VƯỜN THƠ
PHƠI-PHỚI
Thanh Thanh
Đạp nhẹ chân cho xe chạy chậml
Phổi phồng khoan-khoái khí ban mai.
Trời không nóng, lạnh; trời âm-ấm;
Tôi thấy lâng-lâng nhẹ cả người.
Sớm nay, Xuân mới về theo gió,
Dáng-dấp duyên-duyên những phút đầu.
(Thiên-hạ vô-tình từ vạn thuở
Có cùng thông-cảm với tôi đâu!)
Ngựa xe rộn-rịp qua muôn nẻo,
Hình-ảnh cuồng quay, loạn dấu đường.
Không hội mà tin ngầm mách-lẻo,
Kéo về tụ-họp khách mười phương.
Vớ-vẩn đôi môi nhoẻn nụ cười,
Sớt chia cho họ nỗi lòng tôi.
Chao! quen thân quá, chào không ngớt!
– Bốn bể là nhà, bạn-hữu ơi!
Hoa sống vườn ai nở ngập đường,
Đóa thì lơi-lả, đóa đoan-trang.
Có đàn em nhỏ – ngây-thơ quá –
Trán đẹp xinh như những mái trường.
Đất rộng, sông dài, trời cao xa,
Lượng lòng tôi cũng rộng bao-la.
Những người chỉ đáng cho khinh-ghét
Cũng dễ thương như gái nõn-nà!
Cuộc sống ai tô nét vẽ thuần,
Tươi như hoa thắm buổi đầu xuân,
Xinh như mộng-ảnh ngày xanh trẻ,
Và thiết-tha như khúc nhạc hồng!
Những ý tình xen những nỗi-niềm;
Ước gì thâu-góp lại thành phim,
Ghi trong ký-ức thời niên-thiếu
Để những khi buồn chiếu lại xem!
THANH-THANH
Khi Tôi ChẾt
Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì.
Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẻ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.
Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
Bởi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình , lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.
Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,
Trỗi nhạc vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.
Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai.
Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê.
Thì cũng C, H, Ô, N kết lại,
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì,
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái,
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.
TRÀM CÀ MAU
when i have died
If you feel like lazy, lie down at home freely;
What use to visit, some minutes adds nothing really.
Eyes are closed. Body cold. Skin bluish pale.
Even vermilion/paint applied: still dark deep stale.
I have gone first, we will meet there at that place.
Nobody can exuviate to live for ever in this space.
One ahead, others next, queuing to graves pure;
Who knows where is the beginning of the tour.
If you weep, just weep for those remaining
From now on missing confidences entertaining;
They also lose cordial figures and words to nurse:
Such mutual aid, oh, that is a misstep in universe.
Do not publish the obituary, condolences in papers
Since the ordinary things wasted are only vapors;
Instead buy rice to help the poor and indigent
Soothing the grief of people humble but exigent.
Start festal music so everybody aware of the game
That in this world life and death are of the same.
Once lying down, arms loose, eyes shut, all is chill,
Then, happiness or distress both are equally nil.
Do not build, inscribe my name/age on a tombstone;
Years will have passed, no one will have shown.
The macrocosm is immense, time succeeds time,
Billions and billions have died since the prime.
When I am dead, my funeral? do not solemnize.
Cremate it, send the ash to my country to localize.
With friends is like at home on the globe any part;
Inside myself there is still always that fervid heart.
Then, it is what that collects, compacts, maintains:
There is no difference between corpse and remains.
But the native land is with affection overflowing;
Let me return there, even as dull dust, unknowing.
TAO XIN LỖI MÀY…
Chu Tất Tiến.
(Viết thay cho một số chiến hữu đang áo gấm về làng.)
Biết viết gì đây! Nói gì đây?
Khi tâm tư đang xáo trộn, đang say
Lũ kỷ niệm chợt quay cuồng gió lốc
Tao chợt thấy, mày ơi! Tao thèm khóc
Mà mắt khô, không nhỏ được giọt nào!
Trái tim tao đang xáo trộn, lao đao
Vì máu, lệ cứ xôn xao bốc lửa!
Tao nghẹn lời, mày ơi! Tao vẫn nợ
Nợ ngày nào, trên ngưỡng cửa tử sinh
Tao đã bỏ đi, mày ở lại một mình
Súng vẫn cầm tay, mày bình tĩnh như không
Chờ giặc đến, nụ cười khan, nóng bỏng
Khói lửa quanh người, vẫn còn hơi nóng
Mày tỉnh bơ, châm điếu thuốc trên môi…
Còn tao? Tao… đã chạy! Trời ơi!
Giờ nhớ lại…Tao gục đầu xấu hổ!
Khốn nạn nhất, giờ đây..Không còn tiếng nổ!
Tao vênh vang về thăm lại quê hương
Gặp họ hàng, tao giả bộ nhớ thương
Nhưng thực tế, thăm mấy người em gái…
Qua xóm thăm mày, tao mới thấy mình dại..
Vì mày chỉ một chân, nhưng dũng khí hiên ngang
Mày ngồi xe lăn, mỉm nụ cười khan:
“Chào người Việt Kiều! Chúc mừng người bạn!”
Tao cảm thấy thân mình như trúng đạn
B 40 cũng chỉ nổ thế thôi!
Quần áo tao sang, nhưng chợt thấy mùi hôi
Mùi hèn nhát của một thằng bỏ bạn!
Bỏ chiến hữu nằm giữa hai lằn đạn!
Để giữ gìn một sinh mạng nhỏ nhoi
Giờ đây, áo gấm về làng, ôi! Nhục! Trời ơi!
Khi vết máu vẫn còn loang trên cỏ
Bạn bè ta vẫn còn gông quàng cổ!
Vẫn còn thằng nằm tù ngục hoang sơ!
Tao còn nợ mày nhưng lại sống thờ ơ!
Sống hãnh tiến làm môt thằng vô cảm.
Thôi! Tao xin mày! Đừng nhìn tao lãnh đạm!
Nụ cười mày đã đâm thấu tim tao
Tao van mày hãy nhớ lại năm nào
Hai đứa đã chia nhau từng viên đạn
Để tha cho tao! Lần cuối cùng thôi! Nghe bạn!
Cho tao vẫn còn một chiến sĩ như xưa
Giờ đây tay không súng, nhưng không thừa
Tao sẽ chiến đấu trên một mặt trận khác
Và nhất định không bỏ đi, dù một tấc
Đất quê hương, đất bạn đã từng nằm
Cho tao được bắt tay để xiết lại tình thâm
Tao ôm mày nhé! Thằng bạn què dũng sĩ!
Chu Tất Tiến, 2016
Tuổi hưu
Tuổi hưu nào có nể ai !
Cuộc đời bước ngắn bước dài tới nơi !
Tuổi hưu là tuổi ăn chơi;
Sáng, trưa, chiều, tối hết ngồi lại đi.
Tuổi hưu là tuổi dậy thì,
Rất mê bác sĩ, thuốc gì cũng nghe.
Tuổi hưu thích gặp bạn bè;
Liền anh liền chị, dưa lê buôn dài.
Tuổi hưu là tuổi thành tài,
Được con bổ nhiệm trông vài nhân viên.
Tuổi hưu là tuổi thần tiên,
Một mình lo liệu chẳng phiền cháu con.
Tuổi hưu là tuổi trăng tròn,
Khớp xương nhức mỏi, mạch còn vữa xơ…
Tuổi hưu là tuổi mộng mơ,
Đêm đêm thao thức nằm chờ bình minh.
Tuổi hưu là tuổi si tình,
Mắt nhìn đắm đuối một hình hóa hai .
Tuổi hưu như giọt sương mai,
Tinh mơ luyện tập kéo dài tuổi xuân.
Tuổi hưu chưa muốn dừng chân,
Vẫn ham tranh luận chuyện gần chuyện xa.
Tuổi hưu ông vẫn chưa già,
Nếp nhăn trên trán, ấy là sợi yêu.
Tuổi hưu tô phấn hơi nhiều,
Cụ bà chứng tỏ tình yêu mặn mà.
Hết hưu về với ông bà,
“Ngồi sau nải chuối ngắm gà khỏa thân”.
Chẳng ai sống mãi cõi trần,
Về hưu tếu táo, góp phần vui tươi.
Gặp nhau thì hãy vui cười,
Tuổi hưu sống khỏe, vui tươi an lành !
LÊ THANH HOÀNG DÂN * NƯỚC MỸ
Tiết lộ của một Việt kiều về điều hay nhất của nước Mỹ
07/03/2016 02:00 GMT+7
Nước Mỹ
không phải thiên đàng, nhưng cũng không phải địa ngục. Nước Mỹ hay nhất thế giới
ở chỗ chấp nhận những người đến đây làm việc, cố gắng, cần cù.
Thấy tôi du lịch khắp nơi, nhiều bạn tưởng tôi nhiều tiền. Sự
thật tôi chỉ là một người Mỹ trung bình. Thời tuổi trẻ tôi làm việc hùng hục như
người Mỹ. Làm việc nhiều, đóng thuế nhiều, để dành nhiều.
Ngày già, tôi cũng như nhiều người Mỹ thuộc giới trung lưu,
có lợi tức khả quan, lãnh mỗi tháng đến chết. Những người Việt Nam không may mắn
đến đây lúc tuổi già, lãnh tiền nhân đạo mỗi tháng 500-600 đô la đem về Việt Nam
sống là vua rồi. Người Mỹ trung bình lương hưu trí nhiều hơn vậy nên cuộc sống
đáng sống lắm.
Đầu tháng 5 năm 1975, chúng tôi đã đến New York, theo phái
đoàn nhân viên ngân hàng Chase Sài Gòn. Lúc đó, báo chí Mỹ như tờ “The New York
Times” đều đăng tin. Mỗi gia đình nhân viên Chase Sài Gòn được một gia đình chức
sắc Chase New York nhận về giúp đỡ một thời gian. Lúc chúng tôi hiểu rõ hơn về
đời sống ở Mỹ, và thoải mái phần nào với tiếng Mỹ, chúng tôi được ra riêng, dọn
về khu phố nhiều người Việt Nam sống.
Ưu điểm của người Việt ở Mỹ là cần cù, cố gắng làm việc, tinh thần trách nhiệm, làm việc hết mình, không so đo, cải cọ hay bực bội với sếp hay đồng nghiệp. (Ảnh minh họa) |
Lúc chúng tôi ra riêng, ở khu tôi ở có một vài gia đình người
Việt Nam cũng mới đến đây như tôi. Sống chung với đồng hương trong xóm cũng hay
lắm. Thỉnh thoảng, ngày nghỉ đi chợ, nghe họ nói tiếng Việt với nhau, tôi thấy
trong lòng vui quá, đỡ nhớ nhà.
Thời mới đến, tôi nhớ nhà nhiều lắm. Mỗi lần nghe John Denver
ca bản "Country road take me home" (Đường làng ơi, hãy đưa tôi về nhà...) tôi
lại khóc tức tưởi, rất buồn. Hoặc mỗi lần nghe Madonna ca bản “Don’t Cry For Me
Argentina” (Argentina ơi, đừng khóc cho tôi...), tôi bắt đầu khóc.
Lúc ban đầu, trong xóm tôi ở chỉ có vài gia đình ngân hàng
Chase. Nhân viên Chase Sài Gòn được chia làm hai nhóm định cư.
Nhóm có lợi tức cao, gia đình ít con, mướn nhà ở một khu
khang trang bên Hoboken, tiểu bang New Jersey, bên kia sông Hudson.
Nhóm có lợi tức thấp, gia đình đông con, mướn nhà ở một khu
rẻ tiền hơn ở quận Queens thành phố New York. Gia đình tôi ở khu này, vợ chồng
và 4 con ở chen chúc trong căn hộ (apartment) 2 phòng ngủ.
Dần dà người Việt Nam từ từ dọn đến khu tôi ở, vừa rẻ, vừa có
sẵn một nhóm Việt Nam, vui lắm. Người Việt tới đông quá, nên tôi thường gọi đây
là Xóm Việt Nam. Lúc đó chúng tôi đối xử với nhau như người Việt Nam sống xa quê
hương, không phân biệt Công Giáo, Phật Giáo, hay địa phương.
Hoàn cảnh lịch sử làm chúng tôi hiểu nhau hơn, thương nhau
hơn, đời sống tinh thần của chúng tôi phong phú hơn. Người Nam nấu ăn món Nam,
xong mời bạn bè Bắc và Trung thưởng thức. Ngược lại, tôi cũng được các gia đình
Trung và Bắc mời mọc, nên chúng tôi hiểu văn hóa của nhau nhiều hơn, chấp nhận
nhau hơn lúc ở Sài Gòn.
Gia đình của tôi sau này là một nước Việt Nam nho nhỏ. Con rể
của tôi là người Bắc Hà Nội di cư. Dâu của tôi người Huế, chưa bao giờ biết Sài
Gòn. Đặc biệt gia đình bên dâu của tôi gốc người Hoa (người Việt gốc Hoa). Đúng
như một người nào đó nói, Mỹ là một "melting pot - nồi lẩu", một nơi hóa giải
mọi khác biệt màu da, chủng tộc, và địa phương.
Nhờ sống chung với nhau trong xóm, nên chúng tôi ủng hộ tinh
thần lẫn nhau, mạnh dạn bắt đầu lại. Chúng tôi cùng chung hoàn cảnh, nên hiểu
nhau, chia sẻ kinh nghiệm với nhau, nên mặc dầu sống dưới đáy xã hội, chúng tôi
cũng chịu được. Ai cũng cố gắng tìm việc làm, ai cũng có gắng gởi thùng đồ về
cho gia đình bên Việt Nam bán lại.
Sống trong xóm Việt Nam vui lắm. Lúc đó trong xóm có hai bà,
một bà đui và một bà què. Bà đui cõng bà què đi chợ, nói chuyện tiếng Việt inh
ỏi, ngồi uống cà phê ngó ra cửa sổ nhìn cảnh tượng này, tôi thấy thương người
Việt Nam mình vô cùng.
Nhờ sống gần nhau, nên mỗi dịp cuối tuần, các bà bày ra nấu
ăn món này món kia, thí nghiệm cách dùng "ingredient" (nguyên liệu) tìm được ở
chợ Mỹ, để biến chế nấu nướng các món ăn Việt Nam. Đây là một kỹ năng quí giá,
ai học được, hay nói đúng hơn khám phá ra được cách nấu, truyền thụ và chia sẻ
với các bạn trong xóm, nên cuộc đời dễ chịu lắm. Ở Mỹ mà còn ăn được thức ăn
Việt Nam, lúc đó quí lắm.
Gần xóm tôi ở có một nhà thờ công giáo. Ở đây có một Cha
người Việt từ Rome qua sống. Nhờ ông tổ chức thỉnh thoảng người Việt Nam gặp
nhau, ăn cơm Việt, ca hát tiếng Việt. Tinh thần Việt Nam trong xóm nhờ vậy đỡ cô
đơn, sống lây lất qua ngày mấy năm. Mỗi lần tổ chức như vậy, vợ tôi nấu nướng
một số thức ăn đem tới, con tôi tham gia văn nghệ giúp vui, cuộc sống như vậy
cũng bận rộn, nếu không muốn nói là vui.
Tôi bận rộn nhiều, vừa học vừa đi làm. Cuộc đời chỉ dễ thở
khi tôi dứt khoác với quá khứ dạy học, viết văn, làm sách ở Sài Gòn, để học MBA
chuyên môn về vi tính áp dụng trong thương mại. MBA là Master of Business
Administration (Thạc sĩ quản lý kinh doanh). Hơn 35 năm trước, Phố Wall cần tự
động hoá (automation), nên những người như tôi dễ kiếm việc làm lắm. Cuộc đời
tôi thay đổi từ đó.
“Tôi thấy nhiều bạn hiểu sai về xã hội Mỹ. Nhiều bạn nói đến Mỹ không cần làm gì cả, cuối tháng Obama liệng tiền qua cửa sổ cho bạn xài” (Ảnh minh họa) |
Ưu điểm của người Mỹ gốc Việt thế hệ tôi ra đi năm 1975, là
chúng tôi đã có sẵn một mớ kiến thức đại học, nên dễ dàng học lại ở Mỹ. Học xong
MBA, tôi còn học thêm nhiều "Advanced Certificate" về Tài Chánh (Finance), và
Business Economics (kinh tế học áp dụng trong quản trị xí nghiệp) v.v.., nên khả
năng chuyên môn được quí trọng ở Phố Wall lúc đó.
Ở Mỹ nếu các bạn tìm được việc làm đúng khả năng, lương bổng
ở đây thoải mái lắm. Làm việc ở Phố Wall vài năm, lần vui nhất là tôi được hãng
Consultant (Cố vấn, chuyên viên) nơi tôi làm việc thưởng một chuyến du lịch Âu
Châu cho vợ chồng. Lúc đó họ nói là tặng chúng tôi "A trip for two" (một chuyến
du hành cho 2 người), hay lắm.
Từ đó cuộc đời tôi đã đổi khác. Thú vui du lịch, đi, thấy, và
hiểu thế giới bao la ngoài Việt Nam và Mỹ, bắt đầu nảy nở từ chuyến đi này. Từ
Mỹ tôi bay qua London thăm viếng thành phố này, sau đó đi Pháp, Bỉ, Tây Đức, Áo,
Ý Đại Lợi, và Paris, sau đó bay trở về Mỹ. Thật là một chuyến du hành mở mang
kiến thức về thế giới.
Bây giờ nghĩ lại tôi thấy nước Mỹ không phải thiên đàng,
nhưng cũng không phải địa ngục. Nước Mỹ hay nhất thế giới ở chỗ chấp nhận những
người đến đây làm việc, cố gắng, cần cù.
Đặc biệt, họ rất đãi ngộ những chuyên viên giúp đất nước này
khá hơn. Các bạn nghe nói nhiều về một vài người Việt Nam thành công ở Mỹ, giàu
có, tiếng tăm, quyền lực.
Tôi chỉ là một người Mỹ trung bình, không quyền lực, không
tiếng tăm, không giàu có nhưng tôi cũng sống được tự do như mọi người. Đó là
điểm son của xã hội Mỹ.
Đọc blog các bạn, tôi thấy nhiều bạn hiểu sai về xã hội Mỹ.
Nhiều bạn nói đến Mỹ không cần làm gì cả, cuối tháng, Tổng thống Obama liệng
tiền qua cửa sổ cho bạn xài. Cứ ở không tha hồ đi chơi, ở Mỹ ăn mì gói, để dành
tiền về Việt Nam làm Vua.Thật tình ở Mỹ, nếu các bạn ở không các bạn cũng sống
được, nhưng không huy hoàng và đáng sống bằng người cố gắng làm việc.
Người Mỹ trả lương theo khả năng. Nếu các bạn có bằng Kỹ sư
mà người Mỹ cần, họ có thể trả bạn trung bình $60,000 lúc mới ra trường, từ đó
đi lên.
Ở đây các bạn không cần tham nhũng, ức hiếp dân lành, cũng đủ
tiền sống cuộc đời đáng sống. Cháu tôi đang học đại học năm tới ra trường. Mùa
hè vừa qua cháu làm việc, lương tương đương với một người $60,000 một năm.
Lê Thanh Hoàng Dân (người Việt sống ở Mỹ từ năm
1975 đến nay)
http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/292147/tiet-lo-cua-mot-viet-kieu-ve-dieu-hay-nhat-cua-nuoc-my.html
LÊ DINH * VIỆT CỘNG
Hai tiếng này, tôi không hiểu sao, cho đến ngày nay, nó trở thành hai tiếng xấu xa, kinh tởm nhất trong số những danh từ để ám chỉ những hạng người mà ai ai cũng oán ghét, hận thù và muốn xa lánh. Nhưng hai tiếng Việt Cộng nguyên thủy đâu có gì là xấu xa, nó chỉ là một danh từ ghép thường thôi, như rừng núi, biển khơi, đồng áng… nhưng theo thời gian biến đổi, nó trở thành một danh từ ghê tởm và rùng rợn lúc nào chúng ta không hay.
Nếu ai chỉ một tên nào đó mà nói “Mày là thằng Việt Cộng” thì có nghĩa người đó là một người xấu xa nhất trong xã hội hiện nay. Chẳng thà chửi cha người ta, người ta không giận bằng chửi “Mày là thằng Việt Cộng”. Như vậy đủ biết hai chữ Việt Cộng bị người đời thù ghét như thế nào rồi. Mà nghĩ cũng đúng thôi.
Nhớ lúc tôi còn nhỏ, năm tôi 11 tuổi, còn học ở trường Tiểu học Vĩnh Lợi, cách làng Vĩnh Hựu của tôi chừng ba cây số. Mỗi sáng thứ hai đầu tuần, mẹ tôi phải đưa tôi đến trường và tôi lưu trú tại nhà dì tôi cho đến cuối tuần mới trở về Vĩnh Hựu. Một buổi sáng thứ hai đầu tuần, cũng như mọi khi, mẹ tôi xếp đâu 2 chục trứng gà vào một cái giỏ để khi đưa tôi đến trường xong là mẹ tôi ra chợ bán 2 chục trứng gà đó, lấy tiền mua các thức ăn khô khác. Hai mẹ con đang đi, độ còn nửa đường là tới làng Vĩnh Lợi, thình lình trong một bụi cây rậm rạp, có một người mặc đồ đen, tay cầm khẩu súng ngắn sáng loáng, nhảy ra chận mẹ con tôi lại, quát to: Đứng lại! Anh ta đưa họng súng ngay truớc trán mẹ tôi, rồi đưa sang qua tôi, quơ qua quơ lại trên đầu tôi, hỏi mẹ con tôi có phải đem trứng ra chợ để bán cho Tây không? (Lúc đó, ở tại chợ Vĩnh Lợi, ngay phía bên kia đầu cầu sắt, có một cái đồn của người Pháp đóng tại đó). Mẹ tôi run run nói:
– Dạ thưa ông, đâu phải, tôi đem trứng này ra chợ bán để lấy tiền mua thức ăn.
– Chứ không phải mẹ con bà đem lương thực cung cấp cho Tây sao?
– Dạ thưa ông, đâu có phải như vậy.
– Thôi lần này tôi tha cho mẹ con bà đó, nhưng giỏ trứng thì bị Ủy ban tịch thu. Nhớ lần sau, còn gặp mẹ con bà đem trứng ra chợ như vậy nữa là tôi sẽ
bắn bỏ.
– Dạ mẹ con tôi đội ơn ông.
Thật hú hồn hú vía. Lần đầu tiên trong đời, tôi mới nhìn thấy khẩu súng lục. Sao nó uy dũng, hiên ngang, trông rất dễ sợ. Và cũng lần đầu tiên trong đời tôi mới biết đó là những kẻ gọi là Việt Minh, những người mặc đồ đen, đầu quấn khăn rằn, rồi sau này trở thành Việt Cộng và hai chữ Việt Cộng đã ám ảnh tôi từ suốt thời bé thơ cho đến khi khôn lớn.
Nếu không có lần bị đón đường, bị đe dọa bắn bỏ hôm đó, tôi đã trở thành một tên Việt Minh từ thời trẻ dại này rồi. Tôi còn nhớ rất rõ, ở tuổi 11, 12, tôi say mê những bài hát êm đềm, như:
“Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
Bên đèo lắng suối reo, ngàn thông reo
Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
Bên đèo đoàn quân réo, đạn bay vèo…”
Hay hùng dũng, như:
“Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến…”
Hoặc:
“Đoàn giải phóng quân một lòng ra đi
Nào có sá chi đâu ngày trở về…”
Và còn nữa:
“Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng
Kiếm nguồn tươi sáng…”
Hay là những bài thơ mà giờ đây hơn 60 năm qua, tôi vẫn còn nguyên trong trí nhớ:
“Tôi muốn tôi là một cứu thương
Cạnh theo chiến sĩ đến sa trường
Nằm lăn trên lá hay rơm ủ
Băng trắng đầu mình những vết thương”
Thật là lãng mạn, thật là dễ thương. Làm sao mà tôi không bị quyến rũ bởi nét nhạc, lời thơ như vậy được. Cho nên tôi có ý nghĩ là mình sẽ phải theo mấy anh lớn để được vào bưng, được nghe tiếng suối reo, ngàn thông reo, được nằm lăn trên lá hay rơm ủ, được nữ y tá săn sóc vết thương… Rồi một ngày nọ, tôi được theo đoàn biểu tình đi bộ từ làng Vĩnh Hựu của tôi lên tới tỉnh Gò Công, cách xa làng tôi 14 cây số, để gọi là… ủng hộ Việt Minh. Thức dậy từ 3 giờ khuya, chuẩn bị cơm vắt muối mè, tập hợp lại rồi tháp tùng đoàn người, đi theo nhịp trống quân hành “rập rập thùng, rập rập thùng”… lội bộ suốt 14 cây số, nhờ vừa đi vừa hát “Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng”, cho nên thằng con nít 11 tuổi như tôi, khi đến nơi, nào có thấy chút mệt mỏi gì đâu? Nhưng sau lần gặp gã Việt Minh với khẩu súng giết người đó, tôi đã bừng tỉnh giấc mơ bỏ học, trốn cha mẹ để ra bưng biền.
Việt Cộng! Chỉ hai tiếng thôi, nhưng sao thiên hạ hoảng hốt, kinh hoàng khi nghe đến nó. Năm 1954, một triệu đồng bào miền Bắc, cũng vì hai tiếng Việt Cộng ghê gớm này mà phải bỏ hết của cải, quê hương, làng xóm, mồ mả ông bà để chạy vào miền Nam xa lắc xa lơ, trốn khỏi bè lũ Việt Cộng !!!! Năm 1975 cũng vậy, vì hai tiếng Việt Cộng khủng khiếp này mà hơn hai triệu người dân miền Nam phải liều chết, bằng đủ mọi cách để lánh xa loài quỷ dữ !!! Ở thôn quê miền Nam, khi nghe mấy tiếng “Việt Cộng về” hay “Mấy ổng VC về” là bà con gồng gánh, già trẻ, bé lớn chạy trối chết về phía thành phố để trốn khỏi bọn Việt Cộng !!!!!!
Rồi nào Việt Cộng pháo kích vào thành phố, vào quận lỵ giết hại dân lành, giết hại trẻ thơ nơi trường học. Việt Cộng đào lộ, đấp mô, đặt mìn, phá cầu… Còn Việt Cộng ngày nay ở trên toàn lãnh thổ VN , thì ngoài các tội ác tham nhũng , cướp của , đánh đập , tra tấn dân lành , giết dân , đòi tiền , bóc lột , sống trên xương máu nhân dân thì còn tội bán nước, buôn dân, bàn tay chúng phạm trăm ngàn thứ tội ác độc dữ , kinh khiếp !!!!!!!! Việt Cộng ngày nay bán rừng, bán biển, bán giang sơn cha ông cho Tàu ... Việt Cộng ngày nay độc ác, tàn nhẫn với dân chúng, nhưng co ro, cúm rúm , run sợ trước thằng Tàu Trung quốc còn hơn sợ ông nội, ông cố của chúng, bắt dân bỏ tù nếu dân đứng lên yêu nước chống lại lũ Hán , lũ Tàu chệt xâm lăng !!!!!
Rồi tôi miên man suy gẫm, không biết những tên tồi hèn , vô nhân , vô tâm , vô lương tri , vô đạo như Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng , Nguyễn xuân Phúc ( vô phúc ) , Trần đại Quang ( đại ngu , đại qủy ) .... Bọn chúng suy nghĩ sao – không biết những tên này có óc người để biết suy nghĩ không – chúng có thấy rằng sao mình đi đến đâu, thiên hạ bỏ chạy hết vậy? Mình giành được phân nửa xứ sở miền Bắc, đáng lẽ dân chúng phải ở lại với mình để kiến thiết xứ sở chứ, sao CÓ cả triệu người lại bỏ chạy vào Nam. Rồi mình cướp được luôn phân nửa miền Nam còn lại, thiên hạ lại ùn ùn bỏ chạy nữa, cả hơn hai triệu người xa lánh mình. Tại sao và tại sao ?? Chúng không tự đặt câu hỏi đó với chính chúng sao? Mình đi đến đâu thì người ta chạy trối chết khỏi nơi đó. Mình là thứ gì vậy? Nhìn hình ảnh cuộc di cư năm 1954, trên những chiếc tàu há mồm, nhìn những gương mặt hớt hơ hớt hãi, mất hồn, chạy đôn chạy đáo để rời khỏi Saigon tháng tư năm 1975, rồi nhìn những cảnh liều chết vượt biển lên đến cao điểm, từ năm 1975- 1980, nếu chúng là người, chúng phải suy nghĩ chứ? Mình cũng là người như họ, đầu, mắt , tay chân cũng đầy đủ như họ, tại sao họ sợ mình mà chạy hết như thế ?? Mình có phải là quỷ dữ hay ác thú gì chăng ?? !!! ....
Nhưng tôi nghĩ, Việt Cộng còn đáng sợ hơn là quỷ dữ nữa. Nhìn lại, từ cái thời bé thơ, thuở mà mẹ con tôi đem hai chục trứng gà ra chợ bán để có tiền mua thức ăn cho gia đình, đến ngày nay, đã hơn 60 năm trôi qua, tôi vẫn cảm thấy rùng mình, ghê sợ. Từ những việc bắt người cho mò tôm, thả xác trôi sông thuở đó, cho đến những vụ lường gạt, gian dối cướp giật của Việt Cộng ngày nay, nhìn sự dã man tàn ác của Việt Cộng đối với người dân cùng chung máu mủ … thật không thể nào tưởng tượng nổi. Quỷ chỉ nhát, chỉ hù người ta thôi, chứ không hại người ta, mà nếu quỷ có hại thì chỉ hại một người thôi. Còn Việt Cộng hại cả một dân tộc, tiệu diệt tất cả, đất đai, sông biển, núi rừng không còn, nhưng đó là nói về mặt những gì còn nhìn thấy được. Còn về mặt không nhìn thấy được thì là Việt Cộng tàn phá cả đạo đức, dung dưỡng tội ác, giết chết sự trong trắng trong lòng trẻ thơ, đưa nhiều thế hệ con em chúng ta vào vòng tối ám, dạy chúng dối trá, dạy chúng tội ác…đào tạo ra cả một đám người Ngợm không còn biết danh dự DÂn Tộc , không còn biết 1 chút liêm sĩ hay sợ sệt pháp luật nước ngoài , được du học hay công du ở nước ngoài mà đi ĂN CẮP, để đến nổi nhiều nước phải để bảng cảnh cáo bằng tiếng Việt " Ăn CẮp là tội phạm nặng ".
MẸ Việt Nam ơi !!! Chúng con là bao nhiêu người tốt mà không xóa được vết nhơ nầy. Các TỘi Ác của Việt CỘng nặng quá ...quá sức tưởng tượng... chả trách chi mà thánh Trạng Trình đã gọi chúng là Quỷ " Ma VƯơng sát Quỷ tướng. HOàng Thiên Tru Ma VƯơng "
Nhưng như vậy cũng chưa đủ. Những nguời đã quá sợ chúng mà bỏ xứ ra đi, để xứ cho chúng ở cũng chưa được yên thân. Chúng còn cho tay chân bộ hạ, núp bóng dưới danh nghĩa này, danh nghĩa nọ, chạy theo ra ngọai quốc để quyết hành hạ những người tỵ nạn Cộng Sản này cho đủ… 36 kiểu của chúng. Thật trời không dung, đất không tha. Ngày xưa, chúng đã chiếm được phân nửa nước Việt Nam, tưởng đâu rằng chúng cùng miền Nam thi đua làm cho dân giàu nước mạnh, nhưng như chúng ta đã biết, Việt Cộng cho đến 1975, còn chưa thấy cái thang máy “biết tàng hình” là gì, chưa được nhìn chiếc đồng hồ “12 trụ, 2 cửa sổ, không người lái” là gì, không hiểu cái bồn cầu “để rửa rau” hay để làm gì, trong khi miến Nam lúc đó đã là một trong những quốc gia tân tiến ở Đông Nam Á châu. Rồi lòng tham vô đáy, thực hành chủ nghĩa Cộng sản toàn cầu của chúng, chúng cướp luôn miền Nam. Thiên hạ lại bỏ chạy, chúng rượt theo ra đến ngoại quốc để áp dụng… 36 kiểu lên đầu lên cổ người đã sợ chúng mà bỏ chạy 36 năm trước.
Nếu tôi có làm anh muôn vàn bực tức, xin anh cứ chửi tôi là thằng mất dạy, thằng láu cá, thằng bỉ ổi, thằng đê tiện, thằng vô học, thằng… thằng gì cũng được, hay bảo tôi là thằng không cha không mẹ, hay là thằng do… con gì sanh ra cũng được nốt, nhưng xin đừng bảo tôi là Việt Cộng. Mày là thằng “Việt Cộng”, hai tiếng này nặng lắm, anh biết không? Nói như thế là anh chửi tôi đấy, mà chửi tôi thật nặng, đó là tiếng chửi ghê gớm nhất, đáng sợ nhất trong những tiếng chửi đương thời. Vì hai tiếng này đồng nghĩa với ác nhân, hung đảng, ác quỷ, ác tinh, man di, mọi rợ, lưu manh, gian xảo, côn đồ, thảo khấu…, loại quỷ quái tinh ma, nghĩa là bọn trời đánh thánh đâm, trời tru đất diệt.
Lê Dinh
__,_._,___
DU HỌC SINH VIỆT NAM KHÔNG VỀ NƯỚC
Vì sao 'nhân tài' Việt du học không về?
- 10 tháng 11 2015
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Ngọc Hòa mới đây được báo Tuổi Trẻ dẫn lại câu
hỏi: "vì sao 13 cháu đi du học, 12 cháu không về?" khi nói về sinh viên
Việt đi du học.
Cùng thời điểm đó, tại Đà Nẵng, Trung tâm nguồn nhân lực chất lượng cao
đã kiện chín học viên để đòi lại tiền đã tài trợ, vì sau khi du học
không quay về làm việc như cam kết.
BBC Tiếng Việt đã phỏng vấn Giáo sư Dương Nguyên Vũ – Viện trưởng Viện
John von Neumann – Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh về những vấn
đề của du học sinh khi quyết định “về hay ở”.
BBC: Theo ông, những người đã đi du học, trước quyết định về Việt Nam, họ mong đợi điều gì?
GS. Dương Nguyên Vũ: Với những du học sinh đi thời gian
ngắn như hai năm thì môi trường không phải chuyện rất quan trọng. Trong
hai năm họ tiếp cận với môi trường khác, họ sẽ hiểu môi trường ở Việt
Nam đang cần, thiếu những gì thì các bạn khi trở về có thể làm môi
trường ở đây tốt hơn.
Những bạn đi lâu hơn nhiều sau đại học như làm tiến sỹ thì phải đi bốn,
sáu thậm chí bảy năm. Khi về chắc chắn họ có sự bỡ ngỡ. Sự bỡ ngỡ này ở
trong đầu của mình, mình vẫn có thể thay đổi nó được.
Tuy nhiên, khi sống thời gian lâu trong môi trường điều kiện tốt hơn thì
khi về họ có so sánh và họ vẫn chưa sẵn sàng để nghĩ đến những gì lớn
hơn bản thân họ để chấp nhận điều kiện khó hơn.
Họ bắt đầu có suy nghĩ tôi nên ở lại hay đi về?
Ở lại thì môi trường làm việc tốt hơn, điều kiện công việc chuyên môn
tốt hơn, điều kiện sống cho gia đình tốt hơn, đã đi học bốn đến sáu năm
thì thường họ đã có gia đình và con cái.
Là
con người, lúc nào cũng thích điều tốt đẹp hơn cho cuộc sống và gia
đình. Và họ quyết định ở lại. Đó không phải là lỗi duy nhất của họ.Nếu chúng ta muốn họ về nước thì phải làm môi trường sẵn sàng cho họ, giúp họ thấy được sự khác biệt không nhiều lắm thì họ vẫn sẽ trở về.
BBC: Vậy một số yếu tố khiến họ không muốn quay về sau khi đi học là gì?
GS. Dương Nguyên Vũ: Trước khi tôi về Việt Nam, một trong những mục tiêu mà Đại Học Quốc Gia mong muốn chúng tôi làm là thu hút nhân tài ở nước ngoài về Việt Nam.
Do đó, chúng tôi làm một khảo sát với một số đông các nhà khoa học trẻ sau đại học ở các nước. Hơn 500 người tham dự. Kết quả khá thú vị:
86% họ đồng ý rằng điểm quan trọng nhất là môi trường làm việc. Tôi xin nhấn mạnh môi trường không phải là cơ sở vật chất mà là không gian gồm cơ sở vật chất, con người cũng như cách sinh hoạt.
Nếu như môi trường tiệm cận được với môi trường quốc tế thì họ sẵn sàng về.
Điểm thứ hai là công việc làm và sự thích thú trong việc làm, môi trường
để thăng tiến, đề tài hấp dẫn, vấn đề thách thức và họ có thể giải
quyết. Đó cũng là yếu tố giúp họ trở về.
Điểm thứ ba là tài chánh, trước kia tôi nghĩ đây là điều quan trọng nhất
nhưng thực ra nó chỉ nằm thứ ba thôi. Nếu họ có một cuộc sống tương đối
ổn định một chút, không phải chạy gạo, chạy cơm hàng ngày và không có
lương thấp lắm.
Lúc đó tôi khảo sát là năm 2008, với mức lương 1.000 USD có đến 60% đang học và làm ở nước ngoài sẵn sàng về nước.
Điểm thứ tư là khá quan trọng, xảy ra với một số học trò của tôi đã chọn
làm ở nước ngoài, đó là vì cuộc sống gia đình nhiều hơn. Ở tuổi của họ
28 - 30, bắt đầu có gia đình và con cái.
Khi có con cái họ có băn khoăn nuôi con, học hành thế nào. Đứa con trở
thành trọng tâm tư duy của họ và trọng tâm của tất cả quyết định gia
đình. Họ quyết định ở lại là vì con cái nhiều hơn bản thân họ.
Đó là những lý do tôi thấy đóng góp vào quyết định về hay ở của bạn trẻ.
Cam kết trở về là ''danh dự''
BBC: Vậy với những người học quay trở về, vậy lý do họ quay về là gì?
GS. Dương Nguyên Vũ: Trong những người tôi gặp, họ đi
về vì ước mơ đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam, ước mơ thay đổi
Việt Nam. Các bạn này ít bị nặng nợ gia đình, họ có quyết định tương đối
thoải mái. Một số các bạn có gia đình nhưng chưa có con.
Một số có con nhưng theo chương trình học bổng phải về nước làm hai năm nên họ về. Nhưng sau khi về rồi lại không muốn đi nữa.
Nói đơn giản, thì những bạn về họ có sự hi sinh những điều đó để được
cái lớn hơn, ví dụ họ khởi nghiệp, họ có một giấc mơ có ý nghĩa, có ảnh
hưởng lớn hơn đến xã hội.
BBC: Còn những sinh viên học các ngành công nghệ cao, có lối ra nào cho họ nếu quay về không?
GS. Dương Nguyên Vũ: Hiện giờ Việt Nam chưa đủ môi
trường khoa học để học phát huy được tiềm năng. Một bạn vừa xong tiến
sĩ, vừa học xong ở mức độ có thể làm được điều thú vị trong khoa học, ở
lửa tuổi 28 - 35, giấc mơ vẫn còn là làm việc, khẳng định lại vị trí bản
thân trong cộng đồng khoa học.
Khi về Việt Nam nếu không đủ môi trường phát triển như những lĩnh vực
đòi hỏi đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cao, thì họ sẽ phân vân.
Tôi có một cậu sinh viên rất mong mỏi về nước, nhưng đến khi xong tiến
sỹ rồi thì đam mê nghiên cứu khoa học lớn hơn quyết định ban đầu là về
Việt Nam. Bạn chọn ở lại để tiếp tục làm khoa học.
BBC: Ông có từng tiếp xúc với các sinh viên đi theo học bổng nhà nước, có cam kết trở về sau hai đến bốn năm không?
GS. Dương Nguyên Vũ: Tôi từng gặp các bạn theo chương trình 322, sau này gọi là 911 (Đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sỹ - PV).
Có bạn theo đề án 322, sau đó qua bên kia và lập gia đình với học trò của tôi theo học bổng của Pháp.
Tôi có gặp và nói chuyện với họ. Một số người lập gia đình, có con cũng khiến quyết định trở về khó khăn.
Nhưng tôi nghĩ khi mình quyết định đi theo học bổng nhà nước, mình ký
hợp đồng, trong đó mình có được sự tài trợ và cam kết trở về làm việc.
Theo tôi nghĩ đó là danh dự của lời nói. Mình phải tôn trọng danh dự và
lời nói của mình.
Chúng ta phải giữ lời. Quyết định lập gia đình, sống bên kia sống...
cũng cần đem ra suy nghĩ trước khi đi học. Đơn giản là một con người
phải tôn trọng lời nói đầu tiên, đó là danh dự.
Nếu ta không tôn trọng được danh dự của mình, thì chúng ta không thành việc gì cả.
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/11/151110_vietnam_talents_not_return
Tại sao sinh viên du học không về nước?
24.12.2015
Mấy tuần nay, trên báo chí trong nước cũng như trong các diễn đàn mạng,
người ta bàn tán sôi nổi về hiện tượng hầu hết những học sinh xuất sắc
nhất của Việt Nam, sau khi du học ở nước ngoài, đều không về nước. Theo
thống kê, hiện nay có trên 100,000 du học sinh rải rác ở nhiều quốc gia
trên khắp thế giới. Tôi không biết chính xác là bao nhiêu người trong họ
quyết định ở lại nước ngoài. Chỉ nghe nói là rất nhiều. Ví dụ thường
được nêu lên là trong số 13 học sinh thắng giải “Đường lên đỉnh Olympia”
và được đi du học, chỉ có một em, một em duy nhất, chịu về nước. Theo
kinh nghiệm của tôi, từ các môn tôi dạy vốn có khá đông sinh viên du học
ghi danh, số người nghĩ đến việc về nước sau khi tốt nghiệp chỉ là một
phần nhỏ, may lắm là một phần ba. Còn lại, tất cả đều hoặc phân vân hoặc
quyết định là sẽ tìm cách ở lại Úc.
Vấn đề là: tại sao nhiều sinh viên không muốn về Việt Nam sau khi tốt nghiệp?
Lý do đầu tiên các sinh viên của tôi nêu lên là họ không tự tin là sẽ
tìm ra được việc làm, nhất là những công việc thích hợp với chuyên môn
của họ. Thú thật, thoạt nghe lý do này, tôi hết sức băn khoăn. Tôi nghĩ
Việt Nam đang phát triển và đang cần nhân tài, những người được đào tạo
từ nước ngoài, do đó, trên lý thuyết, sẽ dễ dàng được trọng dụng. Nhưng
không phải. Tôi có một số sinh viên và người quen, sau khi học xong Cử
nhân hoặc có khi Thạc sĩ ở Úc, trong đó có nhiều người học về Y hoặc
Luật, sau khi về Việt Nam, chạy đôn chạy đáo để tìm việc cả năm trời vẫn
không được; sau, phải tìm cách quay lại và xin định cư tại Úc. Nguyên
nhân, người ta kể, là không có “quan hệ”. Ở Việt Nam, không có “quan hệ”
hoặc “tiền tệ” để đút lót, việc kiếm được việc làm tốt coi như vô vọng.
Ngược lại, tôi cũng biết khá nhiều người, thuộc “con cháu các cụ”
(CCCC), học hành không giỏi giang gì cả, sau khi về nước một thời gian
ngắn, được bổ dụng làm giám đốc công ty này công ty nọ. Bởi vậy, ở Việt
Nam mới có câu tục ngữ:
Thứ nhất hậu duệ
Thứ nhì quan hệ
Thứ ba tiền tệ
Thứ tư trí tuệ
Trong câu ấy, “trí tuệ”, tức khả năng chuyên môn, nằm ở cuối cùng. Thậm
chí, ở một biến thể của câu tục ngữ trên, nó còn không có mặt:
Thứ nhất tiền tệ
Thứ nhì hậu duệ
Thứ ba ngoại lệ
Thứ tư đồ đệ
Lý do thứ hai là lương bổng ở Việt Nam quá thấp. Nhiều người có bằng cử
nhân, khi về nước làm việc, lương mỗi tháng chỉ khoảng vài triệu đồng
Việt Nam, tương đương với vài trăm dollar; trong khi đó, nếu họ tìm được
việc làm ở Úc, lương khởi đầu trung bình là 4,5 chục ngàn dollar. Đành
là ở Úc, cũng như các quốc gia Tây phương khác, thuế cao và vật giá đắt
đỏ hơn ở Việt Nam, nhưng ngay cả sau khi trừ thuế và các khoản chi tiêu,
số tiền còn lại cũng nhiều hơn hẳn lương hướng ở Việt Nam. Ở đây, chúng
ta cần ghi nhận một điều: ở Việt Nam, phần lương thường khá khiêm tốn
nhưng phần bổng lại nhiều, có khi gấp chục, thậm chí, gấp trăm lần lương
thật, tuy nhiên, muốn có bổng lộc cao, người ta phải có chức tước lớn.
Mà muốn có chức tước lớn, điều kiện đầu tiên lại là “hậu duệ” hay “quan
hệ”. Với những người thân cô thế cô, thu nhập duy nhất chỉ có thể đến từ
lương. Mà lương lại èo uột. Trong số bạn bè của tôi ở Việt Nam, khá
nhiều người dạy đại học. Lương trung bình của một giảng viên đại học là
khoảng 6 triệu đồng (khoảng 300-400 Mỹ kim). Muốn tăng thu nhập, cách
duy nhất họ có thể làm được là dạy thật nhiều giờ ở nhiều trường khác
nhau. Có người dạy cả 3,4 chục giờ một tuần. Thú thật, nghe số giờ dạy
như vậy, tôi không thể tưởng tượng được. Tại Úc, ở bậc đại học, số giờ
dạy trung bình mỗi tuần của các giảng viên chỉ khoảng trên dưới 10
tiếng. Thì giờ còn lại là để nghiên cứu. Với số giờ dạy như ở Việt Nam,
công việc nghiên cứu hoàn toàn bất khả thi. Kiến thức của các thầy cô
giáo, do đó, cứ ngày một lạc hậu và mòn mỏi dần.
Lý do thứ ba là cơ chế và văn hoá làm việc ở Việt Nam hoàn toàn không
phù hợp với những người được đào tạo ở nước ngoài. Ở nước ngoài, đi làm,
mọi người được khuyến khích phát huy sáng kiến cũng như tinh thần độc
lập và việc thăng tiến trong nghề nghiệp được căn cứ chủ yếu trên khả
năng của mỗi người. Ở Việt Nam thì sự thành công tuỳ thuộc vào quan hệ
hơn là chuyên môn. Trong cái gọi là “quan hệ” ấy, ngoài chuyện con ông
cháu cha, còn một yếu tố quan trọng khác: làm sao vừa lòng cấp trên. Để
làm vừa lòng cấp trên, người ta thường có hai cách: đút lót hoặc nịnh
bợ. Cách nào cũng là một sự sỉ nhục đối với lòng tự trọng.
Không phải chỉ với những sinh viên mới tốt nghiệp, ngay cả những chuyên
gia có bằng cấp cao và chức vụ lớn ở hải ngoại, vì nhiệt tình, muốn về
Việt Nam để đóng góp vào việc xây dựng đất nước cũng gặp khó khăn với cơ
chế và văn hoá làm việc ở Việt Nam. Một trong những lời than thở tôi
nghe nhiều nhất là: Các cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam rất ít khi lắng nghe ý
kiến của họ. Hầu như người ta không thể chịu nổi sự phê phán. Nghe phê
phán, dù xuất phát từ nhiệt tình và thiện chí, người ta sa sầm nét mặt
ngay tức khắc. Thành ra, những người muốn đóng góp cho đất nước rất dễ
vỡ mộng. Phần lớn chỉ làm được một thời gian rồi cũng quay ra hải ngoại
trở lại. Điều đó giải thích tại sao mặc dù giới lãnh đạo Việt Nam thường
kêu gọi các chuyên gia ở hải ngoại về nước nhưng cho đến nay, số người
trở về rất ít ỏi. Số người chịu làm việc lâu dài lại càng ít ỏi. Chuyên
gia còn thế, huống gì là sinh viên mới ra trường.
Việc du học sinh, học xong, không về nước không phải là vấn đề liên quan
đến cá nhân của họ. Mà nó liên quan đến cả tiền đồ của đất nước. Ai
cũng biết, trong thời đại ngày nay, để phát triển, đất nước cần nhiều
thứ, trong đó, có một thứ quan trọng nhất là vốn trí thức. Đã đành không
phải ai tốt nghiệp ở nước ngoài cũng đều là những người giỏi nhưng ngay
cả những người không giỏi cũng là những người được đào tạo bài bản, với
những kiến thức được cập nhật và có căn bản ngoại ngữ tốt. Mất họ là
một thiệt thòi lớn của đất nước.
Sunday, April 10, 2016
ĐỖ ĐỨC MẬU * HỒ CHÍ MINH LỪA ĐẢO
Hồ Chí Minh và vụ lừa thế kỷ (Phần 1)
Đôi lời về tác giả: Ông
Đỗ Đức Mậu năm nay 83 tuổi. Ông nguyên là một giáo viên dạy sử tại Hải
Phòng. Trong khi còn công tác và nhiều năm sau khi đã nghỉ hưu, ông đã
không dám lên tiếng nhưng đến lúc cuối đời ông phải một lần nói lên sự
thật – dù sự thật đó chỉ là một bài viết nhưng ông muốn nhiều người,
nhất là thế hệ trẻ biết được chân dung thật sự của Hồ Chí Minh dưới góc
nhìn của một người dạy sử đã từng phục vụ chế độ. Bài viết này là một
bản đánh máy 18 trang chữ rất nhỏ mà tác giả muốn được đăng trên
Danlambao. Danlambao đánh máy lại và chia ra từng phần để gửi đến các
bạn đọc.
Việt Nam sau ngày 15/08/1945
Ngày 15/8/1945 kết thúc thế chiến thứ 2,
quân Nhật đầu hàng quân đồng minh. Ở Nam vĩ tuyến 16, quân Anh giải giới
xong quân Nhật thì đùn đẩy nhiệm vụ cho nước Pháp, nên quân đội Pháp đã
ở lại miền Nam Việt Nam. Điều này đã mở đầu cho cuộc chiến chống lại
người Pháp của những người Việt yêu nước. Trong khi đó, quân đội Tưởng
Giới Thạch được giao nhiệm vụ giải giới quân Nhật ở bắc vĩ tuyến 16.
Ngày
19 tháng 8 năm 1945, Mặt trận Việt Minh phá được cuộc mitting do ông
Phan Kế Toại tổ chức, nhằm vận động Tổng hội viên chức ủng hộ lá cờ vàng
ba vạch đỏ (của vua Bảo Đại). Khi mitting khai mạc thì người của Mặt
trận Việt Minh đã được cài vào, trưng cờ đỏ sao vàng ra, nhảy lên cướp
lễ đài và ném lá cờ vàng ba sọc đỏ từ nóc nhà hát lớn Hà Nội xuống (2).
Cuộc mitting thành cuộc biểu tình tuần hành và bắt đầu cuộc cướp chính
quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim.
Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn
độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (3). Ít ngày sau, 20
vạn quân của Tưởng Giới Thạch kéo sang. Ngày đó tôi mới hơn 10 tuổi,
nghe người lớn nói nhiều điều không hay về quân “Tầu Ô” nhưng tôi không
thấy họ nhũng nhiễu, hay làm điều xằng bậy ở đường phố.
Dưới áp lực của quân Tàu Tưởng, Hồ Chí
Minh phải thực hiện tổng tuyển cử tự do, có các đảng đối lập tham gia và
thành lập một chính phủ liên hiệp.
Bố tôi nhận xét: Quốc hội đầu tiên của
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là thực sự do dân bầu. Đại biểu quốc hội
đó là những nhân sĩ có tài có đức được dân tin như các ông: Bùi Bằng
Đoàn, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tường
Tam (4). Số đại biểu là đảng viên Cộng Sản chẳng có là bao nên hoàn toàn
bị lép về, các đảng phái đối lập thì được quân Tàu bênh che, ông Hồ Chí
Minh có nguy cơ bị mất ghế chủ tịch nước và như ông từng diễn tả tình
thế bấy giờ là “thù trong giặc ngoài”, “ngàn cây treo sợi tóc”. Đó là
tình thế của Hồ Chí Minh và ĐCSVN (chứ không phải tình thế đất nước).
Tình thế VN lúc bấy giờ cũng như các nước
khác ở Đông Nam Á: hòa bình, yên ổn. Vì đồng minh đã thỏa thuận để các
dân tộc nhược tiểu tự quyết. Vậy mà sao ông Hồ Chí Minh lại rên rỉ “Tình
thế ngàn cân treo sợi tóc”? Xin để bạn đọc nhận định (5).
Lẽ đương nhiên là Hồ Chí Minh phải ra tay
hóa giải cái tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” này đối với ĐCSVN. Ông ta
đã làm cách nào? Không phải khổ công suy nghĩ cũng phải thấy rằng những
việc Hồ Chí Minh và ĐCSVN phải làm là đẩy quân Tưởng Giới Thạch đi,
tiêu diệt các đảng phái đối lập, lôi kéo cho được đông đảo dân chúng ủng
hộ. Đối với tầng lớp trí thức lừng chừng thì dùng các biện pháp buộc
những người này phải đi theo lá cờ đỏ sao vàng và khéo léo lợi dụng họ
sao có lợi cho đảng cộng sản.
Và ông Hồ Chí Minh đã thực hiện được các điều trên một cách thành công phải gọi là “Quỷ khốc thần sầu”!
Đó là một đêm cuối năm 1945 hoặc đầu năm
1946 tôi không biết chính xác ngày nào – dân Hải Phòng nghe tiếng súng
nổ ran (không lớn lắm) ở phía sông Cửa Cấm. Sau này mọi người biết là có
hai chiến hạm Pháp bị quân Tàu bắn chìm đêm đó. Dân Hải Phòng được ăn
đồ hộp móc lên từ các chiếm hạm (bày bán ở hai bên đường phố Phan Bội
Châu – từ phố Bắc Ninh đến cổng chợ Sắt, suốt năm 1946).
Gần đây một bộ phim truyền hé lộ chi tiết
Mặt trận Việt Minh đã thỏa thuận với St. Teney là đại diện của nước
Pháp ở Hà Nội để quân Pháp vào thay quân Tàu làm nhiệm vụ sau giải giới.
Báo chí khi đó thì đưa tin là Tàu và Pháp đánh nhau vì tranh nhau cướp
nước Việt Nam! Không may cho Hồ Chí Minh là chẳng có chuyện đánh nhau gì
cả. Còn quân Pháp thì ngậm cay mà lui vì biết mình sai do nhẹ dạ.
Sau đó, Lư Hán (tướng Tàu) hoạnh họe Hồ
Chí Minh sao lại như vậy? Hồ Chí Minh phải vét kho dâng cho tướng Tàu là
Lư Hán, Trương Phát Khuê, Bạch Sùng Hy (và cả Bộ trưởng ngoại giao của
Tưởng là Hà Ứng Khâm) không biết bao nhiêu là vàng. Riêng Lư Hán còn
được Hồ Chí Minh tặng thanh kiếm của Bảo Đại (Đàm Quang Trung kể lại) và
sự việc đã được cho qua.
Vậy là kế hoạch lui quân Tàu của Hồ Chí Minh đã thất bại lần đầu.
Thế thì Hồ Chí Minh đã lui được 20 vạn
quân Tàu bằng cách nào? Hồ Chí Minh đã cho ngài Bidault – thủ tướng Pháp
ăn một quả lừa đắng.
Tục ngữ Việt Nam có câu “thua keo này, bày keo khác”. Hồ Chí Minh đã nghĩ ra một kế khác và đã thành công ngoài ý muốn.
Tháng 3 năm 1946 Hồ Chí Minh dẫn đoàn đại
biểu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang thăm nước Pháp. Ông đã ký
với nước Pháp một tạm ước tại Fontaineblau (6/3/1946) theo đó 5 vạn
quân Pháp thay thế 20 vạn quân Tàu, đóng ở 5 thành phố là Hà Nội, Hải
Phòng, Nam Định, Lạng Sơn và Huế trong 5 năm để làm nhiệm vụ sau giải
giới quân Nhật. Còn những điều khoản gì gì nữa dân thường đâu mà biết
được.
Thế là 20 vạn quân Tàu phải nhanh chóng rút lui êm ru!
Các đảng đối lập cũng nhanh chóng bị quét
sạch sau vụ án “Ôn Như Hầu”. Quân pháp, quân Tàu cũng êm ru, dân không
hề biết (như bộ phim “Ngọn nến hoàng cung” cho thấy cảnh” lính Pháp được
đóng vào hòm gỗ to, mỗi hòm có 3-4 người”!).
Chuyến đi Pháp đó Hồ Chí Minh cũng thu
lợi lớn: Chính phủ Pháp cho theo ông về nước không biết bao nhiêu là“
Lính khố đỏ” mà người pháp đã điều sang Châu Âu để đánh nhau với Đức,
ngày ấy gọi là lính kiều bào về đóng đầy ở các trường học, các đình làng
Hàng Kênh, làng Vẻn, Miếu Hai Xã… Cùng về nước với ông còn có rất đông
các trí thức du học ở Châu Âu như Tạ Quang Bửu, Nguyễn Học Lễ, Trần Đức
Thảo, Lê Văn Thiêm… để trở thành những thứ trang trí cho uy danh của Hồ
Chí Minh.
Quân Pháp ở Hải Phòng như ếch bị bỏ giỏ
cua: Nay chỗ này quân Pháp đụng độ với tự vệ, mai chỗ kia trại đóng quân
Pháp bị đột nhập, đại bác bị kéo xuống sông… Người Pháp phải yêu cầu
hàng ngày có xe liên kiểm đi tuần, trên xe lính Pháp ngồi một bên, vệ
quốc đoàn ngồi một bên. Tình trạng này kéo dài chừng 8 tháng thì ngày
20/12/1946 ông Hồ Chí Minh la lên “Ta đã nhân nhượng mà giặc Pháp ngày
càng lấn tới… Đồng bào hãy đứng lên! Toàn quốc kháng chiến!”
Tôi xin mạn phép có lời bàn: nếu người
Pháp là giặc có dã tâm xâm lược nước ta thì hẳn là bọn giặc này quá ngu,
chẳng biết gì về binh pháp cả! Khi đã ngồi trong nhà chủ mà lại dùng
dằng từng bước, từng bước để cho chủ nhà có thời gian chuẩn chị đối phó
(từ tháng 3 đến 12 năm 1946). Việc ông Hồ Chí Minh nói giặc Pháp “ngày
càng lấn tới” chỉ là lời của ông ta thực hiện các điều đã cam kết trong
Tạm ước 6-3. Nếu làm theo thì hóa ra cũng chẳng khác gì khi có người
Tàu: hẳn là bất lợi cho Hồ Chí Minh và DCSVN nên Hồ chí Minh đã lần nữa
trì hoãn kéo dài thời gian chuẩn bị để… đánh thì đánh! Đó mới là sự
thật, vì việc, đánh nhau với người Pháp đã là lựa chọn của Hồ Chí Minh
từ trước khi đi Pháp.
Ông ta từng nói với thuộc hạ “đánh nhau
với Tàu thì khó vì nước Tàu ở sát nước ta mà quân Tàu lại đông, nhưng
đánh nhau với Pháp thì không khó vì nước Pháp ở xa và quân không nhiều”
(Đàm Q Trung nói).
HỒ CHÍ MINH VÀ VỤ LỪA THẾ KỶ (PHẦN 2)
Có 3 lẽ để khẳng định rằng Hồ Chí Minh rắp tâm tạo ra cuộc chiến tranh với nước Pháp…
Chiến tranh là giải pháp để vứt bỏ Tạm ước 6-3:
Hồ Chí Minh ký Tạm ước 6-3 chỉ nhằm buộc
quân Tàu rút khởi VN. Quân Tàu đã đi, Tạm ước 6-3 chỉ còn cái dằm gây
nhức nhối khó chịu, cần phải vứt bỏ. Vứt bỏ cánh nào? Ngày 20/12/1946
người Pháp gửi tối hậu thư (chi tiết này xem kỹ là tối hậu thư gì) thế
là được thể ông đã quyết định: đánh thì đánh. Hồ Chí Minh đã chuẩn bị
cho một cuộc chiến tranh. Chiến tranh là lối thoát để ông không còn phải
chống đỡ những thúc ép khó chịu mà lại là cái cớ để vu cho nước Pháp là
xâm lược.
Hồ Chí Minh tạo ra cuộc chiến tranh để biến mình thành một nhà ái quốc:
Vì
cho tới lúc đó tiếng tăm và uy tín của Hồ Chí Minh không thể so sánh
với các vị Nguyễn Thái Học, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Chẳng lẽ phô
ra rằng tôi là tông đồ của Lê Nin, là thành viên thâm niên của quốc tế
thứ ba, là thuộc hạ của Stalin thống soái! Như thế nghe ra chẳng mùi mẫn
mấy, chi bằng đánh nhau với người Pháp một phen và vu cho nước Pháp là
xâm lược VN. Điều đó, biến HCM thành một nhân vật cứu nước.
Cuộc chiến tranh phi nghĩa đã tạo cho Hồ
Chí Minh một bộ mặt mới: Nhà ái quốc, một anh hùng dân tộc chống thực
dân xâm lược. Sau thế chiến II các nước Đồng minh đã thỏa thuận để các
dân tộc nhược tiểu tự quyết.
Vì thế mà Pháp không được giao nhiệm vụ
giải giới quân Nhật ở Đông Dương. Pháp là Ủy viên thường trực của Hội
Đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã bị mang tiếng là xâm lược VN! Liên Hiệp
Quốc vì thế mà bị ảnh hưởng uy tín.
Thật là gian dối và xảo trá.
Cuộc chiến tranh đã biến Hồ Chí Minh từ
một tông đồ quốc tế vô sản của Lê Nin thành một nhà cách mạng ái quốc.
Hồ Chí Minh là kể tự châm lửa đốt nhà rồi lại la lối kẻ kia đốt nhà và
đánh nhau để được tiếng có công. Hồ Chí Minh đã dàn dựng để tạo cho mình
thanh thế là anh hùng yêu nước chống quân xâm lược. Đó là kẻ giả danh
yêu nước, là gian hung bá đạo (Machiavellian).
Cuộc chiến tranh đã giúp Hồ
Chí Minh hóa giải hoàn toàn tình thế ngàn cân treo sợi tóc, tạo ra một
thời thế mới có lợi cho mình và ĐCSVN
Hồ Chí Minh rất biết thế nào là anh hùng
tạo thời thế và thời thế tạo anh hùng. Ông ta lại rất rõ tâm lý chống
Pháp và lòng khát khao độc lập của người dân Việt Nam. Nên cuộc chiến
tranh là cơ hội để ông lợi dụng lòng yêu nước của người VN để mưu đồ cho
sự nghiệp riêng, thay đổi tình thế bất lợi của ĐCSVN.
Bởi vì nếu đất nước yên bình mà lúc ấy
chỉ đem tư tưởng đấu tranh giai cấp và cái chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết
vốn bị giới trí thức lạnh nhạt, với toàn dân thì nó lạ hoắc, chẳng hấp
dẫn được ai.
Bởi vì lúc ấy tuy đã dọn dẹp được các
đảng phái đối lập nhưng cái quốc hội “ngang ngạnh” thì vẫn còn, vẫn còn
những người như ông Bùi Bằng Đoàn, Huỳnh Thúc Kháng, Phạm Phú Thứ,
Nguyễn Thế Truyền… thì Hồ Chí Minh và ĐCS không thể toàn quyền muốn làm
gì thì làm? Chưa kể những người như ông Trần Dần, Lê Đạt, Nguyễn Hữu
Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Văn Cao… đâu có chịu răm rắp nghe lời Hồ
Chí Minh và ĐCS. Bên cạnh, người Pháp thúc ép thực hiện các cam kết!
Cuộc chiến tranh với lệnh “Toàn quốc kháng chiến”, Hồ Chí Minh đã thay
đổi mọi tình thế. Đó là ông Hồ “tạo thời thế”.
Cuộc chiến tranh cho phép ông dùng lệnh
toàn quốc kháng chiến vô hiệu hóa phần còn lại của quốc hội đã bị phá
dỡ, tập trung quyền lực vào tay ủy ban kháng chiến do ông lựa chọn. Từ
nay ông không còn run lên mỗi khi trông thấy ông Nguyễn Thế Truyền, ông
đã rũ tung “hang ổ” của các tầng lớp chống đối và lực lượng tư sản dân
chủ, tất cả phải rời thành phố để về nông thôn, lên rừng núi nơi mà ĐCS
chiếm ưu thế, ai lọt lại hoặc bỏ sang bên kia thì bị chụp mũ là “Việt
gian, theo giặc, tề, ngụy…” Lệnh toàn quốc kháng chiến đã giúp Hồ Chí
Minh hốt được số lớn viên chức của vua Bảo Đại mà khỏi phải trả lương
cao. Rất nhiều anh tài của đất nước, dù không muốn cũng phải theo lá cờ
đỏ như các ông Phạm Khắc Hòe, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Nghiêm
Xuân Yêm, Trương Tửu, Trần Dần, Văn Cao… thậm chí ông Bùi Diễn, là thân
tín của ông Trương Tử Anh (đảng Đại Việt) cũng phải ra vùng kháng chiến.
Với lệnh toàn quốc kháng chiến, ông Hồ
Chí Minh đã nắm được ngọn cờ dân tộc độc lập và lật ngược tình thế. Cuộc
chiến tranh đã nhanh chóng làm cho đảng Cộng Sản mạnh lên (lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh). Chỉ sau lần chỉnh quân, chỉnh đảng là Hồ Chí
Minh đã thanh lọc được bộ máy quân sự, nắm chắc thanh kiếm của mình.
Cuộc chiến tranh còn là một thứ bùa mê
làm mê mẩn không biết bao nhiêu thanh niên có nhiệt huyết, học sinh,
sinh viên bỏ học hành để theo việc đạo cung. Bao nhiêu người đã không do
dự biến của cải công sức và cả xương máu cho Hồ Chí Minh mà không biết
mình bị lừa dối thảm hại.
Hồ Chí Minh đã không chỉ lừa được người
Pháp ký tạm ước 6-3 rồi kéo người Pháp vào cuộc chiến tranh mà ông ta
cần có để lừa cả nước VN.
Cho đến tận ngày nay – năm 2015 – còn rất
nhiều người độ tuổi tôi (82) vẫn còn tin rằng nước Pháp gây ra chiến
tranh để hòng chiếm nước Việt Nam. Thậm chí cả các bậc đại danh đại trí
như Hoảng Xuân Hãn, Ngụy Như Không Tum, Tôn Thất Tùng, Phan Anh… cũng
tin rằng người Pháp muốn cướp nước VN. Hồ Chí Minh đã làm được cái việc
mà đảng của ông gọi là “kết hợp tài tình” chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa xã hội. Các ông Phạm Duy, Văn Cao và nhiều nhạc sĩ được đào tạo ở
các trường học thời Bảo Đại đã say sưa cảm hứng sáng tác ra những ca
khúc chống pháp làm rung động lòng người như Làng Tôi, Trường ca Sông
Lô… Rất nhiều nhân tài, vì căm thù người Pháp xâm lược mà bỏ công danh
sự nghiệp giàu sang phú quý để đi theo Hồ Chí Minh; chịu đựng gian khổ
thiếu thốn mà vẫn tự hào. Giới trí thức đã như vậy, còn đại đa số người
dân kém hiểu biết, nhận thức thấp kém thì ôi thôi! Họ hoàn toàn mê muội,
tin tưởng mù quáng Đảng, bác bảo sao nghe vậy, nói gì cũng tin. Không
chỉ mấy tháng mấy năm mà đã hơn nửa thế kỷ, chưa mấy người tỉnh ra được.
Những điều đó giải thích tại sao người Pháp không đè bẹp được cuộc
kháng chiến của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã lợi dụng được lòng yêu nước
của dân Việt Nam. Hồ Chí Minh đã thực hiện thành công cú lừa thế kỷ.
Ôi! Việt Nam, niềm kiêu hãnh của loài người!
Việt Nam, trái tim đau của nhân loại!
HỒ CHÍ MINH VÀ VỤ LỪA THẾ KỶ
(PHẦN 3)
Người Pháp đã mắc những sai lầm gì?
Người Pháp đã mắc sai lầm khi để bị kéo
vào cuộc chiến tranh và không thấy được tấm áo giáp thần kỳ dệt bằng
lòng yêu nước của người Việt Nam mà Hồ Chí Minh đã mặc được. Vì
thế người Pháp đã tính nhầm rằng chỉ cần dăm tháng là có thể bắt được
Hồ Chí Minh đem ra tòa án Nuremberg xét xử kẻ tội phạm chiến tranh.
Người Pháp lại mắc một sai lầm nữa là kiêu căng, bắt chấp kẻ địch xảo
quyệt điêu ngoa và coi thường sức mạnh Việt Nam. Nếu như người Pháp biết
dùng tiếng Việt chữ Việt để chống Hồ Chí Minh; người pháp kiên nhẫn, né
tránh không bị mắc mưu Hồ Chí Minh, kiên quyết, mềm dẻo bắt ông ta phải
thực hiện các cam kết ở tạm ước 6-3; nâng vực lực lượng dân chủ một
cách vô tư, làm cho người Việt Nam hiểu ý định của người Pháp và nhận ra
mặt thật của Hồ Chí Minh cùng đảng Cộng sản Việt Nam thì tình hình sẽ
đã khác; nước Pháp không bị mất mặt với Hồ Chí Minh và đã làm được chức
trách của một ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Ký tạm ước 6-3 là sai lầm lớn nhất của nước Pháp.
Vì nước pháp theo đuổi tham vọng thành
lập khối Liên Hiệp Pháp mà VN là một đối tượng nước Pháp muốn lôi kéo.
Gần đây đài truyền hình Việt Nam hé lộ thông tin: Nước pháp hứa viện trợ
cho Hồ Chí Minh 30 tỉ franc. Người Pháp đã không biết rằng Hồ Chí Minh
nói đó là chủ nghĩa thực dân mới, sẽ không bao giờ chấp nhận điều đó. Mà
cho dù Hồ Chí Minh có muốn thì Nga Xô đâu có chịu, họ có nhiều con bài
khác thay thế Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh rất sợ điều này, ký tạm ước 6-3
là người Pháp đã bị lừa.
Có lẽ người Pháp không hiểu tham vọng của
Hồ Chí Minh. Ông ta không hề có tham vọng lập nên triều Hồ thay thế
triều Nguyễn vì không đủ sức và thời đại cũng không cho phép. Ông ta
cũng không muốn thử cộng hòa theo kiểu nước Pháp mặc dù ông ta thừa biết
rằng cái đó tốt đẹp (cho mọi người) vì ông ta đã có một thời gian kha
khá sống trên đất Pháp. Ông ta không thích kiểu nước Pháp vì nó quá dân
chủ còn mình thì chẳng có tài năng thế lực gì để mà tranh chức tổng
thống. Sau khi vào đảng xã hội Pháp, ông đã tìm đường Nga Xô. Ông đã kêu
lên, đây chính là con đường mình phải đi! Sao vậy? vì ông thấy con
đường này rất phù hợp với ông, ông sẽ lôi kéo được dân nghèo ít học mà
nhiều lòng đố kỵ, mong được đổi đời, dễ dàng bị phỉnh gạt và kích động,
theo ông để lập nên trật tự xã hội mới như Lê Nin đã làm được. Và một
kiểu nhà nước gọi là xã hội chủ nghĩa với một nền dân chủ mới mà họ
thường gọi là dân chủ tập trung. Nghĩa là một dạng cực quyền chuyên chế
đảng trị mà đảng này lại do ông tạo dựng (đảng cầm quyền), như thế thì
ông thực hiện được ý nguyện của cả đời: Làm chủ tịch suốt đời để hai tay
xây dựng lại sơn hà (Nhật ký trong tù), không còn sợ ai hất ông đi. Hồ
Chí Minh muốn một thể chế đảng chủ, để rồi cũng tiếp tục cuộc thí nghiệm
hoang tưởng mà Nga Xô đang làm, thay tạo hóa xóa bỏ tính tư hữu của
nhân loại! Xóa hết giai cấp tư sản, công hữu hóa thị trường tự do để
nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa (tem phiếu) có uy lực chỉ huy
người lao động làm ra nhiều sản phẩm (của cải tuôn ra như nước). Khi đó
ông và số ít cận thần ung dung có chế độ hưởng theo thu cầu (còn dân
thường thì hãy chờ đến muôn đời muôn kiếp).
Đó là khát vọng của Hồ Chí Minh.
Đó là quyết tâm chiến tranh của Hồ Chí
Minh với những ai cản trở ông ta. Hồ Chí Minh ký tạm ước 6-3 là để có
cuộc chiến tranh này.
Nước Pháp được gì, mất gì sau 9 năm chiến tranh?
Nước pháp muốn kéo Việt Nam vào khối LHP…
và Đông Dương vẫn là thị trường tiêu thụ hàng hóa của nước Pháp. Lúc
đầu Hồ Chí Minh cũng chỉ dám nói đó là chủ nghĩa thực dân mới, chứ không
dám nói Pháp xâm lược Việt Nam. Nhưng thấy được người dân tin nghe thế
là ông ta thả phanh nói mạnh.
Người Pháp đã chủ quan cho rằng 80 năm
chịu ảnh hưởng của Pháp, giới trí thức Việt Nam đã có được tính văn
minh, tự do, dân chủ của nền cộng hòa Pháp, sẽ là một lực lượng lớn ủng
hộ Pháp trong cuộc chiến tranh. Nhưng sự thực thì đáng buồn cho nước
Pháp, một ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc! Rất nhiều
tri thức Việt Nam lại tin và theo Hồ Chí Minh chứ đâu có biết thiện ý
vì nền văn minh, tự do, bình đẳng và bác ái của nước Pháp. Nước Pháp đã
chẳng xét xử được Hồ Chí Minh như một tội phạm chiến tranh, khối LHP…
cũng không lập được mà bao nhiêu ký ức tốt đẹp về văn hóa văn minh Pháp
tạo dựng ở Việt Nam đã bị Hồ Chí Minh xóa sạch. Những tài danh như Dương
Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Xiển, Phạm Khắc
Hòe, Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Tùng… thành người của Hồ Chí Minh hoặc
thứ trang trí cho Hồ Chí Minh. (Tôi cũng có một người anh bên họ mẹ là
Trần Văn Đệ là thẩm phán ở Sở đốc lý Hải Phòng. Cả nhà ông này lớn bé
đều nói thạo tiếng Pháp vì có quốc tịch Pháp – thời ấy gọi là vào làng
Tây); cũng phải đi kháng chiến và sau 9 năm thành cán bộ “ cụ Hồ”. Cây
cầu Long Biên mà người Pháp tự hào là cây cầu thép dài nhất thế giới
thời bây giờ, vậy mà nhiều người VN nói rằng người Pháp làm cầu đó để
chuyên chở của cải cướp của Việt Nam về Pháp! Tôi chẳng biết người pháp
chở gì qua cầu Long Biên về Pháp?!
Người Pháp mất hơn 80 năm để tạo dựng ảnh
hưởng văn hóa văn minh Pháp ở Việt Nam thì bị Hồ chí Minh xóa sạch bằng
sự điêu ngoa rồi thay vào bằng văn hóa Nga, hàng hóa Nga thay hàng hóa
Pháp mà phải được bình bầu mới được mua chiếc quạt tai voi.
Tuy nhiên người Pháp cũng buộc được Hồ
Chí Minh phải chấp nhận hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 chia đôi đất nước
VN. (Bạn đọc cần chú ý rằng trước năm 1954 thì vĩ tuyến 16 đã chia nước
VN. Nay thì đường phân chia bị đẩy lên vĩ tuyến 17. Huế bây giờ thuộc
Việt Nam Cộng Hòa). Tại sao Hồ Chí Minh phải chấp nhận điều đó? Xin để
bạn đọc tự lý giải. Vậy là 9 năm người Pháp mất cả chì lẫn chài, nhưng
cũng buộc được Hồ Chí Minh phải chấp nhận hiệp định Giơ ne Vơ năm 1954
thay cho Tạm ước 6-3.
HỒ CHÍ MINH VÀ VỤ LỪA THẾ KỶ
(PHẦN 4)
Hồ Chí Minh đã được gì và mất gì?
Hồ Chí Minh chỉ được một nửa Việt Nam
mà so với trước chiến tranh thì thiệt hơn vì không có tỉnh Thừa Thiên
Huế. Nhưng Hồ Chí Minh được một công danh lớn – do ĐCS phong- là “anh
hùng dân tộc” chống thực dân xâm lược cứu nước. Dù
đó là gian dối, nhưng trớ trêu thay lại được dân miền Bắc tin! Đó là
một lợi thế tâm lý rất lớn, một vốn chính trị đồ sộ mà Hồ Chí Minh đã
kiếm được từ cuộc chiến tranh “chống thực dân Pháp xâm lược”. Dựa vào đó
Hồ Chí Minh lại một lần nữa xóa bỏ hiệp định Giơ ne Vơ gây ra chiến
tranh ở Nam VN với chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” (thực ra đó là chống Mỹ
cứu đảng (vì nước Mỹ đâu có xâm lược Việt Nam mà chỉ vào để đánh VC…
thôi). Nếu nước Mỹ muốn xâm lược Việt Nam thì ngay từ tháng 9-1945 chiến
hạm Mỹ đã neo đậu ở ngoài phao số 0 (Đồ Sơn Hải Phòng) sao họ không làm
điều đó?).
Muốn thống nhất đất nước là một ý tốt.
Nước Đức cũng bị chia cắt đông-tây (do cuộc chiến tranh lạnh). Vậy mà
nước Đức đã thống nhất một cách hòa bình. Đó là cách thần thánh. Còn
cách làm của Hồ Chí Minh và ĐCSVN thì phải gọi là gì? Cuộc chiến tranh ở
VN là toan tính giết anh em trong nhà để dành quyền làm chủ cả ngôi
nhà. Vì nếu cứ để miền nam Việt Nam yên ổn phát triển như Hàn Quốc thì
khó khăn cho việc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và miền bắc Việt Nam sẽ lâm
vào cảnh như Bắc Triều Tiên ngày nay. Còn một điều cũng cần nói rõ là
khi đang tổng tiến công mùa xuân năm 1975 thì nước anh em của đảng CSVN
là Trung Hoa đã chiếm nốt Tây Hoàng Sa. Mặc dù đài phát thanh Việt Nam
Cộng Hòa kêu gọi miền Bắc hãy dừng cuộc chiến để cùng nhau giữ lấy Hoàng
Sa nhưng thái độ của những người cầm quyền miền Bắc thế nào? Mọi người
hãy xem xét kỹ việc này. Rõ ràng là đảng của ông Hồ Chí Minh chỉ đặt lợi
ích bè đảng trên hết!
Tới nay, chừng nào còn người Việt Nam
tin rằng nước Pháp muốn cướp nước Việt Nam và Hoa Kỳ một ủy viên thường
trực khác của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc cũng xâm lược Việt Nam, còn
Liên Xô, Trung Hoa là anh em đồng chí của Hồ Chí Minh thì ĐCSVN vẫn
rung đùi yên tâm rằng thành trì của họ còn vững, họ còn ngạo nghễ coi
thường quần chúng và dẫm lên tự do dân chủ, nhân quyền. Sau 9 năm chiến
tranh và cả sau này nữa là 30 năm thì Hồ Chí Minh mất gì? Ông ta chẳng
mất gì cả. Vì ông ta có gì mà mất? Có chăng sức hò hét: “Dù chiến tranh có kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hay lâu hơn nửa thì cũng quyết đánh thằng giặc Mỹ!”.
Bởi vì chiến tranh ác liệt chỉ dân khổ chứ ông ta có khổ đâu, hàng
triệu hàng đứa chết thay chứ ông ta đâu chết. Chỉ sau thất bại của cuộc
chiến Tết Mậu Thân, ông ta tiêu mất không biết bao nhiêu đặc công, biệt
động tinh nhuệ mà chẳng nên cơm cháo gì. Thế mới uất chảy máu mắt mà
chết vì bệnh. Chỉ có nước Việt Nam mất và dân Việt Nam mất.
Nước VN mất gần nửa thế kỷ không được
hòa bình yên ổn để xây dựng kinh tế như Hàn Quốc, Thái Lan, Indonexia,
và các nước Đông Nam Á khác. Đó là cái mất không sao lấy lại được, rồi
còn bao nhiêu đình chùa, đền miếu, nhà thờ tổ, nhà thờ họ, bao nhiêu di
sản văn hóa của chính tổ tiên ở làng Đình Hương Nam, đã bị Hồ Chí Minh
và ĐCSVN mượn tay người Pháp phá bằng các hoạt động du kích và lệnh tiêu
thổ kháng chiến. Người dân Việt Nam mất gì? Người mất của mất nhà,
người mất cha, mất chồng, mất con. Nếu xương những người chết cho hai
cuộc chiến tranh gom lại được thì chắc phải chất lên thành núi!.
Còn biết bao nhiêu người mất đi một
phần cơ thể, biết bao nhiêu cô gái thanh niên xung phong mất đi tuổi
xuân đẹp đẽ, mất quyền làm vợ làm mẹ, rồi sống âm thầm đơn độc. Bao
nhiêu nạn nhân chất độc da cam vì bị đẩy vào vùng có rải chất độc đó để
phải chịu di hại suốt đời. cả cho đến con đời cháu – mà còn bị kiện mấy
công ty hóa chất Mỹ (chứ không dám kiện quân đội Mỹ, nước Mỹ!) để làm
trò cười cho cả thế giới.
Thực hiện hai cuộc chiến tranh tàn khốc
với nước Pháp rồi với Mỹ, có phải Hồ Chí Minh có lòng yêu nước và tha
thiết thương đồng bào không? Không, tuyệt nhiên là không. Bởi vì ông ta
đâu có chủ nghĩa yêu nước? Ông ta chỉ có chủ nghĩa Mác Lê Nin mà thôi,
và chỉ có bốn phương vô sản là anh em. Những người cộng sản nói ông ra
đi từ Bến Nhà Rồng để tìm đường cứu nước! Vậy thì hãy nêu những sự việc
trước đó để chứng tỏ ông đã có những việc làm “cứu nước”? Phần lớn cuộc
đời ông từ năm 1911 ông sống và làm gì? ở đâu? dựa vào người tài chính
nào để đi đây đi đó khắp thế giới? Liệu có phải vì lòng hào hiệp, vì đất
nước Việt Nam mà người Nga chu cấp để ông hoạt động? Không! Tất cả ông
ta chỉ làm cho cái gọi là “Quốc tế thứ ba” Tổ Quốc và đồng bào Việt Nam
không có trong tim ông. Chỉ vì ông ta cuồng tín mơ ước về thế giới đại
đồng vô sản nên mới có hai cuộc chiến tranh với nước Pháp và Mỹ, gây ra
bao nhiêu mất mát và đau thương cho đất nước và dân tộc!. Hồ Chí Minh
không có việc làm cứu nước mà chỉ có việc làm hại nước.
Vậy mà Hồ Chí Minh nói cả đời ông ta
chỉ có mong ước là đồng bào được ấm no hạnh phúc! Hạnh phúc là như thế
ư? Vậy thì nếu nước Việt Nam không có Hồ Chí Minh thì sẽ như thế nào?
Hồ Chí Minh và vụ lừa thế kỷ
(phần 5)
Nếu nước Việt Nam không có Hồ Chí Minh thì sẽ như thế nào?
Đỗ Đức Mậu (Danlambao)
- Ta hãy suy ngẫm về các nước Đông Nam Á khác. Họ không có cuộc cách
mạng vô sản điên khùng mà các nước phát triển văn minh như Pháp, Mỹ
không muốn. Chỉ vì Hồ Chí Minh cuồng tín về cái điều “bốn phương vô sản
đều là anh em” mà nước VN phải hứng chịu chiến tranh - thành điểm nóng
của cuộc chiến tranh lạnh. Nước Mỹ hùng cường đã dẫn đầu trong việc
chống “Làn sóng đỏ” cũng như ngày nay họ lại dẫn đầu trong việc chống
chủ nghĩa Hồi Giáo cực đoan. Vậy mà VN đối đầu với nước Mỹ chỉ có Hồ Chí
Minh.
Như phần trước đã chứng minh, nếu không do Hồ Chí Minh rắp tâm thì VN
không có cuộc chiến tranh với nước Pháp và sau này cuộc chiến tranh với
Mỹ cũng vì Hồ Chí Minh muốn xóa sổ VNCH ở miền Nam. Năm 1950 nước Mỹ
phải giương lá cờ LHQ để ngăn quân Bắc Triều Tiên tràn xuống miền nam
thì ngày nay thế giới mới còn Hàn Quốc. Những năm 60 Hồ Chí Minh đã
không làm như Kim Nhật Thành mà chỉ kích động miền nam đồng khởi và lén
đưa quân bắc vào nam vì vậy dẫn đến sự can thiệp của nước Mỹ ở nam Việt
Nam.
Năm 1972 tuy Hồ Chí Minh đã chết bệnh vì uất do thất bại cuộc tổng tấn
công Tết Mậu Thân, nhưng người miền Bắc quá mê mẩn với lời hịch “chống
Mỹ cứu nước” nên năm 1975 ĐCSVN đã hoàn tất cuộc xâm lược VNCH, nước VN
"thống nhất" sau đó phải trải qua hai chục năm xây dựng Xã hội Chủ Nghĩa
lởm khởm để rồi phải bỏ cuộc, phải đổi mới - thực ra là đổi cũ - là
quay về hình thái xã hội tư hữu, mở cửa hội nhập với thế giới tư bản.
Khi đó hàng vạn hàng vạn con dân đất Việt phải túa ra đi làm “ô sin cửu
vạn” ở khắp năm châu bốn biển! Thành tựu mong ước của Hồ Chí Minh là như
thế ư? Rõ ràng là nếu không có Hồ Chí Minh, không có ĐCSVN thì nước VN
đã không phải đi con đường luẩn quẩn đầy gian khổ, ngày nay nước VN đã
chẳng bị tụt hậu, chẳng được như Hàn Quốc thì chí ít không thua kém Thái
Lan.
Ma-hat-ma-găng-di chắc cũng muốn dân Ấn Độ được ấm no hạnh phúc mà thu
hồi độc lập bằng con đường đàm phán hiểu biết, không bạo lực. Người Ấn
Độ không hề mất xương máu cửa nhà mà nước Ấn Độ vẫn độc lập và phát
triển tốt đẹp. Mong ước cả Găng Đi là của Thánh, còn mong ước của Hồ Chí
Minh là của gì... xin để bạn đọc nhận định. Bởi vì Việt Nam có Hồ Chí
Minh!
Ngày 15/8/1945 nước Indonesia tuyên bố độc lập. Từ đó đến nay In Đô yên
ổn hòa bình, có ai xâm lược In Đô? Tại sao nước Việt Nam hết bị thực dân
Pháp xâm lược lại bị đế quốc Mỹ xâm lược? Bởi vì Việt Nam có Hồ Chí
Minh hay vì sao chổi quét?!
Hồ Chí Minh và ĐCSVN cho quân vào miền Nam “đánh Mỹ cứu nước” sao không
đàng hoàng giương cờ đỏ sao vàng lên mà đánh mà phải dùng lá cờ nửa xanh
nửa đỏ? Những người nhiễm chất độc da cam sao chỉ dám đi kiện công ty
hóa chất Mỹ?
Chỉ ĐCSVN có quyền nói người dân phải nghĩ và nói theo cách của ĐCSVN
không ai có quyền nghĩ khác nói khác. Đó là nhân quyền ở nước CHXHCNVN
vì VN có Hồ Chí Minh.
Ngày xưa có truyện: Tử Không Minh tẩu sinh Trọng Đạt. Ngày nay ở nước
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN cũng có chuyện Hồ Chí Minh chết suýt lừa được cả
UNESCO thật là xứng danh kim cổ.
Rất thường tình là người ta trước hết vì gia đình, vợ con, anh em ruột
thịt mình rồi mới đến họ hàng gần. Hồ Chí Minh thì sao? Một người không
gia đình, không vợ con, không anh em họ hàng thân thích (thậm chí bà
Thanh là chị ruột, sau bao năm xa cách ra thăm mà ông không tiếp được
một bữa cơm với cớ bác quá bận việc quốc gia, hay ông quên hẳn người đã
từng bế ẩm hay cổng ông đi chơi ngày còn bé). Con người này đã toàn tâm
toàn ý là người của bốn phương vô sản (bốn phương vô sản đều là anh em -
thư chúc tết của Hồ Chí Minh). Mong ước của ông ta là thế giới đại đồng
vô sản. Đừng ai đem tình cảm riêng tư quấy rầy ông ta.
Vậy Hồ Chí Minh thực sự vì ai? Vì cái gì? Thưa rằng Hồ Chí Minh chỉ vì
mình thôi. Bởi vì ông ta tứ cố vô thân, vô gia đình, vô tổ quốc, để nuôi
ảo tưởng có được vòng hào quang làm á thánh, được đứng sau các thánh tổ
Mác-Lê Nin.
Tuy Putin quả đã biết của biết người khi đục tượng đồng để thưởng công Hồ Chí Minh.
Mỗi người sẽ đặt câu hỏi: Hồ Chí Minh có công gì với nước Nga mà đáng được Puntin đúc tượng đồng?
Thưa rằng đáng quá đi chứ! Sau thế chiến II, thế giới ở tình trạng chiến
tranh lạnh. Có 3 điểm nóng là Đức, Triều Tiên và Việt Nam. Hồ Chí Minh
đã có công làm cho Việt Nam thành điểm nóng nhất thành chiến trường thử
vũ khí của Nga Xô, thành nơi mà lá cờ đỏ búa liềm chói ngang ngửa với
lá cờ sao vạnh. Máu của nhiều triệu người Việt Nam làm cho lá cờ búa
liềm trụ vững ở Đông Nam Á thay cho máu người Nga. Hồ Chí Minh đã có
công đưa chủ nghĩa Mác Lê Nin tức chủ nghĩa xã hội Xô Viết vào Việt Nam.
Đưa văn hóa Nga thay văn hóa Pháp ở Việt Nam. Tuy Putin đúc tượng đồng
Hồ Chí Minh là tính toán không tồi vì Hồ Chí Minh đã không uổng những
miếng bánh mì Nga.
Chủ nghĩa CS giờ đã bị vứt ra bãi rác. ĐCSVN đã phải đổi cũ, hội nhập
với thế giới văn minh, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa mờ mịt, thậm chí
cho phép đảng viên làm giàu (thời HCM ai dám khoe mình giàu?!). Vong
linh ông Hồ Chí Minh chắc phải điên lên. Còn nữa ĐCS Malaxia tuyên bố
giải tán. Đó là điểm báo chủ nghĩa CS sắp biến khỏi hành tinh này. Bởi
bì thế giới không còn nơi nào nghèo nàn lạc hậu để chủ nghĩa CS ươm mầm,
bởi vì các phương tiện thông tin đại chúng ngày nay qúa tiên tiến
không cho phép đảng CS bưng bít mê hoặc, bởi vì thứ bùa ngải đấu tranh
giai cấp chẳng còn hiệu nghiệm để ĐCS kiếm chác được ở những người kém
hiểu biết, bởi vì những thực tiễn ở Việt Nam, Triều Tiên, Cu Ba... Làm
người ta rung mình và thấy rõ rằng những thứ lóng lánh mà các tay lái
buôn CS bán rao nào là giải phóng, chống áp bức bóc lột, tự do, dân chủ,
chủ nghĩa xã hội tươi sáng đáng mơ ước... rặt là đồ rởm.
Cuộc cách mạng vô sản Nga đã từng làm rung chuyển thế giới vì xóa hết
thành tựu mà cách mạng cộng hòa đã đem đến cho con người. Cuộc thí
nghiệm về kiểu nhà nước quái thai xã hội chủ nghĩa sau 70 năm đã thất
bại hoàn toàn. Còn cách mạng Cộng Hòa mà nước Pháp là quê hương đã tồn
tại hơn hai thế kỷ thì ngày càng hoàn thiện (nay là nền cộng hòa thứ V)
và phát triển, chẳng cần bưng bít, độc quyền hay áp đặt.
Những nhà chính trị CS sao còn chưa chịu nhìn vào thực tiễn? Thực tiễn
mới là chân lý, sao còn cứ hoang tưởng, hy vọng về tạo dựng một xã hội
đột biến bằng áp đặt ý tưởng ngông cuồng của một vài người. Đó không thể
là sự lựa chọn của cả nhân loại.
Con đường để đưa nhân loại đi lên phải do cả loài người cùng tạo dựng
dần dần. Phải phát triển bền vững về mọi mặt kinh tế, khoa học kỹ thuật
phục vụ dân sinh, đời sống xã hội là đa dạng và sáng sủa - những điều
này đâu có trong bảng tổng kết 70 năm thí nghiệm của Liên Xô.
Phải vun trồng lương tri, phát triển lý trí sáng tạo và tôn trọng nhân
quyền (không thể có thứ nhân quyền riêng của một nước nào), thì mới có
được xã hội tốt đẹp.
Thế giới sẽ không yên bình khi lòng thù hận bị kích động và sự dối trá ngự trị.
Tôi viết bài này chẳng vì có thù oán gì với Hồ Chí Minh và ĐCSVN của ông
ta. Cũng chẳng phải tôi bất mãn gì gì... Có kẻ sẽ nói như vậy. Tôi đã
giành gần nửa cuộc đời để suy nghĩ về những gì tôi đã thấy. Tôi viết bài
này vì sự thôi thúc của lương tri. Vì nhân phẩm của chính tôi, vì lòng
mong muốn phơi bày sự thật về dã tâm của kẻ giết dân hại nước và cực kỳ
gian dối Hồ Chí Minh. Cũng vì tôi không thể chịu đựng mãi cái cách chân
dắt của CSVN, cái cách mà đảng này miệt thị con người qua việc họ nói
xuôi rồi lại nói ngược tùy thích, mọi người cứ phải câm lặng mà nghe
hoặc chỉ được nói như những con vẹt. Tôi không thể là một con vẹt. Tôi
viết bài này với xót xa vì chính mình cũng đã từng bị lừa và muốn gửi
tới những ai đang bị lừa dối, hãy thức tỉnh đừng để cháu chắt chúng ta
tiếp tục bị lừa dối.
Tôi tha thiết mong đất nước ta có một không khí chính trị trong lành,
thẳng thắn, có một nền dân chủ, thực hợp với kỷ nguyên văn minh, dân tộc
Việt Nam không còn thù hận, trong ngoài hòa hợp để cùng xây dựng đất
nước, con cháu chúng ta được yên ổn vui sống, học hành.
Tôi viết bài này cũng để kính tặng nước Cộng Hòa Pháp mà tôi ngưỡng mộ,
thanh minh cho điều nước Pháp bị bôi nhọ, hóa giải những ngộ nhận và thù
địch mà người Việt Nam bị nhồi nhét. Bài viết này cũng để gửi tới gia
đình các quân nhân Mỹ vì nghĩa khí mà ngã xuống ở Việt Nam, thay cho
những bông hồng gửi tới tượng dài chữ V ở Wellington - Wahington DC.
Vì năng lực có hạn, bài viết này có thể có nhiều khiếm khuyết, mong bạn
đọc bổ sung những gì cần và bạn đọc nào đồng tình in thêm 3 bản để nhiều
người khác được đọc.
Ngày 10 tháng 7 năm 2015
Về tác giả: Ông Đỗ Đức Mậu năm nay 83 tuổi. Ông nguyên là một giáo
viên dạy sử tại Hải Phòng. Trong khi còn công tác và nhiều năm sau khi
đã nghỉ hưu, ông đã không dám lên tiếng nhưng đến lúc cuối đời ông phải
một lần nói lên sự thật - dù sự thật đó chỉ là một bài viết nhưng ông
muốn nhiều người, nhất là thế hệ trẻ biết được chân dung thật sự của Hồ
Chí Minh dưới góc nhìn của một người dạy sử đã từng phục vụ chế độ.
No comments:
Post a Comment