Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Monday, 24 October 2016

ĐẠI HỌC VĂN KHOA HUÊ -CÁ CHẾT - BIỂN ĐÔNG

GS LE ĐÌNH CAI * TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN KHOA HUẾ


 Trường Đại học Văn Khoa Huế (1957 - 1975)

Những kỷ niệm về các vị Khoa Trưởng Trường Đại học Văn Khoa Huế (1957 - 1975)
GS LÊ ĐÌNH CAI



Năm 1962, sau khi đỗ tú tài II ban văn chương Anh, tôi ghi danh vào lớp Dự Bị Văn Khoa và lớp Cử Nhân Luật I ở Huế (1962-1963). Về sau tôi chuyên tâm về ngành Văn Khoa hơn. Trong suốt 4 năm học ở trường Văn Khoa Huế từ 1962 đến 1966, tôi đã có dịp gần gũi với vị Khoa Trưởng chính thức đầu tiên là giáo sư Lê Văn Diệm(1960-63). Kế đó, thầy Huỳnh Đình Tế ( 1963-1964). Giáo sư Nguyễn Thế Anh (1964-1965). GS Lâm Ngọc Huỳnh lên thay từ niên khóa 1965-1966.
 Tôi rời Trường đại học Văn khoa Huế vào mùa hè 1966 để theo học Ban Cao Học Sử tại đại học Văn khoa Sài Gòn và đã hoàn tất văn bằng này vào tháng 4 năm 1968. Vì đại học Văn khoa Sài
 Hình GS Lê Đình Cai
Gòn cho tới 1968 vẫn chưa mở lớp Tiến Sĩ, nên tôi không có dịp tiếp tục học lên, phải xin dạy học tại đại học Văn khoa Đà Lạt, trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam và đại học Văn khoa Huế từ mùa thu 1968 cho đến tháng 4 năm 1975. Năm 1971, tôi đổi về dạy tại đại học Văn khoa Huế khi giáo sư Lê Thanh Minh Châu đảm nhiệm chức vụ Viện Trưởng đại học Huế. Và giai đoạn này, giáo sư Nguyễn Quới đã thay GS Lâm Ngọc Huỳnh lên làm Khoa Trưởng Văn khoa(1970-71). Cuối năm 1971, GS Quới rời chức vụ vì đã đắc cử Nghị Sĩ nhiệm kỳ 1971 - 1976, nên GS Dương Đình Khôi lên thay thế làm Khoa Trưởng Văn khoa Huế cho đến tháng 4 năm 1975. GS Dương Đình Khôi là thầy học cũ của tôi ở lớp Sử Tây Phương và tôi được may mắn trở lại trường Văn khoa Huế để cộng tác với vị thầy cũ trong cương vị thành viên của giảng huấn đoàn từ niên khóa 1971-1975.
Sau đây, tôi cố gắng ghi lại một số hình ảnh, tâm tư và hồi ức về các vị Khoa Trưởng mà tôi được may mắn gần gũi trong tư cách một người học trò cũ (1962 - 1966) và trong cương vị thành viên của giảng huấn đoàn khi tôi thuyên chuyển từ đại học Đà Lạt về Huế (1971-75)

* * *
Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua. Thời gian đã xóa nhòa những rêu phong của một thời trai trẻ, nhưng những tháng ngày sôi động của một thời sinh viên nào dễ có ai quên… Nay tuổi đã quá "thất thập", nên chuyện đời bây giờ thì nhớ nhớ quên quên ngay cả những gì mới xảy ra ngày hôm qua hay tuần trước. Huống gì chuyện của một thời cách đây hơn 50 năm trên miền đất cố đô yêu dấu… Nhớ sự kiện đã là khó, nhớ ngày tháng của sự kiện lại càng khó hơn. Viết lại mà không có một tài liệu để tham khảo, để đối chiếu, quả không dễ gì. Nói chuyện với quý vị đàn anh, những lớp sinh viên tiên phong của đại học Huế để nhờ khai sáng thêm về những ngày xa xưa ấy thì người viết chỉ đón nhận được những suối nguồn khô cạn của ký ức. Chẳng hạn khi hỏi những đàn anh khóa đầu tiên của đại học Văn Khoa ai là người đã nhận lãnh văn bằng cử nhân văn chương đầu tiên của đại học Văn Khoa Huế thì thầy Nguyễn Văn Lâu, nguyên hiệu trưởng Trường Quốc Học Huế, tốt nghiệp đại học Sư phạm khóa đầu tiên, chỉ cười mà đề nghị người viết nên thử hỏi lại GS Đoàn Khoách xem sao. GS Đoàn Khoách năm nay 86 tuổi đã rất vui khi tiếp chuyện chúng tôi qua điện thoại. GS Khoách cho biết, GS Quới chính là người sinh viên văn khoa đầu tiên nhận lãnh văn bằng cử nhân (chuyên về văn chương Pháp). Những người xuất thân từ khóa đầu tiên thuộc sư phạm và văn khoa, một số đã là thành viên của giảng huấn đoàn như GS Nguyễn Quới, GS Nguyễn Đức Kiên, GS Nguyễn Văn Châu, GS Trần Qúy Phiệt, GS Đoàn Khoách… Những vị này về sau có người đã đảm nhiệm những chức vụ quan trọng chẳng hạn GS Nguyễn Quới là Khoa Trưởng ĐHSP rồi Khoa Trưởng ĐHVK, GS Nguyễn Đức Kiên, Khoa Trưởng ĐHSP, GS Đoàn Khoách, Phụ tá Khoa Trưởng ĐHSP, chẳng hạn.
Trở lại những ngày đầu thành lập Viện đại học Huế với sắc lệnh số 45/GD do Tổng thống Ngô Đình Diệm kí ngày 01/03/1957 và theo Nghị định số 95GD/NĐ cũng kí ngày 01/03/1957, thì Viện đại học Huế đã tổ chức được các lớp học sau đây cho niên khóa đầu tiên 1957 - 1958:
- Năm I Cử Nhân Luật Khoa
- Năm I Năng Lực Luật Khoa
- Năm I Cao Đẳng Sư Phạm
- Năm I Cán Sự Y Tế và Điều Dưỡng
- Năm I Nữ Hộ Sinh Quốc Gia
- Năm Dự Bị Văn Khoa
- Năm Dự Bị Cao Đẳng Mỹ Thuật
- Ban Toán Học Đại Cương.

Theo ghi nhận của GS Nguyễn Văn Trường, vị Khoa Trưởng đại học Văn khoa Huế đầu tiên là GS Lê Văn Diệm (theo Dòng Việt, số 4, 1997, tr.120; theo Kỷ Yếu ĐHSP Huế, 1957 - 2007, tr.17). Cũng trong Dòng Việt (sđd), trang 22a có ghi rõ danh sách các vị Khoa Trưởng, ĐHVK Huế: GS Lê Văn Diệm, GS Huỳnh Đình Tế, GS Nguyễn Thế Anh, GS Lâm Ngọc Huỳnh, GS Nguyễn Quới, GS Dương Đình Khôi. Nhưng tài liệu này không nói rõ thời gian tại chức của các vị ấy. Vào lúc này đây, người viết không có đầy đủ các văn kiện bổ nhiệm các vị Khoa Trưởng để tham khảo. Trong điều kiện hạn hẹp của tư liệu (nếu ở trong nước, công việc này chắc chắn dễ dàng hơn), người viết cố gắng dùng phương pháp đối chiếu, loại suy, tiếp cận phỏng vấn… chẳng hạn hỏi thăm các anh chị đậu cử nhân để xem thử vị khoa trưởng nào đã ký tên trên văn bằng để tạm thời ghi nhận được mốc giới thời gian của các vị ấy trong khoảng thời gian từ 1957-1975. Sự ghi nhận về thời gian này có thể đúng có thể sai vì không dựa được trên các văn bản chính thức, nên cần phải được hiệu đính khi điều kiện cho phép.
Trước khi tuần tự ghi lại vài nét về các vị Khoa Trưởng Văn Khoa Huế , người viết có một thắc mắc là liệu GS Lê Văn Diệm có phải là vị Khoa Trưởng đầu tiên của Văn Khoa Huế hay không? Để trả lời cho câu hỏi này, người viết đã xin được gặp (qua điện thoại) GS Lê Thanh Minh Châu nguyên Viện trưởng, GS Nguyễn Đình Hoan, nguyên Tổng Thư Ký, GS Đoàn Khoách và đã được các vị cho biết là trong thời gian đầu, từ 1957 - 1960 mọi quyết định liên hệ đến Văn Khoa đều xuất phát từ Linh mục Viện Trưởng Cao Văn Luận. Nói đúng ra, trong thời gian này, Linh mục Luận đã đảm nhiệm quyền Khoa Trưởng của đại học Văn Khoa Huế trước khi GS Lê Văn Diệm được chính thức bổ nhiệm từ niên khóa 1960 - 1963. Vậy người viết xin bắt đầu từ Linh mục Cao Văn Luận trước.

1. Linh mục Cao Văn Luận (1957 - 1960):



                                                   Hình Linh mục Cao Văn Luận

Ngài đảm nhiệm quyền Khoa Trưởng cho đến khi GS Lê Văn Diệm về nước. Linh mục Cao Văn Luận được chính thức bổ nhiệm làm Viện trưởng ĐH Huế qua sắc lệnh ký ngày 01/03/1957. Niên khóa 1957-58, lớp dự bị Văn khoa được tổ chức và những năm kế tiếp cho đến 1960 Ngài đã ra những chỉ thị trực tiếp liên hệ đến ngành Văn Khoa. Tiểu sử của Ngài mọi người dễ tìm thấy và ngay trong tập kỷ yếu này rất nhiều bài viết về cuộc đời của Ngài. Khi theo học lớp DBVK niên khóa 1962-63, cá nhân tôi không có may mắn được học với Ngài, dù Ngài là vị giáo sư triết học rất nổi tiếng vào thời ấy. Năm 1963, những biến động do phòng trào sinh viên tranh đấu Huế đã đẩy đưa đời sống văn hóa của đại học Huế đi vào bế tắc, vượt khỏi tầm kiểm soát của vị Viện trưởng đầy lòng nhân ái này. Tháng 8/1963, Cha Luận bị huyền chức. Tháng 11/1963, đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, thì Ngài được mời trở lại điều hành Viện ĐH Huế nhưng rồi cũng chỉ 8 tháng sau, Ngài lại bỏ Huế ra đi. Lần này, không phải do chính quyền mà lại "do những thành phần năng động nhất của Huế đuổi Cha đi. Cha đi bỏ lại đằng sau tất cả của đời Cha. Cha đi vì đã hoàn tất một nhiệm vụ, hay Cha đi vì bản chất phản bội cố hữu của con người." (Nguyễn Văn Trường, Kỷ Yếu, ĐHSP Huế, 1957 - 2007, tr.21).
Sau khi rời Huế, Ngài về Sài Gòn và được mời giảng dạy tại trường ĐHVK và DHSP. Năm 1966, tôi về SG theo học chương trình cao học Sử học và cộng tác thường trực với nhật báo Sống của Chu Tử, Tự Do của GS Phạm Việt Tuyền, Chính Luận của BS Đặng Văn Sung. Dịp này tôi có một bài báo viết về Linh mục Cao Văn Luận và sự đóng góp quý giá của Ngài cho bước đầu của viện ĐH Huế, đăng trên các tờ báo nói trên. Cha Luận đọc bài này và đã gọi điện thoại mời tôi ghé thăm Ngài ở số 32 Đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn. Tôi được gần gũi Ngài kể từ dịp này. Tháng 4 năm 1968, tôi đệ trình luận văn "34 năm cầm quyền của Chúa Nguyễn Phúc Chu 1691 - 1724" để nhận lãnh văn bằng Cao học Sử học tại ĐHVK Sài Gòn. Và chính Cha Luận là người đã giới thiệu tôi lên dạy tại Viện ĐH Đà Lạt . Khi đến Hoa Kỳ, theo diện HO, tôi được biết là linh mục Cao Văn Luận đã qua đời vào tháng 7 năm 1986 tại Petaluma thuộc bang California.

2. GS Lê Văn Diệm (1960 - 1963):

(Ghi chú về trường hợp thiếu hình của GS Lê Văn Diệm:

Do tác giả chưa sưu tập được hình của GS Lê Văn Diệm qua các môn sinh, đồng nghiệp hoặc thân hữu, hy vọng hình của GS Lê Văn Diệm sẽ được bổ túc sau này trong lần tác giả hoàn chỉnh bài viết ghi lại các kỷ niệm về các vị Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Huế trước tháng 4-1975. Lúc đó, tòa soạn Khai Thác Thị Trường sẽ đăng tải lại bài viết cập nhật nhất)

GS Diệm từ Hoa Kỳ về Huế bắt đầu giảng dạy tại ĐHVK và đảm nhiệm chức vụ khoa trưởng chính thức trong khoảng 1960 - 1963. Thầy Diệm tốt nghiệp tiến sĩ Văn chương ở Hoa Kỳ, em ruột của bà GS Bùi Xuân Bào (đã từng làm Khoa Trưởng VK Sài Gòn và Thứ Trưởng Bộ GD). GS Diệm còn có một người em trai là BS Lê Văn Điềm cũng dạy tại ĐH Huế. Cá nhân người viết là học trò thầy Diệm liên tiếp 2 năm 1962,1963 về môn văn hóa Anh-Mỹ. Thầy Diệm người gốc Huế, dáng cao và tầm vóc cân đối, bấy giờ thầy khoảng 40 tuổi, độc thân, rất hiền từ, tận tâm, rất yêu thương học trò, nhưng rất dễ nổi giận. Đặc biệt, thầy có thói quen mà tôi nhớ mãi,đang giảng bài, thỉnh thoảng thầy bỏ sách xuống bàn, hai tay xóc quần lên rồi thản nhiên dạy tiếp. Cuối năm 1963 thì thầy đổi về dạy tại ĐHVK Sài Gòn và sau nghe thầy đảm nhiệm chức vụ Khoa Trưởng ĐHVK Cần Thơ (?).

Thầy Lê Văn Diệm có dịp qua thăm Hoa Kỳ và ghé lại San Jose khoảng thời gian đầu năm 2000 thì phải. Chúng tôi đã mời thầy đi dùng cơm tối tại nhà hàng Nha Trang cùng với sự hiện diện của bác Lê Hữu Dãn, chánh VP đại diện ĐH Huế tại Sài Gòn và Tiến Sĩ Lê Hữu Phú. Buổi gặp gỡ lúc đó thật đầm ấm, đầy ắp tình thầy trò sau một thời gian dài xa cách vì vận nước nổi trôi. Bốn người có mặt hôm đó, nay ba người đã khuất bóng.

3. GS Huỳnh Đình Tế (1963 - 1964):

                                       Hình GS Huỳnh Đình Tế


 Tốt nghiệp tiến sĩ ở Hoa Kỳ chuyên ngành Ngữ học Anh (Ph.D in Linguistics), về nước khoảng 1963. Khuôn mặt thầy Tế thật phúc hậu, dáng người đẩy đà, không cao lắm nhưng cân đối. Khi thầy về nước và chuyên dạy cách phát âm về Anh văn cho sinh viên, tôi không có dịp được học với thầy vì tôi đã quyết chí đi về ngành Sử học và hy vọng sẽ tiến xa hơn trên lãnh vực này. Tuy nhiên, tôi còn giữ được một kỷ niệm thân thương về thầy, không bao giờ quên được mỗi lần nhớ lại những ngày tháng sinh viên tuyệt đẹp của đời người. Số là niên khóa 1963-64, tôi theo học năm thứ hai không chuyên cần lắm, nửa tuần đầu theo học lớp chứng chỉ "phương pháp Sử học", nửa tuần sau từ chiều thứ tư, tôi phải ra Quảng Trị, về Diên Sanh dạy học. Tuy nhiên, năm thứ hai đó, tôi cũng đã đậu kỳ

thi viết và chuẩn bị vào vấn đáp. Thật là xui xẻo khi vị giám khảo hỏi tôi: "Theo anh, thì cần thời gian bao lâu để phán đoán một biến cố lịch sử?" Câu này tôi nghĩ bụng là trúng tủ của mình rồi và trả lời liền: "Thưa thầy, con nghĩ là cần ít nhất 50 năm khi ảnh hưởng của nhân vật lịch sử không còn trực tiếp lên biến cố nữa thì sự phán đoán mới tương đối khách quan." Vị giám khảo nhìn tôi mỉm cười "Anh thuộc bài đấy chứ!" rồi nói tiếp: "Học là phải đi đôi với Hành. Thế anh đã "Hành" chưa?" "Anh đã phán xét một chế độ chưa đủ thời gian 50 năm, rồi anh "Hành" ngay khi đang còn là sinh viên" (Tôi hiểu ý của vị giám khảo, muốn đánh hỏng tôi vì giai đoạn này, tôi đã tham gia phong trào sinh viên chống lại chính quyền đã bị lật đỗ tháng 11/1963).

GS giám khảo sau đó ra dấu tôi rời phòng thi. Tôi buồn vô hạn, hỏng vấn đáp mà lại hỏng vào kỳ hai làm sao mà không buồn được. Tôi tìm xuống văn phòng Khoa Trưởng ở dưới lầu và xin gặp GS Khoa Trưởng Huỳnh Đình Tế, tôi trình bày nỗi oan của mình và xin thầy can thiệp. GS Tế vỗ vai tôi thông cảm và thầy nói "Anh Cai ạ, tôi xin chia sẻ nỗi buồn của anh nhưng thật tình tôi không làm gì được cả. Kể cả GS Viện trưởng hay Khoa Trưởng như tôi, không có ai có thể can thiệp vào quyền quyết định tối thượng của GS Giám khảo được." Tôi chào thầy và rời văn phòng. Tôi còn nhớ như in giờ khắc đó thuộc về buổi chiều, đèn đường đã bắt đầu tỏa sáng và tôi đã đi bộ ra vườn hoa Hàng Đoát, đối diện với tư dinh của Cha Viện trưởng. Tôi đi dưới cơn mưa lâm râm cuối hè trong trạng thái bước đi như kẻ mộng du. Lần đầu tiên trong đời tôi, đau niềm đau hỏng thi, sau khi đã trải qua kỳ thì tiểu học rồi thi vào đệ thất, thi đíp lôm (Trung học đệ nhất cấp), Tú Tài bán, Tú Tài toàn, rồi dự bị văn khoa, đều vào trót lọt ,thế mà tôi đã hoàn toàn khựng lại trước ngưỡng cửa kỳ thì năm thứ hai này. Tôi cứ ngồi thao thức trên ghế đá công viên, không thiết gì ăn uống, rồi thiếp đi lúc nào không biết, cho đến khi chiếc xe tuần cảnh của Cảnh Sát đổ xịch và tôi bị đánh thức dậy giữa đêm: "Tại sao cháu lại nằm ở đây mà không về nhà? Cháu biết bây giờ đã quá khuya rồi không?" (Một giọng nói ôn tồn của bác cảnh sát viên lớn tuổi, đưa tôi trở về thực tại.)
-"Thưa bác, cháu đã hỏng kỳ thi đại học chiều nay, cháu buồn quá, không muốn về nhà nữa". Cảm thông với hoàn cảnh của tôi, bác cảnh sát xem sơ qua thẻ sinh viên mà tôi đã trình, biết địa chỉ của tôi ở thành nội, bác cho xe chở tôi về nhà sau khi gọi cậu bánh mì dạo mua cho tôi một ổ để lót lòng. Thật, một kỉ niệm nhớ mãi trong đời.
Trở lại GS Huỳnh Đình Tế, tôi được thầy Nguyễn Văn Lâu, nguyên Hiệu Trưởng trường Quốc Học Huế cho biết là GS Huỳnh Đình Tế khi về dạy tại Đại Học Văn Khoa và Sư Phạm Sài Gòn, được Bộ Giáo Dục mời làm Giám Đốc Nha Công tác Quốc tế (Department of International Relations) vào năm 1970-71. Nha nầy về sau đổi thành Sở và Thầy Lâu đã đảm nhiệm chức vụ Chánh Sự Vụ Sở nầy từ năm 1974. Từ đó, tôi không còn gặp lại thầy Tế nữa. Theo anh Hoàng Ngân Hà, người sinh viên cũ của thầy cho biết là GS Huỳnh Đình Tế đã qua Hoa Kỳ và dạy học tại trường ĐH Long Beach. Nghe đâu, thầy đã qua đời tại thành phố Norwalk, California vào ngày 18/08/2003, thọ 74 tuổi.

4. GS Nguyễn Thế Anh (1964 - 1965):





 Hình GS Nguyễn Thế Anh

 Người gốc miền Bắc, tốt nghiệp tiến sĩ Sử học tại Pháp, về Huế giảng dạy môn Sử học tại các lớp cử nhân Sử. Tôi theo học với thầy 2 năm từ 1965-66. Thầy dáng người dong dỏng cao, không mập cũng không ốm. Thầy giảng bài rất tận tâm và soạn bài rất cẩn thận. Vào giờ học của thầy, tôi ghi bài đến mỏi cả tay từ đầu giờ cho đến khi chuông reo mới chấm dứt. Thầy ít nói ít cười nên đa số sinh viên cảm thấy ít gần gũi.

Năm 1966, tình hình chính trị sôi động ở miền Trung đòi hỏi một vị viện trưởng mới, tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh quân đoàn 1, đánh điện về Bộ xin đề cử GS Nguyễn Thế Anh lên làm Viện Trưởng sau khi đã tham khảo ý kiến của một số thân hào nhân sĩ ở Huế.


GS Nguyễn Thế Anh đã lên làm Viện Trưởng ĐH Huế kể từ niên khóa 1966-67 cho đến khi GS Lê Thanh Minh Châu được Tổng Thống đề nghị và Thượng Nghị Viện VNCH chuẩn thuận để về Huế đảm nhiệm chức Viện Trưởng thay thế GS Nguyễn Thế Anh vào năm 1970. Tôi có một kỷ niệm đáng nhớ là trong kỳ thi Tiến sĩ Sử học khóa đầu tiên (1972 - 1975) gồm 7 nghiên cứu sinh (2 người dạy học tại ĐHVK Sài Gòn, 1 người là Khoa Trưởng ĐHVK Cần Thơ, 1 người là Tổng Thanh Tra giám sát viện, 1 người dạy tại ĐH Cao Đài, 2 người dạy ĐH Huế là GS Trương Ngọc Phú và cá nhân tôi), GS Nguyễn Thế Anh làm chánh chủ khảo . Kỳ thi này có những vấn đề tế nhị, vì thế mà GS Châu Long, thành viên hội đồng giám khảo, đã tuyên bố từ chức. Cũng nên biết rằng, trường ĐHVK Sài Gòn vẫn chưa cấp phát văn bằng Tiến sĩ cho bất cứ nghiên cứu sinh nào kể cho đến tháng 4 năm 1975. Được biết GS Nguyễn Thế Anh hiện đang sống cùng gia đình tại Paris, Pháp. Chúng tôi từ ngày ra nước ngoài đến nay vẫn chưa một lần gặp lại.

5. GS Lâm Ngọc Huỳnh (1965 - 1970):
Cùng một trường hợp giống như như GS Lê Văn Diệm ở trên, thiếu hình)
Người gốc miền Bắc, về giảng dạy tại Văn khoa Huế sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ Xã hội học ở Pháp. Thầy dáng người thấp, mắt đeo kính cận rất nặng, ăn nói nhỏ nhẹ, nghiêm trang nhưng rất hiền từ. Vợ thầy là cô Trương Tuyết Anh cũng là người miền Bắc, dạy môn Anh văn cho tôi ở lớp dự bị văn khoa. Thầy về nước từ 1962 thì phải? Vì năm đó bà Trương Tuyết Anh, bắt đầu dạy học cho các sinh viên năm đầu đại học. Thầy Huỳnh chính thức đảm nhiệm chức Khoa Trưởng văn khoa khi thầy Anh lên làm Viện Trưởng.

Tôi được học môn xã hội học với thầy trong chứng chỉ "Nhân chủng học" của năm thứ 4 (1965- 1966) để hoàn tất văn bằng cử nhân giáo khoa Sử học. Thời gian thầy Huỳnh làm Khoa Trưởng thì tôi ra tranh cử chức chủ tịch BĐD sinh viên Văn khoa và đã đắc cử. Dịp này, chúng tôi cũng đã giúp được cho thầy nhiều vấn đề liên quan đến sinh viên, nhất là giai đoạn mà nhiều cuộc đình công và bãi khóa thường xuyên xảy ra. Khi qua Mỹ tôi được nghe là thầy cô nay đã định cư ở Mountain View (CA) gần thành phố San Jose, nơi gia đình tôi đang sinh sống. Tôi cố gắng tìm cách liên lạc với thầy cô nhưng không ai biết được địa chỉ cả. Chúng tôi có nghe nói, thầy đã qua đời cách đây 4-5 năm về trước. Thật tiếc, chúng tôi vẫn cố gắng tìm cách liên lạc với cô Trương Tuyết Anh, phu nhân của thầy để mời về tham dự ngày họp mặt của gia đình ĐH Huế vào ngày 02/08/2015 vừa qua, nhưng cuối cùng vẫn không ai tìm được số điện thoại của cô.
6. GS Nguyễn Quới (1970 - 1971):



  Hình GS Nguyễn Quới
Người gốc Quảng Ngãi thì phải, dáng người trung bình, khuôn mặt thông thái. Thầy có nụ cười hiền hòa, dễ gần gũi. Theo như GS Đoàn Khoách, thì GS Qưới là người sinh viên Văn khoa Huế đầu tiên nhận lãnh văn bằng Cử nhân Văn khoa (giáo khoa Văn chương Pháp) tại ĐH Huế. Người sinh viên đầu tiên ấy, trong những ngày mới thành lập viện nay là Khoa Trưởng ĐHVK (1970-71) sau khi thôi làm Khoa Trưởng ĐHSP (1968-70).

Thầy Quới rất giỏi tiếng Pháp ngay từ hồi nhỏ vì thân phụ nguyên là giáo sư Pháp văn của trường Quốc Học Huế. Thầy Quới còn là GS Anh văn của Tiểu chủng viện Phú Xuân, Huế (1956-58) theo lời kể của cựu dân biểu Nguyễn Đức Cung, người học trò cũ của Thầy. Thầy đã được đi du học Pháp để lấy văn bằng Tiến sĩ và trở lại Huế để phục vụ như ước nguyện của thầy và dưới sự động viên của Linh mục Cao Văn Luận. Đầu năm 1971, cá nhân tôi về dạy học tại ĐHVK Huế và được làm việc với GS Quới trong tư cách là giảng huấn đoàn văn khoa, tôi cảm thấy quý mến thầy ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Có điều này tôi muốn kể lại về thầy Quới. Số là đầu xuân năm 1971, trường Văn khoa có ra số báo xuân với sự đóng góp bài vở của giáo sư và sinh viên, thầy Qưới cho mời tôi vào văn phòng Khoa Trưởng, thầy nói: "Anh Cai, tôi nhờ anh việc này, anh viết cho tôi lá thư của thầy Khoa Trưởng chúc Tết toàn thể giáo sư và sinh viên trong dịp xuân này để đăng vào tờ Đặc San Văn Khoa." Tôi hơi ngỡ ngàng không dám nhận. Thầy Quới vỗ vai tôi và nói "Tôi biết anh Cai viết báo, viết văn hồi còn học ở Sài Gòn. Anh cố gắng giúp tôi." Tôi đã không dám từ chối trước sự chân thật của thầy khi thầy nói thêm "Nếu viết bằng tiếng Pháp thì tôi viết dễ dàng và nhanh lắm nhưng viết bằng tiếng Việt thì tôi không quen." Chuyện này tôi kể lại chỉ muốn chứng minh sự chân thật của vị Khoa Trưởng mà mình rất kính mến dù thời gian cộng sự với thầy chưa được 1 năm, thì thầy rời chức vụ để đi đảm nhiệm vai trò Nghị sĩ của Thượng Viện VNCH vào cuối năm 1971 tại Sài Gòn ( vả lại ,trong một buổi họp mặt thân mật của gia đình Văn khoa, thầy Qưới đã cười, nhìn tôi và đã kể lại chuyện này cho các đồng nghiệp nghe). Tôi không được tin tức gì của thầy từ ngày ra hải ngoại. Gọi điện thoại hỏi thăm GS Khoách thì rất may cô Thanh Tâm, phu nhân của thầy và là cô giáo của nhà tôi đề nghị tôi gọi điện thoại hỏi thăm chị Thân Thị Nhân Đức, nguyên giáo sư trường Đồng Khánh thì biết được tin tức thầy Quới. Nhờ vậy, tôi được biết rằng thầy Quới đã qua định cư tại Pháp và đã qua đời cách đây 3 năm. Xin kính dâng lên thầy một nén hương tưởng nhớ của một người cộng sự cũ hồi ở ĐHVK Huế.
7. GS Dương Đình Khôi (1971 - 1975):
Hình GS Dương Đình Khôi

 
Vị Khoa Trưởng Văn khoa sau cùng cho đến tháng 4 năm 1975 là GS Dương Đình Khôi. Khi còn theo học chương trình cử nhân Sử học (1962-66), tôi đã học với thầy Khôi hai năm cuối về môn Lịch sử Cổ đại Hy Lạp - La Mã. Thầy có dáng dấp của nhà thông thái nhưng lại hết sức bình dị, khuôn mặt thầy hiền từ lộ rõ bên ngoài. Thầy rất dễ thân thiện và dễ gần gũi. GS Lê Thanh Minh Châu qua điện đàm cho biết thêm về thân thế của thầy Khôi. Thầy là con thứ của BS Dương Đình Liễu rất nỗi tiếng ở Huế, em ruột của BS Dương Đăng Bảng. GS Khôi du học và lấy bằng Tiến sĩ ngành Sử học tại Đại học Belgique. Về nước, thầy dạy ở Văn khoa Huế và đảm trách vai trò Tổng thư ký viện Đại học Huế, đồng thời kiêm nhiệm Khoa Trưởng Văn khoa Huế từ 1971 đến tháng 4 năm 1975. Tôi may mắn là học trò cũ của thầy. Hai năm cuối của chương trình cử nhân, tôi thường đạt điểm cao nhất về môn Cổ Sử Hy-La của thầy. Mối tương quan thầy trò tốt đẹp từ đó đã cho phép tôi được gần gũi thầy nhiều hơn khi tôi trở lại trường cũ trong cương vị thành viên giảng huấn đoàn, phụ trách các lớp cử nhân ngành Sử học.
Thường cuối tuần, thầy cô hay mời vợ chồng chúng tôi đến nhà dùng cơm tối ở cư xá giáo sư, phía đối diện với trụ sở Viện Đại Học Huế trên đường Lê Lợi. Tình cảm thầy trò sâu đậm đã khiến mối tương quan giữa thầy và tôi không còn khoảng cách. Những năm tháng sau hiệp định Paris (1973), tình hình miền Nam càng ngày càng phức tạp. Áp lực tấn công quân sự của Cộng Sản Hà Nội ngày càng mạnh lên các tỉnh địa đầu, thầy thường đem nỗi lo âu đó thảo luận cùng tôi. Đến khi tình hình vùng địa đầu quá nghiêm trọng, dân chúng Huế bắt đầu di tản vào Đà Nẵng, cá nhân tôi cố gắng tìm thầy Khoa Trưởng để thăm hỏi về gia đình thầy ra sao. Mà lạ, trong suốt gần tháng trời ở Đà Nẵng, tìm tới trụ sở tiếp cư tạm thời của Viện Đại Học Huế, tôi không bao giờ gặp được vị thầy hiền từ, kính mến của tôi nữa. Rồi, tôi tìm cách về Sài Gòn bằng đường biển trên chuyến tàu Pioneer của Hoa Kỳ, ở đó tôi đã gặp lại thầy Viện trưởng Lê Thanh Minh Châu (cuối tháng 3 năm 1975). Sau tháng tư đen 1975, tôi đưa gia đình trở lại Huế để trình diện viện đại học theo lệnh của ban Quân Quản thành phố Sài Gòn. Tại văn phòng trường Đại học Văn khoa Huế, tôi không gặp được GS Dương Đình Khôi.Người trách nhiệm điều hành trường Văn khoa lúc này là chị Thái Thị Ngọc Dư, tiến sĩ địa lý học ở Pháp về dạy tại đây từ 1972.

Rồi ngày 09/06/1975, tôi bị công an Huế đến nhà đọc lệnh bắt khẩn cấp đưa đi cải tạo.

Đầu năm 1982, sau gần 7 năm tù tội, tôi được trả tự do và sau đó về cư ngụ tại vùng kinh tế mới ở Phú Cường, Đồng Nai để đoàn tụ với vợ con và gia đình. Mãi sau này, khi tới Hoa Kỳ năm 1994, qua các vị GS của Viện, các bạn sinh viên cũ, tôi mới được biết tin tức về giáo sư Khôi. Thầy cô lúc đó vẫn còn ở lại Huế và cuộc sống khá chật vật, khó khăn. Điều an ủi là cháu Dương Đình Khánh, con trai của thầy cô học rất giỏi theo ban chuyên toán của thành phố Huế. Cháu vào khoảng tuổi con trai của tôi, mặt mũi khôi ngô tuấn tú. Thường vào dịp đầu năm, vợ chồng chúng tôi đều đến chúc Tết thầy cô vào ngày mùng 1. Cô Hạnh Phước, phu nhân của thầy, cũng là cô giáo dạy lý hóa của nhà tôi hồi ở trường Đồng Khánh, Huế. Lúc được lì xì, cháu Khánh lí nhí cám ơn và chúc Tết lại với những câu nói rất ngây ngô, thật dễ thương . Đó là hình ảnh mà cá nhân tôi nhớ mãi. Bây giờ tuổi của cháu chắc cũng đã trên 45 rồi.
Cách đây cũng đã khá lâu, chúng tôi nghe tin thầy đã qua đời ở Huế. Tôi lặng người nhớ lại những ngày tháng cũ ở trường Văn khoa, những ngày tháng làm việc với thầy, nhớ lại khuôn mặt thông thái và hiền từ của thầy, thế mà giờ đây thầy không còn nữa… Một nén hương lòng dâng lên vị thầy cũ và là vị giáo sư khoa trưởng văn khoa Huế sau cùng của miền Nam.
* * *
Tính từ 1957 đến tháng 4 năm 1975, trường ĐHVK Huế đã trải qua 7 đời Khoa Trưởng. Từ LM Cao Văn Luận, GS Lê Văn Diệm đến vị cuối cùng là GS Dương Đình Khôi kéo dài trong khoảng thời gian 18 năm ngắn ngủi. Thời gian hiện diện trong chức vụ Khoa Trưởng của các vị ấy không dài nhưng đã đóng góp cho quốc gia biết bao nhân tài đáng nể trọng, đã tạo cho Huế đô một sắc thái đặc thù trong giao tiếp giữa các nền văn minh đông tây. Là một sinh viên Huế của đầu thập niên 1960, rồi là một thành viên giảng huấn đoàn Văn khoa Huế vào đầu thập niên 1970, lúc nào tôi cũng nghĩ đến Viện đại học Huế như là một biểu tượng của miền Trung, và cảm thấy thực sự tự hào là thành viên của đại gia đình Đại Học Huế.

San Jose, những ngày vào đông… 2015

QUÂN ĐỘI XANH LÀ QUÂN NÀO?

 


LỜI TOÀ SOẠN BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG

TRUNG CỘNG MUỐN ĐEM TRIỆU QUÂN ĐÀN ÁP  VÀ XÂM CHIÉM VIỆT NAM NHƯ ĐÃ ÁP DỤNG KẾ HOẠCH GIẢ LÀM QUÂN VIỆT CỘNG TRONG ĐIỆN BIÊN PHỦ, TRỰC TIẾP  CHỈ ĐẠO  CCRĐ, VÀ  ĐEM QUÂN XÂM CHIẾM MIỀN NAM-  BÂY GIỜ TRUNG CỘNG  CŨNG THEO KẾ HOẠCH ĐÓ,  GIẢ LÀM CÔNG AN, HOẶC THANH NIÊN XUNG PHONG, HAY MỘT LỰC LƯỢNG NÀO ĐÓ  ĐỂ THẲNG TAY ĐÀN ÁP,  SÁT HẠI NHÂN DÂN VIỆT NAM.  
CHẮC CHẮN QUÂN TRUNG CÔNG ĐÃ ĐẤY NÚI RỪNG, TẠI CÁC  THÀNH PHỐ CƯ DÂN TRUNG CỘNG, HAY CÁC  CƠ XƯỞNG, CÔNG TY TRUNG CỘNG (HÀ TĨNH, ĐÀ NẴNG, BÌNH DƯƠNG). 
KHÔNG CHỪNG QUÂN ĐỘI VIỆT CỘNG CŨNG LÀ QUÂN TRUNG CỘNG GIẢ TRANG! NGOÀI RA HỌ CÓ HÀNG VẠN DU KHÁCH TRÊN ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM. SUỐT MIỀN DUYÊN HẢI TÀU CHIẾN  QUÂN ĐỘI TRUNG CỘNG CŨNG GIẢ LÀM THUYỀN ĐÁNH CÁ ĐỂ BAO VÂY VÀ KIỂM SOÁT  VIỆT NAM. AI BIẾT CHĂNG AI?
Sơn Trung 
Quân xanh là quân nào vậy?
 
Chính quyền huy động đông đảo các lực lượng để ngăn chặn, vây bắt người biểu tình.
Bùi Tín
Mấy tháng nay, trong các cuộc xuống đường của anh chị em ở Sài Gòn đã xuất hiện một loại người mới. Họ không phải công an, cũng không phải cảnh sát giao thông, vì không mặc sắc phục vàng đậm hay vàng nhạt, không mang quân hàm, không có tên và số hiệu, chỉ có mũ cứng .
Họ là công an? Không. Là cảnh sát? Cũng không. Là bộ đội, cũng không nốt? Họ làm gì? Họ theo mệnh lệnh của các sỹ quan CA mặc sắc phục có quân hàm, lao vào đấm đá, xua đuổi, có khi lôi kéo thô bạo các anh chị em đấu tranh lên xe bịt bùng rồi phóng đi mất tăm. Gặp người già họ không nương tay, gặp em nhỏ họ không từ. Họ xử sự như những bọn lưu manh hay tù nhân trong trại giam trước đây được bọn quản giáo lựa chọn đi làm những việc phạm pháp xấu xa mà chính một số công an không muốn và không nỡ làm. Họ mặc đồng phục một màu xanh lá cây, không có súng dài hay ngắn, cầm gậy, dùi cui, roi da, có khi dùng võ thuật để bẻ tay, khóa tay, đánh dập đầu gối, bẻ cổ, vật ngã rồi đè lên trên nạn nhân.
Binh chủng nào mới của chính quyền mà đàn áp nhân dân một cách tàn bạo như thế?

Xin thưa, lực lượng này được gọi là ‘’Thanh niên xung phong’’ (TNXP), sinh ra trong chiến tranh, con đẻ của Nhà nước và đảng Cộng sản từ năm 1964, chuyên ra chiến trường hay áp sát chiến trường, mang thức ăn ra tuyến trước, đào hầm hào cho quân đội, mở đường, sửa đường, tải thương, nói chung là phục vụ chiến trường. Trong chiến tranh ác liệt dọc đường Trường Sơn đã có hàng vạn, hàng chục vạn nam, nữ TNXP bị tử trận.
Trong tiểu thuyết Những Thiên Đường Mù, Nhà văn Dương Thu Hương đã nói lên phần nào số phận bi đát của nữ TNXP Quảng Bình hy sinh hết tuổi thanh xuân cho cuộc nội chiến vô nghĩa, bị ốm đau do sốt rét ác tính, khi hòa bình trở lại thì quá tuổi, lỡ thì, ế ẩm. Có cô đầu trọc, bị giới tính ẩn ức, thờ thẫn, phát điên phát rồ giữa rừng phải vào bệnh viện tâm thần, chết mòn chết thảm trong cô quạnh. Mười hai cô gái TNXP Đồng Lộc (Hà Tĩnh) cũng chết thê thảm như thế.
Nếu Đoàn Thanh niên Hồ Chí Minh là cánh tay phải của đảng CSVN thì Tổng Cục TNXP VN hiện nay là cánh tay trái của đảng. Cả hai đều là thành viên của Mặt trận Tổ quốc VN, được giới thiệu ra quốc tế như những tổ chức Phi Chính phủ bị báo chí Pháp, Anh, Mỹ đặt tên một cách mỉa mai là những “tổ chức phi chính phủ do chính chính phủ tổ chức ra” và do ủy viên Bộ Chính trị kiêm Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân chăn dắt. Thành viên của tổ chức này ăn lương Nhà nước, mặc quần áo xanh lá cây do Nhà nước cấp phát, nay thất nghiệp lan tràn, nhận điều động trở lại của đảng CS để đàn áp nhân dân. Còn nhớ sau ngày 30/4/1975, khi đảng CSVN chủ trương cải tạo công thương nghiệp, đánh tư sản bừa bãi thì Tổng đội TNXP Sài Gòn có nhiệm vụ xua đuổi họ vào các vùng hoang hóa, bắt họ dựng nhà tạm rất thô sơ để ở. Nhiều TNXP được Nhà nước trả tiền để dựng vội hàng ngàn lán trại như những chuồng heo, chuồng bò, để trở về Sài Gòn được biểu dương khen thưởng, một số khá đông nghiễm nhiên trở thành cán bộ có nhãn hiệu 30/4, được đề bạt và cử đi học theo tiêu chuẩn ‘’cách mạng’’. Hồi đó TNXP là một đội ngũ kiêu binh cực kỳ táp nham hỗn tạp.

Ngày nay do nhu cầu đàn áp nhân dân yêu nước, lương thiện chống bành trướng, bảo vệ cây xanh, môi trường sống, lực lượng Công an, cảnh sát không đủ, thế là Thành ủy Sài Gòn do ông Đinh La Thăng cầm đầu lại có sáng kiến phục hoạt TNXP khi thanh niên, trí thức đang thất nghiệp tràn lan để tạo nên một đám kiêu binh mới. Chúng lại mở kho khôi phục lại bộ cánh TNXP màu xanh lá cây để tạo nên hình ảnh có hàng ngũ hẳn hoi, cùng học đòi nhau ganh đua lập công với đảng. Chúng đánh đập không nương tay cô Đoan Trang đến gãy xương đùi phải vào bệnh viện cấp cứu; chúng đánh đâp và gây thương tật cho mấy cặp mẹ con Hoàng Mỹ Uyên và cháu bé Saphia mới lên 5.
Anh chị em chủ các Blog tự do, các Facebook hãy viết truyền đơn vạch mặt bọn kiêu binh TNXP áo xanh mới xuất hiện lại, cố đánh thức lương tri của chúng. Hãy chụp những bức ảnh sống động bọn chúng đang hành hung, đánh đập bà con ta, ghi hình cho rõ và nếu có thể ghi tên tuổi địa chỉ của chúng, in to dán khắp nơi, nhằm cảnh cáo bọn chúng, bêu xấu tội ác của chúng trước công luận và gia đình chúng như những
bọn tay sai rẻ tiền, hung thần của tội ác chống nhân dân và dân tộc.
Nhiều luật sư như Luật sư Phạm Công Út đang sưu tầm tội ác của bọn kiêu binh áo xanh lá cây này để cùng nạn nhân đưa chúng ra tòa, vì chúng tự nhận là tổ chức kinh doanh của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Dịch vụ Công ích TNXP. Ai đứng ra cầm đầu công khai tổ chức này trước pháp luật? Dịch vụ công ích là như vậy sao ? Ai là ‘’xếp’’ của bọn chúng? Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Thành ủy Đinh La Thăng, hay Giám đốc Công an Lê Đông Phong?

* Blog của nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
http://www.voatiengviet.com/content/quan-xanh-la-quan-nao/3330589.html


"Lực lượng áo xanh" đàn áp biểu tình tại SG ngày 8/5 là ai?
 



1 - Họ là đội dân phòng giử an ninh, trật tự thành phố ?


2 - Họ là đội Thanh Niên xung phong, các đội , đoàn, đảng viên CS?


3 - Họ là những Dư Luận Viên chuyên đi phá rối, ngăn cản các cuộc biểu tình?

4 - Họ là công an,mặc thường phục, an ninh mật vụ chuyên nghiệp đi trà trộn vào người dân biểu tình để chỉ điêm, nêu danh những người dẩn đầu đoàn biểu tình và hô to khẩu hiệu khích động?


5 - Họ là những Hoa Kiều gốc Tàu ấy vợ Việt, làm ăn lâu đời tại đây và nói lưu loát tiếng Việt nam?


6 - Hay họ là những điệp viên người Tàu nói rành tiếng Việt thuộc cơ quan tình báo Hoa Nam áp dụng sách lược/chiến thuật trong DỤNG NGŨ GIÁN tại Việt nam theo Tôn Tữ Binh pháp "Ngũ gián câu khởi, mạc tri kỳ đạo, thị vị thần kỷ, nhân quân chi bảo dã, nhân kỳ quan nhân nhi dụng chi" (tạm dịch, muốn am hiểu địch tình, biết rỏ hoạt động của địch thì cần sử dụng "Ngũ gián" để thủ thắng, tức là 5 gián kế: "Nhân gián, Nội gián, Sinh gián, Phản gián và Tử gián. Áp dụng chu đáo ngũ gián vào lòng địch thì thế thắng trước thuộc về ta.


Tất cả 6 giả thiết trên đều có thể đúng hết vì trong quá khú Bắc Kinh đã áp dụng để đè bẹp dự tính của chính quyền tại nước sở tại.


Một thí dụ gần nhất là lệnh của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng cho tổng biểu tình phản đối Trung Cộng về Giàn khoan HD 981 năm 2014. (*) Cơ quan Tình báo Hoa Nam đã biết rỏ ý địch của chính phủ CSVN nên cho những "toán quân" điệp viên trà trộn vào những người dân Việt nam yêu nước và công nhân các nhà máy xuống đường phản đối ôn hòa việc TQ hạ đặt giàn khoan HD 981.


Ngày 13/5 năm 2014, có hàng chục ngàn công nhân tham gia diễu hành phản đối hành động Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Lúc đầu cuộc tuần hành diễn ra trong ôn hoà, bổng đâu có những toán lạ mặt không phải là công nhân nhà máy đã kích động, phá cổng các doanh nghiệp đột nhập vào trong, đốt cháy cơ sở các công ty nước ngoài như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Hàn quốc...


Họ lo sợ nên cho treo biểu ngữ, thí dụ như "Công ty ủng hộ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam", "Chúng tôi là công ty Hàn Quốc"...v.v.


Kết quả chỉ có 15 nhà máy Trung Cộng bị đốt phá trong khi có hàng trăm công ty nước ngoài khác bị liên lụy. Chính phủ Việt nam phải trả tiền bối thường thiệt hại. Điệp viên Tàu đã chiến thắng tổ chức biểu tình ô-hợp của người dân Việt nam.


Như vậy, "Lực lượng áo xanh" đàn áp đoàn biểu tình ôn hòa tại SG ngày 8/5 có thể là điệp viên Trung Cộng trà trộn vào để làm rối loạn cuộc tuần hành bất bạo động của người dân Việt nam.


Bức xúc với hành động thô bạo của Lực lượng áo xanh đánh người biểu tình tàn bạo, luôn cả đối với đàn bà và trẻ em, một toán luật sư ba miền đất nước tên liên danh "Luật sư phục vụ công lý" đã gửi lảnh đạo Th. ph. Hồ Chí Minh, yêu cầu làm rỏ vấn đề về việc "lực lượng áo xanh" tự tiện bắt giử người trái pháp luật, đánh người dân đi biểu tình ôn hòa đòi bảo vệ môi trường sống...


Hành động đó là vi phạm pháp luật cũng như Hiến pháp mới 2013.


“Hiến pháp năm 2013 quy định Biểu tình là quyền của công dân (Điều 25) và Bảo vệ môi trường là nghĩa vụ của công dân (Điều 43). Việc chưa thông qua Luật biểu tình là lỗi và trách nhiệm của Quốc hội, nhưng không có nghĩa người dân bị cấm thực hiện quyền này. Người dân căn cứ vào bản Hiến pháp để thực thi quyền hiến định của công dân”.

Đài RFA và VOA vừa bằng Việt ngữ lẩn tiếng Anh cho rằng cuộc xuống đường vì môi trường sống chỉ là cuộc biểu tình ôn hòa.


Cuộc biểu tình vào Chủ Nhật 8 tháng 5 được xem là lớn nhất trong các cuộc biểu tình của người Việt Nam trong thời gian qua. Số người tham gia tại hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh lên đến hơn 4 ngàn người mặc dù một số lớn người khác bị cô lập, bao vây và cấm không cho ra khỏi nhà. Cuộc biểu tình với mục tiêu rõ ràng là yêu cầu nhà cầm quyền làm rõ thủ phạm làm cá chết hàng loạt tại miền Trung, về nghi vấn nhà máy Formosa có phải là nguyên nhân gây cá chết hay không. Thái độ của người biểu tình rất rõ ràng là ôn hòa và không có bất cứ hành vi bạo động nào.


Tuy nhiên về mặt chính quyền, thay vì giữ trật tự cho người biểu tình thì lại tổ chức cài người vào bên trong đám đông nhằm chỉ điểm, đàn áp, thậm chí bắt bớ, đánh đập những người biểu tình mà họ cho là cầm đầu hay tỏ ra hăng hái nhất. Những người này mặc thường phục được hỗ trợ bởi các lực lượng đông đảo mặc đồng phục màu xanh lá, được biết là lực lượng thanh niên xung phong được hợp đồng để chống người biểu tình.





Chức năng chống biểu tình của lực lượng này có hợp pháp hay không chưa được xác định nhưng chắc chắn rằng hành vi tấn công và đánh đập người biểu tình là phạm pháp.


Trong thư ngỏ gửi hai ông Đinh La Thăng, bí thư thành ủy thành phố và ông Nguyễn Thành Phong, Chủ tịch thành phố Hố Chí Minh ghi rõ “những hình ảnh trấn áp khốc liệt người biểu tình của lực lượng mặc y phục màu xanh mũ vải và y phục màu xanh mũ sắt cùng nhiều kẻ mặc thường phục với sự làm ngơ của Công an trong buổi sáng ngày 08/5/2016 tại ngay trung tâm TP. Hồ Chí Minh trước nhà thờ Đức Bà” đã làm cho nhóm luật sư Liên danh phục vụ công lý lập nên bức thư ngỏ này.





Bức thư cũng nhấn mạnh tới quyền biểu tình của người dân, trong đó viết: “Hiến pháp năm 2013 quy định Biểu tình là quyền của công dân (Điều 25) và Bảo vệ môi trường là nghĩa vụ của công dân (Điều 43). Việc chưa thông qua Luật biểu tình là lỗi và trách nhiệm của Quốc hội, nhưng không có nghĩa người dân bị cấm thực hiện quyền này. Người dân căn cứ vào bản Hiến pháp để thực thi quyền hiến định của công dân”.


Với các lập luận mạnh mẽ và thuyết phục như vừa nêu bức thư đã được loan tải rộng rãi trong cộng đồng, đặc biệt trên mạng xã hội, mang tới cho người dân một luồng gió mong manh từ sự lên tiếng của một tập thể luật sư tuy vẫn còn quá bé nhỏ so với hàng ngàn luật sư đang hành nghề khắp nước.


Luật sư Hà Huy Sơn, một trong những người ký tên vào thư ngỏ cho biết mục đích của bức thư này:


“Mục đích của chúng tôi khi gửi bức thư này là muốn yêu cầu lãnh đạo TP Hồ Chí Minh là phải tôn trọng quyền công dân, cụ thể là quyền biểu tình, quyền được bày tỏ thái độ của người dân trước các vấn đề xã hội của đất nước và thứ hai là chúng tôi muốn phản đối tình trạng sử dụng bạo lực đối với người dân khi họ biều tình ôn hòa. Mục đích của chúng tôi là như vậy. Ngoài ra chúng tôi cũng muốn bày tỏ sự ủng hộ của chúng tôi đối với các cuộc biểu tình hợp pháp của người dân.”

Muốn bày tỏ quan điểm


Chúng tôi nêu ra những vụ việc từ quá khứ: có khá nhiều thư ngỏ hay kiến nghị của người dân hay tập thể của trí thức trong và ngoài nước trước các vấn đề trọng đại của đất nước, nhưng chưa bao giờ các cấp trách nhiệm có phản hồi cụ thể và kịp thời, vậy thì bức thư ngỏ lần này cũng sẽ chịu chung số phận như trước đây. Trước viễn cảnh như thế nhóm Liên danh phục vụ công lý sẽ làm gì sau khi bức thư gửi đi? Luật sư Hà Huy Sơn cho biết:


“Chúng tôi cũng biết rằng từ trước đến nay những người có trách nhiệm vẫn phớt lờ với các kiến nghị hay là các hình thức thư ngỏ của công dân. Chúng tôi không hy vọng nhiều rằng bức thư này nhận được sự trả lời nhưng chúng tôi muốn bày tỏ quan điểm, thái độ với cộng đồng dân chúng. Cũng qua đây chúng tôi muốn kêu gọi các luật sư và nói chung giới luật sư cùng chúng tôi lên tiếng, khi có nhiều người lên tiếng thì tôi nghĩ rằng sẽ có sự tác động và về phía chính quyền và những người trách nhiệm người ta sẽ cân nhắc và sẽ trả lời trước yêu cầu của người dân.”

Trong bức thư, hình ảnh của bà Hoàng Mỹ Uyên và con gái bị đánh cũng được mang ra để đánh động sự chú ý của lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh. Trong vai trò của luật sư, bức thư ghi rõ hành động này là phạm pháp nhưng lại được bao che của lực lượng công an đồng phục đang đứng nhìn tại hiện trường là không thể chấp nhận trong một nhà nước pháp quyền.


Luật sư Trần Vũ Hải, một người đồng ký tên trong bức thư khi được hỏi nếu nạn nhân yêu cầu công an khởi tố bị can đối với các cá nhân đánh người nhưng công an từ chối thì nạn nhân còn có cách nào khác hay không, luật sư Hải cho biết:





“Theo chúng tôi trong trường hợp này luật pháp có hai việc xảy ra: một là khởi kiện dân sự hai là yêu cầu truy cứu hình sự. Trong trường hợp công an không làm sau ngày 1 tháng 7 luật vẫn cho phép mọi người có quyền kiện pháp nhân đối với lực lượng nào có người đánh người biểu tình. Tuy nhiên trong trường hợp này những người đi kiện cần phải theo đuổi một cách kiên trì vì thiệt hại của họ có thể chưa lớn. Tất nhiên một số người coi sự đau đớn thể xác của họ rất là lớn nhưng với phần lớn họ bị coi là mất tự do khoảng nửa ngày và họ bị thương có những vết nhất định và có thể phục hồi được như vậy họ có thể chấp nhận, bỏ qua. Như tôi đã nói vụ kiện này không dễ, phải có sự giúp đỡ của luật sư, những người chuyên nghiệp người ta giúp và cần sự kiên trì thì may ra mới thành công. Tôi cũng lo rằng nhiều người sẽ mệt mỏi và bỏ cuộc. Nhưng chúng tôi cũng xin nhắc lại đây là quyền của những người bị hại thì họ phải quyết tâm đi kiện lúc đó các luật sư mới hỗ trợ cho họ được.”
Dư luận cho rằng chấp nhận đơn kiện kẻ có hành vi đánh người biểu tình hay không chấp nhận là việc của tư pháp, tuy nhiên bức thư của tập thể luật sư lên tiếng về hành vi côn đồ này là một tiếng chuông cảnh báo cho tư pháp Việt Nam trước khi những vụ biểu tình khác chắc chắn sẽ xảy ra trong các ngày kế tiếp.

* - Biểu tình tại Việt Nam kêu gọi bảo vệ môi trường biển
https://www.youtube.com/watch?v=3TDcmmDFWfA

** Sài Gòn: Bất chấp đàn áp, đoàn biểu tình tràn lên như nước vỡ bờ
https://www.youtube.com/watch?v=ZgEpK9KakyQ
* Bài thơ làm rúng động dư luận VN với hàng triệu lượt người xem
https://www.youtube.com/watch?v=AQ_V62RqGtk "Đất nước mình ngộ quá phải không anh?"
Hình ảnh cá chết trắng che phủ mặt biển xanh là tiếng chuông gọi hồn cho những chiếc thuyền nhớ biển khơi xa và người ngư dân miền Trung nhớ tiếng sóng. Bài thơ của cô giáo Lam là tiếng nấc nghẹo lòng của mình cũng như của hầu hết những người Việt nam, dù đang ở trong nước hay sống ở nước ngoài.
* Chấn Động: Lá Thư Vạch Trần Bộ Mặt Thật FORMOSA Đầu Độc Biển Làm Cá Chết Hàng Loạt - Tin Mới Nhất
https://www.youtube.com/watch?v=oEYHH5-r0B4
** Báo VN Express: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng, nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó.
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/thu-tuong-khong-danh-doi-chu-quyen-lay-huu-nghi-vien-vong-2994075.html. Thủ tướng cho biết Việt nam và các nước, các cá nhân và tổ chức quốc tế tiếp tục lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc TQ hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam, ...


Monday, May 16, 2016


VIỆT NAM VÀ BIỂN ĐÔMG

 

 

Thứ ba, 17/05/2016

Báo Mỹ nói gì về chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Obama?

Tổng thống Obama vẫy chào từ Air Force One.
Tổng thống Obama vẫy chào từ Air Force One.
16.05.2016                
Chuyến đi thăm Việt Nam của Tổng thống Obama vào tuần tới đã khiến giới truyền thông Mỹ chú ý nhiều hơn tới các vấn đề trong quan hệ Việt-Mỹ.
Một số tờ báo có uy tín đã đăng bài xã luận nói lên quan điểm của họ về ý nghĩa của chuyến đi thăm Việt Nam, về vấn đề Tổng thống Obama nên đề cập những đề tài gì với giới lãnh đạo Hà Nội.
Báo New York Times số ra ngày 15/5 nói rằng trong khi đối với Tổng Thống Obama, chuyến đi này là một cơ hội để củng cố chính sách xoay trục sang Châu Á, và tăng cường quan hệ kinh tế và an ninh với Việt Nam, một quốc gia đang ngày càng đóng một vai trò quan trọng hơn trong khu vực, thì những hình ảnh quanh chuyến đi sẽ gợi nhớ lại thời kỳ chiến tranh và khơi lại những vết thương chưa lành đối với các chiến binh Mỹ từng chiến đấu tại Việt Nam, trong đó có cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel.
Tờ báo dẫn lời ông Chuck Hagel nói rằng ông đang chuẩn bị tinh thần để trực diện với những hình ảnh và những bài báo sẽ khơi lại những ký ức đau thương của thời chiến. Ông Hagel phục vụ 1 năm tại Việt Nam và cho rằng thời gian 12 tháng đó đã trở thành một thời kỳ quyết định trong cuộc sống của ông, và là một yếu tố trong mọi hành động của ông trong cương vị là một Thượng nghị sĩ và sau này một Bộ trưởng trong nội các.
Ông Hagel nói trong một cuộc phỏng vấn rằng hãy còn những “bóng ma của chiến tranh” sau hơn 40 năm từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, và cuộc chiến vẫn gây nhiều tranh cãi về Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Đối với một số cựu chiến binh khác, chuyến đi của Ông Obama là một cơ hội để nhắc nhở rằng đã hai thế hệ người Mỹ lớn lên từ sau cuộc chiến, và nên bỏ lại sau lưng những vấn đề của quá khứ.
Blogger Nguyễn Hữu Vinh (tức Anh Ba Sàm) và trợ lý Nguyễn Thị Minh Thúy trong phiên tòa xét xử tại Hà Nội, ngày 23 tháng 3, 2016.Blogger Nguyễn Hữu Vinh (tức Anh Ba Sàm) và trợ lý Nguyễn Thị Minh Thúy trong phiên tòa xét xử tại Hà Nội, ngày 23 tháng 3, 2016.
x
Blogger Nguyễn Hữu Vinh (tức Anh Ba Sàm) và trợ lý Nguyễn Thị Minh Thúy trong phiên tòa xét xử tại Hà Nội, ngày 23 tháng 3, 2016.
Blogger Nguyễn Hữu Vinh (tức Anh Ba Sàm) và trợ lý Nguyễn Thị Minh Thúy trong phiên tòa xét xử tại Hà Nội, ngày 23 tháng 3, 2016.
Theo Bộ Ngoại giao Mỹ, trong chuyến đi này, Tổng Thống Obama có phần chắc sẽ hướng về tương lai nhiều hơn là quá khứ, ông sẽ đề cập tới Hiệp định Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương TPP, ca ngợi sự hợp tác giữa hai nước về vấn đề dọn sạch những tàn tích của chất độc Da Cam, một trong những vấn đề quan trọng đối với Việt Nam.
Nhưng nhiều cựu chiến binh như ông Bobby Muller, một cựu chiến binh bị thương tật và sau đó trở thành một nhà hoạt động phản chiến, vẫn bày tỏ giận dữ đối với hai nhà cựu lãnh đạo Mỹ thời chiến là Tổng Thống Richard Nixon và cố vấn thân cận nhất của ông Nixon là Henry Kissinger.
Một trong những vấn đề khúc mắc trong mối quan hệ hai bên là niềm tin nơi một số cựu chiến binh Mỹ, rằng hiện vẫn còn một số quân nhân Mỹ bị cầm giữ tại Việt Nam. trong một cuộc họp tại Tòa Bạch Ốc hôm thứ Sáu vừa rồi, một số tổ chức cựu chiến binh đòi Tổng Thống Obama phải nêu câu hỏi trực tiếp với giới lãnh đạo Việt Nam, liệu có còn tù binh Mỹ còn sống ở Việt Nam hay không?
Một trong các vấn đề gây tranh cãi khác, là vấn đề bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Tờ Washington Post hôm 13/5 đăng một bài báo với hàng tít "Ông Obama nên nói gì ở Việt Nam?” nói rằng trong khi tháo bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam là một bước hợp lý trong bối cảnh cuộc đối đầu với Trung Quốc ở Biển Đông, Tổng Thống Obama cần nhấn mạnh phải có những cải thiện thực sự về nhân quyền trước khi tiến hành với việc này.
Theo tờ báo, Việt Nam còn cần phải sửa đổi một số điều khoản trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam vẫn được sử dụng để bắt bớ, bỏ tù nhiều blogger, nhà báo và các nhà hoạt động dân chủ khác.
Dân biểu Mỹ Alan Lowenthal thăm Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, tháng 5/2015.Dân biểu Mỹ Alan Lowenthal thăm Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, tháng 5/2015.
x
Dân biểu Mỹ Alan Lowenthal thăm Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, tháng 5/2015.
Dân biểu Mỹ Alan Lowenthal thăm Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, tháng 5/2015.
Washington Post cũng yêu cầu Tổng Thống Obama gặp gỡ một số nhà hoạt động đang bị sách nhiễu, đòi Hà Nội phải trả tự do cho Hoà Thượng Thích Quảng Độ, nhà lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, mới đây đã viết một lá thư gửi tới Tổng Thống Obama yêu cầu ông hãy “lên tiếng cho hàng ngàn người Việt Nam” đang bị trừng phạt vì đòi quyền tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền.
Những gì nhà lãnh đạo Mỹ nói về vấn đề này, theo tờ báo là quan trọng, bởi vì Việt Nam không thể chỉ nhận mà không phải trả bất cứ giá nào.  
Bài xã luận của báo New York Times hôm 14/5 nói “Hãy còn quá sớm để tháo bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam” với những lập luận tương tự. Bài xã luận nói rằng Tổng Thống Obama không nên cảm thấy bị buộc phải thoả mãn tất cả những đòi hỏi của chính quyền độc tài ở Việt Nam, mà phải cân nhắc và bảo đảm Việt Nam phải có những bước đáng tin cậy để giải quyết những hành động  đàn áp nhân quyền.
Bài xã luận nói nếu Tổng Thống Obama tháo gỡ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, thì quốc hội nên thận trọng hơn. Giấy phép bán vũ khí cho Việt Nam phải được quyết định trên căn bản từng trường hợp một, như đối với tất cả các nước khác.

Theo Washington Post, New York Times, Thanhniennews.

VIỆT CỘNG PHẢN QUỐC CHỐNG NHÂN DÂN 

Đài VN: 'Thế lực phản động' giật dây biểu tình về môi trường

Một nhóm bạn trẻ đeo khẩu trang cá, mặc trang phục có hình cá tuần hành sáng 15/5 ở Hồ Gươm. Ảnh: Tran Quang Nam. Facebook: Trang Doan Pham.
Một nhóm bạn trẻ đeo khẩu trang cá, mặc trang phục có hình cá tuần hành sáng 15/5 ở Hồ Gươm. Ảnh: Tran Quang Nam. Facebook: Trang Doan Pham. 16.05.2016 Các cuộc biểu tình phản đối vấn đề ô nhiễm môi trường và gây áp lực với nhà nước Việt Nam phải minh bạch về nguyên nhân gây ra thảm hoạ cá chết hàng loạt ở miền Trung vẫn diễn ra hôm qua tại tại Hà Nội, Sài Gòn, Nghệ An, Huế, Vũng Tàu…
Hãng tin Reuters đăng một bài báo hôm nay tường thuật rằng đài truyền hình nhà nước Việt Nam VTV đã đưa ra một cảnh báo cho công chúng hôm qua, kêu gọi họ hãy bỏ ngoài tai những kêu gọi “của các thế lực phản động”, khích động họ tham gia biểu tình, và khuyến cáo dân chớ để bị lợi dụng trong “âm mưu lật đổ chính quyền”.
Reuters trích dẫn một chương trình truyền hình 11 phút trên đài VTV, tiết lộ tên tuổi và hình ảnh của các nhà bất đồng chính kiến và blogger được nhiều người biết tiếng, nói rằng họ đang tìm cách lừa gạt công chúng để gây rối đối với chính quyền, với sự yểm trợ và tài trợ của các tổ chức nước ngoài.
Trong khi đó trang mạng Dân Làm Báo đăng nhiều hình ảnh tường thuật về sự hiện diện hùng hậu của lực lượng an ninh và công an, và cảnh nhiều nhả hoạt động tích cực ủng hộ dân chủ, nhân quyền được biết tiếng bị hành hung.
Các biện pháp an ninh được siết chặt tại Hà Nội và Sài Gòn để ngăn chận các cuộc biểu tình lớn, nhưng những cuộc biểu tình nhỏ hơn và các cuộc toạ kháng vẫn diễn ra.
Theo Reuters, Danlambao.
Một nhóm bạn trẻ đeo khẩu trang cá, mặc trang phục có hình cá, tuần hành sáng 15/5 ở Hồ Gươm. Ảnh: Tran Quang Nam. FB Trang Doan Pham.
http://www.voatiengviet.com/content/vietnam-co-the-luc-phan-dong-giat-day-bieu-tinh-ve-moi-truong/3332144.html 

VIỆT CỘNG CHỐNG LHQ

Việt  Cộng bác bỏ tuyên bố của LHQ về vụ cá chết


17.05.2016 Đại sứ Nguyễn Trung Thành, Đại diện thường trực của Việt Nam tại tổ chức đa phương lớn nhất thế giới, nói hôm Chủ Nhật rằng tuyên bố của ông Rupert Colville, người phát ngôn của Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, hôm thứ Sáu tuần trước cáo buộc Việt Nam có hành động bạo lực đối với những người biểu tình Việt Nam là “không chính xác, thiếu khách quan và chưa được xác minh”. Ông Nguyễn Trung Thành khẳng định, Việt Nam luôn tôn trọng và đảm bảo các quyền cơ bản và tự do của người dân, bao gồm tự do hội họp và phát biểu, phù hợp với Hiến pháp của đất nước và các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người.
Đại sứ Việt Nam cho biết tất cả các công ước quốc tế, đặc biệt là Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị, tuyên bố rằng các quyền và tự do của người dân phải được thực hiện trong phạm vi luật pháp và không gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng, an ninh quốc gia, đạo đức và sức khỏe cộng đồng, quyền và lợi ích của các cá nhân khác.

Ông Thành nói: “Dựa trên tinh thần này, các biện pháp cần thiết đã được ban hành là phù hợp với pháp luật Việt Nam và các tiêu chuẩn quốc tế, để đảm bảo trật tự giao thông, an ninh và an toàn cho người dân, đặc biệt là người già, phụ nữ và trẻ em”.

Ông Thành nhấn mạnh rằng tất cả các động thái nhằm kích động bạo lực, xúi giục bài ngoại hoặc gây ảnh hưởng đến đời sống của người dân phải được ngăn chặn trong khuôn khổ pháp lý cho lợi ích chung của cộng đồng.
Trật tự công cộng đã bị xáo trộn ở Tp. HCM ngày 1/5 và 8/5 bởi các cuộc tập hợp của những người mà cảnh sát thành phố nói rằng ‘do một tổ chức chống chính phủ kích động’.
Trước đó, Văn phòng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc ở khu vực Đông Nam Á (OHCHR) đã bày tỏ lo ngại về tác động của vụ cá chết hàng loạt dọc bờ biển miền trung của Việt Nam đối với việc thụ hưởng quyền con người của quốc gia này, đặc biệt là quyền y tế và thực phẩm.
Văn phòng Khu vực cũng quan ngại về việc xử lý các cuộc biểu tình nổ ra sau vụ cá chết, và kêu gọi chính quyền tôn trọng quyền tự do tập hợp, phù hợp với luật quốc tế.
Văn phòng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc kêu gọi Chính phủ Việt Nam phải tôn trọng đầy đủ quyền tập hợp ôn hòa, được bảo đảm trong Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị.
Theo TuoitreNews, VOA

http://www.voatiengviet.com/content/viet-nam-bac-bo-tuyen-bo-cua-lhq-ve-vu-ca-chet/3332805.html

 

Thứ ba, 17/05/2016

 TRUNG CỘNG  CHỐNG QUỐC TẾ

Bắc Kinh phản đối phúc trình của Mỹ về phát triển quân sự Trung Quốc

Tàu nạo vét của Trung Quốc trong vùng biển quanh đảo Đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Các chuyến bay trinh sát của Mỹ ngày 21/5/2015 gần những bãi cạn mà Trung Quốc đang cải tạo cho thấy mấy mươi chiếc tàu đang ráo riết tiến hành hoạt động lấp biển xây đảo.

Tàu nạo vét của Trung Quốc trong vùng biển quanh đảo Đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Các chuyến bay trinh sát của Mỹ ngày 21/5/2015 gần những bãi cạn mà Trung Quốc đang cải tạo cho thấy mấy mươi chiếc tàu đang ráo riết tiến hành hoạt động lấp biển xây đảo.
Bộ quốc phòng Trung Quốc “rất không hài lòng” với Mỹ về phúc trình thường niên của Ngũ giác đài đã phản ảnh không trung thực về phát triển quân sự của Trung Quốc.
Báo cáo hôm thứ Sáu của Bộ Quốc phòng Mỹ cho Quốc hội nói rằng Trung Quốc tập trung phát triển và trang bị vũ khí cho các đảo mà họ xây dựng trong các vùng lãnh hải tranh chấp ở Biển Đông để họ có thể kiểm soát mạnh hơn vùng biển này.
Hôm thứ Bảy, người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Cảnh Nhạn Sinh nói với Tân Hoa Xã rằng phúc trình của Mỹ về các hoạt động quân sự của Trung Quốc năm 2015 “ngoan cố bóp méo chính sách quốc phòng của Trung Quốc”.
Ông nói tiếp: “Trung Quốc đi theo một chính sách quốc phòng mang tính phòng vệ.  Các hoạt động như cải cách quân sự sâu rộng và những hoạt động xây dựng quân sự là nhắm mục đích bảo vệ chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ, và bảo đảm cho sự phát triển hòa bình của Trung Quốc.
Phúc trình của Ngũ giác đài tố cáo Trung Quốc “gia tăng các hoạt động gây hấn để củng cố cho các tuyên bố về chủ quyền lãnh thổ của Bắc Kinh” và sự thiếu minh bạch trong việc phát triển các khả năng quân sự -- những động thái đã gây ra căng thẳng với nhiều nước khác trong khu vực.Phát ngôn viên của Bộ quốc phòng Trung Quốc Cảnh Nhạn Sinh.
  Phát ngôn viên của Bộ quốc phòng Trung Quốc Cảnh Nhạn Sinh.  

Phát ngôn viên của Bộ quốc phòng Trung Quốc Cảnh Nhạn Sinh. Phát ngôn viên của Bộ Quốc phòng Trung Quốc nói rằng phúc trình của Mỹ thổi phồng “đe dọa quân sự của Trung Quốc” và xuyên tạc các hoạt động của Trung Quốc trên Biển Hoa Đông và Hoa Nam. Ông cũng tố cáo Mỹ nghi ngờ quá mức.
Nói chuyện với các phóng viên báo chí tại Ngũ giác đài hôm thứ Sáu, ông Abraham Denmark, phó trợ lý bộ trưởng quốc phòng Mỹ về Đông Á, nói rằng “các dữ liệu trong phúc trình tự minh chứng.  Trung Quốc tiếp tục chú trọng vào việc chuẩn bị cho khả năng xảy ra xung đột trong eo biển Ðài Loan.”
Ông Denmark nói tiếp: “Giới lãnh đạo Bắc Kinh đang gia tăng sức mạnh để mở rộng ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc .”
Giới chức Mỹ này nói rằng chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc trong năm 2015 cao hơn con số được công bố và lên đến 180 tỉ đôla, so với con số 144 tỉ đôla mà Bắc Kinh chính thức công bố.
Hoạt động tuần tra của Mỹ
Tàu khu trục có trang bị tên lửa dẫn đường USS William P. Lawrence. Tàu USS William P. Lawrence đã đi bên trong vùng 12 hải lý quanh Đá Chữ Thập hiện bị Trung Quốc chiếm đóng để "thách thức những tuyên bố chủ quyền biển thái quá của một số bên tranh chấp ở Biển Đông", ngày 10/5/2016. Tàu khu trục có trang bị tên lửa dẫn đường USS William P. Lawrence. Tàu USS William P. Lawrence đã đi bên trong vùng 12 hải lý quanh Đá Chữ Thập hiện bị Trung Quốc chiếm đóng để "thách thức những tuyên bố chủ quyền biển thái quá của một số bên tranh chấp ở Biển Đông", ngày 10/5/2016. Ông Cảnh Nhạn Sinh lên án Mỹ giương oai diễu võ bằng việc thường xuyên đưa máy bay và tàu chiến vào khu vực.
Ngay hôm 10 tháng 5 mới đây, Bộ Quốc phòng Mỹ đã phái một chiến hạm thực hiện cuộc hành quân tự do hàng hải trên Biển Đông có nhiều tranh chấp.
Phía Washington tố cáo Bắc Kinh quân sự hóa Biển Đông, còn ông Cảnh Nhạn Sinh nói Mỹ tăng cường quân sự hóa trong khu vực bằng những hoạt động như vậy.
Phúc trình của Mỹ cũng lập lại tố cáo quân đội và chính phủ Trung Quốc tấn công mạng điện toán của chính phủ Mỹ, một cáo buộc mà Bắc Kinh phủ nhận.
Ngũ giác đài nói các vụ tấn công trong năm 2015 hình như nhằm mục tiêu thu thập tình báo. http://www.voatiengviet.com/content/bac-kinh-phan-doi-phuc-trinh-cua-my-ve-phat-trien-quan-su/3330994.html 

 


TƯƠNG LAI THẾ GIỚI


Dự Đoán Hưng Vong Của Các Cường Quốc Trong 10 Năm Tới

Những biến động lớn khiến Nga, Mỹ, Trung Quốc... 10 năm tới sẽ rất khác hiện tại, theo công ty phân tích tình báo tư nhân Stratfor (Mỹ).


Trong dự báo đưa ra vào đầu năm 2016, Stratfor tin rằng thế giới trong thập kỷ tới sẽ trở nên nguy hiểm hơn với sự suy thoái quyền lực Mỹ và những cường quốc khác hứng chịu khủng hoảng và suy thoái liên tiếp.


1. Nga bị phân rã


 “Sẽ không có cuộc đảo chính nào ở Moscow, tuy nhiên khả năng yếu kém để duy trì và kiểm soát Liên bang Nga rộng lớn sẽ khiến quốc gia này sụp đổ”, Stratfor cảnh báo. “Liên bang Nga sẽ tan rã”.


Các lệnh trừng phạt kinh tế, giá dầu giảm, đồng rúp giảm, chi phí quân sự gia tăng, mâu thuẫn nội bộ tăng cao sẽ khiến cho chính quyền trung ương Nga suy yếu. Nga sẽ không bị chia năm xẻ bảy nhưng quyền lực của Moscow sẽ bị giảm tới mức Nga sẽ biến thành nhiều vùng tự trị khác nhau thay vì một lãnh thổ độc nhất, ổn định.

2. Mỹ dùng vũ lực để duy trì ưu thế hạt nhân quốc gia




Vũ khí hạt nhân Nga trải khắp một diện tích rộng lớn. Nếu như sự tan rã về chính trị ở Nga xảy ra như Stratfor dự đoán thì nguy cơ mỗi khu vực tự trị sở hữu một lượng khí tài khổng lồ là hoàn toàn có cơ sở.
Sự phân tán của kho vũ khí hạt nhân Nga trong 10 năm tới “sẽ là thảm họa tồi tệ nhất thập kỷ”. Và như vậy, chắc chắn Mỹ sẽ phải điều bộ binh khắp nước Mỹ nhằm đảm bảo an toàn cho kho vũ khí.

3. Đức sẽ có vấn đề nghiêm trọng




Đức là quốc gia xuất khẩu và được lợi rất nhiều từ tự do mậu dịch, thương mại xuyên suốt EU và đồng tiền chung euro. Tuy nhiên, điều này đồng nghĩa rằng nếu khủng hoảng đồng euro xảy ra, Đức sẽ hứng chịu nhiều tác động liên hoàn và dẫn tới chủ nghĩa bài euro trong nội địa.
Nhu cầu trong nước không thể bù đắp cho sự thiếu hụt nếu vấn đề khủng hoảng euro và xuất khẩu sụt giảm xảy ra. Quốc gia này chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng trì trệ như Nhật Bản trước đây. Các chuyên gia ở Stratfor nhận định Đức sẽ gánh chịu nhiều tác động kinh tế nghiêm trọng trong thập niên tới.


4. Ba Lan là một trong những lãnh đạo châu Âu mới




Ba Lan giống Đông Đức và tình hình sẽ không tồi tệ lắm. “Trung tâm phát triển kinh tế và ảnh hưởng chính trị sẽ là Ba Lan”, báo cáo viết.
Dân số Ba Lan không sụt giảm nhiều như những quốc gia châu Âu khác. Quốc gia phồn thịnh nhất biên giới phía Tây nước Nga sẽ trở thành bá chủ khu vực và dần dần chiếm vị thế lớn hơn trong ưu thế địa chính trị toàn châu Âu.

5. Sẽ có 4 châu Âu




Châu Âu sẽ không như kì vọng và không thể trở thành một khu vực hợp nhất. Trong tương lai, châu Âu sẽ chia thành 4 khu vực lớn là Tây Âu, Đông Âu, Scandinavia và Anh. Liên minh châu Âu vẫn tồn tại ở mặt nào đó, tuy nhiên nền kinh tế, chính trị, quân sự của toàn châu Âu sẽ bị kiểm soát bởi các mối quan hệ đa phương hoặc song phương hạn hẹp.

6. Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ vẫn là đồng minh thân cận nhưng vì lý do khác




Một số quốc gia Ả Rập đang gặp bất ổn và Stratfor tin rằng mâu thuẫn này chưa chấm dứt ngay trong thập kỷ tới. Quốc gia được hưởng lợi lớn nhất là Thổ Nhĩ Kỳ với đường biên giới từ Biển Đen tới Syria và Iraq.
Thổ Nhĩ Kỳ dù không muốn cũng phải giải quyết mâu thuẫn ở biên giới với những quốc gia Ả Rập láng giềng. Khi chính quyền Ankara mạnh hơn, Thổ Nhĩ Kỳ sẽ là đồng minh không thể thiếu của Mỹ.


Ngược lại, Thổ Nhĩ Kỳ nếu cho phép Mỹ đặt căn cứ quân sự gần biên giới Armenia thì Mỹ phải giúp quốc gia Tây Nam Á này đối phó với Nga. “Thổ Nhĩ Kỳ sẽ vẫn tiếp tục cho Mỹ tham gia vào công việc chính trị và quân sự ở quốc gia mình. Mỹ sẽ giúp đỡ nhưng cái giá đổi lại là phải chung tay hạn chế sức mạnh của Nga”.

7. Trung Quốc sẽ gặp vấn đề lớn







10 năm tới, Trung Quốc sẽ đối mặt kinh tế suy giảm khiến bất đồng của người dân trong nước gia tăng.


Bắc Kinh còn phải đối mặt với vấn đề nữa lớn hơn, đó chính là phát triển kinh tế không đều giữa các vùng miền. Khu vực ven biển phát triển quá nóng nhưng miền tây thì ít được tiếp cận thị trường quốc tế và do đó nghèo hơn. Đô thị hóa càng làm cho vấn đề nghiêm trọng.






Sự bất cập về kinh tế của vùng ven biển và vùng nội địa Trung Quốc chỉ đào sâu thêm hố ngăn cách trong nước. Mâu thuẫn vùng miền từ lâu đã tồn tại cố hữu trong lịch sử Trung Quốc. Chính sách đầu tư nhiều hơn hoặc tái bổ sung nguồn lực cho các vùng nghèo khó chắc chắn sẽ vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các thế lực kinh tế vùng ven biển.





8. Nhật sẽ là cường quốc hải quân mới




Nhật Bản có truyền thống hải quân nhiều thế kỉ. Trung Quốc đang hiện đại hóa lực lượng hải quân và chắc chắn sẽ kiểm soát mạnh tay hơn khu vực Biển Đông, biển Hoa Đông và thậm chí cả Ấn Độ Dương.
Nhật không còn lựa chọn nào khác là ngăn cản sự trỗi dậy và bành trướng của Trung Quốc và bảo vệ các tuyến hàng hải cốt lõi của mình. Với nền kinh tế Mỹ suy yếu, Nhật sẽ phải tự tay xây dựng “cơ đồ”.

9. Biển Đông chưa “dậy sóng”




Các quốc gia trong khu vực sẽ chưa leo thang quân sự ở Biển Đông, tuy nhiên đây vẫn là điểm nóng của bất ổn khu vực.
“Đánh nhau vì những đảo nhỏ không mang lại giá trị lớn về kinh tế nên không thể là vấn đề trong khu vực này”, báo cáo dự đoán. “Hơn nữa, thế chân vạc sẽ xuất hiện. Nga sẽ dần mất đi khả năng bảo vệ các lợi ích trên biển. Nhật và Trung Quốc sẽ ngăn cản quốc gia còn lại chiếm thêm đảo hoặc biển”.

10. Sẽ có 16 “tiểu Trung Quốc”




Kinh tế Trung Quốc sẽ giảm tốc, phát triển sản xuất đình đốn. Điều này là tin vui cho nhiều quốc gia. Những công việc tay chân đơn giản mà Trung Quốc vốn “nuốt trọn” sẽ được chia đều cho 16 quốc gia đang phát triển khác với tổng dân số 1,15 tỉ người.
Vậy nên khi nền kinh tế Trung Quốc kém phát triển, các biến đổi chính trị, kinh tế sẽ diễn ra. Các quốc gia gồm Mexico, Nicaragua, Dominica, Peru, Ethiopia, Uganda, Kenya, Tanzania, Bangladesh, Myanmar, Sri Lanka, Lào, Việt Nam, Campuchia, Philippines và Indonesia sẽ có nhiều cơ hội hơn về kinh tế khi việc làm đa dạng hơn xuất hiện.

11. Mỹ suy yếu




Khi thế giới trở thành một địa điểm hỗn loạn và khó dự đoán hơn trong 10 năm tới, Mỹ sẽ khôn ngoan hơn với những phản ứng trước thách thức mới thay vì giải quyết mọi vấn đề.
Một nền kinh tế hàng đầu thế giới, sản xuất năng lượng nội địa gia tăng, xuất khẩu giảm, sự an toàn do vị trí địa lý biệt lập sẽ giúp Mỹ có ưu thế để tránh được các cuộc khủng hoảng liên miên trên thế giới.
“Mỹ sẽ vẫn là cường quốc về chính trị, kinh tế, quân sự hàng đầu thế giới nhưng sẽ ít tham gia giải quyết các vấn đề hơn so với trước đây”.

Nguồn: danviet.vn

Sunday, May 15, 2016


VẠN MỘC CƯ SĨ * ĐỒNG KHÔ HỒ CẠN

 
 Trạng Trình


ĐỒNG KHÔ HỒ CẠN

VẠN MỘC CƯ SĨ



Sấm Trạng trình có câu:

95." Ô hô thế sự tự bình bồng,(11)
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,
100.Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong "


( SẤM TRẠNG TRÌNH. Hoàng Xuân sưu tập.Anh Phương Saigon, 1960, câu 95-102)

Tạm dịch:

Than ôi thế sự cứ bình bồng,
Nam Bắc bao giờ thiết lộ thông?
Hồ ẩn trong non lông bạc trắng
Cá  bơi ngoài biển  máu loang hồng

Gà  vang  cây ngọc thiên về Bắc,
Trâu  tới   đồng xanh chính rạng đông.
Sư Tử có ngày  chân  Ó đạp
Bốn phương thiên hạ mới hòa đồng! 


Bản Huỳnh Tâm cũng có đoạn này.

 Sau 1975, tôi đến thăm GS. Bửu Cầm, giáo sư cho biết có ông Mỹ đến hỏi: Có phải câu
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng  là nói về chiến tranh ngoài biển phải không?.

GS không nói rõ đoạn sau câu chuyện, nhưng câu sấm ấy văn quá rõ rệt là nói chiến tranh ngoài biển.
Thật vậy, 1974, quân VNCH đánh tàu Trung Cộng tại Hoàng Sa và Trung Quốc đánh chiếm Gạc Ma năm 1988 .Ông Nguyễn Khắc Mai giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Văn hoá Minh Triết cho biết vai trò của ông Lê Đức Anh lúc ấy là Bộ trưởng Quốc phòng, người được xem là đã ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng!
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một nhà ngoại giao kỳ cựu, am hiểu sâu sắc vấn đề Trung Quốc đánh giá quyết định không nổ súng của Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh:

-Tôi cho rằng lúc bấy giờ ông Lê Đức Anh được đưa lên làm Bộ trưởng Quốc phòng mà làm cái việc như thế là một việc phản quốc. Ra lệnh không được bắn lại để cho Trung Quốc nó giết chiến sĩ của mình như là bia sống thì tôi cho đó là một hành động phản động, phản quốc.
Ông Lê Đức Anh là cai đồn điền cao su của một người tình báo của Pháp chứ ông ta không phải tham gia cách mạng lâu dài gì đâu. Chẳng qua ông ấy khai man lý lịch rồi thì được lòng ông Lê Đức Thọ, ông Lê Đức Thọ cứ đưa ông ấy lên vù vù trở thành Bộ trưởng Quốc phòng, sau này thành chủ tịch nước. Cái điều đó những người biết chuyện như tôi lấy làm đau lòng lắm và cho là một nỗi nhục của đất nước.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/who-ord-no-fir-in-garma-03122015052720.html

Dư luận sau này nói là do Kissinger giao Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng. Gần đây, Kissinger phủ nhận chuyện đó. VOA loan tin cựu Ngoại trưởng Mỹ tuyên bố “không có thỏa thuận nào” với Trung Quốc về Hoàng Sa hơn 40 năm trước, giữa cáo buộc Mỹ làm ngơ để Bắc Kinh chiếm quần đảo này từ tay Việt Nam Cộng hòa."
Ông Henry Kissinger nhấn mạnh như vậy hôm 26/4 /2016 tại Hội nghị Thượng đỉnh về Chiến tranh Việt Nam ở Thư viện Tổng thống Lyndon Baines Johnson ở Austin, Texas.
Bỉ nhân suy nghĩ rằng Mỹ rút lui khỏi Việt Nam là do kế hoạch "Con ngựa thành Troy" hoặc "Không thành kế". Mỹ tuyên bố đánh mà không cầu thắng là vì lý do của khổ nhục kế của Không Thành kế.
Khi đã lui binh làm như bại trận mà chạy trốn trong đó mong cho đối phương vào thành và hân hoan trong niềm vui chiến thắng. Không phải bây giờ Mỹ mới làm không thành kế. Sau thế chiến hai, Mỹ lui binh cho Mao Trạch Đông chiếm đại lục. Mỹ buông đại lục mang tiếng là thua Mao Trạch Đông nhưng có lợi là khỏi nuôi báo cô cả tỷ dân Trung Quốc! Mỹ lui Thái Bình Dương để cho Mao chiếm lấy Thái Bình Dương là Trung Cộng đã lọt vào vòng vây của Mỹ và Đồng Minh.

Và năm 1973, Mỹ lui binh ra khỏi Việt Nam. Kissinger không cần giao, Trung Cộng vẫn xông tới chiếm Hoàng Sa, Trường Sa! Thành thử Kissinger không cần giao ước cho uổng lời. Trẻ con quá! Cô gái khôn ngoan hé lộ cái khuôn vàng là đủ cần gì phải  van nài, mời gọi! Trung Cộng sợ gì đã có văn kiện của Phạm Văn Đồng công nhận Trường Sa, Hoàng Sa là của Trung Quốc!
Và Việt Cộng, Trung Cộng khi thấy Mỹ cầu hòa là họ thừa thắng xông lên. Cái đám chính trị gia và tướng tá Việt Nam Cộng Hòa có mấy ai nghĩ đến Việt Cộng sẽ chiếm miền Nam không? Hay phần đông tin vào lời Việt Cộng là trung lập Miền Nam, và Miền Nam là một quốc gia độc lập (Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam)


Chỉ có Trần Đĩnh, Hoàng Minh Chánh, và Trần Đức Thảo mới hiểu ván cờ Biển Đông. Kể ra Trần Đức Thảo dù điên dại, cũng có nhưng suy nghĩ độc đáo. Ông viết tâm trạng và suy tư của ông trong khoảng 1970:

Chúng tôi có hai thắc mắc lớn trong chính sách của Mỹ lúc ấy. Một là tại sao cuộc tổng tấn công nổi dậy do ta bí mật phát động thật là bất ngờ, hồi Tết Mậu Thân 1968, ở miền Nam, nhưng ta đã hoàn toàn thất bại, lực lượng của ta tại miền Nam bị kiệt quệ, bị tổn thất nặng nề vì nhân dân miền Nam không nổi dậy tiếp tay với ta như ta đã trù liệu. Vậy mà Mỹ lại nhương bộ, chấp nhận các điều kiện của ta, đặc biệt là điều kiện phải để cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng do ta chủ động ở miền Nam được tham dự hội nghị ngang hàng với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, gọi là Việt Nam Cộng Hoà. Thắc mắc lớn thứ nhì là cuộc oanh tạc của Mỹ vào miền Bắc năm 1972, lúc đó ta vô cùng bối rối, đến mức nếu nó đánh bom kéo dài thêm vài tháng nữa thì ta sẽ phải nhượng bộ trong bất cứ điều kiện nào. Vậy mà bỗng Mỹ ngưng ném bom, để cho cuộc thương thảo ở Paris bước vào giai đoạn kết thúc, mà cả thế giới đều thấy là có lợi cho ta. Phía ta thì khoe đó là do tài trí của trưởng đoàn Lê Đức Th.(Tri Vũ. Ch.XIII)


Thật vậy, từ khoảng 1972 về sau, có tin nói rằng Việt Cộng đã gửi điện đầu hàng khi Mỹ pháo kích Hà Nội nhưng tin này Mỹ giấu kín. (

Mỹ không muốn Việt Cộng đầu hàng. Mỹ vực Việt cộng đứng dậy cầm súng chiến đấu! Mỹ muốn Việt Nam làm anh hùng. Việt Cộng muốn chết hãy chờ kỳ tới!

Thật sự, Trần Đức Thảo chẳng biết gì cả. Ông giác ngộ là nghe lời giải thích của nhà báo Úc. Trần Đức Thảo thú nhận:

Sau này có lần gặp riêng nhà báo cộng sản người Úc Winfred Burchett, ông này giải thích tận tình cho tôi hiểu về chính sách thực dụng rất nguy hiểm của Mỹ trong việc giải quyết “vấn đề” Việt Nam! Theo Burchett thì Mỹ nhúng tay vào miền Nam Việt Nam vì coi đó là một thị trường của khối tư bản, và tuyên bế quyết tâm bảo vệ Nam Việt Nam, vì đấy là một “tiến đồn của thế giới tự do”. Điều này có nghĩa là Mỹ muốn giữ vùng này không để nó lọt vào trong bức màn sắt của khối cộng sản. Nhưng Mỹ cũng dứt khoát không tính diệt “Bắc Việt Cộng sản” để tiến tới thống nhất Việt Nam bằng cách này hay cách khác. Bởi chiến tranh đối với Mỹ luôn luôn nằm trong sách lược của kinh tế thị trường toàn cầu. Cuộc chiến tranh bảo vệ thị trường Nam Việt Nam đã bị sa lầy vì tốn kém và bị dư luận nhân dân Mỹ chán ghét. Thế nên các nhà chiến lược Mỹ, đứng đầu là Kissinger, đã đề xa một giải pháp khác. Vì đã không bảo vệ được thị trường miền Nam Việt Nam bằng chiến tranh, thì phải quay qua giải pháp tìm thị trường thay thế bằng con đường hoà bình: cách này ít tốn kém mà bền vững hơn. Bởi Mỹ, trên nguyên tắc, không hề tính tiêu diệt chế độ Cộng sản ở miền Bắc Việt Nam, nên khi thấy cuộc tổng tiến công nổi dậy hồi Tết Mậu Thân, 1968, đã làm cho “cộng sản” kiệt sức, thì đó là lúc tốt nhất để đưa “địch” ngồi vào bàn hội nghị. Cũng như khi thấy cuộc oanh tạc miền Bắc Việt Nam hồi 1972, đã đủ cho Hà Nội thấm đòn, thì Mỹ liền ngừng ném bom, rồi đưa ra những điều kiện, thuận lợi cụ thể, để Hà Nội chịu kỷ kết chấm dứt chiến tranh, để Mỹ rút chân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Tất cả là dùng lá bài hoà bình thay thế cho lá bài chiến tranh. Cũng để tỏ rõ chính sách của Mỹ như thế, liên hạm đội 7 rất hùng hậu quả Mỹ, lúc đó có mặt đông đảo ở ngoài khơi Việt Nam, vậy mà lực lượng hùng hậu ấy đã đứng ngoài nhìn hải quân Trung Quốc đánh chiếm đảo Hoàng Sa (Paracels) của Nam Việt, hồi 1974. Sự án binh bất động này có nghĩa rõ là Mỹ không coi Nam Việt Nam là tiền đồn nữa. Ngay từ khi đại quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, Mỹ đã chỉ đánh cầm chừng để giữ đất, để dung hoà chứ không hề có ý đẩy chiến tranh đến tận cùng ra miền Bắc, để tiêu diệt chế độ cộng sản ở miền Bắc. Dù là đã oanh tạc miền Bắc, nhưng chiến lược của Mỹ là chỉ chờ lúc địch kiệt quệ để áp dụng lá bài hoà bình, nhằm đánh địch băng kinh tế hậu chiến. Và quả thật ván bài đó sau này đã làm cho Hà Nội hoàn toàn kiệt quệ về kinh tế. Để rồi tới lúc Hà Nội, tuy đạt chiến thắng, nhưng lại phải chấp nhận mọi điều kiện để Mỹ nó bỏ cấm vận. Rồi sau đó là Hà Nội lại trải thảm đỏ long trọng đón rước lãnh đạo Mỹ trở lại. Từ đó, chính thức mở cửa cho vốn của khối tư bản tràn vào tự do tung hoành trên toàn bộ nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ này không chấp nhận các cuộc đình công đòi quyền lợi của các công đoàn thợ thuyền. Một chế độ như thế thật là lý tưởng cho sự khai thác lâu dài của tư bản Mỹ, có lợi hơn hẳn dưới thời chế độ Việt Nam Cộng Hoà ở miền Nam. Bây giờ thì kết cuộc đã rõ rệt của ván bài “ai thắng ai” trong cuộc đấu trí ấy. Bây giờ đã lộ rõ ai là mưu trí, ai là trí tuệ. Nực cười và bi thảm là như thế.(Tri Vũ-Ch.XIII)



Trở lại Sấm Ký Trạng Trình và chiến tranh biển Đông. Việt Nam có nhiều bậc tiên tri tài danh. Đồng thời và sau Trạng Trình có nhiều sấm vĩ xuất hiện. Một số  là vô danh, một số ẩn náu dưới tác phẩm Trạng Trình Sấm Ký.  Có thể xuất xứ từ đoạn sấm trên, người ta đã soạn thành tân khúc:

Khi nao đá nổi lông chìm.
Đồng khô hồ cạn búa liềm ra tro!


Người ta đoán rằng đá nổi lông chìm là sau khi Tưởng Giới Thạch ( thạch : Ðá.)
và Mao Trạch Đông  (毛澤東 - 毛 mao, : Lông, )chết , tiếp theo Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng đi thăm Mác- Lê thì cộng sản bị tiêu diệt.


Nhưng suy ra Sấm rất sâu xa và lưu truyền nhiều đời chứ không phải chỉ giới hạn từ Lê-Mạc (1527) cho đến Nguyễn triều Gia Long (1802).

Nay xem lại những việc xảy ra trong năm 2016, mới thấy câu trên cũng có một ý nghĩa khác. Đồng khô hồ cạn là đồng bằng Cửu Long hạn khô nút nẻ, đồng khô hồ cạn có nghĩa là  toàn bộ duyên hải Việt Nam, nhất là miền Trung cá chết, tôm, tép, hàu ,hến.. tất cả đều chết.Đến đây nhân dân Việt Nam và đảng viện Cộng sản Việt Nam đã thấy rõ mặt Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh nói riêng và Cộng sản quốc tế nói chung. Và toàn dân đã nổi lên! Chính lúc đó cộng sản bị tiêu diệt!
Thật ra tương lai Trung Cộng và Việt Cộng đã được các bậc tiên tri Việt Nam ở  đầu thế kỷ XX  biết rõ và cảnh báo

TỨ THÁNH

Tứ Thánh nói:
" Chó thấy trời mọc phải tru.
Thảm thương chú cộng công phu đợi chờ...

Tứ Thánh khuyên dân ta đừng mắc mưu cái chiêu bài dân tộc của Nguyễn Tất Thành- Nguyễn Ái Quốc:
Tay chuông tay mỏ tu trì.
Tránh mưu ái- quốc tránh vì kế sâu...

Hồ Tập Chương người Khách gia Trung Quốc, đội tên Hồ Chí Minh giả Nguyễn Ái Quốc về Việt Nam là lúc hai phe Quốc Cộng chiến tranh:
...
Phiên bang đảng cộng đôi đàng.
Chiến tranh giành giựt xóm làng thác oan.
 Hồ Chí Minh là gián điệp Trung Cộng, làm bộ bình dân, hirền từ nhưng chính y là kẻ giac ác:
 ...Phật rau xuống thế làm quan.
Súng đồng gươm giáo tưng bừng bồn phang.
Phật mà xuống thế làm quan.
Hại làng hại xóm dân gian khó nghèo.

Pháp rút lui, Mỹ vào nhưng nửa chừng lui binh theo Không Thành kế:
 Trời ôi ! sao ó biến (biếng) bay.
Xe kia biến (biếng) chạy tại ai xe ngừng.
Súng sao biến (biếng) nổ không chừng.
Chư bang thập bát ngập ngừng ngẩn ngơ.
 Cuối cùng, Tứ Thánh cho rằng Việt Cộng mắc mưu Trung Cộng, ký biển, dâng đất cho nên cớ cơ sự ngày nay "Đồng khô hồ cạn, lòng dân uất hận!
Thương công chú cộng chan dầm.
Vào sanh ra tử lại lầm kế ai.

 Tứ Thánh tin tưởng hội Long Hoa sẽ đến, quốc tế hội nghị tại Thất Sơn lập hòa bình thế giới:
 Núi rừng trồ ngọc trổ ngà.
Long-hoa lại trổ trên tòa Thượng-nguơn.
Nam-bang một lá quế đơn.
Năm châu tựu hội Thất sơn đông đầy.

Trước đó, Sư Vãi Bán Khoai đã nói:

Mấy người làm phước làm nhân,
Long Hoa một hội quân thần âu ca.
Còn kẻ ác đức bất nhân,
Có tướng chư Thần phân nát thịt xương.

(phần 2)
Nước Nam như thể cái lầu/Ngày sau các nước đâu đâu phục tùng.
Giảng Xưa của Đức Sư Vải Bán Khoai, phần IV.
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_283_ArticleID_3516_.aspx


NGUYỄN VĂN THỚI  (1866-1927   )
 
  Ông Ba cũng có ý kiến tương tự và nhắc lại nhiều lần:

Nam-triều sau có quân sư
Coi mười tám nước chư châu phục tùng
Ngày sau nhiều kẻ anh hùng
Nghề văn nghiệp võ trí trung không cùng.

(Vân Tiên, 683-686)

Nước Nam như thể cái chùa
Ngày sau các nước bốn mùa bán buôn

(Vân Tiên 749-750)

Mười tám nước việc nói chiều mai
Ích chi một chỗ nói dai mà phiền
. . . . . . . . ,. . .
Vọng thập bát quốc hiệp một lòng
Chúc Nam Phật độ hội đồng quang minh

(KCKQ, 1225-1232)

Mười tám nước như con một nhà
Đều thời niệm Phật Di-Đà công phu.

(KCKQ, 1431-32)

Phật lập chánh chư quốc chư hầu
Bán buôn lui tới phải đầu nước Nam

(KCKQ,1489- 1490)

Trung Cộng và Việt Cộng ra đời trong thế chiến thứ hai (1937- 1945), nhưng từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX, các bậc tiên tri Viêt Nam đã biết trước và cảnh báo.

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)

Nguyễn Bỉnh Khiêm hay vị tiên tri nào đó đã thấy âm mưu xâm lược của Trung Cộng.

 Ai ơi chớ vội làm giàu - Thằng Tây nó tếch thằng Tàu nó qua".

Việt Cộng hăm hở đánh Pháp nhưng là đánh Pháp cho Trung Cộng đi vào Việt Nam và nam Á. Phải chăng Lê Duẩn đã thành thật công nhận thân phận nô lệ của ông và Việt Cộng khi ông nói Ta là lính đánh thuê của Liên Xô và Trung Cộng!
Việt Cộng đã mắc mưu Trung Cộng, cam tâm làm nô lệ và bán nước cho Trung Cộng. Thật vậy, Trung Cộng đem quân đội, vũ khí sang đánh biên giới và Điện Biên Phủ, rút cuộc Trung Cộng thắng, Pháp thu rút khỏi Việt Nam. Việt Cộng hí hững mừng độc lập nhưng ngay lúc đó Việt Cộng trở thành nô lê của Trung Cộng. Hàng nửa triệu quân Trung Cộng xâm chiếm Miền Nam và Việt Cộng hồ hởi chạy theo tiếp tay Trung Cộng giết hại nhân dân Miền Nam , và sự thể đã hiện rõ ngày hôm nay" đồng khô hồ cạn".
(HUỲNH TÂM * HỒ CHÍ MINH 
HUỲNH TÂM * GIẶC HÁN ĐỐT PHÁ NHÀ NAM
TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -TRUNG QUOC
TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -TRUNG QUỐC )
Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp... lừa dân nhưng không thoát khỏi  cặp mắt bậc tiên tri Việt Nam!


 CƠ BÚT LIỄU HẠNH

Năm 1938 tại Đền Ngọc Sơn, Hà Nội, nhà giáo Dương Bá Trạc, với sự chứng kiến của linh mục Lê Quang Óanh, đã cầu cơ để xin Bề Trên chỉ dạy về tương lai Việt Nam.  Bà Chúa đã cho biết số phận Việt Nam từ 1945 (kỷ dậu): 


Ba mầu đến độ suy vong 
Khỉ về Gà gáy, vầng hồng nổi lên
Cúc vàng rót chén rượu tiên
Uống mà xem lũ đảo điên luân thường
Mèo lùi Cáo nắm kỷ cương
Tương tàn cốt nhục nhiễu nhương lạ kỳ

 Pháp suy (ba màu, cờ tam tài của Pháp), vừng hồng:  Giặc Cờ đỏ nổi lên. Mèo : Bảo Đại hiền lành. Cáo:Ông  Hồ đại gian đại ác gây ra cuộc huynh đệ tương tàn.
Cỏ cây non nước điêu tàn
Quỉ nọ ra hàng, Ma ấy mới thôi
Vẩy Rồng tạm tách làm đôi
Bóng câu in dấu muôn đời nhuốc nhơ

Quỷ: Pháp; Ma; Cộng sản. Pháp thua Điện Biên Phủ-Việt Nam chia đội lấy cầu Hiền Lương làm giới hạn.

Kể từ đôi ngũ nằm chờ
Thầy Tu mở nước bấy giờ mới hay
Chẳng qua cũng giống Quỉ Tây
Ma tàn Quỉ hết đến ngày Long-Hoa
Khỉ về Gà gáy oa oa
Khắp nơi lại dấy can qua kinh trời
Quỉ Ma đến lúc đi đời
Phụ Nguyên Trời đã định ngôi sẵn sàng
Chó mừng tân chủ rõ ràng
Bốn phương tấp nập lên đàng hồi hươn
Long Hoa muôn thuở biên cương 

Thầy tu, thầy tăng: thằng tây: Ông Ngô Đình Diệm theo Tây phương . Sau một thời gian vào năm thân dậu lại có chiến tranh . Lúc này Ma Quỷ đều tiêu vong, hội Long Hoa mở ra một thời đại hòa bình và thịnh vượng!

Tóm lại, các văn bản đều có những điểm chung như sau:
-Trung Cộng âm mưu xâm chiếm Việt Nam, Việt Cộng  mắc mưu Trung Cộng, theo Trung Cộng giết người Việt và tàn phá Việt Nam.
-Trung Cộng cũng như Pháp phải bại trận, Việt Công cũng tiêu tan.
-Năm thân, dâu , chiến tranh tái phát, Việt Nam trở thành một quốc gia hùng cường  Họ Nguyễn sẽ trở về, hội Long Hoa sẽ mở ra một thời đại  toàn thế giới hòa bình, thịnh vượng.






No comments:

Post a Comment