ĐỒNG CHÍ ANH EM
Quốc kỳ CSVN được in vào poster cảnh cáo trộm cắp ở Nhật
SÀI GÒN (NV) - Cờ đỏ sao vàng được dùng làm nền cho một poster cảnh
cáo người Việt Nam làm việc, học hành tại Nhật hãy ngưng trộm cắp và
“lao động” (làm việc, học hành) theo cách lương thiện.
Poster vừa kể được một du học sinh theo học tại Học Viện Matsuyama,
thành phố Matsudo, Chiba chụp lại khi nhìn thấy nó trong khuôn viên của
học viện này rồi đưa lên Internet.
Trên poster, nền đỏ của quốc kỳ Việt Nam được trình bày như một mảng máu. Ngoài cảnh báo “Trộm cắp Stop!” người thiết kế còn dùng một khẩu hiệu mà Đảng CSVN vẫn dùng để nhắc nhở người Việt Nam làm việc, học hành tại Nhật: “Lao động là vinh quang.”
Những cảnh báo tương tự nay nhan nhản trên khắp đất Nhật sau khi người
Việt đổ đến Nhật làm thuê, du học. Hồi tháng 4 vừa qua, cảnh sát Nhật
công bố một thống kê về tình trạng phạm tội của các sắc dân ngoại quốc
đến Nhật làm việc và học hành trong năm 2013.
So với 2012, số vụ phạm tội của người ngoại quốc tại Nhật trong năm
2013 tăng 8%. Dẫn đầu về số vụ phạm tội tại Nhật là người Trung Quốc, kế
đó là người Việt và xếp thứ ba là người Đại Hàn. Tuy nhiên, cũng theo
thống kê vừa kể thì người Việt dẫn đầu về trộm cắp tại các cửa hàng,
siêu thị.
Trong thập niên vừa qua, số vụ phạm pháp của những người Việt trên đất Nhật tăng 60%. Nếu
năm 2004 chỉ có 713 người bị bắt thì năm 2013, con số này là 1,118.
Đáng chú ý là những vụ trộm cắp hàng hóa trong các cửa hàng, siêu thị
tại Nhật do người Việt thực hiện và bị phát giác đều dính líu đến
Vietnam Airlines.
Hồi thượng tuần tháng 4, cảnh sát Nhật lục soát văn phòng của Vietnam
Airlines tại Tokyo rồi bắt giữ một nữ tiếp viên 25 tuổi. Cô này bị cáo
buộc đã tiêu thụ hàng gian, bằng cách giúp vận chuyển số hàng hóa trộm
cắp trị giá 120,000 yen từ Nhật về Việt Nam hồi tháng 9 năm 2013.
Cảnh sát Nhật bảo rằng họ có bằng chứng cho thấy còn đến 20 nhân viên
khác của Vietnam Airlines tham gia tiêu thụ hàng gian và đã phát lệnh
triệu tập năm nhân viên của Vietnam Airlines, gồm cả phi công của
Vietnam Airlines.
Cục trưởng Hàng Không Quốc Doanh Việt Nam thừa nhận, chuỗi scandal vừa
kể ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả uy tín của các hãng hàng không Việt Nam
lẫn thể diện của người Việt. Buôn lậu của nhân viên Vietnam Airlines
không chỉ là phạm pháp mà còn “uy hiếp an toàn hàng không” vì họ có thể
nhận tiền để vận chuyển cả những vật nguy hiểm.
Đó là lần đầu tiên một viên chức chịu trách nhiệm về an toàn hàng
không ở tầm quốc gia thú nhận, buôn lậu của nhân viên hàng không đe doa
an toàn hàng không. Trong khi trên thực tế, phi công và tiếp viên của
Vietnam Airlines đã buôn lậu đủ thứ và từ khắp nơi, gây tai tiếng khắp
thế giới.
Trong hàng chục năm qua, phi công từ chính đến phụ, tiếp viên từ nam
đến nữ của Vietnam Airlines liên tục gây ra scandal ở cả Nhật, lẫn Đại
Hàn, Úc,... vì tổ chức trộm cắp - tiêu thụ đồ gian, nhân viên của
Vietnam Airlines còn buôn lậu, chuyển ngân lậu, dính líu đến các tổ chức
buôn bán ma túy.
Cũng trong tháng 4, tờ Người Lao Động lập lại nội dung mà dư luận râm ran từ lâu, đó là để
được tuyển làm phi công phải hối lộ 50,000 Mỹ kim, tiếp viên phải hối
lộ 25,000 Mỹ kim,...nên những nhân viên Vietnam Airlines phải “làm thêm”
để gỡ vốn và khi trò chuyện với ông Lại Xuân Thành, cục trưởng Cục Hàng
Không Việt Nam có hỏi ông ta nghĩ sao về dư luận này.
Viên cục trưởng Cục Hàng Không Việt Nam không phủ nhận, đồng thời thú
nhận không dễ ngăn ngừa vì tuyển dụng là chuyện của doanh nghiệp. Ông
ta bảo rằng “không loại trừ khả năng” nhận hối lộ khi tuyển dụng - một
trong những nguyên nhân chính khiến phi công, tiếp viên liên tục phạm
pháp.
Người Việt tranh ăn, đại sứ quán VN cúi đầu xin lỗi
21/03/2016 18:52 GMT+7
Vì xấu hổ, vì danh dự của một quốc gia, đại diện Đại sứ quan tại Malaysia phải chắp tay xin lỗi quan khách vì bị lấy hết đồ ăn.
Câu chuyện trên được ông Trương Văn Món – Giám đốc Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa Chăm kể với Đất Việt.
Ông Món kể: "Tôi từng ở Malaysia 3 năm và là thành viên trong ban bí thư chi bộ. Ở Malaysia, mỗi khi đến dịp lễ 2/9, Đại sứ quán Việt Nam tổ chức sự kiện rất lớn, có mời đại diện Đại sứ quán các nước khác và người lao động Việt Nam ở nước ngoài tới dự. Chúng tôi được yêu cầu hỗ trợ tổ chức chương trình đón tiếp như chuẩn bị bàn ghế, đồ ăn tiếp khách.
Tiệc đứng tổ chức ngoài trời, lễ kỷ niệm tổ chức trong hội trường. Buổi
lễ sẽ rất hoàn hảo nếu người Việt có lòng tự trọng và có ý thức cao hơn.
Khi buổi lễ chưa kết thúc, trước bao nhiêu quan khách đã ào vào lấy
thức ăn. Tạo ra một khung cảnh hỗn loạn vô cùng xấu hổ. Đến mức khách
tham dự không còn gì ăn.
Lúc đó, vì xấu hổ, vì danh dự của một quốc gia, đại diện Đại sứ quán Việt Nam tại đây phải chắp tay xin lỗi quan khách vì bị cướp hết đồ ăn".
Cứ tưởng cảnh tượng trên chỉ diễn ra một lần, tuy nhiên, nó lặp lại y như cũ và năm nào cũng vậy, ông nói.
"Đến năm sau, rút kinh nghiệm, chúng tôi tổ chức một nửa tiệc ngoài trời, một nửa trong hội trường. Nhưng tình hình cũng không cải thiện được bao nhiêu. Họ ăn hết ngoài trời lại xông vào hội trường, leo lên cả tầng hai cướp đồ ăn luôn. Không biết xấu hổ là gì. Ăn xong còn vứt rác bừa bãi, chỗ nào cũng vứt. Xấu xí vậy nhưng không cải thiện được", ông Món kể.
Hết chuyện tranh ăn, ông lại kể tiếp việc thiếu ý thức ở sân bay. Theo ông, ở sân bay có những xe đẩy đồ dùng để đẩy đồ cho khách, thì người Việt Nam lại lấy để đẩy người.
"Cứ 2-3 người ngồi lên một cái xe rồi đẩy nhau. Thật không thể hiểu nổi".
Điều đáng nói là ý thức nhận thức của người Việt Nam quá thấp, khi biết rõ những việc làm không đẹp, không đúng nhưng vì thói quen, vì lợi ích của mình nên cứ làm.
Theo ông, không phải người dân nước nào cũng hoàn hảo, cũng đều tốt có điều ở trong một đất nước mà pháp luật, kỷ cương được thiết lập chặt chẽ, người dân có ý thức vươn lên, thấy sai sẽ sửa.
Chứng minh cho lời nói của mình, ông Món kể lại câu chuyện của chính bản thân ông khi còn ở Malyasia.
Ông cho biết, trong một lần đi công tác ở Malaysia, trong lúc đợi lên tàu ông được gặp lại người bạn là người Nhật Bản. Người bạn Nhật của ông đã mua hoa quả, đồ ăn chuẩn bị cho lúc đợi tàu.
Do lâu ngày mới gặp lại, hai người bị cuốn vào câu chuyện và quên mất yêu cầu không được phép mang đồ ăn, hút thuốc khi ra đảo.
Ngay lập tức, cảnh sát Malaysia bước tới yêu cầu quay lại, xử phạt ngay.
"Không như Việt Nam, hút thuốc thoải mái, dù có cấm nhưng cũng chả phạt được ai. Ở đây rõ ràng là ý thức nhưng cũng còn phải do cơ chế quản lý. Không thể chỉ kêu gọi ý thức suông nữa", ông Món nói
Câu chuyện trên được ông Trương Văn Món – Giám đốc Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa Chăm kể với Đất Việt.
Ông Món kể: "Tôi từng ở Malaysia 3 năm và là thành viên trong ban bí thư chi bộ. Ở Malaysia, mỗi khi đến dịp lễ 2/9, Đại sứ quán Việt Nam tổ chức sự kiện rất lớn, có mời đại diện Đại sứ quán các nước khác và người lao động Việt Nam ở nước ngoài tới dự. Chúng tôi được yêu cầu hỗ trợ tổ chức chương trình đón tiếp như chuẩn bị bàn ghế, đồ ăn tiếp khách.
Hình ảnh nhiều người Việt Nam tranh cướp nhau khi ăn buffet |
Lúc đó, vì xấu hổ, vì danh dự của một quốc gia, đại diện Đại sứ quán Việt Nam tại đây phải chắp tay xin lỗi quan khách vì bị cướp hết đồ ăn".
Cứ tưởng cảnh tượng trên chỉ diễn ra một lần, tuy nhiên, nó lặp lại y như cũ và năm nào cũng vậy, ông nói.
"Đến năm sau, rút kinh nghiệm, chúng tôi tổ chức một nửa tiệc ngoài trời, một nửa trong hội trường. Nhưng tình hình cũng không cải thiện được bao nhiêu. Họ ăn hết ngoài trời lại xông vào hội trường, leo lên cả tầng hai cướp đồ ăn luôn. Không biết xấu hổ là gì. Ăn xong còn vứt rác bừa bãi, chỗ nào cũng vứt. Xấu xí vậy nhưng không cải thiện được", ông Món kể.
Hết chuyện tranh ăn, ông lại kể tiếp việc thiếu ý thức ở sân bay. Theo ông, ở sân bay có những xe đẩy đồ dùng để đẩy đồ cho khách, thì người Việt Nam lại lấy để đẩy người.
"Cứ 2-3 người ngồi lên một cái xe rồi đẩy nhau. Thật không thể hiểu nổi".
Điều đáng nói là ý thức nhận thức của người Việt Nam quá thấp, khi biết rõ những việc làm không đẹp, không đúng nhưng vì thói quen, vì lợi ích của mình nên cứ làm.
Theo ông, không phải người dân nước nào cũng hoàn hảo, cũng đều tốt có điều ở trong một đất nước mà pháp luật, kỷ cương được thiết lập chặt chẽ, người dân có ý thức vươn lên, thấy sai sẽ sửa.
Chứng minh cho lời nói của mình, ông Món kể lại câu chuyện của chính bản thân ông khi còn ở Malyasia.
Ông cho biết, trong một lần đi công tác ở Malaysia, trong lúc đợi lên tàu ông được gặp lại người bạn là người Nhật Bản. Người bạn Nhật của ông đã mua hoa quả, đồ ăn chuẩn bị cho lúc đợi tàu.
Do lâu ngày mới gặp lại, hai người bị cuốn vào câu chuyện và quên mất yêu cầu không được phép mang đồ ăn, hút thuốc khi ra đảo.
Ngay lập tức, cảnh sát Malaysia bước tới yêu cầu quay lại, xử phạt ngay.
"Không như Việt Nam, hút thuốc thoải mái, dù có cấm nhưng cũng chả phạt được ai. Ở đây rõ ràng là ý thức nhưng cũng còn phải do cơ chế quản lý. Không thể chỉ kêu gọi ý thức suông nữa", ông Món nói
Khách Trung Quốc tranh cướp hoa quả: "6 giây sau, trên đĩa trống trơn"
25/03/2016 09:57 GMT+7
- Vừa
bị chỉ trích tham ăn hồi đầu tuần vì tranh cướp tôm ở nhà hàng buffet,
khách Trung Quốc lại tiếp tục xấu mặt với hình ảnh chen lấn lấy hoa quả
trong một quán bar ở Việt Nam.
Một đoạn clip dài 27 giây quay ảnh một nhóm hơn 10 du khách Trung Quốc đang tranh nhau lấy hoa quả tại quán bar bể bơi trong một khách sạn ở Việt Nam khiến cư dân mạng phẫn nộ.
Lúc đầu, nữ nhân viên phục vụ cố giữ lấy hoa quả và chia cho từng khách.
Nhưng sau đó các du khách chen lấn, xô đẩy, tranh dành nhau nên nữ nhân
viên đành đặt cả khay hoa quả lên bàn. Chiếc đĩa chưa kịp đặt xuống các
du khách đã chen nhau dùng tay bốc hoa quả về đĩa của mình.
“Chưa đầy 6 giây sau, trên đĩa đã không còn gì”, tờ Shanghaiist mô tả.
Trước đó, một đoạn video khác quay tại một bữa buffet ở Thái Lan, cho thấy du khách Trung Quốc xô đẩy nhau lấy tôm. Các cư dân mạng Trung Quốc tỏ ra rất xấu hổ trước những hành vi khó coi này.
Một đoạn clip dài 27 giây quay ảnh một nhóm hơn 10 du khách Trung Quốc đang tranh nhau lấy hoa quả tại quán bar bể bơi trong một khách sạn ở Việt Nam khiến cư dân mạng phẫn nộ.
Tranh cướp vì mấy miếng hoa quả |
“Chưa đầy 6 giây sau, trên đĩa đã không còn gì”, tờ Shanghaiist mô tả.
...và cái đĩa trống trơn sau vài giây |
Kim Minh (Theo Shanghaiist)
Wednesday, March 30, 2016
9 ĐIỂM ĐẾN RÙNG RỢN Ở SÀI GÒN
9 ĐIỂM ĐẾN RÙNG RỢN Ở SÀI GÒN
Ít ai biết rằng, hầu hết các địa điểm này ở Sài Gòn đều gắn liền với những câu chuyện thương tâm, oan khuất ngút trời. Vì thế, ít người dám lui tới và lâu dần bức màn tang tóc với những câu chuyện bí ẩn càng làm cho những nơi này thêm hoang phế…
Gần đây, các bạn trẻ và nhiều diễn đàn thường rỉ tai nhau về 9 địa điểm mang tin đồn ma ám vô cùng ghê rợn tại Sài Gòn.
Càng đông dân cư, tin đồn hồn ma quyến rũ người trần xuống hồ “thế mạng” cho mình lại càng rầm rộ. Có người còn mạnh miệng kể rằng, đã từng mục sở thị “xoáy nước bí ẩn” thỉnh thoảng lại cuồn cuộn giữa lòng hồ. Sở dĩ, lời đồn trên hình thành là bởi người ta khó có thể giải thích tại sao có quá nhiều cái chết tại khu vực Hồ Đá.
Ít ai biết rằng, hầu hết các địa điểm này ở Sài Gòn đều gắn liền với những câu chuyện thương tâm, oan khuất ngút trời. Vì thế, ít người dám lui tới và lâu dần bức màn tang tóc với những câu chuyện bí ẩn càng làm cho những nơi này thêm hoang phế…
Gần đây, các bạn trẻ và nhiều diễn đàn thường rỉ tai nhau về 9 địa điểm mang tin đồn ma ám vô cùng ghê rợn tại Sài Gòn.
1. Chuyện dùng trinh nữ trấn yểm 4 góc chung cư 727 – Trần Hưng Đạo
Địa điểm đầu tiên và có thể nói là nơi đáng sợ nhất Sài Gòn đó chính là khách sạn Building President – mà nay đã trở thành chung cư 727 nằm trên đường Trần Hưng Đạo, phường 1, quận 5. Sở dĩ vậy, vì theo các cao niên cư trú lâu năm tại Sài Gòn – Chợ Lớn thì Building President gắn liền với một loại thuật phong thủy cổ quái, được áp dụng để trấn yểm tòa nhà.
Khách sạn Building President được ông Nguyễn Tấn Đời
– một đại gia giàu có nhất phương Nam lúc bấy giờ, đầu tư khởi công vào
năm 1960. Theo bản thiết kế, khách sạn gồm 13 tầng, chia làm 6 tòa và
ngăn ra thành 530 phòng.
Giai thoại truyền miệng rằng, khi nhận được bản thiết kế, cộng sự của
ông Nguyễn Tấn Đời là một người Pháp đã tỏ ra rất lo ngại với con số 13
tầng, vốn được cho là xui rủi theo quan niệm phương Tây. Nhưng ông Đời
không mấy quan tâm và vẫn cho xây đúng 13 tầng theo bản vẽ.
Ngay khi tầng 13 đang đặt những viên gạch cuối cùng thì hàng loạt tai
nạn chết người xảy ra. Khi thì nhân công bị rớt giàn giáo, lúc lại bị
điện giật trụy tim… án mạng liên tiếp khiến cho tầng 13 mãi mà chẳng thể
xây xong. Đứng trước nguy cơ Building President không thể hoàn thành
kịp tiến độ và giới chức chế độ cũ lúc bấy giờ cũng đang rục rịch vào
cuộc điều tra, ông Đời liền cho tạm ngưng thi công tầng 13. Sau đó, mời
về một thầy pháp sư, cho công nhân nghỉ phép liên tục 3 ngày để làm phép
và trấn yểm tòa nhà.
Cụ Lưu Phục Chấn, 72 tuổi, ngụ tại đường Nguyễn Thi, phường 13, quận 5
kể lại: “Dạo xây khách sạn lớn, gia đình tôi có ông cậu ở gần đó. Cậu
hay kể lại rằng, thầy pháp đã cho người đến bệnh viện mua lại xác của 4
trinh nữ, đem về chôn ở 4 góc của khách sạn để trấn tại 4 hướng”.
Cũng theo lời cụ Chấn, thì đây không phải là “tin đồn lẻ tẻ” mà nó
lan rộng khắp khu Chợ Lớn, Sài Gòn. Điều này khiến Building President
trở nên nổi như cồn bởi những câu chuyện thêu dệt về thuật phong thủy cổ
quái, hồn ma trinh nữ và cả oan hồn của nhân công bỏ mạng tại đây.
Qua bao phen lận đận, cuối cùng khách sạn Building President cũng
được khánh thành. Bấy giờ, quân đội Mỹ liền thuê lại toàn bộ khu nhà bề
thế này để dành làm nơi nghỉ ngơi cho lính của họ. Nhưng không hiểu sao,
tầng 13 vẫn không được đưa vào sử dụng.
Tầng 12, Mỹ cải tạo thành quán bar, nhà hàng, nơi vui chơi cho lính.
Đến ngày giải phóng, khu khách sạn đồ sộ được sung vào công quỹ. Hơn 400
phòng khách sạn được cải tạo thành nhà ở và cấp cho cán bộ, công nhân
viên nhà nước. Tầng 12 khó có thể sử dụng được nên bị khóa lại, còn tầng
13 thì bỏ hoang vĩnh viễn.
Nhưng những tin đồn ma ám còn bởi chung cư 727 quá cũ đến mức có thể
sập bất cứ lúc nào. Quả thật, chung cư 727 mang trong mình cái vẻ thâm
u, cũ kỹ đến đáng sợ. Có những nơi bỏ hoang lâu ngày, mùi rác, mùi ẩm
mốc, xác động vật chết bốc lên nồng nặc.
Chưa kể đến chuyện ma cỏ, chỉ cần mới bước vào khu chung cư, người ta
đã dễ dàng bị choáng bởi mùi hôi tanh cùng thứ không khí lạnh lẽo do ít
ánh sáng và thiếu hơi người.
2. Thai phụ bên cửa sổ ngôi nhà số 24 – Lý Thái Tổ
Ngôi nhà số 24 – Lý Thái Tổ bỏ hoang đã lâu cũng lọt vào danh sách những địa điểm đáng sợ nhất Sài Gòn. Nhưng ít ai biết, nơi đây gắn liền với một án mạng gia đình hết sức thương tâm. Chỉ vì người con tâm thần giận cả nhà “bắt uống thuốc” mà 7 mạng người trong căn nhà số 24, mặt tiền đường Lý Thái Tổ đã ra đi tức tưởi trong cơn hỏa hoạn kinh hoàng. Hơn 13 năm về trước, đây là một cửa hàng bán xe máy khá sung túc.
Nhưng rạng sáng cận ngày lễ Giáng sinh năm ấy, ngọn lửa bùng cháy,
thiêu chết 7 mạng người trong đó có một phụ nữ mang thai và đứa trẻ mới
tròn 3 tuổi. Cả gia đình bị thiêu sống, chỉ có người em trai bị mắc bệnh
tâm thần của gia chủ và người mẹ già thoát khỏi ngọn lửa kinh hoàng.
Nhưng càng đau đớn hơn, khi thủ phạm của vụ hỏa hoạn lại chính là
người em trai tâm thần kia. Khi được hỏi, tại sao lại phóng hỏa đốt nhà,
anh ta hướng đôi mắt lơ ngơ về phía người hỏi và trả lời: “Tại không
cho đi theo chơi, tại bắt uống thuốc hoài à”.
Và kể từ đó, ngôi nhà luôn cửa đóng then cài, còn hai mẹ con người
đàn ông tâm thần kia thì đi đâu biệt tích. Chính vì thế, những lời đồn
đại kỳ dị về ngôi nhà số 24, đường Lý Thái Tổ cứ thế lan ra. Ông Trần
Quốc Hưng, ngụ phường 2, quận 3, gần ngôi nhà này tỏ vẻ e dè kể lại:
“Chuyện xảy ra quá lâu rồi, mà ánh mắt của cô con gái trong nhà này vẫn
làm tôi ám ảnh.
Lúc xảy ra hỏa hoạn, chúng tôi nhìn thấy cô gái mặc váy ngủ, bụng
mang dạ chửa, tay bồng đứa con trai 3 tuổi đứng ngay cửa sổ. Chúng tôi
la hét bảo cô nhảy xuống, hay ném đứa con xuống, vì ngôi nhà này chỉ có 2
tầng thôi, té xuống thì trường hợp xấu nhất là sẽ sảy thai, chứ không
đến nỗi chết.
Nhưng cô gái lại chạy vào trong ngọn lửa, vẻ mặt hoảng loạn vô cùng.
Sau đó cô lại ôm con trở ra cửa sổ, ánh mắt bình thản nhìn xuống phía
dưới, mặc cho mọi người la hét, cô vẫn đứng yên nhìn. Lúc này một số
người cho rằng, cô gái và cả đứa con đã chết rồi, bên cửa sổ chỉ là linh
hồn của cô thôi. Náo loạn một lúc nữa thì không thấy cả 3 mẹ con đâu
hết”.
Theo ông Hưng, chính hành động lạ lùng đó của cô gái nạn nhân vụ hỏa
hoạn mà ngôi nhà bị đồn thổi là có ma. Người dân sống gần ngôi nhà số 24
cho biết, họ thường xuyên nghe thấy tiếng động lạ phát ra từ phía bên
trong ngôi nhà. Một số người còn khẳng định, vẫn thường thấy một thai
phụ lảng vảng trên bao lơn của ngôi nhà còn ám đen những vệt khói của
trận hỏa hoạn hơn mười mấy năm về trước.
3. Hố chôn tập thể tại công viên Lê Thị Riêng
Với hàng cây xanh mướt mắt, hồ câu cá, khu trò chơi thiếu nhi… công viên Lê Thị Riêng vốn là trung tâm vui chơi, giải trí quen thuộc của người dân Saigon. Nhưng ít ai biết, công viên này xưa kia chính là nghĩa trang Đô Thành, sau đổi tên thành nghĩa trang Chí Hòa.
Nghĩa trang Đô Thành rộng 25 ha, cổng chính hướng ra
đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách mạng tháng 8) thuộc khu Chí Hòa –
Hòa Hưng của Sài Gòn – Gia Định.
Theo các cao niên cư trú tại đây nhiều năm thì xưa kia, nghĩa trang
Đô Thành vốn là vùng đất linh thiêng. Đặc biệt là trong thời kỳ chiến
tranh, hàng loạt nấm mồ không tên mọc lên tại đây, mà đa phần là của
lính chết trận không người thân nhận xác.
Ông Phan Thành Tài, 62 tuổi, ngụ Cư xá Bắc Hải gần công viên Lê Thị
Riêng kể lại: “Nghĩa địa mà bị đồn là có ma là chuyện thường, không có
ma mới là chuyện lạ. Huống hồ chi trước giải phóng, nghĩa trang Đô Thành
còn có cái hố chôn tập thể vô cùng lớn”.
Theo ông Thành Tài, thì sau trận chiến Tết Mậu Thân lịch sử, xác lính
chết trận la liệt mà hầu như không có ai đến nhận về. Chính quyền chế
độ cũ không biết xử lý làm sao với hàng ngàn xác người đang đến hồi hoại
tử, liền cho đào một hố to trong nghĩa địa Đô Thành đổ xác người xuống
rồi chôn tập thể.
Dù hố đào rất sâu, nhưng do vận chuyển một số lượng xác khá lớn, nên
mùi hôi thối vẫn bốc lên cả mấy ngày liền. Người dân xứ Bắc Hải thuở ấy
phải khóa kín cửa nhà, hoặc lánh đi đâu đó chờ mùi tử khí tan bớt đi mới
dám trở về. Chính vì thế, nên dân vùng này vẫn hay truyền miệng những
câu chuyện huyền bí về những âm hồn lính chết trận, bị chôn tập thể nên
chẳng siêu sinh, thường xuyên hiện về lởn vởn khóc than.
Các cao niên còn kể lại, nổi tiếng nhất vẫn là chuyện ban đêm, oan
hồn hiện hình thành những người bưng thúng bánh chưng, bánh giò đứng
trên đường Lê Văn Duyệt. Người âm cứ đứng đó chờ có người mua rồi “dẫn”
họ vào trong mộ ngủ qua đêm.
4. “Xoáy nước nuốt người” tại hồ Đá làng đại học Thủ Đức
Từ lâu, người dân xung quanh khu vực hồ Đá thường đồn đại rằng, vong linh người chết đuối đã quyến rũ người dương gian lao xuống lòng hồ rồi bỏ mạng dưới đáy sâu.Càng đông dân cư, tin đồn hồn ma quyến rũ người trần xuống hồ “thế mạng” cho mình lại càng rầm rộ. Có người còn mạnh miệng kể rằng, đã từng mục sở thị “xoáy nước bí ẩn” thỉnh thoảng lại cuồn cuộn giữa lòng hồ. Sở dĩ, lời đồn trên hình thành là bởi người ta khó có thể giải thích tại sao có quá nhiều cái chết tại khu vực Hồ Đá.
Trên thực tế, một vài cụ lão niên tại Bình Dương, Thủ Đức hoàn toàn
có thể giải thích được vì sao Hồ Đá lại gây ra quá nhiều cái chết thương
tâm đến như vậy. Ông Trần Quý, 52 tuổi, là thợ lặn có thâm niên, ông
Quý đã từng có lần tham gia lặn mò xác người tại Hồ Đá.
Ông lắc đầu nói: “Nước trong hồ lạnh vô cùng do bao quanh là tường đá
cheo leo, lởm chởm, rớt xuống hồ mà may mắn không bị đập đầu vào đá thì
cũng có lòng mà sống sót nổi”.
Theo ông Quý, sở dĩ vậy là do nước quá lạnh, nên khi rơi xuống hồ,
người ta khó có thể thích ứng ngay với nhiệt độ thay đổi đột ngột và dễ
dàng bị chuột rút. Ông nói thêm: “Nước ở đây là nước đứng, nghĩa là
không có dòng chảy, nên người bị chuột rút không thể nương theo dòng mà
bơi vào bờ. Mà ở vùng nước đứng, càng vùng vẫy lại càng dễ bị chìm. Bởi
vậy, người ta đoán Hồ Đá có xoáy nước ngầm, xoáy nước bí ẩn nọ kia cũng
có lý do”.
Bên cạnh đó, dưới đáy hồ không phải là bùn đất thông thường mà là đá
nhọn lởm chởm. Còn có vô số hố lớn nhỏ với độ nông sâu khác nhau. Ông
Quý tặc lưỡi nói: “Tôi làm thợ lặn biết bao nhiêu lâu mà chưa bao giờ
thấy cái hồ nước ngọt nào nguy hiểm như cái này.
Nhìn nó yên ả vậy, ai cũng tưởng an toàn mà bơi sâu sâu vô một chút
là nước đột ngột thay đổi nhiệt độ, lạnh như nước đá. Đã vậy, trong bán
kính chừng 3m mà có nơi nước chỉ đến đầu gối, ngang hông, còn có chỗ hố
sâu đến hơn 20m. Bởi vậy, mấy đứa sinh viên cứ tưởng gần bờ là cạn, nhảy
xuống tắm, sập hố một cái hụt chân là chỉ có nước chết”.
Ước tính, chỗ sâu nhất của hồ có thể hơn 50m. Hơn nữa, theo quan sát
của chúng tôi thì quanh bờ hồ có rất nhiều dốc đá lởm chởm, cheo leo,
mũi đá nhọn hoắc… Chỉ cần bất cẩn, rất dễ vấp phải đá và rơi xuống lòng
hồ.
Hiện, chính quyền đã dựng rào chắn, biển báo nguy hiểm xung quanh hồ,
nhưng không hiểu sao vẫn có rất nhiều người lao xuống Hồ Đá để tắm, bơi
thi… hay leo lên những vách đá cheo leo để ngắm cảnh, chơi đùa. Điều
này, khiến sinh viên lẫn người dân tỏ ra coi thường nơi nguy hiểm tiềm
tàng này và những án mạng thương tâm năm nào cũng diễn ra tại đây…
5. “Vật thể không xác định” ghẹo người trong căn nhà 1/5D Quang Trung
Căn nhà 1/5D Quang Trung, quận 12 là một trong những nơi “rùng rợn”
khiến cho những người hiếu kỳ không thể bỏ qua. Sở dĩ vậy là vì nơi đây
mang tin đồn về “thứ gì đó không xác định” thường xuyên trêu ghẹo chủ
nhà trong giấc ngủ.
Căn nhà này nổi tiếng bởi không ai có thể “trụ” nổi ở đây quá 2 tuần.
Người dân xung quanh kể lại rằng, hầu hết người dọn đến đây đều bị
“bóng đè” trong khi ngủ đến không thở được. Đó là chưa kể người dân còn
đồn đại, mỗi khi nửa đêm, chủ nhà lại nghe tiếng khua xoong nồi, chén
bát. Tìm xuống bếp để “đuổi” đi chỉ có cảm giác rợn người và như có “thứ
gì đó không xác định” cứ lởn vởn quanh mình.
Những tin đồn “nổi da gà” cộng với sự chuyển đến, chuyển đi trong một
thời gian quá ngắn của những người thuê trọ, nhà 1/5D trở thành một
trong những địa điểm rùng rợn nhất Sài Gòn.
Nhưng sự việc khiến ngôi nhà này nổi tiếng đó là vụ công nhân ngất
xỉu tập thể trong khi ngủ. Sau một thời gian bỏ hoang do quá nhiều người
đến rồi đi, một công ty may mặc gần khu Chợ Cầu đã thuê căn nhà cho
công nhân ở. Nhưng mới ngày đầu tiên, hàng chục công nhân đang ngủ nửa
khuya bỗng nhiên bị ngẹt thở, cứng miệng như ai bóp cổ. Sau đó, họ được
người dân xung quanh tức tốc đưa đi bệnh viện.
Vụ việc đã khiến những tin đồn rùng rợn về ngôi nhà số 1/5D lại có cơ
hội bùng phát. Người dân rầm rộ đồn rằng, những người công nhân kia đã
bị hồn ma bóp cổ, rằng, đó là nơi trú ngụ của những linh hồn chết đường,
chết chợ, không được siêu sinh nên họ thường về quấy phá những ai dám
đến ở căn nhà này.
Trước vấn đề quá nhạy cảm, cơ quan chức năng quận 12 đã vào cuộc tìm
hiểu nguyên nhân vì sao người đến ở căn nhà này đều bị ngất, bị nghẹt
thở khi ngủ. Kết quả thu được cho biết, sở dĩ vậy là bởi kiến trúc của
căn nhà này khá bí, thiếu ôxy, cùng với những lời đồn đại hoang đường,
khiến người ở luôn căng thẳng, hồi hộp nên thường xảy ra vụ việc như
trên.
Tuy lời giải thích đó của cơ quan chức năng đã tạm dẹp yên dư luận tại xóm Chợ Cầu, nhưng ngôi nhà số 1/5D đường Quang Trung vẫn không ai thuê mướn và bị bỏ hoang từ đó cho đến giờ.
6. Cánh đồng hoang quận 8
Cánh đồng hoang Quận 8 với ông lái đò chỉ chở khách từ 23h đêm đến 3h
sáng thật ra chỉ là sản phẩm của mê tín dị đoan, mua thần bán thánh.
Chuyện bắt đầu từ khi ngôi miếu thờ hài cốt ở cánh đồng hoang quận 8,
đoạn gần cầu Chà Và rước thêm “Cô và Cậu” về thờ. “Cô”, “Cậu” mà người
dân vẫn kiêng dè đó là hũ cốt của hai chị em, người chị tên Lan, em trai
tên Hành. Vào khoảng năm 2004, vì gia đình không hạnh phúc, chồng đánh
đập liên miên, nên chị Lan tìm đến một gốc cây già trong cánh đồng hoang
treo cổ tự vẫn.
Sau đó không lâu, người em trai tên Hành cũng đến gốc cây nơi người
chị quyên sinh để uống thuốc sâu tự tử. Hai cái chết đầy uất ức cùng một
nơi của 2 chị em đã khiến người dân tôn họ lên hàng “cô cậu”.
Và trên thực tế, lão lái đò kỳ dị hằng đêm đưa khách sang sông cũng
không có gì là kỳ dị. Bởi người dân muốn đến được ngôi miếu ở cánh đồng
hoang phải qua đò, và hầu hết người dân tìm tới đây là để “cầu cơ”, “gọi
hồn”, “xin số” nên phải đi vào 23h – 3h khuya mới … linh.
Chính quyền địa phương tại phường 7, quận 8, đã nhiều lần kiên quyết
dẹp bỏ tệ nạn mê tín dị đoan tại ngôi miếu này. Nhưng khó khăn ở chỗ
miếu thờ người đã khuất vốn thuộc về văn hóa “nghĩa tử là nghĩa tận” của
người dân, không thể đập phá hay dẹp bỏ, mà còn miếu thì còn “ma đề” về
cầu cơ, xin số … Cứ thế tệ mê tín ở cánh đồng hoang quận 8 cứ tái diễn
và khiến nơi này “lọt top” những nơi bí ẩn nhất Sài Gòn.
7. Nhà Vĩnh Biệt bệnh viện Chợ Rẫy
Ít ai biết, Bệnh viện Chợ Rẫy có một căn nhà dùng để chứa xác bệnh nhân mất đi mà không có người thân nhận về, nơi ấy gọi là “nhà Vĩnh Biệt”. Nhà Vĩnh Biệt nằm trên đường Thuận Kiều, quận 5, TP.HCM. Trái với sự đông đúc, ồn ào của các tòa nhà thuộc Bệnh viện Chợ Rẫy, nhà Vĩnh Biệt lọt thỏm trong sự hoang vắng và trầm mặc hiếm hoi tồn tại ở chốn này.
Bệnh nhân mất mà không có người thân sẽ được đưa về đây rồi bảo quản
trong vòng 30 ngày. Hết thời hạn mà thi hài vẫn vô thừa nhận thì bệnh
viện sẽ mang đi hỏa táng. Tất cả các chi phí chi cho nhà Vĩnh Biệt do Quỹ từ thiện của bệnh viện trích ra.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà Vĩnh Biệt lại trở thành một trong những
địa điểm “đáng sợ” nhất Sài Gòn. Ai cũng biết, Bệnh viện Chợ Rẫy nằm
trong số các công trình tồn tại lâu nhất ở Sài Gòn, lượng bệnh nhân mắc
các căn bệnh khó trị tập trung rất nhiều ở đây. Nên chuyện “tử biệt” là
thường tình ở Bệnh viện Chợ Rẫy.
Không những thế, người dân xung quanh vẫn thường hay kể về các “hồn
ma bệnh viện”, và hầu hết đều luẩn quẩn bên cạnh nhà Vĩnh Biệt. Sở dĩ
vậy là bởi, các xác chết được giữ trong nhà Vĩnh Biệt đều không có người
thân vuốt mặt lúc lìa đời. Tất cả họ dẫu mất đi vẫn đau đáu một nỗi
không còn ai bên cạnh, không còn ai đưa họ về với đất.
Chú Sáu – nhân viên giữ xe tại Bệnh viện Chợ Rẫy nói ngắn gọn về nhà Vĩnh Biệt: “Những linh hồn đau khổ, khó được siêu sinh”.
Có thể do “thần hồn nát thần tính”, hoặc chứng sợ xác chết mà khi mới
bước vào nhà Vĩnh Biệt, chưa thăm hỏi điều chi chúng tôi đã có cảm giác
rợn người. Dãy đèn trắng lạnh lẽo kéo dài từ cửa đến cuối hành lang như
xa hút. Sự lặng lẽ, nét u hoài của những người đến thăm nhà xác như
càng tô đậm thêm không khí đau thương bao trùm cả nơi đây. Mùi hóa chất
ướp xác và hơi dễ khiến những người yếu sức choáng váng.
Nhưng dẫu thuộc danh sách những nơi đáng sợ nhất Sài Gòn, thì nhà
Vĩnh Biệt vẫn như một minh chứng cho chữ tình giữa người với người, minh
chứng cho câu “nghĩa tử là nghĩa tận” truyền đời của người Việt.
8. Người con gái duy nhất trong biệt thự nhà họ Hứa
Tuy giờ đây, đã trở thành Viện bảo tàng mỹ thuật TP.HCM
nhưng tòa nhà của ông chủ họ Hứa vẫn mang nhiều bí ẩn về hồn ma của cô
con gái duy nhất trong gia đình này. Tọa lạc tại số 97, Phó Đức Chính,
quận 1, dinh thự có 99 cửa này là một trong những công trình có kiến
trúc đẹp nhất Sài Gòn xưa và cả ngày nay.
Đây là ngôi nhà của đại gia Hứa Bổn Hỏa, từ trước 1975 đã có rất nhiều lời đồn đại cho rằng ngôi nhà này có ma.
Rất nhiều người kể rằng nghe thấy tiếng khóc thảm thương văng vẳng từ
căn phòng khóa kín cửa trong tòa nhà, chuyện về bóng cô gái mặc đầm ngủ
trắng lướt nhanh qua các dãy hành lang, chuyện khuôn mặt người thảng
thốt bỗng đâu xuất hiện… khiến người ta trở nên khiếp sợ tòa nhà này.
Nguyên nhân của những tin đồn rùng rợn này xuất phát từ việc đứa con
gái duy nhất của ông Hứa Bổn Hỏa bỗng nhiên biến mất. Có hàng chục người
con trai nhưng chỉ được 1 mụn con gái nên đại gia Bổn Hỏa hết mực yêu
chiều.
Rồi một ngày không ai nhìn thấy cô con gái xinh đẹp xuất hiện nữa, từ đó
những đêm khuya thanh vắng, từ trong toà nhà vẳng ra tiếng kêu khóc
thảm thiết.
Rồi đến một buổi sáng, người dân Sài Gòn bất ngờ thấy chú Hỏa đăng
cáo phó thông báo con gái duy nhất của ông đã chết. Thông tin còn cho
biết, do chết bất ngờ vào ngày trùng tang nên chỉ làm lễ sơ sài và an
táng tại khu đất ở Long Hải thuộc khu nghỉ dưỡng của gia tộc.
Người ta không tin Hứa Tiểu Lan – con gái Hứa Bổn Hỏa chết, vì có vài
tên trộm đã cả gan đào mộ cô với hy vọng trộm được chút của cải chôn
theo. Nhưng bất ngờ thay, quan tài trống rỗng và đây chỉ là “mộ gió”. Sự
biến mất của Tiểu Lan, cùng tiếng khóc văng vẳng trong tòa nhà rơi vào
vòng bí ẩn.
Cho đến khi một quyển sách có nhan đề “Ngôi mộ cổ nhà họ Hứa” do tác
giả Phạm Phong Dinh viết ra mắt tại hải ngoại người ta mới tạm giải
thích được vì sao cửa phòng Hứa Tiểu Lan tuy đầy đủ tiện nghi nhưng lại
luôn luôn đóng kín, tại sao quan tài không có thi hài, và tiếng khóc, và
bóng cô gái mặc váy ngủ trắng rũ rượi lướt qua các hành lang.
Lý do Phạm Phong Dinh đưa ra là Hứa Tiểu Lan bị mắc bệnh phong, vốn
là một bệnh vô phương cứu chữa thời xưa. Vừa thương con, lại vừa sợ căn
bệnh quái ác lây lan, nên ông đành phải nhốt con mình trong căn phòng
kín. Từ một cô gái xinh đẹp, nay dung nhan tàn tạ vì phong cùi, Hứa Tiểu
Lan trở nên điên loạn, hay gào thét thảm thiết trong đêm. Đó cũng giải
thích lý do tại sao ngôi mộ kia lại không có xác người. Tuy nhiên, thực
hư thế nào vẫn chưa rõ.
9. Thuận Kiều Plaza vì sao hoang phế?
Cách đây 15 năm trước, Thuận Kiều Plaza, với 3 tòa
nhà cao chọc trời ở vị trí đắc địa nhất đã trở thành biểu tượng cho sự
thịnh vượng của Sài Gòn. Cứ ngỡ nơi đây sẽ là một trong những nơi giao
thương, sinh sống sầm uất, tất bật nhất thành phố, nhưng cuối cùng Thuận
Kiều plaza lại rơi vào hoang phế, vắng vẻ lạ thường.
Đến “thám hiểm” Thuận Kiều plaza, chúng tôi hết sức ngạc nhiên khi
Tòa tháp A kín cổng cao tường và dường như không có dấu vết của con
người. Tòa tháp B là một khu phức hợp mua sắm nhưng cũng khá vắng vẻ,
hàng loạt ky ốt bỏ hoang, đèn tắt tối tăm, bụi phủ. Một vài khu nhà
dưới trệt vẫn rực rỡ ánh đèn, nhưng vẻ thâm u, vắng lặng của tòa nhà
chọc trời vẫn khiến người ta e ngại.
Nằm trên đường Hồng Bàng, ngay khu trung tâm mua sắm của quận 5 và
của cả thành phố, vậy tại sao Thuận Kiều plaza lại dần hoang phế? Câu
hỏi này khiến người ta thêu dệt khá nhiều tin đồn về tòa nhà chọc trời
này. Do trong lúc xây dựng, có 3 nhân công mất mạng tại công trình này
nên người ta đồn rằng, linh hồn của 3 người đã ám lấy tòa nhà, không thể
phát triển thịnh vượng.
Có người còn cho rằng, 3 tòa tháp chọc trời rất giống hình… 3 cây
nhang bốc khói giữa đất trời thì làm sao mà làm ăn nổi. Tuy tất cả các
tin đồn ma quỷ về Thuận Kiều plaza chỉ là thêu dệt… cho vui nhưng lý do
vì sao tòa nhà đồ sộ này thất thu trầm trọng vẫn là điều rất khó để giải
thích.
NGỌC LAN * TIỆM ĂN CHAY
Ông Mỹ bán thức ăn chay ở Little Saigon
Friday, February 21, 2014 6:37:51 PM
Ngọc Lan/Người Việt
WESTMINSTER (NV) – Bước chân vào tiệm bán thức ăn chay mang tên Bồ Ðề nằm bên hông Phước Lộc Thọ, gần bãi đậu xe, nhiều thực khách sẽ ngạc nhiên khi thấy có một người Mỹ trắng ngoài 50 tuổi, cao dong dỏng, làm “bồi bàn” ở đây. Nghĩ ông là “bồi bàn” bởi vì người ta có thể gọi ông lại để nhờ cho thêm cái tô, cái muỗng. Người ta có thể gọi ông lại để “order” món ăn. Và người ta thường thấy nhất là hình ảnh ông khi thì đẩy xe đi dọn bàn, lau bàn, khi thì cầm cây lau sàn nhà. Có lúc người ta lại thấy ông đứng cạnh quầy tính tiền nói chuyện với khách. Rất nhiệt tình, rất niềm nở.
Thế nên hầu như ai cũng ngạc nhiên, ngỡ ngàng khi biết ông không phải người “working for food” - đi làm để kiếm bữa ăn qua ngày, mà ông, David Dunlap, chính là chủ nhân của Bồ Ðề từ hơn một năm qua.
Ông David Dunlap, người Mỹ bán thức ăn chay ở Little Saigon. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)
*** Anh Bình Vũ, một trong số những nhân viên của tiệm Bồ Ðề, từng “rất ngạc nhiên” khi nghe tin “có một ông Mỹ mua lại nhà hàng này.”
“Ai cũng ngạc nhiên hết chứ không phải chỉ có mình tôi. Ai cũng hỏi tại sao lại có một ông Mỹ vô đây làm chủ một nhà hàng Châu Á mà lại là nhà hàng chay nữa!” Anh Bình cười nhớ lại.
Chính vì vậy nên thoạt đầu anh Bình cảm thấy “ông này mạo hiểm quá vì ông có am hiểu gì về tập quán người Việt Nam của mình đâu mà lại nhào vô?”
Thế nhưng, sau hơn một năm đổi chủ, anh Bình và những nhân viên ở đây cho rằng “quyết định của David là đúng.”
Theo lời David thì ông “về hưu sớm” được vài năm, sau hơn 30 năm làm việc trong ngành cảnh sát.
“Thấy tôi sang lại nhà hàng chay này nhiều người tưởng tôi là người tu hành. Nhưng không phải. Tôi không phải đạo Phật, tôi cũng không ăn chay. Tôi là một người Mỹ, theo đạo Công Giáo. Nhưng tôi là người cởi mở và biết mở lòng ra với mọi người,” ông nói.
Ông kể đã đến Việt Nam 12 lần, đến Sài Gòn, Hà Nội, Ðà Nẵng, Hội An... nhiều lần. Ông không có những mối quan hệ ruột thịt với người Việt, nhưng ông có nhiều kỷ niệm với họ.
Ông kể rằng 13 năm trước, lần đầu ông đến khu Little Saigon, vào tiệm Lee's Sandwiches mua ly cà phê sữa đá. Người ta đưa cho ông tờ giấy ghi số “11”. Ông cầm giấy và đứng chờ. Nhưng chờ mãi không thấy tới phiên mình, bởi vì “họ đọc số toàn bằng tiếng Việt, 'mừ mót,' mừ mót.'” Ông không hiểu gì hết cho đến khi có người nhìn số giúp ông.
“Tôi biết có người ở đây cả 25 năm nhưng họ không biết tiếng Anh, bởi vì ở đây tất cả đều có thể dùng tiếng Việt, từ đi bác sĩ đến ra ngân hàng, đâu đâu cũng tiếng Việt, rất tiện lợi. Ðó là một nét văn hóa của người Việt nơi đây,” ông nhận xét.
Ông kể, có khi ông cầm tờ giấy liệt kê những món mà đầu bếp yêu cầu ông đi chợ để mua, nào rau, nào tăm, nào đậu... “Khi có món nào không tìm ra được, tôi hỏi nhân viên trong chợ thì ai cũng hỏi tôi rằng 'ông lấy vợ Việt Nam à?'”
Cũng theo ông David, có lẽ không đâu lại có nhiều người Việt từ khắp nơi đến hội ngộ như tại Little Saigon này.
“Trong cùng một nhóm đến nhà hàng ăn, đều là người Việt mà có người đến từ Washington, Minnesota, Texas, Florida, Ohio, từ Ðức, từ Úc, từ Canada... Tôi nhìn thấy được sự đa dạng trong văn hóa Việt Nam,” ông nhận xét.
Bún bò Huế chay, một trong những món được khách hàng thích nhất tại nhà hàng Bồ Ðề. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)
*** Với nhà hàng Bồ Ðề, sau hơn một năm làm chủ, ông David cũng có nhiều chuyện vui ngộ nghĩnh.
Như đã nói, hầu như ai lần đầu đặt chân đến nhà hàng Bồ Ðề, nhìn thấy ông Mỹ trắng, cũng nghĩ ngay ông là người giúp việc tại đây. Và tâm lý của người Việt dường như cũng có điều gì đó hào phóng, rộng rãi đối với người Mỹ (không biết có phải xuất phát từ suy nghĩ đất nước này đã mở rộng vòng tay cưu mang dân tị nạn Việt Nam, nên khi nhìn thấy người Mỹ “làm việc cho người Việt” như thế thì cảm thấy có gì “tội nghiệp”?) Thế nên, ông David kể, một lần, có một nhà sư đến tiệm dùng bữa. Trông thấy ông, nhà sư ngoắc lại theo kiểu Việt Nam “hey, you.” Ông bước tới hỏi: “Ông có cần giúp gì không?” Nhà sư đưa cho ông David $5.
“Có lẽ nhà sư nghĩ tôi vào phụ việc để kiếm bữa ăn trưa nên thương tình cho tôi tiền. Ðến khi nghe những nhân viên trong tiệm nói 'ông là chủ mới ở đây đó!' thì nhà sư lấy lại $5, không cho nữa.” Chủ nhân nhà hàng Bồ Ðề cười sảng khoái khi kể lại câu chuyện này.
Không chỉ có nhà sư tốt bụng đó, mà còn nhiều khách hàng khác, có người trông rất sang trọng, lịch sự, cũng “động lòng trắc ẩn” cố nhét thêm vào tay cho “ông bồi bàn người Mỹ” ít tiền. “Tôi từ chối thì họ cứ ra hiệu cho tôi lấy đi, cuối cùng tôi cám ơn và cho tiền vào trong hộp tiền tip của nhân viên,” ông kể tiếp.
Những câu chuyện tương tự khiến ông David cảm thấy vui và thêm yêu thích những người khách nơi đây.
Ðến chuyện trò với khách, hỏi các sinh viên này xem có bảng điểm A hay không để được ăn miễn phí, là một trong những nét đáng mến của ông chủ Mỹ tại nhà hàng Bồ Ðề bên cạnh Phước Lộc Thọ. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)
Dĩ nhiên, khách đến tiệm Bồ Ðề và còn muốn quay trở lại là vì sự nhiệt tình, vui vẻ của chủ nhân, của nhân viên, và hơn hết còn vì món ăn ở đây ngon. Nhiều người thích món bún bò Huế, bún riêu, chả giò ở đây, nhưng với tôi thì món bún Thái lại là món ngon tuyệt (có điều ai không thể ăn cay thì nên tránh). Bò bía chay ở đây cũng khó mà chê được. Thấy trên trang web nổi tiếng Yelp có rất nhiều lời nhận xét tốt về Bồ Ðề, trong đó có khách hàng tên Kenzie K. viết rằng cô vô cùng cảm kích khi thấy ông Mỹ ra giới thiệu với cô từng món ăn khi cô nói cho ông biết đó là lần đầu cô đến nhà hàng chay này.
“Tôi chưa có ăn hết các món trong menu của nhà hàng, nhưng tôi có thử nhiều, thích nhất là bún bò, bún riêu. Lần đầu tiên tôi nhìn đĩa đậu que xào trong menu tôi hết hồn, vì tôi chưa từng nhìn thấy món ăn như vậy bao giờ. Nghe khách hay gọi món gì tôi cũng muốn ăn thử xem nó như thế nào để khi người khác hỏi tôi biết giải thích.” David trả lời câu hỏi “làm sao để có thể giới thiệu món ăn đến cho thực khách?”
Ðến Bồ Ðề, người ta thường thấy ông Mỹ lên tiếng chào khách mới đến, hay hỏi thăm xem thức ăn có ngon không khi họ đến trả tiền. Những lúc không quá bận rộn, ông lại đến chuyện trò với những khách hàng có thể nói tiếng Anh với ông, dù ông cũng đang học nói tiếng Việt để có thể gọi tên một vài món ăn như “bún riêu, bún bò Huế, phở áp chảo” hay đếm số “một, hai, ba, bốn, năm, sáu...” để “có cơ hội tiếp xúc gần hơn với khách hàng hơn,” như ông nói.
Một điều đặc biệt nữa, như anh Bình Vũ nhìn nhận là “chưa có nhà hàng Việt nào thực hiện”, đó là: những em học sinh, sinh viên nào mang đến bảng điểm toàn điểm A đến thì sẽ được ăn miễn phí!
David nói một cách khôi hài, “Tôi đến hỏi thăm và nói cho khách biết nếu các em học sinh có toàn điểm A thì sẽ được ăn miễn phí. Có em hỏi thế thì có 1 điểm B thì sao, tôi bảo thì uống nước lạnh thôi, còn nếu có điểm C thì ra xe ngồi chơi!'”
Chả giò chay cũng là một trong những món nên thử qua khi đến nhà hàng Bồ Ðề. (Hình: Ngọc Lan/Người Việt)
*** Là khách hàng đến Bồ Ðề vào mỗi Thứ Tư, ông Chồng Sum Nguyễn, nhà ở tận Victorville, thuộc San Bernardino County, chia sẻ: “Khoảng 5 năm trước tôi có đến đây một lần nhưng mà sau đó thì không đến nữa vì không thích. Hơn nữa khi đó chúng tôi vẫn còn ăn mặn chứ chưa ăn chay trường như bây giờ. Khoảng 1 năm trước đây chúng tôi quay trở lại đây thì thấy có sự thay đổi, sạch sẽ hơn, ông chủ và nhân viên đều rất tử tế, tiệm sạch sẽ hơn.”
Tuy nhiên, có một lý do khiến cho vợ chồng ông Sum chọn nơi đây để trở lại hàng tuần là vì, “có lần vợ chồng tôi kêu cái lẩu nhưng mà cay quá nên bà xã tôi ăn không nổi nhưng đó là do lỗi mình không nói trước chứ không phải lỗi do tiệm. Chúng tôi định mang về, nhưng khi đứng lên trả tiền thì cô dọn bàn nhanh tay quá đổ mất.”
“Ông chủ này nghe thấy chạy đến xin lỗi, rồi mang cái bánh chưng chạy ra tặng nữa, trong khi mình đã de xe chạy rồi.” Ông Sum kể.
Bà Thúy Anh Nguyễn, vợ ông Sum, tiếp lời, “Ông chủ tử tế, thức ăn ở đây ngon mà cũng rẻ nữa nên Thứ Tư nào chúng tôi cũng đến, dù tụi tôi ở tận Victorville, lái xe đến đây cả tiếng rưỡi lận.”
Nếu muốn thử một lần làm quen với thức ăn chay, muốn quan sát, chuyện trò với “ông Mỹ trắng” làm việc ngay trung tâm Little Saigon thì nên “né” các ngày Mùng Một và Rằm, vì nếu không, bạn sẽ phải chờ đó!
–-
Liên lạc tác giả: Ngoclan@nguoi-viet.com
TRẦN GIA PHỤNG * MẬU THÂN SÀI GÒN
Cuộc chiến tết Mậu Thân ở Sài Gòn
- Trong số những nơi bị tấn công, hai địa điểm quan trọng nhứt mà cộng sản (CS) nhắm tới là hai thành phố Sài Gòn và Huế.
1. Lý do Cộng sản tấn công Sài Gòn
Sài
Gòn là thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Toàn thể bộ máy chính quyền
trung ương, kể cả Bộ tổng tham mưu quân đội VNCH đều đóng tại đây. Sài
Gòn còn là nơi tập trung tòa đại sứ các nước trên thế giới, trụ sở các
cơ quan truyền thông trong và ngoài nước.
Báo
chí VNCH hầu hết xuất bản ở Sài Gòn. Dân chúng Sài Gòn đông đúc, hoạt
động náo nhiệt suốt ngày nên CS dễ len lỏi, tuyên truyền, gây chấn động.
Cộng sản quyết tấn công Sài Gòn mạnh mẽ để gây tiếng vang lớn trên thế
giới, nhứt là Hoa Kỳ, lúc đó tại đây phong trào phản chiến đang lên cao.
Trong
năm 1968, CSVN tấn công Sài Gòn hai lần: Lần thứ nhất từ 31-1 đến
29-2-1968 (Tết Mậu Thân). Lần thứ hai từ 5-5 đến 18-6-1968. (Không thuộc
phạm vi bài nầy.) Vì tầm quan trọng của mặt trận Sài Gòn, trong cuộc
tổng tấn công vào dịp Tết Mậu Thân, CS giao cho những nhân vật cao cấp
điều khiển trận đánh tại đây. Đó là Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt làm
bí thư và phó bí thư.
Có tài liệu cho biết Võ Văn Kiệt đã ẩn náu trong nhà của Thẩm Thúy Hằng ở Sài Gòn trong thời gian nầy. Thẩm Thúy Hằng là tài tử điện ảnh ở Sài Gòn, cháu ngoại Tôn Đức Thắng và
là vợ của Nguyễn Xuân Oánh, đã từng làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế
tài chánh kiêm tổng trưởng Bộ tài chánh của chính phủ Nguyễn Khánh ngày
8-2-1964. (Chính Đạo, Mậu Thân 68, thắng hay bại?, Houston: Nxb. Văn
Hóa, 1998, tr. 253, phần phụ chú.) (Ngoài tài liệu của Chính Đạo, người viết dò hỏi những người lớn tuổi nguyên quán Long Xuyên (hiện ở Toronto), đều được xác nhận Thẩm Thúy Hằng là cháu ngoại của Tôn Đức Thắng, lãnh tụ CS Bắc Việt Nam.)
Dưới
quyền Nguyễn Văn Linh, hai bộ chỉ huy tiền phương phụ trách hai mũi tấn
công: Mũi phía đông và phía bắc do Trần Văn Trà (thiếu tướng) chỉ huy,
Mai Chí Thọ và Lê Đức Anh phụ tá, dự tính đánh vùng phát tuyến Quán Tre
(thuộc Hóc Môn, vùng quân trường Quang Trung), phi trường Tân Sơn Nhứt,
Bộ Tổng tham mưu Quân đội VNCH và các căn cứ quân sự vùng Gò Vấp.
Mũi
phía tây nam và nam do Võ Văn Kiệt chỉ huy, Trần Bạch Đằng phụ tá, có
nhiệm vụ chiếm các cơ quan chính phủ VNCH, Tòa đại sứ Mỹ, tổ chức “chính
quyền cách mạng”, lo việc quân quản.
2. Cộng sản tấn công
Mở
đầu cuộc tấn công Sài Gòn, khuya mồng 1 sáng mồng 2 Tết (khuya 30 sáng
31-1-1968), CS tung các toán đặc công (còn gọi là biệt động thành), đánh
phủ đầu cùng một lúc các vị trí quan trọng sau đây nhằm gây rối loạn
chính quyền VNCH:
Dinh
Độc Lập: Dinh Độc Lập (ĐL) là phủ tổng thống VNCH. Tổng thống Thiệu
nghỉ Tết ở quê vợ tại Mỹ Tho. Khoảng 2 giờ sáng mồng 2 Tết (31-1-1968),
đặc công CS chiếm một cao ốc ở góc đường Nguyễn Du và Thủ Khoa Huân, bên
hông phải dinh ĐL nếu so với mặt trước dinh Độc Lập nhìn ra. Từ cao ốc
nầy, đặc công dùng súng B-40 đánh sập cửa bên hông dinh ĐL, trên đường
Nguyễn Du, tràn vào vườn, nhưng bị lực lượng phòng vệ bên trong đánh
trả, khiến bốn đặc công chết tại chỗ, hai bị bắt và số còn lại rút về cố
thủ trong cao ốc. Hai ngày sau Cảnh sát đến giải tỏa. Kết quả đặc công
chết 7, bị bắt 8, trốn thoát 3.
Tòa
đại sứ Hoa Kỳ (cửa chính nhìn ra đường Thống Nhất): Khoảng 2G.30 sáng
mồng 2 Tết (31-1-1968), đặc công CS dùng một chiếc xe, đổ quân tại một
điểm trên đường Mạc Đĩnh Chi, bên hông trái tòa đại sứ nếu từ cửa chính
nhìn ra đường Thống Nhất. Dùng súng B-40, CS phá một lỗ hổng trên tường,
một đặc công xâm nhập vào trong, mở cổng hông tòa đại sứ cho đồng đội
tràn vào sân vườn. Quân Mỹ
cứu
viện đến kịp thời. Đặc công lần lượt bị bắn hạ. Tòa đại sứ được giải
tỏa sau 6 giờ giao tranh. Kết quả 19 đặc công chết, phía Mỹ 5 tử thương.
Đài
phát thanh Sài Gòn: Khoảng gần 3G. sáng mồng 2 tết (31-1-1968), đặc
công CS ngụy trang một xe Quân cảnh Mỹ, dẫn theo sau một xe dân sự, đậu
trước Đài phát thanh, bất ngờ tấn công toán gác cổng, đột nhập vào bên
trong. Cộng sản nhắm mục đích cho phát thanh lời CS kêu gọi dân chúng
“tổng khởi nghĩa”, chống chính phủ VNCH.
Tuy nhiên, thiếu tá Vũ Đức Vinh, giám đốc Đài phát thanh,
đã kịp thời tháo được bộ phận chính trong đài phát thanh Sài Gòn. (Theo
lời kể của cựu trung tướng Nguyễn Bảo Trị cho người viết vào tháng
3-2012 tại California.) Đồng thời cánh quân CS đánh Quán Tre (Hóc Môn)
không chiếm được đài phát tuyến tại đây, nên lời hiệu triệu của CS không
đưa lên phát thanh được.
Tiểu
đoàn 1 Nhảy dù được gởi đến để giải tỏa Đài phát thanh. Quân CS không
thực hiện được dự mưu, khoảng 7 G. sáng, CS đặt chất nổ phá hủy Đài phát
thanh rồi bỏ trốn, nhưng chỉ có hai đặc công trốn thoát.
Ngoài
ba vị trí quan trọng trên đây, các toán đặc công CS còn đánh bộ Tư lệnh
Hải quân đặt ở Trại Bạch Đằng, trên bờ sông Sài Gòn, cổng số 5 bộ Tổng
tham mưu trên đường Võ Tánh (Gia Định), cổng Phi Long phi trường Tân Sơn
Nhứt. Những cuộc tấn công nầy nhanh chóng bị tiêu diệt ngay trong ngày
31-1-1968.
Tiếp
theo cuộc xung kích của các toán đặc công, là cuộc tấn công của hai
cánh quân chủ lực cùng một lúc. Sáng mồng 2 Tết (31-1-1968), bộ chỉ huy
tiền phương CS, mũi phía đông và phía bắc do Trần Văn Trà (thiếu tướng) chỉ huy,
đánh vào bộ Tổng tham mưu, Trung tâm huấn luyện Quang Trung, bộ Chỉ huy
Thiết giáp (trại Phù Đổng), bộ Chỉ huy Pháo binh (trại Cổ Loa), Trường
Bộ binh Thủ Đức, phi trường Tân Sơn Nhứt và khu vực Hàng Xanh. Tại các
căn cứ quân sự, tuy có nơi CS tràn vào bên trong khuôn viên, nhưng đều
bị đẩy lui nhanh chóng trong ngày mồng 2.
Tại trại Phù Đổng, CS bắt giết một số quân nhân, trong đó có hai trung tá Huỳnh Ngọc Diệp và Nguyễn Tuấn. Gia đình trung tá Tuấn gồm 10 người, thì 9 người bị giết, một em bé 10 tuổi bị thương và sống sót.
Tại
phi trường Tân Sơn Nhứt, CS vào được phía bắc phi đạo, nhưng bị chận
đánh, phải rút lui vào buổi tối. Riêng vùng Hàng Xanh, con đường chính
dẫn ra quốc lộ 1 về hướng bắc, là khu dân cư đông đúc, việc giải tỏa khó
khăn vì sợ dân chúng bị thiệt hại, mãi đến chiều hôm sau mới chấm dứt.
Mũi tây nam và nam CS do Võ Văn Kiệt chỉ huy,
tấn công Biệt khu thủ đô trên đường Lê Văn Duyệt. Cộng sản đưa quân đột
nhập thành phố, chiếm một số khu vực từ đường Trần Quốc Toản lên trường
đua Phú Thọ. Quân lực VNCH đánh đuổi và giải tỏa vùng nầy khá vất vả vì
CS lẫn lộn trong dân chúng, ẩn núp những nơi đông dân cư.
Một
cánh quân khác của CS từ Long An đánh một số cứ điểm thuộc Quận 7, quận
8 và quận Nhà Bè, chiếm khu Tân Thuận. Một đơn vị CS vào khu Lò Gốm,
hãng rượu Bình Tây. Cuối cùng, CS thất bại phải rút lui khỏi các vùng
trên.
3. Cuộc phản công của quân đội VNCH
Ngoài
những đơn vị có nhiệm vụ canh gác, bảo vệ cơ quan và căn cứ như Cảnh
sát Quốc gia, Cảnh sát Dã chiến, Quân cảnh... thì các lực lượng Nhảy dù
(ND), Biệt động quân (BĐQ) Thủy quân lục chiến (TQLC), Không quân VNCH
và Thiết giáp là những đơn vị có mặt sớm nhứt, chống trả mạnh mẽ các
cuộc tấn công vào Sài Gòn của CS.
Khi
trận đánh xảy ra, hai tiều đoàn ND đang có mặt ở Sài Gòn là tiểu đoàn 1
và tiểu đoàn 8. Hai tiểu đoàn nầy được điều động ngay khi đặc công CS
mới khởi động. Lúc đó, liên đoàn 5 BĐQ gồm 4 tiểu đoàn 30, 33, 34 và 38
trấn đóng vòng quanh từ Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh, Hóc Môn được đưa về
bảo vệ thủ đô khi trời chưa sáng.
Sáng
mồng hai (31-1-1968), khoảng 6G:30, tiểu đoàn 4 TQLC được không vận từ
Vũng Tàu và tiểu đoàn 1 và 2 TQLC được không vận từ Cai Lậy (Định Tường)
về Sài Gòn.
Khi
CS mở cuộc tấn công Sài Gòn, tổng thống Thiệu đang nghỉ Tết tại Mỹ Tho.
Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ liền ra lệnh phải nhanh chóng tái chiếm
Đài phát thanh Sài Gòn. Sau khi lực lượng ND giải tỏa Đài phát thanh,
ông Kỳ loan báo tin CS xâm nhập thủ đô và yêu cầu dân chúng không được
ra đường phố. Lúc đó, dân chúng mới biết tin CS tấn công chứ không phải
đảo chánh xảy ra như trước đây.
Trong
khi đó, tổng thống Thiệu về được bộ Tổng tham mưu ở Sài Gòn sáng mồng 2
Tết (31-1-1968). Ngày mồng 3 Tết (1-2), tổng thống họp Hội đồng nội
các, ra lệnh giới nghiêm trong thủ đô từ 7G. tối đến 6G. sáng, trường
học tạm đóng cửa, công chức được tạm nghỉ, trừ nhân viên y tế, an ninh,
thông tin. Hôm sau (2-2), tổng thống họp Hội đồng An ninh Quốc gia và
các lãnh tụ Quốc hội nhằm tìm biện pháp đối phó với tình thế. Tổng thống
lên truyền hình và truyền thanh trình bày tình hình và trấn an dân
chúng.
Ngày
3-2-1968, sắc lệnh số SL-044/TT của tổng thống thiết lập Ủy ban Cứu trợ
Nhân dân tại trung ương và các địa phương do phó tổng thống Nguyễn Cao
Kỳ cầm đầu. Ông Kỳ điều động 2,500 cán bộ Xây dựng Nông thôn từ Vũng Tàu
về Sài Gòn, đặc trách các trại tỵ nạn. Số tỵ nạn chiến tranh riêng tại
Sài Gòn lên đến 86,000 người vào ngày 7-2-1968 và lên gần 200,000 người
vào cuối tháng nầy.
Trong
khi đó, ngày 5-2-1968, chiến dịch Trần Hưng Đạo được tổ chức do đại
tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng, làm tư lệnh nhằm giải tỏa Sài
Gòn-Chợ Lớn. Ngoài quân đội và cảnh sát VNCH, lực lượng Hoa Kỳ cũng tham
gia chiến dịch nầy.
Chiến
dịch Trần Hưng Đạo chấm dứt ngày 17-2-1968. Công việc truy quét CS được
giao lại cho trung tướng Lê Nguyên Khang, tư lệnh Quân đoàn III. Từ đây
là chiến dịch Trần Hưng Đạo II, tiếp tục hành quân tảo thanh CS. Mặt
trận Sài Gòn xem như tạm yên từ ngày 29-2-1968, nhưng công việc bình
định vẫn tiếp tục cho đến ngày 8-3-1968 thì chiến dịch Trần Hưng Đạo II
chấm dứt.
4. Kết quả
Kết quả thiệt hại trong các trận đánh tại thủ đô Sài Gòn vào tháng 2 và tháng 3-1968 được ghi nhận như sau: Phía VNCH: 323 tử thương, 907 bị thương. Phía CSVN: 5,289 tử thương, 415 bị bắt. (Viết bài nầy, người viết dựa vào các tài liệu chính sau đây:
1) Phạm Văn Sơn cùng nhiều tác giả, Cuộc tổng công kích-Tổng khởi nghĩa của Việt Cộng Mậu Thân 1968.
2) Chính Đạo, Mậu Thân 1968, thắng hay bại.
3) Don Oberdorfer, Tết!
TS. PHAN VĂN SONG * CÁCH MẠNG
Luận về hai chữ Cách Mạng :
Một Bài Học Cách Mạng Tân Thời -- Cách Mạng Của Minh Trị Thiên Hoàng Nhựt Bổn, 1867 - 1912. Hoàn cảnh VN
TS Phan Văn Song
Cách Mạng : hai chữ ấy được cả các nhà văn học Hán lẫn Việt dịch từ chữ tây phương Révolution -xin đề nghị chỉ dùng từ ngữ Pháp nầy, vì từ ngữ Anh Mỹ cũng thế, Revolution.
Từ ngữ Révolution có lẽ (một thuyết) do tiếng la-tinh bình dân revolutio, là một vòng chuyển động, một chu kỳ. Cũng có thể (một thuyết khác), do cổ ngữ la-tinh revolvere, một vòng chuyển động nhưng quay về vị trí cũ (súng lục rouleau, gọi là revolver, vì có bạc đạn 6 viên quay tròn). Năm 1660, từ ngữ revolution được thấy, dùng lần đầu tiên, khi nền quân chủ Anh Quốc với Vua Charles II được tái lập ; sau khi Olivier Cromwell mất và nhóm Quốc Hội cầm quyền suốt 20 năm 1641-1661 mất quyền. Revolution ấy được gọi, trong cái nghĩa của ngày nay, vì đã đem đến một sự thay đổi lớn, nhanh và sâu đậm về mặt cả chánh trị lẫn xã hội cho Anh quốc.
Cách mạng cũng do một cuộc lật đổ một chánh quyền bằng bạo lực. Đại Cách Mạnh Pháp 1789, Cách Mạng Mỹ 1776, Cách Mạng Nga 1917, hay cả các cuộc Cách Mạng vừa qua ở Trung Đông hiện đang gây bao đau thương, bao máu lửa. Đây là định nghĩa của tự điển Larousse Pháp : « Đây là một thay đổi bất ngờ và dữ dội của một thể chế chánh trị và xã hội do một nhóm người nổi dậy chống nhà đương quyền, cướp chánh quyền và thành công giữ được- Un changement brusque et violent dans la structure politique et sociale d'un État, qui se produit quand un groupe se révolte contre les autorités en place, prend le pouvoir et réussit à le garder ».
Dưới dạng được chúng ta biết đến ngày nay, Cách Mạng thật sự ra đời vào cuối thế kỷ thứ XVIII, đương thời, ở Âu Tây đang rộ nở những tư tưởng đặt Trọng Tâm vào Con Người : Nhơn Ái, Nhơn Bản. Những tư tưởng Quản Trị, những cơ chế Chánh Trị đặt trọng tâm vào Con Người. Nào là Adam Smith, Anh Quốc với chủ thuyết Tự Do. Nào Jean Jacques Rousseau, Pháp Quốc với bài luận Khế Ước Xã Hội-Le Contrat Social đặt ra nền tảng của Nền Dân Chủ tân thời. Cộng với hai biến cố đặc biệt được xem là hai cuộc Cách Mạng lớn của lịch sử cận đại của loài người : Cuộc Cách Mạng Huê Kỳ, 1776 tạo ra Hiệp Chủng Quốc Huê Kỳ, và cuộc Đại Cách Mạng Pháp 1789, tạo ra nước Cộng Hoà Pháp.
Vào thế kỷ thứ XIX, văn hào Pháp Tocqueville là người trí thức đầu tiên can đảm có cái nhìn chỉ trích về những phong trào cách mạng mà ông thẳng thừng xem là những nhóm thiểu số có khuynh hướng cướp lấy chánh quyền. Cùng thời điểm ấy, trước những bất công và bạo lực do giai cấp tư bản và tư bản chủ nghĩa tạo thành, Karl Marx, qua một tác phẩm đưa những nhận định về một giải pháp, đặt tên là Cách Mạng để giải quyết sự bất công xã hội do Tư bản tạo ra ở những quốc gia tiên tiến đã được kỹ nghệ hóa.
Đầu thế kỷ thứ XX, nhơn danh Marx, các chủ thuyết Mác-Xít Lê-Nin-nít của Liên Sô và Mao-Ít của Tàu nổi dậy cướp chánh quyền các chế độ cũ tạo những biến cố được gọi là Cách Mạng nhưng thật sự chỉ để cướp chánh quyền và dẹp bỏ Tư Bản Chủ Nghĩa ! Sau đó, cố đặt, dựng lên các mẫu quản trị, chánh trị, kinh tế, xã hội khác !
Nhưng, thực sự, hoàn toàn là những sai lầm lớn ! Vì từ khác đến không giống ai, từ giết, bỏ tù, đầy ải, cải tạo người của « chế độ cũ », « dẹp con người cũ để dựng lên con người mới », con đường tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa, con đường Tiến lên Thiên Đàng Cộng Sản , "Con đường Bác Đi » như tuyên truyền Cộng Sản Việt Nam cuối cùng ra chỉ là « Con đường Bi Đát ». Điển hình rõ ràng, thí dụ đầy mầu sắc là Một Việt Nam Tháùng Mỹ, Thắng Pháp Thắng Nhựt, bài Phong Đả Thực, Đỉnh Cao Trí Tuệ Loài Người ngày nay hoàn toàn « Trong Tay Tàu Cộng sau 40 Năm Hòa Bình » ! Việt Nam đang bước đến hố diệt vong!
Lý do dễ hiểu, là suốt gần nửa thế kỷ, một mặt, xúi dục (xúi trẻ ăn c… gà) Cộng Sản Việt Nam mở cửa biên giới cho cả chục vạn Cảm Tử quân Tàu Cộng thất nghiệp sau khi hai phe Triều Tiên Quốc Cộng ngưng chiến, sau năm 50, đổ cả vạn tấn binh khí, chiến cụ, quân trang, quân dụng vào giúp Đảng Cộng Sản Việt Nam, nướng công dân mình đánh giặc dùm cộng sản Nga Tàu (sic- Lê Duẩn đã nói). Một mặt khác, phong trào Cộng Sản Quốc tế mở những cuộc tiến công vừa kinh tế, vừa tuyên truyền chánh trị, vừa chạy đua vũ khí toàn diện khắp thế giới để vừa cạnh tranh, vừa phá rối trị an, các quốc gia có những thể chế chánh trị Dân Chủ, với những nền kinh tế Tư Bản Tự Do. Thế nhưng, nếu, những năm 1975, cuộc đọ sức Quốc-Cộng có vẽ nghiêng về phe Cộng Sản : phe Tự Do mất toàn thể Đông Dương. Người Việt Nam Tự Do, Người Lào Tự Do, người Miên Tự Do phải bỏ xứ chạy đi tỵ nạn Cộng sản, tha phương cầu thực, bỏ nhà bỏ của, bỏ mồ mả cha ông, ruộng vuờn nơi chôn nhao cắt rún để đi tìm một cuộc sống Tự Do, Đàng Hoàng, Tử Tế. 1975, toàn xứ Ba Tư mất vào tay bạo quyền tôn giáo quá khích Xã hội Chủ nghĩa của các ayatollah, dân Ba Tư Tự Do cũng phải tỵ nạn ly hương khắp thế giới. Nhưng chỉ hơn 10 năm sau, tháng 11 năm 1989, Bức Tường Ô nhục Bá linh sụp đổ, lôi theo một loạt bức tường ô nhục khác của các quốc gia khối Cộng Sản. Khối Cộng Sản sụp đổ tan tành, chỉ trừ bốn tên ngu dốt, Tàu, Bắc Triều Tiên, Cu Ba, và than ôi Việt Nam !
Ngày nay, Xã hội Chủ nghĩa, là một chủ thuyết lỗi thời, lạc hậu. Ngày nay là chủ thuyết của những tư tưởng Cá nhơn, Con người là trọng tâm của mọi quyết định từ chánh trị đến kinh tế, của mọi tổ chức xã hội. Nền kinh tế, do con người quyết định, thị hiếu, là quyền quyết định của số đông con người, cái cầu tạo ra cái cung, Cung, cầu là thị trường là thị hiếu. Không có Chương Trình, Dự Án Năm Năm… kiểu cộng sản nữa, không có Dự Án, Phân Phối, Anh Hùng Lao Động …
Cộng Sản Việt Nam tiếp tục Lạm Dụng Từ Ngữ Cách Mạng. Cách Mạng Cái Gì? Khi vẫn tiếp tục dùng những từ ngữ của đầu thế kỷ thứ XX để nói chuyện của thế kỷ thứ XXI ? Khi ở giữa lòng Thành Phố Thủ Đô sừng sửng một cáo Mồ không lồ, khi những quyết định đời sống do những khẩu hiệu do lời nói của những người đã chết ! Khi những hình ảnh, những tấm gương là những anh hùng giả tạo, do trí tưởng tượng của BanTuyên truyền đặt ra, Lê văn Tám chẳng hạn hay Stakhanovitch, anh hùng lao động
Hôm nay, xin kể với quý vị một Cuộc Cách Mạng, chỉ cách đây tròm trèm trên 100 năm. Thời kỳ Minh Trị. Ai cũng tưởng là xưa lắm. Dạ không, thưa chỉ cách đây 150 năm thôi. Thời ấy chúng ta cũng đang bị Tây chiếm, Nhựt cũng bị tây phương xâm chiếm. Nhưng Vua Nhựt khôn hơn, mở cửa, tiếp người Âu Tây và học. Học và bắt chước nhưng không hầu ha. Còn ta, các Vua Chúa Nhà Nguyễn ? Thời ấy, nước Việt ta giàu hơn Nhựt Bổn. Đất Việt ta rộng lớn bao la. Triều Nguyễn cai quản hơn nửa nước Lào, hơn nửa nước Miên. Thế mà chúng ta mất nước ! Chúng ta thuê Tàu đánh giặc dùm, quân Cờ Đen, Lưu Vĩnh Phúc là một thí dụ… Vua quan nhà Nguyễn xúi các kháng chiến quân đánh Tây. Tây viện cớ, chiếm đất !
Bài học Nhựt Bổn ? Vua Minh Trị dẹp các samourais để Huê Kỳ không có lý do quân quản Nhựt. Không phải là hợp tác mà là mở cửa học hỏi thương mại. Học và tự làm. Mời Kỹ sư, Chuyên Viên đến dạy, nhưng trả lương họ, và từ chối đầu tư (tiền nước ngoài).
Việt Nam ngày nay, trái lại, bán cả, chì chài, hộât thóc, nhà cửa, con cháu dâu rễ, cái gì người mua ta bán tất ! Bán cả linh hồn, bán cả cha mẹ, tổ quốc.
Tỉnh dây đi ! Thức đây đi !
Cách Mạng Nhựt Bổn, Một Cuộc Cách Mạng Tân Thời
Không Cướp Chánh Quyền, Do Chính Nhà Vua Tổ Chức:
Suốt từ khoảng đầu thế kỷ thứ 17, từ năm 1638 đến giữa thế kỷ thứ 19, Nhựt Bổn là một quốc gia hoàn toàn khép kín, thủ cựu, bế quan tỏa cảng,với một xã hội đóng kín, sống trong khuôn khổ chế độ phong kiến, tạo sức mạnh trên một tinh thần đạo đức võ sĩ, tạo sức sống trên một nền kinh tế nông nghiệp, với những điền chủ, với những nông nô, với một trật tự xã hội dựa vào nền nếp giáo lý lạc hậu, truyền thống, Khổng Giáo Tàu. Trái hẳn với thời gian mở cửa của thế kỷ 16, đầu thế kỷ thứ 17cho đến năm 1638, năm ra đời của những biện pháp, của thái độ ngờ vực, sợ sệt những ảnh hưởng Tây Phương, trục xuất người Tây Phương, cấm người Nhựt xuất ngoại, cấm cả Nhựt kiều hồi hương (nguyên do tạo nên cộng đồng Nhựt, khu phố Nhựt ở Hội An -Việt Nam). Nhựt lúc ấy chỉ chấp nhận một vài nhà buôn và thương thuyền Người Hòa Lan ở cảng Nagasaki thôi. Thiên Chúa Giáo xem như là một đe dọa, bị cấm chỉ hẳn.
Nhưng năm 1867, Hoàng tử trẻ Mutsu Hito lên ngôi lấy tên là Meiji Tenno Minh Trị Thiên Hoàng, và năm sau 1868 tuyên bố mở cửa một kỷ nguyên mới, Meiji-Minh Trị, một nền « chánh trị sáng suốt-trong sáng ».Thời đại Minh Trị-Meiji Hidai kéo dài được 45 năm đến năm 1912, năm Minh Trị Thiên Hoàng băng hà. Chế độ Minh Trị có thể được xem là một điển hình cho một sự phát triển kinh tế xã hội thành công hoàn toàn dưới sự chỉ đạo của một Nhà Nước, của cuối thế kỷ thứ 19, của lịch sử thế giới.
Bối Cảnh Nhựt Bổn Trước Những Năm 1850 :
Quân chủ, một vị Vua độc tài Thiên Hoàng - mikado. Thiên Tử, con thần mặt trời, Thái Dương Thần Nữ - Amaterasu, Người Sáng Lập triều đình Nhựt. Nhựt Hoàng là một vị thánh sống, hoàn toàn biệt lập trong cung điện ở kinh đô Kyoto, hoàn toàn không có thực quyền. Các quyền hành quản trị đất nước đều trong tay một vị quan to, một đại thần nhưng cũng một tướng lãnh - shogun. Shogun là do Vua chỉ định, giống như Thừa Tướng Tàu vậy. Thật sự, từ thế kỷ thứ 17, từ năm 1616, Shogun cha truyền con nối thuộc gia đình Tokugawa. Tokugawa và các quan đại thần cùng phe phái đều ngụ tại Edo (Tokyo ngày nay), thật sự là kinh đô hành chánh.
Cũng như ở Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ 14, đầu 15, từ những năm trước 1600 trở đi, con cháu hậu duệ họ Trịnh của Chúa Trịnh Tùng, như một Shogun, đã tiếm quyền các Vua Nhà Lê Trung Hưng vậy. Xin phép quý thân hữu, tạm dịch chức Shogun là Chúa vậy !
Tổ chức xã hội Nhựt xưa rất phong kiến. Quyền lực thượng từng thuộc vào các nhóm đại gia đình quý tộc, phong kiến, điền chủ, quan đại thần - daimyo - sống nhờ thuế điền do đóng góp của các nông dân, tá điền, góp công ruộng đất sở hữu gia đình. Chúa - shogun dựa trên sự phục tòng đóng góp của các chư hầu daimyos, bảo vệ bởi các võ sĩ - samourais, chuyên nghiệp binh đao, được nuôi dưỡng, giáo dục, huấn luyện đường binh, võ nghiệp, gò bó trong một luật lệ khắc khe hiệp sĩ đạo - bushido.
Hạ tầng của xã hội là các thương gia. Thương gia là thứ dân hạng chót, vì ngành thương mại hoàn toàn bị kiểm soát - nội thương Triều đình hạn chế, chỉ có phân phối, xin cho (kiểu tem phiếu Cộng Sản). Ngoại thươngTriều đình cấm hẳn, chỉ Triều đình mới có quyền mua bán với ngoại quốc thôi !
Thử so sánh với Việt Nam:
Giữa năm 1975, có một quái thai sanh vào thế kỷ 20 - 3 thế kỷ sau thời kỳ nói trên của Nhựt - Một quốc gia cũng Đông phương, cũng có một Triều đại tên là Cộng Sản, tự cho là tiến bộ, là đỉnh cao trí tuệ loài người, tự cho đã «Bài xong Phong kiến », lại áp dụng một tổ chức xã hội phong kiến y chang Nhựt Bổn của thế kỷ 17 :Cũng Kinh đô tên xưa là Đông Kinh, cũng các Shoguns - Đảng ủy - cha truyền con nối, tụ tập thành một Shogunat - Chánh trị Bộ, với các võ sĩ công an - samourais bộ đội với một luật Bushido - luật Đảng Cộng Sản chỉ đạo. Xã hội tổ chức cũng y chang Shogunat Nhựt. Trên từng cao nhứt, các Đảng viên Cộng sản, thương gia từng hạng chót. Chế độ thương mãi cũng : trong nước thì phân phối, kiểm soát lương thực, nhu yếu phẩm. Ngoại thương hoàn toàn trong tay đảng viên lớn - daimyo hay nhỏ - samourais Cộng sản. Công nghiệp trong tay Công ty Nhà nước, như các công xưởng các quan Nhựt thời xưa).
Và từng cuối cùng - có thể xem như « ngoài xã hội », vì người bần dân - của Nhựt bổn trước 1850, và Việt Nam sau tháng tư 1975, đều gồm « bần dân », hoặc dân ngụy trong Nam hoặc dân oan ngoài Bắc ! Ở thời Nhựt xưa là nông nô.
Ở Việt Nam ngày nay, nông là Vô Sản, nhưng NO (là không) nông Nô là nông dân không đất, là công nhơn không nhà, không gạo, không cơm, chạy gạo từng bữa, chạy cơm từng ngày ! Khác chi các nô lệ của thời La mã cổ xưa !
1853, Loạt Súng Thần Công Thức Tỉnh Nhựt Bổn:
Một Mất Mặt Nhỏ, Một Thành Công Lớn Của Nhựt :
Sau khi đã chiếm được Californie rồi (1848), Hiệp Chủng Quốc Huê kỳ muốn giao dịch thương mại với bên kia bờ Thái Bình Dương. Mồng 8, tháng bảy năm 1853, bốn chiến thuyền bằng sắt sơn đen - kurofune - của Thủy sư Đô đốc (Commodore) Mathew Perry bỏ neo trước hải cảng Edo, với một lá thư của Tổng Thống Huê kỳ Millard Fillmore, xin phép được giao thương với tất cả các hải cảng Nhựt Bổn. Shogun Tokugawa, không cho phép (nói là lệnh của Tenno - Thiên Hoàng), buộc những thuyền Mỹ phải vào cảng Nagasaki, là hải cảng duy nhứt cho phép các tàu ngoại quốc nhập cảng Nhựt. Perry ra lệnh bốn chiến thuyền Mỹ (Mississippi, Plymouth, Saratoga và Susquehanna) dàn hàng ngang và bắn một loạt pháo vào thành Edo. Kết quả, Chúa Tokugawa tá hỏa, nhượng bộ, các tàu của Perry nhập cảng Edo và Perry dâng bức thư lên Thiên Hoàng Nhựt. Và ra về ! Hẹn năm sau, trở lại nhận trả lời !
Tháng 2, năm sau, 1854, tuy chưa tròn năm, Commodore Perry vẫn trở lại, chẳng những với bốn chiến thuyền sắt của Mỹ mà còn dắt theo bốn chiếc khác của bốn quốc gia bạn Pháp, Anh, Nga và Hòa Lan. Shogun Tokugawa, bất ngờ, không dám áp dụng lệnh bế môn tỏa cảng của Thiên Hoàng, đành phải nhượng bộ Huê Kỳ.
Ngày 31 tháng 3, 1854, Nhựt bắt buộc phải ký Hiệp Ước Kanagawa cho phép các tàu thuyền ngoại quốc giao thương với Nhựt. Một sự nhục nhã lớn cho dân tộc Nhựt !
Nhưng, khác với dân tộc Hán, khác với dân tộc Việt (Tàu và Việt cũng bị xâm chiếm trong khoảng thời gian ấy) - chỉ biết, hoặc anh hùng liều lĩnh hy sanh, cương quyết kháng chiến, tuy thành danh nhưng lại mất thân mất mạng, hao binh tổn tướng, hoặc xuôi tay thỏa hiệp, hòa giải hòa hợp, hợp tác với thực dân, chịu trận với xâm lược, ngậm miệng ăn tiền.
Nhưng chẳng biết, như Nhựt Bổn, nghiến răng chịu nhục, cải tổ xã hội, canh tân thể chế, cải tiến cơ chế, thay đổi não trạng, kỹ nghệ hóa nền kinh tế. Như Nhựt Bổn sửa đổi toàn bộ hệ thống, cách mạng toàn bộ guồng máy. Và chẳng bao lâu, chỉ vài thập niên, đầu thế kỷ thứ 20, Nhựt, từ một quốc gia nông nghiệp, phong kiến lạc hậu đã biến thành một cường quốc chẵng những kinh tế kỹ nghệ ngang ngữa âu tây mà cả một cường quốc quân sự, đánh bại được hạm đội Nga ngày 28/29 tháng 5 năm 1905 ở Tsushima. (Ngày nay Tập Cận Bình cũng có giấc mơ tạo một kỷ nguyên Minh Trị !).
Chế độ Shogun sụp đổ :
Thất bại của Chúa - Shogun Yoshinobu Tokugawa, không thi hành được lệnh bế quan tỏa cảng của Tenno - Thiên Hoàng, để ngoại quốc tung hoành thương mại trên đất Nhựt là nỗi nhục của toàn dân Nhựt Bổn tạo một bất mãn lớn cho toàn dân. Các đại thần - daimyo Nhựt đã có tranh chấp hay đã không thuận thảo với Tokugawa, thừa ngọn gió bất mãn, hiệp lực lại để đem quyền lực trở về Thiên Hoàng.
Tuy nhiên suốt 10 năm đầu, từ 1854 đến 1864, các quan đại thần, các đại gia đình hợp lực cùng các hiệp sĩ võ sĩ, chống hiệp thương Tokugawa -Tây phương. Về mặt vận động võ lực, tổ chức kháng chiến, tiếp tục đánh phá các cơ quan thương mại, tàu bè ngoại quốc ở các thương phố, hải cảng, nhơn danh toàn dân Nhựt, tất cả « Ủng hộ Thiên Hoàng, đuổi bọn Ngoại Xâm ». Năm 1864, các thuyền chiến tây phương, nổi giận, nả pháo vào các thành trì các hải cảng Nhựt Bổn, dẹp yên kháng chiến. Riêng về vận động lý thuyết, dùng các sử gia Nhựt, đặt lại vấn đề nguyên do quyền lực, ra kết luận Thiên Hoàng là Thiên Tử, quyền lực do Thiên Mệnh, kết kuận Shogun là kẻ tiếm quyền. Các daimyos phải bất tuân lệnh Chúa, phải nghe lệnh Thiên Hoàng.
Đầu năm 1867, Thiên Hoàng Komei -Komei Tenno mất. Thái tử Mutsu Hito, 14 tuổi lên ngôi ngày 30 tháng giêng, lấy hiệu là Minh Trị - Meiji. Ngài là Meiji Tenno - Minh Trị Thiên Hoàng, với quyết tâm là khai sáng Đế quốc Nhựt. Ngài tước quyền Chúa Shogun ngày 9 tháng 11 năm 1867, và cai trị với các đại thần - daimyos, thuận với chương trình cách mạng do Ngài lựa chọn. Chưa đầy một thế hệ, Ngài đưa nước Nhựt tụt hậu phong kiến nhập vào hàng ngũ các cường quốc âu tây.
Năm 1871, Minh Trị Thiên Hoàng bãi bỏ hệ thống quan quyền do các Chúa thuở xưa tổ chức. Các hiệp sĩ - samourais, lúc xưa cha truyền con nối, phục vụ các đại gia đình chiếu luật võ sĩ đạo - bushido, từ nay cũng theo bushido, nhưng chỉ phục vụ mỗi Nhựt Hoàng thôi. Phục vụ Nhựt Hoàng, là phục vụ bất kể công tác nào, thương mãi, công nghiệp hay nông nghiệp.
Cũng cùng năm ấy, 1871, Ngài gởi một phái đoàn, phái đoàn Iwakura, vừa quân sự lẫn dân sự đi học hỏi thu lượm (từ tháng 12/1871 đến tháng 9/1872) tất cả những khoa học kỹ thuật tiến bộ ở phương Tây.
Năm 1872, hệ thống xe lửa Nhựt đầu tiên hoạt động. Ngài buộc phải học, không mặc cảm, ở phương Tây, tất cả những gì tiến bộ. Học quân sự của Đức, hải quân ở Anh, luật lệ với Pháp, chánh trị và quản trị kinh tế ở Huê kỳ. Năm 1873, chế độ quân dịch ra đời, một quân đội tân thời kiểu Đức. Dẹp bỏ bộ quân phục samourai và trường kiếm katana, quân đội Nhựt từ nay trang phục giống quân đội Pháp với súng trường kiểu Tây phương.
Cách Mạng Chánh Trị, Cách Mạng Kinh Tế, Cách Mạng Xã hội :
Nông nghiệp phong kiến vứt bỏ, người cày từ nay có ruộng. Có ruộng, có đất, nông dân đóng thuế, biến thành công dân. Năm 1871, luật tất cả người dân đều bình đẳng ra đời. Tất cả những cải cách tương đối đều được chấp thuận, chỉ có năm 1877, có một cuộc nổi dậy của đám samourais, nhưng bị dẹp ngay. Các samourais, sống ngang tàng, nhưng « có chủ », nay bơ vơ « vô chủ », nên nổi loạn. Samourais bị tước kiếm nhưng được bồi thường hậu hỉ. Một số dùng làm vốn làm ăn, thương mãi, công nghiệp, nông nghiệp. Một số « có chủ quen », đi vào làm công chức hay quân đội. Các nông dân cũng vậy, quen « có chủ », tự lực tự túc tự chủ khó khăn, một số bán vườn ruộng vừa nhận được, lên tỉnh làm thợ cho các hãng xường tân thời vừa được thành lập.
Năm 1889, Hiến Pháp Nhựt đầu tiên ra đời. Theo mẫu của Hiến Pháp Đế Quốc Đức, Hiến Pháp Nhựt tổ chức một Quốc Hội Lập Pháp Lưỡng Viện (Thượng Viện gồm đại diện giai cấp các đại gia đình, quý tộc, và Hạ Viện các dân biểu do dân đóng thuế cao bầu - suffrage censitaire). Hành Pháp giao cho một Chánh phủ, nhưng Thiên Hoàng giữ toàn quyền. Đây là lần đầu tiên, một Hiến Pháp kiểu âu châu được áp dụng tại Á Đông. Một đời sống chánh trị mới với những sanh hoạt chánh trị mới khá ồn ào. Với Hiến pháp chế, các Đảng phái ra đời, ồn ào, tranh cải, dân chủ. Mà có Dân chủ là có biểu tình, xuống đường, bãi công…
(Hèn chi, bao năm nay, Thủ Tướng Việt Nam Cộng Sản Nguyễn Tấn Dũng xạo ke hứa cuội nói sẽ cho ra luật biểu tình. Nhưng sự thật là rất sợ biểu tình, vì có biểu tình là Dân chủ sẽ đến ! Và khi Dân chủ đến là tiêu đời Đảng Cộng Sản ngay !).
Với Kỹ Nghệ Hóa : Cường Quốc Nhựt ra đời
Muốn một Nước Nhựt độc lập, tực túc, tự cường, giàu mạnh, phải có kỹ nghệ !
Nhựt mở một loạt nhà máy. Thoạt đầu mời gọi kỹ sư, chuyên viên ngoại quốc, nhưng từ chối mọi đầu tư, với tiền bạc xứ người. Sau năm 1880, trừ quân sự, Nhà Nước giao hẳn cho tư nhơn đầu tư. Các zaibatsus - tổ hợp công ty tư nhơn của các đại gia đình, thâu tóm nhiều ngành nghề kể cả ngành ngân hàng, như Mitsubishi, Mitsui hay Sumitomo ra đời. Các tổ hợp ấy lớn mạnh nhờ sử dụng nhơn công rẻ tiền, gồm nhơn công nữ và nông dân bỏ làng lên tỉnh kiếm sống. Tình trạng lao động rất cực nhọc (nhưng vẫn nhẹ nhàng hơn nghề nông !) Năm 1912, Nhựt có khoảng 1 triệu công nhơn.
Tân thời đến với dân Nhựt bằng âu phục, bằng tập tục tiêu dùng. Ở các thành phố có những khu xây nhà kiểu tây phương, với những tiệm ăn âu tây, với những vũ trường, khiêu vũ tây phương valses, tango…Cưỡng bức giáo dục và giáo dục toàn bộ miễn phí đã có ngay dưới thời Minh Trị, nhiều sinh viên đã được gởi đi du học.
Năm 1873, Nhựt Bổn chuyển qua hệ thống Dương Lịch. 45 năm trị vì, 1912, Minh Trị Thiên Hoàng mất. Nhựt Bổn là một cường quốc hải quân với hai hạm đội thương mãi và quân sự thượng hạng, do những xưởng đóng tàu tự túc. Từ 1870, hệ thống xe lửa ra đời đến năm 1912 đã có 9000 cây số đường sắt. Một mạng lưới giây thép (truyền tin) bắt đầu cũng năm 1870, nay đã đan dầy đặt nước Nhựt. Nhựt năm 1912, là một nhà sản xuất số 1 Á châu về vãi, và tơ lụa, không hỗ tiếng là « Anh Quốc ở Phương Đông » !
Nhưng không vì Tây phương hóa, mà bỏ quên gốc gác phương Đông của mình. Quốc Gia Nhựt, Dân Tộc Nhựt vẫn giữ mãi Tự Hào Dân tộc, Tự Trọng Dân Tộc, Tình Quốc Gia Nghĩa Đồng Bào, Trung Thành với Thiên Hoàng, Hiếu Thảo với Quốc Dân !
Quốc Gia Nhựt Bổn là Một Đại Gia Đình Một Lòng Một Dạ Yêu Nước ! NhờTình Dân Tộc, nhờ Sức Mạnh Dân Tộc Sanh Tồn mà Dân Tộc Nhựt đã Canh Tân, Xây Dựng Nước.
Chỉ với 45 năm, 1867 - 1912, một Vị Vua sáng suốt, với các quần thần thực sự yêu nước, với những công dân thực sự biết hy sinh, đã biến nước Nhựt từ tăm tối Đông phương phong kiến đi ra ánh sánh Minh Trí Âu Tây.
Và Việt Nam ?
Loạt bài viết về nước Nhựt không phải để kể chuyện xưa - Ôn Cố Tri Tân - mà để tự hỏi tại sao, người Nhựt làm được mà chúng ta người Việt không làm được ? Nhựt Hoàng, các daimyos Nhựt, kể cả Shogun Tokugawa tất cả những nhơn vật lịch sử Nhựt lúc ấy hiểu loạt súng thần công bắn vào đất Nhựt là kỹ thuật, là khoa học ! Không phải ma quỷ gì cả ! Chỉ có kỹ thuật, chỉ có khoa học. Người Tây phương đang có. Ta phải học ! Và ta làm được, nhưng phải hy sinh, phải kỷ luật ! Phải quên quyền lực, quyền thế, quyền lợi ! Chỉ nghĩ đến nước, đến dân, đến tương lai, hậu duệ ! Yêu nước là như vậy !
Người Việt ta ngày nay, nên bỏ đi, vứt đi, những than phiền trách móc, nào nhà Nguyễn, nào quan lại, nào thực dân phong kiến. Hãy bỏ đi, vứt đi những tự cao, tự đại, ru ngủ, bốn ngàn năm văn hiến, đỉnh cao trí tuệ loài người, ba lần đánh thắng ba cường quốc Nhựt-Pháp-Mỹ !
Hãy nhìn thực trạng ngày nay. Việt Nam, Độc lập Hòa Bình đã trên 40 năm rồi, sao nềân kinh tế vẫn còn tụt hậu mãi ? Sao vẫn chế độ độc tài kiểu phong kiến shogun Nhựt xưa cổ với các daimyos - quan chức-đảng viên, và các samourais - công an quân đội dùi cui phục vụ Đảng - Triều Đình ? Sao giữa Hà Nôi Thủ Đô lại chình ình một cái nghĩa địa và một cái mả khổng lồ ? Sao thế kỷ 21 mà vẫn những lời phán, lời lệnh của thế kỷ qua ? Của những người đã chết ?
Sao Biển Đông ta, mà người nước ngoài chiếm xây sân bay, xây pháo đài ? Sao Biển Đông ta mà ngư phủ ta không đánh cá được mà «tàu lạ, người lạ» tung hoành lướt sóng, giàn khoan người kéo tới kéo lui ?
Các nhà lãnh đạo hãy trở về với dân Việt Nam, phục vụ cho dân tộc Việt Nam ! Hãy thật sự lãnh đạo, hãy thật sự dám làm Cách mạng, cải tổ hệ thống, canh tân xứ sở, kỹ nghệ hóa đất nước ! Dám tư nhơn hóa toàn bộ guồng máy sản xuất để người dân thật sự lo cho người dân sống trên đất Việt ! Dân Việt Nam hãy dẹp anh Shogun-Cộng Sản đi ! Và anh Shogun Cộng Sản hãy trả đất nước Việt Nam lại cho người Việt Nam ! Cho Dân Tộc Việt Nam !
Hồi Nhơn Sơn, Mùa Chay 2016.
Phan Văn Song
(Fwd: Nguyen babac ninh <bacninh75@gmail.com>, 3/12/2016,c
Một Bài Học Cách Mạng Tân Thời -- Cách Mạng Của Minh Trị Thiên Hoàng Nhựt Bổn, 1867 - 1912. Hoàn cảnh VN
TS Phan Văn Song
Cách Mạng : hai chữ ấy được cả các nhà văn học Hán lẫn Việt dịch từ chữ tây phương Révolution -xin đề nghị chỉ dùng từ ngữ Pháp nầy, vì từ ngữ Anh Mỹ cũng thế, Revolution.
Từ ngữ Révolution có lẽ (một thuyết) do tiếng la-tinh bình dân revolutio, là một vòng chuyển động, một chu kỳ. Cũng có thể (một thuyết khác), do cổ ngữ la-tinh revolvere, một vòng chuyển động nhưng quay về vị trí cũ (súng lục rouleau, gọi là revolver, vì có bạc đạn 6 viên quay tròn). Năm 1660, từ ngữ revolution được thấy, dùng lần đầu tiên, khi nền quân chủ Anh Quốc với Vua Charles II được tái lập ; sau khi Olivier Cromwell mất và nhóm Quốc Hội cầm quyền suốt 20 năm 1641-1661 mất quyền. Revolution ấy được gọi, trong cái nghĩa của ngày nay, vì đã đem đến một sự thay đổi lớn, nhanh và sâu đậm về mặt cả chánh trị lẫn xã hội cho Anh quốc.
Cách mạng cũng do một cuộc lật đổ một chánh quyền bằng bạo lực. Đại Cách Mạnh Pháp 1789, Cách Mạng Mỹ 1776, Cách Mạng Nga 1917, hay cả các cuộc Cách Mạng vừa qua ở Trung Đông hiện đang gây bao đau thương, bao máu lửa. Đây là định nghĩa của tự điển Larousse Pháp : « Đây là một thay đổi bất ngờ và dữ dội của một thể chế chánh trị và xã hội do một nhóm người nổi dậy chống nhà đương quyền, cướp chánh quyền và thành công giữ được- Un changement brusque et violent dans la structure politique et sociale d'un État, qui se produit quand un groupe se révolte contre les autorités en place, prend le pouvoir et réussit à le garder ».
Dưới dạng được chúng ta biết đến ngày nay, Cách Mạng thật sự ra đời vào cuối thế kỷ thứ XVIII, đương thời, ở Âu Tây đang rộ nở những tư tưởng đặt Trọng Tâm vào Con Người : Nhơn Ái, Nhơn Bản. Những tư tưởng Quản Trị, những cơ chế Chánh Trị đặt trọng tâm vào Con Người. Nào là Adam Smith, Anh Quốc với chủ thuyết Tự Do. Nào Jean Jacques Rousseau, Pháp Quốc với bài luận Khế Ước Xã Hội-Le Contrat Social đặt ra nền tảng của Nền Dân Chủ tân thời. Cộng với hai biến cố đặc biệt được xem là hai cuộc Cách Mạng lớn của lịch sử cận đại của loài người : Cuộc Cách Mạng Huê Kỳ, 1776 tạo ra Hiệp Chủng Quốc Huê Kỳ, và cuộc Đại Cách Mạng Pháp 1789, tạo ra nước Cộng Hoà Pháp.
Vào thế kỷ thứ XIX, văn hào Pháp Tocqueville là người trí thức đầu tiên can đảm có cái nhìn chỉ trích về những phong trào cách mạng mà ông thẳng thừng xem là những nhóm thiểu số có khuynh hướng cướp lấy chánh quyền. Cùng thời điểm ấy, trước những bất công và bạo lực do giai cấp tư bản và tư bản chủ nghĩa tạo thành, Karl Marx, qua một tác phẩm đưa những nhận định về một giải pháp, đặt tên là Cách Mạng để giải quyết sự bất công xã hội do Tư bản tạo ra ở những quốc gia tiên tiến đã được kỹ nghệ hóa.
Đầu thế kỷ thứ XX, nhơn danh Marx, các chủ thuyết Mác-Xít Lê-Nin-nít của Liên Sô và Mao-Ít của Tàu nổi dậy cướp chánh quyền các chế độ cũ tạo những biến cố được gọi là Cách Mạng nhưng thật sự chỉ để cướp chánh quyền và dẹp bỏ Tư Bản Chủ Nghĩa ! Sau đó, cố đặt, dựng lên các mẫu quản trị, chánh trị, kinh tế, xã hội khác !
Nhưng, thực sự, hoàn toàn là những sai lầm lớn ! Vì từ khác đến không giống ai, từ giết, bỏ tù, đầy ải, cải tạo người của « chế độ cũ », « dẹp con người cũ để dựng lên con người mới », con đường tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa, con đường Tiến lên Thiên Đàng Cộng Sản , "Con đường Bác Đi » như tuyên truyền Cộng Sản Việt Nam cuối cùng ra chỉ là « Con đường Bi Đát ». Điển hình rõ ràng, thí dụ đầy mầu sắc là Một Việt Nam Tháùng Mỹ, Thắng Pháp Thắng Nhựt, bài Phong Đả Thực, Đỉnh Cao Trí Tuệ Loài Người ngày nay hoàn toàn « Trong Tay Tàu Cộng sau 40 Năm Hòa Bình » ! Việt Nam đang bước đến hố diệt vong!
Lý do dễ hiểu, là suốt gần nửa thế kỷ, một mặt, xúi dục (xúi trẻ ăn c… gà) Cộng Sản Việt Nam mở cửa biên giới cho cả chục vạn Cảm Tử quân Tàu Cộng thất nghiệp sau khi hai phe Triều Tiên Quốc Cộng ngưng chiến, sau năm 50, đổ cả vạn tấn binh khí, chiến cụ, quân trang, quân dụng vào giúp Đảng Cộng Sản Việt Nam, nướng công dân mình đánh giặc dùm cộng sản Nga Tàu (sic- Lê Duẩn đã nói). Một mặt khác, phong trào Cộng Sản Quốc tế mở những cuộc tiến công vừa kinh tế, vừa tuyên truyền chánh trị, vừa chạy đua vũ khí toàn diện khắp thế giới để vừa cạnh tranh, vừa phá rối trị an, các quốc gia có những thể chế chánh trị Dân Chủ, với những nền kinh tế Tư Bản Tự Do. Thế nhưng, nếu, những năm 1975, cuộc đọ sức Quốc-Cộng có vẽ nghiêng về phe Cộng Sản : phe Tự Do mất toàn thể Đông Dương. Người Việt Nam Tự Do, Người Lào Tự Do, người Miên Tự Do phải bỏ xứ chạy đi tỵ nạn Cộng sản, tha phương cầu thực, bỏ nhà bỏ của, bỏ mồ mả cha ông, ruộng vuờn nơi chôn nhao cắt rún để đi tìm một cuộc sống Tự Do, Đàng Hoàng, Tử Tế. 1975, toàn xứ Ba Tư mất vào tay bạo quyền tôn giáo quá khích Xã hội Chủ nghĩa của các ayatollah, dân Ba Tư Tự Do cũng phải tỵ nạn ly hương khắp thế giới. Nhưng chỉ hơn 10 năm sau, tháng 11 năm 1989, Bức Tường Ô nhục Bá linh sụp đổ, lôi theo một loạt bức tường ô nhục khác của các quốc gia khối Cộng Sản. Khối Cộng Sản sụp đổ tan tành, chỉ trừ bốn tên ngu dốt, Tàu, Bắc Triều Tiên, Cu Ba, và than ôi Việt Nam !
Ngày nay, Xã hội Chủ nghĩa, là một chủ thuyết lỗi thời, lạc hậu. Ngày nay là chủ thuyết của những tư tưởng Cá nhơn, Con người là trọng tâm của mọi quyết định từ chánh trị đến kinh tế, của mọi tổ chức xã hội. Nền kinh tế, do con người quyết định, thị hiếu, là quyền quyết định của số đông con người, cái cầu tạo ra cái cung, Cung, cầu là thị trường là thị hiếu. Không có Chương Trình, Dự Án Năm Năm… kiểu cộng sản nữa, không có Dự Án, Phân Phối, Anh Hùng Lao Động …
Cộng Sản Việt Nam tiếp tục Lạm Dụng Từ Ngữ Cách Mạng. Cách Mạng Cái Gì? Khi vẫn tiếp tục dùng những từ ngữ của đầu thế kỷ thứ XX để nói chuyện của thế kỷ thứ XXI ? Khi ở giữa lòng Thành Phố Thủ Đô sừng sửng một cáo Mồ không lồ, khi những quyết định đời sống do những khẩu hiệu do lời nói của những người đã chết ! Khi những hình ảnh, những tấm gương là những anh hùng giả tạo, do trí tưởng tượng của BanTuyên truyền đặt ra, Lê văn Tám chẳng hạn hay Stakhanovitch, anh hùng lao động
Hôm nay, xin kể với quý vị một Cuộc Cách Mạng, chỉ cách đây tròm trèm trên 100 năm. Thời kỳ Minh Trị. Ai cũng tưởng là xưa lắm. Dạ không, thưa chỉ cách đây 150 năm thôi. Thời ấy chúng ta cũng đang bị Tây chiếm, Nhựt cũng bị tây phương xâm chiếm. Nhưng Vua Nhựt khôn hơn, mở cửa, tiếp người Âu Tây và học. Học và bắt chước nhưng không hầu ha. Còn ta, các Vua Chúa Nhà Nguyễn ? Thời ấy, nước Việt ta giàu hơn Nhựt Bổn. Đất Việt ta rộng lớn bao la. Triều Nguyễn cai quản hơn nửa nước Lào, hơn nửa nước Miên. Thế mà chúng ta mất nước ! Chúng ta thuê Tàu đánh giặc dùm, quân Cờ Đen, Lưu Vĩnh Phúc là một thí dụ… Vua quan nhà Nguyễn xúi các kháng chiến quân đánh Tây. Tây viện cớ, chiếm đất !
Bài học Nhựt Bổn ? Vua Minh Trị dẹp các samourais để Huê Kỳ không có lý do quân quản Nhựt. Không phải là hợp tác mà là mở cửa học hỏi thương mại. Học và tự làm. Mời Kỹ sư, Chuyên Viên đến dạy, nhưng trả lương họ, và từ chối đầu tư (tiền nước ngoài).
Việt Nam ngày nay, trái lại, bán cả, chì chài, hộât thóc, nhà cửa, con cháu dâu rễ, cái gì người mua ta bán tất ! Bán cả linh hồn, bán cả cha mẹ, tổ quốc.
Tỉnh dây đi ! Thức đây đi !
Cách Mạng Nhựt Bổn, Một Cuộc Cách Mạng Tân Thời
Không Cướp Chánh Quyền, Do Chính Nhà Vua Tổ Chức:
Suốt từ khoảng đầu thế kỷ thứ 17, từ năm 1638 đến giữa thế kỷ thứ 19, Nhựt Bổn là một quốc gia hoàn toàn khép kín, thủ cựu, bế quan tỏa cảng,với một xã hội đóng kín, sống trong khuôn khổ chế độ phong kiến, tạo sức mạnh trên một tinh thần đạo đức võ sĩ, tạo sức sống trên một nền kinh tế nông nghiệp, với những điền chủ, với những nông nô, với một trật tự xã hội dựa vào nền nếp giáo lý lạc hậu, truyền thống, Khổng Giáo Tàu. Trái hẳn với thời gian mở cửa của thế kỷ 16, đầu thế kỷ thứ 17cho đến năm 1638, năm ra đời của những biện pháp, của thái độ ngờ vực, sợ sệt những ảnh hưởng Tây Phương, trục xuất người Tây Phương, cấm người Nhựt xuất ngoại, cấm cả Nhựt kiều hồi hương (nguyên do tạo nên cộng đồng Nhựt, khu phố Nhựt ở Hội An -Việt Nam). Nhựt lúc ấy chỉ chấp nhận một vài nhà buôn và thương thuyền Người Hòa Lan ở cảng Nagasaki thôi. Thiên Chúa Giáo xem như là một đe dọa, bị cấm chỉ hẳn.
Nhưng năm 1867, Hoàng tử trẻ Mutsu Hito lên ngôi lấy tên là Meiji Tenno Minh Trị Thiên Hoàng, và năm sau 1868 tuyên bố mở cửa một kỷ nguyên mới, Meiji-Minh Trị, một nền « chánh trị sáng suốt-trong sáng ».Thời đại Minh Trị-Meiji Hidai kéo dài được 45 năm đến năm 1912, năm Minh Trị Thiên Hoàng băng hà. Chế độ Minh Trị có thể được xem là một điển hình cho một sự phát triển kinh tế xã hội thành công hoàn toàn dưới sự chỉ đạo của một Nhà Nước, của cuối thế kỷ thứ 19, của lịch sử thế giới.
Bối Cảnh Nhựt Bổn Trước Những Năm 1850 :
Quân chủ, một vị Vua độc tài Thiên Hoàng - mikado. Thiên Tử, con thần mặt trời, Thái Dương Thần Nữ - Amaterasu, Người Sáng Lập triều đình Nhựt. Nhựt Hoàng là một vị thánh sống, hoàn toàn biệt lập trong cung điện ở kinh đô Kyoto, hoàn toàn không có thực quyền. Các quyền hành quản trị đất nước đều trong tay một vị quan to, một đại thần nhưng cũng một tướng lãnh - shogun. Shogun là do Vua chỉ định, giống như Thừa Tướng Tàu vậy. Thật sự, từ thế kỷ thứ 17, từ năm 1616, Shogun cha truyền con nối thuộc gia đình Tokugawa. Tokugawa và các quan đại thần cùng phe phái đều ngụ tại Edo (Tokyo ngày nay), thật sự là kinh đô hành chánh.
Cũng như ở Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ 14, đầu 15, từ những năm trước 1600 trở đi, con cháu hậu duệ họ Trịnh của Chúa Trịnh Tùng, như một Shogun, đã tiếm quyền các Vua Nhà Lê Trung Hưng vậy. Xin phép quý thân hữu, tạm dịch chức Shogun là Chúa vậy !
Tổ chức xã hội Nhựt xưa rất phong kiến. Quyền lực thượng từng thuộc vào các nhóm đại gia đình quý tộc, phong kiến, điền chủ, quan đại thần - daimyo - sống nhờ thuế điền do đóng góp của các nông dân, tá điền, góp công ruộng đất sở hữu gia đình. Chúa - shogun dựa trên sự phục tòng đóng góp của các chư hầu daimyos, bảo vệ bởi các võ sĩ - samourais, chuyên nghiệp binh đao, được nuôi dưỡng, giáo dục, huấn luyện đường binh, võ nghiệp, gò bó trong một luật lệ khắc khe hiệp sĩ đạo - bushido.
Hạ tầng của xã hội là các thương gia. Thương gia là thứ dân hạng chót, vì ngành thương mại hoàn toàn bị kiểm soát - nội thương Triều đình hạn chế, chỉ có phân phối, xin cho (kiểu tem phiếu Cộng Sản). Ngoại thươngTriều đình cấm hẳn, chỉ Triều đình mới có quyền mua bán với ngoại quốc thôi !
Thử so sánh với Việt Nam:
Giữa năm 1975, có một quái thai sanh vào thế kỷ 20 - 3 thế kỷ sau thời kỳ nói trên của Nhựt - Một quốc gia cũng Đông phương, cũng có một Triều đại tên là Cộng Sản, tự cho là tiến bộ, là đỉnh cao trí tuệ loài người, tự cho đã «Bài xong Phong kiến », lại áp dụng một tổ chức xã hội phong kiến y chang Nhựt Bổn của thế kỷ 17 :Cũng Kinh đô tên xưa là Đông Kinh, cũng các Shoguns - Đảng ủy - cha truyền con nối, tụ tập thành một Shogunat - Chánh trị Bộ, với các võ sĩ công an - samourais bộ đội với một luật Bushido - luật Đảng Cộng Sản chỉ đạo. Xã hội tổ chức cũng y chang Shogunat Nhựt. Trên từng cao nhứt, các Đảng viên Cộng sản, thương gia từng hạng chót. Chế độ thương mãi cũng : trong nước thì phân phối, kiểm soát lương thực, nhu yếu phẩm. Ngoại thương hoàn toàn trong tay đảng viên lớn - daimyo hay nhỏ - samourais Cộng sản. Công nghiệp trong tay Công ty Nhà nước, như các công xưởng các quan Nhựt thời xưa).
Và từng cuối cùng - có thể xem như « ngoài xã hội », vì người bần dân - của Nhựt bổn trước 1850, và Việt Nam sau tháng tư 1975, đều gồm « bần dân », hoặc dân ngụy trong Nam hoặc dân oan ngoài Bắc ! Ở thời Nhựt xưa là nông nô.
Ở Việt Nam ngày nay, nông là Vô Sản, nhưng NO (là không) nông Nô là nông dân không đất, là công nhơn không nhà, không gạo, không cơm, chạy gạo từng bữa, chạy cơm từng ngày ! Khác chi các nô lệ của thời La mã cổ xưa !
1853, Loạt Súng Thần Công Thức Tỉnh Nhựt Bổn:
Một Mất Mặt Nhỏ, Một Thành Công Lớn Của Nhựt :
Sau khi đã chiếm được Californie rồi (1848), Hiệp Chủng Quốc Huê kỳ muốn giao dịch thương mại với bên kia bờ Thái Bình Dương. Mồng 8, tháng bảy năm 1853, bốn chiến thuyền bằng sắt sơn đen - kurofune - của Thủy sư Đô đốc (Commodore) Mathew Perry bỏ neo trước hải cảng Edo, với một lá thư của Tổng Thống Huê kỳ Millard Fillmore, xin phép được giao thương với tất cả các hải cảng Nhựt Bổn. Shogun Tokugawa, không cho phép (nói là lệnh của Tenno - Thiên Hoàng), buộc những thuyền Mỹ phải vào cảng Nagasaki, là hải cảng duy nhứt cho phép các tàu ngoại quốc nhập cảng Nhựt. Perry ra lệnh bốn chiến thuyền Mỹ (Mississippi, Plymouth, Saratoga và Susquehanna) dàn hàng ngang và bắn một loạt pháo vào thành Edo. Kết quả, Chúa Tokugawa tá hỏa, nhượng bộ, các tàu của Perry nhập cảng Edo và Perry dâng bức thư lên Thiên Hoàng Nhựt. Và ra về ! Hẹn năm sau, trở lại nhận trả lời !
Tháng 2, năm sau, 1854, tuy chưa tròn năm, Commodore Perry vẫn trở lại, chẳng những với bốn chiến thuyền sắt của Mỹ mà còn dắt theo bốn chiếc khác của bốn quốc gia bạn Pháp, Anh, Nga và Hòa Lan. Shogun Tokugawa, bất ngờ, không dám áp dụng lệnh bế môn tỏa cảng của Thiên Hoàng, đành phải nhượng bộ Huê Kỳ.
Ngày 31 tháng 3, 1854, Nhựt bắt buộc phải ký Hiệp Ước Kanagawa cho phép các tàu thuyền ngoại quốc giao thương với Nhựt. Một sự nhục nhã lớn cho dân tộc Nhựt !
Nhưng, khác với dân tộc Hán, khác với dân tộc Việt (Tàu và Việt cũng bị xâm chiếm trong khoảng thời gian ấy) - chỉ biết, hoặc anh hùng liều lĩnh hy sanh, cương quyết kháng chiến, tuy thành danh nhưng lại mất thân mất mạng, hao binh tổn tướng, hoặc xuôi tay thỏa hiệp, hòa giải hòa hợp, hợp tác với thực dân, chịu trận với xâm lược, ngậm miệng ăn tiền.
Nhưng chẳng biết, như Nhựt Bổn, nghiến răng chịu nhục, cải tổ xã hội, canh tân thể chế, cải tiến cơ chế, thay đổi não trạng, kỹ nghệ hóa nền kinh tế. Như Nhựt Bổn sửa đổi toàn bộ hệ thống, cách mạng toàn bộ guồng máy. Và chẳng bao lâu, chỉ vài thập niên, đầu thế kỷ thứ 20, Nhựt, từ một quốc gia nông nghiệp, phong kiến lạc hậu đã biến thành một cường quốc chẵng những kinh tế kỹ nghệ ngang ngữa âu tây mà cả một cường quốc quân sự, đánh bại được hạm đội Nga ngày 28/29 tháng 5 năm 1905 ở Tsushima. (Ngày nay Tập Cận Bình cũng có giấc mơ tạo một kỷ nguyên Minh Trị !).
Chế độ Shogun sụp đổ :
Thất bại của Chúa - Shogun Yoshinobu Tokugawa, không thi hành được lệnh bế quan tỏa cảng của Tenno - Thiên Hoàng, để ngoại quốc tung hoành thương mại trên đất Nhựt là nỗi nhục của toàn dân Nhựt Bổn tạo một bất mãn lớn cho toàn dân. Các đại thần - daimyo Nhựt đã có tranh chấp hay đã không thuận thảo với Tokugawa, thừa ngọn gió bất mãn, hiệp lực lại để đem quyền lực trở về Thiên Hoàng.
Tuy nhiên suốt 10 năm đầu, từ 1854 đến 1864, các quan đại thần, các đại gia đình hợp lực cùng các hiệp sĩ võ sĩ, chống hiệp thương Tokugawa -Tây phương. Về mặt vận động võ lực, tổ chức kháng chiến, tiếp tục đánh phá các cơ quan thương mại, tàu bè ngoại quốc ở các thương phố, hải cảng, nhơn danh toàn dân Nhựt, tất cả « Ủng hộ Thiên Hoàng, đuổi bọn Ngoại Xâm ». Năm 1864, các thuyền chiến tây phương, nổi giận, nả pháo vào các thành trì các hải cảng Nhựt Bổn, dẹp yên kháng chiến. Riêng về vận động lý thuyết, dùng các sử gia Nhựt, đặt lại vấn đề nguyên do quyền lực, ra kết luận Thiên Hoàng là Thiên Tử, quyền lực do Thiên Mệnh, kết kuận Shogun là kẻ tiếm quyền. Các daimyos phải bất tuân lệnh Chúa, phải nghe lệnh Thiên Hoàng.
Đầu năm 1867, Thiên Hoàng Komei -Komei Tenno mất. Thái tử Mutsu Hito, 14 tuổi lên ngôi ngày 30 tháng giêng, lấy hiệu là Minh Trị - Meiji. Ngài là Meiji Tenno - Minh Trị Thiên Hoàng, với quyết tâm là khai sáng Đế quốc Nhựt. Ngài tước quyền Chúa Shogun ngày 9 tháng 11 năm 1867, và cai trị với các đại thần - daimyos, thuận với chương trình cách mạng do Ngài lựa chọn. Chưa đầy một thế hệ, Ngài đưa nước Nhựt tụt hậu phong kiến nhập vào hàng ngũ các cường quốc âu tây.
Năm 1871, Minh Trị Thiên Hoàng bãi bỏ hệ thống quan quyền do các Chúa thuở xưa tổ chức. Các hiệp sĩ - samourais, lúc xưa cha truyền con nối, phục vụ các đại gia đình chiếu luật võ sĩ đạo - bushido, từ nay cũng theo bushido, nhưng chỉ phục vụ mỗi Nhựt Hoàng thôi. Phục vụ Nhựt Hoàng, là phục vụ bất kể công tác nào, thương mãi, công nghiệp hay nông nghiệp.
Cũng cùng năm ấy, 1871, Ngài gởi một phái đoàn, phái đoàn Iwakura, vừa quân sự lẫn dân sự đi học hỏi thu lượm (từ tháng 12/1871 đến tháng 9/1872) tất cả những khoa học kỹ thuật tiến bộ ở phương Tây.
Năm 1872, hệ thống xe lửa Nhựt đầu tiên hoạt động. Ngài buộc phải học, không mặc cảm, ở phương Tây, tất cả những gì tiến bộ. Học quân sự của Đức, hải quân ở Anh, luật lệ với Pháp, chánh trị và quản trị kinh tế ở Huê kỳ. Năm 1873, chế độ quân dịch ra đời, một quân đội tân thời kiểu Đức. Dẹp bỏ bộ quân phục samourai và trường kiếm katana, quân đội Nhựt từ nay trang phục giống quân đội Pháp với súng trường kiểu Tây phương.
Cách Mạng Chánh Trị, Cách Mạng Kinh Tế, Cách Mạng Xã hội :
Nông nghiệp phong kiến vứt bỏ, người cày từ nay có ruộng. Có ruộng, có đất, nông dân đóng thuế, biến thành công dân. Năm 1871, luật tất cả người dân đều bình đẳng ra đời. Tất cả những cải cách tương đối đều được chấp thuận, chỉ có năm 1877, có một cuộc nổi dậy của đám samourais, nhưng bị dẹp ngay. Các samourais, sống ngang tàng, nhưng « có chủ », nay bơ vơ « vô chủ », nên nổi loạn. Samourais bị tước kiếm nhưng được bồi thường hậu hỉ. Một số dùng làm vốn làm ăn, thương mãi, công nghiệp, nông nghiệp. Một số « có chủ quen », đi vào làm công chức hay quân đội. Các nông dân cũng vậy, quen « có chủ », tự lực tự túc tự chủ khó khăn, một số bán vườn ruộng vừa nhận được, lên tỉnh làm thợ cho các hãng xường tân thời vừa được thành lập.
Năm 1889, Hiến Pháp Nhựt đầu tiên ra đời. Theo mẫu của Hiến Pháp Đế Quốc Đức, Hiến Pháp Nhựt tổ chức một Quốc Hội Lập Pháp Lưỡng Viện (Thượng Viện gồm đại diện giai cấp các đại gia đình, quý tộc, và Hạ Viện các dân biểu do dân đóng thuế cao bầu - suffrage censitaire). Hành Pháp giao cho một Chánh phủ, nhưng Thiên Hoàng giữ toàn quyền. Đây là lần đầu tiên, một Hiến Pháp kiểu âu châu được áp dụng tại Á Đông. Một đời sống chánh trị mới với những sanh hoạt chánh trị mới khá ồn ào. Với Hiến pháp chế, các Đảng phái ra đời, ồn ào, tranh cải, dân chủ. Mà có Dân chủ là có biểu tình, xuống đường, bãi công…
(Hèn chi, bao năm nay, Thủ Tướng Việt Nam Cộng Sản Nguyễn Tấn Dũng xạo ke hứa cuội nói sẽ cho ra luật biểu tình. Nhưng sự thật là rất sợ biểu tình, vì có biểu tình là Dân chủ sẽ đến ! Và khi Dân chủ đến là tiêu đời Đảng Cộng Sản ngay !).
Với Kỹ Nghệ Hóa : Cường Quốc Nhựt ra đời
Muốn một Nước Nhựt độc lập, tực túc, tự cường, giàu mạnh, phải có kỹ nghệ !
Nhựt mở một loạt nhà máy. Thoạt đầu mời gọi kỹ sư, chuyên viên ngoại quốc, nhưng từ chối mọi đầu tư, với tiền bạc xứ người. Sau năm 1880, trừ quân sự, Nhà Nước giao hẳn cho tư nhơn đầu tư. Các zaibatsus - tổ hợp công ty tư nhơn của các đại gia đình, thâu tóm nhiều ngành nghề kể cả ngành ngân hàng, như Mitsubishi, Mitsui hay Sumitomo ra đời. Các tổ hợp ấy lớn mạnh nhờ sử dụng nhơn công rẻ tiền, gồm nhơn công nữ và nông dân bỏ làng lên tỉnh kiếm sống. Tình trạng lao động rất cực nhọc (nhưng vẫn nhẹ nhàng hơn nghề nông !) Năm 1912, Nhựt có khoảng 1 triệu công nhơn.
Tân thời đến với dân Nhựt bằng âu phục, bằng tập tục tiêu dùng. Ở các thành phố có những khu xây nhà kiểu tây phương, với những tiệm ăn âu tây, với những vũ trường, khiêu vũ tây phương valses, tango…Cưỡng bức giáo dục và giáo dục toàn bộ miễn phí đã có ngay dưới thời Minh Trị, nhiều sinh viên đã được gởi đi du học.
Năm 1873, Nhựt Bổn chuyển qua hệ thống Dương Lịch. 45 năm trị vì, 1912, Minh Trị Thiên Hoàng mất. Nhựt Bổn là một cường quốc hải quân với hai hạm đội thương mãi và quân sự thượng hạng, do những xưởng đóng tàu tự túc. Từ 1870, hệ thống xe lửa ra đời đến năm 1912 đã có 9000 cây số đường sắt. Một mạng lưới giây thép (truyền tin) bắt đầu cũng năm 1870, nay đã đan dầy đặt nước Nhựt. Nhựt năm 1912, là một nhà sản xuất số 1 Á châu về vãi, và tơ lụa, không hỗ tiếng là « Anh Quốc ở Phương Đông » !
Nhưng không vì Tây phương hóa, mà bỏ quên gốc gác phương Đông của mình. Quốc Gia Nhựt, Dân Tộc Nhựt vẫn giữ mãi Tự Hào Dân tộc, Tự Trọng Dân Tộc, Tình Quốc Gia Nghĩa Đồng Bào, Trung Thành với Thiên Hoàng, Hiếu Thảo với Quốc Dân !
Quốc Gia Nhựt Bổn là Một Đại Gia Đình Một Lòng Một Dạ Yêu Nước ! NhờTình Dân Tộc, nhờ Sức Mạnh Dân Tộc Sanh Tồn mà Dân Tộc Nhựt đã Canh Tân, Xây Dựng Nước.
Chỉ với 45 năm, 1867 - 1912, một Vị Vua sáng suốt, với các quần thần thực sự yêu nước, với những công dân thực sự biết hy sinh, đã biến nước Nhựt từ tăm tối Đông phương phong kiến đi ra ánh sánh Minh Trí Âu Tây.
Và Việt Nam ?
Loạt bài viết về nước Nhựt không phải để kể chuyện xưa - Ôn Cố Tri Tân - mà để tự hỏi tại sao, người Nhựt làm được mà chúng ta người Việt không làm được ? Nhựt Hoàng, các daimyos Nhựt, kể cả Shogun Tokugawa tất cả những nhơn vật lịch sử Nhựt lúc ấy hiểu loạt súng thần công bắn vào đất Nhựt là kỹ thuật, là khoa học ! Không phải ma quỷ gì cả ! Chỉ có kỹ thuật, chỉ có khoa học. Người Tây phương đang có. Ta phải học ! Và ta làm được, nhưng phải hy sinh, phải kỷ luật ! Phải quên quyền lực, quyền thế, quyền lợi ! Chỉ nghĩ đến nước, đến dân, đến tương lai, hậu duệ ! Yêu nước là như vậy !
Người Việt ta ngày nay, nên bỏ đi, vứt đi, những than phiền trách móc, nào nhà Nguyễn, nào quan lại, nào thực dân phong kiến. Hãy bỏ đi, vứt đi những tự cao, tự đại, ru ngủ, bốn ngàn năm văn hiến, đỉnh cao trí tuệ loài người, ba lần đánh thắng ba cường quốc Nhựt-Pháp-Mỹ !
Hãy nhìn thực trạng ngày nay. Việt Nam, Độc lập Hòa Bình đã trên 40 năm rồi, sao nềân kinh tế vẫn còn tụt hậu mãi ? Sao vẫn chế độ độc tài kiểu phong kiến shogun Nhựt xưa cổ với các daimyos - quan chức-đảng viên, và các samourais - công an quân đội dùi cui phục vụ Đảng - Triều Đình ? Sao giữa Hà Nôi Thủ Đô lại chình ình một cái nghĩa địa và một cái mả khổng lồ ? Sao thế kỷ 21 mà vẫn những lời phán, lời lệnh của thế kỷ qua ? Của những người đã chết ?
Sao Biển Đông ta, mà người nước ngoài chiếm xây sân bay, xây pháo đài ? Sao Biển Đông ta mà ngư phủ ta không đánh cá được mà «tàu lạ, người lạ» tung hoành lướt sóng, giàn khoan người kéo tới kéo lui ?
Các nhà lãnh đạo hãy trở về với dân Việt Nam, phục vụ cho dân tộc Việt Nam ! Hãy thật sự lãnh đạo, hãy thật sự dám làm Cách mạng, cải tổ hệ thống, canh tân xứ sở, kỹ nghệ hóa đất nước ! Dám tư nhơn hóa toàn bộ guồng máy sản xuất để người dân thật sự lo cho người dân sống trên đất Việt ! Dân Việt Nam hãy dẹp anh Shogun-Cộng Sản đi ! Và anh Shogun Cộng Sản hãy trả đất nước Việt Nam lại cho người Việt Nam ! Cho Dân Tộc Việt Nam !
Hồi Nhơn Sơn, Mùa Chay 2016.
Phan Văn Song
(Fwd: Nguyen babac ninh <bacninh75@gmail.com>, 3/12/2016,c
No comments:
Post a Comment