BILL CLINTON * SPEECH IN VIỆT NAM
1. Trào Lộng U Mặc Là Gì?
Một nhà văn tây phương có viết:
"Tình yêu là một vị thần bất tử,
U mặc là một lợi khí,
Cười là một sự bổ ích."
Không có ba cái đó, không đủ nói đến văn hóa toàn diện" Cười đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn... đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn... mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác... theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình... đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào.
Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã "cười to" với câu nói bất hủ này: "Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!"
Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu "u mặc đại sư" có nói: "U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện".
U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là "văn minh nhất" lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời.
Nhà văn họ Lâm cho rằng: "Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái "trống không" của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên:
Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế...
Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi!
Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc.
Nhưng phải đợi đến nhân vật chủ não là Trang Châu xuất hiện, mới có được một thứ văn chương nghị luận ngang dọc... mở ra cho người đời một thứ tư tưởng và văn học u mặc hẳn hòi. Trang Tử là thủy tổ của văn học Trung Hoa.
Các tung hành gia như Quỷ Cốc Tử, Thuần Vu Khôn... điều là những nhà hùng biện trào lộng thật, nhưng vẫn chưa kịp phong thái u mặc thượng thừa của Trang Châu...
Nền văn Trung Hoa với "bách gia chư tử" đã phát triển rất mạnh. Người ta nhận thất rõ ràng có hai luồng tư tưởng khác nhau xuất hiện: Phái cẩn nguyện (Lấy lễ, nhạc, trang nghiêm, cung kính và nghị luận tuyệt đối một chiều làm chủ yếu), và phái siêu thoát (lấy tự do phóng túng, trào lộng u mặc, nghị luận dọc ngang làm yếu chỉ). Trong khi phái cẩn nguyện cúc cung tận tụy phó vua giúp nước, chăm chăm lấy sự "sát thân thành nhân", "lâm nguy bất cụ" làm lẽ sống, nhưng nhóm đồ đệ của Mặc Địch hay nhóm cân đai áo mão đồ đệ của Khổng Khâu, thì phái siêu thoát lại cười vang... cho bọn khép nép chầu chực ở sân rồng còn kém xa "loài heo tế", hoặc già như nhóm đồ đệ của Dương Chu, nhổ một sợi lông chân mà đổi lấy thiên hạ cũng không thèm, hoặc coi nhân nghĩa như giày dép rách, xem lễ là đầu mối của loạn ly trộm cướp...
Phái Nho gia có thuyết tôn quân nên bị nhà cầm quyền khai thác lợi dụng, nhân đó mà có bọn hủ nho xuất hiện, được nhóm vua chúa nâng đỡ đủ mọi phương tiện.
Nhưng, dù bị đàn hạc, bị bức bách đủ mọi hình thức, văn học u mặc chẳng nhưng không bị tiêu diệt lại còn càng ngày càng mạnh. Đúng như lời Lão Tử: "Tương dục phế chi, tất cố hưng chi". Cũng như văn trào lộng của nước Pháp ở thế kỷ mười tám sở dĩ được phát đạt một thời với những ngòi bút trào lộng bất hủ của Voltaire và Rousseau, phải chăng là "nhờ" nơi cái nhà ngục Bastille mà được vừa tế nhị, vừa rực rỡ! "Họa chung hữu phúc" là vậy!
Nguồn tư tưởng phóng khoáng của Đạo gia quá to rộng như đại dương, không sao đụng được trong những ao tù nhỏ hẹp, nó vượt khỏi thời gian không gian, ôm chầm vũ trụ, siêu thoát Âm Dương... không ai có thể lấy ngao mà lường biển. Cho nên tư tưởng Trung cổ về sau, dù đại thế của Nho gia được đề cao và chiếm địa vị độc tôn, cũng không làm sao ngăn trở nó được. Văn khí của u mặc hồn nhiên mạnh mẽ như giông to gió lớn, trước nó không một chướng ngại vật nào có thể đứng vững.
Huống chi người Trung Hoa trí thức nào cũng có hai tâm hồn: Bên ngoài là một ông Khổng, bên trong là một ông Lão. Nho Lão cùng ở trong một người mà không bao giờ nghịch nhau. Hạng trung lưu, không một người Đông phương nào, cả Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam mà đọc lên bài "Quy khứ lai từ" của Đào Uyên Minh lại không biết thích thú, nhất là hạng người say mê trong con đường nhập thế. Ngày có làm, thì đêm phải có nghĩ, đó là định luật của thiên nhiên: "Nhật hạp nhật tịch vị chi biến". Văn học u mặc là "mở", văn học cẩn nguyện là "đóng", nghĩa là khép kính trong vòng tiểu ngã, trong các giáo điều luân lý tôn giáo, nguồn gốc sinh ra không biết bao nhiêu việc nhỏ nhen ích kỷ và giả dối.
Văn học Trung Hoa, ngoài thứ văn học lăng miếu trong triều đình không kể, còn điều là thứ văn học rất đắc thế cho tư tưởng u mặc.
Văn học trong miếu, thực ra, chưa đáng kể là văn học, vì nền văn học có linh tính chân thật phải đi sâu vào tâm tư con người để khám phá và cởi mở những khác vọng thầm kính của nó mà ước lệ giả tạo của xã hội cấm đoán. Để hòa đồng với thiên nhiên phải tránh xa lối văn nhân tạo. Đó là đặc điểm đầu tiên của u mặc.
Ở Trung Hoa, nếu chỉ có nền văn học cẩn nguyện của Nho gia đạo thống mà thiếu nền văn học u mặc của Đạo gia, không biết văn học Trung Hoa sẽ cằn cõi khô khan đến bậc nào, tâm linh người Trung Hoa sẽ sầu khổ héo hắt đến chừng nào!
Nhận xét trên đây của nhà văn họ Lâm rất đúng, không riêng gì cho Trung Hoa mà cho tất cả mọi nền văn học trên khắp địa cầu. Nhà văn Chamfort có viết: "Triết lý hay nhất là hỗn hợp được sự vui đời mà trào lộng chua cay với sự khinh đời mà độ lượng khoan hòa"
U mặc là ngọn thanh phong trong những buổi trưa hè oi ả... của cuộc đời!
Khổng Tử đi hỏi lễ Lão Tử. Lão Tử nói: "Lời nói của ông là lời nói của những kẻ nay đã xương tàn cốt rụi. Vả, người quân tử đắc thời thì đi xe, không đắc thời thì tay vịn nón lá mà đi chân. Ta nghe rằng kẻ buôn giỏi khéo giữ của quý như không có gì, người quân tử đức thạnh, dung mạo như người ngu. Họ khác với cái kiêu khí và đa dục của ông. Thái sắc ấy và dâm chí ấy không ích lợi gì cho ông cả! Ta sở dĩ báo cho ông biết có bấy nhiêu thôi".
Đoạn văn trên đây của Tư Mã Thiên nói về Lão Tử và Khổng Tử, có cái ý vị trào lộng mà chua cay của người thời chiến quốc đối với hạng người thích làm thầy đời, chưa thể là văn u mặc thượng thừa. Phái siêu thoát, nếu lại nhập vào dòng yếm thế và phẫn thế, sẽ mất lần đi cái tinh thần chân chính của u mặc. Căn cứ vào tiêu chuẩn này, ta có thể nhận thấy rằng sách của Trang Tử gồm cả thảy ba mươi ba thiên, nhưng chỉ có nội thiên là toàn bích, phản ảnh đúng tinh thần u mặc thượng thừa của Trang Châu mà thôi. Các thiên chương khác, cũng có một số mà giọng trào lộng không kém Trang Châu, nhưng lại có giọng chua cay phẫn the (có thể do các tay Trang học, đạo theo lối văn u mặc của Trang), nên kém xa thần thái siêu thoát của Trang, như ở Thiên đạo chích chẳng hạn.
Khổng Tử lắm lúc cũng tỏ ra tinh thần u mặc: Sau một thời gian bôn ba thuyết khách, cốt đem đạo học truyền bá cho hàng đế vương mà không thấy ai biết dùng đạo mình, bèn than: "Dư dục vô ngôn. Thiên hà ngôn tai!". Rồi khi bị dồn vào thế kẹt, lại trào lộng tự bảo "tri kỳ bất khả nhi vi chi!!"
Bởi vậy, điều mà ta thích ở Khổng Tử, đâu phải lúc ông thiếu thời, sớm được thành công, đầy hăng say và tiểu khí ra tay giết Thiếu Chính Mão, mà chính ở vào lúc liên miên thất bại nhưng không mất vẻ trào lộng, thời mà ông không muốn chỉ "làm trái bầu treo lủng lẳng mà không ăn được!!". Vậy mà bọn hủ nho chỉ biết thích thú vỗ tay hoan nghênh cái ông Khổng Tử giết Thiếu Chính Mão, mà không biết thích cái ông Khổng Tử, vời cái cười trào lộng, khen cái chí của Tăng Điểm " Tắm sông Nghi, hứng gió ở nền Vũ Vu, trên đường về, cùng nhau nắm tay ca hát!" Nghĩa là họ chỉ biết thích cái ông Khổng bên ngoài của ông Khổng, mà không biết thích cái ông Lão ở bên trong của ông Khổng, cái ông Khổng "tòng ngô sở hiếu"!
Về sau Mạnh Tử cũng còn giữ được cái tính chất khôi hài khi ông " vượt bức tường đông để ôm chầm người con gái", điều mà bọn sĩ phu về sau không bao giờ dám hở môi.
Đến sau này, bọn hủ nho lại càng ngày lại càng kém, không đủ để bàn đến. Ngay như Hàn Phi Tử, tuy có tính cách trào lộng, nhưng lại thiếu sự nhẹ nhàng tự nhiên, nên cũng không sao theo kịp u mặc. Đến như bọn Đông Phương Sóc, Mai Cao đều chỉ là hạng người hoạt kê trào phúng, chưa có đủ bản sắc u mặc thượng thừa.
Mãi đến Vương Bật, Hà Án với tinh thần phóng khoáng của lão Trang, lại thêm có nhóm Trúc Lâm thất hiền tiếp tục khởi xướng, nên mới mở ra được cái phong thái thanh đàm, quét sạch được cái khí vị nặng nề móc meo của hủ nho thời ấy.
Trong cái không khí tự do đó, tư tưởng đời Chu Tần được cơ hội khai phóng, biến thành một phong trào hoạt đàm tự thích, như cây cỏ được cái nắng mùa hạ mà xum xuê, để rồi tiến sâu vào cảnh vật mùa thu. Kết quả là cuối đời Tấn, một nhà thơ trào lộng u mặc thành thục Đào Tiềm xuất hiện. Theo nhà văn họ Lâm, thì "cái vẻ đạm bạc tự thích của Đào Tiềm không giống cái vẻ cuồng phóng của Trang Châu, cũng không có cái bi phẫn của Khuất Nguyên"
So sánh bài " Quy Khứ Lai Từ" của Đào Tiềm với các bài "Bốc cư", "Ngư phụ" của Khuất Nguyên, tuy điều là những bài văn cao quý như hoa thơm cỏ lạ, nhưng văn họ Đào không có cái hồn âm kịch liệt và ai phẫn của Khuất Nguyên.
Họ Đào, như họ Trang, đều chủ trương về với tự nhiên, nhưng đối với thế tục, Đào không có cái bén nhọn như Trang. Đào không chịu " khom lưng, quỳ lụy vì năm đấu gạo" mà thương xót cho mình quá ngu dại vì miếng ăn đem đổi nhân phẩm của mình, còn Trang sinh thì lại cười vang cho bọn bon chen theo danh lợi không hơn gì bò lợn được dưỡng nuôi để mà xẻ thịt!
Nói thế, đâu phải chê Trang mà khen Đào, là vì, sự thật, có nhiều thứ u mặc: U mặc trong thi ca tự thích thì Đào là thủy tổ, mà u mặc trong văn nghị luận thì Trang là tối cao. Bản chất của thi ca là nhẹ nhàng thanh nhã, cho nên Đào rất ôn hòa là cái lẽ nó phải vậy. Họ Lâm cho rằng Trang Tử là thứ u mặc thuộc dương tính, còn Đào Tiềm là thứ u mặc thuộc âm tính: Khí chất khác nhau mà thôi.
Người Trung Hoa chưa nhận thức rõ ràng ý nghĩa sâu xa và vai trò quan trọng của u mặc nên cho rằng u mặc cũng đồng nghĩa với hoạt kê trào phúng, khiến nên u mặc bị kẹt trong một phạm vi hoạt động co hẹp.
Sau Trang Tử, văn chương u mặc có tính khí ngang tàng không thấy tiếp tục xuất hiện nữa. Là vì những tư tưởng phóng dật ấy bị thế lực đạo thống của Nho gia và quyền uy của vua chúa áp đảo. Trong khoảng hai ngàn năm người viết văn nghị luận đều phải theo đòi thánh hiền còn kẻ sĩ cầm bút cũng chỉ múa may trong vòng Khổng Miếu. Nếu có thứ văn nghị luận nào mới mẻ, kiến giải có hơi siêu phàm thoát tục liền bị coi là phản lại đạo đức, biện ngôn hay ngụy thuyết. Thậm chí bọn đại sĩ phu còn quy cho Hà Án, Vương Bật về tội xúi giục thối lan tràn của Kiệt Trụ, làm cho nhân nghĩ bị chìm đắm, nho phong mờ mệt, lễ nhạc băng hoại. Sở dĩ nước Trung Hoa điên đảo, họ cũng đều quy tội cho u mặc gây ra. Vương Lạc thanh đàm, vậy mà bọn hủ nho cho đó là triệu chứng diệt vong của nước tấn. Sự thanh đàm còn chẳng được chấp nhận, thì còn ai dám chủ trương nói đến chuyện " tuyệt thánh, khí chí", " tuyệt nhân, khí nghĩa!"
Các hủ nho có thể đem vứt bỏ văn học u mặc ra ngoài văn chương lăng miếu, mộ bia, nhưng không thể vứt nó ra khỏi cuộc sống của con người, vì u mặc là phần đặc biệt và quan trọng nhất của đời người. Dù là trong sinh hoạt của các nhà đại nho, dù học là những người sáng tạo ra văn học cần nguyện trang nghiêm đạo mạo bậc nào, trong những khi cùng bạn hữu đàm đạo, há chẳng có những lúc cười đùa châm chọc nhau sao? Chính những phút ấy là những giấy phút thần tiên, tâm hồn cởi mở và sống thật. Chỗ khác biệt giữa văn học cẩn nguyện và văn học u mặc là văn cẩn nguyện thiếu cái "ướt át" của u mặc mà thôi.
Trong nền văn học Việt Nam, mà thiếu văn chương lãng mạn u mặc của ca trù, thử hỏi còn có cái gì là tự do sinh khí nữa! Vậy mà bọn đạo đức giả nước ta không ngớt lên án là thứ văn chương du hí và vong quốc! Người ta đã kém thành thật đối với mình.
"Tình yêu là một vị thần bất tử,
U mặc là một lợi khí,
Cười là một sự bổ ích."
Không có ba cái đó, không đủ nói đến văn hóa toàn diện" Cười đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn... đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn... mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác... theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình... đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào.
Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã "cười to" với câu nói bất hủ này: "Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!"
Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu "u mặc đại sư" có nói: "U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện".
U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là "văn minh nhất" lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời.
Nhà văn họ Lâm cho rằng: "Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái "trống không" của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên:
Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế...
Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi!
Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc.
Nhưng phải đợi đến nhân vật chủ não là Trang Châu xuất hiện, mới có được một thứ văn chương nghị luận ngang dọc... mở ra cho người đời một thứ tư tưởng và văn học u mặc hẳn hòi. Trang Tử là thủy tổ của văn học Trung Hoa.
Các tung hành gia như Quỷ Cốc Tử, Thuần Vu Khôn... điều là những nhà hùng biện trào lộng thật, nhưng vẫn chưa kịp phong thái u mặc thượng thừa của Trang Châu...
Nền văn Trung Hoa với "bách gia chư tử" đã phát triển rất mạnh. Người ta nhận thất rõ ràng có hai luồng tư tưởng khác nhau xuất hiện: Phái cẩn nguyện (Lấy lễ, nhạc, trang nghiêm, cung kính và nghị luận tuyệt đối một chiều làm chủ yếu), và phái siêu thoát (lấy tự do phóng túng, trào lộng u mặc, nghị luận dọc ngang làm yếu chỉ). Trong khi phái cẩn nguyện cúc cung tận tụy phó vua giúp nước, chăm chăm lấy sự "sát thân thành nhân", "lâm nguy bất cụ" làm lẽ sống, nhưng nhóm đồ đệ của Mặc Địch hay nhóm cân đai áo mão đồ đệ của Khổng Khâu, thì phái siêu thoát lại cười vang... cho bọn khép nép chầu chực ở sân rồng còn kém xa "loài heo tế", hoặc già như nhóm đồ đệ của Dương Chu, nhổ một sợi lông chân mà đổi lấy thiên hạ cũng không thèm, hoặc coi nhân nghĩa như giày dép rách, xem lễ là đầu mối của loạn ly trộm cướp...
Phái Nho gia có thuyết tôn quân nên bị nhà cầm quyền khai thác lợi dụng, nhân đó mà có bọn hủ nho xuất hiện, được nhóm vua chúa nâng đỡ đủ mọi phương tiện.
Nhưng, dù bị đàn hạc, bị bức bách đủ mọi hình thức, văn học u mặc chẳng nhưng không bị tiêu diệt lại còn càng ngày càng mạnh. Đúng như lời Lão Tử: "Tương dục phế chi, tất cố hưng chi". Cũng như văn trào lộng của nước Pháp ở thế kỷ mười tám sở dĩ được phát đạt một thời với những ngòi bút trào lộng bất hủ của Voltaire và Rousseau, phải chăng là "nhờ" nơi cái nhà ngục Bastille mà được vừa tế nhị, vừa rực rỡ! "Họa chung hữu phúc" là vậy!
Nguồn tư tưởng phóng khoáng của Đạo gia quá to rộng như đại dương, không sao đụng được trong những ao tù nhỏ hẹp, nó vượt khỏi thời gian không gian, ôm chầm vũ trụ, siêu thoát Âm Dương... không ai có thể lấy ngao mà lường biển. Cho nên tư tưởng Trung cổ về sau, dù đại thế của Nho gia được đề cao và chiếm địa vị độc tôn, cũng không làm sao ngăn trở nó được. Văn khí của u mặc hồn nhiên mạnh mẽ như giông to gió lớn, trước nó không một chướng ngại vật nào có thể đứng vững.
Huống chi người Trung Hoa trí thức nào cũng có hai tâm hồn: Bên ngoài là một ông Khổng, bên trong là một ông Lão. Nho Lão cùng ở trong một người mà không bao giờ nghịch nhau. Hạng trung lưu, không một người Đông phương nào, cả Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam mà đọc lên bài "Quy khứ lai từ" của Đào Uyên Minh lại không biết thích thú, nhất là hạng người say mê trong con đường nhập thế. Ngày có làm, thì đêm phải có nghĩ, đó là định luật của thiên nhiên: "Nhật hạp nhật tịch vị chi biến". Văn học u mặc là "mở", văn học cẩn nguyện là "đóng", nghĩa là khép kính trong vòng tiểu ngã, trong các giáo điều luân lý tôn giáo, nguồn gốc sinh ra không biết bao nhiêu việc nhỏ nhen ích kỷ và giả dối.
Văn học Trung Hoa, ngoài thứ văn học lăng miếu trong triều đình không kể, còn điều là thứ văn học rất đắc thế cho tư tưởng u mặc.
Văn học trong miếu, thực ra, chưa đáng kể là văn học, vì nền văn học có linh tính chân thật phải đi sâu vào tâm tư con người để khám phá và cởi mở những khác vọng thầm kính của nó mà ước lệ giả tạo của xã hội cấm đoán. Để hòa đồng với thiên nhiên phải tránh xa lối văn nhân tạo. Đó là đặc điểm đầu tiên của u mặc.
Ở Trung Hoa, nếu chỉ có nền văn học cẩn nguyện của Nho gia đạo thống mà thiếu nền văn học u mặc của Đạo gia, không biết văn học Trung Hoa sẽ cằn cõi khô khan đến bậc nào, tâm linh người Trung Hoa sẽ sầu khổ héo hắt đến chừng nào!
Nhận xét trên đây của nhà văn họ Lâm rất đúng, không riêng gì cho Trung Hoa mà cho tất cả mọi nền văn học trên khắp địa cầu. Nhà văn Chamfort có viết: "Triết lý hay nhất là hỗn hợp được sự vui đời mà trào lộng chua cay với sự khinh đời mà độ lượng khoan hòa"
U mặc là ngọn thanh phong trong những buổi trưa hè oi ả... của cuộc đời!
Khổng Tử đi hỏi lễ Lão Tử. Lão Tử nói: "Lời nói của ông là lời nói của những kẻ nay đã xương tàn cốt rụi. Vả, người quân tử đắc thời thì đi xe, không đắc thời thì tay vịn nón lá mà đi chân. Ta nghe rằng kẻ buôn giỏi khéo giữ của quý như không có gì, người quân tử đức thạnh, dung mạo như người ngu. Họ khác với cái kiêu khí và đa dục của ông. Thái sắc ấy và dâm chí ấy không ích lợi gì cho ông cả! Ta sở dĩ báo cho ông biết có bấy nhiêu thôi".
Đoạn văn trên đây của Tư Mã Thiên nói về Lão Tử và Khổng Tử, có cái ý vị trào lộng mà chua cay của người thời chiến quốc đối với hạng người thích làm thầy đời, chưa thể là văn u mặc thượng thừa. Phái siêu thoát, nếu lại nhập vào dòng yếm thế và phẫn thế, sẽ mất lần đi cái tinh thần chân chính của u mặc. Căn cứ vào tiêu chuẩn này, ta có thể nhận thấy rằng sách của Trang Tử gồm cả thảy ba mươi ba thiên, nhưng chỉ có nội thiên là toàn bích, phản ảnh đúng tinh thần u mặc thượng thừa của Trang Châu mà thôi. Các thiên chương khác, cũng có một số mà giọng trào lộng không kém Trang Châu, nhưng lại có giọng chua cay phẫn the (có thể do các tay Trang học, đạo theo lối văn u mặc của Trang), nên kém xa thần thái siêu thoát của Trang, như ở Thiên đạo chích chẳng hạn.
Khổng Tử lắm lúc cũng tỏ ra tinh thần u mặc: Sau một thời gian bôn ba thuyết khách, cốt đem đạo học truyền bá cho hàng đế vương mà không thấy ai biết dùng đạo mình, bèn than: "Dư dục vô ngôn. Thiên hà ngôn tai!". Rồi khi bị dồn vào thế kẹt, lại trào lộng tự bảo "tri kỳ bất khả nhi vi chi!!"
Bởi vậy, điều mà ta thích ở Khổng Tử, đâu phải lúc ông thiếu thời, sớm được thành công, đầy hăng say và tiểu khí ra tay giết Thiếu Chính Mão, mà chính ở vào lúc liên miên thất bại nhưng không mất vẻ trào lộng, thời mà ông không muốn chỉ "làm trái bầu treo lủng lẳng mà không ăn được!!". Vậy mà bọn hủ nho chỉ biết thích thú vỗ tay hoan nghênh cái ông Khổng Tử giết Thiếu Chính Mão, mà không biết thích cái ông Khổng Tử, vời cái cười trào lộng, khen cái chí của Tăng Điểm " Tắm sông Nghi, hứng gió ở nền Vũ Vu, trên đường về, cùng nhau nắm tay ca hát!" Nghĩa là họ chỉ biết thích cái ông Khổng bên ngoài của ông Khổng, mà không biết thích cái ông Lão ở bên trong của ông Khổng, cái ông Khổng "tòng ngô sở hiếu"!
Về sau Mạnh Tử cũng còn giữ được cái tính chất khôi hài khi ông " vượt bức tường đông để ôm chầm người con gái", điều mà bọn sĩ phu về sau không bao giờ dám hở môi.
Đến sau này, bọn hủ nho lại càng ngày lại càng kém, không đủ để bàn đến. Ngay như Hàn Phi Tử, tuy có tính cách trào lộng, nhưng lại thiếu sự nhẹ nhàng tự nhiên, nên cũng không sao theo kịp u mặc. Đến như bọn Đông Phương Sóc, Mai Cao đều chỉ là hạng người hoạt kê trào phúng, chưa có đủ bản sắc u mặc thượng thừa.
Mãi đến Vương Bật, Hà Án với tinh thần phóng khoáng của lão Trang, lại thêm có nhóm Trúc Lâm thất hiền tiếp tục khởi xướng, nên mới mở ra được cái phong thái thanh đàm, quét sạch được cái khí vị nặng nề móc meo của hủ nho thời ấy.
Trong cái không khí tự do đó, tư tưởng đời Chu Tần được cơ hội khai phóng, biến thành một phong trào hoạt đàm tự thích, như cây cỏ được cái nắng mùa hạ mà xum xuê, để rồi tiến sâu vào cảnh vật mùa thu. Kết quả là cuối đời Tấn, một nhà thơ trào lộng u mặc thành thục Đào Tiềm xuất hiện. Theo nhà văn họ Lâm, thì "cái vẻ đạm bạc tự thích của Đào Tiềm không giống cái vẻ cuồng phóng của Trang Châu, cũng không có cái bi phẫn của Khuất Nguyên"
So sánh bài " Quy Khứ Lai Từ" của Đào Tiềm với các bài "Bốc cư", "Ngư phụ" của Khuất Nguyên, tuy điều là những bài văn cao quý như hoa thơm cỏ lạ, nhưng văn họ Đào không có cái hồn âm kịch liệt và ai phẫn của Khuất Nguyên.
Họ Đào, như họ Trang, đều chủ trương về với tự nhiên, nhưng đối với thế tục, Đào không có cái bén nhọn như Trang. Đào không chịu " khom lưng, quỳ lụy vì năm đấu gạo" mà thương xót cho mình quá ngu dại vì miếng ăn đem đổi nhân phẩm của mình, còn Trang sinh thì lại cười vang cho bọn bon chen theo danh lợi không hơn gì bò lợn được dưỡng nuôi để mà xẻ thịt!
Nói thế, đâu phải chê Trang mà khen Đào, là vì, sự thật, có nhiều thứ u mặc: U mặc trong thi ca tự thích thì Đào là thủy tổ, mà u mặc trong văn nghị luận thì Trang là tối cao. Bản chất của thi ca là nhẹ nhàng thanh nhã, cho nên Đào rất ôn hòa là cái lẽ nó phải vậy. Họ Lâm cho rằng Trang Tử là thứ u mặc thuộc dương tính, còn Đào Tiềm là thứ u mặc thuộc âm tính: Khí chất khác nhau mà thôi.
Người Trung Hoa chưa nhận thức rõ ràng ý nghĩa sâu xa và vai trò quan trọng của u mặc nên cho rằng u mặc cũng đồng nghĩa với hoạt kê trào phúng, khiến nên u mặc bị kẹt trong một phạm vi hoạt động co hẹp.
Sau Trang Tử, văn chương u mặc có tính khí ngang tàng không thấy tiếp tục xuất hiện nữa. Là vì những tư tưởng phóng dật ấy bị thế lực đạo thống của Nho gia và quyền uy của vua chúa áp đảo. Trong khoảng hai ngàn năm người viết văn nghị luận đều phải theo đòi thánh hiền còn kẻ sĩ cầm bút cũng chỉ múa may trong vòng Khổng Miếu. Nếu có thứ văn nghị luận nào mới mẻ, kiến giải có hơi siêu phàm thoát tục liền bị coi là phản lại đạo đức, biện ngôn hay ngụy thuyết. Thậm chí bọn đại sĩ phu còn quy cho Hà Án, Vương Bật về tội xúi giục thối lan tràn của Kiệt Trụ, làm cho nhân nghĩ bị chìm đắm, nho phong mờ mệt, lễ nhạc băng hoại. Sở dĩ nước Trung Hoa điên đảo, họ cũng đều quy tội cho u mặc gây ra. Vương Lạc thanh đàm, vậy mà bọn hủ nho cho đó là triệu chứng diệt vong của nước tấn. Sự thanh đàm còn chẳng được chấp nhận, thì còn ai dám chủ trương nói đến chuyện " tuyệt thánh, khí chí", " tuyệt nhân, khí nghĩa!"
Các hủ nho có thể đem vứt bỏ văn học u mặc ra ngoài văn chương lăng miếu, mộ bia, nhưng không thể vứt nó ra khỏi cuộc sống của con người, vì u mặc là phần đặc biệt và quan trọng nhất của đời người. Dù là trong sinh hoạt của các nhà đại nho, dù học là những người sáng tạo ra văn học cần nguyện trang nghiêm đạo mạo bậc nào, trong những khi cùng bạn hữu đàm đạo, há chẳng có những lúc cười đùa châm chọc nhau sao? Chính những phút ấy là những giấy phút thần tiên, tâm hồn cởi mở và sống thật. Chỗ khác biệt giữa văn học cẩn nguyện và văn học u mặc là văn cẩn nguyện thiếu cái "ướt át" của u mặc mà thôi.
Trong nền văn học Việt Nam, mà thiếu văn chương lãng mạn u mặc của ca trù, thử hỏi còn có cái gì là tự do sinh khí nữa! Vậy mà bọn đạo đức giả nước ta không ngớt lên án là thứ văn chương du hí và vong quốc! Người ta đã kém thành thật đối với mình.
HÀ THÚC SINH*CHIIẾU CHẮN CÒM
Hà Thúc Sinh
Xong roài moät coõi u minh,
Ngöïa Hoà chim Vieät bieán hình maø ñi. (*) Ñinh thi só nhaåm nhanh hai caâu cuoái baøi thô ghi voäi roài nheùt maåu giaáy vaøo tuùi, gôõ muõ ngöôùc nhìn nhöõng ngoïn thoâng cao vuùt, hít saâu moät hôi, roài thôû ra, than thaàm, "Thaät, chaúng chieàu quaùi naøo nhö caùi chieàu nay!"
Ñoù laø moät buoåi chieàu khoâng gioáng buoåi chieàu naøo thaät, vaø oâng Ñinh thi só coù than nhö theá chaéc cuõng khoâng ai nôõ baûo oâng thaäm xöng ñeå nhaân côù aáy xeùn bôùt tí tính ñaùng quyù voán coù ôû oâng laø tính thaän troïng duøng chöõ.
OÂng Leâ nhaø vaên luïc tuùi tìm goùi thuoác, söïc nhôù ra choã mình ñöùng laïi thoâi. Nhìn veà phía quan taøi oâng chaét löôõi noùi nhö noùi vôùi ma:
"Ñi luùc naøo khoâng ñi, nheø ngay luùc cuoái naêm."
OÂng Lyù kyù giaû kheõ theâm:
"Vaø cuoái theá kyû."
OÂng Traàn nhaïc só chöa chòu, theâm tí nöõa:
"Cuoái luoân moät thieân nieân kyû."
Taát caû yeân laëng. Moät cuï tieân chæ vöøa ñoïc xong baøi ñieáu. Caâu cuoái coù bò söï xuùc ñoäng laøm môø ñi nhöng naêm oâng tai coøn thính laém, hoï nghe roõ caû: "... Thoâi, chaøo anh, ngaøn thu vónh bieät anh!"
OÂng Nguyeãn dieãn vieân voán quen thoùi gieãu giöõa ñöôøng, chaúng giöõ yù töù noùi nhö thôû haét ra:
"Baûy laêm tieãn taùm möôi ñaøo ñaâu ra ngaøn thu. Taïm bieät nghe thaät hôn."
OÂng Traàn nhaïc só lôùn tuoåi nhaát ñaùm, noùi:
"Tôùi nöõa phieân ai ñaây?"
OÂng Lyù kyù giaû noùi:
"Öu tieân aáy khoâng ai giaønh oâng."
Laâu laém oâng Leâ nhaø vaên môùi thôû daøi:
"Chaéc cuoán chieáu maát thoâi, tieân (**) ñi nhanh quaù."
OÂng Ñinh thi só baûo:
"Luî tình môùi bòn ròn, thu veùn xong roài thì nhanh."
OÂng Nguyeãn dieãn vieân baûo:
"OÁi daøo, ñôøi toaøn laêm le ñì nhau, uø nhau, ñi nhö theá keå ñaõ leà meà. Hoài cuï môùi loø doø sang toâi coù nhaéc ñaáy. Chaúng aân oaùn vôùi ai cuï veà laïi beân ñoù hay hôn. Toâm leøo duø gì noù cuõng töôi cuõng ngoït hôn, haønh quaân noù khí theá hôn maø laøm thô noù cuõng höùng hôn. Coù nghe ñaâu!"
OÂng Ñinh thi só coá giaáu caùi nhíu maøy, baûo:
"Chöa aên nhaït chöa bieát thöông ñeán meøo."
OÂng Nguyeãn tính giöông coå caõi nhöng oâng Ñinh ñaõ voäi giô moät ngoùn tay leân mieäng. Khoâng gian thoát im nhö tôø. Trong naéng ngai ngaùi, trong gioù ngaây ngaây, nhöõng lôøi thô nhö lôøi caàu sieâu boãng troåi leân qua moät gioïng ngaâm nöõ khoâng ñöôïc xuaát saéc:
Vuõ truï thieàn haønh tieát ñieàu hôi thôû
Vuõ truï mæm cöôøi tieán leân thong thaû
Vuõ truï vaän haønh eâm aû thaûnh thôi
Chuyeän gì roài cuõng boû qua thoâi (***)
"Nhôù laïi vieäc cuõ, ngöôïng laém."
OÂng Leâ con caù gaät guø:
"Theá laø ñaõ thaáy ñöôïc ngoõ truùc xa xa."
OÂng Lyù voõ gioïng vaãn khoù hieåu:
"Gieãu thua Phi Thoaøn vieäc ñeách gì phaûi ngöôïng."
Veà maët ngheà nghieäp oâng Traàn böng toâ gaàn vôùi oâng Nguyeãn bò gaäy, vì theá lôøi an uûi coù noâm na vaø ñaày ñaën hôn.
OÂng noùi:
"Con gaø cho tröùng con coâng cho muùa. Ngon moàm ngon maét ñeàu caàn. Treân saân khaáu ñôøi oâng ñoùng vai oâng. ÖØ, vieäc ñeách gì phaûi ngöôïng."
OÂng Nguyeãn bò gaäy maùt ruoät laém. Vaø nhö ñeå ñeàn ôn tri ngoä, laàn ñaàu trong ñôøi oâng ban cho baïn tí caûm töôûng oâng cuõng bieát khieâm toán nhö ai, bieát töï pheâ töï kieåm nhö ai.
OÂng ñaùp:
"Taát nhieân laø vaäy. Trôøi sinh ra toâi ñeå muùa thì toâi muùa. Khoå caùi, chaäc chaäc, ñoâi khi xem laïi nhöõng thöôùc phim cuõ cöù giaät baén caû mình. Chaû hieåu voäi vaõ theá ñeách naøo maø laém phen ra saân khaáu cöù queân keùo pheïc-mô-tuya."
Thaáy toäi, oâng Ñinh gaøn cuõng giuùp cho ñoâi chöõ:
"Caøng maùt."
OÂng Lyù khoâng chòu:
"Soáng treân ñôøi caàn bieát daïi khoân, sao laïi traùnh?"
OÂng Ñinh chaét löôõi:
"Ngöôøi khoân ñaõ thaønh toå tieân."
OÂng Nguyeãn ngaïc nhieân:
"Theá khoâng coù hy voïng naøo cho ñöùa coøn soáng?"
OÂng Leâ ô hôø nhìn oâng Traàn vöøa trôû laïi choã ngoài. Caùi traùn oâng ta nhaên nhaên, ñoâi maét haáp haùy ra chieàu ñang nghó ngôïi gì ñoù, lung laém. OÂng Leâ ñoät ngoät hoûi, "Naøy oâng böng toâ, thaønh thaät nhaù, oâng nghó oâng khoân hay daïi?"
OÂi thoâi caû boïn moät phen kinh haõi. OÂng Traàn baát giaùc theùt moät tieáng, laàn nöõa vuøng chaïy bieán ra saân sau. Taát caû luïc tuïc chaïy theo vaø hoï thaáy oâng baïn giaø ñang ñöùng nhìn moät daõy thuøng raùc voø ñaàu voø coå. "OÁi cha oái meï toâi ôi," oâng ta gaøo leân. "Theá naøy thì coù khaùc gì quyû thaàn noù vaën raêng toâi." Ra theá. Ban naõy oâng Traàn ñaõ nhoå voäi mieáng baùnh daày thiu coù dính hai haøm raêng giaû, vaø giôø oâng khoâng theå nhôù oâng ñaõ nhoå noù vaøo caùi thuøng naøo.
OÂng Ñinh baûo kheõ vaøo tai oâng Nguyeãn, "Böng toâ laø ngöôøi saép coù hy voïng."
Roát cuoäc nhö bao giôø hoï ñaønh chín boû laøm möôøi, ít ra beà ngoaøi. Cuøng chieáu caû ñaáy thoâi. Tröø oâng Ñinh, taát nhieân, coøn thì hoï ñoàng yù ôû moät möùc ñoä khoâng thoáng nhaát ñôøi ngöôøi khoân nhieàu hôn daïi (coù theá môùi toàn taïi ñöôïc). Vaø cuõng ñoàng yù luoân chính ñieàu ñoù laø nguyeân nhaân laøm môø, laøm maát ñi söï tinh khoâi ñôøi ngheä só. Xem, sao caøng giaø caøng beát? Tieân thi só noùi moät ñaøng laøm moät neûo, ñi moät böôùc ngöôøi dìu moät böôùc, aên æ... cöù hieân ngang taïi choã. Sao theá? Phaûi chaêng traêm söï ñeàu do caùi gaùnh naëng voâ hình goàm toaøn nhöõng moùn goïi laø kinh nghieäm, noâm na laø loõi ñôøi, taét laø khoân cuï vaùc treân löng?
Chaúng maáy tieáng nöõa lòch söû nhaân loaïi sang trang, hoï baâng khuaâng nghó ngôïi.
"Kem haû, maáy moät caây?"
"Daï moät ñoâ."
"Khoâng ñi hoïc aø?"
"Daï Meã laäu."
"Boán ñoâ naêm caây ñöôïc khoâng?"
Thaèng beù nhaên nhoù:
"Daï khoâng."
OÂng Nguyeãn moi ra tôø hai chuïc:
"Coù tieàn thoái?"
Thaèng beù hôi boái roái nhöng cöôøi ngay. Töï nhieân oâng thích nuï cöôøi cuûa noù. Chæ treû con bieát lao ñoäng kieám soáng khi thaáy ñoàng baïc môùi coù nuï cöôøi theá naøy. Noù ñaët thuøng kem xuoáng, chæ tieäm taïp hoaù 7-Eleven beân kia ñöôøng, ñeà nghò:
"OÂng coi giuøm chaùu thuøng kem, chaùu ñi ñoåi."
Roài noù caàm tôø hai chuïc mau maén baêng qua ñöôøng. Nhöng noù khoâng trôû laïi. Maõi khoâng trôû laïi. OÂng Ñinh toø moø nheï môû naép thuøng kem -- moät caùi thuøng eùp baèng baác nhöïa ñaõ khaù söùt meû.
Laàn ñaàu tieân caùc baïn thaáy oâng Ñinh maát bieán neùt chöøng möïc coá höõu. OÂng cöù ruù leân cöôøi, töøng côn.
OÂng Lyù chôït hoûi, khôi khôi:
"Coøn oâng anh naøo nguû hay mô khoâng nhæ? Laï, giaác mô toâi laâu roài cöù nhö vöôït bieân maát tieâu."
Maõi môùi coù gioïng oâng Traàn:
"Tieác gì caùi nguoàn goác phuø hö. Thöïc teá laø ta caàn duy trì caùi chieáu chaén ñaây naøy, cho vui, ñöôïc ngaøy naøo hay ngaøy naáy. Nhöng laøm sao traûi chieáu khi thieáu moät tay?"
OÂng Leâ baûo:
"OÂng taäp chôi laø vöøa."
OÂng Traàn ñaùp:
"Nhieàu quaân quaù, maõi khoâng nhôù."
OÂng Nguyeãn baûo:
"Tröôùc toâi cuõng theá."
OÂng Traàn nhaên nhoù:
"Khoå caùi töù ñoå töôøng rieâng moùn naøy toâi laïi ñeách meâ."
OÂng Lyù baûo:
"Chöa meâ thueâ traêm baïc caàm hoä moät vaùn laéc ngay, meâ roài traû naêm traêm baûo hoaøn coøn laéc döõ."
OÂng Traàn baûo:
"Theá aø, theá nhaéc laïi coi."
Gioïng oâng Ñinh baáy giôø môùi troåi leân, daën doø y moät oâng giaùo taän tuî:
"Nhôù nhaù. Coã baøi moät traêm hai möôi quaân, coù ba haøng vaên, saùch, vaïn..."
___
(*) thô Vieân Linh; (**) teân caùc quaân baøi ñöôïc goïi döïa theo hình veõ: tieân (nhaát vaên), muùa voõ (nhaát vaïn), bò gaäy hay aên maøy (nhò saùch), böng toâ (töù vaên), gaøn (baùt saùch), con caù (baùt vaïn); (***) thô Voõ Phieán.
ĐỖ ĐỨC THU * ANH THÙY
anh thuỳ
Tôi không hiểu ý nghĩa cái chết của anh Thùy. Nó do những sự chán nản chồng chất từ lâu, hay do một lúc không tĩnh trí? Có khi chỉ vì một cớ cỏn con mà người ta làm những việc to tát, và đời một người tự sát chưa chắc là đã có thảm kịch.
Tôi gặp anh trong một đám ma, và lúc biết nhau là lúc tôi đưa đám ma anh. Ngẫu nhiên, tôi so sánh hai đám tang: một đằng nhộn nhịp linh đình, các vòng hoa tươi tốt rũ hương lại phía sau, người đi đưa nối dài hàng trăm thước; một đằng là hai con ngựa gầy kéo cái xe đã cũ, quan tài phủ miếng vải đen đã bạc và mấy người thưa thớt theo sau. Anh Thùy rất ít bạn; họ đã như tôi; không hiểu anh và không có gan, hoặc tính hiếu kỳ như tôi, xa anh đã lâu.
Hai năm trước, tôi đi đưa ma anh Ninh, đám tang cử hành từ sáng sớm, trùng trình tới mười giờ mà chưa ra khỏi thành phố. Chúng tôi - những người đi đưa - trịnh trọng dần từng bước ngắn theo sau xe tang, mũ cầm ở tay tuy trời đã nắng gắt. Duy chỉ có một người đi bên trái tôi vẫn nghiễm nhiên đội mũ. Tôi thấy chướng mắt và thầm chê là vô lễ. Một lúc sau tôi thấy nắng rát ở gáy. Tôi lấy khăn mùi xoa giơ lên che, nhưng vẫn không đội mũ như muốn cho anh chàng kia hiểu rằng đội mũ là không lịch sự. Chàng quay nhìn tôi như muốn bảo "Nắng thế, có mũ sao không đội, lại đi che khăn mặt?", lấy một điếu thuốc lá ngậm vào miệng rồi hỏi tôi:
- Ông có diêm không?
Tôi đưa bao diêm và lại càng ghét thêm. Từ nãy, một người nhà đám thường bưng cơi trầu trong có bao thuốc lá đi mời từng người, nhưng tôi thấy ai cũng từ chối. Trong lúc kính cẩn nghiêm nghị ấy, phì phèo điếu thuốc lá như không tiện. Anh chàng điềm nhiên hút. Mùi khói thuốc ănglê thơm ngon sực nức và năm mươi bước sau, một nửa người đi đưa đã hút thuốc. Ra khỏi thành phố, xe tang đi mau hơn, người đi đưa cũng rảo bước. Nắng càng gắt, những chiếc mũ đã lên cả trên đầu. Người bên cạnh tôi như để ý đến sự phía trước. Theo tầm mắt hắn, tôi thấy một thiếu nữ chít khăn tang đi cạnh người quả phụ. Thiếu nữ thỉnh thỏang quay lại như tìm ai, và khi nhìn đến một thiếu niên đi bên phải tôi thì mắt dừng lại lâu một chút.
Khi đã quen Thùy, tôi nhắc lại chuyện hôm ấy. Anh cười nói:
- Tôi không hiểu vì lẽ gì tôi phải đi đầu trần dưới trời nắng chang chang và nhịn thèm khi có thuốc lá ngon trong túi. Tôi không muốn phải cảm; nếu anh không chịu được nắng thì việc gì anh bắt chước người ta? Thương anh Ninh hay không là một chuyện khác. Từ lúc tôi hút điếu thuốc, hình như thấy thương tiếc anh Ninh hơn lên. Trước kia anh vẫn cho tôi vay tiền mua thuốc, bây giờ nhỡ thiếu thuốc, không biết chạy đến ai?
Tôi phải khó chịu về câu nói đầy ý nghĩa "vị ngã". Tôi không muốn thấy một thiếu niên nhanh nhẹn, một vẻ mặt thông minh, lanh lợi, ích kỷ đến bực ấy. Anh Thùy nhận thấy tôi bất bình, ôn tồn tiếp.
- Tôi nói thế, anh cho là chướng lắm à? Dù sao tôi cũng đã có cảm tình với anh Ninh và đã dám nói ra. Có lẽ trong những người đi đưa hôm ấy, tôi thương anh Ninh hơn hết, và tự thương cả tôi sẽ thiếu thuốc lá. Tôi tự chắc mình thành thực hơn hết mọi người. Anh coi liệu có ai thật lòng thương anh Ninh không? Bắt đầu từ người vợ góa, một người đàn bà, quá tự kiêu vì nhan sắc, đã làm anh khốn khổ đến nỗi chỉ muốn lang thang suốt ngày để khỏi về nhà nhìn thấy mặt vợ. Anh có tin nước mắt người đàn bà ấy không? Hôm ấy như chị chàng khóc dữ lắm. Cô em gái đi đưa đám ma anh mà vẫn không quên liếc tình nhân, người con trai đi bên phải anh. Họ lợi dụng cả cái chết của người khác để gặp nhau, để đưa mắt, để khoe vẻ đẹp trong bộ quần áo tang. Còn các ông đi đưa nữa! Họ đạo mạo, nghiêm nghị, trịnh trọng nhận những cái ngả mũ của những người đi ngược lại chào xe tang như người ta chào mình. Họ đi thong thả, vì người cho thuê xe kìm bước ngựa cho đám thêm trịnh trọng và quảng cáo cho nhà mình. Anh có thì giờ nhìn chân người đi trước và đặt bước đúng bước họ. Ra khỏi tỉnh xem? Anh không còn kịp tránh những viên đá nhọn. "Trong khi ấy họ nghĩ đến gì? Đến anh Ninh? Chưa chắc. Họ nghĩ đến công việc của họ. Có người, mới ở nhà ả đào ra vội cho kịp đám ma, nghĩ đến tình nhân và chầu hát đêm qua, có người nhẩm tính xem bao giờ đưa xong để kịp về họp tổ tôm. Hoặc họ nghĩ đến anh Ninh nhưng chỉ đủ để nghĩ luôn sang người vợ góa trẻ và đẹp, thế nào rồi cũng tái giá. Có lẽ những ý nghĩ đó chung cho cả ngần ấy người, nhưng không ai dám nói ra. Họ như đã cùng bảo nhau giữ một vẻ mặt đạo mạo. Họ không hút thuốc, không đội mũ, nhưng khi nắng rát quá, và chung quanh mình thấy có người đội rồi thì họ chẳng còn ngần ngại gì. Khói thuốc lá thơm làm các cậu thèm, cũng móc thuốc ra hút. Anh xem? Nếu anh có thể vờ chết để thử tâm tình các người thân thích anh, thì tôi chắc rằng khi anh biết rõ rồi, anh sẽ muốn chết hẳn, không trở lại cõi đời này nữa!".
Hôm đưa đám, ngẫu nhiên tôi cũng có nhìn cô em anh Ninh, có thấy cô xinh đẹp và nghĩ... Bây giờ nghe lời anh Thùy, tôi lại thấy tự thẹn. Tôi ngượng nghịu bảo anh:
- Đã đành rằng thế. Trong thâm tâm, người ta có thể tha hồ nghĩ, nhiều khi rất nhảm nhí. Nhưng nói ra như anh, tất phải bạo lắm, can đảm lắm.
- Hay là đểu lắm, sao anh không nói? Tôi chắc anh nghĩ thế.
Tôi không dám cho anh hẳn là đểu, nhưng tôi vẫn thấy khó chịu về cách thật thà của anh. Đầu tiên tôi như thấy nó thô bỉ, sống sượng, nhiều lúc đến cục cằn. Có câu nghe đến phải ngượng tai, tôi phải ngượng và thẹn như cô gái đồng trinh vô tình nghe phải câu chuyện nhục dục. Anh chàng vẫn tự nhiên phô diễn những ý tưởng của anh, nhiều lúc rất táo bạo. Anh không hề thấy ngượng mồm hay sợ mếch lòng ai. Các bạn anh, không chịu được lối sỗ sàng ấy, xa dần. Anh như không quan tâm, hình như không cần đến ai.
Duy tôi, tôi vẫn chơi với anh. Hình như tâm tính anh bổ khuyết cho tính rụt rè nhút nhát của tôi, nên mỗi ngày tôi lại gần anh thêm. Nhiều lúc tôi vui sướng thấy anh rất tự nhiên diễn tả một ý tôi thường nghĩ đến mà không tiện nói ra, vì nó táo bạo quá. Tôi lại gợi cho anh nói thêm; cố nhiên là anh sa vào lưới của tôi, nói luôn miệng, những câu làm tôi phải rùng mình.
Có lúc anh ăn nói cục cằn, sống sượng như một kẻ vô học. Tôi tưởng như tâm não anh không còn có ý nghĩ gì thanh cao nữa. Tôi không hề thấy anh cảm động, một lần chúng tôi đứng xem thi thể một người bị xe điện chẹt. Cái đầu lìa rời ra, thân chỉ còn là một đống thịt, xương máu, vò nhàu, trộn lẫn. Anh xem tỉ mỉ từng tí, lấy thuốc lá hút, rồi bảo tôi:
- Thịt mất máu, nhợt thế này giống như thịt cọp tôi đã ăn bít tết, nhạt và hoi. Thịt người chắc rằng có vị ấy.
Tôi cho là anh đã hư hỏng, hoặc cằn cỗi lắm. Nhưng ngay chiều hôm ấy, thấy anh đứng hàng giờ trên cầu Thê Húc, ngắm bóng trăng dưới hồ thì tôi lại ngờ câu phán đoán của mình. Tôi thấy anh rất khó hiểu. Tôi ngỏ ý ấy. Anh Thùy nói:
- Tại sao khi các anh chơi với ai, lại cứ muốn hiểu rõ người ta, và nhất là lại cứ muốn người ta giống mình? Tôi, thì tôi cho rằng không gì chán bằng biết rõ một người, biết điều họ nghĩ, đoán trước được việc họ làm. Tưởng hiểu một người, rồi đột nhiên thấy họ có một hành vi khác hẳn với phỏng đoán của mình, thấy những điều mới lạ trong một tâm hồn thường ở bên mình mà mình không ngờ đến, còn gì thú bằng? Cuộc đời sẽ phong phú biết bao? Trai gái, những cặp nhân tình sẽ không bao giờ chán nản, bỏ nhau, vì họ có dịp luôn luôn kính nhường người mới.
Nói chuyện với anh Thùy tôi thường thấy tưng tức khó chịu. Tôi không đánh đổ được ý kiến của anh, tôi không hẳn cho là những giả thuyết, hoặc những lời ngụy biện của một tâm hồn đã chán chường, hoặc quá vị kỷ, nhưng tôi thấy nó đột ngột, sống sượng, không thích hợp với cõi đời này mà ai ai cũng cần che đậy những ý nghĩ của thâm tâm, cho lời giao thiệp thêm lịch sự. Có lần tôi bất bình nói với anh giọng như gắt:
- Lý thuyết của anh chỉ thích hợp khi nào trên thế giới không còn ai, chỉ có một mình anh, hoặc lùi lại mười thế kỷ, chứ còn sống ở xã hội này, chung đụng với mọi người, thì tôi e rằng những tư tưởng ấy chỉ có hại cho anh thôi.
Anh mỉm cười ra ý không tin. Quả nhiên những lời tôi nói thành sự thực.
Đầu tiên thầy đẻ anh Thùy không bằng lòng đứa con ngỗ nghịch, không chịu theo lễ giáo của gia đình. Tính tình quá tự do của anh, như một con chim, muốn đập cánh bay khỏi vòng kiềm thúc; anh bỏ gia đình, ra Hà Nội định tự lập. Bắt đầu, anh thuê một căn nhà rất lịch sự giữa thành phố, rồi dần dần thu lại một túp lều ở ngoại ô. Công việc của anh không có kết quả, nó đều đi trái với đường anh dự tính. Các bè bạn lảng dần. Những lúc gặp nhau ngoài phố, ở những chỗ chơi bời, họ vẫn niềm nở chuyện trò, nhưng cần đến họ để mưu tính công việc gì, thì không ai thật lòng cộng tác với anh. Anh gặp toàn những sự thất bại. Anh như oán hận mọi người không hiểu anh, đời bạc đãi anh, tính anh sinh gay gắt, và càng khó chịu thêm. Nhiều lúc anh có những lời ngụy biện rất tai ác, chỉ cốt lấy cái thú ranh mãnh tỏ cho người kia biết rằng anh không cùng tư tưởng với họ, và thường khi khinh cả những điều họ nghĩ. Riêng tôi, tôi thấy sau thái độ bướng bỉnh, ương ngạnh ấy một nỗi chán nản nó ngầm đục tâm hồn chậm chạp và chắc chắn, như một dòng nước phá chân một bức tường.
Nói chuyện với anh Thùy, tôi thường thấy tưng tức. Tôi lại thăm anh Thùy. Mới đẩy cổng đã thấy tiếng anh:
- Nhà triết học của tôi đã đến. Hay quá, tôi đang mong anh.
Anh Thùy nằm võng, một quyển sách úp trên ngực. Tôi ngồi xuống mép phản, cầm lấy quyển sách ngắm nghía. Đấy là một trong mười quyển sách quý của anh, đắt tiền và đóng bằng da mềm, phơn phớt xanh, rất mỹ thuật. Nhiều lần tôi ao ước có được một tủ sách như thế, và mỗi khi đến chơi với anh Thùy, tôi không quên lại góc buồng lấy một cuốn cầm ở tay trong khi nói chuyện.
Anh Thùy hỏi tôi:
- Anh ưa mấy quyển ấy lắm à? Thế để tôi biếu anh.
Tôi ngạc nhiên, không tin rằng anh có thể rời chúng ra dễ dàng thế. Anh Thùy đi lấy chồng sách, lấy bút máy đề biếu tôi vào các trang đầu:
- Tôi thấy anh yêu sách đẹp. Chúng vào tay anh cũng được chiều chuộng, quý hóa. Tôi không giữ được chúng nữa. Để thất lạc đi thì uổng.
Tôi ân hận rằng lúc ấy chỉ để ý đến mấy quyển sách. Tôi không thấy anh vui vẻ quá, có thể cho người ta ngờ vực. Tôi tưởng anh định đi chơi đâu xa, mà không muốn mang nhiều hành lý.
Anh Thùy đi biệt, và không mang chút hành lý nào: hai hôm sau, tôi được tin anh tự tử.
Rút từ tập truyện ngắn Nhà bên kia,
Nxb. Cộng lực, Hà Nội, 1942
THƠ NGUYÊN SA
Tôi Sẽ
Sang Thăm Em
|
|
Nguyên Sa | |
Tôi sẽ
sang thăm em
Để những mớ tóc màu củi chưa đun Màu gỗ chưa ai ghép làm thuyền Lùa vào nhau nhóm lửạ Tôi sẽ sang thăm em Để những ánh mắt màu sao sáng tỏ Hay đôi mắt màu thóc đang say Màu vàng khô pha lẫn sắc nâu gầy Đừng nhớ những ngày còn lá úa Để lệ trắng như gạo mềm rơi trên tay Tôi sẽ sang thăm em Để tình yêu đừng chua cay Để tình yêu là sóng Một dòng sông gặp gỡ dòng sông Tôi sẽ sang thăm em Dù có một nhịp cầu mới mở Nhưng chỉ để hành quân Tôi vẫn sang thăm em - Ngày hôm nay - Chờ ngày mai có thể Chúng mình sẽ xa nhau Chúng mình sẽ thù nhau Chúng mình sẽ nhìn nhau bằng đôi mắt người đàn bà có tuổi Và dòng sông có thể dài thêm nửa với Bờ sông không đuổi kịp dòng sông Nhịp cầu đổ gãy Và chúng mình Với bốn bàn tay chết đuối Trên bờ sông Như người đàn bà suốt đời thai ghén - Phải không em ? Xin lỗi về những nhầm lẫn dĩ vãng
June2
Bây giờ khẩu garant ta mang trên vai
Bây giờ khẩu trung liên bar ta mang trên vai Ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế Ta mới biết rằng trong cuộc đời dạy học ta là thằng dốt nát Trong mười mấy năm ta làm bao nhiêu tội lỗi Trong mười mấy năm ta không nói cho học trò ta biết Những thỏi sắt đó nặng như thế Ta không nói cho vợ con bạn bè đồng bào ta biết Anh em ta và quê hương ta Vác những thỏi sắt nặng như thế Từ bao nhiêu năm nay Bây giờ nằm kích ở ven ruộng sương xuống ướt vai Bây giờ đứng gác đêm ở rừng gìa gió lạnh thấu xương Ta mới biết rằng sương lạnh như thế Ta mới biết rằng gió lạnh như thế Ta muốn kêu to lên ta là thằng dốt nát Ta là một thằng dốt nát Vì mỗi ngày trong mười mấy năm dĩ vãng Ta không viết lên giấy trắng mực đen cho những người yêu thơ ta biết Anh em ta và quê hương ta đã đứng như thế từ bao nhiêu năm Bây giờ di chuyển đêm di chuyển ngày di chuyển nắng di chuyển mưa Ăn không được ngủ không được cười không được khóc không được Hỡi những anh em đã ngồi trước mặt ta trên ghế nhà trường Hỡi những anh em đã đọc thơ ta yêu quý Ta nào đã làm được gì Để anh em cười được khóc được ăn được ngủ được Để anh em tìm thấy tọa độ trong rừng gìa Để anh em tìm thấy điểm đứng trong ruộng đồng bát ngát Để đạn đừng xuyên qua phổi Để đạn đừng xuyên qua tim Hãy tha thứ cho ta Hãy tha thứ cho ta Những anh em đã chết Những anh em chết ở bờ ở bụi Những anh em chết ở đồn vắng trong rừng sâu Những anh em chết khi đi di hành Những anh em chết khi đi phục kích Những anh em chết mặt đẹp như hoa Một ngàn lần hơn ta Cũng chết Những anh em học giỏi như thần đồng Một ngàn lần hơn ta Cũng chết Những anh em có vợ mới cưới chăn gối còn thơm Cũng chết Những anh em có người tình viết thư nét chữ còn run Cũng chết Những anh em con cái còn nhỏ hơn con cái ta Cũng chết Những anh em mẹ già còn yếu hơn mẹ già ta Cũng chết Những anh em đáng sống một ngàn lần hơn ta Đã chết Đang chết Và còn chết Hãy tha thứ cho ta. (8-1967) |
BS. HỒ VĂN CHÂM * VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
Quan
Điểm
Về Một Số Vấn Đề
Chính
trị Và
Văn Hóa Việt Nam
Lời Kết
Minh
Vũ Hồ Văn Châm
(Tác giả Minh Vũ Hồ
Văn Châm vừa đưa lên mạng Trang Nhà http://www.geocities.com/chamho,
ấn bản 2004, trình bày quan điểm của tác giả
về một số vấn đề chính trị và văn
hóa Việt Nam. Quan điểm
của tác
giả, về mặt chính trị, đặt cơ sở
trên chủ nghĩa quốc gia, theo đó, quốc gia là
tối thượng, và về mặt văn hóa, xoay quanh
sự kiện Việt Nam là địa bàn tranh chấp
ảnh hưởng giữa phương bắc và
phương tây xuyên suốt chiều dài lịch sử dân
tộc. Sau Lời Mở Đầu đã giới thiệu
ở số trước, Tạp Chí Cách Mạng xin giới
thiệu Lời Kết của tác phẩm để
bạn đọc biết quan điểm của tác giả
về các vấn đề được nêu lên).
Đã
có Lời Mở Đầu
để khai trương tất nhiên phải có Lời Kết để cô
đọng những điều vừa trình bày trên mấy
trăm trang sách trước đây thành một lời
khuyến cáo rằng đã đến lúc người
Việt Nam chúng ta cần phải điều chỉnh
lại góc nhìn và thế đứng khi đề cập
đến một số vấn đề chính trị và
văn hóa Việt Nam.
Trong
thực tế, các vấn đề chính trị và văn
hóa Việt Nam trong tập sách
này
tuy mang tính chất đa tạp nhưng thường
thường lại đan kết với nhau. Mỗi một vấn đề
nhiều khi lại bao gồm cả các mặt chính trị
và văn hóa, thậm chí lan
qua cả các
lĩnh vực kinh tế và xã hội. Do đó, trong phần
đúc kết này, tác giả xin tóm lược quan
điểm của mình thành những ý kiến xây dựng,
có khi liên quan đến từng vấn đề, mà
cũng có lúc chung cho nhiều
vấn
đề, và không nhất thiết phân biệt tách bạch
khía cạnh chính trị hay văn hóa.
Trước
hết là vấn đề quốc gia với cộng
sản. Ngườì Việt Nam chúng ta từ
trước tới nay quen đem quốc gia ra đối
kháng với cộng sản. Tàu Tưởng với
Tàu Mao đánh nhau thì gọi là
chiến tranh Quốc Cộng. Việt Minh với Quốc
Dân Đảng kình chống nhau thì gọi là
phân tranh
Quốc Cộng. Hễ cái gì chống cộng sản thì
được gộp lại thành một danh xưng chung
chung là quốc gia. Như vậy là
không
được chính xác. Từ quốc
gia bao hàm nhiều ý niệm cao sâu, không thể
tùy tiện
dùng làm đối vị với từ cộng sản.
Đối vị chính xác của từ
cộng sản là cụm từ ‘không cộng sản’.
Mặt
khác, đối vị của quốc gia là quốc tế
và địa phương. Quốc gia là
nước. Lớn hơn nước là
quốc tế, nhỏ hơn nước là địa
phương. Quốc tế có thể
mang nhiều hình thái. Quốc tế
có
thể là chính trị, là quân sự, là
tôn giáo, là kinh tế,
là văn hóa, là xã hội. Một khi
đã là quốc tế, thì quốc gia bị phủ
lấp, quyền lợi quốc gia không được tôn
trọng, phúc lợi dân tộc phải chịu hy sinh cho
nghĩa vụ quốc tế. Tinh
thần địa phương cũng tác hại không kém.
Địa phương xói mòn, phá
nát sự
thống nhất quốc gia. Địa
phương phân hóa, hủy hoại tình đoàn kết
dân
tộc. Tinh thần địa phương làm nẩy
sinh sự đố kỵ giữa các địa
phương, sự bất phục tùng trung ương,
đưa đến hậu quả cát cứ và nội
chiến, quốc gia vỡ vụn thành nhiều mảnh, dân
tộc chia rẽ thành nhiều nhóm sống trong hận thù.
Quốc
gia là không cộng sản, vì lẽ cộng sản là
quốc tế. Nhưng cộng sản
Việt Nam trong quá khứ
lại thường gian trá đội lốt quốc gia,
và triệt để khai thác tình tự dân tộc. Thực tế phũ
phàng là đối với cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa
cộng sản mới là cứu cánh, còn quốc gia chỉ
là chiêu bài, dân tộc chỉ là phương
tiện. Tuy vậy, cộng sản Việt
Nam
ngày nay vẫn tiếp tục lừa mị quần chúng
ngây thơ, nhất là trí thức và tuổi trẻ nhiệt
tình, sử dụng các hình thái văn nghệ
tâm lý chiến
để kích động lòng yêu nước thương
dân của các thành phần này, đồng thời mập
mờ khoác trở lại lên mình cái lốt mới quốc
gia dân tộc. Bởi vậy, người
Việt Nam chúng ta
ngày nay
vẫn cần phải cảnh giác thủ đoạn
quỉ quyệt của người cộng sản
để ý thức rằng người cộng sản
luôn luôn đặt quyền lợi Đảng Cộng
sản của họ lên trên quyền lợi quốc gia và
không đếm xỉa gì đến phúc lợi dân tộc. Mọi
hành vi và ngôn
ngữ yêu nước thương nòi chỉ là những màn
kịch khéo đóng.
Quốc gia là chống
cộng, nhưng ngược lại, không phải bất
cứ cơ cấu chống cộng nào cũng có thể
gộp chung lại thành một tổng
thể để mệnh danh là quốc gia. Thực
vậy, nếu có những cơ cấu chống cộng
ở phạm trù cả nước thì cũng có những
cơ cấu chống cộng mang tính chất quốc
tế hoặc địa phương. Mặt khác,
đã từng có những cơ cấu chống cộng
tự nhận là quốc gia nhưng không lấy quyền
lợi quốc gia làm cứu cánh, lấy phúc lợi dân
tộc làm đối tượng, mà trong thực tế,
chỉ nhằm vào việc đấu tranh với
đảng cộng sản cầm quyền để tranh
giành đặc quyền đặc lợi cho một
thiểu số thành phần nhân dân mang tính chất
giai
cấp, tôn giáo, địa phương, hoặc chủng
tộc. Quốc gia và chống cộng có chung một
mục tiêu đấu tranh là thực hiện sự
giải thể chế độ cộng sản và
triệt tiêu chính quyền chuyên chính vô
sản, nhưng
quốc gia với chống cộng cực đoan có sự
khác biệt tế nhị là quốc gia chống cộng
nhưng không bao giờ vì sự nghiệp chống cộng
mà đi ngược quyền lợi tối thượng
của quốc gia và hy sinh phúc lợi của đại
khối dân tộc.
Tinh thần quốc
gia là yếu tố căn bản để thực
hiện và củng cố sự thống nhất quốc
gia và tình đoàn kết dân tộc. Song song với
sự
nghiệp bảo vệ đất nước chống
lại các hình thái xâm lược hoặc áp
đảo
của các thế lực quốc tế, người
Việt Nam chúng ta ngày nay cần phải nhanh chóng
tìm cách
giải tiêu tinh thần địa phương vốn là
uyên nguyên của tình trạng kỳ thị và chia rẽ
nam
bắc của đất nước chúng ta xuyên suốt
chiều dài lịch sử phát triển dân tộc. Các
yếu tố lịch sử và địa lý đã hình
thành
trên quốc gia Việt Nam hai khu vực
lớn chung
quanh Hà Nội và Sài Gòn. Hai trung tâm này kèn
cựa nhau để tranh giành ngôi vị thủ đô
nước Việt Nam thống nhất. Tình trạng này quả
tình là không thuận lợi cho chính
sách trung ương
tập quyền. Muốn củng cố
sự thống nhất thì cần thực hiện ngay
sự phân quyền rộng rãi cho địa phương.
Trung ương chỉ cần nắm chính cương chính
sách, và một vài lĩnh vực trọng yếu trên
phạm trù quốc gia như ngoại giao, quốc phòng,
tiền tệ, năng lượng v.v... Mọi
việc khác nên để cho địa phương tự
trị. Địa phương sẽ tùy nghi huy
động nhân tài vật lực cơ hữu để
phát triển khu vực của mình dưới sự
điều hợp của trung ương cho ăn nhịp
với chính sách chung của cả
nước.
Hà
Nội và Sài Gòn đều là đại địa, là
trung
tâm của những miền rộng đất, đông dân
và nhiều của. Tuy vậy, chính
quyền trung ương của nước Việt Nam thống nhất không
nên đóng ở Hà Nội hoặc Sài Gòn. Nếu thủ
đô đóng ở
một trong hai trung tâm lớn này thì trung tâm
kia sẽ
cảm thấy bị thua thiệt, bị lấn ép, bị
khai thác, vì nghĩ rằng trung ương qui tụ nhân
tài
và tập trung vật lực của cả nước vào
việc tô bồi, tân tạo và phát triển thủ
đô. Cứ cái đà này
thì mâu thuẫn bắc nam
mỗi ngày một thêm trầm trọng, tinh thần kỳ
thị địa phương mỗi ngày một thêm sâu
sắc, nguy cơ cát cứ và phân ly mỗi ngày một
thêm
đè nặng lên nền thống nhất quốc gia và tình
đoàn kết dân tộc. Bởi vậy,
song hành với việc để các địa
phương nam bắc được tự trị
rộng rãi, chính quyền trung ương của
nước Việt Nam thống nhất nên
đặt ở một nơi khác, không nam không bắc. Nếu Việt Nam chia làm hai miền
tự trị thì chính quyền trung ương đặt
ở Huế. Nếu
Việt Nam chia làm ba miền
Trung Nam Bắc thì chính quyền trung ương đặt
ở Đà Lạt.
Nếu
Việt Nam chia làm hai miền
thì từ Quảng Trị trở ra thuộc về Hà
Nội, từ Quảng Nam trở vào thuộc
về Sài Gòn.
Nếu Việt Nam chia làm ba miền thì Thanh Hóa thuộc
về miền Bắc, Bình Thuận thuộc về miền
Nam, từ Nghệ An đến Ban Mê Thuột và Khánh
Hòa là
miền Trung. Để phát triển khu vực miền Trung
ngang tầm với hai miền Nam Bắc, cần gộp hai
thành phố Huế và Đà Nẵng thành một phức
hợp đô thị có một tổ chức quản lý hành
chánh duy nhất. Huế-Đà Nẵng sẽ vừa là trung
tâm địa lý, chính trị, kinh tế và văn
hóa của
miền Trung, vừa là nền móng vững chãi để
củng cố sự thống nhất lãnh thổ và sự
hòa hợp nhân tâm của quốc gia và dân
tộc Việt
Nam. Huế có thế mạnh lịch sử và
văn hóa, Đà Nẵng có thế mạnh địa lý
và
kinh tế. Tổ chức lại thành
một phức hợp đô thị, Huế-Đà Nẵng
sẽ bổ khuyết cho nhau để tự giải hóa
các mặt yếu, đồng thời phát huy được
tối đa các mặt mạnh. Nằm
ở đầu mối giao thông hàng không hàng hải
quốc tế, Đà Nẵng lo việc giao lưu với
bên ngoài. Nằm ở đầu mối hành lang đông tây, Huế phụ trách
việc
thâm nhập và khai thông nội địa.
Mỗi khi đề
cập các vấn đề chính trị và văn hóa của
đất nước, cũng như thảo luận các
vấn đề phát triển kinh tế và cải tiến
dân sinh, người Việt Nam chúng ta ngày nay
nên nâng tầm
nhìn lên cao để bao quát toàn bộ lãnh
thổ quốc
gia, từ bắc xuống nam, từ biển lên rừng,
chứ không nên khư khư tự khép mình trong
khuôn khổ
một khu vực, một địa phương. Nhìn
lại quá khứ, chúng ta không nên tự giới hạn
lãnh
thổ ban đầu của chúng ta trong mỗi một
huyện Tây Vu hoặc quận Giao Chỉ. Nước
Văn Lang hay Môn Lang, có nghĩa là làng của
người
Môn, đất nước của người Môn, vươn
dài lên tới hồ Động Đình. Cha rồng họ
Lạc, mẹ tiên họ Âu, rõ ràng đất nước
thời hồng hoang đã bao gồm cả Bắc Việt
(Lạc Việt) lẫn Lưỡng Quảng (Âu Việt).
Công nghiệp của
Thục Phán và Triệu Đà đều nên được
xem như là nỗ lực thống nhất dân tộc,
nghĩa là thâu gồm các lãnh thổ vụn vặt
thành một
đất nước rộng lớn, tập hợp các
vương quốc nhỏ bé thành một quốc gia hùng
mạnh, trên nền móng một quốc dân hợp nhất
là chủng tộc Bách Việt. Sự kiện này
được nhìn nhận trong bức thư của Hán
Văn Đế gửi Triệu Vũ Vương, cũng
như qua quyết định của Hán Vũ Đế
duy trì toàn thể lãnh thổ Nam Việt trong một tổ
chức riêng biệt gọi là Giao Chỉ Bộ, mà về
sau được đổi lại là Giao Châu. Nếu
Thục Phán đã dược nhận là người sáng
lập nhà Thục, nếu Sĩ Nhiếp đã
được tôn là Sĩ Vương, là Nam Giao Học
Tổ, thì lẽ nào Triệu Đà, người đã
đưa dân ta từ văn minh đồ đồng
tiến lên văn minh đồ sắt, lại không
được thừa nhận là vua chúa Việt Nam.
Cũng cùng một
chiều hướng, việc Khu Liên ở huyện
Tượng Lâm dựng nền tự chủ, lập ra
nước Lâm Ấp, phải được xem như là sự
nghiệp giải phóng cư dân bản địa thoát
khỏi sự đô hộ của người Tàu. Vào
thời điểm này, cư dân bản
địa ở huyện Tượng Lâm không có gì khác
biệt với cư dân bản địa ở huyện
Tây Quyển hoặc ở huyện Tây Vu. Mặt khác,
một số vua chúa Lâm Ấp buổi đầu như
Phạm Văn, Phạm Phật, Phạm Hồ Đạt
lại là di dân gốc Hán, y hệt Triệu Đà ở Nam
Hải, Sĩ Nhiếp ở Thương Ngô, Lý Bôn ở Giao
Chỉ. Vua Lâm Ấp Phạm Dương Mại II lại
đã từng đòi hỏi nhà Tống (Nam Bắc
triều) giao trả quyền thống lĩnh toàn bộ
Giao Châu. Bởi vậy, cuộc chiến tranh
ở biên cương giữa Lâm Ấp với Giao Châu
phải được người Việt Nam chúng ta
ngày nay xem là
cuộc đấu tranh với quân giặc xâm lược
để tiếp tục hoàn chỉnh sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước.
Nếu Thục Phán và Triệu Đà đã được
sử cũ xem là vua chúa Việt Nam thì vua chúa
Lâm Ấp
cũng như vua chúa Chiêm Thành về sau phải
được người Việt Nam chúng ta ngày nay
thừa nhận là vua chúa Việt Nam, ít nhất cũng ngang
tầm với vua chúa các thời đại đất
nước qua phân Mạc, Lê Trung Hưng, Trịnh,
Nguyễn, và Tây Sơn.
Với góc nhìn và
thế đứng được điều chỉnh
lại, song hành với việc tái tổ chức lãnh
thổ và việc phân quyền rộng rãi cho các địa
phương, người Việt Nam chúng ta ngày nay, một
mặt sẽ gột bỏ được tinh thần
kỳ thị địa phương, chia rẽ nam
bắc, mặt khác sẽ rũ sạch tâm lý phục Tàu,
sợ Tàu, chạy theo đuôi Tàu, đồng thời
sẽ có thái độ thân ái hơn, cư xử bình
đẳng hơn, không còn mang nặng đầu óc tự
tôn quá đáng trong khi giao tiếp với các sắc
tộc
anh em trong cộng đồng dân tộc. Chúng ta nâng tầm
nhìn lên cao để bao quát cả khu vực cư dân
Bách
Việt, rọi ánh sáng tìm tòi lùi xa
trở lại thời
sơ sử mịt mù, chúng ta sẽ hóa giải mưu mô
thâm độc của người Hán cứ tìm mọi cách
để chúng ta tự mình đồng hóa với
người Tàu. Cha rồng họ Lạc,
mẹ tiên họ Âu đều là người đồng
chủng. Làm gì có
chuyện Âu cơ
vốn là người bắc (người Hán), muốn
đem 50 con về bắc nhưng bị Hoàng Đế
đem binh ngăn trở. Lúc bấy
giờ, Hoàng Đế còn ở tận trên thảo nguyên Cam
Túc, đâu đã có mặt ở Giang Nam. Thực tế lịch
sử là không hề có liên hệ huyết thống giữa
Việt tộc và Hán tộc vào thời bấy giờ.
Chỉ từ khi Tần Thủy Hoàng sai
Đồ Thư mang quân đi đánh Bách Việt, sự
hỗn chủng mới xẩy ra. Do yếu tố di
dân Hán mà phát sinh sự phân
hóa cư dân Tiền Việt thành
hai tộc Việt Mường riêng rẽ, nhưng
người Việt vẫn không phải là người Hán,
người Việt vẫn bảo lưu được
nhiều đặc điểm nhân chủng và yếu
tố văn hóa cội nguồn, nhờ vậy mà
người Việt không bị tuyệt giống.
Người Việt
Nam chúng ta ngày nay cần ý thức rằng cho
dù gia phả
chúng ta còn ghi tiên tổ xa xưa vốn người
Chân
Định (Triệu Đà) hay người nước
Lỗ (Sĩ Nhiếp), người đất Mân (Trần
Thủ Độ) hay người Triết Giang (Hồ Quý Ly),
thì trong máu thịt chúng ta cũng vẫn có
ít nhiều
yếu tố bản địa, khiến đầu chúng
ta đa số có chỉ số sọ dài, khiến máu chúng
ta đa số thuộc nhóm máu loại O. Dứt khoát
chúng ta
là người Việt chứ không phải là người
Hán. Chúng ta phải chấm dứt việc sử dụng
góc nhìn và thế đứng rập khuôn theo
người Tàu mỗi khi đề cấp đến các
vấn đề chính trị và văn hóa Việt Nam.
Chúng ta đừng theo
đuôi người Tàu gọi bà Triệu là con mụ
Triệu (Triệu Ẩu). Chúng ta cũng đừng theo
đuôi người Tàu gọi người Lâm Ấp là dân
man, gọi các đạo binh Lâm Ấp đánh vào Nhật
Nam, Cửu Chân và Giao Chỉ là quân giặc cướp,
bởi lẽ tiên tổ người Lâm Ấp-Chiêm Thành
cũng là di dân người Môn Nam Á đợt hai
đã
từ Hoa Nam tiến vào bờ biển Tượng Lâm cùng
thời với đám di dân tiến vào bờ biển Giao
Chỉ, và thực tế lịch sử đã chứng minh
rằng mục đích tiến quân của Lâm Ấp lên
phía
bắc là để đánh đuổi quân Tàu xâm
lược ra khỏi Giao Châu, giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước.
Người Việt
Nam chúng ta thường xuyên phải đối đầu
với âm mưu của người ngoài luôn luôn toan
tính xé
nát quốc gia Việt Nam làm nhiều mảnh, chia rẽ
quốc dân Việt Nam thành nhiều nhóm, bằng nhiều
hình thức tinh tế và đa dạng nhằm mục
đích khoét sâu các dị biệt nam bắc,
các bất
đồng địa phương, các mâu thuẫn sắc
tộc. Với góc nhìn và thế đứng
được
điều chỉnh lại như thế, chúng ta dễ
dàng phát huy tinh thần quốc gia, vun quén
tình tự dân
tộc, và củng cố sự đoàn kết quốc dân, để
vô hiệu hóa các kế hoạch thâm độc của
người ngoài. Thực tế lịch sử là không
hề có sự kiện vương quốc Đại
Việt thôn tính vương quốc Chiêm Thành, sắc
dân Kinh
đồng hóa sắc dân Thượng. Quốc gia Việt
Nam ngày nay là kết quả của sự thống nhất
An Nam với Việt Thường, được hình thành
từ thuở hồng hoang trên cùng chung một cơ sở
đất nước và con người :
Văn Lang, hay Môn Lang, làng của người Môn,
đất nước của người Môn.
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 026
HOÀNG LAN CHI * SAIGON
Saigon ngày ấy
Năm 54 – 60 .
Ngày ấy tôi còn bé lắm. Lênh đênh trên chuyến tầu cuối vào Nam theo cha mẹ chứ chẳng biết gì. Chuyến đi êm đềm không gì đáng nói.
Tôi thấy nguời Pháp cũng đàng hoàng. Thì đâu chả thế. Cũng có
nguời này nguời kia. Nguời hèn nhát, kẻ can đảm.Nguời quá khích, kẻ trung
dung.
Nguời Pháp trên tầu tử tế. Họ cho ăn uống đầy đủ. À mà tôi không hiểu tại sao họ phải tốn đủ thứ để đưa nguời di cư vào Nam ? Nếu họ cứ mặc kệ thì số dân Bắc có đến đuợc miền Nam dễ dàng không?
Đầu tiên chúng tôi cặp bến Vũng Tầu. Rồi xe đưa vào Saigon. Chúng tôi ở tạm tại Nhà Hát sau này được sửa thành Toà Quốc Hội. Mấy hôm sau thì phân tứ tán. Chính phủ trợ cấp cho mỗi đầu nguời là bao nhiêu đó, tôi không nhớ vì quá bé..
Nơi tôi ở đầu tiên là Cây Quéo. Đuờng Ngô Tùng Châu. Gia Định. Gia đình tôi là người Bắc đầu tiên đến đây. Sau này đọc truyện và biết con trai Bắc hay bị con trai Nam đánh và xỏ xiên “ Bắc kỳ ăn cá rô cây “ .. Nhưng gia đình tôi hên. Nơi xóm nhỏ, người Nam thật thà đôn hậu. Họ cư xử tử tế với chúng tôi. Đôi khi tôi lẩn thẩn nghĩ, hay vì gia đình tôi là nhà giáo? Tinh thần tôn sư trọng đạo đã ăn sâu trong giòng máu dân Việt? Họ rất tôn trọng và lễ phép đối với cha mẹ tôi. Một điều thưa ông giáo, hai điều thưa bà giáo ..
Con đuờng đến trường tiểu học thật dễ thương. Ngày ấy chúng tôi đi bộ nhiều, chẳng vù vù xe máy như bây giờ. Đi bộ đến trường thật vui. Cứ tung tăng chân sáo , vừa đi vừa hái hoa bắt buớm.
Ôi sao ngày đó Saigon nhiều hoa bướm thế. Hai bên đuờng những hàng rào hoa dâm bụt đo đỏ xinh xinh. Nhìn vào trong, nhà nào cũng có vườn, cây cối xum xuê.. Buớm bay la đà .Những con buớm đủ mầu sắc nhưng buớm vàng nhiều nhất. Nếu nhìn riêng thì buớm vàng không đẹp nhưng khi bay lượn giữa rừng lá xanh thì đàn buớm vàng thật duyên dáng. Chúng như một nét điểm xuyết cho bức họa hoa lá ..Tôi thích nhìn buớm bay.Tôi thích ngắm hoa nở.
Truờng học to vừa phải. Lớp học đủ ánh sáng. Mỗi sáng thứ hai chào cờ. Đứng nghiêm và hát quốc ca. Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi.. Ừ thì thanh niên luôn được dạy dỗ là đáp lời sông núi..
Chúng tôi được học những bài công dân giáo dục đầu tiên và …đã ăn sâu mãi vào tiềm thức. Đủ biết các cụ nói uốn cây khi chúng còn non là đúng. Tuổi ngây thơ coi những lời Thầy cô là khuôn vàng thuớc ngọc.
Không phá của công
Không xả rác ngoài đuờng
Phải nhuờng ghế cho người lớn tuổi, phụ nữ có thai trên xe buýt
Phải dắt em bé hay cụ già qua đuờng
Phải ngả nón chào khi xe tang đi qua ..
Không gian lận. Nói dối là xấu xa..
Chúng tôi đã được dậy như thế đó và chúng tôi đã làm theo như thế đó . Ôi Saigon của tôi ơi , bây giờ tôi đi giũa phố phuờng mà lạc lõng vô cùng khi chỉ mình tôi ngả nón chào nguời chết hay chạy nép vào lề nhuờng cho xe cấp cứu đi qua!
Rồi những bài học thuộc lòng. Rất giản dị dễ nhớ.
Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Những buổi sáng vừng hồng le lói
chiếu.Trên non sông làng mạc ruộng đồng quê.Chúng tôi ngồi im lặng lắng tai
nghe.Tiếng thầy giảng súôt trong giờ quốc sử.
Sung suớng quá, giờ cuối cùng đã điểm. Đàn chim non hớn hở dắt tay về. Chín mươi ngày vui suớng ở đồng quê ..
Cuộc sống sao êm đềm và thanh bình quá. Không có những cuớp bóc lớn lao . Ăn cắp vặt cũng không ghê gớm.Tôi còn nhớ phơi quần áo trước nhà rất an toàn chẳng phải trông chừng ..
Tôi còn nhớ ruộng miền nam nhiều nơi không chia bờ rõ rệt. Tôi còn nhớ cây trái Lái Thiêu không vạch lối ngăn rào. Tình hàng xóm là tất cả. Khi chia rào , ngăn lối là xúc phạm. Tự nguời dân quê biết đâu là đất là vùơn của mình. Vào vuờn Lái Thiêu cứ tha hồ ăn .Chỉ khi mua về mới phải trả tiền. Ôi sao ngày ấy nguời ta hiếu khách và cuộc sống thanh bình đẹp đẽ quá ?? Có phải là một phần nhỏ thiên đuờng nơi hạ giới chăng?
Tôi nhớ nhiều về lễ quốc khánh đầu tiên năm 56 thì phải. Đúng là lễ hội. Pháo hoa tưng bừng và nguời nguời ra đuờng trong hớn hở reo vui. Không chửi bới, không chà đạp, không giành đuờng xem lễ .. Saigon bấy giờ còn thênh thang lắm. Saigon bấy giờ chưa đông đúc bon chen ..
Ngày ấy các bà Bắc hay Trung đi chợ còn mặc áo dài. Lề thói xưa còn ăn trong nếp ấy .
Ra đuờng là phải lịch sự . Khi lễ lạc thì phải mặc quần đen với áo dài chứ không được quần trắng vì như thế là thiếu lễ ..
Tôi còn nhớ một gia đình trung lưu là đã có thể thuê nguời làm. Đa phần người làm là các cô gái miền Trung. Đúng là quê hương em nghèo lắm ai ơi. Đât khô cằn sỏi đá đã khiến bao cô gái quê vào miền Nam giúp việc . Thưở ấy người miền Nam hay dùng từ “ở đợ” còn người Bắc gọi là người làm ...
Các chị giúp việc thuờng rất trung thành và lễ phép với chủ nhà. Các cô cậu con chủ nhà cũng được tôn trọng. Bà chủ thuờng ở nhà và chị phụ giúp vì nhà nào cũng khá đông con. Ban đầu thì ba, bốn và sau thành sáu ..
Tôi còn nhớ lương giáo sư đệ nhị cấp tức dạy từ lớp đệ thất đến đệ nhất của cha tôi là 5200 đ , vợ được 1200 và mỗi con là 800 (không hạn chế số con). Tô phở khá ngon là 5 đồng. Coi như luơng Giáo sư là 1040 tô phở. Lương người giúp việc là 300 đ . Luơng Bộ trưởng gấp 5 lần lương giáo sư vào khoảng 25.000 đ. Còn lương Đại uý thì bằng lương Giáo sư . Nếu bây giờ 7000 đ tô phở bình dân thì lương của giáo viên cấp ba phải là 7.000.000 đ .
Hồi đó chúng tôi thi một năm hai kỳ gọi là đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt . Đề thi hoàn toàn do Giáo viên (cấp tiểu học)hay Giáo sư phụ trách ra đề . Hồi đó không có nạn các Giáo sư hay giáo viên kéo trò về nhà dậy kèm hay bán đề thi . Đơn giản có lẽ vì đồng lương đã đủ sống nên họ không phải bán rẻ lương tâm ..
Cuối năm lớp nhất thì chúng tôi phải thi bằng Tiểu Học. Sau đó thi vào đệ thất các lớp truờng công. Ai rớt thì học truờng tư. Tất nhiên phải học giỏi mới thi vào được những truờng công danh tiếng như Gia Long,Trưng Vương,Petrus Ký, Chu Văn An ..
Những tháng ngày tiểu học với tôi là tung tăng chân sáo, là chơi nhiều hơn học là hái hoa bắt bướm , là nhảy lò cò , là chơi giải ranh, chơi ô quan . Đúng ba tháng hè là chơi thoả thích ..Ôi chơi chơi..sao mà thú vị thế . Nhớ đến tiểu học của con gái lại xót xa. Học quá nhiều để có thành tích cho Thầy cô , cho truờng lớp .. và con gái tôi không bao giờ biết đến
Chín mươi ngày vui suớng ở đồng quê
Năm 60 –
67
Đậu tiểu học xong tôi thi hai truờng Marie Curie và Gia Long . Lẽ ra phải thi Trưng Vương mới đúng nhưng không biết sao cha tôi quyêt định vậy.
Những ngày đầu đi học Gia Long súng sính đầm. Lý do cha định cho học Marie Curie nhưng phút chót lại chuyển sang Gia Long.
Số tôi lại hên. Cô Bắc kỳ lạc lõng giữa
rừng nữ sinh Nam kỳ mà không hề bị chia rẽ hay kỳ thị. Như ngày xưa, nguời dân
Saigon đã cưu mang gia đình tôi ở Cây Quéo . Từ Thầy cô đến bạn bè, chẳng ai
thắc mắc vì sao tôi mặc đầm.
Tôi học sinh ngữ Pháp Văn. Trường có bảy lớp Anh và bảy lớp Pháp. Tôi học đệ thất 14, lớp chót . Những năm đầu Trung học tôi đi xe đưa ruớc của truờng.
Thế là hết những ngày chân sáo , hết những ngày đuổi buớm bắt hoa . Chỉ còn ngồi trong xe hiệu đoàn ngăm phố phường qua khung cửa sổ …
Xe truờng đưa các nữ sinh lớp sáng về nhà và trên đường đi ruớc các nữ sinh lớp chiều. Trong khi chờ đợi xe đến đón, tôi thuờng cột áo dài và trèo lên cây trứng cá trước nhà để hái trái nhâm nhi ăn chơi hay đem vào lớp cho bạn. Nghe tiếng còi xe ngoài đuờng thì tụt xúông xách cặp chạy ào ra. Nhà xa nên tôi bị đón sớm và về muộn. Bây giờ nhớ lại thuở cột áo leo cây thấy vui vui..Hay khi vào truờng cũng cột tà áo để nhảy lò cò !
Trường Gia Long rất đẹp. Cơ ngơi thật đồ sộ , bốn phía là bốn con đuờng. Ngày ấy chính phủ đặt tên đuờng có chủ đích rõ ràng. Đặt theo từng vùng các danh nhân văn võ. Không đặt lộn xôn lung tung...
Gia Long của tôi đã đuợc bao quanh bởi danh nhân văn chương như Bà Huyện Thanh Quan , Phan Thanh Giản, Đoàn Thị Điểm và Ngô Thời Nhiệm.
Chính giữa truờng là con đuờng tráng nhựa thật đẹp và chúng tôi hay gọi đùa là đuờng Bonard. Giờ ra chơi các nữ sinh dắt tay nhau thơ thẩn trên con đuờng ấy trông thật dễ thương.
Trong sân trường Gia
Long
Rồi gia đình tôi chuyển sang Vạn Kiếp . Trước nhà có một bụi tre và đối diện là khoảng vuờn mênh mông của chủ đất với những cây cau thẳng tắp .
Năm 60 có nghe tin về Măt trận giải phóng gì đó nhưng tôi chẳng quan tâm. Thứ nhất còn bé phải lo học, thứ hai .. mọi cái lúc bấy giờ đã được chính phủ đưa dần vào nền nếp và chiến tranh ..còn xa lắm.. Đó là thời điểm cực thịnh của nền Đệ nhất Cộng Hoà.
Ngày đó chưa có truyền hình. Mới chỉ là truyền thanh. Chương trình khá phong phú. Tôi thích vừa làm toán vừa nghe nhạc. Cũng có chương trình Tuyển lựa ca sỹ hàng tuần nhưng phải nói .. đa số hát dở chứ không như các cuộc thi bây giờ, thí sinh hát khá vững .
Báo chí nở rộ. Ai có tiền thì ra báo. Không cần phải là nguời của cơ quan chinh quyền như bây giờ. Tôi mê xem báo. Tôi đói tin tức. Ngày đó có vụ thuê báo . Các em bán báo lẻ hay quầy bán báo nếu bán không hết thì cuối ngày trả lại toà soạn. Vì thế một số quầy báo có sáng kiến cho ..thuê báo . Nguời đọc thuê và trả tiền chỉ chừng phân nửa. Tất nhiên tiền đó chui vô túi chủ quầy báo và nguời bị thiệt hại là chủ nhân tờ báo . Gia đình tôi chỉ mua một tờ và trao đổi với cậu tôi ở gần nhà tờ khác. Coi như tốn tiền một mà được xem hai báo.
Báo thiếu nhi hơi ít . Báo chí đối lập được tự do hoạt động. Do đó có gì xấu xa của chế độ hay chính quyền thì những tờ báo đó vạch ra ngay. Còn những tờ thân chính phủ ..thì bị báo chí đối lập gọi là nâng bi …
Sách thì rất nhiều. Đủ các loại. Mỗi nhà xuất bản có nét đặc thù riêng. Như nói đến Lá Bối là biết ngay các loại sách về Thiền, Phật …Nói đến Khai Trí là sách về Văn học Nghệ Thuật…Văn thi sỹ nở rộ . Tất nhiên cũng chia làm nhiều loại . Có những văn sỹ chuyên viết tiểu thuyết tâm lý xã hội và được các bà nội trợ bình dân hay các tiểu thương ái mộ như bà Tùng Long. Có những nữ văn sỹ viết khá bạo như Nguyễn Thị Hoàng với cuốn truyện nổi đình đám Vòng tay học trò. Nội dung truyện kể về chuyện tình của một cô giáo với học trò bằng một giọng văn … khó hiểu. (theo thiển ý cá nhân tôi !) Có những văn sỹ miền Bắc viết chuyện trong thời gian họ đi kháng chiến chống Pháp rất hay như Doãn Quốc Sỹ . Thời ấy thi sỹ cũng nhiều. Nào Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Du Tử Lê, Nguyên Sa,Hà Huyền Chi, Hoàng Anh Tuấn ,Mường Mán ...
Thơ văn Saigon hồi ấy như trăm hoa đua nở. Đủ loại và tự do sáng tác theo cảm hứng, không phải viết theo một khuôn mẫu nào. Do đó rất phong phú. Nhưng tôi lại thích đọc sách phóng tác hay dịch !( vì chưa đủ trình độ đọc nguyên tác ) Mỗi lần hè về là tôi mê mẩn ngốn hàng tá truyện ..
Vật giá có lên nhưng chỉ chút đỉnh .. Cũng chỉ mình cha đi làm còn mẹ ở nhà chăm lo con cái. Thuở tiểu học thì mẹ tôi kèm tất cả các môn . Lên Trung học thì bà không dạy được các môn khoa học nhưng Pháp văn thì vẫn tiếp tục cho đến tú tài vì ngày xưa mẹ tôi có bằng Certificat gì đó.
Cuộc sống vẫn êm đềm và khá thanh bình. Nhưng từ năm 61 thì …không còn nữa. Đuờng đi thuờng xuyên bị đắp mô. Quốc lộ thì ít và tỉnh lộ thì nhiều hơn. Địa phương quân mỗi sáng sớm phải đi phá mô . Xong xuôi thì dân chúng mới dám đi lại. Đã có những mô nổ tung và cả chuyến xe đò tan tác.. Rồi những năm sau là những lần nổ ỡ vũ truờng nơi quân Mỹ thuờng lui tới. Tất nhiên dân thường cũng vạ lây.
Tôi vẫn ngoan ngoãn với sách đèn. Chẳng hề giao du bạn trai vì cha mẹ cấm . Ngày ấy Gia Long và Trưng Vương là hai trường nữ nổi tiếng nhất . Hàng năm chỉ có một kỳ thi chọn học sinh giỏi là Trung Học Toàn Quốc. Lẽ dĩ nhiên số đậu rơi vào bốn truờng lớn. Còn Lễ Hai Bà Trưng hàng năm được tổ chức khá lớn và hai nguời đẹp của Gia Long, Trưng Vương được đóng vai Hai Bà ngồi voi diễn hành ..(bây giờ ở VN dùng từ diễu hành ??? Tôi không hiểu vì sao lại diễu hành thay cho diễn hành ???)
Đề thi của mỗi môn cũng vẫn do Giáo sư môn đó phụ trách. Tôi thấy như vậy mà hay. Chẳng có gì lộn xôn xảy ra vì thời ấy không có nạn cha mẹ hối lộ Thầy cô . Mãi năm tôi học đệ nhất thì thi chung toàn khối và đã có rắc rối xảy ra. Chẳng hạn đề thi triết đệ nhất lục cá nguyệt là của cô Lan dạy chúng tôi thì lớp chúng tôi làm được còn các lớp khác thì không ..
Hồi đó bậc Trung Học chúng tôi phải thi
tổng cộng : Trung Học ( hết lớp đệ tứ ) Tú tài 1 (hết lớp đệ nhị) và Tú tài 2 (
hết lớp đệ nhất ) . Nhiều bạn sau khi có bằng Trung Học thì đi làm. Có thể chọn
nghề thư ký .Sau Tú tài 1, rụng bớt một số bạn. Sau Tú 2 rụng một số. Số học
giỏi và có điều kiện thì tiếp tục con đường đại
học
Đề thi đại học do các trường tự phụ trách. Ngày thi lệch nhau. Truờng nào cũng công bố danh sách thi đậu chính thức và dự bị . Do đó tôi cảm thấy rất trật tự nề nếp chứ không lộn xộn như bây giờ. Nếu gọi danh sách chính thức mà thiếu thì truờng gọi đến dự bị . Đơn giản vậy thôi. Nhưng có lẽ hồi đó vấn đề hối lộ , bán đề thi không kinh khủng để đến nỗi Bộ Giáo Dục phải xen vào ra đề chung như VN bây giờ.. Lại cũng do vấn đề tiền lương. Khi đồng lương không đủ sống thì ..tư cách con người suy giảm ..
Đuờng phố Saigon của những năm 63 vẫn còn xe Mobylette và dễ thương ngộ nghĩnh là Velo solex. Chiếc xe xinh xắn nhưng có cái bầu to phía trước . Nữ sinh thường đi xe này. Khi chạy xe, tà áo dài phía sau phồng lên trông rất vui. Nhưng đa số học sinh vẫn đi xe đạp. Số xe máy rất ít. Và vì thế đuờng phố Saigon vẫn khá thênh thang. Năm đệ tam thì tôi không đi xe đưa rước nữa mà chuyển qua xe đạp. Cũng khá xa mà sao hồi đó chúng tôi không thấy gì. Chả như bây giờ sân trường cứ tràn ngập xe máy mà lại còn xe phân khối lớn.. Đợt vừa qua năm 2002,Saigon có chấn chỉnh cấm học sinh chạy xe phân khối cao. Thì ..các cô cậu quý tử đối phó bằng cách ….không gửi xe trong truờng mà gửi xa xa !!!
Năm tôi học đệ tứ 1963 thì xẩy ra vụ Phật Giáo . Sau đó nền Đệ nhất Cộng Hoà sụp đổ. Tôi không ghét ông Diệm nhưng tôi ghét bà Nhu. Vì tính tình xấc xuợc của bà . Nhưng phải nói hồi đó với tôi, xã hội tương đối ổn định, trật tự nề nếp. Dù ông Nhu có lập Đảng Cần Lao nhưng …không ép buộc lộ liễu . Họ cũng gợi ý nhưng không vào thì thôi. Cũng chẳng vì thế mà bị đì sói trán . Hay trong ngành giáo dục của cha tôi , người ta không trắng trợn ????? Tôi chỉ biết nếu học giỏi là được học bổng , không bị phân chia lý lịch gì cả ..
Sau 63, các trường có Ban Đại diện. Ngày
đó tôi không chú ý lắm các thành phần ứng cử . Nhưng sau này , các anh chị lớn
nói rằng , học sinh - sinh viên giỏi thường bù đầu với việc học, ít tham gia các
hoạt động trên. Do đó CS cài nguời vào nằm vùng ở hầu hết Ban đại diện các
trường. Họ được huấn luyện kỹ nên ăn nói hoạt bát .Còn học sinh giỏi thì không
có thời gian luyện khoa ăn nói …
Saigon của tôi sau những ngày đấu tranh sôi nổi , sau những biểu tình, sau vụ tự thiêu của Hoà Thượng Thích Quảng Đức ..lại êm ả trở lại. Nhưng không như xưa vì liên tiếp các đột biến về chính trị. Cuộc chỉnh lý của Tuớng Nguyễn Khánh rồi chẳng bao lâu đến phiên của Tuớng Thiệu và Tuớng Kỳ
Tôi chỉ biết học và không chú ý đến những
việc khác. Liên tiếp hai năm thi tú tài 1 và 2 đã ngốn tất cả quỹ thời gian
.Nhưng tôi chỉ nhớ Tú tài 1 chuơng trình đã bị cắt giảm vì chiến
tranh..
Cũng từ 65, quân Mỹ đổ vào đông và đã gây
xáo trộn. Lính Mỹ lấy vợ Việt. Đa số là các cô gái nhảy , thời đó gọi là cave
hay cả các cô xuất thân là nguời giúp việc. Me Mỹ là tên dân chúng gọi cho những
cô này. Nội cái tên gọi đã nói lên sự khinh rẻ của dân chúng dành cho những cô
gái ấy. Nghĩ cũng đáng thương.. Nhưng cũng chính những đồng đô la xanh mà các cô
me Mỹ tiêu vô tội vạ đã làm vật giá Saigon tăng cao. Gọi là đô la xanh vì lúc ấy
chính quyền Mỹ in riêng một loại đô la cho quân Mỹ dùng ở VN.. Người làm của
chúng tôi lấy Mỹ và.. đổi đời.
Cuộc sống của giới trung lưu như giáo sư bắt đầu lao đao.. Giáo sư nào dạy tư thêm thì còn đỡ.. Gia đình tôi hạn chế mọi chi tiêu vì cha không dạy tư và yêu cầu mẹ phải ở nhà chăm sóc việc học của các con.
Ai có thời gian để gửi thư tình tự. Ai có lúc lang thang quán ăn hàng. Còn tôi thì không. Cắm đầu cắm cổ học . Đi học là về nhà ngay. Ngày đó chúng tôi , gồm chị tôi và tôi đều học Gia Long nên không có vụ bạn trai nào dám đến nhà. Chúng tôi cũng chẳng học tư nhiều. Mà học tư vào những năm thi thì cũng né con trai tối đa. Lệnh cha mẹ phải chấp hành nghiêm chỉnh. Thậm chí sau này chị tôi học duợc cũng vẫn không hề có một tên “ masculin” nào dám đến nhà !
Tôi thích con gái đi học bằng xe đạp và nón lá nghiêng nghiêng . Từng vòng xe quay chầm chậm nhỏ bé . Áo dài ngày đó mặc rất kín đáo . Chúng tôi bắt buộc phải có áo lá bên trong. Và các bà giám thị luôn coi chừng nhắc nhở những nàng mặc áo quá chít eo, những nàng khua giày cao lộp cộp.. Chúng tôi đi sandalh .Rất dễ thuơng. Tôi không thích học trò quá điệu. Áo thật eo hay guốc cao. Mà thật kỳ. Đa số mấy cô điệu thuờng học kém và có bồ sớm. Các cô giỏi thì nguợc lại!
Nhưng cũng có cá biệt. Tôi còn nhớ ngày đó cô bạn ban B Kim Dung rất xinh học giỏi được chọn làm Tây Thi trong vở kịch cuối năm ..chẳng điệu gì cả. Riêng lớp tôi thì chỉ có vài chị điệu và tất nhiên ..học dở , có bồ sớm.
Năm tôi thi tú tài, chỉ còn viết và bỏ vấn đáp. Chứ truớc kia, một số môn phải thi viết và vấn đáp (còn gọi là oral)
Tôi đậu tú tài cao và đuợc truờng thuởng hai chữ Gia Long quyện vào nhau bằng vàng 18. Những năm sau, truờng đổi lại là hoa mai vàng. Đó cũng là phù hiệu của Gia Long
Tôi mê Y khoa và .. ghét duợc. ! Tôi thích là bác sỹ để chữa bịnh cho trẻ em và tự nhủ sẽ chữa miễn phí cho em nào mắc bệnh sài uốn ván. Tất cả …chỉ vì tôi mất một đứa em trai vì bệnh này ..
Còn Duợc khoa ? chẳng hiểu sao tôi ghét nữa ? Tôi nói rằng học duợc, ra bán thuốc ngồi đếm từng đồng xu leng keng ! Chính vì thế sau này có một duợc sỹ đại uý theo , tôi đặt tên anh ta là đại uý leng keng !
Nhưng nghề chọn nguời chứ nguời không chọn đuợc nghề. Tôi thi rớt dù học giỏi. Năm đó đề thi y khoa bắt đầu có câu hỏi tổng quát , hỏi về những kiến thức xã hội chung quanh. Tôi học chăm quá nên vào phòng thi bị đuối sức, quỵ ngã ..
Năm
67-71
Tôi ghi danh Khoa Học, Chứng chỉ Lý hoá vạn vật tức SPCN.Nơi đây quy tụ nhiều nguời đẹp nhất Khoa học vì sinh viên xuất thân ban A. Còn chứng chỉ MGB hay MGP thì ít con gái hơn..
Chương trình học khá nặng. Buổi sáng thực tập đủ năm môn (Động Vật,Thực vật, Lý,Hóa, Địa Chất)và chiều học lý thuyết. Tôi thích thưc tập thực vật hơn các môn kia. Cắt ngang hoa dâm bụt hay lá gì đó xem đuợc cấu trúc của nó duới kính hiển vi rất đẹp. Tôi không thích thực tập địa chất. Toàn những mẩu đá vô tri giác . Tôi cũng không thích lý với những bài dây điện loằng ngoằng.Thực tâp động vật tuy sợ nhưng cũng thích Mổ con vật ra và xem cơ thể bên trong rất thú vị
Chính ở đây là những mảnh tình trong sân truờng đai học. Vì có cơ hội tiếp xúc bạn trai .Chứ những ngày Gia Long hết đi xe hiệu đoàn đến xe đạp và mê học quá chừng đâu chú ý ai ..
Năm đầu tiên đại học tôi chứng kiến tết Mậu Thân. Sáng sớm nghe nổ mà ngỡ tiếng pháo . Khi nghe tin Saigon bị tấn công, tôi bàng hoàng. Trời ? thủ đô ?
Mấy ngày sau từ nhà nhin về phía Gò Vấp thấy trực thăng thả rocket từng chùm .. Lần đâu tiên cô bé nữ sinh chứng kiến tận mắt chiến tranh dù chỉ là một phần nhỏ. Thực ra truớc đó những lần các quán bar bị đặt mìn nổ, xác nguời tung toé..
Sau những ngày kinh hoàng, Saigon của tôi lại như cũ.
Ngày đó sinh viên chúng tôi đi học mặc áo dài. Thỉnh thoảng có cô mặc đầm và không ai mặc tây cả.. Nên sân truờng đại học tung bay bao tà áo muôn mầu sắc . Cha mẹ khó nên tôi vẫn đơn giản áo trắng và ôm cặp như thuở Gia Long. Thỉnh thoảng mới áo mầu. Vì vậy khi tôi măc áo dài mầu, các bạn thấy lạ ..
Chiều thứ bảy , tôi thuờng cùng cô bạn lang thang Saigon để ăn hàng và ngắm ..phố phuờng. Hồi đó có lẽ không khí chưa ô nhiễm nên con gái Saigon tuổi muời bốn , hai mươi trông rất đẹp. Đẹp tự nhiên ở đôi mắt đen láy, nuớc da đỏ hồng . Có cô má đỏ au như con gái Đà lạt .Tôi thích nguời đẹp nên hay ngắm con gái Saigon trên hè phố . Tuổi học trò thích nhất là lang thang phố phuờng và ăn hàng . Đi học cũng thích …thầy bịnh để đuợc nghỉ rồi rủ nhau ra quán tán dóc. Thât ra bọn con gái chúng tôi siêng năng đi học nên thích vậy chứ môt số ông con trai ..rất ít đến giảng đường. Mấy ông đó chỉ đi thực tập vì có điểm danh . Vả lại không đi thì sẽ không biết làm ? Còn lý thuyết thì lâu lâu đáo vô một chút. Cuối năm băt đầu ngồi tụng .Tất nhiên cour đâu bằng bài giảng của Thầy. Thế là các ông tướng này đi theo năn nỉ mấy cô như tôi cho mượn tập ! Ngày đó nam sinh viên có nỗi lo, đó là nếu thi rớt sẽ đi quân dịch.
Đời sống đắt đỏ, vật giá leo thang hoài.
Chiến tranh cũng vậy. Quay trái, quay phải, sau lưng, truớc mặt , đâu cũng có
nguời đi lính và chết. Có năm sinh viên phản đối chính quyền, đã vô xé bài không
cho chúng tôi thi. Sau này , điểm danh lại thì trời ơi ..mấy tay kích động , phá
hoại đó ..toàn là dân nằm vùng !
Tôi bắt đầu gửi bài đăng báo năm đệ tứ . Đăng và dấu nhẹm , không dám cho gia đình biết. Hai năm sau thì bận thi tú tài 1 và 2 nên ngưng. Khi lên năm thứ hai đại học thì tôi lai rai viết lại . Thuở đó báo có số phát hành nhiều nhât là tờ Chính Luận. Thiên hạ đổ xô đăng quảng cáo ở đây rất nhiều . Báo có mục Nói hay đừng. Nội dung là viết linh tinh đủ vấn đề nhưng khuynh huớng là chỉ trích những việc …đáng bị chỉ trích. Tôi lấy bút hiệu Quỳnh Couteau . Tôi còn nhớ có mấy cây bút sinh viên của mục này : Quỳnh Couteau của Khoa học, Thảo gàn của Nha khoa, Thu hippy duờng như văn khoa.
Tôi viết truyện tình cho báo Tiếng Vang. Tôi có thói quen mua từng ram giấy pelure đủ mầu và viết bài trên đó. Tương đối tôi viết khá dễ dàng. Đặt bút là viết. Hiếm khi sửa lại hay bôi xoá. Để bài mình đuợc.. đăng nhiều và liên tiếp, tôi lấy khá nhiều bút hiệu. Nhưng tôi biết nhà văn Thanh Nam, nguời phụ trách trang đó biết là cùng một nguời .Vì cùng một nét chữ, cùng cách sử dụng giấy pelure hồng, vàng .. Tiếng Vang gửi nhuận bút 500/bài, Chinh Luân thì cao hơn 800/bài . Sau này tôi lai rai nhảy qua Sóng thần của Chu Tử..
Nhà văn Chu Tử và họa sĩ Vũ Hối,
1967
Tôi nhớ duờng như sau một năm tôi có bật mí trong một truyện , các bút hiệu 1,2,3,4 …đều chỉ là một nguời ! Có điều vui là ….các độc giả cũng ái mộ , gửi thư đến toà soạn ..xin làm quen . Vui hơn nữa là khi tôi đến toàn soạn lãnh nhuận bút gặp cô con gái chủ nhiệm Quốc Phong Cô này lúc đó thay thế nhà văn Thanh Nam phụ trách trang Truyện tình của bạn .Không biết sao chỉ gặp lần đầu, nhìn xa xa mà cô rất thích tôi . Hôm sau xuất hiện trên báo giòng nhắn tin của cô “ PQ, hôm qua PQ đến mà chị không dám ra nói chuyện vì đang đau mắt.Nhưng thấy PQ xinh quá , giọng bắc thật dễ thưong.. “ Giời ạ, sau dòng nhắn của cô thì …thơ của độc giả ái mộ gửi đến quá xá luôn. Tất nhiên tôi vẫn dấu nhẹm mọi nguời trong gia đình. Nếu không, bố tôi cho ăn chổi chà về tội không học, lo viết chuyện đăng báo ! Thực ra tôi vẫn chăm học. Viết truyện tình ngắn với tôi..dễ ẹt ! Chỉ mất chừng một giờ . Mà lại có 500 hay 800 để đãi bạn bè ăn hàng thì cũng thú vị . Tiếc là sau này Tiếng Vang tự đình bản và tôi quay qua viết cho Sóng Thần hay Dân Luận.
Hồi đó sinh viên chúng tôi hay ra thư viện để học. Thư viện khoa học thì nhỏ, múôn có chỗ phải đi sớm. Chỉ có tiện là ngay trong truờng thì sau đó vô giảng đường , không mất thời gian di chuyển . Còn thư viện đẹp là của ĐH Vạn Hạnh nhưng tôi ít đến vì xa nhà. Hai thư viện gần là TV Văn hoá Đức và Hội Việt Mỹ
Thư viện Văn hoá Đức nằm trên đường Phan Đình Phùng. Nhỏ thôi. Có máy lạnh. Nhưng ..tệ hại là không có nguời giữ xe. Xe cứ khoá để trong sân.Thư viện lại ở trên lầu . Và tại đây, tôi có những kỷ niệm vừa vui vừa buồn . Những kỷ niệm nho nhỏ ..
Thư viện bé nên chỉ một thời gian, những sinh viên hay lui tới đều biết mặt nhau . Tôi còn nhớ có một sinh viên già nhất, rất lập dị. Anh để hàm râu dài và xôm xoàm. Nghe nói anh đang học Luật . Gặp tôi vài lần ở cầu thang , mỉm cuời với nhau và thế là quen.
Có lần tôi ngồi học và có cảm tuởng ..Tôi nhìn sang thấy anh ở bên kia và .. đang vẽ ký hoạ tôi .Khi ra về, anh đưa và hỏi “ Hôm nay anh thấy em dễ thưong lắm. Em đã lấy mất một buổi học của anh. Vì .. vẽ em .. “ Có khi anh bảo tôi “ khi nào em lấy chồng, nhớ báo anh nhé “ “Anh sẽ mừng gì ?” “ một tạ muối “ “ Kỳ vậy “ “ Cho tình nghĩa vợ chồng của em đậm đà như muối ..”
T, bạn cùng Khoa học cũng hay đến đây.T
đến vì tôi chứ không vì thư viện vì nhà T xa . Lắm lúc cũng chẳng học, vẽ hay
viết lăng quăng mấy câu nho nhỏ gì đó cho tôi. Rồi tôi bị mất xe ở đây. Hôm đó
tự nhiên thấy nguời rất khoẻ và sáng suốt. Tôi say mê học. Thư viện về hết, chỉ
còn mình tôi . Khi xuống thì chẳng thấy Honda , chiếc Honda mới toanh do gia
đinh mới mua, giá 72. 000 đ ( luơng giáo sư lúc đó 23.000 ). Tôi hoảng hốt xuống
phòng duới của bảo vệ, hỏi rất ngây thơ:
-Bác thấy xe cháu đâu không ?
Bác cuời : - Không ? chắc lại bị ăn cắp rồi ?
Tôi tái mặt. Bác nói tôi đi khai báo. Tôi đi bộ đến bót cảnh sát trên đường Mạc Đĩnh Chi gần đó. Lão cảnh sát thấy ghét. Lão ghi chép xong lời khai rồi cuời cuời:
-Thế cô có biết ai lấy xe cô không?!!!
Tôi đi bộ từ đó về nhà ở Gia Định. Thấy con đi về , không có xe, cha mẹ hỏi. Mếu máo. Bố mắng tơi bời. Mẹ thì không .
Tôi nằm trên gác khóc súôt. Sao .. nguời ta ác thế ? sao ăn cắp xe của tôi ? Khoá rồi mà ?? ngày đó tôi ngây thơ và gà tồ kinh khủng..
Không thấy tôi đi học hay đến thư viện VH Đức, T tìm đến nhà. Thấy mắt sưng, T hỏi. Rồi thì T “ Tôi sẽ đi hỏi cho LC.Tôi quen tên đầu đảng , trùm ăn cắp xe ở vùng ..” Tôi tròn mắt ??? T, anh chàng đẹp giai, thông minh, đàn hay , vẽ giỏi ..quen trùm du đãng ????!!!!!!! Thấy tôi tròn mắt, T chỉ cuời.
Hôm sau T quay lại “ Bạn tôi không tìm đuợc vì không phải vùng nó kiểm soát. tụi nó rã xe nhanh lắm “
Tôi nghỉ học mấy bữa. T lại tìm đến :
- LC à, LC lấy xe PC của tôi đi học đi ? Tôi còn cái Mini Vespa mà?
Tôi đỏ mặt. T là vậy. Muốn nói gì là nói. Chẳng ngán ai?
Xe Honda
C-50
Xe Honda
PC-50
Còn Hội Việt Mỹ thì thư viện to, đẹp . Đa phần tôi viết truyện tình đăng báo ở đây ! Nhớ lại cũng vui. Khi báo đăng, tôi cắt và đem vào truờng cho bạn xem . Bạn gái xem thì ít (nhỏ Mai không có tâm hồn văn chuơng ) nhưng T xem thì nhiều. Có khi ..ngang đến độ …bỏ giờ học, ngồi ở thềm của lớp để xem truyện cuả tôi ! Bởi thế mấy chục năm sau , có nguời nghi ngờ , đoán rằng T, bạn ông ấy cũng chính là T ngày xưa của Khoa học, đã mét T . T tìm đọc và đã nhận ra văn phong của tôi . “ Văn LC lúc nào cũng vậy. Vẫn rất nhẹ nhàng , thơ mộng “
Văn vẫn vậy nhưng cuộc đời thì không vậy ?? bao nổi trôi sóng gió cho cô nhỏ đuợc một số ông ở khoa học gọi là “nguời có đôi mắt đẹp nhất phòng Hoá “ !!
Tình hình chiến sự ngày một leo thang . Tôi nhớ những sư kiện đăc biệt.
- Vụ đầu cơ gạo của thương buôn Tàu và Tuớng Kỳ đã “chơi ngon “, ra lịnh xử tử Tạ Vinh. O^ng tuớng này thuộc loại võ biền, ruột để ngoài da, phát biểu như cao bồi Texas . Chẳng cần biết sau này Tạ Vinh có bị xử tử thật hay không nhưng lập tức vụ gạo đuợc ổn định.
- Năm nào đó tôi tẩy chay không đi bầu khi Tuớng Thiệu độc cử !
Vật giá ngày leo thang luôn. Thì như đã nói, quân Mỹ xài phung phí, me Mỹ xài vung vít. Chỉ còn giới trung lưu như giáo chức là khốn đốn .
Tôi vẫn sống trong tháp ngà . Chiến tranh có làm suy tư thì chỉ trong phút chốc. Việc học cuốn hút. Và những ngày thứ bảy cuối tuần vẫn vi vút dạo phố Saigon ăn quà . Tuổi học trò thích nhất là ăn hàng . Tiền bố phát hàng tuần eo hẹp lắm vì nhà giáo mà. Nên tôi đã bổ sung ngân quỹ ăn hàng bằng các bài viết cho Tiếng Vang, Sống,Chính luận ..
Thời tiết Saigon ngày ấy không như bây giờ. Vì tôi nhớ đi học phải mặc áo dài suốt ngày. Nhà xa, sáng học thực tập, trưa ở lại và chiều học lý thuyết. Có lẽ ảnh hưởng thời tiết chung toàn thế giới và cũng vì Saigon .. không qúa đông như bây giờ ?
Mấy cô bạn Gia Long cũ, bỏ đi làm từ khi đậu tú tài thì có cô vô Ngân hàng, lương rất cao. Cô thì làm cho hãng Pháp, luơng coi như khoảng một lượng vàng/ một tháng.Lương chuẩn uý gần một lượng .
Quân nhân đuợc mua hàng rẻ gọi là quân tiếp vụ. Đa số mua xong , đem ra ngoài bán lại cho con buôn. Hồi đó có phong trào làm cho sở Mỹ vì lương rất cao ..
Thanh niên sinh viên lai rai biểu tình. Cứ biểu, cảnh sát biết hết ai là ham vui, ai là Cs nằm vùng .. Tôi chưa bao giờ tham gia hay đi xem. Vì chăm học quá mà ? Nhưng đừng nghĩ rằng không nghe tiếng đại bác trong tháp ngà ! vẫn nghe đấy chứ. Cũng có những niềm riêng khắc khoải. Nhưng mục tiêu phía truớc phải đạt cho xong ..
Phật giáo biểu tình trước dinh Độc Lập,
1967
Tôi ra truờng năm 71. Thân cư Mệnh nên
suốt đời tự lo. Họ hàng, cha mẹ không giúp . Dù quen biết nhiều. Tôi viết bài Ba
lần văn bằng cử nhân đi xin việc làm đăng trên Chính Luận. Nhà báo noi láo ăn
tiền.Bi thảm hoá thêm. Chàng Giám Đốc Nha Viện Trợ trực thuộc Tổng Nha Kế Hoạch
viết thư mới cô cử đến cộng tác.
Thế là hết những ngày lang thang sân truờng đại học. Hết những ngày khúc khích với anh trên đường Phùng Khắc Khoan , nghe lá me xanh reo trên tầng cao, hết những chiều thứ bẩy cùng cô bạn thân ăn hàng chợ Saigon , hết những ngày trong giảng đường nhỏ giờ Thầy Thới, nghe đuợc cả tiếng muỗi vo ve, hết cả những giờ xem hai phe chống và thích ruợt nhau trong sân truờng khoa học
Tôi bắt đầu vào đời.Từ ấy ..
Saigon của tôi …có những nét khác hơn của thuở học trò .Nhưng vẫn là Saigon của mưa nắng hai mùa, của áo lụa Hà Đông giữa trưa hè nóng bỏng, của tiếng chuông chùa Xá Lợi ngân nga. Của giáo đường nhà Thờ Đức Bà tung bay muôn mầu áo chiều chủ nhật
Saigon với áo dài tha thuớt . Áo Saigon không biết ngồi sau lưng Honda hai bên như bây giờ. Áo Saigon không biết phóng xe ào ào như bây giờ .. Ao Saigon không cuời hô hố trên đường phố như bây giờ . Áo Saigon không cong cớn như bây giờ . .
Và tôi , bao năm tháng trôi qua, vẫn một niềm hoài vọng về .. Saigon ngày ấy ..
Xin trả cho tôi nắng Saigon
Thênh thang đường phố lụa Hà Đông
Xin trả cho tôi mưa ngày ấy
Và trả cho tôi cả cuộc tình ..
Hoàng Lan
Chi
THƠ HOÀNG ANH TUẤN
Yêu Em, Hà Nội
Hà-nội yêu, anh vẫn yêu muốn khóc
Mấy chục năm, xa đến mấy nghìn năm
Giã từ em -mười bảy tuổi- một lần
Thu rất mỏng, mưa hững hờ đẫm lá
Hà-nội yêu, áo lụa ngà óng ả
Thoáng khăn san nũng nịu với heo may
Năm ngón tay nhón một trái ô mai
Chiếc răng khểnh xinh nụ cười cam thảo
Hà-nội yêu, mối tình đầu khờ khạo
Em nhận thư, anh ngây ngất tủi mừng
Khi về nhà, cười nụ với cầu thang
Một tuần lễ, vui như ngày thi đỗ
Hà-nội yêu, cốm Vòng đơm gió nhỏ
Nên mùa Thu kín đáo khép tà mây
Ván giải gianh, có một lúc bàn tay
Vơ nắm sỏi với lòng anh hồi hộp
Hà-nội yêu, đẹp Trưng Vương mái tóc
Chiếc kẹp nghiêng, ba lá nép vào nhung
Miếng sấu xanh đừng chua quá ghê răng
Em hóm hỉnh, chiếc mũi xinh chun lại
Hà-nội yêu, liễu hẹn hò nắng mới
Hẹn hò em anh bối rối chim khuyên
Nào có bao giờ anh được hôn em
Nên dáng liễu còn u sầu vạn thuở
Hà-nội yêu, xin cầm tay lần nữa
-một lần thôi cho vừa đủ hai lần-
thèm ngày xưa hạnh phúc rất thiên thần
anh chết lặng trong tình yêu thác đổ.
Hà-nội yêu, vẫn y nguyên tưởng nhớ
Nên nghìn năm vẫn ngỡ mới hôm qua
Bóng hoàng lan, sân gạch mát sau nhà
Còn vương vấn trong những bài thơ cũ
Hoàng Anh Tuấn
Bài Thơ Hà Nội
Em Hà Nội hàng Đường trong giọng nói
Để hàng Bông êm ái lót cơn mơ
Thương những buổi chiều Bác Cổ ngày xưa
Anh nắn nót một trường thi lãng mạn
Thơ thuở bé khắc ghi tình ngõ Trạm
Hàng Cỏ ơi, nét thảo có mờ phai
Theo gót chân em từng bước hàng Hài
Yêu hàng Lược chải mềm hương mái tóc
Thương dĩ vãng chiều Cổ Ngư trốn học
Hồn ngây ngô theo điệp khúc hàng Đàn
Hàng Guốc trưa hè gõ nhịp bình an
Khi hàng Nón quay nghiêng che mắt thỏ
Anh lúng túng cả Đồng Xuân xấu hổ
Gió mơn man hàng Quạt, áo đong đưa
Đây hàng Khay anh đưa tặng bài thơ
Em hốt hoảng chợ Hôm vừa tắt nắng
Thơ bay lạc, hồn anh là hàng Trống
Nghe hàng Gai cùng mũi nhọn buồn đau
Ôi hàng Ngang tội nghiệp mối tình đầu
Anh hờn giận mơ hàng Buồm lãng tử
Em Hà Nội dáng Sinh Từ thục nữ
Tìm đến anh hàng Giấy mỏng tương tư
Nghe khơi buồn sông Tô Lịch ngẩn ngơ
Thơ giàu có như thương về hàng Bạc
Hàng Vôi đó nồng nàn trong ngây ngất
Ý hàng Đào chín mọng trái môi chia
Xin hàng Than rực cháy lửa đam mê
Khi quấn quít trong ái ân Hà Nội.
Hoàng Anh Tuấn
Nhiều người thích thơ lục bát Hoàng Anh Tuấn vì ý thơ cô đọng và ngôn ngữ tinh chất như Nguyễn Xuân Thiệp đã viết “lục bát của Hoàng Anh Tuấn mới thể hiện hết những vẻ đẹp cấu trúc ngôn từ và cảm xúc”.
BÀI CA M.L.
Về khuya tiếng nói âm thầm
Em nghiêng mái tóc cho gần vai anh
Nhạc lên men rượu si tình
Ngẩn ngơ khói thuốc bồng bềnh ý thơ
Ðâu rồi ngực áo ngày xưa
Vết hôn lơi lả bây giờ đâu em
Cho anh xin trái môi mềm
Linh hồn du mộng trong thuyền mắt em
Cho anh phố vắng nửa đêm
Cho anh một chút mái thềm trú mưa
Cho anh gặp gỡ tình cờ
Hai giờ khuya lạnh để vừa dìu nhau
Cho anh mái tóc yêu sầu
Cho anh gò má nát nhàu cô liêu
Cho anh tròn một vòng eo
Cánh tay lãng tử gầy theo tuổi mòn
Hoàng Anh Tuấn
Chiều Thơm Gỗ Cũ
Hương còn ngấn ẩn trên môi
Ươm hơi rừng cũ
Đượm mùi gỗ xưa
Mượt lá đợi
Óng rêu chờ
Sững im cương thạch
Quanh co ôn tuyền
Hoàng Anh Tuấn
Click this bar to view the full image. |
Trong những bài thơ của ông, LK thích nhất bài Nhớ Khương Muội, Chim và Bướm. Có lẽ đây là bài "mốc" hơn tất cả các bài thơ "mốc" với cách dùng chữ thật tuyệt vời sang cả
Nhớ Khương Muội, Chim và Bướm
Lửa rạo rực còn nguyên trong mạch máu
Sóng cuồng quay ẩn náu dưới làn da
Gỡ mưa mềm cho nắng ấm phù sa
Cởi sương mỏng –thôi ngượng ngùng mắc cở
Em hoang dại cồn dâng vùng rêu cỏ
Anh ngựa điên tung vó dấy phong ba
Trời quạnh hiu nổi bão tố phấn hoa
Khe suối nhỏ ẩm nồng hương dã thú
Mùa hạn hán bỗng tràn lan nước lũ
Tiết đông hàn trổ lộc nõn thanh xuân
Rất ngàn xa trong ấp ủ miết gần
Nghe nhung lụa trong vuốt ve tình sử
Rợn kiêu hãnh tấm thân ngà Bao Tự
Mượt não nùng vùng tóc xõa Tây Thi
Đẹp Liêu Trai khi ngây ngất bờ mi
Tây Sương Ký khi ngả nghiêng sóng mắt
THƠ BÍCH KHÊ
Tranh Lõa Thể
Tác giả:
Bích Khê
Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố Nữ,
Ô tiên nương ! nàng lại ngự nơi nầy ?
Nàng ở mô ? Xiêm áo bỏ đâu đây ?
Ðến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm ?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương ?
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.
Ðêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc.
Vài chút trăng say đọng ở làn môi.
Hai vú nàng ! hai vú nàng ! chao ôi !
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng.
Ôi lồ lộ một tòa hoa nghiêm động !
Tôi run run hãm lại cánh hồn si...
Ồ hai tay rơi chén ngọc lưu ly,
Ồ hai chân nở màu sen ẻo lả,
Cho tôi nàng ! cho tôi nàng ! tất cạ
Tôi miên man uống lại mộng quỳnh dao
Cho đê mê, chới với, hồn lên cao,
Một tinh cầu sẽ tan ra biển lệ.
Tiên nương hỡi ! nàng sống trên thế hệ,
Bóng thời gian phải quỵ dưới chân nàng
Xuân muôn đời di dưỡng giữa vùng tang !
Gương phép tắc suốt soi ngàn mộng ảnh !
Cớ làm sao nâng niu bầu giá lạnh,
Ấp tranh người, lơ đãng ngắm thi nhân ?
Hay nàng nhớ nhung các phượng đền lân ?
Hay nàng ước mơ tình trong trắng ngọc ?
Ôi ! nàng ôi ! Làm sao nàng chẳng khóc
Người thi nhân, vẻ đẹp của khiêu dâm
Trăng thanh tịnh còn lóng trong thơ câm,
Nhạc vô minh hằng sôi trên nét chữ ?
Ôi ! Nàng ôi ! thốt lên, lời ngọc nữ,
Lời trân châu rúng cả phiếm lòng tôi...
Ngọc Kiều ! Ngọc Kiều ! Ðến cặp song đôi
Cho tôi đọ vẽ hương trời sắc nước,
Vẽ huyền diệu ứ men say lướt mướt,
Vẽ yêu tinh dồn giận thấu vô gan,
Ta thiếp đi - trong một phút mê loàn
Xuống muôn đợt rồi bay lên tột bực...
Ô tiên nương ! nàng lại ngự nơi nầy ?
Nàng ở mô ? Xiêm áo bỏ đâu đây ?
Ðến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm ?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương ?
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.
Ðêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc.
Vài chút trăng say đọng ở làn môi.
Hai vú nàng ! hai vú nàng ! chao ôi !
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng.
Ôi lồ lộ một tòa hoa nghiêm động !
Tôi run run hãm lại cánh hồn si...
Ồ hai tay rơi chén ngọc lưu ly,
Ồ hai chân nở màu sen ẻo lả,
Cho tôi nàng ! cho tôi nàng ! tất cạ
Tôi miên man uống lại mộng quỳnh dao
Cho đê mê, chới với, hồn lên cao,
Một tinh cầu sẽ tan ra biển lệ.
Tiên nương hỡi ! nàng sống trên thế hệ,
Bóng thời gian phải quỵ dưới chân nàng
Xuân muôn đời di dưỡng giữa vùng tang !
Gương phép tắc suốt soi ngàn mộng ảnh !
Cớ làm sao nâng niu bầu giá lạnh,
Ấp tranh người, lơ đãng ngắm thi nhân ?
Hay nàng nhớ nhung các phượng đền lân ?
Hay nàng ước mơ tình trong trắng ngọc ?
Ôi ! nàng ôi ! Làm sao nàng chẳng khóc
Người thi nhân, vẻ đẹp của khiêu dâm
Trăng thanh tịnh còn lóng trong thơ câm,
Nhạc vô minh hằng sôi trên nét chữ ?
Ôi ! Nàng ôi ! thốt lên, lời ngọc nữ,
Lời trân châu rúng cả phiếm lòng tôi...
Ngọc Kiều ! Ngọc Kiều ! Ðến cặp song đôi
Cho tôi đọ vẽ hương trời sắc nước,
Vẽ huyền diệu ứ men say lướt mướt,
Vẽ yêu tinh dồn giận thấu vô gan,
Ta thiếp đi - trong một phút mê loàn
Xuống muôn đợt rồi bay lên tột bực...
Xuân Tượng Trưng
Tác giả:
Bích Khê
Hỡi lời ca man dại
Ðiệu nhạc thở hơi rừng
- Ðêm nay xuân đã lại
Thuần tuý là tượng trưng -
Nâng lên núm vú đồi
Sữa trăng nhi nhỉ giọt
Bay qua cụm liễu khơi
Những cườm tay điểm hột
Sương phất phơ lau lách
Khẽ uốn mình giai nhân
Ðường non kheo điêu khắc
Những dáng hình khoả thân
Lụa mây nẩy vàng chạm
Tía ngọc bén màu ngân...
Chủ xuân đang triển lãm
Lời ca như hạc theo
Gió lên tình múa reo
Những điệu vàng châu báu
Dường có con chim báu
Rỉa cánh trên ngai lòng
Lòe xòe màu lông công
Vườn thơm khua sắc mát
Rồng uốn vóc từng cong
Áo bạch mai khoát khoát
Môi đào chờ khoái lạc...
Hồn tôi như đỉnh hương
Bốc lên mình thánh giá!
Ý xuân mát đến xương
Ngậm tuyết phun lã chã.
Ðiệu nhạc thở hơi rừng
- Ðêm nay xuân đã lại
Thuần tuý là tượng trưng -
Nâng lên núm vú đồi
Sữa trăng nhi nhỉ giọt
Bay qua cụm liễu khơi
Những cườm tay điểm hột
Sương phất phơ lau lách
Khẽ uốn mình giai nhân
Ðường non kheo điêu khắc
Những dáng hình khoả thân
Lụa mây nẩy vàng chạm
Tía ngọc bén màu ngân...
Chủ xuân đang triển lãm
Lời ca như hạc theo
Gió lên tình múa reo
Những điệu vàng châu báu
Dường có con chim báu
Rỉa cánh trên ngai lòng
Lòe xòe màu lông công
Vườn thơm khua sắc mát
Rồng uốn vóc từng cong
Áo bạch mai khoát khoát
Môi đào chờ khoái lạc...
Hồn tôi như đỉnh hương
Bốc lên mình thánh giá!
Ý xuân mát đến xương
Ngậm tuyết phun lã chã.
ĐỖ ĐỨC THU * BA
BA
ĐỖ ĐỨC THU
Giải thưởng năm 1935
Mỗi ngày, mỗi khi đi làm về, Ba thường thay quần áo rồi ngồi gẩy đờn hoặc xem sách, đợi lúc ăn cơm. Có khi nghêu ngao hát mấy bài cải lương Sài Gòn, hay ca vài điệu Huế. Hôm nào ăn muộn, Ba ra đứng cửa nhìn người qua đường, hay sang mấy hàng tạp hóa bên cạnh, dán mũi vào cửa kính. Đến lúc có người đàn bà thò đầu ra ngoài cửa gọi với sang: "Cậu về xơi cơm", thì cậu chắp tay sau lưng, ung dung trở về.Chiều hôm nay có vẻ khác, Ba vứt cái mũ lên mắc, chiếc mũ đập vào tường rồi rơi xuống đất. Ba tiện chân đá vào gầm giường. Kim đang nằm nhỏm dậy. Nàng cúi nhìn cái mũ, nhìn Ba. Nàng muốn nói câu gì, nhưng thấy vẻ lãnh đạm của chồng, nàng lại thôi rồi xỏ giầy đi ra nhà ngoài. Ba để cả quần áo, cả giầy, nằm ngang trên giường. Chàng bắt chân chữ ngũ, vắt tay lên trán nhìn một con nhện đang chăng tơ ở góc trần. Bỗng chàng vùng dậy, đi bách bộ trong buồng. Rồi chàng đến chiếc bàn con, châm một điếu thuốc lá, vơ lấy cuốn sách nằm đấy, một cuốn tiểu thuyết của Dostoievsky xưa nay chàng vẫn ưa đọc.
Chàng giở từ trang đầu đến trang cuối, rồi vứt xuống bàn. Bên ngoài có tiếng gọi:- Cậu ra xơi cơm. Ba vẫn đi bách bộ. Tiếng gót giày nặng nề, không khí trong phòng bực tức. Ba vứt điếu thuốc nhưng châm ngay điếu khác, mở cửa sổ đứng trông ra ngoài. Trời gần tối, những khóm cây trong vườn đã đổi thành mấy đám đen. Vài bông hoa trắng lắc lư theo gió; mấy con cóc bắt đầu đi săn, làm rung cả khóm hồng. Vài cánh hoa rơi lả tả. Đèn điện nhà bên bật sáng. Trời tối hẳn. Ba vẫn đứng hút thuốc, ngọn lửa lập lòe trong khung cửa tối om. Một tiếng gọi nữa, Ba vứt mẩu thuốc dở ra nhà ngoài. Mẹ vợ chàng và vợ chàng đã bắt đầu ăn. Như mọi ngày, Ba ngồi vào bàn im lịm, và luôn mấy bát cho xong việc.ăn xong,
Ba bảo vợ:- Mợ mặc áo đi chơi. Kim hỏi:- Đi chơi à? Đi đâu?- Đi quanh. Tôi có chuyện muốn nói với mợ.Đã qua ba, bốn phố, Ba chưa nói gì. Kim cũng không hỏi, lủi thủi đi cạnh chồng. Qua những hàng tạp hóa đèn sáng, bày đẹp, hai người thường đứng lại xem. Khi mới lấy nhau, cuộc đi chơi tối như một cái lệ, cần cho hạnh phúc vợ chồng Ba. Vợ chồng mới thường phải nhỏ to những chuyện riêng, không đâu tiện bằng ngoài đường; tuy đông người nhưng không ai để ý đến ai. Dần dần lệ đó bỏ mất. Kim có tiếc chút đỉnh, nhưng lâu cũng quên đi.
Tới một cửa hàng, Kim để ý đến một chiếc lược ngà. Ba hỏi:- Mợ muốn mua không? Kim nhìn chồng:- Tôi còn chiếc cậu mua cho đã lâu. Tuy gẫy vài răng nhưng còn dùng được, mua thêm sợ phí. Ba vào hiệu mua cái lược cho vợ.Đến Bờ Hồ, Ba rủ vợ vào uống nước. Tuy không khát, Kim cũng chiều chồng. Sau khi gọi một chai bia và một cốc sữa, hai người ngồi im. Ba như nghĩ điều gì. Kim nhớ lại những cuộc đi chơi trước kia. Nàng lấy cái lược mới mua ra nhìn. Hôm nay, nàng lại được thấy chồng chiều chuộng. Nàng cố tìm một chuyện thật giầu tình tứ để nhắc lại cái quá khứ. Nàng không tìm được câu gì. Ba ngồi im. Đá trong cốc gần tan hết, nước đọng bên ngoài thành giọt chảy xuống khăn bàn. Một đứa trẻ con cầm quạt chạy lại phe phẩy,
Ba gắt:- Đi chỗ khác. Thằng bé giúp Kim được câu chuyện:- Sao cậu lại đuổi nó? Ba không trả lời. Kim tiếp:- Sao cậu không để nó quạt, rồi cho nó vài xu như ngày nào tôi đi với cậu? Ba cười:- ồ nhỉ! Mợ cũng nhớ lâu đấy. Hôm nay tôi bực mình nên mới đuổi nó.- Cậu có điều gì mà bực mình?- Nào biết điều gì? Đố mợ đoán được đấy. Rồi Ba thêm:- Hồi ấy tôi mới lấy mợ. Con trai mới lấy vợ gì mà chẳng vui. Lâu rồi thay đổi khác đi, hay sinh gắt gỏng. Xem ngày trước, tối nào cũng đi chơi, hình như cần lắm. Bây giờ...Trầm ngâm giây lát, chàng uể oải tiếp:- Bây giờ đi cũng được, mà ở nhà cũng vậy. Mợ có thấy không? Kim có ý không bằng lòng. Nghe nói, nàng thấy tình ái của chồng không nồng nàn như trước. Tuy nàng cũng có thấy sự thay đổi đó, nhưng đàn bà, không ai muốn nghe đàn ông cho biết quyền thế mình đã bị giảm.
Vả lại, sự thay đổi đó chỉ là ảnh hưởng của thời gian. Còn nàng đối với chồng bao giờ cũng giữ bổn phận người vợ, ái tình tuy kém nồng nàn, ân ái, nhưng thêm vẻ đầm ấm, dịu dàng. Nàng không trả lời. Ba chăm chú nhìn vợ, muốn biết những điều Kim đang nghĩ. Chàng toan nói một câu gì quan hệ, nó giải nghĩa cuộc đi chơi hôm ấy, mà câu vừa rồi chỉ là cái mào đầu. Chắc rằng không thể tránh được một diều khó khăn dù sao cũng xảy ra, Ba nhất quyết:- Tôi hỏi mợ nhé. Nếu bây giờ tôi bỏ mợ, đi thật xa, thì mợ tính sao?
Kim ngạc nhiên, nhưng muốn tránh câu trả lời:- Cậu định đi đâu?- Miễn là đi xa. Đã đi xa thì đâu cũng vậy. Tôi muốn biết mợ sẽ coi tôi ra sao, và xử trí ra sao? Kim uống sữa, nhìn ra ngoài. Bỗng nàng đặt cốc, nói:- Hình như có ai quen đi vào đấy. Ba thấy Phong, một người bạn học cũ. Phong ân cần chạy lại chào.- Lâu nay mới thấy anh chị đi chơi.- Chúng tôi đi luôn, ít gặp anh đấy thôi. Ngồi uống nước cho vui. Phong từ chối:-Có lẽ không tiện. Anh chị để tôi ra bàn khác. Ba nói đùa:- Có chuyện gì mà không tiện. Những chuyện kín chúng tôi đã nói cả ở nhà rồi.- Nếu vậy thì xin phép anh chị.Rồi cả ba người cũng chẳng có chuyện gì. Trước đàn bà, Phong không dám bông đùa với bạn như hồi đi học. Vợ chồng Ba mải nghĩ đến câu chuyện lúc nãy.
Một lát, Ba hỏi:- Anh đã đi làm đâu chưa?- Tôi đã có gửi đơn đi mấy nơi, những chưa đâu gọi, chắc cũng chỉ nay mai. Ba nhìn ra hồ:- Anh phải đi làm đi chứ. Con trai lớn, thi đỗ thì đi làm, lấy vợ. Lông bông mãi người ta cười cho. Kim bảo chồng:- Cậu khéo lên giọng ông cụ non, bác Phong còn kén chọn, chứ hớ điều gì mà cậu phải dạy. Phong cười:- Thưa bà chị, nào tôi có kén chọn gì đâu? Chưa ai lấy tôi đó thôi. Ba hỏi:- Bao giờ chúng tôi mới được hân hạnh biết bà Phong?- Tôi cũng chưa biết đặt tên đó vào ai. Nhưng anh chị chớ lo, tôi không muốn chết già đâu. Cả ba cùng cười. Chuyện bà Phong làm mất câu chuyện đi xa của vợ chồng Ba. Vầng không khí nặng nề tan đi hết. Ra về, Kim bảo chồng:- Anh Phong lịch sự và vui vẻ tệ.Ba không đáp. Kim lại sợ Ba hỏi đến câu chuyện cũ. Câu hỏi đó nàng không biết trả lời ra sao, vì không bao giờ nàng nghĩ tới. Nhưng không. Đến lúc về nhà, Ba không thêm một câu gì. Như mọi tối chàng lấy một cuốn sách, vặn to đèn lên giường nằm, không phải cuốn Nietzsrche hay Dostoievsky như mọi lần. Nay là quyển Voyages của Capitaine Cook.Đã khuya,
Ba đặt sách hỏi vợ:- ừ, nếu tôi xa thì mợ ra sao nhỉ?Không thấy trả lời, Ba quay lại; Kim đã ngủ. Ba ngắm vợ, nhìn người đàn bà lúc ngủ, thường có nhiều cảm tưởng êm đềm. Nếu người đó đẹp thì lại càng thêm thi vị. Tiếc rằng người đẹp đó đã thuộc quyền sở hữu của Ba, một sự làm giảm mất thú. * Kim nằm nghiêng, quay ra ánh đèn. Đôi vú căng thẳng, phập phồng theo hơi thở. Nàng giở mình, mấy máy cặp môi thắm, nói câu gì trong mộng.
Giấc ngủ đàn bà như giấc ngủ con nít, phẳng phiu, êm ấm. Trước cảnh đó, Ba nghĩ đến việc sắp làm, có ý bất nhẫn. Có lẽ chàng sẽ phụ người nằm đó. Phụ một người đã đem thân thể gửi vào mình, nhất là một người đàn bà, Ba không nỡ. Kim, khi lấy chàng, đã đem cả hạnh phúc, tương lai gửi vào chàng. Chàng đã nhận cái trách nhiệm đó, mà đêm hôm hợp cẩn là lúc ký tờ giao kèo. Có lẽ Kim không nghĩ đến ý nghĩa sâu xa đó. Kim lấy chàng cũng như lấy một người khác. Con gái lớn phải lấy chồng. Mà chán vạn người khác, như chàng, có thể làm chồng xứng đáng của nàng. Nhưng Ba tự băn khoăn với ý tưởng mình. Lúc ấy chắc Ba suy nghĩ lung tung lắm.
Chàng trở dậy, ra ngoài ghế châm thuốc hút. Bà mẹ vợ thức giấc đi vào hỏi:- Anh còn thức à? Mấy giờ rồi mà chưa đi ngủ?Ba giật mình. Hai tiếng chuông dõng dạc trả lời bà cụ, và phá tan cái lặng lẽ gian buồng.- Đi ngủ đi thôi khuya rồi. Nên giữ lấy sức khỏe, mai còn đi làm. Bà cụ ra. Ba lấy một phong thư xem, lần này không biết là mấy. Saigon, le 16 juillet 19... Anh Ba.Đã lâu tôi không có thư thăm anh chắc anh cũng nghĩ đến thời giờ bó buộc của dân đi làm mà tha thứ cho. Tôi vẫn nhớ tới anh và nhớ tới hồi nào anh nói chuyện muốn đi xa, nhất là vào trong này. Thì vừa rồi trong hãng tôi khuyết một chân thư ký.
Tôi có xin với chủ định viết bảo anh vào. Tình cờ gặp Đức nói anh đã có việc làm ở Hà Nội.Đã có công xin, bỏ đi cũng uổng, mà tôi cũng chẳng quen ai nữa. Vậy nói anh rõ, hoặc anh muốn thôi ngoài đó mà vô chăng? Lương bổng tuy không nhiều (90$00), nhưng ở đây nhiều cảnh thú lắm, vào sẽ biết. Nếu không thì anh coi trong bạn anh em mình, còn ai chưa có công việc, anh mách giùm họ. Cần nhất là phải người cẩn thận tử tế. Anh xem sao rồi viết thư ngay tôi rõ. Phải đi chuyến Claude Chappe đầu tháng Aout, đi đường bộ cũng vào hồi đó mới kịp. Sẽ điện cho tôi biết, hoặc tìm tôi ở địa chỉ dưới này. Trả lời ngay. Kính chúc anh chị bình an. Tường N.V.Tường Chez M.Thân, 10 Rue de Reims Saigon Nguyễn Văn Ba mồ côi mẹ từ nhỏ. Năm lên chín, cha chết. Một người chú đem Ba về nuôi, chú thương cháu, nhưng nhà đông con, công việc ở cả tay vợ. Cái tình thương con mình hơn con người chẳng riêng người đàn bà nào. Nhớ lời ủy thác của anh, ông chú cho Ba đi học.
Từ lên mười đến mười sáu, Ba theo học cùng mấy đứa em. Mấy đứa này hình như hiểu rằng Ba tranh mất một phần cơm áo của chúng nên ghét Ba, họp nhau thành bè đảng để hành hạ. Ba cũng biết đó không phải là chỗ mình. Một đôi khi thấy thím vuốt ve mấy đứa em, Ba lảng ra cửa, phảng phất nhớ tới một người đàn bà đã bế ẵm Ba khi nhỏ. Người đó nhu mì, trẻ đẹp. Lâu dần, hình ảnh đó cũng mất đi. Ba không hay nói, suốt ngày chỉ lủi thủi một mình; lúc nào cũng khép nép sợ hãi. Khi đỗ bằng sơ học, và xin được lương vào làm lưu học sinh trường Bảo Hộ. Ba bỏ nhà chú không chút lưu luyến.
Trái tim đứa trẻ đã khô lại, vì thiếu tình âu yếm của một người đàn bà. Ba đã quen tính trơ trọi, dút dát. Khi anh em đua nhau nô đùa, Ba ngồi một chỗ xem sách. Rồi Ba thấy cuộc đời tẻ ngắt. Rồi đời chú Ba cũng thành chán ngắt. Nghĩ đến lúc thôi học sẽ phải sống như vậy, Ba sinh trễ nải công việc nhà trường. Thi đến nơi, Ba vẫn ngồi xem Le Joueur của Dostoiesky hoặc Topaze của Marcel Pagnol. Dostoiesky và Nietzsche là hai người Ba ưa hơn hết. Ba thấy ý tưởng Nietzsche rắn rỏi ngang tàng, và trong tiểu thuyết Dostoiesky, những cuộc đời đầy đủ, mạnh mẽ.Anh em có nhắc:- Thi đến nơi rồi mà anh không lo học ôn à? Ba cười:- Học làm gì?- Học làm gì? Lạ chưa! Học để đỗ chứ học làm gì? Anh không muốn đỗ à?- Không cần lắm. Nếu chỉ sống với cơm áo, thì dù không đỗ cũng sống được.
Trường, một người tâm tính giống Ba, nói:- Anh Ba nói phải đấy. Chúng mình học những món vô ích, ra khỏi cửa trường là quên hết. Sau này chúng mình bất quá chỉ cạo giấy. Anh Ba chỉ học được những món dùng được suốt đời. Lại hỏi Ba:- Sau này anh định làm gì?- Tôi muốn đi xa, làm giầu. Đời này cần phải nhiều tiền, nhiều lắm. Có tiền mới có hạnh phúc.- Sao tôi thấy người ta bảo hạnh phúc ở ái tình?- Tôi chưa có dịp được biết ái tình. * Một hôm Ba gặp một người con gái ở nhà chú. Lúc Ba đến người này đứng dậy về. Người thím níu áo giữ lại, mắt nhìn Ba. Chàng thấy người đó đáng yêu lắm.
Khổ người đầy đặn, khuôn mặt tròn trĩnh lắm. Ba nghĩ đến một gia đình trưởng giả và bà mẹ phúc hậu. Cặp mắt bồ câu mỗi khi nhìn Ba, khiến đôi má ửng hồng. Ba đem theo hình người đó vào trường. Buổi học tối, chàng ngồi vẽ nhảm những con vật. Bất cứ con gì chàng vẽ cũng có cặp mắt người, một cặp mắt bồ câu. Anh em thì thào bên cạnh; Phong bảo Trường:- Kìa nhìn Ba, mấy hôm nay tôi chỉ thấy hắn vẽ.- Anh chưa biết à? Hắn mới phải lòng gái đấy, đương nghĩ thư viết cho người yêu. Trước khi viết, phải tập vẽ.- Có lẽ, vì vẽ là "thế giới ngữ".- Phải rồi, chẳng những thế, có khi con vật mình vẽ lại biểu hiện được người yêu. Phong không hiểu. Trường giải nghĩa:- Như con mèo là người hay nũng nịu; con hươu, những cô tân thời; con bò, những cử chỉ hiều lành, ngu độn; còn con sư tử...- Nói láo, dám khinh thường phụ nữ.Họ khúc khích cười. Ba ngồi nghĩ:- Hay anh Trường nói phải, hạnh phúc ở ái tình? Từ đấy, chủ nhật nào chàng cũng ra thăm chú.
Một lần chàng thấy chú thím có dáng suy nghĩ, nhưng vui vẻ, như sau một chuyện can hệ mà tốt lành. Thấy Ba, người chú nói:- Chúng tôi đương nói đến anh.- Cháu cũng đoán vậy. Việc gì thế, chú?- Anh ngồi đây chú nói cho nghe. Bà Lý ở phố dưới có người con gái muốn gả cho Ba. Cô bé xinh, con một nhà giầu, có lần Ba đã gặp. (Ba nhớ đến một đôi mắt). Bà Lý thương Ba hiền lành, ngoan ngoãn, học giỏi (ông chú nhìn Ba, dằn mấy tiếng này) muốn gả cho Ba, nhưng phải ở rể.Ông chú tiếp:- Nhưng anh cũng tự do như ở nhà. Anh nên thuận đi, chẳng còn đâu hơn nữa. Cô Kim vừa đẹp vừa lành. Anh sắp thi ra, cần một gia đình, một cơ sở chắc chắn. Chú tuy săn sóc đến anh, nhưng nhà nghèo, các em đông, anh đã rõ, nên nghe chú. Người thím nói:- Cô ấy nhiều vốn lắm. Khi bà cụ chết, lại được hưởng gia tài ở nhà quê.- Nếu anh bằng lòng thì chú thím thu xếp, anh thi rồi sẽ lo công việc. Ông chú chẳng cần phải nói nhiều. Nếu chưa biết Kim, chắc Ba đã bắt chước một người nào trong tiểu thuyết, trả lời:- Cháu không muốn lấy vợ. Cháu muốn yêu hết tất cả phụ nữ, mà không yêu riêng ai.
Cháu nghèo nhưng cháu không lo, mà đâu cháu có nghèo? Cháu giầu lắm. Tư tưởng của cháu có sức mạnh bằng cái tủ két, tập ngân phiếu của các nhà tư bản. Cháu không muốn có một gia đình hẹp hòi, không đủ cho cháu thờ phụng chỉ làm vướng chân cháu trong bước đường đời thôi! Nhưng lúc ấy chàng thấy cặp mắt đầy tình tứ và đôi má ửng hồng.
Chàng trả lời:- Xin tùy ý chú thím. Người thím nói:- Anh tinh lắm. ít nữa anh giầu cho chú thím vay ít tiền tiêu nhé. * Ba đến nhà vợ, giang sơn có một cái rương với một chiếc va li đựng quần áo và mấy quyển sách. Lúc đầu chàng thấy sung sướng như sống trong một giấc mộng vàng. Nếu Kim là gái giàu tư tưởng mới, nũng nịu như một con mèo, tân thời như một con hươu theo lời Trường, thì Ba đã vui lòng quay về với đời no ấm. Chàng đã thấy cuộc đời đầy đủ không còn ước mong gì. Nhưng Kim không có tài đó. Cái thông minh, đảm đang của nàng chỉ đủ tính tiền chợ, hay biên sổ thợ giặt. ái tình của nàng gồm ở câu: "Chiều chồng lấy con". Một lần Ba xem tiểu thuyết, chỗ tả một đôi trai gái tự tình dưới bóng trăng. Chàng thấy hay lắm, muốn cho vợ nghe. Kim đương mắng thằng bếp về tội ăn bớt tiền chợ. Chiều chồng, nàng cũng lên ngồi, vẻ mặt còn tức giận. Ba không để ý, lấy giọng thật hay đọc đoạn văn cho có ý vị.
Lúc xong, Kim nói:- Thế có tức không? Chẳng thà nó hỏi xin ngay mấy xu thì ai không cho nó. Lại đỡ lộn ruột. Những buổi chiều mát mẻ, hai vợ chồng thường thơ thẩn ngoài vườn. Mặt trời đã ngang hẳn, bóng cây nằm dài trên cỏ. Thỉnh thoảng gió đưa hai bông hoa sát vào nhau, rồi lại rún rẩy xa ra. Những lúc này Ba thấy trong tâm nồng nàn. Ba ôm lấy vợ hôn. Kim đẩy chồng ra kêu: "Rõ trẻ con!" và nhìn chung quanh như đứa trẻ có lỗi sợ người lớn bắt được. Ba sinh chán nản. Mấy tháng sau chàng đi làm cho một nhà buôn. Chàng như đã lấy vợ được ba, bốn năm. Nếu có việc ngay từ trước thời kỳ mật nguyệt có lẽ dài hơn ít nữa. Quên hẳn vợ, chàng tìm thú khác. Bắt đầu chàng thay Âu phục, bỏ quần áo ta lụng thụng. Chàng muốn biết những món cần thiết cho con trai thế kỷ này như: vặn xe hơi, bắn súng, chụp ảnh. Chàng để dành hai tháng không đủ mua một cây vợt. Mỗi lần lấy tiền của vợ lại phải kể sự tiêu dùng, tính từng hào, từng xu. Chàng không ưa, đành dẹp ý muốn chơi ten nít.
Đi làm không đủ thờ phụng nổi một điều sở thích, chàng lấy làm bất bình, Ba lại đọc các văn sĩ khi xưa. Những tư tưởng khô khan đã bỏ chàng, nay lại quay về. Ba vơ lấy, như người ốm vơ bát thuốc. Ba thành hai người. Bề ngoài: ngày hai buổi đi làm, đứng đắn, hiền lành. Bề trong: một khối óc đã chán nản, mệt nhọc, đối với đời mình như một người khách. Một trái tim bồng bột, một ý muốn ngấm ngầm muốn vượt khỏi hiện cảnh, giống như nước sông mưa lụt, chỉ rình phá vỡ đê. Lúc đó, chàng nhận được thư của Trường. * Chàng đọc bức thư bốn, năm lượt. Mấy dòng chữ đưa chàng đến những nơi xa lạ, đầy cảnh vui thú. Chàng tưởng tượng một cuộc đời sung sướng ở Nam, nơi nhiều con gái đã đẹp lại văn minh. Chàng nghĩ đến những nơi danh thắng ở miền Trung. Rồi sau này, biết đâu chàng chẳng giầu có, sống một đời lãng mạn như ai? Ba giờ khuya.
Chàng châm điếu thuốc nữa, lấy giấy bút viết thư từ biệt Kim. Viết xong, chàng gật gù đắc chí, vứt điếu thuốc, vặn đèn, lên giường nằm. Kim thấy động cũng thức dậy. Ba thấy vợ xinh đẹp, nồng nàn hơn mọi ngày. Kim được chồng yêu như đêm mới cưới, ngạc nhiên mà không hiểu vì sao. Khi xác thịt đã mệt mỏi, Ba gối đầu lên cánh tay vợ, nằm thiêm thiếp quên hẳn chuyện đi, chỉ biết người đàn bà ôm trong lòng và cuộc ái ân vừa qua. Khi Kim sẽ lay chồng dậy, và đưa thức ăn sáng, Ba xé bức thư đã viết, vui vẻ đi làm. Trưa về, thấy mấy người xúm quanh mâm cơm, chàng lại chán nản về tấn kịch ngày nào cũng diễn. Chàng không muốn xem, không muốn đóng. Tiếng gọi phương xa lại văng vẳng. Sau mấy ngày do dự, một sự tình có làm Ba định ý. Ba về chậm vì có anh em rủ đi chơi. Kim không bằng lòng, sinh chuyện ỉ eo. Ba càng bực mình.
Chàng phân vân một lần cuối cùng, rồi nghĩ:- Ta còn sợ gì mà dùng dằng? Nếu chỉ khư khư trong cái gia đình hẹp hòi này thì đời ta cũng chẳng đáng là bao. Mất đi, ta cũng chẳng thèm tiếc. Sự gì giữ ta? Vợ, người đàn bà kia?... Chàng quên hẳn Kim xinh đẹp nồng nàn trong cuộc ái ân đêm nọ. Chàng bĩu môi:- Nếu không chờ được thì không thiếu gì người như ta, có thể làm chồng xứng đáng của nàng. Những ý tưởng trưởng giả cố giữ chàng một lần nữa. Nhưng ý Ba đã quyết. ý tưởng kia tựa như người hấp hối muốn níu lấy cái sống, thở dội lên một lúc rồi tắt nghỉ.Ba đi Sài Gòn. Rút từ tập truyện ngắn Nhà bên kia, Nxb Cộng Lực, Hà Nội, 1942
Nguồn: Hùng Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003 |
TRẦN MỘNG TÚ * ÁNH TRĂNG VÀ NHÀ TÙ
Trần Mộng Tú
Ánh Trăng Và Nhà Tù
Người bạn nói với Rơm:
"Thằng Năm nhà em nó lại bị bắt rồi, chị có đi thăm nó thì đi, em không muốn nhìn nó nữa."
Thế là Rơm thay bạn đi thăm Năm, Rơm biết chị bạn đã khổ vì cậu con này
lắm rồi, nên bây giờ nói hờn, nói dỗi nhưng trong lòng, Rơm biết chị
thương Năm nhất trong ba đứa con của chị. Vì hai cô con gái đầu thì
ngoan ngoãn học hành chăm chỉ, riêng Năm thì khác hẳn hai chị. Năm thông
minh, có nhiều tài như vẽ đẹp, đánh đàn hay, và thuộc nhiều thơ nhưng
cá tính rất mạnh. Hồi mới mười hai tuổi có một lần giận Bố, Năm vác cần
câu ra hồ ngồi suốt một đêm, làm cả nhà toán loạn đi tìm, đi báo cảnh
sát. Lớn lên một chút nữa Năm bắt đầu không thích cắp sách đến trường,
lúc nào cũng chỉ thích thơ thẩn ở mấy cái công viên, mấy khu hồ hay trốn
nguyên ngày dưới nhà hầm hý hoáy vẽ hoặc đóng, cưa một cái gì đó mà Bố
Mẹ Năm không thể nào biết được. Cả hai vợ chồng đều đi làm từ sáng đến
chiều, có khi làm cả ngày cuối tuần, ít khi có dịp gặp mặt một đứa con
lúc nào cũng muốn lẫn tránh cả nhà. Năm bỏ học lúc mười bảy tuổi, năm
nay đã hăm hai vẫn chưa xong Trung Học. Hai năm về sau này thỉnh thoảng
Năm lại dính líu vào một vụ bắt bớ như lái xe quá tốc độ, cảnh sát gọi
không dừng lại hoặc cảnh sát tìm thấy vài lá cần sa trong xe, một lần
nữa bị bắt vì có ý hành hung chống lại cảnh sát. Lần này thì Năm bị bắt
vì tội dám bạt tai cô bạn gái khi cô này gọi Năm là: Một người đánh mất
linh hồn (A lost soul).
Rơm có lẽ là người duy nhất thỉnh thoảng Năm còn truyện trò một đôi câu.
Có lẽ tại khi có dịp nói chuyện với Năm, Rơm không khuyên răn, giảng
dậy gì cả, mà chỉ nghe Năm nói, hoặc nói về một đề tài gì mà Năm thích
như vẽ vời, câu cá, hoặc một bài hát mới ra, một ca sĩ đang được khen
ngợi.
Rơm bước ra cửa thang máy, trước mặt Rơm là một bức tường chắn ngang có
chia từng ô cửa nhỏ, ngăn kính, trước mỗi ô cửa có một máy điện thoại.
Người ngồi trong cửa sổ và người ngồi bên ngoài có thể nhìn thấy nhau rõ
ràng và nói với nhau bằng hai đầu giây điện thoại. Rơm nhìn sang phía
trái của nhà giam phía sau tấm cửa kính lớn, cách một lối đi lại là một
gian buồng lớn khác cũng được ngăn bằng kính dầy, ở đó có bàn giấy và
nhân viên an ninh mặc đồng phục ngồi kiểm soát tù nhân. Gian buồng đó,
dưới mắt Rơm giống như một cái nhà tù nhỏ ở trong một cái nhà tù lớn,
thực ra nó chỉ làm nhiệm vụ của một cái chòi canh. Cả khu được sơn mầu
xanh lá cây, các bức tường cao, thẳng đứng, lạnh lùng và câm lặng. Không
một bức tranh không một khẩu hiệu, kẻ trên tường. Những khung cửa sổ
gắn kính và song sắt đụng trần nhà để cho ánh sáng lùa vào chứ không
phải để cho người đứng trong được nhìn ra trời, đất bên ngoài.
Năm đã đứng sẵn sau một ô kính, mặc một bộ đồng phục của nhà tù mầu rượu
chát, loại quần áo bằng vải mỏng như những quần áo của lao công trong
các bệnh viện, Rơm không thấy quần áo của Năm có đánh số, có lẽ vì đây
chỉ là nơi tạm giam của những người tội nhẹ, trước khi đem ra xử.
Rơm mỉm cười với Năm, Năm cầm điện thoại lên trước, hỏi:
"Mẹ cháu nhờ cô vào thăm cháu phải không?"
"Mẹ có nhờ và cô cũng muốn gặp Năm nữa."
"Cô cần gặp cháu làm gì?"
"À, cô muốn nói chuyện với Năm và cô còn đem quà vào cho Năm nữa."
Năm nhìn Rơm với cặp mắt nghi ngờ:
"Qùa gì vậy cô, ở đây họ đâu có cho đem quà vào."
Rơm không nói, cô cho tay vào túi áo khoác lấy ra một phong bì, cô mở
phong bì, gượng nhẹ kéo ra một xấp lá vàng, cô cười với Năm, áp mấy
chiếc lá sát vào mặt kính.
"Qùa của Năm đây, những chiếc lá Aspen này cô mới nhặt sáng nay, Năm có
thấy nó có mầu vàng giống như mầu vàng ròng của những món nữ trang
không?"
"Có phải những cây Aspen ở sau vườn nhà cô không?"
"Năm có trí nhớ giỏi thật, có đến cả ba, bốn năm nay rồi Năm đâu có đến
nhà cô mà vẫn nhớ hàng cây Aspen đó. Mà cô đố Năm cây Aspen này dịch ra
tiếng Việt tên là gì."
Năm dán mũi sát vào mặt kính, mở to cặp mắt mầu nâu, Rơm thấy kẽ mắt Năm
như nứt ra, có một chút viền đỏ, giống như một sợi chỉ chạy chung quanh
mắt, tự nhiên Rơm thấy tim mình nhói lên trong một tíc tắc.
"Cháu không biết tiếng Việt gọi nó là gì, nhưng cháu nhớ rất rõ là thân
cây có mầu trắng, và mình có thể bóc được lớp vỏ mỏng của vỏ cây."
"Khá lắm - Rơm gật gù khen. Cây Aspen tiếng Việt gọi là cây Bạch dương,
cái tên thật tuyệt, đọc lên nghe như đọc một câu thơ vậy."
Năm vẫn dán mũi vào kính, những chiếc lá Bạch dương ở phía bên kia mặt
kính cũng như ôm sát lấy mặt Năm, Năm không nghe rõ những lời của Rơm,
anh đang mải ngắm những chiếc lá, anh muốn bóc nó xuống mà không bóc
được, những chiếc lá như những mảnh vàng nhỏ dát lên mặt kính. Năm như
ngửi được cái mùi tươi, ẩm của những giọt nước ở trong từng thớ lá, anh
hít một hơi dài, bàn tay anh đang xòe ra áp vào khung kính, bỗng buông
thõng xuống, Năm hỏi:
"Tối qua là Rằm Trung Thu phải không cổ"
Rơm ngạc nhiên:
"Tại sao Năm biết, trong này làm gì có lịch in ngày Tạ"
Năm nói giọng buồn buồn, đầu hơi cúi xuống, đôi vai vẫn buông thõng..
"Cháu biết, vì trước hôm bị bắt vào đây, cháu đi chợ Việt Nam thấy bầy
bánh Trung Thu, cháu hỏi bà bán hàng thì bà nói còn một tuần nữa, cháu ở
trong này đúng một tuần rồi."
Rơm vỗ vỗ nhè nhẹ lên mặt kính như vỗ lên vai Năm
"Phải, hôm qua cả ngày mưa, đêm khô nhưng nhiệt độ xuống thấp nên trăng
tháng Tám năm nay sáng lắm, trăng có mầu bạc chứ không phải trăng vàng.
"Tiếc quá, thế mà cháu không được ngắm, cháu vẫn thích trăng bạc hơn là
trăng vàng mà cô có biết tại sao trăng khi thì bạc, khi thì vàng hay
không?"
Rơm chần chừ không dám trả lời theo sự hiểu biết sơ sài về trăng của
mình, Rơm biết tuy Năm bỏ học ở lớp 12 nhưng sự hiểu biết của Năm rất
khá trên nhiều phương diện, nhất là về văn chương, vì Năm đọc rất nhiều,
cậu bé này là một con mọt sách. Rơm sẽ không ngạc nhiên nếu một ngày
nào đó Năm trở thành một nhà văn, Rơm nói:
"Cháu biết gì về trăng thì nói cho cô nghẹ"
Năm đứng thẳng người lên, hai mắt chùng xuống anh nói chậm rãi:
"Bây giờ là giữa tháng Tám ta, nhưng dương lịch đã vào tháng Mười, ở
tiểu bang lạnh như ở đây thì độ lạnh có thể làm thay đổi cách nhìn.
Trăng thì không đổi mầu nhưng vào mùa lạnh mình nhìn trăng qua một lớp
sương lạnh, ở trên cao, và ở xa tầm mắt, trăng có mầu bạc. Vào mùa nóng,
mình nhìn trăng qua một lớp bụi và khí nóng, trăng thấp và gần, trăng
có mầu vàng. Tháng Tám dương lịch trăng vàng như mật gọi là Trăng Mùa
Gặt (Harvest moon) Tháng Mười dương lịch trăng có mầu bạc gọi là Trăng
Mùa Săn (Hunting moon). Tháng này là tháng cấp giấy phép cho người săn
bắn. Còn một tên trăng khác gọi là Trăng Xanh (Blue moon) là khi nào
cùng ở trong một tháng mà có hai đêm trăng tròn thì mặt trăng tròn của
đêm đó được gọi là Trăng Xanh. Trăng xanh có thể ở cuối tuần, hoặc đầu
tuần của tháng chứ không phải là trăng của đêm rằm. Điều này rất hiếm,
nhưng có xảy rạ"
Rơm lại xoa xoa tay mình lên cửa kính như xoa trên cánh tay Năm..
"Cháu hay quá, bao giờ nói chuyện với cháu cô cũng học được một điều gì."
Năm cũng đưa tay lên, xòe cả bàn tay ra áp lên bàn tay Rơm bên kia mặt kính, Năm nói:
"Để cháu đọc cho cô nghe một đoạn thơ này
With bars they blur the gracious moon,
And blind the goodly sun
And they do well to hide their Hell,
For in it things are done
That Son of God nor son of Man
Ever should look upon." (#1)
Rơm đứng lặng người đi một phút, ngập ngừng hỏi:
"Thơ của ai mà nghe cay đắng thế!"
"Đây là một đoạn trong bài thơ dài in thành một tập nhỏ có tựa là The
Ballad of Reading Gaol, xuất bản năm 1913 tại New York. Tác giả ký tên
là C.33 (số xà lim), Reading là tên một thành phố thuộc nước Anh, cô có
thể tạm dịch ra tiếng Việt là "Khúc hát trong nhà tù ở thành Reading."
Còn đoạn thơ này cháu không đủ tiếng Việt để dịch cho xuôi, cô về nhà
dịch hộ cháu."
Rơm bàng hoàng, vẫn biết là Năm hay đọc sách nhưng sao Năm có thể nhớ ra
được một đoạn thơ cũ kỹ như thế này vào đúng cái hoàn cảnh giam hãm Năm
đang ở trong. Cô bạn gái của Năm đã gọi Năm là "A lost soul" thật là
một điều lầm lẫn, Rơm nghĩ tâm hồn Năm nào có khác gì viên ngọc quý còn
dấu trong tảng đá xấu xí, một ngày nào đó có người đến đập tảng đá ra sẽ
tìm thấy nó. Quả thật mình không cần khuyên nhủ hay lên tiếng dạy dỗ
những quy luật cứng ngắc của đời sống với người thanh niên này, Rơm xoay
câu chuyện trở lại với ánh trăng.
"Tối qua trăng đẹp lắm, cô ra nằm ở ngoài phòng khách, cô nằm ngay dưới
sàn nhà nhìn lên phía cao của cửa sổ. Cô thấy mặt trăng như một chiếc
khay bạc treo trên những nhành cây, cửa sổ nhà cô không phải là một
vuông kính lớn mà là loại cửa có cắt ra từng những ô nhỏ, bởi những nẹp
gỗ ngang dọc, mỗi ô chỉ bằng một trang giấy nên mặt trăng nhiều khi cứ
bị cắt ra thành mảnh nhỏ, cô thấy thương quá, cô bỗng nhớ đến câu thơ cũ
"Trăng nhòm cửa sổ mặt trăng vuông"
Cô lại nằm xoay đi xoay lại mãi cho đến khi ở một góc nào đó cô có thể
nhìn thấy trăng nguyên vẹn. Thỉnh thoảng lại có đám mây đi ngang qua mặt
trăng làm cho cặp mắt mình lúng túng, không biết là mây kéo trăng đi
theo hay là trăng đi mà dắt theo mây. Cô nhớ đến sáng nay sẽ đi thăm Năm
nên cô muốn đem theo mặt trăng rằm vào làm quà -- Rơm ngừng nói, cho
tay vào một cái túi khác trên áo lấy ra một miếng bìa mỏng màu đen (loại
giấy làm thủ công) trên đó có vẽ một cái vòng tròn sơn kim nhũ bạc, đưa
cho Năm xem qua cửa kính
"Cô không phải là họa sĩ, nên không biết vẽ những cành cây và khung cửa,
cô chỉ biết đêm thì mầu đen và trăng thì bạc, cô tặng Năm đây, một chốc
nữa xuống dưới kia, trước khi về cô sẽ hỏi thể lệ Ở văn phòng để gửi
cho Năm, cô nghĩ chắc là họ chẳng cấm đoán gì với một mặt trăng."
Năm nhìn vào mắt Rơm:
"Cô làm cháu cảm động quá, cô thấy cháu bây giờ cũng nào có khác gì bóng
trăng, cháu không biết là cháu đang ở bên ngoài hay bên trong cửa sổ
nữa, cháu còn nguyên vẹn hay cháu bị cắt ra thành những miếng vuông. Cha
mẹ cháu có nhìn thấy một mảnh nhỏ nào lấp lánh của cháu hay không?"
"Cô nghĩ là cha mẹ cháu có nhìn thấy, nhưng cha mẹ nào mà không tham
lam, mà không muốn nhìn thấy nguyên cả một mặt trăng thay vì những mảnh
vụn lấp lánh ở con."
Năm rời một bàn tay đang áp lên bàn tay Rơm, dùng ngón trỏ di động vòng theo mặt trăng bạc trên phía sau mặt kính.
"Cháu biết là cháu sẽ được ra khỏi đây không lâu vì cháu chẳng có gây ra
thương tích nào cho cô bạn cháu cả, nhưng thú thật với cô đời sống đối
với cháu cũng là một nhà tù kiên cố lắm rồi, ra hay ở trong này cũng
chẳng khác gì nhau."
"Tại sao Năm lại nghĩ đời sống là một nhà tù."
Năm nhìn vào khoảng không, đôi mắt anh mở lớn, sáng bóng. Rơm đọc được
trong đó sự thông minh, sự nhạy cảm và tuổi trẻ của người thanh niên.
Năm nói chậm và rõ
"Cô cũng đang ở trong nhà tù, một cái nhà tù vô hình mà cô không biết.
Cô có thấy khi mình sống mình bị lệ thuộc vào cả trăm thứ luật lệ, bổn
phận hay không ? Như cháu đây, để được gọi là một người đàng hoàng đúng
nghĩa, cháu phải ăn học đến nơi đến chốn, có công việc làm, lấy vợ, đẻ
con, lái xe và thắt cà vạt. Cháu phải sống cái cách mà xã hội muốn cháu
sống để làm đẹp cho xã hội, nếu cháu sống khác đi (theo ý cháu muốn) thì
cháu sẽ bị hất ra ngoài. Như vậy cuộc sống nào khác gì một cái bánh xe
mà con người chỉ là những viên bi, những con ốc đã được tạo ra, đánh
bóng lắp vào cái bánh xe đó. Bánh xe quay thì những viên bi, những con
ốc cũng quay theo. Nếu có một vật lạ nào, không cùng một hình dáng, khác
thể chất lọt vào bánh xe đó thì sẽ bị bật tung ra ngaỵ Còn như cô, cô
có biết là tối hôm qua đang khi cô nằm dưới đất ngắm lên mặt trăng,
thương cho mặt trăng bị cắt từng mảnh nhỏ qua khung cửa sổ thì cũng là
lúc mặt trăng đang ngắm lại cô, thương cho cô, một sinh vật lạ lẫm đang
bị giam hãm, đang bị cắt vụn ra sau ô cửa sổ đó. Khi cháu nghe thấy ai
khen cô sống một cuộc sống tốt lành, mẫu mực thì cháu lại cảm thương cho
cô, vì cháu biết thật sự con người của cô, cô muốn đạp đổ cái đời sống
đóng khung, cô thèm được sống như cháu, như mặt trăng ở bên ngoài cửa
sổ, ở trên bầu trời bát ngát đó mà cô không dám."
Năm đang nói miên man, anh chợt khựng lại, anh nghe tiếng chuông reng
báo hiệu hết giờ thăm, anh nhìn thấy hai dòng lệ nhỏ ứa ra từ khóe mắt
Rơm, anh hạ giọng
"Cháu xin lỗi cô, cháu nói lung tung quá, cô đem trăng rằm tháng Tám vào cho cháu, cháu lại dùng ánh trăng đó làm cô buồn."
Rơm vẫn đứng lặng yên, cô không giơ tay lau lệ, cũng không phủ nhận
những lời Năm nói, cô đang lắng nghe tiếng chuông reng từ cái chòi canh
đặt giữa nhà tù, cô ngước nhìn những chấn song sắt ở những ô cửa sổ trên
cao. Cô nghĩ đến một nhà tù ở bên ngoài những chấn song đó.
Tháng 8/97.
Chú thích:
(1-) Lược dịch: Họ dùng những chấn song làm nhòe vẻ đẹp của trăng,
Làm mù vẻ rạng rỡ của mặt trời, Và họ giấu đi rất giỏi địa ngục của họ.
Những điều khủng khiếp đến thế, Thì đến Thượng Đế và loài người cũng
phải nhìn vào .
Hết
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 026
STEFAN ZWEIG * AMOK
AMOK HAY LÀ BỆNH ĐIÊN XỨ MALAIXIA
Stefan Zweig
Tháng 3 năm 1912 ở cảng Naplơ, trong
lúc bốc dỡ hàng của một chiếc tàu lớn xuyên Đại tây dương, đã xảy ra một
tai nạn lạ lùng mà báo chí đưa tin rộng rãi, nhưng vẽ rắn thêm chân
cũng nhiều. Tuy là hành khách của chiếc tàu Oxênia đó, bản thân tôi cũng
không chứng kiến gì nhiều hơn các hành khách khác về sự kiện lạ lùng
này, bởi vì sự kiện xảy ra vào ban đêm, khi tàu ăn than và dỡ hàng hóa.
Hơn nữa, để tránh sự ồn ào, tất
cả chúng tôi đều lên bộ tiêu khiển thời giờ trong các quán cà phê hay
các rạp hát. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, một số giả thiết mà ngày ấy tôi
không đưa ra công khai, chứa đựng sự giải thích chân thực câu chuyện cảm
động này; và bây giờ, đã nhiều năm trôi qua, vì vậy hẳn là tôi được
phép sử dụng một câu chuyện tâm tình mà tôi được nghe ngay trước khi xảy
ra biến cố lạ lùng đó.
*
* *
Khi ở hãng hàng hải Canquýtta, tôi
muốn mua vé dành trước một chỗ trên tàu Ôxênia để trở về châu Âu, người
nhân viên nhún vai, tỏ ý rất tiếc : ông ta không dám chắc có thể giữ cho
tôi một buồng, bởi vì vào thời gian đó, tức là sắp đến mùa mưa, thường
thường tàu đã chật ních từ khi rời Ôxtralia ( Australia).Và ông ta phải
chờ một điện tín từ Xanhgapo cho biết rõ tình hình rồi mới trả lời tôi
được.
Hôm sau, ông ta báo cho tôi tin mừng là có thể dành cho tôi một chỗ, thực ra đấy chỉ là một căn buồng chẳng tiện lợi mấy, ở dưới boong tàu, vào khoang giữa. Vì nôn nóng muốn trở về nước, tôi không đắn đo lâu và nhận lấy căn buồng.
Người nhân viên không nói dối, tàu chở
quá nặng và căn buồng thật là tồi tệ : đó là một cái hộp vuông chật hẹp
nằm chẹt bên cạnh đầu máy và chỉ được hưởng chút ánh sáng lờ mờ lọt qua khung cửa tròn bên hông tàu.
Không khí đặc sệt tù hãm, nồng nặc mùi
dầu và mùi mốc : người ta không thể, dù chỉ trong một phút, thoát khỏi
tiếng ù ù của chiếc quạt điện như một con dơi bằng thép phát điên phát
cuồng quay tít ngay trên đầu. Bên dưới,
máy tàu thở phì phò, rên rỉ như một người vác tải than thở hổn hển
không ngừng lên xuống mãi một cầu thang. Và ở bên trên, liên tiếp có
tiếng chân người dạo chơi đi đi lại lại trên boong. Bởi vậy, liền sau
khi đã mang chiếc rương đặt vào cái thứ nhà mồ nồng nặc đó, có vách ghép
bằng những thanh
ngang màu xám, là tôi chạy trốn ngay
lên boong. Vừa lên khỏi hầm sâu, tôi hít thở ngọn gió từ đất liền thổi
tới trên các làn sóng.
Nhưng boong tàu cũng khó chịu và ồn ào
không kém : đám người đi dạo chơi chen chúc, nhộn nhạo, bồn chồn nóng
nảy vì bị giam hãm, bị đẩy vào tình trạng " nhàn cư ", họ hết đi lên lại
đi xuống, tán gẫu không ngớt. Tiếng cười đùa ríu rít của phụ nữ, cái
cảnh người đi lại không dứt trên hành lang hẹp của boong tàu, ở đó hành
khách đổ dồn đến trước những chiếc ghế bành trong tiếng trò chuyện ầm ĩ,
ai nói người ấy nghe - tất cả những điều đó không hiểu sao khiến tôi
bứt rứt trong người.
Tôi vừa chu du qua một thế giới mới lạ
đối với tôi và còn giữ lại trong tâm trí một loạt hình ảnh chen lấn
nhau trong một nhịp điệu điên cuồng. Lúc này tôi muốn suy nghĩ lại tất
cả những gì đã nhìn thấy, gạn lọc và sắp xếp lại cho có thứ tự, định
hình cho cái thế giới huyên náo đã ồ ạt tràn vào mắt tôi; nhưng ở đây,
trên cái đại lộ đông nghịt những người là người này, không sao có một
phút nghỉ ngơi và yên tĩnh. Nếu cầm sách đọc thì những dòng chữ sẽ nhòa
đi bởi những bóng đen chuyển động hỗn độn mà đám người đang say chuyện,
luôn luôn qua lại hắt xuống trang sách. Khó có thể tĩnh tâm được một
chút trên cái hành lang đó của con tàu, một thứ đường phố không bóng
rợp, tấp nập người qua lại.
Suốt ba ngày, tôi cố tìm một chút vắng
vẻ và nhẫn nại nhìn ngắm đám người và biển cả. Nhưng biển lúc nào cũng
vẫn thế, xanh ngắt và hoang vắng, chỉ trừ lúc mặt trời lặn, mặt nước đột
nhiên ngời lên những màu sắc sặc sỡ như ánh lửa
pháo hoa; còn về con người thì tôi nhẵn mặt tất cả sau 3 lần 24 tiếng
đồng hồ. Mỗi khuôn mặt đối với tôi đều trở nên quen thuộc đến chán ngấy;
cả tiếng cười ré lên của phụ nữ cũng như cuộc tranh cãi ồn ào của hai
viên sĩ quan Hà Lan ở cạnh tôi đều không làm tôi chú ý. Tôi chỉ còn cách
trốn biệt đi chỗ khác, nhưng căn phòng của tôi thì nóng bức và ngột
ngạt, còn trong phòng khách, mấy thiếu nữ người Anh không ngừng dạo
dương cầm, những bài nhạc làm tội lỗ tai người khác, đệm cho những điệu
vanxơ ngang phè. Cuối cùng, tôi cương quyết đảo lộn cách sắp xếp thời
gian, và xuống buồng ngay từ lúc xế chiều, sau khi đã làm vài cốc bia
cho chuếch choáng để có thể ngủ được trong khi mọi người đi ăn và khiêu
vũ.
Khi tôi thức giấc, tất cả đều tối om
và ẩm ướt trong chiếc quan tài nhỏ, tức là căn buồng của tôi. Vì tôi đã
tắt quạt, không khí đặc sệt và ẩm ướt làm thái dương tôi nóng bừng. Các
giác quan tôi như còn ngái ngủ : phải mất nhiều phút sau tôi mới nhận
biết bấy giờ là lúc nào và tôi đang ở đâu. Chắc chắn là đã quá nửa đêm,
bởi vì không còn nghe thấy tiếng nhạc lẫn tiếng chân người bước liên tục
nữa. Chỉ có chiếc đầu máy, trái tim hụt hơi của con quái vật khổng lồ
vẫn hổn hển không ngừng, đẩy thân tàu tiến lên đè lướt sóng, dấn mình
vào khoảng xa xăm mờ mịt.
Tôi dò dẫm bước lên boong tàu. Ở đây
vắng tanh. Và khi tôi ngước mắt nhìn cái trụ đang nhả khói của ống khói
con tàu và các cột buồm thẳng đứng như những bóng ma, một làn ánh sáng lộng lẫy đột nhiên tràn ngập mắt tôi. Bầu trời sáng lấp lánh.
Quanh những vì sao nhấp nháy những tia sáng trắng, vẫn là bóng đêm,
nhưng dẫu sao bầu trời vẫn sáng chói. Có thể nói rằng một tấm màn nhung
được căng ra chặn lấy luồng ánh sáng khủng khiếp, còn những vì sao chẳng qua chỉ là những vết nứt và những lỗ thủng của tấm màn nhung đã để cho ánh sáng chói không bút nào tả xiết ấy lọt qua. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một bầu trời như đêm hôm ấy, một màu xanh ánh thép nhưng lại hết sức rực rỡ, chói lọi, đầy tiếng xôn xao và tràn ngập ánh sáng, một thứ ánh sáng mờ ảo từ mặt trăng và
các vì tinh tú rớt xuống và có thể nói là như được đốt lên từ một chiếc
lò bí ẩn nào vậy. Tựa như một thứ sơn mài trắng, tất cả mọi đường nét
của con tàu lấp lánh, lồ lộ dưới ánh trăng,
trên nền nhung sẫm tối của mặt biển; thừng chão, trục buồm, mọi dụng cụ
trên tàu, tất cả những đường viền đều biến mất trong khung cảnh huy
hoàng lung linh đó : ánh sáng
đèn trên những cột buồm và cao hơn nữa, bầu đèn tròn của chòi canh như
treo lơ lửng trong khoảng không, như những ngôi sao nhợt nhạt của thế
gian giữa những ngôi sao chói lọi của bầu trời.
Ngay trên đỉnh đầu tôi, chòm sao chữ
Thập phương Nam kỳ ảo bị đóng chặt vào cõi vô cùng bằng những chiếc đinh
kim cương chói lòa, và hình như nó di chuyển, tuy thực ra chỉ có con
tàu cho ta ảo giác vận động, con tàu nhẹ nhàng đu đưa, ngực thở hổn hển
như một nhà bơi lội khổng lồ mở đường đi tới, lướt lên lướt xuống theo
đà những ngọn sóng tối thẫm. Tôi đứng nhìn lên không trung, cảm thấy như
mình đang tắm, nước nóng từ trên cao chảy xuống người, có điều là ở đây ánh sáng chảy trên hai bàn tay tôi, ánh sáng
trắng và ấm, êm ái bao phủ lấy đôi vai và đầu và như muốn thấm vào cơ
thể tôi, bởi vì bỗng nhiên tôi như tỉnh cơn mê. Tôi hít thở, cảm thấy
được giải thoát và hoàn toàn thanh thản. Với một khoái cảm mới mẻ, tôi
thưởng thức trên môi, như nếm một thứ nước uống trong veo, cái không khí
êm dịu, trong vắt, ngây ngất men say vì thấm đượm hơi thở của trái cây
và hương thơm từ những đảo xa đưa lại. Lúc này, lần đầu tiên từ khi tôi
xuống tàu, một ước muốn thánh thiện
xâm chiếm lấy tôi, ước muốn được mơ mộng - và một ham muốn khác, nhục
dục hơn, làm cho tôi khao khát như một người đàn bà, được thả mình theo
cái thú đê mê nó đang gò ép tôi từ bốn phía. Tôi muốn nằm dài ra, tầm
mắt hướng về những tượng hình sáng trắng kia, nhưng những chiếc ghế bành
ngồi nghỉ, những chiếc ghế tựa trên boong đã được cất đi hết cả, không
có chỗ nào trên boong tàu vắng vẻ này để có thể thả hồn theo một mộng
ước êm đềm.
Vì vậy, vừa đi vừa dò dẫm tôi men dần đến mũi tàu, lóa mắt bởi thứ ánh sáng hình như từ những vật thể tỏa xuống mỗi lúc một thêm rực rỡ, để xâm nhập cơ thể tôi. Thứ ánh sáng
đó của các vì tinh tú, trắng lạnh và chói lọi, đã làm cho tôi gần như
đau đớn; nhưng tôi vẫn muốn ẩn mình vào chỗ nào trong bóng tối, nằm dài
trên một chiếc chiếu, không còn cảm thấy bản thân mình, mà chỉ thấy bên
trên thân thể mình, những tia phản quang ấy từ các vật thể, giống như
người ta ngắm nhìn phong cảnh từ một căn phòng chìm trong bóng tối. Sau
cùng, vừa đi vừa vấp vào thùng chão, vượt qua các dây sắt chằng cột
buồm, tôi tới được thành tàu, đứng ngắm mũi con tàu tiến lên trong bóng
tối, và ngắm ánh trăng như
nước vọt lên và sủi bọt từ hai bên mũi nhọn con tàu. Chiếc cầy biển này
không ngừng chồm lên rồi lại cắm sâu xuống lớp đất đen cuộn sóng, và
trong cái trò chơi lấp lánh tia
sáng này, tôi cảm thấy tất cả nỗi đau đớn của thiên nhiên bị chinh phục,
tôi cảm thấy tất cả sự vui mừng của sức mạnh trần gian. Mải mê nhìn
ngắm, tôi mất ý niệm về thời gian : tôi đứng tựa bao lơn tàu như thế đã
một giờ hay chỉ mới trong vài phút ? Con tàu lắc lư theo nhịp sóng, như
chiếc nôi khổng lồ ru tôi và cuốn tôi vượt ra ngoài thời gian. Tôi chỉ
còn cảm thấy một điều : sự mệt mỏi đến với tôi, cái mệt mỏi giống như
niềm khoái lạc. Tôi muốn ngủ, muốn mơ màng, nhưng không muốn xa lánh cái
hấp dẫn ma quái này, không muốn xuống chiếc quan tài của tôi. Bất giác
chân tôi đụng phải một cuộn thừng. Tôi ngồi xuống đó, mắt nhắm nghiền,
mà cũng không tràn đầy bóng tối, bởi vì ánh sáng trắng bạc vẫn tỏa xuống mắt tôi, xuống người tôi. Tôi cảm thấy ở phía dưới, nước róc rách dịu dàng, và phía trên tôi sự lướt trôi của thế gian này, sự lướt trôi chan hòa ánh sáng
trắng bạc cùng với tiếng âm vang khó nhận thấy. Dần dà tiếng thầm thì
đó len lỏi vào mạch máu làm tôi mất ý niệm về hiện hữu : tôi không còn
biết hơi thở này của tôi hay đó là tiếng đập của trái tim con tàu : tôi
bị cuốn đi và tan ra trong tiếng rì rào không ngừng của thế giới ban
đêm.
*
* *
Một tiếng ho khan khe khẽ vang ngay
bên cạnh tôi làm tôi giật nảy mình. Tôi hốt hoảng choàng khỏi giấc mơ
khiến tôi gần như say. Lóa mắt bởi thứ ánh sáng
trắng chiếu rọi trên cặp mi vẫn nhắm nghiền từ lâu, tôi phải chớp chớp
để cố nhìn vào nơi đó: ngay trước mặt tôi, trong bóng tối trên bao lơn
tàu, lóng lánh như ánh phản
chiếu của đôi tròng kính, tôi thấy một đốm lửa dầy đặc và tròn xoe lóe
ra từ chiếc tẩu thuốc. Trước đây khi ngồi chăm chú nhìn mũi con tàu đầy
bọt phía dưới hay chòm sao Thập
tự trên đầu, rõ ràng là tôi đã không nhận ra sự có mặt của người bên
cạnh vẫn ngồi không nhúc nhích ở đấy từ lâu. Trong lúc đầu óc còn mơ
màng, bất giác tôi nói với anh ta: " Xin lỗi ". - " Không hề gì ", tiếng
đáp thốt lên trong bóng đêm.
Tôi không biết diễn tả cái tình trạng
của chúng tôi ở cạnh nhau trong bóng tối, như chạm vào nhau mà không
trông thấy nhau, nó vừa lạ kỳ lại vừa ghê rợn đến thế nào. Tự dưng tôi
có cảm giác là người đàn ông đó đang nhìn tôi chằm chằm, cũng như mắt
tôi đang nhìn anh ta chằm chằm, nhưng cái ánh sáng ở trên đầu chúng tôi, làn ánh sáng
rập rờn trắng chói lọi ấy, nó mạnh đến nỗi chúng tôi nhìn nhau chỉ thấy
người bên cạnh mình không khác gì một bóng đen lờ mờ trong đêm tối.
Hình như tôi chỉ nghe thấy tiếng thở của anh ta và tiếng rít tẩu thuốc
sè sè. Sự im lặng nặng nề không sao chịu đựng nổi khiến tôi định bỏ đi,
nhưng tôi thấy làm như vậy đột ngột quá, sỗ sàng quá. Trong lúc lúng
túng tôi rút một điếu thuốc lá. Diêm xòe lên và trong giât lát, ánh lửa
lung linh rọi sáng khoảng không gian chật hẹp. Ngay lúc ấy tôi nhận ra,
sau tròng kính, một khuôn mặt mà tôi chưa hề trông thấy trên tàu, cả
trong bữa ăn, cả trong những lúc dạo chơi. Có thể ngọn lửa bất chợt làm
lóa mắt, cũng có thể chỉ là một ảo giác, tôi cảm thấy khuôn mặt đó cực
kỳ hoảng loạn, sầu thảm và như mặt một con quỷ dị hình. Nhưng trước khi
tôi kịp nhận rõ chi tiết, bóng đêm lại nuốt chửng tất cả những đường nét
mà ánh sáng đã soi tỏ trong một
thoáng và tôi chỉ còn trông thấy một dáng hình rũ xuống trong đêm, và
chốc chốc đốm lửa đỏ của tẩu thuốc lại lóe lên trong khoảng không. Chúng
tôi ngồi đó, im lặng, cái im lặng nặng nề và bức bối như không khí vùng
nhiệt đới vậy.
Cuối cùng, không chịu nổi nữa, tôi
đứng dậy và lễ phép nói: " Chúc anh ngủ ngon ". - " Chúc anh ngủ ngon ".
Từ trong bóng tối có tiếng trả lời, giọng cứng rắn, khan lại, rè rè như
bị han gỉ.
Tôi bước đi một cách nặng nhọc, chốc
chốc lại vấp vào những dụng cụ trên tàu và những tấm ván dầy. Nhưng sau
lưng tôi có tiếng bước chân nặng nề, nhanh nhưng ngập ngừng. Đó chính là
người đàn ông vừa rồi. Bất giác tôi đứng lại. Người đó không đến sát
hẳn tôi, và trong bóng tối, tôi cảm thấy trong bước đi của anh ta hình
như có một nỗi khắc khoải, đau buồn gì không rõ.
- " Xin tha thứ cho tôi " - anh ta nói
giọng dồn dập - " nếu tôi cầu xin ngài một điều, tôi... tôi... " - anh
ta ấp úng và đành ngừng lời vì quá bối rối - " tôi, tôi có những lý
do... riêng, hoàn toàn riêng tư, để lánh ra đây... Một cái tang... Tôi lẩn tránh sự
giao tiếp trên tàu..., tôi không nói để ngài, không, không, tôi chỉ
muốn cầu xin ngài... ngài. Tôi sẽ rất hàm ơn ngài nếu ngài không nói với
ai trên tàu là ngài đã trông thấy tôi ở đây. Là vì... có những lý do
riêng nó bắt buộc tôi lúc này... không được giao tiếp với người khác.
Phải, lúc này... lúc này... sẽ rất rầy rà cho tôi nếu ngài nói rằng có
một người ở đây, ban đêm, rằng tôi... "
Anh ta lại nghẹn lời. Tôi vội vàng cam
đoan với anh ta rằng tôi sẽ làm đúng như anh ta mong muốn, để anh ta
hết bối rối. Chúng tôi bắt tay nhau. Rồi tôi trở lại căn phòng, lăn ra
ngủ, một giấc ngủ nặng nề, thắc thỏm lạ kỳ và đầy rẫy những ảo ảnh hỗn
độn.
*
* *
Tôi giữ lời hứa, không hé môi với ai
trên tàu về cuộc gặp gỡ kỳ lạ đó, mặc dầu tôi rất muốn nói ra, bởi vì
trong một chuyến đi biển, việc nhỏ nhặt nhất cũng trở thành một biến cố :
một cánh buồm ở chân trời, một chuyện trăng hoa
vừa bị phát hiện, một câu bông phèng. Đồng thời tính tò mò hành hạ tôi :
tôi muốn biết rõ hơn về con người hơi khác thường đó : tôi lục lọi danh
sách hành khách để tìm cho ra một cái tên có thể là tên người đó; tôi
điểm mặt hành khách như tuồng họ có thể quan hệ gì với anh ta. Suốt cả
ngày, tôi bồn chồn sốt ruột, mong chóng đến tối để xem có gặp lại anh ta
nữa không. Những bí ẩn tâm lý có một uy quyền đáng lo ngại đối với tôi;
con người tôi bừng bừng nôn nóng muốn khám phá ra mối liên hệ giữa các
sự vật, và chỉ riêng sự có mặt của những con người kỳ dị cũng làm nổi
dậy trong tôi một thứ say mê tìm hiểu, không kém mãnh liệt so với thú
nhục dục nơi người đàn bà... Ngày đối với tôi rất dài, nó tan biến ra
giữa các ngón tay tôi, chẳng để lại chút gì ngoài sự trống rỗng. Tôi đi
nằm sớm : biết mình sẽ thức dậy vào nửa đêm, cái chuyện lạ đó sẽ lôi tôi
ra khỏi giấc ngủ.
Và quả nhiên tôi tỉnh giấc đúng vào
giờ hôm trước. Trên mặt chiếc đồng hồ dạ quang, hai chiếc kim chập lên
nhau chỉ còn là một gạch sáng. Tôi vội vã bước ra khỏi căn buồng ngột
ngạt để đến với một đêm tối còn ngột ngạt hơn.
Những ngôi sao vẫn lấp lánh như đêm hôm trước và tỏa ánh sáng
bàng bạc trên con tàu lắc lư. Rất cao trên bầu trời, chòm sao Thập tự
phương Nam sáng chói. Tất cả đều như đêm hôm qua, bởi vì ở miền nhiệt
đới, ngày và đêm đối nghịch nhau chừng mực hơn ở miền chúng ta; duy có
cảm giác đu đưa, bồng bềnh và mơ màng như đêm trước là không còn trong
tôi nữa. Có cái gì lôi cuốn tôi, làm cho tôi bối rối và tôi biết mình bị
cuốn hút tới đâu : tới chỗ kia, chỗ chằng chịt một đám dây nhợ đen thui
ở mạn tàu, để xem con người bí ẩn đó có còn ngồi bất động ở đó hay
không. Phía trên vang lên tiếng chuông của con tàu; lúc đó tôi để mặc
cho mình bị lôi cuốn đi. Bước từng bước một, bị giằng xé giữa sự chống
cưỡng và lòng ham muốn, chân tôi cứ bước hoài. Chưa tới mũi tàu, bỗng
nhiên tôi thấy xuất hiện cái gì như một con mắt đỏ lừ. Đó là chiếc tẩu
thuốc lá. Vậy là anh ta ở đó rồi.
Bất giác tôi rùng mình hoảng sợ và
dừng lại. Thiếu chút nữa tôi đã bỏ đi. Nhưng kìa, trong bóng tối, có cái
gì động đậy, đứng lên, bước hai bước, và đột nhiên, tôi nghe tiếng anh
ta trước mặt tôi, vừa lễ độ, vừa buồn nản :
" Xin lỗi " - anh ta nói - " Tôi thấy
hình như ngài muốn đến chỗ hôm trước ngài đã đến và tôi có cảm tưởng
rằng vừa nhận ra tôi, ngài định lảng tránh... xin ngài cứ yên tâm ngồi đây, tôi sẽ đi nơi khác ".
Tôi khẩn thiết nài anh ta ở lại : tôi đứng ở phía sau là chỉ để khỏi làm phiền anh ta.
" Ngài không hề làm phiền tôi ", - anh
ta nói, giọng pha chút đắng cay, - " ngược lại, tôi sung sướng vì ít ra
cũng được một lần không bị cô đơn. Từ mười ngày nay tôi chưa nói một
câu nào. Thực tình, từ nhiều năm nay... và nếu cứ giữ mãi tất cả trong
lòng thì thật là đau khổ, có lẽ chính điều đó nó làm nghẹt thở... Tôi
không thể ở lại trong buồng, trong chiếc... quan tài đó... Tôi không
chịu nổi nữa và tôi cũng không thể chịu đựng được đám đông, vì họ cười
suốt ngày... Cái đó bây giờ, tôi không chịu nổi nữa. Ở tận trong buồng
mà còn nghe thấy tiếng họ và tôi phải bịt tai lại. Rõ ràng họ không
biết... Không, họ không biết... Vả lại, điều đó có nghĩa lý gì đối với
những người ngoài cuộc... ".
Anh ta dừng lại lần nữa và bỗng nhiên vội vã nói thêm :
" Nhưng tôi không muốn quấy rầy ngài... xin ngài tha lỗi về câu chuyện phiếm của tôi. "
Anh ta nghiêng mình và định bỏ đi. Nhưng tôi năn nỉ giữ anh ta lại.
" Ông không hề quấy rầy tôi chứ. Tôi
cũng vậy, tôi rất sung sướng được nói chuyện với ông ở đây, trong khung
cảnh yên tĩnh... Ông hút với tôi điếu thuốc ? " .
Tôi châm lửa cho anh ta. Khuôn mặt anh
ta lại hiện rõ trong bóng tối, lung linh trên cái nền đen của mạn tàu,
nhưng lúc này anh ta quay hẳn về phía tôi : sau cặp kính, mắt anh ta háo
hức dò xét khuôn mặt tôi, cặp mắt như bị kích động trong cơn mê sảng.
Tôi rùng mình. Tôi biết rằng con người này muốn nói, anh ta phải được
nói ra. Và tôi thấy mình cần lặng im để giúp anh ta nói ra.
Còn một chiếc ghế tựa thứ hai trên
boong; anh ta mời tôi ngồi. Chúng tôi ngồi xuống. Điếu thuốc của chúng
tôi lấp loé. Cứ nhìn cái chấm sáng ở điếu thuốc của anh ta nhảy nhót
cuồng loạn trong bóng tối, tôi biết là tay anh ta run. Nhưng tôi im lặng
và anh ta cũng lặng im. Rồi bỗng nhiên anh hạ giọng hỏi tôi :
" - Ngài mệt lắm phải không ? "
" - Không, tôi không mệt tí nào. "
Giọng nói trong bóng tối lại ngập ngừng :
" - Tôi cầu xin ngài một điều. Nghĩa là tôi...
Giọng nói trong bóng tối lại ngập ngừng :
" Tôi cầu xin ngài một điều. Nghĩa là
tôi muốn kể cho ngài nghe... Tôi biết, về phần tôi... tôi biết, về phần
tôi... thật là vô lý khi ngỏ lời như vậy với một người mới thoạt gặp...
Nhưng mà tôi... tôi đang ở trong một trạng thái tâm thần khủng khiếp...
đến mức mà nhất thiết tôi phải nói với một người nào đó, nếu không, tôi
chết mất... Ngài sẽ hiểu tôi khi, vâng, khi tôi đã kể cho ngài nghe...
Tôi biết rằng ngài sẽ không thể giúp đỡ tôi được, nhưng sự câm lặng này,
làm cho tôi phát ốm... và người ốm thì bao giờ cũng lố bịch trước con
mắt mọi người... "
Tôi ngắt lời anh ta và xin anh ta đừng
tự dày vò mình. Nếu anh ta rất muốn kể cho tôi nghe... Tất nhiên tôi
không thể hứa với anh ta điều gì, nhưng ít ra tôi cũng có bổn phận bày
tỏ thiện chí ít nhiều. Khi ta thấy một người nào lâm vào cảnh khốn quẫn,
tất nhiên là ta phải giúp đỡ...
" Bổn phận... bày tỏ ít nhiều thiện
chí... nghĩa là bổn phận phải có... Vậy thì ngài cũng thế, ngài cũng
nghĩ rằng người ta có một bổn phận nào đó, có bổn phận, có thiện chí
giúp người khác mà ".
Ba lần anh ta nhắc lại câu đó. Cái lối
nhắc lại một cách mập mờ và ngớ ngẩn như vậy làm tôi sởn gai ốc. Người
này điên chăng ? Hay là say rượu ?
Nhưng, như thể điều ước đoán đó đã buột ra khỏi miệng tôi và anh ta đã nghe thấy, anh ta bỗng nói bằng một giọng khác hẳn.
" Ngài cho rằng có thể là tôi say hoặc
tôi điên chăng ? Không, không phải thế. Tôi chưa đến nỗi thế... Có điều
những lời ngài nói làm tôi xúc động lạ lùng... Rất lạ lùng, bởi vì
chính điều đó đang dày vò tôi; tôi muốn biết rằng người ta có nghĩa vụ
gì không ?... Cái nghĩa vụ...
Anh ta hãy còn ấp úng. Rồi anh ta ngừng bặt.
Và lại nói tiếp :
" - Ngài nên biết rằng tôi là thầy
thuốc. Và đối với người thầy thuốc thường có những trường hợp như vậy,
những trường hợp đến kinh khủng... phải nói là những trường hợp cấp bách
mà ta không hiểu ta có nghĩa vụ hay không... Thực ra thì không phải chỉ
là một nghĩa vụ duy nhất - nghĩa vụ đối với người khác - nhưng còn có
nghĩa vụ đối với bản thân mình, nghĩa vụ đối với Nhà nước và một nghĩa
vụ khác đối với khoa học... Phải sẵn sàng giúp đỡ người khác, nhất định
là như vậy, đấy chính là nghĩa vụ của người thầy thuốc. Nhưng câu châm
ngôn đó mãi mãi vẫn là lý thuyết... Quả vậy, ta phải sẵn lòng cứu giúp
đến mức độ nào ? Ngài là người ngoài cuộc, và đối với ngài, tôi là người
xa lạ, và tôi xin ngài đừng nói với ai là đã gặp tôi : được, ngài im
lặng; ngài đã làm tròn nghĩa vụ đó... Tôi cầu xin ngài nói chuyện với
tôi, bởi lẽ tôi đang muốn chết vì phải nín lặng... Ngài sẵn lòng nghe
tôi... Được, đó là việc dễ làm. Nhưng nếu tôi cầu xin ngài túm lấy tôi
và ném tôi xuống biển... Đến đây, chắc chắn là nhã ý cũng như sự sẵn
lòng giúp đỡ sẽ ngừng lại. Chắc chắn là phải có một giới hạn nào đó...
giới hạn ấy nằm ở chỗ có liên quan đến sự sống còn của bản thân ngài,
đến trách nhiệm của ngài bị thử thách... Dứt khoát là phải có cái giới
hạn này... Nhất định nghĩa vụ cũng phải có giới hạn. Hay có lẽ, đối với
người thầy thuốc, nghĩa vụ không dừng lại ở chỗ nào cả ? Lẽ nào thầy
thuốc phải là cứu tinh, là ân nhân của cả thiên hạ, duy nhất chỉ vì
người đó có mảnh bằng với mấy chữ La Tinh ? Phải chăng thực sự người
thầy thuốc có bổn phận hy sinh đời mình và lo sợ thất thần khi có một
người đàn bà... ờ, khi một người đến nài xin anh ta tỏ ra cao thượng,
sẵn lòng cứu giúp và có lòng từ thiện ? Phải, nghĩa vụ sẽ phải dừng lại ở
một chỗ nào đó... khi người ta không còn khả năng hoàn thành nghĩa vụ
nữa, đúng là ở chỗ... "
Anh ta lại ngừng bặt và đột nhiên đứng dậy.
" Xin lỗi... hiện tôi đang bị kích
động... nhưng không phải là tôi say... tôi chưa say... Đấy là điều giờ
đây thường xảy đến với tôi trong hoàn cảnh cô đơn quái đản này, tôi xin
thẳng thắn thú thật với ngài như vậy. Ngài thử nghĩ xem, đã bảy năm nay,
tôi hầu như chỉ sống giữa những người bản xứ và bầy súc vật... lâu rồi
người ta quên mất cách nói năng ung dung đĩnh đạc. Và đến khi bắt đầu
thổ lộ tâm tình thì lập tức lại nói lia lịa... Nhưng xin ngài hãy
khoan... vâng, bâygiờ tôi biết rồi... tôi muốn hỏi ngài, tôi muốn trình
bày với ngài một trường hợp trong đó cần phải biết người ta có nghĩa vụ
giúp đỡ hay không... giúp đỡ với tấm lòng chân thành của một thiên thần,
người ta... Tuy nhiên, tôi sợ câu chuyện kéo dài... Quả thực là ngài
không mệt chứ ? ".
" - Không, không mệt chút nào ".
" - Tôi... tôi cảm ơn ngài. Ngài uống cái này một chút ? ".
Anh ta sờ soạng trong bóng tối phía
sau. Tôi nghe thấy tiếng cốc thủy tinh, tiếng chai va chạm, hai, ba,
nhiều cái chai để ngay cạnh. Anh ta mời tôi một cốc Uytky, tôi chỉ nhấp
môi tí chút trong khi anh ta cầm cốc nốc liền một hơi. Trong giây lát,
giữa chúng tôi im lặng. Tiếng chuông vang lên : đã 12 giờ rưỡi khuya.
*
* *
" Bây giờ, tôi muốn kể ngài nghe câu chuyện dưới đây.
Giả dụ rằng có một người thầy thuốc ở một... tỉnh nhỏ... hoặc hơn nữa ở
nông thôn... một thầy thuốc, anh ta... một thầy thuốc, anh ta... ".
Anh ta dừng lại ngừng lời. Rồi đột nhiên anh ta xích ghế lại gần tôi :
" Không, không phải như vậy. Tôi phải kể hết với ngài, từ đầu chí cuối, nếu không, ngài không hiểu nổi...
Một câu chuyện như vậy, một câu chuyện
tương tự, không thể trình bày coi như ví dụ, như một lý thuyết... Tôi
phải kể với ngài câu chuyện về chính bản thân tôi. Ở đấy không có gì
đáng hổ thẹn, không có gì phải giấu giếm. Trước mặt tôi người ta cũng
từng đã cởi truồng phơi bày với tôi chấy rận, nước tiểu và phân của họ
kia mà... Đã cầu xin người ta cứu giúp thì không nên quanh co, phải nói
hết. Vậy thì tôi sắp kể với ngài không phải là trường hợp của một thầy
thuốc tưởng tượng. Tôi tự phơi trần thân thể tôi ra và tôi nói : Tôi...
Tôi đã quên không còn biết hổ thẹn là gì trong cuộc sống cô đơn ghê rợn
ấy, trong cái xứ chết tiệt, nó gặm nhấm tâm hồn ta, nó hút tuỷ sống của
ta... "
Hẳn tôi đã có một cử chỉ gì đó bởi vì anh ta ngừng lời.
" À, ngài phản đối... tôi hiểu điều
đó. Ngài mang trong lòng tình cảm nhiệt thành với đất nước Ấn Độ, đối
với những đền thờ và những cây cọ - tất cả những gì là lãng mạn của một
cuộc du lịch hai tháng trời - Phải, nó có sức cám dỗ ghê gớm lắm, nhưng
miền nhiệt đới ấy, khi ta nhìn nó từ đường xe lửa, từ ô tô hay từ xe
tay; và tôi, khi lần đầu tiên cách đây bảy năm tới xứ này, cảm tưởng của
tôi cũng như thế. Khi ấy còn thiếu điều gì tôi không mơ ước ? Tôi muốn
học ngoại ngữ, muốn đọc sách kinh trong nguyên bản; muốn nghiên cứu tâm
hồn người dân bản xứ - vâng, trong tiếng lóng Âu châu người ta gọi như
vậy - nói vắn tắt là muốn trở thành một sứ giả truyền bá lòng nhân đạo
và truyền bá văn minh, tất cả những người đến với nguyện vọng đó, đều mơ
mộng như vậy cả. Nhưng, trong cái lồng ấp nghẹt thở ấy mà du khách
không nhìn thấy, người ta bị mất sức rất nhanh : bệnh sốt rét - dù có
nuốt bao nhiêu kháng sinh cũng vẫn cứ mắc bệnh như thường, bệnh sốt rét
phá huỷ thân thể người ta; người ta trở nên uể oải và lười biếng, người
ta trở thành một con gà mái bị nhúng vào nước, một loài nhuyễn thể thực
sự. Người Âu châu có thể nói không còn là mình nữa; một khi từ những
thành phố lớn, họ đi đến một trong những chốn đáng nguyền rủa mất hút
giữa đầm lầy ấy; sớm hay muộn người nào cũng phải chịu một đòn chí mạng :
người thì hóa ra nghiện rượu, kẻ nghiện thuốc phiện, lại có kẻ chỉ nghĩ
đến đánh đập người khác và trở
thành hung bạo, tóm lại, người nào cũng nhiễm cái bệnh điên của mình.
Người ta nhớ châu Âu, người ta mơ đến một ngày nào đó lại được đi ngoài
đường phố, ngồi trong một căn phòng sáng sủa bằng đá, giữa những người
da trắng. Suốt nhiều năm trời, người ta ước mơ điều đó, và rồi đến lúc
được nghỉ phép thì người ta đã trở nên quá lười biếng đến không còn buồn
đi nữa. Họ biết rằng ở châu Âu họ đã bị lãng quên không còn ai biết tới
họ và họ chỉ như con sò trong biển cả, một con sò mà mỗi người đều xéo dưới chân
! Chính vì vậy mà người ta ở lại, người ta trở nên đần độn và hư hỏng
trong vùng rừng rú nóng bức và ẩm thấp đó. Thật đáng nguyền rủa cái ngày
mà tôi tự bán mình cho nơi khỉ ho cò gáy đáng kinh tởm này...
" Vả lại, cũng không phải là tôi hoàn
toàn tự nguyện. Tôi đã theo học ở Đức, đã trở thành bác sĩ y khoa, một
thầy thuốc lành nghề nữa là đằng khác và được giữ một chức vụ khá trong
một bệnh viện ở Lai-xích; và thời kỳ đó, trong một tờ báo Y học (
Medizinische Blactter ) mà tôi không còn nhớ là số nào nữa, người ta đã
bàn tán nhiều xung quanh một loại thuốc tiêm mới mà tôi là người đầu
tiên đem dùng.
" Rồi xảy đến một câu chuyện đàn bà :
một cô gái mà tôi quen ở bệnh viện đã làm cho người tình của cô ta phát
điên đến nỗi anh ta bắn cho cô một phát súng lục, và chẳng bao lâu, tôi
cũng phát điên như anh ta luôn. Cô ta tỏ vẻ kiêu kỳ và lạnh lùng đến nỗi
làm tôi nổi khùng; tôi vốn bị hành hạ bởi những người phụ nữ kiêu kỳ và
táo tợn, nhưng cô này đày đọa tôi, bắt tôi phải cúi mình quá thấp. Tôi
làm theo tất cả những ý muốn của cô ta... tôi...
" Mà này ! Tại sao tôi không thú thật
đi, khi việc đó xảy ra cách đây đã tám năm rồi ? Vì cô ta, tôi đã tiêu
thụt tiền quỹ của bệnh viện, và khi sự việc vỡ lở, giông bão mới nổi
lên. Một ông chú tôi đã đền bù đủ số thâm thụt, nhưng sự nghiệp của tôi
thế là đi đời. Chính lúc ấy tôi được tin chính phủ Hà Lan tuyển mộ thầy
thuốc cho xứ thuộc địa và họ cho ứng tiền trước.
Tôi nghĩ ngay đây hẳn là một công việc
chẳng béo bở gì nên người ta... người ta mới ứng tiền trước như vậy.
Tôi biết rằng trong những đồn điền nơi bệnh sốt rét tác oai tác quái, số
cây thập ác trên mộ tăng nhanh hơn ở đất nước chúng tôi gấp ba lần.
Nhưng khi người ta còn trẻ, người ta cho rằng bệnh sốt rét và sự chết
chóc bao giờ cũng chỉ giáng lên đầu kẻ khác. Tóm lại, tôi không hề lựa
chọn, tôi đi Rốttécđam và ký hợp đồng mười năm, tôi lĩnh một xấp bạc dầy
và gửi cho chú tôi một nửa, còn nửa kia làm mồi cho một trong những cô
gái gặp trong xóm cảng và cô ta đã bòn tôi bằng hết, chỉ là vì cô ta
giống con mèo cái trời đánh trước
kia. Sau đó, không tiền, không đồng hồ, không ảo mộng, tôi quay lưng
lại với châu Âu, và tôi không mảy may buồn rầu khi tàu rời khỏi cảng.
" Tôi ngồi trên boong tàu, đúng như
ngài lúc này đây, như mọi người khác, và một hôm, tôi chợt thấy chòm sao
Thập tự phương Nam và những cây cọ, và lòng tôi hớn hở. Chà, những khu
rừng, nỗi cô đơn, sự trầm mặc khiến lòng tôi tràn đầy mộng ước.
" Ồ ! Gì chứ, sự cô đơn thì tôi sẽ
không thiếu... Người ta không cử tôi đi Batavia hay Sôerabaya, một thành
phố có những con người, những câu lạc bộ, trò chơi gôn, sách vở, báo
chí - nhưng tên gọi nào có quan trọng gì - người ta điều tôi đến một
trạm hẻo lánh phải đi mất hai
ngày trời mới tới thành phố gần nhất. Vài viên công chức buồn tẻ và gầy
đét, hai kẻ " dở ông dở thằng ", đấy là tất cả cái xã hội của tôi, ngoài
ra, xung quanh tôi chỉ là rừng rú, đồn điền, đồng hoang, bụi rậm và đầm
lầy.
"Trong khi còn chịu đựng được. Tôi lao
vào nghiên cứu đủ thứ. Một hôm, ông phó sứ, trong lúc đi kinh lý, bị
gãy chân vì ô tô đổ, một mình tôi làm phẫu thuật, việc này làm người ta
nói đến khá nhiều. Tôi sưu tập các thứ thuốc độc và vũ khí của người bản
xứ, làm hàng trăm việc vặt để giữ vững tinh thần.
" Nhưng cũng chỉ duy trì được tinh
thần chừng nào, nghị lực tôi mang từ châu Âu tới vẫn còn; sau đó tôi cằn
cỗi đi. Mấy người Âu hiếm hoi mà tôi gặp chỉ làm cho tôi buồn chán; tôi
cắt đứt mọi quan hệ với họ và bắt đầu uống rượu, đắm mình trong những
mộng tưởng cô đơn.
" Tôi chỉ còn phải kiên gan chờ đợi 2
năm nữa : sau đó, tôi sẽ được tự do và sẽ có một khoản tiền trợ cấp; tôi
sẽ có thể trở về châu Âu để làm lại cuộc đời. Nói thật ra, tôi chỉ còn
có việc chờ đợi, tôi ung dung nằm chờ, và tôi sẽ còn cứ chờ đợi như vậy
nếu bà ta..., nếu điều đó không xảy đến ".
Tiếng nói trong bóng tối ngừng bặt,
chiếc tẩu không cháy nữa. Xung quanh yên ắng đến nỗi đột nhiên tôi lại
nghe thấy tiếng nước réo ngầu bọt đập vào bên mạn tàu, và cả tiếng con
tim máy tàu đập nghe trầm trầm và xa xa. Tôi rất muốn châm một điếu
thuốc, nhưng lại sợ cái ánh sáng chói của que diêm và ánh phản chiếu của nó trên khuôn mặt con người không quen này.
Anh ta im bặt, vẫn im bặt. Tôi không biết anh đã kể hết chưa, hay anh đang mơ màng hay là đã ngủ, anh ta hoàn toàn im bặt.
Lúc đó chuông tàu vang lên một tiếng
khô khan và mạnh mẽ : Đã một giờ sáng. Anh ta đứng lên đột ngột, tôi lại
nghe thấy tiếng cốc va chạm. Rõ ràng là tay anh sờ soạng tìm chai
Uytki. Tôi nghe tiếng lọc ọc rồi bỗng nhiên anh ta lại cất tiếng nói
nhưng lúc này có thể nói là căng thẳng hơn, tha thiết hơn :
" Vậy thì... xin ngài đợi một chút...
Vâng, tôi nhớ ra rồi... Tôi ở đấy, trong cái hang chết tiệt của tôi, tôi
ở đấy như một con nhện trong tấm lưới của nó, bất động, đã hàng mấy
tháng trời. Lúc đó, đúng là ngay sau mùa mưa : Suốt tuần lễ này đến tuần
lễ khác nước mưa quất đập trên mái nhà. Không có một người khách, không
một người Âu nào. Hàng ngày tôi ngồi lỳ ở nhà với những người đàn bà da
vàng và những chai rượu Uytki hảo hạng. Lúc ấy tôi hoàn toàn bạc nhược ;
tôi nhớ châu Âu, nhớ da diết, khi đọc một cuốn truyện nói về những phố
xá sáng sủa và những phụ nữ da trắng, ngón tay tôi bắt đầu run lên. Tôi
không thể tả lại thực đúng cái tâm trạng của tôi lúc ấy với ngài, đó là
một thứ bệnh vùng nhiệt đới, một nỗi nhớ điên cuồng nhưng lại làm ta suy
nhược đôi khi xâm chiếm ta. Thế là, một hôm tôi cúi xuống một tập bản
đồ, tôi nhớ rõ là như vậy và mơ tới những cuộc du lịch. Đột nhiên có
tiếng gõ cửa, anh bồi của tôi ở bên ngoài cùng với một trong những người
đàn bà ; cả hai đều trố mắt ra vì ngạc nhiên. Họ khua chân múa tay : có
một bà, một lady (1), một phụ nữ da trắng.
" Tôi đứng phắt dậy. Tôi không nghe
thấy tiếng xe ngựa, cũng không nghe thấy tiếng ô tô. Một phụ nữ da trắng
đến đây, giữa nơi hoang vu này ?
" Tôi đã toan bước xuống cầu thang,
nhưng vội quay trở lại. Tôi thoáng nhìn vào gương và vội vàng sửa sang
lại quần áo đôi chút. Tôi bồn chồn, lo ngại như bị dằn vặt bởi một linh
tính chẳng lành, vì tôi không quen ai trên đời này có thể đến với tôi vì
tình bạn. Cuối cùng, tôi xuống nhà.
" Trong phòng ngoài, người đàn bà đang
chờ; bà ta hấp tấp tiến đến trước mặt tôi. Một tấm khăn choàng của
người đi ô tô che kín mặt bà ta. Tôi định chào nhưng bà ta đã mau miệng
cướp lời :
" - Chào bác sĩ ", bà ta nói bằng thứ tiếng Anh lưu loát ( hơi quá lưu loát là đằng khác và như đã nhẩm thuộc từ trước ).
" Xin thứ lỗi nếu tôi đến có hơi đường
đột. Chúng tôi ở ngoài trạm, xe hơi của chúng tôi dừng lại đấy " - Tại
sao bà ta lại không đi ô tô đến tại đây, ý nghĩ đó thoáng qua trong óc
tôi như một tia chớp. "Tôi chợt nhớ rằng ông ở đây. Tôi đã nghe nói
nhiều về ông. Ông quả là đã làm một phép lạ giúp ông phó sứ, chân ông ấy
đã hoàn toàn trở lại bình thường và ông ta đã chơi gôn được như trước. Ồ
vâng, bọn chúng tôi vẫn còn nhắc đến chuyện đó, và tất cả chúng tôi đều
sẵn lòng hê đi ông y sĩ ngoại khoa hay càu nhàu của chúng tôi và luôn
cả hai người nữa, nếu như ông đến với chúng tôi. À này, tại sao người ta
không thấy ông đến đấy bao giờ ? Ông sống thật như một nhà đạo sĩ Yôga.
Và bà ta tiếp tục nói huyên thuyên như
vậy, mỗi lúc một nhanh, không để tôi chen vào câu nào. Cái lối nói ồn
ào, dông dài ấy bộc lộ một cái gì nôn nóng và lo lắng khiến bản thân tôi
cũng cảm thấy hơi bối rối. Tôi tự hỏi, tại sao bà ta nói nhiều thế ?
Tại sao bà ta không tự giới thiệu ? Tại sao bà ta không bỏ tấm voan che
mặt ra ? Bà ta lên cơn sốt chăng ? Bà ta có ốm không ? Bà ta có điên hay
không ? Mỗi lúc tôi càng sốt ruột vì tự thấy mình lố bịch khi đứng như
thế trước mặt bà ta, bị chìm ngập trong những lời thao thao bất tuyệt
của bà ta. Cuối cùng, bà ta ngừng lại một tí và tôi mời được bà ta lên
lầu. Bà ta ra hiệu cho người bồi ở lại và bà ta đi trước tôi lên cầu
thang. " Ở đây thanh nhã quá ", bà ta vừa nói vừa đưa mắt nhìn căn phòng
của tôi. " Ồ, những cuốn sách đẹp quá ! Tôi muốn đọc hết tất cả ". Bà
ta tiến về phía giá sách và nhìn lướt tên các cuốn sách. Từ lúc bước
chân đến đây, lần đầu tiên bà ta im tiếng được một phút.
" - Tôi có thể mời bà một chút trà
được không ? " Tôi hỏi. " - Không, cảm ơn bác sĩ " bà ta nói, không quay
lại, cứ tiếp tục xem tên các cuốn sách – " Chúng tôi phải đi ngay, tôi
không có nhiều thời giờ... chúng tôi chỉ làm một cuộc du ngoạn rất ngắn.
À, ông có cả Flôbe. Tôi thích đọc nhà văn này lắm ! Thật đáng khâm
phục... khâm phục hết chỗ nói. Cuốn " Giáo dục tình cảm " (2)... Tôi
thấy rằng ông còn đọc cả tiếng Pháp nữa, kiến thức của ông rộng thật. Ở
nhà trường, người Đức được học mọi thứ. Biết nhiều ngoại ngữ như thế
thật tuyệt vời ! Ông phó sứ chỉ phục có ông thôi; với ai, ông ấy cũng
nói rằng ông là người độc nhất cầm dao mổ mà ông ấy dám phó thác sinh
mạng của mình. Ông bác sĩ của khỉ của chúng tôi ở đằng ấy thì chỉ giỏi đánh bài
tây. Nhưng này, bác sĩ ạ " - và ngay cả khi nói câu nói này bà ta cũng
vẫn không quay về phía tôi - " Hôm nay tôi nảy ra ý nghĩ muốn nhờ ông
khám, mà cũng vì nhân đúng lúc đi qua trước cửa nhà ông, tôi nghĩ là...
Nhưng có lẽ lúc này ông đang bận nhiều việc, có lẽ khi khác tôi quay trở
lại thì hơn ".
" Vậy là cô mình đã lật con bài của cô
mình ra rồi đó "... lập tức tôi nghĩ bụng như vậy, nhưng tôi không tỏ ý
gì hết, chỉ nói với bà ta là lúc nào tôi cũng lấy làm hân hạnh được
phục vụ bà ta, ngay bây giờ hoặc là lúc nào bà ta cần đến.
" Không có gì nghiêm trọng cả đâu ",
bà ta vừa nói vừa quay nửa người lại, vừa lật vài trang cuốn sách bà ta
lấy trên ngăn xuống - " không có gì nghiêm trọng... chuyện vặt vãnh thôi
mà... những cái vặt vãnh của đàn bà... những cơn chóng mặt mệt mỏi...
Sáng nay, khi xe chúng tôi quành một đường vòng, bỗng nhiên tôi gục
xuống và ngất đi... Người bồi đã phải đỡ tôi trong xe và đi tìm nước...
Có lẽ tại tài xế lái quá nhanh... Ông có nghĩ như vậy không, thưa bác sĩ
? "
" - Tôi chưa thể kết luận ngay được. Bà có hay bị mệt mỏi như vậy bao giờ không ? "
" - Không... à có, thời gian gần đây thôi... vâng, rất gần đây thôi... đúng như vậy... nhiều lúc thấy mệt mỏi và buồn nôn ".
Bà ta lại đứng sững trước tủ sách, đặt
một cuốn sách lại chỗ cũ, lấy một cuốn sách khác và bắt đầu lật các
trang sách. Thật lạ kỳ. Vì sao bà ta cứ lật đi lật lại các trang sách...
với vẻ bồn chồn nóng nảy như vậy ? Vì sao bà ta không ngước mắt lên dưới tấm
khăn choàng che mặt ? Tôi cố tình không nói gì. Tôi thích thú bắt bà ta
phải chờ đợi. Cuối cùng, bà ta lại bắt đầu nói, vẫn cái lối nói vừa uể
oải vừa huyên thuyên của bà ta.
" - Có phải không, thưa bác sĩ, không
có gì nghiêm trọng chứ ? Không dính dáng gì đến thứ bệnh nhiệt đới...
không có gì nguy hiểm cả... "
" - Trước hết tôi cần xem bà có bị sốt hay không đã. Tôi có thể xem mạch cho bà chứ ? "
Tôi tiến về phía bà ta, nhưng bà ta
nhẹ nhàng lách ra " Không, không, tôi không bị sốt... chắc chắn là như
vậy, chắc chắn là tôi không bị... Tôi vẫn cặp nhiệt hàng ngày từ... từ
khi xảy ra có những cơn mệt mỏi đó... chưa bao giờ tôi bị sốt, lúc nào
cũng đúng 3604 trên vạch nhiệt kế. Dạ dày của tôi cũng hoàn toàn tốt ".
" Tôi ngần ngừ một lát. Từ nãy đến giờ
tôi đã thấy ngờ vực; tôi cảm thấy người đàn bà này muốn cầu xin tôi
điều gì. Không ai đến chốn hoang vu này để nói chuyện về Flôbe cả. Tôi
để bà ta chờ đợi một phút, rồi một phút nữa.
" - Xin lỗi bà - tôi nói một cách dứt khoát - bà cho phép tôi tự do hỏi bà vài câu được không ạ ?
" - Được chứ, thưa bác sĩ... Ông là thấy thuốc cơ mà, - bà ta trả lời.
Nhưng bà ta đã quay lưng lại và bắt đầu giở xem những cuốn sách.
" - Bà đã có con chưa ? "
" - Có, một cháu trai ".
" - Và bà có... trước kia, tôi muốn nói lúc ấy... bà đã có những cơn rối loạn tương tự như vậy không ? "
" - Thưa có. "
Giọng nói của bà bây giờ khác hẳn. Rành rọt, cả quyết không dài dòng chút nào, không một chút nỏng nảy.
" - Và liệu có thể là bà... xin thứ lỗi cho câu hỏi này... liệu có phải giờ đây bà cũng đang ở trạng thái như vậy không ? "
" - Vâng ".
Lời nói đó buột ra từ miệng bà ta, dứt
khoát và sắc bén như lưỡi dao. Không một nét nào thay đổi trên khuôn
mặt mà bà ta quay ngoắt đi chỗ khác.
" Tốt nhất có lẽ là, thưa bà, để tôi xem xét toàn diện cho bà... Có thể mời bà... chịu khó sang phòng bên ? "
Đột nhiên bà ta quay lại phía tôi. Tôi
cảm thấy qua tấm mạng che mặt một cái nhìn lạnh lùng và quả quyết,
hướng thẳng vào mặt tôi.
" - Không... không cần thiết... Tôi hoàn toàn biết chắc tình trạng của tôi ".
*
* *
Giọng nói của người kể chuyện ngập ngừng một lát. Cốc rượu đầy lại lóng lánh trong đêm tối :
" Vâng, xin ngài nghe tôi kể tiếp,
nhưng trước hết ngài hãy thử hình dung một lát cái tình thế này : một
người đàn bà đến với một người đàn ông héo mòn trong cảnh cô đơn; từ bao
nhiêu năm nay, đó là người đàn bà da trắng đầu tiên bước vào chỗ ở của
anh ta... Và bỗng nhiên tôi cảm thấy trong căn phòng có cái gì như là
định mệnh ác nghiệt, một mối nguy hiểm thực sự. Tôi linh cảm thấy điều
đó, một cảm giác về thể chất. Tôi cảm thấy sợ hãi trước sự nhất quyết
của người đàn bà này, lúc đầu đến bất thần với những lời lẽ huyên
thuyên, bây giờ đột ngột đưa ra yêu sách như giơ một con dao tuốt trần.
Bởi vì, điều bà ta muốn tôi giúp, tôi biết lắm, tôi đã biết ngay lập
tức. Đây không phải là lần đầu tiên có những người đàn bà đến nhờ tôi
làm một việc tương tự. Nhưng những lần trước họ đến với vẻ hoàn toàn
khác hẳn, họ xấu hổ và van xin, họ đến với những giọt nước mắt và những
lời oán trách. Nhưng ở đây có một... vâng, một quyết tâm mạnh mẽ, một
quyết tâm sắc đá. Từ giây phút đầu tiên tôi đã cảm thấy người đàn bà này
mạnh hơn tôi... bà ta có thể bắt tôi phải làm theo ý muốn của bà ta...
nhưng... nhưng... trong tôi cũng có ý đồ xấu... Tôi như một người đàn
ông đang tự bảo vệ và nổi giận, bởi vì... như tôi đã nói, ngay từ đầu,
phải, ngay từ trước khi trông thấy bà ta, tôi đã cảm thấy người đàn bà
này là một kẻ thù.
" Lúc đầu tôi còn lặng thinh, lặng
thinh vì bướng bỉnh và tức giận. Tôi cảm thấy bà ta nhìn tôi sau tấm
mạng, cái nhìn khiêu khích và hách dịch, bà ta muốn buộc tôi phải nói.
Nhưng tôi không nhượng bộ dễ dàng. Tôi cũng bắt đầu nói nhưng... nói lơ
lửng... vâng, vô tình tôi bắt chước cách nói dài dòng và lạnh lùng của
bà ta. Tôi làm như không hiểu bà ta, bởi vì, không biết ngài có thể hiểu
ý tôi không, tôi muốn buột bà ta phải nói ra rõ ràng; tôi không muốn
nói trước, mà... muốn bà ta phải năn nỉ tôi... đúng vậy, tôi muốn người
đàn bà đã đến với thái độ ngang nhiên như thế phải năn nỉ tôi... và cũng
vì tôi biết rằng với phụ nữ không có gì khiến tôi dễ nhân nhượng cho
bằng cái thái độ lạnh lùng kiêu hãnh đó.
" Thế là tôi bắt đầu nói với bà ta,
bằng những lời lẽ chẳng giúp ích gì, rằng không có gì nghiêm trọng cả,
rằng những cơn mệt mỏi như thế là chuyện thường, và còn ngược lại, điều
đó hầu như là sự đảm bảo cho một sức khỏe bình thường. Tôi dẫn chứng
những ca rút từ các nhật ký chữa bệnh... Tôi nói, tôi nói với vẻ lơ là
và dễ dãi, luôn coi đó là chuyện tầm phào, và... luôn chờ đợi bà ta ngắt
lời tôi, bởi vì tôi biết rằng bà ta không chịu nổi cách xử sự ấy của
tôi.
Bà ta lập tức ngắt lời tôi, giơ tay như để ngăn lại tất cả những lời an ủi chung chung ấy.
" - Đó không phải là điều làm tôi lo
ngại, thưa bác sĩ. Hồi tôi sinh cháu, sau đó sức khỏe của tôi khá hơn...
nhưng bây giờ tôi không được " allright " (3), tôi bị đau tim ".
" - À, những cơn đau tim, - tôi nhắc lại, giọng lo ngại - tôi phải xem ngay cho bà ".
Và tôi có một cử chỉ như muốn đứng dậy
tìm ống nghe, nhưng đột nhiên bà ta nói ngay, giọng lúc này đanh thép
và rành rọt như người ở vị trí chỉ huy :
" - Tôi có những cơn đau tim, thưa bác
sĩ, và xin đừng tin điều tôi nói. Tôi không muốn mất thì giờ thăm bệnh.
Thiết tưởng bác sĩ có thể tin ở tôi hơn nữa. Ít ra là về phần tôi, tôi
cũng đã bày tỏ đủ rõ lòng tin cậy của tôi đối với bác sĩ ".
Lúc này đã bước vào cuộc đấu tranh đây, đó là một lời thách thức công khai. Và tôi chấp nhận :
" - Sự tin cậy đòi hỏi lòng trung
thực, một lòng trung thực hoàn toàn. Bà hãy nói cho rõ, tôi là thầy
thuốc. Và trước hết bà hãy bỏ tấm mạng che mặt ra và xin mời bà ngồi
xuống, bà hãy bỏ những cuốn sách xuống và bỏ cả cái lối nói quanh co ấy
đi. Khi đến nhà thầy thuốc không ai lại đeo mạng che mặt ".
Bà ta kiêu hãnh nhìn thẳng vào mắt
tôi. Lưỡng lự một chút rồi bà ta ngồi xuống, bỏ cái mạng che mặt đi. Tôi
thấy một khuôn mặt khó hiểu, cứng cỏi, ngượng ngùng, với một vẻ đẹp
không tàn phai theo năm tháng, khuôn mặt với cặp mắt màu tro, cặp mắt
của những người Anh, trong cặp mắt đó hiện ra tất cả vẻ bình thản, tuy
nhiên nhìn thật sâu vào trong, người ta có thể mơ tưởng đến mọi nỗi đắm
say; cái miệng mỏng dính và đôi môi mím chặt không để lộ một chút bí mật
nào nếu bà ta chưa muốn nói ra. Chúng tôi nhìn nhau một lát. Cái nhìn
của bà ta vừa độc đoán, vừa dò hỏi, mang một vẻ khắc nghiệt lạnh lùng và
giá buốt đến nỗi tôi không chịu nổi, phải miễn cưỡng quay mặt đi.
Bà ta khẽ gõ ngón tay lên bàn. Như vậy là bà ta cũng đang nóng ruột. Rồi bà ta nói nhanh, đột ngột :
" - Thưa bác sĩ, ông có biết tôi chờ mong gì ở ông không ? Hay là ông không biết ? "
" - Tôi cho là tôi có biết, nhưng ta
không nên nói quanh co thì tốt hơn. Bà muốn chấm dứt tình trạng hiện nay
của bà... bà muốn tôi loại bỏ cho bà những hiện tượng mệt nhọc, những
cơn buồn nôn bằng cách xóa bỏ nguyên nhân của nó, đúng thế không ? ".
" Phải ! "
Tiếng đó buông xuống như lưỡi dao máy chém.
" - Bà có biết rằng những dự định như vậy nguy hiểm cho cả hai bên ? "
" - Có ".
" - Bà có biết là pháp luật cấm tôi làm chuyện đó ? "
" - Có những trường hợp không cấm, trái lại còn được phép ".
" - Nhưng những trường hợp đó phải có sự chỉ định của thầy thuốc ".
" - Ông sẽ tìm thấy chỉ định đó. Ông là thầy thuốc ".
Khi nói những lời ấy, bà ta nhìn tôi
chằm chặp, rõ ràng và không chớp mắt. Đó là một mệnh lệnh. Và tôi, vốn
yếu mềm, tôi run lên vì khâm phục sức mạnh quỷ quái của ý chí bà ta,
nhưng tôi vẫn chưa chịu hạ mình, không muốn tỏ ra là mình đã bị đánh bại.
" Không nhanh như vậy được, phải làm
khó dễ đã, phải buộc bà ta phải " van xin ". - Trong thâm tâm, tôi gần
như thích thú với ý nghĩ đó.
" - Điều đó không phải lúc nào cũng
tùy thuộc vào ý muốn của thầy thuốc. Nhưng tôi sẵn sàng, với một trong
những đồng nghiệp của tôi ở bệnh viện ".
" - Tôi không muốn bạn đồng nghiệp nào của ông can dự vào chuyện này. Tôi đến để nhờ chính ông "
" - Tôi có thể hỏi bà, tại sao bà lại chọn đúng tôi ? "
Bà ta lạnh lùng nhìn tôi :
" - Tôi không có gì phải ngại ngùng
nói cho ông biết điều đó, tôi đến nhờ chính ông vì ông sống ẩn dật, vì
ông không quen biết tôi, vì ông là một thầy thuốc giỏi, và bởi vì - đấy
là lần đầu tiên bà ta ngập ngừng - bởi vì ông sẽ không còn ở xứ này lâu
nữa, nhất là ông có thể trở về nước với một số tiền lớn ".
" Những lời nói đó làm tôi lạnh toát
cả người. Tôi sững sờ trước thái độ lạnh lùng con buôn đó, trước sự tính
toàn rành rọt đó. Cho đến lúc ấy, bà ta chưa hé ra một lời van xin nào,
trái lại, tất cả đều đã được cân nhắc từ lâu; trước tiên, bà ta rình
tôi, để rồi tiếp đó đâm bổ thẳng vào tôi. Tôi bàng hoàng trước sức mạnh
ma quái của cái ý chí đó, nhưng tôi chống lại với tất cả cơn điên tiết
của tôi. Một lần nữa, tôi buộc lòng phải tỏ ra có đầu óc thực tế, thậm
chí hơi mỉa mai :
" - Và số tiền lớn đó, bà... bà sẽ cấp cho tôi ? "
" - Vâng, để đền đáp lại sự giúp đỡ của ông và để ông rời khỏi nơi đây ngay tức khắc ".
" - Bà có biết rằng nếu như vậy thì tôi sẽ mất khoản tiền phụ cấp ? "
" - Tôi sẽ đền bù cho ông ".
" - Bà tính toán thật phân minh. Nhưng tôi còn muốn rõ ràng hơn nữa. Bà đã dự liệu số tiền công là bao nhiêu chưa ? "
" - Mười hai ngàn Phlorinh, trả bằng
séc, ở Amxtécđam ". " Tôi... run lên... run lên vì tức giận và... cả vì
khâm phục. Bà ta đã tính toán hết số tiền và cách trả tiền, nó buộc tôi
phải ra đi; bà ta đã định giá và mua tôi mà không cần biết tôi; bà ta đã
sai khiến tôi theo dự cảm của ý chí bà ta. Tôi rất muốn cho bà ta...
một cái tát... Nhưng khi tôi đứng lên, run rẩy - bà ta cũng đứng lên, -
đúng lúc đó, tôi nhìn vào mắt bà ta, trước cái miệng mím chặt không chịu
hé lời van xin này, trước cái trán kiêu hãnh không muốn cúi xuống
này... tôi bỗng cảm thấy lòng tràn ngập một thứ ham muốn mãnh liệt. Hẳn
bà ta cũng nhận ra điều đó, bởi vì bà ta cau mày lại, như khi người ta
muốn xua đuổi một kẻ quấy rầy : sự thù ghét giữa chúng tôi bỗng bị phơi
trần. Tôi biết bà ta căm giận tôi vì bà ta cần tôi, còn tôi căm giận bà
ta vì bà ta đã không chịu hạ mình van xin. Trong giây lát im lặng đó,
giây lát duy nhất đó, lần đầu tiên chúng tôi đã tự bộc lộ với nhau một
cách hoàn toàn thành thực. Rồi, đột nhiên, một ý nghĩ len lỏi trong tôi
như một loài bò sát, và tôi bảo bà ta...
" Nhưng, xin ngài chờ chút đã, ngài có
thể hiểu sai điều tôi đã làm, lời tôi đã nói... trước hết tôi phải giải
thích cho ngài rõ cái ý nghĩ rồ dại đó đã đến với tôi như thế nào ".
*
* *
Tiếng cốc lại lách cách khe khẽ trong bóng tối; rồi tiếng nói trở nên linh hoạt hơn :
" Không phải tôi muốn tự bào chữa, tự
biện bạch là mình vô tội... nhưng nếu không, ngài sẽ không hiểu. Tôi
không biết tôi có phải là người mà thiên hạ gọi là hạng người tử tế hay
không. Nhưng tôi cho rằng tôi đã luôn luôn cứu giúp mọi người. Trong
cuộc sống khốn khổ ở đấy, niềm vui duy nhất có thể có được là cứu sống
mạng người nhờ chút ít kiến thức đã tích cóp được. Đó là một niềm vui
thần tiên. Thực vậy, những giờ đẹp nhất là khi một gã thanh niên da
vàng, nhợt nhạt, xanh xám vì sợ hãi, chân sưng vù vì vết rắn cắn, chạy
đến chỗ tôi, gào lên xin đừng cưa chân hắn. Và tôi đã cứu được hắn ta.
Tôi đã đi hàng bao nhiêu dặm đường khi có người phụ nữ nằm đó ốm liệt
giường, bị cơn sốt giày vò; đồng thời, tôi cũng đã làm cái việc mà người
đàn bà ngoại quốc này vừa yêu cầu, ngay từ khi còn ở Âu châu, tại bệnh
viện của Khoa. Nhưng ở đấy ít ra tôi cũng cảm thấy là họ cần đến tôi, ở
đấy tôi biết là mình đã cứu được ai thoát chết hoặc thoát khỏi sự tuyệt
vọng và đúng thế, muốn giúp đỡ người khác thì bản thân mình phải có cảm
giác là người khác cần đến mình.
" Nhưng người đàn bà này, không biết
tôi có thể tả cho ngài rõ điều đó không, bà ta làm tôi điên tiết, bà ta
làm tôi lo ngại từ lúc bà ta đến nhà tôi như một người khách bình
thường; thái độ kiêu hãnh của bà ta đã khiến tôi chống lại bà ta, bà ta
khơi gợi - tôi diễn tả điều này thế nào nhỉ ? - Bà ta làm cho tất cả
những gì dồn nén, ngấm ngầm và xấu xa trong tôi đều bật lên chống lại bà
ta. Tôi phát điên lên khi thấy bà ta làm bộ quý phái và khi bà ta mặc
cả với vẻ điềm tĩnh, kiêu kỳ trong một việc có liên quan đến sự sống và
cái chết... và rồi... rồi... cuối cùng thì không ai chơi gôn với nhau mà
mang bầu được... Tôi biết... nghĩa là bỗng nhiên tôi buộc phải hình
dung ra - đó là cái ý nghĩ điên rồ mà tôi vừa nói đến khi nãy - hình
dung ra một cách rõ ràng kinh khủng rằng người đàn bà lạnh lùng, đầy
kiêu hãnh và lãnh đạm này, người đàn bà đã nghiêm nghị cau đôi lông mày
trên cặp mắt xanh màu thép khi tôi nhìn bà ta lòng đầy lo ngại... hoặc
gần như là giữ thế với bà ta... tôi đã buộc phải hình dung rằng, hai ba
tháng trước đây, bà ta đã lăn trên một chiếc giường trong vòng tay một
người đàn ông, trần truồng như nhộng, hai thân mình xiết chặt lấy nhau
như đôi môi. Đó là ý nghĩ nóng bỏng trong tâm trí tôi khi bà ta nhìn tôi
một cách ngạo mạn, với vẻ lạnh lùng kênh kiệu, hệt như là một sĩ quan
người Anh... và lúc đó, cả con người tôi chỉ có một ham muốn... và tôi
bị ám ảnh bởi ý nghĩ làm nhục bà ta... Từ lúc đó trở đi, tôi nhìn thấy
thân thể lõa lồ của bà ta xuyên qua chiếc áo bà ta mặc... từ lúc đó trở
đi, tôi chỉ còn có ý nghĩ chiếm đoạt bà ta, ép môi tôi lên cặp môi cứng
rắn rên rỉ của bà ta, để cảm giác được cái con người kiêu hãnh đó, cái
tâm hồn băng giá đó bị chinh phục bởi khoái lạc, cũng như người đàn ông
kia đã cảm thấy bà ta bị chinh phục, cái người đàn ông mà tôi không hề
quen biết. Đó... Đó chính là điều tôi muốn giải thích với ngài. Đấy là
lần duy nhất, mặc dù tình trạng thất thế của tôi, tôi đã tìm cách lợi
dụng danh nghĩa thầy thuốc của mình... và đó không phải là háo sắc, dâm
đãng, tình dục, không, hoàn toàn không phải như vậy... nếu không tôi đã
thổ lộ dễ dàng... đấy chỉ là ý muốn chế ngự cái tính kiêu hãnh đó... chế
ngự với tư cách tôi là một người đàn ông... Tôi đã kể với ngài, hình
như những người phụ nữ bề ngoài kiêu hãnh và lạnh lùng bao giờ cũng có
uy lực đối với tôi, nhưng lúc ấy, lại thêm một nỗi là trong suốt bảy năm
trời tôi sống ở đây, chưa hề có lần nào ăn nằm với một phụ nữ da trắng
và cũng chưa hề gặp phải sự chống cự nào... bởi vì phụ nữ ở đây, những
con thú bé nhỏ duyên dáng và thỏ thẻ ấy, họ run lên vì kính trọng khi
một người da trắng, « một ông lớn » đụng đến họ... họ trở nên quá hạ
mình; bao giờ họ cũng ân cần chiều chuộng, sẵn sàng dâng hiến, với tiếng
cười hiền hậu giống như tiếng cục - cục của con gà mái... chính sự phục
tùng đó, tính nô lệ đó làm cho ta mất hứng. Bây giờ chắc ngài hiểu điều
đó đã có tác động quái lạ như thế nào đối với tôi khi đột nhiên tôi
thấy xuất hiện một người đàn bà đầy kiêu hãnh và căm thù, che đậy từ đầu
đến chân, đồng thời lại khêu gợi, vì chứa đựng điều bí mật và vẫn còn
mang trong mình niềm đam mê cách đây chưa lâu... Khi một người đàn bà
như thế kiêu kỳ bước vào cái cũi của một người đàn ông như thế, một gã
đàn ông nửa người nửa thú cô đơn đến như thế, thèm khát như thế bị tách
rời khỏi toàn thế giới như thế... Điều đó, điều đó tôi nói với ngài chỉ
cốt để ngài hiểu cho phần còn lại... những gì sẽ xảy ra sau đó. Vậy
là... lòng tràn đầy... tôi không rõ là lòng ham muốn xấu xa nào, bị đầu
độc bởi ý tưởng muốn nhìn thấy thân thể lõa lồ khêu gợi của bà ta, thả
mình đi theo tiếng gọi của dục tình, tôi thu hết nghị lực và làm ra vẻ
thờ ơ :
" Mười hai ngàn phlorinh ? - Tôi lạnh lùng nói, - không, tôi không làm vì số tiền đó ".
Bà ta nhìn tôi, hơi tái mặt. Bà ta
đoán rằng lòng tham tiền không có vai trò gì trong sự chống đối này. Mặc
dầu vậy, bà ta nói thêm :
" - Vậy ông đòi hỏi gì ? "
Tôi bỏ qua giọng nói lạnh lùng đó và nói :
" - Chúng ta hãy chơi ván bài công
khai. Tôi không phải là một con buôn... tôi không phải là người bào chế
khốn nạn trong " Rômêô Juyliet " bán thuốc độc để lấy đồng tiền vàng ô
uế. Tôi là cái gì trái ngược với thứ con buôn... Không phải bằng cách đó
mà bà đạt được ý muốn của bà đâu ".
" - Vậy ông không ưng thuận ? "
" - Không phải để lấy tiền ! "
Một giây lát im lặng tuyệt đối trùm
lên hai chúng tôi. Im lặng hoàn toàn đến nỗi lần đầu tiên tôi nghe thấy
tiếng thở của bà ta.
" - Vậy ông còn muốn điều gì khác nữa ? "
Lúc này tôi nói tuột ra không e dè gì hết :
" - Trước hết tôi muốn rằng bà... bà
nói với tôi không như nói với một chủ hiệu tạp hóa, mà như nói với một
người đàn ông, rằng nếu như bà cần cứu giúp, bà không... bà không được
đặt ngay đồng tiền nhơ nhuốc của bà lên hàng đầu... mà là phải cầu
xin... người đàn ông là tôi giúp đỡ bà; bà cũng là một con người... Tôi
không phải chỉ là thầy thuốc, tôi không phải chỉ có những giờ thăm
bệnh... tôi cũng còn dành cho tôi những giờ khác, có lẽ bà đã đến vào
một trong những giờ đó ".
Bà ta im lặng một lát. Rồi bà ta hơi cong môi, rùng mình và nói rất nhanh :
" - Vậy, nếu tôi cầu xin ông... ông sẽ làm gì ? "
" - Bà vẫn còn muốn mặc cả : Bà chỉ muốn cầu xin sau khi tôi đã hứa trước. Trước hết bà phải van xin tôi, rồi tôi sẽ trả lời ".
Bà ta ngẩng đầu lên như con ngựa bất kham và giận dữ nhìn tôi :
" - Không, tôi sẽ không cầu xin ông. Thà chết còn hơn ! " Lúc đó tôi nổi giận, giận chín người, một cơn giận vô lý.
" - Được ! Vì bà đã không muốn cầu xin
tôi, thì chính tôi sẽ đòi hỏi. Tôi nghĩ rằng tôi không cần phải nói rõ
hơn. Bà biết tôi muốn gì ở bà. Sau đó, sau đó, tôi sẽ giúp bà ".
Bà ta nhìn tôi chằm chằm trong giây
lát. Rồi - Ồ ! Tôi không thể, tôi không thể nói sự thể khốc liệt đến mức
nào - rồi nét mặt bà ta căng thẳng và rồi... bà ta phá lên cười... bà
ta cười vào mặt tôi với một vẻ khinh miệt khó tả, vẻ khinh miệt có thể
nói là như sét đánh xuống người
tôi... làm tôi choáng váng... Tiếng cười khinh mạn ấy như tiếng nổ đột
ngột, dữ dội phát ra từ một sức mạnh ma quái, đến nỗi tôi... tôi sẵn
lòng phủ phục xuống đất và hôn chân bà ta. Tình trạng này thoáng hiện
trong tôi chỉ trong khoảnh khắc... như một lằn chớp và khắp cơ thể tôi
bốc lửa... Bà ta đã quay đi và bước nhanh ra cửa. " Bất giác, tôi chực
chạy theo bà ta... để mà xin lỗi... để mà van xin... sức tôi chưa kiệt
hẳn... nhưng bà ta còn quay lại lần nữa nói với tôi, hay đúng hơn ra
lệnh cho tôi :
" - Ông đừng có mà chạy theo tôi hoặc để tâm đến tôi nữa... Ông sẽ hối tiếc về việc làm của mình đấy... "
Và cánh cửa đã đóng sầm lại sau lưng bà ta.
*
* *
Lại một lúc ngập ngừng... Lại im lặng... Lại chỉ còn nghe thấy tiếng ì ào bất tận của biển, như thể ánh trăng chạy trên ngọn sóng. Cuối cùng tiếng nói lại cất lên :
" Cửa đóng sầm lại... Nhưng tôi, tôi
đứng trơ tại chỗ... lệnh của bà ta như thôi miên tôi... Tôi nghe tiếng
chân bà ta xuống cầu thang, tiếng đóng cửa... Tôi nghe thấy tất cả và
toàn bộ ý chí của tôi hướng tới bà ta... để mà... tôi không biết thế
nào... để mà gọi bà ta trở lại, đánh bà
ta một trận hoặc bóp cổ bà ta, nhưng dẫu sao tâm trí tôi vẫn cứ bám lấy
bà ta... chạy theo sau bà ta... và tuy vậy tôi không thể... chân tay
tôi như tê liệt, như bị điện giật... ánh mắt nghiêm nghị đó khiến tôi... tôi như bị đánh,
bị một trận đòn nhừ tử... Tôi biết đó là điều không thể giải thích
được, không mang ra thuật lại được... kể thì có vẻ lố bịch, nhưng sự
thật là tôi bị chôn chân tại chỗ... phải mất hàng mấy phút, có lẽ năm
hay mười phút, tôi mới có thể cử động, rời khỏi chỗ tôi đứng...
" Nhưng vừa cất được chân lên là tôi đã trở nên hăm hở và nhanh nhẹn... trong nháy mắt, tôi đã ở dưới chân
cầu thang... Bà ta chỉ có thể đi theo con đường tới huyện lỵ... Tôi
chạy bổ ra nhà xe lấy chiếc xe đạp của tôi, nhưng tôi thấy là tôi đã
quên chìa khóa, tôi bèn phá vách ngăn, những mảnh tre văng ra kêu răng
rắc... Tôi nhảy lên xe đạp và lao theo vết tích bà ta... tôi phải... tôi
phải đuổi kịp trước khi bà ta tới chỗ ôtô đỗ... tôi phải nói với bà ta.
"Bụi đường bốc lên xung quanh tôi...
chỉ đến lúc này tôi mới nhận thấy ban nãy tôi đã đờ ra trên phòng tôi
bao nhiêu lâu. Đằng kia, ở chỗ rẽ của khu rừng, ngay trước chỗ xe đậu,
tôi thấy bà ta đang vội vã, dáng đi cứng cỏi và thẳng băng, theo sau là
người bồi... Nhưng bà ta chắc cũng nhìn thấy tôi, vì bà quay lại nói gì
với người bồi, tên này ở lại sau và bà ta tiếp tục đi một mình. Bà ta
muốn làm gì vậy ? Vì sao bà ta lại thích đi một mình ?... Hay là bà ta
muốn nói chuyện riêng với tôi không cho người bồi nghe thấy ?... Tôi đạp
như điên như cuồng... " Đột nhiên có cái gì chặn đường tôi... tên
bồi... Tôi định quành xe tránh nhưng... tôi đã ngã sóng soài xuống đất.
" Tôi đứng dậy, buông lời chửi rủa... Bất giác tôi giơ nắm đấm định đánh cái gã lỗ mãng đó, nhưng hắn tránh được... Tôi dựng xe để nhảy lên... nhưng con người kỳ quặc đó tiến ra phía trước tôi, nắm lấy bánh xe và kêu lên bằng thứ tiếng Anh thảm hại " You remain here " (4).
" Ngài chưa sống ở vùng nhiệt đới...
Ngài không biết như vậy là xấc xược đến mức nào : khi một người da vàng,
một tên vô lại loại đó nắm lấy chiếc xe đạp của một người da trắng, của
một " ông lớn " và ra lệnh cho " ông lớn " phải ở lại đó. Không thèm
đáp lời, tôi tống cho hắn một quả vào mặt... Hắn loạng choạng nhưng vẫn
nắm chắc chiếc xe của tôi... Cặp mắt hắn, cặp mắt ti hí và sợ sệt giương
to lên đầy vẻ lo âu của tên nô lệ... nhưng hắn vẫn giữ riệt lấy chiếc
xe của tôi, thái độ cương quyết kỳ lạ " You remain here (4) ", hắn còn
lắp bắp một lần nữa... May sao tôi không mang theo súng lục, nếu không
tôi đã bắn chết hắn liền.
" Xéo khỏi đây, tên khốn khiếp ! " Tôi
chỉ quát lên với hắn có thế. Hắn nhìn tôi kính cẩn, nhưng vẫn không
buông chiếc xe đạp... tôi bồi thêm cho hắn một quả đấm vào sọ, nhưng hắn
vẫn không buông. Lúc đó tôi nổi điên... tôi thấy bà ta đã đi xa, có lẽ
bà ta đã rời nơi đây và tôi móc cho tên da vàng ngay dưới cằm
một cú bốc nhà nghề, mạnh đến nỗi hắn ta lộn đi bốn bước. Lúc này,
chiếc xe đạp đã rời khỏi tay hắn... nhưng khốn nỗi khi tôi ngồi lên, xe
không đi được... trong lúc giằng co ghi đông xe đã hỏng... Tay tôi lật
bật tìm cách chữa... nhưng không chữa được. Thế là tôi quẳng xe sang bên
đường, ngay bên cạnh tên vô lại đang nhổm dậy, đầy máu me và lủi tránh... Và rồi, không, ngài không thể biết được cảnh tượng đó ở nơi ấy khôi hài đến mức nào dưới con
mắt mọi người, một người Âu... Nhưng lúc đó tôi không còn biết mình
đang làm gì nữa... tôi chỉ còn một ý nghĩ : chạy theo bà ta và đuổi kịp
bà ta... Tôi bèn chạy, chạy như một thằng điên suốt dọc đường, qua phía
trước những túp lều, ở đó, đám người da vàng thô bỉ xúm xít lại ngạc
nhiên trước cảnh tượng như thế : nhìn thấy một người da trắng, nhìn thấy
ông bác sĩ đang chạy.
" Tôi tới huyện lỵ, ướt đẫm mồ hôi...
Câu hỏi đầu tiên của tôi là : " ôtô đâu rồi ? " Xe vừa nổ máy... Mọi
người nhìn tôi kinh ngạc; hình như họ cho rằng tôi đã mất trí khi thấy
tôi chạy tới, người ướt đẫm và nhếch nhác, gào ầm lên, hỏi ngay cả trước
khi đứng lại... Phía đằng kia, trên đường cái, tôi nhìn thấy làn khói
trắng ôtô cuộn lên... Bà ta đã thành công... thành công như tất cả mọi
việc phải thành công, nhờ tính cương quyết sắt đá trong những tính toán
của bà ta.
" Nhưng nguyền rủa cũng chẳng ích gì. Ở
vùng nhiệt đới không có gì giữ được bí mật giữa những người Âu châu; họ
quen biết nhau từ người này qua người khác; bất cứ chuyện gì cũng có
thể trở thành một biến cố. Không phải không có lý do mà người lái xe của
bà ta đã ở lại tại nhà ông quan cai trị một tiếng đồng hồ. Chỉ sau mấy
phút tôi biết hết, tôi biết bà ta là ai, biết rõ bà ta ở trên ấy, ở thủ
đô, cách đây tám giờ xe lửa, rằng bà ta là... cứ cho là vợ của một
thương gia lớn, rằng bà ta rất giàu có, sang trọng, một người đàn bà
Anh... tôi biết rằng chồng bà ta sang Hoa Kỳ đã năm tháng nay và sắp trở
lại trong mấy ngày sắp tới đón bà ta về châu Âu.
" Tôi biết - ý nghĩ này đốt cháy tâm can tôi như một thứ thuốc độc - bà ta có mang hai, ba tháng là cùng... "
*
* *
" Đến tận lúc này, tôi còn có thể làm
cho ngài hiểu được... có lẽ chẳng qua vì cho đến lúc đó tôi vẫn còn hiểu
được tôi... và vì là thầy thuốc, lúc nào tôi cũng có thể chẩn đoán cho
tình trạng của chính mình. Nhưng kể từ lúc đó trở đi, tôi như người bị
sốt... tôi không còn tự kiểm soát được mình nữa... hay đúng hơn, tôi
biết rõ tất cả những gì tôi làm đều rồ dại, nhưng tôi không còn một chút
quyền lực nào đối với bản thân mình nữa... không còn hiểu nổi bản thân
mình... Tôi chỉ còn một ý nghĩ đinh ninh: đạt tới đích của tôi... Vả
lại, khoan đã, dù thế nào mặc lòng, tôi vẫn có thể làm ngài hiểu được...
Ngài có biết Amok là gì không đã ?
" - Amok ?... Tôi nhớ mang máng... đó là một thứ say sưa của người Malaixia ".
- Còn hơn là say sưa nữa... đó là bệnh
điên, một thứ bệnh dại của người, nói trắng ra... là một cơn độc cuồng
loạn trí khốc hại mà không có thứ ngộ độc nào do rượu có thể so sánh được.
Bản thân tôi, trong thời gian sống ở đó, tôi đã nghiên cứu vài trường
hợp - khi là vấn đề của người khác thì bao giờ người ta cũng sáng suốt
và thực tế - nhưng tôi vẫn chưa thể khám phá ra nguồn gốc bí mật khủng
khiếp của nó. Nguyên nhân của chứng đó chắc chắn là do khí hậu, do bầu
không khí dày đặc và ngột ngạt đè nặng lên thần kinh như một cơn giông
tố, cho đến khi rốt cuộc thần kinh phải bùng nổ... Vậy thì Amok... vâng,
Amok là như thế này: Một người Mã Lai, có thể bất cứ người đàn ông tử
tế hiền lành nào, đang yên lành ngồi uống một thứ đồ uống của mình...
anh ta ngồi đó... thờ ơ, thản nhiên và uể oải hệt như tôi ngồi trong căn
phòng của mình vậy... và bỗng nhiên anh ta nhảy nhồm lên, cầm lấy con
dao găm và lao ra ngoài phố... anh ta chạy thẳng về phía trước, lúc nào
cũng về phía trước, không biết đi đâu... Bất cứ người hay vật gặp trên
đường đi, anh ta đều dùng dao găm đâm chết và mùi máu càng làm cho anh
ta hung dữ hơn... Trong khi anh ta chạy, bọt mép sùi ra, anh ta rú lên
như người bị quỷ ám... nhưng anh ta chạy, chạy miết, không trông thấy gì
xảy ra ở bên phải cũng như ở bên trái, cứ chạy mãi, vừa chạy vừa kêu
lên những tiếng xé tai, trong cuộc chạy miết đáng sợ ấy, tay lăm lăm con
dao đẫm máu... Dân các làng biết rằng không có sức mạnh nào trên đời có
thể chặn lại được con người đang bị dày vò bởi cơn điên khát máu đó...
và khi họ trông thấy anh ta chạy tới, mãi tận đằng xa, họ đã la lên báo
tin dữ: " Amok ! Amok ! ". Thế là tất cả đều chạy trốn... Còn anh ta,
không nghe thấy gì, cứ tiếp tục chạy; anh ta chạy không trông thấy gì
hết, và tiếp tục đâm chém tất cả những gì gặp ngang đường... cho đến khi
anh ta bị hạ gục như người ta giết một con chó dại hoặc đến khi anh ta
ngã gục xuống, kiệt sức và miệng sùi đầy bọt...
" Một hôm tôi đã trông thấy cảnh đó từ
cửa sổ gian nhà sàn mới xây gạch của tôi... thật là khủng khiếp... và
bởi vì tôi đã trông thấy nên tôi đã hiểu được bản thân tôi trong những
giờ phút đó... bởi vì, đúng như vậy, với cái nhìn khủng khiếp nhằm thẳng
về phía trước, không trông thấy gì xảy ra ở bên phải cũng như ở bên
trái, bị chi phối bởi cơn điên ấy, tôi chạy bổ theo... người đàn bà
nọ... Bây giờ tôi không biết lúc đó tôi đã hành động như thế nào; tất cả
diễn ra cực kỳ dữ dội, nhanh chóng, điên cuồng... mười phút sau, không,
năm phút thôi, không, chỉ hai phút sau... tôi đã biết hết về bà ta, tên
bà ta, chỗ ở của bà ta, hoàn cảnh bà ta, và tôi hối hả lao ngay về nhà,
phóng thật lực bằng chiếc xe đạp mượn được, ném bộ quần áo vào một
chiếc rương, lấy tiền và đáp xe ra ga xe lửa... tôi chuồn, không báo cho
ông trưởng khu biết, không có người thay, bỏ mặc hết, nhà cửa mở toang
toàng...
Bọn đầy tớ xúm quanh tôi, những người
đàn bà ngạc nhiên hỏi tôi, tôi không trả lời, tôi không quay lại... Tôi
ra ga và đáp chuyến xe lửa đầu tiên về thành phố. Tất cả vẻn vẹn chỉ có
một giờ sau khi người đàn bà ấy vào nhà tôi, tôi đã vứt bỏ tất cả quá
khứ của mình... và đâm bổ vào khoảng không, như một Amok...
" Tôi chạy thẳng về phía trước, đầu va
vào vách ngăn của toa tàu... sáu giờ tôi đến nơi... sáu giờ mười phút,
tôi đã tới nhà bà ta và xin gặp mặt... Ngài hiểu chứ, đó là hành động
ngu ngốc nhất mà tôi đã phạm phải. Nhưng Amok có những con mắt mê loạn,
hắn không nhìn thấy hắn lao vào đâu. Sau mấy phút, người hầu trở ra...
nói với giọng lễ phép và lạnh lùng rằng bà chủ của hắn khó ở, không thể
tiếp tôi được...
" Tôi lảo đảo đi ra... Suốt một tiếng
đồng hồ tôi đi quanh khu nhà, bị ám ảnh bởi hy vọng ngu ngốc là bà ta có
thể sẽ ra tìm tôi... Rồi tôi thuê một buồng ở " Khách sạn bên bờ " và
gọi hai chai Uytki... Mấy chai rượu này và một liều Vêrônan gấp đôi đã
cứu tôi... Cuối cùng, tôi ngủ, một giấc ngủ chập chờn và xao động, một
cuộc tạm nghỉ duy nhất trong cuộc chạy đua giữa cái sống và cái chết.
*
* *
Tiếng chuông tàu ngân lên. Hai tiếng
khô khan, đầy đặn mà nhịp rung kéo dài trong cái ao không khí êm ả và
gần như bất động, rồi dồn xuống phía dưới sống
tàu để hòa với tiếng rì rào không dứt và nhè nhẹ hòa với lời kể chuyện
say sưa của người đàn ông ngồi trong bóng tối trước mặt tôi. Chắc anh ta
khiếp sợ, tiếng anh ta im bặt. Tôi lại nghe thấy bàn tay anh ta sờ
soạng tìm chai rượu cùng tiếng lọc ọc nhẹ. Rồi, như trấn tĩnh lại, anh
ta nói tiếp bằng một giọng quả quyết hơn.
" Tôi khó có thể kể lại cho ngài về
thời gian tiếp sau đó. Hôm nay, tôi cho rằng lúc đó tôi bị sốt, dẫu sao
đi nữa, tôi cũng lâm vào trạng thái bị kích động quá mức, gần với trạng
thái điên. Tôi đã là một Amok như đã nói với ngài. Nhưng ngài đừng quên
rằng tôi tới nơi vào chiều thứ ba, được biết là chồng bà ta đáp tàu
xuyên Đại tây dương từ Yôkôhama sẽ về tới nơi vào ngày thứ bảy. Vậy là
chỉ còn có ba ngày, ba ngày khốn khổ để đi đến một quyết định và để cứu
bà ta. Ngãi hãy hiểu kỹ điều này; tôi biết bà ta cần sự giúp đỡ tức khắc
của tôi, vậy mà tôi không có cách nào nói được một tiếng với bà ta. Hơn
nữa, tôi cần xin lỗi về cách xử sự lố bịch của tôi, về cơn điên cuồng
hung dữ của tôi, điều đó làm tôi càng thêm nóng lòng sốt ruột. Tôi biết
rằng một phút qua đi lúc này quý giá ngần nào, không phải là tôi không
biết đây là vấn đề sống chết đối với bà ta, và tôi không có cách nào đến
gần bà ta được, hoặc nói nhỏ với bà ta một lời, bằng cách nào đó ra
hiệu cho bà ta, bởi vì chính cách xử sự vụng về cũng như rồ dại của tôi
đã làm cho bà ta khiếp sợ. Điều đó... vâng, hãy gượm... điều đó chẳng
khác gì ta lao theo một người nào đó để báo cho người ấy đề phòng một
tên giết người thì người ấy lại coi ta chính là kẻ giết người, và càng
co cẳng chạy thục mạng đến với cái chết... Bà ta chỉ thấy tôi là một
người điên hung dữ chạy theo với ý định làm nhục bà ta, nhưng tôi... đó
là điều phi lý tàn nhẫn của sự đời... tôi không còn nghĩ gì đến điều ấy
nữa... tôi chỉ muốn giúp đỡ bà ta, phục vụ bà ta... Để giúp đỡ bà ta,
tôi có thể phạm tội, có thể giết một sinh mạng... Nhưng bà ta không hiểu
điều đó... Buổi sáng hôm sau, khi vừa thức dậy, tôi chạy ngay đến nhà
bà ta, tên bồi đã đứng trước cửa, cái gã mà tôi đã đấm vào mặt ấy. Trông
thấy tôi từ xa, - chắc là hắn đã chờ tôi - hắn quay ngay vào nhà. Có
thể là chỉ để kín đáo báo tin tôi đến... có thể là... Ôi chao! Điều ngờ
vực đó cho đến hôm nay còn làm tôi đau đớn biết bao... có thể là họ đã
chuẩn bị sẵn sàng cả để tiếp đón tôi... nhưng lúc bấy giờ, khi trông
thấy người bồi, nhớ lại nỗi nhục nhã của tôi, tôi chùn bước không dám
vác mặt đến thăm lần nữa... Đầu gối tôi run lên. Đến đúng trước ngưỡng
cửa thì tôi quay lại và đi ra. Tôi đi ra trong khi có thể là bà ta đang
đợi tôi, cũng dằn vặt như tôi...
" Lúc này tôi không còn biết làm gì
trong cái thành phố xa lạ đó, nơi mà đất như lửa đốt cháy gót chân tôi.
Tôi chợt nảy ra một ý nghĩ gọi xe đưa tôi đến nhà ông phó sứ, vẫn cái
ông mà hồi nọ tôi đã chăm sóc ở trạm. Tôi bảo người nhà báo là có tôi
đến... vẻ ngoài của tôi chắc là kỳ quặc lắm, bởi vì ông ta nhìn tôi xem
ra có ý sợ hãi và thái độ lễ phép của ông ta biểu lộ một mối lo ngại nào
đó... cũng có thể ông ta đã nhận ra tôi là một Amok... tôi nói với ông
ta, bỗng nhiên tôi đâm ra cả quyết, rằng tôi đến xin ông bổ dụng tôi ở
thành phố của ông ra, rằng tôi không thể sống lâu hơn nữa ở nơi kia, ở
trạm của tôi... rằng tôi phải được đổi đi ngay tức khắc... Ông ta nhìn
tôi... Tôi không thể nói với ngài là ông ta nhìn tôi như thế nào, cũng
tương tự như cách một người thầy thuốc xem xét một bệnh nhân... đoạn ông
ta nói:
" - Đấy là một chứng suy nhược thần
kinh, thưa bác sĩ - và tôi hiểu rõ điều đó quá. Chúng tôi sẽ tìm cách bổ
khuyết lại nhưng xin ông chờ cho, cứ nói là bốn tuần lễ nữa, trước hết,
tôi phải tìm cho ông một người thay thế ".
" - Tôi không thể chờ được dù chỉ một ngày " - tôi trả lời - " cái nhìn ngạc nhiên của ông ta lại đè nặng lên tôi.
" - Đành phải vậy thôi, bác sĩ ạ,
không thể để trạm không có thầy thuốc. Nhưng tôi hứa với ông là ngay hôm
nay tôi sẽ làm mọi việc cần thiết ".
" Tôi đứng lại đó, răng nghiến chặt:
đây là lần đầu tiên tôi có ý thức rõ ràng mình là một món hàng bị đem
bán, một kẻ nô lệ. Tôi đã co người lại với một thái độ thách thức, nhưng
ông ta lại khôn khéo và ân cần bảo tôi:
" - Ông sống không giao tiếp với người
đồng chủng, và lâu dần điều đó suy biến thành một thứ bệnh. Chúng tôi,
tất cả chúng tôi đều ngạc nhiên là không thấy ông ra thành phố bao giờ,
không nghỉ phép bao giờ. Ông cần giao du, cần giải trí. Vậy tối nay mời
ông tới dự buổi tiếp tân ở nhà ông thống đốc, ông sẽ gặp mọi nhân viên
thuộc địa ở đấy, nhiều người trong bọn họ rất muốn được làm quen với ông
từ lâu, họ thường hỏi thăm ông và ước mong được gặp ông ở đây ".
" Mấy lời sau cùng này mở cho tôi một
chân trời mới. Người ta thăm hỏi tôi. Có phải bà ta chăng ? Tôi bỗng trở
thành con người khác hẳn. Hết sức lễ phép, tôi cảm ơn ông ta về lời mời
và cam đoan với ông ta là tôi sẽ đến đúng giờ. Và quả thực tôi đã đến
đúng giờ, trước giờ là khác.
" Liệu tôi có phải nói với ngài là sự
nôn nóng khiến tôi là người đầu tiên đến phòng đại lễ của dinh thống đốc
hay không ? Trong một khắc đồng hồ, tôi đã ngồi đó im lặng, xung quanh
là những gia nhân người da vàng chân đất đi lại nhanh nhẹn, toàn thân
lắc lư và trong lúc tâm thần rối loạn, tôi tưởng tượng là họ chế nhạo
tôi ở phía sau lưng. Tôi là người Âu châu duy nhất ở giữa những công
việc chuẩn bị kín đáo này. Tôi trơ trọi đến nỗi nghe thấy cả tiếng tích
tắc của chiếc đồng hồ trong túi áo gilê của mình. Sau cùng, một vài viên
chức chính quyền và gia đình họ đến; rồi ông thống đốc cũng đến, ông ta
lôi cuốn tôi vào một cuộc trò chuyện dài, suốt trong cuộc trò chuyện đó
tôi trả lời ông ta thoải mái và đâu ra đấy, tôi nghĩ vậy, cho đến
lúc... đến lúc bất chợt một cơn xúc động huyền bí làm tôi mất hẳn bình
tĩnh và bắt đầu ấp úng. Mặc dầu lưng tôi quay về phía cửa phòng, tôi
bỗng cảm thấy đúng là bà ta đã bước vào, bà ta nhất định phải có mặt;
tôi không thể nói với ngài sự tin chắc đột ngột đó đã mơ hồ xâm chiếm
lấy tôi như thế nào. Tuy nhiên, tôi vẫn nói chuyện với ông thống đốc,
tiếng nói của ông ta còn vang trong tai tôi mà tôi đã dự đoán được sự có
mặt của bà ta đâu đó phía sau tôi. May sao người đối thoại của tôi kết
thúc câu chuyện, nếu không chắc chắn tôi đã quay phắt lại, não cân tôi
bị dày vò xiết bao bởi sức hấp dẫn huyền bí đó và lòng mong muốn của tôi
cuối cùng sẽ được gặp bà ta mãnh liệt biết chừng nào !
" Và quả thực, tôi vừa quay đầu lại đã
trông thấy bà ta ở đúng chỗ mà tôi bất giác đã cảm thấy. Bà ta mặc bộ y
phục vũ hội màu vàng làm cho đôi vai mảnh mai với đường nét thanh tú
nhuốm màu ngà voi, bà ta đang nói chuyện giữa một nhóm người. Bà ta mỉm
cười, tuy vậy, tôi thấy hình như nét mặt bà có vẻ hơi căng thẳng. Tôi
đến gần - bà ta không thể không trông thấy tôi hoặc không muốn thấy tôi -
và tôi ngắm nhìn nụ cười niềm nở và xinh tươi trên làn môi mỏng hơi
rung động. Nụ cười đó lại làm tôi ngây ngất bởi vì... bởi vì, tôi biết
lắm, đó chỉ là sự dối trá đạt tới mức hoàn hảo nghệ thuật hay khoa học
về cách thức giả tảng. Tôi nghĩ : hôm nay là thứ tư và thứ bảy chồng bà
ta về cùng với chuyến tàu biển... Làm sao bà ta có thể mỉm cười như vậy,
có thể tự tin đến thế, điềm tĩnh đến thế và bàn tay mân mê chiếc quạt
một cách vô tư lự đến thế, chứ không xé tan nó ra trong một cơn lo âu
quằn quại ? Tôi, một kẻ xa lạ, từ hai hôm nay, tôi run lên khi nghĩ đến
chuyện chồng bà ta trở về; tôi, một kẻ xa lạ, tôi sống trong nỗi lo âu
khắc khoải của bà ta, tôi cảm thấy mình đang chịu nỗi khủng khiếp của bà
ta dày vò đến cực độ... Vậy mà bà ta đến đây dự dạ hội nhưng vẫn mỉm
cười, mỉm cười, mỉm cười...
" Phía sau, nhạc bắt đầu nổi lên, cuộc
khiêu vũ mở màn. Một sĩ quan già mời bà ta; bà ngỏ lời xin lỗi các vị
đang tiếp chuyện với mình và, dựa vào cánh tay
của bạn khiêu vũ, lướt qua ngay cạnh tôi để sang phòng bên. Khi bà ta
chợt nhận ra tôi, mặt bà ta bỗng căng thẳng dữ dội - chỉ lâu chừng một
giây thôi - rồi lễ phép nghiêng đầu như người ta vẫn xử sự khi gặp một
người ngẫu nhiên quen biết, (và ngay cả trước khi tôi kịp quyết định
chào hay không chào bà ta) bà ta đã nói : " Chào bác sĩ " và đi khỏi.
Không ai có thể đoán được điều bí ẩn giấu bên trong đôi mắt màu xanh xám
đó, và bản thân tôi, tôi cũng không hiểu nổi. Tại sao bà ta lại chào
tôi ?... Tại sao đột nhiên bà ta nhận ra tôi ?... Đó là cách đối phó hay
cách làm thân, hay chỉ là sự xúc động vì bất ngờ ? Tôi không thể tả
được với ngài tôi bàng hoàng đến mức nào, tất cả trong tôi đều đảo lộn,
đều bị nén chặt, đều sẵn sàng nổ bùng, và thấy bà ta điềm nhiên khiêu vũ
trong tay viên sĩ quan, vẻ vô tư bình thản ngời ngợi trên vầng trán,
trong khi tôi biết rằng bà ta... bà ta cũng như tôi chỉ nghĩ đến chuyện
đó... đến chuyện đó... rằng chỉ có hai chúng tôi ở giữa chốn này biết
chuyện bí mật khủng khiếp ấy mà thôi... Nhìn bà ta khiêu vũ... trong vài
giây, sự lo âu, lòng ham muốn, nỗi kinh ngạc của tôi làm cho niềm say
đắm của tôi mạnh mẽ hơn lúc nào hết. Tôi không biết có ai để ý tôi
không, nhưng chắc chắn rằng qua điệu bộ của tôi, tôi tự tiết lộ còn
nhiều hơn cả mức độ bà ta che giấu - tôi không thể nhìn đi chỗ nào khác
ngoài chỗ có bà ta. Tôi phải... vâng... tôi phải nhìn thấy bà ta; tôi
tập trung toàn lực, từ xa kéo về phía mình chiếc mặt nạ che lấp khuôn
mặt kín đáo của bà ta, xem có thể kéo rơi nó xuống được dù chỉ một giây
đồng hồ hay không ? Cái nhìn chằm chằm của tôi nhất định gây cho bà ta
một cảm giác khó chịu. Lúc bà ta trở lại đi qua gần tôi cùng với ông bạn
nhảy, bà ta nhìn tôi nhanh như chớp, cái nhìn quả quyết và hách dịch
như ra lệnh cho tôi hãy rời khỏi nơi đây; trên vầng trán đã trở nên dữ
dằn của bà ta lại hằn rõ một nếp nhăn nhỏ, cái nếp nhăn giận dữ và kiêu
hãnh mà tôi đã nhìn thấy hôm trước.
" Nhưng mà... nhưng mà... tôi đã nói
với ngài... tôi đã bị nhiễm bệnh Amok và tôi chạy, không nhìn sang bên
phải, không nhìn sang bên trái... tôi hiểu ngay ý bà ta, cái nhìn đó nói
rằng : " Đừng có làm người ta để ý đến ông, ông hãy tự kiềm chế ". Tôi
biết rằng bà ta..., nói thế nào đây ?... Bà ra đòi hỏi ở tôi một cách xử
sự kín đáo ở nơi công cộng này... Tôi cảm thấy rằng nếu đúng lúc ấy tôi
về ngay thì ngày hôm sau tôi có thể chắc chắn được bà ta tiếp... rằng
lúc này, chỉ lúc này thôi, bà ta không muốn bị bêu giếu trước mắt thiên
hạ bởi thái độ suồng sã kỳ quái của tôi, bà ta lo sợ - và lo sợ thật chí
lý - là sự vụng về của tôi có thể gây ra chuyện rắc rối.
" Ngài xem... tôi hiểu hết, tôi hiểu
mệnh lệnh của cặp mắt màu xám của bà ta, nhưng... nhưng trong tôi, một
sức mạnh mà tôi không làm chủ được đã thúc đẩy tôi phải nói với bà ta.
Và tôi lảo đảo tiến về phía nhóm người đang nghe bà ta nói, tôi nhập bọn
một cách tự nhiên (mặc dầu tôi chỉ quen vài người có mặt ở đó) : thì
tôi chỉ cốt được nghe tiếng nói của bà ta thôi mà; tuy nhiên, giống như
một con chó bị đánh, tôi sợ hãi cúi đầu xuống trước luồng mắt của bà ta mỗi khi ánh mắt
đó lướt qua tôi một cách lạnh lùng, làm như tôi chỉ là tấm vải che cửa
mà tôi đang đứng sát vào đó, hay chỉ là làn gió nhẹ lay động tấm màn ấy.
Nhưng tôi không hề nhúc nhích, khao khát được bà ta nói với mình một
tiếng, chờ đợi ở bà ta một dấu hiệu đồng tình; tôi đứng đó như một khối
cẩm thạch, mắt chăm chăm nhìn vào giữa đám người đang trò chuyện. Chắc
hẳn thái độ của tôi đã làm mọi người ngạc nhiên, đúng thế, bởi vì không
ai nói với tôi, và sự có mặt lố bịch của tôi hẳn phải làm bà ta khổ tâm.
" Tôi không biết mình sẽ còn đứng như
thế bao lâu nữa... có lẽ là mãi mãi... tôi không thể bứt mình ra khỏi
cơn mê trói buộc ý chí tôi. Cơn hăm hở quả đã làm cho tôi tê liệt hoàn
toàn... Nhưng bà ta không chịu đựng nổi điều đó lâu hơn nữa... Bỗng
nhiên bà ta quay về phía đám người xung quanh với cái vẻ thanh nhã mê
hồn vốn có và nói : " - Tôi thấy hơi mệt trong người... hôm nay tôi muốn
đi ngủ sớm hơn mọi ngày... xin tạm biệt các vị ! " Bà ta đã đi qua gần
tôi, gật đầu chào tôi với vẻ lễ phép lạnh lùng... Tôi còn kịp nhìn thấy
nếp nhăn trên trán, và rồi chỉ còn tấm lưng, tấm lưng để trần, tươi mát,
trắng trẻo. Một giây sau tôi mới hiểu rõ rằng bà ta đã đi hẳn... rằng
tôi sẽ không gặp bà ta, không thể nói gì với bà ta tối hôm đó nữa, buổi
tối cuối cùng còn hy vọng cứu được bà ta... Thế là phải mất đến một lúc,
tôi còn đứng ngẩn người trước khi hiểu ra sự thực... Lúc ấy... Lúc
ấy...
" Nhưng khoan đã... khoan đã... nếu
không ngài sẽ không hiểu tất cả cái ngu ngốc, cái vô lý trong hành động
của tôi... Trước hết tôi phải tả chính xác để ngài hình dung rõ quang
cảnh phòng tiếp tân... Chúng tôi ở trong phòng đại lễ của dinh thống
đốc; trong căn phòng rộng mênh mông đó chỗ nào cũng sáng trưng và gần
như trống không... Những đôi nam nữ đã sang phòng khiêu vũ, những người
đàn ông đánh bài... chỉ có một
vài nhóm đang trò chuyện trong các góc phòng... Như vậy gian phòng hầu
như trống không... Mỗi cử động đều khiến người ta chú ý, đều lồ lộ dưới ánh đèn...
Bà ta đi xuyên qua chính gian phòng to lớn, rộng rãi đó, bước đi thong
thả và nhẹ nhàng, hai vai nhướn cao, chào đáp lễ ở chỗ này, chỗ khác với
phong thái tuyệt vời khôn xiết tả... vẫn cái vẻ bình thản kiêu kỳ và vẻ
tự chủ lạnh lùng nó đã thu hết hồn tôi... tôi... tôi đã không rời khỏi
chỗ, như vừa nói với ngài, tôi như bị tê liệt trước khi biết là bà ta đã
đi xa... Khi tôi hiểu ra điều đó, bà ta đã ở đầu đằng kia gian phòng,
ngay trước cửa... Lúc ấy... Ồ ! Bây giờ nghĩ lại tôi thấy còn đỏ mặt...
một sức mạnh đột ngột xâm chiếm lấy tôi và tôi chạy theo, ngài có nghe
ra không, tôi không đi mà tôi chạy, tôi chạy theo sau bà ta, ngang qua
gian phòng, tiếng giày cao cổ nặng nề của tôi âm lên. Tôi nghe thấy
tiếng chân tôi, tôi trông thấy mọi con mắt ngạc nhiên đổ dồn theo tôi...
Tôi tưởng có thể chết đi vì xấu hổ được... Tôi vẫn chạy trong khi đã ý
thức được cơn điên rồ của mình... nhưng tôi không thể quay trở lại được
nữa... Tôi đuổi kịp bà ta ở cửa... Bà ta quay lại... Tia mắt màu xám của
bà ta xuyên qua người tôi như lưỡi dao thép, cánh mũi
bà rung lên phập phồng vì tức giận... Tôi vừa ấp úng chực nói thì...
lúc ấy... đúng lúc ấy... đột nhiên bà ta phá lên cười... tiếng cười ròn
rã tự nhiên, thành thực... rồi rành rẽ từng tiếng... rành rẽ đến nỗi mọi
người đều nghe thấy... Bà ta nói : " - A ! Bác sĩ, đến bây giờ ông mới
tìm ra phương thuốc cho con tôi à ?... Thật đúng là những nhà khoa học !
" Mấy người gần đấy thả sức cười... Tôi hiểu... cách xử trí tài tình
của bà ta để gỡ thoát tình huống nguy hiểm khiến cho tôi rối trí... Tôi
lục trong ví và xé một tờ giấy trắng ở cuốn sổ tay đưa cho bà; bà ta thờ
ơ cầm lấy... và không quên nở nụ cười điềm đạm cảm ơn... trước khi
đi... Lúc đầu, tôi cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm... tôi thấy hành động
điên cuồng của tôi đã được sửa chửa, tình thế được cứu vãn nhờ sự bình
tĩnh khác thường của bà ta, nhưng tôi hiểu ngay rằng, đối với tôi, thế
là mất hết, sự điên khùng hung dữ của tôi bây giờ đáng cho người đàn bà
này thù ghét, một sự thù ghét mạnh hơn cái chết... bây giờ tôi có gõ cửa
nhà bà ta đến một trăm lần thì bà ta cũng tống khứ tôi đi như một con
chó...
" Tôi bước đi lảo đảo trong gian
phòng... nhận thấy mọi người nhìn tôi chằm chằm, chắc là trông tôi có vẻ
kỳ dị... Tôi đi đến bàn để đồ uống, uống hai ba, bốn cốc cô-nhắc liên
tiếp... nhờ đó tôi khỏi bị ngất đi... thần kinh tôi không chịu nổi nữa,
như muốn đứt tung ra. Sau đó, như một kẻ phạm tội tôi lẻn ra qua cánh cửa
ngách. Các gì trên đời này tôi cũng không đi xuyên qua gian phòng lần
nữa, nơi dư âm chuỗi cười ròn tan của bà ta như còn đọng lại trên các
bức tường... Tôi bỏ đi... tới một vài quán rượu và lại uống... uống như
một người muốn tìm quên lãng trong cơn say... Tuy nhiên, giác quan tôi
không bị rối loạn... tiếng cười, tiếng cười xé tai và độc ác vẫn còn
trong tôi... tiếng cười đáng nguyền rủa, tôi không sao dập tắt nó
được... rồi tôi lang thang trên bến cảng... khẩu súng lục tôi để ở nhà,
nếu không tôi đã tự sát. Không còn ý nghĩ nào khác, tôi trở về khách
sạn..., vừa đi vừa nghĩ đến ngăn bên trái chiếc rương là nơi để vũ
khí... chỉ một ý nghĩ ấy thôi.
" Tại sao tôi không tự sát ? Tôi thề
với ngài không phải vì tôi hèn nhát... đối với tôi, bóp cò súng thép
lạnh buốt là một giải thoát... nhưng giải thích với ngài điều đó như thế
nào ?... Tôi cảm thấy tôi vẫn còn một nghĩa vụ phải hoàn thành... vâng,
cái nghĩa vụ giúp đỡ, cái nghĩa vụ đáng ghét đó... tôi nghĩ rằng bà ta
có thể cần đến tôi, bà ta cần đến tôi, cái ý nghĩ đó làm tôi phát
điên... Tôi đến đây sáng thứ năm và ngày thứ bảy... như tôi đã nói với
ngài... thứ bảy tàu cập bến và tôi biết rằng người đàn bà ngạo nghễ,
kiêu kỳ đó thà chết còn hơn thú nhận với chồng và thiên hạ sự ô nhục của
mình.
À ! Tôi đã đau khổ biết bao khi nghĩ
đến thời gian quý báu bị phung phí vì thiếu suy nghĩ, đến sự hấp tấp rồ
dại của tôi làm lỡ mất mọi sự giúp đỡ kịp thời... Trong nhiều giờ, vâng,
suốt nhiều giờ, tôi thề với ngài như vậy, tôi đã đi đi lại lại trong
căn phòng tôi ở, suy nghĩ nát óc tìm cách làm thế nào đến gần được bà
ta, sửa chữa sai lầm của mình, cứu bà ta... bởi vì, tôi chắc là bà ta sẽ
không để tôi bước chân vào nhà bà ta nữa. Tiếng cười của bà ta vẫn còn
làm rung chuyển cân não tôi và lúc nào tôi cũng hình dung thấy cơn giận
làm cánh mũi bà ta phập phồng...
Suốt trong nhiều giờ, tôi bước những bước dài khắp căn phòng hẹp vẻn
vẹn ba mét... ngày đã rạng... buổi sáng đến nơi rồi...
" Đột nhiên, tôi đâm nhào đến bên bàn,
rút ra một tập giấy viết thư và bắt đầu viết cho bà ta... viết cho bà
ta một bức thư ai oán như tiếng rên của con chó, trong đó tôi van xin bà
ta tha thứ cho tôi, nói với bà ta rằng tôi là một thằng điên, một tên
tội phạm..., trong đó tôi cầu xin bà ta hãy tin cậy ở tôi... Tôi thề với
bà ta là tôi sẽ đi ngay sau đó, rời khỏi thành phố, khỏi xứ thuộc địa
và nếu bà ta muốn thì tôi sẵn sàng lìa bỏ cả cõi đời này... Điều cần
thiết là bà ta phải ban cho tôi sự tha thứ và lòng tin cậy, phải để tôi
giúp đỡ, lúc này vẫn còn kịp, còn vừa kịp. Tôi viết liền hai mươi
trang... Hẳn là một bức thư điên rồ, huyễn hoặc, mê sảng, bởi vì khi tôi
đứng dậy, người tôi ướt đẫm mồ hôi... Mọi vật quay cuồng xung quanh
tôi, khiến tôi phải uống một cốc nước. Rồi tôi muốn đọc lại bức thư,
nhưng mới được mấy chữ đầu tiên tôi đã run lên... Tôi gập thư lại, vừa
gập vừa run, tôi đã lấy một chiếc phong bì... vừa lúc ấy chân tôi bỗng
sởn gai ốc. Lời nói chân thực, lời nói quyết định thốt nhiên đến với tôi
: Tôi lại cầm bút và viết lên tờ cuối cùng : " Tôi chờ sự tha thứ của
bà ở đây, tại " Khách sạn bên bờ ". Nếu đến bảy giờ không có trả lời,
tôi sẽ tự cho tôi một viên đạn vào đầu ".
" Tôi cầm bức thư, bấm chuông gọi
người hầu, đưa cho anh ta và ra lệnh phải mang gửi ngay lập tức. Cuối
cùng, tôi đã nói hết mọi điều phải nói, tất cả ! "
*
* *
Bên cạnh chúng tôi có tiếng va chạm
của một cái cốc, rồi tiếng ọc ọc. Do một cử động nóng nảy, anh ta đã làm
đổ chai Uytki, tôi nghe tiếng tay anh ta
rờ rẫm dưới sàn
tìm chai, tóm lấy và ném vèo chiếc vỏ chai xuống biển. Tiếng nói của
anh ta ngừng vài phút; rồi, do cảm kích mạnh, anh ta nói tiếp, càng kích
động hơn, hăm hở hơn bao giờ hết :
" Tôi không tin ở thượng đế... theo
tôi, không có thiên đường, cũng không có địa ngục... Và nếu có địa ngục,
tôi cũng không khiếp sợ, vì địa ngục cũng không thể kinh khủng hơn
những giờ tôi đã sống lúc đó, từ quá trưa đến tận chiều tối... Ngài cứ
hình dung một căn buồng nhỏ, bị hun nóng dưới ánh mặt
trời, càng về trưa càng hừng hực như chiếc lò... một căn buồng hẹp kê
một chiếc giường, một chiếc ghế và một cái bàn. Trên bàn chỉ có một
chiếc đồng hồ quả quít và một khẩu súng lục; trước mặt bàn một người đàn
ông... một người đàn ông chỉ có mỗi việc là nhìn cái bàn và kim đồng
hồ... một người đàn ông không ăn, không uống, không hút thuốc, không
động đậy... một người đàn ông lúc nào cũng... suốt ba tiếng đồng hồ...
mắt đóng đinh vào cái hình tròn màu trắng của mặt đồng hồ và chiếc kim
nhỏ quay xung quanh hình tròn đó, vừa quay vừa kêu tích tắc. Tôi đã trải
qua cái ngày đó như vậy, tôi đã chờ đợi như vậy, chờ đợi, chờ đợi...
như một Amok, không suy nghĩ, trong tình trạng thú vật, với sự bướng
bỉnh điên cuồng, chỉ nhìn thẳng phía trước mặt mình do một cơn ám ảnh.
" Tôi sẽ không tả cho ông nghe về
những giờ đó... không thể nào tả được... bản thân tôi cũng không hiểu
nổi vì sao có thể sống những giờ phút như thế mà không... không hóa
điên... Vậy là... đến hai giờ hai mươi phút... đúng hai giờ hai mươi
phút... mắt tôi đang nhìn đồng hồ... bỗng có tiếng gõ cửa... tôi lao
ra... như một con hổ vồ mồi; nhảy phắt một bước qua gian phòng, tới cửa
và hối hả mở cửa ra... một thằng bé người Trung Hoa đứng lấp ló bên
ngoài, tay cầm một mẩu giấy, tôi háo hức vồ lấy mảnh giấy; vừa lúc thằng
bé nhảy phốc một cái và biến ngay.
" Tôi cuống quít giở mảnh giấy ra,
muốn đọc... nhưng không đọc được. Tất cả đều rung rinh, tất cả đều đỏ
lòm trước mắt tôi... Ngài hãy tưởng tượng nỗi đau đớn của tôi, cuối
cùng, cuối cùng, tôi đã có trong tay những lời mà tôi chờ đợi ở bà
ta..., vậy mà giờ đây mọi vật rung rinh và nhảy nhót trước mắt tôi...
Tôi nhúng đầu vào nước... Lúc này tôi nhìn rõ hơn... Tôi cầm lấy mẩu thư
và đọc : " - Chậm quá rồi. Nhưng ông cứ chờ ở nhà, có thể tôi sẽ còn
nhờ đến ông ".
" Không có chữ ký trên mảnh giấy nhàu
nát xé từ một tờ quảng cáo cũ nào đó... những nét gạch nhanh nguệch
ngoạc bằng bút chì thuộc loại chữ viết vững hơn vào lúc bình thường...
Không biết vì sao tôi cảm thấy xúc động đến thế trước mẩu thư... Nó có
cái gì huyền bí và khủng khiếp, hình như được viết trong khi chạy trốn,
người viết đứng trên bậu cửa sổ hay trên xe... Một cái gì không thể tả
nổi, tạo nên bởi nỗi lo âu, sự hối hả, nỗi khiếp sợ toát ra từ mảnh giấy
ấy khiến tâm hồn tôi lạnh giá... tuy vậy... tuy vậy, tôi vẫn thấy sung
sướng; bà ta đã viết cho tôi, tôi chưa được chết, tôi còn có thể giúp bà
ta... có lẽ... tôi có thể...
" Ôi ! Tôi hoàn toàn chìm đắm trong
những điều phỏng đoán và những hy vọng điên cuồng nhất... tôi đã đọc lại
mẩu thư hàng trăm, hàng ngàn lần... tôi áp nó lên môi... tôi đã xem xét
nó, cố tìm một tiếng bị bỏ quên, bỏ sót... mộng tưởng của tôi mỗi lúc
một sâu sắc hơn, rắc rối hơn, có hình thái hoang tưởng của giấc ngủ mở
mắt... một thứ bệnh tê liệt, một trạng thái nửa tỉnh, nửa mê kéo dài có
lẽ nhiều khắc, có thể nhiều giờ...
" Đột nhiên, tôi giật mình hoảng
hốt... Phải chăng có tiếng gõ cửa ? Tôi nín thở..., một phút, hai phút
im lặng tuyệt đối... Lại nghe thấy rất khẽ như tiếng gặm của một con
chuột nhắt, một tiếng nhỏ nhẹ nhưng nhanh gấp... Đầu óc vẫn còn mụ mẫm,
tôi lao ra cửa và mở giật ra... Bên ngoài, tôi thấy người bồi, người bồi
của bà ta, người mà tôi đã đấm cho tối tăm mặt mũi... bộ mặt nâu sạm
của hắn ngả màu tro xám, cái nhìn bối rối của hắn báo hiệu điều bất
hạnh... Lập tức tôi linh cảm thấy tấm thảm kịch khủng khiếp... : " Gì
vậy ? Chuyện gì đã xảy ra ? "Tôi lắp bắp một cách khó nhọc. " - Come
quickly (5) ". Hắn nói. Không thêm một tiếng... Tức thì tôi lao xuống
cầu thang bốn bậc một, người bồi theo sau... Một chiếc xe con, chiếc
sađô chờ sẵn, chúng tôi lên xe... " Có chuyện gì xảy ra ? " Tôi hỏi hắn.
Hắn run rẩy nhìn tôi và lặng im, môi mím chặt... Tôi hỏi lại lần nữa -
hắn không trả lời... Tôi sẵn sàng lại giáng một cú đấm vào mặt hắn,
nhưng... lòng trung thành của hắn đối với bà ấy như chó đối với chủ làm
tôi cảm động... và tôi không hỏi hắn thêm câu nào nữa... chiếc xe con
lao vội vã qua phố xá đông đúc làm mọi người vừa tránh dạt
ra vừa chửi rủa; xe lao như chớp từ dãy phố người Âu ở ven biển vào khu
đô thị thấp và xa hơn, rất xa lọt vào quang cảnh hỗn độn ồn ào của khu
phố người Hoa... Cuối cùng, chúng tôi đi theo một ngõ hẽm
hoàn toàn biệt lập... chiếc sađô dừng lại trước một căn nhà lụp sụp...
căn nhà bẩn thỉu và như co quắp lại. Phía trước là một cửa hàng thắp nến
sáng... một trong những tiệm chứa chấp những ổ hút thuốc phiện hay nhà
thổ, ổ quân trộm cắp hoặc oa trữ... Người bồi gõ cửa liên hồi... có
tiếng thì thào hỏi đi hỏi lại từ phía trong lọt qua khe cửa. Tôi không
kiên nhẫn được nữa, tôi nhảy ra khỏi xe, đẩy mạnh cánh cửa
còn hé mở... Một bà già người Hoa vừa bỏ chạy vừa lẩm bẩm... người bồi
theo tôi, dẫn tôi qua hành lang... mở một chiếc cửa khác... thông vào
một gian phòng tối om đầy mùi cồn và mùi máu đông... Có tiếng rên rỉ
vọng lên trong đó... tôi dò dẫm tiến về phía trước.
*
* *
Tiếng kể chuyện lại ngừng. Và điều tôi nghe thấy sau đó giống như tiếng thổn thức hơn là lời nói :
" Tôi dò dẫm tiến về phía trước... và ở
đó... trên một chiếc chiếu bẩn thỉu... ở đó, một cái gì như thân người
nằm rên rỉ quằn quại đau đớn... bà ta nằm đó... Tôi không thể nhìn rõ
mặt bà ta trong bóng tối... mắt tôi chưa quen... vậy là tôi chỉ rờ
rẫm... tôi chạm vào bàn tay bà ta... nóng rừng rực... đang cơn sốt, sốt
cao... và tôi bủn rủn cả người... Ngay tức khắc, tôi biết hết... bà ta
trốn tôi tới đây... để cho một mụ người Hoa kinh tởm nào đó hủy hoại
thân thể mình, chẳng qua là bà ta cho rằng ở đây kín đáo hơn... bà ta
thà để cho một mụ phù thủy của quỷ dữ giết hại còn hơn là nhờ cậy tôi...
bởi vì, tôi... Lúc ấy đã rồ dại quá..., tôi đã không nương nhẹ tính
kiêu hãnh của bà ta, đã không giúp đỡ bà ta ngay tức khắc... bởi vì bà
ta còn sợ tôi hơn cả thần chết...
" Tôi lớn tiếng gọi lấy đèn, người bồi
chạy vội đến : mụ người Hoa ghê tởm, tay run run mang ra một chiếc đèn
dầu khói um... Tôi phải nén lòng để khỏi nhảy xổ lên bóp cổ con mụ khốn
nạn ấy... Họ đặt đèn trên bàn. Một làn ánh sáng
vàng vọt tỏa xuống, tấm thân bị đày đọa... Đột nhiên... đột nhiên bao
nhiêu bối rối, bao nhiêu tức giận, tất cả những cặn bã dơ bẩn của dục
vọng dồn ứ lại từ trước... tất cả đều biến mất... tôi chỉ còn là một
người thầy thuốc, một người của nghĩa vụ, của tư tưởng, của khoa học...
tôi quên hẳn bản thân mình... với tất cả sự sáng suốt của các giác quan
và của trí tuệ, tôi đấu tranh chống lại " điều đáng ghê sợ đó ".
Tấm thân trần truồng mà tôi đã ao ước
thèm muốn lúc ấy chỉ còn là... diễn đạt điều này thế nào nhỉ ?... Chỉ
còn là vật chất và cơ thể... lúc ấy, không phải là bà ta ở trước mặt
tôi, mà là sự sống đang chống cự với cái chết, một con người đang quằn
quại giữa những cơn đau thập tử nhất sinh... Máu của bà ta, những giọt
máu nóng và cao quý của bà ta ngập ngụa tay tôi, nhưng điều đó không
khêu gợi trong tôi sự thèm muốn hay kinh hãi... tôi chỉ là một người
thầy thuốc... tôi chỉ thấy sự đau đớn... và tôi thấy...
" Tôi thấy ngay rằng không còn hy vọng
gì nữa nếu không có một phép lạ nào diễn ra... bàn tay vụng về và tội
lỗi đã làm bà ta thương tổn và bà ta đã mất đến một nửa khối lượng máu,
thế mà trong cái lỗ hôi thối này tôi không có một thứ gì để cầm máu, kể
cả nước sạch... tất cả những gì tôi sờ đến đều cáu bẩn...
" - Ta phải đưa vào bệnh viện ngay lập
tức », tôi nói. Nhưng tôi vừa thốt lên những tiếng đó thì cái thân hình
bị dày vò đau đớn vùng ngay dậy trong cơn co quắp : " - Không...
không... thà chết... không ai được biết việc này... Không ai... Về ngay
nhà tôi... nhà tôi... "
" Tôi hiểu bà ta không muốn đấu tranh
để bảo tồn sự sống nữa, mà để giữ bí mật, cứu vớt danh dự của mình... Và
tôi tuân theo... Người bồi mang ra một chiếc băng ca, chúng tôi đặt bà
ta nằm lên đó... và như vậy... đã giống một xác chết, kiệt sức và mê
sảng... chúng tôi khiêng bà ta đi trong đêm... về nhà bà... tránh những
gia nhân tò mò và hoảng hốt... cứ như những tên ăn cắp, chúng tôi mang
bà ta vào phòng và đóng cửa lại... Rồi... rồi cuộc vật lộn bắt đầu, cuộc
vật lộn lâu dài chống chọi với cái chết... ".
*
* *
Đột nhiên, một bàn tay nắm chắc lấy cánh tay
tôi đến mức tôi suýt kêu lên vì khiếp sợ và đau đớn. Trong bóng tối,
khuôn mặt người đàn ông bỗng kề sát mặt tôi, nhăn nhó; thình lình tôi
nhìn thấy hàm răng trắng của anh ta nhe ra, tôi nhìn thấy đôi mắt kính
của anh ta lấp lánh như đôi mắt mèo to tướng trong ánh phản chiếu nhợt nhạt của mặt trăng. Và bây giờ, anh ta không nói nữa, mà gần như rú lên trong cơn thịnh nộ :
" Ngài có biết không, hỡi con người xa
lạ đang ngồi hoàn toàn yên tĩnh trên chiếc ghế của mình, con người đi
khắp thiên hạ như nhàn du, ngài có biết cái chết của một con người diễn
ra như thế nào không ? Ngài đã chứng kiến cảnh tượng ấy bao giờ chưa ?
Ngài đã nhìn thấy một thân hình co quắp bao giờ chưa, những móng tay tím
ngắt bắt chuồn chuồn, chân tay co giật, các ngón tay cứng lại cố chống
cự với cái phút cuối cùng đáng sợ ? Đã bao giờ ngài nghe thấy tiếng thở
ra ghê rợn, nhìn thấy trong cặp mắt lồi nỗi khiếp sợ mà không lời nào
lột tả được hay không ? Ngài đã nhìn thấy những điều đó chưa, hỡi con
người ăn không ngồi rồi, hỡi con người đi hành hương khắp thế giới, con
người đã nói về sự cứu giúp như một nghĩa vụ ? Làm thầy thuốc, tôi
thường nhìn thấy cái chết, tôi nhìn cái chết như là... như là một ca lâm
sàng, một sự kiện, có thể nói là tôi đã nghiên cứu nó - nhưng, với tư
cách một con người, tôi mới nhìn thấy cái chết có một lần, chỉ đến lúc
đó, đêm hôm đó tôi mới cảm nhận được cái chết, mới chia sẻ nỗi rùng rợn
của cái chết lần đầu tiên... Suốt trong cái đêm khủng khiếp đó, tôi ngồi
trên ghế suy nghĩ nát óc để khám phá, tìm tòi và sáng chế ra cái gì mà
có thể cầm lại được dòng máu vẫn cứ đang tuôn ra, tuôn ra và đang tuôn
ra, cầm cự với cái chết đang mỗi lúc một đến gần mà tôi không thể nào
xua đuổi ra khỏi giường nằm của bà ta được. Ngài có hiểu thầy thuốc
nghĩa là thế nào không : phải biết tất cả về đủ các loại bệnh tật, có
nghĩa vụ cứu chữa, như ngài đã nói rất đúng, thế mà chịu bất lực bên đầu
giường của một người đàn bà đang hấp hối, biết mà không làm gì được...,
biết một điều, cái điều kinh khủng, đó là anh không thể cứu chữa gì
được, ngay cả nếu như anh có khả năng bứt tất cả các mạch máu của anh ra
khỏi cơ thể... nhìn thấy dòng máu tội nghiệp cứ băng ra từ một cơ thể
thân yêu, nhìn thấy cái cơ thể ấy bị phó mặc cho cơn đau đớn hành hạ,
cảm thấy mạch đập gấp và cùng lúc ấy ngừng hẳn lại... lặn hẳn đi dưới ngón
tay anh... Là thầy thuốc và bất lực, bất lực, bất lực... ngồi đấy và
lẩm bẩm một lời cầu nguyện nào đó như một mụ già sùng đạo trong nhà thờ,
rồi lại nắm tay hăm dọa một Thượng đế thảm hại mà ta biết rõ là không
hề có thật... Ngài có hiểu điều đó hay không ? Còn tôi... chỉ có một
điều duy nhất mà tôi không hiểu, làm sao... làm sao người ta không chết
quách đi trong những lúc như vậy... làm sao đến sáng hôm sau người ta
vẫn thức dậy, đứng lên, đi đánh răng,
thắt cà vạt... làm sao người ta còn có thể sống nổi một khi đã trải qua
cái mà tôi đã trải qua lúc đó, khi người ta đã nhìn thấy như tôi đã
nhìn thấy hơi thở của con người đầu tiên mà ta đấu tranh và chiến đấu vì
con người đó và ta muốn đem toàn bộ sức lực của tâm hồn mình ra sức giữ
người đó lại..., cái hơi thở đó cứ trôi tuột qua các kẽ ngón tay
mình... vào cõi hư vô, trôi mỗi lúc một nhanh, từng phút một, trong khi
cái đầu óc nóng hầm hập của ta không tìm được cách gì để giữ lại sinh
mạng cho con người mà mình yêu thương...
" Đã thế, quái ác thay, nỗi đau khổ
của tôi càng tăng lên gấp bội vì điều này nữa... Trong khi tôi còn ở đầu
giường bà ta - tôi đã chích cho bà ấy một mũi moóc-phin để làm dịu cơn
đau và tôi nhìn bà ta nằm nghỉ với đôi má nóng bừng, nóng bừng và tái
mét - vâng... trong khi tôi ngồi như vậy, tôi cảm thấy phía sau tôi hai
con mắt không ngừng nhìn tôi chằm chằm, cái nhìn chằm chằm khủng
khiếp... Người bồi ngổi xổm dưới đất
và lẩm bẩm cầu nguyện cái gì không rõ... Khi mắt tôi bắt gặp mắt hắn...
không, không thể tả được điều đó... có cái gì thật là cầu khẩn, thật là
biết ơn hiện rõ trong ánh mắt
của hắn như cái nhìn của con chó trung thành và đồng thời hắn giơ tay về
phía tôi như thể tôi là Thượng đế... tôi, một kẻ bất lực đáng thương đã
biết rằng hết hy vọng rồi... và có ý thức rằng bản thân mình ở đây cũng
vô ích như một con kiến loay hoay trên mặt đất... Ôi chao ! Cái nhìn
đó, nó vò xé tôi biết bao, cái hy vọng cuồng tín đó, cái hy vọng mù
quáng trông đợi ở trình độ khoa học của tôi... tôi muốn chửi rủa, chà
đạp con người tội nghiệp đó, hắn làm tôi đau khổ quá... vậy mà tôi lại
cảm thấy hai chúng tôi gắn bó với nhau biết bao nhiêu vì tấm lòng yêu
thương đối với bà ta... vì điều bí mật... Hắn ở ngay sau tôi đứng im như
khúc gỗ thu mình lại như con thú rình mồi... Tôi vừa bảo hắn lấy một
vật gì là hắn nhảy vội trên đôi chân đất đi lấy và run rẩy đưa cho
tôi... nóng lòng chờ đợi, y như là vật đó nhất định phải chữa được...
cứu chữa được bà ta... Tôi biết hắn sẵn sàng rạch các mạch máu ra để lấy
máu tiếp cho bà ta... người đàn bà ấy là như vậy đó, uy lực của bà ta
đối với đàn ông là như vậy đó... thế mà tôi..., không có khả năng cứu
lấy dù chỉ là một chút máu cho bà ta... Ôi ! Đêm ấy, cái đêm khủng khiếp
ấy, cái đêm vô tận giữa sự sống và cái chết !
" Đến gần sáng, bà ta còn tỉnh lại một
lần nữa... bà ta mở mắt... đôi mắt không còn vẻ gì là kiêu kỳ lạnh lùng
nữa, mà bây giờ bừng bừng cơn sốt... khi cặp mắt hơi mờ đi và ngỡ ngàng
dò dẫm khắp gian phòng. Rồi bà ta nhìn tôi : có vẻ như suy nghĩ, cố
nhận ra tôi... và bỗng... tôi nhận thấy..., bà ta nhớ ra... bởi vì sự sợ
hãi, sự kháng cự..., một vẻ gì... một vẻ gì như hằn học, như hãi hùng
làm nét mặt bà ta căng ra... bà cựa quậy cánh tay
như muốn chạy trốn... chạy cho xa, xa, thật xa tôi... tôi thấy, bà ta
nghĩ đến " điều đó "... đến cái lúc tôi chạy theo bà ta. Nhưng rồi sau
khi suy nghĩ... bà ta nhìn tôi bình tĩnh hơn, thở một cách khó nhọc...
tôi cảm thấy bà ta muốn nói, nói điều gì đó... bàn tay bà ta bắt đầu
cứng lại... bà ta như muốn ngồi dậy nhưng không đủ sức... Tôi giúp cho
bà trấn tĩnh lại và cúi xuống gần... Lúc ấy, đôi mắt đau khổ của bà nhìn
trân trân vào tôi một lúc lâu... cặp môi khẽ mấp máy... tiếng nói của
bà ta chỉ còn là một âm thanh cuối cùng đang lịm tắt khi bà nói :
" - Sẽ không một ai biết ? Không một ai ?
" - Vâng, sẽ không một ai " - tôi nói
hết sức cả quyết. Tôi cam đoan với bà ta như vậy. Nhưng mắt bà ta vẫn lộ
vẻ lo ngại... cặp môi nóng bỏng vì sốt, bà ta cố thều thào thốt lên mấy
lời :
" - Ông hãy thề với tôi đi... Không một ai biết cả... thề đi ".
" Tôi giơ tay lên như tuyên thệ. Bà ta
nhìn tôi... cái nhìn không tả nổi, dịu dàng, ấm áp, biết ơn... thực sự
biết ơn... Bà còn muốn nói thêm điều gì nữa, nhưng khó khăn quá. Bà ta
nằm duỗi dài một lúc lâu, mắt nhắm nghiền, hoàn toàn kiệt sức sau cố
gắng đó.
" Rồi cái việc ghê rợn, thảm khốc bắt
đầu... suốt một giờ, một giờ khủng khiếp, bà ta còn chống chọi mãi đến
sáng mới chấm dứt... "
*
* *
Anh ta ngừng kể. Tôi chỉ nhận ra điều
đó khi trên boong tàu vang lên trong yên lặng một, hai, ba tiếng chuông
rắn đanh : ba giờ sáng. Trăng đã mờ đi, nhưng một thứ ánh sáng
khác màu vàng đã run rẩy chập chờn trong không trung và thỉnh thoảng
làn gió hiu hiu thoảng qua. Nửa giờ, lại một giờ, ngày đã rạng, ánh sáng
trong trẻo đã xóa nhòa bình minh xám nhạt. Tôi thấy rõ nét mặt anh ta -
lúc này bóng tối tỏa xuống đã bớt dầy đặc, bớt tối đen ở góc chúng tôi
ngồi - anh ta đã bỏ mũ ra, phía dưới cái
đầu hói, nét mặt đau khổ của anh ta trông lại càng đáng sợ hơn nữa.
Nhưng cặp kính lóe sáng đã quay lại phía tôi, người anh ta cứng lại và
tiếng nói lại cất lên, chua chát và sắc sảo :
" Với bà ta thế là hết, nhưng đối với
tôi thì chưa xong. Tôi ở một mình bên xác chết, và hơn nữa, một mình
trong ngôi nhà xa lạ, một mình trong một thành phố không một sự bí mật
nào giữ nổi, mà tôi... tôi lại phải giữ kín một điều bí mật... Vâng,
ngài hãy hình dung cho rõ tình thế lúc ấy : một phụ nữ thuộc xã hội
thượng lưu của xứ thuộc địa, khỏe mạnh hoàn toàn, mới chiều tối hôm
trước còn dự cuộc khiêu vũ ở nhà ông thống đốc và rồi bây giờ chết đột
ngột trên giường nhà mình... Cạnh bà ta là một ông thầy thuốc lạ, mà cứ
cho là đầy tớ của bà ta tuồng như đã mời đến đi... Không có gia nhân nào
trông thấy ông ta bước vào nhà, không ai biết ông ta từ đâu đến... bà
ta được khiêng về trên một chiếc cáng lúc ban đêm, rồi người ta đóng hết
cửa lại... và sáng ra bà ta đã chết rồi... Mãi đến lúc ấy, người ta mới
gọi gia nhân và bỗng chốc gian nhà đầy tiếng kêu la... trong nháy mắt,
hàng xóm láng giềng đều rõ chuyện, cả thành phố đều biết tin... Và ở đấy
chỉ có một người gánh trách
nhiệm giải thích mọi sự... đấy là tôi, một người xa lạ, thầy thuốc ở một
trạm xa xôi... Tình thế thú vị quá, phải không ?... Tôi biết rõ mối
hiểm họa đang đe dọa tôi. May mà tôi còn có người ngồi ở bên cạnh, anh
chàng tốt bụng hiểu được từng cái nhìn của tôi - anh ta cũng vậy, anh
chàng da màu đó, ngu ngốc như một con vật, cũng hiểu là còn phải đương
đầu với một cuộc đấu tranh khác. Tôi chỉ nói với anh ta : " Bà chủ muốn
không một ai được biết những gì đã xảy ra ". Mắt anh ta nhìn chòng chọc
vào mắt tôi, đôi mắt ướt của con chó trung thành, nhưng lại lộ rõ sự quả
quyết : " Yes, sir (6) ", anh ta chỉ nói có thế. Nhưng anh ta đi lau
sạch các vết máu trên sàn nhà, cố sắp xếp mọi thứ cho thật ngăn nắp - và
chính lòng quả quyết của anh ta giúp tôi lấy lại sự cương quyết của
mình.
" Trong đời tôi chưa bao giờ tôi tập
trung được một nghị lực đến như vậy; cái nghị lực đó cũng không bao giờ
trở lại với tôi nữa. Khi người ta đã mất hết, người ta đấu tranh như một
kẻ tuyệt vọng để cứu vớt những cái cuối cùng còn sót lại - ở đây là lời
trăn trối của bà ta, điều bí mật của bà ta. Tôi tiếp mọi người thật
điềm tĩnh, kể lại cho tất cả mọi người câu chuyện bịa đặt : người bồi
được bà ta bảo đi mời thầy thuốc đã ngẫu nhiên gặp tôi trên đường như
thế nào. Nhưng trong khi nói chuyện, cố làm ra vẻ bình tĩnh, tôi vẫn
chờ... luôn luôn chờ đợi con người mà tất cả đều tùy thuộc vào ông ta...
người thầy thuốc có trách nhiệm đến khám nghiệm tử thi trước khi chúng
tôi có thể đóng chặt quan tài, giữ người chết và điều bí mật của bà ta
trong đó... Hôm ấy là thứ năm... ngài đừng quên điều đó, và thứ bảy
chồng bà ta về.
" Cuối cùng, lúc chín giờ, tôi được
tin thầy thuốc của chính quyền đã đến. Tôi đã cho mời ông ta - ông ta là
thượng cấp của tôi, đồng thời là địch thủ của tôi, đó chính là ông bác
sĩ mà bà ta đã nói tới với thái độ rất đỗi khinh miệt, và đương nhiên,
ông ta đã biết việc tôi xin thuyên chuyển. Mới thoạt nhìn tôi đã cảm
thấy ngay ông ta là kẻ thù của tôi. Nhưng chính vì vậy mà sức lực tôi
mạnh thêm.
" Trong phòng đợi, ông ta đã hỏi tôi :
" - Bà... - ông ta nói tên bà ta - chết vào lúc nào " ?
" - Lúc sáu giờ sáng ".
" - Bà ấy cho tìm ông lúc nào ? "
" - Lúc mười một giờ đêm ".
" - Ông có biết tôi là thầy thuốc của bà ấy không ? "
" - Có, nhưng thời gian gấp quá... vả lại... người quá cố cứ nhất mực cho tìm tôi. Bà ta cấm không được gọi thầy thuốc khác ".
" Ông ta nhìn tôi chằm chằm : khuôn
mặt xanh xao và hơi phị thoáng ửng đỏ; tôi thấy ông ta đang nổi sung. Đó
chính là điều tôi cần - tất cả nghị lực của tôi được tung ra nhằm mục
đích đi đến một quyết định nhanh chóng, bởi vì tôi biết rằng thần kinh
của tôi không cầm cự được lâu hơn nữa. Ông ta toan trả lời với giọng hằn
học, nhưng rồi lại nói bằng giọng hững hờ :
" - Nếu như ông nghĩ rằng ông có thể
không cần đến tôi thì dẫu sao nghĩa vụ theo pháp luật của tôi là khám
nghiệm tử thi... và tìm hiểu cái chết đã xảy ra như thế nào ? "
" Tôi không trả lời, cứ để ông ta tiến
lên. Rồi tôi lùi lại, khóa cửa và để chìa khóa lên bàn. Ông ta nhướn
cao đôi lông mày tỏ vẻ ngạc nhiên :
" - Như thế nghĩa là thế nào ? "
" Tôi thản nhiên ngồi trước mặt ông ta :
" - Đây không phải là vấn đề xác định
nguyên nhân cái chết... mà là... tìm một cớ khác. Người đàn bà này đã
mời tôi đến chăm sóc cho bà ta... sau ca phẫu thuật tai hại... Tôi đã
không cứu nổi bà ta, nhưng tôi đã hứa sẽ cứu vãn danh dự cho bà ta, tôi
sẽ giữ lời hứa. Và tôi yêu cầu ông giúp đỡ tôi trong việc này.
" Ông ta tròn mắt ngạc nhiên.
" - Phải chăng bỗng dưng ông muốn rằng
- ông ta ấp úng - tôi, một thầy thuốc của chính quyền lại đi lấp liếm ở
đây một tội ác ? "
" - Đúng, tôi muốn như vậy, tôi buộc lòng phải mong muốn như vậy.
" - Để che dấu tội ác của ông, tôi sẽ phải... "
" - Tôi đã nói với ông là tôi không hề
đụng đến người đàn bà này. Nếu không... nếu không tôi đã không còn ở
đây trước mặt ông... nếu không tôi đã kết liễu đời tôi lâu rồi. Bà ta đã
đền tội - nếu ông muốn gọi sự việc đó như vậy - mà thiên hạ không cần
biết gì về điều đó. Và bây giờ tôi sẽ không tha thứ nếu như danh dự
người đàn bà này bị bội nhọ một cách vô ích ".
" Giọng nói cương quyết của tôi chỉ tổ làm ông ta thêm tức giận :
" - Ông sẽ không dung thứ ? A! Chắc là
ông đã trở thành cấp trên của tôi... hay ít ra ông cũng tưởng là như
vậy... vậy ông thử ra lệnh cho tôi đi... Tôi đã nghĩ ngay rằng đằng sau
chuyện này hẳn phải có điều gì xấu xa bẩn thỉu người ta mới triệu được
ông ra khỏi cái hang của ông... Bước khởi đầu của ông như thế thật là
đẹp mặt... quả là một mẫu mực hay ho về sự lành nghề của ông... Nhưng
bây giờ tôi sẽ tiến hành cuộc điều tra và ông có thể tin rằng một bản
tường trình ký tên tôi sẽ đúng sự thực. Không bao giờ tôi ký tên dưới một lời dối trá ".
" Tôi hoàn toàn bình tĩnh :
" - Có chứ... trong trường hợp này ông sắp làm điều đó. Bởi vì nếu không, ông sẽ không thể yên ổn rời khỏi gian phòng này.
Tôi thò tay vào túi - tôi không mang theo khẩu súng ngắn. Ông ta rùng mình. Tôi tiến một bước về phía ông ta và nhìn ông ta :
" - Ông nghe đây, tôi sẽ nói với ông
hai tiếng... để khỏi đi đến chuyện cực đoan. Đời tôi không có nghĩa lý
gì hết đối với bản thân tôi... đời một kẻ khác cũng chẳng hơn gì - tôi
đã đến nước này... Điều duy nhất tôi cần là : giữ lời hứa làm sao cho
căn do của cái chết này mãi mãi là điều bí mật... Ông nghe đây : tôi lấy
danh dự nói với ông rằng, nếu ông chứng thực là người đàn bà này... bị
chết đột ngột, tôi sẽ rời bỏ thành phố và vùng Ấn Độ ngay trong tuần lễ
này... rằng nếu ông yêu cầu, tôi sẽ dùng súng tự sát ngay khi quan tài
đã nằm trong lòng đất, mang theo cùng với tôi sự bảo đảm chắc chắn rằng
không kẻ nào... ông hiểu chứ... không kẻ nào có thể phanh phui được sự
việc. Đối với ông như thế là đủ, tôi nghĩ vậy, - điều đó đối với ông
phải là đủ lắm rồi ".
" Giọng nói của tôi hẳn có vẻ gì dọa
dẫm đáng sợ, bởi vì vừa lúc tôi bất giác tiến về phía ông ta, ông ta đột
nhiên lùi lại, như bị uy hiếp bởi nỗi khủng khiếp làm mọi người chạy
trốn trước một Amok lúc hắn vừa chạy vừa khoa dao găm lên một cách hung
dữ... Và bỗng nhiên ông ta biến thành một con người khác... ỉu xìu và tê
liệt, có thể nói như vậy... thái độ khăng khăng của ông ta biến mất
hẳn. Để bày tỏ sự chống đỡ cuối cùng rất yếu ớt, ông ta thì thầm :
" - Như vậy là lần đầu tiên trong đời,
tôi sẽ ký một giấy xác nhận giả mạo... cuối cùng ông đã tìm ra được một
cách... ông thừa biết như vậy là... Nhưng tôi không thể... ngay lúc
đầu...
" - Chắc chắn là ông không thể, tôi
nói để ông ta yên lòng hơn - (Nhanh lên ! Nhanh lên ! Mạch máu hai bên
thái dương tôi giần giật) - nhưng hiện giờ khi ông biết rằng ông sẽ chỉ
sỉ nhục một người còn sống và phạm một điều kinh khủng đối với người đã
chết, chắc chắn là ông không còn chần chừ gì nữa ".
" Ông ta gật đầu ưng thuận. Ông ta và
tôi lại gần chiếc bàn. Trong vài phút bản xác nhận đã làm xong (đấy
chính là văn bản sau đó đã được đăng trên báo, và theo đó thì cái chết
là do chứng trụy tim). Rồi ông ta đứng dậy và nhìn tôi :
" - Ông đi ngay trong tuần lễ này chứ ? "
" - Tôi đã hứa với ông rồi mà."
" Ông ta lại nhìn tôi. Tôi nhận thấy ông ta muốn tỏ ra cương quyết và thực tế:
" - Tôi cho lấy quan tài ngay đây ". - Ông ta nói để che giấu nỗi bối rối của mình.
" Nhưng, ở tôi lúc ấy có một vẻ gì
đáng lo ngại ghê gớm chăng ? Đột nhiên, ông ta giơ tay bắt tay tôi, tỏ
ra thân tình một cách bất ngờ :
" - Mong ông vượt qua được cảnh ngộ này ". - Ông ta nói.
" Tôi không hiểu ông ta muốn nói gì.
Tôi ốm chăng ? Hay là tôi điên ? Tôi tiễn ông ta ra cửa, tôi mở cửa, -
nhưng tôi chỉ còn đủ sức đóng cửa lại sau lưng ông ta.
" Tiếp đó, thái dương tôi lại giần
giật, tất cả đều chập chờn quay cuồng trước mặt tôi, và tôi đổ vật xuống
ngay trước giường của bà ta... như là... như là một Amok đến lúc kết
thúc cuộc chạy, đã gục xuống, thần kinh rệu rã, bất tỉnh.
*
* *
Anh ta lại ngừng tiếng. Tôi rùng mình :
phải chăng đó là do làn gió sớm mai thổi nhẹ bên trên con tàu ? Nhưng
trên khuôn mặt đau đớn của anh ta lúc này đã hiện lên mờ mờ, dưới ánh sáng ban ngày lại lộ rõ vẻ căng thẳng.
" Tôi nằm dài trên chiếc chiếu như vậy
bao nhiêu lâu ? Tôi không biết rõ. Sau đó, tôi cảm thấy có người chạm
vào tôi. Tôi vùng trở dậy. Trước mặt tôi là người bồi, vẫn dút dát và
tận tụy như mọi khi. Cặp mắt lo lắng của anh ta nhìn không chớp vào mắt
tôi :
" - Có người muốn vào... muốn gặp bà... anh ta nói.
" - Không ai được vào cả.
" - Thưa vâng... nhưng...
" Cái nhìn của anh ta lộ vẻ sợ hãi. Anh ta muốn nói, nhưng lại không dám nói. Con vật trung thành đang đau khổ.
" - Ai vậy ?
" Anh ta run run nhìn tôi như sợ bị đánh đòn.
Rồi anh ta nói - không hề nêu một tên người nào... nhưng không biết từ
đâu mà con người hạ đẳng loại này bỗng nhiên lại tỏ ra có ý thức đến như
vậy, không biết từ đâu mà chỉ trong vài giây đồng hồ một thứ tình cảm
âu yếm khó tả như thế lại làm cho con người hoàn toàn thiển cận như vậy
linh lợi hẳn lên ? - Anh ta nói - sợ sệt, hoàn toàn sợ sệt :
" - Người ấy đấy ".
" Tôi sửng sốt, hiểu ngay, và lập tức
háo hức, nôn nóng muốn biết con người ấy. Bởi vì, ngài thấy không, thật
kỳ lạ... ở giữa tất cả những dằn vặt đó, trong cơn sốt của những ham
muốn và khắc khoải đó, trong cuộc chạy đuổi điên rồ đó... tôi đã hoàn
toàn quên " người ấy "... tôi đã quên rằng một người đàn ông khác có
liên quan... người đã được người đàn bà này thương yêu, người đã được bà
ta đắm đuối ban cho điều mà tôi bị chối từ... Hai mươi bốn giờ, mười
hai giờ đồng hồ trước đây, có lẽ tôi đã căm ghét anh ta, đã xé xác anh
ta... nhưng giờ đây... tôi không thể nói với ngài là tôi đã vội vã biết
chừng nào muốn được gặp anh ta, yêu mến anh ta, bởi vì bà ấy đã yêu anh
ta.
" Tôi chỉ nhảy một bước là ra đến tận
cửa. Tôi thấy một chàng sĩ quan trẻ măng tóc vàng hoe, ngượng ngập, mảnh
dẻ và xanh xao... Anh ta có dáng vẻ như một cậu bé... ở tuổi thanh niên
dễ thương đến thế... và tôi cảm thấy ngay mối xúc động không thể tả
được khi trông thấy anh ta cố gắng làm ra vẻ người lớn, tự tạo cho mình
một phong độ và che giấu nỗi bối rối của mình. Tôi để ý thấy ngay tay
anh ta run lên khi đưa lên cạnh chiếc mũ kêpi... Tôi những muốn ôm chầm
lấy anh ta, bởi vì anh ta hoàn toàn đúng như tôi thầm mong : cái người
đã chiếm hữu được người đàn bà này phải như vậy... Bà ta đã hiến thân
không phải cho một kẻ chuyên đi quyến rũ đàn bà, một kẻ kiêu ngạo,
không, mà là cho một chàng trai mới lớn, một người dịu dàng và trong
trắng. Chàng trẻ tuổi đứng trước mặt tôi với thái độ hoàn toàn rụt rè.
Cái nhìn tò mò của tôi, sự đón tiếp nồng nhiệt của tôi còn làm anh ta
thêm bối rối : hàng ria mép nhỏ và thưa như lông tơ rung động đã để lộ
rõ điều đó... Chàng trai này, người sĩ quan trẻ tuổi này, hẳn đã phải tự
trấn tĩnh lắm mới khỏi òa lên khóc nức nở.
" Xin ông tha lỗi cho tôi, cuối cùng anh ta nói, tôi muốn được nhìn thấy... bà ấy... một lần cuối cùng ".
" Bất giác, ngoài ý định, tôi đưa bàn
tay lên vai con người xa lạ đó, dìu anh ta như dìu một bệnh nhân. Anh ta
nhìn tôi ngạc nhiên và trong cặp mắt anh ta, tôi đọc rõ một tình cảm
yêu thương và biết ơn không bờ bến... giây lát đó, chúng tôi đã hiểu rõ
giữa hai chúng tôi có một sự gắn bó... chúng tôi cùng đi về phía người
quá cố... Bà ta nằm đó, trắng toát trong tấm vải liệm trắng - tôi cảm
thấy sự có mặt của tôi ở bên cạnh là điều đau khổ cho anh ta... tôi lùi
lại để anh ta một mình bên bà ta... Anh ta đến sát cạnh người đàn bà,
chầm chậm, bước đi run rẩy và nặng nhọc... qua vai anh ta, tôi thấy sự
bàng hoàng, nỗi đau xé lòng mà anh ta đang phải chịu đựng... anh ta đi
như là... như là một người vừa đi vừa đối mặt với trận cuồng phong... Và
bỗng nhiên, anh quỳ sụy xuống trước giường... đúng như tôi đã quỵ
xuống...
" Tôi lập tức lao tới, nâng anh ta dậy
và đặt anh ta ngồi lên một chiếc ghế. Anh ta không e thẹn nữa và nỗi
đau khổ của anh thoát ra thành những tiếng nức nở. Tôi không thể nói
được gì - chỉ bất giác đưa mấy ngón tay vuốt mái tóc vàng hoe mềm mại
như trẻ con của anh ta... Anh ta nắm lấy tay tôi... hết sức nhẹ nhàng,
tuy nhiên vẫn để lộ nỗi lo lắng... và bỗng nhiên tôi cảm thấy anh ta tha
thiết nhìn tôi :
" - Bác sĩ ơi, xin ông hãy cho tôi biết sự thật, - anh ta lắp bắp, - có phải bà ấy tự sát hay không ?
" - Không ". Tôi trả lời.
" - Vậy thì một người nào đó... tôi nghi... một người nào đó đã gây nên cái chết này ?
" - Không ", tôi lại trả lời, mặc dầu
tôi cảm thấy cần phải gào lên với anh ta : Tôi ! Tôi ! Tôi ! Và anh nữa !
Cả hai chúng ta !... Và tính ương ngạnh của bà ta, tính ương ngạnh tai
hại của bà ta !
" Nhưng tôi tự kìm lại được và nhắc một lần nữa :
" - Không, không ai có lỗi trong vụ này. Đó là số phận của bà ta ! "
" - Tôi không thể tin điều đó được,
anh ta rên rỉ, tôi không thể tin điều đó. Mới ngày hôm kia bà ta còn dự
khiêu vũ, còn mỉm cười với tôi, vừa nhảy vừa ra hiệu cho tôi. Sao lại có
thể như thế ? Sao lại có thể xảy ra như vậy được.
" Tôi bịa ra một câu chuyện dài dòng.
Ngay cả với anh ta, tôi cũng không tiết lộ điều bí mật. Những ngày tiếp
đó, chúng tôi chuyện trò với nhau như hai anh em, nét mặt chúng tôi có
thể nói là tràn ngập ánh sáng
của thứ tình cảm đã gắn bó chúng tôi với nhau... mà chúng tôi không thể
thú nhận với nhau; nhưng chúng tôi cũng không vì vậy mà kém phần cảm
thông rằng toàn bộ cuộc đời của hai chúng tôi đều gắn bó với người đàn
bà này... Đã nhiều lần lời nói ứ nghẹn ở cổ tôi, tôi thèm khát được nói
hết với anh ta biết chừng nào; tuy nhiên, lúc đó tôi cắn chặt môi lại.
Anh ta không hề biết bà ấy mang trong bụng đứa bé mà anh ta là người
cha... rằng đứa con, đứa con thuộc về anh ta đó đáng lý ra tôi đã phải
giết chết, và bây giờ bà ta đã mang nó xuống vực thẳm cùng với mình. Thế
mà chúng tôi chỉ nói với nhau về bà ta suốt trong những ngày tôi phải
tạm lánh ở nhà anh ta... bởi vì -
tôi bỏ sót không kể với ngài điều đó - người ta đang lùng tôi... lúc
chồng bà ta về đến nơi thì quan tài đã đậy nắp... lão ta không hề tin
bản xác nhận... mọi người xì xào đủ thứ chuyện... và lão ta đi lùng tôi.
Nhưng tôi không thể chịu đựng nổi việc gặp gỡ người đàn ông này, con
người mà tôi biết rằng vì hắn bà ta phải đau khổ... Tôi ẩn náu... trong
bốn ngày, không ra ngoài, cả hai chúng tôi đều không rời khỏi nhà... Để
giúp tôi trốn thoát, người tình của bà ta đã đăng ký với một tên giả lấy
vé tàu cho tôi... Như một tên ăn cắp, ban đêm tôi lén xuống boong tàu
để không ai nhận ra tôi... Tôi bỏ lại hết những gì tôi có... nhà cửa,
công việc trong suốt bảy năm ròng, toàn bộ tài sản của tôi, mặc cho bất
kỳ ai muốn lấy gì thì lấy... và nhà cầm quyền chắc chắn đã xóa tên tôi
trong sổ nhân sự vì tôi đã bỏ nhiệm sở không xin phép... Nhưng tôi không
thể sống thêm nữa trong ngôi nhà ấy, trong thành phố ấy, trong cái xứ
sở, nơi mà mọi cái đều gợi cho tôi, nhớ đến bà ta... Như một tên ăn cắp,
tôi bỏ trốn giữa ban đêm, chỉ để trốn bà ta, chỉ để quên đi...
" Nhưng lúc tôi xuống tàu... ban
đêm... lúc nửa đêm... anh bạn sĩ quan tiễn chân tôi... lúc ấy... lúc
ấy... vừa đúng lúc họ đang dùng một cần cẩu nhỏ, kéo cái gì... hình nhữ
nhật và đen... chiếc quan tài của bà ta, ông nghe rõ chứ, chiếc quan tài
của bà ta... Bà ta đã đuổi theo tôi đến tận đây, như tôi đã đuổi theo
bà ta... và tôi đã chứng kiến cảnh tượng đó mà ngoài mặt phải vờ làm ra
vẻ thờ ơ, bởi vì chồng bà ta ở đó... Hắn sẽ theo cỗ quan tài đến tận
nước Anh, tôi nghĩ vậy... Có thể về đấy hắn sẽ cho khám nghiệm tử thi...
hắn đã chiếm đoạt bà ta... bây giờ thì một lần nữa, bà ta lại thuộc về
hắn... bà ta không còn là của chúng tôi nữa... của hai chúng tôi...
Nhưng lúc nào tôi cũng ở đấy... tôi sẽ theo bà ta đến cùng... hắn sẽ
không bao giờ khám phá được điều gì, nhất định phải làm như vậy... Tôi
biết cách giữ gìn bí mật của bà ta, chống lại mọi mưu toan... chống lại
tên vô lại mà bà ta đã phải trốn chạy hắn, tìm đến cái chết. Hắn sẽ
không biết gì hết. Không hề biết tí gì..., bí mật của bà ta thuộc về
tôi, chỉ mình tôi thôi...
" Ngài có hiểu được không... hiểu được
vì sao lúc này tôi không thể nhìn mặt mọi người... tôi không thể nghe
tiếng cười của họ... những khi họ ve vãn nhau và quấn quít với nhau từng
cặp... Quan tài bà ta đặt ở kia, trong đám hàng hóa, giữa những kiện
chè và những quả dừa... Tôi không thể đến đấy được vì cửa khóa... nhưng
tôi biết, mọi giác quan của tôi đều gào thét đòi nó lại cho tôi, và tôi
không quên nó lấy một giây... ngay cả khi dương cầm réo rắt và tôi nghe
thấy họ nhảy tănggô...
Thật là ngu ngốc, biển cả cuộn sóng chứa đựng hàng triệu người chết, dưới mỗi
tấc đất người ta dẫm lên đều có một xác chết thối rữa..., thế mà tôi
không thể... không thể chịu nổi những buổi khiêu vũ mang mặt nạ và tiếng
vang của những chuỗi cười dâm dật đến thế... Người đàn bà xấu số này,
tôi vẫn nhìn thấy bà ta và biết bà ta đòi hỏi gì ở tôi... tôi biết lắm,
tôi còn một nghĩa vụ phải làm tròn... tôi vẫn chưa hết nợ... bí mật của
bà ta còn chưa được cứu thoát... bà ta còn chưa buông tha tôi.
*
* *
Một tiếng động vọng đến từ giữa con
tàu, những bước chân kéo lê và lộp cộp : các thủy thủ bắt đầu rửa boong.
Anh ta giãy nẩy lên như bị bắt quả tang : trên nét mặt căng thẳng lúc
này hiện lên nỗi lo âu. Anh ta đứng lên và thầm thì :
" - Tôi đi đây... tôi đi đây... "
Thật đau lòng khi phải thấy cái nhìn
tuyệt vọng của anh ta, cặp mắt anh ta sưng húp và đỏ ngầu do uống nhiều
hay khóc nhiều : tôi cảm thấy trong vẻ hạ mình của anh ta có nỗi hổ
thẹn, hổ thẹn quá chừng, vì đêm qua đã không kìm nén được mà đi thổ lộ
với tôi điều bí mật mà anh ta mang trong lòng. Bất giác tôi nói với anh
ta :
" - Nếu anh cho phép, tôi sẽ đến thăm anh chiều nay tại căn buồng của anh... "
Anh ta nhìn tôi - một cái nhếch mép
nhạo báng, nghiệt ngã, trâng tráo làm môi anh ta mím lại rồi anh ta nói,
có chút gì ma quái trong giọng nói của anh ta, khiến cho tiếng nào cũng
sai lạc đi :
" - A ha... cái nghĩa vụ cứu giúp trứ
danh của ngài... a ha... với cái câu phương ngôn của ngài, ngài đã thôi
thúc tôi phun ra hết. Nhưng tôi, thưa ngài, tôi xin cảm ơn ngài : Ngài
đừng tưởng rằng nỗi đau khổ của tôi được nhẹ bớt khi tôi đã phơi bày hết
tâm can trước mặt ngài. Đời tôi hỏng quá rồi, không ai còn có thể cứu
được nữa... tôi đã phục vụ một cách vô tích sự cho chính phủ Hà Lan đáng
kính... khoản phụ cấp của tôi mất trắng, tôi trở về Âu châu nghèo như
con chó... một con chó rên rỉ theo sau một cỗ quan tài. Một Amok lao đầu
chạy trong cơn điên không thể không bị trừng phạt. Cuối cùng, sẽ có
người đánh quỵ hắn... và tôi
cũng sắp đi đến điểm chót... Không, thưa ngài, tôi xin cảm ơn ngài nhã ý
của ngài... Ở trong buồng, tôi còn có mấy bạn đồng hành... vài chai
uytki ngon luôn luôn an ủi tôi và cả người bạn cố tri của tôi mà rủi
thay tôi đã không quay trở về kịp thời với nó, đây là khẩu Brôninh chân
thực của tôi; sự cứu giúp cuối cùng của nó còn công hiệu hơn mọi thứ
chuyện phiếm... Tôi xin ngài, ngài đừng bận lòng... cái quyền duy nhất
còn lại của con người phải chăng là được chết theo ý muốn... và hơn nữa,
không phải chịu một sự giúp đỡ từ bên ngoài nó làm mình phiền muộn.
Anh ta nhìn tôi một lần nữa, vẻ mỉa
mai... thậm chí là khiêu khích nữa; nhưng tôi hiểu điều đó, đó chỉ là bề
ngoài, cái bề ngoài che giấu sự tủi nhục, tủi nhục vô hạn. Rồi anh ta
cúi đầu, quay lưng lại phía tôi, không chào, dáng đi nặng nề và rất chập
chững, anh ta đi về phía các căn buồng, xuyên qua boong tàu lúc đó đã
tràn ngập ánh sáng. Tôi không
gặp lại anh ta nữa. Tôi đã hoài công tìm anh vào buổi chiều và ban đêm
sau đó ở chỗ anh ta thường ngồi. Anh ta vẫn biệt tăm và tôi đã tưởng
mình nằm mơ hay là ma quỷ hiện hình, nếu giữa lúc đó, một hành khách
khác mang băng đen ở tay không làm tôi chú ý; đó là một thương gia lớn
người Hà Lan có bà vợ, theo người ta nói, chết về bệnh nhiệt đới. Tôi
thấy ông ta đi đi lại lại lánh xa
mọi người, vẻ mặt nghiêm trang và phiền muộn; ý nghĩ rằng tôi biết rõ
nỗi ưu tư, sâu kín nhất của ông ta đã gây cho tôi một nỗi sợ hãi bí
hiểm; khi ông ta đi qua, tôi quay mặt đi để khỏi để lộ qua cái nhìn là
tôi biết hơn ông ta về điều đang làm ông ta đau khổ.
*
* *
Ở bến cảng Naplơ lúc ấy xảy ra một
chuyện kỳ lạ mà tôi tin là phải tìm sự giải thích trong câu chuyện người
khách lạ đã kể với tôi. Phần đông hành khách đã rời bến, bản thân tôi
cũng đến rạp hát và sau đó tới một quán cà phê sáng trưng của Via Roma.
Khi chúng tôi đi canô về tàu, tôi ngạc nhiên thấy vài chiếc thuyền đốt
đuốc và đèn đất đi vòng quanh tàu tìm kiếm, trong lúc ở bên trên, trong
bóng tối của mạn tàu, những người hiến binh đi đi lại lại một cách bí
ẩn. Tôi hỏi thủy thủ xem chuyện gì đã xảy ra. Anh ta lảng tránh câu
hỏi của tôi bằng cách làm tôi hiểu ngay là anh được lệnh im lặng, và
ngay cả ngày hôm sau, khi yên tĩnh đã trở lại và không còn một dấu vết
gì về sự việc lôi thôi xảy ra, con tàu tiến về Giên, người ta cũng không
biết gì hơn. Chỉ mãi về sau, tôi mới được đọc trong những tờ nhật báo
nước Ý bài tường thuật hoang đường về cái gọi là tai nạn xảy ra ở bến
cảng Naplơ. Báo chí nói rằng đêm hôm đó người ta phải chuyển từ tàu sang
canô một chiếc quan tài của một mệnh phụ ở xứ thuộc địa của Hà Lan và
người ta đã chờ đến lúc trên tàu hết náo nhiệt để tránh cho
hành khách phải chứng kiến cảnh tượng đó. Trong lúc, trước mặt người
chồng, cỗ quan tài trượt theo chiếc thang bằng thừng, một vật nặng từ
tầng trên của con tàu bỗng rơi xuống biển, kéo theo cả chiếc quan tài,
cùng những người phu khiêng và ông chồng. Một tờ báo cả quyết rằng một
người điên đã từ tầng cao trên lan can nhảy xổ vào chiếc thang; tờ khác
nói là sợi dây thừng chịu đựng một trọng lượng quá lớn đã bị đứt; dầu
sao, công ty hàng hải hình như đã tìm mọi cách để giấu giếm sự thực. Nhờ
những chiếc canô và không phải là không chật vật, người ta đã vớt được
những người phu khiêng và chồng người đàn bà xấu số bình an vô sự; trái
lại, chiếc quan tài bằng chì đã trôi tuột xuống đáy biển thì không thể
kéo lên được.
Một tin ngắn gọn khác cũng đồng thời
được đăng trên báo cho biết người ta đã vớt được ở bến cảng xác một
người đàn ông tuổi trạc tứ tuần. Tin này không hề làm dư luận quần chúng
xôn xao. Không ai nghĩ rằng nó có thể liên quan với câu chuyện hoang
đường về chiếc quan tài; còn về phần tôi, vừa đọc xong ghi nhanh đó, tôi
thấy hình như đằng sau tờ báo của tôi hiện lên bộ mặt nhợt nhạt và cặp
kính lóe sáng của một bóng ma.
---------------------------
Chú thích :
(1) : Lady : bà quý phái - ND.
(2) : Giáo dục tình cảm : tác phẩm của Flôbe. ND.
(3) : All right : hoàn toàn tốt - ND.
(4) : You remain here : Ông dừng lại ở đây - ND.
(5) : Come quickly : Ông đến ngay, ND.
(6) : Yes, sir : " Thưa ông, vâng " ND.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 026
SƠN TRUNG* CẬU SÁU BA TRI
CẬU SÁU BA TRI
Cậu Sáu
là con quan huyện hàm (1) ở Ba Tri. Cha mẹ mất sớm, điền sản chẳng còn bao
nhiêu, mà cậu thì lại học hành kém cỏi, ngay cả cái khảo hạch ở huyện cũng
không qua khỏi. Tuy vậy, cậu là người chơn chất, hay lên chùa lễ Phật và làm
việc thiện. Ông sư trong chùa Đại Bi thấy cậu là người thiện tâm, muốn thu nhận
cậu làm đệ tử. Cậu cám ơn lòng tốt của sư mà trả lời:
-Phật tại tâm, đâu cần phải vào chùa và đầu tròn áo vuông. Thiếu gì kẻ ở trong chùa mà chính là tướng cướp Lỗ Trí Thâm!
-Phật tại tâm, đâu cần phải vào chùa và đầu tròn áo vuông. Thiếu gì kẻ ở trong chùa mà chính là tướng cướp Lỗ Trí Thâm!
Năm mười bốn tuổi, cha mẹ đã cưới vợ cho cậu, đã được một
trai, một gái. Một hôm, chàng đi ăn giỗ bên ngoại ở Biên Hòa, lúc qua rừng,
thấy một thợ săn quảy một giỏ lớn, bên trong có mấy con gà rừng, thỏ, chim trĩ,
ba ba, rùa. Thấy hai mẹ con thỏ bạch xinh xắn,và một con cáo nhỏ tội nghiệp,
cậu xin mua giá cao rồi phóng sinh.
Sau đó vài năm, cậu cũng đi Biên Hòa ăn giỗ bên ngoại, lúc trở về trời tối, lạc đường, đi loanh quanh mãi trong núi mà vẫn không tìm được lối ra. Chặp lâu, thấy xa xa có ánh lửa le lói, cậu bèn giục ngựa đi tới. Lại gần mới thấy đấy là một xóm nhỏ, có vài ba nhà tranh ẩn hiện trong rừng. Chàng xuống ngựa, gõ cửa một nhà. Lúc lâu, thấy một tiểu đồng ra mở của, đưa chàng vào nhà. Vào trong, cậu thấy nhà nhỏ nhưng bày biện trang nhã, hương thơm bay thoang thoảng mùi hồng, mùi lan.
Sau đó vài năm, cậu cũng đi Biên Hòa ăn giỗ bên ngoại, lúc trở về trời tối, lạc đường, đi loanh quanh mãi trong núi mà vẫn không tìm được lối ra. Chặp lâu, thấy xa xa có ánh lửa le lói, cậu bèn giục ngựa đi tới. Lại gần mới thấy đấy là một xóm nhỏ, có vài ba nhà tranh ẩn hiện trong rừng. Chàng xuống ngựa, gõ cửa một nhà. Lúc lâu, thấy một tiểu đồng ra mở của, đưa chàng vào nhà. Vào trong, cậu thấy nhà nhỏ nhưng bày biện trang nhã, hương thơm bay thoang thoảng mùi hồng, mùi lan.
Một lúc
sau, một thiếu phụ trung niên bước ra. Bà ngạc nhiên nhìn cậu, bà nói:-Trời
Phật dun dủi mới đưa cậu đến đây. Thú thật, tôi là hồ ly ở trong núi, bị thợ
săn bắt được, may nhờ có cậu cứu giúp. Nay cậu tới đây, xin cậu ở lại chơi vài
bữa rồi hãy về. Bà bèn lớn tiếng gọi vào trong:
-Minh Nguyệt! Minh Nguyệt ra đây mà chào ân nhân.
Cậu nghe một tiếng dạ rất thanh tao, và sau rèm bước ra một thiếu nữ tuổi độ trăng tròn, áo xanh, váy hồng, thắt lụa điều, mặt hoa da phấn, dáng thục nữ yểu điệu bước đến chào cậu. Cậu vui vẻ đáp lễ.
Đêm đó cậu ở lại trong núi. Thiếu phụ trung niên nói:-Tôi đây chỉ có một gái. Nếu cậu vừa ý thì xin dâng cho cậu nạp thiếp. Cậu nói rằng trong nhà đã có vợ, bản thân lại nghèo hèn , bất tài, không dám đèo bòng.
Thiếu phụ nói:"Thiện tâm ấy là khó báu trời cho, lo gì không rạng rỡ tổ tông".
Cậu vẫn một mực từ chối.
Thiếu phụ nói:
-Con gái của tôi xấu số nên không lấy được chồng hiền. Nếu cậu than nghèo, ta khuyên cậu ra hành y thì sẽ giàu có. Ta xem tướng cậu là tướng lương y tâm Phật, nên chuyên chú về y học thì không lo gì y thực.
Cậu Sáu nói :"Tôi chữ nghĩa kém cỏi, văn lý chưa thông, lại không được danh sư truyền thụ nghề y, làm sao dám làm thuốc?"
-Minh Nguyệt! Minh Nguyệt ra đây mà chào ân nhân.
Cậu nghe một tiếng dạ rất thanh tao, và sau rèm bước ra một thiếu nữ tuổi độ trăng tròn, áo xanh, váy hồng, thắt lụa điều, mặt hoa da phấn, dáng thục nữ yểu điệu bước đến chào cậu. Cậu vui vẻ đáp lễ.
Đêm đó cậu ở lại trong núi. Thiếu phụ trung niên nói:-Tôi đây chỉ có một gái. Nếu cậu vừa ý thì xin dâng cho cậu nạp thiếp. Cậu nói rằng trong nhà đã có vợ, bản thân lại nghèo hèn , bất tài, không dám đèo bòng.
Thiếu phụ nói:"Thiện tâm ấy là khó báu trời cho, lo gì không rạng rỡ tổ tông".
Cậu vẫn một mực từ chối.
Thiếu phụ nói:
-Con gái của tôi xấu số nên không lấy được chồng hiền. Nếu cậu than nghèo, ta khuyên cậu ra hành y thì sẽ giàu có. Ta xem tướng cậu là tướng lương y tâm Phật, nên chuyên chú về y học thì không lo gì y thực.
Cậu Sáu nói :"Tôi chữ nghĩa kém cỏi, văn lý chưa thông, lại không được danh sư truyền thụ nghề y, làm sao dám làm thuốc?"
Thiếu phụ cười nói- “Cậu ngây thơ quá, nào phải các bậc
danh y đều biết chữ đâu? Đa số sống trong cảnh bất đắc dĩ. Gái không lấy được
chồng thì đi tu, trai thi hỏng thì làm đạo sĩ. Bây giờ toàn là thế! Trong triều
đình bây giờ toàn là một lũ thất học, đè đầu, cưỡi cổ nhân dân bao nhiêu chục
năm mà vẫn có hàng triệu người hoan hô. Ngươi đem thiện tâm và cố gắng đọc sách
y dược thì sẽ khá gấp ngàn lần bọn tiến sĩ, thạc sĩ i -tờ! Chỉ cần cố gắng thì
trời Phật sẽ phù hộ ngươi."
Trước khi cậu ra về, trung niên thiếu phụ đưa chàng một quyển sách bằng da đã cũ. Bà nói:" Đây là sách gia truyền của tổ tiên ta xin trao tặng ngươi. Ngươi nên hành y lập đức."
Trước khi cậu ra về, trung niên thiếu phụ đưa chàng một quyển sách bằng da đã cũ. Bà nói:" Đây là sách gia truyền của tổ tiên ta xin trao tặng ngươi. Ngươi nên hành y lập đức."
Cậu Sáu về nhà, còn chần chừ chưa dám hành y nhưng vợ đói
con rách, lâm cảnh cùng bần liền nhớ lời trung niên thiếu phụ trong núi, bèn
theo sách và theo kinh nghiệm dân gian hái các bài thuốc lá linh tinh đem ra
chợ bày bán, và tại nhà làm một quầy thuốc nhỏ kiếm sống lần hồi, người ta cũng
chưa thấy có gì hay. Gặp lúc quan tỉnh Bến Tre mắc bệnh ho, gởi công văn sai
tìm thầy thuốc. Huyện Ba Tri vốn quê mùa nhỏ hẹp, ít có thầy thuốc, nhưng quan
huyện không dám tắc trách, sai các làng tìm thầy thuốc, người ta đều đề cử cậu
Sáu. Quan huyện lập tức gọi Cậu tới. Cậu vừa bị bệnh ho có đờm không tự chữa
được, nghe lệnh sợ quá từ chối, quan huyện không nghe, sai đem ngựa trạm đưa
lên tỉnh.
Đường đi ngang qua núi sâu, Cậu khát nước
ho càng dữ, bèn vào thôn xin nước uống. Nhưng thôn trong núi nước quý như vàng,
xin khắp vẫn không ai cho. Chợt thấy một người đàn bà rửa rau cải và rau cần,
rau nhiều nước ít, nước trong chậu đục như bùn. Cậu khát quá chịu không nổi,
xin nước ấy uống bừa. Trong khoảnh khắc thấy hết khát, cũng hết cả ho, thầm
nghĩ đây là phương thuốc hay. Tới tỉnh thì thầy thuốc các huyện đã xúm vào chữa
nhưng quan tỉnh vẫn không đỡ. Cậu vào, sai người vào dân tìm đủ thứ rau cỏ, đem
rửa rồi lấy nước bùn đất dâng lên. Quan tỉnh chỉ uống một lần là hết bệnh. Quan
mừng rỡ, thưởng cho rất hậu, ban cho biển ngạch chữ vàng "Thần y diệu
thủ"để biểu dương.
Từ đó cậu Sáu rất nổi tiếng, người tới chữa bệnh đông như họp chợ trước cửa, mà cứ theo tay bốc thuốc là khỏi. Có người bị thương hàn kể bệnh xin thuốc, gặp lúc cậu đang say đưa lầm cho thuốc sốt rét, tỉnh rượu mới nhớ ra nhưng không dám nói cho ai biết. Ba ngày sau lại có người đem lễ rất hậu tới cảm tạ, hỏi ra thì người bị thương hàn uống thuốc sốt rét nôn mửa một trận rồi hết bệnh, những chuyện như thế rất nhiều.
Ở Bình Đại là huyện bên, có ông tú Siêu là bậc danh y. Lúc chưa nổi tiếng, bán lá thuốc dạo khắp nơi, gặp hôm trời tối không có nơi trọ, xin vào ngủ nhờ nhà nọ. Con trai nhà ấy bị thương hàn gần chết, chủ nhà xin ông tú chữa cho. Ông tú nghĩ nếu không chữa thì khó mà ngủ nhờ, nhưng chữa thì không biết cho thuốc thế nào. Đi tới đi lui nghĩ ngợi, lấy cơm trong gói viên thành viên trộn mật cho người bệnh uống nghĩ là phương thuốc cũng vô hại, sáng ra mà không bớt thì đêm nay mình cũng được ăn no ngủ yên. Nửa đêm, chủ nhà đập cửa phòng rất gấp, nghĩ người bệnh đã chết, cho là sẽ bị đánh đập chửi mắng, lòng lo sợ vô cùng, muốn bỏ trốn. Không ngờ chủ nhân vào báo tin con ông đã lành bệnh, mới được biết rằng người bệnh đã ra mồ hôi khỏi hẳn rồi. Chủ nhà mời tiệc rất long trọng, lúc ông tú ra đi lại tặng cho rất hậu.
___
(1). Ngày xưa, các triều vua thiếu tiền nên cho dân bỏ tiền hay thóc để mua những quan tước. Những chức quan này chỉ là danh hiệu, không nắm quyền cai trị. Tại Nam Kỳ trong khoảng thực dân cai trị, có những chức Thiên Hộ (Thiên hộ Dương), huyện hàm, phủ hàm cũng chỉ là danh xưng mà không nắm quyền thực thụ.
Từ đó cậu Sáu rất nổi tiếng, người tới chữa bệnh đông như họp chợ trước cửa, mà cứ theo tay bốc thuốc là khỏi. Có người bị thương hàn kể bệnh xin thuốc, gặp lúc cậu đang say đưa lầm cho thuốc sốt rét, tỉnh rượu mới nhớ ra nhưng không dám nói cho ai biết. Ba ngày sau lại có người đem lễ rất hậu tới cảm tạ, hỏi ra thì người bị thương hàn uống thuốc sốt rét nôn mửa một trận rồi hết bệnh, những chuyện như thế rất nhiều.
Ở Bình Đại là huyện bên, có ông tú Siêu là bậc danh y. Lúc chưa nổi tiếng, bán lá thuốc dạo khắp nơi, gặp hôm trời tối không có nơi trọ, xin vào ngủ nhờ nhà nọ. Con trai nhà ấy bị thương hàn gần chết, chủ nhà xin ông tú chữa cho. Ông tú nghĩ nếu không chữa thì khó mà ngủ nhờ, nhưng chữa thì không biết cho thuốc thế nào. Đi tới đi lui nghĩ ngợi, lấy cơm trong gói viên thành viên trộn mật cho người bệnh uống nghĩ là phương thuốc cũng vô hại, sáng ra mà không bớt thì đêm nay mình cũng được ăn no ngủ yên. Nửa đêm, chủ nhà đập cửa phòng rất gấp, nghĩ người bệnh đã chết, cho là sẽ bị đánh đập chửi mắng, lòng lo sợ vô cùng, muốn bỏ trốn. Không ngờ chủ nhân vào báo tin con ông đã lành bệnh, mới được biết rằng người bệnh đã ra mồ hôi khỏi hẳn rồi. Chủ nhà mời tiệc rất long trọng, lúc ông tú ra đi lại tặng cho rất hậu.
___
(1). Ngày xưa, các triều vua thiếu tiền nên cho dân bỏ tiền hay thóc để mua những quan tước. Những chức quan này chỉ là danh hiệu, không nắm quyền cai trị. Tại Nam Kỳ trong khoảng thực dân cai trị, có những chức Thiên Hộ (Thiên hộ Dương), huyện hàm, phủ hàm cũng chỉ là danh xưng mà không nắm quyền thực thụ.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 026
No comments:
Post a Comment