Tuesday, December 9, 2014
HƯNG YÊN * TÙ CẢI TẠO
Mẩu Đời Một Người Cựu Tù Cải Tạo
Hưng Yên
Từ nhà ông đến đồn công an phường Thắng Tam đường xa hơn 3 cây số, ông Ba Cất cuốc bộ mất gần một tiếng đồng hồ. Nhưng đi bộ một quãng đường như thế đối với ông là chuyện tầm thường. Ngày mới từ trại Suối Máu được đưa đi lao động tự quản ở Trảng Bom, cải tạo viên đã phải vào rừng chặt tre, chặt lá buông, chặt cây đem về tự dựng lấy lán, lấy nhà để ở. Trong mấy công tác này, ông Ba Cất thích được đi chặt tre nhất. Muốn có một cây tre, cải tạo viên phải cuốc bộ cỡ 12 cây số đường rừng để đến được khu rừng tre.
Hôm ấy là ngày bầu cử, đồn công an vắng hoe, mọi người đều đi công tác, chỉ còn một anh công an ngồi ở phòng trực. Thấy ông Ba Cất lò dò bước vào, anh ta trừng mắt lên hỏi:
- Có thuốc không?
Hôm nay là ngày bầu cử, trường học đóng cửa nên thằng Thanh theo thằng
Hoàng ra chỗ sửa xe ngay từ buổi sáng. Khi mọi người đã đi hết, ông Ba
Cất mở “trạn” lấy cơm nguội ra ăn; cánh cửa trạn vừa mở ra ông đã nghe
mấy con gián chạy rào rào. Nhưng cũng chẳng sao, ở trong trại cải tạo
ông ăn phải gián là thường, mấy người khác cũng vậy, mà có thấy ai kêu
la hay khạc nhổ gì đâu! Ruồi, rệp, gián và người cùng ở chung với nhau.
Thau cơm độn khoai lang khô, khoai mì khô hay bo bo lãnh về chưa kịp
chia, ruồi đậu đen nghịt ở phía trên. Thau nước mắm “đại dương” lãnh về
(toàn nước muối pha với chút nước mắm cho có mùi) mấy chục con ruồi nổi
lều bều... Lấy tay xua xua, đuổi đám ruồi ở thau cơm, lấy thìa vớt mấy
con ruồi ở thau nước mắm bỏ đi rồi chia cơm, chia nước mắm. Lúc chia anh
em ngồi lõ mắt ra nhìn, chỉ sợ chia không đều, phần mình ít hơn phần
người khác.
Miếng cháy lớn bằng nửa bàn tay bẻ ra làm mười bỏ lên trên mười phần cơm
của mười người, chỉ nghe có tiếng cằn nhằn là cháy bẻ không đều, miếng
to, miếng bé chứ chẳng thấy ai kêu nhiều ruồi nhiều nhặng bao giờ!
Chúa Nhật không phải đi lao động ở nhà, ai có thăm nuôi thì nấu nướng
linh tinh, đám con bà phước (người không có thăm nuôi) vô sản thì nhìn
người ta ăn rồi nuốt nước miếng, vì Chúa Nhật hay ngày lễ nghỉ không đi
lao động thì không có ăn sáng. Ăn rồi kẻ vá quần áo, người lật mùng, lật
chăn ra bắt rệp. Rệp đâu mà nhiều thế không biết, bắt hôm nay ngày mai
lại có, giết chán mỏi tay nó lại hôi rình bèn bắt bỏ vào cái hũ pê li xi
lin rồi thỉnh thoảng lấy ra xem nó bò chơi.
Còn gián cũng vậy, sinh sôi nẩy nở tràn lan vì giang sơn của mỗi người
tù chỉ rộng không bằng một chiếc chiếu cá nhân nên chiếu của người này
phải trải chồng lên mép chiếu của người kia. Rồi thì muối, mắm, tương,
chao, đường tán, mì vụn v.v. nói chung là mọi thứ tài sản của một người
tù đều được để trên “xích đông” thuộc phần mình ngay chỗ đầu nằm, thế là
trước khi người ăn, gián đã tha hồ mà hưởng thụ. Buổi sáng trước khi đi
lao động ngồi nhai miếng bột khoai mì luộc dầy bằng đốt ngón tay và lớn
bằng hai ngón tay chụm lại lãnh từ tối hôm trước. Ðang nhai mà nghe đến
xựt một cái rồi thấy hôi hôi, tanh tanh, lờ lợ là biết ngay đã nhai
phải một chú gián chui trong cái lỗ hổng ở miếng bột khoai mì. Nhưng mặc
mày, “ông” nhắm mắt nuốt luôn vì nếu nhả mày ra thì “ông” còn gì đâu
nữa mà ăn!
Ông Ba Cất đã ăn phải gián là thường vì thế mà ông chẳng bận tâm gì đến
mấy con gián đang chạy rào rào ở trong cái gác măng giê. Ông chỉ nghĩ
bụng: mình sẽ phải sửa lại cái gác măng giê, nó hở nhiều chỗ quá rồi!
Còn được một bát đầy cơm nguội, ông Ba Cất chan vào một chút nước mắm
rồi ngồi ăn. Cũng may nồi cơm được đậy vung cẩn thận, gián không chui
vào được nên không có mùi hôi. Mới hôm qua, hôm kia đây thôi, còn ở
trong tù mà có được bát cơm như thế này thì đã là một hạnh phúc vô biên.
Quanh năm suốt tháng chỉ ăn độn, những năm về sau này, mùng một tết mới
có được bát cơm trắng nhưng tiêu chuẩn củng chỉ nhỉnh hơn bát cơm ngày
thường một chút nên ăn cũng chẳng đủ no.
Ông Ba Cất ngồi nhai bát cơm nguội chan với nước mắm. Lẽ ra nó phải ngon
lắm, nhưng ông lại không thấy có gì đặc biệt cả, lại nữa ông cũng không
cảm thấy đói để cần ăn.
Từ hôm qua đến nay bữa này là bữa thứ hai ông không phải ăn độn. Bữa cơm
tối hôm qua còn có cá trích kho, rau muống luộc chấm nước mắm và nước
rau muống luộc có bỏ chút muối làm canh. Tuy ăn có ngon hơn ăn cơm tù
nhiều thật, nhưng chỉ sau hai bát là ông đã không ăn nữa. Bà hỏi sao ông
ăn ít thế.
Ông bảo trong tù ăn ít nó quen rồi, nay ăn nhiều sợ hại bao tử, phải từ
từ rồi mới ăn nhiều được, cũng như người bệnh lâu ngày mới khỏi, ăn cho
cố vào là có chuyện ngay! Tuy nói thế, nhưng còn một lý do thứ hai mà
ông Ba Cất không nói ra là ông về bất ưng, nhà không biết để nấu thêm
phần cơm ông, nếu ông ăn nhiều thì vợ với các con ông sẽ đói. Hơn nữa
dưới chế độ xhcn ưu việt làm bất cứ một việc gì mỗi người đều có tiêu
chuẩn cả, ngay cả ăn cũng thế.
Từ nhà ông đến đồn công an phường Thắng Tam đường xa hơn 3 cây số, ông Ba Cất cuốc bộ mất gần một tiếng đồng hồ. Nhưng đi bộ một quãng đường như thế đối với ông là chuyện tầm thường. Ngày mới từ trại Suối Máu được đưa đi lao động tự quản ở Trảng Bom, cải tạo viên đã phải vào rừng chặt tre, chặt lá buông, chặt cây đem về tự dựng lấy lán, lấy nhà để ở. Trong mấy công tác này, ông Ba Cất thích được đi chặt tre nhất. Muốn có một cây tre, cải tạo viên phải cuốc bộ cỡ 12 cây số đường rừng để đến được khu rừng tre.
Chọn được bụi tre vừa ý rồi, người chặt tre phải làm thế nào để sau khi
phá một bụi tre có thể lấy được tối thiểu là 4-5 cây một lúc, chứ nếu
chỉ lấy được một 1-2 cây thôi thì uổng công lắm. Cái khó khăn vất vả
nhất của việc chặt tre là dọn sạch từ dưới lên trên để có thể leo lên
tít trên ngọn.
Chặt đứt 5-6 ngọn cây tre đi rồi leo xuống chặt phần gốc xong là có thể
rút được cây tre ra dễ dàng. Tiêu chuẩn của mỗi người một ngày là một
cây tre, dài 6 mét trở lên, phía gốc to tối thiểu phải bằng cái lon gô.
Mà tre là tre rừng lâu năm, cành, lá, gai góc đan chằng chịt vào nhau,
phá được một lối đi vào sát bụi tre là đã vất vả lắm rồi, nên nếu không
kiên trì và không biết cách thì không dễ gì mà lấy được một cây tre.
Ði chặt tre người ta cũng không đi một mình mà thường đi thành từng nhóm
hai, ba người để người nọ phụ người kia, tiếp tay nhau mà chặt cành, mà
kéo cây tre ra khỏi bụi, v.v. Nhóm ông Ba Cất chỉ có hai người, ông và
anh Nguyễn Ðình. Ông thích đi với anh Nguyễn Ðình vì anh là người cùng
đơn vị với ông, cùng ở cư xá Trương Công Ðịnh, anh chẳng những đã hiền
lành lại rất tháo vát. Còn anh Nguyễn Ðình cũng thích đi với ông Ba Cất
vì ngoài cái tình thân từ trước, ông Ba Cất còn là một kiện tướng chặt
tre.
Vì là lao động tự quản nên sáng ra lãnh phần ăn sáng và phần ăn trưa rồi
ai muốn đi trước thì đi, ai muốn đi sau thì đi, không bắt buộc phải đi
cùng một lúc với nhau và không có công an võ trang vác súng đi theo. Ấy
là chỉ những người trách nhiệm đi chặt tre, chặt lá buông hay chặt cây
về dựng lán, dựng nhà thôi, chứ những người đi phá rừng hay làm rẫy thì
lại khác.
Ông Ba Cất thích đi chặt tre vì tuy phải đi xa những 12 cây số, đi và về
24 cây số, nhưng sau khi phá xong một bụi tre, lấy được 5-6 cây tre
xuống rồi thì ông và anh Nguyễn Ðình mỗi người một cây, mấy cây còn lại
đem giấu thật kĩ. Nếu thấy trời còn sớm thì trên đường về có thể vừa đi
vừa “cải thiện” linh tinh: nắm rau sam, nắm cải trời hoặc là quả bí, quả
muớp để chiều hôm đó có cái mà nấu nướng thêm, miễn là vác được cây
tre, bó lá buông hay cây cột về tới trại trước bốn giờ chiều giao cho
anh tổ trưởng kiểm soát, ghi vào sổ báo cáo thế là được.
Hôm sau đi chặt tre thì chỉ việc đến chỗ cũ rút ra hai cây tre đã giấu
ngày hôm trước, sau đó thì tha hồ mà đi cải thiện. Có lần ông và anh
Nguyễn Ðình còn câu được cả mấy chục con cá trắng, loại cá ở suối trông
gần giống như con cá diếc, lớn gần bằng hai ngón tay. Ðem về làm sạch
rồi đốt lửa nướng, hôm ấy hai anh em được một bữa “bồi dưỡng”! Sau này
chuyển trại về Hàm Tân, Thuận Hải Z30C thì toàn là đẩy xe cải tiến hoặc
là gánh nước tưới rau. Ngày gánh 60 đôi nước từ suối đi lên, dốc ngược,
trơn như mỡ mà ông Ba Cất còn đi được xá gì việc đi bộ từ nhà đến đồn
công an có hơn 3 cây số.
Hôm ấy là ngày bầu cử, đồn công an vắng hoe, mọi người đều đi công tác, chỉ còn một anh công an ngồi ở phòng trực. Thấy ông Ba Cất lò dò bước vào, anh ta trừng mắt lên hỏi:
- Ði đâu đây, có việc gì, sao giờ này không đi bầu cử mà lại đến dây?
Ông Ba Cất móc túi lấy tờ giấy “ra trại” mở ra cầm bằng cả hai tay đưa cho anh công an, khẽ thưa:
- Báo cáo cán bộ, tôi mới được ra trại, hôm nay đến trình diện đồn!
Anh công an cầm tờ giấy lẩm nhẩm đọc rồi ngước mắt lên hỏi:
Ông Ba Cất có gói thuốc rê ở trong túi, nhưng nghĩ chả lẽ lại mời cán bộ hút thuốc rê, nên ông nói trớ đi:
- Báo cáo cán bộ tôi không hút thuốc!
Anh công an bỏ tờ giấy ra trại của ông Ba Cất vào hộc bàn, đóng xập lại rồi vẫy tay bảo:
- Về đi, mai đến lấy!
Nói rồi anh ta đứng lên như là chuẩn bị đi đâu đó. Ông Ba Cất nằn nì:
- Báo cáo cán bộ tôi chỉ có mỗi tờ giấy đó, xin cán bộ ký nhận cho là
tôi đã trình diện rồi cho tôi xin lại, vì hôm nay là ngày bầu cử... chưa
nói hết câu thì anh công an đã trừng mắt lên:
- Ðã bảo về đi mai đến lấy còn lải nhải gì nữa, hay là muốn ở lại đây luôn?
Ông Ba Cất lủi thủi đi về lòng vừa buồn vừa lo! Bực mình bất giác ông
lẩm bẩm chửi thành tiếng: ÐM nó, ở đâu cũng giống nhau, trong trại muốn
được yên thân cũng phải hối lộ, về đây cũng thế!
Ở trong trại, tù nhân muốn được yên thân, muốn không bị làm phiền cũng
phải hối lộ cho quản giáo, cho cán bộ võ trang. Hình thức hối lộ là như
thế này: Tù nhân thì anh nào cũng rách như cái sơ mướp, trên chỉ có bộ
răng, dưới chỉ có “bác hồ”, đói khát triền miên, nhưng những anh “con bà
phước” chả nói làm gì còn những người khác thỉnh thoảng cũng được thăm
nuôi. Mà có thăm nuôi thì thế nào cũng có thuốc rê hay thuốc lào bởi tù
cải tạo hiếm có người không ghiền thuốc.
Cha cố, sư thày, ngày còn ở ngoài đời mà phì phèo điếu thuốc thì thật là
khó coi lắm, thế mà vào đây các vị cũng kéo thuốc rê, rít thuốc lào như
điên! Quan thày thuốc ngày trước cứ sau khi đụng vào bệnh nhân một tí
là lại đưa tay ra cho y tá xịt an côn để xát trùng. Còn thuốc rê với
thuốc lào thì đừng bao giờ nói với các vị vì đó là những thứ thuốc độc
cần phải tránh xa. Thế mà vào đây, tù khám bệnh cho tù, sau khi khám
xong quan đốc tờ được mời quấn điếu thuốc rê hay rít một điếu thuốc lào
thì hai mắt quan đốc tờ sáng lên!
Cũng bởi hầu hết tù nhân sau khi được thăm nuôi thế nào cũng có thuốc rê
hay thuốc lào nên mới có một cái luật bất thành văn là như thế này: Sau
khi được thăm nuôi, buổi sáng hay buổi chiều đi lao động, ngoài tiêu
chuẩn thuốc cho anh, anh phải vấn sẵn 4-5 điếu thuốc rê hay gói sẵn 4-5
bi thuốc lào để hối lộ cho cán bộ quản giáo hay cán bộ võ trang. Số
thuốc này anh giao cho đội trưởng để thỉnh thoảng đội trưởng lại mời cán
bộ hút một điếu.
Cán bộ có thuốc “phê” đều đều sẽ vui vẻ không làm khó dễ anh em. Anh nào
mới được thăm nuôi cũng phải làm nghĩa vụ như thế, cho đến khi trong
đội có người khác được thăm nuôi thì nghĩa vụ của anh mới chấm dứt. Nếu
cùng một ngày mà có đến mấy người được thăm nuôi thì sẽ chia nhau mỗi
người mấy ngày phải cung cấp thuốc cho cán bộ. Ông Ba Cất cứ đều đều 2
tháng được thăm nuôi một lần nên cứ mỗi 2 tháng là ông lại phải thi hành
“nghĩa vụ” một lần.
Sáng cũng như chiều, ông vấn sẵn 4 điếu thuốc rê đưa cho anh đội trưởng
cùng với lời dặn: Ðừng đưa cho nó một lúc, cứ đợi đến khi nó “vã” lắm
rồi mới cho một điếu. Ðưa một lúc nó hút hết rồi thì không có đâu mà cho
nữa! Nếu chẳng may mà lâu quá trong đội không có ai được thăm nuôi,
chẳng lẽ người được thăm nuôi cuối cùng cứ phải cung cấp thuốc cho cán
bộ mãi, khi đó “nghĩa vụ” sẽ thuộc về anh đội trưởng. Anh làm sao thì
làm, cán bộ “vã” thuốc quá trở nên cáu gắt, làm khó dễ anh em thì anh em
sẽ ÐM anh đội trưởng. Gặp những trường hợp như thế thì anh đội trưởng
lại đi vòng vòng thì thào năn nỉ anh em bớt mồm bớt miệng “cứu bồ” trong
cơn túng ngặt, thế là anh đội trưởng lại có thuốc “đút” cho cán bộ.
Ở trong tù thì thế, nay được ra khỏi tù đến trình diện đồn cũng bị công
an hỏi “có thuốc không”? Không có thuốc, bị công an giữ tờ giấy ra trại
rồi đuổi về “mai tới lấy”! Hôm nay là ngày bầu cử, “chó vàng” chạy đầy
đường, đi đứng lạng quạng, nó hỏi giấy tờ không có, lỡ nó đem nó nhốt
rồi gửi đến một trại nào đó thì vợ con biết đâu mà tìm. Vì nghĩ vậy nên
khi về được đến nhà rồi, suốt ngày hôm đó ông Ba Cất không dám bước ra
khỏi cửa!
Tối về, ông kể chuyện cho vợ nghe, bà thở dài bảo:
- Em bậy quá, đáng lẽ phải bảo con Thảnh đưa cho anh mấy điếu Jet hay
Samit mới phải, bây giờ làm cái gì cũng phải có thủ tục “đầu tiên” mới
được!
UYÊN HẠNH * NƯỚC MẮT CHO QUÊ HƯƠNG
GIỌT NƯỚC MẮT CHO QUÊ HƯƠNG Uyên Hạnh
Bây giờ là mùa Lễ Phục
Sinh. Trong dịp nghỉ lễ nầy nhiều người lấy thêm ngày nghỉ thường niên
và nghỉ bắc cầu bằng một tuần trước hay một tuần ngay sau đó. Với thời
gian nghỉ lễ dài như thế nhiều người đưa gia đình đi du lịch hoặc về
sống thảnh thơi trong một ngôi nhà nghỉ mát ở vùng quê.
Nhà nghỉ mát ở Đan Mạch
thường nằm gần biển. Một thú nghỉ mát không những gây ham thích cho
người dân thành thị, mà còn có sức thu hút rất lớn đối với người dân
nước láng giềng là Đức quốc, một xứ giàu mạnh đông dân và thiếu biển
xanh. Đức là xứ sở của rừng cây và núi đồi, có sông hồ và được coi như
”không có biển”. Đức có miền Bắc giáp giới Đan Mạch ở ba tỉnh Bremen,
Kiel, Rostock, là những nơi giáp Biển Bắc (North Sea) và Biển Baltic. Đi
sâu vào xứ Đức chỉ có rừng và thông. Đức được vây bọc bởi các nước Ba
Lan, Tiệp Khắc, Áo, Thụy sĩ, Pháp, Lục Xâm Bảo, Bỉ và Hòa Lan.
Đan Mạch là một vương
quốc với ba đảo lớn và nhiều đảo nhỏ. Đan Mạch có biển khơi vây bọc, có
thiên nhiên xanh và đồng cỏ rộng. Những đồng lúa thắm tươi, những cánh
đồng hoa vàng rực rỡ sản xuất mù tạt.
Rừng thông xanh bên những cánh đồng hoa ngàn tuyệt đẹp và đại dương xanh ngát là những nơi dễ gặp tại xứ sở nầy. Mùa nầy về nghỉ dưỡng sức ở vùng quê là một trong những lôi cuốn mà người dân thành thị dễ dàng chọn lấy, để tạm thời xa cảnh ồn ào và cuộc sống vội vả tất bật đầy ô nhiễm, hưởng sự thỏai mái thanh nhàn của làn không khí trong lành tại những vùng đất nằm cạnh biển cả mênh mông.
Rừng thông xanh bên những cánh đồng hoa ngàn tuyệt đẹp và đại dương xanh ngát là những nơi dễ gặp tại xứ sở nầy. Mùa nầy về nghỉ dưỡng sức ở vùng quê là một trong những lôi cuốn mà người dân thành thị dễ dàng chọn lấy, để tạm thời xa cảnh ồn ào và cuộc sống vội vả tất bật đầy ô nhiễm, hưởng sự thỏai mái thanh nhàn của làn không khí trong lành tại những vùng đất nằm cạnh biển cả mênh mông.
Thú vui của những buổi nướng thịt trong vườn nhà dưới bầu trời xanh
Năm nào cũng thế, cứ đến
mùa Phục Sinh là nắng lại trở về sưởi ấm lòai người, vạn vật cỏ cây. Hoa
đã bắt đầu kết nụ, lá đã nhú lên những mầm xanh mơn mởn. Những cành khô
trơ lá, những thân cây tưởng như đã chết bỗng hiện lên màu xanh của sự
sống. Cảnh vật chuyển mình bước vào mùa hạ. Mùa đông của những tháng
ngày lạnh giá đã rủ áo giã từ.
Những ngày cuối tuần kể
từ tháng nầy không còn là những buổi tụ họp quây quần trong phòng khách
hay trong phòng ăn, thay vào đó là những buổi nướng thịt ngòai sân,
ngòai vườn. Trong dịp nghỉ Lễ Phục Sinh, các tiểu gia đình chúng tôi tụ
hội lại và ăn uống vui đùa. Hôm đó là ngày cuối cùng của kỳ nghỉ Lễ Phục
Sinh. Trong khi đang nói chuyện với nhau rộn ràng như pháo nổ, tình cờ
một đứa em nhắc đến ngày 30/4 sắp đến. Những người lớn bỗng đồng lọat im
bặt, xót xa và thở dài! Làm sao quên được. Không bao giờ quên được ngày
30/4 của 34 năm về trước.
Kể cho nhau nghe ngày bỏ nuớc ra đi
Bọn trẻ trong gia đình,
thế hệ thứ ba ngẩn ngơ nhìn thấy tất cả người lớn quanh bàn tiệc đột
nhiên bị xúc động mạnh. Bình thường tụi trẻ ưa nói ưa hỏi, nhưng vẻ khẩn
trương và đau buồn của chúng tôi đã làm chúng im lặng và nín thở chờ
đợi. Cúi đầu thở một hơi thật mạnh, em tôi ngước mắt lên, nhìn thẳng vào
bọn trẻ và bắt đầu nói cho nghe lý do vì sao chúng tôi bỗng im lặng
trong tiếng thở dài đồng lọat. Chờ cơn xúc động đã dịu xuống, em tôi
chậm rãi lên tiếng: ”Ngày 30 tháng 4 năm 1975 cả gia đình mình gồm 18 người đã bỏ nước ra đi. Ngày đó…” Bằng ánh mắt buồn rười rượi em bắt đầu kể những gì em đã cùng gia đình trải qua, trong ngày đen tối nhất của đất nước.
Em kể cho nghe, sáng 30
tháng 4 năm đó, em chỉ là một câu con trai 15 tuổi, đã phải bương bả
cùng gia đình kiếm cách vượt thóat khỏi Việt Nam, trên chiếc xe hơi chất
đầy người chạy loanh quanh trong thành phố Sài Gòn, giữa cơn hỏang hốt,
khi được tin Sài Gòn thất thủ, quân đội Bắc Việt đang tiến vào thành
phố Sài Gòn, và binh lính Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ súng.
Những đọan đường trong thành phố, có nhiều đọan đã bị chận lại, phải kiếm cách vòng qua đường khác mà đi. Cứ hướng mũi xe phóng ra cảng Sài Gòn, nhắm đến hướng Kho Năm mà chạy. Cuối cùng cũng đến được Kho Năm ở Khánh Hội, và xuống được Tàu Trường Xuân trong giờ phút chót để thóat ra khơi. Làm thuyền nhân lưu lạc mấy ngày trời trên biển cả, đem theo sự sợ hãi tuyệt vọng và đớn đau, vì đã bỏ tất cả mà đi và ra đi trong cơn khủng hỏang tuyệt vọng với một cõi lòng tan nát.
Những đọan đường trong thành phố, có nhiều đọan đã bị chận lại, phải kiếm cách vòng qua đường khác mà đi. Cứ hướng mũi xe phóng ra cảng Sài Gòn, nhắm đến hướng Kho Năm mà chạy. Cuối cùng cũng đến được Kho Năm ở Khánh Hội, và xuống được Tàu Trường Xuân trong giờ phút chót để thóat ra khơi. Làm thuyền nhân lưu lạc mấy ngày trời trên biển cả, đem theo sự sợ hãi tuyệt vọng và đớn đau, vì đã bỏ tất cả mà đi và ra đi trong cơn khủng hỏang tuyệt vọng với một cõi lòng tan nát.
Chuyến đi sống chết
Thực là một may mắn lớn
khi được theo tàu Trường Xuân thóat đi. Trước đó, trong cơn hỗn lọan mọi
người sau khi ra được Kho Năm chỉ có một niềm hy vọng độc nhất là có
tàu để nhảy xuống đi, tuy rằng không biết đi đâu, miễn là thóat khỏi
Việt Nam. Vừa đến Kho Năm, gia đình chúng tôi theo luồng sóng người ào
xuống một chiếc tàu neo tại cảng. Nghe tiếng máy nổ, mọi người đinh ninh
sẽ được thóat đi. Chờ mãi không thấy thuyền trưởng và thủy thủ đòan,
vài người hô hóan lên phải ra ngay khỏi đây để tìm tàu khác, vì nghe nói
rằng, chiếc tàu nầy chỉ nổ máy để đánh lạc hướng mọi người.
Để không ai nghĩ đến việc nhảy xuống một con tàu đang im lìm đậu cách đó không xa, là chiếc tàu phải mua chỗ trước với một chi phí đã được ấn định. Hỏang hốt sợ hãi mọi người cũng như gia đình chúng tôi nhảy ra khỏi chiếc tàu đó. Đang ngơ ngác lo lắng thì nghe có người chỉ vào Tàu Trường Xuân đang đậu trên cảng và hét lớn cho nhau nghe hãy lên ngay Trường Xuân để thóat khỏi Việt Nam. Trường Xuân nhận cho lên tất cả người muốn vượt biển mà không phải trả tiền.
Tuy khá vất vả chúng tôi cũng leo được lên tàu Trường Xuân. Tàu đông nghịt người và từ từ tách bến ra khơi, đi vào một hành trình đầy gian nan trắc trở trên biển cả mênh mông. Trước khi ra được vùng biển quốc tế con tàu Trường Xuân đen nghịt người đã phải trải qua những giây phút hồi hộp kinh hòang của những lúc sự sống và cái chết cận kề nhau trong gang tấc. Nhưng rồi may mắn theo vận mạng đưa đẩy, gần bốn ngàn người trên con tàu Trường Xuân cập bến Hồng Kông.
Để không ai nghĩ đến việc nhảy xuống một con tàu đang im lìm đậu cách đó không xa, là chiếc tàu phải mua chỗ trước với một chi phí đã được ấn định. Hỏang hốt sợ hãi mọi người cũng như gia đình chúng tôi nhảy ra khỏi chiếc tàu đó. Đang ngơ ngác lo lắng thì nghe có người chỉ vào Tàu Trường Xuân đang đậu trên cảng và hét lớn cho nhau nghe hãy lên ngay Trường Xuân để thóat khỏi Việt Nam. Trường Xuân nhận cho lên tất cả người muốn vượt biển mà không phải trả tiền.
Tuy khá vất vả chúng tôi cũng leo được lên tàu Trường Xuân. Tàu đông nghịt người và từ từ tách bến ra khơi, đi vào một hành trình đầy gian nan trắc trở trên biển cả mênh mông. Trước khi ra được vùng biển quốc tế con tàu Trường Xuân đen nghịt người đã phải trải qua những giây phút hồi hộp kinh hòang của những lúc sự sống và cái chết cận kề nhau trong gang tấc. Nhưng rồi may mắn theo vận mạng đưa đẩy, gần bốn ngàn người trên con tàu Trường Xuân cập bến Hồng Kông.
Kể đến đây em tôi ngừng lại. Bọn trẻ im lặng trố mắt nhìn mong đợi.
Trong bầu không khí đầy xúc cảm chiều hôm đó, con trai út của tôi lên tiếng: “Nhà mình nợ tụi con!”.
Mọi người quay đầu nhìn nó với ánh mắt dò hỏi. Qua giọt nước mắt lóng
lánh còn nằm trong khóe mắt chưa rơi xuống, nó nghiêm nghị bảo: “Mình
hãy ngồi lại với nhau nhiều lần nữa, để tất cả mọi người trong gia đình
lần lượt kể cho chúng con nghe, những gì thế hệ cha mẹ, chú, bác đã
trải qua, cho chúng con được biết nhiều hơn về gia đình mình, để…”.
Mọi người gật đầu tán thành ý kiến của cậu thanh niên thế hệ thứ ba nầy. Thực sự trước đây chúng tôi cũng đã nói cho các con nghe, nhưng không nói rõ như trong buổi nói chuyện ngày hôm đó. Có thể vì còn nhỏ, các con tôi chỉ nghe qua chứ không đi sâu vào câu chuyện, vì chưa có những xúc động mạnh và lòng tò mò muốn biết nhiều hơn.
Mọi người gật đầu tán thành ý kiến của cậu thanh niên thế hệ thứ ba nầy. Thực sự trước đây chúng tôi cũng đã nói cho các con nghe, nhưng không nói rõ như trong buổi nói chuyện ngày hôm đó. Có thể vì còn nhỏ, các con tôi chỉ nghe qua chứ không đi sâu vào câu chuyện, vì chưa có những xúc động mạnh và lòng tò mò muốn biết nhiều hơn.
Ý nghĩa chuyến đi với thế hệ thứ ba của Trường Xuân
Con trai tôi nói tiếp: “Những
khó khăn của cuộc sống, những tranh đấu để vượt thóat để vươn lên, là
những bài học qúy giá cho chúng con. Từ những trải nghiệm của gia đình
mình, tụi con sẽ học được tính kiên nhẫn, biết qúy trọng người khác,
biết dẹp bỏ bớt ích kỷ. Thật sự tụi con được sinh ra và lớn lên tại đây,
nên dù có được sự giáo dục của gia đình người Việt vẫn ảnh hưởng nếp
sống và văn hóa Tây phương. Nghĩa là dễ bất bình, không muốn dùng nhiều
thì giờ để nghe để hiểu để học chữ cảm thông. Đó là những gì mà con, nhờ
nghe câu chuyện rõ ràng hôm nay, đã rất cảm động và học hỏi được.
Sau câu chuyện hôm nay, con thấy gần gũi với gia đình mình nhiều hơn, con thấy thân với các chú hơn. Từ trước đến giờ, con đã nghĩ nhiều về mình hơn là cho người khác. Con chưa gặp vị thuyền trưởng tàu Trường Xuân, nhưng nghe kể về ông con đã cảm phục. Sống ở một xã hội hòa bình tự do đầy đủ như xã hội Đan Mạch, làm sao tụi con biết được cái khổ của gia đình to lớn như thế và sự can đảm trong một tấm lòng nhân hậu như của Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy”.
Sau câu chuyện hôm nay, con thấy gần gũi với gia đình mình nhiều hơn, con thấy thân với các chú hơn. Từ trước đến giờ, con đã nghĩ nhiều về mình hơn là cho người khác. Con chưa gặp vị thuyền trưởng tàu Trường Xuân, nhưng nghe kể về ông con đã cảm phục. Sống ở một xã hội hòa bình tự do đầy đủ như xã hội Đan Mạch, làm sao tụi con biết được cái khổ của gia đình to lớn như thế và sự can đảm trong một tấm lòng nhân hậu như của Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy”.
Đêm đã khá khuya, lại là
ngày cuối cùng của kỳ nghỉ Lễ Phục Sinh. Ngày mai phải dậy sớm đi làm đi
học, nên dù lòng rất muốn, chúng tôi cũng phải chia tay, hẹn sẽ gặp
nhau vào cuối tuần sau. Không cần phải hỏi đến, con trai tôi xung phong
làm người liên lạc để tổ chức cuộc họp mặt vào cuối tuần tới. Tôi nhận
nhiệm vụ lo thức ăn cho ngày đó. Vợ chồng người chú lo nước uống và cà
phê bánh ngọt. Chúng tôi vui vẻ chia tay nhau. Trên đường về con trai
tôi rối rít: “Mẹ ơi, hôm nay vui và xúc động quá. Mong mau đến tuần sau cả gia đình mình tụ họp lại kể thêm chuyện cho tụi con nghe”.
Ngồi viết những dòng nầy, tôi nhớ lại lời con tôi đã nói với các anh em trong buổi họp mặt của gia đình ngày đó: “Hãy kể cho tụi con nghe để biết những gì gia đình mình đã trải qua. Cho chúng con cơ hội học làm người”. Học làm người là học để hiểu, để thương, để tôn trọng người khác và để tôn trọng chính mình.
Cũng là học để tri ân đất nước Đan Mạch đã nhân đạo trong hành động cứu vớt gần bốn ngàn thuyền nhân của Trường Xuân trên biển cả một ngày nào, trong giờ phút Trường Xuân sắp chìm xuống Biển Đông vì thuyền bị nước ào vào ồ ạt. Clara Mærsk của Đan Mạch dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Anton Martin Olsen xuất hiện như một thiên thần cứu rỗi.
Cũng là học để tri ân đất nước Đan Mạch đã nhân đạo trong hành động cứu vớt gần bốn ngàn thuyền nhân của Trường Xuân trên biển cả một ngày nào, trong giờ phút Trường Xuân sắp chìm xuống Biển Đông vì thuyền bị nước ào vào ồ ạt. Clara Mærsk của Đan Mạch dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Anton Martin Olsen xuất hiện như một thiên thần cứu rỗi.
Hồng Kông, Đan Mạch và thành đạt cùng niềm hãnh diện của thế hệ thứ ba Tàu Trường Xuân
Ngày gặp mặt tuần sau đó
bị hủy bỏ vì tôi bị cúm nặng. Thời gian nầy ở Đan Mạch có quá nhiều
người bị dịch cúm. Buổi nướng thịt ngòai trời không thực hiện được. Tụi
trẻ có hơi buồn nhưng đã điện thọai cho nhau và hứa hẹn sẽ tìm một ngày
thích hợp sắp đến để tụ họp ăn uống nói tiếp về chuyến đi vượt trùng
dương đầy nguy hiểm. Những gian nan và khó khăn gặp phải trên Tàu Trường
Xuân. Thời gian khi tàu Clara Mærsk tiếp cứu. Rồi thuyền nhân Trường
Xuân được đưa sang chiếc tàu của họ. Cuộc sống của chúng tôi tại trại tị
nạn ở Hồng Kông.
Những sự kiện khác như việc định cư tại Đan Mạch. Thời gian đầu tiên học Tiếng Đan. Tập ăn thức ăn Đan Mạch. Tập ăn món bánh mì đen truyền thống của người Đan Mạch. Cho đến việc hội nhập vào xã hội sau khi học Tiếng Đan. Học chữ học nghề để bước chân vào thị trường làm việc. Hãnh diện với những đồng tiền mình kiếm được để nuôi gia đình con cái. Bắt đầu một cuộc sống trong không khí tự do, trong một xã hội nhân đạo, trọng sự sống của con người. Những việc đó chúng tôi dự định sẽ kể cho nhau vào những lần sắp đến khi gia đình họp mặt đông đủ trong háo hức trong tò mò của tụi trẻ muốn nghe và biết những gì thế hệ cha ông chúng đã trải qua.
Những sự kiện khác như việc định cư tại Đan Mạch. Thời gian đầu tiên học Tiếng Đan. Tập ăn thức ăn Đan Mạch. Tập ăn món bánh mì đen truyền thống của người Đan Mạch. Cho đến việc hội nhập vào xã hội sau khi học Tiếng Đan. Học chữ học nghề để bước chân vào thị trường làm việc. Hãnh diện với những đồng tiền mình kiếm được để nuôi gia đình con cái. Bắt đầu một cuộc sống trong không khí tự do, trong một xã hội nhân đạo, trọng sự sống của con người. Những việc đó chúng tôi dự định sẽ kể cho nhau vào những lần sắp đến khi gia đình họp mặt đông đủ trong háo hức trong tò mò của tụi trẻ muốn nghe và biết những gì thế hệ cha ông chúng đã trải qua.
Những câu chuyện kinh khiếp viết nên Trang sử Di Tản Của Người Việt Vượt Biển Đông
Lần hội họp với gia đình
trong thời gian sắp đến, ngòai chương trình với những tiết mục nêu trên,
chúng tôi, thế hệ thứ hai của Thuyền nhân Trường Xuân đã giao ước với
nhau sẽ tìm và đọc cho các con các cháu nghe những mẩu chuyện kể của
nhiều gia đình khác. Những câu chuyện gian khổ của những gia đình không
may mắn, và lòng hy sinh vô bờ của người vợ người mẹ Việt Nam.
Tôi đã chọn cho tôi một
câu chuyện rất thương tâm và dự định sẽ đọc cho các con các cháu nghe
trong lần họp mặt sắp đến. Đó là câu chuyện “Đôi Mắt Phượng” của Y sĩ Trung úy Trần Quang.
Một câu chuyện đã làm
người đọc rùng mình rơi nước mắt! Nhất là cảnh 140 thuyền nhân đói khát
sau 8 ngày lênh đênh trên biển cả, trôi dạt vào một hòn đảo hoang, và
thời gian sau đó những người sống đã phải ăn thịt “sống” của người chết.
Vì đói và vì họ đang ở trên một hòn đảo san hô cằn cỗi không có cây
cành nhóm lửa nấu cho món “thịt người” nầy được chín.
Người mẹ là Phượng trong câu chuyện, sau khi đứa con gái bé nhỏ đã chết và bị người khác cướp đi để ăn thịt, cô đã cắt trên từng ngón tay và cắt một đường trên đôi vú của mình để cho đứa con trai bú… máu của mình. Đứa bé trai nầy là kết quả của những tháng ngày khi chồng cô bị vào tù học tập cải tạo, chỉ vì ông đã là quân y sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), cô bị mấy thằng cán bộ cưỡng bức tình dục sau đó cô mang thai mà sinh ra nó. Cuối cùng khi có một ngư thuyền đi ngang cứu số thuyền nhân còn sống sót trên đảo hoang nầy thì người mẹ tên Phượng đã chết vì.mất nước hay mất máu.
Người mẹ là Phượng trong câu chuyện, sau khi đứa con gái bé nhỏ đã chết và bị người khác cướp đi để ăn thịt, cô đã cắt trên từng ngón tay và cắt một đường trên đôi vú của mình để cho đứa con trai bú… máu của mình. Đứa bé trai nầy là kết quả của những tháng ngày khi chồng cô bị vào tù học tập cải tạo, chỉ vì ông đã là quân y sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), cô bị mấy thằng cán bộ cưỡng bức tình dục sau đó cô mang thai mà sinh ra nó. Cuối cùng khi có một ngư thuyền đi ngang cứu số thuyền nhân còn sống sót trên đảo hoang nầy thì người mẹ tên Phượng đã chết vì.mất nước hay mất máu.
Trung úy Y sĩ Trần Quang
và đứa bé trai sống sót. Đến năm 2004, người con trai sống sót nầy ở
trên đất Mỹ đã trở thành một bác sĩ, bác sĩ Trần Phượng Vinh, 26 tuổi.
Bác sĩ Trần Quang cha của cậu, đã hứa sau khi Vinh học xong Y khoa và ra
trường, ông sẽ kể cho Vinh nghe câu chuyện thương tâm của cuộc đời vợ
ông, là Phượng, mẹ của Vinh.
Nghe xong câu chuyện kể vào ngày 30.4.2004, Vinh đã qùy xuống ôm chân cha nói rằng anh yêu cha và tỏ ý muốn gia nhập đòan thể đấu tranh bảo vệ nhân quyền. Theo lời khuyên của cha, anh ở lại Mỹ để tranh đấu cho nhân quyền Việt Nam. Rồi Bác sĩ Trần Phượng Vinh quyết định học ngành điện ảnh. Tốt nghiệp ngành điện ảnh, anh vừa là đạo diễn kiêm tài tử và thực hiện cuốn phim lấy tên “Đôi Mắt Phượng”. Trong vai Trung úy Quân y Sư đòan Nhẩy dù Trần Quang, anh kể về câu chuyện thương tâm của gia đình anh và sự hy sinh vô bờ của mẹ anh.
Nghe xong câu chuyện kể vào ngày 30.4.2004, Vinh đã qùy xuống ôm chân cha nói rằng anh yêu cha và tỏ ý muốn gia nhập đòan thể đấu tranh bảo vệ nhân quyền. Theo lời khuyên của cha, anh ở lại Mỹ để tranh đấu cho nhân quyền Việt Nam. Rồi Bác sĩ Trần Phượng Vinh quyết định học ngành điện ảnh. Tốt nghiệp ngành điện ảnh, anh vừa là đạo diễn kiêm tài tử và thực hiện cuốn phim lấy tên “Đôi Mắt Phượng”. Trong vai Trung úy Quân y Sư đòan Nhẩy dù Trần Quang, anh kể về câu chuyện thương tâm của gia đình anh và sự hy sinh vô bờ của mẹ anh.
Cuốn phim nầy chỉ nói lên
một phần nhỏ trong những gian nan vượt bực mà người lính QLVNCH phải
gánh chịu. Nhưng nó là một trong những dữ kiện khai mở cho thế giới một
cái nhìn để thấy được rõ hơn một thể chế đang cai trị nhân dân Việt Nam.
Quê hương Việt Nam triền miên trong nỗi đau vì bạo quyền Trung Quốc
Cuộc sống ở đâu cũng có
những bận rộn thường nhật. Trong bận rộn đó người Việt lưu vong vẫn dành
thì giờ theo dõi tình hình thế giới và đặc biệt những diễn tiến tại quê
nhà. Những lần đọc tin tức biết được sự chà đạp nhân quyền lòng ai
không quặn đau. Chúng ta cảm phục và cảm tạ sự can đảm của những người
tranh đấu cho đồng bào đang lầm than cơ cực.
Việt Nam hiện đang nằm trong một tương lai đầy nguy hiểm. Trung Cộng đã lấn chiếm đất đai tại các vùng giáp giới của Việt Nam là Ải Nam Quan, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bản Giốc. Mặc cho sự chống đối của dân chúng trong và ngòai nước, một ranh giới mới với Trung Quốc đã được phân chia, với gần 2.000 cột mốc trên biên giới mới Việt – Trung dài khoảng 1.400 km.
Việt Nam hiện đang nằm trong một tương lai đầy nguy hiểm. Trung Cộng đã lấn chiếm đất đai tại các vùng giáp giới của Việt Nam là Ải Nam Quan, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bản Giốc. Mặc cho sự chống đối của dân chúng trong và ngòai nước, một ranh giới mới với Trung Quốc đã được phân chia, với gần 2.000 cột mốc trên biên giới mới Việt – Trung dài khoảng 1.400 km.
Trung Quốc còn cưỡng
chiếm hai quần đảo Hòang Sa Trường Sa và cho nhập vào quận Tam Sa của
Trung Quốc. Hiện thời trong và ngòai nước người dân Việt đang lo lắng
cho việc khai thác bô-xít ở vùng Tây Nguyên Việt Nam.
Việt Nam có là một Tây Tạng thứ hai của Trung Quốc không?
Kế hoạch khai thác 5,4 tỉ
tấn quặng bô-xít nằm trong 6 dự án từ bây giờ cho tới năm 2015. Việc
khai thác Bôxít được Việt Nam phê duyệt ngày 1/11.2007. Một chủ trương
của bộ chính trị chỉ có 15 người, không có thảo luận trong Ban chấp hành
trung ương đảng và không thông qua quyết định của Quốc hội. Việc khai
thác bô-xít sẽ qua 3 giai đoạn: 2007-2010; 2011-2015; và 2015-2025. Giai
đoạn đầu đã khai thác 13 mỏ, đang mở rộng tại hai tỉnh Lâm Đồng và Đak
Nông trên một địa bàn rộng đến 1.811 km2, có trữ lượng lên đến 1,2 triệu
tấn alumin, do hai đại công ty Chalco và Chalieco của Trung Quốc khai
thác.
Theo tuyên bố của các nhà
khoa học, chuyên ngành, nhà văn, nhà báo trong và ngoài nước thì đây là
một việc làm hoàn toàn bất hợp pháp, và là một sự tàn phá tận gốc Tây
Nguyên, từ kinh tế, an ninh, đến văn minh, văn hoá.
Liên quan đến vụ khai
thác bô-xít nầy Trung Quốc đã đưa vào mấy chục ngàn nhân công. Theo quan
sát và nhận xét của người dân Việt là binh lính Trung Quốc trá hình.
Người dân Việt yêu nước đau lòng lo sợ rằng kế họach khai thác bô-xít
chỉ là một màn kịch để Trung Quốc đưa lính vào chiếm đóng vùng Cao
nguyên Trung phần Việt Nam. Đến khi thời cơ chín mùi, Trung Quốc sẽ biến
Việt Nam thành một Tây Tạng thứ hai.
Lời kết:
Tháng 4 là tháng đưa tư
tưởng chúng ta trở về những ngày của Sài Gòn năm xưa, vì không làm sao
quên được nỗi đau xé lòng của 39 năm về trước. 30 tháng 4, ngày chúng ta
gạt nước mắt bỏ xứ ra đi. Bước chân ra đi mà tim gan cơ hồ tan nát!
Ngày 30 tháng 4 mỗi năm có trên 3 triệu người Việt lưu vong đồng rơi
nuớc mắt. Giọt nước mắt khóc cho mình và cho quê hương. Nguyện cầu cho
Tổ quốc Việt Nam sớm thóat khỏi cảnh đoạ đày cho những giọt nước mắt
thôi rơi và nụ cười lại nở trên môi mọi người bên bát cơm trắng trên đất
nước có thanh bình no ấm.
30 tháng 4, xin cùng cúi
đầu trong một phút mặc niệm để nguyện cầu cho hơn 260 ngàn chiến sĩ Việt
Nam Cộng Hòa đã hy sinh cho đất nước và cho 58 ngàn người Mỹ đã tử trận
tại Việt Nam. Những người đã chết cho tự do của người khác. Nguyện cầu
cho những người đang đấu tranh cho một Việt Nam tự do dân chủ sớm đem
lại được an bình và công lý cho dân Việt. Cám ơn Đan Mạch, cám ơn cuộc
đời vẫn còn nhiều tình người và nghĩa cử đẹp. Cám ơn đời khi chúng ta
vẫn còn có nhau.
Thuyền Nhân TRƯỜNG XUÂNViết cho ngày 30.4.2009
-SƠN TRUNG * NGÀY VỀ QUANG VINH
NGÀY VỀ QUANG VINH
SƠN TRUNG
Trước của hội trường, cờ đỏ, cờ xanh, cờ vàng cấm chật ních như là một
ngày lễ hội. Trong hội trường tỉnh, quạt máy chạy vù vù. Hội trường
tưong đối rộng , có khoảng hơn 100 ghế được bày biện ngay ngắn, lịch sự.
Trên tường, trước mặt hội trường là ảnh Hồ Chủ tịch với hàng khẩu hiệu:
"Bác Hồ sống Mãi Trong Sự Nghiệp của Chúng Ta ", "Quyết Tâm Xây Dựng Xã
Hội Chủ Nghĩa Văn Minh và Giàu Mạnh ".
Khách tham dự gồm có ủy ban nhân dân tỉnh, hội đồng nhân dân tỉnh, đảng ủy cấp tỉnh, công an tỉnh, tỉnh đội và các cán bộ tỉnh và huyện. Dân chúng đứng hàng trong hàng ngoài có đến vài trăm, trong đó có học sinh các trường, kể cả học sinh lớp Măng non đã đưọc huy động từ 6 giờ sáng.Các em Măng Non đeo khăn quàng đỏ, mồ hôi nhễ nhại, các cô giáo ốm o gầy gò luôn luôn che miệng ngáp.
Khoảng mười giờ các cán bộ đến rải rác. Đến mười một giờ hơn, đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân đến, rồi đồng chí tỉnh ủy đến. Cán bộ càng cao thì đến càng trễ. Trong hội trường cũng như ngoài sân, công an đứng đầy, lăng xăng chạy qua chạy lại ra vẻ bận rộn và tích cực. Ngoài cổng, hai hàng bộ đội bồng súng chào rât trang trọng uy nghi như là để đón tiếp chủ tịch Hồ Chí Minh đội mồ trở về thăm tỉnh.
Ngồi trong hội trường, bên trái là đồng chí bí thư tỉnh ủy và bên phải là đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, Thìn cảm thấy mình vô cùng vinh hạnh. Hình như cái đinh hôm nay là Thìn. Dường như cả mấy trăm, mấy ngàn cặp mắt đều đổ dồn vào chàng, người Việt kiều yêu nước của tỉnh. Chàng trở thành nhân vật số một của cấp lãnh đạo tỉnh và của nhân dân tỉnh bởi vì trong mấy năm vượt biên rồi sống ở Đan Mach, chàng nay đã trở thành triệu phú.
Khách tham dự gồm có ủy ban nhân dân tỉnh, hội đồng nhân dân tỉnh, đảng ủy cấp tỉnh, công an tỉnh, tỉnh đội và các cán bộ tỉnh và huyện. Dân chúng đứng hàng trong hàng ngoài có đến vài trăm, trong đó có học sinh các trường, kể cả học sinh lớp Măng non đã đưọc huy động từ 6 giờ sáng.Các em Măng Non đeo khăn quàng đỏ, mồ hôi nhễ nhại, các cô giáo ốm o gầy gò luôn luôn che miệng ngáp.
Khoảng mười giờ các cán bộ đến rải rác. Đến mười một giờ hơn, đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân đến, rồi đồng chí tỉnh ủy đến. Cán bộ càng cao thì đến càng trễ. Trong hội trường cũng như ngoài sân, công an đứng đầy, lăng xăng chạy qua chạy lại ra vẻ bận rộn và tích cực. Ngoài cổng, hai hàng bộ đội bồng súng chào rât trang trọng uy nghi như là để đón tiếp chủ tịch Hồ Chí Minh đội mồ trở về thăm tỉnh.
Ngồi trong hội trường, bên trái là đồng chí bí thư tỉnh ủy và bên phải là đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, Thìn cảm thấy mình vô cùng vinh hạnh. Hình như cái đinh hôm nay là Thìn. Dường như cả mấy trăm, mấy ngàn cặp mắt đều đổ dồn vào chàng, người Việt kiều yêu nước của tỉnh. Chàng trở thành nhân vật số một của cấp lãnh đạo tỉnh và của nhân dân tỉnh bởi vì trong mấy năm vượt biên rồi sống ở Đan Mach, chàng nay đã trở thành triệu phú.
Chàng được
tòa đại sứ Việt Nam tại Đan Mạch tôn làm thượng khách, thường mời chàng
đến đãi tiệc và trân trọng mời chàng về đầu tư. Trung ương Hà Nội và Uỷ
ban Nhân dân tỉnh đều gửi thư mời chàng trở về đóng góp tài năng vào
công cuộc dựng xây chủ nghĩa xã hội. Khi chàng về đến Nội Bài, chủ tịch
tỉnh và bí thư tỉnh ủy cùng một lúc đưa xe con ra đón chàng và đưa chàng
về tận nhà. Họ còn để xe lại cho chàng sử dụng. Họ ân cần hết sức khiến
cho chàng cảm động.
Ngày hôm nay là ngày lễ cách mạng tháng tám, mấy
năm nay vì khó khăn kinh tế, người ta bỏ quên không tổ chức, nay chàng
về, người ta tổ chức mừng chàng y cẩm hồi hương và kỷ niệm cách mạng
tháng tám luôn thể. Sau phần nghi lễ chào cờ, suy tôn Hồ chủ tịch, mặc
niệm chiến sĩ trận vong, viên tỉnh ủy lên đọc diễn văn, ca tụng cách
mạng tháng tám và ca tụng công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, đồng thời
kêu gọi đồng bào trong nước và hải ngoại tích cực đóng góp cho công
cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh.
Tiếp tục, đồng chí chủ tịch ủy ban
nhân dân lên giời thiệu chàng là một Việt kiều yêu nước, đã tích cực
hoạt động ở nước ngoài, được tòa đại sứ Việt Nam tại Đan Mach khen ngợi,
và đuợc đảng ủy cấp tỉnh và hội đồng nhân dân tỉnh cấp phát văn bằng
Việt kiều yêu nước hạng danh dự. Thìn cảm động hết sức, nước mắt chảy
hai hàng, nghẹn ngào không nói nên lời, tay run run khi lên nhận bằng
danh dự do chính tay chủ tịch tỉnh ban phát. Từ tổ tiên chàng đến cha
ông, không ai được vinh dự chánh tổng đến nhà, và mời ăn uống.
"Con hơn cha là nhà có phúc". Nay thì chàng không những được huyện, mà còn tỉnh và trung ương đến thăm tận nhà, xưng hô ngọt ngào, lịch sự, mời dự tiệc khắp nơi với đủ các món sơn hào hải vị mà ngay khi ở nước ngoài chàng cũng không hề nếm qua dù chàng đã trở thành triệu phú. Chàng thấy sống ở Việt Nam là thần tiên, như là bay bổng trên chín tầng mây. Còn ở nước ngoài, dù chàng là triệu phú hay tỉ phú cũng chẳng ai biết, ai quan tâm. Tiến sĩ, kỹ sư, tỷ phú, anh thợ hồ, anh thợ mộc, anh hầu bàn đều là những con kiến trong một xã hội đông đúc và xa lạ, chẳng ai biết ai. Nay về Việt Nam, chàng đi đâu cũng được trẻ con cho đến lãnh đạo cao cấp, ai cũng trầm trồ, khen ngơị, ca tụng và chào đón rât nồng hậu!
Chàng là người lanh lợi và có số hên. Bố mẹ chàng là nông dân nghèo tại Nam Định. Nhà nghèo không áo che thân và không đủ ăn hai bữa, chàng phải ăn cắp, ăn trộm vặt để mưu sinh. Chàng bị công an tỉnh bắt đánh nhừ tử, nhốt vài ngày lại thả ra vì không có chỗ chứa và không có lương thực cho chàng. Bị công an theo dõi, hết đất làm ăn, chàng theo đám trẻ sống bụi đời, lên Hà Nội sinh sống. Chàng cũng làm nghề cũ, cộng thêm nghề xếp hàng mua gạo tổ.
"Con hơn cha là nhà có phúc". Nay thì chàng không những được huyện, mà còn tỉnh và trung ương đến thăm tận nhà, xưng hô ngọt ngào, lịch sự, mời dự tiệc khắp nơi với đủ các món sơn hào hải vị mà ngay khi ở nước ngoài chàng cũng không hề nếm qua dù chàng đã trở thành triệu phú. Chàng thấy sống ở Việt Nam là thần tiên, như là bay bổng trên chín tầng mây. Còn ở nước ngoài, dù chàng là triệu phú hay tỉ phú cũng chẳng ai biết, ai quan tâm. Tiến sĩ, kỹ sư, tỷ phú, anh thợ hồ, anh thợ mộc, anh hầu bàn đều là những con kiến trong một xã hội đông đúc và xa lạ, chẳng ai biết ai. Nay về Việt Nam, chàng đi đâu cũng được trẻ con cho đến lãnh đạo cao cấp, ai cũng trầm trồ, khen ngơị, ca tụng và chào đón rât nồng hậu!
Chàng là người lanh lợi và có số hên. Bố mẹ chàng là nông dân nghèo tại Nam Định. Nhà nghèo không áo che thân và không đủ ăn hai bữa, chàng phải ăn cắp, ăn trộm vặt để mưu sinh. Chàng bị công an tỉnh bắt đánh nhừ tử, nhốt vài ngày lại thả ra vì không có chỗ chứa và không có lương thực cho chàng. Bị công an theo dõi, hết đất làm ăn, chàng theo đám trẻ sống bụi đời, lên Hà Nội sinh sống. Chàng cũng làm nghề cũ, cộng thêm nghề xếp hàng mua gạo tổ.
Giờ tan sở, các con đường Hà Nội đều nghẽn lối đi,người
ta phải chờ đợi hàng giờ mới về đến nhà, nhưng với tài uốn lách của
chàng, chỉ mười lăm phút hay nửa giờ là qua cầu Long Biên cái rụp. Cuối
cùng chàng đã xung phong đi bộ đội lúc 16 tuổi để có cái mà sống. Trong
bao nhiêu năm đi bộ đội, chàng cũng đã có cơm ăn dù không no, và áo mặc
dù là chỉ hai bộ trong người. Vì trẻ cho nên chàng phải làm mọi việc lặt
vặt trong quân đội, từ cấp dưỡng cho đến chiến đấu tại mặt trận. Tại
đây chàng đã ăn bớt gạo, ăn cắp đường sữa bán ra ngoài lấy tiền tiêu
xài. Chàng bị bọn chỉ huy ghét bỏ thường bắt giam chàng vì cái tội tham ô
và hủ hóa.
Họ phê trong hồ sơ chàng là vô sản lưu manh. Đơn vị chàng
đồn trú tại Mông Cáy. Lúc bấy giờ Việt Nam và Trung quốc có xung đột,
đảng và nhà nước đuổi Hoa kiều về nuớc. Chàng nghe nói các nước tư bản
rất giàu, sang được bên đó dù đi làm cu ly vẫn no ấm chứ không như ở xã
hội chủ nghĩa, lao động vinh quang suốt ngày nhưng bao tử vẫn lép kẹp.
Chàng nghe thiên hạ làm giấy giả theo nạn kiều chạy sang Trung quốc.
Chàng bèn lẩn vào trong đám nạn kiều và sang Trung quốc ngon lành. Một
số Hoa kiều và người Việt xin ở lại Trung quốc, đuợc cho vào các nông
trại . Một số xin đi sang các nước tư bản. Chàng cũng theo họ xin đi đến
một quốc gia trung lập và Đan Mạch đã nhận chàng.
Sang
đây, chàng gặp một thiếu nữ người Việt, con gái của một gia đình Việt
Nam, nhờ làm giấy giả mạo Hoa kiều nên sang được Hồng Kông. Ở đây ít
lâu, gia đình nàng đuọc Đan Mạch nhận cho cư ngụ. Hai vợ chồng sống hạnh
phúc. Hai vợ chồng xin làm công nhân xưởng dệt, lương bổng cũng tương
đối khá. Một hôm hai vợ chồng vào một tiệm phở người Việt, thấy khách
hàng vào ra tấp nập. Hai vợ chồng bàn nhau đem số tiền dành dụm được để
mở tiệm phở vì nhà nàng trước kia ở Việt Nam cũng đã mở tiệm phở. Công
việc làm ăn ngày càng khấm khá. Hai vợ chồng mở thêm nhiều chi nhánh.
Ngoài bán phở, hai vợ chồng anh còn làm bánh giò, chả lụa, chả quế,bánh bao. Nhưng trong các món, chả giò và phở là được người Vịệt và người ngoại quốc yêu thích nhất. Anh phải thuê hàng chục người vừa Việt nam vừa Đan Mạch làm phụ. Trong vài năm, anh trở thành triệu phú. Anh đã gửi tiền về cho bố mẹ xây nhà cửa. Ngôi nhà tranh rách nát năm xưa nay thành ngôi biệt thự rất khang trang. Anh cũng đã giúp các anh chị em mỗi người một số tiền làm vốn. Và lúc này, bên nhà, chính sách mở cửa đã bắt đầu, cán bộ toà đại sứ Việt Nam đã cho người bắt liên lạc với anh, mời anh về đầu tư. Họ cho người vận động riêng với vợ anh, và cha mẹ vợ của anh nữa. Họ đưa ra bao hứa hẹn .
Anh ban đầu không thích trở về Việt Nam làm ăn vì anh đã chán một nước Việt Nam nghèo khổ và đầy rẫy cường hào ác bá mà anh đã từng là nạn nhân. Nhưng vì vợ anh, và bố mẹ vợ thúc dục, cộng thêm anh em, cha mẹ bên nhà tuân theo chỉ thị của đảng, đã liên tiếp gửi thư thúc dục anh sớm về đầu tư kẻo lỡ dịp. Khi về, chính anh cũng bị chinh phục vì thái độ thưong yêu, nồng nhiệt và cởi mở của các cán bộ huyện tỉnh đối với khúc ruột thừa xa ngàn dặm quê hương!
Sau khi tham khảo ý kiến bạn bè, anh em, cha mẹ trong gia đình, cùng nghiên cứu thị trường với sự tham gia chỉ đạo của các cán bộ cao cấp của tỉnh, anh quyết định mua một miếng đất rộng lớn của tỉnh xây một nhà khách bốn tầng lầu, gồm 50 phòng với phí tổn sáu trăm ngàn mỹ kim. Anh cũng mua đất xây một cửa hàng ăn rộng rãi, có thể chưá 500 người một lúc, với phí tổn ba trăm ngàn mỹ kim. So với bên Đan Mạch, mọi thứ đều rẻ. Anh hy vọng năm du lịch Việt kiều và người ngoại quốc sẽ đổ về không chỗ ở và nhà khách của anh sẽ thu hút mọi người vì đó là một nhà khách tối tân nhất tỉnh Nam Định. Anh cũng hy vọng cửa hàng ăn của anh có thể là nơi tổ chức tiệc tùng cưới gả, hay nơi ăn uống của Việt kiều và ngoại quốc khi về Nam Định du lịch.
Vì Việt kiều không được phép kinh doanh hay mua nhà đất, cho nên anh nhờ anh Hai đứng tên mua và xây nhà khách, còn cửa hàng ăn thì nhờ anh Ba đứng tên hộ. Còn vợ chồng cô em gái thì anh giao đứng tên và trông coi cửa hàng kim khí điện máy. Theo luật nhà nước, muốn kinh doanh, các hộ phải có tiền mặt bỏ vào ngân hàng ít nhất là 50 ngàn mỹ kim. Ba cơ sở trên, anh đã bỏ tất cả gần triệu rưỡi mỹ kim chưa kể tiền biếu xén và ngoại giao trà nước. Anh thấy mình quả vĩ đại không thua gì Hồ chủ tịch vì anh đã xây những cơ sở vật chất to đẹp, tối tân cho tỉnh. Anh đã đem lại công ăn việc làm cho bà con, cho nhân dân.
Dĩ nhiên bà con anh đã được thu nhận vào làm việc tại các cơ sở của anh. Ngoài ra những người của công an, ủy ban, tỉnh ủy cũng đưọc thâu nhận vào làm việc. Anh thấy anh là người nhân hậu, quảng đại vì anh đã thu nhận tất cả mọi người, bà con cũng như không bà con, nhất là những người do chính quyền giới thiệu. Anh cũng thấy anh là người có tài xã giao rộng rãi, luôn luôn làm vui lòng bà con cũng như chính quyền. Anh là niềm kiêu hãnh cho bố mẹ, anh em và họ hàng, làng xóm. Anh rất là vui vẻ vì anh thấy anh là một vị anh hùng , ít nhất là anh hùng của tỉnh vì trong tỉnh không ai giàu bằng anh và yêu nước bằng anh!
Anh đi về Đan Mạch thăm vợ con rồi trở lại Việt Nam. Đây là lần thứ ba anh trở lại thành Nam. Anh được Ban Việt Kiều trung ương mời lên Hà Nội tham dự một cuộc họp đại biểu Việt Kiều yêu nước. Anh cảm thấy vô cùng vinh dự. Tiếng tăm của anh không những vang lừng khắp tỉnh Nam mà con vang dội đến thủ đô, và có lẽ sẽ vang lừng khắp nuớc và khắp hoàn cầu. Anh nghĩ người ta cưng chiều anh cũng là phải, vì anh là người đầu tiên trở về đầu tư, họ phải kính trọng anh để lôi cuốn các Việt kiều ở Anh, Pháp, Mỹ.
Ở Hà Nội, sinh hoạt với các cán bộ trung ương độ nửa tháng, mọi chi phí đều do trung ương đài thọ. Anh được đi xem lăng Hồ chủ tịch và đi du lịch nhiều nơi như hang Pac Bó là cái nôi của cách mạng,và bải biển Đồ sơn là nơi nghỉ mát của các lãnh đạo trung ương.
Khi anh ở Hà Nội về, mọi công việc kinh doanh đã tiến hành tốt đẹp. Nhà khách, nhà ăn đều có khách ra vào, tuy chưa đông đảo như ý muốn nhưng buồi sơ khởi thế là tốt lắm rồi.
Một buổi trưa, anh ngồi làm việc tại văn phòng nhà khách thì một cô nhân viên bước vào phòng. Sau câu chào hỏi, cô ta ngồi vào lòng của anh, rồi bạt tai anh một cái như trời giáng. Anh xô cô ta ra, cô xõa tóc, tuột áo ra làm mất cả hàng nút áo, rồi kêu la ầm ĩ rằng anh ta hãm hiếp cô ta. Ngay tiếng kêu đầu tiên của cô ta, các nhân viên nhà khách và công an ập vào, làm biên bản, chụp hình. Mọi người đều nhất trí kết tội anh ta hãm hiếp công nhân nhà khách và họ tuyên bố sẵn sàng ra tòa làm chứng vụ này.Công an bắt anh lên trụ sở làm việc, rồi tống giam. Trong lúc đó, mọi người trong gia đình của anh được gọi lên công an kinh tế làm việc. Ba anh chị em của anh đều được mời lên trụ sở công an một lúc nhưng lại được ngồi ở ba văn phòng khác nhau do những công an gộc của tỉnh thẩm tra.
Khi vợ chồng anh Hai của anh bước vào, họ nghiêm nghị chỉ ghế cho anh chị của anh ngồi xuống. Họ ôn tồn nói:
- Vì gia đình anh chị thuộc diện kinh doanh cao cấp cho nên chúng tôi mời anh chị đến để bổ túc hồ sơ theo luật định. Xin anh chị thành thực trả lời để chúng tôi làm việc. Xin anh chị cho biết tên họ, dịa chỉ, số chứng minh nhân dân.
Anh thành thực trình bày, và những lời khai của anh được một ủy viên thư ký ghi chép đầy đủ.
-Xin anh cho biết xây nhà khách hết bao nhiêu ? Và tiền ở đâu mà anh có?
-Thưa cán bộ, tiền đó là do người em tên Thìn đem về để xây cất nhà khách. Phí tổn mua đất, xây nhà, và đồ trang trí nội thất hết 800 ngàn dô la Mỹ.
-Anh chị xây nhà khách, vậy có giấy phép không?
-Chúng tôi chưa xin được giấy phép nhưng tỉnh uỷ đã khuyến khích chúng tôi cứ xây, giấy phép sẽ về sau.
Viên công an đổi sắc mặt quát tháo:
-Láo! Làm nhà phải có giấy phép, không có giấy phép sao tự ý xây cất? Anh lại còn vu khống cho tỉnh ủy à?
Cuối cùng vợ chồng người anh Hai phải ký nhận vào lời khai rồi ra về trong nước mắt. Hoàn cảnh vợ chồng anh Ba và cô Út cũng không khác gì hơn. Có lẽ họ khá hơn vợ chồng anh Hai vì vợ chồng anh Hai đã rơi vào lão Ba Búa là tay hùm xám Nam Định. Còn họ đuợc viên công an già ngọt ngào thuyết phục, phải thành thực khai báo thì đuợc trọng thưởng, nhà nước rất tôn trọng Việt kiều yêu nước, và gia đình Việt kiều. Nếu kê khai rõ ràng thì sẽ đươc vĩnh viễn làm chủ mọi thứ đã được đúng tên. Những người này trước sau đều thành thực khai rằng tiền của đầu tư, mua đất, xây nhà, mua sắm máy móc là của người em là Lê Văn Thìn, Việt kiều yêu nước ở Đan Mạch về. Họ khai xong ký tên vào biên bản và ra về trong lo âu, thắc mắc, không hiểu tại sao. Cả bố mẹ Thìn cũng đưọc kêu lên làm việc. Họ hỏi:
Ngoài bán phở, hai vợ chồng anh còn làm bánh giò, chả lụa, chả quế,bánh bao. Nhưng trong các món, chả giò và phở là được người Vịệt và người ngoại quốc yêu thích nhất. Anh phải thuê hàng chục người vừa Việt nam vừa Đan Mạch làm phụ. Trong vài năm, anh trở thành triệu phú. Anh đã gửi tiền về cho bố mẹ xây nhà cửa. Ngôi nhà tranh rách nát năm xưa nay thành ngôi biệt thự rất khang trang. Anh cũng đã giúp các anh chị em mỗi người một số tiền làm vốn. Và lúc này, bên nhà, chính sách mở cửa đã bắt đầu, cán bộ toà đại sứ Việt Nam đã cho người bắt liên lạc với anh, mời anh về đầu tư. Họ cho người vận động riêng với vợ anh, và cha mẹ vợ của anh nữa. Họ đưa ra bao hứa hẹn .
Anh ban đầu không thích trở về Việt Nam làm ăn vì anh đã chán một nước Việt Nam nghèo khổ và đầy rẫy cường hào ác bá mà anh đã từng là nạn nhân. Nhưng vì vợ anh, và bố mẹ vợ thúc dục, cộng thêm anh em, cha mẹ bên nhà tuân theo chỉ thị của đảng, đã liên tiếp gửi thư thúc dục anh sớm về đầu tư kẻo lỡ dịp. Khi về, chính anh cũng bị chinh phục vì thái độ thưong yêu, nồng nhiệt và cởi mở của các cán bộ huyện tỉnh đối với khúc ruột thừa xa ngàn dặm quê hương!
Sau khi tham khảo ý kiến bạn bè, anh em, cha mẹ trong gia đình, cùng nghiên cứu thị trường với sự tham gia chỉ đạo của các cán bộ cao cấp của tỉnh, anh quyết định mua một miếng đất rộng lớn của tỉnh xây một nhà khách bốn tầng lầu, gồm 50 phòng với phí tổn sáu trăm ngàn mỹ kim. Anh cũng mua đất xây một cửa hàng ăn rộng rãi, có thể chưá 500 người một lúc, với phí tổn ba trăm ngàn mỹ kim. So với bên Đan Mạch, mọi thứ đều rẻ. Anh hy vọng năm du lịch Việt kiều và người ngoại quốc sẽ đổ về không chỗ ở và nhà khách của anh sẽ thu hút mọi người vì đó là một nhà khách tối tân nhất tỉnh Nam Định. Anh cũng hy vọng cửa hàng ăn của anh có thể là nơi tổ chức tiệc tùng cưới gả, hay nơi ăn uống của Việt kiều và ngoại quốc khi về Nam Định du lịch.
Vì Việt kiều không được phép kinh doanh hay mua nhà đất, cho nên anh nhờ anh Hai đứng tên mua và xây nhà khách, còn cửa hàng ăn thì nhờ anh Ba đứng tên hộ. Còn vợ chồng cô em gái thì anh giao đứng tên và trông coi cửa hàng kim khí điện máy. Theo luật nhà nước, muốn kinh doanh, các hộ phải có tiền mặt bỏ vào ngân hàng ít nhất là 50 ngàn mỹ kim. Ba cơ sở trên, anh đã bỏ tất cả gần triệu rưỡi mỹ kim chưa kể tiền biếu xén và ngoại giao trà nước. Anh thấy mình quả vĩ đại không thua gì Hồ chủ tịch vì anh đã xây những cơ sở vật chất to đẹp, tối tân cho tỉnh. Anh đã đem lại công ăn việc làm cho bà con, cho nhân dân.
Dĩ nhiên bà con anh đã được thu nhận vào làm việc tại các cơ sở của anh. Ngoài ra những người của công an, ủy ban, tỉnh ủy cũng đưọc thâu nhận vào làm việc. Anh thấy anh là người nhân hậu, quảng đại vì anh đã thu nhận tất cả mọi người, bà con cũng như không bà con, nhất là những người do chính quyền giới thiệu. Anh cũng thấy anh là người có tài xã giao rộng rãi, luôn luôn làm vui lòng bà con cũng như chính quyền. Anh là niềm kiêu hãnh cho bố mẹ, anh em và họ hàng, làng xóm. Anh rất là vui vẻ vì anh thấy anh là một vị anh hùng , ít nhất là anh hùng của tỉnh vì trong tỉnh không ai giàu bằng anh và yêu nước bằng anh!
Anh đi về Đan Mạch thăm vợ con rồi trở lại Việt Nam. Đây là lần thứ ba anh trở lại thành Nam. Anh được Ban Việt Kiều trung ương mời lên Hà Nội tham dự một cuộc họp đại biểu Việt Kiều yêu nước. Anh cảm thấy vô cùng vinh dự. Tiếng tăm của anh không những vang lừng khắp tỉnh Nam mà con vang dội đến thủ đô, và có lẽ sẽ vang lừng khắp nuớc và khắp hoàn cầu. Anh nghĩ người ta cưng chiều anh cũng là phải, vì anh là người đầu tiên trở về đầu tư, họ phải kính trọng anh để lôi cuốn các Việt kiều ở Anh, Pháp, Mỹ.
Ở Hà Nội, sinh hoạt với các cán bộ trung ương độ nửa tháng, mọi chi phí đều do trung ương đài thọ. Anh được đi xem lăng Hồ chủ tịch và đi du lịch nhiều nơi như hang Pac Bó là cái nôi của cách mạng,và bải biển Đồ sơn là nơi nghỉ mát của các lãnh đạo trung ương.
Khi anh ở Hà Nội về, mọi công việc kinh doanh đã tiến hành tốt đẹp. Nhà khách, nhà ăn đều có khách ra vào, tuy chưa đông đảo như ý muốn nhưng buồi sơ khởi thế là tốt lắm rồi.
Một buổi trưa, anh ngồi làm việc tại văn phòng nhà khách thì một cô nhân viên bước vào phòng. Sau câu chào hỏi, cô ta ngồi vào lòng của anh, rồi bạt tai anh một cái như trời giáng. Anh xô cô ta ra, cô xõa tóc, tuột áo ra làm mất cả hàng nút áo, rồi kêu la ầm ĩ rằng anh ta hãm hiếp cô ta. Ngay tiếng kêu đầu tiên của cô ta, các nhân viên nhà khách và công an ập vào, làm biên bản, chụp hình. Mọi người đều nhất trí kết tội anh ta hãm hiếp công nhân nhà khách và họ tuyên bố sẵn sàng ra tòa làm chứng vụ này.Công an bắt anh lên trụ sở làm việc, rồi tống giam. Trong lúc đó, mọi người trong gia đình của anh được gọi lên công an kinh tế làm việc. Ba anh chị em của anh đều được mời lên trụ sở công an một lúc nhưng lại được ngồi ở ba văn phòng khác nhau do những công an gộc của tỉnh thẩm tra.
Khi vợ chồng anh Hai của anh bước vào, họ nghiêm nghị chỉ ghế cho anh chị của anh ngồi xuống. Họ ôn tồn nói:
- Vì gia đình anh chị thuộc diện kinh doanh cao cấp cho nên chúng tôi mời anh chị đến để bổ túc hồ sơ theo luật định. Xin anh chị thành thực trả lời để chúng tôi làm việc. Xin anh chị cho biết tên họ, dịa chỉ, số chứng minh nhân dân.
Anh thành thực trình bày, và những lời khai của anh được một ủy viên thư ký ghi chép đầy đủ.
-Xin anh cho biết xây nhà khách hết bao nhiêu ? Và tiền ở đâu mà anh có?
-Thưa cán bộ, tiền đó là do người em tên Thìn đem về để xây cất nhà khách. Phí tổn mua đất, xây nhà, và đồ trang trí nội thất hết 800 ngàn dô la Mỹ.
-Anh chị xây nhà khách, vậy có giấy phép không?
-Chúng tôi chưa xin được giấy phép nhưng tỉnh uỷ đã khuyến khích chúng tôi cứ xây, giấy phép sẽ về sau.
Viên công an đổi sắc mặt quát tháo:
-Láo! Làm nhà phải có giấy phép, không có giấy phép sao tự ý xây cất? Anh lại còn vu khống cho tỉnh ủy à?
Cuối cùng vợ chồng người anh Hai phải ký nhận vào lời khai rồi ra về trong nước mắt. Hoàn cảnh vợ chồng anh Ba và cô Út cũng không khác gì hơn. Có lẽ họ khá hơn vợ chồng anh Hai vì vợ chồng anh Hai đã rơi vào lão Ba Búa là tay hùm xám Nam Định. Còn họ đuợc viên công an già ngọt ngào thuyết phục, phải thành thực khai báo thì đuợc trọng thưởng, nhà nước rất tôn trọng Việt kiều yêu nước, và gia đình Việt kiều. Nếu kê khai rõ ràng thì sẽ đươc vĩnh viễn làm chủ mọi thứ đã được đúng tên. Những người này trước sau đều thành thực khai rằng tiền của đầu tư, mua đất, xây nhà, mua sắm máy móc là của người em là Lê Văn Thìn, Việt kiều yêu nước ở Đan Mạch về. Họ khai xong ký tên vào biên bản và ra về trong lo âu, thắc mắc, không hiểu tại sao. Cả bố mẹ Thìn cũng đưọc kêu lên làm việc. Họ hỏi:
-Tiền đâu cụ làm nhà?
-Dạ thưa cán bộ, tiền tôi làm nhà là do con tôi tên Thìn mang về.
-Khi mang tiền vào Việt Nam , anh Thìn có xin giấy phép không? Có khai báo cho tỉnh hay huyện biết không ?
-Thua cán bộ, việc đó thì tôi không đuợc rõ.
Người ta đưa bút cho hai cụ ký và cho hai cụ ra về trong cay đắng nghẹn ngào.
Tòa án tỉnh tuyên cáo anh phạm nhiều tội nhưng những tội chính là:
-Thứ nhất: chuyển tiền vào Việt nam bất hợp pháp ( không kê khai và xin phép.)
Thứ nhì: Đầu tư bất hợp pháp ( Chính phủ chưa cho anh đầu tư mà anh đã đầu tư gian lận bằng cách cho anh chị em đứng tên, đó là một hình thức gian lận, phá hoại kinh tế Xã hội chủ nghĩa. Điều này luật đầu tư đã nói rõ).
-Khi mang tiền vào Việt Nam , anh Thìn có xin giấy phép không? Có khai báo cho tỉnh hay huyện biết không ?
-Thua cán bộ, việc đó thì tôi không đuợc rõ.
Người ta đưa bút cho hai cụ ký và cho hai cụ ra về trong cay đắng nghẹn ngào.
Tòa án tỉnh tuyên cáo anh phạm nhiều tội nhưng những tội chính là:
-Thứ nhất: chuyển tiền vào Việt nam bất hợp pháp ( không kê khai và xin phép.)
Thứ nhì: Đầu tư bất hợp pháp ( Chính phủ chưa cho anh đầu tư mà anh đã đầu tư gian lận bằng cách cho anh chị em đứng tên, đó là một hình thức gian lận, phá hoại kinh tế Xã hội chủ nghĩa. Điều này luật đầu tư đã nói rõ).
Thứ ba: Mua nhà bất hợp pháp ( chính phủ chưa cho mua nhà mà đã
mua nhà, cho anh chị em đứng tên, đó là một hình thức gian lận, luật
nhà đất cũng đã nói đến việc này).
Thứ tư: chiếm đất công, xây cất bất hợp pháp.
Thứ năm: trốn thuế.
Thứ sáu: cưỡng hiếp nữ công nhân.
Họ tuyên án anh hai muơi năm tù , phạt vạ hai triệu mỹ kim, tịch thu tất cả cửa hàng và tài sản do anh xây dựng, ngay cả ngôi nhà của cha mẹ anh . Còn các anh chị em vì thành thực khai báo nên mỗi người chỉ bị tù sáu tháng.
Một sáng, người ta thông báo Thìn đã tự tử .Và công an đem hỏa thiêu gấp vì sợ ô nhiễm.
PHAN CHÂU THÀNH* ÁI QUỐC PHẢN QUỐC
Nguyến Ái Quốc và Việt Nam Quốc Dân đảng - Ai đã bán đứng cuộc Khởi nghĩa Yên Bái cho Pháp?
Phan Châu Thành (Danlambao) - Ngày
sinh của đảng CSVN, ngày 3-5/2/1930, dịp Tết Canh Ngọ, cũng là những
ngày tháng đổ nhiều máu nhất và đau thương nhất xung quanh ngày
10/2/1930 của những người con ưu tú của dân tộc Việt Nam khắp cả nước và
đỉnh điểm là ở Yên Bái. Cuộc đổ máu của dân tộc Việt đã bắt đầu từ tên
Nguyễn Ái Quốc 84 năm trước đến nay vẫn chưa bao giờ chưa ngừng! Yên Bái
chưa bao giờ yên, để lại lời nguyền Yên Bái! Đó là: Việt Nam sẽ không bao giờ yên khi ngọn cờ máu của CS còn vung lên, rưới máu khắp đất nước này...
*
Đầu tiên tôi muốn làm rõ một chi tiết: Nguyễn Ái Quốc ở đây là Nguyễn
Tất Thành, người đã tiếm bút danh Nguyễn Ái Quốc chung của bốn vị chí sĩ
cách mạng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ 20 là Phan Châu Trinh, Phan Văn
Trường, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền.
Nguyễn Ái Quốc và Quốc Dân Đảng Tàu
Nguyễn Ái Quốc (NAQ) tham gia đảng Xã hội Pháp (SFIO) năm 1919. Khi đảng
Xã hội tách ra theo Quốc tế Cộng sản 2, ngày 30.12.1920 NAQ trở thành
đảng viên đảng Cộng sản Pháp (PCF) theo Comintern/QTCS của Lenin tại Hội
nghị XVIII ở Tours. NAQ được phân là thành viên Ban Công đoàn Quận 17,
Paris của PCF, và PCF chỉ là một Chi hội của QTCS ở Moscow thôi. Đảng
CSVN bịa đặt rằng từ đó NAQ “tham gia và đại diện, là thành viên” của
QTSC là lộng ngôn, theo thói quen luôn luôn lừa bịp của họ.
Tháng 10/1922 NAQ gặp lãnh tụ cộng sản Ucraine là Dmitry Manuilsky - đại
diện QTCS tại Đại hội II của đảng PCF và được Manuilsky chú ý vì phát
biểu hung hăng phê bình PCF không chú ý đến vấn đề thuộc địa như đồng
chí Lenin chỉ dẫn. Vì thế, theo gợi ý của Manuilsky, cuối tháng 6 năm
1923, NAQ được PCF cử sang Moscow dự Quốc tế Nông dân I (QTND) của QTCS,
vì Nga không có thuộc địa và “vấn đề thuộc địa” như Pháp và một số nước
khác, trong khi mục tiêu QTCS của Lenin là chiếm/vô sản hóa toàn thế
giới...
Ngày 10/10/1923 Nguyễn Ái Quốc gặp Tưởng Giới Thạch và Trương Phát Lôi
tại QTND I ở Moscow. Tưởng Giới Thạch và Trương Phát Lôi có mặt tại đại
hội vì QTCS xem Tàu là thuộc địa của Anh, Hòa Lan sau cuộc chiến tranh
nha phiến và Quốc dân đảng (QDĐ) lẫn Chính phủ Trung hoa Dân quốc của
Tôn Dật Tiên (mà Tưởng và Trương đại diện) chỉ là phong trào nông dân
thuộc địa. Tại QTND I, vì là đại diện đảng CS Pháp cho vấn đề thuộc địa
và vì hăng phát biểu “nổ” kiểu “nhân danh” bậy bạ như ở Tuors, như: “Nhân
danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả đảng viên xã hội cả phái tả
và phái hữu, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi!...”, nên Quốc được bầu vào đoàn Chủ tịch QTND-I gồm đại diện 11 nước (7 nước Châu Âu, Mỹ, Mexico, Nhật và Đông dương - là NAQ).
QTCS có đến 9 tổ chức “quốc tế” chân rết hay bù nhìn trong đó Quốc tế
Nông dân là một. Điều đáng chú ý là trong Chủ tịch đoàn QTND không có
đại diện của một “đại thuộc địa” là Trung hoa Dân quốc mà Tưởng đại
diện, cũng như không có đại diện của đảng CS Tàu trong khi Chu Ân Lai
đang ở Châu Âu cũng có mặt dự. Lúc bấy giờ đảng, theo thống kê tại Đại
hội III vào tháng 6/1923, CS Tàu chỉ mới có 432 đảng viên và Mao chưa
năm quyền). Cả đảng CS Tàu và QDĐ Tàu đều muốn tham gia QTND nhưng không
hợp tác với nhau được, nên có lẽ từ đó mà NAQ bị rơi vào đích ngắm của
người Tàu - cả QDĐ lẫn đảng CS Tàu vì những lý do giống nhau (bành
trướng Tàu) và khác nhau (tranh giành quốc-cộng Tàu).
Năm 1924, Tôn Dật Tiên bất ngờ đồng ý đề nghị tham gia Mặt trận Thống
nhất cùng với đảng CS Tàu để chống triều đình Mãn Thanh và Bắc phạt, với
điều kiện có bên thứ ba là Nga Sô tham gia, với hy vọng lật đổ triều
đình Bắc Kinh mà không mất chính quyền về tay đảng CS Tàu (lúc đó còn
non yếu, chỉ có chưa tới 1,000 đảng viên và chưa thò tham vọng). Thế là,
ngày 11/11/1924, NAQ bất ngờ tới Quảng Châu (không do QTND cử đi),
trong vai trò phóng viên hãng thông tấn Rosta tháp tùng phái đoàn Tổng
đại sứ của nước Nga Sô Michail Markovic Borodin bên cạnh Chính phủ Trung
hoa Dân quốc của Tôn Trung Sơn như lục lượng trung gian giữa QDĐ KMT và
đảng CS Tàu, đóng ở Quảng Châu. Phải nói là vai trò và quyền lực của
Borodin lúc này rất lớn vì Nga Sô-Viết hầu như là nước duy nhất công
nhận và hỗ trợ Trung hoa Dân quốc (thế giới thì vẫn ủng hộ triều đình
Bắc Kinh của vua Mãn Thanh).
Về phía đảng CS Tàu, Chu Ân Lai được điều từ Châu Âu về làm Tổng điều
phối Mặt trận Thống nhất Quốc-Cộng và kiêm chức Hiệu phó trường quân sự
Hoàng Phố ở Quảng Châu do Tôn Dật Tiên vừa lập ra năm 1924 với Tưởng
Giới Thạch là Hiệu trưởng.
Sau khi đã đến Quảng Châu, ngày 12/11/1924 Nguyễn Ái Quốc mới viết thư cho sếp của mình như sau (theo HCM Toàn tập):
“Gửi đồng chí Domban, Tổng thư ký Quốc tế Nông dân,
Đồng chí thân mến,
Chuyến đi của tôi từ Matxcơva được quyết định hơi đột ngột, và tôi
không thể báo trước cho đồng chí điều đó. Tôi xin đồng chí thứ lỗi và
chuyển sự tạ lỗi của tôi đến các đồng chí ta ở Hội đồng…
...Về việc liên quan tới vị trí của tôi là Ủy viên Đoàn Chủ tịch QTND
thì đồng chí cứ làm như đồng chí xét là tốt, hoặc là đề nghị thay thế
tôi, ở trường hợp này đồng chí nói là tôi ốm chứ đừng nói là tôi vắng
mặt, bởi vì tôi sống bất hợp pháp ở đây. Hoặc là, nếu đồng chí thấy có
ích thì cứ giữ lại cái danh nghĩa dân thuộc địa Nguyễn Ái Quốc trang trí
cho những tuyên ngôn và những lời kêu gọi của Hội đồng.
Xin gửi đồng chí và tất cả các đồng chí chúng ta lời chào cộng sản.”
Ngày 31/7/1925, tức là hơn 8 tháng rưỡi sau khi NAQ xin lỗi vì vô kỷ
luật - vô tổ chức với QTND, Domban đã đành cử Quốc phụ trách công tác
vận động nông dân Tàu và ở thuộc địa Đông Dương, Miến Điện, Xiêm, Đài
Loan và Philippines... mặc dù Quốc đã công khai tỏ thái độ chẳng tha
thiết gì và chẳng coi QTND là gì - như trong thư ngày 12/11/1924 Quốc đã
tự mỉa mai và cho Domban mượn “danh nghĩa dân thuộc địa NAQ” - Quốc chỉ
muốn theo cộng sản, không muốn/thèm lãnh đạo nông dân! Thế nhưng, có vẻ
như quyết định này của Domban không đến tay Quốc (có thể do Quốc dân
đảng Tàu hay Cộng sản Tàu chặn lại) vì nó chỉ được biết đến sau này
trong hồ sơ lưu trữ của QTND, còn trong các tài liệu và hoạt động của
Quốc thì nó không hề được thể hiện?
Thế là, dù vẫn là thành viên đoàn Chủ tịch QTND, đại diện và phụ trách
phong trào nông dân ở các nước Châu Á, Nguyễn Ái Quốc vẫn tiến hành cuộc
chơi hai mang “xanh vỏ đỏ lòng”: trong vai trò đại diện Quốc tế Nông
dân nhưng chỉ muốn là đại diện của Quốc tế Cộng sản để thành lập đảng
cộng sản và làm cách mạng cộng sản chứ không phải để làm cách mạng nông
dân như cách mạng Tân Hợi.
Nói gì thì nói, trong thời gian lần đầu ở Tàu - từ tháng 11/1924 đến
tháng 5/1927 - Nguyễn Ái Quốc là “cấp trên bự” đại diện QTND đối với
Quốc dân đảng và Trung hoa Dân quốc (lúc này Tưởng Giới Thạch chưa làm
cuộc đảo chánh) đang muốn lấy lòng Nga Sô. Mà Nga Sô, hay QTCS3, của
Stalin đã lập ra QTND chỉ là để lừa thu hút phong trào nông dân đấu
tranh (không phải cộng sản) của các nước trên thế giới. Với nước Tàu,
thực chất CS Nga chỉ muốn ủng hộ CS Tàu thôi (lúc CS Tàu còn yếu), nên
Stalin miễn cưởng xếp Quốc dân đảng Tàu vào loại... đảng nông dân, giao
cho “hội nông dân” quản lý.
Ý đồ ủng hộ CS Tàu của Nga Sô đã thành công. Ngược lại chiến lược hợp
tác quốc-cộng của Tôn Trung Sơn là sai lầm lớn và thất bại cuối đời ông.
Trong giai đoạn 1924-1927 đảng CS Tàu đã phát triển cả về lượng (từ 994
đảng viên vào năm 1925 đến 57,967 đảng viên vào tháng 5/1927) và về
chất (đã có lực lượng vũ trang).
Do đó, Nguyễn Ái Quốc ngay sau khi đến Tàu đã hợp tác với Bành Bái của
đảng CS Tàu và những người Việt có xu hướng cộng sản tại Quảng Châu như
Lâm Đức Thụ của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, Lê Hồng Sơn,
Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong... của Tâm Tâm xã để tổ chức các lớp huấn
luyện chính trị về cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam và phương pháp
vận động cách mạng... cho người Việt. Các lớp huấn luyện này được các
chuyên gia cộng sản Nga Sô hỗ trợ và được tổ chức tại nhà số 13 và 13/1
đường Văn Minh, Quảng Châu - nhà của vợ người Tàu rất giàu có của Lâm
Đức Thụ là Lý Huệ Quần.
Cùng với CS Tàu, NAQ tham gia và đến phát biểu tại Đại hội lần I của
nông dân Quảng Đông vào ngày 1/5/1925. Ngày 9/7/1925 Quốc cùng CS Tàu (T.Lan thì nói là mình “được CS TQ cho phép”) thành
lập “Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức” tại Quảng Châu mà Hội trưởng
là Liêu Trọng Khải - một CS Tàu “ẩn” trong QDĐ Tàu, bị QDĐ ám sát ngay
sau đó vào tháng 8/1925. Nguyễn Ái Quốc với bí danh Lý Thụy là bí thư
phụ trách chi bộ Việt Nam của hội “Liên hiệp các dân tộc bị áp bức này”
được CS lẫn QDĐ Tàu vẽ ra hòng mong thay thế phần nào Quốc tế Nông dân
và Quốc tế CS của Nga Sô, mà Nguyễn Ái Quốc không nhìn ra thôi.
Song song hoạt động có vỏ bọc nông dân của CS Tàu trên, NAQ vẫn không
dám chính thức dùng vỏ bọc QTND mà đến dự, phải viết đơn rất thảm hại
vào ngày 14/1/1926 để xin Uông Tinh Vệ, Bộ trưởng Tuyên truyền của QDĐ,
một người cánh tả hay CS khác “ẩn trong” QDĐ Tàu cho phép tham dự Đại
hội II. Trong đại hội Quốc cũng chỉ biết phát biểu hung hăng bằng tiếng
Pháp, có phiên dịch mà không biết mình vẫn là thành viên Đoàn chủ tịch
QTND “có quyền chỉ đạo” cả QDĐ-Kuo Min Tai Tàu!.
Một điểm đặc biệt nữa là Nguyễn Ái Quốc, lúc này mang tên Lý Thụy, còn
được đích thân Đặng Dĩnh Siêu, vợ Chu Ân Lai - nhân vật hàng đầu của CS
Tàu - giới thiệu Tăng Tuyết Minh và đứng ra tổ chức cưới cho vào tháng 8
năm 1926. Đích thân Chu Ân Lai và Dĩnh Siêu đến dự như ông bà mai mối.
Phía “nhà trai” của Quốc có Lâm Đức Thụ và vợ là Lý Huệ Quần. Tại sao
Chu Ân Lai lại quan tâm đến Quốc vậy? Bây giờ thì ai cũng hiểu, chỉ khi
đó Quốc thì không hiểu, chỉ biết... sướng.
Có thể nói người Tàu từ cả hai phía quốc-cộng đã vây kín và sử dụng NAQ
như con rối ở Quảng Châu từ 11/1924 đến tháng 5/1927, nhưng Quốc lại vô
cùng hãnh diện. Cả người Nga là M. Borodin cũng bị lợi dụng, bị QDĐ và
đảng CS Tàu giằng xé trong Mặt trận Thống nhất Tàu mà chỉ đúng 1 năm sau
cái chết của Tôn Dật Tiên vào ngày 12/3/1925, Tưởng Giới Thạch đã bằng
bạo lực đảo chính cướp lại quyền hành vào ngày 8/3/1926, chính quyền mà
Tôn Dật Tiên đã trao cho CS Tàu từ 1924. Đến tháng 4/1927 thì Tưởng Giới
Thạch công khai khủng bố trắng các đảng viên CS trong “Mặt trận Thống
nhất Quốc cộng”. Cuộc hợp tác quốc-cộng lần 1 tan vỡ, tháng 5/1927 Quốc
theo Borodin và bầu đoàn vội vã bỏ chạy về Vladivostok...
Trong suốt thời gian hơn 2 năm đó, trò chơi hai mang của Nguyễn Ái Quốc
thể hiện rất rõ trong các báo cáo của y từ Quảng Châu về Moscow, luôn là
một cho đích danh Domban Tổng thư ký QTND (về các phong trào nông dân
chung chung) và một cho “một đồng chí” CS Pháp cán bộ QTCS (có lúc ghi
rõ tên là George Maran - thư ngày 19/2/1925) hay cho Đoàn chủ tịch QTCS
(về việc của các đảng cộng sản VN, rất chi tiết như xin tiền 350 đôla,
xin xuất học ở Nga cho người Việt, xin tài liệu...). Nhưng Quốc đã không
biết mình chỉ là con rối của người Tàu? Có thể nói, Quốc đã bị CS Tàu
mua chuộc và điều khiển hoàn toàn.
Nguyễn Ái Quốc và Lâm Đức Thụ đã bán đứng cụ Phan Bội Châu để trả nợ 350 đôla?
Ngày 5 tháng 1 năm 1925, chỉ chưa đầy 2 tháng sau khi đến Quảng Châu,
Quốc đã viết thư cho “một đồng chí” trong Quốc tế CS để ra rả xin tiền
trả nợ 350 đôla mà Quốc đã vay để làm nhiệm vụ đầu tiên, “nếu không thì tôi sẽ phải đi làm 5 tháng để trả nợ, và khi đó thì không công tác được nữa...” Nhưng sau đó, đến tận lúc quay về Nga sô rồi, Quốc không bao giờ nhắc lại món nợ 350 đôla phải trả nữa. Câu hỏi ở đây là: Quốc nợ ai? Và Quốc đã trả nợ thế nào? Tại sao sau đó Quốc không đòi 350 đôla đó để trả nợ nữa?
Câu hỏi đầu tiên có thể dễ đoán ra: Quốc nợ vợ chồng Lâm Đức Thụ và Lý
Huệ Quần 350 đôla đó, cho vụ tụ tập thành lập QDĐ Đông dương và các lớp
huấn luyện chính trị ở nhà Huệ Quần.
Câu hỏi thứ hai liên quan đến một loạt các sự kiện sau: sự kiện cụ Phan
Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải ngày 30/6/1925; Sự kiện Quốc sau này
là Hồ Chủ tịch đã công khai đổ cho Lâm Đức Thụ đã bán đứng cụ Phan Bội
Châu lúc đó đang ở Tàu để lấy 150,000 piaster (tiền đông dương) của
Phòng Nhì Pháp treo thưởng; và sự kiện năm 1947 Quốc đã là Chủ tịch nước
nhưng Lâm Đức Thụ đang ở nhà ở Thái Bình (Thụ sinh 1890) bị dân quân
cách mạng của Võ Nguyên Giáp bắt và giết tại chỗ không án.
Đảng CSVN cố tình không ghi lại lịch sử giai đoạn 1925-1927 khi Quốc ở
Quảng Châu lần đầu theo chân Borodin, Quốc đã liên lạc gặp ngay Lâm Đức
Thụ của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng
Mậu, Lê Hồng Phong của Tâm Tâm xã,... tất cả bọn họ đều đã theo Việt
Nam Quang Phục hội của Cụ Phan Bội Châu, rồi lại không theo cụ nữa mà
đang đi tìm chủ mới, có xu hướng bạo động cộng sản châu Âu hơn bạo động
quân chủ kiểu Nhật (tôn Cường Để làm vua) như cụ Phan Bội Châu.
Tuy nhiên, qua đám người đó Quốc đã vẫn chủ động trao đổi thư từ và hẹn
gặp Cụ Phan Bội Châu ở Thượng Hải. Trước đó, cụ Phan muốn cải tổ VN
Quang Phục Hội theo mẫu Quốc Dân đảng của Tôn Trung Sơn thì qua thư Quốc
lại khuyên cụ nên làm cách mạng XHCN theo Lenin. Cụ Phan Bội Châu chưa
gặp Quốc ở Thượng Hải thì đã bị bắt tại đó. Vì thế, dù đã bị Pháp bắt
giam án trung thân ở Bến Ngự, cụ vẫn treo ảnh Lenin cạnh ảnh Tôn Dật
Tiên (tức là Cụ không biết học trò Lenin là Quốc đã bán đứng Cụ cho Pháp
lấy 150,000 đồng đông dương).
Sau đó, Quốc và Thụ nhận 150,000 piasters tiền thưởng chia nhau “để
trang trải chi phí hoạt động cách mạng” như Quốc sau này đã gián tiếp
biện minh - “vì mục đích cách mạng”. Có nhiều tài liệu nói về việc Quốc
và Thụ đã bán đứng cụ Phan Bội Châu năm 1925 ở Thượng Hải. Ở đây tôi chỉ
nói tình trạng nợ nần giữa Quốc và Thụ và việc Quốc ra rả xin tiền “một
đồng chí” QTCS mà không được rồi bỗng im re luôn. Không biết 150,000
piasters lúc đó được bao nhiêu đôla Mỹ? Mà sao Quốc là CS nòi ở ngay Nga
sô mà cứ nói đến tiền là đòi đôla vậy?
Chỉ biết, có lẽ, Quốc và vợ chồng Thụ, con nợ và chủ nợ, đã cùng nhau
với phòng Nhì Pháp giăng bẫy cụ Phan Bội Châu để lấy tiền cấn nợ nhau.
Tiền chạy vòng từ Pháp sang Quốc sang Thụ, còn dư đủ để Quốc tung tưởi
đến tháng 5/1927 chạy về Nga mà không thấy có thư nào vòi tiền “một đồng
chí” QTCS nữa.
Nguyễn Ái Quốc và Quốc dân đảng Đông Dương
Có một sự kiện đặc biệt mà đảng CSVN chỉ luôn lướt qua, vì không thể phủ
nhận, là tại Quảng Châu ngày 3 tháng 1 năm 1925 Quốc Dân đảng Đông
dương đã được thành lập. Quốc dù “khuyên cụ Phan Bội Châu nên học theo
cách mạng CS”, tức không nên theo Quốc dân đảng của cụ Tôn, nhưng lại
vội vã cùng đồng bọn thành lập Quốc Dân đảng Đông dương. Quốc đã báo cáo
về sự kiện này trong thư riêng gửi “một cán bộ trong Quốc tế Cộng sản”
vào ngày 5/1/1925 như sau:
“Đồng chí kính mến,
Quốc dân đảng Đông dương vừa được thành lập vào ngày 3 tháng này với 3 đảng viên lúc bắt đầu.
Một người sẽ được phái đi Trung Kỳ và Lào. Một người khác (chưa phải
là đảng viên) sẽ được phái đến Bắc kỳ để lấy 5 người đi Quảng Châu học
cách làm công tác tổ chức.
Tôi nghĩ có thể tìm nam thanh niên để gửi đi học ở trường Đại học
Mátxcơva. Xin đồng chí vui long cho biết có thể cho tôi gửi bao nhiêu
sinh viên. Đồng thời, tôi xin đồng chí chỉ thị cho các đồng chí Nga ở
đây cũng nhận trách nhiệm về các công việc của Đông dương bởi vì mình
tôi không thể làm quá nhiều việc được.”
Cũng trong thư gửi “một đồng chí” trên, Quốc năn nỉ:
“...đồng chí ngần ngại cho tôi vay tiền để có một cơ sở trong nước,
có người làm tuyên truyền, thực hiện việc tuyên truyền đến nơi đến chốn
và bắt đầu ngay công tác tổ chức... Không có tiền, tất cả những điều đó
đều không thể làm được. Vì thế, tôi muốn đề nghị đồng chí cấp cho một
quĩ nào đó. Hiện tôi đang mức nợ 350 đôla cho công tác đầu tiên nên sẽ
phải làm việc ít nhất 5 tháng tới để trả nợ...”
Có thể suy đoán rằng, “một đồng chí trong QTCS” là đồng chí Pháp (một
phần vì báo cáo của Quốc đều dùng tiếng Pháp), và nhiệm vụ đầu tiên là
thành lập và đào tạo Quốc dân đảng Đông dương để về VN hoạt động theo sự
lãnh đạo của đảng CS Pháp và QTCS? Suy đoán thế, là vì sau khi từ Tàu
về Moscow năm 1927, năm 1928 Quốc lại ráo riết xin tiền “một đồng chí”
QTCS để trở lại Tàu/VN và Xiêm công tác mà không được, và cuối cùng đảng
CS Pháp phải nhận chi khoản chu cấp này (500 đôla) thì Quốc mới trở lại
châu Á lần 2, vào tháng 7 năm 1928 (đến Xiêm).
Suy đoán tiếp theo là, các lớp học của Quốc tổ chức ở Quảng Châu năm
1926 là rất ngắn, chỉ có 5 ngày và phục vụ việc thành lập Quốc dân đảng
Đông dương, chứ không phải cho Thanh Niên Cách mạng đồng chí hội vốn do
Lâm Đức Thụ thành lập từ Tâm Tâm xã trước đó (chỉ từ 1 đến 5 tháng 1 năm
1925). Sau đó thì Quốc bị cuốn hút vào các hoạt động của đảng CS Tàu là
chính và của Quốc dân đảng Tàu là phụ (vì cả hai bọn này đều cố o bế
Quốc để lợi dụng trong canh bạc lớn với nhau và với Nga Sô mà Quốc có
thể không nhìn thấy). Ít nhất, với Tàu, Quốc không phải xin tiền ra rả
mà không được như với QTCS! Vì thế mà Quốc bỏ bê cái Quốc Dân đảng Đông
dương của mình, không bao giờ nói đến hay nhắc lại nữa?
Có bốn câu hỏi nghi vấn về Quốc dân đảng Đông dương của Quốc như sau:
1) Ai đưa ra chủ trương thành lập QDĐ ĐD?
2) QDĐ ĐD có liên quan gì với QDĐ Tàu-KMT của Tôn/Tưởng?
3) Ai đã cùng Quốc thành lập QDĐ ĐD ngày 3/1/1925? Ba đảng viên đầu tiên là ai và có Quốc trong đó không? Và thậm chí:
4) Liệu QDĐ ĐD có phải chỉ là sản phẩm tưởng tượng của Quốc để kể công
(giả) và moi tiền QTCS hay không vì tại sao không có tài liệu nào khác
nói về QDĐ ĐD này?
Và các câu trả lời suy đoán của tôi:
1) Chủ trương thành lập QDĐ ĐD có vẻ bất ngờ, tức nảy ra sau khi Quốc
đến Tàu, tức chỉ có thể là của Quốc, của QDĐ Tàu, hay của người Việt
khác tại Tàu như Lâm Đức Thụ hay Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn. Nếu chủ
trương thành lập QDĐ Đông dương là của “một đồng chí” QTCS thì sao nó
lại không được công khai mà chỉ ngấm ngầm giữa Quốc và “một đồng chí”
đó. Và nếu đó là “một đồng chí Pháp” như George Maran thì có khả năng
Maran là người của Phòng Nhì Pháp cài được vào QTCS và qua đó Pháp, qua
Quốc, muốn nắm phong trào CS ở Đông Dương để khống chế. Đó cũng là lý do
lần sau Pháp lại chi 500 đôla cho Quốc quay lại Đông Dương. Có nghĩa là
Quốc lúc này là gián điệp của Pháp! Nên nhớ lúc đó các đảng cánh tả
Pháp (PCF, SFIO, PSF) vừa có nhiều người tham gia QTCS vừa chiếm đa số
353/581 ghế Nghị viện Pháp, nên khả năng “một đồng chí” của Quốc phục vụ
ngầm cho Chính phủ và Bộ Thuộc địa Pháp là rất cao.
2) Có vẻ QDĐ ĐD của Quốc rất liên quan đến QDĐ Tàu, và liên quan đến kế
hoạch thành lập QDĐ của cụ Phan Bội Châu nữa, từ những gì tôi phân tích ở
trên. Có điều chắc chắn là QDĐ ĐD thành lập 3/1/1925 không có liên quan
gì với Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học cũng các đồng chí
trong Nam Đồng Thư xã thành lập tại Hà Nội hơn 2 năm sau đó.
3) Có lẽ Lâm Đức Thụ, Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu đã cùng Quốc thành lập
QDĐ ĐD ngày 3/1/1925 tại Quảng Châu ngay tại nhà vợ Lâm Đức Thụ, và họ
là 3 đảng viên đầu tiên, không có Quốc. Người đi Trung Kỳ và Lào có thể
chính là Hồ Tùng Mậu (vì đó là nhà - xứ Nghệ, và vùng hoạt động của
Mậu), người đi Bắc kỳ là người nhà hay tay chân của Lâm Đức Thụ - nhà
giàu quê ở Thái Bình.
4) Có lẽ Quốc không dám bịa ra việc thành lập QDĐ ĐD như thế, chỉ không
may sau đó là Lê Hồng Sơn chết (bị bắt ở Thượng Hải - ai đã bán Lê Hồng
Sơn?, và bị chết 1933 ở VN do Pháp xử tử hình), và Mậu (lúc đầu theo QDĐ
Tàu vì theo bác họ là cụ Hồ Học Lãm là người Việt tham gia quân đội
Tưởng và QDĐ Tàu) sau cũng theo CS như Sơn năm 1928 cùng thành lập An
Nam CS đảng cả ba (Sơn, Mậu, Quốc) cùng tham gia thành lập Đảng CSVN năm
1930.
Nguyễn Ái Quốc và thất bại Yên Bái đẫm máu của Việt Nam Quốc Dân đảng
Việt Nam Quốc Dân đảng là một trang sử lớn, một thiên anh hùng ca oai
hùng đáng tự hào của cả Dân tộc Việt Nam, là ngọn cờ đấu tranh vì độc
lập dân tộc sáng chói nhất của Dân tộc Việt Nam thế kỷ 20. Nếu bây giờ
họ lại đứng lên giương cờ VNQDĐ để chống và lật đổ chế độ CSVN, nhất
định họ sẽ qui tụ được rất nhiều người Việt Nam yêu nước. Họ có thể
ngang sức với lá cờ Đệ nhị Cộng hòa.
Việt Nam Quốc Dân đảng được Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông
trong Nam Đồng Thư xã thành lập ngày 25/9/1927 (có tài liệu ghi ngày
25/12/1927) tại Hà Nội theo tôn chỉ Tam Dân (Dân tộc Độc lập, Dân quyền
Tự do, Dân sinh Hạnh phúc), nên tên đảng là Quốc Dân.
Việt Nam Quốc Dân đảng phát triển rất nhanh trong bí mật và trong vòng 2
năm đầu 1927-1929 đã có hàng ngàn, có tài liệu nói là hàng vạn đảng
viên phủ kín hầu như các tỉnh thành khắp phía Bắc và Trung Việt Nam, với
cơ sở mạnh nhất ở Hải ngoại là tại Xiêm (Lào).
Đến tháng 7/1929 cả nước mới biết đến VNQDĐ vì Pháp đưa ra xử các đảng
viên của họ sau vụ họ ám sát tên Bazin ở Trung kỳ vào 9/2/1929.
Cuối năm 1929 tại vùng núi Yên Tử, thuộc Đông Triều, Hải Dương lúc đó,
Đảng trưởng VNQDĐ là Nguyễn Thái Học và các đồng chí đã quyết định Tổng
khởi nghĩa vũ trang toàn quốc, ngày ấn định là 10/2/1930. Quyết định này
được bí mật truyền đi cả nước để chuẩn bị cùng Tổng khởi nghĩa.
Tại Xiêm, cuối năm 1929 Nguyễn Ái Quốc đang bôn ba ở đó từ tháng 7/1928,
sau khi dong chơi hơn năm trời ở Châu Âu và nhận được tiền của đảng CS
pháp (500 đôla?) để quay trở lại Đông dương hoạt động trong 3 tháng cho
phong trào nông dân. Nhiệm vụ của Quốc là do Domban giao, lúc đó là Phó
Tổng thư ký QTND giao, vì Quốc vẫn chỉ thuộc QTND, không phải QTCS.
Nhưng ông Domban này không đưa ra được kế hoạch gì, giao cho Quốc cứ tuy
nghi thích ứng, và đi trong 3 tháng, tiền có đảng CS Pháp lo rồi.
Sau khi xác nhận đã nhận tiền từ đảng CS Pháp vào 21/5/1928, Quốc không
vội vã gì, hẹn cuối tháng 5 sẽ đi thực hiện nhiệm vụ. Nhưng đầu tháng
6/1928 Quốc mới từ Đức đi Italy rong chơi gần một tháng nữa, đến cuối
tháng 6 mới lên tàu đi Thái. Đầu tháng 7/1928 Quốc mới đến Bangkok (vì
còn vòng qua Xâyland chơi), và cuối tháng 7 Quốc đến Udon, Xiêm - nơi có
nhiều người Việt và có chi bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí
hội. Nhưng không thấy Quốc đi tìm hay nhắc lại cán bộ QDĐ Đông dương mà
Quốc cử đi Xiêm từ Quảng Châu vào tháng 1/1925 gì cả? Và Quốc chẳng vội
vàng gì ở Xiêm.
Có tiền, có dân nuôi, Quốc thong dong đi lại suốt hơn 16 tháng ở Xiêm
(từ tháng 7/1928 đến tháng 11/1929) chỉ có đọc sách, nói chuyện, dịch
sách tuyên truyền “vào trong nước”, vì Xiêm là một cửa ngõ phía Tây.
Không có sự kiện gì lớn xảy ra ở Xiêm hay với Quốc trong 16 tháng đó,
ngoài việc Quốc “nắm tình hình” (do thám?). Quốc hầu như chẳng gặp ai
ngoài gặp “dân”, tức những người vô danh, nhưng có mặt mọi nơi, biết mọi
việc. Hầu như không có cuộc gặp cụ thể, một biên bản làm việc với nội
dung nào được lưu lại về Quốc trong suốt hơn 1 năm đó, Quốc cũng không
có báo cáo nào về cho Hội nông dân QT của Domban, chỉ có “những người
dân kể lại” về “truyền thuyết” Thầu Chín (bí danh mới của Quốc ở đó) mà
CSVN sau này dựng thành phim “Thầu Chín ở Xiêm” để bịp dân tiếp về
“huyền thoại” Quốc.
Bỗng nhiên, tháng 11/1929 Thầu Chín thấy lo lắng và vội vã tìm đường đi
sang Quảng Châu - Tàu. Lý do: Việt Nam Quốc Dân đảng hoạt động mạnh ở
trong nước và cả Xiêm. Quốc ở Xiêm được tin cậy nên biết tin tối mật: họ
đang chuẩn bị Tổng khởi nghĩa! Quốc phải sang Tàu “gặp họ để khuyên bàn
lại với họ kế hoạch đó!” Có thật thế không?
Nguyễn Ái Quốc về Tàu bán VN Quốc Dân đảng và gom chiếm luôn ba đảng CSVN
Sang Tàu lần 2, Quốc dong tuốt lên ngay Thượng Hải nơi Quốc và Thụ đã
bán Cụ Phan Bội Châu cho Pháp vào đầu tháng 1/1930. Giữa tháng 1/1930
Quốc về Hong Kong gặp “các đồng chí” đảng CS Tàu (chắc để nhờ họ hỗ trợ
vụ Quốc muốn sát nhập ba đảng CS của VN thành một để dâng nộp cho CS
Tàu?). Tại Hong Kong Quốc gặp Lý Phú Xuân, Thái Sướng, Nhiêu Vệ Hoa...
là cán bộ tỉnh ủy CS Tàu ở Quảng Đông, nhờ họ sắp xếp tổ chức đón đại
biểu các đảng CSVN và lo việc nơi họp mặt để hợp nhất các đảng. Nói tóm
lại là “mọi việc con nhờ đảng mẹ lo cho tất”! Thế mới có chuyện ngoài 7
người Việt Nam dự họp kín thành lập đảng CSVN (kể cả Quốc) lại có thêm
ngay “đại diện QTCS”- kẻ cho đến nay đã 84 năm sau và đảng CSVN cầm
quyền 69 năm liền mà vẫn không biết “đại diện” đó là ai?! Tất nhiên đại
diện đó (nếu có) thì không trưng ra giấy tờ nào của QTCS, cũng như Quốc
thôi. Coi như Quốc tự tiện sát nhập ba đảng trong sự bố trí và kiểm soát
(đỡ đẻ) của CS Tàu. Nên nhớ, lúc đó cả CS Tàu và CS VN đều chưa có ai
được vào QTCS/Comintern cả (kể cả Quốc, điều mà Quốc và CSVN luôn cố
nhập nhèm trong mọi tài liệu “sử đảng”). Mãi đến Đại hội VII QTCS năm
1935 cả CS Tàu và Việt Nam mới có thành viên đại diện trong QTCS - với
tổng cộng 492 Ủy viên Comintern từ 65 đảng CS và cánh tả. VN hình như có
1 thành viên đại diện là Lê Hồng Phong, và Tàu cộng có hơn 2 người là
Vương Minh và Trương Văn Thiên...? Cả Phong, Minh, Thiên... ngay sau đó
đều được QTCS cử về làm tổng bí thư đảng CSVN và CS Tàu, Phong thì có lẽ
bị Hồ Tàu “bán” cho Pháp, còn V. Minh, Thiên đều bị Mao/Chu lật đổ,
Vương Minh phải chạy sang Nga Sô.
Có mấy câu hỏi lạ ở đây:
1) Quốc không quan tâm đến Quốc dân đảng Đông dương của chính mình lập
ra năm 1925 rồi cử người đi Xiêm nó đâu rồi (?), mà lại quá quan tâm đến
VNQDĐ của Nguyễn Thái Học là đảng khác và là “hậu thế” là sao?
2) “Các đồng chí VNQDĐ” mà Quốc nên gặp phải là Nguyễn Thái Học, Phó Đức
Chính... đang ở VN chứ sao lại chạy sang Tàu? Tàu chỉ có Quốc dân đảng
của Tưởng Giới Thạch và Đông dương QDD của Quốc mà Quốc biết rất rõ thôi
chứ?
3) Quốc có quen biết ai của VNQDĐ đâu mà “nói chuyện với các đồng chí”
ngoài QDĐ Tàu? Tại sao họ phải nghe Quốc khi CSVN luôn hại VN QDĐ vì coi
họ là tiểu tư sản - kẻ thù giai cấp? Và khi Quốc nói các đảng CS còn
không thèm nghe kia mà, vì thực sự Quốc có đại diện hay là Ủy viên QTCS
đâu?
4) Tại sao Quốc không làm việc (báo cáo và xin chỉ thị) với QTCS về việc hợp nhất 3 đảng mà lại nhờ CS Tàu hoàn toàn?
Vậy nên, vụ vội vã từ Xiêm sang Tàu của Quốc tháng 12/1929 phải vì những
lý do khác. Chỉ biết sau khi Quốc biết tin tối mật VNQDĐ đang chuẩn bị
Tổng khởi nghĩa ngày 10/2/1930 và Quốc chạy sang Tàu thì Pháp cũng biết
bí mật tối mật đó, và Pháp đã không chỉ chuẩn bị sẵn sàng mà còn ra tay
hành động đàn áp cuộc Tổng khởi nghĩa trước khi nó nổ ra nhiều bước!
VNQDĐ đã bị Pháp (nhờ Quốc?) đặt vào thế bị động hoàn toàn, thay vì
VNQDĐ làm Pháp bất ngờ như kế hoạch.
Vâng, đúng vậy, tôi đoán là Quốc đã vội vã sang Tàu là để bán tin VNQDĐ
chuẩn bị Tổng khởi nghĩa toàn quốc ngày 10/2/1930 cho Pháp. Tại sao tôi
suy đoán thế?
Có năm lý do sau:
1) Hồi đó VN có nhiều đảng phái chính trị đều muốn chống Pháp giải phóng
dân tộc nhưng không đoàn kết nhau mà lại tranh giành nhau, hãm hại
nhau, nhất là CS luôn đố kỵ “giai cấp”, và Pháp luôn lợi dụng điều đó để
“chia và trị”.
2) Quốc đã có tiền sử hợp tác với Pháp bắt Phan Bội Châu là lãnh tụ cách
mạng dân tộc dân chủ lớn khác - đối thủ cạnh tranh lớn của Quốc và
những kẻ cộng sản, nên việc Quốc hợp tác với Pháp lần nữa, lần này không
vì 150 ngàn đồng ĐD nữa mà để diệt đối thủ và kẻ thù giai cấp của CS,
là đương nhiên;
3) Năm 1929/1930 thì VNQDĐ đã phát triển rất nhanh, mạnh, có thực lực và
uy tín trong dân khắc ba miền, còn cộng sản tuy có đến 3 đảng nhưng
luôn tranh cãi và tranh giành (cái đúng) với nhau, so với VNQDĐ thì thua
xa, nên VNQDĐ lại là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của các đảng CS của
VN lúc đó (An Nam CS đảng, Đông dương CS đảng, Đông dương CS Liên đoàn).
Nhất là Quốc và các đảng CS coi VNQDĐ là đảng của giai cấp tiểu tư sản
VN - tức là đảng của kẻ thù giai cấp của đảng CS. Vì thế đảng CS trước
sau cũng phải “tiêu diệt” họ, nên “mượn tay Pháp làm việc này là cơ hội
ngàn vàng, quá “kín và sạch!”
4) Sự thất bại của VNQDĐ (bất kể do ai) cũng sẽ là cái cớ tốt, là bài
học để buộc các đảng CS manh mún của người Việt phải ngồi lại với nhau
mà hợp nhất, run rẩy mà hợp nhất lại, theo tiếng hô và đạo diễn của Quốc
và CS Tàu, dù họ còn ganh ghét đó kỵ nhau tiếng gáy, dù Quốc không phải
đại diện QTCS gì cả, chỉ là đại diện QT Nông dân có trách nhiệm phát
động phong trào nông dân. Tâm lý chung là, sau những cái chết, mất mát,
những kẻ luôn phân rã nhưng thoát chết cũng có xu hướng co cụm lại vì sợ
chết. Sự hình thành đảng CSVN cũng là một đông thái “co cụm vì sợ chết”
đó, “sợ chết” đến nỗi bị Quốc là đại diện QT Nông Dân cùng CS Tàu lừa
dễ dàng.
5) Bằng cái chết của VNQDĐ Quốc có thể một bước nắm trọn quyền hành, uy
tín với 3 đảng CS của người Việt về mình! Và bỗng nhiên các đảng viên CS
sẽ thấy mình “sáng suốt” nên không chết thảm như VNQDĐ!
6) Quốc đã có tiền sử “hợp tác” với CS Tàu (đã lấy Tăng Tuyết Minh do vợ
Chu đạo diễn), nên Quốc nhờ CS tàu lo hết tổ chức, hậu cần, an ninh và
cả “chỉ đạo của QTCS” cho các buổi họp hợp nhất đảng thì CS Tàu làm ngay
để có thể lợi dụng, không chế “thằng hề” Quốc tiếp như dạo 1924-1927,
và nhất là khống chế cả đảng CSVN từ ngay khi nó hình thành.
Phải nói, từ Xiêm vội và về Tàu lần 2, Quốc đã mang món quà lớn không
chỉ cho Pháp mà còn cho đảng CS Tàu nữa. Món thứ nhất là cái chết của
Khởi nghĩa Yên Bái của VNQDĐ. Món thứ hai là “cú rặn đẻ” của Tàu-Quốc ra
đảng CSVN. Cả hai cái đều là thảm họa đẫm máu cho dân tộc Việt Nam -
một cái tức thời ngay dịp Tết Canh Ngọ 1930, một cái lâu dài suốt gần
thể kỷ sau từ 3/2/1930 đó.
Với sáu lý do trên, với tham vọng của những kẻ cộng sản, với thói quen
tranh giành và hãm hại nhau, với âm mưu bá quyền của những kẻ CS Tàu,
thì Quốc không chạy vội về Tàu báo tin cho Pháp lập công thì mới lạ!
Sau Đại hội thành lập đảng, cũng là dịp Tết Canh Ngọ, Nguyễn Ái Quốc
chiêu đãi các đồng chí một bữa thịnh soạn vào ngày 8/2/1930. Và ngày
13/2/1930, lần đầu tiên sau 2 năm dong chơi ở Xiêm, Quốc lại “bỗng
nhiên” viết báo cáo dài và chi tiết gửi QTCS, lần này lại lần đầu tiên
“bỗng nhiên” Quốc viết bằng tiếng Anh. Trong báo cáo, việc đầu tiên Quốc
yêu cầu QTCS là không nhận người vào Đại học Phương Đông ở Moscow nếu
không có đảng CSVN mới của Quốc giới thiệu - Quốc hèn hạ thâu tóm quyền
lực ngay! Rồi Quốc viết một loạt thư cho những người CS đảng ở Nga Sô
như Lê Hồng Phong, Bùi Công Trừng... thông báo “xí chỗ” rằng Quốc đã
đứng ra hợp nhất các đảng xong rồi, đã có Ban chấp hành TƯ rồi, coi như
Quốc mới là lãnh tụ CSVN, các bác phải theo đó nhé. Bỗng nhiên, lại
“bỗng nhiên” lần thứ tư, tháng 4/1930 Quốc về lại Xiêm để đi Malay,
Singapore cho “nhiệm vụ quốc tế” “bỗng nhiên” mới (?).
Lại phải có mấy câu hỏi lạ ở đây sau “bỗng nhiên 1” là từ Xiêm về Tàu:
1) Tại sao “bỗng nhiên 2” Quốc lại chăm báo cáo QTCS, và bằng “bỗng
nhiên 3” tiếng Anh, quên luôn QTND mà “bỗng nhiên 4” quay sang chỉ đạo
các đồng chí CSVN đang do QTCS đào tạo/quản lý ở Moscow?
2) Tại sao về lại Quảng Đông mà Quốc “bong nhiên 5” quên không tìm gặp lại người vợ trẻ xinh đẹp Tăng Tuyết Minh?
3) Tại sao “bỗng nhiên 6” có đại diện QTCS là người Tàu cùng Quốc dự họp hợp nhất 3 đảng CSVN? Và đó là ai?
4) Tại sao “bỗng nhiên 7” Quốc đi Malay, Singapore sau đó để làm gì, ai cử đi?
Có lẽ tôi phải viết thêm một bài riêng về những vấn đề này nhưng vì bài
này đã quá dài. Ở đây tôi chỉ xin “tự trả lời” rất vắn tắt theo suy luận
của mình về các “bỗng nhiên” thình lình của Quốc thôi:
1) Ngay sau đại hội thành lập đảng CSVN 3/2/1930 có lẽ Quốc đã bị CS Tàu
thay bằng người Tàu rồi, và người này không biết thói quen chỉ biết
viết tiếng Pháp cho “một đồng chí” QTCS Pháp? Vì sự “trao long, đổi
phượng” truyền thống của Tàu cộng đó mà sinh ra một loạt những “bỗng
nhiên” tức là buộc phải thế thôi.
2) Người Tàu thay Quốc (Quốc lúc đó có lẽ đã ngỏm hay sắp ngỏm, đang
được Tàu nuôi để khai thác) là HCM, không phải chồng Tăng Tuyết Minh,
nên “bỗng nhiên” không có nhu cầu tìm lại vợ trẻ đó của Quốc;
3) “Đại diện QTCS” có thể chính là người Tàu vai HCM, lúc này vẫn còn
Quốc “đệm nhau với Hồ” nên chưa thể cho Hồ xuất hiện chính thức một mình
được? Thế nên HCM “bỗng nhiên” xuất hiện như đại diện QTCS khi chính CS
Tàu đạo diễn “bỗng nhiên” giúp hợp nhất ba đảng CS của VN.
4) Quốc lúc này đã là Hồ, là gián điệp của CS Tàu được giao nhiệm vụ đi
phát triển thêm các đảng CS khác ở Malaysia, Singapore để CS Tàu tiện
thâu tóm sau này, nên “bỗng nhiên” phải đi Malay, Singapore ngay. Với
vai trò “đại diên QTCS” Quốc bày ra lại hóa ra rất hữu hiệu CS Tàu muốn
đẻ trứng CS Tàu tiếp vào các ổ Malaysia, Singapore, Indonesia,
Myanmar...
Tạm kết: Lời nguyền Yên Bái
Tôi tin, lịch sử rồi sẽ hé mở những sự thật “bỗng nhiên” của Quốc/Hồ đó cho dân ta biết.
Nguyễn Ái Quốc đã bán đứng Khởi nghĩa Yên Bái cho Pháp năm 1930 như đã
bán cụ Phan Bội Châu vào năm 1925? Quốc đã “nhờ” CS Tàu hợp nhất ba đảng
năm 1930 để lên ngôi nhưng lại bị Tàu “thay thế” ngay sau đó bằng Hồ
Tàu? v.v... và v.v...
Có thể tôi sai, nhưng xác suất tôi sai rất thấp. Tôi tin tôi không sai.
Cộng sản VN và người Pháp, người Tàu đều biết tôi không sai! Chỉ là
người Pháp sau này lại bị Tàu cộng lừa, thay Quốc bằng Hồ mà không kịp
nhận ra, khi họ nhận ra thì đã quá muộn, nên phải ngậm hột thị. Và bây
giờ thì họ vẫn lờ tịt đi điều đó, có lẽ không phải vì xấu hổ, mà vì
người Pháp còn sợ người tàu, sợ nước tàu CS hiện nay, không phải vì
không ai quan tâm nữa... CS Tàu đã dung điều gì để “khóa mồm” cả Pháp và
Mỹ chặt thế lại là một câu hỏi lớn khác cần được làm sáng tỏ? Nghề của
Pháp và Mỹ là đi đêm với Tàu bán đứng Việt Nam (bất kể CS hay Cộng hòa)
vì quyền lợi của quốc gia hay chính phủ họ mà, miễn là họ có các quyền
lợi quốc gia đó.
Sau khi Quốc về Tàu vội vã vào tháng 12/1929, tháng 1 và tháng 2/1930
VNQDĐ bị Pháp dìm trong biển máu. Hàng ngàn người con ưu tú của dân tộc
Việt Nam đã anh dũng ra đi.
Còn Quốc và bọn CSVN thì ngay trong những ngày đó ung dung ngồi lại “hợp
nhất”, thành lập đảng CSVN vào ngày 3-5/2/1930 tại Hương Cảng. Lúc đại
biểu các đảng hỏi giấy ủy nhiệm của QTCS cho Quốc đứng ra làm việc hợp
nhất các đảng CS này đâu, Quốc trân tráo: “Các đồng chí nghĩ nếu tôi
mang theo Ủy nhiệm đó thì tôi có thể có mặt ở đây được sao?” Đó là Quốc
đã mang cái không khí khủng bố ráo riết căng thẳng và đẫm máu của Pháp
đối với VNQDĐ trong nước đang diễn ra ngay thời điểm đó ra để đe dọa
những kẻ đang mừng vì mình không chết như VNQDĐ ở Yên Bái. Lời đe dọa đã
có kết quả. Không ai dám thắc mắc về ủy quyền của Quốc nữa. Ủy quyền
của “đại diện QTCS” Tàu càng không ai dám hỏi.
Có thể nói, thất bại của Khởi Nghĩa Yên Bái của VNQDĐ đã được Quốc tạo
ra và lợi dụng hoàn hảo cho việc thâu tóm quyền lực CSVN vào tay mình -
một kẻ chỉ có chân trong Quốc tế Nông dân là cái tổ chức bù nhìn của
Quốc tế Cộng sản, nhưng có tham vọng mà lãnh tụ CSVN, và sẵn sàng bán
linh hồn cho quỉ Pháp rồi quỉ Tàu để đạt được điều đó. Nhưng cao nhân ắt
có cao nhân trị, tất cả thành tự của Quốc rất nhanh chóng bị CS Tàu
“sang tên” cho chủ mới: Hồ Tàu...
Ngày 17/6/1930, Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính cùng 11 đồng chí của
mình bước lên đoạn đầu đài Yên Bái. Một ngày sau hai chị em Cô Giang, Cô
Bắc tự vẫn tại cơ sở kháng chiến của VNQDĐ. Các vị đó trước khi chết
đâu có nghĩ đến QDĐ của mình, họ vẫn chỉ hô cùng một câu: “Việt Nam muôn
năm!” Họ là người Việt. Họ biết đâu cả VNQDĐ của mình đã bị một kẻ cộng
sản Việt bán đứng cho Pháp, cũng như cả đảng CSVN đã bán đứng cả Dân
tộc cho Tàu vì cái đảng thích tắm máu người khác của họ!
Ngày sinh của đảng CSVN, ngày 3-5/2/1930, dịp Tết Canh Ngọ, cũng là
những ngày tháng đổ nhiều máu nhất và đau thương nhất xung quanh ngày
10/2/1930 của những người con ưu tú của dân tộc Việt Nam khắp cả nước và
đỉnh điểm là ở Yên Bái. Cuộc đổ máu của dân tộc Việt đã bắt đầu từ tên
Quốc 84 năm trước đến nay vẫn chưa bao giờ chưa ngừng!
Yên Bái chưa bao giờ yên, để lại lời nguyền Yên Bái! Đó là:
Việt Nam sẽ không bao giờ yên khi ngọn cờ máu của CS còn vung lên, rưới máu khắp đất nước này...
Chúng ta đã hiểu một phần, tại sao CS có ngọn cờ màu đó: vì đảng của họ sinh ra trong máu người Việt yêu nước không cộng sản!
Tội ác tày trời - Trời không dung Đất không tha đó của Quốc và của cả
đảng CSVN rồi sẽ phải được dân tộc Việt Nam đưa ra phán xét dưới ánh mặt
trời!
TRẦN THÀNH NAM * NHÂN CÁCH NGƯỜI VIỆT
Hãy trả lại rổ tép khô cho tôi!
Trần Thành Nam (Danlambao)
- Hôm nay, trong bài giảng cho những người trẻ về niềm tin vào con
người từ đâu ra – đó là từ những gì họ đã làm trước mắt chúng ta hoặc
cho chúng ta, tôi đã kể lại câu chuyện mình đánh mất niềm tin vào nhân
cách người Việt như thế nào, và từ đó tôi đã phải đi tìm nhân cách người
Việt đã bị đánh mất ra sao?
Câu chuyện bắt đầu cách đây hơn ba mươi năm. Năm đó, tôi vừa tốt nghiệp
cao học kỹ thuật và kinh tế từ Đông Âu, về nước. Đó là những năm tháng
gian khó đặc biệt của đất nước ta dù đã hòa bình, đã sau chiến tranh
nhiều năm, do những sai lầm trong cơn say chiến thắng và sự ngu muội của
“những ngừơi thắng cuộc” chiến là chính những người như ông cha tôi và
đồng đội của họ…
Đối với tôi, đó cũng là những năm tháng mà tôi phải đấu tranh nội tâm
cam go nhất về việc chọn hướng đi cho cả cuộc đời mình, để sống sao cho ý
nghĩa và đáng sống, “để đến khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng
tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất
trến đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người.” Vâng, tôi vẫn thuộc lòng câu đó của Ostrowski qua nhân vật Pavel Coorsưgin trong cuốn “Thép đã tôi thế đấy”…
Trước đó, cả cuộc đời tôi đã được xắp đặt trước, rõ ràng: học giỏi, về
cống hiến cho đất nước - như với tất cả bạn bè tôi. Nhưng, khoảng 80%
lứa du học sinh chúng tôi đã quyết định không về nước… Tôi nằm trong số
20% còn lại, đang phân vân… chính vì cái anh chàng Pavel trong tôi đó!
Lùi lại một chút, thế hệ chúng tôi là thế hệ lớn lên trong chiến tranh,
đã biết rõ, thấy rõ, chứng kiến bom đạn là gì, đổ xương máu hay mất mạng
sống trong bom đạn chiến tranh đó là như thế nào. Và được học, được
sống là một hạnh phúc lớn lao như thế nào. Từ khi vào lớp 1 chúng tôi đã
phải đi học ban đêm bằng những cái đèn dầu con con, và phải tự đào hào
và hầm cá nhân cho mình để tránh bom, mỗi đứa phải đào 1 mét hào chung
và một cái hầm cá nhân của mình – thầy cô giáo phân công và chỉ chỗ rõ
ràng, từng đứa từng chỗ… Nhưng những đứa trẻ 6-7 tuổi còn thò lò mũi,
cao chưa bằng cái cuốc cái xẻng ấy làm sao đào được hào và hầm (thường
sâu trên 1 mét, rộng 60 đến 80 phân) cho mình? Thầy cô không quan tâm
điều đó, chỉ nói gọn: đó là “chỉ tiêu” của các em. Tôi hỏi; “Thưa cô, chỉ tiêu là gì ạ?”
Cô nói: về nhà hỏi bố mẹ! Và đúng là bố mẹ tôi và các bậc phụ huynh
đều rất hiểu chỉ tiêu là gì… Đến lớp 4 chúng tôi đã tự đào cả lớp học và
hầm hào cho mình, lớp 7 chúng tôi xung phong đi bộ đội và nhiều bạn bè
tôi đã vào thẳng thành cổ Quảng Trị để không bao giờ về học tiếp, cấp 3
chúng tôi chứng kiến trận chiến B52 trên không, lớp 10 quá nửa bạn bè
lớp chúng tôi tham gia chiến dịch 1975…
Chúng tôi không được đi bộ đội (dù đã tình nguyện) vì một lý do: học
giỏi. Vì thế, học xong là phải trở về cống hiến hầu như là câu trả lới
tất nhiên và bắt buộc đối với tôi. Nhưng sự thực đất nước những năm
tháng đó và sự thực đại đa số bạn bè tôi đã quyết định ở lại trời Âu,
với một sự thực nữa: những gì đã và đang xảy ra với chế độ cộng sản trên
các nước Đông Âu đó, đã làm “con người lý tưởng” hay “cỗ máy Pavel-hồng
vệ binh” trong tôi chao đảo khủng khiếp.
Ở lại hay về nước? Tôi đã về phép với quyết định được ở lại thực tập
sinh thêm 3 năm trong tay, tức là cánh cửa trở lại trời Âu rồi ở lại đó
của tôi vẫn còn mở…
Nhà tôi ở Tp.HCM. Ba tôi, một cán bộ tập kết và một người cộng sản kiên
cường, đang tại chức, khuyên tôi nên trở lại “học tiếp”. Đó là một bất
ngờ, vì tôi thì muốn về đi làm và…”cống hiến”, và tôi cứ nghĩ ba tôi
cũng muốn vậy. Mọi chuyện còn tạm chưa quyết định, và tôi ra Bắc về thăm
quê Ngoại, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Đã có một chuyện rất nhỏ xảy ra
trong chuyến đi Bắc đó làm tôi quyết định dứt khoát quay trở lại Đông
Âu.
Tôi và mẹ tôi ra Bắc bằng tàu liên vận. Hai mẹ con ngồi ở khoang ghế
cứng. Vì là tầu chậm, nó đỗ ở tất cả mọi ga và làm tôi rất thích thú. Ở
mỗi ga, khoang tàu biến thành cái chợ hay hàng ăn, tùy vào thời điểm.
Ngoài sự nghèo đói, lộn xộn, mất vệ sinh và nói chung là kém văn hóa là
đặc trưng của những gì xảy ra trên chuyến tàu đó hay cho cả đất nước ta
thời đó, điều tôi nhớ nhất và thất vọng vô cùng là: từ Nam ra Bắc tôi
hầu như không thấy một nụ cười trên gương mặt một ai cả…
Ở một ga miền Bắc Trung bộ, tôi không nhớ ở đâu, hình như ở xứ Thanh, có
một cô bé khoảng 14-15 đội lên tàu bán một rổ tép khô. Do đông người đi
lại bán hàng va chạm, rổ tép khô của cô bé bị rơi đổ hết xuống sàn tàu,
ngay trước mắt tôi và cách chỗ tôi ngồi chừng 1-2 mét. Cô bé hốt hoảng
lo sợ, luốn cuống quì xuống gom vội tép lại. Theo bản năng “ga lăng”,
tôi lao ngay ra giúp cô bé vơ tép khô lại thành từng đống nhỏ. Cùng lúc
đó, nhiều người xung quanh cũng đều xông vào, đa số cũng là những người
bán hàng trên tàu như cô bé, xúm lại làm như tôi: vơ tép khô của cô bé
gọn lại. Tôi cười nhìn mọi người và nghĩ: “Ồ, mọi người tốt quá! Thế mà mình đã nghĩ dân ta bây giờ không yêu quí nhau như trước nữa…”
Chưa kịp nghĩ hết ý trên thì tôi đã đớ người ra khi nhìn thấy mọi người
không bốc tép khô vào rổ cho cô bé như tôi mà cho vào những cái túi
riêng của họ! Một loáng, sàn tàu đã sạch trơn không còn tí tép khô nào!
Và mọi người thản nhiên bỏ đi với những túm tép khô vơ vét được của họ,
như không có gì xảy ra… Tôi chẳng thấy nét mặt ai mừng rỡ hay buồn hay
ái ngại gì cả, bình thường… Còn cô bé đứng dậy co dúm thút thít khóc bên
cạnh rổ tép khô nay chỉ còn một vốc. Tôi cứ đứng bên cạnh cô bé, ngơ
ngác và lòng rưng rưng với nắm tép khô còn chưa kịp đưa vào rổ của cô
bé, và không hiểu tại sao mọi người làm như thế! Còn những hành khách
trong toa tàu, trong đó có mẹ tôi, đã chứng kiến toàn bộ chuyện đó, cũng
làm ngơ, không ai phản đối gì, cho là chuyện bình thường…
Cho đến hôm nay tôi vẫn còn khinh ghét con người mình vì lúc đó đã không làm được việc mình muốn làm nhất là gào thét lên: “Mọi người! Hãy trả lại tép khô cho cô bé!”
Cho đến hôm nay, cái câu không được hét ra ấy vẫn cứ vang lên mãi không tha trong đầu tôi: “Hãy trả lại tép khô cho cô bé!”
Để rồi, tôi không còn muốn trở về nước làm việc để “cống hiến cho đất
nước” nữa. Bởi vì, từ hôm đó, ngay lúc đó, một điều gì lớn lao đã đổ vỡ
trong tôi. Tôi đã mất niềm tin vào nhân cách người Việt, qua những gì
tôi chứng kiến và trải nghiệm.
Sự kiện nhỏ đó đã làm tôi mất niềm tin vào nhân cách người Việt. Tôi
không thể tự hào là người Việt nữa. Tôi quyết định quay lại trời Âu để
“học tiếp” theo lời khuyên của ba. Thực sự, đó là một cuộc bỏ chạy của
tôi. Nhưng tôi lại sợ mình sẽ chạy mãi. Sẽ không bao giờ quay trở lại
đất nước này nữa. Thế là tôi đưa ra một quyết định sai lầm lớn đầu tiên
trong đời. Tôi nói: “Mẹ ơi, con muốn lấy vợ trước khi con quay lại thực tập tiếp”. Mẹ tôi bị bất ngờ, hỏi: “Tại sao con quyết thế?” Tôi nói: “Nếu không lấy vợ thì chắc con sẽ ở lại, không bao giờ về nước nữa?”.
Ngày đó, quyết định học xong ở lại là quyết định giải thoát lớn lao,
giống như người vượt biên vậy, xã hội coi là những kẻ phản bội, và ai
cũng biết ở lại bên đó là chấp nhận xa gia đình mãi mãi, vì hạnh phúc
của những người ra đi.
Ngay trong đợt về phép đó, tôi đã mang quà về gia đình cho mấy thằng bạn
thân đã quyết định ở lại bên ấy, thấy gia đình chúng nó bị xã hội ghẻ
lạnh phải nghỉ việc, bán nhà chuyển chỗ ở, thấy bố mẹ chúng nó tiếp tôi
và nhận quà của con mình gửi về mà phải đi báo công an phường đến chứng
nhận… tôi khiếp quá. Nhưng nay tôi đã quyết quay trở lại châu Âu, và để
ngỏ khả năng ở lại bên đó vĩnh viễn… chỉ vì chứng kiến rổ tép khô bị đổ
của cô bé trên tầu…
Sau khi nghe nói tại sao tôi phải lấy vợ, mẹ tôi không hỏi gì nữa mà nhất nhất làm theo ý tôi. Bà sợ “mất” con trai hoàn toàn.
Lúc đó, người tôi yêu, rất yêu thì không yêu tôi, còn người rất yêu tôi
thì tôi chỉ quí trọng. Cả hai đều là bạn học, bạn thân của tôi thời phổ
thông bom đạn. Tất nhiên, tôi chỉ có thể và nói mẹ xin cưới cho mình
ngừời thứ hai. Và ba năm sau thời gian thực tập sinh, tôi đã trở về nước
làm việc, sống với người mình đã cưới vội để thả neo đó. Cái Neo đó
đúng là đã giữ tôi không phiêu bạt giang hồ. Nhưng đó là câu chuyện
khác…
Câu chuyện chính ở đây là… những cái rổ tép bị cướp đi kia!
Mấy chục năm nay, sống trên đất nước XHCN này, chuyện những người đi
đường vô tình bị rơi bịch tiền vung vãi ra và bị mọi người xông vào cướp
trắng hết… đã là bình thường, nhưng những giấc mơ và câu hét “Mọi
người! Hãy trả lại tép khô cho cô bé!” vẫn cứ vang lên trong tôi.
Và tôi hiểu, đó là tôi vẫn còn đang đi đòi lại cho tôi nhân cách đạo đức
người Việt ngày xưa mà tôi từng biết. Tại sao nó bị mất đi? Làm sao cho
nó quay trở lại với người Việt? Tôi có tìm lại được niềm tin vào nhân
cách người Việt như xưa nữa hay không?
Đó là câu hỏi tôi đã thảo luận với các bạn trẻ sáng nay.
Tôi tin là có. Dù điều đó không dễ, và không nhanh được, nhưng rồi cũng sẽ tới ngày...
Những hạt giống độc hại nào đó đã nẩy mầm sau chiến tranh, nhưng đã được
gieo từ lâu trước đó vào văn hóa dân tộc, chỉ là hồi bé tôi không nhận
ra những rổ tép khô bị hất đổ và cướp mất mà thôi.
Và bây giờ nó đã là rổ tép khô của tôi rồi.
Mọi người! Hãy trả lại rổ tép khô cho tôi!
Monday, December 8, 2014
CƠM HẾN
CHUYỆN CƠM HẾN
Tô cơm hến. Ảnh H.Đ. Thiếu Anh
Người Huế ăn giống như học bài học cuộc đời, phải nếm đủ vị mặn, lạt,
chua, cay, ngọt, bùi... không chê vị nào; lại còn tỏ ra thích thú với
hai vị mà thiên hạ đều sợ là cay và đắng. Vườn Bắc cũng trồng mướp đắng,
chỉ dùng trái chín đỏ độn thịt làm món hầm, còn trái xanh chỉ
dùng...xoa sảy cho trẻ con. Người Huế thích dùng mướp đắng lúc còn xanh;
nấu canh phải đuống nồi nước sôi xuống mới thả mướp vào để đảm bảo là
đắng, lại còn bóp mướp sống làm món nộm, đắng một cách tuyệt vời!
Có hôm tàu dừng ở ga Lăng Cô, thấy nấm tràm bán rẻ như cho không, tôi bèn hí hửng mua luôn một rổ làm quà cho chú bạn tôi ở Đà Nẵng, gọi là đặc sản xứ Huế. Cháo nấm tràm nấu ra ngon đến thế, nhưng chỉ có đám dân Huế sì sụp vừa húp vừa khen, còn bạn nhậu người Quảng đều né hết, vì đắng chịu không nổi. Hoá ra chỉ cách nhau một cái đèo Hải Vân mà thôi mà cách ăn uống của người Huế lạ đời đến thế!
Có hôm tàu dừng ở ga Lăng Cô, thấy nấm tràm bán rẻ như cho không, tôi bèn hí hửng mua luôn một rổ làm quà cho chú bạn tôi ở Đà Nẵng, gọi là đặc sản xứ Huế. Cháo nấm tràm nấu ra ngon đến thế, nhưng chỉ có đám dân Huế sì sụp vừa húp vừa khen, còn bạn nhậu người Quảng đều né hết, vì đắng chịu không nổi. Hoá ra chỉ cách nhau một cái đèo Hải Vân mà thôi mà cách ăn uống của người Huế lạ đời đến thế!
Nhưng lạ nhất là thói ăn cay, đến nỗi chính tôi cũng không hiểu sao mình ăn cay đến như vậy. Người Huế có đủ cung bậc ngôn ngữ để diễn tả vị cay, bao gồm hết mọi giác quan, càng nói càng “sướng miệng”: cay phỏng miệng, cay xé lưỡi, cay điếc mũi, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi, cay điếc tai, cau điếc óc. Có thể nói rằng người Huế bắt đầu thực đơn hàng ngày bằng một tô bún bò “cay dễ sợ”, tiếp theo là một ngày cay “túi mắt túi mũi”, để kết thúc với tiếng rao “Ai ăn chè?”, một chén ngọt lịm trước khi ngủ.
Cơm hến. Ảnh H.Đ. Thiếu Anh
Tôi xin giới thiệu một ngày “hạnh phúc trời hành” của dân Huế, tui bắt
đầu bằng món cơm hến. Những món ăn Huế như bún bò, cháo lòng...bây giờ
trở thành phổ biến khắp nước (dù đã mất đi bản chất cay của nó), chỉ món
cơm Hến này không nơi nào có, Hà Nội, Sài Gòn cũng có vài ba quán Huế
có cả cơm hến, tôi đã thử xem, đều toàn là nghêu xắt nhỏ, đâu phải là
hến! Vậy thì, cơm hến là gì?
Trước hết, nói về cơm. Người Việt mình ăn cơm kiểu nào cũng phải nóng,
duy chỉ cơm hến nhất thiết phải là cơm nguội. Hình như người Huế muốn
bày tỏ một quan niệm rằng trên đời chẳng có một vật gì đáng phải bỏ đi,
nên bày ra món cá lẹp kẹp rau mưng, và món cơm nguội với những con hến
nhỏ lăn tăn làm sốt ruột người chế biến món ăn, gọi là cơm hến. Sau này ở
Huế người ta bày thêm món bún hến, dùng bún thay cơm nguội.
Tôi rất ghét những lối cải tiến tạp nham như vậy. Bún đã có bún bò, ai có giang sơn nấy, việc gì phải cướp bản quyền sáng chế của người khác. Vả lại, người Huế (Huế xưa, không phải bây giờ) rất kiên định trong “lập trường ăn uống” của mình. Tôi nghĩ rằng trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ la một yếu tố văn hoá hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản. Với tôi, một món ăn đặc sản cũng giống như một di tích văn hoá, cứ phải giống y như nghìn xưa, và mọi ý đồ cải tiến đều mang tính phá phách, chỉ tạo nên những “đồ giả”!
Tôi rất ghét những lối cải tiến tạp nham như vậy. Bún đã có bún bò, ai có giang sơn nấy, việc gì phải cướp bản quyền sáng chế của người khác. Vả lại, người Huế (Huế xưa, không phải bây giờ) rất kiên định trong “lập trường ăn uống” của mình. Tôi nghĩ rằng trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ la một yếu tố văn hoá hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản. Với tôi, một món ăn đặc sản cũng giống như một di tích văn hoá, cứ phải giống y như nghìn xưa, và mọi ý đồ cải tiến đều mang tính phá phách, chỉ tạo nên những “đồ giả”!
Xin tiếp tục chuyện cơm hến. Hến ở Huế, ngon nhất là hến cồn, do đó cái gò nổi chiếm vị trí “tả thanh long” rất mực sang trọng trong Dịch Lý của kiến trúc kinh thành, dân chỉ gọi nôm na là Cồn Hến. Đáy sông quanh cồn có một lớp bùn sâu, là môi sinh màu mỡ của loài hến. Điều lạ là con hến, dù không có tay chân, nhưng khi thời tiết thay đổi làm dòng nước chảy mạnh, nó có thể lặn sâu xuống đáy bùn để khỏi bị nước cuốn đi. Dân cồn làm nghề xúc hến mỗi năm đều có lễ cúng hến vào tháng bảy, trên những con đò cờ xí rộn rịp, tiếng trống vang lừng. Người ta luộc hến xong đem ra sông đãi trong những chiếc rỗ lớn, tách vỏ, lấy riêng mặt hến đem đong chén bán cho những người làm cơm hến.
Mặt hến này là vị chủ của cơm hến, xào kèm theo bún tàu (miến), măng khô
và thịt heo thái chỉ. Món thứ ba trong cơm hến là rau sống. Chỉ một
nhúm thôi, nhưng rau sống này làm bằng thân chuối hoặc bắp chuối xắt
mảnh như sợi tơ, trộn lẫn với môn bạc hà, khế và rau thơm thái nhỏ, có
khi còn điểm thêm những cánh bông vạn thọ vàng, nhìn tươi mắt và có thêm
mùi hương riêng.
Nước luộc hến được múc ra từ chiếc nồi bung bốc khói nghi ngút, bằng
chiếc gáo làm bằng sọ dừa xinh xắn, cho vào đầy một cái tô đã gồm đủ cơm
nguội, hến xào, rau sống và được gia thêm đủ vị đồ màu. Nước hến có giã
thêm gừng, màu trắng đùng đục. Vâng, mê nhất cái màu đùng đục ấy, ăn
cơm hến mà chê nước đục là...dại!
Bộ đồ màu của cơm hến là nhiêu khê nhất thiên hạ. Đây là bảng liệt kê
các món gia vị mà tôi từng quan sát được ở một gánh cơm hến, chắc có thể
coi là "lý tưởng", như sau: 1.Ớt tương, 2. Ớt màu, ớt dầm nước mắm, 3.
Ruốc sống, 4. Bánh tráng nướng bóp vụn, 5. Muối rang, 6. Hạt đậu phụng
rang mỡ, giã hơi thô thô, 7. Mè rang, 8. Da heo rang giòn, 9. Mỡ và tóp
mỡ,10.V ị tinh. Tất cả được đựng trong những thẩu, những vịm bày trên
một cái trẹc, o bán cơm hến lấy ra bằng những chiếc gáo mù-u nhỏ xíu,
bàn tay thoăn thoắt mỗi thứ một ít như là rây...nước thánh!
Hương vị bát ngát suốt đời người của tô cơm hến là mùi ruốc thơm dậy lên tận óc, và vị cay đến trào nước mắt. Người “máu” cơm hến vẫn chưa vừa lòng với vị cay sẵn có, còn đòi thêm một trái ớt tươi để cắn kêu cái rốp! Nước mắt đầm đìa, mồ hôi ròng ròng nhỏ giọt vào tô cơm, thế mà cứ sì sụp, xuýt xoa kêu “ngon, ngon!”; đi xa nhớ lại thêm tới đứt sợi tóc, ở nước ngoài về bay ra Huế để ăn cho được một tô cơm hến lấy làm hả hê, thế đấy, chao ôi là Huế!
Tôi nhớ lần ấy, chiều mưa râm ri cữ tháng mười một, tôi ngồi ăn cơm hến ở nhà Bửu Uỳ ở đường Hàng Me. Tôi vừa đi Tây về, suốt hai tuần ở cung đại hội các nhà văn, bữa ăn nào cũng toàn thịt, bơ, phó mát..., đến nỗi tôi thất kinh, nhiều ngày chỉ mang một trái mớ cây về phòng, ăn trừ bữa. Nhiều tuần lễ không có một hột cơm trong bụng, nghe tiếng rao cơm hến, tôi thấy xúc động tận chân răng. Đây là lần đầu tiên, tôi ăn một tô cơm hến bằng tất cả tâm hồn. Thấy chị bán hàng phải cho quá nhiều thứ trong bát cơm nhỏ, công thế mà chỉ bán có năm đồng bạc, tôi thấy làm ái ngại hỏi chị:
Lời lãi bao nhiêu mà chị phải công kỹ đến thế. Chỉ cần ba bốn thứ, vừa
vừa thôi, có đỡ mất công không? Chị nhìn tôi với đôi mắt giận dỗi rất
lạ: Nói như cậu thì... còn chi mà là Huế!
Chị gánh hàng đi, dáng gầy mỏng manh, chiếc áo dài đen cũ kỹ, chiếc nón
cời và tiếng rao lanh lảnh, bây giờ tôi mới phát hiện thêm vị thứ mười
lăm, là lửa. Vâng, một bếp lửa chắt chiu, ấp ủ đi trong mưa suốt mùa
đông, bền bỉ theo bước chân người...
Xin thưa cùng quý vị là tui cũng lỡ có cái tâm hồn ăn uống kể cũng khá là "đậm đà" , nên khi nghe tác giả " Chuyện Cơm Hến "kề nỗi lòng cuả ông với tô cơm hến ( dù tui chưa bao giờ được nếm thử ) thì tui cũng thấy nao nao . Điều tui tâm đắc nhứt là đoạn :
Sau này ở Huế người ta bày thêm món bún hến, dùng bún thay cơm nguội. Tôi rất ghét những lối cải tiến tạp nham như vậy. Bún đã có bún bò, ai có giang sơn nấy, việc gì phải cướp bản quyền sáng chế của người khác. Vả lại, người Huế (Huế xưa, không phải bây giờ) rất kiên định trong “lập trường ăn uống” của mình. Tôi nghĩ rằng trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ la một yếu tố văn hóa hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản. Với tôi, một món ăn đặc sản cũng giống như một di tích văn hóa, cứ phải giống y như nghìn xưa, và mọi ý đồ cải tiến đều mang tính phá phách, chỉ tạo nên những “đồ giả”!
Tôi cũng không ưa cách pha phách , chế biến tạp nham ( xin phép được mượn lại chữ cuả tác giả ) khiến những món ăn đặc biệt cuả một vùng bị "cải biên" thành ra một thứ tả pín lù không còn mùi vị chính gốc cuả nó nữa . Chẳng hạn như vừa rồi tui có dịp được thưa chuyện cùng quý vị về món Cơm Tấm Bì Saigon ( miền Nam quê tui ) mà theo miêu tả trong bài giới thiệu 12 món cơm ngon VN , thì từ một diã cơm tấm rất bình dân , đơn sơ gồm cơm là chính và bì phụ vào , cùng với chút hương hoa là cà rốt chua ngọt , mỡ hành thơm và nước mắm chanh ớt , đã biến dạng thành ra diã cơm tấm hằm bà lằng như hiện nay ( xem hình ) tuy rất xôm tụ , nhưng lại rất xa với món cơm tấm bình dân ăn sáng cuả người miền Nam ngày xưa . Cơm này phải đặt tên lại là Cơm Tấm Bì ,Chả ,Thịt Nướng , Đậu Hũ Chiên , Tôm Rim , Dưa Chuột , Cà Rốt , Mỡ Hành , rồi !
Tôi nói vậy là bắt chước kiểu rao hàng rong cuả người miền Nam : Ai ăn chè đậu xanh , bột báng , đường cát trắng , nước cốt dưà hông ! đó .
Hến ở Huế, ngon nhất là hến cồn, do đó cái gò nổi chiếm vị trí “Tả Thanh Long” rất mực sang trọng trong Dịch Lý của kiến trúc kinh thành, dân chỉ gọi nôm na là Cồn Hến. Đáy sông quanh cồn có một lớp bùn sâu, là môi sinh màu mỡ của loài hến. Điều lạ là con hến, dù không có tay chân, nhưng khi thời tiết thay đổi làm dòng nước chảy mạnh, nó có thể lặn sâu xuống đáy bùn để khỏi bị nước cuốn đi. Dân cồn làm nghề xúc hến mỗi năm đều có lễ cúng hến vào tháng bảy, trên những con đò cờ xí rộn rịp, tiếng trống vang lừng. Người ta luộc hến xong đem ra sông đãi trong những chiếc rỗ lớn, tách vỏ, lấy riêng mặt hến đem đong chén bán cho những người làm cơm hến.
Xuc hến
Mặt hến này là vị chủ của cơm hến, xào kèm theo bún tàu (miến), măng khô và thịt heo thái chỉ. Món thứ ba trong cơm hến là rau sống. Chỉ một nhúm thôi, nhưng rau sống này làm bằng thân chuối hoặc bắp chuối xắt mảnh như sợi tơ, trộn lẫn với môn bạc hà, khế và rau thơm thái nhỏ, có khi còn điểm thêm những cánh bông vạn thọ vàng, nhìn tươi mắt và có thêm mùi hương riêng.
Nước luộc hến được múc ra từ chiếc nồi bung bốc khói nghi ngút, bằng chiếc gáo làm bằng sọ dừa xinh xắn, cho vào đầy một cái tô đã gồm đủ cơm nguội, hến xào, rau sống và được gia thêm đủ vị đồ màu. Nước hến có giã thêm gừng, màu trắng đùng đục. Vâng, mê nhất cái màu đùng đục ấy, ăn cơm hến mà chê nước đục là… dại!
Con hến
Bộ đồ màu của cơm hến là nhiêu khê nhất thiên hạ. Đây là bảng liệt kê
các món gia vị mà tôi từng quan sát được ở một gánh cơm hến, chắc có thể
coi là “lý tưởng”, như sau: 1.Ớt tương, 2.Ớt màu, ớt dầm nước mắm,
3.Ruốc sống, 4.Bánh tráng nướng bóp vụn, 5.Muối rang, 6.Hạt đậu phụng
rang mỡ, giã hơi thô thô, 7.Mè rang, 8.Da heo rang giòn, 9.Mỡ và tóp
mỡ,10.Vị tinh. Tất cả được đựng trong những thẩu, những vịm bày trên một
cái trẹc, o bán cơm hến lấy ra bằng những chiếc gáo mù-u nhỏ xíu, bàn
tay thoăn thoắt mỗi thứ một ít như là rây… nước thánh!
Hương vị bát ngát suốt đời người của tô cơm hến là mùi ruốc thơm dậy lên tận óc, và vị cay đến trào nước mắt. Người “máu” cơm hến vẫn chưa vừa lòng với vị cay sẵn có, còn đòi thêm một trái ớt tươi để cắn kêu cái rốp! Nước mắt đầm đìa, mồ hôi ròng ròng nhỏ giọt vào tô cơm, thế mà cứ sì sụp, xuýt xoa kêu “ngon, ngon!”; đi xa nhớ lại thêm tới đứt sợi tóc, ở nước ngoài về bay ra Huế để ăn cho được một tô cơm hến lấy làm hả hê, thế đấy, chao ôi là Huế!
Tôi nhớ lần ấy, chiều mưa râm ri cữ tháng mười một, tôi ngồi ăn cơm hến ở
nhà Bửu Ý ở đường Hàng Me. Tôi vừa đi Tây về, suốt hai tuần ở Cung Đại
Hội các nhà văn, bữa ăn nào cũng toàn thịt, bơ, phó mát…, đến nỗi tôi
thất kinh, nhiều ngày chỉ mang một trái mớ cây về phòng, ăn trừ bữa.
Nhiều tuần lễ không có một hột cơm trong bụng, nghe tiếng rao cơm hến,
tôi thấy xúc động tận chân răng. Đây là lần đầu tiên, tôi ăn một tô cơm
hến bằng tất cả tâm hồn. Thấy chị bán hàng phải cho quá nhiều thứ trong
bát cơm nhỏ, công thế mà chỉ bán có năm đồng bạc, tôi thấy làm ái ngại
hỏi chị:
Lời lãi bao nhiêu mà chị phải công kỹ đến thế. Chỉ cần ba bốn thứ, vừa vừa thôi, có đỡ mất công không? Chị nhìn tôi với đôi mắt giận dỗi rất lạ:
Nói như cậu thì… còn chi mà là Huế!
Lời lãi bao nhiêu mà chị phải công kỹ đến thế. Chỉ cần ba bốn thứ, vừa vừa thôi, có đỡ mất công không? Chị nhìn tôi với đôi mắt giận dỗi rất lạ:
Nói như cậu thì… còn chi mà là Huế!
Chị gánh hàng đi, dáng gầy mỏng manh, chiếc áo dài đen cũ kỹ, chiếc nón
cời và tiếng rao lanh lảnh, bây giờ tôi mới phát hiện thêm vị thứ mười
lăm, là lửa. Vâng, một bếp lửa chắt chiu, ấp ủ đi trong mưa suốt mùa
đông, bền bỉ theo bước chân người
TS. MAI THANH TRUYẾT * NHÌN VỀ TƯƠNG LAI
NHÌN VỀ TƯƠNG LAI
TS. MAI THANH TRUYẾT
Đà gia tăng dân số toàn cầu trong những năm gần đây đang đi dần đến mức
báo động. Nhiều quốc gia đã chứng minh sự cố gắng trong vấn đề kiểm soát
và hạn chế sinh sản gắt gao như Trung Cộng và Ấn Độ. Tuy nhiên, Ấn Độ
và đa số các quốc gia vùng Phi châu, Á châu không thể kiểm soát được vấn
đề trên, do đó mức gia tăng nhân khẩu đã đạt đến mức báo động. Hiện
tại, dân số trên thế giới đã vượt gần con số 7 tỷ. Việc dân số gia tăng
kéo thêm một số nhu cầu và vấn đề khẩn thiết mới cho con người như thực
phẩm, y tế, giáo dục, phát triển và môi sinh... các nhu cầu và vấn đề
trên có liên quan hỗ tương chặt chẽ với nhau như việc phát triển để gia
tăng lương thực có thể tạo ra những di hại về ô nhiễm ảnh hưởng đến môi
trường sống.
Do đó, không thể có cái nhìn riêng rẽ và độc lập trong việc áp dụng khoa
học-kỹ thuật để phát triển mà không lưu ý đến những liên quan đến yếu
tố ảnh hưởng lên con người. Arpad Goncez, tổng thống Hung Gia Lợi đã
phát biểu trong buổi khai mạc hội nghị “Khoa học cho thế kỷ thứ 21: Một
kết ước mới” (Science for the 21st century: A new commitment) tại
Budapest rằng: Chỉ có một khoa học, một hành tinh Địa cầu và một “Giống
Người” (Humankind)... Đó là mẫu số chung của mọi quốc gia sống trên hành
tinh nầy. Hội nghị đã quy tụ trên 150 quốc gia trên thế giới với mục
đích kêu gọi toàn cầu có cùng một hướng nhìn về tương lai về các liên
quan giữa phát triển khoa học-xã hội-môi sinh.
Neal Lane, cố vấn khoa học của tổng thống Clinton đã gọi các khoa học
gia là Công dân toàn cầu (Global citizen). Mọi động tác nào của con
người, quốc gia, hay từng vùng trên thế giới đều thay đổi ít hay nhiều
đến chu kỳ sinh-địa-hoá học của hệ sinh thái thiên nhiên. Sự xáo trộn
nầy sẽ gây tác hại trực tiếp hay gián tiếp lên con người ở khắp nơi trên
địa cầu. Một thí dụ cụ thể là thủy ngân và arsenic, hoá chất cần thiết
cho việc tách vàng ròng từ các quặng mỏ đã hiện diện trong lòng đất và
các mạch nước ngầm trong tất cả các vùng đã khai thác.
Vì vậy, nhà dự phóng phát triển cho tương lai ở bất cứ quốc gia nào cũng
phải có tầm nhìn toàn cầu và đắn đo cân nhắc nguyên nhân-hậu quả cùng
các hệ lụy của từng công nghệ áp dụng. Giải quyết được một vài vấn nạn
cho quốc gia trong ngắn hạn mà tạo ra những tác hại đến hệ sinh thái
trong tương lai không phải là giải pháp thích ứng hay tối ưu cho phát
triển.
Thế kỷ thứ 21 sẽ mở màn cho một cuộc tập hợp vĩ đại không những chỉ ở
cấp vùng, cấp châu mà cần phải phối hợp mở rộng cho toàn thể địa cầu.
Mọi quốc gia dù đang hay đã phát triển, giàu hay nghèo... đều phải cùng
có tiếng nói và góp phần vào việc bảo vệ hệ sinh thái toàn cầu. Một sự
tập hợp giữa các nhà khoa hoạ, kỹ thuật trong tinh thần nhân bản, có
cùng mẫu số chung về những vấn nạn ảnh hưởng đến toàn cầu...sẽ là một
bước ngoặt tích cực mới cho thế kỷ nầy.
Như chúng ta đã biết, tiến bộ khoa học và việc khai triển các công nghệ mới nhằm đáp ứng nhu cầu hạn chế đà gia tăng dân số cũng như cải thiện và nâng cao đời sống của người dân ở các nước đang mở mang. Đây cũng là nguyên nhân phát sinh ra nhiều hậu quả mà ba hệ lụy chính được đan cử ra sau đây:
· Bầu khí quyển bị ô nhiễm và bị hâm nóng dần;
· Ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt trên mặt đất và các mạch nước ngầm;
· Ô nhiễm lòng đất do chất thải phát xuất từ nhiều nguồn khác nhau...
Trên thực tế, mặc dù đã được chia ra làm ba vấn nạn căn bản kể trên, nhưng tất cả đều có liên quan và đan kết chặt chẽ với nhau.
Mọi biện pháp phòng vệ, ngăn chận, hay làm chậm lại tiến trình ô nhiễm cần phải được nghiên cứu kỷ lưỡng yếu tố nguyên nhân-hậu quả của từng vấn nạn một.
Một giải pháp cho vấn nạn nầy có thể là nguyên nhân của vấn nạn kia.... Một thí dụ cụ thể là tại Hoa Kỳ, các khoa học gia đã đồng ý cho thêm vào trong xăng chất trợ oxy MTBE (Methyl tert-Butyl Ether) nhằm mục đích làm giảm thiểu lượng khí thải hồi vào không khí khi sử dụng xăng để làm chậm lại tiến trình hâm nóng bầu khí quyển trên toàn cầu. Nhưng sau hai năm áp dụng, lượng thán khí thải hồi tuy có giảm bớt, nhưng ngược lại chất MTBE, nhân tố gây ra bệnh ung thư cho con người lần lần xâm nhập vào lòng đất và đã có chỉ dấu về sự hiện diện của hoá chất nầy trong mạch nước ngầm.
Do đó, EPA, cơ quan bảo vệ môi trường của Hoa Kỳ đã phải đình chỉ việc dùng hoá chất trên và thay vào bằng một chất trợ oxy khác là Ethanol (chất rượu làm từ bắp có thể uống được). Một dấu hỏi được mở ra đây là việc gì sẽ xảy ra trong tương lai sau khi áp dụng phương pháp trên nhiều năm sau đó? Hiện tại sau gần 20 năm áp dụng, vẫn chưa có một báo cáo nói lên sự nguy hại trên và Ethanol vẫn được pha vào trong xăng với liều lượng là 10%. (Riêng tại Ba Tây, số xe chạy bằng “xăng” Ethanol (100%) đã chiếm một tỷ lệ gần 50%).
Hiện tượng hâm nóng toàn cầu
Với hàng triệu động cơ vận hành mỗi ngày, hàng triệu máy cắt cỏ, máy thổi lá chuyển vận, nhiều triệu lon/chai của đủ loại nước ngọt, bia tiêu dùng..., thán khí (CO2) thênh thang đi vào bầu khí quyển cùng với thân nhiệt và thán khí thoát ra từ buồng phổi của gần 7 tỷ con người. Và thêm nữa, các quy trình công nghệ sản xuất chế biến, việc sử dụng lò sưởi trong mùa đông, cùng các công nghệ khai thác quặng, khí v.v...đã đóng góp không nhỏ vào lượng thán khí trong không khí.
Hiện tượng hâm nóng toàn cầu khởi sinh từ các nguyên nhân kể trên.
Các khoa học gia đã ước tính rằng nếu không có biện pháp làm giảm thiểu lượng thán khí thải hồi thì lượng khí trên sẽ tăng gấp đôi trong vòng 50 năm tới nếu giữ cùng một nhịp độ phát triển như hiện nay. Trong thiên nhiên cây xanh là nguồn trợ lực chính hấp thụ thán khí, nhưng với đà phá rừng ở Phi châu, Á châu, Nam Mỹ...e rằng con số ước tính trên sẽ bị thâu ngắn lại. Hàng năm, loài người đã thải ra độ 40 tỷ tấn thán khí (ước tính năm 2010) và số lượng nầy đã được cây cỏ hấp thụ độ 50%
. Nhưng số lượng trên ngày càng tăng dần với đà phát triển. Thống kê ghi nhận rằng từ năm 1902 đến 1990 nhiệt độ bầu khí quyển tăng lên khoảng 1oC; nhưng trong khoảng thời gian từ 1995 đến 1998, nhiệt độ tăng lên đến mức độ báo động là 0,25oC.
Chuyện gì sẽ xảy ra khi nhiệt độ trong bầu khí quyển tăng lên?
Trước hết, khối lượng băng hà ở Bắc cực và Nam cực sẽ tan dần và lần lần thu hẹp diện tích đất sinh hoạt của loài người. Trên các đại dương, chỉ cần nhiệt độ tăng thêm 1,5oC thì hầu hết các vùng sinh thái của san hô và phiêu sinh vật sẽ bị hủy diệt, làm cạn kiệt nguồn lương thực biển vì tôm cá không còn nơi trú ngụ, sinh sản (nhiệt độ trung bình ở các vùng biển nhiệt đới là 30,5oC). Hai hiện tượng trên đang xảy ra trên trái đất của chúng ta với vận tốc đáng ngại!
Có nhiều biện pháp để ngăn chận và giảm thiểu việc tăng trưởng lượng thán khí trên toàn cầu:
Hạn chế và kiểm soát lượng thán khí thải hồi trong kỹ nghệ qua khuyến cáo Kyoto năm 1997 do hầu hết các quốc gia trên thế giới soạn thảo và đồng ý.
Hoặc thanh lọc lượng khí thải hồi bằng phương pháp tách rời và cô lập hoá học (sequestration technology). Thán khí cô lập được bơm vào dưới lòng biển sâu và nước biển sẽ hấp thụ khối lượng trên. Hoặc thán khí được bơm vào các vùng quặng mỏ than đá từ đó than sẽ phản ứng với thán khí để hình thành khí methane.
Cả hai phương pháp nầy đã đi dần đến hoàn chỉnh và có thể được đem ra áp dụng trong vài năm nữa. Tuy nhiên biện pháp dùng thiên nhiên để hấp thụ thán khí vẫn là phương pháp tối ưu nhất.
Thay vì phá rừng để phục vụ cho nhu cầu kỹ nghệ, cần phải tái tạo rừng và trồng thêm rừng mới để tăng thêm diện tích cây cỏ hầu ngăn chận hay làm chậm tiến trình hâm nóng toàn cầu.
Và sau hết, con người cần phải tự nguyện hạn chế việc sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu bừa bãi.
Nếu làm các việc trên hy vọng chúng ta có thể giải quyết được vấn nạn sinh tử của nhân loại.
Vài suy nghĩ cho toàn cầu
Như đã nói ở các phần trên, vấn nạn ảnh hưởng đến môi sinh trên toàn thế giới trong thời gian tới cùng với những biện pháp phòng ngừa và hạn chế ô nhiễm đều có tính cách liên đới ảnh hưởng lên mọi quốc gia. Xu hướng toàn cầu hóa trong lãnh vực nầy sẽ không có biệt lệ nào khác.
Tuy nhiên, sự phân bố không đồng đều về mặt phát triển kỹ thuật, trình độ dân trí, điều kiện kinh tế-chính trị của đa số các quốc gia đang phát triển không cho phép họ có tầm dự phóng xa hơn những vấn đề sống còn trước mắt. Do đó, các nước hậu kỹ nghệ cần phải thông cảm và có thật tâm giúp đỡ về nhân sự, tài chánh và kỹ thuật...để các nước đang phát triển có điều kiện theo kịp đà tiến hoá
môi sinh để cùng tồn tại. Giai đoạn thực dân bốc lột, vét đoạt tài nguyên của những nước nghèo sẽ không còn thấy trong thế kỷ thứ 21 nầy nữa.
Trong chiều hướng suy nghĩ đó, vài đề nghị gợi ý sau đây nói lên những bước cần nên làm đối với các nước hậu kỹ nghệ và những nước đang phát triển.
· Trước hết, biện pháp làm giảm thiểu hay hạn chế sự hâm nóng toàn cầu là ưu tiên hàng đầu cho mọi quốc gia, đặc biệt đối với các quốc gia hậu kỹ nghệ. Ngân sách quốc gia cần được tăng cường trong nghiên cứu và cần kiểm soát chặt chẽ hơn nữa các cơ xưởng công nghệ. Hạn chế hay nghiêm cấm các cơ sở sản xuất tạo ảnh hưởng tác hại đến lớp ozone trên bầu khí quyển. Điều cần phải làm trước nhất là “giáo dục” người dân ở những nước giảm bớt phung phí trong việc sử dụng năng lượng, tài nguyên thiên nhiên và chấm dứt việc phí phạm nguồn nước sinh hoạt. Chỉ trong một ngày vận động cho việc làm sạch bầu khí quyển bằng cách yêu cầu dân chúng sử dụng xe đạp hoặc đi bộ, hay dùng xe công cộng...thủ đô của Colombia đã giảm 27% lượng thán khí thải hồi so với mức sinh hoạt bình thường hàng ngày.
· Định mức tiêu chuẩn tối thiểu mà cơ thể con người có thể chấp nhận được đối với các hoá chất, kim loại độc hại... trong không khí và trong nguồn nước cần phải được soạn thảo trên bình diện toàn cầu và phải có sự đồng thuận của tất cả. Một khi đã chấp thuận một định mức nào đó, mọi quốc gia đều phải chấp hành nghiêm chỉnh. Một thí dụ cụ thể cho tiêu chuẩn chấp nhận được của sự hiện diện của arsenic trong nước uống hiện tại là: 10ug/L cho Hoa Kỳ, 15 ug/L ở Pháp và 10 ug/L đối với tiêu chuẩn Liên hiệp Quốc, và nhiều nơi trên thế giới vẫn còn giữ định mức là 50ug/L nước. Từ những khác biệt trên có thể nảy sinh ra sự so bì và lơ là của các quốc gia trong việc bảo vệ môi sinh chung.
· Các phát minh khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cần được thật thà trao đổi với các quốc gia đang phát triển. Trợ giúp các nước nầy trong việc trao đổi thông tin kỹ thuật, đào tạo kỹ thuật viên và khai triển các quy trình công nghệ có hiệu quả cao và an toàn cho môi sinh. Mọi phát minh mới cần được thông báo cho toàn thể thế giới để tránh sự thụt lùi và thâu ngắn cách biệt giữa các quốc gia giàu-nghèo.
· Đối với những phát minh hoàn chỉnh, cần phải tiến hành nhanh giai đoạn thử nghiệm (prototype) và áp dụng tùy theo yếu tố xã hội-kinh tế-môi sinh cho từng vùng hay quốc gia. Làm được như thế sản phẩm vật chất sẽ được sản xuất nhiều hơn và chuyển tải đến những nơi có nhu cầu sớm hơn nhất là đối với các nước ở Phi châu, Á châu và Nam Mỹ.
· Về nguồn nước, các nước hậu kỹ nghệ cần hạn chế hoặc thay thế việc sử dụng hoá chất trong các quy trình sản xuất hiện có và trong tương lai thay thế bằng những nguyên liệu có trong thiên nhiên để hạn chế hay giảm thiểu mức độc hại trong các phó sản thải hồi. Với chiều hướng nầy, nhiều nhà khoa học trên thế giới đã thành công trong việc áp dụng vào sản xuất và thanh lọc phế thải. Duckweed (một loại bèo) dùng để hấp thụ lượng nitrate trong nguồn nước đang được sử dụng rộng rãi; cây bạch dương (poplar) hấp thụ một số phế thải hữu cơ. Việc thay thế nguyên liệu hoá chất bằng các hợp chất thiên nhiên như dùng carbohydrate (sản phẩm có trong tiến trình chế biến phân gia súc) để thay thế hydrocarbon để chế tạo các loại plastic (như plastic tổng hợp từ bột bắp để bọc các loại sausage có thể tự hoại (auto-degradation) được trong thiên nhiên. Các việc làm trên cần được khích lệ và phát triển thêm bằng cách đẩy mạnh tài trợ cho nghiên cứu.
Việc tăng trưởng kinh tế-kỹ nghệ quá nhanh so với tốc độ trước khi có chính sách đổi mới, nhưng không đủ nhanh so với nhu cầu của quốc gia, tạo nên những biến động ảnh hưởng lên môi trường ở những vùng được phát triển mạnh. Tại các nơi trên, bầu không khí ngày càng ô nhiễm thêm. Thán khí cùng với nhiều kim loại độc hại như chì, thủy ngân và một số hợp chất hữu cơ nhẹ đã được ghi nhận. Nguồn nước bị ô nhiễm nặng đặc biệt ở các vùng tiếp nhận trực tiếp nguồn nước thải từ các nhà máy và hệ thống cống rãnh.
Nhìn chung tình trạng môi sinh ở Việt Nam đã đến mức báo động, nhất là ở các thành phố lớn mặc dù mức độ khai triển kỹ nghệ chưa phát triển tương xứng với nhu cầu của dân chúng toàn quốc mà chỉ tập trung vào một số thành phố lớn mà không lưu tâm hay quy hoạch đồng bộ tuỳ theo điều kiện của từng địa phương. Hiện nay vẫn còn khoảng 50% dân chúng tập trung ở các vùng nông nghiệp đang còn trong thời sơ khai của thời đại phát triển kỹ nghệ.
Nguyên nhân của việc trì trệ phát triển cho những năm gần đây cũng như hiện trạng ô nhiễm ở Việt Nam có thể được tóm tắt vào những ghi nhận sau đây:
· Ảnh hưởng của sự sụp đổ của hệ thống Cộng sản ở Nga xô và Đông Âu đầu thập niên 90 cùng với sự khủng hoảng kinh tế vùng Đông Á ở những năm gần đây (sau năm 1997…) làm cho quốc tế ngần ngại đầu tư vào Việt Nam.
· Hệ thống tiền tệ chưa hoán chuyển được và chưa thiết lập được thị trường chứng khoán cùng các luật định ngân hàng phức tạp và hay thay đổi thường xuyên, không bảo đảm tối thiểu cho công cuộc giao thương với bên ngoài.
· Hệ thống ngân hàng không hữu hiệu, không thể hiện nhiệm vụ đúng đắn trong dịch vụ trao đổi và không có tính xuyên suốt trong báo cáo. Thống đốc ngân hàng Việt Nam mới đây đã nhận định rằng nhiệm vụ của ngân hàng là đáp ứng cho nhu cầu của quốc gia và dân chúng chứ không thi hành theo chỉ thị hoặc mệnh lệnh!
· Mặc dù có sự hỗ trợ của Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Á châu (ADB), Quỷ tiền tệ thế giới (IMF), Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)... về tài chánh và kỹ thuật cho việc nâng cấp và giải quyết các vấn nạn môi sinh ở Việt Nam do sự phát triển kỹ nghệ và nạn gia tăng dân số, nhưng hầu hết các hạng mục công trình trên còn nằm bất động trên hình thức các dự án khả thi. Mức độ thi công tiến hành quá chậm do thủ tục hành chánh rườm rà và bất nhất cũng như các tệ nạn quan liêu khiến cho đôi khi dự án phải bị bỏ dở nửa chừng.
· Việc phá hoại các rừng ven biển và dẫn nước mặn vào sâu trong đất liền để khai thác dịch vụ nuôi tôm là một trong những nguyên nhân cho sự nhiễm mặn. Ngay cả việc nuôi tôm, sau một vài mùa có thu hoạch cao, dịch vụ nầy lần lần đi vào phá sản vì tôm con bị chết quá nhiều vì hệ sinh thái thay đổi và môi trường sinh sống của tôm không còn đồng nhất như vùng nước mặn nguyên thuỷ. Ảnh chụp từ vệ tinh năm 1999 cho thấy khoảng 150.000 hecta ở ven biển Cà Mau, Bạc Liêu đã bị bỏ hoang trên gần 200.000 hecta đã khai thác trong khoảng năm năm gần đây! Từ xa xưa, các rừng tràm, đước, vẹt...đã phát triển vững mạnh trong vùng lầy, thiết lập một hệ sinh thái thiên nhiên vừa cân bằng và cầm chân nước mặn tiến sâu vào đất liền, vừa là môi trường sống thích hợp cho tôm cá; do đó tôm không thể phát triển được vì sự mất cân bằng trên.
· Trong những năm sau nầy, lãnh đạo Việt Nam có khuynh hướng cứng rắn hơn trong việc điều hành quốc gia. Đường lối và chính sách hiện tại thể hiện sự bất an, bối rối trong quyết định trước những vấn nạn sinh tử cho đất nước. ·
Càng thiết tha, càng gắn bó với quê cha đất tổ càng thấy mình có trách nhiệm.
Trách nhiệm là nhận thức thực tiễn, và trên căn bản đó có những thái độ và hành động tích cực hơn cho đất nước.
Nói lên tiếng nói, tạo một âm vang, khuếch đại một xu hướng, tạo dựng sức ép, mỗi người mỗi cách, không sao kể xiết.
Nhìn lại đất nước, với hơn 65% lực lượng lao động thuộc thành phần trẻ tuổi, chúng ta đã có một trợ lực lớn có khả năng đưa đất nước lên cao. Tuổi trẻ Việt Nam, sau một giai đoạn ngắn tiếp cận với phong cách hành xử và giao thương quốc tế đã hiểu thêm và hiểu cặn kẽ về tự do-dân chủ. Từ đó tinh thần quốc gia dân tộc tăng trưởng nhanh chóng trong thành phần nầy.
Tuổi trẻ Việt Nam mong muốn có một đời sống kinh tế-tinh thần-tâm linh tương xứng với các đóng góp của chính mình.
Những rào cản ngăn cách trong tôn giáo-địa phương không còn là một chướng ngại để rồi cùng ngồi lại với nhau, không như các thế hệ cha ông trước kia.
Những cảm xúc trong tư tưởng, vết hằn trong quá khứ sau cuộc qua phân của đất nước phải nhường bước cho lối nhìn tích cực về triển vọng tương lai của quê hương.
Do đó, các mỹ từ vì thế hệ mai sau, vì chủ nghĩa anh hùng...không còn là một xúc tác tốt để hấp dẫn tuổi trẻ Viêt Nam nữa.
Tuổi trẻ Việt Nam trân trọng bốn ngàn năm văn hiến của tiền nhân, nhưng tuổi trẻ hôm nay không vì niềm tự hào đó mà dừng chân lại để chiêm ngưỡng quá khứ.
Đừng cho đó là một cản ngại lớn cho sự bền vững của chế độ mà nên cùng nhau thay đổi đường lối và chính sách thích hợp với xu hướng toàn cầu. Cùng tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường làm việc thích ứng với tính năng động và hiếu học của tuổi trẻ.
Có như thế, cơ hội phát triển và triển vọng tương lai đồng đều cùng đời sống kinh tế-tinh thần có hy vọng được nâng cao sẽ là hai động cơ chính thức thúc đẩy tuổi trẻ mạnh bước tiến lên.
Cũng xin dừng rập khuôn tin tưởng vào văn hoá “coca cola” của Hoa Kỳ để mong được phát triển nhanh và đổi lấy một xã hội bất ổn về tinh thần và tạo ra xã hội băng hoại!
Tuổi trẻ Việt Nam đang lên đường.
Mai Thanh Truyết
12-2014
ĐỖ THÔNG MINH * CHƠI MÁC DAO
Người Việt Về Đầu Tư" -
Đỗ Thông Minh
Đỗ Thông Minh
Có 1 số trường hợp người
thân CS từ hải ngoại về có quan hệ cán bộ cao cấp đỡ đầu tương đối ít bị khó
khăn.
Như Nguyễn Trí Dũng là Tiến Sĩ quản lý công học tốt nghiệp đại học Hitotsubashi ở Nhật Bản về VN rất sớm, thành lập và làm Giám Đốc công ty Minh Trân quận Tân Bình, sản xuất linh kiện điện tử năm 1993, trường Doanh Thương Trí Dũng, đồng thời là Chủ Tịch sáng lập Hiệp Hội Doanh Nghiệp Việt Kiều, Phó Chủ Tịch thường trực Câu Lạc Bộ Hợp Tác Việt Nhật, Phó Trưởng Ban Câu Lạc Bộ Khoa Học Kỹ Thuật Việt Kiều. Nay Dũng có cơ ngơi rộng lớn, rát hoành tráng ngay tại Sai Gòn.
Nguyễn Chánh Khê là Tiến Sĩ vật liệu và khoa học xử lý thông tin tốt nghiệp đại học Tokodai, Nhật Bản, qua Hoa Kỳ rồi về năm 2002, lập công ty chế mực in và than nano và làm Phó Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu và Phát Triển Khu Công Nghệ Cao, Sài Gòn. Khê được CTN Nguyễn Minh Triết nâng đỡ, ông nói ông có 37 phát minh được thế giới công nhận, nhưng cũng đưa ra những “phát minh lớn” đầy nghi vấn như vụ “Mực in nano”, “Máy phát điện chạy bằng nước”..., không có mấy thành quả cụ thể như vẫn được truyền thông CSVN tuyên truyền nên không mấy thành công về sự nghiệp và tài chính…
Nhà cầm quyền đẩy mạnh kêu gọi người Việt ở hải ngoại về đầu tư giúp nước theo Nghi Quyết 36 của Bộ Chính Trị năm 2004. Nhưng cán bộ CS quá tham lam, nên đã có hàng trăm trường hợp người Việt ở hải ngoại về bị tước sạch, thậm chí có trường hợp bỏ mạng. Như ông Trần Kiêm Khiết, nguyên là SV du học Nhật Bản năm 1958 tốt nghiệp Kỹ Sư hóa nông nghiệp, rồi qua Hoa Kỳ học tiếp Cao Học làm cho Dupont Hoa Kỳ, năm 1994, về làm đại diện công ty Dupont Singapore, bị xô ngã chết từ lầu cao (tin công an nói là vì tim mạch nên té lầu, tin ông Nguyễn An Trung là tại thang máy đứt dây) ở Sài Gòn; ông Thiện là người tỵ nạn CS buôn đồ cũ từ Nhật Bản về làm ăn bị sát hại (bắt trói và bắn chết?) tại Hải Phòng; bà Nguyễn Thị Hiệp từ Canada về bị tử hình gấp rút bởi tội chuyển 5,1 kg ma tuý năm 1996 từ Nội Bài đi, trong khi chính phủ Canada yêu cầu chờ đối chiếu xem bà là thủ phạm hay nạn nhân... khiến gây rắc rối ngoại giao giữa 2 nước một thời gian!
Tất nhiên, cũng có người từ hải ngoại về dùng mánh khóe làm ăn, nhưng nói chung nhà cầm quyền nắm đằng cán, họ có thề dễ dàng ra tay tước đoạt.
Một số trường hợp điển hình như:
Như Nguyễn Trí Dũng là Tiến Sĩ quản lý công học tốt nghiệp đại học Hitotsubashi ở Nhật Bản về VN rất sớm, thành lập và làm Giám Đốc công ty Minh Trân quận Tân Bình, sản xuất linh kiện điện tử năm 1993, trường Doanh Thương Trí Dũng, đồng thời là Chủ Tịch sáng lập Hiệp Hội Doanh Nghiệp Việt Kiều, Phó Chủ Tịch thường trực Câu Lạc Bộ Hợp Tác Việt Nhật, Phó Trưởng Ban Câu Lạc Bộ Khoa Học Kỹ Thuật Việt Kiều. Nay Dũng có cơ ngơi rộng lớn, rát hoành tráng ngay tại Sai Gòn.
Nguyễn Chánh Khê là Tiến Sĩ vật liệu và khoa học xử lý thông tin tốt nghiệp đại học Tokodai, Nhật Bản, qua Hoa Kỳ rồi về năm 2002, lập công ty chế mực in và than nano và làm Phó Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu và Phát Triển Khu Công Nghệ Cao, Sài Gòn. Khê được CTN Nguyễn Minh Triết nâng đỡ, ông nói ông có 37 phát minh được thế giới công nhận, nhưng cũng đưa ra những “phát minh lớn” đầy nghi vấn như vụ “Mực in nano”, “Máy phát điện chạy bằng nước”..., không có mấy thành quả cụ thể như vẫn được truyền thông CSVN tuyên truyền nên không mấy thành công về sự nghiệp và tài chính…
Nhà cầm quyền đẩy mạnh kêu gọi người Việt ở hải ngoại về đầu tư giúp nước theo Nghi Quyết 36 của Bộ Chính Trị năm 2004. Nhưng cán bộ CS quá tham lam, nên đã có hàng trăm trường hợp người Việt ở hải ngoại về bị tước sạch, thậm chí có trường hợp bỏ mạng. Như ông Trần Kiêm Khiết, nguyên là SV du học Nhật Bản năm 1958 tốt nghiệp Kỹ Sư hóa nông nghiệp, rồi qua Hoa Kỳ học tiếp Cao Học làm cho Dupont Hoa Kỳ, năm 1994, về làm đại diện công ty Dupont Singapore, bị xô ngã chết từ lầu cao (tin công an nói là vì tim mạch nên té lầu, tin ông Nguyễn An Trung là tại thang máy đứt dây) ở Sài Gòn; ông Thiện là người tỵ nạn CS buôn đồ cũ từ Nhật Bản về làm ăn bị sát hại (bắt trói và bắn chết?) tại Hải Phòng; bà Nguyễn Thị Hiệp từ Canada về bị tử hình gấp rút bởi tội chuyển 5,1 kg ma tuý năm 1996 từ Nội Bài đi, trong khi chính phủ Canada yêu cầu chờ đối chiếu xem bà là thủ phạm hay nạn nhân... khiến gây rắc rối ngoại giao giữa 2 nước một thời gian!
Tất nhiên, cũng có người từ hải ngoại về dùng mánh khóe làm ăn, nhưng nói chung nhà cầm quyền nắm đằng cán, họ có thề dễ dàng ra tay tước đoạt.
Một số trường hợp điển hình như:
- Tiến Sĩ luyện kim
Nguyễn An Trung, sang Nhật năm 1960, cầm đầu nhóm sinh viên theo
CS là “BEHEITO” (“Tổ Chức
Người Việt Tại Nhật Bản Đấu Tranh Cho Hòa Bình và Thống Nhất Đất Nước”, thành lập
ngày 22/6/1969) ở Nhật Bản, đầu năm 1970, từng bị Tòa
Án Quân Sự Đặc Biệt Vùng
3 Chiến Thuật VNCH kết án khuyết tịch 6 năm khổ sai và 20 năm mất quyền công dân (cùng với Lê Văn Tâm và Nguyễn
Hồng Quân).
Nguyễn
An Trung ly dị vợ Nhật (có tin về VN lấy con gái Tướng
Công An) về VN mở Saigon Auto và làm Tổng Giám Đốc, chuyên đổi
tay lái ngược hàng chục ngàn xe cũ chuyên dụng nhập từ
Nhật Bản, đã giúp vực dạy cả ngành giao thông xuống cấp thê thảm khi ấy (những
năm 1976-90, có xe phải chạy bằng than đun trên nóc hay sau lưng, tốc độ khoảng 30 km/giờ). Sau cả hơn chục năm làm ăn, với khoảng 50 Kỹ Sư và 400 nhân viên, năm 1994, đột nhiên
ông bị vu cho vi phạm luật pháp và nhập cảng lậu, mặc dù văn thư của TT CSVN Võ Văn Kiệt ký 3 ngày sau khi xe về tới cảng, bị giam 10 tháng. Khi ở trong tù, ông Trung đã viết thư kêu cứu với “Ngài Đỗ Mười”, cựu sinh viên tại Nhật như Huỳnh Mùi tại VN, Huỳnh Trí Chánh (Chủ Tịch
Tổng Hội Người Việt Nam Tại Nhật theo CS)... và 1 số người Nhật cũng nhào vào cứu
ông.
Thấy chuyện quá bất bình, Luật Sư Nguyễn Thành Vĩnh dù đã già gần 80 tuổi đã đứng ra biện hộ cho ông. Tháng 2/1995, ra tòa sơ thẩm bị cảnh cáo, rồi phúc thẩm ngày 5/7/1995, sau phiên tòa gay cấn và rõ trắng đen ông mới trắng án, nhưng đã bị tước đoạt 118 chiếc xe trong chuyến tàu chót trị giá hơn 1 triệu đô-la Mỹ là tang vật đã bị công an tịch thu, hóa giá bán chia chác cho nhau.
Theo nhà báo Minh Tuấn làm cho Mặt Trận Tổ Quốc (sau cũng lấy vợ kế người Nhật và di dân qua Nhật) trong bài “118 Ôtô Tay Lái Nghịch Và Số Phận Của Việt Kiều Nguyễn An Trung” trên trang nhà Việt Báo:
Sau này ông Trung kể lại: Những ngày nằm trong nhà giam Chí Hòa, ông cảm thấy có những lúc tuyệt vọng. Bởi mục đích của ông chẳng có gì xấu, nhưng khi vấp rào cản của cơ chế hành chính quan liêu, ông đã phải trả một giá quá đắt...
Trong phiên tòa bào chữa cho Nguyễn An Trung, chính Luật Sư cũng khóc. Ông giơ cao quyển sách ở Nhật viết về Nguyễn An Trung trong phong trào phản chiến, giơ cao những chứng cứ rất thuyết phục về luật “bất hồi tố” và giơ cao tất cả hình ảnh về 118 xe tay lái nghịch mà UBND TP. Hồ Chí Minh vẫn đang giữ. Tất cả đều là xe ép rác, xe hút bùn. Chi tiết này đã làm “bật ngửa” tất cả các vị Thẩm Phán và Hội Thẩm Nhân Dân tham gia xét xử. Họ đọc hồ sơ vụ án và đều đinh ninh rằng ông Trung đã nhập gần như toàn bộ là ôtô con để trốn thuế và bán kiếm lời ở VN...
Phiên phúc thẩm kết thúc được vài tháng, tại kỳ họp Quốc Hội cuối năm 1995, một quan chức cao cấp của Quốc Hội gặp tôi và nói là Chính Phủ đã bị cơ quan có trách nhiệm báo cáo sai sự thật về vụ ông Nguyễn An Trung, nói rằng ông Trung chuyên nhập lậu xe ôtô 4 chỗ ngồi, nên đã có sự chỉ đạo sai trái về vụ ông Trung. Vị quan chức này nói việc xử lý oan ông Trung quả là điều rất đáng tiếc. Nhưng việc làm oan “đáng tiếc” đó không làm quan chức nào ở TP. HCM mất chức cả...
Sau ông Trung phải xin cho cả gia đình di dân qua Úc, nhưng vẫn thường xuyên ở VN làm ăn, thế nên họa vô đơn chí.
Theo Luật Sư Phan Trung Hoài trong bài “Khi Hoa Anh Đào Nở” trên trang nhà báo Lao Động ngày 1/4/2011:
Bản thân tôi cũng có được những trải nghiệm, liên đới nhiều đến nước Nhật và người Nhật, từ việc bênh vực cho ông Nguyễn An Trung - 1 Việt kiều Nhật Bản có nhiều đóng góp cho đất nước cả thời chiến tranh lẫn thời bình - trong vụ án 118 ô tô tay lái nghịch cách đây hơn 17 năm, rồi bây giờ vất vả trong hành trình tố tụng liên quan 1 khách hàng là Giám Đốc Ban Quản Lý Dự Án có sử dụng vốn ODA và chuyên gia tư vấn của Nhật Bản…
Thấy chuyện quá bất bình, Luật Sư Nguyễn Thành Vĩnh dù đã già gần 80 tuổi đã đứng ra biện hộ cho ông. Tháng 2/1995, ra tòa sơ thẩm bị cảnh cáo, rồi phúc thẩm ngày 5/7/1995, sau phiên tòa gay cấn và rõ trắng đen ông mới trắng án, nhưng đã bị tước đoạt 118 chiếc xe trong chuyến tàu chót trị giá hơn 1 triệu đô-la Mỹ là tang vật đã bị công an tịch thu, hóa giá bán chia chác cho nhau.
Theo nhà báo Minh Tuấn làm cho Mặt Trận Tổ Quốc (sau cũng lấy vợ kế người Nhật và di dân qua Nhật) trong bài “118 Ôtô Tay Lái Nghịch Và Số Phận Của Việt Kiều Nguyễn An Trung” trên trang nhà Việt Báo:
Sau này ông Trung kể lại: Những ngày nằm trong nhà giam Chí Hòa, ông cảm thấy có những lúc tuyệt vọng. Bởi mục đích của ông chẳng có gì xấu, nhưng khi vấp rào cản của cơ chế hành chính quan liêu, ông đã phải trả một giá quá đắt...
Trong phiên tòa bào chữa cho Nguyễn An Trung, chính Luật Sư cũng khóc. Ông giơ cao quyển sách ở Nhật viết về Nguyễn An Trung trong phong trào phản chiến, giơ cao những chứng cứ rất thuyết phục về luật “bất hồi tố” và giơ cao tất cả hình ảnh về 118 xe tay lái nghịch mà UBND TP. Hồ Chí Minh vẫn đang giữ. Tất cả đều là xe ép rác, xe hút bùn. Chi tiết này đã làm “bật ngửa” tất cả các vị Thẩm Phán và Hội Thẩm Nhân Dân tham gia xét xử. Họ đọc hồ sơ vụ án và đều đinh ninh rằng ông Trung đã nhập gần như toàn bộ là ôtô con để trốn thuế và bán kiếm lời ở VN...
Phiên phúc thẩm kết thúc được vài tháng, tại kỳ họp Quốc Hội cuối năm 1995, một quan chức cao cấp của Quốc Hội gặp tôi và nói là Chính Phủ đã bị cơ quan có trách nhiệm báo cáo sai sự thật về vụ ông Nguyễn An Trung, nói rằng ông Trung chuyên nhập lậu xe ôtô 4 chỗ ngồi, nên đã có sự chỉ đạo sai trái về vụ ông Trung. Vị quan chức này nói việc xử lý oan ông Trung quả là điều rất đáng tiếc. Nhưng việc làm oan “đáng tiếc” đó không làm quan chức nào ở TP. HCM mất chức cả...
Sau ông Trung phải xin cho cả gia đình di dân qua Úc, nhưng vẫn thường xuyên ở VN làm ăn, thế nên họa vô đơn chí.
Theo Luật Sư Phan Trung Hoài trong bài “Khi Hoa Anh Đào Nở” trên trang nhà báo Lao Động ngày 1/4/2011:
Bản thân tôi cũng có được những trải nghiệm, liên đới nhiều đến nước Nhật và người Nhật, từ việc bênh vực cho ông Nguyễn An Trung - 1 Việt kiều Nhật Bản có nhiều đóng góp cho đất nước cả thời chiến tranh lẫn thời bình - trong vụ án 118 ô tô tay lái nghịch cách đây hơn 17 năm, rồi bây giờ vất vả trong hành trình tố tụng liên quan 1 khách hàng là Giám Đốc Ban Quản Lý Dự Án có sử dụng vốn ODA và chuyên gia tư vấn của Nhật Bản…
- Bác
Sĩ Bùi Duy Tâm (Tiến Sĩ Y Khoa và TS Sinh Hóa, Bác Sĩ Y Học Cổ Truyền
(O.M.D) và Châm Cứu, từng là Khoa Trưởng đại học Y khoa Huế, đại học Y Khoa
Minh Đức...) sau 30/4/1975, bị bắt giam tại Trảng Lớn, Tây Ninh. Ông nhờ có 1 người thân làm lớn trong nhà cầm quyền mới, ngày
2/9/1975 được thả về, dạy đại học Nha Y Dược, từng
cùng Trung Tướng Công An Dương Thông (Tổng Cục Trưởng Phản Gián Bộ Nội Vụ) giúp
CSVN bán kho đạn Long Bình, dầu thô...
Trong 1 lần ĐT Võ Nguyên Giáp, khi đó là Phó Thủ Tướng
phụ trách Khoa Học - Kỹ Thuật kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Dân Số và Sinh Đẻ
Có Kế Hoạch, đến nói chuyện với giới trí thức, BS Tâm đã phải nêu lên nỗi khổ
tâm là làm sao tôi có thể làm việc dưới quyền 1 người không đáng là học trò của
học trò mình!?
Năm 1980, BS Tâm cùng gia đình vượt biên tới Mã Lai, qua định cư tại HK, sau đó về VN nhiều lần.
Năm 1980, BS Tâm cùng gia đình vượt biên tới Mã Lai, qua định cư tại HK, sau đó về VN nhiều lần.
Ngày 12/4/1991, BS Tâm bị bắt,
ngày 14/4/1991, nhà văn Dương Thu Hương cũng bị bắt (giam 8 tháng không xét xử,
do chính phủ Pháp can thiệp mà được thả ra) vì tội
“gián điệp”.
Chính BS Bùi Duy Tâm thổ lộ là đã cho Trung Tướng Công
An Dương Thông rất nhiều tiền vì đã 2 lần cứu ông khỏi trại giam (bị nhà văn
Dương Thu Hương thu băng đoạn tâm sự này trong lần đi chơi chung ở sông Đà).
BS Tâm về VN, bỏ ra cả triệu đô-la Mỹ mua máy móc rất hiện đại, mở phòng mạch mổ tim tại Sài Gòn. Nhưng rồi bị CSVN đội cho cái mũ “gián điệp CIA”, không đưa ra tòa nhưng yêu cầu ông để lại phòng mạch và tất cả dụng cụ, ra khỏi VN trong vòng 6 tiếng đồng hồ.
Về lại HK ông vận động chống CSVN, nhưng rồi vẫn còn muốn hòa hợp hòa giải (?) với CS, lại tiếp đón phái đoàn Phó Thủ Tướng Trương Vĩnh Trọng ngày 16/11/2009 (khi đó BS Tâm đã gần 80 tuổi) tại nhà riêng ở San Francisco, Cali...
- Tiến Sĩ toán Huỳnh Mùi, theo CS, thành viên BEHEITO từ Nhật Bản về rất sớm vào năm 1977, lập ra đại học Dân Lập Thăng Long ở Hà Nội (là đại học dân lập đầu tiên) và làm Hiệu Trưởng, khi khá vững vàng rồi thì bị truất quyền, chỉ cho làm Giáo Sư. Năm 2000, ông lập trường Công Nghệ Thăng Long và làm Hiệu Trưởng.
- Trịnh Vĩnh Bình, năm 1976, tỵ nạn qua Hà/Hòa Lan, tốt nghiệp đại học, tham gia đảng chính trị Dân Chủ Tự Do, là đảng cầm quyền cuối thập niên 1980 ở Hà Lan, là “vua chả giò”. Năm 1990, ông Bình tháp tùng đoàn doanh nghiệp Hà Lan đến VN thăm dò đầu tư rồi quyết định đóng cửa công ty chả giò ở Hà Lan, đem 2.328.250 đô-la Mỹ tiền mặt, và 96 kí vàng về đầu tư địa ốc, sản xuất nông, ngư sản...
Ông Bình thành lập công ty Tín Thành ở Sài Gòn, xuất cảng nông, thủy sản, công ty Bình Châu có nhà máy hải sản đông lạnh ở Vủng Tàu. Mua một số nhà đất ở Sài Gòn và BR/VT, dùng trên 200 hecta đất ở Bà Rịa để trồng rừng, nghiên cứu việc nuôi tôm... Xây dựng cơ sở biến chế thủy hải sản xuất cảng, với sản lượng 35% trên tổng số đánh bắt ở BR/VT, xây khách sạn 10 tầng. Sau 6 năm thành công trong kinh doanh, tài sản lên tới 6 tỷ đồng VN.
Việc kinh doanh phát đạt nhưng năm 1996, bị nhà cầm quyền và công an cấu kết với nhau hãm hại, bắt giam ở phòng cảnh sát điều tra PA-42 do Trung Tá Ngô Chí Đan làm Trưởng Phòng với lý do trốn thuế, mượn tên người khác đứng mua, kể cả tội làm gián điệp… Gia đình khiếu nại và đã có sự can thiệp mạnh mẽ của chính phủ Hà Lan.
BS Tâm về VN, bỏ ra cả triệu đô-la Mỹ mua máy móc rất hiện đại, mở phòng mạch mổ tim tại Sài Gòn. Nhưng rồi bị CSVN đội cho cái mũ “gián điệp CIA”, không đưa ra tòa nhưng yêu cầu ông để lại phòng mạch và tất cả dụng cụ, ra khỏi VN trong vòng 6 tiếng đồng hồ.
Về lại HK ông vận động chống CSVN, nhưng rồi vẫn còn muốn hòa hợp hòa giải (?) với CS, lại tiếp đón phái đoàn Phó Thủ Tướng Trương Vĩnh Trọng ngày 16/11/2009 (khi đó BS Tâm đã gần 80 tuổi) tại nhà riêng ở San Francisco, Cali...
- Tiến Sĩ toán Huỳnh Mùi, theo CS, thành viên BEHEITO từ Nhật Bản về rất sớm vào năm 1977, lập ra đại học Dân Lập Thăng Long ở Hà Nội (là đại học dân lập đầu tiên) và làm Hiệu Trưởng, khi khá vững vàng rồi thì bị truất quyền, chỉ cho làm Giáo Sư. Năm 2000, ông lập trường Công Nghệ Thăng Long và làm Hiệu Trưởng.
- Trịnh Vĩnh Bình, năm 1976, tỵ nạn qua Hà/Hòa Lan, tốt nghiệp đại học, tham gia đảng chính trị Dân Chủ Tự Do, là đảng cầm quyền cuối thập niên 1980 ở Hà Lan, là “vua chả giò”. Năm 1990, ông Bình tháp tùng đoàn doanh nghiệp Hà Lan đến VN thăm dò đầu tư rồi quyết định đóng cửa công ty chả giò ở Hà Lan, đem 2.328.250 đô-la Mỹ tiền mặt, và 96 kí vàng về đầu tư địa ốc, sản xuất nông, ngư sản...
Ông Bình thành lập công ty Tín Thành ở Sài Gòn, xuất cảng nông, thủy sản, công ty Bình Châu có nhà máy hải sản đông lạnh ở Vủng Tàu. Mua một số nhà đất ở Sài Gòn và BR/VT, dùng trên 200 hecta đất ở Bà Rịa để trồng rừng, nghiên cứu việc nuôi tôm... Xây dựng cơ sở biến chế thủy hải sản xuất cảng, với sản lượng 35% trên tổng số đánh bắt ở BR/VT, xây khách sạn 10 tầng. Sau 6 năm thành công trong kinh doanh, tài sản lên tới 6 tỷ đồng VN.
Việc kinh doanh phát đạt nhưng năm 1996, bị nhà cầm quyền và công an cấu kết với nhau hãm hại, bắt giam ở phòng cảnh sát điều tra PA-42 do Trung Tá Ngô Chí Đan làm Trưởng Phòng với lý do trốn thuế, mượn tên người khác đứng mua, kể cả tội làm gián điệp… Gia đình khiếu nại và đã có sự can thiệp mạnh mẽ của chính phủ Hà Lan.
Ngày 13/5/1998, sau khi xem hồ sơ, TT CSVN Phan Văn Khải
phê và gởi qua Bộ trưởng Công An Lê Minh Hương, nguyên văn như sau: “Anh chỉ đạo cho công an Bà Rịa-Vủng Tàu xem
lại trường hợp của Trịnh Vĩnh Bình. Thủ tướng Hoà Lan đã đặt vấn đề. Tôi đã hỏi
trực tiếp một số đồng chí lãnh đạo tỉnh Bà Rịa-Vủng Tàu, anh Bình không có lỗi
đến mức phải xử. Do anh dựa vào người trong nước, bị họ lừa gạt, làm bậy”.
Lê Minh Hương chuyển bút phê của TT Khải xuống cho Thứ
Trưởng Công An Nguyễn Khánh Toàn, đề nghị giải quyết theo chỉ thị của ông Khải.
Câu chuyện tưởng như vậy là yên, nhưng không ngờ, năm
1998, Trịnh Vĩnh Bình bị đưa ra tòa án Nhân Dân tỉnh Bà Rịa-Vủng Tàu và bị kêu
án nặng nề 13 năm tù, phạt 480 lượng vàng (do khám xét công ty tịch thu) và tịch thu
toàn bộ tài sản khoảng 6,2 tỷ Đồng về tội “kinh doanh bất hợp
pháp” (trốn thuế) và tội lo hối lộ. Truyền thông VN cũng hùa theo công an bôi
nhọ ông Bình nên ông kháng án.
Những người khác có Phó CTN Nguyễn Thị Bình, Bột Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Dy Niên cũng đã phải can thiệp nhưng đành phải bó tay.
Ông Bình đã trả lời phỏng vấn của đài RFA như sau: Công ty tôi có một số anh em cấu kết nhau, ăn cắp một số tiền ước lượng mấy trăm ngàn đô la qua nhiều năm tháng. Sau khi bị phát hiện, họ sợ bị tù tội nên dùng tiền bạc đút lót cho công an địa phương, phòng đó là PA-42, phòng cảnh sát điều tra Vủng Tàu. Đó là Giám Đốc, Phó Giám Đốc và Trưởng Phòng Tài Chánh của tôi, thành một hệ thống ăn cắp. Bên công an nhận hối lộ, tìm cách bao che. Họ ra tay trước. Chụp mũ công ty tôi trốn thuế, khám xét công ty và bắt giam tôi.
Việt kiều về nước không được quyền mua nhà đất, cho nên phải nhờ thân nhân đứng tên. Một số người bà con lật lọng, tráo trở, giật tiền, tôi ở trong trường hợp đó… Đây là vụ án mà tôi bị hàm oan. Qua một thơi gian dài, gia đình tôi, bản thân tôi và một số người binh vực công lý, đã gởi nhiều đơn khiếu nại khắp nơi, nhưng không được cứu xét. Cuối cùng, tôi phải dựa vào Hiệp Ước thương mại giữa VN và Hà Lan, đưa vụ tranh chấp ra Toà án Quốc Tế thuộc Liên Hợp Quốc. Sau một thời gian tại ngoại, tôi rất lo ngại cho mạng sống của mình, có thể bị bắt và bị giết, cho nên tôi phải đào thoát khỏi VN…
Đầu tháng 4/2005, ông Bình chính thức nạp đơn lên toà án Quốc Tế đòi bồi thường 100 triệu đô-la Mỹ.
Đầu năm 2000, chính phủ Hà Lan phổ biến một tập tài liệu 752 trang về vụ án của ông Bình.
GS J.J.C. Voorhoever, là 1 trong 18 thành viên của Hội Đồng Chính Phủ Hoà Lan, cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng HL, cụu Chủ Tịch đảng Dân Chủ Tự Do mà ông là một đảng viên… tích cực đứng ra vận động.Thủ Tướng HL, Wim Kok và Bộ Trưởng Ngoại Giao Van Aartsen gởi thơ trực tiếp cho CTN Trần Đức Lương yêu cầu giải quyết vụ án Bình, đồng thời, triệu tập Đại Sứ CSVN là Đinh Hoàng Thắng lên để phản đối.
Hà Lan tỏ thải độ cứng rắn, cắt viện trợ phát triển và nhân đạo cho VN. Trong năm 2000, có các phái đoàn của Trần Đức Lương, Nguyễn Văn An (QH), Phan Văn Khải, Nguyễn Dy Niên (NG), Nguyễn Đình Bin… đều bị chất vấn và chống đối. Báo chí nổi giận gọi họ là “Những khách không mời mà đến.”, gọi họ là “Những con vẹt chỉ biết nói mà không biết nghe.”. Trong khi đó, báo chí VN thì cho rằng các chuyến công du thành công mỹ mãn.
Bà Margareeth de Boer, Chủ Tịch Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện dẫn một phái đoàn sang VN, trực tiếp gặp Bộ Trưởng NG Nguyễn Dy Niên nhấn mạnh: “Vì quyền lợi của hai nước, vụ án TVB phải được giải quyết tức khắc.”. Nhưng kết quả, Hà Lan chỉ nhận được 1 công hàm của Bộ Ngoại Giao CSVN, thông báo với nội dung là “Bắt đúng người, xử đúng tội, áp dụng đúng luật pháp.”.
Thế nhưng, ngày 4/11/2001, tại đại hội Đảng Bộ Vũng Tàu, Trung Ương Đảng cho rằng vụ Trịnh Vĩnh Bình là một vụ xử sai lầm, làm giảm sút niềm tin của nhân dân, ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài, vì thế, cấp trên thi hành kỷ luật đảng bộ Vủng Tàu. Sau đó, Trung Tá Ngô Chí Đan bị cách chức, tước danh hiệu Công An Nhân Dân và Nguyễn Trọng Minh bị mất chức Chủ Tịch UBND tỉnh BR/VT.
Ở Hà Lan, một luận án Tiến Sĩ đệ nạp tại đại học Luật Khoa Den Haag, trình bày rõ ràng trường hợp đầu tư của ông Bình, dựa theo Hiệp Ước Thương Mại giữa 2 nước VN và HL ký kết năm 1994. Luận án được in thành sách với 3 thứ tiếng, Hà Lan, Anh và Pháp. Một bản tiếng Việt được phát hành sau đó. Luận án nêu rõ luật rừng ở VN, sự lộng hành của công an VN, phép vua thua lệ làng, cuối cùng đưa người đầu tư đến tù tội và bị tịch thu tài sản.
Những người khác có Phó CTN Nguyễn Thị Bình, Bột Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Dy Niên cũng đã phải can thiệp nhưng đành phải bó tay.
Ông Bình đã trả lời phỏng vấn của đài RFA như sau: Công ty tôi có một số anh em cấu kết nhau, ăn cắp một số tiền ước lượng mấy trăm ngàn đô la qua nhiều năm tháng. Sau khi bị phát hiện, họ sợ bị tù tội nên dùng tiền bạc đút lót cho công an địa phương, phòng đó là PA-42, phòng cảnh sát điều tra Vủng Tàu. Đó là Giám Đốc, Phó Giám Đốc và Trưởng Phòng Tài Chánh của tôi, thành một hệ thống ăn cắp. Bên công an nhận hối lộ, tìm cách bao che. Họ ra tay trước. Chụp mũ công ty tôi trốn thuế, khám xét công ty và bắt giam tôi.
Việt kiều về nước không được quyền mua nhà đất, cho nên phải nhờ thân nhân đứng tên. Một số người bà con lật lọng, tráo trở, giật tiền, tôi ở trong trường hợp đó… Đây là vụ án mà tôi bị hàm oan. Qua một thơi gian dài, gia đình tôi, bản thân tôi và một số người binh vực công lý, đã gởi nhiều đơn khiếu nại khắp nơi, nhưng không được cứu xét. Cuối cùng, tôi phải dựa vào Hiệp Ước thương mại giữa VN và Hà Lan, đưa vụ tranh chấp ra Toà án Quốc Tế thuộc Liên Hợp Quốc. Sau một thời gian tại ngoại, tôi rất lo ngại cho mạng sống của mình, có thể bị bắt và bị giết, cho nên tôi phải đào thoát khỏi VN…
Đầu tháng 4/2005, ông Bình chính thức nạp đơn lên toà án Quốc Tế đòi bồi thường 100 triệu đô-la Mỹ.
Đầu năm 2000, chính phủ Hà Lan phổ biến một tập tài liệu 752 trang về vụ án của ông Bình.
GS J.J.C. Voorhoever, là 1 trong 18 thành viên của Hội Đồng Chính Phủ Hoà Lan, cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng HL, cụu Chủ Tịch đảng Dân Chủ Tự Do mà ông là một đảng viên… tích cực đứng ra vận động.Thủ Tướng HL, Wim Kok và Bộ Trưởng Ngoại Giao Van Aartsen gởi thơ trực tiếp cho CTN Trần Đức Lương yêu cầu giải quyết vụ án Bình, đồng thời, triệu tập Đại Sứ CSVN là Đinh Hoàng Thắng lên để phản đối.
Hà Lan tỏ thải độ cứng rắn, cắt viện trợ phát triển và nhân đạo cho VN. Trong năm 2000, có các phái đoàn của Trần Đức Lương, Nguyễn Văn An (QH), Phan Văn Khải, Nguyễn Dy Niên (NG), Nguyễn Đình Bin… đều bị chất vấn và chống đối. Báo chí nổi giận gọi họ là “Những khách không mời mà đến.”, gọi họ là “Những con vẹt chỉ biết nói mà không biết nghe.”. Trong khi đó, báo chí VN thì cho rằng các chuyến công du thành công mỹ mãn.
Bà Margareeth de Boer, Chủ Tịch Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện dẫn một phái đoàn sang VN, trực tiếp gặp Bộ Trưởng NG Nguyễn Dy Niên nhấn mạnh: “Vì quyền lợi của hai nước, vụ án TVB phải được giải quyết tức khắc.”. Nhưng kết quả, Hà Lan chỉ nhận được 1 công hàm của Bộ Ngoại Giao CSVN, thông báo với nội dung là “Bắt đúng người, xử đúng tội, áp dụng đúng luật pháp.”.
Thế nhưng, ngày 4/11/2001, tại đại hội Đảng Bộ Vũng Tàu, Trung Ương Đảng cho rằng vụ Trịnh Vĩnh Bình là một vụ xử sai lầm, làm giảm sút niềm tin của nhân dân, ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài, vì thế, cấp trên thi hành kỷ luật đảng bộ Vủng Tàu. Sau đó, Trung Tá Ngô Chí Đan bị cách chức, tước danh hiệu Công An Nhân Dân và Nguyễn Trọng Minh bị mất chức Chủ Tịch UBND tỉnh BR/VT.
Ở Hà Lan, một luận án Tiến Sĩ đệ nạp tại đại học Luật Khoa Den Haag, trình bày rõ ràng trường hợp đầu tư của ông Bình, dựa theo Hiệp Ước Thương Mại giữa 2 nước VN và HL ký kết năm 1994. Luận án được in thành sách với 3 thứ tiếng, Hà Lan, Anh và Pháp. Một bản tiếng Việt được phát hành sau đó. Luận án nêu rõ luật rừng ở VN, sự lộng hành của công an VN, phép vua thua lệ làng, cuối cùng đưa người đầu tư đến tù tội và bị tịch thu tài sản.
Ngày 28/3/2005, Nghị Sĩ Jules Maaten, Quốc Hội Liên Âu
(EU), từ Brussels cho biết, vụ án TVB đã gây hoang mang trong giới đầu tư ở
châu Âu. Vụ án là một tác động tiêu cực đến quan hệ giữa EU và VN.
Tháng 6/2005, khi Phan Văn Khải sang thăm Hoa Kỳ, kêu
gọi ngoại quốc và người Việt đầu tư vào VN, thì các cơ quan truyền thông đồng
loạt loan tin CSVN âm mưu chiếm đoạt tài sản của Việt kiều Trịnh Vĩnh Bình. Đài
RFA, RFI, BBC và rất nhiều cơ quan truyền thông Việt ngữ ở hải ngoại… đều phổ
biến bài phỏng vấn ông Bình.
Ngày 4/12/1996, một thân nhân của TVB là Trịnh Hiền
Thanh vu cáo TVB đưa hối lộ, khiến cho TVB bị bắt giam. Việc vu cáo nằm
trong âm mưu của công an BR/VT. Đến ngày 24/6/2002, Trịnh Hiền Thanh thú nhận bằng
văn bản là y đã vu cáo cho TVB. Hiền Thanh chết vài năm sau đó do bịnh tiểu đường.
Nhưng
mới đây, ngày 7/4/2011, Trưởng Cục Thi Hành Án Dân Sự tỉnh BR/VT tên Trần Văn
Mười cùng Lê Huy Hoàng và Hoàng Anh Linh bị bắt giam về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi
hành công vụ.”. 3 người bị bắt đã vi phạm nghiêm trọng trong vụ án Trịnh
Vĩnh Bình.
Ngày 15/10/2003, ông Trịnh Vĩnh Bình đã chính thức nhờ Tổ Hợp Luật Sư Covington Burling, có trụ sở ở Anh và Hoa Kỳ, đứng ra kiện nhà cầm quyền VN đòi bồi thường 100 triệu đô-la Mỹ, ông TVB ký quỹ 150.000 đô-la Mỹ.
Đầu tiên, LS Thomas Johnson, đại diện cho ông Bình gởi thơ cho Viện Trưởng Viện Kiểm Sát ND Tối Cao VN là Hà Minh Trí, đề nghị dàn xếp giữa hai bên. Nhưng nổ lực dàn xếp kéo dài gần 2 năm không có kết quả.
Ngày 15/10/2003, ông Trịnh Vĩnh Bình đã chính thức nhờ Tổ Hợp Luật Sư Covington Burling, có trụ sở ở Anh và Hoa Kỳ, đứng ra kiện nhà cầm quyền VN đòi bồi thường 100 triệu đô-la Mỹ, ông TVB ký quỹ 150.000 đô-la Mỹ.
Đầu tiên, LS Thomas Johnson, đại diện cho ông Bình gởi thơ cho Viện Trưởng Viện Kiểm Sát ND Tối Cao VN là Hà Minh Trí, đề nghị dàn xếp giữa hai bên. Nhưng nổ lực dàn xếp kéo dài gần 2 năm không có kết quả.
Tháng
5/2004, ông Bình chính thức nạp đơn lên Tòa Án Quốc Tế thuộc Liên Hợp Quốc
và tòa dự trù sẽ mở phiên tòa xét xử tại Stockholm, thủ đô Thụy Điển vào cuối
năm 2005. Phía CSVN, cũng đã ký quỹ 150.000 đô-la Mỹ để nhờ Tổ Hợp LS Pháp Glide
Loyrette Rouel, có văn phòng tại Hà Nội. Tòa Án Quốc Tế thông báo sẽ mở ra
xét xử từ ngày 4-12/12/2005. 3 tuần lễ trước phiên xử, Tổ hợp LS Hoa Kỳ tăng số
tiền đòi bồi thường lên thành 150 triệu đô-la Mỹ theo thời giá mới. Nhưng tòa
tuyên bố tạm hoãn, vì lý do 2 bên thỏa thuận dàn xếp bên ngoài tòa. Chính những
văn bản và tài liệu chính thức của các quan chức VN đã xác nhận TVB vô tội. Cụ
thể là bút phê của TT Khải, NT Nguyễn Dy Niên thừa nhận với quan chức Hà Lan “Có sự sai sót trong vụ án TVB và hứa sẽ yêu
cầu các cơ quan chức năng điều tra lại.”.
Ông Trịnh
Vĩnh Bình đã giữ lời hứa với nhà cầm quyền VN là không tiết lộ số tiền mà VN bồi
thường, nhưng có tin là khoảng 100 triệu đô-la Mỹ. Thực
ra là bọn quan tham địa phương ngụy tạo hồ sơ, lừa bịp cả Chính Trị Bộ nên mới
xử vụ án quái lạ như vậy, và cuối cùng nhà cầm quyền CSVN vừa mất mặt, vừa mất
rất nhiều tiền!
Nhà cầm quyền đã từng quá ê mặt sau vụ Vietnam Airlines khi đơn phương phá hợp đồng với văn phòng LS Ý Manizio Liberato bị kiện năm 1994 nên phong tỏa các trương mục trên toàn Âu Châu, năm 2009 đã phải trả 5,2 triệu Euro (tương đương 7 triệu đô-la Mỹ). Hai vụ này cũng như vụ Saigon Auto của Nguyễn An Trung gây tai tiếng tầm vóc thế giới, thể hiện lối làm việc gian manh, cẩu thả, vô trách nhiệm của nhà cầm quyền CSVN.
Nhà cầm quyền đã từng quá ê mặt sau vụ Vietnam Airlines khi đơn phương phá hợp đồng với văn phòng LS Ý Manizio Liberato bị kiện năm 1994 nên phong tỏa các trương mục trên toàn Âu Châu, năm 2009 đã phải trả 5,2 triệu Euro (tương đương 7 triệu đô-la Mỹ). Hai vụ này cũng như vụ Saigon Auto của Nguyễn An Trung gây tai tiếng tầm vóc thế giới, thể hiện lối làm việc gian manh, cẩu thả, vô trách nhiệm của nhà cầm quyền CSVN.
- Tiến Sĩ ngư nghiệp Huỳnh Trí Chánh (Chủ Tịch Tổng Hội
Người Việt Nam Tại Nhật theo CS, kiêm Chủ Tịch “Hội Chống Bá Quyền Trung Quốc”),
du học Nhật Bản năm 1963, từng là thành phần lãnh đạo trong BEHEITO, tổ chức cướp
TĐS VNCH tại Tokyo đêm 30/4/1975 nhưng không thành (khi đó có 24 sinh viên theo
CS bị cảnh sát Nhật bắt giữ). Khi về VN chia sẽ nhưng kinh nghiệm học hỏi ở NB,
nhưng nói chuyện thẳng thắn có ý phê bình nhà cầm quyền, không đúng đường lối
nên đã từng bị công an giữ thông hành (hộ chiếu). Ngày 22/1/1990, khi Đông Âu sụp
đổ và Liên Xô nguy ngập, ông Chánh từng cùng hơn 700 Việt Kiều thân CS khác khắp
nơi trên thế giới ký tên trong “Tâm Thư”
(có tất cả 4 bản khác nhau) yêu cầu đảng và nhà nước CSVN chấp nhận dân chủ
hóa... Trong “Tâm Thư” có đoạn:
... Kêu gọi các nhà
lãnh đạo hiện nay của VN, vốn đã có công lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập
và thống nhất đất nước, hãy vì quyền lợi tối cao của dân tộc, sớm cải tổ hệ thống
chính trị hiện có bằng cách :
1. Thực sự tách rời các định chế của Nhà nước ra khỏi bộ máy chính đảng để cho Nhà nước thu hồi trọn vẹn những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của mình, để cho không một ai cũng như không một tổ chức nào có thể đứng trên và chi phối Nhà nước.
2. Thiết lập một nền dân chủ đa nguyên, thực sự bảo đảm an toàn cá nhân và các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, lập đảng... nhằm tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam, không phân biệt quá khứ, chính kiến hay tôn giáo, tham gia luận bàn và, đặc biệt thông qua tuyển cử tự do, làm và kiểm tra việc nước.
3. Ngay trước mắt, mở ra cuộc đối thoại thành tâm với toàn thể xã hội, để toàn dân bàn định một cương lĩnh hành động và đề ra những biện pháp cấp bách đặt nền tảng cho một chế độ thực sự lấy dân làm gốc…
Chính vì vậy nên đã có lúc tên ông bị ghi vào sổ đen không cho nhập cảnh. Ông đã nói ý rằng họ từ trong rừng ra nên dùng “luật rừng”!
Ông Chánh từng tuyên bố ở TĐS CSVN tại Tokyo khi Liên Xô sụp đổ: “Bây giờ VN mới thực sự được độc lập.”.
1. Thực sự tách rời các định chế của Nhà nước ra khỏi bộ máy chính đảng để cho Nhà nước thu hồi trọn vẹn những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của mình, để cho không một ai cũng như không một tổ chức nào có thể đứng trên và chi phối Nhà nước.
2. Thiết lập một nền dân chủ đa nguyên, thực sự bảo đảm an toàn cá nhân và các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, lập đảng... nhằm tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam, không phân biệt quá khứ, chính kiến hay tôn giáo, tham gia luận bàn và, đặc biệt thông qua tuyển cử tự do, làm và kiểm tra việc nước.
3. Ngay trước mắt, mở ra cuộc đối thoại thành tâm với toàn thể xã hội, để toàn dân bàn định một cương lĩnh hành động và đề ra những biện pháp cấp bách đặt nền tảng cho một chế độ thực sự lấy dân làm gốc…
Chính vì vậy nên đã có lúc tên ông bị ghi vào sổ đen không cho nhập cảnh. Ông đã nói ý rằng họ từ trong rừng ra nên dùng “luật rừng”!
Ông Chánh từng tuyên bố ở TĐS CSVN tại Tokyo khi Liên Xô sụp đổ: “Bây giờ VN mới thực sự được độc lập.”.
Tuy ngày 30/6/2007, ông là 1 trong 19 người Việt kiều
được Đại Sứ Quán Việt Nam tại Nhật Bản tổ chức trao Bằng Khen của Bộ Trưởng Ngoại Giao và Chủ Nhiệm Ủy Ban Người Việt Nam Ở Nước Ngoài nhưng không được tin dùng và
bản thân ông cũng thấy chán ngán! Những chuyện của ông Chánh bề ngoài có vẻ Việt
Kiều yêu CS nhưng có dịp ở gần mới biết.
- KS Nguyễn Vĩnh
Trường du học Nhật Bản năm 1972, về VN mở trường Nhật Ngữ Sakura ở Sài Gòn năm
1989, với tên ban đầu là Trung Tâm Văn Hóa Việt-Nhật, là trường chính quy đầu
tiên thuộc loại này. Khi trường phát triển có khoảng 700 học sinh thì bị Thành Ủy
nói phải đưa cho nhà nước quản lý, thế là giáo viên Nhật quá giận bỏ đi, trường
cũng tan. Sau ông Trường đã phải mất nhiều công sức lập lại.
- Thạc Sĩ kinh tế Nguyễn Trung Trực (sau lấy Trịnh Vĩnh Trinh, em Trịnh Công Sơn) ở Úc, năm 1989, bắt đầu đầu tư Ngân Hàng Thương Mại, Bảo Hiểm Prudential, địa ốc, phân phối xe du lịch, xe máy, hàng tiêu dùng… Năm 1997, Nguyễn Trung Trực bị cơ quan an ninh tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu khởi tố về hành vi "vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới", năm 1998, bị xử tù 5 năm. Có tin cho là Trực xin hoãn án rồi bỏ trốn. Năm 2008, sau khi cùng Bộ Trưởng Kế Hoạch - Đầu Tư Võ Hồng Phúc đi Hoa Kỳ trở về thì Trực bị bắt tại phi trường Tân Sơn Nhất, mà cho là sau 6 năm trốn lánh. Rốt cục Trực đã phải chạy chọt nên cũng chỉ bị giam vài tháng rồi thả ra.
- GS Nguyễn Đình Hoan ở Hoa Kỳ về mở trường Trường Quốc Tế Hà Nội (liên doanh giữa Trung Tâm Công Nghệ Giáo Dục - Bộ Giáo Dục và Đào tạo và Công ty ISD của Hoa Kỳ) dạy bậc tiểu và trung học bằng Anh ngữ... Sau 10 năm hoạt động đã bị bắt bỏ tù năm 2006. Trong tù vẫn ngày ngày nghe loa phát lời kêu gọi về đầu tư, giúp nước.
- Nguyễn Gia Thiều ở Pháp, về đầu tư, kết hôn với hoa hậu Hà Kiều Anh, làm Giám Đốc công ty Đông Nam. Năm 2005, bị bắt, kết tội "buôn lậu" và "trốn thuế" với bản án 20 năm tù và phạt số tiền 98,2 tỷ đồng, tịch thu tài sản, được ân xá năm 2009. Kết cục, cuộc tình đã tan nát (đã ly dị), mất tiền và lãnh tội...
- Trần (Văn) Trường, bỏ 40 công đất (1 công = 1.000 m2) đi tỵ nạn, nổi tiếng sau khi về Hà Nội vài lần, từng tiếp xúc với Thiếu Tá công an Dương Ngọc Tiến làm tại báo Công An TPHCM, rồi trở qua treo cờ CSVN và hình Hồ Chí Minh ngay tại cửa tiệm ở ngay khu Bolsa, Little Saigon, Cali, năm 1999... bị người Việt biểu tình chống suốt 53 ngày, có lúc lên tới khoảng 20.000 người. Sau này khi về nước làm ăn, Trần Trường được Thiếu Tá Tiến đón cho ở 1 căn nhà thuê tại Hà Nội 3 tháng trước khi về Đồng Tháp nuôi cá.
Tháng 2/2005, vợ chồng anh bán nhà, đem khoảng 200.000 đô-la Mỹ về VN, đầu tư 7 tỷ đồng mua 33 công đất dựng nhà, nuôi cá, được báo Công An phỏng vấn…
Anh ta từng la lớn với cán bộ và công an ức hiếp anh: “Dẹp hết tụi này mới được. Dẹp hết tụi này mới được. Làm ăn như con c. vậy đó. Chuyên môn hà hiếp dân. Chém chết mẹ tụi bay hết... Tôi thấy đủ rõ hết rồi. Chính quyền phải lo cho dân, chứ không lừa gạt dân như thế này... Lấy đất của người ta mà không cho biết gì hết, vừa ăn cướp, vừa la làng khổng? Chính quyền gì kỳ vậy?...”.
Trần Trường từng bị chủ nợ thuê “xã hội đen” đánh trọng thương. Sau anh bị “lừa”, tước đoạt hết, rồi vợ hóa điên và bỏ anh. Bây giờ giấc mơ của anh ta là làm “HCM Thời Đại” (“Bác Hồ Thời Đại”, ý anh ta là làm lại cuộc cách mạng đã bị phản bội!) để diệt bọn cán bộ CS hủ hóa, làm sai lời HCM...
Ngày 8/4/2011, tòa án huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp do ông Trần Văn Nhã làm Chánh Án đã xử thu đất (trị giá khoảng 30-40 tỷ đồng hay 150.000-200.000 đô-la Mỹ) của anh mà anh vắng mặt, sau đó anh kháng cáo. Anh lên diễn đàn Paltalk kể lể, than khóc, kêu gọi hải ngoại đóng góp vào quỹ của anh để giúp anh chống tham nhũng, có lúc phẫn chí, anh đã nói với mọi người là muốn tự tử!
Trần Trường làm ăn cụt vốn, đi nhiều diễn đàn trên Paltalk Internet xin tiền và vay tiền cả năm trời mà hầu như không kết quả. Ngày 8/5/2012, bí quá, trước lời thách thức và sẽ cho 10.000 đô-la Mỹ của anh “Ba”, anh đã chặt gần lìa 1 đốt/lóng ngón giữa tay phải trước ống kính webcam cho mọi người trên diễn đàn Người Việt Bàn Luận Chính Trị Xã Hội xem, để chứng tỏ sự “quyết tâm và thành thật” của anh ta! Phải đi nhà thương khâu, vết thương mất 3 tuần mới lành. Vì ngón tay không đứt nên anh “Ba” không trao tiền.
Ngày 31/5/2012, khoảng 30-40 công an và an ninh... cưỡng chế phá căn nhà khá bề thế, thu đất và đuổi Trần Trường đi, trong lúc anh đang tuyệt thực, tuyệt ẩm để phản đối và hát cải lương ca tụng HCM... Người nhà dùng máy video thu hình thì bị tước đoạt.
Sau đó thì Trần Trường sống trong căn nhà lá với hình HCM treo trên vách và dùng nickname “Bác Hồ Thời Đại” trên Paltalk.
Ngày 13/11/2012, Trần Trường về lại Hoa Kỳ lần thứ 2 để kiếm tiền về VN “đấu tranh” và vận động lấy lại tài sản bị mất ở VN sau 8 năm về sống và làm ăn tại VN. Nên anh đã có buổi họp báo do nhà báo Lê Bình, Câu Lạc Bộ Báo Chí Bắc Cali giới thiệu, ở nhà hàng Hội An, San Jose, Cali, với sự giúp đỡ của ông Nguyễn Xuân Tùng (nickname “Văn Lang” trên Paltalk). Có gần 20 người dự, khoảng 1/2 thuộc giới truyền thông, trong khi trên Paltalk có khoảng 250 người nghe.
Dịp này, mở đầu Trần Trường đã “thành thật” xin lỗi cộng đồng vì việc treo hình HCM và cờ CS trước đây, nhận là việc làm thiếu ý thức ấy đã đụng chạm vào nỗi đau đớn của người Việt hải ngoại. Sau đó Trần Trường kể lại nguyên do làm ăn thất bại tại VN phải bán cả nhẫn cưới, răng vàng, phải mò ốc, bắt cua để sống... và trả lời các câu hỏi.
Khi phóng viên Nghê Lữ của Cali Today hỏi vậy bây giờ anh có đả đảo HCM, đả đảo đảng CSVN không thì Trần Trường trả lời: “Nếu nói đả đảo HCM, đả đảo đảng CSVN để xóa đi những di biệt, thù hận, thông cảm và thương lòng của tôi. “Đả đảo HCM, đả dảo đảng CS.” tôi sẵn sàng nói. Tôi đang nói và đã nói.”.
Khi Trần Trường dùng từ “bác Hồ” thì bị nhiều người phản đối, nói phải gọi là “thằng Hồ”, Trần Trường xin lỗi là nói theo thói quen trong nước... Khi có người đặt vấn đề phải dứt khoát Quốc Gia hay Cộng Sản thì ông Nguyễn Xuân Tùng hỏi: “Trần Trường có sẵn sàng quỳ xuống xin lỗi đồng bào không?”, Trần Trường cho hay: “Được” và cho hay: “Tâm hồn tôi đã về với Việt Nam Cộng Hòa, tôi sẵn sàng quỳ xuống xin lỗi những người VNCH về những gì tôi đã làm sai. Nhưng thân xác tôi, tôi phải sống ở trong nước... nhờ anh em VNCH cho tôi cái phao.”.
Trần Trường bị chất vấn, nhưng phần lớn trả lời lòng vòng, mâu thuẫn, nhất là khi bị hỏi về “đạo đức” HCM mà Trần Trường cho là “tài giỏi” và đảng CS có “người tốt”... Mục đích chính của Trần Trường trong chuyến này là để gây quỹ để về VN “đấu tranh”. Ông Trần Trường nói rằng: “Nếu đòi đất lại thành công, Trần Trường sẵn sàng cắm cờ vàng VNCH trên mảnh đất của ông tại tỉnh Đồng Tháp.” để chuộc lại lầm lỗi mà ông gây ra năm 1999... Trần Trường dự trù 3 tuần sau về VN nhưng rồi bệnh tim tái phát phải nhập viện...
Ngày 14/11, chính ông Nguyễn Xuân Tùng nói về cuộc họp báo này trên Paltalk thì “Trần Trường thất bại.”. Qua đầu năm 2013, Trần Trường vẫn chưa về VN mà ở lại HK làm việc.
- Giới văn học như GS TS Nguyễn Hưng Quốc (tên thật là Nguyễn Ngọc Tuấn), Trưởng Ban Việt Học đại học Victoria, Úc, là nhà phê bình văn học, sau nhiều lần về VN đã viết cuốn "Văn Học Việt Nam Dưới Chế Độ Cộng Sản" (thuần tuý văn hóa phi chính trị), dù có chiếu khán do TĐS CSVN cấp, nhưng đến 2 lần bị chặn tại phi trường không cho vào. Đó là 1 lần dẫn sinh viên Úc đi du khảo thực tập năm 2005 tại phi trường Tân Sơn Nhất và 1 lần được mời về tham dự hội thảo do trường Đại Học Mở Hà Nội (Hanoi Open University) và Đại Học Monash, Úc mời về thuyết trình với đề tài “Quan Điểm Từ Á Châu: Vai Trò Của Ngôn Ngữ Và Giáo Dục Đa Văn Hóa…” năm 2009 tại phi trường Nội Bài. Nhân viên an ninh không cho biết lý do cụ thể, chỉ nói là “Nhà nước Việt Nam không hoan nghênh anh vào Việt Nam.”, cả khi ông được mời về Việt Nam, chớ không phải tự ý về, kể cả khi đã có visa vào Việt Nam.
Biên bản trục xuất Nguyễn Hưng Quốc.
- Thạc Sĩ kinh tế Nguyễn Trung Trực (sau lấy Trịnh Vĩnh Trinh, em Trịnh Công Sơn) ở Úc, năm 1989, bắt đầu đầu tư Ngân Hàng Thương Mại, Bảo Hiểm Prudential, địa ốc, phân phối xe du lịch, xe máy, hàng tiêu dùng… Năm 1997, Nguyễn Trung Trực bị cơ quan an ninh tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu khởi tố về hành vi "vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới", năm 1998, bị xử tù 5 năm. Có tin cho là Trực xin hoãn án rồi bỏ trốn. Năm 2008, sau khi cùng Bộ Trưởng Kế Hoạch - Đầu Tư Võ Hồng Phúc đi Hoa Kỳ trở về thì Trực bị bắt tại phi trường Tân Sơn Nhất, mà cho là sau 6 năm trốn lánh. Rốt cục Trực đã phải chạy chọt nên cũng chỉ bị giam vài tháng rồi thả ra.
- GS Nguyễn Đình Hoan ở Hoa Kỳ về mở trường Trường Quốc Tế Hà Nội (liên doanh giữa Trung Tâm Công Nghệ Giáo Dục - Bộ Giáo Dục và Đào tạo và Công ty ISD của Hoa Kỳ) dạy bậc tiểu và trung học bằng Anh ngữ... Sau 10 năm hoạt động đã bị bắt bỏ tù năm 2006. Trong tù vẫn ngày ngày nghe loa phát lời kêu gọi về đầu tư, giúp nước.
- Nguyễn Gia Thiều ở Pháp, về đầu tư, kết hôn với hoa hậu Hà Kiều Anh, làm Giám Đốc công ty Đông Nam. Năm 2005, bị bắt, kết tội "buôn lậu" và "trốn thuế" với bản án 20 năm tù và phạt số tiền 98,2 tỷ đồng, tịch thu tài sản, được ân xá năm 2009. Kết cục, cuộc tình đã tan nát (đã ly dị), mất tiền và lãnh tội...
- Trần (Văn) Trường, bỏ 40 công đất (1 công = 1.000 m2) đi tỵ nạn, nổi tiếng sau khi về Hà Nội vài lần, từng tiếp xúc với Thiếu Tá công an Dương Ngọc Tiến làm tại báo Công An TPHCM, rồi trở qua treo cờ CSVN và hình Hồ Chí Minh ngay tại cửa tiệm ở ngay khu Bolsa, Little Saigon, Cali, năm 1999... bị người Việt biểu tình chống suốt 53 ngày, có lúc lên tới khoảng 20.000 người. Sau này khi về nước làm ăn, Trần Trường được Thiếu Tá Tiến đón cho ở 1 căn nhà thuê tại Hà Nội 3 tháng trước khi về Đồng Tháp nuôi cá.
Tháng 2/2005, vợ chồng anh bán nhà, đem khoảng 200.000 đô-la Mỹ về VN, đầu tư 7 tỷ đồng mua 33 công đất dựng nhà, nuôi cá, được báo Công An phỏng vấn…
Anh ta từng la lớn với cán bộ và công an ức hiếp anh: “Dẹp hết tụi này mới được. Dẹp hết tụi này mới được. Làm ăn như con c. vậy đó. Chuyên môn hà hiếp dân. Chém chết mẹ tụi bay hết... Tôi thấy đủ rõ hết rồi. Chính quyền phải lo cho dân, chứ không lừa gạt dân như thế này... Lấy đất của người ta mà không cho biết gì hết, vừa ăn cướp, vừa la làng khổng? Chính quyền gì kỳ vậy?...”.
Trần Trường từng bị chủ nợ thuê “xã hội đen” đánh trọng thương. Sau anh bị “lừa”, tước đoạt hết, rồi vợ hóa điên và bỏ anh. Bây giờ giấc mơ của anh ta là làm “HCM Thời Đại” (“Bác Hồ Thời Đại”, ý anh ta là làm lại cuộc cách mạng đã bị phản bội!) để diệt bọn cán bộ CS hủ hóa, làm sai lời HCM...
Ngày 8/4/2011, tòa án huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp do ông Trần Văn Nhã làm Chánh Án đã xử thu đất (trị giá khoảng 30-40 tỷ đồng hay 150.000-200.000 đô-la Mỹ) của anh mà anh vắng mặt, sau đó anh kháng cáo. Anh lên diễn đàn Paltalk kể lể, than khóc, kêu gọi hải ngoại đóng góp vào quỹ của anh để giúp anh chống tham nhũng, có lúc phẫn chí, anh đã nói với mọi người là muốn tự tử!
Trần Trường làm ăn cụt vốn, đi nhiều diễn đàn trên Paltalk Internet xin tiền và vay tiền cả năm trời mà hầu như không kết quả. Ngày 8/5/2012, bí quá, trước lời thách thức và sẽ cho 10.000 đô-la Mỹ của anh “Ba”, anh đã chặt gần lìa 1 đốt/lóng ngón giữa tay phải trước ống kính webcam cho mọi người trên diễn đàn Người Việt Bàn Luận Chính Trị Xã Hội xem, để chứng tỏ sự “quyết tâm và thành thật” của anh ta! Phải đi nhà thương khâu, vết thương mất 3 tuần mới lành. Vì ngón tay không đứt nên anh “Ba” không trao tiền.
Ngày 31/5/2012, khoảng 30-40 công an và an ninh... cưỡng chế phá căn nhà khá bề thế, thu đất và đuổi Trần Trường đi, trong lúc anh đang tuyệt thực, tuyệt ẩm để phản đối và hát cải lương ca tụng HCM... Người nhà dùng máy video thu hình thì bị tước đoạt.
Sau đó thì Trần Trường sống trong căn nhà lá với hình HCM treo trên vách và dùng nickname “Bác Hồ Thời Đại” trên Paltalk.
Ngày 13/11/2012, Trần Trường về lại Hoa Kỳ lần thứ 2 để kiếm tiền về VN “đấu tranh” và vận động lấy lại tài sản bị mất ở VN sau 8 năm về sống và làm ăn tại VN. Nên anh đã có buổi họp báo do nhà báo Lê Bình, Câu Lạc Bộ Báo Chí Bắc Cali giới thiệu, ở nhà hàng Hội An, San Jose, Cali, với sự giúp đỡ của ông Nguyễn Xuân Tùng (nickname “Văn Lang” trên Paltalk). Có gần 20 người dự, khoảng 1/2 thuộc giới truyền thông, trong khi trên Paltalk có khoảng 250 người nghe.
Dịp này, mở đầu Trần Trường đã “thành thật” xin lỗi cộng đồng vì việc treo hình HCM và cờ CS trước đây, nhận là việc làm thiếu ý thức ấy đã đụng chạm vào nỗi đau đớn của người Việt hải ngoại. Sau đó Trần Trường kể lại nguyên do làm ăn thất bại tại VN phải bán cả nhẫn cưới, răng vàng, phải mò ốc, bắt cua để sống... và trả lời các câu hỏi.
Khi phóng viên Nghê Lữ của Cali Today hỏi vậy bây giờ anh có đả đảo HCM, đả đảo đảng CSVN không thì Trần Trường trả lời: “Nếu nói đả đảo HCM, đả đảo đảng CSVN để xóa đi những di biệt, thù hận, thông cảm và thương lòng của tôi. “Đả đảo HCM, đả dảo đảng CS.” tôi sẵn sàng nói. Tôi đang nói và đã nói.”.
Khi Trần Trường dùng từ “bác Hồ” thì bị nhiều người phản đối, nói phải gọi là “thằng Hồ”, Trần Trường xin lỗi là nói theo thói quen trong nước... Khi có người đặt vấn đề phải dứt khoát Quốc Gia hay Cộng Sản thì ông Nguyễn Xuân Tùng hỏi: “Trần Trường có sẵn sàng quỳ xuống xin lỗi đồng bào không?”, Trần Trường cho hay: “Được” và cho hay: “Tâm hồn tôi đã về với Việt Nam Cộng Hòa, tôi sẵn sàng quỳ xuống xin lỗi những người VNCH về những gì tôi đã làm sai. Nhưng thân xác tôi, tôi phải sống ở trong nước... nhờ anh em VNCH cho tôi cái phao.”.
Trần Trường bị chất vấn, nhưng phần lớn trả lời lòng vòng, mâu thuẫn, nhất là khi bị hỏi về “đạo đức” HCM mà Trần Trường cho là “tài giỏi” và đảng CS có “người tốt”... Mục đích chính của Trần Trường trong chuyến này là để gây quỹ để về VN “đấu tranh”. Ông Trần Trường nói rằng: “Nếu đòi đất lại thành công, Trần Trường sẵn sàng cắm cờ vàng VNCH trên mảnh đất của ông tại tỉnh Đồng Tháp.” để chuộc lại lầm lỗi mà ông gây ra năm 1999... Trần Trường dự trù 3 tuần sau về VN nhưng rồi bệnh tim tái phát phải nhập viện...
Ngày 14/11, chính ông Nguyễn Xuân Tùng nói về cuộc họp báo này trên Paltalk thì “Trần Trường thất bại.”. Qua đầu năm 2013, Trần Trường vẫn chưa về VN mà ở lại HK làm việc.
- Giới văn học như GS TS Nguyễn Hưng Quốc (tên thật là Nguyễn Ngọc Tuấn), Trưởng Ban Việt Học đại học Victoria, Úc, là nhà phê bình văn học, sau nhiều lần về VN đã viết cuốn "Văn Học Việt Nam Dưới Chế Độ Cộng Sản" (thuần tuý văn hóa phi chính trị), dù có chiếu khán do TĐS CSVN cấp, nhưng đến 2 lần bị chặn tại phi trường không cho vào. Đó là 1 lần dẫn sinh viên Úc đi du khảo thực tập năm 2005 tại phi trường Tân Sơn Nhất và 1 lần được mời về tham dự hội thảo do trường Đại Học Mở Hà Nội (Hanoi Open University) và Đại Học Monash, Úc mời về thuyết trình với đề tài “Quan Điểm Từ Á Châu: Vai Trò Của Ngôn Ngữ Và Giáo Dục Đa Văn Hóa…” năm 2009 tại phi trường Nội Bài. Nhân viên an ninh không cho biết lý do cụ thể, chỉ nói là “Nhà nước Việt Nam không hoan nghênh anh vào Việt Nam.”, cả khi ông được mời về Việt Nam, chớ không phải tự ý về, kể cả khi đã có visa vào Việt Nam.
Biên bản trục xuất Nguyễn Hưng Quốc.
- Giới văn nghệ như ca sĩ Khánh Ly, được đài TV NHK của Nhật Bản mời thu phóng sự “Khánh Ly, Tiếng Hát Của
Sự Đoàn Tụ”, giờ chót mới được cấp chiếu khán về VN, nhưng
cảnh sinh hoạt với Trịnh Công Sơn… ở VN phải do nhân viên nhà nước CSVN quay. Đài TV NHK đã chọn chiếu
cuốn phim đúng vào ngày 29/4/1997. Sau này, năm 2014, Khánh Ly về
hát kiếm tiền tại Hà Nội 2 lần (có tin là thù lao 50.000 đô-la Mỹ/1 lần), lần đầu khá đông khách, nhưng lần sau chỉ độ 1/2 rạp... Vân Sơn thuộc trung
tâm Vân Sơn, ông Tô Văn Lai thuộc Thúy Nga… cũng gặp rắc rối như tịch thu video
vừa quay với giấy phép hay bắt giam bầu Huỳnh Trinh Thuần ở Úc khi về làm việc
tại VN.
- Năm
2005 và 2007, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh cùng hàng trăm đệ tử về VN cả mấy tháng,
gặp CTN Nguyễn Minh Triết, đi thuyết pháp công khai… TS Thích Nhất Hạnh đã bỏ
ra khoảng 1 triệu đô-la Mỹ lập tu viện Làng Mai - Bát Nhã ở Lâm Đông… sau đó
năm 2009, tất cả 400 tăng ni xuất gia bị đàn áp dã man, đuổi đi và tài sản bị Thượng Tọa Thích Đức Nghi (từng từ VN qua Pháp xin
theo phái “tiếp hiện” của Thích Nhất Hạnh) chiếm đoạt hết. TS Thích Nhất Hạnh vẫn
chỉ lên tiếng ở hải ngoại không cứu giúp được gì cho đệ tử.
- Năm 2009, LM Trần Công Nghị ở Hoa Kỳ, chủ biên trang nhà VietCatholic News, cũng được cấp chiếu khán, nhưng khi về đến phi trường Nội Bài thì bị chặn lại không cho vào…
- Năm 2011, chị Ca Dao sinh sống tại Pháp, đã nhiều lần về VN, nhưng lần này về thăm mẹ già bệnh, dù TĐS tại Paris đã cấp chiếu khán nhưng khi tới phi trường Tân Sơn Nhất thì bị cấm không cho vào với lý do làm việc cho đài RFA.
- Tháng 7/2012, tòa án Philadelphia, HK, xử vụ án Nexus Technologies, một công ty kinh doanh xuất khẩu của 3 anh em ruột người Mỹ gốc Việt họ Nguyễn ở Philadelphia, tiểu bang Pensylvania, Hoa Kỳ.
Vụ này liên quan đến an ninh và quốc phòng HK, vì hàng xuất khẩu lậu từ HK vào VN bao gồm những thiết bị kỹ thuật điện tử quân sự hiện đại, lên đến mấy chục triệu đô-la Mỹ, như: trang thiết bị để vẽ bản đồ dưới mặt biển, thiết bị dò, tháo gỡ bom mìn, dò tìm các loại hóa chất, phụ tùng trực thăng, thiết bị viễn thông lắp đặt trên vệ tinh… và hối lộ quan chức VN 250.000 đô-la Mỹ, đồng thời cũng là một vụ rửa tiền.
Do đó, 3 anh em phải đối diện với mức án tổng cộng khoảng 100 năm đang làm xôn xao dư luận khắp Âu-Mỹ. Công ty Nexus Technologies đã đóng cửa, tiền bạc tài sản đã bị niêm phong và phải chuẩn bị nộp phạt 27 triệu đô-la Mỹ.
- Năm 2009, LM Trần Công Nghị ở Hoa Kỳ, chủ biên trang nhà VietCatholic News, cũng được cấp chiếu khán, nhưng khi về đến phi trường Nội Bài thì bị chặn lại không cho vào…
- Năm 2011, chị Ca Dao sinh sống tại Pháp, đã nhiều lần về VN, nhưng lần này về thăm mẹ già bệnh, dù TĐS tại Paris đã cấp chiếu khán nhưng khi tới phi trường Tân Sơn Nhất thì bị cấm không cho vào với lý do làm việc cho đài RFA.
- Tháng 7/2012, tòa án Philadelphia, HK, xử vụ án Nexus Technologies, một công ty kinh doanh xuất khẩu của 3 anh em ruột người Mỹ gốc Việt họ Nguyễn ở Philadelphia, tiểu bang Pensylvania, Hoa Kỳ.
Vụ này liên quan đến an ninh và quốc phòng HK, vì hàng xuất khẩu lậu từ HK vào VN bao gồm những thiết bị kỹ thuật điện tử quân sự hiện đại, lên đến mấy chục triệu đô-la Mỹ, như: trang thiết bị để vẽ bản đồ dưới mặt biển, thiết bị dò, tháo gỡ bom mìn, dò tìm các loại hóa chất, phụ tùng trực thăng, thiết bị viễn thông lắp đặt trên vệ tinh… và hối lộ quan chức VN 250.000 đô-la Mỹ, đồng thời cũng là một vụ rửa tiền.
Do đó, 3 anh em phải đối diện với mức án tổng cộng khoảng 100 năm đang làm xôn xao dư luận khắp Âu-Mỹ. Công ty Nexus Technologies đã đóng cửa, tiền bạc tài sản đã bị niêm phong và phải chuẩn bị nộp phạt 27 triệu đô-la Mỹ.
- Ngày 24/4/2013, Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh Bộ Công
An CSVN đã ngăn cản không cho ông Phạm Văn Điệp (sinh năm 1968), quốc tịch VN,
bay từ Nga vào Việt Nam và dù ông cực lực phản đối, họ đã dùng vũ lực cưỡng chế
ông ra máy bay bắt quay trở lại Nga.
Ông Điệp là người Việt qua làm
ăn ở Nga, từng về VN và tới gặp cụ Hoàng Minh Chính nên bị công an bắt giữ...
Ông đã nhiều lần tham gia biểu tình chống TQ tại Nga và về biểu tình ngay tại
VN, chính vì vậy, ông bị cho là “chống đối” nhà cầm quyền CSVN.
Ông nói với Công An là ông nhất định ở lại VN, sẵn sàng vào tù CSVN nếu có tội, không được tước quyền cư trú của tôi, “Các anh giết tôi thì giết đi, tôi không để các anh tước quốc tịch của tôi (đuổi tôi sang Nga).”, tôi sẵn sàng chết tại VN, rằng Công An vi phạm luật...
Ông viết: Họ đưa cho tôi 1 Bản Xử Lý vi phạm hành chính tự họ soạn ra, trong đó có ghi rằng: Họ dùng điều 8 Pháp Lệnh Về Cư Trú, đi lại và xuất nhập cảnh của người nước ngoài để xử lý như vậy với tôi. Tôi không đồng ý vì tôi cho rằng Bản Xử Lý đó không hợp lệ đối với tôi vì tôi không phải là người nước ngoài, mà tôi là công dân VN. Chính trong Bản Xử Lý cũng ghi Phạm Văn Điệp là công dân VN. Sau đó đại diện Công An xuất nhập cảnh Sân bay Nội Bài giằng lấy Bản Xử Lý vi phạm hành chính, xé nó trước mặt tôi và giục Cảnh Sát Cơ Động lôi tôi về phía đi ra máy bay và sau đó bẻ tay, cưỡng chế tôi, đẩy tôi vào tận bên trong máy bay để máy bay cất cánh về Moscow. Tôi cho rằng họ không có cơ sở pháp lý gì trục xuất công dân Việt Nam sang nước khác là Liên Bang Nga. Họ đã vi phạm quyền trở về nước Việt Nam của tôi...
Đặc biệt ông đã lường trước tình huống nên đã thu thanh cuộc đối thoại gay cấn tại phi trường Nội Bài giữa ông và Công An, Cảnh Sát Cơ Động. Ông cho hay, đáng buồn hơn nữa, họ đáng tuổi con em tôi, thà họ cứ lặng lẽ làm theo lệnh của kẻ khác chứ vô cớ với những lời nói hoàn toàn thiếu suy nghĩ, hỗn láo thì không tương ứng với ngành nghề này như “Tao muốn tước là tước... rồi làm gì tao.”. Ông Điệp đã đưa vụ bảy ra trước công luận và ngày 29/4 đã có Đơn Khiếu Nại gửi Đại Sứ Quán nước CHXHCNVN tại Liên Bang Nga.
- Ngày 29/11/2014, GS Hồng Lê Thọ, sinh năm 1949, là người từng du học Nhật Bản năm 1968, tích cực tham gia, làm Tổng Thư Ký tổ chức BEHEITO “phản chiến” nhưng đề cao HCM, bênh vực CSVN, chống phá VNCH và HK, bị công an bắt “quả tang”, khám xét nhà khẩn cấp theo tố giác...
Ông nói với Công An là ông nhất định ở lại VN, sẵn sàng vào tù CSVN nếu có tội, không được tước quyền cư trú của tôi, “Các anh giết tôi thì giết đi, tôi không để các anh tước quốc tịch của tôi (đuổi tôi sang Nga).”, tôi sẵn sàng chết tại VN, rằng Công An vi phạm luật...
Ông viết: Họ đưa cho tôi 1 Bản Xử Lý vi phạm hành chính tự họ soạn ra, trong đó có ghi rằng: Họ dùng điều 8 Pháp Lệnh Về Cư Trú, đi lại và xuất nhập cảnh của người nước ngoài để xử lý như vậy với tôi. Tôi không đồng ý vì tôi cho rằng Bản Xử Lý đó không hợp lệ đối với tôi vì tôi không phải là người nước ngoài, mà tôi là công dân VN. Chính trong Bản Xử Lý cũng ghi Phạm Văn Điệp là công dân VN. Sau đó đại diện Công An xuất nhập cảnh Sân bay Nội Bài giằng lấy Bản Xử Lý vi phạm hành chính, xé nó trước mặt tôi và giục Cảnh Sát Cơ Động lôi tôi về phía đi ra máy bay và sau đó bẻ tay, cưỡng chế tôi, đẩy tôi vào tận bên trong máy bay để máy bay cất cánh về Moscow. Tôi cho rằng họ không có cơ sở pháp lý gì trục xuất công dân Việt Nam sang nước khác là Liên Bang Nga. Họ đã vi phạm quyền trở về nước Việt Nam của tôi...
Đặc biệt ông đã lường trước tình huống nên đã thu thanh cuộc đối thoại gay cấn tại phi trường Nội Bài giữa ông và Công An, Cảnh Sát Cơ Động. Ông cho hay, đáng buồn hơn nữa, họ đáng tuổi con em tôi, thà họ cứ lặng lẽ làm theo lệnh của kẻ khác chứ vô cớ với những lời nói hoàn toàn thiếu suy nghĩ, hỗn láo thì không tương ứng với ngành nghề này như “Tao muốn tước là tước... rồi làm gì tao.”. Ông Điệp đã đưa vụ bảy ra trước công luận và ngày 29/4 đã có Đơn Khiếu Nại gửi Đại Sứ Quán nước CHXHCNVN tại Liên Bang Nga.
- Ngày 29/11/2014, GS Hồng Lê Thọ, sinh năm 1949, là người từng du học Nhật Bản năm 1968, tích cực tham gia, làm Tổng Thư Ký tổ chức BEHEITO “phản chiến” nhưng đề cao HCM, bênh vực CSVN, chống phá VNCH và HK, bị công an bắt “quả tang”, khám xét nhà khẩn cấp theo tố giác...
Thời hoạt động ở Nhật, Thọ từng tự xé thông hành VNCH của
chính mình. Ngày 9/6/1969, 25 người trong tổ chức trên vào chiếm TĐS VNCH với
biểu ngữ “Mỹ phải cút ngay khỏi miền Nam”,
“Đả đảo chính quyền tay sai Thiệu-Kỳ”…
ra tuyên ngôn đòi hòa bình và tuyệt thực tại đây cho đến ngày 10/6/1969. Từng
tham gia cản đường trong suốt 50 ngày đêm khi HK muốn đưa xe tăng từ căn cứ quân
sự Sagamihara, gần Yokohama qua VN vào tháng 8/1972.
Sau năm
1975, từng làm việc tại TĐS CSVN ở Tokyo, rồi về VN định cư, thường trú tại số
32 Cửu Long, phường 15, quận 10, SG, có nhiều đóng góp về mặt giáo dục...
Ông Đinh Kim Phúc, nhà nghiên cứu Biển Đông và là 1 cộng sự gần gũi với ông Thọ cho biết 2 ông đã hợp tác viết chung cuốn “Chủ Quyền VN Trên 2 Quần Đảo Hoàng Sa Và Trường Sa” do Hội Người VN ở Nhật Bản xuất bản năm 2010.
Từ vài năm nay, Thọ làm chủ trang blog “Người Lót Gạch” (hình bìa blog là cậu bé bê gạch, đã bị chuyển ngay qua chế độ riêng tư, người thường không vào được) đăng nhiều bài phản biện về hiện tình đất nước do đảng CSVN lãnh đạo, và đặc biệt chủ trương “thoát Trung”, đã bị bắt khẩm cấp lúc 10 giờ 30 tối theo tin “tố giác”, vì vi phạm Điều 258 Bộ Luật Hình Sự, tội “đăng tải các bài viết trên mạng Internet có nội dung xấu, thông tin sai lệch làm giảm uy tín, mất lòng tin trong nhân dân với cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công dân”.
Thọ bị bắt là điều bất ngờ cho chính anh ta, vốn tin là với lòng yêu nước, từng dấn thân đóng góp cho CSVN trong quá khứ từ trước năm 1975 và đăng phản biện chỉ với mục đích xây dựng thì không việc gì. Tin Thọ bị bắt cũng đã làm rúng động dư luận cựu du học sinh Nhật cũng như nhiều giới khác.
Ông Đinh Kim Phúc, nhà nghiên cứu Biển Đông và là 1 cộng sự gần gũi với ông Thọ cho biết 2 ông đã hợp tác viết chung cuốn “Chủ Quyền VN Trên 2 Quần Đảo Hoàng Sa Và Trường Sa” do Hội Người VN ở Nhật Bản xuất bản năm 2010.
Từ vài năm nay, Thọ làm chủ trang blog “Người Lót Gạch” (hình bìa blog là cậu bé bê gạch, đã bị chuyển ngay qua chế độ riêng tư, người thường không vào được) đăng nhiều bài phản biện về hiện tình đất nước do đảng CSVN lãnh đạo, và đặc biệt chủ trương “thoát Trung”, đã bị bắt khẩm cấp lúc 10 giờ 30 tối theo tin “tố giác”, vì vi phạm Điều 258 Bộ Luật Hình Sự, tội “đăng tải các bài viết trên mạng Internet có nội dung xấu, thông tin sai lệch làm giảm uy tín, mất lòng tin trong nhân dân với cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công dân”.
Thọ bị bắt là điều bất ngờ cho chính anh ta, vốn tin là với lòng yêu nước, từng dấn thân đóng góp cho CSVN trong quá khứ từ trước năm 1975 và đăng phản biện chỉ với mục đích xây dựng thì không việc gì. Tin Thọ bị bắt cũng đã làm rúng động dư luận cựu du học sinh Nhật cũng như nhiều giới khác.
KHÁNG THƯ GỬI VIỆT CỘNG
Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam
của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền
05-02-2014
Kính gởi
- Quý Cơ quan hữu trách Việt Nam.
Đồng kính gởi
- Quý Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
- Quý Anh Chị Em Tín hữu Công giáo.
- Quý Cơ quan Nhân quyền Quốc tế
1- Nhận định
- Kể từ sau năm 1975, Việt Nam là một trong số những quốc gia thi hành án tử hình nhiều nhất thế giới, vừa đối với các tù nhân hình sự, vừa đối với các tù binh chiến tranh (thuộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa), vừa đối với các tù nhân lương tâm. Có rất nhiều chứng từ lẫn tài liệu về vấn đề này. Và không thiếu những trường hợp chết oan vô tội. Gần đây lại có một loạt án tử hình được tuyên liên quan đến tham nhũng, cướp của, buôn ma túy, gây xôn xao cho toàn xã hội.
- Việt Nam đang theo chế độ duy vật vô thần, độc tài toàn trị, không tam quyền phân lập, hệ thống tư pháp bị đảng Cộng sản kiểm soát hoàn toàn, lại có nạn công an điều tra lập thành tích, công tố viện và thẩm phán nhận đút lót, nên thường xuyên có những vụ xét xử bất công, dễ dẫn đến những sai lầm công lý trầm trọng và có thể đưa đến những bản án tử hình đi ngược các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế.
- Với Nghị định số 208/2013/NĐ-CP của Chính phủ ký ngày 17-12-2013, có hiệu lực từ 1-2-2014, cho phép bắn vào kẻ bị cho là “có hành vi chống người thi hành công vụ”, nhằm ngăn ngừa những cuộc nổi dậy ngày càng tăng của nhân dân, và trước hiện trạng nhiều công dân vô tội bị chết sau khi sa vào tay công an, công luận e rằng rồi đây sẽ có những bản án tử hình được thực thi tại chỗ, mà tính chất chính đáng sẽ là mối băn khoăn nhức nhối cho lương tâm của toàn xã hội.
- Việc thi hành án tử hình tại VN còn nhiều thể thức vô nhân đạo. Như việc các tử tù bị giữ lâu năm lâu tháng trong cảnh biệt giam, cùm kẹp và đọa đày nghiệt ngã… khiến cho họ (và gia đình họ) sống trong khắc khoải khôn cùng, dễ dẫn đến tự hủy hoại; như việc thi hành án tử bằng những phương cách gây đau đớn kéo dài cho các phạm nhân; như việc mới đây, một nhóm bác sĩ được mời đến để chữa bệnh nhưng tới nơi thì bị cưỡng bức tiêm thuốc độc để giúp nhà tù thi hành án tử. Như thế là trực tiếp phá vỡ những cam kết chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của bác sĩ.
- Nhân loại hiện nay có Ngày Thế giới chống án tử hình (được thiết lập từ 10-10-2003). Liên Hiệp Quốc, nhiều tổ chức nhân quyền, nhân đạo và tôn giáo đã kêu gọi các quốc gia mau chóng loại bỏ thứ án ấy, vì đó là một sự vi phạm quyền sống, thiếu nhân đạo và hạ nhân phẩm, như được nêu ra trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (đ. 3 và 5) và Công uốc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (đ. 6 và 7). Ngoài ra, số lượng các nước bãi bỏ án tử hình không ngừng gia tăng. Nay đã có 138 quốc gia chẳng còn áp dụng án tử hình, trong đó 94 quốc gia đã ban hành luật bãi bỏ nó hẳn, số còn lại bỏ nó trong thực tế, nghĩa là vẫn duy trì, nhưng không thi hành án. (RFI 24-02-2010, Tóm lược Học thuyết Xã hội của GHCG số 405)
2- Tuyên bố
Từ những nhận định trên, là những linh mục Công giáo có nghĩa vụ rao truyền giáo huấn của Giáo hội, có trách nhiệm xây dựng nền văn minh sự sống theo lời dạy của Cố Giáo hoàng Gioan-Phaolô 2, và từ lâu đấu tranh cho nhân quyền lẫn dân quyền theo tinh thần của Cố Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền, chúng tôi cực lực phản đối việc áp dụng hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự, vì những lý do như sau:
a- Quyền sống của con người (từ lúc tượng hình trong bào thai đến lúc chết tự nhiên) là quyền tối thượng và cơ bản mà chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền định đoạt và kết thúc.
b- Công lý, luật pháp và tòa án là nhằm giữ gìn trật tự xã hội và bảo vệ công dân vô tội, nhưng cũng nhằm giáo dục các công dân phạm tội, giúp họ hối lỗi và đền bù (sửa chữa), chứ không nhằm báo oán lên họ và gia đình họ.
c- Án tử hình do đó thể hiện sự thất bại của luật pháp, vì mạng người mất đi thì không thể sửa chữa được. Ngoài ra, án phạt này chẳng có tác dụng gì trong việc đấu tranh chống tội phạm (tại những quốc gia áp dụng nó không hề thấy suy giảm các tội phạm nghiêm trọng, trái lại là suy giảm ý thức tôn trọng nhân mạng và nhân phẩm trong xã hội; đang khi chẳng có một hệ thống tư pháp nào mà không sai lầm trong xét xử (nhiều tử tội đã phải chết oan).
d- Xã hội hiện nay đang có những phương thế trấn áp tội phạm cách hiệu quả, bẳng cách làm cho các can phạm trở nên vô hại mà không dứt khoát từ chối cơ may để họ cải tạo. (ĐGH Gioan-Phaolô 2, Thông điệp Tin mừng Sự sống số 27).
e- Những biện pháp răn đe và trừng phạt không đổ máu phù hợp hơn với những điều kiện cụ thể của công ích và phẩm giá con người. (Giáo lý GHCG số 2267)
f- Chúng tôi yêu cầu các cơ quan hữu trách Việt Nam sớm xem xét sửa đổi Bộ luật Hình sự để hủy bỏ hình phạt “tử hình” và ngưng ngay việc thi hành mọi án tử đã tuyên.
Làm tại Việt Nam ngày 05-02-2014, ngày Kiểm điểm Định kỳ Toàn cầu về Nhân quyền
Ký tên:
Đại diện Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền:
- Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Tổng giáo phận Huế
- Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý, Tổng giáo phận Huế
- Lm Phêrô Phan Văn Lợi, Giáo phận Bắc Ninh
Đồng ký tên:
- Lm Antôn Lê Ngọc Thanh, Dòng Chúa Cứu Thế SG
- Lm Giuse Đinh Hữu Thoại, Dòng Chúa Cứu Thế SG
HUỲNH THỤC VY * DÂN TRÍ
12/11/2014
Chấn hưng dân trí: Bàn về dân trí
Huỳnh Thục Vy
Từ
đầu thế kỷ trước, Phan Chu Trinh đã nói đến công cuộc “Khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh” cho Việt Nam. Đến hôm nay và có thể là một
thời gian dài sau này, riêng chuyện dân trí chắc sẽ còn tốn nhiều thời
gian và giấy mực của chúng ta.
Không ít lần, bộ
máy tuyên truyền của nhà cầm quyền cộng sản rêu rao rằng: Việt Nam dân
trí chưa cao để có thể có dân chủ; vì vậy, Đảng và Nhà nước cộng sản cần
cai trị thêm, chờ khi nào dân trí đủ cao thì họ sẽ tự động thay đổi hệ
thống chính trị và dân chủ hóa.
Thời gian chờ
đợi này có thể là năm mươi năm hoặc một trăm năm? Đây chắc chắn không
phải chỉ là lời chống chế cho sự cầm quyền bất xứng, không chính đáng
và dai dẳng của Đảng cộng sản lên hơn chín chục triệu dân Việt Nam; mà
nó có thể còn là suy nghĩ chân thành và thiện chí của nhiều người có học
Việt Nam. Chưa có dân trí cao thì chưa thể có dân chủ?!
Và
với nền giáo dục ngăn cản tự do, sáng tạo và đang ngày càng lụn bại như
tại Việt Nam thì còn lâu trình độ tri thức của người dân Việt Nam mới
có thể sánh kịp các quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, thậm chí là Thái
Lan…Vậy thì Đảng cộng sản sẽ tiếp tục ở đây, ngay trên đầu chúng ta
trong một vòng định mệnh luẩn quẩn: độc tài -> dân trí thấp, dân trí
thấp -> độc tài?!
Tất
nhiên, tri thức là điều kiện không thể thiếu để phát triển đất nước một
cách toàn diện và vững chắc. Chính tri thức cũng là yếu tố củng cố nền
dân chủ. Tri thức giúp người dân tiếp cận thông tin nhanh chóng, am hiểu
luật pháp và có những phản ứng hữu hiệu cho các chính sách quốc gia
hoặc những thực hành chính trị của nhà cầm quyền. Tri thức và sự sáng
tạo cũng là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế, sự hòa nhập của quốc
gia vào cộng đồng quốc tế trong mọi lĩnh vực để người dân được sống ngày
một thịnh vượng và có uy tín trên trường quốc tế hơn. Không ai có thể
phủ nhận vai trò của trình độ tri thức đối với tiền đồ một quốc gia.
Nhưng
chúng ta đang nói đến dân trí. Dân trí phải chăng đơn giản chỉ là trình
độ tri thức của người dân, là chỉ số có thể đo lường được thông qua con
số người có bằng cấp cao, tốt nghiệp những đại học danh tiếng? Chúng ta
hãy cùng nhau dành thời gian để suy nghĩ về mệnh đề: “Dân thấp thấp thì
chưa thể có Dân chủ”. Ấn Độ năm 1947 khi giành được độc lập, dân trí có
cao hơn Việt Nam bây giờ không? Miến Điện hay Cambodia đã bắt đầu con
đường dân chủ hóa có dân trí cao hơn Việt Nam không? Nếu các bạn lưỡng
lự, thì chúng ta có thể cần nhiều thời gian hơn nữa trước khi đưa ra bất
cứ khẳng định một cách khoa học nào về chuyện Dân trí - Dân chủ.
Theo
thiển ý của người viết bài này, dân trí không chết cứng trong cái nội
hàm “tri thức”. Dân trí là một tập hợp những điều kiện thuộc về não
trạng và văn hóa nhiều hơn là tri thức. Dân trí cao không phải là tỷ lệ
cao những người có học và có bằng cấp cao mà là các yếu tố thuộc về nhận
thức (chứ không phải tri thức) có thể chi phối hành động và phản ứng
của người dân trong mối quan hệ của họ với nhau và của họ với chính
quyền.
Ví dụ, những người có học hành nhiều
chưa chắc là những người có hành xử văn hóa. Trong cách dùng thông dụng
do những người cộng sản hiện nay áp đặt, người có bằng cấp cao thì được
gọi là người có trình độ văn hóa cao. Nhưng thực tế, những hành xử văn
hóa không phụ thuộc nhiều vào việc người ta có học nhiều hay không, mà
phụ thuộc vào nền tảng đạo đức từ môi trường gia đình - xã hội, những
quy tắc hành xử phổ biến trong xã hội và nhận thức của chính người đó về
các giá trị công bằng, bác ái, tự do và công lý; để rồi từ đó có nhận
thức đạo đức cơ bản và hành xử luân lý tương ứng.
Một
người đàn anh đáng kính của tôi từng chia sẻ: Dân trí là chỉ số để đo
(và luôn tỷ lệ nghịch với) mức độ thờ phụng quyền lực các loại. Người
dân thờ phượng quyền lực chính trị, trí thức thờ phượng một trí thức tên
tuổi khác… Người viết tạm thời đưa ra vài đặc điểm dưới dây mà tôi xem
như là biểu hiện của một nền dân trí cao:
-
Người dân và đặc biệt là giới trí thức không/ ít sợ hãi và tôn sùng
quyền lực, dù đó là quyền lực chính trị, kinh tế, học thuật hay tôn
giáo. Người dân không xem những người cầm quyền chính trị là những người
có vị thế ưu thắng tuyệt đối và bất khả xâm phạm. Đối với họ, các vị
trí lãnh đạo quốc gia là có thể thay đổi được, dựa trên ý chí của chính
người dân; và các vấn đề to lớn của quốc gia không phải là sân chơi
riêng của những người ở “tầng lớp trên”.
- Giới
trí thức không/ ít khao khát quyền lực chính trị. Họ không xem việc nắm
quyền chính trị hoặc hưởng lợi nhờ quyền lực chính trị là mục tiêu hoặc
là biểu hiện thành công của sự nghiệp mình. Tất nhiên tham chính và lãnh
đạo quốc gia không phải là điều xấu nhưng đó không phải là cách duy
nhất khiến một người có được vinh quang, sự khen ngợi và công ích xứng
đáng. Trí thức đặt mình vào một vị thế còn quan trọng hơn, đó là giám
sát chính trị, đề nghị chính sách quốc gia và phục vụ người dân.
-
Người dân có khả năng giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống
hằng ngày và các mối quan hệ với cộng đồng thông qua các hoạt động tự
lập và tự quản, không viện đến sự xử lý của chính quyền nếu chưa cần
thiết. Những sự phụ thuộc nhỏ lẻ vào chính quyền cho thấy ở họ tâm lý lệ
thuộc thực chất còn lớn hơn nhiều.
- Người dân
có xu hướng tôn trọng hạnh phúc và tự do của từng cá nhân con người; đề
cao tự do và phẩm giá con người với tư cách từng cá nhân cụ thể; dù trân
quý những hy sinh của cá nhân cho cộng đồng nhưng không coi sự hy sinh
của cá nhân cho tập thể là giá trị luân lý bắt buộc.
-
Người dân có xu hướng giải quyết vấn đề bằng phương pháp hòa bình và
tinh thần khoan dung, không đề cao vũ lực và không/ít bị kích động bởi
khuynh hướng bạo lực. Và họ có khả năng đề kháng tương đối đối với những
hô hào mị dân về chủ nghĩ dân tộc cực đoan.
-
Người dân có ý thức về lợi ích của sự hợp tác và có khả năng xây dựng
đồng thuận một cách lành mạnh và tuân thủ luật pháp để hợp tác với nhau
trong việc giải quyết các vấn đề cộng đồng và quốc gia. Nếu mệnh lệnh
tùy tiện và độc đoán là đặc trưng của những xã hội bán khai từ thời xa
xưa của nhân loại thì khả năng tạo đồng thuận và hợp tác là kỹ thuật đặc
biệt của những cộng đồng văn minh của thế giới hôm nay.
-
Người dân giữ được sự bình tĩnh tương đối, khả năng hành động tương hỗ
và sự thượng tôn luật pháp khi cộng đồng hoặc quốc gia lâm vào những
tình huống khẩn cấp như thiên tai, chiến tranh, tội phạm. Họ có khả năng
ứng phó một cách khoa học, lý tính trong những trượng hợp đó.
-
Người dân có khả năng tư duy và phán đoán độc lập, không/ ít tôn sùng
biểu tượng, không đeo bám cứng nhắc những giáo điều hay chủ thuyết nhất
định. Bởi theo logic tâm lý, khi người dân quá tôn sùng biểu tượng thì
trong tâm lý của họ không có điều gì khác hơn ngoài việc người ta cũng
muốn trở thành biểu tượng nếu có cơ hội. Tâm lý tôn sùng biểu tượng càng
mạnh thì sự hãnh tiến khi nắm được địa vị ưu thắng càng lớn. Đây cũng
có thể được xem là một khía cạnh của sự thờ phượng quyền lực.
Sau
khi xem xét xong những điều trên đây, chúng ta gần như có thể trả lời
được câu hỏi: Vì sao ngày càng có nhiều sinh viên Việt Nam đi du học
nước ngoài nhưng hầu như có rất ít người trong số những con người bằng
cấp đầy mình ấy có đủ can đảm để dấn thân cho dân chủ và đóng góp cho
cộng đồng xã hội.Những người kiến thức sâu rộng ấy cũng vô cùng sợ hãi
và thiếu trách nhiệm giống như bao người thất học khác, vì kiến thức
không giúp họ trở nên can đảm, bớt lệ thuộc quyền lực và sốt sắng nhận
lãnh trách nhiệm cộng đồng.
Bởi vậy nhiều con
cái các gia đình cán bộ cộng sản cấp địa phương cũng như cấp quốc gia du
học và trở về, nhưng cái họ đang và sẽ trở thành không phải là điều gì
khác hơn ngoài những “ông bà độc tài con”. Vấn đề là ở chỗ nhận thức về
chính trị - xã hội và kỹ thuật tổ chức cuộc sống chung trong một cộng
đồng văn minh chứ không phải là việc có nhiều bằng cấp hay không.
Như
tôi đã từng chia sẻ, giải thể một chế độ độc tài để bắt đầu con đường
dân chủ hóa tuy khó nhưng còn dễ hơn rất nhiều so với công cuộc xây dựng
dân chủ hậu độc tài. Và tri thức, khi đó sẽ đóng vài trò rất quan
trọng; nhưng nếu chúng ta không thể bắt đầu ngay bây giờ thì ngày mai
chẳng có gì xảy ra cả. Ngay chính trình độ tri thức của người dân cũng
ngày càng thoái hóa dưới chế độ độc tài chứ chưa nói là nó có cơ hội để
đóng góp xây dựng dân chủ hay không. Bởi vì chính dân chủ và sự tự do
hiến định trong một nền dân chủ xứng đáng cũng góp phần quyết định nâng
cao trình độ tri thức của người dân.
Trong một
buổi nói chuyện dành riêng cho Hội PNNQVN, ông Ngô Nhân Dụng đã chia sẻ:
Bạn không thể nói tôi không biết bơi vì vậy tôi không dám xuống nước.
Vì nếu bạn không xuống nước, bạn sẽ không bao giờ biết bơi cả. Và cũng
xin dùng lời hữu lý trên để kết thúc bài viết này trong tâm tình mong
muốn tiếp thu nhiều chia sẻ hữu ích hơn từ các bạn trẻ Việt Nam.
Buôn Hồ, 7/11/2014
H.T.V
Tác giả gửi BVN
HỒ CHÍ MINH
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 341
DAVID THIÊN NGỌC * VĂN HÓA CỘNG SẢN
Cái văn hóa của Thủ Đô “Ngàn Năm Văn Vật”
David Thiên Ngọc (Danlambao)
- Bài này được viết sau khi đọc một Stt trên FaceBook có nick “Lọ Lem
Đất Võ Minh Đan” với câu chuyện cuối tuần. Cô ấy nói lên một nét lặng
buồn trong cái văn hóa mà nhà cầm quyền CSVN cố tô son để đưa con thuyền
Quốc Gia hòa ra biển lớn. Những điều mà cô trăn trở là cho cái nét văn
minh, văn hóa và ý thức đạo đức của con người trong một xã hội luôn tự
hào được lãnh đạo bởi tập đoàn “đỉnh cao trí tuệ” sáng ngời với “đạo đức
HCM”.
Ngay tại Thủ Đô Hà Nội trong một chuyến du lịch cô đã bị một tài xế Taxi
lừa chở cô đi lòng vòng với mục đích móc túi tiền của cô một cách hạ
đẳng, không thương tiếc vì những lý do tắt đường nghẽn lối nọ kia, mặc
dù đích đến là gần ngay trước mắt nhưng cô không biết. Vì là du khách cô
đành phải cam lòng ngậm bù hòn làm ngọt sau khi vỡ lẽ. Nhưng trong cô
đã có một cái nhìn về một nền văn minh của xứ sở “ngàn năm văn hiến” này
và những lời tô son có cánh của lãnh đạo CSVN trong đó có các tập đoàn
“Du Lịch Lữ Hành”.
Đọc những gì cô viết lầm tôi nhớ lại một thời trong quá vãng, ngược về
thời gian những năm tháng mà nhân dân Miền Nam VN “được giải phóng” và
tiếp nhận luồng gió chướng.
Ngày ấy dạo “đất nước những tháng năm thật buồn” của những năm cuối của
thập niên 70s thế kỷ trước. Lúc đó cũng vào lúc mà những cơn gió mùa
đông bắc ùa về “sưởi ấm” cho nhân dân Miền Bắc để có những cặp môi ráp
khô và nứt nẻ... kể cả các cô gái có làn da trắng mịn nõn nà và cũng
không quên giúp tiễn đưa các cụ về “Văn Điển” nghỉ ngơi cho an giấc...
(một nghĩa trang ở Hà Nội).
Tôi, một người Miền Nam sau bao nhiêu năm bị bóc lột, kẹp kềm bởi một
chế độ “Ngụy tà” và ngụp lặn trong một xã hội “phồn vinh giả tạo”, có
một chút suy tư và cảm nhận đối với những luồng gió mới đang tràn về nên
muốn làm một chuyến ngược xuôi khắp mọi miền đất nước tạm gọi là “biệt
ly hương” trước khi làm “khúc ruột ngàn dặm” của đất nước ngày nay.
Ngày ấy muốn về thăm trái tim Tổ Quốc nơi được gọi là “Ngàn Năm Văn Vật”
mà một người dân như tôi “bị” gọi là “con người cũ của xã hội cũ” muốn
đi cũng khó và phải có một loại “passport” quái dị chỉ để dùng trong nội
địa là “Giấy phép đặc biệt đi A”. Nhưng sự đời như ông bà xưa đã nói
“đa kim ngân phá luật lệ” mà sau này tên trùm xã hội đen “Năm Cam” nói
rằng: “những gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều
tiền” và những triết lý ấy đã mang đến cho tôi tờ “Giấy phép đặc biệt đi
A” nắm trong tay.
Cái thời mà chen lấn trên những chuyến tàu ngược xuôi Nam-Bắc để có một
chỗ đứng thôi chứ không ngồi, nằm như ngày nay không dễ một chút nào?
Tất nhiên cũng mua được bằng tiền. Cho nên suy tính chuyện phương tiện
trước lúc ngược xuôi dọc đường gió bụi tôi cũng bị chiếm mất thời gian
cả tuần lễ và cuối cùng được một anh “đầy tớ” “vai mang sắc cốp kè
kè-đầu đội nón cối chân phè dép râu” chỉ lối vẽ đường.
Thời ấy cái phong trào “Miền Nam nhận họ Miền Bắc nhận hàng” như là một
“quốc sách” không khác nào cái thời “Bách hoa tề phóng-Bách gia tranh
Minh” (Trăm hoa đua nở-Trăm nhà đua tiếng) ở bên Tề bên Sở dưới thời bác
Lông (Mao) trị vì vào năm 1956. Do đó những chuyến xe tải mà dân Miền
Nam thường gọi là xe “ba lua” lũ lượt chở đầy ắp hàng xa xỉ độc hại tàn
dư của “Mỹ Ngụy” đem về Miền Bắc để xây dựng XHCN. Tôi được một người
quen thân là tài xế mà trước đó là chủ chiếc xe này nay đã trở thành tài
sản XHCN cho quá giang về “thiên đường miền đất hứa (lèo)”.
Đặt chân xuống đất Kinh Đô tôi cứ nghĩ là mình lạc vào xứ “sương mù” xa
lắc ở trời Tây vì bầu trời nơi đây “mịt mù khói tỏa ngàn sương...” mà
trong không trung đặc quánh những bụi mù của đất cát pha lẫn với bụi xỉ
than đá hình như lượng oxy chỉ là phần nhỏ và hiếm trong cái hỗn hợp
không khí này.
Đến đây tôi bỗng nhớ đến tác phẩm của nhà văn Nguyễn Khắc Trường “Mảnh đất lắm người... nhiều ma” vì trước mắt lờ mờ của tôi là những ngôi “nhà mồ” được xếp bằng những viên “táp lô” được in bằng đất trộn xỉ than đá thải ra chứ không phải bằng cát và xi măng và trên mái nhà được phủ che bằng lớp giấy tẩm dầu hắc của xứ sở “Bạch Dương” ngày trước và được dằn bởi những thanh tre dài, dây kẽm buộc và những viên táp lô ấy đè lên.
Những ngôi nhà mồ này được xếp dài dài dọc theo hai bên đường và cửa luôn đóng kín. Thỉnh thoảng có một vài bóng hình mờ ảo hé cửa vào ra mà mặt thì được che kín còn hơn cả Ninja hay thích khách trong các phim kiếm hiệp Kim Dung nên khó mà nhận được là bóng hay hình, người hay ma quì?. Sau đó tôi mới được biết những ngôi “nhà mồ” đó là “nhà dân”.
Lòng đường thì như một công trường nơi rừng núi, nhựa đường hầu như là chuyện trong cổ tích thần tiên và các hỗn hợp đất, cát, than đá được tung lên hàng loạt bởi những chiếc xe ở xứ “rừng Taiga và Lộc Đỉnh Sơn” lũ lượt réo còi gầm rú, người cách nhau khoảng 5-7 thước là không còn thấy mặt, ẩn hiện như ma trơi nơi nghĩa địa.
Đến đây tôi bỗng nhớ đến tác phẩm của nhà văn Nguyễn Khắc Trường “Mảnh đất lắm người... nhiều ma” vì trước mắt lờ mờ của tôi là những ngôi “nhà mồ” được xếp bằng những viên “táp lô” được in bằng đất trộn xỉ than đá thải ra chứ không phải bằng cát và xi măng và trên mái nhà được phủ che bằng lớp giấy tẩm dầu hắc của xứ sở “Bạch Dương” ngày trước và được dằn bởi những thanh tre dài, dây kẽm buộc và những viên táp lô ấy đè lên.
Những ngôi nhà mồ này được xếp dài dài dọc theo hai bên đường và cửa luôn đóng kín. Thỉnh thoảng có một vài bóng hình mờ ảo hé cửa vào ra mà mặt thì được che kín còn hơn cả Ninja hay thích khách trong các phim kiếm hiệp Kim Dung nên khó mà nhận được là bóng hay hình, người hay ma quì?. Sau đó tôi mới được biết những ngôi “nhà mồ” đó là “nhà dân”.
Lòng đường thì như một công trường nơi rừng núi, nhựa đường hầu như là chuyện trong cổ tích thần tiên và các hỗn hợp đất, cát, than đá được tung lên hàng loạt bởi những chiếc xe ở xứ “rừng Taiga và Lộc Đỉnh Sơn” lũ lượt réo còi gầm rú, người cách nhau khoảng 5-7 thước là không còn thấy mặt, ẩn hiện như ma trơi nơi nghĩa địa.
Ngay chiều tối hôm ấy tôi rời chiếc xe tải mà tôi quá giang và trú ngụ
để đi thăm thú vài nơi. Lúc ấy Thủ Đô làm gì có những chiếc Taxi bóng
lộn như ngày nay để cho “Lọ Lem” cùng các du khách ngự tọa? mà là những
chiếc xích lô không là xích lô, ba-gát không là ba-gát. Sàn xe là một
tấm ván được trải một manh chiếu của “cái bang” đầy bụi cát và xỉ than.
Người ngồi lên đó chỉ có ngồi “chồm hổm” kiểu “nước lụt” ở Miền Trung nếu không muốn bẩn quần. Hai bên chỗ gát tay cũng là 2 thanh ván dài, bên trên không có “mui trần” mà khách thoải mái chống chọi với nắng mưa. Bên dưới hai bên xe được treo một bên là chiếc đèn dầu loại đèn bão khỏi bị tắt trước gió để làm tín hiệu cả ngày đêm vì nơi đây ban ngày cũng giống buổi hoàng hôn chạng vạng bởi bụi mù sương. Và bên kia là treo lủng lẳng một chiếc chuông đồng như trong cổ tích hay xe kem đường phố Miền Nam để làm “còi” rung lên khi cần báo hiệu.
Người ngồi lên đó chỉ có ngồi “chồm hổm” kiểu “nước lụt” ở Miền Trung nếu không muốn bẩn quần. Hai bên chỗ gát tay cũng là 2 thanh ván dài, bên trên không có “mui trần” mà khách thoải mái chống chọi với nắng mưa. Bên dưới hai bên xe được treo một bên là chiếc đèn dầu loại đèn bão khỏi bị tắt trước gió để làm tín hiệu cả ngày đêm vì nơi đây ban ngày cũng giống buổi hoàng hôn chạng vạng bởi bụi mù sương. Và bên kia là treo lủng lẳng một chiếc chuông đồng như trong cổ tích hay xe kem đường phố Miền Nam để làm “còi” rung lên khi cần báo hiệu.
Chú “tài xế” cũng là một thanh niên nhưng vẻ mặt không có gì là tuấn tú.
Đầu đội chiếc mũ cối te tua vành lòi cốt mùn cưa ra với bộ áo quần nhàu
nát màu “cứt ngựa” 8 nắng 5 sương, chân mang đôi “quốc hài” được lấy
mẫu từ hang “Pắc Pó”. Tuy nhiên giọng nói thì ngọt và có vẻ kính cẩn và
hiếu khách không kém phần lễ độ. Sau khi ngã giá cả đi lẫn về là 5$ thời
xu hào còn giá trị và lên ngôi.
Xe qua đoạn Hồ Gươm. Tôi vạch lớp bụi mù nhìn chút lăn tăn sóng gợn, vài
chiếc lá “khẻ đưa vèo” bỗng có tiếng còi “tu huýt” công an sát vang lên
và tiếng than của chú xích lô trẻ “thôi chết em rồi” chiếc đèn em mới
bị vỡ bóng khi trưa mà chưa có tiền mua bóng mới để lắp vào. Sau mấy lời
hoạnh họe và năn nỉ của cả 2 bên, cuối cùng là câu “nếu không chịu nộp
phạt thì đem xe về đồn!”. Cảnh này có khác nào cảnh “người ngựa-Ngựa
người” của Nguyễn công Hoan ngày trước, trong khi chú xích lô nói “từ
trưa giờ con không có hột cơm nào trong bụng chứ đừng nói chi tiền” và
gương mặt sắt lạnh của tên công an vẫn không hề thay đổi.
Không muốn lỡ chuyến ruổi dong trên phố và cũng cảm thương cho kẻ khốn
cùng, tôi xuống xe và làm việc nghĩa. Tiền phạt 1$ tôi xin chịu và cho
thêm 5 hào bảo chú xích lô chạy đi mua bóng đèn chứ không thì còn mang
họa tiếp mặc dù tôi không phải kẻ phong lưu, hào phóng.
Cuối cuộc ngao du trên đường về trong tôi thấy bao tử cồn cào và hình
như chú em xích lô cũng gần mệt lả vì đói được thể hiện qua từng cai đạp
mệt mỏi và yếu dần của bàn chân cho xe chạy. Tôi ngỏ ý ghé vào một hiệu
ăn nào đó và tôi mời cả em cùng ăn. Thế là 2 tô mì hoành thánh, xỉu
cảo... ở phố Hàng Đào nghi nút khói thơm ngậy được bày ra.
Sau một hồi sì sụp, hình như từ trước giờ em chưa từng có dịp được ăn như thế nó thể hiện qua nét mặt của em và hình ảnh chưa từng thấy cảnh này (sự đối xử tình người của khách Miền Nam đối dân lao động Miền Bắc) trong cặp mắt của người chủ quán ném tia nhìn về phía chú em tội nghiệp. Sau khi thanh toán tiền ăn và quay về khách sạn là chiếc thùng xe tải đã nhập kho hết hàng “Mỹ Ngụy” nên trở thành chỗ nằm lý tưởng của tôi và anh chủ xe.
Sau một hồi sì sụp, hình như từ trước giờ em chưa từng có dịp được ăn như thế nó thể hiện qua nét mặt của em và hình ảnh chưa từng thấy cảnh này (sự đối xử tình người của khách Miền Nam đối dân lao động Miền Bắc) trong cặp mắt của người chủ quán ném tia nhìn về phía chú em tội nghiệp. Sau khi thanh toán tiền ăn và quay về khách sạn là chiếc thùng xe tải đã nhập kho hết hàng “Mỹ Ngụy” nên trở thành chỗ nằm lý tưởng của tôi và anh chủ xe.
Đến lượt thanh toán tiền xe xích lô-đây là đoạn tôi muốn nói nhất. Tôi
thanh toán cho chú em 5$ như thỏa thuận và không quên nhắc là “anh giúp
cho em tiền công an phạt lẫn tiền mua bóng đèn xe” còn ăn thì tôi mời
nên không nói đến. Nhưng tôi không nhận được một nụ cười thân thiện và
kèm theo lời cảm ơn như tôi đã nghĩ mà tôi không tin vào tai, mắt mình
khi nghe câu nói vô cùng văn hóa cùng vẻ mặt biến dạng thành “dao búa”
từ phía chú em phóng ra rằng:
- Ủa! Đị.. mẹ ông không trả thêm tiền tôi chờ ông à?!
Tôi bàng hoàng mà rằng:
- Có chờ gì đâu em?
-Cái đ.. chờ ông ăn mì í!
- Úi trời... trời... tui mời em cùng ăn mà!
- Việc đó là việc của ông tui đ.. biết! nếu ông không trả thêm 2$ tiền
chờ thì cục đá này (có sẵn phía sau xe của hắn) sẽ tương vào kính chiếc
xe tải này!
Như sét đánh ngang tai và không biết nơi này là đâu? Thiên đường hay địa ngục? tôi đang tiếp xúc với người hay loài ngạ quỉ?
Thôi! đối với ma quỉ thì “kính nhi viễn chi” tôi vội móc ví trả thêm mấy
đồng tiền “học” cho lành và leo lên thùng xe lăn ra ngủ một giấc ngủ
chìm sâu và đầy ác mộng, mong trời mau sáng để ngày mai trở về với “Mẹ
Miền Nam” Thân yêu.
Chuyện chú taxi của Lọ Lem hôm nay có bằng một phần của chú xích lô ngày
ấy của tôi cũng cùng ở một nơi mà tự hào là “ngàn năm văn vật” này
không? Tuy thời gian có cách xa. Trên đây là chuyện có thật của người
viết mà không hề thêm bớt một chữ nào.
Một chút tản mạn sau khi đọc STT của Lọ Lem Đất Võ Minh Đan trên Facebook.
Ngày 8.11.2014
KÍNH HÒA * LÊ HỒNG THỌ
Bi Kịch Cộng sản - Bi kịch Hồng Lê Thọ
Bản án tử hình dành cho Hồ Duy Hải được hoãn lại.
Dòng tin này được hàng triệu người Việt nam vui mừng đón nhận vào ngày 4/12/2014. Trước đó nhà báo Huy Đức viết trên trang FB của mình một bài mang tựa đề Cần phải cứu một nền tư pháp, sau gần một tuần lễ công luận đưa vụ án có nhiều nghi vấn này ra bàn luận. Một vụ án mà tang vật được công khai mua từ chợ về để minh họa, dấu vân tay cũng không phải của người bị kêu án.
Minh bạch và Tham nhũng
Mọi tình tiết của vụ án đều mờ mờ ảo ảo trong sự không minh bạch, và hơn nữa của một nền tư pháp lệ thuộc vào đảng cầm quyền.
Nhà báo Huy Đức viết rằng trong hoàn cảnh chưa thể có tư pháp độc lập trong chế độ một đảng cầm quyền, thì ít nhất các quan tòa cũng nên là những người ngồi nghe các bên biện luận, thay vì làm chuyện kết án cùng với bên công tố, và hơn nữa lại lo ngại vụ án bị xử lại, mất hết những thành tích của họ.
Theo cách này, ngành tòa án sẽ có những con số đẹp (án ít bị cải, sửa hơn) nhưng mức oan sai thật - thì nếu không có áp lực kêu oan của gia đình (như trường hợp Hồ Duy Hải); thủ phạm thật không ra đầu thú (như trường hợp Nguyễn Thanh Chấn)... - chiếm tỉ lệ cỡ nào là không ai biết được.
Đó là điều mà người ta hay gọi là bệnh thành tích, mà bệnh thành tích mà hoành hành cả trong lĩnh vực tư pháp liên quan đến mạng sống của con người thì quả là tác hại sẽ không lường được.
Nếu tin vụ án Hồ Duy Hải được hoãn thi hành được công luận chào đón với không ít hy vọng, thì tin về tình trạng tham nhũng toàn cầu lại làm người Việt nam thất vọng. Tổ chức Minh bạch quốc tế tiếp tục xếp Việt nam vào hàng kém cỏi nhất thế giới dựa trên chỉ số nhận thức về tham nhũng. Nói nôm na là Việt nam là quốc gia có tham nhũng hàng đầu thế giới.
Blogger Hiệu Minh nhìn sang lân bang Singapore, nơi được nhiều người Việt nam xem là cũng có một chế độ độc tài, để nói rằng bên xứ ấy có một nền chính trị trong sạch bậc nhất châu Á.
Sự “độc tài” của Singapore thực ra bị nhiều người lầm tưởng vì tính nghiêm khắc của pháp luật ở đảo quốc này. Sinh hoạt chính trị ở đây vẫn có sự cạnh tranh, và ngành tư pháp là độc lập.
Mà không phải chỉ có blogger Hiệu Minh mới nhìn sang Singapore, Chủ tịch Trương Tấn Sang cũng cảm thán rằng tại sao đảo quốc ấy bé nhỏ như thế mà sạch sẽ như thế, sạch từ thiên nhiên tới con người! Báo chí chính thống và nhiều trang blog đều trích lại lời ông.
Còn Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy viết bài Vì sao tham nhũng?
Việc đồng nhất chính quyền và đảng với nhà nước (thực ra là với sở hữu) đã làm cho nhà nước cộng sản trở thành, có thể nói, nhà nước tự-tham-nhũng, nhất định kèm theo đặc quyền đặc lợi và những kẻ ăn bám.Trong bài viết này tác giả lại đi tìm hiểu nguyên nhân của tham nhũng, tự hỏi phải chăng nó bắt nguồn từ những khiếm khuyết bất trị của dân tộc hay không! Và trên hành trình đó, bà tìm thấy Milovan Djilas, nhân vật từng đứng hàng thứ hai của đảng cộng sản Nam tư. Đây là đoạn trích nói về chính quyền cộng sản của Djilas:
Thói bon chen, xa hoa, hám quyền là không tránh được.[...] Đây là loại tham nhũng đặc biệt: khi quyền lực nằm dưới quyền kiểm soát của một đảng, mà đảng ấy lại là nguồn gốc của tất cả đặc quyền đặc lợi, thì việc “quan tâm đến các chiến hữu”, việc bổ nhiệm họ vào những chức vụ có lợi, việc phân phối phúc lợi các kiểu giữa các đảng viên với nhau phải trở thành việc đương nhiên. Việc đồng nhất chính quyền và đảng với nhà nước (thực ra là với sở hữu) đã làm cho nhà nước cộng sản trở thành, có thể nói, nhà nước tự-tham-nhũng, nhất định kèm theo đặc quyền đặc lợi và những kẻ ăn bám.
Và câu trích bên trên dường như đã trả lời câu hỏi mà Tiến sĩ Nguyễn Thị từ Huy đặt ra trong đầu đề Vì sao tham nhũng? Nguyên nhân đó là thể chế chứ không phải là từ tính cách của dân tộc.
Những người cộng sản cầm quyền ở Việt nam vẫn liên tục nói đến chuyện chống tham nhũng, và trong mấy năm vừa qua dường như người đứng đầu đảng là ông Nguyễn Phú Trọng đã có nhiều cố gắng trong cuộc đấu trang giành sự trong sạch cho đảng của ông. Song blogger Hiệu Minh nhận xét rằng:
Xem bảng xếp hạng tham nhũng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế thì hiểu tại sao chương trình nhóm lò của TBT Trọng vẫn đang nghi ngút khói vì củi ẩm. Độc tài như Singapore nhưng tham nhũng thấp thì cũng chấp nhận, nhưng độc tài mà để tham nhũng cao chót vót thì không có gì để biện minh.
Chủ tịch Trương Tấn Sang, như đã nói, cũng cảm thán về sự trong sạch của nước Singapore, nơi lý thuyết cộng sản bị cấm đoán một cách nghiêm ngặt nhất thế giới. Không rõ ông đã từng đọc Djilas, người đồng chí một thời ở Quốc tế cộng sản của ông hay chưa?
Bi kịch và Quyền lực
Cuộc đời Djilas là một bi kịch, từ một người cộng sản trẻ tuổi đầy lý tưởng, lên đến đỉnh cao quyền lực của đảng, ông lại từ bỏ tất cả vinh hoa phú quí đáng ra dành cho những người thuộc “Giai cấp mới” như ông, để trở thành người lên án và phê bình chủ nghĩa cộng sản.
Trong những ngày cuối tháng 11, người ta lại chứng kiến một bi kịch của một người từng ủng hộ hết mình chủ nghĩa cộng sản Việt nam, đó là giáo sư Hồng Lê Thọ, một trí thức Việt kiều hồi hương từ Nhật bản. Ông đã từng tham gia phản chiến chống sự can thiệp của người Mỹ tại miền Nam Việt nam.
Hồi năm 2006, ông Thọ viết trên báo Sài gòn Giải phóng của đảng cộng sản về cuộc đấu tranh phản chiến của ông tại Nhật bản trong một chiến dịch 50 ngày đêm ngăn cản không cho xe tăng Mỹ được vận chuyển sang chiến trường Việt nam.
Ông Hồng Lê Thọ bị bắt vào cuối tháng 11 với lời buộc tội rằng ông làm mất niềm tin của nhân dân vào nhà nước của đảng cộng sản, đảng phái chính trị mà ông hăng hái ủng hộ vào tuổi thanh niên sôi nổi của mình.
Vụ bắt bớ này lại không được báo chí chính thống Việt nam đưa tin mà chỉ có cổng thông tin điện tử của Bộ công an mà thôi. Vì thế trong không khí minh bạch 31 điểm do tổ chức Minh bạch quốc tế đánh giá, nhiều lời đồn đoán được đưa ra: nào là ông Thọ bị bắt vì xưa kia ông chống Mỹ cứu đảng, nay ông chống đảng cứu nước, nào là các phe phái chống nhau ông Thọ đột nhiên thành nạn nhân,… Blogger Kami thì cho rằng:
Bởi hơn ba mươi năm sống trượt dài trên đà tiến bộ loài người, cái mà người Việt Nam đang gánh chịu bây giờ là một xã hội vô hướng, vô hồn, tin vào cái ác cũng như tin vào những giá trị huyễn hoặc.Việc bắt GS. Hồng Lê Thọ là một toan tính chiến thuật hoàn toàn mang ý nghĩa chính trị, nhằm chuyển đi một thông điệp khẳng định rằng, mọi ý nghĩ cho rằng sẽ có các cải cách mạnh mẽ của phái cấp tiến, kể cả cải cách thể chế như thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là điều "viển vông.
- Blogger Viết từ Sài gòn
Nhà nghiên cứu biển Đông Đinh Kim Phúc, một người bạn thân thiết của Giáo sưu Thọ thì nghĩ rằng vụ bắt bớ là lời cảnh báo rằng sự phản biện xã hội và chính trị của các trí thức trong nước đã làm phật lòng những người cộng sản có quyền lực.
Một tác giả người Anh là Bá tước John Dalberg-Acton nói rằng Quyền lực dẫn đến nhũng lạm, và quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến nhũng lạm tuyệt đối.
Blogger Viết từ Sài gòn so sánh thứ quyền lực tuyệt đối của đảng cộng sản Việt nam hiện nay như là khái niệm Số Má của giới giang hồ. Trong lúc giới giang hồ sử dụng đẳng cấp sát máu gọi là Số Má của mình thì các đảng viên cộng sản lại dùng thẻ đảng của mình để trục lợi trong những thương vụ làm ăn.
Có những vụ tham nhũng lớn mà các đảng viên dùng thẻ đảng để vay tiền trong ngân hàng rồi chiếm đoạt. Blogger Viết từ Sài gòn đặt ra vấn đề tại sao xã hội hiện nay lại đổ đốn ra như thế:
Vì cơ chế đảng trị đã cho các đảng viên quá nhiều thứ, họ như một ông vua, bà chúa trên xứ sở của họ. Lòng tham và sự thoả hiệp của đa phần người dân đã đẩy bản thân đa số này đến chỗ mù quáng, toa rập với cái ác, xem cái ác là một cơ hội cho bản thân. Và cái giá phải trả đã hiện ra trước mắt.
Nhưng câu chuyện không phải dừng ở đây, nó cho thấy đất nước đang thật sự lâm nguy bởi lòng người tan rã, niềm tin bị đánh tráo, giá trị phẩm hạnh bị băng hoại đến tận gốc. Bởi hơn ba mươi năm sống trượt dài trên đà tiến bộ loài người, cái mà người Việt Nam đang gánh chịu bây giờ là một xã hội vô hướng, vô hồn, tin vào cái ác cũng như tin vào những giá trị huyễn hoặc.
Trở lại vụ bắt giam Giáo sư Thọ, Giáo sư này cũng là một blogger và trước khi bị bắt trang blog Người lót gạch của ông đã đăng một bài mang tên “Vừa hợp tác vừa đấu tranh và … Vương Thúy Kiều.” Bài này của tác giả Hạ Đình Nguyên, một lãnh tụ sinh viên tranh đấu trước 1975, và nay lại thường xuyên có những ý kiến đối kháng với đường lối cai trị của đảng cộng sản. Trong bài viết này tác giả so sánh nước Việt nam với nhân vật Vương Thúy Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, một thân phận yếu ớt nhỏ bé phải tìm sinh lộ bên cạnh kẻ xấu tàn ác và hung tợn. Điều mà nhiều người bàn tán về bài viết này là hình như nó châm chọc câu nói của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước đó về quan hệ Việt nam Trung quốc rằng vừa Hợp tác vừa đấu tranh.
Nhưng ngay trong lời dẫn của bài viết, Hạ Đình Nguyên viết rằng ông
không có ý đó. Nhiều người theo dõi bài viết này như nhà nghiên cứu Đinh
Kim Phúc cũng nhận xét rằng bài viết không chỉ trích gì cá nhân ông Thủ
tướng cả, mà là tâm sự của một kẻ sĩ ưu thời mẫn thế, quan tâm đến an
nguy của quốc gia, và sự tồn vong của dân tộc.
Mối ưu tư ấy của Hạ Đình Nguyên dẫn đến một nỗi bi quan khi tác giả
so sánh nhận xét của Thủ tướng Dũng về mối quan hệ Việt Trung với chủ
trương “chống tham nhũng” của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng rằng “ném
chuột sợ bị vỡ bình.” Tức là rồi cũng chẳng phá vỡ được bế tắc nào, nước
Việt nam và Trung quốc vẫn là hai quốc gia cộng sản cùng ý thức hệ, các
quan chức tham nhũng là chuột cần phải diệt, nhưng cũng lại là cái bình
quý mà đảng không thể làm vỡ đi.
Để kết thúc bài điểm blog này, xin mượn lời blogger Tiến sĩ Nguyễn
Thị Từ Huy khi bà tìm thấy căn nguyên tên gọi là cộng sản của căn bệnh
tham nhũng hôm nay,
Và điều đó có nghĩa là chế độ này trường tồn thì dân tộc sẽ tiêu vong.
Sunday, December 7, 2014
LÊ DIỄN ĐƯC * CHỐNG CỘNG SẢN
Những người luyến tiếc Chế độ VNCH vì họ có cái đầu tỉnh táo.
Lê Diễn Đức
Tôi không hứng thú lắm khi viết về ngày 30/4 vì đã nhiều năm nay, năm nào cũng viết, nhưng những bài viết thường chỉ mang đến cho tôi những nỗi buồn hơn là những ký ức khó quên.
Cái buổi hôm ấy, lúc mọi người trong nhà tù Hoả Lò khấp khởi vui mừng "chiến thắng" khi được giám thị thông báo, thì tôi đau xót, im lặng và hụt hẫng. Tôi vẫn hy vọng sau khi ra tù, sẽ tìm cách trốn vào Nam để sống. Với cái lý lịch ở tù, sự tồn tại vươn lên của tôi trong chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) chắc chắn sẽ vô cùng nan giải.
Tôi đã từng kín đáo hỏi thăm, tìm hiểu cách "chạy" vào Nam từ một người bạn tù. Khó khăn nhất là đoạn từ sông Bến Hải vào đến sông Hàn, Đà nẵng. Còn qua được sông Hàn thì mọi việc êm xuôi. Lúc này tôi vẫn hy vọng bộ đội miền Bắc không tiến được vào sâu hơn nữa. Tôi không nghĩ đến một cái "chiến thắng" nhanh chóng như vậy!
Thật chua xót. Tôi từng là anh chàng học sinh, biết được đi nước ngoài du học nhưng vẫn rủ đám bạn bè trong lớp lấy máu viết thư xin đi bộ đội. Ra chiến trường, dù có chết, với chúng tôi thật vô cùng ý nghĩa. Tôi đã tận mắt trông thấy và tham gia cứu thương trong những trận dội bom của máy bay Mỹ xuống làng mạc miền Bắc làm chết nhiều người. Chỉ với lòng căm thù đế quốc Mỹ. Sôi sục ý chí trả nợ nước thù nhà.
Nhưng rồi dần dà tôi đã hiểu. Đây là chiến tranh. Một cuộc chiến tranh khốc liệt, tắm máu, huynh đệ tương tàn, cho việc nhuộm đỏ toàn đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), một cuộc chiến ý thức hệ, rõ ràng và nhất quán. Mỹ và miền Nam đã phải nỗ lực ngăn chặn và bảo vệ tự do.
Năm 1954, Việt Nam chia hai. Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) là một quốc gia độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, là quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc. Miền Nam sẽ thanh bình, phát triển và đi lên nếu như miền Bắc không gây chiến và phá rối. Người ta có thể thống nhất đất nước bằng nhiều cách, không cần đổ máu, không cần đến "bạo lực cách mạng", mà nước Đức là một ví dụ.
Nhưng để đánh chiếm miền Nam, miền Bắc có thể "đốt cả dãy Trường Sơn", dồn cả dân tộc vào máu lửa, quyết tâm trở thành "tiền đồn" của cả phe XHCN.
Hồ Chí Minh từng nói: “Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, nhân dân Việt Nam luôn hướng về Liên Xô, đất nước của Lênin vĩ đại, và coi Liên Xô là Tổ quốc Cách Mạng, Tổ quốc thứ hai của mình”- (1959, HCM toàn tập, tập 11, trang 166).
Còn Lê Duẩn, trả lời phỏng vấn BBC Việt Ngữ, Nguyễn Mạnh Cầm, cựu Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam đã nói: "Chính sách này dựa trên nền tảng "một lý do quan trọng mà cố Tổng bí thư Lê Duẩn có lần đã giải thích một cách đơn giản: Ta đánh là đánh cả cho Trung Quốc, cho Liên Xô!".
Vâng, hầu như tất cả mọi phương tiện cho cuộc chiến, sản xuất, cũng như mọi nhu yếu phẩm cho đời sống, từ hạt gạo đến cây kim, sợi chỉ, đều do Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống cộng sản đổ tiền vào cung cấp. Nhưng vì "tất cả cho chiến trường", dân miền Bắc đã phải cam chịu cuộc sống đói nghèo, thiếu thốn, dồn hết tinh thần và vật chất cho công cuộc "giải phóng miền Nam".
Và miền Bắc đã "giải phóng" miền Nam. Ngày 30/4/1975.
Trong bài "Phản nhân văn", nói về cuốn sách "Bên Thắng Cuộc" của nhà báo Huy Đức, tờ Công an Nhân dân (CAND) viết:
"Đáng kinh ngạc nhất là Huy Đức “nhai lại” ý kiến sai trái, xạo xược của Dương Thu Hương. Trước khi sang châu Âu sống lưu vong, bà ta phun ra hàng loạt phát ngôn điên loạn, trong mớ hổ lốn, hồ đồ đó, có đoạn nói rằng, ngày mới đặt chân đến Sài Gòn, bà ta đã choáng ngợp trước cuộc sống tiện nghi ở miền Nam, khác rất xa với cuộc sống khó khăn ở miền Bắc: “Tôi đã ngồi phệt xuống vỉa hè Sài Gòn khóc, tôi biết miền Nam đã giải phóng miền Bắc chứ không phải ngược lại...”.
Giờ đây, Huy Đức lại bắt câu đó với hàm ý khen miền Nam nhiều hàng hóa và đời sống sung túc hơn miền Bắc, tự do dân chủ hơn miền Bắc nên đã “giải phóng” ngược lại miền Bắc! Về đoạn này, trên mạng có bài viết ký tên “nhà văn Đông La” phân tích: “Cái nền văn minh mà Huy Đức thấy qua “mấy chiếc xe đạp bóng lộn”, “cặp nhẫn vàng chóe”, “những chiếc máy Akai, radio cassette” rồi “rạp chiếu bóng, nhạc viện và sân khấu ca nhạc”... đều có từ “925 tỷ USD” mà Mỹ đã chi cho cuộc chiến ở Việt Nam kèm theo 58.000 nhân mạng nữa để rồi mất trắng trở về...”.
Không chỉ nhà văn Dương Thu Hương khóc mà sau ngày "giải phóng", nhiều người khác đã vỡ mộng! Phải có tấm lòng thật nhân văn mới hiểu rằng, tiếng khóc của Dương Thu Hương là thành thật và là sự cảnh báo. Những thứ mà họ "giải phóng" và huỷ hoại thì chính họ chứ không ai khác lại đã quay lại một thập niên sau đó.
925 tỷ USD đã Mỹ chi cho cuộc chiến ở Việt Nam. Vâng, nhưng thử hỏi bao nhiêu tỷ USD mà Liên Xô, Trung Quốc và phe XHCN đã rót cho miền Bắc kèm theo hàng triệu nhân mạng cũng ra đi không trở về?
Người miền Nam không chỉ có "những chiếc xe đạp bóng lộn", "cặp nhẫn vàng choé"... Việt Nam Cộng hoà (VNCH), trong 20 năm, tuy chưa có một nền dân chủ hoàn toàn, phải đối mặt với tình trạng chiến tranh, nhưng đã có một nền kinh tế đa dạng, một xã hội văn minh, một nền giáo dục kỷ cương đáng tự hào, một tập quán sinh hoạt công cộng lịch lãm và tiến bộ. Những người gắn bó với VNCH có lý do chính đáng để tiếc nuối. Những thứ này sau 1975 đã dần dần bị băng hoại.
Còn “mấy chiếc xe đạp bóng lộn”, “cặp nhẫn vàng chóe”, “những chiếc máy Akai, radio cassette”, tất tật mọi thứ của miền Nam sau ngày 30/04/1975, muốn hay không muốn, chúng vẫn trùng trùng nối nhau ra Bắc. Tôi vẫn nhớ cuối năm 1975, hình ảnh ở khu tập thể quân đội số 3B đường Ông Ích Khiêm, Hà Nội. Cứ tối đến, hàng xóm quây quần, xúm xít ngồi xem phim qua chiếc Motorola của gia đình mang từ trong Nam ra. Máy truyền hình ở miền Bắc lúc đó là cả nột tài sản lớn.
Bài báo CAND viết tiếp:
"Cũng cần phải nhắc lại rằng: từ số tiền khổng lồ đó, Mỹ đã đổi ra 7,5 triệu lít chất độc da cam/dioxin; 7,85 triệu tấn bom đạn để rải xuống Việt Nam, giết chết khoảng 4 triệu người, gây thương tật cho hàng triệu người khác, nhất là những đứa trẻ nạn nhân của chất độc da cam/dioxin; tàn phá hàng ngàn thành phố, thị xã, làng mạc, trường học, bệnh viện, cơ sở tôn giáo...
Thế nhưng Huy Đức, Dương Thu Hương và một vài “nhà dân chủ” mới được “bơm”, cố tình không hiểu điều đó, họ tôn thờ tiện nghi vật chất hơn phẩm giá và lòng tự trọng của một dân tộc, sùng bái “bơ”, “sữa”... hơn xương máu của những người con dân đất Việt đã ngã xuống để có độc lập, tự do hôm nay!".
Tôi không nghĩ rằng, "số tiền khổng lồ đó, Mỹ đổi ra 7,85 triệu tấn bom đạn, để giết chết khoảng 4 triệu người và thương tật cho hàng triệu người khác". Cái chết của khoảng 4 triệu người và thương tật của hàng triệu người khác có sự can dự của cả hàng triệu tấn đạn dược của Liên Xô, Trung Quốc. Cuộc tổng tấn công của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân 1968, những cuộc pháo kích, đánh mìn, nổ bom vào các chợ, trường học, rạp hát... Cuối cùng, đây là con số của cả cuộc chiến. Chiến tranh, bên nào cũng đều phải sử dụng đến súng đạn.
Còn "7,5 triệu lít chất độc da cam/dioxin" diệt cỏ, phát quang của Mỹ không nhắm vào dân thường mà nhắm vào nơi ẩn trú của Việt Cộng. Có thể nó để lại di hại cho môi trường nhưng không quá bị thổi phồng như bộ máy tuyên truyền của cộng sản. Tôi đã vào sống trong Nam và đi nhiều nơi, ở đâu cũng thấy màu xanh cây lá. Những đám rừng bị chất độc da cam xa lắc lơ đâu đó tôi không có cơ hội nhìn thấy. Còn nạn phá rừng giờ đây khủng khiếp hơn nhiều. Bọn cơ hội bắt tay với các quan chức cộng sản phá rừng, lấy gỗ làm giàu, mà Trầm Bê hay Cường Đô La là những ví dụ. Thực phẩm độc hại mà dân Việt dùng hôm nay, chủ yếu từ Trung Quốc, công khai huỷ diệt nòi giống Việt, làm cho bệnh ung thư của Việt Nam ở vị trí cao nhất thế giới và mỗi năm chết khoảng 75 ngàn người, man rợ và bi thảm hơn nhiều. Người ta cứ thích nhớ mãi cái đã qua đi gần 40 năm mà cho phép mình "quên" hiện tại trước mặt!
Sùng bái "bơ", "sữa" không ai hơn những quan chức cộng sản, những "đại gia" đỏ phè phỡn với ô tô siêu sang trọng, nhà lầu, người hầu kẻ hạ, con cái đi du học nước ngoài. XHCN không thấy đâu, nhưng tư bản chủ nghĩa ngấm sâu vào từng sinh hoạt nhỏ nhất của giới chức có quyền, của những ông "vua tập thể" trong triều đại phong kiến-cộng sản quái thai này.
Tôi quen thân với ông Nguyễn Lương Thuật, một cựu sĩ quan hải quân VNCH, cư ngụ ở Seattle, tiểu bang Washington. Chiều 29/4/1975 ông chỉ huy một chiến hạm và đã tiếp nhận hàng trăm người leo lên tàu di tản khỏi Sài Gòn., Ông đã đứng ngẩn ngơ nhìn con tàu xa dần bến bờ quê hương và thầm nghĩ, thôi, dù sao cũng đã chấm dứt một cuộc chiến, những người cộng sản đã thắng, đất nước thống nhất, mong rằng họ sẽ đưa đất nước phát triển, bình yên và dân chúng được hạnh phúc. Ông đã chết năm 2007 vì ung thư và mang theo giấc mơ vô cùng vị tha của mình xuống mồ.
Máu xương của những người con đất Việt đã ngã xuống, nước nhà thống nhất, độc lập, nhưng hoàn toàn không có tự do. Người Việt phải bỏ nước ra đi, tha phương cầu thực, sự chia rẽ vẫn nhức nhối. Đất nước nằm trong tay một tập đoàn bao gồm các băng nhóm trục lợi. Quyền tự do của công dân bị bóp nghẹt và đàn áp. Không có bầu cử tự do, không có báo chí tự do, cả một hệ thống chính trị là một nhà tù vĩ đại giam cầm, khống chế dân tộc.
Những người đã từng dấn thân, bị tù đày cho chính thể hôm nay đã phải thất vọng. Có lẽ câu nói của ông Huỳnh Nhật Tấn, cựu Phó giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng, mang tính đại diện nhất: "Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay".
Cầm quyền 38 năm, và còn tiếp tục 39, rồi 40 năm và có thể sẽ lâu hơn, ĐCSVN đã chứng tỏ là một tập đoàn phản động, phản bội, chạy theo đồng tiền bất chấp lợi ích và chủ quyền lãnh thổ của đất nước. Nhân dân, những người đã bỏ xương máu để có nhà nước hôm nay, trở thành kẻ nô lệ, bị lừa gạt và sống trong sợ hãi của sự đàn áp, bị u mê bởi những trò mị dân "mua thần bán thánh", hoặc bị lên đồng điên khùng bằng những chất kích hoạt khác. Đất nước là tổng thể của một bức tranh ô hợp, lạc loạn, kẻ có địa vị giàu có cứ tiếp tục giàu có thêm, kẻ bần cùng vật lộn với miếng ăn hàng ngày, phó mặc sự đời, kỷ cương phép nước và các giá trị đạo đức của xã hội đảo lộn.
38 năm "giải phóng" thực sự trở thành 38 năm kinh hoàng của thời kỳ phong kiến-tư bản man sơ, hoang dã với mỹ từ "kinh tế thị trường định hướng XHCN". Vâng, chỉ mới "định hướng" thôi, còn tiến về đâu không biết. 38 năm đi hoài, đi loanh quanh, đi mãi về một nơi mà chẳng bao giờ biết nó là cái gì cả, có tồn tại hay không.
© 2013 Lê Diễn Đức - RFA Blog
Lê Diễn Đức
Tôi không hứng thú lắm khi viết về ngày 30/4 vì đã nhiều năm nay, năm nào cũng viết, nhưng những bài viết thường chỉ mang đến cho tôi những nỗi buồn hơn là những ký ức khó quên.
Cái buổi hôm ấy, lúc mọi người trong nhà tù Hoả Lò khấp khởi vui mừng "chiến thắng" khi được giám thị thông báo, thì tôi đau xót, im lặng và hụt hẫng. Tôi vẫn hy vọng sau khi ra tù, sẽ tìm cách trốn vào Nam để sống. Với cái lý lịch ở tù, sự tồn tại vươn lên của tôi trong chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) chắc chắn sẽ vô cùng nan giải.
Tôi đã từng kín đáo hỏi thăm, tìm hiểu cách "chạy" vào Nam từ một người bạn tù. Khó khăn nhất là đoạn từ sông Bến Hải vào đến sông Hàn, Đà nẵng. Còn qua được sông Hàn thì mọi việc êm xuôi. Lúc này tôi vẫn hy vọng bộ đội miền Bắc không tiến được vào sâu hơn nữa. Tôi không nghĩ đến một cái "chiến thắng" nhanh chóng như vậy!
Thật chua xót. Tôi từng là anh chàng học sinh, biết được đi nước ngoài du học nhưng vẫn rủ đám bạn bè trong lớp lấy máu viết thư xin đi bộ đội. Ra chiến trường, dù có chết, với chúng tôi thật vô cùng ý nghĩa. Tôi đã tận mắt trông thấy và tham gia cứu thương trong những trận dội bom của máy bay Mỹ xuống làng mạc miền Bắc làm chết nhiều người. Chỉ với lòng căm thù đế quốc Mỹ. Sôi sục ý chí trả nợ nước thù nhà.
Nhưng rồi dần dà tôi đã hiểu. Đây là chiến tranh. Một cuộc chiến tranh khốc liệt, tắm máu, huynh đệ tương tàn, cho việc nhuộm đỏ toàn đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), một cuộc chiến ý thức hệ, rõ ràng và nhất quán. Mỹ và miền Nam đã phải nỗ lực ngăn chặn và bảo vệ tự do.
Năm 1954, Việt Nam chia hai. Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) là một quốc gia độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, là quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc. Miền Nam sẽ thanh bình, phát triển và đi lên nếu như miền Bắc không gây chiến và phá rối. Người ta có thể thống nhất đất nước bằng nhiều cách, không cần đổ máu, không cần đến "bạo lực cách mạng", mà nước Đức là một ví dụ.
Nhưng để đánh chiếm miền Nam, miền Bắc có thể "đốt cả dãy Trường Sơn", dồn cả dân tộc vào máu lửa, quyết tâm trở thành "tiền đồn" của cả phe XHCN.
Hồ Chí Minh từng nói: “Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, nhân dân Việt Nam luôn hướng về Liên Xô, đất nước của Lênin vĩ đại, và coi Liên Xô là Tổ quốc Cách Mạng, Tổ quốc thứ hai của mình”- (1959, HCM toàn tập, tập 11, trang 166).
Còn Lê Duẩn, trả lời phỏng vấn BBC Việt Ngữ, Nguyễn Mạnh Cầm, cựu Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam đã nói: "Chính sách này dựa trên nền tảng "một lý do quan trọng mà cố Tổng bí thư Lê Duẩn có lần đã giải thích một cách đơn giản: Ta đánh là đánh cả cho Trung Quốc, cho Liên Xô!".
Vâng, hầu như tất cả mọi phương tiện cho cuộc chiến, sản xuất, cũng như mọi nhu yếu phẩm cho đời sống, từ hạt gạo đến cây kim, sợi chỉ, đều do Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống cộng sản đổ tiền vào cung cấp. Nhưng vì "tất cả cho chiến trường", dân miền Bắc đã phải cam chịu cuộc sống đói nghèo, thiếu thốn, dồn hết tinh thần và vật chất cho công cuộc "giải phóng miền Nam".
Và miền Bắc đã "giải phóng" miền Nam. Ngày 30/4/1975.
Trong bài "Phản nhân văn", nói về cuốn sách "Bên Thắng Cuộc" của nhà báo Huy Đức, tờ Công an Nhân dân (CAND) viết:
"Đáng kinh ngạc nhất là Huy Đức “nhai lại” ý kiến sai trái, xạo xược của Dương Thu Hương. Trước khi sang châu Âu sống lưu vong, bà ta phun ra hàng loạt phát ngôn điên loạn, trong mớ hổ lốn, hồ đồ đó, có đoạn nói rằng, ngày mới đặt chân đến Sài Gòn, bà ta đã choáng ngợp trước cuộc sống tiện nghi ở miền Nam, khác rất xa với cuộc sống khó khăn ở miền Bắc: “Tôi đã ngồi phệt xuống vỉa hè Sài Gòn khóc, tôi biết miền Nam đã giải phóng miền Bắc chứ không phải ngược lại...”.
Giờ đây, Huy Đức lại bắt câu đó với hàm ý khen miền Nam nhiều hàng hóa và đời sống sung túc hơn miền Bắc, tự do dân chủ hơn miền Bắc nên đã “giải phóng” ngược lại miền Bắc! Về đoạn này, trên mạng có bài viết ký tên “nhà văn Đông La” phân tích: “Cái nền văn minh mà Huy Đức thấy qua “mấy chiếc xe đạp bóng lộn”, “cặp nhẫn vàng chóe”, “những chiếc máy Akai, radio cassette” rồi “rạp chiếu bóng, nhạc viện và sân khấu ca nhạc”... đều có từ “925 tỷ USD” mà Mỹ đã chi cho cuộc chiến ở Việt Nam kèm theo 58.000 nhân mạng nữa để rồi mất trắng trở về...”.
Không chỉ nhà văn Dương Thu Hương khóc mà sau ngày "giải phóng", nhiều người khác đã vỡ mộng! Phải có tấm lòng thật nhân văn mới hiểu rằng, tiếng khóc của Dương Thu Hương là thành thật và là sự cảnh báo. Những thứ mà họ "giải phóng" và huỷ hoại thì chính họ chứ không ai khác lại đã quay lại một thập niên sau đó.
925 tỷ USD đã Mỹ chi cho cuộc chiến ở Việt Nam. Vâng, nhưng thử hỏi bao nhiêu tỷ USD mà Liên Xô, Trung Quốc và phe XHCN đã rót cho miền Bắc kèm theo hàng triệu nhân mạng cũng ra đi không trở về?
Người miền Nam không chỉ có "những chiếc xe đạp bóng lộn", "cặp nhẫn vàng choé"... Việt Nam Cộng hoà (VNCH), trong 20 năm, tuy chưa có một nền dân chủ hoàn toàn, phải đối mặt với tình trạng chiến tranh, nhưng đã có một nền kinh tế đa dạng, một xã hội văn minh, một nền giáo dục kỷ cương đáng tự hào, một tập quán sinh hoạt công cộng lịch lãm và tiến bộ. Những người gắn bó với VNCH có lý do chính đáng để tiếc nuối. Những thứ này sau 1975 đã dần dần bị băng hoại.
Còn “mấy chiếc xe đạp bóng lộn”, “cặp nhẫn vàng chóe”, “những chiếc máy Akai, radio cassette”, tất tật mọi thứ của miền Nam sau ngày 30/04/1975, muốn hay không muốn, chúng vẫn trùng trùng nối nhau ra Bắc. Tôi vẫn nhớ cuối năm 1975, hình ảnh ở khu tập thể quân đội số 3B đường Ông Ích Khiêm, Hà Nội. Cứ tối đến, hàng xóm quây quần, xúm xít ngồi xem phim qua chiếc Motorola của gia đình mang từ trong Nam ra. Máy truyền hình ở miền Bắc lúc đó là cả nột tài sản lớn.
Bài báo CAND viết tiếp:
"Cũng cần phải nhắc lại rằng: từ số tiền khổng lồ đó, Mỹ đã đổi ra 7,5 triệu lít chất độc da cam/dioxin; 7,85 triệu tấn bom đạn để rải xuống Việt Nam, giết chết khoảng 4 triệu người, gây thương tật cho hàng triệu người khác, nhất là những đứa trẻ nạn nhân của chất độc da cam/dioxin; tàn phá hàng ngàn thành phố, thị xã, làng mạc, trường học, bệnh viện, cơ sở tôn giáo...
Thế nhưng Huy Đức, Dương Thu Hương và một vài “nhà dân chủ” mới được “bơm”, cố tình không hiểu điều đó, họ tôn thờ tiện nghi vật chất hơn phẩm giá và lòng tự trọng của một dân tộc, sùng bái “bơ”, “sữa”... hơn xương máu của những người con dân đất Việt đã ngã xuống để có độc lập, tự do hôm nay!".
Tôi không nghĩ rằng, "số tiền khổng lồ đó, Mỹ đổi ra 7,85 triệu tấn bom đạn, để giết chết khoảng 4 triệu người và thương tật cho hàng triệu người khác". Cái chết của khoảng 4 triệu người và thương tật của hàng triệu người khác có sự can dự của cả hàng triệu tấn đạn dược của Liên Xô, Trung Quốc. Cuộc tổng tấn công của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân 1968, những cuộc pháo kích, đánh mìn, nổ bom vào các chợ, trường học, rạp hát... Cuối cùng, đây là con số của cả cuộc chiến. Chiến tranh, bên nào cũng đều phải sử dụng đến súng đạn.
Còn "7,5 triệu lít chất độc da cam/dioxin" diệt cỏ, phát quang của Mỹ không nhắm vào dân thường mà nhắm vào nơi ẩn trú của Việt Cộng. Có thể nó để lại di hại cho môi trường nhưng không quá bị thổi phồng như bộ máy tuyên truyền của cộng sản. Tôi đã vào sống trong Nam và đi nhiều nơi, ở đâu cũng thấy màu xanh cây lá. Những đám rừng bị chất độc da cam xa lắc lơ đâu đó tôi không có cơ hội nhìn thấy. Còn nạn phá rừng giờ đây khủng khiếp hơn nhiều. Bọn cơ hội bắt tay với các quan chức cộng sản phá rừng, lấy gỗ làm giàu, mà Trầm Bê hay Cường Đô La là những ví dụ. Thực phẩm độc hại mà dân Việt dùng hôm nay, chủ yếu từ Trung Quốc, công khai huỷ diệt nòi giống Việt, làm cho bệnh ung thư của Việt Nam ở vị trí cao nhất thế giới và mỗi năm chết khoảng 75 ngàn người, man rợ và bi thảm hơn nhiều. Người ta cứ thích nhớ mãi cái đã qua đi gần 40 năm mà cho phép mình "quên" hiện tại trước mặt!
Sùng bái "bơ", "sữa" không ai hơn những quan chức cộng sản, những "đại gia" đỏ phè phỡn với ô tô siêu sang trọng, nhà lầu, người hầu kẻ hạ, con cái đi du học nước ngoài. XHCN không thấy đâu, nhưng tư bản chủ nghĩa ngấm sâu vào từng sinh hoạt nhỏ nhất của giới chức có quyền, của những ông "vua tập thể" trong triều đại phong kiến-cộng sản quái thai này.
Tôi quen thân với ông Nguyễn Lương Thuật, một cựu sĩ quan hải quân VNCH, cư ngụ ở Seattle, tiểu bang Washington. Chiều 29/4/1975 ông chỉ huy một chiến hạm và đã tiếp nhận hàng trăm người leo lên tàu di tản khỏi Sài Gòn., Ông đã đứng ngẩn ngơ nhìn con tàu xa dần bến bờ quê hương và thầm nghĩ, thôi, dù sao cũng đã chấm dứt một cuộc chiến, những người cộng sản đã thắng, đất nước thống nhất, mong rằng họ sẽ đưa đất nước phát triển, bình yên và dân chúng được hạnh phúc. Ông đã chết năm 2007 vì ung thư và mang theo giấc mơ vô cùng vị tha của mình xuống mồ.
Máu xương của những người con đất Việt đã ngã xuống, nước nhà thống nhất, độc lập, nhưng hoàn toàn không có tự do. Người Việt phải bỏ nước ra đi, tha phương cầu thực, sự chia rẽ vẫn nhức nhối. Đất nước nằm trong tay một tập đoàn bao gồm các băng nhóm trục lợi. Quyền tự do của công dân bị bóp nghẹt và đàn áp. Không có bầu cử tự do, không có báo chí tự do, cả một hệ thống chính trị là một nhà tù vĩ đại giam cầm, khống chế dân tộc.
Những người đã từng dấn thân, bị tù đày cho chính thể hôm nay đã phải thất vọng. Có lẽ câu nói của ông Huỳnh Nhật Tấn, cựu Phó giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng, mang tính đại diện nhất: "Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay".
Cầm quyền 38 năm, và còn tiếp tục 39, rồi 40 năm và có thể sẽ lâu hơn, ĐCSVN đã chứng tỏ là một tập đoàn phản động, phản bội, chạy theo đồng tiền bất chấp lợi ích và chủ quyền lãnh thổ của đất nước. Nhân dân, những người đã bỏ xương máu để có nhà nước hôm nay, trở thành kẻ nô lệ, bị lừa gạt và sống trong sợ hãi của sự đàn áp, bị u mê bởi những trò mị dân "mua thần bán thánh", hoặc bị lên đồng điên khùng bằng những chất kích hoạt khác. Đất nước là tổng thể của một bức tranh ô hợp, lạc loạn, kẻ có địa vị giàu có cứ tiếp tục giàu có thêm, kẻ bần cùng vật lộn với miếng ăn hàng ngày, phó mặc sự đời, kỷ cương phép nước và các giá trị đạo đức của xã hội đảo lộn.
38 năm "giải phóng" thực sự trở thành 38 năm kinh hoàng của thời kỳ phong kiến-tư bản man sơ, hoang dã với mỹ từ "kinh tế thị trường định hướng XHCN". Vâng, chỉ mới "định hướng" thôi, còn tiến về đâu không biết. 38 năm đi hoài, đi loanh quanh, đi mãi về một nơi mà chẳng bao giờ biết nó là cái gì cả, có tồn tại hay không.
© 2013 Lê Diễn Đức - RFA Blog
NGUYỄN HỮU THỜI * CHUYỆN HÀ NÔI
Nghe Chuyện Hà
Nội Xã Hội Chủ Nghĩa&
Lời
nguời viết:
Tôi sinh
truởng và lớn lên ở miền Trung, và có vợ
nguời miền Bắc (Hà Nội). Nỗi uớc mơ của tôi là có dịp về thăm quê vợ ở
Hà nội; nhưng tiếc thay đã 38 năm kết hôn với nàng, tôi vẫn chưa đạt
đuợc ý nguyện. Nhân có anh bạn thân mới về thăm Hà Nội trở lại Hoa kỳ.
Anh có đến thăm tôi, và kể chuyện về thăm Hà Nội. Tôi náo nức nghe anh
kể, và trung thực thuật lại không thêm bớt, để hầu bạn đọc. < - Anh
biết không. Tôi ăn mặc cốt sạch sẽ, thoải mái chứ không phải cho sang
trọng, ăn diện bên ngoài khi đi ra phố. Tới Hà nội, tôi về ngụ tại nhà
ông anh ruột tôi, chị dâu tôi nguời Hà nội. Anh chị tôi có chương trình
cho tôi đi thăm viếng Hà nội ngày hôm sau.
Nhưng tôi tranh thủ thời gian, muốn đi loanh quanh gần nhà truớc đã.
Tắm rửa thay quần áo xong, tôi muợn chiếc xe đạp của đứa cháu đạp lẫn
quẫn quanh khu phố gần nhà cho giãn gân cốt, và quan sát quanh đó xem có
gì lạ không. Đi mấy quãng đuờng, tôi thấy có cái tiệm ăn bên ngoài để
nhiều chậu hoa, cây kiểng trông hấp dẫn quá. Tò mò, tôi cẩn thận khóa
xe, và buớc vào tính kiếm cái gì ăn lót dạ. Một cô có lẽ là nhân viên
nhà hàng, mặc áo dài xanh có hoa thêu nơi ngực, đứng cạnh một cậu con
trai, mặc đồng phục nhà hàng.
Cả hai nhìn tôi chăm chú từ đầu đến chân, cô gái buớc lại gần, mặt cứ
vênh lên, cất tiếng hỏi: - Bác vào đây tìm ai? - Xin lỗi, chứ đây không
phải là nhà hàng ăn sao cô? - Ờ! Nhà hàng ăn đấy, nhưng bác đi lộn chỗ
rồi. - Sao lạ vậy? - Chúng tôi nghĩ Bác không đủ "tiêu chuẩn để phục
vụ". Trong lòng tôi thấy lạ lắm nhưng cung cố hỏi để nghe thử cô bé nói
gì nữa. Trong bụng tôi nghĩ, không lẽ ở Việt nam hiện nay còn kỳ thị hơn
thời nội chiến Nam Bắc ở Mỹ cách đây hơn 200 năm truớc sao? Tôi nhỏ nhẹ
hỏi:
-Xin cô vui lòng giải thích: Tại sao tôi lại không đủ tiêu chuẩn để phục
vụ? Cô nhà hàng chưa kịp trả lời thì bên phải cửa phòng xịch mở, một
nguời đàn ông buớc ra, tay cầm xấp giấy, mặc bộ vest đen, áo sơ-mi
trắng, cổ thắt nơ, để râu mép, chân mang giày da bóng láng; tiến lại chỗ
tôi và hất hàm bảo: - Nhà hàng nầy chỉ bán cho Việt kiều, khách Ngoại,
và cán bộ nhà nuớc có đặt bàn truớc. - À! Ra là thế. Không lẽ, tôi nói
tôi là Việt kiều đây. Khi không lại xưng danh tánh ra làm gì...
Nguời Việt trong nuớc hay nguời Việt ở nuớc ngoài cũng là cùng một dân
tộc, một màu da, một tiếng nói mà. Sao có sự phân biệt lạ lùng như vậy.
Hình như một số nguời ở Hà nội bây giờ họ quan niệm Việt kiều là phải
mập mạp, phương phi, trắng trẻo, bụng to, nhiều đô la, ăn mặc sang
trọng, tiêu tiền như quăng qua cửa sổ. Họ đâu có biết rằng ở Mỹ dù làm
bất cứ một việc gì đi nữa, một giờ đáng một giờ, và phải làm việc hết
sức mình mới mong đạt đuợc kết quả. Dù là nguời chủ cũng vất vả không
thua gì công nhân. Các nguời trong tiệm nhìn thấy tôi gầy ốm, nuớc da
lại đen, những ngón tay sần sùi, thô kệch, lại ăn mặc quá đơn giản, nếu
không muốn nói là lôi thôi, áo bỏ ra ngoài, lè phè, chân mang dép Nhật
cho mát, họ không muốn tiếp tôi chăng?
Tôi thấy cũng không thiết ăn uống nữa, nên chào họ rồi lặng lẽ quay lưng
ra cửa, tay trái vừa giơ lên vừa kéo cánh cửa để buớc ra đuờng. Tôi
loáng thoáng nghe sau lưng tiếng nói trống không; giọng đàn ông còn rất
trẻ, có lẽ của cậu đứng gần cô gái lúc nãy: -Nhìn cái "thằng " đó tiền
bạc đâu mà đòi vào đây ăn. Ăn rồi nó "lỉnh" ngay đấy. Mình lại phải bận
gọi công an. Tụi đó chỉ có ăn khoai thì có! Rõ "phén" cho rồi! Tôi xem
như không nghe biết gì, và cứ buớc ra chỗ để chiếc xe đạp lúc nãy mà
trong lòng nghĩ ngợi lung lắm.
Tôi cứ ngỡ là tôi đã đi lạc vào một xứ lạ không phải là quê hương Việt
Nam ! Tôi là nguời Việt nam mà! Dù tôi ở Mỹ đã gần ba mươi năm rồi,
nhung những cử chỉ, những suy nghĩ, những thức ăn uống, những tập tục,
tập quán hàng ngày đâu có gì thay đổi mấy trong tôi đâu! Cậu làm việc
trong nhà hàng nói câu vừa rồi, gọi tôi bằng "thằng" tuổi tác chắc cũng
nhỏ hơn cháu Út nhà tôi (31 tuổi).
Tôi chán ngán buớc lại chỗ để chiếc xe đạp lúc nãy tính đạp xe về nhà,
không đi nữa, nhưng tôi không thấy chiếc xe đạp đâu, nó không có cánh mà
đã bay đi rồi! Tôi nghĩ hay là tôi lầm chỗ, chắc hồi nãy mình để chỗ
đằng kia. Tôi vội buớc qua chỗ tôi vừa nghĩ thì gặp ngay cô bán gánh
trái cây, tuổi chừng 25, 27 đang ngồi trên cái đòn gánh để duới đất, hai
chân xoạt ra, chàng hảng, thoải mái, nếu cô ấy mặc váy thì thấy rõ cái
quần lót, may mà cô mặc quần dài; đang móc tiền ra lẩm nhẩm đếm.
Tôi buớc lại gần, ôn tồn và lễ phép hỏi: - Xin lỗi cô. Hồi nãy truớc khi
vào nhà hàng tôi vừa nói, vừa lấy tay chỉ vô nhà hàng, tôi dựng chiếc
xe đạp gần đây. Cô có thấy ai tới lấy không nhỉ? Cô ngưng đếm, mặt cuống
lên, ngẩng nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên như nhìn nguời từ hành tinh lạ,
mắt láy nháy, miệng phát ra câu trả lời nhát gừng, giọng bực tức, đặc
sệt, nặng thật khó nghe. - Rõ hỏi vớ vẩn! Ai ăn không ngồi rồi ra đây
ngồi gác xe cho bác phỏng! Xéo đi cho khuất mắt bà.
Tôi ngạc nhiên và nghĩ rằng vì mình thật thà hỏi thẳng, có thể cô ấy
hiểu lầm tôi nghi ngờ gì chăng nên cô nổi nóng chóng như vậy. Tôi nói
lời xin lỗi và tính quay đi. Cô không đáp lại, và chăm chú tiếp tục đếm
bạc, xem như không có tôi còn đứng đấy, mồm nói đay nghiến: "Tiên sư nhà
chúng bay! Bà đẻ ra con mà con tính "chum" với bà hả. Tờ nầy hai ngàn
mà con cứ cãi với bà là đã trả tờ năm ngàn. Đồ thối. Quỉ có tha thì Ma
cũng bắt. Ngày mai sẽ biết tay bà."
Tôi quả thật không hiểu cô đang rủa ai, và nói với ai. Tiếng "chum"
nghia là gì! Tôi chán chuờng lặng lẽ bỏ đi, chậm rãi thả bộ về nhà. Tôi
đi lạc vào khu có nhiều cửa hàng bán đồ kỷ niệm cho khách du lịch, và
chú ý đến một cửa hàng bên ngoài trang hoàng rất là kiểu cọ, hấp dẫn.
Tôi buớc vào. Cô bán hàng ăn mặc rất thời trang không thua gì các cô bán
hàng son phấn trong các cửa tiệm Macy's, Broadways ở Mỹ.
Nét mặt thật đẹp giống như nguời mẫu hay tài tử xi-nê, tuổi cỡ muời
chín, hai mươi. Thấy tôi, cô vội buớc lại, tươi cuời, vồn vã hỏi, giọng
nói nhẹ nhàng, êm ả, ru ngủ, dịu dàng, ngọt ngào như mía đuờng Quảng
ngãi.
Cô ta nhỏ nhẹ, thỏ thẻ: "-Chào anh! Anh cần mua gì để em chọn hộ." Tôi
nghĩ có lẽ mình đa đến tuổi ngễnh ngãng nên nghe lầm chăng hay cô đang
hỏi cậu thanh niên nào đang đứng gần đây. Tôi nhìn quanh quất thấy không
có ai, biết là cô ta nói với mình nên vờ như không nghe. Tôi cảm thấy
vừa ngượng, vừa buồn cuời, tuổi mình chỉ còn hai năm nữa là tới tuổi hưu
(65).
Sao cô ấy gọi mình bằng anh nhỉ? Bộ mình còn trẻ lắm sao! Tôi đâu có
nhuộm tóc, tôi vẫn để đầu tóc hoa râm kia mà. Tôi với lấy cái xấc tay
đàn bà mân mê, săm soi, tính mua về làm quà cho bà xã Nghiệp. Cô bán
hàng thấy vậy buớc lại gần hơn, mùi son phấn thơm tho dễ chịu: - "Kìa
anh ! nào để em chọn hộ cho." Cô lăng xăng giới thiệu cái nầy, món kia
và cứ bảo tôi mua đi. Cô tính giá hời cho. Cuối cùng cô chọn cho tôi
được một cái xắc tay khá đẹp và dẫn tôi đến quầy trả tiền.
Cô thu ngân nơi quầy hàng nở nụ cuời thật tươi, hỏi han, chào đón như
người thân từ thuở nào, lâu năm không gặp. Đột nhiên cô hỏi: -Anh trả
tiền đô hay tiền nội. Tôi ngỡ ngàng đáp: - Tiền đô! Tôi chưa có thời giờ
đổi ra tiền Việt nam.
- Đuợc! Tốt lắm! Lần sau anh nhớ ghé lại cửa hàng em nhé! Tôi móc ví trả
tiền, và lẩm cẩm thầm nghĩ rằng sao hai cô nầy biết mình là Việt kiều
nên mới hỏi mình trả tiền đô hay tiền nội, nhưng sao những nguời ở nhà
hàng ăn lúc nãy không nhận ra mình là Việt kiều nhỉ? Trả tiền xong, tôi
chào hai cô, tay cầm cái xắc tay dợm buóc ra ngòai. Cô bán hàng tiễn tôi
và nói cho tôi vừa đủ nghe: - Cạnh đây có chỗ "Tươi Mát", xin mời anh
vào thưởng thức. Chủ là bạn em. - Cảm ơn cô. Tôi vừa mới uống nuớc giải
khát xong."
Tôi tiếp tục buớc ra ngoài đường liền nghe tiếng cười khúc khích lẫn
tiếng nói của cô tính tiền: "Cái lão già ấy "Liễn" rồi. Lão ta còn không
biết "Tươi Mát" là gì! Mầy tốn công mời mọc cũng vô ích thôi". Tôi thật
không hiểu nổi, mới vài phút truớc đây các cô rất thân mật gọi tôi bằng
anh làm tôi ngượng quá, và tỏ ra vui vẻ, săn đón, chỉ có mấy phút sau
thôi, họ gọi tôi là lão già, và dùng tiếng lóng làm tôi không hiểu gì
cả. Tôi lững thững, lếch thếch hỏi đuờng thả bộ về nhà, vừa buớc tới cửa
đã thấy anh chị tôi đứng chờ nơi đó trông vẻ nóng ruột lắm. Chị dâu tôi
lo lắng : -Tôi biết chú đi lạc rồi. Sao không điện thoại về nhà? Tôi kể
lại hết chuyện đi vào nhà hàng, chuyện mất xe đạp, gặp cô bán trái cây,
cô bán hàng và cô thu ngân ở tiệm bán đồ kỷ niệm v..v…
Cả nhà đều cuời bò lăn ra, và tôi cũng thắc mắc hỏi anh chị tôi những
chữ mà tôi vừa mới nghe đuợc như: "Lỉnh, Phén, Chum, Tươi Mát, Liễn v
v… Anh tôi giải thích: - Bây giờ dân ở đây họ chế ra nhiều tiếng lóng
mới lắm. Chú ở ngọai quốc lâu năm nên không rõ đó thôi.
- Lỉnh là bỏ đi, lén lút đi, lẩn đi (ý muốn nói là ăn giựt không trả tiền bỏ đi) - Phén là cút đi, đuổi đi,
- Chum là lừa gạt hay nói dối.
- Tươi Mát là chơi gái.
- Còn Liễn là bất lực, là liệt dương. Còn thái độ họ đối với chú thì cũng tùy theo đối tuợng thôi. Chú tiêu xài đô-la cho thật nhiều, diện đồ cho thật kẻng thì truớc mặt họ, chú là Vua đấy. Thôi! Chúng ta vào ăn cơm nói chuyện.
Trong bữa ăn tôi hỏi anh tôi: - Hồi còn đi học, em đọc trong sách báo
thấy nói, và trong thực tế cũng đã gặp, cũng đã quen những nguời Hà nội
trước năm 75 ở Sài gòn, và bây giờ ở Mỹ, họ thanh lịch lắm, ăn nói dịu
dàng, ngọt ngào, cư xử rất là khả ái, cảm tình. Bạn thân em có vợ nguời
Hà nội, chị ấy hiền lành, nhu mì, khuôn phép, nói năng dễ nghe lắm khác
hẵn những nguời Hà nội mà em đã gặp hôm nay ở ngoài phố. Anh đang vui
vẻ, bỗng nét mặt chùng hẵn xuống, đặt đôi đũa xuống bàn, ngẩng mặt nhìn
vào khoảng không, đôi mắt xa xăm, giọng buồn buồn anh trả lời: - Ấy là
những người Hà nội truớc năm 1954 đó chú.
Sau hiệp định Geneve tháng 7 năm 1954, một số lớn họ đã di cư vào Nam,
một số quá vãng hoặc vì sinh kế hay vì lý do gì đó họ đã đi ra khỏi Hà
nội từ lâu rồi. Hà nội bây giờ chỉ còn lại một số ít người như xưa thôi.
Đa số những người Hà nội giờ đây là từ các tỉnh, các vùng quê về lập
nghiệp đó chú ạ. Số còn lại là cán bộ các cấp từ các nơi đổi về.
Anh tôi không nói gì nữa, đứng dậy nói lời xin lỗi mọi người, là đã dùng
bữa xong và buớc vào nhà trong. Anh tôi đi rồi, chị dâu tôi lên tiếng
nói: - Biết bao giờ mình có lại đuợc những người Hà nội năm xưa… chú
nhỉ!
Nguyễn Hữu Thời LEGROSBOBO
TRẦN TRUNG ĐẠO * KẺ GÂY RỐI
Trần Trung Đạo
“Kẻ Gây Rối” hay “Bước Đường Dài Đến Tự Do” của Nelson
Mandela, bài phân tách của tác giả Trần Trung Đạo. Hình ảnh chỉ có tính
minh họa.
- Theo kết quả thăm dò của công ty tư vấn Reputation Institute được công bố vào tháng Chính năm 2011, Nelson Mandela được chọn là lãnh tụ được yêu mến nhất, kính trọng nhất, thán phục nhất và tin tưởng nhất thế giới. Tổng thống Mỹ Barack Obama đứng hạng thứ 14, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đứng hạng thứ 27, Thủ tướng Anh David Cameron đứng hạng thứ 34.
Nhân loại yêu chuộng tự do, dân chủ và hòa
bình kính phục Nelson Mandela không phải chỉ vì ông yêu nước, yêu tự do, can đảm
ở tù suốt 27 năm dài lao động khổ sai nhưng quan trọng hơn ông không dùng sự khổ
đau chịu đựng của riêng mình làm thước đo cho chiều dài tương lai của đất nước
Nam Phi và không đặt đôi gánh nặng quá khứ hận thù lên trên đôi vai của các thế
hệ Nam Phi mai sau. Thay vào đó, Nelson Mandela đã dùng đức tính bao dung, kiên
nhẫn, khôn ngoan, biết nhìn ra thấy rộng để vực dậy một đất nước bi phân hóa bởi
màu da, chủng tộc, xã hội giáo dục, kinh tế chính trị và cả văn hóa lịch sử kéo
dài hơn 300 năm từ thời nô lệ, thuộc địa cho đến thời kỳ Nam Phi độc
lập.
Con người cũng như đất nước, giá trị được
thẩm định không phải ở sự chịu đựng nhưng ở chỗ biết vượt qua. Một con người
bình thường phải vượt qua những hoàn cảnh khắc nghiệt để tiến thân, một dân tộc
chỉ có thể đuổi kịp đà tiến của nhân loại nếu dân tộc đó vượt qua được những bất
hạnh của chính mình và vận động được sức mạnh tổng hợp của dân tộc. Một câu nói
nổi tiếng của Nelson Mandela về hòa giải “Hòa giải thật sự không đơn giản chỉ là
việc quên đi quá khứ”. Nelson Mandela được kính trọng không phải vì ông quên đi
quá khứ nhưng nhờ ông đã sống rất trọn vẹn trong quá khứ, đã chiêm nghiệm và
chuyển hóa những hào quang và chịu đựng, thành công và thất bại, hy vọng và
tuyệt vọng của quá khứ thành nhựa nguyên, nhựa luyện cho những hàng cây xanh tốt
tươi và hy vọng của tương lai Cộng Hòa Nam Phi.
Hãy tưởng tượng, Nelson Mandela, người bị tù
hơn 27 năm và đã có thời gian chọn lựa phương pháp đấu tranh bằng võ lực, không
chủ trương hòa giải mà nhất định trả thù cho bằng được thiểu số da trắng một
thời đã áp đặt những chính sách bất công, phân biệt chủng tộc lên trên số phận
của đa số người da đen rồi nước Cộng hòa Nam Phi ngày nay liệu có thể là quốc
gia ổn định và phát triển hay không?
Chắc chắn là không.
Hãy tưởng tượng, công việc đầu tiên của tổng
thống Nelson Mandela không phải là việc thành lập Ủy Ban Hòa Giải và Sự Thật mà
là lập một danh sách mấy trăm ngàn viên chức chính quyền Nam Phi đã có liên hệ
ít nhiều đến việc đàn áp các phong trào chống phân biệt chủng tộc để rồi sau đó
tống giam họ trong các trại tù tận vùng núi rừng KwaZulu-Natal xa xôi hiểm trở,
bắt thiểu số da trắng phải giao nộp nhà cửa, tài sản, đày sang các vùng kinh tế
mới ở miền Northern Cape hoang vu để trả thù cho những cực hình đày đọa mà dân
da đen đã từng chịu đựng dưới ách phân biệt chủng tộc của chính quyền da trắng
Nam Phi thì liệu hòa giải dân tộc có thật sự đến cho quốc gia này hay
không?
Chắc chắn là không.
Rất nhiều tác phẩm viết về Nelson Mandela và
một số tác phẩm khác trích từ các cuộc phỏng vấn ông, nhưng Bước đường dài đến
tự do (Long walk to freedom) là tác phẩm cho chính ông chấp bút từ những năm
1970 khi còn bị tù ở đảo Robben, ngoài Cape Town, Nam Phi. Phần lớn các chi tiết
trong bài viết này cũng được trích dẫn từ hồi ký dày hơn sáu trăm trang Bước
đường dài đến tự do của Nelson Mandela.
Tạm dịch: “Người can đảm không phải
không biết sợ nhưng đã vượt qua sự sợ hãi”
Nelson Mandela ra đời ngày 18 tháng 7 năm
1918 tại Mvezo, một ngôi làng nhỏ bên bờ sông Mbashe thuộc quận Umtata, thủ phủ
của Transkei, một trong những khu vực lớn nhất của Nam Phi. Ông được đặt tên là
Rolihlahla. Theo ngôn ngữ Xhosa, Rolihlahla có nghĩa “kéo một cành cây xuống”
nhưng chính xác hơn có nghĩa là “kẻ gây rối”. Cha của ông, Gadla Henry
Mphakanyiswa, cai quản khu vực Mvezo và cũng là một cố vấn của vua bộ lạc
Thembu. Mandela kế thừa không những cá tính mà cả vóc dáng cao và thẳng của cha
ông ta. Cha của Mandela có bốn vợ, và bà Nosekeni Fanny, mẹ của Mandela là vợ
thứ ba. Theo cách gọi trong gia đình, vợ thứ nhất được gọi là Vợ Cả, Vợ Phía Tay
Phải (mẹ của Mandela), Vợ Phía Tay Trái, và Vợ Chăm Sóc Gia Đình. Mandela là con
lớn của mẹ ông nhưng lại là con trai nhỏ nhất trong số bốn anh em cùng cha khác
mẹ.
Khi còn nhỏ Mandela chịu phép rửa tội theo
đạo Tin Lành phái Methodist Church. Khi đi học, cô giáo Mdinggane thêm tên
Nelson vào tên gia đình đặt. Từ đó, ông được gọi là Nelson Rolihlahla Dalibhunga
Mandela. Năm Mandela lên 9 tuổi, cha ông qua đời vì bịnh phổi. Nelson Mandela
được Jongintaba Dalindyebo, người kế tục chức vụ của cha ông, nhận làm con nuôi.
Sau lễ cắt bao quy đầu vào năm ông 16 tuổi, Nelson Mandela được đưa vào trường
trung học nội trú Clarkebury.
Năm 1937 khi vào tuổi 19, Nelson Mandela theo
học đại học Healdtown, Fort Beaufort. Giống như Clarkebury, Healdtown là một
trường đạo Tin Lành thuộc phái Methodist Church và là trường đại học nội trú duy
nhất dành cho người da đen. Sinh viên da đen ưu tú từ khắp Nam Phi theo học tại
đây. Một biến cố tinh thần đã xảy ra cho Nelson Mandela vào năm cuối tại
Healdtown là buổi viếng thăm trường của nhà thơ lớn Krune Mqhayi, người dân tộc
Xhosa. Lần đầu tiên trong đời Nelson Mandela xúc động lắng nghe một nhà thơ lên
tiếng phê bình chính sách phân biệt chủng tộc của chính quyền da trắng một cách
công khai với sự hiện diện của viện trưởng và toàn ban giảng huấn trường, rất
đông trong số họ là da trắng.
Năm 1960, Nelson Mandela theo học tại đại học
University College of Fort Hare. Đây là trường đại học nội trú da đen lớn nhất ở
Nam Phi. Mandela hy vọng sẽ tốt nghiệp Cử Nhân tại trường này. Ông được bầu vào
Hội Đồng Sinh Viên và tức khắc trở thành một lãnh tụ sinh viên tranh đấu cho các
quyền lợi sinh viên. Trong một lần xung đột với ban lãnh đạo trường về tiêu
chuẩn thực phẩm dành cho sinh viên, Nelson Mandela từ chức khỏi hội đồng sinh
viên. Viện trưởng viện đại học tức giận trục xuất ông khỏi trường cho đến cuối
niên khóa.
Mandela trở lại nhà nhưng chỉ để biết tin cha
nuôi đang chuẩn bị cưới vợ cho mình. Mandela không muốn và cùng người anh nuôi
bỏ trốn sang Johannesburg. Tại đây, Mandela tiếp tục học hàm thụ các lớp còn lại
của hệ cử nhân và chính thức tốt nghiệp tại Fort Hare vào năm 1942. Năm 1943,
Nelson Mandela theo học cử nhân luật tại trường đại học Witwatersrand với ý định
trở thành một luật sư.
Chàng thanh niên Nelson Mandela là một người
đàn ông cứng rắn nhưng cũng rất đa cảm. Mandela yêu nhiều người. Trong thời gian
trú trại khu Alexandra thuộc thành phố Johannesburg, Mandela gặp Ellen Nkabinde,
cô bạn luôn có nụ cười tươi, làm nghề dạy học mà Mandela quen biết khi cả hai
còn ở Healdtown. Họ yêu nhau. Khu Alexandra đông đúc và chật hẹp, cặp tình nhân
đang yêu không biết đi đâu ngoài việc ngồi ngắm những vì sao trên nền trời vào
ban đêm. Dù sao, Ellen mang đến cho Mandela tình yêu, sự ủng hộ, niềm tin và hy
vọng trong lúc anh ta đang lạc lõng giữa thành phố Alexandra còn xa lạ. Rất tiếc
chỉ vài tháng sau Ellen rời thành phố mang theo mối tình đầu của
Mandela.
Sau khi Ellen đi, Mandela lại yêu một người
con gái khác. Nàng tên là Didi, xinh nhất trong năm người con gái của gia đình
Xhosa mà Mandela đang trọ. Cuộc tình rồi cũng không đi đến đâu vì Didi không
thật sự để mắt xanh đến anh chàng Mandela đa cảm đang trọ trong nhà mình. Nhưng
lần thứ ba thì khác. Trái tim Mandela hướng về phía người con gái trẻ đẹp đang
theo học nghề y tá tại Johannesburg tên là Evelyn Mase. Cha mẹ Evelyn chết sớm
và cô sống với người anh. Vài tháng sau khi yêu nhau, Mandela hỏi cưới. Evelyn
là vợ đầu của Nelson Mandela cho đến năm 1958.
Nelson Mandela bắt đầu tham gia các hoạt động
của tổ chức Nghị Hội Toàn Quốc Nam Phi (African National Congress) gọi tắt là
ANC vào năm 1942 và cuộc đời hoạt động của ông từ đó được chính trị hóa. Như ông
ta giải thích trong Bước đường dài đến tự do: “Thật khó để xác định thời điểm
nào tôi bị chính trị hóa khi tôi biết mình đã dành cả cuộc đời trong cuộc đấu
tranh giải phóng. Làm một người Phi trong xã hội Nam Phi có nghĩa là bạn được
chính trị hóa từ lúc mới ra đời, dù bạn có thừa nhận điều đó hay không. Một hài
nhi ra đời trong bịnh viên chỉ dành cho da đen. Đưa về nhà trên xe bus chỉ dành
cho da đen. Nếu may mắn được đi học cũng chỉ học trường dành cho da đen. Khi cô
hay cậu đó lớn lên cũng chỉ làm những công việc người da đen phải làm và mướn
một căn nhà để ở cũng chỉ được ở trong khu da đen”.
Nhắc lại, ANC được thành lập vào ngày 8 tháng
Giêng năm 1912 tại Bloemfontein để đấu tranh cho quyền của người da đen Nam Phi
do nhà biên khảo John Dube và nhà thơ Sol Plaatje sáng lập. Chủ tịch đầu tiên
của tổ chức là John Dube. Trong suốt hơn 70 năm tranh đấu, ANC đã trở thành đảng
chính trị chiếm đa số trong cuộc bầu cử năm 1994 và trong cuộc bầu cử năm 2009,
ANC chiếm đến gần 66 phần trăm trong tổng số cử tri đi bầu. Nhiều người ảnh
hưởng đến quan điểm chính trị của Nelson Mandela đối với tổ chức ANC nhưng như
chính Mandela thừa nhận, ảnh hưởng nhất phải là Walter Sisulu vì đức tính cương
quyết, có lý có tình, thực tế và tận tụy của ông ta. Walter tin tưởng ANC là
phương tiện cần thiết để thay đổi Nam Phi, là nơi gìn giữ của khát vọng của tầng
lớp da đen bị trị tại Nam Phi. Mandela cũng tin tưởng sâu xa điều đó.
Sau khi gia nhập, Mandela trở thành một thành
viên tích cực của phong trào chống phân biệt chủng tộc tại Nam Phi. Năm 1943,
Nelson Mandela là một trong những thành viên sáng lập của Liên Đoàn Thanh Niên
ANC nhằm đưa cuộc đấu tranh vào quần chúng, tổng hợp sức mạnh của giới nông dân
ở nông thôn và tầng lớp công nhân tại các thành phố. Nelson Mandela cho rằng các
hình thức thư thỉnh nguyện, cầu xin giới lãnh đạo da trắng không phải là hình
thức đấu tranh thích hợp nhưng phải đánh trực tiếp vào quyền lợi của chúng qua
các hình thức tẩy chay, đình công bãi thị, bất hợp tác với giới cầm quyền. Mặc
dù ban đầu gặp trở lực từ các thế hệ lãnh đạo già, các hoạt động của Liên Đoàn
Thanh Niên ANC dần dần đã được trung ương ANC chấp nhận. Vai trò lãnh đạo của
Nelson Mandela được chính thức hóa qua các hoạt động cương quyết của ông. Năm
1947, Mandela được bầu vào ban chấp hành ANC vùng Transvaal. Người lãnh đạo trực
tiếp của ông là C.S. Ramohane, một người yêu nước và kế hoạch xuất sắc. Bản thân
Ramohane không có cảm tình với Cộng Sản nhưng làm việc với họ vì ông cho rằng
ông ta nên đón nhận sự ủng hộ từ mọi phía. Mandela cũng là tác giả của đề án
Mandela làm tiêu chuẩn hoạt động cho cả tổ chức ANC trong đó đặt nặng vai trò
chỉ đạo từ trung ương khi nhà cầm quyền da trắng đặt ANC ra ngoài vòng pháp
luật.
Thành phố Nữu Ước, Mỹ với hình vẽ lớn
chào mừng Nelson Mandela đến thăm. Hình
dưới: Các dân biểu Hoa Kỳ đồng loạt đứng lên hoan hô khi ông hiện diện
tại phòng họp quốc hội.
Tổng thống Nelson Mandela viếng thăm
mộ lãnh tụ tranh đấu cho nhân quyền Rev. Martin Luther King tại thành phố
Atlanta, tiểu bang Georgia.
Chiến Dịch Thách Thức Những Luật Bất Công
(Defiance Campaign of Unjust Laws) là chiến dịch có quy mô lớn của ANC đòi hủy
bỏ sáu đạo luật bất công trước ngày 29 tháng Hai năm 1952 và nếu không ANC sẽ có
những hoạt động ngoài hiến pháp chống chính phủ da trắng. Dĩ nhiên, chính phủ da
trắng không nhượng bộ mà còn đàn áp quyết liệt. Ngày 6 tháng Tư năm 1952, hàng
loạt cuộc đình công đã được thực hiện tại các thành phố lớn như Johannesburg,
Pretoria, Port Alizabeth, Durban và Cape Town. Ngày 30 tháng Bảy năm 1952,
Nelson Madela bị bắt cùng với hai mươi lãnh đạo ANC khác. Nelson Mandela bị kết
án chín tháng tù ở nhưng sau đó được chuyển thành hai năm tù treo.
Năm 1952 cũng là năm có nhiều thay đổi trong
nội bộ ANC. Albert Luthuli, một lãnh tụ có khuynh hướng đẫy mạnh các hoạt động
của ANC được bầu vào chủ tịch. Mandela, trong cương vị chủ tịch khu Transvaal,
là một trong bốn phụ tá của của Albert Luthuli. Nelson Mandela tiếp tục cuốn hút
vào các hoạt động cho ANC cho đến ngày tháng 12 năm 1956, Nelson Mandela bị bắt
lần nữa. Lần này bị truy tố với một tội nặng hơn nhiều: mưu phản. Nelson Mandela
đóng tiền tại ngoại hầu tra. Phiên tòa mưu phản kéo dài hai năm đã làm Nelson
Mandela kiệt quệ về mọi mặt, tình cảm gia đình tan nát và điều kiện tài chánh
suy sụp. Cũng trong thời gian khó khăn này, sự khác biệt về cách sống, lý tưởng
đã làm hai vợ chồng Mandela và Evelyn vốn khác biệt đã khác biệt sâu sắc hơn.
Cuối cùng cả hai đã đồng ý chia tay nhau.
Một lần trên đường từ tòa về qua một ngã tư
đường, Nelson Mandela chợt lưu ý một cô gái đang đứng chờ xe bus. Nét đẹp của
nàng cuốn hút Mandela nhưng ông ta biết khó mà có dịp gặp lại nàng. Như mối
duyên tiền định, một hôm, khi đang ngồi làm việc trong văn phòng luật sư vừa mới
lo tái trang bị, Mandela gặp lại cô lần nữa. Cô gái tên là Nomzamo Winifred
Madikizela, và thường được gọi tắt là Winnie. Từ đó, họ gặp nhau bất cứ khi nào
có thể. Họ ăn trưa với nhau và cùng nhau đi dạo trên cánh đồng cỏ xanh giống như
cánh đồng cỏ ở quê hương Transkei. Mandela chia sẻ với Winnie những hy vọng và
khó khăn. Như Mandela thuật trong hồi ký “Tôi không hứa hẹn với nàng vàng bạc
hay kim cương, tôi sẽ không bao giờ có khả năng tặng nàng những món quà như
thế”. Winnie hiểu và chấp nhận mọi khó khăn. Vì Mandela vẫn còn trong thời gian
bị truy tố, lễ cưới phải được tòa án chấp nhận. Đám cưới của Mandela và Nomzamo
Winifred Madikizela được tổ chức vào ngày 14 tháng Sáu năm 1958 tại một nhà thờ
nhỏ. Toàn bộ ban chấp hành trung ương ANC đã được mời nhưng một số đông, giống
như Mandela đang bị truy tố nên không tham dự được. Vì không có tiền và thời
gian để đưa nhau đi tuần trăng mật, đám cưới xong, chú rễ Mandela lại tiếp tục
ra tòa.
Sáng 29 tháng Ba năm 1961, sau hơn bốn năm
dài từ khi bị bắt, hỏi cung, ra tòa với hàng ngàn tài liệu và hàng trăm nhân
chứng, chính quyền da trắng vẫn không đủ bằng chứng tin cậy để kết án ANC là tổ
chức Cộng Sản. Chánh án Rumpff, một thẩm phán có lương tâm công lý, tuyên bố các
bị can vô tội và được thả tức khắc.
Mandela biết việc trắng án chỉ có giá trị tạm
thời, nhà cầm quyền da trắng sau nhiều năm với biết bao nhiêu tốn kém để truy tố
ông chắc chắn thế nào cũng tìm bắt lại. Thay vì về nhà, Mandela quyết định lui
vào hoạt động bí mật. Hầu hết các hoạt động của Nelson Mandela trong giai đoạn
này được giữ kín với hành tung bất thường. Ông ẩn mình vào ban ngày và thường
hoạt động vào ban đêm. Các lực lượng công an cảnh sát tung nhiều đợt lục soát để
tìm bắt ông. Không những công an mà cả báo chí cũng tung phóng viên để thăm dò
tung tích của Mandela. Nhiều báo phóng đại việc Mandela tránh thoát hệ thống
công an trong đường tơ kẽ tóc.
Thật ra không ai biết thật sự “đường tơ kẽ
tóc” đó như thế nào nếu không do chính Mandela viết trong hồi ký. Một lần khi
Mandela lái xe và nhìn qua người khách đang ngồi trong xe bên trái không ai khác
hơn là Đại tá Spengler, giám đốc sở an ninh Witwatersrand. Tuy Mandela hóa trang
nhưng khó mà qua được đôi mắt chuyên nghiệp của Spengler. Cũng may viên đại tá
có trách nhiệm lùng bắt Mandela đã không nhìn sang hướng của ông. Rất nhiều lần
khác, các cảnh sát yêu nước đã tìm cách báo cho bà Winnie biết trước khi có cuộc
hành quân lục soát xảy ra trong vùng Mandela đang trốn. Mandela là người tổ chức
từ bóng tối cuộc tổng đình công 29 tháng Năm năm 1961 tại Nam Phi. Nhiều trăm
ngàn công nhân Nam Phi chấp nhận rủi ro mất việc đã ở nhà để ủng hộ lời kêu gọi
của Mandela và ANC. Tuy nhiên, sau khi đánh gía kết quả ngày đình công, Mandela
cho rằng nếu phía chính phủ da trắng đàn áp thẳng tay, cuộc đình công sẽ thất
bại.
Trong thời điểm khó khăn và quyết liệt đó,
Mandela và nhiều lãnh đạo ANC nghĩ không có một chọn lựa nào khác hơn là con
đường võ trang. Tháng Sáu năm 1961, cánh quân sự của ANC, Umkhonto we Sizwe gọi
tắt là MK, được thành lập nhằm mục đích lật đổ chính quyền phân biệt chủng tộc
da trắng bằng các biện pháp quân sự. ANC giao trách nhiệm thành lập, tổ chức và
chỉ huy cánh quân sự cho Nelson Mandela. Như chính ông ta thú nhận “Tôi, chưa
bao giờ là một người lính, chưa từng chiến đấu trong mặt trận nào, thậm chí chưa
bắn một viên đạn, lại được giao trọng trách thành lập một quân đội”. Nhưng cũng
từ đó, Mandela bắt đầu đọc các sách về chiến tranh du kích, sách chiến lược và
chiến thuật quân sự và học rất nhanh.
Ngày 26 tháng Sáu năm 1961, Nelson Mandela,
từ một địa điểm bí mật công bố qua báo chí lá thư công khai với nội dung
sau:
“Tôi được báo một trát tòa bắt giữ tôi đã
được phát ra, đồng thời công an cảnh sát đang lùng bắt tôi. Hội Đồng Hành Động
Quốc Gia thuộc ANC đã nhận xét kỹ lưỡng và khuyến cáo tôi không nên đầu hàng.
Tôi đồng ý với lời khuyên và sẽ không nộp mình cho một chính quyền mà tôi không
công nhận. Bất cứ nhà chính trị chín chắn nào cũng hiểu rằng trong tình trạng
hiện nay của đất nước, tìm cách làm một thánh tử đạo rẻ tiền qua việc giao nộp
sinh mạng cho cảnh sát là một hành động ngây thơ và là một trọng tội. Tôi đã
chọn con đường này, một con đường khó khăn và đòi hỏi nhiều rủi ro, gian khổ hơn
là ngồi trong nhà tù. Tôi đã phải tự tách rời khỏi vợ con thân yêu, xa mẹ già và
các chị em tôi để sống như một kẻ sống ngoài vòng pháp luật trên chính đất nước
của mình. Tôi đã phải đóng cửa cơ sở làm việc, từ bỏ ngành nghề chuyên môn và
sống trong đói khát như nhiều triệu đồng bào tôi… Tôi sẽ chiến đấu chống chính
quyền phân biệt chủng tộc sát cánh bên các bạn trong từng phân, từng dặm cho đến
chiến thắng cuối cùng. Các bạn sẽ làm gì? Đến để cùng chiến đấu với chúng tôi
hay hợp tác với chính quyền để trấn áp các đòi hỏi và khát vọng của nhân dân Nam
Phi? Các bạn sẽ im lặng và bàng quan mặc trước những vấn đề sống và chết của
nhân dân tôi và nhân dân chúng ta? Phần tôi, tôi đã có một chọn lựa cho riêng
mình. Tôi sẽ không rời Nam Phi và cũng chẳng đầu hàng. Chỉ thông qua gian khổ,
hy sinh và hành động quân sự, mục đích tự do mới đạt được. Đấu tranh là cuộc đời
tôi. Tôi sẽ tiếp tục cuộc chiến đấu vì tự do cho đến những ngày cuối của đời
mình.”
Sau khi công khai phát động cuộc đấu tranh võ
trang, tháng 10 năm 1961, Nelson Mandela di chuyển vào nông trại Liliesleaf ở
Rivonia, vùng ngoại ô phía bắc Johannesburg. Nông trại được xem là tổng hành
dinh của MK. Nelson Mandela mang tên mới là David Motsamayi, một người giữ nhà
do chủ phái đến chăm sóc nhà cửa đất đai. Sau Mandela, các chỉ huy vùng của MK
lần lượt đến nông trại. MK cũng xoay xở khéo léo để Winnie và các con đến thăm
Mandela vào vài cuối tuần. Cấu trúc tổ chức của MK cũng tương tự như ANC, gồm bộ
chỉ huy trung ương và các địa phương. Hàng ngàn truyền đơn được rải khắp các
thành phố lớn để công bố ngày ra đời của MK.
Tháng Hai năm 1962, Nelson Mandela bí mật
xuất ngoại đại diện cho cả ANC lẫn MK tại hội nghị của Phong Trào Tự Do Liên Phi
cho Đông, Trung và Nam Phi Châu, gọi tắt là PAFMECSA được tổ chức tại thủ đô
Addis Ababa thuộc Ethiopia. Tổ chức này là tiền thân của Tổ Chức Đoàn Kết Châu
Phi hiện nay. Đây là một hội nghị vô cùng quan trọng vì là lần đầu tiên ANC có
cơ hội kêu gọi sự yểm trợ trực tiếp của các quốc gia Phi Châu trong cuộc đấu
tranh võ trang chống chính phủ da trắng Nam Phi. Trong dịp này, Mandela thăm
viếng và kêu gọi viện trợ từ các quốc gia Phi Châu như Egypt, Lybia, Tunisia,
Ghana, Algeria, Morocco, Mali, Guinea, Sierra Leone, Liberia, Senegal. Tuy cùng
một Phi Châu nhưng không phải quốc gia nào cũng nhiệt tình ủng hộ. Một số lãnh
đạo quốc gia viện trợ năm ngàn bảng Anh và cũng có một số quốc gia không tặng
đồng nào. Trước khi lên đường trở lại Nam Phi, Nelson Mandela tham dự khóa huấn
luyện quân sự tám tuần lễ tại Ethiopia. Trong thời gian Mandela ra nước ngoài,
các cuộc đánh phá do MK chủ trương diễn ra tại nhiều nơi ở Nam Phi. ANC yêu cầu
Mandela thu ngắn thời gian thụ huấn quân sự để về nước.
Một vài hình ảnh trong phim Mandela – Long Walk to Freedom, với nam tài tử Idris Elba và nữ diễn viên nổi tiếng Naomie Harris.
Tuy nhiên vài hôm sau khi trở lại Nam Phi, Nelson Mandela bị bắt vào ngày 5 tháng Tám năm 1962. Lần này, Nelson Mandela bị kết án 5 năm vì hai tội sách động công nhân đình công và xuất ngoại bất hợp pháp. Mendela bị đưa đến nhà tù Pretoria Local.
Thời gian ngắn sau đó, tổng hành dinh của MK
tại nông trại ở Rivonia bị khám phá, lục soát và nhiều tài liệu quan trọng bị
tịch thu. Phần lớn các cấp chỉ huy trung ương của MK cũng lần lượt bị bắt. Một
số ít may mắn thoát được nhưng đã phải lưu vong sang các quốc gia Phi Châu.
Trong lúc đang bị tù, Nelson Mandela lại bị truy tố với một tội nặng hơn trong
phiên tòa được báo chí gọi “Chính phủ chống lại Bộ Chỉ Huy Quốc Gia Tối Cao và
những người khác”. Mandela là bị cáo đầu tiên trong danh sách nên phiên tòa còn
được gọi là “chính phủ chống lại Nelson Mandela và những người khác”. Phiên tòa
kéo dài gần hai năm. Khắp thế giới bùng lên phong trào ủng hộ Mandela.
Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc yêu cầu chính quyền Nam Phi ân xá. Sinh viên đại học London bầu Nelson Mandela làm chủ tịch sinh viên dù vắng mặt bởi vì Mandela vẫn còn là sinh viên hàm thụ khoa Luật của đại học London và vừa hoàn tất kỳ thi cuối khóa hai ngày trước ngày tuyên án.
Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc yêu cầu chính quyền Nam Phi ân xá. Sinh viên đại học London bầu Nelson Mandela làm chủ tịch sinh viên dù vắng mặt bởi vì Mandela vẫn còn là sinh viên hàm thụ khoa Luật của đại học London và vừa hoàn tất kỳ thi cuối khóa hai ngày trước ngày tuyên án.
Đêm trước đó, Mandela và các bạn đã quyết
định dù bản án nặng đến đâu hay thậm chí có tử hình đi nữa, cũng không kháng án.
Theo lời Mandela giải thích với các luật sư bào chữa, kháng án chỉ làm giảm giá
trị đạo đức của lý tưởng mà họ đã và đang đeo đuổi, kháng án cũng có nghĩa là
phải giải thích khác hơn và từ chối những hành động chính nghĩa mình đã làm.
Mandela tin nếu bản án do tòa quyết định là tử hình, chắc chắn sẽ có một phong
trào quần chúng mạnh mẽ đứng lên phản đối, ông không muốn làm nhẹ tinh thần của
cuộc đấu tranh đó. Như Mandela viết, “không có sự hy sinh nào có thể gọi là quá
to lớn trong cuộc đấu tranh vì tự do”. Mandela còn chuẩn bị cả câu nói cuối cùng
trường hợp chánh án De Wet hỏi ông sau khi nghe tuyên đọc án tử hình: “Tôi chuẩn
bị chết trong niềm tin vững chắc rằng cái chết của tôi sẽ là niềm khát vọng cho
lý tưởng mà tôi đang dâng hiến cuộc đời mình”.
Ngày 12 tháng Sáu năm 1964, ngoại trừ hai
người, một được miễn tố và một nhẹ tội, Nelson Mandela và các bạn còn lại bị kết
án chung thân. Kết án xong, nửa đêm ngày hôm sau, Mandela và 6 thành viên lãnh
đạo của MK bị đưa đến nhà tù Robben Island, tương tự như đảo Alcatraz ngoài vịnh
San Francisco của Mỹ, trong một máy bay quân sự bí mật với các lực lượng công an
cảnh sát vây kín từ nơi tạm giam đến phi trường. Xà lim của Mandela rộng khoảng
1.8 mét. Mỗi phòng có một tấm bảng giấy ghi tên và số tù.
Bảng của Mandela ghi là “N Mandela 466/64”. Năm đó Mandela 46 tuổi. Mandela dành hơn 100 trang trong hồi ký để mô tả đời sống vô cùng khắc nghiệt trong suốt 17 năm dài tại nhà tù Robben Island, nơi đó mỗi ngày ông phải đập đá dưới cơn nắng cháy da và ban đêm ngủ trong xà lim mới dựng còn rất ẩm thấp. Đó cũng là thời gian Mandela bị nhiễm vi trùng lao.
Bảng của Mandela ghi là “N Mandela 466/64”. Năm đó Mandela 46 tuổi. Mandela dành hơn 100 trang trong hồi ký để mô tả đời sống vô cùng khắc nghiệt trong suốt 17 năm dài tại nhà tù Robben Island, nơi đó mỗi ngày ông phải đập đá dưới cơn nắng cháy da và ban đêm ngủ trong xà lim mới dựng còn rất ẩm thấp. Đó cũng là thời gian Mandela bị nhiễm vi trùng lao.
Sau 21 năm qua hai trại tù, từ Robben đến
Pollsmoor với tất cả gian lao và chịu đựng, trong một lần khám bịnh thường lệ,
bác sĩ khám phá tiền tuyến liệt của Mandela bị sưng to và cần phải được giải
phẫu.
Nhưng sau khi giải phẫu xong, viên điều hành trại tù, Thiếu tướng Munro, đưa Mandela đến một phòng giam khang trang nhiều so với phòng giam mà ông ta sống trước đó. Tuy không nói ra, Mandela biết chính quyền da trắng đã có ý thăm dò phản ứng của ông về cách đối xử mới của chính quyền.
Nhưng sau khi giải phẫu xong, viên điều hành trại tù, Thiếu tướng Munro, đưa Mandela đến một phòng giam khang trang nhiều so với phòng giam mà ông ta sống trước đó. Tuy không nói ra, Mandela biết chính quyền da trắng đã có ý thăm dò phản ứng của ông về cách đối xử mới của chính quyền.
Trong suốt cuộc đời tranh đấu từ khi gia nhập
ANC, Nelson Mandela đã chọn nhiều phương pháp đấu tranh, trong đó có bất bạo
động và cả bạo động. Tuy nhiên, sau nhiều năm suy tư về con đường đất nước đã
trải qua và hy vọng nào còn đang chờ trước mặt, Mandela đã thay đổi phương pháp
đấu tranh.
Ông kết luận “Sự thay đổi, tôi quyết định, không phải chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội… Tôi đắn đo từ lâu về việc bắt đầu nói chuyện với phía chính phủ. Tôi kết luận thời gian đã đến khi cuộc đấu tranh sẽ thuận lợi hơn nếu được đẫy mạnh qua phương cách đàm phán. Nếu chúng ta không bắt đầu đàm phán sớm, cả hai bên phải lao vào đêm tối của áp bức, bạo động và chiến tranh.”
Ông kết luận “Sự thay đổi, tôi quyết định, không phải chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội… Tôi đắn đo từ lâu về việc bắt đầu nói chuyện với phía chính phủ. Tôi kết luận thời gian đã đến khi cuộc đấu tranh sẽ thuận lợi hơn nếu được đẫy mạnh qua phương cách đàm phán. Nếu chúng ta không bắt đầu đàm phán sớm, cả hai bên phải lao vào đêm tối của áp bức, bạo động và chiến tranh.”
Nelson Mandela viết trong hồi ký “Sự thay
đổi, tôi quyết định, không phải chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội… Tôi đắn đo
từ lâu về việc bắt đầu nói chuyện với phía chính phủ. Tôi kết luận thời gian đã
đến và cuộc đấu tranh sẽ thuận lợi hơn khi cần được đẫy mạnh qua đàm phán. Nếu
chúng ta không bắt đầu đàm phán sớm, cả hai bên phải lao vào đêm tối của áp bức,
bạo động và chiến tranh.”
Mandela nhìn lại cuộc đấu tranh của ANC trong
suốt 70 năm, rất nhiều thường dân vô tội đã bị giết nhưng chính quyền phân biệt
chủng tộc da trắng vẫn nhất định không nhường bước. Thật là vô nghĩa nếu cuộc
đấu tranh võ trang tiếp tục và mỗi ngày nhiều mạng sống bị cướp mất đi. Không ít
các hoạt động của MMK là hành động khủng bố. Tuy nhiên, một bên nào muốn dừng
lại cũng không phải là chuyện dễ dàng.
Nhà cầm quyền da trắng đã nhiều lần khẳng định ANC và MK là những tổ chức khủng bố Cộng Sản trong lúc ANC cũng không kém phần quyết liệt khi cho rằng chính phủ Nam Phi là chỉ là một chính quyền phát-xít, phân biệt chủng tộc và do đó sẽ không có gì để đàm phán với họ cho đến khi nào họ công nhận ANC. Về phần nội bộ ANC, việc thông tin giữa Mandela và các lãnh đạo trung ương của ANC cũng rất khó khăn vì một số đang bị tù, một số khác đang lưu vong và số còn lại hoạt động bí mật rải rác khắp nơi.
Nhà cầm quyền da trắng đã nhiều lần khẳng định ANC và MK là những tổ chức khủng bố Cộng Sản trong lúc ANC cũng không kém phần quyết liệt khi cho rằng chính phủ Nam Phi là chỉ là một chính quyền phát-xít, phân biệt chủng tộc và do đó sẽ không có gì để đàm phán với họ cho đến khi nào họ công nhận ANC. Về phần nội bộ ANC, việc thông tin giữa Mandela và các lãnh đạo trung ương của ANC cũng rất khó khăn vì một số đang bị tù, một số khác đang lưu vong và số còn lại hoạt động bí mật rải rác khắp nơi.
Nelson Mandela cuối cùng chọn một giải pháp,
đó là tự quyết định cách giải quyết vấn đề một mình và tuyệt đối không cho ai,
kể cả các thành viên ANC đang bị tù chung biết. Nếu thành công sẽ có lợi cho đất
nước và nếu thất bại chỉ một mình ông ta chịu trách nhiệm. ANC có thể cho rằng
vì Mandela không tiếp cận với thực tế và đầy đủ thông tin nên đã có những quyết
định không đúng với đường lối của ANC.
Vài tuần sau khi về phòng giam mới, Mandela
viết thư cho bộ trưởng tư pháp Nam Phi Kobie Coetsee và đề nghị thảo luận về
những vấn đề cần thảo luận. Đầu năm 1986, Mandela tiếp đón một phái đoàn bảy
thành viên đại diện nhiều quốc gia thăm viếng Nam Phi để tìm hiểu sự thật.
Phái đoàn do Tướng Olusegun Obasanjo, cựu tổng thống Nigeria và cựu ngoại trưởng Úc Malcolm Fraser cầm đầu. Tại buổi gặp gỡ, Nelson Mandela lần nữa đưa ra chủ trương đối thoại nhưng nhấn mạnh đó là việc đối thoại giữa ANC và chính phủ chứ không phải riêng ông ta và chính phủ. Mandela khẳng định với phái đoàn quốc tế rằng ông là một người Quốc Gia Nam Phi chứ không phải là Cộng Sản.
Mặc dù có làm việc với nhiều đảng viên Cộng Sản, Mandela từ lâu đã quan niệm rằng cuộc đấu tranh của ANC chống chính quyền da trắng là cuộc đấu chống kỳ thị chủng tộc chứ không phải là cuộc đấu tranh giai cấp hay đấu tranh vì lý do kinh tế như đảng Cộng Sản Nam Phi lý luận.
Tuy chưa tuyên bố công khai từ bỏ phương tiện võ trang, Mandela thừa nhận rằng bạo động không bao giờ có thể là giải pháp cuối cùng cho vấn đề Nam Phi. Trong buổi hội kiến với phái đoàn quốc tế, Mandela cũng đòi hỏi phía nhà cầm quyền da trắng phải bày tỏ thiện chí trước bằng cách giải tỏa vòng vây công an cảnh sát khỏi các thôn ấp da đen.
Nếu làm được như vậy, ông tin phía ANC cũng sẽ đáp ứng bằng cách hạn chế các cuộc tấn công để làm tiền đề cho đàm phán. Mandela cho phái đoàn biết việc trao trả tự do cho bản thân ông trước áp lực quốc tế đang phát động không giải quyết được vấn đề tranh chấp tại Nam Phi.
Phái đoàn do Tướng Olusegun Obasanjo, cựu tổng thống Nigeria và cựu ngoại trưởng Úc Malcolm Fraser cầm đầu. Tại buổi gặp gỡ, Nelson Mandela lần nữa đưa ra chủ trương đối thoại nhưng nhấn mạnh đó là việc đối thoại giữa ANC và chính phủ chứ không phải riêng ông ta và chính phủ. Mandela khẳng định với phái đoàn quốc tế rằng ông là một người Quốc Gia Nam Phi chứ không phải là Cộng Sản.
Mặc dù có làm việc với nhiều đảng viên Cộng Sản, Mandela từ lâu đã quan niệm rằng cuộc đấu tranh của ANC chống chính quyền da trắng là cuộc đấu chống kỳ thị chủng tộc chứ không phải là cuộc đấu tranh giai cấp hay đấu tranh vì lý do kinh tế như đảng Cộng Sản Nam Phi lý luận.
Tuy chưa tuyên bố công khai từ bỏ phương tiện võ trang, Mandela thừa nhận rằng bạo động không bao giờ có thể là giải pháp cuối cùng cho vấn đề Nam Phi. Trong buổi hội kiến với phái đoàn quốc tế, Mandela cũng đòi hỏi phía nhà cầm quyền da trắng phải bày tỏ thiện chí trước bằng cách giải tỏa vòng vây công an cảnh sát khỏi các thôn ấp da đen.
Nếu làm được như vậy, ông tin phía ANC cũng sẽ đáp ứng bằng cách hạn chế các cuộc tấn công để làm tiền đề cho đàm phán. Mandela cho phái đoàn biết việc trao trả tự do cho bản thân ông trước áp lực quốc tế đang phát động không giải quyết được vấn đề tranh chấp tại Nam Phi.
Cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Clinton đến thăm
lúc cuối đời. Hình dưới: Mandela
tạ thế năm 2013. Tổng Thống Barrak Obama và nhiều vị nguyên thủ quốc gia,
các lãnh tụ quan trọng thế giới đều qua Nam Phi để đưa tiễn ông, một người tận
tụy vì nước vì dân, đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Trong năm 1987, Tổng thống Nam Phi Botha
thành lập một ủy ban bí mật trong đó có bộ trưởng tư pháp Kobie Coetsee có trách
nhiệm đàm phán riêng với Nelson Mandela.
Các buổi thảo luận bí mật diễn ra nhiều lần giữa Mandela và ủy ban tổng thống. Vào thời điểm quan trọng này, Nelson Mandela xét thấy cần phải hội ý với các lãnh đạo MK đang bị tù với ông và hiện đang bị giam giữ ở tầng trên. Ông gặp riêng từng người và tất cả đều không chống đối phương pháp đàm phán nhưng đồng thời cũng không tin tưởng hoàn toàn nơi thiện chí của nhà cầm quyền da trắng.
Ngoài ra, Oliver Tambo, lãnh tụ của ANC đang hoạt động bên ngoài đã biết về sự đối thoại đang diễn ra giữa Mandela và chính quyền, và đã đặt ra cho Mandela nhiều câu hỏi. Để các lãnh đạo ANC bên ngoài an tâm, trong một tin nhắn bí mật cho Oliver Tambo, Mandela xác định việc đàm phán thật sự chỉ diễn ra giữa ANC và chính quyền da trắng chứ không phải giữa ông ta và chính quyền da trắng.
Các buổi thảo luận bí mật diễn ra nhiều lần giữa Mandela và ủy ban tổng thống. Vào thời điểm quan trọng này, Nelson Mandela xét thấy cần phải hội ý với các lãnh đạo MK đang bị tù với ông và hiện đang bị giam giữ ở tầng trên. Ông gặp riêng từng người và tất cả đều không chống đối phương pháp đàm phán nhưng đồng thời cũng không tin tưởng hoàn toàn nơi thiện chí của nhà cầm quyền da trắng.
Ngoài ra, Oliver Tambo, lãnh tụ của ANC đang hoạt động bên ngoài đã biết về sự đối thoại đang diễn ra giữa Mandela và chính quyền, và đã đặt ra cho Mandela nhiều câu hỏi. Để các lãnh đạo ANC bên ngoài an tâm, trong một tin nhắn bí mật cho Oliver Tambo, Mandela xác định việc đàm phán thật sự chỉ diễn ra giữa ANC và chính quyền da trắng chứ không phải giữa ông ta và chính quyền da trắng.
Ngày 4 tháng Bảy năm 1989, Nelson Mandela bí
mật được đưa đi gặp tổng thống Nam Phi P. W. Botha tại dinh tổng thống vào lúc
5:30 sáng. Trong buổi hội kiến ngắn chưa đầy 30 phút, Nelson Mandela yêu cầu
tổng thống Botha trả tự do cho tất cả tù chính trị Nam Phi trong đó có cả ông.
Tổng thống Botha từ chối. Tuy nhiên, không đầy một tháng sau, Botha từ chức tổng
thống Cộng Hòa Nam Phi và quyền lãnh đạo quốc gia được trao qua de Klerk. Tháng
mười cùng năm, de Klerk tuyên bố trao trả tự do cho bảy lãnh tụ cao cấp của
ANC.
Tháng Chạp cùng năm, tổng thống de Klerk mời
Mandela hội kiến. Trong dịp này, Nelson Mandela nhắc lại các đòi hỏi tiên quyết
trong đó bao gồm việc hủy bỏ luật ngăn cấm ANC hoạt động, trả tự do cho tất cả
tù chính trị còn lại, hủy bỏ luật tình trạng khẩn cấp quốc gia, cho phép các
lãnh tụ đảng phái chính trị đang lưu vong trở về nước.
Mandela lưu ý tổng thống de Klerk, nếu chính phủ Nam Phi không làm được những điều đó, một mai khi được trả tự do, Nelson Mandela tại tiếp tục tranh đấu như trước và chẳng lẽ chính phủ da trắng lại bắt giam, kết án và tù đày ông như hai mươi bảy năm trước đó hay sao.
Mandela lưu ý tổng thống de Klerk, nếu chính phủ Nam Phi không làm được những điều đó, một mai khi được trả tự do, Nelson Mandela tại tiếp tục tranh đấu như trước và chẳng lẽ chính phủ da trắng lại bắt giam, kết án và tù đày ông như hai mươi bảy năm trước đó hay sao.
Ngày 2 tháng Giêng năm 1990, Tổng thống F. W.
de Klert trong diễn văn lịch sử đọc trước quốc hội Nam Phi tuyên bố hủy bỏ chính
sách phân biệt chủng tộc và đặt nền tảng cho cải cách dân chủ tại Nam Phi. Nói
chung, tổng thống de Klerk đã thực hiện hầu hết các điều khoản do Mandela yêu
cầu trong lần gặp gỡ trước đó. Lần đầu tiên trong 30 năm, hình ảnh và các lời
tuyên bố của Nelson Mandela được công khai trưng bày trong dân chúng.
Ngày 10 tháng Giêng sau đó, de Klerk mời
Nelson Mandela gặp lần nữa và thông báo chính phủ sẽ đưa ông về lại Johannesburg
và trao trả tự do cho ông tại đó vào ngày hôm sau. Nelson Mandela từ chối việc
được trả tự do tại Johannesburg và cũng không muốn được trả sớm như vậy.
Trong suốt 27 năm tranh đấu để được tự do, không bên nào nghĩ cuối cùng việc trả tự do ở đâu lại trở thành vấn đề tranh cãi. Cả Mandela lẫn nhà cầm quyền cũng không ngờ có một ngày bên chính phủ muốn thả tự do cho tù nhân Mandela nhưng chính tù nhân Mandela lại muốn ở thêm một tuần lễ nữa. Cuối phiên họp, mỗi bên nhượng bộ một phần. Nelson Mandela sẽ ra khỏi cổng nhà tù ông đang ở nhưng không thể ở lại thêm ngày nào khác.
Trong suốt 27 năm tranh đấu để được tự do, không bên nào nghĩ cuối cùng việc trả tự do ở đâu lại trở thành vấn đề tranh cãi. Cả Mandela lẫn nhà cầm quyền cũng không ngờ có một ngày bên chính phủ muốn thả tự do cho tù nhân Mandela nhưng chính tù nhân Mandela lại muốn ở thêm một tuần lễ nữa. Cuối phiên họp, mỗi bên nhượng bộ một phần. Nelson Mandela sẽ ra khỏi cổng nhà tù ông đang ở nhưng không thể ở lại thêm ngày nào khác.
Lúc 3:30 chiều ngày 11 tháng Giêng năm 1990,
Nelson Mandela bước ra khỏi cổng nhà tù cuối cùng Victor Verster giữa rừng người
đang hân hoan chờ đợi.
Trần Trung Đạo
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 341
RADOSLAW OMACHEL * KHÍ ĐỐT NGA
South Stream: Thất bại của nền ngoại giao khí đốt Nga
Thu, 12/04/2014 - 01:40 — ledienduc
Radosław Omachel và Michał Kacewicz (*) - Lê Diễn Đức dịch
Việc thực hiện kế hoạch chiến lược xây dựng hai đường ống khổng lồ - North Stream và South Stream - đóng bê tông trong nhiều thập kỷ trên thị trường khí đốt châu Âu và sư gia tăng áp lực ngày càng tăng về Ukraina, đang rõ ràng đi ra xa.
Đình chỉ các dự án xây dựng đường ống dẫn khí đốt South Stream là một thất bại của chính sách ngoại giao của Kremlin. Mặc dù Gazprom thực tế đã thông báo rằng, thay vì South Stream, sẽ đặt một đường ống có cùng công suất (63 tỷ m3 mỗi năm) tới Thổ Nhĩ Kỳ với khả năng mở rộng nó tới Hy Lạp và Italy. Hiện tại đây mới chỉ là điều trừu tượng. Gazprom thiếu tiền, Liên minh châu Âu (EU) đã hiệu quả ngăn chặn tham vọng độc quyền, còn tại Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu xây dựng một đường ống với sự hỗ trợ của EU.
Với 63 tỷ m3 khí đốt thay thế đường ống dẫn khí South Stream bằng đường South Stream Blue (tên này xuất hiện ngày hôm nay trên báo chí Nga). Thổ Nhĩ Kỳ chỉ chấp nhận 14 tỷ m3. Việc xây dựng một đường ống c1o công suất mạnh hướng tới châu Âu sẽ chỉ có ý nghĩa nếu Gazprom đồng ý tôn trọng gói năng lượng thứ ba của EU. Trong đó nói rằng, ngoài những thứ khác, chủ nhân của các đường ống dẫn không thể là người cung cấp khí đốt cũng như các công ty con của nó. Đây là chính là sự không tương thích của các dự án South Stream với luật chống độc quyền của EU. EU buộc Bulgaria phải ngăn chặn việc xây dựng đường ống dẫn.
Tất nhiên, cũng còn lý do khác. Gazprom không có tiền cho việc đầu tư tốn kém. Tín dụng của ngân hàng Đức do chính phủ bảo lãnh cho North Stream được đưa ra từ ekíp của Gerhard Schroeder. Giờ đây, ít nhất vì những biện pháp trừng phạt, đã không còn khả năng hợp tác này. Giai đoạn đầu tiên của South Stream, được xây dựng bởi Gazprom ở Nga, chi phí quá đắt đỏ. Một km đường ống ở Nga, nằm trên cac khu vực địa lý bằng phẳng, đắt hơn nhiều lần đường ống dẫn khí được xây dựng ở vùng núi châu Âu.
Báo Nga viết hôm nay rằng việc đình chỉ xây dựng South Stream về tổng thể không có vấn đề gì, bởi vì công suất chạy ở dưới đáy biển Baltic của North Stream mạnh đến mức mà Gazprom có thể cho một phần qua Ukraine hôm nay chạy qua Stream North và bằng con đường qua Đức để cung cấp cho Cộng hòa Séc, Áo và Hungary. Thế nhưng, một lần nữa, lại vấp vào gói năng lượng thứ ba. Khí đốt từ North Stream sẽ được vận chuyển cho phía Nam qua đường ống như Opal (của Đức, chạy dọc biên giới Ba Lan). Trong thực tế, Gazprom không cần phải sử dụng ống này, nhưng EU đã cho Nga một ngoại lệ, và đồng ý việc sử dụng nó, nhưng chỉ một nửa. Các cuộc đàm phán về công suất đầy đủ bị đông lạnh từ tháng Ba, sau cuộc xâm chiếm Crimea. Đó là lý do tại sao ngày hôm nay, Gazprom không có khả năng tránh Ukraine trong vận chuyển khí đốt qua phương Tây.
http://www.rfavietnam.com/node/2321
---------------------------------------------------------------------------
(*): Bài được dịch từ nguyên bản tiếng Ba lan đăng trên tuần báo Nwesweek Ba lan, ngày 3 tháng 12 năm 2014, của Radosław Omachel tại link: http://opinie.newsweek.pl/rezygnacja-z-budowy-gazociagu-south-stream-porazka-putina-newsweek,artykuly,352857,1.html#opinieSG, và Michał Kacewicz tại link: http://opinie.newsweek.pl/south-stream-rosyjska-rura-skreca,artykuly,352910,1.html#opinieSG
Radosław Omachel và Michał Kacewicz (*) - Lê Diễn Đức dịch
Việc thực hiện kế hoạch chiến lược xây dựng hai đường ống khổng lồ - North Stream và South Stream - đóng bê tông trong nhiều thập kỷ trên thị trường khí đốt châu Âu và sư gia tăng áp lực ngày càng tăng về Ukraina, đang rõ ràng đi ra xa.
Đình chỉ các dự án xây dựng đường ống dẫn khí đốt South Stream là một thất bại của chính sách ngoại giao của Kremlin. Mặc dù Gazprom thực tế đã thông báo rằng, thay vì South Stream, sẽ đặt một đường ống có cùng công suất (63 tỷ m3 mỗi năm) tới Thổ Nhĩ Kỳ với khả năng mở rộng nó tới Hy Lạp và Italy. Hiện tại đây mới chỉ là điều trừu tượng. Gazprom thiếu tiền, Liên minh châu Âu (EU) đã hiệu quả ngăn chặn tham vọng độc quyền, còn tại Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu xây dựng một đường ống với sự hỗ trợ của EU.
Với 63 tỷ m3 khí đốt thay thế đường ống dẫn khí South Stream bằng đường South Stream Blue (tên này xuất hiện ngày hôm nay trên báo chí Nga). Thổ Nhĩ Kỳ chỉ chấp nhận 14 tỷ m3. Việc xây dựng một đường ống c1o công suất mạnh hướng tới châu Âu sẽ chỉ có ý nghĩa nếu Gazprom đồng ý tôn trọng gói năng lượng thứ ba của EU. Trong đó nói rằng, ngoài những thứ khác, chủ nhân của các đường ống dẫn không thể là người cung cấp khí đốt cũng như các công ty con của nó. Đây là chính là sự không tương thích của các dự án South Stream với luật chống độc quyền của EU. EU buộc Bulgaria phải ngăn chặn việc xây dựng đường ống dẫn.
Tất nhiên, cũng còn lý do khác. Gazprom không có tiền cho việc đầu tư tốn kém. Tín dụng của ngân hàng Đức do chính phủ bảo lãnh cho North Stream được đưa ra từ ekíp của Gerhard Schroeder. Giờ đây, ít nhất vì những biện pháp trừng phạt, đã không còn khả năng hợp tác này. Giai đoạn đầu tiên của South Stream, được xây dựng bởi Gazprom ở Nga, chi phí quá đắt đỏ. Một km đường ống ở Nga, nằm trên cac khu vực địa lý bằng phẳng, đắt hơn nhiều lần đường ống dẫn khí được xây dựng ở vùng núi châu Âu.
Báo Nga viết hôm nay rằng việc đình chỉ xây dựng South Stream về tổng thể không có vấn đề gì, bởi vì công suất chạy ở dưới đáy biển Baltic của North Stream mạnh đến mức mà Gazprom có thể cho một phần qua Ukraine hôm nay chạy qua Stream North và bằng con đường qua Đức để cung cấp cho Cộng hòa Séc, Áo và Hungary. Thế nhưng, một lần nữa, lại vấp vào gói năng lượng thứ ba. Khí đốt từ North Stream sẽ được vận chuyển cho phía Nam qua đường ống như Opal (của Đức, chạy dọc biên giới Ba Lan). Trong thực tế, Gazprom không cần phải sử dụng ống này, nhưng EU đã cho Nga một ngoại lệ, và đồng ý việc sử dụng nó, nhưng chỉ một nửa. Các cuộc đàm phán về công suất đầy đủ bị đông lạnh từ tháng Ba, sau cuộc xâm chiếm Crimea. Đó là lý do tại sao ngày hôm nay, Gazprom không có khả năng tránh Ukraine trong vận chuyển khí đốt qua phương Tây.
Trong tình hình này dễ dàng hơn để hiểu tại sao nhà cung cấp khí đốt
khổng lồ của Nga có kế hoạch mở rộng đường ống Yamal chạy qua Ba Lan. Về
khả năng này được nói trên tạp chí nội bộ bởi người đứng đầu chi nhánh
của Gazprom ở Belarus, Vladimir Mayorov. Ông ta nói rằng hiện tại đường
ống Yamal chạy hết công suất và có thể mở rộng, để có thể cung cấp nhiều
khí cho khách hàng cuối cùng Ba Lan và Đức.
Đình chỉ dự án South Stream và đóng băng Opal không chỉ là tín hiệu
tiêu cực đối với Gazprom. Vài ngày trước, người khổng lồ hóa dầu của Anh
BP gia nhập tập đoàn xây dựng đường ống dẫn TANAP. Đường ống này sẽ dẫn
khí từ Azerbaijan đến Thổ Nhĩ Kỳ (ban đầu là 16 tỷ m3), với các phương
án tùy chọn để mở rộng và kéo dài tới châu Âu. Cuộc tranh đua này có ý
nghĩa đối với đường ống Blue Stream, với sự khác biệt, là trái ngược
với các kế hoạch của Gazprom, TANAP nhận được yểm trợ của Liên minh châu
Âu. Sẽ sẵn sàng vào năm 2018.
Hơn nữa, các nhà lãnh đạo Iran cũng mơ kết nối với dự án TANAP.
Iran, đối tác với Qatar, gần đây đã bắt đầu sản xuất khí đốt từ mỏ Bắc
Pars. Đây là khu vực khí đốt lớn nhất trên trái đất đến nỗi nó có thể
đáp ứng nhu cầu ở châu Âu trong nhiều thập kỷ. Người Iran muốn chuyển
khí đốt sang châu Âu. Nhưng hôm nay họ bị ngăn chặn bởi lệnh trừng phạt
Iran về chương trình hạt nhân. Thảo luận về việc đình chỉ hoặc nới lỏng
sự trừng phạt với việc từ bỏ tham vọng hạt nhân của Iran vẫn đang tiếp
tục.
Tại sao Putin đổi châu Âu qua Thổ Nhĩ Kỳ?
Hôm thứ hai, Thổ Nhĩ Kỳ tiếp đón nồng nhiệt Vladimir Putin ở Ankara.
Nó gần giống như trong những ngày Sultan, đầy đủ các nghi thức, thực sự
phương đông, nghi lễ rộng mở, nội thất khổng lồ của dinh tổng thống mới
Recep Erdogan. Chủ nhà Thổ Nhĩ Kỳ dường như đã làm tất cả để bù đắp cho
không khí lạnh nhạt dành cho Putin trong hội nghị thượng đỉnh G20 gần
đây tại Brisbane.
Nhưng không phải lễ đón tiếp làm dịu nỗi đau của Tổng thống Nga trong
quan hệ ngày càng xấu đi với phương Tây. Tại Ankara Putin công bố một
kỷ nguyên mới trong chính sách năng lượng của Nga, là nền tảng của chính
sách đối ngoại của Nga nói chung. Ông thay đổi từ châu Âu sang Thổ Nhĩ
Kỳ. Sự lệ thuộc khí đốt của miền nam châu Âu chuyển qua việc xuất khẩu
khí đốt cho một quốc gia có tham vọng cường quốc trong khu vực và muốn
trở thành một tay chơi độc lập, với phương Tây và Nga.
- Nga rút dự án xây dựng các South Stream - Putin công bố. South
Stream là dự án hàng đầu trong nhiều thập kỷ của Gazprom. Cũng giống như
North Stream trên biển Baltic, nhằm bổ sung cho hành lang khí đốt chạy
qua Belarus và Ukraine. Với thời gian có thể là một khả năng thay thế.
Được ghi trong kế hoạch đế chế Gazprom: tăng xuất khẩu khí đốt sang châu
Âu, không phụ thuộc vào tình hình chính trị khó đoán trước tại Ukraina,
giành áp lực lên Kiev, bao gồm cả việc ngưng cung cấp khí đốt.
Nó cũng là một yếu tố của sự phục hồi ảnh hưởng kinh tế và chính trị
tại miền nam châu Âu. Nhưng sau North Stream trước viễn cảnh kinh hoàng
của Nga mở rộng, châu Âu bắt đầu bảo vệ mình. Và gây áp lực, đặc biệt
lên một thành viên trẻ nhất của cộng đồng, Bulgaria. Đồng thời là quốc
gia chính cho dự án (ý tưởng đặt đường ống dẫn dưới Biển Đen mà không
tiếp tục đi từ bờ biển của Bulgaria tới vùng Balkan sẽ không còn ý
nghĩa). Người ta đã đặt Sofia trước một lựa chọn đơn giản: bạn đang ở
trong Liên minh, nhưng bạn có muốn tiếp tục trong Liên minh không?
Vladimir Putin mỉa mai nói đây là sự tống tiền và kết luận rằng Bulgaria
không hoàn toàn độc lập. Dưới áp lực từ châu Âu, Bulgaria rút khỏi dự
án, do đó South Stream bị chìm xuồng.
Putin ở Ankara đã đổ mọi trách nhiệm về sự thất bại của dự án cho
châu Âu và Bulgaria nói riêng. Câu chuyện South Stream bị chìm xuồng đã
được biết đến từ lâu. Thứ nhất, dự án đã đưa mức chi phí gia tăng (ước
tính lên đến 25 mld đôla). Thứ hai, sự suy giảm nhu cầu tiêu thụ khí
đốt. Thứ ba, không khí chính trị ngày càng xấu đi đã dồn nước Nga vào
chân tường, như một đối tác không thể tiên liệu và hung hăng. Và kể từ
cuộc chiến ở Ukraine, là nguy hiểm, và bị bao vây bởi sự trừng phạt của
châu Âu. Không ai ngờ rằng dự án sẽ bị ngưng lại. Kể cả Putin là trước
hết.
Chắc chắn bây giờ ông ta có nhiều khó khăn tài chính hơn để đầu tư
vào các dự án địa chính trị như đường ống dẫn qua Biển Đen. Tuy nhiên,
một vấn đề quan trọng được đặt ra. Làm gì với khí đốt? Sự thặng dư không
thể chỉ đơn giản là lưu giữ trong kho vô thời hạn. Khí đốt là nguyên
liệu đòi hỏi sự tiếp nhận bảo đám. Trong khi ngân sách của Liên bang Nga
đòi hỏi xuất nhiều hơn nữa. Do đó, điều thứ hai, quan trọng hơn từ việc
South Stream chìm xuồng, là thông tin từ Thổ Nhĩ Kỳ cho Putin. Nga
thiết lập xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ. Có khả năng là sẽ mở rộng đường ống
"Blue", đưa khí đốt tới Thổ Nhĩ Kỳ. Xuất khẩu không hoàn toàn bù đắp
cho các kế hoạch bán khí đốt qua South Stream (thậm chí 63 tỷ mét
khối.). Nhưng quan trọng hơn ở đây là sự di chuyển con cờ trên bàn cờ
địa chính trị.
Thay đổi đường ống dẫn khí đốt của miền nam nước Nga từ châu Âu sang
Thổ Nhĩ Kỳ có nghĩa rằng Moscow sẽ ngày càng muốn ve vãn Erdogan đang có
khuynh hướng đi theo một chế độ chuyên chế mềm mỏng. Hiện tại cán cân
thương mại tăng, người Thổ Nhĩ Kỳ đầu tư rất nhiều ở Nga và không tham
gia các biện pháp trừng phạt của phương Tây. Putin đã khéo léo tận dụng
từ Erdogan chính sách độc lập, tham vọng của đế quốc trong khu vực và sự
oán giận của Thổ Nhĩ Kỳ nhiều năm đứng trong phòng chờ gia nhập EU. Tất
nhiên, vẫn còn rất nhiều vấn đề. Chẳng hạn như Moscow vẫn hỗ trợ mạnh
mẽ cho chế độ Syria của Assad là kẻ thù của Ankara.
Nhưng đây không phải là những vấn đề không thể giải quyết. Nga mất
thị trường khí đốt châu Âu, sẽ không tái diễn ở phía nam những cái khó
từ biển Baltic, nhưng đang dần đạt được điều quan trọng, một đồng minh
dù khó khăn - Thổ Nhĩ Kỳ. Bởi vì Ankara sẽ không bao giờ là những gì Nga
muốn. Là một đồng minh trung thành trong khu vực, gây khó cho chính
sách của châu Âu và Mỹ. Tất nhiên, Thổ Nhĩ Kỳ là một tay chơi độc lập,
nhưng đủ kết nối với phương Tây để loại bỏ chính sách hung hăng của
Putin. Do đó, bất chấp tiếng ồn thành công với Thổ Nhĩ Kỳ trong một hợp
đồng bao phủ sự cay đắng từ thất bại của South Stream, Putin thực sự có
khuôn mặt tốt trong một trò chơi xấu. Thỏa thuận khí đốt với Thổ Nhĩ Kỳ
bằng cách nào đó loại bỏ thất bại hoàn toàn ở phía nam. Nhưng kế hoạch
của đế chế trên Biển Đen có lẽ không tiến triển khá hơn.
Dự án South Stream chìm xuống cũng là nghịch lý, không phải là tin
tức tốt nhất cho Ukraine. Bởi vì có nghĩa là hành lang vận chuyển khí
đốt qua Ukraina sẽ tiếp tục rất quan trọng đối với Nga. Do đó Ukraine
vẫn sẽ giữ vai trò quan trọng đối với Gazprom. Khí đốt của Nga sẽ đầu
độc chính sách tham nhũng bám rễ của Ukraine và nắm giữ bên mình một số
tài phiệt chính trị Ukraina.
Bản Việt ngữ © Lê Diễn Đứchttp://www.rfavietnam.com/node/2321
---------------------------------------------------------------------------
(*): Bài được dịch từ nguyên bản tiếng Ba lan đăng trên tuần báo Nwesweek Ba lan, ngày 3 tháng 12 năm 2014, của Radosław Omachel tại link: http://opinie.newsweek.pl/rezygnacja-z-budowy-gazociagu-south-stream-porazka-putina-newsweek,artykuly,352857,1.html#opinieSG, và Michał Kacewicz tại link: http://opinie.newsweek.pl/south-stream-rosyjska-rura-skreca,artykuly,352910,1.html#opinieSG
TƯỞNG NĂNG TIẾN * CẦU HỒ LƯƠNG
Chiếc Cầu Qua Sông Hố Lương
Thu, 12/04/2014 - 00:55 — tuongnangtien
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Lênh đênh muôn dặm
nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh
“Bèo” - Phùng Cung
Lênh đênh muôn dặm
nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh
“Bèo” - Phùng Cung
Năm 2007 nhiếp ảnh gia Nghi Thanh đi qua một chuyến phà (ở Neak
Loeung, tên Việt: Hố Lương) và ống kính chuyên nghiệp của ông
đã ghi lại hình ảnh của một thiếu nữ bán soài vô cùng sống
động và sắc nét, cùng với đôi lời chú giải – bằng Anh Ngữ –
về địa phương này:
Ảnh: Nghi Thanh
“This is Neak Luong or Phumĭ Prêk Khsay, a little town belongs to Prey Veng ('long forest'
in Khmer), one of the poorest provinces in Cambodia, prone to both
floods and droughts. The province, situated near the Vietnamese border,
was one of the most heavily bombed during the Vietnam War.”
[Đây là Neak Luong hay còn gọi là Phumĭ Prêk Khsay, một
thành phố nhỏ thuộc Prey Veng (nghĩa là ‘rừng dài” theo tiếng
Khmer), nơi nghèo nhất Cambodia, thường bị cả lụt lội lẫn hạn
hán. Thị trấn này nằm gần biên giới Việt, là một trong những
nơi chịu bom đạn nặng nề nhất vào thời chiến tranh Việt nam.]
Sáu năm sau, phóng viên Thanh Trúc cũng đã dừng chân ở nơi đây, và ghi lại một bài phóng sự ngắn (“Những Mảnh Đời Trôi Nổi Của Người Việt Ở Hố Lương”) với hơi nhiều xúc cảm:
“Tại Hố Lương, nhiều người Việt Nam, bây giờ được gọi là người Khmer
gốc Việt, tuy đã sống ở chốn này gần bốn năm thế hệ nhưng mãi vẫn là
những người gạo chợ nước sông, không có giấy tờ cũng không có quốc tịch.
Nghèo và không có tương lai thì không thể tránh được chuyện đi khỏi
làng khỏi xóm để kiếm việc mà có khi lại rơi vào những cạm bẫy xã hội
vốn đầy dẫy bên ngoài, điển hình như những quán cà phê, sự thực là quán
gái, nơi rất chuộng các thiếu nữ Việt Nam...
Cuộc sống của người Việt ở Kampuchia, hoặc người Miên gốc Việt ở Xứ
Chùa Tháp, những người không có quốc tịch, không có giấy tờ, không có
đất đai, là cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt, chẳng có lối để thoát ra hay
vươn lên khỏi cảnh túng đói.”
Nhà của người Việt, tại ấp 6, Hố Lương. Ảnh: Sovanrith
Hố Lương nằm bên dòng Bassac, thượng nguồn của Tiền Giang, tuy
chỉ cách Nam Vang chừng hơn hơn một giờ xe nhưng lại rất xa khu
du lịch quen thuộc Đế Thiên – Đế Thích nên du khách không mấy ai
lui tới. Tôi lò dò đến đây vào cuối năm 2014, và nhận ra rằng
cuộc sống của đồng bào mình hoàn toàn không có gì thay đổi:
“... vẫn đơn điệu, tẻ nhạt, chẳng có lối để thoát ra hay vươn lên khỏi
cảnh túng đói.”
Ngoại trừ những thanh niên thiếu nữ có thể lên thủ đô Nam
Vang làm thuê, làm mướn, phụ hồ, phụ bàn, khuân vác, chạy xe
ôm, bán quán cà phê (và đôi khi cũng phải bán thân luôn) còn
người già và trẻ con ở Neak Loeung thì chỉ còn có cách mưu
sinh là đi ăn xin hay bán hàng rong trên những chuyến phà – qua
lại hàng ngày – ở khúc sông này.
Phà qua sông Hố Lương. Ảnh: NCB
Nhìn những cụm hoa lục bình tim tím, lơ lửng trên dòng nước đục
màu phù sa, dưới ánh nắng vàng rực, giữa hai bờ cỏ dại xanh um –
ngút xa tầm mắt – ở bến sông Hố Lương khiến tôi không dưng mà
chợt nhớ đến hình ảnh an vui nơi Bắc Mỹ Thuận, vào những
tháng ngày xa xưa cũ:
Trong lúc cả đoàn xe xếp hàng dài, chờ đến luợt xuống phà, hành khách
tấp nập ra vào những quán ăn nằm san sát bên đường. Không khí thơm lừng
mùi gà nuớng, tôm nướng, heo nướng, bò nướng, cá nướng, chuột nướng… Không gian tươi tắn màu sắc của đủ loại trái cây quen thuộc, của miền Nam: khóm, mận, ổi, nhãn, soài, măng cụt, sầu riêng, chôm chôm, vú sữa, sa pô chê, cam, quýt …
Duới phà chen lẫn với hành khách là những em bé bán hàng rong: xôi vị, cốm dẹp, bánh bèo nước
dừa, bánh tằm bì, chuối nướng, chè đậu, gỏi gà, cháo vịt, nem nướng,
chả chiên, mía hấp, bì cuốn, bún mắm, chả giò, đậu phụng, cà rem, trà
đá, ốc gạo hấp lá gừng, ốc leng xào dừa, chim mía rô ti…
Ảnh:wordpress.com
Bến phà Hố Lương chiều nay tuy cũng an bình nhưng không nhộn
nhịp và không có được cái sắc thái, cũng như sắc màu, phong
phú và tươi vui như Mỹ Thuận năm nào. Anh bạn đồng hành, dân
bản xứ, chỉ vào đám đông đang lao nhao vây quanh những chiếc xe
chở khách:
- They’re all Vietnamese! Họ đều là người Việt!
Dù đã sống hơn nửa đời tha phương cầu thực, qua rất nhiều
nơi, tôi chưa bao giờ thấy đồng hương của mình trong tình cảnh
nhếch nhác, khốn cùng, và thảm thương đến thế. Tháng trước,
nơi khu Phố Đèn Đỏ Geyleng
(ở Singapore) tôi cũng có gặp năm bẩy phụ nữ Việt Nam đi xin
tiền – với phương cách vô cùng lịch sự: họ đi lanh quanh bên
những bàn ăn chào mời thực khách mua giấy chùi miệng.
Thực khách ở Singapore không ai cần đến dịch vụ thừa thãi
này nhưng họ vẫn vui vẻ (và tế nhị) chia sẻ vài đồng tiền lẻ
với những kẻ không may ở nước láng giềng, qua hình thức
bán/mua.
Singapore là một đảo quốc giầu có, với lợi tức bình quân
đầu người hàng năm cao nhất nhì thế giới. Người dân bản xứ
không ai phải đi bán hàng rong hoặc đi xin ăn nên họ “nhường” công
việc này cho những người Việt tha hương, ở bước đường cùng.
Lợi tức bình quân hàng năm của người dân Cambodia thì ngược
lại: thấp nhất nhì thế giới. Có thể vì cái khó nó bó cái
khôn nên chính phủ của đất nước này không được bao dung gì cho
lắm.
Theo tường trình của Minority Rights Organization (“The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia”)
đọc được vào hôm 19 tháng 3 năm 2014 thì có khoảng năm phần
trăm, hay 750.000 người gốc Việt đang sinh sống ở Cambodia (sắc
dân thiểu số đông nhất ở đất nước này) và phần lớn bị coi là
những kẻ vô tổ quốc nên họ bị tước đoạt tất cả những quyền
lợi căn bản.
Không quốc tịch, không khai sinh, không căn cước ... nghĩa là
không có quyền sở hữu đất đai, tài sản, không được quyền tiếp
cận với bất cứ dịch vụ căn bản nào về xã hội, giáo dục, hay
y tế.
Bị kỳ thị là chuyện phổ biến xẩy ra cho tất cả những nhóm
dân bản địa hay thiểu số, ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên, tình
trạng này thường chỉ xẩy ra ở bình diện cá nhân – at personal level.
Không luật pháp của xứ sở nào có thể ngăn cấm hay xử phạt
sự thù ghét, khinh miệt giữa kẻ này và người nọ nếu những
tình cảm tiêu cực này chưa được bầy tỏ qua ngôn ngữ hay hành
động.
Còn ở bình diện thể chế, institutional level, Công
Ước Quốc Tế về “xoá bỏ mọi hình thức kỳ thị chủng tộc”
được hầu hết mọi quốc gia ký kết. Cambodia cũng “ký” nhưng chỉ
“ký” chơi thôi!
Bởi vậy, dân Việt ở xứ Chùa Tháp bị đẩy vào cảnh khốn
cùng là chuyện ... tất nhiên. Tôi cũng đã bưng xề đi bán hàng
bánh tiêu trong một thời gian không ngắn (ở chợ Nhà Lồng và
bến xe Rạch Giá, hồi năm 1979) và cũng suýt trở thành ăn mày –
đôi bận – nên khó giữ được cho lòng bình thản trước cảnh
thương tâm mà nhìn thấy chiều nay, nơi bến sông này.
Giữ im lặng hay lắc đầu trước một lời van xin của một người
ngoại quốc – nói tình ngay, và nói với ít nhiều xấu hổ –
vẫn dễ hơn là nói “không” với những đồng bào cùng khổ, nhất
là giữa cảnh sông nước bao la, nơi đất khách quê người.
Tuy nhiên, tôi biết chắc rằng mình chỉ cần hỏi nhỏ một đứa
bé ăn xin một câu thôi (“Con là người Việt phải không?”) và nó
gật đầu là tôi sẽ ôm cháu bé vào lòng rồi vỡ òa lên khóc.
Tôi sẽ móc hết đồng bạc cuối cùng cho nó, rồi sẽ bị bao vây
bởi hàng trăm người đồng hương khác, và chưa chắc đã rời khỏi
được bến phà này.
Nhìn nét mặt bỗng khác thường khiến cho người đồng hành ái ngại:
- Don’t do stupid thing, man. Đừng có làm cái gì lố bịch nha, cha nội. Không có mày họ vẫn sống đấy thôi, và họ đã sống như vậy từ bao lâu nay rồi mà.
Có điều là anh bạn, cũng như chính tôi (ngay lúc đó) không
hề biết rằng những chuyến phà qua sông Hố Lương đang sắp sửa đi
vào ... lịch sử. Rồi ra, chúng sẽ cũng cùng chung số phận –
hẩm hiu – y như những chiếc phà ở sông Tiền Giang năm nào, theo
như thông tin mà tôi vừa tiếp cận sáng nay:
Amount: $131 million
Grant from: Japan
Start: late 2010
Finish: February 2015
Length: 2210 m
Width: 13.5 m
High: 37.5 m
Cầu Neak Loeung sắp hoàn thành. Ảnh: Sovanrith
Khi công trình kiến trúc trị giá 131 triệu Mỹ Kim này hoàn
tất (vào tháng hai năm 2015) chắc chắc lưu thông sẽ dễ dàng và
thông thoáng hơn nhiều. Điều chắc chắn không kém là giá thành
của nhiều sản phẩm trong vùng sẽ hạ, và hành khách sẽ tiết
kiệm được rất nhiều thời gian vì khỏi phải chờ phà. Chỉ duy
có điều không ai dám chắc là cuộc đời vốn đã bấp bênh của
không ít người dân Việt (ở Hố Lương) rồi sẽ ra sao – trong những
ngày tháng tới?
Lênh đênh muôn dặm
nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh
nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh
TRÚC GIANG * TRUNG QUỐC TÀN ÁC
TRUYỀN THỐNG TÀN BẠO VÀ DÂM ĐÃNG CỦA NGƯỜI TRUNG HOA
Xe tăng nghiền nát sinh viên ởThiên An Môn năm 1989
Trúc Giang MN
1* Mở bài
Người Trung Hoa có một truyền thống lâu đời về dâm đãng và tàn bạo trong lịch sử loài người. Các hoàng đế thường có tới 3,000 cung phi mỹ nữ, mục đích là để phục vụ tình dục cho nhà vua. Vua chúa đi tìm thuốc trường sinh, thuốc kích dục, cường dâm để sống lâu hành lạc.
Từ thời vua Trụ cho đến Mao Trạch Đông cho thấy tính dâm đãng và tàn bạo của người Trung Hoa.
Người đàn bà nổi tiếng đa dâm , tàn bạo trong lịch sử nước Tàu là Võ Tắc Thiên và sau nầy là Giang Thanh.
1. CHI TIẾT
1* Võ Tắc Thiên dâm đảng và tàn bạo
1.1. Võ Tắc Thiên tàn bạo
Võ Tắc Thiên tên thật là Võ Chiếu, sinh ngày 17-7-625, là nữ hoàng duy
nhất của TH. Tự xưng là Thánh Thần Hoàng Đế, trị vì 15 năm (690-705).
Vào hậu cung thời Đường Thái Tông (Lý Thế Dân). Lý Thế Dân là con của Lý Uyên, đã giết anh ruột, em ruột và ép buộc vua cha phải nhường ngôi.
Vào hậu cung thời Đường Thái Tông (Lý Thế Dân). Lý Thế Dân là con của Lý Uyên, đã giết anh ruột, em ruột và ép buộc vua cha phải nhường ngôi.
Phim bộ Hồng Kông Hoàng Hà Đại Phong Vân có nói về cuộc đời của Lý Thế Dân.
Võ Tắc Thiên được phong làm Tài Nhân, là một trong 9 người thiếp xếp hàng thứ năm của Lý Thế Dân. “Vợ” vua theo thứ tự từ trên xuống dưới là: Hoàng hậu, Hoàng phi, Thần phi, Chiêu nghi và Tài nhân.
Thời gian làm Tài nhân, Võ Tắc Thiên lại tư tình với con của Lý Thế Dân là Thái tử Lý Trị. Khi Lý Thế Dân mất, theo tục lệ thì Võ Tắc Thiên phải vào chùa xuống tóc đi tu.
Lý Trị lên ngôi, rước Võ Tắc Thiên về cung và phong làm Chiêu nghi. (Cấp thứ tư)
Việc nầy làm triều thần phản đối vì Võ Tắc Thiên là vợ của vua cha rồi lại làm thiếp của vua con.
Năm 654, Võ Tắc Thiên sinh con gái đầu lòng, hoàng hậu họ Vương đến thăm, sau khi Vương hoàng hậu ra về, thì Võ Tắc Thiên bóp mũi cho chết con mình để vu oan giá hoạ, khiến cho hàng hậu bị phế bỏ. Võ Tắc Thiên được phong lên làm Thần phi rồi Hoàng hậu. Võ hậu.
Võ hậu lại giết Vương hoàng hậu và con gái của bà một các dã man để trừ hậu hoạn.
Năm 660 Lý Trị bị trúng gió đột quỵ. Thế là Võ Tắc Thiên tham gia triều chính cùng với Lý Trị ở sau rèm, gọi là Nhị Thánh lâm triều.
Võ hậu lấn quyền, quyết định mọi việc, khiến cho Lý Trị bất mãn, ngầm ra lịnh cho Thượng Quan Nghi truất phế. Việc bại lộ, Võ Tắc Thiên đem giết Thượng Quan Nghi.
Sau đó, Võ hậu lại giết Lý Trung là con của Lý Trị với một cung phi khác, để đưa con của mình với Lý Trị là Lý Hoằng lêm làm Thái tử, là người sẽ lên nối ngôi vua cha.
Sau đó lại phế Lý Hoằng, đưa con thứ hai là Lý Hiền lên làm thái tử, rồi lại giáng Lý Hiền, đưa con thứ ba là Lý Hiển lên làm thái tử.
Năm 683, Lý Trị băng hà, Lý Hiển lên ngôi, là Đường Trung Tông. Nhưng một tháng sau, Võ hậu lại phế Lý Hiển, đưa Lý Đán lên làm vua, là Đường Duệ Tông.
Những năm tiếp theo, bà lần lượt loại trừ những con cháu họ Lý ra khỏi quyền lực và đưa các người cháu họ Võ của mình vào nắm quyền.
Tháng 9 năm 690, Võ hậu lên ngôi Hoàng đế, đổi quốc hiệu là Nhà Chu. Võ Chu.
Trung Hoa không có lệ cho phụ nữ làm vua, cho nên nhiều người chống đối. Bà lập ra cảnh sát mật, thẳng tay dập tắt mọi chống đối, giết hại rất nhiều người.
Võ Tắc Thiên cai trị bằng sự xảo quyệt tài tình, dối trá và vô cùng tàn bạo.
Năm 705, lúc 80 tuổi, Võ hậu cưng chiều 2 tên nô tài phục vụ tình dục là Trương Xương Tông và Trương Diệc Chi, 2 tên nầy lộng quyền cho nên Tể tướng Trương Giản Chi đem 500 quân vào hậu cung làm đảo chánh, giết chết 2 tên nô tài và ép Võ hậu phải nhường ngôi lại cho con là Lý Hiển.
Võ Tắc Thiên là người rất tàn bạo, dâm đãng. Đã giết con mình, giá hoạ cho Vương hoàng hậu để tranh giành địa vị. Bà sai chặt hết tay, chân của Vương hoàng hậu và đứa con gái rồi bỏ vào chum rượu ngâm, để họ chết từ từ trong đau đớn.
Võ hậu cũng giết Triệu Thục phi bằng cách đó. Thục phi nguyền rũa sẽ biến thành mèo, đêm đêm hiện về xé xác, cho nên Võ hậu sợ mèo, từ đó ai ai cũng biết.
1.2. Võ Tắc Thiên dâm đãng
80 tuổi vẫn còn sung sức bởi “thốc kê hoàn”
Đến những năm Võ Tắc Thiên quá tuổi trung niên, khả năng sinh lý đã giảm, bà cho vời ngự y đến để nghiên cứu tìm thuốc hồi xuân. Ngự y đã tìm và chế thuốc đem dâng, tâu rằng uống xong chỉ chốc lát là có thể hưởng lạc thú tuổi thanh xuân. Từ đó, ngày nào Võ hậu cũng dùng thuốc hồi xuân và hiệu quả thật bất ngờ.
Thời đó, quan Thái thú Lã Cung Đại đã 70 tuổi nhưng chưa có con vì bất lực. Ông đã dùng bài thuốc hồi xuân kể trên mà sinh được 3 con trai. Từ đó, ông không dùng nữa. Số thuốc còn lại, ông vứt ra vườn. Có con gà trống chạy đến mổ ăn sạch, ăn xong liền đi tìm gà mái đạp ngay, vừa đạp vừa mổ gà mái. Con gà trống dính liền trên lưng gà mái mấy ngày không xuống, làm “gà mái trọc cả đầu”. Vì thế, thuốc có tên là Thốc kê hoàn (thốc là trọc đầu
Thốc kê hoàn gồm các vị: Nhục thung dung, viễn chí, tục đoạn, mỗi thứ 40 g; ngũ vị tử 30 g, xà sàng tử 25 g, chỉ thực 25 g. Tất cả tán mịn, dùng dạng bột hoặc lấy nước gạo hòa tán nhuyễn làm viên dùng dần. Mỗi lần uống 12 g với nước nguội hòa ít rượu để dẫn thuốc nhanh. Uống buổi sáng lúc đói và buổi tối trước khi đi ngủ 1 tiếng.
Hoài Nghĩa.
Võ hậu được con gái là Thái Bình công chúa tiến cử một người lực lưỡng đã từng phục vụ cho mình, bắt giả làm nhà sư thường xuyên được gọi vào cung để thông dâm. Được Võ hậu cưng chiều, sủng ái, Hoài Nghĩa trở nên kiêu căng hống hách.
Trầm thái y
Võ hậu bị bịnh, Trầm thái y vào bốc thuốc. Trầm thái y dâng lên một phương thuốc kích dục rất có công hiệu. Võ hậu bắt ông ta phải phục vụ tình dục cho mình. Dù bồi bổ thế nào, Trầm thái y cũng không đáp ứng nổi, cuối cùng kiệt sức mà chết.
Thời gian Võ hậu đam mê Trầm thái y, Hoài Nghĩa ghen tức, đốt cả chùa và tượng Phật mà ông làm cho Võ hậu. Võ hậu không tiện trị tội, Thái Bình công chúa gọi Hoài Nghĩa vào vườn hoa rồi cho các cung nữ khoẻ mạnh phục kích đánh cho đến chết.
Anh em Trương Xương Tông và Trương Diệc Chi
Sau khi Trầm Thái y chết, Thái Bình công chúa lại đưa người phục vụ tình dục của mình cho Võ Tắc Thiên. Đó là Trương Xương Tông, rất đẹp trai, khoẻ mạnh lại có biệt tài về nghệ thuật phòng the, khiến cho Võ hậu rất hài lòng. Một mình không xuể, Xương Tông lại tiến cử người anh là Trương Diệc Chi vào hầu hạ. Cả hai rất được cưng chiều, phong chức tước và cấp bổng lộc hậu hĩ. Đó là lý do để Tể tướng Trương Giản Chi đem quân vào hậu cung giết chết 2 tên nầy.
Các quan trong triều biết được tính đa dâm của Hoàng đế, bèn cho con em của mình, thậm chí cả những người cảm thấy có tài nghệ cũng vào phục vụ Võ Tắc Thiên.
Lập Phụng Thần Viện
Võ hậu lập ra Phụng Thần viện, lấy danh nghĩa nuôi chim hạc, tuyển chọn những thanh niên đẹp trai, khoẻ mạnh để thoả mãn dâm dục.
Phụng Thần viện là nơi dâm loạn nhất của triều đại nhà Đường.
2* Giang Thanh tàn bạo và dâm đãng
2.1. Tàn bạo trong Cách Mạng Văn hoá vô sản
Cách Mạng Văn Hoá Vô Sản được Mao Trạch Đông và đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) phát động và tiến hành trong mười năm (1966-1976). Mục đích bên ngoài là loại bỏ những phần tử còn mang tư tưởng “Tư Bản Tự Do”, nhưng thực sự là thanh trừng nội bộ mà Mao Trạch Đông (MTĐ) muốn cũng cố lại quyền lực sau thất bại thê thảm của bước “Đại Nhảy Vọt”. Đối thủ lợi hại mà MTĐ muốn loại trừ là Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và Bành Đức Hoài.
Kế hoạch bước “Đại Nhảy Vọt” của Mao Trạch Đông thất bại, đưa đến kiệt quệ kinh tế làm cho TH lâm vào cảnh đói, giết chết 40 triệu người. Địa vị của MTĐ bị đe doạ, cho nên phát động cuộc Cách Mạng Văn Hoá (CMVH) để thanh trừng nội bộ, cũng cố địa vị.
2.1.1. Diễn tiến của cuộc Cách Mạng Văn Hoá
Ngày 16-5-1966, Mao Trạch Đông và Bộ Chính Trị ĐCSTQ ban hành một thông
cáo chính thức cho phát động cuộc Cách Mạng Văn Hoá Vô Sản.
Ngày 8-8-1966, Trung Ương ĐCSTQ nhất trí thông qua Quyết định phát động cuộc CMVH, một cuộc CM rộng lớn, đụng chạm đến tất cả mọi người. Đó là đấu tranh giai cấp với tư sản về mặt văn hoá tư tưởng.
Ngày 8-8-1966, Trung Ương ĐCSTQ nhất trí thông qua Quyết định phát động cuộc CMVH, một cuộc CM rộng lớn, đụng chạm đến tất cả mọi người. Đó là đấu tranh giai cấp với tư sản về mặt văn hoá tư tưởng.
Ngày 16-8-1966, mười một triệu Hồng Vệ Binh (HVB) (Sinh viên) từ khắp nơi kéo về Quảng Trường Thiên An Môn (BK) để được MTĐ và Lâm Bưu làm lễ phát động chiến dịch. Đây là chủ trương lớn của đảng. Những chỉ dẫn của Mao được in thành sách nhỏ là “Hồng Bảo Thư” mà mỗi Hồng Vệ Binh mang theo bên mình làm kim chỉ nam hành động.
Ngày 22-8-1966, ĐCSTQ thông cáo ra lịnh cho cảnh sát không được can thiệp vào hành động của HVB. Trái lịnh là phản động, mang tội chết.
Giang Thanh là vợ thứ tư của Mao, được đưa vào Bộ Chính Trị, đứng đầu tổ CMVH. Giang Thanh, Lâm Bưu và Diêu Văn Nguyên chỉ huy, giám sát và đôn đốc chiến dịch.
Thế hệ bị đảng nhồi sọ nầy chẳng nể sợ ai cả, điên cuồng, ngạo mạn, chà đạp pháp luật bắt đầu lục soát từng nhà nhân dân trên toàn quốc. Khủng bố mở màn.
Tất cả 5 “Giai cấp đen” là đối tượng phải tiêu diệt: chủ sở hữu ruộng đất, địa chủ, nông dân giàu có, trí thức phản động, các phần tử xấu đều phải giết toàn bộ gia đình.
Nên biết rằng, những đối tượng nầy đã sống sót sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất hồi 1952 mà
5 triệu người đã bị giết chết, cho nên địa chủ xem như không còn nữa.
Ngày 5-9-1966, Mao Trạch Đông kêu gọi HVB mở rộng cách mạng về Bắc Kinh. Vào lúc nầy, Giang Thanh, Lâm Bưu công khai chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình là mở đường cho tư bản, là mối đe doạ của CNXH. Đồng thời, Bành Đức Hoài cũng được đưa về Bắc Kinh để đấu tố trước quần chúng.
Vào tháng 2 năm 1967, Giang Thanh, Lâm Bưu nhấn mạnh là CM phải chuyển sang ngành quân đội. Thế là nhiều tướng lãnh bị tố bằng các phương tiện truyền thông nằm trong tay của Trương Xuân Kiều và Diêu Văn Nguyên.
Lưu Thiếu Kỳ bị trục xuất ra khỏi đảng và bị cầm tù. Đặng Tiểu Bình bị giáng chức và quản chế….Tất cả những đối thủ của MTĐ đã bị loại.
Đồng thời, một chiến dịch nổ ra nhằm tôn sùng MTĐ như là thần thánh.
Mục đích đã đạt, MTĐ cho ngưng cuộc CMVH.
2.1.2. Nạn ăn thịt người trong Cách Mạng Văn hoá
Nguồn gốc
Bước Đại Nhảy vọt của đảng CSTQ là một thất bại gây ra thảm hoạ kinh tế, tạo ra nạn đói làm chết 40 triệu người.
Đại Nhảy Vọt là muốn từ nông nghiệp nhảy thẳng sang Công nghiệp bằng cách mọi người TH phải tham gia luyện thép. Nông dân bỏ cả hoa màu thúi rữa ngoài đồng, thi đua luyện thép cho đạt chỉ tiêu quy định. Nhà nước lại xung công hoa màu như là hình thức đánh thuế. Đồng thời tiến hành chiến dịch hết sức ngu dốt gọi là Diệt chim sẻ.
Sau 5 loại người bị đảng CSTQ tiêu diệt, đến 4 loài vật phải bị giết, đó là chim sẻ , ruồi, muổi và chuột. Đảng cho rằng chim sẻ ăn thóc lúa nên phải diệt. Tất cả nông dân phải tham gia: đập, gỏ nồi niêu gây tiếng động ồn ào để đuổi chim. Ổ chim bị lùng phá, trứng chim và chim con thì đem làm thịt.
Cái dốt của đảng là không biết được rằng chim sẻ ăn châu chấu nhiều hơn thóc lúa. Vì thế, năm sau châu chấu tràn ngập vùng quê, phá hoại mùa màng kéo theo là nạn đói.
Các gia đình không nở ăn thịt con mình, nên trao đổi con cho nhau mà làm thịt. Ăn thịt ngay cả những người chết, những người từ các khu vực khác chạy đến lánh nạn để trốn tránh bị ghép tội.
Nạn ăn thịt người đã có từ thời đảng CSTQ cai trị, và cho đến nay, món “Thai nhi” vẫn còn được những người giàu có thưởng thức.
Trở lại việc Hồng Vệ Binh ăn thịt người ở Quảng Tây.
Ngoài sinh viên ra, nhiều địa phương còn kết nạp nông dân vào đội ngũ HVB. Những nông dân đó đã từng thưởng thức món thịt người trong nạn đói trước kia.
Nhà văn Trịnh Nghĩa mô tả lại việc ăn thịt người ở Quảng Tây như sau.
Những tên đã từng giết người, có kinh nghiệm, dạy lại người khác. Khi mổ bụng một người còn sống, chỉ cần cắt chéo trên bụng nạn nhân, rồi lên gối vào bụng dưới thì tất nhiên tim và gan lòi ra ngoài, nếu nạn nhận bị cột đứng. Trường hợp nạn nhân bị trói nằm ngữa, thì đạp chân lên bụng dưới là xong ngay. Tim, gan và bộ phận sinh dục thì được ưa chuộng nhất.
Ăn thịt người đã trở thành một phong trào tràn lan trên qui mô lớn. Nhiều người rất thích thú thưởng thức những bữa tiệc thịt người.
Khi một kẻ “phản động” ngã xuống, thì rất nhiều người thủ sẵn dao bén trong người, nhào đến cắt bất cứ bộ phận nào có thể ăn được. Tim, gan, thận… được luộc, xào, hấp, nướng trên lửa, chiên với gia vị.
Những cảnh tượng khủng khiếp đó được thi hành ở những nơi có trang trí cờ xí và khẩu hiệu dưới hình ảnh của Bác Mao vĩ đại..
Một bài hát cách mạng có câu:” Xã hội cũ biến con người thành ma, xã hội mới biến ma quỷ thành người”. Đúng vậy, đảng Cộng Sản là những con quỷ mang thú tính, đội lốt người.
2.1.3. Kết quả của cuộc Cách Mạng Văn Hoá.
- 7,730,000 người bị giết hoặc bị chết bất thường.
- 4.2 triệu bị giam giữ.
- 7.03 triệu bị tàn phế.
- 71,200 gia đình bị tiêu diệt toàn bộ.
Nhiều trí thức nổi tiếng bị giết hoặc tự tử.
Chủ trương Cách Mạng Văn Hoá là CSTQ, chủ động thi hành là Mao Trạch Đông, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên. Giang Thanh và 3 tên tiếp theo bị ghép vào Bè Lũ 4 Tên, sau khi Mao Trạch Đông chết.
3.* Những cái chết do thanh trừng nội bộ trong Cách Mạng Văn Hóa.
>
Mao T. Đông Lưu Thiếu Kỳ Lâm Bưu3.1. Lưu Thiếu Kỳ (24-11-1898-12-11-1969)
Là Chủ tịch nước, từng là nhân vật số hai đã bị chết thảm. Vào sinh nhật thứ 70, MTĐ và Chu Ân Lai cho mang quà sinh nhật đến là cái Radio để nghe tường thuật buổi họp của Đại Hội Đảng là “Vĩnh viễn khai trừ tên phản bội , gián điệp và nổi loạn Lưu Thiếu Kỳ ra khỏi đảng và tiếp tục truy tìm các tòng phạm của hắn”.
Lưu Thiếu Kỳ nằm liệt giường, không cử động được cho nên cổ, lưng, mông và gót chân bị lỡ loét chảy mũ. Sau đó, toàn thân bị thúi rữa. Đảng ra lệnh lột hết quần áo, quấn người trong cái mền, dùng máy bay chở từ Bắc Kinh đến nhà tù Khai Phong nhốt rong một cái lô cốt kiên cố. Không cho y tá chăm sóc sức khoẻ.
Lưu Thiếu Kỳ chết trong toàn thân bị hủy hoại, tóc bạc dài 6 tấc.
Thật ra, Lưu Thiếu Kỳ chết cũng đáng đời, bởi vì, những thành viên của Đảng CSTQ ít nhiều gì tay cũng đã nhuộm máu nhân dân.
3.2. Cái chết của Lâm Bưu
2.2. Mao Trạch Đông giết Lâm Bưu
Lâm Bưu là thuộc cấp của Bành Đức Hoài, lừa thầy phản bạn, được Mao cho thay thế BĐH ở chức vụ Bộ trưởng Quốc Phòng, rồi làm Phó chủ tịch đảng, là nhân vật số hai và được chọn làm người kế vị Mao. Lâm Bưu là “Kiến trúc sư” của cuộc Cách mạng Văn hoá.
Mao còn cho vợ của Lâm Bưu (LB) vào Bộ Chính Trị. Bà nầy không có tài mà còn nổi tiếng là đa dâm. Ở Nga, là bồ bịch với sĩ quan Nga, về nước thì quan hệ tình dục buông thả vì Lâm Bưu bất lực, tạng yếu, sợ nước, sợ gió và tiếng động. Mật vụ của Mao còn ghi âm những buổi trao đổi tình ái mùi mẫn trên điện thoại của bà với viên Tổng tham mưu trưởng họ Hoàng.
Lòng tham quyền lực của LB không có giới hạn. LB muốn nắm lấy ghế Chủ tịch nước, thay thế Lưu Thiếu Kỳ.Trái lại, Mao Trạch Đông thì muốn bãi bỏ chức vụ đó, vì muốn trong nước chỉ có một chủ tịch, là chủ tịch đảng của Mao mà thôi.
Bất đồng ý kiến nảy sinh. Mao là người nham hiểm, ra tay triệt hạ những thủ hạ thân cận của LB. LB biết không chống lại nổi Mao, cho nên có ý định đưa vợ con chạy trốn.
Kế hoạch đã vạch nhưng chưa biết sẽ chạy trốn ở đâu, Hồng Kông, Nga hay Đài Loan. Lâm Bưu, vợ là Diệp Quần và con trai là Lâm Lập Quả, có bí danh là Hổ, sẽ đào thoát.
Hổ rất ghét Mao. Thường gọi Mao là bạo chúa, là B-52 bụng bự chứa đầy những tư tưởng xấu xa để giết đám đông.
Hổ âm mưu ám sát Mao nhưng không thực hiện được.
Một sai lầm lớn của Hổ là viết thơ cho chị là Lâm Lập Hành bảo về nhà gấp để sáng sớm hôm sau cả nhà lên đường chạy trốn.
Nhưng người chị ruột nầy là người mê muội, bị nhồi sọ và là 1 người rất tích cực trong Cách mạng Văn Hoá, cho rằng chạy ra nước ngoài là một hành vi phản bội tổ quốc, cho nên đã mật báo với lực lượng an ninh. Tin tức nầy được thông báo ngay cho Chu Ân Lai, và Chu ra lịnh kiểm soát vị trí của tất cả những phi cơ, nhất là chiếc Trident mà Lâm Bưu thường dùng.
Hổ được bạn bè báo tin về lịnh kiểm soát của Chu Ân Lai, cho nên phải chạy trốn gấp.
23giờ 50, xe chở gia đình Lâm Bưu vào sân bay, nhưng xe không dừng ở trạm kiểm soát mà chạy vượt qua cổng, làm cho viên quản lý thường đưa LB ra phi trường, biết rằng có việc chạy trốn, nên hô hoán lên và nhảy ra khỏi xe. Có vài tiếng súng nổ.
Chiếc Trident đang đổ xăng mới có 12 tấn rưởi nhưng phải cất cánh ngay. Phi hành đoàn 9 người nhưng chỉ còn có 4. Lại thêm một người bạn của Hổ trên chuyến bay.
2 giờ sau, phi cơ đến Ngoại Mông trên đường qua Liên Xô thì kim báo nhiên liệu sắp hết và phi cơ bị nổ tung lúc 2 giờ 30 ngày 13-9-1971. Không ai sống sót. Nguồn tin cho rằng phi cơ bị hoả tiển bắn hạ.
Đó cũng là quả báo nhản tiền cho những tên đồ tể đảng viên đảng Cộng Sản, chết không toàn thây.
3.3. Cái chết của Giang Thanh
Giang Thanh là vợ thứ tư của MTĐ. Vốn là một diễn viên sân khấu. Sau khi MTĐ chết, Hoa Quốc Phong và Diệp Kiếm Anh bắt giữ Bè Lũ Bốn Tên là Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên.
Ngày 25-1-1981, toà án Đặc biệt kêu án tử hình, sau giảm xuống còn chung thân, rồi sau cùng, thắt cổ tự tử vào năm 1991. Những tên sát nhân còn lại cũng chết vì bịnh ung thư và tiểu đường ở trong nhà tù.
3.4. Giang Thanh lộng hành và dâm đảng
Giang Thanh và bè lũ bốn tên (Tứ nhân bang)
Mao Trạch Đông đã dưa Giang Thanh vào Bộ Chính Đảng, đứng đầu Ban CMVH, với quyền sinh sát to lớn trong tay.
Là một diễn viên sân khấu quen lối sống xa hoa, kiêu ngạo và buông thả. Luôn luôn có 4 thanh niên khoẻ mạnh và đẹp trai hầu cận. Sai bác sĩ lấy máu của thanh niên truyền sang cho mình, nghĩ rằng máu thanh niên sẽ làm trẻ lại, khoẻ lên về mọi mặt, nhất là về sinh lý. 4 thanh niên luân phiên nhau phục vụ cho Cách Mạng Văn Hoá thông qua Giang Thanh.
Giang Thanh bắt những người phục vụ phải quỳ, cúi rạp đầu xuống, không được để đầu của bất cứ ai, ngang bằng hoặc cao hơn đầu của bà cả.
Giang Thanh sai xây hồ bơi lấy nước từ con suối cách xa hàng chục kilomét.
Sai người đuổi bắt hết ve sầu trên cây, chim chóc quanh nhà để bà lớn được ngủ yên.
3.5. Mao Trạch Đông Dâm Dục
Mao có cung tần, mỹ nữ như những hoàng đế dâm dục nhất. Không có ai quan hệ tình dục gấp gáp, vô độ, bất kể đạo đức, bất cần dư luận như Mao cả.
Mao cho tuyển những văn công quân đội, văn công không quân từ 17, 18 tuổi, bằng con cháu mình.
Mao sai thiết lập ngay tại Đại Lễ Đường Nhân Dân, một phòng riêng cho mình, để giữa những cuộc họp TrungƯơng Đảng, giữa Đại Hội Đảng, Mao có thể quan hệ tình dục với gái trẻ.
Còn sai đóng một cái giường bằng gổ quý dài, rộng, lót nệm lông quý, có độ nghiêng để cùng một lúc làm tình với 2, 3 cô gái. Về mặt nầy, Mao là quán quân quốc tế của thời đại.
Mao Trạch Đông và đảng CSTQ phải chịu trách nhiệm về cái chết của 70 triệu người TH qua những cuộc cách mạng và những hành động tàn sát dã man của đảng CSTQ.
4* Sự kiện Thiên An Môn
Đảng Cộng Sản TQ đã tàn sát 10,000 người
Ngày 4-5-1989, khoảng 100,000 sinh viên, trí thức, công nhân biểu tình tuần hành trên đường phố Bắc Kinh. Yêu cầu tự do báo chí và tố cáo tham nhũng.
Sinh viên chiếm Quảng Trường Thiên An Môn và tổ chức tuyệt thực. Cuộc biểu tình xảy ra 2 ngày trước khi Michail Gorbachev, Tổng bí thư Liên Xô có khuynh hướng cải cách đến viếng thăm Bắc Kinh.
Đặng Tiểu Bình lúc đó là Quân Ủy Trung Ương ra thiết quân luật và đưa quân đội vào Bắc Kinh. Triệu Tử Dương là Tổng Bí thư đảng.
Lúc 10 giờ tối ngày 3-6-1989, xe tăng và quân đội vũ trang súng lưỡi lê từ các ngỏ tiến vào đám biểu tình. Xe tăng xả súng bắn thẳng vào đám đông. Rất nhiều người bị xe tăng nghiền nát. Những sinh viên chạy trốn thì bị quân lính lôi ra đập bằng gậy.
Đến 5:40 sáng ngày hôm sau, ngày 4-6-1989, đoàn biểu tình đã bị dẹp tan. Việc đàn áp xảy ra ban đêm.
Số người chết và bị thương
Nhiều nguồn tin đưa ra những con số khác nhau.
Tình báo NATO đưa ra con số người chết, khoảng 7,000 người.
Khối Xô Viết: khoảng 10,000 người chết
Đảng CSTQ lại một lần nữa tàn sát dã man đồng bào của mình. Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân thật sự đã giải phóng kiếp nô lệ của nhân dân mình.
Cái gì có mang 2 chữ “Nhân Dân” thì quả thật là những chiêu bài bịp bợm mà thôi.
5* Đảng Cộng Sản Trung Quốc đàn áp dã man Pháp Luân Công
5.1. Pháp Luân Công
Là một hệ thống “tu dưỡng cơ thể và tinh thần”, được ông Lý Hồng Chí giới thiệu cho công chúng năm 1992. Pháp Luân Đại Pháp có 5 bài tập khí công nhẹ nhàng. 4 bài động công ở tư thế đứng và 1 bài tĩnh công toạ thiền.
Ngày 20-7-1999, nhà nước Trung Cộng bắt đầu đàn áp trên toàn quốc, những người tập môn khí công nầy. Cho đến nay, có hơn 100,000 người tập môn khí công nầy bị bắt nhốt vào các trại cưỡng bách lao động, các bịnh viện tâm thần, tra tấn rất dã man.
Phỏng đoán có khoảng 7,000 người bị hành hạ cho đến chết. Chỉ cần có một chút xíu nghi ngờ là tập Pháp Luân Công thì bị bắt nhốt vào trại lao động cưỡng bách 3 năm mà không cần xét xử.
Ngày 6-7-2006, Ông David Kilgour, nguyên Giám đốc Phân Ban Châu Á Thái Bình Dương của Bộ Ngoại giao Canada và luật sư David Matos, đã phát hành một bản báo cáo độc lập, sau 2 tháng điều tra của họ, qua 18 dữ kiện, bằng chứng về việc nội tạng cơ thể của các đệ tử Pháp Luân Công (PLC) đã bị mổ đem bán giá cao cho những người có nhu cầu.
Ông cho rằng việc làm nầy của nhà nước Trung Cộng là điều vô nhân đạo duy nhất trên thế giới từ xưa đến nay và chỉ có đảng CSTQ mới làm được mà thôi.
Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân là những tên đồ tể của thời đại ngày nay.
5.2. Một trăm kiểu tra tấn tàn bạo của Đảng CSTQ
Những nạn nhân trốn thoát được kể lại hơn 100 thủ đoạn tra tấn tàn bạo dã man của nhà nước Trung Cộng.
Công an đánh đập tàn nhẫn, rồi khuyến khích các tù nhân khác đánh đập người tập PLC. Nhiều người bị lọt tròng mắt, điếc vì rách màng nhĩ, gãy răng. Xương sọ, xương sườn, xương sống, xương quai xanh, xương chậu và tay chân bị vở, gãy. Chân tay bị cắt đi vì những thương tích do tra khảo gây ra. Bóp dịch hoàn nam giới, đá vào khu vực cơ quan sinh dục phụ nữ.
Nhiều người bị rách da, lòi mỡ, hở thịt. Cơ thể trở thành dị dạng, be bét máu me vậy mà bọn Công an còn đổnước muối lên ngực họ và tiếp tục dùng dùi cui điện tra tấn. Mùi khét của máu thịt trộn lẫn với nhau, cùng với tiếng rên la thảm thiết rất thương tâm. Tại sao trên đời nầy lại có những tổ chức dã man, mọi rợ đến như thế?
Cho điện giật là một hình thức thường dùng nhất ở các trại lao động cưỡng bách. Công an cho dùi cui điện giật vào những vùng nhạy cảm trên thân thể bao gồm miệng, đĩnh đầu, ngực, cơ quan sinh dục nam, mông, đùi, gan bàn chân, ngực và vú phụ nữ.
Nhiều công an dùng trên 10 dùi cui điện cho giật một lúc, cho đến khi nghe mùi khét của da thịt bị cháy mới thôi. Dùng thuốc lá đang cháy đốt tay, mặt, gan bàn chân, ngực, lưng, núm vú phụ nữ. Dùng bật lửa đốt tay và cơ quan sinh dục đàn ông.
Các thanh sắt được chế tạođặc biệt để tra khảo, được nung đỏ bằng điện đốt cháy chân người PLC.
Nhiều thiếu nữ trẻ đẹp nhưsinh viên, dược sĩ, bác sĩ bị công an Trung Cộng hãm hiếp và hãm hiếp tập thể.Những phụ nữ bị lột trần truồng ném vào xà lim của tù đàn ông và sau đó, lại bịbọn tù hãm hiếp tiếp theo.
Dùng 4 bàn chảy đánh răng buộc lại rồi chọc vào âmđạo, chà xác và ngoáy mạnh.
GIÁ DẦU HẠ
Kỹ thuật khai thác dầu trên thế giới
Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-12-05
2014-12-05
Việc đổi mới công nghệ khai thác dầu đã làm cho Hoa kỳ trở thành một
cường quốc dầu mỏ hùng mạnh. Điều này ảnh hưởng vô cùng lớn đến kinh tế
và cả chính trị thế giới.
Đột phá trong kỹ thuật khai thác
Giá dầu thô thế giới lại tiếp tục xuống thấp chỉ còn khoảng hơn 70 đô
la một thùng, so với lúc cao nhất trong thời gian gần đây là 120 đô la
một thùng. Việc sụt giảm này có nguyên nhân từ sự phát triển chậm lại
của kinh tế Trung quốc, một nơi tiêu thụ rất nhiều năng lượng, và sự suy
thoái kinh tế của châu Âu và Nhật bản. Nhưng một tác nhân quan trọng
nữa là mức độ sản xuất của Hoa kỳ tăng lên mạnh mẽ, quan trọng nhất là
việc khai thác những khu vực đá phiến dầu (shale) mênh mông tại Bắc Mỹ.
Việc khai thác này trước đây không thực hiện được vì không có kỹ thuật
thích hợp. Kỹ sư trưởng Trần Thái Hiệp, hiện làm việc tại công ty
Schlumberger khoan dầu trong vùng vịnh Mexico nói:
“Hồi đó chỉ có khai thác dầu trong sandstone tức là đá cát thôi,
vì loại đá này có lổ hổng nhiều (dễ hút dầu lên), còn đá phiến dầu thì
không có lổ hổng. Nhưng mấy năm nay người ta có kỹ thuật mới gọi là
fracking, người ta khoan ngang rồi đưa áp suất xuống frack (phá) đá để
mà hút dầu lên.”
Nhưng mấy năm nay người ta có kỹ thuật mới gọi là fracking, người ta khoan ngang rồi đưa áp suất xuống frack (phá) đá để mà hút dầu lên.
- KS. Trần Thái Hiệp
Kỹ sư Hiệp nói rằng chúng ta hãy tưởng tượng rằng những mỏ dầu truyền
thống mà con người khai thác từ trước đến nay là dầu ở dạng lỏng nằm
sẵn trong các lổ hổng của các tầng cát, người ta cứ việc khoan xuống rồi
bơm lên. Còn các mỏ đá phiến dầu hiện nay thì dầu không ở dạng lỏng có
sẵn, cho nên người ta phải dùng áp lực phá đá ra, tạo lỗ hổng để dầu
chảy vào đó rồi hút lên.
Nước Mỹ đã bắt đầu tìm cách khai thác thế mạnh của mình trong vài
thập niên trước, cùng với sự cố gắng của các đại công ty dầu hỏa và sự
trợ giúp nghiên cứu của chính phủ. Sự thành công trong việc khai thác
được dầu và khí từ các lớp đá phiến dưới lòng đất đã thực sự trao cho
nước Mỹ một lợi thế trên bàn cờ chính trị kinh tế thế giới, nhất là đối
với các quốc gia hay sử dụng nguồn tài nguyên dầu hỏa để gây áp lực lên
nước Mỹ như Iran hay Venezuela.
Kỹ sư Hiệp cho biết thêm là hiện nay nước Mỹ tiêu thụ khoảng 20 triệu
thùng dầu một ngày, trong khi lượng dầu khai thác được đã lên đến 7, 8
triệu thùng, do đó lượng dầu nhập cảng đã giảm rất nhiều, gây tác động
lớn đến giá dầu toàn thế giới, và dự trù là vào khoảng năm 2020 nước Mỹ
có thể sản xuất đến 20 triệu thùng một ngày.
Việc giá dầu sụt giảm đã và đang gây khốn đốn cho các quốc gia như
Venezuela, Ecuador, vốn phụ thuộc vào việc xuất khẩu. Việc này cũng gây
khốn khó cho nước Nga, và làm mạnh thêm sự cấm vận của phương Tây đối
với nước Nga trong vấn đề Ukraine.
Công nghiệp khai thác dầu khí Việt Nam
Việt Nam cũng là một quốc gia xuất khẩu dầu với tỉ trọng trong tổng hàng xuất khẩu, theo nhiều chuyên gia lên đến 20 đến 25%.
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh đánh giá về sự thiệt hại của Việt Nam do giá dầu sụt giảm.
“Việt Nam năm nay khai thác vượt mức một triệu tấn dầu, nhưng rất
không may là không đạt được cái giá bán mà Việt Nam dự kiến, tức là dự
trù khoảng 100 đô la một thùng mà nay chỉ có giá vào khoảng 73, 75 đô la
một thùng thôi.”
Theo số liệu mới nhất về nợ xấu của các công ty nhà nước Việt Nam thì
đứng đầu lại là Tập đoàn dầu khí Việt Nam. Tiếp theo là Tập đoàn than
và khoáng sản. Cả hai đều là những công ty có trách nhiệm khai thác tài
nguyên thiên nhiên của quốc gia. Tiến sĩ địa chất Nguyễn Thanh Giang,
người làm việc lâu năm trong ngành địa chất và khoáng sản nói rằng việc
khai thác tài nguyên khoáng sản như vậy mà mang nợ xấu thì khó có thể
chấp nhận được, và ông cho rằng đó là do quản lý kém và tham nhũng.
Việc giá dầu giảm có thể làm chuyện nợ nần của Tập đoàn dầu khí Việt
Nam thêm khó khăn, nhưng nguyên nhân của nợ không chỉ là do giá dầu
giảm. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nhận xét về việc mang nợ của Tập đoàn dầu
khí Việt Nam như sau:Nếu bình thường thì cũng có thể vươn ra tới biển sâu, nhưng bởi vì sự quan hệ nó vẫn chưa thật là thân thiết. Thứ hai là vẫn còn có sự chập chờn do khống chế của Trung quốc trên biển Đông.”
- TS. Nguyễn Thanh Giang
“Dầu khí và khai thác khoáng sản mà có nợ thì điều ấy tôi cũng
không lấy làm ngạc nhiên. Vì thời gian qua dầu khí có dầu tư ra nước
ngoài nhiều, ngoài ra còn đầu tư vào đa ngành, vượt ra ngoài lĩnh vực
dầu khí. Có lĩnh vực thành công, có những lĩnh vực không thành công. Ví
dụ như vừa rồi việc đầu tư sang Venezuela là không thành công.”
Việc thành công của Hoa Kỳ trong việc khai thác dầu khí trong đá
phiến khiến cho nhiều quốc gia cũng chú trọng vào việc nghiên cứu kỹ
thuật mới để khai thác loại tài nguyên này nhằm có nhiên liệu giá rẻ cho
nền kinh tế. Nhưng việc này không dễ dàng. Trung Quốc đã thực hiện việc
này nhưng cho đến nay thì chi phí để có dầu từ đá phiến của họ cao hơn
giá dầu nhập cảng từ nước Nga. Việt Nam thì hiện không có kỹ thuật này.
Ngoài việc tìm kiếm các mỏ đá phiến dầu, các công ty dầu khí còn có
một cách nữa để tăng sản lượng dầu khai thác là tiến ra vùng biển sâu.
Theo kỹ sư Hiệp, người cũng từng nhiều năm làm việc trên các giàn khoan
dầu ở biển Đông, thì mặc dù theo các tài liệu địa chất thì biển Đông có
tiềm năng dầu khí, nhưng hiện Việt Nam chỉ khai thác trong vùng biển cạn
vài trăm mét nước mà chưa có năng lực và vốn liếng để khoan dầu ở vùng
biển sâu. Và theo thông tin từ báo chí Việt Nam trong thời gian gần đây
thì những mỏ dầu ở vùng nước cạn này cũng đang dần dần giảm sản lượng.
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang thì nói rằng mặc dù yếu kém về năng lực và
tài chính nhưng lẽ ra Việt Nam đã có thể hợp tác với các công ty có kỹ
thuật khoan dầu ở biển sâu của Hoa Kỳ hay Anh quốc:
“Nếu bình thường thì cũng có thể vươn ra tới biển sâu, nhưng bởi
vì sự quan hệ nó vẫn chưa thật là thân thiết. Thứ hai là vẫn còn có sự
chập chờn do khống chế của Trung quốc trên biển Đông.”
Phát biểu của ông Nguyễn Thanh Giang nhắc mọi người nhớ lại chuyện
tranh chấp giữa Việt Nam và Trung quốc trong việc gọi thầu khoan dầu ở
các vùng ngoài khơi Việt Nam hiện nay. Và sự việc cụ thể gần gủi nhất là
vào tháng năm năm nay Trung quốc triển khai giàn khoan dầu nước sâu của
họ trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, gây ra một cuộc khủng hoảng
quan hệ chính trị và cả kinh tế giữa Trung quốc và Việt Nam, mà cả khu
vực biển Đông và thế giới đều tỏ ý lo lắng.
Nhiều người trong đó có Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang lo ngại rằng tương
lai của ngành dầu khí Việt Nam lệ thuộc vào chuyện chính trị, mà nếu
Việt Nam không có một giải pháp hay một thay đổi lớn nào để có thể đối
trọng với Trung Quốc thì có khả năng Trung quốc sẽ lấn lướt khai thác
toàn bộ tài nguyên dầu khí tại vùng biển sâu của biển Đông.
Giá dầu hạ chóng mặt sau quyết định của OPEC
Đồng Rúp của Nga xuống mức thấp chưa từng có so với đồng Euro và gần thấp nhất trong lịch sử so với đồng USD...
Giá
dầu thô thế giới lao dốc mạnh sau khi Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu
lửa (OPEC) trong cuộc họp hôm qua (27/11) tại Vienna, Áo tuyên bố không
cắt giảm sản lượng bất chấp tình trạng dư thừa nguồn cung “vàng đen”
toàn cầu.
Các nước thành viên nghèo hơn trong OPEC như Venezuela đã lên tiếng kêu gọi cắt giảm sản lượng dầu nhằm chặn đà giảm liên tục của giá dầu trong mấy tháng trở lại đây. Tuy nhiên, quốc gia quyền lực nhất trong nhóm này là Saudi Arabia đã không chấp nhận những lời kêu gọi như vậy.
Từ trước khi cuộc họp của OPEC diễn ra, giá
dầu đã chịu áp lực giảm mạnh do thị trường đã lường trước về khả năng tổ
chức này không cắt giảm sản lượng khai thác. Tuy vậy, sau khi OPEC công
bố kết quả cuộc họp, giá dầu thậm chí còn giảm với tốc độ mạnh hơn nữa.
Tại thị trường London, giá dầu thô Brent giao tháng 1/2015 có thời điểm giảm 5,17 USD/thùng, tương đương mức giảm 6,7%, còn 57,82 USD/thùng. Lúc đóng cửa, giá dầu Brent dừng ở 72,82 USD/thùng.
Tại thị trường New York, giá dầu thô ngọt nhẹ giao tháng 1/2015 giao dịch điện tử có lúc sụt 6,9%, còn 68,59 USD/thùng. Đây là phiên giảm mạnh nhất của giá dầu kể từ năm 2011, đồng thời đánh dấu lần đầu tiên sau hơn 4 năm giá dầu tại thị trường New York tụt dưới mốc 70 USD/thùng.
Tại thị trường London, giá dầu thô Brent giao tháng 1/2015 có thời điểm giảm 5,17 USD/thùng, tương đương mức giảm 6,7%, còn 57,82 USD/thùng. Lúc đóng cửa, giá dầu Brent dừng ở 72,82 USD/thùng.
Tại thị trường New York, giá dầu thô ngọt nhẹ giao tháng 1/2015 giao dịch điện tử có lúc sụt 6,9%, còn 68,59 USD/thùng. Đây là phiên giảm mạnh nhất của giá dầu kể từ năm 2011, đồng thời đánh dấu lần đầu tiên sau hơn 4 năm giá dầu tại thị trường New York tụt dưới mốc 70 USD/thùng.
Giới phân tích dự báo, giá dầu còn có thể giảm sâu hơn.
“Thị
trường còn chưa tin mức giá dầu hiện tại đã đủ thấp để kéo sản lượng
dầu của Mỹ tăng trưởng chậm lại. Bởi thế, trong ngắn hạn, chúng tôi dự
báo giá dầu Brent sẽ giảm dưới 70 USD/thùng và giá dầu thô ngọt nhẹ còn
giảm sâu hơn”, các nhà phân tích của Barclays nhận xét.
OPEC, tổ chức gồm 12 thành viên chiếm 1/3 sản lượng dầu của thế giới, đã quyết định trong cuộc họp ở Vienna là sẽ duy trì mục tiêu sản lượng 30 triệu thùng dầu mỗi ngày. Hiện tại, OPEC đang sản xuất nhiều hơn mức sản lượng mục tiêu này, nên quyết định trên đồng nghĩa với việc nhóm sẽ cắt giảm khoảng 300.000 thùng dầu trong sản lượng mỗi ngày. Mức cắt giảm như vậy là nhỏ bé để có thể tác động tới tương quan cung-cầu hiện tại.
OPEC, tổ chức gồm 12 thành viên chiếm 1/3 sản lượng dầu của thế giới, đã quyết định trong cuộc họp ở Vienna là sẽ duy trì mục tiêu sản lượng 30 triệu thùng dầu mỗi ngày. Hiện tại, OPEC đang sản xuất nhiều hơn mức sản lượng mục tiêu này, nên quyết định trên đồng nghĩa với việc nhóm sẽ cắt giảm khoảng 300.000 thùng dầu trong sản lượng mỗi ngày. Mức cắt giảm như vậy là nhỏ bé để có thể tác động tới tương quan cung-cầu hiện tại.
Trước
khi cuộc họp của OPEC diễn ra, giới phân tích cho rằng, nhóm này cần
cắt giảm 1-1,5 triệu thùng dầu/ngày nếu muốn hỗ trợ giá dầu. Từ đầu mùa
hè tới nay, giá dầu thế giới đã giảm hơn 30%.
Giá dầu giảm là một thông tin tốt lành đối với người tiêu dùng ở các quốc gia như Mỹ và châu Âu, nhất là vào thời điểm mùa mua sắm cuối năm đang tới gần. Giá bán lẻ xăng trung bình toàn quốc ở Mỹ hiện ở mức thấp nhất trong 4 năm là 2,8 USD/gallon, từ mức 3,68 USD/gallon hồi cuối tháng 6.
Theo tính toán của ngân hàng Goldman Sachs, việc giá xăng giảm trong 6 tháng qua tương đương mức giảm thuế 75 tỷ USD cho người tiêu dùng Mỹ.
Giá dầu giảm là một thông tin tốt lành đối với người tiêu dùng ở các quốc gia như Mỹ và châu Âu, nhất là vào thời điểm mùa mua sắm cuối năm đang tới gần. Giá bán lẻ xăng trung bình toàn quốc ở Mỹ hiện ở mức thấp nhất trong 4 năm là 2,8 USD/gallon, từ mức 3,68 USD/gallon hồi cuối tháng 6.
Theo tính toán của ngân hàng Goldman Sachs, việc giá xăng giảm trong 6 tháng qua tương đương mức giảm thuế 75 tỷ USD cho người tiêu dùng Mỹ.
Tuy nhiên, đối với các quốc giá xuất khẩu dầu, đây đang là một vấn đề gây lo ngại.
Nga
được xem là quốc gia thiệt hại nhiều nhất từ xu hướng hiện nay của giá
dầu. Giá “vàng đen” lao dốc bị coi là “họa vô đơn chí” đối với Nga trong
bối cảnh nền kinh tế nước này bị các lệnh trừng phạt của phương Tây
liên quan tới cuộc khủng hoảng Ukraine đẩy tới bờ vực suy thoái.
Thông tin giá dầu hôm qua đã đẩy đồng Rúp của Nga xuống mức thấp chưa từng có so với đồng Euro và gần thấp nhất trong lịch sử so với đồng USD.
Venezuela cũng là một quốc gia chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi giá dầu giảm. Nền kinh tế quốc gia Nam Mỹ này đang rơi vào tình trạng kiệt quệ do sự yếu kém trong cách thức quản lý của Chính phủ cộng thêm nguồn thu từ xuất khẩu dầu sa sút. Một số nguồn tin cho hay, cuộc họp của OPEC hôm qua kéo dài hơn dự kiến vì tranh cãi giữa Venezuela với các nước vùng Vịnh về vấn đề sản lượng.
Theo tờ Wall Street Journal, trong số các thành viên của OPEC, chỉ có Qatar và Kuwait là có khả năng cân bằng ngân sách năm 2015 với mức giá dầu hiện nay. Các nước của khối này đã quen với mức giá dầu trên 100 USD/thùng trong hầu hết thời gian từ đầu năm 2011 tới nay.
Thông tin giá dầu hôm qua đã đẩy đồng Rúp của Nga xuống mức thấp chưa từng có so với đồng Euro và gần thấp nhất trong lịch sử so với đồng USD.
Venezuela cũng là một quốc gia chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi giá dầu giảm. Nền kinh tế quốc gia Nam Mỹ này đang rơi vào tình trạng kiệt quệ do sự yếu kém trong cách thức quản lý của Chính phủ cộng thêm nguồn thu từ xuất khẩu dầu sa sút. Một số nguồn tin cho hay, cuộc họp của OPEC hôm qua kéo dài hơn dự kiến vì tranh cãi giữa Venezuela với các nước vùng Vịnh về vấn đề sản lượng.
Theo tờ Wall Street Journal, trong số các thành viên của OPEC, chỉ có Qatar và Kuwait là có khả năng cân bằng ngân sách năm 2015 với mức giá dầu hiện nay. Các nước của khối này đã quen với mức giá dầu trên 100 USD/thùng trong hầu hết thời gian từ đầu năm 2011 tới nay.
Cổ
phiếu của các công ty dầu lửa lớn tại thị trường châu Âu cũng lao dốc
mạnh trong phiên hôm qua, trong đó cổ phiếu của Royal Dutch Shell giảm
4,3%, cổ phiếu Total giảm 4,1%, và cổ phiếu BP giảm 2,7%. Thị trường Mỹ
đêm qua đóng cửa nghỉ lễ Tạ ơn.
Có nhiều ý kiến trái chiều xung quanh việc OPEC không cắt giảm sản lượng dầu.
Tờ Business Week cách đây ít lâu có một bài viết cho rằng khối này đang chuẩn bị cho một “cuộc chiến giá dầu” trong bối cảnh Mỹ đang vươn lên thành nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới nhờ sản lượng dầu đá phiến tăng mạnh. Theo một số chuyên gia, OPEC muốn giữ giá dầu thấp để giữ khách hàng, duy trì thị phần.
Tuy vậy, cũng có ý kiến cho rằng, OPEC đang hành động khôn ngoan vì giá dầu giảm sẽ giúp nền kinh tế các nước tiêu thụ dầu hồi phục tốt. Một khi nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng tích cực, giá dầu sẽ tự động tăng lên.
Có nhiều ý kiến trái chiều xung quanh việc OPEC không cắt giảm sản lượng dầu.
Tờ Business Week cách đây ít lâu có một bài viết cho rằng khối này đang chuẩn bị cho một “cuộc chiến giá dầu” trong bối cảnh Mỹ đang vươn lên thành nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới nhờ sản lượng dầu đá phiến tăng mạnh. Theo một số chuyên gia, OPEC muốn giữ giá dầu thấp để giữ khách hàng, duy trì thị phần.
Tuy vậy, cũng có ý kiến cho rằng, OPEC đang hành động khôn ngoan vì giá dầu giảm sẽ giúp nền kinh tế các nước tiêu thụ dầu hồi phục tốt. Một khi nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng tích cực, giá dầu sẽ tự động tăng lên.
- Giới phân tích dự đoán, nếu giá dầu giảm xuống mức 40USD/thùng, nền kinh tế Nga sẽ sụp đổ giống như Liên Xô. Liệu điều này có khả năng xảy ra?
- Đại chiến dầu thô: Nga ôn bài học đau đớn thời Reagan
- Nếu Kiev gia nhập NATO, Ukraine sẽ trở thành 'Gruzia thứ 2'?
Kinh tế Nga sẽ sụp đổ nếu giá dầu hạ xuống 40 USD/thùng?
Tuần
trước, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nga Siluanov đã phát biểu: “Điều gì đã
xảy ra với nền kinh tế? Chúng ta mất khoảng 40 tỷ USD mỗi năm do những
biện pháp trừng phạt chính trị và có thể mất khoảng 90 đến 100 tỷ USD
mỗi năm nếu giá dầu giảm xuống 30 phần trăm”.
Trên thực tế, giá dầu đã giảm tới 40% và đồng rúp cũng mất giá chừng đó kể từ sau cuộc khủng hoảng chính trị Ukraine.
Tại
thời điểm giá dầu tuột dốc thảm hại trong vòng 5 năm trở lại đây, Bộ
trưởng Siluanov lo ngại rằng, kinh tế Nga sẽ trượt vào suy thoái nếu giá
dầu xuống đến 60 USD một thùng. Ông tuyên bố là chính phủ sẽ nghiêm
ngặt hơn trong vấn đề ngân sách và sử dụng những công cụ chống khủng
hoảng.
Ngày 14 tháng 11, giá dầu thô Biển Bắc mác
Brent đã tụt xuống đến chỉ số 77 USD một thùng, đến ngày 24 tháng 11,
Brent được giao dịch quanh mức 80,3 USD một thùng. Tuy nhiên, giá dầu
thô đã giảm kỷ lục sau khi Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ
(Organization of the Petroleum Exporting Countries - OPEC) quyết định
không cắt giảm sản lượng để đẩy giá lên.
12 thành
viên OPEC đã quyết định duy trì sản lượng 90 triệu thùng dầu mỗi ngày
như đã thống nhất vào tháng 12 năm 2011. Sau cuộc họp ở Vienna, Tổng Thư
ký OPEC Abdallah Salem el-Badri cho biết, các nước thuộc Tổ chức các
nước xuất khẩu dầu mỏ không nên phản ứng nóng vội và không đẩy giá dầu
bằng việc cắt giảm sản lượng.
Chốt phiên giao dịch
ngày 28-11 tại thị trường New York, giá dầu thô ngọt nhẹ giảm 7,54
USD/thùng (tương đương trên 10%), chốt ở 66,15 USD/thùng. Đây là phiên
giảm mạnh nhất của giá dầu ngọt nhẹ kể từ tháng 3-2009. Sau khi thị
trường đóng cửa và chuyển sang giao dịch điện tử, giá dầu tiếp tục giảm
xuống 65,69 USD/thùng, thấp nhất trong 5 năm qua.
Liệu Nga có tránh được "vết xe đổ của Liên Xô"?
Tại
thị trường London, giá dầu thô Brent giảm 2,43 USD/thùng, tương đương
giảm 3,3%, dừng ở 70,15 USD/thùng. Trong phiên, có lúc giá dầu Brent
xuống dưới mức 70 USD/thùng, thấp nhất từ tháng 5/2010.
Trong
tháng 11, giá dầu Brent giảm 18%, đánh dấu chuỗi 5 tháng giảm liên tục,
thời kỳ giảm dài nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009.
Sau khi cuộc khủng hoảng chính trị ở Ukraine bước sang giai đoạn nội
chiến từ tháng 5 đến nay, giá dầu Brent đã trượt dốc không phanh tới
40%, từ mức 115 USD/thùng trước đó.
Các nhà phân
tích kinh tế thế giới nhận định, nếu dầu mỏ sụt giá đến mức 40
USD/thùng, đó là viễn cảnh thảm họa. Sự sụt giảm của giá dầu mỏ tác động
mạnh nhất kể từ khủng hoảng tài chính năm 2008, bây giờ có thể sẽ còn
trầm trọng hơn nữa. Kinh tế Nga có thể sụp đổ nếu giá dầu giảm dưới mức
này.
Tuy khả năng là không cao nhưng các chuyên gia
quốc tế không thể loại trừ giá dầu sẽ đạt mức dưới 40 USD/thùng và thế
giới sẽ chứng kiến sự tái diễn những sự kiện của 30 năm trước đã dẫn đến
sự sụp đổ của Mexico và sụp đổ của siêu cường thuộc khối Xã hội Chủ
nghĩa là Liên Xô. Ngoài ra, nền kinh tế thế giới cũng bước vào một giai
đoạn suy thoái trầm trọng
Theo "Bloomberg", trong
những điều kiện như vậy, nguồn thu từ dầu mỏ sẽ không thể bảo vệ Nga -
nước sản xuất dầu mỏ lớn nhất thế giới - trước đòn trừng phạt của EU và
Hoa Kỳ.
Một quốc gia cũng phải đương đầu với trừng
phạt quốc tế là Iran sẽ buộc phải cắt giảm các khoản trợ cấp mà trước
đó phần nào bảo vệ được cư dân trước sức ép ngày càng tăng từ các biện
pháp của phương Tây.
Trong số những nước sẽ chịu
thiệt hại tối đa do sụt giảm giá dầu còn có Nigeria, đang chống chọi
không mấy thành công với các chiến binh Hồi giáo, và Venezuela, quốc gia
có nền kinh tế suy yếu vì những quyết định chính trị không thích hợp.
Các nước khác thuộc OPEC cũng sẽ thiệt hại nặng nề nếu giá dầu chạm đến
mức đó.
Dầu mỏ hiện chiếm tỷ trọng rất lớn trong nền kinh tế Nga
Các
nhà sản xuất dầu đã quen với thực tế là mức giá dầu xoay quanh mốc 100
USD/thùng nên đã không đa dạng hóa kinh tế hoặc quá chậm chạp trong phản
ứng. Trong trường hợp duy trì giá thấp với dầu mỏ, những nước này và
sau đó là cả thế giới sẽ phải đón đợi thảm họa chính trị và xã hội
nghiêm trọng - chuyên viên Paul Stevens từ hãng Chatham House của Anh
tuyên bố.
Đòn đánh của phương Tây có khiến Nga sụp đổ?
Một
số nhà phân tích Nga cho rằng người Mỹ và đồng minh đã có hành vi thao
túng thị trường dầu mỏ thế giới. Hoa Kỳ đang chơi trò giảm giá dầu bằng
cách tác động đến các nước đồng minh khai thác dầu mỏ, để triệt hạ Nga -
quốc gia mà Washington có quan điểm bất đồng vì các sự kiện ở Ukraine -
giống như việc họ đã làm 30 năm trước với Liên Xô.
Chuyên
gia ngành dầu khí Nga Mikhail Molodov cho rằng, đây chắc chắn là vấn đề
bán phá giá với sự tiếp tay của đồng minh Mỹ như Saudi Arabia.
Tuy
nhiên, chính Riyadh sẽ nhận lãnh hậu quả từ việc tiếp tay cho Mỹ, bởi
không thể phủ nhận là sắp tới Hoa Kỳ có thể đạt được lượng khai thác dầu
đá phiến sét tối đa trong lịch sử hiện đại.
Tất
nhiên, quốc gia chủ chốt của OPEC không thể hài lòng với điều đó. Bởi vì
thị trường dầu mỏ của Mỹ sẽ chiếm thị trường của Saudi Arabia, điều đó
sẽ gây bất lợi cho thành viên OPEC này. Giá dầu giảm lâu dài sẽ gây
thiệt hại cho tất cả các thành viên tham gia tổ chức. Đặc biệt, tình
hình nội bộ ở Saudi Arabia có thể bị ảnh hưởng mạnh.
Bởi
vậy, nhiều chuyên gia vẫn tỏ ra lạc quan về tương lai của giá dầu. Hiện
nay, dầu mỏ là một trong những nền tảng của kinh tế thế giới, giá dầu
có tác động rất lớn đến sự phát triển khách quan của nền kinh tế thế
giới, chính trị không thể gây tác động lâu dài đến kinh tế được. Không
nghi ngờ gì, xu hướng chung tăng dần giá dầu sẽ vẫn giữ nguyên.
Nguồn
khai thác truyền thống suy giảm, giá thành khai thác lên cao sẽ lại làm
cho dầu thô trở nên đắt đỏ. Hơn nữa, các nước chỉ có tiêu thụ dầu nhiều
hơn chứ không thể giảm đi. Điều này đặc biệt đúng với khu vực châu
Á-Thái Bình Dương, nơi mà hiện nay tốc độ phát triển kinh tế có phần
giảm xuống, nhưng tăng trưởng chiến lược của họ ngày càng rõ nét.
OPEC quyết định không cắt giảm sản lượng để đẩy giá dầu lên
Ngay
cả Mỹ cũng hiểu một điều là không thể can thiệp quá sâu vào các vấn đề
kinh tế, phá bỏ các quy luật khách quan của nó. Mỹ không được hưởng lợi
gì khi giá dầu hạ xuống, vì chi phí khai thác dầu đá phiến sét là rất
cao. Với giá dầu hiện nay, Mỹ chỉ có lỗ chứ không có lãi. Và thực tế đã
chứng minh phần nào quan điểm của các chuyên gia Nga.
Trong
phiên giao dịch hôm qua - 1/12, giá dầu thô thế giới có thời điểm đã
tăng đến 5%, thoát mức đáy thiết lập 5 năm trước đó. Đây cũng là phiên
tăng giá mạnh nhất của dầu thô kể từ năm 2012. Lúc đóng cửa tại thị
trường London, giá dầu thô Brent tăng 2,39 USD/thùng, tương đương tăng
3%, mạnh nhất từ tháng 10/2012, chốt ở 72,54 USD/thùng.
Tại
New York, giá dầu thô ngọt nhẹ chốt phiên tăng 2,85 USD/thùng, tương
đương tăng 4%, mạnh nhất từ tháng 8/2012, đạt 69 USD/thùng. Trong phiên,
có lúc giá dầu rớt xuống mức đáy của 5 năm ở mức 63,72 USD/thùng. Dự
kiến giá dầu sẽ không thể xuống đến 40 USD/thùng và chắc chắn nó sẽ dần
tăng lên trong thời gian tới.
Các chuyên gia Nga
cho rằng, Mỹ và đồng minh đang tìm mọi cách để làm kinh tế Nga sụp đổ
hoặc thay đổi chế độ chính trị ở Nga. Tuy nhiên, có thể khẳng định là
Washington không thể làm được điều này trong bối cảnh hiện Moscow đã có
sự chuẩn bị và thấm thía bài học từ sự tan rã của Liên bang Xô viết.
Giáo
sư Vladimir Shtol từ Học viện Hành chính trực thuộc Phủ Tổng thống cho
rằng, hiểu được những thách thức từ việc phụ thuộc quá lớn vào xuất khẩu
dầu mỏ, thấm nhuần bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô, Tổng thống V.Putin
đã đưa ra Học thuyết chiến lược mới nhằm đưa nước Nga tránh được vết xe
đổ từ thời “Chiến tranh lạnh”.
Điểm đặc biệt
trong Học thuyết mới này về mặt kinh tế là nó đánh dấu sự thoát khỏi phụ
thuộc vào xuất khẩu dầu mỏ nói riêng và tài nguyên nói chung, thúc đẩy
xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao và tinh chế, dựa trên nền tảng là
hoạt động khoa học, kỹ thuật và những phát minh thiết kế-chế tạo của
nước nhà.
Tổng thống Nga Putin đã hoạch định chiến lược mới để giảm phụ thuộc của nền kinh tế vào xuất khẩu dầu mỏ
Điều
đó sẽ giúp nền kinh tế Nga đi lên bằng nội lực chứ không phải bằng
những giá trị ảo, đồng thời thoát khỏi sự phụ thuộc vào nước ngoài trong
thời đại những quyết định về chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến kinh
tế. Moscow đang thể hiện quyết tâm không để mình biến thành nạn nhân của
Washington và đồng minh.
Nước Nga và bài học của Liên Xô
Khoảng
giữa thập niên 80 của thế kỷ 20, Mỹ đã tập trung đánh vào nền kinh tế
bao cấp, chủ yếu dựa vào xuất khẩu dầu mỏ của Liên bang Xô viết. Đầu
tiên là Hoa Kỳ đã đánh phá giá đồng USD tới gần 30% khiến doanh thu thực
tế từ xuất khẩu dầu mỏ của Liên Xô sụt giảm trầm trọng.
Đồng
thời, Mỹ đã bắt tay với Saudi Arabia tăng lượng khai thác lên gấp 5
lần, từ 2 triệu thùng/ngày lên 10 triệu thùng, cung vượt cầu đã khiến
giá dầu thế giới giảm tới gần 55%, từ xấp xỉ 30USD/thùng còn hơn
10USD/thùng, tương đương với mức ngưỡng sụp đổ của nền kinh tế Nga mà
các chuyên gia vừa dự báo.
Giá dầu giảm mạnh cùng
sự suy thoái của kinh tế thế giới khiến xuất khẩu vũ khí vốn đã ít ỏi
của Liên Xô gần như tê liệt. Trong khi đó, doanh thu từ xuất khẩu các
sản phẩm công nghệ cao gần như bằng không đã khiến nền kinh tế của Liên
bang Xô viết mất cân bằng trầm trọng.
Giá dầu giảm
cùng với sự tăng giá ngoại tệ chi trả nhập khẩu sản phẩm công nghệ cao
của các nước châu Âu, đối lập với sự mất giá của ngoại tệ thu về từ xuất
khẩu (USD) đã khiến nền kinh tế Liên Xô lâm vào khủng hoảng, thâm hụt
ngân sách lớn, đời sống nhân dân khó khăn đã gây ra những biến động lớn
trong đời sống xã hội.
Đây cũng là một trong những
nguyên nhân chủ yếu đẩy nhanh tình trạng “tự diễn biến”, dẫn đến sự sụp
đổ của đầu tàu Xã hội Chủ nghĩa. Hiện cũng đang trong tình trạng gần
tương tự, liệu Nga có thoát khỏi “vết xe đổ” của Liên Xô?
Hỏa bốc lên đầu khi dầu sụt giá
Khi dân Mỹ đang nhồi thịt gà cho bữa tiệc Tạ Ơn vào buổi tối thì mặt
trời thức giấc sớm hơn ở bên kia bán cầu: tổ chức OPEC của các nước xuất
cảng dầu thô vừa kết thúc hội nghị tại Vienna trong cùng ngày Thứ Năm
– với tiếng thở dài. Không thể giảm số cung để giữ giá được. Tin loan
ra là giá dầu lại sụt trên các thị trường, lần đầu tiên tụt đáy bảy chục
một thùng kể từ ba năm nay.
Và sẽ còn tụt nữa trong nhiều năm tới.
Và sẽ còn tụt nữa trong nhiều năm tới.
Cùng
với tin đó về hội nghị của OPEC, người ta biết thêm rằng ông trùm Igor
Sechin, một thủ lãnh có ảnh hưởng trong đám cận thần của Tổng thống
Vladimir Putin, đã thất bại trong chuyến du thuyết trước khi có hội nghị
OPEC. Là Tổng quản trị của tập đoàn năng lượng quốc doanh Rosnef,
Sechin đi vận động các thành viên OPEC cùng nhau tiết giảm số cung để
nâng giá dầu mà chuyện không thành
. Buồn ơi chào mi.
Đầu
tiên là chuyện cung cầu. Số dầu cung cấp trên thế giới hiện cao hơn số
cầu đến triệu thùng một ngày. Nói về dầu thô, người ta dùng khái niệm
"nhật lượng" là sản lượng trong một ngày. Số tiêu thụ của toàn cầu hiện ở
mức 92 triệu thùng mà nhật lượng của các nước sản xuất lại cao hơn một
triệu thùng, và giá dầu lại có mức đàn hồi (co giãn) rất cao nên giá sụt
mạnh hơn sự chênh lệch cung cầu.
Cũng về mặt cung, nhật lượng của Mỹ là gần chín triệu thùng (tính đến cuối Tháng 10) nhờ cuộc cách mạng kỹ thuật mới, là gạn đá phiến ra dầu (shale-oil). Ngoài ra, dù Libya có loạn cũng đã bơm thêm dầu, từ 200 ngàn thùng nay đã 900 ngàn. Xứ Iraq chưa êm thì cũng ráo riết bơm dầu để đạt nhật lượng kỷ lục là ba triệu 300 ngàn thùng. Cả thế giới cứ nói đến nguy cơ khủng hoảng vì tổ chức khủng bố ISIL tại Syria và Iraq , nhưng quân khủng bố cũng cần bơm dầu để bán.
Cũng về mặt cung, nhật lượng của Mỹ là gần chín triệu thùng (tính đến cuối Tháng 10) nhờ cuộc cách mạng kỹ thuật mới, là gạn đá phiến ra dầu (shale-oil). Ngoài ra, dù Libya có loạn cũng đã bơm thêm dầu, từ 200 ngàn thùng nay đã 900 ngàn. Xứ Iraq chưa êm thì cũng ráo riết bơm dầu để đạt nhật lượng kỷ lục là ba triệu 300 ngàn thùng. Cả thế giới cứ nói đến nguy cơ khủng hoảng vì tổ chức khủng bố ISIL tại Syria và Iraq , nhưng quân khủng bố cũng cần bơm dầu để bán.
Trong
khi đó, số cầu trên thế giới lại giảm. Từ nhiều năm rồi, các nền kinh
tế Bắc Mỹ đều đã cải tiến hiệu suất - là tiêu thụ ít hơn cho cùng một
sản lượng. Mà kinh tế Trung Cộng và Âu Châu lại có dấu hiệu trì trệ. Lần
thứ ba trong năm nay, Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đánh sụt dự báo tăng
trưởng toàn cầu, và qua năm tới thì tình hình chưa mấy khả quan.
Người
ta có thể nghĩ rằng yếu tố cung cầu ấy chỉ có tính cách ngắn hạn và giá
dầu lại vượt trần là trăm đô la một thùng sau khi sụt mất ba chục bạc.
Trên lý thuyết, khi giá dầu hạ là người tiêu thụ tiết kiệm được tiền và
xài vào việc khác nên sẽ kích thích kinh tế và làm tăng số cầu. Và cũng
trên lý thuyết thì khi giá hạ, các doang nghiệp sản xuất bị mất lời nên
sẽ điều chỉnh sản lượng và làm giảm số cung. Nhưng đấy là lý thuyết.
Về
thực tế, số cầu tại Bắc Mỹ tiếp tục giảm và sẽ giảm nữa nhờ hiệu suất
tiêu thụ và các loại năng lượng điền thế. Kinh tế Âu Châu chưa ra khỏi
suy trầm mà cũng có chiều hướng cải tiến hiệu suất tiêu thụ. Còn Trung
Cộng thì sẽ đi vào chu kỳ suy thoái, có khi còn bị khủng hoảng.
Trong
lúc đó, các nước dầu hỏa Trung Đông như Libya , Iraq hay Iran đều
cần tiền và ra sức bơm dầu. Riêng có Saudi Arabia thì đã trường vốn, có
tiền, lại mưu toan giữ giá dầu thật thấp để chi phối sản lượng của các
doanh nghiệp Mỹ đã tốn tiền đầu tư vào kỹ thuật đá phiến.
Vì
vậy mà cung vẫn cao hơn cầu trong nhiều năm tới và giá dầu khó trở lại
trăm bạc một thùng. Lại còn có thể sụt dưới mức sáu chục là ít.
Khi
một sản phẩm sụt giá thì xứ nào tiêu thụ sẽ có lời và các nước sản xuất
sẽ lỗ. Kinh tế học gọi đó là "tái phân lợi tức", từ người bán sang
người mua. Nhưng dầu thô là sản phẩm có tính chất chiến lược cho nên ảnh
hưởng về giá cả cũng có kích thước chính trị.
Trước
hết, các quốc gia chỉ sống bằng khu vực năng lượng chứ không có sản
phẩm nào khác thì sẽ vất vả. Đó là trường hợp của Liên bang Nga, một xứ
lạc hậu về kinh tế với sản lượng Vodka và võ khí rất khó bù lỗ cho ngành
dầu khí. Nếu dầu thô mà sụt dưới 90 bạc là ngân sách sẽ lủng và chính
trường chung quanh Putin sẽ lủng củng. Putin có thể ngang nhiên làm
thịt Ukraine trước sự bất lực và hậm hực của các nước Tây phương,
nhưng lại bị thị trường trừng phạt còn nặng hơn chính trường Âu Mỹ!
Cũng
vì vậy mà Putin đã cố tình quậy nát Trung Đông, cho cậu bé Barack Obama
cầm lon nước đi chữa lửa, để giữ giá dầu trên cái ngưỡng trăm bạc. Dù
nước Nga chẳng là thành viên của OPEC, Putin vẫn cố gửi Sechin qua
Vienna tiếp xúc với Saudi Arabia, Venezuela và Mexico để kêu gọi các
nước xuất cảng hãm vòi sản xuất, mà không xong. Lý do là nhiều nước OPEC
cùng thấy rằng chính Putin cũng chẳng thể hãm vòi của các giếng dầu ở
Tây Bá Lợi Á.
Nhìn trong trường kỳ, người ta không quên là trong một phần tư thế kỷ, từ 1975 đến năm 2000, là giá dầu thô chỉ ở mức 12 tới 40 đô la một thùng mà thôi. Trong khoảng thời gian đó, sau khi Michael Gorbachev lên lãnh đạo Liên bang Xô viết, giá dầu còn sụt mạnh vào cuối năm 1985 khi Saudi Arabia mở vòi bơm...
Hai năm sau là Liên Xô cạn vốn. Hai năm suy sụp kinh tế sau đó mới góp phần làm cho chế độ tan tành.
Người ta cứ nghĩ rằng khi dầu thô lên giá, xứ nào cũng cố gắng bảo đảm nguồn cung cấp và vì vậy mà chiến tranh càng dễ bùng nổ. Nhưng khi dầu thô sụt giá trong nhiều năm liền, là trường hợp ngày nay, thế giới cũng rất dễ bị khủng hoảng. Gorbachev đã thấy điều đó.
Xin hãy ngồi xem.
Nhưng chính là trong kịch bản ấy ta mới nhớ đến kế hoạch của Putin khi chạy qua bán năng lượng cho Trung Cộng. Putin đã tưởng rằng khôn và độc khi nhận tiền dầu bằng đồng bạc của Tầu thay vì đô la Mỹ. Nào ngờ dầu thô sụt giá và đồng Nguyên sẽ mất giá nữa trong trận chiến hối đoái sắp tới. Trong khi đô la cứ lặng lẽ lên giá một cách đáng ghét. Kết quả là Nga thu về một đồng tiền mất giá trong khi vẫn phải trang trải các khoản nhập cảng khác bằng tiền Mỹ.
Rõ là hỏa bốc lên đầu khi dầu thô sụt giá!
Nguyễn Xuân Nghĩa
*****
TRẦN MỘNG LÂM * LUỘC ẾCH
Chiến Thuật «Luộc Ếch»
Trần Mộng Lâm
Năm
1996, Daniel Quinn viết cuốn sách có tên là Truyện của B (The Story of
B) nói về lịch sử nhân loại trong đó ông dành riêng một chương để viết
về con ếch, với những dòng như sau: Nếu
ta bỏ một con ếch vào một nồi nước sôi, thì con ếch sẽ dẫy dụa và nhẩy
ngay ra khỏi nồi nước. Nhưng nếu ta bỏ ếch vào nồi nước lạnh, để ếch nằm
trong đó, rồi từ từ nâng nhiệt độ lên, thì ếch ngồi trong đó thoải mái
cho đến khi bị luộc chín lúc nào không biết.
Olivier Clerc năm 2005 cũng viết một bài ngắn có tên hơi dài là «Con ếch không biết mình đang bị luộc….và những bài học khác ở đời», được Michel Debaig và Luis Maria Huette phổ biến dưới tiêu đề Sự Nghịch Lý của con ếch.
Sau
này, để cảnh tỉnh nhân loại trước nguy cơ trái đất đang bị hâm nóng từ
từ, cựu phó TT HK là ông Algore có thực hiện một cuốn phim gọi là Sự
Thực Mất Lòng cũng khai thác đề tài này.
Câu
chuyện bắt nguồn từ một tài liệu xuất hiện năm 1897 ghi lại một cuộc
thí nghiệm tại Institut John-Hopkins năm 1982 : Một con ếch bị bỏ trong
một nồi nước lạnh, sau đó người ta nâng nhiệt độ lên một cách rất chậm,
chỉ 0,002 độ C mỗi giây. Sau 2 giờ 30 phút, con ếch bị luộc chín mà
không nhúc nhích gì.
Câu
chuyện lý thú nói trên khiến người ta liên tưởng đến hoàn cảnh nước
Việt Nam ta, với tà quyền CS trong nước, và khối người Việt Hải Ngoại.
Vào
đầu thập niên 1980, những người Việt định cư tại nước ngoài căm thù CS
đến thâm gan, tím cật. Ai nói đến CS, là người ta chống đối mãnh liệt.
Rồi ngày tháng qua đi, CS thì vẫn thi hành một chính sách độc tài, độc
đảng như cũ, vẫn hà hiếp, bóc lột người trong nước như xưa, nhưng người
tỵ nạn thì không phải tiếp xúc trực tiếp với những cán bộ ác ôn hàng
ngày. Mối hận thù cũng không thể quên, nhưng cường độ một ngày một giảm
đi. Hơn nữa, sau một thời gian dài cần cù làm ăn, người tỵ nạn đã có của
ăn, của để, họ nghĩ đến việc trở về cố hương, để trước là thăm nơi quê
cha đất tổ, nhưng cũng có phần để lên mặt với đời.
Mới
đầu, số người về rất ít, sau càng ngày càng nhiều, nhất là vào các dịp
Tết, Rồi Ông Nguyễn Cao Kỳ, Rồi ông Phạm Duy, rồi các ca sỹ nổi tiếng,
ngày nào lếch thếch nơi Mã Lai. Hồng Kông, hay Thái Lan, Nam Dương,
trong các trại tỵ nạn, nay áo quần diêm dúa, môi son đỏ choét, về lại cố
hương, để có được «hạnh phúc hát trước đồng bào», làm như lòng yêu nước của họ to hơn số đô la chứa trong các phong bì mà họ nhận được sau những buổi trình diễn cuối đời.
Về nước hát cho đồng bào tôi nghe. Giá vé từ $VN900.000.00 đến $VN3.500.000.00
Ngày
nào, khi Đàm Vĩnh Hưng qua hát, người ta bảo nhau đi phản đối, tay cầm
cờ vàng, miệng hô đả đảo. Ngày nay, Nguyễn Thanh Sơn, người quan trọng
gấp mấy lần Đàm Vĩnh Hưng, đi Mỹ, đi Canada, chẳng ai thèm đặt vấn đề,
lại còn bắt tay, phỏng vấn xỳ xèo.
Việc này, thực đâu có gì lạ, mà phải la làng.
Chỉ là một trong muôn ngàn thí dụ của «boiling frog syndrome».
Trung
Hoa là một nước láng giềng của Việt Nam. Anh chàng láng giềng này lúc
nào cũng muốn nuốt chửng Việt Nam. Để thực hiện mưu đồ này, họ dùng 2
chiến thuật:
Chiến thuật «tầm ăn dâu», từng
bước, từng bước lấy của VN những tấc đất, những vùng biển, như Hoàng
Sa, Trường Sa, Nam Quan, đất đai vùng biên giới, việc này gây ra sự
chống đối mãnh liệt, nhưng ít quan trọng hơn so với chiến thuật thứ hai.
Chiến thuật «luộc ếch» thâm
độc hơn nhiều : lập công ty Trung Hoa khai thác các tài nguyên thiên
nhiên, di dân , lấy vợ, đẻ con, xây chùa chiền theo kiểu Tầu, viết chữ
Tầu trên các mặt tiền và trong các chỗ thờ phương, các bảng hiệu, lập
các làng Tầu trên đất Việt…v.v. Ngày một, ngày hai, người Việt sẽ thấy
người Tầu, văn hóa Tầu, cách sống Tầu, quá thân thuộc với mình. Khi ấy,
thì Việt Nam có thành một ngôi sao trên lá cờ Tầu, cũng chẳng có gì quan
trọng.
Nghĩ đi, nghĩ lại, người Việt, và các con ếch, có gì khác nhau đâu??
Mong rằng mọi người thức tỉnh kịp thời, trước khi Việt Cộng hoàn thành âm mưu bán nước.
Trần Mông Lâm
No comments:
Post a Comment