NHẠC THIÊN THU
THƠ THIÊN THAI
Tình thiên thu3
Tặng người tình y khoa
Nhớ ai- nhớ cả một trời
Dáng hình - ai giết nửa đờì về sau.
Lại yêu giọng nói ngọt ngào
Như ru tôi ngủ- đưa vào Thiên Thai.
Những khi khúc khích ai cười,
Tôi như chết lịm- mặc đời về đâu?
Về đâu cho mặc về đâu
Trăm năm cứ đợi, bao lâu vẫn chờ
Thiên Thai
ETERNAL LOVE
I love you, a sky of missing you
Killing me softly with your,silhouette- the later half of my life
How I miss your sweet voice,
Bringing me into Paradise
How I miss your laughter
Am I in Heaven on Earth?
Whatever will be, will be,
I will forever be waiting.
Translated by Nguyen Hanh 12-22-1999
BACK
Tặng người tình y khoa
Nhớ ai- nhớ cả một trời
Dáng hình - ai giết nửa đờì về sau.
Lại yêu giọng nói ngọt ngào
Như ru tôi ngủ- đưa vào Thiên Thai.
Những khi khúc khích ai cười,
Tôi như chết lịm- mặc đời về đâu?
Về đâu cho mặc về đâu
Trăm năm cứ đợi, bao lâu vẫn chờ
Thiên Thai
ETERNAL LOVE
I love you, a sky of missing you
Killing me softly with your,silhouette- the later half of my life
How I miss your sweet voice,
Bringing me into Paradise
How I miss your laughter
Am I in Heaven on Earth?
Whatever will be, will be,
I will forever be waiting.
Translated by Nguyen Hanh 12-22-1999
BACK
TRẦN TIÊU * AI PHẢI
TRẦN TIÊU * AI PHẢI
Ngót
một tháng nay, Khoản trông có dáng băn khoăn, tư lự. Chiều nào cũng
vậy, xong công việc đồng áng, dắt trâu, vác cầy về giao trả nhà chủ, hắn
đi thơ thẩn trên con đường làng, hai tay vắt sau lưng hoặc đưa lên cằm
mím môi lại nhổ râu, mặt cúi gằm, cặp mắt chăm chú nhìn xuống đất như
đếm từng bước, hoặc ngửng lên nhìn vơ vẩn. Trong trí hắn đương mải so
sánh nhà mình với mấy nhà bên cạnh. Hắn bực tức. Kể cũng bực thật. Mấy
nhà ấy trước kia cũng bình thường như nhà hắn. Cũng cầy thuê, cuốc mướn,
cũng thuê vườn, thuê ruộng của người, cùng chăm chỉ, cần cù đến như hắn
là cùng. Họ cũng chẳng tài giỏi gì hơn. Không những thế họ còn con cái
đầy đàn, ăn tiêu có phần tốn hơn. Hắn trơ trọi có hai vợ chồng. Mãi năm
ngoái mới thêm được mụn con giaị Thế mà không hiểu sao, họ làm ăn cứ mỗi
ngày một khá. Nay họ đã tậu thêm người vài sào, người một mẫụ Còn vợ
chồng hắn thì từ khi ở riêng đến giờ vẫn quanh quẩn một cái nhà gianh
tường vách, một cái nhà bếp lụp xụp như túp lều, một cái sân đất nhỏ
xíu, và đằng sau nhà, một cái vườn rộng chưa đầy một sào với cái ao con
quanh năm chỉ thả bèo để nuôi một con lợn, cái vốn độc nhất của vợ chồng
hắn. Cố tìm tòi xem họ có bí thuật gì, hắn vẫn chẳng thấy gì khác. Vì
thế hắn lại càng bực tức. Một lần ăn cơm xong, hai vợ chồng ra ngồi xỉa
răng, uống nước trên thềm, hắn đã thổ lộ ý nghĩ ấy thì vợ hắn trả lời
gọn lỏn bằng một câu ca dao: "Mình này: Số giầu đem đến dửng dưng; Lọ là
con mắt tráo trưng mới giầu". Hắn cáu kỉnh đứng dậy, vùng vằng đi lại
võng:
- Phải, số. Cứ nằm dài ra mà ăn, mà chơi rồi đợi số. Không để ý đến nỗi bực dọc của chồng, vợ tủm tỉm cười trả lời tiếp luôn bằng một câu ca dao nữa: "Này mình ơi! Số giầu lấy khó cũng giầu; Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo". Nói rồi, vợ vào trong nhà ẵm lấy đứa bé lên hai nằm trên phản, đi đi lại lại, hát ru bằng mấy câu ca dao ban nãỵ Giọng trầm bổng buồn buồn ngân trong mấy gian nhà tĩnh mịch. Chồng nằm võng thở dài, rồi đưa tít đi, cố để tiếng kẽo kẹt làm lấp tiếng hát của vợ... Một lúc lâu, chiếc võng đưa đi đưa lại chậm dần, chồng thiu thiu ngủ, đứa con nằm trong lòng mẹ cũng lim dim mắt. Vợ tươi tỉnh đi lại sát võng, định đặt đứa con lên ngực chồng: - Này, mình bế con tí, nó ngoan ngoãn thế này chả đủ sướng hay sao, tội gì mà cứ nghĩ vẩn nghĩ vơ cho thêm phiền. Chồng đang lúc buồn bực, lấy tay gạt cả vợ lẫn con ra, giọng gắt gỏng: "Hừ! Người ta đang khó chịu đây". Vợ không giận, ẵm con lại giường nói nựng: "Bố cu kêu khó chịụ Việc gì mà khó chịu, nhỉ cu nhỉ. úi nao ôi! Chỉ sằng cu tôi nà ngoan nắm sôi, nó chẳng khó chịu tí nào sất". Chồng càng bực mình, thở dài, gắt: "Im đi! Khó chịu lắm". Không mấy chiều là Khoản không băn khoăn bực dọc như vậỵ Nhưng chiều hôm nay, đi gặt thuê tận trên Hu về, hắn vui vẻ cất tiếng hát nghêu ngao ngay từ đầu xóm. Ai trông thấy nét mặt hắn hớn hở cũng biết hắn đương sung sướng một cách bồng bột. Vợ gẩy rạ ngoài sân gọn lại thành đống, thấy chồng vui vẻ khác hẳn mọi ngày, lấy làm lạ, tươi tỉnh hỏi: "Này, mình ơi, mình đắc chí cái gì thế? ước gì lúc nào mình cũng vui vẻ thế nhỉ!" - Hoài của, tiếc quá mình ạ! - Tiếc cái gì cơ mình? Nói xong vợ nhoẻn miệng cười, biết chắc chồng đương ưng ý sự gì. - Tiếc thật mình ạ! Giá cánh mình nghĩ ngay từ độ ấy thì chẳng giầu cũng khá rồi, đâu đến nỗi vất vơ vất vưởng. Vợ lườm chồng: - Mình chỉ nói dở. Việc gì mà vất vơ vất vưởng? Nhưng mình nghĩ ra cái gì mới được chứ? Từ nãy chẳng hiểu mình định nói cái gì. - Để lát nữa tôi sẽ bảọ Tiếc quá! - Thì bảo người ta ngay bây giờ có được không? Khéo ỡm ờ lắm. Rồi lại chẳng có cái gì cho mà xem. - Có chứ. Nhưng mà để lát nữạ Bây giờ thì hãy uống bát nước chè nóng, hút điếu thuốc đã. Nhà có chè nóng không mình? - Có, nhưng không được nóng lắm mình ạ. Hay để tôi đi đun ấm khác cho mình. - Thôi, âm ấm cũng được. Lát sau, hai vợ chồng ngồi trên thềm, chân rủ xuống sân. Đứa trẻ thức dậy ngồi trong lòng mẹ, giằng tay mẹ ra, bò đi bò lại từ chỗ mẹ đến chỗ bố, từ chỗ bố đến chỗ mẹ bốn năm lượt, mồm luôn luôn kêu: "Bà bà" chán rồi nó ngồi, lấy tay di dãi của nó rỏ xuống đất. - Bẩn nào! Quái ở đâu ấy! Vừa quát, Khoản vừa vươn tay ra kéo thằng bé vào lòng. Hai vợ chồng cùng vui vẻ. Vợ bắt đầu vào chuyện: - Thế nàỏ Mình vừa bảo nghĩ ra cái gì? - Cũng không phải tôi nghĩ ra, mình ạ. Tôi lên Hu, gặt cho một nhà cũng vào bậc khá. Tốt quá! Cây nào cây ấy xanh mơn mởn. Chủ nhà là một người đàn ông khỏe mạnh, lực lưỡng trông có vẻ xuềnh xoàng như mình. Dáng chừng thuở hàn vi ông ta cũng là một anh canh điền. Thấy tôi khen, ông ta thích chí kể lai lịch hai thửa vườn quý hóa của ông. Hai thửa vườn ấy, ông ta kể, trước kia chỉ bỏ hoang cho cỏ mọc vì đất vừa chua vừa rắn như đá, chẳng khác thửa vườn của chúng mình tí nàọ Sau có người đến mách lấy bùn ao ngay liền đấy phủ lên vài lớp mà giồng chè, giồng cải thì tha hồ tốt. Còn cái ao họ khuyên nên thả cá lợi hơn thả bèo nhiềụ Ông ta làm theo, bây giờ mới khấm khá được thế. Mình ạ, giá chúng ta nghĩ ra ngay từ trước thì cũng đã khá rồị - Thế thì tiếc thật nhỉ. Hay bây giờ cánh mình bắt đầu làm. - ừ đã cố nhiên. Nhưng mà... Vợ ngắt lời: - Số cánh mình đấy, mình ạ. Tôi còn nhớ nhời thày bói bảo mình năm băm nhăm mới khấm khá. Chồng nhầm tưởng tướng mình chỉ vào vợ, thở dài: - Thế thì mãi mười năm nữa mới khấm khá cơ à? Lâu quá nhỉ? Vợ hất hàm về phía chồng cười nói: - Là thày bói xem tôi mà đoán tuổi đằng ấy đấy chứ. Năm nay đằng ấy đã ba mươi rồi, còn có năm năm nữa thôị Chồng sung sướng tủm tỉm cười: - Có lẽ đúng đấy, mình ạ. Đêm ấy, hai vợ chồng không nằm yên, cùng mơ tưởng đến cách làm giầụ Chốc một hoặc vợ hoặc chồng lại nhắc đến câu chuyện ban chiềụ Chiều hôm sau, vợ chồng đã sốt sắng vào công việc tát nước ì õm cho đến mãi nửa đêm. Chưa đầy ba hôm cái ao đã cạn sạch. Chồng nghỉ việc ở nhà lấy bùn đổ lên mặt vườn. Vợ vẫn có nghề bán bún riêụ Sáng chiều gánh đi các chợ hoặc ngồi ở đầu quán. Sáng nay bán vừa xong gánh hàng đã tất tưởi về cho chóng, đặt vội gánh vào một chỗ, ẵm con ra đứng bờ ao ngắm chồng làm việc: - Cu ơi, cu có thương thày không? Cu có quý thầy cu không? Thầy làm giầu cho cu đấy cu có biết không? Nàng ôm con trong cánh tay, vừa nựng vừa nâng lên hạ xuống làm cho thằng bé thích chí, cười sằng sặc. Chồng, vai gánh đôi gầu sòng như hình nửa chiếc thuyền thúng nhỏ, hẹp lòng và đầy bùn đen nháy, bước từng bước nặng nhọc lên những bực thang làm tạm bợ bằng những nhát cuốc bập xuống rìa bờ. Đi qua trước mặt vợ, anh chàng vừa thở vừa khoe: "Bùn này phải biết. Cây nào cũng phải tốt". Vợ ngắm nghía những đống bùn như những cái chảo úp xếp hàng lũ lượt trên mặt vườn, mừng: - Tốt thật! Hoài! Giá có vải nâu mà nhuộm để may sồng thì tha hồ mà đen. - ừ nhỉ! Hay bu nó mua lấy mươi mười lăm vuông về nhuộm kẻo hoàị - Nói thể chứ tiền đâu... Với lại mình cũng đủ mặc rồi, mua làm gì cho phí. Công việc tát ao lấy bùn đã xong. Hai vợ chồng chỉ còn đợi cho bùn trở nên đất ải là khởi đầu việc giồng giọt. Cái ao chỉ còn đợi trời mưa xuống vài trận là có nước thả cá và nếu mộng tưởng tốt đẹp ấy đi xa độ vài ba năm nữa thì nương chè đã xanh um những lá non, lá già; cái ao đã đầy ứ những cá mè, cá chép. Con nào con ấy thi nhau mà nhớn mà béo mập. Thế là giầụ Thì ra biết cách làm giầu cũng không lấy gì làm khó. Nhưng mà được hơn tuần lễ, Xã Cỏn, bên kia, tự nhiên bị đau mắt. Hai hôm sau đến thằng con giai cả. Rồi đến đứa con gái lớn. Rồi đến thằng ở chăn trâu, rồi đến vợ bác. Trong vòng có mươi hôm mà gần hết cả nhà cùng bị. Lạ thật! Chắc là động địa gì ở đâu đây chứ khi nào lại gần hết cả nhà cùng đau mắt bao giờ; chả còn cách gì hơn là đi xem bóị Chỉ thày bói mới tìm được nguyên do cái tai nạn nàỵ Bác Xã gái nghĩ vậỵ Cứ gì bác. Ai mà không phải nghĩ vậy... Nghĩ vậy, bác liền đi chợ Hạ Am, lần đến ông thầy Tiên, một thầy bói giỏi nhất vùng. Vừa gieo xong quẻ, thầy đã báo cho bác biết về phía Đông có người đào ngòi xẻ rãnh nên động đến mả ông tam đạị Bác Xã ngẩn người ra nghĩ... Bác nghĩ đến cái ao của nhà Xã Khoản: - ừ, đúng thật. (Tuy cái ao ấy về phía Bắc...) Chết chửa! Thế mà không đi xem bói, cứ thuốc men rịt chữa mãi có khốn không! Bác thưởng thêm cho thày một hào rồi đứng dậy không kịp mua bán, đi thẳng về mách chồng. Cả nhà sợ thất điên bát đảọ Bác Xã giai vội chay sang bác Khoản. Bấy giờ vào độ chín mười giờ sáng. Vợ Khoản đi bán bún riêu chưa về. Khoản ẵm con trên lòng nằm võng sẽ đá đưa... Thấy Xã Cỏn hớt hơ hớt hải ở sân đi vào, anh bế con đứng dậy hỏi: - Kìa bác Xã. Có việc gì thế bác? - Tôi, tôi... - Việc gì thì bác hãy ngồi xuống đây uống với tôi chén nước đã nàọ Bác đã đỡ đau chưả Tôi nghe thấy nói hai bác và các cháu cùng đau mắt. Tôi bận quá, không lúc nào rỗi sang thăm các bác được. Bác đã đỡ rồi đấy chứ? Xã Cỏn thở dài: - Bác trông mắt tôi đây nàỵ Khỏi được đã phúc. Vừa nói, Xã Cỏn vừa lấy mấy ngón tay nhấc miếng vải màn dầy cộp những dử: "- Chả giấu gì bác, tôi sang đây cũng chỉ vì việc ấy thôi". Khoản còn đương ngẩn người ra chưa hiểu thì Xã Cỏn tiếp luôn: "- Bác ạ, việc này tôi phải nhờ đến bác mới xong." - Nhờ đến tôỉ - Vâng phải nhờ đến bác. Ngoài bác ra, chẳng thuốc thang nào trị nổị Thôi thì anh em xa không bằng láng giềng gần, bác nên thương tình tôi, thương cả nhà cả ổ tôi mà... - Chết! Sao bác lại nói thế? - Không, thật đấy mà. Bác thương đến chúng tôi, lấp cái ao cho cả nhà chúng tôi nhờ, không có thì nguy cho cả nhà chúng tôi mất. Tôi chắc bác chẳng nỡ vì một cái ao mà để cho cả nhà chúng tôi bị hạị Hay là bác có thiệt thòi, vất vả khó nhọc mất mấy hôm thì tôi xin nộp bác hai đồng, bác bằng lòng vậỵ Khoản đã nghe ra, vội chống chế: - Bác cứ dậy thế, chứ khi nào tôi lấy tiền của bác. Nhưng mà tôi thiết tưởng cái ao nhà tôi nó có can hệ, động chạm gì đến nhà bác đâu mà... - ối giời ơi! Bác lại bảo không động chạm gì đến nhà tôi! Bác không coi lời thầy bói vào đâu à? Bác không biết chứ, bao nhiêu người ốm đau, khốn khổ, mất cơ mất nghiệp vì những cái rãnh, cái hồ đào phạm vào hướng nhà, vào năm tuổi, vào mồ mả, đất cát của người ta đấỵ Khoản ngồi đăm đăm nhìn ra sân, trí đương theo đuổi công việc làm giàụ Không thấy Khoản trả lời, Xã Cỏn cho là Khoản đã xiêu lòng bèn đứng dậy kết câu: - Câu chuyện của tôi quanh đi quẩn lại chỉ có thế, bây giờ tôi xin phép bác tôi về. Bác nhớ giúp tôị Tôi không dám quên ơn bác. à, mà thế này thì tiện hơn. Mai tôi cho thằng ở nó sang hộ bác. Nể quá, không lẽ chối từ thẳng ngay, Khoản đứng dậy tiễn khách, trả lời nước đôi: - Bác hãy thong thả, để tôi còn bàn lại với nhà tôị Có thế nào, mai tôi sẽ... Nhưng mà tôi cho lão thầy bói nói láo chứ khi nào cái ao của tôi lại dính dáng đến nhà bác... Vả lại tôi có đào đâụ Tôi chỉ lấy bùn lên... Đào khác, lấy bùn khác. Xã Cỏn đã bước xuống sân, quay lại vái lia lịa: - Tôi van bác, tôi lạy bác. Bác đừng nên tiếc rẻ ít bùn mà nói thế, mất cả tình hàng xóm láng giềng. Ông thầy Tiên nổi tiếng thế nào bác đã biết đấỵ Thằng bé ngồi một mình, lê ra mép phản, ngã khóc òa lên. Khoản vớ được dịp tốt, chạy vào ẵm lấy nó, dỗ. Xã Cỏn còn khẩn khoản thêm một câu nữa mới đi hẳn. Gần trưa vợ về. Khoản thuật lại câu chuyện của Xã Cỏn. Vợ tức giận bĩu môi nói: - Gớm! Dễ nghe nhỉ. Họ cho chúng mình như con nợ của họ không bằng... Thế đằng ấy có bằng lòng không? - Tôi thấy hắn khẩn khoản chí thiết quá nên không nỡ từ chối ngaỵ Tôi có bảo hắn ta hãy thong thả để tôi còn hỏi ý mình xem đã. Vợ nói gắt: - Sao mình không chối phắt ngay bây giờ có được không, nể với nang gì. Thế mình túng bấn thì họ có cưu mang mình không? Được, để mai tôi bảọ Sáng hôm sau, thằng ở chăn trâu vác cuốc sang định làm giúp. Vợ Khoản bế con đứng trên thềm nói ra: - Này em, về nói với các bác bên ấy rằng: việc bên này làm không có can thiệp động chạm gì đến bên ấy nhé. Thằng bé lủi thủi vác cuốc về. Vợ Khoản nói thật to cốt để bên kia nghe rõ: - Sao mà họ có cái ý tưởng lạ đời thế! Giá phỏng thầy bói bảo động vì cái nhà bên mình có lẽ họ cũng bắt mình dỡ nhà đi chắc. Nói thế mà nghe được. Tưởng rồi hai bên chỉ giận nhau, không đi lại nhà nhau nữa là cùng. Ai ngờ, chiều, vợ Xã Cỏn đi chợ về, nổi cơn tam bành lên; xắn váy chạy ra cổng, chõ mồm sang nhà Khoản chửi bóng chửi gió thậm tệ: - Cha con đẻ ra mẹ nó chứ! Nó đào tổ ông tổ cha nó lên để làm hại nhà bà. Cha... Vợ Khoản nghe rõ mồm một cũng vén váy chạy ra cổng chửi đổng: - Cha con bà nhà nó chứ! Bà đào ao đào chuôm nhà bà, bà có đào tổ ông tổ cha nhà nó lên đâu mà... Vợ Xã Cỏn chạy sấn lại: - à, con này giỏi thực, mày chửi bà đấy hử? Rồi bất thình lình tát đánh đét một cái vào má vợ Khoản. Hai bên cùng túm tóc nhau dúi xuống. Một lũ con cái nhà Xã Cỏn ùa ra đánh hôị Khoản gái kêu la rầm rĩ: - ối làng nước ôi! Chúng nó đánh chết tôi! Nghe thấy tiếng vợ, Khoản giai đặt vội con xuống thềm, chạy ra cứụ Vốn tay lực điền khỏe như vâm, hắn xông vào đấm túi bụị Trong lúc loạn đám thằng con cả Xã Cỏn thủ hòn gạch trong tay nện vào đầu Khoản. Vợ thấy chồng máu mê chảy ròng xuống trán sợ quá, kêu: "ối làng nước ôi! Nó đánh chết chồng tôi rồi!" Hàng xóm đổ ra can. Hai bên cùng bị thương. Xã Cỏn thâm tím cả mặt mày, trán biêu lên bằng quả ổị Hai người đàn bà không đau lắm nhưng xống áo cũng rách bươm. Họ không cấu xé nhau nữa, nhưng cùng phân bua, viện lẽ phải cho nhà mình với những hàng xóm đứng xúm xít chung quanh. Chốc chốc họ lại xói nhau bằng những lời thô bỉ tục tằn. Chán rồi nhà nào về nhà nấỵ Ngõ xóm chỉ còn sót vài ba người vô công rồi nghề đứng dồn lại bàn tán, kẻ đỗ lỗi tại bên này, kẻ đổ lỗi tại bên kiạ Khoản giai đã rửa sạch những vết máu trên mặt và rịt chỗ đau bằng nắm lá nhọ nồị Hắn ngồi trên thềm, hai khuỷu tay chống gốị Hắn vẫn còn căm tức, lẩm bẩm chửi rủa luôn mồm. Khoản gái để nguyên áo rách ẵm con ngồi cạnh, xui chồng ra đình nhờ các cụ phân xử. - Được rồi, ngày kia có việc làng. Tôi phải đem việc này ra trình các cụ. Nó tưởng nhà nó đông người muốn ức hiếp người ta thế nào cũng được à? Tức thật! Bên kia Xã Cỏn cũng cho mình là phải, lăm le đợi ngày đi thưạ Cũng như Khoản, hắn ngồi trên thềm nhà lẩm bẩm: - Chuyến này mày sẽ biết tay ông. Mày tưởng ao của mày, mày muốn đào ông đào cha mày thế nào cũng được hẳn? Ba hôm sau, các cụ họp việc làng, không phải để phân xử việc của hai bác hàng xóm (hai bác là thứ gì mà được các cụ họp việc làng?) nhưng để bàn nhau đặt lại thể lệ khao vọng. Vì có nhiều ông Chánh, Phó lý cựu ghen tỵ với một ông vừa được Bát phẩm. Họ dám tị cả với một ông Hàn mớị Họ phao đi khắp làng rằng: cái anh Bát vừa rồi ra trình làng chẳng đáng ngồi trên họ chút nàọ Chữ nghĩa vị tất đã bằng họ. Kể họ ghen tị cũng phảị Họ tốn công, tốn của để rồi cứ thụt lùi xuống mỗi khi có một ông Bát, ông Cửu, ông Hàn, ông hiếc nào ở đâu mò về, bỏ ra một trăm hay trăm rưỡi nộp tiền khao vọng chay cho làng. Không, không khi nào họ chịu lép thế! Nhưng đến khi ra việc làng, các ông đều ngồi ngậm tăm, không ông nào dám đả động. Các ông sợ phạm đến các cụ chức sắc bên trên. Chỉ có Lý Cúc, một tay lý cựu bướng bỉnh, gân guốc, lý sự, dám đứng lên nói: "Trên có các quan, các cụ và đông đủ mặt làng. Tôi xin thưa vài lời, hay thì các quan, các cụ để, mà có nhầm lời thì các cụ cũng đại xá." Trong lúc đợi các cụ cho phép, ông đằng hắng mấy cái để lấy giọng, đoạn ông nói tiếp: - Thưa, ông Hàn, ông Bát vừa rồi có nộp lệ làng theo thứ bực. Nhưng tôi thiết tưởng, Hàn năm bảy hạng Hàn, Bát năm bảy hạng Bát. Hàn như các cụ là chân khoa mục hay ấm tử ấm tôn, học rộng tài cao thì lại đi một nhẽ. Đằng này các ông ấy chữ nghĩa chẳng có gì, đi làm đi liếc ở đâu, tự nhiên vác cái phẩm hàm về đòi ăn trên ngồi trốc, chúng tôi nghĩ như thế không được công bằng. Vậy xin các quan, các cụ xét lại cho các đàn em chúng tôị Nói rồi, Lý Cúc ngồi xuống, để lại sự ngạc nhiên trong óc các ông dút dát. Ông Hàn, ông Bát mới đều không có đấỵ Một ông trong họ đứng dậy cãi hộ. "Thưa, trên có các quan, các cụ cùng đông đủ mặt làng, ông Lý tôi nói thực vô lý. Tôi trộm nghĩ: chức hàn, chức Bát là phẩm tước của nhà Vua ban, ai mà không phải trọng. Khoa cử, chữ nghĩa lại là việc khác. Còn như ông ta bảo: chẳng công cán gì với làng, nhưng đã có công với nước. Ông Hàn, ông Bát tôi cũng vậy, nếu không sao được hàn lâm, bát phẩm của Triều đình ban chỏ" Hai bên đấu khẩụ Bên xin tăng tiền khao lên gấp đôị Bên xin cứ giữ giá cũ, kẻ nói đi người nói lại, từ sáng đến gần ngọ vẫn chưa ngã ngũ ra saọ Các cụ ngồi lâu đã nóng ruột, bàn đến phiên việc làng hôm rằm này, có quan tiên chỉ về chủ tọa mới nhất định thể lệ được. ý các cụ cũng muốn gấp đôi tiền khao vọng, hoặc vừa khao chay vừa khao mặn cho đàn anh, đàn em khắp làng cùng hưởng. Nhưng việc khí hệ trọng, các cụ chưa dám thổ lộ rạ Có lẽ rồi cũng phải đến thế mới yên với bọn Chánh, Phó lý cựụ Các cụ ra lệnh giải tỏa, sắp đứng dậy về... Khoản nấp sau ông Lý Hiểu, một đàn anh trong họ nhà hắn, lấy tay sẽ bấu lưng để nhắc ông về việc của hắn. Ông Lý Hiểu bèn đứng lên thưa: "Xin các cụ hãy bớt ít thời giờ ngồi lại để phân xử về việc của tên Khoản, kẻo oan ức hắn lắm." Rồi ông kể từ đầu chí cuối câu chuyện lôi thôi của Khoản với Xã Cỏn, kết luận: "Nhà ai có ao mà chả có lúc lấy bùn đổ ruộng hay đổ vườn cho tốt đất. Thế mà tên Xã Cỏn dám vin cớ vì tên Khoản đào ao làm cho nhà hắn động, sinh ra đau mắt cả nhà rồi lại sinh sự đem cả nhà ra đánh đập vợ chồng tên Khoản. Thật là bạo ngược vô lý quá. Xin các cụ bắt lỗi tên Cỏn để làm gương cho kẻ khác." Lý sự ông có phần chắc chắn, song lời ông vừa sẽ vừa rè rè, nghe mất cả hùng hồn. Ông vừa dứt lời thì bên kia, Lý Tảo, bác ruột Xã Cỏn, một bực lão, đạo mạo, có vai vế trong làng, đứng phắt dậy cãi hộ cháụ - Thưa các cụ, ông Lý tôi nói rất hồ đồ. Ông ấy chỉ nghe tên Khoản thuật chuyện lại, thưa, thưa các cụ, chính tôi đã mục kích sở thị. Tên Khoản cứ lấy bùn thôi thì ai nói làm gì. Nhưng tên ấy đã lấy đi mấy lượt bùn rồi, lại khoét thêm đất cho sâu ao xuống nữa, vì thế mới động đến nhà Xã Cỏn. Sự còn rành rành ra kia; Xã Cỏn đâu, ra trình diện để các cụ xem. Xã Cỏn đứng sau Lý Tảo, dạ một tiếng thật to rồi ra đứng trước mặt các cụ, mặt phủ vuông vải màn. Lý Tảo truyền lệnh: "Nhấc cái khăn lên!" rồi quay sang phía các cụ nói: "Thưa các cụ, tên Khoản đào ao được bốn năm hôm thì, khốn nạn! Cả nhà Xã Cỏn cùng bị đau mắt dữ dội như thế đó! Nếu không có nhờ thầy bói, chắc các cụ cũng biết tiếng thầy bói Tiên, nếu không có ông ta thì có biết đâu mà rờ. Các cụ rủ lòng thương mà xét cho nhà hắn nhờ. Khốn nạn! Vợ chồng con cái, cả đến thằng ở cũng bị. Không động thì khi nào lại có sự lạ lùng như thế." Tiếng ông nói oang oang. Chức vị cao quý của ông lại càng làm cho lý sự ông thêm vững như bàn thạch. Các cụ còn phân vân. Cánh đằng Xã Cỏn nấp dưới oai quyền Lý Tảo nhao nhao lên cãi hộ. Một ông trong đảng đứng lên thưa: - Bẩm các cụ, cụ Lý chúng tôi nói phải lắm. Nếu ai cũng viện lẽ của nhà mình, muốn đào ngang đào dọc thế nào cũng được thì rồi làng ta sẽ động to mất. Lý Tảo, nhân câu ấy, tìm ra được lẽ nữa, đứng dậy nói: - Thưa các cụ, nếu tên Khoản mà tự do đào được, thì xin lỗi các cụ, tôi đây có thửa vườn ngay trước cửa đình, tôi đây cũng có thể đào được. Ông nói thế là vì ông đã biết cái vườn của ông thuộc vào kiểu địa lý tối can hệ của làng. Đắp cao lên còn được, chứ mà đào sâu xuống độ thép mai, chỉ một thép mai thì phải biết, cả làng động. Nghe đến cái lý ghê gớm ấy, các cụ không còn phân vân nữa, liền kết án: bắt tên Khoản lập tức phải gánh bùn đổ xuống ao, đem giầu cau ra đình tạ tội và sửa lễ gà xôi tạ ông Thổ cai quản cánh đồng có ngôi mộ tam đại nhà Xã Cỏn. Phép vua còn thua lệ làng, mà lệ làng ở như mồm các cụ đặt ra, Khoản chỉ còn cách cúi đầu vâng theo mệnh lệnh. Cả ngày hôm ấy, Khoản hỳ hục gánh bùn đổ xuống ao, bồ hôi, bồ kê tuôn ra đầm đìạ Trên gò má những giọt... không biết bồ hôi hay nước mắt... Vợ Khoản ẵm con đứng thừ ra nhìn chồng làm việc, chốc một lại thở dài, thâm gan tím ruột vì các cụ. Có lúc uất quá, chị ta ứa nước mắt, lẩm bẩm nói một mình: "Các cụ xử ức thật. Những lúc này, muốn bỏ mẹ nó làng mà đi biệt cho rảnh." Nửa tháng sau, cơn tức của vợ chồng Khoản hình như vẫn chưa nguôi hẳn. Xã Cỏn bên kia mắt vẫn còn đỏ như mắt cá róị Có lẽ vì nốc nhiều rượu quá. Hắn vốn nghiện rượu, ngày chén hai, ba, bốn bữa không chừng. Đứa gái lớn đã khỏi, nhưng mắt thành lông quặm. Vành mắt và kẽ mắt lúc nào cũng đỏ hoe và ướt nhòẹ Vợ Khoản nhiều lúc nựng con, nói có ý rủa bên hàng xóm: "Cu ơi! Cu nhớn lên, cu đừng có ăn hà ăn hiếp người ta lắm, nên giời làm cho toét mắt, chẳng ma nào nhìn. Rồi thì còn thong manh, còn đui mù nữa ấy cu ạ." Hình như rủa được thế, lòng chị ta hả hê. Chị ta xốc nách thằng bé, nhấc bổng lên. Thằng bé thích chí, đập hai chân xuống quãng không, cười reo vang nhà. Chị ta âu yếm ôm chặt con trong lòng, vừa hôn hít vào hai bên má vừa nói đợt ra từng tiếng: "Hự! Hự! Bây giờ thì con tôi ngoan lắm đâỵ Hự! Hự! Nhớn lên con ăn ở có nhân có nghĩa, có thủy có chung. Hự! Hự! Để giời thương thánh độ chứ chả khi nào lại vô phúc như lũ chúng nó, nhỉ con tôi nhỉ!" Sau mỗi cái hít là có hai tiếng "hự, hự" tiếp theọ Đoạn chị ta bồng con như đưa võng, hát ru: "A, a... Bồng bống bông. Có tài đừng cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần..." |
THƠ NGUYỄN VĂN TÀI
nhớ mái trường xưa
Nguyễn Văn Tài
Trường làng tôi, nằm trong thị xã,
Cạnh xóm làng, có lũy tre xanh.
Trước sân có hàng cây rợp lá,
Phía sau xa, con rạch uốn quanh.
Hè về phượng nở khoe màu đỏ,
Có tiếng ve sầu dưới nắng hanh.
Ngôi trường đóng cửa.mang niềm nhớ,
Tiếng hát học trò, điệp khúc xanh!
Lưu bút trao nhau vài tấm ảnh,
Thời gian thấm thoắt lướt qua nhanh.
Tựu trường gặp lại, bao tâm sự,
Hàn huyên mọi nỗi, chuyện ngày xanh.
Bốn mươi năm, tôi xa trường cũ,
Bạn bè xưa trôi dạt nơi nào?
Cuộc chiến tương tàn như thác lũ,
Gây bao tang tóc với thương đau!
Một ngày nào đất nưóc tự do,
Nhân dân ta thoát khỏi ngục tù.
Tôi sẽ trở về mùa phượng nở,
Thăm bạn bè, thăm mái trường xưa!,
Nguyễn Văn Tài
Trường làng tôi, nằm trong thị xã,
Cạnh xóm làng, có lũy tre xanh.
Trước sân có hàng cây rợp lá,
Phía sau xa, con rạch uốn quanh.
Hè về phượng nở khoe màu đỏ,
Có tiếng ve sầu dưới nắng hanh.
Ngôi trường đóng cửa.mang niềm nhớ,
Tiếng hát học trò, điệp khúc xanh!
Lưu bút trao nhau vài tấm ảnh,
Thời gian thấm thoắt lướt qua nhanh.
Tựu trường gặp lại, bao tâm sự,
Hàn huyên mọi nỗi, chuyện ngày xanh.
Bốn mươi năm, tôi xa trường cũ,
Bạn bè xưa trôi dạt nơi nào?
Cuộc chiến tương tàn như thác lũ,
Gây bao tang tóc với thương đau!
Một ngày nào đất nưóc tự do,
Nhân dân ta thoát khỏi ngục tù.
Tôi sẽ trở về mùa phượng nở,
Thăm bạn bè, thăm mái trường xưa!,
THƠ NGÔ MINH HẰNG
TRĂM NĂM
Song Châu Diễm Ngọc Nhân
Đêm nay trời buồn không trăng không sao
Anh ơi, anh đâu? Tìm anh phương nào?
Anh như chim trời.Anh như vầng mây,
Em chờ mong anh buồn lên mi gầy.
Em chờ mong anh mà nghe tâm tư,
Mông mênh muôn phương từng cơn đau nhừ.
Giờ này anh đâu, mà đây mình em?
Trời đêm u buồn, trời đêm màu đen!
Nghe không anh ơi? em kêu tên anh
Trong niềm đau thương âm vang không thành.
Hình như cung sầu bay cao cùng mây
Khi anh xa rồi, tình không còn đây!
Dư âm vang vang, ai cười pha lê
Người trong tay người anh quên đường về?
Người trong tasy người, tròn vui không anh?
Ai hay trăm năm là câu vô tình!
BACK
Song Châu Diễm Ngọc Nhân
Đêm nay trời buồn không trăng không sao
Anh ơi, anh đâu? Tìm anh phương nào?
Anh như chim trời.Anh như vầng mây,
Em chờ mong anh buồn lên mi gầy.
Em chờ mong anh mà nghe tâm tư,
Mông mênh muôn phương từng cơn đau nhừ.
Giờ này anh đâu, mà đây mình em?
Trời đêm u buồn, trời đêm màu đen!
Nghe không anh ơi? em kêu tên anh
Trong niềm đau thương âm vang không thành.
Hình như cung sầu bay cao cùng mây
Khi anh xa rồi, tình không còn đây!
Dư âm vang vang, ai cười pha lê
Người trong tay người anh quên đường về?
Người trong tasy người, tròn vui không anh?
Ai hay trăm năm là câu vô tình!
BACK
TRẦN HOÀI THƯ * NGƯỜI VÚ CŨ
Người vú cũ
Lời tác giả: Bài văn này là những trang đầu của hồi ký Cảm Tạ Văn Chương, đang được viết dở dang (THT)
Tuổi thơ của tôi lớn lên, từ một gia đình chẳng ruột rà, từ một quê hương chẳng bao giờ biết được dấu vết, từ một đất nước loạn lạc nhiễu nhương. Thành phố vào những năm đầu của thập niên 50, chiến tranh ngày một cận kề vòng đai. Từ đồn binh ở vòng đai phía con sông Cái, đêm nào tiếng nổ nghe rất gần như ở bên kia bờ sông.
Thỉnh thoảng vào buổi sáng, người đi đường phát giác một thi thể nằm chết bên đường, kèm theo bản án. Và có đêm, cả nhà phải chui xuống gầm giường, gầm phản vì từ đồn binh, súng nã xuống xóm như mưa. Có thể nói xóm Rộc là mục tiêu để hứng những trận mưa đạn mỗi khi đám lính ở đồn nghi ngờ có quân kháng chiến ẩn núp. Có khi đường đạn nghe rít rất gần. Để sáng ra lỗ đạn chi chít trên vách nhà. Có khi giữa lòng đêm, tôi nghe những bước chân chạy rầm rập. Đó là những người bên kia sông. Có lẽ họ vừa đánh đồn, và rút đi. Thỉnh thoảng lính trên đồn tung xuống xóm và những vùng phụ cận những cuộc bố ráp, sau đó tập trung người ở khu đất cạnh đồn để thanh lọc. Trong khi ấy, đêm đêm ngọn đèn pha từ đồn cứ tiếp tục quét bóng tối, hay ngừng lại dưới Rộc. Con mắt ác thú ấy đã khiến đám trẻ không còn dám ra ngoài đêm để chơi trò bắn súng đạp lon nữa.
Rõ ràng, người dân trong xóm phải sống trong nỗi đe dọa thường trực.
Không biết tại sao mà bác lại định cư tại xóm này. Nó chỉ là một cái trũng lớn, nằm bên quốc lộ 1. Đặc biệt rộc chỉ trồng toàn rau muống. Rau muống suốt năm. Khi đứng trên đường nhìn xuống, ta chỉ thấy một vùng rau muống xanh bát ngát trải dài từ xóm dưới đến xóm trên. Với những ô ruộng vuông vắn. Chiều chiều những chiếc gàu nan, gàu sòng tưới nước, những tia nước rót xuống, đan nhau thành hình vòng cung, rải đều khắp thửa ruộng. Dưới ánh nắng hoàng hôn, những tia nước lóng lánh trông hết sức đẹp mắt.
Chỉ có ban đêm, theo gió, mùi thúi nồng nặc của nước phân chuồng tưới rau bay về. Nhưng riết rồi cũng quen.
Thời ấy làm gì có phân hóa học.
Đặc biệt vào mùa hè là cả một thinh không vang lừng tiếng dế. Dế rất thích rau non nên qui tụ về đây rất nhiều. Có điều bọn trẻ chúng tôi phải chịu thua, vì không đứa nào dám dẫm trên rau để dò xem chỗ ẩn trú của dế. Chỉ khi ruộng cắt xong, chờ một mùa rau mới, thì đó là dịp để chúng tôi tha hồ. Chúng tôi đổ nước vào những hang nghi ngờ hay vạch những gốc rau. Thế nào cũng có một vài chú xuất đầu lộ diện.
Vì là một trũng thấp so với mặt đường nên cứ sau vài cơn mưa lớn, Rộc lại bị ngập nước mênh mông. Lụt lội quá quen thuộc, và là một dịp để đám trẻ tha hồ vùng vẫy. Có khi nước dâng rất mau, khi ngủ nước chưa vào nhà, đến khi thức thì nước đã dâng lên tận mép giường.
Dù là dân Rộc, tuy nhiên dượng không sống bằng nghề trồng rau muống. Nghe nói ngôi nhà mà chúng tôi đang ngụ cũng không phải là của bác nữa. Mà của một gia đình đã tản cư chưa về. Khác với các gia đình dưới rộc, nhà dượng có xe riêng. Chiếc xe của thời xa xưa mà ta thường thấy trên phim vua hề Charlot thủ diễn. Điều này chứng tỏ là bác thuộc thành phần khá giả. Trước khi mẹ gặp bác, tôi nghe nói là bác mở tiệm phở. Sau này bác làm nghề thầu xây cất nhà cửa. Chuyện này là chuyện của người lớn. Tôi chỉ nghe nói lại. Hơn nữa, trong gia đình ấy, tôi không phải là một phần tử, thì cần gì mà để ý. Tôi cũng chẳng cần thắc mắc tại sao tôi lại bị buộc gọi tiếng « bác » thay vì tiếng « dượng » khi mà bác là cha ghẻ của tôi.
Từ thất bại này đến thất bại khác làm bác sa sút thấy rõ. Từ đấy bác buồn tình uống rượu.
Không ai có thể giúp bác. Trừ mẹ. Nghĩ lại chưa bao giờ tôi thấy mẹ hy sinh cho bác như lúc này. Bác cần vốn cho một cuộc làm ăn mới, thì mẹ chạy đôn chạy đáo, hốt hụi kiếm tiền. Rồi sau đó, cuộc làm ăn lại thất bại, lại thêm một lần nữa, mẹ bị thiên hạ nguyền rủa. Làm sao tôi có thể quên được những lần mẹ sai tôi đi đòi tiền hụi. Có lần tôi đến vào bữa cơm tối, nói: “Mẹ con bảo con đến lấy tiền đóng hụi.” Chưa nói hết câu, người chồng trừng mắt, rồi quăng chén cơm xuống đất: “Cút đi thằng con hoang, bộ hết lúc, lại lựa vào lúc tao đang ăn cơm…” Tôi lại lủi thủi về lại nhà, báo lại mẹ. Cái cảnh đòi nợ hụi đã làm tôi chịu đựng cùng nỗi tủi nhục vô bờ. Nhưng tôi biết mẹ cần tiền. Tiền là tất cả. Gắng cắn răng, gắng đừng khóc để mang những tờ giấy bạc về nhà, để mẹ đưa cho dượng, hay nuôi các miệng ăn. Ít khi những người chơi hụi trả liền. Họ khất, họ hẹn. Họ làm khó dễ. Và tôi như một kẻ đến gieo tai họa cho họ. Ngoài tôi ra, mẹ biết nhờ ai. Riết rồi cũng chai lì. Bất hạnh này đến bất hạnh khác, nếu không chai lì thì chỉ còn cách là gục xuống để thiên hạ đạp lên.
Cuối cùng, mẹ bỏ đứa con còn bé cho tôi giữ, lao vào con đường buôn gánh bán bưng. Mẹ già thấy rõ. Đôi vai giờ gánh khối nặng của một cái nghiệp hẩm hiu đến muốn khóc. Vì sao? Chắc là vì quá yêu dượng. Tôi biết vậy vì không ngày nào, mẹ đưa tiền cho tôi để tôi xuống chợ Đầm mua một lít rượu trắng. Mẹ bận nên ít để ý đến tôi hơn. Ngày thì ở chợ, đi rảo khắp các khu, mua hột gà, chuối, thanh long từ các người ở dưới quê lên rồi bán lại. Nhất là hột gà. Mẹ có mối giao cho một nhà hàng Tây ở cạnh bờ biển. Vì cam kết phải giao đúng hạn và đầy đủ số lượng, nên mẹ càng vất vả hơn bao giờ. Làm sao mà có đủ trứng cho nhà hàng mỗi ngày? Mẹ phải rảo khắp chợ, hay về vùng xa, tìm trứng. Và đêm về, mẹ phải dùng chanh đánh bóng từng quả một. Để vỏ láng bóng, có thể quyến dụ người mua dễ dàng hơn. Mẹ nói thế. Những quả hư, vữa hay lộn, mẹ đều dành cho tôi. Như là phần thưởng. Riêng những nải chuối còn xanh, mẹ bỏ chúng vào trong hũ gạo, đốt nhang để vỏ chuối mau vàng. Và khi gà vừa gáy, mẹ thức dậy. Bóng mẹ in trên vách. Mẹ xếp những nải chuối vào hai thúng. Và bỏ trứng gà vào chiếc giỏ mây. Đó là phần việc mà mẹ giao phó cho tôi. Tôi sẽ mang nó tại nhà bếp của nhà hàng Tây dưới biển.
Sau đó, tôi bị đánh thức dậy, lấy bài học. Thỉnh thoảng mẹ dạy tôi vài ba tiếng Pháp như le chien là con chó le chat con mèo, la maison cái nhà… Mẹ biết nhiều tiếng Pháp. Mẹ nói giọng như bà đầm mà tôi vẫn hay gặp ở nhà hàng. Tôi không thể ngờ một người đàn bà mỗi ngày gánh chiếc đòn gánh với hai thúng trái cây nặng trĩu như vậy lại có một số vốn về chữ nghĩa như thế. (Sau này tôi được biết mẹ có bằng Primaire vào khoảng năm 1915, 1916 gì đó).
Mẹ dậy rất sớm. Thường ở ngoài trời vẫn còn tối đen như mực. Cả nhà vẫn còn chìm trong giấc ngủ. Mẹ kêu tôi dậy học bài. Rồi bà thổi lửa, nấu nước sôi đổ vào bình thủy để dượng uống trà. Sau đó, mẹ chiên cơm nguội, dành cho tôi một bát. Ngọn lửa cháy, củi reo lách tách, vui tai. Trong chái nhà nhỏ hẹp, chỉ có hai mẹ con. Tôi thì ê a. Mẹ thì tiếp tục chuẩn bị cho phiên chợ sớm. Mẹ ốm, răng nhuộm đen, tóc đen lắm. Có điều, trong đôi mắt kia, tôi thấy cả một bể lệ, khi mẹ nhìn đâu đâu. Những lúc như thế, tôi và mẹ trở nên gần gũi nhau. Mẹ hay vạch áo tôi, xem những vết roi bầm và thêm một lần lấy dầu xoa, và luôn luôn dặn: Con người ta là con vàng con ngọc. Con đừng chọc chúng. Thấy con đau mẹ cũng khổ lắm. Tôi phân trần: Tại chúng cứ chọc con là đứa con không cha. Chúng nói con là con hoang nữa…
Sau đó mẹ lao vào bóng đêm về sáng. Có khi đôi thúng mẹ gánh đi trước, tôi mang một bị giỏ lẽo đẽo theo sau. Đàng sau mẹ là ngôi nhà vẫn đang chìm trong giấc ngủ. Chiếc hồ bốc sương, nước đục ngầu bởi trăm ngàn thứ dơ bẩn trút xuống. Vì là trũng, nên sương bốc lên, dày dặc. Con đường quốc lộ một đầu chạy ra cầu Hà Ra, một đầu dẫn về trường Tàu. Phía bên kia đường, cũng là một trũng rau muống, nhưng nhỏ hơn. Chính trũng này tôi vẫn men theo con đường ruộng để đến trường. Khi qua bến xe ngựa gần trường Tàu, mẹ thường hay nhìn, ngẩn ngơ. (Sau này tôi mới biết là trước đó, mẹ khá giả lắm, có nuôi cả một đàn ngựa để kéo xe). Mẹ đến chợ, tìm một chỗ quen thuộc ngoài trời, dành cho khu bán trái cây. Trong lồng chợ thường là chỗ để bán tạp hóa vải vóc. Sau đó, mẹ bảo tôi ngồi giữ chỗ, để bà đi rảo khắp chợ tìm mua đi bán lại những hột gà, chuối, mãng cầu, thơm từ các người từ dưới quê lên. Trong thời gian chờ bà trở lại, tôi vẫn thường lấy bài ôn lại lần chót.
Sau đó mẹ trở về, tôi mới bắt đầu đi đến trường.
Ở chợ, tôi càng hiểu thế nào là những giọt mồ hôi gian khổ của mẹ. Đó là nỗi đau thật, nỗi đau làm bà mau già, làm phận bà hạ xuống, trước bao kẻ mua người bán giữa chợ đời. Người ta trả giá, chê bai, nhún vai, lắc đầu. Có khi ế ẩm, những nải chuối mốc chuối xiêm, hay những trái bưởi, thanh long, thơm vẫn còn nằm ngủ buồn hiu, thì nỗi đau lại càng tê tái. Tiền bạc bỏ ra, mà chẳng thu lại vốn. Và thêm một lần nữa, chính tôi là kẻ phụ trợ bà để giải quyết những đồ ế ẩm này. Chuối ế lại luộc. Bưởi hay thơm ế lại được xẻ ra. Thêm chén muối ớt. Thêm những miếng lá chuối. Và thằng con riêng của bà lại thêm một lần được bà kêu mang rổ rảo khắp nơi trong thành phố. Từ bến xe, đến sân vận động, rạp hát. Tôi phải giành khách cùng với những tay bán hàng khôn lanh già dặn khác. Thường thường vào dịp có đá banh hay hội chợ, là cơ hội tôi hốt được nhiều tiền.
Trái lại, lúc mưa hay trời lạnh, thì ế ẩm quá chừng. Có nghĩa là phần này mẹ cho tôi hay các em tôi thanh toán.
Đó, cái lai lịch nguồn gốc của tôi là thế. Cám ơn đời, vì đời quá khắc nghiệt để đôi mắt thằng bé nhìn nó, không phải màu xanh mà trái lại màu xám màu đen. Cám ơn loài người, vì con tim nhân đạo để thằng bé tiếp tục có mặt, hai chân gầy tong teo, mắt trũng vì nước mắt đã đổ ra quá nhiều. Cái tôi của tôi là thế. Xin đừng tội nghiệp dùm tôi. Tôi vui lắm mà. Tôi có những chú chim trên núi, có những chú còng dưới biển. Không biết có bao nhiêu ngọn sóng đã thấy tôi nô đùa, tim như ngừng đập khi chờ chúng lù lù tiến vào bờ. Và nắng và mặt trời chói lọi, đã làm làn da tôi sạm đen. Biển đã bao bọc tôi khi tôi buồn, đêm nằm trên bãi cát nhìn lên bầu trời mà tìm một vì sao. Người ta nói mỗi người có một vì sao chiếu mạng, tôi cứ nghĩ trên ấy là một thế giới khác, với những bà tiên hiền dịu, khác với thế giới khắc nghiệt mà tôi hiện đang sống… Cát lạnh, gió lạnh, đêm càng tối đen, để sao càng thấp xuống. Chòm đại hùng tiểu hùng hay chòm thần nông hay người cấy lúa, tôi miên man tìm. Rồi ngoài khơi, thuyền câu đêm san sát, tạo thành một vệt dài ánh sáng lung linh trên mặt biển đêm như một chuỗi kim cương. Và trong cõi im ắng, chỉ có lời biển ru, đưa trí tưởng tượng thằng bé bay cao, bay xa… Ôi những giấc mơ tuổi nhỏ. Những giấc mơ tội nghiệp. Giấc mơ đưa tôi bay đến những hoang đảo như trong truyện Robinson Crusoe hay qua bên kia sông Cái, đến tận những dãy núi mịt mùng. Nơi đó là chiến khu như lời mẹ tôi vẫn hay hát khi bà ru đứa con bà: Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều. Êm đềm tiếng suối reo ngàn thông réo… Hay những bài học dạy thời nhỏ dại của Bằng Phong: Họ là những anh hùng không tên tuổi… Tôi mơ một ngày tôi sẽ vượt qua sông Cái, để trở thành một người lính bộ đội đánh Tây. Tôi mơ một ngày có mặt dưới cánh rừng phia cuối trời, mà tiếng hát của mẹ mỗi ngày cứ đẩy trí tưởng tôi bềnh bồng cùng giòng suối, cùng chim muông, cùng những anh hùng vô danh…
Mẹ lại tiếp tục đẻ con. Lần này là con gái. Cả nhà mừng lắm. Kể cả bà vợ lớn của bác. Vì tất cả con của bác toàn là con trai.
Tôi lại một phen cực thêm. Ngày mẹ nằm nhà hộ sinh, tôi xách cơm nuôi mẹ. Và sau khi mẹ về nhà, tạm thời chưa dám làm việc nặng, tôi lại thay bà gánh nước, nấu nước sôi, hay mua rượu cho bác. Sau đó. mẹ trở lại với hai đôi thúng trĩu nặng. Tôi lại phải thay mặt mẹ bồng, ẵm em giúp mẹ khi mẹ bận bịu ngoài chợ.
oOo
Mùa đông ấy trời giá rét hơn mọi khi. Một trận lụt vừa dứt. Làng xóm trở nên tiêu điều. Những hồ rau muống ngập nước bùn, những cọng rau xanh bò lan trên mặt nước. Những gốc cây dừa, xoài, ổi, mít vẫn còn thấy một màu xám của đất bùn còn sót lại. Con đường từ xóm lên đường quốc lộ trở nên nhão nhẹt. Bầu trời u ám lạ lùng. Mưa phùn tạt vù vù cùng với gió buốt da buốt thịt. Mưa đã giam cầm bước chân hoang đàng của tôi. Tôi đứng trước hiên nhà, hai chân thúc thủ. Mẹ đang cho con bú. Nơi này là thế giới của mẹ con chúng tôi. Bên kia là cửa hông đóng kín mít. Cùng là một nhà, nhưng ở bên đó là thế giới khác. Một thế giới hoàn toàn trái ngược với cái thế giới ở đây, với chiếc giường tre, với những thúng, những gánh, những nải chuối bồ hương, những trái thanh long, những rổ hột gà cùng cái phản mà tôi ngủ.
Bỗng nhiên tôi nghe tiếng chó sủa. Mưa tạt vào mặt khiến rất khó để nhận ra người lạ mặt. Tôi chỉ thấy lờ mờ một người đàn bà khoác chiếc tơi lá đứng bên hàng giậu. Gió và mưa làm át tiếng nói của người đàn bà.
- Em ơi, cho tôi hỏi thăm. Có phải đây là nhà bà Án?
Tôi trả lời. La thì đúng hơn:
- Bà tìm lộn nhà rồi. Ở đây không có bà nào là bà Án hết!
Bỗng có tiếng mẹ ở phía trong nhà:
- Cái gì thế Tý?
Tôi quay đầu lại, nói:
- Có một bà hỏi bà Án. Con nói không có ai tên Án hết.
Nhưng mẹ đã bước ra ngoài sân, dưới mưa. Mẹ nói:
- Phải, tôi là Án đây!
Có tiếng mừng kêu:
- Thưa bà. Tôi là Bảy đây!
- Bà Bảy. Sao bà tại biết tôi ở đây?
- Chú Tuất chỉ. Chú ấy bảo bà làm công ở tiệm phở Ngọc Lợi dưới chợ Đầm…
Mẹ quay sang tôi, ra lệnh:
- Con mang vở học bài đi. Để má nói chuyện.
- Cậu nào đó, thưa bà?
Bà Bảy hỏi.
- Thằng Tý đó.
- Cậu Tý đó sao? Chao ơi là lớn!
Mẹ nói:
- Nó hoang nghịch lắm, bà Bảy ơi. Không ai dạy nó được.
Tôi chẳng bận tâm gì đến lời trách của mẹ. Với tôi bây giờ là người đàn bà lạ, tại sao lại quá quen thuộc với mẹ, tại sao bà lại gọi mẹ là bà Án.
Rồi mẹ nói thêm:
- Bà Bảy là vú của con đó.
Tôi không hiểu:
- Vú là gì, hở má?
- Vú là người bồng ẵm con giúp dùm má khi con còn nhỏ.
Bà Bảy gạt nước mắt. Xem bà rất nể trọng mẹ.
Tôi lấy vở học bài, tuy nhiên lòng tôi không yên. Tai tôi vẫn nghe tiếng rầm rì to nhỏ của hai người đàn bà, và tiếng khóc tấm tức của bà mà mẹ nói là vú nuôi tôi. Căn chái đèn điện mờ in bóng hai người trên vách. Bên ngoài trời vẫn mưa lớn. Tôi nghe mơ hồ cái tên Thanh xa lạ nào đó mà hai người trao đổi. Nhưng tôi chẳng bận tâm. Mẹ lúc nào cũng bí ẩn như gỗ đá. Ngay cả lai lịch của tôi mẹ cũng không bao giờ mẹ cho biết nữa. Huống hồ là mẹ.
Đêm hôm ấy, vú Bảy ngủ chung với tôi. Lần đầu tiên tôi mới được một người khác giúp tôi giăng mùng, trải chiếu. Tôi đã mất sự săn sóc ấy rất lâu, không, chẳng có đâu để nói mà mất. Sự săn sóc ấy làm tôi cảm thấy ngượng. Và khi mùng giăng ra rồi, bà lại soi đèn đập muỗi nữa. Đó là chuyện hết sức lạ. Tôi không thể hiểu tại sao bà lại bận tâm đến những con muỗi tí ti như thế. Thì chúng hút máu thật. Nhưng đâu có nghĩa lý gì so với cả vòi máu cam đã no nê tuôn ra khỏi mũi khi mẹ tát ngay sóng mũi của tôi. Tôi lại để cho nó chảy, không cần ra bể nước hít vào thành xi măng hay dùng lá trầu quấn và nhét vào lỗ mũi để cầm lại. Tôi muốn người ta thấy. Tôi chẳng cần ai thương hại tôi hết.
Rồi vú Bảy nằm bên cạnh tôi. Vú thầm thì:
- Con thương má con không?
Tôi im lặng. Tại sao vú lại hỏi một câu vô duyên đến thế. Mẹ đâu có thương tôi sao tôi lại thương mẹ. Nhưng có khi tôi thương mẹ ghê gớm. Lúc mà mẹ lật áo lên để xoa dầu khuynh diệp hay xát muối vào vết roi bầm trên lưng tôi. Lúc ấy mẹ nói như khóc: Con có biết mỗi lần đánh con đau, má khổ lắm không. Con người ta là con vàng con ngọc. Con đừng chọc chúng…
Đó là lúc tôi thương mẹ tôi nhất. Cố gắng cắn răng để khỏi bật khóc, nhưng cớ sao tôi lại khóc mùi. Lúc này bà chính là mẹ đích thật của tôi. Lúc này đôi cánh của con gà mái đã phủ xuống để che chở con khỏi loài diều hâu dữ dằn. Tôi nói, để biện hộ hành động của mình: Tại nó cứ bảo vì con là thằng con không cha nên mất dạy…
Thấy tôi im lặng, vú Bảy tấm tức khóc:
- Ngày xưa con được cưng chiều, có người hầu kẻ hạ. Ngày xưa, vú bồng đút cơm, đút cháo, thay áo thay quần cho con. Ngày xưa, vú ở bên con suốt ba năm, con nói con thương vú hơn thương má… Bây giờ, thấy má, thấy con khổ, vú đau lòng lắm.
- Vú nói ngày xưa nhà mẹ giàu?
- Phải. Nhà mẹ giàu lắm.
- Con có ba không?
- Ơ, thằng này nói lạ kỳ. Không có ba sao lại có con.
- Sao bọn nó nói con là con hoang không cha?
- Không phải. Con có cha có mẹ. Nhà có người ở. Có chú Tuất giúp làm vườn. Đất rộng nuôi cả bầy ngựa lận. Ngày xưa con hay đòi chú Tuất cho con cưỡi ngựa. Có lần con ngựa lồng lên, khiến con bị té, gãy cả xương tay. Từ đó, mẹ không cho con cưỡi ngựa nữa.
Chợt vú vuốt tóc tôi:
- Con còn nhỏ chưa hiểu đâu. Lớn lên rồi con sẽ hiểu.
- Sao vú lại kêu mẹ con là bà Án? Mẹ tên khác mà?
- Án là tên ba con. Ông giàu lắm. Cả thành phố đều biết tên ba con.
- Sao ba mẹ không chịu ở với nhau, hở vú?
- Tại cái số hết con à. Rồi lớn lên con sẽ hiểu. Con nên thương mẹ, con đừng ghét mẹ con.
Rồi giọng bà sụt sùi:
- Ngày xưa vú không cửa không nhà, được mẹ mang về giúp đỡ. Vú không thể quên ơn nghĩa ấy đâu.
Chợt có tiếng của mẹ vọng sang:
- Bà Bảy ơi, để nó ngủ ngày mai còn phải dậy sớm nữa.
oOo
.
Như vậy, qua vú Bảy, tôi được biết phần nào nguồn gốc của gia đình và một phần nào lai lịch mình. Có nghĩa là tôi được sinh trưởng trong một gia đình khá giả, được kẻ hầu người hạ, được chú Tuất cho cưỡi ngựa trong trang trại rộng mênh mông. Nhất là tôi có ba. Ba hay cha. Cái tiếng mà tuổi thơ của tôi không được diễm phúc có được. Cái tiếng mà tôi mơ ước, để nuớc mắt phải lạnh cả má, cả mặt phản gụ. Cái tiếng đã làm cuộc đời tôi bị dìm xuống dưới tận bùn sình dơ bẩn. Ba. Cha. Ông đã bỏ tôi, để lại nơi mái nhà này một con ngựa con côi cút, giữa một thế giới loài người ác độc. Cái tiếng cả mọi đứa bé trên cõi đời này để hãnh diện, nhưng chỉ riêng một mình tôi là không có. Tôi lại càng phản kháng nhiều hơn, ương ngạnh nhiều hơn. Có lần mẹ bắt tôi phải xin lỗi tôi cắn chặt môi, như cố chịu những cơn đau vô tận, không chịu mở miệng. Tôi lì lợm tránh đỡ những lằn roi tới tấp. Mẹ thấy vậy, càng điên cuồng, càng tìm cách để tôi phải nghe lời bà. Tự ái của bà càng bốc lửa. Đến nỗi bà trói tôi lại, khi tôi cố gắng vùng vẫy muốn chạy thoát. Có khi mẹ buộc hai tay tôi vào hai cột trụ của cây xích đu ngoài sân. Có khi đầu tôi bị cạo trọc. Xin cho tôi ngừng thở ở đây. Không phải tôi viết ra đây để trút hết nỗi hận lên trên trang giấy. Tôi muốn nói là tất cả lỗi là do tôi, chính tôi đem cho mẹ tôi sự phiền não. Cái phận làm hầu làm bé đã làm bà bị tủi nhục, thêm thằng con riêng ương ngạnh này nữa, làm sao bà lại không trút hết cơn giận xuống đầu tôi? Hở?
Có khi tôi thoát được, lao vào trong bóng tối. Tôi ẩn mình trong vườn mía của nhà bác Sĩ gái. Tiếng mẹ thất thanh trong đêm, như tiếng gọi tuyệt vọng từ một kẻ bất hạnh: Tý ơi, mày đâu rồi, con đâu rồi, sao tôi khổ như thế này hả trời?
Tôi nghe mà khóc. Trên cao, xuyên qua kẽ lá mía, những vì sao nhòa nhạt. Chúng cũng mờ nước mắt như tôi. Cả người tôi run. Lạnh và đau bầm cả thân thể. Tôi muốn rời khỏi cái địa ngục này lập tức. Tôi muốn đi thật xa, thật xa. Tôi chẳng luyến tiếc gì cái mảnh đất mà người ta gọi là thiên đường tuổi nhỏ này. Bên ngoài đám người xách đèn bão đi tìm tôi. Chắc là bác bắt họ đi tìm. Bác sợ tôi rồ dại bỏ nhà chạy trốn chăng. Tôi càng im thin thít. Phải, tôi ao ước, vú Bảy có mặt bên tôi lúc này. Vú ơi, chỉ có vú mới thương con, mới hiểu con. Chỉ có vú mới an ủi con. Nhưng vú thì ở xa, vú có nghe con nói không.
Sau đó, tôi bò ra khỏi vườn, tìm xuống ruộng rau muống, và chạy bừa trên ruộng rau. Tôi nhắm hướng phố mà chạy. Chạy đến nhà ga. Tôi sẽ trốn theo con tàu mà rời khỏi căn nhà địa ngục này. Không cần biết đi đâu về đâu. Không cần biết chỗ nào để tạm trú. Cứ đi. Đến trạm ga cuối cùng, rồi xuống. Rồi tìm một vỉa hè, một góc phố.. miễn là thoát khỏi.
Nhưng tàu không thấy đâu, chỉ thấy đám lính Lê Dương say rượu la hét inh ỏi. Tôi lại bước đi. Gió đêm làm châu thân tôi lạnh cóng. Lúc này, trận đòn đã bắt đầu thấm đến xương tủy. Tôi tìm đến một ngôi nhà mập mờ đèn xanh đỏ mà sau này tôi mới biết đó là nhà thổ để đám lính Lê Dương tìm đến giải trí. Tôi thấy lũ trẻ đánh giày. Có đứa trạc tuổi tôi. Những người đàn bà má phấn môi son đỏ chót ngồi trên lòng mấy gã Tây trắng Tây đen. Một vài gã Tây duỗi chân, để giày trên thùng gỗ. Một thằng đánh giày đang dùng giẻ đánh bóng. Miệng nói xi xô. Gã Tây phá lên cười, rồi vuốt đầu thằng nhỏ.
Bỗng nhiên, tôi bị ai lôi. Người gác cửa đã phát giác tôi. Gã nạt:
- Thằng nhóc, mày biết chỗ này là chỗ gì không?
Thật sự tôi không biết. Gã lại nói tiếp:
- Con nít chưa có lông mà bầy đặt. Bộ mày muốn thèm vào trong đó hay sao?
Rồi gã đuổi tôi đi chỗ khác.
Tôi lại tiếp tục đi mà không biết đi đâu nữa. Thành phố giới nghiêm, tôi chợt nhớ. Tôi đã làm một việc mà từ trước đến giờ tôi chưa bao giờ làm. Tôi đã bỏ đi. Nhưng bây giờ càng hiểu tôi cần mái nhà. Tôi cần chiếc mền, chiếc chiếu. Tôi cần chịếc áo ấm mặc đỡ lạnh. Tôi cần ánh đèn để tôi học bài. Thầy Minh sẽ không tha bất cứ đứa nào làm biếng. Nhưng hình ảnh thằng bé đánh giày trạc tuổi, đã ghi khắc vào tâm trí. Nó sướng hơn tôi nhiều, Có ngày tôi cũng phải như nó. Thà cam khổ, nhưng ít ra, cũng thoát khỏi cái căn nhà địa ngục.
Cuối cùng, tôi lại lủi thủi trở về. Tôi sẽ xin lỗi mọi người. Dạ, con trót dại con hứa sẽ không tái phạm nữa.
oOo
Sau lần vú Bảy gặp mẹ tôi, mẹ hình như có điều gì không ổn. Một hôm mẹ mang về cả một giỏ thuốc Tây, được ngụy trang trên mặt là trứng gà. Bắt đầu từ đây, bà có những chuyến đi bất thường, bí mật. Và những người lạ mặt mà đa số là đàn bà xuất hiện một lần ở góc đường, góc chợ rồi sau đó biến đi. Thời bấy giờ, thành phố chỉ có một nhà thuốc Tây duy nhất. Mẹ hay sai tôi đến để mua những viên kí ninh hay Aspirin. Chẳng những thế, bà còn nhờ đám trẻ con trong xóm mua dùm, và thưởng chúng vài đồng bạc cắc… Trong buồng tối của nhà, mẹ giấu đầy thuốc Tây. Có khi mẹ giả làm một người đàn bà có bầu, để qua mặt những mật thám công an trong thành phố. Có khi mẹ rời nhà vào ban đêm. Mẹ đi đâu, tôi nào có biết.
Căn nhà ngày xưa có cột trụ chính là bác, bây giờ là mẹ. Bác buồn vì thất bại này sang thất bại khác nên cứ ngồi ủ rũ suốt buổi bên chai rượu trắng. Phần tôi, bây giờ càng lớn càng hiểu thân phận của mình. Tôi hẩm hiu cùng chén cơm nguội và nỗi buồn trước tuổi. Tôi hay khóc thầm. Đến nỗi mắc thêm chứng bệnh khóc đêm. Đêm nào tôi cũng khóc. Phản gụ lạnh đẫm cả nước mắt. Tiếng côn trùng, ếch nhái ngoài đêm càng làm tăng thêm nỗi buồn.
Một ngày, tôi vẫn còn nhớ, một chiếc xe díp sơn màu xanh, phía sau bít bùng, bỗng nhiên đậu lại trước nhà. Vài kẻ lạ nhảy xuống xe, ào vào nhà. Họ vào buồng, lục lọi sau đó lôi ra những bao, giỏ đựng đầy thuốc Tây và cả bọc luơng khô mà tôi đã bí mật giấu. Và họ bắt mẹ dẫn ra xe. Tôi chạy theo bà. Họ cản lại. Bé Thương, em gái cùng mẹ khác cha với tôi, khóc ré lên. Nó vẫn còn đang trong thời kỳ bú sữa. Mẹ quay lại nói với tôi: Con gắng săn sóc em dùm mẹ nghe con.
Rõ ràng, những lọ aspirin, hay trụ sinh không phải để cứu người nhưng là những mầm tai ách.
Tuổi thơ của tôi lớn lên, từ một gia đình chẳng ruột rà, từ một quê hương chẳng bao giờ biết được dấu vết, từ một đất nước loạn lạc nhiễu nhương. Thành phố vào những năm đầu của thập niên 50, chiến tranh ngày một cận kề vòng đai. Từ đồn binh ở vòng đai phía con sông Cái, đêm nào tiếng nổ nghe rất gần như ở bên kia bờ sông.
Thỉnh thoảng vào buổi sáng, người đi đường phát giác một thi thể nằm chết bên đường, kèm theo bản án. Và có đêm, cả nhà phải chui xuống gầm giường, gầm phản vì từ đồn binh, súng nã xuống xóm như mưa. Có thể nói xóm Rộc là mục tiêu để hứng những trận mưa đạn mỗi khi đám lính ở đồn nghi ngờ có quân kháng chiến ẩn núp. Có khi đường đạn nghe rít rất gần. Để sáng ra lỗ đạn chi chít trên vách nhà. Có khi giữa lòng đêm, tôi nghe những bước chân chạy rầm rập. Đó là những người bên kia sông. Có lẽ họ vừa đánh đồn, và rút đi. Thỉnh thoảng lính trên đồn tung xuống xóm và những vùng phụ cận những cuộc bố ráp, sau đó tập trung người ở khu đất cạnh đồn để thanh lọc. Trong khi ấy, đêm đêm ngọn đèn pha từ đồn cứ tiếp tục quét bóng tối, hay ngừng lại dưới Rộc. Con mắt ác thú ấy đã khiến đám trẻ không còn dám ra ngoài đêm để chơi trò bắn súng đạp lon nữa.
Rõ ràng, người dân trong xóm phải sống trong nỗi đe dọa thường trực.
Không biết tại sao mà bác lại định cư tại xóm này. Nó chỉ là một cái trũng lớn, nằm bên quốc lộ 1. Đặc biệt rộc chỉ trồng toàn rau muống. Rau muống suốt năm. Khi đứng trên đường nhìn xuống, ta chỉ thấy một vùng rau muống xanh bát ngát trải dài từ xóm dưới đến xóm trên. Với những ô ruộng vuông vắn. Chiều chiều những chiếc gàu nan, gàu sòng tưới nước, những tia nước rót xuống, đan nhau thành hình vòng cung, rải đều khắp thửa ruộng. Dưới ánh nắng hoàng hôn, những tia nước lóng lánh trông hết sức đẹp mắt.
Chỉ có ban đêm, theo gió, mùi thúi nồng nặc của nước phân chuồng tưới rau bay về. Nhưng riết rồi cũng quen.
Thời ấy làm gì có phân hóa học.
Đặc biệt vào mùa hè là cả một thinh không vang lừng tiếng dế. Dế rất thích rau non nên qui tụ về đây rất nhiều. Có điều bọn trẻ chúng tôi phải chịu thua, vì không đứa nào dám dẫm trên rau để dò xem chỗ ẩn trú của dế. Chỉ khi ruộng cắt xong, chờ một mùa rau mới, thì đó là dịp để chúng tôi tha hồ. Chúng tôi đổ nước vào những hang nghi ngờ hay vạch những gốc rau. Thế nào cũng có một vài chú xuất đầu lộ diện.
Vì là một trũng thấp so với mặt đường nên cứ sau vài cơn mưa lớn, Rộc lại bị ngập nước mênh mông. Lụt lội quá quen thuộc, và là một dịp để đám trẻ tha hồ vùng vẫy. Có khi nước dâng rất mau, khi ngủ nước chưa vào nhà, đến khi thức thì nước đã dâng lên tận mép giường.
Dù là dân Rộc, tuy nhiên dượng không sống bằng nghề trồng rau muống. Nghe nói ngôi nhà mà chúng tôi đang ngụ cũng không phải là của bác nữa. Mà của một gia đình đã tản cư chưa về. Khác với các gia đình dưới rộc, nhà dượng có xe riêng. Chiếc xe của thời xa xưa mà ta thường thấy trên phim vua hề Charlot thủ diễn. Điều này chứng tỏ là bác thuộc thành phần khá giả. Trước khi mẹ gặp bác, tôi nghe nói là bác mở tiệm phở. Sau này bác làm nghề thầu xây cất nhà cửa. Chuyện này là chuyện của người lớn. Tôi chỉ nghe nói lại. Hơn nữa, trong gia đình ấy, tôi không phải là một phần tử, thì cần gì mà để ý. Tôi cũng chẳng cần thắc mắc tại sao tôi lại bị buộc gọi tiếng « bác » thay vì tiếng « dượng » khi mà bác là cha ghẻ của tôi.
Từ thất bại này đến thất bại khác làm bác sa sút thấy rõ. Từ đấy bác buồn tình uống rượu.
Không ai có thể giúp bác. Trừ mẹ. Nghĩ lại chưa bao giờ tôi thấy mẹ hy sinh cho bác như lúc này. Bác cần vốn cho một cuộc làm ăn mới, thì mẹ chạy đôn chạy đáo, hốt hụi kiếm tiền. Rồi sau đó, cuộc làm ăn lại thất bại, lại thêm một lần nữa, mẹ bị thiên hạ nguyền rủa. Làm sao tôi có thể quên được những lần mẹ sai tôi đi đòi tiền hụi. Có lần tôi đến vào bữa cơm tối, nói: “Mẹ con bảo con đến lấy tiền đóng hụi.” Chưa nói hết câu, người chồng trừng mắt, rồi quăng chén cơm xuống đất: “Cút đi thằng con hoang, bộ hết lúc, lại lựa vào lúc tao đang ăn cơm…” Tôi lại lủi thủi về lại nhà, báo lại mẹ. Cái cảnh đòi nợ hụi đã làm tôi chịu đựng cùng nỗi tủi nhục vô bờ. Nhưng tôi biết mẹ cần tiền. Tiền là tất cả. Gắng cắn răng, gắng đừng khóc để mang những tờ giấy bạc về nhà, để mẹ đưa cho dượng, hay nuôi các miệng ăn. Ít khi những người chơi hụi trả liền. Họ khất, họ hẹn. Họ làm khó dễ. Và tôi như một kẻ đến gieo tai họa cho họ. Ngoài tôi ra, mẹ biết nhờ ai. Riết rồi cũng chai lì. Bất hạnh này đến bất hạnh khác, nếu không chai lì thì chỉ còn cách là gục xuống để thiên hạ đạp lên.
Cuối cùng, mẹ bỏ đứa con còn bé cho tôi giữ, lao vào con đường buôn gánh bán bưng. Mẹ già thấy rõ. Đôi vai giờ gánh khối nặng của một cái nghiệp hẩm hiu đến muốn khóc. Vì sao? Chắc là vì quá yêu dượng. Tôi biết vậy vì không ngày nào, mẹ đưa tiền cho tôi để tôi xuống chợ Đầm mua một lít rượu trắng. Mẹ bận nên ít để ý đến tôi hơn. Ngày thì ở chợ, đi rảo khắp các khu, mua hột gà, chuối, thanh long từ các người ở dưới quê lên rồi bán lại. Nhất là hột gà. Mẹ có mối giao cho một nhà hàng Tây ở cạnh bờ biển. Vì cam kết phải giao đúng hạn và đầy đủ số lượng, nên mẹ càng vất vả hơn bao giờ. Làm sao mà có đủ trứng cho nhà hàng mỗi ngày? Mẹ phải rảo khắp chợ, hay về vùng xa, tìm trứng. Và đêm về, mẹ phải dùng chanh đánh bóng từng quả một. Để vỏ láng bóng, có thể quyến dụ người mua dễ dàng hơn. Mẹ nói thế. Những quả hư, vữa hay lộn, mẹ đều dành cho tôi. Như là phần thưởng. Riêng những nải chuối còn xanh, mẹ bỏ chúng vào trong hũ gạo, đốt nhang để vỏ chuối mau vàng. Và khi gà vừa gáy, mẹ thức dậy. Bóng mẹ in trên vách. Mẹ xếp những nải chuối vào hai thúng. Và bỏ trứng gà vào chiếc giỏ mây. Đó là phần việc mà mẹ giao phó cho tôi. Tôi sẽ mang nó tại nhà bếp của nhà hàng Tây dưới biển.
Sau đó, tôi bị đánh thức dậy, lấy bài học. Thỉnh thoảng mẹ dạy tôi vài ba tiếng Pháp như le chien là con chó le chat con mèo, la maison cái nhà… Mẹ biết nhiều tiếng Pháp. Mẹ nói giọng như bà đầm mà tôi vẫn hay gặp ở nhà hàng. Tôi không thể ngờ một người đàn bà mỗi ngày gánh chiếc đòn gánh với hai thúng trái cây nặng trĩu như vậy lại có một số vốn về chữ nghĩa như thế. (Sau này tôi được biết mẹ có bằng Primaire vào khoảng năm 1915, 1916 gì đó).
Mẹ dậy rất sớm. Thường ở ngoài trời vẫn còn tối đen như mực. Cả nhà vẫn còn chìm trong giấc ngủ. Mẹ kêu tôi dậy học bài. Rồi bà thổi lửa, nấu nước sôi đổ vào bình thủy để dượng uống trà. Sau đó, mẹ chiên cơm nguội, dành cho tôi một bát. Ngọn lửa cháy, củi reo lách tách, vui tai. Trong chái nhà nhỏ hẹp, chỉ có hai mẹ con. Tôi thì ê a. Mẹ thì tiếp tục chuẩn bị cho phiên chợ sớm. Mẹ ốm, răng nhuộm đen, tóc đen lắm. Có điều, trong đôi mắt kia, tôi thấy cả một bể lệ, khi mẹ nhìn đâu đâu. Những lúc như thế, tôi và mẹ trở nên gần gũi nhau. Mẹ hay vạch áo tôi, xem những vết roi bầm và thêm một lần lấy dầu xoa, và luôn luôn dặn: Con người ta là con vàng con ngọc. Con đừng chọc chúng. Thấy con đau mẹ cũng khổ lắm. Tôi phân trần: Tại chúng cứ chọc con là đứa con không cha. Chúng nói con là con hoang nữa…
Sau đó mẹ lao vào bóng đêm về sáng. Có khi đôi thúng mẹ gánh đi trước, tôi mang một bị giỏ lẽo đẽo theo sau. Đàng sau mẹ là ngôi nhà vẫn đang chìm trong giấc ngủ. Chiếc hồ bốc sương, nước đục ngầu bởi trăm ngàn thứ dơ bẩn trút xuống. Vì là trũng, nên sương bốc lên, dày dặc. Con đường quốc lộ một đầu chạy ra cầu Hà Ra, một đầu dẫn về trường Tàu. Phía bên kia đường, cũng là một trũng rau muống, nhưng nhỏ hơn. Chính trũng này tôi vẫn men theo con đường ruộng để đến trường. Khi qua bến xe ngựa gần trường Tàu, mẹ thường hay nhìn, ngẩn ngơ. (Sau này tôi mới biết là trước đó, mẹ khá giả lắm, có nuôi cả một đàn ngựa để kéo xe). Mẹ đến chợ, tìm một chỗ quen thuộc ngoài trời, dành cho khu bán trái cây. Trong lồng chợ thường là chỗ để bán tạp hóa vải vóc. Sau đó, mẹ bảo tôi ngồi giữ chỗ, để bà đi rảo khắp chợ tìm mua đi bán lại những hột gà, chuối, mãng cầu, thơm từ các người từ dưới quê lên. Trong thời gian chờ bà trở lại, tôi vẫn thường lấy bài ôn lại lần chót.
Sau đó mẹ trở về, tôi mới bắt đầu đi đến trường.
Ở chợ, tôi càng hiểu thế nào là những giọt mồ hôi gian khổ của mẹ. Đó là nỗi đau thật, nỗi đau làm bà mau già, làm phận bà hạ xuống, trước bao kẻ mua người bán giữa chợ đời. Người ta trả giá, chê bai, nhún vai, lắc đầu. Có khi ế ẩm, những nải chuối mốc chuối xiêm, hay những trái bưởi, thanh long, thơm vẫn còn nằm ngủ buồn hiu, thì nỗi đau lại càng tê tái. Tiền bạc bỏ ra, mà chẳng thu lại vốn. Và thêm một lần nữa, chính tôi là kẻ phụ trợ bà để giải quyết những đồ ế ẩm này. Chuối ế lại luộc. Bưởi hay thơm ế lại được xẻ ra. Thêm chén muối ớt. Thêm những miếng lá chuối. Và thằng con riêng của bà lại thêm một lần được bà kêu mang rổ rảo khắp nơi trong thành phố. Từ bến xe, đến sân vận động, rạp hát. Tôi phải giành khách cùng với những tay bán hàng khôn lanh già dặn khác. Thường thường vào dịp có đá banh hay hội chợ, là cơ hội tôi hốt được nhiều tiền.
Trái lại, lúc mưa hay trời lạnh, thì ế ẩm quá chừng. Có nghĩa là phần này mẹ cho tôi hay các em tôi thanh toán.
Đó, cái lai lịch nguồn gốc của tôi là thế. Cám ơn đời, vì đời quá khắc nghiệt để đôi mắt thằng bé nhìn nó, không phải màu xanh mà trái lại màu xám màu đen. Cám ơn loài người, vì con tim nhân đạo để thằng bé tiếp tục có mặt, hai chân gầy tong teo, mắt trũng vì nước mắt đã đổ ra quá nhiều. Cái tôi của tôi là thế. Xin đừng tội nghiệp dùm tôi. Tôi vui lắm mà. Tôi có những chú chim trên núi, có những chú còng dưới biển. Không biết có bao nhiêu ngọn sóng đã thấy tôi nô đùa, tim như ngừng đập khi chờ chúng lù lù tiến vào bờ. Và nắng và mặt trời chói lọi, đã làm làn da tôi sạm đen. Biển đã bao bọc tôi khi tôi buồn, đêm nằm trên bãi cát nhìn lên bầu trời mà tìm một vì sao. Người ta nói mỗi người có một vì sao chiếu mạng, tôi cứ nghĩ trên ấy là một thế giới khác, với những bà tiên hiền dịu, khác với thế giới khắc nghiệt mà tôi hiện đang sống… Cát lạnh, gió lạnh, đêm càng tối đen, để sao càng thấp xuống. Chòm đại hùng tiểu hùng hay chòm thần nông hay người cấy lúa, tôi miên man tìm. Rồi ngoài khơi, thuyền câu đêm san sát, tạo thành một vệt dài ánh sáng lung linh trên mặt biển đêm như một chuỗi kim cương. Và trong cõi im ắng, chỉ có lời biển ru, đưa trí tưởng tượng thằng bé bay cao, bay xa… Ôi những giấc mơ tuổi nhỏ. Những giấc mơ tội nghiệp. Giấc mơ đưa tôi bay đến những hoang đảo như trong truyện Robinson Crusoe hay qua bên kia sông Cái, đến tận những dãy núi mịt mùng. Nơi đó là chiến khu như lời mẹ tôi vẫn hay hát khi bà ru đứa con bà: Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều. Êm đềm tiếng suối reo ngàn thông réo… Hay những bài học dạy thời nhỏ dại của Bằng Phong: Họ là những anh hùng không tên tuổi… Tôi mơ một ngày tôi sẽ vượt qua sông Cái, để trở thành một người lính bộ đội đánh Tây. Tôi mơ một ngày có mặt dưới cánh rừng phia cuối trời, mà tiếng hát của mẹ mỗi ngày cứ đẩy trí tưởng tôi bềnh bồng cùng giòng suối, cùng chim muông, cùng những anh hùng vô danh…
Mẹ lại tiếp tục đẻ con. Lần này là con gái. Cả nhà mừng lắm. Kể cả bà vợ lớn của bác. Vì tất cả con của bác toàn là con trai.
Tôi lại một phen cực thêm. Ngày mẹ nằm nhà hộ sinh, tôi xách cơm nuôi mẹ. Và sau khi mẹ về nhà, tạm thời chưa dám làm việc nặng, tôi lại thay bà gánh nước, nấu nước sôi, hay mua rượu cho bác. Sau đó. mẹ trở lại với hai đôi thúng trĩu nặng. Tôi lại phải thay mặt mẹ bồng, ẵm em giúp mẹ khi mẹ bận bịu ngoài chợ.
oOo
Mùa đông ấy trời giá rét hơn mọi khi. Một trận lụt vừa dứt. Làng xóm trở nên tiêu điều. Những hồ rau muống ngập nước bùn, những cọng rau xanh bò lan trên mặt nước. Những gốc cây dừa, xoài, ổi, mít vẫn còn thấy một màu xám của đất bùn còn sót lại. Con đường từ xóm lên đường quốc lộ trở nên nhão nhẹt. Bầu trời u ám lạ lùng. Mưa phùn tạt vù vù cùng với gió buốt da buốt thịt. Mưa đã giam cầm bước chân hoang đàng của tôi. Tôi đứng trước hiên nhà, hai chân thúc thủ. Mẹ đang cho con bú. Nơi này là thế giới của mẹ con chúng tôi. Bên kia là cửa hông đóng kín mít. Cùng là một nhà, nhưng ở bên đó là thế giới khác. Một thế giới hoàn toàn trái ngược với cái thế giới ở đây, với chiếc giường tre, với những thúng, những gánh, những nải chuối bồ hương, những trái thanh long, những rổ hột gà cùng cái phản mà tôi ngủ.
Bỗng nhiên tôi nghe tiếng chó sủa. Mưa tạt vào mặt khiến rất khó để nhận ra người lạ mặt. Tôi chỉ thấy lờ mờ một người đàn bà khoác chiếc tơi lá đứng bên hàng giậu. Gió và mưa làm át tiếng nói của người đàn bà.
- Em ơi, cho tôi hỏi thăm. Có phải đây là nhà bà Án?
Tôi trả lời. La thì đúng hơn:
- Bà tìm lộn nhà rồi. Ở đây không có bà nào là bà Án hết!
Bỗng có tiếng mẹ ở phía trong nhà:
- Cái gì thế Tý?
Tôi quay đầu lại, nói:
- Có một bà hỏi bà Án. Con nói không có ai tên Án hết.
Nhưng mẹ đã bước ra ngoài sân, dưới mưa. Mẹ nói:
- Phải, tôi là Án đây!
Có tiếng mừng kêu:
- Thưa bà. Tôi là Bảy đây!
- Bà Bảy. Sao bà tại biết tôi ở đây?
- Chú Tuất chỉ. Chú ấy bảo bà làm công ở tiệm phở Ngọc Lợi dưới chợ Đầm…
Mẹ quay sang tôi, ra lệnh:
- Con mang vở học bài đi. Để má nói chuyện.
- Cậu nào đó, thưa bà?
Bà Bảy hỏi.
- Thằng Tý đó.
- Cậu Tý đó sao? Chao ơi là lớn!
Mẹ nói:
- Nó hoang nghịch lắm, bà Bảy ơi. Không ai dạy nó được.
Tôi chẳng bận tâm gì đến lời trách của mẹ. Với tôi bây giờ là người đàn bà lạ, tại sao lại quá quen thuộc với mẹ, tại sao bà lại gọi mẹ là bà Án.
Rồi mẹ nói thêm:
- Bà Bảy là vú của con đó.
Tôi không hiểu:
- Vú là gì, hở má?
- Vú là người bồng ẵm con giúp dùm má khi con còn nhỏ.
Bà Bảy gạt nước mắt. Xem bà rất nể trọng mẹ.
Tôi lấy vở học bài, tuy nhiên lòng tôi không yên. Tai tôi vẫn nghe tiếng rầm rì to nhỏ của hai người đàn bà, và tiếng khóc tấm tức của bà mà mẹ nói là vú nuôi tôi. Căn chái đèn điện mờ in bóng hai người trên vách. Bên ngoài trời vẫn mưa lớn. Tôi nghe mơ hồ cái tên Thanh xa lạ nào đó mà hai người trao đổi. Nhưng tôi chẳng bận tâm. Mẹ lúc nào cũng bí ẩn như gỗ đá. Ngay cả lai lịch của tôi mẹ cũng không bao giờ mẹ cho biết nữa. Huống hồ là mẹ.
Đêm hôm ấy, vú Bảy ngủ chung với tôi. Lần đầu tiên tôi mới được một người khác giúp tôi giăng mùng, trải chiếu. Tôi đã mất sự săn sóc ấy rất lâu, không, chẳng có đâu để nói mà mất. Sự săn sóc ấy làm tôi cảm thấy ngượng. Và khi mùng giăng ra rồi, bà lại soi đèn đập muỗi nữa. Đó là chuyện hết sức lạ. Tôi không thể hiểu tại sao bà lại bận tâm đến những con muỗi tí ti như thế. Thì chúng hút máu thật. Nhưng đâu có nghĩa lý gì so với cả vòi máu cam đã no nê tuôn ra khỏi mũi khi mẹ tát ngay sóng mũi của tôi. Tôi lại để cho nó chảy, không cần ra bể nước hít vào thành xi măng hay dùng lá trầu quấn và nhét vào lỗ mũi để cầm lại. Tôi muốn người ta thấy. Tôi chẳng cần ai thương hại tôi hết.
Rồi vú Bảy nằm bên cạnh tôi. Vú thầm thì:
- Con thương má con không?
Tôi im lặng. Tại sao vú lại hỏi một câu vô duyên đến thế. Mẹ đâu có thương tôi sao tôi lại thương mẹ. Nhưng có khi tôi thương mẹ ghê gớm. Lúc mà mẹ lật áo lên để xoa dầu khuynh diệp hay xát muối vào vết roi bầm trên lưng tôi. Lúc ấy mẹ nói như khóc: Con có biết mỗi lần đánh con đau, má khổ lắm không. Con người ta là con vàng con ngọc. Con đừng chọc chúng…
Đó là lúc tôi thương mẹ tôi nhất. Cố gắng cắn răng để khỏi bật khóc, nhưng cớ sao tôi lại khóc mùi. Lúc này bà chính là mẹ đích thật của tôi. Lúc này đôi cánh của con gà mái đã phủ xuống để che chở con khỏi loài diều hâu dữ dằn. Tôi nói, để biện hộ hành động của mình: Tại nó cứ bảo vì con là thằng con không cha nên mất dạy…
Thấy tôi im lặng, vú Bảy tấm tức khóc:
- Ngày xưa con được cưng chiều, có người hầu kẻ hạ. Ngày xưa, vú bồng đút cơm, đút cháo, thay áo thay quần cho con. Ngày xưa, vú ở bên con suốt ba năm, con nói con thương vú hơn thương má… Bây giờ, thấy má, thấy con khổ, vú đau lòng lắm.
- Vú nói ngày xưa nhà mẹ giàu?
- Phải. Nhà mẹ giàu lắm.
- Con có ba không?
- Ơ, thằng này nói lạ kỳ. Không có ba sao lại có con.
- Sao bọn nó nói con là con hoang không cha?
- Không phải. Con có cha có mẹ. Nhà có người ở. Có chú Tuất giúp làm vườn. Đất rộng nuôi cả bầy ngựa lận. Ngày xưa con hay đòi chú Tuất cho con cưỡi ngựa. Có lần con ngựa lồng lên, khiến con bị té, gãy cả xương tay. Từ đó, mẹ không cho con cưỡi ngựa nữa.
Chợt vú vuốt tóc tôi:
- Con còn nhỏ chưa hiểu đâu. Lớn lên rồi con sẽ hiểu.
- Sao vú lại kêu mẹ con là bà Án? Mẹ tên khác mà?
- Án là tên ba con. Ông giàu lắm. Cả thành phố đều biết tên ba con.
- Sao ba mẹ không chịu ở với nhau, hở vú?
- Tại cái số hết con à. Rồi lớn lên con sẽ hiểu. Con nên thương mẹ, con đừng ghét mẹ con.
Rồi giọng bà sụt sùi:
- Ngày xưa vú không cửa không nhà, được mẹ mang về giúp đỡ. Vú không thể quên ơn nghĩa ấy đâu.
Chợt có tiếng của mẹ vọng sang:
- Bà Bảy ơi, để nó ngủ ngày mai còn phải dậy sớm nữa.
oOo
.
Như vậy, qua vú Bảy, tôi được biết phần nào nguồn gốc của gia đình và một phần nào lai lịch mình. Có nghĩa là tôi được sinh trưởng trong một gia đình khá giả, được kẻ hầu người hạ, được chú Tuất cho cưỡi ngựa trong trang trại rộng mênh mông. Nhất là tôi có ba. Ba hay cha. Cái tiếng mà tuổi thơ của tôi không được diễm phúc có được. Cái tiếng mà tôi mơ ước, để nuớc mắt phải lạnh cả má, cả mặt phản gụ. Cái tiếng đã làm cuộc đời tôi bị dìm xuống dưới tận bùn sình dơ bẩn. Ba. Cha. Ông đã bỏ tôi, để lại nơi mái nhà này một con ngựa con côi cút, giữa một thế giới loài người ác độc. Cái tiếng cả mọi đứa bé trên cõi đời này để hãnh diện, nhưng chỉ riêng một mình tôi là không có. Tôi lại càng phản kháng nhiều hơn, ương ngạnh nhiều hơn. Có lần mẹ bắt tôi phải xin lỗi tôi cắn chặt môi, như cố chịu những cơn đau vô tận, không chịu mở miệng. Tôi lì lợm tránh đỡ những lằn roi tới tấp. Mẹ thấy vậy, càng điên cuồng, càng tìm cách để tôi phải nghe lời bà. Tự ái của bà càng bốc lửa. Đến nỗi bà trói tôi lại, khi tôi cố gắng vùng vẫy muốn chạy thoát. Có khi mẹ buộc hai tay tôi vào hai cột trụ của cây xích đu ngoài sân. Có khi đầu tôi bị cạo trọc. Xin cho tôi ngừng thở ở đây. Không phải tôi viết ra đây để trút hết nỗi hận lên trên trang giấy. Tôi muốn nói là tất cả lỗi là do tôi, chính tôi đem cho mẹ tôi sự phiền não. Cái phận làm hầu làm bé đã làm bà bị tủi nhục, thêm thằng con riêng ương ngạnh này nữa, làm sao bà lại không trút hết cơn giận xuống đầu tôi? Hở?
Có khi tôi thoát được, lao vào trong bóng tối. Tôi ẩn mình trong vườn mía của nhà bác Sĩ gái. Tiếng mẹ thất thanh trong đêm, như tiếng gọi tuyệt vọng từ một kẻ bất hạnh: Tý ơi, mày đâu rồi, con đâu rồi, sao tôi khổ như thế này hả trời?
Tôi nghe mà khóc. Trên cao, xuyên qua kẽ lá mía, những vì sao nhòa nhạt. Chúng cũng mờ nước mắt như tôi. Cả người tôi run. Lạnh và đau bầm cả thân thể. Tôi muốn rời khỏi cái địa ngục này lập tức. Tôi muốn đi thật xa, thật xa. Tôi chẳng luyến tiếc gì cái mảnh đất mà người ta gọi là thiên đường tuổi nhỏ này. Bên ngoài đám người xách đèn bão đi tìm tôi. Chắc là bác bắt họ đi tìm. Bác sợ tôi rồ dại bỏ nhà chạy trốn chăng. Tôi càng im thin thít. Phải, tôi ao ước, vú Bảy có mặt bên tôi lúc này. Vú ơi, chỉ có vú mới thương con, mới hiểu con. Chỉ có vú mới an ủi con. Nhưng vú thì ở xa, vú có nghe con nói không.
Sau đó, tôi bò ra khỏi vườn, tìm xuống ruộng rau muống, và chạy bừa trên ruộng rau. Tôi nhắm hướng phố mà chạy. Chạy đến nhà ga. Tôi sẽ trốn theo con tàu mà rời khỏi căn nhà địa ngục này. Không cần biết đi đâu về đâu. Không cần biết chỗ nào để tạm trú. Cứ đi. Đến trạm ga cuối cùng, rồi xuống. Rồi tìm một vỉa hè, một góc phố.. miễn là thoát khỏi.
Nhưng tàu không thấy đâu, chỉ thấy đám lính Lê Dương say rượu la hét inh ỏi. Tôi lại bước đi. Gió đêm làm châu thân tôi lạnh cóng. Lúc này, trận đòn đã bắt đầu thấm đến xương tủy. Tôi tìm đến một ngôi nhà mập mờ đèn xanh đỏ mà sau này tôi mới biết đó là nhà thổ để đám lính Lê Dương tìm đến giải trí. Tôi thấy lũ trẻ đánh giày. Có đứa trạc tuổi tôi. Những người đàn bà má phấn môi son đỏ chót ngồi trên lòng mấy gã Tây trắng Tây đen. Một vài gã Tây duỗi chân, để giày trên thùng gỗ. Một thằng đánh giày đang dùng giẻ đánh bóng. Miệng nói xi xô. Gã Tây phá lên cười, rồi vuốt đầu thằng nhỏ.
Bỗng nhiên, tôi bị ai lôi. Người gác cửa đã phát giác tôi. Gã nạt:
- Thằng nhóc, mày biết chỗ này là chỗ gì không?
Thật sự tôi không biết. Gã lại nói tiếp:
- Con nít chưa có lông mà bầy đặt. Bộ mày muốn thèm vào trong đó hay sao?
Rồi gã đuổi tôi đi chỗ khác.
Tôi lại tiếp tục đi mà không biết đi đâu nữa. Thành phố giới nghiêm, tôi chợt nhớ. Tôi đã làm một việc mà từ trước đến giờ tôi chưa bao giờ làm. Tôi đã bỏ đi. Nhưng bây giờ càng hiểu tôi cần mái nhà. Tôi cần chiếc mền, chiếc chiếu. Tôi cần chịếc áo ấm mặc đỡ lạnh. Tôi cần ánh đèn để tôi học bài. Thầy Minh sẽ không tha bất cứ đứa nào làm biếng. Nhưng hình ảnh thằng bé đánh giày trạc tuổi, đã ghi khắc vào tâm trí. Nó sướng hơn tôi nhiều, Có ngày tôi cũng phải như nó. Thà cam khổ, nhưng ít ra, cũng thoát khỏi cái căn nhà địa ngục.
Cuối cùng, tôi lại lủi thủi trở về. Tôi sẽ xin lỗi mọi người. Dạ, con trót dại con hứa sẽ không tái phạm nữa.
oOo
Sau lần vú Bảy gặp mẹ tôi, mẹ hình như có điều gì không ổn. Một hôm mẹ mang về cả một giỏ thuốc Tây, được ngụy trang trên mặt là trứng gà. Bắt đầu từ đây, bà có những chuyến đi bất thường, bí mật. Và những người lạ mặt mà đa số là đàn bà xuất hiện một lần ở góc đường, góc chợ rồi sau đó biến đi. Thời bấy giờ, thành phố chỉ có một nhà thuốc Tây duy nhất. Mẹ hay sai tôi đến để mua những viên kí ninh hay Aspirin. Chẳng những thế, bà còn nhờ đám trẻ con trong xóm mua dùm, và thưởng chúng vài đồng bạc cắc… Trong buồng tối của nhà, mẹ giấu đầy thuốc Tây. Có khi mẹ giả làm một người đàn bà có bầu, để qua mặt những mật thám công an trong thành phố. Có khi mẹ rời nhà vào ban đêm. Mẹ đi đâu, tôi nào có biết.
Căn nhà ngày xưa có cột trụ chính là bác, bây giờ là mẹ. Bác buồn vì thất bại này sang thất bại khác nên cứ ngồi ủ rũ suốt buổi bên chai rượu trắng. Phần tôi, bây giờ càng lớn càng hiểu thân phận của mình. Tôi hẩm hiu cùng chén cơm nguội và nỗi buồn trước tuổi. Tôi hay khóc thầm. Đến nỗi mắc thêm chứng bệnh khóc đêm. Đêm nào tôi cũng khóc. Phản gụ lạnh đẫm cả nước mắt. Tiếng côn trùng, ếch nhái ngoài đêm càng làm tăng thêm nỗi buồn.
Một ngày, tôi vẫn còn nhớ, một chiếc xe díp sơn màu xanh, phía sau bít bùng, bỗng nhiên đậu lại trước nhà. Vài kẻ lạ nhảy xuống xe, ào vào nhà. Họ vào buồng, lục lọi sau đó lôi ra những bao, giỏ đựng đầy thuốc Tây và cả bọc luơng khô mà tôi đã bí mật giấu. Và họ bắt mẹ dẫn ra xe. Tôi chạy theo bà. Họ cản lại. Bé Thương, em gái cùng mẹ khác cha với tôi, khóc ré lên. Nó vẫn còn đang trong thời kỳ bú sữa. Mẹ quay lại nói với tôi: Con gắng săn sóc em dùm mẹ nghe con.
Rõ ràng, những lọ aspirin, hay trụ sinh không phải để cứu người nhưng là những mầm tai ách.
Không ai có thể cứu mẹ tôi. Không ai có thể giúp bà thoát khỏi những
trận đòn tra tấn. Tôi không hề thấy lũ mật thám tra khảo bà, nhưng mỗi
lần đến nhà lao Nha Trang để thăm nuôi, tôi vẫn thấy cả gương mặt của bà
bầm tím, tóc tai rũ rượi. Tôi từng nghe những vụ tra tấn người tại nhà
lao Nha Trang. Những kỹ thuật tra tấn quá sức dã man như chạy điện, đổ
nước vào mồm, tra khảo, treo ngược, dí điếu thuốc cháy vào đầu vú hay
cửa mình… Đó là chưa kể những cảnh thủ tiêu người như bỏ bao bố nhận
chìm dưới sông… Không biết có dân tộc nào trên thế giới này lại sản sinh
ra một nghệ thuật tra tấn cao độ, siêu việt như ở xứ sở này không.
Người ta thường kể nơi này nhiều ma vì bọn mật thám tra tấn người đến
chết rồi dập xác ở khu đất kế cận. Ban đêm, những oan hồn kéo về đòi
mạng, khóc lóc thảm thiết. Tiếng hét thảm khốc vẫn thường nghe từ căn
lầu nằm giữa bốn bờ thành cao cắm đầy miểng chai và chằng chịt hàng rào
dây kẽm, bên con đường ra bờ biển khiến lũ trẻ chúng tôi sợ phải qua đó.
Bây giờ mẹ tôi lại bước vào ải ngục ghê rợn ấy. Ai làm cho mẹ tôi phải
bị đày đọa đến thế này. Ai cứu bà, ai giúp tôi khỏi bồng ẵm đứa em mới
mấy tháng, một tay kia xách chiếc cà-men cơm mỗi ngày đến để nhìn bà tơi
tả tả tơi sau những song sắt? Tôi đưa miệng con bé áp vào trong song
sắt, và bà kê vú bà ra ngoài song cho con bú. Mắt bà thâm quầng.Trời ơi,
tại sao bà lại chọn con đường này? Sau này, tôi vẫn mang câu hỏi: Không
hiểu vì bà muốn cứu giúp gia đình trong cơn nghiệt ngã, hay tại tấm
lòng yêu nước của bà ? Tại sao bà cứ hát ru hoài những lời ca tụng chiến
khu, kháng chiến khi ru các em tôi ngủ: Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều. Êm đềm tiếng suối reo ngàn thông réo…Mà
mỗi lần như thế, tôi như bị mê đắm theo lời hát đầy xúc cảm của bà. Mê
đắm đến độ cứ mơ một ngày vượt qua bên kia sông Cái, về phía những rặng
núi chìm trong mây, nơi mà người ta gọi là chiến khu. Ở đó, họ phải cam
khổ và thiếu thốn lắm. Bởi vậy tôi đã giấu mẹ, dành dụm, góp nhặt những
phần gạo, hay khô, cả bút mực, gói một bọc bằng giấy dầu, ngoài viết:
“Gởi anh bộ đội”, chờ dịp. Tôi nghĩ mẹ sẽ biết và sẽ giúp chuyển dùm
tôi.
Nhưng tôi làm sao ngờ chính bọc ấy lại là một tai vạ. Bởi vì nó là
một cớ để buộc tội mẹ tôi tiếp tay với phe kháng chiến khi đám mật thám
xét cái buồng tối mà mẹ giấu rất nhiều thuốc Tây.
Như vậy, xin đừng đánh đập mẹ tôi. Tôi đã khóc khi van những người có
mặt trong nhà lao Nha Trang. Tại sao họ lại bắt mẹ, khi bà chỉ mua bán
thuốc Tây. Mẹ không chứa súng ống, chất nổ, hay chứa chấp quân kháng
chiến, đàng này mẹ góp phần trong việc cứu người, sao lại bắt bà. Trời
ơi, làm sao tôi có thể hiểu được. Tay tôi nặng vì phải bồng ẵm em
Thương, và một tay kia thì xách cà-men cơm. Đó, mẹ giúp cả nhà, mẹ cam
khổ để mang tiền bạc về, để mỗi ngày có những bữa cơm hay lít rượu
trắng, nhưng khi mẹ gặp nạn thì chẳng ai có thể giúp bà. Em Thương khóc
vì khát sữa. Tôi dỗ. Tôi bồng nó chạy cho mau. Tôi chạy từ Rộc Rau
muống, lên tận Nhà Đèn, rẽ trái về phía biển. Tôi chạy, đôi chân gầy,
khẳng khiu, không nhìn thấy bầu trời xanh mà chỉ nghe tiếng khóc đòi
đoạn. Tôi chạy giữa hàng muồng vàng thắm ở gần Nhà Đèn và hàng me keo
đầy trái chín. Tiếng khóc của em tôi như làm vỡ cả tim tôi. Tôi không
thể dỗ nó cho nín mỗi khi nó đòi sữa. Không ai có thể thay mẹ để dỗ nó
được. Và cứ thế, một tay xách cà-men thăm nuôi, một tay bồng nách đứa
em, tôi đã thay mặt mẹ để làm vú nuôi giữ trẻ từ dạo ấy.
THƠ BÀNG BÁ LÂN
THƠ TRẦN HOÀNG ANH
MÜa
Mưa mưa rơi ngàn cây,
Sấm vang vang buồn thay.
Tiếng đêm đi trầm tịch
Em yêu, chàng có hay?
Mưa mưa rơi ngoài sân
Yêu chàng dài vô tận...
tỏ tình
Hôn em trong vườn thơm hoa bưởi
Hương sương đêm
Và hương thân thể em
Anh thì thầm
Qua làn tóc mềm
Yêu em.
tình yêu cho một thành phố
Thành phố nhỏ như một cái hộp nhiều ngăn,
Không chưá nổi tôi khi tôi vừa lớn,
Không tha thứ được tôi khi tôi nổi loạn vì trưởng thành.
Thành phố nhỏ như một tấm lòng chật hẹp
Không dung túng tôi phóng khoáng trêu đùa,
Không chấp nhận tình yêu vượt thói lề khuôn sáo.
Thành phố nhỏ như một tấm gương
Người ta tha hồ ngắm nghía khen chê
Quên rằng có cả mình trong đó.
Thành phó, tôi cứ yêu thành phố,
Thành phố nuôi tôi lớn lên và ôm chặt lấy tôi
Thành phố có thân nhân và người tình chen chúc sống.
Thành phố, tôi cứ yêu thành phố,
Thành phố dạy dỗ và trừng trị
Vâng , tôi cứ yêu thành phố,
Vì từ đó người lữ hành bắt đầu khởi bước ra đi.
(Thơ Trần Hoàng Anh)
NHÃ CA * RẮN HỒNG
Rắn Hồng
Tác giả: Nhã Ca
Thể loại: Truyện Ngắn
háng
Bẩy năm Quí Mùi (1883), đời vua Hiệp Hòa, hải quân Pháp do tướng
Courbet và Toàn quyền Harmand chỉ huy tiến đánh cửa Thuận An. Trong ba
ngày, từ 15 tới 18 tháng 7, thành Trấn Hải vỡ. Quan trấn thành là Lê Sỹ
cùng Lê Chuẩn tử trận. Hai ông Lâm Hoành và Trần Thúc Nhẫn thì nhẩy sông
tự tử.
Trận chiến thất thủ Trấn Hải Đài đưa tới việc
triều đình Huế phải ký hòa ước Quí Mùi 23 tháng 7, dâng trọn nước Nam
cho người Pháp, chỉ được sử sách ghi sơ lược như trên. Riêng ngư dân Cửa
Thuận, hơn nửa thế kỷ sau, còn bảo nhau: đêm đêm, nhìn lên Trấn Hải
Đài, vẫn thấy quan trấn thành Lê Sỹ cưỡi một con "hồng xà" đôn đốc ba
quân xáp chiến với giặc trên bờ thành.
Sao ông Lê Sỹ không cưỡi ngựa hồng mà lại cưỡi rắn hồng?
Cô bé Mi Ki, từng sống thời thơ ấu ngay trong khu Trấn Hải Đài, nói:
"Đâu thấy con ngựa nào. Chỉ toàn rắn là rắn. Chính mệ Ủy cũng gọi rắn là ngựa hồng của mệ."
Mệ Ủy từng là "bạn già" của cô bé. Thời ông Lê
Sỹ đã có mệ. Thời Pháp, thời Nhật, thời Việt Minh lên rồi lính Tây trở
lại, đều có mệ cả. Có hồi cô bé còn nghe người ta nói mệ Uỷ chính là
rắn, con rắn biết lột vỏ sống đời, vì mệ sống lâu cả trăm tuổi.
...
Nhà mệ Ủy nằm sát phía bờ ngoài của thành lũy
bao quanh Trấn Hải Đài. Ngay cạnh nhà, có cây bồ đề mọc chòi lên bờ
thành. Cây cũng cổ thụ lắm, rễ đâm từ trên thân xuống từng chùm, quấn
quít, quằn quại, nhìn xa như một ổ rắn khổng lồ.
Căn nhà tuy cũ kỹ, thấp, tối, nhưng có những cột
gỗ lim chạm trổ hình rồng phượng. Cột to bằng cả vòng tay người lớn ôm.
Bên này câu liễn, bên kia câu đối sơn son thiếp vàng. Bàn thờ lớn,
chiếm hết căn giữa, bày chi chít bài vị, trùm một loạt khăn đỏ khăn
vàng, lâu đời rồi, cái sờn cái rách. Nhà cửa tối tăm nhưng loại này khi
xưa, cũng là hạng giàu có, quan gia chi đây.
Mệ Ủy sống với một người con trai cũng đã già,
tóc râu điểm muối tiêu, nhưng dáng người vạm vỡ, mặt vuông, hồng hào, có
nét uy nghiêm mà cũng có nét phúc hậu. Có năm, đoàn hát bội về diễn
tích Quan Công, dân làng đi coi, chê: Để cho anh Ủy đóng Quan Công mới
là hợp. Người con trai tên Ủy, không thấy có vợ con, người trong làng
lớn nhỏ gì cũng gọi là anh Ủy, còn bà già, gọi là mệ Ủy. Có phải là dân
các Mệ trong nội ra không? Liên hệ gì giòng dõi hoàng tộc mà kêu bằng
mệ. Đâu ai biết!
Làng Thuận An là một dải đất bao quanh phá,
sông, biển. Cả vùng đất ẩm, chỉ duy nhất một ngọn đồi Trấn Hải Đài cao
ráo. Chim chóc cũng nhiều, làm tổ trên các cành cao cành thấp, trứng
chim cun cút, thứ chim lủi trong bụi như gà, không bay cao. Các loài
chim, trứng chim là thức ăn bỗ dưỡng cho rắn. Thôi thì đủ loại rắn, cắc
kè, thằn lằn, làm như hàng trăm ngàn loài bò sát đều dồn lên khu đồi
Trấn Hải.
Suốt cả con đường rộng dẫn tới làng, hai bên đều
đất đồi hoang soai soải, chỉ duy nhứt có căn nhà của mệ Ủy, không hiểu
sao lại lọt vào đây.
Dân làng đồn rằng, ông Lê Sĩ chết vào giờ thiêng
nên linh lắm. Dân chài ra biển từ nửa khuya, nhìn lên, thấy trên cửa
thành ông Lê Sĩ cưỡi con hồng xà đốc quân xáp chiến, hai bên quân lính
đánh nhau, còn nghe cả tiếng binh khí va chạm chát chát. Đó là những
đoàn quân đã thành ma, đến giờ thiêng thì sống lại. Có thể vì ông Lê Sĩ
cưỡi con Hồng Xà, nên dân làng không dám giết rắn, nhất là rắn trong cổ
thành. Nhưng mệ Ủy thì khác. Dân làng kháo nhau là bà ta ăn thịt rắn mà
sống!
Mệ Ủy là khắc tinh của loài rắn. Không biết từ
bao lâu và bằng cách nào, mệ Ủy bắt rất nhiều rắn, nhốt vào những lồng
kín, giao hàng cho một số ghe chài từ các nơi ghé nhận.
Người ta đồn, mệ Ủy đã bắt được một con hồng xà,
mình thon, nhỏ mà dài hơn thước, trên lưng, chạy từ cổ tới đuôi một lằn
dài đỏ hồng như lửa than cháy sáng. Đúng là loại rắn quí ông Lê Sỹ cưỡi
thay chiến mã. Vậy mà mệ Uỷ vẫn lột da, bằm thịt, nấu nướng bằng được.
Dọn lên, hai mẹ con cùng ăn. Mệ Uỷ ăn thì không sao, nhưng anh Ủy ăn
xong, trợn trắng mắt, ngã vật xuống. Lúc cứu tỉnh thì anh méo miệng, đơ
lưỡi, ú ớ mà không phát ra tiếng người được nữa. Càng ngày người anh
càng rút nhỏ lại, và nằm liệt một chỗ.
Từ đó, vào những đêm trăng sáng, có bóng người
cao lêu khêu, trắng toát, xõa tóc cầm chiếc thanh la đi quanh bờ thành
mà gõ. Đó là mệ Ủy, bà gõ thanh la cho con hồng xà đực có vồng lửa than
hồng trên lưng phải ngóc đầu lên, bò ra cho bà bắt. Mệ Ủy quả quyết hồng
xà có cặp. Máu thịt con mái trong người anh Uỷ đang... động đực. Chỉ
cần lấy máu con hồng xà đực là Mệ sẽ cứu được anh Ủy. Rắn thì vẫn vô số
đó. Nhưng không thấy con hồng xà đực. Phải làm cho nó bà trở nên điên
loạn, giữa đêm trăng bà thường kêu la:
"Ngựa hồng ta đâu. Bớ ngựa hồng..."
Vậy là con rắn hồng đã biến thành ngựa hồng. Chiếc thanh la cùng gào lên với mệ Uỷ. Nhưng đêm thì vẫn đui vẫn điếc.
...
Trấn Hải Đài nằm trên ngọn đồi cao, phía trước
nhìn xuống cái vịnh nhỏ, phía sau, đồi trườn soai soải dẫn tới một khúc
sông cụt. Tiếp nữa là bãi cát và rừng đương xanh rì, nối liền hai làng
Thái Dương Thượng, Thái Dương Hạ, xuống tận làng Eo, làng Hà, làng Trài,
chạy dọc song song với con đê cao ngăn sóng mùa bão lụt. Qua con đê, là
bãi cát trắng phau, soải dài đón những đợt sóng liếm láp ngày đêm.
Pháp đi, Nhật tới. Trấn Hải Đài không còn là đồn
binh mà thành Sở Công Chánh. Có hồi chiến tranh lộn xộn, sở công chánh
rút về thành phố Huế. Cả một Trấn Hải Đài mênh mông, chỉ còn để lại gia
đình một nhân viên ở lại trông coi. Ông chồng được gọi là thầy Thông, vì
ông ta làm thông ngôn thời Pháp, cả thời Nhật, và là một trắc họa viên
của Sở Công Chánh. Ông bà Thông có hai con, một trai, một gái. Mi Ki
chính là đứa con gái, hồi đó mới chừng năm sáu tuổi. Cả nhà, chỉ có bốn
mạng kể trên, hàng ngày sống trong khu thành Trấn Hải đầy rắn.
Cả làng không có lấy một trường tiểu học, đa số
người già, có chút đỉnh chữ Nôm cũng không dùng làm gì giữa lúc giao
thời này. Cho nên đơn trương, khai sanh, khai tử, các thứ giấy cho thủ
tục hành chánh, dân làng Thuận An thời đó đều nhờ thầy Thông giúp. Dứt
liên lạc với Sở một thời gian lâu, gia đình thầy Thông vẫn sống khá sung
túc. Giúp dân làng nay giấy mai tờ, tuy thầy Thông không chịu nhận thù
lao, nhưng dân làng biết ơn lắm. Đi chài về có con cá ngon, đem "kỉnh"
thầy Thông, lưới được mớ tôm cá còn nhảy nhảy, cũng nhớ tới ơn nghĩa.
Đất đai trong Trấn Hải Đài mênh mông, có khu
dùng trồng bắp, có khu trồng khoai lang, khoai mì, rau cải. Quanh bờ
thành, ngoài những cổ thụ rậm ri, còn chen vào những cây ăn trái, nhãn,
thanh trà, ổi, cây hồng quân nên hoa lợi quanh năm.
Vậy là trong bờ thành, chỉ có gia đình thầy
Thông. Ngoài thành, chỉ có nhà Mệ Ủy. Năm con bé Mi Ki lên sáu thì mệ Ủy
đã ngót chín mươi.
Sống trong Trấn Hải Đài, con bé gần như cách
biệt với thế giới bên ngoài. Bước ra khỏi nhà, là con bé thấy rắn. Có
rắn hổ, rắn mai, rắn đeo kính, rắn học trò, rắn lồng, rắn màu xanh, màu
vàng, màu lục. Leo lên lầu, mở cửa ra phía sau có một rừng thông, xuống
bực cấp, đôi khi trợt chân vì đạp phải một con rắn đang khoanh tròn,
ngóc đầu nhìn. Leo lên một ngáng cây muốn coi trộm tổ chim, đã thấy tổ
chim còn toàn vỏ và lúc nhúc trong ổ không biết bao nhiêu rắn con.
Có bữa, rắn khoanh tròn chắn trước cửa, không ai
dám đi ra, người nhìn rắn, rắn nhìn người, có khi rắn bò đi, có khi nằm
ỳ tỉnh queo. Riết rồi người với rắn như đã quen hơi nhau, con bé Mi Ki
bắt cả rắn con chơi, cho đeo qua vòng tay, nựng nịu, trìu mến. Những con
rắn con màu hồng, non nẻo, miệng nhỏ chút xíu chưa biết mổ, cũng quấn
quít hơi người. Lần nào con bé đùa giỡn với rắn con chán cũng thả xuống
bậc thang cho rắn con nằm. Quay đi một lát, trở lại không thấy, rắn mẹ
đã tha con về ổ. Người không hại rắn, rắn không thù người. Con bé đạp
nhằm rắn hoài nhưng chưa bao giờ bị rắn cắn.
Ngược lại, có một vài người dân làng bạo gan,
men theo đường hào dưới thành, bám rễ cây leo lên trộm cắt tranh, hái
trái, đào củ, có người đã bị rắn cắn mà bỏ mạng.
Con đường dẫn ra cửa thành hai bên trồng toàn
cây bạc hà cao vút, lúp xúp phía dưới là hai hàng cây sả. Sả vừa bán có
tiền, mọc như cỏ dại, không phải chăm sóc mà còn kỵ rắn, coi như là một
ranh giới đường đi giữa người với rắn không bên nào phạm bên nào. Thiệt
vậy, đi trên con đường dẫn ra cửa Đài, con bé Mi Ki chưa bao giờ thấy
một con rắn nào nằm chặn đường như ở các nơi khác.
Con bé thường một mình cố chạy cho hết con
đường, tới hai cánh cửa sắt. Đu lên cửa, có thể nhìn thấy con đường dài
dẫn tới làng. Dưới đó, có người ta, có nhà cửa, có chợ, có đình làng, và
trẻ con, nhiều trẻ con lắm. Con bé cứ đu trên cánh cửa, nhìn ra mà thòm
thèm, mơ ước. Đồ chơi của con bé là cái bong bóng lợn không bao giờ dám
thổi căng vì sợ nứt bể và da rắn lột lượm ở bờ bụi, khi rắn lột da để
lại, con bé hay quấn vài vòng nơi cổ và thả lòng thòng trước ngực.
Thình lình một vật gì trơn ướt, lành lạnh quấn
sau cổ con bé. Rắn. Con bé la lên, vùng vẫy. Vòng da rắn lột bị bứt ra,
rơi nằm ụ dưới đất. Con bé ngoái cổ lại. Không phải rắn mà là một bà
già. Chính là mệ Ủy.
Chưa bao giờ con bé mặt đối mặt với bà già này.
Ba má thường dặn khi gặp mệ Ủy thì phải tránh đi. Con bé hỏi tại sao,
người lớn nói tại vì bà điên, nguy hiểm lắm.
Bà có dễ sợ như người lớn nói không? Có, coi mặt
mũi bà nhăn nhúm, tóc tai rũ rượi mà cặp mắt dài, nhỏ, nhìn hiêng
hiếng, coi giống như mắt một loài rắn nào mà con bé đã gặp qua. Móng tay
mệ để dài, cong quắp lại như móng con diều hâu mà anh trai của con bé
đang tập vẽ, hay vẽ trên giấy.
Có nên bỏ chạy không? Chạy cũng không kịp nữa.
Bà già điên đã đứng sát bên cạnh, đôi mắt nhìn con bé như loài rắn biết
thôi miên người. Con bé đơ người lại, muốn kêu, muốn la, làm như cái
lưỡi bị trụt rồi, không kêu ra tiếng.
"Đừng sợ. Mệ không mần chi con mô."
Chết cha. Bàn tay có những ngón nhọn hoắt đưa
ra, có móc vô cổ con bé không? Con bé nhảy xuống khỏi bậc cửa đang đu.
Mấy cái móng tay lùa nhẹ lên mái tóc tơ mịn, đỏ hoe vì dang nắng của con
bé.
"Con dễ thương chi lạ. Có phải con Mi Ki không?"
Con bé mặt tái xanh như tàu lá chuối, cố gắng
gật đầu. Bà già lấy trong túi áo ra mấy cái kẹo đập gói trong miếng giấy
súc đen điu.
"Mệ cho con nì."
Ba dặn, không được lấy gì của ai cho nếu không
được ba má cho phép. Con bé thích thứ kẹo đập này lắm, nó làm bằng đường
với bột, trộn gừng. Ngậm trong miệng lâu tan lắm, vừa ngọt vừa thơm mùi
gừng quyện với mùi đường vừa cháy tới, ngon rít cả răng. Bà già điên
vẫn nhét vô tay con bé.
"Cầm đi, mệ thương."
Lưỡi con bé đã trở lại bình thường, nó nói:
"Con sợ ba má con đập chết. Ba má con chưa gật đầu, con không dám mô."
Mấy cái móng tay nhọn lại lùa vô mái tóc con bé.
"Con giỏi. Mệ cho thì lấy, mệ cho ba má con không la mô. Ba má con nể mệ lắm, con hỏi coi thì biết."
Mi Ki có biết rồi. Ba bị bịnh suyển, người ta
nói ăn cháo nấu hột đủ đủ tía một vài lần thì hết. Ba nói mệ Ủy nói
không dứt hết được, nếu mệ Ủy không cho thêm một thứ lá gì đó. Ba nghe
theo, bệnh suyển dứt hẳn.
Không biết học nghề thuốc hồi nào mà mệ Ủy có
tài chữa bệnh. Con nít sài đẹn, ghẻ lở, người lớn bị đinh râu hay mụt
nhọt, hoặc bịnh thúi tai, thúi mũi, mệ Ủy chỉ có một thứ thuốc là thứ
bột màu xám tro. Ghẻ lở thì xức, đau bụng thì hòa với nước uống, thúi
tai thì bỏ thuốc vô tờ giấy bản quấn như loa kèn, một đầu nhọn nhét vô
lỗ tai, một đầu miệng loa thì đốt, khói theo ống loa chui vô trong lỗ
tai. Anh con bé bị đau má chàm bàm, mệ Ủy cũng thoa thứ bột đó lên giấy,
quấn lại và đốt xông lỗ tai, bịnh lành lẹ lắm. Người ta nói thứ thuốc
của mệ Ủy chỉ là mấy cái vỏ rắn lột xác bỏ lại, đem sao chín, tán thành
bột cùng với những lọai lá gì không ai biết. Mệ cũng có một thứ thuốc
gia truyền gì đó, bằng lá, giã nhỏ xoa vào người, nên mới bắt rắn dễ
dàng.
Có người nói mệ Ủy có tà trong người, biết thôi
miên rắn. Nhưng từ ngày anh Ủy bị nằm liệt giường, mệ Ủy không thèm chữa
bịnh cho ai nữa. Hồi trước chưa bị bịnh nằm một chỗ, anh Ủy cũng hay vô
Đài giúp ba má đốn cái cây, sửa khoảng tường vôi bị vỡ... Hồi đó, mệ Ủy
cũng chưa thấy dễ sợ như bây giờ.
Nhưng cửa khóa, móc cài phía trong, làm sao người đàn bà này vào bên trong được. Con bé thắc mắc mà không dám hỏi.
Tối hôm đó con bé đem hai cái kẹo đập đưa cho má
coi. Hỏi ai cho, con bé nói là của mệ Ủy. Má nói, hai kẹo này ăn được,
còn nếu mệ cho thứ khác thì phải hỏi người lớn, chớ không tự tiện ăn.
Nhưng mấy lần sau, cũng chỉ là kẹo đập. Con bé
thấy không cần hỏi má nữa, coi như đã được phép. Nó ăn ngon lành. Đôi
khi bà già điên còn lấy lá dừa thắt cho con bé những con vật như con
châu chấu, con bọ dừa, con chim, và thắt được cả con rắn dài chừng hai
gang tay rất đẹp. Mấy thứ này chỉ chơi, không ăn, con bé cũng không phải
hỏi má.
Một già một trẻ, dần dà thân thiết. Người ngoài cửa thành, người trong cửa thành, chơi với nhau như đôi bạn.
"Bữa nay mình chơi chi."
"Đánh thẻ. Nẻ ô làng".
Bữa nào, mệ Ủy vô được trong cửa Đài bằng ngả
nào không biết thì kéo nhau lên trên cửa thành. Chỗ này có bàn thờ ông
Tướng giữ thành, có khoảng đất lát gạch bằng phẳng, đẹp đẽ thì chơi "căn
cù u chịu, thượng hạ cấm câu, bể đầu ráng chịu." Mệ Ủy cũng chưa bể
đầu, con bé Miki cũng không. Nhưng căn rớt xuống hào thì mất nhiều lắm.
Lâu lâu, con bé thấy mệ Ủy, cũng không biết xuống dưới bằng cách nào,
lượm đem lên trả lại một đống để chơi tiếp.
Nhưng rồi, không chỉ một già một trẻ bày trò
chơi để qua thì giờ, mà dần dà, mụ Ủy rủ con bé đi lòng vòng quanh
thành. Thường ngày, khi chơi đùa với con bé, mệ Uỷ hiền lành, có khi
cười đùa tung tăng giống con bé. Nhưng có một lần mệ làm nó kinh hoảng.
Lần đó đang đi, mệ Uỷ dưa con bé tới cửa cái hầm
dê. Đây là nơi con bé sợ nhất. Ba có lần kể khi quân Pháp chiếm thành,
quân Nam và trai tráng trong làng bị lùa hết vào cái hầm dê đó để giết.
Máu từ trong hầm chẩy ra đọng vũng ở cửa, lụt tới mắt cá chân. Chỉ nghe
vậy thôi là con bé hết hồn, chưa bao giờ dám bén mảng tới đó.
Lôi con bé lại hầm dê, chẳng thèm chơi đùa gì,
mệ Uỷ ngồi xụp xuống ngay khoảnh đất bên cửa hầm. Mệ ngồi lâu lắm, bất
động. Rồi bỗng mệ quì lết trên nền đất, hướng vào trong hầm lạy lấy lạy
để. Vừa lạy vừa la:
"Tui lạy ôn. Tui lạy ôn. Nó thật là con của ôn
mà. Ôn sống khôn thác thiêng phù hộ tui cứu nó, chỉ đường cho tui đi bắt
con hồng xà. Tui lạy ôn trăm lạy, ngàn lạy...
Mệ Uỷ lạy mãi, lạy mãi. Bỗng thình lình mệ bật
dậy, túm lấy cổ tay con bé lôi nó chạy như bay. Khi con bé được mệ Uỷ
buông ra, cả hai đã trở về cây bồ đề gần nhà mệ Uỷ. Nhìn gốc cổ thụ rễ
cây lòng thòng, quấn quít như ổ rắn, mệ Uỷ lầm bầm:
"Ở đây. Nhứt định nó ở đây."
Con bé sợ hãi lùi ra xa mà ngó. Còn mệ Ủy, mệ
lao tới gốc cây, rút trong người ra một cây sắt nhọn, mệ đâm loạn xạ vào
mớ rễ cây quấn chùm chằng chịt. Mệ già rồi mà sao mạnh quá vậy, mệ đâm
hoài, đâm không biết mệt.
"Rắn hồng. Rắn hồng. Rắn hồng..."
Rắn hồng ở đâu? Con bé chỉ thấy những rễ cây màu
xám đất buông xuống từ thân cây, từ các cành nhánh lơ lửng trên cao.
Không biết ở bên trong những chùm rễ kia, có ổ rắn nào không? Con bé sợ
quá, chỉ muốn quay đầu chạy.
Sau này, nghe con bé kể lại chuyện hôm ấy, ba trầm ngâm giây lát rồi bảo:
"Mụ lạy "ông dôn" đó. Dôn mụ là Cai binh của
quan trấn thành, bị Tây lùa giết trong hầm dê. Nghe kể hồi nớ mụ còn
tuổi đôi hai, đang mang thai anh Uỷ."
"Ông dôn" tiếng địa phương có nghĩa là ông chồng.
Từ mùa thu năm đó, con bé không còn ở gần mệ Ủy
nữa. Tháng Tám 45, Việt Minh về làng. Uỷ Ban Cách Mạng tiếp thu Trấn Hải
Đài làm trụ sở. Gia đình thầy Thông bị đuổi ra ngoài, đi ở thuê một căn
nhà nhỏ gần cầu Thương Cuộc, cây cầu gẫy bỏ không nằm ở khúc sông sâu
nhất. Nhe nói nhiều cô gái thất tình hay chửa hoang đã nhảy sông tự tử ở
đây, biến thành ma ra, mỗi đêm trăng thường hiện lên xõa tóc ngồi khóc.
Cầu nằm gần con đường làng, có cây đa rất lớn,
xung quanh chất đầy bình vôi cũ. Các bà già ăn trầu cau, khi chết, con
cháu thường đem bình vôi của người quá cố đặt dưới cây đa dâng tặng thần
cây.
Nhờ cách mạng Mùa Thu, con bé Mi Ki không còn bị
quản thúc chặt chẽ với cái thế giới đầy rắn rít bên trong Trấn Hải Đài.
Nhà ra ngoài ở, con bé phải vào đội thiếu nhi, phải đi học hát, học
múa, cả ngày, cả đêm, vui lắm.
Bọn con nít như Mi Ki được tập họp thành đội
thiếu nhi cứu quốc. Thanh niên phụ nữ được hội họp suốt đêm, nhảy
sôn-đố-mì. Tối nào dân làng cũng tụ tập ở bãi đất trống của khu chợ gần
Phá Tam Giang để coi Hội Phụ Nữ diễn kịch, kịch nào cũng riễu mấy thằng
Tây thực dân khát máu.
Mệ có nghề mới là bán bánh rán thịt. Mệ có một
cái xe bằng gỗ, thấp, có bốn bánh. Chiếc xe kéo này do anh Ủy khi còn
khỏe mạnh làm cho mệ. Giờ đây, mệ sắp bánh rán chiên dòn vô trong cái
thúng, trên những miếng lá chuối rồi ủ bằng bao bố. Khi thanh niên, phụ
nữ họp nhảy sôn-đố-mì, hay sau khi màn kịch ông Tây thực dân bị các anh
du kích Việt Minh bắt trói, quỳ lạy, thì dân làng cười thôi là cười, vì
vai đóng ông tây vào phút cuối lúc nào cũng rớt mũ giấy, rơi râu bắp,
lòi ra mặt một chị bán cá hay vợ ông chủ tịch mới được bầu. Cười xong là
đói bụng phải ăn. Những chiếc bánh rán thịt rắn của mệ Ủy vừa dòn vừa
thơm phức, hạp khẩu lắm.
Trò nam nữ sôn đố mì đêm đêm quả là cách mạng
thật. Độc lập tự do có khác, mấy cô tha hồ cho cái bụng phồng lên mà
không còn sợ cảnh bị gọt đầu bôi vôi dẫn đi rêu rao khắp làng như thời
phong kiến trước. Đêm đêm tha hồ tạp vô nhau.
Nhưng cũng trong đêm, nhiều nhà có tí máu mặt ở
Cửa Thuận bị đập cửa, những kẻ tình nghi Việt Gian bị bịt mắt đưa đi.
Sau những đêm sôn đố mì, sáng ra trên đường làng thường có cảnh thây
người bị cưa ba khúc, đầu bị chặt rời bỏ vô một cái nón rách kèm theo tờ
giấy ghi bản án tràng giang đại hải. Chẳng hiểu chữ nghĩa đâu ra mà lắm
vậy. Dân Cửa Thuận thời này, cả những kẻ vừa bị chặt đầu, vốn ít người
biết đọc.
Trấn Hải Đài nay đã là cơ sở cách mạng. Cũng
giống thời Tây mới chiếm thành, cái hầm dê trong thành nghe đâu lại là
nơi tập trung bọn Việt gian để hành hình tập thể.
Chẳng hiểu Việt Minh làm gì trong Trấn Hải Đài.
Trụ sở Uỷ Ban Cách Mạng, đặt ở cái Lầu nghỉ mát của Vua hồi xưa ở sau
rừng dương. Chính từ đây, phong trào đòi nợ địa chủ được phát động.
Giàu nhứt trong làng, có trâu, có ruộng, có chục
ghe chài cho mướn là ông Hội Thượng. Kế đó, địa chủ thứ hai phải kể là
Ông Trùm Trít, có lưới bán, lưới cho thuê, buồm, giây cột, chèo gỗ để
phục vụ ngành chài lưới.
Chẳng hiểu vì sao mệ Uỷ bỗng trở thành người dẫn
đầu đám bần cố nông đi hỏi tội địa chủ. Con nít trong làng không thiếu
mặt, bu coi, sắp một dãy dài phía sau như đi hội làng.
Nhà ông Hội Thượng có sân lớn để phơi lúa. Đoàn người phá cổng rào, tràn vào trong sân. Một người la:
"Địa chủ hút máu nhân dân."
"Hút máu nhân dân"
Một chục người la, một trăm người la. Con nít chen chúc nhau, vừa la vừa chọi đá vô hai cánh cửa đóng im ỉm.
"Kéo đầu thằng địa chủ ra đây."
Anh du kích vác súng, nhưng không lấy xuống, vẫn trên vai, mỉm cười:
"Cách mạng sẽ không tha cho bọn hút máu nhân dân, ăn trên đầu trên cổ nhân dân."
Một ông hô:
"Phá cửa. Bắn nát đầu địa chủ bóc lột hãm hiếp..."
Không đợi dứt câu, nhiều người đồng thanh la:
"Hãm hiếp."
Bà thợ Rèn là người la lớn nhất. Trước đây, dân
làng còn nhớ, chính bà ta đi đêm, chắc cũng đi nhảy sôn-đố-mì, bị hiếp
nằm bất tỉnh sau đồng. Nhờ ông Hội Thượng đã kịp thời cho thuốc thang mà
qua cơn. Còn anh Còm, làm nghề lưới, có con giữ trâu cho ông Hội
Thượng, đã nghịch đu sừng trâu, bị té xóc chút xíu lòi ruột, ông Hội
Đồng cũng thuê ghe cho đem lên nhà thương Huế cứu sống.
"Giết nó. Bà con ơi, giết nó."
"Xông vô."
Hô xông, hô giết ầm ĩ cả buổi vẫn không bắt được
ai. Cả nhà ông Hội đã im như thóc, cửa chính đóng kín mít. Anh du lích
làm ra vẻ hiền hòa:
"Cách mạng sẽ có cách để tên địa chủ này phải tự
kể tội mình ra với nhân dân. Xin đồng bào trở về, chỉ cần để một vài
người ở đây canh chừng, đừng để nó trốn đi..."
Mệ Ủy xung phong:
"Để tui. Tui nằm vạ ở cửa coi nó đi đằng trời. Nó sẽ không dám mở cửa..."
Nói là làm. Mệ Uỷ từ từ nằm dài ra sân, cởi cái
quần đắp ngang người và phần dưới thì tênh hênh, chỉ thấy toàn da là da
bọc xương, nhăn nhúm!
Người lớn cười, vỗ tay, con nít xúm trong xúm
ngoài, coi, háo hức, hăm hở. Có đứa con nít nghịch, con tới gần, cúi
xuống, sờ một cái:
"Có chi mô nà. Trụi lủi, nhớp quá."
Thằng nữa:
"Thúi hoắc. Mụ ni ba năm chưa tắm bây hè."
Người lớn kéo bọn con nít ranh ra. Nhưng đám đông vẫn đứng hoài, con nít thì vỗ tay la ó rầm trời.
Mệ Ủy không chỉ cởi quần hóng gió cho mát đâu.
Mệ bắt đầu chửi, đào xới từ tông tích họ hàng nhà ông Hội. Sao mà mệ nhớ
tên từ ông cố, ông sơ, tam họ tứ đại nhà ông Hội, kêu, chửi từng tên
vanh vách, đào từ mồ cụ sơ, cụ Cố cho tới đứa cháu nội vừa chết non. Anh
em, họ hàng ai ra sao, thằng nào léng phéng với con mụ nào trong làng,
có con rơi con rớt, thằng nào nghèo mà nhờ làm việc thất đức mà xây nhà
xây cửa, xây mồ xây mả cha ông. Ông Hội là nhiều tội nhứt, kể cả tội
trời đánh không tha là đã làm cho một cô gái trong làng chửa hoang,
không nhìn, cô gái ăn tim trái mạt sát mà chết.
Ngoài độn cát, chỉ mọc có mỗi thứ cây là cây mạt
sát, trái hình thoi, tròn như trái cau, ở giữa có một đường tim màu
vàng nhạt. Ăn trái không sao, nhưng đụng vào giải tim thì chỉ mươi phút
sau là tắt thở.
Còn bà Hội, theo bài chửi của mệ Ủy, là một co
gái đi mót lúa, bị tên địa chủ ác ôn đè cho năm lần bảy lượt ngoài ruộng
mà phình bụng, bỏ làng trốn đi. Ba năm sau, cô ta bồng thằng con trai
về, vô thẳng sân nhà ông Hội mà chửi, thề độc thề địa nếu không nhận, bà
vặn cổ thằng con rồi tự tử chết cho cả nhà ông tuyệt tử tuyệt tôn. Bà
làm ma ở ngay cái cây trước nhà để canh cho trong nhà không có một con
đàn bà một đứa con nít nào vô lọt. Lấy vợ vì kẹt, ông Hội cũng có thêm
hai ba nàng hầu.
Mệ Uỷ càng chửi càng hăng, toàn chuyện lạ tai chưa hề nghe nhưng khi nghe rồi thì cũng nhập vô người. Một bà:
"Mệ Ủy chửi đúng quá. Chuyện ni tui cũng có nghe."
Một bà già:
"Tui có chộ bữa nớ, chuyện xẩy ra trong sân nhà ni chớ mô."
"Thằng địa chủ ni nhứt dịnh phải trả nợ máu."
"Nợ máu."
"Bắn cái đùng."
"Đâm mù làm thằng chột."
"Lắt dái luôn cho rồi."
Bọn con nít được dịp nói tục cho sướng miệng.
Đám đông thay nhau, về rồi tới, tới rồi về, lúc nào cũng có người chạy rần rật ngược xuôi, bu coi mệ Ủy nằm vạ.
Ba ngày, mệ bất kể thằng con trai sống chết. Có
người tới kể cho anh Ủy nghe. Tuy không nói được, nhưng anh ứa nước mắt.
Anh vẫn thương mẹ anh vô cùng.
Sang ngày thứ tư thì đám đông kéo qua nhà ông
Trùm Trít. Mệ cũng nằm vạ kiểu lột quần hóng mát. Người lớn con nít vẫn
còn nô nức chờ. Nhưng chỉ tới chiều tối hôm đó là trời mưa. Vậy là hết
chuyện!
Mùa mưa, rồi lụt lội, kéo dài mấy tháng trời.
Cách mạng đụng mưa cũng xìu. Dân nghèo phải đem sắn khoai, mắm trữ trong
lu ra ăn. Của nhà giàu, nhờ công lao mệ Ủy nằm vạ mà thu được thì lọt
đi đâu mất, dân chỉ vỗ tay là sướng rồi. Nhiều người trong làng tự nhiên
mất tích. Lâu lâu mưa xối, bỗng thấy một cái đầu, một cái chân, bàn tay
người lòi ra khỏi cát. Ngoài sông, lâu lâu lại có vài ba xác nổi lên,
tấp vào bờ.
Ngoài mệ Uỷ, ngay từ hồi còn trong Trấn Hải Đài,
con bé còn có hai người bạn già, đó là ông Trùm Gà, ông Trùm Vịt ở tận
Doi, chỗ miếng đất cụt doi ra sông. Hai anh em ruột chỉ làm nghề chài
trên sông, không đi biển.
Chính ỏ doi đất lấn ra sông này, con bé đã nhìn
thấy mệ Ủy giao những cái lồng bịt vải kín mít xuống ghe cho các lái
buôn. Ông Trùm Gà cười, miệng móm xọm, chỉ còn một chiếc răng đung đưa,
nói: "Rắn đó."
Thời đầu cách mạng mùa thu, có bữa con bé Mi Ki
theo hai ông Trùm đi coi mấy xác người vừa bị Việt Minh về xử tử đêm
trước, khi thấy cái đầu người bị cắt treo trên cây, con bé bỗng sợ quá
khóc ré lên. Ông Trùm Gà vội bịt mắt con bé, bồng nó lên, đem ra sau
Sáo, chỗ doi đất mà người ta rào sáo là tre, từng hàng dưới nước để lùa
cá.
"Đừng sợ. Đừng sợ có Ôn nì. Có ôn."
Con bé nép đầu vào ngực ông già. Ông có cái mùi
hoai hoai, của làn da đồi mồi dơ, của thuốc rê, quần áo cũ rách, hòa với
cái mùi già nua, mùn mục, nhưng với con bé đã thành cái mùi thân thuộc.
Thấy con bé thút thít lâu quá, ông Trùm Vịt bỏ
con bé vô cái thúng lớn trét chai, bơi ra giữa sông bằng hai cái chèo
ngắn. Còn ông Trùm Gà cũng ngồi trên cái thúng trét chai dân Thuận An
thường dùng thay xuồng nhỏ, tay cầm hai cái dùi gỗ, gõ gõ: lóc cóc, lóc
cóc. Cá nhảy vô, cá lùa vô... Ông Trùm Gà hát bài đám tang cá voi của
dân làng mỗi khi có đám cá Ông....
"Hai con cá phướn dẫn đường Ông tấp vô sau Ới
ông ơi, trời sầu đất thảm Gió mưa sụt sùi Ới Ông ơi, Ông đi mô mà bụng
tui đau ruột tui thắt Ông ui là ông ui, hu hu hu hu....
Ê!
Bà nớ ơi, răng bà nằm chảng hảng chàng hang Tui giận tui xâu mũi mô mũi nấy bằng cái đùi chống cựa (chống cửa)....
Bài hát bằng cái giọng ngọng líu ngọng lo của
ông Trùm Gà, vừa thảm thương vừa tục tĩu. Con bé hồi đó làm sao hiểu
hết, nhe răng cười. Biển mặn gió muối nhuộm da con bé đen ròn, nắng phơi
tóc con bé vàng hoe. Lóc cóc, lóc cóc. Cá lớn cá nhỏ...lóc cóc, lóc
cóc...Một con rắn nước lội lăng quăng, ông trùm Gà đưa cái vợt vớt lên.
Con rắn nước nhỏ, dài, mình xám, cổ hồng nhạt vùng vẫy muốn thoát. Ông
trùm Gà cầm đầu con rắn, cái nọc thè ra. Ông nhứ nhứ để cho cái nọc con
rắn mổ mổ tới trước và ông chơi với nó một hồi xong thả xuống nước. Con
rắn lại bơi loăng quăng. Ông tiếp tục hát.
"Vè vè vè ve, nghe tui kể cái vè nói ngược Con
chim làm tổ dưới nước Con cá làm tổ trên cây Người thác đi cày, người
sống nằm dưới lỗ Thuyền thì chạy bộ, ngựa chạy dưới sông Một bầy chim
cưỡng vẫy vùng dưới nước Ba mươi đời nói ngược ai đã dễ nghe Con voi ấp
trứng sau hè Con gà cao vành đễ cượi (cưỡi) Con heo ăn cỏ Đồng Hới Con
chim ăn cám trong chuồng Tháng ba múc nước lên nguồn Tháng tư đem bè chở
lụt Thợ Rèn nấu xôi cúng Bụt Thầy tu đập sắt cả ngày Thợ mộc múa hát vỗ
tay Vợ ông Ba lục đục vác gươm đi hầu Ông Ba ở nhà têm trầu đãi khách
Ngoài đồng che phên che phách Trong nhà cắt cấy ùa ùa Con tôm ăn cả con
cua Một bầy cá nhám nhảy ùa lên ăn Ăn rồi đạp trốt mèo săn Con chuột
ngoẳng ngoảng muốn ăn con mèo Bao giờ cám lại ăn heo Chuột lại ăn mèo cỏ
lại ăn trâu Gà con tha quạ diều hâu Gà con tha cả ghe câu lên trời...
Bài vè vẻ vè ve cứ thế, ông Trùm Vịt hát mãi,
hát mãi, trở đi trở lại cho tới khi con bé nghẹo đầu, trong cơn mơ giữa
giòng sông, nghe tiếng nước vỗ róc rách, róc rách, nghe tiếng gõ lóc
cóc, lóc cóc và cá nhảy, cá nhảy... Con bé cũng mơ thấy giữa đàn cá có
một con rắn nước, nhiều con rắn nước, bơi và nhảy theo. Rồi hồ cá mặt
trăng, đàn cá trắng bóc, nhỏ li ti, nổi lên từng về đớp đớp ánh trăng
vàng rực lóng lánh trên mặt nước... Mặt nước vỡ, ánh trăng vỡ, vì một
con rắn nước đang lăng quăng bơi lội.
Con rắn nước màu hồng. Có phải là nó không, con ngựa hồng mệ Ủy đang tìm kiếm?
...
Rồi cách mạng mùa Thu tàn nhanh. Việt Minh rút
ra bưng. Quân Pháp trở lại. Suốt mấy năm Trấn Hải Đài hoang tàn. Ngày bị
Tây hành, lo trốn tránh không làm ăn gì được, đêm, mấy ông Việt Minh về
giết chóc, thu thuế nên dân làng đói nhăn răng.
Trong Trấn Hải Đài có rắn, có cây củ, không phải
nuôi, không phải trồng. Nhiều lối đi dưới hào thành, nhiều chỗ tường
thành bị đục đẽo, lấy đá, hoặc làm đường bí mật cho trộm đạo. Duy nhứt
cây bồ đề cổ thụ vẫn trơ trơ, không ai dám đụng.
Dân làng đồn, kẻ trộm giỏi nhứt, bạo gan nhứt
làng là chú Nốt, đã dám cầm búa chặt rễ cây. Búa quặt lại chém một nhát
chính ngay giữa trán, vết thương không phạm sâu, nhưng cứ làm mủ hoài,
rịt đủ thứ thuốc cũng không lành mà còn biến dạng như cái đầu rắn ngóc
lên mới ghê. Về sau nghe lời bà đồng, đem nhang đèn, bánh trái đặt dưới
gốc cây mà khấn, dập đầu chịu tội. Lúc cúng có một con rắn từ trên cây
bò xuống, bò ngang qua mâm lễ vật, rồi biến vào trong bụi cỏ tranh. Mấy
ngày sau, vết thương chú Nốt khép miệng. Từ đó, không còn ai dám đụng
tới cây bồ đề cổ thụ nữa.
Anh Ủy bệnh đã đến hồi hết thuốc chữa. Mỗi ngày
anh lên cơn cỡ chục lần, lần nào cũng như con rắn, trợn mang phùng mắt,
phun phì phì, cả thân hình lúc thường thì cứng đơ, lúc lên cơn thì quằn
quại như muốn bò muốn trườn. Da thịt anh nổi vảy như da rắn.
Mỗi khi nhìn con trai lên cơn, mệ Ủy nghiến
răng, gầm lên. Mệ nhất quyết phải tìm cho ra con hồng xà có lằn than đỏ
cháy trên lưng. Trong làng có người trêu ngươi mệ, nói, con rắn bữa bò
qua mân lễ vật anh Nốt cúng, đúng y như con rắn mệ kiếm tìm.
"Có vồng than hồng cháy trên lưng?"
"Có."
"Nhỏ và dài?"
"Y rứa."
"Mình vàng bụng trắng."
"Thì chộ rứa."
Vậy là mệ Uỷ lại lấy cây roi bằng đuôi cá đuối quất túi bụi vào đám rễ cây bồ đề, vừa quất vừa nguyền rủa.
Trời đã qua đông, xuân tới. Cây cỏ trong Trấn
Hải Đài tuy bị phá tán cũng vẫn đâm chồi, nẩy nở tươi tốt. Nhưng bịnh
tình anh Ủy thì đã tới phút cuối rồi. Mệ Ủy nấu cháo rắn cho anh. Cháo
đút vô miệng thì trào ra. Anh phun phì phì một cái, tắt thở.
"Con bỏ mạ mà đi răng đành con ơi..."
Người ta phải trói mệ lại mới bỏ được anh Ủy vô
hòm. Trong căn nhà cột gỗ lim, thấp, tăm tối, đã từ lâu rồi có hai cỗ
quan tài gỗ, mệ Ủy sắm lúc còn tiền bạc dư giả, có lúc sa cơ lỡ vận,
cũng không chịu bán mà ăn.
"Mệ nớ điên chi mà điên, mới tàng tàng thôi chơ khôn tổ cha".
Người làng cười cười khi nói về Mệ. Nhưng khi
anh Ủy chết rồi thì mệ Ủy điên thật. Mệ thường quấn con rắn chết lòng
thòng nơi cổ, vừa đi vừa ca hát dù giọng khào khào không ra hơi.
Một ngày nọ, dân làng nhìn thấy mệ cầm cái mác
đứng trên thành, chặt tán loạn vào đám rễ cây bồ đề. Mệ ôm mớ rễ nhỏ
chặt được đem về nhà. Người làng rình coi, thấy mệ chất đống rễ lên
chiếc giường trước đây anh Ủy nằm bệnh, rồi mệ đi quanh, la lối:
"Hồng xà, trả con cho ta. Trả con cho ta... Úm
ba la xi ma ta la, úm ba la...rắn hồng biến ngựa hồng chở con ta...Úm ba
la xi ma ta bà cô la..."
Đêm đó, căn nhà bốc cháy. Mệ Ủy chạy ra ngoài,
xõa tóc, tay cầm thanh la, tay cầm dùi gõ. Mệ không la tiếp cứu chữa
lửa, mà chăm chăm nhìn ngọn lửa hừng hực chờ đợi.
"Bắt nó lại. Rắn hồng. Ngựa hồng..."
Bất chợt, mệ Uỷ la. Một con rắn từ đám lửa quăng
mình lên tường thành, biến mất. Mệ Ủy chạy theo. Người ta giữ mệ lại.
Có thể đó chính là con hồng xà đực cháy đỏ một vồng lửa trên lưng mà mệ
vẫn lùng xục. Căn nhà không cứu chữa được, cột kèo gỗ lim, chiếc hòm còn
lại, tất cả cháy ra tro. Mệ Ủy quả quyết bầy rắn hồng không cháy, thoát
được. Mệ phải đi tìm chúng.
Chỗ ở sau cùng của mệ Ủy là ngay dưới hai cánh
cửa thành khép kín với một ổ khóa câm lặng, không có mắt nhìn, không có
tiếng nói. Một chiếc chiếu trải nằm, một cái chăn đắp và bị lát rách
đựng mớ quần áo cũ người ta cho. Ban ngày, mệ đi từng nhà, đứng ngoài
sân chìa tay xin, không hé miệng, cứ đứng hoài khi nào có cho đồ ăn mới
đi. Ai cho chi ăn nấy, con nít nghịch bỏ lá, bỏ đất cát vào, cũng nhai,
cũng nuốt.
Anh Uỷ mồ yên mả đẹp. Mệ Uỷ không còn sức phá
phách. Cây bồ đề vẫn không ai dám đụng tới, những chùm rễ ngày càng
chằng chịt hơn, bò đến cả mấy bậc cấp gần cột cờ, nơi có bệ thờ ông Lê
Sỹ.
Con bé Mi Ki không còn lần nào được trở vô thăm
lại Trấn Hải Đài. Năm đó, gia đình ông Thông rời Thuận An về Huế. Con bé
chỉ được phép đi từ giã ông Trùm Gà, Trùm Vịt. Hai ông già khọm và một
đứa bé nhỏ nhít ôm nhau.
"Con nhớ mấy Ôn."
"Hôn hóc. Hóc chi dị rứa. Bữa mô hai Ôn lên Huế thăm Miki."
Khóc dị lắm. Nhưng mắt hai ông trùm đỏ hoe. Hai ông cho con bé mấy cái vỏ ốc, dặn:
"Khi mô dớ biển thì kê lỗ tai vô sát mà nghe, có
tiếng sóng biển nơi tề, sóng biển cũng có mà tiếng nước rào cũng có cho
coi. Hí, dớ hí."
Hai ông trùm Gà trùm Vịt thiệt thà không biết nói dối.
Khi đã lớn, qua tuổi mười ba, mấy con ốc vẫn nằm
trên bàn học. Nhớ Thuận An, nhớ hai ông Trùm, cô bé ghé sát tai vào vỏ
ốc, nghe được tiếng sóng biển, tiếng sông nước rì rào.
Con bé nhớ khoảng sân rộng lát xi măng với hai
cây sầu đông rất già, cành lá rậm rạp che bóng rợp không cho nắng chiếu
xuống. Nhớ cái hầm dê ngập máu dân làng Thuận An, nhớ Vọng Hải Đài trên
lầu ba, leo lên đó thì có thể nhìn thấy thuyền bè cả chục dặm xa ngoài
mặt biển. Nhớ những ổ rắn con lúc nhúc, mềm, trơn, mầu hồng non xinh
xắn, nhớ những con rắn không biết tên gì nằm khoanh tròn ở bậc cấp lim
dim phơi nắng mà con bé chỉ cần tránh qua một bên là bước đi, không sợ
bị cắn mổ.
Mười tám tuổi, những ngày lễ nghỉ học, đèo nhau
bằng xe đạp về Thuận An tắm bể, Miki có vô làng thăm. Lính đã đóng trong
Trấn Hải Đài, không cho vô. Ra sáo thăm hai ông Trùm, chỉ thăm hai cái
mộ cát lúp xúp. Hai cô bạn ấu thơ là Kệ với Thụy đã lớn, vẫn nghèo. Có
ra biển tìm, gói theo mấy củ khoai luộc, con khô mực nướng. Có vô làng
ngủ đêm với hai cô bạn.
Đêm hè, trải chiếu nằm ở sân quay về phía bờ.
Nước sông rì rào, rì rào nhắc. Nhớ ngoài Doi, Sáo, hai cái miệng cười
méo mó của hai ông Trùm. Rồi ở sông, phía cầu Thương Cuộc có tiếng động,
lắng nghe. Bên tai, Kệ cười khúc khích:
"Ma ra đó."
"Ừ, con ma ra nó nhảy lên cầu, ngồi khóc đó tề. Mở mắt là chộ liền."
Thụy gắt gỏng:
"Tầm bậy nữa đi. Lớn rồi mà còn sợ ma, tin chuyện ma nữa"
Mi Ki, chỉ chờ có dịp đó ôm chặt lấy hai đứa bạn
nhà quê. Cô biết rất rõ, tiếng động đó chỉ là tiếng cá quẫy giỡn trăng
trong đêm.
Quên, có hỏi mệ Ủy đâu không thấy. Kệ nói:
"Chết lâu rồi, cũng trên trăm tuổi lận."
Thụy:
"Rứa mà bữa đưa đám mệ Ủy đông quá sức. Nghe nói
lúc đậy nắp áo quan có con rắn học trò bò vô nằm khoanh tròn dưới quan
tài. Bởi nghe đồn rứa nên người ta ùn ùn đi coi."
"Ủa, mệ ủy có nhà."
"Về sau có. Cháu mệ đâu ở xa tìm tới, dựng lại cho mệ cái nhà tranh nhỏ ở trên miếng đất nớ."
"Mệ có đi bắt rắn nữa không?"
"Không biết."
"Có đi tìm mấy con ngựa hồng...à rắn hồng không?"
"Cũng không nghe noái đến mi nờ. Thằng cháu đó ở
luôn với mệ, nghe noái cháu xa lắc mà thảo lắm. Thằng nớ mê con Lệt ở
dưới làng Eo, năm ngoái mới cưới nhau, chừ ở cái túp nhà tranh nớ chớ
mô."
Kệ:
"Rứa mà cái mụ Xoài đã tra rụi rồi mà còn tòe
loe toét loét nói mệ Ủy bị rắn cắn chết. Rắn mô? Trong Đài lính ở, có
con rắn mô còn sống sót cũng trốn chui trốn nhủi bây nờ."
Thiệt kỳ. Vậy ra chuyện hồi thơ ấu của ba đứa là chuyện cổ tích?
....................
Đó là chuyện con bé Mi Ki thời ở làng Thuận An.
Lớn lên, tôi lại rất sợ rắn. Trường tổ chức đi trại ở Đồi Thiên An, tôi
đã không dám bước vô những lùm cỏ vì sợ đạp nhằm rắn. Con bé Mi Ki đứng
đâu đó, trước mặt, sau lưng, trong đầu, cười nhạo. Hình như chỉ có những
con rắn của con bé ở Trấn Hải Đài Thuận An, mới là rắn hiền, rắn thân,
rắn bạn. Còn những con rắn nơi khác, những con người nơi khác, như chính
tôi, thật khó tin cậy nhau.
Đã xa quá xa, có thể không bao giờ còn nhìn thấy
Trấn Hải Đài nữa. Ở Hoa Kỳ, sau mấy trận lụt vừa qua, tôi đọc báo thấy
biển đã nuốt chửng mất khu rừng dương làng Hòa Duân. Lầu nghỉ mát nhà
vua nay đã không còn. Con đê đã vỡ. Một phần Thuận An đã không còn. Một
cửa biển mới đã mở ra, dài cả cây số. Chẳng biết Trấn Hải Đài bây giờ ra
sao. Những con rắn hồng của mệ Ủy xa xưa có còn không?
Mệ Ủy chết, hai ông Trùm chết, ông Cửu Thượng,
ông Trùm Trít chết. Nhiều người chết lắm, tôi biết. Nhưng rắn lột xác
sống đời mà. Chúng đâu cả rồi? Sao từ lâu, ngay trong những giấc mơ, tôi
cũng không thấy chúng?
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 020
THANH TỊNH * TÔI ĐI HỌC
TÔI ĐI HỌC
Truyện Ngắn THANH TỊNH
[Rút từ tập truyện ngắn QUÊ MẸ, 1941.]
Truyện Ngắn THANH TỊNH
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức
những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa
bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng
mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi
sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm
nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng
dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần
này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì
chính lòng tôi
đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.
Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quý và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa.
Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn.
Dọc
đường tôi thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tôi, áo quần tươm tất, nhí nhảnh
gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem
mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy
nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng chì ra và chênh
đầu
chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước o
sách vở thiệt nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy cậu không để
lộ vẻ khó khăn gì hết.
Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:
- Mẹ đưa bút thước cho con cầm.
Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:
- Thôi để mẹ nắm cũng được.
Tôi có ngay cái ý kiến vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước.
Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi.
Trước sân trường làng Mỹ Lý đầy đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và
sáng sủa.
Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé trường một lần.
Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên
tường. Tôi không có cảm tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng.
Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng,
mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ.
Cũng
như tôi, mấy cậu học trò mới bở ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám
nhìn một nữa hay dám đi từng bước
nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng
muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được
như những
học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.
Sau
một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp
hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung
quanh những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi.
Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không
đứng
lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết
co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng.
Chính
lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn
ràng trong các lớp.
Ông
đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trước lớp ba.
Trường làng nhỏ nên không có phòng
riêng của ông đốc. Trong lúc ông đọc tên từng người, tôi cảm thấy
như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đang đứng sau tôi. Nghe
gọi đến
tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc xong mấy
mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ:
-
Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy mẹ được
vui lòng, và để thầy dạy chúng em
được sung sướng. Các em đã nghe chưa? (Các em đều nghe nhưng không
em nào dám trả lời. Cũng may đã có tiếng dạ rang của phụ huynh đáp
lại).
Ông
đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò lớp
ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra.
Và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong
những phút giây này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì
vậy
đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn.
Ông đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói:
- Thôi, các em đứng đây sắp hàng để vào lớp học.
Tôi
cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước. Nhưng
người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề
một cách lạ. Không giữ được chéo áo hay cáng tay của người thân,
vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lủng lẻo nhìn
ra sân,
nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến.
Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào
lòng
mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò
mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ
vuốt mái tóc tôi.
Ông đốc nhẫn nại chờ chúng tôi.
- Các em đừng khóc. Trưa này các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai các em lại được nghỉ cả ngày nữa.
Sau
khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường,
ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi vào lớp
năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt hiền từ, đang đón chúng tôi vào
cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa bao giờ xa mẹ tôi như lần này. Tôi
cũng lấy
làm lạ vì có nhũng hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng
làng Lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào
hết.
Một
mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng
thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi
ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên nhận là vật riêng của mình. Tôi
nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề biết,
nhưng lòng tôi
vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên
và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có thật. Một con chim con
liệng đến
đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao.
Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống
lại đầy dẫy trong trí tôi.
Nhưng những tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ
nhìn thầy viết và lẩm bẩm đọc:
Bài tập viết: Tôi đi học!
[Rút từ tập truyện ngắn QUÊ MẸ, 1941.]
TÚY HỒNG * THANH NAM
Thanh Nam..tản mạn - Bài viết của nhà văn Tuý Hồng
Thanh Nam..tản mạn - Bài viết của nhà văn Tuý Hồng
Thành phố Ramsey khốn khổ ngâm lạnh. Bầu dưỡng khí chúng tôi đang thở toàn một màu xám chì. Lề đường, cột điện đóng tuyết buốt băng, hàng cây cao cố gắng đứng thẳng. Thời gian lo âu thở dài. Gió thỗi thốc ngược từ dưới lên đập mạnh vào hông nhà. Trời màu lam tê tái, mây màu lưu huỳnh, giá băng đóng trên mặt đường màu trắng.
Không một con chó nào dám xông ra khỏi nhà đi đêm, không một con mèo nào nhẩy lên mái ngói gào kêu. Khi chúng tôi theo họ đạo đi lễ về thì tấm khăn len choàng cổ Thanh Nam đóng băng và hơi thở chàng nặng.
Truớc khi đi nhà thờ, Thanh Nam đã nướng sẵn trong lò sưởi một viên gạch để khi trở về sẽ gói vào tấm vải len cho vào mền. Mấy thằng con kêu: “nóng quá bố ơi!” rồi chúng đạp tung tấm chăn xuống thảm.
Năm 1975 tị nạn trên đảo Guam, Thanh Nam đã kêu đau cổ vì bị một vết xước bên trong cuống họng ngày nào cũng ho. Chàng giải thích: “Anh ho từ cổ trở lên, chứ khong phải từ phổi bật ra. Đau cổ không sao, đau ngực mới đáng sợ.”
Khi ra trại, Thanh Nam không uống nứơc cam được nữa, chàng nhăn mặt khi nhìn trái chanh chua. Ruợu chát ấm cỗ chàng nhâm nhi mỗi ngày , bia và thuốc lá thì không làm sao bỏ được! Đầu tháng tư 1976, chúng tôi nói "Amen" với họ đạo rồi dời về Seattle. Thời tiết Tây Bắc hiền và bao dung kẻ nhát lạnh không như thứ khí hậu miền Đông. Thanh Nam cười bảo: “Thời tiết Seattle chỉ lạnh chừng này thôi sao? Cửa sổ chỉ một lớp kính, ở New jersey, cửa sổ phải ba lớp dày, máy sửơi chạy bằng hơi nước phát ra tiếng ồn êm ái.”
Về đất mới, Thanh Nam bớt ho và dễ thở hơn, mỗi ngày nhâm nhi rựơu chát và tì tì nhậu budweiser. Và chàng nhớ bia 33. Nhưng sau chừng vài ba năm, Thanh Nam lại ho ra máu. Nhiều bữa tối, chàng không nuốt nổi miếng cơm kẹt nửa chừng trong cổ, phải uống nứơc đẩy xuống. Đi khám bệnh, bác sĩ cho uống trụ sinh thấy bớt. Khi cơn ho trở lại, cũng trụ sinh luôn. Lập đi lập lại nhiều lần, trụ sinh đâm nhờn. Bạn bè ai cũng khuyên nên đi rọi hình, thử test.
“Anh đau lâu quá rồi, phải đi bác sĩ ở nhà thương Mỹ"
“ ở Mỹ, sao không đi nhà thương Mỹ ?”
Thanh Nam cãi : “ Moa chắc là cổ moa bị nhiễm trùng, uống trụ sinh chắc sẽ khỏi.” Thanh Nam không đi nhà thương mà chỉ đi vào nhà bếp nấu phở. Trên cổ chàng dần dần hiện ra những cục tròn nhỏ, từ từ lớn dần thành khối u. Cuối cùng , chị Lai Hồng khuyên được chàng và chở chàng đi khám bệnh. Bác sĩ Faith giải phẫu cổ chàng , cắt bỏ ống nói và ống dẫn hơi rồi khoét một cái lỗ nhỏ cho chàng thở.
Dr. Faith giảng: “Loại cancer này sau khi giải phẩu thì thường khỏi bệnh, nhưng vì để lâu quá, bệnh đã lan ra những bộ phận khác. Nếu biết sớm, cắt bỏ đi thì tuy mất tiếng nói nhưng còn giữ được cái mạng.”
Tôi đặt câu hỏi: "Chồng tôi có thể sống đựơc bao lâu?"
“Several months.”
“ nghĩa là bao nhiêu năm? Thưa bác sĩ.”
“ I don’t know.”
Chín năm chung sống ở Saigon, Thanh Nam không phải là người chồng tốt. chúng tôi lấy nhau có đám cưới nhưng không có hôn thú. Khi con gái đầu lòng học hết lớp mẫu giáo , chàng mới chịu đóng tiền đút lót một ông lý trưởng ở Quảng Nam để ông ta cấp cho một tờ hôn thú lậu và làm giấy thế vì khai sinh cho con. Giấy tờ giả làm xong, Thanh Nam nói: “Anh rất quý bạn bè bằng hữu. Giữa bạn và vợ, nếu bắt buộc phải chọn một, thì em là người anh bỏ”.
Bạn hiền của Thanh Nam là tất cả đàn ông chàng đặt lòng thành và tình hiếu hữu. Khi đất nước còn chia đôi hai khối hận thù, miền Nam nằm dưới miền Bắc, chính quyền miền Nam cải tổ toàn thể cục diện, thành lập bộ chiêu hồi tượng trưng bằng một vòng tay ấm dang rộng ra để ôm lấy anh cán binh Việt cộng quay về chính nghĩa . Lòng Thanh Nam cũng bao la như cánh cửa chiêu hiền, cũng rộng mở như thùng thư trước ngõ mang tên số nhà chàng ở, cũng ấm như hộp PO. Box đặt trong sở bưu điện và nhẹ như con tem dán vào góc bì thư gửi tình theo gió mang đi.
Huy Quang Vũ Đức Vinh bảo: “Nó với Mai Thảo ... chơi đêm ngủ ngày, một đằng thì uống bia, một đằng thì đánh bài, một năm dọn nhà bốn lần, vợ moa cấm moa chơi với hai tay này.”
Nhà văn Nguyễn Thiếu Nhẫn cũng nói: “ Có.. có khi.. hồi còn độc thân ở Sài Gòn , anh Thanh Nam tiêu nguyên một tháng lương vừa mới lãnh ra...trong ..một đêm.”
Tháng chạp năm 1966, tôi gặp Thanh Nam lần đầu và lấy chàng ngay trong ngày cuối tháng đó thì Thanh Nam đã là một lực sĩ đuối sức trên hai vòng đua tình và tiền.Khi một phụ nữ gặp gã đàn ông chưa quá vài lần mà đã ngủ với hắn ngay và lấy hắn làm chồng liền, đó là hoả hoạn của tình dục, của hoang dâm bấy lâu đè nén đã thừa cơ bật dậy. Những cuộc hôn nhân vội vã như thế này thường xuyên có thể đưa đến đổ vỡ, nhưng Thanh Nam và tôi lì lợm chung sống với nhau hoài bên bầy con bốn đứa. Hôn nhân của chúng tôi đứt đôi vì có một cái chết.
Thanh Nam xoè bàn tay ra :
“Em ngửi tay anh có thơm mùi nho khô không?”
Những điếu thuốc lá Pall Mall nhẹ thơm mùi nho khô. Những ngón tay thuôn dài của Thanh Nam nám màu khói thuốc. Thanh Nam ngồi đâu thì chỗ đó tất phải có lon bia Hams và bao thuốc lá Pall Mall màu đỏ bầm.
Dr.Faith bảo: “ Thuốc lá có thể gây ung thư cổ họng.”
Đến với Thanh Nam trong tình yêu vỡ lòng là Hồng Ngọc, cô gái yểu mệnh chết non trước đợt di cư 1954. Hồng Ngọc là tên truyện viết đầu tay của Thanh Nam, người yêu nhỏ lìa đời trong tuổi thanh xuân 18, lúc dong chơi trên ngọn đồi cát màu vàng loãng, dưới hình mặt trời tròn như cái đĩa đồng và những khối mây lớn xù lông trắng đục.
Khi ung thư giết chàng lần mòn, Thanh Nam vẫn mộng thấy nàng:
Cùng với giá băng em trở lại.
Tóc xưa Hồng Ngọc thuở xuân nồng.
Thương yêu siết nhẹ vòng tay cũ.
Em gọi tình xa tỉnh giấc gần.
Sàigòn cũng có những tháng ngày ướt mưa và sương rơi từ những đường thẳng trên cao xuống các mái tôn và ống máng trong hẽm dài, Thanh Nam khoác áo ra đi theo hướng ánh điện đỏ vàng dẫn tới rạp hát Bích Thuận lúc trên sân khấu người đẹp Bích Sơn đang diễn xuất một màn ca kịch bi thương, để đêm đó Thanh Nam về nhà rung đùi uống bia, đốt thuốc lá viết câu đối đăng lên báo Thẩm Mỹ:
“Kiều nữ Bích Sơn, nàng đứng nhìn gì trên núi biếc?”
Rồi mũi tên Cupid lại chỉ đường Thanh Nam dến một sân khấu vĩ đại hơn , một vòng quay ánh sáng chói mắt hơn, một đám đông xô bồ chen chúc người mộ điệu: Đoàn ca kịch Thanh Minh Thanh Nga. Chàng đã bứng cây si từ Kiều nữ Bích Sơn sang Kỳ Nữ Thanh Nga, huy chương vàng quý báu nhất của miền Nam trái ngọt cây lành. Cải lương ngọt như sầu riêng, mít tố nữ, ổi xá lị, mãng cầu dai.
Trưa Lái Thiêu xưa vườn tiếp vườn.
Trĩu cành trái ngọt thở hương thơm.
Hồi đó, nếu Sàigòn là hòn ngọc Viễn đông thì Thanh Nga là một của những hòn ngọc Sàigòn. Đêm đêm, nàng hát nhạc vàng, ca vọng cổ, đóng tuồng tích trên bục gỗ... nàng có một cuộc đời thật để sống và nhiều cuộc đời ảo cũng để sống...nàng có tiền , vàng, và nhà.. Nhưng quả thật Thanh Nga là người nữ tù bị nhốt trên sân khấu, là Hằng nga ngủ ngày, xa cuộc đời, xa xã hội, nàng viễn mơ và viễn thị không mấy hiểu cuộc đời. Những lúc không lên sân khấu, nàng đã đọc truyện tình do Thanh Nam viết và đọc những bài phóng sự kịch trường Thanh Nam đề cao nàng. Tình yêu quả có thật giữa họ. Thanh Nam, với công việc của một ký giả kịch trường, bao phen đã khó khăn xông vào bedroom của nàng để phóng vấn viết bài cho báo. Thanh Nga ngay ngắn ngồi tiếp chàng trong chiếc kimono đẹp như tranh vẽ. Họ nhìn nhau qua khói ấm tách trà nhỏ.
Nay đã nghìn thu vào tĩnh mịch,
Những anh hùng cũ mỹ nhân xưa.
Khi còn ở quê nhà trước năm 1975, Thanh Nam đã phát hiện sở thích đi chợ mua đồ ăn. Mấy bà hàng xóm trong hẽm cụt Lý Thái Tổ thỉnh thoảng ré lên cười:
“ Coi kìa! ông nhà báo đi chợ để vợ ở nhà.”
“ Đôi giày láng lườm của ổng dính dơ bùn chợ hết rồi! Coi coi...ông ta cố dấu bó rau muống trong túi ny lông nhưng cái bó muống nó dài quá, nó cứ thòi ra không thụt vào.”
Ngày tháng êm trôi trước khi bệnh, Thanh Nam đi chợ không do dự, mỗi tuần lễ ba lần sau giờ làm việc cho báo Đất Mới. Hồi còn ở miền đông, ông bạn Trần Đình Hồng Lâm đã kêu :”Tính toa sao lạ vậy, chứ moa thì không thể nào muốn đi chợ chút nào hết!:”
Tôi lắc xắc xen vô: “ Safeway, Fred Meyer, Alberson...là những nơi chỗ vui chân mà Thanh Nam mến thích, còn tôi thì mỗi tuần lễ đi chợ một lần là quá cỡ!”
Ba thằng con trai cũng thường theo bố mẹ đi chợ hồi mới đến Seattle. Một sáng chủ nhật, Thanh Nam hối hả giục cả nhà đi Safeway mua xương bò nấu phở Bắc. Nấu phở mệt phờ người ra, nấu xúp bui-da-bét..lòng tôi cũng bét nát ra luôn vói món xúp này...ai trong cái nhà này phải đứng nhặt giá, rửa rau, cắt củ cải, xắt hành, thái thịt bò, nướng gừng, luộc bánh phở và may một cái túi nhỏ xíu đựng gia vị phở Bắc quê hương...Khi công việc của người bếp phụ xong, đầu bếp chính Thanh Nam bước vào bên bếp điện, mở tủ lạnh lấy xương bò ra tắm rửa kỳ cọ, cắt bỏ mấy cục mỡ thừa vứt đi, rồi nêm vào thùng nước dùng ba muỗng nước mắm,một dúm bột ngọt, một cục đường phèn Quảng Nam, nửa cục đường phổi Quảng Ngãi!
Chàng phân tích: “Người Huế không nấu ăn ngon được vì họ ăn cay quá, nấu phở cần phải tận tình đứng vớt bọt, nhưng đừng vớt mỡ thẳng tay quá!. Khi thưởng thức tô phở, em nên biết rằng phở cần chút nước béo, vài ba giọt sao óng ánh.”
Cầm đôi đũa cả trở lát thịt xào lăn trên chảo mỡ, Thanh Nam bảo: “Ở Việt Nam, anh đã ăn cải làn, bí đao, bầu... Sang đây, anh không thể nào ăn zucchini và brocoli được. Ăn phải đúng cách, nấu phải đúng kiểu, món nào ra món đó.”
Một chiều thứ bẩy trong Safeway thịt bò bán đại hạ giá., buy one get one free. Thừa lúc Thanh Nam mãi chọn mấy miếng thịt thăn, thịt mông, ba rọi...thằng con lớn đẩy xe đi chất hai két nước ngọt.Thanh Nam nạt: “Không được mua nhiều nước ngọt như vậy.”
Thằng bé vặn hỏi: “Tại sao không được hả bố? Coi! Bố mua bao nhịêu két bia kìa!”
“Bố lớn, mày nhỏ.”
“Mình equal mà bố”
Tôi chen vào: “Mình bình đẳng mà bố.”
Khi đồng hồ trong chợ chỉ đúng vaò số 5 , thời gian ấm nhất của ngày, thằng con lớn đòi về nhà gấp, Thanh Nam bảo tôi gọt vỏ khoai tây, cắt thành khối vuông nhỏ để chàng làm mashed potatoes. Cao thủ đầu bếp trong ngôi nhà Lỗ Tấn này sở trường nhiều món chứ không phải một vài! Khoai tây nghiền bấy xong, Thanh Nam trộn thịt jambon vào rồi dùng thìa lớn múc ra bốn đĩa cho bốn đứa con đang há miệng như bốn cái mỏ hoét.
“Non quá bố ơi!”
Thanh Nam cười giỡn thằng Cu Tý: “ Bố ngon mà con...À bố tên gì?”
“ Xanh Nam !”
Thanh Nam quay lại bếp điện xúc thêm một đĩa khoai bấy đưa cho tôi :
“Em ăn đi.”
Thứ bẩy tuần sau, trẻ con không chịu đi shopping với bố mẹ. Khi ở chợ về, tôi chạy vội vô nhà, vì mấy ngày trước, họ đạo ở miền Đông điện thoại cho biết đã gửi hai thùng áo quần và đồ chơi cho trẻ con.
Thanh Nam khệ nệ xách hai túi đồ ăn từ xe vào bếp cất giọng cà khịa:
“ Ra xe đem đồ ăn vào chứ em, em để một mình anh phải xách hai cái túi này nặng ..nặng nặng... đựng hai ga lông sữa bò ở trong.”
Ba thằng con vội chạy ra bê đồ ăn vào một phút xong ngay.
Ba năm trôi mau, vầng trăng chưa qua hết mấy chu kỳ sáng tối thì Thanh Nam vào bệnh viện, mổ, khám và tái khám. Sau cuộc giải phẩu rùng rợn, Thanh Nam vẫn gượng gạo khoẻ mạnh, bộ mặt thụng xuống dưới áp lực của ống nhựa, ống hút đặt trong mũi trong miệng. Từ ngày mất tiếng nói, chàng viết : “Ngày xưa ăn chơi, sang Mỹ bỏ chơi chỉ còn ăn... Một thằng khoái ăn ngon như anh mà trời không cho đớp.” Rồi lại viết: “Cái khổ của kiếp người là chỉ có một đời để sống mà lại có quá nhiều đời khác để mơ.”
Mỗi tuần lễ, Thanh Nam đều soạn sẵn một thực đơn:
- Chủ nhật ngày 10 tháng 6: Cơm thịt bằm xào dưa leo hoặc cà chua nhồi thịt.-Canh sườn heo rau cải xanh, hoặc bí đao.
- Thứ hai ngày 11 tháng 6: Gà nấu nấm ăn với cơm hoặc bánh mì.
- Thứ ba : Spaghetti ăn với sauce cà chua. Gà nấu nấm ( left over }
- Thứ năm ngày mười bốn tháng sáu: Phở.- Ngâm gạo nếp nấu xôi.
Thanh Nam đọc sách, ôm kinh Phật tung âm thầm, cố gắng tập thể dục thực hành những lời thiền chỉ dạy. Hàng phục vọng tâm, an trụ chân tâm. Có những đêm thức giấc, đứng sau cửa kính mờ, Thanh Nam nhìn ra ngoài trời không trăng sao, có những ngày an phận nín câm, Thanh Nam đi tới đi lui, ngồi nằm... Có khi con cái tan trường về, Thanh Nam vui cười nấu ăn, coi tivi, lòng thư thái an lành như lá bạch dương êm ái chạm vào nhau khi có gió. Còn tôi ngồi bên cạnh, tôi nghe bộ tiêu hoá của chàng réo sôi ùng ục, đồ ăn cử động trong bao tử, chuyễn từ ruột non tới ruột già xuống hậu môn. Bằng hũu đến thăm, gửi thư gửi thiệp chúc mừng . Thơ và văn, thiền và thuốc, và những cơn đau khủng khiếp vỡ đầu bễ ngực từ cái ống nhựa đặt trong cổ thay thế cho thanh quản, khí quản gì đó phải cắt bỏ vứt đi, và từ những phản động hoá học của thúôc mê, thuốc tỉnh, thuốc viên, thuốc nước,thuốc bột, trụ sinh, an thần, morphine .
Thi sĩ Huyền Không, tức là Hoà thượng Thích Mãn Giác, víêt thư thăm, gửi theo hai câu thơ.
Ta từ vô sinh tử về chơi,
Ngồi trên chóp đỉnh, mỉm cười với trăng. (Huyền Không.)
Thầy Mãn Giác khuyên tôi đừng quá sợ hãi bệnh hoạn của thân xác, nên an nhiên tự tại_chữ của nhà Phật_có nghĩa là mặc kệ, để đó, dẹp đi... chấp nhận cái bất hạnh, như cậu bé mỉm cười với trăng. Tôi hãy chuẩn bị lo cho Thanh Nam một ba lô nhẹ, một va li nhỏ để chàng dễ dàng xách theo trong chuyến đi chót. Đôi mắt sắt đá của tôi có bao giờ biết khóc?. Thầy Mãn Giác vẫn dạy tôi những bài Thiền học để tâm tính đằm lại. Người Mỹ đã bắt đầu học Thiền để mưu lợi cho sức khoẻ và cầu an cho tâm thần. Sao tôi mãi mãi mang nặng những khổ đau vô thần ? Chàng em trai của tôi vẫn mắng tôi như vậy.
Thanh Nam đem xấp giấy ra viết xuống: "Thích Mãn Giác ngày xưa có theo Cộng sản không? "
Trông Thanh Nam lúc đó giống như một chiến sĩ H.O. Tôi trả lời:
“Không. Báo Mỹ bảo Thầy là một chiến sĩ chống Cộng. Thầy là một Thiền sư vẻ mặt tương tợ như một Samurai trong các môn võ thuật Nhật bản.”
Tôi kéo ra từ trong trí nhớ mấy câu thơ của thi sĩ Huyền Không :
Chùa xưa mái ngói cũ,
Trèo lên kéo cây sào.
Đêm khuya rồi không ngủ,
Khều rụng bao nhiêu sao.
Thầy Mãn Giác mọt lần hỏi tôi : “Chị Túy Hồng còn nhớ tên người đàn bà Việt Nam đầu tiên vào chùa tu là gì không?”
Sư Huyền Không hứa sẽ gửi thêm một số tài liệu Phật pháp trong đó có chương bàn về Mạn Đà La.
Thầy Mãn Giác ngày xưa tu học ở chùa Bảo Quốc Huế, du học tại Nhật Bản. Chùa Bảo Quốc xưa, một hàng thông xanh, một một luống cải xanh. “Gió thông đưa kệ tan niềm tục, hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời." Bươm bướm toả ra một đoàn rộng cánh bay, ve ve thì tụ lại trong các lùm cây. Gần chùa có một tiệm cho thuê xe đạp, hai ba cái lốp xe bằng cao su và những xích sắt treo vào vách. Ngày đó một mình , tôi đạp xe qua cầu Ván, rượt tới Morin, ghé Sát-Făn-rông mua bánh choux à la crème, rồi phóng tới ngã giữa. Tiệm cho thuê sách Ngô văn Mạch mở cửa bảy ngày trong tuần. Tôi ký tên vào cuốn sổ cũ mướn mấy cuốn tiểu thuyết của văn sĩ Thanh Nam về nhà đọc.
Thanh Nam đã viết quá nhiều tiểu thuyết loè loẹt màu sắc xã hội đắng cay, viết một cách dễ dàng và kiếm sống bằng ngòi bút của mình... Chàng viết cho bà nội trợ đọc, cô bán hàng đọc, nữ sinh, nữ công chức đọc.. và đã bắt đầu viết khi tuổi đời còn sớm bảnh mắt, khi trí khôn và sức học chưa đủ cho một người cầm bút. Thanh Nam dùng thì giờ để đi chơi nhiều hơn thì giờ ngồi viết bài. Đây là một lỗi lầm không phải nhỏ. Người tu sĩ bỏ đời theo đạo, người nghệ sĩ, kẻ đã nghe tiếng gọi của nghiệp dĩ từ cao xanh, phải cố gắng thí phát thì giờ của mình vào nghệ thuật. Người nghệ sĩ Việt Nam luôn luôn nên cố gắng trau dồi khả năng ,tức là phải học hỏi thêm. Trước cái đẹp, nhà văn cảm xúc mười phần, hắn viết xuống trên giấy , người đọc chỉ nhận được một phần. Kịch sĩ, ca sĩ, văn thi sĩ, trong mấy kẻ sĩ đó, kịch sĩ đóng hài kịch tức là những cây cười cần phải học thêm nhiều hơn ai hết. Hề cần phải học. Hề là kẻ phải hiễu biết nhiều, sâu rộng và lanh trí mới ứng khẩu nói ra những lời chọc cười.
Với truyện dài, Thanh Nam thất bại. Với truyện ngắn , tức là các sáng tác nhỏ đã đăng trên các báo Hiện Đại, Sáng Tạo, Thế kỹ 20, Thanh Nam không thất bại. Tập truyện “Buồn ga Nhỏ” xuất bản năm 1962, tái bản lần thứ nhất năm 1965 và tái bản lần thứ hai tại hải ngoại năm 1983 cho thấy rằng Thanh Nam là cây bút viết truyện ngắn có ích cho tiếng Việt.
Sau năm 1975, Thanh Nam làm được tập thơ “Đất Khách”.
Thi sĩ Nguyên Sa gọi điện thoại khen: “Moa không ngờ Thanh Nam làm thơ hay đến như vậy. Nếu moa bị đày đi Côn đảo hoặc bị đưa sang Reunion, moa chỉ mang theo bên mình mỗi một tập thơ “Đất Khách”mà thôi.”
Bác sĩ Nguyễn Đăng Diệm ở Seattle cũng đã nói giữa toà soạn báo Đất Mới: “ Phải chăng bệnh ung thư đã khiến Thanh Nam làm được một cái gì....”
Nhà văn trẻ Chu Vương Miện, một cây bút chủ lực của nguyệt san Văn trước 1975, cũng viết thư thăm : “Anh buồn quá! Thơ anh thật tuyệt vời, anh Thamh Nam ạ..”
Trước năm 1975 ở Việt Nam, chợt xuất hiện các nhà văn nữ viết tự truyện. Theo giáo sư Sharon O’brien giảng dạy tại đại học Dickinson college, lối viết tự truyện chỉ thành công một phần nhỏ trong văn chương mà thôi. Đưa cái tôi vào tác phẩm, vạch sống áo để lộ tấm lưng ra, giải bày đời tư trên giấy trắng ... người viết tự truyện thường bị phê bình là thiếu đề tài, nghèo tư tưởng. Ngòai ra, văn tự truyện còn bị nói là thời thượng.
Trái lại với văn tự truyện, thơ tự tình được đề cao lên. Bà Huyện Thanh Quan với mấy bài tả cảnh u hoài tình non nước, Cao Bá Nhạ vói khúc tự tình oan khiên đau khổ đã được đưa vào sách giáo khoa dạy học, và hậu thế còn lấy tên họ đặt tên đường.
Nói chung , thơ gồm hai phần: lời và ý. Mỗi chữ mỗi câu là một sự cố tình sắp đặt gồm có âm thanh , vần điệu và màu sắc. Mỗi ý tưởng là phần thân và tâm của thi sĩ. Thơ tự tình của Thanh Nam, chữ và nghĩa không chênh lệch mấy, chữ nhiều và nghĩa cũng khá nhiều, là tâm thần bất ổn của người lìa nước ra đi lòng nao naonỗi sầu viễn xứ và nỗi buồn quốc hận Ba Mươi Tháng Tư
Canh bạc trần gian dù thắng bại
Nẻo về đất lạnh giống nhau thôi.
..................................................
Ghé thân lữ thứ trăm miền
Nõi buồn nào cũng mang tên Sàigòn.
.................................................. ........
Giống như người lính vừa thua trận
Nằm giữa sa trường nát gió sương.
.................................................. ........
Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng
Nghĩ đắt vô cùng giá tự do.
Thanh Nam không khéo tay làm thơ tình. Ta có thể tạm kết luận rằng Thanh Nam làm thơ vì tình bạn và lòng hiếu hữu. Rõ ràng tình bạn đã đuổi tình yêu đàn bà ra khỏi lòng chàng:
Uống say mai sớm bạn lên đường
Thân lai nương nhờ chốn viễn phuơng
Trăm hận nghìn đau nào sánh nỗi
Tấm lòng lưu lạc nhớ quê hương
Ta như giông bão tan rồi hợp
Trôi giạt còn hơn sóng đại dương.
Tình quê hương trong thơ Thanh Nam thật dịu dàng qua từng ngón tay lẵng lơ của Chàng:
Hai mươi ba tuổi gặp SàiGòn
Như gặp người yêu chưa phấn son.
Bở ngỡ làm quen thành phố lạ
Mặn nồng nhiệt đới nắng trao hôn.
Thỉnh thoảng Thanh Nam cũng làm một vài câu thơ vui.
Buổi Sáng
Ngó ra buổi sáng quê người
Tiếng xe lăn bánh, nhịp đời bon chen.
Giã từ ngôn ngữ đã lâu
Hôm nay thèm nói một câu chửi thề.
Hoặc
Bụi đời đầy đã lòi cơn sốt
Mang chuyện tương lai tháu cáy hoài.
Lâu lâu ,chàng lại viết câu đối :
“ Vừa mới Tết bính thìn, chín Tết ôm hờn xa tổ quốc.
Giờ xuân giáp tí, một xuân nào hẹn cùng quê hương.”
Thanh Nam mất sau gần mười năm ở Mỹ, xác được hoả thiêu trong một nhà táng lúc đó hoa xum xê nở banh ra. Hoa auriculas, hoa thrift và một vài hoa lạ không có tên trong tự điển Việt Nam. Giữa xấp giấy chàng viết nguệch ngoạc trong những tháng ngày mất tiếng nói, có một đoạn nhỏ: “Anh nhận thấy mấy đứa con sao dại khờ và vô tâm quá, chúng cứ tự nhiên... Nếu chúng nói được những câu buồn thương này nọ, chắc lúc anh ra đi , anh sẽ khó cất bước, khó..”
Tôi vội cãi: “Con Ti nó ăn ít quá mà anh, còn ba thằng đực thì cứ quanh quẩn ở trong nhà không nói năng... Bà y tá bảo rằng tình cảm của trẻ con đôi khi còn biểu lộ ở sự học có sút kém hay không..”
Ngày hôm sau Thanh Nam viết xuống tiếp : “Hôm nay bảo thằng Cu dẫn hai em nó đi phố chơi đi. Lấy tiền lì xì mà đi bus và tiêu cho sướng. Mười hai giờ trưa về.”
Thơ tức là người.Thanh Nam mang một lòng hiếu hữu thương bạn hiền. Tình đàn bà , người đàn bà trong thi tập “Đất khách” và trong cuộc đời ngắn hạn, bất hạnh của Thanh Nam, không được vẽ và chiếu ra rõ nét, không biết chàng đã nhung nhớ ai trong dĩ vãng khi đang nằm trên chăn gối hiện tại:
“Nửa khuya nghe động tiếng mưa buồn
Mái lạnh hiên người giọt giọt tuôn.
Chăn gối bỗng thơm mùi dĩ vãng
Dịu dàng mộng cũ ghé môi hôn”.-(Mộng cũ )
Người tức là thơ. Thanh Nam đau yếu nhưng tình bạn trong chàng vẫn dồi dào sức khoẻ:
“Xin chào bằng hữu gần xa
Dẫu chưa quen biết đã là anh em”.
.................................................. ....................
Ôi hỡi quê hương bè bạn cũ
Những ai còn mất giữa sa mù
.................................................. ................
Ôi bạn ôi ta ,chiều đã xế
Phù sinh thương mình ly rượu xuông
Sau hết, Thanh Nam có biệt tài làm báo, làm tổng thư ký toà soạn, làm chủ bút bao sân tất cả mọi công việc viết lách. Trang trong thíêu bài, trang cuối còn mấy chỗ trống, Thanh Nam tìm bài khác lắp vào, vá vào trám hết tất cả mọi lỗ khuyết ngay tức khắc. Chính chàng đã đề nghị quý vị chủ báo miền Nam ngày nào, hãy đưa phần tỉêu thuýêt vào trang hai để độc giả dễ dàng xếp đôi tờ báo lại ngồi đọc chuyện tình bất cứ chỗ nào.
Nhiều người bảo rằng khi đến giai đoạn cuối, cancer gây ra những cực hình tra trấn dã man, những cơn đau xé xác thân ra, bệnh nhân kêu rên ngày đêm không ăn ngủ... chỉ mong được chết để giải thoát... Nhưng Thanh Nam đã mất tiếng nói, mất âm thanh để kêu đau... Ba thằng con bất hiếu ngủ chung giường đâu có biết cha sắp chết, chúng nằm xoay ngược trở ngang, hất gối xuống giường, đạp mền xuống thảm. Thanh Nam chỉ biết ghi vào hồi ký “đau, đau, đau.”...
Trước khi đi vào hôn mê, Thanh Nam đã viết xuống “Người nghệ sĩ có những lúc sống cẩu thả, buông thỏng dây cương luân lý, nhưng em nên nhớ rằng từ ngày lấy em, anh không bao giờ phản bội thể xác em.” Đôi mắt Thanh Nam to nhưng cạn và mờ đục, lúc đó ánh lên,nhìn thẳng mặt tôi. Tôi thấy tôi hiện diện trong cái nhìn thật thà đó: ở chàng, tình nghĩa vợ chồng cũng quý báu như lòng hiếu hữu ái mộ bạn hiền.
Ngày 27 tháng 5 năm 2007- Túy Hồng
(Nguồn :Gio-o )
12-19-2011 09:51 AM
#2
Cảm ơn anh Ngocdam66 .
Bài sưu tầm thật hay .
Mời anh và quý bạn xem bài " Thơ Xuân Đất Khách " của Thanh Nam sau đây :
Thơ Xuân Đất Khách
Tác giả: Thanh Nam
Tờ lịch đầu năm rớt hững hờ
Mới hay năm tháng đã thay mùa
Ra đi từ thuở làm ly khách
Sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ
Trôi giạt từ đông sang cõi bắc
Hành trình trơ một gánh ưu tư
Quê người nghĩ xót thân lưu lạc
Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du
Thức ngủ một mình trong tủi nhục
Dặm dài chân mỏi bước bơ vơ
Giống như người lính vừa thua trận
Nằm giữ sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bời
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa .
Ơi hỡi quê hương, bè bạn cũ
Những ai còn mất giữa sa mù
Mất nhau từ buổi tàn xuân đó
Không một tin nhà, một cánh thư
Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi
Rối bời tâm sự tuyết đan tơ
Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn năm dài Một Tháng Tư !
Chấp nhận hai đời trong một kiếp
Đành cho giông bão phũ phàng đưa
Đầu thai lần nữa trên trần thế
Kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ
Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt
Học làm con trẻ nói ngu ngơ
Vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi
Thân phận không bằng đứa mãng phu
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua
Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng
Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do !
Bằng hữu qua đây dăm bẩy kẻ
Đứa nuôi cừu hận, đứa phong ba
Đứa nằm yên phận vui êm ấm
Đứa nhục nhằn lê kiếp sống thừa .
Mây nước có phen còn hội ngộ
Thâm tình viễn xứ lại như xa
Xuân này đón tuổi gần năm chục
Đối bóng mình ta say với ta .
Seattle, mùa xuân 1977 .
My You Tube
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng còn thấy nguyên màu ấy chăng ?
BG
NGUYỄN VĂN SÂM * THANH NAM
Giới thiệu ngắn về một nhà văn:
Thanh Nam
và Con Người Bất Hạnh Cô Đơn
Nguyễn văn Sâm
Nhà văn
Thanh Nam
hoàn tất cuộc
lữ hành văn
nghệ hơn ba
mươi năm
trời. Thời gian
đủ xây dựng
một số công
trình và tiếng
tăm trong văn
giới và độc
giả. Trong ba
mươi năm
nhập cuộc với ông chỉ có văn nghệ và văn
nghệ mà thôi. Những hoạt động khác đều
trở nên thứ yếu. Văn nghệ là cuộc sống, là
cuộc đời của Thanh Nam. Văn nghệ, khu
rừng ông đến, thưởng thức, trồng thêm cây
và cất nhà ở đó, khác với một số đông nhà
văn khác, chỉ ghé tạt ngang qua, liếc thoáng
một cái nhìn rồi trở về nhà riêng, lâu lâu
quay trở lại thật ngắn để có mặt nhưng sự
ràng buộc với văn chương chữ nghĩa thật
lỏng lẻo, lợt lạt…
Trong nhịp sáng tác Thanh Nam từ từ đi,
không vội vàng, không chểnh mảng, tác
phẩm xuất hiện không ào ạt, nhưng gần
như năm nào cũng có. Con đường viết
riêng, không thắc mắc khó khăn (Huỳnh
Phan Anh, Nguyễn Thị Hoàng, ặng Phùng
Quân…) cũng không lè tè dễ dãi (Ngọc
Linh, Ngọc Sơn, An Khê, Lê Xuyên). Thái
độ trung dung của ông – hay nhu cầu đề ra
của các chủ báo – khiến Thanh Nam không
vượt lên được trên số ít oi những cây viết
nổi bật của giai đoạn Việt Nam Cộng Hòa
1954-1975.
Nói chung ông không có tác phẩm lớn làm
thay đổi bước đi của lịch sử văn học hay
đánh dấu một đoạn đường đặc biệt nào đó
trong tiến trình văn chương Việt. Ông chỉ để
lại một vài vết tích nhỏ trên con sông văn
chương Việt bát ngát dàn trãi mà ai từng đi
dọc dòng sông đó cũng đều nhận ra ngay.
Đó không là những thác cao, những cù lao
lớn, những hòn dài, những mảng đất bao la
chẻ sông ra làm hai, làm ba, làm chín. Tác
phẩm của ông chỉ là một vài mũi đất, cái
voi, cái vịnh nhỏ trong khúc sông hẹp,
nhưng có mặt và người ta nhận ngay ra đó
là những doi vịnh Thanh Nam.
Tôi không muốn đặt vấn đề địa vị nhà văn
cao thấp ở đây. Sự đánh giá bất kỳ nhà văn
nào cũng đều không tránh khỏi được sự
chủ quan và trong tình trạng đặc biệt của
việc viết lách hải ngoại hiện nay, sự xếp đặt
vị trí nầy nọ là chuyện khôi hài. Điều quan
trọng là tác giả có đóng góp hay không vào
kho tàng văn chương Việt. Với thời gian,
mỗi người một vài tác phẩm, dân tộc chúng
ta nói chung, người Việt hải ngoại nói riêng,
sẽ có nền văn học riêng. Chiếu trên, chiếu
dưới, đỉnh cao, ngọn núi chỉ là những lời trơ
trẻn, chỉ có giá trị rao hàng. Vì vậy tôi chỉ
muốn nhân dịp này phóng bút nói những
điều thật chủ quan về Thanh Nam.
Cách đây một phần tư thế kỷ, trong một bài
viết cho tờ báo sinh viên của trường, tờ Văn
Khoa (hay Đối Thoại?) do anh Phạm
Trường Thiên, con trai ông chủ nhà sách
Việt Hương ở đường Lê Lợi Sàigòn lúc ấy
chủ trương, viết về tình hình văn chương
Việt Nam trong năm 1961, tôi có nhắc đến
sự thành công của Thanh Nam trong tập
truyện “Buồn Ga Nhỏ” sau khi nhận xét rằng
“Người Viễn Khách Thứ Mười” của Nghiêm
Xuân Hồng cũng xuất hiện năm đó là tác
phẩm trội nhất trong năm.
Với tôi Buồn Ga Nhỏ đặc biệt đã nói lên
được một tâm trạng, một mối tình. Tâm
trạng người thiếu phụ chấp nhận đời mình
đứng lại như một sân ga. Người đến, người
đi, tàu dừng, tàu chạy, riêng mình ở lại chờ
sự tàn phá của thời gian, không ai buồn chú
ý. Vì sao? – Hoàn cảnh. Một người chồng
già, tầm thường, vô học, không có một điểm
nhỏ điều kiện nào để vươn lên. Tâm trạng
đó lại đau đớn hơn, lại được làm cho sắc
nét hơn khi người xưa trở lại hé cho thấy
một mối tình, một sự tiếc rẻ. Văn trong
-2-
truyện thật đơn sơ, sự kiện mô tả thật giản
dị nhưng hình ảnh đã tạo được xúc động
trong tôi lúc đó, đến giờ đọc lại vẫn còn cảm
giác, ấn tượng tương tợ.
Tôi ưa đặt vấn đề phía sau của tác phẩm?
Tôi muốn truyện ngắn phải chuyên chở một
nội dung? Tôi để lòng mình trôi theo thân
phận của nhân vật? Không rõ. Chỉ biết
Buồn Ga Nhỏ đã đem đến cho tôi trạng thái
lâng lâng, cái lâng lâng kéo dài hơn hai
mươi lăm năm và chắc chắn sẽ còn kéo dài
nữa sau này nếu có dịp đọc lại.
Về sau Vai Phụ cũng gảy vào cung bậc đó
trong tôi. Thân phận kẻ không tên bất hạnh
trong cuộc đời, sẵn sàng đem tấm lòng
mình, tài năng mình dàn trải ra cho người
đời nhưng không ai nhận, người đời chỉ đi
theo những bóng đèn sáng đã được chấp
nhận, ngoảnh mặt lại với những tài năng
mới mà vì hoàn cảnh chưa có khả năng
phát huy. Truyện viết ra từ năm 1959 nhưng
sau này tôi mới được đọc và tự hỏi nếu
trước đây được đọc, tôi có chăng sự xúc
cảm đó về số phận của “con người bất hạnh
cô đơn”, một con người luôn luôn đứng
trong bóng tối, luôn luôn giữ “ Vai Phụ”?
Thanh Nam chỉ đến với tôi bằng hai truyện
ngắn đó (Nhiều nhà văn khác cũng ảnh
hưởng lên tâm hồn tôi bằng một vài truyện
ngắn mà thôi. Bình Nguyên Lộc: Lò Chén
Chùm Sao, Nhốt Gió, Ba Con Cáo, Rừng
Mắm; Hồ Hữu Tường: Con Thằn Lằn Chọn
Nghiệp; Thạch Lam: Sợi Tóc; Phạm Duy
Tốn: Câu Chuyện Một Tối Tân Hôn…Nhiều
người chỉ là một đoạn ngắn: Thanh Tịnh:
Ngày Khai Trương…) Hai truyện, quá ít
nhưng đủ để tôi thấy Thanh Nam có đủ khả
năng đặt vấn đề thân phận con người bị sa
lầy trong hoàn cảnh hẩm hiu. Các truyện dài
của Thanh Nam trái lại qua lòng tôi không
để lại dấu vết, đi qua như những bữa cơm
bình thường hằng ngày, về sau có nhớ
cũng không thể nói cảm nghĩ mình bữa đó.
Có lẽ vì văn trong truyện dài của Thanh
Nam, kỹ thuật dựng truyện của ông và
không khí trong truyện tương tợ với tác
phẩm của bạn bè ông lúc đó: Văn Quang,
Hoàng Hải Thủy…(và cả Viên Linh?)
Tôi chỉ nhớ Thanh Nam có vài bài thơ rải
rác đó đây. Những bài thơ tình, đủ để gọi là
thi sĩ nhưng chưa vượt lên được trên đỉnh
cao nghệ thuật, với những bản sắc riêng
như Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Vũ
Hoàng Chương, hay đặc biệt như Trần Dạ
Từ, Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng, Phạm
Thiên Thư.
Trong dịp ra mắt tập thơ của Thanh Nam
(do Mai Thảo đại diện) cùng với tập truyện
Tan Theo Ngày Nắng Vội của Du Tử Lê ở
Houston hai năm trước đây, được mời phát
biểu trước độc giả, tôi đã nói đại khái Đất
Khách là tâm trạng của chúng ta, những
người ly hương suốt đời hoài vọng về
khung trời cũ, suốt đời cảm nhận chúng ta
đã mất quê hương. Ở xứ người thành công
hay thất bại một cảm thức đau đớn cũng
luôn dày xéo hồn ta, nhắc nhở rằng ta đang
ở ngoài quê hương, ở trọ, sống nhờ, ghé
chơi, và ước mong được trở về quê cũ,
một quê cũ nghìn trùng xa cách mà trong
sâu thẳm của tri thức, ta lờ mờ thấy rằng
khó đạt được…
Thanh Nam với bài thơ thôi, với vài hình
ảnh thật gợi xúc động đã giúp ta kéo dài
thời gian trở về ngày cũ, đem không gian
nghìn trùng của quê nhà về cho ta nơi Đất
Khách. Ô sống với quá khứ, với Saigon,
ông phủ nhận thời gian và không gian bây
giờ, ông diễn tả hộ ta tâm sự tư cố hương,
ông trình bày với đời hoài cảm vọng minh
nguyệt giùm cho thế hệ ly hương thứ nhất
bằng những từ ngữ chững chạc, đứng đắn,
với một thái độ thật trầm tĩnh, nghiêm túc,
rất phù hợp với thơ.
Những ngày đánh vật với bệnh trạng ở
Seattle, Thanh Nam vẫn thiết tha cùng văn
nghệ như thuở nào. Ông viết hồi ký. Ông kể
những kỷ niệm về nhà văn kháng chiến
chống Pháp của giai đoạn 45-50, ông nói về
Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh…Hình như ông
đã lờ mờ muốn đặt vấn đề đem đến một sự
công bằng cho những nhà văn không may
viết và sống trong một hoàn cảnh vô cùng
đặc biệt về chính trị và văn học này. Ở
phạm vi bài này tôi không thể đi sâu vào
vấn đề. Đại khái các nhà văn kháng chiến
chống Pháp đã bị CS loại ra khỏi các cuốn
-3-
sách viết về văn học đấu tranh mà họ gọi là
văn học cách mạng Việt Nam vì những nhà
văn nầy không được chỉ thị khi viết, nên đã
viết từ một ý thức tự phát. Trong khi đó
sách vở miền Nam cũng rất ít nói đến các vị
nầy do thiếu thốn tài liệu và ngại ngùng
những hiểu lầm, quy chụp. Trong suốt hai
chục năm của nền Cộng Hòa, chúng ta chỉ
có hai cuốn nói về giai đoạn văn học nầy,
một của Thế Phong và một của Nguyễn
Văn Sâm. Qua thời gian, vấn đề tài liệu
càng trầm trọng hơn và nếu tình trạng này
kéo dài, vài mươi năm nữa thôi, không ai
biết gì về những người đã đánh Pháp bằng
ngòi bút, bằng suy luận, bằng tư tưởng như
Hồ Hữu Tường, Thẩm Thệ Hà (đã mất),
Sơn Khanh, Thê Húc (hiện ở một tiểu bang
miền Bắc), Nguyễn Đạt Thịnh (ở Hawaii).
Đặng Thị Thanh Phương (tức nhà văn nữ
Thanh Phương ở Pháp) và người bên kia
sẽ mặc tình nói rằng lúc đó chỉ có những
nhà văn CS mới dám đặt vấn đề chống
thực dân Pháp, chỉ có nhà văn CS mới yêu
nước!
Sẵn đây cũng nên nói thêm để chứng tỏ sự
trầm trọng của vấn đề tài liệu.
1. Bài phỏng vấn nhà văn Xuân Vũ của
Nguyễn Mộng Giác đăng trên Văn Học số 4
ngày 5/86, Xuân Vũ có câu “Vũ Anh Khang
của Nửa Bồ Xương Khô, Trắc Bá Diệp và
những bài thơ nổi tiếng khác…” Thật ra Vũ
Anh Khanh không có viết bài thơ nào tên
Trắc Bá Diệp. Nửa Bồ Xương Khô là tên
truyện dài trong đó, ở quyển 2, Vũ Anh
Khanh đã vụng về tuyên truyền cho chế độ
CS – Sau này ông đã trả giá sự sai lầm của
mình bằng cái chết khi toan vượt sông Bến
Hải vào năm 1957 – và Cây Ná Trắc là tên
tập truyện ngắn ca tụng sự kháng chiến
không có một chút hơi hướm nào của CS
trong đó. Cũng nên nhắc lại Vũ Anh Khanh
đã cống hiến cho chúng ta bài thơ Tha La
(đã được phổ nhạc từ lâu) nổi tiếng như
Màu Tím Hoa Sim hay Đôi Mắt Người Sơn
Tây ở Miền Bắc cùng giai đoạn.
2. Báo Làng Văn số tháng 5/86 trong bài
phỏng vấn Cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn
Lộc, tức nhà văn Sơn Khanh cho biết Sơn
Khanh có viết cuốn Toàn Binh (1950). Thật
ra Tàn Binh là một cuốn tiểu thuyết rất khá
của Sơn Khanh diễn tả tâm trạng của một
người vì hoàn cảnh bỏ chiến đấu trở về
thành nhưng không lúc nào nguôi được
mặc cảm đã không làm tròn bổn phận với tổ
quốc. quê hương…
Trở về chuyện Thanh Nam, điều làm tôi chú
ý và suy nghĩ, đó là tình thương vô bờ của
đa số bạn văn. Khi ông nằm xuống, rất
nhiều người viết về ông, về tình bạn, về kỷ
niệm, về lòng mến tiếc. Mới đây bài của
Phan Lạc Tiếp cũng rất xúc động, mấy câu
thơ của Vĩnh Lộc (Quãng đường tri kỷ
thoáng qua. Trạm buồn ga nhỏ còn ta ngậm
ngùi) cũng rất…ngậm ngùi.
Tại sao?
Không hẳn vì Thanh Nam đã cầm bút. Hồng
Liên Lê Xuân Giáo mới mất, Xuân Hiến đã
từ trần sao không được một sự bày tỏ thân
tình rộng rãi như vậy?
Phải chăng nhờ một thứ tình bằng hữu tốt
đẹp của Thanh Nam đối với bạn bè văn
giới? Phải chăng vì tư cách của ông trong
suốt cuộc đời ông? Phải chăng vì tính
phóng khoáng của nhà thơ, khi đánh canh
bạc đời?
Chỉ có thể giải thích thỏa đáng và đưa ra
lời đáp có giá trị từ các thân hữu của Thanh
Nam, kẻ viết bài này rất tiếc trong suốt đời
mình chưa bao giờ được hân hạnh gặp
ông. Đó là một sự thiệt thòi, một điều quá
uổng, đáng tiếc bởi vì được gặp, được tiếp
chuyện với nhà văn mà tác phẩm của họ đã
tạo được ấn tượng sâu đậm trong lòng
mình lúc còn trẻ là một điều đáng thú vị biết
bao.
Biết đâu được sự gặp gỡ đó tôi đã có thể
thêm vào bài loạn bút này vài dật sử về
ông để đỡ nhạt.
Nguồn: Tạp chí Văn, California, số 49,
tháng 7 năm 1986, trang 83-87
Thanh Nam
và Con Người Bất Hạnh Cô Đơn
Nguyễn văn Sâm
Nhà văn
Thanh Nam
hoàn tất cuộc
lữ hành văn
nghệ hơn ba
mươi năm
trời. Thời gian
đủ xây dựng
một số công
trình và tiếng
tăm trong văn
giới và độc
giả. Trong ba
mươi năm
nhập cuộc với ông chỉ có văn nghệ và văn
nghệ mà thôi. Những hoạt động khác đều
trở nên thứ yếu. Văn nghệ là cuộc sống, là
cuộc đời của Thanh Nam. Văn nghệ, khu
rừng ông đến, thưởng thức, trồng thêm cây
và cất nhà ở đó, khác với một số đông nhà
văn khác, chỉ ghé tạt ngang qua, liếc thoáng
một cái nhìn rồi trở về nhà riêng, lâu lâu
quay trở lại thật ngắn để có mặt nhưng sự
ràng buộc với văn chương chữ nghĩa thật
lỏng lẻo, lợt lạt…
Trong nhịp sáng tác Thanh Nam từ từ đi,
không vội vàng, không chểnh mảng, tác
phẩm xuất hiện không ào ạt, nhưng gần
như năm nào cũng có. Con đường viết
riêng, không thắc mắc khó khăn (Huỳnh
Phan Anh, Nguyễn Thị Hoàng, ặng Phùng
Quân…) cũng không lè tè dễ dãi (Ngọc
Linh, Ngọc Sơn, An Khê, Lê Xuyên). Thái
độ trung dung của ông – hay nhu cầu đề ra
của các chủ báo – khiến Thanh Nam không
vượt lên được trên số ít oi những cây viết
nổi bật của giai đoạn Việt Nam Cộng Hòa
1954-1975.
Nói chung ông không có tác phẩm lớn làm
thay đổi bước đi của lịch sử văn học hay
đánh dấu một đoạn đường đặc biệt nào đó
trong tiến trình văn chương Việt. Ông chỉ để
lại một vài vết tích nhỏ trên con sông văn
chương Việt bát ngát dàn trãi mà ai từng đi
dọc dòng sông đó cũng đều nhận ra ngay.
Đó không là những thác cao, những cù lao
lớn, những hòn dài, những mảng đất bao la
chẻ sông ra làm hai, làm ba, làm chín. Tác
phẩm của ông chỉ là một vài mũi đất, cái
voi, cái vịnh nhỏ trong khúc sông hẹp,
nhưng có mặt và người ta nhận ngay ra đó
là những doi vịnh Thanh Nam.
Tôi không muốn đặt vấn đề địa vị nhà văn
cao thấp ở đây. Sự đánh giá bất kỳ nhà văn
nào cũng đều không tránh khỏi được sự
chủ quan và trong tình trạng đặc biệt của
việc viết lách hải ngoại hiện nay, sự xếp đặt
vị trí nầy nọ là chuyện khôi hài. Điều quan
trọng là tác giả có đóng góp hay không vào
kho tàng văn chương Việt. Với thời gian,
mỗi người một vài tác phẩm, dân tộc chúng
ta nói chung, người Việt hải ngoại nói riêng,
sẽ có nền văn học riêng. Chiếu trên, chiếu
dưới, đỉnh cao, ngọn núi chỉ là những lời trơ
trẻn, chỉ có giá trị rao hàng. Vì vậy tôi chỉ
muốn nhân dịp này phóng bút nói những
điều thật chủ quan về Thanh Nam.
Cách đây một phần tư thế kỷ, trong một bài
viết cho tờ báo sinh viên của trường, tờ Văn
Khoa (hay Đối Thoại?) do anh Phạm
Trường Thiên, con trai ông chủ nhà sách
Việt Hương ở đường Lê Lợi Sàigòn lúc ấy
chủ trương, viết về tình hình văn chương
Việt Nam trong năm 1961, tôi có nhắc đến
sự thành công của Thanh Nam trong tập
truyện “Buồn Ga Nhỏ” sau khi nhận xét rằng
“Người Viễn Khách Thứ Mười” của Nghiêm
Xuân Hồng cũng xuất hiện năm đó là tác
phẩm trội nhất trong năm.
Với tôi Buồn Ga Nhỏ đặc biệt đã nói lên
được một tâm trạng, một mối tình. Tâm
trạng người thiếu phụ chấp nhận đời mình
đứng lại như một sân ga. Người đến, người
đi, tàu dừng, tàu chạy, riêng mình ở lại chờ
sự tàn phá của thời gian, không ai buồn chú
ý. Vì sao? – Hoàn cảnh. Một người chồng
già, tầm thường, vô học, không có một điểm
nhỏ điều kiện nào để vươn lên. Tâm trạng
đó lại đau đớn hơn, lại được làm cho sắc
nét hơn khi người xưa trở lại hé cho thấy
một mối tình, một sự tiếc rẻ. Văn trong
-2-
truyện thật đơn sơ, sự kiện mô tả thật giản
dị nhưng hình ảnh đã tạo được xúc động
trong tôi lúc đó, đến giờ đọc lại vẫn còn cảm
giác, ấn tượng tương tợ.
Tôi ưa đặt vấn đề phía sau của tác phẩm?
Tôi muốn truyện ngắn phải chuyên chở một
nội dung? Tôi để lòng mình trôi theo thân
phận của nhân vật? Không rõ. Chỉ biết
Buồn Ga Nhỏ đã đem đến cho tôi trạng thái
lâng lâng, cái lâng lâng kéo dài hơn hai
mươi lăm năm và chắc chắn sẽ còn kéo dài
nữa sau này nếu có dịp đọc lại.
Về sau Vai Phụ cũng gảy vào cung bậc đó
trong tôi. Thân phận kẻ không tên bất hạnh
trong cuộc đời, sẵn sàng đem tấm lòng
mình, tài năng mình dàn trải ra cho người
đời nhưng không ai nhận, người đời chỉ đi
theo những bóng đèn sáng đã được chấp
nhận, ngoảnh mặt lại với những tài năng
mới mà vì hoàn cảnh chưa có khả năng
phát huy. Truyện viết ra từ năm 1959 nhưng
sau này tôi mới được đọc và tự hỏi nếu
trước đây được đọc, tôi có chăng sự xúc
cảm đó về số phận của “con người bất hạnh
cô đơn”, một con người luôn luôn đứng
trong bóng tối, luôn luôn giữ “ Vai Phụ”?
Thanh Nam chỉ đến với tôi bằng hai truyện
ngắn đó (Nhiều nhà văn khác cũng ảnh
hưởng lên tâm hồn tôi bằng một vài truyện
ngắn mà thôi. Bình Nguyên Lộc: Lò Chén
Chùm Sao, Nhốt Gió, Ba Con Cáo, Rừng
Mắm; Hồ Hữu Tường: Con Thằn Lằn Chọn
Nghiệp; Thạch Lam: Sợi Tóc; Phạm Duy
Tốn: Câu Chuyện Một Tối Tân Hôn…Nhiều
người chỉ là một đoạn ngắn: Thanh Tịnh:
Ngày Khai Trương…) Hai truyện, quá ít
nhưng đủ để tôi thấy Thanh Nam có đủ khả
năng đặt vấn đề thân phận con người bị sa
lầy trong hoàn cảnh hẩm hiu. Các truyện dài
của Thanh Nam trái lại qua lòng tôi không
để lại dấu vết, đi qua như những bữa cơm
bình thường hằng ngày, về sau có nhớ
cũng không thể nói cảm nghĩ mình bữa đó.
Có lẽ vì văn trong truyện dài của Thanh
Nam, kỹ thuật dựng truyện của ông và
không khí trong truyện tương tợ với tác
phẩm của bạn bè ông lúc đó: Văn Quang,
Hoàng Hải Thủy…(và cả Viên Linh?)
Tôi chỉ nhớ Thanh Nam có vài bài thơ rải
rác đó đây. Những bài thơ tình, đủ để gọi là
thi sĩ nhưng chưa vượt lên được trên đỉnh
cao nghệ thuật, với những bản sắc riêng
như Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Vũ
Hoàng Chương, hay đặc biệt như Trần Dạ
Từ, Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng, Phạm
Thiên Thư.
Trong dịp ra mắt tập thơ của Thanh Nam
(do Mai Thảo đại diện) cùng với tập truyện
Tan Theo Ngày Nắng Vội của Du Tử Lê ở
Houston hai năm trước đây, được mời phát
biểu trước độc giả, tôi đã nói đại khái Đất
Khách là tâm trạng của chúng ta, những
người ly hương suốt đời hoài vọng về
khung trời cũ, suốt đời cảm nhận chúng ta
đã mất quê hương. Ở xứ người thành công
hay thất bại một cảm thức đau đớn cũng
luôn dày xéo hồn ta, nhắc nhở rằng ta đang
ở ngoài quê hương, ở trọ, sống nhờ, ghé
chơi, và ước mong được trở về quê cũ,
một quê cũ nghìn trùng xa cách mà trong
sâu thẳm của tri thức, ta lờ mờ thấy rằng
khó đạt được…
Thanh Nam với bài thơ thôi, với vài hình
ảnh thật gợi xúc động đã giúp ta kéo dài
thời gian trở về ngày cũ, đem không gian
nghìn trùng của quê nhà về cho ta nơi Đất
Khách. Ô sống với quá khứ, với Saigon,
ông phủ nhận thời gian và không gian bây
giờ, ông diễn tả hộ ta tâm sự tư cố hương,
ông trình bày với đời hoài cảm vọng minh
nguyệt giùm cho thế hệ ly hương thứ nhất
bằng những từ ngữ chững chạc, đứng đắn,
với một thái độ thật trầm tĩnh, nghiêm túc,
rất phù hợp với thơ.
Những ngày đánh vật với bệnh trạng ở
Seattle, Thanh Nam vẫn thiết tha cùng văn
nghệ như thuở nào. Ông viết hồi ký. Ông kể
những kỷ niệm về nhà văn kháng chiến
chống Pháp của giai đoạn 45-50, ông nói về
Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh…Hình như ông
đã lờ mờ muốn đặt vấn đề đem đến một sự
công bằng cho những nhà văn không may
viết và sống trong một hoàn cảnh vô cùng
đặc biệt về chính trị và văn học này. Ở
phạm vi bài này tôi không thể đi sâu vào
vấn đề. Đại khái các nhà văn kháng chiến
chống Pháp đã bị CS loại ra khỏi các cuốn
-3-
sách viết về văn học đấu tranh mà họ gọi là
văn học cách mạng Việt Nam vì những nhà
văn nầy không được chỉ thị khi viết, nên đã
viết từ một ý thức tự phát. Trong khi đó
sách vở miền Nam cũng rất ít nói đến các vị
nầy do thiếu thốn tài liệu và ngại ngùng
những hiểu lầm, quy chụp. Trong suốt hai
chục năm của nền Cộng Hòa, chúng ta chỉ
có hai cuốn nói về giai đoạn văn học nầy,
một của Thế Phong và một của Nguyễn
Văn Sâm. Qua thời gian, vấn đề tài liệu
càng trầm trọng hơn và nếu tình trạng này
kéo dài, vài mươi năm nữa thôi, không ai
biết gì về những người đã đánh Pháp bằng
ngòi bút, bằng suy luận, bằng tư tưởng như
Hồ Hữu Tường, Thẩm Thệ Hà (đã mất),
Sơn Khanh, Thê Húc (hiện ở một tiểu bang
miền Bắc), Nguyễn Đạt Thịnh (ở Hawaii).
Đặng Thị Thanh Phương (tức nhà văn nữ
Thanh Phương ở Pháp) và người bên kia
sẽ mặc tình nói rằng lúc đó chỉ có những
nhà văn CS mới dám đặt vấn đề chống
thực dân Pháp, chỉ có nhà văn CS mới yêu
nước!
Sẵn đây cũng nên nói thêm để chứng tỏ sự
trầm trọng của vấn đề tài liệu.
1. Bài phỏng vấn nhà văn Xuân Vũ của
Nguyễn Mộng Giác đăng trên Văn Học số 4
ngày 5/86, Xuân Vũ có câu “Vũ Anh Khang
của Nửa Bồ Xương Khô, Trắc Bá Diệp và
những bài thơ nổi tiếng khác…” Thật ra Vũ
Anh Khanh không có viết bài thơ nào tên
Trắc Bá Diệp. Nửa Bồ Xương Khô là tên
truyện dài trong đó, ở quyển 2, Vũ Anh
Khanh đã vụng về tuyên truyền cho chế độ
CS – Sau này ông đã trả giá sự sai lầm của
mình bằng cái chết khi toan vượt sông Bến
Hải vào năm 1957 – và Cây Ná Trắc là tên
tập truyện ngắn ca tụng sự kháng chiến
không có một chút hơi hướm nào của CS
trong đó. Cũng nên nhắc lại Vũ Anh Khanh
đã cống hiến cho chúng ta bài thơ Tha La
(đã được phổ nhạc từ lâu) nổi tiếng như
Màu Tím Hoa Sim hay Đôi Mắt Người Sơn
Tây ở Miền Bắc cùng giai đoạn.
2. Báo Làng Văn số tháng 5/86 trong bài
phỏng vấn Cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn
Lộc, tức nhà văn Sơn Khanh cho biết Sơn
Khanh có viết cuốn Toàn Binh (1950). Thật
ra Tàn Binh là một cuốn tiểu thuyết rất khá
của Sơn Khanh diễn tả tâm trạng của một
người vì hoàn cảnh bỏ chiến đấu trở về
thành nhưng không lúc nào nguôi được
mặc cảm đã không làm tròn bổn phận với tổ
quốc. quê hương…
Trở về chuyện Thanh Nam, điều làm tôi chú
ý và suy nghĩ, đó là tình thương vô bờ của
đa số bạn văn. Khi ông nằm xuống, rất
nhiều người viết về ông, về tình bạn, về kỷ
niệm, về lòng mến tiếc. Mới đây bài của
Phan Lạc Tiếp cũng rất xúc động, mấy câu
thơ của Vĩnh Lộc (Quãng đường tri kỷ
thoáng qua. Trạm buồn ga nhỏ còn ta ngậm
ngùi) cũng rất…ngậm ngùi.
Tại sao?
Không hẳn vì Thanh Nam đã cầm bút. Hồng
Liên Lê Xuân Giáo mới mất, Xuân Hiến đã
từ trần sao không được một sự bày tỏ thân
tình rộng rãi như vậy?
Phải chăng nhờ một thứ tình bằng hữu tốt
đẹp của Thanh Nam đối với bạn bè văn
giới? Phải chăng vì tư cách của ông trong
suốt cuộc đời ông? Phải chăng vì tính
phóng khoáng của nhà thơ, khi đánh canh
bạc đời?
Chỉ có thể giải thích thỏa đáng và đưa ra
lời đáp có giá trị từ các thân hữu của Thanh
Nam, kẻ viết bài này rất tiếc trong suốt đời
mình chưa bao giờ được hân hạnh gặp
ông. Đó là một sự thiệt thòi, một điều quá
uổng, đáng tiếc bởi vì được gặp, được tiếp
chuyện với nhà văn mà tác phẩm của họ đã
tạo được ấn tượng sâu đậm trong lòng
mình lúc còn trẻ là một điều đáng thú vị biết
bao.
Biết đâu được sự gặp gỡ đó tôi đã có thể
thêm vào bài loạn bút này vài dật sử về
ông để đỡ nhạt.
Nguồn: Tạp chí Văn, California, số 49,
tháng 7 năm 1986, trang 83-87
SƠN TRUNG * CHÍNH LUẬN
Những đề nghị cho hiến chương việt nam 2000
Sơn Trung
Chúng ta đang tiến đến việc soạn thảo hiến chương 2000 cho một Việt Nam Dân chủ.Các luật gia, các chính trị gia, các chiến sĩ cách mạng sẽ bàn luật việc này rất kỹ lưỡng trong tinh thần dân chủ và đoàn kết.
Ở đăy, chúng tôi xin đóng góp một vài ý kiến gửI đến
Đại Hội.
1.Triệt để thủ tiêu chế độ cộng sản.
a.Chúng ta phải thủ tiêu chủ nghĩa cộng sản,không phải là thủ tiêu con ngườI cộng sản. Những kẻ có tộI vớI dân nhân sẽ đüợc xét xử nghiêm minh, những ngườI gốc cộng sản nay đã trở về vớI dân tộc sẽ được khoan hồng.
b. Cộng sản là kẻ thù của dân tộc, của nhân loại. Chủ nghĩa cộng sản đã gây tang tóc và đau thương cho dân tộc ta.Ngày nay tại Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ nhưng một số ngườI vẫn muốn dựng lại xác cộng sản, nhất là bọn trước đây đã hưởng độc quyền, độc lợI. Chúng ta hoan nghênh những ngườI cộng sản tiến bộ nhưng phải đề phòng những bọn Cộng sản nằm vùng, bọn tay sai cộng sản dung luận điệu hòa hợp,hòa giải để làm lung lạc ý chí tranh đãu của nhân dân ta.Chúng ta phải đề cao cảnh giác và thẳng tay tiêu diệt bọn này tận gốc rễ.Chúng ta từ bây giờ đến mãi mãi về sau phải đặt dảng cộng sản ra ngoài vòng pháp luật.
Chúng ta không thể lập chế độ dân chủ khi vẫn còn hơn triệu đảng viên cộng sản vớI một triệu công an và một triệu bộ đội.Chúng ta khộng thể thực thi hiến chưong một khi vẫn còn những bô mặt gian manh cộng sản. Bài học lịch sử Cambodia là một chứng minh cụ thể về sự thất bại của Liên Hiệp quốc và phe Dân chủ Cambodge.Chúng ta chỉ có thể thành lập dân chủ thục sự khi nhân dân đã vùng lên tiêu diệt cộng sản.
2.Thực thi dân chủ:
Mục tiêu của chúng ta là tranh đãu cho một Việt Nam dân chủ.Từ đầu thế kỷ XX, nhân loại đã đề cao dân chủ, nhưng đa số quốc gia chưa thực sự dân chủ. Cộng sản đã lẫt đổ quân chủ và lập nên một chế độ độc tài đảng trị, mặc dầu họ vẫn dùng phấn son dân chủ giả dối để tuyên truyền lừa bịp.Trung quốc, Việt Nam đã dùng danh hiệu quân độI nhân dân, công an nhân dân, tòa án nhân dân.. . nhưng thực tế đó là những cộng cụ khủng bố, đàn áp nhân dân.Việt Nam đặ ra mô hình dân chủ giả tạo:Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, nhưng thực tế quyền hành nằm trong tay đảng. Quốc hộI cộng sản gồm cộng sản và bọn bù nhìn. Tòa án cũng chỉ là tay sai dảng, thực hành lệnh của đảng để trấn ápnhân dân.Nay chúng ta phải tranh đãu cho một Việt Nam dân chủ thực sự.
Thế nào là dân chủ thực sự ?
a.MọI ngườI có quyền ứng cử và bầu cử: DướI chế độ cộng sản, chỉ có cán bộ và bọn tay sai mớI có quyền bấu cử và ứng cử.Chúng ta phải tranh đãu cho công bằng, bình đẳng.
b.Phải thủ tiêu chế độ độc đảng.Cộng sản độc tài nắm quyền hành trong tay, tiêu diệt mọI đảng phái quốc gia, chúng ta phải tranh đãu cho chế độ đa đảng. Chúng ta phải thực thi đa đảng vì độc quyền thường đüa đến độc tài, tham những, tham quyền cố vị,coi khinh pháp luật,coi thường nhân dân.Phải có đa đảng và sự chuyển giao quyền hành trong tinh thần dân chủ và pháp trị thì mớI bảo đảm quyền lợI cho nhân dân và tổ quốc.
3. Thực Thi Tự Do.
Có dân chủ là phải có tự do.Có dân chủ mà không có tự do tức là chỉ có dân chủ hình thức.Chúng ta thực thi tư do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do cư trú, tự do bầu cử và ứng cử. . . Chúng ta tranh đãu cho nhân quyền, tiêu trừ mọI bất công, mọI kỳ thị. Tại Việt Nam, cộng sản tuyên truyền huyênh hoang tự do, dân chủ nhưng thực sự chúng tàn sát dân chúng, khủng bố mọI tầng lớp. bắt giam ngườI vô tộI, bóp chẹt mọI thứ tự do của con người. So sánh vớI các chế độ, chế độ cộng sản là chế độ ác ôn tàn bạo nhất từ trước đến nay. Chỉ riêng những chủ trương ‘ vô sản chuyên chính’và
‘ bắt lầm hơn bỏ sót’ là những chủ trương vô cùng tàn bạo và phi tự do, dân chủ. Còn cộng sản là còn dã man, tàn bạo, tham nhũng, thối nát, và mất tự do, dân chủ.Trái lại, chúng ta quyết tâm thực thi tự do, dân chủ.
3.Xây dựng pháp chế dân chủ.
Cộng sản không có pháp luật, chúng cai trị bằng các nghi định chắp vá, chúng muốn bắt ai, giết ai tuỳ thích. Gần đây, cộng sản đã ban hành các luật pháp, mở trường pháp luậtnhưng tất cả cũng chỉ là hình thức.
Chúng ta phải xây dựng nền tảng pháp lý dân chủ. Chúng ta xây dựng hiến pháp,pháp luật để bảo vệ quyền lợI nhân dân và xây dựng đất nước. Chúng ta phải tôn trọng pháp luật, tôn trọng kỷ cưong, ngăn chận tham ô nhũng lạm, ngăn chận bất công, tàn bạo bằng pháp luật. Pháp luật chính là phương sách bảo vệ tự do,dân chủ cho đất nước và nhân dân.
Theo ý kiến của đa số nhân dân Việt Nam, hiến chương 2000 phải gồm bốn điểm chính yếu, đó là, triệt tiệu chủ nghĩa cộng sản tẫn gốc rễ, đòi hỏi tư do, dân chủ thực sự và xây dựng nền tảng luật pháp công minh.Chúng ta đi sau các quốc gia dân chủ tiến bộ trên thế giớI cho nên chúng ta có thể tham khảo, rút tỉa tinh hoa của nhân loại trong việc xây dựng dân chủ và tư do và đặt nền tảng pháp lý cho chế độ dân chủ Việt Nam tương lai.
BACK
Sơn Trung
Chúng ta đang tiến đến việc soạn thảo hiến chương 2000 cho một Việt Nam Dân chủ.Các luật gia, các chính trị gia, các chiến sĩ cách mạng sẽ bàn luật việc này rất kỹ lưỡng trong tinh thần dân chủ và đoàn kết.
Ở đăy, chúng tôi xin đóng góp một vài ý kiến gửI đến
Đại Hội.
1.Triệt để thủ tiêu chế độ cộng sản.
a.Chúng ta phải thủ tiêu chủ nghĩa cộng sản,không phải là thủ tiêu con ngườI cộng sản. Những kẻ có tộI vớI dân nhân sẽ đüợc xét xử nghiêm minh, những ngườI gốc cộng sản nay đã trở về vớI dân tộc sẽ được khoan hồng.
b. Cộng sản là kẻ thù của dân tộc, của nhân loại. Chủ nghĩa cộng sản đã gây tang tóc và đau thương cho dân tộc ta.Ngày nay tại Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ nhưng một số ngườI vẫn muốn dựng lại xác cộng sản, nhất là bọn trước đây đã hưởng độc quyền, độc lợI. Chúng ta hoan nghênh những ngườI cộng sản tiến bộ nhưng phải đề phòng những bọn Cộng sản nằm vùng, bọn tay sai cộng sản dung luận điệu hòa hợp,hòa giải để làm lung lạc ý chí tranh đãu của nhân dân ta.Chúng ta phải đề cao cảnh giác và thẳng tay tiêu diệt bọn này tận gốc rễ.Chúng ta từ bây giờ đến mãi mãi về sau phải đặt dảng cộng sản ra ngoài vòng pháp luật.
Chúng ta không thể lập chế độ dân chủ khi vẫn còn hơn triệu đảng viên cộng sản vớI một triệu công an và một triệu bộ đội.Chúng ta khộng thể thực thi hiến chưong một khi vẫn còn những bô mặt gian manh cộng sản. Bài học lịch sử Cambodia là một chứng minh cụ thể về sự thất bại của Liên Hiệp quốc và phe Dân chủ Cambodge.Chúng ta chỉ có thể thành lập dân chủ thục sự khi nhân dân đã vùng lên tiêu diệt cộng sản.
2.Thực thi dân chủ:
Mục tiêu của chúng ta là tranh đãu cho một Việt Nam dân chủ.Từ đầu thế kỷ XX, nhân loại đã đề cao dân chủ, nhưng đa số quốc gia chưa thực sự dân chủ. Cộng sản đã lẫt đổ quân chủ và lập nên một chế độ độc tài đảng trị, mặc dầu họ vẫn dùng phấn son dân chủ giả dối để tuyên truyền lừa bịp.Trung quốc, Việt Nam đã dùng danh hiệu quân độI nhân dân, công an nhân dân, tòa án nhân dân.. . nhưng thực tế đó là những cộng cụ khủng bố, đàn áp nhân dân.Việt Nam đặ ra mô hình dân chủ giả tạo:Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, nhưng thực tế quyền hành nằm trong tay đảng. Quốc hộI cộng sản gồm cộng sản và bọn bù nhìn. Tòa án cũng chỉ là tay sai dảng, thực hành lệnh của đảng để trấn ápnhân dân.Nay chúng ta phải tranh đãu cho một Việt Nam dân chủ thực sự.
Thế nào là dân chủ thực sự ?
a.MọI ngườI có quyền ứng cử và bầu cử: DướI chế độ cộng sản, chỉ có cán bộ và bọn tay sai mớI có quyền bấu cử và ứng cử.Chúng ta phải tranh đãu cho công bằng, bình đẳng.
b.Phải thủ tiêu chế độ độc đảng.Cộng sản độc tài nắm quyền hành trong tay, tiêu diệt mọI đảng phái quốc gia, chúng ta phải tranh đãu cho chế độ đa đảng. Chúng ta phải thực thi đa đảng vì độc quyền thường đüa đến độc tài, tham những, tham quyền cố vị,coi khinh pháp luật,coi thường nhân dân.Phải có đa đảng và sự chuyển giao quyền hành trong tinh thần dân chủ và pháp trị thì mớI bảo đảm quyền lợI cho nhân dân và tổ quốc.
3. Thực Thi Tự Do.
Có dân chủ là phải có tự do.Có dân chủ mà không có tự do tức là chỉ có dân chủ hình thức.Chúng ta thực thi tư do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do cư trú, tự do bầu cử và ứng cử. . . Chúng ta tranh đãu cho nhân quyền, tiêu trừ mọI bất công, mọI kỳ thị. Tại Việt Nam, cộng sản tuyên truyền huyênh hoang tự do, dân chủ nhưng thực sự chúng tàn sát dân chúng, khủng bố mọI tầng lớp. bắt giam ngườI vô tộI, bóp chẹt mọI thứ tự do của con người. So sánh vớI các chế độ, chế độ cộng sản là chế độ ác ôn tàn bạo nhất từ trước đến nay. Chỉ riêng những chủ trương ‘ vô sản chuyên chính’và
‘ bắt lầm hơn bỏ sót’ là những chủ trương vô cùng tàn bạo và phi tự do, dân chủ. Còn cộng sản là còn dã man, tàn bạo, tham nhũng, thối nát, và mất tự do, dân chủ.Trái lại, chúng ta quyết tâm thực thi tự do, dân chủ.
3.Xây dựng pháp chế dân chủ.
Cộng sản không có pháp luật, chúng cai trị bằng các nghi định chắp vá, chúng muốn bắt ai, giết ai tuỳ thích. Gần đây, cộng sản đã ban hành các luật pháp, mở trường pháp luậtnhưng tất cả cũng chỉ là hình thức.
Chúng ta phải xây dựng nền tảng pháp lý dân chủ. Chúng ta xây dựng hiến pháp,pháp luật để bảo vệ quyền lợI nhân dân và xây dựng đất nước. Chúng ta phải tôn trọng pháp luật, tôn trọng kỷ cưong, ngăn chận tham ô nhũng lạm, ngăn chận bất công, tàn bạo bằng pháp luật. Pháp luật chính là phương sách bảo vệ tự do,dân chủ cho đất nước và nhân dân.
Theo ý kiến của đa số nhân dân Việt Nam, hiến chương 2000 phải gồm bốn điểm chính yếu, đó là, triệt tiệu chủ nghĩa cộng sản tẫn gốc rễ, đòi hỏi tư do, dân chủ thực sự và xây dựng nền tảng luật pháp công minh.Chúng ta đi sau các quốc gia dân chủ tiến bộ trên thế giớI cho nên chúng ta có thể tham khảo, rút tỉa tinh hoa của nhân loại trong việc xây dựng dân chủ và tư do và đặt nền tảng pháp lý cho chế độ dân chủ Việt Nam tương lai.
BACK
GS. NGUYỄN VĂN PHÚ * PHẬT GIÁO
con chim ngộ đạo
Nguyễn văn Phú
Trời thanh cảnh vắng, gió mát trăng trong, Rời khỏi cổng chùa, tổ Huệ từ thong thả bước theo con đường nhỏ dẫn vào rừng.
Dáng dấp khoan thai, bước chân nhẹ nhàng, Ngài tới giữa rừng lúc nào không hay. Rừng thưa, ánh trăng xuyên kẽ láchiếu tỏ tảng đá trên đó Ngài ngồi. Chợt có tiếng sột soạt đâu đây.
Một con chim bay sà xuống đất, đậu dưới chân Ngài, cúi đầu cung kính.
Ngài cất tiếng hỏi:
- Nhà ngươi có điều chi trong lòng ?
Con chim nói:
- Bạch hòa thượng, con tu đả nhiều kiếp, nay đang bị đọa làm chim, suốt ngày dùng mõ gõ vào thân cây rỗng, người đời gọi là con chim gõ mõ.
-Vì cớ gì bị đọa, khá kể ta nghe!
- Bạch hòa thương, trong một kiếp trước, con quy y, ăn chay, giữ giới, làm công quả tại các chùa. Được sanh về cõi nhơn, hưởng đời kiếp này sung sướng, con vẫn không quên tu tâm, dưỡng tánh, và sau đó lại được quả báo vào đường lành, lên cõi nhơn cao quý hơn nữa.Con thắc mắc tại sao con vẫn chưa lên đến cõi thiên?
- Con chỉ thắc mắc thế thôi à ?
-Dạ không, lòng con còn ấm ức.
- Con ơi, riêng việc ấm ức của con, oán trách trời đất không biềt công hạnh tu hành của con đã làm cho con giảm đi rất nhiều phước đức rồi. Con chưa nói hết đấy con ạ. Con còn gây ác nghiệp nào không nhỉ?
- Bạch thầy, con đã suy nghĩ nhiều, sám hối nhiều, mỗi tháng sám hối hai lần vào vào các ngày 14 và 30, con biết chắc con đã gây khẩu nghiệp quá nặng. Thầy con có dạy con cùng các bạn đồng đạo rằng các con gây được chút nghiệp lành nào thời vài ngày sau cái miệng các con lại xóa đi hết ráo!
- Dù sao ta cũng chưa hiểu được vì lý do gì mà con lại bị đọa làm kiếp chim gõ mõ như thế này. Có lẽ con chưa sám hối hết chăng?
- Bạch thầy, kiếp trước ngày nào con cũng tụng kinh, sư Pháp Đạt trong kinh Pháp Bảo Đàn khoerằng tụng được ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa, nói thật con tụng nhiều hơn thế .Pháp Hoa là vua của các kinh. Pháp Hioa khai thị ngộ nhập Phật tri kiến.Con chắc rằng trì tụng như vậy, con được nhập tri kiến rối, thế nào con cũng đã ngộ đạo, có ngờ đâu con bị đọa như thế này.
- Con ơi, trong khi tu hành như vậy,con có đàm đạo, hồii lâu với một vị đạo sư nào không?
- Dạ có.Có một vị đạo sư từ xa tới đàm đạo với con rất lâu. Ngài hỏi con nhiều câu con không nhớ rõ.
- Con không nhớ rõ nhưng ta có thể nhớ dùm con. Con mong cầu ngộ đạo, con đã quên căn bản của đạo Phật là vô ngã. Cái "ngã" của con lớn quá. Đã thế, cái " mạn", cái " kiêu" của con cũng lớn không kém. Này con ơi, làm gì có " chứng" làm gì có " đắc". Con tụng tâm kinh hằng ngàymà con chẳng biết áp dụng. Vô ngã, vô pháp, vô chứng. vô đắc mà làm gì có có người chứng,có người đắc. Gõ mõ, tụng kinh mà chẳng chịi hiểu, hiểu mà chẳnbg chịu hành. Thế thì tu ở chỗ nào?
Con chim chợt tỉnh ngộ, lạy tạ hoà thượng bay vụt đi.
Từ đêm hôm đó, người ta không còn nghe tiếng con chim gõ mõ trong rừng khuya. Không biết tại sao. Riêng hòa thượng, Ngài biết con chim gõ mõ đã được giải thoát.
Nguyễn Văn Phú
( góp nhặt)
BACK
Nguyễn văn Phú
Trời thanh cảnh vắng, gió mát trăng trong, Rời khỏi cổng chùa, tổ Huệ từ thong thả bước theo con đường nhỏ dẫn vào rừng.
Dáng dấp khoan thai, bước chân nhẹ nhàng, Ngài tới giữa rừng lúc nào không hay. Rừng thưa, ánh trăng xuyên kẽ láchiếu tỏ tảng đá trên đó Ngài ngồi. Chợt có tiếng sột soạt đâu đây.
Một con chim bay sà xuống đất, đậu dưới chân Ngài, cúi đầu cung kính.
Ngài cất tiếng hỏi:
- Nhà ngươi có điều chi trong lòng ?
Con chim nói:
- Bạch hòa thượng, con tu đả nhiều kiếp, nay đang bị đọa làm chim, suốt ngày dùng mõ gõ vào thân cây rỗng, người đời gọi là con chim gõ mõ.
-Vì cớ gì bị đọa, khá kể ta nghe!
- Bạch hòa thương, trong một kiếp trước, con quy y, ăn chay, giữ giới, làm công quả tại các chùa. Được sanh về cõi nhơn, hưởng đời kiếp này sung sướng, con vẫn không quên tu tâm, dưỡng tánh, và sau đó lại được quả báo vào đường lành, lên cõi nhơn cao quý hơn nữa.Con thắc mắc tại sao con vẫn chưa lên đến cõi thiên?
- Con chỉ thắc mắc thế thôi à ?
-Dạ không, lòng con còn ấm ức.
- Con ơi, riêng việc ấm ức của con, oán trách trời đất không biềt công hạnh tu hành của con đã làm cho con giảm đi rất nhiều phước đức rồi. Con chưa nói hết đấy con ạ. Con còn gây ác nghiệp nào không nhỉ?
- Bạch thầy, con đã suy nghĩ nhiều, sám hối nhiều, mỗi tháng sám hối hai lần vào vào các ngày 14 và 30, con biết chắc con đã gây khẩu nghiệp quá nặng. Thầy con có dạy con cùng các bạn đồng đạo rằng các con gây được chút nghiệp lành nào thời vài ngày sau cái miệng các con lại xóa đi hết ráo!
- Dù sao ta cũng chưa hiểu được vì lý do gì mà con lại bị đọa làm kiếp chim gõ mõ như thế này. Có lẽ con chưa sám hối hết chăng?
- Bạch thầy, kiếp trước ngày nào con cũng tụng kinh, sư Pháp Đạt trong kinh Pháp Bảo Đàn khoerằng tụng được ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa, nói thật con tụng nhiều hơn thế .Pháp Hoa là vua của các kinh. Pháp Hioa khai thị ngộ nhập Phật tri kiến.Con chắc rằng trì tụng như vậy, con được nhập tri kiến rối, thế nào con cũng đã ngộ đạo, có ngờ đâu con bị đọa như thế này.
- Con ơi, trong khi tu hành như vậy,con có đàm đạo, hồii lâu với một vị đạo sư nào không?
- Dạ có.Có một vị đạo sư từ xa tới đàm đạo với con rất lâu. Ngài hỏi con nhiều câu con không nhớ rõ.
- Con không nhớ rõ nhưng ta có thể nhớ dùm con. Con mong cầu ngộ đạo, con đã quên căn bản của đạo Phật là vô ngã. Cái "ngã" của con lớn quá. Đã thế, cái " mạn", cái " kiêu" của con cũng lớn không kém. Này con ơi, làm gì có " chứng" làm gì có " đắc". Con tụng tâm kinh hằng ngàymà con chẳng biết áp dụng. Vô ngã, vô pháp, vô chứng. vô đắc mà làm gì có có người chứng,có người đắc. Gõ mõ, tụng kinh mà chẳng chịi hiểu, hiểu mà chẳnbg chịu hành. Thế thì tu ở chỗ nào?
Con chim chợt tỉnh ngộ, lạy tạ hoà thượng bay vụt đi.
Từ đêm hôm đó, người ta không còn nghe tiếng con chim gõ mõ trong rừng khuya. Không biết tại sao. Riêng hòa thượng, Ngài biết con chim gõ mõ đã được giải thoát.
Nguyễn Văn Phú
( góp nhặt)
BACK
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 020
No comments:
Post a Comment