Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday 26 October 2016

PHẠM CAO DƯƠNG - MÀU TÍM HOA SIM -BS. NGUYỄN LƯƠNG TUYỀN * ĐẠI HỌA MẤT NƯỚC

TS. PHẠM CAO DƯƠNG * BIỂN ĐÔNG


Ts Phạm Cao Dương: Đổi tên "Biển Nam Trung Hoa" thành
"Biển Đông Nam Á?"

NHÂN SỰ KIỆN HOA KỲ, NHẬT BẢN, ÚC, ẤN ĐỘ, PHI LUẬT TÂN… NHẬP CUỘC VÀ BIỂN ĐÔNG ĐANG ĐƯỢC QUỐC TẾ HÓA

NHẮC LẠI GỢI Ý VỀ MỘT SỐ CÔNG TÁC CẦN PHẢI LÀM

* Tên South China Sea hay Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale cần phải được thay thế bằng Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est hay Mer du Sud-Est Asiatique hay Biển Đông Nam Á.
Tiến sĩ Phạm Cao Dương

Lời tòa soạn: Theo Văn Hóa được biết, Giáo sư Sử gia Phạm Cao Dương là một trong các Diễn giả ở California được ban tổ chức Hội nghị Quốc tế về Biển ở Manila thỉnh mời; nhưng bất ngờ vào giờ chót, Giáo sư Dương ngã bệnh khá nặng, bác sĩ không cho phép ông đi xa được. Tuy nhiên, với tấm lòng yêu nước nồng nàn, với tâm thức về những diễn biến "sinh tử" trong giai đoạn Quốc tế hóa biển Đông ở đầu thế kỷ 21, nhất là sau khi đọc tin Hội nghị Manila kết thúc, ông đã viết ngay một bài "góp ý" với Hội nghị, gời cho báo Văn Hóa. Văn Hóa xin trân trọng cảm tạ Giáo sư Phạm Cao Dương.

Vài hàng tiểu sử tác giả:


Giáo Sư Phạm Cao Dương, trước năm 1975 giảng dạy tại Đại Học Sư Phạm và Đại Học Văn Khoa Saigon, đồng thời là Giáo Sư Thỉnh Giảng tại các Đại Học Huế, Cần Thơ, Vạn Hạnh, Đà-Lạt, Cao Đài...Ngoài việc dạy học, GS Phạm Cao Dương còn là Hội Viên của các Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục, Hội Đồng Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học và Ủy Ban Điển Chế Văn Tự của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa.

Trong phạm vi khảo cứu, Giáo Sư Phạm Cao Dương là tác giả của nhiều sách và bài nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Việt Nam xuất bản bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh trong đó có các tác phẩm Vietnamese Peasants Under French Domination, do Trung Tâm Nam và Đông Nam Á, Đại Học Berkeley và University Press of America cùng ấn hành năm 1985 và nhiều sách hay tài liệu giáo khoa khác. Giáo Sư Dương cũng từng là cộng tác viên của Trung Tâm Nghiên Cứu Nam và Đông Nam Á của Đại Học Berkeley Hoa Kỳ và Trung Tâm Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học Pháp.

Sau năm 1975, ông định cư tại Hoa Kỳ và tiếp tục hoạt động trong các ngành giáo dục và nghiên cứu. Ông đã từng giảng dạy các môn về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam Học tại các Đại Học UCI, UCLA, CSU Long Beach, CSU Fullerton, đặc biệt là UCLA nơi ông vẫn còn giảng dạy hàng năm vào mùa xuân mặc dầu ông đã bắt đầu đứng lớp toàn thời gian tại trường Trung Học Võ trường Toản Saigon từ năm 1961, tức từ hơn nửa thế kỷ trước đây, liên tục cho đến tận ngày nay, tổng cộng trên nửa thế kỷ. Ông cũng là một diễn giả quen thuộc của nhiều hội đoàn của người Việt ở nhiều nơi ở Hoa Kỳ cũng như trên các đài phát thanh và truyền hình quốc tế trong đó có các đài BBC, Á Châu Tự Do và Quốc Tế Pháp RFI. Gần đây nhất, ông đã phụ trách chương trình Đại Họa Mất Nước trên đài SBTN trong 2 năm 2012-2014 ở Hoa Kỳ.

Về quá trình học hỏi, GS Dương tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, Cử Nhân Giáo Khoa và Cao Học Sử Học Đại Học Văn Khoa Saigon và Tiến Sĩ Sử Học Đại Học Paris, Pháp.

***


Xin được thưa ngay là vấn đề này đã từng được người viết nêu ra sau khi vụ Hội Địa Lý Quốc Gia (National Geographic Society) của người Mỹ ghi chú không đúng về quần đảo Hoàng Sa đã tạm thời được giải quyết vói sự đồng ý sửa lại của tổ chức này.

Đây là một thành công quan trọng mà người Việt Nam nói chung đã đạt nhờ sự lên tiếng và tranh đấu của các giáo sư, học giả, các cơ quan hay tổ chức nghiên cứu chuyên môn và của những người Việt yêu nước bình thường cả trong lẫn ngoài nước. Có điều đây mới chỉ là bước mở đầu vì National Geogaphic Society không phải là cơ quan hay nhà xuất bản duy nhất sản xuất và phát hành bản đồ ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Còn rất nhiều cơ quan và nhà xuất bản khác cũng làm những công việc tương tự. Việc làm sáng tỏ và tranh đấu để có sự điều chỉnh cho đúng sự thực do đó cần phải được tiếp nối. Trong bài này người viết xin được lập lại hai gợi ý cần phải làm vào lúc này:

Thứ nhất là người Việt ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước lớn như Pháp, Anh, Úc, Nhật, Đức, Gia Nã Đại và các nước Bắc Âu… cần phải duyệt lại tất cả những tài liệu đã được phổ biến liên hệ tới không riêng Quần Đảo Hoàng Sa mà luôn cả Quần Đảo Trường Sa và nếu cần, phải vận động để điều chỉnh.
Thứ hai là phải xét lại danh xưng South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) hay Mer de Chine (Biển Trung Hoa) hay Mer de Chine Méridionale và đổi thành Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est (Biển Đông Nam Á).
Cả hai gợi ý này đều có những lý do riêng và đều có thể thực hiện được nếu mọi người Việt Nam nhất là các nhà cầm quyền ở trong nước đều muốn làm vì chúng ta đang ở vào những vị thế và thời điểm vô cùng thuận lợi, có thể làm được. Tôi xin được trình bày với những chi tiết như sau:


Thứ nhất: Thường xuyên duyệt xét lại tất cả những bản đồ đã được quốc tế ấn hành hay phổ biến trên mạng
Lý do của việc làm này là bản đồ có thể được phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau: trên mạng, in rời từng bản để treo tường hay in trong sách hay thành tập gọi là atlas dưới nhiều khổ lớn nhỏ, dầy mỏng khác nhau, có tỷ lệ khác nhau, từ đó chi tiết được trình bày hay ghi chú khác nhau, đồng thời cũng có thể là những cầu đồ (globes). Gợi ý để mọi người cùng làm ở đây là người Việt ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước lớn như Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Nhật, Đức và các nước Bắc Âu… cần phải duyệt lại tất cả những tài liệu đã được phổ biến này và nếu cần, có thể vận động để điều chỉnh. Hoa Kỳ là một trường hợp điển hình. Chúng ta thử bắt đầu một bằng quốc gia có nhiều liên hệ với Việt Nam này. Điều nên nhớ là công việc duyệt xét này, vói một kiến thức không cần thật cao về các ngôn ngữ liên hệ, ai cũng có thể làm được, nhất là các thanh thiếu niên thuộc thế hệ trẻ ở các học đường, chưa nói tới các người làm ở các thư viện.

Ở Hoa Kỳ, ngoài National Geographic, còn có những nhà xuất bản khác không kém quen thuộc đối với học giới nói chung, các nhà địa lý học hay các thày dạy sử địa nói riêng, như Hammond, Rand McNally, DK, Oxford University Press, Merriam-Webster, Random House, Smithsonian, Harper Collins…Các tài liệu này vì được ấn hành bằng tiếng Anh nên cùng lúc được xuất bản và phổ biến ở các nước nói tiếng Anh như Gia Nã Đại, Úc, Anh…Các bản đồ của các nhà xuất bản này phần lớn dùng các tên Paracel hay Spratly, những tên quốc tế, rồi đã hoặc là để trống (Oxford Atlas of the World, 2005; Oxford New Concise World Atlas, 2009; Random House Compact World Atlas, 2006; Smithsonian Handy World Atlas, 2004) hoặc đề sovereignty disputed hay disputed - chủ quyển tranh chấp hay tranh chấp ( Hammond World Atlas,2009; Hammond Concise World Atlas,(?); DK World Atlas, Digital Mapping for the 21th Century, 2007, DK Concise Atlas of the World, 2007) hoặc đề là claimed by (đòi chủ quyền bởi) rồi kể tên các quốc gia (Rand Mcnally, Answer Atlas , the Geography Resource for Students, 2006). 
Riêng cuốn Merriam-Webster’s Geographic Dictionary, 2007, vì là từ điển nên ngoài tên quốc tế lại ghi thêm các tên Xi-sha Qndao (Trung Hoa), Quần Đảo Hoàng Sa (Việt Nam) và Hi-ra-ta gun-tô (Nhật Bản) trước khi ghi các chi tiết khác. National Geographic có lẽ là một trường hợp cá biệt. Các bản đồ in của hội này cũng đã ghi chú y như họ đã ghi chú trên mạng (National Geographic Family Reference Atlas of the World, 2010; National Geographic Visual of the World Atlas,2009; National Geographic Collegiate Atlas of the World (?). Cần để ý là trong thời gian chiến tranh Việt Nam, ngay từ những ngày đầu, National Geographic Society đã chú ý rất nhiều đến cuộc chiến đấu chống Cộng của người Việt. Họ đã viết và đã phổ biến rất nhiều bài về đề tài này một cách có cảm tình với phía ngưòi Việt Quốc Gia. Vậy tại sao với tư cách là một hội khoa học họ lại thay đổi thái độ một cách vội vã, thiếu vô tư và thiếu thận trọng so với những nhà xuất bản khác nặng về kinh doanh thương mại hơn như vậy? Qua sự kiện này câu hỏi được đặt ra người ta có thể tin tưởng vào tinh thần khoa học, vô vị lợi của người Mỹ đến mực nào? Một câu hỏi khác: Còn ở Việt Nam thì sao?


Việt Nam (miền Bắc) cũng dùng các danh xưng Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha) của Trung Quốc trên các bản đồ của mình
Trở về với Việt Nam, việc dùng các danh xưng Tây Sa và Nam Sa, gốc của người Tàu, thay vì Hoàng Sa và Trường Sa trong tiếng Việt, không phải là không có. Sự kiện này sở dĩ đã xảy ra có thể là do sự dễ dãi, dẫn xuất từ tính thế nào xong thôi của người Việt. Nó cũng có thể là do sự cẩu thả của người làm sách hay vẽ bản đồ nhưng nó cũng có thể do chủ trương của người cầm quyền đương thời liên hệ tới quốc tế chủ nghĩa và nhu cầu của tình thế và của chiến tranh thể hiện qua văn thư của Thủ Tướng Chính Phủ Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng gửi cho đồng chí của ông là Tổng Lý Quốc Vụ Viện Nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Chu Ân Lai, ngày 14 tháng 9 năm 1958 và cách giải thích của những người có trách nhiệm ở miền Bắc đương thời. Có điều giải thích ra sao cũng vậy. Bút sa là gà phải chết! Khi những tranh chấp xảy ra, người Tàu đã dùng những tài liệu do chính người Việt tạo ra mà họ có được trong tay này làm chứng cớ để biện minh cho chủ quyền của họ ở các quần đảo hai bên đang tranh chấp. 
Bài viết nhan đề “Xisha and Nansha Islands belong to China” (Tây Sa và Nam Sa thuộc Trung Quốc) đăng trên tờ Beijing Review, cơ quan ngôn luận chính thức của chính quyền Cộng Sản Bắc Kinh bằng Anh ngữ, số 21, ra ngày 25 tháng 5 năm 1979 cho người ta thấy điều đó. Bài này không ghi tên tác giả mà chỉ ghi là một bài bình luận của ký giả Tân Hoa Xã, có lẽ để tránh không bị coi là chính thức, nhưng ai cũng biết Tân Hoa Xã là cơ quan thông tấn chính thức của nhà nước Trung Hoa Cộng Sản. Trong bài bình luận này, ngoài những lập luận và chứng cớ bằng ngôn từ, tác giả đã viện dẫn tới các bản đồ chính thức của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (miền Bắc) ấn hành trước năm 1975. Các bản đồ này đã gọi các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng tên Trung Hoa đọc theo tiếng Việt là Tây Sa và Nam Sa của chúng kèm theo những ghi chú chứng tỏ các quần đảo này là thuộc Trung Hoa. Tác giả bài báo đã nêu lên một số trường hợp làm thí dụ:

Thí dụ thứ nhất: Bản đồ thế giới vẽ và ấn hành bởi Cục Địa Đồ (?) của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam năm 1960 đã ghi rõ bằng tiếng Việt “Quần Đảo Tây Sa (Trung Hoa)” và “Quần Đảo Nam Sa (Trung Hoa)”. Nguyên bản tiếng Anh để chữ China (Trung Hoa) trong ngoặc đơn rồi tất cả trong ngoặc kép “ the Xisha Islands (China)”, “the Nansha Islands (China)” thành người viết bài này (PCD) không rõ chữ China này là ghi đúng như trên bản đồ của Việt Nam hay do tác giả bài viết trên tờ Beijing Review thêm vô.

Thí dụ thứ hai: Những bản đồ Việt Nam xuất bản bởi Cục Địa Đồ vào tháng 5 năm 1964 và những bản đồ thế giới ấn hành tháng 5 năm 1972 cùng những bản đồ chính trị thế giới do Cục Đo Đạc và Bản Đồ Quốc Gia(?) ấn hành tháng 3 năm 1974 ghi các quần đảo này bằng tên Trung hoa viết bằng tiếng Việt Nam. Không bao giờ các quần đảo này được ghi bằng tên tiếng Việt là “Quần Đảo Hoàng Sa” và “Quần Đảo Trường Sa” như sau này, theo tác giả bài báo.

Thí dụ thứ ba: Một bài học về Trung Quốc dành cho lớp 9 trong một cuốn sách giáo khoa về địa lý do Nhà Xuất Bản Giáo Dục Hà Nội ấn hành năm 1974 có câu “Vòng cung hợp bởi các quần đảo Nam Sa và Tây Sa, đảo Hải Nam, Đài Loan, Quần Đảo Bành Hồ… tạo thành một bức “trường thành” che chở cho Trung Hoa Lục Địa.” Có nhiều diễn tả tương tự đã được thấy trong các sách giáo khoa của Việt Nam. Xin độc giả lưu ý tới hai chữ “trường thành” ngay từ năm 1974 này đã được dùng thay vì mãi đến năm 2015 mới được vị đô đốc tư lệnh Hạm Đội 7 của Mỹ nhắc tới.


Thí dụ thứ tư, Kinh độ phía đông của Việt Nam: Ngày 15 tháng 5 năm 1975, non một tháng sau ngày quân đội Việt Nam (Cộng Sản) tiến chiếm sáu đảo của Quần Đảo Trường Sa, tờ Quân Đội Nhân Dân cho đăng một bản đồ Việt Nam bao gồm cả Quần Đảo Trường Sa và khẳng định là địa điểm cực đông của lãnh thổ Việt Nam nằm ở 109 độ 29 phút Đông. Điều này (theo bài báo) chứng tỏ Việt Nam đã chiếm đóng lãnh thổ của Trung Quốc. Mặt khác, một tài liệu nhan đề Địa Lý Thiên Nhiên Việt Nam và Các Vùng Thiên Nhiên của Lãnh Thổ Việt Nam (?) do Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam và Nhà Xuất Bản Khoa Học và Kỹ Thuật Việt Nam ấn hành năm 1970 lại xác định điểm cực đông của lãnh thổ Việt Nam nằm ở 109 độ 21 phút Đông thay vì 109 độ 29 phút Đông, chênh nhau 8 phút. Tác giả bài báo cho rằng dù có tăng thêm 8 phút cho lãnh thổ Việt Nam, Nam Sa vẫn không thuộc Việt Nam vì Nam Sa nằm ở 109 độ 30 phút đông của lãnh thổ Việt Nam (cũng theo bài báo).


Qua những thí dụ kể trên, người ta thấy lập luận của phía Trung Hoa có những điều bất ổn. Ba thí dụ đầu căn cứ vào những tài liệu được ấn hành từ trước năm 1975, khi Việt Nam còn bị chia đôi và có xuất xứ từ miền Bắc Việt Nam trong khi các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo Hiệp Định Genève mà Trung Quốc có tham dự và đóng vai trò tích cực, là do miền Nam quản trị. Lập luận của Trung Quốc trong trường hợp này không có giá trị vì nó cũng giống như lập luận của họ đối với văn thư Phạm Văn Đồng gửi cho Châu Ân Lai. Nói cách khác, những gì miền Bắc làm đối với Hoàng Sa và Trường Sa là không có giá trị pháp lý căn cứ vào Hiệp Định Genève. Có điều khi đặt vấn đề này người ta lại phải đặt lại toàn bộ vấn đề Việt Nam từ biến cố 30 tháng Tư năm 1975 vì Miền Bắc là phía thắng trận nên những gì Miền Bắc làm là hợp pháp. Một câu hỏi khác liên hệ trực tiếp với bài này cần được nêu lên là tại sao các nhà làm sách và làm bản đồ ở miền Bắc thời trước năm 1975 lại dùng những danh xưng của người Tàu thay vì các danh xưng của người Việt để gọi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa? Câu trả lời có thể là vì thời gian đó là thời gian Việt Nam và Trung Hoa là hai nước Cộng Sản “anh em”, em không giữ được thì đưa cho anh thay vì để người ngoài chiếm mất, đồng thời đó cũng là thời gian chiến tranh, 
Cộng Sản Việt Nam cần sự giúp đỡ của Cộng Sản Trung Quốc và vai trò của Trung Quốc nói chung và của các cố vấn Trung Quốc nói riêng rất mạnh, không ai có thể chống lại. Do đó, việc dùng ngôn từ của Trung Quốc hay việc chép nguyên văn từ các tài liệu do các cố vấn Trung Quốc đưa cho ở đây cũng chỉ là một điều bình thường giống hệt như trong các cuộc chỉnh huấn trong quân đội hay cải cách ruộng đất và việc dùng danh xưng Quân Đội Nhân Dân thay thế cho danh xưng Vệ Quốc Đoàn mang nặng tinh thần quốc gia chủ nghĩa. Khó ai có thể ngờ Trung Quốc trước sau như một khiến cho những gì các nhà làm bản đồ hay sách giáo khoa về địa lý ở miền Bắc đã làm ở thời đó sau này đã gây ra bất lợi cho cả đất nước Việt Nam. Tưởng ta cũng nên để ý là về vấn đề kinh độ, 109 độ 21 hay 29 phút chỉ là của Việt Nam lục địa tức phần chính của Việt Nam mà thôi. Các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa không được trình bày trong tài liệu được viện dẫn. Ngoài ra người ta cũng phải để ý hơn nữa là tháng 5 năm 1975 miền Bắc mới chiếm được miền Nam và tự coi là có trách nhiệm trên toàn thể lãnh thổ của miền Nam trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Thời gian quá ngắn nên những tài liệu tờ Quân Đội Nhân Dân dùng cho bài viết của họ vẫn là tài liệu cũ của miền Bắc. Họ chưa có đủ thì giờ để cập nhật hóa những gì phải làm.

Tên South China Sea hay Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale cần phải được thay thế bằng Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est hay Mer du Sud-Est Asiatique hay Biển Đông Nam Á

Đây là một vấn đề lẽ ra phải được nêu lên từ lâu nhưng hầu như ít ai để ý đến hoặc chưa có dịp. Người viết đã thử làm hồi cuối thập niên 1980 của thế kỷ trước bằng các gửi thư cho các bộ ngoại giao của các nước Đông Nam Á, nhưng như mọi người có thể đoán được, với tư cách cá nhân vô danh, nhỏ bé, thư chắc chắn đã được nằm trong sọt rác. Sau này một tổ chức lớn hơn, Nguyễn Thái Học Foundation cũng đã làm nhưng cũng chưa đạt được ý muốn. Một thời điểm đầu tiên rất tốt đã xảy ra trong năm 2010, một thời điểm có thể coi là ngàn năm một thuở vì Việt Nam vào năm 2010 là chủ tịch luân phiên của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN), đồng thời trong tháng 4 năm đó cuộc họp thượng đỉnh của Hiệp Hội đã diễn ra ở Hà Nội. Với tư cách chủ nhà và ở cương vị chủ tịch, nhà nước Cộng Sản Việt Nam có thể đưa ra đề nghị để hội nghị cứu xét và thông qua. Rất tiếc là nhà nước này Cộng Sản Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội này. Tuy nhiên thời điểm hiện tại cũng không đến nỗi là đã quá muộn. Lý do là vì hiện tại Quốc Tế nói chung, trong đó có Nhật Bản, có Úc, có Ấn Độ…, không phải chỉ riêng Hoa Kỳ, đã chú ý nhiều hơn tới nguy cơ Biển Đông và đã có những hành động cụ thể. Một vận động mới cần phải được khởi động.

Có nhiều lý do phải đổi tên:
Thứ nhất: Tên South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) trong tiếng Anh và tên Mer de Chine (Biển Trung Hoa) hay Mer de Chine Méridionale trong tiếng Pháp không thích hợp với thực tại địa lý nói chung của biển này. Chúng đã được đặt ra và được chấp nhận từ nhiều thế kỷ trước, khi người Âu Châu mới tới vùng này. Lúc đó họ đã biết hay đã quen với Trung Quốc nhiều hơn là với các xứ Đông Nam Á đương thời, trong khi trên thực tế biển này ba mặt phía nam, phía tây, phía đông được vây quanh bởi các nước Đông Nam Á, chỉ một phần phía bắc là tiếp giáp với Trung Quốc. Khi một danh xưng do người ngoài đặt cho và không hợp lý với thực tại địa phương, người ta cần phải đổi đi cho hợp lý hơn thay vì để nguyên một cách thụ động và cứ thế mà dùng từ đó gây ra những hiểu lầm lẽ ra có thể tránh được. Nên để ý là Indonesia xưa kia bị gọi là Nam Dương quần đảo. Sau khi độc lập nước này đã được đổi tên là Indonesia hay In-đô-nê-xia.


Thứ hai: Biển này nằm ở giữa các quốc gia Đông Nam Á, trong tương lai, với đà phát triển trên nhiều mặt của Hiệp Hội ASEAN, sẽ là một cái hồ, một thứ Địa Trung Hải của toàn vùng. Nó sẽ giúp cho mọi sự tiếp xúc, trao đổi và hợp tác, nói chung, từ kinh tế, tài chánh, thương mại đến văn hóa, giáo dục… được dễ dàng vì giao thông bằng đường thủy luôn luôn dễ dàng với những số lượng lớn hơn gấp bội so với đường bộ hay đường hàng không nếu người ta biết tổ chức và khai thác. Tên South China Sea hay Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale không nói lên được tầm quan trọng này, chưa kể tới những ý nghĩa tiềm ẩn có thể bị khai thác của hai chữ China hay Chine trong hai danh xưng này.

Thứ ba: Đổi tên từ South China Sea (Biển Nam Trung Hoa) hay Mer de Chine (Biển Trung Hoa)hay Mer de Chine Méridionale (Biển Nam Trung Hoa) thành Biển Đông Nam Á không có nghĩa là ta từ bỏ danh xưng Biển Đông hay Đông Hải của Việt Nam vì Biển Đông hay Đông Hải là những tên riêng của người Việt để dùng trong nội bộ mình. Các nước khác chắc chắn cũng có những tên riêng của để gọi biển này của họ, điển hình là Phi Luật Tân. Vì là của riêng người ta vẫn có thể tiếp tục dùng những danh xưng này như những danh xưng truyền thống với những ý nghĩa vừa đúng với vị trí của biển này đối với người dân địa phương, vừa tình cảm của chúng. Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est sẽ chỉ là những danh xưng quốc tế thích hợp hơn để dùng trên các văn kiện hay trong các buổi họp quốc tế, trên các địa đồ thế giới và cho các nước không nằm trong vùng.


Thứ tư: Dùng danh xưng Biển Đông Nam Á hay Southeast Asia Sea hay Mer de l’Asie du Sud-Est hay Mer du Sud-Est Asiatique sẽ giúp cho các học giả, các nhà ngoại giao, các chính khách Việt Nam, mỗi khi phải tiếp xúc với thế giới bên ngoài, tránh được sự khó chịu khi phải dùng những tên vừa không do mình đặt ra vừa không đúng với thực tại địa lý mà còn hàm chứa ảnh hưỏng và sức mạnh quá lớn của Trung Quốc. Không những thế chúng còn mang các quốc gia Đông Nam Á lại gần với nhau hơn, đồng thời có thể tạo ra cho người dân của các quốc gia này một ý thức mới, ý thức thuộc về một khối người có nhiều điểm tương đồng, có những quyền lợi chung cần được khai thác với nhau trong hòa bình và cùng nhau bảo vệ nhất là trong phạm vi môi trường thiên nhiên vào lúc Trung Quốc đang nỗ lực kỹ nghệ hóa các tỉnh đông nam của họ hay xa hơn nữa trước tham vọng bành trướng nhằm làm bá chủ thế giới của nước này.

Kết luận: Với những lý do trên đây, và còn nhiều lý do khác nữa mà người viết, trong một bài báo ngắn gọn hay vì nhất thời tế nhị, không thể kể ra hết, việc thay thế các danh xưng South China Sea trong tiếng Anh và Mer de Chine hay Mer de Chine Méridionale trong tiếng Pháp bằng danh xưng Southeast Asia Sea hay Mer de l ‘Asie du Sud-Est hay Mer du Sud-Est Asiatique là một việc làm cần thiết và thích hợp cho sự phát triển nhanh chóng và mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) như người ta đã và đang thấy. Nó nói lên sự bình đẳng và ý chí kết hợp của các nước trong vùng. Ngưòi ta có thể không thích ý kiến quốc tế hóa các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì nó liên hệ tới chủ quyền về lãnh thổ và lãnh hải của riêng từng nước, nhưng người ta có thể chấp nhận, nếu không nói là hoan nghênh việc làm này như một cái tên thuần túy và đơn giản. Các quốc gia Đông Nam Á đã có một tổ chức chung; đã đến lúc các quốc gia này phải có một cái gì cụ thể chung. Một vùng biển chung mang danh Biển Đông Nam Á ít ra qua danh xưng của nó là biểu tượng cho cái gì chung đó vậy. Trở về với Việt Nam. Như đã nói ở trên, năm 2010 Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội có thể nói ngàn năm một thuở. Tuy nhiên lỡ không phải là quá trễ. Với sự nhập cuộc mỗi ngày một mạnh hơn, mỗi ngày một sâu hơn của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Úc và luôn cả Ấn Độ… trong một thế giới đang đổi mới, một cuộc vận động mạnh hơn cần được khởi động trở lại. Nên nhớ là chúng ta đang ở Thế Kỷ 21 chứ không còn ở Thế Kỷ 20 nữa.

Vì chủ đề của bài này là Trường Sa và Hoàng Sa nên người viết thấy cần phải nêu lên một gợi ý khác để các nhà cầm quyền Cộng Sản ở trong nước hiện tại chứng tỏ sự ghi nhận công ơn của các chiến sĩ, bất kể là từ miền Nam hay miền Bắc trước kia, đã hy sinh bảo vệ lãnh thổ nước nhà. Gợi ý đó là : Hãy dùng tên của họ để đặt cho những chiến hạm mới mà Việt Nam mới đặt mua hay mới tự đóng để bảo vệ vùng biển của đất nước. Sự đặt tên này cũng gống như sự dựng tượng đài kỷ niệm chắc chắn sẽ được mọi người hoan nghênh kể cả các chiến sĩ hải quân của nước Việt Nam hiện tại vì trong khi chiến đấu chống hải quân Trung Cộng ở Trận Chiến Hoàng Sa hay Trường Sa họ chỉ hướng tới một mục tiêu duy nhất là bảo vệ lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam hay đồng bào của họ trước sự xâm lăng của ngoại bang. Trong hoàn cảnh đó họ không còn là người của miền Nam hay của miền Bắc nữa mà là của chung của cả dân tộc hay hơn thế nữa họ là những anh hùng chung của cả dân tộc của thế kỷ hai mươi. Riêng Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà, ông người hạm trưởng đầu tiên của Hải Quân Việt Nam đã quyết dịnh ở lại, chết theo tàu trong cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải phía đông của tổ quốc mình trước một kẻ thù truyền kiếp, đông và mạnh hơn gấp bội.
 Lê Văn Tám là một nhân vật hoàn toàn ngụy tạo trong Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất là điều bây giờ ai cũng biết, nhưng tên của nhân vật ngụy tạo này vẫn được giữ làm tên các trường học, tên đường, tên công viên. Tại sao ngưòi ta vẫn lờ đi không nói tới Ngụy Văn Thà và các chiến hữu bất kể Nam, Bắc của ông, những nhân vật lịch sử có thật, đặc biệt là vào lúc mà Hoàng Sa và Trường Sa là đề tài nóng bỏng của thời cuộc? Nhưng dù công nhận hay không, những ai còn tin vào sự linh thiêng của các anh hùng liệt sĩ của dân tộc, vẫn thường dành một phút trong các buổi lễ để tưởng niệm và tri ân, hẳn phải nghĩ rằng từ trên nền trời cao bao la, xanh thẳm của Biển Đông, Ngụy Văn Thà và các chiến hữu của ông vẫn luôn luôn theo dõi và phù trợ cho các hậu duệ của ông trong sứ mạng thiêng liêng bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải phía đông của chung của cả dân tộc và che chở cho những đồng bào của ông vẫn ngày ngày kiếm sống trong những vùng biển từ xưa vẫn là của dân tộc mình. Tất nhiên là khi làm công việc này, nhà nước Cộng Sản Việt Nam hãy làm cho 64 liệt sĩ đã hy sinh trong Trận Chiến Trường Sa ngày 14 tháng 3 năm 1988 của mình trước. Điều mà cho đến tận năm 2015 này họ vẫn chưa làm được hay chỉ cho làm một cách rụt rè.




Có điều vinh danh hay không vinh danh đối với các chiến sĩ này chắc chắn chẳng có gì là quan trọng so với sứ mạng vô cùng lớn lao và cao cả là bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào của họ.


Phạm Cao Dương

(Nhân dịp Hội Nghị Quốc Tế về Biển Đông họp tại Manila cuối tháng 3 năm 2015).




Các bài viết của GS Phạm Cao Dương

http://www.vietthuc.org/active-users/?uid=358

Thêm Chuyện 70 Năm Trước: Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945
Nhân Dịp Đầu Năm Ất Mùi - 2015, Một Chút Lịch Sử Gửi Tuổi Trẻ Việt Nam: Lẽ Ra Ngay Từ Năm 1945 Dân Tộc Ta Đã Có Dân Chủ - Tự Do Rồi
Nhân Vụ Thượng Đỉnh Asean Nhóm Họp Ở Naypyidaw, Miễn Điện, 12-13 Tháng 11 Năm 2014 Và Tranh Chấp Biển Đông Sẽ Là Một Chủ Đề Tranh Cãi, Nhắc Lại Gợi Ý Về Hai Công Tác Cần Phải Làm
Đính chính một sai lầm: Không Thể Hiểu Nam Hải là Biển Trung Hoa hay Biển Nam Trung Hoa được
Việt Nam 1945: Những Ngày Cuối Cùng Trong Cuộc Đời Làm Chính Trị Của Học Giả Phạm Quỳnh
Tôi Hãnh Diện Có Quá Khứ Làm Người Tị Nạn Cộng Sản Việt Nam
Dựng Tượng Đức Thánh Trần ở Little Saigon :Một Quyết Định Hợp Với Truyền Thống Lịch Sử , Tín Ngưỡng và Hoàn Cảnh của Người Việt Hải Ngoại
Một chút tài liệu để chia sẻ nhân ngày 30 tháng Tư: Đảng Lao Động và Chủ Trương Chiếu Cố Miền Nam: Chiến Tranh Phát Xuất Từ Đâu, Từ Bao Giờ, và Được Chỉ Đạo Từ Đâu?
VIDEO: Tàn Sát Trường Sa năm 1988
Chúng Ta Đã và Đang Thực Sự Mất Nước
REAL & CLEAR POLITICS VIDEO: Hiểm Hoạ Mất Nước --- Thảm Họa Diệt Vong Mới của Người Chàm
Cộng Sản Việt Nam Bắt Đầu Lệ Thuộc Vào Cộng Sản Trung Quốc Từ Bao Giờ?
Nhìn Lại Những Nỗ Lực Của Cựu Hoàng Đế Bảo Đại Trong Cuộc Đấu Tranh Giành Độc Lập Và Thống Nhất Cho Đất Nước Và Dân Tộc Việt Nam
Chung quanh hai chữ "Văn Hiến” trong bài “Bình Ngô Đại Cáo" của Nguyễn Trãi: Ai Đã Gọi Việt Nam Là Một Nước Văn Hiến?
Đặc Tính Lãng Mạn Trong Những Năm Đầu Của Cuộc Kháng Chiến Chống Pháp (1946-1954) và Thi Ca Việt Nam Thời Chiến
Sáu Mươi Bảy Năm Nhìn Lại (1945-2012), Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: HAI BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Góp Phần Nhận Định về Sự Du Nhập Của Nho Giáo Vào Việt Nam Dưới Thời Bắc Thuộc
Khi Người Tàu Nghiên Cứu Về Việt Nam
Trước Hiểm Họa Mất Nước Một Lần Nữa: Nhắc Lại Chuyện Nhà Minh Cướp Sách Của Ta Đem Về Tàu
Ngày Xuân, Lại Nói Chuyện Tháng Giêng
Sự Liên Tục Lịch Sử Trong Nền Giáo Dục Của Miền Nam Thời Trước Năm 1975
Từ Lĩnh Nam Chích Quái Và Kiến Văn Tiểu Lục Đến Những Tài Liệu Bị Quân Minh Tịch Thu Đem Về Tàu
Từ Bài Ca“Đáp Lời Sông Núi” Của Trúc Hồ: Nhìn Lại Hai Bài “Tiếng Gọi Sinh Viên” Của Lưu Hữu Phước và “Tiến Quân Ca” của Văn Cao
Sự Thực Lịch Sử và Các Nhà Sử Học Mác-xít Việt Nam
65 Năm Nhìn Lại, Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: Hai Bản Tuyên Ngôn Độc Lập
Một vài Ghi Chú về Một Nhân Vật Lịch Sử Sắp Vĩnh Viễn Ra Đi: Đại Tướng Cộng Sản Việt Nam Võ Nguyên Giáp
Hãy trả lại sự thật cho sự thật: Hoàng đế Bảo Đại đã thật sự giành lại Độc lập cho Việt Nam từ ngày 11 tháng 3 năm 1945
-------Thuyết Trình của GS Phạm Cao Dương ngày 28 tháng Ba, 2015 : Về Hoàng Đế Bảo Đại và Chính Phủ Trần Trọng Kim .
1) Phần phát biểu của GS. Phạm Cao Dương:

https://www.youtube.com/watch?v=4iRvSui49VY
B. http://www.vietthuc.org/bien-dong-2015-nhan-su-kien-hoa-ky-nhat-ban-uc-an-do-phi-luat-tan-nhap-cuoc-va-bien-dong-dang-duoc-quoc-te-hoa-nhac-lai-goi-y-ve-mot-so-cong-tac-can-phai-lam/



MÀU TÍM HOA SIM


Rơi nước mắt vì tự sự đớn đau của cha đẻ 'Màu tím hoa sim'

Những tự sự của nhà thơ Hữu Loan, cha đẻ "Màu tím hoa sim nổi tiếng" đã tạo ra niềm xúc động lớn trong với cộng đồng mạng. Tự sự đớn đau này được chia sẻ  rất nhiều trên Facebook tạo nên nhiều thổn thức. "Rất cảm động, vì sự chân thành, vì tình người, tính người. Và có thể hình dung cả bối cảnh một thời cuộc tao loạn. Mỗi số phận cá nhân đều chứa trong lòng nó những bi kịch của lịch sử" - (Kim Dung)

Những người yêu thơ tình, không ai không biết đến bài thơ "Màu tím hoa sim đầy xúc động". Đằng sau đó là một câu chuyện còn sâu sắc hơn, đau đáu hơn của tác giả Hữu Loan.
cong dong mang roi nuoc mat vi tu su don dau cua cha de mau tim hoa sim
Nhà thơ Hữu Loan
Nàng có ba người anh
Đi bộ đội Những em nàng còn chưa biết nói Khi tóc nàng xanh xanh. Tôi là người chiến binh Xa gia đình Yêu nàng như tình yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới, Tôi mặc đồ quân nhân Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân, Nàng cười xinh xinh Bên anh chồng độc đáo. Tôi ở đơn vị về Cưới nhau xong là đi!
Từ chiến khu xa Nhớ về ái ngại Lấy chồng đời chiến chinh Mấy người đi trở lại Lỡ khi mình không về Thì thương người vợ chờ Bé bỏng chiều quê ... Nhưng không chết người trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng Má tôi ngồi bên mộ con Đầy bóng tối Chiếc bình hoa ngày cưới Thành bình hương Tàn lạnh vây quanh ... Tóc nàng xanh xanh Ngắn chưa đầy búi Em ơi! Giây phút cuối Không được nghe nhau nói Không được trông thấy nhau một lần. Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím  áo nàng màu tím hoa sim  Ngày xưa một mình  đèn khuya  bóng nhỏ  Nàng vá cho chồng tấm áo  ngày xưa...  Một chiều rừng mưa Ba người anh Trên chiến trường Đông Bắc, Biết tin em gái mất Trước tin em lấy chồng. Gió sớm thu về Rờn rợn nước sông Đứa em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị Khi gió thu về Cỏ vàng chân mộ chí. Chiều hành quân Qua những đồi sim .. Những đồi hoa sim ..., Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết  Màu tím hoa sim Tím cả chiều hoang biền biệt Nhìn áo rách vai Tôi hát trong màu hoa. Áo tôi sứt chỉ đường tà, Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu
Hữu Loan
Xin trích đăng những dòng tự thuật của chính nhà thơ Hữu Loan:
"Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. 
Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ Thiện và…tôi – Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. 
Ở Thanh Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.
Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. 
Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. 
Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có lần tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ…
Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..
cong dong mang roi nuoc mat vi tu su don dau cua cha de mau tim hoa sim
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. 
Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…
Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
- Ngọt quá!
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! 
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo! 
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. 
Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. 
Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ”soạn kịch bản”. 
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. 
Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. 
Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. 
Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..
Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! 
Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn…
Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. 
Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. 
Đó là bài thơ Màu tím hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… 
Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời... từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều... Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá!
Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…
Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông… 
Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý...
Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. 
Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản...
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. 
Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. 
Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông . 
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. 
... Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc....
Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. 
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no… Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! 
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ...
Năm 1988, tôi "tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu tím hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. 
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán".
Nhà thơ Hữu Loan

BS. NGUYỄN LƯƠNG TUYỀN * ĐẠI HỌA MẤT NƯỚC

Đại hoạ mất nước

Nguyễn Lương Tuyền MD (Danlambao) - Năm 1954, một nửa quê hương VN bị những người CS của ông Hồ Chí Minh với sự hỗ trợ rất tích cực của Nga Sô, Trung Cộng, tiến chiếm, theo đúng tiến trình bành trướng của Chủ Nghĩa CS. CS Quốc tế, với những tên lính xung kích là ông Hồ Chí Minh cùng đám cộng sản tay chân, đã thành công đặt được một đầu cầu ở Đông Nam Á. Viễn tượng một cuộc chinh phục toàn vùng để đưa chế độ Bolchevik đến bờ Thái Bình Dương cũng như đến bờ Ấn Độ Dương làm người ta lo sợ: chẳng bao lâu nữa, chế độ Cộng Sản sẽ được thiết lập trên toàn thế giới... Hồ Chí Minh và các đồng chí từ núi rừng Việt Bắc về tiếp thu một nửa đất nước, từ Ải Nam cho đến vĩ tuyến 17. Đó là một tặng phẩm ''từ trên trời rơi xuống'' vượt ra ngoài sự mơ ước của các đồng chí CSVN. Một chế độ độc tài toàn trị - họ gọi là chuyên chính vô sản - được thiết lập ở Bắc Việt. Người Việt Quốc Gia cùng với 1 triệu người dân không chấp nhận chế độ Cộng Sản, dắt díu nhau kéo vào Miền Nam.
Tóm lại sau chiến tranh Đông Dương lần thứ nhứt (1946-1954), một nửa đất Việt bị rơi vào tay CS. Hơn lúc nào hết, đại họa mất nước đang đè nặng lên tương lai dân tộc. Hồ Chí Minh và Đảng CSVN chỉ là một lũ thừa sai, một lũ lính xung kích của Cộng Sản Quốc Tế.
Tiến xuống phía Nam, chinh phục toàn vùng Đông Nam Á là mộng ước, ý đồ của Cộng Sản Quốc Tế trong khi đó CSVN muốn làm nhưng người lính CS tiên phong, nhưng trong giai đoạn đầu phải ''giải phóng'' Miền Nam. Ý đồ chiếm cả nước của Hồ và đảng CSVN lúc nào cũng tiềm tàng trong đầu óc của người CSVN. Sau khi Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm từ chối hiệp thương, tổng tuyển cử để thống nhất đất nước vào năm 1956, dự trù bởi Hiệp Định Genève, Bộ Chính Trị ở Hà Nội - đứng đầu là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ... cho rằng để giải phóng (?) Miền Nam, chỉ có 1 giải pháp, đó là giải pháp quân sự. Kế hoạch xâm lăng Miền Nam được bắt đầu:
- Các cán binh CS nằm vùng tại Miền Nam được lệnh đào vũ khí cất dấu để bắt đầu các hành động phá hoại cũng như ám sát các viên chức nhất là các viên chức ở nông thôn cùng các chiến dịch khủng bố nhắm vào các viên chức, các cơ quan của Miền Nam. 
- CS Bắc Việt bắt đầu xâm nhập người và vũ khí váo Miền Nam qua đường biển, đường mòn Hồ Chí Minh (vượt qua dẫy Trường Sơn). Đường mòn này đã được tên Đại Tá CS Võ Bẩm khai thông năm 1959. Trận Tour Hai ở Trãng Lớn, Tây Ninh năm 1959 trong đó 1 đơn vị lớn của VNCH bị tràn ngập ị bất ngờ, là trận báo hiệu các hoạt động quân sự càng ngày càng lớn của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Thiếu Tướng Võ Bẩm (1915-2005)
Nguồn Internet.
Cuộc xâm lăng do CS miền Bắc, được sự hỗ trợ của toàn thế giới CS, gây ra. Quân dân Miền Nam chỉ ở thế phòng vệ thụ động. Đó là một cuộc xâm lăng toàn diện, trên mọi lãnh vực: chánh trị, kinh tế, tâm lý, tôn giáo... bên cạnh các hành động quân sự. Trong cuộc chiến, người ta đã thấy được sự tàn bạo, mất nhân tính, cực kỳ ác độc... của người CS đối với nhân dân Miền Nam. Các bản chất thú vật, độc ác mất nhân tính được các ''đồng chí'' phát huy mãnh liệt tại các nơi bị rơi vào tay của các đồng chí. Thí dụ điển hình là những sự kiện xẩy ra cho người dân của cố đô Huế trong Tết Mậu Thân.
Chiến tranh tại Miền Nam chấm dứt ngày 30 tháng 4 năm 1975. Miền Nam bị CSVN chiếm đóng do sự thỏa thuận của các bàn tay lông lá, của các phù thủy mắt xanh tóc vàng.
Các đồng chí đã chen nhau ''đi Nam'' để làm các công cuộc thổ phỉ, ăn cắp, ăn cướp tái sản của đồng bào Miền Nam. Các chiến dịch đổi tiền, kiểm kê tài sản, đánh tư sản mại bản... chỉ thuần là các công cuộc ăn cướp trắng trợn, công khai tài sản của đồng bào Miền Nam. Trong các cuộc ăn cướp công khai này, đồng bào Miền Nam nhận ra những người từ Bắc vào Nam để ''hôi của, thổ phỉ, ăn cướp các đồng bào miền Nam'' hoàn toàn khác chúng ta, những người Miền Nam, tuy rằng họ và chúng ta nói cùng một ngôn ngữ. Họ là ''người ngoại quốc'', sau khi chiến thắng, chiếm được Miền Nam, vào nước ta để thổ phỉ, ăn cướp. Người Pháp, người Bỉ, người Thụy Sĩ, người Lục Xâm Bảo... nói cùng một thứ tiếng nhưng họ không cùng một tổ quốc, giống như bọn người Miền Bắc đi vào Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tuy nói cùng một thứ tiếng như chúng ta, đồng bào Miền Nam, nhưng họ là người có một tổ quốc khác chúng ta. Tâm tình cũng như tâm hồn của họ hoàn toàn khác chúng ta. Tổ tiên của họ là Các Mác, Lê Nin..., quê hương của họ là là Nga Sô, là Tầu. Đích thực Miền Nam chúng ta bị xâm lăng bởi những người ngoại quốc đến từ miền Bắc của giải đất hình chữ S. Một cuộc xâm lăng do những người ngoại quốc cùng ngôn ngữ để ăn cướp không hơn không kém!
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, CSVN nhanh chóng cho các tổ chức ngoại vi như Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Thành phần thứ 3... đi chỗ khác chơi vì Đảng không cần họ nữa. Các tổ chức đó âm thầm giải tán không kèn không trống.
Năm 1976, sau một cái gọi là Hội Nghị ngắn ngủi, CSVN tuyên bố đất nước VN được Đảng CSVN thống nhứt, hai miền Nam Bắc thu về một mối.
Ngay sau khi Cộng Sản Miền Bắc chiếm hoàn toàn Miền Nam, ''thống nhất Việt Nam'', TC đã tỏ ra bất bình. TC từ từ ngưng các viện trợ cho VN Cộng Sản, đồng thời họ mau chóng rút đoàn chuyên viên kỹ thuật về nước. 
Tại biên giới với Campuchia, tình hình căng thẳng. Quân đội Khmer, được viện trở từ Trung Cộng, đã không ngớt tấn công các tỉnh ở biên giới. Họ giết hại nhiều dân lành, không phải hàng trăm mà là hàng ngàn người. Các cuộc tấn công ở biên giới kéo dài từ năm 1976 tới tháng 12 năm 1978. Cuối năm 1978, VN phản công qui mô trên toàn cõi Campuchia. Nam Vang thất thủ trước sức tấn công của quân đội của CSVN. Quân Khmer đỏ rút chạy về miền biên giới với Thái Lan. VN đã đóng quân ở lại Campuchia trong 10 năm, mặc những phản đối quốc tế.
Cuộc tấn công và chiếm đóng Campuchia làm buồn lòng nhiều quốc gia nhứt là Trung Cộng. Chiến tranh giữa VNCS và TC khó tránh khỏi theo nhận định vào lúc đó của mọi người.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, 300 000 quân của TC thình lình, tiến đánh VN trên toàn biên giới giữa VN và TC ở Miền Bắc. Cuộc chiến mà lãnh tụ của TC là Đặng Tiểu Bình gọi là: ''cuộc trừng phạt để dậy đứa em bất nghĩa một bài học''.
Cuộc chiến chỉ kéo dài có 1 tháng nhưng đã gây nhiều thiệt hại cho cà đôi bên, mang lại nhiều chỉ trích đến từ khắp mọi nơi. 
Cuộc chiến, tuy ngắn ngủi, nhưng đã khiến TC rút ra vài bài học:
- Giải Phóng Quân của TC còn quá yếu kém cả về trang bị lẫn khả năng tác chiến.
- TC cũng nhận ra: Vào thời điểm này, thế kỷ 21, khó có thể chỉ dùng quân đội để chinh phục một nước khác nhứt là ''nước khác đó'' không phải là một tiểu quốc. 
TC đã nhanh chóng canh tân quân đội bằng các cải cách to lớn. Đồng thời họ đổi chiến thuật cũng như chiến lược để chinh phục Việt Nam.
Thập niên 90's, thế giới CS tan vỡ. Chế độ CS cáo chung tại nhiều nước kể cả tại Nga Sô, vốn là cái nôi xuất phát của phong trào CS Quốc Tế. Thế giới chỉ còn có 4 nước theo chế độ CS. Đó là: Tầu, VN, Bắc Hàn và Cuba. VNCS bị ''mồ côi'' bèn phải quay về thần phục Trung Cộng với mục đích bảo vệ Đảng. Đối với người CS, Tổ Quốc, quê hương không quan trọng bằng việc tồn tại sống còn của Đảng.
Trước khi Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười sang Tầu ký Hiệp Ước (bán nước) Thành Đô, nhiều cuộc đụng độ đã xẩy ra ở vùng biên giới giữa 2 nước. Kết quả là VN đã mất về tay TC một giải đất hàng ngàn km2 ở vùng biên giới, kể cả Ải Nam Quan. Trên biển, TC đã chiếm hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa cùng 1 số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Năm 1988, TC chiếm đảo Gạc Ma của VN. Hải Quân của VNCS được lệnh Lê Đức Anh (lúc đó là Bộ Trưởng Quốc Phòng) không chống cự. Kết quả là họ bị TC tàn sát tất cả. TC đã chiếm cứ Biển Đông. Lãnh hải của VN bị thu hẹp lại. Các tầu đánh cá của VN không còn có thể vào Biển Đông để đánh cá.
Về nội dung của Mật ước Thành Đô, các người cầm đầu CSVN cũng như phía TC đang cố tình che dấu mật ước này. Cho tới năm nay, tức 15 năm sau khi ký kết, không một chi tiết nào được tiết lộ cho mọi người biết.
VN đang phải đối đầu với viễn tượng mất nước về tay TC.
Biết giải pháp quân sự không thể nào thực hiện được. Quốc tế không thể nào ngồi yên không can thiệp khi một nước ỷ mạnh, dùng quân đội xâm chiếm một nước khác, ''nước khác'' đây là 1 nước VN với dân số trên dưới 90 triệu người. TC bèn thay đổi chiến thuật để từ từ ''nuốt'' Việt Nam.
TC hiện đang xâm lấn Việt Nam tong nhiều lãnh vực:
1/ Về kinh tế: hàng hóa từ TC, chánh thức nhập cảng hay nhập cảng lậu, đang tràn ngập VN. Nhiều mặt hàng có nhuốm chất độc. Năm 2015, 80%-90% là các hàng hóa nhập từ TC trong khi xuất cảng qua TC rất ít. 
Thâm thủng mậu dịch lên tới hơn 32 tỷ Mỹ Kim. Thí dụ khác là các công ty Trung Quốc trúng thầu rất nhiều dự án tại VN, hơn 90% các dự án về tay các Công Ty của TC. 
2/ Người Tầu đang di dân qua VN, người sống cũng như người chết. Các nghĩa địa Tầu an táng các quân nhân Tầu tử trận trong chiến tranh biên giới 1979 được an táng ở các nghĩa địa Tầu rất ''hoành tráng'' ở gần biên giới Việt - Trung... Họ có mặt trên toàn nước Việt, từ biên giới miền Bắc với TC cho đến cực Nam của Miền Nam tức Mũi Cà Mâu. Họ sống biệt lập, không theo luật của VN.
3/ Trên vùng biển Đông, TC đã chiếm toàn thể vùng biển này. Thuyền bè của VN bị cấm di chuyển, đánh cá...
4/ Miền Tây nguyên cũng đầy người Tầu. Họ sang VN gọi là ''để khai thác bô xít''. Người ta cho rằng đó là các chiến binh trá hình.
5/ Năm nay, miền Nam bị hạn hán nặng. Nước mặn đã tràn vào đồng bằng sông Cửu Long, tàn phá ngàn, ngàn mẫu đất trồng trọt. Trong lịch sử VN chưa bao giờ bị hạn hán như vậy. Thủ phạm của đại họa này chính là TC. Võ khí của họ là các đập xây dựng tại thượng nguồn sông Mekong. VNCS phải lậy van TC tháo nước các đập ở thượng nguồn, để nước ngọt đổ vào hạ nguồn của sông Cử Long. Với các đập ở thượng nguồn, TC đã có toàn nước Việt hay ít nhất Miền Nam nước Việt, làm con tin.
Tình trạng ngập nước mặn
ở Miền Nam do hạn hán
(vùng bị hạn hán được in đậm).
Nguồn Internet
6/ TC dùng sức mạnh của quân đội để đe dọa trừng phạt VN. Thỉnh thoảng tin rò rỉ từ TC cho biết kế hoạch đánh chiếm VN. Thực sự TC đang chiếm VN bằng kinh tế, di dân, chính trị... Quân sự chỉ để hỗ trợ các các phương pháp khác như các phương tiện kinh tế, di dân...
Tóm lại, TC đang vây hãm, bức tử VN bằng 3 gọng kìm chiến lược:
- Gọng kìm phía Đông: Hải Quân của TC đang chiếm lãnh toàn Biển Đông. Lãnh hải của VN bị thu hẹp vào vùng ven bờ biển hình chữ S.
- Gọng kìm phía Tây chính là dòng nước của sông Cửu Long: nguồn nước chánh của đồng bằng Miền Nam. Với các đập ở thượng nguồn của sông, TC tha hồ làm mưa làm gió trên số phận của dân VN
- Trong nước Việt, dân Tầu đang tràn ngập quê hương, từ Nam chí Bắc, không gì cản nổi làn sóng di dân này.
VNCS đang để quê hương rơi vào bàn tay của kẽ thù truyền kiếp của dân tộc. Đại họa mất nước đang như lưỡi dao kề vào cổ dân Việt. 
Chỉ có một cuộc vùng lên của toàn dân, làm sạch bóng người CS, mới cứu được quê hương cho dù hành động này hơi quá trễ.
Xin hồn thiêng sông núi độ trì dân tộc Việt vượt qua cơn khó khăn này.
Tóm lại, Việt Nam đang trở thành một phần của nước Tầu. Các lãnh tụ CSVN quả thực là những tên phản quốc đã bán nước Việt cho Tầu. Lịch sử VN sẽ đời đời kết tội, nguyền rủa các tên này: Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh Đặng Xuân Khu... Đảng CSVN chỉ là một lũ phản quốc.
Montréal, Québec, Canada 11/4/2016
danlambaovn.b


GIÁO SƯ PHẠM CAO DƯƠNG TRÌNH BÀY VỀ ĐẠI HỌA MẤT NƯỚC


CẦU NGÓI BÀ CHÚA TRỊNH


Cầu ngói của bà chúa Trịnh
 
Cách TP Nam Định khoảng 15 km, cầu ngói chợ Thượng là di tích cấp quốc gia được xây dựng nhờ công đức của bà chúa Trịnh từ hơn 300 năm trước.


 
Cầu ngói chợ Thượng, xã Bình Minh (Nam Trực, Nam Định), được xây dựng từ thời Hậu Lê, với sự đóng góp công đức của bà chúa Nguyễn Thị Ngọc Xuân, cung phi của chúa Trịnh cũng là người con gái làng Thượng Nông. Cầu kết cấu kiểu thượng gia, hạ kiều (trên là nhà, dưới là cầu).



 
Theo tư liệu cổ, mố cầu được xây dựng hoàn toàn bằng đá tảng nằm chắc chắn hai bên bờ sông Ngọc. Các tảng đá to nhỏ khác nhau, được xếp khéo léo theo thứ tự lớn ở dưới, nhỏ ở trên. Tính từ mặt nước trung bình thì mố cầu rộng 3,7 m, được xây vuốt theo hình thang cân, với cạnh trên là 2,84 m. Hai mố cách nhau 4,5 m tạo khoảng trống cho dòng nước lưu thông và thuyền bè qua lại.


 
Dầm cầu được làm bằng hai cây gỗ lim, đường kính 0,4 m. Bên trên hai thanh dầm dọc là 4 thanh dầm ngang cũng bằng gỗ lim đường kính 0,2 m, có đầu nhô ra ngoài (dùng để đỡ chân cột bên trên).


 
Nhà cầu có 11 gian, mỗi gian từ 1,45 m đến 1,65 m tạo nên một công trình dài 17,35 m nối hai bờ sông Ngọc. Hai hàng cột cái mỗi hàng 10 cột cạnh vuông 0,2 m, cao 2 m đặt sát hai bên lòng xà cầu. Các cột quân lại được làm bằng trụ tròn đường kính 0,17 m, cao 1,65 m đặt trên các đòn ngang hai bên hông cầu.


 
Đường giữa cầu rộng 1,74 m, được lát đá tảng. Hai bên hành lang cũng lát đá tảng tạo phần gờ cao hơn phần mặt cầu 0,15 m. Ở 3 gian giữa cầu xây bệ cao 0,4 m dọc hai bên hành lanh, phía ngoài có lan can. Đây là chỗ ngồi nghỉ ngơi, ngắm cảnh sông nước lý tưởng cho nhân dân địa phương và những người đi chợ xa.


 
Bên trên cột là hệ thống vì kèo đỡ mái với 10 bộ được làm kiểu kèo cầu đơn giản. Cầu được lợp bằng ngói nam.


 
 
Hai đầu cầu xây tường, có đại tự đắp nổi “Thượng gia kiều” bằng chữ Hán, có mở cửa rộng 1,7 m, cao 2 m.


 
Cầu ngói là dạng kiến trúc cầu đặc biệt nhất ở Việt Nam. Hiện nay, chỉ còn một số cây cầu như: Cầu ngói chùa Lương ở huyện Hải Hậu (Nam Định); cầu ngói Thanh Toàn ở Hương Thủy (Thừa Thiên - Huế); cầu ngói Phát Diệm ở Kim Sơn (Ninh Bình). Đây là loại cầu có mái khá phổ biến trong thời nhà Mạc. Những cây cầu này được bắc qua ngòi hoặc sông nhỏ, dọc theo đường giao thông và thường gắn với chợ, đền thờ.


 
 
Tháng 6/2012, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã có quyết định công nhận cầu ngói chợ Thượng và Phủ Bà (xã Bình Minh, huyện Nam Trực) là di tích cấp quốc gia.

LỄ TƯỞNG NIỆM



**************************************************************************************************************************************
Logo IBIBPhòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail :
pttpgqt@gmail.com
Web : http://www.pttpgqt.org - Facebook: https://www.facebook.com/queme.net
**************************************************************************************************************************************
 


THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 13-4-2016
PARIS, ngày 13.4.2016 (PTTPGQT) - Đoàn Cựu Huynh trưởng và Đoàn sinh Gia Đình Phật tử Vùng Pomona và Phụ cận vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến bài tường thuật buổi lễ Tưởng niệm và Truy phong Cấp Dũng Huynh trưởng Nguyên Thân LÊ KHẮC KỶ.
Gia Đình Phật Tử Việt Nam (GĐPTVN) là tổ chức trẻ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ra đời đầu thập niên 40 thế kỷ trước tại Huế trong phong trào Chấn hưng Phật giáo khởi từ những năm 20 đầu thế kỳ XX. Thoạt đầu mang danh xưng Đoàn Đồng Ấu Phật tử, rồi Gia Đình Phật Hoá Phổ. Đến đầu thập niên 50 chuyển sang danh xưng hiện nay là Gia Đình Phật Tử Việt Nam, là đứa con trung kiên của Giáo hội.
Sau ngày thảm sầu 30-4-1975, Cộng sản xâm chiến miền Nam, đàn áp và giải thể trong thực tế Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đứa con trung kiên của Giáo hội là Gia Đình Phật tử Việt cũng bị cảnh tan đàn rẻ nghé. Mãi cho đến năm 1995, sự phục hồi mới từ từ phục dậy. Tuy nhiên bị phân hoá làm hai, như toàn bộ xã hội Việt Nam, một phần bị Hội Phật giáo Nhà nước cầm nắm, và một phần thì uy dũng thoát ly nanh vuốt cộng sản để giữ vững chủ quyền tôn giáo.
Trước kia vì chiến tranh, nay vì chế độ Cộng sản, vai trò Huynh trưởng Gia Đình Phật tử Việt Nam (GĐPTVN) trở nên quan yếu, vì họ thuộc lớp đàn anh kiên trì lèo lái đưa con thuyền GĐPTVN vượt qua giông tố, bão bùng. Lớp đàn anh ngày càng hiếm, vì ở quốc nội không còn được tự do sinh hoạt như trước năm 1975.
Huynh trưởng Nguyên Thân LÊ KHẮC KỶ vừa ra đi hôm 25-3 vừa qua. Hàng nghìn người bao gồm Phật tử, Huynh trưởng và đoàn sinh GĐPT đến tham dự Cầu siêu và Tiễn đưa anh về nơi an nghỉ tại nhà quàn Thiên Môn, thị xã Wesminster, tiểu bang California, Hoa Kỳ hôm 30 tháng 3 năm 2016, nói lên sự tiếc thương, gắn bó với Người Huynh trưởng bỏ suốt đời cho sự nghiệp giáo dục Từ Bi cho các em từ Oanh Vũ lên tới ngành Thanh - Thiếu.
Sau đây là bản tường thuật của Đoàn Cựu Huynh trưởng và Đoàn sinh Gia Đình Phật tử Vùng Pomona và Phụ cận :
 
BI-TRÍ-DŨNG
VĂN PHÒNG II VIỆN HÓA ĐẠO
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI TẠI HOA KỲ
TỔNG VỤ THANH NIÊN – GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VỤ

LIÊN ĐOÀN CỰU HT& ĐSGĐPT /VN TẠI HOA KỲ
ĐOÀN CỰU HUYNH TRƯỞNG VÀ ĐOÀN SINH GIA ĐÌNH PHẬT TỬ
VÙNG POMONA VÀ PHỤ CẬN
Điạ chỉ : 7346 TYLER Ln FONTANA, CA 92336 ; Phone : (909) 510-7373
E-mail : david_ho_1954@yahoo.com

BUỔI LỄ TƯỞNG NIỆM & TRUY PHONG CẤP DŨNG
HUYNH TRƯỞNG NGUYÊN THÂN LÊ KHẮC KỶ
GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM HẢI NGOẠI TẠI HOA KỲ

Bàn thờ Hương linh Htr Nguyên Thân Lê Khắc Kỷ với Huy hiệu Cấp Dũng
Bàn thờ Hương linh Htr Nguyên Thân Lê Khắc Kỷ với Huy hiệu Cấp Dũng
Huynh trưởng NguyênThân Khắc Kỷ từ trần ngày 25 tháng 3 năm 2016 tại tư gia, Fontana, tiểu bang California. Hưởng thọ 78 tuổi.
Buổi lễ Cầu siêu, Thăm viếng và Tiễn đưa đã được tổ chức tại nhà quàn Thiên Môn, thị xã Wesminster, Hoa Kỳ từ 9 giờ sang đến 9 giờ tối ngày 30 tháng 3 năm 2016 ; và sau đó quan tài được chuyển lên máy bay đưa về an tang tại quê nhà làng Phú Ốc, Văn Xá, thuộc quận HươngTrà, tỉnh Thừa Thiên, Việt Nam.
Tang quyến và bằng hữu trong ngày lễ tang
Tang quyến và bằng hữu trong ngày lễ tang
Khi Anh nằm xuống mới càng thấy rõ hơn đức hạnh của anh. Chỉ trong vòng 12 tiếng đồng hồ, liên tục bà con, thân quyến, bạn hữu, các hội đoàn CSQG, các vị Tôn túc Sư, Ni cùng với các Huynh trưởng GĐPT trong vùng đến hộ niệm cầu siêu, số lượng lên đến cả ngàn người !
Lễ Truy phong cấp “Dũng” cho cố Huynh trưởng Nguyên Thân Lê Khắc Kỷ đã diễn ra trong không khí trang nghiêm, phấn khởi. Các Huynh trưởng GDPT tại Hoa Kỳ đều trang trọng đứng lên làm lễ theo sau tiếng hô “Phật tử” của H.Tr Lê Bảo, người điều khiển chương trình. Tất cả mọi người trong bộ y phục Phật tử bắt tay phải chào “Tâm Ấn” và đồng điệu hô to “Tinh Tấn” như xé tan bầu không khí “sanh tử chia lìa” để lắng nghe quyết định truy phong mang số 2016 –O1/TVTN/QD/TVT ngày 29 tháng 3 năm 2016 do Hòa Thượng Thích Huyền Việt, Tổng vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ ấn ký.
Thật là một vinh dự lớn lao không những đến với gia đình cố huynh trưởng cấp “Dũng” Nguyên Thân Lê Khắc Kỷ ; mà đây còn là vinh dự đối với Liên đoàn và Đoàn sinh cựu Huynh trưởng Gia Đình Phật tử Việt Nam Hải Ngoại tại Hoa Kỳ !
Đoàn kỳ Sen Trắng của Gia Đình Phật tử Việt Nam trong ngày Tang lễ
Đoàn kỳ Sen Trắng của Gia Đình Phật tử Việt Nam trong ngày Tang lễ
Tổ chức Cựu Huynh Trưởng được thành lập từ Đại hội Gia Đình Phật tử toàn quốc năm 1973 tại Đà Nẵng, để đáp ứng với hoàn cảnh nhu cầu của tổ chức lúc bấy giờ, đa số các Huynh Trưởng phải rời đơn vị G.Đ.P.T để nhập ngũ bảo vệ lãnh thổ Việt Nam Cộng hoà ở miền Nam. Khi các Huynh Trưởng đi đến địa phương nào, muốn sinh hoạt G.Đ.P.T, cần có “sách tịch gốc” (cũ) để xác nhận tư cách của mình, và danh từ “Cựu Huynh Trưởng” có từ đó, như trường hợp ca cố cựu Huynh trưởng Nguyên Thân Lê Khắc Kỷ. Quá trình hoạt động của anh như sau :
- Năm 1957 – 1960 : Liên đoàn trưởng Gia Đình Phật tử Văn Xá, Hương Trà, Thừa Thiên.
- Năm 1961 – 1963 : Cố vấn ban Huynh Trưởng Gia Đình Phật tử Chơn Dũng, Bình Sơn, Quảng Ngải
- Năm 1968 – 1975 : Gia trưởng Gia Đình Phật tử Văn Xá,Hương trà,Thừa Thiên.
- Năm 1969 – 1975 : Ủy viên Ban Hướng Dẫn Gia đình Phật Tử Thừa Thiên Huế, Đại diện Ban Hướng Dẫn tỉnh Thừa Thiên tại Quận Hương Trà, gồm 21 đơn vị GĐPT…
Sang Hoa Kỳ :
- Năm 2001 : Tổ chức tái sinh hoạt đơn vị Gia Đình Phật tử Pháp Vân và Cố vấn ban Huynh trưởng.
- Năm 2001 – 2011 : Cố vấn ban Huynh trường Gia Đình Phật tử Pháp Vân từ khi thành lập đến nay.
- Chức vụ cuối cùng của Cố Huynh Trưởng là Đoàn trưởng ĐOÀN CỰU HUYNH TRƯỞNG và ĐOÀN SINH GĐPT VÙNG POMONA và PHỤ CẬN.
Tấm gương của cố Huynh Trưởng Nguyên Thân Lê Khắc Kỷ phản ảnh tinh thần của câu châm ngôn : ”MỘT NGÀY LÀM HUYNH TRƯỞNG, SUỐT ĐỜI LÀ HUYNH TRƯƠNG”, câu khẩu hiệu treo trước Hội trường trong ngày Đại hội thành lập Liên Đoàn và Đoàn Cựu Huyng Trưởng toàn quốc năm 2010 tại Nam California vùng Little Saigon.
Môt vài ý kiến thô thiển trong buổi lễ tưởng niệm và truy phong cấp DŨNG Cựu Huynh Trưởng Nguyên Thân Lê Khắc Kỷ, xin cầu nguyện hương linh Anh sớm tiêu diêu miền cực lạc !
Xin mạo muội tường trình một vài nhận định thô thiển trong buổi lể tiễn đưa cố Huynh Trưởng Nguyên Thân Lê Khắc Kỷ. Kính cẩn đảnh lễ Hòa thượng Thích Huyền Việt trong sự việc ấn ký truy phong cấp “Dũng” cho cố Huynh trưởng Nguyên Thân Lê Khắc Kỷ.
Thân ái kính chào tinh tấn,
Nguyên Chánh Võ Văn Bằng và Nguyên Hùng tường trình từ Nam California, Hoa kỳ

No comments:

Post a Comment