TIN TỨC
Tin QuÓc N¶i
- Kinh t‰ khûng hoäng, thi‰u tiên tiêu xài,nhân dÎp T‰t K› Mão, nhà cÀm quyŠn Hà N¶i Çã phát hành m‡i ngày 150 t› ,trong suÓt 13 ngày nâng t°ng sÓ låm phát thêm khoäng hai ngàn t› ÇÒng ViŒt Nam.Chính quyŠn c¶ng sän có nhiŠu quyŠn t¿ do, trong Çó có quyŠn t¿ do b¡t giam ngÜ©i vô c§, t¿ do tiêu xài và t¿ do in giÃy båc. " In båc giÃy, ñ°i lÃy Çô la, Gºi qua Thøy Sï." Và cÛng vì ÇÒng båc ViŒt Nam ngày càng mÃt giá, dân chúng và cán b¶ chuyên xài vàng và Çôla.
- Tåi ViŒt Nam
có nhiŠu ÇÎa phÜÖng thi‰u bác
sï, nhÜng låi có khoäng ba ngàn
bác sï thÃt nghiŒp bªi vì
nh»ng y tá chuyên tu thành bác sï
còn ng¿ trÎ kh¡p nÖi
và bác sï m§i ra trÜ©ng không
Çû vàng hÓi l¶( khoäng
4 -10 cây vàng tùy nÖi) Ç‹ làm
viŒc không công tåi các bŒnh viŒn.Các
bác sï không muÓn vŠ nÖi
thôn quê hoæc núi rØng hëo
lánh bªi vì:
- Nh»ng ch‡ này nghèo Çói, thi‰u an ninh,thi‰u phÜÖng tiŒn, låi dÍ bÎ cÜ©ng hào Çàn áp.
- M¶t khi ra Çi khÕi thành phÓ là khó trª låi vì chính sách h¶ khÄu kh¡t khe cûa c¶ng sän.Thà ª låi thành phÓ chÎu thÃt nghiŒp,ho¥c làm công viŒc khác còn sܧng hÖn làm bác sï tåi thôn quê hay miŠn rØng núi.
- ñÀu
næm âm lÎch,trung ÜÖng Çäng C.S
h†p Ç‹ bàn
phÜÖng sách cÙu nguy kinh t‰,
ÇÒng th©i cÛng x‰p Ç¥t
låi nhân s¿ m¶t chút Ç‹
ÇÜa phe ta vào thêm, ÇÄy phe
nó
ra ngoài ho¥c tܧc b§t quyŠn hành.
- Häi
Ngoåi.
- Trܧc t‰t k› mão, nhân dân ViŒt Nam tåi Nam Cali Çã bi‹u tình tÕ s¿ bÃt bình ÇÓi v§i TrÀn Væn TrÜ©ng trong viŒc y Çã treo c© c¶ng sän và hình ông HÒ. S¿ kiŒn này cho thÃy c¶ng sän ban ÇÀu Än hình,giä dång vÜ®t biên, Çoàn tø gia Çình, nay thì b¡t Çâu lò Çuôi c¶ng sän. Ban ÇÀu cänh sát MÏ ra lŒnh hå c© CS nhÜng sau Çó tòa án MÏ låi cho y ÇÜ®c quyŠn treo c©. ñÒng bào ta vÅn không lùi bܧc,trong mÃy ngày t‰t k› mão vÅn kiên quy‰t ÇÃu tranh, bi‹u tình chÓng c¶ng sän.Ngày 25 tháng hai 1999,ÇÒng bào ViŒt Nam Çã bi‹u tình thÎ uy trܧc tòa Çåi sÙ ViŒt c¶ng tåi San Francisco, MÏ.
- ThÜ®ng nghÎ sï Pháp, Michel Pelchat, là m¶t trong nh»ng ngÜ©i vÆn Ƕng thành lÆp H¶i ñÒng QuÓc T‰ cho Dân Chû ViŒt Nam( International Council for Democracy in Vietnam).H¶i ÇÒng này ra Ç©i ngày 4 tháng 12 næm 1998 tåi trø sª quÓc h¶i Âu Châu -Bruxelle ,Çúng vào dÎo k› niŒm 50 tuyên ngôn quÓc t‰ nhân quyŠn cûa Liên HiŒp quÓc. Ông Yvan de Wynter , chû tÎch ûy ban NgÜ©i BÌ cho dân chû tåi ViŒt Nam Çã džc diÍn væn khai måc. VŠ c¶ng ÇÒng ngÜ©i ViŒt có giáo sÜ NguyÍn Ng†c Bích,và các ôngTrÀn Månh Quÿnh, Phåm Væn Thành tham d¿.
- QuÓc T‰
- T°ng thÓng Clinton Çã ÇÜ®c thÜ®ng viŒn tha b°ng trong khóa h†p ngày 11 tháng hai næm 1999.T°ng thÓng Çã lên ti‰ng bày tÕ l©i hÓi ti‰c và xin l‡i công khai.
- MÓi bang giao gi»a ƒn ñ¶ và Pakistan ngày thêm ch¥t chë. Hai nܧc Çã khai trÜÖng ÇÜ©ng xe bušt nÓi liŠn hai quÓc gia Çã tØng chia cách non nûa th‰ k›.
SƠN TRUNG * THÀNH PHỐ NGƯỜI YÊU
SÖn
Trung
ñà låt ÇËp vì rØng thông im v¡ng Gió vi vu ca khúc nhåc muôn Ç©i. NhÜng sao b¢ng thành phÓ cûa em tôi, N¡ng Çåi l¶ nh»ng bu°i chiŠu sánh bܧc. ñà låt ÇËp vì có nhiŠu thác nܧc Chäy triŠn miên gi»a rØng núi êm mÖ NhÜng sao b¢ng mái tóc cûa em thÖ, SuÓi tóc chäy trên b© vai thÜÖng nh§ ñà låt ÇËp vì có nhiŠu hoa nª S¡c tím pensée và s¡c th¡m hoa hÒng, NhÜng sao b¢ng Çôi môi th¡m ch© mong ñã chín m†ng men say mùi nho m§i. ñà Låt ÇËp vì tháng ngày diŒu v®i Tr©i nhiŠu mây và n¡ng Ãm chäy trên cành NhÜng sao b¢ng nÖi hò hËn chúng mình Tr†n m¶t bu°i mà vÅn còn luy‰n ti‰c. ñà låt ÇËp vì nhiŠu hÒ nܧc bi‰c Mây tr¡ng bay và cành liÍu rÛ yêu kiŠu NhÜng sao b¢ng màu m¡t cûa em yêu Trùng dÜÖng xanh dìu anh vào giông tÓ.SÖn Trung
THƠ TRẦN DIỆU CHÂN
ETERNAL LOVE FOR YOUR SUNDAY
Red roses were her favorites, her name was also Rose.
And every year her husband sent them, tied with pretty bows.
The year he died, the roses were delivered to her door.
The card said, "Be my Valentine," like all the years before.
Each year he sent her roses, and the note would always say,
"I love you even more this year, than last year on this day."
"My love for you will always grow, with every passing year."
She knew this was the last time that the roses would appear.
She thought, he ordered roses in advance before this day.
Her loving husband did not know, that he would pass away.
He always liked to do things early, way before the time
Then, if he got too busy, everything would work out fine
She trimmed the stems, and placed them in a very special vase.
Then, sat the vase beside the portrait of his smiling face.
She would sit for hours, in her husband's favorite chair.
While staring at his picture, and the roses sitting there.
A year went by, and it was hard to live without her mate.
With loneliness and solitude, that had become her fate.
Then, the very hour, as on Valentines before,
The doorbell rang, and there were roses, sitting by her door.
She brought the roses in, and then just looked at them in shock.
Then, went to get the telphone, to call the florist shop.
The owner answered, and she asked him, if he would explain,
Why would someone do this to her, causing her such pain?
"I know your husband passed away, more than a year ago,"
The owner said, "I knew you'd call, and you would want to know "
"The flowers you received today, were paid for in advance."
"Your husband always planned ahead, he left nothing to chance."
"There is a standing order, that I have on file down here
And he has paid, well in advance, you'll get them every year.
There also is another thing, that I think you should know,
He wrote a special little card...he did this years ago.
" "Then, should ever, I find out that he's no longer here,
That's the card...that should be sent, to you the following year
. " She thanked him and hung up the phone, her tears now flowing hard.
Her fingers shaking, as she slowly reached to get the card.
Inside the card, she saw that he had written her a note.
Then, as she stared in total silence, this is what he wrote...
"Hello my love, I know it's been a year since I've been gone,
I hope it hasn't been too hard for you to overcome.
"I know it must be lonely, and the pain is very real
For if it was the other way, I know how I would feel.
The love we shared made everything so beautiful in life.
I loved you more than words can say, you were the perfect wife."
"You were my friend and lover, you fulfilled my every need.
I know it's only been a year, but please try not to grieve.
I want you to be happy, even when you shed your tears.
That is why the roses will be sent to you for years."
"When you get these roses, think of all the happiness,
That we had together, and how both of us were blessed.
I have always loved you and I know I always will.
But, my love, you must go on, you have some living still."
"Please...try to find happiness, while living out your days.
I know it is not easy, but I hope you find some ways.
The roses will come every year, and they will only stop,
When your door's not answered, when the florist stops to knock."
"He will come five times that day, in case you have gone out.
But after his last visit, he will know without a doubt,
To take the roses to the place, where I've instructed him,
And place the roses where we are, together once again."
And every year her husband sent them, tied with pretty bows.
The year he died, the roses were delivered to her door.
The card said, "Be my Valentine," like all the years before.
Each year he sent her roses, and the note would always say,
"I love you even more this year, than last year on this day."
"My love for you will always grow, with every passing year."
She knew this was the last time that the roses would appear.
She thought, he ordered roses in advance before this day.
Her loving husband did not know, that he would pass away.
He always liked to do things early, way before the time
Then, if he got too busy, everything would work out fine
She trimmed the stems, and placed them in a very special vase.
Then, sat the vase beside the portrait of his smiling face.
She would sit for hours, in her husband's favorite chair.
While staring at his picture, and the roses sitting there.
A year went by, and it was hard to live without her mate.
With loneliness and solitude, that had become her fate.
Then, the very hour, as on Valentines before,
The doorbell rang, and there were roses, sitting by her door.
She brought the roses in, and then just looked at them in shock.
Then, went to get the telphone, to call the florist shop.
The owner answered, and she asked him, if he would explain,
Why would someone do this to her, causing her such pain?
"I know your husband passed away, more than a year ago,"
The owner said, "I knew you'd call, and you would want to know "
"The flowers you received today, were paid for in advance."
"Your husband always planned ahead, he left nothing to chance."
"There is a standing order, that I have on file down here
And he has paid, well in advance, you'll get them every year.
There also is another thing, that I think you should know,
He wrote a special little card...he did this years ago.
" "Then, should ever, I find out that he's no longer here,
That's the card...that should be sent, to you the following year
. " She thanked him and hung up the phone, her tears now flowing hard.
Her fingers shaking, as she slowly reached to get the card.
Inside the card, she saw that he had written her a note.
Then, as she stared in total silence, this is what he wrote...
"Hello my love, I know it's been a year since I've been gone,
I hope it hasn't been too hard for you to overcome.
"I know it must be lonely, and the pain is very real
For if it was the other way, I know how I would feel.
The love we shared made everything so beautiful in life.
I loved you more than words can say, you were the perfect wife."
"You were my friend and lover, you fulfilled my every need.
I know it's only been a year, but please try not to grieve.
I want you to be happy, even when you shed your tears.
That is why the roses will be sent to you for years."
"When you get these roses, think of all the happiness,
That we had together, and how both of us were blessed.
I have always loved you and I know I always will.
But, my love, you must go on, you have some living still."
"Please...try to find happiness, while living out your days.
I know it is not easy, but I hope you find some ways.
The roses will come every year, and they will only stop,
When your door's not answered, when the florist stops to knock."
"He will come five times that day, in case you have gone out.
But after his last visit, he will know without a doubt,
To take the roses to the place, where I've instructed him,
And place the roses where we are, together once again."
Tran Dieu Chan
URL: http://www.vinsight.org/
SƠN TRUNG * CHUYẾN THĂM HỮU NGHỊ
Chuy‰n Thæm
H»u NghÎ
K‹ tØ Çó, Thuœ ñi‹n cÛng nhÜ Pháp là nh»ng nܧc châu Âu t¿ do låi lên ti‰ng ûng h¶ lÆp trÜ©ng cûa c¶ng sän ViŒt Nam. Hai bên lÆp quan hŒ ngoåi giao rÃt th¡m thi‰t. Thuœ ñi‹n Çã viŒn tr® cho Hà N¶i nhà máy giÃy Phú Th†. Và sau này, khi có phong trào vÜ®t biên, và sau khi khÓi ñông Âu tan rã, Thøy ñi‹n Çã tÆn tình chi‰u cÓ nh»ng ngÜ©i miŠn B¡c xã h¶i chû nghïa .
Bác sï Tôn ThÃt Tùng là con ngÜ©i Ç¥c biŒt. Ông là trí thÙc,låi thu¶c hŒ phong ki‰n, th‰ mà c¶ng sän låi chÃm ông ch£ng qua ông cÛng nhÜ tri‰t gia TrÀn ñÙc Thäo, luÆt sÜ NguyÍn Månh TØ©ng là nh»ng con mÒi Çáng giá. H† dùng ông Ç‹ tuyên truyŠn , Ç‹ Çánh bóng cho ch‰ Ƕ m¥c dù h† ch£ng cÀn ljn ông.
Sau 1975, tôi g¥p m¶t trí thÙc cÛ, giáo sÜ h† Phåm, Çi tÆp k‰t vŠ, làm viŒc tåi ViŒn khoa h†c Xã h¶i thành phÓ. Ông nói:"Nܧc ta cÀn nhiŠu bác sï nhÜng hiŒn nay ta không có thuÓc tây, không có døng cø tÓi tân thì bác sï trª thành thØa thãi. Bác HÒ nói: " Chúng ta cÀn nhiŠu ÇÀu b‰p giÕi" nhÜng nay ta thi‰u cá thÎt, thì Çâu cÀn ÇÀu b‰p gÌÕi ".Tôi hi‹u vÎ giáo sÜ này nói thÆt . Sau 1975, c¶ng sän không cÀn trí thÙc miŠn Nam, không cÀn bác sï, kÏ sÜ, giáo sÜ miŠn Nam ngoåi trØ nh»ng kÈ Çã cam tâm làm tay sai cho h† nhÜ Lš Chánh Trung, Hoàng Phû Ng†c Phan, Hoàng Phû Ng†c TÜ©ng, TrÀn Hà Nam...vì h† Çã có nh»ng ông y tá ÇÜ®c phong làm bác sï , nh»ng ông th® Çi chuyên tu vài tháng Çã thành kÏ sÜ. H† phäi Çãi ng¶ nh»ng hång ngÜ©i này. Và Çó chính là quan Çi‹m vô sän chuyên chính.
Bác sï Tôn ThÃt Tùng là con ngÜ©i ngoan ngoän không nhÜ TrÀn ñÙc Thäo, NguyÍn Månh TÜ©ng... Çã lên ti‰ng chÓng Çäng. Ông ÇÜ®c cä nܧc bi‰t ljn . Ông Çã trª thành ÇÀu ÇŠ cûa m¶t chuyŒn ti‰u lâm tân th©i. ChuyŒn k‹ nhÜ sau: Bác sï Tôn ThÃt Tùng sang Pháp, ÇÜ®c các phóng viên báo chí bu låi phÕng vÃn. H† hÕi :
Ông thu¶c giòng gÌÕi hoàng t¶c, tåi sao låi theo c¶ng sän? Ngoài ông ra, nh»ng ngÜ©i hoàng t¶c có ai ÇÜ®c c¶ng sän tr†ng døng hay không?"
Tôn ThÃt Tùng Çáp:" Nh© Ön Çäng và nhà nܧc, anh em tôn thÃt chúng tôi Çu®c Çäng và nhà nܧc chi‰u cÓ rÃt nhiŠu. Kh¡p nÖi ÇŠu có anh em chúng tôi. Bên b¶ giáo døc ,có Tôn ThÃt H†c, bên b¶ Công an có Tôn ThÃt ñÙc, bên b¶ ngoåi giao có Tôn ThÃt LÍ,bên b¶ Lao ñ¶ng có Tôn ThÃt NghiŒp, bên h¶i phø n» có bà Tôn ThÃt Trinh, Tôn ThÃt Ti‰t..."
Sau khi thû tܧng Phåm Væn ñÒng và bác sï Tôn ThÃt Tùng Ç¥t chân lên thû Çô Stockholm , vua Thøy ñi‹n Çã ti‰p Çón tr†ng th‹ theo nghi lÍ dành riêng cho quÓc khách.Phái Çoàn ViŒt Nam ÇÜ®c m©i æn uÓng tåi nh»ng nhà hàng sang tr†ng nhÃt và ÇÜ®c m©i tham quan nh»ng danh lam th¡ng cänh cùng nh»ng cÖ sª kinh t‰,kÏ nghŒ cûa Thøy ñi‹n. Thành công l§n lao cûa phái Çoàn là Çu®c Thøy ñi‹n hÙa hËn viŒn tr® kinh t‰ mÃy chøc triŒu mÏ kim. Thû tܧng và phái Çoàn hân hoan vui sܧng vì h† Çã thành công hÖn tܪng tÜ®ng. Thøy ñi‹n là m¶t nܧc nhÕ, m¶t nܧc tÜ bän nhÜng Çã dÍ dàng v§i h† hÖn là Liên sô, Trung quÓc là nh»ng nu§c anh em xã h¶i chû nghïa.
Ngày hôm Çó, thû tܧng Phåm Væn ñÒng rÃt vui vÈ. Bu°i chiŠu phái Çoàn nhÆn l©i m©i cûa b¶ ngoåi giao Thøy ñi‹n d¿ m¶t bu°i chiêu Çãi. B¶ trܪng ngoåi giao Thøy ñi‹n lên ti‰ng ca ng®i công cu¶c chi‰n ÇÃu chÓng MÏ cûa ViŒt Nam.Ti‰p theo,thû tܧng Phåm Væn ñÒng ÇÜ®c m©i lên phát bi‹u š ki‹n.Thû tܧng say men chi‰n th¡ng, cám Ön Thøy ñi‹n Çã ûng h¶ ViŒt Nam trong cuôc chi‰n ÇÃu chÓng gi¥c MÏ xâm lÜ®c,và ông cám Ön Thøy ñi‹n Çã t¥ng ViŒt Nam nhà máy giÃy Phú Th† và Çã Çào tåo chuyên viên cho ViŒt Nam. Ông nói r¢ng ban lãnh Çåo nhà máy cùng các kÏ sÜ,công nhân Çã tích c¿c làm viŒc h‰t mình vì xã h¶i chû nghïa, vì ngày mai, vì bác HÒ, vì con em. Nh© s¿ lãnh Çåo sáng suÓt cûa ñäng,nhà máy tæng næng suÃt 60%, Çû giÃy cho h†c sinh trong nu§c dùng, Çû giÃy Ç‹ in sách báo... Sau Çó là sâm banh, whisky...Và sau Çó n»a là bu°i chi‰u phim Ç¥c biŒt. ñây không phäi là råp chi‰u phim hoàng gia mà chÌ là m¶t phòng chi‰u phim nhÕ cûa b¶ ngoåi giao. Âm thanh,màu s¡c rÃt tân kÿ. Gh‰ ngÒi thÆt êm ái. Thû tܧng ܧc mong phû chû tÎch, phû thû tܧng cÛng có m¶t phòng chi‰u phim tÜÖng t¿ .Cu¶c chi‰u phim b¡t ÇÃu. Trong phòng hoàn toàn mát mÈ và yên tïnh. NgÜ©i ta không nghe ti‰ng rè rè cûa máy quay phim nhÜ ª ViŒt Nam. CuÓn phim tÜ©ng thuÆt trÆn Çá banh gi»a Thuœ ñi‹n và Pháp. Sau vài ly sâm banh, thû tܧng mŒt mÕi,Çã gÆt ÇÀu vài lÀn trên gh‰ êm ái. B‡ng thû tܧng giÆt mình, tÌnh nhÜ sáo. ñoån phim sao giÓng cänh ViŒt Nam. Phäi rÒi.ñó là cänh ViŒt Nam. Cänh nhà máy giÃy Phú Th† ViŒt Nam. ñây là nhà máy giÃy do Thøy ñi‹n viŒn tr® tiŠn båc, máy móc,kÏ thuÆt.
Cänh ban Çêm có Çèn sáng kh¡p nÖi .Kìa kìa. Trong phòng giám ÇÓc .Trên tÜ©ng là m¶t bÙc hình lãnh tø HÒ Chí Minh. M¶t ngÜ©i Çàn ông tu°i 50,ÇÀu Ƕi nón cÓi,mang quÀn áo nhà binh nhàu nát ngÒi trܧc bàn vi‰t. Có ba ti‰ng gõ cºa nhè nhË. Giám ÇÓc cÃt ti‰ng:
"CÙ vào!"
M¶t thanh niên khúm núm bܧc vào, nói nhÕ vào tai viên giám ÇÓc. Viên giám ÇÓc gÆt gù:"ñÜ®c". NgÜ©i thanh niên trª ra, sau Çó m¶t phø n» trÈ ÇËp bܧc vào. Hình änh và âm thanh rÃt rõ
-Chào ÇÒng chí giám ÇÓc.
Viên giám ÇÓc Çáp låi:" Chào ÇÒng chí."
NgÜ©i phø n» ngÒi xuÓng bên cånh, mª xách tay,lÃy m¶t gói ba sÓ 5 Ç¥t lên bàn giám ÇÓc, lÍ phép nói
:"ThÜa ÇÒng chí giám ÇÓc.Xin m©i ÇÒng chí dùng thº. ñây là thuÓc ngoåi hóa, hàng MÏ,thÖm l¡m."
Viên giám ÇÓc im l¥ng. NgÜ©i Çàn bà bèn mª xách tay, lÃy m¶t gói trà, bܧc t§i bàn bên cånh,lÃy bình trà rºa såch,thay bã trà , pha m¶t bình trà m§i, lÍ mÍ bÜng låi bàn giám ÇÓc. Cô rót trà ra chén tÓng,sang qua chén nhÕ,bÜng m©i viên giám ÇÓc.
" Xin m©i ÇÒng chí dùng trà. ñây là trà Tam ñäo, th٠ǥc biŒt, sän xuÃt riêng cho các ÇÒng chí lãnh Çåo trung ÜÖng."
Viên giám ÇÓc bÜng chén trà lên môi uÓng tØng ngøm nhÕ,ra vÈ thích thú. NgÜ©i Çàn bà kéo gh‰ ngÒi bên cånh viên giám ÇÓc, rÒi hÕi:
"ñÒng chí Çã duyŒt 5 tÃn cho em chÜa?"
Viên giám ÇÓc ngÅm nghï m¶t lát, rÒi trä l©i:
" Bây gi© tình hình khó khæn l¡m. Trung ÜÖng cho ngÜ©i vŠ thanh tra luôn luôn, cho nên bây gi© chúng tôi rÃt khó lòng duyŒt y m¶t sÓ giÃy l§n nhÜ th‰."
NgÜ©i Çàn bà nÛng nÎu:
" Xin ÇÒng chí duyŒt y. Chúng em xin trä gÃp Çôi. ñÒng chí muÓn gì chúng em cÛng chiŠu lòng."
Viên giám ÇÓc cÜ©i ha hä, bܧc t§i ôm ngÜ©i Çàn bà, và kéo ngÜ©i Çàn bà vào phòng bên cånh, nÖi nghÌ Çêm cûa giám ÇÓc nhà máy.Hình änh và âm thanh rÃt rõ rŒt và khêu g®i. Viên thû tܧng già cäm thÃy toàn thân nóng bØng.
Låi m¶t cänh khác trong nhà máy, công nhân Çang ÇÙng ngÒi ng°n ngang. Có ngÜ©i n¢m ngû dܧi dàn máy. Có ngÜ©i hút thuÓc lào trong khi máy Çang chåy. Vài ba công nhân ngÒi nói chuyŒn gÅu ,ho¥c thì thào bàn tán. Hình änh hiŒn lên rÃt rõ, công nhân lÃy m¶t sÓ tÆp giÃy , ho¥c chÃt hóa h†c giÃu kín trong ngÜ©i, ho¥c Ç‹ vào trong ba lô.
–ng kính låi chuy‹n møc. Bên ngoài sân nhà máy, m¶t sÓ hoåt Ƕng khác Çang ti‰p diÍn. M¶t sÓ công nhân Çang mª kho khuân vác nh»ng bao, thùng,gói chuy‹n ra xe hÖi, xe thÒ, và trao trä tiŠn båc... H† làm viŒc rÃt tích c¿c,nhanh chóng và bí mÆt. H† luôn luôn hÓi thúc nhau :" Nhanh lên! Nhanh lên kÈo Công an t§i!"
Trong khoänh kh¡c, sân nhà máy trª låi yên tïnh.
Thû tܧng tê tái cä ngÜ©i! Ông không th‹ tܪng tÜ®ng n°i nh»ng cänh m¡t thÃy tai nghe! N‰u trܧc Çây nh»ng ai mà k‹ hay vi‰t chuyŒn này, ông Çã bÕ tù chúng vì t¶i xuyên tåc, phän Ƕng. NhÜng than ôi, Çây là s¿ th¿c ! Công nhân thành phÀn Üu tú cûa Çäng, là giai cÃp lãnh Çåo mà låi có nh»ng hành Ƕng tr¶m c¡p nhÜ vÆy hay sao? Té ra xÜa nay,ngÜ©i ta báo cáo thành tích chÌ là báo cáo láo! Nghï xa nghï gÀn, m¶t luÒng khí lånh chåy suÓt xÜÖng sÓng ông ,khi‰n cho toàn thân ông run bÀn bÆt:" N‰u trong phû chû tÎch,trong phû thû tܧng mà chúng Ç¥t ÇÜ®c m¶t máy quay phim nhÜ th‰ thì nguy hi‹m bi‰t là dÜ©ng nào !" Ngay khi vŠ ljn ViŒt Nam, ông liŠn ra lŒnh công an tæng cÜ©ng biŒn pháp phòng gian bäo mÆt, cÃm tÃt cä m†i ngÜ©i k‹ cä cÓ vÃn các nܧc anh em xã h¶i chû nghïa,quay phim, chøp hình các cÖ quan, nhà máy...
Næm Çó cÛng là m¶t næm Çau ǧn, nhøc nhã nhÃt trong Ç©i thû tܧng Phåm Væn ñÒng vì b†n tÜ bän Çã chÖi ông m¶t vÓ Çau hÖn hoån!
SÖn Trung
SÖn Trung
Næm Ãy, Thøy
ñi‹n m©i thû tܧng
Phåm Væn ñÒng sang thæm h»u
nghÎ. Phái Çoàn gÒm mÜ©i
ngÜ©i trong Çó có bác sï
Tôn ThÃt Tùng. M¥c dù Phåm
Væn ñÒng là thû tܧng
nhÜng cái Çinh cûa cu¶c vi‰ng thæm
này là giáo sÜ bác sï Tôn
ThÃt Tùng.
Các cán b¶ thÜ©ng nghe k‹ r¢ng
lúc Çó quÓc vÜÖng Thøy
ñi‹n bÎ bŒnh gan mÆt rÃt n¥ng, các
bác sï Anh, Pháp Çành bó tay.
H† bèn gi§i thiŒu bác sï Tôn ThÃt
Tùng,lúc này ông du h†c ª
Pháp,Çã n°i ti‰ng giäi phÄu
giÕi, sang ch»a bŒnh cho quÓc vÜÖng.
Nh© tài giäi phÄu, bác sï Tôn
ThÃt Tùng Çã cÙu
ÇÜ®c quÓc vÜÖng Thøy
ñi‹n. ñŠn Ön bác sï, quÓc
vÜÖng bèn phong cho bác sï này
làm Hàn Lâm viŒn sï cûa Thøy
ñi‹n. Sau này, nghe l©i tuyên truyŠn cûa
c¶ng sän, bác sï Tôn ThÃt
Tùng vŠ Hà N¶i phøc vø dܧi
lá c© c¶ng sän.K‹ tØ Çó, Thuœ ñi‹n cÛng nhÜ Pháp là nh»ng nܧc châu Âu t¿ do låi lên ti‰ng ûng h¶ lÆp trÜ©ng cûa c¶ng sän ViŒt Nam. Hai bên lÆp quan hŒ ngoåi giao rÃt th¡m thi‰t. Thuœ ñi‹n Çã viŒn tr® cho Hà N¶i nhà máy giÃy Phú Th†. Và sau này, khi có phong trào vÜ®t biên, và sau khi khÓi ñông Âu tan rã, Thøy ñi‹n Çã tÆn tình chi‰u cÓ nh»ng ngÜ©i miŠn B¡c xã h¶i chû nghïa .
Bác sï Tôn ThÃt Tùng là con ngÜ©i Ç¥c biŒt. Ông là trí thÙc,låi thu¶c hŒ phong ki‰n, th‰ mà c¶ng sän låi chÃm ông ch£ng qua ông cÛng nhÜ tri‰t gia TrÀn ñÙc Thäo, luÆt sÜ NguyÍn Månh TØ©ng là nh»ng con mÒi Çáng giá. H† dùng ông Ç‹ tuyên truyŠn , Ç‹ Çánh bóng cho ch‰ Ƕ m¥c dù h† ch£ng cÀn ljn ông.
Sau 1975, tôi g¥p m¶t trí thÙc cÛ, giáo sÜ h† Phåm, Çi tÆp k‰t vŠ, làm viŒc tåi ViŒn khoa h†c Xã h¶i thành phÓ. Ông nói:"Nܧc ta cÀn nhiŠu bác sï nhÜng hiŒn nay ta không có thuÓc tây, không có døng cø tÓi tân thì bác sï trª thành thØa thãi. Bác HÒ nói: " Chúng ta cÀn nhiŠu ÇÀu b‰p giÕi" nhÜng nay ta thi‰u cá thÎt, thì Çâu cÀn ÇÀu b‰p gÌÕi ".Tôi hi‹u vÎ giáo sÜ này nói thÆt . Sau 1975, c¶ng sän không cÀn trí thÙc miŠn Nam, không cÀn bác sï, kÏ sÜ, giáo sÜ miŠn Nam ngoåi trØ nh»ng kÈ Çã cam tâm làm tay sai cho h† nhÜ Lš Chánh Trung, Hoàng Phû Ng†c Phan, Hoàng Phû Ng†c TÜ©ng, TrÀn Hà Nam...vì h† Çã có nh»ng ông y tá ÇÜ®c phong làm bác sï , nh»ng ông th® Çi chuyên tu vài tháng Çã thành kÏ sÜ. H† phäi Çãi ng¶ nh»ng hång ngÜ©i này. Và Çó chính là quan Çi‹m vô sän chuyên chính.
Bác sï Tôn ThÃt Tùng là con ngÜ©i ngoan ngoän không nhÜ TrÀn ñÙc Thäo, NguyÍn Månh TÜ©ng... Çã lên ti‰ng chÓng Çäng. Ông ÇÜ®c cä nܧc bi‰t ljn . Ông Çã trª thành ÇÀu ÇŠ cûa m¶t chuyŒn ti‰u lâm tân th©i. ChuyŒn k‹ nhÜ sau: Bác sï Tôn ThÃt Tùng sang Pháp, ÇÜ®c các phóng viên báo chí bu låi phÕng vÃn. H† hÕi :
Ông thu¶c giòng gÌÕi hoàng t¶c, tåi sao låi theo c¶ng sän? Ngoài ông ra, nh»ng ngÜ©i hoàng t¶c có ai ÇÜ®c c¶ng sän tr†ng døng hay không?"
Tôn ThÃt Tùng Çáp:" Nh© Ön Çäng và nhà nܧc, anh em tôn thÃt chúng tôi Çu®c Çäng và nhà nܧc chi‰u cÓ rÃt nhiŠu. Kh¡p nÖi ÇŠu có anh em chúng tôi. Bên b¶ giáo døc ,có Tôn ThÃt H†c, bên b¶ Công an có Tôn ThÃt ñÙc, bên b¶ ngoåi giao có Tôn ThÃt LÍ,bên b¶ Lao ñ¶ng có Tôn ThÃt NghiŒp, bên h¶i phø n» có bà Tôn ThÃt Trinh, Tôn ThÃt Ti‰t..."
Sau khi thû tܧng Phåm Væn ñÒng và bác sï Tôn ThÃt Tùng Ç¥t chân lên thû Çô Stockholm , vua Thøy ñi‹n Çã ti‰p Çón tr†ng th‹ theo nghi lÍ dành riêng cho quÓc khách.Phái Çoàn ViŒt Nam ÇÜ®c m©i æn uÓng tåi nh»ng nhà hàng sang tr†ng nhÃt và ÇÜ®c m©i tham quan nh»ng danh lam th¡ng cänh cùng nh»ng cÖ sª kinh t‰,kÏ nghŒ cûa Thøy ñi‹n. Thành công l§n lao cûa phái Çoàn là Çu®c Thøy ñi‹n hÙa hËn viŒn tr® kinh t‰ mÃy chøc triŒu mÏ kim. Thû tܧng và phái Çoàn hân hoan vui sܧng vì h† Çã thành công hÖn tܪng tÜ®ng. Thøy ñi‹n là m¶t nܧc nhÕ, m¶t nܧc tÜ bän nhÜng Çã dÍ dàng v§i h† hÖn là Liên sô, Trung quÓc là nh»ng nu§c anh em xã h¶i chû nghïa.
Ngày hôm Çó, thû tܧng Phåm Væn ñÒng rÃt vui vÈ. Bu°i chiŠu phái Çoàn nhÆn l©i m©i cûa b¶ ngoåi giao Thøy ñi‹n d¿ m¶t bu°i chiêu Çãi. B¶ trܪng ngoåi giao Thøy ñi‹n lên ti‰ng ca ng®i công cu¶c chi‰n ÇÃu chÓng MÏ cûa ViŒt Nam.Ti‰p theo,thû tܧng Phåm Væn ñÒng ÇÜ®c m©i lên phát bi‹u š ki‹n.Thû tܧng say men chi‰n th¡ng, cám Ön Thøy ñi‹n Çã ûng h¶ ViŒt Nam trong cuôc chi‰n ÇÃu chÓng gi¥c MÏ xâm lÜ®c,và ông cám Ön Thøy ñi‹n Çã t¥ng ViŒt Nam nhà máy giÃy Phú Th† và Çã Çào tåo chuyên viên cho ViŒt Nam. Ông nói r¢ng ban lãnh Çåo nhà máy cùng các kÏ sÜ,công nhân Çã tích c¿c làm viŒc h‰t mình vì xã h¶i chû nghïa, vì ngày mai, vì bác HÒ, vì con em. Nh© s¿ lãnh Çåo sáng suÓt cûa ñäng,nhà máy tæng næng suÃt 60%, Çû giÃy cho h†c sinh trong nu§c dùng, Çû giÃy Ç‹ in sách báo... Sau Çó là sâm banh, whisky...Và sau Çó n»a là bu°i chi‰u phim Ç¥c biŒt. ñây không phäi là råp chi‰u phim hoàng gia mà chÌ là m¶t phòng chi‰u phim nhÕ cûa b¶ ngoåi giao. Âm thanh,màu s¡c rÃt tân kÿ. Gh‰ ngÒi thÆt êm ái. Thû tܧng ܧc mong phû chû tÎch, phû thû tܧng cÛng có m¶t phòng chi‰u phim tÜÖng t¿ .Cu¶c chi‰u phim b¡t ÇÃu. Trong phòng hoàn toàn mát mÈ và yên tïnh. NgÜ©i ta không nghe ti‰ng rè rè cûa máy quay phim nhÜ ª ViŒt Nam. CuÓn phim tÜ©ng thuÆt trÆn Çá banh gi»a Thuœ ñi‹n và Pháp. Sau vài ly sâm banh, thû tܧng mŒt mÕi,Çã gÆt ÇÀu vài lÀn trên gh‰ êm ái. B‡ng thû tܧng giÆt mình, tÌnh nhÜ sáo. ñoån phim sao giÓng cänh ViŒt Nam. Phäi rÒi.ñó là cänh ViŒt Nam. Cänh nhà máy giÃy Phú Th† ViŒt Nam. ñây là nhà máy giÃy do Thøy ñi‹n viŒn tr® tiŠn båc, máy móc,kÏ thuÆt.
Cänh ban Çêm có Çèn sáng kh¡p nÖi .Kìa kìa. Trong phòng giám ÇÓc .Trên tÜ©ng là m¶t bÙc hình lãnh tø HÒ Chí Minh. M¶t ngÜ©i Çàn ông tu°i 50,ÇÀu Ƕi nón cÓi,mang quÀn áo nhà binh nhàu nát ngÒi trܧc bàn vi‰t. Có ba ti‰ng gõ cºa nhè nhË. Giám ÇÓc cÃt ti‰ng:
"CÙ vào!"
M¶t thanh niên khúm núm bܧc vào, nói nhÕ vào tai viên giám ÇÓc. Viên giám ÇÓc gÆt gù:"ñÜ®c". NgÜ©i thanh niên trª ra, sau Çó m¶t phø n» trÈ ÇËp bܧc vào. Hình änh và âm thanh rÃt rõ
-Chào ÇÒng chí giám ÇÓc.
Viên giám ÇÓc Çáp låi:" Chào ÇÒng chí."
NgÜ©i phø n» ngÒi xuÓng bên cånh, mª xách tay,lÃy m¶t gói ba sÓ 5 Ç¥t lên bàn giám ÇÓc, lÍ phép nói
:"ThÜa ÇÒng chí giám ÇÓc.Xin m©i ÇÒng chí dùng thº. ñây là thuÓc ngoåi hóa, hàng MÏ,thÖm l¡m."
Viên giám ÇÓc im l¥ng. NgÜ©i Çàn bà bèn mª xách tay, lÃy m¶t gói trà, bܧc t§i bàn bên cånh,lÃy bình trà rºa såch,thay bã trà , pha m¶t bình trà m§i, lÍ mÍ bÜng låi bàn giám ÇÓc. Cô rót trà ra chén tÓng,sang qua chén nhÕ,bÜng m©i viên giám ÇÓc.
" Xin m©i ÇÒng chí dùng trà. ñây là trà Tam ñäo, th٠ǥc biŒt, sän xuÃt riêng cho các ÇÒng chí lãnh Çåo trung ÜÖng."
Viên giám ÇÓc bÜng chén trà lên môi uÓng tØng ngøm nhÕ,ra vÈ thích thú. NgÜ©i Çàn bà kéo gh‰ ngÒi bên cånh viên giám ÇÓc, rÒi hÕi:
"ñÒng chí Çã duyŒt 5 tÃn cho em chÜa?"
Viên giám ÇÓc ngÅm nghï m¶t lát, rÒi trä l©i:
" Bây gi© tình hình khó khæn l¡m. Trung ÜÖng cho ngÜ©i vŠ thanh tra luôn luôn, cho nên bây gi© chúng tôi rÃt khó lòng duyŒt y m¶t sÓ giÃy l§n nhÜ th‰."
NgÜ©i Çàn bà nÛng nÎu:
" Xin ÇÒng chí duyŒt y. Chúng em xin trä gÃp Çôi. ñÒng chí muÓn gì chúng em cÛng chiŠu lòng."
Viên giám ÇÓc cÜ©i ha hä, bܧc t§i ôm ngÜ©i Çàn bà, và kéo ngÜ©i Çàn bà vào phòng bên cånh, nÖi nghÌ Çêm cûa giám ÇÓc nhà máy.Hình änh và âm thanh rÃt rõ rŒt và khêu g®i. Viên thû tܧng già cäm thÃy toàn thân nóng bØng.
Låi m¶t cänh khác trong nhà máy, công nhân Çang ÇÙng ngÒi ng°n ngang. Có ngÜ©i n¢m ngû dܧi dàn máy. Có ngÜ©i hút thuÓc lào trong khi máy Çang chåy. Vài ba công nhân ngÒi nói chuyŒn gÅu ,ho¥c thì thào bàn tán. Hình änh hiŒn lên rÃt rõ, công nhân lÃy m¶t sÓ tÆp giÃy , ho¥c chÃt hóa h†c giÃu kín trong ngÜ©i, ho¥c Ç‹ vào trong ba lô.
–ng kính låi chuy‹n møc. Bên ngoài sân nhà máy, m¶t sÓ hoåt Ƕng khác Çang ti‰p diÍn. M¶t sÓ công nhân Çang mª kho khuân vác nh»ng bao, thùng,gói chuy‹n ra xe hÖi, xe thÒ, và trao trä tiŠn båc... H† làm viŒc rÃt tích c¿c,nhanh chóng và bí mÆt. H† luôn luôn hÓi thúc nhau :" Nhanh lên! Nhanh lên kÈo Công an t§i!"
Trong khoänh kh¡c, sân nhà máy trª låi yên tïnh.
Thû tܧng tê tái cä ngÜ©i! Ông không th‹ tܪng tÜ®ng n°i nh»ng cänh m¡t thÃy tai nghe! N‰u trܧc Çây nh»ng ai mà k‹ hay vi‰t chuyŒn này, ông Çã bÕ tù chúng vì t¶i xuyên tåc, phän Ƕng. NhÜng than ôi, Çây là s¿ th¿c ! Công nhân thành phÀn Üu tú cûa Çäng, là giai cÃp lãnh Çåo mà låi có nh»ng hành Ƕng tr¶m c¡p nhÜ vÆy hay sao? Té ra xÜa nay,ngÜ©i ta báo cáo thành tích chÌ là báo cáo láo! Nghï xa nghï gÀn, m¶t luÒng khí lånh chåy suÓt xÜÖng sÓng ông ,khi‰n cho toàn thân ông run bÀn bÆt:" N‰u trong phû chû tÎch,trong phû thû tܧng mà chúng Ç¥t ÇÜ®c m¶t máy quay phim nhÜ th‰ thì nguy hi‹m bi‰t là dÜ©ng nào !" Ngay khi vŠ ljn ViŒt Nam, ông liŠn ra lŒnh công an tæng cÜ©ng biŒn pháp phòng gian bäo mÆt, cÃm tÃt cä m†i ngÜ©i k‹ cä cÓ vÃn các nܧc anh em xã h¶i chû nghïa,quay phim, chøp hình các cÖ quan, nhà máy...
Næm Çó cÛng là m¶t næm Çau ǧn, nhøc nhã nhÃt trong Ç©i thû tܧng Phåm Væn ñÒng vì b†n tÜ bän Çã chÖi ông m¶t vÓ Çau hÖn hoån!
SÖn Trung
VỌNG ĐÔNG * VĂN MINH VIỆT NAM
Những Nét Tiêu Biểu Của Nền Văn Minh Việt
Nam
Nói theo
ngôn ngữ chủng học, Việt Nam là một trong những cái
nôi loài
người, thì nền văn minh Việt Nam cũng là nền văn minh cổ
nhất thế giới
nói chung và Châu Á nói riêng.
Danh xưng Lạc Việt, Đại Việt và Đại Nam
biểu trưng ba sắc thái đặc biệt của nền văn minh Việt Nam, trải
qua ba
thời kỳ dài hơn bốn nghìn năm của lịch sử dân tộc.
Cần phân
tích những
nét tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam trong ba thời kỳ
nói trên để
thấy rõ nó là một thực thể khác biệt với
các nền văn minh khác, nhất là
các nền văn minh mà nó có liên hệ,
gần gũi như văn minh Chàm, văn minh
Trung Quốc.
Nền văn minh Lạc Việt
(từ khởi thủy đến thế kỷ 3 trước Công Nguyên) xuất hiện với
tất cả vẻ
rực rỡ huy hoàng của một nền văn minh nông nghiệp
mà đỉnh cao là ở thời
kỳ Hùng Vương, thời kỳ đồng thau phát triển (thời kỳ
Đông Sơn).
Nói thời kỳ
Hùng Vương là thời kỳ tiêu biểu của nền văn minh
Lạc Việt bởi vì nó mang tính chất khai sáng
ở tất cả các mặt.
Về mặt kinh tế
xã hội,
nghề nông trồng lúa nước là cơ sở phát khởi
cho mọi nguồn sinh hoạt.
Trên cơ sở đó, ý thức xây dựng và bảo
vệ đời sống phát triển. Ngành thủ
công nghiệp ở thời kỳ Hùng Vương đã để lại nhiều
công trình độc đáo về
đồ đồng (lưỡi cầy cuốc, rìu, vũ khí như đao, tên,
mũi lao, các loại
chậu, thạp, ... và điển hình nhất là trống đồng),
đồ sắt (như cuốc,
rìu, mai, vũ khí như kiếm, giáo), đồ gốm (đồ đựng
và đun nấu như nồi,
vò, bình chậu, bát đĩa ...), đồ đá (dụng cụ
sản xuất như rìu, lưỡi đục,
chày, bàn mài), đồ trang sức bằng đá (như
vòng đeo đủ kiểu), đồ gỗ (vũ
khí như lưỡi giáo). Các nghề cũng khá
phát triển như nghề sơn, nghề xe
sợi kết vải (bằng bông, đay, gai), nghề đan lát (bằng tre
nứa). Riêng
về trống đồng là những tác phảm tập trung nhiều
tài năng về kỹ thuật,
mỹ thuật và khoa học, đáng kể là trống đồng Ngọc
Lũ và Hoàng Hạ.
Làng xã
là ý thức sơ
khởi của tổ chức xã hội, trong đó gia đình phụ hệ
là nền tảng. quyền tư
hữu tài sản về ruộng đất cũng đã manh nha trong buổi đầu.
Tất cả cơ bản
của nền văn minh nông nghiệp ấy đã tồn tại hàng
ngàn năm sau.
Về mặt văn hóa,
những
gì còn tồn tại đến nay và còn được gọi
là truyền thống dân tộc cũng
phát xuất từ thời Hùng Vương như tín ngưỡng (thờ
thần), phong tục (hôn
nhân, tang lễ), hội lễ (hội hè đình đám
ngày xuân) ...
Nền văn minh Đại Việt
kế tiếp (từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 18), biểu hiệu ở tất cả các mặt
những
đặc điểm của một dân tộc đã trưởng thành sau một
nghìn năm khổ nhục vì
ách Bắc thuộc. Những ý thức và khả năng xây
dựng đời sống toàn thiện đã
lắng chìm trong giấc ngủ nghìn năm ấy để bừng dậy với tất
cả sức sống
mãnh liệt của dân tộc ở thời kỳ độc lập.
Vì vậy, nền văn
minh Đại Việt biểu dương ở nhiều mặt và có tính
chất phong phú toàn diện.
Ở thời kỳ này,
chế độ
quân chủ đã được thành lập và tổ chức
xã hội dựa trên sự cấu tạo của
bốn tầng lớp: sĩ, nông, công, thương. Tuy nông nghiệp
đặt xuống hàng
thứ yếu nhưng không chính quyền nào chối bỏ vai
trò quan trọng của nông
nghiệp đối với sự tồn tại của xã hội, đã ban hành
nhiều chính sách, chủ
trương nhằm bảo vệ, cải tiến nông nghiệp và hiệu năng
hóa sản xuất.
Khuôn khổ gia
đình đã
mở rộng thành gia tộc. Xã thôn vẫn là đơn vị
tự trị, nhưng còn phải
đóng vai trò liên hệ trong toàn bộ. cơ cấu
xã hội, đó là quốc gia. và ý
thức quốc gia bắt đầu nẩy nở thành sức mạnh tinh thần của
dân tộc.
Do đó,
dân tộc Đại
Việt đã hiên ngang đứng lên đánh đuổi những
thế lực cường bạo bao lần
muốn xâm chiếm lãnh thổ của mình. Có thể ghi
nhận những võ công của Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung đã
làm rạng danh
quốc gia Đại Việt.
Khi xã hội
phát triển
thì các tổ chức nhằm củng cố xã hội cũng trở
nên phức tạp. Quan chế,
binh chế, pháp chế được thiết lập. Nét tiêu biểu
của nền văn minh Đại
Việt được biểu lộ khá rõ về mặt pháp chế, nhất
là dưới triều Lý và
triều Lê.
Dưới triều Lý,
bắt đầu
có pháp luật thành văn với bộ Hình Thư, quy
định các hình phạt về tội
thập ác (hình luật) và chỉ dụ của nhà vua
về việc mua bán, tranh tụng
ruộng đất (hộ luật). Người phạm tội, trừ khi phạm tội thập ác,
được lấy
tiền chuộc tội. Do ảnh hưởng Phật Giáo, pháp luật triều
Lý mang nhiều
tính chất đặc biệt như: tôn trọng nhân quyền,
áp dụng chính sách cải
quả đối với tội nhân ...
Dưới triều Trần,
có bộ
Quốc Triều Hình Luật quy định ba hạng tội nặng: tội đồn, khắc
chữ vào
trán và bắt cày cáy công điền; tội
lưu, đày đến châu Ác Thủy (Quảng
Yên); tội tử, bị chém. Pháp luật triều Trần
nghiêm khắc hơn cả.
Dưới triều Lê,
có bộ
Luật Hồng Đức, mang nhiều tính chất dân tộc, phù
hợp với điều kiện xã
hội và tôn giáo, tiến bộ về mặt kỹ thuật
pháp lý, nên ảnh hưởng còn tồn
tại đến ngày nay.
Đa số luật pháp
ở thời kỳ này chú trọng nhiều về hình luật,
ít chú trọng về hộ luật và dân luật.
Về mặt chính
trị xã hội, Hồ Quý Ly đã có những
công cuộc cách mạng quốc gia tiến bộ và đi trước
thời đại.
Về phong tục,
dân Đại Việt đã có những cung cách trang
nhã trong đời sống, các tập quán, lễ nghi thuần
hậu.
Về tín ngưỡng,
đã có
một sự hòa đồng kỳ diệu giữa ba tôn giáo Nhọ Phật,
Lão và sự hòa đồng
này có ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống tinh thần
của dân Việt.
Khi đất nước độc lập
thì văn tự cũng được hình thành một lối
riêng, chữ nôm là một sáng tạo
của dân tộc để diễn đạt tư tưởng của mình. Vì vậy,
có triều đại muốn
bảo vệ nền độc lập tư tưởng đã khuyến khích sử dụng văn
nôm như triều
Hồ, tây Sơn.
Đặc sắc của nền văn
minh Đại Việt, về mặt văn học là đã phát triển
song song hai bộ phận:
văn học truyền khẩu và văn học thành văn. Hiếm thấy
trên nền văn học
thế giới một nền văn học truyền khẩu như của Đại Việt, rất phong
phú ở
nhiều phương diện: truyện cổ tích, truyện cười, tục ngữ, ca dao.
Về văn
học thành văn, có thể nói đó là một
nền văn học bác học bởi đã tập
trung nhiều khối óc lớn và bao gồm các
ngành như Lê Quý Đôn (văn học),
Ngô Sĩ Liên (Sử Học), những ngọn bút tài hoa
(văn chương) như Đặng Trần
Côn (Tác giả Chinh Phụ Ngâm Khúc),
Đoàn Thị Điểm (dịch giả chinh Phụ
Ngâm), Nguyễn Gia Thiều (tác giả Cung Oán
Ngâm Khúc). Các thể văn được
sáng tạo thích hợp với ngôn ngữ Việt giàu
âm điệu là thể lục bát và
song thất lục bát.
Về các ngành nghệ thuật, tranh mộc bản Việt là một
loại tranh dân gian
mang tính chất dân tộc độc đáo, cũng như một số
nhạc khí dân tộc, tiêu
biểu là đàn Bầu (một dây).
Trong kịch nghệ,
có loại hát chèo mang nhiều ưu điểm và
tính chất dân tộc rõ rệt.
Về khoa học, dù
là một
nền khoa học kinh nghiệm, Đại Việt cũng đã có những
nhân tài về y học
như Tuệ Tĩnh với khoa y dược dân tộc, Hải Thượng Lãn
Ông với khoa đông
y. Về thiên văn như Trần Nguyên Hãn soạn sách
nghiên cứu thiên văn và
lịch pháp. Đặng Lộ chế ra dụng cụ xét nghiệm thiên
tượng. Hồ Nguyên
Trừng chế ra súng hỏa mai.
Qua đến thế kỷ 19,
xã
hội Việt Nam lại biến chuyển và khai sinh một nền văn minh mới,
văn
minh Việt Nam, trong buổi đầu mang tinh thần văn hiến Đại Nam, đến thời
Pháp thuộc tính chất Việt Nam mới nẩy sinh.
Ở thời kỳ này,
công
cuộc khẩn hoang lập ấp và dinh điền là một chính
sách kinh tế mới, cũng
như nội thương và ngoại thương là hai mặt phát
triển của ngành thương
mãi quốc gia.
Các công
cuộc mở mang lớn được thực hiện: đường sá, cầu cống, kênh
ngòi, kho vựa, thành phố, thương cảng ...
Vua Gia Long là
người
đã có ý thức canh tân xứ sở theo đường lối
Tây Phương. Dưới triều vua
này đã có một quân lực hùnhg mạnh
nhất ở bán đảo Đông Đương. Chính vua
Gia Long đã thấy trước được Nhật Bản 60 năm là khoa hoc.
Tây Phương có
thể giúp cho nước nhà chóng phát triển
và ông đã dùng những người Tây
Phương ở bên cạnh như là những cố vấn kỹ thuật. Ông
cũng đã khuyên ngăn
con là vua Minh Mạng nên hậu đãi người Âu
(đặc biệt là Pháp), song
không cho họ một đặc quyền gì, nhưng đáng tiếc
là vua này không nghe
lời khuyên ấy, cũng như các vua về sau, nhất là Tự
Đức không lưu ý đến
các đề nghị cải cách quốc gia của Nguyễn Trường Tộ với
những ý kiến
sáng suốt là hoài bão, là ý
chí, niềm tin của người Việt thiết tha với
tiền đồ xứ sở và là tấm gương muôn đời cho hậu thế.
Tinh thần Nguyễn
Trường Tộ về sau, trong thời kỳ Pháp thuộc đã biểu lộ ở
các hoạt động
của phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục (duy
tân) và rộng ra ở tất
cả mọi hoạt động cách mạng của các chí sĩ
yêu nước.
Một biện pháp
cải tạo
xã hội tốt đẹp ở thời kỳ này là vấn đề cứu tế
xã hội để chống nghèo đói
và bệnh tật của các tầng lớp nhân dân.
Đặc điểm của thời kỳ
văn hiến Đại Nam là kho tàng văn học, chữ Hán, chữ
Nôm và ở thời kỳ
Pháp Thuộc là chữ quốc ngữ. Đáng lưu ý
là Phan Huy Chú với bộ Lịch
Triều Hiến Chương, một bộ bách khoa toàn thư có
giá trị lớn. Nguyễn Du,
một thiên tài văn chương đã để lại nhiều tác
phẩm tuyệt diệu cả hai mặt
hán và Nôm, với truyện Kiều là một
áng văn bất hủ. Một Hồ Xuân Hương
với thi tài độc đáo. Nguyễn Công Trứ, Cao Bá
Quát với những bài hát nổi
danh. hát nói là một thể thơ được sáng tạo
từ thể lục bát và song thất
lục bát và xuất hiện ở thời kỳ này.
Trong thời Pháp
thuộc,
ý thức xây dựng quốc văn phát triển, nâng cao
Việt ngữ thành một công
cụ truyền đạt tư tưởng một cách dề dàng hơn các
loại chữ ở thời trước.
Sự đóng
góp của các
nhóm Nam Phong Tạp Chí, Đông Dương Tạp Chí
và đáng kể nhất là nhóm Tự
Lực Văn Đoàn ở hai mặt truyền bá văn học và tư
tưởng xã hội tiến bộ.
Thơ văn yêu nước
và
cách mạng xuất hiện ở thời kỳ này là lợi
khí đấu tranh chống Pháp, phản
ảnh ý chí bất khuất kiên cường của dân tộc
Việt và làm giàu kho tàng
văn học.
Về mặt nghệ thuật,
loại tranh sơn mài và tranh lụa (cũng như tranh mộc bản
cổ truyền) là
những sáng tạo riêng biệt của người Việt.
Các công
trình kiến
trúc lăng tẩm và Đại Nội ở Huế, cũng như một số đồ
sành sứ mệnh danh là
"đồ sứ mem lam Huế" (Blue de Hue - đồ ký kiểu ở Tàu để
vua chúa đời
Nguyễn dùng) đã làm ngạc nhiên các du
khách nước ngoài.
Các loại ca
nhạc cung
đình cũng như ca nhạc dân gian mà điển hình
là các điệu hò hát, đã để
lại những âm hưởng bất diệt trong lòng người Việt
muôn thuở.
Nói chung,
những gì
tồn tại đến ngày nay hay đã mất mát một phần hoặc
hoàn toàn mà những
vang bóng vẫn còn trong lòng người, đều là
những nét tiêu biểu của nền
văn minh Việt Nam ở ba thời kỳ nói trên. o
ĐẶNG TIẾN * VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương
___ Đặng Tiến
Gửi chị Thục Oanh
Xuân đã đem mong nhớ trở về
Câu thơ Nguyễn Bính, ý thường thôi. Lời e cũng thường thôi. Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không có ngày về. Xuân đã ... đau lòng một chữ đã. Xuân đã. Người chưa. Những lỡ làng và những bẽ bàng.
Lần này, ở đây, Xuân đã đem mong nhớ trở về Vũ Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang Ngang.
Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân.
Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đã tự giam thơ giam đời trong mươi chữ :
Xuân đời chưa kịp hưởng
Mây mùa thu đã sang ?
Nhà thơ đã tự tình như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập thơ Mây. Người còn giăng tơ tâm sự
Xuân có sang mà hoa không tươi
ý ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi
Nằm say ngõ lạnh
Buồn nghe mưa rơi
Tuôn châu oà bật lên cười
Ta có là ta chăng hề Ai chớ là Ngươi
Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ
Hoạ điệu chiều nay xác rã rời
Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa Xuân đều là :
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay
Đã có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian ; và thơ Đường, thơ Tống, người đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Điều đó có thật, nhưng con người dù là người thơ, vẫn còn xương còn thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương.
Tác phẩm đầu lòng Thơ Say in năm 1940 gồm những sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân.
Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về
Cỏ chen màu liễu biếc chân đê
Tình Xuân ai chở đầy khoang ấy
Hương sắc thanh bình ngập lối quê. Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi
Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời
Dây đàn chầm chậm hôn lên phím
Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi
Thơ Say gồm có nhiều phần : Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng ... Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹ tả cảnh mùa xuân trên đây, bài sau là Mùa Thu Đã Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’, người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, vì không nằm trong thi hứng Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như mãi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đã nhuốm màu Thiền. Bài Thoát Hình gồm 7 đoạn, một vần :
Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã nghe dồn cả tới đài xuân
Đã nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin hương với cõi trần
Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần ... ... Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi,
Chưa từng hoen ố vết trầm luân
Đêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở ái Ân
Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Đạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Đạo đã róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát Hình còn mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.
* * *
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay ...
là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân. Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955 ; mùa xuân đầu tiên xa xứ :
Mười năm qua, đến bây giờ
Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thưở nào ..
(...)
Xuân về nhớ thưở ngát chiêm bao
Giòng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào
Lạc lõng vàng son màu lữ thứ
Cành mai gượng ánh mặt hoa đào Mười phần xuân có gầy hao
Tấm lòng xuân vẫn dạt dào như xưa
Mấy phen biếc đón hồng đưa
Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền
Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, chĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đã bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng " cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này :
Có nghĩa gì đâu một chữ " về "
Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
Nếu không ngược cả mười năm ấy
Về tận kinh đô của ước thề
Theo Chế Lan Viên, chữ" Về " là " cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa gì cả, thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa " Đây là lối viết vu oan giáng hoạ, vì chữ " về ", trong bài thơ, không có ngụ ý chính trị, chỉ là một ước vọng tình cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đã là một lối tìm về :
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
Nguyện Cầu, 1950
Còn mấy chữ " có nghĩa gì đâu ", là phỏng theo Xuân Diệu :
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ý thời sự thì nên hiểu : việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ý nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu đầu một tình cảm riêng tư - phần nào đó hoang tưởng - " có nghĩa gì đâu " . Còn về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đã nhiều lần nói đến : " Mười năm thôi nhé mộng tan tành " ... ,
" Tình mười năm còn lại mấy tờ thư "…. Thận trọng, chúng tôi đã hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và còn cho biết thêm : ‘ước thề’ ở đây không phải là chị ấy.
Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương còn có Bài Ca Bình Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung :
Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao
Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc " hát ngao " hơn là một anh hùng ca. Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng
Chín giao thừa, tám năm dư
Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
(...)
Khói đâu mờ tím căn buồng
Thời gian ai đốt trên luồng thần giao
Cố đô lửa cháy gan nào
Sài đô son sắt như bào, như nung
Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hãi hùng cay đắng. Bài Đục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt :
Chợ Tết mai lan cúc
Đắm mình trong bụi đục
Từng phiên nép mặt hoa
Thẹn không bằng khóm trúc
(...)
Liên miên khói lửa này,
Dám đâu mơ hạnh phúc
Lần lượt tre rồi măng
Đã tơi bời cốt nhục
Đoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận :
Thân càng xót cho thân
Uổng gây hình ngọc đúc
Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao não nuột :
Miệng héo dần theo lòng khắc khoải
Năm nay rồi sắp thành năm ngoái
E khi chiều xế, tuyết thay tơ
Không cả chút tình thương nắng quái Kẻ vô-hạn-hận không là gió
Xuân đến trà mi đời tự bỏ
Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang
Cùng ai gửi chút hương vò võ ?
Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với hình ảnh của Tết Mậu Thân : thiều quang ngập máu đổ quyên hồng... Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương :
Ma sợ cung vôi chạy vọt lên
Người thơ giữa lúc mở bầu men,
Khai xuân chưa kịp vui cùng khách
Đạn rót trời cao đã nổ rền
Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài : " loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân " (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc) :
Lăng miếu gần kề lưng chó sói
Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu
(...)
Đạn réo vang vang lửa bốn bề
Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê
Sốt dâng mạch loạn càng u uất
Máu chảy ruồi bâu thật não nề
Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện :
Mong người một nước soi gương cũ
Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...
(Huế Cảm)
Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, tình hình chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi :
Tin Xuân gà gáy rách trời đêm
Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm
Đủ thấy điềm lành hai nửa nước
Một nhà trong ấm với ngoài êm
(Mở Bút ghi Điềm)
Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên :
Chữ lựa vần gieo đắc ý rồi
Đèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi
Nhựa say trà ngát thơ cao giọng
Hỏi chúa xuân rằng : ai có ngôi ?
(Hạnh phúc nào hơn)
Vũ Hoàng Chương thi sĩ còn là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 120 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán :
Kỷ Dậu hồi thanh Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên
Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền
Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ
Hoà âm xuân thảo nhiễu bình nguyên
Ông tự dịch :
Tiếng vang lịch sử Đất xưa gà gáy mặt trời lên
Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền
Hoa mở cánh chào ngang dọc núi
Hoà âm cỏ ngát xuống bình nguyên Đặng Tiến dịch ké :
Gà thúc bình minh sông núi xưa
Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa
Sườn non lưng núi lời hoa mở
Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa
Vũ Hoàng Chương sinh năm ất Mão-1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn ... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời mình, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc :
Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
Bến nằm dư biết đục hay trong
(...)
Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
Để ngấn vàng gieo chợt rối vòng
Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài " Xúc Động Cuối Năm " thật buồn :
Chơi xuân đất này không cỏ non
Thơ không vàng nữa, ấn không son
Hỡi ơi lòng chợt đau như cắt
Một nụ cười xuân cũng chẳng còn
Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Đông Hồ : câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành : " xuân du thử địa vô phương thảo ", câu sau lấy ý từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa :
Mùa vàng hoa mai hoa cúc
Mùa son hoa phượng hoa vông
(...)
Mùa vàng giàu thật giàu
Mùa son sang rất sang
(Đông Hồ)
" Một nụ cười xuân cũng chẳng còn ", là nhắc tên tập thơ " Cô Gái Xuân " (1935) của Đông Hồ. Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc :
Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây
Thương xuân lìa cội, Tết sa lầy
Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch
Phá vỡ vòng sao tự giải vây Mách cho Lã Vọng về đây
Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi
Tuý Ông ngồi rũ cánh Lan buồn
Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn
Thà đợi một mùa Xuân Đích Thực
Âm thanh Cuồng sát tự dìm luôn
(Xuân Đối Diện)
Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời :
Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
Nhìn nhau chuột nhỏ tung tăng dạo
Vừa uống sông xuân một bụng đầy
(Nhâm Tý khai bút)
Tác giả tự dịch ra Hán Văn :
Trường chinh mộng hậu tức phong yên
Thiên lý long câu vạn lý thuyền
Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử
ẩm hà mãn phúc tuý xuân thiên
Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy còn u ám lắm qua bài " Xuân Quạnh " :
Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện
Ngõ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu Lầu Vọng-giai-nhân mãi quạnh nằm
Ngày xưa Kim ốc chỉ mười năm
Đắng cay thế vị lòng vương giả
Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm
Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B 52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rõ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài " Đón Xuân Mười Chín " làm trước Tết Quý Sửu (nhằm ngày 3.2.1973) :
Bấm đốt từ di cư đến nay
Đón xuân vừa vặn hết bàn tay,
Sang sông Ngựa đã hai lần hí
Vạch đất Trâu thêm một luống cày
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Bút toan chạy ngược đau lòng chữ
Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây
Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác
Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say
Hằng nga bỏ địa cầu đi mãi
Tết đến buồn không chịu vẽ mày Xưa rồi lửa phóng tên bay
Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn
Bóng ai trên đá ngồi gan
Có nghe rung một giây đàn lẻ loi
Trời xuân chẳng én đưa thoi
Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua
Nghé kêu đầy bến vàng hoa
(dẫn trọn bài)
Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quý Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi ký hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm :
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Câu thơ ngụ ý : lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Đây là một câu thơ nặng tình dân tộc, nhưng không mấy người để ý, như một thứ cung đàn lẻ loi. Ngược lại, người ta bới móc những câu thơ " chống cộng " để lên án và hạ ngục Vũ Hoàng Chương khi có cơ hội. Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đã có những tính toán chi ly, chính xác : bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đã hai lần hý là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quý Sửu (1973). Hai vần mây và say nhắc tên hai tập thơ đầu tay ; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ý bài thơ làm tại Sài Gòn, tên cũ là Bến Nghé.
Sau đó, hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quý Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu :
Ma là Người ... kiếp khác
Người là Trời ... đêm nay
Nghe chừng lửa đã tắt
Hai bờ Con-Sông này
ờ nhỉ ! đâu còn Vết Cắt
Sao lòng ai vẫn chưa hay ?
Nằm kia, người nín bặt
Vòng luân hồi đã ngược chiều quay
Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày
(Tin Xuân)
Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh bình cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế : đất nước sẽ thanh bình và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân. Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuý Vũ Đoản Từ, trích toàn văn, vì ít người còn lưu giữ :
Cỏ Bồ ôm đá ngủ
Trong tranh từ bao giờ
Cho đến bây giờ
Còn say trong thơ
Vườn bỗng hót vang chim Thuý Vũ
Đèn xanh nến biếc đêm giao thừa
Nét bút gầy theo mực úa
Bao năm rồi tiêu sơ
Có phải xuân đang từ đáy lụa
Một chiều sâu không ai ngờ
Truyền tin về giấc mơ ánh nguyệt mung lung cành lãng đãng
Nghe lòng trời đất ươm tơ
Nguyệt vẽ mày cong dĩ vãng
Cành đơn hoa trắng tương tư
Ôi thôi áo vải đã màu nâu thuyền đã hư
Mối manh gì nữa còn ai nữa
Đành kết vào hương Thuý vũ từ
Tác giả giải thích : Thuý Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa : hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai . Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quý ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết " ta đành mất hết để còn nhau " (Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).
* * *
Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn, làm vào ngày Tết Bính Thìn, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu. Nhưng cũng vì truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đã than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn :
Vịnh tranh Gà Lợn Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh
Bà Vũ Hoàng Chương ghi chú : Thơ có hoạ có ba nghĩa : thơ có xướng thì phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ : thơ phản nghịch là tai hoạ ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác : thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Đặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ý đến những tục ngữ : " dừng có mạch, vách có tai " ; " xanh vỏ đỏ lòng ". Nhưng còn nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : " tranh tối tranh sáng ", " mắt xanh ", " mắt quáng gà ", " gà cùng một mẹ ", " lợn âm dương ", " con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi ". " Khúc tân thanh " ngụ ý " đoạn trường " . Còn ý nghĩa, ngụ ý dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ thì chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ. Chỉ mong văn giới ghi nhận : đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Thìn 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, " tam sao ", được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, giam ở ngục Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm thì mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bình Thìn, lúc 23 giờ.
* * *
Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm vì yêu cầu của báo giới ; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để ký hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu. Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quý vị nào biết xin vui lòng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này.
Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong lòng người đọc thường là :
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay.
Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao hình thành trên mất mát. Cao quý và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.
Đặng Tiến
___ Đặng Tiến
Gửi chị Thục Oanh
Xuân đã đem mong nhớ trở về
Câu thơ Nguyễn Bính, ý thường thôi. Lời e cũng thường thôi. Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không có ngày về. Xuân đã ... đau lòng một chữ đã. Xuân đã. Người chưa. Những lỡ làng và những bẽ bàng.
Lần này, ở đây, Xuân đã đem mong nhớ trở về Vũ Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang Ngang.
Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân.
Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đã tự giam thơ giam đời trong mươi chữ :
Xuân đời chưa kịp hưởng
Mây mùa thu đã sang ?
Nhà thơ đã tự tình như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập thơ Mây. Người còn giăng tơ tâm sự
Xuân có sang mà hoa không tươi
ý ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi
Nằm say ngõ lạnh
Buồn nghe mưa rơi
Tuôn châu oà bật lên cười
Ta có là ta chăng hề Ai chớ là Ngươi
Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ
Hoạ điệu chiều nay xác rã rời
Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa Xuân đều là :
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay
Đã có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian ; và thơ Đường, thơ Tống, người đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Điều đó có thật, nhưng con người dù là người thơ, vẫn còn xương còn thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương.
Tác phẩm đầu lòng Thơ Say in năm 1940 gồm những sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân.
Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về
Cỏ chen màu liễu biếc chân đê
Tình Xuân ai chở đầy khoang ấy
Hương sắc thanh bình ngập lối quê. Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi
Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời
Dây đàn chầm chậm hôn lên phím
Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi
Thơ Say gồm có nhiều phần : Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng ... Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹ tả cảnh mùa xuân trên đây, bài sau là Mùa Thu Đã Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’, người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, vì không nằm trong thi hứng Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như mãi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đã nhuốm màu Thiền. Bài Thoát Hình gồm 7 đoạn, một vần :
Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã nghe dồn cả tới đài xuân
Đã nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin hương với cõi trần
Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần ... ... Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi,
Chưa từng hoen ố vết trầm luân
Đêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở ái Ân
Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Đạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Đạo đã róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát Hình còn mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.
* * *
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay ...
là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân. Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955 ; mùa xuân đầu tiên xa xứ :
Mười năm qua, đến bây giờ
Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thưở nào ..
(...)
Xuân về nhớ thưở ngát chiêm bao
Giòng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào
Lạc lõng vàng son màu lữ thứ
Cành mai gượng ánh mặt hoa đào Mười phần xuân có gầy hao
Tấm lòng xuân vẫn dạt dào như xưa
Mấy phen biếc đón hồng đưa
Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền
Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, chĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đã bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng " cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này :
Có nghĩa gì đâu một chữ " về "
Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
Nếu không ngược cả mười năm ấy
Về tận kinh đô của ước thề
Theo Chế Lan Viên, chữ" Về " là " cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa gì cả, thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa " Đây là lối viết vu oan giáng hoạ, vì chữ " về ", trong bài thơ, không có ngụ ý chính trị, chỉ là một ước vọng tình cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đã là một lối tìm về :
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
Nguyện Cầu, 1950
Còn mấy chữ " có nghĩa gì đâu ", là phỏng theo Xuân Diệu :
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ý thời sự thì nên hiểu : việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ý nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu đầu một tình cảm riêng tư - phần nào đó hoang tưởng - " có nghĩa gì đâu " . Còn về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đã nhiều lần nói đến : " Mười năm thôi nhé mộng tan tành " ... ,
" Tình mười năm còn lại mấy tờ thư "…. Thận trọng, chúng tôi đã hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và còn cho biết thêm : ‘ước thề’ ở đây không phải là chị ấy.
Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương còn có Bài Ca Bình Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung :
Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao
Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc " hát ngao " hơn là một anh hùng ca. Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng
Chín giao thừa, tám năm dư
Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
(...)
Khói đâu mờ tím căn buồng
Thời gian ai đốt trên luồng thần giao
Cố đô lửa cháy gan nào
Sài đô son sắt như bào, như nung
Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hãi hùng cay đắng. Bài Đục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt :
Chợ Tết mai lan cúc
Đắm mình trong bụi đục
Từng phiên nép mặt hoa
Thẹn không bằng khóm trúc
(...)
Liên miên khói lửa này,
Dám đâu mơ hạnh phúc
Lần lượt tre rồi măng
Đã tơi bời cốt nhục
Đoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận :
Thân càng xót cho thân
Uổng gây hình ngọc đúc
Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao não nuột :
Miệng héo dần theo lòng khắc khoải
Năm nay rồi sắp thành năm ngoái
E khi chiều xế, tuyết thay tơ
Không cả chút tình thương nắng quái Kẻ vô-hạn-hận không là gió
Xuân đến trà mi đời tự bỏ
Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang
Cùng ai gửi chút hương vò võ ?
Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với hình ảnh của Tết Mậu Thân : thiều quang ngập máu đổ quyên hồng... Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương :
Ma sợ cung vôi chạy vọt lên
Người thơ giữa lúc mở bầu men,
Khai xuân chưa kịp vui cùng khách
Đạn rót trời cao đã nổ rền
Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài : " loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân " (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc) :
Lăng miếu gần kề lưng chó sói
Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu
(...)
Đạn réo vang vang lửa bốn bề
Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê
Sốt dâng mạch loạn càng u uất
Máu chảy ruồi bâu thật não nề
Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện :
Mong người một nước soi gương cũ
Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...
(Huế Cảm)
Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, tình hình chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi :
Tin Xuân gà gáy rách trời đêm
Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm
Đủ thấy điềm lành hai nửa nước
Một nhà trong ấm với ngoài êm
(Mở Bút ghi Điềm)
Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên :
Chữ lựa vần gieo đắc ý rồi
Đèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi
Nhựa say trà ngát thơ cao giọng
Hỏi chúa xuân rằng : ai có ngôi ?
(Hạnh phúc nào hơn)
Vũ Hoàng Chương thi sĩ còn là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 120 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán :
Kỷ Dậu hồi thanh Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên
Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền
Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ
Hoà âm xuân thảo nhiễu bình nguyên
Ông tự dịch :
Tiếng vang lịch sử Đất xưa gà gáy mặt trời lên
Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền
Hoa mở cánh chào ngang dọc núi
Hoà âm cỏ ngát xuống bình nguyên Đặng Tiến dịch ké :
Gà thúc bình minh sông núi xưa
Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa
Sườn non lưng núi lời hoa mở
Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa
Vũ Hoàng Chương sinh năm ất Mão-1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn ... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời mình, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc :
Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
Bến nằm dư biết đục hay trong
(...)
Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
Để ngấn vàng gieo chợt rối vòng
Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài " Xúc Động Cuối Năm " thật buồn :
Chơi xuân đất này không cỏ non
Thơ không vàng nữa, ấn không son
Hỡi ơi lòng chợt đau như cắt
Một nụ cười xuân cũng chẳng còn
Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Đông Hồ : câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành : " xuân du thử địa vô phương thảo ", câu sau lấy ý từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa :
Mùa vàng hoa mai hoa cúc
Mùa son hoa phượng hoa vông
(...)
Mùa vàng giàu thật giàu
Mùa son sang rất sang
(Đông Hồ)
" Một nụ cười xuân cũng chẳng còn ", là nhắc tên tập thơ " Cô Gái Xuân " (1935) của Đông Hồ. Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc :
Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây
Thương xuân lìa cội, Tết sa lầy
Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch
Phá vỡ vòng sao tự giải vây Mách cho Lã Vọng về đây
Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi
Tuý Ông ngồi rũ cánh Lan buồn
Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn
Thà đợi một mùa Xuân Đích Thực
Âm thanh Cuồng sát tự dìm luôn
(Xuân Đối Diện)
Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời :
Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
Nhìn nhau chuột nhỏ tung tăng dạo
Vừa uống sông xuân một bụng đầy
(Nhâm Tý khai bút)
Tác giả tự dịch ra Hán Văn :
Trường chinh mộng hậu tức phong yên
Thiên lý long câu vạn lý thuyền
Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử
ẩm hà mãn phúc tuý xuân thiên
Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy còn u ám lắm qua bài " Xuân Quạnh " :
Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện
Ngõ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu Lầu Vọng-giai-nhân mãi quạnh nằm
Ngày xưa Kim ốc chỉ mười năm
Đắng cay thế vị lòng vương giả
Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm
Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B 52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rõ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài " Đón Xuân Mười Chín " làm trước Tết Quý Sửu (nhằm ngày 3.2.1973) :
Bấm đốt từ di cư đến nay
Đón xuân vừa vặn hết bàn tay,
Sang sông Ngựa đã hai lần hí
Vạch đất Trâu thêm một luống cày
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Bút toan chạy ngược đau lòng chữ
Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây
Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác
Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say
Hằng nga bỏ địa cầu đi mãi
Tết đến buồn không chịu vẽ mày Xưa rồi lửa phóng tên bay
Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn
Bóng ai trên đá ngồi gan
Có nghe rung một giây đàn lẻ loi
Trời xuân chẳng én đưa thoi
Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua
Nghé kêu đầy bến vàng hoa
(dẫn trọn bài)
Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quý Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi ký hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm :
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Câu thơ ngụ ý : lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Đây là một câu thơ nặng tình dân tộc, nhưng không mấy người để ý, như một thứ cung đàn lẻ loi. Ngược lại, người ta bới móc những câu thơ " chống cộng " để lên án và hạ ngục Vũ Hoàng Chương khi có cơ hội. Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đã có những tính toán chi ly, chính xác : bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đã hai lần hý là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quý Sửu (1973). Hai vần mây và say nhắc tên hai tập thơ đầu tay ; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ý bài thơ làm tại Sài Gòn, tên cũ là Bến Nghé.
Sau đó, hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quý Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu :
Ma là Người ... kiếp khác
Người là Trời ... đêm nay
Nghe chừng lửa đã tắt
Hai bờ Con-Sông này
ờ nhỉ ! đâu còn Vết Cắt
Sao lòng ai vẫn chưa hay ?
Nằm kia, người nín bặt
Vòng luân hồi đã ngược chiều quay
Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày
(Tin Xuân)
Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh bình cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế : đất nước sẽ thanh bình và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân. Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuý Vũ Đoản Từ, trích toàn văn, vì ít người còn lưu giữ :
Cỏ Bồ ôm đá ngủ
Trong tranh từ bao giờ
Cho đến bây giờ
Còn say trong thơ
Vườn bỗng hót vang chim Thuý Vũ
Đèn xanh nến biếc đêm giao thừa
Nét bút gầy theo mực úa
Bao năm rồi tiêu sơ
Có phải xuân đang từ đáy lụa
Một chiều sâu không ai ngờ
Truyền tin về giấc mơ ánh nguyệt mung lung cành lãng đãng
Nghe lòng trời đất ươm tơ
Nguyệt vẽ mày cong dĩ vãng
Cành đơn hoa trắng tương tư
Ôi thôi áo vải đã màu nâu thuyền đã hư
Mối manh gì nữa còn ai nữa
Đành kết vào hương Thuý vũ từ
Tác giả giải thích : Thuý Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa : hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai . Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quý ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết " ta đành mất hết để còn nhau " (Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).
* * *
Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn, làm vào ngày Tết Bính Thìn, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu. Nhưng cũng vì truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đã than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn :
Vịnh tranh Gà Lợn Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh
Bà Vũ Hoàng Chương ghi chú : Thơ có hoạ có ba nghĩa : thơ có xướng thì phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ : thơ phản nghịch là tai hoạ ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác : thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Đặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ý đến những tục ngữ : " dừng có mạch, vách có tai " ; " xanh vỏ đỏ lòng ". Nhưng còn nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : " tranh tối tranh sáng ", " mắt xanh ", " mắt quáng gà ", " gà cùng một mẹ ", " lợn âm dương ", " con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi ". " Khúc tân thanh " ngụ ý " đoạn trường " . Còn ý nghĩa, ngụ ý dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ thì chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ. Chỉ mong văn giới ghi nhận : đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Thìn 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, " tam sao ", được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, giam ở ngục Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm thì mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bình Thìn, lúc 23 giờ.
* * *
Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm vì yêu cầu của báo giới ; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để ký hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu. Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quý vị nào biết xin vui lòng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này.
Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong lòng người đọc thường là :
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay.
Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao hình thành trên mất mát. Cao quý và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.
Đặng Tiến
Paris, Teát döông lòch, 1/1/2001
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 04
TRẦN HỒNG CHÂU * BƯỚM TRẮNG
TrÀn HÒng Châu
Sông xanh xanh, sông chª
ÇÀy ân ái
TrÜ©ng hÒng hÒng trÜ©ng mang mãi tình non
Quá gÀn nhau sao vÅn còn quan äi
MÃy mÜÖi l§p phù kiŠu dáng m¡t em
Chû nhÆt Çây n¡n nót ch» thÖ hÒng
Lòng phÖi ph§i h¶i mª gió nhÜ nhung
Ghé Thiên thai anh trao tình thú nhÃt
Tay ghi dòng nhÆt kš bu°i tÜÖng phùng
Áo tr¡ng xÜa bܧm cÛ còn vÜÖng vÃn
ñêm thao thÙc hÒn chïu n¥ng buÒn thÖ
M¶ng mÖ anh say say mÀu hÒng phÃn
Tóc huyŠn châu trong khung cºa trÜ©ng bên
B© sông thÖ gió vÜÖng tình bܧm tr¡ng
Em Çi nhanh nón nhÕ gót hÒng son
B‡ng hoa lá chÆp ch©n trong v¡ng l¥ng
HÒn bâng khuâng r¿c r« ánh lÜu ly
Bܧc ngÆp ngØng vân vi mi ch§p nhË
Tình mang mang hò hËn mái Çò xÜa
M¶ng thanh xuân tu°i ng†c vŠ Çây nhé
VŠ Çây nhé bܧm tr¡ng m¶ng thanh xuân.
TrÜ©ng hÒng hÒng trÜ©ng mang mãi tình non
Quá gÀn nhau sao vÅn còn quan äi
MÃy mÜÖi l§p phù kiŠu dáng m¡t em
Chû nhÆt Çây n¡n nót ch» thÖ hÒng
Lòng phÖi ph§i h¶i mª gió nhÜ nhung
Ghé Thiên thai anh trao tình thú nhÃt
Tay ghi dòng nhÆt kš bu°i tÜÖng phùng
Áo tr¡ng xÜa bܧm cÛ còn vÜÖng vÃn
ñêm thao thÙc hÒn chïu n¥ng buÒn thÖ
M¶ng mÖ anh say say mÀu hÒng phÃn
Tóc huyŠn châu trong khung cºa trÜ©ng bên
B© sông thÖ gió vÜÖng tình bܧm tr¡ng
Em Çi nhanh nón nhÕ gót hÒng son
B‡ng hoa lá chÆp ch©n trong v¡ng l¥ng
HÒn bâng khuâng r¿c r« ánh lÜu ly
Bܧc ngÆp ngØng vân vi mi ch§p nhË
Tình mang mang hò hËn mái Çò xÜa
M¶ng thanh xuân tu°i ng†c vŠ Çây nhé
VŠ Çây nhé bܧm tr¡ng m¶ng thanh xuân.
TrÀn HÒng Châu
GS. PHẠM ĐỨC LIÊN * HÙNG VƯƠNG
Phåm ñÙc
Liên,Ph.D
Nguyên giäng sÜ TrÜ©ng ñåi H†c C¶ng ñÒng Central Piedmont, North Carolina,Hoa Kÿ
Nguyên giäng sÜ TrÜ©ng ñåi H†c C¶ng ñÒng Central Piedmont, North Carolina,Hoa Kÿ
Có Çi gi‡ t° m§i là ngÜ©i Nam"
I. NguÒn gÓc nh»ng vÎ vua ÇÀu tiên cûa ViŒt Nam:tØ næm 2879 ljn næm 258 trܧc tây lÎch
VŠ nguÒn gÓc cûa nh»ng vÎ vua ÇÀu tiên cûa ViŒt Nam, chúng ta chÌ có nh»ng truyŒn thÀn thoåi hoang Çu©ng.Dù bi‰t là mÖ hÒ,nhÜng nh»ng câu truyŒn dó vÅn ÇÜ®c k‹ tØ ngÜ©i này qua ngÜ©i kia, và truyŠn khÄu tØ Ç©i này sang Ç©i khác.
Nܧc Væn LangDù là bi‰t không xác th¿c nhÜng Çó là nguÒn gÓc vô cùng thiêng liêng, æn sâu vào tâm khäm m†i ngÜ©i, nhÜ nh¡c nhª chúng ta cùng hܧng vŠ vùng núi ÇÒi làng C° tích, tÌnh Phú Th† ( hiŒn nay còn nhiŠu dÃu tích).ñŠn th© QuÓc t° tåi Phú Th†
Tøc truyŠn r¢ng vua ñ‰ Minh là cháu ba Ç©i vua ThÀn Nông, Çi tuÀn thú ª phÜÖng Nam ( tÌnh HÒ Nam,Trung Hoa),lÃy m¶t nàng tiên và ÇÈ ra con trai tên là L¶c Tøc. ñ‰ Minh truyŠn låi cho con trܪng là ñ‰ Nghi, làm vua ª phÜÖng b¡c và phong L¶c Tøc làm vua ª phÜÖng Nam ( Kinh DÜÖng vÜÖng, næm 2899 trܧc Thiên chúa ). Kinh dÜÖng vÜÖng Ç¥t quÓc hiŒu là Xích qu› và lãnh th°: phía b¡c gíáp ñ¶ng ñình hÒ ( HÒ Nam ) , phía nam giáp nܧc Chiêm Thành, phía Çông là bi‹n Nam häi,và phía tây giáp Ba Thøc ( TÙ Xuyên). Có sách chép lãnh th° cûa nܧc ta bao gÒm hai tÌnh Quäng ñông, Quäng Tây ( Trung Hoa) và m¶t phÀn nܧc Ai Lao.
< Kinh DÜÖng vÜÖng lÃy con gái ñ¶ng ñình quân là Long n», sanh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nÓi ngôi xÜng là Låc Long quân. Låc Long quân lÃy con gái vua ñ‰ Lai là Âu CÖ, ÇÈ ra m¶t træm trÙng và nª thành m¶t træm con trai: khÕe månh,ÇËp Çë và thông minh phi thÜ©ng. M¶t hôm Låc Long quân m§i nói v§i bà Âu CÖ:" Ta là giÓng rÒng, mình là dòng Tiên, e r¢ng thûy hÕa xung kh¡c, nên phäi chia ly.Ta Çem 50 con xuÓng bi‹n Nam Häi, nàng mang 50 con lên núi. Khi hi‹m nghèo thì báo cho nhau bi‰t,và nh§: ÇØng quên nhau." Bà Âu CÖ Çem 50 trai lên ÇÃt Phong Châu ( tÌnh Vïnh Yên ) và tôn ngÜ©i con trܪng lên làm vua, hiŒu là Hùng vÜÖng(hay Låc vÜÖng),Ç¥t tên nܧc là Væn Lang. Chúng ta là" con RÒng cháu Tiên" là do truyŠn thuy‰t này.
Ven b© HÒng hà,PhúTh†Hùng vÜÖng làm vua ( cha truyŠn con nÓi) ÇÜ®c 18 Ç©i. N‰u tính tØ Kinh DÜÖng vÜÖng ( næm nhâm tuÃt 2879 trܧc Thiên Chúa ) cä thäy 2621 næm. Các vua Hùng vÜÖng ( h† HÒng bàng ) là thûy t° cûa dân t¶c ViŒt Nam, có công gây d¿ng nên nܧc ta, v§i nh»ng nŠn móng cæn bän cûa xã h¶i ViŒt Nam th©i xÜa rÃt tôn ti trÆt t¿. Hùng vÜÖng Çóng Çô ª Phong Châu ( Båch Håc, Vïnh Yên), quan væn g†i là Låc hÀu, quan võ Ç¥t là Låc tܧng, con trai vua g†i là Quan lang, con gái vua Ç¥t là MÎ nÜÖngvà các quan nhÕ g†i là BÒ chính , dân chúng Ç¥t là Låc dân. Nܧc Væn Lang ÇÜ®c chia ra 15 b¶ hay quÆn. Sau Çây là tên 18 vÎ Låc vÜÖng Ç©i HÒng Bàng:TrÄy h¶i ñŠnHùng,MånhQuÿnh 1942
- Kinh DÜÖng vÜÖng ( L¶c Tøc,tØ næm 2879 trܧc Tây lÎch)
- Hùng HiŠn vÜÖng ( Sùng Lãm, Låc Long quân)
- Hùng quÓc vÜÖng ( có Ch» ñÒng Tº )
- Hùng Hoa vÜÖng ( S¿ tích trÀu cau )
- Hùng Hy vÜÖng
- Hùng Huy vÜÖng ( tøc bánh dày, bánh chÜng và truyŒn Phù ñ°ng Thiên vÜÖng )
- Hùng Chiêu vÜÖng
- Hùng Vi vÜÖng
- Hùng ñÎnh vÜÖng
- Hùng Uy vÜÖng
- Hùng TrÎnh vÜÖng
- Hùng VÛ vÜÖng
- Hùng ViŒt vÜÖng
- Hùng Anh vÜÖng
- Hùng TriŒu vÜÖng
- Hùng Tåo vÜÖng
- Hùng NghÎ vÜÖng
- Hùng TruyŠn
vÜÖng : v§i truyŒn SÖn Tinh, Thûy
Tinh,và næm 258 trܧc Thiên Chúa,
h† HÒng Bàng bÎ nhà Thøc ( m¶t
h† ª cånh nܧc Væn Lang ) chi‰m mÃt
nܧc. Hùng vÜÖng thua chåy, nhäy
xuÓng gi‰ng t¿ tº.
C°ng tam quan ñŠnThÜ®ng,änh TrÀn Cao Lïnh)
II.ñŠn Hùng : vùng ÇÒi núi hùng vï, nghiêm trang làng C° Tích, Phú Th† ( cách Hà N¶i 100km)Læng các vua Hùng núi Nghïa CÜÖng,tranh Månh Quÿnh 1942)
V§i 4878 næm lÆp quÓc ( tØ 2879 trܧc tây lÎch ljn ngày nay 1999 ), nhÜ th‰ là gÃn næm ngàn næm væn hi‰n- cho dÅu mÖ hÒ, huyŠn ho¥c vŠ nguÒn gÓc cûa t° tiên- chúng ta ÇŠu có m¶t k‰t luÆn chung làm : Kinh DÜÖng vÜÖng Çã lÆp nܧc ª lÜu v¿c sông DÜÖng Tº, nÖi Çó có hàng træm b¶ t¶c ÇÜ®c g†i là Bách ViŒt sinh sÓng. Låc ViŒt cûa quÓc t° Hùng vÜÖng là b¶ t¶c hùng månh nhÃt Çã tÒn tåi, ti‰n vŠ phía nam và ÇÎnh cÜ ª châu th° sông HÒng hà, sông Mã, lÆp ra nܧc Væn Lang .
Và gi© Çây là di tích nh»ng bu°i bình minh cûa lÎch sº " Con RÒng Cháu Tiên". Chúng ta Çi tìm v‰t tích cûa h† HÒng Bàng : ñŠn Hùng, nÖi th© 18 vua Hùng vÜÖng.
ñŠn Hùng ÇÜ®c vua Thøc Phán ( tÙc vua An DÜÖng VÜÖng, tØ næm 257 ljn næm 207 trܧc TC ) xây næm 208 trܧc Tây lÎch ,tåi ng†n núi cao nhÃt Phú Th† : núi Nghïa CÜÖng,hay Nghïa Lïnh hay Hùng SÖn hay núi ñŠn ( thu¶c làng C° Tích hay Hy CÜÖng, phû Lâm Thao; nÖi Çây, th©i các vua Hùng vÜÖng g†i là b¶ Phong Châu). Núi ÇÒi làng C° Tích là m¶t vùng cây cÕ xanh tÜÖi v§i dáng dÃp nhÃp nhô, lÜ®n khúc theo các dòng sông cûa th‰ ÇÃt vùng trung du B¡c phÀn. ñ¥c biŒt tØ ÇÌnh Hùng SÖn , nhìn nh»ng mô ÇÃt , nh»ng gò Çá nhÜ là nh»ng mâm xôi mà thiên nhiên Çã dành cho dân Låc ViŒt-dâng lên quÓc t°. Xa xa là núi Tam ñäo ( Vïnh Yên ) và núi Tän Viên ( SÖn Tây ). TØ chân núi lên ÇÌnh núi Nghïa CÜÖng có ba ÇŠn là :
- ñŠn
Hå, ª ngay chân núi, th© hai công
chúa : Tiên Dung Mœ NÜÖng và Ng†c Hoa
MÎ NÜÖng là con gái vua Hùng
VÜÖng thÙ 18.
ñŠn Hå còn Ç܆c g†i là ñŠn Gi‰ng vì có gi‰ng nܧc trong suÓt, mà dân chúng tin r¢ng uÓng vào nhÜ uÓng nܧc thiêng cûa Låc VÜÖng.
- ñŠn
Trung ª lÜng chØng núi, th© các
danh nhân th©i HÒng Bàng: Ch»
ñÒng Tº, Phù ñ°ng Thiên
VÜÖng và các Låc hÀu, Låc
Tܧngv. v...Trܧc ÇŠn có nhiŠu
tâm bia Çá ghi công ÇÙc
cûa 18 vua Hùng VÜÖng, các nét
ch» Çã mòn gÀn h‰t nên
không džc ÇÜ®c n»a.
- ñŠn
ThÜ®ng, trên ÇÌnh núi. MuÓn
lên ÇŠn ThÜ®ng, nh»ng ngÜ©i
hành hÜÖng phäi leo 296 bÆc gåch.
ñŠn ThÜ®ng gÒm có sáu gian
ngoài, g†i là" ñåi Bái" Ç‹ t‰
lÍ và ba gian trong, g†i là " HÆu cung "
Ç‹ th© các vua Hùng v§i dòng
ch» "ñ¶t ng¶t cao sÖn c° ViŒt
Hùng thÎ thÆp bát thánh
vÜÖng vÎ" ( có nghïa là
Núi cao chót vót nܧc C° ViŒt h†
Hùng mÜ©i tám vÎ thánh
vÜÖng ). ñ¥c biŒt trong ÇŠn ThÜ®ng
có hai cây mác mÛi nh†n làm b¢ng
sØng hÜÖu. Trên bàn th© có
tÜ®ng ( Ç¡p b¢ng ÇÃt,
bên ngoài quét sÖn ) vua Hùng
VÜÖng và Hoàng HÆu, Công
chúa. Ngày kÎ cûa vua Hùng
VÜÖng là là ngày 10 tháng ba
âm lÎch, kÎ Hoàng HÆu vào
ngày 15 tháng 5 và kÎ Công chúa
là ngày 12 tháng giêng.
- Bên ngoài ÇŠn ThÜ®ng là læng các vua Hùng, có bia Çá kh¡c ch» : QuÓc t° Hùng VÜÖng læng. Bên cånh là nh»ng bia Çá kh¡c væn thÖ ÇŠ vÎnh cûa các danh nhân.
- ñŠn
Hå, ª ngay chân núi, th© hai công
chúa : Tiên Dung Mœ NÜÖng và Ng†c Hoa
MÎ NÜÖng là con gái vua Hùng
VÜÖng thÙ 18.
Dܧi Çây là thÖ " VÎnh ñŠn Hùng " cûa LÜÖng HÒ NguyÍn Trung Khuy‰n:
Nܧc th£m sông Thao, núi Tän xa,
Væn Lang muôn thûa nܧc non nhà.
Mi‰u læng nŠn cÛ hÜÖng còn ÇÆm,
MÜa n¡ng bia xÜa nét chºa nhòa.
ñÃt bÓn nghìn næm công ÇÙc t°,
NgÜ©i hai mÜÖi triŒu giÓng nòi ta.
Này nÖi nguÒn gÓc chung nhau Çó,
Nh§ lÃy ai Öi kÈo n»a mà ...
Næm nay ,gi‡ t°
Hùng vÜÖng nh¢m vào ngày chû
nhÆt
25 tháng tÜ næm 1999 ( tÙc ngày 10
tháng ba næm k› mão ).
Phåm
ñÙc Liên
Tài LiŒu Tham Khäo:
- Indochine, Hebdomadaire ilustrée, 1942
- K.A..Appiah and H.L.Gates, The Dictionary of Global Culture, 1997.
- Bernard Grun, The TimeTables of History, 1991.
- J.M.Roberta, A Short Story of The World ,1993.
- Karnow Stanley, A History -The first complete account of Vietnam at war, 1983.
- CÖ sª ñông Ti‰n, Nܧc Tôi Dân Tôi.
- ñ‡ Tr†ng HuŠ,ñi Tìm DÃu V‰t Hùng VÜÖng.
- Hà Mai PhÜÖng, LÜ®c Sº Væn Minh ViŒt Nam.
- NguyÍn Kh¡c Ng», NguÒn GÓc Dân T¶c ViŒt Nam và tranh m¶c bän ViŒt Nam.
- Phåm Cao DÜÖng, LÎch Sû Dân T¶c ViŒt Nam th©i lÆp quÓc )
- Phåm ñÙc Liên,Bình Minh LÎch Sº ViŒt Nam (và nhiŠu bài vi‰t Çæng trên các tåp chí ViŒt MÏ) TrÀn Tr†ng Kim, ViŒt Nam Sº LÜ®c.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 04
No comments:
Post a Comment