hẳn Singapore đã bị đảng cộng sản tàn phá, dù chỉ với 20 năm ngắn ngủi nhưng VNCH đã xây dựng được nền dân chủ dù non trẻ, thành công đến các nước láng giềng Châu Á muốn mà chưa được vào thời đó.
Thay cho lời kết
Kẻ viết bài này, không phải là cựu quân nhân QLVNCH, cũng chẳng dây mơ rễ má gì với CSVN. Đến thời điểm này, ước muốn giải tán đảng cộng sản có thể nói đó là khát vọng của người VN, kể cả các cựu tướng lãnh cộng sản. Tôn vinh chánh thể VNCH là dựa vào sự thật lịch sử từ cả hai phía, cũng không phải chủ ý để VNCH về điều hành đất nước, tuy nhiên hãy can đảm nhìn vào sự thật, chưa có tổ chức đảng phái đối lập nào xứng tầm để có thể làm đối trọng với đảng cộng sản ngoài thế hệ hai của VNCH. Đó là nguồn tài nguyên phong phú cả nhân lực và vật lực thời hậu cộng sản, biết khai thác đúng mức lòng yêu nước của họ với cái tâm của người lãnh đạo thật lòng vì nước vì dân, biết xem trọng Tổ quốc - Danh dự - Trách nhiệm trên hết mọi sự.
Tàu cộng chỉ còn là tên hải tặc, cướp cạn không hơn kém ngoài biển Đông cũng như trên đất liền. Việt Nam vẫn là nước nhỏ nhưng mạnh hay yếu tùy thuộc vào sức mạnh của cả một dân tộc, không hẳn chỉ là vũ khí như cổ nhân từng nói "Thế nước có lúc mạnh, lúc yếu nhưng hào kiệt thời nào cũng có" (Bình Ngô Đại Cáo. Nguyễn Trãi). Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, ông cha người VN chưa để mất tấc đất nào vào tay giặc xâm lược, hà cớ gì đảng cộng sản cai trị hơn nửa thế kỷ, Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan cùng hàng trăm ngàn hecta đất rừng đầu nguồn không còn là của VN? Còn cộng sản nước có thể mất, dân tộc VN có thể bị diệt vong, nhưng mất cộng sản chắc chắn đất nước, dân tộc VN sẽ trường tồn. Chế độ cộng sản không còn, không có lý do để tồn tại. Giao trả quyền lực về tay nhân dân để chống ngoại xâm, hoặc đeo bám quyền lực, phản bội nhân dân bán nước cho giặc Tàu, vinh quang và chết thảm khoảng cách chỉ là sợi tóc. Không có chế độ độc tài nào muôn năm trường trị. Lịch sử chứng minh đó là quy luật Quan nhất thời, Dân vạn đại. Ác lai ác báo, lưới trời tuy rộng, lồng lộng nhưng khó thoát.
Việc cần làm trước tiên là người VN phải giành lại bằng được quyền tự quyết cho dân tộc. Ai là người có tài, biết yêu nước thương dân cứ ra ứng cử, sẽ được người dân bầu chọn hiền tài qua chính lá phiếu của họ để tái thiết đất nước thời hậu cộng sản. Cộng gì cũng được, Cộng sản thì đừng. Hãy tránh xa vì "Cộng sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là trùng độc, sinh sôi, nẩy nở, trên rác rưởi cuộc đời". (Dalai Latma)
_______________________________
Tài liệu tham khảo:
1. Quả lừa lịch sử: HCM / CSVN-CSTQ cướp chính quyền VN. "Giải mã Nhân Vật HCM chính là Giải mã Lịch sử (bất hạnh) của Dân Tộc VN".
2. Hai bức thư Hồ Chí Minh gởi Stalin xin Chỉ thị để giết dân Việt Nam trong chiến dịch "Cải Cách Ruộng Đất" và xin vũ khí Nga để giết dân Việt.
Nguồn tài liệu: Cục lưu trử quốc gia Nga:
3. Toàn bộ cuốn DVD "Đại Họa Mất Nước".
4. Đọc lại hồ sơ bán nước: Hội Nghị Thành Đô 1990. Hồi ký "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ, nhà báo Trần Quang Thành giới thiệu.
5. Hơn 60 Đảng viên Cộng sản lão thành vừa gửi thư ngỏ lên Ban Chấp hành Trung ương kêu gọi từ bỏ con đường xây dựng XHCN và thoát khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc.
6. Hiểm họa Bắc thuộc xưa và nay – Bài học nào cho Việt Nam (1)
(Phần 2) radiochantroimoi.com/phong-su/hiem-hoa-bac-thuoc-xua-va-nay-bai-hoc-nao-cho-viet-nam-2.html
7. Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 10) Tác giả Huỳnh Tâm.
8. Thảm Sát Huế Mậu Thân 1968 - Hue Massacre 1968.
9. Chủ tịch HCM - Người xây đắp nền móng quan hệ hữu nghị VN-TQ (Trước 1945)
10. Trung Quốc công bố Hồ Chí Minh là thiếu tá Hồ Quang.
11. Hồ Chí Minh, một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 12) (Ngày 25 tháng 3 năm 1950. Mao Trạch Đông cảnh cáo Hồ Chí Minh:
"Tôi thấy bạn thực sự nguy hiểm nếu tôi chết trước, kẻ thù của bạn chắc chắn là nhân dân, nếu bạn làm mềm lòng họ, mọi chuyện đều tốt đẹp và tránh được thiệt hại. Trước khi và sau cuộc cách mạng bạn lên nhiếp chính, phải tìm cách giấu kín sự ác tính của bạn, mới trừ được kẻ thù; bằng không bạn nhận hậu quả vô lường và không thể biết đến từ bao giờ!").
12. Góp phần “giải mã” một thế hệ dấn thân. Tác giả Ts Hà Sĩ Phu.
13. Nợ Cứt. Tác giả Phạm Thế Việt.
14. Mỗi người Việt đang gánh 900 USD nợ công.
15. Cần xóa cơ chế "Đảng cử dân bầu". (Đại biểu Huỳnh Nghĩa (Đà Nẵng) phát biểu thảo luận về dự thảo Luật đầu tư công).
16. GS Trần Phương nói: CNXH được đưa ra chỉ để bịp thiên hạ.
DƯƠNG HOÀI LINH * CỘNG SẢN SỤP ĐỔ
Mười dấu hiệu cho thấy bóng dáng sụp đổ của một thể chế chính trị
Thứ Sáu, ngày 05 tháng 12 năm 2014
1/ Tham nhũng như một bầy sâu tha hồ đục khoét
Tháng 1- 2012, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành NQTW4 về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã nhận định: ”Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên - trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp - suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống…”
Trong vòng 25 năm qua, bọn sâu bọ tham nhũng ngày một đông, ngày mỗi mạnh và đã trở thành bầy đàn! Nó như căn bệnh ung thư đã di căn tới nhiều bộ phận của cơ thể. Nếu Đảng không quyết tâm diệt trừ tận gốc bọn sâu bọ tham nhũng của Đảng thì chính bọn này, một ngày nào đó không xa sẽ là thủ phạm “giết sống” Đảng Cộng sản Viêt Nam!
2/ Nợ công chồng chất, có thể dẫn đến vỡ nợ bất cứ lúc nào
Nếu Việt nam vỡ nợ sẽ dẫn đến tình trạng như sau:
- Thị trường chứng khoán sẽ sụp đổ và điểm tín dụng xuống cấp thê thảm.
- Mọi cơ chế tài chánh sẽ phải đóng cửa. Tiền mất giá, lạm phát leo thang, trái phiếu và đồng nội tệ sẽ chỉ còn là mớ giấy lộn. Tiền gởi trong ngân hàng sẽ “bốc hơi” vì mất giá trị.
- Mọi chương trình do chính phủ tài trợ đều ngưng hoạt động (y tế, cảnh sát, an ninh, quốc phòng, giáo dục, cầu, đường, năng lượng v... v... ). Quỹ hưu trí tan vỡ, nhà thương, trường học ngưng hoạt động.
- Các thương vụ đóng cửa và nạn thất nghiệp tràn lan. Mọi mặt hàng khan hiếm kể cả nhu yếu phẩm. Giá cả tăng vọt. Đời sống của người dân sẽ bị đảo lộn hoàn toàn.
- Nội loạn sẽ xảy ra và không có người để duy trì trật tự công cộng. Nạn đói và cướp bóc sẽ xảy ra. Hiện tượng vô kỷ luật, vô trật tự, vô tổ chức sẽ hoành hành
- Kẻ giàu có sẽ cuỗm tiền bạc quốc gia và trốn ra ngoại quốc
3/ Công lý, luật pháp không còn, thi hành án tử với người vô tội
- Công lý đôla thể hiện rất rõ trong các vụ án hình sự và trong các vụ án chính trị. Có lẽ chỉ có tại Viêt Nam (và các nước độc tài cộng sản), mới có chuyện “chạy án”, nghĩa là đút tiền cho công an điều tra, kiểm sát công tố và cho cả quan tòa xét xử.
- Công lý côn đồ biểu hiện qua lời phát biểu mà những kẻ có quyền (công an, đảng viên, cán bộ) thường hay nói khi đi cướp đất đai tài sản của dân hay trấn áp những ai có vấn đề với chế độ: “Luật là tao! Tao là luật! Miệng tao là luật!”.
- Dùng tang vật mua ở… chợ để kết án tử hình. Những người cầm cán cân công lý lại xác định “thiếu sót” đó là không lớn, không giám định được vẫn tuyên phạt án tử hình với Hồ Duy Hải.
4/ Kỷ cương phép nước bị coi thường. Dân oan bị cướp đất, cướp nhà ngày càng đầy rẫy
- Cấp ủy Đảng, chính quyền, nơi người dân đặt niềm tin vào chế độ, nhưng lại không thực hiện đúng nghị quyết Đảng, làm sai chủ trương, sai chính sách, sai pháp luật, gây mất dân chủ, làm xói mòn và đi đến mất niềm tin.
- Nhân dân bị tước đi quyền dân chủ, không còn được thực thi và phát huy vai trò giám sát, hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức.
- Đảng viên cộng sản đang nắm quyền cai trị ở các cấp, từ trung ương xuống đến địa phương đã tiến hành cướp bóc trắng trợn, lộ liễu, không còn e dè dấu diếm. Đảng cộng sản Việt Nam đã lộ nguyên hình là một đảng cướp. Số dân oan bị cướp đất, cướp nhà, ruộng vườn.. càng ngày càng tăng.
− Rút ruột các công trình công cộng khiến cho các công trình này kém chất lượng.
− Chặn bớt tiền viện trợ của các quốc gia tiên tiến cho người dân trong nước, chặn bớt tiền cứu trợ các nạn nhân thiên tai…
− Quy hoạch các khu đất để ép người dân trong đó phải dời đi nơi khác với giá đền bù rẻ mạt, để rồi sau đó họ xây nên những trung tâm buôn bán, các khách sạn hay khu giải trí để kinh doanh làm giàu.
5/Kinh tế sa sút trầm trọng, thu không đủ để bù chi
- Thâm hụt ngân sách diễn ra liên tục trong khoảng hơn một thập kỉ qua và có mức độ ngày càng gia tăng. Để bù đắp bội chi Việt Nam buộc phải vay trong nước và vay nước ngoài. Do số nợ vay được sủ dụng vào những mục đích không sinh lợi nên toàn bộ số chi trả nợ gốc phải trông vaò phát hành nợ mới.
- Đầu tư công lớn, dàn trải và kém hiệu quả.
- Tình trạng nợ công sẽ có những tác động tiêu cực đến xuất khẩu và tăng trưởng GDP của Việt Nam
- Tương lai kinh tế Việt nam là một bức tranh ảm đạm:Nợ xấu tiếp tục tăng cao. Lạm phát sẽ làm đồng tiền tiếp tục mất giá. Giá điện, than, xăng dầu, gas, nước... tăng nhanh sẽ làm giá của hàng hóa tăng theo, trong khi không tìm ra nguồn ngân sách để tăng lương cũng là vấn đề khiến đời sống người dân trở nên khốn đốn.
- Phát biểu của ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng chỉ ra nhiều điều: “Phải cân bằng thu – chi. Thu lấy mà chi, chứ bây giờ cứ phát hành trái phiếu lu bù, vay lu bù để chi thì chết thôi”. “Thu được đồng nào các đồng chí đem xài hết, chi đầu tư các đồng chí hãm lại, rồi cứ vay nợ ào ào. Như vậy thì làm sao phát triển được đất nước, rồi trả nợ không được thì sụp đổ”. “Cứ ăn hết lấy gì mà tiêu, ăn hết mà không có tiền chi lương thì tôi không hiểu thế nào”.
6/ Trí thức, người lao động, cán bộ hưu trí bất mãn, bất hợp tác với chế độ ngày càng nhiều
- Tại Việt Nam, mỗi năm có hàng chục ngàn cuộc biểu thị phản ứng, phản kháng của các cá nhân và tập thể nông dân, so với con số hàng trăm ngàn cuộc ở Trung Quốc. Cũng cho tới nay, ước tính tầng lớp dân oan đất đai ở Việt Nam phải lên đến ít nhất 3- 4 triệu người - tương đương với số lượng đảng viên trong đảng cầm quyền. Đặc thù tâm lý trong xã hội Việt Nam là lòng dân càng bất mãn thì phản ứng của người dân càng lúc càng trở nên thiếu kềm chế.
- Đảng đang đối phó với một xã hội thông tin ngày càng rộng mở và người dân ngày càng tỉnh táo trước các thông tin khi có nhiều tin tức và ý kiến khác nhau lan truyền trên mạng làm ảnh hưởng đến sự tuyên truyền của truyền thông Nhà nước.
- Sự khủng hoảng lòng tin trong tầng lớp trí thức Việt nam đã lên đến mức cao nhất. Đa số đều nhận định:" Nếu không có " cách mạng " thì ngày nay Việt Nam đã tốt hơn như thế nào? Ba mươi năm chiến tranh, số người chết không kể xiết, thiệt hại và đau thương vô cùng lớn – tất cả chỉ để đem đến kết cục là một chế độ kinh tế Marxist không khả thi do một Đảng cộng sản suy đồi và tàn bạo lãnh đạo.
7/ Quân đội, công an chia rẻ trầm trọng với nhân dân, tha hồ vơ vét cho riêng bản thân, bỏ mặc an nguy đất nước
- Lực lượng Công an bị dân khinh thường, hễ có dịp là đánh vì “chỉ biết còn Đảng còn mình”. Lực lượng Quân đội từ khi sửa lời Bác Hồ nêu lên hàng đầu “Quân đội ta trung với nước” thành “Quân đội ta trung với Đảng” thì dân cũng dần dần quay lưng. Một vài nơi, Công an và Quân đội đã cầm súng chống lại nhân dân, như ở Tiên Lãng, Văn Giang.
- Báo Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân có nhiều bài lớn tiếng mạt sát “một bộ phận” xã hội nhưng thực chất một bộ phận xã hội đó lại là đa số nhân dân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam đã chia rẽ nát vụn dân tộc bởi những hố đào sâu trong tư tưởng, tổ chức, quy kết “thành phần giai cấp” như “con dân với con lãnh đạo”, “đảng viên với không đảng viên”, “trong nước và có yếu tố nước ngoài”, sự chia rẻ đến mức mơ hồ quy chụp “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến” làm cho xã hội vô cùng ngột ngạt. Người Việt sống trên đất nước Việt Nam độc lập mà bức bối hơn ngày xưa sống dưới chế độ thực dân phong kiến.
- Không chỉ chia rẻ với nhân dân, quân đội và công an còn tự chia rẻ với nhau biểu hiện qua việc ganh nhau trong việc phong tướng, tranh nhau làm kinh tế, tranh nhau tham nhũng, tranh nhau bán chức, bán quyền...
8/Sức dân không được nuôi dưỡng, trái lại ngày càng bị bóc lột thậm tệ
- Khoan sức dân chính là nuôi dưỡng nguồn lực, vì nhân dân vừa là người sản xuất vừa là người tiêu dùng của cải. Thế nhưng chính quyền luôn đặt ra nhiều thứ thuế và phí:thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế cá nhân, thuế xuất nhập khẩu, thuế nhà đất, thuế trước bạ, thuế môn bài và hàng trăm thứ phí khác. Chẳng hạn"Học phí, Viện phí, Án phí, Thủy lợi phí, Cước phí, Phí dự thi, dự tuyển., Phí trông giữ xe ở các bãi giữ xe, Phí lưu hành xe, Phí giới thiệu, tư vấn việc làm. Phí xây dựng, Phí đo đạc, lập bản đồ địa chính, Phí thẩm định cấp quyền sử dụng đất (sổ đỏ, sổ hồng), Phí chợ, Phí sử dụng đường bộ, Phí qua cầu, Phí qua đò, qua phà, Phí sử dụng cảng, nhà ga, Phí cấp tên miền địa chỉ sử dụng Internet, Phí bưu chính viễn thông, Phí xác minh giấy tờ, tài liệu, Phí giám định y khoa., Phí kiểm dịch y tế, Phí kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm, Phí bảo vệ môi trường, Phí vệ sinh, Phí cấp mã số, mã vạch, Phí bảo lãnh, thanh toán, Phí giám định tư pháp...
9/ Nội bộ chính quyền bị can thiệp bởi ngoại bang
- Trước sự xâm lấn, xâm lược trắng trợn của Trung Quốc chính quyền Việt nam đối phó về ngoại giao không nhạy bén, không dứt khoát, không rõ ràng và có vẻ hời hợt theo kiểu ‘anh em’ mà không coi là ‘kẻ thù, vẫn cứ vuốt ve, nhún nhường, nhịn nhục.
- Không có chiến lược lâu dài kể cả về mặt ngoại giao, quốc phòng; và không có một đối sách rõ ràng với kẻ thù truyền kiếp của dân tộc
10/ Đất đai, tài nguyên quốc gia bị xâm lấn bởi các yếu tố nước ngoài
- Trung Quốc thực hiện chiến lược xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam. Đó là chiến lược nhất quán, ăn sâu vào máu thịt, não trạng của những thế hệ lãnh đạo Trung Quốc. Chiến lược ấy được tính toán cẩn trọng, kỹ lưỡng, nhằm nuốt dần đất đai, sông biển Việt Nam. Chiến lược ấy cũng còn nhằm bào mòn sức mạnh, hút dần dinh dưỡng, làm cho Việt Nam rối loạn, yếu dần và chia rẽ.
- Người Trung Quốc đang có mặt trên khắp lãnh thổ Việt nam, nắm giữ mạch máu của nền kinh tế, chiếm giữ các vị trí chiến lược xung yếu nhất. Các đô thị, nhà máy của Trung Quốc cũng mọc lên khắp nước. Hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thị trường. Các công ty của Trung Quốc cũng đang độc chiếm việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho Việt nam.
KẾT LUẬN:
Với mười dấu hiệu nói trên, việc thay đổi thể chế chính trị Việt Nam trong tương lai là điều tất yếu. Nhưng kịch bản của sự thay đổi đó vẫn là điều khó dự đoán. Bạo lực, đổ máu hay hòa bình, êm thấm đều tùy thuộc vào thái độ của lãnh đạo Việt Nam. Nhưng có một điều chắc chắn là không thể có một Gorbachev ở Việt Nam. Và rất có thể một cuộc "cách mạng dân tộc" sẽ dễ xảy ra hơn là một cuộc "cách mạng dân chủ", nếu như kinh tế và chính trị của Trung Quốc không sụp đổ trước Việt Nam.
Dương Hoài Linh
Tác giả gửi đến Dân Luận
- Thị trường chứng khoán sẽ sụp đổ và điểm tín dụng xuống cấp thê thảm.
- Mọi cơ chế tài chánh sẽ phải đóng cửa. Tiền mất giá, lạm phát leo thang, trái phiếu và đồng nội tệ sẽ chỉ còn là mớ giấy lộn. Tiền gởi trong ngân hàng sẽ “bốc hơi” vì mất giá trị.
- Mọi chương trình do chính phủ tài trợ đều ngưng hoạt động (y tế, cảnh sát, an ninh, quốc phòng, giáo dục, cầu, đường, năng lượng v... v... ). Quỹ hưu trí tan vỡ, nhà thương, trường học ngưng hoạt động.
- Các thương vụ đóng cửa và nạn thất nghiệp tràn lan. Mọi mặt hàng khan hiếm kể cả nhu yếu phẩm. Giá cả tăng vọt. Đời sống của người dân sẽ bị đảo lộn hoàn toàn.
- Nội loạn sẽ xảy ra và không có người để duy trì trật tự công cộng. Nạn đói và cướp bóc sẽ xảy ra. Hiện tượng vô kỷ luật, vô trật tự, vô tổ chức sẽ hoành hành
- Kẻ giàu có sẽ cuỗm tiền bạc quốc gia và trốn ra ngoại quốc
3/ Công lý, luật pháp không còn, thi hành án tử với người vô tội
- Công lý đôla thể hiện rất rõ trong các vụ án hình sự và trong các vụ án chính trị. Có lẽ chỉ có tại Viêt Nam (và các nước độc tài cộng sản), mới có chuyện “chạy án”, nghĩa là đút tiền cho công an điều tra, kiểm sát công tố và cho cả quan tòa xét xử.
- Công lý côn đồ biểu hiện qua lời phát biểu mà những kẻ có quyền (công an, đảng viên, cán bộ) thường hay nói khi đi cướp đất đai tài sản của dân hay trấn áp những ai có vấn đề với chế độ: “Luật là tao! Tao là luật! Miệng tao là luật!”.
- Dùng tang vật mua ở… chợ để kết án tử hình. Những người cầm cán cân công lý lại xác định “thiếu sót” đó là không lớn, không giám định được vẫn tuyên phạt án tử hình với Hồ Duy Hải.
4/ Kỷ cương phép nước bị coi thường. Dân oan bị cướp đất, cướp nhà ngày càng đầy rẫy
- Cấp ủy Đảng, chính quyền, nơi người dân đặt niềm tin vào chế độ, nhưng lại không thực hiện đúng nghị quyết Đảng, làm sai chủ trương, sai chính sách, sai pháp luật, gây mất dân chủ, làm xói mòn và đi đến mất niềm tin.
- Nhân dân bị tước đi quyền dân chủ, không còn được thực thi và phát huy vai trò giám sát, hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức.
- Đảng viên cộng sản đang nắm quyền cai trị ở các cấp, từ trung ương xuống đến địa phương đã tiến hành cướp bóc trắng trợn, lộ liễu, không còn e dè dấu diếm. Đảng cộng sản Việt Nam đã lộ nguyên hình là một đảng cướp. Số dân oan bị cướp đất, cướp nhà, ruộng vườn.. càng ngày càng tăng.
− Rút ruột các công trình công cộng khiến cho các công trình này kém chất lượng.
− Chặn bớt tiền viện trợ của các quốc gia tiên tiến cho người dân trong nước, chặn bớt tiền cứu trợ các nạn nhân thiên tai…
− Quy hoạch các khu đất để ép người dân trong đó phải dời đi nơi khác với giá đền bù rẻ mạt, để rồi sau đó họ xây nên những trung tâm buôn bán, các khách sạn hay khu giải trí để kinh doanh làm giàu.
5/Kinh tế sa sút trầm trọng, thu không đủ để bù chi
- Thâm hụt ngân sách diễn ra liên tục trong khoảng hơn một thập kỉ qua và có mức độ ngày càng gia tăng. Để bù đắp bội chi Việt Nam buộc phải vay trong nước và vay nước ngoài. Do số nợ vay được sủ dụng vào những mục đích không sinh lợi nên toàn bộ số chi trả nợ gốc phải trông vaò phát hành nợ mới.
- Đầu tư công lớn, dàn trải và kém hiệu quả.
- Tình trạng nợ công sẽ có những tác động tiêu cực đến xuất khẩu và tăng trưởng GDP của Việt Nam
- Tương lai kinh tế Việt nam là một bức tranh ảm đạm:Nợ xấu tiếp tục tăng cao. Lạm phát sẽ làm đồng tiền tiếp tục mất giá. Giá điện, than, xăng dầu, gas, nước... tăng nhanh sẽ làm giá của hàng hóa tăng theo, trong khi không tìm ra nguồn ngân sách để tăng lương cũng là vấn đề khiến đời sống người dân trở nên khốn đốn.
- Phát biểu của ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng chỉ ra nhiều điều: “Phải cân bằng thu – chi. Thu lấy mà chi, chứ bây giờ cứ phát hành trái phiếu lu bù, vay lu bù để chi thì chết thôi”. “Thu được đồng nào các đồng chí đem xài hết, chi đầu tư các đồng chí hãm lại, rồi cứ vay nợ ào ào. Như vậy thì làm sao phát triển được đất nước, rồi trả nợ không được thì sụp đổ”. “Cứ ăn hết lấy gì mà tiêu, ăn hết mà không có tiền chi lương thì tôi không hiểu thế nào”.
6/ Trí thức, người lao động, cán bộ hưu trí bất mãn, bất hợp tác với chế độ ngày càng nhiều
- Tại Việt Nam, mỗi năm có hàng chục ngàn cuộc biểu thị phản ứng, phản kháng của các cá nhân và tập thể nông dân, so với con số hàng trăm ngàn cuộc ở Trung Quốc. Cũng cho tới nay, ước tính tầng lớp dân oan đất đai ở Việt Nam phải lên đến ít nhất 3- 4 triệu người - tương đương với số lượng đảng viên trong đảng cầm quyền. Đặc thù tâm lý trong xã hội Việt Nam là lòng dân càng bất mãn thì phản ứng của người dân càng lúc càng trở nên thiếu kềm chế.
- Đảng đang đối phó với một xã hội thông tin ngày càng rộng mở và người dân ngày càng tỉnh táo trước các thông tin khi có nhiều tin tức và ý kiến khác nhau lan truyền trên mạng làm ảnh hưởng đến sự tuyên truyền của truyền thông Nhà nước.
- Sự khủng hoảng lòng tin trong tầng lớp trí thức Việt nam đã lên đến mức cao nhất. Đa số đều nhận định:" Nếu không có " cách mạng " thì ngày nay Việt Nam đã tốt hơn như thế nào? Ba mươi năm chiến tranh, số người chết không kể xiết, thiệt hại và đau thương vô cùng lớn – tất cả chỉ để đem đến kết cục là một chế độ kinh tế Marxist không khả thi do một Đảng cộng sản suy đồi và tàn bạo lãnh đạo.
7/ Quân đội, công an chia rẻ trầm trọng với nhân dân, tha hồ vơ vét cho riêng bản thân, bỏ mặc an nguy đất nước
- Lực lượng Công an bị dân khinh thường, hễ có dịp là đánh vì “chỉ biết còn Đảng còn mình”. Lực lượng Quân đội từ khi sửa lời Bác Hồ nêu lên hàng đầu “Quân đội ta trung với nước” thành “Quân đội ta trung với Đảng” thì dân cũng dần dần quay lưng. Một vài nơi, Công an và Quân đội đã cầm súng chống lại nhân dân, như ở Tiên Lãng, Văn Giang.
- Báo Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân có nhiều bài lớn tiếng mạt sát “một bộ phận” xã hội nhưng thực chất một bộ phận xã hội đó lại là đa số nhân dân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam đã chia rẽ nát vụn dân tộc bởi những hố đào sâu trong tư tưởng, tổ chức, quy kết “thành phần giai cấp” như “con dân với con lãnh đạo”, “đảng viên với không đảng viên”, “trong nước và có yếu tố nước ngoài”, sự chia rẻ đến mức mơ hồ quy chụp “diễn biến hoà bình”, “tự diễn biến” làm cho xã hội vô cùng ngột ngạt. Người Việt sống trên đất nước Việt Nam độc lập mà bức bối hơn ngày xưa sống dưới chế độ thực dân phong kiến.
- Không chỉ chia rẻ với nhân dân, quân đội và công an còn tự chia rẻ với nhau biểu hiện qua việc ganh nhau trong việc phong tướng, tranh nhau làm kinh tế, tranh nhau tham nhũng, tranh nhau bán chức, bán quyền...
8/Sức dân không được nuôi dưỡng, trái lại ngày càng bị bóc lột thậm tệ
- Khoan sức dân chính là nuôi dưỡng nguồn lực, vì nhân dân vừa là người sản xuất vừa là người tiêu dùng của cải. Thế nhưng chính quyền luôn đặt ra nhiều thứ thuế và phí:thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế cá nhân, thuế xuất nhập khẩu, thuế nhà đất, thuế trước bạ, thuế môn bài và hàng trăm thứ phí khác. Chẳng hạn"Học phí, Viện phí, Án phí, Thủy lợi phí, Cước phí, Phí dự thi, dự tuyển., Phí trông giữ xe ở các bãi giữ xe, Phí lưu hành xe, Phí giới thiệu, tư vấn việc làm. Phí xây dựng, Phí đo đạc, lập bản đồ địa chính, Phí thẩm định cấp quyền sử dụng đất (sổ đỏ, sổ hồng), Phí chợ, Phí sử dụng đường bộ, Phí qua cầu, Phí qua đò, qua phà, Phí sử dụng cảng, nhà ga, Phí cấp tên miền địa chỉ sử dụng Internet, Phí bưu chính viễn thông, Phí xác minh giấy tờ, tài liệu, Phí giám định y khoa., Phí kiểm dịch y tế, Phí kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm, Phí bảo vệ môi trường, Phí vệ sinh, Phí cấp mã số, mã vạch, Phí bảo lãnh, thanh toán, Phí giám định tư pháp...
9/ Nội bộ chính quyền bị can thiệp bởi ngoại bang
- Trước sự xâm lấn, xâm lược trắng trợn của Trung Quốc chính quyền Việt nam đối phó về ngoại giao không nhạy bén, không dứt khoát, không rõ ràng và có vẻ hời hợt theo kiểu ‘anh em’ mà không coi là ‘kẻ thù, vẫn cứ vuốt ve, nhún nhường, nhịn nhục.
- Không có chiến lược lâu dài kể cả về mặt ngoại giao, quốc phòng; và không có một đối sách rõ ràng với kẻ thù truyền kiếp của dân tộc
10/ Đất đai, tài nguyên quốc gia bị xâm lấn bởi các yếu tố nước ngoài
- Trung Quốc thực hiện chiến lược xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam. Đó là chiến lược nhất quán, ăn sâu vào máu thịt, não trạng của những thế hệ lãnh đạo Trung Quốc. Chiến lược ấy được tính toán cẩn trọng, kỹ lưỡng, nhằm nuốt dần đất đai, sông biển Việt Nam. Chiến lược ấy cũng còn nhằm bào mòn sức mạnh, hút dần dinh dưỡng, làm cho Việt Nam rối loạn, yếu dần và chia rẽ.
- Người Trung Quốc đang có mặt trên khắp lãnh thổ Việt nam, nắm giữ mạch máu của nền kinh tế, chiếm giữ các vị trí chiến lược xung yếu nhất. Các đô thị, nhà máy của Trung Quốc cũng mọc lên khắp nước. Hàng hóa Trung Quốc tràn ngập thị trường. Các công ty của Trung Quốc cũng đang độc chiếm việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho Việt nam.
KẾT LUẬN:
Với mười dấu hiệu nói trên, việc thay đổi thể chế chính trị Việt Nam trong tương lai là điều tất yếu. Nhưng kịch bản của sự thay đổi đó vẫn là điều khó dự đoán. Bạo lực, đổ máu hay hòa bình, êm thấm đều tùy thuộc vào thái độ của lãnh đạo Việt Nam. Nhưng có một điều chắc chắn là không thể có một Gorbachev ở Việt Nam. Và rất có thể một cuộc "cách mạng dân tộc" sẽ dễ xảy ra hơn là một cuộc "cách mạng dân chủ", nếu như kinh tế và chính trị của Trung Quốc không sụp đổ trước Việt Nam.
Dương Hoài Linh
Tác giả gửi đến Dân Luận
NGUYỄN THIÊN THỤ * NHỮNG ĐẶC TÍNH & THỦ ĐOẠN CỘNG SẢN
NHỮNG ĐẶC TÍNH & THỦ ĐOẠN CỘNG SẢN
NGUYỄN THIÊN THỤ
Bài này có mục đích trình bày về những đặc tính, đường lối quanh co của triết thuyết và những thủ đoạn tinh vi, tàn bạo của cộng sản để bạn đọc có thể hiểu rõ chủ nghĩa Marx một cách đầy đủ.
I. ĐẶC TÍNH
I.1. Duy Tâm, Duy Lý và Duy ý chí
Cộng sản chủ trương duy vật nhưng thực tế là duy lý, duy tâm và duy ý chí. Những dự tính, mơ tưởng của Marx về giai cấp vô sản là giai cấp tiên tiến, sẽ xây dựng một xã hội văn minh tiến bộ gấp ngàn lần tư bản, là người chôn giai cấp tư bản, và giai cấp tư bản đang dẫy chết, vô sản sẽ xây dựng một thế giới hạnh phúc và tiến bộ hơn tư bản ... Đó là không tưởng, là duy tâm. . .
Tuy tự xưng là Duy vật nhưng Marx, Lenin, Mao tin vào lý thuyết, vào sự tuyên truyền. Marx viết Tư bản luận, Tuyên Ngôn Cộng sản là chú trọng đánh vào tâm lý con người, ý thức con người. Lenên nói: "Không có lý thuyết cách mạng thì không có phong trào cách mạng" (Without revolutionary theory there can be no revolutionary movement. What Is To Be Done? http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1901/witbd/i.htm
Vì chú trọng lý thuyết nên Lenin, Stalin, Trotsky, Mao, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn . . . đều viết sách tuyên truyền. Trong khi đó chế độ quân chủ, tư bản ra đời mà không cần có một lý thuyết. Những lý thuyết tôn quân của Khổng tử, thuyết về quốc gia của Plato ra đời sau khi quân quyền đã thành lập. Những lý thuyết về tư bản cũng vậy.
Sau khi Lenin, Stalin vạch ra những kế hoạch kinh tế nhưng thất bại thì đã rõ họ là những người nhiều tham vọng và mơ mộng hảo huyền. Các thi văn nhạc sĩ mơ mộng làm cho đời đẹp nhưng mơ mộng và tham vọng của Marx, Lenin, Stalin , Mao, Hồ để cho bao triệu dân phải chết thảm thương trong công, nông trường và trong các trại tù. Vì duy ý chí, duy tâm và ngu dốt, Mao Trạch Đông đã cho rằng về quân sự, tinh thần binh sĩ quan trọng hơn vũ khí , và trong việc khai mương đào kênh, ông cho rằng ý chí của giai cấp công nhân và nông dân là quyết định, không cần kỹ sư, không cần bọn trí thức mà giá trị không bằng cục phân! Tuy nhiên, khi ông chết, thế hệ sau của ông chủ trương bốn hiện đại hóa trong đó khoa học kỹ thuật là then chốt!
Vì duy tâm, duy lý và duy ý chí, cộng sản bắt đảng viên, cán bộ, sinh viên, học sinh, nhân dân và tù nhân học chính trị, triết học Marx Lenin. Họ mê tín, giáo điều và họ cũng nghĩ rằng mọi người cũng sùng bái Marx như họ. Chúng thực hiện chính sách nhồi sọ nhưng những cái đó vô ích, giáo dục như vậy là phản giáo dục, phản khoa học. Sau mấy chục năm diệt tư bản, tuyên truyền chủ nghĩa Marx Lenin, đảng viên cộng sản, sinh viên học sinh, văn nghệ si và nhân dân đã lên tiếng chống đối chủ nghĩa Marx.
Hệ thống Marx đã thành duy tâm thần bí. Khắp nơi, cộng sản tuyệt đối hóa thuyết Marxit Leninist thành giáo điều như các giáo sĩ thời Trung cổ! Một số dân Trung Quốc sùng bái Quyển sách đỏ của Mao và coi nó như thánh kinh, như Khổng Minh thần quái, như Quan Âm linh xám!Ngày nay cộng sản Việt Nam còn định đưa ông Hồ vào miếu Thành hoàng , hay miếu thổ địa để kiếm tiền đồng thời tỏ lòng trung thành với đảng mà bộ bộ cao thăng!
Trần Độ đã thẳng thắn chỉ trích cộng sản duy ý chí, duy tâm:
Chủ nghĩa Mác là duy vật, nhưng hệ tư tưởng cầm quyền lại thiên về duy tâm. Hệ tư tưởng này hầu như tin vào vai trò tuyệt đối của tư tưởng, tinh thần, cho đó là yếu tố quyết định của mọi công tác, mọi thành công, hầu như tin rằng các mục tiêu kinh tế đạt được là do nêu cao các khẩu hiệu tuyên truyền và sự nhắc lại nhiều lần các khẩu hiệu đó. Ví dụ cứ nói đi nói lại nhiều lần số phần trăm của tăng trưởng kinh tế thì sẽ đạt được mục tiêu, cứ lắp khẩu hiệu "công nghiệp hóa, hiện đại hóa " vào mọi hoạt động như là nuôi lợn, nuôi gà, quét sạch đường, chợ... thì ta sẽ đạt được hiện đại hóa. Bệnh duy ý chí rất nặng một thời, nay vẫn còn. Duy ý chí thì cũng là duy tâm. Sự thần thánh hóa, linh thiêng hóa, tuyệt đối hóa lãnh tụ, cấp trên, các nghị quyết, các ý kiến lãnh đạo, thì cũng quá là duy tâm và ngược lại tinh thần của chủ nghĩa Mác. (MỘT CÁI NHÌN TRỞ LẠI II , 5)
I.2. Phi khoa học
Marx, Engels, Lenin luôn khoa khoang là triết thuyết của họ là khoa học, những lời của họ là định luật nhưng nói như vậy là tự họ đã phản khoa học. Khoa học là thuộc về lãnh vực vật chất, khách quan và thực nghiệm. Triết lý, chính trị, kinh tế, cách mạng , lịch sử thuộc về lãnh vực nhân văn, xã hội không thể đặt ngang hàng với khoa học tự nhiên về mức độ khách quan , thực tiễn và chính xác.Cho dù Marx và Engels tự cho tất cả của họ suy nghĩ đều thuộc về vật chất và danh từ của phe họ là Duy vật chủ nghĩa, nhưng tự dán nhãn hiệu là duy vật, là khoa học chưa hẳn là khoa học, và duy vật.
Tất cả những gì Marx nói là chủ quan, luôn chống đối tư bản và chống đối các phe xã hội và cộng sản khác đường lối của ông. Còn khách quan khoa học thì không có vấn đề đảng tính, giai cấp tính và lập trường. Hơn nữa, những lý thuyết của Marx chưa được kiểm nghiệm , những chương trình, kế hoạch kinh tế và kỹ nghệ của Lenin, Stalin , Mao Trạch Đông là do những tay chính trị đầy tham vọng bày ra, không được các chuyên gia kinh tế và khoa học chuẩn y, và chưa được kiểm nghiệm thì làm sao có thể cho là duy vật, là khoa học.
Lại nữa, mỗi bộ môn khoa học có một phương pháp khác nhau, định luật khác nhau, không thể có một định luật chung cho khoa học xã hội và khoa học tự nhiên trong khi Marx, Engels, Lenin cho rằng quan điểm của họ là khoa học, là định luật chung cho khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên, là dầu Nhị thiên đường trị bá chứng! Vì quan niệm rằng thuyết của Marx và Lenin là siêu việt, là khoa học cho nên các vị giáo sĩ cộng sản giáo điều đã kết tội các nhà khoa học. Mandel cho rằng "gien" quyết định truyền thống " con vua thì lại làm vua" nhưng bị các giáo sĩ cộng sản chống đối thuyết này vì mất lập trường giai cấp! Nếu Gregor Johann Mendel (1822-1884) còn sống đến thế kỷ XX, chắc chắn ông bị đem học tập lao động ở Seberia để cải tạo tư tưởng, hoặc bị Mao cho Vệ binh đỏ bắt trói và đem đi diễu hành khắp Thượng Hải hay Bắc Kinh về tội chống đối nhân dân, và phản khoa học!
Thực tế, khoa học cũng không hoàn toàn chính xác tuyệt đối . Vật chất như lá trên rừng còn kiến thức con người về vật chất như một vài chiếc lá trong bàn tay người. vật chất tự nó không đúng, không sai, nhưng kiến thức con người hữu hạn vì các nhà khoa học đời sau thường phủ định hoàn toàn hoặc phủ định một phần công trình của những người đi trước.Tin tưởng tuyệt đối vào khoa học hay nhãn hiệu khoa học là một hành vi phản khoa học.
Những thuyết về Duy vật Biện Chứng pháp và Duy vật Lịch sử của Marx cũng sai lầm rất nhiều, đầy chủ quan và cực đoan thiếu chứng cớ. Không phải mọi mâu thuẫn đều đi đến tiêu diệt mà có thể đi đến hòa hợp như nắng và mưa, như đêm và ngày. Cộng sản xúi giục công nhân Á Phi tranh đấu nhưng công nhân Âu Mỹ thì không, trái lại tư bản và lao động cùng hợp tác. Marx cho rằng cái mới thắng cái cũ, tiêu diệt cái cũ, thay thế cái cũ.
Marx nói rằng chế độ phong kiến tiêu diệt chế độ thị tộc, rồi chế độ tư bản tiêu diệt phong kiến, và cuối cùng vô sản chôn sống tư bản nhưng sự thực không phải như vậy và có lẽ Marx cũng đã nhận thấy điều này. Từ đời thượng cổ đến nay, chế độ thị tộc vẫn tồn tại bên chế độ phong kiến và tư bản. Rõ rệt là nay cộng sản Liên Xô đã bị nhân dân Nga và Đông Âu chôn sống, và cộng sản Trung Quốc Việt Nam sống bằng đồng tiền bóc lột của tư bản và tự nguyện cho tư bản bóc lột mặc dầu họ vẫn giữ bảng hiệu búa liềm và đôi khi lớn tiếng chỉ trích Mỹ!
Sự khác biệt giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên ở chỗ chính xác.Những lý thuyết, tư tưởng thuộc về khoa học xã hội nên không chính xác, mỗi người có ý kiến khác nhau. Còn khoa học chính xác thì không thế. Nước 100 độ sôi là tất yếu thì ở đâu cũng thế.Nếu hệ thống Marx là khoa học, là tất yếu tại sao Lenin sửa Marx, Stalin sửa Lenin và Mao cũng cãi lại Marx, và Đặng Tiểu Bình chống Mao? Một vấn đề cơ bản là thuyết về năm hình thái xã hội. Marx cho rằng xã hội chủ nghĩa chỉ được thành lập trên nền tảng tư bản chủ nghĩa nhưng Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam đã phát triển xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. còn các phái khác thì chủ trương đấu tranh ôn hòa ở nghị trường, và một số không theo chủ trương đấu tranh giai cấp.
Mọi còn đường đều có thành và bại, và khả hữu. Cách mạng vô sản có thể linh động, và chủ trương của Marx cũng như mọi đảng chính trị, những triết thuyết khác , nghĩa là không phải là khoa học chính xác. Như vậy, đấu tranh giai cấp, vô sản chuyên chính, cách mạng vô sản, chủ nghĩa cộng sản đâu phải là tất yếu vì trong cộng sản đã có nhiều ý kiến mâu thuẫn, chủ quan. Việc Marx và những người theo ông khoe khoang là duy vật và khoa học chỉ là lộng ngôn.Và nếu cộng sản chủ nghĩa là tất yếu thì cần gì phải tuyên truyền và chém giết?
Sở dĩ Marx, Engels nhấn mạnh duy vật và khoa học là vì lúc bấy giờ khoa học phát triển, gây ra một phong trào sùng bái khoa học. Và lúc này tư bản phát triển, giai cấp công nhân lớn mạnh, Marx và Engels cũng theo thời thượng và cho đó là nhãn hiệu tốt nhất để tuyên truyền cho ông.
Cuối cùng chính một số lãnh tụ cộng sản đã thấy thất bại trong lý thuyết và thực tế cho nên Gorbachev, Đặng Tiểu Bình đã phải thay đổi chính sách, và những người cộng sản như Triệu Tử Dương, Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang đã thay đổi tư duy hoặc đã từ bỏ đảng.
I.3. Phi dân chủ
Mặc dầu Marx và Lenin lớn tiếng khoa khoang xã hội cộng sản tự do, thịnh vượng nhưng thật ra đó là một hệ thống độc tài. Một khi đã chủ trương " vô sản chuyên chính" thì không thể nào có tự do. Chính Lenin đã cương quyết chống đối lập, tranh luận nghị trường, cấm báo chí, và sát hại, giam cầm các giáo sĩ thì dân chúng đâu có tự do tư tưởng, tư do tín ngưỡng! Quốc hội và các Hội đồng nhân dân từ Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam chỉ là trò chơi dân chủ giả mạo để đánh lừa nhân trong nước và nhân dân thế giới. Vô sản chuyên chính thì không thể có tự do, dân chủ.
I.3. Kiêu hãnh
I.3.1.Khoe khoang:
Một số người và loài vật ưa khoe khoang nhất là những người có quyền sinh sát trong tay. Tuy nhiên, các vua chúa ngày xưa và các tổng thống , thủ tướng ngày nay it ai có mãnh lực kiêu hãnh như các lãnh tụ cộng sản. Cộng sản Việt Nam tự hào là đỉnh cao trí tuệ, là bách chiến bách thắng, đánh bại bốn nước mạnh nhất thế giới là Nhật, Pháp, Mỹ và Trung Quốc trong khi họ quên thân phận nghèo hèn của họ đã van xin, quỳ lạy Nga Tàu! Người Việt Nam mở miệng là tự hào! Đó là cái bệnh do cộng sản truyền bá còn ông cha ta ngày xưa không kiêu mạn như thế.
I.3.2.Sùng bái cá nhân
Một số lãnh tụ cộng sản đã sùng bái cá nhân họ, tự họ khoe khoang. Sụ tôn thờ cá nhân này vốn do niềm kiêu hãnh, óc tự tôn, tự đại của những con người nhiều tham vọng và ưa khoe khoang. Các vua chúa thời quân chủ và tổng thống, thủ tướng tư bản it ai bắt dân treo ảnh của mình tại các tư gia và cơ quan. Họ cũng không bắt các cận thần phải xây tượng đài ở các công viên như các lãnh tụ cộng sản. Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông đều muốn mình trở thành thần tượng của đảng cộng sản và nhân dân của họ. Stalin đề cao ông là thiên tài quân sự, lý thuyết gia Marxist, và là sử gia tài ba của Sô Viết. Ông còn phong cho ông là cố vấn, là phụ tá đắc lực của Lenin. Ông Hồ đã giả danh các nhà báo Trần Dân Tiên, T.Lan để ca tụng mình. Có thể ông Hồ đã viết nhiều bài báo dưới những danh hiệu khác nhau để tự đề cao ông. Sau khi Stalin chết, Nikita Khrushchev đã tố cáo tệ sùng bái cá nhân của Stalin và vạch rõ những tội ác của Stalin, nhờ vậy mà thế giới đã hiểu rõ Stalin và chủ nghĩa cộng sản.
I.3.3. Nịnh hót
Công sản bày ra trò phê và tự phê nhưng thgâm tâm cộng sản không muôốn ai phê bình họ. Họ muốn mình tự phê và nhân dân phê phán nhau để họ chia rẽ nhân dân và tìm ra những tin tức có lợi cho họ. Quan trọng nhất là họ dùng biện pháp này như một vũ khí bắt nhân dân đầu hàng họ. Trong đảng cộng sản, các ông đầu gấu muốn thủ hạ và nhân dân ca tụng họ, và bọn thủ hạ cũng như nhân dân muốn sống thì phải ca tụng họ.
Trăm ngàn năm xưa đều vậy. Một khi có vua chúa là có nịnh thần, nhất là trong những triều đại của hôn quân và ác chúa, bọn nịnh thần càng đông. Trong các chế độ trước, có thể có những ông vua không thích nịnh hót nhưng trong thế giới cộng sản, nịnh hót, ca tụng là đều cần thiết và phổ biến, gần như đó là quy luật của XHCN. Trong trường học và xã thôn, người ta dạy trẻ ca tụng lãnh tụ và đảng CS. Sách giáo khoa và văn nghệ phải có tính đảng, tính giai cấp và tính nhân dân cho nên các thầy giáo và các văn nghệ sĩ phải nói sai sự thực. Hiện thực XHCN chính là nói láo, là ca tụng lãnh tụ và đảng dù lãnh tụ và đảng xấu xa, đồng thời mạ lỵ, vu khống kẻ thù dù kẻ thù tốt hơn cộng sản.
I. ĐẶC TÍNH
I.1. Duy Tâm, Duy Lý và Duy ý chí
Cộng sản chủ trương duy vật nhưng thực tế là duy lý, duy tâm và duy ý chí. Những dự tính, mơ tưởng của Marx về giai cấp vô sản là giai cấp tiên tiến, sẽ xây dựng một xã hội văn minh tiến bộ gấp ngàn lần tư bản, là người chôn giai cấp tư bản, và giai cấp tư bản đang dẫy chết, vô sản sẽ xây dựng một thế giới hạnh phúc và tiến bộ hơn tư bản ... Đó là không tưởng, là duy tâm. . .
Tuy tự xưng là Duy vật nhưng Marx, Lenin, Mao tin vào lý thuyết, vào sự tuyên truyền. Marx viết Tư bản luận, Tuyên Ngôn Cộng sản là chú trọng đánh vào tâm lý con người, ý thức con người. Lenên nói: "Không có lý thuyết cách mạng thì không có phong trào cách mạng" (Without revolutionary theory there can be no revolutionary movement. What Is To Be Done? http://www.marxists.org/archive/lenin/works/1901/witbd/i.htm
Vì chú trọng lý thuyết nên Lenin, Stalin, Trotsky, Mao, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn . . . đều viết sách tuyên truyền. Trong khi đó chế độ quân chủ, tư bản ra đời mà không cần có một lý thuyết. Những lý thuyết tôn quân của Khổng tử, thuyết về quốc gia của Plato ra đời sau khi quân quyền đã thành lập. Những lý thuyết về tư bản cũng vậy.
Sau khi Lenin, Stalin vạch ra những kế hoạch kinh tế nhưng thất bại thì đã rõ họ là những người nhiều tham vọng và mơ mộng hảo huyền. Các thi văn nhạc sĩ mơ mộng làm cho đời đẹp nhưng mơ mộng và tham vọng của Marx, Lenin, Stalin , Mao, Hồ để cho bao triệu dân phải chết thảm thương trong công, nông trường và trong các trại tù. Vì duy ý chí, duy tâm và ngu dốt, Mao Trạch Đông đã cho rằng về quân sự, tinh thần binh sĩ quan trọng hơn vũ khí , và trong việc khai mương đào kênh, ông cho rằng ý chí của giai cấp công nhân và nông dân là quyết định, không cần kỹ sư, không cần bọn trí thức mà giá trị không bằng cục phân! Tuy nhiên, khi ông chết, thế hệ sau của ông chủ trương bốn hiện đại hóa trong đó khoa học kỹ thuật là then chốt!
Vì duy tâm, duy lý và duy ý chí, cộng sản bắt đảng viên, cán bộ, sinh viên, học sinh, nhân dân và tù nhân học chính trị, triết học Marx Lenin. Họ mê tín, giáo điều và họ cũng nghĩ rằng mọi người cũng sùng bái Marx như họ. Chúng thực hiện chính sách nhồi sọ nhưng những cái đó vô ích, giáo dục như vậy là phản giáo dục, phản khoa học. Sau mấy chục năm diệt tư bản, tuyên truyền chủ nghĩa Marx Lenin, đảng viên cộng sản, sinh viên học sinh, văn nghệ si và nhân dân đã lên tiếng chống đối chủ nghĩa Marx.
Hệ thống Marx đã thành duy tâm thần bí. Khắp nơi, cộng sản tuyệt đối hóa thuyết Marxit Leninist thành giáo điều như các giáo sĩ thời Trung cổ! Một số dân Trung Quốc sùng bái Quyển sách đỏ của Mao và coi nó như thánh kinh, như Khổng Minh thần quái, như Quan Âm linh xám!Ngày nay cộng sản Việt Nam còn định đưa ông Hồ vào miếu Thành hoàng , hay miếu thổ địa để kiếm tiền đồng thời tỏ lòng trung thành với đảng mà bộ bộ cao thăng!
Trần Độ đã thẳng thắn chỉ trích cộng sản duy ý chí, duy tâm:
Chủ nghĩa Mác là duy vật, nhưng hệ tư tưởng cầm quyền lại thiên về duy tâm. Hệ tư tưởng này hầu như tin vào vai trò tuyệt đối của tư tưởng, tinh thần, cho đó là yếu tố quyết định của mọi công tác, mọi thành công, hầu như tin rằng các mục tiêu kinh tế đạt được là do nêu cao các khẩu hiệu tuyên truyền và sự nhắc lại nhiều lần các khẩu hiệu đó. Ví dụ cứ nói đi nói lại nhiều lần số phần trăm của tăng trưởng kinh tế thì sẽ đạt được mục tiêu, cứ lắp khẩu hiệu "công nghiệp hóa, hiện đại hóa " vào mọi hoạt động như là nuôi lợn, nuôi gà, quét sạch đường, chợ... thì ta sẽ đạt được hiện đại hóa. Bệnh duy ý chí rất nặng một thời, nay vẫn còn. Duy ý chí thì cũng là duy tâm. Sự thần thánh hóa, linh thiêng hóa, tuyệt đối hóa lãnh tụ, cấp trên, các nghị quyết, các ý kiến lãnh đạo, thì cũng quá là duy tâm và ngược lại tinh thần của chủ nghĩa Mác. (MỘT CÁI NHÌN TRỞ LẠI II , 5)
I.2. Phi khoa học
Marx, Engels, Lenin luôn khoa khoang là triết thuyết của họ là khoa học, những lời của họ là định luật nhưng nói như vậy là tự họ đã phản khoa học. Khoa học là thuộc về lãnh vực vật chất, khách quan và thực nghiệm. Triết lý, chính trị, kinh tế, cách mạng , lịch sử thuộc về lãnh vực nhân văn, xã hội không thể đặt ngang hàng với khoa học tự nhiên về mức độ khách quan , thực tiễn và chính xác.Cho dù Marx và Engels tự cho tất cả của họ suy nghĩ đều thuộc về vật chất và danh từ của phe họ là Duy vật chủ nghĩa, nhưng tự dán nhãn hiệu là duy vật, là khoa học chưa hẳn là khoa học, và duy vật.
Tất cả những gì Marx nói là chủ quan, luôn chống đối tư bản và chống đối các phe xã hội và cộng sản khác đường lối của ông. Còn khách quan khoa học thì không có vấn đề đảng tính, giai cấp tính và lập trường. Hơn nữa, những lý thuyết của Marx chưa được kiểm nghiệm , những chương trình, kế hoạch kinh tế và kỹ nghệ của Lenin, Stalin , Mao Trạch Đông là do những tay chính trị đầy tham vọng bày ra, không được các chuyên gia kinh tế và khoa học chuẩn y, và chưa được kiểm nghiệm thì làm sao có thể cho là duy vật, là khoa học.
Lại nữa, mỗi bộ môn khoa học có một phương pháp khác nhau, định luật khác nhau, không thể có một định luật chung cho khoa học xã hội và khoa học tự nhiên trong khi Marx, Engels, Lenin cho rằng quan điểm của họ là khoa học, là định luật chung cho khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên, là dầu Nhị thiên đường trị bá chứng! Vì quan niệm rằng thuyết của Marx và Lenin là siêu việt, là khoa học cho nên các vị giáo sĩ cộng sản giáo điều đã kết tội các nhà khoa học. Mandel cho rằng "gien" quyết định truyền thống " con vua thì lại làm vua" nhưng bị các giáo sĩ cộng sản chống đối thuyết này vì mất lập trường giai cấp! Nếu Gregor Johann Mendel (1822-1884) còn sống đến thế kỷ XX, chắc chắn ông bị đem học tập lao động ở Seberia để cải tạo tư tưởng, hoặc bị Mao cho Vệ binh đỏ bắt trói và đem đi diễu hành khắp Thượng Hải hay Bắc Kinh về tội chống đối nhân dân, và phản khoa học!
Thực tế, khoa học cũng không hoàn toàn chính xác tuyệt đối . Vật chất như lá trên rừng còn kiến thức con người về vật chất như một vài chiếc lá trong bàn tay người. vật chất tự nó không đúng, không sai, nhưng kiến thức con người hữu hạn vì các nhà khoa học đời sau thường phủ định hoàn toàn hoặc phủ định một phần công trình của những người đi trước.Tin tưởng tuyệt đối vào khoa học hay nhãn hiệu khoa học là một hành vi phản khoa học.
Những thuyết về Duy vật Biện Chứng pháp và Duy vật Lịch sử của Marx cũng sai lầm rất nhiều, đầy chủ quan và cực đoan thiếu chứng cớ. Không phải mọi mâu thuẫn đều đi đến tiêu diệt mà có thể đi đến hòa hợp như nắng và mưa, như đêm và ngày. Cộng sản xúi giục công nhân Á Phi tranh đấu nhưng công nhân Âu Mỹ thì không, trái lại tư bản và lao động cùng hợp tác. Marx cho rằng cái mới thắng cái cũ, tiêu diệt cái cũ, thay thế cái cũ.
Marx nói rằng chế độ phong kiến tiêu diệt chế độ thị tộc, rồi chế độ tư bản tiêu diệt phong kiến, và cuối cùng vô sản chôn sống tư bản nhưng sự thực không phải như vậy và có lẽ Marx cũng đã nhận thấy điều này. Từ đời thượng cổ đến nay, chế độ thị tộc vẫn tồn tại bên chế độ phong kiến và tư bản. Rõ rệt là nay cộng sản Liên Xô đã bị nhân dân Nga và Đông Âu chôn sống, và cộng sản Trung Quốc Việt Nam sống bằng đồng tiền bóc lột của tư bản và tự nguyện cho tư bản bóc lột mặc dầu họ vẫn giữ bảng hiệu búa liềm và đôi khi lớn tiếng chỉ trích Mỹ!
Sự khác biệt giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên ở chỗ chính xác.Những lý thuyết, tư tưởng thuộc về khoa học xã hội nên không chính xác, mỗi người có ý kiến khác nhau. Còn khoa học chính xác thì không thế. Nước 100 độ sôi là tất yếu thì ở đâu cũng thế.Nếu hệ thống Marx là khoa học, là tất yếu tại sao Lenin sửa Marx, Stalin sửa Lenin và Mao cũng cãi lại Marx, và Đặng Tiểu Bình chống Mao? Một vấn đề cơ bản là thuyết về năm hình thái xã hội. Marx cho rằng xã hội chủ nghĩa chỉ được thành lập trên nền tảng tư bản chủ nghĩa nhưng Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam đã phát triển xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. còn các phái khác thì chủ trương đấu tranh ôn hòa ở nghị trường, và một số không theo chủ trương đấu tranh giai cấp.
Mọi còn đường đều có thành và bại, và khả hữu. Cách mạng vô sản có thể linh động, và chủ trương của Marx cũng như mọi đảng chính trị, những triết thuyết khác , nghĩa là không phải là khoa học chính xác. Như vậy, đấu tranh giai cấp, vô sản chuyên chính, cách mạng vô sản, chủ nghĩa cộng sản đâu phải là tất yếu vì trong cộng sản đã có nhiều ý kiến mâu thuẫn, chủ quan. Việc Marx và những người theo ông khoe khoang là duy vật và khoa học chỉ là lộng ngôn.Và nếu cộng sản chủ nghĩa là tất yếu thì cần gì phải tuyên truyền và chém giết?
Sở dĩ Marx, Engels nhấn mạnh duy vật và khoa học là vì lúc bấy giờ khoa học phát triển, gây ra một phong trào sùng bái khoa học. Và lúc này tư bản phát triển, giai cấp công nhân lớn mạnh, Marx và Engels cũng theo thời thượng và cho đó là nhãn hiệu tốt nhất để tuyên truyền cho ông.
Cuối cùng chính một số lãnh tụ cộng sản đã thấy thất bại trong lý thuyết và thực tế cho nên Gorbachev, Đặng Tiểu Bình đã phải thay đổi chính sách, và những người cộng sản như Triệu Tử Dương, Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang đã thay đổi tư duy hoặc đã từ bỏ đảng.
I.3. Phi dân chủ
Mặc dầu Marx và Lenin lớn tiếng khoa khoang xã hội cộng sản tự do, thịnh vượng nhưng thật ra đó là một hệ thống độc tài. Một khi đã chủ trương " vô sản chuyên chính" thì không thể nào có tự do. Chính Lenin đã cương quyết chống đối lập, tranh luận nghị trường, cấm báo chí, và sát hại, giam cầm các giáo sĩ thì dân chúng đâu có tự do tư tưởng, tư do tín ngưỡng! Quốc hội và các Hội đồng nhân dân từ Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam chỉ là trò chơi dân chủ giả mạo để đánh lừa nhân trong nước và nhân dân thế giới. Vô sản chuyên chính thì không thể có tự do, dân chủ.
I.3. Kiêu hãnh
I.3.1.Khoe khoang:
Một số người và loài vật ưa khoe khoang nhất là những người có quyền sinh sát trong tay. Tuy nhiên, các vua chúa ngày xưa và các tổng thống , thủ tướng ngày nay it ai có mãnh lực kiêu hãnh như các lãnh tụ cộng sản. Cộng sản Việt Nam tự hào là đỉnh cao trí tuệ, là bách chiến bách thắng, đánh bại bốn nước mạnh nhất thế giới là Nhật, Pháp, Mỹ và Trung Quốc trong khi họ quên thân phận nghèo hèn của họ đã van xin, quỳ lạy Nga Tàu! Người Việt Nam mở miệng là tự hào! Đó là cái bệnh do cộng sản truyền bá còn ông cha ta ngày xưa không kiêu mạn như thế.
I.3.2.Sùng bái cá nhân
Một số lãnh tụ cộng sản đã sùng bái cá nhân họ, tự họ khoe khoang. Sụ tôn thờ cá nhân này vốn do niềm kiêu hãnh, óc tự tôn, tự đại của những con người nhiều tham vọng và ưa khoe khoang. Các vua chúa thời quân chủ và tổng thống, thủ tướng tư bản it ai bắt dân treo ảnh của mình tại các tư gia và cơ quan. Họ cũng không bắt các cận thần phải xây tượng đài ở các công viên như các lãnh tụ cộng sản. Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông đều muốn mình trở thành thần tượng của đảng cộng sản và nhân dân của họ. Stalin đề cao ông là thiên tài quân sự, lý thuyết gia Marxist, và là sử gia tài ba của Sô Viết. Ông còn phong cho ông là cố vấn, là phụ tá đắc lực của Lenin. Ông Hồ đã giả danh các nhà báo Trần Dân Tiên, T.Lan để ca tụng mình. Có thể ông Hồ đã viết nhiều bài báo dưới những danh hiệu khác nhau để tự đề cao ông. Sau khi Stalin chết, Nikita Khrushchev đã tố cáo tệ sùng bái cá nhân của Stalin và vạch rõ những tội ác của Stalin, nhờ vậy mà thế giới đã hiểu rõ Stalin và chủ nghĩa cộng sản.
I.3.3. Nịnh hót
Công sản bày ra trò phê và tự phê nhưng thgâm tâm cộng sản không muôốn ai phê bình họ. Họ muốn mình tự phê và nhân dân phê phán nhau để họ chia rẽ nhân dân và tìm ra những tin tức có lợi cho họ. Quan trọng nhất là họ dùng biện pháp này như một vũ khí bắt nhân dân đầu hàng họ. Trong đảng cộng sản, các ông đầu gấu muốn thủ hạ và nhân dân ca tụng họ, và bọn thủ hạ cũng như nhân dân muốn sống thì phải ca tụng họ.
Trăm ngàn năm xưa đều vậy. Một khi có vua chúa là có nịnh thần, nhất là trong những triều đại của hôn quân và ác chúa, bọn nịnh thần càng đông. Trong các chế độ trước, có thể có những ông vua không thích nịnh hót nhưng trong thế giới cộng sản, nịnh hót, ca tụng là đều cần thiết và phổ biến, gần như đó là quy luật của XHCN. Trong trường học và xã thôn, người ta dạy trẻ ca tụng lãnh tụ và đảng CS. Sách giáo khoa và văn nghệ phải có tính đảng, tính giai cấp và tính nhân dân cho nên các thầy giáo và các văn nghệ sĩ phải nói sai sự thực. Hiện thực XHCN chính là nói láo, là ca tụng lãnh tụ và đảng dù lãnh tụ và đảng xấu xa, đồng thời mạ lỵ, vu khống kẻ thù dù kẻ thù tốt hơn cộng sản.
Năm 1953, sau khi Stalin chết, bọn nịnh thần đã ca tụng Stalin là cha già dân tộc. Và khi ông Hồ khoảng 50 tuổi, bọn cộng sản Việt Nam cũng đã tôn xưng ông là cha già dân tộc! Chính ông Hồ tự ca tụng mình dười các tên Trần Dân Tiên, T.Lan và nhiều tên khác nữa.
Trước những thất bại về kinh tế, chính trị của Stalin, Mao Trạch Đông, đã có mấy ai can đảm nói lên sự thật? Trotsky, Nikolai Ivanovich Bukharin (1888 –1938), Đặng Tiểu Bình, Triệu Tử Dương, Nhân Văn Giai phẩm, Bách Hoa Tranh Khai, Trần Độ v. v.. là những con ngưòi can đảm. Không muốn bị mất chức, không muốn bị tù đày, không muốn mang nhục nhã khi bị các đồng chí khinh khi ghét bỏ, vì vậy mà đa số cam phận con dế, con giun phải nịnh hót và nói dối.Cộng sản chủ trương phê và tự phê, nhưng đó chỉ là khẩu hiệu mà thôi. Ai chỉ trích thượng cấp, chỉ trích đảng cộng sản là tai họa đến ngay cho bản thân và gia đình. Chỉ có phê bình anh em, tố cáo bạn bè và chỉ trích kẻ thù là đúng đường lối và chính sách cộng sản.
Chính vì bị nịnh hót, các lãnh tụ tưởng là họ tài giỏi và các kế hoạch đã thành công, đại thành công cho nên ngày càng sa lầy. Tại Trung Quốc, Bước Đại Nhảy Vọt thất bại cho nên bọn thủ hạ của Mao phải dùng gian kế để lừa Mao, bịp nhân dân trong nước và nhân dân thế giới. Theo Zhang Rongmai, bọn họ đã bắt buộc dân chúng nộp nồi niêu, song, chảo để cho họ nấu thành từng chảo kim loại to lớn rồi bảo đó là những mẻ thép tốt nhất thế giới. (Mao Zedong. Wikipedia)
I.4. Gian tham
Những triết gia xã hội như đức Phật, Khổng tử, Platon là những con người có tấm lòng từ bi, còn những người như Marx, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh là những con người nhiều tham vọng. Cái tham vọng và ác tâm của Marx đã thể hiện qua những bài phê phán các tư tưởng gia trong các tác phẩm của ông. Bản Tuyên Ngôn Cộng sản của Marx và Engels cũng chứa đầy ác tâm vì họ hô hào tranh đấu bằng bạo động, bày vẽ cách thức cướp của ( bãi bỏ tư hữu và cướp tài sản các nhà tư sản), và giết người ( chuyên chính vô sản). Lenin, Stalin , Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh đã giết vô số người và cướp tài sản của nhân dân. Lenin, Stalin , Mao Trạch Đông có tham vọng phát triển kinh tế và kỹ thuật lớn mạnh hơn Mỹ để thống trị toàn cầu . Các lãnh tụ cộng sản đã ngồi lỳ cho đến chết. Tại Việt Nam sau này vì tranh chấp nội bộ nên mới có hạn tuổi về hưu. Tuy về hưu các vị này vẫn giữ một vài chức vụ và vẫn có uy quyền, chứ không về hưu thật sự như các quan lại thời quân chủ, hay các viên chức trong chế độ tư bản.
Những người theo cộng sản có thể vì bắt buộc, cũng có thể vì lòng yêu nước nhưng đa số là do lòng tham. Những dân nghèo nghĩ rằng cộng sản bênh vực vô sản, giải phóng giai cấp, chia ruộng đất, tài sản cho họ cho nên họ ủng hộ cộng sản. Một số trí thức, quan lại, nhân viên chế độ cũ vì tham mồi danh lợi mà cộng sản hứa hẹn nên phản quốc gia, theo cộng sản. Còn những tên cộng sản gộc hiểu rằng cộng sản là thâu tóm tài sản quốc gia trong tay, cộng sản là một đại tư bản và họ sẽ có nhiều quyền lợi. Tuyên ngôn cộng sản là một cái mồi, và cũng là một toan tính sâu xa của những tay cờ bạc, và những kẻ làm nghề không vốn:
Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ.
Cộng sản đã cướp tài sản nhân dân, bắt nhân dân làm nô lệ, cho nên họ có quyền hành và tài sản rất lớn. Bản chất cộng sản là gian tham chứ không phải biến chất. Những anh du kích thời chiến tranh đã chận xét dân buôn bán vùng tề và tịch thu tài sản của nhân dân mà bỏ túi. Trong Cải cách ruộng đất trong miền Bắc hay trong các cuộc đánh tư sản , đánh văn hóa đồi trụy tại miền Nam, các cán bộ đã bỏ túi vàng bạc, của cải của các nạn nhân. Hơn nữa, trong khi chiếm miền Nam, hay chiếm Kampuchia, một số cán binh cộng sản đã cướp vàng bạc, kim cương, xe cộ, nhà cửa, và phá hoại các tượng vàng của các chùa chiền. Lenin lớn tiếng chỉ trích tôn giáo, nhân danh khoa học mà tiêu diệt tôn giáo song sự thực là ông nhắm vào kho vàng bạc của các nhà thờ Chính thống giáo.
Tất cả chế độ cộng sản tại Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam là những nguồn tham nhũng, hối lộ, ăn cắp của công, mặc dầu họ đã hưởng những quy chế ưu đãi cho giai cấp mới, và đã cho họ trở thành những tư sản đỏ. Ngày về tiếp thu Hà Nội, họ chia nhau những biệt thự lớn của Pháp và từ đó những biệt thự này thuộc tài sản của họ truyền lại cho con cháu. Sau khi chiếm miền Nam, cộng sản chiếm nhà cửa, dinh thự làm của riêng, một tên cộng sản bình thường cũng có vài căn nhà, còn cán bộ cao cấp thì có nhiều biệt thự tại Sài gòn, Vũng Tàu, Đà Lạt sướng hơn vua chúa thời quân chủ.
Sau đó, chúng trắng trợn cướp công khai bằng chính sách hữu sản hóa. Nay thì cộng sản công khai cướp đất quốc gia, đất các giáo hội và nhà cửa tư nhân khiến cho dân oan đã đồng thời đứng dậy. Hồ Chí Minh giả đạo đức, đóng vai nhà tu hành, nhưng đã có một đời tình ái bí ẩn, và man rợ khi ông đã giết bà Nông thị Xuân. Mao Trạch Đông sống một đời hưởng thụ như các vua chúa Trung Quốc.
Tuy lắm bạc nhiều tiền, cộng sản vẫn còn vơ vét. Chúng lấy tiền quốc tế viện trơ cho nạn nhân bão lụt, tiền Uneso tái thiết các đền đài miếu mạo mà bỏ túi. Chúng còn vơ vét các thứ lợi khác. Trong Cát Bụi Chân Ai, Tô Hoài đã nói rõ việc đảng cộng sản lấy 200 chiếc xe đạp mà nước Đức trao tặng các nhà văn Việt Nam (đảng hay kẻ nào mượn danh đảng?): Hội Nhà Văn Đức tặng hội Nhà Văn Việt Nam 200 trăm cái xe đạp Diamant mới cứng. Nguyên Hồng được điện khẩn mời xuống công tác. Ấy là việc dắt chiếc xe đạp đứng vườn hoa cửa Nam trò chuyện với người qua đường. Vô tuyến truyền hình Việt và của Đức quay giới thiệu nhà văn với tặng phẩm hữu nghị quốc tế. Nguyên Hồng hồi ấy mới để râu, rõ ra phong thái học giả phương đông. Tuyên truyền thế thôi, cả hội chẳng được sờ vào vành bánh chiếc xe nào. Hai trăm cái xe vào cái kho bộ Thương Nghiệp. (136).
Ông cũng tố cáo đảng trấn lột một nghìn bảng Anh của ông do bà thủ tướng J. Gandhi tặng khi ông qua thăm Ấn Độ: Túi rỗng, tôi đi qua các nhà hàng không chào lại, như còn đương mãi nghĩ. Chả là tôi vừa nhận giải thưởng hội Nhà Văn Á Phi 1969, bà thủ tướng J. Gandhi trao tặng kèm một ngàn bảng Anh. Nhưng trong va li tôi chỉ có tờ chứng nhận và chiếc huy hiệu bằng đồng. Mấy chai votca các bạn nhà văn cho, ai đến mừng thì nâng cốc vui sướng. à hôm sứ quán nhận tiền tôi đưa, có làm một tiệc nem rán mời khách (312).
Người ta cũng nghe tin Nguyễn Khắc Viện được Pháp tặng giải thưởng, số tiền này ông không dám tiêu, phải đem cúng vào viện mồ côi cho yên thân! Việc Mai Chí Thọ tổ chức vượt biên bán chính thức, việc cộng sản cướp kho cổ vật của Vương Hồng Sển , việc 16 tấn vàng của miền Nam vào tay Tổng bí thư cũng là những chuyện lưu truyền trong chốn dân gian. Trong năm 1975, cộng sản đã chiếm các kho hàng, các cơ sở kỹ nghệ, thương mại, nhà cửa, vàng bạc, xe cộ của nhân dân làm của riêng. Ngày nay, cộng sản ngang nhiên chiếm đất của nhân dân và các giáo hội đã chứng tỏ chúng là bọn cướp ngày vô lương tâm và đại gian ác.
Trước những thất bại về kinh tế, chính trị của Stalin, Mao Trạch Đông, đã có mấy ai can đảm nói lên sự thật? Trotsky, Nikolai Ivanovich Bukharin (1888 –1938), Đặng Tiểu Bình, Triệu Tử Dương, Nhân Văn Giai phẩm, Bách Hoa Tranh Khai, Trần Độ v. v.. là những con ngưòi can đảm. Không muốn bị mất chức, không muốn bị tù đày, không muốn mang nhục nhã khi bị các đồng chí khinh khi ghét bỏ, vì vậy mà đa số cam phận con dế, con giun phải nịnh hót và nói dối.Cộng sản chủ trương phê và tự phê, nhưng đó chỉ là khẩu hiệu mà thôi. Ai chỉ trích thượng cấp, chỉ trích đảng cộng sản là tai họa đến ngay cho bản thân và gia đình. Chỉ có phê bình anh em, tố cáo bạn bè và chỉ trích kẻ thù là đúng đường lối và chính sách cộng sản.
Chính vì bị nịnh hót, các lãnh tụ tưởng là họ tài giỏi và các kế hoạch đã thành công, đại thành công cho nên ngày càng sa lầy. Tại Trung Quốc, Bước Đại Nhảy Vọt thất bại cho nên bọn thủ hạ của Mao phải dùng gian kế để lừa Mao, bịp nhân dân trong nước và nhân dân thế giới. Theo Zhang Rongmai, bọn họ đã bắt buộc dân chúng nộp nồi niêu, song, chảo để cho họ nấu thành từng chảo kim loại to lớn rồi bảo đó là những mẻ thép tốt nhất thế giới. (Mao Zedong. Wikipedia)
I.4. Gian tham
Những triết gia xã hội như đức Phật, Khổng tử, Platon là những con người có tấm lòng từ bi, còn những người như Marx, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh là những con người nhiều tham vọng. Cái tham vọng và ác tâm của Marx đã thể hiện qua những bài phê phán các tư tưởng gia trong các tác phẩm của ông. Bản Tuyên Ngôn Cộng sản của Marx và Engels cũng chứa đầy ác tâm vì họ hô hào tranh đấu bằng bạo động, bày vẽ cách thức cướp của ( bãi bỏ tư hữu và cướp tài sản các nhà tư sản), và giết người ( chuyên chính vô sản). Lenin, Stalin , Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh đã giết vô số người và cướp tài sản của nhân dân. Lenin, Stalin , Mao Trạch Đông có tham vọng phát triển kinh tế và kỹ thuật lớn mạnh hơn Mỹ để thống trị toàn cầu . Các lãnh tụ cộng sản đã ngồi lỳ cho đến chết. Tại Việt Nam sau này vì tranh chấp nội bộ nên mới có hạn tuổi về hưu. Tuy về hưu các vị này vẫn giữ một vài chức vụ và vẫn có uy quyền, chứ không về hưu thật sự như các quan lại thời quân chủ, hay các viên chức trong chế độ tư bản.
Những người theo cộng sản có thể vì bắt buộc, cũng có thể vì lòng yêu nước nhưng đa số là do lòng tham. Những dân nghèo nghĩ rằng cộng sản bênh vực vô sản, giải phóng giai cấp, chia ruộng đất, tài sản cho họ cho nên họ ủng hộ cộng sản. Một số trí thức, quan lại, nhân viên chế độ cũ vì tham mồi danh lợi mà cộng sản hứa hẹn nên phản quốc gia, theo cộng sản. Còn những tên cộng sản gộc hiểu rằng cộng sản là thâu tóm tài sản quốc gia trong tay, cộng sản là một đại tư bản và họ sẽ có nhiều quyền lợi. Tuyên ngôn cộng sản là một cái mồi, và cũng là một toan tính sâu xa của những tay cờ bạc, và những kẻ làm nghề không vốn:
Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ.
Cộng sản đã cướp tài sản nhân dân, bắt nhân dân làm nô lệ, cho nên họ có quyền hành và tài sản rất lớn. Bản chất cộng sản là gian tham chứ không phải biến chất. Những anh du kích thời chiến tranh đã chận xét dân buôn bán vùng tề và tịch thu tài sản của nhân dân mà bỏ túi. Trong Cải cách ruộng đất trong miền Bắc hay trong các cuộc đánh tư sản , đánh văn hóa đồi trụy tại miền Nam, các cán bộ đã bỏ túi vàng bạc, của cải của các nạn nhân. Hơn nữa, trong khi chiếm miền Nam, hay chiếm Kampuchia, một số cán binh cộng sản đã cướp vàng bạc, kim cương, xe cộ, nhà cửa, và phá hoại các tượng vàng của các chùa chiền. Lenin lớn tiếng chỉ trích tôn giáo, nhân danh khoa học mà tiêu diệt tôn giáo song sự thực là ông nhắm vào kho vàng bạc của các nhà thờ Chính thống giáo.
Tất cả chế độ cộng sản tại Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam là những nguồn tham nhũng, hối lộ, ăn cắp của công, mặc dầu họ đã hưởng những quy chế ưu đãi cho giai cấp mới, và đã cho họ trở thành những tư sản đỏ. Ngày về tiếp thu Hà Nội, họ chia nhau những biệt thự lớn của Pháp và từ đó những biệt thự này thuộc tài sản của họ truyền lại cho con cháu. Sau khi chiếm miền Nam, cộng sản chiếm nhà cửa, dinh thự làm của riêng, một tên cộng sản bình thường cũng có vài căn nhà, còn cán bộ cao cấp thì có nhiều biệt thự tại Sài gòn, Vũng Tàu, Đà Lạt sướng hơn vua chúa thời quân chủ.
Sau đó, chúng trắng trợn cướp công khai bằng chính sách hữu sản hóa. Nay thì cộng sản công khai cướp đất quốc gia, đất các giáo hội và nhà cửa tư nhân khiến cho dân oan đã đồng thời đứng dậy. Hồ Chí Minh giả đạo đức, đóng vai nhà tu hành, nhưng đã có một đời tình ái bí ẩn, và man rợ khi ông đã giết bà Nông thị Xuân. Mao Trạch Đông sống một đời hưởng thụ như các vua chúa Trung Quốc.
Tuy lắm bạc nhiều tiền, cộng sản vẫn còn vơ vét. Chúng lấy tiền quốc tế viện trơ cho nạn nhân bão lụt, tiền Uneso tái thiết các đền đài miếu mạo mà bỏ túi. Chúng còn vơ vét các thứ lợi khác. Trong Cát Bụi Chân Ai, Tô Hoài đã nói rõ việc đảng cộng sản lấy 200 chiếc xe đạp mà nước Đức trao tặng các nhà văn Việt Nam (đảng hay kẻ nào mượn danh đảng?): Hội Nhà Văn Đức tặng hội Nhà Văn Việt Nam 200 trăm cái xe đạp Diamant mới cứng. Nguyên Hồng được điện khẩn mời xuống công tác. Ấy là việc dắt chiếc xe đạp đứng vườn hoa cửa Nam trò chuyện với người qua đường. Vô tuyến truyền hình Việt và của Đức quay giới thiệu nhà văn với tặng phẩm hữu nghị quốc tế. Nguyên Hồng hồi ấy mới để râu, rõ ra phong thái học giả phương đông. Tuyên truyền thế thôi, cả hội chẳng được sờ vào vành bánh chiếc xe nào. Hai trăm cái xe vào cái kho bộ Thương Nghiệp. (136).
Ông cũng tố cáo đảng trấn lột một nghìn bảng Anh của ông do bà thủ tướng J. Gandhi tặng khi ông qua thăm Ấn Độ: Túi rỗng, tôi đi qua các nhà hàng không chào lại, như còn đương mãi nghĩ. Chả là tôi vừa nhận giải thưởng hội Nhà Văn Á Phi 1969, bà thủ tướng J. Gandhi trao tặng kèm một ngàn bảng Anh. Nhưng trong va li tôi chỉ có tờ chứng nhận và chiếc huy hiệu bằng đồng. Mấy chai votca các bạn nhà văn cho, ai đến mừng thì nâng cốc vui sướng. à hôm sứ quán nhận tiền tôi đưa, có làm một tiệc nem rán mời khách (312).
Người ta cũng nghe tin Nguyễn Khắc Viện được Pháp tặng giải thưởng, số tiền này ông không dám tiêu, phải đem cúng vào viện mồ côi cho yên thân! Việc Mai Chí Thọ tổ chức vượt biên bán chính thức, việc cộng sản cướp kho cổ vật của Vương Hồng Sển , việc 16 tấn vàng của miền Nam vào tay Tổng bí thư cũng là những chuyện lưu truyền trong chốn dân gian. Trong năm 1975, cộng sản đã chiếm các kho hàng, các cơ sở kỹ nghệ, thương mại, nhà cửa, vàng bạc, xe cộ của nhân dân làm của riêng. Ngày nay, cộng sản ngang nhiên chiếm đất của nhân dân và các giáo hội đã chứng tỏ chúng là bọn cướp ngày vô lương tâm và đại gian ác.
I.5.Bóc lột
Toàn bộ tác phẩm của Marx, Engels, Lenin đều chỉ trích tư bản bóc lột, nhưng người cộng sản càng bóc lột dữ dội hơn tư bản.
Giai đoạn đầu, cộng sản đã cướp tài sản các tư sản nhưng các tư sản, địa chủ ,phú nông thực ra là những nông dân nghèo, những nhà tiểu thủ công nghiệp và những người tiểu thương. Ngoài ra, cộng sản còn áp dụng thuế, hay giảm tô, giảm tức để cướp tài sản nhân dân. Lenin đã dùng tiền tệ và thuế để cướp đoạt nhân dân.[1]
Về tiền tệ, tại Việt Nam trước 1986, thỉnh thoảng vài năm cộng sản đổi tiền một lần để cướp bóc và bần cùng hóa nhân dân.
Trước và sau khi thành lập HTX, cộng sản vẫn duy trì thuế, có điều là HTX đứng nộp thuế nông và công thương nghiệp.
Muốn bóc lột và giết dân, chúng khai tăng diện tích đất (không cần đo đạc), và tăng sản lượng lúa gấp ba bốn lần. Trong thương nghiệp cũng vậy. Cộng sản cứ bình nghị chứ không theo sổ sách hoặc tình hình thị trường. Khi về Hà Nội, chúng muốn chiếm nhà dân, ban đầu chúng đánh thuế, dân chịu không nổi phải hiến nhà cho chúng để khỏi ngồi tù. Đặng Thai Mai đã nói đến tình hình thuế nông nghiệp và giảm tô giảm tức tại Nghệ An:
Thư gửi Trường Chinh ngày 19.6.1953
. . . Tôi cũng đã viết thư lên K.U.L.K.IV (Khu ủy Liên khu IV) . Nhưng cũng có những câu chuyện cũng cần báo để T.Ư (trung ương) rõ. Về vấn đề thuế 1953, thư trước tôi đã nêu một hai ý kiến. Giờ đây, sau khi đã kiểm soát tận tay, và hỏi một vài đồng chí, và một số dân chúng, tôi mong anh để ý đến vấn đề thuế biểu. Có lẽ cần phải duyệt lại mức sản lượng ở Nghệ, năm 1951, thường thường cho 4 gánh lúa gặt (cả bông) ở đồng về là 1 tạ. Năm 1952, tỉnh định mức cho huyện. Huyện chia về xã. Có xã tính 2 gánh rưỡi, phần nhiều tính 3 gánh là 1 tạ. Ở Hà Tĩnh cũng vậy. Do đó có những mẫu ruộng tính sản lượng là 32, 35 tạ. Khá nhiều ruộng nhất đẳng điền hồi xưa ít nhất phải 25, 28 tạ.
Tôi đã hỏi nhiều anh em nông dân cày lấy 1 hay 2 mẫu thì họ đều nói rằng không tài nào theo kịp sản lượng. Tôi dám nêu vấn đề ở đây là vì tôi đã theo rõi ở vùng tôi khá kỹ. Và sự thực thì năm nay tôi nghe nhân dân phàn nàn nhiều về thái độ cán bộ trong việc định sản lượng nên tôi cũng tưởng cần trình bày cùng L.K.U (Liên khu ủy) . và T.Ư. Tôi cũng đã đọc bản báo cáo của Sabourov tóm tắt “chỉ thị của Đại hội Đảng lần thứ XIX về kế hoạch 5 năm để phát triển Liên bang Soviet” thì thấy rằng: trong kế hoạch sắp tới, ở LX cũng mới trù tính việc tăng năng suất các miền ruộng có thủy lợi (terres-irriguées) cho đến mức 40-50 tạ một hectare. Như vậy là với phương tiện kỹ thuật, nhân công, tổ chức của nông nghiệp Liên Xô, mà trong 4 năm nữa người ta mới yêu cầu tới mức 20 hay 25 tạ nửa hectare, nghĩa là còn hơn một mẫu ta - mẫu ta ở Trung Kỳ = 4900 m2.. . .http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5452&rb=0401
Sau khi lập các công, nông trường, tại Liên Xô, trong khoảng 1931, mùa màng thất bát, nông dân trong các nông trường đói khổ nhưng Stalin không phát lượng thực cho họ. Stalin cho rằng nông dân đã cất giấu thực phẩm, và ra lệnh bắn bỏ những kẻ trộm mùa màng. Kết quả vụ đói khiến cho năm triệu dân Ukraine chết. Tại Trung quốc, Bước Nhảy vọt thất bại, mùa màng kém, Mao đem lúa gạo xuất cảng, để mặc dân thiếu ăn, gây ra nạn đói lớn nhất lịch sử nhân loại, con số nạn nhân trong khoảng 1959-1962 lên đến mười triệu người. Tại Liên Xô, công nhân hưởng đồng lương chết đói.Trong tình hình như thế, mức sống của người dân không làm lãnh đạo phải bận tâm mặc dù theo Marx thì con người là nhân tố sản xuất quan trọng nhất.
Theo ông Krankshown, một đảng viên cộng đảng, thì lương 600 rub một tháng phải được coi là không đủ sống, trong khi Harrie Shvars, một nhà báo Mĩ lại cho rằng có đến 8 triệu người chỉ được nhận dưới 300 rub một tháng (Milovan Djilas, GIAI CẤP MỚI 5, 9)
Trong quyển "Điều Kiện của Giới Lao Động Anh năm 1844" (The Condition of the Working Class in England in 1844.), Engels tố cáo tư bản bóc lột, tư bản làm cho đời sống công nhân khốn khổ: nhà cửa chật chội, quần áo nữ công nhân và nam công nhân rách tả tơi , lương không đủ sống, bệnh tật không thuốc men, trẻ con sáu bảy tuổi đã phải làm việc.. ..
Cứ cho như là Engels đã nói đúng thực trạng của buổi đầu của thời tư bản phát triển. Số đông nông dân bỏ thôn quê ra thành thị kiếm sống, tất nhiên họ phải gặp nhiều khổ sở. Dẫu sao, việc họ lên thành thị, việc họ xin làm công nhân tại môt hãng xưởng nào đó là do họ tự nguyện không như nông dân, công nhân dứới chế độ cộng sản bị cưỡng bách lao động, bị đày đi Sibéria lạnh giá. Đồng lương của tư bản it ỏi nhưng tư bản không làm cho hàng triệu công nhân, nông dân phải chết đói như thời Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông. Tại Việt Nam, trẻ con thôn quê phải bỏ học để vào HTX lao động kiếm sống. Điều kiện sinh sống và làm việc của công nhân cộng sản còn tồi tệ hơn tư bản gấp trăm lần, vì tư bản không có " đảng lãnh đạo" và " vô sản chuyên chính"!
Richard Pipes cho biết rằng Thu nhập tính trên đầu người Bắc Hàn là 900 dollar, trong khi ở Nam Hàn là 13.700 dollar.(CHU NGHĨA CỘNG SẢN VI ,3)
Tại Việt Nam, nông dân làm trong các nông trường hay Hợp Tác xã, nếu họ được xếp vào hạng giỏi, mỗi ngày sẽ được một ký lô thóc và mùa sau mới nhận được số thóc công điểm này [2]. .
Nguyễn Kiến Giang nhận định về việc này như sau:
Người ta tưởng rằng với chủ nghĩa xã hội, tất cả những tật bệnh xã hội phát sinh dưới chủ nghĩa tư bản sẽ được khắc phục, nhất là chế độ người bóc lột người. Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều tuyên bố xóa bỏ xong các giai cấp bóc lột. Nhưng kết quả là thế nào? Kết quả là chủ nghĩa xã hội vẫn không tỏ rõ được ưu thế của nó đối với chủ nghĩa tư bản. (SUY TƯ 90 * III, 3).
I.6. Đa sát và tàn ác.
Chế độ nào cũng có nhà tù và chém giết nhưng tù nhân các chế độ khác thì có phòng giam rộng rãi và có thể ăn uống khá hơn. Các chế độ còn có lương tâm, tòa án xử phạt công minh. Còn cộng sản với chủ trương vô sản chuyên chính thì vô cùng kinh khủng .Lenin không ngần ngại tuyên bố " Làm chính trị thì không cần đạo đức"There are no morals in politics; there is only expedience. A scoundrel may be of use to us just because he is a scoundrel.
Lenin công khai nói rằng ông chủ trương dùng súng cai trị nhân dân (One man with a gun can control 100 without one) Và ông thẳng thắn nói rằng ông sẵn sàng tắm máu nhân dân: . "lúc cần thiết ông có thể giết hàng triệu người chứ không phải hàng ngàn người " (Politics begin where the masses are, not where there are thousands, but where there are millions, that is where serious politics begin.
http://www.brainyquote.com/quotes/quotes/v/vladimirle401021.html )
Ernest van den Haag viết về Marx và chủ nghĩa Marx rất xác đáng như sau:
Lenin chính là một tín đồ cuồng nhiệt của chủ nghĩa Marx và vì vậy ông ta đã hạ lệnh bắn giết hàng ngàn người và bỏ cho chết đói hàng triệu người khác, ông ta đã dùng tư tưởng của Marx về tính tất yếu của cách mạng để biện hộ cho những quyết định đó của mình. “Cho bọn nông dân chết đói đi”, Lenin đã nhiều lần nói như vậy. Ông ta còn nói: “Muốn hoàn thành cách mạng mà không bắn giết được ư?”
Khi tiến hành thu thập tài liệu cho cuốn sách Stalin: The Court of the Red Tsar ( Cung đình của Sa Hoàng đỏ), được làm việc với hồ sơ cá nhân của Stalin, tôi không thể hiểu được vì sao nhà độc tài Xô Viết và các cộng sự gần gũi của ông ta lại thích giết người như thế. Họ là những người điên hay là những nạn nhân của việc “tẩy não”, hay đối với họ giết người là phương tiện để tiến thân?
Nhưng sau khi đọc thư từ của họ thì tôi đã hiểu. Tôi nhận ra rằng họ đã dùng tín điều mác-xít để biện hộ cho những hành động của mình, họ sẵn sàng giết người, thậm chỉ tử hình ngay những người thân của mình vì tin tưởng tuyệt đối rằng giết chóc là để xây dựng xã hội lí tưởng, xã hội không tưởng phi giai cấp của Marx.
Giết người hàng loạt đã trở thành một loại thống kê: năm 1937, khi khởi sự vụ “đàn áp lớn” Stalin đã giao chỉ tiêu giết người cho từng tỉnh, không khác gì giao chỉ tiêu sản xuất gang thép vậy.
“Một người chết là bi kịch, hàng triệu người chết là con số thống kê”, Stalin từng nói như thế. Có thể Marx sẽ vô cùng kinh ngạc khi nghe thấy những lời như thế, nhưng chính ông là người đã hạ thấp đời sống con người xuống đến mức một mắt xích đơn giản trong quá trình “sản xuất” Chế Độ Không Tưởng.(TÍNH GIẢ KHOA HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MARX)
Richard Pipes cũng có ý kiến về kết quả hành động diệt chủng của cộng sản:
Toàn bộ tác phẩm của Marx, Engels, Lenin đều chỉ trích tư bản bóc lột, nhưng người cộng sản càng bóc lột dữ dội hơn tư bản.
Giai đoạn đầu, cộng sản đã cướp tài sản các tư sản nhưng các tư sản, địa chủ ,phú nông thực ra là những nông dân nghèo, những nhà tiểu thủ công nghiệp và những người tiểu thương. Ngoài ra, cộng sản còn áp dụng thuế, hay giảm tô, giảm tức để cướp tài sản nhân dân. Lenin đã dùng tiền tệ và thuế để cướp đoạt nhân dân.[1]
Về tiền tệ, tại Việt Nam trước 1986, thỉnh thoảng vài năm cộng sản đổi tiền một lần để cướp bóc và bần cùng hóa nhân dân.
Trước và sau khi thành lập HTX, cộng sản vẫn duy trì thuế, có điều là HTX đứng nộp thuế nông và công thương nghiệp.
Muốn bóc lột và giết dân, chúng khai tăng diện tích đất (không cần đo đạc), và tăng sản lượng lúa gấp ba bốn lần. Trong thương nghiệp cũng vậy. Cộng sản cứ bình nghị chứ không theo sổ sách hoặc tình hình thị trường. Khi về Hà Nội, chúng muốn chiếm nhà dân, ban đầu chúng đánh thuế, dân chịu không nổi phải hiến nhà cho chúng để khỏi ngồi tù. Đặng Thai Mai đã nói đến tình hình thuế nông nghiệp và giảm tô giảm tức tại Nghệ An:
Thư gửi Trường Chinh ngày 19.6.1953
. . . Tôi cũng đã viết thư lên K.U.L.K.IV (Khu ủy Liên khu IV) . Nhưng cũng có những câu chuyện cũng cần báo để T.Ư (trung ương) rõ. Về vấn đề thuế 1953, thư trước tôi đã nêu một hai ý kiến. Giờ đây, sau khi đã kiểm soát tận tay, và hỏi một vài đồng chí, và một số dân chúng, tôi mong anh để ý đến vấn đề thuế biểu. Có lẽ cần phải duyệt lại mức sản lượng ở Nghệ, năm 1951, thường thường cho 4 gánh lúa gặt (cả bông) ở đồng về là 1 tạ. Năm 1952, tỉnh định mức cho huyện. Huyện chia về xã. Có xã tính 2 gánh rưỡi, phần nhiều tính 3 gánh là 1 tạ. Ở Hà Tĩnh cũng vậy. Do đó có những mẫu ruộng tính sản lượng là 32, 35 tạ. Khá nhiều ruộng nhất đẳng điền hồi xưa ít nhất phải 25, 28 tạ.
Tôi đã hỏi nhiều anh em nông dân cày lấy 1 hay 2 mẫu thì họ đều nói rằng không tài nào theo kịp sản lượng. Tôi dám nêu vấn đề ở đây là vì tôi đã theo rõi ở vùng tôi khá kỹ. Và sự thực thì năm nay tôi nghe nhân dân phàn nàn nhiều về thái độ cán bộ trong việc định sản lượng nên tôi cũng tưởng cần trình bày cùng L.K.U (Liên khu ủy) . và T.Ư. Tôi cũng đã đọc bản báo cáo của Sabourov tóm tắt “chỉ thị của Đại hội Đảng lần thứ XIX về kế hoạch 5 năm để phát triển Liên bang Soviet” thì thấy rằng: trong kế hoạch sắp tới, ở LX cũng mới trù tính việc tăng năng suất các miền ruộng có thủy lợi (terres-irriguées) cho đến mức 40-50 tạ một hectare. Như vậy là với phương tiện kỹ thuật, nhân công, tổ chức của nông nghiệp Liên Xô, mà trong 4 năm nữa người ta mới yêu cầu tới mức 20 hay 25 tạ nửa hectare, nghĩa là còn hơn một mẫu ta - mẫu ta ở Trung Kỳ = 4900 m2.. . .http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5452&rb=0401
Sau khi lập các công, nông trường, tại Liên Xô, trong khoảng 1931, mùa màng thất bát, nông dân trong các nông trường đói khổ nhưng Stalin không phát lượng thực cho họ. Stalin cho rằng nông dân đã cất giấu thực phẩm, và ra lệnh bắn bỏ những kẻ trộm mùa màng. Kết quả vụ đói khiến cho năm triệu dân Ukraine chết. Tại Trung quốc, Bước Nhảy vọt thất bại, mùa màng kém, Mao đem lúa gạo xuất cảng, để mặc dân thiếu ăn, gây ra nạn đói lớn nhất lịch sử nhân loại, con số nạn nhân trong khoảng 1959-1962 lên đến mười triệu người. Tại Liên Xô, công nhân hưởng đồng lương chết đói.Trong tình hình như thế, mức sống của người dân không làm lãnh đạo phải bận tâm mặc dù theo Marx thì con người là nhân tố sản xuất quan trọng nhất.
Theo ông Krankshown, một đảng viên cộng đảng, thì lương 600 rub một tháng phải được coi là không đủ sống, trong khi Harrie Shvars, một nhà báo Mĩ lại cho rằng có đến 8 triệu người chỉ được nhận dưới 300 rub một tháng (Milovan Djilas, GIAI CẤP MỚI 5, 9)
Trong quyển "Điều Kiện của Giới Lao Động Anh năm 1844" (The Condition of the Working Class in England in 1844.), Engels tố cáo tư bản bóc lột, tư bản làm cho đời sống công nhân khốn khổ: nhà cửa chật chội, quần áo nữ công nhân và nam công nhân rách tả tơi , lương không đủ sống, bệnh tật không thuốc men, trẻ con sáu bảy tuổi đã phải làm việc.. ..
Cứ cho như là Engels đã nói đúng thực trạng của buổi đầu của thời tư bản phát triển. Số đông nông dân bỏ thôn quê ra thành thị kiếm sống, tất nhiên họ phải gặp nhiều khổ sở. Dẫu sao, việc họ lên thành thị, việc họ xin làm công nhân tại môt hãng xưởng nào đó là do họ tự nguyện không như nông dân, công nhân dứới chế độ cộng sản bị cưỡng bách lao động, bị đày đi Sibéria lạnh giá. Đồng lương của tư bản it ỏi nhưng tư bản không làm cho hàng triệu công nhân, nông dân phải chết đói như thời Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông. Tại Việt Nam, trẻ con thôn quê phải bỏ học để vào HTX lao động kiếm sống. Điều kiện sinh sống và làm việc của công nhân cộng sản còn tồi tệ hơn tư bản gấp trăm lần, vì tư bản không có " đảng lãnh đạo" và " vô sản chuyên chính"!
Richard Pipes cho biết rằng Thu nhập tính trên đầu người Bắc Hàn là 900 dollar, trong khi ở Nam Hàn là 13.700 dollar.(CHU NGHĨA CỘNG SẢN VI ,3)
Tại Việt Nam, nông dân làm trong các nông trường hay Hợp Tác xã, nếu họ được xếp vào hạng giỏi, mỗi ngày sẽ được một ký lô thóc và mùa sau mới nhận được số thóc công điểm này [2]. .
Nguyễn Kiến Giang nhận định về việc này như sau:
Người ta tưởng rằng với chủ nghĩa xã hội, tất cả những tật bệnh xã hội phát sinh dưới chủ nghĩa tư bản sẽ được khắc phục, nhất là chế độ người bóc lột người. Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều tuyên bố xóa bỏ xong các giai cấp bóc lột. Nhưng kết quả là thế nào? Kết quả là chủ nghĩa xã hội vẫn không tỏ rõ được ưu thế của nó đối với chủ nghĩa tư bản. (SUY TƯ 90 * III, 3).
I.6. Đa sát và tàn ác.
Chế độ nào cũng có nhà tù và chém giết nhưng tù nhân các chế độ khác thì có phòng giam rộng rãi và có thể ăn uống khá hơn. Các chế độ còn có lương tâm, tòa án xử phạt công minh. Còn cộng sản với chủ trương vô sản chuyên chính thì vô cùng kinh khủng .Lenin không ngần ngại tuyên bố " Làm chính trị thì không cần đạo đức"There are no morals in politics; there is only expedience. A scoundrel may be of use to us just because he is a scoundrel.
Lenin công khai nói rằng ông chủ trương dùng súng cai trị nhân dân (One man with a gun can control 100 without one) Và ông thẳng thắn nói rằng ông sẵn sàng tắm máu nhân dân: . "lúc cần thiết ông có thể giết hàng triệu người chứ không phải hàng ngàn người " (Politics begin where the masses are, not where there are thousands, but where there are millions, that is where serious politics begin.
http://www.brainyquote.com/quotes/quotes/v/vladimirle401021.html )
Ernest van den Haag viết về Marx và chủ nghĩa Marx rất xác đáng như sau:
Lenin chính là một tín đồ cuồng nhiệt của chủ nghĩa Marx và vì vậy ông ta đã hạ lệnh bắn giết hàng ngàn người và bỏ cho chết đói hàng triệu người khác, ông ta đã dùng tư tưởng của Marx về tính tất yếu của cách mạng để biện hộ cho những quyết định đó của mình. “Cho bọn nông dân chết đói đi”, Lenin đã nhiều lần nói như vậy. Ông ta còn nói: “Muốn hoàn thành cách mạng mà không bắn giết được ư?”
Khi tiến hành thu thập tài liệu cho cuốn sách Stalin: The Court of the Red Tsar ( Cung đình của Sa Hoàng đỏ), được làm việc với hồ sơ cá nhân của Stalin, tôi không thể hiểu được vì sao nhà độc tài Xô Viết và các cộng sự gần gũi của ông ta lại thích giết người như thế. Họ là những người điên hay là những nạn nhân của việc “tẩy não”, hay đối với họ giết người là phương tiện để tiến thân?
Nhưng sau khi đọc thư từ của họ thì tôi đã hiểu. Tôi nhận ra rằng họ đã dùng tín điều mác-xít để biện hộ cho những hành động của mình, họ sẵn sàng giết người, thậm chỉ tử hình ngay những người thân của mình vì tin tưởng tuyệt đối rằng giết chóc là để xây dựng xã hội lí tưởng, xã hội không tưởng phi giai cấp của Marx.
Giết người hàng loạt đã trở thành một loại thống kê: năm 1937, khi khởi sự vụ “đàn áp lớn” Stalin đã giao chỉ tiêu giết người cho từng tỉnh, không khác gì giao chỉ tiêu sản xuất gang thép vậy.
“Một người chết là bi kịch, hàng triệu người chết là con số thống kê”, Stalin từng nói như thế. Có thể Marx sẽ vô cùng kinh ngạc khi nghe thấy những lời như thế, nhưng chính ông là người đã hạ thấp đời sống con người xuống đến mức một mắt xích đơn giản trong quá trình “sản xuất” Chế Độ Không Tưởng.(TÍNH GIẢ KHOA HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MARX)
Richard Pipes cũng có ý kiến về kết quả hành động diệt chủng của cộng sản:
Xã hội cộng sản đã đánh mất những công dân ưu tú nhất của mình như thế đấy, và vì vậy mà họ phải lún sâu mãi trong cảnh đói nghèo. (CHU NGHĨA CỘNG SẢN VI, 6)
Tổng Thống Nga là ông Putin đã phát biểu tương tự trong buổi tưởng niệm nạn nhân Stalin ngày 30-10-2007 tại nhà thờ Chính thống giáo ở Butovo:
Tổng Thống Nga là ông Putin đã phát biểu tương tự trong buổi tưởng niệm nạn nhân Stalin ngày 30-10-2007 tại nhà thờ Chính thống giáo ở Butovo:
Những người bị thảm sát, khủng bố nằm trong số những con người ưu tú và can đảm nhất của nước Nga và Liên Xô thời đó
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story2007/10071031_putinrussianmemorial.shtml
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story2007/10071031_putinrussianmemorial.shtml
Giết tập thể một lần chưa đủ, theo chủ trương cách mạng thường trực, thỉnh thoảng cộng sản dấy lên những cơn khủng bố, giết và bắt giam hàng loạt người. Thất bại về các kế hoạch nông nghiệp, Stalin đổ thừa là do nông dân không tích cực, trộm cắp hoa màu và phá hoại cho nên Stalin đã giết hàng triệu nhân dân bao gồm dân Kulak, dân lười biếng và kẻ trộm nông sản. Stalin cũng đã đày các sắc dân thiểu số tới vùng Seberia canh tác. Mao Trạch Đông dấy lên "cách mạng (vô) văn hóa" và phong trào " Bách hoa tề phóng" để hại dân hại nước, đồng thời làm ô nhục, giết hại, giam cầm các đảng viên, cán bộ và trí thức. Tại Việt Nam, cộng sản đã nặng tay với Nhân Văn Giai Phẩm. Những nhà văn, nhà báo, những nhà chính trị chống Pháp cũng chỉ ở tù vài năm, không ai bị tù dài hạn và hành hạ trọn đời như các văn thi sĩ Nhân Văn Giai Phẩm.
Còn nhà tù cộng sản thì bị hạn chế khẩu phần và thiếu phương tiện. Việc chém giết thì các chế độ khác thua xa cộng sản. Việc chém giết xảy ra thời cách mạng Pháp đã bị kết án nhưng nó chỉ ra trong một thời gian ngắn còn chế độ cộng sản thì kéo dài. Bọn phát xít Đức tàn sát dã man và con số khoảng 20 triệu người, (Holocaust, Wikipedia) còn cộng sản đã giết hàng trăm triệu, riêng Liên Xô đã chiếm con số khoảng 60 triệu. (STÉPHANE COURTOISE ET AL * MẬT THƯ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN )
Cộng sản không những giết nhiều người nhất trong cuộc chiến mà giết những người vô tội, giết người không khí giới, giết đàn bà trẻ con, giết nhiều chủng tộc, giết người không cần luật pháp như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông. Trường Chinh đã ra lệnh " giết lầm hơn bỏ sót", có thể chính Hồ Chí Minh hay ai đó ra lệnh tàn sát nhân dân Huế trong vụ mậu thân (1968) cũng chỉ là theo sách lược của Lenin và Stalin. Cái bi thảm nhất là chúng đang tâm giết những người đã theo chúng, ủng hộ chúng và đã là đảng viên cao cấp trong quân đội hay trong các cơ quan hành chánh . Tại Liên Xô, Stalin đã giết hại các tướng lãnh Hồng quân và các đại biểu Quốc hội. Mao Trạch Đông đã tra tấn và giết một phần tư Hồng Vệ binh mà con số có thể lên đến gần 200 ngàn. [3]
Cộng sản không những giết nhiều người nhất trong cuộc chiến mà giết những người vô tội, giết người không khí giới, giết đàn bà trẻ con, giết nhiều chủng tộc, giết người không cần luật pháp như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông. Trường Chinh đã ra lệnh " giết lầm hơn bỏ sót", có thể chính Hồ Chí Minh hay ai đó ra lệnh tàn sát nhân dân Huế trong vụ mậu thân (1968) cũng chỉ là theo sách lược của Lenin và Stalin. Cái bi thảm nhất là chúng đang tâm giết những người đã theo chúng, ủng hộ chúng và đã là đảng viên cao cấp trong quân đội hay trong các cơ quan hành chánh . Tại Liên Xô, Stalin đã giết hại các tướng lãnh Hồng quân và các đại biểu Quốc hội. Mao Trạch Đông đã tra tấn và giết một phần tư Hồng Vệ binh mà con số có thể lên đến gần 200 ngàn. [3]
Cộng sản luôn tìm cách giết tập thể để khủng bố nhân dân. Và trong các cuộc tàn sát tập thể này, bộ chính trị hay lãnh tụ đảng cộng sản lạnh lùng nghĩ ra một con số tức là đặt chỉ tiêu giết người dù nạn nhân vô tội y như họ đặt chỉ tiêu cho nông nghiệp , công nghiệp.
Richard Pipes viết:
Trong giai đoạn cao trào, Bộ Chính trị còn phân bổ “hạn ngạch” cho cơ quan an ninh, trong đó ghi rõ bao nhiêu phần trăm dân số khu vực bị bắn, bao nhiêu phần trăm bị đưa vào trại giam. Thí dụ, hạn ngạch ngày 2 tháng 7 năm 1937 cho thành phố và tỉnh Moskva là 35 ngàn người, trong đó 5 ngàn bị xử bắn . Một tháng sau đó Bộ Chính trị cấp hạn ngạch cho tất cả các tỉnh: 70 ngàn người bị bắn mà không cần xét xử . Đa số nạn nhân của cuộc đại khủng bố là những người có bằng đại học, họ bị coi là thành phần bất trị và có xu hướng “phá hoại”. (CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN III,4)
Tại Việt Nam, trong Cải cách ruộng đất, Hồ Chí Minh đã cách chức, bỏ tù, sa thải hay giết các sĩ quan và cán bộ đảng viên để thay vào đó là những nông dân, công nhân.Marx và bọn cộng sản theo ông đã nghĩ rằng sau khi giết hết thù trong giặc ngoài, họ sẽ xây dựng một quốc gia thịnh vượng nhưng tất cả đều sai lầm, đống xương vô định đó không đem lại thành công cho cộng sản. Các cuộc tàn sát luôn luôn được diễn tập để làm cho các lãnh tụ cộng sản an tâm , bớt sợ hãi. Hàng triệu xác chết đó làm cho Stalin vui vẻ đi xem phim hài, và Mao Trạch Đông ngủ ngon hơn sau những đêm khiêu vũ với những nữ vũ công trẻ đẹp của đế quốc Trung Hoa. Những cuộc thảm sát đó cũng chỉ mang một ý nghĩa giản dị: Chúng nó chết hết rồi, không còn ai chống đối ta nữa!
Những người cộng sản không là quỷ thì cũng là những kẻ có trái tim bằng đá như Stalin đã tuyên bố:
Khi một người chết là một bi kịch. Khi triệu người chết là một thống kê.
Cái chết giải quyết mọi vấn đề. Không còn con người thì không còn vấn đề. [4]
Richard Pipes viết:
Trong giai đoạn cao trào, Bộ Chính trị còn phân bổ “hạn ngạch” cho cơ quan an ninh, trong đó ghi rõ bao nhiêu phần trăm dân số khu vực bị bắn, bao nhiêu phần trăm bị đưa vào trại giam. Thí dụ, hạn ngạch ngày 2 tháng 7 năm 1937 cho thành phố và tỉnh Moskva là 35 ngàn người, trong đó 5 ngàn bị xử bắn . Một tháng sau đó Bộ Chính trị cấp hạn ngạch cho tất cả các tỉnh: 70 ngàn người bị bắn mà không cần xét xử . Đa số nạn nhân của cuộc đại khủng bố là những người có bằng đại học, họ bị coi là thành phần bất trị và có xu hướng “phá hoại”. (CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN III,4)
Tại Việt Nam, trong Cải cách ruộng đất, Hồ Chí Minh đã cách chức, bỏ tù, sa thải hay giết các sĩ quan và cán bộ đảng viên để thay vào đó là những nông dân, công nhân.Marx và bọn cộng sản theo ông đã nghĩ rằng sau khi giết hết thù trong giặc ngoài, họ sẽ xây dựng một quốc gia thịnh vượng nhưng tất cả đều sai lầm, đống xương vô định đó không đem lại thành công cho cộng sản. Các cuộc tàn sát luôn luôn được diễn tập để làm cho các lãnh tụ cộng sản an tâm , bớt sợ hãi. Hàng triệu xác chết đó làm cho Stalin vui vẻ đi xem phim hài, và Mao Trạch Đông ngủ ngon hơn sau những đêm khiêu vũ với những nữ vũ công trẻ đẹp của đế quốc Trung Hoa. Những cuộc thảm sát đó cũng chỉ mang một ý nghĩa giản dị: Chúng nó chết hết rồi, không còn ai chống đối ta nữa!
Những người cộng sản không là quỷ thì cũng là những kẻ có trái tim bằng đá như Stalin đã tuyên bố:
Khi một người chết là một bi kịch. Khi triệu người chết là một thống kê.
Cái chết giải quyết mọi vấn đề. Không còn con người thì không còn vấn đề. [4]
II. CÁC THỦ ĐOẠN CỦA CỘNG SẢN
Cộng sản bao giờ cũng dùng thủ đoạn dù là những thủ đoạn bỉ ổi nhất, tàn ác nhất. Cộng sản có rất nhiều thủ đoạn mà ở đây người viết chỉ nêu lên một số tiêu biểu.
II.1. Văn từ và ngôn ngữ
Cộng sản nói là theo duy vật nhưng họ rất chú trọng xảo thuật ngôn ngữ để làm lung lay tinh thần và trí tuệ con người.
Trong các lời kêu gọi và ngôn ngữ hằng ngày, cộng sản đã dùng những lời rất đẹp để khoa khoang, trang trí cho bản chất tàn ác của cộng sản. Họ ưa dùng từ " cách mạng "để nói về các cuộc nổi loạn và cướp chính quyền của họ. Cách mạng đúng nghĩa là thay đổi chế độ cũ bằng chế độ mới tốt đẹp hơn. Cuộc cướp chính quyền tháng 10 Nga không phải là cách mạng vì cuộc cướp chính quyền này lập một chính quyền cộng sản tàn ác hơn chế độ Nga hoàng., và mở đầu một trang sử máu cho nước Nga và một nửa nhân loại. Cuộc đại hủy diệt văn hóa do Mao thúc đẩy Hồng Vệ binh không phải là "cách mạng văn hóa "như Mao đặt danh hiệu .Họ gọi những tên sát nhân trong đảng cộng sản là " nhà cách mạng". Rất nhiều danh từ đã biến thể trong chế độ cộng sản như tự do, dân chủ, bình đẳng, độc lập .
Một số mang danh từ rất đẹp nhưng là nội dung trái ngược với cuộc đời như học tập, trại cải tạo có nghĩa là bị tù đày, là trại tù. ..Họ dùng những từ ngữ đẹp để che đậy những thực tại rách nát. Họ thổi phòng mọi sự việc đề tuyên truyền. Marx dùng từ ngữ "đấu tranh giai cấp" là để cướp tài sản nhân dân. Marx dùng từ " vô sản chuyên chính" để bỏ tù và giết người. Lenin dùng từ Bolchesinh (đa số) và gọi phe Martov là Menchevish ( thiểu số) mặc dù phe Martov đa số. Mao dùng thiếu niên để phá hoại văn hóa và khủng bố nhân dân bằng mỹ hiệu " Cách mạng văn hóa". Mao giết và bỏ tù trí thức bằng cái tên rất đầy ấn tượng " "bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh" .
Cộng sản đề cao các lãnh tụ của họ như thần thánh trong khi họ vu khống những người chống họ hay không theo họ bằng các danh từ như phản động, phong kiến, tư sản, tiểu tư sản, tay sai thực dân, đế quốc, ngụy quân, ngụy quyền. . .Trong CCRĐ, cộng sản muốn khủng bố nhân dân bằng cách giết một số nông dận nghèo mà họ gọi là địa chủ, tư sản, phong kiến. Họ cướp tài sản nông dân mà gọi là trưng mua ( Có ai bán mà mua? mua sao lại không trả tiền?). Cộng sản đàn áp nhân dân, bóc lột công nhân nhưng lúc nào cũng nói vì nhân dân, vì giai cấp vô sản. Thật ra họ chỉ dùng nhãn hiệu nhân dân và vô sản (ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân, tòa án nhân dân - -nhưng ngân hàng nhà nước, - đảng lao động, giai cấp tính) để lừa bịp nhân dân trong nước và nhân dân trên thế giới.
Nói như thế, không phải lúc nào cộng sản cũng hoa mĩ. Có nhiều lúc họ dùng ngôn ngữ thô bạo và thiếu văn hóa như xưởng đẻ, nhà ỉa trai, nhà ỉa gái. . .
Cộng sản chú trọng dùng ngoa ngôn xảo ngữ để tuyên truyền, lừa bịp. Ngày xưa, kháng chiến chống Pháp, cộng sản chưa lộ rõ bộ mặt gian ác. Chúng ăn nói tử tế, xưng mẹ mẹ con con ngọt xớt để được dân nuôi ăn, bảo bọc. Sau khi thành công, chúng quát nạt nhân dân, bắt nhân dân gọi chúng bằng "cán bộ" và phải xưng con. Ngày nay, thái đô hách dịch đã thể hiện rõ rệt ở các cửa hàng nhà nước, các cơ quan. . .Có những tên công an đã mày tao chi tớ với những cụ già đáng ông bà nó.
Cộng sản tàn ác, thô bạo không cần che đậy như vụ công an bịt miệng linh mục Nguyễn Văn Lý trước tòa. Việc này chứng tỏ cộng sản coi thường nhân dân trong nước và dư luận quốc tê.
Trong các tác phẩm của Marx, Lenin, Stalin, Mao, Hồ có nhiều từ ngữ nhưng khác biệt với thế giới tự do. Như tự do, dân chủ, hòa bình. Lenin bảo tự do của cộng sản tốt đẹp gấp triệu lần tư bản, khác với tự do tư sản!Dân chủ của cộng sản là dân chủ tập trung quý hơn dân chủ của tư bản. Đó là những lời trống rỗng
Marx, Engels , Lenin, Mao, Hồ chuyên dùng ngoa ngôn xảo ngữ để lừa thiên hạ.
+Marx bảo sau khi cướp được chính quyền và tịch thu tất cả tư liệu sản xuất, triệt tiêu giai cấp tư bản bóc lột, công nhân làm chủ thì không còn bóc lột, nhân dân được tự do. Nếu nhân dân được tự do thì sao lại còn dùng Vô sản chuyên chính? Đã độc tài thì không thể nói tự do, đã tự do thì không thể có độc tài.
Hai tính chất này mâu thuẫn nhau không thể cùng tồn tại một lúc.
+Cộng sản Việt Nam chủ trương " đảng lãnh đạo, chính phủ quản lý, nhân dân làm chủ" nghe ra thì ai cũng bình đẳng nhưng một khi đảng lãnh đạo, nhà nước cũng là người của đảng, nhân dân không có quyền ứng cử, quốc hội cũng là người của đảng thì nhân dân làm chủ hay làm đầy tớ?
+ Marx xướng lên đấu tranh giai cấp, và vô sản chuyên chính thì bọn tư sản, tiểu tư sản và giai cấp trung lưu, cùng tôn giáo, phản động bị giết, bị đày thì lời Marx nói mạng người quý báu thì có ý nghĩa gì? Lenin, Stalin, Mao bắt dân lao động trong cảnh đói rét khiến chục triệu người chết; cộng sản Việt Nam và bọn Khmer đỏ bắt thiếu niên đi lính, xích lính vào xe tăng, Hồ Chí Minh giết nông dân nghèo và gán cho họ tội địa chủ bóc lột, phong kiến, phản động thị họ đâu coi con người là vốn quý?
Cộng sản bao giờ cũng dùng thủ đoạn dù là những thủ đoạn bỉ ổi nhất, tàn ác nhất. Cộng sản có rất nhiều thủ đoạn mà ở đây người viết chỉ nêu lên một số tiêu biểu.
II.1. Văn từ và ngôn ngữ
Cộng sản nói là theo duy vật nhưng họ rất chú trọng xảo thuật ngôn ngữ để làm lung lay tinh thần và trí tuệ con người.
Trong các lời kêu gọi và ngôn ngữ hằng ngày, cộng sản đã dùng những lời rất đẹp để khoa khoang, trang trí cho bản chất tàn ác của cộng sản. Họ ưa dùng từ " cách mạng "để nói về các cuộc nổi loạn và cướp chính quyền của họ. Cách mạng đúng nghĩa là thay đổi chế độ cũ bằng chế độ mới tốt đẹp hơn. Cuộc cướp chính quyền tháng 10 Nga không phải là cách mạng vì cuộc cướp chính quyền này lập một chính quyền cộng sản tàn ác hơn chế độ Nga hoàng., và mở đầu một trang sử máu cho nước Nga và một nửa nhân loại. Cuộc đại hủy diệt văn hóa do Mao thúc đẩy Hồng Vệ binh không phải là "cách mạng văn hóa "như Mao đặt danh hiệu .Họ gọi những tên sát nhân trong đảng cộng sản là " nhà cách mạng". Rất nhiều danh từ đã biến thể trong chế độ cộng sản như tự do, dân chủ, bình đẳng, độc lập .
Một số mang danh từ rất đẹp nhưng là nội dung trái ngược với cuộc đời như học tập, trại cải tạo có nghĩa là bị tù đày, là trại tù. ..Họ dùng những từ ngữ đẹp để che đậy những thực tại rách nát. Họ thổi phòng mọi sự việc đề tuyên truyền. Marx dùng từ ngữ "đấu tranh giai cấp" là để cướp tài sản nhân dân. Marx dùng từ " vô sản chuyên chính" để bỏ tù và giết người. Lenin dùng từ Bolchesinh (đa số) và gọi phe Martov là Menchevish ( thiểu số) mặc dù phe Martov đa số. Mao dùng thiếu niên để phá hoại văn hóa và khủng bố nhân dân bằng mỹ hiệu " Cách mạng văn hóa". Mao giết và bỏ tù trí thức bằng cái tên rất đầy ấn tượng " "bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh" .
Cộng sản đề cao các lãnh tụ của họ như thần thánh trong khi họ vu khống những người chống họ hay không theo họ bằng các danh từ như phản động, phong kiến, tư sản, tiểu tư sản, tay sai thực dân, đế quốc, ngụy quân, ngụy quyền. . .Trong CCRĐ, cộng sản muốn khủng bố nhân dân bằng cách giết một số nông dận nghèo mà họ gọi là địa chủ, tư sản, phong kiến. Họ cướp tài sản nông dân mà gọi là trưng mua ( Có ai bán mà mua? mua sao lại không trả tiền?). Cộng sản đàn áp nhân dân, bóc lột công nhân nhưng lúc nào cũng nói vì nhân dân, vì giai cấp vô sản. Thật ra họ chỉ dùng nhãn hiệu nhân dân và vô sản (ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân, tòa án nhân dân - -nhưng ngân hàng nhà nước, - đảng lao động, giai cấp tính) để lừa bịp nhân dân trong nước và nhân dân trên thế giới.
Nói như thế, không phải lúc nào cộng sản cũng hoa mĩ. Có nhiều lúc họ dùng ngôn ngữ thô bạo và thiếu văn hóa như xưởng đẻ, nhà ỉa trai, nhà ỉa gái. . .
Cộng sản chú trọng dùng ngoa ngôn xảo ngữ để tuyên truyền, lừa bịp. Ngày xưa, kháng chiến chống Pháp, cộng sản chưa lộ rõ bộ mặt gian ác. Chúng ăn nói tử tế, xưng mẹ mẹ con con ngọt xớt để được dân nuôi ăn, bảo bọc. Sau khi thành công, chúng quát nạt nhân dân, bắt nhân dân gọi chúng bằng "cán bộ" và phải xưng con. Ngày nay, thái đô hách dịch đã thể hiện rõ rệt ở các cửa hàng nhà nước, các cơ quan. . .Có những tên công an đã mày tao chi tớ với những cụ già đáng ông bà nó.
Cộng sản tàn ác, thô bạo không cần che đậy như vụ công an bịt miệng linh mục Nguyễn Văn Lý trước tòa. Việc này chứng tỏ cộng sản coi thường nhân dân trong nước và dư luận quốc tê.
Trong các tác phẩm của Marx, Lenin, Stalin, Mao, Hồ có nhiều từ ngữ nhưng khác biệt với thế giới tự do. Như tự do, dân chủ, hòa bình. Lenin bảo tự do của cộng sản tốt đẹp gấp triệu lần tư bản, khác với tự do tư sản!Dân chủ của cộng sản là dân chủ tập trung quý hơn dân chủ của tư bản. Đó là những lời trống rỗng
Marx, Engels , Lenin, Mao, Hồ chuyên dùng ngoa ngôn xảo ngữ để lừa thiên hạ.
+Marx bảo sau khi cướp được chính quyền và tịch thu tất cả tư liệu sản xuất, triệt tiêu giai cấp tư bản bóc lột, công nhân làm chủ thì không còn bóc lột, nhân dân được tự do. Nếu nhân dân được tự do thì sao lại còn dùng Vô sản chuyên chính? Đã độc tài thì không thể nói tự do, đã tự do thì không thể có độc tài.
Hai tính chất này mâu thuẫn nhau không thể cùng tồn tại một lúc.
+Cộng sản Việt Nam chủ trương " đảng lãnh đạo, chính phủ quản lý, nhân dân làm chủ" nghe ra thì ai cũng bình đẳng nhưng một khi đảng lãnh đạo, nhà nước cũng là người của đảng, nhân dân không có quyền ứng cử, quốc hội cũng là người của đảng thì nhân dân làm chủ hay làm đầy tớ?
+ Marx xướng lên đấu tranh giai cấp, và vô sản chuyên chính thì bọn tư sản, tiểu tư sản và giai cấp trung lưu, cùng tôn giáo, phản động bị giết, bị đày thì lời Marx nói mạng người quý báu thì có ý nghĩa gì? Lenin, Stalin, Mao bắt dân lao động trong cảnh đói rét khiến chục triệu người chết; cộng sản Việt Nam và bọn Khmer đỏ bắt thiếu niên đi lính, xích lính vào xe tăng, Hồ Chí Minh giết nông dân nghèo và gán cho họ tội địa chủ bóc lột, phong kiến, phản động thị họ đâu coi con người là vốn quý?
+Lenin nói chế độ cộng sản tự do, dân chủ gấp vạn, triệu lần tư bản! Ông bảo dân lao động Nga được tự do viết báo, và hội họp trong lâu đài của Nga hoàng, sau khi tịch thu báo chí Nga và Quốc hội Nga. Sự thật chỉ có người cộng sản có quyền này mà thôi, nhân dân làm sao mà đến các lâu đài này và viết báo bày tỏ tư tưởng của họ? Chính Lenin không cho tư nhân làm báo, không cho dân hội họp . Theo Vũ Thư Hiên trong Đêm Giữa Ban Ngày, Trường Chinh thì bảo báo chí: Các anh có tự do chửi tư bản, chửi đế quốc.
Đó là những lời nói lấy đươc, mang nhiều gian dối.Tự do, dân chủ không phải là lời nói suông. Nước Pháp và Liên Hiệp quốc đã có bản Tuyên ngôn nhân quyền quy định về quyền tự do của con người trong đó có tự do hội họp, tư do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do làm việc. Nhưng trong xã hội cộng sản, những thứ tự do này đều không có thì làm sao mà đến tự do, dân chủ?
Trần Độ đã nêu lên những mâu thuẫn trong ngôn từ của các văn kiện đảng:
• Có mâu thuẫn lớn trong đường lối là: cần “đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng đất nước”, nhưng lại nêu “đấu tranh giai cấp”. Mà đấu tranh giai cấp thì trong dân tộc đấu tranh làm gì có đoàn kết.
• Hô hào dân chủ và phê phán tình trạng mất dân chủ nhưng lại kiên trì “Đảng lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện”, đã kiên trì cái thứ ấy là phản dân chủ rồi. (TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN IV, 1)
II.2. Nói và làm khác nhau
Tất cả triết lý, pháp luật, văn kiện, tác phẩm văn học nghệ thuật cộng sản đều rất đẹp nhưng đó chỉ là nói mà thôi, còn làm thì khác xa. Thí dụ tết mậu thân, cộng sản hứa hẹn ngưng bắn nhưng chính họ lại tấn công. Stalin cũng như Marx hô hào giai cấp vô sản đoàn kết nhưng vừa bắt tay với Hitler, Stalin tấn công Ba Lan để chiếm đất. Mao Trạch Đông và cộng sản Trung Quốc tuyên bố giúp Việt Nam vô điều kiện và vô vị lợi nhưng họ bí mật bắt Việt Nam ký nhượng biển, dâng đất. Ngoài ra Liên Xô, Trung Quốc cũng xâm chiếm các nước lân cận, thực hiện đường lối xâm lăng của đế quốc.
Khi chưa cướp được chính quyền, Lenin chỉ trích nhà nước Nga và các nước khác dùng quân đội, cảnh sát và nhân viên các cấp là không cần thiết. Ông tuyên bố bỏ cảnh sát, quân đội và nhân viên hành chánh, và trả lương cho họ bằng lương công nhân trung bình.
Abolition of the police, the army and the bureaucracy. The salaries of all officials, all of whom are elective and displaceable at any time, not to exceed the average wage of a competent worker. Lenin, April Theses (1917)
Nhưng dần dần, Lenin, Stalin tuyển mộ công an, quân đội và nhân viên hành chánh rất nhiều.để đàn áp nhân dân. Giai cấp mới hình thành, được hưởng lương bổng cao và nhiều đặc quyền đặc lợi trong khi công nhân, nông dân lãnh đồng lương chết đói.
Đó là những lời nói lấy đươc, mang nhiều gian dối.Tự do, dân chủ không phải là lời nói suông. Nước Pháp và Liên Hiệp quốc đã có bản Tuyên ngôn nhân quyền quy định về quyền tự do của con người trong đó có tự do hội họp, tư do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do làm việc. Nhưng trong xã hội cộng sản, những thứ tự do này đều không có thì làm sao mà đến tự do, dân chủ?
Trần Độ đã nêu lên những mâu thuẫn trong ngôn từ của các văn kiện đảng:
• Có mâu thuẫn lớn trong đường lối là: cần “đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng đất nước”, nhưng lại nêu “đấu tranh giai cấp”. Mà đấu tranh giai cấp thì trong dân tộc đấu tranh làm gì có đoàn kết.
• Hô hào dân chủ và phê phán tình trạng mất dân chủ nhưng lại kiên trì “Đảng lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện”, đã kiên trì cái thứ ấy là phản dân chủ rồi. (TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN IV, 1)
II.2. Nói và làm khác nhau
Tất cả triết lý, pháp luật, văn kiện, tác phẩm văn học nghệ thuật cộng sản đều rất đẹp nhưng đó chỉ là nói mà thôi, còn làm thì khác xa. Thí dụ tết mậu thân, cộng sản hứa hẹn ngưng bắn nhưng chính họ lại tấn công. Stalin cũng như Marx hô hào giai cấp vô sản đoàn kết nhưng vừa bắt tay với Hitler, Stalin tấn công Ba Lan để chiếm đất. Mao Trạch Đông và cộng sản Trung Quốc tuyên bố giúp Việt Nam vô điều kiện và vô vị lợi nhưng họ bí mật bắt Việt Nam ký nhượng biển, dâng đất. Ngoài ra Liên Xô, Trung Quốc cũng xâm chiếm các nước lân cận, thực hiện đường lối xâm lăng của đế quốc.
Khi chưa cướp được chính quyền, Lenin chỉ trích nhà nước Nga và các nước khác dùng quân đội, cảnh sát và nhân viên các cấp là không cần thiết. Ông tuyên bố bỏ cảnh sát, quân đội và nhân viên hành chánh, và trả lương cho họ bằng lương công nhân trung bình.
Abolition of the police, the army and the bureaucracy. The salaries of all officials, all of whom are elective and displaceable at any time, not to exceed the average wage of a competent worker. Lenin, April Theses (1917)
Nhưng dần dần, Lenin, Stalin tuyển mộ công an, quân đội và nhân viên hành chánh rất nhiều.để đàn áp nhân dân. Giai cấp mới hình thành, được hưởng lương bổng cao và nhiều đặc quyền đặc lợi trong khi công nhân, nông dân lãnh đồng lương chết đói.
Cộng sản nói tranh đấu cho giai cấp vô sản , xóa bỏ giai cấp nhưng chính họ bóc lột giai cấp công nông, tạo ra một giai cấp mới là bọn tư sản đỏ, trong khi họ để cho công nông chết đói hoặc sống trong nghèo khổ. Hồ Chí Minh khi ở Pháp tranh đấu cho báo chí và tự do chính trị tại Việt Nam nhưng khi cầm quyền, ông cấm tự do ngôn luận và tự do báo chí. Ông Hồ Chí Minh khi về nước kêu gọi đoàn kết toàn dân nhưng thực tế ông sát hại các đảng phái , tôn giáo và các nhân sĩ không theo ông, nhất là ông theo lệnh Stalin truy sát nhóm đệ tứ quốc tế.
Nói tóm lại, cộng sản là dối trá.Những lời tuyên bố của đảng và nhà nước cộng sản, những sách báo, luật lệ, hiệp ước. luật lệ của cộng sản chỉ là giả dối, lừa bịp.
II.3.Dụ dỗ, mua chuộc, ép buộc
Cộng sản đã dùng tiền bạc, quyền lợi để hối lộ, mua chuộc, dụ dỗ như ông Hồ đã hối lộ tướng Lư Hán. Trong CCRĐ, Hồ Chí Minh đã dụ dỗ và ép buộc nông dân tố địa chủ, bắt con tố cha, vợ tố chồng, anh em bè bạn tố cáo nhau.
Molivan Djilas đã nói lên thực trạng các văn nghệ sĩ cộng sản:
Truy bức, bôi nhọ, buộc phải tự thú một cách nhục nhã (tự phê bình) những văn nghệ sĩ chân chính, đồng thời lôi kéo những kẻ dễ bảo bằng nhuận bút cao, phần thưởng lớn, nhà lầu, xe hơi, cho các chức vụ khác nhau... - bằng các chế độ ưu tiên như thế, hệ thống cộng sản đã lựa chọn được sự tầm thường, được những người chỉ biết phục tùng và không có khả năng sáng tạo.Không có gì phải ngạc nhiên khi các văn nghệ sĩ lớn bị đặt trước sự lựa chọn giữa một cuộc sống đói khát (còn bị đe doạ suốt đời nữa) và “ân sủng” của các ông chủ, đã mất phương hướng và cùng với nó là niềm tin và sức mạnh vốn có của mình. Tự sát, tuyệt vọng, chạy trốn vào rượu chè, mất sự ổn định nội tâm, mất sự toàn vẹn của cá tính là kết quả của quá trình lừa dối và tự lừa dối - đấy là số phận của những người thực sự muốn và có thể tạo ra cái mới. (GIAI CẤP MỚI 6, 6)
II.4. Khủng bố, đàn áp
Đi đôi với dụ dỗ là khủng bố và tiêu diệt. Những ai không theo họ thì bị giết hại. Khi dân chúng nổi lên, hoặc ai có ý chống đối hoặc nghi ngờ phản kháng là bị cộng sản sẽ tiêu diệt như Stalin đã giết dân Kulaks, giết và đày các tín đồ và giáo sĩ Chính thống giáo và các tướng lãnh Hồng quân và các đại biểu nhân dân.Sự tàn sát như vậy cộng sản cho là thắng lợi nhưng chính đó là mầm hủy diệt chế độ cộng sản vì họ gây căm thù trong lòng dân và tiêu diệt nhân tài của đất nước họ. Chính sách vô sản chuyên chính chỉ sinh ra dòi bọ và vi trùng.
Richard Pipes đã nhận định về tội ác của Stalin:
Những người sống sót cũng phải gánh chịu nhiều mất mát. Nhằm tạo ra cho được sự đồng nhất các chế độ cộng sản đã bỏ tù, bắt lưu đầy và bịt miệng tất cả những người không chấp nhận cái thể chế áp đặt đó, mà đây lại thường là những người có năng lực và tháo vát nhất. Kết quả là đã diễn ra một cuộc tiến hoá giật lùi: những kẻ không thể tự lực, những kẻ chỉ biết vâng lời lại có xác suất sống còn cao nhất. Trong khi những người tháo vát, trung thực và có suy tư về xã hội thì bị giết hại. Xã hội cộng sản đã đánh mất những công dân ưu tú nhất của mình như thế đấy, và vì vậy mà họ phải lún sâu mãi trong cảnh đói nghèo. (CHU NGHĨA CỘNG SẢN VI, 6)
Stalin, Mao Trạch Đông con ếch muốn to bằng con bò, muốn vựợt Mỹ, Anh đã bắt công nhân làm việc quá sức lại bỏ đói họ, kết quả các kế hoạch năm năm, mười năm và "Bước nhảy vọt" đã khiến mấy triệu người chết đói. Đặng Tiểu Bình dùng xe tăng giết sinh viên trong vụ Thiên An môn, và Hồ Chí Minh giết các đảng viên quốc gia và cộng sản đệ tứ, cướp của giết người trong CCRĐ, đọa đày văn nghệ sĩ trong vụ Nhân Văn Giai phẩm. Pol Pot giết hai triệu dân gồm trí thức, phụ nữ và trẻ con Kampuchia bằng những vũ khí thô sơ.
Nói tóm lại, cộng sản là dối trá.Những lời tuyên bố của đảng và nhà nước cộng sản, những sách báo, luật lệ, hiệp ước. luật lệ của cộng sản chỉ là giả dối, lừa bịp.
II.3.Dụ dỗ, mua chuộc, ép buộc
Cộng sản đã dùng tiền bạc, quyền lợi để hối lộ, mua chuộc, dụ dỗ như ông Hồ đã hối lộ tướng Lư Hán. Trong CCRĐ, Hồ Chí Minh đã dụ dỗ và ép buộc nông dân tố địa chủ, bắt con tố cha, vợ tố chồng, anh em bè bạn tố cáo nhau.
Molivan Djilas đã nói lên thực trạng các văn nghệ sĩ cộng sản:
Truy bức, bôi nhọ, buộc phải tự thú một cách nhục nhã (tự phê bình) những văn nghệ sĩ chân chính, đồng thời lôi kéo những kẻ dễ bảo bằng nhuận bút cao, phần thưởng lớn, nhà lầu, xe hơi, cho các chức vụ khác nhau... - bằng các chế độ ưu tiên như thế, hệ thống cộng sản đã lựa chọn được sự tầm thường, được những người chỉ biết phục tùng và không có khả năng sáng tạo.Không có gì phải ngạc nhiên khi các văn nghệ sĩ lớn bị đặt trước sự lựa chọn giữa một cuộc sống đói khát (còn bị đe doạ suốt đời nữa) và “ân sủng” của các ông chủ, đã mất phương hướng và cùng với nó là niềm tin và sức mạnh vốn có của mình. Tự sát, tuyệt vọng, chạy trốn vào rượu chè, mất sự ổn định nội tâm, mất sự toàn vẹn của cá tính là kết quả của quá trình lừa dối và tự lừa dối - đấy là số phận của những người thực sự muốn và có thể tạo ra cái mới. (GIAI CẤP MỚI 6, 6)
II.4. Khủng bố, đàn áp
Đi đôi với dụ dỗ là khủng bố và tiêu diệt. Những ai không theo họ thì bị giết hại. Khi dân chúng nổi lên, hoặc ai có ý chống đối hoặc nghi ngờ phản kháng là bị cộng sản sẽ tiêu diệt như Stalin đã giết dân Kulaks, giết và đày các tín đồ và giáo sĩ Chính thống giáo và các tướng lãnh Hồng quân và các đại biểu nhân dân.Sự tàn sát như vậy cộng sản cho là thắng lợi nhưng chính đó là mầm hủy diệt chế độ cộng sản vì họ gây căm thù trong lòng dân và tiêu diệt nhân tài của đất nước họ. Chính sách vô sản chuyên chính chỉ sinh ra dòi bọ và vi trùng.
Richard Pipes đã nhận định về tội ác của Stalin:
Những người sống sót cũng phải gánh chịu nhiều mất mát. Nhằm tạo ra cho được sự đồng nhất các chế độ cộng sản đã bỏ tù, bắt lưu đầy và bịt miệng tất cả những người không chấp nhận cái thể chế áp đặt đó, mà đây lại thường là những người có năng lực và tháo vát nhất. Kết quả là đã diễn ra một cuộc tiến hoá giật lùi: những kẻ không thể tự lực, những kẻ chỉ biết vâng lời lại có xác suất sống còn cao nhất. Trong khi những người tháo vát, trung thực và có suy tư về xã hội thì bị giết hại. Xã hội cộng sản đã đánh mất những công dân ưu tú nhất của mình như thế đấy, và vì vậy mà họ phải lún sâu mãi trong cảnh đói nghèo. (CHU NGHĨA CỘNG SẢN VI, 6)
Stalin, Mao Trạch Đông con ếch muốn to bằng con bò, muốn vựợt Mỹ, Anh đã bắt công nhân làm việc quá sức lại bỏ đói họ, kết quả các kế hoạch năm năm, mười năm và "Bước nhảy vọt" đã khiến mấy triệu người chết đói. Đặng Tiểu Bình dùng xe tăng giết sinh viên trong vụ Thiên An môn, và Hồ Chí Minh giết các đảng viên quốc gia và cộng sản đệ tứ, cướp của giết người trong CCRĐ, đọa đày văn nghệ sĩ trong vụ Nhân Văn Giai phẩm. Pol Pot giết hai triệu dân gồm trí thức, phụ nữ và trẻ con Kampuchia bằng những vũ khí thô sơ.
Nói tóm lại, Cộng sản nhắm khủng bố tinh thần & hành hạ thể xác nhân dân bằng nhiều biện pháp:
+Tù đày
+chém giết
+Rút phép thông công
+Chính sách hộ khẩu và lương thực
+Bắt học tập chính trị, viết kiểm điểm
+Ép buộc nạn nhận tự thú, bắt bạn bè, anh em tố cáo nạn nhân khiến nạn nhân phải bịa tội mà nhận tội để tránh bị hành hạ dài hạn. Thủ đoạn này, Stalin đã dùng cho các đồng chí ông, các tướng của Hồng quân Liên Xô, các đại biểu và các bộ trưởng trong chính phủ. Khi họ phải nhận những tội mà họ không làm là tạo lý do cho Stalin xử tử họ. Chính sách khủng bố, tra tấn của Vệ binh đỏ của Mao Trạch Đông đã làm cho số đông nguời nhảy lầu hay bị đánh chết rối xô xuống lầu tại Thượng Hải trong đó có con trai Đặng Tiểu Bình!
Cộng sản Việt Nam đã dùng ban ám sát để giết hại các đảng viên quốc gia. Chúng áp dụng luật giang hồ của các bang hội Trung Quốc thủ tiêu các đảng viên của họ như việc Tôn Đức Thắng giết Lê Văn Phát, đảng viên cộng sản thuộc Xứ Ủy Nam Kỳ ngay thời hoạt động bí mật. [5]
II.5. Lừa đảo, dối trá
Cộng sản sống bằng các thủ đoạn dối trá.Lịch sử đã chứng minh rằng cộng sản bao giờ cũng gian trá.Triết lý, đường lối thông tin tuyên truyền, giáo dục, văn học nghệ thuật của cộng sản là gian trá.Chính Marx, Lenin, Mao, Hồ mượn danh tranh đấu cho vô sản để bắt vô sản và toàn dân làm nô lệ cho cộng sản.Cộng sản cho rằng Liên Xô đã chiến thắng phát xít mà không nói đến công lao của Mỹ trong việc đánh phát xít và viện trợ nhất là viện trợ lúa mì cho Liên Xô. Cộng sản Việt Nam chỉ nói đến công lao của cộng sản mà bỏ qua công lao của các đảng phái quốc gia chống Pháp.
Khmer đỏ hứa hẹn với dân chúng là sẽ thực hiện hòa hợp, hòa giải, không trả thù những người quốc gia nhưng khi vào Pnom Penh, Miên cộng liền hạ lệnh đuổi dân ra khỏi thành phố và giết già trẻ trai gái.
Cộng sản Việt Nam cũng có lắm trò gian manh, dối trá. Ông Hồ Chí Minh đã lừa bán Phan Bội Châu, lừa nhân dân Việt Nam trong những ngày đầu tiên với chiêu bài toàn dân đoàn kết chống Pháp. Ông đã lộ bộ mặt gian giảo, phản bội khi giết hại các đảng phái, sát hại nhân dân và đảng viên trong CCRD, Cải tạo công thương nghiệp và Chỉnh Đốn đảng. Cụ thể là bọn Giải Phóng Miền Nam nghe lời cộng sản dụ dỗ kết cuộc là bị đánh đuổi, một số quy hàng, một số chạy ra ngoại quốc như Châu Tâm Luân, Trương Như Tảng, Đoàn Văn Toại v. .Thích Nhất Hạnh theo cộng sản nhưng kết cuộc bị cướp sạch.
+Tù đày
+chém giết
+Rút phép thông công
+Chính sách hộ khẩu và lương thực
+Bắt học tập chính trị, viết kiểm điểm
+Ép buộc nạn nhận tự thú, bắt bạn bè, anh em tố cáo nạn nhân khiến nạn nhân phải bịa tội mà nhận tội để tránh bị hành hạ dài hạn. Thủ đoạn này, Stalin đã dùng cho các đồng chí ông, các tướng của Hồng quân Liên Xô, các đại biểu và các bộ trưởng trong chính phủ. Khi họ phải nhận những tội mà họ không làm là tạo lý do cho Stalin xử tử họ. Chính sách khủng bố, tra tấn của Vệ binh đỏ của Mao Trạch Đông đã làm cho số đông nguời nhảy lầu hay bị đánh chết rối xô xuống lầu tại Thượng Hải trong đó có con trai Đặng Tiểu Bình!
Cộng sản Việt Nam đã dùng ban ám sát để giết hại các đảng viên quốc gia. Chúng áp dụng luật giang hồ của các bang hội Trung Quốc thủ tiêu các đảng viên của họ như việc Tôn Đức Thắng giết Lê Văn Phát, đảng viên cộng sản thuộc Xứ Ủy Nam Kỳ ngay thời hoạt động bí mật. [5]
II.5. Lừa đảo, dối trá
Cộng sản sống bằng các thủ đoạn dối trá.Lịch sử đã chứng minh rằng cộng sản bao giờ cũng gian trá.Triết lý, đường lối thông tin tuyên truyền, giáo dục, văn học nghệ thuật của cộng sản là gian trá.Chính Marx, Lenin, Mao, Hồ mượn danh tranh đấu cho vô sản để bắt vô sản và toàn dân làm nô lệ cho cộng sản.Cộng sản cho rằng Liên Xô đã chiến thắng phát xít mà không nói đến công lao của Mỹ trong việc đánh phát xít và viện trợ nhất là viện trợ lúa mì cho Liên Xô. Cộng sản Việt Nam chỉ nói đến công lao của cộng sản mà bỏ qua công lao của các đảng phái quốc gia chống Pháp.
Khmer đỏ hứa hẹn với dân chúng là sẽ thực hiện hòa hợp, hòa giải, không trả thù những người quốc gia nhưng khi vào Pnom Penh, Miên cộng liền hạ lệnh đuổi dân ra khỏi thành phố và giết già trẻ trai gái.
Cộng sản Việt Nam cũng có lắm trò gian manh, dối trá. Ông Hồ Chí Minh đã lừa bán Phan Bội Châu, lừa nhân dân Việt Nam trong những ngày đầu tiên với chiêu bài toàn dân đoàn kết chống Pháp. Ông đã lộ bộ mặt gian giảo, phản bội khi giết hại các đảng phái, sát hại nhân dân và đảng viên trong CCRD, Cải tạo công thương nghiệp và Chỉnh Đốn đảng. Cụ thể là bọn Giải Phóng Miền Nam nghe lời cộng sản dụ dỗ kết cuộc là bị đánh đuổi, một số quy hàng, một số chạy ra ngoại quốc như Châu Tâm Luân, Trương Như Tảng, Đoàn Văn Toại v. .Thích Nhất Hạnh theo cộng sản nhưng kết cuộc bị cướp sạch.
Cộng sản lừa đối nhân dân. Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh gian ác thì bọn cộng sản Nga, Tàu và Viễt Nam tôn xưng là lãnh tụ anh minh, đạo đức cách mạng. Trong sử sách, báo chí, đài phát thanh, truyền hình, trong học đường chúng che giấu sự thật. Chúng đề cao Liên Xô đánh thắng Phát xit mà không đề cập đến Mỹ. Trong lịch sử Trung Quốc, bọn cộng sản cho rằng Việt Nam và một số nước khác thuộc đất Trung Quốc. Trong sử sách Việt Nam, cộng sản chỉ nói đến công lao cộng sản mà không đề cập đến các đảng phái quốc gia và người quốc gia chống Pháp. Cộng sản Việt Nam nhồi sọ sinh viên học sinh bằng văn thơ Hồ Chí Minh và Tố Hữu mà không đề cập hoặc đề cập sơ sài các phong trào, và các tác giả khác.
Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam tuyên bố tình hữu nghị, viện trợ vô vụ lợi nhưng chính họ cướp đất và biển Việt Nam, và chính Hồ Chí Minh đã bán nước để mong Nga Hoa viện trợ. Cho đến sau này, sau khi Trung Cộng chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, xâm lấn Bản Giốc, Nam Quan, một số người mới biết việc Hồ Chí Minh và đảng cộng sản bán nước hại dân. Lịch sử cộng sản là lịch sử của dối trá và tàn sát.
Richard Pipes viết về Gorbachev và Yelsin như sau:
Chuyến thăm Mĩ vào năm 1989 cũng gây ấn tượng tương tự như thế đối với Boris Yeltsin, đối thủ tương lai của Gorbachev và Tổng thống dân cử đầu tiên của nước Nga độc lập. Chuyến thăm là “một loạt những sự đổ vỡ” các quan niệm cổ lỗ, sáo mòn. Khi thăm siêu thị ở Houston ông ta đã phải thốt lên: “Chúng còn lừa đồng bào tôi đến bao giờ nữa!”. Người đồng hành với Yeltsin nghĩ rằng những điều mắt thấy tai nghe đã đập tan niềm tin cộng sản còn sót lại của ông ta.. (CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN III,9)
III. CÁC CÔNG CỤ CHUYÊN CHÍNH
III.1. Lực lượng công an và vũ trang
Nước nào cũng có quân đội và công an nhưng quân đội và công an cộng sản tàn bạo và dã man nhất thế giới.Cộng sản chỉ trích chế độ quân chủ Pháp vàNga tốn nhiều tiền bạc để tổ chức quân đội và cảnh sát nhưng chính cộng sản lại có nhiều công an và cảnh sát. Tại các khu phố, mỗi công an theo dõi năm hoặc 10 hộ nhân dân. Bất cứ chỗ nào cũng có công an chìm dày đặc. Nhà trường, chợ búa, phố xá, co quan, nhà chùa, nhà thờ, bến xe. .. đều có công an theo dõi. Công an vận y phục tu sĩ đóng chốt trong các tu viện.
Richard Pipes cho biết lực lượng công an Liên Xô rất mạnh:
Người ta đã tính được rằng vào cuối những năm 1980, KGB có tổng cộng 480.000 nhân viên, trong đó khoảng 250.000 người và hàng chục triệu chỉ điểm viên chuyên làm công tác phản gián và theo dõi các công dân trong nước. (CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN III, 9)
Công an bắt người không cần lý do, họ muốn giết ai là tùy thich, không cần bằng chứng, không cần tòa án và không cần giấu giếm hành vi man rơ.Trần Độ chú trọng phân tích về công an cộng sản Việt Nam như sau:Nó được trang bị tất cả những công cụ khủng bố hiện đại và phong phú hơn cả các lực lượng bảo vệ chế độ cũ (phong kiến và thực dân) như dùi cui, súng, vòi rồng phun nước, hơi cay, khiên và côn, xe phân khối lớn, chó nghiệp vụ v.v... Nó có một hệ thống trụ sở, đồn, nhà giam và nhà tù và đều là những chỗ đáng sợ, ít ai vui vẻ muốn tới đó. Trình độ nghiệp vụ của nó rất cao: thẩm vấn, hỏi cung, theo dõi, điều tra, phong tỏa thư tín, nghe trộm điện thoại v.v... yêu cầu dân và tìm người đưa tin chỉ điểm.
Hỏi cung thì mớm cung, gài bẫy, tạo chứng cớ, bắt nọn và hành hạ người bị hỏi cung rất kịch liệt và dài ngày. Tất cả những điều nói trên đều là những điều mà khi ta chưa có chính quyền thì ta nguyền rủa, chống đối, khinh bỉ. Lúc đó những chữ mật thám, tay sai, chỉ điểm được nhắc đến như những gì xấu xa và lý tưởng của ta là quét sạch nó như quét sạch những rác rưởi ở chợ. Mà ngày nay ta lại sử dụng nó tích cực và ca ngợi, bênh vực nó ghê gớm. (MỘT CÁI NHÌN TRỞ LẠI 2 ,3)
Trần Độ là nạn nhân của chế độ do ông xây dựng. Ông đã nói lên sự thực:
Tôi cũng cho rằng, cần phải truất bỏ ngay những thủ đoạn của các cơ quan Công an như:
•Quản chế khi không đủ lý lẽ và chứng cớ để kết tội (Hà Sỹ Phu, Mai Thái Lĩnh)• Bắt giam người vô tội vạ (Nguyễn Thanh Giang trước đây). Đón bắt dọc đường như bắt cóc (gần đây: Vũ Cao Quận- Hải Phòng)
• Cho công an, những chú nhỏ đáng tuổi cháu nội, cháu ngoại đến nhà hạch sách, đòi gọi các cụ nhiều lần (Lê Hồng Hà, Hoàng Minh Chính).
• Khám nhà lấy tài liệu, cả khi vắng mặt (Vũ Cao Quận), và giữa đêm hôm (Lê Hồng Hà).
• Theo dõi, nghe trộm điện thoại, phá rối điện thoại, ngăn chặn điện thoại một cách tuỳ tiện, xâm phạm quyền thông tin và thư tín. (Hoàng Minh Chính, Trần Độ)
v. v…v. v…
Những hành vi đó không chỉ mất dân chủ, phi luật pháp, xâm phạm quyền tự do công dân, mà còn là những hành vi man rợ, vô văn hoá, bất lịch sự, rất đáng lên án và phỉ nhổ. (TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN V, 7)
Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam tuyên bố tình hữu nghị, viện trợ vô vụ lợi nhưng chính họ cướp đất và biển Việt Nam, và chính Hồ Chí Minh đã bán nước để mong Nga Hoa viện trợ. Cho đến sau này, sau khi Trung Cộng chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, xâm lấn Bản Giốc, Nam Quan, một số người mới biết việc Hồ Chí Minh và đảng cộng sản bán nước hại dân. Lịch sử cộng sản là lịch sử của dối trá và tàn sát.
Richard Pipes viết về Gorbachev và Yelsin như sau:
Chuyến thăm Mĩ vào năm 1989 cũng gây ấn tượng tương tự như thế đối với Boris Yeltsin, đối thủ tương lai của Gorbachev và Tổng thống dân cử đầu tiên của nước Nga độc lập. Chuyến thăm là “một loạt những sự đổ vỡ” các quan niệm cổ lỗ, sáo mòn. Khi thăm siêu thị ở Houston ông ta đã phải thốt lên: “Chúng còn lừa đồng bào tôi đến bao giờ nữa!”. Người đồng hành với Yeltsin nghĩ rằng những điều mắt thấy tai nghe đã đập tan niềm tin cộng sản còn sót lại của ông ta.. (CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN III,9)
III. CÁC CÔNG CỤ CHUYÊN CHÍNH
III.1. Lực lượng công an và vũ trang
Nước nào cũng có quân đội và công an nhưng quân đội và công an cộng sản tàn bạo và dã man nhất thế giới.Cộng sản chỉ trích chế độ quân chủ Pháp vàNga tốn nhiều tiền bạc để tổ chức quân đội và cảnh sát nhưng chính cộng sản lại có nhiều công an và cảnh sát. Tại các khu phố, mỗi công an theo dõi năm hoặc 10 hộ nhân dân. Bất cứ chỗ nào cũng có công an chìm dày đặc. Nhà trường, chợ búa, phố xá, co quan, nhà chùa, nhà thờ, bến xe. .. đều có công an theo dõi. Công an vận y phục tu sĩ đóng chốt trong các tu viện.
Richard Pipes cho biết lực lượng công an Liên Xô rất mạnh:
Người ta đã tính được rằng vào cuối những năm 1980, KGB có tổng cộng 480.000 nhân viên, trong đó khoảng 250.000 người và hàng chục triệu chỉ điểm viên chuyên làm công tác phản gián và theo dõi các công dân trong nước. (CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN III, 9)
Công an bắt người không cần lý do, họ muốn giết ai là tùy thich, không cần bằng chứng, không cần tòa án và không cần giấu giếm hành vi man rơ.Trần Độ chú trọng phân tích về công an cộng sản Việt Nam như sau:Nó được trang bị tất cả những công cụ khủng bố hiện đại và phong phú hơn cả các lực lượng bảo vệ chế độ cũ (phong kiến và thực dân) như dùi cui, súng, vòi rồng phun nước, hơi cay, khiên và côn, xe phân khối lớn, chó nghiệp vụ v.v... Nó có một hệ thống trụ sở, đồn, nhà giam và nhà tù và đều là những chỗ đáng sợ, ít ai vui vẻ muốn tới đó. Trình độ nghiệp vụ của nó rất cao: thẩm vấn, hỏi cung, theo dõi, điều tra, phong tỏa thư tín, nghe trộm điện thoại v.v... yêu cầu dân và tìm người đưa tin chỉ điểm.
Hỏi cung thì mớm cung, gài bẫy, tạo chứng cớ, bắt nọn và hành hạ người bị hỏi cung rất kịch liệt và dài ngày. Tất cả những điều nói trên đều là những điều mà khi ta chưa có chính quyền thì ta nguyền rủa, chống đối, khinh bỉ. Lúc đó những chữ mật thám, tay sai, chỉ điểm được nhắc đến như những gì xấu xa và lý tưởng của ta là quét sạch nó như quét sạch những rác rưởi ở chợ. Mà ngày nay ta lại sử dụng nó tích cực và ca ngợi, bênh vực nó ghê gớm. (MỘT CÁI NHÌN TRỞ LẠI 2 ,3)
Trần Độ là nạn nhân của chế độ do ông xây dựng. Ông đã nói lên sự thực:
Tôi cũng cho rằng, cần phải truất bỏ ngay những thủ đoạn của các cơ quan Công an như:
•Quản chế khi không đủ lý lẽ và chứng cớ để kết tội (Hà Sỹ Phu, Mai Thái Lĩnh)• Bắt giam người vô tội vạ (Nguyễn Thanh Giang trước đây). Đón bắt dọc đường như bắt cóc (gần đây: Vũ Cao Quận- Hải Phòng)
• Cho công an, những chú nhỏ đáng tuổi cháu nội, cháu ngoại đến nhà hạch sách, đòi gọi các cụ nhiều lần (Lê Hồng Hà, Hoàng Minh Chính).
• Khám nhà lấy tài liệu, cả khi vắng mặt (Vũ Cao Quận), và giữa đêm hôm (Lê Hồng Hà).
• Theo dõi, nghe trộm điện thoại, phá rối điện thoại, ngăn chặn điện thoại một cách tuỳ tiện, xâm phạm quyền thông tin và thư tín. (Hoàng Minh Chính, Trần Độ)
v. v…v. v…
Những hành vi đó không chỉ mất dân chủ, phi luật pháp, xâm phạm quyền tự do công dân, mà còn là những hành vi man rợ, vô văn hoá, bất lịch sự, rất đáng lên án và phỉ nhổ. (TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN V, 7)
III.2.Tòa án
Milovan Djilas phân tích rất kỹ về tòa án và pháp luật cộng sản:
Luật pháp được soạn thảo do nhu cầu và quyền lợi của đảng, của giai cấp mới. Về mặt hình thức pháp luật bảo vệ quyền lợi của tất cả công dân nhưng trên thực tế nó chỉ bảo vệ quyền lợi của những người không bị coi là “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”(. . .) . Như vậy là các vụ án chính trị trong chế độ cộng sản chỉ là những cuộc trình diễn, nghĩa là toà án được giao nhiệm vụ chứng minh “tội lỗi” của bị cáo phù hợp với yêu cầu của những kẻ đương quyền. Nói các khác, toà án có trách nhiệm đưa những kết luận chính trị đã được chuẩn bị trước vào trong khung pháp luật hiện hành.
Luật pháp được soạn thảo do nhu cầu và quyền lợi của đảng, của giai cấp mới. Về mặt hình thức pháp luật bảo vệ quyền lợi của tất cả công dân nhưng trên thực tế nó chỉ bảo vệ quyền lợi của những người không bị coi là “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”(. . .) . Như vậy là các vụ án chính trị trong chế độ cộng sản chỉ là những cuộc trình diễn, nghĩa là toà án được giao nhiệm vụ chứng minh “tội lỗi” của bị cáo phù hợp với yêu cầu của những kẻ đương quyền. Nói các khác, toà án có trách nhiệm đưa những kết luận chính trị đã được chuẩn bị trước vào trong khung pháp luật hiện hành.
Trong cách xử này việc thú nhận của bị cáo đóng một vai trò quan trọng (có thể là quan trọng nhất). Bị cáo phải tự nhận là kẻ thù. Không cần chứng cớ gì hết, chứng cớ được thay bằng lời thú tội của chính bị cáo.
Cái gọi là “Những vụ án Moskva” chỉ là những thí dụ lố bịch và đẫm máu nhất của trò hề về pháp luật trong chế độ cộng sản mà thôi. Các vụ việc cụ thể cũng như mức án chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Các vụ án chính trị được bày đặt như thế nào?
Đầu tiên cảnh sát mật, theo “gợi ý” của cán bộ đảng, “phát hiện” được một người nào đó là kẻ thù của chế độ, là cái gai của chính quyền vì anh ta công khai bảo vệ một quan điểm nào đó hoặc anh thảo luận quan điểm đó với bạn bè của mình. Nếu việc “phát hiện” thành công thì sẽ đến giai đoạn hai, giai đoạn đưa nạn nhân vào bẫy. Người ta sẽ sử dụng một kẻ khiêu khích để thu thập những “bằng chứng có tính chất phá hoại” hoặc doạ dẫm một kẻ nào đó và bắt phải kí những tài liệu vu khống mà cảnh sát đưa cho. Đa số các tổ chức bí mật là do chính cảnh sát lập ra để bẫy các phần tử bất đồng ý kiến. Chế độ cộng sản không tìm cách ngăn chặn mà ngược lại còn cố tình đẩy các công dân “không đáng” tin đến những hành động sai trái và tội lỗi khác nhau để trừng phạt họ.
Stalin đã làm như vậy, có cả tra tấn và không cần toà án. Ngay cả trong trường hợp có toà án và không tra tấn thì thực chất cũng vẫn thế: cộng sản thanh toán những người chống đối mình không phải vì họ vi phạm pháp luật mà chỉ vì họ là những phần tử chống đối. Vì vậy có thể nói rằng: đa số tù nhân chính trị thực chất là những người chống đối chế độ, nhưng theo quan điểm của luật pháp thì họ không phải là tội phạm. Nhưng người cộng sản lại cho rằng họ đáng bị trừng phạt dù không có cơ sở pháp lí để làm chuyện đó. (GIAI CẤP MỚI 5, 1)
III.3. Phương tiện truyền thông
Cộng sản duy vật nhưng họ chú trọng về tinh thần và tâm lý con người. Cán bộ cộng sản tuyên truyền xảo trá, luôn thổi phồng bịa đặt, tạo ra những huyền thoại như Lê Văn Tám, Kim Đồng. Ông Hồ đã giả danh Trần Dân Tiên, T. Lan để đề cao ông. Trong các bản tin, ông sản luôn kết luận ta thắng địch thua. Cộng sản thổi phồng thành tích như năng suất năm tấn lúa ở Thái Bình.
Trần Độ nhận định về bộ thông tin tuyên truyền cộng sản như sau:
Một là Bộ máy văn hoá thông tin rất hùng hậu với 600-700 tờ báo viết và hàng trăm đài phát thanh truyền hình, một hệ thống trường học hùng hậu để nhồi sọ chính trị, hàng nghìn báo cáo viên với những “lưỡi gỗ”, “nói lấy được”, để ngu hoá và mê hoặc nhân dân. Bộ máy này được trang bị hiện đại và đầy đủ, có quyền lực và tha hồ nói láo. (TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN IV,3)
III.4. Giáo dục
Cộng sản duy vật nhưng lại chú trọng giáo dục. Lenin nói:
-Cho tôi bốn năm để dạy trẻ, và những hạt tôi gieo trồng sẽ không bị tróc gốc"
-Để tôi huấn luyện trẻ con trong 8 năm thì chúng sẽ trở thành những người cộng sản [ 6]
Lenin chú trọng giáo dục nhưng với mục đích khác.Quân chủ và tư bản coi giáo dục là đào tạo nhân tài cho đất nước , dù cho những người đó ở giai cấp nào, để phục vụ quốc gia, trong khi cộng sản chỉ nhắm đào tạo thanh thiếu niên thành những người cộng sản, nghĩa là thành những ngưởi nuôi hận thù, tranh đấu, giết chóc, và tham nhũng. Mục đích của Lenin là bảo vệ ngai vàng của ông nhưng chế độ cộng sản của ông cũng chung số phận của triều đại Tần Thủy hoàng không thể trường sinh bất tử và lưu truyền vạn thế.
Nếu quân chủ không đào tạo thành những người tài đức song toàn thì họ cũng đào tạo được những người có học vấn, có văn chương, có chuyên môn, nhưng cộng sản với chính sách ngu dân chỉ đào tạo đa số những người ngu dốt, hống hách, gian tham và bóc lột, trộm cướp. Vì mục đich đào tạo lưc lượng cộng sản, cho nên họ nâng đỡ giai cấp vô sản, chọn người vô sản cho nên giáo dục càng xuống cấp, không đào tạo những kỹ sư, bác sĩ giỏi., mà tạo những bác sĩ chỉ cho aspirin, Vitamin B,C, và viết không nổi toa thuốc.
Đó là do chính sách hồng hơn chuyên .Chuyên tu, tại chức, trí thức hoá vô sản chỉ tạo ra một nền giáo dục hình thức. Việc đảng ủy cướp quyền của giáo sư , tự ý cho đỗ hoặc đánh rớt là một việc , sai lầm, bất công đưa đến tê nạn sinh viên học sinh kém, và mua bán bằng giả phổ biến từ trung học cho đến cấp tiến sĩ . Việc đem văn chương để tuyên truyền chính trị chỉ làm cho nhân dân chán văn chương, nghệ thuật.
Giáo dục của cộng sản còn mang ý nghĩa khác. Giáo dục, cải tạo nghĩa là dùng các thủ đoạn, phương pháp để bắt người sợ hãi mà quy phục, hoặc bưng tai, che mắt, tạo thành những tập quán cộng sản, tù đày, bắt sinh viên trí thức đi lao động thục tế, tẩy não, học tập chính trí, tuyên truyền lừa dối, bắt trẻ con mang khăn đỏ, ca tụng lãnh đạo, nhồi nét chính trị Marxist. Ngoài ra,
cộng sản bắt chước Nga, dùng kỹ thuật tâm lý để khủng bố nhân dân. Lenin đã áp dụng nghệ thuật tuyên truyền lừa dối để mong lộng giả thành chân. Lenin nói: Một điều dối trá được nhắc lại nhiều lần sẽ biến thành sự thực. [7] Cộng sản áp dụng kỹ thuật của Pavlov (1849-1936) về phản ứng có điều kiện để tuyên truyền và hành hạ nhân dân.
Lenin tin rằng sự tuyên truyền nhồi sọ là hữu ích cho quyền lợi công sản. Cộng sản muốn bãi bỏ gia đình vì vợ con là tư hữu mà họ nghĩ là cần phải bãi bỏ. Ngoài mục đích cộng sản hóa, diệt trừ tư hữu, cộng sản còn muốn cướp con cái nhân dân biến thành tôi tớ của đảng, biến chúng thành những cộng sản ngoan ngoản mù quáng hết lòng tôn thờ Marx, Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông. . . Giáo dục của cộng sản là tuyên truyền, nhồi sọ, làm ngu dân cho nên không đào tạo trí thức tài ba như Âu Mỹ.Cộng sản ban đầu khinh bỉ, thù hận trí thức nên Nga đã giết, tống xuất các trí thức để sau phải thuê chuyên viên tư bản trong kỹ nghệ. Mao coi khinh trí thức như cục phân, đề cao lao động chân tay, thù hận máy móc như Đặng Tiểu Bình lại chủ trương bốn hiện đại hóa trong đó khoia học, kỹ thuật là then chốt.
Cộng sản Việt Nam coi khinh khoa bảng. Những ai sống trong chế độ cộng sản lấy lý lịch bần nông làm bậc thang danh vọng nhưng khoảng 2000, cộng sản đi đó đi đây, thấy lãnh đạo nước người, ai cũng cử nhân, tiến sĩ cho nên bây giờ họ phong cho nhau hàng loạt tiến sĩ ma.
Cộng sản lấy chính trị làm mục tiêu cho nên thất bại trong kinh tế, giáo dục và văn hóa. Họ thái quá cho nên bất cập. Họ cũng có nhiều quan niệm sai lầm về giáo dục.
Đời nào cũng cần giáo dục nhưng giáo dục chỉ có một phần ảnh hưởng chứ không phải là tất cả. Tôn giáo nào cũng dạy điều lành mà có mấy ai làm lành? Ngay cả những tu sĩ cũng có nhiều kẻ bất lương! Nhưng tất cả những điều trên chỉ thành công rất hạn chế ở một số người tinh thần yếu và kiến thức kém. Những việc tẩy não, dạy chính trị, triết lý Marx -Lenin là việc vô ích. Dân chúng phải cúi đầu, những tù nhân phải câm nín vì họ phải nuốt uất hận chứ không phải họ thật tâm hàng phục. Cộng sản nói đạo đức c ách mạng nhưng mấy ai có đạo đức. Ông Hồ bán Phan Bội Châu, giết Nông thị Xuân và bán nước thì làm sao mà bọn đàn em có đạo đức? Ông Gorbachev, Yeltsin, Đặng Tiểu Bình, Triệu Tử Dương, Trần Xuân Bách, Nguyễn Kiến Giang há đã được đào tạo trong lò cộng sản nhưng sao họ chống Stalin, Mao Trạch Đông và đường lối Marx-Lenin?
Những văn nghệ sĩ một số bên ngoài ngoan ngoản theo đảng nhưng bên trong họ đã phản khảng như Hồ Dzếnh, Chế Lan Viên, Nguyễn Khải, Tô Hải .Chỉ có việc truyền dạy cái ác là dễ vì lên dốc khó mà xuống dốc rất dễ. Cộng sản đã thành công khi tuyên truyền, giáo dục thù hận, và dạy kỹ thuật cướp của giết người nhưng cộng sản không dạy văn minh và từ bi, bác ái. Cộng sản bắt chước Đức Quốc xã đào tạo thiếu nhi thành đồ tể. Cộng sản bắt chước Trung Hoa tru di tam tộc, điều tra lý lịch ba đời, và kết tội phong kiến , tư bản hoặc liên hệ ngoại quốc nhưng họ đã lầm vì giáo dục, gia đình, xã hội không có ảnh hưởng nhiều đến cá nhân. Trong khi dân Pháp chống Đức thì thống chế Petain theo Đức.
Trong khi vua Trần kháng chiến chống Nguyên thì Trần Ích Tắc theo Mông Cổ. Những thanh niên Việt Nam theo học Pháp thì có kẻ theo Pháp như Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh những vẫn có những kẻ chống Pháp như Bùi Quang Chiêu, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu. Marx và Engels con nhà tư bản lại chống tư bản là tại sao? Điều này cho thấy giáo dục chỉ có tác dụng một phần.
Tóm lại chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa đệ nhất gian manh ,tàn ác trong lịch sử nhân loại.
____
[1].+The best way to destroy the capitalist system is to debauch the currency
+The way to crush the bourgeoisie is to grind them between the millstones of taxation and inflation. http://www.brainyquote.com/quotes/authors/v/vladimir_ilyich_lenin.html
(The Economic Consequences of the Peace.J.M.Keynes, 1919.Chapter6, Europe After the Treaty.books.google.ca/books?isbn=1905641850...
[2].Một ký thóc sau khi xay giã thì còn hơn nửa ký gạo, được khoảng hai lon sữa bò . Người nông dân chỉ ăn được một bữa, người thành thị ăn được hai bữa.Còn công nhân viên cộng sản, lương một tháng chỉ đủ tiêu trong mười ngày hay hai tuần.Trong khi đó, thời chiến tranh, tại miền Nam, học bổng sinh viên Đai học Sư Phạm 1500. lương công chức hạng thấp nhất 3000-4000, tô phở ba đồng, vàng 3000-5000đồng một lượng, tạ gạo khoảng 150- 200 đồng.[3].Mao, the real Mao.Short, Philip (2001). Mao: A Life. Owl Books. p. 279. ISBN 0805066381. http://books.google.com/books?id=4y6mACbLWGsC&pg=PA279& mao+a+life+%27tens+of+thousands%27+died&ei=atxASrCwG5HIyASswqVE.Jean-Luc Domenach. Chine: L'archipel oublie. (China: The Forgotten Archipelago.) Fayard, 1992. ISBN 2-213-02581-9 pg 47 (Wikipedia)
[4].When one dies, it is a tragedy. When a million die, it is a statistic.
Death solves all problems — no man, no problem. http://en.wikiquote.org/wiki/Joseph_Stalin[5]. Oscar Chapuis, 14;Vụ án mạng đường Bacbiê Sài Gòn [Archive] - DatViet.com) Trong đêm 8 rạng ngày 9 tháng 12 năm 1928, một vụ ám sát quá cổ hủ thô bạo .... Theo tờ An Nam Hướng Truyền (Echo Annamite), Tôn Đức Thắng... tuyên bố như sau:
Trong đêm 8 rạng ngày 9 tháng 12 năm 1928, một vụ ám sát quá cổ hủ thô bạo đã diễn ra trong giữa phân bộ Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội(*) ở Nam Kỳ. Lê Văn Phát (bí danh Mỹ, Lang) bị đồng chí kết án tử hình vì tội phản bội, theo điều lệ của đảng, vì anh ta "ve vãn người chị em của chúng ta là Thị Nhứt". Tội của Phát là "không gạt bỏ tình riêng để toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng". Ba người trong số các đồng chí trẻ nhất của Phát (23, 24 và 26 tuổi) phải thi hành án quyết đã được tòa án cách mạng chuẩn y. Tôn Đức Thắng chủ trì tòa án, lúc đó 40 tuổi, đứng đầu kỳ bộ. Vì đâu, (vì tự ái, vì ghen tương?) án quyết thủ tiêu một đồng chí không tương xứng với "lỗi lầm", bí mật ấy vẫn âm u trong bóng tối.
Một vụ sát nhân chính thức, ba nạn nhân cùng một lúc, đáp lại vụ ám sát trên: Tòa đại hình Sài Gòn ngày 15 tháng 7 năm 1930 kết án tử hình ba người thi hành án quyết trên kia. Tòa chỉ tuyên phạt Tôn Đức Thắng (người sau này kế vị chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1969) 20 năm tù khổ sai, và Phạm Văn Đồng (về sau là thủ tướng của chính phủ Hồ Chí Minh) 10 năm tù cấm cố. Hai mươi ba người khác trong phân bộ phải chịu án tù tổng cộng 100 năm. Phân bộ Thanh Niên Nam Kỳ hoàn toàn tan vỡ.
Hai năm năm tháng sau vụ ám sát, trong hoàn cảnh phong trào nông dân thoái trào và thời kỳ khủng bố trắng, bọn cầm quyền bí mật chuẩn bị hành quyết những người bị kết án tử trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng 5 năm 1931.
Máy chém dựng sồ sộ trước cổng Khám Lớn Sài Gòn, lính cảnh sát xếp hàng dày đặc ngăn đón các con đường, chánh sở mật thám có mặt tại đó, tay lăm lăm khẩu súng lục. Vào lúc bốn giờ sáng, ba cái đầu người cách mạng trẻ tuổi rơi xuống sau tiếng hô cuối cùng "Đả đảo đế quốc Pháp".
Trong giờ liền theo đó trong Khám Lớn, tù chính trị - kể cả tù đàn bà - nổi lên phản đối: "Đả đảo khủng bố trắng! Đả đảo đế quốc Pháp!", rùm lên náo động cả châu thành. Nước vòi rồng chữa lữa tưới ngộp những người tù phản kháng, bọn ngục tốt táo bạo đánh đập họ, cùm chân họ vào khoen sắt.
Sử chính thức cùng truyện ký về lãnh tụ không bao giờ nhắc lại vụ sát nhân thô bỉ. Nó có thể làm lu mờ hình ảnh "người anh hùng Hắc Hải", Tôn Đức Thắng được phong danh hiệu như vậy để kỷ niệm cuộc nổi dậy tháng 4 năm 1919 trên chiến hạm Pháp mà người dân thuộc địa là Tôn Đức Thắng được đội thủy thủ Pháp chỉ định kéo lá cờ đỏ thượng lên.
Nếu ai muốn biết rõ hơn, thì đây:
Sáng ngày 9 tháng 12 năm 1928, mật thám phát hiện trong sân đàng sau căn phố số 5 đường Bacbiê, Sài Gòn, một xác người đàn ông đã bị biến dạng, mặt và tóc cháy xém, tay bị trói quặt sau lưng, họng bị cắt, ngực bị đâm hai chỗ.
Sau này người ta được biết người bị ám sát là Lê Văn Phát, đã từng là đại biểu đi dự Đại Hội lâm thời của Thanh Niên ở Hương Cảng. Sinh tại tỉnh Bến Tre, Phát làm thầy thuốc và cũng là hương lễ, một hương chức trông coi việc tế tự ở làng. Khi trở về Sài Gòn vào tháng 6 với danh nghĩa đại diện của Tổng Bộ bên cạnh Kỳ bộ Nam Kỳ - Kỳ bộ từ trước đến giờ do Tôn Đức Thắng chỉ huy. Thắng là người lớn tuổi hơn hết trong nhóm. Phát bị tòa án cách mạng do Tôn Đức Thắng chủ trì, xét xử bí mật và kết án tử hình vắng mặt. Người ta kết tội Phát "lạm dụng quyền hành do chức vụ đảng giao phó để hãm hiếp một nữ đồng chí."
Dù cho có những hình phạt nghiêm khắc theo như điều lệ qui định - mà Nguyễn Đình Tú phải nhớ kỹ khi gia nhập Thanh Niên năm 1926 - thì một hành vi không trong sáng (như uống rượu, cờ bạc, hay lui tới nhà điếm, cưới xin ngoài đảng, khước từ hoạt động chiến đấu do lãnh đạo giao phó) sẽ có thể dẫn tới bị khai trừ, chứ không phải tử hình như kẻ phản đảng (trốn sang trại địch, tự động hành động không có chỉ thị làm cho các đồng chí mất an toàn, chậm trễ thi hành chỉ thị, làm lộ bí mật của đảng, âm mưu phá đảng).
Kỳ bộ thành lập một tòa án vào đêm 29 tháng 11 gồm các đảng viên của Kỳ bộ Nam Kỳ và Tỉnh bộ Bến Tre tại nhà Bùi Văn Thêm, số 79 phố Pôlơ Bơlănsy. Trong số các thẩm phán đột xuất này có ba người là Trần Trương, Đặng Văn Sâm, Bùi Văn Thêm đã từng là thợ trong xưởng Kropff, nơi mà Tôn Đức Thắng làm cập rằng; Trần Trương và Nguyễn Tôn Nguyệt là bà con họ hàng với vợ Tôn Đức Thắng. Do đó uy tín của Thắng không phải chỉ vì có tuổi. Trước tiên ba thẩm phán trong phiên tòa đó bỏ phiếu chống tử hình. Nhưng áp lực của đa số là 5 thẩm phán kia làm xiêu lòng 3 người, họ tự lấn áp "tình cảm cá nhân" của mình đúng theo giáo lý (le catéchisme) do Quảng Châu đặt ra.
Trong số các đồng chí của Phát, ai sẽ là người thi hành án? Với nhiệm vụ khủng khiếp này, ba đồng chí trẻ tuổi nhất rút trúng thăm. Đó là Ngô Thiêm, bí thư Kỳ bộ, người Nghệ An; Nguyễn Văn Thinh, bí thư của Lê Văn Phát và là chủ bút tờ Công Nông Binh, sinh ở Gò Công; và Trần Thương, người Mỹ Tho. Họ còn phải đốt mặt Phát làm biến dạng xác chết theo sáng kiến của Thắng.
Sau đó Ngô Thiêm sang ngay Quảng Châu để báo cáo với Tổng bộ, mang theo biên bản của tòa án cách mạng. Tổng bộ phê phán bản án là "không tương xứng với lỗi lầm" rồi tuyên bố giải tán Kỳ bộ Nam Kỳ.
Mười sáu ngày sau vụ ám sát, sở mật thám nhận được tin tức do nhân viên "mật vụ ở nước ngoài" gửi về, nói đến tờ biên bản trên. Từ tháng 2 Tôn Đức Thắng đã bị bắt, rồi trong mùa hè, hơn hai chục chiến sĩ, dù có hay không dính líu tới vụ ám sát, lọt vào tay mật thám.
Một khi phát hiện xác chết, mật thám mở đầu tung mạng lưới bủa giăng vây bắt các tổ chức bí mật. Vì thế không chỉ 8 người mà là 45 người bị cáo phải đồng lượt ra trước tòa đại hình Sài Gòn, người thì bị khép tội "giết người có chủ ý trước", người thì bị cáo "âm mưu phá rối trị an nhà nước". Các trạng sư đề nghị xử riêng hai vụ việc nhưng bị bác bỏ. Tòa chỉ nhượng bộ ở một điểm là: hai vụ việc được xem xét lần lượt, và mỗi phạm nhân sẽ chỉ bị hỏi về những tội trạng mà mình có dính líu thôi. Nhưng dù sao xử án cùng một phiên tòa hai vụ việc hoàn toàn khác nhau cũng có một cái gì đó có tính chất gán ghép xáo trộn cốt để ảnh hưởng dư luận theo chiều hướng chính quyền.
Một năm rưỡi sau vụ ám sát mới đem xét xử, vào ngày 15 tới 19 tháng 7 năm 1930. Bầu không khí xã hội lúc đó đang hừng hực. Phong trào nông dân sôi động ở Nam Kỳ, còn ở Bắc Kỳ, 13 cái đầu của Việt Nam Quốc Dân Đảng bị rụng dưới máy chém ngày 17 tháng 6 ở Yên Bái.
Theo tờ An Nam Hướng Truyền (Echo Annamite), Tôn Đức Thắng tuyên bố như sau. . .
Xem toàn bài:
http://ddcnd.org/forum/index.php?topic=218.0.
web.datviet.com/blogs/forums//archive/.../t-171342.html -
http://www.x-cafevn.org/forum/archive/index.php/f-21-p-3.html
[6].(Give me four years to teach the children and the seed I have sown will never be uprooted.
[(Give us the child for 8 years and it will be a Bolshevik forever).
http://thinkexist.com/quotes/vladimir_lenin/Một năm rưỡi sau vụ ám sát mới đem xét xử, vào ngày 15 tới 19 tháng 7 năm 1930. Bầu không khí xã hội lúc đó đang hừng hực. Phong trào nông dân sôi động ở Nam Kỳ, còn ở Bắc Kỳ, 13 cái đầu của Việt Nam Quốc Dân Đảng bị rụng dưới máy chém ngày 17 tháng 6 ở Yên Bái.
Theo tờ An Nam Hướng Truyền (Echo Annamite), Tôn Đức Thắng tuyên bố như sau. . .
Xem toàn bài:
http://ddcnd.org/forum/index.php?topic=218.0.
web.datviet.com/blogs/forums//archive/.../t-171342.html -
http://www.x-cafevn.org/forum/archive/index.php/f-21-p-3.html
[6].(Give me four years to teach the children and the seed I have sown will never be uprooted.
[(Give us the child for 8 years and it will be a Bolshevik forever).
[7].“A lie told often enough becomes truth” http://thinkexist.com/quotes/vladimir_lenin/
No comments:
Post a Comment