ĐỖ TẤN HƯNG * BÙI XUÂN BÀO
GIÁO SƯ BÙI XUÂN BÀO (1916-1991)
Tác giả Đỗ Tân Hưng - Canada
Khi còn là sinh viên Đại Học Saigon, tôi thường thấy bóng dáng giáo sư Bùi Xuân Bào xuất hiện ở hai Phân Khoa Đại Học Sư Phạm và Văn Khoa và tôi rất có cảm tình, mặc dù tôi không thụ giáo với giáo sư. Anh Trần Duy Nhiên là một môn sinh của giáo sư Bào. Trong tập sách nhỏ “Từ Ánh sáng Mặt Trời Tình Yêu”, tập II, anh Nhiên đã ghi lại những kỷ niệm sâu lắng của mình đối với vị thầy mến yêu, dưới tiêu đề “Tất Cả Đều Là Ân Sủng”.
TIẾT MỘT
VÀI NÉT TIỂU SỬ
Thuở thiếu thờiGiáo sư Bùi Xuân Bào sinh ngày 2/2/1916, nhưng trong khai sinh ghi ngày 1/1/1916 để cho dễ nhớ. Thân phụ giáo sư là cụ Bùi Xuân Trữ, xuất thân Trường Quốc Tử Giám, Tú Tài Hán Học. Thân mẫu giáo sư là bà Tôn Nữ Ngọc Hòe, thuộc hoàng tộc, ái nữ cụ Thượng Thư Tôn Thất Tế.
Giáo sư Bào có hai người em trai và bốn người em gái. Điều bất hạnh là cả hai người em trai nầy – một là giáo sư và một là sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa – đều bị sát hại trong cuộc chiến tranh.
Trong bốn người em gái, chị Bùi thị Như Kha mà nhiều người biết đến dưới tên Mẹ Mai Thành là nữ tu Dòng Kinh Sĩ Thánh Âu Tinh hay Dòng Đức Bà (ở Việt Nam gọi là dòng Couvent des Oiseaux).
Từ nhỏ, cậu Bùi Xuân Bào là học sinh trung học tại trường Quốc Học Huế rồi trường Bưởi Hà Nội. Cậu đã chứng tỏ là một con người rất nhạy cảm với cái đẹp tiềm ẩn trong nghệ thuật, vì thế cậu say mê văn học và âm nhạc.
Về văn học, chẳng những cậu có thiên khiếu về văn chương Việt Nam mà còn là một học sinh xuất sắc về ngôn ngữ và văn chương Pháp. Cậu đã chiếm giải nhất môn tiếng Pháp trong Concours Général, một kỳ thi dành cho học sinh giỏi ở bậc trung học trong các nước Đông Dương thuộc Pháp.
Sau nầy, khi đọc lại bản luận án tiến sĩ văn chương Pháp của giáo sư Bùi Xuân Bào, nhiều học giả thấy rằng khó có một người Việt Nam thứ hai nào viết tiếng Pháp với một văn phong chuẩn xác lồng trong một tâm hồn vừa Việt Nam, vừa Công Giáo đầy nhạy cảm như thế.
Tuy nhiên cậu Bào cũng không phải là một học sinh xuất sắc toàn diện, cụ thể là cậu rất “ghét” môn toán và cũng vì cái môn “khô khan” nầy mà cậu suýt bị rớt kỳ thi Thành Chung (bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp). Nhưng khuyết điểm đó lại trở thành ưu điểm trong cuộc sống sau nầy của giáo sư Bùi Xuân Bào: vì lơ là môn toán, nên suốt cuộc đời, không bao giờ giáo sư biết tính toán hơn thiệt cho bản thân và cho gia đình mình, mà chỉ nghĩ đến quyền lợi của học trò, của người dân và của đất nước.
Đường công danh
Giáo sư Bùi Xuân Bào đậu tú tài triết học năm 1939, rồi trở thành giáo sư tại các trường trung học Huế cho đến năm 1947. Năm 1948, giáo sư du học tại Pháp và đậu Cử Nhân Văn Chương Giáo Khoa Pháp năm 1951. Kế đó, giáo sư lần lượt giữ chức vụ Chánh Văn Phòng Thủ Tướng Chính Phủ, Đại Biểu Việt Nam trong Hội Đồng Liên Hiệp Pháp, Cố Vấn Văn Hóa Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Paris.
Năm 1957, giáo sư Bùi Xuân Bào xin giải nhiệm một phần vì vị trí của giáo sư ở tòa Đại Sứ đòi hỏi những “chiến thuật” không hợp với tính ngay thẳng của giáo sư. Mặt khác, giáo sư để dành trọn thời gian soạn thảo hai luận án Tiến Sĩ Quốc Gia Văn Chương Pháp năm 1961.
Sau khi đỗ bằng tiến sĩ, giáo sư hồi hương và lần lượt giữ các chức vụ càng ngày càng quan trọng trong lãnh vực văn hóa giáo dục: Khoa Trưởng Đại Học Sư Phạm Saigon, Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Saigon, Thứ Trưởng đặc trách văn hóa, Bộ Văn Hóa, Giáo Dục và Thanh Niên, Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa, Giáo Dục và Thanh Niên.
Những ngày đen tối
Khi biến cố 30/4/1975 xảy tới, với tư cách Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa, Giáo Dục và Thanh Niên, giáo sư Bùi Xuân Bào phải đi học tập ở miền Nam và miền Bắc. Nhờ mang theo cuốn Thánh Kinh khổ bỏ túi, trong thời gian ba năm học tập, giáo sư đã đọc lại trên 30 lần trọn bộ Thánh Kinh từ Sáng Thế Ký đến sách Khải Huyền. Chắc chắn Lời Chúa đã thấm nhập vào cốt tủy đời sống đức tin và nuôi dưỡng tinh thần giáo sư trong những ngày thử thách cùng bệnh hoạn trong trại học tập.
May mắn thay, nhờ ban lãnh đạo Thành Phố Saigon biết đến uy tín của giáo sư trong giới trí thức miền Nam nên đã can thiệp để giáo sư được trả về gia đình vào năm 1978. Tuy sức khỏe yếu, sau ngày trở về, giáo sư vẫn góp phần để bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Pháp văn ở Đại Học Tổng Hợp và chuẩn bị cho các sinh viên xuất ngoại để viết và trình luận án tiến sĩ bằng Pháp văn.
Năm 1982, bệnh tim của giáo sư đã đến giai đoạn nguy cập mà phương tiện y khoa trong nước lúc bấy giờ chưa đủ khả năng điều trị nên giáo sư được sang Pháp chữa trị. Cuộc giải phẩu tại Pháp thành công, giúp giáo sư sống thêm được gần 10 năm, để rồi giáo sư từ giã cuộc đời ngày 07/04/1991 tại bệnh viện Villejuif – Paris, hưởng thọ 75 tuổi.
Với những thành tích lừng lẫy như vậy, thật khó mà trình bày cho hết cuộc đời của giáo sư. Nhà Xuất Bản Dòng Việt ở California đã dành cả một cuốn sách để tưởng niệm giáo sư Bùi Xuân Bào. Ở đây chỉ tập trung nói về tiến trình của người Kitô hữu mang tên Bùi Xuân Bào mà thôi.
TIẾT HAI
BƯỚC NGOẶT CUỘC ĐỜI
Tiếp cận Kitô giáo
Từ 1939-1947, giáo sư Bùi Xuân Bào dạy tại các trường trung học Huế. Trong cuộc đời, giai đoạn từ 20 đến 30 tuổi là giai đoạn mà mỗi người đi tìm chân tính của chính mình. Thanh niên Bùi Xuân Bào cũng trải qua thời kỳ tìm kiếm cam go đó.
Xuất thân là người anh cả trong một gia đình nho giáo truyền thống, giáo sư Bùi Xuân Bào biết mình là người có trách nhiệm chuyển lại cả một nền đạo lý của cha ông đến dòng tộc mình và những thế hệ con em. Tuy nhiên, là một giáo sư dạy trong các trường trung học Công giáo và say mê văn chương Pháp – một nền văn chương thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, giáo sư Bào không thể không tìm hiểu một tôn giáo rất gần gũi với cảm nghiệm của mình.
Ngoài ra, em của giáo sư – Bùi Xuân Bàng – là một người tiền phong trong gia đình đã đón nhận đức tin Kitô giáo, sau khi đậu Tú Tài II. Hai anh em Bào – Bàng, dù cách nhau ba tuổi, nhưng rất tâm đầu ý hợp, là bạn chí thiết của nhau nên thương yêu và tôn trọng nhau rất mực.
Em thì phục tài năng văn học, âm nhạc và óc hài hước rất tinh nhuệ của anh. Anh thì tôn trọng cả đức lẫn trí của em: giáo sư Bàng giỏi cả văn học lẫn toán học, cả hội họa lẫn thi ca, nên được nhiều may mắn hơn anh mình trong “ngành khoa bảng”, thường thi đậu cao ở các cấp học. Giáo sư Bào cũng mộ mến đức tin của em là người mang nguyện vọng hiến thân cho Chúa: giáo sư Bùi Xuân Bàng ước muốn trở thành đan sĩ tu viện Biển Đức Thiên An Huế, nhưng vì sức khỏe yếu phải chờ “thời điểm” Thiên Chúa ân ban.
Biến cố đau thương
Trong gần một thập niên, giáo sư Bùi Xuân Bào đã học biết đạo lý Công giáo, trân trọng Chân Lý Tin Mừng đến mức khi giáo sư diễn giảng các tác phẩm văn chương Công giáo, sinh viên học sinh cứ nghĩ giáo sư là người Kitô hữu chân chính. Vậy mà giáo sư vẫn không muốn lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy. Giáo sư muốn là một người trung thực với chính mình: ngày nào giáo sư cảm thấy mình “chưa tin” thì ngày ấy giáo sư chưa xin rửa tội.
Vả lại, rửa tội thì đòi hỏi giáo sư phải phản bội phần nào truyền thống gia đình và hoài bão của thân phụ đối với trưởng tử Bùi Xuân Bào, người có trách nhiệm lớn đối với dòng họ. Đấy là điều mà một người con có hiếu như giáo sư Bùi Xuân Bào không dễ gì làm được. Cần phải có một sự can thiệp của Thiên Chúa qua một biến cố cụ thể, để cho giáo sư có được “đức tin”.
Biến cố đó xảy ra năm 1947. Lúc bấy giờ giáo sư Bùi Xuân Bàng dạy học ở Quảng Bình trong khi cuộc chiến chống Pháp đang lên cao trào. Vì là người trí thức Công giáo nhiệt thành, hiệu trưởng một trường trung học Công giáo ở Quảng Bình, nên ông Bàng cùng với vài linh mục và giáo viên Công giáo khác bị đưa lên rừng biệt giam. Do tình hình chiến sự sôi động nên giữa đường, ông đã bị trảm quyết vì sợ người Công giáo sẽ bắt tay với Pháp.
Nghe tin em mình chết – chết vì lý tưởng tôn giáo – mà lại bị mang vào mình một bản án chính trị, giáo sư Bào đón nhận tin sét đánh nầy như một luồng sáng từ trời cao. Giáo sư đi ngay đến trường Thiên Hựu (Providence) Huế, gặp cha Lefas hiệu trưởng là người đã mời giáo sư dạy học tại đây. Giáo sư xin ở lại trường tĩnh tâm một tuần rồi lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy.
Trước quyết định đột ngột đó, cha Lefas hỏi lý do nào đã khiến giáo sư chần chừ thật lâu để rồi quyết định nhanh chóng như vậy. Giáo sư trả lời: “Mon frère est mort: Dieu existe” (“Em con chết ắt Chúa hiện hữu”). Nếu câu nói của Descartes “Je pense donc je suis” (“Tôi suy nghĩ ắt tôi hiện hữu”) là một câu rất hợp luận lý thì tất nhiên cũng phải thừa nhận rằng câu của giáo sư Bùi Xuân Bào “Em con chết ắt Chúa hiện hữu” là một câu hoàn toàn đi ngược với luận lý bình thường. Cái phi lý đó chính là một bản chất của đức tin – một đức tin sẽ hướng dẫn trọn cuộc đời còn lại của giáo sư.
Trước khúc quanh khó hiểu đó, nhiều người thân thiết với giáo sư đã tìm cách lý giải. Người em gái của giáo sư là Mẹ Mai Thành Bùi Thị Như Kha, đã suy nghĩ như sau: “Có lẽ anh lý luận: cái chết của anh Bàng chỉ có thể cắt nghĩa được vì Thiên Chúa ở trong anh. Anh (Bào) yêu quí em mình đến nỗi muốn gần em và gặp em; mà muốn được như thế thì phải gần và phải gặp Thiên Chúa”.
Lễ Rửa Tội
Lễ Rửa Tội cho giáo sư Phêrô Bùi Xuân Bào được cử hành âm thầm tại nguyện đường Thiên Hựu. Linh mục Larouche Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế ban phép bí tích, linh mục Lefas là cha đỡ đầu.
45 năm sau, cũng chính cha Lefas cử hành Thánh Lễ an táng cho cố giáo sư Bùi Xuân Bào ngày 11/04/1991 tại Paris. Ngài nhắc lại trong bài giảng của mình lời thổ lộ của giáo sư Bào, ngày giáo sư đến xin lãnh nhận phép rửa: “Con đã hứa với Chúa là tiếp tục giương cao ngọn đuốc đức tin mà hình như em Bàng đã trao lại cho con”.
Claudel và Bùi Xuân Bào
Khi còn là giáo sư môn văn chương Pháp, mỗi lần giảng đến đoạn văn mà Claudel tường thuật giây phút trở lại của mình, giáo sư đã đặt vào đây hết cả tâm hồn. Đấy chính là điều giáo sư khiêm tốn bộc lộ về ngày “trở lại” của bản thân mình. Câu chuyện xảy ra cho Claudel vào đêm Giáng Sinh 1886 tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Paris soi rọi phần nào lý do tại sao giáo sư Bùi Xuân Bào đã đón nhận đức tin một cách bất ngờ như vậy:
Thế là xảy ra biến cố bao trùm cả cuộc đời tôi. Trong một khoảnh khắc, lòng tôi cảm động và TÔI TIN. Tôi tin với một tinh thần gắn bó mạnh mẽ, với từng thớ thịt trong con người tôi, với một niềm xác tín mãnh liệt, một niềm tin chắc chắn không hề dành chỗ cho một thoáng nghi ngờ, đến độ mà từ ấy đến nay, mọi lý luận, mọi bất trắc của một cuộc đời đầy sóng gió cũng không thể lay chuyển đức tin tôi, hay đúng hơn, không thể chạm đến đức tin đó.
Thỉnh thoảng hồi tưởng lại giây phút theo sau khoảnh khắc phi thường kia, tôi nhìn ra nhiều yếu tố, những yếu tố kết thành một lằn chớp, một vũ khí duy nhất mà Chúa Quan Phòng đã sử dụng để mở cửa lòng của một đứa trẻ tuyệt vọng đáng thương: “Những người tin Chúa thật hạnh phúc biết bao! Có thật vậy không? Thật chứ! Chúa hiện hữu, Người đang hiện diện. Người là một Đấng, một hữu thể có ngôi vị giống như tôi! Người kêu gọi tôi!” Nước mắt tôi tuôn trào và tôi khóc nức nở…
TIẾT BA
ĐỜI SỐNG CHỨNG NHÂN
Biến cố đón nhận đức tin đã ‘bao trùm cả cuộc đời” giáo sư Bùi Xuân Bào. Nhưng không phải vì thế mà giáo sư trở thành con người “tông đồ” theo quan niệm thông thường, tức trở thành một người suy niệm Lời Chúa, giảng dạy giáo lý, hoạt động trong các phong trào Công giáo và tìm cách “rửa tội” cho những ai không cùng tôn giáo với mình.
Tuy nhiên, mọi suy nghĩ và lời nói của giáo sư, với tư cách là nhà giáo, nhà văn hóa, nhà tư tưởng, nhà chính trị, đều thấm nhuần một đức tin bàng bạc. Dưới một khía cạnh nào đó, chính thái độ tôn trọng những chân lý tối thượng của giáo sư là bằng chứng hùng hồn cho niềm xác tín của mình và biến giáo sư thành một nhà loan báo Tin Mừng bằng chính cuộc sống và công việc của mình.
Chúng ta thử đọc lại vài đoạn văn trong các tác phẩm của giáo sư, để qua đó, nhìn thấy những khía cạnh khác nhau qua con người của giáo sư.
Con người văn hóa
Trong phần dẫn nhập cho luận án tiến sĩ về “một chủ nghĩa anh hùng mới”, giáo sư Bùi Xuân Bào đã nêu ngay vấn đề chủ nghĩa nhân bản anh hùng đồng hóa với tinh thần thánh thiện. Giáo sư đã nhấn mạnh quan điểm của văn hào Péguy như sau:
“Khi phân biệt lãnh vực tự nhiên với lãnh vực ân sủng, Péguy phát hiện một nguồn gốc chung cho tinh thần anh hùng và tinh thần thánh thiện trong tâm hồn của mỗi một người: Muốn nên thánh, con người không chỉ khao khát trở thành linh mục hay có tinh thần cầu nguyện mà còn cần phải hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với đồng loại trong Thiên Chúa, bằng cách chấp nhận bổn phận hằng ngày, chu toàn những công việc khiêm nhường nhất của đời sống gia đình và nghiệp vụ.”
Từ tinh thần anh hùng nhân bản nầy, giáo sư đã làm nổi bật chiều kích thánh thiện của mỗi Kitô hữu qua tình liên đới giữa người với người, khi giáo sư hướng về nhà văn phi công Saint Exupéry mà giáo sư say mê từ thuở còn trung học, như giáo sư đã viết trong phần dẫn nhập luận án:
“Người lữ hành trên không trung (Saint Exupéry), khi nhìn ngắm con người theo chiều kích vũ trụ, cảm thấy mình là anh em với mọi người đang lao động: vị linh mục quỳ gối trước thánh giá, nhà bác học quan sát vũ trụ qua viễn vọng kính, người thi sĩ chuyển hóa thiên nhiên thành một giá trị tinh thần, người làm vườn, người nông dân, người chăn cừu…
Vì tất cả những người ấy mà anh chấp nhận hy sinh mạng sống mình. Và khi chiến tranh xảy ra, anh chết để bảo vệ đất nước mình nhưng đồng thời cũng là để bảo vệ tất cả những gì tạo nên phẩm giá con người ”.
Con người tư tưởng
Nhân dịp văn hào Albert Camus được trao giải thưởng Nobel văn chương, giáo sư Bùi Xuân Bào rất trân trọng tinh thần của “l’Homme Révolté” (“Con Người Phản Kháng”) mà Camus phác họa, vì sự phản kháng ấy phát xuất từ tri thức phi lý để đi đến tình liên đới nhân loại, bằng những lời ca tụng sau đây:
“Với Camus, chúng ta đứng trước một lương tâm, chúng ta nghe tiếng nói của một kinh nghiệm đau đớn, nhưng toả ra một bài học linh động và đầy dũng cảm. Vì vậy Camus là một người và một nhà văn chân thật và thủy chung. Thủy chung với công bằng, với tự do, với giá trị con người. Thủy chung với nghệ thuật, với sáng tạo, với tư tưởng”.
Thế nhưng, từ lương tâm Kitô hữu của mình, giáo sư Bùi Xuân Bào không thể đồng tình với Camus. Là một người từ chối “ngước mắt lên trời, nơi mà Thiên Chúa im lặng, Camus không thể nào tìm được một lời giải thích thỏa đáng cho nỗi khổ của nhân loại: cái chết của người vô tội, giọt nước mắt của trẻ thơ.
Đó là lý do khiến Camus đề ra cho con người một giải pháp hợp lý nhưng hoàn toàn tuyệt vọng: Camus cho rằng giá trị con người và cũng là hạnh phúc của họ, chính là phấn đấu để tiến lên mà không cần kỳ vọng vào một kết quả nào.
Giáo sư Bùi Xuân bào đã dứt khoát phê phán quan điểm nầy và qua đó, giáo sư tỏ lộ niềm xác tín của mình. Chính cái chết phi lý của người em đã làm cho giáo sư phản kháng, nhưng cách giải quyết phản kháng của giáo sư cũng phi lý như Francois d’Assise, Vincent de Paul, chớ không hợp lý theo kiểu Camus.
Thật vậy, Camus rất hợp lý như phần đông nhân loại: vì trước một điều oan ức như cái chết của một kẻ vô tội, người ta thường trách “trời không có mắt” và phủ nhận tin vào một Thượng Đế mà họ cho là bất công.
Trái lại, những vị Thánh như Francois d’Assise hay Vincent de Paul đã nhìn vào “con người vô tội tuyệt đối” bị giết chết một cách bất công để rồi đón nhận điều phi lý nầy: ấy là Thiên Chúa có thể để cho người vô tội chết thay cho kẻ có tội.
Từ đó các ngài lại càng xác tín vào Thiên Chúa là Tình yêu, để rồi tiếp tục làm chứng như Thánh Gioan đã viết: “Còn chúng ta, chúng ta đã biết Tình Yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta và đã tin vào Tình Yêu đó. Thiên Chúa là Tình Yêu: ai ở lại trong Tình Yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”. (1 Ga 4, 16).
Cũng như Thánh Gioan, giáo sư Bùi Xuân Bào đã rút máu từ con tim mình để viết lên những câu sau đây:
“Nghiên cứu siêu hình học, nhưng mất liên lạc với chân lý siêu việt, Camus không thông cảm nổi mối huyền bí của hy sinh tuyệt vời. Những giọt nước mắt, những dòng máu của trẻ con, của những kẻ vô tội, chỉ có lòng bác ái của Chúa Cứu thế chết trên thánh giá mới có thể giải thích được.
Camus không biết rằng những người phản kháng sâu xa nhất chính là các vị Thánh như Francois d’Assise, Vincent de Paul, Têrêxa Chúa Hài Đồng, đã chiến đấu chống bất công và ích kỷ. Với tình thương, họ đã biến chất nền văn minh và góp công lớn trong lịch sử của tinh thần nhân loại”.
Con người chính trị
Giáo sư Bùi Xuân bào không bao giờ thích làm chính trị, vì giáo sư cho rằng làm chính trị thì phải ‘thủ đoạn” mà giáo sư không bao giờ có thể nói lên một điều không trung thực với lương tâm mình. Thế nhưng, điều không ai phủ nhận được là giáo sư Bào có một tình yêu nồng nàn đối với quê hương và dân tộc mình.
Tinh thần yêu dân yêu nước đó nổi bật qua các tác phẩm của giáo sư mà đa số được viết bằng tiếng Pháp, đề cập đến “văn hoá nhân vị”, “tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ hiện đại” (luận án phụ tiến sĩ).
Cũng do tinh thần yêu thương dân tộc đó mà giáo sư gánh lấy nhiều trách nhiệm trong guồng máy quốc gia, từ Cố Vấn Văn Hóa Tòa Đại Sứ đến Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục. Là một thành viên trong chính phủ, khi giáo sư phát biểu với tư cách đại diện cho một quốc gia thì dù muốn dù không, giáo sư cũng làm chính trị rồi, theo nghĩa tốt đẹp nhất. Và “con người chính trị” nơi giáo sư Bùi Xuân Bào là “con người yêu nước”, luôn nỗ lực để cho sự “công chính được ngự trị” trên đất nước mình.
Vào ngày 25/6/1956, với tư cách là Cố Vấn Văn Hóa Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Paris, giáo sư Bùi Xuân Bào đã phát biểu tại Hội Nghị Florence, với chủ đề “Hòa Bình và Văn Minh Kitô Giáo” và giáo sư đã nói lên cái thao thức của mình cũng như của người dân trên đất nước mình, với âm hưởng của niềm tin được tỏ bày qua từng câu nói sau đây:
“Chúng tôi xác nhận lòng tin tưởng vào giá trị tuyệt đối của con người, vẫn có thiên mạng bất diệt và sẵn có phẩm giá từ trước khi xã hội được tạo thành…Chúng tôi xác nhận rằng thực hiện dân chủ không phải là đi tìm hạnh phúc vật chất, cũng không phải lấy mạnh hiếp yếu.
Bản chất của dân chủ là sự cố gắng không ngừng để tìm mọi phương pháp chính trị khả dĩ bảo đảm cho tất cả các công dân quyền tự do phát triển, phát huy sáng kiến, đảm đương trách nhiệm và sinh hoạt tinh thần đến cao độ”.
Đối với giáo sư Bùi Xuân Bào, “giá trị tuyệt đối của con người” nhờ “có thiên mạng bất diệt và có phẩm giá” từ thuở đời đời là một chân lý bất di bất dịch. Với tư cách là một nhà chính trị và là một người được Chúa chiếm hữu, giáo sư đã không ngừng khẳng định lập trường nầy trên mọi diễn đàn thế giới.
Cũng vì thế, từ năm 1955, khi hợp tác với Hồ Sĩ Khuê để dịch tác phẩm “Terre des Hommes” của Saint Exupéry, giáo sư Bùi Xuân Bào đã không dịch là “Cõi Người Ta” hay “Vùng Đất Con Người”, như các dịch giả khác mà đi ngay vào cốt lõi của tư tưởng Saint Exupéry để dịch là “Giá Trị Con Người”.
TIẾT BỐN
MỘT ĐỜI CHỨNG TÁ
Chiếc Giày Bằng Vải Xa Tanh
Trước kia, khi giảng dạy về Claudel, giáo sư Bùi Xuân Bào đã dành rất nhiều thời giờ cho tác phẩm “Le Soulier de Satin” (“Chiếc Giày Bằng Vải Xa Tanh”). Trước hết vở kịch nầy nói lên thảm kịch tình yêu mà qua đó Claudel tìm ra sự bình an và lời giải đáp cho cuộc đời đầy sóng gió của mình.
Cốt lõi của tác phẩm là chuyện tình giữa Rodrigue và Prouhèze. Rodrigue là một vị tướng lãnh dọc ngang bốn bể, chiến thắng lẫy lừng, còn Prouhèze là một phụ nữ đạo đức, đẹp từ dáng dấp tới tâm hồn. Tình yêu giữa hai người rất thuần khiết, nhưng Prouhèze đã có chồng và chấp nhận trả mọi giá để sống một cuộc sống trong sáng mà không phản bội bí tích hôn nhân.
Khi sắp lao vào tình yêu mù quáng, cô đã dâng lên Đức Mẹ Chiếc Giày Bằng Vải Xa Tanh và cầu xin Đức Mẹ giữ gìn cô để cô chỉ chạy theo con tim yếu đuối của mình với một bàn chân què quặt mà thôi. Tinh thần hy sinh xâu xé cô đến độ cô phải chết. Cái chết hiến tế nầy đã làm cho Rodrigue bật tỉnh, để rồi ông cảm nhận được hạnh phúc đích thực khi từ bỏ mọi sự và trở thành một người làm vườn vô danh trong một đan viện cũng vô danh. Và lời kết thúc tác phẩm mà cũng là một ca khúc khải hoàn, đó là câu: “Délivrance aux âmes captives” (“giải thoát cho những tâm hồn bị giam cầm”).
Con đường tự hủy của Chúa Kitô
Diễn tiến cuộc đời của giáo sư Bùi Xuân Bào cũng tương tự như cuộc đời dọc ngang của Rodrigue. Giáo sư từng yêu mến người em Bùi Xuân Bàng. Hai anh em gắn bó với nhau như một đôi bạn chí thiết, mặc dù người em có một đức tin vững mạnh vào Chúa Kitô. Với cái chết của người em, giáo sư đã tìm thấy con đường “tự hủy” của Chúa Kitô.
Sau những năm tháng lẫy lừng, giáo sư Bùi Xuân Bào đã bị giam cầm ba năm rồi đi biệt xứ trong một tình trạng bệnh tật cô đơn, suốt mười năm cuối đời, nhưng chưa bao giờ giáo sư nói lên một lời oán hận hay một câu phê phán, dù là phê phán những bạn hữu hăng hái xưa kia mà một sớm một chiều đã trở nên bội phản ươn hèn, dù là oán hận những đối thủ nói lời ngọt ngào, nhưng lại giam cầm mình từ Nam chí Bắc.
Giáo sư Bùi Xuân Bào cũng chẳng viết lách hay để lại một tập sách nào, dù là một hồi ký để gợi lại cái vinh quang quá khứ hay một lời trần tình hầu truyền lại cho con cháu kinh nghiệm hiếm hoi của mình. Giáo sư Bào đã sống trong âm thầm để rồi cũng chết đi trong âm thầm. Âm thầm đến độ những người bạn chí thiết của giáo sư cũng chỉ được tin giáo sư đi về vĩnh cửu sau khi giáo sư đã yên nghỉ trong lòng đất tha hương.
Vào những ngày cuối cùng, nhìn lại cuộc đời lên tận chức thứ trưởng rồi rơi xuống nhà giam, tiếp theo là những ngày mòn mỏi lưu đày; nhìn lại tuổi trung niên hăng hái với gót chân chứng tá đi nhiều nơi trên thế giới rồi đến hình hài tiều tụy với trái tim thoi thóp bệnh hoạn ở tuổi già; nhìn lại cuộc đời từ đỉnh cao đến vực thẳm…giáo sư Bùi Xuân Bào trông thấy được gì? Người em gái của giáo sư là Mẹ Mai Thành đã nói về những ngày cuối đời của giáo sư như sau:
“Tháng giêng năm 1991, tôi sang Pháp vì công tác của Dòng Đức Bà, được gần gũi anh nhiều cho đến ngày anh tạ thế…Trước đó vài ngày, tôi chia sẻ với anh một vài Lời Chúa. Khi tôi nhắc đến câu của Bernanos kết thúc cuốn “Le journal d’un curé de campagne” (“Nhật ký của một cha sở vùng thôn quê”), một tác phẩm mà anh yêu thích, là “Tout est grâce” (“Tất cả đều là ân sủng”), mặc dù anh đau đớn khắp mình và khó thở, anh gật đầu nhắc lại với một giọng đã yếu ớt: “Tout est grâce” (“Tất cả đều là ân sủng”).
Cuộc đời anh Phêrô Bùi Xuâm Bào không dài lắm, nhưng theo tôi thì phong phú, tươi vui vì anh hài hước và càng ngày, với ơn Chúa, anh càng dịu dàng, khiêm tốn, bình an đón nhận Thánh Ý Chúa, để có thể cùng ông cha sở vùng thôn quê của Bernanos thốt lên: “Tất cả đều là ân sủng”.
TIẾT NĂM
LỜI DI CHÚC
Tình yêu nơi Claudel
Cách đây trên bốn thập niên, giáo sư Bùi Xuân Bào đã chọn đề thi về môn văn chương Pháp cho các sinh viên năm cuối cùng Đại Học Sư Phạm là “L’amour chez Claudel” có nghĩa là “Tình Yêu nơi Claudel”, tức “Tình Yêu theo quan niệm của Claudel” hay “Tình Yêu dưới cái nhìn của Claudel”. Thật ra, qua “Tình Yêu nơi Claudel”, người ta cũng tìm thấy “Tình Yêu nơi Bùi Xuân Bào”, bởi vì trên một bình diện nào đó, giáo sư Bào giống Claudel rất nhiều điểm.
Cả hai người từng là đại diện cho đất nước mình ở hải ngoại, từng đạt những chức vị cao trong tổ chức chính quyền. Nhưng tự thâm sâu, họ vẫn là những con người của tình yêu, một tình yêu xuất phát từ một đức tin Công giáo mãnh liệt.
Suy niệm về kinh “Magnificat”
Hình như trong đời mình, giáo sư Bùi Xuân Bào chỉ viết lên một bài suy niệm duy nhất về kinh “Magnificat” của Đức Mẹ, có lẽ Đức Mẹ là mẫu mực của thinh lặng, của nguyện cầu, của chứng tá, của tình yêu. Bài suy niệm đó được giáo sư Bùi Xuân Bào viết gần 8 năm trước khi qua đời và giáo sư đã gởi gắm vào đấy tâm tình mình như một lời di chúc.
Qua bài suy niệm đó, người ta thấy lại trọn vẹn con người của giáo sư: một người có thể cất lên tiếng nói đầy uy quyền trước mặt thế gian, nhưng đã chấp nhận im lặng như Đức Mẹ để chỉ làm mỗi một việc là tôn vinh Tình Yêu Thiên Chúa. (Bài suy niệm viết bằng tiếng Pháp của giáo sư Bùi Xuân Bào đã được anh Trần Duy Nhiên dịch ra Việt ngữ).
“Tôi chưa từng biết bài thơ nào cô đọng hơn, phong phú hơn và có tầm vóc phổ quát hơn bài ca tạ ơn mà Thánh Luca đã đặt để trên môi miệng của Đức Mẹ, sau phần Truyền Tin và Đi Viếng.
Các nhà chú giải đã cho thấy rằng, nếu tách rời ra, các câu trong ca vịnh nầy tự chúng không có gì là độc đáo. Những câu ấy thường gặp trong Thánh Kinh và được người ta dùng để ca tụng từ thời “thiếu nữ Xion”. Nhưng những câu ấy được trích lại và nối kết trong một bối cảnh mới, nhờ đó mà chúng có một nét tươi trẻ và một tác động phi thường, mở ra một thời đại mới trong lịch sử tâm linh của loài người.
Một Kitô hữu, noi gương Claudel – ông cũng từng viết lên bài Magnificat của mình – đều phải sống lại một cách sâu xa và tẩm vào trong từng sớ chỉ dệt lên vận mệnh bản thân mình một phần niềm vui ngày truyền tin về cuộc Giáng Sinh của Đấng Thiên Sai.
Nhưng tôi muốn nhấn mạnh đến sứ điệp hy vọng mà kinh Magnificat đem lại cho chúng ta.
Thiên Chúa không chỉ “đoái thương nhìn đến người nữ tì hèn mọn” mà ân sủng hoàn toàn nhưng không của Người ngày nay vẫn còn đốt nóng hàng triệu triệu người nam nữ, những người biết triệt hạ tính kiêu căng và ý chí quyền lực của mình, để lắng nghe loan tin rằng mình được làm mẹ một cách tinh tuyền, cưu mang Tình Yêu và Công Lý.
Làm sao mà không lặp lại những câu ca vịnh nầy trước mặt thế gian ngày nay, nơi mà bạc tiền, quyền lực, ý thức hệ và khoa học kỹ thuật đang đè bẹp con người!
Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban cho đầy dư; người giàu có, lại đuổi về tay trắng .
Tất
cả chúng ta, dù là Kitô hữu hay không phải là Kitô hữu, chúng ta đều
cần phải nỗ lực để biến thành hiện thực sứ điệp tình yêu nầy, ở bất cứ
nơi nào còn ngự trị bất công xã hội, bần cùng, đói khổ và miệt thị con
người”
(Bùi xuân Bào - Ngày 02/02/1984)
Tác giả Đỗ Tân Hưng
THƠ DIÊN NGHỊ
Mẹ Già
Sóng rồn rật bờ xa,
Gió ào ào thổi mãi
Từng đám mây bay lại,
Hối hả giữa chiều cao
Thuyền không, bến lặng, sông sâu,
Trông ai mắt mẹ rầu rầu sót thương!
Tôi ngang qua bến,
Tôi dừng lặng yên,
Vì tôi biết mẹ đang phiền
Muôn con phiêu bạt ra miền khói mâỵ
Mẹ cúi xuống
Tránh gió lây tạt mặt
Gió chiều về lạnh ngắt gió ơi!
Gió thổi nghìn hoa rơi
Gió rung xào xạc lá.
Rùng mình mẹ ngoảnh lại
Thấy tôi
Mẹ mừng, mẹ giận, mẹ cười
1. chuyện của nàng
nàng ở đâu ? xóm biển ? lưng đồi ?
cao nguyên, bình địa, cuối chân trời
hoặc lòng đô thị , khu thành ngoại
tôi đã tìm nàng khắp mọi nơi
tôi hỏi bình minh , gặp hoàng hôn
phương tây trời chết , hắt hiu buồn
rừng hoa tang chế không thèm tiếp,
ngoảnh mặt làm lơ , quá lạ lùng
tôi viếng phương đoài, lạc hướng đông .
sông cau mày giận, xót xa lòng
nhà ai khép kín song đài các
nét liễu tường hoa cũng ngại ngùng .
nàng áo xanh ? áo tím diễm kiều .
áo nâu , dù loang lổ mầu rêu
bàn tay lao động hay ngà ngọc
vẫn một linh hồn, tôi mến yêu .
đi tìm nàng trắng những đêm trăng
lắng nghe gió biển nhắn mây ngàn
ngoảnh nhìn bốn phía còn sa mạc ,
biết nói làm sao chuyện của nàng .
reo gọi điên cuồng, rừng vũ trụ
trăng sao che khuất lôi đi về
không gian mờ mịt vào vô thức
một bước nhấc lên nặng khối chì .
lảng đảng hồn trôi trong chiêm bao,
bơ vơ còn nhận biết phương nào ?
nàng là mộng ảnh hay chân thực ?
hay vẫn còn xa mặt địa cầu .
( CHUYỆN CỦA NÀNG )
2. một mình
thác đổ sau rừng gọi biển khơi ,
buổi chiều thoi thóp nắng tàn hơi
bước chân dẫm nhẹ trên đường lá ,
vọng hướng xưa về chưa đến nơi .
bóng quạ chập chờn thung lũng sâu ,
cỏ tranh xơ xác, nửa vàng nâu.
khói sương vương vấn, chòi xa lạ.
quạnh quẽ lòng người có luyến nhau ?
hồn cao hơn núi , tình khuất mây
lòng mãi hoang vu tựa tháng ngày
nghe nước thân nguồn, cây trách gió ,
sầu đeo nhân thế cũng buồn lây .
mộng bỗng hư vô, ruột xót cồn .
mắt mờ viễn ảnh, ngút hoàng hôn
ghềnh nghiêng thiếu lối đèo không ngõ
mặt đất cuồng say , thịt rã mòn .
thấp thoáng trời đen sao nhỏ lên,
tám phương hướng rộng nát say mềm.
bàn tay nhược tiểu, cành khô nỏ
biết víu vào đâu chỉ một mình !
muốn trả xác nghèo cho cát bụi,
làm viên đá lớn , dựng bên đồi
làm nhân chứng hộ cho sông núi ,
đã biết thương đau cũng ngậm cười .
( CHUYỆN CỦA NÀNG )
3 . cho tôi
cho tôi xin một tiếng cười ,cho tôi giữ mãi nụ cười mến thân .
bàn tay ngọc, khóe mắt nhìn .
làn môi mọng đỏ dịu hiền làm sao
hiến dâng xin nói ngọt ngào,
lòng đừng lãnh đạm, lời chào chưa quen .
cho tôi tất cả , đang thèm ,
tóc mùi dạ lý, da mềm mịn thơm ,
cuối cùng cho một chiếc hôn ,
và cho tôi cả linh hồn của em .
[]
( CHUYỆN CỦA NÀNG )
THƠ PHAN NI TẤN
Chiều Trên Quê Hương
Tác giả: Phan Ni Tấn
1.bắc Cần Thơ
chờ bắc ở bến Ninh Kiều
gío về thổi ướt cả chiều dưới sông
ta như bèo nước bềnh bồng
mấy năm đi biệt mà không về nhà
những thằng sống sót trận qua
chiều nay đợi chuyến bắc ra chiến trường
2.quán lá ở daknil
hớp một hớp nước trà thiu
im nghe tịch lặng hiu hiu thổi về
cái đời lính trận xa quê
nhìn sương khói phủ thấy thê lương chiều
hớp thêm hớp nước trà thiu
nghe trong tịch lặng có điều bất an
3.ghé krongpha ngồi nhớ
quanh co xuống dốc đèo dài
đoàn quân xa đậu dọc hai bên đường
trời chạng vạng đã mù sương
đèn lên quán thấp, ngồi thương nhớ nhà
chim chiều khắc khoải xa xa
lòng buồn như ứa mắt ra đầm đầm
tính ra, ừ, đã nhiều năm
phong trần ta vẫn biệt tăm chốn nào
4.qua đèo Mụ Gìa
xe lên tới đỉnh mụ gìa
trên cao trời đất bao la vô cùng
ngợp hồn ta giữa muôn trùng
lũng sương mây đọng trắng vùng sơn lâm
dưới sâu cây đứng ngàn năm
chìm trên đèo thẳm âm âm bóng chiều
theo xe ta xuống thôn nghèo
hồn còn vắt vẻo giữa đèo hoang vu
5.về Buôn ma Thuộc
lên đèo Dục Mỹ ban trưa
ta về ở dưới gío mưa não nùng
xe qua đồi núi chập chùng
lên heo hút lạnh núi rừng tây nguyên
tưởng đi rủ sạch ưu phiền
ngờ đâu bụi đỏ trên miền cuốn theo
thôi thì về với cheo leo
nghe chim ông láo kêu rêu cũng đành
lên tây nguyên trấn giữ thành
thương con vượn hú trên cành chon von
đón ta về núi về non
bóng tà đỏ tợ như hòn núi rơi
chờ bắc ở bến Ninh Kiều
gío về thổi ướt cả chiều dưới sông
ta như bèo nước bềnh bồng
mấy năm đi biệt mà không về nhà
những thằng sống sót trận qua
chiều nay đợi chuyến bắc ra chiến trường
2.quán lá ở daknil
hớp một hớp nước trà thiu
im nghe tịch lặng hiu hiu thổi về
cái đời lính trận xa quê
nhìn sương khói phủ thấy thê lương chiều
hớp thêm hớp nước trà thiu
nghe trong tịch lặng có điều bất an
3.ghé krongpha ngồi nhớ
quanh co xuống dốc đèo dài
đoàn quân xa đậu dọc hai bên đường
trời chạng vạng đã mù sương
đèn lên quán thấp, ngồi thương nhớ nhà
chim chiều khắc khoải xa xa
lòng buồn như ứa mắt ra đầm đầm
tính ra, ừ, đã nhiều năm
phong trần ta vẫn biệt tăm chốn nào
4.qua đèo Mụ Gìa
xe lên tới đỉnh mụ gìa
trên cao trời đất bao la vô cùng
ngợp hồn ta giữa muôn trùng
lũng sương mây đọng trắng vùng sơn lâm
dưới sâu cây đứng ngàn năm
chìm trên đèo thẳm âm âm bóng chiều
theo xe ta xuống thôn nghèo
hồn còn vắt vẻo giữa đèo hoang vu
5.về Buôn ma Thuộc
lên đèo Dục Mỹ ban trưa
ta về ở dưới gío mưa não nùng
xe qua đồi núi chập chùng
lên heo hút lạnh núi rừng tây nguyên
tưởng đi rủ sạch ưu phiền
ngờ đâu bụi đỏ trên miền cuốn theo
thôi thì về với cheo leo
nghe chim ông láo kêu rêu cũng đành
lên tây nguyên trấn giữ thành
thương con vượn hú trên cành chon von
đón ta về núi về non
bóng tà đỏ tợ như hòn núi rơi
LÂM CHƯƠNG * SOC CON TRĂNG
Sóc Con Trăng
Sóc Con Trăng. Cái địa danh lạ lùng, nằm về phía Tây Nam, sát biên giới Việt Miên. Nếu so với ngàn xanh mênh mông, Sóc Con Trăng chỉ là một trảng trống rất nhỏ giữa rừng già, thuộc mật khu Dương Minh Châu. Nhìn vào bản đồ quân sự, nơi đây có những vòng cao độ màu nâu thưa thớt, biểu thị một ngọn đồi thoai thoải. Ước hiệu bản đồ còn cho thấy, có chừng vài mươi nóc nhà nằm rải rác trong khu vực. Nhưng hiện tại, Sóc Con Trăng hoàn toàn hoang dã. Những nền nhà cũ của một thời xa xăm, đã mất dấu.
Sớm mai. Ðứng trên đồi nhìn ra bìa rừng. Sương mù kéo một vệt dài trắng xóa, như dải lụa bạch vây quanh chân đồi, che lấp cây xanh. Khi mặt trời vừa lên, sương tan rất vội. Phút chốc, cảnh vật hiện ra rõ nét, biến đổi không ngờ. Rồi sương chiều lại tụ, lúc mặt trời chìm khuất sau rừng cây yên ả. Cái yên ả đìu hiu giả tạm bề ngoài. Trời vừa chạng vạng, chim rừng thôi líu ríu trên cây. Mặt đất bắt đầu nhá nhem bóng tối thì từ trên đồi có những người đi xuống, xâm nhập vào rừng cây. Và ở một nơi bí mật nào đó, cũng có những kẻ âm thầm len lỏi, tiến sát về Sóc Con Trăng. Tất cả, họ là loài săn mồi ban đêm. Trong im lặng của rừng già, ẩn giấu biết bao điều hiểm nguy bất trắc. Những đôi mắt mở trừng không xuyên qua được bóng tối, họ vận dụng khả năng thính giác. Gióng lỗ tai nghe ngóng. Tiếng vỗ cánh của con chim đớp muỗi, cũng làm họ chú tâm lo lắng. Tiếng gãy đổ một cành cây khô, cũng làm họ giật mình hồi hộp. Súng luôn mở khóa an toàn, trong tư thế sẵn sàng khai hỏa. Tử thần không bao giờ nhân nhượng cho kẻ vô ý để mình bị đối phương phát hiện trước. Khó có cơ hội rút kinh nghiệm bản thân để sửa sai, sau lần đầu tiên lầm lỗi. Xác suất sống còn rất ít, khi đứng trước tầm đạn địch.
Một ngày giữa tháng Chạp. Tiểu đoàn được trực thăng vận vào vùng đất ấy. Vùng đất mà thời bình không ai thèm bén mảng. Nhưng trong thời chiến, đó là một yếu điểm, các nhà quân sự muốn chiếm lấy ưu thế, chận họng đối phương. Và đối phương lúc nào cũng cảm thấy khó chịu. Họ muốn móc cái xương vướng mắc trong cổ, để khai thông huyệt đạo từ Quảng Ðức, Phước Long, Bình Long xuống Tây Ninh, và từ Kampuchia vào mật khu Dương Minh Châu. Thế là Sóc Con Trăng trở thành chiến địa. Hai bên đổ máu, giành nhau từng thước đất trên ngọn đồi khô, đầy những cỏ dại phất phơ bông trắng. Dưới chân đồi cũng chẳng có gì hơn, ngoài loại cỏ tranh cao ngang bụng, trải dài ra tận bìa rừng.
Ngày đầu tiểu đoàn đến đây. Tình hình còn rất yên tĩnh. Có thể đối phương chưa kịp chuẩn bị để làm một cuộc tấn công. Nhưng vẫn phải đề phòng bị đánh úp bất ngờ lúc tiểu đoàn đang chân ướt chân ráo. Các toán tiền đồn, và tuần tiễu an ninh chung quanh khu vực, hoạt động ráo riết. Số còn lại, lo ổn định vị trí, bắt tay vào việc đào công sự phòng thủ. Bộ chỉ huy tiểu đoàn đóng trên đỉnh đồi, ngay trung tâm cái mỏ ác của những vòng cao độ. Từ đó, có thể nhìn bao quát được các đại đội nằm bao quanh dưới lưng chừng đồi.
Mọi người trong tiểu đoàn đều biết, nhảy vào Sóc Con Trăng là một thử thách lớn đối với địch quân, đông hơn nhiều lần. Hai công trường 7 và 9 của quân Bắc Việt đang áp sát biên giới, phía bên kia phần đất Kampuchia. Theo cái công ước quỷ quái gì đó, cam kết hai nước không xâm phạm biên giới lẫn nhau. Quân Bắc Việt lợi dụng lãnh địa an toàn này, làm căn cứ hậu cần vững chắc. Ðưa quân sang biên giới đánh đấm. Xong, rút về bên kia dưỡng quân. Tiểu đoàn bị ngăn cấm tuyệt đối, không được nã pháo qua Kampuchia. Không có cuộc chiến nào quy định những điều bất lợi lạ lùng như thế. Chịu thiệt thòi để giữ cái tình giao hảo của hai quốc gia. Thằng nào tức thì cứ chửi đổng, nhưng lệnh vẫn phải thi hành. Tòa án quân sự đang chờ đợi những ai vi phạm quân kỷ ngoài mặt trận, để tống vào quân lao. Tên nào cũng ớn!
Không qua được biên giới, người ta thả tiểu đoàn xuống Sóc Con Trăng, làm miếng mồi nhỏ, nhử đàn kiến lớn bu lại để tiêu diệt. Nhưng tiêu diệt bằng cách nào, chỉ có mấy ông tướng tư lệnh quân đoàn, sư đoàn biết. Anh em lo ngại, không khéo cả đơn vị sẽ phơi thây trên ngọn đồi này, nếu đối phương quyết tâm áp dụng chiến thuật biển người, tiền pháo hậu xung. Trong pho chiến sử đã từng ghi lại các trận đánh đẫm máu, lấy mười đổi một, chỉ với mục đích làm bàn thắng, gây tiếng vang và mặc cả trên bàn hội nghị. Sóc Con Trăng có quan trọng đến mức đối phương phải trả cái giá quá đắt như thế hay không? Ðâu ai biết. Dù gì đi nữa, một khi đã vào tử địa, không có con đường lựa chọn nào khác hơn là tử thủ, quyết liệt chiến đấu. Ai cũng muốn còn cái mạng trở về. "Giành sự sống trong nỗi chết". Câu nói hồi còn trong quân trường là châm ngôn duy nhất để giữ mạng mà thôi.
Tôi là trung đội trưởng. Một chức vụ nhỏ trong guồng máy lớn. Chỉ huy hơn hai mươi tay súng. Nằm tuyến đầu, trước mũi đạn. Chịu cái gian nguy của một khinh binh. Lại đèo thêm nhiệm vụ làm gạch nối từ đại đội trưởng xuống anh em binh sĩ. Sức ép của cả hai bên dồn lại, trung đội trưởng chịu đủ tiếng chì tiếng bấc. Anh em binh sĩ bê bối, đại đội trưởng khiển trách trung đội trưởng. Công tác cực nhọc, hành quân không có lúc nghỉ, anh em cằn nhằn văng tục, trung đội trưởng nghe. Những khi rỗi việc ngồi tán gẫu, bạn bè nói đùa ám chỉ trung đội trưởng là cầm cặc chó đái. Dù nói đùa, nhưng không phải không đúng. Làm trung đội trưởng, chẳng ăn được cái giải gì, chỉ khổ thân. Con nhiều cha, tụ về một mối. Mỗi người ương ngạnh một kiểu khác nhau. Không dễ chỉ huy. Hai năm làm trung đội trưởng, cho tôi nhiều kinh nghiệm đắng cay. Mềm quá, bị coi thường lờn mặt. Cứng quá, gây bất mãn. Tốt nhất là hòa mình cùng anh em đồng đội, nhưng có lúc cũng phải mượn kỷ luật làm răn đe những anh ba gai, hoặc tắc trách trong nhiệm vụ.
Hoàn cảnh gia đình để lại sau lưng, về đây làm những đứa con trung đội, chịu chung một tình huống. Bỏ đi những tị hiềm dị biệt. Nương tựa vào nhau mà sống. Tương trợ nhau mà đi qua những cơn lửa đạn. Không ruột thịt cũng thành thân thiết. Ðêm chiến hào, khum đầu trong nón sắt, chia nhau từng hơi khói thuốc. Rủ rỉ kể cho nhau nghe nỗi niềm tâm sự. Cha mẹ, vợ con, người yêu bé nhỏ đang chờ đợi nơi phố thị đông người, hay một miền quê nghèo nàn hẻo lánh nào đó.
Hồi chiều, lúc đang đào công sự phòng thủ, thằng Công hỏi: "Thiếu úy ơi. Con đào của tôi, nó hẹn về đi chợ tết. Tiểu đoàn mình, có ra khỏi cái nơi hắc ám này, trước tết không?"
Tôi nói: "Hẹn lại tết năm sau đi."
"Như vậy là mình ăn tết ở đây?"
"Ăn tết hả? Mày hỏi mấy con khỉ đột trong rừng, nó có chịu để yên cho mày hay không?"
"Ðánh đấm hoài, chán bỏ mẹ! Hết rừng núi, lại sình lầy. Không biết ngày nào hết khổ."
Nó than, như chính tôi là người làm cho nó khổ. Tôi bảo: "Lính nào cũng khổ. Chỉ có lính kiểng là sướng thôi, con ạ!"
Thằng Công im lặng, khi vị đại đội trưởng đi tới, đôn đốc và kiểm soát các trung đội đào hố cá nhân dọc theo phòng tuyến. Ông dặn, đào hố phải làm nóc kiên cố. Tình hình căng thẳng lắm. Nếu địch quân tràn ngập vị trí, pháo binh sẽ bắn nổ chụp ngay trên đầu. Thằng nào lười biếng, không làm nóc, là tự mình khai tử. Ông nhai lại điều này nhiều lần. Anh em phát bực.
Ðại đội trưởng đi khỏi, thằng Nhân nói: "Ðù mẹ! Chết sống có số. Khi đã tới số, thì chạy đàng trời cũng không khỏi nắng."
Thằng Tứ Ách, chống cán xẻng, phanh ngực áo, quạt phành phạch, cũng phụ họa: "Những thằng ở thành phố, đang nằm trên bụng vợ, bỗng ngã lăn ra chết vì thượng mã phong. Số trời đấy."
Lại một thằng nữa, tiếp theo: "Thế là sướng tới hơi thở cuối cùng. Tao thà chịu chết vì thượng mã phong, chứ không muốn ở đây chết chung với bọn mày."
Nhiều tiếng cười hô hố sau câu nói.
Tiểu đội trưởng, tên Nẫm, đang hì hục đào hố, ngẩng lên nhìn: "Chỉ lo tán dóc và cười. Cả buổi, mà quào cái hố chưa bằng cái lỗ đĩ. Khi đụng trận, thằng nào chạy qua hố tao núp ké, tao đạp văng ra ngoài."
"Ðất cứng quá, trung sĩ ơi."
"Lúc nào cũng rên. Muốn đi đầu thai sớm thì vất xẻng, khỏi cần đào hố."
Tôi đi dọc theo phòng tuyến, quan sát phần trách nhiệm trung đội. Giữa tháng Chạp, nhưng nắng của buổi xế chiều ở đây, vẫn còn gay gắt lắm. Ai cũng tháo mồ hôi. Ðào một cái hố cá nhân trên thế đất đồi khô cứng, không là chuyện dễ.
Biết vậy, nhưng tôi vẫn nói: "Khi mặt trời lặn, thằng nào chưa xong tao tống ra nằm tiền đồn."
Có tiếng đáp lại của Ðiền Ðô: "Dọa ai thì dọa. Chứ thằng này là dân chơi thứ thiệt, không ngán đâu. Ðừng dọa."
"Mày bảo tao dọa hả? Ðù mẹ! Có ngon thì ngồi hút thuốc, làm thơ đi con. Tối nay sẽ biết đá vàng ."
Ðiền Ðô im lặng. Nó biết tôi không đùa.
Tiền đồn cho một đơn vị là toán quân báo động, nằm ngoài tuyến phòng thủ. Do đó, toán tiền đồn thường đặt ở những nơi tiên liệu địch quân có thể xâm nhập áp sát đơn vị. Tiền đồn là toán chạm địch đầu tiên. Muốn tấn công một đơn vị, địch quân phải tiêu diệt cho được những toán tiền đồn chung quanh phòng tuyến, từ ngoài xa. Và như thế, đơn vị phòng thủ kịp thời chuẩn bị tác chiến, trước khi địch quân tiến đến gần kháng tuyến chính. Trong trận mạc, người ta chấp nhận hy sinh một số nhỏ, để bảo toàn lực lượng lớn. Ðóng quân ở những vùng bị áp lực địch nặng nề, dù là thằng to gan nhưng tới phiên vác ba lô, xách súng đạn đi làm tiền đồn cũng lạnh cẳng.
Anh em trong đơn vị, thường nói năng lỗ mãng, tưởng có thể ghét bỏ hại chết đời nhau. Nhưng thật ra, đó lại là điều thể hiện sự gần gũi thân tình của những thằng đi trận. Ðặt cho nhau những cái biệt danh quái gở để cười vui. Dần dần biệt danh trở thành quen thuộc, không còn gọi bằng nhau bằng tên chính thức nữa. Thằng Công khinh binh, biệt hiệu Công Ngủ. Thằng Ðức mang súng phóng lựu M79, gọi Ðức Cạp. Thằng Ðiền tiểu đội phó là Ðiền Ðô. Thằng Mai phụ xạ thủ đại liên, những lần về phép hay la cà nơi các động mãi dâm, anh em đặt Mai Ghế. Thằng Ty vác đại liên, thường khoe con cu của nó là một vưu vật lý tưởng trên đời, nên được tặng danh hiệu Ty Cai Dù. Những biệt danh này, được hiểu theo nghĩa nói lái. Còn có những biệt danh, chỉ đặc tính. Như thằng Minh mang máy truyền tin, hay đánh tráo bài ba lá, gọi Minh Ðiếm Chảy. Thằng Nhân cấp bậc hạ sĩ, viết thư về cho vợ, chưa gởi đi, bị anh em coi lén, thấy nó thay chữ ký bằng bốn con bài cơ rô chuồn bích. Từ đó, anh em gọi nó là Nhân Tứ Ách, để phân biệt với Nhân súng cối. Thằng này hay chửi thề nên có hỗn danh Nhân Ðù. Thượng sĩ trung đội phó, trước kia thuộc Sư Ðoàn 25 Bộ Binh, sau đổi qua Biệt Ðộng, mang danh Mai Chò Gãi. Mới đầu, tôi không hiểu ý nghĩa của cái tên kỳ lạ này. Anh em giải thích, "mai chò gãi" là tiếng lóng của dân bụi đời, chỉ con số 25.
Ðêm Sóc Con Trăng. Trời se lạnh. Trăng mù sương ẩm đục màu sữa. Không gian chìm lắng. Tiếng côn trùng sầu não bãi tha ma. Thỉnh thoảng, nghe khoen dây súng khua lách cách của đốc canh đi kiểm soát lính canh dọc tuyến phòng ngự. Những anh em khác, cuộn mình trong tấm poncho, ngủ mê mệt sau một ngày vất vả.
Nửa khuya. Tiểu đoàn báo động giả, tập phản ứng cho quen với vị trí phòng thủ mới. Hỏa châu cháy rực bầu trời, chói lòa xuống mặt đất, soi rõ từng bông cỏ dại trên đồi. Chúng tôi ngồi dưới hố cá nhân. Ðầu đội nón sắt, mình mang dây ba chạc đeo túi đạn, tay súng trong thế tác chiến. Bên ngoài vòng đai, đạn pháo nổ quanh chân đồi như sấm sét. Tưởng khó có một ai vượt qua lằn ranh đạn pháo mà còn toàn vẹn. Ðưa tiểu đoàn vào đây, người ta đã dự trù một trận đánh lớn. Nằm trong cái thế bị tấn công bất cứ lúc nào, tiểu đoàn được ưu tiên hỏa lực pháo binh. Tất cả những căn cứ trọng pháo trong tầm tác xạ, lúc nào cũng hướng súng về Sóc Con Trăng, sẵn sáng yểm trợ.
Khi chấm dứt báo động, mọi người đều tỉnh táo, khó dỗ giấc ngủ trở lại. Tôi và thằng Minh Ðiếm Chảy, ngồi chung trong cái hố đôi.
Nó cằn nhằn: "Thà địch kéo tới, đánh nhầu một trận cho xong. Chờ đợi và báo động hoài, còn ngủ nghê gì được."
"Mày là thằng chết đến đít, vẫn còn ham ăn ham ngủ."
"Thức khuya lạt miệng. Thiếu úy, cho xin điếu thuốc." Nó chép miệng.
Tôi nói: "Hút thuốc ban đêm. Coi chừng bị bắn bể sọ dừa."
"Không sao đâu. Em che trong nón sắt."
"Từ hồi chiều đến giờ, mày xin thuốc mấy lần rồi? Hút ghiền, thì phải lo thủ sẵn chứ. Tao đâu phải cái kho phát thuốc cho mày."
Nó cười giả lả, chìa tay ra: "Ðiếu thuốc giá đáng chi, mà nói những câu mắc mỏ. Thiếu úy?"
"Ðiếu này là điếu chót nghe mậy. Hút xong, ráng treo mỏ. Ðừng xin tao nữa."
Tôi rút một điếu cho nó. Nó khum đầu, xòe lửa trong nón sắt, hút vài hơi rồi trao cho tôi.
"Hút chung một điếu đi. Ðỡ hao."
Tôi rít một hơi dài, rồi nhìn mặt nó. Trong ánh trăng nhòa nhạt của đêm mù sương, mặt nó khắc khổ đăm chiêu.
Một lúc sau, nó nói nhỏ: "Buồn quá."
"Sao mày rên rỉ hoài vậy?"
"Con vợ của em..."
"Lại nữa. Mày nói chuyện này hằng trăm lần rồi. Nó bỏ mày đi lấy thằng khác chứ gì? Tao không muốn nghe."
"Nhưng nó còn nói xấu, rằng em mê cờ bạc."
"Cũng đúng thôi. Kỳ lương nào, mày cũng nướng hết vào sòng bạc. Ði phép, xách cái đít không, về nhà với bộ mặt đưa đám. Bảo sao nó không chán?"
"Nhiều khi tức, muốn trả thù."
"Ðừng có điên. Ở tù đấy, con ạ! Cứ bình tĩnh, rà rê kiếm con vợ khác. Làm lại cuộc đời."
"Không dễ. Ðàn bà con gái, đâu phải muốn chộp bắt lúc nào cũng được?"
Tôi an ủi: "Mày là thằng đẹp trai số một của trung đội. Lo gì?"
Nghĩ ngợi một hồi, nó nói: "Phải chi em được như thằng Ty Cai Dù, thì ngon quá."
"Ngon thế nào?"
"Nó bảo nhờ "cai dù" mà nó được cơm no bò cỡi."
Tôi gạt ngang: "Thôi. Bỏ chuyện bá láp đó đi. Lo ngủ. Mai còn công tác."
Nói xong, tôi lên khỏi hố. Nằm co, trùm bằng tấm poncho lạnh ngắt.
Ngày nào tiểu đoàn cũng mở những cuộc hành quân cấp đại đội quanh khu vực Sóc Con Trăng, và dọc theo biên giới. Chẳng thấy bóng đối phương. Nhưng ngày nào tiểu đoàn cũng bị pháo kích hai, ba lần. Nhất là những khi có chuyến không vận tiếp tế vào Sóc Con Trăng. Trực thăng vừa chạm mặt đất, pháo rót tới liền. Quân tiền sát của địch vẫn bám sát đâu đây. Rừng rậm quá, khó phát hiện được vài ba tên tiền sát ẩn núp giữa ngàn xanh. Mỗi lần, pháo chừng năm bảy quả. Súng cối 82 ly từ bên kia biên giới bắn sang. Tiểu đoàn vô phương phản pháo. Tuyệt đối tuân hành cái lệnh không xâm phạm biên giới giữa hai nước. Ðành ôm đầu máu, chịu trận. Kampuchia là nước trung lập, nhưng lại chứa chấp mấy sư đoàn quân Bắc Việt. Thật chó má! Anh em gào cái tên Sihanouk mà chửi.
Ban ngày là thế. Ban đêm cũng chẳng yên. Vài đêm lại có đụng độ ngoài các toán tiền đồn. Nhiều khi địch len lỏi qua khỏi tiền đồn, bắn vào vị trí phòng thủ. Tình trạng báo động liên miên. Nón sắt, và súng đạn đeo dính bên người. Hỏa châu soi sáng, và pháo yểm ầm vang một góc trời.
Tinh thần anh em sa sút trầm trọng. Mệt mỏi. Chán chường. Ba ngày tết của năm 1969, trôi qua trong quên lãng giữa rừng già. Dù chỉ mới có những cuộc chạm súng lẻ tẻ, nhưng tiểu đoàn đã tổn thất khá nhiều do pháo kích. Tiểu đoàn trưởng gọi về Bộ Tư Lệnh, xin ra khỏi vùng hành quân Sóc Con Trăng. Ðược trả lời rằng, chưa cần thiết tiểu đoàn có mặt ở những nơi khác. Nghe thế, mọi người đều bất mãn. Càng bất mãn càng chửi thề. Trung đội tôi, bây giờ, thằng nào cũng bắt chước Nhân Ðù. Mở miệng ra là có đù mẹ, đéo bà. Nghe mãi thành nhàm tai.
Sau một tháng trời ở đây, quân số tiểu đoàn hao hụt. Lớp chết, lớp bị thương. Bổ sung tân binh, mặt thằng nào cũng ngơ ngáo. Chưa quen chiến trường, mỗi lần bị pháo những tân binh quýnh quáng đến tội nghiệp.
Một buổi chiều. Tôi đi kiểm soát, thấy thằng Ngô tân binh gác ngoài phòng tuyến. Súng đặt ngang đùi. Nó ngồi bất động, nhìn ra bìa rừng. Rừng chiều, sương xuống âm u một màu ảm đạm. Tôi nhẹ nhàng lần đến sau lưng. Nó không hay biết. Tôi vỗ vai. Nó giật mình, quay lại nhìn tôi. Tôi thấy hai hàng nước mắt của nó chảy dài xuống gò má. Nó đang thổn thức. Nó quẹt nước mắt, cười gượng.
Tôi ngồi kế bên: "Tại sao mày khóc?"
Nó làm bộ ngạc nhiên: "Em có khóc đâu?"
"Mày đừng chối. Có ai hiếp đáp, bắt chẹt gì mày không?"
"Không." Nó lắc đầu.
"Thế sao mày chảy nước mắt?"
Nó ngó mông ra rừng. Không trả lời.
Tôi giục: "Nói thật đi. Thằng nào chèn ép mày?"
"Em chỉ buồn."
"Ở đây, tao cũng buồn như mày. Chịu đựng một thời gian, rồi tiểu đoàn mình sẽ chuyển đi vùng khác, đỡ hơn. Nhưng, tại sao mày chọn binh chủng này?"
"Thấy mấy anh lính đội bê rê, mặc đồ hoa về thành phố, trông rất oai hùng. Em thích, và tình nguyện về binh chủng. Mãn khóa, em chưa được về thăm nhà. Người ta bốc thẳng từ quân trường, thảy xuống đây. Hồi trước, em đâu ngờ đời lính gian khổ, hiểm nguy thế này. Em không tưởng tượng nổi..."
"Ðừng buồn nữa. Ngày nào ra khỏi Sóc Con Trăng, tao đề nghị cho mày đi phép về thăm nhà."
Nó mừng: "Thật hả, thiếu úy?"
"Tao nói thật. Dù tao biết mày về là đào ngũ luôn. Tao chỉ giữ thằng nào ở lại thôi."
"Không đâu. Em sẽ trở lại."
"Nếu mày kể cho má mày nghe cảnh này, dù mày muốn trở lại, bả cũng níu áo không cho mày đi."
"Em không đào ngũ, vì thương những người trong trung đội mình." Nó kể bằng chân tình. "Hôm trước, bị pháo kích. Chạy về hố không kịp, em chui đại xuống hố trung sĩ Nẫm, tiểu đội trưởng của em. Cái nón sắt em bị văng mất. Anh Nẫm chụp cái nón sắt của ảnh lên đầu em, đè em nằm xuống. Còn ảnh đầu trần, ngồi phía ngoài. Trong trung đội, ai cũng lo cho em. Mọi người đều có tình. Em không nỡ đi luôn."
"Mày biết thương anh em là được rồi. Ðời lính không phải khổ mãi thế này đâu. Mày về đơn vị nhằm lúc tiểu đoàn đang ở cái chốn khỉ ho cò gáy, nên cảm thấy buồn. Ráng một thời gian nữa thôi, rồi tiểu đoàn sẽ được chuyển vùng hành quân."
"Một thời gian nữa, là bao lâu?"
"Tao không biết. Còn phải chờ..."
Khi nói câu đó, tôi nghĩ đến một trận đánh lớn. Ngày nào chưa xảy ra một trận thư hùng, thì tiểu đoàn còn phải ở đây, để thực hiện cái kế hoạch làm mồi nhử đàn kiến.
Trận đánh lớn, trước sau gì cũng không tránh khỏi. Mới đầu, mọi người còn lo âu. Nhưng thời gian thấp thỏm đợi chờ với những cơn mưa pháo hàng ngày, những đụng độ lẻ tẻ về đêm làm anh em mệt mỏi nên đâm liều. Muốn đánh nhầu một trận cho xong, ra sao thì ra. Không có gì khổ cho bằng chờ đợi trong tinh thần căng thẳng. Pháo bắn vòng cầu, từ trên trời rơi xuống. Rớt trúng cái hố nào, người trong hố đó vong mạng. Chui rúc trong hang cũng cảm thấy không an toàn. Mỗi lần nghe bên kia biên giới, có tiếng vọng um, um, um... của súng cối, chúng tôi chạy vội về vị trí của mình, nhảy xuống hố ngồi nín thở. Cũng vừa kịp lúc đạn pháo nổ ầm, ầm, ầm..., vang động cả vùng đồi Sóc Con Trăng. Những lần núp pháo như thế, tôi thường trấn an bằng điếu thuốc. Phó mặc đời cho may rủi.
Ðể tránh bớt thiệt hại vì pháo, tiểu đoàn giảm quân số phòng thủ trên đồi. Ban ngày tung các đại đội ra hoạt động chung quanh. Ban đêm rút quân về, chừa lại một đại đội đóng quân lưu động trong rừng. Kế hoạch này có cái lợi, nếu địch tấn công mạnh vào tiểu đoàn, thì đại đội lưu động sẽ đánh bọc hậu đối phương.
Vòng đai phòng thủ, bây giờ thưa hơn, chỉ có ba đại đội. Nhưng bù lại, đạn dược dự trữ được tăng cường tối đa. Mỗi hố cá nhân, chứa sẵn một thùng hai mươi bốn quả lựu đạn, và hai thùng đạn nhỏ một ngàn viên. Với số đạn này, có thể bắn suốt đêm không lo bị thiếu.
Các sĩ quan trong tiểu đoàn được dặn dò nhắc nhở anh em binh sĩ phải hết sức đề phòng. Ý định của đối phương là quần cho tiểu đoàn mệt mỏi, rồi sinh ra lơ là chểnh mảng. Ðến một lúc nào đó, sẽ bất ngờ đánh úp, diệt gọn tiểu đoàn. Lời dặn dò này, không có tác dụng gì cả. Anh em chỉ mong sớm rời khỏi Sóc Con Trăng.
Ngoài những người thương tích do những cuộc chạm súng lẻ tẻ, hoặc bị pháo kích, đã có năm ba vụ tự hủy hoại thân thể. Sống trong tinh thần căng thẳng ngày đêm không ngớt, anh em cảm thấy quá khổ sở, và dám làm những điều bất chấp hậu quả.
Trưa hôm qua. Toán tuần tiễu của trung đội tôi, báo cáo có người bị thương. Tôi vội đưa toán khác ra thay thế, cho toán cũ khiêng thương binh về. Thằng bị thương là binh nhất. Khi tôi đến, nó không nhìn mặt tôi. Nó là thằng dễ thương của trung đội, sốt sắng trong mọi công tác. Lúc y tá lau chùi sát trùng vết thương, tôi thấy xương bàn chân nó bị bể, ngón cái và ngón kế bay mất. Vết thương không nguy hiểm, nhưng sẽ bị tật sau này. Y tá băng bó xong. Nó nằm nghiêng trên chiếc brancard, quay lưng về phía tôi.
Lúc chờ trực thăng tải thương dưới chân đồi, tôi hỏi: "Tiểu đội trưởng báo cáo, mày bị thương do giẫm phải bom bi. Ðúng không?"
Nó vẫn không nhìn tôi, trả lời: "Ðúng."
"Mày có thể qua mặt tiểu đội trưởng, nhưng không qua mặt tao được."
Nó im lặng.
"Mày hủy hoại thân thể."
"Không. Em đạp phải bom bi."
Tôi cười mũi: "Tao xem vết thương, biết chắc mày rút ngòi nổ ra khỏi quả lựu đạn, kẹp ngòi nổ giữa hai ngón chân, và cho kích hỏa."
Nó vẫn nói: "Không. Em đạp phải bom bi."
Tôi dọa: "Thôi được. Tao sẽ báo cáo, để sau khi trị thương, mày ra trước tòa án quân sự mà chối."
Nó quay lại. Ðôi mắt khẩn thiết nhìn tôi, van nài: "Thiếu úy ơi..."
"Không có thiếu úy con mẹ gì nữa hết. Mày muốn qua mặt tao."
"Em lỡ dại..." Nó khóc thút thít. "Em không chịu nổi cảnh này."
"Ừ. Thà rằng mày nói thẳng với tao như thế, còn nghe được. Nếu trước đây, mày cho tao biết ý định, tao sẽ chỉ cách cho mày. Gởi thư về, bảo người nhà đánh cái điện tín, báo cha đau mẹ chết gì đó. Rồi tao sẽ đề nghị cấp giấy phép, mày về thăm nhà. Nhân cơ hội đó, mày đào ngũ luôn. Như thế, có phải an toàn không? Còn mày hủy hoại thế này, cái chân sẽ mang tật suốt đời."
"Thiếu úy ơi... Trong lúc quẫn trí, em làm chuyện điên rồ..." Nó nói trong nước mắt.
Tôi thông cảm với nó. Chính tôi, lúc bất mãn cũng muốn đào ngũ. Nhưng bất mãn ai? Tất cả chúng tôi đều là nạn nhân, cớ gì mà bất mãn nhau? Những kẻ mưu đồ thế lực gây nên chiến tranh, không có mặt ở nơi này. Nguyền rủa ư? Thì cứ nguyền rủa, nhưng thằng nào tự tách mình ra khỏi cái guồng máy chiến tranh khốn nạn, ắt phải thân tàn ma dại như thằng em của trung đội tôi đang nằm đây nhức nhối.
Khi trực thăng tải thương đáp xuống, nó nói: "Em đi. Thiếu úy và anh em ở lại bình yên."
Tôi nói: "Ðược rồi. Mày về yên trí. Tao không hại mày đâu. Mày sẽ giải ngũ, và được lãnh tiền do bị thương ngoài mặt trận."
Một đêm, cuối tháng Giêng.
Trời đất lờ mờ. Ðứng trên đồi nhìn ra bìa rừng, chỉ thấy viền cây tối ám, chắn dưới chân trời mù đục âm u. Mọi người giật mình choàng tỉnh. Ðơn vị bị pháo dữ dội. Không phải bằng súng cối 82 ly, mà bằng nhiều khẩu đại pháo từ bên kia biên giới bắn sang. Ðồng thời các toán tiền đồn báo cáo, trong rừng có nhiều tiếng động bất thường. Tiểu đoàn ra lệnh thu hồi gấp rút tiền đồn trở về, tăng cường thêm quân số phòng thủ.
Ðây là lần đầu tiên, địch pháo kích ban đêm. Cường độ pháo thật khủng khiếp, nhưng một nửa đạn pháo lọt ra ngoài kháng tuyến. Tuy thế, mặt phòng thủ phía đông cũng tan nát, gần như tê liệt. Nhiều người chết và bị thương. Tiểu đoàn cho trung đội trừ bị từ đỉnh đồi, xuống trám ngay lỗ hổng phòng tuyến. Hỏa châu sáng rực bầu trời, cùng lúc với pháo yểm cho tiểu đoàn, vây một hàng rào sấm sét quanh chân đồi. Dưới ánh sáng hỏa châu, lớp lớp địch quân liều chết xông qua lằn ranh đạn pháo, và gãy gục khi chưa tới được phòng tuyến. Một trận thư hùng chờ đợi bấy lâu, có phải là đây? Tôi bắn liên thanh, rà đạn sát đất. Lựu đạn ném ra, cản bớt lớp người xông tới. Mùi thuốc súng nồng lên mũi. Tôi thở hổn hển. Tinh thần căng thẳng cùng tột. Hai bàn tay run lẩy bẩy mỗi lần rút chốt lựu đạn. Trước khí thế cường địch, tôi mất bình tĩnh. Tôi nghe nhiều tiếng la "Xung phong... G...i...ế...t" Tiếng "giết" kéo dài đẫm mùi máu, làm rợn xương sống. Giờ phút này, không bỏ chạy đi đâu được. Thằng nào phóng lên khỏi hố cá nhân, là tự phơi thân cho địch bắn. Chết sống gì cũng phải nằm lại đây. Và bắn. Và tung lựu đạn. Dọc theo công sự phòng thủ, nhiều chỗ bị B40 phá tanh banh bao cát chắn đạn. Nếu cứ cái đà xung phong ồ ạt này tiếp diễn mãi, địch quân sẽ tràn ngập vị trí.
Sau mấy đợt xung phong, không chọc thủng được phòng tuyến, đối phương ngừng tấn công, chỉnh đốn lại hàng ngũ. Trong khi đó, chúng tôi chịu thêm trận pháo thứ hai của địch, từ bên kia biên giới rót sang, khốc liệt hơn. Lần này, đối phương điều chỉnh lại tọa độ thật chính xác. Pháo rớt ngay đỉnh đồi. Bộ chỉ huy tiểu đoàn lãnh đủ. Tôi bò đi kiểm soát từng hố cá nhân, dọc theo phòng tuyến trung đội. Những người tử thương được lôi ra khỏi hố cá nhân, tôi điều động anh em khác thế vào. Những thương binh, phải tự băng bó vết thương của mình. Y tá trung đội đang quằn quại trên vũng máu. Thằng Ngô tân binh, nó đang hấp tấp nạp thêm đạn vào các băng trống.
Tôi hỏi: "Trung sĩ Nẫm bỏ phòng tuyến đi đâu rồi?"
Nó không trả lời, đưa ngón tay chỉ qua hố bên cạnh. Một cái xác úp mặt, nằm nửa trên nửa dưới hố cá nhân.
Tôi trấn an: "Mày đừng di chuyển khỏi chỗ này. Cứ ngồi đây. Không sao đâu."
Nó nói như van: "Thiếu úy ở đây với em."
Tôi làm bộ không nghe, tiếp tục bò đi kiểm soát trung đội.
Gặp tiểu đội phó, tôi dặn: "Trung sĩ Nẫm tiêu tùng rồi, mày ráng lo cho anh em tiểu đội."
Tôi chưa kịp quay về vị trí, đối phương mở cuộc tấn công lần thứ hai. Tôi nhào xuống cái hố của một thương binh. Thằng này không còn đủ sức chiến đấu nữa. Tôi giật cây súng, đẩy nó ngã lăn ra phía sau lưng. Bị chạm vết thương, nó đau đớn kêu trời. Tôi không còn thì giờ quan tâm đến nó. Trước kháng tuyến, từng đợt, từng đợt xung phong. Tôi bắn như điên khùng. Lựu đạn nổ sát phòng tuyến. Lớp này gục xuống, lại thấy lớp khác tràn lên. Sau lần thứ nhất bị tấn công, nhiều người trong đơn vị bị loại khỏi vòng chiến. Quân số khiển dụng còn lại ít hơn. Khả năng phòng thủ cũng yếu hơn. Tôi lo phòng tuyến bị vỡ. Theo kế hoạch dự trù, khi đối phương tràn ngập vị trí, pháo binh sẽ bắn nổ chụp ngay trên đầu, đạn nổ cao, cách mặt đất mười lăm thước. Miểng pháo tạt xuống. Mà miểng pháo thì đâu có phân biệt bạn thù. Và như thế, hai bên cùng chết. Không biết phía bên kia đồi, phòng tuyến bị vỡ hay chưa? Ðơn vị còn cầm cự được bao lâu? Trước sau gì, cũng bỏ mạng trên ngọn đồi này. Mồ hôi tôi ướt mặt. Bị đẩy tới đường cùng rồi. Tôi bắn, Tôi ném lựu đạn. Tôi thở dồn dập. Tôi cắn răng. Hình như tôi có gào thét những tiếng vô nghĩa gì đó. Tao chết, thì mày cũng phải chết. Thiên địa đêm nay nhập lại. Bạn thù chung cuộc tử sinh.
Ðang trong tình trạng tuyệt vọng, bỗng có tiếng phản lực cơ gầm rú trên không. Lẫn trong tiếng súng, tôi nghe nhiều tiếng la mừng rỡ của anh em đồng đội. Trái bom napan đầu tiên trải một thảm lửa dưới chân đồi. Ðối phương núng thế thấy rõ. Chúng tôi lên tinh thần. Chiến đấu bình tĩnh, và có hiệu quả hơn. Trước phòng tuyến, địch quân dội ngược. Những trái bom tiếp theo làm thành vòng đai lửa sát bìa rừng, quanh đồi Sóc Con Trăng. Phi tuần phản lực vừa dứt, thì trực thăng vào vùng. Rocket và đại liên nã xuống những luồng đạn lửa. Phòng không của địch bắn lên. Ðạn lửa vẽ lên bầu trời những lằn đỏ đan chéo vào nhau. Tôi thấy nhiều địch quân quay lưng, chạy tháo lui. Họ không còn cơ hội thoát thân nữa. Tất cả đều ngã xuống trước tầm hỏa lực từ phòng tuyến bắn ra, trực thăng bắn xuống. Ðối phương đang lo chống trả với những con diều hâu hung dữ, không còn áp đảo tiểu đoàn. Súng phòng không hướng lên trời. Hỏa tiễn AT3 nổ lùm bùm trên không như pháo bông ngày lễ. Ðã có hai chiếc trực thăng trúng đạn phòng không, chúi đầu xuống phía rừng xa xa.
Từ máy truyền tin, tôi nghe ông tiểu đoàn trưởng điều động đại đội đang nằm trong rừng, dàn quân làm nút chặn, ngăn đường rút lui của địch.
Từ giờ phút ấy trở đi, truy địch là nhiệm vụ của Không Quân. Nhiều phi tuần phản lực lên vùng oanh kích. Tôi nghe tiếng bom gầm càng lúc càng xa dần, về phía biên giới.
Sáng ra. Khi đang bận rộn sắp xếp việc tải thương, tôi chợt nghĩ đến thằng Ngô tân binh. Ngó
quanh, không thấy. Tôi hỏi tiểu đội phó của nó: "Thằng Ngô đâu rồi?"
Tiểu đội phó chỉ vào tấm poncho đậy tử thi. Nó không chờ cái giấy phép mà tôi đã hứa cho về thăm nhà, sau khi rời khỏi Sóc Con Trăng. Nó đi trước, bằng con đường khác.
Mặt trời lên cao. Những chuyến trực thăng tải thương đã hoàn tất. Quang cảnh trên đồi, trông điêu tàn thê thảm. Công sự phòng thủ bị phá vỡ nhiều nơi. Poncho, nón sắt, quần áo vấy máu còn bỏ rải rác, chẳng ai buồn dọn dẹp. Người nào cũng xác xơ tơi tả, mệt mỏi bơ phờ.
Trời đứng bóng, phái đoàn của những ông lớn xuống Sóc Con Trăng, thị sát chiến trường. Họ mặc đồ nhà binh ủi hồ thẳng nếp, mắt đeo kính râm, tay cầm ba toong, đi dọc theo phòng tuyến. Họ chỉ trỏ, bàn tán với nhau. Không hỏi han hoặc nói chuyện với anh em chúng tôi. Họ cho ông tiểu đoàn trưởng biết, theo tin tình báo, địch đem ba tiểu đoàn công hãm Sóc Con Trăng. Giờ này, biết điều đó cũng vô ích. Tin tình báo, bao giờ cũng là tin trễ. Các ông lớn rất chú ý đến con số thương vong của địch bỏ lại ngoài vòng đai, và một số khác bỏ thây trong rừng chưa kiểm được. Còn tổn thất của tiểu đoàn, họ không mấy quan tâm.
Lúc họ đi khỏi, thì trực thăng "đại lực sĩ ngựa trời" câu hai chiếc xe ủi đất màu vàng, đem đến Sóc Con Trăng. Một chiếc ủi những cái hố dài, sát bìa rừng. Chiếc khác, ủi xác người hất xuống hố. Họ rải lên xác một lớp bột sát trùng màu trắng, và lấp lại. Hai chiếc xe ủi chạy tới chạy lui, nện bằng mặt đất. Thời gian sẽ làm cỏ tranh mọc cao lên trên những nấm mồ tập thể. Như những cái nền nhà cũ của một thời xa xăm, đã hoàn toàn mất dấu.
Sớm mai. Ðứng trên đồi nhìn ra bìa rừng. Vẫn thấy sương mù kéo một vệt dài trắng xóa, che khuất ngàn cây. Mặt trời lên. Sương tan. Cảnh vật hiện ra rõ nét. Một vạt rừng bị cháy nám. Nhiều nơi cây cối xác xơ gãy đổ. Thiên nhiên bao giờ cũng im lìm, và tự làm lành những vết thương. Chỉ có con người, khi đã mất mát thì không thể nào tìm lại được sự bù đắp.
Những ngày sau trận đánh.
Chiều chiều. Ông thượng sĩ già trung đội phó Mai Chò Gãi thường đứng bâng khuâng trên đồi Sóc Con Trăng. Ông là người Nùng Việt Bắc di cư.
Tôi hỏi: "Có phải ông đang nhớ về rừng núi Lai Châu?"
Ông cười buồn, hỏi lại tôi câu khác: "Thiếu úy tin con người có linh hồn không?"
Tôi nói: "Tôi tin."
"Tôi cũng tin thế. Những chiếc nón sắt bỏ lại của người ra đi, hình như còn phảng phất linh hồn của anh em vấn vương chiếc nón." Ông đưa ngón tay chỉ. "Thử chú tâm nhìn cái nón sắt lật ngửa, đằng kia."
"Nhìn nó, tôi nghĩ đến người ra đi."
"Không cảm nhận được gì khác?"
"Không." Tôi lắc đầu.
Ông bảo: "Tôi có cảm giác rất mơ hồ rằng, linh hồn anh em vẫn còn quanh đây, trên ngọn đồi này."
Sau một hồi trầm ngâm tư lự, ông nói: "Hồi trẻ, tôi tưởng điều gì cũng biết. Khi về già, thấy rằng có những điều mình không thể hiểu."
"Ông muốn nói vấn đề gì nữa đây?"
"Bao nhiêu năm đi lính, sát phạt đã nhiều. Những người chưa từng quen biết, không hề ân oán, vừa chạm mặt là ra tay bắn giết nhau. Nghĩ cũng lạ! Chẳng biết phía bên kia, họ có thù mình không?"
Tôi nói: "Ông thắc mắc những vấn đề kỳ cục. Cứ hãy tưởng tượng vào thời trung cổ, người ta đưa hai tên giác đấu lên đài. Với điều kiện, sau trận đấu, chỉ còn một tên được quyền sống sót. Ðặt mình vào hoàn cảnh tên giác đấu, ông phải làm sao?"
Thượng sĩ Mai Chò Gãi khẳng định: "Giết đối thủ."
"Ðấy. Những thằng đi trận của cả hai phe, đều ở vào cái thế của tên giác đấu. Mình không giết nó, nó giết mình. Ðâu cần chi phải hận thù?"
Lâm Chương
THƠ DƯ THỊ DIỄM BUỒN
TÌNH YÊU TRẢ LẠI TRĂNG SAO
DTDB
Chúng mình quen giữa mùa xuân
nắng ấm
Sau tháng ngày rét mướt tuyết mưa
bay
Chim chuyền cành trên cây xanh lá
thắm
Hoakhoe màu tươi đẹp dưới nắng
mai
Anhmang đến cho tôi tình yêu
cuối!
Tôi vô tư chân
thật nhận tình đầu
Mùa hè sang chói chang hương nắng
mới
Khuôn viên trường thường hò hẹn gặp
nhau
Màn đêm buông, sao sáng ngời ánh
ngọc
Mặt nước hồ sóng sánh bóng trăng
soi
Đường sỏi đá nối liền khu Đại học
Hàng cây bên đường, nhân chứng lứa
đôi
Chim ca hót chúc tình đầu nồng thắm
Gió thì thào, mưa lách tách rơi mau
Ở bên anh, tôi nghe lòng mình
ấm
Niềm thương yêu, ôi chang chứa dạc
dào
Lời thệ ước có trăng sao, có gió
Hai đứa cùng bàn tính chuyện ngày
sau
Hè qua mau, lá vàng rơi khắp ngõ
Mưa giăng giăng, mây tím phủ trời
cao
Giáng Sinh đến, phố phường đầy hoa
tuyết
Cây thông xanh rực rỡ ánh đèn màu
Đường thưa vắng, chợ đông người sắm
Tết
Buốt giá lạnh lùng mình vẫn có nhau
Hồi chuông đinh đon ngân vang ngầm
bảo
Chúa giúp muôn loài, Chúa ngự trên
cao
Trongyêu thương tôi quên mình ngoại
đạo
Bên anh thành tâm tha thiết nguyện
cầu
Trời băng giá giọt mưa buồn tiếp
nối!
Tôi thẩn thờ
lặng ngắm tuyết bay mau
Cảmơn anh đã đem cho tình
cuối!
Lời hẹn thề xin trả lại trăng sao
Nay
xa rồi! Phải chăng mình không nợ?
Ômnỗi sầu khóc tình lỡ thương
đau!
Trongtim tôi tròn đời ghi câu
nói
Tình yêu đầu, nhớ mãi đến ngàn sau!
|
CHO EM TÌNH CUỐI
DTDB
Chuyến xe chiều đưa em về Đại
học
Rét ngoài trời không buốt giá
trong anh
Nắng héo úa chiều vàng mây xõa
tóc
Lá buồn thu xao động gió rung
cành
Giọng thỏ thẻ êm êm như liễu
rủ
Anh say sưa đưa nhè nhẹ vào
hồn
Rồi yên lặng thở đều, em chợt
ngủ
Mộng an bình, chói sáng buổi
hoàng hôn
Em mười tám tâm hồn chân thiện
mỹ
Anh ba mười lăn lóc nửa cuộc
đời
Lần đầu gặp, trở về nhiều mộng
mị
Lòng bồi hồi xao xuyến quá em
ơi!
Hè năm nào, chúng mình đi cắm
trại
Duyên khéo xuôi cùng bạn ở
chung lều
Em e thẹn, mắt sáng ngời lay
láy
Anh trộm nhìn hồn lạc bến
thương yêu
Nhánh củi khô bập bùng khơi
ngọn lửa
Má em hồng, hơn màu lửa chói
chang
Mắt bỡ ngỡ ngập ngừng tình ẩn
chứa
Len lén đưa anh vào giấc mộng
vàng
Anh hứa bên em dù đời xuôi
ngược
Buổi tan trường, hạnh phúc kẻ
yêu thương
Khuôn viên Đại học chúng mình
sánh bước
Bóng ngã dài, chênh chếch nắng
chiều vương
Anh đã ướp
mộng tình trong nắng lụa
Giữ hẹn thề của hai đứa yêu
nhau
Đây tình yêu cuối cùng, anh xin
hứa
Em tình đầu, chói sáng tợ trăng
sao
Anh xin nguyện với lòng dành
trọn ven
Nửa cuộc đời còn lại chỉ em
thôi!
Lời đã hứa
anh sẽ không lỗi hẹn
Tình cuối cùng, tình đẹp nhứt
em ơi!
DƯ THỊ DIỄM BUỒN |
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 031
KÝ TÔ VŨ
Chuyện Cà
Kê 09
(tháng 01/2008)
Tô Vũ
(tháng 01/2008)
Tô Vũ
Lời cầu chúc đầu năm 2008 của Tô Vũ- Chúc quý độc giả vui mạnh và tâm thân an lạc
- Chúc quý vị trong Cộng đồng người Việt quốc gia tự do tại Phápvà ở khắp nơi Âu Mỹ Úc. vui mạnh và chí cương cường tranh đấu bền vững và thành công.Paris ngày 1-1-2008Tô Vũ* * *Mục lụcChuyện Cà Kê số 9 tháng 1-2008 của Tô Vũ gồm có 8 mục :1) Mục 1- Cà kê đầu năm (bài viết của Tô Vũ)1-1 - Minh nguyệt thanh phong1-2 - Huyền Trân công chúa1-3 - Rêveries d'automne và Chinh phụ ngâm1-4 - Bất khuất2) Mục 2 - Thương nữ bất tri vong quốc hận (bài viết của Tô Vũ)3) Mục 3 - Tại sao lại gọi là Chuyện Cà kê (bài viết của Tô Vũ)4) Mục 4 - Tô Vũ chăn dê (bài viết của Tô Vũ)5) Mục 5 -Thơ5-1) Bài văn tế giỗ trận Hoàng sa 34 năm của Trần quan NIệm và Phạm Tứ Lang (Hoa Kỳ)5-2) Thơ Trận Hoàng Sa của David Lý Lãng Nhân (Hoa Kỳ)5-3) Vàng bóng cờ bay, của Nhược Thu, Oslo, Na Uy5-4) Mai mốt em về, của Thi Hanh, Oslo, Na Uy5-5) Hoang Vu, của Đan Thuý Vy, Paris5-6) Hoạ bài Thăng Long thành Hoài cổ do Nhạc sĩ sáng tác Anh Huy gửi tới :5-6-1) Thăng Long thành Hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan5-6-2) Thức trắng canh trường, bài họa của Vũ Uyên Giang5-6-3) Tâm vọng chí cùng, bài họa của Anh Huy5-6-4) Hoạt cảnh Việt nam quốc, bài họa của Tiểu Bảo6) Mục 6 - Giới thiệu sách và phóng sự ngày Noel 2007 tại Nhà Cao Niên Créteil6-1) Tập thơ Mùa Xuân Vỗ Cánh của thi sĩ Đỗ Bình6-2) Tập truyện ngắn Bài ca Vọng cổ của Tiểu Tử6-3) Tôi đi và sống- Hồi ký sự nghiệp 50 năm (tập 1) của Bạch Yến6-4) Tử vi và địa lý thực hành của Hàn lâm Nguyễn Phú Thứ, Lyon6-5) Phóng sự Noel 2007 tại nhà Cao Niên ở Créteil (bài viết của Tô Vũ)7) Mục 7 - Ngôn ngữ Huế của Tuệ Chương Hoàng Long Hà
* * * * *
Mục 1 - Cà kê đầu năm (bài
viết của Tô Vũ)
Thứ bảy
29-12-07 Tô Vũ mới ăn mừng lễ Giáng Sinh, chậm vài ngày vì chờ gặp mấy người bạn
ở xa đến Paris cho vui. Có nhà thơ Duy Tường từ Lyon, MNg. từ miền Nam nước
Pháp, Trần Huyền Trân và MTh. ở Paris, BX. và Tô Vũ ở Val de Marne, vui vẻ gặp
mặt nhau ở quán Saigon. Thứ bảy, quán Sài Gòn đông nghẹt. TV hay đến ăn tiệm này
từ hồi tiệm còn gọi là tiệm mì Mỹ Tho ở đường Hôpital quận 13, hơn hai chục năm
về trước. Tiệm Sàigòn, mấy năm trước là Vieux Saigon, bây giờ đổi tên khác nhưng
vẫn là ông bà chủ cũ vui vẻ vớí khách hàng, tiếp đón lịch sự niềm nở. Nhiều dân
Sài Gòn cũ (Vieux saigonnais) đến ăn ở tiệm đó.
Tiệm Sài
Gòn như là một nơi để bạn cũ hẹn gặp mặt nhau. Mỗi lần đến đó là TV hay gặp
những người quen cũ, mới, VDNh cuối tuần hay ngồi ở đó.
***
Mục 1-1 - Minh nguyệt thanh
phong
MNg. ở xa
nên thỉnh thoảng TV mới gặp. Mỗi lần gặp TV gọi đùa là "Trăng sáng vườn chè" tên
một bài hát mà MNg. thích hát (đêm nay mới thật là đêm, ai đem trăng sáng vào
trong vườn chè), MNg. hiền lành, ít nói, dễ thương, chỉ cười thôi và hát hay.
Trăng
sáng theo chữ hán việt là minh nguyệt. Các nhà thơ thời xưa đều ca ngợi những
cái đẹp của thiên nhiên : Minh nguyệt thanh phong tửu nhất thuyền (Trăng thanh,
gió mát, rượu một thuyền).
Cao bá
Quát viết :
Duy giang thượng chi thanh
phong dữ sơn gian chi minh nguyệt (chỉ có gió mát trên sông, với trăng sáng trên
đầu núi)
Kho trời chung mà vô tận của
mình riêng, (là của chung của trời đất, mà riêng mình ta hưởng không bao giờ
hết)
Cuộc vuông tròn phó mặc
khuôn thiêng (cuộc đời xấu tốt đều do ông Trời định đoạt).
Ai thành thị ai vui miền lâm
tẩu (người ở thành thị, người ở miền rừng núi) .
Gõ dịp lấy hát câu Tương
Tiến Tửu (vừa gõ nhịp, vừa hát bài Cùng mời nhau uống rượu).
Quân bất kiến Hoàng hà chi
thuỷ, thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi. (Bạn chẳng thấy nước sông
Hoàng Hà, từ trên trời xuống, ngoằn ngoèo chảy ra biển rồi không trở
lại).
Quân bất kiến cao đường minh
kính bi bạch phát. Triêu như thanh ty mộ thành tuyết (Bạn chẳng thấy, đứng ở nhà
trên, nhìn vào gương sáng, buồn về tóc bạc. Buổi sáng như tơ xanh, buổi chiều
như tuyết trắng).
Nhân sinh đắc ý tuy tận
hoan. Mạc sử kim tôn không đối nguyệt. (Con người ta lúc đắc ý, thì nên tận vui
hưởng. Đừng để chén vàng cạn dưới trăng).
Bốn câu này Cao bá Quát lấy
từ bài thơ Tương Tiến Tửu của Lý Bạch. Lý Bạch (701-769), Đỗ Phủ (719-770) Bạch
cư Dị (772-846) là ba nhà thơ lớn của thời nhà Đường bên Tàu.
Lý Bạch làm thơ thời vua
Đường Minh Hoàng, là vua mà sách sử có nói nhờ đạo sĩ làm phép thuật cho ông
lên cung trăng gặp Hằng Nga.
Lý Bạch hay đi thuyền trên
sông, uống rượu làm thơ.
Một đêm sáng trăng ông ngồi
thuyền trên sông Thái Thạch, uống rượu say, ông nhoài người ra ngoài thuyền, bắt
trăng trên sông, ông rớt xuống sông, bị chết đưối (năm 769 dương lịch). Về sau
để tuởng nhớ đến ông, người ta xây một cái đài bên bờ sông đó, gọi là Tróc
Nguyệt Đài (Đài bắt trăng).
***
Mục 1-2 - Huyền Trân công
chúa
Huyền
Trân Công chúa thì Tô Vũ khỏi cần giới thiệu. "Hai châu Ô Rí vuông nghìn dặm.
Một gái Huyền Trân của mấy mươi". Những vị nào quê ở miền Trung đều biết Quảng
Trị, Thừa Thiên, là hai châu Ô châu Rí, đất xưa của Chiêm Thành. Theo sử thì
năm 1306, Huyền Trân công chúa đời nhà Trần lấy Chế Mân, vua nước Chiêm Thành.
Vua Chiêm mang hai châu Ô và Châu Rí làm sính lễ cưới Huyền Trân. Huyền Trân làm
Hoàng hậu được một năm thì vua Chế Mân chết. Lúc bấy giờ Huyền Trân mới có 24
tuổi. Tục lệ tôn giáo Chiêm Thành hỏa táng nhà vua và cũng hỏa táng hoàng hậu
theo. Vua Trần Anh Tông quyết định cứu sống công chúa Huyền Trân. Trần Khắc
Chung được cử vào nước Chiêm để phúng điếu và cứu Huyền Trân. Trên đảo Chuk Mui
bờ biển Bình Định, trong khi làm lễ cầu siêu, trước khi Huyền Trân bước lên dàn
hoả thiêu, thì thuyền Trần Khắc Chung giả làm thuyền cướp biển, bắt cóc công
chúa xuống thuyền. Vì sợ Chiêm Thành biết nên thuyền phải lênh đênh ngoài biển
một năm, rồi mới bí mật đưa Huyền Trân về thủ đô Thăng Long. Một năm ở ngoài
biển ! Do sự này mà dân gian có câu phong dao như sau :
Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Đã vo nước đục, lại vần lửa rơm.
Hột gạo
trắng ngần chỉ công chúa, nước đục chỉ Chế Mân, lửa rơm chỉ Khắc
Chung.
*
Trần
Huyền Trân (THT) ở Paris 2007 thì "super". Serviable "hết sẩy ". Tô Vũ cần tài
liệu chữ Pháp gì để viết là nhờ THT tìm giùm là có ngay, tìm tài liệu thôi chứ
không nhờ viết. Chụp ảnh giỏi, chụp nhiều ảnh đẹp. Làm thơ chữ Pháp, làm
journaliste, chuyên làm "sondage politique".
Hôm bầu
cử Tổng thống Pháp, THT làm (làm giả cho vui) một show vidéo quảng cáo Tô Vũ ứng
cử Tổng thống, show đăng trên một "website", TV và các bạn coi, ai cũng cười
vui. Nhìn cái banderole "To Vu on t'aime" trong show, Tô Vũ khoái quá mũi nở to
bằng "tô phở xe lửa ". Nhưng rồi quý độc giả biết kết quả đấy, ông Tổng Thống
Sarkozy đã đắc cử, Tô Vũ được "zéro" phiếu. TV còn giữ cái show đó, một món
quà quý của THT cho TV.
*
**
Mục 1 - 3 --- Rêveries
d'automne và Chinh phụ ngâm
MTh. nhũn
nhặn, ít nói, khi cười để lộ hàm răng đẹp, gọng kính kiểu Nana Mouskouri, chụp
ảnh thì "manger photo" không chê được, thích thơ văn. TV nhờ kiếm giùm thơ văn
Pháp là có ngay. Bài Plaisir d' amour của Claris de Florian là do MTh. gửi đến
cho TV từ hai năm trước.
Tô Vũ
phải bật mí để quý độc giả biết, "Chuyện Cà Kê" viết mỗi kỳ phải cần đến rất
nhiều tài liệu, càng "cà-kê" dài bao nhiêu thì càng cần đến tài liệu bấy nhiêu,
chứ "sức mấy" mà TV nhớ hết được, vì vậy phải nhờ đến bạn hữu tìm giùm.
Bài TV
viết về Lamartine là nhờ MTh. đưa cho mượn tập Poésies Choisies, édition 1955,
của Hachette (một quyển sách quý. TV phải nghĩ đến gửi trả lại sách đó.)
Viết đến
đây, đột nhiên TV liên tưởng đến Chinh Phụ ngâm. Không hiểu tại sao. Có những
tiềm thức ẩn kín khó giải thích. TV đột nhiên nghĩ đến hai câu :
Thanh thanh lưu thuỷ bất tẩy thiếp tâm sầuThanh thanh phương thảo bất vong thiếp tâm ưu.
nghĩa là
Nước sạch chảy mà không tẩy được cái buồn trong tim thiếp
Cỏ xanh thơm mà không nguôi được cái sầu trong lòng thiếp
Bà Đoàn
thị Điểm dịch là :
Nước có chảy mà phiền khôn rửa
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây.
Khoảng
1990, có tiệm phở Thanh Thanh ở đường Avenue de Choisy về phía Mairie quận 13.
Bà chủ Thanh Thanh là người Sài Gòn. Bà than tiệm ế khách mà thuế má tiền nhà sở
phí nặng quá, chắc bà phải dẹp tiệm. Hồi trước 75, ở Sàigòn bà mở một tiệm ăn
lớn lắm ở Thị Nghè. Nghe đâu bà là vợ của một ông tướng thời trước.
*
Tô Vũ đến
ăn phở với ông bạn H. Mai. từ Chicago, Hoa Kỳ tới. Ông bạn này là một nhà "nho
chùm" thấy bà than quá, lấy một mảnh giấy viết hai câu đưa cho bà ta
:
Thanh thanh lưu thuỷ bất tẩy thiếp tâm sầu
Thanh thanh phương thảo bất tẩy thiếp tâm ưu.
Bà ta đọc
chẳng hiểu gì, có lẽ bà ta tưởng là thơ tình, déclaration d'amour, viết bằng chữ
nho, bà cũng chẳng nói gì cả.
Tô Vũ
củng không hiểu ý của ông bạn.
Lúc ra về, ông ta
giải thích cho TV rằng :
Thanh thanh lưu
thuỷ bất tẩy thiếp tâm sầu, nghĩa là Nước phở trong (ngon) của tiệm Thanh Thanh
không làm sạch cái sầu trong lòng bà chủ.
Thanh thanh
phương thảo bất tẩy thiếp tâm ưu, nghĩa là,
Rau húng thơm
(ngon) của tiệm Thanh Thanh không làm hết cái buồn trong lòng bà chủ.
Rồi bà Thanh
Thanh bán tiệm phở cho chủ Tàu, Tô Vũ không bao giờ gặp lại bà ta nữa chắc bà đi
mở tiệm ở một tỉnh xa nào khác.
***
Mục 1-4 -- Bất khuất
Nhà thơ Duy Tường
(DT) từ thành phố lớn thứ ba nước Pháp, thành phố Lyon, đã mấy lần góp bài cho
Mục cà kê được phong phú. Thật quý hoá ! TV chưa bao giờ thấy một người có tổ
tiên lâu đời như nhà thơ DT. Nhà thơ Duy Tường là cháu không biết đời thứ bao
nhiêu của nhà thơ Khuất Nguyên nước Sở, thế kỷ thứ ba trước công nguyên (- 300
BC). Khuất Nguyên là tác giả tập thơ Ly Tao, đến bây giờ còn được truyền tụng.
Bây giờ trong văn chương, người ta nói đến tao đàn, tao nhân, tao nhân mặc khách
là do chữ Ly Tao mà ra. Người Việt Nam có mỹ tục tưởng nhớ đến những người anh
hùng, những người ái quốc, những người vì nước quên mình như Hai bà Trưng, Trần
Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, Nguyễn thái Học, Thủ khoa Huân, Trần văn Bá v.v...
Ngày mùng 5 tháng
5 ở nước ta có Tết Đoan Ngọ, để tưởng nhớ đến trung thần Khuất Nguyên.
Ngày mùng năm
tháng năm cũng gọi là trùng ngũ. Xưa có người trung thần nước Sở là Khuất
Nguyên, khi Sở vương định cử binh đánh Tần, ông can vua hết sức, vua không nghe
cứ mang quân qua đánh Tần, vua bị thương chết ở Tần. Nhà vua kế nghiệp, nghe
nịnh thần kết tội ông. Ông buồn rầu quá, ông viết tập thơ gọi là thơ Ly Tao xong
rồi ông buộc đá vào người, trầm mình xuống sông Mịch La tự tử. Sông Mîch La là
một con sông nhỏ chảy vào sông Tương là sông lớn, ở tỉnh Hồ Nam, huyện Tương âm,
rồi sông Tương chảy vào Hồ Động Đình .
Người nuớc Sở,
mỗi năm cứ đến ngày ông chết, là ngày mùng 5 tháng 5, tổ chức đua thuyền, ý
nghĩa là để vớt xác ông Khuất nguyên. Về sau tục lệ này trở thành tết Đoan Ngọ
hàng năm ở nước ta. (xin đọc Chuyện cà kê số 8 tháng 12-2007).
********
Mục 2 - Thương nữ bất tri vong quốc
hận (bài viết của Tô Vũ)
Năm 2007, nghe
báo chí nói có nhiều ca sĩ ở hải ngoại về làm ăn ở Sài-gòn, kiếm tiền khá lắm,
có tới đến 140 ca sĩ về trong năm 2007, nên có những lời tuyên bố của một vài ca
sĩ không được hợp lắm với cái tính cách tỵ nạn cộng sản, bỏ nước ra đi của họ.
Tô Vũ chẳng có điều gì phê bình các ca sĩ đó cả. Đó là quyền của họ, quyền của
dân một nước dân chủ, mà hiến pháp Mỹ bảo đảm những quyền tự do nhân quyền và
dân quyền, quyền đặt tiền tài và danh vọng trên hết mọi sự tuỳ theo cá tính cá
nhân. May thay, không phải tất cả các ca sĩ ở hải ngoại đều như thế. Có một ca
sĩ mà TV mến mộ tài năng từ nhiều năm nay, cho đến bây giờ cũng vẫn giữ vững lập
trường, (không biết sau này thì sao), không thấy nói cô ta về Sàigòn. TV nghĩ
nếu cô ta mà về Sài Gòn hát thì chắc hốt bạc hơn ai hết, TV là "fana" trung
thành của cô từ 40 năm nay.
Nhưng mà Tô Vũ cứ
thắc mắc tự hỏi. Sao lại có cái xoay chiều 180 độ vậy như vậy? Nguyên do vì đâu
? Vì đâu nên nỗi ?
Về vụ ca sĩ ở Mỹ
về Sài Gòn ca hát rồi tuyên bố tùm lum này nọ, để lấy lòng thính giả hay để lấy
lòng VC, Tô Vũ nghĩ đi nghĩ lại tìm thấy thủ phạm đúng là cái lưỡi. Lẽ tất
nhiên ca si hát hay, hót hay, thì phải cần đến cái lưỡi.
Ngày xưa nhà hiền
triết Esope bảo người làm bếp nấu cho ông một món ăn ngon nhất. Bếp hỏi ông chỗ
thịt nào ngon nhất? Ông bảo : cái lưỡi. Người làm bếp xào nấu cho ông món lưỡi.
Ít ngày sau, ông lại bảo nấu cho ông món gì dở nhất. Bếp hỏi ông chỗ nào dở nhất
? Ông đáp : cái lưỡi. Đầu bếp không phải là một nhà hiền triết như ông, nên hỏi
tại sao? Ông đáp: không có cái bộ phận nào trong cơ thể làm cho người ta sung
sướng, khoan khoái, mãn nguyện bằng cái lưỡi và cũng không có bộ phận nào trong
cơ thể làm cho người ta đau khổ, buồn bực, đau đớn bằng cái lưỡi. Mọi việc đang
tốt đẹp, cái lưỡi quay 180 độ, mọi việc tốt đẹp trở thành xấu. Mọi việc đang
xấu cái lưỡi uốn éo quay mấy chục độ là xấu trở thành tốt, thế cho nên ta cho
rằng cái lưỡi vừa ngon lại vừa dở.
TV tôi thầm phục
ông Esope trên hai ngàn năm truớc đã nêu đích danh thủ phạm, ở mọi thời kỳ, mọi
trường hợp, lúc nào cũng là CÁI LƯỠI.
Ở bên Tàu, có một
bài thơ truyền tụng từ trên một ngàn năm nay, nói đến cái nhục vong quốc.
Thi sĩ Đỗ Mục
(803-852) đi thuyền trên sông, đến bến Tần Hoài thì trời tối, thuyền cắm sào đợi
sáng. Gần thuyền, có một quán rượu. Ông nghe tiếng ca kỹ hát từ quán rượu, hát
bài Hậu Đình Hoa, ông làm bốn câu thơ trách người ca kỹ.
Bài thơ có tựa đề
là Dạ bạc Tần Hoài (ban đêm ở bến Tần Hoài).
Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
(khói phủ nước lạnh, trăng phủ bãi cát)
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia (ban đêm
ở bến sông Tần Hoài, cạnh một quán rượu)
Thương nữ bất tri vong quốc hận (ca
kỹ không biết hận mất nước)
Cách giang do xướng Hậu đình Hoa.
(bên kia sông hát bài Hậu đình Hoa) (Hậu đình Hoa là tên một bài hát đã làm tan
vỡ nhà Trần, thời xưa ở bên Tàu).
***
Cũng cái bài Hậu
đình Hoa này, khoảng sau ngày Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương (9-3-1945), các
ông nhà thơ nhà văn ngán nỗi nước nhà lại bị Nhật cai trị sau khi chính quyền
Pháp bị lật đổ nên có tổ chức ở Hà nội một buổi thi thơ Tao đàn, lấy đầu đề là
"Thương nữ bất tri vong quốc hận. Cách giang do xướng Hậu đình Hoa".
Bài trúng giải
nhất là bài ca trù với tựa đề Trách chi của nhà thơ Lê Đại. Bài như sau:
Mưỡu: Sáu mươi
năm mấy đoạn tràng, Nghĩ bao thêm lại bẽ bàng xót xa! Cách sông khúc Hậu đình
Hoa. Trách chi cô gái làng ta vô tình.
Nói: Thương nữ
bất tri vong quốc hận. Thôi trách chi thêm bận tấc lòng ai. Kiếp nam nhi tai mắt
ở đời, Mà lấp bể vá trời đâu vắng cả. Giọt lệ Tần đình ai đó tá! Giọng ca Sở
quốc luống mộng hoài! Sáu mươi năm hơn trí dũng nào ai?
Nhìn dĩ vãng ngắm
tương lai thêm ngán nỗi! Ơn ai đó sổ lồng phá cũi, Mừng có mừng mà tủi cũng đòi
phen! Trách chi cỏ nội hoa hèn! (cỏ nội hoa hèn là những hoa vô danh mọc ngoải
đồng cỏ)
*****
Mục 3 --- Sao lại gọi là Chuyện Cà
kê ? (bài viết của Tô Vũ)
Hai độc giả
Chuyện Cà kê của Tô Vũ, một ở Hoa Kỳ là Giáo sư Thomas L, hiện là giáo sư ở Mỹ,
vừa là nhà thơ làm thơ bằng tiếng Mỹ. Ông là tác giả tập thơ Tình còn say -
Forever Love, xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2005. Một độc giả khác ở Pháp, ông PLK.
Hai vị đôc giả đã gửi thư cho Tô Vũ sau khi đọc Chuyện Cà Kê số 8 tháng 12-07
Ông Thomas L. góp
vài ý kiến.
Trích email của
ông : Thưa anh Tô Vũ,
Rất cảm ơn anh đã
gởi cho link để đọc bài Chuyện Cà Kê của anh. Tôi học được rất nhiều về những
điều anh viết. Tôi tự hỏi với những đề tài nghiêm chỉnh mà anh viết, cái rubric
"Chuyện Cà Kê" có phản ảnh được cái seriousness của đề tài hay không.
(...)
2) Một độc giả
khác ở Pháp,ông PLK cũng email hỏi Tô Vũ : "Chuyện Cà kê rất hay, không có vẻ
cà kê tí nào cả."
3) Một độc giả
điện thoại hỏi TV ý nghĩa của chữ "cà kê".
Tô Vũ cảm ơn quý
độc giả, xin trả lời :
****
"Cà kê" không có tự điển nào giải
nghĩa nghĩa gốc (étymologie), nhưng mọi người vẫn hiểu "cà" là con gà và "kê" là
con kê, kê cũng nghĩa là con gà.
Theo Từ điển Hán việt Đào Duy Anh
thì "kê" nghĩa là con gà.
Theo Việt nam Tự điển của Khai trí
Tíến Đức (Hànội 1931) "Nói chuyện cà kê" là nói tỉ tê lôi thôi.
Theo Từ điển tiếng Việt (KHXH Hànội
1977) thì "cà kê" là lằng nhằng những cái này sang cái khác, không đâu vào đâu.
Theo Từ điển Việt pháp Lê
phưong Thanh (Hà nội 2001) "Cà kê" nghĩa là : sans suite, du coq à l'âne, à n'en
plus finir.
***
Nếu tìm
tòi kỹ lưỡng hơn, thì có chữ "cà" là con "cà cuống" và cà là con "cà cưỡng".
"Cà
cuống" là một con bọ đầu to bằng ngón tay cái, có cánh, hình dạng giống con ve
sầu, mà lớn hơn, có bọng dầu mùi thơm đặc biệt ở bụng, mỗi con lấy ra đưộc một
hai giọt dầu. Người Bắc lấy dầu đó để ăn với bún thang, chả cá, bánh cuốn,
v.v... cho tăng mùi vị lên.
"Cà
cưỡng" là một con chim sáo lông đen có khoang trắng ở cổ.
Hai danh
từ "cà cuống và cà cưỡng" không thể dùng trong từ ngữ "kể chuyện cà kê" được, vì
không liên tưởng, không hình dung ý nghĩa được. Khó có thể gắn liền "nói chuyện
cà cuống cà cưỡng" với "nói chuyện lằng nhằng, những cái này sang cái khác,
không đâu vào đâu" được.
****
Có một
học giả giải thích hai chữ "cà kê", cho rằng phải nói "cà kê nghê ngỗng" mới
đúng. Vị học giả giảng rằng "gà nói ngọng thành cà, giống như dân Bình Trị Thiên
nói cà cáy là gà gáy. Còn nghê là nga (nga chữ hán việt nghĩa là ngỗng) nga đọc
trẹo ra là nghê." . Có sự không đồng ý với giải thích này.
***
Một ông
gốc tây học bàn rằng từ ngữ "nói cà kê" nguyên gốc ở động từ "caqueter" của
Pháp. Caqueter có nghĩa là "nói lải nhải, nói lôi thôi chẳng ra đâu vào đâu" (Tự
điển ĐàoVăn Tập). Caqueter được biến sang chữ việt là "nói cà kê", cũng như chữ
"savon" của Pháp biến sang chữ "sà phòng", rượu "vin" biến thành "rượu vang",
v.v... Nhiều người không đồng ý với cách giải thích này.
***
Còn "dê
ngỗng" là sau này mới thêm vào đấy thôi.
Sách Tục
ngữ Phong dao của Nguyễn văn Ngọc cũng như các từ điển khác không có ghi thành
ngữ "cà kê dê ngỗng" mà chỉ ghi "con cà con kê" .
***
Tô Vũ cảm
ơn giáo sư Thomas Le ở Hoa Kỳ và độc giả PLK ở Pháp.
Tô Vũ xin
trả lời :
1) Mục
"Chuyện cà kê" của Tô Vũ có đã lâu rồi, trên hai mươi năm. Độc giả và tác giả
đã quen với tên mục rồi. Không thể thay đổi tên mục (rubrique) được.
2)
"Chuyện cà kê" không có nghĩa là một chuyện đứng đắn hay hài hước hay tầm phào
mà tùy đề tài, gồm một, hai, hay cả ba tính cách đó. Từ kép "Chuyện cà-kê" không
gồm danh từ "chuyện" ghép với với tĩnh từ "cà kê " như là chuyện tình, chuyện
vui, chuyện buồn, chuyện ma, chuyện lịch sử, v.v...
"Chuyện
cà kê " có nghĩa là "Kể chuyện một cách cà kê ", kể chuyện lai rai, chuyện này
ra chuyện khác, không dứt được. "Cà-kê" đây là một trạng từ (adverbe) không
phải là một hình dung từ (adjectif).
Nhưng
trong lúc viết bài, Tô Vũ thường dùng "cà kê" như một động từ (verbe). ( Thí dụ
: Tôi "cà kê" quá nhiều rồi xin chấm dứt bài Mùa Thu và Tôi...trong số
8)
Nếu hồi
này Tô Vũ kể mấy chuyện thơ văn, chỉ vì lúc này TV gặp mấy đề tài đó thôi.
Thường thường thì gặp chuyện gì thì viết chuyện đó, chọn đề tài sơ sơ trước rồi
lúc viết thì viết theo "ngòi bút", chuyện này nó "bày" ra chuyện khác, có khi
không dứt ra nổi, nên có vài độc giả trách Tô Vũ viết dài quá.
Tô Vũ
nhận lỗi đã viết dài quá.
Chuyện cà
kê số 7 tháng 11-07, nếu in ra báo thì thành một tờ báo dày 200 trang.
Xin quý
độc giả cứ theo mục lục mà chọn mục, tiểu mục để đọc, nếu cứ đọc theo Tô Vũ viết
thỉ không dứt ra được.
Tô Vũ sẽ
viết ngắn lại. Toàn chuyện sẽ ngắt ra từng mục, từng tiểu mục, để tránh sự rối
mù, làm độc giả khó theo rõi.
***
Xin cảm
ơn hai vị độc giả, giáo sư Thomas Lê ở Hoa kỳ và ông PLK ở Pháp và một độc giả
đã gọi điện thoại.Tô Vũ sẽ cố gắng để làm hài lòng quý độc giả.
Tô Vũ
070108
*****
Mục 4 - Tô Vũ chăn dê (bài
viết của Tô Vũ)
Kỳ trước
Tô Vũ hứa sẻ kể chuyện ông Tô Vũ thật, ông Tô Vũ chính cống mà người đời gọi là
Tô Vũ chăn dê, là người được lịch sử Tàu ghi tên, được dân chúng tôn sùng từ hai
ngàn năm nay về lòng trung nghĩa, trung quân, ái quốc, quyết giữ vững chính khí
mặc dù bị tù đầy khổ sở.
*
Phỏng
theo cuốn "A Chinese bibliographical Dictionary" do Maurice Durand trích trong
tập "Imagerie Populaire Vietnamienne", sách của Trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole
d'Extrême Orient) xuất bản ở Paris năm 1960, thì vào thời vua HánVũ Đế (Tây Hán
202 trước Tây lịch đến 08 sau Tây lịch) có sự tranh chấp giữa người Hung (Tàu
gọi là Hung Nô) ở xứ Mông cổ, và người Hán (Trung hoa). Hai bên đều cử những
phái đoàn sang nước địch để điều đình.
Năm 100
trước Tây lịch, Tô Vũ cầm đầu một phái đoàn sang xứ Hung nô, dẫn theo một số tù
binh Hung Nô đã bị Hán bắt để trao trả. Khi tới xứ Hung nô, nhân viên phái đoàn
của Tô Vũ nổi loạn chống vua Hán, đầu hàng vua Hung nô, ép Tô Vũ phải theo. Tô
Vũ không chịu, định tự sát. Rồi Tô Vũ lỡ tay làm chết Ngu Thường là một nhân
viên phái đoàn. Tô Vũ bị vua Hung Nô cầm tù, bỏ đói. Tô Vũ phải ngậm băng tuyết
cầm hơi và nhai những mảnh rẻ cho đỡ đói. Vua Hung Nô đầy Tô Vũ lên phía bắc xứ
Mông cổ, bắt phải chăn cừu trong băng tuyết.
14 năm
sau, hoà bình giữa hai nước. Vua Hán đòi thả Tô Vũ, Hung Nô nói Tô Vũ đã chết
rồi.
Sứ thần
Hán nói rằng với vua Hung Nô là Thuyền Vu rằng : vua Hán đi săn, bắn được một
con nhạn. Chân nhạn có buộc một bức thư đưa tin Tô Vũ vẫn còn sống, vua Hung Nô
mới không cãi là Tô Vũ đã chết.
Năm năm
sau Tô Vũ được thả về, kết thúc 19 năm bị tù đầy nơi xứ băng lạnh, nhưng vẫn giữ
được một lòng trung quân ái quốc.
*****
Một bức
tranh vẽ Tô Vũ chăn cừu râu tóc bạc phơ, cây gậy sứ thần dựa vào vai có buộc
những mảnh lông mao do vua ban khi sang xứ Hung nô.
Có hai
bài thơ đề trên bức tranh đó, một bài viết bằng chữ Hán, một bài viết bằng chữ
nôm.
Bài chữ
Hán như sau:
Hán Tô Vũ tiết.Độc trì sử tiết hướng thiên nhai.Ngoạ tuyết, thôn chiên, mấn dĩ ti.Thập cửu niên gian mao tận lạc.Thần tâm tuy tử bất hàng di.
(chú
thích của TV: tiết là cái gậy cao dài biểu tượng một sứ thần do vua ban cho khi
cử ra nước ngoài. Gậy có buộc những túm lông đuôi bò rừng gọi là mao).
Bài chữ
nôm như sau:
Hoàng hoa sứ tiết xa bay,Trông đường muôn dậm mặt đầy uy sương.Nghĩ mình Thiên Hán trung lang.Nhẽ đâu lại có chịu hàng cường di.Vậy nên sinh tử dĩ chi.Chăn dê trải mấy nan nguy chẳng chồn.Kể đà mười chín năm tròn.Mao cờ mòn hết lòng son vẫn còn.
***
Có một thắc mắc
được đặt ra là trong các chuyện chữ Hán về Tô Vũ, đều viết "Tô Vũ mục đê" chứ
không viết "Tô Vũ mục dương" (dương là dê).
Theo Từ điển
Thiều Chửu thì "đê" là "dê đực."
"Tô Vũ mục đê" có
nghĩa là Tô Vũ chăn dê đực.
Vì vậy mới có
chuyện hoang đường đặt ra là vua Hung Nô bắt Tô Vũ chăn dê đực và bắt phải nuôi
cho dê đực đẻ. Lại còn có chuyện bịa đặt là Tô Vũ sống với một con khỉ đột, rồi
đẻ ra con.
Trong bức tranh
kể trên thì vẽ những con cừu, có lông mọc sù như những con cừu thường thấy chứ
không phải những con dê. Như vậy hợp lý, vì rằng ở xứ giá lạnh tuyết băng thì
những con dê là nhưng con vật không có lông dầy không chịu được giá lạnh, mùa
đông phải nhốt ở trong chuồng chứ không chăn ngoài trời, Tô Vũ chăn cừu đúng hơn
là chăn dê, và chữ "đê" chỉ "con cừu" chứ không phải con dê đực.
Bài viết bằng chữ
Pháp nói trên mà ông Maurice Durand trích dịch cũng viết rằng (...) Finalement les Hiong Nou, l'envoyèrent vers le
Nord et le condamnèrent à garder les moutons (...)
Theo con
mắt người âu tây, bắn ngỗng trời hợp lý hơn là bắn nhạn mặc dầu cả ngỗng và nhạn
đều di cư mỗi khi đổi mùa (bản văn chữ Pháp viết: Tch'ang Houei ordonna à un
envoyé de dire au Khan que l'Empereur avait tué une oie sauvage qui portait
attachée à ses pattes une missive qui lui donnait des nouvelles de Sou Wou
(...)
Sách sử
Tàu thì đều nói là chim nhạn vì cho rằng nhạn biểu tượng cho việc thông tin.
Trong
Kiều có câu: Buồn trông phong cảnh quê người, Đầu cành quyên nhặt, cuối trời
nhạn thưa. Nhạn thưa là điển tích trích ở sách Quảng-sự-loại dẫn truyện Tô Vũ :
Thường Huệ dạy sứ thần bảo với Thuyền Vu (Thuyền Vu là vua Hung nô): "Vua Thiên
tử đi săn ở rừng Thượng-lâm bắn được con chim nhạn, chân nó có buộc một tờ thư
bằng lụa, trong thư nói : Hiện Tô Vũ đang ở trong một khoảng đầm hồ.
"
Trong
Chinh Phụ Ngâm có câu: Thấy nhàn luống tuởng thư phong, nghe hơi sương sắm áo
bông sẵn sàng là cũng ở trong ý nghĩa đó, con chim nhạn là biểu tượng cho việc
thông tin, nhìn thấy chim nhạn là nghĩ rằng có thư tới.
*****
Nhân vụ
ông Tô Vũ Chăn Dê bị giam giữ 19 năm tại xứ Hung Nô, TôVũ (nhà báo) tôi nhân
ngày sinh nhật có làm câu phú "Sinh nhật tự trào" vơ điển tích ông TôVũ thật
vào.
Câu phú
như sau:
"Xuân bất tận Trởi cho nên cứ hưởng,Chẳng hơn ai mà cũng chẳng thấy ai hơn.Trời ban cho tuổi thọ tới lão niên.Không bệnh tật là tiên trên cõi thế!.Đủng đỉnh viết dăm câu thơ, vài bài báo, một truyện tình thích thú.Nhớ năm xưa, chăm chú mấy lời ca. Buổi truyền thanh, hăng hái những ông bà...Cũng đã tưởng như tích trước, mười chín năm tù Hung nô xong, trở về nơi cố quốc. Có ngờ đâu, ba mươi thu qua, Tô Vũ sắp biến thành Tô Thị !Cũng đã tưởng, còn sống ít năm về quê xưa an nghỉ, thăm nom họ hàng làng mạc, viếng mộ ông bà cha mẹ, vui hưởng nốt tuổi trời.Nào có hay, Trời chửa chiều người, vẫn làm ngơ cho quân tàn bạo.Thôi đành vậy! Hãy ở với đời vài chục năm nữa, để xem ông Trời đối xử ra sao? " (TôVũ)
Đến đây,
Tô Vũ tôi chào tạm biệt quý độc giả, chúc quý vị năm Mậu Tý khang an vạn phúc,
tâm thân an lạc.
Paris,
1er Janvier 2008)
Tô
Vũ
*****
Mục 5 - Thơ
***
5 - 1 ) -- Giỗ Trận Hoàng Sa
34 Năm
Văn Tế
Anh Hùng Tử Sĩ trận hải chiến Hoàng Sa 34 năm Của Trần quan Niệm và Phạm Tứ Lang
(Hoa Kỳ)
***
Đây Hoàng Sa. Đây Hoàng SaTrận hải chiến lẫy lừng trong lịch sửBảo vệ quốc gia - Vẹn toàn lãnh thổVinh quang thay - Hải lực Việt oai hùngGiữa biển khơi, bao chiến sĩ hy sinhMáu tô thắm dệt thành trang hùng sửBa mươi bốn năm xưaMột ngày rực lửaTrung Cộng ngang tàngXua chiến hạm tính nuốt trôi đảo ViệtNào Soái Hạm, Trục Lôi, Hộ TốngNào Phi Tiễn Đĩnh, nào Hải Vận Hạm chở quânTiến ầm ầm, dậy sóng biển ĐôngHải đội xung kích Hải Quân taTrực chỉ Hoàng SaQuần đảo hoang sơ, ẩn hiện khói sương mờNằm án ngữ nơi bao lơn nước ViệtLãnh hải xa, bao đời ông cha ta trấn thủBia đá rành rành, văn bản vẫn còn ghiThế mà nay, quân xâm lược lăm leLoài cuồng khấu, ôm giấc mơ Nam tiếnTa sẵn sàng nghênh chiếnDù lực lượng lệch chênhDàn đội hình quần thảo một phenQuyết không hổ danhHậu duệ Ngô Quyền, Trần Hưng ĐạoLực lượng ta:Trần Khánh Dư (Khu Trục Hạm)Trần Bình Trọng, Lý Thường Kiệt, (Tuần Dương Hạm)Nhựt Tảo, (Hộ Tống Hạm) oai phongBiển động sóng cuồngSúng gầm khạc lửaChiến hạm địch quay cuồng bốc cháyBộ Tham Mưu tan xác banh thâyĐô Đốc, Tá, Úy, Hạ Sĩ Quan, Đoàn ViênThương vong vô số kểĐịch cố thoát vòng vâyĐiên cuồng chống trảHộ Tống Hạm Nhựt Tảo trúng pháo địchLửa cháy bùng thượng từng kiến trúcNhiều ổ súng ngả nghiêngĐài chỉ huy tan nátTrung Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà (1)Dáng dấp thư sinh - Chỉ huy quyết liệtDạn dầy hải nghiệp - Sói biển phong sươngBị trọng thương, quyết theo tầu vào lòng biểnThiếu Tá Hạm Phó Nguyễn Thành TríTrọng thương nhưng tinh thần bất khuấtXin được chết theo tầuHạm trưởng lắc đầu:''Anh phải điXuồng đào thoát cần một vị chỉ huyHãy để một mình tôi ở lại''Ôi khẳng kháiNhững anh hùng biển cảChiến sĩ Hải Quân oai hùng bắn tới viên đạn cuốiTrước khi chìm vào lòng biển Mẹ mênh mông32 Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viênđã vị quốc vong thân.26 mất tíchNgày hôm nay, 19 tháng Giêng năm 2008Nhớ ngày các anh em đã xả thân vì Tổ QuốcChúng tôi, bạn bè cùng trang lứaQuân chủng Hải Quân, tình chiến hữu năm xưaTrước bàn thờ bài vị trang nghiêmBa mươi bốn năm ngày giỗ trậnThắp nén nhang thơm tưởng niệmDâng ly rượu lễ chí thànhCúi mong các bạn hiển linhHồn thiêng về đây chứng giámXin được nghiêng mình vinh danhnhững anh linh tử sĩ oai hùng:Hải Quân Trung Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà (1)Hải Quân Thiếu Tá Hạm Phó Nguyễn Thành TríHải Quân Trung Úy Vũ Văn BangTrung Úy Cơ Khí Ngô Chí ThànhTrung Úy Cơ Khí Hàng Hải Thương Thuyền Huỳnh Duy ThạchHải Quân Trung Úy Vũ Đình HuânHải Quân Trung Úy Nguyễn Văn ĐôngHải Quân Thiếu Úy Lê Văn ĐơnMột Hải Quân Thiếu Úy không rõ tênHải Quân Thiếu Úy Nguyễn Phúc XạThượng Sĩ Quản Nội Trưởng ChâuThượng Sĩ Vận Chuyển LễTrung Sĩ Cơ Khí Nguyễn Tấn SĩTrung Sĩ Thám Xuất Lê Anh DũngTrung sĩ Điện Tử TrungTrung Sĩ Giám Lộ Vương ThươngTrung Sĩ Quản Kho TuấnTrung Sĩ Trọng Pháo NamHạ sĩ Vận Chuyển Lê Văn TâyHạ Sĩ Trọng Pháo TrứHạ sĩ Trọng Pháo HùngHạ sĩ Giám Lộ Ngô Văn ƠnHạ sĩ Vận Chuyển TrứHạ Sĩ Nguyễn Thành DanhHạ Sĩ Quản Kho Nguyễn Văn DuyênHạ sĩ Đỗ Văn LongThủy thủ Trọng Pháo ĐứcThủy thủ Điện Tử ThanhThủy thủ Trọng Pháo Thi Văn SinhThủy thủ Trọng Pháo MếnThủy thủ Cơ Khí Đinh Hoàng MaiVà hai mươi sáu chiến hữu Hải Quân mất tíchNhớ chư linh xưaTung hoành dọc ngang - Biển Đông vùng vẫyLướt sóng kình ngư - Giữ gìn lãnh hảiHỡi ơiMột ngày biển Đông sóng dậyHải âu gẫy cánh trùng dươngCác anh điĐể nhớ để thươngCho Mẹ, cho Cha, cho vợ, cho con, cho anh. cho emCho bạn bè các cấpGương tuẫn quốc, muôn đời ghi sử sáchLòng hy sinh, sáng mãi đến ngàn thuTrước bàn thờĐèn nến lung linhHương trầm ngào ngạtHồn linh thiêng về chứng giám lòng thànhCon Rồng cháu Lạc hy sinhXứng danh Liệt Tổ, Liệt TôngTổ Quốc muôn đời ghi nhớCung duy - Thượng hưởng
(Trần Quán Niệm
và Phạm Tứ Lang - (Hoa Kỳ)
(Phạm Tứ Lang cựu
học sinh Chu Văn An)
Chú thích
(1) cố HQ Trung
Tá Ngụy Văn Thà tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, khóa 12 Đệ nhất
Song Ngư - Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ 10 bị chìm, HQ 4, HQ 5, HQ 16 hư hại nhẹ, sau
khi sửa chữa đã hoạt động trở lại.
* * * *
*
5 - 2 ) Trận Hoàng
sa
Thơ của David Lý Lãng Nhân (Hoa
Kỳ)
Tưởng Niệm Trận
Hoàng Sa
(Bài Họa Vận)
David Lý Lãng Nhân
Bảo vệ non sông chết chẳng Thà
Bi hùng hải chiến đảo Hoàng Sa
Biết mình cô thế ta nào ngại
Trách bạn Cờ Hoa sớm lãng raChẳng để giặc Tầu xâm lãnh hải
Kiên cường quyết tử chọn cang qua
Ngàn năm còn đó trang bi sử
Thắp nén hương Nam lệ ứa nhòaMadison, AL, December 2007
Cước chú : theo
tài liệu NET và hồi ký của ĐĐ Hồ-Văn Kỳ-Thoại: Trong trận hải chiến Hoàng Sa
giửa Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung Cộng ngày 17-19 tháng Giêng 1974, Chiến Hạm
VN vì kém thế nên bị bắn chìm và Trung Tá HQ VN Ngụy Văn Thà đã oanh liệt tử
trận. Tuy nhiên cuộc tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa cho đến nay vẫn còn
tiếp diễn giửa VN và TC trên chiến trường chính trị quốc tế.
*****
5 - 3 ) Vàng Bóng Cờ Bay
Thơ Nhược Thu, Oslo, Na Uy
*
Đất nước ngày mai em trở lạiVới luồng gió mới ngược Trường SơnMang màu nắng ấm xuôi thành phốSưởi ấm bao lòng đang héo honMai mốt em về đòi lại nợMuôn hồn oan nghiệt đáy trùng dươngNhững lời trăn trối nơi tù ngụcChẳng thấu tai người thân nhớ thương...Mai mốt em về xin gạn hỏiGiống dòng Hồng Lạc của mình đâuVì sao từng bước dâng Tàu CộngĐể được phì thân vững tước Hầu...Mai mốt khi về em có nhớNhững lòng chiến sĩ chốn xa xôiThân tàn xứ lạ hồn mơ mãiVàng bóng cờ bay rợp đất trờiNhược Thu (Na Uy)
*****
5 - 4 ) Mai Mốt Em
Về
Thơ Thi Hạnh,
Oslo, Na Uy
*
Mai mốt em về em sẽ nhớĐứng giữa thênh thang những cánh đồngGió ngoan ru khẽ hương mùa lúaThắm vàng bát ngát cõi mênh môngMai mốt em về em sẽ hátDân ca, điệu lý rất tự tìnhVăng vẳng trong chiều câu lục bátMuôn đời tiếng mẹ vẫn uy linhMai mốt em về em sẽ nhắcHỡi người còn nhớ giấc mơ xưaNăm tháng trở về trong khoảnh khắcCâu thương câu nhớ mấy cho vừaMai mốt em về em sẽ nói:Đây dòng máu mẹ vẫn còn lanTừ nơi hóc hẻo sâu, xa vắngCho đến thành đô, khắp thôn làngThi Hạnh (Na Uy)
*****
5 - 5 ) Hoang Vu
Thơ Đan Thuý Vy (Paris)*
Người ngồi đâyTrong mênh mông bóng đổ chập chùng.Người ngồi đâyNghe hư vô trăm ngàn gọi nhớ.Người ngồi đây,Ôm thân đau vết thân phận người.Gió bão bùng bốn mùa,Chim gọi rừngLời ca thiên thu.Mùa tình sang.Tóc thôi bay,Giọt nắng hiên nắng người.Về đồi caoMây lang thang ôm sầu đỉnh nhớ.Tìm về đâyMắt môi nay vạn lời tạ từÁo trắng cho nhau một chiềuTiển hội trần, đất trở mình trăm năm.Ôi có muôn vạn xôn xaoCho cuộc đời vẫy gọiTay cuộc đời vẫy gọiCó muôn ngọn nến thắp lên trong đêm mịt mùng.Ôi ! Những vết thương tươiÂm thầm nhỏ xuống từng ngàyDẫu sóng mềm vẫn mãi ra khơiCho mặt trời thắp sáng trên môi.Người về đâyThôi mong chi một thuở yêu nàoVà niềm đauNhư thân cây mùa đông trút láKỷ niệm xưaNay theo trăng hiu hắt qua mànhDấu địa đàng, người vềCho tuổi sầu nay mãi mênh mang.Đan Thuý Vy
*****
5 - 6) Ba bài thơ hoạ bài Thăng Long
thành hoài cổ
của Bà Huyện
Thanh Quan do Nhạc sĩ sáng tác Anh Huy, Paris, gửi tới
***
5-6-1) - Thăng Long Thành Hoài
Cổ
Tạo hóa gây chi cuộc hí trườngĐến nay thấm thoát mấy tinh sươngLối xưa xe ngựa hồn thu thảoNền cũ lâu đài bóng tịch dươngĐá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệtNước còn cau mặt với tang thươngNghìn xưa gương cũ soi kim cổCảnh ấy người đây luống đoạn trườngBà Huyện Thanh Quan
*****
5-6-2) - Bài họa của Vũ Uyên
Giang
Thức trắng canh trườngNgày nào hào kiệt chốn sa trườngMái tóc bây giờ đã điểm sươngNhớ lúc tung hoành trên trận tuyếnNghĩ khi ngang dọc dưới tà dươngĐổi đời đất nước bao hờn tủiThay bậc cơ đồ một đáng thươngRồi cũng bay vèo theo cát bụiNgồi đây ta thức trắng canh trườngVũ Uyên Giang
*****
5-6-3) Bài họa của Anh Huy,
Paris
Tâm vọng Chí cùngTâm vọng trần gian chuốc lệ trường,Chí cùng vạn sự điểm mù sương .Ngất ngưởng vàng son thời thiên cổ,Lờ mờ hư ảnh buổi hoàng dương .Nước khóc kinh hồn vầng nhật nguyệt,Non gào khủng khiếp động bi thương .Thôi nhé, thôi chờ hoàng hôn xuống,Vững tin, chính khí thoát hoạn trường .Anh-Huy
Paris 07/11/2007
*****
5-6-4) Bài họa 3 của Tiểu
Bảo
Hoạt cảnh Việt-Nam QuốcQuốc-phá gia-vong cảnh đoạn-trườngĐường xưa lối cũ phủ mù sươngCòn đâu tứ-đức tòng minh-nguyệtMất hết hiếu-trung tỏa ánh-dươngBiệt-xứ anh-thư sầu tủi-nhụcLưu-vong tuấn-kiệt hận đau-thươngSơn-hà xã-tắc độc-tài trịHoạt-cảnh Việt-gian náo nhất-trườngTiểu Bảo12/11/2007
* * * *
*
6 - Mục Giới thiệu
sách
6 - 1 ) Mùa Xuân Vỗ Cánh, tập thơ của Thi sĩ Đỗ Bình do Cội Nguồn ở Hoa Kỳ xuất
bản. Sách in trang nhã, do Lê Mộng Nguyên và Nguyễn Thùy giới thiệu. Sách không
đề giá bán.
Tô Vũ trân trọng
giới thiệu cùng quý độc giả.
Muốn biết chi
tiết, xin liên lạc với tác giả qua dịa chỉ dobinh@hotmail.fr
Tô Vũ cảm ơn thi
sĩ Đỗ Bình đã gửi sách tặng.
6 - 2) Bài Ca Vọng Cổ, tập truyện ngắn của tác giả Tiểu Tử, ra mắt tại Paris
tháng 11-07
Sách gồm 14
truyện ngắn, xuất bản tại Hoa Kỳ.
Tô Vũ trân trọng
giới thiệu cùng quý độc giả. và cảm ơn tác giả đã đề tặng
Muốn biết chi
tiết, xin liên lạc với tác giả qua địa chỉ tieutuvhn@yahoo.com
6 - 3) Tôi đi và sống. Hồi ký sự nghiệp 50 năm ca sĩ,Tập 1, của Bạch Yến, ra
mắt tại Paris tháng 11-07.
Tô Vũ trân trọng
giới thiệu cùng quý độc giả.
Muốn biết chi
tiết, xin liên lạc với tác giả qua địa chỉ bachyenh@gmail.com
6 - 4 ) Tử Vi và Địa Lý Thực Hành, tác giả Hàn Lâm Nguyễn Phú Thứ ở Lyon.
Tô Vũ trân trọng
giới thiệu cùng quý độc giả cuốn sách giá trị này.
Muốn biết chi
tiết, xin liên lạc với tác giả qua địa chỉ nguyentran2004@yahoo.fr
6 - 5 ) Noel 2007 thăm những vị Cao Niên tại Créteil (bài viết của Tô Vũ)
*
Nhân ngày lễ
Giáng Sinh, ông Lê Trung Cang, Bác sĩ PNToả, cô Thy Như Boulhol, Jean Pierre
Boulhol và một số các ông, bà hảo tâm như ông Nguyễn đức Tăng, nhạc sĩ Văn
Trung, ông Nguyễn như Giác, ông bà Hà đức Long (hội Chu Văn An), ông bà Từ
Nguyên (hội Văn bút), Ngọc Lan, Kim Hoàng, Mi Mi, Huỳnh Mai v.v... đã tổ
chức/tham dự một buổi thăm hỏi, ca nhạc để giúp vui các ông bà Cao Niên sống độc
thân tại Nhà Cao Niên, Résidence des personnes âgées "Arepa" đường Docteur
Cazalis ở Créteil ngày 25-12-07 vừa qua.
Thật là một nghĩa
cử rất cảm động, đáng khen ngợi và nên khuyến khích lan rộng sang những Nhà Cao
Niên khác ở Paris và Ile de France, nơi nào có người Việt Nam cư ngụ.
Những ông bà cao
niên Việt Nam sống độc thân trong các nhà Cao Niên rất cần có người đồng hương
đến thăm hỏi chuyện trò. Họ không cần giúp đỡ tiền bạc, quà cáp, vật chất gì cả.
Họ không cần tình thương. Họ chỉ cần có những "présence humaine", cần tình đồng
hương, chuyện trò thăm hỏi, nói tiếng Việt với họ vì họ sống cô độc, xa gia
đình, xa con cái.
Cuộc hội họp hôm
nay có sự hiện diện khoảng 80-100 người.
Thực đơn gồm có
những món ăn nguội, rượu, nước, bánh ngọt trái cây.
Có xổ số lôtô.
Có nhiều ca sĩ và nhạc sĩ đàn hát và có khiêu vũ.
Đặc biệt có nghệ
sĩ trẻ Huỳnh Mai múa quạt và múa "giải ruban", múa theo nhạc, một môn múa rất
đẹp rất mỹ thuật. Môn múa "giải ruban" này rất thịnh hành ở các nước Á đông,
Hongkong, Singapore, nhưng trong cộng đồng Việt Nam chưa thấy có nghệ sĩ nào
trình diễn. Huỳnh Mai là người đầu tiên trình diễn ở Paris, nếu Tô Vũ không
nhầm. Hy vọng nghệ sĩ trẻ Huỳnh Mai sẽ "former" một toán ba bốn cô múa với
những quần áo mầu và các "ruban" mầu, múa Khúc Nghê Thường của Hằng Nga, thì
chắc chắn sẽ rất thành công và được khán giả hâm mộ.
Tô Vũ cảm ơn các
nhà tổ chức và các ca nhạc nghệ sĩ đã cho TôVũ được một buổi chiều vui vẻ, đầm
ấm với tình người.
Tô Vũ rất cảm
động thấy những vị Cao Niên ở ngay tại Paris này không bị bỏ quên. Các nhà hảo
tâm thường hướng về nơi xa xăm trong nước cách nơi đây nghìn vạn dặm, giúp đỡ
những người xấu số ở trong nước, một nghĩa cử rất đáng khuyến khích, nhưng các
nhà hảo tâm dường như quên những người ở ngay cạnh nách, cũng cần có những sự
nâng đỡ tinh thần, để quên sự sống cô độc hàng ngày, xa con cái, xa gia đình
trong những căn phòng nhỏ trong các Nhà Cao Niên. Tuy các vị Cao niên được đối
xử rất đầy đủ về vật chất, được đối xử rất bình đẳng nhân đạo, nhưng họ thiếu
tình gia đình thân mật, thiếu lời nói đầm ấm bằng tiếng Việt, thiếu chuyện trò
hàng ngày bằng tiếng mẹ đẻ. Sự khổ tâm nhất của những người cao niên là cảm giác
bị bỏ rơi, bị gia đình con cái quên, bị xã hội coi như thừa thãi, phế thải, vô
ích. Sự khổ tâm nữa là thiếu sự có mặt của những người đồng chủng, đồng hương,
thiếu nói, thiếu nghe tiếng mẹ đẻ.
Ở Paris, Tô Vũ
thấy các vị hảo tâm thường kêu gọi những sự giúp đỡ cho phế binh, cho những trẻ
mồ côi, những nguời mù, những người bị bệnh nan y ở trong nước, đó là những điều
làm rất tốt, nên làm, Tô Vũ rất hoan nghênh việc làm của quý vị, nhưng xin lưu ý
quý vị đến những người ở gần quý vị, cũng cần đến sự giúp đỡ.
Mong rằng quý vị
hảo tâm bớt một "chút hảo tâm", một chút thì giờ, một chút suy nghĩ, dành cho
những người ở gần, ở Paris hay trong Ile de France.
Cảm ơn quý vị.
(Tô Vũ)
080108
TôVũ
*****
Mục 7 - Ngôn Ngữ
Huế
Tuệ Chương Hoàng Long
Hải
***
Trong bài "Thổ Âm
Trị Thiên", tôi có nhận xét rằng khi tôi lưu lạc vào Nam, xuống tận miền Cà Mau,
Rạch Giá, thấy trong Nam tiếng nói người nhà quê ở xã ấp không khác mấy với
người thành thị, dù người thành thị đó ở Tây Đô, tên một thời của Cần-
Thơ.
Ở Trị-Thiên khác
hẳn, tiếng của người nhà quê và người thành thị khác nhau không ít.
Người Việt Nam có
câu tục ngữ "Đất lề quê thói" hoặc văn vẻ như Hạ Tri Chương thì "Hướng âm vô
cải" làm cho người ta không muốn thay đổi tiếng nói của mình, nhưng ngay tại
Huế, kinh đô nhà Nguyễn, nơi có nhiều người từ nơi khác, người Quảng Nam như ông
Phạm Phú Thứ, người Bắc như ông Phan Đình Phùng quê ở Hà Tĩnh, như Bà Huyện
Thanh Quan một thời gian lâu dài làm cung trung giáo tập, người Nam như Phan
Thanh Giản, người Nam bộ đầu tiên đỗ khoa thi tiến sĩ, đến làm quan sinh sống
thì tiếng nói của người dân ở các miền có lẽ nào không có ảnh hưởng ít nhiều đến
tiếng nói của người Huế hay sao?
Nhiều người đến
Huế làm quan nhưng vẫn cứ giữ tiếng nói nơi quê nhà họ. Có thể đó là tính "cục
bộ", là giữ tiếng nói làng quê mình vì yêu quê hương, nếu thay đổi thì sẽ "lạc
lỏng" khi trở lại quê nhà, v.v... Theo nhận xét của Võ Nguyên Giáp trong "Những
Năm Tháng Không Thể Nào Quên", ngày 2 tháng 9 năm 1945, khi đọc bản "Tuyên Ngôn
Độc Lập" ở Quảng Trường Ba Đình, Hồ Chí Minh dùng tiếng nói của người Nghệ Tĩnh
vùng quê, và dĩ nhiên Võ khen "Bác". (sic) Hồ Chí Minh có ở Huế một thời gian
không ngắn, lưu lạc qua tới Pháp, tới Nga, tới Tàu và gặp không ít người Việt
nói đủ tiếng khắp ba miền. Lê Duẫn cũng vậy. Ông ta từng hoạt động trong Nam khá
lâu, khi lên diễn đàn, ông vẫn nói tiếng "đất sét". Tổng thống Ngô Đình Diệm thì
khác. Nói chuyện bình thường, ông dùng tiếng Huế, đọc thông điệp gởi đồng bào
toàn quốc, ông dùng tiếng Nam, hiệu triệu đồng bào miền Trung, ông dùng tiếng
Huế, mới về làm thủ tướng năm 1954, ra Hà Nội, nói chuyện với dân Bắc Hà, ông
dùng tiếng Bắc. Mục đích là để đồng bào hiểu rõ những gì muốn nói.
Đến Huế năm mười
sáu tuổi, tôi bị người Huế chê không những chỉ vì là "dân đất sét"(*), mà còn vì
tôi dùng nhiều tiếng nhà quê khác nữa. Thay vì gọi là "côông" (*) thì tôi gọi là
"cò ke"; "sợi cao su", trong nam gọi là "cọng thun(g)" thì tôi gọi là "chạc
địu". Vào Nam làm việc, tôi tập nói tiếng Nam kẻo không thì sợ đồng bào trong
Nam cho rằng tôi là người... ngoại quốc.
Ở Trị Thiên, khi
về miền quê, nên nói cái "trôốc" thay vì cái "đầu", "trôốc cúi" thay vì "đầu
gối". Nói thế đồng bào dễ hiểu hơn, khỏi cần... thông dịch viên. Nhưng khi nói
chuyện với người Huế thì phải trở lại với cái "đầu", "đầu gối" không thì sẽ bị
chê là "dân nhà quê". Mấy cô gái Huế chắc chẳng chịu lấy một anh chồng xổ toàn
một thứ tiếng "Cơm nể để trữa cươi..." dù làm tới "giáo sư Trường Lụt" (Luật)
như một người quen của tôi.
Một thời mê thơ,
năm đầu tiên khi đi học ở Huế, tôi cố tìm cho được một bài thơ làm về Huế của Tố
Hữu để chép vào tập "Thơ Chép" của tôi. Bài thơ nầy có câu: "Huế của ta ơi! Huế
của ta!" Và tôi cho thế là hay lắm! Về sau, khi mỗi ngày cứ nghe ra rã trên đài
phát thanh, trong "học tập cải tạo", v.v... nào những "Đảng ta". "Nhân dân ta",
"Bộ Đội ta", "Hà Nội ta" (đánh Mỹ giỏi) (*), "Chi bộ ta", "Xí nghiệp ta", v.v...
thì tôi thấy Tố Hữu viết sai mất rồi.
Người Huế ít có
cái tự hào một cách khoe khoang như thế (dĩ nhiên tôi nói chung, không phải "thứ
người Huế" của "Đảng ta"). Cho nên không mấy khi người Huế họ dùng chữ "ta".
Họ không nói là "Huế ta" mà nói là
"Huế mình". Nói với người trong Nam, tôi nói theo cách Huế là "ngoài tui" hay
"ngoài tôi", chỉ danh Huế thì nói là "Huế tui" hay "Huế tôi". Nói với bạn bè Huế
thì tôi nói là "Huế mình" hay "ngoài mình".
Có gì khác giữa ta và mình?Có chứ! Cứ so sánh:"Một mảnh tình riêng TA với TA"của Bà Huyện Thanh Quan với"Một MÌNH MÌNH biết, một MÌNH MÌNH hay"
trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du, người đọc sẽ thấy sự khác biệt giữa TA với MÌNH. MÌNH
khiêm nhường hơn, âu yếm hơn (như Mình ơi! Của Diệu Hương), thân thiết hơn, nhẹ
nhàng hơn, và chơn chất hơn.
Khi bàn
tới tiếng Huế, người ta thường quanh quẩn với "mô tê răng rứa" với "hí" hay
"hỉ". Tiếng Huế, nhứt là tiếng Huế của mấy bà mấy cô nhẹ nhàng và dễ mến hơn,
"mặn mà có duyên" hơn dù khi họ mắng nhau: "Đồ tinh le", "quỷ sứ" hay đồ "Con
Yêu Bánh Nậm" như tên một tác phẩm của Trần Kiêm Đoàn. Ngay trong tác phẩm nầy
của Trần Kiêm Đoàn người ta gặp không ít tiếng Huế như thế: "tinh le", "tinh đèo
đèo", "đồ yêu", "đồ quỷ", "hổ ngươi", "ôốc dôộc" "trổ trời mà lên", "ác nhơn
thất đức" "làm bộ làm tịch", "làm tàng", "giựt le", "tội tình chi rứa?", "thiệt
là ngụy", "hiện ngụy" v.v...
Người Huế
ít khi nói "nhìn". Họ gọi là "ngó" (Ngó chi tui đồ cỏ dại hoa hèn). Nếu có một
anh con trai nào đó, hay nhìn lén hay nhìn lâu một cô gái Huế. Cô ta thấy "ốốc
dộộc" và "làm đày" mà nói: "Nợ nần chi ai mà ngó dữ rứa?"
Khi yêu
ai, họ ít khi dùng chữ "yêu". Có lẽ từ thập niên 50, "văn minh" hơn, người ta
mới nói "Anh yêu em" hay "Em yêu anh" hay "Hai người yêu nhau". Trước đó, họ gọi
là "thương". "Anh thương em" hoặc ngược lại. Chẳng hạn như trong câu ca
dao:
Đường vô xứ Huế quanh quanhNon xanh nước biếc như tranh họa đồThương anh em cũng muốn vôSợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam giang.Phá Tam giang ngày rày đã cạnTruông Nhà Hồ Nội Tán dẹp yên (*)Hoặc "Mười Thương":Một thương tóc bỏ đuôi gàHai thương ăn nói mặn mà có duyênBa thương má lúm đồng tiền
...............
Chữ "thương" hay
hơn chữ "yêu". Thương là cho hết,
là hy sinh mà không đòi lui. Thương em là hy sinh cho em, có thể cả cuộc đời cho
em nếu em chịu về làm vợ, mà không so đo, kèn cựa em thương lại nhiều hay ít.
Yêu thì ngược lại. Yêu còn so đo, kèn cựa, tính toán như trong thơ của Xuân Diệu
"Cho rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu!" sau khi than "Yêu là chết ở trong
lòng một ít".
Về tiếng
Huế, phải nói nhà thơ Hoàng Xuân Sơn đã đưa ngôn ngữ Huế vào thơ một cách tài
tình. Ông không chỉ dùng tiếng Huế, mà còn đưa cả những "thành ngữ Huế" vào thơ.
Có làm thơ mới biết được cái tài ấy của nhà thơ họ Hoàng. (*)
Có lẽ một
số người còn nhớ bài thơ "Huế Chi Lạ Rứa" sau đây của một cô nữ sinh Đệ Tam Đồng
Khánh hồi cuối thập niên 1950:
Chi lạ rứa, chiều ni tui muốn khócNgó chi tui đồ cỏ dại hoa hènNhìn chi tui hình đom đóm trong đêmCho thêm tủi bên ni bờ cô tịchTui mơ ước có bao giờ tuyệt đíchTui van xin răng mà cứ làm ngơRồi ngói tui chi lạ rứa hững hờCho thêm tủi bên ni bờ cô tịch("Chi Lạ Rứa?" Tác giả?)
* * * *
*
Vì là
chốn kinh đô, nơi vua chúa, quan quyền sinh hoạt, vào ra thưa bẩm, cúi đầu vòng
tay; khi đi, tay không đánh xa vung vẩy, chân bước nhẹ nhàng, chậm rãi, không
chạy nhảy la hét, v.v... Tất cả những điều đó đều có ảnh hưởng đến cách nói năng
của người Huế. Ngoài ảnh hưởng vua quan ấy, còn nhiều ảnh hưởng khác nữa: Phật
giáo, Nho giáo khá sâu đậm. Cái "nhu hòa" của đạo Phật, cái "khuôn phép" của đạo
Nho tất không chấp thuận những cách nói năng "dao to búa lớn", nhất là đối với
đàn bà con gái; con gái thường phải học tập Công, Dung, Ngôn, hạnh. Dĩ nhiên,
không ai có thể nói toàn bộ mọi người là như thế, nhưng những ảnh hưởng nói trên
với số đông người Huế không thể là không có được.
Dĩ nhiên,
bên cạnh những nhu hòa, nhã nhặn đó, không thể không có "giọng nói vua quan" mà
người Huế thường gọi chung là nói "giọng các mệ". (*)
Đến Huế,
ở tại nhà một người bà con, tôi gọi bằng chú thím. Tôi ngạc nhiên và cảm thấy
ghê ghê khi bà thím mắng yêu đứa con trai út của bà: "Quất cho một roi đứt cái
đầu". Các thành ngữ: "Chém đầu bây chừ", "chém đầu cho tau" là tiếng các mệ hay
dùng để mắng thiên hạ.
Trong
cuốn "Nếp Nhà" của Bửu Kế, ông có thuật câu chuyện một "mệ" (Ông Bửu Kế cũng là
một mệ đấy!), ngày xưa giàu có lắm, nay thời thế đổi thay, "sa cơ lỡ nghiệp",
nhưng "giọng các mệ" thì vẫn còn y chang. Một hôm, đói quá, "mệ" xin người quen
hai hào để mua một củ khoai ăn cho đỡ đói lòng, nhưng cách xin và cách nói của
"mệ" vẫn y như lúc còn làm "cha thiên hạ":
- "Đưa mệ
hai hào mệ ra "chém" một củ khoai".
Không
chém được đầu ai, mệ đành chém củ khoai vậy!
Hoặc một
lần "mệ" cùng bạn bè vào vườn nhà người ta trộm bưởi, bị chủ nhà đuổi bắt. Bạn
bè chạy cả, "Mệ" kẹt trên cây, không chạy kịp, sợ thì sợ nhưng "mệ" vẫn còn
"giọng các mệ":
- "Xê ra
dưới cho "mệ" xuống".
Từ thập
niên 50 trở về trước, khác với ca Huế, khi hát tân nhạc, (âm nhạc cải cách), ca
sĩ Huế phải hát theo giọng Bắc. Các ca sĩ đài phát thanh Huế hồi đó như Tôn Thất
Niệm, Hương Thủy và cả Hà Thanh, ca sĩ có giọng hát đặc biệt mang âm hưởng dân
ca Huế rất đặc sắc, cũng đều hát theo tiếng Bắc. Hà Thanh phát âm "Hẹn Một Ngày
Về" (thay vì nói theo tiếng Huế là "Hẹn(g) mộ(ộ)t ngày về" hoặc "Ai về Bến Ngự
cho ta nhắn cùng" (thay vì "Ai về bến Ngự cho ta nhắn(g) cùng"). Thanh Thúy, tuy
hát ở Saigon, (đài Saigon hay Đại Nhạc Hội), cô ấy hát theo tiếng Huế: "Ai về là
về Bến Ngự, ai về là về Văn(g) lâu". Cách phát âm như thế làm "lạ tai" nhiều
người, khiến người ta thấy thích. Sau nầy, lối hát của Thanh Thúy càng ngày càng
phát triển thêm ra, nhứt là với các ca sĩ trong nước hiện tại, làm người nghe
cảm thấy khó chịu. Cái chi cũng vậy, "thái quá thì bất cập", lạm dụng thì mất
hay.
Về điệu
bộ khi nói năng, khi còn nhỏ, tôi vẫn thường bị mẹ mắng là hay "múa tay", không
nghiêm chỉnh, thậm chí không vòng tay và bắt buộc phải cất kiếng mát.
Sau tết
Mậu Thân, tôi đi thăm bà con. Một ông chú biểu tôi đến thăm "O Hường" nhà ở
đường Âm Hồn. Nhà "O Hường" là nhà quan, tôi gọi bằng cô (o) và chồng bà thời
còn vua nhà Nguyễn thì làm chức Hồng Lô Tự Khanh, nói trại Hồng ra Hường. Khi
tôi vào nhà, thấy "O Hường" của tôi đang nằm trên ghế trường kỷ đọc thơ "Thoại
Khanh Châu Tuấn" hay "Phạm Công Cúc Hoa" gì đó. Tôi đứng sát vách tường, hai tay
chắp vào nhau, nói vừa đủ nghe:
- "Thưa
o".
Bà cô tôi
không nghe (hay giả bộ không nghe!?) Tôi chờ mấy phút rồi "thưa o" lần thứ hai.
Bấy giờ "o tôi" mới từ từ ngừng đọc, ngồi dậy, bỏ cuốn thơ xuống bàn, gỡ cái
kiếng lão để trên cuốn thơ, nheo mắt nhìn tôi, nói hơi nặng tiếng, kéo dài ra,
nhão nhẹt để biểu lộ sự đài các:
- "Thưa o
thì "cấc" (cất) cái gương (kiếng/kính) đi đã".
Nói xong,
"o tôi" chuẩn bị nằm xuống đọc tiếp...
Tôi không
mang kiếng mát, nhưng mang kiếng cận, màu nước chè lạt. Tôi vội vàng gỡ kiếng ra
cầm tay. "O tôi" nhìn lại tôi một lần nữa, thấy tôi cất kiếng, bà hỏi, giọng nói
vẫn kéo dài ra như cuộn băng nhão:
-
"A..a..i đó mà thưa o"?
Tôi bèn
"làm bản tự khai": - "Thưa o. Cháu là con trai của ông..., cháu nội của ông... "
Bấy giờ
"O tôi" mới đon đả:
- Cháu đó
à! Tôi nghiệp chưa? Cháu tới thăm o. Trận giặc ni thôi già (nhà)
o....
Tôi rán
nghe lời "O tôi" ca cẩm, mong màn nầy chấm dứt sớm để dọt cho lẹ...
Trong cái
khuôn phép của đạo Nho, "đi cúi mặt xuống đất, về cất mặt lên trời" (Có nghĩa là
không được nhìn ngang nhìn ngửa), trong cái nhu hòa của đạo Phật, trong cái vẻ
cao sang, đài các của dòng dõi vua quan, người Huế không ngạc nhiên khi thấy một
cô gái Huế kín đáo che nụ cười sau mái tóc đen hay cái nón lá, hay tay mân mê tà
áo hoặc bứt mấy chiếc lá bên cạnh xé nhỏ thả xuống đất, mặt cúi gầm không cho
người đối thoại thấy nét vui hay nụ cười hiện ra trên mặt, còn mấy anh bạn người
Nam của tôi khi đến Huế, nói chuyện với mấy cô thì đi không đành mà "tấn công"
thì không sao vượt qua được bức tường vô hình vây bọc quanh họ. Chính nhiều
người bạn Huế của tôi phải "kỳ công" theo đuổi, cuối cùng mới cưới được người
mình yêu.
Dĩ nhiên
khi đặt tên con, cha mẹ thường chọn lựa, dựa trên căn bản kiến thức của người
đặt tên, trên phong tục địa phương, kỵ húy, v.v... Con trai thì đặt tên cho có
"chữ nghĩa" một chút, đừng nôm na quá, tuy vẫn có người chỉ thích nôm na. Đó là
chưa nói tới việc "Giữ Gìn Sự Trong Sáng" của Tiếng Việt như Phạm Văn Đồng chủ
trương. Thay vì đặt tên Sơn thì gọi là Núi, tên Thủy thì gọi là Nước, cung cách
như gọi "Máy Bay Lên Thẳng" thay vì gọi là "Phi Cơ Trực Thăng" hay thủ tướng
Phạm Văn Đồng thì nên sửa lại là Phạm Văn Ruộng. Ruộng hay Đồng thì cũng một thứ
mà thôi. Ruộng thì nôm na hơn, "trong sáng" hơn. Ở Nam Bộ, tuy cách đặt tên theo
chữ Nho tuy chưa đạt trình độ như người Huế hay Bắc Hà nhưng cũng ít khi nôm na.
Ở trong Nam, tên con gái thường thấy nhứt là Hoa, hoặc Vân, Hồng, Dung. Người
Nam kỵ húy còn "mạnh" hơn người Huế. Hồi đầu thế kỷ 20, người ta còn thấy xuất
hiện những tên như Huê (kỵ chữ Hoa), Quờn (kỵ chữ Quyền), Đông Hớn, Tây Hớn (kỵ
chữ Hán), San (kỵ chữ Sơn), v.v... Điều ấy dễ hiểu vì đất trong Nam là "đất chúa
Nguyễn", có nghĩa là do công lao các chúa Nguyễn khai phá ra, lấy đất Chiêm
Thành, Chân Lạp mà lập làng xã Việt Nam.
Ở Huế
cũng không khác, cũng có kỵ tên hay còn gọi là "kỵ húy". Tuy nhiên, với những
gia đình có Nho học cao, tên con trai thường đặt theo bộ của chữ Hán, như một
gia đình tôi quen thân, hai anh em được cha, vốn là một nhà Nho uyên thâm, đặt
tên cho một người là Thung, một người là Thụ (Thọ), khi viết chữ Nho đều có bộ
Mộc bên cạnh. Hoặc cha mẹ đặt cho những tên có ý nghĩa na ná như nhau, như các
người con của ông Ngô Đình Khả có tên là Thục, Khôi, Diệm, Nhu, Cẩn (Các con của
nhà văn Phạm Duy Tốn đều được đặt tên là Khiêm, Nhượng, Cẩn, v.v... Việc đặt tên
như vầy, tôi có viết qua trong bài "Đặt Tên Con"). Nhìn chung, đàn ông, con trai
ở Huế đều được đặt tên văn vẻ như thế, ít người có cái tên nôm na, không có
trong chữ Nho. Con gái Huế có tên khá đặc biệt. Ngoài tên các loài hoa, như Mai,
Lan, Cúc, Trúc, với một chữ đệm ở trước khá hay hoặc tên các loại Ngọc, có khi
là Diêu (tên một loại Ngọc), một số đông có chữ đệm "Diệu" ở phía trước như Diệu
Trâm, Diệu Mai, Diệu Trúc, Diệu Lan, Diệu Trang, v.v... Ôi thôi! Rất nhiều Diệu.
Diệu thường đi với tên của các loài hoa, loài ngọc, có khi cả với trái cây như
chị em Diệu Trà, Diệu Lê (một thời nổi tiếng đẹp ở Huế) nhưng chẳng bao giờ thấy
Diệu Lựu, Diệu Chanh, Diệu Bưởi. Tên Lựu thì có thể có Bạch Lựu (Tôi chưa từng
thấy hoa hay trái lựu màu trắng, thường hoa màu đỏ nên có khi gọi là lửa lựu như
câu Kiều "Bên hè lửa lựu lập lòe đơm bông") hoặc Thạch Lựu, cũng một người đẹp
nổi tiếng của Huế.
Tiếng đệm
là Diệu cho thấy ảnh hưởng Phật giáo trong việc đặt tên, dù từ chùa Diệu Đế bên
kia bên kia sông đào Hàng Bè hay Tứ Diệu Đế trong kinh Phật. (*)
Tiếng
Việt vốn đơn âm nên có thể nói lái được, vẫn có nghĩa. Chẳng hạn như
câu:
Xứ Thủ Đức năm canh thức đủ
Kẻ cơ thần trở lại Cần Thơ
Người Huế
rất thường hay nói lái để đùa. Trong Nam hiện tượng đó không phổ biến như Huế.
Cũng có
khi họ dùng chữ có hai nghĩa như câu "Ai vô trong nội nhớ hoài". "Trong" và
"nội" cùng một nghĩa, một tiếng là nôm (trong), một là tiếng Hán Việt (nội).
"Nhớ", và "hoài" cũng cùng một nghĩa. "Nhớ" là tiếng Nôm, "hoài" là tiếng
Hán-Việt. Câu nầy có nghĩa là có ai đó, một người yêu chẳng hạn, bị "đưa vô Nội"
tức là vào trong Đại Nội, cấm thành, nơi vua và hoàng gia ở, khiến người ở ngoài
nầy nhớ mãi, nhớ hoài. Ở Huế có thành ngữ "Đưa con vô Nội" là đưa con gái vào
làm cung phi, phi tần trong Đại Nội. Người vào đó cũng giống như con gái vào
dòng tu kín bên đạo Thiên Chúa, không được ra khỏi Đại Nội và khó gặp lại cha
mẹ, bà con. Từ nghĩa đen đó, câu nầy biến thành nghĩa bóng như "Dắt trâu vô rú"
là trâu đi mất. Cho bạn mượn tiền, không bao giờ bạn trả lại, coi như mất, giống
như "Đưa con vô Nội" hay "Dắt trâu vô rú" vậy.
Ngày xưa
có hai người "thương" nhau, rồi người con gái được (hay bị) tuyển vào cung cấm.
Thế là coi như hai người không bao giờ gặp nhau lại nữa, có gặp nhau đành hẹn
lại kiếp sau, xin "tại thiên nguyện tác tị dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý
chi" tức là kiếp sau xin làm "chim liền cánh, cây liền cành" hoặc như trong
truyện Kiều:
Kiếp sau chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
(*) Người
Huế gọi là "đấc séc" chữ C ở cuối thay vì chữ T như tiếng nói của người Quảng
Trị. Về vần nầy, người Quảng Trị phát đúng âm hơn. Trong suốt 10 năm dạy Việt
Văn, khi giảng bài cho học sinh, bao giờ tôi cũng dùng tiếng Quảng Trị để phát
âm cho đúng.
(*) Hai
người khiêng một vật nặng bằng một cái đòn, một người trước, một người sau.
(*) Tên
một "tác phẩm" của Nguyễn Tuân.
(*) Xin xem
"Hướng âm vô cải", tiếng Huế trong thơ Hoàng Xuân Sơn trong "Viết Về Huế" tập 1:
Đời vui chi trong sương gió... cùng tác giả.
(*) Tin dị đoan,
con cái dòng dõi các vị hoàng thân đều được gọi là mụ hay mệ, tiếng để gọi đàn
bà con gái (cũng như sinh con trai đặt tên là Gái), để đánh lừa ma, khỏi bị ma
bắt. Ma thường bắt đàn ông con trai, kẻ nối dõi tông đường, không mấy khi bắt
đàn bà con gái. Ma cũng như người trần, "trọng nam khinh nữ".
(*) Nhân đây, tôi
xin kể tên một số chị học một lớp với tôi để độc giả biết qua tên các cô gái
Huế. Cùng học một lớp Đệ Tứ với tôi thì có: Diệu Trâm (nổi tiếng đẹp), Ánh
Nguyệt (Nổi tiếng đẹp), Đoan Nghiêm, Đoan Trang (Hai chị em nầy con gái cụ Tôn
Thất Hối, em bác sĩ Tôn Thất Niệm), Nguyễn Thị Thiện, Cao Thị Na, và một số ít
chị nữa, tôi không nhớ tên. Hai năm Đệ Tam Đệ Nhị, tôi học Khải Định, sau đổi
tên là Quốc Học Ngô Đình Diệm, chỉ toàn con trai. Lớp Đệ Nhứt, có các chị: Túy
Diệp, Kiều Diệm, Phong Ty, Thu Phong, Thu Nguyệt (hai chị em ruột, thân sinh hai
chị là bạn đồng nghiệp của thân phụ tôi), Trà Liên, Ngọc Hương, Ngọc Trâm, (thân
phụ là một mục sư, quê Quảng Nam, một lần tôi đến chơi, chị đánh đàn dương cầm
cho tôi nghe). Hàng xóm của tôi, phía trong cửa Đông Ba thì có Trương Thị Tuyết,
Lê Thị Bích Lài, Mỹ Diêu, Kim Oanh, Kim Nhạn, Hoắc Hương, Nhụ Hương, Diệu Trang,
v.v...
(*) Ngay Văn
chương Bình dân cũng bị Cộng Sản xuyên tạc và bóp méo như vậy.
Chẳng hạn như
câu:
Đường vô xứ Huế quanh quanhNon xanh nước biếc như tranh họa đồThương anh em cũng muốn vôSợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam giangPhá Tam giang ngày rày đã cạnTruông Nhà Hồ Nội Tán dẹp yên(4)Họ đổi hai câu đầu là:Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,Non xanh nước biếc như tranh họa đồVà bỏ luôn bốn câu sau, không nhắc đến nữa.
Sở dĩ
Cộng sản sửa đổi ca dao như thế là vì Hồ Chí Minh gốc Nghệ An (Làng Kim Liên,
-làng Sen-, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Họ bóp méo ca dao là nhằm sử dụng
chiến lược "suy tôn lãnh tụ", tô vẽ thêm cho Hồ, tuyên truyền rằng cái xứ sở đẹp
đẽ ấy (địa linh nhân kiệt) đã sản sinh ra "bác", người họ quảng cáo như là một
vị cứu tinh cho dân tộc và nhân loại.
Thứ hai,
Huế là cựu kinh đô Việt Nam thời nhà Nguyễn, đã một thời Huế là biểu tượng của
Việt Nam, nói tới triều đình Huế là người ta nghĩ ngay tới chính quyền của toàn
nước Việt Nam. Cộng Sản không nhắc tới Huế nữa vì chủ trương của họ là chống
phong kiến, chống triều đình Huế, bôi lọ nhà Nguyễn và nhất là chống vua Bảo Đại
vì ông nầy đã có một hành động lịch sử: "Thoái vị" (Cộng sản có ai thoái vị hay
chỉ chờ bị hạ bệ?), vì ông nầy đã có một câu nói lịch sử: "Thà làm dân một nước
độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ" vì nhiều người dân Việt Nam còn rất bảo
hoàng, v.v...
Đành rằng
văn chương bình dân là một loại văn chương truyền khẩu, người đời có thể thêm
bớt sao cho câu chuyện cổ tích hay hơn, câu ca dao đẹp hơn, nhưng không thể bóp
méo sửa đổi nó để biến thành những câu tuyên truyền, bợ đỡ, nịnh hót. Văn chương
không thể là một phương tiện tuyên truyền lừa mị, láo khoét để phục vụ cho một
người, một gia đình, một giai cấp hay một chế độ. Hồ Xuân Hương có viết một câu,
dù không phải là biện minh cho tuyên truyền hay không tuyên truyền nhưng rõ ràng
văn chương không phải là một phương tiện sinh nhai:
Văn chương không phải là đơn thuốc
Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu.
Không thể có
"Đường vô xứ Nghệ quanh quanh..." mà chính là "Đường vô xứ Huế... ".
Tại sao?
Đã nói là "vô"
thì người nói phải là người miền Bắc. Người miền Bắc vô xứ Nghệ làm gì? Không có
việc gì người Bắc phải vào Nghệ cả vì xứ Nghệ không là trung tâm chính trị, kinh
tế, thương mại hay văn hóa mà người ta đến đó để buôn bán, học hành hay kiếm
công ăn việc làm. Phải là đường vô xứ Huế vì Huế là kinh đô. Người Bắc vào Huế
để làm quan, để học hành (học tại Quốc Tử Giám), để thi Hội, thi Đình, hay chở
hàng hóa vào buôn bán cho vua quan, v.v... Nguyễn Du, Phan huy Vịnh, Cao bá
Quát, Nguyễn Công Trứ, Bà Huyện Thanh Quan, v.v... cũng như bao nhiêu người
Thanh Nghệ Tĩnh hay ngoài Bắc phải vào Huế làm quan. Chính "cậu" Nguyễn Sinh
Cung (tức Hồ Chí Minh) thời thơ ấu đã theo cha bỏ Nghệ An vào Huế vì thân sinh
của ông đang làm quan ở đó. Người ra đi đường sá xa xôi cách trở, chưa kịp cưới
vợ, hay cưới rồi mà chưa thể đem vợ theo được, phải để vợ ở lại quê nhà, cho nên
người vợ mới than thân: "Thương anh em cũng muốn vô". Ngoài ra, câu ca dao trên
có những địa danh như "truông Nhà Hồ" (Còn gọi là Hạ Cờ, quân binh đi qua đây
thì hạ cờ xuống), nằm giữa ranh giới tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị, "phá Tam
Giang", nằm giữa ranh giới Quảng Trị và Thừa Thiên thì đường vô ấy không phải là
vô xứ Nghệ vì Nghệ nằm phía Bắc Quảng Bình, Quảng Trị.
Từ châu thổ sông
Hồng Hà vào Nghệ An, chỉ có cảnh ở đèo Tam Điệp (giữa Ninh Bình và Thanh Hóa) là
đẹp nhất, là "như tranh họa đồ". Tuy nhiên, đường vào Huế xa hơn và nhiều "tranh
họa đồ" hơn, nhất là đèo Ngang (giữa Hà Tịnh và Quảng Bình), một thắng cảnh được
nói nhiều trong thơ văn của những người nổi tiếng như Lê Thánh Tôn, Bà huyện
Thanh Quan, "Vang bóng một thời" của Nguyễn Tuân, v.v..
(Hết Mục 7)
***
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 031
HOÀNG NGỌC LIÊN * HUẾ
Huế Của
Tôi –
Những Bài Thơ Huế
hOàNG nGOC lIÊN
Ðúng ra, thành phố nào bên Nhà cũng là của chúng ta hết. Nhưng tôi rất... thương Huế, vì sau cố đô Hoa Lư là nơi tôi được sanh ra, Huế đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm. Do vậy mà thập niên 60 trước đây, tôi viết được nhiều về Huế, làm quen được không ít bạn thân sinh trưởng tại Huế. Từ huynh trưởng như Phan Du, đến người ít tuổi hơn như Bửu Chánh, ai cũng... thương tôi. Còn nữ giới, tôi tự giữ một làn ranh, không cho mình vượt qua. Bởi tôi là người đã có gia đình. Nhưng tôi vẫn vấn vương hình ảnh những cô gái Huế, nữ sinh trường Ðồng Khánh. Một ông bạn già vẫn bảo tôi, rằng kẻ làm thơ vốn nòi tình. Nhưng không sao, ông bạn nói tiếp, cũng cần có tình mới có thơ, miễn giữ được cái Tâm trong sáng. Tôi cũng biết, rằng muốn giữ được cái Tâm trong sáng không phải là chuyện dễ dàng.
Dạo ấy khung cảnh và con người Huế giúp tôi làm thơ. Khung cảnh, trên khắp các ngả đường, từ khi qua đèo Hải Vân đến Hoàng Thành Huế, hai bên hữu, tả ngạn sông Hương, rồi theo Quốc Lộ 1 đến Cổ Thành Quảng Trị, đối với tôi đều là ... Huế. Các cô gái Miền Trung mà tôi gặp trên những ngả đường ấy, đều nói giọng Huế. Giọng nói dễ thương chi lạ. Có phải vậy không, hỡi những chàng trai xứ Bắc, xứ Quảng?
Có một điều mà các thân hữu Huế của tôi chưa bao giờ nghe tôi nói, là tôi làm thơ ... Huế từ khi còn ở Hà Nội, bữa ghé thăm Thị Xã Hà Ðông: "Mưa Xứ Huế", bài thơ làm từ năm 1953, trước tháng 9, khi tôi nhận lệnh đi Thủ Ðức, cho đến 1960 là năm đầu tiên tôi đến Huế! "Mưa Xứ Huế" in trong thi tập "Nhớ Thương" do nhà Nam Sơn xuất bản năm 1962:
Giọng nói của cô nhỏ nhẹ:
- Em là PD, có ông anh bà con nhà cũng trên đường Phan Châu Trinh, tên là CB, muốn mời trung úy ngày mai ghé nhà chơi.
Tôi vui vẻ:
- Ðược rồi, PD cứ cho địa chỉ, sáng mai tôi sẽ đến.
Thuở ấy, mà có thể bây giờ (2004), việc ngủ đò vẫn được coi như có chuyện "kèm theo". Cô bé nữ sinh này hẳn là không biết việc ấy, nên sau khi được một ông bạn tôi chỉ đường, cô cứ hồn nhiên xuống đò tìm tôi.
Tôi nói thiếp:
- Bây giờ khuya rồi, PD về đi nha.
Cô bé "dạ" rồi đạp xe đi trong màn sương mỏng của Huế. Những ngày tiếp theo, tôi được hai anh em BC-PD hướng dẫn đi thăm hầu hết các danh lam thắng cảnh của Cố Ðô, chỉ trừ Lăng Gia Long là không tới được, vì lý do an ninh. Nhờ tình cảm trong sáng của Huế, tôi làm được hai bài thơ Thuyền Về I và II:
Miền Ðông Hoa Kỳ, tháng 5 năm 2004.
Hoàng Ngọc Liên
Những Bài Thơ Huế
hOàNG nGOC lIÊN
Ðúng ra, thành phố nào bên Nhà cũng là của chúng ta hết. Nhưng tôi rất... thương Huế, vì sau cố đô Hoa Lư là nơi tôi được sanh ra, Huế đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm. Do vậy mà thập niên 60 trước đây, tôi viết được nhiều về Huế, làm quen được không ít bạn thân sinh trưởng tại Huế. Từ huynh trưởng như Phan Du, đến người ít tuổi hơn như Bửu Chánh, ai cũng... thương tôi. Còn nữ giới, tôi tự giữ một làn ranh, không cho mình vượt qua. Bởi tôi là người đã có gia đình. Nhưng tôi vẫn vấn vương hình ảnh những cô gái Huế, nữ sinh trường Ðồng Khánh. Một ông bạn già vẫn bảo tôi, rằng kẻ làm thơ vốn nòi tình. Nhưng không sao, ông bạn nói tiếp, cũng cần có tình mới có thơ, miễn giữ được cái Tâm trong sáng. Tôi cũng biết, rằng muốn giữ được cái Tâm trong sáng không phải là chuyện dễ dàng.
Dạo ấy khung cảnh và con người Huế giúp tôi làm thơ. Khung cảnh, trên khắp các ngả đường, từ khi qua đèo Hải Vân đến Hoàng Thành Huế, hai bên hữu, tả ngạn sông Hương, rồi theo Quốc Lộ 1 đến Cổ Thành Quảng Trị, đối với tôi đều là ... Huế. Các cô gái Miền Trung mà tôi gặp trên những ngả đường ấy, đều nói giọng Huế. Giọng nói dễ thương chi lạ. Có phải vậy không, hỡi những chàng trai xứ Bắc, xứ Quảng?
Có một điều mà các thân hữu Huế của tôi chưa bao giờ nghe tôi nói, là tôi làm thơ ... Huế từ khi còn ở Hà Nội, bữa ghé thăm Thị Xã Hà Ðông: "Mưa Xứ Huế", bài thơ làm từ năm 1953, trước tháng 9, khi tôi nhận lệnh đi Thủ Ðức, cho đến 1960 là năm đầu tiên tôi đến Huế! "Mưa Xứ Huế" in trong thi tập "Nhớ Thương" do nhà Nam Sơn xuất bản năm 1962:
Năm nao tôi qua làng Duệ,Năm 1960 tôi là một thành viên trong ban tổ chức buổi Nhảy Dù biểu diễn xuống sông Hương. Tôi giới thiệu chương trình các vòng bay và những huấn luyện viên nhảy điều khiển rơi tự do...Khán giả đông nghẹt, từ Câu Lạc Bộ Hương Giang đến cầu Bạch Hổ. Những chiếc xuồng máy, ho-bo lượn tới tấp để vớt những huấn luyện viên rơi trên mặt sông. Có đến bốn người rơi trúng khu vực khán đài, được đông đảo bà con vỗ tay hoan hô. Nơi đặt máy phóng thanh để tôi giới thiệu các vòng bay là Câu Lạc Bộ Thể Thao (CLBTT) Huế, gần đài phát thanh nên buổi tối, tôi ngủ đò ngay bến CLBTT. Khoảng hơn 10 giờ tối, có tiếng gọi trên bờ. Ðò áp bến, một cô bé mặc áo dài trắng có thêu hiệu đoàn Ðồng Khánh để xe đạp ven bờ sông rồi thoăn thoắt bước xuống.
Cùng Em bàn chuyện mai sau.
Nghe Em nói về xứ Huế,
Mơ màng biết hẹn tìm đâu? Em kể: Song Hương man mác
Thuyền trôi, dòng nước nao nao.
Gió thoảng qua lầu Thương Bạc
Nắng vàng đường xuống Nam Giao.
Em nói: -“Nếu về Vỹ Dạ,
Thôn Em, trong khung dừa xinh.
Anh sẽ đi qua Ðập Ðá,
Lá hoa kể chuyện ân tình.
Sau nhiều mùa thu xa Em
Tôi được đến thăm xứ Huế.
Chân bước trên cầu Tràng Tiền,
Thời gian sao qua mau thế!
Tôi đã thăm phong cảnh Huế,
Còn Em, tôi biết tìm đâu
Chiều xuống cố đô lặng lẽ
Khói mờ mái Phu Văn Lâu.
Mưa giăng đường vô Thành Nội,
Ngỡ ngàng tôi đã gặp em.
Nhìn tôi, thản nhiên đi tới,
Như người chưa một lần quen!
Vì em đi bên "người ấy"
Chứa chan hạnh phúc với ... tình!
Tôi đứng bên đường tự thấy
Mình sao xa lạ với ... mình!
Ðã trọn một mùa vọng tưởng
Ngày xưa, chuyện cũ, xa rồi!
Nhìn em khuất sau cửa Thượng, **
Mờ mờ xứ Huế mưa rơi!
Giọng nói của cô nhỏ nhẹ:
- Em là PD, có ông anh bà con nhà cũng trên đường Phan Châu Trinh, tên là CB, muốn mời trung úy ngày mai ghé nhà chơi.
Tôi vui vẻ:
- Ðược rồi, PD cứ cho địa chỉ, sáng mai tôi sẽ đến.
Thuở ấy, mà có thể bây giờ (2004), việc ngủ đò vẫn được coi như có chuyện "kèm theo". Cô bé nữ sinh này hẳn là không biết việc ấy, nên sau khi được một ông bạn tôi chỉ đường, cô cứ hồn nhiên xuống đò tìm tôi.
Tôi nói thiếp:
- Bây giờ khuya rồi, PD về đi nha.
Cô bé "dạ" rồi đạp xe đi trong màn sương mỏng của Huế. Những ngày tiếp theo, tôi được hai anh em BC-PD hướng dẫn đi thăm hầu hết các danh lam thắng cảnh của Cố Ðô, chỉ trừ Lăng Gia Long là không tới được, vì lý do an ninh. Nhờ tình cảm trong sáng của Huế, tôi làm được hai bài thơ Thuyền Về I và II:
Thuyền về I Năm nao kết ngọn tre làng,Trong truyện dài Ðoàn Quân Mũ Ðỏ (1969 Chấn Mỹ SG; 1999,2001 Văn Tuyển HK), Tôn Nữ Diệu Khanh là một trong hai nhân vật chính của truyện và tôi đã viết nhiều về Huế. Với các thân hữu Huế, mỗi khi cần bài vở về Huế cho các báo, đặc san, luôn luôn tôi hân hoan cộng tác. Hôm nay, tôi gửi bài này đến chị Ái Khanh, cũng trong sự hân hoan nói trên.
Trăng sông Bến Ngự ,một khoang thuyền về.
Gửi Cố Ðô, để nhớ về xứ Huế
Buổi giã từ còn vương vấn chút duyên thơ!
Chiều nao, tim máu thẫn thờ,
Mái lầu Thương Bạc còn ngờ... hư không!
Hoa trời trải một dòng sông,
Bao giờ nguyện ước mà mong tâm tình?
Khi mô trở lại thần kinh,
Nhịp cầu, dòng nước, còn hình ảnh xưạ
Con thuyền neo bóng trăng thơ
Bàn tay ủ bóng mà chưa hẹn hò!
Gửi Cố Ðô màu nhớ,
Những nẻo đường tâm tư,
Những bến chiều lộng gió
Mây buồn nhỏ lệ nhớ thương chung
Ngày nao hoa dậy không trung,
Bàn tay, ánh mắt ngại ngùng tiễn đưạ
Con thuyền chở mãi gió mưa,
Nửa đêm neo bóng, đợi chờ bao năm?
Gửi một lời thăm
Nhắn ai về xứ Huế
Rằng người em mái đầu xanh trẻ
Còn nhớ chăng chiều ánh nước Hương Giang?
Năm nao kết ngọn tre làng,
Trăng sông Bến Ngự một khoang thuyền về!
Thuyền Về II
Năm nao kết ngọn tre làng,
Trăng sông Bến Ngự ,một khoang thuyền về.
Mái chèo buông chậm vô sông cũ,
Lơ đãng thuyền neo bến vắng người!
Ngả rẽ hoang sơ, lối đường bụi phủ,
Thôn Vỹ hàng cau màu lá bạc rồi!
Vòng tay đỉnh trúc reo cười,
Nắng tím Nam Giao từ tạ.
Núi sông cũ đã trở thành phương lạ
Dẫu người xưa còn đó, cố nhân ơi!
Giải mây trắng lạc chân trời,
Mờ phai dáng cũ bước đờị.. hẹn nhaụ
Thuyền ngược về đâủ
Sương lạnh nửa đêm lần cuốị
Những tin gió đường xa rong ruổi,
Những câu thề lạc nẻo hư vộ
Biết bây giờ là bao giờ?
Nghiêng mái tóc, cúi chào dĩ vãng.
Nét kỷ niệm, vết chăn mờ năm tháng,
Chuyễn Hoa Trời xin dành lại ngàn saụ
Ai vấn vương mà đón nhận thương đaủ
Ai trao gửi mà không hề ký thác.
Trên khói sóng, vẫn trăng vàng, nước bạc,
Giải câu thề còn lại một dòng sông.
Hởi ngàn xưa, từng khấn nguyện, chờ mong,
Xin chứng giám, đã thuyền về bến cũ!
Hoàng Ngọc Liên
Khung Trời Tưởng Nhớ - Saigon 1966
Cầu Tràng Tiền
Năm 1999, nghe tin Huế bị lụt, tôi làm bài thơ
GỬI VỀ XỨ HUẾ:
thân tặng anh chị Ái Khanh & Xuân Hùng
và các cháu Quang Tuấn - Thanh Hương
H.N.L
Trên màn ảnh xa xôi
Tôi nhìn khung cảnh Huế
Nước mênh mông lưng trời
Nỗi lo trào mắt lệ !
Tôi thấy cầu Tràng Tiền
Chìm trong vùng lũ lụt
Chỉ mái vòm xám đen
Còn nhô trên mặt nước!
Tôi thấy một căn nhà
Nước ngập tới lầu ba!
Từ Ngọ Môn thành Nội,
Nước tràn điện Thái Hòa!
Nước sông Hương, Bến Ngự,
Ðã hòa chung một dòng.
Trên cánh cửa Thượng Tứ
Trôi lạc mui thuyền cong!
Phía bên chùa Diệu Ðế,
Nước cuốn đi Kinh, Kệ.
Nước ngập một tầng lầu
Khu Dòng Chúa Cứu Thế!
Những hình ảnh như thế
Làm ray rứt lòng già
Xin gửi về xứ Huế
Lời thăm hỏi từ xạ
Orlando (Florida) November 04, 1999
Hoàng Ngọc Liên
Miền Ðông Hoa Kỳ, tháng 5 năm 2004.
Hoàng Ngọc Liên
THƠ QUANG DŨNG
Có nhớ về đất Bắc
March12Có nhớ về đất BắcTừ khóa: Mùa xuân, Nỗi nhớ, Phiêu bạt, Quê hương
Những người xa quê hương
Người đi từ xuân trước
Để mùa xuân nhớ thương
Ôi quê cũ xa rồi
Những ngày xưa thơ ấu
Sân đất rắc đường vôi
Ngõ làng thơm khói pháo
Vàng nếp thắt lưng sồi
Ôi quê cũ xa rồi
Tiếng còi tàu màn xế
Vầng sông xuân tiếng nhị
Bài “Thập ân” kể lể
Dài công cha nghĩa mẹ
Tiếng xẩm tiếng đàn bầu
Còn đọng thưở xuân nào
Một bến tàu Tân Đệ
Ôi quê hương quê hương
Dài rộng những con đường
Đi về nơi thôn mạc
Quần trúc bâu chưa giặt
Sột soạt khắp đường làng
Những nếp áo còn mới
Màu khăn nhiễu tam giang
Cụ già ấm hơi rượu
Đình chùa vắng khói hương
Những mẹ già niệm Phật
Nam vô trong bóng làng
Tiếng súc sắc quay đất
Con trẻ cười vang vang
Ôi quê hương quê hương
Máu rỏ những con đường
Mười năm qua đánh giặc
Xác người xanh cỏ đất
Gửi vào đất thịt xương
Những con đường rỏ máu
Đầy hai chữ quê hương
Có nhớ những người thương
Hằng nhớ mong vò võ
Ngoài này xuân đã sang
Núi Ba Vì nhớ mong
Như trán người suy nghĩ
Cứ chảy dài sông Nhị
Sao chảy về phương Nam
Dòng nước đỏ hùng trầm
Mang linh hồn đất Bắc
Xuân là xuân Đất Nước
Mà đất nước chia hai
Ngoài này nhớ trong ấy
Trong ấy nhớ ngoài này
Bấm đốt đã bao ngày.
Có giới tuyến nào ngăn
Linh hồn và cánh tay
Sức mạnh nào cấm nổi
Tình ruột thịt ta đây
Rượu xuân vừa cạn cốc
Mong nhớ lại tràn đầyĐường chiều thứ bảy
March10Một chiều thứ bảy
Tôi ngồi bên bàn viết
Không viết nổi một dòng
Bên gác của tôi
Một thiếu nữ chưa chồng
Hay hát một câu hát cũ
“Người yêu say đắm hơn hoa mùa xuân”
Cô ta có người yêu hò hẹn
Những lúc chơi trăng đùa gió trở về
tiếng guốc lên thang gác
lanh chanh
Lại hát lại cười
Lại “người yêu say đắm”
Đường phố chiều nay thứ bảy
Niềm vui còn cả ngày mai
Tiếng guốc giòn trên đường nhựa
Những người thiếu nữ hai mươi.
Những người thiếu nữ hai mươi
Hãnh diện thấy mình nhan sắc
Tấp nập trên đường
Đi trong tiếng nhạc
Đàn ca sáo nhị tưng bừng
Gió mát Hồ Gươm
Ánh cỏ như nhung
Giao hưởng tiếng đời
Va chen điệp khúc
Trăng Cổ Ngư, đường hoa thơm
Mùi dạ hương, gió hoàng lan rạo rực
Người đi về mấy ngả đường vui
Cửa nhà hát Nhân Dân
Tưng bừng ánh điện
Chiều thứ bảy
Hòa bình đời đang cải thiện
Ca vát thắt không còn ngượng nghịu
(Những bàn tay còn chai súng
Đã lâu chỉ quen đan lấy mũ rừng
Và nắm chuôi lựu đạn)
Dép lốp áo nâu đã thành kỉ niệm
Màu sơ mi trắng giàu sang
Phơi phới ánh đèn thứ bảy
Tôi đã gặp em
Một chiều thứ Bảy
Đi trong tay một bạn thanh xuân
Bốn bước nhịp nhàng tuổi trẻ
Em đi nhà hát Nhân Dân
Cùng người yêu xem văn công nước bạn
Cách đây mấy năm
Trên núi rừng biên giới uy nghiêm
Có một người
Giữ ảnh của em
Mái tóc và miệng cười như vậy
Miệng cười mái tóc của em
trong tấm ảnh
Run run những dòng kỉ niệm
Hai người hẹn ước chờ nhau
Tấm ảnh giữ gìn để trong xà cột
Cùng những bản đồ
và kế hoạch công đồn
Tấm ảnh nâng niu
Như người mẹ nâng con
Của tấm tình đầu mộng đẹp
Anh bạn cầm tấm ảnh
Soi ánh trăng rừng Việt Bắc
Nhớ góc phố chia tay ngày ấy
Lúc Hà Nội Tiến quân ca vùng dậy
Như trong bài hát những người đi
- Tôi hành quân lên đường
Ngày tháng nhớ chia ly
Đuôi mắt vời trông nếp áo
Em còn nghe tiếng hát
Tiếng báng súng chạm vào ca sắt
Và cánh sao bay trong lá quốc kì
Hôm nay chiều thứ Bảy
Của hai năm hòa bình lập lại
Tôi gặp em
Nhưng
Người bạn xưa
Đã không còn gặp lại
Thân nằm trên một đỉnh Trường Sơn
Rừng núi chiều nay
Sương trắng mỏi mòn
Trăng lặn sau mồ chiến sĩ
Chiều thứ bảy
Tưng bừng nơi đây
Ở nơi kia an nghỉ
Người đã cho tôi
Cho em, cho Hà Nội
Ánh sáng, niềm vui đáng sống hôm nay
Em không thể đợi hoài
Người không còn trở lại
Đợi làm sao
Người đã chết bây giờ
Người chết đã đi vào kỉ niệm
Đã xa vời
Như ánh sáng trăng sao
Như xa xôi
Một dòng suối ngọt ngào
Róc rách ru đời tiếng nước.
Tôi gặp lại
Nhiều người vợ trẻ
Đàn ông đã ngã trên chiến trường
Vất vả nuôi con những ngày kháng chiến
Xót xa thương khóc bao ngày
Chiều thứ bảy hôm nay
Họ đi bên người chồng mới lấy
Và những đứa con
Bước còn bỡ ngỡ
Bên người cha mới hôm qua
Ai biết được bây giờ
Tâm sự của những người
Ngậm ngùi cất kĩ ảnh chồng
Vào đáy hộp nữ trang
Bến nước đi thêm một bước
Những người cha đã một lần
Quên mình vì nước
Hi sinh cho nghĩa lớn con người
Họ đã không thể nào trở dậy
Đường đi dành lại cho ta
Chiều hôm nay thứ Bảy
Tôi đã gặp rất nhiều
Và đã nghĩ
Như một người để chân bước lang thang
Khi muôn tiếng bên đường
Còi điện, phát thanh
Rạp hát trống tuồng nhộn nhịp
Và áo màu bay
Phố đang làm đẹp
Cho xứng là Dân chủ Cộng hòa
Hà Nội nghìn năm ánh sáng của ta
Tôi lắng nghe tiếng giày mình
Nện hè phố rộng
Những tiếng gót giày
Tưởng như khua động
Xương người còn gửi quanh đây
Từ những ngày
Mười chín tháng Mười hai
Đêm đầu kháng chiến
Gốc sấu, chân tường, ngay bên cột điện
Anh nằm xương trắng mười năm
Người lính giữ đầu tiên Hà Nội
Đường cứ dài
Tôi vẫn nghĩ đăm đăm
Sao chính mình vẫn còn trở lại?
Những lứa tuổi thanh niên thời đại
Mười năm sinh tử ra, vào
Sao chính mình còn thấy lại trăng, sao
trên Hồ Tây
Uống cốc rượu
Ngay bên hồ Hoàn Kiếm
Ngó tờ áp phích xi-nê xanh đỏ
Dán trên tường, hay ngắm
Những đôi vợ chồng
Đi trong bóng cây che ánh điện
Chính là những bức tường
Và chính những thân cây
Người quyết-tử-quân đã nấp
Những đêm tháng chạp đầu tiên
Hà Nội vào cơn thử lửa
Cho đến bây giờ
Họ không còn nữa
Bao bạn hữu đã nằm
Tên đã thành bia
Trên mồ kỉ niệm
Sử vàng ghi bảng đẹp gia đình
Cô thiếu nữ xinh xinh
Vừa tan rạp hát
Bắt chước cải lương
Hát giữa cầu thang
Một câu vọng cổ
Bên kia cửa sổ
Cô gái chưa chồng
Vừa tiễn người yêu
Lại lên giọng hát
“Người yêu say đắm hơn hoa mùa xuân”
Cũng như đã bao lần
Tiếng hát làm tôi rạo rực
Bâng khuâng thấy nhiều ước mộng
Và thấy đẹp làm sao
Cuộc đời to rộng
Cuộc đời
Đã bao người hi sinh
Cả vợ, cả con, cả tình yêu
Cả tuổi xanh mình
Mới có bây giờ
Trao lại cho ta
Cuộc đời có những chiều thứ bảy
Đường phố bừng lên Ánh sáng Lời ca
Bước chân người nhộn nhịp
Cuộc đời
Dẫu là ở nơi cầu thang nhỏ hẹp
Cũng có người vừa tiễn người yêu
Hà Nội, 1956
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 031
No comments:
Post a Comment