TS. NGUYỄN BÁ LONG * CHỐNG CỘNG SẢN
Thanh Niên Sinh Viên VN đứng lên làm lịch sử
là giải pháp cho Dân Tộc:
PHÁT ĐỘNG PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG - CHỐNGĐẢNG CS, CHẤM DỨT CHẾ ĐỘ VÔ ĐẠO, PHỤC HỒI LẠI ĐẤT &BIỂN CỦÙA TỔ QUỐC!
Nguyễn Bá Long
I. THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM ĐỨNG LÊN LÀM LỊCH SỬ:
NGƯỜI ĐẠI DIỆN ƯU TÚ - LÊ CHÍ QUANG
Trong mấy tháng gần đây, phong trào chống Đảng CS bán nước đã dâng lên khắp Quốc Nội - Hải Ngoại cực kỳ sôi động. Các thanh niên, sinh viên có hiểu biết về con người trí thức trẻ yêu nước cuồng nhiệt LÊ CHÍ QUANG
đã không dấu được nỗi bất bình đối với Đảng CS qua việc Đảng này bao vây bắt anh một cách phi pháp tại một quán cà phê internet cạnh Trường Luật Hà Nội, ngày 21-2-2002, và đưa anh đi giam cầm tại Trại Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Đông (cách Hà Nội khoảng 10 cây số). Thanh niên, sinh viên trong ngoài nước không chỉ bày tỏ nổi bất mãn, mà đồng loạt cả những người sinh ra từ lòng chế độ và những người phiá Quốc Gia đều lên tiếng về việc Hà Nội bắt LÊ CHÍ QUANG, và một phong trào đã phát sinh từ sự bắt bớ người thanh niên yêu nước cuồng nhiệt luôn "Cảnh giác đối với Bắc Triều", đang trở thành nạn nhân của chế độ mà một tác giả gọi là bọn "CHO' CHẾT" (xin đọc Trần Kim Khôi: "Dẫn lại một số sự kiện lịch sử..." trong số này).
Các bài 'HỊCH CỨU NƯỚC" đã được nhiều thanh niên yêu nước - gốc CS và không CS - làm ra, nhiều anh em đề nghị phát động PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG và đưa người thanh niên yêu nước dám cả gan chống lại bọn báquyền Phương Bắc ngay trong lòng chế độ, lên lãnh đạo phong trào. Đây là phong trào tiền phong chống Đảng bán nước, lần đầu tiên được công khai đưa lên hệ thống của Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN
cũng như Mạng Lưới Toàn Cầu. Phong trào LÊ CHÍ QUANG không phải chỉ đuợc phát động bởi Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ
VN, mà còn được phát động bởi nhiều tổ chức, lực lượng trong nước như Câu Lạc Bộ Sinh Viên, Câu lạc Bộ Dân Chủ cho Việt Nam, Phong Trào Sinh Viên Học sinh Cứu Nướcv.v.
Trong các tháng 3 và 4-2002, trên mặt báo Đối Lực và Khai Thác Thị Trường đã xuất hiện hai bài Hịch cứu nước, trong đó có đề cập đến phong trào thanh niên sinh viên và ý thức của các tầng lớp - không phân biệt gốc
CS hay không CS, hậu thuẩn LÊ CHÍ QUANG lãnh đạo Phong Trào Thanh Niên Sinh Viên chống Đảng bán nước, đặt LÊ CHÍ QUANG vào vị thế thay thế họ HỒ, bị loại ra khỏi lòng Dân Tộc do các hành động bán nước của y bịphanh phui. Xin trích lại một đoạn bài thơ "Hãy cùng nhau đứng lên làm lịch sử", hay là: "Phong trào Lê Chí Quang viết lại trang sử mới cho Dân Tộc" của Đỗ Văn Thông(Đông Âu), như sau:
Phải lôi đám chóp bu của Đảng
Ra trước tòa luận án quốc dân
Trả lời về tội "bán mình"
Tại sao cắt đất hiến dâng cho Tàu?
Ta đang sống giữa thời đại mới
Quyết định trên phải hỏi ý dân
Kẻ nào cậy thế, dựa thần
Đơn phương hành động chẳng cần hỏi han
Là kẻ đó thuộc hàng gian tặc
Nguy hiểm hơn lũ GIẶC ngoại xâm
Toàn dân ta phải quyết tâm
Làm đủ mọi cách chận âm mưu này
Các tướng tá trong tay có lực
Cơ hội này ra sức lấy oai
Biên cương, Tổ quốc, Giống nòi
Trách nhiệm bảo vệ của người quân nhân
Phải nhìn thấy lòng dân sôi sục
Tất cả cùng một lúc đứng lên
Sinh viên đại học, thanh niên
Sau lưng: phụ nữ, thiếu niên, cụ già
Rồi cả bậc lão thành của Đảng
Quyết một lòng hậu thuẩn CHÍ QUANG
Đứng lên lãnh đạo toàn dân
Thay HỒ bán nước, viết trang sử nhà!
Đỗ Văn Thông (Đối Lực #55, 3/02, trang 1)
Thông điệp về Phong Trào Lê Chí Quang từ Hải Ngoại hướng về trong nước rất rõ ràng: hậu thuẩn anh lên lãnh đạo Phong Trào Thanh Niên Sinh Viên chống Đảng bán nước, mở ra một trang sử mới cho thanh niên sinh viên
VN, đã nửa thế kỷ nay bị Đảng CS đè ép hầu như hoàn toàn thụ động, không đóng được vai trò lịch sử của mình là lực tiến hóa của Dân Tộc, đi tiền phong trong việc đòi hỏi các quyền làm người và các tự do dân chủ cho toàn dân. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nửa thế kỷ cai trị của Đảng CSVN mà một phong trào thanh niên sinh viên tranh đấu khởi phát, từ người trí thức trẻ ái quốc LÊ CHÍ QUANG, khởi động cho việc thanh niên sinh viên VN đứng lên khẳng định vai trò lịch sử của mình, trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng của Đất Nước: Đảng CSVN bán đứng đất đai biên giới và lãnh hải của Tổ Quốc cho Tàu Cộng, mà những tiếng kêu thắm thiết của những người cách mạng lão thành và những người đấu tranh cho dân chủ, như Trần Khuê, Đỗ Việt Sơn, Vũ Cao Quận, Nguyễn Thanh Giang, Bùi Minh Quốc v.v. chỉ dừng ở mức độ tiếng kêu thôi, không có điều kiện bùng lên thành một phong trào tranh đấu, mà lực hậu thuẩn căn bản của thanh niên sinh viên và toàn dân có đuợc như LÊ CHÍ QUANG: Các bạn bè thanh niên sinh viên biết anh là người yêu nước và nhận diện được Đảng CS bán nước, sau khi hai Hiệp ước Phân định Biên Giới trên Đất Liền Việt Nam - Trung Quốc ngày 30-12-1999 và Phân định Lãnh Hải Việt Nam - Trung Quốc ngày 25-12-2000 bị bại lộ, với biên giới phiá Bắc của VN ước tính bị mất trên bảy trăm cây số vuông và lãnh hải Vịnh Bắc Việt bị mất cả chục ngàn cây số vuông. Tình hình nguy hiểm là Đảng và chính phủ CSVN không chịu công bố hai hiệp ước, khiến người ta càng suy đoán rằng có những nhượng bộ quan trọng khác nữa về quốc phòng và an ninh quốc gia, nói trắng ra là một cách Đảng CSVN dâng nước cho Tàu, khiến cho CS Hà Nội sợ hãi không dám công bố chi tiết. Một số nguồn tin khả tín cho biết rằng Đảng CSVN bán lãnh hải để thu vào túi 2 tỷ Mỹ Kim. Bây giờ Hiệp Ước không được công khai ra thì mấy tỷ Mỹ Kim đó đi vào đâu?
LÊ CHÍ QUANG đã thu phục được cảm tình và sự hậu thuẩn của giới thanh niên sinh viên và đồng bào trong ngoài nước do ởø hai sự kiện và biến cố căn bản:
- Đức "DŨNG" của anh khi đứng lên cảnh giác đồng bào cả nước về họa Bắc Triều. Trong hoàn cảnh Đảng CSVN đang nô lệ và bán đứng Tổ Quốc cho Tàu Cộng, các lãnh tụ Đảng và Nhà Nước CSVN còn phải triều cống và sợ Tàu một phép, thì không một ai dám công khai có ý kiến chống lại Tàu như LÊ CHÍ QUANG. Khi đưa ra ngón đòn chí tử cho cả "tay sai CSVN" và "bá quyền Trung Quốc", LÊ CHÍ QUANG hẵn biết rằng anh có thể bị tù đày hoặc bị tiêu diệt, nhưng mà anh vẫn làm vì lòng yêu nước thiết tha, vì muốn đánh động lương tâm thanh niên sinh viên và đồng bào, kể cả những đảng viên CS còn chút lương tri, hầu đảo ngược lại những gì đang diễn ra bất lợi cho Dân Tộc, mà kẻ bán nước không phải ai khác hơn là một dúm người tham vọng đếm trên đầu ngón tay trong Chính Trị Bộ, đang tìm mọi cách bám quyền đến kỳ cùng, mà cách "đốn mạt" nhất là làm tay sai cho Tàu, dâng Tổ Quốc bằng chính hai tay của chúng cho Tàu Cộng. Thanh niên sinh viên, bộ đội phục viên, bộ đội tại ngũ, người CS thức tỉnh hoặc còn chút lương tri, và toàn dân bây giờ thấy rõ giữa LÊ CHÍ QUANG và Đảng CS, giữa LÊ CHÍ QUANG và HỒ CHÍ MINH, ai là người yêu nước, ai là kẻ bán nước, ai là người thực sự vì Dân Tộc, ai chỉø vì quyền lợi và tham vọng của bè đảng và tập đoàn. Bởi thế mới có ý kiến thanh niên sinh viên và toàn dân VN hãy hậu thuẩn LÊ CHÍ QUANG đứng lên đảm nhiệm vai trò lịch sử:
LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO THANH NIÊN SINH VIÊN TRANH ĐẤU CHỐNG ĐẢNG CS BÁN NƯỚC, viết lại trang sử mới cho Dân Tộc, đã bị họ HỒ và Đảng CSVN làm cho hoen ố một cách nhục nhã, đồng thời khôi phục lại vai trò, vị thế và nhân cách của thanh niên sinh viên VN, mở ra một hướng cho thanh niên sinh viên VN đang bị bế tắc không thoát ra được dưới sự cai trị của Đảng CS.
- Thanh niên sinh viên VN chẳng những không chấp nhận một Đảng bán nước mà còn không chấp nhận vai trò và vị thế hiện tại của mình: kẻ nô lệ cho chế độ. Thanh niên sinh viên VN quyết nắm vai trò tiền phong làm nên lịch sử Dân Tộc, chứ không phải là vai trò của những kẻ nhận ơn mưa móc, những kẻ làm theo chỉ thị và chính sách củaĐảng, để rồi sau khi ra trường, gia nhập vào hàng ngũ những "con vẹt", những " bồi bút", những "đầy tớ" trong hệ thống cầm quyền với "trái tim chó", dững dưng trước mọi sai quấy của chế độ, chỉ có mỗi một việc làm tay sai để bảo vệ "nồi cơm". Cụm từ "Trái tim chó" được Dương Thu Hương dành đặc biệt để ám chỉ lớp người trí thức chỉ biết làm tay sai vôhồn không còn biết phản ứng gì trước những kẻ cầm quyền và một Đảng vô đạo. Giải pháp LÊ CHÍ QUANG với sự đứng lên của toàn dân hậu thuẩn dẹp tiệm cái hình ảnh và xác chết của tên tội đồ bán nước HỒ CHÍ MINH, viết lại trang sử mới cho Dân Tộc, với vai trò của THANH NIÊN SINH VIÊN và TRÍ THỨC VN tiến lên hàng đầu cứu nước và dựng nước như ở mọi nước văn minh, là giải pháp đang làm rung cảm nhiều con tim yêu nước và đang được hiện thực hóa thành hành động qua PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG. Bài thơ của Đỗ Văn Thông từ Đông Âu, bài thơ của Kim Khôi từ Hoa Kỳ là hai bài tiêu biểu đã nói lên tâm nguyện của tầng lớp thanh niên sinh viên và trí thức CS và không CS, trong những ngày này: DẸP BỎ HỒ CHÍ MINH vàØ ĐẢNG BÁN NƯỚC và khởi động một cao trào đổi mới tiến lên phiá trước của Dân Tộc, với sự lãnh đạo của những con người trẻ dũng cảm dám làm, dám liều thân vì nước, mà các đại biểu anh dũng của hàng ngũ này không ai khác hơn là những LÊ CHÍ QUANG, PHẠM HỒNG SƠN, NGUYỄN VĂN MINH, ĐỖ VĂN THÔNG, LM NGUYỄN VĂN LÝ, LM PHAN VĂN LỢI, NGUYỄN CHÍNH KẾT, LÝ TỐNG, NGUYỄN BÁ LONG v.v. Đó là những con người dám liều thân tranh đấu với một tinh thần "quyết tử" đối với chế độ CS bạo tàn. Đối với CS, chỉ có một con đường sống chết với chuyên chính vô đạo chứ không có con đường "hòa hợp hòa giải" với chúng, vì "hòa hợp hòa giải" chỉ có nghiã là làm tay sai cho chúng! Đây là những hạt nhân sẽ tạo nên một cao trào quyết tử của toàn dân tràn lên phiá trước chấm dứt chế độ CS trong những ngày sắp tới.
II. LÝ THUYẾT LOẠN BIẾN VỀØ NGỌN TRIỀU DÂNG CỦA TOÀN DÂN TỘC VÀ VIỆC TỔ CHỨC ĐỨNG DẬY TRONG NƯỚC
Giận dữ trước lũ GIẶC BÁN NƯỚC CS HÀ NỘI là một chuyện, nhưng đây là đại sự quốc gia chúng ta phải bìnhtâm tiến hành cách mạng một cách có hệ thống và có phương pháp để đạt thắng lợi. Chúng ta không đấu tranh bất cập để chỉ có cái danh mà không cứu được toàn dân. Trong ý hướng này, tác giả - đã bỏ ra cả chục năm nay nghiên cứu về một lý thuyết quan trọng mong cứu nước, đó là "LÝ THUYẾT LOẠN BIẾN VỀ NGỌN TRIỀU DÂNG CỦA TOÀN DÂN TỘC", nay đem ra áp dụng mong đẩy phong trào tranh đấu trong nước LÊN MỘT BƯỚC MỚI VỀ CHẤT, đó là việc hậu thuẩn LÊ CHÍ QUANG đứng lên lãnh đạo PHONG TRÀO THANH NIÊN SINH VIÊN CỨU NƯỚC, dẹp bỏ và vất vào sọt rác HỒ CHÍ MINH và ĐẢNG CS, hình thành MỘT NƯỚC VIỆT NAM MỚI, trong đó vai trò của THANH NIÊN SINH VIÊN và TRÍ THỨC là lực lượng tiền phong của đổi thay chính trị và tiến bộ xã hội. Tại sao thanh niên sinh viên và trí thức phải đảm nhiệm vai trò tiền phong của "chuyển biến xã hội"? Điều này khỏi cần phải dài dòng vì thanh niên sinh viên và trí thức là tầng lớp hiểu biết và năng động nhất của xã hội có khả năng đưa xã hội tiến lên, nếu được sự hậu thuẩn và góp sức của những người hiểu biết và yêu nước thuộc các tầng lớp lớn tuổi hơn. Vấn đề quan trọng nhất là đồng bào quyết định ai là người xứng đáng lãnh đạo PHONG TRÀO THANH NIÊN SINH VIÊN TRÍ THỨC TRONG NƯỚC để khởi động NGỌN TRIỀU DÂN TỘC? Sự nhất trí này trước đây một năm không có được, nhưng lạ thay như vận hội của Dân Tộc đã đến: từ ngày khám phá ra CS bán nước và từ ngày NGƯỜI THANH NIÊN ÁI QUỐC LÊ CHÍ QUANG bị bắt, đã có một dư luận hầu như đồng nhất trong và ngoài nước hậu thuẩn LÊ CHÍ QUANG lãnh đạo PHONG TRÀO THANH NIÊN SINH VIÊN tranh đấu. Hình ảnh của HỒ CHÍ MINH và ĐẢNG CS HIỆN NAY sẽ bị vất vào sọt rác, và thay vào đó là hình ảnh của người thanh niên yêu nước LÊ CHÍ QUANG (đang bị cầm tù)ø và các chí hữu của ông, tiêu biểu cho " PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG VIẾT LẠI TRANG SỬ MỚI CHO DÂN TỘC".
Sau đây xin đề nghị những bước tiến phải làm để sự dấy động PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG CHỐNG CS BÁN NƯỚC VÀø XÂY DỰNG MỘT NƯỚC VN MỚI đạt thành công:
- Cần phải vận động quốc tế và vận động đồng bào mọi giới bằng một chiến dịch lớn lao và toàn diện để áp lực Hà Nội phải trả tự do cho LÊ CHÍ QUANG cũng như các chiến sĩ tranh đấu vụ CS bán nước và vụ Cha Ly, hiện đang bị cầm tù hoặc quản thúc: BS PHẠM HỒNG SƠN, LS NGUYỄN VĂN MINH, GS TRẦN KHUÊ, nhà văn BÙI MINH QUỐC v.v. Tiến xa hơn là trả tự do cho mọi chiến sĩ dân chủ và các nhà lãnh đạo tôn giáo đang bị CS cầm tù hoặc quản chế như LM NGUYỄN VĂN LÝ, HT THÍCHHUYỀN QUANG, HT THÍCH QUẢNG ĐỘ, cụ LÊ QUANG LIÊM, BS NGUYỄN ĐAN QUẾ, hai người cháu của Cha Lý NGUYỄN VĂN CƯỜNG và NGUYỄN VŨ VIỆT, TS HÀø SĨ PHU (?) v.v. Các phong trào dân chủ VN kết hợp quanh HIẾN CHƯƠNG 2000 và Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN ( internet user name là Viet Marketing) đang làm công tác này. Mong tất cả các tổ chức tranh đấu và anh chị em các diễn đàn góp tay để công cuộc vận động quốc tế và vận động đồng bào mau có kết quả. Nhân ngày Nhân Quyền cho VN tổ chức vào 10-5-2002 tại Quốc Hội Hoa Kỳ, BS NGUYỄN QUỐC QUÂN và Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Cao Trào Nhân Bản nên đặt một tầm quan trọng lớn vào việc vận động các Thượng Nghị Sĩ và Dân Biểu Mỹ đến dự lễ nhằm vào hai vụ việc quan hệ: (1) Dự Luật Nhân Quyền 2833 đưa ra biểu quyết trước Thượng Viện, và (2) vấn đề can thiệp với Hà Nội trả tự do cho LÊ CHÍ QUANG và những chiến sĩ dânchủ và nhà lãnh đạo tôn giáo đã liệt kê trên.
- Tổ chức PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG trong nước: Luận về dư luận gần đây được đưa ra về việc nhân dân hậu thuẩn LÊ CHÍ QUANG - người đại biểu tiêu biểu và dũng cảm nhất của tầng lớp THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM THỜI ĐẠI MỚI - đứng lên như một con người xứng đáng và dũng liệt nhất, thay HỒ CHÍ MINH bán nước bị vất vào sọt rác lịch sử, lãnh đạo PHONG TRÀO THANH NIÊN SINH VIÊN TOÀN QUỐC CHỐNG ĐẢNG BÁN NƯỚC, chấm dứt chế độ chuyên chính, mở ra sinh lộ cho lớp người trẻ và cho Dân Tộc, phục hồi các vùng đất và biển đã bị bè lũ tay sai gián điệp của Tàu và Đảng CS bán nước hiến dâng cho Tàu Cộng, là giải pháp Dân Tộc khởi sắc nhất hiện nay trong việc loại trừ Đảng tội ác, vì Đảng này quá nguy hiểm cho tương lai VN (xin xem thêm bài của GS VŨ QUỐC THÚC ở sau đào sâu về vấn đề này).
Việc tổ chức PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG trong nước cần khai dụng tối đa cơn sốt lịch sử của MÙA QUỐC HẬN năm nay bằng bốn loạt biện pháp chủ yếu:
* Các lực lượng cơ cấu cách mạng nào - đặc biệt các thành phần BỘ ĐỘI PHỤC VIÊN và LÃO THÀNH CÁCH MẠNG - phụ trách phá lăng HỒ CHÍ MINH để dẹp bỏ thần tượng tên bán nước và bịp nhân dân, xin lồng
gián điệp vào bên trong Lăng để thi hành sứ mạng vào một lúc bất ngờ nhất. Thời điểm bất ngờ nhất xin để anh em chọn theo tình hình thực tế cụ thể.
* Các tổ chức THANH NIÊN SINH VIÊN đang hoạt động bí mật xin liên kết trước với các bậc lão thành cách mạng và các tổ chức kín của bộ đội phục viên, cũng như các tôn giáo, chuẩn bị cho một giải pháp lâm thời khi PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG do thanh niên sinh viên chủ động dâng lên, với sự hậu thuẩn của toàn dân, làm sụp đổ chế độ CS. Thanh niên sinh viên là những người nhiệt huyết, dám làm, nhưng mắc phải hai khuyết điểm căn bản:
- Thiếu kinh nghiệm tổ chức.
- Thiếu nhân sự có khả năng hành chánh, quản trị vàlãnh đạo một khi chế độ CS sụp đổ. Hải ngoại không thể giúp nhiều trong việc này vì một số đáng kể các nhà chính trị sa lông tại hải ngoại chỉ chực chờ để chiếm một
cái ghếù khi chế độ CS sụp đổ chứ không phải là vì dân vì nước. Có những nhà tranh đấu ở hải ngoại một lòng vì nước thật sự, như LÝ TỐNG chẳng hạn, nhưng mà để những nguời này có thể giúp nước hữu hiệu, cần phải qua một giai đoạn gạn lọc và toàn dân quyết định qua lá phiếu. Đòi hỏi những người này phải tham gia ngay với số lượng đáp ứng đủ nhu cầu trong giai đoạn chuyển tiếp có thể là không được sự chấp nhận của đồng bào. Thành
ra nhân sự cho giai đoạn cách mạng khi chế độ vừa sụp đổ phần lớn phải do phong trào lật đổ CS trong nước tự lo.
Chúng tôi khuyến cáo anh chị em thanh niên sinh viên đứng ra làm lịch sử cần nên nối kết trước với các thành phần sau đây để giải quyết vấn đề hậu thuẩn và nhân sự một khi cao trào dâng lên làm sụp đổ chế độ:
(1) Bộ đội phục viên và thành phần tiến bộ của bộ đội
tại chức.
(2) Lão thành cách mạng và những người CS thức tỉnh trong khắp mọi giới.
(3) Các tôn giáo
(4) Các thành phần cán bộ, công nhân viên, chuyên viên v.v. bị trù dập, ức hiếp và bạc đãi.
(5) Các thành phần và nhóm xã hội bị trù dập, thí dụ nông dân Thái Bình, đồng bào sắc tộc Tây Nguyên, các chùa, thánh thất, nhà thờ bị CS bao vây hoặc chiếm đất (người đại biểu quan trọng nhất trong nhóm này là LS
NGUYỄN VĂN MINH, thuộc Tổng Giáo Phận Hà Nội -nghe nói đã bị bắt mấy tháng nay, và những lãnh tụ Sắc Tộc trốn sang Cam Bốt sau vụ nổi loạn tháng 2-2001, nay bị trả về VN và đang bị CS hành hạ, ngược đãi ở Tây
Nguyên. Trên 900 người khác đã được Mỹ can thiệp, nhận và sắp sang định cư tại Mỹ. PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG cần liên hệ với ba phong trào lớn của Dân Tộc là PHONG TRÀO VẬN ĐỘNG CHO DÂN CHỦ của Phật
Giáo (qua "Lời Kêu Gọi cho Dân Chủ VN" của HòaThượng THÍCH QUẢNG ĐỘ), PHONG TRÀO "TỰ DO TÔN GIÁO HAY LÀ CHẾT!" đang tạo được động lượng lớn khắp Quốc Nội - Hải Ngoại, mà các chiến sĩ hàng đầu là LM NGUYỄN VĂN LÝ (đang bị tù), LM PHAN VĂN LỢI, LM
NGUYỄN HỮU GIẢI (bên ngoài nước là LM TRẦN QÚY THIỆN, LM NGUYỄN HỮU LỄ, với sự nhiệt tâm hậu thuẩn của Đức Ông TRẦN VĂN HOÀI, và đang có những dấu hiệu chuyển mình quan trọng từ CÁC BẬC CHA MẸ và Tòa Thánh Vatican (qua Đức Giáo Hoàng và Đức Hồng Y Francis Xavier NGUYỄN VĂN THUẬN)). Hỗ trợ cho hai phong trào này là PHONG TRÀO LIÊN TÔN KHỞI NGHIÃ và PHONG TRÀO HIẾN CHƯƠNG 2000 có tầm quan trọng về mặt liên kết các tôn giáo đứng lên làm lịch sử để phục hồi các giáo hội truyền thống đúng nghiã và đặt nền tảng dân chủ cũng như pháp lýquốc tế cho cuộc đấu tranh của các lực lượng dân chủ VN. Nếu không có nền tảng dân chủ và pháp lý quốc tế có giá trị đúng mức được Quốc Tế thừa nhận, qua HIẾN CHƯƠNG 2000, thì việc tranh đấu của những người dân chủ VN thiếu cái nền. Ngoài ra cũng cần chú ý đến các ủy ban về tự do tôn giáo, Hội Đồng Liên Tôn, và phong trào Phật Giáo Hòa Hảo chống lại Ban Đại Diện PGHH của CS đòi tự do tôn giáo cho PGHH. PHONG TRÀO LÊâ CHÍ QUANG cần chú ý nhiều và liên kết chặt chẻ với các PHONG TRÀO TÔN GIÁO, PHONG TRÀO BỘ ĐỘI PHỤC VIÊN và PHONG TRÀO CỦA CÁC LÃO THÀNH CÁCH MẠNG).
(6) Phụ huynh học sinh bị tống tiền hoặc không đủ tiền cho con theo đuổi sự học.
(7) Dân nghèo bị bạc đãi vì thiếu tiền không được nhập viện để chửa bệnh, nhiều người chết, những gia đình bị cưỡng bách lao động XHCN làm Quốc Lộ xuyên Trường Sơn, cuỡng bách đi Kinh Tế Mới, những nạn nhân của chiến dịch diệt tư sản trá hình mới tại Sài Gòn v.v.
(8) Việc nối kết thanh niên sinh viên và các thành phần khác tham gia PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG giữa ba trung tâm quan trọng nhất nước: HÀ NỘI - SÀI GÒN - HUẾ, cần được tiến hành thật chu đáo để tạo sự ứng hợp nhịp nhàng toàn quốc khi phong trào được khởi động toàn diện
Xin các anh chị em thanh niên sinh viên chủ động PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG để ý liên kết với các thành phần này để tạo cuộc bùng nổ toàn diện trong MÙA QUỐC HẬN năm nay, đặc biệt trong công tác NỔ LĂNG HỒ CHÍ MINH và xuống đường phản đốiõ LÊ KHẢ PHIÊU và đồng bọn gián điệp cho Tàu, bao vây không cho chúng kịp thời trốn thoát theo quan thầy để chạy tội phản quốc.
* Hải ngoại sẽ trách nhiệm việc vận động quốc tế cho LÊ CHÍ QUANG và các chiến sĩ dân chủ, áp lực CS Hà Nội phải thả các chiến sĩ này ra, và một phần quan trọng về các lãnh vực thông tin phá vỡ hệ thống bưng bít
của CS, vận động tài chánh và kỹ thuật.
* Cần rĩ tai và tuyên truyền rộng rãi trong giới thanh niên sinh viên và nhân dân về việc hậu thuẩn LÊ CHÍ QUANG dẹp hình ảnh HỒ bán nước và lãnh đạo toàn dân chống lại đảng CS, chấm dứt chế độ chuyên chính, mở ra con đường cho chính thanh niên sinh viên và giới trẻ, mở ra sinh lộ cho Dân Tộc đang hoàn toàn bế tắc dưới sự cai trị của Đảng VC.
Bằng các biện pháp trên, PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG hy vọng sẽ lớn mạnh và đẩy chế độ CSVN vào con đường cùng với một tình thế dỡ khóc dỡ cười như sau:
- Không đàn áp thì phong trào sẽ lớn mạnh, CS sẽ phải thối lui nhượng bộ từng bước trước sự đòi hỏi rút khỏi vũ đài chính trị vì tội bán nước của Đảng CS và các chóp bu phải bị đem ra xử tội, như bài thơ của nhà ái
quốc ĐỖ VĂN THÔNG đã viết:
"Phải lôi đám chóp bu của Đảng,
Ra trước tòa luận án quốc dân
"Trả lời về tội "bán mình"
" Tại sao cắt đất hiến dâng cho Tàu?"
(Đối Lực, #55, tháng 3-2002, trang 1)
- Nếu CS đàn áp PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG thì tương quan loạn biến "BÁN NƯỚC - GIẾT DÂN" sẽ ứng dụng, và đại biến sẽ diễn ra theo đúng "LÝ THUYẾT LOẠN BIẾN VỀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHIÃ VIỆT NAM". Trong trường hợp LÝ THUYẾT LOẠN
BIẾN ứng dụng, theo đánh giá của chính tác giả (đã nghiên cứu lý thuyết này cho trường hợp VN cả chục năm nay), sự sụp đổ của chế độ CSVN sẽ đến nhanh hơn từ 4 đến 8 lần do tác dụng của cấp số lũy thừa từ tương quan
loạn biến "BÁN NƯỚC - GIẾT DÂN" và hiệu ứng cánh bướm tác động lên hàm số loạn biến từ sai biến khởi thủy có tính cách nhạy biến (sensitive dependence on initial conditions), làm cho sai số bùng nổ đạt trương độ quyết
định: Hệ thống CS bước vào ngưỡng cửa loạn biến (chaotic threshold) rất sớm tiếp theo các đàn áp kỳ này.
Đàng nào CSVN cũng phải đi đến đường cùng sau vụ bán nước. Nó chỉ càng ngày càng trầm trọng hơn, cho đến khi sụp đổ, chứ không thể nào gở ra được. Bởi vậy, việc bọn GIẶC CS HÀ NỘI bán nước là vận hội lớn nhất của Dân Tộc. Khai thác vận hội này theo đúng các điều kiện của lý thuyết loạn biến để đưa hệ thống CSVN vào ngưỡng cửa loạn biến chắc chắn sẽ bảo đảm thắng lợi.
VIỆC LÀM NỔ LĂNG HỒ CHÍ MINH cùng với việc đưa LÊ CHÍ QUANG LÊN THAY HỒ CHÍ MINH BÁN NƯỚC là hai trọng điểm ứng dụng lý thuyết loạn biến, nếu diễn ra đồng thời có nghiã là CÁCH MẠNG VIỆT NAM đã bùng nổ. Xin các ANH HÙNG ĐẤT BẮC cố gắng làm hai việc
này cho tốt nội trong MÙA QUỐC HẬN năm nay. Hải ngoại đảm trách việc vận động quốc tế cho các bạn.
Tác giả sẵn sàng dành cho các nhà tranh đấu và anh em lãnh đạo phong trào các cuộc tham khảo và phỏng vấn liên hệ đến sự vận dụng lý thuyết loạn biến vào thực tế đấu tranh tại VN hiện nay đểû bảo đảm thắng lợi trong MÙA QUỐC HẬN quyết định này. Xin nhắc lại việc cài gián điệp vào làm nổ lăng HỒ CHÍ MINH là một yếu tố quan trọng để bảo đảm phong trào bùng nổ toàn diện đạt thành công. Việc nổ lăng là TIẾNG PHÁO LỆNH CHO TOÀN DÂN TỘC.
Hải Ngoại, Mùa Quốc Hận tháng 4 năm 2002
TS NGUYỄN BÁ LONG
Tổng Đại Diện và Phát Ngôn Viên HIẾN CHƯƠNG 2000
Chủ Nhiệm Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN
là giải pháp cho Dân Tộc:
PHÁT ĐỘNG PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG - CHỐNGĐẢNG CS, CHẤM DỨT CHẾ ĐỘ VÔ ĐẠO, PHỤC HỒI LẠI ĐẤT &BIỂN CỦÙA TỔ QUỐC!
Nguyễn Bá Long
I. THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM ĐỨNG LÊN LÀM LỊCH SỬ:
NGƯỜI ĐẠI DIỆN ƯU TÚ - LÊ CHÍ QUANG
Trong mấy tháng gần đây, phong trào chống Đảng CS bán nước đã dâng lên khắp Quốc Nội - Hải Ngoại cực kỳ sôi động. Các thanh niên, sinh viên có hiểu biết về con người trí thức trẻ yêu nước cuồng nhiệt LÊ CHÍ QUANG
đã không dấu được nỗi bất bình đối với Đảng CS qua việc Đảng này bao vây bắt anh một cách phi pháp tại một quán cà phê internet cạnh Trường Luật Hà Nội, ngày 21-2-2002, và đưa anh đi giam cầm tại Trại Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Đông (cách Hà Nội khoảng 10 cây số). Thanh niên, sinh viên trong ngoài nước không chỉ bày tỏ nổi bất mãn, mà đồng loạt cả những người sinh ra từ lòng chế độ và những người phiá Quốc Gia đều lên tiếng về việc Hà Nội bắt LÊ CHÍ QUANG, và một phong trào đã phát sinh từ sự bắt bớ người thanh niên yêu nước cuồng nhiệt luôn "Cảnh giác đối với Bắc Triều", đang trở thành nạn nhân của chế độ mà một tác giả gọi là bọn "CHO' CHẾT" (xin đọc Trần Kim Khôi: "Dẫn lại một số sự kiện lịch sử..." trong số này).
Các bài 'HỊCH CỨU NƯỚC" đã được nhiều thanh niên yêu nước - gốc CS và không CS - làm ra, nhiều anh em đề nghị phát động PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG và đưa người thanh niên yêu nước dám cả gan chống lại bọn báquyền Phương Bắc ngay trong lòng chế độ, lên lãnh đạo phong trào. Đây là phong trào tiền phong chống Đảng bán nước, lần đầu tiên được công khai đưa lên hệ thống của Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN
cũng như Mạng Lưới Toàn Cầu. Phong trào LÊ CHÍ QUANG không phải chỉ đuợc phát động bởi Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ
VN, mà còn được phát động bởi nhiều tổ chức, lực lượng trong nước như Câu Lạc Bộ Sinh Viên, Câu lạc Bộ Dân Chủ cho Việt Nam, Phong Trào Sinh Viên Học sinh Cứu Nướcv.v.
Trong các tháng 3 và 4-2002, trên mặt báo Đối Lực và Khai Thác Thị Trường đã xuất hiện hai bài Hịch cứu nước, trong đó có đề cập đến phong trào thanh niên sinh viên và ý thức của các tầng lớp - không phân biệt gốc
CS hay không CS, hậu thuẩn LÊ CHÍ QUANG lãnh đạo Phong Trào Thanh Niên Sinh Viên chống Đảng bán nước, đặt LÊ CHÍ QUANG vào vị thế thay thế họ HỒ, bị loại ra khỏi lòng Dân Tộc do các hành động bán nước của y bịphanh phui. Xin trích lại một đoạn bài thơ "Hãy cùng nhau đứng lên làm lịch sử", hay là: "Phong trào Lê Chí Quang viết lại trang sử mới cho Dân Tộc" của Đỗ Văn Thông(Đông Âu), như sau:
Phải lôi đám chóp bu của Đảng
Ra trước tòa luận án quốc dân
Trả lời về tội "bán mình"
Tại sao cắt đất hiến dâng cho Tàu?
Ta đang sống giữa thời đại mới
Quyết định trên phải hỏi ý dân
Kẻ nào cậy thế, dựa thần
Đơn phương hành động chẳng cần hỏi han
Là kẻ đó thuộc hàng gian tặc
Nguy hiểm hơn lũ GIẶC ngoại xâm
Toàn dân ta phải quyết tâm
Làm đủ mọi cách chận âm mưu này
Các tướng tá trong tay có lực
Cơ hội này ra sức lấy oai
Biên cương, Tổ quốc, Giống nòi
Trách nhiệm bảo vệ của người quân nhân
Phải nhìn thấy lòng dân sôi sục
Tất cả cùng một lúc đứng lên
Sinh viên đại học, thanh niên
Sau lưng: phụ nữ, thiếu niên, cụ già
Rồi cả bậc lão thành của Đảng
Quyết một lòng hậu thuẩn CHÍ QUANG
Đứng lên lãnh đạo toàn dân
Thay HỒ bán nước, viết trang sử nhà!
Đỗ Văn Thông (Đối Lực #55, 3/02, trang 1)
Thông điệp về Phong Trào Lê Chí Quang từ Hải Ngoại hướng về trong nước rất rõ ràng: hậu thuẩn anh lên lãnh đạo Phong Trào Thanh Niên Sinh Viên chống Đảng bán nước, mở ra một trang sử mới cho thanh niên sinh viên
VN, đã nửa thế kỷ nay bị Đảng CS đè ép hầu như hoàn toàn thụ động, không đóng được vai trò lịch sử của mình là lực tiến hóa của Dân Tộc, đi tiền phong trong việc đòi hỏi các quyền làm người và các tự do dân chủ cho toàn dân. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nửa thế kỷ cai trị của Đảng CSVN mà một phong trào thanh niên sinh viên tranh đấu khởi phát, từ người trí thức trẻ ái quốc LÊ CHÍ QUANG, khởi động cho việc thanh niên sinh viên VN đứng lên khẳng định vai trò lịch sử của mình, trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng của Đất Nước: Đảng CSVN bán đứng đất đai biên giới và lãnh hải của Tổ Quốc cho Tàu Cộng, mà những tiếng kêu thắm thiết của những người cách mạng lão thành và những người đấu tranh cho dân chủ, như Trần Khuê, Đỗ Việt Sơn, Vũ Cao Quận, Nguyễn Thanh Giang, Bùi Minh Quốc v.v. chỉ dừng ở mức độ tiếng kêu thôi, không có điều kiện bùng lên thành một phong trào tranh đấu, mà lực hậu thuẩn căn bản của thanh niên sinh viên và toàn dân có đuợc như LÊ CHÍ QUANG: Các bạn bè thanh niên sinh viên biết anh là người yêu nước và nhận diện được Đảng CS bán nước, sau khi hai Hiệp ước Phân định Biên Giới trên Đất Liền Việt Nam - Trung Quốc ngày 30-12-1999 và Phân định Lãnh Hải Việt Nam - Trung Quốc ngày 25-12-2000 bị bại lộ, với biên giới phiá Bắc của VN ước tính bị mất trên bảy trăm cây số vuông và lãnh hải Vịnh Bắc Việt bị mất cả chục ngàn cây số vuông. Tình hình nguy hiểm là Đảng và chính phủ CSVN không chịu công bố hai hiệp ước, khiến người ta càng suy đoán rằng có những nhượng bộ quan trọng khác nữa về quốc phòng và an ninh quốc gia, nói trắng ra là một cách Đảng CSVN dâng nước cho Tàu, khiến cho CS Hà Nội sợ hãi không dám công bố chi tiết. Một số nguồn tin khả tín cho biết rằng Đảng CSVN bán lãnh hải để thu vào túi 2 tỷ Mỹ Kim. Bây giờ Hiệp Ước không được công khai ra thì mấy tỷ Mỹ Kim đó đi vào đâu?
LÊ CHÍ QUANG đã thu phục được cảm tình và sự hậu thuẩn của giới thanh niên sinh viên và đồng bào trong ngoài nước do ởø hai sự kiện và biến cố căn bản:
- Đức "DŨNG" của anh khi đứng lên cảnh giác đồng bào cả nước về họa Bắc Triều. Trong hoàn cảnh Đảng CSVN đang nô lệ và bán đứng Tổ Quốc cho Tàu Cộng, các lãnh tụ Đảng và Nhà Nước CSVN còn phải triều cống và sợ Tàu một phép, thì không một ai dám công khai có ý kiến chống lại Tàu như LÊ CHÍ QUANG. Khi đưa ra ngón đòn chí tử cho cả "tay sai CSVN" và "bá quyền Trung Quốc", LÊ CHÍ QUANG hẵn biết rằng anh có thể bị tù đày hoặc bị tiêu diệt, nhưng mà anh vẫn làm vì lòng yêu nước thiết tha, vì muốn đánh động lương tâm thanh niên sinh viên và đồng bào, kể cả những đảng viên CS còn chút lương tri, hầu đảo ngược lại những gì đang diễn ra bất lợi cho Dân Tộc, mà kẻ bán nước không phải ai khác hơn là một dúm người tham vọng đếm trên đầu ngón tay trong Chính Trị Bộ, đang tìm mọi cách bám quyền đến kỳ cùng, mà cách "đốn mạt" nhất là làm tay sai cho Tàu, dâng Tổ Quốc bằng chính hai tay của chúng cho Tàu Cộng. Thanh niên sinh viên, bộ đội phục viên, bộ đội tại ngũ, người CS thức tỉnh hoặc còn chút lương tri, và toàn dân bây giờ thấy rõ giữa LÊ CHÍ QUANG và Đảng CS, giữa LÊ CHÍ QUANG và HỒ CHÍ MINH, ai là người yêu nước, ai là kẻ bán nước, ai là người thực sự vì Dân Tộc, ai chỉø vì quyền lợi và tham vọng của bè đảng và tập đoàn. Bởi thế mới có ý kiến thanh niên sinh viên và toàn dân VN hãy hậu thuẩn LÊ CHÍ QUANG đứng lên đảm nhiệm vai trò lịch sử:
LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO THANH NIÊN SINH VIÊN TRANH ĐẤU CHỐNG ĐẢNG CS BÁN NƯỚC, viết lại trang sử mới cho Dân Tộc, đã bị họ HỒ và Đảng CSVN làm cho hoen ố một cách nhục nhã, đồng thời khôi phục lại vai trò, vị thế và nhân cách của thanh niên sinh viên VN, mở ra một hướng cho thanh niên sinh viên VN đang bị bế tắc không thoát ra được dưới sự cai trị của Đảng CS.
- Thanh niên sinh viên VN chẳng những không chấp nhận một Đảng bán nước mà còn không chấp nhận vai trò và vị thế hiện tại của mình: kẻ nô lệ cho chế độ. Thanh niên sinh viên VN quyết nắm vai trò tiền phong làm nên lịch sử Dân Tộc, chứ không phải là vai trò của những kẻ nhận ơn mưa móc, những kẻ làm theo chỉ thị và chính sách củaĐảng, để rồi sau khi ra trường, gia nhập vào hàng ngũ những "con vẹt", những " bồi bút", những "đầy tớ" trong hệ thống cầm quyền với "trái tim chó", dững dưng trước mọi sai quấy của chế độ, chỉ có mỗi một việc làm tay sai để bảo vệ "nồi cơm". Cụm từ "Trái tim chó" được Dương Thu Hương dành đặc biệt để ám chỉ lớp người trí thức chỉ biết làm tay sai vôhồn không còn biết phản ứng gì trước những kẻ cầm quyền và một Đảng vô đạo. Giải pháp LÊ CHÍ QUANG với sự đứng lên của toàn dân hậu thuẩn dẹp tiệm cái hình ảnh và xác chết của tên tội đồ bán nước HỒ CHÍ MINH, viết lại trang sử mới cho Dân Tộc, với vai trò của THANH NIÊN SINH VIÊN và TRÍ THỨC VN tiến lên hàng đầu cứu nước và dựng nước như ở mọi nước văn minh, là giải pháp đang làm rung cảm nhiều con tim yêu nước và đang được hiện thực hóa thành hành động qua PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG. Bài thơ của Đỗ Văn Thông từ Đông Âu, bài thơ của Kim Khôi từ Hoa Kỳ là hai bài tiêu biểu đã nói lên tâm nguyện của tầng lớp thanh niên sinh viên và trí thức CS và không CS, trong những ngày này: DẸP BỎ HỒ CHÍ MINH vàØ ĐẢNG BÁN NƯỚC và khởi động một cao trào đổi mới tiến lên phiá trước của Dân Tộc, với sự lãnh đạo của những con người trẻ dũng cảm dám làm, dám liều thân vì nước, mà các đại biểu anh dũng của hàng ngũ này không ai khác hơn là những LÊ CHÍ QUANG, PHẠM HỒNG SƠN, NGUYỄN VĂN MINH, ĐỖ VĂN THÔNG, LM NGUYỄN VĂN LÝ, LM PHAN VĂN LỢI, NGUYỄN CHÍNH KẾT, LÝ TỐNG, NGUYỄN BÁ LONG v.v. Đó là những con người dám liều thân tranh đấu với một tinh thần "quyết tử" đối với chế độ CS bạo tàn. Đối với CS, chỉ có một con đường sống chết với chuyên chính vô đạo chứ không có con đường "hòa hợp hòa giải" với chúng, vì "hòa hợp hòa giải" chỉ có nghiã là làm tay sai cho chúng! Đây là những hạt nhân sẽ tạo nên một cao trào quyết tử của toàn dân tràn lên phiá trước chấm dứt chế độ CS trong những ngày sắp tới.
II. LÝ THUYẾT LOẠN BIẾN VỀØ NGỌN TRIỀU DÂNG CỦA TOÀN DÂN TỘC VÀ VIỆC TỔ CHỨC ĐỨNG DẬY TRONG NƯỚC
Giận dữ trước lũ GIẶC BÁN NƯỚC CS HÀ NỘI là một chuyện, nhưng đây là đại sự quốc gia chúng ta phải bìnhtâm tiến hành cách mạng một cách có hệ thống và có phương pháp để đạt thắng lợi. Chúng ta không đấu tranh bất cập để chỉ có cái danh mà không cứu được toàn dân. Trong ý hướng này, tác giả - đã bỏ ra cả chục năm nay nghiên cứu về một lý thuyết quan trọng mong cứu nước, đó là "LÝ THUYẾT LOẠN BIẾN VỀ NGỌN TRIỀU DÂNG CỦA TOÀN DÂN TỘC", nay đem ra áp dụng mong đẩy phong trào tranh đấu trong nước LÊN MỘT BƯỚC MỚI VỀ CHẤT, đó là việc hậu thuẩn LÊ CHÍ QUANG đứng lên lãnh đạo PHONG TRÀO THANH NIÊN SINH VIÊN CỨU NƯỚC, dẹp bỏ và vất vào sọt rác HỒ CHÍ MINH và ĐẢNG CS, hình thành MỘT NƯỚC VIỆT NAM MỚI, trong đó vai trò của THANH NIÊN SINH VIÊN và TRÍ THỨC là lực lượng tiền phong của đổi thay chính trị và tiến bộ xã hội. Tại sao thanh niên sinh viên và trí thức phải đảm nhiệm vai trò tiền phong của "chuyển biến xã hội"? Điều này khỏi cần phải dài dòng vì thanh niên sinh viên và trí thức là tầng lớp hiểu biết và năng động nhất của xã hội có khả năng đưa xã hội tiến lên, nếu được sự hậu thuẩn và góp sức của những người hiểu biết và yêu nước thuộc các tầng lớp lớn tuổi hơn. Vấn đề quan trọng nhất là đồng bào quyết định ai là người xứng đáng lãnh đạo PHONG TRÀO THANH NIÊN SINH VIÊN TRÍ THỨC TRONG NƯỚC để khởi động NGỌN TRIỀU DÂN TỘC? Sự nhất trí này trước đây một năm không có được, nhưng lạ thay như vận hội của Dân Tộc đã đến: từ ngày khám phá ra CS bán nước và từ ngày NGƯỜI THANH NIÊN ÁI QUỐC LÊ CHÍ QUANG bị bắt, đã có một dư luận hầu như đồng nhất trong và ngoài nước hậu thuẩn LÊ CHÍ QUANG lãnh đạo PHONG TRÀO THANH NIÊN SINH VIÊN tranh đấu. Hình ảnh của HỒ CHÍ MINH và ĐẢNG CS HIỆN NAY sẽ bị vất vào sọt rác, và thay vào đó là hình ảnh của người thanh niên yêu nước LÊ CHÍ QUANG (đang bị cầm tù)ø và các chí hữu của ông, tiêu biểu cho " PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG VIẾT LẠI TRANG SỬ MỚI CHO DÂN TỘC".
Sau đây xin đề nghị những bước tiến phải làm để sự dấy động PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG CHỐNG CS BÁN NƯỚC VÀø XÂY DỰNG MỘT NƯỚC VN MỚI đạt thành công:
- Cần phải vận động quốc tế và vận động đồng bào mọi giới bằng một chiến dịch lớn lao và toàn diện để áp lực Hà Nội phải trả tự do cho LÊ CHÍ QUANG cũng như các chiến sĩ tranh đấu vụ CS bán nước và vụ Cha Ly, hiện đang bị cầm tù hoặc quản thúc: BS PHẠM HỒNG SƠN, LS NGUYỄN VĂN MINH, GS TRẦN KHUÊ, nhà văn BÙI MINH QUỐC v.v. Tiến xa hơn là trả tự do cho mọi chiến sĩ dân chủ và các nhà lãnh đạo tôn giáo đang bị CS cầm tù hoặc quản chế như LM NGUYỄN VĂN LÝ, HT THÍCHHUYỀN QUANG, HT THÍCH QUẢNG ĐỘ, cụ LÊ QUANG LIÊM, BS NGUYỄN ĐAN QUẾ, hai người cháu của Cha Lý NGUYỄN VĂN CƯỜNG và NGUYỄN VŨ VIỆT, TS HÀø SĨ PHU (?) v.v. Các phong trào dân chủ VN kết hợp quanh HIẾN CHƯƠNG 2000 và Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN ( internet user name là Viet Marketing) đang làm công tác này. Mong tất cả các tổ chức tranh đấu và anh chị em các diễn đàn góp tay để công cuộc vận động quốc tế và vận động đồng bào mau có kết quả. Nhân ngày Nhân Quyền cho VN tổ chức vào 10-5-2002 tại Quốc Hội Hoa Kỳ, BS NGUYỄN QUỐC QUÂN và Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Cao Trào Nhân Bản nên đặt một tầm quan trọng lớn vào việc vận động các Thượng Nghị Sĩ và Dân Biểu Mỹ đến dự lễ nhằm vào hai vụ việc quan hệ: (1) Dự Luật Nhân Quyền 2833 đưa ra biểu quyết trước Thượng Viện, và (2) vấn đề can thiệp với Hà Nội trả tự do cho LÊ CHÍ QUANG và những chiến sĩ dânchủ và nhà lãnh đạo tôn giáo đã liệt kê trên.
- Tổ chức PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG trong nước: Luận về dư luận gần đây được đưa ra về việc nhân dân hậu thuẩn LÊ CHÍ QUANG - người đại biểu tiêu biểu và dũng cảm nhất của tầng lớp THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT NAM THỜI ĐẠI MỚI - đứng lên như một con người xứng đáng và dũng liệt nhất, thay HỒ CHÍ MINH bán nước bị vất vào sọt rác lịch sử, lãnh đạo PHONG TRÀO THANH NIÊN SINH VIÊN TOÀN QUỐC CHỐNG ĐẢNG BÁN NƯỚC, chấm dứt chế độ chuyên chính, mở ra sinh lộ cho lớp người trẻ và cho Dân Tộc, phục hồi các vùng đất và biển đã bị bè lũ tay sai gián điệp của Tàu và Đảng CS bán nước hiến dâng cho Tàu Cộng, là giải pháp Dân Tộc khởi sắc nhất hiện nay trong việc loại trừ Đảng tội ác, vì Đảng này quá nguy hiểm cho tương lai VN (xin xem thêm bài của GS VŨ QUỐC THÚC ở sau đào sâu về vấn đề này).
Việc tổ chức PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG trong nước cần khai dụng tối đa cơn sốt lịch sử của MÙA QUỐC HẬN năm nay bằng bốn loạt biện pháp chủ yếu:
* Các lực lượng cơ cấu cách mạng nào - đặc biệt các thành phần BỘ ĐỘI PHỤC VIÊN và LÃO THÀNH CÁCH MẠNG - phụ trách phá lăng HỒ CHÍ MINH để dẹp bỏ thần tượng tên bán nước và bịp nhân dân, xin lồng
gián điệp vào bên trong Lăng để thi hành sứ mạng vào một lúc bất ngờ nhất. Thời điểm bất ngờ nhất xin để anh em chọn theo tình hình thực tế cụ thể.
* Các tổ chức THANH NIÊN SINH VIÊN đang hoạt động bí mật xin liên kết trước với các bậc lão thành cách mạng và các tổ chức kín của bộ đội phục viên, cũng như các tôn giáo, chuẩn bị cho một giải pháp lâm thời khi PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG do thanh niên sinh viên chủ động dâng lên, với sự hậu thuẩn của toàn dân, làm sụp đổ chế độ CS. Thanh niên sinh viên là những người nhiệt huyết, dám làm, nhưng mắc phải hai khuyết điểm căn bản:
- Thiếu kinh nghiệm tổ chức.
- Thiếu nhân sự có khả năng hành chánh, quản trị vàlãnh đạo một khi chế độ CS sụp đổ. Hải ngoại không thể giúp nhiều trong việc này vì một số đáng kể các nhà chính trị sa lông tại hải ngoại chỉ chực chờ để chiếm một
cái ghếù khi chế độ CS sụp đổ chứ không phải là vì dân vì nước. Có những nhà tranh đấu ở hải ngoại một lòng vì nước thật sự, như LÝ TỐNG chẳng hạn, nhưng mà để những nguời này có thể giúp nước hữu hiệu, cần phải qua một giai đoạn gạn lọc và toàn dân quyết định qua lá phiếu. Đòi hỏi những người này phải tham gia ngay với số lượng đáp ứng đủ nhu cầu trong giai đoạn chuyển tiếp có thể là không được sự chấp nhận của đồng bào. Thành
ra nhân sự cho giai đoạn cách mạng khi chế độ vừa sụp đổ phần lớn phải do phong trào lật đổ CS trong nước tự lo.
Chúng tôi khuyến cáo anh chị em thanh niên sinh viên đứng ra làm lịch sử cần nên nối kết trước với các thành phần sau đây để giải quyết vấn đề hậu thuẩn và nhân sự một khi cao trào dâng lên làm sụp đổ chế độ:
(1) Bộ đội phục viên và thành phần tiến bộ của bộ đội
tại chức.
(2) Lão thành cách mạng và những người CS thức tỉnh trong khắp mọi giới.
(3) Các tôn giáo
(4) Các thành phần cán bộ, công nhân viên, chuyên viên v.v. bị trù dập, ức hiếp và bạc đãi.
(5) Các thành phần và nhóm xã hội bị trù dập, thí dụ nông dân Thái Bình, đồng bào sắc tộc Tây Nguyên, các chùa, thánh thất, nhà thờ bị CS bao vây hoặc chiếm đất (người đại biểu quan trọng nhất trong nhóm này là LS
NGUYỄN VĂN MINH, thuộc Tổng Giáo Phận Hà Nội -nghe nói đã bị bắt mấy tháng nay, và những lãnh tụ Sắc Tộc trốn sang Cam Bốt sau vụ nổi loạn tháng 2-2001, nay bị trả về VN và đang bị CS hành hạ, ngược đãi ở Tây
Nguyên. Trên 900 người khác đã được Mỹ can thiệp, nhận và sắp sang định cư tại Mỹ. PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG cần liên hệ với ba phong trào lớn của Dân Tộc là PHONG TRÀO VẬN ĐỘNG CHO DÂN CHỦ của Phật
Giáo (qua "Lời Kêu Gọi cho Dân Chủ VN" của HòaThượng THÍCH QUẢNG ĐỘ), PHONG TRÀO "TỰ DO TÔN GIÁO HAY LÀ CHẾT!" đang tạo được động lượng lớn khắp Quốc Nội - Hải Ngoại, mà các chiến sĩ hàng đầu là LM NGUYỄN VĂN LÝ (đang bị tù), LM PHAN VĂN LỢI, LM
NGUYỄN HỮU GIẢI (bên ngoài nước là LM TRẦN QÚY THIỆN, LM NGUYỄN HỮU LỄ, với sự nhiệt tâm hậu thuẩn của Đức Ông TRẦN VĂN HOÀI, và đang có những dấu hiệu chuyển mình quan trọng từ CÁC BẬC CHA MẸ và Tòa Thánh Vatican (qua Đức Giáo Hoàng và Đức Hồng Y Francis Xavier NGUYỄN VĂN THUẬN)). Hỗ trợ cho hai phong trào này là PHONG TRÀO LIÊN TÔN KHỞI NGHIÃ và PHONG TRÀO HIẾN CHƯƠNG 2000 có tầm quan trọng về mặt liên kết các tôn giáo đứng lên làm lịch sử để phục hồi các giáo hội truyền thống đúng nghiã và đặt nền tảng dân chủ cũng như pháp lýquốc tế cho cuộc đấu tranh của các lực lượng dân chủ VN. Nếu không có nền tảng dân chủ và pháp lý quốc tế có giá trị đúng mức được Quốc Tế thừa nhận, qua HIẾN CHƯƠNG 2000, thì việc tranh đấu của những người dân chủ VN thiếu cái nền. Ngoài ra cũng cần chú ý đến các ủy ban về tự do tôn giáo, Hội Đồng Liên Tôn, và phong trào Phật Giáo Hòa Hảo chống lại Ban Đại Diện PGHH của CS đòi tự do tôn giáo cho PGHH. PHONG TRÀO LÊâ CHÍ QUANG cần chú ý nhiều và liên kết chặt chẻ với các PHONG TRÀO TÔN GIÁO, PHONG TRÀO BỘ ĐỘI PHỤC VIÊN và PHONG TRÀO CỦA CÁC LÃO THÀNH CÁCH MẠNG).
(6) Phụ huynh học sinh bị tống tiền hoặc không đủ tiền cho con theo đuổi sự học.
(7) Dân nghèo bị bạc đãi vì thiếu tiền không được nhập viện để chửa bệnh, nhiều người chết, những gia đình bị cưỡng bách lao động XHCN làm Quốc Lộ xuyên Trường Sơn, cuỡng bách đi Kinh Tế Mới, những nạn nhân của chiến dịch diệt tư sản trá hình mới tại Sài Gòn v.v.
(8) Việc nối kết thanh niên sinh viên và các thành phần khác tham gia PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG giữa ba trung tâm quan trọng nhất nước: HÀ NỘI - SÀI GÒN - HUẾ, cần được tiến hành thật chu đáo để tạo sự ứng hợp nhịp nhàng toàn quốc khi phong trào được khởi động toàn diện
Xin các anh chị em thanh niên sinh viên chủ động PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG để ý liên kết với các thành phần này để tạo cuộc bùng nổ toàn diện trong MÙA QUỐC HẬN năm nay, đặc biệt trong công tác NỔ LĂNG HỒ CHÍ MINH và xuống đường phản đốiõ LÊ KHẢ PHIÊU và đồng bọn gián điệp cho Tàu, bao vây không cho chúng kịp thời trốn thoát theo quan thầy để chạy tội phản quốc.
* Hải ngoại sẽ trách nhiệm việc vận động quốc tế cho LÊ CHÍ QUANG và các chiến sĩ dân chủ, áp lực CS Hà Nội phải thả các chiến sĩ này ra, và một phần quan trọng về các lãnh vực thông tin phá vỡ hệ thống bưng bít
của CS, vận động tài chánh và kỹ thuật.
* Cần rĩ tai và tuyên truyền rộng rãi trong giới thanh niên sinh viên và nhân dân về việc hậu thuẩn LÊ CHÍ QUANG dẹp hình ảnh HỒ bán nước và lãnh đạo toàn dân chống lại đảng CS, chấm dứt chế độ chuyên chính, mở ra con đường cho chính thanh niên sinh viên và giới trẻ, mở ra sinh lộ cho Dân Tộc đang hoàn toàn bế tắc dưới sự cai trị của Đảng VC.
Bằng các biện pháp trên, PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG hy vọng sẽ lớn mạnh và đẩy chế độ CSVN vào con đường cùng với một tình thế dỡ khóc dỡ cười như sau:
- Không đàn áp thì phong trào sẽ lớn mạnh, CS sẽ phải thối lui nhượng bộ từng bước trước sự đòi hỏi rút khỏi vũ đài chính trị vì tội bán nước của Đảng CS và các chóp bu phải bị đem ra xử tội, như bài thơ của nhà ái
quốc ĐỖ VĂN THÔNG đã viết:
"Phải lôi đám chóp bu của Đảng,
Ra trước tòa luận án quốc dân
"Trả lời về tội "bán mình"
" Tại sao cắt đất hiến dâng cho Tàu?"
(Đối Lực, #55, tháng 3-2002, trang 1)
- Nếu CS đàn áp PHONG TRÀO LÊ CHÍ QUANG thì tương quan loạn biến "BÁN NƯỚC - GIẾT DÂN" sẽ ứng dụng, và đại biến sẽ diễn ra theo đúng "LÝ THUYẾT LOẠN BIẾN VỀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHIÃ VIỆT NAM". Trong trường hợp LÝ THUYẾT LOẠN
BIẾN ứng dụng, theo đánh giá của chính tác giả (đã nghiên cứu lý thuyết này cho trường hợp VN cả chục năm nay), sự sụp đổ của chế độ CSVN sẽ đến nhanh hơn từ 4 đến 8 lần do tác dụng của cấp số lũy thừa từ tương quan
loạn biến "BÁN NƯỚC - GIẾT DÂN" và hiệu ứng cánh bướm tác động lên hàm số loạn biến từ sai biến khởi thủy có tính cách nhạy biến (sensitive dependence on initial conditions), làm cho sai số bùng nổ đạt trương độ quyết
định: Hệ thống CS bước vào ngưỡng cửa loạn biến (chaotic threshold) rất sớm tiếp theo các đàn áp kỳ này.
Đàng nào CSVN cũng phải đi đến đường cùng sau vụ bán nước. Nó chỉ càng ngày càng trầm trọng hơn, cho đến khi sụp đổ, chứ không thể nào gở ra được. Bởi vậy, việc bọn GIẶC CS HÀ NỘI bán nước là vận hội lớn nhất của Dân Tộc. Khai thác vận hội này theo đúng các điều kiện của lý thuyết loạn biến để đưa hệ thống CSVN vào ngưỡng cửa loạn biến chắc chắn sẽ bảo đảm thắng lợi.
VIỆC LÀM NỔ LĂNG HỒ CHÍ MINH cùng với việc đưa LÊ CHÍ QUANG LÊN THAY HỒ CHÍ MINH BÁN NƯỚC là hai trọng điểm ứng dụng lý thuyết loạn biến, nếu diễn ra đồng thời có nghiã là CÁCH MẠNG VIỆT NAM đã bùng nổ. Xin các ANH HÙNG ĐẤT BẮC cố gắng làm hai việc
này cho tốt nội trong MÙA QUỐC HẬN năm nay. Hải ngoại đảm trách việc vận động quốc tế cho các bạn.
Tác giả sẵn sàng dành cho các nhà tranh đấu và anh em lãnh đạo phong trào các cuộc tham khảo và phỏng vấn liên hệ đến sự vận dụng lý thuyết loạn biến vào thực tế đấu tranh tại VN hiện nay đểû bảo đảm thắng lợi trong MÙA QUỐC HẬN quyết định này. Xin nhắc lại việc cài gián điệp vào làm nổ lăng HỒ CHÍ MINH là một yếu tố quan trọng để bảo đảm phong trào bùng nổ toàn diện đạt thành công. Việc nổ lăng là TIẾNG PHÁO LỆNH CHO TOÀN DÂN TỘC.
Hải Ngoại, Mùa Quốc Hận tháng 4 năm 2002
TS NGUYỄN BÁ LONG
Tổng Đại Diện và Phát Ngôn Viên HIẾN CHƯƠNG 2000
Chủ Nhiệm Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN
HOÀNG THỊ CHIẾN THẮNG * HẬN MẤT ĐẤT
HẬN MẤt ĐẤT
Hoàng Thị Chiến Thắng
Việt Nam một giải sơn hà,
Núi rừng sông biển bao la ngút trời.
Cha ông tranh đấu sáng ngời,
Dựng nên tổ quốc ngàn đời Việt Nam.
Cà Mâu đếàn ải Nam quan,
Biên Cương Bản Dốc, Trường Hoàng tiêu tan.
Mất luôn cửa ải Nam quan,
Tập đoàn quỷ đỏ ác ôn giặc Hồ.
Ngàn năm xây dựng cơ đồ,
Tổ tiên để lại rợ Hồ bán đi.
Tham tàn lũ cộng khinh khi,
Vâng lời Tàu cộng còn gì nươc non.
" Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Bây giờ cho đến bao giờ,
Việt Nam mất đất ngẩn ngơ đau buồn.
Hải ngoại đoàn kết kiên cường,
Cùng dân quốc nội dìm xuống cộng nô.
Đấu tranh dành lại cơ đồ,
Tự do, dân chủ, giặc Hồ tiêu tan.
Hoàng Thị Chiến Thắng
Việt Nam một giải sơn hà,
Núi rừng sông biển bao la ngút trời.
Cha ông tranh đấu sáng ngời,
Dựng nên tổ quốc ngàn đời Việt Nam.
Cà Mâu đếàn ải Nam quan,
Biên Cương Bản Dốc, Trường Hoàng tiêu tan.
Mất luôn cửa ải Nam quan,
Tập đoàn quỷ đỏ ác ôn giặc Hồ.
Ngàn năm xây dựng cơ đồ,
Tổ tiên để lại rợ Hồ bán đi.
Tham tàn lũ cộng khinh khi,
Vâng lời Tàu cộng còn gì nươc non.
" Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Bây giờ cho đến bao giờ,
Việt Nam mất đất ngẩn ngơ đau buồn.
Hải ngoại đoàn kết kiên cường,
Cùng dân quốc nội dìm xuống cộng nô.
Đấu tranh dành lại cơ đồ,
Tự do, dân chủ, giặc Hồ tiêu tan.
TRẦN BÌNH NAM * DO THÁI VÀ PALESTINE
Cuoäc noåi daäy (intifada) laàn thöù nhì cuûa ngöôøi Palestine soáng treân giaûi ñaát Gaza (giaûi Gaza) vaø Taây ngaïn soâng Jordan (Taây ngaïn) töø thaùng 9 naêm 2000 chuyeån qua moät böôùc ngoaëc quyeát lieät töø ngaøy 29 thaùng 3 naêm 2002.
Trong khi caùc nöôùc A Raäp ñang hoïp thöôïng ñænh taïi Beirut vaø hoaøng thaân Abdullah cuûa Saudi Arabia ñöa ra moät saùng kieán hoøa bình (khoái caùc nöôùc A Raäp coâng nhaän nöôùc Do thaùi, ñoåi laïi Do Thaùi traû laïi ñaát ñaõ chieám trong cuoäc chieán naêm 1967 goàm vuøng ñaát cao Golan, giaûi Gaza, Taây ngaïn, coâng nhaän söï ra ñôøi cuûa nöôùc Palestine vaø ñeå ngöôøi Palestine boû ñaát ra ñi trong cuoäc chieán naêm 1967 ñöôïc trôû veà) thì quaân ñoäi Do thaùi taán coâng Ramalllah, thuû ñoâ cuûa chính quyeàn taïm thôøi Palestine thaønh hình do thoûa öôùc Oslo kyù naêm 1993. Quaân ñoäi Do Thaùi phong toûa khu laøm vieäc cuûa oâng Yasser Arafat vaø doïa baét oâng ñi ñaøy, ñoàng thôøi taán coâng vaøo caùc thaønh phoá cuûa Palestine, baét giöõ taát caû thanh nieân vaø baén taïi choã nhöõng ngöôøi tình nghi khuûng boá trong ñoù coù moät soá só quan caûnh saùt Palestine.
Thoûa öôùc Oslo (thöông thuyeát kín taïi Oslo, thuû ñoâ Na Uy) vaø kyù taïi Hoa Thònh Ñoán ngaøy 13/9/1993 giöõa thuû töôùng Do thaùi Yitzhak Rabin vaø chuû tòch Palestine Yasser Arafat coâng nhaän söï hình thaønh moät nöôùc Palestine (goàm hai phaàn ñaát Gaza vaø Taây ngaïn) ñoàng thôøi ñaët caên baûn giaûi quyeát trong 5 naêm qui cheá thaønh phoá Jeruselem vaø caùc khu ñònh cö cuûa ngöôøi Do Thaùi trong giaûi Gaza vaø Taây ngaïn, hai vuøng ñaát hoï ñaõ chieám trong traän chieán naêm 1967 vaø töø ñoù khoâng ngöøng di daân ñeán laäp thaønh caùc khu ñònh cö truø phuù döôùi söï che chôû cuûa quaân ñoäi. Thoûa öôùc Oslo cuõng döï lieäu giaûi quyeát vaán ñeà bieân giôùi vaø caùc vaán ñeà an ninh khaùc.
Theo thoûa öôùc Oslo vaø caùc thoûa thuaän chi tieát sau ñoù (Oslo 1 ngaøy 4/5/1994 taïi Cairo, Oslo 2 ngaøy 28/9/1995 taïi Washington D.C.) chính quyeàn daân cöû Palestine kieåm soaùt moät soá thaønh phoá vaø ñaát ñai ngöôøi Palestine ñang sinh soáng vaø caùc khu tò naïn toång soá chöøng 29% ñaát Gaza vaø Taây ngaïn goäp laïi. 71% coøn laïi goàm caùc khu ñònh cö Do thaùi, caên cöù quaân söï, caùc truïc loä giao thoâng chính vaø ñaát ñai thieân nhieân thuoäc quyeàn kieåm soaùt cuûa Do Thaùi. Do thaùi seõ chuyeån nhöôïng daàn daàn cho Palestine tuøy theo tình hình an ninh vaø khaû naêng quaûn lyù cuûa chính quyeàn Palestine.
Giaûi phaùp Oslo laø keát quaû cuûa moät cuoäc tranh ñaáu kieân trì cuûa ngöôøi Palestine töø naêm 1967 vaø nhaát laø töø naêm 1987 khi daân Palestine soáng trong vuøng Gaza vaø Taây ngaïn chaáp nhaän hy sinh xöông maùu coâng khai noåi daäy choáng söï chieám ñaát cuûa Do Thaùi. Qua giaûi phaùp Oslo hai beân nhìn nhaän moät thöïc teá. Caû hai beân ñeàu meät moûi vaø phaûi chaáp nhaän laãn nhau. Palestine coâng nhaän söï hieän dieän cuûa moät nöôùc Do thaùi taïi Trung Ñoâng, ngöôïc laïi Do thaùi coâng nhaän quyeàn laäp quoác cuûa ngöôøi Palestine vaø höùa giao traû ñaát ñai ñaõ chieám.
Nhöng coù hai yeáu toá laøm cho thoûa öôùc Oslo khoâng thi haønh ñöôïc. Thöù nhaát, khoâng coù giaûi phaùp döùt khoaùt cho hai vaán ñeà then choát laø töông lai caùc khu ngöôøi Do thaùi ñaõ khai phaù vaø qui cheá thaønh phoá Jerusalem hai beân ñeàu giaønh laøm thuû ñoâ. Thaønh phaàn cöïc höõu Do Thaùi chính yeáu laø thaønh phaàn ñaõ laäp nhöõng khu ñònh cö taïi Gaza vaø Taây ngaïn lo sôï cho töông lai soáng caïnh moät nöôùc Palestine thuø nghòch neân tìm caùch phaù söï thi haønh thoûa öôùc Oslo. Thöù hai laø Hoa Kyø, quoác gia coù nhieàu aûnh höôûng trong cuoäc tranh chaáp, khoâng coù moät chính saùch coâng bình ñoái vôùi ngöôøi Palestine döôùi aùp löïc cuûa khoái ngöôøi Myõ goác Do thaùi. Moãi laàn saép ñeán kyø baàu cöû toång thoáng hay baàu cöû quoác hoäi giöõa hai nhieäm kyø toång thoáng, caùc toång thoáng Hoa Kyø thöôøng choïn thaùi ñoä nghieâng veà Do Thaùi. AÛnh höôûng cuûa ngöôøi Do thaùi taïi Hoa Kyø khoâng nhöõng chæ baèng laù phieáu cuûa ngöôøi Myõ goác Do thaùi maø coøn baèng söùc maïnh taøi chaùnh vaø truyeàn thoâng ngöôøi Myõ goác Do Thaùi naém trong tay.
Ngaøy 4/11/1995 thuû töôùng Rabin bò moät ngöôøi Do thaùi quaù khích baén cheát khi ñang thi haønh töøng böôùc thoaû öôùc Oslo. Saùu thaùng sau (thaùng 5/1996) oâng Benjamin Netanyahu thuoäc ñaûng cöïc höõu Likud ñaéc cöû thuû töôùng. OÂng Netanyahu khoâng laøm gì khaùc hôn laø ngaên trôû vieäc thi haønh thoûa öôùc Oslo cho raèng thoûa öôùc khoâng baûo ñaûm an ninh laâu daøi cho Do Thaùi. Thaùng 3 naêm 1997 oâng Netanyahu laáy côù caàn ñaát ñònh cö ngöôøi Do thaùi trôû veà töø Lieân bang Nga ñaõ cho thieát laäp theâm nhöõng khu ñònh cö môùi taïi Taây ngaïn vaø taïi ñoâng Jerusalem baát chaáp söï phaûn ñoái cuûa ngöôøi Palestine. Ñaùp laïi caùc cuoäc khuûng boá cuûa ngöôøi Palestine choáng laïi ngöôøi Do Thaùi gia taêng.
Maõi ñeán thaùng 10 naêm 1998 qua moät thöôïng ñænh taïi Wye (bang Maryland, Hoa Kyø) do toång thoáng Bill Clinton baûo trôï Arafat baèng loøng tu chính Hieán chöông cuûa Toå chöùc giaûi Phoùng Palestine (nhö ñaõ cam keát treân nguyeân taéc trong thoûa öôùc Oslo) baõi boû ñieàu khoaûn qui ñònh söï trieät tieâu nöôùc Israel, ñoåi laïi thuû töôùng Netanyahu thuaän nhöôøng theâm 13% ñaát trong vuøng Taây ngaïn (goïi laø thoûa öôùc Wye).
Chính saùch baát nhaát cuûa Netanyahu vöøa phaù thoûa öôùc Oslo, vöøa nhöôïng boä laøm Netanyahu maát chöùc thuû töôùng vaøo tay oâng Ehud Barak thuoäc ñaûng Lao ñoäng trong cuoäc baàu cöû ngaøy 17/5/1999. Thuû töôùng Barak moät maët theo con ñöôøng tìm kieám hoøa bình trong khuoân khoå hieäp öôùc Oslo vaø thoûa öôùc Wye ñoàng thôøi môû roäng thaùi ñoä hoøa giaûi vôùi Syria (nhöng baát thaønh do baát ñoàng yù kieán veà chuû quyeàn ñoài cao Golan), moät maët aâm thaàm ñeå caùc thaønh phaàn cöïc höõu tieáp tuïc xaây döïng theâm caùc khu ñònh cö môùi trong vuøng Taây ngaïn.
Ñaùp laïi, thaùng 12/1999 Arafat ngöng caùc cuoäc thöông thuyeát vôùi Do Thaùi. Gaàn moät naêm sau (thaùng 8 naêm 2000), tröôùc khi maõn nhieäm kyø 2 toång thoáng Bill Clinton laøm moät noåâ löïc cuoái cuøng môøi Arafat vaø Barah ñeán Hoa Thònh Ñoán. Moät giaûi phaùp ñöôïc thaønh hình qua ñoù vaán ñeà caùc khu ñònh cö ñöôïc giaûi quyeát töông ñoái oån thoûa nhöng Do thaùi (vôùi söï uûng hoä cuûa Hoa Kyø) ñoøi hoûi Arafat töø boû quyeàn laáy Ñoâng Jerusalem laøm thuû ñoâ töông lai cuûa nöôùc Palestine. Arafat khoâng chaáp nhaän ñieàu kieän naøy. Bill Clinton baát maõn vaø tröôùc aùp löïc cuûa cöû tri goác Do thaùi ñaõ coâng khai ñoå loãi cho Arafat laøm hoûng moät cô hoäi coù theå mang hoøa bình ñeán cho vuøng Trung Ñoâng. Thaùi ñoä naøy cuûa oâng Clinton khuyeán khích chuû tòch ñaûng Likuk, cöïu töôùng Ariel Sharon trong thaùng 9/2000 khieâu khích ngöôøi Hoài giaùo baèng caùch ñeán vieáng thaùnh ñöôøng Mount cuûa ngöôøi Hoài giaùo taïi Ñoâng Jerusalem xem nhö ñaát cuûa mình. Tröôùc thaùi ñoä thaùch thöùc naøy, toaøn daân Palestine noåi daäy duøng tay khoâng, ñaù vaø suùng cao su ñeå choáng laïi caùc löïc löôïng chieám ñoùng Do thaùi. Ñaây laø cuoäc noåi daäy (intifada) laàn thöù nhì sau cuoäc noåi daäy naêm 1987. Ngaøy 20/10/2000 thuû töôùng Barak ngöng moïi cuoäc thöông thuyeát vôùi Yasser Arafat.
Tröôùc beá taéc, chæ coøn vieãn aûnh chieán tranh, töôùng hoài höu Ariel Sharon ñaéc cöû thuû töôùng Do thaùi trong cuoäc baàu cöû thaùng 2 naêm 2001. Taïi Hoa Kyø taân toång thoáng George W. Bush (nhieäm chöùc ñaàu naêm 2001) bình chaân nhö vaïi choáng tay ngoài ñôïi Sharon thanh toaùn cuoäc noåi daäy cuûa Palestine, ngoaøi nhöõng vieäc laøm laáy leä ñeå qua maét dö luaän nhö cöû cöïu Thöôïng Nghò Só George Mitchell (Daân chuû) vaø giaùm ñoác CIA George Tenet qua Trung Ñoâng nghieân cöùu keá hoaïch giaûi quyeát.
Ñöôïc söï ñoàng yù maëc nhieân cuûa Hoa Kyø Ariel Sharon tieáp tuïc thieát laäp caùc khu ñònh cö, ñaøn aùp chính quyeàn Palestine baèng nhöõng haønh ñoäng coi thöôøng dö luaän theá giôùi nhö baén phaù caùc ñoàn caûnh saùt cuûa chính quyeàn Palestine, phaù huûy phöông tieän di chuyeån cuûa oâng Arafat vaø giam loûng oâng ta taïi thaønh phoá Ramallah ôû Taây ngaïn. Ngöôøi Palestine khoâng coøn phöông tieän töï veä naøo khaùc hôn laø oâm bom töï saùt ñeå choáng laïi.
Trong khi ñoù nhu caàu choáng khuûng boá toaøn caàu sau cuoäc khuûng boá ngaøy11 thaùng 9 naêm 2001 (vaø söï chieán thaéng chính quyeàn Taliban taïi Afghanistan töông ñoái deã daøng) laøm cho toång thoáng Bush muoán nhìn thaáy theá thöôïng phong tuyeät ñoái taïi Trung Ñoâng cuûa Do thaùi vaø söï ra ñi cuûa Yasser Arafat, moät ngöôøi oâng lieät vaøo thaønh phaàn khuûng boá, tröôùc khi oâng coù nhöõng haønh ñoäng maïnh hôn ñoái vôùi Iraq. Ñoù coù theå laø nguyeân nhaân ñöa ñeán cuoäc taán coâng tieâu dieät caùc löïc löôïng Palestine, vaø laøm nhuïc oâng Yasser Arafat cuûa thuû töôùng Sharon.
Chôø cho ñeán luùc chính quyeàn Palestine khoâng coøn gì sau 5 ngaøy bò Do Thaùi taán coâng quyeát lieät, hoâm 2/4/2002 toång thoáng Bush môùi leân tieáng can thieäp vaø quyeát ñònh gôûi boä tröôûng ngoaïi giao Colin Powell ñi Trung ñoâng tìm kieám hoøa bình. Nhöng Colin Powell coù theå tìm thaáy thöù hoøa bình gì? Moät nöôùc Palestine da beo goàm vaøi chuïc thaønh phoá lôùn nhoû (nhö nhöõng reservations cuûa ngöôøi da ñoû ôû luïc ñòa Hoa Kyø) naèm raûi raùc giöõa nhöõng khu ñònh cö truø phuù cuûa ngöôøi Do thaùi?
Neáu vaäy thì ngöôøi Palestine, duø coøn Yasser Arafat laõnh ñaïo hay khoâng, vaãn seõ tieáp tuïc cuoäc chieán ñaáu giaønh ñoäc laäp vaø vuøng Trung ñoâng seõ laø loø löûa cuûa chieán tranh. Ñieàu nguy hieåm cho theá giôùi laø sau cuoäc taán coâng khuûng boá ngaøy 11 thaùng 9 naêm 2001, cuoäc chieán ñaáu töông lai cuûa ngöôøi Palestine choáng laïi ngöôøi Do thaùi coù theå seõ bieán thaønh cuoäc chieán tranh giöõa khoái Hoài giaùo vaø Hoa Kyø.
Hoøa bình chæ coù theå ñeán taïi Trung Ñoâng neáu ngöôøi Do thaùi huûy boû caùc khu ñònh cö taïi Taây ngaïn vaø giaûi Gaza vaø ngöôøi Palestine coù moät quoác gia ñaát lieàn ñaát soâng lieàn soâng. Vaø hai nöôùc chaáp nhaän soáng haøi hoøa beân nhau trong coäng ñoàng theá giôùi. Do Thaùi khoâng coù gì phaûi lo sôï. Vì Hoa Kyø, vaø söùc maïnh cuûa khoái ngöôøi Myõ goác Do thaùi coøn ñoù.
Traàn Bình Nam (April 8, 2002)
Binhnam@aol.com
http://www.vnet.org/tbn
TRẦN HOÀNG ANH * MƯA TUY HÒA
MƯA TUY HÒA
Trần Hoàng Anh
Về trong đêm vắng tanh,
Về trong đêm một mình.
Tuy Hòa mưa bụi bay,
Hồn tôi mưa phủ đầy.
Nhớ nụ cười bạn bè,
Nở bên tách cà phê.
Niềm vui và tuổi trẻ,.
Nhỏ từng giọt ê chề.
Nhớ bài hát năm cũ,
Tình cờ vừa được nghe.
Nhớ tình yêu năm xưa
Nhớ anh từng đã sống,
Nhìn Tuy hòa trong mưa.
Đêm Tuy Hòa lặng yên,
Đêm Tuy Hòa buồn phiền.
Ngày xưa anh ở đây,
Có buồn như hôm nay?
ĐAI DƯƠNG * VỤ DA CAM
NEÂN NHAÄN DIEÄN VUÏ KIEÄN DA CAM NHÖ THEÁ
NAØO?
ÑAÏI-DÖÔNG(March 14, 2005)
Khieáu ñôn cuûa 27 naïn
nhaân chaát ñoäc da cam cuûa Vieät Nam kieän 37 coâng ty hoùa chaát Myõ taïi
Toøa aùn Lieân bang Brooklyn, Nöõu Öôùc ñaõ bò Chaùnh aùn Jack B. Weinstein baùc
boû vaøo ngaøy 10-03-05 vôùi phaàn keát luaän “Söï khieáu toá cuûa caùc nguyeân
ñôn laø voâ caên cöù chieáu theo luaät baûn xöù cuûa baát cöù quoác gia hay
tieåu bang naøo hoaëc daïng thöùc naøo cuûa luaät quoác teá. Noäi vuï bò baùc
boû. Khoâng beân naøo ñöôïc boài thöôøng aùn phí vaø thuø lao cho luaät sö”.
(There is no basis for any of the claims of plaintiffs under the domestic law of
any nation or state or under any form of international law. The case is
dismissed. No costs or disbursements to any party. Trang 233).
Phía Coäng hoøa xaõ hoäi chuû nghóa Vieät Nam tuyeân boá seõ khaùng caùo. Caùc taäp ñoaøn luaät sö ñöôïc dòp thu lôïi.
Laø ngöôøi Vieät Nam duø mang baát cöù quoác tòch naøo cuõng caûm thaáy xoùt xa cho soá phaän cuûa nhöõng ñoàng baøo xaáu soá. Nhöng, noãi baát haïnh ñoù thöïc söï töø ñaâu tôùi vaø laøm gì ñeå mong xoa dòu ñöôïc phaàn naøo cho nhöõng keû xaáu soá?
Ngöôøi Vieät quoác noäi cuõng nhö haûi ngoaïi neân tìm hieåu caën keõ vaán ñeà chaát ñoäc da cam haàu traùnh bò höôùng daãn sai. Thôøi ñaïi tri thöùc vôùi khoái löôïng thoâng tin traøn ngaäp chaúng leõ ngöôøi Vieät cöù duøng söï xuùc ñoäng ñeå phaùn xeùt söï vieäc maõi sao?
Thuoác khai quang ñöôïc Quaân ñoäi Myõ söû duïng trong chieán dòch Ranch Hand xuaát phaùt töø phi tröôøng Taân Sôn Nhaát keå töø 13-01-1962 vaø thöïc söï chaám döùt vaøo ngaøy 30-06-1971 taïi mieàn Nam vó tuyeán 17. Noàng ñoä cuûa dioxin nguyeân chaát ñöôïc Hoäi ñoàng Y khoa Hoa Kyø öôùc tính töø 170 ñeán 180 kg trong 72 trieäu lít cuûa dung dòch ñaõ ñöôïc phun xòt traûi daøi treân moät dieän tích öôùc löôïng 23,500 km2 trong laõnh thoå Vieät Nam Coäng Hoøa.
Phía Coäng hoøa xaõ hoäi chuû nghóa Vieät Nam tuyeân boá seõ khaùng caùo. Caùc taäp ñoaøn luaät sö ñöôïc dòp thu lôïi.
Laø ngöôøi Vieät Nam duø mang baát cöù quoác tòch naøo cuõng caûm thaáy xoùt xa cho soá phaän cuûa nhöõng ñoàng baøo xaáu soá. Nhöng, noãi baát haïnh ñoù thöïc söï töø ñaâu tôùi vaø laøm gì ñeå mong xoa dòu ñöôïc phaàn naøo cho nhöõng keû xaáu soá?
Ngöôøi Vieät quoác noäi cuõng nhö haûi ngoaïi neân tìm hieåu caën keõ vaán ñeà chaát ñoäc da cam haàu traùnh bò höôùng daãn sai. Thôøi ñaïi tri thöùc vôùi khoái löôïng thoâng tin traøn ngaäp chaúng leõ ngöôøi Vieät cöù duøng söï xuùc ñoäng ñeå phaùn xeùt söï vieäc maõi sao?
Thuoác khai quang ñöôïc Quaân ñoäi Myõ söû duïng trong chieán dòch Ranch Hand xuaát phaùt töø phi tröôøng Taân Sôn Nhaát keå töø 13-01-1962 vaø thöïc söï chaám döùt vaøo ngaøy 30-06-1971 taïi mieàn Nam vó tuyeán 17. Noàng ñoä cuûa dioxin nguyeân chaát ñöôïc Hoäi ñoàng Y khoa Hoa Kyø öôùc tính töø 170 ñeán 180 kg trong 72 trieäu lít cuûa dung dòch ñaõ ñöôïc phun xòt traûi daøi treân moät dieän tích öôùc löôïng 23,500 km2 trong laõnh thoå Vieät Nam Coäng Hoøa.
Nhaèm muïc tieâu
chính trò hay nhaân ñaïo?
Hoa Kyø ñaõ thaønh laäp
Quyõ Moâi sinh Quoác phoøng (Environmental Defense Fund) treân 1 tæ myõ kim
ñöôïc caáp cho caùc khoa hoïc gia nghieân cöùu veà chaát ñoäc quaân söï taùc
ñoäng leân con ngöôøi. Thí duï, Tieán só Jeanne Mager Stellman thuoäc Ñaïi hoïc
Columbia ñaõ ñöôïc taøi trôï moät ngaân khoaûn 5 trieäu Myõ kim töø naêm 1998
cho coâng cuoäc nghieân cöùu chaát ñoäc da cam taïi Vieät Nam; thaåm ñònh laïi
noàng ñoä cuûa dioxin trong chieán dòch Ranch Hand.
Caùc toå chöùc ñöôïc Quyõ noùi treân taøi trôï hoaøn toaøn ñoäc laäp trong lónh vöïc nghieân cöùu. Cho tôùi nay vaãn chöa ñöa ra ñöôïc nhöõng baèng chöùng khoa hoïc xaùc ñaùng veà taùc haïi cuûa chaát dioxin ñoái vôùi caùc caên beänh caùo buoäc.
Cuõng taïi toøa aùn Brooklyn vaøo 1984, sau nhieàu naêm tranh caûi khoâng ñi tôùi ñaâu veà khoa hoïc vaø baûng lieät keâ thieät haïi trong vuï taäp theå cöïu quaân nhaân Myõ taïi Vieät Nam kieän 7 coâng ty hoùa chaát neân hai beân ñoàng yù daøn xeáp ngoaøi toøa theo lôøi khuyeân cuûa chaùnh aùn Jack B. Weinstein. Caùc coâng ty hoùa chaát Myõ ñoàng yù traû döùt 180 trieäu myõ kim. Moùn tieàn traû sau cuøng vaøo naêm 1997 vaø ñaõ coù 291,000 ngöôøi thuï höôûng.
Muïc ñích traû tieàn khoâng bò raøng buoäc bôûi phaùp lyù maø vì nhaân ñaïo vaø chính trò nhaèm hoã trôï cho nhöõng ngöôøi töøng chieán ñaáu vì quyeàn lôïi cuûa Hieäp chuûng quoác Hoa Kyø.
Ngöôïc laïi, Nhaø nöôùc Coäng hoøa xaõ hoäi chuû nghóa Vieät Nam söû duïng vaán ñeà chaát da cam hoaøn toaøn vaøo muïc tieâu chính trò.
Naêm 2000, Thuû töôùng Phan Vaên Khaûi thoâng qua keâ´ hoaïch trôï caâ´p ha`ng tha´ng khoaûng 100,000 ñoâ`ng cho ca´c coâng nhaân vieân, boä ñoäi va` thanh nieân xung phong töøng phuïc vuï ôû ca´c khu vöïc bò aûnh höôûng thôøi chieâ´n tranh. Ca´c treû em bò taøn taät cuõng ñöôïc lieät keâ trong danh sa´ch. Tuy nhieân, nhöõng ngöôø chòu haäu quaû cuûa chaâ´t da cam maø töøng phuïc vuï chi´nh theå hoaëc coâng daân Vieät Nam Coäng Hoøa khoâng ñöôïc ñöa vaøo danh sa´ch trôï caâ´p.
Ñöôïc söï chaáp thuaän cuûa Boä Noäi vuï ngaøy 17-12-03 neân Hoäi Naïn nhaân Chaát ñoäc Da cam ra ñôøi vaøo ngaøy 10-01-04 döôùi danh nghóa thieän nguyeän, nhöng do Nhaø Nöôùc taøi trôï vaø kieåm soaùt.
Tha´ng 7-04, Haø Noäi ban haønh quyeâ´t ñònh veà cheá ñoä ñoái vôùi ngöôøi tham gia khaùng chieán vaø con ñeû cuûa hoï bò haäu quaû do nhieãm chaát ñoäc hoùa hoïc maø Myõ ñaõ söû duïng trong chieán tranh Vieät Nam theo 4 naác thang 300,000 ñoàng/ngöôøi/thaùng; hoaëc 170,000; hoaëc 165,000; hoaëc 85,000.
Vaøo thaùng 9-04, Haø Noäi ñaõ moi ra Mai Giaûng Vuõ khai ñaõ ñi lính cho Quaân löïc VNCH töøng cuøng quaân nhaân Myõ raõi thuoác khai quang. Vuõ khoâng bò aûnh höôûng, nhöng ba ñöùa con bò baùn thaân baát toaïi vaø ñaõ qua ñôøi. Tuy khai bò chaát ñoäc da cam, nhöng gia ñình Vuõ khoâng ñöôïc Nhaø nöôùc phuï caáp. Mai Giaûng Vuõ khoâng coù teân treân danh saùch 27 nguyeân ñôn trong phaùn quyeát ngaøy 10-03-05 cuûa chaùnh aùn Weinstein.
Thaùng 3-02 "Hoäi nghò Khoa hoïc veà AÛnh höôûng cuûa Chaát Da Cam/Dioxin Ñoái vôùi Söùc khoûe vaø Moâi tröôøng ôû Vieät Nam" ñöôïc toå chöùc ôû Haø Noäi vôùi söï tham döï cuûa phaùi ñoaøn 2 phía Vieät, Myõ cuøng nhieàu khoa hoïc gia treân theá giôùi.
Bieân baûn Ghi nhôù toùm taét: (1) thaønh laäp uûy ban nghieân cöùu chung, huaán luyeän nhaân söï, vieän trôï duïng cuï phaân tích, trao ñoåi keát quaû nghieân cöùu. (2) choïn Maõ Ñaø (tænh Bình Döông) vaø Ñaø Naúng laø hai nôi bò phun xòt thuoác khai quang nhieàu nhaát ñeå laøm thí ñieåm nghieân cöùu veà aûnh höôûng cuûa dioxin leân moâi tröôøng vaø con ngöôøi Vieät Nam.
Hoäi nghò môû ñaàu cho moät tieán trình nghieân cöùu khoa hoïc saâu roäng ñeå xaùc ñònh taùc ñoäng cuûa dioxins leân con ngöôøi vaø moâi tröôøng Vieät Nam. Töø ñoù, môùi coù theå thöïc hieän nhöõng hoã trôï trong tinh thaàn nhaân ñaïo ñoái vôùi caùc naïn nhaân cuûa chaát dioxins.
Tieác thay, Haø Noäi khoâng coù thieän chí hôïp taùc maø taäp trung noã löïc khai thaùc naïn nhaân tieáp nhieãm dioxins vaøo muïc tieâu chính trò. Vì theá, coâng cuoäc nghieân cöùu khoâng theå tieán trieån.
Caùc toå chöùc ñöôïc Quyõ noùi treân taøi trôï hoaøn toaøn ñoäc laäp trong lónh vöïc nghieân cöùu. Cho tôùi nay vaãn chöa ñöa ra ñöôïc nhöõng baèng chöùng khoa hoïc xaùc ñaùng veà taùc haïi cuûa chaát dioxin ñoái vôùi caùc caên beänh caùo buoäc.
Cuõng taïi toøa aùn Brooklyn vaøo 1984, sau nhieàu naêm tranh caûi khoâng ñi tôùi ñaâu veà khoa hoïc vaø baûng lieät keâ thieät haïi trong vuï taäp theå cöïu quaân nhaân Myõ taïi Vieät Nam kieän 7 coâng ty hoùa chaát neân hai beân ñoàng yù daøn xeáp ngoaøi toøa theo lôøi khuyeân cuûa chaùnh aùn Jack B. Weinstein. Caùc coâng ty hoùa chaát Myõ ñoàng yù traû döùt 180 trieäu myõ kim. Moùn tieàn traû sau cuøng vaøo naêm 1997 vaø ñaõ coù 291,000 ngöôøi thuï höôûng.
Muïc ñích traû tieàn khoâng bò raøng buoäc bôûi phaùp lyù maø vì nhaân ñaïo vaø chính trò nhaèm hoã trôï cho nhöõng ngöôøi töøng chieán ñaáu vì quyeàn lôïi cuûa Hieäp chuûng quoác Hoa Kyø.
Ngöôïc laïi, Nhaø nöôùc Coäng hoøa xaõ hoäi chuû nghóa Vieät Nam söû duïng vaán ñeà chaát da cam hoaøn toaøn vaøo muïc tieâu chính trò.
Naêm 2000, Thuû töôùng Phan Vaên Khaûi thoâng qua keâ´ hoaïch trôï caâ´p ha`ng tha´ng khoaûng 100,000 ñoâ`ng cho ca´c coâng nhaân vieân, boä ñoäi va` thanh nieân xung phong töøng phuïc vuï ôû ca´c khu vöïc bò aûnh höôûng thôøi chieâ´n tranh. Ca´c treû em bò taøn taät cuõng ñöôïc lieät keâ trong danh sa´ch. Tuy nhieân, nhöõng ngöôø chòu haäu quaû cuûa chaâ´t da cam maø töøng phuïc vuï chi´nh theå hoaëc coâng daân Vieät Nam Coäng Hoøa khoâng ñöôïc ñöa vaøo danh sa´ch trôï caâ´p.
Ñöôïc söï chaáp thuaän cuûa Boä Noäi vuï ngaøy 17-12-03 neân Hoäi Naïn nhaân Chaát ñoäc Da cam ra ñôøi vaøo ngaøy 10-01-04 döôùi danh nghóa thieän nguyeän, nhöng do Nhaø Nöôùc taøi trôï vaø kieåm soaùt.
Tha´ng 7-04, Haø Noäi ban haønh quyeâ´t ñònh veà cheá ñoä ñoái vôùi ngöôøi tham gia khaùng chieán vaø con ñeû cuûa hoï bò haäu quaû do nhieãm chaát ñoäc hoùa hoïc maø Myõ ñaõ söû duïng trong chieán tranh Vieät Nam theo 4 naác thang 300,000 ñoàng/ngöôøi/thaùng; hoaëc 170,000; hoaëc 165,000; hoaëc 85,000.
Vaøo thaùng 9-04, Haø Noäi ñaõ moi ra Mai Giaûng Vuõ khai ñaõ ñi lính cho Quaân löïc VNCH töøng cuøng quaân nhaân Myõ raõi thuoác khai quang. Vuõ khoâng bò aûnh höôûng, nhöng ba ñöùa con bò baùn thaân baát toaïi vaø ñaõ qua ñôøi. Tuy khai bò chaát ñoäc da cam, nhöng gia ñình Vuõ khoâng ñöôïc Nhaø nöôùc phuï caáp. Mai Giaûng Vuõ khoâng coù teân treân danh saùch 27 nguyeân ñôn trong phaùn quyeát ngaøy 10-03-05 cuûa chaùnh aùn Weinstein.
Thaùng 3-02 "Hoäi nghò Khoa hoïc veà AÛnh höôûng cuûa Chaát Da Cam/Dioxin Ñoái vôùi Söùc khoûe vaø Moâi tröôøng ôû Vieät Nam" ñöôïc toå chöùc ôû Haø Noäi vôùi söï tham döï cuûa phaùi ñoaøn 2 phía Vieät, Myõ cuøng nhieàu khoa hoïc gia treân theá giôùi.
Bieân baûn Ghi nhôù toùm taét: (1) thaønh laäp uûy ban nghieân cöùu chung, huaán luyeän nhaân söï, vieän trôï duïng cuï phaân tích, trao ñoåi keát quaû nghieân cöùu. (2) choïn Maõ Ñaø (tænh Bình Döông) vaø Ñaø Naúng laø hai nôi bò phun xòt thuoác khai quang nhieàu nhaát ñeå laøm thí ñieåm nghieân cöùu veà aûnh höôûng cuûa dioxin leân moâi tröôøng vaø con ngöôøi Vieät Nam.
Hoäi nghò môû ñaàu cho moät tieán trình nghieân cöùu khoa hoïc saâu roäng ñeå xaùc ñònh taùc ñoäng cuûa dioxins leân con ngöôøi vaø moâi tröôøng Vieät Nam. Töø ñoù, môùi coù theå thöïc hieän nhöõng hoã trôï trong tinh thaàn nhaân ñaïo ñoái vôùi caùc naïn nhaân cuûa chaát dioxins.
Tieác thay, Haø Noäi khoâng coù thieän chí hôïp taùc maø taäp trung noã löïc khai thaùc naïn nhaân tieáp nhieãm dioxins vaøo muïc tieâu chính trò. Vì theá, coâng cuoäc nghieân cöùu khoâng theå tieán trieån.
Haø Noäi môû chieán dòch tuyeân truyeàn roäng khaép theá giôùi ñeå toá caùo Hoa Kyø söû duïng chaát ñoäc hoùa hoïc taïi Vieät Nam vaø ñoøi boài thöôøng.
Haø Noäi keâu gaøo theá giôùi giuùp ñôû naïn nhaân chaát ñoäc da cam vì lyù do nhaân ñaïo, nhöng Nhaø nöôùc Coäng hoøa xaõ hoäi chuû nghóa laïi ngang nhieân phaân bieät ngay caû ñoái vôùi coâng daân Vieät Nam vì quan ñieåm chính trò.
Chuû tröông söû duïng vuï chaát khai quang do quaân Myõ raõi taïi Vieät Nam laøm coâng cuï chính trò cuûa Haø Noäi ñöôïc boäc loä khi Luaät sö Constantine Kokkoris, ñaïi dieän cho nguyeân ñôn Vieät Nam traû lôøi phoûng vaán cuûa ñaøi BBC 12-03-05 “Du` co´ thaê´ng kieâ?n ta?i to`a hay khoâng, thi` chu´ng toâi cuõng ña~ thaê´ng ô? to`a a´n dö luaâ?n va` raâ´t caâ`n tieâ´p tu?c duy tri` sö´c e´p, tieâ´p tu?c ñaâ´u tranh vi` ño´ la` cuoâ?c ñaâ´u tranh quan tro?ng nhaâ´t”.
Ñoåi traéng thay
ñen
Teân goïi dioxins (soá
nhieàu) ñöôïc duøng ñeå chæ, ngoaøi 2,3,7,8-TCDD (töùc dioxin soá ít) coøn goàm
theâm 7 chuyeån hoùa chaát cuûa TCDD do söï hoaùn chuyeån caùc vò trí cuûa chlor
trong phaân töû, coäng theâm 10 chaát furan töông töï.
Dioxins theo ñònh nghóa môùi nhaát cuûa Hoa Kyø vaøo naêm 2000 duøng ñeå chæ moät taäp hôïp cuûa 29 hôïp chaát gaây taùc ñoäng sinh hoùa. Coøn Chaâu AÂu lieät keâ dioxins ñeán 210 hoùa chaát, nhöng, chæ coù 17 ñöôïc xem laø ñoäc haïi hôn caû.
Noàng ñoä dioxin chæ coù 180 kg trong 72 trieäu lít dung dòch khai quang (hay dieät coû). Nhöng, Haø Noäi ñoàng hoùa thuoác khai quang vaø dioxin khieán cho dö luaän nhaàm töôûng quaân Myõ ñaõ raõi 72 trieäu lít dioxin.
Roøng raõ 10 naêm (1985-1994) Cô Quan Baûo Veä Moâi Tröôøng cuûa Hoa Kyø môùi hoaøn taát baûn döï thaûo 3,000 trang lieân quan ñeán taùc ñoäng cuûa dioxins. Tuy nhieân, cho tôùi nay giôùi khoa hoïc gia vaãn chöa ñoàng yù veà taùc haïi cuûa dioxin leân con ngöôøi nhö ñöôïc thí nghieäm treân suùc vaät.
Danh saùch 12 hoùa chaát dô baån ñöôïc Lieân Hieäp Quoác thoâng qua taïi Hoäi nghò ôû Thuïy Ñieån naêm 2002 ñaõ bò caám saûn xuaát vaø söû duïng khoâng bao goàm dioxin vì noù chöa ñöôïc thöû nghieäm hoaøn chænh veà taùc haïi leân con ngöôøi. Do ñoù, dioxin khoâng naèm trong danh saùch 12 hoùa chaát dô baån naày. DDT chieám vò trí soá 10, PCB soá 11 vaø Furan soá 12.
Nhaèm ngaên chaën nhöõng thoâng tin "chöa ñöôïc cheá bieán" neân vaøo thaùng 11-03, Haø Noäi ban haønh Nghò quyeát Baûo veä Bí maät Quoác gia veà dioxin.
Trong phaùn quyeát ngaøy 10-03-05, chaùnh aùn Weinstein ñaõ baùc ñôn kieän vì phía Vieät Nam ñoàng hoùa chaát ñoäc (poisons) vôùi thuoác dieät coû (herbicides).
Phía bò ñôn laäp luaän "Chaát da cam la` thuoâ´c dieät coû duøng ñeå baûo veä quaân Myõ vaø quaân mieàn Nam Vieät Nam. No´ chöa bao giôø ñöôïc duøng nhö vuõ khi´".
Thôøi gian baùn huûy cuûa dioxin töø 7 ñeán 10 naêm ñöôïc Hoäi ñoàng Y khoa Hoa Kyø vaø nhieàu khoa hoïc gia treân theá giôùi ñoàng yù.
Nhöõng taøi lieäu giaûi maät cuûa Boä Quoác phoøng Hoa Kyø lieân quan ñeán tai naïn thaát thoaùt 7,000 gallons chaát da cam trong phaïm vi phi tröôøng Bieân Hoøa naêm 1970 ghi nhaän noàng ñoä cuûa dung dòch chaát da cam thaát thoaùt laø 106 mg/L (ño ñaïc naêm 1970). Tuy nhieân, baùo caùo khoa hoïc cuûa BS Arnold Schecter cho bieát keát quaû phaân tích trong ñaát taïi ñòa ñieåm vaøo naêm 2002 laø 32g/L, töùc 302 laàn lôùn hôn.
Tieán só Mai Thanh Truyeát thuoäc Hoäi Khoa Hoïc & Kyõ Thuaät Gia Myõ goác Vieät ñaõ nghieân cöùu 2 baûn baùo caùo cuûa Coâng ty Tö vaán Hatfield vaø UÛy ban 10-80 cuûa Vieät Nam ñeå khaûo saùt veà chaát da cam vuøng A Shao, A Löôùi: baùo caùo ñuùc keát vaø ñieàu tra sô khôûi töø 1994-98; vaø baùo caùo toång keát coâng boá vaøo thaùng 4-2000 ñaõ ghi nhaän nhieàu phaàn sai laïc vaø baát nhaát.
Phaàn ñaàu baûn baùo caùo thöù hai ghi nhaän chæ coù 50 maãu thöû nghieäm ñöôïc thöïc hieän vì quaù ñaét, nhöng phaàn cuoái laïi naâng leân thaønh 790 maãu maùu thöû nghieäm, chöa keå caùc loaïi khaùc.
Ñònh möùc Dioxins chaáp nhaän haáp thuï haøng ngaøy ñoái vôùi con ngöôøi do Cô quan Y teá Theá giôùi (WHO) qui ñònh: 10 pg/ngaøy/kg so vôùi 0.03 pg/ngaøy/kg cuûa Cô quan Löông thöïc vaø Döôïc phaåm Hoa kyø (FDA).
Nhö theá, moät ngöôøi naëng 50 kg soáng ôû Hoa Kyø trong 20 naêm seõ haáp thuï löôïng Dioxins 40 pg lôùn gaáp 4 laàn so vôùi Dionxins trong maùu vaø söõa meï cuûa cö daân taïi A Shau, A Löôùi. Moät khoa hoïc gia ngöôøi Vieät Nam laøm vieäc trong caùc phoøng thí nghieäm hoùa hoïc ôû Hoa Kyø suoát 20 naêm vaãn khoâng gaëp caùc loaïi beänh taät thöôøng gaùn gheùp cho Dioxins nhö ung thö, ñeû non, roái loaïn thaàn kinh.
Keát quaû thöû nghieäm ñaát A Shao thaùng 3-1999 laø 220 ppt so vôùi ñònh möùc ñaát cö truù cuûa Gia Naõ Ñaïi laø 350 ppt.
Löôïng dioxin trong maùu daân A Shao laø 41 ppt so vôùi cö daân Taây phöông soáng trong vuøng nhaø maùy saûn xuaát: taïi Ñöùc 331, taïi Nga 202. Cho tôùi nay taïi Ñöùc vaø Nga chöa thaáy baùo caùo chính thöùc veà dò hình, dò daïng, ung thö.
Baùo caùo cuûa Cô quan Y teá Theá giôùi ghi nhaän löôïng dioxin trong söõa meï Ñöùc naêm 1985 laø 29.6 ppt giaûm xuoáng 15.9 ppt vaøo naêm 1994 so vôùi söõa meï daân A Shao 1.4 ñeán 16 ppt. Theá heä treû Ñöùc vaãn chöa coù daáu hieäu nhieãm ñoäc dioxin.
Tai naïn Sesevo cuûa nöôùc YÙ, öôùc tính coù 30 kg dioxin thaát thoaùt ra ngoaøi so vôùi 170 kg dioxin do quaân ñoäi Hoa Kyø phun xòt treân laõnh thoå Vieät Nam Coäng Hoøa. Tuy nhieân, töø 1976 ñeán 1996 tæ leä hö thai, khuyeát taät khoâng heà thay ñoåi.
Naêm 1971, Döông Quyønh Hoa ñaõ nhôø 1 baùc só Myõ thöû nghieäm vôùi keát quaû löôïng dioxin 2 ppt, döôùi möùc trung bình. Naêm 1999, Baùc só Schecter ghi nhaän 20 ppt roài suy ñoaùn löôïng dioxin trong maùu cuûa BS Hoa vaøo naêm 1971 laø 300 ppt.
Nhöõng naïn nhaân bò phôi nhieãm trong chieán tranh Vieät Nam ñöôïc keå ñeán goàm coù quaân nhaân Myõ, UÙc, Taân Taây Lan vaø caùn binh coäng saûn.
Khoâng ai ñaët vaán ñeà nghieân cöùu taùc ñoäng cuûa dioxin leân 20 trieäu daân mieàn Nam vó tuyeán 17, ñaëc bieät gaàn 1 trieäu binh só quaân löïc Vieät Nam Coäng Hoøa töøng xoâng xaùo treân khaép chieán tröôøng keå caû nhöõng ñieåm noùng tieáp nhieãm dioxin.
Lính Myõ, UÙc, Taân Taây Lan tham chieán taïi Vieät Nam aên uoáng raát thaän troïng so vôùi neáp soáng töông ñoái "buïi ñôøi" cuûa quaân nhaân Vieät Nam Coäng Hoøa. Taïi sao nhöõng caên beänh ung thö, dò daïng, ñeû non chæ xuaát hieän nôi lính Myõ vaø caùn binh coäng saûn?!
Baùo chí quoác doanh trích daãn cuoäc hoïp baùo cuûa Toång thoáng Bill Clinton naêm 1996 tuyeân boá seõ yeâu caàu Quoác Hoäi trôï caáp cho con caùc cöïu chieán binh bò dò taät baåm sinh gai ñoâi. Vaø ra leänh cho Boä Cöïu chieán binh nhanh choùng boài thöôøng caùc loaïi beänh do Vieän Haøn Laâm Khoa hoïc thöøa nhaän.
Vieän Y hoïc thuoäc Vieän Haøn laâm Khoa hoïc Hoa Kyø noùi raèng coù söï "lieân heä" giöõa phôi nhieãm chaát Da Cam vaø vaøi caên beänh nhö ung thö moâ meàm (soft-tissue sarcoma) vaø ung thö baïch huyeát caàu (non-Hodgkin's lymphoma) ... co´ baèng chö´ng roõ la` vieäc tieâ´p xu´c chaâ´t dieät coû lieân quan ñeán naêm caên beänh nghieâm troïng ... co´ baèng chö´ng ''gôïi y´'' (suggestive) raèng chaâ´t dieät coû co´ theå gaây khuyeâ´t taät baåm sinh va` ung thö.
Döïa vaøo ñoù, Boä Cöïu Chieán Binh Myõ ñaõ boài thöôøng cho caùc cöïu quaân nhaân vì moät soá beänh ñöôïc “giaû ñònh-suggestive” laø do phôi nhieãm chaát Da Cam.
Quyeát ñònh cuûa Clinton nhaèm xoa dòu söï choáng ñoái cuûa cöïu chieán binh vì hoaït ñoäng phaûn chieán cuûa oâng trong giai ñoaïn chieán tranh Vieät Nam.
Hoài thaùng 10-01, Baùc só Paul Jeffs cuøng ñoàng vieän Keith Horsley thuoäc Vieän Söùc khoûe UÙc ñaõ thu hoài baûn nghieân cöùu sai laïc tröôùc ñaây lieân quan ñeán beänh hoaïi huyeát trong soá con cuûa cöïu chieán binh UÙc taïi Vieät Nam vaø ñaõ coâng khai xin loãi vì: (1) Caùc baûn thaêm doø ñöôïc gôûi tôùi caùc gia ñình khoâng phaûi laø quaân nhaân. (2) Baûn sao gôûi cöïu chieán binh UÙc taïi Vieät Nam xin xaùc nhaän beänh ung thö maùu nôi treû con baát luaän soáng hay cheát. Ghi nhaän 12 tröôøng hôïp. Trong khi ñoù, baûn sao gôûi cho cöïu chieán binh khoâng tham chieán taïi Vieät Nam laïi chæ hoûi beänh hoaïi huyeát cuûa treû con coøn soáng. Ghi nhaän 3 tröôøng hôïp. Sai bieät ñeán 4 laàn giöõa 2 nhoùm. Khi ñieàu chænh baèng caâu hoûi chính xaùc, ghi nhaän 9 tröôøng hôïp trong nhoùm thöù hai.
Boä Cöïu chieán binh Myõ ñaõ ruùt laïi lôøi yeâu caàu Quoác Hoäi cho pheùp chính quyeàn traû tieàn cho nhöõng ngöôøi maéc beänh ung thö, ñoàng thôøi, ra leänh duyeät laïi döõ kieän lieân quan ñeán beänh taät ñöôïc coi nhö do thuoác khai quang.
Heä thoáng truyeàn thoâng quoác doanh loan tin phía bò ñôn nhieàu laàn xin hoaõn phieân ñieàu traàn. Söï thöïc, chính nguyeân ñôn yeâu caàu hoaõn laïi. Laàn cuoái laø ñeå boå sung ñôn kieän töø 7 leân 27 ngöôøi.
Dioxins theo ñònh nghóa môùi nhaát cuûa Hoa Kyø vaøo naêm 2000 duøng ñeå chæ moät taäp hôïp cuûa 29 hôïp chaát gaây taùc ñoäng sinh hoùa. Coøn Chaâu AÂu lieät keâ dioxins ñeán 210 hoùa chaát, nhöng, chæ coù 17 ñöôïc xem laø ñoäc haïi hôn caû.
Noàng ñoä dioxin chæ coù 180 kg trong 72 trieäu lít dung dòch khai quang (hay dieät coû). Nhöng, Haø Noäi ñoàng hoùa thuoác khai quang vaø dioxin khieán cho dö luaän nhaàm töôûng quaân Myõ ñaõ raõi 72 trieäu lít dioxin.
Roøng raõ 10 naêm (1985-1994) Cô Quan Baûo Veä Moâi Tröôøng cuûa Hoa Kyø môùi hoaøn taát baûn döï thaûo 3,000 trang lieân quan ñeán taùc ñoäng cuûa dioxins. Tuy nhieân, cho tôùi nay giôùi khoa hoïc gia vaãn chöa ñoàng yù veà taùc haïi cuûa dioxin leân con ngöôøi nhö ñöôïc thí nghieäm treân suùc vaät.
Danh saùch 12 hoùa chaát dô baån ñöôïc Lieân Hieäp Quoác thoâng qua taïi Hoäi nghò ôû Thuïy Ñieån naêm 2002 ñaõ bò caám saûn xuaát vaø söû duïng khoâng bao goàm dioxin vì noù chöa ñöôïc thöû nghieäm hoaøn chænh veà taùc haïi leân con ngöôøi. Do ñoù, dioxin khoâng naèm trong danh saùch 12 hoùa chaát dô baån naày. DDT chieám vò trí soá 10, PCB soá 11 vaø Furan soá 12.
Nhaèm ngaên chaën nhöõng thoâng tin "chöa ñöôïc cheá bieán" neân vaøo thaùng 11-03, Haø Noäi ban haønh Nghò quyeát Baûo veä Bí maät Quoác gia veà dioxin.
Trong phaùn quyeát ngaøy 10-03-05, chaùnh aùn Weinstein ñaõ baùc ñôn kieän vì phía Vieät Nam ñoàng hoùa chaát ñoäc (poisons) vôùi thuoác dieät coû (herbicides).
Phía bò ñôn laäp luaän "Chaát da cam la` thuoâ´c dieät coû duøng ñeå baûo veä quaân Myõ vaø quaân mieàn Nam Vieät Nam. No´ chöa bao giôø ñöôïc duøng nhö vuõ khi´".
Thôøi gian baùn huûy cuûa dioxin töø 7 ñeán 10 naêm ñöôïc Hoäi ñoàng Y khoa Hoa Kyø vaø nhieàu khoa hoïc gia treân theá giôùi ñoàng yù.
Nhöõng taøi lieäu giaûi maät cuûa Boä Quoác phoøng Hoa Kyø lieân quan ñeán tai naïn thaát thoaùt 7,000 gallons chaát da cam trong phaïm vi phi tröôøng Bieân Hoøa naêm 1970 ghi nhaän noàng ñoä cuûa dung dòch chaát da cam thaát thoaùt laø 106 mg/L (ño ñaïc naêm 1970). Tuy nhieân, baùo caùo khoa hoïc cuûa BS Arnold Schecter cho bieát keát quaû phaân tích trong ñaát taïi ñòa ñieåm vaøo naêm 2002 laø 32g/L, töùc 302 laàn lôùn hôn.
Tieán só Mai Thanh Truyeát thuoäc Hoäi Khoa Hoïc & Kyõ Thuaät Gia Myõ goác Vieät ñaõ nghieân cöùu 2 baûn baùo caùo cuûa Coâng ty Tö vaán Hatfield vaø UÛy ban 10-80 cuûa Vieät Nam ñeå khaûo saùt veà chaát da cam vuøng A Shao, A Löôùi: baùo caùo ñuùc keát vaø ñieàu tra sô khôûi töø 1994-98; vaø baùo caùo toång keát coâng boá vaøo thaùng 4-2000 ñaõ ghi nhaän nhieàu phaàn sai laïc vaø baát nhaát.
Phaàn ñaàu baûn baùo caùo thöù hai ghi nhaän chæ coù 50 maãu thöû nghieäm ñöôïc thöïc hieän vì quaù ñaét, nhöng phaàn cuoái laïi naâng leân thaønh 790 maãu maùu thöû nghieäm, chöa keå caùc loaïi khaùc.
Ñònh möùc Dioxins chaáp nhaän haáp thuï haøng ngaøy ñoái vôùi con ngöôøi do Cô quan Y teá Theá giôùi (WHO) qui ñònh: 10 pg/ngaøy/kg so vôùi 0.03 pg/ngaøy/kg cuûa Cô quan Löông thöïc vaø Döôïc phaåm Hoa kyø (FDA).
Nhö theá, moät ngöôøi naëng 50 kg soáng ôû Hoa Kyø trong 20 naêm seõ haáp thuï löôïng Dioxins 40 pg lôùn gaáp 4 laàn so vôùi Dionxins trong maùu vaø söõa meï cuûa cö daân taïi A Shau, A Löôùi. Moät khoa hoïc gia ngöôøi Vieät Nam laøm vieäc trong caùc phoøng thí nghieäm hoùa hoïc ôû Hoa Kyø suoát 20 naêm vaãn khoâng gaëp caùc loaïi beänh taät thöôøng gaùn gheùp cho Dioxins nhö ung thö, ñeû non, roái loaïn thaàn kinh.
Keát quaû thöû nghieäm ñaát A Shao thaùng 3-1999 laø 220 ppt so vôùi ñònh möùc ñaát cö truù cuûa Gia Naõ Ñaïi laø 350 ppt.
Löôïng dioxin trong maùu daân A Shao laø 41 ppt so vôùi cö daân Taây phöông soáng trong vuøng nhaø maùy saûn xuaát: taïi Ñöùc 331, taïi Nga 202. Cho tôùi nay taïi Ñöùc vaø Nga chöa thaáy baùo caùo chính thöùc veà dò hình, dò daïng, ung thö.
Baùo caùo cuûa Cô quan Y teá Theá giôùi ghi nhaän löôïng dioxin trong söõa meï Ñöùc naêm 1985 laø 29.6 ppt giaûm xuoáng 15.9 ppt vaøo naêm 1994 so vôùi söõa meï daân A Shao 1.4 ñeán 16 ppt. Theá heä treû Ñöùc vaãn chöa coù daáu hieäu nhieãm ñoäc dioxin.
Tai naïn Sesevo cuûa nöôùc YÙ, öôùc tính coù 30 kg dioxin thaát thoaùt ra ngoaøi so vôùi 170 kg dioxin do quaân ñoäi Hoa Kyø phun xòt treân laõnh thoå Vieät Nam Coäng Hoøa. Tuy nhieân, töø 1976 ñeán 1996 tæ leä hö thai, khuyeát taät khoâng heà thay ñoåi.
Naêm 1971, Döông Quyønh Hoa ñaõ nhôø 1 baùc só Myõ thöû nghieäm vôùi keát quaû löôïng dioxin 2 ppt, döôùi möùc trung bình. Naêm 1999, Baùc só Schecter ghi nhaän 20 ppt roài suy ñoaùn löôïng dioxin trong maùu cuûa BS Hoa vaøo naêm 1971 laø 300 ppt.
Nhöõng naïn nhaân bò phôi nhieãm trong chieán tranh Vieät Nam ñöôïc keå ñeán goàm coù quaân nhaân Myõ, UÙc, Taân Taây Lan vaø caùn binh coäng saûn.
Khoâng ai ñaët vaán ñeà nghieân cöùu taùc ñoäng cuûa dioxin leân 20 trieäu daân mieàn Nam vó tuyeán 17, ñaëc bieät gaàn 1 trieäu binh só quaân löïc Vieät Nam Coäng Hoøa töøng xoâng xaùo treân khaép chieán tröôøng keå caû nhöõng ñieåm noùng tieáp nhieãm dioxin.
Lính Myõ, UÙc, Taân Taây Lan tham chieán taïi Vieät Nam aên uoáng raát thaän troïng so vôùi neáp soáng töông ñoái "buïi ñôøi" cuûa quaân nhaân Vieät Nam Coäng Hoøa. Taïi sao nhöõng caên beänh ung thö, dò daïng, ñeû non chæ xuaát hieän nôi lính Myõ vaø caùn binh coäng saûn?!
Baùo chí quoác doanh trích daãn cuoäc hoïp baùo cuûa Toång thoáng Bill Clinton naêm 1996 tuyeân boá seõ yeâu caàu Quoác Hoäi trôï caáp cho con caùc cöïu chieán binh bò dò taät baåm sinh gai ñoâi. Vaø ra leänh cho Boä Cöïu chieán binh nhanh choùng boài thöôøng caùc loaïi beänh do Vieän Haøn Laâm Khoa hoïc thöøa nhaän.
Vieän Y hoïc thuoäc Vieän Haøn laâm Khoa hoïc Hoa Kyø noùi raèng coù söï "lieân heä" giöõa phôi nhieãm chaát Da Cam vaø vaøi caên beänh nhö ung thö moâ meàm (soft-tissue sarcoma) vaø ung thö baïch huyeát caàu (non-Hodgkin's lymphoma) ... co´ baèng chö´ng roõ la` vieäc tieâ´p xu´c chaâ´t dieät coû lieân quan ñeán naêm caên beänh nghieâm troïng ... co´ baèng chö´ng ''gôïi y´'' (suggestive) raèng chaâ´t dieät coû co´ theå gaây khuyeâ´t taät baåm sinh va` ung thö.
Döïa vaøo ñoù, Boä Cöïu Chieán Binh Myõ ñaõ boài thöôøng cho caùc cöïu quaân nhaân vì moät soá beänh ñöôïc “giaû ñònh-suggestive” laø do phôi nhieãm chaát Da Cam.
Quyeát ñònh cuûa Clinton nhaèm xoa dòu söï choáng ñoái cuûa cöïu chieán binh vì hoaït ñoäng phaûn chieán cuûa oâng trong giai ñoaïn chieán tranh Vieät Nam.
Hoài thaùng 10-01, Baùc só Paul Jeffs cuøng ñoàng vieän Keith Horsley thuoäc Vieän Söùc khoûe UÙc ñaõ thu hoài baûn nghieân cöùu sai laïc tröôùc ñaây lieân quan ñeán beänh hoaïi huyeát trong soá con cuûa cöïu chieán binh UÙc taïi Vieät Nam vaø ñaõ coâng khai xin loãi vì: (1) Caùc baûn thaêm doø ñöôïc gôûi tôùi caùc gia ñình khoâng phaûi laø quaân nhaân. (2) Baûn sao gôûi cöïu chieán binh UÙc taïi Vieät Nam xin xaùc nhaän beänh ung thö maùu nôi treû con baát luaän soáng hay cheát. Ghi nhaän 12 tröôøng hôïp. Trong khi ñoù, baûn sao gôûi cho cöïu chieán binh khoâng tham chieán taïi Vieät Nam laïi chæ hoûi beänh hoaïi huyeát cuûa treû con coøn soáng. Ghi nhaän 3 tröôøng hôïp. Sai bieät ñeán 4 laàn giöõa 2 nhoùm. Khi ñieàu chænh baèng caâu hoûi chính xaùc, ghi nhaän 9 tröôøng hôïp trong nhoùm thöù hai.
Boä Cöïu chieán binh Myõ ñaõ ruùt laïi lôøi yeâu caàu Quoác Hoäi cho pheùp chính quyeàn traû tieàn cho nhöõng ngöôøi maéc beänh ung thö, ñoàng thôøi, ra leänh duyeät laïi döõ kieän lieân quan ñeán beänh taät ñöôïc coi nhö do thuoác khai quang.
Heä thoáng truyeàn thoâng quoác doanh loan tin phía bò ñôn nhieàu laàn xin hoaõn phieân ñieàu traàn. Söï thöïc, chính nguyeân ñôn yeâu caàu hoaõn laïi. Laàn cuoái laø ñeå boå sung ñôn kieän töø 7 leân 27 ngöôøi.
Chöùng cöù khoa hoïc
muø môø.
Baùc só Arnold Schecter
cuûa Ñaïi hoïc Texas ñaët 2 caâu hoûi vaø töï traû lôøi “chaâ´t dioxins coù gaây
ta´c haïi cho sö´c khoeû cuûa con ngöôøi; vaø caùc nghieân cöùu khoa hoïc
nghieâm tuùc chöa chö´ng minh ñöôïc ca´c thaønh phaàn dioxin ñöôïc tìm thaâ´y
trong ma´u vaø söõa cuûa ngöô`i Vieät chính la` nguyeân nhaân gaây ra ca´c
vaâ´n ñeà sö´c khoûe cuûa ngöô`i Viïeät”.
Leõ ra, BS Schecter phaûi ñaët theâm caâu hoûi thöù ba: chaát dioxins ñang aûnh höôûng ñeán söùc khoûe vaø moâi tröôøng taïi Coäng hoøa xaõ hoäi chuû nghóa Vieät Nam ñeán töø nguoàn goác naøo.
Baùo caùo cuûa Boä Thöông maïi 20-04-02 cho bieát haøng naêm, möùc tieâu thuï thuoác baûo veä thöïc vaät taïi Vieät Nam vaøo khoaûng 1.5 trieäu taán, khoâng keå soá löôïng ñöôïc nhaäp laäu qua ñöôøng bieân giôùi maø chính quyeàn khoâng kieåm soaùt ñöôïc. Maëc duø Cô quan Löông Noâng quoác teá (FAO) ñaõ töøng khuyeán caùo Vieät Nam veà chæ soá söû duïng thuoác baûo veä thöïc vaät quaù cao, ñaït möùc trung bình cho moät muøa laø 5.3; ôû Trung Quoác laø 3.5; Phi luaät Taân 2.0; AÁn Ñoä 2.4.
Tieán só Ngoâ Kieàu Oanh, thuoäc Trung taâm Khoa hoïc Töï nhieân cuûa Vieät Nam cho raèng vôùi dieän tích ñaát noâng nghieäp chæ caàn ñoä 50 ngaøn taán thuoác baûo veä thöïc vaät laø quaù dö thöøa roài. Coù nghóa hoùa chaát noâng trang taïi Vieät Nam ñöôïc söû duïng gaáp 30 laàn möùc trung bình.
Sôû Khoa hoïc Kyõ thuaät Moâi tröôøng Vieät Nam cho bieát ñaïi ña soá 60 nhaø maùy bò thanh tra baát ngôø vaøo ngaøy 21-01-03 “ñaõ khoâng coù heä thoáng xöû lyù nöôùc thaûi maø xaû nöôùc tröïc tieáp ra soâng raïch ... chaúng coù gì baûo ñaûm caùc ñieàu leä moâi sinh ñöôïc tuaân haønh khi toaùn thanh tra quay löng ... möùc ñoä oâ nhieãm taêng nhanh khi caùc xí nghieäp ven soâng ñaåy maïnh saûn xuaát trong dòp Teát”.
Caù, toâm cheát traéng soâng, traéng hoà laø chuyeän thöôøng xuyeân taïi Coäng hoøa xaõ hoäi chuû nghóa Vieät Nam.
Vieän Nghieân cöùu Chulabhorn cuûa Thaùi Lan vaø Sôû Khoa hoïc - Coâng ngheä - Moâi tröôøng Haø Noäi ñöôïc Chöông trình Phaùt trieån Lieân Hieäp Quoác baûo trôï töø naêm 1998 ñeå nghieân cöùu vieäc söû duïng hoùa chaát taïi Vieät Nam. Phuùc trình ngaøy 24-02-03 cho bieát moãi naêm Vieät Nam söû duïng 9 trieäu taán hoùa chaát thuoäc 500 loaïi khaùc nhau. Nhöng, chæ coù 70% ñöôïc xaùc ñònh vôùi teân chính xaùc, coøn laïi khoâng roõ xuaát xöù. Ñoái vôùi caùc hoùa chaát baûo veä thöïc vaät, coù treân 200 chuûng loaïi döôùi 700 nhaõn hieäu khaùc nhau, vaø voâ soá hoùa chaát khoâng teân vaãn ñöôïc löu haønh roäng raõi treân thò tröôøng".
Boä Lao ñoäng - Thöông binh vaø Xaõ hoäi cho bieát naêm 2001 ñaõ coù 6,962 vuï nhieãm ñoäc thuoác baûo veä thöïc vaät daãn ñeán 187 töû vong.
Nhieàu vuï truùng ñoäc thöïc phaåm thöôøng xuyeân dieãn ra treân toaøn quoác do thuûy saûn, thöïc vaät haáp thuï nhieàu ñoäc chaát töø hoùa chaát noâng trang nhö DDT, Folodol, Mevinphos, Dichlovos, Carbofuran, Methamidophos, Endosulfan (hay Thiodan), Diazinon, Glycosate (hay 2,4-D), Diazonin, Chlopyrifos, Zinc Phosphide, Paraquat, Aluminum Phosphide. Phoå bieán nhaát laø Wolfatox vaø Monitor, loaïi thuoác ñoäc haïi cho moâi tröôøng vaø con ngöôøi maø moät soá tænh mieàn Baéc ñem phun cho caây traø vaø thuoác laù.
Vaøo thaùng 12-01, Cô quan Kieåm soaùt Thöïc phaåm vaø Thuoác men cuûa Hoa Kyø (FDA) caàm giöõ khoaûng 130 loaïi thöïc phaåm, keå caû haûi saûn nhaäp töø Vieät Nam vì dô baån, thieáu nhaõn hieäu Anh ngöõ, khoâng ghi ngaøy heát haïn, chöùa vi khuaån cheát ngöôøi salmonella.
Cô quan Tieâu chuaån Thöïc phaåm Anh Caùt Lôïi ñaõ phaùt hieän chaát nitrofuran trong nhöõng maãu toâm ñeán töø caùc quoác gia Ñoâng Nam AÙ ôû möùc ñoä khoâng theå chaáp nhaän ñöôïc. Ngaøy 19-03-02, caùc quoác gia trong Lieân Hieäp Chaâu AÂu ñöôïc khuyeán caùo phaûi tieán haønh xeùt nghieäm 100% toâm nhaäp khaåu töø Vieät Nam vì chaát nitrofuran coù nguy cô gaây ra ung thö cho con ngöôøi.
Tieán só Nguyeãn Quoác Tuaán - Tröôûng phoøng Thí nghieäm moâi tröôøng thuoäc Trung taâm Kyõ thuaät tieâu chuaån - ño löôøng - chaát löôïng 1 ñaõ traû lôøi phoûng vaán cuûa baùo Lao Ñoäng 11-05-04 "Keát quaû nhieàu ñôït phaân tích cho thaáy taát caû caùc loaïi hoa quaû Trung Quoác vaø cam Vieät Nam ñeàu coù chöùa thuoác dieät coû 2,4-D vaø 2,4,5-T ... thaùng 9-03, phaân tích hai goùi boät in chöõ Taøu do Haø Giang chuyeån ñeán ñaõ tìm thaáy nhieàu hôïp chaát trong ñoù coù hoaù chaát 2,4-D daïng kyõ thuaät coù haøm löôïng 70%. Rieâng goùi thuoác dieät coû coù baêng maøu xanh ñaäm coøn tìm thaáy hoaù chaát 2,4,5-T ... toâi baøng hoaøng khi phaùt hieän ra hoaù chaát 2,4,5-T vaø 2,4-D laø caùc thuoác dieät coû töøng ñöôïc söû duïng trong chieán tranh Vieät Nam döôùi teân goïi chaát ñoäc maøu da cam". Tuaán ñaõ bò kyû luaät vì “cung caáp thoâng tin cho baùo chí”.
Tieán só Mai Thanh Truyeát vaø kyõ sö Nguyeãn Minh Quang thuoäc Hoäi Khoa Hoïc & Kyõ Thuaät Gia Myõ goác Vieät cho raèng chaát hoùa hoïc do noâng daân Vieät Nam söû duïng ñeå tröø saâu, dieät coû, laøm phaân boùn laø moái ñe doïa cho söùc khoûe nhieàu hôn caû thuoác khai quang do quaân ñoäi Hoa Kyø raõi töø 1961 ñeán 1971 taïi Ñoâng Döông.
Ñöôïc ñaøi AÙ chaâu Töï do phoûng vaán cuøng TS Mai Thanh Truyeát ngaøy 21-08-03, BS Arnold Schecter phaùt bieåu "Toâi khoâng nghó dioxin laø taùc nhaân chính cho caùc chöùng dò hình, dò daïng nôi treû em vaø dioxin cuõng khoâng phaûi laø taùc nhaân duy nhaát gaây ung thö cho ngöôøi lôùn ôû Vieät Nam, bôûi vì caùc hoùa chaát ñoäc haïi ñaõ ñöôïc tìm thaáy trong 16 maãu thöïc phaåm vöøa phaân tích cuõng coù theå laø taùc nhaân. Trong maáy chuïc laàn qua Vieät Nam, toâi gaëp raát nhieàu beänh nhaân vaø hoï cho bieát ñaõ CAÛM THAÁY-FEEL laø do chaát ñoäc da cam gaây ra".
Leõ ra, BS Schecter phaûi ñaët theâm caâu hoûi thöù ba: chaát dioxins ñang aûnh höôûng ñeán söùc khoûe vaø moâi tröôøng taïi Coäng hoøa xaõ hoäi chuû nghóa Vieät Nam ñeán töø nguoàn goác naøo.
Baùo caùo cuûa Boä Thöông maïi 20-04-02 cho bieát haøng naêm, möùc tieâu thuï thuoác baûo veä thöïc vaät taïi Vieät Nam vaøo khoaûng 1.5 trieäu taán, khoâng keå soá löôïng ñöôïc nhaäp laäu qua ñöôøng bieân giôùi maø chính quyeàn khoâng kieåm soaùt ñöôïc. Maëc duø Cô quan Löông Noâng quoác teá (FAO) ñaõ töøng khuyeán caùo Vieät Nam veà chæ soá söû duïng thuoác baûo veä thöïc vaät quaù cao, ñaït möùc trung bình cho moät muøa laø 5.3; ôû Trung Quoác laø 3.5; Phi luaät Taân 2.0; AÁn Ñoä 2.4.
Tieán só Ngoâ Kieàu Oanh, thuoäc Trung taâm Khoa hoïc Töï nhieân cuûa Vieät Nam cho raèng vôùi dieän tích ñaát noâng nghieäp chæ caàn ñoä 50 ngaøn taán thuoác baûo veä thöïc vaät laø quaù dö thöøa roài. Coù nghóa hoùa chaát noâng trang taïi Vieät Nam ñöôïc söû duïng gaáp 30 laàn möùc trung bình.
Sôû Khoa hoïc Kyõ thuaät Moâi tröôøng Vieät Nam cho bieát ñaïi ña soá 60 nhaø maùy bò thanh tra baát ngôø vaøo ngaøy 21-01-03 “ñaõ khoâng coù heä thoáng xöû lyù nöôùc thaûi maø xaû nöôùc tröïc tieáp ra soâng raïch ... chaúng coù gì baûo ñaûm caùc ñieàu leä moâi sinh ñöôïc tuaân haønh khi toaùn thanh tra quay löng ... möùc ñoä oâ nhieãm taêng nhanh khi caùc xí nghieäp ven soâng ñaåy maïnh saûn xuaát trong dòp Teát”.
Caù, toâm cheát traéng soâng, traéng hoà laø chuyeän thöôøng xuyeân taïi Coäng hoøa xaõ hoäi chuû nghóa Vieät Nam.
Vieän Nghieân cöùu Chulabhorn cuûa Thaùi Lan vaø Sôû Khoa hoïc - Coâng ngheä - Moâi tröôøng Haø Noäi ñöôïc Chöông trình Phaùt trieån Lieân Hieäp Quoác baûo trôï töø naêm 1998 ñeå nghieân cöùu vieäc söû duïng hoùa chaát taïi Vieät Nam. Phuùc trình ngaøy 24-02-03 cho bieát moãi naêm Vieät Nam söû duïng 9 trieäu taán hoùa chaát thuoäc 500 loaïi khaùc nhau. Nhöng, chæ coù 70% ñöôïc xaùc ñònh vôùi teân chính xaùc, coøn laïi khoâng roõ xuaát xöù. Ñoái vôùi caùc hoùa chaát baûo veä thöïc vaät, coù treân 200 chuûng loaïi döôùi 700 nhaõn hieäu khaùc nhau, vaø voâ soá hoùa chaát khoâng teân vaãn ñöôïc löu haønh roäng raõi treân thò tröôøng".
Boä Lao ñoäng - Thöông binh vaø Xaõ hoäi cho bieát naêm 2001 ñaõ coù 6,962 vuï nhieãm ñoäc thuoác baûo veä thöïc vaät daãn ñeán 187 töû vong.
Nhieàu vuï truùng ñoäc thöïc phaåm thöôøng xuyeân dieãn ra treân toaøn quoác do thuûy saûn, thöïc vaät haáp thuï nhieàu ñoäc chaát töø hoùa chaát noâng trang nhö DDT, Folodol, Mevinphos, Dichlovos, Carbofuran, Methamidophos, Endosulfan (hay Thiodan), Diazinon, Glycosate (hay 2,4-D), Diazonin, Chlopyrifos, Zinc Phosphide, Paraquat, Aluminum Phosphide. Phoå bieán nhaát laø Wolfatox vaø Monitor, loaïi thuoác ñoäc haïi cho moâi tröôøng vaø con ngöôøi maø moät soá tænh mieàn Baéc ñem phun cho caây traø vaø thuoác laù.
Vaøo thaùng 12-01, Cô quan Kieåm soaùt Thöïc phaåm vaø Thuoác men cuûa Hoa Kyø (FDA) caàm giöõ khoaûng 130 loaïi thöïc phaåm, keå caû haûi saûn nhaäp töø Vieät Nam vì dô baån, thieáu nhaõn hieäu Anh ngöõ, khoâng ghi ngaøy heát haïn, chöùa vi khuaån cheát ngöôøi salmonella.
Cô quan Tieâu chuaån Thöïc phaåm Anh Caùt Lôïi ñaõ phaùt hieän chaát nitrofuran trong nhöõng maãu toâm ñeán töø caùc quoác gia Ñoâng Nam AÙ ôû möùc ñoä khoâng theå chaáp nhaän ñöôïc. Ngaøy 19-03-02, caùc quoác gia trong Lieân Hieäp Chaâu AÂu ñöôïc khuyeán caùo phaûi tieán haønh xeùt nghieäm 100% toâm nhaäp khaåu töø Vieät Nam vì chaát nitrofuran coù nguy cô gaây ra ung thö cho con ngöôøi.
Tieán só Nguyeãn Quoác Tuaán - Tröôûng phoøng Thí nghieäm moâi tröôøng thuoäc Trung taâm Kyõ thuaät tieâu chuaån - ño löôøng - chaát löôïng 1 ñaõ traû lôøi phoûng vaán cuûa baùo Lao Ñoäng 11-05-04 "Keát quaû nhieàu ñôït phaân tích cho thaáy taát caû caùc loaïi hoa quaû Trung Quoác vaø cam Vieät Nam ñeàu coù chöùa thuoác dieät coû 2,4-D vaø 2,4,5-T ... thaùng 9-03, phaân tích hai goùi boät in chöõ Taøu do Haø Giang chuyeån ñeán ñaõ tìm thaáy nhieàu hôïp chaát trong ñoù coù hoaù chaát 2,4-D daïng kyõ thuaät coù haøm löôïng 70%. Rieâng goùi thuoác dieät coû coù baêng maøu xanh ñaäm coøn tìm thaáy hoaù chaát 2,4,5-T ... toâi baøng hoaøng khi phaùt hieän ra hoaù chaát 2,4,5-T vaø 2,4-D laø caùc thuoác dieät coû töøng ñöôïc söû duïng trong chieán tranh Vieät Nam döôùi teân goïi chaát ñoäc maøu da cam". Tuaán ñaõ bò kyû luaät vì “cung caáp thoâng tin cho baùo chí”.
Tieán só Mai Thanh Truyeát vaø kyõ sö Nguyeãn Minh Quang thuoäc Hoäi Khoa Hoïc & Kyõ Thuaät Gia Myõ goác Vieät cho raèng chaát hoùa hoïc do noâng daân Vieät Nam söû duïng ñeå tröø saâu, dieät coû, laøm phaân boùn laø moái ñe doïa cho söùc khoûe nhieàu hôn caû thuoác khai quang do quaân ñoäi Hoa Kyø raõi töø 1961 ñeán 1971 taïi Ñoâng Döông.
Ñöôïc ñaøi AÙ chaâu Töï do phoûng vaán cuøng TS Mai Thanh Truyeát ngaøy 21-08-03, BS Arnold Schecter phaùt bieåu "Toâi khoâng nghó dioxin laø taùc nhaân chính cho caùc chöùng dò hình, dò daïng nôi treû em vaø dioxin cuõng khoâng phaûi laø taùc nhaân duy nhaát gaây ung thö cho ngöôøi lôùn ôû Vieät Nam, bôûi vì caùc hoùa chaát ñoäc haïi ñaõ ñöôïc tìm thaáy trong 16 maãu thöïc phaåm vöøa phaân tích cuõng coù theå laø taùc nhaân. Trong maáy chuïc laàn qua Vieät Nam, toâi gaëp raát nhieàu beänh nhaân vaø hoï cho bieát ñaõ CAÛM THAÁY-FEEL laø do chaát ñoäc da cam gaây ra".
Baùc só Nguyeãn Thò Ngoïc Phöôïng, Giaùm ñoác beänh vieän Töø Duõ phaùt bieåu taïi Hoäi nghò Quoác teá hoâm 25-07-04 "Khoâng caàn xeùt nghieäm cuõng xaùc ñònh chaéc chaén nhöõng ngöôøi naøy ñeàu laø naïn nhaân chaát ñoäc da cam!".
Phöông phaùp tuyeân truyeàn nhoài soï vaø moät chieàu cuûa Coäng saûn Vieät Nam ñaõ taïo aûo giaùc leân moïi beänh nhaân khieán hoï tin raèng chaát da cam do quaân Myõ raõi laø nguoàn goác beänh taät.
Ñieàu traàn tröôùc Quoác Hoäi vaøo thaùng 12-03, Tieâ´n só Deborah McLeod thuoäc ñaïi hoïc Otago ôû Taân Taây Lan keâ´t luaän raèng, aûnh höôûng cuûa chaâ´t ñoäc da cam ñoâ´i vô´i ca´c cöïu chieâ´n binh Taân Taây Lan tö`ng tham chieâ´n ôû Vieãt Nam laø khoâng ña´ng keå. Baø cuøng hai khoa hoïc gia nöõa ñaõ nghieân cöùu vaø baùo caùo vôùi Boä Quoác phoøng raèng li´nh Taân Taây Lan ñaõ tieâ´p caän vô´i thuoác khai quang i´t nhaâ´t la` 356 laâ`n trong luùc tham gia xòt gaàn 2/80 trieäu li´t töø naêm 1962 ñeán 1971.
Môùi ñaây, chính phuû Taân Taây Lan ñaõ coâng khai xin loãi cöïu chieán binh tham chieán taïi Vieät Nam veà vieäc hoï bò phôi nhieãm dioxin. Tuy nhieân, caùc chöùng cöù ñöa ra khoâng baùc boû ñöôïc caùc nghieân cöùu cuûa TS McLeod treân phöông dieän khoa hoïc maø mang daáu aán chính trò.
Vuï kieän do Haø Noäi daáy leân khoâng hôïp thôøi vì coá tình döïng laïi khoâng khí chieán tranh laïnh trong quan heä quoác teá; thieáu hôïp lyù vì khoâng tröng daãn ñöôïc chöùng côù khoa hoïc thuyeát phuïc; phí phaïm coâng söùc trong khi caàn duøng taøi nguyeân cho phaùt trieån.
Tuy ñaõ thaát baïi vaø raát toán keùm, nhöng Coäng saûn Vieät Nam chöa muoán töø boû canh baïc chaát ñoäc da cam.
Ñoái vôùi nhaân loaïi, nhaát laø ngöôøi Vieät quoác noäi cuõng nhö haûi ngoaïi neân töï hoûi tröôùc khi quyeát ñònh uûng hoä hoaëc choáng laïi cuoäc vaän ñoäng cuûa ñaûng Coäng saûn Vieät Nam. Coù neân uûng hoä cho Haø Noäi tieáp tuïc khieáu kieän vì muïc tieâu chính trò hoaëc chæ neân trôï giuùp vieäc truy taàm nguyeân uûy caùc caên beänh hieåm ngheøo haàu goùp söùc xoa dòu noãi khoå ñau cuûa nhöõng keû baát haïnh maø khoâng phaân bieät chính kieán?
ÑAÏI-DÖÔNG
DƯƠNG PHAN * CHÚT HƯƠNG TRONG GIÓ
Truyện ngắn
Chút Hương Trong Gió
Dương Phan
--------------------------------------------------------------------------------
Cuối cùng tôi đành phải chịu thua hắn! Cả tuần nay hắn cứ như người mất hồn, hết thay "bin" chiếc radio hiệu Sony rồi lại ngồi cả buổi rà đi rà lại, băng tần 1100 để mong nghe cho được chương trình phát thanh của đài Tiếng Quê Hương, phát thanh tại Sacramento. Phải chi hắn nghe trọn chương trình từ 2 giờ chiều cho đến 7 giờ tối của đài này, thì cũng đỡ bực mình! Trái lại chỉ có nửa tiếng của mục Tâm Tình Thính Giả từ 6giờ 30 cho đến hết giờ mỗi thứ sáu, mà hắn đã làm tôi rối rắm cuộc đời! Chương trình này do một người con gái có cái tên nghe cũng dễ thương: Dạ Hương phụ trách.
Thú thật, nếu không phải trước đã lỡ "trao duyên lầm tướng cướp", làm bạn với hắn từ trong trại tù Nam Hà (Ba Sao), tôi đã dọn ra tìm chỗ khác "share" phòng cho bỏ ghét! Nhưng đã bao lần tôi chuẩn bị đồ đạc là hắn năn nỉ ỉ ôi là: "sẽ chừa!". Nghĩ tình đã từng gian khổ nhục nhằn có nhau, cũng như đều là dân "mồ côi" nơi xứ người, tôi lại thôi. Nhưng nó lại "chứng nào tật nấy!"
Ai đã từng nếm mùi nhà tù CS, mới thấy cái tình bạn trong tù nó kỳ lạ lắm. Trong hoàn cảnh "đổ mồ hôi, sôi nước mắt", phải lao động chết bỏ trong cái nắng cháy da, trong cái buốt giá cắt thịt của những thời tiết khắc nghiệt trong vùng núi rừng đầy ma thiêng chướng khí. Đêm về trại phải chịu ngồi đồng "tụng", mổ xẻ, "tự phê tự kiểm", giữa lúc cơ thể và tinh thần rã rời, tả tơi! Chỉ mong được nằm xuống làm một giấc cho đến... ngàn thu là êm chuyện!
Khi còn trong trại tù, quanh mình thân nhân không có ai. Cha mẹ, anh em, vợ con, người yêu dấu... chỉ đến trong mơ thôi! Trước mặt là đám công an lòng đầy thù hận, lúc nào cũng mong hành hạ đám tù cho đến chết bỏ. Chỉ còn những anh em cùng cảnh ngộ chia xẻ đùm bọc, săn sóc nhau trong lúc "trần ai khoai củ" thối này! Nên thương quý nhau lắm!
Trời, Chúa, Phật còn thương cho sống sót, qua được bên này, cái "tình tù" nó tiềm ẩn trong tim. Mỗi lần gặp nhau, cho dù thời gian đã nhuộm sương mái tóc, cho đù năm tháng đã đi qua để lại dấu chân trên gương mặt hom hem, đám cựu tù vẫn đào trong ký ức, nhận ra nhau... Thế là "Mầy tao mây tớ", hỏi thăm: "đã qua trại tù nào?". Câu trả lời thường là: Cao Lãnh, Long Giao, Suối Máu, Hoàng Liên Sơn, Lào kai, Lý Bá Sơ, Nam Hà, Hỏa Lò, Vĩnh Phú, Nghệ Tỉnh, Cổng trời,Gia Trung... Tâm tình thấy đầm ấm, gần gũi nhau ngay... như thuở bị nhốt! Người ta thường bảo: làm bạn trên bàn rượu không bền, vì "hết xôi rồi việc". Nhưng bạn tù thì thắm thiết với nhau lâu dài hơn!
Tôi đồng ý là tiếng "Cô bé" Dạ Hương cũng "Bắc kỳ", nhỏ nhẹ, nũng nịu, cũng dịu dàng, thanh thanh như người em gái hậu phương Dạ Lan năm nào. Tôi công nhận là tôi cũng "chịu" giọng nói này lắm, nhưng không đến nỗi "mê" như hắn. Hắn thường lý giải:
- Thì bây giờ tao cũng làm như mày khi xưa mê Dạ Lan thôi! Mày cũng đã từng bỏ đơn vị, lén về Sàigòn tìm gặp mặt "em gái" của các anh chiến sĩ oai hùng nơi tiền tuyến. Nhưng khi chạm thực tế mới thấy mình toàn là những tên ăn bánh vẽ. Trong khi chiếc "radio" thỏ thẻ những lời yêu thương, vuốt ve, âu yếm, thì "em" đang du hí cùng các quan "mai bạc" hoặc "lấp lánh sao trời" sống an nhàn nơi hậu phương... Còn lâu mới đến phiên lính trận, dối diện với cái chết từng ngày như bọn mình.
- Ngày xưa khác bây giờ... Già rồi ông ơi!
- Trăng bao nhiêu tuổi trăng già? Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non? Không biết phải không? Lấy gì làm mức chuẩn cho tim già hay tim non! Cũng mù tịt luôn chứ gì? Thế thì "Tôi còn yêu... Tôi cứ yêu!".
Tôi đành phải chấp nhận cái gàn bướng của hắn. Biết tôi đã đuối lý, hắn đưa bàn tay ra vảy vảy:
- Thôi đưa mượn đỡ năm chục... Một bó hoa và tiền giao hàng...
Tôi vừa lấy năm mươi đồng còn lại đưa cho hắn:
- Nếu chiều nay không thâu được tiền công cắt cỏ hàng tháng của thằng Mike... thì coi như ăn "cơm tây" đấy bạn.
- Yên chí lớn... Sẽ có ngay mà... Tao đi đây.
Tôi nhìn theo hắn hớn hở bước xuống cầu thang, vừa thương vừa giận. Hai tên độc thân, đến Mỹ với chương trình H.O sau cùng. Cảnh "trâu chậm uống nước đục" hắn cũng biết rồi. Được người bảo trợ lãnh về Sacramento, việc làm không nhiều. Muốn tìm một chỗ khá lương, người xin phải có bằng cấp hay kinh nhgiệm cao về một kỹ năng nào đó... Trong khi tôi và hắn chỉ bỏm bẻm vài câu tiếng Anh, không có chuyên môn nào ngoài chuyện "bóp cò"... Hai thằng bèn thành lập một "công ty" làm mướn. Nhận làm mọi việc, từ quét rác, cắt cỏ ngoài vườn cho đến sơn phết, khuân vác, dọn chuyển đồ đạc cho người... Đời còn lận đận lao đao, không dám ước mơ sẽ có người yêu mình. Mộng mị làm chi cho thêm rối rắm tơ lòng. Thế nên tôi... ở vậy! Nhưng hắn lại khác.
Tôi cũng không hiểu từ bao giờ hắn bị tiếng nói "ma quái" của nàng Dạ Hương thôi miên, cuốn hút khiến hắn phải khờ khạo, chiêm bao. Ngày xưa "đồn anh đóng nơi rừng Mai. Nếu Mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa?". Bởi cái cheo leo, heo hút, hoang vu của núi rừng, cũng bởi cái thiếu vắng đàn bà... đã làm cho lính mơ về gia đình, nhớ thương người yêu dấu. Riêng những tên độc thân đêm đêm ôm nàng Dạ Lan... mà ngủ!
Bên này, cho dù cuộc đời tị nạn có rách tả tơi đi nữa, nhưng đất nước tạm dung có quá nhiều phương tiện giải trí: thể thao, sách báo, ca nhạc và phim ảnh... để làm vơi đi những muộn phiền, ray rứt và những... ấm ức trong lòng! Mê ca sĩ cũng còn được đi. Ai đời lại trồng cây si giọng nói. Hai thằng tôi chưa có dịp diện kiến dung nhan của người ngọc, nhưng qua giọng nói thanh thoát, dịu dàng như mơn trớn, vuốt ve lòng dạ người ta... chắc nàng cũng ra gì lắm.
Đôi khi hắn mở âm thanh cái radio oang oang, làm tôi cũng phải chú ý... Nhưng tôi chỉ nghe qua rồi... bỏ. Riêng hắn lại lao đao, lận đận vì giọng nói này. Giữa lúc tụi "Mễ lậu" đứng đầy đường, làm thành khu chợ "cơ bắp" như thủ đô Hà nội "ngàn năm văn vật", giàu đẹp của Việt Nam. Hai thằng có được công việc "lai rai" là phúc bảy mươi đời rồi. Tiền kiếm được sau khi trừ chi phí cho cuộc sống, tuy không phải lo lắng chu cấp cho ai, chẳng còn lại bao nhiêu. Thế mà tuần nào hắn cũng nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn... đủ thứ, để đặt mua một bó hồng nơi tiệm bán hoa kèm theo điều kiện: phải giao hàng từ 6 giờ 30 đến 7 giờ chiều, để bảo đảm là "tình hoa" đến tay người đẹp và hắn ôm cứng chiếc Sony, thả hồn theo giọng nói huyền hoặc, đầy ma lực: "Kính chào quí thính giả, chiều nay Dạ Hương được hân hạnh trở lại giờ tâm tình của chúng ta. Cũng như bao lần, Dạ Hương mong được quí vị xem như là một người thân quen, một người... em nhỏ trong gia đình, để nói cho nhau nghe những buồn vui, khó khăn, trắc trở của tháng ngày lạc xứ, xa quê...". Hắn bỏ mặc một mình tôi cày chết bỏ! Hắn thường biện bạch, chuyện của hắn chẳng nhằm nhò gì nếu so với bao vua chúa, vương tôn công tử đã bỏ cả ngai vàng, sự nghiệp để chạytheo gót giai nhân...
Đêm về, hai thằng chui vào căn Duplex trên đường Mack Rd. Nhiều lần tôi vì mệt, chẳng thèm nói với hắn lời nào, cho đồ nghề vào nhà để xe, bước nhanh vô phòng tắm, bỏ mặc cho hắn cứ lải nhải:
- Hôm nay hình như nàng bị ốm thì phải. Giọng nói có khàn đi đôi chút. Nhưng cũng dễ thương lắm... mà hình như nàng đang nói về tụi mình, không, nói cho riêng tao thôi. Không phải tao giành với mày. Chuyện gì mình cũng chia hai được. Nhưng chuyện này thì không. Ai mà chia đôi tình nhân cho bạn bao giờ!
Thế có phải hết thuốc chữa rồi không? Hắn đã dệt bao mộng mơ: nào là một ngày đẹp trời nào đó hắn sẽ đến đài để gặp nàng. Chắc là nàng sẽ cảm động trước tấm chân tình... si dạy của hắn. Nào là có thể hắn sẽ ngỏ lời cùng nàng, vân vân... và vân vân... Hắn đã sống với những vọng tưởng... thật hạnh phúc. Có lần trong khi tôi đang ngủ vùi. Không hiểu cao hứng thế nào, hắn chạy sòng sọc vào buồng, đánh thức tôi dậy. Bất chấp sự cáu gắt, cằn nhằn của tôi, hắn bô bô:
- Tôi biết ông văn hay chữ tốt, góp ý giùm tôi bài thơ này, tôi vừa sáng tác để gởi cho nàng.
Không chờ tôi có phản ứng, hắn đọc một hơi:
Yêu em, cho dù biết đời sẽ khổ.
Bởi yêu người, nhưng chẳng được người yêu,
Đêm đêm ôm ấp tình em mật ngọt,
Mơ ước một lần, gió lộng xoay chiều.
Sợ tôi ngờ nghệch không hiểu được ý nghĩa "cao thâm" của bài thơ, hắn lan man: "lại trời cho gió thổi lên... cho manh chiếu rách nằm trên giường ngà".
Bực mình tôi phán:
- Thằng điên!
Hắn tiu nghỉu như ăn vụng bị bắt quả tang... Ngày hôm sau, nhìn gương mày hớn hở của hắn, tôi đoán ngay:
- Có phải đêm qua mày lại mơ thấy nàng?
- Mày đoán như thần! Nàng đã đến, nhưng lần này... đầy hấp dẫn và cụp lạc hơn nhiều!
Hình như hắn đang tận hưởng cái "dư vị" của tình yêu, miệng huýt sáo bản "Love Story" của ai đó ra điều hạnh phúc lắm! Tôi đã phải can hắn:
- Vinh à! Tao nói câu này nghiêm chỉnh: mày nên đi bác sĩ tâm thần càng sớm càng tốt. Chậm trễ coi chừng hết thuốc chữa.
Người ta thường nói tình yêu có ma lực, cho dù tình một chiều hay trăm chiều. Có lẽ vì chịu không nỗi những thôi thúc của trái tim, ngày kia hắn đã lái chiếc truck già đầy đồ nghề, ngồi trên bãi đậu xe, chờ đợi cho đến 2giờ 30, ngắm trộm dung nhan người đẹp. Nhìn gương mặt tươi rói, hớn hở, cười nói liên hồi của hắn, tôi hiểu nàng Dạ Hương có bảo hắn chết, chắc hắn cũng không chối từ. Hắn nói luôn miệng:
- Nàng đẹp như một thiên thần. Không bỏ công tao... yêu nàng, có chết cũng cam.
Mấy tuần nay bỗng dưng giờ "Tâm tình" mà hắn đang đợi chờ mất tiếng! Chiều nào hắn cũng bỏ mặc cho tôi làm nốt phần việc còn lại, ngồi vào một gốc cây, điều chỉnh tần số, dò tìm tiếng nói của người mà hắn si mê. Hắn hết đứng lên ngồi xuống, đi qua bước lại, xoay xở lung tung mong tìm được tiếng nói thân thương, yêu dấu. Bực mình, tôi gắt:
- Mày làm gì như gà mắc đẻ vậy! Bấm "phone" gọi vào đài thì biết ngay.
Cái "cell phone" làm việc mệt nghỉ và tiền "over charge" cũng trả méo mặt.
Không hiểu Vinh đang nghĩ gì, chợt hỏi tôi:
- Nghe nói nàng còn độc thân phải không?
- Ừ!
Tôi nói móc họng:
- Không lẽ nàng đã đi lấy chồng?
- Nếu nàng bỏ cuộc chơi, thật... chán mớ đời.
Hắn nói câu này với giọng đầy xúc động, như khóc... thầm. Rồi bao nhiêu câu than thân trách phận, được hắn tô đậm cho nỗi tương tư của mình. Tôi chọc quê:
- Thôi đi mày ơi! Đừng làm thằng Cuội mơ ước Hằng Nga... Nghe nói đã có một bác sĩ đặt hàng rồi! "Uổng công xúc tép nuôi cò. Cò ăn mau lớn, cò dò cò bay!". Hi! Hi!...
Hắn nhặt viên sỏi ném vào lưng tôi. Hắn bấm điện thoại liên hồi. Được một lúc sau, hớn hở nói với tôi:
- Nàng vắng mặt vì chuyện riêng. Hay quá.
- Tiên sư mày! Tháng này tao không trả tiền điện thoại...
- Mày dám?
Hắn cười trông dễ ghét. Thấy hắn lụy tình như thế tôi bảo:
- Hôm nào "thất nghiệp" mày để tao làm một mình, lái xe đến đài, quỳ xuống dâng hoa mà tỏ tình, hay là viết lá thư thật lâm ly bi đát, kèm theo mấy vần thơ hôm nọ, biết đâu nàng sẽ động lòng! Si tình kiểu màykhông dại cũng khờ, rồi... đi luôn!
- Mày lại xúi bậy nữa. Nói thì nói vậy. Mơ chỉ để mà mơ thôi. Thân phận mình như thế này: mặt mũi đen nhánh như Bao Công, tiền nong tháng nào đong tháng đó, lấy gì mà làm "credit" cho người ta yêu?
Tôi mừng thầm vì hắn đã "ngộ": cuộc tình phải có tiêu chuẩn trên cõi đời này:
- Biết thế sao còn mãi "mộng du", mơ chuyện "đỉa đeo chân hạc"!
- Thà là như vậy để biết mình còn có trái tim. Chứ người sống không thương, không nhớ, thà làm thân gỗ đá sướng hơn! Yêu một mình... không sợ ai phụ tình hay tình phụ. Yêu như mày, khi bị tình phụ, bồ đá thì...
Hắn ngưng ngay, nhìn tôi, vì biết mình đã lỡ lời khi nói đến chuyện của tôi. Tôi chỉ còn biết than thầm: "Thật hết thuốc chữa. Thật chán mớ đời!". Tôi cho chiếc máy cắt cỏ vào bóng mát, vói tay lấy chai nước lọc, tu một hơi và dội phần còn lại lên đầu... để giải nhiệt.
Cơn nóng bức ngột ngạt của mùa hè có thể làm dịu đi bằng nước lạnh. Nhưng nỗi buồn trong lòng làm sao phôi phai. Tôi ngồi im lặng một lúc lâu cho cơn xao động qua đi. Thấy thế hắn mon men đến bên cạnh:
- Xin lỗi mày nghe Long. Tao quên những lời mày dặn là không nói đến chuyện "người ấy" nữa. Thì ra đã bao năm qua rồi mày chưa quên được... Vẫn âm thầm đau khổ một mình. Thế nên tao thấy yêu một chiều là tình mãi đẹp ngàn đời.
Tôi ném mạnh chiếc chai không vào một góc!
Không cần Vinh nhận xét, tôi hiểu tôi vẫn chưa quên được "người ta" cho dù tôi đã cố, cho dù không gian ngăn cách nghìn trùng... Tôi đã mang theo con đường Duy Tân đầy cây cao bóng mát cùng khung trời kỷ niệm. Tôi mang theo những hàng quán xôn xao và phố phường in dấu chân quen, cũng như những ly chanh đường ngọt lịm, bao tách cà phê thơm ngát, say đắm, ngất ngây!
Tôi đã không quên được những giọt nước mắt và giọng nói nghẹn ngào: "Em sẽ chờ anh! Chờ mãi! Long ơi!...". Nhưng khi tôi bước ra khỏi trại tù trở về, người ấy đã không còn không! Chồng nàng là người chủ mới của thành phố. Thế cũng đành thôi!
--------------------------------------------------------------------------------
Mấy ngày qua hình như Dạ Hương đang có chuyện gì lo nghĩ, hết đi ra rồi lại vào. Hai tay cứ đan xoắn lại với nhau, mắt thường hướng ra cửa, dường như đang mong chờ ai đó. Người bạn gái làm chung trong việc xướng ngôn, Bảo Thi, đã phải lên tiếng:
- Bà làm gì mà cứ như gà tìm ổ vậy, đang chờ người ta phải không?
Nàng dùng chữ "người ta", chứ thực ra nàng cũng như Dạ Hương không biết "người ta" là ai. Mấy tháng nay, thứ sáu nào cũng thế, vào khoảng 2giờ 30 là có người giao hàng mang một bó hoa hồng đến cùng tấm thiệp nhỏ với mấy chữ: "Chúc Dạ Hương một cuối tuần thật vui". Mấy lần anh chị em trong đài hỏi thăm về người tặng hoa, người giao hàng vẫn mù tịt . Anh em trong đài trách nàng:
- Bà bí mật ghê nhỉ! Đã tìm được hoàng tử của lòng rồi mà vẫn giấu kín... Bao giờ cho bọn này ăn mừng đây?
- Cứ đoán mò, có ai đâu nào! Hay là bà phá tôi đây?
Tuy nói thế nhưng trong lòng Dạ Hương biết chắc là không bao giờ có chuyện này. Chiếc lọ hoa với những nụ hồng rực rỡ đã tạo cho gian phòng nhỏ dùng làm nơi tiếp khách trở nên xinh tươi và có sức sống hơn. Trước giờ "on air" nàng thường nhìn vào bình hoa, hương thơm thoang thoảng, sắc màu tươi thắm để thả hồn bay bổng vào những vu vơ... Thuở nhỏ nàng đã từng yêu thích hoa Hồng vì những ý nghĩa muôn lời về tình yêu mà hoa chuyên chở, cũng như trăm ngàn hương sắc, đa loại của giống Hồng. Hình như hoa đã làm cho nàng thấy đời đẹp hơn và tâm tình cũng có cái gì đó xao động... Nghe một bản nhạc tình, nàng thấy như là chính mình bay cao trong ấy. Chọn khúc ca buồn làm nhạc đệm cho chương trình, nàng ôm ấp nỗi niềm tương tư... ai đó xa xôi!
Bây giờ chiếc bàn nhỏ trống vắng đến vô duyên, lạnh lẽo. Dạ Hương hỏi người bạn:
- Không biết "người ta" có chuyện gì không, mà sao... hoa chẳng đến?
Bảo Thi lắc đầu, nhún vai:
- Không biết!
Nhiều lúc nàng cảm thấy mình vô duyên chi lạ. "Người ta thích thì tặng hoa, không thích nữa thì thôi! Can chi...". Nhưng không hiểu sao trong nàng có sự nũng nịu, tủi hờn dâng lên. Nước mắt muốn trào ra. Tuy biết rằng qua những tâm tình nàng gởi gắm trong hương gió bay, có nhiều người thương mến vì thích giọng nói, cũng như nhân dáng dịu dàng và cung cách cư xử thân mật dễ gần gũi. Khi thì một lời khen, vài câu đùa vui, đôi câu tán tỉnh xa gần. Thính giả ái mộ thỉnh thoảng mang vào đài vài lọn rau trồng sau vườn nhà vừa mới cắt, quả bầu non còn mượt mà lông tơ, chục đào thơm mới hái trên cây, để Dạ Hương... lấy thảo. Những người thân quen như bác Tư, anh Thế, chị Hoàng, anh Phương vẫn hay đến đài thăm nàng... Nhưng riêng người ta là ai...? Tại sao không đến đài cho nàng làm quen, lại mượn hoa thay lời!
Một nhà mô phạm nào đó đã nói đại ý: "Sự lập lại là linh hồn của giáo dục". Một vấn đề nếu cứ mãi nhắc đi nhắc lại nhiều lần, dễ làm cho con người ta cảm nhận, tâm đắc sâu sắc, nhớ hoài. Với nàng, mấy tháng nay, mỗi tuần một bó hồng đã tạo cho nàng một cảm giác thân mến khi bước vào đài: bó hoa đã nằm hờ hững trên bàn, chờ bàn tay măng non, mềm mại của nàng nâng niu đặt vào chiếc bình thủy tinh trong suốt mà nàng lau chùi sach sẽ chiều hôm trước. Như một luân phiên tự nhiên: bó này vừa chớm phai, thì những nụ hồng tươi trẻ, đầy sức sống khác lại được người ta mang đến... Nó đã lấp đầy thời gian ở đài. Thế mà hai tuần nay... nàng trở nên hụt hẫng, chơi vơi!
Dạ Hương đang ngồi thừ người, mệt mỏi vì suy nghĩ đến "người ta". Không biết bao nhiêu câu hỏi về vị thính giả không quen nhưng đã mến đó dồn dập trong đầu! Đàn ông hay đàn bà? Chắc là đàn ông. Nếu là bạn gái với nhau đã gọi cho nàng rồi và cũng không tặng nhiều hoa như vậy. Nhưng mà "chàng" là ai? Chắc phải là người đa cảm và lãng mạn lắm, mới mượn hoa thay lời. "Người gì đâu mà nhát và... ác nữa!". Không biết nàng nghĩ gì, vội chạy đến lật nhanh đến kệ sách bên kia, tìm từng trang của tờ BN magazine. Dạ Hương nói thầm: "Không biết có phải tại những lời chúc mừng này không?".
Nàng trở về thực tại, khi người bạn cho biết đã tới giờ "on air". Dạ Hương uể oải bước vào ghế ngồi, đặt cái "head phone" lên đầu, ra dấu cho chuyên viên kỹ thuật biết là nàng đã sẵn sàng: "Kính thưa quý thính giả, giờ tâm tình của chúng ta lại đến. Cũng như bao lần trước, Dạ Hương ước mong được quý vị xem như là người thân quen trong gia đình hay là người em gái nhỏ để cùng nhau tâm sự... Chiều nay, Dạ Hương xin đặc biệt có lời thăm hỏi đến một người đã tặng hoa cho... đài, nhưng không đến để Dạ Hương được làm quen...". Tiếng nàng nhỏ dần... Người ta nghe âm thanh có chút nghẹn ngào trong gió!
--------------------------------------------------------------------------------
Tôi không ngờ lần đi xuống L.A. vừa rồi, để thăm người bạn tù năm xưa, lại là lần vĩnh biệt Vinh. Theo khoa tướng số, nó không phải là người yểu mạng: nhân dáng tầm thước, bước đi chững chạc, tiếng nói đầm thấm... Thế mà... Đời người ai biết ra sao ngày sau. Khi được một người bạn cùng nghề gọi báo cho biết, tôi đã không tin ở tai mình nữa. Tôi đã cự nự người tốt bụng:
- Tiên sư nhà ông. Ông có ghét tôi thì trù ẻo cho tôi qui tiên sớm không sao. Chứ thằng Vinh nó hiền như thế, đáng thương như thế, xứng đáng làm em cột chèo với ông lắm, trù cho nó chết sớm làm gì... Hay là ông sợ "nghèo"?
Người bạn đã quát ầm trong đầu máy bên kia:
- Thôi đi Long ơi! Chuyện chết người ai đem ra đùa bao giờ... Lấy vé máy bay về ngay đi! Ông lúc nào cũng tếu!
Tôi đã biết đây không còn chuyện bỡn cợt của bọn tôi với nhau nữa, nên khẩn cấp lấy vé máy bay trở về Sacramento. Vinh đã nằm trong ngăn lạnh của nhà quàn. Mọi thủ tục pháp lý đã xong. Vài người bạn thân quen cùng với tôi đứng ra lo chuyện cuối đời cho Vinh. Tro cốt được đem gởi vào chùa... Thế cũng xong một một kiếp người.
Tôi không biết nguyên nhân cái chết của Vinh. Tuy nó có nhiều tính nết "bất thường". Nhưng lúc nào nó cũng tỏ ra năng nổ, vui tươi, yêu đời. Vài người quen nói lại: Nhờ người hàng xóm gọi báo, cảnh sát đã mở cửa bên hông nhà, thấy xác Vinh đã lạnh cứng, tím bầm, nằm sóng soải ngoài sân sau. Chung quanh có nhiều vỏ chai rượu mạnh và bao thuốc lá... Theo giảo nghiệm y khoa, nạn nhân bị "stroke", quỵ ngã và đã đứng tim sau đó.
Lòng tôi nặng trĩu. Trước đây, hai đứa có buồn, nỗi buồn bâng quơ, không tên, hay nhớ thương xa vắng, thì đi mua một xâu bia về, không người nào uống hết hai lon. Thuốc lá chỉ phì phà vài điếu khi có dịp vui... Nguyên nhân nào đã khiến Vinh chán nản phải tìm quên trong men rượu và khói thuốc? Thật lạ! Tôi tự trách mình: "Ở chơi làm chi cả tuần bỏ Vinh một mình!". Nếu tôi về sớm hơn... có lẽ Vinh đã không "đi".
Theo thư mời, tôi đã đến văn phòng luật sư Thomas Bui nằm tại trung tâm thành phố. Sau khi tế nhị xin lỗi trong việc yêu cầu tôi cho xem bằng lái xe cũng như thẻ an sinh xã hội, luật sư Thomas Bui đẩy mấy tờ giấy đầy kín tiếng Anh trước mặt tôi, ông giải thích:
- Đây là những điều khoản ghi trong di chúc ông Vinh. Ông ấy đã phân chia tài sản năm chục ngàn đô la, tiền bảo hiểm nhân thọ, sau khi trang trải về việc hỏa táng, luật sư phí cùng các thứ linh tinh khác... Số tiền còn lại ông được chia 50% và một người có tên là Dạ Hương được 50%. Ông thì tôi biết rõ tên họ rồi, nhưng còn người kia, tôi đã không làm sao giải quyết được. Trong di chúc ông Vinh ghi địa chỉ là đài Tiếng Quê Hương ở số... đường... Tôi biết đài này, theo luật định Dạ Hương không thừa hưởng được, vì không phải là tên thật... Nhưng theo ước nguyện của người đã chết, nhất là theo phong tục của Việt Nam mình, lời trăng trối của người quá cố rất thiêng liêng... Ông là bạn chí cốt của ông Vinh, xin ông cho tôi biết thêm về cô Dạ Hương...
Tôi rất ngạc nhiên khi biết Vinh đã ghi tên tôi là người thừa hưởng tiền tử tuất trong bảo hiểm nhân thọ của nó. Khi còn sống, Vinh thường đùa:
- Cố gắng nhịn vài chục hàng tháng mua bảo hiểm, để "nếu một mai trở về với cát bụi" thì người thân có chút gì lo việc ma chay cho mình, không bỏ nằm trong hộp "freezer" hoài lạnh lắm! Hoặc vì nghèo quá không buồn nhận về, bỏ mặc! Nhà thương sẽ đem xác cho các sinh viên y khoa thực tập. Họ cắt xẻo từng phần da thịt, đau bỏ mẹ!... Tao cũng không hiểu nỗi có những bà già Mỹ lại làm di chúc cho con chó cưng. Chả lẽ chó hơn người à. Khi tao có "trở về cát bụi" mày nhớ lo cho tao ngon lành... Không thì tao rủ đi theo.
Những đùa cợt của Vinh vào những ngày "trần ai" trong cái nóng trên 100 độ hay mùa lạnh cứng người cũng dịu bớt đi nhiều. Bỗng đưng tôi cảm thấy nhớ Vinh quá!
Tôi bùi ngùi kể cho luật sư nghe mối tình câm củaVinh. Ông cảm thông, cười chua xót:
- Tình ơi là tình.
Chợt ông nhớ ra điều gì, tiến đến ngăn tủ lấy ra một gói nhỏ:
- Đây là di vật của ông Vinh để lại cho cô Dạ Hương. Không hiểu có phải đây là một điềm gở hay không: Tháng trước, ông Vinh đã đem đến nhờ tôi ghi thêm vào di chúc và cất giữ cùng với những lời "gởi lại người tôi yêu". Ông có thể mở ra xem.
Tôi đón nhận món đồ một cách thận trọng, nâng niu như tâm tình của tôi và Vinh. Chiếc nhẫn hột xoàn nhỏ lấp lánh dưới ánh đèn. Lòng tôi nghẹn ngào khi nhớ lại lời của Vinh kể về chiếc nhẫn này... "Đây là quà cưới của cha mẹ tao. Mẹ tao nói là cha dành dụm nhiều năm mới có được. Khi tao bỏ nước ra đi, bà đã trao cho tao nói là để tặng con dâu sau này. Không biết mẹ có phước nhìn thấy mặt dâu của mẹ không? Bao năm qua chiếc nhẫn vẫn còn đây, vì tao chưa chọn được ai. Đúng hơn không có ma nào chịu lấy tao!...".
Ngày nhận được tin mẹ qua đời, Vinh đau buồn đem chiếc nhẫn ra xem và nghẹn ngào nói với mẹ:
- Mẹ ơi! Con đã không làm được ước mơ của mẹ rồi mẹ ơi.
Vinh đã nhiều tự vằn vật mình, mỗi khi nhớ lời mẹ...
Tôi cẩn thận gói lại chiếc nhẫn trao cho luật sư. Ông nhận lại, nhìn thẳng vào tôi, ông nói rõ từng tiếng:
- Ông đã đọc những lời di chúc của ông Vinh, cũng như những gì liên quan đến cô Dạ Hương. Tôi sẽ giúp ông trong việc "claim" với hãng bảo hiểm về khoảng "tử tuất"... Mong ông thực hiện đúng những ước muốn sau cùng của bạn.
Ông đứng lên bắt tay tôi:
- Phần ông coi như đã xong. Bao giờ nhận được "check" của hãng bảo hiểm xin phiền ông mang đến đây. Giờ thì xin ông giúp tôi tìm biết tên họ cùng số an sinh xã hội của cô Dạ Hương. - Dạ được. Tôi sẽ lo việc này. Cám ơn luật sư.
Tôi rời văn phòng luật sư, lái xe về thẳng căn Duplex. Mấy hôm nay tôi chả buồn dọn dẹp gì cả. Đồ đạc bề bộn mọi chỗ. Quần áo Vinh vứt lung tung, báo chí băng nhạc mỗi nơi một cái... từ buồng riêng cho đến phòng khách. Không khí buồn nặng và u ám quá, cho dù đèn đuốc vẫn được mở sáng. Đầu óc tôi trĩu nặng vì không hiểu được nguyên nhân nào đưa đến cái chết của Vinh... Vì đâu nên nỗi.
Tôi bỗng dưng chú ý đến một tờ báo có tên BN magazine trình bày trang nhã, tươi sáng nằm trong góc bên kia... Tôi nhặt lên, lật vài trang và rơi vào đúng một tờ đã được bẻ gốc sẵn, có nguyên một trang chúc mừng, nội dung như sau: "Được tin kiều nữ Dạ Hương sẽ cùng bác sĩ Hoàng Tùng từ giã cuộc chơi, xây lâu đài tình ái vào ngày... tháng... năm... Thân chúc Tân Lang và Tân Giai nhân trăm năm hạnh phúc", đã bị gạch chéo ngang dọc cùng các chữ "no", "no" tổ bố.
Tôi đứng sững người một lúc lâu, đầu óc quay cuồng. Nếu đây là nguyên nhân đưa đến cái chết của Vinh thì... Trời ơi là Trời! Vinh ơi Vinh! Tình ơi là tình.
Một tháng sau, khi tôi đến văn phòng luật sư Thomas Bui thì Dạ Hương đã có mặt ở đó rồi. Hôm tôi tìm đến đài và trình bày mọi chuyện. Thoạt đầu nàng xúc động gần như hoảng loạn, vì sự trùng tên tai hại và nàng là nguyên nhân gây ra cái chết cho một người. Dạ Hương không chịu nhận gì cả. Tôi và những người bạn trong đài đã phải thuyết phục nàng nhiều lần. Hai tuần nay, người ta không còn nghe tiếng nàng trong mỗi chiều thứ sáu...
Thấy tôi đến, Dạ Hương đứng lên, nói nhỏ:
- Dạ chào anh Long.
- Chào Dạ Hương.
Trong nàng ủ rũ thấy mà tội! Gương mặt không trang điểm buồn bã, xanh xao. Chiếc áo dài màu đen làm cho Dạ hương trông càng thêm sầu thảm! Luật sư Bui bước ra, giải thích mọi thủ tục thừa kế và yêu cầu mọi người ký vào các biên nhận. Ông trao gói giấy cho Dạ Hương. Nàng nhận nhưng vẫn để nó nằm yên trên bàn. Tôi nói Dạ Hương hãy mở ra xem. Tay nàng run run, từ từ mở từng gốc giấy. Chiếc nhẫn kim cương hiện ra, lấp lánh. Dạ Hương vẫn bất động. Tôi trình bày lai lịch chiếc nhẫn cho nàng nghe. Nàng cắn môi, nhặt gói giấy, ôm vào ngực... Nàng nhắm mắt, im lặng một lúc lâu. Hai dòng lệ tuôn trào, chảy dài trên má. Nàng khẽ kêu lên:
- Anh ơi!
Tôi gọi thầm trong lòng:
- Vinh ơi! Mày có nghe thấy gì không?
Ngoài kia mặt trời xuống rồi! Hoàng hôn chìm dần... Ráng chiều từ từ phai tàn, tan biến vào hư không.
Chút Hương Trong Gió
Dương Phan
--------------------------------------------------------------------------------
Cuối cùng tôi đành phải chịu thua hắn! Cả tuần nay hắn cứ như người mất hồn, hết thay "bin" chiếc radio hiệu Sony rồi lại ngồi cả buổi rà đi rà lại, băng tần 1100 để mong nghe cho được chương trình phát thanh của đài Tiếng Quê Hương, phát thanh tại Sacramento. Phải chi hắn nghe trọn chương trình từ 2 giờ chiều cho đến 7 giờ tối của đài này, thì cũng đỡ bực mình! Trái lại chỉ có nửa tiếng của mục Tâm Tình Thính Giả từ 6giờ 30 cho đến hết giờ mỗi thứ sáu, mà hắn đã làm tôi rối rắm cuộc đời! Chương trình này do một người con gái có cái tên nghe cũng dễ thương: Dạ Hương phụ trách.
Thú thật, nếu không phải trước đã lỡ "trao duyên lầm tướng cướp", làm bạn với hắn từ trong trại tù Nam Hà (Ba Sao), tôi đã dọn ra tìm chỗ khác "share" phòng cho bỏ ghét! Nhưng đã bao lần tôi chuẩn bị đồ đạc là hắn năn nỉ ỉ ôi là: "sẽ chừa!". Nghĩ tình đã từng gian khổ nhục nhằn có nhau, cũng như đều là dân "mồ côi" nơi xứ người, tôi lại thôi. Nhưng nó lại "chứng nào tật nấy!"
Ai đã từng nếm mùi nhà tù CS, mới thấy cái tình bạn trong tù nó kỳ lạ lắm. Trong hoàn cảnh "đổ mồ hôi, sôi nước mắt", phải lao động chết bỏ trong cái nắng cháy da, trong cái buốt giá cắt thịt của những thời tiết khắc nghiệt trong vùng núi rừng đầy ma thiêng chướng khí. Đêm về trại phải chịu ngồi đồng "tụng", mổ xẻ, "tự phê tự kiểm", giữa lúc cơ thể và tinh thần rã rời, tả tơi! Chỉ mong được nằm xuống làm một giấc cho đến... ngàn thu là êm chuyện!
Khi còn trong trại tù, quanh mình thân nhân không có ai. Cha mẹ, anh em, vợ con, người yêu dấu... chỉ đến trong mơ thôi! Trước mặt là đám công an lòng đầy thù hận, lúc nào cũng mong hành hạ đám tù cho đến chết bỏ. Chỉ còn những anh em cùng cảnh ngộ chia xẻ đùm bọc, săn sóc nhau trong lúc "trần ai khoai củ" thối này! Nên thương quý nhau lắm!
Trời, Chúa, Phật còn thương cho sống sót, qua được bên này, cái "tình tù" nó tiềm ẩn trong tim. Mỗi lần gặp nhau, cho dù thời gian đã nhuộm sương mái tóc, cho đù năm tháng đã đi qua để lại dấu chân trên gương mặt hom hem, đám cựu tù vẫn đào trong ký ức, nhận ra nhau... Thế là "Mầy tao mây tớ", hỏi thăm: "đã qua trại tù nào?". Câu trả lời thường là: Cao Lãnh, Long Giao, Suối Máu, Hoàng Liên Sơn, Lào kai, Lý Bá Sơ, Nam Hà, Hỏa Lò, Vĩnh Phú, Nghệ Tỉnh, Cổng trời,Gia Trung... Tâm tình thấy đầm ấm, gần gũi nhau ngay... như thuở bị nhốt! Người ta thường bảo: làm bạn trên bàn rượu không bền, vì "hết xôi rồi việc". Nhưng bạn tù thì thắm thiết với nhau lâu dài hơn!
Tôi đồng ý là tiếng "Cô bé" Dạ Hương cũng "Bắc kỳ", nhỏ nhẹ, nũng nịu, cũng dịu dàng, thanh thanh như người em gái hậu phương Dạ Lan năm nào. Tôi công nhận là tôi cũng "chịu" giọng nói này lắm, nhưng không đến nỗi "mê" như hắn. Hắn thường lý giải:
- Thì bây giờ tao cũng làm như mày khi xưa mê Dạ Lan thôi! Mày cũng đã từng bỏ đơn vị, lén về Sàigòn tìm gặp mặt "em gái" của các anh chiến sĩ oai hùng nơi tiền tuyến. Nhưng khi chạm thực tế mới thấy mình toàn là những tên ăn bánh vẽ. Trong khi chiếc "radio" thỏ thẻ những lời yêu thương, vuốt ve, âu yếm, thì "em" đang du hí cùng các quan "mai bạc" hoặc "lấp lánh sao trời" sống an nhàn nơi hậu phương... Còn lâu mới đến phiên lính trận, dối diện với cái chết từng ngày như bọn mình.
- Ngày xưa khác bây giờ... Già rồi ông ơi!
- Trăng bao nhiêu tuổi trăng già? Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non? Không biết phải không? Lấy gì làm mức chuẩn cho tim già hay tim non! Cũng mù tịt luôn chứ gì? Thế thì "Tôi còn yêu... Tôi cứ yêu!".
Tôi đành phải chấp nhận cái gàn bướng của hắn. Biết tôi đã đuối lý, hắn đưa bàn tay ra vảy vảy:
- Thôi đưa mượn đỡ năm chục... Một bó hoa và tiền giao hàng...
Tôi vừa lấy năm mươi đồng còn lại đưa cho hắn:
- Nếu chiều nay không thâu được tiền công cắt cỏ hàng tháng của thằng Mike... thì coi như ăn "cơm tây" đấy bạn.
- Yên chí lớn... Sẽ có ngay mà... Tao đi đây.
Tôi nhìn theo hắn hớn hở bước xuống cầu thang, vừa thương vừa giận. Hai tên độc thân, đến Mỹ với chương trình H.O sau cùng. Cảnh "trâu chậm uống nước đục" hắn cũng biết rồi. Được người bảo trợ lãnh về Sacramento, việc làm không nhiều. Muốn tìm một chỗ khá lương, người xin phải có bằng cấp hay kinh nhgiệm cao về một kỹ năng nào đó... Trong khi tôi và hắn chỉ bỏm bẻm vài câu tiếng Anh, không có chuyên môn nào ngoài chuyện "bóp cò"... Hai thằng bèn thành lập một "công ty" làm mướn. Nhận làm mọi việc, từ quét rác, cắt cỏ ngoài vườn cho đến sơn phết, khuân vác, dọn chuyển đồ đạc cho người... Đời còn lận đận lao đao, không dám ước mơ sẽ có người yêu mình. Mộng mị làm chi cho thêm rối rắm tơ lòng. Thế nên tôi... ở vậy! Nhưng hắn lại khác.
Tôi cũng không hiểu từ bao giờ hắn bị tiếng nói "ma quái" của nàng Dạ Hương thôi miên, cuốn hút khiến hắn phải khờ khạo, chiêm bao. Ngày xưa "đồn anh đóng nơi rừng Mai. Nếu Mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa?". Bởi cái cheo leo, heo hút, hoang vu của núi rừng, cũng bởi cái thiếu vắng đàn bà... đã làm cho lính mơ về gia đình, nhớ thương người yêu dấu. Riêng những tên độc thân đêm đêm ôm nàng Dạ Lan... mà ngủ!
Bên này, cho dù cuộc đời tị nạn có rách tả tơi đi nữa, nhưng đất nước tạm dung có quá nhiều phương tiện giải trí: thể thao, sách báo, ca nhạc và phim ảnh... để làm vơi đi những muộn phiền, ray rứt và những... ấm ức trong lòng! Mê ca sĩ cũng còn được đi. Ai đời lại trồng cây si giọng nói. Hai thằng tôi chưa có dịp diện kiến dung nhan của người ngọc, nhưng qua giọng nói thanh thoát, dịu dàng như mơn trớn, vuốt ve lòng dạ người ta... chắc nàng cũng ra gì lắm.
Đôi khi hắn mở âm thanh cái radio oang oang, làm tôi cũng phải chú ý... Nhưng tôi chỉ nghe qua rồi... bỏ. Riêng hắn lại lao đao, lận đận vì giọng nói này. Giữa lúc tụi "Mễ lậu" đứng đầy đường, làm thành khu chợ "cơ bắp" như thủ đô Hà nội "ngàn năm văn vật", giàu đẹp của Việt Nam. Hai thằng có được công việc "lai rai" là phúc bảy mươi đời rồi. Tiền kiếm được sau khi trừ chi phí cho cuộc sống, tuy không phải lo lắng chu cấp cho ai, chẳng còn lại bao nhiêu. Thế mà tuần nào hắn cũng nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn... đủ thứ, để đặt mua một bó hồng nơi tiệm bán hoa kèm theo điều kiện: phải giao hàng từ 6 giờ 30 đến 7 giờ chiều, để bảo đảm là "tình hoa" đến tay người đẹp và hắn ôm cứng chiếc Sony, thả hồn theo giọng nói huyền hoặc, đầy ma lực: "Kính chào quí thính giả, chiều nay Dạ Hương được hân hạnh trở lại giờ tâm tình của chúng ta. Cũng như bao lần, Dạ Hương mong được quí vị xem như là một người thân quen, một người... em nhỏ trong gia đình, để nói cho nhau nghe những buồn vui, khó khăn, trắc trở của tháng ngày lạc xứ, xa quê...". Hắn bỏ mặc một mình tôi cày chết bỏ! Hắn thường biện bạch, chuyện của hắn chẳng nhằm nhò gì nếu so với bao vua chúa, vương tôn công tử đã bỏ cả ngai vàng, sự nghiệp để chạytheo gót giai nhân...
Đêm về, hai thằng chui vào căn Duplex trên đường Mack Rd. Nhiều lần tôi vì mệt, chẳng thèm nói với hắn lời nào, cho đồ nghề vào nhà để xe, bước nhanh vô phòng tắm, bỏ mặc cho hắn cứ lải nhải:
- Hôm nay hình như nàng bị ốm thì phải. Giọng nói có khàn đi đôi chút. Nhưng cũng dễ thương lắm... mà hình như nàng đang nói về tụi mình, không, nói cho riêng tao thôi. Không phải tao giành với mày. Chuyện gì mình cũng chia hai được. Nhưng chuyện này thì không. Ai mà chia đôi tình nhân cho bạn bao giờ!
Thế có phải hết thuốc chữa rồi không? Hắn đã dệt bao mộng mơ: nào là một ngày đẹp trời nào đó hắn sẽ đến đài để gặp nàng. Chắc là nàng sẽ cảm động trước tấm chân tình... si dạy của hắn. Nào là có thể hắn sẽ ngỏ lời cùng nàng, vân vân... và vân vân... Hắn đã sống với những vọng tưởng... thật hạnh phúc. Có lần trong khi tôi đang ngủ vùi. Không hiểu cao hứng thế nào, hắn chạy sòng sọc vào buồng, đánh thức tôi dậy. Bất chấp sự cáu gắt, cằn nhằn của tôi, hắn bô bô:
- Tôi biết ông văn hay chữ tốt, góp ý giùm tôi bài thơ này, tôi vừa sáng tác để gởi cho nàng.
Không chờ tôi có phản ứng, hắn đọc một hơi:
Yêu em, cho dù biết đời sẽ khổ.
Bởi yêu người, nhưng chẳng được người yêu,
Đêm đêm ôm ấp tình em mật ngọt,
Mơ ước một lần, gió lộng xoay chiều.
Sợ tôi ngờ nghệch không hiểu được ý nghĩa "cao thâm" của bài thơ, hắn lan man: "lại trời cho gió thổi lên... cho manh chiếu rách nằm trên giường ngà".
Bực mình tôi phán:
- Thằng điên!
Hắn tiu nghỉu như ăn vụng bị bắt quả tang... Ngày hôm sau, nhìn gương mày hớn hở của hắn, tôi đoán ngay:
- Có phải đêm qua mày lại mơ thấy nàng?
- Mày đoán như thần! Nàng đã đến, nhưng lần này... đầy hấp dẫn và cụp lạc hơn nhiều!
Hình như hắn đang tận hưởng cái "dư vị" của tình yêu, miệng huýt sáo bản "Love Story" của ai đó ra điều hạnh phúc lắm! Tôi đã phải can hắn:
- Vinh à! Tao nói câu này nghiêm chỉnh: mày nên đi bác sĩ tâm thần càng sớm càng tốt. Chậm trễ coi chừng hết thuốc chữa.
Người ta thường nói tình yêu có ma lực, cho dù tình một chiều hay trăm chiều. Có lẽ vì chịu không nỗi những thôi thúc của trái tim, ngày kia hắn đã lái chiếc truck già đầy đồ nghề, ngồi trên bãi đậu xe, chờ đợi cho đến 2giờ 30, ngắm trộm dung nhan người đẹp. Nhìn gương mặt tươi rói, hớn hở, cười nói liên hồi của hắn, tôi hiểu nàng Dạ Hương có bảo hắn chết, chắc hắn cũng không chối từ. Hắn nói luôn miệng:
- Nàng đẹp như một thiên thần. Không bỏ công tao... yêu nàng, có chết cũng cam.
Mấy tuần nay bỗng dưng giờ "Tâm tình" mà hắn đang đợi chờ mất tiếng! Chiều nào hắn cũng bỏ mặc cho tôi làm nốt phần việc còn lại, ngồi vào một gốc cây, điều chỉnh tần số, dò tìm tiếng nói của người mà hắn si mê. Hắn hết đứng lên ngồi xuống, đi qua bước lại, xoay xở lung tung mong tìm được tiếng nói thân thương, yêu dấu. Bực mình, tôi gắt:
- Mày làm gì như gà mắc đẻ vậy! Bấm "phone" gọi vào đài thì biết ngay.
Cái "cell phone" làm việc mệt nghỉ và tiền "over charge" cũng trả méo mặt.
Không hiểu Vinh đang nghĩ gì, chợt hỏi tôi:
- Nghe nói nàng còn độc thân phải không?
- Ừ!
Tôi nói móc họng:
- Không lẽ nàng đã đi lấy chồng?
- Nếu nàng bỏ cuộc chơi, thật... chán mớ đời.
Hắn nói câu này với giọng đầy xúc động, như khóc... thầm. Rồi bao nhiêu câu than thân trách phận, được hắn tô đậm cho nỗi tương tư của mình. Tôi chọc quê:
- Thôi đi mày ơi! Đừng làm thằng Cuội mơ ước Hằng Nga... Nghe nói đã có một bác sĩ đặt hàng rồi! "Uổng công xúc tép nuôi cò. Cò ăn mau lớn, cò dò cò bay!". Hi! Hi!...
Hắn nhặt viên sỏi ném vào lưng tôi. Hắn bấm điện thoại liên hồi. Được một lúc sau, hớn hở nói với tôi:
- Nàng vắng mặt vì chuyện riêng. Hay quá.
- Tiên sư mày! Tháng này tao không trả tiền điện thoại...
- Mày dám?
Hắn cười trông dễ ghét. Thấy hắn lụy tình như thế tôi bảo:
- Hôm nào "thất nghiệp" mày để tao làm một mình, lái xe đến đài, quỳ xuống dâng hoa mà tỏ tình, hay là viết lá thư thật lâm ly bi đát, kèm theo mấy vần thơ hôm nọ, biết đâu nàng sẽ động lòng! Si tình kiểu màykhông dại cũng khờ, rồi... đi luôn!
- Mày lại xúi bậy nữa. Nói thì nói vậy. Mơ chỉ để mà mơ thôi. Thân phận mình như thế này: mặt mũi đen nhánh như Bao Công, tiền nong tháng nào đong tháng đó, lấy gì mà làm "credit" cho người ta yêu?
Tôi mừng thầm vì hắn đã "ngộ": cuộc tình phải có tiêu chuẩn trên cõi đời này:
- Biết thế sao còn mãi "mộng du", mơ chuyện "đỉa đeo chân hạc"!
- Thà là như vậy để biết mình còn có trái tim. Chứ người sống không thương, không nhớ, thà làm thân gỗ đá sướng hơn! Yêu một mình... không sợ ai phụ tình hay tình phụ. Yêu như mày, khi bị tình phụ, bồ đá thì...
Hắn ngưng ngay, nhìn tôi, vì biết mình đã lỡ lời khi nói đến chuyện của tôi. Tôi chỉ còn biết than thầm: "Thật hết thuốc chữa. Thật chán mớ đời!". Tôi cho chiếc máy cắt cỏ vào bóng mát, vói tay lấy chai nước lọc, tu một hơi và dội phần còn lại lên đầu... để giải nhiệt.
Cơn nóng bức ngột ngạt của mùa hè có thể làm dịu đi bằng nước lạnh. Nhưng nỗi buồn trong lòng làm sao phôi phai. Tôi ngồi im lặng một lúc lâu cho cơn xao động qua đi. Thấy thế hắn mon men đến bên cạnh:
- Xin lỗi mày nghe Long. Tao quên những lời mày dặn là không nói đến chuyện "người ấy" nữa. Thì ra đã bao năm qua rồi mày chưa quên được... Vẫn âm thầm đau khổ một mình. Thế nên tao thấy yêu một chiều là tình mãi đẹp ngàn đời.
Tôi ném mạnh chiếc chai không vào một góc!
Không cần Vinh nhận xét, tôi hiểu tôi vẫn chưa quên được "người ta" cho dù tôi đã cố, cho dù không gian ngăn cách nghìn trùng... Tôi đã mang theo con đường Duy Tân đầy cây cao bóng mát cùng khung trời kỷ niệm. Tôi mang theo những hàng quán xôn xao và phố phường in dấu chân quen, cũng như những ly chanh đường ngọt lịm, bao tách cà phê thơm ngát, say đắm, ngất ngây!
Tôi đã không quên được những giọt nước mắt và giọng nói nghẹn ngào: "Em sẽ chờ anh! Chờ mãi! Long ơi!...". Nhưng khi tôi bước ra khỏi trại tù trở về, người ấy đã không còn không! Chồng nàng là người chủ mới của thành phố. Thế cũng đành thôi!
--------------------------------------------------------------------------------
Mấy ngày qua hình như Dạ Hương đang có chuyện gì lo nghĩ, hết đi ra rồi lại vào. Hai tay cứ đan xoắn lại với nhau, mắt thường hướng ra cửa, dường như đang mong chờ ai đó. Người bạn gái làm chung trong việc xướng ngôn, Bảo Thi, đã phải lên tiếng:
- Bà làm gì mà cứ như gà tìm ổ vậy, đang chờ người ta phải không?
Nàng dùng chữ "người ta", chứ thực ra nàng cũng như Dạ Hương không biết "người ta" là ai. Mấy tháng nay, thứ sáu nào cũng thế, vào khoảng 2giờ 30 là có người giao hàng mang một bó hoa hồng đến cùng tấm thiệp nhỏ với mấy chữ: "Chúc Dạ Hương một cuối tuần thật vui". Mấy lần anh chị em trong đài hỏi thăm về người tặng hoa, người giao hàng vẫn mù tịt . Anh em trong đài trách nàng:
- Bà bí mật ghê nhỉ! Đã tìm được hoàng tử của lòng rồi mà vẫn giấu kín... Bao giờ cho bọn này ăn mừng đây?
- Cứ đoán mò, có ai đâu nào! Hay là bà phá tôi đây?
Tuy nói thế nhưng trong lòng Dạ Hương biết chắc là không bao giờ có chuyện này. Chiếc lọ hoa với những nụ hồng rực rỡ đã tạo cho gian phòng nhỏ dùng làm nơi tiếp khách trở nên xinh tươi và có sức sống hơn. Trước giờ "on air" nàng thường nhìn vào bình hoa, hương thơm thoang thoảng, sắc màu tươi thắm để thả hồn bay bổng vào những vu vơ... Thuở nhỏ nàng đã từng yêu thích hoa Hồng vì những ý nghĩa muôn lời về tình yêu mà hoa chuyên chở, cũng như trăm ngàn hương sắc, đa loại của giống Hồng. Hình như hoa đã làm cho nàng thấy đời đẹp hơn và tâm tình cũng có cái gì đó xao động... Nghe một bản nhạc tình, nàng thấy như là chính mình bay cao trong ấy. Chọn khúc ca buồn làm nhạc đệm cho chương trình, nàng ôm ấp nỗi niềm tương tư... ai đó xa xôi!
Bây giờ chiếc bàn nhỏ trống vắng đến vô duyên, lạnh lẽo. Dạ Hương hỏi người bạn:
- Không biết "người ta" có chuyện gì không, mà sao... hoa chẳng đến?
Bảo Thi lắc đầu, nhún vai:
- Không biết!
Nhiều lúc nàng cảm thấy mình vô duyên chi lạ. "Người ta thích thì tặng hoa, không thích nữa thì thôi! Can chi...". Nhưng không hiểu sao trong nàng có sự nũng nịu, tủi hờn dâng lên. Nước mắt muốn trào ra. Tuy biết rằng qua những tâm tình nàng gởi gắm trong hương gió bay, có nhiều người thương mến vì thích giọng nói, cũng như nhân dáng dịu dàng và cung cách cư xử thân mật dễ gần gũi. Khi thì một lời khen, vài câu đùa vui, đôi câu tán tỉnh xa gần. Thính giả ái mộ thỉnh thoảng mang vào đài vài lọn rau trồng sau vườn nhà vừa mới cắt, quả bầu non còn mượt mà lông tơ, chục đào thơm mới hái trên cây, để Dạ Hương... lấy thảo. Những người thân quen như bác Tư, anh Thế, chị Hoàng, anh Phương vẫn hay đến đài thăm nàng... Nhưng riêng người ta là ai...? Tại sao không đến đài cho nàng làm quen, lại mượn hoa thay lời!
Một nhà mô phạm nào đó đã nói đại ý: "Sự lập lại là linh hồn của giáo dục". Một vấn đề nếu cứ mãi nhắc đi nhắc lại nhiều lần, dễ làm cho con người ta cảm nhận, tâm đắc sâu sắc, nhớ hoài. Với nàng, mấy tháng nay, mỗi tuần một bó hồng đã tạo cho nàng một cảm giác thân mến khi bước vào đài: bó hoa đã nằm hờ hững trên bàn, chờ bàn tay măng non, mềm mại của nàng nâng niu đặt vào chiếc bình thủy tinh trong suốt mà nàng lau chùi sach sẽ chiều hôm trước. Như một luân phiên tự nhiên: bó này vừa chớm phai, thì những nụ hồng tươi trẻ, đầy sức sống khác lại được người ta mang đến... Nó đã lấp đầy thời gian ở đài. Thế mà hai tuần nay... nàng trở nên hụt hẫng, chơi vơi!
Dạ Hương đang ngồi thừ người, mệt mỏi vì suy nghĩ đến "người ta". Không biết bao nhiêu câu hỏi về vị thính giả không quen nhưng đã mến đó dồn dập trong đầu! Đàn ông hay đàn bà? Chắc là đàn ông. Nếu là bạn gái với nhau đã gọi cho nàng rồi và cũng không tặng nhiều hoa như vậy. Nhưng mà "chàng" là ai? Chắc phải là người đa cảm và lãng mạn lắm, mới mượn hoa thay lời. "Người gì đâu mà nhát và... ác nữa!". Không biết nàng nghĩ gì, vội chạy đến lật nhanh đến kệ sách bên kia, tìm từng trang của tờ BN magazine. Dạ Hương nói thầm: "Không biết có phải tại những lời chúc mừng này không?".
Nàng trở về thực tại, khi người bạn cho biết đã tới giờ "on air". Dạ Hương uể oải bước vào ghế ngồi, đặt cái "head phone" lên đầu, ra dấu cho chuyên viên kỹ thuật biết là nàng đã sẵn sàng: "Kính thưa quý thính giả, giờ tâm tình của chúng ta lại đến. Cũng như bao lần trước, Dạ Hương ước mong được quý vị xem như là người thân quen trong gia đình hay là người em gái nhỏ để cùng nhau tâm sự... Chiều nay, Dạ Hương xin đặc biệt có lời thăm hỏi đến một người đã tặng hoa cho... đài, nhưng không đến để Dạ Hương được làm quen...". Tiếng nàng nhỏ dần... Người ta nghe âm thanh có chút nghẹn ngào trong gió!
--------------------------------------------------------------------------------
Tôi không ngờ lần đi xuống L.A. vừa rồi, để thăm người bạn tù năm xưa, lại là lần vĩnh biệt Vinh. Theo khoa tướng số, nó không phải là người yểu mạng: nhân dáng tầm thước, bước đi chững chạc, tiếng nói đầm thấm... Thế mà... Đời người ai biết ra sao ngày sau. Khi được một người bạn cùng nghề gọi báo cho biết, tôi đã không tin ở tai mình nữa. Tôi đã cự nự người tốt bụng:
- Tiên sư nhà ông. Ông có ghét tôi thì trù ẻo cho tôi qui tiên sớm không sao. Chứ thằng Vinh nó hiền như thế, đáng thương như thế, xứng đáng làm em cột chèo với ông lắm, trù cho nó chết sớm làm gì... Hay là ông sợ "nghèo"?
Người bạn đã quát ầm trong đầu máy bên kia:
- Thôi đi Long ơi! Chuyện chết người ai đem ra đùa bao giờ... Lấy vé máy bay về ngay đi! Ông lúc nào cũng tếu!
Tôi đã biết đây không còn chuyện bỡn cợt của bọn tôi với nhau nữa, nên khẩn cấp lấy vé máy bay trở về Sacramento. Vinh đã nằm trong ngăn lạnh của nhà quàn. Mọi thủ tục pháp lý đã xong. Vài người bạn thân quen cùng với tôi đứng ra lo chuyện cuối đời cho Vinh. Tro cốt được đem gởi vào chùa... Thế cũng xong một một kiếp người.
Tôi không biết nguyên nhân cái chết của Vinh. Tuy nó có nhiều tính nết "bất thường". Nhưng lúc nào nó cũng tỏ ra năng nổ, vui tươi, yêu đời. Vài người quen nói lại: Nhờ người hàng xóm gọi báo, cảnh sát đã mở cửa bên hông nhà, thấy xác Vinh đã lạnh cứng, tím bầm, nằm sóng soải ngoài sân sau. Chung quanh có nhiều vỏ chai rượu mạnh và bao thuốc lá... Theo giảo nghiệm y khoa, nạn nhân bị "stroke", quỵ ngã và đã đứng tim sau đó.
Lòng tôi nặng trĩu. Trước đây, hai đứa có buồn, nỗi buồn bâng quơ, không tên, hay nhớ thương xa vắng, thì đi mua một xâu bia về, không người nào uống hết hai lon. Thuốc lá chỉ phì phà vài điếu khi có dịp vui... Nguyên nhân nào đã khiến Vinh chán nản phải tìm quên trong men rượu và khói thuốc? Thật lạ! Tôi tự trách mình: "Ở chơi làm chi cả tuần bỏ Vinh một mình!". Nếu tôi về sớm hơn... có lẽ Vinh đã không "đi".
Theo thư mời, tôi đã đến văn phòng luật sư Thomas Bui nằm tại trung tâm thành phố. Sau khi tế nhị xin lỗi trong việc yêu cầu tôi cho xem bằng lái xe cũng như thẻ an sinh xã hội, luật sư Thomas Bui đẩy mấy tờ giấy đầy kín tiếng Anh trước mặt tôi, ông giải thích:
- Đây là những điều khoản ghi trong di chúc ông Vinh. Ông ấy đã phân chia tài sản năm chục ngàn đô la, tiền bảo hiểm nhân thọ, sau khi trang trải về việc hỏa táng, luật sư phí cùng các thứ linh tinh khác... Số tiền còn lại ông được chia 50% và một người có tên là Dạ Hương được 50%. Ông thì tôi biết rõ tên họ rồi, nhưng còn người kia, tôi đã không làm sao giải quyết được. Trong di chúc ông Vinh ghi địa chỉ là đài Tiếng Quê Hương ở số... đường... Tôi biết đài này, theo luật định Dạ Hương không thừa hưởng được, vì không phải là tên thật... Nhưng theo ước nguyện của người đã chết, nhất là theo phong tục của Việt Nam mình, lời trăng trối của người quá cố rất thiêng liêng... Ông là bạn chí cốt của ông Vinh, xin ông cho tôi biết thêm về cô Dạ Hương...
Tôi rất ngạc nhiên khi biết Vinh đã ghi tên tôi là người thừa hưởng tiền tử tuất trong bảo hiểm nhân thọ của nó. Khi còn sống, Vinh thường đùa:
- Cố gắng nhịn vài chục hàng tháng mua bảo hiểm, để "nếu một mai trở về với cát bụi" thì người thân có chút gì lo việc ma chay cho mình, không bỏ nằm trong hộp "freezer" hoài lạnh lắm! Hoặc vì nghèo quá không buồn nhận về, bỏ mặc! Nhà thương sẽ đem xác cho các sinh viên y khoa thực tập. Họ cắt xẻo từng phần da thịt, đau bỏ mẹ!... Tao cũng không hiểu nỗi có những bà già Mỹ lại làm di chúc cho con chó cưng. Chả lẽ chó hơn người à. Khi tao có "trở về cát bụi" mày nhớ lo cho tao ngon lành... Không thì tao rủ đi theo.
Những đùa cợt của Vinh vào những ngày "trần ai" trong cái nóng trên 100 độ hay mùa lạnh cứng người cũng dịu bớt đi nhiều. Bỗng đưng tôi cảm thấy nhớ Vinh quá!
Tôi bùi ngùi kể cho luật sư nghe mối tình câm củaVinh. Ông cảm thông, cười chua xót:
- Tình ơi là tình.
Chợt ông nhớ ra điều gì, tiến đến ngăn tủ lấy ra một gói nhỏ:
- Đây là di vật của ông Vinh để lại cho cô Dạ Hương. Không hiểu có phải đây là một điềm gở hay không: Tháng trước, ông Vinh đã đem đến nhờ tôi ghi thêm vào di chúc và cất giữ cùng với những lời "gởi lại người tôi yêu". Ông có thể mở ra xem.
Tôi đón nhận món đồ một cách thận trọng, nâng niu như tâm tình của tôi và Vinh. Chiếc nhẫn hột xoàn nhỏ lấp lánh dưới ánh đèn. Lòng tôi nghẹn ngào khi nhớ lại lời của Vinh kể về chiếc nhẫn này... "Đây là quà cưới của cha mẹ tao. Mẹ tao nói là cha dành dụm nhiều năm mới có được. Khi tao bỏ nước ra đi, bà đã trao cho tao nói là để tặng con dâu sau này. Không biết mẹ có phước nhìn thấy mặt dâu của mẹ không? Bao năm qua chiếc nhẫn vẫn còn đây, vì tao chưa chọn được ai. Đúng hơn không có ma nào chịu lấy tao!...".
Ngày nhận được tin mẹ qua đời, Vinh đau buồn đem chiếc nhẫn ra xem và nghẹn ngào nói với mẹ:
- Mẹ ơi! Con đã không làm được ước mơ của mẹ rồi mẹ ơi.
Vinh đã nhiều tự vằn vật mình, mỗi khi nhớ lời mẹ...
Tôi cẩn thận gói lại chiếc nhẫn trao cho luật sư. Ông nhận lại, nhìn thẳng vào tôi, ông nói rõ từng tiếng:
- Ông đã đọc những lời di chúc của ông Vinh, cũng như những gì liên quan đến cô Dạ Hương. Tôi sẽ giúp ông trong việc "claim" với hãng bảo hiểm về khoảng "tử tuất"... Mong ông thực hiện đúng những ước muốn sau cùng của bạn.
Ông đứng lên bắt tay tôi:
- Phần ông coi như đã xong. Bao giờ nhận được "check" của hãng bảo hiểm xin phiền ông mang đến đây. Giờ thì xin ông giúp tôi tìm biết tên họ cùng số an sinh xã hội của cô Dạ Hương. - Dạ được. Tôi sẽ lo việc này. Cám ơn luật sư.
Tôi rời văn phòng luật sư, lái xe về thẳng căn Duplex. Mấy hôm nay tôi chả buồn dọn dẹp gì cả. Đồ đạc bề bộn mọi chỗ. Quần áo Vinh vứt lung tung, báo chí băng nhạc mỗi nơi một cái... từ buồng riêng cho đến phòng khách. Không khí buồn nặng và u ám quá, cho dù đèn đuốc vẫn được mở sáng. Đầu óc tôi trĩu nặng vì không hiểu được nguyên nhân nào đưa đến cái chết của Vinh... Vì đâu nên nỗi.
Tôi bỗng dưng chú ý đến một tờ báo có tên BN magazine trình bày trang nhã, tươi sáng nằm trong góc bên kia... Tôi nhặt lên, lật vài trang và rơi vào đúng một tờ đã được bẻ gốc sẵn, có nguyên một trang chúc mừng, nội dung như sau: "Được tin kiều nữ Dạ Hương sẽ cùng bác sĩ Hoàng Tùng từ giã cuộc chơi, xây lâu đài tình ái vào ngày... tháng... năm... Thân chúc Tân Lang và Tân Giai nhân trăm năm hạnh phúc", đã bị gạch chéo ngang dọc cùng các chữ "no", "no" tổ bố.
Tôi đứng sững người một lúc lâu, đầu óc quay cuồng. Nếu đây là nguyên nhân đưa đến cái chết của Vinh thì... Trời ơi là Trời! Vinh ơi Vinh! Tình ơi là tình.
Một tháng sau, khi tôi đến văn phòng luật sư Thomas Bui thì Dạ Hương đã có mặt ở đó rồi. Hôm tôi tìm đến đài và trình bày mọi chuyện. Thoạt đầu nàng xúc động gần như hoảng loạn, vì sự trùng tên tai hại và nàng là nguyên nhân gây ra cái chết cho một người. Dạ Hương không chịu nhận gì cả. Tôi và những người bạn trong đài đã phải thuyết phục nàng nhiều lần. Hai tuần nay, người ta không còn nghe tiếng nàng trong mỗi chiều thứ sáu...
Thấy tôi đến, Dạ Hương đứng lên, nói nhỏ:
- Dạ chào anh Long.
- Chào Dạ Hương.
Trong nàng ủ rũ thấy mà tội! Gương mặt không trang điểm buồn bã, xanh xao. Chiếc áo dài màu đen làm cho Dạ hương trông càng thêm sầu thảm! Luật sư Bui bước ra, giải thích mọi thủ tục thừa kế và yêu cầu mọi người ký vào các biên nhận. Ông trao gói giấy cho Dạ Hương. Nàng nhận nhưng vẫn để nó nằm yên trên bàn. Tôi nói Dạ Hương hãy mở ra xem. Tay nàng run run, từ từ mở từng gốc giấy. Chiếc nhẫn kim cương hiện ra, lấp lánh. Dạ Hương vẫn bất động. Tôi trình bày lai lịch chiếc nhẫn cho nàng nghe. Nàng cắn môi, nhặt gói giấy, ôm vào ngực... Nàng nhắm mắt, im lặng một lúc lâu. Hai dòng lệ tuôn trào, chảy dài trên má. Nàng khẽ kêu lên:
- Anh ơi!
Tôi gọi thầm trong lòng:
- Vinh ơi! Mày có nghe thấy gì không?
Ngoài kia mặt trời xuống rồi! Hoàng hôn chìm dần... Ráng chiều từ từ phai tàn, tan biến vào hư không.
TS. LÂM LỄ TRINH * CHÍNH TRỊ HOA KỲ
Hậu trường chính trị Hoa kỳ
ĐƯỜNG GIÂY HOLLYWOOD, NGŨ GIÁC ĐÀI VÀ TÒA BẠCH ỐC
Lâm Lễ Trinh
Mặc dù Michael Moore được hoan nghinh ồn ào, mặc dù nhiều ngôi sao màn bạc cổ võ nhiệt liệt cho đảng Dân chủ, kỹ nghệ xi-nê Hoa kỳ vẫn là một bộ máy hốt bạc kinh khủng và chẳng những thế, một ống loa đắc lực trên thế giới của ê-kíp cầm quyền hiện nay tại HoaThịnh Đốn. “Hãy tìm cho tôi một người có tầm vóc như Jack”. Nhân vật mà George W Bush đề cao như một anh hùng, theo một bài viết trong New York Times, không ai khác hơn là kiện tướng trung thành nhất của Tòa Bạch Ốc từ trên 40 năm nay: Jack Valenti. Trọn đời, Valenti là một con cáo già chính trị và truyền thông, nhiều lần được tuyên dương công trạng, vì hành động với mục tiêu duy nhất: kiểm soát ngành xi-nê thế giới và đặt Hollywood dưới gọng kềm của Chính phủ Mỹ.
Sứ mạng này xem như gần hoàn tất đối với Valenti mà Tòa Bạch Ốc mong giữ tại chức thêm vài năm nữa, trong lúc trái bom Michael Moore nổ tung. Được đào tạo kỹ, viên cựu chiến binh Việt Nam này, đảng viên Cọng hòa, ăn to nói lớn, là kẻ phục vụ không mệt mõi của một guồng máy được y bênh vực hết lòng. Đấu tranh cho quyền lợi của một kỹ nghệ mà y tha thiết đem vào thị trường Wall Street, Valenti là một chiến sĩ gan lì đối với giới kinh tài. Một trong “thành quả” của Jack là đả phá không nương tay chiến dịch tuyên tuyền văn hóa Pháp. Y cũng là nguồn hỗ trợ phong phú tài chính cho đảng Cọng hòa.
Phương pháp xứng đáng với CIA.
Năm nay 83 tuổi đời, Jack Valenti quyết định rút lui, sau khi xây dựng, chỉ huy và củng cố Motion Pictures Association, MPA, một lốp-bi khổng lồ của kỹ nghệ điện ảnh Mỹ, một cơ sở có những hình thức và phương pháp hoạt động không khác mấy CIA. Chủ đích là làm tất cả những gì cần để hốt bạc cho đường ống chính trị và thực hiện mọi kế hoạch để ngăn gia đình điện ảnh không đi lạc vào những cuộc đấu tranh đáng tiếc.
Để thay thế Jack điều khiển MPA, ê-kíp Bush đề nghị một nhân vật Cọng hòa liên hệ chặt chẽ với giới quân sự – chính trị: cựu phát ngôn viên của Ngũ Giác Đài Victoria Clark. Tòa Bạch Ốc thối lui khi có sự chống đối mạnh mẽ nhưng cũng không sao vì, dù ai được bầu đi nữa, thì cũng phải trình diện tại Hoa Thịnh Đốn để “G.W” đích thân tấn phong.
Tay súng cừ khôi tại Beverly Hills
Trong lúc chờ Hồ-li-vọng và Ngũ Giác Đài thỏa thuận với nhau, Valenti khai thác những tuần lễ còn lại. Đây chính là lúc Michael Moore cho chiếu trên các màn ảnh Mỹ (và tại Pháp ngày 7.7.2004) Farenheit 9/11 gây bực bội cho Tòa Bạch Ốc. Phim tài liệu này xuất hiện tại 860 rạp xi-nê Hoa kỳ, khán giả rất hoan nghinh, ngay cả trong các thành phố từng có cảm tình với cánh Cọng hòa. Gần 2 triệu 8 đô-la được thu trong vòng ba hôm, tương đương với sốù thu của phim Terminal của nhà đạo diễn Steven Spielberg tuần lễ trước. Gần 800.000 người đổ xô vào mạng lưới điện toán, đả kích tơi bời Tổng thống Bush. Phản ứng mau lẹ, Jack Valenti can thiệp – nhưng vô hiệu quả – với Công ty Disney, chủ nhân nhà phát hành Miramax, để ngưng chiếu Farenheit 9/11. Tuy nhiên, ít nữa ông già cao-bồi này cũng thành công vận động ra lệnh cấm thanh niên dưới 17 tuổi xem phim. Tiếp theo, một chiến dịch mở màn tấn công quyết liệt Michael Moore và tẩy chay Farenheit. Các hội đoàn Cọng hòa và lốp-bi quân nhân tham gia, với sự tiếp hơi của ê-kíp Bush.
Các số tiền tài trợ bộ máy bầu cử.
Công tác phản công của “mister Jack” và giới truyền thông không ngăn được tai hại của Farenheit 9/11. Quá chậm. Thành quả trái ngược xảy ra. Như trước đây với phim La Passion du Christ của Mel Gibson. Cuộc cãi vã sôi nổi giúp Farenheir 9/11 được dân chúng chú ý.
Tòa Bạch Ốc lo ngại về một vấn đề chính trị hệ trọng: ảnh hưởng thật sự của Farenheit đối với cuộc vận động bầu cử. 34% dân chúng Mỹ nói họ muốn xem phim. Các cố vấn của Bush nghĩ tỷ lệ này không phản ảnh đúng tình hình chính trị thật trong xứ. Theo họ, nhà đạo diễn cần một núi mỹ kim (đầu tư trong việc quảng cáo và phóng lên thị trường}, mới thuyết phục nổi khối cử tri thầm lặng Mỹ – thuộc giới bình dân và trung lưu vùng Nam và Midwest, được mệnh danh Middle America – tìm xem một sản phẩm chỉ được một nhóm nhỏ trí thức và tài tử ủng hộ. Sự phản ứng mạnh của dư luận chung Hoa kỳ nóng lòng về con em của họ đang chiến đấu tại Irak và những chỉ trích gay gắt của báo chí và các chính trị gia làm cho những phần tử chống Bush hăng nhứt phải co vòi và câm miệng nhiều tuần lễ: George Clooney, Tim Robbins, Susan Sarandon, Sean Penn (vừa ở Bagdad trở về)....
Hoa Thịnh Đốn đánh mạnh. Và có kết quả: Nếu cuộc chiến tại Irak là đề tài ăn khách giúp vài ngôi sao điện ảnh như Martin Sheen và Mike Farrel (nổi tiếng nhờ loạt phim M.A.S.H) chỉ trích Bush không tiếc lời và gây sóng gió trong phong trào “Artists United to Win Without War” thì trung tâm bộ máy Hollywood và các phim trường lớn không bị ảnh hưởng gì. Nhóm bad boys, cuối cùng, phải im hơi lặng tiếng để tránh thiệt hại về nghề nghiệp và bị ghi tên vào “sổ đen” của Valenti.
Dĩ nhiên, mọi người đều biết không một tai to mặt lớn nào ở thủ đô điện ảnh sẵn sàng thí thân trên Sunset Boulevard để ủng hộ “chiến sĩ” Moore. “Kho tạo giấc mơ, l’Usine à rêves” (biệt danh các phim trường Hollywood) chuẩn bị sản xuất từ đây đến cuối năm lối một chục phim đồ sộ hay blockbusters, Các tài tử điện ảnh và ca nhạc bận rộn tổ chức những buổi dạ tiệc gây quỹ huy hoàng, fundraisings, để ủng hộ ứng cử viên Bush hay Kerry. Nhiều trăm triệu đô-la được châm vào bộ máy tranh cử. Bất cứ ai đắc thắng Tổng thống cũng phải dựa vào quyền lực kinh tài này.
Hệ thống Quốc phòng – Điện ảnh
Trong vòng nửa thế kỷ, mối liên hệ giữa hai thế giới Hollywood-Washington đã thay đổi khá nhiều. Bị đắm chìm trong những hãi hùng ám ảnh xã hội Hoa kỳ giữa thập niên 50 – từ chiến tranh lạnh cho đến những bùng nổ đầu tiên của phong trào khủng bố – và mặt khác, bị Hoa Thịnh Đốn theo dõi sít sao, ngành điện ảnh là một kỹ nghệ vững chắc đồng thời một loại “thùng âm thanh, caisse de résonance” giúp cho các vấn đề làm Hoa kỳ xao động gây tiếng vọng to rộng. Hollywood còn tạo một môi trường quan yếu để phô trương cái thế bá chủ của nước này. Trong tác phẩm Hollywood, le Pentagone et Washington, học giả Jean Michel Valentin nhận xét: “Việc anh hùng hóa các cán bộ chính quyền, đề cao tính cách thiêng liêng của Nhà nước, sự diễn đạt bằng hình ảnh mối đe dọa được nuôi dưỡng trong trí tưởng tượng của đại chúng Hoa kỳ.., tất cả các điều này là thành phần của một thế giới trong đó Nhà nước tượng trưng cho một sức mạnh vô địch và thần thoại. Nơi đây, chính trị, chiến lược, kỹ nghệ hình ảnh và sự huyền hoặc kết hợp chằng chịt với nhau.”
Một hôn phối vì lý trí.
Trục liên kết Hollywood và Hoa Thịnh đốn xuất hiện từ Đệ nhứt thế chiến khi Douglas Fairbanks và Charlie Chaplin chu du Hoa kỳ để cổ võ dân chúng mua trái phiếu và khuyến khích cộng đồng điện ảnh tham gia ủng hộ chiến tranh. Sự dấn thân của giới tài tử gây hào hứng 25 năm sau, lúc Nhựt tấn công Trân châu cảng. Roosevelt ban thưởng cho Hollywood quy chế của một” kỹ nghệ cột trụ trong thời chiến” James Stewart đầu quân ra tiền tuyến. Được Warner tuyển dụng, Ronald Reagan biến phim trường thành diễn đàn cổ động cho Nghiệp đoàn Điện ảnh mà ông là chủ tịch. Về phần Orson Welles, y cổ động hết lòng cho Roosevelt năm 1944 và sau đó, viết nhiều bài chính trị trong báo The New York Post.
Năm 1942, Roosevelt mời đến Tòa Bạch Ốc những hạt gạo cội điện ảnh như John Ford, Frank Capra..và đặt thực hiện lối một chục phim để giáo dục quần chúng về chiến tranh. Kỹ nghệ điện ảnh và các nhà chiến thuật Hoa Thịnh Đốn cọng tác chặïc chẻ với nhau. Sự đồng thuận quốc gia dẫn đến việc hoàn tất nhiều phim có tính cách thương võ và ái quốc, với mục tiêu bảo toàn đất tổ và đề cao các giá trị căn bản dân tộc. Điện ảnh tượng trưng trái tim của quốc gia. 50 năm sau, minh ước này vẫn tồn tại, tuy không nói rõ tên. Và Hoa Thịnh Đốn, qua nhiều thập niên, đã cố gắng rất nhiều để xóa bỏ trong lịch sử những năm đen tối của phong trào tố cộng maccartisme và hội chứng Việt Nam. Hollywood cự nự như một con ngựa chứng. Sự giao hão bị nhiều sứt mẻ.
Mối liên hệ giữa hai bên, tuy nhiên, vẫn nhan nhãn trên màn ảnh. Năm 1962, Ngũ Giác Đài động viên phương tiện nhân sự và dụng cụ khổng lồ để giúp Ken Annakin quay cuốn phim lịch sử Le Jour le plus long nói về Đệ nhị thế chiến. Phim này đề cao sự có mặt của Hoa kỳ tại Âu châu, 10 năm sau ngày thành lập liên minh quân sự OTAN. Đây là một bằng chứng Hollywood không tách khỏi Hoa Thịnh Đốn. Từ 1962 cho đến đầu thập niên 80, Hải. Luc, Không quân Hoa kỳ còn giúp hoàn tất nhiều phim chiến sự khác như Tora Tora, La Bataille des Ardennes, Midway, Les Bérêts Verts, Un Pont trop loin, Top Gun, Il faut sauver le soldat Ryan.. Danh sách còn rất dài .
Một thế hệ đạo diễn gốc nhà binh xuất hiện, từ James Cameron đến Edward Zwick. Bên cạnh, trên màn ảnh, lộ diện một lô diễn viên lực sĩ, vai u thịt bắp, làm cho giới trai trẻ mê mệt trong suốt hai thập niên 80 và 90, như Bruce Willis, Sylver Stallone, Arnold Schwarzenegger, Denzei Washington...Các mẫu người hùng loại Rambo có trách vụ bảo vệ nước Mỹ chống ngoại xâm, chống cộng sản, chống khủng bố... Kết quả: Một núi phim với cốt chuyện hiếu chiến, gây hăng tiết, tràn ngập các rạp xi-nê. Màn ảnh ti-vi cũng bị ảnh hưởng lây bởi những đề tài thời sự. Được quay sau biến cố 11.9.2001. phim “24 hours“ thu tại Hoa kỳ một số tiền kỷ lục. Nội dung kể lại cuộc chiến đấu khắc nghiệt giữa một nhân viên CIA, dưới quyền một Tổng thống bị chấn thương, và một nhóm khủng bố mang màu sắc Al-Qaeda. Xi-nê và ti-vi khai thác vô tội vạ vấn đề khủng bố. Tòa Bạch Ốc lo ngại. Mùa đông 2001, vài tuần sau vũ tấn công 11 tháng chín, có môt cuộc gặp gở tại Hoa Thịnh Đốn giữa các giám đốc phim trường lớn Hollywood với Jack Valenti và Karl Rove, cố vấn của Bush, để minh xác Hoa kỳ chỉ chống phong trào khủng bố mà thôi chớ không chủ trương chống thế giới Á rập và Hồi giáo. Valenti và Rove kêu gọi tinh thần trách mhiệm của mỗi người trước ác mộng này. Hollywood được khuyến cáo nên tránh đi ra ngoài quan điểm của Tòa Bạch Ốc. Cần nghiên cứu thận trọng các chuyện phim liên hệ đến khủng bố, chẳng những thế, nên nhấn mạnh đến chủ trương của Chính phủ là một cộïng đồng Hồi giáo được hoan nghinh, không bị kỳ thị trên đất Mỹ. Hai năm sau, vào tháng 11.2003, Hoa Thịnh Đốn cảnh giác một hãng phim Hollywood đã hành động trái quy tắc với một cuốn phim “nguy hại và vụng về”.
Nói tóm, Hollywood có lợi lắng nghe Hoa Thịnh Đốn vì Chính phủ cố gắng hỗ trợ mạnh kỹ nghệ điện ảnh. Thượng viện Hoa kỳ có thể áp dụng những biện pháp trả đũa tài chính chống những vi phạm về nghề nghiệp. Thí dụ như trong vụ ca sĩ Janet Jackson biểu diễn trệch vú trong trận đấu chung kết vô địch football, trước 90 triệu khán giả truyền hình.
Hoa Thịnh Đốn không bao giờ bỏ rơi Hollywood. Bằng mọi cách, đặc biệt trong phạm vi thuế vụ, Chính phủ ủng hộ thị trường điện ảnh. Ngũ Giác Đài tung hết phương tiện để giúp đở, khi cần thiết. Mỗi khi Tổng thống du hành nước ngoài, đại diện các phim trường lớn tháp tùng đông đảo trong nhiều máy bay charters. Nixon, Bush cha và Bush con, ..luôn luôn mời giới điện ảnh đi theo và cho phỏng vấn ngay cả trên Air Force 1.
Tại Bắc kinh, cách đây 5 năm, đạo binh truyền thông Hoa kỳ thong dong mua sắm trong khi đại diện Âu châu không được phép vượt qua cổng lớn của Cấm Thành. Một cuộc biểu dương ngoạn mục phương tiện và sức mạnh của tự do ngôn luận Hoa kỳ! Một cơ hội để cho thấy Dân chủ khác biệt bao xa với Độc tài! Điều này đã giúp chủ nhân tối bảo thủ của hãng Fox, tỉ phú Rupert Murdoch, xâm nhập vào thị trường truyền thông Trung quốc vài năm sau. Đó là sự khen thưởng của đảng Cọng hòa đối với một ủng hộ viên trung thành.
LÂM LỄ TRINH
Tết Ất Dậu - Thủy Hoa Trang Californie
THƯ TỊCH:
1.“Hollywood, combien de divisions? ” par Renaud Revel & Denis Rossano, dans l’Express 5.7.2004
2. «Hollywood, le Pentagone et Washington » par Jean-Michel Valentin. (editions Autrement), Paris 2005
3. “ Cinema. Politics and Society in America ». Manchester University Press, New York. 1998
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 080
TS. LÊ MỘNG NGUYÊN * XUÂN LÔI
Xuân Lôi : một nhạc sĩ vẹn toàn, một cuộc đời trong hai thế kỷ...
Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên *
Trên Forum Vietsciences () trong tháng 10-2004 ... và để trả lời câu hỏi của một đồng bào ‘’internaute’’ : Có bao nhiêu người sáng tác tân nhạc VN hải ngoại ? nhạc sĩ dân tộc học giả Trần Quang Hải đã lập sổ những nhạc sĩ lão thành có tên tuổi trong lịch sử thi ca VN còn sống tại Pháp (Paris và lân cận) như Xuân Lôi (1917), Lương Ngọc Châu (1920), Trần Văn Khê (1921), Trịnh Hưng (1928), Mạnh Bích (1929) và... Lê Mộng Nguyên (1930), vân vân. Cuộc tương phùng giữa hai nhạc sĩ (tiền chiến) Xuân Lôi và Lê Mộng Nguyên cùng hai nhạc sĩ Trịnh Hưng và Mạnh Bích được thực hiện trong Chiều Văn Nghệ Maisons-Alfort ngày 21/08/2004 tại nhà đôi uyên ương nữ ca sĩ Minh Cầm và phu quân Tây Ban Cầm Phạm Đình Liên, với sự có mặt của thi nhạc sĩ Đỗ Bình và nhạc sĩ Trần Văn Toàn là đại diện cho giới văn nghệ trẻ ở Kinh Thành Ánh Sáng (x. Nghệ Thuật-Montréal số 127 Tháng 10-2004 : ... một buổi chiều văn nghệ rất hoàn hảo, thành công trên mọi mặt, với mục đích rút chặt dây thân hữu giữa các ca sĩ, thi nhạc sĩ điển hình giới văn nghệ thuật Paris). NS Xuân Lôi nhân dịp này có trao tặng tôi một bản lai cảo ‘’Hồi ký Nhạc Sĩ Xuân Lôi’’ viết ngày 15/06/2000, xong ngày 30/08/2001, dày 134 trang khổ lớn, toàn do tác giả tự viết bằng tay (đúng như ý nghĩa manuscrit của Pháp), chữ đẹp cứng rắn (hành văn bình dị rõ ràng), với nhiều chứng minh hình ảnh kỷ niệm cả một cuộc đời nghệ sĩ toàn vẹn nằm trong hai thế kỷ 20 và 21...
Giới thiệu Hồi ký nhạc sĩ Xuân Lôi cho bạn đọc trong và ngoài nước trước khi sách ra đời quả thật là một hãnh diện, một hạnh phúc, một hiếm có mà tác giả đã để dành cho tôi...
Xuân Lôi là một nhân vật phong thái, được trời phú cho nhiều tài năng, một người yêu nhạc đã bắt đầu học hỏi ngay từ lúc 6 tuổi (1923) trong không khí gia đình thấm nhuần văn học nghệ thuật vì thân phụ Phạm Xuân Trang là một nhạc sư biết nhiều nhạc và nhạc khí Trung Hoa tân và cổ điển. Theo tôi, Xuân Lôi trước hết là một nhà soạn nhạc lẫy lừng, tác giả 126 ca khúc trong đó Nhạt Nắng vang bóng một thời và Tiếng Hát Quê Hương, Giải Nhất năm 1958 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa VN, được Bộ trưởng Thông tin Văn hóa Trần Chánh Thành long trọng trao phần thưởng. Ba năm sau (1961), tác phẩm Bài Hát Của Người Tự Do của ông cũng đoạt Giải Nhất trong cuộc thi sáng tác do Đài ‘’Tiếng Nói Quân Đội’’ tổ chức.
Ngày chủ nhật 07/04/1996 (trong khuôn khổ Chiều Văn Nghệ tại Hội trường Caillaux-Paris) với chủ đề ‘’Tiếng Hát Quê Hương’’, ông cho ra mắt sách ‘’Dạy đàn tranh’’ và nhất là Tuyển Tập Ca Khúc Xuân Lôi ‘’gồm 27 nhạc bản biểu tượng những sáng tác đầy màu sắc dân tộc dựa trên thang nhạc ngũ âm của Việt Nam’’ (Trần Quang Hải). Trước một cử tọa điển hình giới văn nghệ sĩ VN của Kinh Thành Ánh Sáng, Xuân Lôi biểu diễn tài năng nhạc thủ của ông thổ lộ tâm tình qua tiếng kèn Saxophone Ténor trong bài ‘’Nắng Trên Đồi’’, qua dòng nhạc uyển chuyển trong độc tấu đàn Bầu bài ‘’Hương Giang Mong Nhớ’’, qua tiếng đàn Xuânlôiphone trong ‘’Gió Hiền’’, qua độc tấu Banjo Alto nhịp nhàng và hùng mạnh trong bài ‘’Vui Ca Ra Đi’’, qua độc tấu Saxo Alto trong Take Five... Nhân dịp này, nhà thơ Minh Châu Thái Hạc Oanh đã hứng cảm tám câu, đề tặng :
Nhịp đàn lưu luyến thuở ban sơ
Vương vấn lòng ai mãi đến giờ
Năm bậc cung thương so lối phím
Mt đời yêu nhạc nắn đường tơ
Tha phương bỡ ngỡ vui cười gượng
Xứ lạ lạc loài buồn vấn vương
Tiếng hát quê hương tình cố quốc
Cảm tài Nghệ Sĩ tặng vần thơ...
Về sách dạy Tự Học Đàn Tranh của Xuân Lôi, nhà văn Trần Thị Minh Tâm có viết trên báo Xây Dựng (trang 115), ngày 22/04/1996 : ‘’Tôi đọc qua và nhận thấy anh đã dày công nghiên cứu cách áp dụng nhạc lý và các ký âm Tây phương vào việc học bài bản đàn tranh. Với một phương pháp giản dị, dễ hiểu, thêm vào đó một số bài tập về thủ pháp bàn tay trái (các cách nhấn, mổ, rung) và bàn tay mặt (cách chạy chữ hợp lý), anh đã thực hiện một quyển sách căn bản về đàn tranh cho những ai muốn tự học cây đàn này và áp dụng tiếng đàn tranh vào việc diễn tấu bài bản dân ca và tân nhạc... ‘’ Ngày Xuân Lôi & Xuân Tiên tổ chức vào thứ bảy 07/06/1997 tại San Jose (California) là một dịp cho hai anh em gắn bó trong tình huynh đệ và âm nhạc từ thuở nhỏ được tương phùng tại Hoa Kỳ, Xuân Lôi đến từ đất Pháp, Xuân Tiên từ Úc Đại Lợi xa xăm. Lúc tôi đến thăm hai vợ chồng Xuân Lôi-Mộng Ngọc (kết hôn năm 1955) ngày 16/09/2004 tại Clichy-La-Garenne ... tôi nhận thấy trong hàn huyên không bao giờ XL không nhắc nhở đến Xuân Tiên (sinh ngày 18/01/1921), tác giả ‘’... nhiều nhạc phẩm nổi tiếng như : Chờ Anh Em Nhé, Chờ Một Kiếp Mai, Khúc Ca Ân Tình, Về Dưới Mái Nhà, Duyên Tình, Đường Lên Non , Đường Đi Lối Về và đặc biệt là nhạc phẩm bất hủ để đời là Hận Đồ Bàn... ‘’ (Nguyễn Toàn, Nghệ Thuật số 129 Tháng 12-2004) : Xuân Lôi và Xuân Tiên như hai mà một trong tình bào huynh bào đệ và thông thái nhạc âm. Năm 1942, Ban cầm ca của hai anh em Xuân Lôi (Banjo Alto)-Xuân Tiên (Clarinette) cùng với Paul Trí (Piano), Văn Thính (Trống), biễu diễn cho Đoàn Cải Lương Tố Như (do Lê Thiết làm chủ) vào Sài Gòn ‘’...
Chuyên chơi nhạc ngoài sân khấu, để khán giả thưởng thức trước khi mở màn và khi hạ màn để sửa soạn thay phong cảnh. Có lúc ban nhạc đệm cho ca sĩ hát tân nhạc cũng có khi chơi nhạc thêm cho họ hát những bài Tây Thi, Xàng Xê theo các điệu Hồ Quảng v. v. ‘’(Hồi ký). Kế đó, Ban nhạc theo Tố Như đi trình diễn ở Bắc Liêu, Dakao, Cần Thơ, Palicao (Chợ Lớn)...
Năm 1943, Dàn nhạc Lôi-Tiên lại theo Tố Như trở ra Hà Nội, đi Phát Diệm trình diễn rồi hai anh em qua làm cho Dancing Hollywood ở Hà Nội (sau khi làm thêm cho Tố Như vài tháng) để chơi nhạc cho lính Tây nhảy và giải trí, kế đó chuyển qua làm cho Dancing Victory cho đến ngày đảo chính Nhật (09/03/1945)thì anh em XL-XT làm việc cho Lucky-Star, chuyên chơi nhạc của Đế Quốc Mặt Trời cho quân lính Phù Tang khiêu vũ... Sau khi Nhật đầu hàng và quân đội Pháp trở lại muốn chiếm đóng VN như xưa, chiến tranh Pháp-Việt Minh bùng nổ, anh em XL-XT mở Phòng trà ‘’Lôi-Tiên’’ ở Phát Diệm (hồi ấy đã có 3 PT mà một trong đó là của Hoàng Trọng). Năm 1947, anh em họ Phạm Xuân lại di cư ở Đống Năm (gần tỉnh Thái Bình) và lập ban nhạc lưu động đặt tên là Ban Nhạc Lôi-Tiên (cùng với Xuân Khuê, Xuân Thư, Xuân Oai, Paul Trí, Tường Vi).
Sau đó, BNLT ngụ một thời gian tại Thái Nguyên , được Hoài Thanh trưởng Ban Văn Hóa Vụ (óc não của Việt Minh) tiếp nhận niềm nở, do đó 5 anh em họ Phạm được làm quen với các hội viên văn hóa như cụ Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Văn Tân, Tố Hữu, Thế Lữ, Đào Duy Anh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đình Thi, các nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Tô Vũ, Nguyễn Hữu Hiếu, Canh Thân, Lê Hoàng Long... Để tránh bom đạn máy bay Pháp, Văn Hóa Vụ dời đi Tuyên Quang, sâu vào khu rừng thẳm là nơi họ đã dựng nhiều nhà lá rất lớn để làm Trường Văn Nghệ dạy đủ mọi ngành (trong đó có Ca Nhạc Múa Hát, Kịch, Chèo, Vẽ... ). Xuân Lôi mới 33 tuổi (năm 1950) mà đã nổi tiếng (trong dịp này) là một nhà chuyên môn ghi nhạc Chèo theo lời hát... Ghi xong, ông đánh đàn và hát theo người hát. Những tài liệu này đều được Tô Vũ đem về Hà Nội cho lưu trữ tại Viện Âm Nhạc (x. sách xuất bản năm 1999 tại Paris : Tài Liệu Dân Nhạc Việt Nam- chèo cổ của Xuân Lôi) : ‘’Chúng tôi nhận dạy thổi sáo Trúc và lý thuyết về âm nhạc, và dạy hát v. v. Mỗi khi có cuộc họp hoặc cuộc vui nào là đã có ban nhạc anh em chúng tôi sẵn sàng...
Tôi và Xuân Tiên lại nghiên cứu làm sáo 6 lỗ đến 10, 11, 12, 13 lỗ. Mười ngón tay đều có chỗ bấm, làm thêm lỗ là để cho có thêm nửa giọng, nếu bấm kiểu thì khó và chậm, bấm nửa lỗ thì tiếng kêu lúc bấm già bấm non không đúng tiếng mà còn câm tiếng. Sáo 10 lỗ còn chơi được các bài tân nhạc và các bài ngoại quốc. Sáo 11 đến 13 lỗ còn chơi thêm được các giọng thấp cho hợp với các bài Việt Nam. Các loại sáo kiểu mới từ 10 lỗ đến 13 lỗ đã làm đủ các giọng là : Do, Ré, Mi bémol, Fa, Sol, La Si... ‘’ Còn nhiều phát minh từ óc não hai anh em XL-XT là : sáo nhỏ 6 lỗ (Picolo), sáo đệm, đàn Violoncelle, Xylophone, Contrebasse (Mélobasse... ) toàn bằng các ống nứa lớn...
Năm 1952, gia đình thoát vòng Việt cộng trở về Nam Định, XL-XT làm cho Dancing Văn Hóa (cùng với Đỗ Văn Ngọc, Xuân Tuấn, Văn Bính, Lê Chuyên) và 3 tháng sau trở về Hà Nội cùng với nhiều nhạc sĩ cộng tác mở nhà hàng lớn Dancing Le Coq d’Or tự mình làm chủ. Năm 1953, Xuân Tiên vào Sài Gòn chơi tân nhạc cho Cinéma Thanh Bình, mấy tháng sau với Xuân Lôi vào kinh thành miền Nam cùng chơi nhạc cho Dancing Kim Sơn dưới sự điều khiển của Trưởng ban Trần Văn Lý. Sau Kim Sơn, anh em XL-XT làm buổi tối tại Bồng Lai, Văn Cảnh, Mỹ Phụng, Kim Điệp và cộng tác với Đài phát thanh Pháp Á, Đài Sài Gòn, Đài Tiếng Nói Quân Đội, Đài Tự Do... Năm 1954, Xuân Lôi nhận làm Trưởng Ban 3 Ban nhạc của Đài Sài Gòn chuyên về : Jazz, Tango, Valse, Java, Boston, Paso-Doble, Rumba, ChaChaCha, Mambo, Samba v. v.
Ông nhận điều khiển thêm ban nhạc Hương Xa chuyên môn chơi nhạc ngoại quốc (hát lời Việt) và hòa tấu nhạc mỗi tuần. 1955 : XL kết hôn với Mộng Ngọc (sinh hạ ba con : Phạm Xuân Dũng-1956, Phạm Xuân Giao-1957 và Hương Duyên-1958, tất cả đều là nghệ sĩ, nhạc sĩ biết chơi nhiều thứ đàn như Piano, Organ, Saxo Alto, Trompette, Batterie, Đàn Tranh hoặc Hát, đóng Kịch... ). Nhạc trưởng XL cùng Ban nhạc của ông thành công mỹ mãn trong những chuyến đi ra mắt tại Lào (1955), Thái Lan (1956), Phi Luật Tân (1961)... Năm 1967, Xuân Lôi nhận làm cho nhà hàng Maxim’s trình diễn (như Casino de Paris, Moulin Rouge) Văn Nghệ Ca Vũ Nhạc Kịch do Hoàng Thi Thơ đạo diễn. Dưới chế độ Cộng sản, trong khuôn khổ Văn Nghệ Ca Nhạc Múa Dân Tộc, Xuân Lôi điều khiển ban nhạc Bến Thành, chơi nhiều đàn như kèn Clarinette, Saxophone Alto, Flủte, Violon, nhận lời mời của ban Cải lương Minh Tơ trong 2 tháng rồi trở lại Bến Thành chơi Trống, Guitare Basse, kèn Trombone à coulisse...
Đồng thời Xuân Lôi nghiên cứu sáng chế một cây đàn rất đặc biệt gọi là Xuânlôiphone xong ngày 20/07/ 1976 mà nhân dịp nhạc sĩ Nguyễn Tùng đã viết trên báo Tin Sáng (17/10/1979) : ‘’Làm đàn Xuânlôiphone phải lựa chọn hơn 50 ống lon sắt. Âm thanh lấy mẫu của Diapason làm chuẩn... Khui đầu hộp lon đặt úp xuống mặt gỗ có nỉ lót, đầu que có miếng cao su trồn như cái khuy. Đàn XLP xếp theo thang âm ngũ cung... Do, Ré, Mi-bémol, Sol, La và hàng thứ hai cũng có nửa cung. Hàng thứ ba thêm có Nốt Si và Nốt Fa... Đàn có thể chơi được từ bài chậm cho đến bài nhanh, chơi được đủ loại nhạc và còn vuốt được... ‘’ Sau khi chính thức định cư tại Pháp với gia đình từ ngày 02/11/1987, đàn XLP được chỉnh đốn lại ngày 31/12/1991 và nhà phát minh đã tặng Viện Bảo Tàng Nhân Chủng (Musée de l’Homme) ở Paris 2 ống sáo 10 và 13 lỗ (mà chúng ta đã nói trên) ngày 15/10/1991 và cây đàn Xuânlôiphone ngày 22/03/2001 tận tay Bà Giám đốc Lucie Rault ký nhận cùng viết thư biết ơn : ...
Viện Bảo Tàng Nhân Chủng trân trọng gửi đến Ông Xuân Lôi những lời cảm ơn nồng nhiệt : tặng vật này sẽ làm cho phong phú thêm những đồ sưu tập của Phân bộ Nhân chủng Nhạc học. Nhạc sĩ Xuân Lôi (như chúng ta đã biết) là một nhạc thủ lão luyện ngay từ thuở ấu thơ. Ông đã xử dụng dễ dàng tính đến 27 nhạc cụ : Mandoline, Banjo Alto, Violon, Guitare Hawaĩenne, Guitare basse, Contrebasse, Basson, Batterie, Cimusical, Xylophone, Vibraphone, Organ, Piano, Baryton, Trombone à coulisse, Trompette, Clarinette, Clarinette Basse, Saxophone Alto, Saxophone Ténor, Flủte, Sáo Trúc, Đàn Nguyệt (Đàn Kim), Đàn Nhị (Đàn Cò), Đàn Tam, Đàn Tranh, Đàn Bầu. Tương tự phần đông các nhạc sĩ, ông cũng là một nhà thơ, tác giả ‘’Hạc Vàng Trong Nắng Chiều’’ (xuất bản chung với Nắng Chiều 1 của Hoàng Minh Tâm, Paris, 1997) mà cụ Song Thái Phạm Công Huyền đã khen ngợi : ‘’Tập thơ của ông (Xuân Lôi), gồm mọi thể thơ, đã nói lên đủ mọi tình ý, nào nhớ nước thương nòi, nào nền hiếu thảo nếp gia phong, nào tập quán dị đoan, nào tả cảnh, tả người, lại còn đi vào đạo pháp nữa, thực là hoàn toàn đầy đủ ‘’... : ‘’Về làng xưa gợi thêm nhớ mãi / Vui sống trong thanh bình / Đồng rung nay đẹp màu xanh tươi / Vang khúc ca yêu đời.’’ (Về Làng Cũ)... Bốn câu điển hình thật nhẹ nhàng như một Bức Tranh Quê của Anh Thơ.
XUÂN LÔI là ai ? Sinh tại Hà Nội trong một gia đình dòng dõi cầm kỳ thi họa : Thân phụ Phạm Xuân Trang là người sáng lập một ban nhạc Trung Hoa (cùng với các bạn đồng liêu có tiếng tăm hồi ấy) thường đi trình diễn các nơi... lúc nào cũng đem theo Xuân Lôi mới 6 tuổi năm 1923 mà đã biết chơi nhạc cụ cùng những nhạc bản nước Tàu. Gia đình ở Bạch Mai (ngoại ô Hà Nội) gồm có 6 anh em trai, theo thứ tự : Phạm Xuân Thư, Phạm Xuân Oai, Phạm Xuân Lôi, Phạm Xuân Tiên, Phạm Xuân Khuê, Phạm Xuân Tuấn. Tất cả mọi người đều là nhạc thủ hoặc nhạc sĩ (thường chơi nhạc với nhau trong dàn nhạc Lôi-Tiên) : anh cả Xuân Thư theo học nhạc Tây phương tại Conservatoire Hà Nội, cùng với Nguyễn Văn Diệp (Violon), Nguyễn Xuân Khoát (Violoncelle và Contrebasse), Paul Lành (Violon)...
Qua những dòng trên, độc giả đã ý thức về Xuân Lôi là một nhạc sĩ đa tài, đa cảm : XL không những là một nhà soạn nhạc lừng danh mà còn là một nhà phát minh nhạc cụ có biệt tài, mộât nhạc thủ hầu hết mọi thứ đàn (ông đã chơi đàn Contrebasse với Orchestre trong phim L’Amant của Jean-Jacques Annaud năm1991 và chơi đàn cùng điều khiển Ban Âm Nhạc cổ phong VN trong phim L’odeur de la Papaye Verte-Mùi Đu Đủ Xanh của đạo diễn Trần Anh Hùng năm1992), một nhà ghi nhạc theo lời hát, một nhà thơ giàu tình quê đất nước, một nhạc trưởng đầy kinh nghiệm...
Ông đã hành nghề từ thuở nhỏ cho tới nay (2005) được cả 82 năm trời... Thời đại Xuân Lôi nằm trên hai thế kỷ 20 và 21 còn dài hơn triều đại của Đại-đế Louis XIV ở Pháp (vua lên ngôi lúc 5 tuổi năm 1643, mất năm 1715, sau 72 năm trị vì), vì Xuân Lôi là một nhạc sĩ vĩ đại trong tinh thần, quyết chí trong nghề nghiệp, hiên ngang trong sự tiếp tục dày công cho nền văn học nghệ thuật nước nhà càng ngày càng lẫy lừng, càng ngày càng tươi sáng :
Rừng xanh tấu khúc nhạc vàng
Yến oanh ríu rít hòa vang góc trời
Quê hương xa tít mù khơi
Vắng nghe ‘’Nhạt Nắng’’ đời vơi nỗi sầu
Mộng Ngọc nghĩa nặng tình sâu
Xuân Lôi tài đức vẹn câu đá vàng
(Thơ Đỗ Bình, nhân lễ mừng thượng thọ Nhạc sĩ Xuân Lôi ngày 24/06/2000 tại Viện Pháp Việt Paris-Quận 5).
Lê Mộng Nguyên (Paris, Mùa Xuân Ất Dậu, 2005)
* Giáo sư Hàn Lâm Tiến Sĩ Quốc Gia Khoa Học Chính Trị (Đại Học Paris
Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên *
Trên Forum Vietsciences () trong tháng 10-2004 ... và để trả lời câu hỏi của một đồng bào ‘’internaute’’ : Có bao nhiêu người sáng tác tân nhạc VN hải ngoại ? nhạc sĩ dân tộc học giả Trần Quang Hải đã lập sổ những nhạc sĩ lão thành có tên tuổi trong lịch sử thi ca VN còn sống tại Pháp (Paris và lân cận) như Xuân Lôi (1917), Lương Ngọc Châu (1920), Trần Văn Khê (1921), Trịnh Hưng (1928), Mạnh Bích (1929) và... Lê Mộng Nguyên (1930), vân vân. Cuộc tương phùng giữa hai nhạc sĩ (tiền chiến) Xuân Lôi và Lê Mộng Nguyên cùng hai nhạc sĩ Trịnh Hưng và Mạnh Bích được thực hiện trong Chiều Văn Nghệ Maisons-Alfort ngày 21/08/2004 tại nhà đôi uyên ương nữ ca sĩ Minh Cầm và phu quân Tây Ban Cầm Phạm Đình Liên, với sự có mặt của thi nhạc sĩ Đỗ Bình và nhạc sĩ Trần Văn Toàn là đại diện cho giới văn nghệ trẻ ở Kinh Thành Ánh Sáng (x. Nghệ Thuật-Montréal số 127 Tháng 10-2004 : ... một buổi chiều văn nghệ rất hoàn hảo, thành công trên mọi mặt, với mục đích rút chặt dây thân hữu giữa các ca sĩ, thi nhạc sĩ điển hình giới văn nghệ thuật Paris). NS Xuân Lôi nhân dịp này có trao tặng tôi một bản lai cảo ‘’Hồi ký Nhạc Sĩ Xuân Lôi’’ viết ngày 15/06/2000, xong ngày 30/08/2001, dày 134 trang khổ lớn, toàn do tác giả tự viết bằng tay (đúng như ý nghĩa manuscrit của Pháp), chữ đẹp cứng rắn (hành văn bình dị rõ ràng), với nhiều chứng minh hình ảnh kỷ niệm cả một cuộc đời nghệ sĩ toàn vẹn nằm trong hai thế kỷ 20 và 21...
Giới thiệu Hồi ký nhạc sĩ Xuân Lôi cho bạn đọc trong và ngoài nước trước khi sách ra đời quả thật là một hãnh diện, một hạnh phúc, một hiếm có mà tác giả đã để dành cho tôi...
Xuân Lôi là một nhân vật phong thái, được trời phú cho nhiều tài năng, một người yêu nhạc đã bắt đầu học hỏi ngay từ lúc 6 tuổi (1923) trong không khí gia đình thấm nhuần văn học nghệ thuật vì thân phụ Phạm Xuân Trang là một nhạc sư biết nhiều nhạc và nhạc khí Trung Hoa tân và cổ điển. Theo tôi, Xuân Lôi trước hết là một nhà soạn nhạc lẫy lừng, tác giả 126 ca khúc trong đó Nhạt Nắng vang bóng một thời và Tiếng Hát Quê Hương, Giải Nhất năm 1958 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa VN, được Bộ trưởng Thông tin Văn hóa Trần Chánh Thành long trọng trao phần thưởng. Ba năm sau (1961), tác phẩm Bài Hát Của Người Tự Do của ông cũng đoạt Giải Nhất trong cuộc thi sáng tác do Đài ‘’Tiếng Nói Quân Đội’’ tổ chức.
Ngày chủ nhật 07/04/1996 (trong khuôn khổ Chiều Văn Nghệ tại Hội trường Caillaux-Paris) với chủ đề ‘’Tiếng Hát Quê Hương’’, ông cho ra mắt sách ‘’Dạy đàn tranh’’ và nhất là Tuyển Tập Ca Khúc Xuân Lôi ‘’gồm 27 nhạc bản biểu tượng những sáng tác đầy màu sắc dân tộc dựa trên thang nhạc ngũ âm của Việt Nam’’ (Trần Quang Hải). Trước một cử tọa điển hình giới văn nghệ sĩ VN của Kinh Thành Ánh Sáng, Xuân Lôi biểu diễn tài năng nhạc thủ của ông thổ lộ tâm tình qua tiếng kèn Saxophone Ténor trong bài ‘’Nắng Trên Đồi’’, qua dòng nhạc uyển chuyển trong độc tấu đàn Bầu bài ‘’Hương Giang Mong Nhớ’’, qua tiếng đàn Xuânlôiphone trong ‘’Gió Hiền’’, qua độc tấu Banjo Alto nhịp nhàng và hùng mạnh trong bài ‘’Vui Ca Ra Đi’’, qua độc tấu Saxo Alto trong Take Five... Nhân dịp này, nhà thơ Minh Châu Thái Hạc Oanh đã hứng cảm tám câu, đề tặng :
Nhịp đàn lưu luyến thuở ban sơ
Vương vấn lòng ai mãi đến giờ
Năm bậc cung thương so lối phím
Mt đời yêu nhạc nắn đường tơ
Tha phương bỡ ngỡ vui cười gượng
Xứ lạ lạc loài buồn vấn vương
Tiếng hát quê hương tình cố quốc
Cảm tài Nghệ Sĩ tặng vần thơ...
Về sách dạy Tự Học Đàn Tranh của Xuân Lôi, nhà văn Trần Thị Minh Tâm có viết trên báo Xây Dựng (trang 115), ngày 22/04/1996 : ‘’Tôi đọc qua và nhận thấy anh đã dày công nghiên cứu cách áp dụng nhạc lý và các ký âm Tây phương vào việc học bài bản đàn tranh. Với một phương pháp giản dị, dễ hiểu, thêm vào đó một số bài tập về thủ pháp bàn tay trái (các cách nhấn, mổ, rung) và bàn tay mặt (cách chạy chữ hợp lý), anh đã thực hiện một quyển sách căn bản về đàn tranh cho những ai muốn tự học cây đàn này và áp dụng tiếng đàn tranh vào việc diễn tấu bài bản dân ca và tân nhạc... ‘’ Ngày Xuân Lôi & Xuân Tiên tổ chức vào thứ bảy 07/06/1997 tại San Jose (California) là một dịp cho hai anh em gắn bó trong tình huynh đệ và âm nhạc từ thuở nhỏ được tương phùng tại Hoa Kỳ, Xuân Lôi đến từ đất Pháp, Xuân Tiên từ Úc Đại Lợi xa xăm. Lúc tôi đến thăm hai vợ chồng Xuân Lôi-Mộng Ngọc (kết hôn năm 1955) ngày 16/09/2004 tại Clichy-La-Garenne ... tôi nhận thấy trong hàn huyên không bao giờ XL không nhắc nhở đến Xuân Tiên (sinh ngày 18/01/1921), tác giả ‘’... nhiều nhạc phẩm nổi tiếng như : Chờ Anh Em Nhé, Chờ Một Kiếp Mai, Khúc Ca Ân Tình, Về Dưới Mái Nhà, Duyên Tình, Đường Lên Non , Đường Đi Lối Về và đặc biệt là nhạc phẩm bất hủ để đời là Hận Đồ Bàn... ‘’ (Nguyễn Toàn, Nghệ Thuật số 129 Tháng 12-2004) : Xuân Lôi và Xuân Tiên như hai mà một trong tình bào huynh bào đệ và thông thái nhạc âm. Năm 1942, Ban cầm ca của hai anh em Xuân Lôi (Banjo Alto)-Xuân Tiên (Clarinette) cùng với Paul Trí (Piano), Văn Thính (Trống), biễu diễn cho Đoàn Cải Lương Tố Như (do Lê Thiết làm chủ) vào Sài Gòn ‘’...
Chuyên chơi nhạc ngoài sân khấu, để khán giả thưởng thức trước khi mở màn và khi hạ màn để sửa soạn thay phong cảnh. Có lúc ban nhạc đệm cho ca sĩ hát tân nhạc cũng có khi chơi nhạc thêm cho họ hát những bài Tây Thi, Xàng Xê theo các điệu Hồ Quảng v. v. ‘’(Hồi ký). Kế đó, Ban nhạc theo Tố Như đi trình diễn ở Bắc Liêu, Dakao, Cần Thơ, Palicao (Chợ Lớn)...
Năm 1943, Dàn nhạc Lôi-Tiên lại theo Tố Như trở ra Hà Nội, đi Phát Diệm trình diễn rồi hai anh em qua làm cho Dancing Hollywood ở Hà Nội (sau khi làm thêm cho Tố Như vài tháng) để chơi nhạc cho lính Tây nhảy và giải trí, kế đó chuyển qua làm cho Dancing Victory cho đến ngày đảo chính Nhật (09/03/1945)thì anh em XL-XT làm việc cho Lucky-Star, chuyên chơi nhạc của Đế Quốc Mặt Trời cho quân lính Phù Tang khiêu vũ... Sau khi Nhật đầu hàng và quân đội Pháp trở lại muốn chiếm đóng VN như xưa, chiến tranh Pháp-Việt Minh bùng nổ, anh em XL-XT mở Phòng trà ‘’Lôi-Tiên’’ ở Phát Diệm (hồi ấy đã có 3 PT mà một trong đó là của Hoàng Trọng). Năm 1947, anh em họ Phạm Xuân lại di cư ở Đống Năm (gần tỉnh Thái Bình) và lập ban nhạc lưu động đặt tên là Ban Nhạc Lôi-Tiên (cùng với Xuân Khuê, Xuân Thư, Xuân Oai, Paul Trí, Tường Vi).
Sau đó, BNLT ngụ một thời gian tại Thái Nguyên , được Hoài Thanh trưởng Ban Văn Hóa Vụ (óc não của Việt Minh) tiếp nhận niềm nở, do đó 5 anh em họ Phạm được làm quen với các hội viên văn hóa như cụ Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Văn Tân, Tố Hữu, Thế Lữ, Đào Duy Anh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đình Thi, các nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Tô Vũ, Nguyễn Hữu Hiếu, Canh Thân, Lê Hoàng Long... Để tránh bom đạn máy bay Pháp, Văn Hóa Vụ dời đi Tuyên Quang, sâu vào khu rừng thẳm là nơi họ đã dựng nhiều nhà lá rất lớn để làm Trường Văn Nghệ dạy đủ mọi ngành (trong đó có Ca Nhạc Múa Hát, Kịch, Chèo, Vẽ... ). Xuân Lôi mới 33 tuổi (năm 1950) mà đã nổi tiếng (trong dịp này) là một nhà chuyên môn ghi nhạc Chèo theo lời hát... Ghi xong, ông đánh đàn và hát theo người hát. Những tài liệu này đều được Tô Vũ đem về Hà Nội cho lưu trữ tại Viện Âm Nhạc (x. sách xuất bản năm 1999 tại Paris : Tài Liệu Dân Nhạc Việt Nam- chèo cổ của Xuân Lôi) : ‘’Chúng tôi nhận dạy thổi sáo Trúc và lý thuyết về âm nhạc, và dạy hát v. v. Mỗi khi có cuộc họp hoặc cuộc vui nào là đã có ban nhạc anh em chúng tôi sẵn sàng...
Tôi và Xuân Tiên lại nghiên cứu làm sáo 6 lỗ đến 10, 11, 12, 13 lỗ. Mười ngón tay đều có chỗ bấm, làm thêm lỗ là để cho có thêm nửa giọng, nếu bấm kiểu thì khó và chậm, bấm nửa lỗ thì tiếng kêu lúc bấm già bấm non không đúng tiếng mà còn câm tiếng. Sáo 10 lỗ còn chơi được các bài tân nhạc và các bài ngoại quốc. Sáo 11 đến 13 lỗ còn chơi thêm được các giọng thấp cho hợp với các bài Việt Nam. Các loại sáo kiểu mới từ 10 lỗ đến 13 lỗ đã làm đủ các giọng là : Do, Ré, Mi bémol, Fa, Sol, La Si... ‘’ Còn nhiều phát minh từ óc não hai anh em XL-XT là : sáo nhỏ 6 lỗ (Picolo), sáo đệm, đàn Violoncelle, Xylophone, Contrebasse (Mélobasse... ) toàn bằng các ống nứa lớn...
Năm 1952, gia đình thoát vòng Việt cộng trở về Nam Định, XL-XT làm cho Dancing Văn Hóa (cùng với Đỗ Văn Ngọc, Xuân Tuấn, Văn Bính, Lê Chuyên) và 3 tháng sau trở về Hà Nội cùng với nhiều nhạc sĩ cộng tác mở nhà hàng lớn Dancing Le Coq d’Or tự mình làm chủ. Năm 1953, Xuân Tiên vào Sài Gòn chơi tân nhạc cho Cinéma Thanh Bình, mấy tháng sau với Xuân Lôi vào kinh thành miền Nam cùng chơi nhạc cho Dancing Kim Sơn dưới sự điều khiển của Trưởng ban Trần Văn Lý. Sau Kim Sơn, anh em XL-XT làm buổi tối tại Bồng Lai, Văn Cảnh, Mỹ Phụng, Kim Điệp và cộng tác với Đài phát thanh Pháp Á, Đài Sài Gòn, Đài Tiếng Nói Quân Đội, Đài Tự Do... Năm 1954, Xuân Lôi nhận làm Trưởng Ban 3 Ban nhạc của Đài Sài Gòn chuyên về : Jazz, Tango, Valse, Java, Boston, Paso-Doble, Rumba, ChaChaCha, Mambo, Samba v. v.
Ông nhận điều khiển thêm ban nhạc Hương Xa chuyên môn chơi nhạc ngoại quốc (hát lời Việt) và hòa tấu nhạc mỗi tuần. 1955 : XL kết hôn với Mộng Ngọc (sinh hạ ba con : Phạm Xuân Dũng-1956, Phạm Xuân Giao-1957 và Hương Duyên-1958, tất cả đều là nghệ sĩ, nhạc sĩ biết chơi nhiều thứ đàn như Piano, Organ, Saxo Alto, Trompette, Batterie, Đàn Tranh hoặc Hát, đóng Kịch... ). Nhạc trưởng XL cùng Ban nhạc của ông thành công mỹ mãn trong những chuyến đi ra mắt tại Lào (1955), Thái Lan (1956), Phi Luật Tân (1961)... Năm 1967, Xuân Lôi nhận làm cho nhà hàng Maxim’s trình diễn (như Casino de Paris, Moulin Rouge) Văn Nghệ Ca Vũ Nhạc Kịch do Hoàng Thi Thơ đạo diễn. Dưới chế độ Cộng sản, trong khuôn khổ Văn Nghệ Ca Nhạc Múa Dân Tộc, Xuân Lôi điều khiển ban nhạc Bến Thành, chơi nhiều đàn như kèn Clarinette, Saxophone Alto, Flủte, Violon, nhận lời mời của ban Cải lương Minh Tơ trong 2 tháng rồi trở lại Bến Thành chơi Trống, Guitare Basse, kèn Trombone à coulisse...
Đồng thời Xuân Lôi nghiên cứu sáng chế một cây đàn rất đặc biệt gọi là Xuânlôiphone xong ngày 20/07/ 1976 mà nhân dịp nhạc sĩ Nguyễn Tùng đã viết trên báo Tin Sáng (17/10/1979) : ‘’Làm đàn Xuânlôiphone phải lựa chọn hơn 50 ống lon sắt. Âm thanh lấy mẫu của Diapason làm chuẩn... Khui đầu hộp lon đặt úp xuống mặt gỗ có nỉ lót, đầu que có miếng cao su trồn như cái khuy. Đàn XLP xếp theo thang âm ngũ cung... Do, Ré, Mi-bémol, Sol, La và hàng thứ hai cũng có nửa cung. Hàng thứ ba thêm có Nốt Si và Nốt Fa... Đàn có thể chơi được từ bài chậm cho đến bài nhanh, chơi được đủ loại nhạc và còn vuốt được... ‘’ Sau khi chính thức định cư tại Pháp với gia đình từ ngày 02/11/1987, đàn XLP được chỉnh đốn lại ngày 31/12/1991 và nhà phát minh đã tặng Viện Bảo Tàng Nhân Chủng (Musée de l’Homme) ở Paris 2 ống sáo 10 và 13 lỗ (mà chúng ta đã nói trên) ngày 15/10/1991 và cây đàn Xuânlôiphone ngày 22/03/2001 tận tay Bà Giám đốc Lucie Rault ký nhận cùng viết thư biết ơn : ...
Viện Bảo Tàng Nhân Chủng trân trọng gửi đến Ông Xuân Lôi những lời cảm ơn nồng nhiệt : tặng vật này sẽ làm cho phong phú thêm những đồ sưu tập của Phân bộ Nhân chủng Nhạc học. Nhạc sĩ Xuân Lôi (như chúng ta đã biết) là một nhạc thủ lão luyện ngay từ thuở ấu thơ. Ông đã xử dụng dễ dàng tính đến 27 nhạc cụ : Mandoline, Banjo Alto, Violon, Guitare Hawaĩenne, Guitare basse, Contrebasse, Basson, Batterie, Cimusical, Xylophone, Vibraphone, Organ, Piano, Baryton, Trombone à coulisse, Trompette, Clarinette, Clarinette Basse, Saxophone Alto, Saxophone Ténor, Flủte, Sáo Trúc, Đàn Nguyệt (Đàn Kim), Đàn Nhị (Đàn Cò), Đàn Tam, Đàn Tranh, Đàn Bầu. Tương tự phần đông các nhạc sĩ, ông cũng là một nhà thơ, tác giả ‘’Hạc Vàng Trong Nắng Chiều’’ (xuất bản chung với Nắng Chiều 1 của Hoàng Minh Tâm, Paris, 1997) mà cụ Song Thái Phạm Công Huyền đã khen ngợi : ‘’Tập thơ của ông (Xuân Lôi), gồm mọi thể thơ, đã nói lên đủ mọi tình ý, nào nhớ nước thương nòi, nào nền hiếu thảo nếp gia phong, nào tập quán dị đoan, nào tả cảnh, tả người, lại còn đi vào đạo pháp nữa, thực là hoàn toàn đầy đủ ‘’... : ‘’Về làng xưa gợi thêm nhớ mãi / Vui sống trong thanh bình / Đồng rung nay đẹp màu xanh tươi / Vang khúc ca yêu đời.’’ (Về Làng Cũ)... Bốn câu điển hình thật nhẹ nhàng như một Bức Tranh Quê của Anh Thơ.
XUÂN LÔI là ai ? Sinh tại Hà Nội trong một gia đình dòng dõi cầm kỳ thi họa : Thân phụ Phạm Xuân Trang là người sáng lập một ban nhạc Trung Hoa (cùng với các bạn đồng liêu có tiếng tăm hồi ấy) thường đi trình diễn các nơi... lúc nào cũng đem theo Xuân Lôi mới 6 tuổi năm 1923 mà đã biết chơi nhạc cụ cùng những nhạc bản nước Tàu. Gia đình ở Bạch Mai (ngoại ô Hà Nội) gồm có 6 anh em trai, theo thứ tự : Phạm Xuân Thư, Phạm Xuân Oai, Phạm Xuân Lôi, Phạm Xuân Tiên, Phạm Xuân Khuê, Phạm Xuân Tuấn. Tất cả mọi người đều là nhạc thủ hoặc nhạc sĩ (thường chơi nhạc với nhau trong dàn nhạc Lôi-Tiên) : anh cả Xuân Thư theo học nhạc Tây phương tại Conservatoire Hà Nội, cùng với Nguyễn Văn Diệp (Violon), Nguyễn Xuân Khoát (Violoncelle và Contrebasse), Paul Lành (Violon)...
Qua những dòng trên, độc giả đã ý thức về Xuân Lôi là một nhạc sĩ đa tài, đa cảm : XL không những là một nhà soạn nhạc lừng danh mà còn là một nhà phát minh nhạc cụ có biệt tài, mộât nhạc thủ hầu hết mọi thứ đàn (ông đã chơi đàn Contrebasse với Orchestre trong phim L’Amant của Jean-Jacques Annaud năm1991 và chơi đàn cùng điều khiển Ban Âm Nhạc cổ phong VN trong phim L’odeur de la Papaye Verte-Mùi Đu Đủ Xanh của đạo diễn Trần Anh Hùng năm1992), một nhà ghi nhạc theo lời hát, một nhà thơ giàu tình quê đất nước, một nhạc trưởng đầy kinh nghiệm...
Ông đã hành nghề từ thuở nhỏ cho tới nay (2005) được cả 82 năm trời... Thời đại Xuân Lôi nằm trên hai thế kỷ 20 và 21 còn dài hơn triều đại của Đại-đế Louis XIV ở Pháp (vua lên ngôi lúc 5 tuổi năm 1643, mất năm 1715, sau 72 năm trị vì), vì Xuân Lôi là một nhạc sĩ vĩ đại trong tinh thần, quyết chí trong nghề nghiệp, hiên ngang trong sự tiếp tục dày công cho nền văn học nghệ thuật nước nhà càng ngày càng lẫy lừng, càng ngày càng tươi sáng :
Rừng xanh tấu khúc nhạc vàng
Yến oanh ríu rít hòa vang góc trời
Quê hương xa tít mù khơi
Vắng nghe ‘’Nhạt Nắng’’ đời vơi nỗi sầu
Mộng Ngọc nghĩa nặng tình sâu
Xuân Lôi tài đức vẹn câu đá vàng
(Thơ Đỗ Bình, nhân lễ mừng thượng thọ Nhạc sĩ Xuân Lôi ngày 24/06/2000 tại Viện Pháp Việt Paris-Quận 5).
Lê Mộng Nguyên (Paris, Mùa Xuân Ất Dậu, 2005)
* Giáo sư Hàn Lâm Tiến Sĩ Quốc Gia Khoa Học Chính Trị (Đại Học Paris
LS. NGUYỄN HỮU THỐNG * BIỂN ĐÔNG
NÓI VỚI CÁC BẠN TRẺ TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC VỀ BIỂN ĐÔNG DẬY
SÓNG
L.S. NGUYỄN HỮU THỐNG
Biển Đông với Hoàng Sa, Trường Sa và Vịnh Bắc Việt là một vấn đề rối mù. Rối mù về địa lý, về pháp lý và nhất là do chiến thuật hỏa mù của Trung Quốc. Do đó, chúng ta cần trình bày vấn đề minh bạch và đơn giản.
VỀ ĐỊA LỴÙ
Hoàng Sa gồm 13 đảo san hô tí hon tại các vĩ tuyến 17-15 Bắc, phía đông Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Trường Sa với 9 đảo nhỏ hơn nữa tại các vĩ tuyến 12-7 Bắc, dọc từ Cam Ranh về Nam Cà Mau. Có khoảng 500 đảo, cồn, đá, bãi nằm rải rác trên biển cả, từ VN qua Phi Luật Tân, không có thường dân cư ngụ và không tựï túc về kinh tế. Trong số này chỉ có hơn 50 đơn vị có địa danh, gồm 28 cao địa và hơn 20 đơn vị đá chìm và bãi ngầm.
a) Từ 1974 Trung Quốc chiếm toàn thể HOÀNG SA gồm 13 đảo:
7 đảo phía Đông Bắc thuộc Nhóm Tuyên Đức (Amphitrite) trong đó có Đảo Phú Lâm (Woody Island) hình bầu dục, diện tích 1.3km2. Nếu là hình chữ nhật, bề dài có thể là 1300m và bề ngang 1000m (bằng một công viên nhỏ). Phú Lâm là đảo lớn nhất tại Hoàng Sa và Trường Sa.
6 đảo phiá Tây Nam thuộc Nhóm Nguyệt Thiềm (Crescent), trong đó có Đảo Hoàng Sa (Pattel) rộng 0.56km2 bằng 1/2 Phú Lâm và bằng 1/1000 Phú Quốc (568 km2).
b) Vùng biển TRƯỜNG SA bao la (180.000 dậm vuông) rộng gấp 10 lần Hoàng Sa, nhưng chỉ có 9 tiểu đảo.
Việt Nam chiếm 3 đảo: Trường Sa (Spratley), Nam Yết (Namyit) và Sinh Tồn (Sincowe).
Phi Luật Tân chiếm 5 đảo: Bình Nguyên (Flat), Vĩnh Viễn
(Nanshan), Bến Lộc (West York), Loại Tá (Loaita) và Thị Tứ (Thitu).
Đài Loan chiếm Đảo Thái Bình (Itu Aba).
Đảo Trường Sa diện tích 0.13km2, bằng 1/10 Phú Lâm.
Có tin mới đây Đài Loan đã rút quân khỏi Đảo Thái Bình, hòn đảo lớn nhất tại Trường Sa.
Ngoài 3 đảo, Việt Nam còn chiếm 3 cồn (cay) là An Bang (Amboyna), Song Tử Tây (SouthWest) và Sơn Ca (Sand), cùng 7 đá nổi, 9 đá chìm và bãi ngầm, tổng cộng 22 đơn vị.
Ngoài 5 đảo, Phi Luật Tân còn chiếm 3 cồn , 2 đá nổi và 8 đá chìm, tổng cộng 18 đơn vị.
Trung Quốc chiếm 2 đá nổi (reef) là Đá Chữ Thập (Fiery Cross) và Đá Ga Ven (Gaven), cùng 6 đá chìm, tổng cộng 8 đơn vị.
Câu hỏi đặt ra là: Tại sao từ 1974 khi Trung Quốc chiếm toàn thể Hoàng Sa, và nhất là từ 1988 khi xâm lấn Trường Sa, họ lại không thừa thắng xông lên để chiếm thêm một số hải đảo mà phải lấy một hòn đá (Đá Chữ Thập) làm địa điểm chỉ huy ?
Thực ra Trung Quốc chỉ muốn thương thảo song phương với các quốc gia duyên hải về phương thức khai thác chung dầu khí tại thềm lục địa (không phải của họ).
Hoàng Sa gồm 13 đảo san hô tí hon tại các vĩ tuyến 17-15 Bắc, phía đông Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Trường Sa với 9 đảo nhỏ hơn nữa tại các vĩ tuyến 12-7 Bắc, dọc từ Cam Ranh về Nam Cà Mau. Có khoảng 500 đảo, cồn, đá, bãi nằm rải rác trên biển cả, từ VN qua Phi Luật Tân, không có thường dân cư ngụ và không tựï túc về kinh tế. Trong số này chỉ có hơn 50 đơn vị có địa danh, gồm 28 cao địa và hơn 20 đơn vị đá chìm và bãi ngầm.
a) Từ 1974 Trung Quốc chiếm toàn thể HOÀNG SA gồm 13 đảo:
7 đảo phía Đông Bắc thuộc Nhóm Tuyên Đức (Amphitrite) trong đó có Đảo Phú Lâm (Woody Island) hình bầu dục, diện tích 1.3km2. Nếu là hình chữ nhật, bề dài có thể là 1300m và bề ngang 1000m (bằng một công viên nhỏ). Phú Lâm là đảo lớn nhất tại Hoàng Sa và Trường Sa.
6 đảo phiá Tây Nam thuộc Nhóm Nguyệt Thiềm (Crescent), trong đó có Đảo Hoàng Sa (Pattel) rộng 0.56km2 bằng 1/2 Phú Lâm và bằng 1/1000 Phú Quốc (568 km2).
b) Vùng biển TRƯỜNG SA bao la (180.000 dậm vuông) rộng gấp 10 lần Hoàng Sa, nhưng chỉ có 9 tiểu đảo.
Việt Nam chiếm 3 đảo: Trường Sa (Spratley), Nam Yết (Namyit) và Sinh Tồn (Sincowe).
Phi Luật Tân chiếm 5 đảo: Bình Nguyên (Flat), Vĩnh Viễn
(Nanshan), Bến Lộc (West York), Loại Tá (Loaita) và Thị Tứ (Thitu).
Đài Loan chiếm Đảo Thái Bình (Itu Aba).
Đảo Trường Sa diện tích 0.13km2, bằng 1/10 Phú Lâm.
Có tin mới đây Đài Loan đã rút quân khỏi Đảo Thái Bình, hòn đảo lớn nhất tại Trường Sa.
Ngoài 3 đảo, Việt Nam còn chiếm 3 cồn (cay) là An Bang (Amboyna), Song Tử Tây (SouthWest) và Sơn Ca (Sand), cùng 7 đá nổi, 9 đá chìm và bãi ngầm, tổng cộng 22 đơn vị.
Ngoài 5 đảo, Phi Luật Tân còn chiếm 3 cồn , 2 đá nổi và 8 đá chìm, tổng cộng 18 đơn vị.
Trung Quốc chiếm 2 đá nổi (reef) là Đá Chữ Thập (Fiery Cross) và Đá Ga Ven (Gaven), cùng 6 đá chìm, tổng cộng 8 đơn vị.
Câu hỏi đặt ra là: Tại sao từ 1974 khi Trung Quốc chiếm toàn thể Hoàng Sa, và nhất là từ 1988 khi xâm lấn Trường Sa, họ lại không thừa thắng xông lên để chiếm thêm một số hải đảo mà phải lấy một hòn đá (Đá Chữ Thập) làm địa điểm chỉ huy ?
Thực ra Trung Quốc chỉ muốn thương thảo song phương với các quốc gia duyên hải về phương thức khai thác chung dầu khí tại thềm lục địa (không phải của họ).
VỀ PHÁP LÝ
Địa cầu gồm 3 phần đất và 7 phần nước. Nếu có luật quốc tế cho các lãnh thổ thì cũng phải có Luật Biển cho vùng lãnh hải. Năm 1982, 119 quốc gia ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (Law of the Sea Convention hay Los Convention) trong đó có Trung Quốc và Việt Nam.
Sau đây là định nghĩa về biển lịch sử, đường căn bản, biển lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh te,á thềm lục địa, hải đảo và quần đảo.
1. Biển Lịch Sử ( historic waters).
Theo Toà Án Quốc Tế và Điều 8 Luật Biển, biển lịch sử là nội hải nằm về phía đất liền, bên trong đường căn bản của biển lãnh thổ. Như vậy biển lịch sử không thể là Nam Hải cách lục địa Trung Hoa tới 2 000 cây số.
2. Đường căn bản (baselines) là lằn nước thủy triều xuống thấp.
3. Biển lãnh thổ (territorial sea) rộng 12 hải lý tính từ đường căn bản ra khơi.
4. Nối tiếp biển lãnh thổ 12 hải lý là Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý để đánh cá. (Exclusive Economic Zone, 200-mile-fishery zone).
5. Vùng Đặc Quyền Kinh Tế trùng điệp với Thềm Lục Địa (Continental Shelf) 200 hải lý để khai thác dầu khí.
Thềm lục địa thuộc chủ quyền tuyệt đối của quốc gia duyên hải trong việc khai thác dầu khí. Quyền này không tùy thuộc vào điều kiện chiếm cứ (occupation) hay công bố (declaration) (Điều 77). Do đó việc Trung Cộng chiếm đóng một số đảo, đá, bãi tại Hoàng Sa và Trường Sa không có tác dụng tước đọat chủ quyền của Việt Nam tại thềm lục đi.a.
6. Hải đảo và quần đảo
Các hải đảo (như Đài Loan hay Tích Lan) được quyền có biển lãnh thổ 12 hải lý, và quy chế vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý. Tuy nhiên, các tiểu đảo không có thường dân cư ngụ và không tự túc về kinh tế (như Hoàng SaTrường Sa) không được hưởng quy chế này. (Điều 121).
Trong án lệ Lybia/Malta (l985) Tòa án không đồng hóa đảo Malta với lục địa, dầu rằng Malta có 350 ngàn dân cư ngụ trên một diện tích 122 dậm vuông.
Theo định nghĩa, quần đảo bao gồm các hải đảo nằm san sát bên nhau và có diện tích ít nhất bằng 1/9 vùng biển nơi tọa lạc (như các quần đảo Nam Dương hay Phi Luật Tân).
Như vậy:
1) Hoàng Sa Trường Sa không phải là “quần đảo” luật định vì có diện tích quá nhỏ (4 dặm vuông) trong một vùng biển bao la (180 ngàn dặm vuông).
2) Các tiểu đảo (trên 20 hòn) tại Hoàng Sa Trường Sa không phải là “đảo” luật định, và không được hưởng quy chế 200 hải lý để đánh cá và khai thác dầu khí.
Địa cầu gồm 3 phần đất và 7 phần nước. Nếu có luật quốc tế cho các lãnh thổ thì cũng phải có Luật Biển cho vùng lãnh hải. Năm 1982, 119 quốc gia ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (Law of the Sea Convention hay Los Convention) trong đó có Trung Quốc và Việt Nam.
Sau đây là định nghĩa về biển lịch sử, đường căn bản, biển lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh te,á thềm lục địa, hải đảo và quần đảo.
1. Biển Lịch Sử ( historic waters).
Theo Toà Án Quốc Tế và Điều 8 Luật Biển, biển lịch sử là nội hải nằm về phía đất liền, bên trong đường căn bản của biển lãnh thổ. Như vậy biển lịch sử không thể là Nam Hải cách lục địa Trung Hoa tới 2 000 cây số.
2. Đường căn bản (baselines) là lằn nước thủy triều xuống thấp.
3. Biển lãnh thổ (territorial sea) rộng 12 hải lý tính từ đường căn bản ra khơi.
4. Nối tiếp biển lãnh thổ 12 hải lý là Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý để đánh cá. (Exclusive Economic Zone, 200-mile-fishery zone).
5. Vùng Đặc Quyền Kinh Tế trùng điệp với Thềm Lục Địa (Continental Shelf) 200 hải lý để khai thác dầu khí.
Thềm lục địa thuộc chủ quyền tuyệt đối của quốc gia duyên hải trong việc khai thác dầu khí. Quyền này không tùy thuộc vào điều kiện chiếm cứ (occupation) hay công bố (declaration) (Điều 77). Do đó việc Trung Cộng chiếm đóng một số đảo, đá, bãi tại Hoàng Sa và Trường Sa không có tác dụng tước đọat chủ quyền của Việt Nam tại thềm lục đi.a.
6. Hải đảo và quần đảo
Các hải đảo (như Đài Loan hay Tích Lan) được quyền có biển lãnh thổ 12 hải lý, và quy chế vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý. Tuy nhiên, các tiểu đảo không có thường dân cư ngụ và không tự túc về kinh tế (như Hoàng SaTrường Sa) không được hưởng quy chế này. (Điều 121).
Trong án lệ Lybia/Malta (l985) Tòa án không đồng hóa đảo Malta với lục địa, dầu rằng Malta có 350 ngàn dân cư ngụ trên một diện tích 122 dậm vuông.
Theo định nghĩa, quần đảo bao gồm các hải đảo nằm san sát bên nhau và có diện tích ít nhất bằng 1/9 vùng biển nơi tọa lạc (như các quần đảo Nam Dương hay Phi Luật Tân).
Như vậy:
1) Hoàng Sa Trường Sa không phải là “quần đảo” luật định vì có diện tích quá nhỏ (4 dặm vuông) trong một vùng biển bao la (180 ngàn dặm vuông).
2) Các tiểu đảo (trên 20 hòn) tại Hoàng Sa Trường Sa không phải là “đảo” luật định, và không được hưởng quy chế 200 hải lý để đánh cá và khai thác dầu khí.
ĐẤU LÝ VÀ ĐẤU PHÁP
Năm l982 với tư cách một ngũ cường, Trung Hoa hoan hỉ ký Công Ước về Luật Biển. Ký xong, Bắc Kinh mới thấy lo! Những điều khỏan trong Công Ứóc đã quá rõ rê.t. Các quốc gia duyên hải chỉ được hưởng quy chế 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa kể từ biển lãnh thổ.
Trong khi đó Trường Sa cách lục địa Trung Hoa khoảng 750 hải lý, nên không nằm trong thềm lục địa của Trung Hoa. Hoàng Sa cũng cách Hoa Lục lối 270 hải lý.
Tại bờ biển Việt Nam, thềm lục địa chạy thoai thoải từ dãy Trường Sơn ra Hoàng SạVề địa hình, Hoàng Sa là một hành lang của Trường Sơn từ Cù Lao Ré ra khơi. Đây là những bình nguyên của thềm lục địa Việt Nam trên mặt biển. Năm 1925, nhà địa chất học quốc tế Tiến Sĩ Khoa Học A. Krempf, Giám Đốc Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm nghiên cứu và đo đạc đã lập phúc trình và kết luận: “VỀ MẶT ĐIA CHẤT, NHỮNG ĐẢO HOÀNG SA LÀ THÀNH PHẦN CỦA VIỆT NAM” (Géologiquement les Paracels font partie du Vietnam).
Tại Trường Sa cũng vâ.y. Về độ sâu và địa hình đáy biển, các đảo cồn đá bãi Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của thềm lục địa Việt Nam. Tại bãi Tứ Chính , nơi khai thác dầu khí, biển sâu không tới 400m, và tại vùng đảo Trường Sa độ sâu chỉ tới 200m. Bãi Tứ Chính cách bờ biển Việt Nam khoảng 190 hải lý và cách lục địa Trung Hoa tới 780 hải lý. Trường Sa cách Việt Nam 220 hải lý và cách Hoa Lục 750 hải lý. Từ Trường Sa về bờ biển Trung Hoa có rãnh biển sâu hơn 4.600m.
Bị ràng buộc bởi Luật Biển với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý, Trung Hoa tung ra CHIẾN DỊCH HỎA MÙ, gây bất ổn, tranh chấp lung tung, thao diễn, phóng hỏa tiễn, lấn chiếm bừa bãi tại miền bờ biển để gây tiếng vang. Mục đích để phá rối an ninh trật tự, làm cản trở giao thông trên mặt biển, tạo áp lực, hù dọa và khuyến dụ các quốc gia Đông Nam Á hãy tạm gác vấn đề tranh chấp chủ quyền hải đảo để cùng nhau KHAI THÁC DÂÙ KHÍ CHUNG TẠI THỀM LỤC ĐỊA VÀ ĐÁNH CÁ CHUNG TẠI VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ.
BIỂN LICH SỬ: THỦ ĐẮC CHỦ QUYỀN DO KHÁM PHÁ
Năm 1982, Bắc Kinh tập hợp 400 học giả, ngày đêm nghiên cứu, thảo luận trong suốt 10 năm để kết luận rằng Nam Hải là Biển Lịch Sử của Trung Hoa Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc nằm sát bờ biển Việt Nam, cách Quảng Ngãi 40 hải lý, cách Natuna (Nam Dương) 30 hải lý, và cách Palawan (Phi Luật Tân) 25 hải lý. Nó chiếm trọn 3 tuí dầu khí: Tứ Chính (Vanguard) của Việt Nam, Natuna của Nam Dương và Cỏ Rong (Reed Bank) của Phi Luật Tân
Trung Quốc đưa ra nhiều tài liệu lịch sử để chứng minh rằng từ đời Hán Vũ Đế 100 ngàn hải quân Trung Hoa đi tuần thám đã khám phá các đảo Nam Hải. Sự khám phá này được tiếp tục dưới đời nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh và nhà Thanh.
Những tài liệu lịch sử này không đáng tin cậy:
1. Chính sách bế quan tỏa cảng.
Suốt chiều dài lịch sử, Trung Hoa không bao giờ chủ trương chinh phục đại dương. Thuyết bế quan tỏa cảng được áp dụng từ đời nhà Tần (thế kỷ thứ 3 trước công nguyên). Vạn Lý Trường Thành không chỉ là một kiến trúc mà còn là một nhân sinh quan. Miền bờ biển được coi là nơi hoang vu man rợ. Đảo Hải Nam là chốn lưu đày các tù nhân biệt xứ. Cho đến thế kỷ 20, chính sách bế quan tỏa cảng vẫn được thi hành.
Với tâm lý tự cô lập, không thể có 100 ngàn quân Trung Hoa đời Tây Hán đi khám phá các đảo san hô tí hon tại Nam Hải. Rất có thể đó chỉ là 10 vạn quân của Tào Tháo mượn lệnh Hán Đế đi xâm chiếm Đông Ngô và đã bị Chu Du đánh tan trong trận Xích Bích.
Các chuyến hải hành đời nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, và nhà Thanh chỉ là những cuộc nam chinh nhằm thôn tính Việt Nam. Lịch sử đã ghi việc Lê Đại Hành phá tan thủy binh của Lưu Trừng nhà Tống, quân Trần Hưng Đạo bắn chết Toa Đô và bắt sống Ô Mã Nhi nhà Nguyên, Lê Lợi đánh bại hải quân tiếp viện cho Vương Thông nhà Minh, và Quang Trung phá tan hải quân của đề đốc Hứa Thế Hanh nhà Thanh. Việc các thủy binh đời Minh Thành Tổ đi thăm viếng các quốc gia Á Châu nếu có, cũng không có tác dụng thủ đắc chủ quyền tại các hải đảo. Từ thế kỷ l5, các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha như Vasco de Gama và Magellan đã đi xuyên 3 đại dương từ Đại Tây Dương, vượt Ấn Độ Dương qua Thái Bình Dương, khám phá hàng ngàn hải đảo kể cả Phi Luật Tân và Guam. Nhưng Bồ Đào Nha cũng không đòi chủ quyền các hải đảo này.
2. Danh xưng Nam Hải.
Theo chính các học giả Trung Hoa, Nam Hải là tên biển của Hoa Nam, cách Quảng Đông 50 dậm về phía Nam. Các nhà hàng hải Tây Phương muốn cho tiện nên gọi đó là Biển Nam Hoa (South China Sea) (ngọai nhân xưng Nam Trung Quốc Hải).
Theo Tự Điển Tối Tân Thực Dụng Hán Anh xuất bản tại Hồng Kông năm 1971 thì “Nam Hải là vùng biển kéo dài từ Eo Biển Đài Loan đến Quảng Đông”. (The Southern Sea stretching from the Taiwan Straits to Kwantung.)
Theo Từ Điển Từ Hải xuất bản năm 1948, thì Nam Hải thuộc chủ quyền hải phận chung của 5 nước là Trung Hoa, Việt Nam, Mã Lai, Phi Luật Tân và Đài Loan.
DO ĐÓ NAM HẢI KHÔNG PHẢI LÀ BIỂN CỦA TRUNG HOA VỀ PHÍA NAM. CŨNG NHƯ ẤN ĐỘ DƯƠNG KHÔNG PHẢI LÀ ĐẠI DƯƠNG CỦA ẤN ĐỘ.
Năm 1983, Trung Quốc vẽ lại bản đồ, đòi chủ quyền hải phận toàn thể vùng biển Đông Nam Á. Họ coi Nam Hải là một thứ nội hảiï theo kiểu Đế Quốc La Mã coi Địa Trung Hải là biển của chúng tôi (Mare Nostrum).
3. Luật pháp và án lệ.
Theo Tòa Án Quốc Tế, biển lịch sử chỉ là nội hải. Hơn nữa, Điều 8 Công Ước về Luật Biển (l982) đã kết thúc mọi cuộc tranh luận khi quy định: “Biển lịch sử hay nội hải của một quốc gia nằm về phía đất liền, bên trong đường căn bản của biển lãnh thổ” [The International Court of Justice has defined historic waters as internal waters. “Waters on the landward side of the baseline of the territorial sea form part of the internal waters of the State” Art.8 Los Convention (1982)].
Như vậy Nam Hải không phải là Biển Lịch Sử của Trung Hoa, vì nó là ngoại hải và cách bờ biển Trung Hoa tới hai ngàn cây số.
Và công trình 10 năm nghiên cứu của 400 học giả Trung Quốc chỉ là công “dã tràng xe cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì!”
Năm l982 với tư cách một ngũ cường, Trung Hoa hoan hỉ ký Công Ước về Luật Biển. Ký xong, Bắc Kinh mới thấy lo! Những điều khỏan trong Công Ứóc đã quá rõ rê.t. Các quốc gia duyên hải chỉ được hưởng quy chế 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa kể từ biển lãnh thổ.
Trong khi đó Trường Sa cách lục địa Trung Hoa khoảng 750 hải lý, nên không nằm trong thềm lục địa của Trung Hoa. Hoàng Sa cũng cách Hoa Lục lối 270 hải lý.
Tại bờ biển Việt Nam, thềm lục địa chạy thoai thoải từ dãy Trường Sơn ra Hoàng SạVề địa hình, Hoàng Sa là một hành lang của Trường Sơn từ Cù Lao Ré ra khơi. Đây là những bình nguyên của thềm lục địa Việt Nam trên mặt biển. Năm 1925, nhà địa chất học quốc tế Tiến Sĩ Khoa Học A. Krempf, Giám Đốc Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm nghiên cứu và đo đạc đã lập phúc trình và kết luận: “VỀ MẶT ĐIA CHẤT, NHỮNG ĐẢO HOÀNG SA LÀ THÀNH PHẦN CỦA VIỆT NAM” (Géologiquement les Paracels font partie du Vietnam).
Tại Trường Sa cũng vâ.y. Về độ sâu và địa hình đáy biển, các đảo cồn đá bãi Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của thềm lục địa Việt Nam. Tại bãi Tứ Chính , nơi khai thác dầu khí, biển sâu không tới 400m, và tại vùng đảo Trường Sa độ sâu chỉ tới 200m. Bãi Tứ Chính cách bờ biển Việt Nam khoảng 190 hải lý và cách lục địa Trung Hoa tới 780 hải lý. Trường Sa cách Việt Nam 220 hải lý và cách Hoa Lục 750 hải lý. Từ Trường Sa về bờ biển Trung Hoa có rãnh biển sâu hơn 4.600m.
Bị ràng buộc bởi Luật Biển với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý, Trung Hoa tung ra CHIẾN DỊCH HỎA MÙ, gây bất ổn, tranh chấp lung tung, thao diễn, phóng hỏa tiễn, lấn chiếm bừa bãi tại miền bờ biển để gây tiếng vang. Mục đích để phá rối an ninh trật tự, làm cản trở giao thông trên mặt biển, tạo áp lực, hù dọa và khuyến dụ các quốc gia Đông Nam Á hãy tạm gác vấn đề tranh chấp chủ quyền hải đảo để cùng nhau KHAI THÁC DÂÙ KHÍ CHUNG TẠI THỀM LỤC ĐỊA VÀ ĐÁNH CÁ CHUNG TẠI VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ.
BIỂN LICH SỬ: THỦ ĐẮC CHỦ QUYỀN DO KHÁM PHÁ
Năm 1982, Bắc Kinh tập hợp 400 học giả, ngày đêm nghiên cứu, thảo luận trong suốt 10 năm để kết luận rằng Nam Hải là Biển Lịch Sử của Trung Hoa Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc nằm sát bờ biển Việt Nam, cách Quảng Ngãi 40 hải lý, cách Natuna (Nam Dương) 30 hải lý, và cách Palawan (Phi Luật Tân) 25 hải lý. Nó chiếm trọn 3 tuí dầu khí: Tứ Chính (Vanguard) của Việt Nam, Natuna của Nam Dương và Cỏ Rong (Reed Bank) của Phi Luật Tân
Trung Quốc đưa ra nhiều tài liệu lịch sử để chứng minh rằng từ đời Hán Vũ Đế 100 ngàn hải quân Trung Hoa đi tuần thám đã khám phá các đảo Nam Hải. Sự khám phá này được tiếp tục dưới đời nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh và nhà Thanh.
Những tài liệu lịch sử này không đáng tin cậy:
1. Chính sách bế quan tỏa cảng.
Suốt chiều dài lịch sử, Trung Hoa không bao giờ chủ trương chinh phục đại dương. Thuyết bế quan tỏa cảng được áp dụng từ đời nhà Tần (thế kỷ thứ 3 trước công nguyên). Vạn Lý Trường Thành không chỉ là một kiến trúc mà còn là một nhân sinh quan. Miền bờ biển được coi là nơi hoang vu man rợ. Đảo Hải Nam là chốn lưu đày các tù nhân biệt xứ. Cho đến thế kỷ 20, chính sách bế quan tỏa cảng vẫn được thi hành.
Với tâm lý tự cô lập, không thể có 100 ngàn quân Trung Hoa đời Tây Hán đi khám phá các đảo san hô tí hon tại Nam Hải. Rất có thể đó chỉ là 10 vạn quân của Tào Tháo mượn lệnh Hán Đế đi xâm chiếm Đông Ngô và đã bị Chu Du đánh tan trong trận Xích Bích.
Các chuyến hải hành đời nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, và nhà Thanh chỉ là những cuộc nam chinh nhằm thôn tính Việt Nam. Lịch sử đã ghi việc Lê Đại Hành phá tan thủy binh của Lưu Trừng nhà Tống, quân Trần Hưng Đạo bắn chết Toa Đô và bắt sống Ô Mã Nhi nhà Nguyên, Lê Lợi đánh bại hải quân tiếp viện cho Vương Thông nhà Minh, và Quang Trung phá tan hải quân của đề đốc Hứa Thế Hanh nhà Thanh. Việc các thủy binh đời Minh Thành Tổ đi thăm viếng các quốc gia Á Châu nếu có, cũng không có tác dụng thủ đắc chủ quyền tại các hải đảo. Từ thế kỷ l5, các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha như Vasco de Gama và Magellan đã đi xuyên 3 đại dương từ Đại Tây Dương, vượt Ấn Độ Dương qua Thái Bình Dương, khám phá hàng ngàn hải đảo kể cả Phi Luật Tân và Guam. Nhưng Bồ Đào Nha cũng không đòi chủ quyền các hải đảo này.
2. Danh xưng Nam Hải.
Theo chính các học giả Trung Hoa, Nam Hải là tên biển của Hoa Nam, cách Quảng Đông 50 dậm về phía Nam. Các nhà hàng hải Tây Phương muốn cho tiện nên gọi đó là Biển Nam Hoa (South China Sea) (ngọai nhân xưng Nam Trung Quốc Hải).
Theo Tự Điển Tối Tân Thực Dụng Hán Anh xuất bản tại Hồng Kông năm 1971 thì “Nam Hải là vùng biển kéo dài từ Eo Biển Đài Loan đến Quảng Đông”. (The Southern Sea stretching from the Taiwan Straits to Kwantung.)
Theo Từ Điển Từ Hải xuất bản năm 1948, thì Nam Hải thuộc chủ quyền hải phận chung của 5 nước là Trung Hoa, Việt Nam, Mã Lai, Phi Luật Tân và Đài Loan.
DO ĐÓ NAM HẢI KHÔNG PHẢI LÀ BIỂN CỦA TRUNG HOA VỀ PHÍA NAM. CŨNG NHƯ ẤN ĐỘ DƯƠNG KHÔNG PHẢI LÀ ĐẠI DƯƠNG CỦA ẤN ĐỘ.
Năm 1983, Trung Quốc vẽ lại bản đồ, đòi chủ quyền hải phận toàn thể vùng biển Đông Nam Á. Họ coi Nam Hải là một thứ nội hảiï theo kiểu Đế Quốc La Mã coi Địa Trung Hải là biển của chúng tôi (Mare Nostrum).
3. Luật pháp và án lệ.
Theo Tòa Án Quốc Tế, biển lịch sử chỉ là nội hải. Hơn nữa, Điều 8 Công Ước về Luật Biển (l982) đã kết thúc mọi cuộc tranh luận khi quy định: “Biển lịch sử hay nội hải của một quốc gia nằm về phía đất liền, bên trong đường căn bản của biển lãnh thổ” [The International Court of Justice has defined historic waters as internal waters. “Waters on the landward side of the baseline of the territorial sea form part of the internal waters of the State” Art.8 Los Convention (1982)].
Như vậy Nam Hải không phải là Biển Lịch Sử của Trung Hoa, vì nó là ngoại hải và cách bờ biển Trung Hoa tới hai ngàn cây số.
Và công trình 10 năm nghiên cứu của 400 học giả Trung Quốc chỉ là công “dã tràng xe cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì!”
THỦ ĐẮC CHỦ QUYỀN DO CHIẾM CỨ
Theo công pháp quốc tế, muốn thủ đắc chủ quyền các đất vô chủ (terra nullius), sự chiếm cứ phải có những đặc tính sau đây:
a) Chiếm cứ thực sự
Tại Trường Sa trong số 28 cao địa, Trung Hoa chỉ chiếm 2 đá nổi, trong khi Việt Nam chiếm 13. Và trong hơn 50 đơn vị có địa danh, Trung Hoa chỉ chiếm 8, so với 22 của Việt Nam.
b) Chiếm cứ hòa bình.
Trong những năm 1974 và 1988 Trung Hoa dùng võ trang chiếm Hoàng Sa và một số đá, bãi tại Trường Sa. Tuy nhiên sự chiếm cứ không có tính hòa bình nên không được luật pháp bảo vệ. Cũng như thời Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật Bản chiếm Hoàng Sa và Trường Sa bằng võ lực nên không có chủ quyền hợp pháp.
c) Chiếm cứ liên tục và trường kỳ
Không có sự phủ nhận rằng ít nhất từ 1816, dưới đời vua Gia Long, Việt Nam đã chiếm cứ công khai, liên tục, hòa bình các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bia chủ quyền do người Pháp dựng năm 1938 có ghi rõ:
République Francaise (Cộng Hòa Pháp)
Empire d’Annam (Vương Quốc Việt Nam)
Archipel des Paracels (Quần Đảo Hoàng Sa)
1816 -Ile de Pattle 1938 (Đảo Hoàng Sa)
Lịch sử Trung Hoa không mang lại bằng chứng nào cho biết họ đã liên tục chiếm cứ Hoàng Sa, Trường Sa từ đời Hán Vũ Đế hay ít nhất từ đời Mãn Thanh.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, khi quân đội Nhật Bản rút lui, Trung Hoa chiếm một phần Hoàng Sa (Nhóm Tuyên Đức phía Đông Bắc). Năm 1974 họ dùng võ trang chiếm nốt Nhóm Nguyệt Thiềm phía Tây Nam. Tại Trường Sa lần đầu tiên, năm l988, họ chiếm một số đá, bãi bằng võ lư.c. Sự chiếm cứ này vô hiệu vì không có tính hòa bình. Vả lại tới l974 và l988 các đảo Hoàng Sa-Trường Sa đã do Việt Nam chiếm đóng, nên không thể coi là đất vô chủ (terra nullius).
d) Hơn nữa sự chiếm cứ phải được thừa nhận bởi các quốc gia liên hệ.
1) Năm 1951 tại Hội Nghị Cựu Kim Sơn, 51 quốc gia đồng minh ký Hiệp Ước Hòa Bình Nhật Bản trong đó Nhật Bản từ bỏ chủ quyền về Hoàng Sa Trường Sa, nhưng không nói để trả cho nước nào. Đại biểu Liên Xô yêu cầu Hội Nghị biểu quyết trả cho Trung Hoa. Nhưng Hội Nghị đã bác bỏ thỉnh cầu này với 46 phiếu chống. Sau đó phái đòan Việt Nam lên diễn đàn minh thị công bố chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa Trường Sa, và không gặp sự phản kháng nào.
2) Sự thừa nhận chỉ có nghĩa nếu xuất phát từ các quốc gia duyên hải liên hệ. Vì các đảo này tọa lạc tại Biển Đông Nam Á, nên chỉ các quốc gia Đông Nam Á mới có thẩm quyền thừa nhâ.n. Mà cho đến nay tất cả các quốc gia Đông Nam Á không nước nào thừa nhận chủ quyền của Trung Hoa tại Hoàng Sa Trường Sa.
3) Tuy nhiên Bắc Kinh còn viện dẫn văn thư ngày 14-9-1958 của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi Thủ Tướng Chu Ân Lai để chủ trương rằng Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Hoa tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Về mặt pháp lý sự thừa nhận này vô giá trị. Vì Trường Sa HoàngSa thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa. Vấn đề lãnh thổ và lãnh hải thuộc thẩm quyền của quốc dân do quốc hội đại diện, chứ không thuộc hành pháp là cơ quan chấp hành luật pháp của quốc hô.i. Vả lại Quốc Hội Việt Nam trong những năm 1956 và 1966 đã công bố chủ quyền của VN tại Hoàng Sa và Trường Sa. Một văn thư của Chính Phủ Hà Nội năm 1958 không có hiệu lực thừa nhận chủ quyền các hải đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa hồi đó.
THỀM LỤC ĐỊA
Vấn đề thực sự tại Trường Sa Hoàng Sa là vấn đề thềm lục địa nơi khai thác dầu khí.
Về Trường Sa.
Tại Trường Sa bãi dầu khí Tứ Chính (Vanguard) cách bờ biển Việt Nam khoảng 190 hải lý và cách bờ biển Trung Hoa lối 780 hải lý, nên thuộc thềm lục địa Việt Nam.
Về Hoàng Sa.
Hoàng Sa cách bờ biển Trung Hoa khoảng 270 hải lý và cách bờ biển Việt Nam lối 155 hải lý nên thuộc thềm lục đi.aViệt Nam. Khỏang cách từ cù lao Ré (Quảng Ngãi) ra đảo Tri Tôn chỉ có 123 hải lý. Về mặt địa hình đáy biển Hoàng Sa là sự tiếp nối tự nhiên của dẫy Trường Sơn từ đất liền chạy ra biển. Có thể nói Hoàng Sa là những bình nguyên của thềm lục địa Việt Nam trên mặt biển. Chiếu Luật Biển 1982 quyền của các quốc gia duyên hải tại thềm lục địa không tùy thuộc vào sự chiếm cứ (Điều 77). Do đó sự chiếm đóng võ trang của quân đội Trung Hoa không có tác dụng tước đoạt chủ quyền của Việt Nam tại thềm lục địa Hoàng Sa.
Theo công pháp quốc tế, muốn thủ đắc chủ quyền các đất vô chủ (terra nullius), sự chiếm cứ phải có những đặc tính sau đây:
a) Chiếm cứ thực sự
Tại Trường Sa trong số 28 cao địa, Trung Hoa chỉ chiếm 2 đá nổi, trong khi Việt Nam chiếm 13. Và trong hơn 50 đơn vị có địa danh, Trung Hoa chỉ chiếm 8, so với 22 của Việt Nam.
b) Chiếm cứ hòa bình.
Trong những năm 1974 và 1988 Trung Hoa dùng võ trang chiếm Hoàng Sa và một số đá, bãi tại Trường Sa. Tuy nhiên sự chiếm cứ không có tính hòa bình nên không được luật pháp bảo vệ. Cũng như thời Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật Bản chiếm Hoàng Sa và Trường Sa bằng võ lực nên không có chủ quyền hợp pháp.
c) Chiếm cứ liên tục và trường kỳ
Không có sự phủ nhận rằng ít nhất từ 1816, dưới đời vua Gia Long, Việt Nam đã chiếm cứ công khai, liên tục, hòa bình các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bia chủ quyền do người Pháp dựng năm 1938 có ghi rõ:
République Francaise (Cộng Hòa Pháp)
Empire d’Annam (Vương Quốc Việt Nam)
Archipel des Paracels (Quần Đảo Hoàng Sa)
1816 -Ile de Pattle 1938 (Đảo Hoàng Sa)
Lịch sử Trung Hoa không mang lại bằng chứng nào cho biết họ đã liên tục chiếm cứ Hoàng Sa, Trường Sa từ đời Hán Vũ Đế hay ít nhất từ đời Mãn Thanh.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, khi quân đội Nhật Bản rút lui, Trung Hoa chiếm một phần Hoàng Sa (Nhóm Tuyên Đức phía Đông Bắc). Năm 1974 họ dùng võ trang chiếm nốt Nhóm Nguyệt Thiềm phía Tây Nam. Tại Trường Sa lần đầu tiên, năm l988, họ chiếm một số đá, bãi bằng võ lư.c. Sự chiếm cứ này vô hiệu vì không có tính hòa bình. Vả lại tới l974 và l988 các đảo Hoàng Sa-Trường Sa đã do Việt Nam chiếm đóng, nên không thể coi là đất vô chủ (terra nullius).
d) Hơn nữa sự chiếm cứ phải được thừa nhận bởi các quốc gia liên hệ.
1) Năm 1951 tại Hội Nghị Cựu Kim Sơn, 51 quốc gia đồng minh ký Hiệp Ước Hòa Bình Nhật Bản trong đó Nhật Bản từ bỏ chủ quyền về Hoàng Sa Trường Sa, nhưng không nói để trả cho nước nào. Đại biểu Liên Xô yêu cầu Hội Nghị biểu quyết trả cho Trung Hoa. Nhưng Hội Nghị đã bác bỏ thỉnh cầu này với 46 phiếu chống. Sau đó phái đòan Việt Nam lên diễn đàn minh thị công bố chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa Trường Sa, và không gặp sự phản kháng nào.
2) Sự thừa nhận chỉ có nghĩa nếu xuất phát từ các quốc gia duyên hải liên hệ. Vì các đảo này tọa lạc tại Biển Đông Nam Á, nên chỉ các quốc gia Đông Nam Á mới có thẩm quyền thừa nhâ.n. Mà cho đến nay tất cả các quốc gia Đông Nam Á không nước nào thừa nhận chủ quyền của Trung Hoa tại Hoàng Sa Trường Sa.
3) Tuy nhiên Bắc Kinh còn viện dẫn văn thư ngày 14-9-1958 của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi Thủ Tướng Chu Ân Lai để chủ trương rằng Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Hoa tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Về mặt pháp lý sự thừa nhận này vô giá trị. Vì Trường Sa HoàngSa thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa. Vấn đề lãnh thổ và lãnh hải thuộc thẩm quyền của quốc dân do quốc hội đại diện, chứ không thuộc hành pháp là cơ quan chấp hành luật pháp của quốc hô.i. Vả lại Quốc Hội Việt Nam trong những năm 1956 và 1966 đã công bố chủ quyền của VN tại Hoàng Sa và Trường Sa. Một văn thư của Chính Phủ Hà Nội năm 1958 không có hiệu lực thừa nhận chủ quyền các hải đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa hồi đó.
THỀM LỤC ĐỊA
Vấn đề thực sự tại Trường Sa Hoàng Sa là vấn đề thềm lục địa nơi khai thác dầu khí.
Về Trường Sa.
Tại Trường Sa bãi dầu khí Tứ Chính (Vanguard) cách bờ biển Việt Nam khoảng 190 hải lý và cách bờ biển Trung Hoa lối 780 hải lý, nên thuộc thềm lục địa Việt Nam.
Về Hoàng Sa.
Hoàng Sa cách bờ biển Trung Hoa khoảng 270 hải lý và cách bờ biển Việt Nam lối 155 hải lý nên thuộc thềm lục đi.aViệt Nam. Khỏang cách từ cù lao Ré (Quảng Ngãi) ra đảo Tri Tôn chỉ có 123 hải lý. Về mặt địa hình đáy biển Hoàng Sa là sự tiếp nối tự nhiên của dẫy Trường Sơn từ đất liền chạy ra biển. Có thể nói Hoàng Sa là những bình nguyên của thềm lục địa Việt Nam trên mặt biển. Chiếu Luật Biển 1982 quyền của các quốc gia duyên hải tại thềm lục địa không tùy thuộc vào sự chiếm cứ (Điều 77). Do đó sự chiếm đóng võ trang của quân đội Trung Hoa không có tác dụng tước đoạt chủ quyền của Việt Nam tại thềm lục địa Hoàng Sa.
CÁC TIÊU CHUẨN:
Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc và Toà Án Quốc Tế đưa ra 10 tiêu chuẩn để phân ranh hải phận hay đồng hóa hải đảo vào lục địa:
1) Vị trí của các đảo đối với bờ biển tiếp câ.n. Tại vùng Hoàng Sa, đảo Tri Tôn chỉ cách lục địa Việt Nam 135 hải lý, trong khi đảo Hoàng Sa cách lục địa Trung Hoa tới 270 hải lý.
2) Diện tích các hải đảo so sánh với chiều dài bờ biển tiếp câ.n. Đảo Hoàng Sa quá nhỏ bé (0.56km2) chỉ bằng 1/1000 đảo Phú Quốc (568km2), trong khi bờ biển Việt Nam dài gấp 10 lần bờ đảo Hải Nam phía tiếp giáp Hoàng Sa.
3) Về độ sâu và địa hình đáy biển, các đảo, cồn, đá, bãi Hoàng Sa và Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên từ lục địa Việt Nam ra biển. Độ sâu tại Hoàng Sa là 900m và tại Trường Sa là 200m. Từ Hoàng Sa Trường Sa về Hoa Lục có 2 rãnh biển sâu hơn 2300m và 4600m.
4) Về mặt địa chất, sau 2 năm nghiên cứu và đo đạc, năm 1925 Tiến Sĩ Khoa Học A. Krempt xác nhận rằng “Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam “.
5) Về dân số, các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa không có
thường dân cư ngụ, và không thể tự túc về kinh tế. Trong khi đó số dân cư ngụ tại miền bờ biển Việt Nam đông gấp mười số dân sinh sống tại đảo Hải Nam.
6) Về sinh thực học và khí hậu tại Hoàng Sa và Trường Sa, các đảo san hô cũng như cây cỏ và sinh vật tiêu biểu cho vùng nhiệt đới (Việt Nam ), chứ không thấy ở vùng ôn đới (Trung Hoa).
7) Về Khu Đặc Quyền Kinh Tế (để đánh cá), Biển Đông (với Hoàng Sa và Trường Sa) là khu vực đánh cá căn bản của Việt Nam. Trong khi đó, ngoài hải phận về phía Tây, Đảo Hải Nam còn được thêm 200 hải lý để đánh cá về phía Đông thông qua Thái Bình Dương,.
8) Tại thềm lục địa Việt Nam những vùng có dầu khí nằm giữa Vịnh Bắc Việt và khu bãi Tứ Chính phía Đông Nam Cà Mau. Đây là nơi kết tầng các thủy tra thạch chứa đựng các chất hữu cơ do nước phù sa sông Hồng Hà và sông Cửu Long đổ ra biển từ hàng triệu năm nay. Do đó dầu khí nếu có là do các chất hữu cơ từ lục địa Việt Nam chứ không phải từ Hoa Lu.c. Hơn nữa, ngoài hải phận về phía Tây, Đảo Hải Nam còn được 200 hải lý thềm lục địa để khai thác dầu khí về phía Đông thông qua Thái Bình Dương.
9) Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa có ảnh hưởng kinh tế, chiến lược và an ninh quốc phòng mật thiết với Việt Nam hơn là Trung Hoa. Vì Trung Hoa còn có biển Hoàng Hải và Đông Trung Quốc Hải chạy thông qua Thái Bình Dương.
10) Các tài liệu, sách báo, họa đồ, các chứng tích lịch sử v...v...
phải có tính xác thư.c. Dầu sao các tài liệu này không có giá trị bằng các yếu tố khách quan khoa học như địa lý, địa hình, địa chất, dân số, sinh thực học, khí hậu cùng những yếu tố về ảnh hưởng kinh tế, chiến lược và an ninh quốc phòng.
Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc và Toà Án Quốc Tế đưa ra 10 tiêu chuẩn để phân ranh hải phận hay đồng hóa hải đảo vào lục địa:
1) Vị trí của các đảo đối với bờ biển tiếp câ.n. Tại vùng Hoàng Sa, đảo Tri Tôn chỉ cách lục địa Việt Nam 135 hải lý, trong khi đảo Hoàng Sa cách lục địa Trung Hoa tới 270 hải lý.
2) Diện tích các hải đảo so sánh với chiều dài bờ biển tiếp câ.n. Đảo Hoàng Sa quá nhỏ bé (0.56km2) chỉ bằng 1/1000 đảo Phú Quốc (568km2), trong khi bờ biển Việt Nam dài gấp 10 lần bờ đảo Hải Nam phía tiếp giáp Hoàng Sa.
3) Về độ sâu và địa hình đáy biển, các đảo, cồn, đá, bãi Hoàng Sa và Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên từ lục địa Việt Nam ra biển. Độ sâu tại Hoàng Sa là 900m và tại Trường Sa là 200m. Từ Hoàng Sa Trường Sa về Hoa Lục có 2 rãnh biển sâu hơn 2300m và 4600m.
4) Về mặt địa chất, sau 2 năm nghiên cứu và đo đạc, năm 1925 Tiến Sĩ Khoa Học A. Krempt xác nhận rằng “Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam “.
5) Về dân số, các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa không có
thường dân cư ngụ, và không thể tự túc về kinh tế. Trong khi đó số dân cư ngụ tại miền bờ biển Việt Nam đông gấp mười số dân sinh sống tại đảo Hải Nam.
6) Về sinh thực học và khí hậu tại Hoàng Sa và Trường Sa, các đảo san hô cũng như cây cỏ và sinh vật tiêu biểu cho vùng nhiệt đới (Việt Nam ), chứ không thấy ở vùng ôn đới (Trung Hoa).
7) Về Khu Đặc Quyền Kinh Tế (để đánh cá), Biển Đông (với Hoàng Sa và Trường Sa) là khu vực đánh cá căn bản của Việt Nam. Trong khi đó, ngoài hải phận về phía Tây, Đảo Hải Nam còn được thêm 200 hải lý để đánh cá về phía Đông thông qua Thái Bình Dương,.
8) Tại thềm lục địa Việt Nam những vùng có dầu khí nằm giữa Vịnh Bắc Việt và khu bãi Tứ Chính phía Đông Nam Cà Mau. Đây là nơi kết tầng các thủy tra thạch chứa đựng các chất hữu cơ do nước phù sa sông Hồng Hà và sông Cửu Long đổ ra biển từ hàng triệu năm nay. Do đó dầu khí nếu có là do các chất hữu cơ từ lục địa Việt Nam chứ không phải từ Hoa Lu.c. Hơn nữa, ngoài hải phận về phía Tây, Đảo Hải Nam còn được 200 hải lý thềm lục địa để khai thác dầu khí về phía Đông thông qua Thái Bình Dương.
9) Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa có ảnh hưởng kinh tế, chiến lược và an ninh quốc phòng mật thiết với Việt Nam hơn là Trung Hoa. Vì Trung Hoa còn có biển Hoàng Hải và Đông Trung Quốc Hải chạy thông qua Thái Bình Dương.
10) Các tài liệu, sách báo, họa đồ, các chứng tích lịch sử v...v...
phải có tính xác thư.c. Dầu sao các tài liệu này không có giá trị bằng các yếu tố khách quan khoa học như địa lý, địa hình, địa chất, dân số, sinh thực học, khí hậu cùng những yếu tố về ảnh hưởng kinh tế, chiến lược và an ninh quốc phòng.
VỀ VỊNH BẮC VIỆT
Vấn đề phân ranh thềm lục địa hay hải phận tại Vịnh Bắc Việt cũng phải được giải quyết theo 8 tiêu chuẩn: 1) Vị trí và sự hiện diện của các đảo 2) chiều dài bờ biển 3) mật độ dân số 4) độ sâu và địa hình đáy biển 5) địa chất 6) vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá 7) thềm lục địa để khai thác dầu khí 8) ảnh hưởng kinh tế, chiến lược và an ninh quốc phòng.
Đây là những điểm đặc thù ảnh hưởng đến việc phân định lãnh hải. Nếu đưa nội vụ ra trước Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa, Tòa Án Trọng Tài hay Tòa Án Quốc Tế, Việt Nam sẽ có ưu thế.
Vấn đề phân ranh thềm lục địa hay hải phận tại Vịnh Bắc Việt cũng phải được giải quyết theo 8 tiêu chuẩn: 1) Vị trí và sự hiện diện của các đảo 2) chiều dài bờ biển 3) mật độ dân số 4) độ sâu và địa hình đáy biển 5) địa chất 6) vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá 7) thềm lục địa để khai thác dầu khí 8) ảnh hưởng kinh tế, chiến lược và an ninh quốc phòng.
Đây là những điểm đặc thù ảnh hưởng đến việc phân định lãnh hải. Nếu đưa nội vụ ra trước Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa, Tòa Án Trọng Tài hay Tòa Án Quốc Tế, Việt Nam sẽ có ưu thế.
KẾ HOẠCH THÔN TÍNH BIỂN ĐÔNG CỦA TRUNG
QUỐC
Theo Công Ước về Luật Biển, các quốc gia duyên hải chỉ có 200 hải lý, vừa là vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá, vừa là thềm lục địa để khai thác dầu khí. Trong khi đó Hoàng Sa tọa lạc ngoài lục địa Trung Hoa khoảng 270 hải lý, và Trường Sa cách Hoa Lục lối 750 hải lý, nên không thuộc hải phận của Trung Quốc.
Đuối lý về pháp luật, Trung Quốc đưa ra thuyết Biển Lịch Sử để đòi chủ quyền toàn vùng Nam Hải.
Tuy nhiên Tòa Án Quốc Tế và Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển đã bác bỏ thuyết này.
Thất bại trong thuyết Biển Lịch Sử, Trung Quốc đề ra kế hoạch 4 bước để thôn tính Biển Đông về kinh tế:
1) Ký Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ để hủy bãi Hiệp Ước Bắc Kinh (theo đó Việt Nam được 63% hải phận và Trung Hoa được 37%).
Nếu theo đường trung tuyến, Việt Nam sẽ được 53%. Tuy nhiên trên thực tế, phe Cộng Sản không theo đường trung tuyến và đã đưa ra 21 điểm phân định theo đó Việt Nam chỉ còn 45%.
2) Ký Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá để thiết lập Vùng Đánh Cá Chung rộng 61 hải lýù. Và trên thực tế Việt Nam chỉ còn 25% tại vĩ tuyến 17 và 32% tại vĩ tuyến 20. Với các tầu đánh cá lớn trọng tải trên 100 tấn, với các lưới cá dài 50 hải lý, và nhất là với sự đồng lõa cấu kết của đội tuần cảnh duyên hải, toàn thể Vịnh Bắc Việt sẽ biến thành khu vực đánh cá tự do cho đội kình ngư Trung Quốc mặc sức tận thu, vét sạch, và cạn tầu ráo máng.
3) Từ đánh cá chung đến hợp tác khai thác dầu khí chỉ còn một bước. Trong Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt có điều khoản quy định rằng, khi dầu khí được phát hiện, hai bên sẽ khởi sự hợp tác khai thác dầu khí.
Ngày nay tại Vịnh Bắc Việt, Trung Quốc đề ra nhiều dự án thăm dò và khai thác dầu khí, như “Dự Án Quỳnh Hải” phía Tây đảo Hải Nam và “Dự Án Vịnh Bắc Bộ” phía Bắc vĩ tuyến 20. (Khi dùng danh xưng “Vịnh Bắc Bộ”, Trung Quốc mặc nhiên nhìn nhận đó là Vịnh của Việt Nam về phía Bắc. Vì nếu là củaTrung Quốc thì phải gọi là Vịnh Nam Bộ mới đúng địa lý).
4) Với chính sách vết dầu loang, sau khi hoàn thành kế hoạch hợp tác đánh cá và khai thác dầu khí chung tại Vịnh Bắc Việt, hai bên sẽ tiến tới việc hợp tác đánh cá và khai thác dầu khí chung tại miền duyên hải Trung và Nam Viê.t. Điều đáng lưu ý là vùng lãnh hải này thuộc khu đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam nên thuộc chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam.
Bằng kế hoạch thôn tính 4 bước, Bắc Kinh buộc Hà Nội hiến dâng toàn thể lãnh hải Việt Nam từ Vịnh Bắc Việt đến miền duyên hải Trung và Nam Việt tại Hoàng Sa Trường Sa theo lời cam kết của Hồ Chí Minh (Phạm Văn Đồng chỉ là kẻ thừa sai, bất lực, không có cả quyền bổ nhiệm một thứ trưởng theo lời tự thú của đương sự).
Như vậy, thuyết Biển Lịch Sử từng bị Tòa Án Quốc Tế và Công Ước về Luật Biển bác bỏ, nay lại có cơ hội trở thành hiện thực do kế hoạch 4 bước của Trung Quốc để thôn tính Biển Đông.
Theo Công Ước về Luật Biển, các quốc gia duyên hải chỉ có 200 hải lý, vừa là vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá, vừa là thềm lục địa để khai thác dầu khí. Trong khi đó Hoàng Sa tọa lạc ngoài lục địa Trung Hoa khoảng 270 hải lý, và Trường Sa cách Hoa Lục lối 750 hải lý, nên không thuộc hải phận của Trung Quốc.
Đuối lý về pháp luật, Trung Quốc đưa ra thuyết Biển Lịch Sử để đòi chủ quyền toàn vùng Nam Hải.
Tuy nhiên Tòa Án Quốc Tế và Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển đã bác bỏ thuyết này.
Thất bại trong thuyết Biển Lịch Sử, Trung Quốc đề ra kế hoạch 4 bước để thôn tính Biển Đông về kinh tế:
1) Ký Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ để hủy bãi Hiệp Ước Bắc Kinh (theo đó Việt Nam được 63% hải phận và Trung Hoa được 37%).
Nếu theo đường trung tuyến, Việt Nam sẽ được 53%. Tuy nhiên trên thực tế, phe Cộng Sản không theo đường trung tuyến và đã đưa ra 21 điểm phân định theo đó Việt Nam chỉ còn 45%.
2) Ký Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá để thiết lập Vùng Đánh Cá Chung rộng 61 hải lýù. Và trên thực tế Việt Nam chỉ còn 25% tại vĩ tuyến 17 và 32% tại vĩ tuyến 20. Với các tầu đánh cá lớn trọng tải trên 100 tấn, với các lưới cá dài 50 hải lý, và nhất là với sự đồng lõa cấu kết của đội tuần cảnh duyên hải, toàn thể Vịnh Bắc Việt sẽ biến thành khu vực đánh cá tự do cho đội kình ngư Trung Quốc mặc sức tận thu, vét sạch, và cạn tầu ráo máng.
3) Từ đánh cá chung đến hợp tác khai thác dầu khí chỉ còn một bước. Trong Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt có điều khoản quy định rằng, khi dầu khí được phát hiện, hai bên sẽ khởi sự hợp tác khai thác dầu khí.
Ngày nay tại Vịnh Bắc Việt, Trung Quốc đề ra nhiều dự án thăm dò và khai thác dầu khí, như “Dự Án Quỳnh Hải” phía Tây đảo Hải Nam và “Dự Án Vịnh Bắc Bộ” phía Bắc vĩ tuyến 20. (Khi dùng danh xưng “Vịnh Bắc Bộ”, Trung Quốc mặc nhiên nhìn nhận đó là Vịnh của Việt Nam về phía Bắc. Vì nếu là củaTrung Quốc thì phải gọi là Vịnh Nam Bộ mới đúng địa lý).
4) Với chính sách vết dầu loang, sau khi hoàn thành kế hoạch hợp tác đánh cá và khai thác dầu khí chung tại Vịnh Bắc Việt, hai bên sẽ tiến tới việc hợp tác đánh cá và khai thác dầu khí chung tại miền duyên hải Trung và Nam Viê.t. Điều đáng lưu ý là vùng lãnh hải này thuộc khu đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam nên thuộc chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam.
Bằng kế hoạch thôn tính 4 bước, Bắc Kinh buộc Hà Nội hiến dâng toàn thể lãnh hải Việt Nam từ Vịnh Bắc Việt đến miền duyên hải Trung và Nam Việt tại Hoàng Sa Trường Sa theo lời cam kết của Hồ Chí Minh (Phạm Văn Đồng chỉ là kẻ thừa sai, bất lực, không có cả quyền bổ nhiệm một thứ trưởng theo lời tự thú của đương sự).
Như vậy, thuyết Biển Lịch Sử từng bị Tòa Án Quốc Tế và Công Ước về Luật Biển bác bỏ, nay lại có cơ hội trở thành hiện thực do kế hoạch 4 bước của Trung Quốc để thôn tính Biển Đông.
XÂM LẤN VÀ THÔN TÍNH
Sau đây là tiến trình xâm lấn và thôn tính Biển Đông của Trung Quốc trong 60 năm qua.
Năm 1945, sau Thế Chiến II, quân đội Trung Hoa giải giới quân đội Nhật đã thừa cơ chiếm cứ các đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Tuyên Đức.
Năm 1946 Trung Hoa đổi tên vùng biển Nam Hải thành Đặc Khu Hành Chánh Hải Nam, và đổi tên Hoàng Sa thành Tây Sa và Trường Sa thành Nam Sa.
Năm 1956, để phát động chiến tranh võ trang thôn tính Miền Nam, Hà Nội phải trông cậy vào sự yểm trợ của Bắc Kinh. Vì sau cái chết của Stalin năm 1953, Liên Xô muốn chuyển sang đường lối Chung Sống Hòa Bình. Trong khi đó Mao Trạch Đông vẫn chủ trương “giải phóng 1000 triệu con người Á Châu khỏi ách Đế Quốc Tư Bản”.
Theo luật vay trả, muốn được cưu mang yểm trợ, phải có sự cam kết đền ơn trả nghĩa.
Ngày 15-6-1956, Ngoại Trưởng Ung Văn Khiêm minh thị tuyên bố:
“Hà Nội nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa”.
Ngày 14-9-1958 do văn thư của Phạm Văn Đồng gởi Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước, xác nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Để biện minh cho lập trường của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, một tháng sau khi Trung Quốc tiến chiếm Trường Sa, báo Nhân Dân, cơ quan chính thức của Đảng Cộng Sản, trong số ra ngày 26-4-1988 đã viết: “Trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược thì Việt Nam phải tranh thủ sự gắn bó của Trung Quốc, và ngăn chặn Hoa Kỳ sử dụng hai quần đảo nói trên”.
Và hồi tháng 5-1976, báo Saigon Giải Phóng trong bài bình luậân việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực năm 1974, đã viết: “Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là người thầy tin cẩn đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc cũng vậy thôi !”.
Cóù 3 lý do được viện dẫn cho lời cam kết của Hồ Chí Minh năm 1958:
a) Vì Hoàng Sa, Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 17-7 (Quảng Trị- Nam Cà Mâu) nên thuộc hải phận Việt Nam Cộng Hòa. Đối với Hà Nội nhượng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc trong thời điểm này chỉ là bán da gấu!
b) Sau này, do những tình cờ lịch sử, nếu Bắc Việt thôn tính được Miền Nam thì mấy hòn đảo san hô tại Biển Đông đâu có ăn nhằm gì so với toàn thể lãnh thổ Việt Nam?
c) Giả sử cuộc “giải phóng Miền Nam” không thành, thì việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa cũng có tác dụng làm suy yếu phe quốc gia về kinh tế, chiến lược và an ninh quốc phòng.
Năm 1972, sau thất bại Tết Mậu Thân (1968), để phát động chiến dịch Tổng Tấn Công Xuân Hạ hay Mùa Hè Đỏ Lửa, Hà Nội huy động toàn bộ các sư đoàn chính qui vào chiến trường Miền Nam. Để bảo vệ an ninh quốc ngoại chống sự phản kích của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ (như trong Chiến Tranh Triều Tiên), Hà Nội đã nhờ 300 ngàn quân Trung Quốc mặc quân phục Việt Nam đến trú đóng tại 6 tỉnh biên giới Bắc Viê.t.
Trong thời gian này, với thế thượng phong của người thầy cưu mang (và với sự ưng thuận mặc nhiên của Bắc Việt) Trung Quốc tự tiện ấn định Vùng Biển Cấm (Hands-Off Area) tại Vịnh Bắc Việt, cấm ngư dân Việt Nam không được lai vãng. Đây là vùng biển sâu giữa Vịnh có nhiều cá lớn và nhiều tiềm năng dầu khí.
Vùng Biển Cấm diện tích 7200 hải lý vuông, rộng 60 hải lý (1 kinh độ) từ kinh tuyến 107 Đông (phía Việt Nam) tới kinh tuyến 108 Đông (phía Hải Nam), và dài 120 hải lý (2 vĩ độ), từ vĩ tuyến 20 Bắc (Ninh Bình) đến vĩ tuyến 18 Bắc (Hà Tĩnh).
Theo lời thú nhận của Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng từ đầu thập niên 1970, trong những cuộc thương thảo phân định lãnh hải, Trung Quốc “kiên trì” đề nghị thiết lập vùng đánh cá chung tại Vịnh Bắc Viê.t.
Với Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt và Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá năm 2000, Vùng Biển Cấm 60 hải lý từ Ninh Bình đến Hà Tĩnh chồng lấn hay trùng điệp với Vùng Đánh Cá Chung 61 hải lý từ Ninh Bình đến Quảng Bình.
Năm 1974 sau khi Hoa Kỳ rút quân khỏi chiến trường Việt Nam, Trung Quốc thừa cơ chiếm nốt các đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Nguyệt Thiềm. Nếu hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh chiến đấu thì Bắc Việt chỉ làm thinh. Rồi trơ trẽn ngụy biện: “Chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc cũng vậy thôi !” (Báo Saigon Giải Phóng).
Năm 1979 Chiến Tranh Việt Trung bùng nổ làm đình hoãn cuộc thương nghị về lãnh thổ và lãnh hải.
Tranh chấp Việt Trung kéo dài từ 1979 đến 1988. Trong thời gian này, ngày 12-11-1982 bằng văn thư gởi Liên Hiệp Quốc để công bố Đường Căn Bản của Biển Lãnh Thổ, Hà Nội đã xác định chủ quyền lãnh thổ Vịnh Bắc Việt theo Hiệp Ước Bắc Kinh (1887) theo đó Việt Nam được 63%.
Từ 1988, khi Liên Xô bị sa lầy tại A Phú Hãn và bị bối rối tại Đông Âu do phong trào Giải Thể Cộng Sản, Gorbachev đưa ra chủ trương không can thiệp vào công việc của các quốc gia đồng minh. Lúc này Hà Nội cũng bị sa lầy tại Căm Bốt. Vì Liên Xô không còn là chỗ tựa, Hà Nội phải muối mặt quay lại thần phục Bắc Kinh. Tháng 4, 1988, một tháng sau khi Trung Quốc xâm lấn Trường Sa, Báo Nhân Dân còn ngụy biện rằng Việt Nam đã nhượng Hoàng Sa Trường Sa cho Trung Quốc để ngăn chận Hoa Kỳ sử dụng hai quần đảo nói trên!
Năm 1991 khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam xin tái lập bang giao với Trung Quốc. Và năm 1992 khi Trung Quốc chiếm bãi dầu khí Vạn An phía Đông Nam Cà Mau, Việt Nam cũng chỉ phản kháng chiếu lệ.
Năm 1999, với Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung, Việt Nam nhượng cho Trung Quốc khoảng 800 km2 lãnh thổ Bắc Viê.t.
Năm 2000, với Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt, Hà Nội nhượng cho Bắc Kinh từ 12.000 km2 đến 21.000 km2 hải phâ.n.
Ngày 25-12-2004 các phái bộ Trung-Việt tổ chức liên hoan ngày kỷ niệm 4 năm ký kết Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt và Hiệp Ước Hợp tác Nghề Cá.
Hai ngày sau, ngày 27-12-2004, nhà cầm quyền Bắc Kinh loan báo đã bắt giữ 80 ngư phủ Việt Nam về tội xâm nhập đánh cá bất hợp pháp. Các ngư phủ phản đối, nói họ vẫn truyền nối hành nghề đánh cá tại vùng biển này từ đời ông, đời cha. Nhưng lính tuần duyên Trung Quốc trả lời đã có hiệp định mới, và vùng biển này chính thức thuộc về Trung Quốc. Các ngư phủ không chịu, đòi báo cáo lên đội biên phòng Việt Nam. Lính hải quân Trung Quốc cười ngạo nghễ, ném thuốc nổ gần tàu, rồi lái tầu tuần duyên tông vô các tàu đánh cá khiến 23 ngư dân Việt Nam tại Đà Nẵng và Quảng Ngãi bị chết chìm, 6 người bị thương và 10 tàu đánh cá bị hư hỏng. Một số ngư dân khác tại Bình Định và Khánh Hòa cũng bị xua đuổi không được đến đánh cá tại ngoài khơi vùng biển Hoàng Sa. Những vụ sát hại dã man này không được phổ biến trên báo chí.
Hai tuần sau, ngày 8-01-2005, tại Vịnh Bắc Bộ, các tàu tuần duyên Trung Quốc bao vây và bắn xối xả vào các tàu đánh cá Việt Nam khiến 9 ngư dân Thanh Hóa bị thiệt mạng, 7 người bị thương và 8 người khác bị bắt đem đi.
Khi nội vụ phát giác, nhà cầm quyền Hà Nội còn muốn đổ tội cho “bọn hải tặc”. Trong khi đó, một vài tờ báoViệt Nam lại loan tin các ngư phủ Việt Nam bị “tàu nước ngoài" bao vây và dùng súng bắn xối xả. Và các hãng thông tấn ngoại quốc như AFP, Reuters đã xác định rằng đó chính là những tàu tuần duyên Trung Quốc. Vậy mà nhà cầm quyền Hà Nội chỉ dám phản kháng lấy lệ, chỉ lên án những hành động tự phát của các binh sĩ Trung Quốc và yêu cầu trừng phạt những cá nhân phạm pháp.
Thực ra đây không phải là những hành vi tự phát lẻ loi của một số binh sĩ vô trách nhiệm mà là cả một chính sách khủng bố của Trung Quốc để ngăn cấm ngư dân Việt Nam không được đến đánh cá tại vùng biển sâu, dành cho Trung Quốc độc quyền đánh cá, thăm dò và khai thác dầu khí. Hồi tháng 11, 2004, Trung Cộng còn ngang nhiên đưa một giàn khoan dầu khí từ Thượng Hải vào thềm lục địa Việt Nam chỉ cách bờ biển 63 km.
Ngày nay mọi người mới nhìn thấy ý đồ của Trung Quốc: Vùng Đánh Cá Chung quy định trong Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá chỉ là sự biến hình của Vùng Biển Cấm, cấm địa hay cấm hải do Trung Quốc ấn định từ đầu thập niên 1970. Mãi tới tháng 8, 2002 chính phủ Việt Nam mới lên tiếng phản đối việc Trung Quốc ấn định Vùng Biển Cấm đánh cá tại Vùng Đánh Cá Chung.
Từ sau ngày 30-6-2004 khi Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt và Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá có hiệu lực thi hành, Trung Quốc tự ban cho họ độc quyền thao túng tại Vùng Biển Cấm trong Vịnh BắcViệt cũng như tại miền duyên hải Trung Viê.t. Theo ghi nhận của đội biên phòng Việt Nam, nội trong năm 2004, riêng tại vùng biển Đà Nẵng, các tàu thuyền Trung Quốc đã xâm nhập hải phận Việt Nam 1017 lần. Vậy mà không thấy có phản ứng nào về phía Việt Nam.
Thừa thắng xông lên, từ tháng 10 đến tháng 12/2004, lính hải quân Trung Quốc đã sát hại 23 ngư dân Đà Nẵng và Quảng Ngãi.
Ngày 8-1-2005, các tàu tuần duyên Trung Quốc lại dùng đại liên bắn chết 9 ngư dân Thanh Hóa trong Vùng Biển Cấm tại Vịnh Bắc Viê.t. Đây là những hành động cố sát có dự mưu trong đó Việt Cộng là kẻ đồng lõa bằng cách giúp phương tiê.n.
Một tuần sau vụ khủng bố 8-1-2005, Trung Quốc đổi giọng, bịa đặt rằng lực lượng tuần duyên Trung Quốc chỉ bắn chết những kẻ cướp có vũ khí khi những người này định cướp tàu đánh cá của Trung Quốc. Độc đáo hơn nữa, các tàu đánh cá (tí hon) của Việt Nam đã nổ súng trước vào các tàu tuần duyên (có trang bị súng đại liên) của Trung Quốc! Vừa đánh trống vùa ăn cướp, Trung Quốc muốn biến vụ cố sát của họ thành vụ cướp biển của hải tặc để đòi quyền tự vệ chính đáng. Theo qui định của Ủy Ban Liên Hợp, đối với các ngư dân hoạt động bình thường, các tàu biên phòng không được dùng võ khí để hăm dọa, bạo hành, đả thương hay cố sát. Các biện pháp xử lý chỉ có tính cách hành chánh như bắt giữ các ngư thuyền vi phạm qui luật, nhưng phải trả tàu và trả tự do cho ngư dân khi có sự bảo lãnh thích đáng.
Trong vụ khủng bố tại Vịnh Bắc Việt và vùng biển Hoàng Sa, lính tuần duyên Trung Quốc đã giết người vô tội vạ trong chính sách “sát nhất nhân, vạn nhân cụ” (giết một số ngư dân vô tội khiến hàng vạn người khác sợ không dám đi đánh cá tại miền duyên hải xa bờ).
Sau đây là tiến trình xâm lấn và thôn tính Biển Đông của Trung Quốc trong 60 năm qua.
Năm 1945, sau Thế Chiến II, quân đội Trung Hoa giải giới quân đội Nhật đã thừa cơ chiếm cứ các đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Tuyên Đức.
Năm 1946 Trung Hoa đổi tên vùng biển Nam Hải thành Đặc Khu Hành Chánh Hải Nam, và đổi tên Hoàng Sa thành Tây Sa và Trường Sa thành Nam Sa.
Năm 1956, để phát động chiến tranh võ trang thôn tính Miền Nam, Hà Nội phải trông cậy vào sự yểm trợ của Bắc Kinh. Vì sau cái chết của Stalin năm 1953, Liên Xô muốn chuyển sang đường lối Chung Sống Hòa Bình. Trong khi đó Mao Trạch Đông vẫn chủ trương “giải phóng 1000 triệu con người Á Châu khỏi ách Đế Quốc Tư Bản”.
Theo luật vay trả, muốn được cưu mang yểm trợ, phải có sự cam kết đền ơn trả nghĩa.
Ngày 15-6-1956, Ngoại Trưởng Ung Văn Khiêm minh thị tuyên bố:
“Hà Nội nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa”.
Ngày 14-9-1958 do văn thư của Phạm Văn Đồng gởi Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước, xác nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Để biện minh cho lập trường của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, một tháng sau khi Trung Quốc tiến chiếm Trường Sa, báo Nhân Dân, cơ quan chính thức của Đảng Cộng Sản, trong số ra ngày 26-4-1988 đã viết: “Trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược thì Việt Nam phải tranh thủ sự gắn bó của Trung Quốc, và ngăn chặn Hoa Kỳ sử dụng hai quần đảo nói trên”.
Và hồi tháng 5-1976, báo Saigon Giải Phóng trong bài bình luậân việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực năm 1974, đã viết: “Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là người thầy tin cẩn đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc cũng vậy thôi !”.
Cóù 3 lý do được viện dẫn cho lời cam kết của Hồ Chí Minh năm 1958:
a) Vì Hoàng Sa, Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 17-7 (Quảng Trị- Nam Cà Mâu) nên thuộc hải phận Việt Nam Cộng Hòa. Đối với Hà Nội nhượng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc trong thời điểm này chỉ là bán da gấu!
b) Sau này, do những tình cờ lịch sử, nếu Bắc Việt thôn tính được Miền Nam thì mấy hòn đảo san hô tại Biển Đông đâu có ăn nhằm gì so với toàn thể lãnh thổ Việt Nam?
c) Giả sử cuộc “giải phóng Miền Nam” không thành, thì việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa cũng có tác dụng làm suy yếu phe quốc gia về kinh tế, chiến lược và an ninh quốc phòng.
Năm 1972, sau thất bại Tết Mậu Thân (1968), để phát động chiến dịch Tổng Tấn Công Xuân Hạ hay Mùa Hè Đỏ Lửa, Hà Nội huy động toàn bộ các sư đoàn chính qui vào chiến trường Miền Nam. Để bảo vệ an ninh quốc ngoại chống sự phản kích của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ (như trong Chiến Tranh Triều Tiên), Hà Nội đã nhờ 300 ngàn quân Trung Quốc mặc quân phục Việt Nam đến trú đóng tại 6 tỉnh biên giới Bắc Viê.t.
Trong thời gian này, với thế thượng phong của người thầy cưu mang (và với sự ưng thuận mặc nhiên của Bắc Việt) Trung Quốc tự tiện ấn định Vùng Biển Cấm (Hands-Off Area) tại Vịnh Bắc Việt, cấm ngư dân Việt Nam không được lai vãng. Đây là vùng biển sâu giữa Vịnh có nhiều cá lớn và nhiều tiềm năng dầu khí.
Vùng Biển Cấm diện tích 7200 hải lý vuông, rộng 60 hải lý (1 kinh độ) từ kinh tuyến 107 Đông (phía Việt Nam) tới kinh tuyến 108 Đông (phía Hải Nam), và dài 120 hải lý (2 vĩ độ), từ vĩ tuyến 20 Bắc (Ninh Bình) đến vĩ tuyến 18 Bắc (Hà Tĩnh).
Theo lời thú nhận của Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng từ đầu thập niên 1970, trong những cuộc thương thảo phân định lãnh hải, Trung Quốc “kiên trì” đề nghị thiết lập vùng đánh cá chung tại Vịnh Bắc Viê.t.
Với Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt và Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá năm 2000, Vùng Biển Cấm 60 hải lý từ Ninh Bình đến Hà Tĩnh chồng lấn hay trùng điệp với Vùng Đánh Cá Chung 61 hải lý từ Ninh Bình đến Quảng Bình.
Năm 1974 sau khi Hoa Kỳ rút quân khỏi chiến trường Việt Nam, Trung Quốc thừa cơ chiếm nốt các đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm Nguyệt Thiềm. Nếu hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh chiến đấu thì Bắc Việt chỉ làm thinh. Rồi trơ trẽn ngụy biện: “Chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc cũng vậy thôi !” (Báo Saigon Giải Phóng).
Năm 1979 Chiến Tranh Việt Trung bùng nổ làm đình hoãn cuộc thương nghị về lãnh thổ và lãnh hải.
Tranh chấp Việt Trung kéo dài từ 1979 đến 1988. Trong thời gian này, ngày 12-11-1982 bằng văn thư gởi Liên Hiệp Quốc để công bố Đường Căn Bản của Biển Lãnh Thổ, Hà Nội đã xác định chủ quyền lãnh thổ Vịnh Bắc Việt theo Hiệp Ước Bắc Kinh (1887) theo đó Việt Nam được 63%.
Từ 1988, khi Liên Xô bị sa lầy tại A Phú Hãn và bị bối rối tại Đông Âu do phong trào Giải Thể Cộng Sản, Gorbachev đưa ra chủ trương không can thiệp vào công việc của các quốc gia đồng minh. Lúc này Hà Nội cũng bị sa lầy tại Căm Bốt. Vì Liên Xô không còn là chỗ tựa, Hà Nội phải muối mặt quay lại thần phục Bắc Kinh. Tháng 4, 1988, một tháng sau khi Trung Quốc xâm lấn Trường Sa, Báo Nhân Dân còn ngụy biện rằng Việt Nam đã nhượng Hoàng Sa Trường Sa cho Trung Quốc để ngăn chận Hoa Kỳ sử dụng hai quần đảo nói trên!
Năm 1991 khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam xin tái lập bang giao với Trung Quốc. Và năm 1992 khi Trung Quốc chiếm bãi dầu khí Vạn An phía Đông Nam Cà Mau, Việt Nam cũng chỉ phản kháng chiếu lệ.
Năm 1999, với Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung, Việt Nam nhượng cho Trung Quốc khoảng 800 km2 lãnh thổ Bắc Viê.t.
Năm 2000, với Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt, Hà Nội nhượng cho Bắc Kinh từ 12.000 km2 đến 21.000 km2 hải phâ.n.
Ngày 25-12-2004 các phái bộ Trung-Việt tổ chức liên hoan ngày kỷ niệm 4 năm ký kết Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt và Hiệp Ước Hợp tác Nghề Cá.
Hai ngày sau, ngày 27-12-2004, nhà cầm quyền Bắc Kinh loan báo đã bắt giữ 80 ngư phủ Việt Nam về tội xâm nhập đánh cá bất hợp pháp. Các ngư phủ phản đối, nói họ vẫn truyền nối hành nghề đánh cá tại vùng biển này từ đời ông, đời cha. Nhưng lính tuần duyên Trung Quốc trả lời đã có hiệp định mới, và vùng biển này chính thức thuộc về Trung Quốc. Các ngư phủ không chịu, đòi báo cáo lên đội biên phòng Việt Nam. Lính hải quân Trung Quốc cười ngạo nghễ, ném thuốc nổ gần tàu, rồi lái tầu tuần duyên tông vô các tàu đánh cá khiến 23 ngư dân Việt Nam tại Đà Nẵng và Quảng Ngãi bị chết chìm, 6 người bị thương và 10 tàu đánh cá bị hư hỏng. Một số ngư dân khác tại Bình Định và Khánh Hòa cũng bị xua đuổi không được đến đánh cá tại ngoài khơi vùng biển Hoàng Sa. Những vụ sát hại dã man này không được phổ biến trên báo chí.
Hai tuần sau, ngày 8-01-2005, tại Vịnh Bắc Bộ, các tàu tuần duyên Trung Quốc bao vây và bắn xối xả vào các tàu đánh cá Việt Nam khiến 9 ngư dân Thanh Hóa bị thiệt mạng, 7 người bị thương và 8 người khác bị bắt đem đi.
Khi nội vụ phát giác, nhà cầm quyền Hà Nội còn muốn đổ tội cho “bọn hải tặc”. Trong khi đó, một vài tờ báoViệt Nam lại loan tin các ngư phủ Việt Nam bị “tàu nước ngoài" bao vây và dùng súng bắn xối xả. Và các hãng thông tấn ngoại quốc như AFP, Reuters đã xác định rằng đó chính là những tàu tuần duyên Trung Quốc. Vậy mà nhà cầm quyền Hà Nội chỉ dám phản kháng lấy lệ, chỉ lên án những hành động tự phát của các binh sĩ Trung Quốc và yêu cầu trừng phạt những cá nhân phạm pháp.
Thực ra đây không phải là những hành vi tự phát lẻ loi của một số binh sĩ vô trách nhiệm mà là cả một chính sách khủng bố của Trung Quốc để ngăn cấm ngư dân Việt Nam không được đến đánh cá tại vùng biển sâu, dành cho Trung Quốc độc quyền đánh cá, thăm dò và khai thác dầu khí. Hồi tháng 11, 2004, Trung Cộng còn ngang nhiên đưa một giàn khoan dầu khí từ Thượng Hải vào thềm lục địa Việt Nam chỉ cách bờ biển 63 km.
Ngày nay mọi người mới nhìn thấy ý đồ của Trung Quốc: Vùng Đánh Cá Chung quy định trong Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá chỉ là sự biến hình của Vùng Biển Cấm, cấm địa hay cấm hải do Trung Quốc ấn định từ đầu thập niên 1970. Mãi tới tháng 8, 2002 chính phủ Việt Nam mới lên tiếng phản đối việc Trung Quốc ấn định Vùng Biển Cấm đánh cá tại Vùng Đánh Cá Chung.
Từ sau ngày 30-6-2004 khi Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt và Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá có hiệu lực thi hành, Trung Quốc tự ban cho họ độc quyền thao túng tại Vùng Biển Cấm trong Vịnh BắcViệt cũng như tại miền duyên hải Trung Viê.t. Theo ghi nhận của đội biên phòng Việt Nam, nội trong năm 2004, riêng tại vùng biển Đà Nẵng, các tàu thuyền Trung Quốc đã xâm nhập hải phận Việt Nam 1017 lần. Vậy mà không thấy có phản ứng nào về phía Việt Nam.
Thừa thắng xông lên, từ tháng 10 đến tháng 12/2004, lính hải quân Trung Quốc đã sát hại 23 ngư dân Đà Nẵng và Quảng Ngãi.
Ngày 8-1-2005, các tàu tuần duyên Trung Quốc lại dùng đại liên bắn chết 9 ngư dân Thanh Hóa trong Vùng Biển Cấm tại Vịnh Bắc Viê.t. Đây là những hành động cố sát có dự mưu trong đó Việt Cộng là kẻ đồng lõa bằng cách giúp phương tiê.n.
Một tuần sau vụ khủng bố 8-1-2005, Trung Quốc đổi giọng, bịa đặt rằng lực lượng tuần duyên Trung Quốc chỉ bắn chết những kẻ cướp có vũ khí khi những người này định cướp tàu đánh cá của Trung Quốc. Độc đáo hơn nữa, các tàu đánh cá (tí hon) của Việt Nam đã nổ súng trước vào các tàu tuần duyên (có trang bị súng đại liên) của Trung Quốc! Vừa đánh trống vùa ăn cướp, Trung Quốc muốn biến vụ cố sát của họ thành vụ cướp biển của hải tặc để đòi quyền tự vệ chính đáng. Theo qui định của Ủy Ban Liên Hợp, đối với các ngư dân hoạt động bình thường, các tàu biên phòng không được dùng võ khí để hăm dọa, bạo hành, đả thương hay cố sát. Các biện pháp xử lý chỉ có tính cách hành chánh như bắt giữ các ngư thuyền vi phạm qui luật, nhưng phải trả tàu và trả tự do cho ngư dân khi có sự bảo lãnh thích đáng.
Trong vụ khủng bố tại Vịnh Bắc Việt và vùng biển Hoàng Sa, lính tuần duyên Trung Quốc đã giết người vô tội vạ trong chính sách “sát nhất nhân, vạn nhân cụ” (giết một số ngư dân vô tội khiến hàng vạn người khác sợ không dám đi đánh cá tại miền duyên hải xa bờ).
TRƯỚC TÒA ÁN QUỐC DÂN
Tháng 6, 2004 khi các Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt có hiệu lực thi hành, thay mặt đồng bào trong nước không còn quyền được nói, Ủûy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền tại hải ngoại đã kết án Đảng Cộng Sản Việt Nam về 4 tội phản bội tổ quốc, với phần chủ văn như sau:
“Năm 1999 Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Biên Giới Việt Trung để nhượng đất biên giới cho Trung Quốc.
“Năm 2000, Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Phân Định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp Định Hợp Tác Nghề Cá để bán nước Biển Đông và dâng cá dâng dầu cho Trung Quốc.
“Năm 1958 bằng văn thư của Phạm Văn Đồng, Đảng Cộng Sản Việt Nam cam kết chuyển nhượng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
“Những hành vi này cấu thành 4 tội phản bội Tổ Quốc bằng cách cấu kết với nước ngoài nhằm xâm phạm chủ quyền của quốc gia, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc, và xâm phạm quyền của Quốc Dân được sử dụng đầy đủ những tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của Đất Nước”.
Trong hai ngày 28 và 29-1-2005, người Việt hải ngoại, khắp nơi trên thế giới đã tổ chức những cuộc mít tinh và biểu tình tuần hành trước các tòa Đại Sứ và Tổng Lãnh Sự Trung Quốc và Việt Nam để phản kháng những hành động xâm lăng và cố sát có dự mưu của Trung Quốc, đồng thời kết án Đảng Cộng Sản Việt Nam về những hành động phản bội tổ quốc và đồng lõa sát hại đồng bào bằng cách tạo cơ hội và giúp phương tiện cho kẻ chánh pha.m.
Tháng 6, 2004 khi các Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt có hiệu lực thi hành, thay mặt đồng bào trong nước không còn quyền được nói, Ủûy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền tại hải ngoại đã kết án Đảng Cộng Sản Việt Nam về 4 tội phản bội tổ quốc, với phần chủ văn như sau:
“Năm 1999 Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Biên Giới Việt Trung để nhượng đất biên giới cho Trung Quốc.
“Năm 2000, Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Phân Định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp Định Hợp Tác Nghề Cá để bán nước Biển Đông và dâng cá dâng dầu cho Trung Quốc.
“Năm 1958 bằng văn thư của Phạm Văn Đồng, Đảng Cộng Sản Việt Nam cam kết chuyển nhượng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
“Những hành vi này cấu thành 4 tội phản bội Tổ Quốc bằng cách cấu kết với nước ngoài nhằm xâm phạm chủ quyền của quốc gia, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc, và xâm phạm quyền của Quốc Dân được sử dụng đầy đủ những tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của Đất Nước”.
Trong hai ngày 28 và 29-1-2005, người Việt hải ngoại, khắp nơi trên thế giới đã tổ chức những cuộc mít tinh và biểu tình tuần hành trước các tòa Đại Sứ và Tổng Lãnh Sự Trung Quốc và Việt Nam để phản kháng những hành động xâm lăng và cố sát có dự mưu của Trung Quốc, đồng thời kết án Đảng Cộng Sản Việt Nam về những hành động phản bội tổ quốc và đồng lõa sát hại đồng bào bằng cách tạo cơ hội và giúp phương tiện cho kẻ chánh pha.m.
NGUYỄN MINH CẦN * HỒ CHÍ MINH
Vài Mẩu Chuyện Về Cuộc Đời Hồ Chí Minh
Nguyễn Minh Cần
(Cựu Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội)
Người viết bài này hy vọng góp thêm vài "mẩu chuyện" vào cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" của Trần Dân Tiên mà như lời giải thích miệng "từ Trên," khi cuốn sách được xuất bản lần đầu ở miền Bắc -- "tác giả của nó là một nhà báo nổi tiếng có cơ hội được biết rõ về thân thế của Người." Thực ra, hồi những năm 50, đại đa số cán bộ, chứ nói gì đến nhân dân, chưa hề nghe tên và không ai biết cái ông "nhà báo nổi tiếng" Trần Dân Tiên, tác giả cuốn sách "bất hủ" đó, là ai cả. Chỉ có một số rất ít cán bộ cao cấp thì thầm rỉ tai nhau về điều bí mật quốc gia: "... Chứ còn ai nữa!"
Mãi về sau này, qua hàng mấy thập niên, nhiều người mới ngã ngửa ra là ông tác giả "Chứ còn ai nữa!" đó, ông Trần Dân Tiên huyền thoại kia, chính là ông Nguyễn Tất Thành, cũng chính là ông Nguyễn Ái Quốc, và cuối cùng, cũng chính là... ông Hồ Chí Minh. Thế nhưng báo chí chính thức ở Việt Nam cho đến nay vẫn tiếp tục "giấu như mèo giấu c..." Theo tôi biết, hình như trong "thế giới" cộng sản, chỉ có hai lãnh tụ trực tiếp tham gia vào việc "xây dựng" tiểu sử của mình để lưu danh hậu thế là Stalin và Hồ Chí Minh. Tôi nói "hình như" vì không biết chính xác Kim Nhật Thành đã làm phù phép như thế nào với tiểu sử của ông ta. Nhà độc tài đẫm máu Stalin đã không trắng trợn tự tay viết tiểu sử của mình, mà giao cho một ban của Trung ương đảng, viết theo sự hướng dẫn của chính ông và cuối cùng ông "chỉ" hiệu đính tiểu sử của mình trước khi cho xuất bản. Còn "một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy..." (trí ch sách "Những mẩu chuyện...", tr. 7) thì... tự tay mình viết tiểu sử của mình để tự tôn vinh, tự đề cao chán chê, rồi "lập lờ đánh lận con đen" đặt tên tác giả là Trần Dân Tiên. Quả là một sự phỉ báng đối với lương tri con người!
Mặc dù thế, tôi xin thành thật khuyên các bạn, ai đã có cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" thì chớ vội nóng nảy vứt nó đi mà phí, trái lới, thỉnh thoảng nên đọc lại để thấy rõ hơn bức chân dung thật của người viết ra nó. đóଦ#224; tấm gương để đời!
Ngay từ đầu sách, bạn gặp đoạn này: "Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lới thân thế của mình." Hay một đoạn khác: "Tôi (lời Trần Dân Tiên huyền thoại) nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ýϠnghe. Sau khi nghe xong, Người cười và đáp: "Tiểu sử đấy là một ýϠkiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp kia đã! Còn tiểu sử của tôi... thong thả sẽ nói đến!" Thế rồi Trần Dân Tiên (!) kết luận: "Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lới cho tôi nghe bình sinh của Người được?" Hay là đoạói về thời gian "khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên mười lăm tuổi," thế mà cậu bé 15 tuổi ấy đã đủ hiểu biết, đủ láo xược để phê phán cả các bậc tiền bối là những anh hùng lịch sử vào hàng cha chú mình, như các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Hay một đoạn nữa: "Và nhân dân Việt Nam muôn người như một, nghe theo lời Hồ Chủ tịch, vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ Chủ tịch. Không có gì so sánh được lòng dân Việt Nam kính mến tin tưởng lãnh tụ Hồ Chí Minh. Nhiều nhà báo và nhiều bạn ngoại quốc rất lấy làm ngạc nhiên trước lòng kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với vị Cha già Hồ Chí Minh. Nhưng đối với chúng ta, người Việt Nam thì rất dễ hiểu."
Còn nhiều, rất nhiều "hạt ngọc châu" như thế nữa! Nhưng thôi, nhân tiện nói qua thế, chứ mục đích người viết bài này không phải để nói về cuốn sách "Những mẩu chuyện...", mà để bổ sung thêm vài nét vào bức chân dung của ông Hồ Chí Minh nhân dịp tháng 5, kỷ niệm ngày sinh "của Người," dù biết tỏng tòng tong là cả ngày, cả tháng, cả năm sinh "của Người" đều là "phịa" (xin cho phép tôi dùng khẩu ngữ này, có nghĩa là bịa đặt trắng trợn), và thậm chí trong một thời gian nhiều năm, cả ngày chết "của Người" cũng là "phịa" nốt. Cố nhiên, trong trường hợp sau, "Người" không có lỗi. Nhưng, một con người mà ngày sinh, tháng sinh, năm sinh, cho đến ngày chết đều là "phịa" cả, thì có gì bảo đảm là "những mẩu chuyện" tự kể về mình lới là không "phịa"? Nhưng dẫu sao chăng nữa, tháng 5 cũng là có dịp để "tưởng nhớ tới Người"! Vài "mẩu chuyện" mà tôi sắp kể đây là những chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến "vấn đề phụ nữ" (dĩ nhiên, không phải vấn đề giải phóng phụ nữ đâu!), và không phải là thời kỳ ông ở Pháp, Nga, Trung Quốc (vì đã có khá nhiều bài báo viết về những thời kỳ đó rồi). "Những mẩu chuyện" này thuộc thời kỳ ông ở Việt Nam, và cũng chỉ vẻn vẹn trong vài năm thôi, sau khi chính quyền cộng sản tiếp thu những "vùng tạm chiếm" của Pháp ở miền Bắc.
MỘT ÁN MẠNG XE CÁN
Sau khi rời Hà Nội đi Moskva, theo học ở Trường đảng cao cấp của Trung ương đảng cộng sản Liên Xô hồi năm 1962, và nhất là sau khi tôi đã ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản hồi đầu tháng 6 năm 1964, trong lòng tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi một câu chuyện mà càng ngày tôi càng thấy rõ có cái gì đây đầy oan khuất, đầy mờ ám, rất là nghiêm trọng, mà bây giờ ở ngoài nước, trong hàng chục năm, lắm lúc tôi cảm thấy bó tay không thể nào tìm hiểu được. Chuyện thế này: hồi cuối những năm 50 đầu những năm 60, tôi là phó chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, thường ngày tôi xuống các cơ sở. Nhưng sáng hôm đó, tôi nhớ là vào đầu xuân, tôi phải đến thường trực tại Ủy ban, thì anh Nguyễn Quốc Hùng, ủy viên trong Ủy ban, phụ trách văn phòng, bước vào phòng tôi, hồi hộp nói: "Báo cáo anh có một việc xảy ra, có một người đàn bà bị xe ô tô cán ở đoạn đường Nhật Tân phía đi lên Chèm..." Tôi đưa mắt nhìn Quốc Hùng, có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng không nói gì. Ngạc nhiên vì trong óc tôi thoáng một ýϠnghĩ, xe ô tô cán người ở Hà Nội chẳng phải là chuyện gì hiếm, sao anh ấy lại báo cáo với mình. Tôi im lặng chờ đợi. Quốc Hùng nói tiếp: "Nhưng mà, anh à, theo sự điều tra thì không phải là xe cán người, mà làm ra vẻ xe cán người..." Dừng lại một lúc, anh nói thêm: "Mà... theo báo cáo thì chiếc xe ấy lại chạy từ Chủ tịch phủ ra..." Mấy tiếng cuối cùng "từ Chủ tịch phủ ra" đã gây cho tôi một cảm giác thật mạnh. Nhưng lúc đó, thật ra, tôi không hề có mảy may ýϠnghĩ là việc này có liên quan gì đến vị Chủ tịch nước mà hồi đó, tôi chân thành kính yêu và tin tưởng. Một ýϠnghĩ thoáng qua trong óc: hay là bọn phục vụ ở Chủ tịch phủ đã làm bậy bạ cái gì đây với chị kia, rồi giết đi và bày trò cán xe? Suy nghĩ một lúc, tôi nói: "Theo quyết định của Trên, mọi vấn đề thuộc về công an, tòa án thì do bí thư Thành ủy giải quyết, nhất là những chuyện có dính dấp đến Trên, việc này không thuộc thẩm quyền của Ủy ban hay Thành ủy, vậy hôm nay, anh đến gặp anh Tuyên báo cáo ngay anh ấy biết để anh giải quyết thì hơn."
Hôm sau, gặp lại, tôi hỏi thì Quốc Hùng cho biết: đã báo cáo rồi và anh Tuyên bảo anh sẽ trực tiếp làm việc với anh Thân (Lê Quốc Thân, hồi đó là giám đốc Sở công an Hà Nội, về sau được thăng chức thứ trưởng Bộ công an). Khoảng một tuần sau, nhân gặp Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy kiêm phó chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố, tôi tranh thủ hỏi về vấn đề đó, thì anh ta lạnh lùng gạt đi: "Thôi, việc đó xong rồi." Biết là không thuận lợi cho một cuộc trao đổi cởi mở, nên tôi im... Khi đã ở nước ngoài, trong nhiều năm tôi cứ băn khoăn mãi về chuyện đó.
Hồi tháng 7 năm 1993, khi gặp nhà văn Vũ Thư Hiên, một người "cùng cảnh ngộ," tức là cùng bị dính vào "vụ án xét lại - chống đảng," đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Hiên bật người lên, vui mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện "thâm cung bí sử " này và chuyện tôi kể cho anh lới một lần nữa xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ đình Huỳnh, đã dặn dò anh. Hiên nói liền: "Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu, anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân..." Tôi đáp lại: "Chính là Quốc Hùng nói với tôi thế!" Rồi Hiên thủng thẳng tâm sự với tôi: "Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên Hồ Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng đào, anh biết chứ?" Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc: "Biết quá đi, chứ lị! Từ 51, tôi phụ trách ngoại thành cơ mà." Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng này, anh kể tiếp: Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường, hình như một bên có rặng ổi, rồi bảo: "Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây! Tới đây, đánh dấu một vụ án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần Quốc Hoàn (ủy viên Bộ chính trị, bộ trưởng công an) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói lên sự thật..."
Câu chuyện đại để thế này: có một chị nữ thanh niên người Nùng ở Cao Bằng, tên là Nông Thị Xuân, được đưa đến "phục vụ" Bác Hồ, cô đưa em là Nông Thị Vàng và một cô em họ nữa về Hà Nội. Sau đó, cô Xuân đẻ cho Bác một đứa con trai, được đặt tên là Nguyễn Tất Trung, và còn có tin đồn, một đứa con gái nữa, tên là Nguyễn Thị Trinh... Thế rồi Trần Quốc Hoàn hiếp cô Xuân tại nhà phố Hàng Bông Nhuộm, sau đó giết chết, rồi bày trò xe ô tô cán người tới đường Nhật Tân để lấp liếm tội ác. Sau khi cô chị bị giết, cô em chạy về Cao Bằng, rồi cũng bị giết nốt để "bịt đầu mối," và người em họ cô Xuân cũng không thoát khỏi bàn tay đẫm máu của nó. Người yêu của cô Vàng đã viết thư tố cáo hung thủ.
Thật ra, những điều Vũ Thư Hiên kể tuy có rọi thêm vài tia sáng, nhưng vẫn chưa thỏa mãn được cái ýϠmuốn tìm hiểu sự việc cụ thể của tôi, nên tôi vẫn tiếp tục cố làm sáng tỏ vấn đề này. Những năm gần đây, nhờ việc đi lại của người trong nước sang Nga được dễ dàng hơn, nên vài người đã kể cho tôi thêm những chi tiết rất có giá trị, bổ sung cho những điều tôi đã biết. Nhưng tất cả những điều đó chỉ là nghe lại của người này, người khác, không có chứng cứ nào, không có tài liệu cụ thể nào xác minh, giúp cho tôi được vững tin. May mắn là mới đây có một người quen cho tôi xem một tài liệu với nhiều chi tiết cụ thể xác nhận về cơ bản những điều tôi đã tìm hiểu được trong những năm qua. Sau khi cẩn thận xem xét kỹ tài liệu đó, tôi có thể tin tưởng ở tính chất chân thật của nó. Tài liệu gồm có một bức thư dài năm trang đánh máy của người chồng chưa cưới của cô Vàng đã bị giết, viết ngày 29 tháng 7 năm 1983 gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kèm theo một bức thư một trang của một số thương binh, bạn cùng chiến đấu với anh ta, không đề ngày (có lẽ là gửi cùng ngày?), gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, đồng gửi ông Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng CSVN, ông Phạm Văn Đồng, Chủ tịch HĐBT và ông Phạm Hùng, Phó Chủ tịch HĐBT, tố cáo hành vi tội ác của bọn hung thủ đã giết hai nhiều người vô tội. Nhưng có một điều rất "kẹt" cho tôi là anh bạn cho xem tài liệu lại dặn tôi đến hai lần "đừng công bố bản tài liệu," cho nên tôi không thể làm trái ý "người chủ" tài liệu.
Tuy nhiên, tôi mong rằng anh ấy sẽ nghĩ lại và tự anh hoặc nếu anh thấy không tiện cho mình thì giao cho một người nào khác sớm công bố toàn văn bản tài liệu đó để thực hiện ước nguyện của những người đã chết oan và của những người đã bất chấp nguy hiểm, "máu hòa nước mắt viết thư này" (lời trong thư). Phải nói rằng những người viết thư thật rất dũng cảm, đáng kính phục. Vì Chân Lý, người ta coi thường cái chết, khi viết những lời thật xót xa, đầy mai mỉa và thách đố đối với những kẻ cầm quyền và chế độ hiện tồn trong nước; những lời ấy vang lên như tiếng thét đau thương, ai oán, đã bị nhóm cầm quyền cộng sản dìm đi, bóp nghẹt trong hàng mấy thập niên rồi: "Chúng tôi, những thương binh đã đổ xương máu vì độc lập của quốc gia, tự do, công lýϠcho nhân dân, chúng tôi rất mong Ngài vì chân lýϠmà tìm ra hung thủ, xử lý thích đáng, treo cổ hung thủ công khai hoặc bí mật. Nếu trái lại, vì bè lũ, phải bao che cho hung thủ không trừng trị được bọn tàn ác này, thì chúng tôi xin phép Ngài phổ biến rộng rãi vụ bê bối này cho toàn thể thương binh và bộ đội biết để họ đổ xương máu bảo vệ NGAI VÀNG CỦA CÁC NGÀI. Và hơn nữa, chúng tôi sẽ tuyên bố vụ bê bối giết vợ Cụ HỒ CHÍ MINH này cho toàn thế giới biết để cả nhân loại tin tưởng vào chế độ ưu việt của các Ngài. Chúng tôi một số thương binh sống dở chết dở, vì vấn đề này mà các Ngài muốn bỏ tù hay thủ tiêu, chúng tôi không hề sợ, và có khi như vậy lại đỡ khổ cho chúng tôi." (đúng nguyên văn, kể cả những chữ hoa).
PHƯƠNG MAI
Viết đến đây, tôi nhớ đến Nguyễn Chí Thiện, đã liều mình, bất chấp mọi nguy hiểm, xông vào sứ quán Anh ở Hà Nội để đưa tập thơ của anh ra nước ngoài. Không có những con người gan dạ như thế, làm sao bảo vệ Chân LýϠvà chống lại điều ác được? Theo lời dặn của anh bạn, tôi không công bố toàn văn tài liệu đó. Nhưng những gì tôi tìm hiểu được trong mấy năm qua, nhờ sự giúp đỡ của anh chị em trong nước và được tài liệu kia xác nhận, tôi tự thấy mình có bổn phận chia sẻ với mọi người, cốt để làm sáng tỏ thêm sự thật đã bị che giấu 40 năm rồi và phần nào đáp ứng, dù là một cách quá muộn màng đi nữa, lòng mong mỏi cuối cùng của những oan hồn đang ngậm hờn ở thế giới bên kia. Hơn nữa, ngay ở trong nước, tờ báo bí mật, gan dạ Người Sài Gòn, "tiếng nói của nhân dân thèm tự do ngôn luận," năm ngoái cũng đã tung vấn đề này lên rồi trong bài "Viết cho Đào Duy Tùng." Và tôi tin chắc là nhà văn Vũ Thư Hiên cũng không thể bỏ qua chuyện này trong tập hồi ký "Đêm Giữa Ban Ngày" của anh. Có điều tôi muốn nói rõ là tội ác của bọn hung thủ đê tiện trong vụ thảm sát một loạt người này, tuy rùng rợn, khủng khiếp thật, nhưng lại không phải là đề tài chính của bài này, vì ý định của tôi chỉ là bổ sung thêm vài nét chân thực vào bức chân dung của vị Chủ tịch đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trước khi kể lới chuyện trên, tôi xin phép nói đến một chuyện khác, mới nghe thì thật tào lao, nhưng lới có thể giúp cho ta hiểu được nhiều điều. Nói chung, hồi đó, khi tôi còn ở trong nước, cán bộ ở miền Bắc (và có lẽ cả miền Nam nữa), ngay cả trong câu chuyện riêng tư, không hề dám hé răng nói bất kỳ chuyện gì về các lãnh tụ, ngoài những lời sùng bái, tán tụng, ngoài những khuôn sáo đã định sẵn, như "ơn Bác, ơn đảng," v.v... Sự sùng bái cá nhân các lãnh tụ đã được gieo cấy sâu đậm vào tiềm thức cán bộ và dân chúng đến nỗi mọi người cho rằng nói đến các lãnh tụ mà thiếu sự ca tụng, sự sùng kính, nhất là nói đến đời riêng của các lãnh tụ là điều "phạm húy" khủng khiếp, mà điều đó thì tối kỵ, trước tiên, vì... rất nguy hiểm cho bản thân. Chỉ có một số cán bộ cao cấp nào đó thỉnh thoảng khi cao hứng mới có thể tự cho phép "đả động" nhẹ nhàng đến các lãnh tụ trong chừng mực... "không bị đứt đầu." Cố nhiên, những việc như thế không phải là không nguy hiểm. Có một lần, tình cờ tôi được "dự" vào một cuộc "loạn đàm" như vậy. Hôm đó, sau một cuộc họp ở Thành ủy, mọi người ra về, chỉ còn lại ba chúng tôi: Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy Hà Nội, Trần Vỹ, phó bí thư, và tôi. Đang nói chuyện linh tinh, bỗng Trần Vỹ hỏi khẽ: "Thế nào, việc Phương Mai đã xong chưa?" Trần Danh Tuyên đáp: "Không xong." Trần Vỹ nói tiếp: "Cô ấy cũng sạch nước cản đấy chứ, sao lại không xong?" Vui miệng, tôi cũng chêm vào một câu: " Sạch nước cản... thế mà tướng Nguyễn Sơn lại chê là ngực lép kẹp, ăn thua gì!" Cả ba cùng cười, rồi Trần Danh Tuyên hạ giọng nói rất khẽ: "Cô ấy muốn đặt vấn đề đàng hoàng, nhưng mà... Bác và các anh (ýϠnói Bộ chính trị) cho rằng Bác không lấy vợ thì lợi cho uy tín chính trị hơn."
Xin nói rõ chuyện như thế này: hồi đó, có ýϠkiến là ông Hồ cần có vợ để việc "giải quyết sinh lýϢ được điều hòa thì tốt cho sức khỏe. Và sau Hiệp định Genève 1954, người ta chọn một người "kháu" nhất trong số nữ cán bộ trẻ, đó là chị Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Thanh Hóa và đưa chị từ Khu Bốn ra Hà Nội để tiến cử lên ông Hồ. Và như ta đã biết qua cuộc "loạn đàm," chị đặt vấn đề phải có hôn nhân đàng hoàng. Thế là... việc không thành. Rồi chị được bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ thương binh và ở luôn tại Hà Nội.
CÔ XUÂN BỊ GIẾT NHƯ THẾ NÀO?
Bây giờ xin quay trở lới câu chuyện những cô gái ở Cao Bằng. Theo những điều người ta kể cho tôi trong những năm gần đây và được xác minh qua tài liệu đã xem thì có hai chi tiết hơi khác (các cô họ Nguyễn và cô Xuân chỉ có một con với ông Hồ), ngoài ra, các chi tiết khác về cơ bản đều giống nhau. Sự việc cụ thể như sau:
Cô Nguyễn Thị Xuân (tên gọi trong gia đình là Sang) và em họ, cô Nguyễn Thị Vàng, 22 tuổi, quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cuối năm 1954, đã tình nguyện vào làm công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy tháng thì ủy viên Trung ương đảng, chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần Trần đặꮧ Ninh, gặp cô Xuân nói chuyện vài lần, rồi đầu năm 1955 cho xe đón cô Xuân về Hà Nội,"nói là để phục vụ Bác Hồ." Mấy tháng sau, cô Xuân cũng xin cho cô Vàng và cô Nguyệt (con gái của ông Hoàng Văn Đệ, cậu ruột của cô Xuân) về Hà Nội ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm. "Vì các vị lãnh đạo không cho chị Xuân ở cùng với Bác trên nhà Chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ công an, trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của công an. Cuối năm 1956, chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung.
"Em có nhiệm vụ bế cháu," đấy là lời Vàng kể lới cho người chồng chưa cưới của mình trước khi cô bị giết. Và cũng nhờ Vàng đã kể lại, nên chúng ta biết được những sự việc sau đây.
Khoảng mồng 6, mồng 7 tháng 2 năm 1957, Trần Quốc Hoàn đến, nói chuyện vu vơ một lúc, rồi giở trò... kéo cô Xuân vào cái buồng xép, định hãm hiếp. Cô Xuân ú ớ la lên. Vàng hoảng sợ tru tréo, còn Nguyệt khiếp sợ quá co rúm lại ngồi ở trong góc. May lúc đó có tiếng cửa sổ nhà dưới xô sầm vào tường, Hoàn sợ, bỏ cô Xuân ra, rút súng lục ra dọa: "Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết." Rồi xuống thang, ra ô tô chuồn. Mấy hôm sau, Hoàn lại đến, lên gác, đi thẳng vào phòng, ôm ghì cô Xuân hôn. Cô Xuân xô nó ra: "Không được hỗn, tôi là vợ ông Chủ tịch nước." Nó nói: "Tôi biết bà to lắm, nhưng tính mạng bà nằm trong tay tôi." Rồi lấy súng dí vào ngực cô Xuân, nó rút ra sợi dây dù đã thắt sẵn thòng lọng tròng vào cổ cô Xuân kéo cô lên giường, tự tay lột hết quần áo, ngắm nghía, rồi hiếp cô. Cô Xuân xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay cô và nói: "Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già, lại còn vờ làm gái."
Từ đó cô Xuân trở thành thứ đồ chơi trong tay Hoàn. Nó bảo cô Xuân dặn cho hai em phải biết câm cái miệng, nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Mấy chị em lúc bấy giờ rất sợ bị giết, bàn nhau. Vàng đề nghị mấy chị em trốn đi thì cô Xuân nói: "Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác: bây giờ đã có con trai, xin Bác cho mẹ con ra công khai. Bác nói: cô xin như vậy là hợp tình hợp lýϮ Nhưng phải được Bộ chính trị đồng ýϬ nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ýϠmới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa... Mấy tuần trước, Bác lại hỏi chị: các cô ở đây có nhiều người lạ mặt tới thăm phải không? Chị thưa: ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội, còn bà con ở Cao Bằng thì không có ai biết chị em ở đâu. Bác nói không nhẽ ông bộ trưởng công an nói dối? Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ gì đó, để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ. Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại anh chị em chúng ta. Chị bị giết cũng đáng đời, chỉ rất hối hận đã xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị."
Đến ngày 11 tháng 2 năm 1957, vào bảy giờ tối, một chiếc xe com măng ca thường đón cô Xuân lên gặp ông Hồ đỗ trước nhà. Tên Ninh, biệt danh là Ninh Xồm, bảo vệ viên của ông Hồ, vào gặp cô Xuân nói "lên gặp Bác." Cô Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra xe. Xe do Tạ Quang Chiến (tên này trong đội bảo vệ ông Hồ, về sau làm tổng cục phó Tổng cục Thể dục thể thao) lái đi. Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên công an Hà Nội đến báo tin cô Xuân bị chết vì tai nạn ô tô, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phú Doãn. Vàng vội vã đưa cháu Trung cho Nguyệt bế, lên xe công an vào bệnh viện, nhưng không được vào nhà xác. Chờ độ một tiếng sau thì có người bác sĩ ra đọc biên bản, đại ý: trên thân thể tử thi không có thương tích gì, cũng không phải bị đánh chém gì. Mổ tử thi, trong lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì, dạ dày không có thuốc độc, tử cung không có tinh trùng, chứng tỏ không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nứt, nước nhờn chảy ra. Bác sĩ nói: đây có thể là nạn nhân bị trùm chăn lên đầu, rồi dùng búa đánh vào giữa đỉnh đầu. Vàng nghe xong chạy về kể lại cho Nguyệt. Hai chị em cùng khóc...
Ít lâu sau, một cán bộ công an đến bế cháu Trung đi, hai chị em không biết đem đi đâu. Sau đó, Vàng được đưa đi học lớp y tá của Khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên, còn Nguyệt thì Vàng không biết người ta đưa đi đâu, sống chết ra sao. Học được mấy tháng thì Vàng được chuyển về bệnh viện Cao Bằng và may mắn được gặp người chồng chưa cưới ở đây, kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Cô nói với người yêu: "Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu, anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết, vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở۠Cao Bằng, có hôm em còn thấy thằng Ninh Xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít lâu họ tuyên bố em bị thần kinh, được chuyển về điều trị tới bệnh viện Hòa An."
Đ念 226;y là lời người yêu, chồng chưa cưới của cô Vàng: "Tôi chỉ được gặp Vàng có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957, cô Vàng về thăm ông cậu Hoàng Văn Đệ, hung thủ đi theo, giết chết, rồi quẳng xác xuống sông Bằng Giang, đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở Hoàng Bồ. Được tin, tôi chạy về cầu Hoàng Bồ, thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồi. Nghe dư luận bàn tán, cô bị đánh vỡ sọ, tiền, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Vụ này nhiều người bị giết: cô Xuân vợ Cụ Hồ Chí Minh, cô Vàng vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở trường y tá Thái Nguyên, nghe chuyện Vàng đi nói chuyện lại cũng bị giết lây. Mấy chục năm nay, tôi tím gan thắt ruột nghĩ cách trả thù cho em tôi, nhưng sức yếu thế cô, đành ngậm hờn chờ chết... "
Tiện đây, xin phép kể qua một chuyện ngoài lề có ý nghĩa. Hồi Vũ Thư Hiên còn ở Moskva, "người ta" dò biết là anh đang viết hồi kýϬ và hình như cũng đoán biết là anh có trong tay "những mẩu chuyện" nào đó. Thế là một hôm, "bọn trấn lột" người Việt đến nhà, chờ Hiên vào thang máy thì chúng ùa theo, đâm anh vào mông, giật chùm chìa khóa, rồi xông vào nhà. Chúng không đụng đến tiền bạc gì hết, mà chỉ tìm kiếm tài liệu và lấy các đĩa mềm máy tính, trong đó có phần hồi kýϠanh đang viết dở dang. Khi chúng đi rồi, Hiên gọi điện ngay cho tôi. Mấy hôm sau, anh lại báo tin rằng một tên gọi điện cho anh, bảo nếu muốn lấy lại đĩa mềm thì hãy "đến đấy, đến đấy" ở Moskva, mà theo lời anh, chỗ ấy là... ngôi nhà chung cư của cán bộ nhân viên sứ quán Việt Nam tại Nga. Hiên nói để trấn an tôi: "Cũng may là tôi đã dự phòng trường hợp này rồi. Anh yên tâm." Sau đó không lâu, Hiên đến nhà đưa cho tôi đọc 74 trang hồi ky 㦣7911;a anh. Và một thời gian sau nữa, anh lặng lẽ rời khỏi nước Nga, tìm nơi khác an toàn hơn để "đậu"... Tôi kể chuyện này để thấy tính nhạy cảm cao độ của những-người-nào-đó đối với "những mẩu chuyện" không chảy theo luồng lạch của "lãnh đạo" và "người ta" sẵn sàng lao vào những hành động tội ác, điên cuồng, cực kỳ phiêu lưu, chỉ cốt để... bưng bít sự thật.
Nhưng, vì chân lýϬ lẽ nào chúng ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn vùi sự thật? Trái lại, bằng bất cứ giá nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch Sử những sự kiện chân thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người đều được đánh giá đúng đắn và công bằng. Công LýϠđòi hỏi như thế!
NHỮNG CÂU HỎI VỀ HỒ CHÍ MINH
Còn về cháu bé Nguyễn Tất Trung thì sau khi mẹ chết, nó được gửi cho ông Nguyễn Lương Bằng nuôi, độ 4-5 tuổi thì chuyển cho ông Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh mất thì giao về cho ông Vũ Kỳ, nguyên thư kýϠriêng của ông Hồ, làm con nuôi và đổi họ thành Vũ Trung. Tôi xin phép bỏ qua những tình tiết khác và dừng lại ở đây, vì đến đây, cũng đủ để có thể rút ra vài kết luận sơ bộ có liên quan đến đề tài cần nói:
1) Tôi luôn luôn nghĩ rằng không nên "xoi mói" vào đời tư của người khác, kể cả đời tư của các lãnh tụ. Việc các lãnh tụ có vợ, có con là chuyện rất thường tình. Ông Hồ, cũng như bất cứ ông lãnh tụ nào khác, cũng như bất cứ người nào khác, đều có thể có cuộc sống tình dục, cuộc sống gia đình, có thể có vợ, có con, có thể ly dị với vợ, rồi lới lấy vợ khác... Những điều đó không ai nên can thiệp đến. Thậm chí, dù cho ông lãnh tụ nào đó có vợ rồi, lại đi ngoại tình, "cặp bồ" với ai đó, như trường hợp Lenin, hay vợ sờ sờ ra đấy mà vẫn ngang nhiên ngủ với gái, hết cô này đến cô khác, như trường hợp Mao Trạch Đông, hay đi hoang, rồi có con với người khác, như trường hợp Karl Marx, (những ví dụ này tôi không nói vu vơ, các sử gia và các nhà báo đứng đắn trên thế giới đã viết quá đủ, với những bằng chứng không thể chối cãi) thì cũng đáng phê phán đấy, nhưng cũng chẳng sao cả, trời không vì thế mà sập được! Chỉ có cái đầu óc ngu muội, phong kiến của cái đám lãnh đạo cộng sản kênh kiệu, tự coi mình là "trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại" hay là "đỉnh cao trí tuệ loài người," mới nghĩ rằng phải tô vẽ cho lãnh tụ thành một ông thánh sống, là một con người siêu phàm, không vợ không con... thì càng thêm uy tín chính trị.
Thế rồi cứ giấu kín cuộc đời riêng tư của các lãnh tụ như là bí mật quốc gia số một, hễ ai động khẽ đến là trừng trị tàn nhẫn. Đấy, cái vụ vừa qua đảng "xử trí kỷ luật" một cách thô bạo đối với Kim Hạnh, tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, chỉ vì báo đó dám nói sơ sơ chuyện ông Hồ có vợ hồi ở Trung Quốc, là một chứng minh cho cái đầu óc ngu dốt, độc đoán, lố bịch của cái đám ấy. Lẽ cố nhiên, cách xử sự của người đàn ông đối với phụ nữ, đối với vợ con phản ánh toàn bộ tư cách, phẩm chất, đạo đức của con người, và điều đáng nói, đáng xem xét đối với các lãnh tụ chính là ở đó.
2) Theo tôi, các cô gái Cao Bằng, cũng như anh chồng chưa cưới của cô Vàng cùng các thương binh bạn chiến đấu của anh đều rất ngây thơ, tưởng là ông Hồ định lấy cô Xuân làm vợ thật, tưởng cô Xuân là vợ của ông Hồ thật. Khách quan mà xét, ông Hồ không muốn có vợ đàng hoàng, ông chỉ muốn giữ cái "uy tín chính trị" hão của "bậc siêu nhân," ông chỉ muốn được "tiếng" vì dân vì nước đến nỗi suốt đời không mơ tưởng đến chuyện vợ con. Và điều này nói ra chua xót thật, nhưng không thể không nói: cô Xuân chỉ là món đồ chơi trong tay ông mà thôi. Cô Xuân được đưa về Hà Nội là để "phục vụ" ông Hồ, cũng như bao nhiêu cô gái Trung Quốc đã được đưa đến Trung Nam Hải để "phục vụ" ông Mao (Xem hồi kýϠ"Tôi là bác sĩ riêng của Mao" của LýϠChí Tuy). Mồm ông Hồ nói nào là giải phóng phụ nữ, nào là chống tư tưởng phong kiến, tôn trọng phụ nữ, v.v... thế nhưng ông đã hành xử với phụ nữ cực kỳ phong kiến, coi phụ nữ chẳng khác gì món đồ chơi. Nhận xét như thế hoàn toàn không có tính chất vũ đoán, vì thử hỏi:
a. Nếu coi cô Xuân là vợ thật, tới sao ông lại không để cô ở chung tới ngôi nhà riêng của ông ở trong khuôn viên Chủ tịch phủ, mà bắt cô phải ở riêng mãi tận nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, (ai biết rõ Hà Nội thì dễ dàng hình dung được khoảng cách) là nhà của công an, lại phải chịu dưới sự quản lý trực tiếp của bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn và chỉ khi nào ông cần "được phục vụ" thì cho xe đón cô lên Chủ tịch phủ mà thôi? Trong những n ăm đó, ông Hồ chưa đến nỗi thất thế tới mức phải để cho Trường Chinh, Lê đức Thọ, Hoàng Quốc Việt có thể can thiệp vào cuộc sống tình cảm của ông như vậy, có thể khống chế ông như vậy. Ông đường đường là lãnh tụ tối cao, là Chủ tịch đảng, cơ mà!
b. Nếu ông coi cô Xuân là vợ thật thì khi cô đẻ con trai rồi, tại sao ông vẫn để hai mẹ con ở riêng tận 66 Hàng Bông Nhuộm và khi mẹ nó chết rồi, ông không đem con về nuôi, mà lại đưa cho người này, người khác nuôi cho đến khi thằng bé lên 13 tuổi, là năm ông qua đời, thì "người ta" (cũng khó biết được là ai, Bộ chính trị hay là theo lời dặn của bố đẻ đứa bé?) lại giao nó cho Vũ Kỳ làm con nuôi? Và xin các bạn chú ýϬ Vũ Kỳ đã (chắc chắn là anh ta không bao giờ dám tự ýϩ đổi họ thằng bé thành Vũ Trung, xóa mọi dấu vết tội lỗi của một ông họ Nguyễn Tất! Ở۠đây, khách quan mà nói, dường như ông Hồ không có chút tình thương yêu nào đối với đứa con đẻ của mình. Một người như vậy làm sao có thể thương yêu trẻ con người khác được?
3) Theo tôi, thật khó mà bác bỏ ýϠkiến cho rằng từ đầu đến cuối, ông Hồ cùng đám cận thần của ông, những ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ chính trị, đã đánh lừa tệ hại cô Xuân, một cô gái quê ngây thơ ở miền núi, làm cho cô tưởng lầm ông định lấy cô làm vợ thật. Khi có con với ông rồi, cô xin cho hai mẹ con "được ra công khai" (chắc ýϠnói hợp thức hóa) thì một mặt ông làm ra vẻ thông cảm, thừa nhận yêu cầu đó là hợp tình hợp lýϬ nhưng mặt khác ông lại chỉ vào các ông trong Bộ chính trị mà nói là các ông kia có quyền quyết định chứ không phải ông, phải chờ ý kiến của các ông kia, làm như ông không phải là "lãnh tụ tối cao," không phải là Chủ tịch đảng, làm như ông ở dưới quyền mấy ông kia trong Bộ chính trị. Rồi ông còn khuyên nhẹ nhàng: "Cô đành phải chờ một thời gian nữa!" Và thật tội nghiệp cho cô Xuân, cô đã chờ, chờ... đến khi bị giết!
4) Còn có nhiều điều khác mà trong tình hình hiện nay khó có thể tìm ra được lời giải đáp: Tại sao Trần Quốc Hoàn lại có thể có thái độ trắng trợn, đê tiện như thế đối với cô Xuân? Dù cô không phải là vợ chính thức thì cũng là "bồ" (nói theo lối nói thông thường hiện nay ở Việt Nam) của lãnh tụ, cơ mà! Sao y lại có thể to gan phạm thượng đến như thế? Hay là y đã thấy rõ tình thế bị "thất sủng" của cô Xuân, tức là cái thái độ không mặn nồng nào đó của ông Hồ đối với cô Xuân, nên mới bạo phổi làm chuyện bậy bạ đến thế? Hay là y đã biết một quyết định nào đó. về cô Xuân, nên y nghĩ rằng "không xài thì phí của trời," trước sau rồi cô cũng chết?
Còn câu hỏi mà ông Hồ đặt ra cho cô Xuân về những người lạ mặt thường đến chỗ các cô phải không, có ýϠnghĩa gì? Có đúng là do bộ trưởng công an mớm cho ông hay không? Việc giết cô Xuân, cô Vàng, cô Nguyệt... là mưu đồ của cá nhân Trần Quốc Hoàn, hay là chủ trương của một tập thể, nếu là của một tập thể thì tập thể nào, và ông Hồ có được biết hay không? Trách nhiệm của ông Hồ, của Bộ chính trị Trung ương đảng, của Bộ công an, của Trần Quốc Hoàn trong việc này như thế nào? Khoảng thời gian từ khi cháu Trung được sinh ra (cuối năm 1956) đến ngày Hoàn tới dở trò hãm hiếp mẹ nó (mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957), cũng như từ ngày đó tới ngày mẹ nó bị giết (11 tháng 2 năm 1957) vì sao lại gần nhau đến thế? Đ辶#7873;u đó có ý nghĩa gì? Vân vân và vân vân... Hy vọng là rồi đây, các nhà thám tử Maigrets tài giỏi nhất, các chuyên gia về tội phạm có thể góp ýϬ góp sức, giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề.
Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử đã có ảnh hưởng rất lớn đối với vận mệnh đất nước và nhân dân Việt Nam trong nhiều thập niên của thế kỷ 20. Dù muốn hay không, không ai có thể phủ nhận điều đó. Nhưng, ảnh hưởng đó là tốt hay xấu, hay vừa tốt vừa xấu, tốt nhiều xấu ít, hay ngược lại? Công trạng của ông thế nào, tội lỗi của ông ra sao, chỉ có công không có tội, hay là chỉ có tội không có công, hay vừa công vừa tội? Ông là vị thánh nhân, là bậc siêu nhân, hay là kẻ phàm phu, hay là tên giả dối, bịp bợm? Ông là biểu tượng của đạo đức với trái tim nhân ái, hay là một kẻ vô luân, vô đạo với lòng dạ bất lương?.. Tất cả những câu hỏi đó đòi hỏi một sự nghiên cứu khách quan, cẩn trọng, sâu sắc, tỉ mỉ, toàn diện, và cuối cùng... phải chờ Lịch Sử cân lượng, phán xét, Lịch Sử được đúc kết từ muôn ngàn sự kiện chân thật. Nhận thức sâu sắc điều đó, người viết bài này không mảy may có tham vọng đánh giá cuộc đời của vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ý muốn nhỏ nhoi đã được nói ngay từ đầu, chỉ là để góp thêm vài "mẩu chuyện," qua đó người đọc có thể thấy thêm được vài nét chân thật trên bức chân dung hoành tráng, đồ sộ của ông mà giới cầm quyền cộng sản Việt Nam từ trước đến nay đã dày công tô vẽ.
Nhưng, vì chân lýϬ lẽ nào chúng ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn vùi sự thật? Trái lại, bằng bất cứ giá nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch Sử những sự kiện chân thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người đều được đánh giá đúng đắn và công bằng. Công LýϠđòi hỏi như thế!
(Ngày 10 Tháng Ba 1997)
Nguyễn Minh Cần
(Cựu Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội)
Người viết bài này hy vọng góp thêm vài "mẩu chuyện" vào cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" của Trần Dân Tiên mà như lời giải thích miệng "từ Trên," khi cuốn sách được xuất bản lần đầu ở miền Bắc -- "tác giả của nó là một nhà báo nổi tiếng có cơ hội được biết rõ về thân thế của Người." Thực ra, hồi những năm 50, đại đa số cán bộ, chứ nói gì đến nhân dân, chưa hề nghe tên và không ai biết cái ông "nhà báo nổi tiếng" Trần Dân Tiên, tác giả cuốn sách "bất hủ" đó, là ai cả. Chỉ có một số rất ít cán bộ cao cấp thì thầm rỉ tai nhau về điều bí mật quốc gia: "... Chứ còn ai nữa!"
Mãi về sau này, qua hàng mấy thập niên, nhiều người mới ngã ngửa ra là ông tác giả "Chứ còn ai nữa!" đó, ông Trần Dân Tiên huyền thoại kia, chính là ông Nguyễn Tất Thành, cũng chính là ông Nguyễn Ái Quốc, và cuối cùng, cũng chính là... ông Hồ Chí Minh. Thế nhưng báo chí chính thức ở Việt Nam cho đến nay vẫn tiếp tục "giấu như mèo giấu c..." Theo tôi biết, hình như trong "thế giới" cộng sản, chỉ có hai lãnh tụ trực tiếp tham gia vào việc "xây dựng" tiểu sử của mình để lưu danh hậu thế là Stalin và Hồ Chí Minh. Tôi nói "hình như" vì không biết chính xác Kim Nhật Thành đã làm phù phép như thế nào với tiểu sử của ông ta. Nhà độc tài đẫm máu Stalin đã không trắng trợn tự tay viết tiểu sử của mình, mà giao cho một ban của Trung ương đảng, viết theo sự hướng dẫn của chính ông và cuối cùng ông "chỉ" hiệu đính tiểu sử của mình trước khi cho xuất bản. Còn "một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy..." (trí ch sách "Những mẩu chuyện...", tr. 7) thì... tự tay mình viết tiểu sử của mình để tự tôn vinh, tự đề cao chán chê, rồi "lập lờ đánh lận con đen" đặt tên tác giả là Trần Dân Tiên. Quả là một sự phỉ báng đối với lương tri con người!
Mặc dù thế, tôi xin thành thật khuyên các bạn, ai đã có cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" thì chớ vội nóng nảy vứt nó đi mà phí, trái lới, thỉnh thoảng nên đọc lại để thấy rõ hơn bức chân dung thật của người viết ra nó. đóଦ#224; tấm gương để đời!
Ngay từ đầu sách, bạn gặp đoạn này: "Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lới thân thế của mình." Hay một đoạn khác: "Tôi (lời Trần Dân Tiên huyền thoại) nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ýϠnghe. Sau khi nghe xong, Người cười và đáp: "Tiểu sử đấy là một ýϠkiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp kia đã! Còn tiểu sử của tôi... thong thả sẽ nói đến!" Thế rồi Trần Dân Tiên (!) kết luận: "Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lới cho tôi nghe bình sinh của Người được?" Hay là đoạói về thời gian "khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên mười lăm tuổi," thế mà cậu bé 15 tuổi ấy đã đủ hiểu biết, đủ láo xược để phê phán cả các bậc tiền bối là những anh hùng lịch sử vào hàng cha chú mình, như các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Hay một đoạn nữa: "Và nhân dân Việt Nam muôn người như một, nghe theo lời Hồ Chủ tịch, vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ Chủ tịch. Không có gì so sánh được lòng dân Việt Nam kính mến tin tưởng lãnh tụ Hồ Chí Minh. Nhiều nhà báo và nhiều bạn ngoại quốc rất lấy làm ngạc nhiên trước lòng kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với vị Cha già Hồ Chí Minh. Nhưng đối với chúng ta, người Việt Nam thì rất dễ hiểu."
Còn nhiều, rất nhiều "hạt ngọc châu" như thế nữa! Nhưng thôi, nhân tiện nói qua thế, chứ mục đích người viết bài này không phải để nói về cuốn sách "Những mẩu chuyện...", mà để bổ sung thêm vài nét vào bức chân dung của ông Hồ Chí Minh nhân dịp tháng 5, kỷ niệm ngày sinh "của Người," dù biết tỏng tòng tong là cả ngày, cả tháng, cả năm sinh "của Người" đều là "phịa" (xin cho phép tôi dùng khẩu ngữ này, có nghĩa là bịa đặt trắng trợn), và thậm chí trong một thời gian nhiều năm, cả ngày chết "của Người" cũng là "phịa" nốt. Cố nhiên, trong trường hợp sau, "Người" không có lỗi. Nhưng, một con người mà ngày sinh, tháng sinh, năm sinh, cho đến ngày chết đều là "phịa" cả, thì có gì bảo đảm là "những mẩu chuyện" tự kể về mình lới là không "phịa"? Nhưng dẫu sao chăng nữa, tháng 5 cũng là có dịp để "tưởng nhớ tới Người"! Vài "mẩu chuyện" mà tôi sắp kể đây là những chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến "vấn đề phụ nữ" (dĩ nhiên, không phải vấn đề giải phóng phụ nữ đâu!), và không phải là thời kỳ ông ở Pháp, Nga, Trung Quốc (vì đã có khá nhiều bài báo viết về những thời kỳ đó rồi). "Những mẩu chuyện" này thuộc thời kỳ ông ở Việt Nam, và cũng chỉ vẻn vẹn trong vài năm thôi, sau khi chính quyền cộng sản tiếp thu những "vùng tạm chiếm" của Pháp ở miền Bắc.
MỘT ÁN MẠNG XE CÁN
Sau khi rời Hà Nội đi Moskva, theo học ở Trường đảng cao cấp của Trung ương đảng cộng sản Liên Xô hồi năm 1962, và nhất là sau khi tôi đã ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản hồi đầu tháng 6 năm 1964, trong lòng tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi một câu chuyện mà càng ngày tôi càng thấy rõ có cái gì đây đầy oan khuất, đầy mờ ám, rất là nghiêm trọng, mà bây giờ ở ngoài nước, trong hàng chục năm, lắm lúc tôi cảm thấy bó tay không thể nào tìm hiểu được. Chuyện thế này: hồi cuối những năm 50 đầu những năm 60, tôi là phó chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, thường ngày tôi xuống các cơ sở. Nhưng sáng hôm đó, tôi nhớ là vào đầu xuân, tôi phải đến thường trực tại Ủy ban, thì anh Nguyễn Quốc Hùng, ủy viên trong Ủy ban, phụ trách văn phòng, bước vào phòng tôi, hồi hộp nói: "Báo cáo anh có một việc xảy ra, có một người đàn bà bị xe ô tô cán ở đoạn đường Nhật Tân phía đi lên Chèm..." Tôi đưa mắt nhìn Quốc Hùng, có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng không nói gì. Ngạc nhiên vì trong óc tôi thoáng một ýϠnghĩ, xe ô tô cán người ở Hà Nội chẳng phải là chuyện gì hiếm, sao anh ấy lại báo cáo với mình. Tôi im lặng chờ đợi. Quốc Hùng nói tiếp: "Nhưng mà, anh à, theo sự điều tra thì không phải là xe cán người, mà làm ra vẻ xe cán người..." Dừng lại một lúc, anh nói thêm: "Mà... theo báo cáo thì chiếc xe ấy lại chạy từ Chủ tịch phủ ra..." Mấy tiếng cuối cùng "từ Chủ tịch phủ ra" đã gây cho tôi một cảm giác thật mạnh. Nhưng lúc đó, thật ra, tôi không hề có mảy may ýϠnghĩ là việc này có liên quan gì đến vị Chủ tịch nước mà hồi đó, tôi chân thành kính yêu và tin tưởng. Một ýϠnghĩ thoáng qua trong óc: hay là bọn phục vụ ở Chủ tịch phủ đã làm bậy bạ cái gì đây với chị kia, rồi giết đi và bày trò cán xe? Suy nghĩ một lúc, tôi nói: "Theo quyết định của Trên, mọi vấn đề thuộc về công an, tòa án thì do bí thư Thành ủy giải quyết, nhất là những chuyện có dính dấp đến Trên, việc này không thuộc thẩm quyền của Ủy ban hay Thành ủy, vậy hôm nay, anh đến gặp anh Tuyên báo cáo ngay anh ấy biết để anh giải quyết thì hơn."
Hôm sau, gặp lại, tôi hỏi thì Quốc Hùng cho biết: đã báo cáo rồi và anh Tuyên bảo anh sẽ trực tiếp làm việc với anh Thân (Lê Quốc Thân, hồi đó là giám đốc Sở công an Hà Nội, về sau được thăng chức thứ trưởng Bộ công an). Khoảng một tuần sau, nhân gặp Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy kiêm phó chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố, tôi tranh thủ hỏi về vấn đề đó, thì anh ta lạnh lùng gạt đi: "Thôi, việc đó xong rồi." Biết là không thuận lợi cho một cuộc trao đổi cởi mở, nên tôi im... Khi đã ở nước ngoài, trong nhiều năm tôi cứ băn khoăn mãi về chuyện đó.
Hồi tháng 7 năm 1993, khi gặp nhà văn Vũ Thư Hiên, một người "cùng cảnh ngộ," tức là cùng bị dính vào "vụ án xét lại - chống đảng," đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Hiên bật người lên, vui mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện "thâm cung bí sử " này và chuyện tôi kể cho anh lới một lần nữa xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ đình Huỳnh, đã dặn dò anh. Hiên nói liền: "Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu, anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân..." Tôi đáp lại: "Chính là Quốc Hùng nói với tôi thế!" Rồi Hiên thủng thẳng tâm sự với tôi: "Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên Hồ Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng đào, anh biết chứ?" Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc: "Biết quá đi, chứ lị! Từ 51, tôi phụ trách ngoại thành cơ mà." Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng này, anh kể tiếp: Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường, hình như một bên có rặng ổi, rồi bảo: "Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây! Tới đây, đánh dấu một vụ án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần Quốc Hoàn (ủy viên Bộ chính trị, bộ trưởng công an) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói lên sự thật..."
Câu chuyện đại để thế này: có một chị nữ thanh niên người Nùng ở Cao Bằng, tên là Nông Thị Xuân, được đưa đến "phục vụ" Bác Hồ, cô đưa em là Nông Thị Vàng và một cô em họ nữa về Hà Nội. Sau đó, cô Xuân đẻ cho Bác một đứa con trai, được đặt tên là Nguyễn Tất Trung, và còn có tin đồn, một đứa con gái nữa, tên là Nguyễn Thị Trinh... Thế rồi Trần Quốc Hoàn hiếp cô Xuân tại nhà phố Hàng Bông Nhuộm, sau đó giết chết, rồi bày trò xe ô tô cán người tới đường Nhật Tân để lấp liếm tội ác. Sau khi cô chị bị giết, cô em chạy về Cao Bằng, rồi cũng bị giết nốt để "bịt đầu mối," và người em họ cô Xuân cũng không thoát khỏi bàn tay đẫm máu của nó. Người yêu của cô Vàng đã viết thư tố cáo hung thủ.
Thật ra, những điều Vũ Thư Hiên kể tuy có rọi thêm vài tia sáng, nhưng vẫn chưa thỏa mãn được cái ýϠmuốn tìm hiểu sự việc cụ thể của tôi, nên tôi vẫn tiếp tục cố làm sáng tỏ vấn đề này. Những năm gần đây, nhờ việc đi lại của người trong nước sang Nga được dễ dàng hơn, nên vài người đã kể cho tôi thêm những chi tiết rất có giá trị, bổ sung cho những điều tôi đã biết. Nhưng tất cả những điều đó chỉ là nghe lại của người này, người khác, không có chứng cứ nào, không có tài liệu cụ thể nào xác minh, giúp cho tôi được vững tin. May mắn là mới đây có một người quen cho tôi xem một tài liệu với nhiều chi tiết cụ thể xác nhận về cơ bản những điều tôi đã tìm hiểu được trong những năm qua. Sau khi cẩn thận xem xét kỹ tài liệu đó, tôi có thể tin tưởng ở tính chất chân thật của nó. Tài liệu gồm có một bức thư dài năm trang đánh máy của người chồng chưa cưới của cô Vàng đã bị giết, viết ngày 29 tháng 7 năm 1983 gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kèm theo một bức thư một trang của một số thương binh, bạn cùng chiến đấu với anh ta, không đề ngày (có lẽ là gửi cùng ngày?), gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, đồng gửi ông Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng CSVN, ông Phạm Văn Đồng, Chủ tịch HĐBT và ông Phạm Hùng, Phó Chủ tịch HĐBT, tố cáo hành vi tội ác của bọn hung thủ đã giết hai nhiều người vô tội. Nhưng có một điều rất "kẹt" cho tôi là anh bạn cho xem tài liệu lại dặn tôi đến hai lần "đừng công bố bản tài liệu," cho nên tôi không thể làm trái ý "người chủ" tài liệu.
Tuy nhiên, tôi mong rằng anh ấy sẽ nghĩ lại và tự anh hoặc nếu anh thấy không tiện cho mình thì giao cho một người nào khác sớm công bố toàn văn bản tài liệu đó để thực hiện ước nguyện của những người đã chết oan và của những người đã bất chấp nguy hiểm, "máu hòa nước mắt viết thư này" (lời trong thư). Phải nói rằng những người viết thư thật rất dũng cảm, đáng kính phục. Vì Chân Lý, người ta coi thường cái chết, khi viết những lời thật xót xa, đầy mai mỉa và thách đố đối với những kẻ cầm quyền và chế độ hiện tồn trong nước; những lời ấy vang lên như tiếng thét đau thương, ai oán, đã bị nhóm cầm quyền cộng sản dìm đi, bóp nghẹt trong hàng mấy thập niên rồi: "Chúng tôi, những thương binh đã đổ xương máu vì độc lập của quốc gia, tự do, công lýϠcho nhân dân, chúng tôi rất mong Ngài vì chân lýϠmà tìm ra hung thủ, xử lý thích đáng, treo cổ hung thủ công khai hoặc bí mật. Nếu trái lại, vì bè lũ, phải bao che cho hung thủ không trừng trị được bọn tàn ác này, thì chúng tôi xin phép Ngài phổ biến rộng rãi vụ bê bối này cho toàn thể thương binh và bộ đội biết để họ đổ xương máu bảo vệ NGAI VÀNG CỦA CÁC NGÀI. Và hơn nữa, chúng tôi sẽ tuyên bố vụ bê bối giết vợ Cụ HỒ CHÍ MINH này cho toàn thế giới biết để cả nhân loại tin tưởng vào chế độ ưu việt của các Ngài. Chúng tôi một số thương binh sống dở chết dở, vì vấn đề này mà các Ngài muốn bỏ tù hay thủ tiêu, chúng tôi không hề sợ, và có khi như vậy lại đỡ khổ cho chúng tôi." (đúng nguyên văn, kể cả những chữ hoa).
PHƯƠNG MAI
Viết đến đây, tôi nhớ đến Nguyễn Chí Thiện, đã liều mình, bất chấp mọi nguy hiểm, xông vào sứ quán Anh ở Hà Nội để đưa tập thơ của anh ra nước ngoài. Không có những con người gan dạ như thế, làm sao bảo vệ Chân LýϠvà chống lại điều ác được? Theo lời dặn của anh bạn, tôi không công bố toàn văn tài liệu đó. Nhưng những gì tôi tìm hiểu được trong mấy năm qua, nhờ sự giúp đỡ của anh chị em trong nước và được tài liệu kia xác nhận, tôi tự thấy mình có bổn phận chia sẻ với mọi người, cốt để làm sáng tỏ thêm sự thật đã bị che giấu 40 năm rồi và phần nào đáp ứng, dù là một cách quá muộn màng đi nữa, lòng mong mỏi cuối cùng của những oan hồn đang ngậm hờn ở thế giới bên kia. Hơn nữa, ngay ở trong nước, tờ báo bí mật, gan dạ Người Sài Gòn, "tiếng nói của nhân dân thèm tự do ngôn luận," năm ngoái cũng đã tung vấn đề này lên rồi trong bài "Viết cho Đào Duy Tùng." Và tôi tin chắc là nhà văn Vũ Thư Hiên cũng không thể bỏ qua chuyện này trong tập hồi ký "Đêm Giữa Ban Ngày" của anh. Có điều tôi muốn nói rõ là tội ác của bọn hung thủ đê tiện trong vụ thảm sát một loạt người này, tuy rùng rợn, khủng khiếp thật, nhưng lại không phải là đề tài chính của bài này, vì ý định của tôi chỉ là bổ sung thêm vài nét chân thực vào bức chân dung của vị Chủ tịch đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trước khi kể lới chuyện trên, tôi xin phép nói đến một chuyện khác, mới nghe thì thật tào lao, nhưng lới có thể giúp cho ta hiểu được nhiều điều. Nói chung, hồi đó, khi tôi còn ở trong nước, cán bộ ở miền Bắc (và có lẽ cả miền Nam nữa), ngay cả trong câu chuyện riêng tư, không hề dám hé răng nói bất kỳ chuyện gì về các lãnh tụ, ngoài những lời sùng bái, tán tụng, ngoài những khuôn sáo đã định sẵn, như "ơn Bác, ơn đảng," v.v... Sự sùng bái cá nhân các lãnh tụ đã được gieo cấy sâu đậm vào tiềm thức cán bộ và dân chúng đến nỗi mọi người cho rằng nói đến các lãnh tụ mà thiếu sự ca tụng, sự sùng kính, nhất là nói đến đời riêng của các lãnh tụ là điều "phạm húy" khủng khiếp, mà điều đó thì tối kỵ, trước tiên, vì... rất nguy hiểm cho bản thân. Chỉ có một số cán bộ cao cấp nào đó thỉnh thoảng khi cao hứng mới có thể tự cho phép "đả động" nhẹ nhàng đến các lãnh tụ trong chừng mực... "không bị đứt đầu." Cố nhiên, những việc như thế không phải là không nguy hiểm. Có một lần, tình cờ tôi được "dự" vào một cuộc "loạn đàm" như vậy. Hôm đó, sau một cuộc họp ở Thành ủy, mọi người ra về, chỉ còn lại ba chúng tôi: Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy Hà Nội, Trần Vỹ, phó bí thư, và tôi. Đang nói chuyện linh tinh, bỗng Trần Vỹ hỏi khẽ: "Thế nào, việc Phương Mai đã xong chưa?" Trần Danh Tuyên đáp: "Không xong." Trần Vỹ nói tiếp: "Cô ấy cũng sạch nước cản đấy chứ, sao lại không xong?" Vui miệng, tôi cũng chêm vào một câu: " Sạch nước cản... thế mà tướng Nguyễn Sơn lại chê là ngực lép kẹp, ăn thua gì!" Cả ba cùng cười, rồi Trần Danh Tuyên hạ giọng nói rất khẽ: "Cô ấy muốn đặt vấn đề đàng hoàng, nhưng mà... Bác và các anh (ýϠnói Bộ chính trị) cho rằng Bác không lấy vợ thì lợi cho uy tín chính trị hơn."
Xin nói rõ chuyện như thế này: hồi đó, có ýϠkiến là ông Hồ cần có vợ để việc "giải quyết sinh lýϢ được điều hòa thì tốt cho sức khỏe. Và sau Hiệp định Genève 1954, người ta chọn một người "kháu" nhất trong số nữ cán bộ trẻ, đó là chị Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Thanh Hóa và đưa chị từ Khu Bốn ra Hà Nội để tiến cử lên ông Hồ. Và như ta đã biết qua cuộc "loạn đàm," chị đặt vấn đề phải có hôn nhân đàng hoàng. Thế là... việc không thành. Rồi chị được bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ thương binh và ở luôn tại Hà Nội.
CÔ XUÂN BỊ GIẾT NHƯ THẾ NÀO?
Bây giờ xin quay trở lới câu chuyện những cô gái ở Cao Bằng. Theo những điều người ta kể cho tôi trong những năm gần đây và được xác minh qua tài liệu đã xem thì có hai chi tiết hơi khác (các cô họ Nguyễn và cô Xuân chỉ có một con với ông Hồ), ngoài ra, các chi tiết khác về cơ bản đều giống nhau. Sự việc cụ thể như sau:
Cô Nguyễn Thị Xuân (tên gọi trong gia đình là Sang) và em họ, cô Nguyễn Thị Vàng, 22 tuổi, quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cuối năm 1954, đã tình nguyện vào làm công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy tháng thì ủy viên Trung ương đảng, chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần Trần đặꮧ Ninh, gặp cô Xuân nói chuyện vài lần, rồi đầu năm 1955 cho xe đón cô Xuân về Hà Nội,"nói là để phục vụ Bác Hồ." Mấy tháng sau, cô Xuân cũng xin cho cô Vàng và cô Nguyệt (con gái của ông Hoàng Văn Đệ, cậu ruột của cô Xuân) về Hà Nội ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm. "Vì các vị lãnh đạo không cho chị Xuân ở cùng với Bác trên nhà Chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ công an, trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của công an. Cuối năm 1956, chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung.
"Em có nhiệm vụ bế cháu," đấy là lời Vàng kể lới cho người chồng chưa cưới của mình trước khi cô bị giết. Và cũng nhờ Vàng đã kể lại, nên chúng ta biết được những sự việc sau đây.
Khoảng mồng 6, mồng 7 tháng 2 năm 1957, Trần Quốc Hoàn đến, nói chuyện vu vơ một lúc, rồi giở trò... kéo cô Xuân vào cái buồng xép, định hãm hiếp. Cô Xuân ú ớ la lên. Vàng hoảng sợ tru tréo, còn Nguyệt khiếp sợ quá co rúm lại ngồi ở trong góc. May lúc đó có tiếng cửa sổ nhà dưới xô sầm vào tường, Hoàn sợ, bỏ cô Xuân ra, rút súng lục ra dọa: "Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết." Rồi xuống thang, ra ô tô chuồn. Mấy hôm sau, Hoàn lại đến, lên gác, đi thẳng vào phòng, ôm ghì cô Xuân hôn. Cô Xuân xô nó ra: "Không được hỗn, tôi là vợ ông Chủ tịch nước." Nó nói: "Tôi biết bà to lắm, nhưng tính mạng bà nằm trong tay tôi." Rồi lấy súng dí vào ngực cô Xuân, nó rút ra sợi dây dù đã thắt sẵn thòng lọng tròng vào cổ cô Xuân kéo cô lên giường, tự tay lột hết quần áo, ngắm nghía, rồi hiếp cô. Cô Xuân xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay cô và nói: "Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già, lại còn vờ làm gái."
Từ đó cô Xuân trở thành thứ đồ chơi trong tay Hoàn. Nó bảo cô Xuân dặn cho hai em phải biết câm cái miệng, nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Mấy chị em lúc bấy giờ rất sợ bị giết, bàn nhau. Vàng đề nghị mấy chị em trốn đi thì cô Xuân nói: "Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác: bây giờ đã có con trai, xin Bác cho mẹ con ra công khai. Bác nói: cô xin như vậy là hợp tình hợp lýϮ Nhưng phải được Bộ chính trị đồng ýϬ nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ýϠmới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa... Mấy tuần trước, Bác lại hỏi chị: các cô ở đây có nhiều người lạ mặt tới thăm phải không? Chị thưa: ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội, còn bà con ở Cao Bằng thì không có ai biết chị em ở đâu. Bác nói không nhẽ ông bộ trưởng công an nói dối? Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ gì đó, để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ. Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại anh chị em chúng ta. Chị bị giết cũng đáng đời, chỉ rất hối hận đã xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị."
Đến ngày 11 tháng 2 năm 1957, vào bảy giờ tối, một chiếc xe com măng ca thường đón cô Xuân lên gặp ông Hồ đỗ trước nhà. Tên Ninh, biệt danh là Ninh Xồm, bảo vệ viên của ông Hồ, vào gặp cô Xuân nói "lên gặp Bác." Cô Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra xe. Xe do Tạ Quang Chiến (tên này trong đội bảo vệ ông Hồ, về sau làm tổng cục phó Tổng cục Thể dục thể thao) lái đi. Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên công an Hà Nội đến báo tin cô Xuân bị chết vì tai nạn ô tô, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phú Doãn. Vàng vội vã đưa cháu Trung cho Nguyệt bế, lên xe công an vào bệnh viện, nhưng không được vào nhà xác. Chờ độ một tiếng sau thì có người bác sĩ ra đọc biên bản, đại ý: trên thân thể tử thi không có thương tích gì, cũng không phải bị đánh chém gì. Mổ tử thi, trong lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì, dạ dày không có thuốc độc, tử cung không có tinh trùng, chứng tỏ không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nứt, nước nhờn chảy ra. Bác sĩ nói: đây có thể là nạn nhân bị trùm chăn lên đầu, rồi dùng búa đánh vào giữa đỉnh đầu. Vàng nghe xong chạy về kể lại cho Nguyệt. Hai chị em cùng khóc...
Ít lâu sau, một cán bộ công an đến bế cháu Trung đi, hai chị em không biết đem đi đâu. Sau đó, Vàng được đưa đi học lớp y tá của Khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên, còn Nguyệt thì Vàng không biết người ta đưa đi đâu, sống chết ra sao. Học được mấy tháng thì Vàng được chuyển về bệnh viện Cao Bằng và may mắn được gặp người chồng chưa cưới ở đây, kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Cô nói với người yêu: "Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu, anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết, vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở۠Cao Bằng, có hôm em còn thấy thằng Ninh Xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít lâu họ tuyên bố em bị thần kinh, được chuyển về điều trị tới bệnh viện Hòa An."
Đ念 226;y là lời người yêu, chồng chưa cưới của cô Vàng: "Tôi chỉ được gặp Vàng có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957, cô Vàng về thăm ông cậu Hoàng Văn Đệ, hung thủ đi theo, giết chết, rồi quẳng xác xuống sông Bằng Giang, đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở Hoàng Bồ. Được tin, tôi chạy về cầu Hoàng Bồ, thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồi. Nghe dư luận bàn tán, cô bị đánh vỡ sọ, tiền, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Vụ này nhiều người bị giết: cô Xuân vợ Cụ Hồ Chí Minh, cô Vàng vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở trường y tá Thái Nguyên, nghe chuyện Vàng đi nói chuyện lại cũng bị giết lây. Mấy chục năm nay, tôi tím gan thắt ruột nghĩ cách trả thù cho em tôi, nhưng sức yếu thế cô, đành ngậm hờn chờ chết... "
Tiện đây, xin phép kể qua một chuyện ngoài lề có ý nghĩa. Hồi Vũ Thư Hiên còn ở Moskva, "người ta" dò biết là anh đang viết hồi kýϬ và hình như cũng đoán biết là anh có trong tay "những mẩu chuyện" nào đó. Thế là một hôm, "bọn trấn lột" người Việt đến nhà, chờ Hiên vào thang máy thì chúng ùa theo, đâm anh vào mông, giật chùm chìa khóa, rồi xông vào nhà. Chúng không đụng đến tiền bạc gì hết, mà chỉ tìm kiếm tài liệu và lấy các đĩa mềm máy tính, trong đó có phần hồi kýϠanh đang viết dở dang. Khi chúng đi rồi, Hiên gọi điện ngay cho tôi. Mấy hôm sau, anh lại báo tin rằng một tên gọi điện cho anh, bảo nếu muốn lấy lại đĩa mềm thì hãy "đến đấy, đến đấy" ở Moskva, mà theo lời anh, chỗ ấy là... ngôi nhà chung cư của cán bộ nhân viên sứ quán Việt Nam tại Nga. Hiên nói để trấn an tôi: "Cũng may là tôi đã dự phòng trường hợp này rồi. Anh yên tâm." Sau đó không lâu, Hiên đến nhà đưa cho tôi đọc 74 trang hồi ky 㦣7911;a anh. Và một thời gian sau nữa, anh lặng lẽ rời khỏi nước Nga, tìm nơi khác an toàn hơn để "đậu"... Tôi kể chuyện này để thấy tính nhạy cảm cao độ của những-người-nào-đó đối với "những mẩu chuyện" không chảy theo luồng lạch của "lãnh đạo" và "người ta" sẵn sàng lao vào những hành động tội ác, điên cuồng, cực kỳ phiêu lưu, chỉ cốt để... bưng bít sự thật.
Nhưng, vì chân lýϬ lẽ nào chúng ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn vùi sự thật? Trái lại, bằng bất cứ giá nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch Sử những sự kiện chân thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người đều được đánh giá đúng đắn và công bằng. Công LýϠđòi hỏi như thế!
NHỮNG CÂU HỎI VỀ HỒ CHÍ MINH
Còn về cháu bé Nguyễn Tất Trung thì sau khi mẹ chết, nó được gửi cho ông Nguyễn Lương Bằng nuôi, độ 4-5 tuổi thì chuyển cho ông Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh mất thì giao về cho ông Vũ Kỳ, nguyên thư kýϠriêng của ông Hồ, làm con nuôi và đổi họ thành Vũ Trung. Tôi xin phép bỏ qua những tình tiết khác và dừng lại ở đây, vì đến đây, cũng đủ để có thể rút ra vài kết luận sơ bộ có liên quan đến đề tài cần nói:
1) Tôi luôn luôn nghĩ rằng không nên "xoi mói" vào đời tư của người khác, kể cả đời tư của các lãnh tụ. Việc các lãnh tụ có vợ, có con là chuyện rất thường tình. Ông Hồ, cũng như bất cứ ông lãnh tụ nào khác, cũng như bất cứ người nào khác, đều có thể có cuộc sống tình dục, cuộc sống gia đình, có thể có vợ, có con, có thể ly dị với vợ, rồi lới lấy vợ khác... Những điều đó không ai nên can thiệp đến. Thậm chí, dù cho ông lãnh tụ nào đó có vợ rồi, lại đi ngoại tình, "cặp bồ" với ai đó, như trường hợp Lenin, hay vợ sờ sờ ra đấy mà vẫn ngang nhiên ngủ với gái, hết cô này đến cô khác, như trường hợp Mao Trạch Đông, hay đi hoang, rồi có con với người khác, như trường hợp Karl Marx, (những ví dụ này tôi không nói vu vơ, các sử gia và các nhà báo đứng đắn trên thế giới đã viết quá đủ, với những bằng chứng không thể chối cãi) thì cũng đáng phê phán đấy, nhưng cũng chẳng sao cả, trời không vì thế mà sập được! Chỉ có cái đầu óc ngu muội, phong kiến của cái đám lãnh đạo cộng sản kênh kiệu, tự coi mình là "trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại" hay là "đỉnh cao trí tuệ loài người," mới nghĩ rằng phải tô vẽ cho lãnh tụ thành một ông thánh sống, là một con người siêu phàm, không vợ không con... thì càng thêm uy tín chính trị.
Thế rồi cứ giấu kín cuộc đời riêng tư của các lãnh tụ như là bí mật quốc gia số một, hễ ai động khẽ đến là trừng trị tàn nhẫn. Đấy, cái vụ vừa qua đảng "xử trí kỷ luật" một cách thô bạo đối với Kim Hạnh, tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, chỉ vì báo đó dám nói sơ sơ chuyện ông Hồ có vợ hồi ở Trung Quốc, là một chứng minh cho cái đầu óc ngu dốt, độc đoán, lố bịch của cái đám ấy. Lẽ cố nhiên, cách xử sự của người đàn ông đối với phụ nữ, đối với vợ con phản ánh toàn bộ tư cách, phẩm chất, đạo đức của con người, và điều đáng nói, đáng xem xét đối với các lãnh tụ chính là ở đó.
2) Theo tôi, các cô gái Cao Bằng, cũng như anh chồng chưa cưới của cô Vàng cùng các thương binh bạn chiến đấu của anh đều rất ngây thơ, tưởng là ông Hồ định lấy cô Xuân làm vợ thật, tưởng cô Xuân là vợ của ông Hồ thật. Khách quan mà xét, ông Hồ không muốn có vợ đàng hoàng, ông chỉ muốn giữ cái "uy tín chính trị" hão của "bậc siêu nhân," ông chỉ muốn được "tiếng" vì dân vì nước đến nỗi suốt đời không mơ tưởng đến chuyện vợ con. Và điều này nói ra chua xót thật, nhưng không thể không nói: cô Xuân chỉ là món đồ chơi trong tay ông mà thôi. Cô Xuân được đưa về Hà Nội là để "phục vụ" ông Hồ, cũng như bao nhiêu cô gái Trung Quốc đã được đưa đến Trung Nam Hải để "phục vụ" ông Mao (Xem hồi kýϠ"Tôi là bác sĩ riêng của Mao" của LýϠChí Tuy). Mồm ông Hồ nói nào là giải phóng phụ nữ, nào là chống tư tưởng phong kiến, tôn trọng phụ nữ, v.v... thế nhưng ông đã hành xử với phụ nữ cực kỳ phong kiến, coi phụ nữ chẳng khác gì món đồ chơi. Nhận xét như thế hoàn toàn không có tính chất vũ đoán, vì thử hỏi:
a. Nếu coi cô Xuân là vợ thật, tới sao ông lại không để cô ở chung tới ngôi nhà riêng của ông ở trong khuôn viên Chủ tịch phủ, mà bắt cô phải ở riêng mãi tận nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, (ai biết rõ Hà Nội thì dễ dàng hình dung được khoảng cách) là nhà của công an, lại phải chịu dưới sự quản lý trực tiếp của bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn và chỉ khi nào ông cần "được phục vụ" thì cho xe đón cô lên Chủ tịch phủ mà thôi? Trong những n ăm đó, ông Hồ chưa đến nỗi thất thế tới mức phải để cho Trường Chinh, Lê đức Thọ, Hoàng Quốc Việt có thể can thiệp vào cuộc sống tình cảm của ông như vậy, có thể khống chế ông như vậy. Ông đường đường là lãnh tụ tối cao, là Chủ tịch đảng, cơ mà!
b. Nếu ông coi cô Xuân là vợ thật thì khi cô đẻ con trai rồi, tại sao ông vẫn để hai mẹ con ở riêng tận 66 Hàng Bông Nhuộm và khi mẹ nó chết rồi, ông không đem con về nuôi, mà lại đưa cho người này, người khác nuôi cho đến khi thằng bé lên 13 tuổi, là năm ông qua đời, thì "người ta" (cũng khó biết được là ai, Bộ chính trị hay là theo lời dặn của bố đẻ đứa bé?) lại giao nó cho Vũ Kỳ làm con nuôi? Và xin các bạn chú ýϬ Vũ Kỳ đã (chắc chắn là anh ta không bao giờ dám tự ýϩ đổi họ thằng bé thành Vũ Trung, xóa mọi dấu vết tội lỗi của một ông họ Nguyễn Tất! Ở۠đây, khách quan mà nói, dường như ông Hồ không có chút tình thương yêu nào đối với đứa con đẻ của mình. Một người như vậy làm sao có thể thương yêu trẻ con người khác được?
3) Theo tôi, thật khó mà bác bỏ ýϠkiến cho rằng từ đầu đến cuối, ông Hồ cùng đám cận thần của ông, những ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ chính trị, đã đánh lừa tệ hại cô Xuân, một cô gái quê ngây thơ ở miền núi, làm cho cô tưởng lầm ông định lấy cô làm vợ thật. Khi có con với ông rồi, cô xin cho hai mẹ con "được ra công khai" (chắc ýϠnói hợp thức hóa) thì một mặt ông làm ra vẻ thông cảm, thừa nhận yêu cầu đó là hợp tình hợp lýϬ nhưng mặt khác ông lại chỉ vào các ông trong Bộ chính trị mà nói là các ông kia có quyền quyết định chứ không phải ông, phải chờ ý kiến của các ông kia, làm như ông không phải là "lãnh tụ tối cao," không phải là Chủ tịch đảng, làm như ông ở dưới quyền mấy ông kia trong Bộ chính trị. Rồi ông còn khuyên nhẹ nhàng: "Cô đành phải chờ một thời gian nữa!" Và thật tội nghiệp cho cô Xuân, cô đã chờ, chờ... đến khi bị giết!
4) Còn có nhiều điều khác mà trong tình hình hiện nay khó có thể tìm ra được lời giải đáp: Tại sao Trần Quốc Hoàn lại có thể có thái độ trắng trợn, đê tiện như thế đối với cô Xuân? Dù cô không phải là vợ chính thức thì cũng là "bồ" (nói theo lối nói thông thường hiện nay ở Việt Nam) của lãnh tụ, cơ mà! Sao y lại có thể to gan phạm thượng đến như thế? Hay là y đã thấy rõ tình thế bị "thất sủng" của cô Xuân, tức là cái thái độ không mặn nồng nào đó của ông Hồ đối với cô Xuân, nên mới bạo phổi làm chuyện bậy bạ đến thế? Hay là y đã biết một quyết định nào đó. về cô Xuân, nên y nghĩ rằng "không xài thì phí của trời," trước sau rồi cô cũng chết?
Còn câu hỏi mà ông Hồ đặt ra cho cô Xuân về những người lạ mặt thường đến chỗ các cô phải không, có ýϠnghĩa gì? Có đúng là do bộ trưởng công an mớm cho ông hay không? Việc giết cô Xuân, cô Vàng, cô Nguyệt... là mưu đồ của cá nhân Trần Quốc Hoàn, hay là chủ trương của một tập thể, nếu là của một tập thể thì tập thể nào, và ông Hồ có được biết hay không? Trách nhiệm của ông Hồ, của Bộ chính trị Trung ương đảng, của Bộ công an, của Trần Quốc Hoàn trong việc này như thế nào? Khoảng thời gian từ khi cháu Trung được sinh ra (cuối năm 1956) đến ngày Hoàn tới dở trò hãm hiếp mẹ nó (mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957), cũng như từ ngày đó tới ngày mẹ nó bị giết (11 tháng 2 năm 1957) vì sao lại gần nhau đến thế? Đ辶#7873;u đó có ý nghĩa gì? Vân vân và vân vân... Hy vọng là rồi đây, các nhà thám tử Maigrets tài giỏi nhất, các chuyên gia về tội phạm có thể góp ýϬ góp sức, giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề.
Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử đã có ảnh hưởng rất lớn đối với vận mệnh đất nước và nhân dân Việt Nam trong nhiều thập niên của thế kỷ 20. Dù muốn hay không, không ai có thể phủ nhận điều đó. Nhưng, ảnh hưởng đó là tốt hay xấu, hay vừa tốt vừa xấu, tốt nhiều xấu ít, hay ngược lại? Công trạng của ông thế nào, tội lỗi của ông ra sao, chỉ có công không có tội, hay là chỉ có tội không có công, hay vừa công vừa tội? Ông là vị thánh nhân, là bậc siêu nhân, hay là kẻ phàm phu, hay là tên giả dối, bịp bợm? Ông là biểu tượng của đạo đức với trái tim nhân ái, hay là một kẻ vô luân, vô đạo với lòng dạ bất lương?.. Tất cả những câu hỏi đó đòi hỏi một sự nghiên cứu khách quan, cẩn trọng, sâu sắc, tỉ mỉ, toàn diện, và cuối cùng... phải chờ Lịch Sử cân lượng, phán xét, Lịch Sử được đúc kết từ muôn ngàn sự kiện chân thật. Nhận thức sâu sắc điều đó, người viết bài này không mảy may có tham vọng đánh giá cuộc đời của vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ý muốn nhỏ nhoi đã được nói ngay từ đầu, chỉ là để góp thêm vài "mẩu chuyện," qua đó người đọc có thể thấy thêm được vài nét chân thật trên bức chân dung hoành tráng, đồ sộ của ông mà giới cầm quyền cộng sản Việt Nam từ trước đến nay đã dày công tô vẽ.
Nhưng, vì chân lýϬ lẽ nào chúng ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn vùi sự thật? Trái lại, bằng bất cứ giá nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch Sử những sự kiện chân thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người đều được đánh giá đúng đắn và công bằng. Công LýϠđòi hỏi như thế!
(Ngày 10 Tháng Ba 1997)
NGUYỄN HỮU HÙNG * HOA SEN
Một Đóa Hoa Sen Trôi Giạt Trong Dòng Đời
Có những lúc tâm hồn mình cảm thấy có một chút bơ vơ trống vắng, tửơng chừng như đang mơ mộng về một khỏang thời gian hư vô nào đó va øtôi đã trở lại với hình ảnh ngừơi em bé gái khỏang 12 hay 13 tuổi cách đây hơn hai mươi năm về trước tại một vùng nghèo nàn, hẻo lánh; nơi mà tôi đã trãi qua nhiều kỷ niệm đau thương và tưởng chừng tôi đã nằm yên dứơi lòng đất do những viên đạn của những ngừơi Việt nam tự hào là kẻ chiến thắng trong cuộc chiến vừa qua.
Thời gian năm 78 là lúc mà tinh thần tôi vô cùng căng thẳng vì sau nhiều lần tổ chức vựơt biên bị đổ vở vì vừa bị lừa gạt và vừa bị anh em trong cùng một tổ chức chóng cộng phản bội, nên tôi phải ngày đêm phiêu bạt sống ngòai vòng luật pháp trong các vùng quê hẻo lánh để lẩn tránh những bộ mặt đang theo dõi, rình rập và tìm kiếm bắt tôi. Tôi phải trà trộn vào những ngừơi nông dân chân lấm tay bùn nhưng tất cả đều là những ngừơi có dư thừa tình ngừơi một cách cao đẹp. Họ đã chia cho tôi phần ăn của họ vỏn vẹn chỉ có hai chén cơm, vài trái cà dòn và một chút nắm nêm, hay ít muối tiêu v.v...Buổi ăn trưa thật sự quá đơn giản cho một ngừơi dân lao động nặng nhọc như họ. Tất cả đều niềm nở và vui vẽ đón tôi gia nhập vào đội sản xuất với họ cho dù khả năng của tôi chưa bằng một nữa của một em bé nhỏ nhất trong đội mơí mừơi hai tuổi . Chính những cử chỉ vụng về, mệt nhọc của tôi càng gây cho họ với những nỗi thương yêu hơn. Tôi còn nhớ, có một ngừơi, đúng hơn là một cô nhìn tôi đang làm việc chung với họ, cô đã nói “ thật tội nghiệp cho anh quá, phần tụi em thì số phận đã an bài sống ở nơi thôn dã này, phải vật lộn vơí thiên nhiên và sự cực nhọc để kiếm miếng cơm mà sống, chứ còn anh, không thể nào làm những việc như tụi em phải làm “.
Tôi rất cảm động về lời cô đã nói, tôi cũng muốn chảy nứơc mắt nhưng đành phải câm nín vì chính mình đâu có khác gì họ, vẫn là con ngừơi bình thừơng, vẫn phải bon chen để dành sự sống, nhưng thực tế mình là kẻ bất hạnh hơn họ vì là ngừơi sống ngòai vòng luật pháp. Không hộ khẩu, không chứng minh nhân dân mà chỉ là một chứng minh thư giả tạo mà không ai biết. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi mình tự đem sức mình ra cùng với sự lương thiện của mình đối với ngừơi và với đời. Chính vì sự lương thiện và liêm sĩ mà tôi chấp nhận cuộc sống không tương lai và nguy hiểm đến tính mạng như thế này.
Trở lại với giây phút bơ vơ nói trên đã xảy ra với tôi vào buổi chiều ba mươi Tết Việt Nam tại vùng đất lạnh này khi mà tất cả mọi ngừơi trong gia đình đang đòan tụ để cùng đón mừng năm mới bên Việt Nam thì bên này lòng tôi càng se sắt lại hơn . Chưa bao giờ sau hơn hai mươi năm tôi đưọc đứng trứơc bàn thờ ông bà như năm nào khi còn thơ ấu, bên mẹ cha và anh chị em đầây đủ trong bộ áo quần mới bằng vải Khaki. Ngồi bên ly trà, bên ngòai tuyết càng lúc càng đổ xuống nhiều, càng thấy cỏi lòng trống vắng thêm trôi theo những bông tuyết rơi trên mặt đất họăc phất phơ dính lấp vào những cành cây khô khan không một chiếc lá xanh còn sót lại. Có lẽ bên này, mùa Đông là mùa chết. Cây cỏ chết, mây chết, gió chết, thời gian cũng chết luôn .Con ngừơi cũng chết. Chết lạnh, chết đíến, chết từ lúc nào. Tôi cũng chết theo với giây phút bơ vơ nhìn qua cửa sổ, không còn nhìn thấy tuyết rơi nữa nhưng tôi gặp lại đứa em gái trong đội sản xuất hơn hai mươi năm về trứơc. Em vẫn như thế, vẽ mặt hồn nhiên của em , khuôn mặt giống Phật Bà Quan Âm như đúc. Chính em đã cứu sống tôi, đã vén mở lại cho tôi nhận thức lại cái con ngừơi chân thật của mình mà từ bao lâu nay tôi đã bỏ quên nó như bỏ quên một cái gì quý báo nhất mà không thể tìm lại đựơc.
Trong thời gian ngắn phải trốn lánh công an cộng sản, tôi phải sống nhờ cậy vào ngừơi em gái này, một ngừơi có thể nói rằng nghèo nhất trên thế gian này nhưng ngựơc lại em là ngừơi giàu nhất trên cả vũ trụ.
Chỗ em ở chỉ là một căn lều tranh nhỏ che bởi những tấm lá buôn cũng ngừa đựơc mưa và gió. Mái tranh tuy không dầy lắm nhưng cũng che đựơc mưa nắng quanh năm. Trứơc nhà là một cái lu đất do ngừơi Chàm sản xuất chứa nước uống. Lu nứơc có vẽ quá đơn sơ nhưng có đặc tính hay mà không ai hiểu nỗi cái huyền diệu của nó. Tuy rằng trong buỗi trưa hè nóng bức nhưng những giọt nứơc múc lên từ trong cái lu này sẽ làm cho con ngừơi thỏai mái vô cùng khi uống xong từng hóp nước, những giọt nứơc mát rựơi của ngừơi dân miền thôn dã.Bên hông nhà là một ngăn nhỏ, có cái bếp bằng đất , một cái giỏ mây đựng vài cái chén, vài đôi đủa, một cái nồi đất và một cái chảo. Đó là gia sản của em do cha mẹ để lại.
Tôi chỉ sống tạm trong một tuần lễ nhưng đã nhận thấy ở em, một con ngừơi lạ thừơng. Em không phải là một vị tu hành nhưng đạo hạnh của em chính là của một vị Bồ Tát. Mỗi buỗi cơm chiêù, em không dùng cơm như những gia đình thông thừơng khác. Em ngồi thật ngay ngắn theo thế ngồi thiền định, em trộn cơm, rau ,đậu vào chung một tô. Em nâng bát cơm lên đọc mừơi lần danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát rồi em cầu nguyện cho cha mẹ em đươc siêu thóat, em cầu nguyện cho tất cả những ngừơi khác không còn hận thù, sống bằng tình thương yêu thật sự của con người. Thật là đơn giản, không cao xa, không văn từ kinh điển chi cả. Em ăn thật từ tốn, chậm rãi như các vị tu khất sĩ.
Tôi có dịp tâm sự với em về cuộc sống của em, về gia đình em, và nguyên do nào em có những cử chỉ lạ thừơng như vậy. Em đã tâm sự với tôi bằng những lời êm diệu của một vị sư giảng đạo cho tôi. Em nói : “ Mẹ em trứơc khi qua đời có nói lại với em những lời sau cùng rằng, dù trong hòan cảnh nào, họ có tàn ác giết chết cha con trong tù cải tạo, con cũng nên tha thứ cho họ vì họ là những ngừơi chưa hề biết Phật pháp là gì. Con hãy tự lo cho con, con ngừơi chính của con là cái tấm lòng của con đó chứ không phải là cái xác thịt đau khổ này. Con phải sống bằng tình thương yêu thật sự với mọi ngừơi,con phải ngay thẳng, không sợ ai uy hiếp vì con có ngài Quan Âm lúc nào cũng ở bên cạnh của con và con cũng không nên uy hiếp bất cứ ngừơi nào yếu kém hơn con. Con nên cứu giúp mọi ngừơi dù con không có một hột gạo chăng nữa.Cái tấm lòng rộng rãi, thương người và biết ơn mọi ngừơi và xã hội đã đem lại cho con tất cả những gì họ có, chứ con không thể nào tự mình cung cấp đầy đủ những nhu cầu cho con đựơc. Dù con có tiền rừng bạc biển chăng nữa con cũng không mua đựơc cái tình ngừơi của những ngừơi khác đối với con. Những gì con có, con nên phân chia cho những ngừơi quanh con khi đói khổ hơn con hay bị họan nạn cần sự giúp đở của con. Con nên nhớ, trứơc khi ăn cơm, con phải niệm Ngài Quan Thế Âm để ngài gia hộ cho con và Ngài gia hộ cho tất cả chúng sinh. Mẹ không cùng con đi hết trọn con đừơng , mẹ bỏ dở để con một mình nhưng mẹ lúc nào cũng ở bên con. Con nhớ là con không đựơc khóc lúc mẹ ra đi, mẹ chỉ cần con niệm Ngài Quan Thế Âm cho mẹ là đủ rồi.”
Tôi rời em trong một đêm không định đựơc vì có chuyến vượt biên đột ngột. Tôi hết lòng nài nĩ em ra đi để hi vọng em sẽ lập lại cuộc sống mới khá hơn nhưng em vẫn từ chối vì em không thể nào làm sai lời mẹ em đã dạy.
Tiếng địên thọai reo làm tôi giật mình, những gịot nứơc mắt còn trên mí mắt. Tôi vội gọi ngay điện thoại về Việt nam để tìm lại em dù nhiều lần trứơc đây tôi đã nhờ nhiều ngừơi tìm kiếm em nhưng tất cả đều vô vọng vì sau ngày tôi vựơt biên ra đi thì căn lều đó cũng mất luôn không có dầu tích gì còn sót lại và không ai biết ngừơi con gái đó đi đâu và ở đâu.
Tôi càng bàng hòang thương tiếc ngừơi con gái có hạnh nguyện Bồ Tát ấy mà tôi chưa hề có dịp gặp lại em hay ít nhất cũng đựơc nghe tin tức về em. Hình ảnh ngừơi con gái chính là một đoá hoa sen còn sót lại trong vũng bùn đất nứơc. Đóa sen lạc lòai trong một xã hội mà nhân tâm tan nát nhưng em vẫn sống như một vị tu sĩ tinh tấn và chuyên cần để cảm hóa tôi và giúp tôi sống lại bằng cuộc sống chân thật nhất của mình. Tôi thừơng tự nghĩ, có lẽ ngừơi em gái đó chính là hiện thân của ngài Quan Thế Âm đã thị hiện để giúp tôi vựơt qua những lúc nguy nan nhất trong đời.
Chiếc ghe vựơt biên của tôi chỉ có một động cơ, mang theo hai trăm lít dầu, vài thùng nứơc nhưng đã chở trên ba mươi ba ngừơi lớn nhỏ với hi vọng chỉ cần đến đựơc hải phận quốc tế thì sẽ có tàu cứu vớt. Chiếc ghe bị vô nứơc khá nhiều và sắp sưả bị chìm vì cơn bảo sắp kéo đến, bầu trời đen và vô cùng kinh rợn, bỗng nhiên một tiếng nỗ vang rền trên không gian, những tia sáng tung toé ra làm mọi ngừơi bừng tỉnh , tự nhiên mọi ngừơi chấp tay cầu nguyện ngài Quan Thế Âm và đúng thật, hình ảnh của Ngài đã hiện ra trong ánh sáng tung tóe đó ,ngài đã chận chiếc tàu chở dầu ngừng lại vàøcứu vớt chúng tôi.
Nguyễn Hữu Hùng
Toronto mùa Đông Nhâm Ngọ.
KIM KHÔI * HỊCH CỨU NƯỚC
HỊCH CỨU NƯỚC
Cảm khái từ lịch sử Ải Nam Quan và giòng giống VN kiêu dũng!
KIM KHÔI
Charlotte - North Carolina
Nhớ xưa:
Suối Phi Khanh, nơi nước mắt tuôn chảy thành dòng,
Núi Đầu Qủy, hồn Bắc quân vẫn còn lẩn quất!
Còn chăng Ải Nam Quan!
Đâu rồi thác Bản Giốc?!
Di tích ngàn năm nay bỗng chốc lọt vào tay người !
Máu xương tô bồi giờ do đâu hóa thành công cốc ?
Niềm đau nầy nghìn thu hầu dễ nhạt phai!
Nỗi nhục đó muôn đời hẵn không phai nhạt!
Gẩm lại:
Văng vẳng đâu đây lời dặn của tiền nhân
Rành rành khắp chốn sáng ngời gương hào kiệt :
" Quyết tâm bảo vệ từng thước sông,
Đừng để giặc chiếm dù tấc đất".
Và:
" Thà làm quỉ nước Nam,
Hơn làm vương đất Bắc"
Thế nên:
Để trả thù mất đất, Lý Thường Kiệt cất quân chinh phạt Ung, Liêm,
Muốn thu hồi cương thổ, Lý Nhân Tông sáu lần đòi động Dương, Ác (1)
Khiến rơi mặt nạ nhân nghĩa của Tống Thần Tông
Phá hỏng chủ trương "Tân pháp" của Vương An Thạch.
Đất nước từ đó lại được thanh bình
Biên giới Bắc Nam định phân rành mạch.
Đến đời Trần, Bắc quân lại nếm mùi đắng cay
Vì ngông cuồng, giặc Nguyên tái xua quân chiếm đất
Nhưng cả ba lần xâm lăng
Cả ba lần đều bại nhục !
Nguyên Thế Tổ nghe tin giật mình,
Tướng Thoát Hoan trốn chạy trối chết!
Ải Nam Quan vẫn sừng sững trấn địa đầu,
Sông Bạch Đằng còn ngỗn ngang thây lũ giặc!
Vua Trần Nhân Tông lưu danh cùng hội nghị Diên Hồng,
Đức Trần Hưng Đạo nổi tiếng vì đánh bại Mông tặc.
"Âu vàng bền vững với non sông,
Ngựa đá không còn lao xã tắc!"
Rồi giặc Minh xua quân chiếm nước Nam
Lũ Trương Phụ ác độc như rắn rít
Bóc lột dân ta đến tận xương,
Ngược đãi dân ta như súc vật.
Trước cảnh nước nhục, dân đau...
Lê Lợi phất cờ đuổi giặc:
Cuộc chiến đã diễn ra vô cùng khốc liệt, cam go
Tướng sĩ phải chịu đựng lắm nỗi gian lao, cơ cực
Nguyễn Trãi phải trổ tài tam lược lục thao,
Lê Lợi cũng kiên trì nằm gai nếm mật...
Cho đến khi nghĩa quân đủ sức phản công
Ấy là lúc quân thù vô phương đối địch:
Chước nối chước khiến Vương Thông, Mã Anh... nhức óc đau đầu,
Trận tiếp trận làm Trần Trí, Sơn Thọ... mất hồn vỡ mật!
Liễu Thăng bị bêu đầu trên Quỉ Đầu sơn,
Lương Minh phải vùi thây nơi Xương Giang khúc ...
Tướng sĩ kẻ bị bắt, kẻ đầu hàng,
Binh đội số bị vây, số tan tác
Minh Đế thấy tình hình nguy ngập vội đề nghị giảng hòa
Lê Lợi muốn quân được nghỉ ngơi cũng bằng lòng kết thúc
Cương giới lại được xác minh,
Tù binh được ta phóng thích:
Vương Thông, Mã Anh về đến Tàu còn đổ mồ hôi,
Phương Chính, Mã Kỳ ra tận biển chưa thôi trống ngực!
Bắc quốc ngừng dấy động can qua,
Nam bang được hòa bình an lạc.
Tống, Nguyên, Minh từng nghiến răng nuốt nhục, đến giặc Thanh
cũng phải nếm mùi!
Lý, Trần, Lê làm rạng rỡ giống nòi, rồi đến Nguyễn (2) ra tay cứu nước.
Lúc đó:
Minh triều chính tình hỗn loạn, quan quân nhu nhược, yếu hèn
Mãn Thanh đang lúc hùng cường, xua quân nuốt dần Trung quốc
Lại theo đòi học thói xâm lăng
Hầu thực hiện giấc mơ chinh phục:
Xua đại quân xâm chiếm nước Nam
Xem dân ta khác nào cỏ rác!
Chúng hãm hiếp, cướp phá... độc ác khôn cùng!
Lại bắt người, đốt nhà... bạo tàn rất mực!
Một dải Bắc Hà, dân rên xiết dưới gót lũ xâm lăng,
Cố đô Thăng Long, cảnh hoang tàn như một thành phố chết!...
Tin cấp báo vừa vào đến Huế, lệnh xuất quân liền được ban hành
Vua Quang Trung ngự giá thân chinh, bừng khí thế quyết khu, diệt giặc
Lệnh ban ra: Kẻ khiêng người nghĩ; Trên dưới tuân hành
Rút thời gian: Tạo sự bất ngờ; Hành quân thần tốc!
Giặc Thanh mãi lo vui chơi Tết, phòng bị lơ là
Quân Nam thế tiến như chẻ tre, giáng đòn sấm sét!
Hà Hồi, Ngọc Hồi... sớm vỡ tan!
Đống Đa, Thăng Long... bị truy bức!
Tôn Sĩ Nghị bỏ cả ấn tín, tìm kế thoát thân,
Sầm Nghi Đống vô kế khả thi, thế cùng tự sát.
Quân lính hỗn loạn như bầy ong vỡ tổ, cổi giáp vất gươm,
Tướng sĩ thất thần như lũ chuột gặp mèo, mạnh ai nấy thoát!
Cầu Long biên gãy sụp, người cưỡi lên người!
Sông Hồng Hà nghẽn dòng, xác chồng trên xác!
Chỉ chưa tới mười ngày, hai chục vạn quân Thanh bị đánh tan hoang!
Nội trong vòng bốn năm, phía Nam diệt quân Xiêm, Bắc đuổi Thanh tặc,
Bắc Bình Vương đáng mặt anh hùng
Vua Tây Sơn sử vàng ghi khắc!
Càn Long nghe tin ngồi đứng không yên,
Nguyễn Huệ "tinh đời" vỗ về phương Bắc!
Thế là:
Hoa Việt chung sống thanh bình
Dân Nam an hưởng hạnh phúc!
Do bản tính thực dân, Bắc triều đã bao phen xua quân xâm chiếm nước ta,
Với ý chí quật cường, tiền nhân từng bao lần anh dũng đánh tan lũ giặc:
Xương trắng máu đào đã trải khắp núi rừng,
Mồ hôi nước mắt từng đổ hòa sông nước!
Thà phải hy sinh,
Không chịu mất đất!
Gương sáng ấy chẳng đáng noi theo?!
Công trạng kia không đủ hiển hách ?!
Sao nở cúi luồn ngoại nhân ?!
Lại dám đánh lừa dân tộc?!
Rõ ràng:
Quân vong bản: Muốn bảo vệ quyền lợi bản thân nên cam tâm
phản bội cha ông,
Lũ Cộng nô: Để duy trì độc quyền phe đảng phải cúi đầu tuân
phục phương Bắc.
Cắt đất của Tổ tiên dâng cho Thiên triều
Cắt biển của cha ông hiến cho Trung quốc
Bán rẻ danh dự quốc gia,
Bôi nhọ uy danh dân tộc!
Hành động ấy dẫu cho trời cũng không dung, đất cũng không tha,
Tội trạng đó dù trúc rừng ghi chẳng vừa, nước biển gột chẳng sạch!
Bảo sao đồng bào không căm,
Nên sao sĩ phu không uất!
Thế nên:
Muốn tránh cho Tổ Quốc khỏi gặp nguy nan,
Muốn trừ cho Dân Tộc khỏi bị ô nhục,
Để Quốc Gia không bị rẻ khinh,
Để Nhân Dân không gặp phản trắc:
Toàn Dân phải nhất tề đứng lên lật đổ bạo quyền,
Trong Ngoài cần đoàn kết một lòng diệt trừ lũ ác
Xóa đi cái quái thai Cộng sản lỗi thời,
Giải thể sự độc tài toàn trị thối nát,
Lôi những tên ác ôn như Kiệt, Anh, Mười, Khải... ra trước pháp đình
Bao vây bắt các tội phạm phản quốc như Phiêu, Mạnh, Cầm,
Lương...đưa ra Tòa Án Quốc Dân trừng phạt.
Chỉ có như thế mới:
Xây dựng được một thể chế Dân Chủ, Tự Do
Đem lại cho Nhân Dân Ấm No, Hạnh Phúc!
Đưa đất nước tiến kịp bè bạn năm châu
Làm rạng rỡ uy danh Con Hồng Cháu Lạc!
Hỡi các bạn Thanh Niên, Sinh Viên! Mau dấn thân cứu Nước cứu Dân!
Hỡi toàn thể Đồng bào! Mau vùng lên thu hồi Biển, Đất!
Cơ hội ngàn năm có một!
Tương lai vạn đại đang chờ!!!
Charlotte, NC, Mùa Quốc Kháng, tháng 4/2002
KIM KHÔI
(1) Vua Lý Nhân Tông 6 lần đòi hai động Vật Dương và Vật Ác
từ năm Nhâm Tuất 1082 đến năm Mậu Thìn 1088
(2) Nguyễn Tây Sơn
Ghi chú: KIM KHÔI là chiến sĩ hàng đầu của Phong Trào LIÊN
TÔN KHỞI NGHIÃ và phong trào CHỐNG CS BÁN NƯỚC,
hiện sống tại Charlotte, NCø. Thi sĩ - cùng với VŨ THỊ SÀI
GÒN - đã từng viết nhiều bài thơ về các Anh Hùng Dân Tộc
chống Cộng sản gần đây đã anh dũng hy sinh tính mạng hoă.c
vào tù ra khám (như LM NGUYỄN VĂN LÝ, LÝ TỐNG, HỒ
TẤN ANH, NGUYỄN THỊ THU v.v.) và ca'c bài hịch kêu gọi toàn
dân khởi nghiã!
Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN có dự
tính xuất bản tập thơ của các nhà ái quốc đang kêu gọi KHỞI
NGHIÃ chống lại chế độ bán nước và tàn hại Dân Tộc, như
là ĐỖ VĂN THÔNG, VŨ THỊ SÀI GÒN, TRẦN KIM KHÔI
v.v., vào một lúc quyết định.
Cảm khái từ lịch sử Ải Nam Quan và giòng giống VN kiêu dũng!
KIM KHÔI
Charlotte - North Carolina
Nhớ xưa:
Suối Phi Khanh, nơi nước mắt tuôn chảy thành dòng,
Núi Đầu Qủy, hồn Bắc quân vẫn còn lẩn quất!
Còn chăng Ải Nam Quan!
Đâu rồi thác Bản Giốc?!
Di tích ngàn năm nay bỗng chốc lọt vào tay người !
Máu xương tô bồi giờ do đâu hóa thành công cốc ?
Niềm đau nầy nghìn thu hầu dễ nhạt phai!
Nỗi nhục đó muôn đời hẵn không phai nhạt!
Gẩm lại:
Văng vẳng đâu đây lời dặn của tiền nhân
Rành rành khắp chốn sáng ngời gương hào kiệt :
" Quyết tâm bảo vệ từng thước sông,
Đừng để giặc chiếm dù tấc đất".
Và:
" Thà làm quỉ nước Nam,
Hơn làm vương đất Bắc"
Thế nên:
Để trả thù mất đất, Lý Thường Kiệt cất quân chinh phạt Ung, Liêm,
Muốn thu hồi cương thổ, Lý Nhân Tông sáu lần đòi động Dương, Ác (1)
Khiến rơi mặt nạ nhân nghĩa của Tống Thần Tông
Phá hỏng chủ trương "Tân pháp" của Vương An Thạch.
Đất nước từ đó lại được thanh bình
Biên giới Bắc Nam định phân rành mạch.
Đến đời Trần, Bắc quân lại nếm mùi đắng cay
Vì ngông cuồng, giặc Nguyên tái xua quân chiếm đất
Nhưng cả ba lần xâm lăng
Cả ba lần đều bại nhục !
Nguyên Thế Tổ nghe tin giật mình,
Tướng Thoát Hoan trốn chạy trối chết!
Ải Nam Quan vẫn sừng sững trấn địa đầu,
Sông Bạch Đằng còn ngỗn ngang thây lũ giặc!
Vua Trần Nhân Tông lưu danh cùng hội nghị Diên Hồng,
Đức Trần Hưng Đạo nổi tiếng vì đánh bại Mông tặc.
"Âu vàng bền vững với non sông,
Ngựa đá không còn lao xã tắc!"
Rồi giặc Minh xua quân chiếm nước Nam
Lũ Trương Phụ ác độc như rắn rít
Bóc lột dân ta đến tận xương,
Ngược đãi dân ta như súc vật.
Trước cảnh nước nhục, dân đau...
Lê Lợi phất cờ đuổi giặc:
Cuộc chiến đã diễn ra vô cùng khốc liệt, cam go
Tướng sĩ phải chịu đựng lắm nỗi gian lao, cơ cực
Nguyễn Trãi phải trổ tài tam lược lục thao,
Lê Lợi cũng kiên trì nằm gai nếm mật...
Cho đến khi nghĩa quân đủ sức phản công
Ấy là lúc quân thù vô phương đối địch:
Chước nối chước khiến Vương Thông, Mã Anh... nhức óc đau đầu,
Trận tiếp trận làm Trần Trí, Sơn Thọ... mất hồn vỡ mật!
Liễu Thăng bị bêu đầu trên Quỉ Đầu sơn,
Lương Minh phải vùi thây nơi Xương Giang khúc ...
Tướng sĩ kẻ bị bắt, kẻ đầu hàng,
Binh đội số bị vây, số tan tác
Minh Đế thấy tình hình nguy ngập vội đề nghị giảng hòa
Lê Lợi muốn quân được nghỉ ngơi cũng bằng lòng kết thúc
Cương giới lại được xác minh,
Tù binh được ta phóng thích:
Vương Thông, Mã Anh về đến Tàu còn đổ mồ hôi,
Phương Chính, Mã Kỳ ra tận biển chưa thôi trống ngực!
Bắc quốc ngừng dấy động can qua,
Nam bang được hòa bình an lạc.
Tống, Nguyên, Minh từng nghiến răng nuốt nhục, đến giặc Thanh
cũng phải nếm mùi!
Lý, Trần, Lê làm rạng rỡ giống nòi, rồi đến Nguyễn (2) ra tay cứu nước.
Lúc đó:
Minh triều chính tình hỗn loạn, quan quân nhu nhược, yếu hèn
Mãn Thanh đang lúc hùng cường, xua quân nuốt dần Trung quốc
Lại theo đòi học thói xâm lăng
Hầu thực hiện giấc mơ chinh phục:
Xua đại quân xâm chiếm nước Nam
Xem dân ta khác nào cỏ rác!
Chúng hãm hiếp, cướp phá... độc ác khôn cùng!
Lại bắt người, đốt nhà... bạo tàn rất mực!
Một dải Bắc Hà, dân rên xiết dưới gót lũ xâm lăng,
Cố đô Thăng Long, cảnh hoang tàn như một thành phố chết!...
Tin cấp báo vừa vào đến Huế, lệnh xuất quân liền được ban hành
Vua Quang Trung ngự giá thân chinh, bừng khí thế quyết khu, diệt giặc
Lệnh ban ra: Kẻ khiêng người nghĩ; Trên dưới tuân hành
Rút thời gian: Tạo sự bất ngờ; Hành quân thần tốc!
Giặc Thanh mãi lo vui chơi Tết, phòng bị lơ là
Quân Nam thế tiến như chẻ tre, giáng đòn sấm sét!
Hà Hồi, Ngọc Hồi... sớm vỡ tan!
Đống Đa, Thăng Long... bị truy bức!
Tôn Sĩ Nghị bỏ cả ấn tín, tìm kế thoát thân,
Sầm Nghi Đống vô kế khả thi, thế cùng tự sát.
Quân lính hỗn loạn như bầy ong vỡ tổ, cổi giáp vất gươm,
Tướng sĩ thất thần như lũ chuột gặp mèo, mạnh ai nấy thoát!
Cầu Long biên gãy sụp, người cưỡi lên người!
Sông Hồng Hà nghẽn dòng, xác chồng trên xác!
Chỉ chưa tới mười ngày, hai chục vạn quân Thanh bị đánh tan hoang!
Nội trong vòng bốn năm, phía Nam diệt quân Xiêm, Bắc đuổi Thanh tặc,
Bắc Bình Vương đáng mặt anh hùng
Vua Tây Sơn sử vàng ghi khắc!
Càn Long nghe tin ngồi đứng không yên,
Nguyễn Huệ "tinh đời" vỗ về phương Bắc!
Thế là:
Hoa Việt chung sống thanh bình
Dân Nam an hưởng hạnh phúc!
Do bản tính thực dân, Bắc triều đã bao phen xua quân xâm chiếm nước ta,
Với ý chí quật cường, tiền nhân từng bao lần anh dũng đánh tan lũ giặc:
Xương trắng máu đào đã trải khắp núi rừng,
Mồ hôi nước mắt từng đổ hòa sông nước!
Thà phải hy sinh,
Không chịu mất đất!
Gương sáng ấy chẳng đáng noi theo?!
Công trạng kia không đủ hiển hách ?!
Sao nở cúi luồn ngoại nhân ?!
Lại dám đánh lừa dân tộc?!
Rõ ràng:
Quân vong bản: Muốn bảo vệ quyền lợi bản thân nên cam tâm
phản bội cha ông,
Lũ Cộng nô: Để duy trì độc quyền phe đảng phải cúi đầu tuân
phục phương Bắc.
Cắt đất của Tổ tiên dâng cho Thiên triều
Cắt biển của cha ông hiến cho Trung quốc
Bán rẻ danh dự quốc gia,
Bôi nhọ uy danh dân tộc!
Hành động ấy dẫu cho trời cũng không dung, đất cũng không tha,
Tội trạng đó dù trúc rừng ghi chẳng vừa, nước biển gột chẳng sạch!
Bảo sao đồng bào không căm,
Nên sao sĩ phu không uất!
Thế nên:
Muốn tránh cho Tổ Quốc khỏi gặp nguy nan,
Muốn trừ cho Dân Tộc khỏi bị ô nhục,
Để Quốc Gia không bị rẻ khinh,
Để Nhân Dân không gặp phản trắc:
Toàn Dân phải nhất tề đứng lên lật đổ bạo quyền,
Trong Ngoài cần đoàn kết một lòng diệt trừ lũ ác
Xóa đi cái quái thai Cộng sản lỗi thời,
Giải thể sự độc tài toàn trị thối nát,
Lôi những tên ác ôn như Kiệt, Anh, Mười, Khải... ra trước pháp đình
Bao vây bắt các tội phạm phản quốc như Phiêu, Mạnh, Cầm,
Lương...đưa ra Tòa Án Quốc Dân trừng phạt.
Chỉ có như thế mới:
Xây dựng được một thể chế Dân Chủ, Tự Do
Đem lại cho Nhân Dân Ấm No, Hạnh Phúc!
Đưa đất nước tiến kịp bè bạn năm châu
Làm rạng rỡ uy danh Con Hồng Cháu Lạc!
Hỡi các bạn Thanh Niên, Sinh Viên! Mau dấn thân cứu Nước cứu Dân!
Hỡi toàn thể Đồng bào! Mau vùng lên thu hồi Biển, Đất!
Cơ hội ngàn năm có một!
Tương lai vạn đại đang chờ!!!
Charlotte, NC, Mùa Quốc Kháng, tháng 4/2002
KIM KHÔI
(1) Vua Lý Nhân Tông 6 lần đòi hai động Vật Dương và Vật Ác
từ năm Nhâm Tuất 1082 đến năm Mậu Thìn 1088
(2) Nguyễn Tây Sơn
Ghi chú: KIM KHÔI là chiến sĩ hàng đầu của Phong Trào LIÊN
TÔN KHỞI NGHIÃ và phong trào CHỐNG CS BÁN NƯỚC,
hiện sống tại Charlotte, NCø. Thi sĩ - cùng với VŨ THỊ SÀI
GÒN - đã từng viết nhiều bài thơ về các Anh Hùng Dân Tộc
chống Cộng sản gần đây đã anh dũng hy sinh tính mạng hoă.c
vào tù ra khám (như LM NGUYỄN VĂN LÝ, LÝ TỐNG, HỒ
TẤN ANH, NGUYỄN THỊ THU v.v.) và ca'c bài hịch kêu gọi toàn
dân khởi nghiã!
Diễn Đàn Quốc Tế Của Các Phong Trào Dân Chủ VN có dự
tính xuất bản tập thơ của các nhà ái quốc đang kêu gọi KHỞI
NGHIÃ chống lại chế độ bán nước và tàn hại Dân Tộc, như
là ĐỖ VĂN THÔNG, VŨ THỊ SÀI GÒN, TRẦN KIM KHÔI
v.v., vào một lúc quyết định.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 080
NGUYỄN THỊ LONG AN * ĐƯỜNG VỀ QUÊ MẸ
Đường về quê mẹ.
Nguyễn thị Long An
Nguyễn thị Long An
Đã ba ngày qua, giấc ngủ trái giờ chưa quen, đêm thức trắng ngày ngủ triền miên cho tới lúc mặt trời xuống tận chân trời, tôi đang tập lần cho mình có được giấc ngủ bình thường như mọi người ở đây, vậy mà đêm nay cũng tỉnh giấc giữa lúc cả nhà đang say sưa trong hơi thở.
Ánh sáng mù mờ tỏa ra từ ngọn đèn nhỏ áp sát tường soi mơ hồ bốn bên căn phòng gần đầy đủ tiện nghi của người chú dành cho đứa cháu thân thương từ phương xa mới về. Nằm yên trên giường rộng, mắt mở lớn dòm trần nhà xuyên qua nóc mùng lưới, bốn cánh quạt xoay vù vù hòa với tiếng muỗi kêu vo ve xa xa trong hóc kẹt, thêm những tiếng động đâu đó thỉnh thoảng di lại. Đồng hồ dưới nhà gỏ lên ba lần ngân dài trong khoảng không gian im vắng, thầm nghĩ có thể đêm mai mình sẽ tròn giấc hơn. Nhắm mắt cố gắng ngủ tiếp, nhưng thần trí tỉnh táo lạ lùng, tôi ngồi bật dậy nhẹ nhàng bước xuống khỏi giường, mở cửa bước ra ngoài.
Tựa người vào lan can của bao lơn, một chút hơi sương mát mát dịu dàng cuối đêm phả vào mặt vào cổ. Vòm trời trong đen rải rác mấy ngôi sao nhỏ lạc lõng, nhấp nháy từng tia sáng bơ vơ. Ngọn gió nhẹ từ một hướng xa xôi nào thổi tới, lay động ngọn cây, đùa mớ tóc phủ xuống che gần hết nửa mặt, mặc nhiên cảm nhận chút dễ chịu len nhẹ trong hồn và không khí oi nồng đang lắng xuống của đêm hè về sáng. Vài chiếc lá khô của một ngọn cây sát góc nhà, tách mình rời cành rơi xuyên qua từng chòm lá xanh, bay vèo xuống mặt hẽm tối đen. Mùa nắng ở đây nóng bức mường tượng cái nóng ở xứ "cao bồi" của nước Mỹ, nơi chốn tôi lớn lên và đã hấp thụ những thứ văn minh vật chất hơn hai mươi năm.
Trên lầu cao, dòm bao quát khoảng không gian trước mắt, phai tàn một vài hình ảnh quen thuộc ngày xưa. Những nóc nhà chen chúc dầy đặc, cái thấp cái cao, nóc xam xám, đen đen mập mờ giữa sương mù, không thể nhận biết nơi nào, vùng nào của thành phố với sự đổi thay. Xa xa từ khung cửa nhỏ nào đó gần bên mái, tỏa ra những vệt sáng lợt lạt, dường như có mùi khói bốc từ củi lửa trong lò và mùi mốc meo còn lại của thời gian trước. Mùi hăng hăng trong không khí len lén đi vào cảm giác ngất ngưởng vờn lên thuở xa xưa và khuấy đng nỗi cô đơn trong tâm thức như thúc giục nhớ tới mt bóng đen lớn úp chụp xuống đời mình, lao đao ngập hồn với sự côi cút từ tuổi ấu thơ....
".... Một tỉnh lỵ xa xôi, miền cao nguyên đất đỏ bụi mù. Ngoài đường rần rần người di tản, trong nhà mẹ ngồi chóng tay lên bàn bất động, dường như đang suy nghĩ điều gì? Tiếng súng mỗi lúc một nhiều và gần thêm. Ba từ đơn vị trở về theo sau là chú lính cận vệ quen thuộc. Mẹ vội vàng vào phòng trong, ôm ra bọc quần áo và phong thơ trao cho chú lính, hối tôi thay áo quần theo chú lính di tản trước. Tôi vùng vằn, bật khóc, không muốn đi, nắm áo mẹ trì kéo. Mẹ gỡ tay rồi dỗ dành giọng nghẹn ngào giữa hai hàng nước mắt :
-"Con theo chú Bổn về Sàigòn ở với bác Hai trước, cho ba mẹ yên lòng, vài tuần nữa ba mẹ sẽ về sau, không có con ba mẹ dễ dàng lo liệu".
Từ phòng thay áo trở ra chưa kịp nói lời nào, ba đã vội vàng nắm tay tôi lôi đi ra ngõ như trốn chạy, gấp rút đẫy lên chiếc xe "Jeep" đậu sẵn, thúc dục chú lính lái xe ra phi trường. Ấm ức trong lòng không giải bài được, chưa từ giả mẹ, chưa được mẹ ôm vào lòng như những bận trước phải đi xa. Nước mắt đầy tròng, quay mặt phía sau, dòm qua lớp bụi mù dáng mẹ lung linh bên khung cửa đứng ngóng theo. Hình ảnh mẹ khuất sau khúc quanh, cụm thông già che mất mấy dãy nhà tôn trắng, không còn thấy mẹ tôi đành xoay mình lại phía trước ngó con đường đá đỏ ngoằn ngoèo, có những chiếc xe chạy hối hả vô duyên quậy lên những vần bụi đỏ tấp vào đầu tóc áo quần và luồn trong hơi thở. Không khí trong xe im lặng và cảm thấy có chuyện quan trọng, nhưng trong lòng còn tư tưởng đến sự trở về muốn cầu cứu cha nhưng khuôn mặt trang nghiêm rắn rỏi pha chút xót xa ẩn kín trong đôi mắt có màng nước mong mỏng quanh tròng, tôi đành nuốt xuống sự mong muốn, cúi đầu khóc thầm với sự chia ly vội vã.
Chú Bổn ẫm tôi chạy nhanh lên thang của chiếc vận tải cơ C 130. Không còn chỗ ngồi tôi phải ngồi trên mình chú Bổn. Tiếng nổ của máy ầm ầm, phi cơ rời phi trường chạy một đường dài rồi cất lên cao đảo vòng trở lại, tôi chòm qua khung cửa nhỏ dáng cha đứng yên lặng nhỏ xíu, và mờ lần dưới sân bay cạnh bên rừng cây dầy đặt.
Ở gia đình bác, đều đặn mỗi ngày cắp sách tới trường, siêng năng, cố gắng học hành hầu quên lảng nỗi buồn đơn độc. Sự mong đợi mẹ cha, sự ước vọng sum họp cũng lần trôi theo ngày tháng mõi mòn, mường tượng sự mong ngóng đó ngàn năm sẽ không hề lai vãng, và thứ hạnh phúc nhỏ nhoi bên cha mẹ bình thường hạn hẹp khẩn cầu không hề thấy tới. Một ngày về học, bỗng nhiên bác Hai gái ôm tôi vào lòng nói trong tiếng khóc : "Thảo ơi! Ba mẹ con chết hết rồi". Tôi ngơ ngác, không biết nổi, không đo lường được sự chết chóc ra sao, đứng im lặng với hai hàng nước mắt chảy ròng ròng. Cả nhà buồn bã, thương cảm và xót xa mỗi khi thấy tôi đứng thơ thẩn trước sân nhà, mặt đăm chiêu nghiêng về hướng có những tiếng súng nổ ì ầm xa xôi. Lần lần tôi hiểu và biết được rõ ràng hơn ba mẹ tôi không còn trên thế gian, hai người đã thành cát bụi, linh hồn bay về đất khác do lửa hồng, súng đạn của chiến tranh. Vĩnh viễn không còn thấy lại gặp lại hai người thân yêu. Hình ảnh cuối cùng gờn gợn lên trong trí, căn nhà nơi trại gia binh và sân bay bên cánh rừng đầy dẫy người di tản. Trong gia đình bác mọi người thương yêu chiều chung tôi hơn, nhứt là bác Hai lo lắng và coi tôi như con ruột để bù đắp nỗi bất hạnh của đứa cháu còn quá nhỏ... Nỗi đau buồn tang tóc chưa nguôi, tai họa dữ dội khác trút xuống thành phố và nguyên cả miền Nam mà mọi người đang sống êm đềm hạnh phúc. Hàng loạt súng nổ rất gần giữa đêm khuya, xa hơn đại bác rền rĩ, càng lâu càng nghe dữ dội bốn bề. Từ ngoại ô, từ nơi nào đó đạn pháo kích bay vút lướt trên những nóc nhà, đổ xuống vùng nầy, góc kia, lửa đỏ lan tràn. Một lần nữa phải rời bỏ chút kỷ niệm ngắn ngủi nơi học đường nơi thành phố ngựa xe, cùng gia đình bác di tản. Lại phải ra đi lần nữa, sang một đất nước xa lạ, không biết sẽ tới đâu, ra sao những ngày kế tiếp...."
Mọi việc đã qua rồi rất lâu, hình ảnh tan tác đã bay vèo mất hút và bây giờ ở đây giữa lòng đất cũ dường như tôi còn nghe mơ hồ, tiếng xe chạy rộn ràng hòa với tiếng đạn nổ. Những đống binh phục hiển hiện bên lề đường, ngập đầy các góc phố, hình dáng những người lính chỉ còn chiếc quần đùi trên người trốn chạy mãi mãi còn ấn sâu trong trí nhớ. Đứng bên hành lang một lúc chân đã bắt đầu mỏi, tôi đi lần về phía sân thượng. Ngồi lên băng đá đưa mắt lướt qua bốn bề mênh mông. Từng vũng tối, sáng kế tiếp xen kẽ rộng lớn, dòm sâu vào những nơi không có ánh sáng đó, tìm kiếm nguyên do, nhưng sự tìm tòi không lâu, vụt hiểu ra những vùng tối đen là những nơi bị "cúp điện".
Đầu hẽm bây giờ đã có bóng người, chị bán phở đang nhóm bếp hâm nồi nước lèo. Ánh lửa bập bùng soi rọi những chiếc ghế đẩu kê chung quanh cái bàn cây cũ kỷ gá nhờ vào bức tường phía trên của căn nhà họ đang nấu sữa đậu nành, tiếng rang đậu rào rào vang đng như tiếng mưa rơi trên mái tôn và những luồng khói trong lò bay tỏa khắp các khu nhà lân cận. Lần lượt những món hàng ăn sáng khác, được mang ra bày biện mọi chỗ ở đầu hẽm. Mọi người ở đất nước nầy sanh phương bằng những cách buôn bán nhỏ nhoi, nồi chè, nồi cháo, tràn bánh hay những nghề lao động - gánh gồng, đạp xe ba bánh, phu xích lô - để tìm cái sống qua ngày.
Chân trời phương đông hừng lên dãy sáng dài. Ngôi sao hôm, sừng sững sáng rực phía trên cao. Uể oải, trở vào phòng lên giường, giấc ngủ chập chờn trở lại giữa sự huyên náo của đầu ngày. Bỗng một thứ âm thanh từ xa văng vẳng xoáy vào đầu óc, lối gỏ nhịp dòn tan sành sỏi của hai thanh tre nhỏ "lắc cắc cụp, lắc cắc cụp, cắc cụp, cắc cụp" mỗi lúc một gần thêm, tiếng rao mì mà lâu lắm tôi chưa hề được nghe ở phía bên kia trời.
Chiếc "Honda dame" hai bánh nổ dòn trước nhà, tôi leo lên ngồi "chàng hảng" phía sau yên xe của cô em họ. Hằng cho xe lao ra khỏi hẽm, chạy chầm chậm sát lề ngược chiều, chờ khoảng trống để đâm thẳng qua phía chiều bên kia. Lao lách giữa rừng xe gắn máy, san sát, kè nhau trong gang tấc. Một chiếc gắn máy từ sau ủi tới chặn trước đầu xe rồi lòn qua bên trái, tôi hết hồn bấu chặt hai tay vào phía trước bụng cô em. Hằng vẫn băng băng phóng tới, được một đoạn ngắn, hai tay tôi càng bấu chặt hơn vào người Hằng để kềm thân thể mình vững vàng. Nhiều tiếng máy nổ khác nhau ồn ào vang rền bên tai. Lần đầu tiên ngồi xe hai bánh chạy vun vút, lách qua bên nầy, lượn qua bên kia giữa khoảng đường nhiều thứ xe, không trật tự, tôi nín thở, muốn biểu Hằng quay về, nhưng chút tự ái của người ở từ một nước văn minh tột cùng bắt tôi im lặng. Mặt đường có nhiều lỗ bể lớn, bánh xe lọt xuống nhảy lên nhiều bận. Từ nãy giờ thế ngồi của tôi bị chệch một bên, chưa biết làm sao sửa lại, thì lại lọt xuống và hất lên với lỗ đường quái ác khác. Tôi chưa dám nhít người, chưa dám động đậy khi bánh xe còn lăn tròn trên mặt lộ và còn hàng hàng lớp lớp những chiếc xe honda xấn tới vây quanh.
Nắng hè gay gắt chiếu trên tóc, trên vai, trên cổ. Sự nóng rát bắt đầu, mồ hôi tuôn từng dòng từ mặt xuống cổ. Nhiều đoạn đường đã chạy qua, dường như đã quen với những chiếc xe song song sát bên mình và sự hỗn độn trên những con đường bể nát. Cơn lốc hãi sợ dịu xuống, bây giờ mới cảm thấy đôi mắt cay cay mù mờ bởi mớ bụi dấy lên, nhè nhẹ rút một tay lên dụi mắt, một lằn nước đen đen quét dài trên mu bàn tay. Dòm sang chiều đối diện, có những bà, những cô che mặt như mang mặt nạ sát thủ, che luôn hai tay bằng chiếc găng dài từ bàn tay đến khuỷu, nghĩ mình chưa có chút kinh nghiệm nào về sự di chuyển bằng xe Honda ở đây.
Hằng đã đưa tôi di hành khắp nẽo trong thành phố, từ những nơi đông đúc nhứt tới những chỗ hẻo lánh ngoại ô . Khuôn mặt đời quen thuộc bây giờ biến thành kẻ lạ. Ngồi trên xe không nhận định được phương hướng, tôi mặc kệ Hằng muốn mang tôi đến nơi nào cũng được. Những dãy nhà cũ đã phá bỏ, xây lên những cái mới, có lầu cao, khang trang xinh xắn, nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy bất ổn, cứ ngỡ mình đang đi đến nơi chốn nào, một đất nước khác. Nhà cửa, hàng quán, san sát choáng ngập, thay thế những hàng cây cao bóng mát ngày xưa nhiều lần tôi đi bộ dọc dài từ nhà bác đến nhà bạn, thường khi núp nắng hoặc ẩn trốn dưới đám mưa mây. Tôi không còn nhận ra mt quen biết nào trong tâm tưởng sau mấy tiếng đồng hồ quan sát thành phố.
Hai bánh xe của Hằng vẫn lăn đều trên mặt đường, tôi buâng khuâng tự hỏi, mình đi quan sát gì, đi tìm gì trên những chỗ đổi dời, ngày trở về với cuc hành trình vô bổ mà tốc đ từ đầu dốc của hiện tại nầy từ từ tut thẳng xuống đáy vực trong tương lai. Những biến cố của đời đã tạo nên, không can đảm đương đầu đã băng mình chạy đi trước những tiếng kêu cứu mất còn vừa dấy lên trên mảnh đất an bình. Và bây giờ trở về như con thú bị thương kiệt sức oằn mình phủ phục trước thợ săn...Đi ngang qua ngôi trường mang tên một nhà bác học, cũng nhà cửa, hàng quán che khuất, ngôi trường lùi vào phía trong ẩn dật, khiêm tốn cũng như tên trường đã thay vào một tên khác. Tôi quay đầu tìm kiếm cổng ra vào những không thấy chỉ thấy trên chóp cao mái ngói rêu phong và chút tường vôi loang lở. Đột nhiên nhớ da diết những ngày theo bác với các anh các chị trên chiếc xe "Jeep" mỗi ngày đưa lũ chúng tôi đi học. Không phải một ngôi trường học nầy mà tất cả các thứ khác cũng đã đổi thay. Lạ một điều, những khách sạn, những căn nhà mới rất nhiều, nhưng chưa hề thấy một ngôi trường mới nào được dựng thêm. Tôi thở dài bởi trong lòng ngao ngán với nhiều đổi thay vô dụng. Chớp mắt lắc mạnh đầu để xua đi những ám ảnh làm đôi mắt cay xè rưng rưng muốn khóc. Liếc thấy những người qua lại chăm chăm dòm mình biết họ tò mò ngắm nghía, có thể vì b quần áo ngoại quốc và dáng vóc khác lạ.
Nắng chiều vàng hoe nhảy nhót trên những nóc nhà cao, chiếu xuống những con đường luôn luôn không ngớt có hàng hàng lớp lớp xe đạp, xe Honda, vi vã hấp tấp ngược xuôi dưới sức nóng thiêu đốt của mặt trời hè.. Tôi đã mệt nhoài và đói bụng, mặc kệ không còn muốn dòm ngó nữa, tất cả mọi chỗ gần như giống nhau dưới đôi mắt đầy bụi đường lẫn với mồ hôi chảy đầy mặt mũi.
Chú, thím và các em đã ùa xuống nước. Tôi ngồi trên bãi dòm ra khơi, nghe bọt sóng tan lao xao giữa vòm trời mênh mong. Những tàu, ghe đánh cá nhấp nhô ngoài xa, khơi dậy trong tôi ngày nào xa thật xa trên chiếc tàu đầy người, trong đêm có vô số vì sao chiếu trên vùng trời đen nhánh. Những nỗi lo sợ, băn khoăn, ray rức về sự sống và cái chết của hàng ngàn người loay hoay như mấy con dã tràng trên bãi cát trắng phau. Tiếng cầu kinh rì rầm vọng âm vào tiếng sóng vỗ quanh thành tàu... Mường tượng như có những xác người bị đắm tàu trôi dạt trong lòng biển ngày xưa, những ngọn sóng lớn bạc đầu trắng xóa giận dữ thi nhau nhận chìm những xác người, hiện đang cuồn cun lướt vào bờ vỗ ầm ì giữa ghềnh đá. Bây giờ, mt mình ngơ ngáo ngồi đây dòm quanh quất chạnh lòng nhớ ba mẹ tôi vô vàn, đành bó tay không thể tìm đâu ra hai mảnh hài cute;i, đầu óc mù mịt không biết tên ngoại, chỉ còn nhớ tên dì ba em kế của mẹ mà thôi. Ông nhìn tôi từ đầu đến chân, ý chừng như quan sát người đối diện, mới chịu trả lời:
- Chị ba Sen hả? Cô là cháu chị ba ? Để tôi biểu con nhỏ tôi dắt cô đi.
Ông kêu vọng vào trong nhà, có tiếng dạ lớn, một cô bé khoảng mười tuổi bước ra sân ngó tôi không nháy mắt. Giọng ông ngọt ngào nói với con gái :
- Tầm à, dắt cô nầy đến nhà bà ba Sen, nha con".
Đứa con gái không nói không rằng, đi ra ngõ, tôi vội vàng cám ơn và cúi đầu chào ông ta và đi mau theo đứa nhỏ. Đi loanh quanh mấy con bờ cặp theo xóm, tôi đến trước ngôi nhà lá một căn một chái lụp xụp xác xơ, đàng sau là con rạch nhỏ với những bụi dừa nước, tàu lá đan nhau. Bước chân của hai người vừa trờ tới, từ trong nhà vọng ra sân tiếng chó sủa gâu gâu. Đến cửa dòm vào không thấy ai chỉ có vài món đồ vật cũ kỹ ,một cái bàn dài với sáu cái ghế loại cây thường kê giữa nhà, phía sau sát vách buồng là bàn thờ, lư hương và hai chân đèn bằng cây đã ngả màu đen, đáng kể hơn hết b ván gõ bóng láng bên tay phải kê sát vách. Lòng tôi chợt nhói đau và đứng lại ngay giữa cửa. Con bé gái dẫn đường, chạy tuôn ra phía chái kêu lớn :
-"Bà ba ơi ! có ai kiếm ở ngoải á".
Tiếng chân khua động, một người đàn bà ốm yếu bước ra, mặt hốc hác nhưng những đường nét giống mẹ tôi còn phản phất trên đó. Tôi nhận ra ngay người dì sau những năm xa cách. Ngược lại, dì ngó tôi với ánh mắt sững sờ không biết tôi là ai. Nén cơn xúc động đang dâng tràn nghẹn cổ, tôi nói lớn thảng thốt :
- Dì ba, cháu là Thảo, dì quên cháu rồi sao?".
Mắt dì mở lớn sáng rực, nói trong khi đôi mắc đầy nước :
- Trời ơi! Con chị hai... Cháu Thảo, lớn quá, dì không nhận ra cháu?
Dì chạy tới nắm tay kéo tôi tới ngồi trên bộ ván gỏ mếu máo hỏi:
- Cháu về lâu chưa? ghé trên nhà mấy chú rồi hả? Về đây ở chơi với dì lâu lâu nghe cháu. Còn dì tư với mấy đứa con đi làm đồng chưa về. Một lát dì sai mấy đứa nhỏ chạy cho cậu Út con hay. Tội nghiệp lúc bà ngoại mất cậu út lo lắng hết mọi bề. Dì già yếu chỉ nhờ mấy đứa nhỏ con dì tư, vợ chồng tụi nó ở đây với dì".
Đứa con gái nhỏ đưa đường còn đứng xớ rớ chỗ đầu bộ ván. Dì quay sang phía nó nói:
- Tằm à, con chạy ra ruộng gần gò trăm bầu kêu dùm dì tư và dượng tư về gấp dùm bà.
Nó "dạ" một tiếng lớn và chạy ra ngoài.
Độ nửa tiếng đồng hồ, dì dượng tư và hai đứa con trai về đến nhà. Sau khi chào hỏi, mừng rỡ cả nhà nhôn nhao, người hỏi điều nầy, người hỏi điều kia tôi trả lời không dứt. Sau những phút hàn huyên dì ba hối dì tư đi lo cơm nước. Dượng tư dành phần đi trình giấy tờ của tôi ở đồn Công An xã.
Cả nhà ăn cơm trên cái bàn dài sáu ghế, vừa ăn vừa nhắc lại chuyện ngày xưa cho tới khi hoàng hôn xuống. Bóng tối buông mau phủ trùm khu nhà nhỏ rợp bóng lá dừa lúc tôi dòm ra phía bên ngoài. Vệt sáng cuối cùng mờ mờ hấp hối vươn hắt hiu phía chân trời. Trong hơi gió mát mẽ của buổi tối thôn quê, tôi nghe thoang thoảng mùi lúa đồng nồng dịu. Từ xa văng vẳng trong màn đêm điệu nhạc muôn đời của đám côn trùng tấu lên từng đoản khúc. Ngọn đèn dầu leo lét trên bàn, gợi ở lòng nỗi buâng khuâng nhớ về một thành phố ngút lửa bây giờ đã xa xôi trong không gian và đời sống. Trời bên ngoài tối hẳn, mấy em đã lên giường chỉ còn lại dượng tư và hai người dì cùng tôi ngồi trên b ván. Bỗng cậu Út từ bên ngoài chạy vào và nói:
- Con Thảo đâu rồi, theo cậu về bên nhà ngoại, bên đây không có chỗ ngũ.
Tôi ngó người cậu bây giờ lạ hoắc, nếu không ngồi trong nhà nầy, gặp cậu ngoài đường không thể nào tôi nhận ra. Cậu dòm tôi, khóc ròng:
- Nó giống chị hai quá.
Và hướng về dì ba, dượng tư và dì tư cậu nói:
- Em đưa con thảo về bên nhà, ngày mai chị ba, anh tư, chị tư mấy đứa nhỏ đi qua bển rộng rãi hơn. Gia đình đoàn tụ một bữa.
Day qua phía tôi cậu nói tiếp:
- Đi Thảo, theo cậu về nhà ngoại. Đáng lẽ cậu gặp cháu từ hồi sớm, nhưng phải đi về bên ngoại sắp nhỏ. Nghe mấy đứa nói lại, lật đật chạy qua rước cháu.
Dì ba đưa "sắc" quần áo và hối tôi đi với cậu út. Tôi cúi chào hai dì và dượng tư, theo cậu út ra ngoài. Đường bờ nhỏ khó đi, cố gắng lắm mới theo nổi cậu Út. Nền trời trong đen lấp lánh từng chùm sao dầy đặt. Hai cậu cháu đi khoảng độ mười lăm hai mươi phút thì đến nhà. Đứng trước căn nhà của thuở xưa, hiển hiện giữa màn đêm rõ ràng quen thuộc. Thời gian làm cũ kỹ và xập xệ hơn nhưng dễ dàng nhận ra ở vài nét đặc thù của nó. Vào nhà, sau khi đốt nhang trên bàn thờ ngoại, tôi đi tắm và vào căn phòng mợ út đã sửa soạn sẳn, căn phòng trước kia mẹ tôi thường ngủ mỗi khi về. Một ngày mệt mỏi, đặt lưng xuống mặt giường, mắt hướng qua khung cửa sổ nhỏ trước mặt, bên ngoài tối đen không thể thấy gì chỉ nghe tiếng gió rì rào pha vào tiếng chó sủa và những tiếng động ngoài bờ rào. Cũng như trên nhà chú, tôi nghe tiếng muỗi vo ve chung quanh trong bóng tối. Cảnh vắng lặng của đêm ngoài những tiếng động thông thường dường như có tiếng đập cánh của dơi đâu đó. Mợ út vào buông mùng tấn bốn góc cho tôi, chúc tôi ngủ ngon rồi đi ra ngoài. Nằm yên trên giường ngỡ như mình đã lùi lại lúc sáu bảy tuổi, cũng trên chiếc giường nầy ngủ với mẹ, thấy như mẹ đang nằm bên cạnh, và cuộc sống thuở nhỏ chập chờn trong tôi hầu như ru tôi lịm lần trong giấc ngủ có nhiều mộng mị.
Sau giấc ngủ dài, tôi giật mình tỉnh dậy. Trời bên ngoài chưa sáng hẳn, tung mền ngồi lên. Ngoài hàng ba, tiếng người nói, tiếng bước chân nện mạnh trên mặt đất xôn xao. Bước xuống khỏi giường, đi về hướng có tiếng nói, tôi dừng lại bên trong cửa lắng nghe. Dường như tiếng dượng tư nói:
- Đâu lối mười hai một giờ gì đó, đám công an kêu cửa xét nhà. Không biết họ kiếm tìm gì, không hỏi một câu, đi khắp nhà, lục lọi đồ đạt. Ý chừng như kiếm con Thảo.
Lại nghe tiếng nói của dì ba:
- Nhà nghèo với lại đâu có chứa chấp cái gì? Tao cứ để yên cho họ xét.
Mọi người sửa soạn kéo vào nhà, tôi rời chỗ đi thẳng ra sau vườn. Đưa mắt ngắm một vòng, cây cối già cỗi, những bụi bông mẫu đơn, bông trang dường như mới được trồng lại, tươi tắn và đơm đầy hoa. Cuối gốc vườn, cây bưởi bây giờ cao hơn, tàn lớn hơn vẫn trổ đầy bông trắng. Mặt trời thập thò sau dãy mây hồng tỏa từng chùm tia sáng rực rỡ phía bên kia hàng cây xanh. Ý nghĩ sẽ ra đi trong vài giờ nữa khiến một chút xao động, một chút gờn gợn se thắt trong lòng, biết bao giờ thấy lại những băng đá dưới cội cây bồ đào, những bật thềm nhà thông ra vườn và nhứt là cái võng giăng muôn đời dưới gốc hai cây cau cạnh giàn trầu nghệ. Tôi nghe nhói đau trong lòng ngực, không được thỏa thuê hưởng dụng vòm trời quê ngoại với đầy đủ hương thơm bát ngát của cây lá, của nụ hoa và cả mùi ẩm ướt của hơi sương sớm. Đến, rồi lại tức tưởi ra đi. Mặt trời bây giờ đã rạng rỡ trên những luống thược dược trắng và đám nở ngày tím rịm bên hàng trắc bá dịp ủ rũ như buồn bã cho sự vô phần của người con gái cút côi. Tôi vội vàng đến bên lu nước với lấy cái gáo cán dài múc nước rửa mặt, dòng nước mát làm thần trí tỉnh táo và ý chí trở về thành phố sớm cho mọi người thân tránh được tai họa.
- Thảo ơi, vô nhà ăn sáng.
Tôi quay vào nhà thấy mọi người đều ngồi quây quần quanh bàn, kế cậu út là cái ghế trống có lẽ chừa cho tôi. Tuy ăn sáng nhưng nhiều món bày ra như một bữa tiệc tiển hành nho nhỏ. Cậu út nói:
- Cậu mừng cháu Thảo trở về, cậu ước ao cháu ở chơi với cậu vài tuần. Lần về nầy không biết khi nào cháu trở lại nữa. Cháu cứ coi nơi đây như nhà của mẹ cháu. Lẽ ra cậu phải nuôi dưỡng cháu, nhưng hoàn cảnh đưa đẩy cháu phải đi xa.
Cã nhà chúc tụng tôi, sau đó thì mọi người vui vẻ ăn uống. Tôi do dự nhưng cuối cùng cũng xin cả nhà cho tôi được trở về thành phố trưa nay. Mọi người đang vui vẻ bỗng im lặng không khí buồn thiu, tôi rơm rớm nước mắt nói tiếp:
- Cháu biết ai cũng thương yêu cháu, nhưng có chuyện xảy ra đêm qua, cả nhà đã dấu không muốn cháu mất vui những ngày về đây. Suy nghĩ kỹ, cháu không thể ở lại thêm, phiền phức cho cậu và các dì dượng.
Cơm nước xong, vô phòng dọn đồ đạc, lấy ra ít tiền chia cho mọi người. Tội nghiệp dì ba bây giờ đã bắt đầu khóc thút thít, cả nhà phải khóc theo. Tôi cũng không cầm được nước mắt trước cảnh kẻ ở người đi. Từ giã mọi người tôi lầm lũi bước theo cậu út. Qua mấy đường bờ đất ngoằn ngoèo tới trước mộ ngoại. Màu nước vôi trắng toát, không một miếng lá khô không một cây dại nào mọc lên xung quanh. Đốt ba cây nhang cậm xuống đất và quì lạy, bỗng nhiên đôi mắt tôi mở lớn ngó thẳng vào tấm hình nhỏ gắn dưới miếng kiến đặt trên đầu m, kê mặt sát vào dòm, dụi mắt hai ba lần, người trong ảnh quá giống bà già đã gặp trên xe, đúng là bà ngoại. Đường xương sống buốt lạnh, há miệng nhưng kịp bậm môi ngăn tiếng la thất thanh sắp thoát ra khỏi cổ họng, ráng trấn tỉnh nhưng hai tay tôi vẫn run bây bẩy. Tôi lầm thầm khấn nguyện có linh thiêng ngoại phù hộ con cháu tránh được tai nạn. Chần chờ chưa đi, muốn nói với cậu út những điều đã gặp dọc đường. Không biết cậu có tin hay cho là một sự lầm lẫn.
- Thảo, thôi đi cháu huốt chuyến xe lam chót, không kịp về tới thành phố.
Tôi vội vã theo sau cậu út, đi tắt trên bờ nhỏ xuyên qua mấy đám ruộng tới lộ cái.
Đứng trên lề lộ ngó mông về phía ngôi mộ, tằm mắt ngừng chỗ có lùm cây rậm, đúng là nơi bà già xuống xe đi vào lùm cây đó. Một sự trùng hợp hay sự hiển linh của người chết, hiện hình giúp đỡ đứa cháu mồ côi và như ngầm cho biết "đất nước nầy không phải là một đất nước an bình cho những người từ phương xa trở về ".
VƯƠNG NGỌC LONG * HOA QUỲNH
Truyền Thuyết về Hoa Quỳnh
Vương Ngọc Long sưu tầm
Vương Ngọc Long sưu tầm
Theo truyền thuyết, ngày xưa vào thời nhà Tùy (Dương Quảng 605 - 617) ở Dương Châu, Trung Quốc, có Tùy Dạng Đế là ông vua hôn quân vô đạo, chơi bời trác táng, xa hoa, phung phí, một đêm nằm mơ thấy một cây trổ hoa đẹp... Cùng thời điểm ấy, tại Lạc Dương thành có ngôi chùa cổ kính là Dương Ly, vào giữa canh ba, ngoài cửa chùa thình lình ánh sáng rựïc lên như lửa cháy, hương thơm sựïc nức lạ lùng, như sao trên trời sa xuống, làm dân chúng bàng hoàng đổ xô đến xem đông như kiến cỏ. Gần giếng nước trong sân chùa mọc lên cây bông lạ, trên ngọn trổ một đóa ngũ sắc với 18 cánh lớn ở phía trên, 24 cánh nhỏ ở phía dưới, mùi thơm ngào ngạt bay tỏa khắp nơi nơi, lan xa ngàn dặm. Dân chúng đặt tên là hoa Quỳnh. Điềm báo mộng của vua Tùy Dạng Đế được ứng với tin
đồn đãi, nên Vua yết bảng bố cáo: "Ai vẽ được loại hoa Quỳnh đem dâng lên, Vua trọng thưởng". Không đầy tháng sau... có một họa sĩ dâng lên Vua bức họa như ý. Nhìn đóa hoa trong tranh cựïc kỳ xinh đẹp, tất nhiên hoa thật còn đẹp
đến dường nào! Nghĩ vậy, Vua liền quyết định tuần du Dương Châu để thưởng ngoạn hoa Quỳnh.
Trong chuyến tuần du cần có đủ mặt bá quan văn võ triều thần hộ giá, nên để tiện việc di chuyển, Tùy Dạng Đế ban lệnh khai kênh Vạn Hà từ Trường An đến Dương Châu. Hàng chục triệu ngày công lao động phải bỏ ra, hàng vạn
con người phải vất vả bỏ mình. Kênh rộng cả chục trượng, sâu đủ cho thuyền rồng di chuyển. Hai bên bờ kênh được trồng toàn lệ liễu đều đặn cách nhau 10 mét một cây (cụm từ "dặm liễu" xuất phát từ đó, điển hình câu thơ: Dặm liễu sương sa khách bước dồn của Bà Huyện Thanh Quan).
Kênh đào xong, một buổi lễ khánh thành được cử hành trọng thể, đoàn thuyền giương buồm gấm khởi hành... cả nghìn cung nữ xiêm y rựïc rỡ, mặt hoa da phấn... thuyền rồng được buộc bằng các dải lụa dùng để kéo đi. Vua Tùy Dạng Đế ngồi trên mui rồng uống rượu nghe đàn hát ca sang ngắm cảnh Giang Nam và đàn cung nữ tuyệt thế giai nhân. Vua thấy nàng nào thích ý cho vời vào hầu ngay. Chuyến tuần du của bạo chúa Tùy Dạng Đế vô cùng xa xỉ, hao tốn công quỹ triều đình. Đây là một trong những nguyên nhân đẩy đất nước đến đói nghèo, loạn lạc khắp nơi, đưa nhà Tùy đến sụp đổ, dựïng nên cơ nghiệp nhà Đường. Qua thời gian hơn 90 ngày, đoàn du hành đến đất Dương Châu.
Trong những quan quân hộ giá, có cha con Lý Uyên Thuyền , khi thuyền vừa cặp bến, con của Lý Uyên phương danh là Lý Thế Dân cùng bằng hữu rủ nhau lén lút đi xem hoa ngay trong đêm, sợ sáng hôm sau triều thần cùng đi đông khó chen chân lọt vào vườn hoa. Lý Thế Dân là người có chân mạng đế vương (về sau là Vua Đường Thái Tông 627 - 649) nên giống hoa nhún mình lên xuống 3 lần để nghinh đón. Cánh hoa cong trắng nõn, nhụy hoa điểm xuyết màu vàng, hương hoa ngọt ngào. Dưới ánh trăng vằng vặc hoa đẹp tuyệt vời!
Xem xong, một cơn mưa to rụng hết. Sáng hôm sau, Tùy Dạng Đế xa giá đến xem hoa, chỉ còn thấy trơ vơ cánh hoa úa rũ, tan tác!... Vua tức giận, tiếc công nghìn dặm không được xem hoa, ra lệnh nhổ bỏ, vứt đi! Từ đó hoa Quỳnh chỉ nở về đêm cho những ai có lòng lân ái: "Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên". Qua cuộc tuần du, nhiều cuộc bạo loạn nổi lên khắp nơi. Tùy Dạng Đế bị cận thần sát hại dẫn đến nhà Tùy mất ngôi, Lý Thế Dân đứng lên lập nên nhà Đường.
Vương Ngọc Long sưu tầm
(http://www.cinet.vnnews.com/suutam/quynh.htm)
NGUYÊN SA * VĂN NGHỆ
Bầy tỏ về giàu khó và nghèo khó của văn học nghệ thuật ta
Nhìn xong tình cảnh của nhà văn, chỗ đứng của văn học nghệ thuật là tới cái sự nhìn vào thực chất. Trước khi chọn ngày lành tháng tốt để khởi công những đóng góp thật vào việc giải quyết những vấn đề văn học nghệ thuật lớn, cùng một lượt với thể hiện không mệt những sáng tạo thường trực đổi thay, có tất cả ba cái chuẩn bị đó, ba cái dọn đường đó. Ba cái tầm mắt phóng nhìn chung quanh bàn đạp lò xo của phóng tới trước mặt, đến đây, hiện ra đầy đủ sắc diện rồi. Chúng tôi đã nắn bóp trong tay, nhấm nháp trên lưỡi, nghiêng đầu, nheo mắt nhìn ngắm xem chúng tôi là một thế hệ ra làm sao, tình cảnh nhà văn những năm năm mươi, sáu mươi như thế nào. Trong mối tương quan với lịch sử, với những thế hệ đàn anh, cũng như trong mối tương quan với thực tế xã hội hiện hữu, thực tế chiến tranh sôi bỏng bây giờ. Chúng tôi đã đo lường lại, xác định rõ vị trí của quê hương tinh thần mỗi đứa: văn học nghệ thuật Việt Nam trong đó chúng tôi sống, chúng tôi say mê, chúng tôi nuôi ấp những giấc mộng lớn và nhỏ đứng ở chỗ nào trong văn học nghệ thuật thế giới cũng như trong quê hương ruột thịt của chúng ta, quê hương nghèo đói, chia cắt, chiến tranh, dốt nát và hỗn loạn.
Các anh em đã khởi, cùng với chúng tôi, hai cuộc hành trình mệt lắm của ý thức, hãy uống cạn chén rượu có vị đắng và vị ngọt này. Đúng thế, đắng và ngọt pha lẫn đấy bởi vì thế hệ, không biết may hay rủi của chúng tôi, ý thức đã chiếu sáng đến phũ phàng, mà những cái nhìn rõ hoàn cảnh đã và đang làm là một dấu tích, chẳng còn cho phép chúng tôi hoan hô đến nồng nhiệt, đả đảo đến điên cuồng.
Trong chính trị, trông vận nước, trong lịch sử đã xảy ra và đang xảy tới, cũng như trong văn nghệ chúng tôi, nói theo một thành ngữ của tác giả L'Être et le Néant, bị kết án nhìn rõ. Nhìn rõ thần tượng và dối trá, thánh thiện và đam mê, hào quang và bùn đất.
Ở chuyến khởi hành này cũng như ở những chuyến đã xong, mặc cảm tự tin và tự tôn bị triệt hạ đến gốc rễ, để nhìn thấy đỉnh cao mà vượt, để nhìn thấy biển rộng mà chèo. Chỗ nào phong phú, hãy phong phú hơn, chỗ nào nghèo nàn, đừng nghèo nàn nữa. Văn học nghệ thuật ta giầu có và nghèo khó chỗ nào? Ở chỗ nào? Ở chỗ nào? Đây bầy tỏ.
*
Nghèo khổ trước, giầu có sau. Phải nghèo rồi mới giàu chứ. Có thể anh giầu muôn vạn rồi hoá kiếp thạch sùng. Có thể lắm, có thể lắm. Nhưng tôi không khoái cái chuyện không có hậu đó. Nghĩ đến, viết đến, đọc đến sự giàu có của văn học nghệ thuật ta xong rồi mới nghĩ, viết và đọc đến những nghèo khổ thì chán lắm, tối ngủ không được. Vả lại, đằng nào cũng thế, không mất đi điểm nào, anh em cứ cho phép tôi nghèo trước giầu sau.
Có ba cái tất cả. Nhiều hơn chứ! Sao lại chỉ có ba sự nghèo khổ thôi. Mỗi thời đại, mỗi thế hệ văn học nghệ thuật có những khuyết điểm, nhược điểm của nó. Nhà làm văn học sử biết nghề nào chẳng nhìn thấy những nét vụng về đó. Mỗi nhà văn nhà thơ làm gì chẳng có năm bẩy chỗ yếu kém, nghèo nàn. Nhà phê bình văn nghệ xứng danh nào không hiểu rõ những mầu sắc thô kệch đó. Ba lần mười ba mươi. Ba lần một trăm ra thành ba trăm. Phải nói đến năm trăm hay với độ lượng, bao dung, với chủ quan đồng loã, phải kể đến vài ba trăm, năm ba chục cái nghèo nàn của văn học nghệ thuật chứ sao lại chỉ nói đến ba cái? Đúng lắm, những người đi trước ta có những cái yếu kém, anh em ta mang trên khuôn mặt, trên thân thể chục cái tầm thường, kể không xiết. Nhưng anh này nghèo chỗ này lại giầu chỗ khác, tay kia nổi bật chỗ khác lại yếu kém chỗ này. Đối chiếu vài chục nhà văn, năm ba thế hệ càng thấy rối ren, lung tung lắm. Và vấn đề ở đây là rút tỉa lấy chỗ yếu tính tìm được những cái xoàng, cái kém, cái tồi và sau đó cái cao nghều nghệu, cái giầu sang, cái hách, chung của tất cả mọi người hay ít ra của số đông những người làm văn học nghệ thuật ở đây. Những nghèo khổ chung đó lần này tôi tìm thấy có ba cái. Cái nghèo khổ thứ nhất là thiếu sự suy tưởng về nghệ thuật. Cần nhấn mạnh: sự suy tưởng quy mô về nghệ thuật. Sự sự suy tưởng về nghệ thuật nhất định có nếu sự suy tưởng ấy là ý thức tự phát kèm theo sự sáng tạo. Khi cười, mỗi đứa chúng ta có lý trí bình thường và phát triển đầy đủ đều biết là mình cười, ăn, ta biết là mình ăn, cầm tay người yêu, ta biết rằng ta không cầm trái lựu đạn cay. Ý thức tự phát kèm theo mỗi trạng thái và hành vi của chủ thể, chắc quá, anh nào chẳng có. Cũng vậy, ý thức tự phát kèm theo mỗi cầm tay nghệ thuật. Viết cái này, chẳng cần kêu gọi đến sự làm việc gay go của trí tuệ, sự can thiệp của ý chí cố gắng, tôi biết luôn, cùng một lượt với động tác viết, là đang viết một bài khảo luận, biên khảo hay tiểu luận gì đó bằng văn xuôi chớ không phải đang làm thơ hay viết tiểu thuyết. Bắt gặp được một ý tưởng hay một chữ xét ra được tôi liền ý thức ngay rằng tốt lắm. Nguợc lại, phải ý thức được ngay lúc bắt đầu viết thấy mệt mỏi, chữ nghĩa nhạt nhẽo, nếu không là hỏng. Người viết đồng bào ta cũng như người viết nói chung, bởi cái căn phần của con người là là sinh vật ý thức, tất nhiên có ý thức kèm theo sáng tạo. Và hơn nữa, nó còn suy tưởng, nó nghĩ thật sự, tự ý chứ không phải chỉ tự phát về sự viết lách của nó, sau những hồng lâu và trận mạc, sau những hiên Lãm Thuý và sông Tiền Đường, nhà thơ họ Nguyễn đã suy tưởng về tất cả khúc đoạn trường đó: Lời quê góp nhặt dông dài, mua vui cũng được một vài trống canh. Nhà văn học sử sẽ cho chúng ta biết rằng Nguyễn Du đã nhận định về cứu cánh của nghệ thuật với tác phẩm của mình hay chỉ muốn nói lên lòng khiêm tốn tri thức, sự không thoả mãn với tác phẩm của mình, nhưng đấy chúng ta đã ghi nhận là họ Nguyễn đã suy tưởng và viết ra sự suy tưởng ấy. Tản Đà mượn cớ "hầu Trời" để nói về cứu cánh của nghệ thuật là sự bảo vệ và phát huy "Thiên lương". Tác giả Mấy vần thơ đã đề cập đến tính chất đa dạng của cái đẹp mà ông, trong "Cây đàn muôn điệu gọi" là "vẻ đẹp muôn hình muôn thể" và Xuân Diệu, sau Malherbe đã, cũng như các nhà thơ nói trên, bằng thơ nói lên sự suy tưởng về thơ: "Nghề lựa chữ ôi một nghề trẻ nhỏ, dăm câu vui đắp mấy câu sầu…". Có đấy, ý thức tự phát kèm theo sự sáng tạo và ý thức tự ý được viết lên giấy. Có sự suy tưởng. Nhưng không có sự suy tưởng quy mô về văn học nghệ thuật, sự suy tưởng được tạo dựng thành tác phẩm có kiến trúc, có mạch lạc. Hướng đến cuộc đời, sự suy tưởng quy mô được tạo dựng thành tác phẩm đó gọi là triết học, hướng đến khoa học nó là triết lý khoa học. Còn gì nữa, triết gia cũng ăn, ngủ và thở. Nhưng sau nhiều sáng dậy, trưa ăn, chiều ngủ, những Socrate những Descartes, những Bergson và cả những Sartre, những Camus nêu lên những câu hỏi, thử giải đáp, nói lên hay viết ra những thử giải đáp đó. Ở trên cái ăn, cái ngủ, cái thở này có cái gì khác không? Khi ăn ngủ dừng lại rồi cái gì khác đó có còn không? Ăn ngủ, thở kể cũng lâu, một trăm năm, nhưng có nghĩa gì trong cái vô tận của thời gian, rồi cuộc sống này sẽ dừng lại, thân thể nặng nề này sẽ nằm xuống để mà chết, hữu thể của ta là "hữu thể để chết" thì cuộc đời có đáng sống hay không? Ở những cuộc đối thoại lớn dầu ghi lại bởi Platon hay Xénophon ở L’Être et le Néant hay Le mythe de Sysiphe, dấu tich của lo âu soạn thành tác phẩm có kiến trúc đó gọi là triết học. Cũng thế, trước khi, cùng một lượt và nhất là sau khi chứng minh và kiểm chứng quan sát và thí nghiệm, Descartes, Claude Bernard, Niels Bohr, Einstein, Heisenberg và Louis de Broglie không cất đi phấn và bảng, không quên đi điện kế và phòng tối Wilson, mà chỉ nhìn kỹ để đúc kết lại, rút tỉa lấy những bài học về phát minh, phương phát kiểm chứng, cứu cánh của khoa học. Những đúc kết, những rút tỉa đó gọi là triết lý khoa học. Văn học nghệ thuật thế giới cũng dành một phần đất đáng kể cho sự suy tưởng quy mô như thế. Cũng như tác phẩm suy tưởng về khoa học kia thì thực hiện bởi các triết gia chuyên nghiệp, khi thì được thực hiện được bởi chính các nhà khoa học, sự suy tưởng về văn học nghệ thuật đã được hình thành bởi cả những triết gia và nghệ sĩ.
Văn học nghệ thuật được các triết gia nhìn ngắm kĩ lưỡng lắm. Sừng sững đây là những tác phẩm của những Kant những Hégel nói về thẩm mỹ. Chói lọi kia rõ ràng những trang sách của Aristote đề cập đến kịch trường. Còn các nhà văn nhà thơ, mỗi thời đại, mỗi thế hệ khác, mỗi nhóm đều được đánh dấu, đều được phân định rõ ràng với thời đại khác, thế hệ khác, nhóm khác bằng những tác phẩm lý thuyết. Défense de la langue française của du Bellay ít nhiều có giá trị của ngọn cờ của nhóm Pléiade. Art poétique của Boileau gắn kề được vào vương miện của thế kỉ cổ điển. Và nói đến thi ca, tiểu thuyết, kịch thường của phái lãng mạn không thể không biết tới Préface de Cromwell. Cũng thế, tác phẩm suy tưởng, lý thuyết về thẩm mỹ, về thi ca của những Beaudelaire, Valéry gắn liền với thơ của những tay sáng tạo ấy. Các tác phẩm phản ánh sự suy tưởng quy mô như thế đã được thể hiện bằng nhiều hình thức bài tựa, tuyên ngôn, bài nhận định, sách khảo cứu, chỉ cần nhìn lướt qua nền văn học hiện đại của Pháp, các anh đã thừa biết Sartre không phải chỉ đốt nóng sinh hoạt văn nghệ bằng La nausée, Le mur hay Les mains sales mà còn làm rung chuyển văn nghệ với những bài nhận định về văn chương tập trung trong bốn Situations. Các anh, trong những ngày tháng gần đây, đã nhìn thấy cùng với sự phiên dịch một vài đoạn văn của "Tiểu thuyết Mới", những "tác phẩm lý thuyết của nhóm Tiểu thuyết Mới". Nghĩa là Alain Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute bên cạnh công việc lớn là sự tạo dựng tác phẩm tiểu thuyết đổi khác cũng không quên hình thành những công trình suy tưởng quy mô nói lên yếu tính, quan điểm, chủ đích bàng bạc trong tác phẩm nghệ thuật của họ.
Những công trình suy tưởng quy mô, những tác phẩm lý thuyết tương tự gần như không có mặt trong sinh hoạt văn học nghệ thuật của ta. Có ý thức tự phát kèm theo sự sáng tạo, đã nói rồi. Có những suy tưởng, nhận định lẻ tẻ được viết thành văn, đúng lắm. Nhưng không có công trình suy tưởng quy mô ý thức được kiến trúc hoá thành tác phẩm to lớn. Nhà làm văn học sử này cho ta biết một vài quan điểm văn nghệ như “văn dĩ tải đạo” bàng bạc trong văn thơ của thế kỷ 18, 19. Tác giả "nhà văn hiện đại" kia ghi nhận một vài luận đề liên hệ đến gia đình, hôn nhân trong tác phẩm của nhóm Tự lực Văn đoàn. Những tác phẩm lý thuyết nói lên chủ trương nghệ thuật của chính những người sáng tạo đó và do chính họ nói lên, tìm kiếm khó quá. Các anh đều biết thơ của Nguyễn Công Trứ nói nhiều đến "chí làm trai" và "than nghèo". Nguyễn Khuyến đề cập đến "tình bạn", cảnh "ao thu" và có những bài yêu nước, Tản Đà bay lượn trong giấc mộng lớn và con, Nguyễn Du nhìn mặt định mệnh. Nhưng chúng ta sẽ gặp không ít khó khăn khi phải thử giải đáp, Nguyễn Công Trứ hay Nguyễn Khuyến, Tú Xương hay Tản Đà quan niệm thế nào về cái đẹp, về cứu cánh của nghệ thuật, về kỹ thuật thi ca. Tay này sẽ cố gắng trả lời căn cứ vào bài thơ này, tay kia tin rằng đã tìm được căn cứ vào giai đoạn nọ. Nhưng tất cả chưa vượt khỏi phạm vi của ức đoán, chưa thoát ra được vùng mây mờ của giả thuyết mà sự vượt thoát chỉ thể hiện được nếu những nhà thơ lớn đó để lại cho ta những nhận định rõ rệt, những tác phẩm lý thuyết những ý thức được kiến trúc hoá thành văn.
Thời đại phồn thịnh của văn xuôi khởi đầu với sự xuất hiện của nền văn chương Quốc ngữ cũng vẫn vắng thiếu cái ý thức kiến trúc hoá, ý thức sáng tỏ và rõ rệt đó. Mười điều tâm niệm nói đến khoa học, sự tập thể thao làm kim chỉ nam của người thanh niên, quan tâm đến xã hội nhiều hơn là lý thuyết văn nghê. Các tác giả Bướm trắng, Nửa chừng xuân, Hai buổi chiều vàng quan niệm về sự làm mới văn học nghệ thuật như thế nào? Vào những năm cuối cùng của đời văn chói sáng, Viết và đọc tiểu thuyết được thành hình nhưng giữa quan điểm được trình bày và tác phẩm đã thể hiện bởi Nhất Linh và các bạn ông, sự thiếu phù hợp tôi sợ rằng không ít. Tôi sợ rằng không thể không rơi vào sai lầm khi xác nhận rằng tác phẩm lý thuyết này của Nhất Linh nói lên được quan điểm tiểu thuyết của Tự lực Văn đoàn. Còn chúng ta, thế hệ của chúng ta, thế hệ năm mươi sáu mươi, thế hệ phải bất hạnh chứng kiến sự tràn ngập khủng khiếp những ý thức hệ triết học và chính trị trong đời sống mà hậu quả là chết chóc và tan vỡ, ý thức về văn học nghệ thuật có vượt khỏi trạng thái mơ hồ và tự phát không? Anh em bạn bè ta đã viết hơn một bài lý thuyết đòi hỏi kêu gọi, thúc đẩy làm mới nghệ thuật. Nhưng làm mới thế nào? Đề tài hay nhân vật? Lối đối thoại hay thái độ của nhà văn. Chống lại tiền chiến, đó có phải là một giải đáp đầy đủ chưa? Chúng ta đã thật sự đặt móng xây nền được cho một quan điểm văn học nghệ thuật mới hay còn đang ở trong giai đoạn nói lên khát vọng? Chúng ta đã thật sự làm cuộc hành trình lớn hay mới đến phi trường nhìn mây và thả diều?
Ý thức suy tư về văn học nghệ thuật của tiền bối, của đàn anh sát nút và của chúng ta chưa được thể hiện đầy đủ, chưa được kiến trúc đến nơi, tôi nghĩ như thế và tôi tưởng rằng đó là một nghèo khổ của văn học nghệ thuật ta.
Nhưng những nhận định lý thuyết, suy tưởng quy mô có thật cần thiết không? Tại sao vắng thiếu ý thức được kiến trúc hoá thành văn đó, ta vẫn có những bài thơ tốt, những cuốn truyện tốt. Đúng, đúng lắm. Người làm văn học nghệ thuật của ta, cổ điển, tiền chiến cũng như bây giờ đã và đang làm tác phẩm sáng tạo. Thơ của Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, văn của Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng tốt chứ. Tốt lắm. Người làm văn nghệ với một trực giác sáng tạo sắc bén, với một năng khiếu trời cho, với sự cố gắng bền bỉ, có thể không cần gì đến lý thuyết này, lý thuyết nọ, không cần kiến trúc tư tưởng văn nghệ, vẫn sáng tác tốt. Lý thuyết quá vững chắc, hơn nữa, có thể trở thành cái khuôn cứng nhắc, cái kén chật hẹp, cái chướng ngại thành trì làm sáng tạo không bay cao được, không nhẩy xa được, không phóng tới vun vút được. Đúng lắm. Nhưng đấy là lý thuyết tiên nghiệm, lý thuyết đi trước tác phẩm, là bộ quần áo may trước khi có thể ra đời. Những cái này nhất định là không được. Chúng nó chỉ là hiện thân của hãnh tiến, kiêu ngạo của liều thuốc làm tê liệt thân thể văn nghệ. Tôi chỉ muốn nói đến lý thuyết rút tỉa ra một cách hậu nghiệm, suy tưởng căn cứ trên tác phẩm đã hoàn thành của tiền bối, đàn anh, bạn bè ta và chính ta. Ý thức về tác phẩm đã có cho phép ta rút tỉa ra những yếu tính của cái đã có, tác phẩm đã xong. Nhìn rõ con đường đã đi qua để đừng vào lối mòn nữa. Nắm chắc cái tốt và cái xấu, cái hách và cái xoàng để đừng xoàng, để vượt hách. Để đừng nhắc lại bạn bè và đàn anh. Cũng có lúc sự suy tưởng bốc lên, ta phóng ra một vài quan điểm một phần dựa vào tác phẩm của ta hay bạn ta, một phần phác hoạ chân trời muốn tới. Nhưng chân trời phác hoạ đó không được coi là chân lý, là bản cửu chương văn nghệ. Nó chỉ sơ thảo một vươn tới để rồi tỏ rõ, sửa chữa hoàn bị bằng tác phẩm sáng tạo. Một nhóm người làm văn nghệ hay một cá nhân đơn độc, hoàn thành được tác phẩm, lại viết lên được cái ý thức văn nghệ của mình, quan điểm và kỹ thuật sáng tạo của mình chắc chắn sẽ giúp ích không nhỏ cho những người đến sau. Ta sẽ không đi lại bước đi của người trước mà tưởng rằng mình mới lạ. Ta sẽ không cố gắng đập vỡ cái kén khi người đi trước đã tạo ra sợi tơ. Ta sẽ không cố gắng vượt những cái đích vu vơ, không phải dò dẫm, không bay vòng tròn mà tưởng rằng mình đã qua được trăm nghìn thế giới. Lãng mạn, đã thật sự khác cổ điển, tượng trưng đã thật sự khác lãng mạn, nền văn chương triết học quả thực khác xa tả chân và tiểu thuyết mới chính bởi vì người đi trước cố gắng để lại, bên cạnh tác phẩm, những công trình suy tưởng rõ, người đến sau, qua đó, nhận chân được khuôn mặt của những thế giới đã khám phá và hoạch định một cuộc phiêu lưu mới. Sự vắng thiếu những ý thức kiến trúc hoá thành văn nhắm tới một mục tiêu đứng đắn đó, thật sự là một yếu kém của văn học nghệ thuật.
*
Sự vắng mặt căn bản của ý thức có kiến trúc của công trình suy tưởng quy mô có phải là nguyên nhân đưa tới sự yếu kém là thái độ chấp nhận quá dễ dãi, sự biến chế vội vàng, đôi khi vụng về, những quan điểm văn học nghệ thuật thế giới hay không, không biết, nhưng đấy, thái độ ấy chắc chắn có thật. Và đó là nghèo khổ thứ nhì.
Mở rộng đón nhận, tìm kiếm kỹ kho tàng văn học nghệ thuật thế giới, việc làm này tốt lắm. Hơn là tốt, nó cần. Những người làm công việc bạc bẽo gọi là dịch thuật như Nguyễn Văn Vĩnh, như một số anh em hiện nay, đã và đang đóng góp một cách đáng kể cho sự tiến bộ của văn học nghệ thuật ta. Tôi nghĩ rằng dịch thuật đã được nhiều đấy nhưng chưa đủ. Còn phải dịch nhiều nữa. Để sự đón nhận cởi mở, tìm kiếm tận lực được thực hiện khoẻ hơn, đông đảo hơn, kho tàng không thể đếm xuể của văn học nghệ thuật thế giới cần được, phải được tìm kiếm đến nơi đến chỗ hơn nữa. Nhưng đón nhận, tìm kiếm là một việc, đón nhận là một việc, sáng tạo là việc khác. Chẳng có người làm văn học nghệ thuật nào không biết đến sự thật đơn giản này: sáng tạo không những không phải là bắt chước, mà còn là sự trái ngược. Thằng đen kia, nó trắng. Thằng kia thấp lè tè, nó cao nghễu nghện. Không biết cái mà ta làm ra đây có ra cái gì không nhưng trước hết phải được xây trên ước vọng chắc nịch này: nó phải là ta. Phải một mình. Phải khác. Không độc đáo là hỏng, là vứt đi. Bị ảnh hưởng bởi tiền bối, đàn anh sát nút, anh em bạn bè và cả đối thủ, có chứ, tránh thế nào được. E. le Roy nói: "Không có thiên tài nào không có tiền bối". Bachelard nói đại ý: chống lại những người đi trước, trong một phạm vi nào đó, đã là tiếp tục họ. Tôi nói một cách láo lếu: anh nào bảo rằng mình không bị ảnh hưởng ai cả là nói khoác. Bởi thế, sau như đón nhận và tìm hiểu, làm thế nào tẩy bỏ được tối đa dấu vết trong tác phẩm, của chính mình. Những ảnh hưởng vô thức không thể tránh được. Nhưng bắt chước thì không được. Ở khởi điểm của sáng tạo ta phải có cái ý định rõ rệt này: Cố gắng làm khác: vượt qua hay chống lại. Tìm hiểu văn chương Trung Hoa để sáng tác khác văn chương Trung Hoa, để đừng viết cái mà họ viết rồi và lầm tưởng là chính mình mới lạ. Tìm hiểu văn chương Pháp, văn chương Anh, Mỹ hay Nga để vượt qua, chống lại những tác phẩm thế giới đó, để đừng giống những tác phẩm đó. Chớ nếu đọc trước anh em, mua được cuốn sách Tây sách Tầu không ai có để bắt chước trước anh em, loè anh em, ra cái điều ta đây mới lạ thì yếu quá. Chứ nếu bắt gặp được một tác phẩm thế giới hay quá, tìm kiếm được một tác phẩm văn chương lạ quá, bèn lấy làm khuôn vàng thước ngọc, lấy làm kiểu mẫu sáng tạo thì chết rồi. Sự loè bịp trên thì chán quá, sự khiếp nhược dưới đáng thương hại. Cả hai nhất định không phải là trợ lực cho sự sáng tạo xứng danh, mà chính là trở lực. Bởi thế tôi không bao giờ tin rằng những "mắt hồ thu", "mi như núi mùa xuân", "chim liền cánh, cây liền cành" là hào quang của văn học ta vì chẳng thể quên được xuất xứ Trung Hoa. Tôi chẳng bao giờ thích thú "tôi buồn chẳng biết vì sao tôi buồn" vì còn nhớ quá rõ cái "tristesse sans cause" của Chateaubriand. Những dấu tích của sự muốn làm giống nhiều lắm, anh em nào cũng nhìn thấy cả. Trước kia không biết thế nào nhưng bây giờ một số anh em đã nhận thấy điều này và đã có vẻ khó chịu. Tôi đã nghe bạn bè nói đại khái là những tác giả Tây phương cho rằng thiên tài là sản phẩm của huyết thống, đất đai, thời đại thì lập tức có một ông Việt Nam viết lách lý luận rằng Nguyễn Du sở dĩ làm thơ hay là vì xuất thân trong một gia đình khoa bảng, quê ở làng Tiên Điền, một nơi chuyên sản xuất nhân tài, và sinh vào thời Lê mạt nguyên sơ. Ô hay, thế trót sinh ra ở Gò Vấp hay Ban Mê Thuột, trót làm con cái của một gia đình mù chữ, trót ở một thời đại không nhiễu nhương thì thơ không hay được hay sao? Lục bát di truyền sinh lý à? Mười mấy năm vừa qua chói mắt vì hào quang của nền văn chương triết học Pháp chúng ta cũng buồn nôn, cũng gài ở đây ở đó những tiếng kêu to: Thượng đế chết rồi hoặc phi lý, phí lý, hiện hữu này phi lý quá, cuộc đời này phi lý, vân vân và vân vân. Bây giờ chúng ta lại sắp sửa rủ nhau thi đua "Tiểu thuyết Mới". Nhận xét này, tôi thấy đúng lắm. Nhìn lại những thứ đã viết xong, trước đây thấy được quá, bây giờ thấy không được. Tôi thấy chính mình cũng hơn một lần muốn đóng vai trò của cậu học trò tốt. Học kỹ bài học lý thuyết nào đó rồi áp dụng vào một truyện ngắn, một bài thơ hay một bài biên khảo. Văn học nghệ thuật không thể như thế được, không thể chỉ là sự áp dụng nghiêm chỉnh công thức. Đó là thuốc độc, thuốc tê làm cho không thể nhẩy xa, bay cao, chạy mau. Mà văn nghệ cũng như thể thao, phải càng xa, càng mau, càng cao. Phải tìm kiếm đến nơi kho tàng văn học nghệ thuật thế giới, phải nhìn rõ khuôn mặt tiểu thuyết Nga, Mỹ, Pháp, Anh, Trung Hoa để mà Việt Nam, phải nhìn rõ mặt thơ mặt kịch thế giới để mà trở thành ta, phải làm cái nền văn chương cổ điển, lãng mạn, tả chân, triết học hay "mới" chưa làm chứ không phải cố gắng xin phép nhập vào một trong những môn phái đó. Có làm được như thế không? Thắc mắc này sẽ được nói lên. Tôi không thể trả lời về tương lại nhưng đấy, giới hạn phân biệt những cuộc ái tình lẻ và đam mê, những ước ao vụn vặt và giấc mộng lớn ở đây. Và sự chưa làm được hiện tại, sự chấp nhận dễ dãi, sự biến chế vội vã văn học nghệ thuật thế giới đã và đang có, chắc chắn là một nghèo nàn.
*
Cũng nghèo nàn là sự phát triển không đồng đều những ngành văn học nghệ thuật khác nhau. Đúng thế, những bộ môn này phát triển được đấy, một vài bộ môn khác thấy lờ mờ quá. Tôi không làm công việc nhìn xem ai hay ai dở, tác phẩm nào lớn, tác phẩm nào nhỏ. Tôi chỉ làm cái việc duyệt xét toàn diện văn học nghệ thuật ta, nhìn lại tất cả để bầy tỏ những nghèo khổ và giầu có tổng quát đã ghi nhận được và sau hai ghi nhận về bề sâu, ghi nhận thứ ba này nhắm tới chiều rộng, nhắm tới bề mặt đó. Thơ, tốt lắm. Tiểu thuyết, truyện ngắn, được đấy. Thấy cũng đông đảo, xum xuê. Nhưng kịch, phê bình văn nghệ chẳng hạn thì hơi ít. Sinh hoạt trình diễn kịch của ta cũng nhiều đấy chứ?
Tôi cũng yêu nó lắm. Chèo cổ, cải lương và thoại kịch. Nhưng ở đây không nói đến sự trình diễn, đến các loại nghệ thuật trình diễn. Tôi chỉ đề cập đến tác phẩm kịch thành văn, tác phẩm viết. Và nhìn đến những tác phẩm viết của kịch, đối chiếu với thơ với tiểu thuyết, kể ra hơi ít. Trong nền văn chương cổ điển, thơ khoẻ ghê, đông lắm, kịch thấy gần như chẳng có gì cả. Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương chẳng nói gì đến sự mở màn và hạ màn, hồi và lớp. Tiền chiến và hiện đại, khởi từ sự tạo thành chữ Quốc ngữ tới nay, qua sự tiếp xúc với văn học nghệ thuật thế giới, tác phẩm kịch so với thơ và tiểu thuyết ở một tỷ lệ thấp hơn nhiều. Trong năm cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan chỉ kể đến hai tác giả: Vũ Đình Long và Vi Huyền Đắc. Tất nhiên, số lượng tác giả viết kịch và số kịch bản có thể đông hơn số lượng được nêu lên bởi họ Vũ nhưng so với tác phẩm thơ và truyện, kịch chắc chắn ở mức độ thấp hơn. Tại sao? Thiếu sân khấu, thiếu phương tiện dựng kịch, thiếu sự trình diễn kích thích sự sáng tạo hay vì các kịch giả Việt Nam chưa thích ứng được hình thức thoại kịch Tây phương với tâm hồn Việt Nam. Câu hỏi nêu trên, tuỳ anh em giải đáp. Tôi dừng lại đây, ở sự ghi nhận về sự phát triển chậm của ngành sinh hoạt này để bước sang phê bình văn nghệ.
Ngành này cũng yếu lắm. Văn chương cổ điển cũng để lại ở đây ở đó vài lời nhận định, vài bài ngâm vịnh Kiều chẳng hạn của Chu Mạnh Trinh. Ở lớp trung học chúng ta đều đã hơn một lần khoái trá về hai câu lục bát của họ Cao về "câu thơ Thi Xã". Có những phán đoán giá trị ở đây và ở đó có chứ. Đàn ông chớ kể Phan Trần, Đàn bà chớ kể Thuý Vân Thuý Kiều, hai câu truyền khẩu này đã bao hàm ý nghĩa phê bình văn nghệ đứng trên căn bản đạo đức. Nhưng những lời nói, câu thơ, bài ngâm vịnh, lời nhận định có tính chất phê bình văn nghệ chưa có giá trị của một ngành sinh hoạt văn học nghệ thuật. Ngành sinh hoạt mang tên phê bình văn nghệ đó chỉ thực sự thành hình với những Thiếu Sơn, Nguyễn Bách Khoa, Phạm Quỳnh, Trương Tửu, Trương Chính, Hoài Thanh, Vũ ngọc Phan. Ai thoả mãn về những phán đoán của các người đi tiên phong này? Chính Vũ Ngọc Phan đã không bằng lòng về các tác giả đi trước. Tác giả Nhà văn hiện đại trách cứ họ Phạm đã "phê bình người qua sách", qua những bài mà người chịu trách nhiệm Nam Phong nói về Nguyễn Khắc Hiếu. Ông cho rằng những bài phê bình của Trương Tửu đăng trên báo Loa có những nhận xét không đúng vì đã "dùng những lời to tát quá để phát biểu ý kiến về những cái hết sức nhỏ trong một cuốn sách". Còn Thiếu Sơn thì, vẫn theo Vũ ngọc Phan, phê bình theo "lối nước đôi", Trương Chính "phê bình không nhất chí". Và Hoài Thanh đã có những "khuyết điểm" do "địa vị chủ quan", "sở thích" và "khuynh hướng" của tác giả Thi nhân Việt Nam gây ra. Nhưng Vũ Ngọc Phan, nhà phê bình đã nói về bẩy mươi tám nhà văn, nhà phê bình thành thực mà nhận, để lại tác phẩm phê bình văn nghệ tốt nhất cho đến ngày hôm nay, đã thực sự tốt chưa? Họ Vũ nói rằng đã "theo phương pháp khoa học" để xét đoán: "Phương pháp khoa học thì phải tựa vào một lý thuyết, công việc phê bình mới vững vàng được". Và Vũ ngọc Phan hoan nghênh lý thuyết của Brunetière: "Tôi rất hoan nghênh cái lý thuyết phê bình của Brunetière về luật tiến hoá, nhưng tôi nhận thấy cái chủ nghĩa độc đoán của ông đã làm cho ông không tránh được thiên vị". Vũ Ngọc Phan đã không lầm khi chỉ trích chủ nghĩa độc đoán của Brunetière. Nhưng còn cái phần lý thuyết mà ông chấp nhận? Phương pháp của họ Vũ có thực sự khoa học không? Ông có thực sự áp dụng cái lý thuyết về luật tiến hoá mà ông chủ trương áp dụng đó không? Và ngày nay, ở quê hương của lý thuyết ấy, phương pháp phê bình gọi là khoa học được các nhà phê bình gọi là khoa học đựơc các nhà phê bình thời hậu chiến này nhìn ngắm ra làm sao? Brunetière, với lý thuyết của ông đứng chỗ nào? Tôi để lại những câu hỏi này cho những người quan tâm đến ngành phê bình văn nghệ giải đáp và những giải đáp có thể nhìn thấy được đó đều không có lợi gì cho tác giả Nhà văn hiện đại. Tôi chỉ nêu thêm câu hỏi này: Phê bình văn học nghệ thuật thì phải căn cứ vào một căn bản lý thuyết nào đó. Cho là được đi. Nhưng tại sao không tạo ra lấy một căn bản lý thuyết? Tại sao không sáng tạo trong việc phê bình? Các nhà phê bình lớn của văn học nghệ thuật thế giới có ai theo lý thuyết của người khác đâu. Brunetière đó đã khác với Saint Beuve. Satre, Bachelard không dính dáng gì với Brunetière. Tại sao ông thì theo "phương pháp ba W" (What? Why, Who?), ông thì theo Taine, ông thì theo Mác-xít, ông thì theo Brunetière và ông thì theo ông mới nhất ở chỗ này, chỗ khác.
Nguyên Sa, mày đòi hỏi nhiều quá. Hãy nhìn thế hệ của mày xem nó ra làm sao? Đồng ý, thế hệ của chúng tôi, về cái mặt phê bình văn nghệ này nó chẳng ra làm sao cả. Nếu những nhà phê bình thế hệ trước chưa phải là những nhà phê bình lớn thì ít ra họ đã có cái tư cách của nhà phê bình văn học. Lối phê bình của Phạm Quỳnh, Vũ Ngọc Phan viết, ai cũng nhận thấy là một lối thật trang nhã cả ở những chỗ chê bai. Đó là "sự xét đoán của người có học", đó là "sợi tơ" chớ không phải "sợi gai". Thế hệ chúng ta thiếu cả cái trang nhã, cái lịch sự, cái sợi tơ đó. Một vài người giữ được cái tư cách của nhà phê bình văn nghệ như Minh Huy Nguyễn Đình Tuyến tuy chưa phải là nhà phê bình lớn. Còn đa số, than ôi, bọn sa-đích, bọn lùn, nói theo Viên Linh, chán quá. Tôi nhớ cách đây mười năm có anh em rủ tôi làm phê bình văn nghệ. Sau cuộc thảo luận, tôi choáng váng cả người. Lúc bấy giờ hai nhà thơ chói lọi nhất ở miền Nam là hai anh Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương. Thú thật, thơ của hai tác giả này tôi đều thích thú. Lúc đi học mê lắm và bây giờ chịu lắm. Một anh lăm le nhẩy vào văn nghệ bàn rằng: Muốn nổi bật, muốn có chỗ đứng ta phải "chém" tơi bời hai anh này. Hai anh này hết thời rồi mà còn viết lảm nhảm. Cậu phải viết mấy bài đánh tơi bời cho quang đãng cái thế giới văn nghệ, dọn đường cho anh em. Một anh khác đưa ra ý kiến: Thơ của họ khó vượt quá. Mình phải chơi cái chiến thuật dương Đông kích Tây, chơi cái đòn chiến tranh tâm lý. Chọn một anh nào làm thơ tồi của tiền chiến còn tồn tại ở đây để đề cao loạn lên, tôn là thần tượng cho họ Vũ và họ Đinh mờ đi. Khi độc giả chú ý đến cái anh thơ tồi kia, họ sẽ so sánh thơ ta và ta sẽ nổi. Tôi từ chối tham gia vào văn nghệ bằng đường lối chiến tranh chính trị đó. Lúc ấy tôi cũng chẳng biết trả lời họ ra làm sao nhưng dần dần tôi nhận được điều này: động lực của sáng tạo là tình cảm và kỹ thuật sáng tạo là tác phẩm của lý trí. Tình cảm đó có thể là đam mê tình ái, xúc động trước chiến tranh, lo âu này và lo âu khác và một trong những động lực tình cảm đáng kể là sự xúc động, kinh ngạc trước tác phẩm của những người viết khác. Đọc một truyện hay đọc một bài thơ tốt, tâm hồn ta tức khắc bị chấn động. Ta lập tức nói lên trong tâm tưởng: Thánh thật! Bài thơ của đàn anh này được quá, bài văn của nhi đồng này hách đấy chứ. Nơi một người làm văn học nghệ thuật, sự kinh ngạc đó lập tức đưa tới hai phản ứng: phải làm hay hơn, phải viết hách hơn hay phải tìm một phương thức nào đó cho cái sáng chói kia mờ đi. Phản ứng thứ nhất là con đường đưa tới tác phẩm. Phản ứng thứ nhì: là tiếng nói của mặc cảm, của ghen tức, đố kỵ làm cho người lùn xuống, thấp bé đi, sa-đích hiện lên mặt, tác phẩm bỏ trốn. Và điều đó cũng công bình lắm. Mỗi người chỉ được một cái khoái thôi. Anh này cố gắng làm tác phẩm tốt, nó được cái khoái trước sự sáng tạo thành hình. Anh kia bằng đòn phép đánh và chém, đề cao thần tượng theo chiến thuật, hạ thấp đối thủ một cách hợp tấu thì nó cũng được một cái khoái rồi, cái khoái trả xong một nỗi uất ức, cái khoái thủ dâm, hiếp chóc, nó tất phải hết, còn động lực nào mà sáng tạo nữa. Các anh cứ việc tiếp tục nhìn kỹ mà xem, mấy cái anh đi vào con đường thứ nhì này dù đỗ cao học hay tiến sĩ, dù biết tiếng Tây hay tiếng Tầu càng ngày càng mờ đi, càng kém vì sa-đích nó sẽ chẳng bao giờ thành Don Juan. Thế mà phê bình văn nghệ của thế hệ này như thế đấy. Nói chi đến lý thuyết phê bình căn bản độc đáo, nhận xét tinh tế, kiến thức uyên thâm bởi lẽ chỉ riêng cái tư cách của nhà phê bình, cái tinh thần vô tư, vượt trên bè nhóm, ganh ghét đố kỵ, mặc cảm đã không có rồi còn nói gì nữa. Nhà phê bình văn nghệ, ai nấy đều biết, một khi được thực hiện đứng đắn, góp không nhỏ cho sự tiến bộ của văn học nghệ thuật dù việc phê bình trong văn học nghệ thuật tự nó không mang lại tác phẩm sáng tạo.
Kể ra sự yếu kém, xoàng tồi, nghèo khổ còn nhiều. Tôi nhìn thấy cái này, anh thấy cái kia, nó bảo cái nọ. Nhưng tôi hãy đề cập đến bấy nhiêu nghèo khổ đã đủ chán ngấy rồi. Cất nỗi đen tối ấy đi, thắp lên ngọn đèn hoa sáng đẹp này. Văn nghệ của ta không phải chỉ có những sai nhầm nghiêm trọng như chưa đẩy mạnh đúng mức sự sinh hoạt của ý thức, chấp nhận quá dễ dãi ảnh hưởng bốn phương, sự sinh hoạt bệnh hoạn của một số ngành văn nghệ… Nó cũng có cái được, cái tốt, cái hách.
Mỗi người đều có tìm thấy dễ dàng ít ra một tác phẩm văn nghệ cho phép hãnh diện. Người đọc này có thể kể ra năm bẩy câu, một vài bài thơ mà nó mê đến chết, bạn kia nói đến truyện ngắn này, truyện dài khác mà nó cho là tuyệt.
Với tôi, mấy sự việc này tôi chịu nhất. Trước hết là sự đổi thay mau lẹ và thường trực. Tôi muốn dùng chữ tiến bộ nhưng xét kỹ thấy không được. Văn nghệ không phải là vật cơ khí. Xe hơi Mercedes 220 tiến bộ hơn xe hơi lúc mới chế tạo ra; được lắm. Nhưng văn nghệ chỉ có thể khác nhau chứ không thể tiến hơn. Không thể nói thơ bây giờ tiến bộ hơn, hay hơn thơ Nguyễn Du, Tản Đà, Huy Cận hay Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng. Thơ bây giờ khác, thế thôi. Và văn học nghệ thuật của ta, cũng như mọi nền văn học nghệ thuật các nước, tất nhiên phải liên tục đổi khác hay là chết. Văn nghệ không thể nhắc lại, không thể sản xuất dây chuyền cái giống nhau, hao hao, từa tựa. Phải khác. Nhưng cái sự đổi khác, biến dịch ấy của ta, nhất là từ thế kỷ 19 đến nay đã mau lẹ lạ thường.
Những thay đổi của tiểu thuyết, truyện ngắn, của thơ, của tuỳ bút phóng sự… được thực hiện ở văn học nghệ thuật thế giới trong nhiều thế kỷ đã chạy vèo vèo qua văn học nghệ thuật ta trong khoảng thời gian một trăm năm văn chương Quốc ngữ. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, cổ điển và lãng mạn, tả chân và siêu thực, hiện sinh và chống hiện sinh, bình cũ rượu mới và mới hoàn toàn vị nghệ thuật và vị nhân sinh, dấn thân và biệt thân đã có mặt đầy đủ. Tôi đã nói: ta chấp nhận quá dễ dãi. Sự bắt chước không thể làm bằng lòng, không thể làm khoan khoái. Nhưng nếu từng cá nhân thì đúng là bắt chước, ngược lại nhìn toàn bộ, nhìn tổng quát cả một thế kỷ văn chương ta thấy sự giao tiếp với văn học nghệ thuật Tây phương thúc đẩy ta tiếp nhận thật mau lẹ, rồi vứt bỏ cái đã tiếp nhận đó cũng thật mau lẹ để tiếp nhận cái khác. Ta như bị thúc đẩy với một tiếng nói không âm thanh: phải đổi thay thật nhanh, phải biến dịch thật mau. Cho nên người này vừa làm xong cổ điển, không đợi những thế kỷ 18 và 19 trôi qua, người kia tiến ngay đến siêu thực. Cùng một tác giả có thể nhẩy từ tả chân sang siêu thực rồi đến hiện sinh. Và cái sự thay đổi mau lẹ đó, nhìn ở mặt trái nó đáng buồn vì chưa thật là ta, vì còn mang nặng dấu vết này, dấu vết nọ, nhưng nhìn ở mặt phải, nó nói lên sự khao khát đổi thay. Và khi họ đổi thay để bắt kịp những đổi thay của văn học nghệ thuật thế giới, sự khao khát đó sẽ đóng vai trò động lực của những sáng tạo lớn. Và thời khắc ấy, có lẽ đã tới. Có người cho rằng người Việt Nam ta có tài đồng hoá, dung nạp. Có thể lắm nhưng tôi không thoả mãn với cái "tài" đó. Đồng hoá rồi phải vượt quá chứ, phải đổi mới chứ. Và có lẽ giai đoạn khai phá đó đã tới. Chúng ta đã, trên chuyến xe đuổi theo xả hết tốc lực, ta đã nói tới hiện sinh và chống hiện sinh rồi đó. Rồi làm gì bây giờ. Đợi các nhà văn thế giới bay về hướng nào rồi mới khăn gói đuổi theo hay sao? Câu hỏi nêu lên thúc đẩy bởi động lực khao khát đổi thay đã là cánh tay lực lưỡng đẩy vào lưng không cho phép ta đứng lại để chờ, đứng lại để đợi. Cho nên tôi nghĩ rằng sự biến dịch, sự đổi thay mau lẹ của văn học nghệ thuật ta là một dấu hiệu để mừng rỡ vì đã nói lên hoặc ý thức hoặc vô thức sự không bằng lòng với công việc đồng hoá, dung nạp vì vừa chấp nhận xong đã đổi thay, vừa dung nạp vì vừa chấp nhận xong đã đổi thay, vừa dung nạp xong đã biến dịch và ở giai đoạn chót của sự đồng hoá, dung nạp ấy phải là sự vượt lên, sự đổi chác, sự làm mới chói lọi, sự sáng tạo địch thực.
Sự đối kháng thường trực của các nhà văn nhà thơ ta với tinh thần phe nhóm, tinh thần độc lập của tác phẩm của mỗi tác gia cũng làm ta mừng rỡ vì đó cũng chính là một giàu có đáng kể. Trường nhóm bè phái không có trong văn chương cổ điển. Đó là một thực tại không cần phải chứng minh dài dòng. Một vài thi xã, thi đàn đã được thiết lập và bảo trợ bởi triều đình này và triều đình khác, bởi nhà vua yêu văn nghệ này hay hoàng đế yêu thơ kia nhưng phần lớn những thi xã, thi đàn đó không để lại dấu vết nào đáng kể. Sự sinh hoạt tập thể này cũng không cho thấy một tinh thần phe nhóm nào cả phản ảnh qua lý thuyết độc đoán, đố kỵ với những kẻ không chịu khuất phục… Phần lớn nếu không phải là hầu hết các nhà thơ lớn cổ điển của ta đều sáng tạo một cách riêng rẽ, độc lập, cô đơn. Đến thời kỳ của văn chương Quốc ngữ, những trường phái văn đoàn này, nhà xuất bản kia được thiết lập nhưng tinh thần phe nhóm cũng ít có đất đai để phát triển. Nhìn qua nhóm nổi bật nhất của tiền chiến là Tự lực Văn đoàn ta thấy có sự phù hợp nhiều về quan điểm văn nghệ, xã hội của những Hoàng Đạo, Nhất Linh, Khái Hưng nhưng đa số tác phẩm của các nhà văn nhà thơ trong nhóm này vẫn không bị gò bó vào một đường lối nhất định, một giáo điều cứng nhắc nào có thể làm tê liệt tác phẩm. Hai buổi chiều vàng, Gửi hương cho gió hay Trại Bồ Tùng Linh, Vàng và máu đều không có liên lạc gì với Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân và Con đường sáng; đều không có dấu vết gì của cái ý hướng muốn đổi thay cơ cấu gia đình cổ truyền - Cho đến nay, đọc kỹ tác phẩm của một vài của một vài anh em được kể là thuộc về một nhóm, tôi vẫn chỉ nhìn thấy cái tình bạn bè làm cho họ đứng cạnh nhau, làm cho họ mang một nhãn hiệu chung chớ không thấy giáo điều của nhóm nào cả, không thấy nhà văn nào hiện ra đứng giữa truyền giảng như một giáo chủ loại André Breton, nhóm anh em bao quanh viết lách để cổ vũ, chứng minh giáo điều bằng thể hiện văn nghệ. Và đó là một điều tốt. Tốt lắm. Nên có một quan điểm văn nghệ, nên có một lý thuyết. Nhưng mỗi người hãy có một cái riêng cho nó. Hoặc nếu có chung nhau, mỗi người hãy đào sâu một phía. Chớ cái tinh thần phe nhóm làm cho ta rơi vào cực đoan, biệt phái, làm cho tâm hồn cởi mở không còn nữa, làm cho giáo điều chủ nghĩa thịnh hành. Và độc tài trong văn nghệ cũng như bất cứ ở phạm vi nào chỉ đưa tới sa sút, tàn phá và chết chóc, tê liệt. Hơn nữa, văn học nghệ thuật của ta không những tránh thoát được cái tinh thần phe nhóm cực đoan, còn tránh luôn được cả sự gò bó của tư tưởng hệ thống hoá. Nhà lý luận Tây phương căn cứ trên nguyên lý đồng nhất sẽ nhìn thấy yếu kém. Những môn đệ của Hégel, những người quá quan tâm đến cái "lô gích" sẽ không bằng lòng. Tôi cho rằng như thế lại hơn. Đứng trong thế giới văn nghệ Tây phương, anh "dấn thân" là "dấn thân" luôn, anh "vị nghệ thuật" là "vị nghệ thuật" luôn. Anh "tả chân" cứ "tả chân mãi", anh hiện sinh liên tục hiện sinh. Văn nghệ của ta không có như thế. Ở mỗi một tác giả cổ điển tôi thấy vừa "dấn thân" mà lại vừa "không dấn thân", "vị nghệ thuật". Những bài thơ nói lên lòng yêu nước của thi sĩ đất Quế Sơn, "dấn thân" rõ rệt lắm. Nhưng những "Ao thu", những "Bạn đến chơi nhà" thì có vẻ vị nghệ thuật chắc quá. Trần Tế Xương vừa chỉ trích xã hội bằng thơ vừa làm thơ để nói đến thú hát ả đào, đến cái sự mất ô. Tôi cho rằng cứ "dấn" hoài thì mệt lắm, có lúc hát ả đào một cái cũng tốt lắm chứ. Lúc nào khoái làm thơ tình thì ta làm thơ tình. Lúc nào chán cái sự lả lướt, xúc động vì cuộc chiến tranh này thì ta làm thơ chiến tranh. Lúc nào thấy thú dấn tác phẩm vào chỗ này chỗ khác là ta làm. Anh em có chịu không? Tôi cũng tự hỏi: như thế có thiếu đồng nhất không? Có thật "lô-gích" không?
Đấy, những sự giàu có, chính yếu của văn học nghệ thuật ta, tôi nhìn thấy như thế. Tôi muốn nói thêm về tiểu thuyết, truyện ngắn và nhất là thơ. Đã nói đến một vài ngành sinh hoạt văn học nghệ thuật nghèo mạt rệp, đã vẽ ra những túp lều tranh đó, tôi cũng muốn vẽ lại những toà lâu đài lộng lẫy của thi ca. Nhưng thôi, chẳng nói làm gì, các anh tha cho tôi vì tôi làm thơ. Tôi chỉ xác nhận rõ rệt tin tưởng: đó là thành phố tráng lệ nhất của quê hương văn nghệ ta, là niềm hãnh diện to lớn nhất của lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam. Sự xác nhận này là điểm tận cùng của bài văn. Nghèo khổ hơi dài, giầu có hơi ngắn đấy nhé. Đúng lắm, nhưng mệt rồi. Vả lại, ý thức về sự nghèo khổ đã là giầu có, đã là bắt đầu khởi hành đi tới kho tàng.
MỘT BÔNG HỒNG CHO VĂN NGHỆ
Nhìn xong tình cảnh của nhà văn, chỗ đứng của văn học nghệ thuật là tới cái sự nhìn vào thực chất. Trước khi chọn ngày lành tháng tốt để khởi công những đóng góp thật vào việc giải quyết những vấn đề văn học nghệ thuật lớn, cùng một lượt với thể hiện không mệt những sáng tạo thường trực đổi thay, có tất cả ba cái chuẩn bị đó, ba cái dọn đường đó. Ba cái tầm mắt phóng nhìn chung quanh bàn đạp lò xo của phóng tới trước mặt, đến đây, hiện ra đầy đủ sắc diện rồi. Chúng tôi đã nắn bóp trong tay, nhấm nháp trên lưỡi, nghiêng đầu, nheo mắt nhìn ngắm xem chúng tôi là một thế hệ ra làm sao, tình cảnh nhà văn những năm năm mươi, sáu mươi như thế nào. Trong mối tương quan với lịch sử, với những thế hệ đàn anh, cũng như trong mối tương quan với thực tế xã hội hiện hữu, thực tế chiến tranh sôi bỏng bây giờ. Chúng tôi đã đo lường lại, xác định rõ vị trí của quê hương tinh thần mỗi đứa: văn học nghệ thuật Việt Nam trong đó chúng tôi sống, chúng tôi say mê, chúng tôi nuôi ấp những giấc mộng lớn và nhỏ đứng ở chỗ nào trong văn học nghệ thuật thế giới cũng như trong quê hương ruột thịt của chúng ta, quê hương nghèo đói, chia cắt, chiến tranh, dốt nát và hỗn loạn.
Các anh em đã khởi, cùng với chúng tôi, hai cuộc hành trình mệt lắm của ý thức, hãy uống cạn chén rượu có vị đắng và vị ngọt này. Đúng thế, đắng và ngọt pha lẫn đấy bởi vì thế hệ, không biết may hay rủi của chúng tôi, ý thức đã chiếu sáng đến phũ phàng, mà những cái nhìn rõ hoàn cảnh đã và đang làm là một dấu tích, chẳng còn cho phép chúng tôi hoan hô đến nồng nhiệt, đả đảo đến điên cuồng.
Trong chính trị, trông vận nước, trong lịch sử đã xảy ra và đang xảy tới, cũng như trong văn nghệ chúng tôi, nói theo một thành ngữ của tác giả L'Être et le Néant, bị kết án nhìn rõ. Nhìn rõ thần tượng và dối trá, thánh thiện và đam mê, hào quang và bùn đất.
Ở chuyến khởi hành này cũng như ở những chuyến đã xong, mặc cảm tự tin và tự tôn bị triệt hạ đến gốc rễ, để nhìn thấy đỉnh cao mà vượt, để nhìn thấy biển rộng mà chèo. Chỗ nào phong phú, hãy phong phú hơn, chỗ nào nghèo nàn, đừng nghèo nàn nữa. Văn học nghệ thuật ta giầu có và nghèo khó chỗ nào? Ở chỗ nào? Ở chỗ nào? Đây bầy tỏ.
Nghèo khổ trước, giầu có sau. Phải nghèo rồi mới giàu chứ. Có thể anh giầu muôn vạn rồi hoá kiếp thạch sùng. Có thể lắm, có thể lắm. Nhưng tôi không khoái cái chuyện không có hậu đó. Nghĩ đến, viết đến, đọc đến sự giàu có của văn học nghệ thuật ta xong rồi mới nghĩ, viết và đọc đến những nghèo khổ thì chán lắm, tối ngủ không được. Vả lại, đằng nào cũng thế, không mất đi điểm nào, anh em cứ cho phép tôi nghèo trước giầu sau.
Có ba cái tất cả. Nhiều hơn chứ! Sao lại chỉ có ba sự nghèo khổ thôi. Mỗi thời đại, mỗi thế hệ văn học nghệ thuật có những khuyết điểm, nhược điểm của nó. Nhà làm văn học sử biết nghề nào chẳng nhìn thấy những nét vụng về đó. Mỗi nhà văn nhà thơ làm gì chẳng có năm bẩy chỗ yếu kém, nghèo nàn. Nhà phê bình văn nghệ xứng danh nào không hiểu rõ những mầu sắc thô kệch đó. Ba lần mười ba mươi. Ba lần một trăm ra thành ba trăm. Phải nói đến năm trăm hay với độ lượng, bao dung, với chủ quan đồng loã, phải kể đến vài ba trăm, năm ba chục cái nghèo nàn của văn học nghệ thuật chứ sao lại chỉ nói đến ba cái? Đúng lắm, những người đi trước ta có những cái yếu kém, anh em ta mang trên khuôn mặt, trên thân thể chục cái tầm thường, kể không xiết. Nhưng anh này nghèo chỗ này lại giầu chỗ khác, tay kia nổi bật chỗ khác lại yếu kém chỗ này. Đối chiếu vài chục nhà văn, năm ba thế hệ càng thấy rối ren, lung tung lắm. Và vấn đề ở đây là rút tỉa lấy chỗ yếu tính tìm được những cái xoàng, cái kém, cái tồi và sau đó cái cao nghều nghệu, cái giầu sang, cái hách, chung của tất cả mọi người hay ít ra của số đông những người làm văn học nghệ thuật ở đây. Những nghèo khổ chung đó lần này tôi tìm thấy có ba cái. Cái nghèo khổ thứ nhất là thiếu sự suy tưởng về nghệ thuật. Cần nhấn mạnh: sự suy tưởng quy mô về nghệ thuật. Sự sự suy tưởng về nghệ thuật nhất định có nếu sự suy tưởng ấy là ý thức tự phát kèm theo sự sáng tạo. Khi cười, mỗi đứa chúng ta có lý trí bình thường và phát triển đầy đủ đều biết là mình cười, ăn, ta biết là mình ăn, cầm tay người yêu, ta biết rằng ta không cầm trái lựu đạn cay. Ý thức tự phát kèm theo mỗi trạng thái và hành vi của chủ thể, chắc quá, anh nào chẳng có. Cũng vậy, ý thức tự phát kèm theo mỗi cầm tay nghệ thuật. Viết cái này, chẳng cần kêu gọi đến sự làm việc gay go của trí tuệ, sự can thiệp của ý chí cố gắng, tôi biết luôn, cùng một lượt với động tác viết, là đang viết một bài khảo luận, biên khảo hay tiểu luận gì đó bằng văn xuôi chớ không phải đang làm thơ hay viết tiểu thuyết. Bắt gặp được một ý tưởng hay một chữ xét ra được tôi liền ý thức ngay rằng tốt lắm. Nguợc lại, phải ý thức được ngay lúc bắt đầu viết thấy mệt mỏi, chữ nghĩa nhạt nhẽo, nếu không là hỏng. Người viết đồng bào ta cũng như người viết nói chung, bởi cái căn phần của con người là là sinh vật ý thức, tất nhiên có ý thức kèm theo sáng tạo. Và hơn nữa, nó còn suy tưởng, nó nghĩ thật sự, tự ý chứ không phải chỉ tự phát về sự viết lách của nó, sau những hồng lâu và trận mạc, sau những hiên Lãm Thuý và sông Tiền Đường, nhà thơ họ Nguyễn đã suy tưởng về tất cả khúc đoạn trường đó: Lời quê góp nhặt dông dài, mua vui cũng được một vài trống canh. Nhà văn học sử sẽ cho chúng ta biết rằng Nguyễn Du đã nhận định về cứu cánh của nghệ thuật với tác phẩm của mình hay chỉ muốn nói lên lòng khiêm tốn tri thức, sự không thoả mãn với tác phẩm của mình, nhưng đấy chúng ta đã ghi nhận là họ Nguyễn đã suy tưởng và viết ra sự suy tưởng ấy. Tản Đà mượn cớ "hầu Trời" để nói về cứu cánh của nghệ thuật là sự bảo vệ và phát huy "Thiên lương". Tác giả Mấy vần thơ đã đề cập đến tính chất đa dạng của cái đẹp mà ông, trong "Cây đàn muôn điệu gọi" là "vẻ đẹp muôn hình muôn thể" và Xuân Diệu, sau Malherbe đã, cũng như các nhà thơ nói trên, bằng thơ nói lên sự suy tưởng về thơ: "Nghề lựa chữ ôi một nghề trẻ nhỏ, dăm câu vui đắp mấy câu sầu…". Có đấy, ý thức tự phát kèm theo sự sáng tạo và ý thức tự ý được viết lên giấy. Có sự suy tưởng. Nhưng không có sự suy tưởng quy mô về văn học nghệ thuật, sự suy tưởng được tạo dựng thành tác phẩm có kiến trúc, có mạch lạc. Hướng đến cuộc đời, sự suy tưởng quy mô được tạo dựng thành tác phẩm đó gọi là triết học, hướng đến khoa học nó là triết lý khoa học. Còn gì nữa, triết gia cũng ăn, ngủ và thở. Nhưng sau nhiều sáng dậy, trưa ăn, chiều ngủ, những Socrate những Descartes, những Bergson và cả những Sartre, những Camus nêu lên những câu hỏi, thử giải đáp, nói lên hay viết ra những thử giải đáp đó. Ở trên cái ăn, cái ngủ, cái thở này có cái gì khác không? Khi ăn ngủ dừng lại rồi cái gì khác đó có còn không? Ăn ngủ, thở kể cũng lâu, một trăm năm, nhưng có nghĩa gì trong cái vô tận của thời gian, rồi cuộc sống này sẽ dừng lại, thân thể nặng nề này sẽ nằm xuống để mà chết, hữu thể của ta là "hữu thể để chết" thì cuộc đời có đáng sống hay không? Ở những cuộc đối thoại lớn dầu ghi lại bởi Platon hay Xénophon ở L’Être et le Néant hay Le mythe de Sysiphe, dấu tich của lo âu soạn thành tác phẩm có kiến trúc đó gọi là triết học. Cũng thế, trước khi, cùng một lượt và nhất là sau khi chứng minh và kiểm chứng quan sát và thí nghiệm, Descartes, Claude Bernard, Niels Bohr, Einstein, Heisenberg và Louis de Broglie không cất đi phấn và bảng, không quên đi điện kế và phòng tối Wilson, mà chỉ nhìn kỹ để đúc kết lại, rút tỉa lấy những bài học về phát minh, phương phát kiểm chứng, cứu cánh của khoa học. Những đúc kết, những rút tỉa đó gọi là triết lý khoa học. Văn học nghệ thuật thế giới cũng dành một phần đất đáng kể cho sự suy tưởng quy mô như thế. Cũng như tác phẩm suy tưởng về khoa học kia thì thực hiện bởi các triết gia chuyên nghiệp, khi thì được thực hiện được bởi chính các nhà khoa học, sự suy tưởng về văn học nghệ thuật đã được hình thành bởi cả những triết gia và nghệ sĩ.
Văn học nghệ thuật được các triết gia nhìn ngắm kĩ lưỡng lắm. Sừng sững đây là những tác phẩm của những Kant những Hégel nói về thẩm mỹ. Chói lọi kia rõ ràng những trang sách của Aristote đề cập đến kịch trường. Còn các nhà văn nhà thơ, mỗi thời đại, mỗi thế hệ khác, mỗi nhóm đều được đánh dấu, đều được phân định rõ ràng với thời đại khác, thế hệ khác, nhóm khác bằng những tác phẩm lý thuyết. Défense de la langue française của du Bellay ít nhiều có giá trị của ngọn cờ của nhóm Pléiade. Art poétique của Boileau gắn kề được vào vương miện của thế kỉ cổ điển. Và nói đến thi ca, tiểu thuyết, kịch thường của phái lãng mạn không thể không biết tới Préface de Cromwell. Cũng thế, tác phẩm suy tưởng, lý thuyết về thẩm mỹ, về thi ca của những Beaudelaire, Valéry gắn liền với thơ của những tay sáng tạo ấy. Các tác phẩm phản ánh sự suy tưởng quy mô như thế đã được thể hiện bằng nhiều hình thức bài tựa, tuyên ngôn, bài nhận định, sách khảo cứu, chỉ cần nhìn lướt qua nền văn học hiện đại của Pháp, các anh đã thừa biết Sartre không phải chỉ đốt nóng sinh hoạt văn nghệ bằng La nausée, Le mur hay Les mains sales mà còn làm rung chuyển văn nghệ với những bài nhận định về văn chương tập trung trong bốn Situations. Các anh, trong những ngày tháng gần đây, đã nhìn thấy cùng với sự phiên dịch một vài đoạn văn của "Tiểu thuyết Mới", những "tác phẩm lý thuyết của nhóm Tiểu thuyết Mới". Nghĩa là Alain Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute bên cạnh công việc lớn là sự tạo dựng tác phẩm tiểu thuyết đổi khác cũng không quên hình thành những công trình suy tưởng quy mô nói lên yếu tính, quan điểm, chủ đích bàng bạc trong tác phẩm nghệ thuật của họ.
Những công trình suy tưởng quy mô, những tác phẩm lý thuyết tương tự gần như không có mặt trong sinh hoạt văn học nghệ thuật của ta. Có ý thức tự phát kèm theo sự sáng tạo, đã nói rồi. Có những suy tưởng, nhận định lẻ tẻ được viết thành văn, đúng lắm. Nhưng không có công trình suy tưởng quy mô ý thức được kiến trúc hoá thành tác phẩm to lớn. Nhà làm văn học sử này cho ta biết một vài quan điểm văn nghệ như “văn dĩ tải đạo” bàng bạc trong văn thơ của thế kỷ 18, 19. Tác giả "nhà văn hiện đại" kia ghi nhận một vài luận đề liên hệ đến gia đình, hôn nhân trong tác phẩm của nhóm Tự lực Văn đoàn. Những tác phẩm lý thuyết nói lên chủ trương nghệ thuật của chính những người sáng tạo đó và do chính họ nói lên, tìm kiếm khó quá. Các anh đều biết thơ của Nguyễn Công Trứ nói nhiều đến "chí làm trai" và "than nghèo". Nguyễn Khuyến đề cập đến "tình bạn", cảnh "ao thu" và có những bài yêu nước, Tản Đà bay lượn trong giấc mộng lớn và con, Nguyễn Du nhìn mặt định mệnh. Nhưng chúng ta sẽ gặp không ít khó khăn khi phải thử giải đáp, Nguyễn Công Trứ hay Nguyễn Khuyến, Tú Xương hay Tản Đà quan niệm thế nào về cái đẹp, về cứu cánh của nghệ thuật, về kỹ thuật thi ca. Tay này sẽ cố gắng trả lời căn cứ vào bài thơ này, tay kia tin rằng đã tìm được căn cứ vào giai đoạn nọ. Nhưng tất cả chưa vượt khỏi phạm vi của ức đoán, chưa thoát ra được vùng mây mờ của giả thuyết mà sự vượt thoát chỉ thể hiện được nếu những nhà thơ lớn đó để lại cho ta những nhận định rõ rệt, những tác phẩm lý thuyết những ý thức được kiến trúc hoá thành văn.
Thời đại phồn thịnh của văn xuôi khởi đầu với sự xuất hiện của nền văn chương Quốc ngữ cũng vẫn vắng thiếu cái ý thức kiến trúc hoá, ý thức sáng tỏ và rõ rệt đó. Mười điều tâm niệm nói đến khoa học, sự tập thể thao làm kim chỉ nam của người thanh niên, quan tâm đến xã hội nhiều hơn là lý thuyết văn nghê. Các tác giả Bướm trắng, Nửa chừng xuân, Hai buổi chiều vàng quan niệm về sự làm mới văn học nghệ thuật như thế nào? Vào những năm cuối cùng của đời văn chói sáng, Viết và đọc tiểu thuyết được thành hình nhưng giữa quan điểm được trình bày và tác phẩm đã thể hiện bởi Nhất Linh và các bạn ông, sự thiếu phù hợp tôi sợ rằng không ít. Tôi sợ rằng không thể không rơi vào sai lầm khi xác nhận rằng tác phẩm lý thuyết này của Nhất Linh nói lên được quan điểm tiểu thuyết của Tự lực Văn đoàn. Còn chúng ta, thế hệ của chúng ta, thế hệ năm mươi sáu mươi, thế hệ phải bất hạnh chứng kiến sự tràn ngập khủng khiếp những ý thức hệ triết học và chính trị trong đời sống mà hậu quả là chết chóc và tan vỡ, ý thức về văn học nghệ thuật có vượt khỏi trạng thái mơ hồ và tự phát không? Anh em bạn bè ta đã viết hơn một bài lý thuyết đòi hỏi kêu gọi, thúc đẩy làm mới nghệ thuật. Nhưng làm mới thế nào? Đề tài hay nhân vật? Lối đối thoại hay thái độ của nhà văn. Chống lại tiền chiến, đó có phải là một giải đáp đầy đủ chưa? Chúng ta đã thật sự đặt móng xây nền được cho một quan điểm văn học nghệ thuật mới hay còn đang ở trong giai đoạn nói lên khát vọng? Chúng ta đã thật sự làm cuộc hành trình lớn hay mới đến phi trường nhìn mây và thả diều?
Ý thức suy tư về văn học nghệ thuật của tiền bối, của đàn anh sát nút và của chúng ta chưa được thể hiện đầy đủ, chưa được kiến trúc đến nơi, tôi nghĩ như thế và tôi tưởng rằng đó là một nghèo khổ của văn học nghệ thuật ta.
Nhưng những nhận định lý thuyết, suy tưởng quy mô có thật cần thiết không? Tại sao vắng thiếu ý thức được kiến trúc hoá thành văn đó, ta vẫn có những bài thơ tốt, những cuốn truyện tốt. Đúng, đúng lắm. Người làm văn học nghệ thuật của ta, cổ điển, tiền chiến cũng như bây giờ đã và đang làm tác phẩm sáng tạo. Thơ của Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, văn của Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng tốt chứ. Tốt lắm. Người làm văn nghệ với một trực giác sáng tạo sắc bén, với một năng khiếu trời cho, với sự cố gắng bền bỉ, có thể không cần gì đến lý thuyết này, lý thuyết nọ, không cần kiến trúc tư tưởng văn nghệ, vẫn sáng tác tốt. Lý thuyết quá vững chắc, hơn nữa, có thể trở thành cái khuôn cứng nhắc, cái kén chật hẹp, cái chướng ngại thành trì làm sáng tạo không bay cao được, không nhẩy xa được, không phóng tới vun vút được. Đúng lắm. Nhưng đấy là lý thuyết tiên nghiệm, lý thuyết đi trước tác phẩm, là bộ quần áo may trước khi có thể ra đời. Những cái này nhất định là không được. Chúng nó chỉ là hiện thân của hãnh tiến, kiêu ngạo của liều thuốc làm tê liệt thân thể văn nghệ. Tôi chỉ muốn nói đến lý thuyết rút tỉa ra một cách hậu nghiệm, suy tưởng căn cứ trên tác phẩm đã hoàn thành của tiền bối, đàn anh, bạn bè ta và chính ta. Ý thức về tác phẩm đã có cho phép ta rút tỉa ra những yếu tính của cái đã có, tác phẩm đã xong. Nhìn rõ con đường đã đi qua để đừng vào lối mòn nữa. Nắm chắc cái tốt và cái xấu, cái hách và cái xoàng để đừng xoàng, để vượt hách. Để đừng nhắc lại bạn bè và đàn anh. Cũng có lúc sự suy tưởng bốc lên, ta phóng ra một vài quan điểm một phần dựa vào tác phẩm của ta hay bạn ta, một phần phác hoạ chân trời muốn tới. Nhưng chân trời phác hoạ đó không được coi là chân lý, là bản cửu chương văn nghệ. Nó chỉ sơ thảo một vươn tới để rồi tỏ rõ, sửa chữa hoàn bị bằng tác phẩm sáng tạo. Một nhóm người làm văn nghệ hay một cá nhân đơn độc, hoàn thành được tác phẩm, lại viết lên được cái ý thức văn nghệ của mình, quan điểm và kỹ thuật sáng tạo của mình chắc chắn sẽ giúp ích không nhỏ cho những người đến sau. Ta sẽ không đi lại bước đi của người trước mà tưởng rằng mình mới lạ. Ta sẽ không cố gắng đập vỡ cái kén khi người đi trước đã tạo ra sợi tơ. Ta sẽ không cố gắng vượt những cái đích vu vơ, không phải dò dẫm, không bay vòng tròn mà tưởng rằng mình đã qua được trăm nghìn thế giới. Lãng mạn, đã thật sự khác cổ điển, tượng trưng đã thật sự khác lãng mạn, nền văn chương triết học quả thực khác xa tả chân và tiểu thuyết mới chính bởi vì người đi trước cố gắng để lại, bên cạnh tác phẩm, những công trình suy tưởng rõ, người đến sau, qua đó, nhận chân được khuôn mặt của những thế giới đã khám phá và hoạch định một cuộc phiêu lưu mới. Sự vắng thiếu những ý thức kiến trúc hoá thành văn nhắm tới một mục tiêu đứng đắn đó, thật sự là một yếu kém của văn học nghệ thuật.
Sự vắng mặt căn bản của ý thức có kiến trúc của công trình suy tưởng quy mô có phải là nguyên nhân đưa tới sự yếu kém là thái độ chấp nhận quá dễ dãi, sự biến chế vội vàng, đôi khi vụng về, những quan điểm văn học nghệ thuật thế giới hay không, không biết, nhưng đấy, thái độ ấy chắc chắn có thật. Và đó là nghèo khổ thứ nhì.
Mở rộng đón nhận, tìm kiếm kỹ kho tàng văn học nghệ thuật thế giới, việc làm này tốt lắm. Hơn là tốt, nó cần. Những người làm công việc bạc bẽo gọi là dịch thuật như Nguyễn Văn Vĩnh, như một số anh em hiện nay, đã và đang đóng góp một cách đáng kể cho sự tiến bộ của văn học nghệ thuật ta. Tôi nghĩ rằng dịch thuật đã được nhiều đấy nhưng chưa đủ. Còn phải dịch nhiều nữa. Để sự đón nhận cởi mở, tìm kiếm tận lực được thực hiện khoẻ hơn, đông đảo hơn, kho tàng không thể đếm xuể của văn học nghệ thuật thế giới cần được, phải được tìm kiếm đến nơi đến chỗ hơn nữa. Nhưng đón nhận, tìm kiếm là một việc, đón nhận là một việc, sáng tạo là việc khác. Chẳng có người làm văn học nghệ thuật nào không biết đến sự thật đơn giản này: sáng tạo không những không phải là bắt chước, mà còn là sự trái ngược. Thằng đen kia, nó trắng. Thằng kia thấp lè tè, nó cao nghễu nghện. Không biết cái mà ta làm ra đây có ra cái gì không nhưng trước hết phải được xây trên ước vọng chắc nịch này: nó phải là ta. Phải một mình. Phải khác. Không độc đáo là hỏng, là vứt đi. Bị ảnh hưởng bởi tiền bối, đàn anh sát nút, anh em bạn bè và cả đối thủ, có chứ, tránh thế nào được. E. le Roy nói: "Không có thiên tài nào không có tiền bối". Bachelard nói đại ý: chống lại những người đi trước, trong một phạm vi nào đó, đã là tiếp tục họ. Tôi nói một cách láo lếu: anh nào bảo rằng mình không bị ảnh hưởng ai cả là nói khoác. Bởi thế, sau như đón nhận và tìm hiểu, làm thế nào tẩy bỏ được tối đa dấu vết trong tác phẩm, của chính mình. Những ảnh hưởng vô thức không thể tránh được. Nhưng bắt chước thì không được. Ở khởi điểm của sáng tạo ta phải có cái ý định rõ rệt này: Cố gắng làm khác: vượt qua hay chống lại. Tìm hiểu văn chương Trung Hoa để sáng tác khác văn chương Trung Hoa, để đừng viết cái mà họ viết rồi và lầm tưởng là chính mình mới lạ. Tìm hiểu văn chương Pháp, văn chương Anh, Mỹ hay Nga để vượt qua, chống lại những tác phẩm thế giới đó, để đừng giống những tác phẩm đó. Chớ nếu đọc trước anh em, mua được cuốn sách Tây sách Tầu không ai có để bắt chước trước anh em, loè anh em, ra cái điều ta đây mới lạ thì yếu quá. Chứ nếu bắt gặp được một tác phẩm thế giới hay quá, tìm kiếm được một tác phẩm văn chương lạ quá, bèn lấy làm khuôn vàng thước ngọc, lấy làm kiểu mẫu sáng tạo thì chết rồi. Sự loè bịp trên thì chán quá, sự khiếp nhược dưới đáng thương hại. Cả hai nhất định không phải là trợ lực cho sự sáng tạo xứng danh, mà chính là trở lực. Bởi thế tôi không bao giờ tin rằng những "mắt hồ thu", "mi như núi mùa xuân", "chim liền cánh, cây liền cành" là hào quang của văn học ta vì chẳng thể quên được xuất xứ Trung Hoa. Tôi chẳng bao giờ thích thú "tôi buồn chẳng biết vì sao tôi buồn" vì còn nhớ quá rõ cái "tristesse sans cause" của Chateaubriand. Những dấu tích của sự muốn làm giống nhiều lắm, anh em nào cũng nhìn thấy cả. Trước kia không biết thế nào nhưng bây giờ một số anh em đã nhận thấy điều này và đã có vẻ khó chịu. Tôi đã nghe bạn bè nói đại khái là những tác giả Tây phương cho rằng thiên tài là sản phẩm của huyết thống, đất đai, thời đại thì lập tức có một ông Việt Nam viết lách lý luận rằng Nguyễn Du sở dĩ làm thơ hay là vì xuất thân trong một gia đình khoa bảng, quê ở làng Tiên Điền, một nơi chuyên sản xuất nhân tài, và sinh vào thời Lê mạt nguyên sơ. Ô hay, thế trót sinh ra ở Gò Vấp hay Ban Mê Thuột, trót làm con cái của một gia đình mù chữ, trót ở một thời đại không nhiễu nhương thì thơ không hay được hay sao? Lục bát di truyền sinh lý à? Mười mấy năm vừa qua chói mắt vì hào quang của nền văn chương triết học Pháp chúng ta cũng buồn nôn, cũng gài ở đây ở đó những tiếng kêu to: Thượng đế chết rồi hoặc phi lý, phí lý, hiện hữu này phi lý quá, cuộc đời này phi lý, vân vân và vân vân. Bây giờ chúng ta lại sắp sửa rủ nhau thi đua "Tiểu thuyết Mới". Nhận xét này, tôi thấy đúng lắm. Nhìn lại những thứ đã viết xong, trước đây thấy được quá, bây giờ thấy không được. Tôi thấy chính mình cũng hơn một lần muốn đóng vai trò của cậu học trò tốt. Học kỹ bài học lý thuyết nào đó rồi áp dụng vào một truyện ngắn, một bài thơ hay một bài biên khảo. Văn học nghệ thuật không thể như thế được, không thể chỉ là sự áp dụng nghiêm chỉnh công thức. Đó là thuốc độc, thuốc tê làm cho không thể nhẩy xa, bay cao, chạy mau. Mà văn nghệ cũng như thể thao, phải càng xa, càng mau, càng cao. Phải tìm kiếm đến nơi kho tàng văn học nghệ thuật thế giới, phải nhìn rõ khuôn mặt tiểu thuyết Nga, Mỹ, Pháp, Anh, Trung Hoa để mà Việt Nam, phải nhìn rõ mặt thơ mặt kịch thế giới để mà trở thành ta, phải làm cái nền văn chương cổ điển, lãng mạn, tả chân, triết học hay "mới" chưa làm chứ không phải cố gắng xin phép nhập vào một trong những môn phái đó. Có làm được như thế không? Thắc mắc này sẽ được nói lên. Tôi không thể trả lời về tương lại nhưng đấy, giới hạn phân biệt những cuộc ái tình lẻ và đam mê, những ước ao vụn vặt và giấc mộng lớn ở đây. Và sự chưa làm được hiện tại, sự chấp nhận dễ dãi, sự biến chế vội vã văn học nghệ thuật thế giới đã và đang có, chắc chắn là một nghèo nàn.
Cũng nghèo nàn là sự phát triển không đồng đều những ngành văn học nghệ thuật khác nhau. Đúng thế, những bộ môn này phát triển được đấy, một vài bộ môn khác thấy lờ mờ quá. Tôi không làm công việc nhìn xem ai hay ai dở, tác phẩm nào lớn, tác phẩm nào nhỏ. Tôi chỉ làm cái việc duyệt xét toàn diện văn học nghệ thuật ta, nhìn lại tất cả để bầy tỏ những nghèo khổ và giầu có tổng quát đã ghi nhận được và sau hai ghi nhận về bề sâu, ghi nhận thứ ba này nhắm tới chiều rộng, nhắm tới bề mặt đó. Thơ, tốt lắm. Tiểu thuyết, truyện ngắn, được đấy. Thấy cũng đông đảo, xum xuê. Nhưng kịch, phê bình văn nghệ chẳng hạn thì hơi ít. Sinh hoạt trình diễn kịch của ta cũng nhiều đấy chứ?
Tôi cũng yêu nó lắm. Chèo cổ, cải lương và thoại kịch. Nhưng ở đây không nói đến sự trình diễn, đến các loại nghệ thuật trình diễn. Tôi chỉ đề cập đến tác phẩm kịch thành văn, tác phẩm viết. Và nhìn đến những tác phẩm viết của kịch, đối chiếu với thơ với tiểu thuyết, kể ra hơi ít. Trong nền văn chương cổ điển, thơ khoẻ ghê, đông lắm, kịch thấy gần như chẳng có gì cả. Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương chẳng nói gì đến sự mở màn và hạ màn, hồi và lớp. Tiền chiến và hiện đại, khởi từ sự tạo thành chữ Quốc ngữ tới nay, qua sự tiếp xúc với văn học nghệ thuật thế giới, tác phẩm kịch so với thơ và tiểu thuyết ở một tỷ lệ thấp hơn nhiều. Trong năm cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan chỉ kể đến hai tác giả: Vũ Đình Long và Vi Huyền Đắc. Tất nhiên, số lượng tác giả viết kịch và số kịch bản có thể đông hơn số lượng được nêu lên bởi họ Vũ nhưng so với tác phẩm thơ và truyện, kịch chắc chắn ở mức độ thấp hơn. Tại sao? Thiếu sân khấu, thiếu phương tiện dựng kịch, thiếu sự trình diễn kích thích sự sáng tạo hay vì các kịch giả Việt Nam chưa thích ứng được hình thức thoại kịch Tây phương với tâm hồn Việt Nam. Câu hỏi nêu trên, tuỳ anh em giải đáp. Tôi dừng lại đây, ở sự ghi nhận về sự phát triển chậm của ngành sinh hoạt này để bước sang phê bình văn nghệ.
Ngành này cũng yếu lắm. Văn chương cổ điển cũng để lại ở đây ở đó vài lời nhận định, vài bài ngâm vịnh Kiều chẳng hạn của Chu Mạnh Trinh. Ở lớp trung học chúng ta đều đã hơn một lần khoái trá về hai câu lục bát của họ Cao về "câu thơ Thi Xã". Có những phán đoán giá trị ở đây và ở đó có chứ. Đàn ông chớ kể Phan Trần, Đàn bà chớ kể Thuý Vân Thuý Kiều, hai câu truyền khẩu này đã bao hàm ý nghĩa phê bình văn nghệ đứng trên căn bản đạo đức. Nhưng những lời nói, câu thơ, bài ngâm vịnh, lời nhận định có tính chất phê bình văn nghệ chưa có giá trị của một ngành sinh hoạt văn học nghệ thuật. Ngành sinh hoạt mang tên phê bình văn nghệ đó chỉ thực sự thành hình với những Thiếu Sơn, Nguyễn Bách Khoa, Phạm Quỳnh, Trương Tửu, Trương Chính, Hoài Thanh, Vũ ngọc Phan. Ai thoả mãn về những phán đoán của các người đi tiên phong này? Chính Vũ Ngọc Phan đã không bằng lòng về các tác giả đi trước. Tác giả Nhà văn hiện đại trách cứ họ Phạm đã "phê bình người qua sách", qua những bài mà người chịu trách nhiệm Nam Phong nói về Nguyễn Khắc Hiếu. Ông cho rằng những bài phê bình của Trương Tửu đăng trên báo Loa có những nhận xét không đúng vì đã "dùng những lời to tát quá để phát biểu ý kiến về những cái hết sức nhỏ trong một cuốn sách". Còn Thiếu Sơn thì, vẫn theo Vũ ngọc Phan, phê bình theo "lối nước đôi", Trương Chính "phê bình không nhất chí". Và Hoài Thanh đã có những "khuyết điểm" do "địa vị chủ quan", "sở thích" và "khuynh hướng" của tác giả Thi nhân Việt Nam gây ra. Nhưng Vũ Ngọc Phan, nhà phê bình đã nói về bẩy mươi tám nhà văn, nhà phê bình thành thực mà nhận, để lại tác phẩm phê bình văn nghệ tốt nhất cho đến ngày hôm nay, đã thực sự tốt chưa? Họ Vũ nói rằng đã "theo phương pháp khoa học" để xét đoán: "Phương pháp khoa học thì phải tựa vào một lý thuyết, công việc phê bình mới vững vàng được". Và Vũ ngọc Phan hoan nghênh lý thuyết của Brunetière: "Tôi rất hoan nghênh cái lý thuyết phê bình của Brunetière về luật tiến hoá, nhưng tôi nhận thấy cái chủ nghĩa độc đoán của ông đã làm cho ông không tránh được thiên vị". Vũ Ngọc Phan đã không lầm khi chỉ trích chủ nghĩa độc đoán của Brunetière. Nhưng còn cái phần lý thuyết mà ông chấp nhận? Phương pháp của họ Vũ có thực sự khoa học không? Ông có thực sự áp dụng cái lý thuyết về luật tiến hoá mà ông chủ trương áp dụng đó không? Và ngày nay, ở quê hương của lý thuyết ấy, phương pháp phê bình gọi là khoa học được các nhà phê bình gọi là khoa học đựơc các nhà phê bình thời hậu chiến này nhìn ngắm ra làm sao? Brunetière, với lý thuyết của ông đứng chỗ nào? Tôi để lại những câu hỏi này cho những người quan tâm đến ngành phê bình văn nghệ giải đáp và những giải đáp có thể nhìn thấy được đó đều không có lợi gì cho tác giả Nhà văn hiện đại. Tôi chỉ nêu thêm câu hỏi này: Phê bình văn học nghệ thuật thì phải căn cứ vào một căn bản lý thuyết nào đó. Cho là được đi. Nhưng tại sao không tạo ra lấy một căn bản lý thuyết? Tại sao không sáng tạo trong việc phê bình? Các nhà phê bình lớn của văn học nghệ thuật thế giới có ai theo lý thuyết của người khác đâu. Brunetière đó đã khác với Saint Beuve. Satre, Bachelard không dính dáng gì với Brunetière. Tại sao ông thì theo "phương pháp ba W" (What? Why, Who?), ông thì theo Taine, ông thì theo Mác-xít, ông thì theo Brunetière và ông thì theo ông mới nhất ở chỗ này, chỗ khác.
Nguyên Sa, mày đòi hỏi nhiều quá. Hãy nhìn thế hệ của mày xem nó ra làm sao? Đồng ý, thế hệ của chúng tôi, về cái mặt phê bình văn nghệ này nó chẳng ra làm sao cả. Nếu những nhà phê bình thế hệ trước chưa phải là những nhà phê bình lớn thì ít ra họ đã có cái tư cách của nhà phê bình văn học. Lối phê bình của Phạm Quỳnh, Vũ Ngọc Phan viết, ai cũng nhận thấy là một lối thật trang nhã cả ở những chỗ chê bai. Đó là "sự xét đoán của người có học", đó là "sợi tơ" chớ không phải "sợi gai". Thế hệ chúng ta thiếu cả cái trang nhã, cái lịch sự, cái sợi tơ đó. Một vài người giữ được cái tư cách của nhà phê bình văn nghệ như Minh Huy Nguyễn Đình Tuyến tuy chưa phải là nhà phê bình lớn. Còn đa số, than ôi, bọn sa-đích, bọn lùn, nói theo Viên Linh, chán quá. Tôi nhớ cách đây mười năm có anh em rủ tôi làm phê bình văn nghệ. Sau cuộc thảo luận, tôi choáng váng cả người. Lúc bấy giờ hai nhà thơ chói lọi nhất ở miền Nam là hai anh Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương. Thú thật, thơ của hai tác giả này tôi đều thích thú. Lúc đi học mê lắm và bây giờ chịu lắm. Một anh lăm le nhẩy vào văn nghệ bàn rằng: Muốn nổi bật, muốn có chỗ đứng ta phải "chém" tơi bời hai anh này. Hai anh này hết thời rồi mà còn viết lảm nhảm. Cậu phải viết mấy bài đánh tơi bời cho quang đãng cái thế giới văn nghệ, dọn đường cho anh em. Một anh khác đưa ra ý kiến: Thơ của họ khó vượt quá. Mình phải chơi cái chiến thuật dương Đông kích Tây, chơi cái đòn chiến tranh tâm lý. Chọn một anh nào làm thơ tồi của tiền chiến còn tồn tại ở đây để đề cao loạn lên, tôn là thần tượng cho họ Vũ và họ Đinh mờ đi. Khi độc giả chú ý đến cái anh thơ tồi kia, họ sẽ so sánh thơ ta và ta sẽ nổi. Tôi từ chối tham gia vào văn nghệ bằng đường lối chiến tranh chính trị đó. Lúc ấy tôi cũng chẳng biết trả lời họ ra làm sao nhưng dần dần tôi nhận được điều này: động lực của sáng tạo là tình cảm và kỹ thuật sáng tạo là tác phẩm của lý trí. Tình cảm đó có thể là đam mê tình ái, xúc động trước chiến tranh, lo âu này và lo âu khác và một trong những động lực tình cảm đáng kể là sự xúc động, kinh ngạc trước tác phẩm của những người viết khác. Đọc một truyện hay đọc một bài thơ tốt, tâm hồn ta tức khắc bị chấn động. Ta lập tức nói lên trong tâm tưởng: Thánh thật! Bài thơ của đàn anh này được quá, bài văn của nhi đồng này hách đấy chứ. Nơi một người làm văn học nghệ thuật, sự kinh ngạc đó lập tức đưa tới hai phản ứng: phải làm hay hơn, phải viết hách hơn hay phải tìm một phương thức nào đó cho cái sáng chói kia mờ đi. Phản ứng thứ nhất là con đường đưa tới tác phẩm. Phản ứng thứ nhì: là tiếng nói của mặc cảm, của ghen tức, đố kỵ làm cho người lùn xuống, thấp bé đi, sa-đích hiện lên mặt, tác phẩm bỏ trốn. Và điều đó cũng công bình lắm. Mỗi người chỉ được một cái khoái thôi. Anh này cố gắng làm tác phẩm tốt, nó được cái khoái trước sự sáng tạo thành hình. Anh kia bằng đòn phép đánh và chém, đề cao thần tượng theo chiến thuật, hạ thấp đối thủ một cách hợp tấu thì nó cũng được một cái khoái rồi, cái khoái trả xong một nỗi uất ức, cái khoái thủ dâm, hiếp chóc, nó tất phải hết, còn động lực nào mà sáng tạo nữa. Các anh cứ việc tiếp tục nhìn kỹ mà xem, mấy cái anh đi vào con đường thứ nhì này dù đỗ cao học hay tiến sĩ, dù biết tiếng Tây hay tiếng Tầu càng ngày càng mờ đi, càng kém vì sa-đích nó sẽ chẳng bao giờ thành Don Juan. Thế mà phê bình văn nghệ của thế hệ này như thế đấy. Nói chi đến lý thuyết phê bình căn bản độc đáo, nhận xét tinh tế, kiến thức uyên thâm bởi lẽ chỉ riêng cái tư cách của nhà phê bình, cái tinh thần vô tư, vượt trên bè nhóm, ganh ghét đố kỵ, mặc cảm đã không có rồi còn nói gì nữa. Nhà phê bình văn nghệ, ai nấy đều biết, một khi được thực hiện đứng đắn, góp không nhỏ cho sự tiến bộ của văn học nghệ thuật dù việc phê bình trong văn học nghệ thuật tự nó không mang lại tác phẩm sáng tạo.
Kể ra sự yếu kém, xoàng tồi, nghèo khổ còn nhiều. Tôi nhìn thấy cái này, anh thấy cái kia, nó bảo cái nọ. Nhưng tôi hãy đề cập đến bấy nhiêu nghèo khổ đã đủ chán ngấy rồi. Cất nỗi đen tối ấy đi, thắp lên ngọn đèn hoa sáng đẹp này. Văn nghệ của ta không phải chỉ có những sai nhầm nghiêm trọng như chưa đẩy mạnh đúng mức sự sinh hoạt của ý thức, chấp nhận quá dễ dãi ảnh hưởng bốn phương, sự sinh hoạt bệnh hoạn của một số ngành văn nghệ… Nó cũng có cái được, cái tốt, cái hách.
Mỗi người đều có tìm thấy dễ dàng ít ra một tác phẩm văn nghệ cho phép hãnh diện. Người đọc này có thể kể ra năm bẩy câu, một vài bài thơ mà nó mê đến chết, bạn kia nói đến truyện ngắn này, truyện dài khác mà nó cho là tuyệt.
Với tôi, mấy sự việc này tôi chịu nhất. Trước hết là sự đổi thay mau lẹ và thường trực. Tôi muốn dùng chữ tiến bộ nhưng xét kỹ thấy không được. Văn nghệ không phải là vật cơ khí. Xe hơi Mercedes 220 tiến bộ hơn xe hơi lúc mới chế tạo ra; được lắm. Nhưng văn nghệ chỉ có thể khác nhau chứ không thể tiến hơn. Không thể nói thơ bây giờ tiến bộ hơn, hay hơn thơ Nguyễn Du, Tản Đà, Huy Cận hay Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng. Thơ bây giờ khác, thế thôi. Và văn học nghệ thuật của ta, cũng như mọi nền văn học nghệ thuật các nước, tất nhiên phải liên tục đổi khác hay là chết. Văn nghệ không thể nhắc lại, không thể sản xuất dây chuyền cái giống nhau, hao hao, từa tựa. Phải khác. Nhưng cái sự đổi khác, biến dịch ấy của ta, nhất là từ thế kỷ 19 đến nay đã mau lẹ lạ thường.
Những thay đổi của tiểu thuyết, truyện ngắn, của thơ, của tuỳ bút phóng sự… được thực hiện ở văn học nghệ thuật thế giới trong nhiều thế kỷ đã chạy vèo vèo qua văn học nghệ thuật ta trong khoảng thời gian một trăm năm văn chương Quốc ngữ. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, cổ điển và lãng mạn, tả chân và siêu thực, hiện sinh và chống hiện sinh, bình cũ rượu mới và mới hoàn toàn vị nghệ thuật và vị nhân sinh, dấn thân và biệt thân đã có mặt đầy đủ. Tôi đã nói: ta chấp nhận quá dễ dãi. Sự bắt chước không thể làm bằng lòng, không thể làm khoan khoái. Nhưng nếu từng cá nhân thì đúng là bắt chước, ngược lại nhìn toàn bộ, nhìn tổng quát cả một thế kỷ văn chương ta thấy sự giao tiếp với văn học nghệ thuật Tây phương thúc đẩy ta tiếp nhận thật mau lẹ, rồi vứt bỏ cái đã tiếp nhận đó cũng thật mau lẹ để tiếp nhận cái khác. Ta như bị thúc đẩy với một tiếng nói không âm thanh: phải đổi thay thật nhanh, phải biến dịch thật mau. Cho nên người này vừa làm xong cổ điển, không đợi những thế kỷ 18 và 19 trôi qua, người kia tiến ngay đến siêu thực. Cùng một tác giả có thể nhẩy từ tả chân sang siêu thực rồi đến hiện sinh. Và cái sự thay đổi mau lẹ đó, nhìn ở mặt trái nó đáng buồn vì chưa thật là ta, vì còn mang nặng dấu vết này, dấu vết nọ, nhưng nhìn ở mặt phải, nó nói lên sự khao khát đổi thay. Và khi họ đổi thay để bắt kịp những đổi thay của văn học nghệ thuật thế giới, sự khao khát đó sẽ đóng vai trò động lực của những sáng tạo lớn. Và thời khắc ấy, có lẽ đã tới. Có người cho rằng người Việt Nam ta có tài đồng hoá, dung nạp. Có thể lắm nhưng tôi không thoả mãn với cái "tài" đó. Đồng hoá rồi phải vượt quá chứ, phải đổi mới chứ. Và có lẽ giai đoạn khai phá đó đã tới. Chúng ta đã, trên chuyến xe đuổi theo xả hết tốc lực, ta đã nói tới hiện sinh và chống hiện sinh rồi đó. Rồi làm gì bây giờ. Đợi các nhà văn thế giới bay về hướng nào rồi mới khăn gói đuổi theo hay sao? Câu hỏi nêu lên thúc đẩy bởi động lực khao khát đổi thay đã là cánh tay lực lưỡng đẩy vào lưng không cho phép ta đứng lại để chờ, đứng lại để đợi. Cho nên tôi nghĩ rằng sự biến dịch, sự đổi thay mau lẹ của văn học nghệ thuật ta là một dấu hiệu để mừng rỡ vì đã nói lên hoặc ý thức hoặc vô thức sự không bằng lòng với công việc đồng hoá, dung nạp vì vừa chấp nhận xong đã đổi thay, vừa dung nạp vì vừa chấp nhận xong đã đổi thay, vừa dung nạp xong đã biến dịch và ở giai đoạn chót của sự đồng hoá, dung nạp ấy phải là sự vượt lên, sự đổi chác, sự làm mới chói lọi, sự sáng tạo địch thực.
Sự đối kháng thường trực của các nhà văn nhà thơ ta với tinh thần phe nhóm, tinh thần độc lập của tác phẩm của mỗi tác gia cũng làm ta mừng rỡ vì đó cũng chính là một giàu có đáng kể. Trường nhóm bè phái không có trong văn chương cổ điển. Đó là một thực tại không cần phải chứng minh dài dòng. Một vài thi xã, thi đàn đã được thiết lập và bảo trợ bởi triều đình này và triều đình khác, bởi nhà vua yêu văn nghệ này hay hoàng đế yêu thơ kia nhưng phần lớn những thi xã, thi đàn đó không để lại dấu vết nào đáng kể. Sự sinh hoạt tập thể này cũng không cho thấy một tinh thần phe nhóm nào cả phản ảnh qua lý thuyết độc đoán, đố kỵ với những kẻ không chịu khuất phục… Phần lớn nếu không phải là hầu hết các nhà thơ lớn cổ điển của ta đều sáng tạo một cách riêng rẽ, độc lập, cô đơn. Đến thời kỳ của văn chương Quốc ngữ, những trường phái văn đoàn này, nhà xuất bản kia được thiết lập nhưng tinh thần phe nhóm cũng ít có đất đai để phát triển. Nhìn qua nhóm nổi bật nhất của tiền chiến là Tự lực Văn đoàn ta thấy có sự phù hợp nhiều về quan điểm văn nghệ, xã hội của những Hoàng Đạo, Nhất Linh, Khái Hưng nhưng đa số tác phẩm của các nhà văn nhà thơ trong nhóm này vẫn không bị gò bó vào một đường lối nhất định, một giáo điều cứng nhắc nào có thể làm tê liệt tác phẩm. Hai buổi chiều vàng, Gửi hương cho gió hay Trại Bồ Tùng Linh, Vàng và máu đều không có liên lạc gì với Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân và Con đường sáng; đều không có dấu vết gì của cái ý hướng muốn đổi thay cơ cấu gia đình cổ truyền - Cho đến nay, đọc kỹ tác phẩm của một vài của một vài anh em được kể là thuộc về một nhóm, tôi vẫn chỉ nhìn thấy cái tình bạn bè làm cho họ đứng cạnh nhau, làm cho họ mang một nhãn hiệu chung chớ không thấy giáo điều của nhóm nào cả, không thấy nhà văn nào hiện ra đứng giữa truyền giảng như một giáo chủ loại André Breton, nhóm anh em bao quanh viết lách để cổ vũ, chứng minh giáo điều bằng thể hiện văn nghệ. Và đó là một điều tốt. Tốt lắm. Nên có một quan điểm văn nghệ, nên có một lý thuyết. Nhưng mỗi người hãy có một cái riêng cho nó. Hoặc nếu có chung nhau, mỗi người hãy đào sâu một phía. Chớ cái tinh thần phe nhóm làm cho ta rơi vào cực đoan, biệt phái, làm cho tâm hồn cởi mở không còn nữa, làm cho giáo điều chủ nghĩa thịnh hành. Và độc tài trong văn nghệ cũng như bất cứ ở phạm vi nào chỉ đưa tới sa sút, tàn phá và chết chóc, tê liệt. Hơn nữa, văn học nghệ thuật của ta không những tránh thoát được cái tinh thần phe nhóm cực đoan, còn tránh luôn được cả sự gò bó của tư tưởng hệ thống hoá. Nhà lý luận Tây phương căn cứ trên nguyên lý đồng nhất sẽ nhìn thấy yếu kém. Những môn đệ của Hégel, những người quá quan tâm đến cái "lô gích" sẽ không bằng lòng. Tôi cho rằng như thế lại hơn. Đứng trong thế giới văn nghệ Tây phương, anh "dấn thân" là "dấn thân" luôn, anh "vị nghệ thuật" là "vị nghệ thuật" luôn. Anh "tả chân" cứ "tả chân mãi", anh hiện sinh liên tục hiện sinh. Văn nghệ của ta không có như thế. Ở mỗi một tác giả cổ điển tôi thấy vừa "dấn thân" mà lại vừa "không dấn thân", "vị nghệ thuật". Những bài thơ nói lên lòng yêu nước của thi sĩ đất Quế Sơn, "dấn thân" rõ rệt lắm. Nhưng những "Ao thu", những "Bạn đến chơi nhà" thì có vẻ vị nghệ thuật chắc quá. Trần Tế Xương vừa chỉ trích xã hội bằng thơ vừa làm thơ để nói đến thú hát ả đào, đến cái sự mất ô. Tôi cho rằng cứ "dấn" hoài thì mệt lắm, có lúc hát ả đào một cái cũng tốt lắm chứ. Lúc nào khoái làm thơ tình thì ta làm thơ tình. Lúc nào chán cái sự lả lướt, xúc động vì cuộc chiến tranh này thì ta làm thơ chiến tranh. Lúc nào thấy thú dấn tác phẩm vào chỗ này chỗ khác là ta làm. Anh em có chịu không? Tôi cũng tự hỏi: như thế có thiếu đồng nhất không? Có thật "lô-gích" không?
Đấy, những sự giàu có, chính yếu của văn học nghệ thuật ta, tôi nhìn thấy như thế. Tôi muốn nói thêm về tiểu thuyết, truyện ngắn và nhất là thơ. Đã nói đến một vài ngành sinh hoạt văn học nghệ thuật nghèo mạt rệp, đã vẽ ra những túp lều tranh đó, tôi cũng muốn vẽ lại những toà lâu đài lộng lẫy của thi ca. Nhưng thôi, chẳng nói làm gì, các anh tha cho tôi vì tôi làm thơ. Tôi chỉ xác nhận rõ rệt tin tưởng: đó là thành phố tráng lệ nhất của quê hương văn nghệ ta, là niềm hãnh diện to lớn nhất của lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam. Sự xác nhận này là điểm tận cùng của bài văn. Nghèo khổ hơi dài, giầu có hơi ngắn đấy nhé. Đúng lắm, nhưng mệt rồi. Vả lại, ý thức về sự nghèo khổ đã là giầu có, đã là bắt đầu khởi hành đi tới kho tàng.
MỘT BÔNG HỒNG CHO VĂN NGHỆ
BS. HỒ VĂN CHÂM * CHƯƠNG TRÌNH CHIÊU HỒI
Chương Trình Chiêu Hồi
Của Việt Nam Cộng Hòa
Chương trình Chiêu Hồi của Việt Nam Cộng Hòa được xây dựng và tiến hành trên nền tảng chính sách Đại Đoàn Kết Dân Tộc. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chủ trương lấy tình thương xóa bỏ hận thù, chân thành mở rộng vòng tay đón tiếp những anh chị em ruột thịt chiến đấu trong hàng ngũ cộng sản, lầm lạc phục vụ chủ nghĩa cộng sản mà tưởng là phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc. Tất cả các cán binh cộng sản ra hồi chánh, bất kể quá trình hoạt động bản thân trong hàng ngũ cộng sản như thế nào, nếu ý thức sự lầm lạc trong quá khứ, và nhiệt tình phục vụ lý tưởng tự do dân chủ, đều được phục hồi đầy đủ quyền công dân và hội nhập trọn vẹn vào cộng đồng dân tộc.
Cơ quan phụ trách chương trình Chiêu Hồi.
Chương trình Chiêu Hồi bắt đầu hoạt động vào cuối năm 1962, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Cơ quan phụ trách chương trình Chiêu Hồi là một phân ban của Bộ Công Dân Vụ, gọi là Phân Ban Chiêu Hồi, có đẳng cấp tương đương với một Nha thuộc Bộ.
Sau chính biến 1-11-1963, Phân Ban Chiêu Hồi được chuyển sang thống thuộc Phủ Thủ Tướng. Đến năm 1965, với Ủy Ban Hành pháp Trung ương, chương trình Chiêu Hồi được giao cho Bộ Thông Tin phụ trách, có đẳng cấp tương đương với một Tổng Nha, do Thứ Ủy Chiêu Hồi cầm đầu.
Năm 1967, cơ quan phụ trách chương trình Chiêu Hồi được nâng lên cấp bộ, gọi là Bộ Chiêu Hồi, do Tổng Trưởng Chiêu Hồi cầm đầu, có Phụ Tá Tổng Trưởng Chiêu Hồi giúp việc.
Tháng 2 năm 1974, Bộ Chiêu Hồi được bãi bỏ, chương trình Chiêu Hồi do Tổng Cục Chiêu Hồi thuộc Bộ Dân Vận Chiêu Hồi phụ trách.
Điều đáng lưu ý là chương trình Chiêu Hồi không phải chỉ một mình Bộ Chiêu Hồi chịu trách nhiệm thi hành. Bộ Chiêu Hồi chủ yếu phụ trách mặt nổi của chương trình, như tuyên vận, tiếp nhận, huấn chính, phục hoạt. Trong thực tế, nhiệm vụ chính của Bộ Chiêu Hồi là phối hợp hoạt động của nhiều cơ quan chính phủ như Quân Đội, Cảnh Sát, Tình Báo, Thông Tin, Ngoại Giao, Tư Pháp, và quân đội đồng minh, để tiến hành chương trình Chiêu Hồi trong khuôn khổ chương trình Bình Định và Phát Triển, đặc biệt là về mặt tuyên vận chính nghĩa chống chuyên chính vô sản, và về mặt khai dụng người hồi chánh để nắm vững địch tình.
Tổ chức Điều hành.
Ở cấp trung ương, Tổng Trưởng Chiêu Hồi được sự giúp đỡ của Phụ Tá Tổng Trưởng Chiêu Hồi về mặt công tác, của Tổng Thư Ký về mặt hành chánh, của Thanh Tra Trưởng điều khiển Khối Thanh Tra và Lượng Giá, và của Phụ Tá Kế Hoạch đảm trách Khối Kế Hoạch Chương Trình. Ngoài Văn Phòng Tổng Trưởng và các Nha Quản Trị, Công Tác, Phục Hoạt, Pháp Chế, Tiếp Nhận, và An Ninh Tình Báo, ở cấp trung ương còn có Trung Tâm Chiêu Hồi Trung Ương ở Thị Nghè và Trung Tâm Huấn Nghệ Trung Ương ở Biên Hòa. Các nha được chia thành sở, sở chia thành phòng, phòng chia thành ban.
Ở cấp quân khu có Văn Phòng Đại Diện Chiêu Hồi và Trung Tâm Chiêu Hồi cấp quân khu.
Ở cấp tỉnh có Ty Chiêu Hồi do Trưởng Ty điều khiển, và Trung Tâm Chiêu Hồi cấp tỉnh. Riêng Đô Thành Sài Gòn có Sở Chiêu Hồi do một Chánh sự vụ điều khiển.
Ở cấp quận có Chi Chiêu Hồi do Trưởng Chi cầm đầu. Cấp quận không có trung tâm tiếp nhận thường trực.
Ngành Chiêu Hồi không có cán bộ cấp xã. Phần vụ chiêu hồi ở xã do cán bộ Thông Tin phụ trách.
Nhân viên Bộ Chiêu Hồi ước chừng 11.000 người, gồm công chức chính ngạch, công nhật, hợp đồng, quân nhân biệt phái, cán bộ chiêu hồi, và 90 đại đội võ trang tuyên truyền tuyển chọn trong số cán binh cộng sản ra hồi chánh.
Quản trị Tài chánh.
Khi còn là Phân Ban Chiêu Hồi, các chi phí về chương trình Chiêu Hồi liên quan đến người Hồi Chánh do Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi đài thọ. Quỹ này là một quỹ ngoại ngân sách do viện trợ Mỹ yểm trợ (1). Các chi phí điều hành (lương nhân viên, trụ sở, vật liệu, văn phòng phẩm) thì do Bộ sở quan (Bộ Công dân vụ, Phủ Thủ Tướng, Bộ Thông Tin) đảm trách.
Khi trở thành một bộ, Bộ Chiêu Hồi có ngân sách riêng, có quy chế và thể lệ dự trù, duyệt xét, chi tiêu, thanh lý, hậu kiểm, y hệt ngân sách các bộ khác của chính phủ. Ngân sách này có 2 phần:
· Phần ngân sách quốc gia phụ trách việc chi trả các khoản điều hành.
· Phần ngân sách viện trợ Mỹ chi trả các khoản liên quan đến người Hồi Chánh: tuyên vận, tiếp nhận, tưởng thưởng, nuôi ăn, may mặc, huấn chính, huấn nghệ, hoàn hương (trở về làng cũ), định cư (thiết lập làng mới), và lương và công tác phí cho các đội viên võ trang tuyên truyền.
Việc quản trị và thanh lý các ngân khoản thuộc phần ngân sách quốc gia được thực hiện theo thể lệ tài chánh quốc gia. Đối với phần ngân sách ngoại viện, Bộ Chiêu Hồi không trực tiếp chi dụng và quyết toán, mà ủy ngân cho các tỉnh để các Trưởng Ty chi dụng và thanh lý với Ty Tài Chánh tỉnh, theo thể thức chi tiêu đặc biệt ‘xây dựng nông thôn’. Ngoài ra, Ty Chiêu Hồi còn được Kho Xây Dựng Nông Thôn địa phương yểm trợ trực tiếp ‘thực phẩm phụng sự hòa bình’ và ‘vật liệu xây dựng nông thôn’, theo quyết định của Tỉnh Trưởng, ngoài sự kiểm soát của Bộ Chiêu Hồi (2).
Ngân sách hàng năm của Bộ Chiêu Hồi (thời gian 1967-1974) trung bình chừng khoảng 500-600 triệu đồng Việt Nam phần ngân sách quốc gia, và chừng khoảng 600-700 triệu đồng Việt Nam phần ngân sách ngoại viện.
Thành quả chiêu hồi về mặt tiếp nhận.
Từ ngày bắt đầu thi hành chương trình vào cuối năm 1962 đến ngày 30-04-1975 đã có khoảng 230.000 cán binh cộng sản ra hồi chánh.
Những năm đầu (1963-1965) và năm cuối (1974) số người ra hồi chánh hàng năm chỉ có chừng vài nghìn. Số người ra hồi chánh lên cao đến 15.000-43.000 mỗi năm trong khoảng thời gian chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tiến hành chương trình Bình Định và Phát Triển từ 1968 đến 1972. Số người ra hồi chánh cao nhất là vào năm 1969 (43.000 người) và năm 1970 (38.000 người).
Cán binh cộng sản ra hồi chánh phần lớn là cán bộ và bộ đội gốc gác trong nam. Một số ít là cán binh tập kết nay quay trở lại miền nam. Cán binh Bắc Việt xâm nhập thì có rất ít, tổng cộng chỉ chừng 4.000-5.000 người. Ngoài ra còn có 3.500 phạm nhân và 11.500 tù binh thuộc thành phần tân sinh hoạt được Ủy Ban Liên Bộ Chiêu Hồi, Nội Vụ, Quốc Phòng, và Tư Pháp, tuyển chọn cho cải danh sang qui chế hồi chánh.
Cấp bậc cao nhất của sĩ quan ra hồi chánh là thượng tá (Thượng tá Tám Hà). Nhân viên dân sự cao cấp nhất ra hồi chánh là Trưởng Ty Y Tế tỉnh Pleiku (Bác sĩ Đặng Tân). Trong số người hồi chánh, có nhà văn có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam (Xuân Vũ Bùi Quang Triết), có nhạc sĩ tác giả khúc nhạc mở đầu của đài phát thanh giải phóng (Phan Thế), có tài tử điện ảnh của đoàn làm phim Hà Nội (Cao Huynh), có nhân viên văn phòng Bí Thư Thành ủy Sài Gòn-Gia Định (Tô Minh Trung).
Thành quả chiêu hồi về mặt phục hoạt.
Tất cả cán binh cộng sản ra hồi chánh, không những thuộc thành phần tự nguyện mà kể cả thành phần cải danh, đều được chính quyền phục hồi sinh hoạt bình thường, cho thủ đắc đầy đủ quyền công dân, và giúp đỡ hội nhập trọn vẹn vào cộng đồng dân tộc.
Cán binh cộng sản ra hồi chánh được đưa về trung tâm chiêu hồi. Tùy theo chức vụ và cấp bậc trong hàng ngũ cộng sản, họ được tiếp nhận ở trung tâm cấp tỉnh, cấp quân khu, hay cấp trung ương. Riêng cán binh Bắc Việt xâm nhập, tất cả đều được đưa về trung tâm chiêu hồi trung ương ở Thị Nghè.
Trong những ngày đầu tại trung tâm tiếp nhận, người hồi chánh được tiếp xúc với nhân viên an ninh Bộ Chiêu Hồi và nhân viên tình báo các cơ quan bạn để khai báo về bản thân, về tổ chức và hoạt động của cơ quan cộng sản, về đường giây nằm vùng, về nơi chôn dấu vũ khí v.v. Sau đó, người hồi chánh được nhân viên cảnh sát làm thủ tục cấp thẻ căn cước, và tham gia một khóa học chính trị cơ bản. Người hồi chánh còn được đưa đi tham quan phố phường, chợ búa, bệnh viện, trường học, xưởng dệt kim, nhà máy cán thép, trại cây ăn trái, để biết rõ thực trạng xã hội miền nam. Trước khi rời trung tâm chiêu hồi, người hồi chánh được hỏi về nguyện vọng sau khi hoàn hương, để được tùy nghi giúp đở. Thời gian ở trong trung tâm tiếp nhận là 2 tháng. Người hồi chánh được nuôi ăn ngày 3 bữa và được cấp phát 2 bộ quần áo. Khi rời trung tâm để về với gia đình, người hồi chánh được cấp vé xe, vé tàu, và tiền hoàn hương.
Những người có nguyện vọng học thêm nghề để kiếm sống sẽ được đưa đến các trung tâm huấn nghệ cấp quân khu hoặc cấp trung ương. Họ được tự do lựa chọn ngành nghề: nghề may, nghề mộc, lái xe và sửa máy xe, sửa điện nhà, radio, tủ lạnh v.v. Tại các trung tâm huấn nghệ, người hồi chánh cũng được nuôi ăn. Sau khi thành nghề, họ được giới thiệu kiếm việc làm.
Những hồi chánh viên quê quán miền bắc không muốn ở các vùng thị tứ, những hồi chánh viên không còn thân nhân, hoặc không muốn trở về làng cũ, thì đuợc đưa đến định cư ở các làng Chiêu Hồi. Tại miền nam thuở bấy giờ có khoảng 20 làng Chiêu Hồi. Mỗi gia đình được cấp 3 mẫu đất canh tác, nông cụ và hạt giống, và lương ăn trong 6 tháng. Hầu hết các làng Chiêu Hồi được cấp máy phát điện.
Thành quả chiêu hồi về mặt hội nhập.
Một số hồi chánh viên được tuyển dụng làm cán bộ võ trang tuyên truyền. Các cán bộ này được tổ chức thành đại đội, trang bị phương tiện truyền thanh và vũ khí nhẹ để thâm nhập vào các vùng xôi đậu làm công tác tuyên vận. Trong mùa hè đỏ lửa 1972, một đại đội võ trang tuyên truyền bị Việt cộng phục kích ở cầu Bồ Bản, Quảng Trị. Thay vì thúc thủ đầu hàng hoặc trốn chạy qua cầu và sẽ bị bắn chết hết, họ đã gan dạ trụ lại chống trả. Việt cộng bị bất ngờ và đã bỏ lại hiện trường 68 xác chết đồng đội. Đại đội võ trang tuyên truyền này đã được Bộ Tư lệnh Quân đoàn I tuyên dương và Bộ Chiêu Hồi tưởng thưởng.
Ngoài những chức vụ đặc biệt dành riêng để tuyển dụng các hồi chánh viên cao cấp như Tham Nghị đặc biệt (cấp Tổng Giám đốc) và Tham Nghị (cấp Giám đốc), một số hồi chánh viên có năng lực và tinh thần hợp tác được tuyển dụng vào các chức vụ chỉ huy thường chỉ dành cho các sĩ quan biệt phái hay công chức chính ngạch cấp đốc sự hoặc tham sự như giám đốc nha, chánh sự vụ sở, quản đốc trung tâm, chủ sự phòng. Những nguời này đã thực sự quên đi dĩ vãng và dốc lòng phục vụ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa với niềm tin tưởng mãnh liệt vào chính sách Đại Đoàn Kết Dân Tộc (3).
Một số hồi chánh viên được tuyển dụng làm cán bộ võ trang tuyên truyền đã được sung vào các Thuyết Trình đoàn của Bộ Chiêu Hồi để thường xuyên đến các trường học, các xưởng máy, các tổ chức cộng đồng tôn giáo và xã hội, để nói chuyện cho đồng bào nghe về thực trạng miền bắc xã hội chủ nghĩa. Năm 1972, một đoàn thuyết trình gồm những người sinh trưởng trên đất Thái đã được đưa qua Thái Lan để nói chuyện cho kiều bào sinh sống tại vùng đông bắc Thái nghe về thực trạng xã hội miền nam. Hồi chánh viên Mai Văn Sổ được đưa qua Paris sinh hoạt với Việt kiều và hai tháng sau Mai Văn Bộ mất chức Tổng Đại Diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Pháp. Hồi chánh viên Hồ Văn Bửu được đưa qua New Delhi nói chuyện về thực chất Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình nhân dịp Bộ trưởng Việt Cộng Nguyễn Thị Bình thăm viếng Ấn Độ. Hồi chánh viên Bùi Công Tương được đưa qua Úc làm chứng trước tòa rằng nhà báo Alfred Burchett viết lách gian dối, không khách quan, khi tường thuật thực trạng tại các vùng giải phóng ở miền nam Việt Nam, trong một vụ kiện đòi bồi thường danh dự giữa nhà báo ấy và một vị nghị sĩ Úc.
Trắc nghiệm thành quả.
Chiều ngày 27-1-1973, Bộ Chiêu Hồi được lệnh của Phủ Tổng Thống tiếp nhận ngay trong đêm 11.500 tù binh cải danh hồi chánh do quân đội chuyển giao từ các trại tù binh Biên Hòa, Cần Thơ và Phú Quốc. Công việc phải hoàn tất trước 8 giờ sáng ngày 28-1-1973 là thời điểm hiệp định Paris có hiệu lực. Khả năng tiếp nhận của các trung tâm chiêu hồi trong toàn quốc là 5.400 người, nay phải tiếp nhận một lúc hơn gấp đôi số lượng, Bộ Chiêu Hồi phải đương đầu với nhiều khó khăn về chỗ ngồi chỗ nằm, về nuôi ăn, về vệ sinh, về trật tự. Tuy rằng mọi việc cũng đã được giải quyết ổn thỏa, nhưng trong bối cảnh vừa mới đình chiến, vừa cận kề ngày Tết, những tù binh cải danh này nếu không chuyển qua quy chế hồi chánh thì giờ này đâu còn bị giữ lại trong các trung tâm chiêu hồi mà đã được trao trả cho Việt cộng và trở về với gia đình. Đương nhiên là tinh thần họ rất giao động, và viễn tượng an ninh tại các trung tâm tiếp nhận thật là đen tối. Bộ Chiêu Hồi đã linh động chỉ lập danh sách theo địa chỉ cư trú rồi cấp giấy hoàn hương và lộ phí cho tất cả 11.500 người này về nhà ăn Tết 15 ngày, sau đó sẽ đến trình diện cơ quan chiêu hồi địa phương để nhập trung tâm, làm thủ tục cấp thẻ căn cước, theo các lớp huấn chính, huấn nghệ. Việc làm này của Bộ Chiêu Hồi vừa để giải quyết khó khăn trước mắt, vừa để trắc nghiệm mức độ thành thật cải hối của các tù binh cải danh. Bộ Chiêu Hồi ước lượng chừng 20% sẽ bỏ đi theo Việt cộng, nhưng trong thực tế chỉ có 4,7% trong số họ đã bỏ đi không ra trình diện mà thôi.
Sau ngày 30-4-1975, tất cả tập thể hồi chánh viên mà Việt cộng thường gọi là thành phần chiêu hồi chiêu hàng, nếu không chạy được ra nước ngoài, đều bị đưa ra toà xét xử về tội phản bội cách mạng. Một số bị kết án tử hình. Ngoài ra thì bị đưa vào giam giữ ở các trại tập trung, y hệt các nhân viên quân sự và dân sự của chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Giữa những người tù chính trị trong các trại giam của Việt cộng không hề có sự phân biệt thành phần chiêu hồi và ngụy. Nếu trong hàng ngũ những người tù thuộc thành phần chiêu hồi có những phần tử xun xoe, bợ đỡ, lập công với cách mạng, thì tỷ lệ những phần tử này còn thấp hơn tỷ lệ trong hàng ngũ những người tù thuộc thành phần không phải chiêu hồi mà Việt cộng gọi là thành phần ngụy. Đây lại thêm một biểu hiện về thành quả hội nhập của các người hồi chánh vào cộng đồng dân tộc sinh sống dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa.
Kết Luận.
Chương trình Chiêu Hồi của Việt Nam Cộng Hòa là một chương trình thành công. Chương trình Chiêu Hồi ngày đó đã bắc nhịp cầu thông cảm giữa những người ở trong chính quyền chống cộng tha thiết với tiền đồ quốc gia dân tộc, với những người ở trong hàng ngũ cộng sản nhưng ý thức sự lầm lạc của mình, đã ngu muội chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản mà cứ tưởng là phục vụ quyền lợi của quê hương, của dân tộc. Chương trình Chiêu Hồi ngày đó mãi đến nay vẫn còn lưu chút dư hương ngọt ngào trong lòng những người không may phải sống trở lại trong vòng kềm kẹp của chính thể chuyên chính vô sản.
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Chú Thích:
1. Các ngân khoản ứng trước do Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi lập ra để ủy ngân cho các địa phương trước năm 1967 phần lớn chưa được thanh lý. Đầu năm 1972, Bộ Chiêu Hồi cho lập Ủy ban Liên Bộ Chiêu Hồi, Tài Chánh, Giám Sát Viện, Ngân Sách Ngoại Viện để thanh lý hồ sơ chi tiêu các quỹ ứng trước đó. Các địa phương không có hồ sơ thanh lý hợp lệ phải hoàn trả ngân khoản được ứng trước. Bộ Chiêu Hồi đã thu lại 57 triệu đồng Việt Nam cho Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi, và chuyển hoàn tồn khoản của Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi cho Quỹ Đối Giá Viện Trợ Mỹ.
2. Thể thức chi tiêu Xây Dựng Nông Thôn được đặt ra để giúp các địa phương không bị ràng buộc với các thủ tục chi tiêu rườm rà của trung ương, nhờ vậy, các địa phương có thể linh động giải quyết nhanh chóng các nhu cầu cấp kỳ. Tuy nhiên, nếu trung ương có thái độ phủi tay (ủy ngân xong là xem như hết trách nhiệm) hay chủ trương tiếp tay (ủy ngân bừa bãi quá mức nhu cầu để chia chác) thì thể thức chi tiêu này cũng như việc sử dụng thực phẩm phụng sự hòa bình và vật liệu xây dựng nông thôn cho người hồi chánh không có sự theo dõi của trung ương, sẽ làm phát sinh nhiều tệ đoan nhũng lạm. Cuối năm 1969, Bộ Chiêu Hồi cho áp dụng một mẩu báo cáo hàng tháng đơn giản mà chính xác, các ty chỉ việc điền các số liệu báo cáo vào các ô thích hợp, nhờ đó, Bộ Chiêu Hồi đã chặn đứng nạn báo cáo ma, và phát hiện nhiều việc phi lý, tỷ như có ty đã nhận từ kho Xây Dựng Nông Thôn một số dầu ăn để cung ứng cho người hồi chánh đang ở tại trung tâm chiêu hồi, mà tính ra thì mỗi hồi chánh viên đã tiêu thụ hàng tháng 1.500 lít dầu ăn.
3. Tiếc rằng đầu năm 1974, Bộ Chiêu Hồi được giải thể để nhập vào Bộ Dân Vận, và trước thái độ ngờ vực và rẻ rúng của các cấp lãnh đạo mới, họ đã vô cùng thất vọng. Bị bãi chức, họ lang thang xó chợ đầu đường. Quản Đốc Trung tâm Chiêu Hồi Trung Ương Thị Nghè, vốn là Đại úy đặc công Việt cộng, vì quá bi phẫn, đã nhảy lầu tự sát, may mà không chết, chỉ bị gãy xương. Cuối năm 1974, có sự thay đổi lãnh đạo Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, họ được gọi trở về nhiệm sở cũ.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 080
No comments:
Post a Comment