THƠ TRẦN DẦN
Nhà thơ Trần Dần
Ông mới xuất hiện là một nhà thơ thì cuộc chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Trở về Nam Ðịnh ông tham gia kháng chiến và đảm nhận công tác tuyên truyền. Sau khi Nam Ðịnh thất thủ, ông xung phong gia nhập bộ đội và được cử lên mặt trận Sơn La. ở đây, ông phụ trách điều khiển đoàn văn công, được các văn nghệ sĩ trong Trung đoàn rất quý mến và được kết nạp làm đảng viên. Nhưng là một văn nghệ sĩ, ông không chịu nổi sự chèn ép của các cán bộ chính trị cấp Trung đoàn, nên đến năm 1951, ông xin về Trung Ương. nhận công tác viết báo cho cục Quân Huấn . Trong thời kỳ này, ngoài việc viết báo, ông con phụ trách giảng về văn nghệ nhân dân và chính sách lãnh đạo văn nghệ của Ðảng đối với văn nghệ sĩ trong những lớp đào tạo cán bộ văn công. Bị phê bình là giảng sai đường lối của Ðảng, ông tức mình xin đi công tác tiền tuyến và được cử lên mặt trận Ðiện Biên Phủ. Xúc cảm trước sự tấn công ào ạt của quân đội kháng chiến vào thành lũy của Pháp, nhất là trước cái chết thê thảm của Tô Ngọc Vân, bạn đồng hành của ông. Trần Dần sáng tác cuốn Người Người Lớp Lớp. Nhờ cuốn sách này ông được Ðảng yêu chuộng trở lại và năm 1954 được cử đi Trung quốc để viết bản dẫn giải bằng tiếng Việt cho cuốn phim "Chiến thắng Ðiện Biên Phủ" là cuốn phim Việt Minh đóng lại trận Ðiện Biên Phủ do cán bộ Trung cộng sang quay và mang sang Tàu thu thanh .
Nhân chuyến du hành này, Trần Dần được tiếp xúc với nền văn hóa của Trung Cộng. Ông lấy làm thất vọng nên khi trở về, ông nói nhỏ với bạn bè : "Chớ nên theo đường lối văn nghệ của Trung Quốc".
Cùng đi với ông sang Trung quốc có một cán bộ chính trị phụ trách về đường lối giải thích , nhưng tên cán bộ này mặc dầu dốt đặc về văn chương nhưng cũng cứ nhất định dùng quyền lực chính trị của mình để sửa chữa từng câu, từng chữ của Trần Dần, mà có khi ngang nhiên đọc lời giải thích của mình cho Trần Dần viết. Ông lấy làm bất mãn, nên khi về đến Việt Nam, ông cùng một số văn nghệ sĩ đảng viên khác như Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh và Ðỗ Nhuận, cùng trong cảnh ngộ, viết kiến nghị lên cấp trên yêu cầu hạn chế sự can thiệp của cán bộ chính trị vào lãnh vực văn nghệ .
Kiến nghị còn đang được cứu xét thì xẩy ra một việc quan trọng hơn. Ðó là việc Trần Dần tự tiện lấy vợ, bất chấp sự cấm đoán của Ðảng. Theo một đạo luật bất thành văn mà Ðảng đã đặt ra, các đảng viên cấp xã phải báo cáo cho cấp trên biết trước mỗi khi dự định lấy vợ, lấy chồng ; các đảng viên huyện (trường hợp của Trần Dần) phải xin phép Ðảng mới được cưới xin hoặc yêu đương, còn về phần các đảng viên cấp tỉnh trở lên thì việc dựng vợ gả chồng là đo Ðảng quyết định .
Trần Dần tuy là đảng viên ,nhưng vẫn giũ tính chất văn nghệ sĩ, không chịu nổi luyến ái quan Mác Xít. Hồi ở chiến khu bao nhiêu lần Ðảng "xây dựng" cho ông với các nữ đồng chí , ông dều không chịu và khi hòa bình trở lại, ông tình cờ gặp và mê ngay một thiếu nữ tiểu tư sản ở phố Sinh Từ, sống bơ vơ một mình, vì bố mẹ họ hàng di cư vào Nam không kịp mang theo .
Trần Dần xin phép Ðảng để cưới người yêu, nhưng Ðảng nhất định không cho vì một lý do căn bản : người con gái đó theo đạo Thiên Chúa. Tuy vậy, Ðảng không nêu lên lý do tôn giáo để từ chối mà chỉ giải thích rằng người con gái đó sống về tiền thuê nhà mà bố mẹ để lại nên thuộc vào thành phần bóc lột, và một đảng viên không thể lấy vợ giai cấp "địch".
Trần Dần không chịu cắt đứt tình yêu nên khuyên ý trung nhân mang nhà cửa bố mẹ để lại giao cho ủy ban quản trị tài sản của những người vắng mặt trông coi và thu hoa lợi; hai người đều cam chịu sống trong cơ cực để yêu thương nhau. Ðảng bèn rẽ duyên bằng cách điều động Trần Dần lên Việt Bắc công tác, nhưng Trần Dần lấy cớ ốm đau xin về Hà Nội nghỉ dài hạn và tự ý xin ra khỏi Ðảng, ngang nhiên đến phố Sinh Từ sống với tình nhân không cần cưới xin. Ðảng toan trừng trị, nhưng ngặt vì lúc đó đang có phong trào di cư, nên không dám khủng bố bất cứ ai sợ làm náo động nhân tâm khiến cuộc di cư bành trướng thêm. Ðảng bèn nuốt giận làm lành, chỉ gây dư luận là Trần Dần đã sa đọa, rơi vào hố tư sản phản động .
Nhưng sau khi đóng cửa Hải Phòng, Trần Dần lại làm một việc táo bạo thứ hai là phê binØh đả kích cuốn "Thơ Việt Bắc" của Tố Hữu, một thi sĩ giữ chức trung ương ủy viên, phụ trách lãnh đạo văn nghệ. Tố Hữu liền ra lệnh bắt cóc Trần Dần mang nhốt trên một nhà giam ở Việt Bắc. Vợ Trần Dần lại sống bơ vơ giữa Hà Nội một lần nữa, hỏi thăm chồng ở đâu, không ai biết, vẫn thất nghiệp, lại thêm bụng mang dạ chửa. Bạn bè của Trần Dần phải chung tiền giúp đỡ và thay phiên đến thăm hỏi nâng đỡ tinh thần .
Tin Trần Dần bị bắt mang đi biệt tích lan ra khắp Hà Nội và gây dư luận sôi nổi trong giới trí thức kháng chiến. Ðể dẹp yên dư luận, Ðảng bèn sửa sai bằng cách đưa Trần Dần về mạn xuôi, bắt đi theo chiến dịch Cải Cách Ruộng Ðất. Ðảng cũng gọi vợ Trần Dần đến cho công việc may vá cho Mậu Dịch .
Không được bao lâu, xẩy ra vụ Krushchev hạ bệ Stalin. Nhóm văn nghệ sĩ kháng chiến nổi lên đấu tranh chống Ðảng bằng cách xuất bản tập Giai Phẩm 1956 (sau này gọi là Giai phẩm mùa Xuân). Lúc này Trần Dần không có mặt ở Hà Nội, nhưng Hoàng Cầm là bạn thân, biết Trần Dần hồi 1954 có viết bài "Nhất định thắng" có giá trị , nên đến nhà bảo vợ Trần Dần đưa bản thảo và mang in trong tập Giai Phẩm .
Tờ tạp chí vừa in xong thì bị tịch thu ngaỵ Ðảng ngờ rằng Trần Dần đã bị nằm tù mà còn dám viết bài chống Ðảng nên gọi Trần Dần về, mang ra đấu giữa một cuộc hội nghị của đông đủ các văn nghệ sĩ, quy Trần Dần vào tội phản động, lấy cớ là trong các bài thơ ông có dùng chữ "Người" viết hoa nên gán cho ông có ý đả kích cụ Hồ và ra lệnh tống giam vào nhà pha Hỏa-lò ở Hà Nội. Trần Dần uất ức quá dùng lưỡi dao cạo cứa cổ, nhưng không chết, sau này vẫn mang cái sẹo ở cổ .
Năm tháng sau, Việt cộng tuân theo chỉ thị của Ðệ Tam Quôc' Tế phát động phong trào sửa sai . Giới trí thức được dịp phát động phong trào đấu tranh chống Ðảng. Họ xuất bản tờ Giai Phẩm muà Thu và tờ Nhân Văn, lên tiếng phản đối vụ tịch thu tờ báo Giai Phẩm Mùa Xuân và việc khủng bố Trần Dần .
Cụ Phan Khôi có nêu hai vấn đề này trong bài "Phê bình lãnh đạo Văn Nghệ" đăng trong Giai Phẩm mùa Thu và Hoàng Cầm viết một bài nhan đề "Con Người Trần Dần" đăng trong tờ Nhân Văn số đầu. Bị công kích không có thế đỡ, Ðảng bèn thả Trần Dần về và phục hồi danh dự bằng cách ra lệnh cho Hội Văn Nghệ viết bản tự kiểm thảo đăng trên các báo. Nhóm Giai Phẩm bèn tái bản tờ Giai Phẩm mùa Xuân trong đó có bài thơ "Nhất Ðịnh Thắng" của Trần Dần .
Nhưng sau khi Nga Sô đàn áp cuộc khởi nghĩa Budapest thì Việt cộng cũng đóng cửa tờ Nhân Văn và Giai Phẩm. Một lần nữa, Trần Dần lại bị quy là phản động và bị "treo giò" không được viết văn. Nhưng đến tháng cuối năm 1957, nhân báo Văn trở lại chống Ðảng, Trần Dần gửi đăng một bài thơ nhan đề là "Hãy Ði Mãi" nói lên ý chí cương quyết đấu tranh đòi tự do đến cùng .
Về thơ, ông còn sáng tác những bài :
"Nói thật" trong đó ông lý luận rằng chỉ vì cán bộ hèn nhát không dám nói thật với Ðảng nên mới xảy ra vụ "sai lầm" trong cải cách ruộng đất.
"Nhân Văn làm lớn con người" trong đó ông đề cao nhân văn .
"Một bài thơ chưa có đề" trong đó ông ám chỉ Tố Hữu là nhà thơ "ti tỉ đờn bầu"
Về truyện, ông viết :
"Chú bé làm văn" để chỉ trích nền giáo dục Cộng sản chuyên môn tập cho trẻ em nói dối từ thuở bé để sau này nói dối thuê cho Ðảng .
"Mâu thuẫn với cả nước" tả một nhạc sĩ bất tài (ám chỉ Lương Ngọc Trác) dùng thế lực Ðảng, quy cho một nhạc sĩ có tài hơn mình vào tội "mâu thuẫn với cả nước".
"Lão Rồng" tả một nông dân hiền lành bị bọn "lý trưởng mới" chà đạp .
Nhưng đặc biệt hơn cả là truyện Anh Cò Lắm, tả sự khổ cực của nông dân trong cải cách ruộng đất. Trong đó có đoạn như sau:
"Tôi đi thẳng vào nhà Cò Lắm. Vắng cả, nhà chả có ai, nhưng có tiếng trẻ khóc. Ba gian nhà nhỏ vẫn một cái giường, một cái chõng, có thêm một lá cờ đỏ rắt mái nhà rủ trước mặt bức ảnh Hồ chủ tịch. Một đứa bé con độ lên hai bò giữa nhà, giời rét mà độc một manh áo nâu, còn cởi chuồng, chân tay lắm mụn, bôi phẩm xanh lè cả ngườị Thấy tôi nó càng khóc, giơ tay quẹt má. Tôi nhìn: Tay nó có cái gì vàng vàng ? à ra cứt, nó ỉa một đống còn kia, cổ chân nó lại buộc một cái dây bằng vải khá dài, một đầu dây buộc vào cột nhà, chắc hẳn mẹ nó buộc nó vào dây cho nó chơi một mình ."
Trừ có hai bài thơ Nhất Ðịnh Thắng và Hãy Ði Mãi ông ký tên thật, còn tất cả những bài khác đều ký bằng bí danh, sau này bị tra khảo trong tù ông mới nhận là chính ông viết .
Sau đây chúng tôi chỉ trích hai bài: Nhất Ðịnh Thắng và Hãy Ði Mãi vừa điển hình cho lối thơ của ông, vừa nói lên tâm sự của thế hệ mới ở Bắc Việt:
Bài thơ này đã gây nên cuộc đấu tố tác giả, khiến tác giả phải cứa cổ tự tử.
Vì vậy nên tuy dài, chúng tôi cũng đăng trọn bài . Ðại ý của tác giả là nêu sự đói rét của đất Bắc và nỗi u buồn trong lòng người phương Bắc hiện nay.
NHẤT ÐỊNH THẮNG Tôi ở phố Sinh Từ : Hai người Một gian nhà chật. Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui ? Tổ quốc hôm nay tuy gọi sống hòa bình Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất Chúng ta còn muôn việc rối tinh ... Chúng ta Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc Vợ con đau thì rối ruột thuốc men Khi mảng vui --- khi chợt nhớ -- chợt quên Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt . Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù Chúng còn đương bày kế hại đời ta ? Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc Ðất hôm nay tầm tã mưa phùn Bỗng nhói ngang lưng , máu rỏ xuống bùn Lưng tôi có tên nào chém trộm ? A ! Cái lưỡi dao cùn ! Không đứt được --- mà đau ! Chúng định chém tôi làm hai mảnh Ôi cả nước ! Nếu mà lưng tôi lạnh Hãy nhìn xem : có phải vết dao ? Không đứt được mà đau ! Lưng Tổ quốc hôm nay rớm máu Tôi đã sống rã rời cân não Quãng thời gian nhung nhức chuyện đi Nam Những con mưa rơi mãi tối xầm Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng Tôi đã trở nên người ôm giận Tôi đem thân làm ụ cản đường đi . - Dừng lại ! - Ði đâu ? - Làm gì ? Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo Thiếu Cha, thiếu Chúa , thiếu vân vân Có cả anh Nam chị Nữ kêu buồn - ở đây - Khát gió thèm mây ... - Ô hay ! Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi ? Sau đám mây kia là cả miền Nam Sao nỡ tưởng là non bồng củ a Mỹ ! Tôi muốn khóc giữ từng em bé Bỏ tôi ư ? -- từng vạt áo -- Gót chân Tôi muốn kêu lên -- những tiếng cọc cằn ... - Không ! Hãy ở lại ! Mảnh đất ta hôm nay dù tối Cũng còn hơn .... non bồng Mỹ triệu lần ... Mảnh đất dễ mà quên ? Hỡi bạn đi Nam Thiếu gì ư ? Sao chẳng nói thực thà ? Chỉ là : - thiếu quả tim , bộ óc ! Những lời nói sắp thành nói cục Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi Tôi nức nở giữa trời mưa bão . Họ vẫn ra đi . - Nhưng sao bước rã rời ? Sao họ khóc ? Họ có gì thất vọng ? Ðất níu chân đi . gió cản áo bay về Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống . Tưởng như đây là phút cuối cùng Răng rối lại : - mỗi lùm cây - hốc đá - Mỗi căn vườn -- gốc vả -- cây sung Không nói được chỉ còn nức nở Trắng con người nhìn lại đất trời Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa Nhìn con đuờng cũ, nhìn ngôi sao mờ Ôi đất ấy -- quên làm sao được ? Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi Hôm nay đây mưa gió dập vùi - Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc ... Ai dẫn họ đi ? -- Ai ? Dẫn đi đâu ? -- mà họ khóc mãi thôi ! Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi Tôi cúi xuống-- quỳ xin mưa bão Chớ đổ thêm lên đầu họ - khổ nhiều rồi ! Họ
VÕ PHIẾN * VƯƠN RA NGOÀI CUỘC SỐNG
Võ Phiến -
Vươn Ra Ngoài Cuộc Sống
Võ Phiến - tvvn.org
Sự thất vọng bắt đầu sau chuyến đi thăm mặt trăng về. Người về chỉ mang theo mớ đá: tuyệt không có dấu sinh vật nào. Từ ấy, những thám hiểm khác không khá hơn. Nơi bấy lâu chúng ta vẫn đặt nhiều mơ tưởng là Hoả tinh: Hoả tinh rốt cuộc cũng làm cụt hứng giới “tìm bạn bốn phương”.
Cuối thiên niên kỷ thứ hai dấy lên một nghĩ ngợi: Phải chăng chúng ta là sinh vật duy nhất trong vũ trụ vô cùng? Cô đơn đến thế thật là cô đơn. Hãi hùng quá.
Con người khiêm tốn, xưa nay vẫn dành cho mình một vị trí thấp. Bên trên, bao nhiêu hạng tôn quí: ông Trời, bà Ðất, tiên, thánh, thần, ma vương, thượng đế v.v…; xưa nay nó vẫn quen thờ phụng, lạy lục, lạy từ cục đá lạy đi. Bỗng nhiên không còn gì còn ai để lạy nữa, con người hoảng hốt, hoang mang.
*
Trước, con người không thực sự nghĩ tới việc mình có thể rời khỏi quả đất. Nó yên phận ở một nơi này, và yên trí là đó đây cũng có những giống sinh vật như mình. Ai có cõi sống nấy. Như thế, nó an tâm.
Năm 1969 - mới cách đây hơn ba chục năm - lần đầu tiên nó đặt chân lên một thiên thể ngoài quả đất. Thấy mặt trăng trống trơn. Từ ấy nó tìm kiếm lung tung. Ðem máy móc tiến gần, rình rập Hoả tinh: thấy khô ráo, lạnh ngắt. Lại tiến lên Mộc tinh rình xem cái vệ tinh Europa chạy quanh: cũng không mảy may dấu hiệu sinh sống nào. Chỉ trong khoảng năm năm cuối thế kỷ vừa qua, ít nhất đã có 22 thiên thể bị dò xét. Sự hối hả thấy rõ, còn gì nữa.
Cái tìm kiếm lục soát càng ngày càng ráo riết, mà mức kỳ vọng mỗi lúc mỗi thấp. Thuở xưa, người ta mơ tưởng sẽ gặp trên thượng giới những sinh vật giống như mình: cũng những cô gái xinh đẹp với đầy đủ xiêm y, biết ca xướng đàn địch, cũng những cụ già tóc râu khả kính, thích chơi cờ thích ngâm thơ v.v… Về sau, con người địa cầu không còn đòi ai kia phải giống hệt mình. Chỉ mong đây đó may ra có những giống loài dù khác lạ dù dị hợm, nhưng vẫn có trí thông minh vẫn tài giỏi, đây đó may ra có thể khám phá ra những nền văn minh bất ngờ, xuất sắc, rải rác trong vũ trụ. Người vũ trụ, riết rồi hình ảnh ấy thật mơ hồ: nó nhỏ bằng nắm tay chăng? lớn bằng toà nhà chăng? nó di chuyển bằng cách trườn mình oằn oèo trên đất chăng? bằng cách vỗ cánh trên không trung chăng? nó có được một vài cái tai để nghe, dăm con mắt để trông chăng? v.v…
Mãi không thấy gì, hết mong “người”, chỉ ao ước bắt gặp đôi giống bạn hữu có liên hệ xa xôi: bất cứ loài sinh vật nào cũng quí, thậm chí, một manh nha thảo mộc nào cũng được.
Vẫn chưa thấy.
Về một phương diện, hoàn cảnh con người địa cầu thật là tệ hại. Tệ hại hơn bao giờ cả, kể từ thuở “khai thiên lập địa”. Chưa bao giờ nó bơ vơ đến thế. Mặc dù nó là… chúa tể. (Thì khắp nơi tuyệt nhiên không có sinh vật nào khác, nó phải là chúa tể chứ còn gì nữa?) Một đấng chúa tể không biết từ đâu đến, để để làm gì, rồi đi về đâu! Tức thị là một chúa tể ngẩn ngơ.
*
Cái sống, cả vũ trụ không có, ta có: thích ghê. Chỉ mình ta có: quí ghê. Giữa hai bên - sống và chết - chỉ có cái sống là đáng suy nghĩ. Còn cái chết, đáng gì mà xem là vấn đề triết lý căn bản (như có kẻ từng bảo). Chết là định luật chung: trăng sao ngời ngời đều chết, thiên địa bát ngát toàn chất liệu chết cả, cho đến mọi sinh vật cũng chỉ sống có hạn kỳ rồi cùng chết ráo trọi. Chết là tất nhiên, sống không tất nhiên. Sống là biệt lệ bất thường, tối bất thường. Thế mà lúc này ta lại đang sống. Chao ôi!
Cái chết không tự ý thức về nó; cái sống ý thức được về cái sống. Trong thế giới chết, mọi hiện tượng xảy ra, tự xảy ra, ngẫu nhiên. Trong thế giới các sinh vật, mỗi động tác mỗi biến cố diễn ra là có chủ định chủ ý. Big bang tha hồ hùng vĩ, nhưng nó xảy ra không tự biết. Một trận đá lông nheo vụng trộm giữa cặp sinh vật hai chân cao chừng thước rưỡi, hoạt động ấy diễn ra âm thầm mà rạo rực. Diễn ra sau bao nhiêu mơ tưởng, ngần ngại, đắn đo, xếp đặt, bố trí v.v… Ơ kìa! Ý thức, cái gì kỳ vậy? Từ đâu, tại sao nảy sinh xuất hiện ra cái món lạ ấy, quí hoá ấy?
Cái sống, tưởng chừng nó tự đánh giá tầm quan trọng lớn lao của mình. Phút lâm chung là đau đớn cùng cực. Ðau đớn đâu phải vì là bắt đầu cái chết? mà là vì chấm dứt sự sống. Hư vô vẫn chết tự bao giờ, và còn chết mãi mãi. Cái chết không đầu không cuối. Vật chết, không vật chết nào có sự cố gắng duy trì cái chết. Cái chết không thiết tự duy trì, không thiết phát triển. Nhưng muôn vật đã sống đều cố duy trì cái sống. Sinh vật đều có bản năng sinh tồn. Từ vật vô cùng nhỏ đến vật vô cùng lớn đều ráo riết cạnh tranh, phát triển, giành nhau, giết nhau để bành trướng, lớn thêm, cao thêm, sinh sôi nẩy nở thêm v.v…
Muôn loài có sống là bám lấy cái sống. Không một bộ phận nào trên cơ thể sinh vật mà không có vai trò cần thiết cho sự sống, không có hoạt động nào của sinh vật được phát khởi ngoài lợi ích cho sự sống. Ăn, uống, thở ra hít vào, ngủ nghê, âm dương thèm muốn nhau, gần gũi nhau, chiếc lá vươn ra ánh sáng, cái rễ chúi xuống đất đen…., thảy đều vì cái sống. Muôn loài đã sống đều bám hết mình vào sự sống. Bám hết cả mình mẩy, và cả tâm trí (nếu có) vào cuộc sống.
Muôn loài sinh vật đều thế, duy có loài người không thế. Loài người như thể không thuộc hẳn vào muôn loài: chúa tể không thuộc muôn loài. Chúa tể thuộc loài muôn-lẻ-một.
Muôn loài ăn uống để sống, loài muôn-lẻ-một còn hì hục làm ra rượu, để uống thêm. Rượu, uống vào đã rõ không cốt để sống. Cũng như thuốc lá với á phiện, hít vào không cốt để sống. Vậy mà loài người khắp nơi đều hâm mộ.
Con người còn làm bao nhiêu cái kỳ quặc, vô bổ, vô cớ khác nữa.
Ðánh cờ, đá bóng, thả diều, thổi kèn, làm thơ…. cũng đều không nhằm củng cố, vun bồi, phát huy cái sống. Ðều là những hoạt động “chơi”, không phải hoạt động hữu ích. Hoạt động linh tinh ấy không phải là hoạt động hoạ hoằn: nó nhiều lắm. Nhiều một cách khiêu khích. Con người càng văn minh càng lắm sáng kiến kỳ quặc, và càng đưa những hoạt động ấy lên địa vị cao, địa vị tiêu biểu của mức độ văn minh. Giọt nước mắt cô Kiều khóc cho số phận Ðạm Tiên, La Joconde với nụ cười không đâu, hạt lệ rơi lặng lẽ vì một khúc nhạc tình phụ mà ngẫu nhiên tai bắt được trong đêm khuya, niềm khoái thích về một câu pha trò thông minh, những tra vấn khúc mắc mà đau đớn, những ám ảnh suy tưởng miệt mài, vật vã, đời này sang đời khác về ý nghĩa của cuộc sống… Những cái đó đánh dấu từng trình độ văn minh mà không đóng góp vào sự duy trì cuộc sinh tồn.
Các nghệ sĩ và trí thức sẽ phản đối: Vẽ nụ cười cũng là phát huy sự sống (tinh thần), sao không? Thổi điệu sáo buồn cũng có thể như thế. Ðã đành là vậy. Nhưng ở đây, khi nói về vấn đề sống chúng ta chỉ giới hạn vào cái nghĩa hạn hẹp, thích hợp với cái sống của cả muôn loài: cầm thú, cỏ cây. Tức sự sống còn của thể xác vật lý mà thôi.
Nhìn chung, cứ như thể muôn loài đều hết mình vào cái sống, còn con người – loài muôn-lẻ-một – thì muốn vươn cả ra ngoài sự sống.
Trong số những thứ hoạt động “vươn ra” ấy, nên kể một thứ đặc biệt: là tự tử. Trương Quỳnh Như tự treo cổ trong ngày cưới, đó chắc chắn không phải là một phát biểu[1] để vun bồi cái sống. Nếu là phát biểu, chẳng qua cô ta vùng vằng ngúng nguẩy phát biểu về một nồng độ yêu đương thôi. Hoạt động ấy là một can thiệp táo tợn của con người vào định luật thiên nhiên. Là quá xá.
Lại kể thêm một hoạt động “vươn ra” thật ồ ạt. Là giết nhau. Loài người giết nhau liên miên không ngừng. Lịch sử loài người là lịch sử chiến tranh. Gì còn chừa bỏ được; giết đồng loại không chừa được, không bỏ được. Có khi không cần một khung cảnh chiến trường, người ta có thể xây lò lên đốt luôn sáu triệu dân Do Thái chẳng hạn.
Muôn loài khác, có khi con này cắn con kia, bầy này đánh nhau với bầy nọ, đàn này cắn nhau với đàn khác, nhưng không dữ dằn, qui mô bằng loài muôn-lẻ-một. Thú vật quá bận vì cái ăn, không thể lao vào những cuộc chiến đấu qui mô với đồng loại. Trong muôn loài thú, được tạo hoá trang bị cho nanh vuốt dữ nhất là những loài ăn thịt. Nhưng con thú ăn thịt, hễ cứ sau mấy giờ đồng hồ, tiêu hoá ngót bụng thịt là phải vội vàng đi tìm ngay con mồi khác để săn để giết; nếu không, chính nó kiệt sức bỏ mạng cấp kỳ. Con người trồng trọt được, có vựa có kho để tích trữ thực phẩm, không bị cái đói đuổi theo sát sạt, nên có thì giờ tổ chức những cuộc giết nhau dài ngày.
Ðánh nhau riết, loài người trau dồi kỹ thuật và trang cụ chiến tranh đến chỗ tuyệt vời. Ðã lâu, loài người có thừa phương tiện khí giới để giết trọn loài người, giết đi giết lại nhiều lần.
- Giết làm chi vậy?
- Tất nhiên không phải vì sự sinh tồn của nhân loại. Có thể cũng không vì lợi ích thiết thực của một bên nào.
- Vậy giết nhau làm chi?
- Vì một thứ gì đó, vượt ra ngoài cái cần thiết cho sự sinh tồn.
- Một thứ gì?
- Thí dụ một quan niệm, một chủ thuyết, một tín ngưỡng…
- Trời đất!
- Là những thứ không thể khoan nhượng.
- Trời đất!
- Muôn loài sinh vật giành nhau miếng ăn, giành nhau khu vực săn mồi, là những thứ liên quan trực tiếp đến sự sống còn. Tranh giành như thế có thể tương nhượng thoả hiệp để cứu lấy mạng sống. Phía yếu xin nhường vài miếng mồi. Chưa được? Thêm một miếng nữa nhé. Vẫn chưa? Thế thì nửa miếng nữa vậy, được chứ gì? Tranh giành rừng núi, để nới rộng khu vực săn mồi? Thì bên yếu có thể thuận cắt đất mảnh này, mảnh nữa, nhượng bộ lần lần. Miếng ăn bớt được, đất đai bớt được; chứ quan niệm, chủ nghĩa, tín ngưỡng thì cắt giảm từng miếng để mặc cả thế nào được? Kẹt cứng thôi. Giết nhau vì cạnh tranh sinh tồn còn có cách giải quyết; giết nhau bên ngoài chuyện sinh tồn thì vô phương can thiệp.
*
Muôn loài răm rắp theo định luật tạo hoá. Luôn luôn bám dính vào sự sống, để rồi cuối cùng lăn ra chết cả. Loài muôn-lẻ-một thì trong khi chờ chết lại lắm trò linh tinh. Chút cá tính của nó gây nhiều rắc rối, mệnh số của nó đầy bất trắc.
Trong nghìn năm tới đây, nó thêm khả năng, thử xem còn linh tinh tới đâu.
Tháng 4.2000
[1]Xem “Cái chết như một phát biểu” của cùng tác giả.
SƠN TRUNG *SAU CƠN BÃO LỤT
SAU CƠN BÃO LỤT
Lúc bấy giờ thế giới lâm cảnh đại
chiến, toàn cầu chia làm ba phe: phe xanh, phe đỏ và phe vàng. Phe xanh và phe đỏ
kết hợp cùng nhau đánh phe vàng nên phe vàng đại bại. Nước ta chia hai phe, một
bên theo phe đỏ, một bên theo phe xanh. Anh em Lưu Cáo là một trong những anh hùng
của thời này đã theo phe đỏ. Lưu Cáo là người tinh thông thập bát ban võ nghệ,
mà trí tuệ cũng hơn người. Ông tuyên bố thực hiện đường lối vương đạo, lấy nhân
nghĩa làm đầu và thực thi công bằng xã hội. Ông cho ông là người kết hợp lý
thuyết với thực hành, đưa triết lý từ trên trời xuống cõi nhân thế, còn Phật, Lão,
Khổng Mạnh chỉ là lý thuyết suông, không đem lại cơm no áo ấm một cách thực tế
cho dân nghèo. Ông ra lệnh triệt hạ chùa chiền, đình miếu, bắt các sư sãi phải
nhập ngũ tòng chinh vì theo ông tôn giáo là thuốc phiện. Ông quan niệm rằng lao động là vinh quang, những
ai không lao động tức là ăn hại xã hội,
hoặc bóc lột nhân dân phải bị tiêu trừ. Vì vậy ông ra lệnh quân lính tịch thu
gia sản các nhà giàu. Ai tỏ ý kháng cự
hay than van là ông cho binh sĩ toàn quyền giết sạch hoặc bỏ tù họ. Ông nhận định
chỉ có công nhân và nông dân là đich thực tầng lớp lãnh đạo vì họ là thành phần
lao động sản xuất, còn bọn khoa bảng thì không có giá trị bằng cục phân. Vì vậy,
ông ra lệnh giết, bỏ tù hoặc thải hồi các vị tú tài, cử nhân và tiến sĩ. Một số
cử nhân, tú tài vì sự sống, đã khai mình là công nhân, nông dân để được kết nạp
vào hàng ngũ tân chính. Hạng thương nhân cũng bị gán tội là thành phần
bóc lột, là gian thương, là kẻ thù của dân lao động. Ông hứa hẹn sẽ cho mỗi dân
nghèo có một mẫu ruộng, mội cái nhà và một mảnh vườn trồng rau, cây ăn trái và
trồng hoa bốn mùa.
Lưu Cáo vừa dùng lý luận, vừa hứa hẹn,
vừa khủng bố cho nên dân chúng đa số đi theo ông. Quân lính càng ngày càng đông,
lại được Mẫu quốc Đỏ ủng hộ nhiệt tình nên phe xanh thua trận, ông đem binh tiến
về kinh đô rồi xưng hoàng đế, lập chế độ “quân
chủ chuyên chế nhân dân”.
Sau khi Lưu Cáo lên ngôi hoàng
đế, mưa gió tầm tã, bão tố triền miên
gây ra những cơn lụt khủng khiếp tại miền Bắc. Làm vua được vài năm, Lưu Cáo bệnh
chết vì không con nên em là Lưu Hồ lên ngôi. Khi Lưu Hồ lên ngôi lại một trận lụt
khác nổi lên, mà nặng nhất là ba tỉnh Sơn Hưng Tuyên. Trước tình cảnh khốn khổ
của dân chúng, đức vua triệu tập một cuộc họp khẩn cấp trong đó có tổng đốc Sơn Hưng Tuyên tham dự. Quan thượng thư bộ Lễ đề nghị kêu gọi quốc tế viện
trợ và đồng bào trong và ngoài nước góp tiền bạc, áo quần và lương thực về cứu
trợ nạn nhân bão lụt. Quan thượng thư bộ Binh tâu xin bắt hết những ai có thể
chống chế độ và có thể gây nổi loạn trong nước. Quan thượng thư bộ Hình xin ra pháp lệnh việc cứu trợ là độc quyền của triều
đình, tư nhân không được tham gia, ai tự tiện đem gạo vải trực tiếp cho nạn nhân
thì sẽ bị trị tội. Tiền bạc, áo quần , thuốc men của tư nhân và quốc tế phải gừi
về triều đình để triều đình định đoạt. Vua chỉ thị quan tổng đốc Sơn Hưng Tuyên chấp hành các nghị quyết của hội nghị triều đình.
Khi trở về nhiệm sở, tổng đốc
Sơn Hưng Tuyên triệu tập cuộc họp khẩn cấp. Ông thông báo các nghị quyết mới nhất
của triều đình về việc cứu trợ, và yêu cầu các quan dưới quyền đóng góp ý kiến.
Quan đầu tỉnh Sơn Tây trình bày:
-Bẩm quan lớn, Sơn Hưng Tuyên có
mười phủ, thực tế chỉ có sáu phủ là gặp thiên tai. Vậy ta chỉ tập trung nỗ lực cứu trợ sáu phủ. Còn bốn phủ kia phải cứu
giúp tiền bạc, thuốc men, thóc gạo và y phục.
Quan đầu tỉnh Hưng Hóa phát
biểu ý kiến:
-Thưa
ngài tổng đốc, bỉ chức có ý kiến là chúng ta cho lính thu mua thóc gạo các nhà
giàu để bán rẻ cho dân đói.
Quan án sát Tuyên Quang nói:
Để
tránh việc một gia đình nhận gạo nhiều lần, và tránh việc chen lấn mất trật tự,
chúng ta nên thiết lập danh sách các gia đình và các nhân khẩu bị thiên tai. Gia đình nhiều người thì phát
nhiều, ít người thì phát ít.
Ngay sau buổi họp, quan tổng
đốc ra lệnh hai mươi huyện thuộc bốn phủ
không bị thiên tai phải đóng góp để giúp đỡ nạn nhân thiên tai theo tinh thần “lá lành đùm lá rách “. Những quan viên và lại viên trong ba tỉnh Sơn Hưng Tuyên phải góp một phần
tư số lương bổng. Quan tổng đốc ra chỉ tiêu cho mỗi huyện phải thu mua 20 tấn
thóc, nhà nào không bán thóc thì sẽ bị bắt giam hoặc bị phạt vạ. Quan huyện Lập
Thạch (Sơn Tây) đặt câu hỏi:
-Bẩm
quan lớn, nếu thu mua thóc gạo của dân chúng, thì mỗi cân trả bao nhiêu và lấy
tiền ở đâu mà trả?
Quan tổng đốc nổi giận, chỉ
mặt quan huyện Lập Thạch mà mắng:
-Ông
làm quan bao lâu mà lại đặt câu hỏi ngu xuẩn như thế?
Quan
huyện Lập Thạch liền bị lôi xuống nhà giam. Nghe đâu ông bị giam vài năm vì tội
bất tuân thượng lệnh, có tư tưởng chống đối triều đình, và không hoàn thành nhiệm
vụ cấp trên giao phó. Sau
vài năm ngồi trong nhà lao, ông chắc hiểu rõ bí quyết làm quan. Nhưng khi ông
hiểu rõ thuật này thì đã trễ vì triều đình đã thải hồi ông về quê cày ruộng.
Công việc thu mua kéo dài đến vụ mùa sau, còn việc phát chẩn thì thực hiện
gấp rút. Sau khi chờ đợi ba tháng lập sổ hộ khẩu, quan tổng đốc ra lệnh mở kho
phát chẩn. Mỗi hộ được khoảng hai, ba cân gạo. Một số tiền bạc, hàng hóa gửi về
triều đình thì bỏ vào kho lương thực nhà nước, còn tiền bạc thì chuyển vào ngân
hàng hoàng gia. Kết thúc vụ thiên tai, quan thượng thư bộ Tài chánh báo cáo mật
với đức vua là thâu được hai mươi ngàn lượng vàng. Đức vua vui cười mà bảo rằng:
-Các
khanh làm việc rất tốt. Chúng ta sản xuất mười năm cũng không thắng lợi bằng một
cơn bão lụt mất mùa. Cầu cho năm nào nước ta cũng bị hạn hán và bão lụt!
Công cuộc phát chẩn chưa kết thúc, sứ
giả triều đình đã đến hối thúc quan tổng đốc báo cáo tình hình về triều đình,
nhất là tình hình tài chánh thu được bao nhiêu, và phát ra bao nhiêu. Quan tổng đốc vội sai ban tài chánh đúc kết
việc xuất nhập. Sau mấy ngày tính toán, viên thư lại già trình quan tổng đốc là
thu được tám ngàn lượng vàng do quốc tế
viện trợ và hải ngoại gửi về cho thừa tuyên Sơn Hưng Tuyên. Còn việc cắt lương
viên chức và thu mua lúa dân cũng được ba ngàn lượng trong vòng ba tháng. Tất cả
đã gửi vào ngân hàng Vạn Lợi rất bảo đảm.
Quan tổng đốc tính sẽ giữ lại năm ngàn lượng cho mình, còn sáu ngàn lượng sẽ dâng
lên cho đức vua. Quan nghĩ rằng với món lễ vật này sẽ lảm cho hoàng thượng vui
lòng, và ông sẽ được thăng quan tiến chức, và gia đình ông sẽ được hạnh phúc. Ông
lên tiếng bảo viên lại già làm sớ tâu vua
thành quả việc cứu trợ và hứa hẹn sẽ dâng vua sáu ngàn lượng vàng. Viên
lại già tuân lời, và hôm sau quan tổng đốc đã ký tên vào tấu chương và cho người
gửi đi. Ông đã phục vụ hai triều vua, đã
theo tiên hoàng chinh chiến khắp nơi, tay ông đã giết hàng ngàn mạng người kể cả binh lính và dân chúng nên ông mới được
hoàng thượng tín nhiệm cất nhắc từ tri huyện lên tuần phủ rồi tổng đốc Sơn Hưng
Tuyên, mặc dầu ông là một võ tướng, không biết chữ nhất là một. Ông đã xây dựng
cho tương lai ông và gia đình ông. Ông chợt nghĩ đến thằng con ông. Mấy hôm nay
nó đi đâu mất biệt. Cũng như ông lúc nhỏ, con ông không thích học, chỉ thích chơi
bời. Nó học rất dốt nhưng ông đã vận động cho nó vào Quốc Tử Giám. Dẫu sao, nó
cũng mang danh là giám sinh cũng đủ xênh xang với người đời.
Buổi trưa, dùng cơm xong, quan tổng đốc
định nghỉ trưa một giấc như thường lệ. Vừa định lui gót vào hậu đường thì viên
lại già phụ trách Tài vụ đã chạy đến cấp báo:
-
Bẩm quan lớn, vàng bạc hết sạch rồi!
-
Sao? Ngươi nói sao?
-
Bẩm quan lớn, hôm qua ai đó đã rút hai
mươi ngàn lượng vàng. Trưa nay ngân hàng Vạn Lợi đã cho người báo tin này, và đổ trường Đại Thắng
đã đến nhận hai mươi ngàn lượng vàng tại ngân hàng. Bẩm quan lớn, Tiền cứu trợ
mất hết rồi, làm sao trả lời với triều đình?
Quan lớn nổi trận lôi đình,
sai bọn tuần bộ đi điều tra. Họ đi một buổi, trở về trình quan tổng đốc là suốt
tháng vừa qua, đại công tử đã thua hai chục ngàn lượng vàng, đã ký giấy nợ, và
giao nạp sổ ngân hàng của ngài cho đổ trường. Đỗ trường bèn giao giấy nợ cho ngân
hàng Vạn Lợi, và ngân hàng này đã lấy số vàng của quan lớn mà xiết nợ công tử.
Nghe tin dữ, quan tổng đốc
xây xẩm mặt mày. Ngân hàng Vạn Lợi và đổ trường Đại Thắng đều là cơ sở kinh tài
của Mẫu Quốc. Mắc nợ của họ thì chỉ có chết, không thể dùng tình cảm
hay pháp luật nói chuyện với họ. Nếu
là ngân hàng và công ty Việt Nam, ngài có thể
dùng quyền uy mà từ chối hoặc bỏ tủ họ về tội sái luật, hoặc dùng tình cảm mà
khất nợ. Nhưng đây là ngân hàng và công ty của Mẫu quốc. Họ có luật của họ. Cha
mắc nợ thì họ bắt con trả. Con mắc nợ thì họ buộc cha phải đền. Đó là pháp luật,
là phong tục Mẫu quốc. Khi ký giấy vay nợ , các nạn nhân phải cam kết công
nhận điều kiện này.
Chính hoàng đế khi khởi binh cũng đã vay
nợ ngân hàng Vạn Lợi để mua lương thực và vũ khí, và họ ngon ngọt bảo là họ viện
trợ vì tình anh em quốc tế, “ núi liền núi, sông liền sông”. Nợ cha đẻ
nợ con, cứ chồng chất lên cao, vua phải dâng một phần đất nước cho họ. Sau khi
lên ngôi, Lưu Minh cũng đã phải ký bán đất cho mẫu quốc. Tể tướng đầu tiên, tể
tướng thứ hai, thứ ba cũng ký tên bán nước. Nay con ông lại vay nợ Mẫu Quốc, làm sao ông trả vàng cho triều
đình? Nếu thủ phạm cướp tài sản của ông là người ngoài, ông có thể kiện để bỏ
tù nó nhưng thủ phạm lại là con ông! Dù bỏ tù nó, số vàng của ông cũng đã bị
ngân hàng mẫu quốc xiết nợ, không thể đòi lại. Số vàng ông thu được của tứ
phương là tài sản của triều đình, ông không thể nuốt trọn, mà phải dâng nạp.
Ông không thể giấu diếm vì bên cạnh ông, có nhiều tai mắt của triều đình. Mất
tiền của triều đình thì phải bị ngồi tù hoặc bị chém đầu. Đằng nào ông và con
ông cũng bị tội, không phương cứu vãn.
Ông không biết làm sao giải quyết vấn đề!
Thấyquan tổng đốc buồn rầu, một viên
Đô lại già xin vào hiến kế. Y nói:
-Bẩm
quan lớn, xin quan lớn giao toàn qưyền cho con, con sẽ giải quyết mọi vấn đề
cho ngài.
Quan
lớn được lời như cởi tấm lòng, bèn chấp thuận đề nghị của viên lại già. Vài tháng
sau, khắp nơi người ta thấy cáo thị của công ty Hoàn Mỹ tuyển chọn nhân viên. Lúc
này, khắp nơi bão lụt, đói kém, lại nữa
từ khi anh em họ Lưu cai trị, đời sống nhân dân ngày càng xuống thấp. Nay được
thông báo tuyển lựa nhân viên thì nam nữ, trẻ gìà ai cũng phấn khởi.Mỗi người
trúng tuyển phải nộp mười lạng vàng cho công ty. Sau mấy tháng thì dịch vụ đưa
nam nữ ra lao động nước ngoài được thực hiện. Tiếp theo là chương trình giới
thiệu hôn nhân ngoại quốc. Cuộc làm ăn thành tựu vì người các nước đến Việt Nam chọn lựa người
đẹp để đem về nước họ. Song song với các dịch vụ trên, còn có việc quan tổng đốc
chiếm đất đai của nhân dân đem bán cho ngoại quốc. Viên Đô lại già lại hiến kế
bắt các nhà buôn bán trong tỉnh nộp thêm thuế 5% , và các tiệm rượu, tiệm ăn phải
bán bánh kẹo, đậu phụng cho khách, dù khách không ăn cũng phải tính tiền, tất cả
đều bỏ vào quỷ “ xóa đói giảm nghèo”. Viên đô lại cũng vạch kế họach phá rừng,
lấp sông để lấy ruộng đất bán cho ngoại bang.
Chỉ trong mấy tháng mà quan tổng đốc đã thâu mấy vạn lượng vàng. Quan bèn
trích ra một số tặng các kẻ thân tín và một số dâng hoàng thượng. Ông được vua
ban cho danh hiệu “ nhà tỷ phú nhân dân”, là “ nhà kin h doanh tài giỏi nhất quốc
gia” được ghi tên vào quyển “ Guinness quốc gia và thế giới” . Vài tháng sau,
quan tổng đốc được thăng Lại bộ thượng thư, rồi làm tể tướng. Từ đây, ông sống trong giàu sang và quang vinh
nhất nước. Kể từ khai quốc đến nay, nước ta chưa có ai giàu lớn và giàu mau như
thế. Đó là một niềm tự hào của tổ quốc và nhân dân ta, nhất là niềm tự hào của
triều đình ta đã tiến nhanh tiến mạnh vượt qua tư bản và quân chủ! Vì vậy, khắp
nước, phong trào buôn dân, bán nước trở thành mạnh mẽ trong triều đình và các địa
phương. Người ta tranh nhau làm giàu bất kể thủ đoạn.
Về công tử con quan tổng đốc sau khi
thân phụ cậu lên làm tể tướng thì càng ngày cậu càng thêm thanh thế. Công cuộc
kinh doanh của cậu và gia đình cậu từ địa bàn Sơn Hưng Tuyên mở rộng qua toàn
quốc và toàn cầu. Bọn thanh niên con các quan trong triều ngày càng bâu xung
quanh cậu đông đảo. Cậu say mê cở bạc mà cũng say mê ca vũ nhạc. Cậu say mê cô đào
Nguyệt Minh, một hoa khôi tại trà lầu Bồng Đảo, mà cậu con trai con cựu thừa tướng
cũng yêu Nguyệt Minh. Vì tranh gái đẹp, hai bên đi đến ấu đả nhiều lần. Một hôm
con trai tân thừa tướng đến trà lầu thì gặp lúc con trai cựu thừa tướng đang ôm
ấp Nguyệt Minh. Cậu tức giận xông vào đấm đá cặp ”gian phu gian phụ” . Con trai
cựu thừa tướng một mặt tức giận về cha cậu bị thất sủng, công việc kinh doanh bị
tân thừa tướng lấn át, còn người yêu của cậu cũng bị thằng nhãi chiếm đoạt, y tức
giận rút súng bắn con trai tân thừa tướng ba phát vào đầu, hai phát vào tim.
Khi đưa cậu vào y viện thì cậu đã trút hơi thở cuối cùng!
BÙI BẢO TRÚC * THÁI TÚ HẠP
BÙI BẢO TRÚC
ĐỌC THƠ THÁI TÚ HẠP
“MIỀN YÊU DẤU” mà Thái Tú Hạp nói tới trong tập thơ của ông là Đông Phương, là “bầu trời lấp lánh xanh ngắt những nhớ thương”, những “dấu tích trầm mặc”,là “lá trúc đôi bờ Hương Giang”, là “cõi khuya nghe rụng tiếng đàn Nam Ai”, là “hàng cau lưu luyến nồng vôi cưới”, là “vàng lụa nắng trên tà áo”, là “đường ngôi rẽ đôi miền phù vân”, là “lời xanh biếc ngọc vô thường”, là “đào hoa hương tích mây hoang vắng chiều...”.Những hình ảnh như thế được tìm thấy rải rác ở khắp 65 bài thơ của tập “Miền Yêu Dấu Phương Đông”, tập thơ thứ hai của Thái Tú Hạp, sau tập “Chim Quyên Lạc Ngàn”.
Những bài thơ trong tập thơ mới nhất cho thấy Thái Tú Hạp
đã đưa được vào các sáng tác của ông những hình ảnh và không khí mới,
cái không khí của mùi trầm hương, của hoa huệ, hoa lan thơm ngát những
trang kinh, cái không khí siêu thoát của Thiền, của Phật Giáo cho dù đó là lúc ông nói về cảnh rừng bên ngoài một trại tù:
...em còn hái nắng trong vườn trúc
nghe đời như một thoáng hư không
Hay một đoạn khác về chuyến đi rời Ban Mê Thuột với những từ ngữ vừa nặng âm hưởng cao nguyên, lại vừa phù du, lãng đãng:
cái buôn cái bản về đâu
cái đau để lại cái sầu mang theo...
Thái Tú Hạp
thường viết về những nơi chốn, những con đường không có lối về, những
chuyến đi không bao giờ thực hiện được, đó là Đông Phương, miền yêu dấu
tội nghiệp:
trên nhánh sông xưa gầy guộc
trăng soi bóng mình quạnh quẽ tuổi thơ
hoa lá sớm mai gọi mặt trời thức dậy
quê hương trở về cháy rực cõi hư vô...
nếu một mai trí tưởng về có thật
bằng cá ngược giòng khe suối cũ yêu thương
tâm có động mười phương thao thức
cõi bình minh rạng rỡ hồn phương đông...
Đông Phương miền yêu dấu tội nghiệp của Thái Tú Hạp là đống xương trắng của những người bạn tù ở Kỳ Sơn, Tiên Phước, là chiếc nón thơ ngây ở Điện Bàn, là nỗi nhớ thương “ngàn dặm không phai, nơi yêu dấu mẹ bào thai tình người”. Hãy nghe Thái Tú Hạp nhớ Huế bằng lục bát:
...Huế bây giờ, Huế còn thơ
em như lá trúc đôi bờ Hương Giang
Nội Thành chim bỏ đồi trăng
cõi khuya nghe rụng tiếng đàn Nam Ai
Nỗi nhớ thương người ta đọc được ở những tác giả khác có thể được bày tỏ bằng cường độ của ngôn ngữ xử dụng. Ở Thái Tú Hạp, ông dùng nhịp ngũ ngôn buồn bã để nói về nỗi nhớ nhung đó:
sáng mở ra hoàn vũ
hoa trúc đào đong đưa
tâm thoáng về đất cũ
rừng lá động chim khua
vườn xưa còn nguyệt hạ
giữ thơm tình cổ thư
mưa đời phai ý đá
còn chi nữa chân như
em về qua thị xã
trúc đào lẳng lơ bay
hoa sầu chia mấy ngã
trong hồn em thơ ngây
chùa quê gầy bóng mẹ
hoàng hôn ngắm trúc đào
máu về đâu trăm cõi
tim mẹ một niềm đau
kinh lặng vừng trăng khuyết
chiều tịch mặc đâu đây
phương nào thương cố quận
cho ta về am mây
đời giạt trôi viễn xứ
núi sông khói vô thường
bụi hoen giòng mật ngữ
chiều hoang vỡ tà dương
trăm năm chừng ghé lại
cõi tạm đầy thương đau
căn nhà xưa quạnh quẽ
trong mắt sầu thiên thu
hiên trăng ngàn dặm hỏi
vườn cũ nở bông trang
trong nhau còn hơi thở
trái tim người phương đông
tâm động trúc đào bay
gió đùa ngàn mây trắng
em qua vườn có hay
tình ta rơi giọt nắng
Thái Tú Hạp
viết rất nhiều thơ năm chữ. Thơ năm chữ của ông có một không khí buồn
bã, lãng đãng, trôi nổi, bềnh bồng tưởng như thoát hẳn khỏi cái thế
giới vật chất của những công án Thiền:
không có gì ngọn đỉnh
mây biền biện bay qua
cỏ ngàn năm vách đá
gió hững hờ chia xa
không có gì ngọn đỉnh
hoa lá thiên thu nhòa
càn khôn như giọt nước
chảy hoài trong tâm ta...
Phương
Đông vẫn như một vầng trăng khi ngẩng đầu nhìn lên là cố hương lại trở
về, dắt díu theo những giấc mơ lại về quê hương cũ. Hãy nghe lục bát Thái Tú Hạp:
thềm hoa xưa chợt nhớ về
bóng chim quan ải sầu tê tái lòng
nhớ em mùa động thu phong
đào hoa hương tích mây hoang vắng chiều
ta về khua ngõ thiên thu
tìm trong huyền sử lệ từ bi xanh
trăng khuya nằm ngủ lều tranh...
Trong tập “Miền Yêu Dấu Phương Đông”,
nỗi nhớ về một mối tình, những bài thơ nói về nỗi nhớ đó là những bài
hay nhất trong tập. Tình yêu mà ông viết cũng siêu thoát như mùi trầm
hương ẩn giữa những trang Hoa Nghiêm:
mắt xưa trăng đẫm non ngàn
lời xanh biếc ngọc vô thường yêu em
lá theo tiếp lục đường chim
hồn mai phục giữa Hoa Nghiêm lặng tờ
Hay trong một lục bát khác:
tình xưa về ngự cõi riêng
đường ngôi em rẽ hai miền phù vân
còn bao nhiêu sóng trong lòng
đổ ra mấy nhánh trăng vàng biển khơi
có không trên ngọn cát bồi
sớm hôm rồi chợt qua đồi cỏ lau
lá xanh biếc núi ngàn sau
cụm hoa còn ngẩn ngơ sầu chia xa
em về hoang tịch đời ta
dấu hương khói muộn nhạt nhòa chân mây
Thái Tú Hạp gọi những bài thơ trong cuốn “Miền Yêu Dấu Phương Đông” là “những ngọn nến mùa đông đốt lên để tìm chút nắng ấm của buổi sáng mặt trời rực rỡ thơm ngát trong vườn cây”
như ông đã viết trong bài tựa. Những ngọn nến của tháng giêng trong
khu vườn của trí tưởng, của “mùa tịnh an” đâm những chồi non có lời
chim đậu trên môi:
cơn sốt tình mùa đông rụng vỡ
lá lên xanh như ngọc ở đầu non
trong vườn em tháng giêng vừa nẩy lộc
con chim nào vừa hót dễ thương
sầu đã chia xa như con sóng
mùa tịnh an đã nhuốm lửa đêm qua
sáng thức dậy mở hồn trinh thơm ngát
vài cánh hoa lấp lánh hiên nhà
em hãy rót cho ta đôi mắt biếc
lời chim ngoan về đậu trên môi
mùa thanh xuân ngọt ngào cây trái mật
em cho ta hạnh phúc tinh khôi
ta ở đây tâm như giòng sông cũ
khói trầm quen hơi thở quê hương...
Miền
Yêu Dấu Phương Đông với ngôn ngữ ân cần của lục bát và cảm động của bảy
chữ là một tập thơ đáng yêu như phương đông yêu dấu của ông.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 027
THƠ LUÂN HOÁN
Chiều Trên Sườn Đồi
Tác giả: Luân Hoán
ngày trần truồng trên sườn đồi
tiếng chim đầu ngọn lá tôi uống ngụm nước trong con suối vuốt ve nghềnh đá con suối khuyên nhủ lòng tôi thản nhiên mày thản nhiên mày, đừng nghĩ ngày trần truồng trên sườn đồi nhịp gõ trên báng súng tôi liếm giọt mồ hôi chiều nắng vuốt ve ngực áo giáp chiều nắng khuyên nhủ lòng tôi thản nhiên mày, thản nhiên mày, đừng nghĩ ngày trần truồng trên sườn đồi cây lá hát trong chiều gió tôi mất trăm kẻ thù tôi mất trăm thằng bạn tôi mất luôn hồn tôi hõi tôi, hỡi tôi, đừng nghĩ ngày trần truồng trên sườn đồi ngồi thở thầm trong lá tôi nhìn thấy mặt người tôi nhìn thấy trời cao tôi nhìn thấy ngón tay run run trên cò súng thản nhiên mày, thản nhiên mày, đừng nghĩ ngày trần truồng trên sườn đồi tiếng buồn đầy tiếng nổ tôi chợt hiểu lòng tôi con chim lìa cõi phúc đường bay mù mù khơi thản nhiên mày, thản nhiên mày, đừng nghĩ Văn Học Miền Nam (thơ) Võ Phiến Đi Ngang
Tác giả: Luân Hoán
|
PHAN BÁ THỤY DƯƠNG * TRẦN HOÀI THƯ
Phan Bá Thụy Dương
Qua Ô CỬA của Trần Hoài Thư,
Nghĩ và Viết Về Thơ Chiến Tranh Miền Nam.
Nghĩ và Viết Về Thơ Chiến Tranh Miền Nam.
• ảnh THT
Herbert
Hoover vị tổng thống thứ 31 của Hoa Kỳ đã nói: “Giới lãnh đạo già tuyên
bố chiến tranh nhưng chính giới trẻ là người phải chiến đấu và chịu
chết.” [1] Chiến tranh đã tạo nên không biết bao nhiêu cảnh ly tán, hủy
diệt không biết bao nhiêu sinh mạng một cách oan uổng và làm kiệt quệ
trầm trọng tài nguyên quốc gia. Nhưng, nếu nhìn từ một góc độ khác,
chiến tranh cũng đã sản xuất, tạo nên nhiều vĩ nhân lừng danh trong quân
sử, những văn thi sĩ lỗi lạc trong nền văn học sử thế giới.
Bài
viết ngắn này không phải là một luận đề về thơ chiến tranh toàn cầu mà
chỉ giới hạn trong thơ Chiến Tranh VN, trong giai đoạn tàn khốc nhất, từ
thập niên 60 cho đến ngày miền Nam rơi vào tay chế độ Cộng Sản Hà Nội.
Hạn hẹp hơn nữa, người viết chỉ muốn truyền đạt, giới thiệu đến bạn đọc
một số cảm xúc, hình ảnh, tâm tư... của người lính chiến Trần Hoài Thư
[THT] đã phản ảnh qua tác phẩm của anh: Ô Cửa.
Tuy
nhiên, để có thêm hương vị, khải triển chủ đề rộng hơn đôi chút, người
viết sẽ đề cập, dẫn trích thêm một số ít thơ về chiến tranh của các văn
thi sĩ Việt, Mỹ khác - những người đã trực tiếp cùng THT tham dự cuộc
chiến “ý thức hệ” trong giai đoạn đầy nhiễu nhương đó. Nếu thấy cần
thiết, sau này người viết sẽ trở lại, bàn về đề tài sâu rộng hơn, với
nhiều thi sĩ tiêu biểu cho cả 2 miền Nam Bắc, cùng những khuynh hướng
đối kháng hay quan điểm tương đồng.
Theo lời tác giả, Ô Cửa là một tổng hợp của 5 thi tập: Thơ THT, Qua Sông Mùa Mận Chín, Tháng Bảy Hành Quân Xa, Ngày Vàng và Người Lính,
mà anh đã xuất bản trước đây - sau khi nhuận sắc, tuyển chọn lại. Tập
thơ dày 380 trang, với 237 bài, in trên giấy đặc biệt, tranh bìa của
Thân Trọng Minh, do Thư Ấn Quán của anh ấn hành. Bản đẹp, dành tặng thân
hữu nên không thấy ghi giá bán.
Danh từ
“thơ chiến tranh” kể từ Homer đã trở nên càng ngày càng phổ biến một
cách rộng rãi, nhất là sau khi chiến cuộc VN kết thúc. Hiện nay các quốc
gia đồng minh của VNCH và đã từng trực hay gián tiếp tham chiến trên
lãnh địa VN, mỗi nước đều có rất nhiều cơ quan, thư viện… lưu trữ, quảng
bá thi ca viết về cuộc chiến VN, được sáng tác bởi những cựu chiến binh
của họ. Cho đến bao giờ thì thi ca về thể loại này của các tác giả miền
Nam trước 75 mới được các tổ chức văn hóa, chính trị hải ngoại hay nội
địa dành cho nó một vị trí nghiêm túc, sáng sủa hơn, để bảo tồn những ấn
chứng quan trọng trong giai đoạn lịch sử đã qua, đã được khép lại?
1. Trực diện với chiến tranh, tiếp cận với tử thần
Bây
giờ chúng ta hãy bước qua Ô Cửa, thử đi vào nội dung cuốn sách để xem
người chiến binh này đã trình bày, muốn chuyển gởi những gì tới người
đọc, qua những năm dài phục vụ dưới cờ, trong thời tao loạn, nhiễu
nhương:
Giòng sông phân tranh hai vùng
thù nghịch. Đêm xuống đồi gặp con nước nổi. Súng đạn đưa khỏi đầu. Từng
con một vượt sông. Rồi trước khi trèo ngọn Kỳ Sơn. Anh lạc trên cánh
đồng trăng mênh mông. Không biết nơi nào là cõi dữ. Trên đôi vai anh
nặng nề lịch sử. (“Đêm Vượt Sông,” tr 5)
Từ
giã giảng đường chật hẹp, nóng bức, người sinh viên mang đầy lý tưởng,
hoài bão và mộng mơ ấy đã chấp nhận đi vào nơi thâm sâu cùng cốc, theo
lời kêu gọi của núi sông. Ngoài trách nhiệm thi hành nghĩa vụ công dân,
có thể anh còn coi việc đó như một lần đi thám hiểm, khai phá về những
chân trời mới, quyến rũ hơn, để thưởng ngoạn thiên nhiên, giao lưu nhân
thế, thử thách định mệnh:
Ở
đây đèo ải ngăn sông lộ. Trăm đứa lên có mấy đứa về. Giày trận bám bùn
mưa tối mặt. Mùa hè gió thổi bụi tê tê. Thanh niên ta bỏ miền trung thổ.
Theo mảng mây trời trên bản xa. Núi dựng. Rừng bạt rừng. Lá mục. Phơi
ngàn năm lạnh cắt xương da. Ta về ngơ ngác cơn sinh diệt. Ngỡ làm tên ẩn
sĩ tìm trầm...(Về Với Núi, tr 55)
Cũng trong ý niệm chấp nhận khoác chinh y để bảo vệ quê hương, giữ gìn lãnh thổ, từng lớp, từng lớp
lớp thế hệ tuổi trẻ đã đành bỏ cả tương lai, hoài bảo, rồi mang theo
cuộc tình để tham dự vào cuộc chiến đấu gian lao, mà tự thân họ không có
quyền lựa chọn, hoặc từ chối:
“…Vào
giờ G ta ra mặt trận - nón sắt bần thần theo gót giày sô - hiu hắt
đường mưa tiến về âm phủ - vừa cảnh giác đời, vừa ủ chiêm bao - khẩu
súng cạc bin chúi đầu xuống đất - như muốn nói gì với cánh Rừng Lăng -
Xuân Phổ bên kia chập chờn bóng địch - lập cập hồn ai, bèo vướng chân mày ? - nước lạnh môi khô lóe lên đóm nhớ -
màu mắt bên màu hoa súng ngày xưa - ta vẫn yêu em, yêu toàn nhân loại -
nên gắng khom lưng, tiến chiếm Xóm Dừa…” [Luân Hoán * Trên Đường Lững
Thững Hành Quân, Đạn Thù Có lẽ Ngập Ngừng Tránh Ta]
để
lãnh nhiệm vụ trấn thủ biên cương xa xăm, tiền đồn heo hút, dẫy đầy
hiểm nguy, bất trắc. Vì chưng, họ đã lỡ sinh ra vào một giai đọan lịch
sữ đen tối, vào thời buổi loạn ly, máu lửa với đạn bom và nước mắt:
“…Giặc
cứ pháo xá gì cơn bão giạt - nón sắt che cho đỡ lạnh mái đầu - đêm nến
thắp ánh hỏa châu hiu hắt - sinh nhật ai máu đỏ giữa canh thâu - đường
truông núi hai mươi năm chất ngất - tuổi lang thang vào xương máu bàng
hoàng - mai về phố với hồn chai lạnh ngắt - mua tình vui dồn trống chuỗi
mênh mang - khúc chinh chiến đã từ lâu quên hát - vầng trăng treo mầu
úa hướng mong chờ - mai xuống núi tiếp một ngày phiêu bạt - tìm lại mình
đánh thức một cơn mơ” [Nguyễn Mạnh Trinh * Kontum Bài Thơ Cũ]
Có
người tuy dấn thân, tham dự vào cuộc chinh chiến với thái độ thản
nhiên, xem đó như là chuyện tai trời ách nước, một trò tiêu khiển, nhưng
chắc hẳn trong thâm tâm anh cũng khó thoát khỏi những ray rức, trăn trở
hoặc suy tư, đau xót về thực trạng rợn người phơi bày trước mắt:
“Bốn
bề sương muối bủa quanh - hỏa châu đỏ rực năm canh rợn người - ta về
tham dự cuộc chơi - rựơu cần, súng đạn với lời kêu thương.” [Huy Lực *
Đêm Tiền Đồn Pleime ]
Nghĩa
vụ gìn giữ biên cương, lãnh thổ, quả là một gánh nặng luôn đè trên vai
những chàng lính trận tiền phương. Từng hốc đá, cánh rừng, từng bờ sông,
ngọn suối, từng chân núi, triền đồi mãi mãi là nơi hiểm địa, tử địa, dể
dàng hủy diệt, cướp đi mạng sống của mình:
Một
chút cay cay mà lòng buồn tủi. Buồn thì về đừng nán lại thằng em. Không
sao cả lên đồi cao xuống vực. Đất mở rồi ở lại cũng buồn thêm... Cùng
đứng lại hai chân nghiêm cúi mặt. Đây hàng quân đọc lại thiếu tên em.
Người lính trẻ chưa đầy hai mươi tuổi. Nhớ thì về cốc rượu để phần em.
(Viết Cho Thằng Em Cùng Trung Đội, tr 35.)
Nhớ
thì về cốc rượu để phần em. Câu thơ chứa đầy trìu mến, thể hiện một thứ
tình huynh đệ chi binh thắm thiết. Đó là lời của một người anh dành cho
đứa em vắn số, chứ không phải loại ngôn từ của một cấp chỉ huy nói với
kẻ trực thuộc. Thứ tình huynh đệ chi binh và sự trìu mến này, người ta cũng thấy hiện rõ nét trong thơ của Pete Agriostuthes dành cho người tiền sát viên tên Nam
qua bài “He was a Chiêu Hồi”, hoặc qua thơ của Kevin Bowen, Steve
Mason, Sarge Lincetum, Wilfred Owen, Walter McDonald... Đặc biệt là của
Yusef Komunyakka, người đã chiếm Pulitzer Prize năm 94 với tuyển tập
Neon Vernacular xuất bản năm 93, trong đó chứa đựng phần lớn các bài của
tập thơ mang tựa đề Việt ngữ “Điên Cái Đầu”, vốn đã phát hành từ năm
88.
Súng
đạn vô tình nào biết né tránh ai. Khi một người chiến sĩ không may,
vĩnh viễn nằm xuống thì người đời thường cho rằng anh ta đã vị quốc vong
thân, là một người anh hùng, là kẻ đáng được tuyên dương, ca ngợi. Có
đúng vậy không hay ta cần thử suy gẫm, xét nghiệm lại câu nói lừng
danh, mang hơi hám, tư tưởng phản chiến dưới đây của "papa" tức văn hào
Ernest Hemingway -người đoạt giải Nobel 54 về Văn học, khi ông phát
biểu: “Ngày trước người ta nói rằng: Hy sinh cho quốc gia của mình là
một hành động cao cả và xứng đáng. Nhưng trong cuộc chiến hiện đại không
có gì là vẽ vang hay thích nghi khi anh mất đi. Anh sẽ chết như một con
chó cho một lý do chẳng có gì là tốt đẹp.”[2]
Xin mời bạn đọc tiếp những vần thơ nóng bỏng, hồi hộp khác của chàng thám báo trẻ tuổi THT:
Băng
đồng, băng đồng đêm hành quân. Người đi ngoi ngóp nước mênh mông. Về
đây Bình Định ma thiêng lãnh. Mỗi địa danh rờn rợn oan hồn. Trung đội
những thằng trai tứ chiến. Những thằng bỏ lại tuổi thanh xuân. Diều hâu
bôi mặt hù ma quỉ. Thuở đất trời bày đặt nhiễu nhương. Đêm của âm binh
về xứ khổ. Poncho phơ phất gió hờn oan. Trên vai cấp số hai lần đạn.
Không một vì sao để chỉ đường. (Trung Đội, tr 31)
Những
cảnh tượng bi tráng, nghiệt ngã như thế cũng thể hiện đầy dẩy trong thi
ca của các chiến hữu đồng minh, như Marko Whiteley đã viết tại mật khu
Hố Bò qua Lonely in the Reservoir, Thoughs of War..., như W.H McDonald
viết ở Phú Lợi với “I Learned About War Last Night” hoặc Sarge Lintecum
qua “Ambush” và nhất là bài thơ được phổ nhạc của ông, rất phổ cập, được
mọi người ưa chuộng: " The Vietnam Blues".
Xin hãy đọc thêm những dòng diễn tả vừa chân thật, vừa ngộ nghĩnh, thanh thản của người “lính sửa” trong những ngày đầu nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt đơn vị:
Ta
trở về giáp mặt chiến tranh. Đồi cháy lửa mặt trời nhuộm lửa. Thau rượu
đế mừng ta thằng lính sửa. Dzô ông thầy hữu sự có thằng em. Trung đội
ta về hai mươi mấy thằng con. Đứa gốc người Kinh, đứa Nùng, đứa
Thượng... Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẫng. Trong túi ta một gói chuồn
chuồn. Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm. Để thấy miền Nam lính hiền ghê gớm. (Ta Lính Miền Nam, tr 36)
Qua 2 câu cuối của bài thơ, ta có thể thấy rõ phong cách của ngưòi chiến binh miền Nam
khi đối xử với tù binh, hàng binh, dù mới cách đó không lâu đồng đội
của mình đã bị giết, bị thương. Cũng với tâm trạng, bản chất đó, ta thử
đọc xem Tô Thùy Yên đã trò chuyện như thế nào với người tử sĩ bên kia
chiến tuyến trong đoạn thơ dưới đây:
‘…Ở cõi âm nào người vốn không tin. Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa. Người cùng ta ai thật sự hy sinh. Cho tổ quốc Việt Nam
- một tổ quốc...? Các việc người làm, Người tưởng chừng ghê gớm lắm.
Các việc ta làm, Ta xét chẳng ra chi.” [Tô Thùy Yên * Chiều Trên Phá Tam
Giang]
Hay
những ngôn từ phóng khoáng, thân thiện, chứa chan hào khí, tình giang
hồ của một quân nhân VNCH khác khi anh giáp mặt, trực diện đối phương:
“…Kẽ
thù ta ơi, các ngài du kích - hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo - hãy
tránh xa ra ta xin xí điều - lúc này đây ta không thèm đánh giặc - thèm
uống chai bia, thèm châm điếu thuốc - thèm ngọt ngào giọng hát em chim
xanh - kẻ thù ta ơi, những đứa xâm mình - ăn muối đá và hăng say chiến
đấu - ta vốn hiền khô, ta là lính cậu - đi hành quân rượu đế vẫn mang
theo - mang trong đầu những ý nghĩ trong veo - xem chiến cuộc như tai
trời ách nước.
Ta
bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước - vì căn phần ngươi xuôi khiến đó
thôi - chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi - suy nghĩ làm gì lao tâm
khổ trí - lũ chúng ta sống một đời vô vị - nên chọn rừng sâu núi cả đánh
nhau - mượn trời đêm làm nơi đốt hỏa châu - những cột khói giả rồng
thiêng uốn khúc - mượn bom đạn chơi trò pháo tết - và máu xương làm phân
bón rừng hoang.” [Nguyễn Bắc Sơn * Chiến Tranh và Tôi]
Chiến
tranh. Ôi chiến tranh. Người ta đã nhân danh nó để hủy diệt không biết
bao nhiêu nguồn sinh lực sáng lạng của quê hương, triển vọng của tổ
quốc. Người ta đã nhân danh nó để làm tan rã không biết bao nhiêu cuộc
tình nồng thắm và mái ấm gia đình. Lòng
không mang hận thù, họ là các chiến binh VNCH đi bảo vệ lãnh địa, cương
thổ. Họ là những cán binh “quân đội nhân dân” bị tuyên truyền, xô đẩy,
lôi cuốn vào tình huống bi thảm “sinh Bắc tử Nam” để giới chóp bu CS mau
chóng thực hiện ý đồ cướp đất, xăm lăng miền Nam. Bản thân họ nào được
gì ngoài những thua thiệt, mất mát:
“Em hỏi anh bao giờ trở lại - Xin trả lời mai mốt anh về - Không bằng chiến trận Pleime - Hay Đức Cơ - Đồng Xoài - Bình Giả -
Anh trở về hàng cây nghiêng ngã - Anh trở về hòm gỗ cài hoa - Anh trở
về bằng chiếc băng ca - Trên trực thăng sơn màu tang trắng - Mai trở về
chiều hoang trốn nắng - Poncho buồn liệm kín hồn anh - Mai trở về bờ tóc
em xanh - Vội vã chít khăn sô vĩnh biệt.
Mai
anh về em sầu thê thiết - Kỷ vật đây viên đạn mầu đồng - Cho em làm kỷ
niệm sang sông - Đời con gái một lần dang dở - Mai anh về trên đôi nạng
gỗ - Bại tướng về làm gã cụt chân - Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân - Bên
người yêu tật nguyền chai đá - Thì thôi hãy nhìn nhau xa lạ - Em nhìn
anh - ánh mắt chưa quen - Anh nhìn em - anh sẽ cố quên - Tình nghĩa cũ
một lần trăn trối.” [Linh Phương * Kỷ Vật Cho Em]
trong một cuộc nội chiến tương tàn mà bản thân những chiến sĩ miền Nam có lúc phải phân vân, tự vấn, suy tư:
“…những
thằng lính thời nay không mang thù hận - bạn hay thù chẳng có một lằn
ranh - thôi hãy uống. mọi chuyện bỏ lại sau - nếu có thể ta gầy thêm
cuộc nhậu - bày làm chi trò chơi xương máu - để đôi bên nuôi mầm mống
hận thù - ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu - chỉ có bạn, có ta là người
thua cuộc.
người
yêu của bạn ở ngoài phương bắc - giờ này đang hối hả tránh bom - hay
thẫn thờ dõi mắt vào Nam - để chờ người yêu mình trở thành liệt sĩ - rồi
cũng sẽ quên, như bao điều suy nghĩ - tình yêu như một thứ điểm trang -
che đi chút dối lòng, nhẹ bớt đi chút nhọc nhằn - uống với bạn hôm nay
ta phải thật say - để không phải còn nhìn nhau hận thù ngun ngút.” [Phan
Xuân Sinh * Uống Rượu Cùng Người Lính Bắc Phương]
Đọc
những áng thơ hiền hòa, nhẹ nhàng kia, tôi tự nhiên như thấy lại bóng
dáng của 2 ngưòi bạn gốc "cùi" là Vĩnh Nhi thủ khoa khóa 17, Hoàng Thọ
Khương khóa 19 của trường Võ Bị Lâm Viên - Đà Lạt và người bạn trẻ yêu
thơ Trần Phước Chí khóa 18 của đồi Tăng Nhơn Phú - Thủ Đức, hiển hiện về
trước mắt.
Những
chiến sĩ can trường thuộc Sư đoàn Phượng Hoàng này, khi bắt tù binh, họ
luôn luôn cho đối phương ăn uống tử tế, mời mọc thuốc lá, rồi mới
chuyển giao về hậu cứ. Họ không bao giờ cho sĩ quan an ninh đánh đập, dù
đôi khi cần khai thác tin tức sơ khởi tại mặt trận. Rất tiếc, 3 chiến
hữu tốt, hiền hòa này đều lần lượt ra đi, trước và sau biến động Tết Mậu
Thân không lâu trước mắt tôi, trong những ngày tôi còn dấn thân, phục
vụ tại khu chiến Tiền giang. Người viết, lúc đó, chẳng biết làm gì hơn
ngoài việc viết bài chiêu niệm trên trang Văn Nghệ Quân Đội và mục Viết
Cho Người Nằm Xuống để an ủi linh hồn người chết, và gia quyến họ.
Những
biểu tượng đầy nhân bản tính trên đối với người khác giới tuyến của họ,
cộng với sự thái độ, cảm nghỉ của THT, TTY, NBS, PXS... khiến tôi nhiều
lần thấm thía tự thầm hỏi mình. Phải chăng những quân nhân này và còn
nhiều, còn nhiều những anh em, chiến binh trong các quân binh chủng
khác, đã luôn luôn mang theo trái tim loại “grand coeur” của d’Amacis,
trên đường hành quân? Hay họ là những đệ tử ngoan của cụ Winston
Churchill - vị anh hùng, nhà chính trị khét tiếng của thế kỷ 20, người
đã được trao giải Nobel năm 53, vì họ luôn tuân thủ lời khuyên của ân
sư: "Tác phong là một việc nhỏ, nhưng nó tạo nên những khác biệt lớn
lao. Biểu lộ một chút lịch sự, tử tế cũng chẳng tốn kém, mất mát gì."[3]
Sau khi Sàigòn thất thủ, tôi
thường nghe thiên hạ bảo nhau: Một trong những yếu tố quan trọng đưa đến
việc mất nước là vì dân quân miền Nam
đã quá hiền hòa và đối xử nhân đạo với kẻ thù. Những người cùng chung
một tiếng nói bên kia lằn ranh giòng sông chia cắt, bên kia vĩ tuyến có
phải là kẻ thù của chúng tôi không? Thật sự, chúng tôi có cần xem họ là
kẻ thù không, sau khi cuộc đụng độ đã tàn, khói lửa đã nguội tắt, chỉ vì
họ bị cưỡng bức làm những con chốt đáng thương, trong ván cờ tham vọng
bành trướng chủ thuyết CS lỗi thời Mác-Lê-Mao?
Mời bạn đọc thử xem qua những hình ảnh đáng trách, dể làm nản lòng người đang dấn thân ở các tuyến đầu. Tình
trạng tương phản tương ấy đã được phản ảnh dưới góc nhìn của tác giả Ô
Cửa. Lời thơ tuy có man mác nỗi uất hận, phẩn nộ nhưng cũng đầy thương
cảm, ngậm ngùi như một khúc bi ca:
Đất
nước ta cường quốc bán buôn. Hậu phương ăn chơi biểu tình, đảo chánh.
Lúc đồng đội ta chết lên chết xuống. Một đám ở nhà nhảy nhót thâu đêm.
Lãnh chúa ta ăn trước ngồi trên. Hùng hổ lắm nhưng mạt hèn cũng lắm.
Khóa của ta trên mấy trăm thằng tình nguyện. Đi Nhảy Dù, Thủy Bộ, Thám
Báo "ác ôn". Đứng đợi cả ngày để bắt lá thăm. Toàn thứ dữ mà vui như chợ
Tết. Có đứa mang bằng kỹ sư về nước. Chọn Cọp Ba Đầu Rằn làm lính tiền
phong. Ta lính miền Nam
hề vận nước ngửa nghiêng. Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp. Ta trèo
lên cây hỏi rừng có biết. Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam? (Ta Lính Miền Nam, tr 36)
Giữa
lúc vận nước lâm nguy như thế thì dường như một số giới lãnh đạo chỉ
nghĩ đến quyền lợi riêng tư, một số người hậu tuyến chỉ lo hưởng thụ,
phó mặc việc giải trừ, giải tỏa áp lực dồn dập của Bắc phương trong tay
những quân nhân thiếu kém quyền lực, tiền bạc, lúc nào cũng đứng trước
đầu sóng ngọn gió, ồ ập vũ bão.
Trong
lúc người lính chiến VNCH đang trực diện với sự sống chết để bảo vệ
lãnh địa thì đồng minh của anh ta đã đóng vai trò gì trong việc ngăn
chống sự xâm nhập, mưu đồ thôn tính của giới lãnh tụ Hà Nội, với sự trợ
giúp không ngừng của các nước CS đàn anh Nga, Tàu? Hãy thử nhìn qua bối
cảnh, hoạt động hằng ngày của những người lính chiến Mỹ từ những dòng
thơ mang đầy tử khí của Marko Whiteley thuộc Tiểu Đoàn 1/TQLC trong
"Thoughs of War":
“Cuộc chiến đấu
thật khốc liệt khi lâm vào trận phục kích. Sự sôi nổi rồi cũng tan biến
đi trong những ánh mắt sáng ngời. Lúc này chẳng phải riêng gì đối phương
mà cả anh cũng mất mạng. Màn đêm đã sắp buông, đó là lúc thuận lợi cho
địch quân. Họ biết rằng địa thế không thể nhìn rõ ràng về đêm. Qua màn
đen của đêm sâu thăm thẳm. Kẻ bị thương thì rên rỉ, người còn lại thì
tiếp tục đánh nhau. Tâm trí khởi sự báo trước một nỗi kinh hoàng”.[4]
Những
tình cảnh đó có khác xa bao nhiêu trong "Đêm Đột Kích ở Nho Lâm" (trang
42), "Đêm Đột Kích" (trang 157), hay "Những Ngày Quân Về Những Ngày
Quân Đi" (trang 168). Hay thử nhìn sang tâm trạng phân vân của người
"Đánh Núi" trong hoàn cảnh, tình huống tiến thối lưỡng nan:
Tiến
lên lại sợ phục. Rút về sợ lột lon. Hét hoài cổ họng khan. Chỉ mình ta
lãnh đủ. Đi lên dao mở lối. Gai xước rách thịt da. Đau quá tức chửi cha.
Những thằng già ngoài Bắc. (Đánh Núi, tr 147)
Qua
bao lần đụng trận, đánh nhau ác liệt như thế, có mấy ai tránh khỏi viên
đạn vô tình thoát đi từ nòng súng của người bên kia? Cho nên THT - cây
sậy mỏng manh trước những cơn bão tố của chiến trường, cũng đã hơn một
lần bị đổ máu, dập vùi, lưu dấu các vết tích đạn thù trên thân thể còm
cỏi:
Viên đạn đồng đã cắt thịt tôi.
Tôi đau quá mà em không xót. Khi tôi biết mình vừa thoát chết. Tôi cuống
cuồng sợ hãi thành điên. Lần bị thương đầu tôi vẫn anh hùng rơm. Lần bị
thứ hai tôi nằm thin thít. Tôi đang ở phòng trần gian hậu chiến. Đêm cứ
trôi hoài từng giọt hồi sinh. Tôi ước đến điên cuồng một giọt lệ em.
(Trong Phòng Cấp Cứu, tr 311)
Tuy có
áy náy, lo sợ, nhưng sau 3 lần bị thương với những ngày phép dưỡng bệnh
ngắn ngủi sau khi xuất viện, người lính thám báo THT vẫn thản nhiên trở
về với cương vị của một người chiến binh, tiếp tục hiến thân phục vụ
dưới cờ cho đến ngày nước mất, quân tan.
2. Ghi nhận về chiến tranh qua những ngày dưỡng quân, những giờ chuyển quân
Cuộc
sống của người lính trận luôn gắn liền với những lần di chuyển bất ngờ,
bất định. Có khi chuyển quân ra trận mạc. Cũng có được điều động tới
các địa điểm gần chiến trường để làm nút chặn, làm lực lượng trừ bị, sẵn
sàng tiếp ứng cho những đơn vị cơ động đang giao tranh. Vì để bảo toàn
tối đa bí mật quân sự, cho nên đôi lúc nhiều cấp chỉ huy đơn vị nhỏ chỉ
nhận được lệnh hay sơ đồ hành quân vào phút chót, trước giờ xuất phát,
di quân. Những vần thơ sau đây đã thể hiện đầy đủ vai trò và thân phận
nghiệt ngã của các chiến sĩ tiền phương đó:
Những
lần chuyển quân dù chẳng biết về đâu. Nhưng chúng tôi biết những gì chờ
đợi sẵn. Như thể khi viên đạn đồng trong lòng cơ bẩm. Xẹt ra khỏi nòng
rồi kiến cắn tê mê. Chỉ khi nào anh cảm nhận đau tê. Có nghĩa là anh
biết mình vẫn còn sống sót. Anh hãnh diện là đã đi về phía trước. Là máu
hồng anh đã đổ xuống tặng em. Và khi anh trở về ôm lấy vết thương. Anh
mới biết đời vô cùng độ lượng. (Người Lính Trở Về Với Chiến Trường, tr
7)
Ta hãy xem thêm thi sĩ họ Trần đã
ghi nhận lại những mất mát nào qua “Chia Tặng Chung Nhau” (trang 128),
hay trong những hình ảnh máu lửa tiêu biểu của chiến trường mà anh vẽ
lại dưới đây - máu lửa, bom đạn, tiếng kêu đau thương, tuyệt vọng:
Xin
trả lại bên trời vầng trăng đỏ máu. Và tiếng dội ầm ầm của đám trực
thăng. Và cả một biển rừng lửa bốc xung quanh. Và sườn lũng cháy đen
thành than củi. Người lính cũ mắt nhìn trong bóng tối. Nghe văng vẳng
bên mình lời rên rỉ: Cứu em. (Xin Trả Lại, tr 11)
để từ đó anh bồi hồi, ngậm ngùi trước những hoang phế, điêu linh rồi nghi vấn, suy tư về thân phận mình và kiếp người…:
Mặt
trận đổ theo bìa Đệ Đức. Nghe cận kề lửa hưóng Tam Quan. Bồng Sơn mây
ám toàn tin dữ. Chiều chưa buông quận đóng năm giờ. Giặc chiếm cận sơn
người chạy loạn. Còn bên cầu trơ trọi cây đa. Cây đa có mặt khi nào nhỉ.
Có phải nơi này là quê hương. Có phải mỗi con người trôi dạt. Cất trong
tim bóng mát thiên đường. Cây đa vươn giữa trời bi lụy. Những thổ thần
hoang lạnh lư nhang. Lửa cháy Trường Lưu đò đã chặn. Chị ra sông ơi ới
đoạn trường. (Cây Đa Bên Cầu, tr 20)
Địch
tan, chiếm lại đất đai chưa kịp vui mừng thì người lính trận lại phải
đương đầu, đối diện trước những bức tranh mang đầy dấu vết hoang tàn, đổ nát, trước “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”:
Ta
đã về dành lại quê hương. Dành lại quận đường hoang tàn đổ nát. Dành
lại ngôi trường lời ca tiếng hát. Ta đã về nhìn bầy chim cút côi. Nhưng
ta lại không dành được em gái ta yêu. Chúng ủ rũ như lòng ta ủ rũ. Lũ bé
quì bên xác người cô trẻ. Ðặt chùm hoa mếu máo gọi cô về... Em bé quê
ơi cho ta một nhánh bông. Một nhánh bông quì vàng như màu áo. Ta đặt tên
em. Trống trường ảo não. Như những hồi mặc niệm em tôi. Ta đã về và đã
trễ em ơi. (Đêm Tiếp Cứu Chợ Huyện, tr.28)
"Ta đã về và đã trễ em ơi". Câu thơ như một tiếng kêu thống thiết, chứa chan huyết lệ, thể hiện tình quân dân cá nước.
Một
hình ảnh thê lương khác đã được Anh Thuần - người phóng viên chiến
trường gan lì của Cục Tâm Lý Chiến và Đài Phát Thanh Quân Đội, đã phát
họa lại đậm nét khi anh đang bám trụ trên "quốc lộ máu" năm 72 để ghi
nhận, tường thuật về tin tức chiến sự:
“Em
về đâu, hỡi người em lạc lõng - chiều đã buông và mây đã giăng mờ -
trong lửa đạn máu tanh thời chiến loạn - còn mong gì tìm được chốn an
cư.” [Anh Thuần * Chiều Chiến Loạn]
Sống
ở, thác về. Người lính trận miền xa nào mà chẳng ý thức được số phận
mỏng manh của mình. Bởi vì, người xưa đã trải nghiệm rồi truyền lại: “cỗ
lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, thì sự mất còn đối với họ cũng chỉ như lẽ
tan-tụ tất yếu của mây nổi, của hoa biển. Trong lòng kẻ trấn thủ lưu
đồn - lúc nghĩ ngơi, có chăng là nỗi nhớ nhung về những con đường tình
đã qua và hoài niệm về sự mất mát của bạn bè, đồng đội:
“Nằm
đây thương những con đường - kể em nghe chuyện chiến trường được chưa -
lòng anh thơ dại bóng cờ - ngủ yên đâu dám định giờ xuất quân - đã lâu
võ nghiệp quen dần - thấy người đi cũng ân cần muốn đi - hỏi người: ai
chết đêm khuya - bảo: không, ngựa lạc đường về cõi xưa.” [Hoàng Lộc *
Đêm Đóng Quân Ở Định Quán]
Cùng
những ngỡ ngàng của thi nhân Trần Tuấn Kiệt, người đã chiếm giải nhất
về thơ của Tổng Thống năm 71, qua các cảnh tượng ảm đạm của những ngày
biến loạn xảy ra ngay tại các vùng ven đô của Saigon đầu Xuân Mậu Thân 68:
“…Ra
nhìn khói lửa đạn bay - khói lên từng cụm đạn cày mênh mông - qua đêm
ngủ giấc say nồng - tĩnh ra bốn phía chập chùng núi non - trời xa mây
bạc vô cùng - sao ta nằm ngủ giữa vùng máu xương.” [Trần Tuấn Kiệt * Tết Mậu Thân Nhậu Với Bùi Giáng]
THT
tuy là người chiến sĩ dạn dày phong sương, nhưng lời thơ của anh lại
rất nhẹ nhàng thi vị, man mác tâm tình của một nghệ sĩ yêu người, yêu
đời và yêu quê hương sâu sắc, đậm đà:
Tôi
về đây. Tôi đã trở về đây. Đồi xưa tôi gọi đồi không hay. Ai đi bỏ lại
hoàng hôn lạnh. Đỏ ối đồi xưa ôm lấy mây... Có ai như thể người binh
Thượng. Ngồi khom trên bờ đá thổi kèn. Hôm qua có những hồn ma lẻ. Lạc
tìm về buôn bản cao nguyên. Có ai dưới lớp mồ hoang dã. Nằm xuỗi chân
mắt mở trợn trừng. Chiều nay sao mọc về phương Bắc. Sao ruột lòng vứt bỏ
phương Nam.
Cỏ tranh lớp lớp che đường dốc. Phòng tuyến buồn hiu nhuộm nắng chiều.
Trận đánh cũng đi vào quên lãng. Sao còn rờn rợn những hồn xiêu. (Đồi
Xưa, tr 43)
Cảnh tượng nào sau chiến trận mà không thê thảm. Không
có chiến trận nào mà không có người phải hy sinh? Ngay cả những chiến
sĩ đồng minh sang phụ giúp chúng ta - để chống sự xâm lược, dành dân
chiếm đất của Việt Cộng vào lãnh thổ VNCH, cũng không tránh khỏi rơi vào
tuyệt lộ bi thương nói trên. Xin hãy đọc thử bài thơ “As The Sun Sets
In The Dark Sky” của Guy L. Jones thuộc tiểu đoàn 43 Truyền Tin. Người
lính chiến Hoa kỳ này đã nghe thấy, cảm nhận gì trong cảnh "hồn tử sĩ
gió ù ù thổi," trong cảnh tịch mịch dưới màn đen, trời mờ Pleiku:
“…Khi
ánh thái dương chìm khuất trong bầu trời u ám, tôi nghe âm thanh của
những người lính chiến đang đi đều bước và kêu gọi nhau từ một khoảng
xa. Tôi nghe họ bảo rằng đừng nhỏ lệ vì họ, bởi những nỗi đau đớn của họ
giờ đã tan biến cả rồi và hiện giờ họ đang đi về với Thượng đế trong
cảnh an bình vĩnh cữu.
Khi ánh mặt
trời lan dần về phía chân trời, hình ảnh của những người di hành đó đã
vượt khỏi tầm mắt của tôi, nhưng không phải là những lời trối trăn mà họ
đã nói, vì những di ngôn của từng mỗi người đó tôi vẫn ghi giữ mãi
trong tiềm thức.
Tôi đã thì thầm đáp lại
cho cho họ biết là tôi sẽ thông truyền những lời trối trăn ấy tới mọi
người, cho bất cứ những ai muốn nghe di ngôn của họ do tôi tường thuật
lại. Công việc này tôi xin hứa với tất cả các anh, tôi sẽ làm mãi mãi
khi mà tôi vẫn còn sinh tồn. Xin chào vĩnh biệt các chiến hữu, xin
chào”[5]
Nhà toán học, nhà tư tưởng siêu
quần Blaise Pascal đã từng ví von nhận định rằng: “Con người là một cây
sậy, loại mềm yếu nhất trong vạn vật, nhưng là một cây sậy biết tư duy”
[6]. Thân phận người chiến binh ngoài tuyến đầu dỉ nhiên mong manh,
nhưng là người biết suy tưởng, có tình cảm, thì dù ở trong cảnh trạng
khói Iửa đạn bay đi nữa, mấy ai tránh khỏi nỗi niềm mơ ước. Mơ ước, hoài
vọng về một viễn ảnh sớm chấm dứt chiến tranh, đất nước sớm an bình:
“…giọt
máu trên ngọn cỏ mềm - của ai không biết nằm im như tờ - đằng xa sau
lớp bụi mờ - mới nhìn tôi tưởng con cờ thí thân - toán tôi vừa tới bìa
rừng - đã nghe đạn nổ muốn bưng cái đầu - rạp mình xuống đất nâu nâu -
mặt tôi chạm nắm cỏ khâu xanh rì.
ừ
thì chú cũng như tôi - cũng khiêng sông núi trên đôi vai mình - mong
cho đất nước thanh bình - chớ ai mong cảnh chiến tranh bao giờ - ừ thì
anh cũng như em - cũng đem tổ quốc treo trên ngọn cờ - buồn buồn bày đặt
làm thơ - vui vui thì lấy súng phơ một tràng…” [Phan Ni Tấn * Rừng Tâm
Sự 5 Năm Lính]
Dẫu
rằng vấn nạn ấy chỉ là mộng con hay loại “nhược đại mộng” của người
lính xa nhà, trong đêm buồn tênh gối súng, nằm ngắm trăng sao, mây nổi
rồi mơ ước cảnh đoàn viên:
“…Trước
thượng đế hai đứa đồng cúi lạy - xin Hoa-Thương-Yêu nở khắp mọi nhà -
ruộng đất không còn làm bãi tha ma - sắt thép loài người đem xây tổ ấm -
dưới sương gió mây ngàn bên xóm vắng - riêng chúng mình tình tự ngắm
trăng non - sớm sớm chiều chiều em sẽ dạy con - bài hát đầu tiên ngợi ca
Tình-Ái.” [Phan Bá Thụy Dương * Nói Với Người Mang Tên Một Loài Chim
Mùa Xuân]
Đời
sống của những người lính trận, vì thường xuyên phải đối diện với thần
chết nên mỗi lần được nghĩ phép, dưỡng quân là cơ hội bằng vàng cho họ
tìm gặp bằng hữu, anh em để cùng nhau ngã nghiêng, ngất ngây bên ly
rượu, hầu tạm quên những giây phút ác liệt, nghẹt thở, bâng khuâng ngoài
chốn tiền phương:
Nửa đêm như thể
ngày xưa ấy. Mấy thằng trải chiếu dưới đêm trăng. Trăng sáng phơi trên
hàng kẽm lạnh. Rồi chảy vào bát rượu bâng khuâng. Nửa đêm mấy đứa chưa
buồn ngủ. Buồn ngủ làm sao, ta chiêm bao. Lính trận dưỡng quân nhờ tí
tửu. Để mai nằm xuống hồn bay cao. Nửa đêm doanh trại đèn leo lét. Người
lính canh ngồi như tượng đêm. Ma quỉ muốn chơi xin hoãn chiến. Để ta
cùng đụng với anh em. (Nửa Đêm Uống Rượu Với Bạn Bè, tr 149)
Cũng không ít anh em quân nhân quan niệm rằng : Đánh trận xong rồi thì ta đánh chén. Trong lúc rãnh rỗi, dưỡng quân thì ta đánh chén trước, rồi chờ ngày đánh trận sau. Lính và rượu.
Rượu và lính cơ hồ như đôi tình nhân luôn luôn gắn bó mật thiết. Cho dù
kẻ ấy là lính “tò te” mới ra “lò” hay là người đã dạn dày chiến trận,
khí phách, coi thường sinh tử. Lời thơ trích dẩn dưới đây, tuy bộc lộ rõ
nét ngang tàng, khoáng đạt ấy, nhưng dường như phần nào cũng mang mang ý
niệm, tư tưởng hiện sinh. Bởi
vì, như ai cũng biết, từ hạ bán thập niên 50 trở đi các tác phẩm hiện
sinh, lãng mạn như “ Bonjour Tristesse”, “Dans Un Mois, Dans Un An”, “Un
Certaine Sourire”… của nữ văn sĩ Francoise Sagan đã ảnh hưởng khá sâu
đậm như thế nào với xã hội, đặc biệt là với giới trí thức trẻ, miền Nam:
“…hãy
cụng ly chết bỏ - tôm cua cá lươn sò - lương ta còn nguyên vẹn - còn cả
cái Seiko - Cửu long giang ra biển - sẽ chẳng trở về đây - chiến tranh
hề gặp gỡ - có chắc lần thứ hai - lai mỗi thằng mỗi ngã - thằng Cà Mâu
Năm Căn - thằng Bình Dương, Bình Giã - thằng địa ngục thiên đàng - nhưng
ta không sợ chết - (hơi ngán què đôi chân).
còn
mày sao lại khóc - cứ cười lên đi con - ta anh hùng tứ xứ - há thua
những bông hồng - nơi rừng U Minh Hạ - còn dám nở dưới bom - cứ cười như
họng súng - bắn cuộc đời vỡ toang...”[Hà Thúc Sinh * Hành Quân Qua Bến
Phà Mỹ Thuận Gặp Bạn Đánh Chén, Say Mèm]
Dĩ
nhiên bên cạnh đó còn có sự tác động mạnh mẽ hơn của các triết gia hiện
sinh hàng đầu như S. Kierkegaard, JP Sartre, F. Nietzche, A. Camus… Có
thể cũng với tâm trạng, khái niệm yêu cuồng sống vội, bất kể ngày mai
ấy, cùng với sự cảm nhận về nỗi bấp bênh của mình trước đầu tên mủi đạn,
nên tác giả Ô Cửa nghĩ rằng có thể ngày mai anh sẽ không còn cơ hội
sinh tồn. Nên hôm nay có rượu thì chết bỏ, hãy cứ hăng hái tiếp nối cuộc
vui “đưa cay” với bạn bè, ngay cả với linh hồn người khác địa đầu chiến
tuyến:
Xin
cô hàng thêm một két bia. Hôm nay lãnh lương tôi dành đãi hết. Cô hàng
ơi một mai tôi chết. Ai tiêu dùm tôi ba tháng lương... Cô hàng ơi cho
một ly không. Tôi rót mời một người lính Bắc. Hắn nằm băm thây dưới hầm
bí mật. Trên người còn sót lại bài thơ. (Một Ngày Không Hành Quân, tr.
45)
4 câu thơ chót là 4 câu thơ đã nói lên
đầy đủ tính chất nhân bản. Phải chăng đây là một tuyên ngôn? Tuyên ngôn
về tình người - tình người không biên giới, tình chung giống nòi, huyết
thống VN.
Làm
lính trận miền cao là sống với rừng núi khô cằn, bụi mốc. Có mấy ai khi
được nghỉ ngơi về với phố thị tránh khỏi sự rung động, khi nhìn những
tà áo tha thướt, phất phơ bay bay trong gió của giai nhân, của em gái
hậu phương:
Thành phố nọ trở về
vui một bữa. Quán cà phê và bạn hữu tao mày. Phố xanh hồng sáu chục
cũng còn say. Huống bọn trẻ ở trên rừng vắng gái. Gác chân lên bàn đôi
giày vạt đế. Cốc xây chừng ngầy ngậy giọt bơ thơm. Ánh mặt trời đọng lại
trong ly con. Gió sông thổi tà áo màu tha thướt. Vỉa phố trời cho rộng
vài ba thước. Đường phố không dài nên đi xuống đi lên. Muốn theo gót
nàng nhưng không dám làm quen. Thôi chỉ biết ngồi lì mòn cả ghế. Để cố
uống một lần mai từ giã. Những mái trường, những cửa tiệm, đám đông. Đàn
bướm màu làm đẹp cả hoàng hôn. Để gìn giữ làm của thời tuổi trẻ. (Về
Với Phố, tr 162)
3. Thân phận, kiếp sống gian lao và nỗi u hoài của người chiến binh sau ngày miền Nam bị nhuộm đỏ
Sau
khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của ông bị thảm sát do nhóm
tướng lãnh chóp bu đảo chánh ngày 1/11/63, tình hình chính trị và an
ninh miền Nam dần dần rơi vào trạng thái càng ngày càng bất an. Có phải
cái chết của cụ Ngô như là hồi chuông báo tử trước cho Tổng Thống
Kennedy và sự cáo chung của chế độ VNCH? Chỉ hơn một năm sau khi người
Mỹ rút khỏi miền Nam,
cắt đứt viện trợ, thì quân lực Cộng hoà càng lúc càng bị trói tay, thúc
thủ, do thiếu quân cụ, nhiên liệu, đạn dược... Thêm vào đó là với lệnh
buông súng “lạ lùng, khó hiểu” của tướng "big Minh" đã dễ dàng đưa toàn
quốc rơi vào tay lực lượng xăm lăng CS.
Trước
và sau ngày dâu biển đó, người ta truyền tụng khắp nơi rằng không biết
bao nhiêu quân nhân các cấp đã tự tuẫn tiết vì chẳng chịu đầu hàng. Đa
số những người khác thì vì vướng bận thê nhi, cha mẹ... đã bị đưa vào
các trại tập trung lao động, tẩy não, mà kẻ chiến thắng gọi là trại cải
tạo, kể cả những viên chức dân sự. Bối cảnh náo loạn, bi đát của ngày
tàn chiến cuộc ấy đã được thi sĩ Diên Nghị xúc cảm
ghi lại một cách sâu sắc:
“Tháng
4 - vợ ngóng chồng đầu ngõ. Nón sắt giày sô vất bỏ dọc đường. Mưa sớm
khai mùa tuôn xối xả. Đất trời xúc động nỗi tai ương. Thương binh lê lết
ra y viện. Tà quyệt nào tha phận tật nguyền. Đơn vị rã hàng tàn chinh
chiến. Hỏi người nhân đạo với nhân danh. Có người lính trẻ không buông
súng. Ngẩng mặt hiên ngang trước kẻ thù. Thà ngã dưới cờ tròn danh dự.
Dày trang sử Việt sáng thiên thu”. [Diên Nghị * Tháng Tư]
Cũng
như những quân cán chính khác, bạn tôi, một người vừa là người làm báo,
vừa là một cưu quân nhân ngành quân báo đã lâm vào thế bị cưỡng bức tập
trung. Anh cũng như nhiều người khác tin tưởng rằng chiến tranh đã kết
thúc thì việc xách khăn gói đi trình diện học tập trong mười ngày, một
tháng theo lệnh của ủy ban quân quản CS là một điều tất yếu, để sau đó
mọi người trong nước cùng nhau nối vòng tay lớn xây dựng, hàn gắn lại
quê hương. Nhưng tất cả những kỳ vọng ấy đã được trả bằng những sự đói
rét, khổ nhục trường kỳ và những đòn thù khắc nghiệt:
“Heo
hút đồi cao bụi phủ mờ - những thân còm cõi dáng chơ vơ - bốn vòng gai
sắc như dao nhọn - đâm suốt hồn ai nhát hững hờ - đã mấy Mùa Xuân trong
đớn đau - cao su vàng lá úa u sầu - bọn ta chung kiếp tù tăm tối - ngày
tháng chừng trôi qua rất lâu...” [Vũ Uyên Giang * Bài Gửi Dương Hùng Cường]
Nếu
không có sự tin tưởng này thì với lực lượng quân dân cán chính can
trường, bất khuất bị lường gạt ấy sẽ ứng phó ra sao? Giới cầm quyền mới
có dể dàng, yên ổn thu gọn cuộc chiến thắng mà họ đã luôn tự hào, rêu
rao là thần thánh kia chăng? Việc CS dồn người, đem giam giữ vào các
trại tập trung xa xôi, ngấm ngầm để các nơi, các cơ cấu phụ thuộc tổ
chức đưa người vượt biên hoặc cho phép các cựu tù miền Nam sang Mỹ định
cư chẳng phải là nhằm vào mục đích giải trừ, tránh đi hậu hoạn về những
sự đối kháng, nổi dậy nguy hiểm hay sao? Hơn ai hết, nhóm đầu não lãnh
đạo phương Bắc có thể tiên liệu, biết chắc chắn là mối họa này không thể
không xảy ra?
Rồi
con số người bị hành hạ, chết chóc trong các trại cải tạo mỗi ngày một
gia tăng. Con số người dân tìm đường vượt thoát chế độ độc tài càng ngày
càng nhiều, dù họ đều biết rằng mình có thể sẽ vùi thây trong lòng biển
cả hay một xó rừng, góc núi nào đó. Còn những kẻ sau thời gian bị nhục
hình trong các trại tập trung trở về, người thì bị đày lên vùng kinh tế
mới, kẻ thì lâm vào cảnh "anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than", tìm trầm
quế, "chém tre đẵn gỗ trên ngàn"... dọc theo dãy Trường Sơn hay tiếp tục
những gánh nặng oan khiên khác bằng nghề đẩy xe thồ, đạp xe xích lô...
tự an ủi mình bằng ý nghĩ "không có nghề nào tồi tệ, xấu xa, chỉ có con
người tồi tệ, xấu xa thôi" [7]. Những hình ảnh được trình dẩn dưới đây
là một trong những minh chứng về chánh sách đọa đày, ngược đãi đối với
những người cựu tù sống sót đã được họ tha, cho về từ những lò ô nhục mà
ngôn ngữ kẻ chiến thắng gọi là trại cải tạo:
“Cõng
con dắt vợ leo đồi - phá rừng làm rẫy cất chòi tịnh tâm - vợ con tắm
vũng trâu nằm - lưng gùi tay rựa quanh năm cuốc cày - đầu trần chân đất
hôm nay - mai sau rồi cũng bóng mây lưng đèo.” [Trần Văn Sơn * Tù Về, Lên Rừng Làm Rẫy]
Nơi các trại tù tập trung lao động cũng có nhiều người bất khuất, không chịu được sự ngược đãi đã liều mình bỏ trốn. Có nhiều người bị bắt lại, bị giết. Cũng có nhiều người vùi thây nơi vùng Việt Bắc, nơi rừng sâu nước độc, hoang dã đầy sương lam, chướng khí trên đường tìm về. Cũng có nhiều người
vượt thoát sau bao đói khổ, truân chuyên được hội ngộ với gia đình.
Nguyên Hoàng Bảo Việt là một trong số những người may mắn hiếm hoi đó.
Anh là một trong những người đầu tiên đã chiếm giải Văn Chương Toàn Quốc
trong thập niên 60. Hiện nay anh là nhân vật quan trọng trong Ủy Ban
Bảo Vệ Nhân Quyền và trung tâm Văn Bút Âu Châu. Nhờ “Kẻ Sống Sót” này mà
chúng ta có thể hình dung được thảm cảnh oan khiên của những người “ngã
ngựa” phải chịu đựng triền miên trong địa ngục trần gian. Trong một nơi
cực khổ, đói lạnh dai dẳng, thiếu ánh sáng:
“…Đêm
đã xuống - Trên đường trốn về Nam - Tìm sao để định hướng - Con chim
Việt còn nhớ cành - Sau lưng tôi - Bạn bè ở lại - Giữa trại tù tập trung
- Nào ai biết - Dù màn sắt hay màn tre - Ngục hình của Cộng sản - Ngàn
lần hơn Lao Bảo - Trăm lần hơn Côn Nôn - Luật rừng thời trung cổ - Khổ
sai và tẩy não - Chung thân - Chết đói và tuyệt vọng - Muôn năm - Xích
xiềng và liềm búa - Khua vang - Khua vang…” [Nguyên Hoàng Bảo Việt * Kẻ Sống Sót]
Tác
giả Ô Cửa thì may thay được cho về sớm để rồi bùi ngùi nhìn cảnh đổi
thay, vợ con nheo nhóc. Người lính thám báo, người giáo sư yêu đời năm
xưa đã mạnh dạn tìm phương tiện sinh nhai bằng một nghề mà người có học,
kẻ sĩ trên khắp hoàn vũ nằm mơ, hoang tưởng mấy cũng không thể hình
dung, ngờ được. Nhưng có lẽ nhờ tâm hồn nhạy cảm, dể rung động của thi
nhân cùng với một nhân sinh quan cởi mở, nên có lúc THT cũng tìm thấy
được phần nào nét trào phúng, ý nhị nhỏ nhoi, hài hòa trong công việc
dãi dầu mưa nắng. Dẫu sao anh cũng còn cảm thấy được phần nào tự do,
sung sướng hơn những năm bị lưu đày:
Ta
trở về ôm những nhánh tang thương. Cúi đầu bước đi giữa lòng phố cũ.
Con phố của ta ruột rà trăm ngõ. Sao bây giờ mỗi khúc mỗi đau. Ta đã trở
về bốn năm phù du. Hồn hóa đá người thành dã thú. Ta dỗ dành ta tai
trời ách nước. Thôi đã hết rồi món nợ tiền khiên... Sau cuộc chiến tranh
làm tên sống sót. Sau cuộc tội tù đi bán cà rem. Ta bán cà rem hề, ta
bán cà rem. Lắc chiếc chuông đồng khua vang làng xã... Chiếc áo trận
xanh xạm màu khói lửa. Chiếc mũ rơm đan vương miện tội tù. Ta qua những
miền thiên cổ âm u. Ta đập vào thùng nghêu ngao ca hát. Ta bán cà rem
hề, kem đường kem chảy. Thêm kem oan cừu chất ngất miền Nam. (Ta Bán Cà Rem Hề, tr.24)
Lời
thơ tuy êm êm, lãng đãng như sương khói đầu cành, nhưng sao lại ẩn
tiềm, phảng phất đâu đây một nỗi cay đắng tái tê. Những dòng thơ chuyên
chở những sắc thái ý nhị này người đọc có thể phát hiện dễ dàng trong
toàn tuyển tập Ô Cửa của anh, điển hình như: “Sợi Tóc Nhớ Nhung” (tr.
108), “Tôi Đã Về Em Ạ Đêm Nay” (tr. 165), “Xa lạ” (tr. 201), “Hoàng Hôn
Trên Bản Địa” (tr. 313)...
Trận
đánh nào rồi cũng đi vào quên lãng. Thời gian nhọc nhằn, tủi nhục nào
rồi cũng chìm lắng, nhạt nhòa dần với thời gian. Kết cuộc có còn chăng
là những nỗi niềm u uẩn, cay đắng khôn nguôi, những vết sẹo mãi mãi hằn
in trên thân thể gầy mòn của người lính tiền sát bị thất trận oan ức:
Những
mảnh đời như những cơn giông. Đã xé toạc cả tiếng đời tục lụy. Đã dữ
dội như trăm ngàn tạc đạn. Đã rũ mềm lê lết cất không lên... Bụi thì mù,
mây thì phủ tai ương. Con ngựa đứt dây, hí hoài trên núi. Bàn tay cắt
vào mảnh chai tươm máu. Hồ trường này đây, đập cốc. Về đâu? Ta thì ngậm
cả tang hồ rách nát...(Cuồng Ngâm Của Tên Thất Trận, tr 124)
và có còn chăng trong lòng, trong ký ức sâu kín là niềm kiêu hãnh, sự tưởng niệm mang mang, thấm thía:
May
mà tôi vẫn còn một hoài niệm xanh. Dù chỉ là nỗi niềm tự hào buồn bã.
Trên ngực lép vẫn còn chiến thương ngày cũ. Như đáp đền ân lượng của quê
hương. (Niềm Kiêu Hãnh Buồn Bã, tr 233)
Người
bạn đồng minh James M. Hopkins thuộc Sư Đoàn 1 BB - người đã từng dẫm
chân trên các nẻo đường hành quân vùng Bình Dương, Tây Ninh, khu “tam
giác sắt” cũng có chung một tâm
trạng như “Đêm Mất Ngủ” của THT (trang 252). Nhưng trái với sự mong đợi.
Khi anh và các chiến hữu trở về không may đã bị các lực lượng phản
chiến hung hăng thời đó coi như những tội đồ, thậm chí là kẻ sát nhân.
Do mặc cảm tội lổi hay vì tâm trạng chua chát, tái tê trước phản ứng phủ
phàng của dư luận mà bài thơ mang tựa “SONG” diển tả về tâm trạng của
người lính hồi hương này đã mang nặng màu sắc bi thảm, bi quan, chán
chường, để rồi anh ta phải dấu kín tâm tư, không thổ lộ được cùng ai:
“…Người
lính chiến không quên được. Có lẽ -trong nhiều năm- anh ta sẽ trăn trở
trong mỏi mệt. Chờ đợi giấc ngủ, chẳng bao giờ đến. Không ai có thể
thoát khỏi được. Những gì anh ta đã chứng kiến, và những sự việc
anh ấy đã dự phần, đều bị chôn vùi trong những giấc mơ, trong thầm lặng
và câm nín…”[8]
Sao
người ta lại nhìn tác động, hiệu quả của chiến trận dưới con mắt đạo
đức để chỉ thấy mặt trái, đàng sau của tấm huy chương? Điều đó có oan ức
cho những người vì nhiệm vụ phải thi hành trong lúc đối diện địch quân?
Hơn nữa trong lúc chiến đấu,
giết giặc - ít nhất, cũng để bảo toàn được mạng sống của mình, mà cũng
bị xem là một hành vi tội lổi, phi đạo đức được chăng và như vậy thì sự
công bình đối với tha nhân ở đâu?
Những
ray rứt về những ngày ngang dọc, gian truân xa xưa như cứ đeo đẳng, bám
sát tâm trí người lính trận THT. Cho dù đến nay anh đã trở thành công
dân của một quốc gia khác, mà quê huơng yêu dấu cũ thì đã ngàn trùng
cách ly. Nỗi hoài nhớ này được dàn trải qua 2 bài lục bát ngắn gọn dưới
đây:
Bên
kia lạnh nến hai hàng. Phố kia và những con đường lặng im. Nhà kia đóng
cửa im lìm. Sao ta không đóng nỗi niềm muội mê. (“Hỏi lòng,” tr 256)
Tôi
lạc rồi em biết không. Tôi đang quờ quạng giữa vùng mù sương. Cũng vì
cái ngạnh cái ương. Ngỡ mình là lính tiền phương thuở nào. (Lạc Đường,
tr257)
Dù
tập thơ quá dày không thể giới thiệu thêm, nhưng người viết nhận thấy
mình sẽ thiếu sót lớn nếu không đề cập đến bài thơ mang tựa của tuyển
tập, mang linh hồn của cả 5 ấn phẩm mà tác giả đã chọn, gom góp lại
thành một kiệt tác:
Ngôi
trường cũ có bao nhiêu ô cửa. Để tôi về đếm những đám mây bay. Tôi sẽ
gọi một bầy chim sẻ nhỏ. Những con chim từng xa vắng lạc bầy. Tôi sẽ
đứng như một người thiên cổ. Lớp học buồn như từ cõi cô đơn. Thầy ngồi
đó đôi vai gầy tóc bạc. Chút ngậm ngùi cơn nắng đọng hoàng hôn... Tôi sẽ
nhớ một người tôi yêu dấu. Người nào đâu về lại buổi hôm qua. Dấu chân
nhỏ như vết hài vạn cổ. Đôi mắt nào theo mãi cuộc đời tôi... Và người ấy
qua dòng sông sương muối. Tôi lên rừng theo dòng thác binh đao. Và
người ấy theo sông về với biển. Tôi về Đông, về Bắc, biết về đâu? Trăng
thiếu phụ tôi mang vào song cửa. Cho một lần, cho vô tận ý thiên thu. (Ô
Cửa, tr 14)
Tôi đoan chắc những hoài
niệm triền miên, những ray rứt về các mất mát trên với niềm kiêu hãnh
buồn bã nọ sẽ mãi mãi vương vấn trong tâm hồn, ký ức của người thi sĩ đa
cảm, đa tình này. Tuy phần lớn trong số 237 bài là thơ chiến tranh -
trực hay gián tiếp, nhưng trong Ô Cửa cũng có nhiều bài thơ tình nồng
nàn, rất đáng cho người đọc ngâm nga, thưởng ngoạn như: “Nha Trang” (tr.
30), “Con đường Trăng” (tr. 52), “Thơ của Văn” (tr. 62), “Dư niệm” (tr.
196), “Từ buổi ta về” (tr. 268), “Hẹn lòng” (tr.350)
4. Lời kết
Ai cũng biết con số người Việt Nam làm thơ chiến tranh không phải là ít. Nhưng theo tôi, THT là người đã sáng tác nhiều nhất Trong
nhiều tác phẩm mà tôi có trong tay do anh gởi tặng, tôi thấy hầu như
bài nào, cuốn sách nào, anh cũng vẽ cho người đọc thấy những hình ảnh
linh hoạt, bi hùng của nhũng người lính chiến như anh, sự thống khổ của
đồng bào mà anh và những chiến hữu khác thuộc quân lực miền Nam có nhiệm
vụ bảo vệ, che chở bằng tất cả nhiệt tình, nhiệt huyết.
Ô
Cửa là một tuyển tập thi ca có tầm vóc lớn. THT lại biết tự chọn cho
mình một hướng đi, một bản sắc riêng về thi loại, đề tài: chuyên biệt về
Chiến Tranh. Thơ anh được cấu tạo bằng những thi ngữ, ngôn từ qui ước
bình dị, chân phương. Nhưng bằng những cảm xúc nồng ấm, cùng lối kết từ
điêu luyện, nên Ô Cửa dễ dàng lôi cuốn người đọc vào những tình tự tan
hợp, những biến động tràn ngập máu lửa, khói súng trong thời loạn lạc đã
qua, mà anh là một nhân chứng sống. Chất liệu nòng cốt trong thơ anh là
tình nghĩa, dành cho đồng đội, tình yêu thương, trìu mến dành cho người
tình, cho những người dân lành ở khắp các làng mạc, thị trấn lẻ, mà gót
chân anh đã từng in dấu.
Thơ
chiến tranh là một thi loại đặc thù, khó gây được sự rung cảm sâu xa
trong tâm hồn người đọc. Nhưng nhờ sự biết phối hợp, hài hòa các thi
ảnh, thi ngữ vào tác phẩm đúng mức nên thơ của anh trở nên dịu vợi hơn
và dễ thẩm thấu vào nội tâm người thưởng ngoạn. Ô Cửa xứng đáng là một
tập thơ có giá trị cao, hiếm hoi trong nền văn học hiện đại.
¤ Vài nét về Trần Hoài Thư.
THT là một người có lòng với nền văn học miền Nam.
Từ khi định cự tại một tiểu thuộc miền Đông Hoa kỳ đến nay anh đã lặn
lội đi các thư viện lớn để suy tầm tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ cũ
để in ấn lại và lưu truyền ở hải ngoại bằng phương tiện thô sơ khiêm tốn
qua Thư Ấn Quán của mình.
Ngoài
ra anh và một số thân hữu còn chủ trương tập san Thư Quán Bản Thảo cứ
ba rồi bây giờ là 2 tháng một lần - từ nhiều năm nay, để đăng tải các
tác phẩm của bằng hữu. Đặc biệt là của những cây bút còn ở tại miền Nam
VN. Tập san này không bán mà chỉ biếu tặng theo yêu cầu của những người
mến mộ các văn thi sĩ cũ trước tháng 4 năm 1975.
Trần
Hoài Thư tên thật Trần Quý Sách, sinh ngày 6.12.1942 tại Ðà Lạt. Anh
khởi viết năm 1960 và nguyên là cựu sĩ quan VNCH ngành Thám báo. Tốt
nghiệp cao học toán tại Hoa kỳ. Cựu chuyên viên điện toán của công ty
điện thoại AT&T. Hiện hồi hưu và an cư tại tiểu bang New Jersey.
Một số tác phẩm tiêu biểu đã xuất bản:
Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang ( Ý Thức)
Những Vì Sao Vĩnh Biệt (Ý Thức)
Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi (Ý Thức)
Một Nỏi Nào Ðể Nhớ (Con Ðuông)
Ra Biển Gọi Thầm (1995)
Ban Mê Thuộc Ngày Ðầu Ngày Cuối (1997)
Về Hướng Mặt Trời Lặn (1998)
Thơ Trần Hoài Thư (1998)
Mặc Niệm Chiến Tranh - Ô Cửa (2006)…
PHAN BÁ THỤY DƯƠNG - 5/2010.
• trích thơ của các tác giả:
Anh Thuần,
Diên Nghị, Hà Thúc Sinh, Linh Phương, Hoàng Lộc, Huy Lực, Luân Hoán,
Nguyên Hoàng Bảo Việt, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, PBTD, Phan Ni
Tấn, Phan Xuân Sinh, Tô Thùy Yên, Trần Tuấn Kiệt, Trần Văn Sơn, Vũ Uyên
Giang.
• tạm dịch từ nguyên bản:
[1] Herbert Hoover: The old men declare war. But it is the youth who must fight and die.
[2] Ernest
Hemingway: They wrote in the old days that is sweet and fitting to die
for one’s country. But in the modern war, there is nothing sweet nor
fitting in your dying. You will die like a dog for no good reason.
[3] Winston Churchill: Attitude is a little thing that makes a big differences. It costs nothing to be polite.
[4] Marko
Whiteley: Right onto the ambush the fighting is fierce. The wildness is
gone the glint in the eyes. For now it is you not just them to die.
Through the blackness of the deeping night. The wounded scream the rest
to fight. The mind starts to scream a terrible warning.
[5] Guy
L. Jones: As the sun sets in the darken sky. I hear the voices of those
who march off to the distant and calling one to another. I hear them
say do not weep for us for our pain is over with now and we go to our
God in peace. As the sun passes over the horizon, the image of these
marching men pass from the light of my eyes but not the words they said,
which I hold onto and the memory of each and very one of them. I
whisper back to them I’ll pass on your words to all who hear them from
me. This I promise to all of you as long as I live. Farewell my friends, farewell.
[6] Blaise Pascal: L’homme est un roseau, le plus faible de la nature, mais un roseau pensant.
[7] Winona Ryder: il n’y a pas de sot métier, il n’y a que de sottes gens.
[8] James
M. Hopkins: The combat soldier, do not forget who (for perhaps years)
will toss sweat, waiting for sleep, that won’t come. No one escapes.
What his eyes have seen, and the things he has been, are buried in
dreams, mute and dumb.
ĐẶNG TRẦN HUÂN * DANH TỪ VN
Câu Chuyện Từ Ðiển Việt Nam
Ðặng Trần Huân |
|
|
|
Bất
cứ nước nào đã tự hào là có một nền văn hóa là phải có một cuốn tự điển
để chuẩn xác cho ngôn ngữ của quốc gia mình hầu tránh sự dùng chữ bừa
bãi, lố lăng hay lai căng, vay mượn. Chữ quốc ngữ sau khi thành hình
không lâu đã có ngay một cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên của Paulus
Huỳnh Tịnh Của, cuốn Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị xuất bản cuối thế kỷ 19. Dựa theo cuốn tự điển đầu tiên này nhiều tự điển và từ điển Việt Nam khác được các tác giả sau này biên soạn. Trước 1975, hai cuốn thông dụng trong Nam là Việt Nam Từ Ðiển của Hội Khai Trí Tiến Ðức và Việt Nam Từ Ðiển của Lê Văn Ðức. Phía nhà cầm quyền cộng sản sau 1946 không biên soạn tự điển tiếng Việt nào. Cho tới khi cộng sản chiếm hoàn toàn miền Nam Việt Nam năm 1975 cuốn từ điển thông dụng của họ chỉ có Từ Ðiển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên. Bộ Bách Khoa Tự Ðiển Việt Nam mà Hà Nội quảng cáo từ lâu cho tới nay hình như vẫn còn trong dạng dự thảo mấy vần đầu A, B, C mà thôi. Có nhiều tác giả thường khen Hà Nội có những công trình khảo cứu văn học công phu hơn Việt Nam Cộng Hòa vì nhà cầm quyền cộng sản chịu bỏ ra những ngân quỹ lớn cho việc biên khảo và huy động nhiều nhân lực. Ðiều này có thể đúng với một số tác phẩm nhưng không đúng với tất cả vì các nhà biên khảo Hà Nội vô tình hay cố ý còn nặng về tuyên truyền, và phải hướng mọi nghiên cứu của họ theo đường lối chỉ thị của đảng cộng sản nên trở thành thiếu vô tư. Ví dụ đơn giản là cuốn biên khảo Người Anh Hùng Làng Dóng của Cao Huy Ðỉnh nói về huyền thoại thánh Gióng (Phù Ðổng Thiên Vương) cả hàng nghìn năm trước mà cũng xen kẽ vào những đoạn tuyên truyền chống Mỹ cứu nước khiến ta có cảm tưởng như ăn cà rem mà lại thêm gia vị... mắm tôm. * Trong cuốn Từ Và Vốn Từ Tiếng Việt do nhà xuất bản Ðại Học Và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội phát hành năm 1986, tác giả Nguyễn Văn Tu viết rằng từ trước tới nay Việt Nam chỉ mới có sáu cuốn từ điển tiếng Việt mà ông gọi là từ điển một ngôn ngữ. Tác giả liệt kê những từ điển có trước 1945 như cuốn từ điển của Huỳnh Tịnh Của, Việt Nam Tự Ðiển của Hội Khai Trí Tiến Ðức tới Từ Ðiển Học Sinh của nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội và kể thêm một cuốn thời Việt Nam Cộng Hòa của Ðào Văn Tập xuất bản tại Sài Gòn. Sau đó, cũng tác giả Nguyễn Văn Tu cho nhà xuất bản Ðại Học Và Trung Học Chuyên Nghịệp, Hà Nội in cuốn Các Nhóm Từ Ðồng Nghĩa Trong Tiếng Việt, khi liệt kê các từ điển Việt Nam có ghi thêm Từ Ðiển Tiếng Việt Phổ Thông của Viện Ngôn Ngữ Học nhưng cả hai cuốn sách của ông Tu đã dẫn đều không hề nói tới cuốn từ điển của Lê Văn Ðức. Việt Nam Từ Ðiển của Lê Văn Ðức được biên soạn trong mười năm với sự hiệu đính của nhà ngôn ngữ học Lê Ngọc Trụ, in trong ba năm và tới năm 1970, nhà xuất bản Khai Trí mới cho ra mắt tại Sài Gòn. Bộ từ điển gồm hai cuốn khổ lớn, chữ nhỏ dày tổng cộng 2515 trang có đầy đủ phần định nghĩa thông thường và các phần nhân danh, địa danh, tục ngữ, thành ngữ, điển tích... Chẳng lẽ Nguyễn Văn Tu là một giáo sư nhiều năm, đã từng viết sách về ngôn ngữ mà không biết tới bộ từ điển đồ sộ Lê Văn Ðức. Thực ra thì ông Tu biết nhưng hoặc là theo chỉ thị hoặc là tự ý ông muốn dìm những tác phẩm của miền Nam chăng vì cho rằng cái gì xuất hiện ở miền Nam đều vô giá trị. Ðiều nhận xét này không võ đoán mà chỉ là nhận xét về đường lối của Việt cộng xưa nay vẫn cố tình lờ đi những công trình của miền Nam. Ví dụ về truyền hình, Việt cộng phổ biến và giảng dạy rằng truyền hình Việt Nam chỉ có từ năm 1970 là năm Hà Nội bắt đầu có đài, một tuần phát hình hai ba lần, mỗi lần vài chục phút. Trong khi tại Việt Nam Cộng Hòa đã có truyền hình từ năm 1966 khi đài phát đặt trên một phi cơ lượn trên không phận Sài Gòn trong thời gian chờ đài dưới đất đang xây cất dở đang. Nói tới lịch sử điện ảnh thì cộng sản chỉ kể từ những phim đèn chiếu (phim tranh vẽ chỉ có hình, không cử động) sau 1946 khi họ chạy vào rừng, rồi tới phim phóng sự vài chục phút Nước Về Bắc Hưng Hải mà không nói gì tới những phim Việt Nam vùng quốc gia như Cánh Ðồng Ma, Trận Phong Ba hay Kiếp Hoa. Sách viết về lịch sử mỹ thuật hay âm nhạc chẳng hạn, họ sẵn sàng bôi tên những họa sĩ, những nhạc sĩ có tên tuổi từ trước 1945 nếu những nghệ sĩ tài danh đó đã ở lại hoặc trở về vùng quốc gia không theo họ, cùng ở với họ trên rừng già Việt Bắc. * Trở lại chuyện tự điển, sau hiệp định Geneva 1954, cộng sản chính thức trở về tiếp thu Hà Nội cũng chưa có thì giờ lo chuyện này. Tới sau ngày 30.4.75 chiếm được Sài Gòn cán bộ văn hóa Hà Nội vào Sài Gòn còn ào ào vơ vét các loại từ điển song ngữ Anh - Việt, Pháp - Việt, Hán - Việt mà Hà Nội không có. Về tiếng Việt mãi tới năm 1963, Hà Nội mới soạn xong cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên, rồi tới năm 1967 mới phát hành. Cuốn Từ Ðiển Tiếng Việt này do Văn Tân chủ biên với thành phần biên soạn gồm 13 người trong đó có những nhà trí thức, học giả quen tên từ lâu như Nguyễn Tấn Gi Trọng, Ngụy Như Kontum, Trần Văn Giáp, Hoa Bằng... Dưới chế độ Cộng sản, ngôn ngữ Việt tại miền Bắc đã có nhiều tiếng mới rất xa lạ với tiếng Việt bình thường. Lấy ví dụ ngay trong cuốn Từ Ðiển Tiếng Việt của Văn Tân ta đã bắt gập những chữ lạ tai có nghĩa khác hẳn nghĩa thông thường mà người Việt đã dùng trước khi cộng sản Việt ra công khai năm 1945. Xin đan cử vài ví dụ : - lô gích: hợp với luận lý. - quá độ: thời gian chuyển tiếp giữa hai thời kỳ. - hồ hởi: cởi mở, vui vẻ, phấn khởi. - đường kính: thứ đường ăn đã tinh chế thành tinh thể màu trắng. - lái xe: người điều khiển tay lái cho xe ô tô chạy (dùng động từ làm danh từ). - sự cố :nguyên nhân sinh ra việc biến. - công nghiệp: phương thức dùng máy móc biến hóa nguyên liệu thành vật dụng hoặc thành công cụ. Trong Từ Ðiển Tiếng Việt (Văn Tân) nhiều tiếng Việt gốc Hán đã Việt hóa cho ngôn ngữ thêm phong phú thì các tác giả tự điển lại cho là lộn xộn và chủ trương loại bỏ nhiều từ thông dụng. Về điểm này các tác giả viết trong Lời Nói Ðầu: "Cái hiện tượng thiếu ngăn nắp trong tiếng Việt kể ra thì còn nhiều." Cũng trong bài này, khi giải thích cách xếp đặt từ theo thứ tự nào, họ viết: "Về trật tự ABC chúng tôi theo đúng trật tự của vần chữ quốc ngữ Việt." Ngôn ngữ của một dân tộc có phải là một cái tủ áo đâu mà gọi là một ngôn ngữ thiếu ngăn nắp. Và khi sắp xếp chữ theo vần A, B, C sao không gọi là theo thứ tự mà lại dùng hai chữ trật tự như khi xếp ngôi vị các đảng viên trong Bộ Chính trị, hay hô hào trật tự trong một đám biểu tình tiền chế để hoan hô lãnh tụ. Họ hô hào làm cho tiếng Việt trong sáng nhưng chính những người làm tự điển lại làm mù mờ và nghèo nàn thêm tiếng Việt. * Cho tới trước năm 1967, ở trong Nam và có thể cả ngoài Bắc khi cần kê cứu tiếng Việt vẫn phải dùng tạm cuốn Việt Nam Tự Ðiển do Hội Khai Trí Tiến Ðức (Ban Văn Học) Hà Nội biên soạn và nhà in Trung Bắc Tân Văn in năm 1931. Cuốn này dày khoảng 700 trang, được tái bản nhiều lần và được dùng rộng rãi vì cuốn từ điển Huỳnh Tịnh Của thì quá cổ cả về định nghĩa và cách viết nên chỉ còn dùng để nghiên cứu mà thôi. Việt Nam Tự Ðiển của Hội Khai Trí Tiến Ðức còn thiếu sót nhiều (Ví dụ chữ sen chỉ có định nghĩa là một loài cây dưới nước mà thiếu định nghĩa thông thường nữa là cô giúp việc trong gia đình) nên miền Bắc năm 1967 có Từ Ðiển Tiếng Việt (Văn Tân) và miền Nam năm 1970 có Việt Nam Từ Ðiển của Lê Văn Ðức thay thế. Viện Ngôn Ngữ Học của Hà Nội xúc tiến việc soạn thảo một cuốn tự điển Việt Nam mới, và tới năm 1988 nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội in xong tại thành phố Hồ chí Minh với tên là Từ Ðiển Tiếng Việt. Sách dày 1206 trang do Hoàng Phê chủ biên. Theo lời giới thiệu ở đầu sách, Từ Ðiển Tiếng Việt là một cuốn từ điển đầu tiên của Việt Nam do một tập thể cán bộ ngôn ngữ biên soạn. Tập thể này gồm 17 người so với cuốn Từ Ðiển Tiếng Việt (Văn Tân) thì tập thể của Từ Ðiển Tiếng Việt (Hoàng Phê) đông hơn tới bốn người nhưng không có những học giả quen tên lâu đời như trường hợp từ điển Văn Tân mà toàn là những tên lạ. Trong lá thư đề ngày 7.3.1987 in trên đầu sách, thủ tướng Phạm Văn Ðồng khen ngợi bộ biên tập, tán dương cuốn sách này là chuẩn hóa tiếng Việt và giữ gìn sự trong sáng cho tiếng Việt. Cho tới nay từ điển Hoàng Phê đã được tái bản nhiều lần và cuốn mới nhất chúng tôi được thấy là ấn bản 1996. Khi biên sọan Từ Ðiển Tiếng Việt (Hoàng Phê), các tác giả đã tham chiếu các từ điển trong Nam, ngoài Bắc nên có một số ưu điểm và mới mẻ hơn nếu so với Từ Ðiển Tiếng Việt (Văn Tân) hoặc Việt Nam Từ Ðiển (Lê Văn Ðức). So với cuốn Văn Tân, từ điển Hoàng Phê có nhiều từ hơn. Chẳng hạn hai từ thanh nhạc và lâm sàng là hai từ mà báo chí cộng sản thường dùng, từ điển Hoàng Phê có giải nghĩa nhưng từ điển Văn Tân không có và từ điển Lê Văn Ðức cố nhiên không có vì hình như trong Nam không ai dùng hai từ này. Về thành ngữ có từ đầu" đứng trước Văn Tân có 14 thành ngữ như đầu cua tainhe nheo, đầu trâu mặt ngựa... nhưng thiếu đầu Ngô mình Sở. Hoàng Phê có đầy đủ hơn nhưng nếu so với Lê Văn Ðức thì không thấm vào đâu vì trong Việt Nam Từ Ðiển (lê Văn Ðức) có tới 44 thành ngữ với từ "đầu" đứng trước. Về cách định nghĩa, tự điển Hoàng Phê biên soạn gọn gàng và chính xác. Tuy nhiên cũng còn nhiều trường hợp cần bàn bạc. Chẳng hạn từ trước tới nay khi định nghĩa chữ "cây" các tác giả thường thường theo cách định nghĩa chữ tree hay arbre trong tiếng Anh và tiếng Pháp. Và ghi cây là thực vật có lá, thân mộc, thẳng. Ðịnh nghĩa như thế thì hồng, cúc, bầu, bí không được gọi là cây nữa vì chúng làm gì có thân mộc và không thẳng. Trong từ điển Hoàng Phê và Văn Tân cây được định nghĩa là thực vật có thân lá rõ rệt. Vậy nếu tra chữ "tơ hồng" trong từ điển Hoàng Phê thì giống thực vật không có lá rõ rệt này vẫn được gọi là cây. Theo Lê Văn Ðức thì cây là tất cả loài thực vật biết ăn phân, chịu sương nắng, sống, lớn và sinh sản. Ðịnh nghĩa như thế thì lại quá dài dòng. Từ "ly" trong Nam thay từ "cốc" ngoài Bắc, từ điển Văn Tân định nghĩa ly là cốc pha lê nhỏ. Từ điển Hoàng Phê định nghĩa là cốc nhỏ để uống rượu. Thực ra cốc và ly chỉ là hai tiếng của hai miền Nam và Bắc chỉ chung một đồ dùng, chứ cốc và ly không hề khác nhau như mèo và hổ. Trong trường hợp này ở từ ly có thể ghi "xem từ: cốc" và khi ở từ cốc sẽ mô tả rõ ràng và chính xác hơn, tránh rườm rà làm sai nghĩa. Văn Tân giảng là cốc pha lê nhỏ, Hoàng Phê thêm cốc dùng để uống rượu. Vậy thì những cái cốc làm bằng nhôm, bằng chất dẻo, bằng thủy tinh và mang ra uống nước cam, nước trà mà không uống rượu thì không được gọi là "ly" hay sao? Về chính tả, từ điển Hoàng Phê viết li với chữ i ngắn và có giải thích là sở dĩ họ dùng i ngắn là tuân hành quyết định ngày 5.4.1984 của Bộ Giáo Dục. Cái kiểu ra sắc lệnh bắt phải viết thế này thế nọ là một lề thói quen dùng của các chế độ cộng sản. Tuy nhiên có lẽ thấy cách dùng i ngắn nó ngô nghê quá và quyết định của Bộ Giáo Dục cũng phi lý nên nhiều tác giả chẳng nghe theo. Trong cuốn Từ Ðiển Chính Tả Thông Dụng của Nguyễn Kim Thản do nhà xuất bản Ðại Học Và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội in năm 1985 (sau quyết định của Bộ Giáo Dục) tác giả vẫn viết và khuyên nên viết ly , cụng ly với chữ y dài như dân ta vẫn dùng từ xưa tới nay, và cũng là mặc nhiên không coi quyết định của Bộ ra sao cả. Một điểm nữa là từ điển Hoàng Phê còn rất nhiều từ nguyên văn Anh , Pháp. Từ volt trong từ điển Hoàng Phê được giữ nguyên tiếng Anh với định nghĩa đơn vị đo hiệu thế, điện thế. Ta cũng thấy nhan nhản những từ nguyên văn ngoại quốc khác rồi giảng nghĩa bằng tiếng Việt như logarithm, clinker, logic v.v... xếp thẳng hàng với những chữ Việt trong một cuốn từ điển mang danh là Từ Ðiển Tiếng Việt. Chúng tôi nghĩ việc định nghĩa những tiếng Anh, Pháp như trên là công việc của từ điển song ngữ Anh - Việt chứ không phải là công việc của nhóm Hoàng Phê. Trừ những tiếng Anh, Pháp đã Việt hóa và viết theo lối Việt như ô tô, sà bông, xe tăng chẳng hạn, chúng tôi thấy cách làm của từ điển Văn Tân khi ghi theo lối Việt như ga men, lô ga rít, vôn, vôn kế, lô gích, ác mô ni ca... rồi giảng nghĩa những từ này bằng tiếng Việt hợp lý hơn. Còn nếu làm như Hoàng Phê là ghi cả clinker, logic... sao chẳng ghi luôn school, book, maison, amour... cho từ điển Việt Nam phong phú, nhiều từ nhất thế giới. Một điểm khác cần bàn cãi là địa vị tiếng Việt miền Nam mà Hoàng Phê có ý muốn loại bỏ. Trong Từ Ðiển Tiếng Việt (Hoàng Phê) có rất ít từ miền Nam. Khi giảng giải những từ vô (vào), mền (chăn), mùng (màn)... các nhà soạn từ điển thuộc Viện Ngôn Ngữ Học đã ghi chú là phương ngữ tức là thổ ngữ địa phương. Thiết nghĩ một từ nếu chỉ thông dụng ở một địa bàn thật nhỏ hẹp như cấp tỉnh chẳng hạn thì gọi là thổ ngữ được, nhưng trường hợp những chữ như vô, mùng, mền được đồng bào trên cả một lãnh thổ bát ngát từ Quảng Trị tới Cà Mau đều nói và hiểu mà chỉ coi là thổ ngữ thì người ta có thể ngờ rằng tập thể soạn giả từ điển Hoàng Phê có tinh thần tự tôn, địa phương hay kỳ thị. (Trong từ điển Văn Tân có các từ màn, mùng, mền... mà không hề ghi là phương ngữ.) Ngoài Bắc ai ai cũng hiểu những từ vừng, lạc, bít tất, hoa đại Xiêm... mà d?ng bào trong Nam ch? hi?u du?c khi g?i là mè, d?u ph?ng, v?, bơng s? Thái Lan. Tuy v?y trong Việt Nam Từ Ðiển của một người, Lê Văn Ðức, vẫn có những chữ vừng, lạc, tất... ghi như là tiếng nói chung của quốc gia. Nếu ông Lê Văn Ðức, người Nam, mà lại ghi vừng, lạc, tất... là thổ ngữ thì độc giả miền Bắc sẽ nghĩ sao? Có thể vì quan niệm phương ngữ của nhóm Hoàng Phê quá khắt khe nên rất nhiều từ thông dụng trong Nam bị coi như không có trong ngôn ngữ Việt. Có thể dẫn chứng là trong Từ Ðiển Tiếng Việt ấn bản đầu tiên từ la ve mà đồng bào trong Nam thường đọc là la de, dùng thay cho từ bia của miền Bắc đã bị loại bỏ không được nhắc nhở. Sau khi từ điển phát hành, trên báo Văn Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh số 528 - 15.4.1988 đã có người nêu lên sự bất công này nên ở ấn bản 1994, 1996 của từ điển Hoàng Phê mà chúng tôi được thấy đã bổ túc sự thiếu sót đó. Tuy nhiên từ la ve và tất cả từ miền Nam thông dụng khác nếu có trong các ấn bản mới của từ điển Hoàng Phê vẫn được các soạn giả giữ vững lập trường coi là chúng là những thổ ngữ chẳng đáng lưu tâm. Vì người ngoài Bắc không lưu tâm tới hai thổ ngữ la ve nên khá nhiều nhà văn có tiếng miền Bắc đã phạm lỗi chính tả sơ đẳng khi viết là la de hai từ quá thông dụng này của miền Nam. Vũ Thị Thường trong Câu Chuyện Bắt Ðầu Từ Những Ðứa Trẻ do nhà xuất bản Tác Phẩm Mới , Hà Nôi in năm 1977 , Dương Thu Hương trong Những Bông Bần Ly cũng do Tác Phẩm Mới xuất bản năm 1981 và bao nhiêu nhà văn miền Bắc khác cho tới bây giờ vẫn viết la de với chữ D như những văn hào lói ngọng. Nếu từ la ve và những từ miền Nam khác được ghi trong từ điển, trong các sách văn phạm chắc nhiều tác phẩm hay đã tránh được những viên sạn, cắn phải ê răng. * Soạn một cuốn từ điển cho có giá trị không phải là chuyện dễ mà đòi hỏi công sức của nhiều người, thời gian của nhiều năm. Nhưng vẫn phải làm vì tương lai của một ngôn ngữ luôn luôn phải chuẩn hóa, phải gìn giữ cho trong sáng, chọn lọc thêm từ ngữ cho chính xác và phong phú. Người Pháp, người Mỹ hãnh diện với những Petit Larousse, Petit Littré hay Webster, American Heritage không cồng kềnh như các bộ từ điển bách khoa, chỉ khoảng hai ngàn trang mà đầy đủ và chính xác, lẽ nào Việt Nam không có một cuốn từ điển cho đầy đủ dùng được cho toàn quốc, cả hai miền Nam, Bắc. Việc đó chúng tôi nghĩ Hà Nội có thể làm được nếu các soạn giả chịu lắng nghe những ý kiến xây dựng và gạt bỏ sự tự tôn, gạt bỏ tư tưởng địa phương hay kỳ thị. 6.1998 |
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 027
Tuesday, August 28, 2012
SƠN TRUNG * CHÙM KHẾ NGỌT
CHÙM
KHẾ NGỌT
Trương Thế Phát là một thương gia trẻ ở kinh đô Thăng Long. Ông
có tàu bè chở hàng đi buôn bán ờ trong và ngoài nước. Khi quân Pháp tiến đánh
thành Hà Nội, và chiếm Bắc Ninh, Thái
Nguyên, ông lên tàu đem gia đình ra ngoại quốc. Sau bao ngày lênh đênh trên biển cả, gia đình ông đến Xiêm La, rồi định
cư tại đây. Nhờ có tàu bè, ông mang theo
một mớ gia sản nên khi qua Xiêm ông đã có sẵn một gia tài. Với tài kinh doanh, ông
đã gây dựng một sự nghiệp khá lớn, gồm các cửa tiệm kim hoàn, cửa tiệm vải vóc
lụa là, và trà thất Mây Tần.
Là một nhà kinh doanh, công việc bận
rộn, nhưng òng luôn thương nhớ quê hương
. Ông nhớ Hà Nội ba mươi sáu phố phường, với năm cửa Ô xưa. Ôi! Những cô gái
hàng Đào, hàng Bạc . .. má đỏ, môi hồng, quần điều, áo lụa trắng, đeo xà tích bạc.
Ông nhớ cốm Vòng, nhớ phở , nhớ xôi và bánh cuốn Hà Nội. Ông nhớ Hồ Gươm, hồ Tây, chùa
Trấn Quốc, chùa Một Cột. . .
Xiêm La có nhiều chùa lớn và nhiều lễ hội nhưng không đâu bằng hội chùa Hương..
. Ông nhớ những bài hát ru, những điệu
quan họ. Xiêm La có nhiều trái cây nhưng không bằng nhãn, vải, cam, quít.
. . Hà Nội. Ở Xiêm La ông có nhiều bạn mới, nhưng lòng ông vẫn nhớ nhung các bạn
Hà Nội và những kỷ niệm thời ấu thơ. Nhất là buổi đầu, ngôn ngữ bất đồng, phong
tục khác biệt làm cho ông chao đảo như con thuyền không lái.
Lúc bấy giờ nhiều người
trong nước cũng bỏ nước ra đi. Họ ra đi mang theo một bầu nhiệt huyết , một lý
tưởng cao siêu là khôi phục đất nước, giải phóng dân tộc. Có nhiều nhóm hoạt động.
Họ từ trong nước ra. Họ cũng từ Trung Quốc, Nhật Bản sang Xiêm hoạt động. Họ ở
lại Xiêm mà cũng có người đi qua , đi lại. Tuy là nhiều tổ chức khác nhau, tựu
trong có hai nhóm. Một nhóm thuộc phe quốc gia, một phái thuộc phe quốc tế .
Trà thất Mây Tần do con
trai của ông là Trương Thế Đạt trông coi, còn các tiệm khác thì do phu nhân, con
trai thứ và các con gái ông quản lý. It lâu sau, Trương Thế Phát mất, cơ nghiệp
truyền lại cho phu nhân và các con. Trương Thế Đạt tiếp tục kinh doanh trà thất
Mây Tần .
Trà thất Mây Tần ở thủ đô Bangkok là một nơi trai
thanh gái lịch lui tới tấp nập. Không những người Xiêm La mà người Cao Miên, Lào,
Trung Quốc, Ấn Độ đều thường xuyên tới uống
trà, và thưởng thức ca vũ nhạc. Một hôm,
có mấy người khách Á Đông tới trà thất Mây Tần uống trà, uống rưọu , Trương Thế Đạt nhận ra có
một số khách là người Việt Nam. Ông bèn
tới chào hỏi, mới biết họ quả là người Việt Nam. Nghe giọng nói của họ, ông nhận
ra họ là người Bắc, người Trung, và người
Nam.
Ông hỏi thăm họ thì họ cho biết họ qua đây lập nghiệp. Trương Thế Đạt rất vui mừng
khi gặp lại đồng bào Việt Nam.
Tâm trạng hai bên thật vui vẻ như câu thơ
“ Thiên lý tha hương ngộ cố tri ”. Họ
hỏi ông tại sao đặt tên trà thất là Mây Tần.
Ông nói ông rất yêu quê hương, lòng luôn nhớ băm sáu phố phường Hà Nội. “Hồn
quê theo ngọn Mây Tần xa xa”
Dần dần, hai bên quen nhau, Trương Thế Đạt
mời họ về nhà chơi. Kể từ đó hai bên liên
lạc thân mật. Sau một thời gian, khách hiểu rõ gia đình Trương là một gia đình yêu nước, vì không cam tâm làm tôi tớ
bọn ngoại xâm mà bỏ nước ra đi. Vì quen thân, họ cũng cho biết họ thuộc đảng
cách mạng tiến bộ Việt Nam, được thế lực quốc tế như Liên Xô, Trung Quốc
yểm trợ, thế lực rất
mạnh, bám rễ trong và ngoài nước, có mục đích bài phong đả thực, xây dựng một
xã hội công bằng tự do, người không bóc lột người. Đảng có Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Hùynh Thúc Kháng tham gia, và có khoảng mười triệu đảng viên. Lực lượng
đảng trong nước đã vùng lên như Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa
Thám đã chiếm được nhiều tỉnh trong nước, giết vô số thực dân Pháp. Trương Thế Đạt nghe họ nói
vậy cũng tin tưởng, ủng hộ cho họ một số vàng để làm quỹ hoạt động cứu quốc. Trương
Thế Đạt mất, con trai là Trương Thế Vinh
nối nghiệp cha kinh doanh trong ngoài, và ông cũng giữ mối liên lạc với
tổ chức quốc tế, và cũng đóng góp vàng bạc cho họ. Trà thất Mây Tần và nhà của
Trương Thế Vinh trở thành nơi ẩn náu và hoạt động của đảng cách mệnh. Ông được
chi bộ đảng khen ngợi là “ nhân sĩ yêu nước”, và những Việt kiều ở Thái Lan theo cộng sản được
gọi là “ Việt kiều yêu nước”. Gia đình Trương Thế Vinh đã được chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hòa gửi giấy ban khen là gia đình yêu nước,
đã có công với cách mạng.
Sau 1945, đệ nhị thế chiến
chấm dứt, Việt Minh cướp chính quyền. Một số dân chúng vì nạn đói, vì sợ cộng sản
và thực dân Pháp nên đã bỏ nước sang Lào, Miên, Xiêm La, hoặc Pháp. Những người
Việt Nam
sinh sống tại Xiêm La ngày càng đông, và những người theo phe cộng sản càng mạnh.
Năm 1954, hiệp định Geneve chia đôi Việt Nam. Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
giao thương với Xiêm La tức Thái Lan, và đặt tòa đại sứ tại Bangkok. Những đảng viên cộng sản Việt Nam ra mặt công
khai hoạt động. Họ ra sức vận động Việt kiều tại Thái Lan về xây dựng đất nước.
Chính sách này cũng được phát triển nhiều nơi như Pháp, Lào, Miên. . .Họ bảo đất
nước ngày nay cần nhiều bàn tay đóng góp. Việt Nam nay đã tiến lên xã hội chủ nghĩa,
nông dân có ruộng cày, thoát khỏi cảnh làm nô lệ cho bọn phú nông địa chủ; xã hội
bây giờ không còn nạn người bóc lột người. Sinh viên học sinh được tự do học hành,
không phài đóng học phí mà còn được chính phủ nuôi ăn học, cấp sách vở cho đến
khi thành tài. Trong nước ai cũng có công ăn việc làm, không ai thất nghiệp. Họ
gửi tặng ông nhiều sách báo, có nhiều thơ ca, âm nhạc và tiểu thuyết ca ngợi sự
lãnh đạo tài ba của đảng và chính phủ. Trần Thế Vinh tuy sinh tại Thái Lan, nhưng
được nghe cha ông ca tụng về con người và đất nước Việt Nam, nay lại được
nghe thêm những lời tuyên truyền của cộng sản nên càng thêm yêu nước, và càng
nhớ quê hương. Ông luôn luôn mở đài Hà Nội, và và những bài thơ, bản nhạc đã gieo vào lòng ông tình yêu
quê hương, tổ quốc.
Quê
hương là chùm khế ngọt. ..
Cho
con trèo hái mỗi ngày
Quê
hương là đường đi học,
Con
về rợp bướm vàng bay
. . . .
. . .
.
Quê hương là cầu tre nhỏ,
Mẹ về nón lá nghiêng che.
Là hương hoa đồng cỏ nội,
Bay
trong giấc ngủ đêm hè. . .
Lúc bấy giờ công việc buôn
bán ngày càng khó khăn khiến Trương Thế
Vinh chán nản. Nay được cán bộ cộng sản kêu gọi và khuyến khích, vì vậy ông quyết
định trở về góp sức xây dựng quê hương. Ông nay được ban khen là gia đình có công
với cách mạng. Nếu về Việt Nam
chắc ông sẽ được đảng và nhà nước quý trọng. Con đường tương lai rộng mở trước
mắt ông.
Ta
về ta tắm ao ta!
Ông
muốn trở về tắm ao ta, về làm người hùng cứu nước, còn hơn là sống ở quê người,
dù là triệu phú cũng có mặc cảm là kẻ tha phương cầu thực, kẻ lưu đày, là công
dân bậc hai !
Ôi! Nước ta nay đã độc lập,
không còn bọn thực dân Pháp xâm chiếm quê hương. Vì thực dân Pháp mà nhân dân
ta khốn khổ điêu tàn . Vì thực dân Pháp mà tổ phụ ông phải bỏ quê hương mà đi. Nay là một
dịp để ông trở về quê hương, về 36 phố phường Hà Nội và năm cửa Ô xưa! Tình yêu
quê hương không còn là một mớ tình cảm bâng khuâng mà đã biến thảnh sự thực. Ông
lo bán nhà cửa, hàng hóa và các cơ sở kinh doanh thu được năm trăm lượng vàng và mười ngàn đô la Mỹ.
Sau khi đã thanh toán mọi thứ, ông đã đăng ký mua máy bay trở về Hà Nội thân yêu.
Nhưng toà đại sứ Việt Nam
tại Thái Lan đã lo mọi sự. Tất cả Việt kiều tại Thái Lan sẽ cùng nhau về Việt Nam bằng đường
hàng không sang Cambodge rồi từ đó sẽ đi xe ô tô hay máy bay về Việt Nam.
Sau khi đoàn Việt kiều Thái
Lan về đến Cambodge, họ được chuyển ngay lên xe ô tô Liên Xô là loại xe bốn bề
kín mít chở ngay về Quảng Bình Việt Nam. Khi về đến biên giới Việt Nam, cả đám được
cán bộ cộng sản đeo súng yêu cầu xuống xe để vào một trung tâm, bốn bề rào kín và có
lính gác. Họ bảo các Việt kiều tạm ở lại
đây một thời gian để học tập đường lối
chính sách của Đảng và Nhà Nước. Họ ra lệnh các Việt kiều tập họp lại, gia đình nào theo gia đình đó.Họ
bảo mọi người không được ra khỏi trung tâm nếu không được trung tâm cho phép. Họ
đưa mọi người vào hội trường. Viên thủ trưởng tỏ ra rất lịch sự. Ông nói:
Chào
các đồng bào và các đ ồng chí,
Hôm
nay tôi xin thay mặt mặt đảng và
chính phủ chào mừng những người con yêu
t ở về tổ quốc.
Ông
vừa dứt lời, mọi người vui vẻ hoan hô, tiếng vỗ tay nghe vang như tiếng pháo.
Tiếp theo, ông nói:
Thưa các
đồng chí và đồng bào,
Sau
chiến thắng Điện Biên Phủ, những người ngoại quốc đã ước mơ trong một đêm được trở thành người Việt Nam. Các đồng
bào và đồng chí nay đã thành người nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.Trước
tiên, yêu cầu mọi người giao nộp thẻ căn
cước, thẻ quốc tịch và khai sinh ngoại quốc để Nhà nước làm thủ tục hành chánh.
Ông nói xong thì lui bước, để cho một đại biểu
khác lên tiếng yêu cầu đồng bào làm bản tự khai hồ sơ, lý lịch, nhất là phải kê
khai vàng bạc, kim cương, hạt xoàn và đô la. Trong khi mọi người tập trung ở hội
trường, cán bộ cộng sản đã vào khám xét hành lý của Việt kiều. Những ai có chìa
khóa va ly hay khóa các hộp kín, họ đến bảo nhỏ giao nộp chìa khóa cho họ làm
thủ tục kiểm tra. Ngay hôm đó, họ bắt mọi
người giao nộp vàng, kim cương, nữ trang và đô la.
Ông cán bộ nói:
Đảng sẽ giữ tài sản cho họ vì sợ bọn biệt kích
Mỹ ngụy cướp của giết người.. Cứ yên tâm
đưa chính phủ giữ dùm, rồi chính phủ sẽ trả lại cho các gia đình sau
khi tình hình đã được ổn định.
Tiếp
theo, mọi người làm thủ
tục y tế. Mọi người phải vào phòng kín, cởi hết áo quần để y sĩ khám
xét. Không
thử máu, không nghe tim mạch, mà chỉ khám tổng quát. Thủ tục này thì
cũng nhanh thôi, ngoại trừ những ai còn cất giấu tài sản trong người là
bị
tịch thu và bị phê bình, kiểm thảo. Các gia đình Việt kiều được cán bộ
rút sổ
tay, xé giấy viết biên nhận bằng những tờ
giấy vàng úa xấu xí với những giòng chữ nghệch ngoạc, không rõ chữ viết
và con
số, và cũng không ghi ngày tháng, chữ ký và tên người nhận:
Đã
nhận 300 miếng kim loại bề ngoài màu vàng.
. . Đã nhận một ngàn tiền nước
ngoài. . . Đã nhận hai mươi viên đá nhỏ
óng ánh. . .
Đến
đây thì các Việt kiều đã biết mình đã lầm, đã mắc gian kế. Họ cũng như Thúy Kiều trong ngày đầu gặp Mã giám sinh đã kêu lên:
Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!.
Vài ngày sau, các Việt kiều được
phân phối về các thôn xóm ở miền Bắc. Gia đình Trương Thế Minh được phân phối về một làng ở Quảng Bình. Ông chất vấn cán bộ :
-Chúng tôi
xin về Hà Nội là quê hương của tôi và đã được tòa đại sứ
Việt Nam
ở Bangkok chấp
thuận. Nay sao các ông lại bắt tôi về Quảng Bình?
Tên
cán bộ trong ban Việt kiều yêu nước nói:
- Nay chúng
ta đang xây dựng Hà Nội thành một thủ đô to lớn và văn minh hơn mười lần xưa. Hà
Nội tương lai sẽ có những tòa cao 40-50 tầng, vĩ đại hơn Mỹ. Vi là xây cất chưa xong, nên chưa có nhà cho đồng bào ở. Vậy ông tạm ở lại Quảng
Bình một thời gian, rồi sẽ đưa gia đình về Hà N ội sau.
Biết rằng phản đối cũng vô ích cho
nên gia đình ông phải lên xe về Quảng Bình. Gia đình ông được đổ xuống quốc lộ
I, rồi được công an dẫn bộ tới một
làng nhỏ, cách quốc lộ vài cây số. Làng này cho ông một miếng đất ven sông để ở
và canh tác. Nơi ông ở là bãi sông vắng, cách xa xóm làng vài cây số. Ông là một kẻ ngụ cư.
Hơn nữa, ông là một kẻ nguy hiểm. Dân làng không ai dám giao thiệp cùng gia đình
ông vì họ coi gia đình ông như một những kẻ gián điệp từ ngoại quốc về để phá
hoại xã hội chủ nghĩa. Tiền của mất sạch, gia đình ông trở thành kẻ bần cùng nhất
nước, cô đơn nhất nước. Thư ông gửi đi không có hồi âm. Ông không nhận được lá
thư nào từ Thái Lan hay Hà Nội. Ở Thái
Lan, ông có tài sản, bạn bè, nhưng về đây, quê hương Việt Nam,Trương Thế Vinh và
gia đình bị lưu đày và cấm cố. Gia đình ông vì yêu nước mà trở về nay lại bị coi
là kẻ thù của dân tộc. Sống ở Thái Lan, ông tự coi là người xa lạ, nay về Việt Nam, ông lại trở
thành người xa lạ trên chính quê hương mình. Ông suy nghĩ xa gần mà lòng đau
như cắt. Ông trách ông ngu dại. Nước Thái Lan đã cho ông nương tựa, giúp ông làm
giàu, con cái ông học hành thành tựu, thế mà ông bỏ Thái Lan mà về Việt Nam, về
quê mẹ, nhưng quê mẹ đã giết gia đình ông, cướp đoạt tài sản và hy vọng của
ông! Kẻ sát nhân cướp bóc chính là những kẻ mà ông đã nuôi nấng, kẻ đã rao giảng
tự do, nhân đạo và bình đẳng! Ông đã bỏ mồi bắt bóng! Ông là người ngu xuẩn nghe
theo những lời phỉnh nịnh để rồi làm hại
mình và con cháu!
Vài năm sau, chiến tranh Việt
Mỹ bùng nổ, miền Bắc bắt thanh niên nam nữ “sinh
bắc tử nam”. Trương Thế Minh có một trai, một gái. Con trai ông phải vào bộ
đội rồi tử thương tại chiến trường
miền Nam.
Con gái ông phải đi thanh niên xung phong, lâm bệnh rồi chết trên Trường Sơn. Hai
vợ chồng cắng đắng nhau. Bà trách ông nhẹ dạ tin lời kẻ cướp. Bà không chịu nổi đời sống kham khổ và nỗi uất hận
về bị lường gạt nên mắc bệnh, không thuốc
men mà chết. Còn ông, trong cơn đau khổ, uống rượu say rồi chửi cộng sản. Kết
cuộc ông bị công an bắt bỏ tù rồi chết trong trại tù Thái Nguyên.
PHAN BÁ THỤY DƯƠNG * TRẦN VẤN LỆ
Phan Bá Thụy Dương
TRẦN VẤN LỆ
Kẻ Ly Khách Ôm Kỷ Niệm
Với Những Lời Thơ Mang Nặng Nỗi Hoài Tình.
Trong
nhiều ngày liên tiếp - người bạn thâm niên cùng trường, cùng lớp với
tôi 55 năm trước tại Trường Công Lập Phan Bội Châu, Phan Thiết khi chúng
tôi vừa bước vào ngưỡng cửa trung học đã chuyển về Trang Thơ Cuối Tuần
và Quán Bên Đường hơn 20 bài thơ mới với nhiều bút hiệu khác nhau mà anh
đã xử dụng: Trần Vấn Lệ [Trần Vấn Lệ], Trần Trung Tá, Lê Phụng An, Lê
Nhiên Hạo...
Trước khi Luật Báo Chí 72 ra đời,
lúc tôi còn viết feuilleton và phụ trách vài trang VHNT, anh Tường Linh
[TL] đã trao cho tôi đọc mấy bài thơ của Trần Vấn Lệ mà anh khen hay và
cho biết người này gốc “xứ nước mắm, biển mặn” như tôi. Tôi hỏi anh TL
có phải tác giả này là một bút hiệu khác của anh Thế Viên hay Kiều Thệ
Thủy chăng. Hoặc giả là của Tôn Thất Trâm [Thi Thi/Đài Nguyên Vu] vì
trong lớp bấy giờ trong khi tôi, Trần Thiện Thanh, Lê Văn Nghê, Lê Văn
Trung, Bùi Minh Ngọc, Lê Bá Hùng chơi đàn giây, thổi sáo, tiêu, hoặc hát
cho ban nhạc của vợ chồng “nhạc sĩ mù”, trình diễn cuối tuần trong khu
công viên chateau d’eau - giúp Ty Thanh Niên và gia đình Phật tử - thì
vào năm đệ ngũ Tôn Thất Trâm và anh tôi là Phan Bá Thuần Hậu [Anh
Thuần/Phóng Viên Kính Trắng] đã khởi sự “giở chứng” mần thơ “tán gái”.
Thơ của hai me xừ “mắc dịch” này thì luôn chứa chan khổ lụy, ướt đẫm
tình sầu. Còn Bùi Thanh Minh, Bùi Nhật Huy, Nguyễn Thanh Liêm, Huỳnh
Ngọc Hùng, Trần Thiện Trung, Phan Đổng Lý, Nguyễn Thượng Huyền, Huỳnh
Tấn Thời, Tôn Thất Quý … thì y như bầy thú dữ luôn tìm cách vào sân
banh nhà trường hay sân vận động Phan thành để phá phách, “đá cẳng” bạn
bè. Trần Vấn Lệ thì lúc nào cũng ngoan hiền và chỉ lặng lẽ theo dõi các
cuộc vui.
Anh Tường Linh thì không rõ, anh cho
biết anh chỉ nghe anh Tô Kiều Ngân [TKN] - người thay thế cố thi sĩ
Đinh Hùng chăm sóc chương trình thi ca Tao Đàn, nói như vậy khi giao bài
để anh chọn, phổ biến. Hỏi thêm các anh Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Thu Minh,
Trần Tuấn Kiệt, Kiên Giang Hà Huy Hà, Hoài Thương, những người phụ
trách việc tuyển chọn, giới thiệu thơ cho các báo lúc bấy giờ, thì họ
cũng chẳng biết gì hơn . Bởi lúc đó Trần Vấn Lệ đang ở Đà Lạt và tên anh
tương đối còn hơi mới mẻ đối với giới văn nghệ, làm báo tại Sàigòn.
Bạn học cũ bấy giờ lưu lạc khắp nơi. Kẻ vào quân ngũ, người về dạy lại trường xưa.
Hỏi
thăm vài bạn đồng môn đang làm việc tại Sài Gòn thì cũng chẳng ai biết
rằng anh học sinh chất phác, hiền hòa năm nào nay chẳng những đã làm thi
sĩ mà còn dám gởi một tập bản thảo mỏng - bất hợp lệ - về dự thi giải
sáng tác VHNT của tổng thống VNCH [Giải Văn Chương Toàn Quốc] để tranh
tài với các “kiện tướng” đã có nhiều tác phẩm ấn hành như Trần Tuấn
Kiệt, Trần Dạ Từ, Du Tử Lê…
Khi Luật Báo Chí ban hành năm 1972,
tôi ngưng viết hẳn, nên thắc mắc trên cũng lắng chìm. Mãi đến năm 2005
sau hơn 5 năm tự cho phép mình về hưu, trôi nổi đó đây, ngao du Âu Á,
tôi “ngứa nghề” bỏ tiền ra hợp tác, cứu sống một tạp chí đang “ngất ngư”
theo lời đề nghị, kêu gọi của một số thân hữu cũ ở VN và hải ngoại mà
Trần Vấn Lệ thường xuyên gởi bài. Nhờ nguyên do này cùng sự xác nhận của
Nguyễn Tân Dân, Bùi Thanh Minh tại San José và Bùi Nhật Huy ở Falls
Church - VA, tôi mới nhận ra người mà tôi tìm hỏi hơn 34 năm trước là
người bạn ít năng động ngày xưa của xóm vắng Xuân Phong. Tôi chỉ còn
biết tự trách trí nhớ kém cõi của mình. Vào lúc này tôi gặp chưởng môn
Hà Thượng Nhân thì tiên sinh cho biết ông là người duy nhất trong ban
giám khảo đề nghị hội đồng thông qua, hợp thức hóa để tác phẩm nhỏ bé
kia có thể được cứu xét, chấm điểm. Thiểu số phục tùng đa số, nên tập
bản thảo của bạn tôi đã bị loại. Thấy uổng tiên sinh đã trao những bài
thơ này lại cho anh em quen biết tùy nghi sử dụng.
Trần Vấn Lệ sang Mỹ theo diện H.O và
hiện cư ngụ tại Los Angeles. Mỗi cuối tuần đều chạy về quận Cam để hội
ngộ, nhàn đàm cùng bằng hữu. Tính tình Lệ vẫn trầm mặc, ít nói như thủa
nào.
Cho tới nay, Trần Vấn Lệ đã có hơn
30 thi phẩm ấn hành. Một số do anh xuất bản, một số do những người ái mộ
thực hiện mà anh còn nhớ được:
BAY
VỀ ĐÂU ĐÓ Ở QUÊ HƯƠNG ▪ HỒN TAN TRONG THƠ ▪ NẮNG RỚT VƯỜN XUÂN ▪ GỬI EM
MỘT ĐÓA HOA HỒNG ▪ TA NHỚ NGƯỜI XA CÁCH NÚI SÔNG ▪ TRĂM NĂM ĐỂ LẠI ▪
NẾU BƯỚC CHÂN NGÀ CÓ MỎI ▪ TỪ LÚC ĐƯA EM VỀ LÀ BIẾT XA NGHÌN TRÙNG ▪ MAY
MÀ CÓ EM ĐỜI CÒN DỄ THƯƠNG ▪ MẤY AI BIẾT MÌNH SỐNG ▪ MỘT THỜI TRONG
TRANG THƠ ▪ NÓI THẦM VỚI THƠ ▪ ÁO DÀI EM TRẮNG BAY TRONG GIÓ NÓN LÁ BÀI
THƠ CHUYỆN CỦA CHÀNG ▪ CON TRAO TRẢO BỜ AO BAY ĐI BUỒN LẲNG LẶNG ▪ HÌNH
NHƯ TỪ TRONG CHIÊM BAO ▪ CHIỀU BÊN SÔNG ĐỨNG TRÔNG LÀN KHÓI…
Tháng vừa rồi anh lại cho ra đời
thêm một ấn phẩm thi ca mới: Trưa Buồn Bát Ngát Con Sông do họa sĩ Dương
Ngọc Sum tại Westminster vẽ bìa.
Thơ Trần Vấn Lệ, vì thường viết liên
tục nên có nhiều bài mới nhìn qua, người không rành chia nhịp, ngắt
câu, có thể ngỡ anh làm thơ biền ngẫu, văn xuôi [poèm en prose]. Thí dụ
một số bài tiêu biểu tôi giới thiệu dưới đây: Tùy Bút: Ngũ Ngôn, Đói
Lòng Ăn Nửa Chén Cơm: Lục Bát, Mãi Mãi Sông Hương Nước Một Dòng: Thất
Ngôn, Cúi Lậy Trời Cao, Gieo Gió: Bát Ngôn... thỉnh thoảng phá thể - chứ
không phải hợp thể, một đôi câu thêm bớt chữ cho câu tròn ý hoặc để
nhấn mạnh, truyền đạt nguồn cảm xúc.
◙ Tùy Bút
Mấy
hôm nay thật buồn. Buổi mai chim không hót. Trời mùa đông rét ngọt. Và
mưa. Mưa bay. Bay... Mùa đông trong vòng tay, nhìn, mà thương, thương
quá. Không còn gì nói nữa, những gì muốn nói thêm, giống như sợi tóc mềm
nằm ngoan trên vầng trán. Người ta thấy chút nắng rơi hồn nhiên trong
thơ... Ðó là một cơn mơ, kể không dài đến nỗi đưa người ta lạc lối về
một chỗ xa xăm.
Lắng nghe mưa nói thầm chuyện ngàn
năm kim cổ. Tôi bỗng nghe nhơ nhớ hơi rượu nào rất xưa qua những bàn tay
đưa ấm nồng mùi khói đạn. Thời chiến chinh lãng mạn, nhớ lắm những nụ
cười, mi với tao đang ngồi biết đâu lát nằm xuống bên gốc tre, bờ ruộng,
thì cũng là... thời gian!
Ôi ba mươi ba năm! Tôi ngồi nhìn mưa
rụng. Âm vang từng tiếng súng, vòng tay ôm mùa đông. Mưa vương vương
mênh mông trên cành cây không lá. Buổi mai không gì nữa, cả tiếng chim
bình minh! Tôi thảng thốt thấy mình cô đơn bao giờ vậy? Cái rét hay lửa
cháy đốt hết bình minh xanh? Những tàu chuối mong manh cuộn tròn dòng
nước mắt. Ruột gan nào không thắt hỡi Quê Hương xa xôi?
Hãy vỗ lên vai tôi hỡi những người
khuất mặt! Tôi muốn mình đừng mất những tiếng chim ngày xưa, những buổi
sáng không mưa, khu rừng thưa nắng rọi...
◙ Đói Lòng Ăn Nửa Chén Cơm
Nhiều
khi muốn nói, lại ngừng Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, nghĩa gì? Vẫn là một
cái vòng xoay Vẫn là trời, đất, bên này, bên kia Nếu trời có một, không
chia! Nếu đất muôn dặm, đường về là đâu? Này em, tay hãy kê đầu Nhắm con
mắt lại, quên màu thời gian...
Thời gian, xanh, đỏ, tím, vàng...
Bao nhiêu màu cũng trong làn khói sương! Có người từng hỏi Quê Hương
Cũng con người đó đáp buồn...mây bay! Từng con chim hạc bỏ bầy Trời
xanh, mây trắng chan đầy thơ thơ... Đó là chuyện của ngày xưa Đó là
chuyện của bây giờ, giống nhau!
Nhiều khi chẳng nói câu nào Lạ thay
lau lách bên rào cứ vang Em ơi buồn chẳng muộn màng Cái vui chớp mắt đã
tàn lửa rơm! Đói lòng ăn nửa chén cơm Uống lưng bát nước rồi ôm bóng
mình Chiến Tranh, sau đó Hòa Bình. Tóc mai mấy sợi, ta hình dung em! Một
lần tôi ngước mặt lên Em ơi sông núi đang nguyền rũa ai?
◙ Mãi Mãi Sông Hương Nước Một Dòng
Vẫn
chảy kia em, chảy chẳng dừng. Sông Hương là Huế, nhớ là thương. Tại sao
anh chẳng là Vua nhỉ, khi nhớ khi thương núi Ngự nằm? Tại sao em lại là
mây nhỉ bay mãi trên đầu anh Nước Non? Anh nhắm mắt mơ mình ở Huế nghe
sông Hương khóc sóng leo bờ, nghe cau Vỹ Dạ rung rinh lá, nghe rất êm
tai những tiếng hò. Ôi Huế Huế thương và Huế nhớ ngàn năm ly biệt được
trời ơi! Máu anh có lúc rồi ngưng chảy, mừng nhé sông Hương nước một
dòng, em có thành tro hay cát bụi thì mưa tháng Chạp còn rưng rưng...
Em à em ạ em ơi Huế, ai khiến lòng
anh đắm đuối mình? Ai khiến gặp em tan buổi học, tóc thề vai áo, dáng
xinh xinh...Hồi nao tiếng súng vang vang dội nát hết tình ai những khối
tình, còn chỉ sông Hương là khối nhớ, còn nguyên núi Ngự nắng bình minh!
Còn anh từng bước đi lầm lũi đạp giẫm lên từng vũng máu khô. Tổ Quốc
mênh mông không một chỗ, sông Hương thương quá lại hai bờ! Em trên bờ
Bắc qua Nam học, Đại Nội nằm trong nón lá tình. Tình tứ tình tang tình
bất tận, tình bao la tới núi rừng xanh!
Hồi xưa hồi xửa hồi xa lắm, xa lắm
bây giờ em ở đâu? Anh biết chứ em, lòng đất lạnh, tro tàn nhang tắt, cõi
Thiên Thu. Hỡi ơi một dãi sông Hương đó chảy mãi chảy hoài trong mắt
anh! Muốn nói ghét em mà ghét được, tương tư không kể ngói trên đình!
◙ Cúi Lậy Trời Cao
Buổi
sáng. Buổi trưa. Buổi chiều. Buổi tối. Chưa buổi nào mình quên gọi
nhau! Em cuối chân mây, anh đầu ngọn ba đào, nghe chút gió cũng muốn
trào nước mắt! Bao nhiêu năm chỉ một lần xa cách mà thiên thu không lẽ
đã an bài? Hẹn. Hẹn hoài, không thấy một ngày mai, chỉ thấy sáng, thấy
trưa, thấy chiều, thấy tối...
Nhiều lúc
nghĩ: Chắc thời gian lạc lối, nên tháng ngày là lịch gió bay bay...Lá
mùa Xuân xanh biếc đậu trên cây. Lá mùa Thu vàng mơ rơi xuống đất. Mùa
Hạ ơi, nắng hồng chi chất ngất? Mùa Đông à, mưa bão tại vì sao? Trái đất
xoay, thời tiết đổi ào ào. Mình, hai đứa, cứ đầu non, cuối biển!
Có
nhiều lúc tôi làm thơ tê điếng, như lúc này, tôi mới gọi tên ai. Những
câu thơ, tôi viết nối thành bài rồi tôi đốt thả ra ngoài muôn dặm. Thơ
tôi đó...Không ai cầm, ai nắm. Chỉ em nhìn mây xám mỗi hoàng hôn. Tôi
nhớ em từng ngõ ngách tâm hồn. Em nhớ tôi từng lối mòn đất nước...
Những
con đường hai đứa từng chung bước, bây chừ răng? Có đau gót chân em?
Hãy xuống bến sông Hương và vả nước cho mềm, cho anh ướt những bài thơ
mai mốt...Nếu tới lúc không còn ai thưa thốt, cúi lây Trời xóa bỏ chữ
Tang Thương! Con rất thèm nhìn lại nắng Quê Hương, nhưng lúc đó hai mắt
mòn, con khép...
◙ Gieo Gió
Tôi
gieo gió sang nhà em buổi sáng, cả buổi trưa, buổi xế buổi chiều. Nếu
gió trời làm cây cối ngã xiêu mà em lạ, bình yên như diều cao vút! Tôi
gieo gió sang nhà em tối mực, gió nói gì em có nghe không? Em ở đâu,
trong một góc căn phòng, hay đang đứng ở hành lang đón gió?
Nếu
gió trời làm cho hoa, cho cỏ phải tiêu điều như buổi chợ vừa tan. Gió
của tôi sao chẳng động lòng nàng? Tôi chờ đợi một tờ thư, không thấy!
Tôi gieo gió sang nhà em Thứ Bảy. Chúa Nhật, em, vẫn đi lễ nhà thờ! Bão
mô hè? Tôi gặt những câu thơ thời con nít, tôi làm cho em, làm lại!
Em
đi nhà thờ, em làm người con gái, rất hiền ngoan, quỳ kia, ôm hai tay.
Tôi, con trai, nên phải đứng bên này, tôi ôm gió, thả ở đây, Chúa phạt!
Tôi gieo gió hay gieo buồn ngơ ngác? Yêu người ta chi vậy, gió lang
thang? Gió hình như...không đến cửa nhà nàng? Tôi nghe lạnh như trong
tâm bão!
Ôi gió ơi hãy bay giùm tà áo,
hãy bay giùm chút tóc mai kia, vắn, dài, thương ngàn nỗi phân chia mà
mãi mãi không lìa câu dấu ái Ai bảo em được sinh làm con gái để tôi thề
chê hết thảy giai nhân! Nếu em đừng tôi gặp một ngày Xuân, gió đâu đến
nỗi nào thê thiết vậy! Tôi gieo gió sang nhà cho em thấy, em nhìn gì
không thấy gió tôi bay?
TRẦN VẤN LỆ
Thơ
anh nhẹ, rất nhẹ nhàng như hơi thở liên tục, như những sợi nắng chiều
buông lơi trên kẻ lá, cành sen, phảng phất màu sắc hoài niệm u ẩn, hoài
tình. Đó là những tiếng lòng chân ái, và tha thiết, nồng nàng. Đó cũng
là những dấu ấn kỷ niệm, những lời kể lể, tự sự ngọt ngào hoặc đôi khi
bởn cợt thân thiết với người yêu dấu hay bằng hữu cùng những hệ lụy, vấn
nạn nhân sinh, thời thế... vương mang nỗi niềm hoài nhớ quê hương, tình
yêu cũ.
Thơ Trần Vấn Lệ cấu trúc chặt chẽ,
âm vận chuẩn mực, êm đềm đầy nhạc tính và biết khéo léo tận dụng để lồng
hay đặt “deep images” vào những chỗ đắc địa để làm nổi bật những hình
ảnh vấn vương trong tâm tư anh. Lời thơ có lúc thánh thoát, chập chờn,
réo rắc như tiếng hạ uy cầm, hay tiếng sáo chiều trên các cánh đồng mênh
mông... có lúc trôi nổi, trầm buồn, nhàn nhã như những phím dương cầm
được trình tấu bằng những ngón tay điêu luyện trong các thính đường ấm
cúng.
Dù được ký dưới bút hiệu nào, dù
được trình bày dưới thể loại nào tựu trung những vần thơ đó vẫn đồng
qui, mang một tính chất dịu ngọt, êm đềm, vẫn cùng một thi pháp vững
vàng cùng các thi ngữ, thi ảnh phổ quát bình dị, gần gũi. Không có sự
gọt dũa, sáng tạo trong ngôn ngữ thi ca nhưng dưới ngòi bút đầy tình của
Lệ những hình ảnh thông thường kia như được tiếp hơi trở nên sinh động,
đáng yêu và nên thơ. Và thơ của Trần Vấn Lệ mãi mãi là của riêng Trần
Vấn Lệ: Chuyên biệt, lôi cuốn, không bị ràng buộc hay chịu ảnh hưởng của
bất cứ người làm thơ nào dù họ đi trước hay đang cùng đi trên con đường
thi-ca-viễn-mộng như anh.
Trong những cuộc điện đàm, gặp gở
mới đây, con người trầm mặc, nhiều tư duy, dường như mang chút ít bất
mãn thời thế ấy thường nhắc nhở với tôi về thời thiếu niên, về bằng hữu
xưa, ngôi trường cũ... với giọng bùi ngùi, đầy xúc động, chân tình. Một
trong những điện thư anh tâm sự: “Tôi làm thơ...vì không có công việc
nào để làm dài hạn! Thơ trở thành hơi thở. Hết thơ...là chết.”
Trong số anh em
thân thiết của tôi – những người đã từng viết văn làm thơ trước 75 đến
nay nhiều người sau khi định cư an vui cuộc sống mới đã gác bút. Một số
ít thì chỉ sáng tác cầm chừng hay làm chủ nhật báo, tuần báo, tạp chí...
Riêng Lệ, Trần Vấn Lệ thì hầu như vẫn miệt mài làm thơ mỗi ngày. Quả
đúng như lời anh đã tâm sự với tôi. Trần Vấn Lệ vẫn yêu thơ vì thơ là
linh hồn, là nhịp sống là hơi thở của anh. Ngày nào máu vẫn luân lưu
trong tim, trong cơ thể, Trần Vấn Lệ vẫn còn hăng say sáng tác, và con
tằm sinh trưởng ở vùng ngoại ô Phan Thiết ấy vẫn còn tiếp tục nhả tơ cho
đời và có thể để giãi trừ giải tỏa phần nào niềm u hoài, khắc khoải
trong anh.
Phan Bá Thụy Dương – 5/2009
PHAN NHẬT NAM * EM TÔI
(Viết dựa theo cuộc đời và bài thơ "Bé" trong tập thơ "Đêm tận thất thanh " của Phan Nhật Nam)
Lặng Lẽ
Năm em lên ba, bố tôi bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ lên đường tập kết. Tôi hơn em sáu tuổi. Chín tuổi con nhà nghèo khôn lắm, tôi đủ khôn để thấy khuôn mặt mẹ buồn hiu hắt, những tiếng thở dài và những giọt nước mắt âm thầm của mẹ trong đêm. Chín tuổi, tôi đã biết mình là người nam độc nhất trong gia đình, đã biết ẩm bồng đút cơm cho em và vỗ về em mỗi khi em khóc. Chín tuổi, tôi đã biết tắm rửa, thay áo thay quần cho em, cõng em đi chơi và dỗ cho em ngủ. Mỗi ngày, trời sập tối mẹ mới gánh hàng về, ba mẹ con ngồi ăn cơm bên ngọn đèn dầu , tôi và em hỏi han, an ủi mẹ. Mẹ kể cho chúng tôi nghe chuyện chợ búa như đang nói chuyện với người lớn, tôi ngồi nghe, nhìn đôi vai gầy của mẹ, nhìn mái tóc và đôi bàn tay khô của mẹ, mà thấy thương mẹ vô cùng.
Tôi phải bỏ học ở nhà hai năm để trông chừng em. Mẹ có một sạp bán rau cải ở chợ Cồn. Gọi là sạp chứ thực ra chỉ là một ô đất nhỏ, sáng mẹ ra đi thật sớm, lúc trời còn mờ sương, buổi trưa mẹ về nhà lo cho chúng tôi ăn, nằm nghỉ ít phút rồi trở dậy sửa soạn cho chuyến chợ chiều. Một tuần bảy ngày, mẹ đi đi về về trong nỗi cô đơn.
Năm em vừa tròn năm tuổi thì mẹ cho em vào mẫu giáo, tôi cũng trở lại trường, đám bạn cũ của tôi nay đã hơn tôi hai lớp, ngồi xung quanh tôi bây giờ là những khuôn mặt lạ, kém tôi hai, ba tuổi. Tôi là học trò lớn nhất và học khá nên được làm trưởng lớp. Gần cuối năm học lớp nhì, tôi nói với mẹ lên xin thầy Hiệu trưởng cho tôi được thi nhảy tiểu học. Thầy bằng lòng. Tôi cắm cúi học luyện thi và kết qủa là tôi đã đỗ được bằng tiểu học năm đó.
Vào lớp đệ thất trường Trần quốc Tuấn, tôi tiếp tục học ngày, học đêm, năm đệ ngũ tôi thi nhảy một lần nữa lấy bằng Trung học. Ðến niên học đệ tam thì tôi đã bắt kịp đám bạn cũ, tôi hân hoan nhập bầy chung với đám bạn ngày xưa. Ðây là giai đoạn mà tôi cần tiền để mua sách học và may thêm quần áo, thời tiểu học và trung học đệ nhất cấp thì mặc sao cũng được, nhưng bây giờ đã lên đệ nhị cấp rồi, đã bắt đầu biết đỏ mặt khi nhìn những đứa con gái trường nữ, thỉnh thoảng đã biết theo bạn tập uống cafe, phì phà điếu thuốc. Tiền mẹ cho không đủ, tôi bắt đầu công việc kèm trẻ tư gia để kiếm thêm tiền. Học trò của tôi là mấy cô cậu đệ thất đệ lục, nghĩa là cũng chỉ bé thua tôi vài tuổi .
Ba mẹ con tôi vẫn ngày ngày đi về căn nhà nhỏ, căn nhà vẫn không thay đổi một chút nào từ ngày bố bỏ mấy mẹ con để ra đi.
Hết năm đệ tam, tôi nộp đơn thi Tú Tài phần nhất. Tôi đậu bình thứ. Một lần nữa, mọi người ngạc nhiên, nhưng tôi biết sức học của mình, tôi biết mẹ buôn bán tảo tần, tôi thấy những năm tháng gần đây mẹ trở bệnh hoài, mỗi sáng mẹ lục đục dậy thật sớm nấu cơm để dành cho anh em tôi, rồi lặng lẽ mang đôi quang gánh lên vai, những tối ngồi trâm ngâm bên ánh đèn dầu nhìn anh em tôi học bài và những đêm khuya mẹ trở mình húng hắng họ Tôi thương mẹ và em đến ứa nước mắt, và càng thương mẹ thương em, tôi càng học như điên, như cuồng. Tôi ước gì Bộ Giáo dục cho tôi thi hai bằng tú tài cùng một lúc. Nhìn mái tóc mẹ đã lớm chớm sợi bạc, nhìn lưng mẹ mỗi ngày mỗi như còng xuống, nhìn hai vai gầy của mẹ mà lòng quặn đau, và cứ thế, tôi vùi đầu vào sách vở...
Em đã bắt đầu tuổi lớn, đã bắt đầu tuổi mộng mơ con gái, đã bắt đầu bước vào "tuổi ngọc", nhưng tội nghiệp, biết nhà mình nghèo, biết mẹ mình buôn thúng bán bưng, biết anh mình vẫn chiều chiều đi kèm trẻ kiếm thêm tiền và cặm cụi học đốt giai đoạn cho chóng thành tài. Biết thế nên em ít khi nào xin mẹ, xin anh tiền may áo mới, hai chiếc áo dài trắng đủ cho em thay đổi. Em lớn lên thiếu tình của bố, nên tôi "quyền huynh thế phụ". Nhiều lúc nhìn mẹ , nhìn em, tôi vẫn không hiểu tại sao bố lại đành đoạn dứt áo ra đị
Tôi thi đỗ Tú Tài toàn phần năm 18 tuổi, và ra Huế học Ðại học Văn khoa. Mẹ ở một mình với em ở Ðà nẳng. Mỗi cuối tuần, tôi theo xe đò về thăm mẹ và em, đến sáng thứ hai trở lại trường. Ở Huế, tôi tiếp tục công việc kèm trẻ tư giạ Với số tiền nhỏ nhoi kiếm được, tôi phụ mẹ một ít nuôi em.
Qua sinh nhật thứ 13 của em mấy tháng, một chiều mẹ bỏ buổi chợ, về nhà than nhức đầu, tưởng là cảm nhẹ, mẹ sai em cạo gió và nấu cho mẹ bát cháo hành. Khuya đó mẹ lên cơn sốt, lảm nhảm nói mê, sáng hôm sau em nghỉ học chở mẹ vào nhà thương và nhờ người nhắn tin ra cho tôi ở Huế.
Lật đật trở vào Ðà nẳng bằng chuyến xe đò chót. Trời tối đã lâu, không kịp ăn uống, từ bến xe tôi đi thẳng đến bệnh viện. Trong căn phòng nhỏ, dưới ánh đèn vàng mờ đục, mẹ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, còn em đang ngồi ngủ gà ngủ gật cạnh giường. Ðứng yên lặng nhìn mẹ xanh xao bất động, và khuôn mặt thơ dại của em, trong giấc ngủ hai khóe mắt vẫn còn long lanh giọt lệ, tôi nghe lòng mình quặn thắt .
Ðánh thức em dậy, em ngơ ngác dụi mắt vài giây. Nhận ra tôi, em nhào tới ôm chầm và òa lên khóc, em cho hay là từ lúc đưa mẹ vào đây, mẹ chỉ tỉnh lại một vài phút vào khoảng giữa trưa, sau đó mẹ hôn mê trở lại. Tôi an ủi em, rồi cùng em ra văn phòng bệnh viện. Cô y tá trực cho hay mẹ bị đứt một tỉnh mạch ở đầu. Tôi bàng hoàng như bị ai nện một nhát búa vào ngực. Cô y tá bùi ngùi nhìn em, đôi mắt xót xa ...
Tối đó, anh em tôi cùng ở lại với mẹ, em mệt mỏi, nên chỉ một thoáng là đã ngủ say. Trong giấc ngủ mệt nhọc, thỉnh thoảng em ú ớ mẹ ơi, mẹ ơi rồi nức lên mấy tiếng. Tôi nghe như dao cắt trong lòng. Suốt đêm không ngủ, tôi cứ ngồi nhìn mẹ nằm im lìm và bên chân mẹ em ngủ chập chờn. Tôi tự nhủ thầm với mình đừng khóc, đừng khóc ... nhưng sao nước mắt vẫn cứ trào ra, một tay ve vuốt bàn tay xanh xao của mẹ, một tay nắm lấy bàn tay nhỏ bé của em, tôi để mặc cho hai dòng nước mắt chảy nhạt nhòa trên má.
Mẹ thở hơi cuối cùng lúc năm giờ sáng, mẹ không tỉnh lại để trăn trối với hai con một lời gì. Mẹ đi trong yên lặng. Tôi nắm bàn tay mẹ và thấy tay mẹ lạnh dần. Tôi đánh thức em dậy. Hai anh em hôn lên trán mẹ giã từ. Em vuốt mắt mẹ. Mắt mẹ nhắm hờ. Em ôm chặt hai tay mẹ, ủ vào lòng mình miệng kêu lên nho nhỏ: mẹ ơi, mẹ ơi... Em khóc lặng lẽ, áp mình vào ngực mẹ nước mắt em tuôn ràn rụa làm ướt đẫm cả vạt áo mẹ bạc màu . Những tiếng kêu nghẹn ngào của em như những viên đạn bắn thẳng vào tim, tôi ngồi bất động nhìn mẹ, nhìn em, lòng đau như muối xát. Tội nghiệp mẹ tôi, tội nghiệp em tôi. Em mới mười ba tuổi ...
Chôn mẹ xong, tôi bỏ học. Còn lòng dạ nào mà học nữa. Nhưng em thì phải trở lại trường.
Bán đi căn nhà nhỏ xiêu vẹo và gom tóm tất cả vốn liếng của mẹ để lại, tôi đưa hết số tiền cho mẹ của Minh, một người bạn thân tôi. Minh có Hân, cô em gái cùng tuổi , cùng lớp với em. Tôi gửi em đến đó ở và đi học với Hân, cũng may, bố mẹ Minh coi anh em tôi như con. Tôi dặn dò em đủ điều . Số tiền tôi gởi cho mẹ Minh đủ để trả tiền ăn ở của em trong hai ba năm. Tôi còn đưa thêm cho em một ít để em mua sách vở, may áo quần, tiêu vặt. Tôi ôm em và hứa với lòng, hứa với vong hồn mẹ là sẽ lo lắng, sẽ bảo bọc em cho đến trọn đời . Tôi vào trường Võ bị Ðà Lạt năm 20 tuổi, lương sinh viên sĩ quan ít ỏi, tôi tiết kiệm không dám xài nhiều, để dành gởi về cho em mỗi tháng. Tôi dặn em viết thư mỗi tuần kể cho tôi nghe chuyện học hành. Tôi bắt em hứa là không bao giờ dấu tôi một điều gì dù nhỏ bé. Em ngoan ngoãn vâng lời. Mỗi năm tôi được về phép một lần, hai anh em quấn quýt không rời. Tôi đưa em đi thăm mẹ. Chúng tôi lặng yên cầm tay nhau quỳ bên mộ mẹ, nước mắt lưng tròng.
Em lớn lên và ngày càng giống mẹ. Cũng khuôn mặt và cái nhìn nhẫn nhục, cũng đôi mắt xa xăm buồn hiu hắt. Bình thường em rất ít nói, có lẽ không cha, mồ côi mẹ quá sớm và anh lại ở xa đã làm em rụt rè. Cũng may, bên cạnh em vẫn còn có Hân. Lễ mãn khóa của tôi, em và Hân cùng lên tham dự, lúc này, em đã thi đổ vào trường Sư phạm Qui Nhơn, hai năm nữa em sẽ trở thành cô giáo, tôi hãnh diện giới thiệu em và Hân với các bạn mình. Nhìn dáng em thẹn thùng e ấp, tôi thấy lòng mình rạt rào thương em. Tôi thầm gọi mẹ, mẹ ơi, hai con của mẹ đã trưởng thành và đã nên người .
Ra trường, tôi chọn binh chủng nhảy dù, có lẽ cũng chỉ vì tôi thích màu mũ đỏ. Em vào học và ở nội trú trong trường sư phạm. Tôi thấy mình yên tâm hơn. Mỗi tháng, tôi vẫn gửi về cho em một nửa tiền lương lính của mình để trả tiền phòng, tiền ăn. Tôi biết con gái cần nhiều thứ hơn con trai, như áo quần, son phấn... Em vẫn viết thư cho tôi mỗi tuần như em đã làm trong mấy năm qua. Em kể chuyện học hành, chuyện bạn bè, em lo sợ là tôi đi tác chiến nhỡ có ngày bố con gặp nhau ở chiến trường, làm sao nhận ra nhau, em không nói thêm, nhưng tôi cũng hiểu, tên đạn vô tình, nếu nhỡ....
Hai năm em học Sư Phạm trôi qua thật nhanh. Em bây giờ đã là một cô giáo trẻ. Em được đổi về dạy tại một trường tiểu học gần thị xã Phan Rang. Em thuê nhà chung với hai cô giáo khác. Mỗi ngày ba cô giáo ngồi xe lam đi đến lớp, chiều về cả ba cùng quây quần nấu nướng . Em viết thư cho tôi và khoe có quen với Tuấn, một Sĩ quan Hải quân đồn trú ở Phan rang. Em khen Tuấn hiền lành, ít nói. Em kể thêm là Tuấn chỉ còn có mỗi một mẹ già. Chiến tranh ngày thêm khốc liệt, đơn vị tôi hành quân liên miên, có khi cả năm chúng tôi mới được về hậu cứ một lần. Tôi bị thương hai lần trong cùng một năm. Tôi dấu em, không cho em biết sợ em lo lắng. Trong những tuần lễ nằm bệnh viện và ở hậu cứ dưỡng thương, tôi bắt đầu viết bài đăng trên các báo và tạp chí. Tôi kể lại những trận đụng độ kinh hoàng giữa đơn vị tôi và giặc Cộng, tôi kể lại những "kỳ tích" của bạn tôi, của Mễ, của Lô ....
Sau một lần bị thương nhẹ ở tay, tôi lấy mấy ngày phép ra Phan Rang thăm em. Em mừng rỡ ôm lấy anh, nhưng khi thấy cánh tay băng bột em xót xa bật khóc. Tôi an ủi em là biết đâu sau chuyến bị thương này tôi sẽ được về làm việc hậu cứ. Ngày hôm sau, nghe tin, Tuấn đến thăm . Thoạt nhìn, tôi đã có cảm tình với Tuấn, đúng như em nói, Tuấn trông rất hiền lành. Trong suốt tuần lễ ở Phan rang, em vẫn phải đi dạy, nhưng may là có Tuấn, mỗi ngày Tuấn tới chở tôi đi ăn sáng , trưa Tuấn và tôi lang thang ra chợ bạ gì ăn đó đợi giờ ba cô giáo đi dạy học về. Buổi tối, em đi ngủ sớm, Tuấn ngồi lại nói chuyện với tôi cho tới khuya. Bên ly cafe, tôi kể cho Tuấn nghe chuyện của mình. Những hình ảnh yêu dấu, xót xa như một cuộn phim cũ quay chầm chậm. Tôi rưng rưng kể lại ngày mẹ mất. Tuấn lấy tay chùi mắt, trong đêm tối, tôi thấy mắt Tuấn long lanh ...
Bảy ngày phép cũng trôi nhanh. Tôi trở về Saigòn, lòng cảm thấy vui và nhẹ nhàng vì đã có dịp gặp Tuấn. Tôi tin Tuấn sẽ không làm khổ em. Ba tuần sau, tôi nhận được thư Tuấn, trong thư Tuấn kể về gia đình (mặc dù tôi đã nghe em kể trong các lá thư). Tuấn muốn tiến tới với em. Tuấn xin phép được đưa mẹ Tuấn đến gặp tôi. Tuấn hứa là sẽ săn sóc và thương yêu em. Ðọc thư Tuấn tôi ứa nước mắt vì mừng. Mừng cho em may mắn không gặp những trắc trở trên đường tình ái, mừng cho em gặp được một người chồng hiền hậu. Tôi viết thư cho em và Tuấn, bảo hai em lo thế nào cho tiện, chỉ cố làm sao cho giản đơn vì cả hai đứa cùng nghèo . Bốn tháng sau, Tuấn và em làm đám cưới, nhà gái ngoài tôi còn có thêm mấy thằng bạn trong đơn vị, ông hiệu trưởng, thầy cô giáo và rất đông học trò. Nhà trai ngoài mẹ Tuấn, mấy gia đình anh chị họ còn thêm một số bạn bè Hải quân cùng đơn vị. Nhìn em xúng xính trong bộ đồ cưới , tươi cười đứng bên cạnh Tuấn, tôi gọi thầm mẹ ơi, mẹ ơi, về đây dự đám cưới của em. Tôi theo đơn vị lội thêm hai năm nữa ở vùng giới tuyến, thì "tai nạn" xảy ra. Trong một lúc nóng giận vì thấy ông xếp của mình sao ngu và bẩn quá, tôi không giữ được lời và đã xúc phạm đến ông, kết quả là tôi bị đưa ra hội đồng kỷ luật và tống ra khỏi binh chủng nhảy dù.
Sau một thời gian ba chìm bảy nổi, tôi đổi về cục Tâm lý Chiến, thời gian này tôi đã khá nổi tiếng , những bút ký chiến trường về Tết Mậu Thân, Bình Long. An Lộc ... đã làm vinh danh binh chủng cũ của tôi. Tôi được giải thưởng văn học với bút ký "Mùa hè đỏ lửa". Tiền thưởng và tiền bán sách tôi gửi hết cho em. Tuấn và em dùng tiền này mua được một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Phan rang, gần trường em dạy.
Mới ngày nào đó còn thẹn thùng nấp bên vai Tuấn mà bây giờ em đã mấy con. Mỗi dịp rảnh rỗi tôi lại ra Phan Rang ở chơi với em, với cháu. Tôi ôm cháu, hôn vào hai má phúng phính, hít vào phổi mùi thơm của trẻ thơ mà thấy lòng mình dịu lại, những cay đắng, cực nhọc của đời theo tiếng cười lanh lảnh giòn tan của cháu mà bay xa, bay xa. Tôi nhìn hai vợ chồng em, nhìn bầy cháu nhỏ lẫm chẫm quây quần bên chân mẹ mà lòng vừa vui mừng vừa hãnh diện. Tôi ao ước mẹ tôi nhìn thấy được cảnh này.
Biến cố tháng 4/75 tới như một định mệnh oan nghiệt, cả Tuấn và tôi đều phải ra trình diện cải tạo. Em ở lại một mình với một bầy con nhỏ, đứa lớn nhất chưa đầy sáu tuổi và đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng me.. Trong trại, tôi cứ đứt ruột nghĩ về em và bầy cháu nhỏ. Mẹ của Tuấn đã quá già, làm sao lo phụ với em đây. Rồi em còn phải lo lắng về số phận chồng, số phận anh. Tôi quay quắt như như ngồi trên đống lửa, tôi nghĩ đến lời hứa với vong hồn mẹ hôm nào mà lòng đau như xé, con đã thất hứa với mẹ, mẹ ơi, con đang ở đây tù tội thì làm sao lo được cho em ...
Năm 76 tôi bị đưa ra Bắc. Tôi mất liên lạc với em và Tuấn từ tháng 5/75. Làm sao em biết tôi ở đâu mà thư từ thăm gửi. Không biết em có biết Tuấn ở đâu không, trại tù mọc lên như nấm từ Nam ra Bắc. Hồi còn ở trong Nam, từ Trảng lớn, qua Suối máu , đâu đâu tôi cũng cố dò hỏi tin Tuấn nhưng vô hiệu. Tù nhân đông quá ...
Trại cải tạo Sơn La, sau đợt cho viết thư về gia đình đầu tiên, ba tháng sau tôi nhận được thư em.Thư em đến tay tôi vào giữa năm 77. Hơn 2 năm 1 tháng tôi mới nhìn lại nét chữ của em. Run run bóc thư, mắt tôi cay nồng, nhạt nhòa. Em cho hay là Tuấn đang cải tạo ở Long Thành, Tuấn có thư về và cho biết vẫn bình an, mẹ Tuấn dạo này yếu lắm vì cụ đã quá già, em vẫn đi dạy, hai cháu nhỏ ở nhà với bà nội, hai cháu lớn theo mẹ vào trường, em cho hay đứa con gái út em đặt tên Tâm, Trần thị Minh Tâm, cháu sinh ngày 12 tháng 9 năm 75, gần 4 tháng sau ngày bố cháu và bác cháu vào tù.
Gần cuối thư, em báo tin là bố còn sống và hồi đầu năm 76 có tìm đến gặp em, làm sao bố tìm ra địa chỉ thì em không biết, nhưng hôm ấy bố đến, bố tự giới thiệu tên mình. Em ngỡ ngàng, ngày bố ra đi em mới tròn ba tuổi, hơn hai mươi năm sau gặp lại làm sao em nhận được , bố xoa đầu đám cháu ngoại đang trố mắt nhìn người đàn ông lạ, bố hỏi về anh, về Tuấn, khi em hỏi lại bố là làm sao để biết anh và Tuấn đang bị giam giữ ở trại cải tạo nào, bố lắc đầu không nói gì. Bố cho hay là bố đang có gia đình ở Bắc, ngoài ấy bố có thêm hai trai và hai gái. Ðứa trai lớn nhất thua em bốn tuổi.
Bố mang vào cho em hai mươi ký gạo và một chục cam. Bố ở chơi một ngày rồi bố trở về Hà nội. Lúc bố về em có tặng bố cái radio-cassette của anh cho ngày nào. Bố thích lắm, bố hứa sẽ đến thăm anh trong trại tù. Từ hồi trở ra Bắc dến giờ bố chưa liên lạc lại với em, và em cũng không có địa chỉ của bố ở ngoài ấy. Tôi đọc thư lòng thấy phân vân, tôi cũng như em, không hình dung ra nổi bố tôi hình dáng mặt mũi ra sao, hai mươi mấy năm, tôi tưởng bố tôi đã chết.
Tháng 12 năm 77, tại trại cải tạo Sơn La, bố đến thăm tôi .
Ðứng trong văn phòng viên sĩ quan trưởng trại một người đàn ông trung niên, tóc muối tiêu và gương mặt xương. Bộ áo quần dân sự khá thẳng thớm, và sự lễ phép của tên đại úy trưởng trại tiết lộ về địa vị không nhỏ của người này. Thấy tôi vào, viên trưởng trại quay qua nói nhỏ một câu gì đó rồi bước ra ngoài. Tôi im lặng đứng nhìn người đàn ông xa la.ï
Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên mình, bố gọi tôi bằng anh, bố kể là đã gặp em ở Phan Rang, bố hỏi tôi học tập thế nào, bố không hề nhắc đến mẹ, có lẽ ông đã biết về cái chết của me.. Bố nói là có đọc văn tôi. Tôi ngồi yên nghe bố nói, sau cùng , bố đứng dậy, móc trong xách ra một gói nhỏ bảo đó là đường và thuốc lá, trao cho tôi, khuyên tôi cố gắng học tập tốt để sớm được khoan hồng. Tôi nhìn vào mắt bố, lòng thấy dửng dưng. Tôi bắt tay bố rồi về lại lán mình. Ðó, cuộc hội ngộ của bố con tôi sau hơn hai mươi năm là thế đấy. Chắc cuộc tái ngộ giữa bố với em cũng tẻ nhạt như thế. Có cái gì đó ngăn cách, có cái gì đó phân chia, có cái gì đó tôi không hiểu và không diễn tả được. Bây giờ tôi hiểu vì sao cái tin quan trọng đến thế mà em lại chỉ đề cập một cách ngắn ngủi ở cuối thư.
Lần đó là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi gặp bố trong suốt 13 năm lang thang trong các trại tù biệt giam miền Bắc.
Tháng 12/78, chuyển trại lên Yên Bái, tôi nhận thêm được hai lá thư của em, trong bức thư gần nhất, em viết vào tháng 8/78. Em cho hay tình trạng rất khó khăn, phụ cấp đi dạy không đủ nuôi một mẹ già và bốn con thơ, em đã bán lần mòn hết những đồ trang sức và luôn cả những đồ vật trong nhà. Em vẫn chưa đi thăm nuôi Tuấn được một lần nào. Không thể để bốn cháu nhỏ ở nhà cho bà nội vì cụ bây giờ đã quá yếu, mỗi buổi ăn, Uyên, cháu lớn phải đút cho bà. Ngoài ra, mỗi tối, từ lúc chạng vạng em và Hoàng, hai mẹ con phải ra đầu ngờ, ngồi bán bắp nướng đến khuya để kiếm thêm tiền đong gạo. Em than là dạo này mất ngủ, sức khỏe yếu lắm, em sợ nhỡ có mệnh hệ nào ...
Tôi thẫn thờ cả buổi vì bức thư em, ngày xưa tôi chỉ lo cho có mỗi mình em, còn bây giờ em phải lo cho bốn đứa con thơ và một mẹ già, kể luôn người chồng và ông anh đang tù tội là bảy, bảy cây thập giá đời đang đè nặng lên đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của em. Tôi viết thư về an ủi , khuyên em cố gắng, tôi vỗ về em là có thể Tuấn sẽ được tha về sớm với em, với cháu, vì Tuấn đi hải quân và lon còn thấp, không có tội với cách mạng nhiều. Rồi tôi viết thêm cho em hai ba lá thư nữa mà vẫn không thấy hồi âm. Lòng tôi cồn cào, nóng như lửa đốt, những ngày dài tù tội, tôi không nghĩ đến cái đói, cái khổ của mình mà chỉ nghĩ đến em và mấy cháu, không biết giờ này, em và bốn cháu thơ dại đang có gì ăn ?
Tháng 6/79, một sáng trên đường lên rừng đốn nứa, tôi nghe loáng thoáng câu chuyện giữa các bạn tù. Họ nghe từ các bà vợ đi thăm nuôi kể lại, rằng ở Phan Rang có một chị có chồng đang đi cải tạo, chị chết đi, để lại bốn con thơ, đứa bé nhất mới lên ba, còn đứa lớn nhất chưa đầy chín tuổi. Tội nghiệp, họ hàng nội ngoại không có một ai. Tôi bỗng dưng thấy lạnh toát cả sống lưng, lại gần hỏi thêm thì người bạn tù cho hay là nghe nói chị ấy làm nghề cô giáo, có chồng sĩ quan hải quân đang đi tù cải tạo ở đâu đó trong Nam. Người chồng, trung úy hải quân trước cũng đóng ở Phan Rang. Trần Nguyên Tuấn, hải quân trung úy Trần nguyên Tuấn . Tôi thấy đất trời đảo lộn, tôi thấy mặt trời nổ tung trong óc, tôi hụt hơi, miệng há hốc đứng như trời trồng giữa núi rừng Yên Bái, bên cạnh tôi tiếng người nói lao xao. Tôi không nghe gì hết, tai tôi lùng bùng, mắt tôi mờ đi, tôi đang nhìn thấy xác em nằm co quắp trên manh chiếu, bốn đứa cháu của tôi, cháu Minh Tâm chưa đầy ba tuổi đang lấy tay lay lay xác mẹ, cháu lớn Thu Uyên chưa đủ chín tuổi đang ôm chân mẹ khóc lóc ủ ê, hai đứa kia, Hoàng và Châu ngơ ngác đứng nhìn. Trời tháng 6 mùa hè Yên bái mà sao tôi thấy thân mình lạnh buốt. Tôi tê dại, tôi hóa đá, tôi không còn cảm xúc, tôi muốn hét lên cho tan vỡ cả vũ trụ này. Trong lung linh màu nắng vàng buổi trưa Yên Bái, tôi thấy bóng em nhập nhòa, chập chờn. Em của tôi, đứa em côi cút của tôi .... Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lô.. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
* * *
Phan Nhật Nam Năm em tôi lên ba
Ðã chịu đời xa bố
Mẹ tất tả thân mòn
Nuôi con bao vất vả
Ðời thiếu nữ lớn lên
Ðắng cay thêm tủi hổ
Áo vá bạc vai gầy
Tuổi thơ sôi cuồng nộ.
Mẹ mất năm mười-ba
Thảm thiết sao kể xiết
Cố nuôi em từng ngày
Khốn khó dài biền biệt.
Bạn học những tỵ hiềm
Thầy, cô nặng trì siết
Em vây chặt buồn phiền
Tuổi học trò thua thiệt
......
Tôi đi làm lính chiến
Trôi nổi chốn trận tiền
Em một mình côi cút
Ðâu được ngày đoàn viên.
Mong em sau lớn lên
Tình duyên nên mãn nguyện
Cầu em đời bình yên
Quên xóa ngày uất nghẹn.
Nào đâu buổi sụp vỡ
Cảnh nước mất tan nhà
Lâm thân sơ, thất sở
Vây quanh khốn mù sa.
Long Thành, chồng tập trung
Anh ngục tù lấm nhục
Trên quê hương lưu đầy
Rừng rực lửa địa ngục.
Bốn con thơ khốn cùng
Sức người căng vượt sống
Tư trang bán sạch dần
Cây rừng khô lá rụng.
......
Tôi đi lên miền Bắc
Thân kiệt cùng thậm ngặt
Nhớ thương em dãi dầu
Nơi quê nhà bằn bặt
Rừng núi trời vào thu
Tù leo đồi đốn nứa
Bên đường đèo nghỉ đỡ
Nghe chuyện buồn thương tâm
“..Người chồng đi tập trung
Vợ ở nhà chết thảm
Bốn con nhỏ khốn cùng
Quay quắt bên thây cứng!!”
Những tưởng nghe nhầm tai
Giật mình gào hỏi lại
Ôi xiết bao kinh hãi
Ðúng tên chồng em gái?!
Chuyện những Ðồi Hoa Sim
Nay một lần lập lại
Không chết người ngục tù
Một mình em oan trái!
Tôi bật khóc trên đồi
Nhìn khoảng không vần vũ
Có còn không.. Ðất, trời !!
Mây mang mang kéo lũ
Rừng chập chùng lá đổ
Sương dầy vây khói xanh
Thật hay không đấy hở?!
Tạo Hóa nghiệt cùng đành!
Cháu tôi ai nuôi đây?
Bé nhất chưa biết nói
Chịu sao nổi đọa đày
Giữa trùng vây khổ đói
......
Năm năm ngày giỗ em
Cấm phòng ngồi gục mặt
Nhói đau trũng ngực nặng
Em chết thật sao Khanh ?
18-3-1983
Ngục tối Trại Lam Sơn, Thanh Hóa.
Không biết ngày chết,
Nhớ ngày em tôi đã có trong đời
Phan Nhật Nam
THƠ NGUYÊN SA
Mùa
Xuân Buồn Lắm Em Ơi
Nguyên
Sa
Mùa
xuân buồn lắm em ơi
Anh vẫn đạp xe từ Saigon lên trường đua Phú Thọ
Đạp xe qua nhà em
Nhìn vào ngưỡng cửa
Nhà số 20
Anh nhớ em má hồng...
Anh nhớ nhà em có cửa sơn xanh
Có một hàng rào, có thầy, có mẹ ...
Có ngựa chạy trong trường đua, người đi ngoài phố
Nên anh đạp xe đi
Rồi đạp xe về
Mà chẳng có đôi ta ...
Mùa xuân buồn lắm em ơi
Mỗi lần đạp xe về anh vẫn nghe lòng bỡ ngỡ
Chiếc xe còn nguyên màu sơn xanh
Nhưng tâm hồn đã ngả sang màu sắt dỉ
Bởi vì từ Saigon lên tận trường đua Phú Thọ
Hết cả tiến uống một ly nước mía
Mà cũng không gặp em
Nên khát đắng linh hồn
Không phải anh ngại đường xá xa xôi
Anh cần gì đường dài
Anh cần gì nước mía
Anh cần gì hoa thơm và chim cười trong lá biếc
Cũng chẳng cần cỏ thêu xanh cánh đồng xa biền biệt
Nhưng làm sao không có bóng hai người đè lên cỏ úa
Để anh nghe em cười mà thấy cả mùa xuân...
Làm sao chỉ có một mình anh
Vừa đạp xe, vừa ngâm thơ (mà đường vẫn dài)
Ngửa mặt lên cao, trời xanh biêng biếc
Làm sao em không ngó xuống linh hồn?...
Sao mùa xuân mà chẳng có mưa bay
Chẳng có người đi bên cạnh cầm tay
Anh chẳng được hôn lên trán ái tình
Và nói năng những lời vô nghĩa ...
Anh vẫn đạp xe từ Saigon lên trường đua Phú Thọ
Đạp xe qua nhà em
Nhìn vào ngưỡng cửa
Nhà số 20
Anh nhớ em má hồng...
Anh nhớ nhà em có cửa sơn xanh
Có một hàng rào, có thầy, có mẹ ...
Có ngựa chạy trong trường đua, người đi ngoài phố
Nên anh đạp xe đi
Rồi đạp xe về
Mà chẳng có đôi ta ...
Mùa xuân buồn lắm em ơi
Mỗi lần đạp xe về anh vẫn nghe lòng bỡ ngỡ
Chiếc xe còn nguyên màu sơn xanh
Nhưng tâm hồn đã ngả sang màu sắt dỉ
Bởi vì từ Saigon lên tận trường đua Phú Thọ
Hết cả tiến uống một ly nước mía
Mà cũng không gặp em
Nên khát đắng linh hồn
Không phải anh ngại đường xá xa xôi
Anh cần gì đường dài
Anh cần gì nước mía
Anh cần gì hoa thơm và chim cười trong lá biếc
Cũng chẳng cần cỏ thêu xanh cánh đồng xa biền biệt
Nhưng làm sao không có bóng hai người đè lên cỏ úa
Để anh nghe em cười mà thấy cả mùa xuân...
Làm sao chỉ có một mình anh
Vừa đạp xe, vừa ngâm thơ (mà đường vẫn dài)
Ngửa mặt lên cao, trời xanh biêng biếc
Làm sao em không ngó xuống linh hồn?...
Sao mùa xuân mà chẳng có mưa bay
Chẳng có người đi bên cạnh cầm tay
Anh chẳng được hôn lên trán ái tình
Và nói năng những lời vô nghĩa ...
Hư ảo trăng
Tác giả: Nguyên Sa
February28
Hư ảo nào như hư ảo trăng
Em đàn cung nguyệt hát cung vân
Ta về đúng lúc đêm đang tới
Tìm thấy trong thơ chiếc nguyệt cầm
Em đàn cung nguyệt hát cung vân
Ta về đúng lúc đêm đang tới
Tìm thấy trong thơ chiếc nguyệt cầm
Hư ảo nào như hư ảo mây
Em cười trong nắng, áo trong tay
Thơ trong tà áo, em trong gió
Ta nhớ mơ hồ mây trắng bay
Em cười trong nắng, áo trong tay
Thơ trong tà áo, em trong gió
Ta nhớ mơ hồ mây trắng bay
Hư ảo nào như hư ảo em
Tiếng cười khua động những thân quen
Đời xưa ta nhớ mây tiền kiếp
Còn lúc bây giờ ta nhớ em
Tiếng cười khua động những thân quen
Đời xưa ta nhớ mây tiền kiếp
Còn lúc bây giờ ta nhớ em
Hư ảo nào như hư ảo ta
Xòe tay năm ngón động âm ba
Nhìn quanh bất trắc cao thành núi
Đứng tựa vai làm tri kỷ xưa
Xòe tay năm ngón động âm ba
Nhìn quanh bất trắc cao thành núi
Đứng tựa vai làm tri kỷ xưa
Hư ảo nào như hư ảo trăng
Trời đưa ta tới chỗ em nằm
Em như huyền hoặc, đời như mộng
Ta ngả lưng làm một giấc trăng.
Trời đưa ta tới chỗ em nằm
Em như huyền hoặc, đời như mộng
Ta ngả lưng làm một giấc trăng.
THƠ HÀN MẶC TỬ
Bẽn Lẽn
Hàn
Mặc Tử
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi.
Trong khóm vi vu rào rạt mãi
Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
Vô tình để gió hôn lên má
Bẽn lẻn làm sao lúc nửa đêm
Em sợ lang quân em biết được
Nghi ngờ tới cái tiết trinh em.
NHỮNG GIỌT LỆ
Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi?
Bao giờ tôi hết được yêu vì,
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tựa si?
Họ đã xa rồi khôn níu lại,
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa...
Người đi, một nửa hồn tôi mất,
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?
KHÓI HƯƠNG TAN
Tối hôm nay muôn sao nhấp nhánh
Sông Mê Hà đưa đẩy sóng triền miên
Thuyền anh buông lửng lờ trong hiu quạnh
Tới chưa em, đã tới bến lòng em ?
Mộng uyên ương đang khi tim rào rạt
Thuyền anh neo đậu trước bến Hàn Giang
Nhưng uyên ương khi trăng sao bàng bạc
Biến mất rồi, anh thấy khói hương tan.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 027
No comments:
Post a Comment