NGUYỄN THIÊN THỤ * TÔ HOÀI & CÁT BỤI CHÂN AI
Các tác phÄm cûa Tô Hoài hÀu h‰t là væn tuyŠn truyŠn, tô vë cuc kháng chi‰n và xã h¶i chû nghïa tÜÖi ÇËp. Tô Hoài Çã Çáp Ùng nh»ng yêu cÀu cûa Çäng cho nên ông ÇÜ®c các phê bình gia c¶ng sän khen ng®i. NgÜ®c Sông Thao ca tøng chi‰n dÎch Tây B¡c, nhÜ trÆn PhÓ Ràng, ÇÒn Dòm, ñåi Bøc, ñåi Phác.VÜ®t Tây Côn Lïnh ca tøng trÆn Çánh ª trên ng†n Tây Côn Lïnh rét buÓt. ñåi ñ¶i Thæng Bình, ca tøng m¶t Çåi Ƕi hoåt Ƕng ª vùng ÇÎch hÆu. Chính phû Tåm Vay nh¡m phøc vø chính sách thu‰ nông nghiŒp. TruyŒn Tây B¡c ÇÜ®c giäi nhÃt næm 1954-1955 cûa h¶i Væn NghŒ ViŒt Nam. TruyŒn Khác Trܧc tÓ cáo phong ki‰n, ÇÎa chû, và ca ng®i Çäng . Nói chung, ÇÜ©ng hܧng sáng tác cûa ông là Çi theo chû trÜÖng cûa Çäng, theo ÇÖn Ç¥t hàng cûa Çäng.
Tô Hoài có nhiŠu ÇŠ tài. Có næm ÇŠ tài trong các tác phÄm Tô Hoài:
- Thôn quê ViŒt Nam: Khác Trܧc, MÜ©i Næm, NgÜ©i Ven Thành v. v..
- Tây Nguyên: TruyŒn Tây B¡c ,Tào LÜ©ng , MiŠn Tâyv.v..
- Các nܧc xã hi chû nghïa: Thành PhÓ Lê Nin, Tôi Thæm Cæm Pu Chia
- HÒi kš, bút kš: V« TÌnh, Xuôi Sông HÒng, Cát Bøi Chân Ai v.v..
- TruyŒn thi‰u nhi; Con Mèo LÜ©i, VØ A Dinh
Ngoài ra ông có m¶t sÓ vŠ bài vŠ lš luÆn væn h†c, và kinh nghiŒm vi‰t væn.
ñŠ tài Tô Hoài tâm Ç¡c nhÃt là Tây Nguyên. Ông Çã æn dÀm n¢m dŠ tåi các vùng Tây Nguyên sÓng v§i các dân t¶c Tày, Mông, Thái cho nên ông Çã tØ th¿c t‰ mà vi‰t nên TruyŒn Tây B¡c , Tào LÜ©ng, MiŠn Tây. . .
Trong các truyŒn miŠn núi, Tô Hoài Çã vi‰t vŠ các phong tøc cûa ÇÒng bào miŠn núi nhÜ tøc ª r‹, Çi ª cuông, chÖi hang, t¡m suÓi nܧc nóng, tøc uÓng rÜ®u, th°i khèn, th°i sáo, Çánh pao v.v..TÆp TruyŒnTây B¡c cûa Tô Hoài Çã ÇÜ®c giäi thܪng cûa h¶i Væn NghŒ ViŒt Nam 1954-1955. TruyŒn này gÒm ba truyŒn ng¡n: CÙu ñÃt CÙu MÜ©ng, MÜ©ng GiÖn, V® ChÒng A Phû, trong Çó truyŒn V® ChÒng A Phû ÇÜ®c Çäng khen ng®i, Çem làm tài liŒu giáo khoa bÆc trung h†c. Pà Tra làm thÓng lš( chánh t°ng, lš trܪng) ª HÒng Ngái, cho bÓ MÎ vay tiŠn cܧi v®. BÓ MÎ trä n® hoài không h‰t. MÎ bÎ b¡t vŠ làm v® A Sº, con trai cûa Pà Tra. MÎ sÓng kh° sª. M¶t hôm A Sº Çi chÖi, bÎ A Phû Çánh tr†ng thÜÖng. Pà Tra b¡t A Phû phåt vå m¶t træm ÇÒng. A Phû phäi Çi ª suÓt Ç©i trä n®. C†p æn con bò cûa Pà Tra. Pà Tra trói A Phû, MÎ cªi trói cho A Phû, rÒi hai ngÜ©i trÓn Çi. TruyŒn này có møc Çích tÓ cáo ch‰ Ƕ phong ki‰n trên miŠn núi. Có m¶t ÇiŠu Çáng nói là trong kháng chi‰n chÓng Pháp cÛng nhÜ sau 1954, khi c¶ng sän thi hành cäi cách ru¶ng ÇÃt, cäi tåo công thÜÖng nghiŒp, thi hành chính sách kinh t‰ m§i, thì ÇÒng bào miŠn núi cÛng bÎ c¶ng sän phá rØng , cܧp ÇÃt, Çãu tÓ, Çu°i dân ra khÕi nÖi h† cÜ trú, gi‰t håi và bÕ tù hàng vån ngÜ©i mà không m¶t ai dám vi‰t vŠ vÃn ÇŠ này!
Nói chung, Tô Hoài rÃt khôn, ông luôn luôn tô løc chuÓt hÒng cho ch‰ Ƕ, luôn ca tøng tinh thÀn chi‰n Çãu cûa b¶ Çi, tình quân dân th¡m thi‰t, chính sách nông nghiŒp, chính sách dân t¶c là nh»ng ÇŠ tài Çã ÇÜ®c Çäng và nhà nܧc quan tâm. Có nhÜ vÆy, Tô Hoài m§i ÇÜ®c Çäng tin cÆy. Tuy nhiên, cÛng có lúc Tô Hoài bÎ Çäng Çánh tÖi b©i. ñó là giai Çoån 1957-1958, là giai Çoån ngÜ©i ta khûng bÓ væn nghŒ sï. Cä m¶t phong trào chÓng Çäng bùng lên, Tô Hoài cÛng thÃy phÃn khªi và vi‰t hai bài:
- T° ChÙc Phát Tri‹n L¿c LÜ®ng Sáng Tác Trܧc NhÃt. Væn, sÓ 13, ngày 2-8-1957.
- Góp PhÀn Vào Ý Ki‰n Vào Con NgÜ©i Th©i ñåi. Væn, sÓ 22, ngày 4-10-1957.
Qua hai bài này, Tô Hoài muÓn Çäng chú š vŠ Çào tåo sáng tác trܧc, coi nhË viŒc h†c tÆp chính trÎ. Tô Hoài chû trÜÖng’ không nên dán thuÓc cao khi chÜa có nh†t ÇÀu Çanh’. Tô Hoài chû trÜÖng Ç‹ cho nhà væn sáng tác theo khä næng, theo š muÓn cûa nhà væn chÙ không theo ÇÖn Ç¥t hàng cûa Çäng. Sau khi Çäng Çánh Nhân Væn, Giai PhÄm, Çäng thanh toán luôn Tô Hoài khi‰n ông phäi vi‰t bài t¿ ki‹m thäo: Nhìn Låi M¶t SÓ Sai LÀm Trong Bài Báo Và Trong Công Tác Çæng ª tåp chí Nhân Dân, ngày 12 tháng 3-1958.
H†a vô ÇÖn chí, Tô Hoài cÛng bÎ lao Çao vì MÜ©i Næm (1958). Có lë nh»ng tay công an væn nghŒ muÓn lÆp công cho nên h† ra sÙc Çánh phá kh¡p nÖi. Trong MÜ©i Næm , tác giä chÌ muÓn tô Çen xã h¶i cÛ, tØ th©i th¿c dân ljn cách mång tháng tám, nào là cänh m¶t làng thû công bÎ phá sän vì kinh t‰ khûng hoäng, nào nån ch‰t Çói næm 1945. H† liŠn chøp mÛ Tô Hoài, cho là Tô Hoài tiêu c¿c, Tô Hoài không nói ljn l¿c lÜ®ng quÀn chúng, ljn s¿ lãnh Çåo cûa Çäng, không tô vë nh»ng chi‰n sï c¶ng sän Çãu tranh anh hùng. . .H† phê bình Tô Hoài theo t¿ nhiên chû nghïa, không theo ÇÜ©ng lÓi hiŒn th¿c xã h¶i chû nghïa!(Tác Giä Væn Xuôi ViŒt Nam HiŒn ñåi, 105)
S¿ phê bình này quä thÆt hàm hÒ. Sau vø tÃn công Nhân Væn, Giai PhÄm, nh»ng kÈ say máu låi ùa lên làm thÎt Tô Hoài nhÜng b†n h† cÛng nhÆn ra cái cuÒng Çiên cûa h† nên không trØng phåt n¥ng Tô Hoài.
Có lë loåi hÒi kš cûa Tô Hoài là có giá trÎ vì Çó là s¿ th¿c cho dù là s¿ th¿c Çã ÇÜ®c tô chuÓt. NhiŠu ngÜ©i thích M¶t SÓ Kinh NghiŒm Vi‰t Væn Cûa Tôi (1959) và NgÜ©i Bån ñ†c ƒy (1964). Và gÀn Çây, ngÜ©i ta cÛng thích Cát Bøi Chân Ai cûa Tô Hoài.
Cát Bøi Chân Ai Çu®c vi‰t xong næm 1990, HÒng Lïnh ª Hoa Kÿ tái bän 1993, sách dày 338 trang.
Tác phÄm này là m¶t thiên hÒi kš vŠ cu¶c Ç©i tác giä. PhÀn l§n tác giä vi‰t vŠ mÓi liên hŒ gi»a tác giä và các nhà væn, nhà thÖ khác. Ông dành rÃt nhiŠu trang vi‰t vŠ NguyÍn Tuân, quanh Çi quÄn låi vÅn NguyÍn Tuân. M¶t phÀn vi‰t vŠ Nguyên HÒng, NguyÍn Bính, Xuân DiŒu, vŠ Tây B¡c, vŠ phÓ phÜ©ng Hà N¶i, và vŠ Nhân Væn, Giai PhÄm v. v..
Nhìn chung, Cát Bøi Chân Ai cho ta bi‰t nh»ng ÇiŠu nhÜ sau:
- Cu¶c Ç©i cûa ông và m¶t sÓ tác giä nhÜ NguyÍn Tuân, NguyÍn Bính , Nguyên HÒng, Xuân DiŒu v. v..
- Cäi cách ru¶ng ÇÃt
- ChÌnh huÃn
- Nhân Væn, Giai PhÄm
- Chính sách tàn ác và kh¡c nghiŒt cûa c¶ng sän và n‡i Çau ǧn và tûi nhøc cûa các væn nghŒ sï dܧi ách Ƕc tài c¶ng sän.
- Chính sách ‘Çi th¿c t‰’ cûa c¶ng sän.
1. Cu¶c Ç©i væn nghŒ cûa Tô Hoài:
Trong Cát Bøi Chân Ai, Tô Hoài cho bi‰t mÓi tÜÖng quan cûa ông v§i các nhà væn khác. Sau 1945, ông và NguyÍn Tuân có dÎp gÀn gÛi nhau hÖn. NhÜng thuª trÈ, ông và Xuân DiŒu rÃt thân mÆt. Vì Xuân DiŒu Çã xem Tô Hoài là ‘tình nhân’:
' ThÌnh thoäng Xuân DiŒu låi lên nhà tôi. VÅn n¡m tay cä bu°i, nhìn tha thi‰t. Xuân DiŒu yêu tôi' !( 191) Khi ª cÖ quan trong rØng, Tô Hoài ngû låi v§i Xuân DiŒu ª nhà tÆp th‹:
'Bàn tay ma ª Çâu r©n vào. Không phäi. Tay ngÜ©i, bàn tay ngÜ©i ÇÀy Ç¥n, Ãm Ãm. Hai bàn tay mŠm måi xoa lên m¥t, lên c° rÒi xuÓng dÀn xuÓng dÀn kh¡p mình trÀn truÒng trong mänh chæn då. . . ch£ng còn bi‰t ÇÜÖng ª Çâu, mình là ai, ta là ai, hai cÖ th‹ con ngÜ©i qu¢n quåi, quÃn quít, cánh tay, c¥p Çùi thØng chão trói låi, d¢ng ra. NiŠm hoan låc trong tôi v« ra, d» d¶i d¢ng ng»a cái xác thÎt kia' (192-193).
Trong Cát Bøi Chân Ai, Tô Hoài nh¡c nhª ljn viŒc ông bÎ tÓ vŠ hai bài vi‰t trên báo Væn, khi‰n cho ông phäi vi‰t bài ki‹m Çi‹m rÃt dài trên báo Nhân Dân ngày 12-3-1958. Bài t¿ ki‹m cûa ông có Çoån:
Sau Çåi h¶i væn nghŒ toàn quÓc lÀn thÙ hai, cÛng nhÜ tÃt thäy anh chÎ em væn nghŒ sï, tôi rÃt phÃn khªi trܧc s¿ thành lÆp nh»ng h¶i riêng cûa các ngành.
Tôi thÜ©ng nghï r¢ng: ‘ñÜ©ng lÓi thì Çã có ª thÜ cûa trung uÖng Çäng gºi Çåi h¶i, Çúng quá, rõ quá rÒi. Chúng ta chÌ còn lo liŒu sao cho nhau ra sÙc sáng tác mà thôi. m¶t m¥t khác, ÇÓi v§i nh»ng tÜ tܪng chính trÎ nguy hi‹m và nh»ng quan Çi‹m nghŒ thuÆt sai lÀm b¶c l¶ trên báo Nhân Væn và các tÆp Giai PhÄm cûa NguyÍn H»u ñang, Phan Khôi, TrÜÖng Tºu, tôi ng« ngàng trܧc phong trào quÀn chúng Çãu tranh phän ÇÓi nhÜ vØa qua, h† phäi sáng ra, nhÜ vÆy là Çã giäi quy‰t xong nh»ng lŒch låc Ãy.
Cái quan Çi‹m nhË nhàng ljn Ƕ vô lš nguy hi‹m nhÜ trên, Çã ÇÜa t§i cái nhìn, cùng v§i nh»ng lš luÆn sai lÀm trong chû trÜÖng công tác cûa tôi ª h¶i Nhà Væn ViŒt Nam và cø th‹ trong m¶t sÓ viŒc làm, m¶t sÓ bài vi‰t cûa tôi( 127).
Bài t¿ ki‹m cûa Tô Hoài Çã Çåt yêu cÀu vì m¶t là ông Çã tÓ cáo Nhân Væn, Phan Khôi, NguyÍn H»u ñang, TrÜÖng Tºu, và hai là ông Çã t¿ tÓ cáo ông. Do Çó, ông không bÎ tù t¶i hay treo bút nhÜ nh»ng ngÜ©i khác.
VŠ MÜ©i Næm, ông vi‰t:
Ti‹u thuy‰t ‘MÜ©i Næm’ cûa tôi m§i phát hành- m¶t trong nh»ng Ãn phÄm cuÓi cùng cûa nhà xuÃt bän H¶i Nhà Væn. LÆp tÙc các báo m° xÈ, phê bình. QuÃt månh và lš lë nhÃt, bài cûa NhÜ Phong trong ban biên ûy báo Nhân Dân in trên báo Ãy và bài cûa TrÀn ñ¶ trên tåp chí Væn NghŒ Quân ñ¶i. ñÃy cÛng là m¶t quy‹n sách còn sót låi thúc ÇÄy Çóng cºa nhanh nÓt nhà xuÃt bän H¶i Nhà Væn.
RÒi Võ HÒng CÜÖng thÜ©ng tr¿c h¶i Væn NghŒ t° chÙc m¶t trÆn phê bình miŒng. Nhà væn, nhà lš luÆn phê bình, nhiŠu cán b¶ giáo døc tfrÜ©ng Çäng và tÌnh ûy Hà ñông tham d¿. ‘MÜ©i Næm’, m¶t ti‹u thuy‰t b¶ ba cûa tôi vi‰t vŠ quanh cänh và con ngÜ©i quê tôi, vùng nghŠ thû công phía tây b¡c thành phÓ vào ba th©i nÓi nhau. Ti‹u thuy‰t ‘Quê Nhà’ nhà xuÃt bän Tác PhÄm M§i in khoäng thÆp k› bäy mÜÖi. S¿ viŒc cuÓi th‰ k› trܧc, sau hai lÀn quân Pháp hå thành Hà N¶i, các làng ngoåi thành vÅn n°i lên. Ti‹u thuy‰t Quê NgÜ©i, cuÓn truyŒn dài ÇÀu tay, xÜa kia tôi vi‰t cùng th©i v§i D‰ Mèn Phiêu LÜu Kš, Giæng ThŠ, O Chu¶t. Quê tôi, lïnh løa nghŠ t° bÎ løn båi, ngÜ©i làng bÕ Çi tha hÜÖng ‘ ÇÃt khách quê ngÜ©i’. Ti‹u thuy‰t MÜ©i Næm cÛng nhÜ m¶t ti‹u thuy‰t t¿ truyŒn, m¶t Çám thanh niên trong làng nhen nhóm phong trào chÓng ÇÓi ÇÜa t§i cách mång.
Ti‹u thuy‰t MÜ©i Næm ÇÜ®c vi‰t ra, nh»ng næm Çó tôi còn vŠ ª Nghïa ñô làng tôi. Væn Cao làm bìa, Væn Cao b¡t ÇÀu vë bìa Ç‹ sinh sÓng. Làn nܧc chäy Çìu hiu dܧi chân cÀu, th©i gian trôi ‘mu©i næm’ nܧc chäy qua cÀu.
Có hai ngÜ©i phát bi‹u gay g¡t nhÃt. NhÜ Phong:
- MÜ©i Næm có th‹ là m¶t ti‹u thuy‰t khá, vì Çãy cÛng là th¿c t‰ ª làng quê tác giä và chính tác giä. NhÜng nó Çã ÇÜ®c chuÄn bÎ và sáng tác trong th©i kÿ Nhân Væn lÛng Çoån nên bÎ änh hܪng xÃu. Các nhân vÆt cán b cách mång Çã bÎ bóp méo ljn thäm håi.. . .
LÜu Quyên dõng dåc quy‰t Çoán:
- Tôi là ngÜ©i chÎu trách nhiŒm vŠ Hà ñông th©i kÿ bí mÆt Ãy. Phong trào Hà ñông chúng tôi khi Çó không phäi nhÜ trong ti‹u thuy‰t MÜ©i Næm. Tôi phän ÇÓi ngÜ©i vi‰t Çã xuyên tåc s¿ thÆt lÎch sº (203-204)
Sau vø sÃm sét này, Tô Hoài bÕ Çi Lai châu Ç‹ quên lãng.
2. Cäi cách ru¶ng ÇÃt
Tô Hoài không dám nói nhiŠu, ông chÌ ph§t qua các vÃn ÇŠ nhÜ cäi cách ru¶ng ÇÃt, chÌnh ÇÓn t° chÙc, và cäi tåo tÜ sän. Ông không cho Çó là nh»ng hånh phúc mà là nh»ng ‘v‰t thÜÖng’ cho ÇÃt nܧc mà c¶ng sän dã man Çã gây nên Ç‹ cܧp tài sän và khûng bÓ nhân dân. Ông vi‰t:
ñÃt nܧc nhÜ cánh ÇÒng cày v«, chÜa bi‰t cÃy hái ra th‰ nào. V‰t thÜÖng cäi cách ru¶ng ÇÃt, chÌnh ÇÓn t° chÙc còn ÇÕ hÕn kh¡p ch® thì quê. Các thành phÓ Çã b¡t ÇÀu cäi tåo tÜ sän. NgÜ©i ta hô træm hoa Çua nª, træm nhà Çua ti‰ng. Ch£ng bi‰t cæn do cûa ngÜ©i ta ra sao, nghe khÄu hiŒu Çã sܧng tai.. . . Bên ta Çang cäi tåo tÜ sän. Cách làm dÎu dàng và l¥ng lë nhÜng cÛng xanh m¥t!(57)
3. ChÌnh huÃn
Tô Hoài Çã k‹ låi viŒc chÌnh huÃn trong ch‰ Ƕ c¶ng sän. ñây là chính sách tÄy não cûa c¶ng sän, phát xuÃt tØ Trung quÓc, là m¶t hình thÙc tra tÃn, hành hå tình thÀn con ngÜ©i khi‰n cho nhiŠu ngÜ©i uÃt hÆn mà t¿ tº. H† b¡t væn nghŒ sï, cán b¶, b¶ Ƕi, sinh viên, h†c sinh h†c tÆp chính trÎ, t¿ phê phán l‡i lÀm cûa mình và b§i móc l‡i lÀm cûa ngÜ©i khác. Nh»ng l‡i lÀm n¥ng nŠ nhÃt là t¶i lãng mån, hû hóa, mÃt lÆp trÜ©ng giai cÃp, mÃt quan Çi‹m chính trÎ.
Mùa Çông 1951,ª rØng Chiêm Hóa, tôi Çã träi ki‹m Çi‹m, hai tháng tôi d¿ l§p ÇÀu tiên chÌnh huÃn g†i là ‘theo phÜÖng pháp Hoa Nam’. L§p Ãy nòng cÓt các ngành các gi§i và ÇÎa phÜÖng. TrÀn DÀn, Tº Phác phø trách chÌnh huÃn ª Hoa Nam, m¥c áo bông xanh Sï Lâm. L§p b‰ måc, m¶t sÓ vÜ®t TrÜ©ng SÖn vào làm chÌnh huÃn và cäi cách ru¶ng ÇÃt khu V. ñoàn vào sâu hÖn, m§i t§i miŠn Çông Nam B¶ thì hiŒp ÇÎnh Genève 1954 ÇÜ®c kš k‰t.
Nºa Çêm trª dÆy, gi»a rØng ÇÓt hàng træm bó ÇuÓc, lÃp loáng bæng khÄu hiŒu väi Çen ch» tr¡ng. . . . B¶c l¶ khuy‰t Çi‹m. . . . Thܧc Ço lòng trung thành. . .Tr©i rét c¡t ru¶t. RØng Çêm tÓi nhÜ m¿c. Con ngÜ©i bÄn thÌu l‡i lÀm ÇÀy rÅy. . . ChÜa. . . ChÜa Çû thành khÄn, làm låi.. . . låi làm låi.. . M‡i lÀn làm låi, càng ngày càng áy náy âu lo. Cái ch© Ç®i ÇÜ®c t° thông qua cÙ xa v©i v®i. ChÌ có b¶c l ti hû hóa thì dÍ nhÃt, không có cÛng ÇÃm ng¿c bäo có. Ÿ báo CÙu QuÓc låi có m¶t cÆu nuÓt lÜ«i dao cåo. Ch‰t rÒi còn bÎ khai trØ vì t¶i trÓn Çãu tranh. NguyÍn TÜ Nghiêm tham gia m¶t Ç®t ¶i nhÜ ÇÖn vÎ ra trÆn. Hai ngày b¡t rÍ, m¶t ngày xâu chu‡i. ñi viên giäm tô h†a sï NguyÍn TÜ Nghiêm loay hoay cä tuÀn không b¡t ÇÜ®c rÍ, không xâu chu‡i ÇÜ®c bÀn cÓ nông nào. NguyÍn TÜ Nghiêm hoäng quá phát dåi, Çi không nh§ ÇÜ©ng vŠ xóm. SuÓt ngày vÖ vÄn ngoài ÇÒng, b¡t cào cào,châu chÃu æn (114).
4. Nhân Væn, Giai PhÄm
Tô Hoài tÕ thái Ƕ thù ghét nhóm này( Có lë là ông thù ghét h† thÆt s¿ chÙ không phäi vì chi‰n lÜ®c, chi‰n thuÆt. N‰u không ghét h† mà s® nhà nܧc, ông không cÀn phäi nói ljn h†!). Trong bän t¿ ki‹m cÛng nhÜ trong Cát Bøi Chân Ai, Tô Hoài tÕ vÈ thù ghét NguyÍn H»u ñang, Phan Khôi và Minh ñÙc (59). Ông cho r¢ng nhóm Nhân Væn, Giai PhÄm ‘ hoåt Ƕng gây s¿’ và có ‘š ÇÒ chính trÎ’ . . .Báo Nhân Væn hô hào dân chû và in m¶t sÓ sáng tác phong cách m§i. . . (67). DÅu sao, ông cÛng Çã vi‰t lên ÇÜ®c tÃm thäm kÎch cûa th©i lúc bÃy gi©, nhÃt là giai Çoån cuÓi cûa Nhân Væn, Giai PhÄm.
Báo Nhân Væn ra ljn sÓ 6 bÎ tÎch thu tåi nhà in. Nhà xuÃt bän Minh ñÙc Çóng cºa. HÒi Ãy sÓ báo in còn ít, chÌ tính sÓ nghìn. NhÜng m¶t sÓ báo bÎ cÃm thì Àm ï ngay.Bây gi© cuÓi næm 1956 . .Các Çoàn th‹ t° chÙc ki‹m Çi‹m và k› luÆt nh»ng cán b¶ tham gia vi‰t và hoåt Ƕng cho báo Nhân Væn và tÆp san Giai PhÄm cûa nhà xuÃt bän Minh ñÙc.
Ÿ h¶i Nhåc, ñ¥ng ñình HÜng bÎ khai trØ Çäng. Væn Cao k› luÆt cänh cáo, chÌ ÇÜ®c ª h¶i Nhåc không ª h¶i Væn và h¶i Vë. H†a sï NguyÍn TÜ Nghiêm và DÜÖng Bích Liên tuy chÌ làm cái bìa sách cho nhà xuÃt bän n† nhÜng ch¡c là nh»ng không khí sát phåt ª các bu°i h†p khi‰n các anh ngåi,Çã xin ra Çäng. Trên có nghÎ quy‰t không khai trØ mà ÇÒng š cho ÇÜ®c thôi. Có lë ljn bây gi© NguyÍn TÜ Nghiêm vÅn gi» cuÓn s° tay ghi ljn nghìn thÙ bao nhiêu nh»ng cu¶c h†p mà NguyÍn TÜ Nghiêm không phäi Çi. Anh có vÈ hÙng thú vŠ nh»ng con sÓ tÌ mÄn Ãy. Khác NguyÍn Sáng. NguyÍn Sáng vë kš h†a trên báo Nhân Væn m¶t ÇÀu ngÜ©i ª c° có v‰t khía nhÜ cái lá. NgÜ©i ta bäo chân dung TrÀn DÀn và cái sËo còn låi khi anh ÇÎnh t¿ vÅn. NguyÍn Sáng không Çu®c bình huân chÜÖng kháng chi‰n. . . .Hoàng CÀm bÎ ra khÕi ban chÃp hành, phäi thôi viŒc nhà xuÃt bän, chuy‹n công tác vŠ Sª væn hóa Hà n¶i. Phùng Quán nh© có chú Phùng Thi, Chánh væn phòng b¶ væn hóa ÇÜa lên làm ª vø væn hóa quÀn chúng. NhÜng ai cÛng bÙc bÓi không yên. Ông thì mª quán rÜ®u, th¢ng thì câu cá HÒ Tây, hiu h¡t, dông dài cho t§i næm vŠ hÜu.. . . Phan Khôi . . .ngÒi yên. MÃy næm sau lâm bŒnh mÃt. ñám ma bác Phan Khôi Çi sau xe tang, chÌ có bác gái và các con v§i m¶t mình chÎ H¢ng PhÜÖng, cháu g†i b¢ng cÆu. TrÀn DÀn và Lê ñåt ra khÕi cÖ quan, chuyên dÎch sách cho nhà Væn H†c. Nhà xuÃt bän S¿ ThÆt thuê TrÀn ñÙc Thäo dÎch sách lš luÆn kinh Çi‹n. Ban chÃp hành h¶i Nhà væn quy‰t ÇÎnh truÃt ba næm h¶i tÎch, Çæng trên báo Væn H†c, cÖ quan cûa H¶i. NhÜng Ç¢ng Ǥng ba mÜÖi næm không h¶i væn h†c nghŒ thuÆt nào lôi ra xem xét låi. S® sŒt, âm thÀm, phÃp phÕng, không phäi chÌ ª tâm trång mÃy ông’ Nhân Væn cä nܧc’ mà lan tràn ljn nh»ng ‘ Nhân Væn phÓ’ , ‘ Nhân Væn xóm’ ch£ng bÎ k› luÆt gì, nhiŠu ngÜ©i không phäi vì bài væn câu thÖ, mà bªi vì l©i nói bông lông, bÓc tr©i ch£ng hån, bÎ quy chøp liŠn. H»u Loan không ª nhóm nào cÛng bÕ làm báo,vŠ Thanh Hóa. Nghe nói là Çi xe thÒ và vào núi ÇÆp Çá bán. Có nh»ng cây bút trÈ nhÜ VÛ Bão, nhÜ Lê BÀu, mÃy truyŒn in sách, Çæng Væn NghŒ Quân ñi tÜÖi mát l¡m cÛng ch¶t luôn (79-81).
Tô Hoài vi‰t sai vŠ H»u Loan. H»u Loan có vi‰t trong Nhân Væn và Giai PhÄm . Tô Hoài cÛng nh¡c låi chuyŒn ông làm ª H¶i Nhà Væn:
Næm 1957, Çåi h¶i thành lÆp các h¶i chuyên ngành. H¶i Nhà Væn ViŒt Nam ra Ç©i. LiŠn ngày 1958, h¶i t° chÙc các cÖ quan: báo, nhà xuÃt bän ( có TrÀn DÀn, Hoàng CÀm ‘ Nhân Væn’ vÅn làm viŒc ª Çãy, ban nghiên cÙu sáng tác, ban liên låc væn h†c nܧc ngoài ( có Lê ñåt), câu låc b¶ (Ç‹ NguyÍn Tuân nói vŠ ñôtôépxky và cÜ©i c®t mÌa mai, cÙ Çà này thành câu låc b¶ Pêtôphi lúc nào không bi‰t!), quÏ sáng tác ( ch£ng khác gì Çánh trÓng g†i ngÜ©i ljn lïnh tiŠn, chia tiŠn). . . Trên cho là cÖ quan H¶i Nhà Væn Çã bÎ xÕ mÛi. Ÿ nhà xuÃt bän Væn NghŒ rÒi chuy‹n thành nhà xuÃt bän H¶i Nhà Væn, tôi cùng làm viŒc v§i Hoàng CÀm, TrÀn DÀn. . . NhiŠu ngÜ©i tÓ cáo:’ H† làm cä, Tô Hoài chÌ ph°ng mÛi lên kš duyŒt’. In Kim TiŠn ( Vi HuyŠn ñ¡c), TruyŒn Ng¡n Và Ti‹u LuÆn (Thåch Lam), Nܧc Gi‰ng ThÖi ( NguyÍn Bính), Vang Bóng M¶t Th©i( NguyÍn Tuân), tÆp thÖ Hoàng CÀm, TrÀn DÀn, Lê ñåt, Væn Cao.. . và Çã quäng cáo in rÃt nhiŠu tác phÄm phÙc tåp khác. Nh»ng tác giä Ãy, ngÜ©i thì có vÃn ÇŠ, ngÜ©i thì Çã di cÜ vào Nam và hÀu h‰t vi‰t trܧc cách mång, tåi sao ÇŠ cao nh»ng cái Çã x‰p xó nhiŠu ljn th‰? TÃt nhiên là không bình thÜ©ng, cái gì Çây? (87)
Tô Hoài cÛng nói ljn báo Væn do Nguyên HÒng phø trách.
Báo Væn mà Nguyên HÒng phø trách Çã in trong nhiŠu sÓ nh»ng sáng tác còn khó chÎu hÖn n»a. KÎch ng¡n g®i låi v‰t thÜÖng cäi cách rung ÇÃt, nh»ng vª kÎch cûa Hoàng Tích Linh ( CÖm M§i), NguyÍn Kh¡c D¿c( Chuy‰n Tàu Xuôi), Chu Ng†c ( Ngày Gi‡ ñÀu), Ca Khúc BuÒn Bã và Nh»ng Phát Bi‹u LŒch Låc VŠ Âm Nhåc Cûa Tº Phác cûa NguyÍn Væn Tš, RÒi thÖ Phùng Quán ( L©i MË D¥n), truyŒn kš Phan Khôi ( Ông Næm Chut) và truyŒn ñÓng Máy cûa m¶t cây bút trÈ gºI ljn. TruyŒn tä m¶t nhà máy thi‰t bÎ nܧc ngoài rÒi Ç‹ chÃt ÇÓng ngoài tr©i ljn hÕng nát. NgÜ©i ta nghi là cûa m¶t kÏ sÜ nào nói xÃu công nghiŒp ta và tình h»u nghÎ quÓc t‰. Chúng tôi lo l¡ng th¿c s¿. . .Næm trܧc Çã nghiên cÙu cä tháng rÒi, bây gi© báo Væn låi sa vào h»u khuynh tŒ håi nhÜ th‰. Báo Væn phäi ngÜng xuÃt bän. . . tuÀn báo m§i cûa h¶i Ç°i tên m§i là tuÀn báo Væn H†c (87-89).
Sau khi dËp xong Nhân Væn, Giai PhÄm, h¶i Nhà Væn chÃn chÌnh n¶i b¶, t© Væn thành Væn H†c. H† triŒu tÆp m¶t cu¶c h†p ª Ãp Thái Hà Ç‹ thäo luÆn và ki‹m Çi‹m. Tô Hoài vi‰t vŠ cuc h†p dài ngày này:
Cái t° 18 có NguyÍn Tuân, NguyÍn Huy Tܪng, Nguyên HÒng, NguyÍn Công Hoan, Kim Lân và m¶t sÓ nhà væn v»ng vàng làm nòng cÓt. Trêu ngÜÖi ai , Kim Lân låi m§i in truyŒn ng¡n ‘ Con Chó Xãu Xí’. Con chó cÛng nhÜ con h° hiŠn lành, không ai tin con chó chÌ là con chó, låi xÃu xí n»a. NguyÍn Huy Tܪng Çã vŠ làm nhà xuÃt bän Kim ñÒng. ñÜÖng bi tÖi b©i ki‹m tra nhau mÃy cái bän thäo, trong có truyŒn ÇÒng thoåi ‘ao cá ao rùa’ chi chi cûa Sao Mai, låi con cá, con rùa, con ba ba, l¡m con quá. CÛng ch£ng ai bäo ngÜ©i vào t° 18 Ãy là m¶t b†n hay khác cánh, nhÜng cÙ ang áng bi‰t th‰ (89).
5. N‡i uÃt hÆn cûa các væn nghŒ sï
M¶t trong nh»ng Çi‹m Ç¥c s¡c cûa Cát Bøi Chân Ai là Tô Hoài Çã cho ta bi‰t tâm trång và n‡i nhøc nh¢n cûa các væn nghŒ sï dܧi ch‰ Ç cng sän. N‡i Çau kh° l§n lao cûa h† là bÎ c¶ng sän kìm kËp trong sáng tác. Cu¶c sát phåt Nhân Væn, Giai PhÄm và các cu¶c chÌnh huÃn, phê bình, ki‹m thäo là nh»ng trÆn Çòn mà các væn nghŒ sï phäi gánh chÎu. Có lë trong các væn nghŒ sï, Nguyên HÒng là ngÜ©i bÎ Çao búa n¥ng nhÃt vŠ t¶i Ç‹ cho Phan Khôi, Lê ñåt vi‰t chÓng Çäng trên báo Væn, và chính ông vi‰t truyŒn ng¡n vŠ con h° TruyŒn Cái Xóm Tha HÜÖng ª Cºa RØng SuÓi Cát Và Con Hùm BÒ Côi mà bÎ ki‹m thäo:
M¶t vòng ngÜ©i h†p t°, nhÜ các cø trong làng ngày trܧc ngÒi x‰p b¢ng quanh chi‰u t° tôm. Nh»ng l©i dao búa truy dÒn. Th‰ là Nguyên HÒng khùng lên, khóc òa lên (88).
Sau vø ki‹m thäo, Nguyên HÒng tÙc b¿c Çã lui vŠ Nhã Nam:
Nguyên HÒng nói:
Ông Ç. chÖi v§i chúng mày n»a. Ông vŠ Nhã Nam (134).
Sau Çó ông xin vŠ hÜu non. Nguyên HÒng cÜ©i mà nói:
Ông ÇÓ ÇÙa nào b¡t chܧc ÇÜ®c ông Çãy! (136)
Tô Hoài k‹ låi n‡i Çau kh° cûa Ngô TÃt TÓ:
Kim Lân k‹ dåo ª trên Ch® Chu, trong m¶t cuc ki‹m Çi‹m, Ngô TÃt TÓ bÎ m¶t anh xÜa nay bác Ngô vÅn coi không ra gì, bây gi© phäi nghe anh Ãy sát phåt lên l§p. Ngô TÃt TÓ quŒt nܧc mÛi vào gÓc cây, søt sùì nói v§i Kim Lân: ‘ Làm ngÜ©i khó l¡m bác å’(112).
Tô Hoài Çã nói ljn nh»ng vø hành hå trong chÌnh huÃn khi‰n cho ngÜ©i ta uÃt hÆn nuÓt lÜ«i dao cåo hay th¡t c° mà ch‰t (113- 114).
DÅu sao, trong Çám væn nghŒ sï cÛng có ngÜ©i kiên cÜ©ng bÃt khuÃt. CÙng cÕi nhÃt là Phan Khôi:
Chúng tôi ª Lao Cai vŠ, cái l§p 21 ngày vØa h‰t, còn bu°i sau cùng. Ti‰ng v‡ tay b‰ måc rÀm rÀm ngÆp cái sân thÜ®ng. Cái ông lão Phan Khôi ngang nhÜ cua Üa chÖi tri, chÓng ba toong bܧc ra vŠ trܧc, còn quay låi nói mt câu th‰ nào Çãy, dÜ©ng nhÜ là ngÜ©i Çi ch® Hôm sung sܧng mua ÇÜ®c quä chanh cÓm, hÕi ra m§i bi‰t chanh xuÃt khÄu bÎ ‰. ª ngÜ©i trÒng chanh phäi ÇÜc æn chanh ngon nhÃt ch§! Ch£ng bi‰t nói bóng gió hay nói v‡ m¥t. NhÜng mà cách nghênh ngáo táo t®n cûa ông thì không lå! (79)
Tú M« là ngÜ©i có nhân có nghïa. Ông chÌ trích ÇÜ©ng lÓi chính trÎ cûa NguyÍn TÜ©ng Tam nhÜng ông låi nói ông không quên ân nghïa cûa NhÃt Linh Çã khuy‰n khích Tú M« trên ÇÜ©ng væn nghŒ (114).
Tuy cÄn thÆn ngôn ng», m¶t Çôi khi Tô Hoài cÛng tÕ thái Ç chÓng ÇÓi Çäng soi mói, bÈ hành bÈ tÕi và hành hå væn nghŒ sï. Ông Çem nh»ng câu chuyŒn vŠ NguyÍn Tuân Ç‹ minh chÙng nh»ng hành Çng kh¡c nghiŒt cûa các công an væn hóa, mà chính nh»ng tay lš luÆn Mác Lê này cÛng Çã t¿ hào xÜng mình là ‘gác c°ng, gi» nhà’ cho Çäng:
Nh»ng ngÜ©i có trách nhiŒm Çã bÕ công soi mói, bÈ hành bÈ tÕi chÌ là gò š và trÎch thÜ®ng. Th©i chÓng MÏ, NguyÍn Tuân vi‰t m¶t loåt kš vŠ Hà N¶i, Ta ñánh MÏ GiÕi th‰ mà vÅn có nh»ng bút chì ÇÕ gåch tØng quãng lÜu š cÃp trên. Tôi g¥p khó khæn bªi nh»ng chuyŒn Ãy vì h¶i Væn NghŒ Hà n¶i Çã in lÀn thÙ nhÃt tÆp bút kš này. Công viŒc g†i là theo dõi Ãy thÆt s¿ là ÇÓ kÎ, bŠ trên . . . (74)
Tô Hoài Çã trình bày nhiŠu bÙc thÜ do NguyÍn Tuân vi‰t cho ông. M¶t bÙc thÜ NguyÍn Tuân k‹ viŒc Çi Hoàng Liên SÖn có Çoån tái bút:
Khi lên cao, mình có bÎ ong ÇÓt, m¥c dÀu ch£ng có trêu phá gì nó’.
Tô Hoài bình luÆn câu trên nhÜ sau:
Cái câu ‘tái bút’ ong ÇÓt vu vÖ chÌ gºi cho tôi này, ch¡c là n‰u Çæng báo, in sách cÛng låi Çiêu ÇÙng Çãy. Ôi là tr©i, cái tính ngÜ©i ta th‰, chÙ xÕ xiên gì Çâu(75).
Và ông vi‰t th£ng vŠ m¶t th©i cuÒng Çiên cûa vÃn ÇŠ này:
Có m¶t th©i nh»ng ngÜ©i ‘theo dõi’ báo chí, xuÃt bän và phát hành sách báo ÇÜ®c phong làm ‘lính gác’. Lính gác thì phäi có viŒc, ch£ng lë æn lÜÖng chÌ ÇÙng không. NhÜng th¿c ra ngÜ©i ta chÌ Ç†c a dua rÒi Çánh Çòn h¶i ch®. CÃp trên hô ngÜ©i Ãy, bài Ãy có vÃn ÇŠ. T¿ nhiên ngÜ©i ta cäm thÃy ngÜ©i Ãy, bài Ãy có vÃn ÇŠ thÆt và ngÜ©i ta dò tìm tØng câu tØng ch». Th‰ nào ch£ng ra vÃn ÇŠ! B‡ng khó chÎu cä cách diÍn Çåt khác nhau cûa m‡i ngòi bút, th‰ là làm sao? Không bi‰t vì t° chÙc Ç¥t ra công tác theo dõi làm cho th¢ng theo dõi thÃy ÇÜ®c làm thÀy th¢ng bÎ ( ÇÜ®c) theo dõi. Hay là tåi vì thuª nhÕ còn Çi h†c, nhà trÜ©ng chÜa bao gi© giäng cho h†c sinh hi‹u bi‰t bài væn có š nghïa, trܧc nhÃt bài væn phäi hay Çã. Vi‰t væn thÃt båi nhÜng vÅn làm nghŠ theo dõi ÇÜ®c, ÇÒng nghïa tÜÖng t¿ th‰. Cái nhìn s¿ sáng tåo cÙ xuÓng dÀn theo th©i ti‰t. NguyÍn Tuân cáu kÌnh nhË nhàng:’ Có khi mà bäo nh»ng nh»ng th¢ng theo dõi chúng nó vi‰t Çi, Ç‹ ông v§i mày Çi chÖi, th‰ có phäi biên ch‰ b§t ÇÜ®c ngÜ©i không!’(76)
Cæm thù b†n bÒi bút, NguyÍn Tuân Çã nói: bao gi© ch‰t thì nh§ chôn theo tôi m¶t th¢ng phê bình ( 186).
Bªi vì hành Çng cuÒng Çiên cûa nh»ng tay gi» nhà, gác c°ng Çäng mà nhà væn phäi uÓn mình, bÈ cong ngòi bút. M¶t sÓ nhà væn phäi dùng thû thuÆt tránh né.Tô Hoài k‹ r¢ng trong chuy‰n Çi B¡c Mê, NguyÍn Tuân Çã sáng tác hai câu thÖ:
Non xanh gõ hòn dá xanh,
Nºa næm nghe ti‰ng mõ canh C°ng Gi©i.
Trª vŠ Tô Hoài vi‰t kÎch Çæng Væn NghŒ, Ç¥t hai câu Ãy lên ÇÀu bài mà ghi r¢ng ca dao cÛ vùng B¡c Mê! Chính NguyÍn Tuân cÛng d¥n Tô Hoài ‘có dùng thì phäi ÇŠ th‰’(100-101).
6. TÓ cáo c¶ng sän
Ÿ m¶t vài nÖi, Tô Hoài Çã våch ra nh»ng thû Çoån gian trá cûa c¶ng sän. Dܧi ch‰ Ƕ c¶ng sän, bÃt cÙ món l®i nào, Çäng ÇŠu thâu tóm. ñäng lÃy tiŠn quÓc cÙu løt, tiŠn UNESCO vŠ tu b° ÇŠn dài cung diŒn, tiŠn quÓc t‰ viŒn tr® bÕ túi. Tô Hoài Çã nói rõ viŒc Çäng lÃy 200 chi‰c xe Çåp mà nܧc ñÙc trao t¥ng các nhà væn ViŒt Nam:
H¶i Nhà Væn ñÙc t¥ng h¶i Nhà Væn ViŒt Nam 200 træm cái xe Çåp Diamant m§i cÙng. Nguyên HÒng ÇÜ®c ÇiŒn khÄn m©i xuÓng công tác. ƒy là viŒc d¡t chi‰c xe Çåp ÇÙng vÜ©n hoa cºa Nam trò chuyŒn v§i ngÜ©i qua ÇÜ©ng. Vô tuy‰n truyŠn hình ViŒt và cûa ñÙc quay gi§i thiŒu nhà væn v§i t¥ng phÄm h»u nghÎ quÓc t‰. Nguyên HÒng hÒi Ãy m§i Ç‹ râu, rõ ra phong thái h†c giä phÜÖng Çông. Tuyên truyŠn th‰ thôi, cä h¶i chäng ÇÜ®c s© vào vành bánh chi‰c xe nào. Hai træm cái xe vào cái kho b¶ ThÜÖng NghiŒp. NguyÍn Tuân hÕi m¡ng Nguyên HÒng:’ ñóng trò xong d¡t mË nó cái xe Çåp Ãy Çi, ÇÙa nào làm gì ÇÜ®c!’ Nguyên HÒng cÜ©i vuÓt râu, Çánh trÓng lãng: T§ lên phim còn nhiŠu phút hÖn cái th¢ng phi‰c me vô danh trong phim Cánh ñÒng Ma Çãy’ (136).
Ông cÛng tÓ cáo Çäng trÃn l¶t m¶t nghìn bäng Anh cûa ông do bà thû tܧng J. Gandhi t¥ng ông khi ông qua thæm ƒn ñ¶:
Túi r‡ng, tôi Çi qua các nhà hàng không chào låi, nhÜ còn ÇÜÖng mãi nghï. Chä là tôi vØa nhÆn giäi thܪng h¶i Nhà Væn Á Phi 1969, bà thû tܧng J. Gandhi trao t¥ng kèm mt ngàn bäng Anh. NhÜng trong va li tôi chÌ có t© chÙng nhÆn và chi‰c huy hiŒu b¢ng ÇÒng. MÃy chai votca các bån nhà væn cho, ai ljn mØng thì nâng cÓc vui sܧng.là hôm sÙ quán nhÆn tiŠn tôi ÇÜa, có làm m¶t tiŒc nem rán m©i khách (312).
Tô Hoài cÛng nêu lên vø tham nhÛng ª m¶t huyŒn. M¶t bí thÜ huyŒn làm s° giä Ç‹ lÃy tiŠn nhà nܧc tiêu xài.
LÀn lÜ®t các chû tÎch, bí thÜ xã mua xe, xây nhà.Các ngành các gi§i lên huyŒn h†p ÇÜ®c ÇÜ®c cÃp tiŠn æn nhÜ æn c‡ gÃp mÜ©i tiêu chuÄn.
Chánh væn phòng gi» s° sách, chì tiêu væng mång, chû tÎch, bí thÜ huyŒn, cä ban thÜ©ng vø n»a, không hŠ bi‰t m¥t ÇÒng lÜÖng. Kho båc nhà nܧc nhÜ chïnh gåo nhà mình. Ai cÛng ngÆp miŒng nên cán b¶ cä huyŒn và tÃt cä các xã ngÆm tæm. ñ‰n khi phäi b¡t Çi tù vãn cä huyŒn ûy, ûy ban, hàng huyŒn m§i ngã ngºa ra. Trong ban chÃp hành chÌ có m¶t Çäng viên n» không dính bªi s® (289).
Tô Hoài có khi tÕ ra ngây thÖ trong th¿c t‰ và trong chính trÎ. Ông không hi‹u mánh khóe tuyên truyŠn bÎp b®m cûa c¶ng sän. Cho ljn næm 2000, ViŒt Nam vÅn chÜa ch‰ tåo ÇÜ®c ô tô, chÌ sºa ÇÜ®c ô tô, hay tân trang ô tô cÛ, th‰ mà næm 1955, báo Çæng quân gi§i cng sän l¡p ráp ÇÜ®c xe ô tô, và h† cho vài chi‰c xe ‘m§i’ chåy ngoài ÇÜ©ng, ông tܪng thÆt hoan hô Àm ï :
Sau Çít xe, cái bi‹n kÈ ba sÓ không rÒi ljn con sÓ m¶t ÇÕ chóe. Nhà máy quân Ƕi ta Çã sän xuÃt ÇÜ®c cä xe ô tô! Nh»ng ÇÒ ÇÒng nát Çem ch»a chåy låi mà có th‹ v‡ tay lên ÇÜ®c chû nghïa xã h¶i thì ljn ngÖ ngÄn cä ngÜ©i th¿c!(72)
Væn cûa Tô Hoài trong Cát Bøi Chân Ai rÃt Çiêu luyŒn và bóng bäy. Ông cÛng có cái gi†ng ngang tàng cûa NguyÍn Tuân. Tuy nhiên Çôi ch‡ ông quá hå mình, ông thÜ©ng dùng ch» ‘Trên’ m¶t cách kính cÄn khi nói vŠ m¶t ai Çó :
Trên có sáng ki‰n lÃy giÃy và tiŠn. . . (64)
Trên có nghÎ quy‰t không khai trØ . . . (80)
Trên cho là cÖ quan H¶i Nhà væn.. . .(87)
Nói chung, tác phÄm cûa Tô Hoài trܧc 1945 rÃt có giá trÎ. Sau 1945, các tác phÄm ông vi‰t ÇŠu là væn tuyên truyŠn, chuyên ÇŠ cao nh»ng viŒc không thÆt và ngÜ©i không thÆt. ChÌ trØ m¶t sÓ hÒi kš, bút kš là mang ít nhiŠu s¿ thÆt, trong Çó có Cát Bøi Chân Ai là khá nhÃt.
VŨ ĐÌNH TRÁC * HUYỀN THOẠI
Huyền Thoại căn bản cho Văn Hoá Dân Tộc
LM Hán Chương
LM Hán Chương
Vũ Đình Trác
Nói đến Huyền thoại là nói đến căn nguyên phát xuất của một thời không với những ẩn ý của nó. Huyền thoại là những truyện liên quan đến đời sống con người ở đây cũng như ở bất cứ đâu đâu. Vì thế nó liên quan cả tới các vấn đề lịch sử, khảo cổ, nhân chủng học, vũ trụ thiên nhiên, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo, xã hội, giáo dục; nói tổng quát là liên quan tới văn hoá của con người.
Riêng với Việt Nam, Huyền Thoại đóng vai trò quan trọng trong công cuộc dựng Nước và là căn bản cho Văn Hoá Dân Tộc.
Hôm nay chúng tôi hân hạnh nói truyện với qúy Vị Về Huyền Thoại Việt Nam, một vấn đề thực bao la cao rộng, không biết có đáp ứng được với sự mong đợi của quý Vị hay không. Tuy nhiên đây là một vấn đề khẩn thiết của người Việt trong giai đọan này. í nhất quý Vị có thể coi đây như một khởi thảo, để các học giả tiếp tục khai thông cho bước đường còn xa dài.
Chúng tôi sẽ trình bày vấn đề qua 3 điểm chính: 1 là nêu lên đôi ý niệm về Huyền Thoại; 2 là giới thiệu một số huyền thoại Việt Nam; 3 là nhận xét vai trò của huyền thoại trong việc dựng Nước và làm căn bản cho văn hoá dân tộc.
I. ý nghĩa huyền thoại
Danh từ Âu Mỹ dùng chữ Myth để chỉ các loại truyện mang nhiều ẩn ý. Theo nguyên ngữ Hy Lạp, mythos có nghĩa là Lơi nói. Theo nguyên ngữ ...n Âu là meudh hay mudh, có nghĩa là suy niệm, tưởng nghĩ, nhìn ngắm, nói lên nội dung quan trọng của lời kể. Nhưng có người lại ngụy biện rằng: mythos và logos có thể đối nghịch nhau. Aristotes cho rằng: myth là truyện biến ngô hay tưởng tượng, hoang đường. Theo quan niệm Do thái, thì myth chỉ là những truyện bịa đặt, phóng đại. Nhưng Mythology được phần đông các học giả gọi là Thần thoại (truyện về tôn giáo, thần linh).Vì thế tôi trở về với danh từ Việt Nam Huyền Thoại với ý nghĩa là những truyện ẩn ý, để nói lên một chủ đích.
Có những huyền thoại nói về thần linh, thì gọi là Thần thoại kể cả Tiên Thánh thoại (fairies); lại có những truyện nói về con người, thì gọi là Nhân thoại; còn những truyện ngụ tình gửi ý, thì gọi là biến ngôn; những truyện khôi hài, dạy đời gọi là cổ tích. Vì thế trong phạm vi bài này chúng tôi chủ ý nói về Thần thoại và Nhân thoại, có khi lẫn lộn cả hai, nói chung một tiếng là Huyền thoại.
II. một số huyền thoại tiêu biểu
Theo tài liệu sử trong sách Lĩnh Nam tríchầ quái có 15 truyện: Hồng Bàng, Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh, Trầu Cau, Đầm Nhất Dạ, Phù Đổng Thiên Vương, Bánh Dầy Bánh Chưng, Dưa Hấu, Bạch Trĩ, Lý Ông Trọng, Việt tỉnh, Kim Quy, Man Nương, Núi Tản Viên.
*à Trích hay Chích ? Từ trước tới nay đã có nhiều học giả bàn về hai chữ này với nhiều lý do có vẻ chủ quan. Thiết tưởng hai chữ này thuộc phạm vi Ngữ Học, là danh từ Việt Nho. Chữ Nho Tr dịch ra tiếng Việt là Ch, như Truyện ra chuyện; Trà ra chè, Trào ra Chầu và ở đây Trích ra Chích.
Trong Viêt điện u linh của Lý Tế Xuyên gồm 35 truyện: Sĩ Nhiếp, Phùng Hưng, Triệu Quang Phục, Ông Hậu Tắc, Hai Bà Trưng, Nàng Mị Ê, Lý Hoảng, Lý Ông Trọng, Lý Thường Kiệt, Thần Tô Lịch, Phạm Cự Lượng, Lê Phụng Hiểu, Mục Thận, Trương Hống Trương Hát, Lý Phục Man, Lý Đô Úy, Cao Lỗ, Hậu Thổ Phu nhân, Thần Đông Cổ, Thần Long Độ, thần Khai Nguyên, Thần Phù Đổng, Sơn Tinh Thủy Tinh, Thần Châu Đằng, thần Bạch Hạc, Thần Hải Thanh, Nam Hải Long Quân, Sóc Thiên Vương, Thần Núi Tam Đảo, Đền Càn Hải, Đoàn Thượng, Đền Thanh Cẩm, Trần Hưng Đạo, Sư Từ Đạo Hạnh, Vợ chồng Triệu xương.
Nhưng trong cả hai tập cùng ghi lại một truyện: Lý Ông Trọng, Phù Đổng Thiên Vương, Lạc Long Quân, Thần Núi Tam Đảo. Như thế tất cả có 46 truyện.
Tất cả những Huyền thoại đó đều quy về một mục tiêu là để xây dựng một nước Đại Việt hay Việt Nam - theo đúng ý nghĩa của danh từ - là một nước nổi vượt lên trong miền Đông Nam Á Châu. Mục tiêu khác là để nhìn nhận những đạo lý và tư tưởng làm thành nền tảng Văn Hoá cho một dân tộc Văn hoá chi bang.
Ở đây chúng tôi chỉ nêu lên một ít truyện tiêu biẻu nhất, như Truyện Hồng Bàng, truyện Trầu Cau, truyện Phù Đổng Thiên Vương, truyện bánh Dầy bánh Chưng, truyện Việt Tỉnh Cương, mà chúng tôi mệnh là NGũ KINH việt đạo.
truyện hồng bàng
Cháu ba đời Viêm Đế tức Thần Nông là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi. Đế Minh đi tuần phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh, gặp nàng Vụ Tiên, kế duyên vợ chồng, sinh ra Lộc Tục. Đế Minh phong Đế Nghi làm Vua phương Bắc, tôn Lộc Tục làm Vua phương Nam. Lộc Tục tự xưng kinh dương vương, đặt quốc hiệu là xích quỷ.
Kinh Dương Vương xuống Thủy Phủ cưới con gái Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm,tức Lạc Long Quân. Lạc Long Quân thay Cha trị Nước, dạy dân ăn mặc, đặt tôn ti, trật tự, luân thường đạo lý. Đặt xong hệ thống cai trị, Lạc Long Quân về Thủy Phủ. Trăm họ an vui, khi có việc gì cần thiết, thì kêu Chúa Lạc: "Bố đi đàng nào, không đến cứu đàn con", thì Lạc Long Quân cảm ứng lên ngay.
Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai, đi tìm ông Nội Đế Minh tại phương Nam, thấy Logn quân đã về Thủy Phủ, lưu ái thê là Âu Cơ cùng bộ tùy tùng ở lại, rồi đi chu du khắp nơi thiên hạ. Trải qua hết mọi địa hình địa vật, chiêm ngưỡng kỳ hoa dị thảo, trân cầm dị thú: tê tượng, đồi mồi, kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn và các loại sơn hào hải vị, đầy đủ mọi vật; khí hậu bốn mùa thay đổi ôn hoà, Đế Lai sảng khoá, quên cả ngày về.
Nhân dân nước Nam không được an định như xưa, liền đồng thanh kêu lên: "Bố ở phương nào, nên mau về cứu đàn con".
Lạc Long Qớn nghe tiếng kêu cầu lại hồi nhân gian, thấy nàng Âu Cơ duyên dáng lạ thường, lại ở một mình, đem lòng si mê, hoá thành một nam nhi oai phong tuấn tú, Âu Cơ trông thấy cũng đem lòng đáp ứng. Long Quân rước nàng về núi Long Trang. Đế lai về không thấy Âu Cơ, liền đổ người đi tìm, không thấy.
Âu Cơ ở với Long quân một năm, sinh ra một bọc trứng, sợ hãi liền vỏ bọc trứng ngoài đồng nội. Sau bảy ngày, bọc trứng nở ra 100 con trai, bà đem về nuôi nấng, không phải cho ăn cho bú mà bé nào cũng lớn khoẻ, ai cũng quý phục, cho là những anh em phi thường.
Long quân ở lâu dưới Thủy phủ, mẹ con ở một mình; nhớ về phương Bắc, liền đưa nhau lên biên cảnh. Hoàng Đế nghe tin ấy lấy làm sợ, phái qớn binh trấn quan tái. Mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long quân: Bố ở phương nào không về với vác con".
Long Quân linh cảm lại hiện lên gặp vợ con ở Tương Dã. Âu Cơ nói:
"Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với chàng, sinh được một trăm con trai, mà không có gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau, chớ nên xa cách, khiến cho hai ta là người không chồng không vợ, một mình cô đơn".
Long Quân bảo:
Ta là loài Rồng, sinh trưởng ở thủy cung, nàng là giống Tiên, sống ở trên đất, vốn chẳng giống nhau. Tuy rằng âm dương hợp lại mà có con, nhưng phương viên bất đồng, thủy hoả tương khắc, khó mà cùng nhau tương hợp lâu bền. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi con về Thủy Phủ phân trị các xứ, nàng mang theo năm mươi, để phân trị các nước; dù lên núi xuống biển, khi có việc thì cùng đáp ứng, không được bỏ nhau". Trăm con chia tay, năm mươi ngươi theo mẹ về Phong châu (bây giờ là Huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người anh trưởng lên làm Vua, xưng hiệu là Hùng vương, lấy Quốc Hiệu là văn lang . Cha truyền con nối, truyền tử lưu tôn thành 18 đời Vua Hùng Vương.
Tiên Dung - Chử Đồng Tửû
Hùng Vương truyên tư
lưu tôn đến đời thứ ba, sinh một con gái tên là Tiên Dung. Mười tám
xuân xanh, nàng trở thành một trang quốc sắc thiên hương. Tính tình cao
nhã, không thích an bề tình cảm, chỉ thích ngao du sơn thủy 'thoát trần
một gót thiên nhiên" mà thôi. Bấy giờ tại làng Chử Xá có gia đình Chử Vi
Vân sinh được một bé trai đặt tên Chử Đồng Tử. Con nhà hiền lành tử tế,
gặp truyện không may, trở nên khánh tận, tới nỗi hai cha con chỉ có một
cái khố vải, ra vào thay đổi nhau. Cha bị trọng bệnh, trước khi chết
bảo con: - Bố chết, cứ chôn lộ thể, để cái khố lại cho con mặc khỏi xấu
mặt. Bố chết, Dồng Tử không nỡ làm thế, để nguyên vậy mà chôn bố. Trần
tuồng đói rét, Đồng Tử ra bờ sông câu ca, bỗng thấy thuyền có thuyền đi
qua. Không ngờ đó lại là thuyền Công Chúa Tiên Dung trong chuông trống
đàn sáo. Chàng vội vàng nấp vào bụi lau, đào cát làm huyệt ẩn mình, vùi
cát lên trên. Một lát sau, Tiên Dung ra lệnh vây màn quanh khóm lau, để
tắm. Nước chảy, cát tơi, thân hình Đồng Tử lồ lộ; biết là con trai, nàng
tự nhủ: - Ta không thích lấy chồng, mà giờ đây cùng lộ thân vớ nhau
đây, hẳn là ý Trờ xui khiến. Nàng nói với Đồng Tử: - Phải chăng đây là ý
Trời cho gặp duyên kỳ ngộ. Chàng hãy đứng dậy tắm rửa đi, chúng ta cùng
hội ngộ. Cho người mang quần áo cho chàng, Công Chúa bày yến hội, ăn
uống linh đình gọi là "duyên lành gặp hội". Đồng Tử tỏ bày hết sự tình,
Tiên Dung thương xót, đền bù cho kẻ xấu số, nên duyên vợ chồng.
Hùng Vương biết truyện, cho rằng Công Chúa không biết trọng danh tiết, cấm cửa không cho về cung nữa. Tiên Dung chấp nhận, xây dựng tình yêu hiện tại, cùng ngưòi chồng nghèo gầy dựng làm ăn với dân chúng trong miền ấy. Nhà cửa đường xá dần dần trở nên khang trang đẹp đẽ, vui nhộn như nơi thị tứ, nay là làng Hà Loã. Ngày kia có quý nhân đến bày kế: - Công nương nên xuất ra một thoi vàng, ra miền bể mà buôn vật quý, sang năm sẽ lời một thoi. Tiên Dung trao vàng cho Chử Đồng Tử làm theo lời dạy của quý nhân. Đồng Tử cùng đi với khách thương gia, gần bể có một hòn núi tên Quỳnh Viên sơn, trên núi có am nhỏ. Đồng Tử vào am, tiểu tăng Phật Quang nhận truyền phép màu cho chàng. Trao hết vàng bạc cho khách thương gia, chàng ở lại tu. Tiểu Tăng trao tặng chàng một cái gậy và một chiếc nó, dặn rằng: - Linh thông tại hai vật này đó.
Đồng Tử trở về, đem truyện đạo Phật nói với Tiên Dung. Cả hai giác ngộ, bỏ hết thương sự, đi tìm Thầy học đạo. Một ngày kia, đi đường gặp trờ toấ, giữa đường không có nhà trọ, Đồng Tử cắm gậy xuống treo nón lên để che cho giấc ngủ. Đến canh ba thức giấc, bò dậy, thì thấy hiện ra thành quách, cung điện nguy nga, đầy vàng bạc châu báu, tiên đồng ngọc nữ hầu hạ chung quanh. Trời sáng, dân chúng thấy đền đài nguy nga, đến xem và dâng lễ vật, tôn xưng hai người làm tiểu vương, lập nước rieng tự trị. Hùng Vương nghe tin, cho rằng Công Chúa làm phản, lền sai quân đi đánh. Quan quân đóng trại ở bãi Tự Nhiên, chờ ngày tiến binh. Nử đêm ấy bỗng nhiên phong ba nổi dậy, quan quân tán loạn... Cung điện thành quách của Tiên Dung bỗng chuyển dộng mạnh và dâng lên trời, đất nơi ấy sụt xuống thành một đầm lớn. Sáng ngày dân chúng đến coi không thấy cung điện thành quách nữa, mà chỉ có một đầm nước lớn, cho là điềm lạ, lập đền thờ để tưởng niệm, mệnh danh nơi đây là ĐAM NH...T DA.
truyện trầu cau
Đời thượng cổ có một người tên là Quang Lang phong độ oai phong cao lớn, thuộc họ Cao. Sinh được hai con trai, đặt tên là Tân và Lang. Cha mẹ chết, hai anh em trọ học nhà họ Lưu, tức Lưu Huyền. Nhà họ Lưu có một cô gái mười bảy mười tám muốn cưới một trong hai người. Nàng kết hôn với người anh. Người em bị bỏ lơ, buồn giận, bỏ đi. Đến nơi hoang dã gặp gặp dòng cuối lớn, không có thuyền sang ngang, anh ta buồn, ngồi khóc cho đến chết, hoá thành một cây cao..
Người anh thấy mất em, bỏ vợ đi tìm em. Thấy em đã chết, liền gieo mình bên gốc cây, tự tận, hoá thành tảng đá bao quanh gốc cây.
Người vợ không thấy chồng về, bỏ nhà đi tìm, thấy chồng đã chết, nàng cũng gieo mình ôm tảng đá mà chết luôn, hoá thành cây leo quấn quít quanh tảng đá.
Cha mẹ Lưu Thị đi tìm con, đến đó than khóc, rồi lập đền để thờ, mọi người qua lại đều tháp hương vái lạy, để ca tụng tình anh em hoà thuận, vợ chồng tiết nghĩa.
Trong khoảng tháng Bảy tháng Tám, Vua Hùng Vương đi tuần, thường dừng nghỉ chân nơi đó. Thấy cảnh tượng hữu tình, hỏi truyện mới biết tự sự. Vua truyền hái một trái cây và một lá dây leo, bỏ vào miệng nhai, rồi nhổ trên đá, thấy sắc đỏ tươi, biết là vị ngon, đem về; rồi lấy đá nung làm vôi, cùng ăn với hai vị lá và quả kia, thấy vị ngon, bùi, thơm lại cho đôi môi đỏ mọng. Rao truyền cho thiên hạ ăn ba vị đó, nhân gian ưa thích, từ đó Vua cho nhân gian dùng ba vị ấy để mở đầu cho câu truyện khi gặp gỡ nhau, gọi là ăn trầu: miếng trầu là đầu câu truyện.
truyện phù đổng thiên vương
Đời Hùng Vương thứ ba, thiên hạ được thái bình an vui, vua nhà Ân giả d0ang đi tuần thú phương Nam, có ý để xâm chiếm nước Nam. Hùng Vương triệu tập binh mã để giao chiến.Vẫn nhớ tục xưa: khi nào gặp nguy lại cầu Loang quân. Hùng Vương lập đàn cầu đảo, ba ngày sau trời đổ mưa gió sấm sét, bỗng thấy một cụ già cao hơn sáu thước, mặt vuông râu bạc ngồi ở ngã ba đường mà nói cười ca múa. Dân gian thấy vậy cho là bậc phi thường, đi tâu Vua, Hùng Vương giữ lễ, đến vấn kế:- Nếu có cao kiến, xin đại nhân gia ân cứu gúp. Ông già tâu: - Sau ba năm giặc mới qua đánh. - Nếu giặc tới, phải làm gì ? - Phải luyện binh và chuẩn bị khí giới. Rao tìm khắp thiên hạ, ai là người dẹp được giặc, thì phong Tước. Nói đoạn liền bay lên không mà biến đi. Vua biết đó là Long Quân.
Vừa đúng ba năm, tin từ biên giới cho biết có giặc Ân tới, Hùng Vương loan truyền khắp nơi để tìm người dêp giặc. Tại làng Phù Đổng, quận Vũ Ninh, có một phú hộ hơn 60 tuổi, sinh được môt con trai đã ba năm, chưa biết nói, chỉ nằm ngửa hoà. Bà mẹ đến nói dỡn với con: - thằng nhỏ này chỉ biết ăn uống, chứ không biết đánh giặcđể lĩnh thưởng của triều đình, mà đền ơn bú mớm.
Việt Nam. Nhưng quân quốc Việt Nam đã cầm chân và tiêu diêt giặc Mông (lúc ấy đã thống lĩnh Trung Hoa, tạo danh là nhà Nguyên) tại trận địa Bặch Đằng giang (1288) trước bàn tay uy dũng của Trần Hưng Đạo. ầ Vua Lê Thánh Tông cảm hứng trận đại thắng này bằng bài thơ Tứ Tuyệt:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã.
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
Xã tắc hai phen gan ngựa đá,
Nghìn năm sông núi vững âu vàng.
* Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược.Saigon: Sống Mới, 1971, trg 157-158.
Truyện Phù Đổng Thiên Vương cũng mang một ý nghĩa Tướng Anh Linh, Dân anh Hùng như vậy.
Trong duy sử Bách Việt gồm: Ngô Việt (Thượng Hải, Nam Kinh), Phù Việt (Hội Kê), Di Việt, Điểu Việt (Giang Tô), Ư Việt (Triết Giang), Dưong Việt (Giang Tây), Đông Việt (Quảng Đông hay Nam Việt), Tây Việt, Âu Việt (Vân Nam), Bộc Việt, Mân Việt (Châu Kinh), Lạc Việt (Bắc Việt), Việt Thường (Trung Việt). Tất cả dòng Bách Việt có 11 Việt, Nghe mẹ nói, đứa trẻ liền lên tiếng: - Mẹ gọi sứ giả vào đây để con hỏi xem có việc chi. Bà mẹ vui mừng, kinh ngạc kêu lên: - Con tôi đã biết nói. Sứ giả tới, hỏi: -Mày là đứa trẻ mới biết nói, kêu ta đến làm gì ? - Ông về tâu vua đúc cho ta một con ngựa sắt cao 18 thước, một lưỡi gươm dài bảy thước, mọt chiếc nón sắt, ta sẽ cỡi ngựa, đội nón đi đánh giặc, giặc sẽ tan tành, không gì phải lo cả. Sứ giả chạy về tâu vua, vua mừng lớn, than lên: - Thế thì ta không lo gì nữa. Một cận thần tâu: - Một người đánh giặc, làm sao phá được giặ ? Vua dạy: - Đó là Long Quân giúp ta, lời lão nhân nói quả không sai. Vua truyền lệnh: làm tất cả những gì đứa bé dạy làm.
Sứ giả đem ngực sắt, gươm sắt và nóc sắt đến, bà mẹ sợ hãi hỏi con. Đứa bé cười rồi bảo: - Mẹ lấy thật nhiều cơm cho con ăn, con sẽ đi đánh giặc, mẹ đừng sợ gì. Ăn vào, đứa bé lớn lên rất mau. Hàng xóm đưa thêm cơm thịt, đứa bé ăn vẫn chưa no. Chờ tới khi quan quân nhà Ân tới, Phù Đổng đội nón sắt, lên ngựa, ngựa phi như bay đến múa gươm xông vào trận dưới núi Châu Sơn. Giặc Ân thấy uy dũng của Tướng Việt Nam, liền trở giáo chạy trốn. Tướng Ân tử trận. Quân đội Ân qùy la liệt đầu hàng và hô lên: Chúng tôi hết thảy xin quy hàng Thiên Tướng.
Tướng trẻ phi ngựa đến Sóc Sơn, cởi áo giáp, cỡi ngựa bay về trời.
Hùng Cương nhớ đến đạ chiến công, tôn Tướng Quân làm Phù Đổng Thiên Vương. Các tiểu quốc chuug quanh nghe truyện lạ, đều về thần phục. Sau Vua Lý Thái Tổ tôn phong là xung thiên thần vương, lập miếu thờ tại làng Phù Đổng.
bánh dầy bánh chưng -
Sau khi Hùng Vương đã dẹp xong giặc Ân, vua lo việc truyền ngôi cho con, hội 20 công tử lại, ban lệnh: - Ta muốn truyền ngôi cho con nào đẹp lòng Ta, là đến cuối năm ai có đồ gì trân cam mỹ vị dâng tiến Tiên Vương, để trọn đạo Hiếu, Ta sẽ truyền ngôi cho. Các công tử lo đi tìm các phẩm vật qúy, để dâng Vua. Công Tử thứ 9 là Liêu Lang về hỏi mẹ. Bà lo buồn, mất cả ăn ngủ. Đêm đến Liêu Lang được Thần nhân báo mộng: - Trong trời đất không có gì quý bằng gạo, ăn mãi không chán. Nếu lấy g0ao nấu cơm rồi làm bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, và bánh khác hình vuông tượng tưng cho Đất, ngụ ý Trời đấ hoá sinh vạn vật; bên trong làm nhân cho thật ngon, sẽ được ý Vua.
Sáng dậy công tử chọn gạo nếp gói hình vuông trong lá xanh, chế nhân thật ngon, nấu chín, gọi là bánh chưng. Lại nấu xôi, giã cho thật nhiễn, làm bánh hình tròn chỉ Trời, gọi là bánh dầy.
Đến ngày hẹn, các công tử bày đủ các phẩm vật cao lương mỹ vị, Tiết Liệu tức Liêu Lang đem bánh chưng vuông bánh dầy tròn ra bày. Vua Cha thấy hai thứ bánh lạ, phán hỏi, Liêu Lang thân thưa đúng như lời Thần dạy. Vua Hùng nếm thử hai thứ bánh, thấy vị lạ thơm ngon, suy nghĩ rồi chấm cho Liêu Lang được nhất. Năm hết tết đến Vua dạy làm hai thứ bánh tiến lễ Tiên Vương và Tiên Tổ, rồi con cháu chia nhau ăn hưởng lộc. Từ đáy truyền ra nhân gian. Bá tính bắt chước Vua hằng năm dịp Tết, làm bánh dầy bánh chưng để tiến lễ và ăn mừng Tết.
Vua Hùng truyền ngôi cho Liêu Lang; còn các công tử khác chia nhau trấn giữ các châu quận, lập thành bộ tộc.
việt tỉnh cương
Sau trận giặc Ân, Đức Thánh Gióng tức Phù Đổng Thiên Vương bay lên trời, còn Ân Vương tử trận dưới cân núi, thành Địa Phủ Quân. Nhân dân lập đền thờ, bốn mùa cúng tế. Sau đền đổ nát thành chùa hoang. Có người Việt là Thôi Lang làm quan Ngự Sử nhà Tần, thường đi ngang đây, thấy cảnh đỰêu tàn, mới trùng tu lại.
Tới thời Triệu Đà Nam xâm cũng đóng quân tại chân núi này, trùng tu miếu thờ, Ân Vương cảm ứng công đức, sai Ma Cô Tiên đi tìm Thôi Lang để báo ân. Thôi Lang lúc ấy đã chết, còn người con tên là Thôi Vỹ. Nhân tiết Thượng Nguyên tháng Giêng, nhân dân đi lễ đền, có người dang cúng một cặp bình pha lê, Ma Cô cầm lên ngắm nghía, vô ý để bình rơi xuống đất, mở ra một mảnh. Người ta bắt Ma Cô đòi bồi thường; Ma Cô mặc áo rách, không ai biết là Tiên, nên bị đánh đòn. Thôi Vỹ thấy vậy thương hại, cởi áo đền hộ nàng. Ma Cô thoát nạn, tìm đến nhà Thôi Vỹ tạ ơn. Đến nơi mới biết Thôi Vỹ là con Thôi Lang Nàng vui mừng, thưa rằng: - Ta bây giờ không có gì đền ơn, mai sau xin hậu báo. Nàng đưa cho Thôi Vỹ một lá Ngải và dặn rằng: - Hãy giữ kỹ vật này, lúc nào cũng để trong mình, mắc bệnh nhục ảnh (nhọt, bướu), đem cứu tất khỏi, nhờ vật này sẽ được giầu sang.
Thôi Vỹ cầm lấy lá Ngải, không biết đây là thuốc Tiên. Một hôm đến nhà đ0ao sĩ Ứng Huyền, thấy ông có một cái nhọt trên đầu, Thôi Vỹ bảo: Tôi có vị này có thể trị bệnh cho ông. Chàng lấy lá Ngải cứu cho ông, nhọt độc tiêu tan. Ứng Huyỳn nói: Đây là thứ thuốc Tiên, tôi không có gì đền ơn. Nhưng tôi có người thân thích cũng bị bệnh này, ông ta thường nói: hễ ai chữa bệnh được, thì dù đền ơn hết gia tài cũng chẳng tiếc. Tôi xin thân dẫn anh đến giúp ông, ông sẽ đên ơn giúp tôi. Ứng Huyền đem Thôi Vỹ đến nhà Nhâm Hiêu, chàng lấy Ngải ra cứu, nhọt độc tức khắc lành ngay. Nhâm Hiêu rất mừng, nhận Thôi Vỹ làm con, dạy Vỹ học hành. Sẵn trí thông minh, học hành thông giỏi, ưa thích đàn Cầm, chàng thấy con gái Nhâm Hiêu là Phương Dung đem lòng thương yêu và gian díu tư thông. Nhâm Phu là anh biết truyện, định sát hại Thôi Vỹ. Nhân dịp cuối năm, có lễ tế Thần Xương Cuồng, Nhâm Phu lập mưu giữ Thôi Vỹ ở nhà để sát hại. Phương Dung biết ý lấy con dao trao cho Thôi vỹ, bảo đục vách tường mà ra.
Đêm khuya Thôi Vỹ trốn đi, định đến nhà Ứng Huyền. Không may sẩy chân rớt xuống một hang động. Không có lối thoát, chàng thấy một mâm đá có con rắn trắng dài trăm thước, mỏ vàng miệng đỏ, vây bạc, dưới hàm có một cục bướu, trên trán có ba chữ vàng Vương Tử Xà, bò ra ăn thạch nhũ. Thấy chàng, rắn cất đầu lên toan nuốt Thôi Vỹ; chàng sợ hãi quá, quỳ xuống lạy rằng: Thần tị nạn, sẩy chân rớt xuống đây, thật là đắc tội, dưới cằm Vương có buớu độc, Thần xin lấy Ngải cứu lành, để chuộc tội. Bạch xà liền ngẩng đầu lên cho chàng cứu, bỗng thấy đồng nội bị cháy, một tia lửa bắn vào trong hang, Thôi Vỹ lấy Ngải cứu cho rắn, bướu độc liền tan ngay. Rắn vui mừng, uốn cong người cho Thôi Vỹ ngồi trên lưng, đua chàng lên cử hang.
Thôi Vỹ đi một mình, lạc đường, bỗng thấy trên cửa thành có một lầu cao, đèn sáng trưng trưng, có biển vàng đề Ân Vương Thành. Chàng lững thững bước vào giữa sân, thấy một bên có một hồ sen ngũ sắc, chung quanh hoa lá đua chen, ngọc châu rực rỡ. Lên nữa, thấy một cung điện có hai giường vàng, trải chiếu, trên tường có treo hai chiếc đàn cầm sắt. Chàng nhẹ nhàng bước vào, lấy đà cầm dạo một bài. Kim đồng ngọc nữ vài trăm người hầu, Bà Ân Vương Hậu mở cửa đi ra, Thôi Vỹ hoảng sợ chạy xuống sân điện sụp lạy. Ân Vương hậu cười tươi hỏi rằng: - Thôi Quân ở đâu lại ? Bà sai người mời chàng lên cung điện: - Đền thờ Ân Vương lâu đời hoang phế, nhờ quan Ngự Sử trùng tu, người đời mới có chỗ hương khói tôn kính Ân Vương. Quân Vương đã sai Ma Cô đi tìm Thôi Lang để báo đức, mà không gặp, chỉ gặp Công Tử, nên chưa có dịp đền đáp. Nay may mắn Công Tử lại đến đây, nhưng Quân Vương lên chầu Trời, chưa biết lúc nào hồi điện.
Người ta dọn yến cho Thôi Vỹ ăn no say, rồi sai Dương Quan Hậu đưa Thôi Vỹ về trần. Chàng về nhà Ứng Huyền, thuật lại mọi truyện . Ngày mồng Một tháng Tám, hai người cùng tản bộ, thì gặp Tiên Ma Cô dắt theo một cô gái, trao cô gái cho Thôi Vỹ dắt về làm vợ; lại cho viên ngọc Long Toại là ngọc quý, Ân Vương vẫn mang trong mình, giờ đây tặng công tử để đền ơn.
Sau đó các nhà vọng khí biết rằng ngọc Long Toại còn ở Phương Nam, nên phái một số người xuống Âu Lạc để chuộc ngọc quý ấy. Giá viên ngọc đáng giá cả trăm vạn. Nhờ bán được ngọc qúy, Thôi Vỹ trở nên giầu có sang trọng. Sau đó Tiên Ma Cô và vợ chồng Thôi Vỹ đi đâu, không ai biết nữa. Nay giếng bỏ hoang, hang đẫ còn ở núi Châu Sơn. Người đời gọi đó là Việt Tỉnh Cương.
III. ý nghĩa huyền thoại trong công cuộc dựng nước
Đã gọi là Huyền Thoại, tất nhiên những truyện trên đây mang một ý nghĩa đặc biệt của người đặt truyện. Phải xác định rằng những truyện ấy mang nhiều ý nghĩa: dân tộc sử, dân tộc tính, dân tộc hồn, dân tôc đạo, dân tộc nhân sinh, dân tộc hào khí, dân tộc tồn thăng. Những truyện ấy còn là khuôn thức để hành động, là kỷ cương để bảo tồn, là đường đi để khai phóng.
Dân tộc sử
Huyền thoại thường mang tính cách huyền sử. Lịch sử thì bám vào thời gian không gian, bám vào sự kiện; còn huyền sử thì vượt thời gian không gian, vượt lên cả sự kiện để đi vào chiều sâu, chiều rộng.
Những kiểu nói 18 đời Hùng Vương không hẳn là có 18 đời thứ tự thời gian nhất định mà là huyền số, như 18 ngàn năm của Ông Bàn Cổ, 18 thước cao của con ngựa Phù Đổng Thiên Vương, 18 đôi chim trên mặt Trống Đồng v.v. Con số đó ám chỉ số nhiều, không hạn định, và còn có nghĩa là vô số nữa. Tuy nhiên con số 18 không phải vô căn cứ. Nó bắt nguồn từ số 3 mệnh danh là số dương: 3 3 là 9 và 2 9 là 18. Đế Vương là Vị Vọng cao nhất cai trị 9 họ, tượng trưng bằng 9 đỉnh đồng gọi là Cửu Đỉnh. Về con số 2 và 3 sẽ đề cập sau.
Hai chữ Hùng Vương cũng không phải là Đế hiệu, mà chỉ có nghĩa là Ông Vua hiển hách. Nó nói lên tính cách Anh Hùng, Thượng Võ của Nhân thoại Lạc Việt. Người Việt khởi đầu là Người Mạnh mang Anh Hùng Tính. Nhân dân bách tính là con cái Người Hùng, cần phải sống mạnh, để được gọi là DÂN ANH HUNG. Vì thế hai chữ HUNG VUONG chính là một hiến chương của dòng Lạc Việt, tiền nhân của Việt Nam. Duy sử đã chứng minh nhiều lần: Bách Việt, tiền thân của Việt tộc và hiện thân của Viêt Nam đã cầm chân Hán tộc, tiền thân của Trung Hoa. Nhất là một biến cố vĩ đại trong lịch sử Viễn Đông: thời trung cổ, quân Mông Cổ nổi dậy đánh rạp cả đế quốc La Mã, khất phục hết Âu Châu và Trung đông, lại áp đảo toàn cõi Trung Hoa, đánh xuống nhưng kinh qua mấy nghìn năm lịch sử, các Việt kia đều bị đồng hoá với Hán tộc, chỉ duy có Lạc Việt và Việt Thường còn tồn tại, làm thành dân tộc Việt Nam tới ngày nay.
Tổ Phụ của Lạc Việt là Tiên Rồng. Hai đại từ này mang ý nghĩa cao quý và thiêng liêng của Tổ Tông Lạc Việt. Dân anh hùng phát sinh từ RONG, một vật biểu trong Tứ Linh: Long Lân Quy Phụng.ầ Rồng thuộc Dương Tính làm chủ Thủy Cung. TIÊN là Tổ Mẫu Lạc Việt, cũng là siêu nhân, ngang với Thánh, cha ông ta thường gọi la Tiên Thánh. Tiên Thánh chính là con người khéo tu mà thành. Rồng chỉ sự cao sang quý trọng, Tiên chỉ tài sắc mặn mà.
*à Tại Trung Hoa, nhà thượng lưu thường được trang trí bằng tranh Tứ Linh, gọi là Tam Phụ Hoàng Đồ, tức Thương Long (rồng xanh), Bạch Hổ (Hùm trắng), Chu Tước (sẻ đỏ) và Huyền Vũ (quốc đen).
Truyền thống Hùng Sử là như thế, nên vật biểu của Lạc Việt là Rồng. Theo địa lý hình thể đất Việt ngày nay mang hình Rồng, mà hoạ sĩ Cao Uy đã hoạ nguyên hình. Theo truyền thống huyền sử như vậy, người Việt ngày nay cũng có những đức tính cố hữu của Rồng: rất quen và thành công trong nghề thủy sản, có trí thông minh (Trí giả lạc thủy), có óc kinh doanh (trên ngàn dưới bể), có chí dọc ngang hồ hải, có tinh thần khắc phục gian nguy v.v. Đặc điểm của Tiên cũng thấm nhuần nơi tâm hồn và thể xác người việt. Trai thanh gái lịch là hình ảnh của Tiên, có đủ Tiên Ông Tiên Bà Tiên Cô và Tiên Cậu. Riêng con gái Việt Nam được tiếng trong lịch sử là đẹp hơn Hán Tộc và các tộc chung quanh. Trong lịch sử giai nhân của Trung quốc có bốn người đẹp, gọi là Tứ Đại Mỹ Nhân: Hằng Nga, Tây Thi, Điêu Thuyền, Dương Quý Phi. Trong bốn người đẹp, thì ba người là gái Việt Tộc, chỉ có một mình Điêu Thuyền là người Hán tộc.
Theo nhận xét của người Âu Mỹ, gái Việt đẹp hơn tất cả gái Á Châu. Gái Nhật đẹp rắn rỏi khỏ mạnh; gái Tàu đẹp nhờ mỹ phẩm tô tạo; gái việt đẹp mặn mà tự nhiên: mai cốt cách, tuyết tinh thần, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Không lạ gì, vì là con cháu Tiên Nữ. Ngay theo khoa tâm sinh lý: khi mang thai, cha mẹ nghĩ rằng con mình đẹp, nó sẽ đẹp.
Huyền sử Âu Cơ Lạc Long với 100 con còn nói lên: chế độ Mẫu hệ từ khởi thủy lập quốc, mà giáo sư Kim Định gọi là Nguyên Lý Mẹ. Truyện Tiên Dung cũng nói lên chế độ Mẫu hệ: Mẹ nắm quyền trong gia đình và định đoạt mọi sự cho con cái. Đồng thờ cũng nói lên ý nghĩa Gia đình Việt tộc lúc đầu vẫn đặt trên Tình Yêu tự chủ và dân chủ, cũng như trên Mẫu Tộc. Trong khi đó Hán Tộc và Nhật Bản theo chế độ Phụ Hệ: Cha làm chủ và xướng xuất mọi sự mới thuận ý Trời. Sở dĩ thế là vì người Trung Hoa là dân du mục, phải có Cha lãnh đạo, xông pha đó đây. Trong huyền thoại của Nhật Bản có truyện Khai thiên lập địa kể Izanagi và Izanami là Tổ Phụ loài người; Izanami lài gái khởi xướng cầu hôn với Izanagi, nên khi sinh con, chỉ sinh ra quái vật. Hai vị buồn sầu hỏi một Thần vọng tuổi, Ngài trả lời: Izanagi phải câu hôn trước mới có con xinh đẹp. Người đàn ông phải hỏi người đàn bà làm vợ mới hợp ý Trời.
Tất cả các ý nghĩa đẹp trên đây đã tác động tâm tư người Việt tư ngàn xưa, giờ đây đã biến một dân tộc bé nhỏ, trở thành lớn lao, góp mặt trên 40 nước hoàn cầu, tuổi già cần cù đạo đức, tuổi trẻ khoẻ mạnh, thông minh, đoạt những thành tích chân thiện mỹ trong m0oi lãnh vực. Tuy nhiên cũng là một dân tộc đoạn trường, nhờ đoạn trường mà quật khởi. Cơn ác mộng cộng sản còn đè nặng trên quê hương cho đến giờ này cũng do cái số đọan trưòng ấy. Nhưng đoạn trường lắm lại vinh quang nhiều. Giờ quật khởi đến càng thăng hoa khởi sắc.
DÂN TộC TíNH cũng hiểu là Hồn Dân Tộc hay Quốc hồn, là cái tâm tính bên trong. Dân tộc tính biểu lộ ra qua tâm tính nhân tình. Đây cũng hiểu là tinh thần của người Việt. Muốn tìm cho ra dân tộc tính, hãy đọc lại huyền ý của các truyện Tiên Dung, Truyện Trầu Cau, Truyện Thánh Gióng và Truyện Thôi Vĩ.
Truyện Tiên Dung nói lên Mẫu tính hay nguyên lý Mẹ, có nghĩa là tinh thần tôn trọng nữ quyền. Trong các nước thuộc khối Viễn Đông, người phụ nữ Việt Nam không bị lép vế như phụ nữ trong các nước khác. Ca dao là những tâm tình phát xuất trung thưc nhất của người dân quê Việt; ta thử đọc câu:
Lạy cha ba lạy một qùy
Lạy mẹ bốn lạy con đi lấy chồng. Ba lạy chỉ lòng tôn kính đấng sinh thành, một quỳ chỉ uy quyền. Bốn lạy chỉ sự vâng phục trọn vẹn, vì mẹ là gia chủ, theo ý nghĩa mẹ ở nhà nhiều hơn cha. Những từ Mẫu thân, nội tướng, nội gia đều chỉ mẫu quyền của mẹ.
Lấy chồng cũng là một từ mang ý nghĩa nữ quyền. Không phải chỉ có đàn ông lấy vợ, mà con gái cũng lấy chồng, tức cũng có quyền lựa chọn.
Truyện Trầu Cau cũng đề cao nữ quyền.Hai nam chết vì một nữ. "Miếng trầu là đầu câu truyện". Con trai phải đưa trầu đến nhà gái xin làm quen, xin đính hôn và xin dẫn cưới, đón Dâu, qua Lễ Vu Quy và Lễ Gia Tiên. Hai Lễ này nếu được duy trì ngày nay, cũng chỉ là hình thức nói lên dân tộc tính, chứ chưa hẳn là dân tộc tính. Dân tộc tính ở tại tinh thần bên trong, đó là lòng tôn kính Nhân tính qua ông bà Tổ Tiên và tôn trọng Nữ quyền hay Nguyên lý Mẹ.
Các truyện ấy còn nói lên tinh thần Đạo nghĩa của Việt tộc. Tinh thần đạo nghĩa thể hiện ở niềm Tin vào siêu nhiên giới: Đấng Tạo Hoá và Thần Thánh, Tiên Phật. Các Đấng ấy thường phù hộ cho người ăn ngay ở lành, có lòng thương người. Do vậy dân tộc tính ơ đây là Tinh thần mộ đạo, Giầu tín ngưỡng, đức Hiếu Sinh, lòng thương người, sự ngay thẳng. Tục ngữ ca dao đã tôn vinh những dân tính đó: "Dầu ai chác lợi mua danh, Miễn ta, ta được đạo lành tì thôi" hay như câu khác: "Trời kia còn ở trên đầu còn kinh"... "Thương người như thể thương thân"...."Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân" v.v.
Đặc biệt các dụng cụ thần thánh như Sách Ước gậy Thần trong truyện Long quân, Nỏ Thần trong truyện Mị Châu, Gậy Thần Nón Thánh trong truyện Chử Đồng Tử Tiên Dung, Ngải Cứu và Nọc Long Toại Trong truyện Thôi Vỹ. Những dụng cụ thần thánh ấy nói lên Nhân tính hoà hợp với Thần Tính, trở thành một nhị hợp Thần Nhân rất cao quý.
tinh thần quật khởi cũng là một đặc tính của dân tộc. Tự ý thức và tự trọng nhận mình là con rồng cháu Tiên, người Việt dọc dài mấy ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng giữ được bản lãnh quật khởi của dân anh hùng. Tuy bé nhỏ mà nội lực thâm hậu. Ngựa cao mười tám thước cũng như mười tám đời Hùng Vương ám chỉ toàn dân trong Cửu Tộc, tượng trưng bằng Cửu Đỉnh. Sức quật khởi phi thường gấp đôi bình thường (2 lần 9 là 18). Phù Đổng Thiên Vương đánh tan giặc Ân, không cai trị và hưởng lợi lộc, mà bay lên Sóc Sơn, bỏ áo lại bay lên trời.
Truyện Sơn Tinh Thủy Tinh cũng chỉ nói lên sức vươn lên của Việt tộc trong khi lâm biến. Nước càng dâng cao, núi lại càng vươn cao hơn. Lịch sử đã chứng minh tinh thần quật khởi ấy. Gần một nghìn năm đô hộ Tàu, cha ông ta vẫn khôi phục, đánh đuổi kẻ áp bức. Một trăm năm đô hộ Pháp cũng tan. Rồi bây giờ 50 năm đô hộ cộng sản, dân ta vẫn không lui bước. Sau 50 năm bị trói buộc áp bức, dân ta nghèo khổ, nhưng vẫn không bị xích hoá. Nhất là dân công giáo, vẫn thản nhiên vững niềm tin, không chịu lập giáo hội tự trị, khong khi đó chưa một nước cộng sản nào trên thế giới, sau mười năm mà không ly khai Giáo Hội Roma. tinh thần tương thân kết đoàn cũng là đặc tính của dân ta. Nói như thế có nhiều người phản ứng chống đối, vì đang nhìn thấy trước mắt những hiện tượng chống phá nhau, chi rẽ nhau; hơn nữa còn tìm hết cách loại trừ nhau, tiêu diệt nha. Có truyện đó là vì thế nhân đa sự ngày nay đã quên mất gốc, mất tinh thần dân tộc. Khởi đầu lập quốc từ thời Âu Cơ Lạc Long. Tuy là một bên Mẹ Tiên, một bên Cha Rồng; năm mươi con trai theo Bố về Thủy quốc; năm mươi con theo Mẹ làm chủ trên mặt đất. Lời Bố Rồng đã trở thành Hiến Chương Lập Quốc:
"Ta đem năm mươi trai về Thủy Phủ phân trị các xứ, năm mươi trai theo nàng ở lại mặt đất, chia đất mà cai trị; dù lên núi xuống nước, nhưng khi hữu sự, thì cùng nghe, không được bỏ nhau".
Rõ ràng: thủy địa đôi ngả, âm dương cách trở, hoàn cảnh khác biệt, nhưng phải một lòng một dạ với nhau xây dựng hoà bình ấm no. Khi hữu sự thì cùng nghe nhau, quyết không bỏ nhau. Đó là hiến chương, hiến pháp như một mối dây thân tình thắt buộc con rồng cháu Tiên suốt mười tám thờ Hùng Vương có cả hai nghìn năm dư. Dòng giống Việt lúc nào cũng tôn trọng và nhất tâm duy trì sự tương thân tương ái, đoàn kết trong thời bình cũng như thời loạn. Qua những hoàn cảnh đại loạn, tinh thần đoàn kêt đã giúp cha ông ta vượt thắng tất ca. Những mấu chốt lịch sử: Hai Bà Trưng, Triệu Nương Tử, Lê Lợi, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, nhất là Hội Nghị Diên Hồng là những tang chứng lịch sử cụ thể cho Tinh Thần đại đoàn kết của dân tộc Việt.
Sở dĩ có sự phân tán giữa người Việt khắp nơi ngày nay là do hoàn cảnh bị trị ba lần bốn lượt. Người cai trị luôn luôn gieo tinh thần chia rẽ để phân tán lực lượng, để tránh hiểm hoạ nổi dậy. Dù sao đi nữa, đặc tính của người Việt muôn thủa vẫn là sự đoàn kết tương thân; sự chia rẽ chỉ là một tai nạn trên đường chính trị. Đã là tai nạn, thì rồi sớm muộn gì rồi cũng tai qua nạn khỏi. Điều quan trọng là người Việt cần phải đề phòng những mưu mô của cộng sản, không còn đủ sức để xây dựng, nên gia công phá đổ những công việc của người Việt quốc gia bằng gây chia rẽ phân tán.
ngay thẳng trung thực
Đây là đức tính truyền thống của dân tộc Viẹt từ thủa lập quốc. Vốn là dân tộc sống theo triết lý nông nghiệp, nên tính tình ngay thẳng trung thực, nhiều khi đến chất phác. Trong đời sống nông nghiệp họ tuân theo Kẻ Sĩ là người sống theo đạ Thánh Hiền. Trong dân sinh, có bốn nghề chính lá Sĩ Nông Công Thương. Một khi trọng Sĩ, thì ưa thích những điều ngay chính đúng mực, vì Kẻ Sĩ là mô phạm của đạo Thánh Hiền, tôn trọng những điều Đức Chan Thiện Mỹ. Tinh thần Thượng Nông cũng đòi người dân phải biế ThỰn thời, Địa lợi, Nhân hoà. Thiên thời đòi phải thành tâm; Địa lợi cần giữ đúng lề lối thiên nhiên; Nhân hoà tất nhiên đòi phải trung tín thành thực.
Truyện Tiên Dung Chử Đồng Tử thực sự là mẫu mực đạo nghĩa và trung thực. Tiên Dung tự hối, chờ lệnh Cha và sẵn sàng đón mệnh là trung thành.Chính nhờ lòng trung thành ấy, mà Trời thương phù trợ cho thoát nạn. Chử Đồng Tử không ham phú quý, tìm Thầy học đạo, được hiền tăng trao ban Gậy thần nón thánh, được Trời phù hộ thoát nạn và nên vinh hiển. Sự thật bao giờ cũng thắng. Truyện Dưa Hấu cũng nói rõ tấm lòng chân thực của An Tiêm. Vua Hùng đã nói: "Nó bảo là vật tiền thân của nó, thực là không nói dối vậy".
Sau này ca dao cũng xác nhận điều ấy:
Của Trời tám vạn nghìn tư,
Hễ ai ngay thật thì dư của Trời.
tinh thần hiếu hoà cũng là dấu ấn của dân Việt và là kết quả của nền triết lý nông nghiệp. Nếp sống nông nghiệp là nếp sống tập thể: cùng làm cùng nghỉ, cùng ăn cùng chịu và cùng vui với nhau; khi mưa thuận gió hoà, khi hạn hán thủy tai, cùng chia sẻ vui mừng và lo âu với nhau. Đời sống xã hội vì thế luôn luôn giao hoà, gọi là hiếu hoà. Đi đến đại hoà gọi là thái hoà.
Truyện Bánh Dầy Bánh Chưng đủ nói lên tinh thần hoà hợp giữa Âm Dương, giữa nam quyền và nữ quyền. Đồng thời cũng nêu lên dòng triết lý bao la như trời đất, mà lại gần gũi thực tế như miếng ăn. Bữa ăn là một căn cứ kết giao, là một chân trời thái hoà. Cha ông đã dạy con cháu: Dĩ hoà vi quý. Hoà hợp trong gia đình: thuận vợ thuận chồng, như trong tuyện Âu Cơ Long quân, truyện Trầu Cau; Hoà hợp ngoài xã hội: người trong một nước phải thương nhau cùng, như truyện Tiên Dung Chử Đồng Tử lập phố buôn bán cho nhân sinh phồn thịnh; Hoà hợp giữa giầu nghèo, qúy tộc và nhân gian, như truyện Công Chúa Tiên Dung cưới người dân khố rách áo ôm họ Chử. Hoà hợp giữ quốc tế, như truyện Mị Châu Trọng Thủy hay Chim Bạch Trĩ.
IV - ý nghĩa huyền thoại trong văn hoá việt nam
Văn hoá là nếp sống của con người được biểu hiện qua các lãnh vực nhân sinh, như tôn giáo, phong tục, giao tế, tính tình, tư tưỏng, giáo dục, xã hội, kinh tế, chính trị v.v. Có thể cho rằng: Văn hoá là mức độ của văn minh. Chính vì Huyền Thoại biểu lộ tất cả các phương diện trên, cho nên Huyền Thọai đóng một vai trò quan trọng trong văn hoá của một dân tộc.
Qua kho tàng Huyền thoại việt Nam, chúng ta thấy các dòng triết lý, căn bản cho văn hoá được khơi nguồn một cách đầy đủ và xác thực. Chúng ta có thể khai thác ba dòng Triết Lý bắt nguồn từ Viêt Tộc. It nhất có thể khai quật ba dòng triết lý căn bản: Triết lý Tam Tài, Triết lý Âm Dương và Triết lý Nông Nghiệp.
Ba dòng triết lý này được thể hiện qua các Huyền Thoại, nhưng nguồn mạch đến từ đâu ? Để trả lời chúng ta phải trở về nguồn tài liệu của Bách Việt qua tập tài liệu Cổ bằng Nho văn:
Bách Việt Tiên Hiền chí
bách việt tiên hiền chí là tập ách quý trích trong đại Bộ Lĩnh Nam di thư của Trung Hoa. Đây là tài liệu ruột cho các nhà khảo cổ và nhân chủng học, cũng như cho các nhà Văn Hoá Việt Học đang xây dựng cho Việt Nho Việt Triết. Chúng tôi long trọng giới thiệu: chúng ta còn đường đi và những chứng tích linh động của tư tưởng Việt Tộc hay Bách Việt qua tập tài liệu quý giá này.
Bách Việt Tiên Hiền Chí do Âu Đại Nhậm, tự Trịnh Bá, đời Minh tuyển sọan. Sách bao gồm 102 Hiền Triết Bách Việt: Âu Trị Tử, Trù Vô Dư, Âu Dương, Kế Nhi, Phạm Lãi, Tiết Chúc, Trần Âm, Chư Kê Dĩnh, Cao cố, Sử Lộc, Mai Quyên, Công Sư Ngung, Trương Mãi, Trịnh Nghiêm, Điền Giáp, Hà Di, Tất Thủ, Nghiêm Trợ, Chu Mãi Thần, Đặng Mật, Tôn Miêu, Ngô Bá, Trịnh Cát, Hà Đan, Mai Phúc, Nghiêm Quang, Trần Nguyên, Vương Sung, Bao Hàm, Dương Phù, Trương Trọng, Dương Phấn, Đặng Thịnh, Chung Ly Ý, Hứa Kinh, Kỳ Mẫu Tuấn, Chiêu Mãnh, Trần Lâm, Trầm Phong, Cố Phùng, Công Tôn Tùng, Trịnh Hoành, Trần Hiêu, Thái Luân, Lý Tiến, Long Khâu Trường, Từ Hủ, Đạm Đài, Kính Bá, Lưu Yến, Mạnh Thường, Hoàng Xương, Bành Tu, Nguyễn Lang, Từ Trưng, Trương Vũ, Thân Sóc, Lục Tục, Đường Trân, Đới Tựu, Chu Tuấn, Tạ Di Ngô, Hạ Thuần, Đổng Chính, Sơ Nguyên, Triệu Trường, Quân Vi Thuyết, La Uy, Đường Tụng, Đốn Kỳ, Đinh Mật, Nhan Ô, Phí Phiếm, Từ Trĩ, Quách Thương, Diêu Tuấn, Đổng Phụng, Ngu Quốc, Đổng Âm, Hoàng Hào, Đinh Mậu, Y Nha, Từ Đăng, Thịnh Hiến, Trầm Du, Diêu Văn Thức, Ngô Nương, Hoành Nghị, Sĩ Tiếp, Ngu Phiên, Lý Tổ Nhân, Vương Phạm, Hoàng Thư, Đào Đình, Tẩy Kính, Nguyễn Khiêm Chi, Liêu Xung, Phùng Dung, Vi Thiện Đạo, Mặc Tuyên Khanh, Dương Hoàn.
Trong số này có nhiều nhân vật quen thuộc, như Phạm Lãi, Chu Mãi Thần, Trịnh Cát, Vương Sung, Trương Trọng, Lý Tiến, chung Ly Ý, Mạnh Thường, Tạ Di Ngô, Vi Thiện Đạo v.v.
Tư tưởng bật nổ của các vị Tiên Hiền đó quy về các đề tài chính: Lý thuyết Âm Dương, Triết lý Tam Tài, Đạo sống Quân Tử, Triết lý Nông Nghiệp, Đạo sống thiên nhiên...
Ta thử đọc bài Tựa của Bách Việt Tiên Hiền Chí: Hai chữ và là một.Vũ Cống là một miền vuông vắn ngoài Dương Châu, từ Ngũ Lĩnh tới bờ biển.Đó là miền của Việt Tộc, khởi thủy từ thời vua Vũ, làm thành các nước chư hầu Bách Việt. Thiếu Khang lúc ấy phong Yến Tử ở miền Hội Kê, thờ vua Vũ. Họ xâm mình cắt tóc, phá hoang lập ấp tại đây. Cách hai mươi đời sau, Việt Câu Tiễn, một thường dân nổi lên diệt Ngô, xưng Vương, đóng đô ở Lang Gia, trở thành một nước hùng cường một phương. Câu Tiễn suốt sáu đời, gia công đánh Sở. Sở rất mạnh về Thương mại đánh bại Câu Tiễn dồn về Lang Gia, dừng bước ở miền Đông. Vũ Việt phân tán các con mỗi người một nơi: kẻ xưng vương, người xưng chủ khắp miền duyên hải Giang Nam, thần phục nước Sở. Đó là Bách Việt, phân chia bờ cõi từ Dương Châu, Hội Kê xuống Nam. Nhờ thực tài xem thiên văn và bói chim, sau cùng diệt được Sở Vương. Câu Tiễn thâu hồi cả miền Dương Việt lập thành ba quận, gọi là Nam Hải, Quế Lâm và Tự3ong Úy. Con cháu sau này quy phục Hán tộc. liên hợp các miền thành: Thương Ngô, Uất Lâm, Giao Chỉ, Cửu Chân, Đam Nhĩ, Châu Nhai,tất cả là 9 Quận Từ miền Nam Việt tớiđịa giới Bắc Cô Tư, Hội Kê gọi là Phù Việt, Phía Đông từ miền hoang vu tới Chương tuyền gọi là Mân Việt. Từ biển Đông, kinh đô Vương Diêu tới Vĩnh Gia gọi là Âu Việt. Từ sông Nhượng, sông Tương, sông Ly nước Tống tơi miền Nam gọi làTây Việt. Từ Tang Ca tới miền Đông ôn hoà thư thới gọi là Lạc việt. Người Hán tộc cho rằng: người Việt ở miền duyên hải có nhiều đồi mồi, tê giác, đá ngọc, bạc đồng, trái cây, vải vóc.
Tuy nhiên Việt tộc được chung đúc bởi dương khí, cho nên nhân văn, mũ áo lễ nhạc không giống lễ giáo Đường Ngu. Sau này tôi nghe có vị thái sư Nam Giao nói rằng: người Việt tuy man di, nhưng từ đầu đã có công đức với nhân dân lắm. Sách Xuân Thu Viết: "Câu Tiễn ở Ư Việt vào nước Ngô. Lúc ấy họ rất khổ sở vất vả, nhưng lạ có nhiều mư kế thâm sâu, bền chí giữ liêm sỉ, nghe theo mệnh lệnh Trung quốc mà tôn nhà Chu, theo Hán Tộc từ đó cho đến sau này".
Sau này có Sô Thị gọi là Diêu Triệu thâu hồi dân Việt chung quanh, được tán thưởng cho tới thời Lưu Thị, lập thành hai Kinh Đông Tây. Thần dân của Việt tộc có công nghiệp văn chương rải rắc khắp bảy tám dặm miền duyên hải Giao Châu đã đem lại nhiều ích lợi.
Vì thế, sử sách từ Chu đến Hán đã ghi chép Việt tộc có hành 120 Đại Hiền Tiểu Hiền. Từ thời Chương vũ Hoàng Sơ tới Đường Tống thu hồi lại tất cả, gọi là bách việt tiên hiền.
Lời tưạ của Âu Đại Nhậm
Năm thứ 33 đời Gia tĩnh, tháng 11 ngày 21
(Minh Thế Tông năm 1522)
Qua bài tựa này, chúng ta cũng nhận định nhiều ưu thế của Việt tộc: 1. Đã có một thời Việt Câu Tiễn diệt Ngô, xưng Vương, hùng cứ một phương. 2. Họ đã làm chủ suốt miền Giang Nam. 3. Có thực tài xem thiên văn và bói chim. 4. Thần phục nước Sở, thâu hồi cả miền Dương Việt lập thành ba Quận. 5. Việt tộc miền duyên hải có nhiều đồi mồi, tê giác, đá gọc, bạc đồng, trái cây, vải vóc. 6. Người Việt được chung đúc bởi dương đức, cho nên nhân văn, mũ áo lễ nhạc không giống Đường Ngu. Phải chăng hay hơn, vì có dương đức. 7. Người Việt lúc ấy rất vất vả khổ sở, nhưng lại có nhiều mưu kế thâm sâu, bền chí giữ liêm sỉ. 8. Lập thành hai Kinh Đông Tây, tức là Quảng Đông Quảng Tây. 9. Thần dân của Việt tộc có công nghiệp văn chương rải rác khắp bảy tám dặm miền Giao Châu, đã đem lại nhiều ích lợi. 10. Cả hơn mười tộc Việt bị đồng hoá với Hán tộc, chỉ trừ Lạc Việt và Việt Thường tự cường không bị thâu hoá, mà tồn tại thành nước Việt Nam ngày nay.
Đó là những điểm ưu việt của dân anh hùng là Việt Nam, dưới mắt người Trung Hoa tức Hán tộc xưa. Nhưng điều quan trọng là Việt Tộc có hàng 120 Đại Hiền Tiểu Hiền đã đóng góp cho văn hoá Hán Tộc và làm thành Truyền Thống Văn Hoá của Việt Nam.
triết ly ù âm dương
Triết lý âm dương được xuất hiện dưới ngòi bút của các vị Tiên Hiền, như Kế Nhi với luật âm dương Ngũ hành, Dưỡng Phấn với hậu quả của Âm Dương.
Dòng triết lý này được thể hiện qua huyền thoại Bánh Dầy Bánh Chưng với ý nghĩa âm dương vuông tròn như Thiên Địa. Long Quân và Âu Cơ hay Tiên Dung Chử Đồng Tử là những cặp Âm Dương hoà hợp rất tương xứng: Nhất âm nhất dương chi vị đạo (Hệ tư thượng).Âm Dương là hai yếu tố sinh tồn và biến hoá. Triết lý âm dương phát sinh Ngũ Hành: Thủy Hoả Thổ Kim Mộc. Nhờ vậy mới có bién hoá trong trời đất. và như thế là có tiến bộ. Âm Dương cũng là nền tảng cho cuộc sống con người: tình cảm, tâm tư và ước vọng, nguồn mạch của văn chương tư tuởng, cũng là nguồn mạch của văn hoá. Đối vớ Việt tộc, khởi đầu Âm làm chủ: Âu Cơ, Mỵ Nương, Tiên Dung, Ma Cô mở đầu cho tình cảm, phu phụ, gia đình, làng xóm. Lần lần chuyển sang Dương Chủ: 18 đời Hùng Vương. Sau cùng mới đến Âm Dương giao thoa: Phu xướng phụ tòng và Phu Phụ tương hành tương tại. Do đó phát sinh Quân bình Âm Dương. Đã quân bình âm dương, thì có giao hoà toàn diện.
Về phương diện trường sinh, Y Đạo của Việt tộc là thể hiện và hoàn thành lý thuyết Quân bình Âm Dương. Truyện Thôi Vỹ minh chứng cho Y Dạo Thiên nhiên. Ma Cô Tiên Nữ trao cho Thôi Vỹ một lá Ngải để trị bệnh. Bất cứ bệnh gì, đốt lá ngải lên cứu đều khỏi bệnh. Lá Ngải chính là dược thảo thiên nhiên có hoạt chất âm dương điều hoà, chữa được bách bệnh. Vì thế nghề Cứu Trị là của Việt tộc, được Tiên Thánh trao ban để cứu nhân độ thế.*
* Nghề Cứu Trị của Viêt Nam hiện nay tinh vi và hiệu nghiệm hơn phương pháp cứu trị của Trung Hoa và Nhật bổ. Thuốc cứu Trung Hoa chỉ có 3 vị, thuốc cứu Nhật Bản 7 vị, còn thuốc cứu Thôi Vỹ gồm tất cả 13 vị: Xuyên sơn giáp, Bắc mộc hương, Xương truật, Phòng phong, Tiểu hồi, Một dược, Nhũ hương, Nhục quế, Can khương, Bắc trầm hương, Bắc xạ hương, Long não, NGẢI DIệP.
triết lý tam tài trong khối Viễn Đông rất bàng bạc. Trung Hoa Nhật Bản trình bày TAM TÀI với tính cách thực tại hơn là Triết lý. Trung Hoa có đại bộ Tam Tài đ2ò hộỰ gần 4000 trang, nhưng đó chỉ là liệt kê tổng quát theo hiện tượng: Thiên văn, Địa văn và Nhân văn mà thôi. Nhật Bản có 2 tập nhỏ (20 trang, 30 trang cỡ nhỏ) nói về Âm Dương áp dụng vào y lý. Việt Nam ta từ hồi Việt tộc, các Tiên Hiền đã nói về Tam Tài như là những thế lực cấu tạo, bảo tồn và phát huy vạn vật. Các Huyền Thoại cũng nói lên nhiều ý nghĩa Tam Tài.
Các Tiền Bách Việt như: Đại Phu Chủng, Phạm Lãi, Chư Kê Dĩnh, Trịnh Nghiêm, Điền Giáp, Dương Phù, Tạ Di Ngô đã trình bày Tam Tài Thiên Địa Nhân là ba căn cơ cho Thiên Đạo, Địa đạo và Nhân đạo. Nhờ đó Việt tộc từ nhàn xưa đã xây dựng Chủ Đạo Nhân bản tâm linh, là truyền thống Văn Hoá của ta ngày nay. Con người là sức mạnh của Trời Đất: Thiên Địa chi đức. Con người là chủ nhân ông trong vũ trụ, được Trời che Đất chở: Thiên phú địa tái. Con người khám phá những Thiên Văn, khai quật những địa văn, để tô điểm cho nhân văn được tươi đẹp phong phú.
Hầu hết các Huyền Thoại đều nói lên tính cách tam hợp của triết lý Tam Tài hay Tam Tài Đạo. Con người mang tính Trời, ăn ngay ở lành đều được Thiên Đức là Tiên Thánh phù hộ. Những thế lực gây hại cho con người đều bị loại trừ. Con người bao lâu còn giao hoà với Trời Đất, theo luật thiên nhiên của Trời Đất, thì luôn luôn an cư lạc nghiệp và bình an thư thái. Tất cả những gì phản nhân đạo đều bị tiêu diệt. Nhiều khi Mệnh Trời đa đoan cũng chiều theo nhân tâm phúc đức. Đó là triết lý nhân bản của Việt Nam. Truyện cổ tích và các truyện thời đại cùng với tục ngữ ca dao cũng là những chứng cớ xác nhận đạo sống ấy. Vì có doà điệu giữa Trời Đất và Người, cho nên con người giữ được đạo sống quân bình và toàn diện. Nhờ vậy, văn hoá truyền thống vẫ là Văn Hoá nhất quán và giao hội. Những nền văn hoá "duy, chủ" không hợp với Việt Nam. Chính vì thế, cộng sản không thể ăn sâu vào mảnh đất nhân bản tâm linh này được. Nếu có xâm nhập, cũng không bền lâu, vì Thiên bất thời, Địa bất lợi và Nhân bất hoà.
triết lý nông nghiệp Hùng Vương biết truyện, cho rằng Công Chúa không biết trọng danh tiết, cấm cửa không cho về cung nữa. Tiên Dung chấp nhận, xây dựng tình yêu hiện tại, cùng ngưòi chồng nghèo gầy dựng làm ăn với dân chúng trong miền ấy. Nhà cửa đường xá dần dần trở nên khang trang đẹp đẽ, vui nhộn như nơi thị tứ, nay là làng Hà Loã. Ngày kia có quý nhân đến bày kế: - Công nương nên xuất ra một thoi vàng, ra miền bể mà buôn vật quý, sang năm sẽ lời một thoi. Tiên Dung trao vàng cho Chử Đồng Tử làm theo lời dạy của quý nhân. Đồng Tử cùng đi với khách thương gia, gần bể có một hòn núi tên Quỳnh Viên sơn, trên núi có am nhỏ. Đồng Tử vào am, tiểu tăng Phật Quang nhận truyền phép màu cho chàng. Trao hết vàng bạc cho khách thương gia, chàng ở lại tu. Tiểu Tăng trao tặng chàng một cái gậy và một chiếc nó, dặn rằng: - Linh thông tại hai vật này đó.
Đồng Tử trở về, đem truyện đạo Phật nói với Tiên Dung. Cả hai giác ngộ, bỏ hết thương sự, đi tìm Thầy học đạo. Một ngày kia, đi đường gặp trờ toấ, giữa đường không có nhà trọ, Đồng Tử cắm gậy xuống treo nón lên để che cho giấc ngủ. Đến canh ba thức giấc, bò dậy, thì thấy hiện ra thành quách, cung điện nguy nga, đầy vàng bạc châu báu, tiên đồng ngọc nữ hầu hạ chung quanh. Trời sáng, dân chúng thấy đền đài nguy nga, đến xem và dâng lễ vật, tôn xưng hai người làm tiểu vương, lập nước rieng tự trị. Hùng Vương nghe tin, cho rằng Công Chúa làm phản, lền sai quân đi đánh. Quan quân đóng trại ở bãi Tự Nhiên, chờ ngày tiến binh. Nử đêm ấy bỗng nhiên phong ba nổi dậy, quan quân tán loạn... Cung điện thành quách của Tiên Dung bỗng chuyển dộng mạnh và dâng lên trời, đất nơi ấy sụt xuống thành một đầm lớn. Sáng ngày dân chúng đến coi không thấy cung điện thành quách nữa, mà chỉ có một đầm nước lớn, cho là điềm lạ, lập đền thờ để tưởng niệm, mệnh danh nơi đây là ĐAM NH...T DA.
truyện trầu cau
Đời thượng cổ có một người tên là Quang Lang phong độ oai phong cao lớn, thuộc họ Cao. Sinh được hai con trai, đặt tên là Tân và Lang. Cha mẹ chết, hai anh em trọ học nhà họ Lưu, tức Lưu Huyền. Nhà họ Lưu có một cô gái mười bảy mười tám muốn cưới một trong hai người. Nàng kết hôn với người anh. Người em bị bỏ lơ, buồn giận, bỏ đi. Đến nơi hoang dã gặp gặp dòng cuối lớn, không có thuyền sang ngang, anh ta buồn, ngồi khóc cho đến chết, hoá thành một cây cao..
Người anh thấy mất em, bỏ vợ đi tìm em. Thấy em đã chết, liền gieo mình bên gốc cây, tự tận, hoá thành tảng đá bao quanh gốc cây.
Người vợ không thấy chồng về, bỏ nhà đi tìm, thấy chồng đã chết, nàng cũng gieo mình ôm tảng đá mà chết luôn, hoá thành cây leo quấn quít quanh tảng đá.
Cha mẹ Lưu Thị đi tìm con, đến đó than khóc, rồi lập đền để thờ, mọi người qua lại đều tháp hương vái lạy, để ca tụng tình anh em hoà thuận, vợ chồng tiết nghĩa.
Trong khoảng tháng Bảy tháng Tám, Vua Hùng Vương đi tuần, thường dừng nghỉ chân nơi đó. Thấy cảnh tượng hữu tình, hỏi truyện mới biết tự sự. Vua truyền hái một trái cây và một lá dây leo, bỏ vào miệng nhai, rồi nhổ trên đá, thấy sắc đỏ tươi, biết là vị ngon, đem về; rồi lấy đá nung làm vôi, cùng ăn với hai vị lá và quả kia, thấy vị ngon, bùi, thơm lại cho đôi môi đỏ mọng. Rao truyền cho thiên hạ ăn ba vị đó, nhân gian ưa thích, từ đó Vua cho nhân gian dùng ba vị ấy để mở đầu cho câu truyện khi gặp gỡ nhau, gọi là ăn trầu: miếng trầu là đầu câu truyện.
truyện phù đổng thiên vương
Đời Hùng Vương thứ ba, thiên hạ được thái bình an vui, vua nhà Ân giả d0ang đi tuần thú phương Nam, có ý để xâm chiếm nước Nam. Hùng Vương triệu tập binh mã để giao chiến.Vẫn nhớ tục xưa: khi nào gặp nguy lại cầu Loang quân. Hùng Vương lập đàn cầu đảo, ba ngày sau trời đổ mưa gió sấm sét, bỗng thấy một cụ già cao hơn sáu thước, mặt vuông râu bạc ngồi ở ngã ba đường mà nói cười ca múa. Dân gian thấy vậy cho là bậc phi thường, đi tâu Vua, Hùng Vương giữ lễ, đến vấn kế:- Nếu có cao kiến, xin đại nhân gia ân cứu gúp. Ông già tâu: - Sau ba năm giặc mới qua đánh. - Nếu giặc tới, phải làm gì ? - Phải luyện binh và chuẩn bị khí giới. Rao tìm khắp thiên hạ, ai là người dẹp được giặc, thì phong Tước. Nói đoạn liền bay lên không mà biến đi. Vua biết đó là Long Quân.
Vừa đúng ba năm, tin từ biên giới cho biết có giặc Ân tới, Hùng Vương loan truyền khắp nơi để tìm người dêp giặc. Tại làng Phù Đổng, quận Vũ Ninh, có một phú hộ hơn 60 tuổi, sinh được môt con trai đã ba năm, chưa biết nói, chỉ nằm ngửa hoà. Bà mẹ đến nói dỡn với con: - thằng nhỏ này chỉ biết ăn uống, chứ không biết đánh giặcđể lĩnh thưởng của triều đình, mà đền ơn bú mớm.
Việt Nam. Nhưng quân quốc Việt Nam đã cầm chân và tiêu diêt giặc Mông (lúc ấy đã thống lĩnh Trung Hoa, tạo danh là nhà Nguyên) tại trận địa Bặch Đằng giang (1288) trước bàn tay uy dũng của Trần Hưng Đạo. ầ Vua Lê Thánh Tông cảm hứng trận đại thắng này bằng bài thơ Tứ Tuyệt:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã.
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
Xã tắc hai phen gan ngựa đá,
Nghìn năm sông núi vững âu vàng.
* Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược.Saigon: Sống Mới, 1971, trg 157-158.
Truyện Phù Đổng Thiên Vương cũng mang một ý nghĩa Tướng Anh Linh, Dân anh Hùng như vậy.
Trong duy sử Bách Việt gồm: Ngô Việt (Thượng Hải, Nam Kinh), Phù Việt (Hội Kê), Di Việt, Điểu Việt (Giang Tô), Ư Việt (Triết Giang), Dưong Việt (Giang Tây), Đông Việt (Quảng Đông hay Nam Việt), Tây Việt, Âu Việt (Vân Nam), Bộc Việt, Mân Việt (Châu Kinh), Lạc Việt (Bắc Việt), Việt Thường (Trung Việt). Tất cả dòng Bách Việt có 11 Việt, Nghe mẹ nói, đứa trẻ liền lên tiếng: - Mẹ gọi sứ giả vào đây để con hỏi xem có việc chi. Bà mẹ vui mừng, kinh ngạc kêu lên: - Con tôi đã biết nói. Sứ giả tới, hỏi: -Mày là đứa trẻ mới biết nói, kêu ta đến làm gì ? - Ông về tâu vua đúc cho ta một con ngựa sắt cao 18 thước, một lưỡi gươm dài bảy thước, mọt chiếc nón sắt, ta sẽ cỡi ngựa, đội nón đi đánh giặc, giặc sẽ tan tành, không gì phải lo cả. Sứ giả chạy về tâu vua, vua mừng lớn, than lên: - Thế thì ta không lo gì nữa. Một cận thần tâu: - Một người đánh giặc, làm sao phá được giặ ? Vua dạy: - Đó là Long Quân giúp ta, lời lão nhân nói quả không sai. Vua truyền lệnh: làm tất cả những gì đứa bé dạy làm.
Sứ giả đem ngực sắt, gươm sắt và nóc sắt đến, bà mẹ sợ hãi hỏi con. Đứa bé cười rồi bảo: - Mẹ lấy thật nhiều cơm cho con ăn, con sẽ đi đánh giặc, mẹ đừng sợ gì. Ăn vào, đứa bé lớn lên rất mau. Hàng xóm đưa thêm cơm thịt, đứa bé ăn vẫn chưa no. Chờ tới khi quan quân nhà Ân tới, Phù Đổng đội nón sắt, lên ngựa, ngựa phi như bay đến múa gươm xông vào trận dưới núi Châu Sơn. Giặc Ân thấy uy dũng của Tướng Việt Nam, liền trở giáo chạy trốn. Tướng Ân tử trận. Quân đội Ân qùy la liệt đầu hàng và hô lên: Chúng tôi hết thảy xin quy hàng Thiên Tướng.
Tướng trẻ phi ngựa đến Sóc Sơn, cởi áo giáp, cỡi ngựa bay về trời.
Hùng Cương nhớ đến đạ chiến công, tôn Tướng Quân làm Phù Đổng Thiên Vương. Các tiểu quốc chuug quanh nghe truyện lạ, đều về thần phục. Sau Vua Lý Thái Tổ tôn phong là xung thiên thần vương, lập miếu thờ tại làng Phù Đổng.
bánh dầy bánh chưng -
Sau khi Hùng Vương đã dẹp xong giặc Ân, vua lo việc truyền ngôi cho con, hội 20 công tử lại, ban lệnh: - Ta muốn truyền ngôi cho con nào đẹp lòng Ta, là đến cuối năm ai có đồ gì trân cam mỹ vị dâng tiến Tiên Vương, để trọn đạo Hiếu, Ta sẽ truyền ngôi cho. Các công tử lo đi tìm các phẩm vật qúy, để dâng Vua. Công Tử thứ 9 là Liêu Lang về hỏi mẹ. Bà lo buồn, mất cả ăn ngủ. Đêm đến Liêu Lang được Thần nhân báo mộng: - Trong trời đất không có gì quý bằng gạo, ăn mãi không chán. Nếu lấy g0ao nấu cơm rồi làm bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, và bánh khác hình vuông tượng tưng cho Đất, ngụ ý Trời đấ hoá sinh vạn vật; bên trong làm nhân cho thật ngon, sẽ được ý Vua.
Sáng dậy công tử chọn gạo nếp gói hình vuông trong lá xanh, chế nhân thật ngon, nấu chín, gọi là bánh chưng. Lại nấu xôi, giã cho thật nhiễn, làm bánh hình tròn chỉ Trời, gọi là bánh dầy.
Đến ngày hẹn, các công tử bày đủ các phẩm vật cao lương mỹ vị, Tiết Liệu tức Liêu Lang đem bánh chưng vuông bánh dầy tròn ra bày. Vua Cha thấy hai thứ bánh lạ, phán hỏi, Liêu Lang thân thưa đúng như lời Thần dạy. Vua Hùng nếm thử hai thứ bánh, thấy vị lạ thơm ngon, suy nghĩ rồi chấm cho Liêu Lang được nhất. Năm hết tết đến Vua dạy làm hai thứ bánh tiến lễ Tiên Vương và Tiên Tổ, rồi con cháu chia nhau ăn hưởng lộc. Từ đáy truyền ra nhân gian. Bá tính bắt chước Vua hằng năm dịp Tết, làm bánh dầy bánh chưng để tiến lễ và ăn mừng Tết.
Vua Hùng truyền ngôi cho Liêu Lang; còn các công tử khác chia nhau trấn giữ các châu quận, lập thành bộ tộc.
việt tỉnh cương
Sau trận giặc Ân, Đức Thánh Gióng tức Phù Đổng Thiên Vương bay lên trời, còn Ân Vương tử trận dưới cân núi, thành Địa Phủ Quân. Nhân dân lập đền thờ, bốn mùa cúng tế. Sau đền đổ nát thành chùa hoang. Có người Việt là Thôi Lang làm quan Ngự Sử nhà Tần, thường đi ngang đây, thấy cảnh đỰêu tàn, mới trùng tu lại.
Tới thời Triệu Đà Nam xâm cũng đóng quân tại chân núi này, trùng tu miếu thờ, Ân Vương cảm ứng công đức, sai Ma Cô Tiên đi tìm Thôi Lang để báo ân. Thôi Lang lúc ấy đã chết, còn người con tên là Thôi Vỹ. Nhân tiết Thượng Nguyên tháng Giêng, nhân dân đi lễ đền, có người dang cúng một cặp bình pha lê, Ma Cô cầm lên ngắm nghía, vô ý để bình rơi xuống đất, mở ra một mảnh. Người ta bắt Ma Cô đòi bồi thường; Ma Cô mặc áo rách, không ai biết là Tiên, nên bị đánh đòn. Thôi Vỹ thấy vậy thương hại, cởi áo đền hộ nàng. Ma Cô thoát nạn, tìm đến nhà Thôi Vỹ tạ ơn. Đến nơi mới biết Thôi Vỹ là con Thôi Lang Nàng vui mừng, thưa rằng: - Ta bây giờ không có gì đền ơn, mai sau xin hậu báo. Nàng đưa cho Thôi Vỹ một lá Ngải và dặn rằng: - Hãy giữ kỹ vật này, lúc nào cũng để trong mình, mắc bệnh nhục ảnh (nhọt, bướu), đem cứu tất khỏi, nhờ vật này sẽ được giầu sang.
Thôi Vỹ cầm lấy lá Ngải, không biết đây là thuốc Tiên. Một hôm đến nhà đ0ao sĩ Ứng Huyền, thấy ông có một cái nhọt trên đầu, Thôi Vỹ bảo: Tôi có vị này có thể trị bệnh cho ông. Chàng lấy lá Ngải cứu cho ông, nhọt độc tiêu tan. Ứng Huyỳn nói: Đây là thứ thuốc Tiên, tôi không có gì đền ơn. Nhưng tôi có người thân thích cũng bị bệnh này, ông ta thường nói: hễ ai chữa bệnh được, thì dù đền ơn hết gia tài cũng chẳng tiếc. Tôi xin thân dẫn anh đến giúp ông, ông sẽ đên ơn giúp tôi. Ứng Huyền đem Thôi Vỹ đến nhà Nhâm Hiêu, chàng lấy Ngải ra cứu, nhọt độc tức khắc lành ngay. Nhâm Hiêu rất mừng, nhận Thôi Vỹ làm con, dạy Vỹ học hành. Sẵn trí thông minh, học hành thông giỏi, ưa thích đàn Cầm, chàng thấy con gái Nhâm Hiêu là Phương Dung đem lòng thương yêu và gian díu tư thông. Nhâm Phu là anh biết truyện, định sát hại Thôi Vỹ. Nhân dịp cuối năm, có lễ tế Thần Xương Cuồng, Nhâm Phu lập mưu giữ Thôi Vỹ ở nhà để sát hại. Phương Dung biết ý lấy con dao trao cho Thôi vỹ, bảo đục vách tường mà ra.
Đêm khuya Thôi Vỹ trốn đi, định đến nhà Ứng Huyền. Không may sẩy chân rớt xuống một hang động. Không có lối thoát, chàng thấy một mâm đá có con rắn trắng dài trăm thước, mỏ vàng miệng đỏ, vây bạc, dưới hàm có một cục bướu, trên trán có ba chữ vàng Vương Tử Xà, bò ra ăn thạch nhũ. Thấy chàng, rắn cất đầu lên toan nuốt Thôi Vỹ; chàng sợ hãi quá, quỳ xuống lạy rằng: Thần tị nạn, sẩy chân rớt xuống đây, thật là đắc tội, dưới cằm Vương có buớu độc, Thần xin lấy Ngải cứu lành, để chuộc tội. Bạch xà liền ngẩng đầu lên cho chàng cứu, bỗng thấy đồng nội bị cháy, một tia lửa bắn vào trong hang, Thôi Vỹ lấy Ngải cứu cho rắn, bướu độc liền tan ngay. Rắn vui mừng, uốn cong người cho Thôi Vỹ ngồi trên lưng, đua chàng lên cử hang.
Thôi Vỹ đi một mình, lạc đường, bỗng thấy trên cửa thành có một lầu cao, đèn sáng trưng trưng, có biển vàng đề Ân Vương Thành. Chàng lững thững bước vào giữa sân, thấy một bên có một hồ sen ngũ sắc, chung quanh hoa lá đua chen, ngọc châu rực rỡ. Lên nữa, thấy một cung điện có hai giường vàng, trải chiếu, trên tường có treo hai chiếc đàn cầm sắt. Chàng nhẹ nhàng bước vào, lấy đà cầm dạo một bài. Kim đồng ngọc nữ vài trăm người hầu, Bà Ân Vương Hậu mở cửa đi ra, Thôi Vỹ hoảng sợ chạy xuống sân điện sụp lạy. Ân Vương hậu cười tươi hỏi rằng: - Thôi Quân ở đâu lại ? Bà sai người mời chàng lên cung điện: - Đền thờ Ân Vương lâu đời hoang phế, nhờ quan Ngự Sử trùng tu, người đời mới có chỗ hương khói tôn kính Ân Vương. Quân Vương đã sai Ma Cô đi tìm Thôi Lang để báo đức, mà không gặp, chỉ gặp Công Tử, nên chưa có dịp đền đáp. Nay may mắn Công Tử lại đến đây, nhưng Quân Vương lên chầu Trời, chưa biết lúc nào hồi điện.
Người ta dọn yến cho Thôi Vỹ ăn no say, rồi sai Dương Quan Hậu đưa Thôi Vỹ về trần. Chàng về nhà Ứng Huyền, thuật lại mọi truyện . Ngày mồng Một tháng Tám, hai người cùng tản bộ, thì gặp Tiên Ma Cô dắt theo một cô gái, trao cô gái cho Thôi Vỹ dắt về làm vợ; lại cho viên ngọc Long Toại là ngọc quý, Ân Vương vẫn mang trong mình, giờ đây tặng công tử để đền ơn.
Sau đó các nhà vọng khí biết rằng ngọc Long Toại còn ở Phương Nam, nên phái một số người xuống Âu Lạc để chuộc ngọc quý ấy. Giá viên ngọc đáng giá cả trăm vạn. Nhờ bán được ngọc qúy, Thôi Vỹ trở nên giầu có sang trọng. Sau đó Tiên Ma Cô và vợ chồng Thôi Vỹ đi đâu, không ai biết nữa. Nay giếng bỏ hoang, hang đẫ còn ở núi Châu Sơn. Người đời gọi đó là Việt Tỉnh Cương.
III. ý nghĩa huyền thoại trong công cuộc dựng nước
Đã gọi là Huyền Thoại, tất nhiên những truyện trên đây mang một ý nghĩa đặc biệt của người đặt truyện. Phải xác định rằng những truyện ấy mang nhiều ý nghĩa: dân tộc sử, dân tộc tính, dân tộc hồn, dân tôc đạo, dân tộc nhân sinh, dân tộc hào khí, dân tộc tồn thăng. Những truyện ấy còn là khuôn thức để hành động, là kỷ cương để bảo tồn, là đường đi để khai phóng.
Dân tộc sử
Huyền thoại thường mang tính cách huyền sử. Lịch sử thì bám vào thời gian không gian, bám vào sự kiện; còn huyền sử thì vượt thời gian không gian, vượt lên cả sự kiện để đi vào chiều sâu, chiều rộng.
Những kiểu nói 18 đời Hùng Vương không hẳn là có 18 đời thứ tự thời gian nhất định mà là huyền số, như 18 ngàn năm của Ông Bàn Cổ, 18 thước cao của con ngựa Phù Đổng Thiên Vương, 18 đôi chim trên mặt Trống Đồng v.v. Con số đó ám chỉ số nhiều, không hạn định, và còn có nghĩa là vô số nữa. Tuy nhiên con số 18 không phải vô căn cứ. Nó bắt nguồn từ số 3 mệnh danh là số dương: 3 3 là 9 và 2 9 là 18. Đế Vương là Vị Vọng cao nhất cai trị 9 họ, tượng trưng bằng 9 đỉnh đồng gọi là Cửu Đỉnh. Về con số 2 và 3 sẽ đề cập sau.
Hai chữ Hùng Vương cũng không phải là Đế hiệu, mà chỉ có nghĩa là Ông Vua hiển hách. Nó nói lên tính cách Anh Hùng, Thượng Võ của Nhân thoại Lạc Việt. Người Việt khởi đầu là Người Mạnh mang Anh Hùng Tính. Nhân dân bách tính là con cái Người Hùng, cần phải sống mạnh, để được gọi là DÂN ANH HUNG. Vì thế hai chữ HUNG VUONG chính là một hiến chương của dòng Lạc Việt, tiền nhân của Việt Nam. Duy sử đã chứng minh nhiều lần: Bách Việt, tiền thân của Việt tộc và hiện thân của Viêt Nam đã cầm chân Hán tộc, tiền thân của Trung Hoa. Nhất là một biến cố vĩ đại trong lịch sử Viễn Đông: thời trung cổ, quân Mông Cổ nổi dậy đánh rạp cả đế quốc La Mã, khất phục hết Âu Châu và Trung đông, lại áp đảo toàn cõi Trung Hoa, đánh xuống nhưng kinh qua mấy nghìn năm lịch sử, các Việt kia đều bị đồng hoá với Hán tộc, chỉ duy có Lạc Việt và Việt Thường còn tồn tại, làm thành dân tộc Việt Nam tới ngày nay.
Tổ Phụ của Lạc Việt là Tiên Rồng. Hai đại từ này mang ý nghĩa cao quý và thiêng liêng của Tổ Tông Lạc Việt. Dân anh hùng phát sinh từ RONG, một vật biểu trong Tứ Linh: Long Lân Quy Phụng.ầ Rồng thuộc Dương Tính làm chủ Thủy Cung. TIÊN là Tổ Mẫu Lạc Việt, cũng là siêu nhân, ngang với Thánh, cha ông ta thường gọi la Tiên Thánh. Tiên Thánh chính là con người khéo tu mà thành. Rồng chỉ sự cao sang quý trọng, Tiên chỉ tài sắc mặn mà.
*à Tại Trung Hoa, nhà thượng lưu thường được trang trí bằng tranh Tứ Linh, gọi là Tam Phụ Hoàng Đồ, tức Thương Long (rồng xanh), Bạch Hổ (Hùm trắng), Chu Tước (sẻ đỏ) và Huyền Vũ (quốc đen).
Truyền thống Hùng Sử là như thế, nên vật biểu của Lạc Việt là Rồng. Theo địa lý hình thể đất Việt ngày nay mang hình Rồng, mà hoạ sĩ Cao Uy đã hoạ nguyên hình. Theo truyền thống huyền sử như vậy, người Việt ngày nay cũng có những đức tính cố hữu của Rồng: rất quen và thành công trong nghề thủy sản, có trí thông minh (Trí giả lạc thủy), có óc kinh doanh (trên ngàn dưới bể), có chí dọc ngang hồ hải, có tinh thần khắc phục gian nguy v.v. Đặc điểm của Tiên cũng thấm nhuần nơi tâm hồn và thể xác người việt. Trai thanh gái lịch là hình ảnh của Tiên, có đủ Tiên Ông Tiên Bà Tiên Cô và Tiên Cậu. Riêng con gái Việt Nam được tiếng trong lịch sử là đẹp hơn Hán Tộc và các tộc chung quanh. Trong lịch sử giai nhân của Trung quốc có bốn người đẹp, gọi là Tứ Đại Mỹ Nhân: Hằng Nga, Tây Thi, Điêu Thuyền, Dương Quý Phi. Trong bốn người đẹp, thì ba người là gái Việt Tộc, chỉ có một mình Điêu Thuyền là người Hán tộc.
Theo nhận xét của người Âu Mỹ, gái Việt đẹp hơn tất cả gái Á Châu. Gái Nhật đẹp rắn rỏi khỏ mạnh; gái Tàu đẹp nhờ mỹ phẩm tô tạo; gái việt đẹp mặn mà tự nhiên: mai cốt cách, tuyết tinh thần, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Không lạ gì, vì là con cháu Tiên Nữ. Ngay theo khoa tâm sinh lý: khi mang thai, cha mẹ nghĩ rằng con mình đẹp, nó sẽ đẹp.
Huyền sử Âu Cơ Lạc Long với 100 con còn nói lên: chế độ Mẫu hệ từ khởi thủy lập quốc, mà giáo sư Kim Định gọi là Nguyên Lý Mẹ. Truyện Tiên Dung cũng nói lên chế độ Mẫu hệ: Mẹ nắm quyền trong gia đình và định đoạt mọi sự cho con cái. Đồng thờ cũng nói lên ý nghĩa Gia đình Việt tộc lúc đầu vẫn đặt trên Tình Yêu tự chủ và dân chủ, cũng như trên Mẫu Tộc. Trong khi đó Hán Tộc và Nhật Bản theo chế độ Phụ Hệ: Cha làm chủ và xướng xuất mọi sự mới thuận ý Trời. Sở dĩ thế là vì người Trung Hoa là dân du mục, phải có Cha lãnh đạo, xông pha đó đây. Trong huyền thoại của Nhật Bản có truyện Khai thiên lập địa kể Izanagi và Izanami là Tổ Phụ loài người; Izanami lài gái khởi xướng cầu hôn với Izanagi, nên khi sinh con, chỉ sinh ra quái vật. Hai vị buồn sầu hỏi một Thần vọng tuổi, Ngài trả lời: Izanagi phải câu hôn trước mới có con xinh đẹp. Người đàn ông phải hỏi người đàn bà làm vợ mới hợp ý Trời.
Tất cả các ý nghĩa đẹp trên đây đã tác động tâm tư người Việt tư ngàn xưa, giờ đây đã biến một dân tộc bé nhỏ, trở thành lớn lao, góp mặt trên 40 nước hoàn cầu, tuổi già cần cù đạo đức, tuổi trẻ khoẻ mạnh, thông minh, đoạt những thành tích chân thiện mỹ trong m0oi lãnh vực. Tuy nhiên cũng là một dân tộc đoạn trường, nhờ đoạn trường mà quật khởi. Cơn ác mộng cộng sản còn đè nặng trên quê hương cho đến giờ này cũng do cái số đọan trưòng ấy. Nhưng đoạn trường lắm lại vinh quang nhiều. Giờ quật khởi đến càng thăng hoa khởi sắc.
DÂN TộC TíNH cũng hiểu là Hồn Dân Tộc hay Quốc hồn, là cái tâm tính bên trong. Dân tộc tính biểu lộ ra qua tâm tính nhân tình. Đây cũng hiểu là tinh thần của người Việt. Muốn tìm cho ra dân tộc tính, hãy đọc lại huyền ý của các truyện Tiên Dung, Truyện Trầu Cau, Truyện Thánh Gióng và Truyện Thôi Vĩ.
Truyện Tiên Dung nói lên Mẫu tính hay nguyên lý Mẹ, có nghĩa là tinh thần tôn trọng nữ quyền. Trong các nước thuộc khối Viễn Đông, người phụ nữ Việt Nam không bị lép vế như phụ nữ trong các nước khác. Ca dao là những tâm tình phát xuất trung thưc nhất của người dân quê Việt; ta thử đọc câu:
Lạy cha ba lạy một qùy
Lạy mẹ bốn lạy con đi lấy chồng. Ba lạy chỉ lòng tôn kính đấng sinh thành, một quỳ chỉ uy quyền. Bốn lạy chỉ sự vâng phục trọn vẹn, vì mẹ là gia chủ, theo ý nghĩa mẹ ở nhà nhiều hơn cha. Những từ Mẫu thân, nội tướng, nội gia đều chỉ mẫu quyền của mẹ.
Lấy chồng cũng là một từ mang ý nghĩa nữ quyền. Không phải chỉ có đàn ông lấy vợ, mà con gái cũng lấy chồng, tức cũng có quyền lựa chọn.
Truyện Trầu Cau cũng đề cao nữ quyền.Hai nam chết vì một nữ. "Miếng trầu là đầu câu truyện". Con trai phải đưa trầu đến nhà gái xin làm quen, xin đính hôn và xin dẫn cưới, đón Dâu, qua Lễ Vu Quy và Lễ Gia Tiên. Hai Lễ này nếu được duy trì ngày nay, cũng chỉ là hình thức nói lên dân tộc tính, chứ chưa hẳn là dân tộc tính. Dân tộc tính ở tại tinh thần bên trong, đó là lòng tôn kính Nhân tính qua ông bà Tổ Tiên và tôn trọng Nữ quyền hay Nguyên lý Mẹ.
Các truyện ấy còn nói lên tinh thần Đạo nghĩa của Việt tộc. Tinh thần đạo nghĩa thể hiện ở niềm Tin vào siêu nhiên giới: Đấng Tạo Hoá và Thần Thánh, Tiên Phật. Các Đấng ấy thường phù hộ cho người ăn ngay ở lành, có lòng thương người. Do vậy dân tộc tính ơ đây là Tinh thần mộ đạo, Giầu tín ngưỡng, đức Hiếu Sinh, lòng thương người, sự ngay thẳng. Tục ngữ ca dao đã tôn vinh những dân tính đó: "Dầu ai chác lợi mua danh, Miễn ta, ta được đạo lành tì thôi" hay như câu khác: "Trời kia còn ở trên đầu còn kinh"... "Thương người như thể thương thân"...."Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân" v.v.
Đặc biệt các dụng cụ thần thánh như Sách Ước gậy Thần trong truyện Long quân, Nỏ Thần trong truyện Mị Châu, Gậy Thần Nón Thánh trong truyện Chử Đồng Tử Tiên Dung, Ngải Cứu và Nọc Long Toại Trong truyện Thôi Vỹ. Những dụng cụ thần thánh ấy nói lên Nhân tính hoà hợp với Thần Tính, trở thành một nhị hợp Thần Nhân rất cao quý.
tinh thần quật khởi cũng là một đặc tính của dân tộc. Tự ý thức và tự trọng nhận mình là con rồng cháu Tiên, người Việt dọc dài mấy ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng giữ được bản lãnh quật khởi của dân anh hùng. Tuy bé nhỏ mà nội lực thâm hậu. Ngựa cao mười tám thước cũng như mười tám đời Hùng Vương ám chỉ toàn dân trong Cửu Tộc, tượng trưng bằng Cửu Đỉnh. Sức quật khởi phi thường gấp đôi bình thường (2 lần 9 là 18). Phù Đổng Thiên Vương đánh tan giặc Ân, không cai trị và hưởng lợi lộc, mà bay lên Sóc Sơn, bỏ áo lại bay lên trời.
Truyện Sơn Tinh Thủy Tinh cũng chỉ nói lên sức vươn lên của Việt tộc trong khi lâm biến. Nước càng dâng cao, núi lại càng vươn cao hơn. Lịch sử đã chứng minh tinh thần quật khởi ấy. Gần một nghìn năm đô hộ Tàu, cha ông ta vẫn khôi phục, đánh đuổi kẻ áp bức. Một trăm năm đô hộ Pháp cũng tan. Rồi bây giờ 50 năm đô hộ cộng sản, dân ta vẫn không lui bước. Sau 50 năm bị trói buộc áp bức, dân ta nghèo khổ, nhưng vẫn không bị xích hoá. Nhất là dân công giáo, vẫn thản nhiên vững niềm tin, không chịu lập giáo hội tự trị, khong khi đó chưa một nước cộng sản nào trên thế giới, sau mười năm mà không ly khai Giáo Hội Roma. tinh thần tương thân kết đoàn cũng là đặc tính của dân ta. Nói như thế có nhiều người phản ứng chống đối, vì đang nhìn thấy trước mắt những hiện tượng chống phá nhau, chi rẽ nhau; hơn nữa còn tìm hết cách loại trừ nhau, tiêu diệt nha. Có truyện đó là vì thế nhân đa sự ngày nay đã quên mất gốc, mất tinh thần dân tộc. Khởi đầu lập quốc từ thời Âu Cơ Lạc Long. Tuy là một bên Mẹ Tiên, một bên Cha Rồng; năm mươi con trai theo Bố về Thủy quốc; năm mươi con theo Mẹ làm chủ trên mặt đất. Lời Bố Rồng đã trở thành Hiến Chương Lập Quốc:
"Ta đem năm mươi trai về Thủy Phủ phân trị các xứ, năm mươi trai theo nàng ở lại mặt đất, chia đất mà cai trị; dù lên núi xuống nước, nhưng khi hữu sự, thì cùng nghe, không được bỏ nhau".
Rõ ràng: thủy địa đôi ngả, âm dương cách trở, hoàn cảnh khác biệt, nhưng phải một lòng một dạ với nhau xây dựng hoà bình ấm no. Khi hữu sự thì cùng nghe nhau, quyết không bỏ nhau. Đó là hiến chương, hiến pháp như một mối dây thân tình thắt buộc con rồng cháu Tiên suốt mười tám thờ Hùng Vương có cả hai nghìn năm dư. Dòng giống Việt lúc nào cũng tôn trọng và nhất tâm duy trì sự tương thân tương ái, đoàn kết trong thời bình cũng như thời loạn. Qua những hoàn cảnh đại loạn, tinh thần đoàn kêt đã giúp cha ông ta vượt thắng tất ca. Những mấu chốt lịch sử: Hai Bà Trưng, Triệu Nương Tử, Lê Lợi, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, nhất là Hội Nghị Diên Hồng là những tang chứng lịch sử cụ thể cho Tinh Thần đại đoàn kết của dân tộc Việt.
Sở dĩ có sự phân tán giữa người Việt khắp nơi ngày nay là do hoàn cảnh bị trị ba lần bốn lượt. Người cai trị luôn luôn gieo tinh thần chia rẽ để phân tán lực lượng, để tránh hiểm hoạ nổi dậy. Dù sao đi nữa, đặc tính của người Việt muôn thủa vẫn là sự đoàn kết tương thân; sự chia rẽ chỉ là một tai nạn trên đường chính trị. Đã là tai nạn, thì rồi sớm muộn gì rồi cũng tai qua nạn khỏi. Điều quan trọng là người Việt cần phải đề phòng những mưu mô của cộng sản, không còn đủ sức để xây dựng, nên gia công phá đổ những công việc của người Việt quốc gia bằng gây chia rẽ phân tán.
ngay thẳng trung thực
Đây là đức tính truyền thống của dân tộc Viẹt từ thủa lập quốc. Vốn là dân tộc sống theo triết lý nông nghiệp, nên tính tình ngay thẳng trung thực, nhiều khi đến chất phác. Trong đời sống nông nghiệp họ tuân theo Kẻ Sĩ là người sống theo đạ Thánh Hiền. Trong dân sinh, có bốn nghề chính lá Sĩ Nông Công Thương. Một khi trọng Sĩ, thì ưa thích những điều ngay chính đúng mực, vì Kẻ Sĩ là mô phạm của đạo Thánh Hiền, tôn trọng những điều Đức Chan Thiện Mỹ. Tinh thần Thượng Nông cũng đòi người dân phải biế ThỰn thời, Địa lợi, Nhân hoà. Thiên thời đòi phải thành tâm; Địa lợi cần giữ đúng lề lối thiên nhiên; Nhân hoà tất nhiên đòi phải trung tín thành thực.
Truyện Tiên Dung Chử Đồng Tử thực sự là mẫu mực đạo nghĩa và trung thực. Tiên Dung tự hối, chờ lệnh Cha và sẵn sàng đón mệnh là trung thành.Chính nhờ lòng trung thành ấy, mà Trời thương phù trợ cho thoát nạn. Chử Đồng Tử không ham phú quý, tìm Thầy học đạo, được hiền tăng trao ban Gậy thần nón thánh, được Trời phù hộ thoát nạn và nên vinh hiển. Sự thật bao giờ cũng thắng. Truyện Dưa Hấu cũng nói rõ tấm lòng chân thực của An Tiêm. Vua Hùng đã nói: "Nó bảo là vật tiền thân của nó, thực là không nói dối vậy".
Sau này ca dao cũng xác nhận điều ấy:
Của Trời tám vạn nghìn tư,
Hễ ai ngay thật thì dư của Trời.
tinh thần hiếu hoà cũng là dấu ấn của dân Việt và là kết quả của nền triết lý nông nghiệp. Nếp sống nông nghiệp là nếp sống tập thể: cùng làm cùng nghỉ, cùng ăn cùng chịu và cùng vui với nhau; khi mưa thuận gió hoà, khi hạn hán thủy tai, cùng chia sẻ vui mừng và lo âu với nhau. Đời sống xã hội vì thế luôn luôn giao hoà, gọi là hiếu hoà. Đi đến đại hoà gọi là thái hoà.
Truyện Bánh Dầy Bánh Chưng đủ nói lên tinh thần hoà hợp giữa Âm Dương, giữa nam quyền và nữ quyền. Đồng thời cũng nêu lên dòng triết lý bao la như trời đất, mà lại gần gũi thực tế như miếng ăn. Bữa ăn là một căn cứ kết giao, là một chân trời thái hoà. Cha ông đã dạy con cháu: Dĩ hoà vi quý. Hoà hợp trong gia đình: thuận vợ thuận chồng, như trong tuyện Âu Cơ Long quân, truyện Trầu Cau; Hoà hợp ngoài xã hội: người trong một nước phải thương nhau cùng, như truyện Tiên Dung Chử Đồng Tử lập phố buôn bán cho nhân sinh phồn thịnh; Hoà hợp giữa giầu nghèo, qúy tộc và nhân gian, như truyện Công Chúa Tiên Dung cưới người dân khố rách áo ôm họ Chử. Hoà hợp giữ quốc tế, như truyện Mị Châu Trọng Thủy hay Chim Bạch Trĩ.
IV - ý nghĩa huyền thoại trong văn hoá việt nam
Văn hoá là nếp sống của con người được biểu hiện qua các lãnh vực nhân sinh, như tôn giáo, phong tục, giao tế, tính tình, tư tưỏng, giáo dục, xã hội, kinh tế, chính trị v.v. Có thể cho rằng: Văn hoá là mức độ của văn minh. Chính vì Huyền Thoại biểu lộ tất cả các phương diện trên, cho nên Huyền Thọai đóng một vai trò quan trọng trong văn hoá của một dân tộc.
Qua kho tàng Huyền thoại việt Nam, chúng ta thấy các dòng triết lý, căn bản cho văn hoá được khơi nguồn một cách đầy đủ và xác thực. Chúng ta có thể khai thác ba dòng Triết Lý bắt nguồn từ Viêt Tộc. It nhất có thể khai quật ba dòng triết lý căn bản: Triết lý Tam Tài, Triết lý Âm Dương và Triết lý Nông Nghiệp.
Ba dòng triết lý này được thể hiện qua các Huyền Thoại, nhưng nguồn mạch đến từ đâu ? Để trả lời chúng ta phải trở về nguồn tài liệu của Bách Việt qua tập tài liệu Cổ bằng Nho văn:
Bách Việt Tiên Hiền chí
bách việt tiên hiền chí là tập ách quý trích trong đại Bộ Lĩnh Nam di thư của Trung Hoa. Đây là tài liệu ruột cho các nhà khảo cổ và nhân chủng học, cũng như cho các nhà Văn Hoá Việt Học đang xây dựng cho Việt Nho Việt Triết. Chúng tôi long trọng giới thiệu: chúng ta còn đường đi và những chứng tích linh động của tư tưởng Việt Tộc hay Bách Việt qua tập tài liệu quý giá này.
Bách Việt Tiên Hiền Chí do Âu Đại Nhậm, tự Trịnh Bá, đời Minh tuyển sọan. Sách bao gồm 102 Hiền Triết Bách Việt: Âu Trị Tử, Trù Vô Dư, Âu Dương, Kế Nhi, Phạm Lãi, Tiết Chúc, Trần Âm, Chư Kê Dĩnh, Cao cố, Sử Lộc, Mai Quyên, Công Sư Ngung, Trương Mãi, Trịnh Nghiêm, Điền Giáp, Hà Di, Tất Thủ, Nghiêm Trợ, Chu Mãi Thần, Đặng Mật, Tôn Miêu, Ngô Bá, Trịnh Cát, Hà Đan, Mai Phúc, Nghiêm Quang, Trần Nguyên, Vương Sung, Bao Hàm, Dương Phù, Trương Trọng, Dương Phấn, Đặng Thịnh, Chung Ly Ý, Hứa Kinh, Kỳ Mẫu Tuấn, Chiêu Mãnh, Trần Lâm, Trầm Phong, Cố Phùng, Công Tôn Tùng, Trịnh Hoành, Trần Hiêu, Thái Luân, Lý Tiến, Long Khâu Trường, Từ Hủ, Đạm Đài, Kính Bá, Lưu Yến, Mạnh Thường, Hoàng Xương, Bành Tu, Nguyễn Lang, Từ Trưng, Trương Vũ, Thân Sóc, Lục Tục, Đường Trân, Đới Tựu, Chu Tuấn, Tạ Di Ngô, Hạ Thuần, Đổng Chính, Sơ Nguyên, Triệu Trường, Quân Vi Thuyết, La Uy, Đường Tụng, Đốn Kỳ, Đinh Mật, Nhan Ô, Phí Phiếm, Từ Trĩ, Quách Thương, Diêu Tuấn, Đổng Phụng, Ngu Quốc, Đổng Âm, Hoàng Hào, Đinh Mậu, Y Nha, Từ Đăng, Thịnh Hiến, Trầm Du, Diêu Văn Thức, Ngô Nương, Hoành Nghị, Sĩ Tiếp, Ngu Phiên, Lý Tổ Nhân, Vương Phạm, Hoàng Thư, Đào Đình, Tẩy Kính, Nguyễn Khiêm Chi, Liêu Xung, Phùng Dung, Vi Thiện Đạo, Mặc Tuyên Khanh, Dương Hoàn.
Trong số này có nhiều nhân vật quen thuộc, như Phạm Lãi, Chu Mãi Thần, Trịnh Cát, Vương Sung, Trương Trọng, Lý Tiến, chung Ly Ý, Mạnh Thường, Tạ Di Ngô, Vi Thiện Đạo v.v.
Tư tưởng bật nổ của các vị Tiên Hiền đó quy về các đề tài chính: Lý thuyết Âm Dương, Triết lý Tam Tài, Đạo sống Quân Tử, Triết lý Nông Nghiệp, Đạo sống thiên nhiên...
Ta thử đọc bài Tựa của Bách Việt Tiên Hiền Chí: Hai chữ và là một.Vũ Cống là một miền vuông vắn ngoài Dương Châu, từ Ngũ Lĩnh tới bờ biển.Đó là miền của Việt Tộc, khởi thủy từ thời vua Vũ, làm thành các nước chư hầu Bách Việt. Thiếu Khang lúc ấy phong Yến Tử ở miền Hội Kê, thờ vua Vũ. Họ xâm mình cắt tóc, phá hoang lập ấp tại đây. Cách hai mươi đời sau, Việt Câu Tiễn, một thường dân nổi lên diệt Ngô, xưng Vương, đóng đô ở Lang Gia, trở thành một nước hùng cường một phương. Câu Tiễn suốt sáu đời, gia công đánh Sở. Sở rất mạnh về Thương mại đánh bại Câu Tiễn dồn về Lang Gia, dừng bước ở miền Đông. Vũ Việt phân tán các con mỗi người một nơi: kẻ xưng vương, người xưng chủ khắp miền duyên hải Giang Nam, thần phục nước Sở. Đó là Bách Việt, phân chia bờ cõi từ Dương Châu, Hội Kê xuống Nam. Nhờ thực tài xem thiên văn và bói chim, sau cùng diệt được Sở Vương. Câu Tiễn thâu hồi cả miền Dương Việt lập thành ba quận, gọi là Nam Hải, Quế Lâm và Tự3ong Úy. Con cháu sau này quy phục Hán tộc. liên hợp các miền thành: Thương Ngô, Uất Lâm, Giao Chỉ, Cửu Chân, Đam Nhĩ, Châu Nhai,tất cả là 9 Quận Từ miền Nam Việt tớiđịa giới Bắc Cô Tư, Hội Kê gọi là Phù Việt, Phía Đông từ miền hoang vu tới Chương tuyền gọi là Mân Việt. Từ biển Đông, kinh đô Vương Diêu tới Vĩnh Gia gọi là Âu Việt. Từ sông Nhượng, sông Tương, sông Ly nước Tống tơi miền Nam gọi làTây Việt. Từ Tang Ca tới miền Đông ôn hoà thư thới gọi là Lạc việt. Người Hán tộc cho rằng: người Việt ở miền duyên hải có nhiều đồi mồi, tê giác, đá ngọc, bạc đồng, trái cây, vải vóc.
Tuy nhiên Việt tộc được chung đúc bởi dương khí, cho nên nhân văn, mũ áo lễ nhạc không giống lễ giáo Đường Ngu. Sau này tôi nghe có vị thái sư Nam Giao nói rằng: người Việt tuy man di, nhưng từ đầu đã có công đức với nhân dân lắm. Sách Xuân Thu Viết: "Câu Tiễn ở Ư Việt vào nước Ngô. Lúc ấy họ rất khổ sở vất vả, nhưng lạ có nhiều mư kế thâm sâu, bền chí giữ liêm sỉ, nghe theo mệnh lệnh Trung quốc mà tôn nhà Chu, theo Hán Tộc từ đó cho đến sau này".
Sau này có Sô Thị gọi là Diêu Triệu thâu hồi dân Việt chung quanh, được tán thưởng cho tới thời Lưu Thị, lập thành hai Kinh Đông Tây. Thần dân của Việt tộc có công nghiệp văn chương rải rắc khắp bảy tám dặm miền duyên hải Giao Châu đã đem lại nhiều ích lợi.
Vì thế, sử sách từ Chu đến Hán đã ghi chép Việt tộc có hành 120 Đại Hiền Tiểu Hiền. Từ thời Chương vũ Hoàng Sơ tới Đường Tống thu hồi lại tất cả, gọi là bách việt tiên hiền.
Lời tưạ của Âu Đại Nhậm
Năm thứ 33 đời Gia tĩnh, tháng 11 ngày 21
(Minh Thế Tông năm 1522)
Qua bài tựa này, chúng ta cũng nhận định nhiều ưu thế của Việt tộc: 1. Đã có một thời Việt Câu Tiễn diệt Ngô, xưng Vương, hùng cứ một phương. 2. Họ đã làm chủ suốt miền Giang Nam. 3. Có thực tài xem thiên văn và bói chim. 4. Thần phục nước Sở, thâu hồi cả miền Dương Việt lập thành ba Quận. 5. Việt tộc miền duyên hải có nhiều đồi mồi, tê giác, đá gọc, bạc đồng, trái cây, vải vóc. 6. Người Việt được chung đúc bởi dương đức, cho nên nhân văn, mũ áo lễ nhạc không giống Đường Ngu. Phải chăng hay hơn, vì có dương đức. 7. Người Việt lúc ấy rất vất vả khổ sở, nhưng lại có nhiều mưu kế thâm sâu, bền chí giữ liêm sỉ. 8. Lập thành hai Kinh Đông Tây, tức là Quảng Đông Quảng Tây. 9. Thần dân của Việt tộc có công nghiệp văn chương rải rác khắp bảy tám dặm miền Giao Châu, đã đem lại nhiều ích lợi. 10. Cả hơn mười tộc Việt bị đồng hoá với Hán tộc, chỉ trừ Lạc Việt và Việt Thường tự cường không bị thâu hoá, mà tồn tại thành nước Việt Nam ngày nay.
Đó là những điểm ưu việt của dân anh hùng là Việt Nam, dưới mắt người Trung Hoa tức Hán tộc xưa. Nhưng điều quan trọng là Việt Tộc có hàng 120 Đại Hiền Tiểu Hiền đã đóng góp cho văn hoá Hán Tộc và làm thành Truyền Thống Văn Hoá của Việt Nam.
triết ly ù âm dương
Triết lý âm dương được xuất hiện dưới ngòi bút của các vị Tiên Hiền, như Kế Nhi với luật âm dương Ngũ hành, Dưỡng Phấn với hậu quả của Âm Dương.
Dòng triết lý này được thể hiện qua huyền thoại Bánh Dầy Bánh Chưng với ý nghĩa âm dương vuông tròn như Thiên Địa. Long Quân và Âu Cơ hay Tiên Dung Chử Đồng Tử là những cặp Âm Dương hoà hợp rất tương xứng: Nhất âm nhất dương chi vị đạo (Hệ tư thượng).Âm Dương là hai yếu tố sinh tồn và biến hoá. Triết lý âm dương phát sinh Ngũ Hành: Thủy Hoả Thổ Kim Mộc. Nhờ vậy mới có bién hoá trong trời đất. và như thế là có tiến bộ. Âm Dương cũng là nền tảng cho cuộc sống con người: tình cảm, tâm tư và ước vọng, nguồn mạch của văn chương tư tuởng, cũng là nguồn mạch của văn hoá. Đối vớ Việt tộc, khởi đầu Âm làm chủ: Âu Cơ, Mỵ Nương, Tiên Dung, Ma Cô mở đầu cho tình cảm, phu phụ, gia đình, làng xóm. Lần lần chuyển sang Dương Chủ: 18 đời Hùng Vương. Sau cùng mới đến Âm Dương giao thoa: Phu xướng phụ tòng và Phu Phụ tương hành tương tại. Do đó phát sinh Quân bình Âm Dương. Đã quân bình âm dương, thì có giao hoà toàn diện.
Về phương diện trường sinh, Y Đạo của Việt tộc là thể hiện và hoàn thành lý thuyết Quân bình Âm Dương. Truyện Thôi Vỹ minh chứng cho Y Dạo Thiên nhiên. Ma Cô Tiên Nữ trao cho Thôi Vỹ một lá Ngải để trị bệnh. Bất cứ bệnh gì, đốt lá ngải lên cứu đều khỏi bệnh. Lá Ngải chính là dược thảo thiên nhiên có hoạt chất âm dương điều hoà, chữa được bách bệnh. Vì thế nghề Cứu Trị là của Việt tộc, được Tiên Thánh trao ban để cứu nhân độ thế.*
* Nghề Cứu Trị của Viêt Nam hiện nay tinh vi và hiệu nghiệm hơn phương pháp cứu trị của Trung Hoa và Nhật bổ. Thuốc cứu Trung Hoa chỉ có 3 vị, thuốc cứu Nhật Bản 7 vị, còn thuốc cứu Thôi Vỹ gồm tất cả 13 vị: Xuyên sơn giáp, Bắc mộc hương, Xương truật, Phòng phong, Tiểu hồi, Một dược, Nhũ hương, Nhục quế, Can khương, Bắc trầm hương, Bắc xạ hương, Long não, NGẢI DIệP.
triết lý tam tài trong khối Viễn Đông rất bàng bạc. Trung Hoa Nhật Bản trình bày TAM TÀI với tính cách thực tại hơn là Triết lý. Trung Hoa có đại bộ Tam Tài đ2ò hộỰ gần 4000 trang, nhưng đó chỉ là liệt kê tổng quát theo hiện tượng: Thiên văn, Địa văn và Nhân văn mà thôi. Nhật Bản có 2 tập nhỏ (20 trang, 30 trang cỡ nhỏ) nói về Âm Dương áp dụng vào y lý. Việt Nam ta từ hồi Việt tộc, các Tiên Hiền đã nói về Tam Tài như là những thế lực cấu tạo, bảo tồn và phát huy vạn vật. Các Huyền Thoại cũng nói lên nhiều ý nghĩa Tam Tài.
Các Tiền Bách Việt như: Đại Phu Chủng, Phạm Lãi, Chư Kê Dĩnh, Trịnh Nghiêm, Điền Giáp, Dương Phù, Tạ Di Ngô đã trình bày Tam Tài Thiên Địa Nhân là ba căn cơ cho Thiên Đạo, Địa đạo và Nhân đạo. Nhờ đó Việt tộc từ nhàn xưa đã xây dựng Chủ Đạo Nhân bản tâm linh, là truyền thống Văn Hoá của ta ngày nay. Con người là sức mạnh của Trời Đất: Thiên Địa chi đức. Con người là chủ nhân ông trong vũ trụ, được Trời che Đất chở: Thiên phú địa tái. Con người khám phá những Thiên Văn, khai quật những địa văn, để tô điểm cho nhân văn được tươi đẹp phong phú.
Hầu hết các Huyền Thoại đều nói lên tính cách tam hợp của triết lý Tam Tài hay Tam Tài Đạo. Con người mang tính Trời, ăn ngay ở lành đều được Thiên Đức là Tiên Thánh phù hộ. Những thế lực gây hại cho con người đều bị loại trừ. Con người bao lâu còn giao hoà với Trời Đất, theo luật thiên nhiên của Trời Đất, thì luôn luôn an cư lạc nghiệp và bình an thư thái. Tất cả những gì phản nhân đạo đều bị tiêu diệt. Nhiều khi Mệnh Trời đa đoan cũng chiều theo nhân tâm phúc đức. Đó là triết lý nhân bản của Việt Nam. Truyện cổ tích và các truyện thời đại cùng với tục ngữ ca dao cũng là những chứng cớ xác nhận đạo sống ấy. Vì có doà điệu giữa Trời Đất và Người, cho nên con người giữ được đạo sống quân bình và toàn diện. Nhờ vậy, văn hoá truyền thống vẫ là Văn Hoá nhất quán và giao hội. Những nền văn hoá "duy, chủ" không hợp với Việt Nam. Chính vì thế, cộng sản không thể ăn sâu vào mảnh đất nhân bản tâm linh này được. Nếu có xâm nhập, cũng không bền lâu, vì Thiên bất thời, Địa bất lợi và Nhân bất hoà.
Cũng
theo triết lý Tam Tài, mà có Triết Lý Nông Nghiệp. Con người nhờ Trời
cho "mưa nắng phải thì " và đất cho "màu mỡ phì nhiêu", con người canh
tác mặt đất, cho phong đăng hoà cốc. Đề ra dòng triết lý này có các Hiền
Triết Kế Nhi, La Uy, Đường Tụng: Nông nghiệp vi bản. Nhờ đời sống nông
nghiệp, xã hội người Việt sống an vui, bình thản. Có những tháng miệt
mài canh tác, rồi tiếp theo những tháng thu hoạch, nghỉ ngơi, hội hè.
Đời sống không ồn ào, xô bồ, tranh chấp, móc, khô khan. Đây là một xã
hội bình sản, vì ai cũng no đủ. Nếp sống không giầu, mà cũng không thiếu
thốn. Vì thế tính tình trung hậu, hoà vui.
Đọc các Huyền Thoại Bánh Dầy Bánh Chưng, Truyện Dưa Hấu, người Việt cảm thấy ấm cúng trong bầu không khí "xóm làng an vui" với lúa gạo và hoa trái thơm ngon. Theo truyền thống ấy, mỗi nhà đều có ruộng lúa xinh tươi, vườn rau ao cá và vườn cây hoa trái bốn mùa. Đời sống nông nghiệp "cây nhà lá vườn" là căn bản, nhưng v6i óc thích nghi, họ vẫn có thể làm bất cứ nghề gì. Tứ Dân: Sĩ nông công thưong Luôn luôn hoà hợp. Tuy nhiên là dân tộc hiếu học, hơn nữa đời sống nông nghiệp bình dân rất trọng Kẻ Sĩ. Kẻ Sĩ trong làng nắm giữ những công việc "ích quốc lợi dân". Họ lo cho dân trí, dân đức và dân sinh. Các công việc giấy tờ hộ tịch, lập công lập đức và y tế là do Kẻ Sĩ. Vì thế mọi người đều trọng Sĩ, thượng Nông, khuyến Công và Chấp Thương.
Thôi Vĩ là một Kẻ Sĩ phục vụ dân nghèo, có tiên dược trị liệu cho bá tính; Chử Đồng Tử thuộc giới nghèo, cũng tìm Thầy học Đạo, làm Kẻ Sĩ, làm việc xã hội giúp dân gian luôn bán làm ăn. Tứ dân sống hoà hợp, nâng đỡ nhau. cùng nhau làm việc, cùng đồng lao cộng lực, xây dựng đời sống xóm láng an vui; rồi hội hè đình đám, hát xướng ăn chơi, mỗi ngày mỗi thăng tiến về mọi phương diện văn hoá. Nhờ vậy một nền văn chương bình dân đã xuất hiện do các cuộc hát Đúm, hát Trống Quân, hát Ví, khiến các văn hữu ngoại quốc, như Roland Dorgelès đã kinh ngạc qua câu nói xác tín: Người Việt là một dân tộc thi sĩ (un peuple poétique).
k ế t l u ậ n
Chúng ta vừa qua một chuyến đi thăm lại quê hương đất nước từ thủa khai nguyên, như vừa kết thúc một cuộc hành hương về Đất Mẹ. Từ thủa khai nguyên minh mạc, với những huyền thoại bí ẩn, với những nhân vật nửa Người nửa Tiên, với những nhân vật lỗi lạc đồng hương, đồng chủng, đồng nguyên khí của Tiên Rồng. Cuộc hành hương tuy chưa hạt ý thoả tình, nhưng dù sao cũng đã đem lại cho chính ta những hiểu biết căn bản vắn gọn về một dân tộc biến thiên nhất trong lịch sử nhân loại.
Chúng ta hiểu biết phần nào sự phát xuất của dân tộc do một truyền thống thần tiên cao qúy, do bàn tay Tạo Hoá nhiệm màu. Mảnh đất của ta là mảnh đất gấm hoa, có sông dài biển rộng, có rừng rậm núi cao, bốn mùa thay đổi điều hoà. Là con dòntg cháu giống, dân tộc ta nhờ Trời tự tay tạo lập đời sống theo trriết lý và đạo sống linh thông thực tế. Truyền thuyết cho rằng: Hùng Vương khi thấy thần dân sinh sôi nẩy nở vô số, liền đúc thành 1600 trống đồng, trao cho mỗi tộc một trống, để nhờ âm thanh và ánh sáng và những chứng tư ghi trên mặt trống, để sinh động và tự tồn. Trống Đồng vì thế trở thành truyền thống văn hoá của dân tộc Việt. Truyền thống văn hoá ấy cùng với các huyền thoại trở thành hiến chương lập quốc, hưng quốc và phục quốc cho muôn thế hệ mai sau. Những đức tính cao quý thâm hậu: tôn trọng đạo nghĩa, tương thân kết đoàn, trung thực thẳng ngay. Đời sống nông nghiệp giao hoà, hiền hậu, Tứ dân liên kết hoà mục. Kẻ Sĩ thay Trời lập công lập ngôn lập đức, nhân dân thay đất khai thác phồn vinh. Dân Anh Hùng đời đời là dân đầy bản lãnh, thông minh và nhân đức. Lịch sử tuy mang nặng "mối sầu thiên vạn cổ", nhưng vẫn đấu tranh kiêu hùng, để sống còn sống mạnh và thăng tiến.
Tuy nhiên những tai nạn chính trị đã từng gây nên biết bao đổ vỡ bi thương. Nhờ ơn Trên và Tiên Tổ phù hộ, người Việt vẫn tồn tại và từ từ vá lành những rách nát, để phục hồi và vươn lên. Dân ta đang hoà mình với thế giới, cùng bước vào quỹ đạo thế giới, để vươn lên, để phục hồi và thăng hoa. Nhân tài không thiếu, chỉ sợ thiếu ý chí tái tạo trong tương thân tương nhượng. Không thiếu tài nguyên, chỉ sợ thiếu những bàn tay trong sạch, mẫn cán điều hành những tài nguyên ấy. Tinh thần dân tộc không thiếu, chỉ sợ thiếu tinh thần phục vụ đúng mức. Không sợ thiếu những khối óc bàn tay đầy năng lực xây dựng, mà chỉ sợ những khối óc vọng ngoại và những bàn tay đập phá thiếu tình tự dân tộc.
Hôm nay trước oai linh Tiên Tổ, trước khí thế Tiên Rồng, chúng tôi với bàn tay thô thiển chỉ muốn gióng lên một tiếng chuông chiêu hồi Hồn Nước. Với khối óc hèn mọn chỉ muốn tâm niệm rằng: Dân Tộc đời đời vẫn tồn tại. Với làn môi chân thành, chỉ muốn tụng niệm rằng: "Mẹ Việt Nam ơi, chúng con hãy còn đây" !_
Đọc các Huyền Thoại Bánh Dầy Bánh Chưng, Truyện Dưa Hấu, người Việt cảm thấy ấm cúng trong bầu không khí "xóm làng an vui" với lúa gạo và hoa trái thơm ngon. Theo truyền thống ấy, mỗi nhà đều có ruộng lúa xinh tươi, vườn rau ao cá và vườn cây hoa trái bốn mùa. Đời sống nông nghiệp "cây nhà lá vườn" là căn bản, nhưng v6i óc thích nghi, họ vẫn có thể làm bất cứ nghề gì. Tứ Dân: Sĩ nông công thưong Luôn luôn hoà hợp. Tuy nhiên là dân tộc hiếu học, hơn nữa đời sống nông nghiệp bình dân rất trọng Kẻ Sĩ. Kẻ Sĩ trong làng nắm giữ những công việc "ích quốc lợi dân". Họ lo cho dân trí, dân đức và dân sinh. Các công việc giấy tờ hộ tịch, lập công lập đức và y tế là do Kẻ Sĩ. Vì thế mọi người đều trọng Sĩ, thượng Nông, khuyến Công và Chấp Thương.
Thôi Vĩ là một Kẻ Sĩ phục vụ dân nghèo, có tiên dược trị liệu cho bá tính; Chử Đồng Tử thuộc giới nghèo, cũng tìm Thầy học Đạo, làm Kẻ Sĩ, làm việc xã hội giúp dân gian luôn bán làm ăn. Tứ dân sống hoà hợp, nâng đỡ nhau. cùng nhau làm việc, cùng đồng lao cộng lực, xây dựng đời sống xóm láng an vui; rồi hội hè đình đám, hát xướng ăn chơi, mỗi ngày mỗi thăng tiến về mọi phương diện văn hoá. Nhờ vậy một nền văn chương bình dân đã xuất hiện do các cuộc hát Đúm, hát Trống Quân, hát Ví, khiến các văn hữu ngoại quốc, như Roland Dorgelès đã kinh ngạc qua câu nói xác tín: Người Việt là một dân tộc thi sĩ (un peuple poétique).
k ế t l u ậ n
Chúng ta vừa qua một chuyến đi thăm lại quê hương đất nước từ thủa khai nguyên, như vừa kết thúc một cuộc hành hương về Đất Mẹ. Từ thủa khai nguyên minh mạc, với những huyền thoại bí ẩn, với những nhân vật nửa Người nửa Tiên, với những nhân vật lỗi lạc đồng hương, đồng chủng, đồng nguyên khí của Tiên Rồng. Cuộc hành hương tuy chưa hạt ý thoả tình, nhưng dù sao cũng đã đem lại cho chính ta những hiểu biết căn bản vắn gọn về một dân tộc biến thiên nhất trong lịch sử nhân loại.
Chúng ta hiểu biết phần nào sự phát xuất của dân tộc do một truyền thống thần tiên cao qúy, do bàn tay Tạo Hoá nhiệm màu. Mảnh đất của ta là mảnh đất gấm hoa, có sông dài biển rộng, có rừng rậm núi cao, bốn mùa thay đổi điều hoà. Là con dòntg cháu giống, dân tộc ta nhờ Trời tự tay tạo lập đời sống theo trriết lý và đạo sống linh thông thực tế. Truyền thuyết cho rằng: Hùng Vương khi thấy thần dân sinh sôi nẩy nở vô số, liền đúc thành 1600 trống đồng, trao cho mỗi tộc một trống, để nhờ âm thanh và ánh sáng và những chứng tư ghi trên mặt trống, để sinh động và tự tồn. Trống Đồng vì thế trở thành truyền thống văn hoá của dân tộc Việt. Truyền thống văn hoá ấy cùng với các huyền thoại trở thành hiến chương lập quốc, hưng quốc và phục quốc cho muôn thế hệ mai sau. Những đức tính cao quý thâm hậu: tôn trọng đạo nghĩa, tương thân kết đoàn, trung thực thẳng ngay. Đời sống nông nghiệp giao hoà, hiền hậu, Tứ dân liên kết hoà mục. Kẻ Sĩ thay Trời lập công lập ngôn lập đức, nhân dân thay đất khai thác phồn vinh. Dân Anh Hùng đời đời là dân đầy bản lãnh, thông minh và nhân đức. Lịch sử tuy mang nặng "mối sầu thiên vạn cổ", nhưng vẫn đấu tranh kiêu hùng, để sống còn sống mạnh và thăng tiến.
Tuy nhiên những tai nạn chính trị đã từng gây nên biết bao đổ vỡ bi thương. Nhờ ơn Trên và Tiên Tổ phù hộ, người Việt vẫn tồn tại và từ từ vá lành những rách nát, để phục hồi và vươn lên. Dân ta đang hoà mình với thế giới, cùng bước vào quỹ đạo thế giới, để vươn lên, để phục hồi và thăng hoa. Nhân tài không thiếu, chỉ sợ thiếu ý chí tái tạo trong tương thân tương nhượng. Không thiếu tài nguyên, chỉ sợ thiếu những bàn tay trong sạch, mẫn cán điều hành những tài nguyên ấy. Tinh thần dân tộc không thiếu, chỉ sợ thiếu tinh thần phục vụ đúng mức. Không sợ thiếu những khối óc bàn tay đầy năng lực xây dựng, mà chỉ sợ những khối óc vọng ngoại và những bàn tay đập phá thiếu tình tự dân tộc.
Hôm nay trước oai linh Tiên Tổ, trước khí thế Tiên Rồng, chúng tôi với bàn tay thô thiển chỉ muốn gióng lên một tiếng chuông chiêu hồi Hồn Nước. Với khối óc hèn mọn chỉ muốn tâm niệm rằng: Dân Tộc đời đời vẫn tồn tại. Với làn môi chân thành, chỉ muốn tụng niệm rằng: "Mẹ Việt Nam ơi, chúng con hãy còn đây" !_
VÕ KỲ ĐIỀN* TRUYỆN KỂ TRÊN BIỂN ĐÊM
Võ Kỳ Điền
Cả bọn chúng tôi cơm nước xong xuôi thì trời vừa sụp tối. Cái mặt trời chói lọi tỏa ra hơi nóng hừng hực ban chiều đã lặn đi đâu mất tiêu nhường chỗ cho bóng tối tràn lan bao phủ khắp cái biệt thự này. Tôi đứng dậy ngó quanh ngó quất cố tìm một vật gì để thế cây tăm xỉa răng nhưng vô ích, cả gian phòng trống rỗng. Không có gì hết ngay cả một cọng chưn nhang. Hồi nãy khi ăn cơm, mấy người đàn ông, đàn bà và hơn sáu bảy đứa con nít đều phải ngồi bệt xuống sàn gạch bông sau một buổi trời hì hục quét tước, lau chùi cho sạch sẽ. Người ta đã khiêng đi đâu mất hết bàn ghế, tủ giường, nồi niêu soong chảo… luôn cả mấy cánh của sổ, cửa ngăn bằng cây. Căn nhà trống hốc. Còn rác rến, giấy vụn, vải rách, bụi bặm thì vương vãi đầy nhà. Trên trần và vách, dây điện đứt treo lủng lẳng. Nhưng mấy thứ còn lại đó, đám người vượt biên theo kiểu bán chánh thức tụi tôi đâu có lấy làm chi. Căn nhà bị khai thác tận tình như một cô gái ăn sương rẻ tiền về sáng chỉ còn trơ bộ mặt hốc hác, loang lổ phấn son. Vậy mà khi mới được công an chở tới đây, thằng Dân ngó trực thấy cái vẻ đồ sộ bên ngoài, có vẻ khoái chí khều tôi nói nhỏ:
- Nè, anh Ba, tụi nó lựa cho mình cái “quy-la” nầy sang quá hả. Đã thiệt! Cái thằng thiệt tình, lúc nào miệng cũng lách chách không để lành da non. Tôi với nó không quen biết gì ráo trọi, tình cờ gặp nhau trong chuyến vượt biên do một người Việt gốc Hoa bán hủ tiếu đứng lo tổ chức. Tôi thứ bảy, vậy mà nó gọi tôi bằng anh Ba gọn bân, ngon lành. Ối, ai hơi đâu mà cải chánh làm chi. Lúc đó tôi đứng vịn cái cổng sắt kiên cố, nhìn thấy cái sân rộng trải sỏi trắng, những cây hoa móng bò, hoa sứ, hoa tường vi trồng dọc theo lối đi, có hai cây tùng Nhật Bổn xanh um ở trước cửa đi vào nhà, trong bụng chịu quá mà còn làm giọng sang:
- Ừa ừa cũng tạm được nhưng nghe nói thiếu giường, thiếu chiếu làm sao mà ngủ… Nó quay qua nhìn soi mói, nói giọng nhão nhẹt:
- Chời ơi, nghèo mà ham, cái thân vượt biên được công an kiếm nhà cho ở mà còn khen chê!
Chiều nay ăn cơm trễ nên trời đã tối thui. Trong kẽ răng vẫn còn nghe vương vướng, tôi bèn bước ra sân đi đến một chậu trúc kiểng, đưa tay bẻ một cọng để tước nhỏ làm tăm. Chân bước lang thang trên con đường lát sỏi. Cái sân rộng mênh mông. Bóng tối đã lan tràn. Mặt trăng tròn đang lên từ từ bị vướng trong đọt tre chiếu cái ánh sáng lành lạnh xuống mặt đất xám đen mờ mờ. Bụi hoa dạ lý hương ở đâu đó vào khuya thơm sực nức. Trong nhà thiếu ánh điện, ai đó đã thắp lên một ngọn đèn cầy nhỏ, ánh sáng lù mù. Đàn muỗi bay tới tấp. Đã có gió mát lai rai nên nghe tiếng lá xào xạc lẫn với tiếng dế và côn trùng nỉ non, cái âm thanh rì rào nhè nhẹ. Bất ngờ trong cái không gian tĩnh lặng đó, thoảng trong gió một giọng ngâm thơ văng vẳng từ xa. Ở đâu không biết nhưng không phải là đám vượt biên trong nhà. Giọng ngâm tuy xa nhưng nghe đủ rõ. Giọng của một ông già, khàn khàn, đùng đục, làn hơi đã yếu ớt. Ông ta nói thơ đúng hơn là ngâm, mới nghe hơi lạ tai nhưng quen dần thì dễ chịu. Ông đã bắt đầu như vầy:
Nàng Túy Kiều là con ông Vương viên ngoại
Lúc sanh thành ở tại Bắc Kinh
Thuở nàng còn niên thiểu ấu sanh
Ba chị em xúm xít ngồi chơi trước cửa…
À, ông ta ngâm Kiều, giọng ngâm được quá chớ. Chắc hồi xưa ông trôi nổi trên các bến nước, sống đời thương hồ quen hò hát trong đêm trăng hay là thợ cày, thợ cấy? Mà bài Kiều này không phải bản của Nguyễn Du:
Tên đâu lạ bất tường hương sở
Xưng rằng thầy tướng sĩ du phang
Vừa ngẫu nhiên bước tới gặp nàng
Dừng bước lại xem qua tài tướng…
Tôi mỉm cười một mình. Cái màn coi tay, coi tướng nầy hấp dẫn đây. Chị em Kiều sống đời nhà Minh sao cũng giống y các cô đời bây giờ. Ai cũng lo lắng thắc mắc đường tương lai nên tìm mọi cách để biết trước, để rồi lại lo hơn! Giọng ngâm bỗng cất lên cao vút:
Nàng này đáng thiên kim vạn lượng
Uổng cho nàng tuyết nguyệt phong hoa
Trời ơi, hai câu thơ khéo quá. Thiên kim vạn lượng nói lên cái giá cao quí tuyệt vời đặt sóng đôi với tuyết nguyệt phong hoa chỉ cái đẹp đẽ nhưng mỏng manh chóng tàn, cái kiếp ngắn ngủi của kẻ tài hoa. Hơi thơ đi một mạch thần sầu. Thơ của ông già nầy làm ra hay của ai, tôi không biết. Bài nầy tôi cũng chưa từng nghe qua lần nào. Giọng ngâm khi thì lên cao khi thì xuống thấp gây cho tôi cái cảm giác xao xuyến chơi vơi. Cái dư âm của bốn chữ “tuyết nguyệt phong hoa” vương vấn trong đầu khiến tôi ngây ngất. Mặt trăng bây giờ đã lên cao nhưng bị mây đen che khuất. Trong hơi gió đã nghe lành lạnh. Tự dưng tôi muốn được gặp ông già ngâm thơ để hỏi cho rõ ngọn nguồn. Nỗi thương, nỗi nhớ, nỗi đau nào đã khiến ông thở than trong đêm trường tịch mịch. Cái tâm sự não nề của ông có giống cái nỗi đứt ruột của cô Kiều ngày xưa? Tôi, một kẻ lỡ lính lỡ dân, lạc bước ghé tạm qua đây, tình cờ được nghe lời thơ thê thiết, lòng xúc động bồi hồi. Nàng Kiều ngày xưa và tôi bây giờ có khác gì đâu. Cùng là một kiếp hoa rụng thì chọn gì đất sạch. Mai mốt đây khi đặt chân xuống ghe thì đời tôi cũng là một thứ “lạc hoa lưu thủy”. Trong cái trí óc hỗn độn, hình ảnh chập chờn của những cánh hoa đơn độc lẻ loi xanh tím vàng hồng đẹp đẽ yêu kiều bị bùi dập trên sóng nước tả tơi, tơi tả. Chúng sẽ bị dòng nước phũ phàng cuốn trôi đi tới góc biển chân trời nào, rồi chúng sẽ ra sao, tôi không biết và cũng không muốn biết…
Trí tưởng tượng nửa chừng bị đứt quãng vì có tiếng xôn xao trong nhà, rồi ánh đèn pin loang loáng, tôi xẹt vào núp bên trong một bụi
cây um tùm để nghe động tĩnh. Hồi lâu hình như không có gì quan trọng,
tôi đi lần vô trong, gặp ngay thằng Dân ở cạnh hòn non bộ:Cả bọn chúng tôi cơm nước xong xuôi thì trời vừa sụp tối. Cái mặt trời chói lọi tỏa ra hơi nóng hừng hực ban chiều đã lặn đi đâu mất tiêu nhường chỗ cho bóng tối tràn lan bao phủ khắp cái biệt thự này. Tôi đứng dậy ngó quanh ngó quất cố tìm một vật gì để thế cây tăm xỉa răng nhưng vô ích, cả gian phòng trống rỗng. Không có gì hết ngay cả một cọng chưn nhang. Hồi nãy khi ăn cơm, mấy người đàn ông, đàn bà và hơn sáu bảy đứa con nít đều phải ngồi bệt xuống sàn gạch bông sau một buổi trời hì hục quét tước, lau chùi cho sạch sẽ. Người ta đã khiêng đi đâu mất hết bàn ghế, tủ giường, nồi niêu soong chảo… luôn cả mấy cánh của sổ, cửa ngăn bằng cây. Căn nhà trống hốc. Còn rác rến, giấy vụn, vải rách, bụi bặm thì vương vãi đầy nhà. Trên trần và vách, dây điện đứt treo lủng lẳng. Nhưng mấy thứ còn lại đó, đám người vượt biên theo kiểu bán chánh thức tụi tôi đâu có lấy làm chi. Căn nhà bị khai thác tận tình như một cô gái ăn sương rẻ tiền về sáng chỉ còn trơ bộ mặt hốc hác, loang lổ phấn son. Vậy mà khi mới được công an chở tới đây, thằng Dân ngó trực thấy cái vẻ đồ sộ bên ngoài, có vẻ khoái chí khều tôi nói nhỏ:
- Nè, anh Ba, tụi nó lựa cho mình cái “quy-la” nầy sang quá hả. Đã thiệt! Cái thằng thiệt tình, lúc nào miệng cũng lách chách không để lành da non. Tôi với nó không quen biết gì ráo trọi, tình cờ gặp nhau trong chuyến vượt biên do một người Việt gốc Hoa bán hủ tiếu đứng lo tổ chức. Tôi thứ bảy, vậy mà nó gọi tôi bằng anh Ba gọn bân, ngon lành. Ối, ai hơi đâu mà cải chánh làm chi. Lúc đó tôi đứng vịn cái cổng sắt kiên cố, nhìn thấy cái sân rộng trải sỏi trắng, những cây hoa móng bò, hoa sứ, hoa tường vi trồng dọc theo lối đi, có hai cây tùng Nhật Bổn xanh um ở trước cửa đi vào nhà, trong bụng chịu quá mà còn làm giọng sang:
- Ừa ừa cũng tạm được nhưng nghe nói thiếu giường, thiếu chiếu làm sao mà ngủ… Nó quay qua nhìn soi mói, nói giọng nhão nhẹt:
- Chời ơi, nghèo mà ham, cái thân vượt biên được công an kiếm nhà cho ở mà còn khen chê!
Chiều nay ăn cơm trễ nên trời đã tối thui. Trong kẽ răng vẫn còn nghe vương vướng, tôi bèn bước ra sân đi đến một chậu trúc kiểng, đưa tay bẻ một cọng để tước nhỏ làm tăm. Chân bước lang thang trên con đường lát sỏi. Cái sân rộng mênh mông. Bóng tối đã lan tràn. Mặt trăng tròn đang lên từ từ bị vướng trong đọt tre chiếu cái ánh sáng lành lạnh xuống mặt đất xám đen mờ mờ. Bụi hoa dạ lý hương ở đâu đó vào khuya thơm sực nức. Trong nhà thiếu ánh điện, ai đó đã thắp lên một ngọn đèn cầy nhỏ, ánh sáng lù mù. Đàn muỗi bay tới tấp. Đã có gió mát lai rai nên nghe tiếng lá xào xạc lẫn với tiếng dế và côn trùng nỉ non, cái âm thanh rì rào nhè nhẹ. Bất ngờ trong cái không gian tĩnh lặng đó, thoảng trong gió một giọng ngâm thơ văng vẳng từ xa. Ở đâu không biết nhưng không phải là đám vượt biên trong nhà. Giọng ngâm tuy xa nhưng nghe đủ rõ. Giọng của một ông già, khàn khàn, đùng đục, làn hơi đã yếu ớt. Ông ta nói thơ đúng hơn là ngâm, mới nghe hơi lạ tai nhưng quen dần thì dễ chịu. Ông đã bắt đầu như vầy:
Nàng Túy Kiều là con ông Vương viên ngoại
Lúc sanh thành ở tại Bắc Kinh
Thuở nàng còn niên thiểu ấu sanh
Ba chị em xúm xít ngồi chơi trước cửa…
À, ông ta ngâm Kiều, giọng ngâm được quá chớ. Chắc hồi xưa ông trôi nổi trên các bến nước, sống đời thương hồ quen hò hát trong đêm trăng hay là thợ cày, thợ cấy? Mà bài Kiều này không phải bản của Nguyễn Du:
Tên đâu lạ bất tường hương sở
Xưng rằng thầy tướng sĩ du phang
Vừa ngẫu nhiên bước tới gặp nàng
Dừng bước lại xem qua tài tướng…
Tôi mỉm cười một mình. Cái màn coi tay, coi tướng nầy hấp dẫn đây. Chị em Kiều sống đời nhà Minh sao cũng giống y các cô đời bây giờ. Ai cũng lo lắng thắc mắc đường tương lai nên tìm mọi cách để biết trước, để rồi lại lo hơn! Giọng ngâm bỗng cất lên cao vút:
Nàng này đáng thiên kim vạn lượng
Uổng cho nàng tuyết nguyệt phong hoa
Trời ơi, hai câu thơ khéo quá. Thiên kim vạn lượng nói lên cái giá cao quí tuyệt vời đặt sóng đôi với tuyết nguyệt phong hoa chỉ cái đẹp đẽ nhưng mỏng manh chóng tàn, cái kiếp ngắn ngủi của kẻ tài hoa. Hơi thơ đi một mạch thần sầu. Thơ của ông già nầy làm ra hay của ai, tôi không biết. Bài nầy tôi cũng chưa từng nghe qua lần nào. Giọng ngâm khi thì lên cao khi thì xuống thấp gây cho tôi cái cảm giác xao xuyến chơi vơi. Cái dư âm của bốn chữ “tuyết nguyệt phong hoa” vương vấn trong đầu khiến tôi ngây ngất. Mặt trăng bây giờ đã lên cao nhưng bị mây đen che khuất. Trong hơi gió đã nghe lành lạnh. Tự dưng tôi muốn được gặp ông già ngâm thơ để hỏi cho rõ ngọn nguồn. Nỗi thương, nỗi nhớ, nỗi đau nào đã khiến ông thở than trong đêm trường tịch mịch. Cái tâm sự não nề của ông có giống cái nỗi đứt ruột của cô Kiều ngày xưa? Tôi, một kẻ lỡ lính lỡ dân, lạc bước ghé tạm qua đây, tình cờ được nghe lời thơ thê thiết, lòng xúc động bồi hồi. Nàng Kiều ngày xưa và tôi bây giờ có khác gì đâu. Cùng là một kiếp hoa rụng thì chọn gì đất sạch. Mai mốt đây khi đặt chân xuống ghe thì đời tôi cũng là một thứ “lạc hoa lưu thủy”. Trong cái trí óc hỗn độn, hình ảnh chập chờn của những cánh hoa đơn độc lẻ loi xanh tím vàng hồng đẹp đẽ yêu kiều bị bùi dập trên sóng nước tả tơi, tơi tả. Chúng sẽ bị dòng nước phũ phàng cuốn trôi đi tới góc biển chân trời nào, rồi chúng sẽ ra sao, tôi không biết và cũng không muốn biết…
- Chuyện gì trong nhà đó Dân?
- Anh Ba vô nhà mà coi, ông Trưởng ty Công an đem gởi cho Hủ Tiếu một cô nàng đẹp hết sẩy. Nó vừa nói vừa ra dấu, mắt liếc vô trong rồi tiếp:
- Thằng chả mới quết được thêm một con bò lạc nữa. Con cái nhà ai mà ngộ hết sức. Nội cái bộ ngực của nó, cam đoan anh Ba thấy là khát sữa liền. Hồi chiều hai người chở nhau đi hú hí ở đâu đó không biết bị người quen gặp mét với bà lớn. Bả bèn dắt đám lâu la đi lùng. Bị động ổ thằng chả bèn lén chở lại đây giao cho Hủ Tiếu giữ, nhét chung vô đám vượt biên tụi mình. Tôi nghe chịu quá, bèn nói giỡn cho vui:
- Phải chi giao cho tao. Người đẹp như vậy mà giao cho Hủ Tiếu, rủi “giả” bỏ vô thùng nước lèo thì còn gì đời hoa. Uổng thiệt! Thằng Dân cười híp mắt:
- Hủ Tiếu già ngắc khú đế đâu còn làm ăn gì được. Giao cho anh Ba, tui cao đoan vài ngày hoa héo queo…
Một ngọn gió lướt ngang qua cây lá xào xạc, đưa theo tiếng nói thơ của ông già văng vẳng:
Nàng Đạm Tiên là gái nhà trò
Sống bấy lâu sông hẹn núi hò
Nay chín suối mồ vô nhơn chủ
Thằng Dân cũng vừa nghe kịp câu hát:
- Ai mà ngâm thơ nghe buồn đứt ruột vậy? Ba cái điệu nầy nghe hoài bủn rủn tay chưn làm ăn hết nổi. Ối, đời bây giờ thiếu gì Kiều với Đạm Tiên. Nè, trong nhà cũng có một Thúy Kiều đang ngồi khóc hu hu… Tôi đập nhẹ vào vai nó:
- Ê nghen, nói chơi cho vui một chút thôi. Vô trỏng ăn nói lộn xộn là cả cái ghe BL 1648 neo luôn ở cái đất Bạc Liêu nầy, tao với mầy chỉ có nước đi câu cá chốt! Tôi đưa tay lên miệng biểu nó nói cho nhỏ, chơn bước qua ngưỡng cửa. Trên mặt sàn gạch bông rộng, hàng chục cái mùng nhỏ giăng dọc giăng ngang. Mấy người nằm trong mùng không biết còn thức hay đã ngủ. Muỗi con nào con nấy lớn bằng con ruồi, bay như vãi trấu, thôi chun vô mùng sớm cho được yên thân. Tận tuốt bên trong cùng cạnh cái túi hành lý của tôi, Hủ Tiếu đương loay hoay giăng một cái mùng mới. Một cô gái còn trẻ đứng xấn bấn kế bên, mặt quay vô trong tìm kiếm cái gì. Thấy tôi lò dò bước vào, chưn rón rén đi tránh các vạt mùng, Hủ Tiếu chộp ngay nói liền:
- Cô Hai nầy là bà con bên vợ, đi lỡ đường tạm ngủ với anh em mình đêm nay. Sáng mai sớm quá giang xe lên Sài Gòn liền. Rồi ông ta làm bộ thở than:
- Thiệt đời bây giờ khó quá, cái gì cũng bày đặt trình báo lôi thôi. Hay là như vầy, nếu có ai hỏi tới hỏi lui, thì anh cứ khai dùm cô nầy là vợ, đỡ cho tôi phải xin thêm giấy tờ phiền phức. Tôi há hốc miệng:
- Trời đất! Khai cô nầy là vợ tui? Bộ hết chuyện giỡn sao cha nội?
Vừa nói tới đó thì cô gái quay lại. Trong bóng tối chập choạng nhá nhem tôi thấy mắt nàng chớp chớp. Cặp mắt thiệt to. Tức quá, phải chi ngọn đèn sáng sáng thêm một chút, tôi lại không đem cặp kiếng theo. Cái gì thấy cũng mờ mờ. Tôi nhớ hình như đã gặp người nầy ở đâu. Cặp mắt nầy tôi đã gặp… Cái trí nhớ mơ hồ lãng đãng. Khi quay lại, cô gái bị đánh ghen kia vừa nhìn thấy tôi bèn trố mắt nhìn sững. Phải một hồi thiệt lâu nàng mới cất tiếng, giọng thiệt nhỏ run run:
- Phải anh Quốc? Nghe hỏi tôi chưa kịp nói gì hết thì nàng đã ôm chầm lấy tôi nghẹn ngào. Tôi không biết nên cười hay nên khóc. Trong cảnh trái ngang nầy, đầu óc trơ ra như đất, tôi đứng ôm nàng chết trân.
***
Trời đêm nay không gió nên sóng chỉ gợn lăn tăn. Chiếc ghe êm ái lướt nhẹ nhàng trong đêm. Tiếng máy chạy xình xịch đều đều như ru mọi người vào giấc ngủ mê man. Họ chen nhau nằm la liệt, ngổn ngang. Cái chân người nầy xỉa vô hông người kia, cái mặt người kia quay vô lưng người nọ, mạnh ai nấy tìm chỗ ngả lưng qua đêm. Bầu trời tuy thiếu trăng nhưng đầy sao lấp lánh. Trên đầu tôi là ngọn đèn pha chiếu sáng yếu ớt vàng vọt cố soi cho thủng cái mặt biển đen ngòm. Tôi tìm hoài không còn một chỗ trống đặt lưng, thôi đành ngủ ngồi thêm một đêm nữa. Trước mắt, thằng Dân nằm thẳng cẳng ngáy khò khò. Nó nằm ở đây hồi nào không ai để ý. Tôi quay qua quay lại cố tìm một chỗ duỗi chân cho đỡ mỏi, thấy kế bên còn trống, tôi đưa chưn xen vào, nhè đâu xỉa vô hông nó. Thằng nhỏ tỉnh giấc lừ nhừ, miệng càu nhàu tính gây, ngờ đâu ngó trực thấy tôi bèn dịu giọng:
- Chưa ngủ hả anh Ba? – Nhớ nhà buồn quá, ngủ không được. Ngó trời trăng mây nước cho vui. Nó dụi mắt vài cái rồi tỉnh ngủ hẳn, lồm cồm dậy, chen vô ngồi sát bên tôi, chưa nóng đít đã mở máy:
- Thôi mà anh Ba, dấu em làm chi. Mình mới rời khỏi Việt Nam có một ngày một đêm. Nhớ gì mà nhớ lẹ vậy? Theo em tính chắc là anh nhớ Bạc Liêu với anh Tám Trưởng ty…
- Mầy đoán ẩu tả. Tao với thằng cha đó tình nghĩa gì mà nhớ.
- Vậy chớ sáng hôm nào, anh Tám lại nhà chở cô vợ bé về, tại sao có người đứng nhìn theo muốn rớt con mắt. Thôi có gì thì khai ra đi anh Ba. Ở đây đâu có ai, chỉ có anh em mình là còn thức, thiên hạ ngủ hết trơn rồi. Chuyện gì cũng được, nói cho vui. Mai mốt qua tới bển nói tiếng Tây với ăn bánh mì… rồi quên tuốt luốt chuyện Việt Nam, lúc đó có muốn nhớ cũng không được.
Tôi nhìn thằng Dân. Nó mới chừng mười bảy, mười tám, tốt nghiệp ở
cái chợ nào không biết mà sao láu cá quá trời. Chuyện lớn chuyện nhỏ gì
cũng không dấu được cặp mắt xét nét của nó. Tự nhiên cái tỉnh Bạc Liêu
trở thành vùng đất kỷ niệm cuộc tình éo le của tôi với Yến, có sự chứng
kiến của thằng quỷ dịch. Tôi đảo mắt nhìn lại quanh ghe một vòng. Mọi người ngủ say như chết, không một tiếng thì thầm. Biển tối đen như mực. Chiếc ghe là một khối xam xám mờ mờ. Trên cái cột cao hình chữ thập, một miếng
vải trắng viết nguệch ngoạc ba chữ SOS bằng sơn đen phất phơ nhè nhẹ.
Chỉ có phòng lái còn ngọn đèn vàng nhỏ èo uột. Anh tài công ngồi bất
động ôm bánh lái như pho tượng sau tấm kiếng chắn. Không biết anh ta còn
thức hay đã ngủ. Tôi và thằng Dân không phải bạn tâm giao hay quen lớn
từ trước. Nó con cái nhà ai, học hành tới đâu, tánh tình ra sao, tôi
hoàn toàn mù tịt. Làm sao có thể tâm tình với nó được. Mối tình của tôi
và Yến thật đẹp, thật thiêng liêng. Tôi yêu Yến đến độ có thể chết được.
Hình ảnh nàng trong tôi là tất cả những gì trang trọng, tinh khiết
tuyệt vời. Vậy mà… đổ vỡ hết! Chẳng thà không biết gì, có lẽ hơn. Ôi mối
tình đầu thiệt đáng thương.
Nỗi đau như một vết dầu loang ngày càng lớn rộng khiến tôi băn khoăn, ray rứt rã rời. Từ cái đêm gặp lại Yến, tôi như người bịnh mơ mơ màng màng, nửa say nửa tỉnh. Yến dễ thương của tôi giờ đây nằm gọn trong vòng tay ai? Có lẽ thằng Dân có lý, tôi cần tìm người để tâm sự cho bớt khổ đau dằn vặt. Còn gì phải dấu kín, hơn nữa, đất nước mất rồi, tất cả đều đổi thay. Thôi kể đại cho nó nghe hoặc bất cứ ai cũng được, một lần rồi thôi, để khi qua tới một xứ lạ nào đó tôi phải rán tập mà sống, rán tập yêu thương một lần nữa theo kiểu cách mới.
- Dân nè, muốn tao kể đoạn đầu, đoạn giữa hay đoạn cuối cái câu chuyện Bạc Liêu? Nó cười hề hề: – Đêm còn dài lắm, anh Ba. Đoạn nào hấp dẫn thì được. Anh liệu làm sao khi ghe cập bến Mã Lai thì chuyện chấm dứt là vừa.
- Bộ mầy tính trọn đêm không ngủ hả? Ừ, thôi, mầy muốn thì tao nói. Tao với Yến yêu nhau từ lâu lắm. Quen nhau lúc còn nhỏ xíu. Má nàng vì công cuộc buôn bán làm ăn nên thường làm chủ hụi. Má tao làm tay con. Cứ đến ngày đầu tháng là Yến chạy lại nhà tao kêu đi khui hụi. Thông thường má tao viết một hàng số vào một tờ giấy nhỏ bằng bàn tay, xếp gọn lại rồi dặn kỹ:
- Con cầm cái thăm này lại đưa cho cô Bảy Liên Phát, nhớ đừng cho ai coi nghe không? Tao với tay lấy cái áo, tay cầm cái thăm chạy ù với Yến về nhà nàng. Giữa đường, kiếm một gốc cây lén đứng mở thăm ra coi má tao viết số mấy. Yến với tao coi chung rồi hai đứa nhìn nhau khoái chí cười khúc khích. Đến khi má Yến mở thăm của các tay con, tao hồi hộp nắm chặt tay Yến để chờ kết quả. Cặp mắt Yến cũng ngó lom lom. Hai đứa đều mong cho má tao được hốt. Lúc đó tụi tao còn nhỏ quá, không biết người lớn chơi hụi để làm chi. Có điều tao khoái đi khui hụi nhà Yến, lần nào cô Bảy cũng cho bánh ăn và kêu tao bằng “con” ngọt xớt.
Đó, tao với Yến quen nhau nhờ có ba cái vụ hụi hè. Đến khi lớn lên rời tỉnh nhà để đi học ở Sài Gòn thì tao cũng quên mất cô bạn gái nhỏ xíu. Phải mười mấy năm sau, nhơn dịp Tết, tao về nghỉ ở nhà. Lúc đó lớn rồi nghe, biết ăn diện theo kiểu Sài Gòn, chưn mang giày đế da cồm cộp, tóc chải mái hiên láng bóng. Tối hai mươi chín năm đó, tao thả lang thang quanh chợ để coi thiên hạ mua sắm. Người ta sao đông quá, chen lấn nhau mà đi. Các dãy lều được dựng lên để bán bánh mứt, hoa quả, nhang đèn, báo Xuân… Đèn đuốc sáng giăng giăng. Màu sắc xanh xanh, đỏ đỏ, tiếng rao hàng, tiếng trả giá, tiếng cười đùa và đủ thứ âm thanh tạo thành một khung cảnh của chợ Tết ban đêm, hỗn độn mà ấm áp vui tươi. Mắt tao hết ngó chỗ nầy tới chỗ kia rồi bỗng nhiên tao thấy một cửa hàng đèn đuốc sáng rực rỡ có một cô nàng thiệt đẹp nhìn tao cười để chào. Trời ơi! Hàm răng xinh đều như bắp, trắng sáng như ngà như ngọc. Nụ cười tươi như đóa hồng vừa chớm nở. Tao nghe như tim ngừng đập sững sờ đứng ngó nàng trân trân. Phải cả phút sau tao mới tỉnh và gật đầu chào lại. Mầy có biết cô chủ tiệm đó là ai không?
- Còn ai vô đây nữa. Người đẹp Bạc Liêu vừa mới lớn chớ ai!
- Ừa, Yến đó. Nàng lớn hồi nào tao không hay. Tối đó tao ngủ không được, xôn xao bứt rứt. Cứ mơ mơ màng màng thấy cái miệng đẹp với hàm răng trắng muốt của nàng mỉm cười chào tao. Ừ, chỉ nụ cười đơn sơ như vậy mà trái tim tao đập lộn xộn trật nhịp hết trọi. Cả ngày hôm sau tao đâu còn đầu óc nào mà lo sửa soạn Tết nhứt. Tao cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh cách thức làm sao để gặp nàng. Đêm ba mươi tao ngồi ở trước nhà đợi đúng Giao thừa, nàng với mẹ đi lễ ở chùa Bà, tao bèn lò dò đi theo nhập bọn đi chung. Tại chánh điện khói nhang mù mịt, đôi mắt cay xè muốn khóc, tao quỳ cạnh nàng van vái Bà phù hộ cho nàng yêu tao. Không biết Bà có nghe lời cầu nguyện hay không, nhưng chắc là cô Bảy Liên Phát nghe vì tao khấn hơi lớn tiếng. Khi ra về cô Bảy dặn lại với tao là chiều mùng một nhớ chở má đến đánh Tứ sắc với cô. Cứ như vậy mà tao ăn Tết ở nhà nàng năm đó rồi năm sau nữa. Thằng Dân nghe tới đó, vỗ đùi:
- Kể như xong rồi, đã thiệt. Tôi thở dài:
- Cái gì mà đã. Chuyện kể như xong… cuối cùng rồi cũng không xong. Mầy đừng có thấy tao bậm trợn ngon con như vầy mà tưởng lầm. Tao được cái miệng ào ào nhưng trong bụng nhát hít như thỏ đế. Tao thương Yến thiệt lòng, phải nói là si mê mới đúng. Nàng phải là vợ tao. Không biết bao nhiêu lần quyết định rồi lại do dự, rụt rè. Tao tìm kiếm những câu nói văn hoa trau chuốt để ngỏ tình ý với nàng, sắp xếp cho đâu ra đó rồi học thuộc lòng. Khi nói nàng phải cảm động mà thương tao. Vậy mà phải đợi đến cái Tết thứ hai tao mới liều gan nói đại. Trời ơi, trong cái giây phút trọng đại đó tự nhiên tao cà lăm, cái lưỡi cứng đơ ra, nói không đầu, không đuôi. Mấy câu học thuộc lòng quên hết ráo. Nàng cũng đứng ngẩn ra, mặt nàng xám ngắt vì bất ngờ. Tao run quá, quýnh quáng thấy ở trên, cái trần nhà quay mòng mòng, dưới chân thì mặt đất rung rinh, mồ hôi rịn ra đầy mặt, không biết phải làm gì nữa, tao đành chụp đại tay nàng… Ừ, ừ tao nắm lấy tay nàng…
Thằng Dân khoái quá hỏi tới:
- Rồi sao nữa anh Ba, hai người có hun nhau không?
- Hun cái khỉ khô, vừa đúng vào cái lúc đó, má nàng ở đâu đi sợt sợt về, tao lật đật rút tay lại. Về nhà tao tức hết sức, chuyện có bao nhiêu đó mà làm không nên thân. Không nhớ rõ là lúc tao đưa tay ra nắm lấy cái bàn tay mát rượi như nhung của nàng, nàng có nắm lại tay tao để đáp ứng hay không. Tao thắc mắc hoài. Mấy ngày sau gặp lại, nàng vẫn cười nói tự nhiên. Tao yên tâm nên lần sau dạn thêm được một chút.
- Một chút là bao nhiêu, anh Ba?
- Thì tao nắm trọn được tay nàng. Và tao mừng hết sức, mầy biết tại sao không? Nàng để yên không giựt lại. Lúc đó tao thấy trái đất ngừng quay, tim tao ngừng đập. Tao là người sung sướng nhứt, hạnh phúc nhứt trên cái vũ trụ nầy.
- Rồi chừng nào tới cái vụ hun, anh Ba?
- Phải lâu lắm hai đứa mới dám len lén ôm nhau hun. Yến thật dễ thương, hiền ngoan như con mèo. Tao ôm nàng nâng niu dịu dàng như ôm đứa em nhỏ. Mầy biết không, mấy ông thi sĩ khi làm thơ ca tụng người yêu, ông nào cũng nói người mình thương là đẹp tuyệt trần. Nhưng thiệt ra mấy cô đó cũng thường thường, đôi khi hơi xấu nữa. Trong thơ văn thì phải vậy cho đậm đà, chớ làm thơ mà tả người yêu mình xấu, ai mà đọc. Tao không phải là thi sĩ nên tao nói người yêu tao đẹp thì mầy phải hiểu là Yến đẹp thiệt tình. Như đóa hoa lan phơi trọn sắc hương, nàng kiều diễm xinh tươi hết sức thành ra mỗi lần gặp nàng, tao bối rối rụng rời… Hai đứa tụi tao thương nhau có thể chết được. Thằng Dân ngồi thừ người, suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Vậy thì theo em, cái vụ Bạc Liêu buồn thì có buồn chứ không tức. Dầu gì thì anh Ba cũng đã ẵm người đẹp trong tay trước anh Tám công an. Tại cái số của hai người không thành chồng vợ. Nghe thằng nhỏ nói tới đó tôi nín thinh. Ẵm người đẹp trong tay? Nó hiểu lầm tôi rồi. Tôi nói nghĩa đen, nó hiểu nghĩa bóng. Quả tình tôi đã ôm Yến gọn trong vòng tay. Chúng tôi hôn nhau đắm đuối trong những lần gặp gỡ. Chỉ có bấy nhiêu đó, rồi thôi. Mối tình của hai đứa cố giữ thật trong sạch, thật tinh khiết. Trong bất cứ mối tình nào, muốn bền vững lâu dài, ngoài lòng thương nhau còn phải có sự kính trọng giữa hai người. Ngày nào sự kính trọng mất đi, ngày đó mối tình tan vợ. Tình vua tôi, cha con, bè bạn còn phải vậy, nói chi đến tình vợ chồng. Tôi thương Yến thiệt tình, trước sau gì nàng cũng là vợ tôi.
- Dân, mầy rán mà hiểu nghe, chỗ này khó nói. Tao như thằng hà tiện có được cây mía. Thay vì ăn liền khúc gốc cho ngọt,
tao lại để dành, ăn khúc ngọn lạt nhách trước. Đến chừng cầm đến khúc
gốc thì đất nước đổi chủ, tao vô rừng chặt tre với đào đất chơi… Ở nhà,
cây mía thành rượu. Nghe tới đó, nó cung tay đập xuống sàn ghe nghe cái
bốp, đôi mắt trợn tròn:Nỗi đau như một vết dầu loang ngày càng lớn rộng khiến tôi băn khoăn, ray rứt rã rời. Từ cái đêm gặp lại Yến, tôi như người bịnh mơ mơ màng màng, nửa say nửa tỉnh. Yến dễ thương của tôi giờ đây nằm gọn trong vòng tay ai? Có lẽ thằng Dân có lý, tôi cần tìm người để tâm sự cho bớt khổ đau dằn vặt. Còn gì phải dấu kín, hơn nữa, đất nước mất rồi, tất cả đều đổi thay. Thôi kể đại cho nó nghe hoặc bất cứ ai cũng được, một lần rồi thôi, để khi qua tới một xứ lạ nào đó tôi phải rán tập mà sống, rán tập yêu thương một lần nữa theo kiểu cách mới.
- Dân nè, muốn tao kể đoạn đầu, đoạn giữa hay đoạn cuối cái câu chuyện Bạc Liêu? Nó cười hề hề: – Đêm còn dài lắm, anh Ba. Đoạn nào hấp dẫn thì được. Anh liệu làm sao khi ghe cập bến Mã Lai thì chuyện chấm dứt là vừa.
- Bộ mầy tính trọn đêm không ngủ hả? Ừ, thôi, mầy muốn thì tao nói. Tao với Yến yêu nhau từ lâu lắm. Quen nhau lúc còn nhỏ xíu. Má nàng vì công cuộc buôn bán làm ăn nên thường làm chủ hụi. Má tao làm tay con. Cứ đến ngày đầu tháng là Yến chạy lại nhà tao kêu đi khui hụi. Thông thường má tao viết một hàng số vào một tờ giấy nhỏ bằng bàn tay, xếp gọn lại rồi dặn kỹ:
- Con cầm cái thăm này lại đưa cho cô Bảy Liên Phát, nhớ đừng cho ai coi nghe không? Tao với tay lấy cái áo, tay cầm cái thăm chạy ù với Yến về nhà nàng. Giữa đường, kiếm một gốc cây lén đứng mở thăm ra coi má tao viết số mấy. Yến với tao coi chung rồi hai đứa nhìn nhau khoái chí cười khúc khích. Đến khi má Yến mở thăm của các tay con, tao hồi hộp nắm chặt tay Yến để chờ kết quả. Cặp mắt Yến cũng ngó lom lom. Hai đứa đều mong cho má tao được hốt. Lúc đó tụi tao còn nhỏ quá, không biết người lớn chơi hụi để làm chi. Có điều tao khoái đi khui hụi nhà Yến, lần nào cô Bảy cũng cho bánh ăn và kêu tao bằng “con” ngọt xớt.
Đó, tao với Yến quen nhau nhờ có ba cái vụ hụi hè. Đến khi lớn lên rời tỉnh nhà để đi học ở Sài Gòn thì tao cũng quên mất cô bạn gái nhỏ xíu. Phải mười mấy năm sau, nhơn dịp Tết, tao về nghỉ ở nhà. Lúc đó lớn rồi nghe, biết ăn diện theo kiểu Sài Gòn, chưn mang giày đế da cồm cộp, tóc chải mái hiên láng bóng. Tối hai mươi chín năm đó, tao thả lang thang quanh chợ để coi thiên hạ mua sắm. Người ta sao đông quá, chen lấn nhau mà đi. Các dãy lều được dựng lên để bán bánh mứt, hoa quả, nhang đèn, báo Xuân… Đèn đuốc sáng giăng giăng. Màu sắc xanh xanh, đỏ đỏ, tiếng rao hàng, tiếng trả giá, tiếng cười đùa và đủ thứ âm thanh tạo thành một khung cảnh của chợ Tết ban đêm, hỗn độn mà ấm áp vui tươi. Mắt tao hết ngó chỗ nầy tới chỗ kia rồi bỗng nhiên tao thấy một cửa hàng đèn đuốc sáng rực rỡ có một cô nàng thiệt đẹp nhìn tao cười để chào. Trời ơi! Hàm răng xinh đều như bắp, trắng sáng như ngà như ngọc. Nụ cười tươi như đóa hồng vừa chớm nở. Tao nghe như tim ngừng đập sững sờ đứng ngó nàng trân trân. Phải cả phút sau tao mới tỉnh và gật đầu chào lại. Mầy có biết cô chủ tiệm đó là ai không?
- Còn ai vô đây nữa. Người đẹp Bạc Liêu vừa mới lớn chớ ai!
- Ừa, Yến đó. Nàng lớn hồi nào tao không hay. Tối đó tao ngủ không được, xôn xao bứt rứt. Cứ mơ mơ màng màng thấy cái miệng đẹp với hàm răng trắng muốt của nàng mỉm cười chào tao. Ừ, chỉ nụ cười đơn sơ như vậy mà trái tim tao đập lộn xộn trật nhịp hết trọi. Cả ngày hôm sau tao đâu còn đầu óc nào mà lo sửa soạn Tết nhứt. Tao cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh cách thức làm sao để gặp nàng. Đêm ba mươi tao ngồi ở trước nhà đợi đúng Giao thừa, nàng với mẹ đi lễ ở chùa Bà, tao bèn lò dò đi theo nhập bọn đi chung. Tại chánh điện khói nhang mù mịt, đôi mắt cay xè muốn khóc, tao quỳ cạnh nàng van vái Bà phù hộ cho nàng yêu tao. Không biết Bà có nghe lời cầu nguyện hay không, nhưng chắc là cô Bảy Liên Phát nghe vì tao khấn hơi lớn tiếng. Khi ra về cô Bảy dặn lại với tao là chiều mùng một nhớ chở má đến đánh Tứ sắc với cô. Cứ như vậy mà tao ăn Tết ở nhà nàng năm đó rồi năm sau nữa. Thằng Dân nghe tới đó, vỗ đùi:
- Kể như xong rồi, đã thiệt. Tôi thở dài:
- Cái gì mà đã. Chuyện kể như xong… cuối cùng rồi cũng không xong. Mầy đừng có thấy tao bậm trợn ngon con như vầy mà tưởng lầm. Tao được cái miệng ào ào nhưng trong bụng nhát hít như thỏ đế. Tao thương Yến thiệt lòng, phải nói là si mê mới đúng. Nàng phải là vợ tao. Không biết bao nhiêu lần quyết định rồi lại do dự, rụt rè. Tao tìm kiếm những câu nói văn hoa trau chuốt để ngỏ tình ý với nàng, sắp xếp cho đâu ra đó rồi học thuộc lòng. Khi nói nàng phải cảm động mà thương tao. Vậy mà phải đợi đến cái Tết thứ hai tao mới liều gan nói đại. Trời ơi, trong cái giây phút trọng đại đó tự nhiên tao cà lăm, cái lưỡi cứng đơ ra, nói không đầu, không đuôi. Mấy câu học thuộc lòng quên hết ráo. Nàng cũng đứng ngẩn ra, mặt nàng xám ngắt vì bất ngờ. Tao run quá, quýnh quáng thấy ở trên, cái trần nhà quay mòng mòng, dưới chân thì mặt đất rung rinh, mồ hôi rịn ra đầy mặt, không biết phải làm gì nữa, tao đành chụp đại tay nàng… Ừ, ừ tao nắm lấy tay nàng…
Thằng Dân khoái quá hỏi tới:
- Rồi sao nữa anh Ba, hai người có hun nhau không?
- Hun cái khỉ khô, vừa đúng vào cái lúc đó, má nàng ở đâu đi sợt sợt về, tao lật đật rút tay lại. Về nhà tao tức hết sức, chuyện có bao nhiêu đó mà làm không nên thân. Không nhớ rõ là lúc tao đưa tay ra nắm lấy cái bàn tay mát rượi như nhung của nàng, nàng có nắm lại tay tao để đáp ứng hay không. Tao thắc mắc hoài. Mấy ngày sau gặp lại, nàng vẫn cười nói tự nhiên. Tao yên tâm nên lần sau dạn thêm được một chút.
- Một chút là bao nhiêu, anh Ba?
- Thì tao nắm trọn được tay nàng. Và tao mừng hết sức, mầy biết tại sao không? Nàng để yên không giựt lại. Lúc đó tao thấy trái đất ngừng quay, tim tao ngừng đập. Tao là người sung sướng nhứt, hạnh phúc nhứt trên cái vũ trụ nầy.
- Rồi chừng nào tới cái vụ hun, anh Ba?
- Phải lâu lắm hai đứa mới dám len lén ôm nhau hun. Yến thật dễ thương, hiền ngoan như con mèo. Tao ôm nàng nâng niu dịu dàng như ôm đứa em nhỏ. Mầy biết không, mấy ông thi sĩ khi làm thơ ca tụng người yêu, ông nào cũng nói người mình thương là đẹp tuyệt trần. Nhưng thiệt ra mấy cô đó cũng thường thường, đôi khi hơi xấu nữa. Trong thơ văn thì phải vậy cho đậm đà, chớ làm thơ mà tả người yêu mình xấu, ai mà đọc. Tao không phải là thi sĩ nên tao nói người yêu tao đẹp thì mầy phải hiểu là Yến đẹp thiệt tình. Như đóa hoa lan phơi trọn sắc hương, nàng kiều diễm xinh tươi hết sức thành ra mỗi lần gặp nàng, tao bối rối rụng rời… Hai đứa tụi tao thương nhau có thể chết được. Thằng Dân ngồi thừ người, suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Vậy thì theo em, cái vụ Bạc Liêu buồn thì có buồn chứ không tức. Dầu gì thì anh Ba cũng đã ẵm người đẹp trong tay trước anh Tám công an. Tại cái số của hai người không thành chồng vợ. Nghe thằng nhỏ nói tới đó tôi nín thinh. Ẵm người đẹp trong tay? Nó hiểu lầm tôi rồi. Tôi nói nghĩa đen, nó hiểu nghĩa bóng. Quả tình tôi đã ôm Yến gọn trong vòng tay. Chúng tôi hôn nhau đắm đuối trong những lần gặp gỡ. Chỉ có bấy nhiêu đó, rồi thôi. Mối tình của hai đứa cố giữ thật trong sạch, thật tinh khiết. Trong bất cứ mối tình nào, muốn bền vững lâu dài, ngoài lòng thương nhau còn phải có sự kính trọng giữa hai người. Ngày nào sự kính trọng mất đi, ngày đó mối tình tan vợ. Tình vua tôi, cha con, bè bạn còn phải vậy, nói chi đến tình vợ chồng. Tôi thương Yến thiệt tình, trước sau gì nàng cũng là vợ tôi.
- Trời đất, sao cha nội ngu quá vậy. Nghe không thôi, cũng đủ tức chết. Cả cái xứ Việt Nam Cộng Hòa chỉ có một mình cha thôi, không có người thứ hai. Ngu ơi là ngu!
- Dân, mầy chửi tao cho đã miệng đi. Tao cũng biết là tao ngu nhưng không thể làm khác hơn được. Yến nhẹ nhàng quá, trong suốt quá như cái bình pha lê làm sao tao dám cầm mạnh tay. Tao đâu thể nhẫn tâm phá vỡ mối tình ngây thơ đẹp đẽ của hai đứa. Trong đời tao thà để người phụ tao hơn là tao phụ người. Thiệt thòi một chút nhưng lòng thanh thản…
- Cái gì mà phụ với không phụ. Anh thương cô Yến rồi anh sẽ cưới làm vợ
mà. Cải lương vừa vừa chớ. Anh không làm gì hết mà miệng cứ nói thương.
Thiệt hết sức! Rồi nó tiếp, giọng còn hằn học:
- Rồi cái đêm ở Bạc Liêu, có gặm được cái xác mía nào không đó cha nội. Nghe cha kể, thiệt tình tức muốn bể cái ngực luôn.
- Lúc đó tao dìu nàng trở ra sân. Từng cơn gió thổi qua mát rượi. Hai cái bóng tao và nàng sóng đôi nhau mờ mờ trên lối đi trải sỏi. Căn biệt thự chìm ngập trong đám cỏ cây tối đen. Cái không gian tĩnh mịch nầy chỉ còn hai người một thời gắn bó, giờ đây tâm sự ngổn ngang. Tao, một thằng đàn ông ba năm đi lính, bốn năm ở tù, trải bao cay đắng khổ nhục. Ngay cả nay mai sắp làm cuộc vượt biên đem sinh mạng thử hên xui. Vậy mà đến giờ phút cuối lại gặp thêm cảnh ngộ trớ trêu bi đát. Những cảm giác ghen tức, buồn giận, xót thương cứ từng chập dâng lên trong lòng hành hạ tao không dứt. Tao phải làm sao đây? Gần đến cái băng cây, tụi tao ngồi xuống. Yến xích lại bên tao như tìm một tha thứ hay che chở, hay yêu thương? Cái bờ vai tròn nhỏ rung rung. Mái tóc thoảng mùi thơm dìu dịu. Tao vẫn lặng im trong xúc động bàng hoàng. Mãi đến khi nàng ngước mắt lên nhìn, cặp mắt tròn to đen lánh như nhung ướt đẫm nước mắt, tao mới đưa tay qua ôm choàng bờ vai tròn mịn, dịu dàng như ôm đứa em gái ngoan.
- Yến, Yến, không ngờ gặp lại em. Vừa nói tới đó, nàng ôm chầm lấy tao nức nở nghẹn ngào. Tao nghe từng dòng nước mắt ấm ấm thấm ướt cả ngực áo. Yến đẹp đẽ xinh xắn của tao ngày xưa, bây giờ của ai? Nàng vẫn thổn thức, đằm thắm nép gọn trong lòng tao. Một xúc động dâng lên ứ nghẹt trong tim, tao nói:
- Yến nè, coi như không có gì xảy ra hết… Không có gì thay đổi hết. Gặp lại em tối nay, anh mừng quá. Giọng tao nghèn nghẹn. Nàng cũng xúc động không kém, bấu chặt lấy vai tao. Cái tình thương của hai đứa mênh mông quá, làm sao nói cho hết được. Đâu có ngôn ngữ nào đủ để diễn tả lòng cảm thương chơn thành đắm đuối. Hồi lâu nàng lên tiếng:
- Anh Quốc, tha thứ cho em, có những việc làm không biết tại sao. Cả gia đình em tan nát đổ vỡ hết. Ba thì ở mãi tận Hoàng Liên Sơn, mẹ tá túc ở nhà dì Út, em thì trôi nổi như dề lục bình, thân lững lờ trong dòng nước đục, rễ muốn bám chặt lấy một vũng sình nào đó mà cũng không xong… Lúc đó bỗng dưng nàng ngẩng đầu lên, lắng nghe:
- Hình như có ai ngâm thơ, anh nghe không? Tao nghe vẫn là giọng nói thơ của ông già hồi đầu hôm, tiếp tục văng vẳng trong gió: Bước lỡ bước nên chàng dùn thẳng Chờ Kiều ra tới kiếm trả cho Gặp mặt nhau đôi lứa hẹn hò Một lời nguyện trăm năm kết tóc Yên lặng hồi lâu, nàng nói ngập ngừng:
- Phải chi ngày xưa Kiều và Kim thương nhau hơn một chút nữa. Em muốn nói là họ sống trọn vẹn cho nhau thì về sau khỏi phải ân hận, xót xa, tiếc nuối… Đêm đã thật khuya. Trăng chun vô một đám mây đen dày mượt, cả bầu trời tối thăm thẳm. Những vì sao còn lại không đủ sáng. Tao nghe sương ướt trên đầu nhưng không thấy lạnh vì người Yến ấm áp, nồng nàn. Nàng ôm lấy tao kêu nho nhỏ: “Anh Quốc! Anh Quốc!…” Bộ ngực căng đầy áp chặt vào ngực tao khiến tao cảm thấy nghẹt thở, các mạch máu chảy ngược lên đầu, lỗ tai lùng bùng. Tao ngửi được mùi thơm hăng hăng của da thịt nàng. Thần kinh tao nửa mê nửa tỉnh. Mặt trăng giờ đã ló ra khỏi đám mây như nhìn tao mà cười. Yến vẫn cựa quậy trong vòng tay, hơi thở thơm tho, thân thể tươi mát. Yến vẫn đẹp như xưa vì quyến rũ bội phần, tình tứ bội phần. Tao cúi xuống nhìn thấy ánh trăng sáng rỡ trên chiếc ngực vun đầy của nàng.
Tới đúng cái phút đó tao chợt tỉnh táo. Nay mai đây, khi lên ghe làm một chuyến đi xa, đời tao với nàng chỉ có tan mà không có hợp. Cái gì còn lại sau khi tan vỡ hết? Cái đó là tình yêu của tao thương Yến thật lòng. Tao muốn nàng cũng thương tao như vậy. Một trăm năm, một ngàn năm, một triệu năm… Làm sao để nàng nhớ tao, nhớ hoài hủy. Tao cũng vậy, dầu ở chưn trời góc biển nào, đầu râu tóc bạc phơ, chống gậy đi hết nổi, tao vẫn muốn nhớ thương nàng hoài hoài… như cái thời mới lớn… Trong vòng tay rắn chắc của tao, Yến mở to mắt nhìn, ngạc nhiên và chờ đợi…
Võ Kỳ Điền
Nguồn: Tác giả gửi
- Rồi cái đêm ở Bạc Liêu, có gặm được cái xác mía nào không đó cha nội. Nghe cha kể, thiệt tình tức muốn bể cái ngực luôn.
- Lúc đó tao dìu nàng trở ra sân. Từng cơn gió thổi qua mát rượi. Hai cái bóng tao và nàng sóng đôi nhau mờ mờ trên lối đi trải sỏi. Căn biệt thự chìm ngập trong đám cỏ cây tối đen. Cái không gian tĩnh mịch nầy chỉ còn hai người một thời gắn bó, giờ đây tâm sự ngổn ngang. Tao, một thằng đàn ông ba năm đi lính, bốn năm ở tù, trải bao cay đắng khổ nhục. Ngay cả nay mai sắp làm cuộc vượt biên đem sinh mạng thử hên xui. Vậy mà đến giờ phút cuối lại gặp thêm cảnh ngộ trớ trêu bi đát. Những cảm giác ghen tức, buồn giận, xót thương cứ từng chập dâng lên trong lòng hành hạ tao không dứt. Tao phải làm sao đây? Gần đến cái băng cây, tụi tao ngồi xuống. Yến xích lại bên tao như tìm một tha thứ hay che chở, hay yêu thương? Cái bờ vai tròn nhỏ rung rung. Mái tóc thoảng mùi thơm dìu dịu. Tao vẫn lặng im trong xúc động bàng hoàng. Mãi đến khi nàng ngước mắt lên nhìn, cặp mắt tròn to đen lánh như nhung ướt đẫm nước mắt, tao mới đưa tay qua ôm choàng bờ vai tròn mịn, dịu dàng như ôm đứa em gái ngoan.
- Yến, Yến, không ngờ gặp lại em. Vừa nói tới đó, nàng ôm chầm lấy tao nức nở nghẹn ngào. Tao nghe từng dòng nước mắt ấm ấm thấm ướt cả ngực áo. Yến đẹp đẽ xinh xắn của tao ngày xưa, bây giờ của ai? Nàng vẫn thổn thức, đằm thắm nép gọn trong lòng tao. Một xúc động dâng lên ứ nghẹt trong tim, tao nói:
- Yến nè, coi như không có gì xảy ra hết… Không có gì thay đổi hết. Gặp lại em tối nay, anh mừng quá. Giọng tao nghèn nghẹn. Nàng cũng xúc động không kém, bấu chặt lấy vai tao. Cái tình thương của hai đứa mênh mông quá, làm sao nói cho hết được. Đâu có ngôn ngữ nào đủ để diễn tả lòng cảm thương chơn thành đắm đuối. Hồi lâu nàng lên tiếng:
- Anh Quốc, tha thứ cho em, có những việc làm không biết tại sao. Cả gia đình em tan nát đổ vỡ hết. Ba thì ở mãi tận Hoàng Liên Sơn, mẹ tá túc ở nhà dì Út, em thì trôi nổi như dề lục bình, thân lững lờ trong dòng nước đục, rễ muốn bám chặt lấy một vũng sình nào đó mà cũng không xong… Lúc đó bỗng dưng nàng ngẩng đầu lên, lắng nghe:
- Hình như có ai ngâm thơ, anh nghe không? Tao nghe vẫn là giọng nói thơ của ông già hồi đầu hôm, tiếp tục văng vẳng trong gió: Bước lỡ bước nên chàng dùn thẳng Chờ Kiều ra tới kiếm trả cho Gặp mặt nhau đôi lứa hẹn hò Một lời nguyện trăm năm kết tóc Yên lặng hồi lâu, nàng nói ngập ngừng:
- Phải chi ngày xưa Kiều và Kim thương nhau hơn một chút nữa. Em muốn nói là họ sống trọn vẹn cho nhau thì về sau khỏi phải ân hận, xót xa, tiếc nuối… Đêm đã thật khuya. Trăng chun vô một đám mây đen dày mượt, cả bầu trời tối thăm thẳm. Những vì sao còn lại không đủ sáng. Tao nghe sương ướt trên đầu nhưng không thấy lạnh vì người Yến ấm áp, nồng nàn. Nàng ôm lấy tao kêu nho nhỏ: “Anh Quốc! Anh Quốc!…” Bộ ngực căng đầy áp chặt vào ngực tao khiến tao cảm thấy nghẹt thở, các mạch máu chảy ngược lên đầu, lỗ tai lùng bùng. Tao ngửi được mùi thơm hăng hăng của da thịt nàng. Thần kinh tao nửa mê nửa tỉnh. Mặt trăng giờ đã ló ra khỏi đám mây như nhìn tao mà cười. Yến vẫn cựa quậy trong vòng tay, hơi thở thơm tho, thân thể tươi mát. Yến vẫn đẹp như xưa vì quyến rũ bội phần, tình tứ bội phần. Tao cúi xuống nhìn thấy ánh trăng sáng rỡ trên chiếc ngực vun đầy của nàng.
Tới đúng cái phút đó tao chợt tỉnh táo. Nay mai đây, khi lên ghe làm một chuyến đi xa, đời tao với nàng chỉ có tan mà không có hợp. Cái gì còn lại sau khi tan vỡ hết? Cái đó là tình yêu của tao thương Yến thật lòng. Tao muốn nàng cũng thương tao như vậy. Một trăm năm, một ngàn năm, một triệu năm… Làm sao để nàng nhớ tao, nhớ hoài hủy. Tao cũng vậy, dầu ở chưn trời góc biển nào, đầu râu tóc bạc phơ, chống gậy đi hết nổi, tao vẫn muốn nhớ thương nàng hoài hoài… như cái thời mới lớn… Trong vòng tay rắn chắc của tao, Yến mở to mắt nhìn, ngạc nhiên và chờ đợi…
Võ Kỳ Điền
Nguồn: Tác giả gửi
Share this:
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 050
THƠ PHÙNG CUNG
PHÙNG CUNG
(1928 - 1997)
*
SAY
Ai chuốc rượu
Cánh buồm say lảo đảo
Quanh quẩn quãng sông chiều
Quên nẻo ra khơi.
BUỒNG THƠM
Đêm vắng
Buồng thơm
Em soi gương trộm
Ngọn đèn mượn gió nghé nghiêng.
Ê ẨM
Chợt nghe động trống
Trâu bò nhớn nhác
Dùi quật liên hồi
Ê ẩm tấm da khô.
Bèo
Lênh đênh muôn dặm nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh.
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh.
Mẹ
Mồ hôi Mẹ
Tháng ngày đăm đăm nhỏ giọt
Con níu giọt mồ hôi
Đứng dậy làm người.
Con níu giọt mồ hôi
Đứng dậy làm người.
Tội nghiệp
Tội nghiệp nhà thơ
Hợm mình
Lầm lạc
Bởi không biết sống
Nên không biết chết
Nửa thế kỷ
Bịlưu đầy
Trong cõi tung hô
Biệt giam Bảo Thắng –Lào Cai 72
Bếp
Gió mưa sụt sui
Lửa mất
Bếp còn
Âu rỗng chuột rình khua khoắng
Lo lắng lườm nhau.
1983
Vắng
Dưa héo sào phơi
Emđi đâu
Chĩnh nước gốc cau
Ôm khoanh – trời cũ
Lá bưởi đầu hồi
Loáng thoáng chân chim.
Điềmđói
Bàn tay héo xước măng rô
Bới trang lịch Tàu
Nhăn mặt – Tháng ba thừa
Trời giở quẻ
Giội hoàng hôn máu cá
Tập tàng, rau rệu được mùa
Đêm nghe xào xạc mùi thất bát
Sáng dậy trẻ già đắng miệng
Bãi Tân bồi ngâm rét muộn
Ngô loa kèn
Dọa thổi gió Đông non.
PhùngCung
VÕ KỲ ĐIỀN * HỒ TRƯỜNG AN
Vài nhận xét thế giới văn chương Hồ Trường An
Posted: 17/04/2011 in Biên Khảo / Phê Bình, Võ Kỳ ĐiềnThẻ:Hồ Trường An
Võ Kỳ Điền
Hồ Trường An
… Tôi là một người đầy ham muốn và khá tò mò, và tin rằng nhiều độc giả cũng có tánh nầy, hể đọc tác phẩm nào mình yêu thích thì bất cứ điều gì liên quan tới tác giả cũng muốn biết hết, mà phải biết cho thật rõ mới chịu (cũng như khán thính giả tò mò muốn biết đời tư của các tài tử, cải lương, điện ảnh Holywood, phim bộ Hồng Kông, cầu thủ hockey hay đá banh vậy). Nhớ lại những năm về trước, có lần tôi viết thơ cho Hồ Trường An (HTA) để điều tra cho kỹ -chơi với bạn lâu lắm rồi, hình dáng của bạn ra sao tôi không hình dung ra được, mấy hình đăng trên sách báo, cái thì mập, cái thì ốm, mắt mũi không rõ nét, khi nào rảnh làm ơn gởi cho vài tấm chụp thiệt đàng hoàng, để coi dung nhan mùa hạ (hay thu?) của bạn hiền ra sao.
Sau đó tôi liền nhận được ảnh của HTA chụp chung với nhiều bạn bên Tây, trong đó chỉ biết có chị Nguyễn Thị Vinh. Trong hình, còn thấy ba bốn đấng nam nhi trạc tuổi trung niên, ông nào cũng giống nhau vì đen thui, cũng bụng bự bự, không đoán được HTA đứng ở giữa hay ở bìa. Thôi đành ngắm cô trẻ trẻ đứng gần chị Vinh vì cô nầy ốm ốm, cao cao, thon thon và đẹp ơi là đẹp, trong bụng vẫn còn thắc mắc không biết HTA là ông đen nào trong hình, dĩ nhiên cũng tò mò muốn biết cô trẻ đẹp đó (sau nầy biết tên là Mỹ Nương) quen với bạn mình ở mức độ nào, có thân thiết nhau không, biết đâu chừng …
Nhớ có lần học giả Lâm Ngữ Đường đã nói “một người biết đọc sách xét kỹ tác giả từ trong ra tới ngoài như người ăn mày lật áo ra để tìm rận. Một số tác giả luôn luôn kích thích độc giả như một chiếc áo đầy rận của người ăn mày. Ngứa ngáy là một cái thú trên đời.” Đó là ông nói về điểm thích thú của người đọc. Tôi cũng là một trong hằng ngàn độc giả có được cái đam mê đọc sách đồng thời là một người bạn bút mực khá gần gũi của HTA trong giai đọan phôi thai của nền văn học hải ngoại vào thập niên 80, nên chuyện tìm hiểu HTA là một ngứa ngáy đầy thú vị.
Tôi sở dĩ nói lòng vòng như vậy vì tôi mê văn HTA, muốn biết rõ con người HTA và cố gắng tìm tòi nét đặc biệt nào trong bút pháp mà anh đã tạo nên tên tuổi và tìm được một chỗ đứng vững vàng trong văn đàn hải ngoại nầy. Nhìn cái cây xanh trĩu lá hoa, ta phải thấy được bên dưới lớp vỏ nâu sần sùi, luân lưu đầy mạch nhựa non tươi mát. Cây hết nhựa hay không còn chút nhựa nào thì chỉ còn dành cho lò sưởi… Cũng vậy chất liệu quí báu để nuôi cây tươi tốt là nhựa non bổ dưỡng, còn chất liệu để nuôi một tác phẩm nghệ thuật là bút pháp và khí hậu ấm áp của nó, cũng như máu nóng đối với cơ thể. Máu là điều kiện ắt có nhưng chưa đủ, muốn đủ là phải nóng, điều nầy cần thiết hơn. Cũng vậy muốn trở thành nhà văn phải chú ý đến trước hết là bút pháp và khí hậu của tác phẩm mình tạo ra, tức là cách viết đặc biệt của riêng mình.
Với một nhà văn, không có lời nhận xét nào thê thảm hơn khi bị phê bình là cách viết nầy giống giống nhà văn nào đó. Viết văn mà giống người khác là mới tập viết, còn ăn đậu ở nhờ nhà người chớ mình chưa có nhà riêng. Phải cất nhà riêng cho mình, dù nhà lá hay biệt thự, phải do mình tạo ra. Nhà không có nóc, phải nương tựa vách nhà hàng xóm thì chỉ là cái chòi…
Trước hết tôi muốn nói đến khí hậu ấm lạnh của bài văn, đó là cái vốn căn bản để làm văn chương nghệ thuật. Muốn trở thành một tác phẩm, bài văn phải ấm áp, đầy nhiệt tình. Dù kỹ thuật có hay, cách viết có khéo, tư tưởng có cao, chữ dùng có đạt mà khí hậu lạnh tanh thì xấp giấy có chữ viết tèm lem đó phải chịu nằm ở xó kẹt nhà kho chớ không phải được đặt trên kệ sách quí.
Nhưng làm sao để tạo sinh khí cho câu văn? Cũng như Chúa Trời tạo ra loài người, Chúa phải chịu khó thổi hơi nóng cho người đầu tiên được nặn bằng đất sét. Nếu không truyền cho một ít hơi nóng tự bản thân Chúa thì con người chỉ là một cục đất sét có mặt mũi tay chưn nhưng không nhúc nhích. Có nhiều cách tạo hơi nóng cho tác phẩm, có tác giả dùng đối thoại dí dỏm, hoặc đốp chát tưng bừng gây cho người đọc cảm giác tươi vui, có tác giả quan sát tỉ mỉ, phân tách chi ly khiến độc giả ngạc nhiên nhảy dựng lên, có tác giả kiêu kỳ, khinh bạc ngông nghênh, có tác giả thiệt thà, chất phác, bình dị, có tác giả ba trợn, ngang tàng, mỗi người là một sắc thái riêng tư, không ai giống ai. Nhà văn là thượng đế đầy quyền uy với nhiều chất liệu sáng tạo, phải biết tận dụng cách thức riêng để tạo sinh khí cho tác phẩm mình.
Riêng HTA, tôi vẫn thường thấy anh tạo hơi nóng cho tác phẩm, là trong khi sáng tác, coi độc giả như người bạn thân tình để chia xẻ những buồn vui, cùng nhau tâm sự, rồi lần lần đi đến nhiệt tình. Thế giới văn chương HTA không phải là thế giới nghiêm trang của nhà thờ hay chùa nơi đó tác giả khoát bộ mặt ông cha hay thầy tu để giảng đạo mong cứu vớt kẻ tội lỗi hoặc khổ đau; cũng không phải là trường học để thầy giáo phô trương kiến thức uyên bác, giảng bài dạy dỗ cho học trò là độc giả nghe; cũng không phải là chiến trường sắt máu hay chiếu rượu ồn ào để cho tác giả múa may tung hoành, phô diễn những âm mưu lừa lọc, xão trá, hoặc ca tụng thù tạc; cũng không phải là chợ búa mua danh bán lợi để tác giả và độc giả chia nhau từng mớ chữ nghiã, giành giựt chút danh hão; cũng không phải là thế giới của người thành thị giả dạng quê mùa hoặc ngược lại…
Thế giới văn chương của HTA là thế giới của những người bạn thân tình, cùng chung những đau khổ và hạnh phúc, cùng chung những ước mơ và hy vọng, cùng chung những an ủi và chia xẻ. Anh đã viết ra như vậy và đã sống thực như vậy. Độc giả từng đọc truyện của HTA, bạn bè từng giao tiếp với An, thân cũng vậy, quen sơ cũng vậy, An đều coi như bạn thâm giao, đem hết trái tim cùng ruột gan ra mà cùng nhau chia xẻ buồn vui, không mảy may dè dặt, thủ thế …
Ở tác phẩm HTA, bất cứ cuốn nào, bài nào, thì độc giả cũng thấy ở mỗi chữ, mỗi câu, mỗi thiên, mỗi tiết, ngay cả ở cách đặt tựa của những truyện ngắn, truyện dài, là những lời thủ thỉ tâm tình của tác giả và độc giả. Như có lần trong một bài tạp ghi viết về những sinh hoạt văn học nghệ thuật ở Montréal, bạn đọc đã ngạc nhiên khi thấy cái tựa đề lạ lùng “Montréal, một thành phố hãy còn trong mường tượng” Chỉ với mấy chữ ngắn gọn, vậy mà HTA nói được biết bao nhiêu điều, như muốn kể trước cho bạn đọc nghe anh đang mơ mộng về một phương trời Montréal xa thẳm, ở đó đang có những người bạn văn, đang chơi trò chơi chữ nghiã, có lẽ rất tưng bừng, phải chi một ngày nào mình đến đó…
HTA đã viết và độc giả theo dõi ‘Chuyện miệt vườn’, ‘Chuyện quê Nam’, ‘Lúa tiêu ruộng biền’ ‘Đêm chong đèn’’Tạp ghi xanh’ ‘Lá thư mùa thu’ ‘Trên dải tân bồi’… nói chung những tác phẩm của HTA toàn là những câu chuyện riêng tư vụn vặt của một người bạn là tác giả rù rì rủ rĩ, kể lễ cho bạn hiền, là độc giả nghe, y như hai người bạn thân đang nói chuyện với nhau, ngồi xổm ở quán cóc hay vĩa hè, bên một liếp rẩy hay trên một bờ mương rong rêu, bên chiếc cà ràng đất đầy tro bụi, tất cả xuất hiện trong một không khí đầy ấm áp và nhiệt tình.
Họ nói với nhau cái gì vậy? Có gì lớn lao đâu, toàn là chuyện cà kê dê ngỗng, chuyện con mẹ nầy thương thằng cha kia, chuyện bà hàng xóm kia đánh ghen cô láng giềng nọ, chuyện bếp núc làm tôm làm cá, cách kho thịt làm sao cho ngon, cách phi hành sao cho thơm, về quần áo thì thứ lãnh nào đẹp, loại xuyến nào bền, may mặc đường kim mũi chỉ sao cho khéo, cách trang điểm của mấy cô mấy bà, với các lớp kem lót mặt hiệu nào, làm sao cho da được mịn,… Những người bạn độc giả nầy cũng dễ tánh, ai nấy đều xuề xoà, khi thì lắng nghe kỹ lưỡng, khi thì lim dim mắt nhắm mắt mở, nhiều khi giựt mình ngơ ngác hỏi, bạn kể tới đâu rồi, hình như vụ đánh ghen đó, vụ kho cá bóng kèo kia, rồi vụ nấu canh rau đắng, rau ngổ, rau tập tàng, vụ ma nhát ở Đồng Chó Ngáp… lần trước đã kể rồi mà.
Tác giả cũng với nụ cười hịch hạc dễ dãi, có gì đâu mà bạn phải bận tâm, cứ yên lòng mà nghe kể tiếp. Hình như đức Phật có lần nói, chớ cho bất cứ chuyện gì là quan trọng, đừng để tâm vướng mắc, cứ buông bỏ hết đi, thì sẽ đạt được hạnh phúc ngay trong cõi đời nầy. Đời tự nó đã khổ rồi, tại sao lại phải dằn vặt khổ thêm. Văn chương phải làm cho đời thêm tươi mát đẹp đẽ hơn, đừng nhắc chi chuyện buồn rầu…mệt lắm.
Thử coi cho kỹ trong đống tác phẩm hàng ngàn quyển đã in ra, nhà văn nhà báo nào cũng nói thương yêu quí mến độc giả mà ai lo lắng chăm sóc độc giả kỹ lưỡng bằng HTA không? Tại sao bằng chữ nghiã có sẵn, mình không dọn cho độc giả những mâm thịt cá ê hề, mời họ ăn cho ngon, thêu may quần áo toàn bằng lụa là để họ mặc cho đẹp, rồi chịu khó dẫn cả nhà đi coi hát bóng, coi cải lương, lắng nghe họ cãi nhau cho đã đời rồi nhìn họ yêu nhau thắm thiết… HTA cắt nghiã rõ cho bạn đọc nghiã đen của chữ tiểu thuyết, tiểu là nhỏ mà thuyết là lời nói hay câu chuyện. Đó là viết những chuyện vụn vặt để thể hiện được cái quan trọng là cõi lòng tốt đẹp, trong sáng, dịu dàng, cái tình cảm nhân hậu của con người đối với con người thương mến nhau. HTA đã gởi gấm và đã được độc giả chia xẻ trong niềm tương thân tương ái, ấm áp thân tình.
Như đã trình bày, trong văn giới có tác giả thâm trầm mà khinh bạc, người sắc sảo đến độ chi ly, người thì phù hoa óng chuốt, có người ngông nghênh bất cần đời, người mộc mạc chất phác, người thì thô kệch…tất cả đều phải thể hiện nét sắc sảo, ly kỳ của ngòi bút mong đạt tới nét độc đáo tài hoa của mình, điều đó khó mà dễ. Nhưng với cách viết giản dị tươi sáng, mà tạo được sự ấm áp thân tình hầu như hiếm lắm và ít người đạt đến được như HTA, tưởng dễ mà thật khó. Nhà học giả nổi tiếng của Trung Hoa, Lâm Ngữ Đường có lần đã nói: ‘cá tươi không cần gia vị vẫn nấu được món ăn ngon, còn cá ươn thì phải thêm mắm muối càng nhiều càng tốt….’
Coi độc giả như bạn thân, HTA đã làm được nhưng chưa đủ, các tác giả nữ công gia chánh, nhà báo gỡ rối tơ lòng, trả lời thơ tín, rõ ràng họ đâu phải là nhà văn. Cũng vậy những vị học lực thâm sâu, kiến thức quảng bác, bằng cấp cao tột, cũng không phải là nhà văn, họ chỉ là những học giả nổi tiếng. Muốn là nhà văn, như có lần Mai Thảo đã nói, phải là người giàu có, tha hồ tiêu xài chữ nghiã. Mai Thảo nói gì mà rắc rối khó hiểu quá vậy?
Nếu chịu khó suy nghĩ thì đúng thiệt, ông ta nói là làm. Nhà văn Mai Thảo vốn là tay ăn hoang tiêu rộng, phung phí chữ nghiã vì quá sức giàu có. Quả thật, ngôn ngữ là để diễn đạt tư tưởng, tình cảm. Vốn liếng của nhà văn là ngôn ngữ, nếu ngôn ngữ nghèo nàn, khô cạn, héo khô, ngọng nghịu…thì làm sao mà trao đổi, làm sao mà bàn bạc, diễn đạt. Giàu chữ nghiã có nhiều cách hiểu. Muốn diễn tả một ý niệm, nhà văn có thể dùng rất nhiều từ để diễn đạt, dùng nhiều cụm từ phụ thuộc như tĩnh từ (adjectif), trạng từ (adverbe) làm đậm đà thêm ý muốn nói. Đó là cách thường dùng của các nhà văn Tây phương. Câu văn nhờ đó mà trở nên đẹp đẽ, mỹ miều, tinh tế và nhứt là diễn đạt được tới cùng tận chỗ chi ly, sâu kín nhứt của lòng người. Cách ngược lại là cũng có thể dùng vài từ mà diễn đạt được nhiều ý, để độc giả tuỳ trình độ học thức và thưởng ngoạn, tự nghiền ngẫm thấm thiá cái thú vị riêng tư (như cách của các nhà văn Trung Hoa).
HTA đã áp dụng được cả hai cách nhuần nhuyễn. Tuy anh học khoa học (ngành Dược) nhưng khả năng hiểu biết và kiến thức văn chương Việt Nam và thế giới khá cao, anh đọc rất nhiều sách và trí nhớ phải nói là như máy điện toán. Trong những thơ từ qua lại, nhiều khi tôi phải sững sờ tự hỏi làm sao HTA nhớ nổi các mẫu chuyện vụn vặt xảy ra ở một góc phố nào đó, vào một thời điểm xa lơ xa lắc của quá khứ. Vậy mà HTA đã nhớ rõ mồn một, kể lại từng chi tiết, tên tuổi của từng nhân vật tỉ mĩ có ngọn có ngành không sai sót… Chúng ta thử đọc vài đoạn hầu coi mức giàu có trong kho tàng ngôn ngữ miêu tả của anh:
“răng năm nào của tôi tuy hô tuy vẫu nhưng vẫn xước mía thật tài tình, nhai ổi ngau ngáu. Mắt tôi tuy hí năm nào hễ khi nhắm mắt ngủ một giấc thoải mái trong veo. Giờ đây bốn chiếc răng giả xinh như hạt lựu, ngời sắc men mịn bóng, dẫu tôi có giận ai, chửi ai thì dám chửi chớ không dám cắn. Mắt tôi thụt sâu để gương mặt tôi sáng hơn, nhưng đôi mắt ấy biết bao đêm mở dài tráu tráu trong bóng đêm vì mất ngủ, và hễ khi tôi nuốt thuốc ngủ vào, đôi mắt vừa nhắm là thấy ác mộng, dị mộng nườm nượp kéo về. Kiệt (Kiệt Tấn ) nhắc lại đôi mắt cũ, hàm răng cũ của tôi, nhưng làm sao hắn trả lại cho tôi hai thứ quí báu đó để tôi nhai xương gà, cạp bắp, gặm giò heo, nhai khô mực, để đêm đêm nhắm mắt là ngủ một giấc êm suông sẻ, óng chuốt.”
Hoặc trong Chân Trời Lam Ngọc:
“Hôm đó chị mặc chiếc áo dài màu rêu sẩm nổi hoa xám bạc. Màu sắc rất chìm, rất nguội nhưng rất trang nhã. Đặc biệt nhất là chiếc khăn choàng hiệu Pierre Cardin màu đen nổi vạch màu hoàng kim, màu xanh lân tinh và màu đỏ yên chi làm cho màu áo khiêm tốn và màu son phấn tranh điểm kín đáo của chị nổi bật xôn xao hẳn lên. Tôi có bảo một anh bạn: bà Diệu Tâm hôm nay chơi trội màu sắc quá.”
Qua hai đoạn ngắn trên chúng ta thấy tác giả dùng nhiều danh từ, nhiều tĩnh từ khiến phong cảnh, nhân vật đầy màu sắc lung linh và hình ảnh tràn đầy. HTA thường viết như vậy và lối viết đó trở thành thói quen. Anh phóng bút thoải mái, nghĩ sao viết vậy không sửa đổi, trau chuốt gạn lọc, nhờ vậy nên văn rất tự nhiên. Độc giả chỉ cần đọc vài câu và biết ngay tác giả là ai, không hề lẫn lộn hoặc sai lầm qua người khác. Đám đông quần chúng dễ đón nhận và cảm thấy gần gũi vì chuyện xảy ra y hệt cuộc sống bình dị hằng ngày.
Nhưng đôi khi HTA cũng dùng cách thứ hai, “đạt ý ở ngoài lời ” của Trung Hoa. Đó là khi anh cố ý làm văn, khi viết thì câu văn ngắn gọn, chữ nghiã đơn giản, không nhiều tiếng phụ thuộc rườm rà, nhưng gây nhiều hình ảnh. Hình ảnh được tác giả cố ý gợi ra để độc giả tưởng tượng thêm. Một lần trong Lá Thư Mùa Thu (11.1984) HTA đã than thở:
“Giờ, Troyes đối với tôi là đất trích. Nhưng đất trích nầy đẹp quá, không có “lau vàng trúc võ nẫy mầm quanh hiên” như cảnh đất trích của nhà thơ Bạch Cư Dị. Nhưng tôi biết, bắt đầu giữa thu, cây sẽ trụi hết lá, cảnh vật sẽ buồn thảm, bầu trời thường thấp xuống và phủ mây màu chì. Có thể là vào đầu thu ở đây đẹp. Lá vàng như còn rạo rực ánh rạng rỡ. Vào buổi sáng hay buổi chiều, sương lam mỏng vương vất từ chòm cây khóm lá. Vào chơi trong rừng thu như vào cảnh mộng, đến khi trở ra xe thì áo măng tô đã ẩm nước” .
Thử phân tích đoạn văn ngắn nầy thì thấy ngay văn tài của HTA. Chúng ta hay bất cứ ai cũng có thể tả cảnh mùa thu có có lá vàng, có mây đen màu chì, có sương lam mỏng, có khí trời ẩm đụt, nhưng với tất cả đường nét đó không nói lên được điều gì, đó là những đường nét chết, miêu tả một cảnh vật không sinh khí… Chỉ thêm vào mấy chữ cuối dòng, HTA đã làm cho mọi sự sống động. Tác giả không chỉ vẽ hình ảnh một người lạc loài bơ vơ nơi đất khách, sống hiu quạnh thê lương qua thân xác bên ngoài mà còn vẽ được trong cõi lòng cảm nghĩ nữa. Con người lưu lạc đó cũng biết tận hưởng cảnh đẹp như mộng đang có của phương trời Tây. Cái không khí mùa thu đất Pháp bàng bạc qua văn của Anatole France với hình ảnh chú bé lưng mang cặp sách, nhảy chân sáo tung tăng buổi tựu trường đầu thu ngang qua công viên Luxembourg, lãng đãng với không khí mùa thu Tô Châu, Hàng Châu của Trung Hoa ngàn năm trước. Thi hào Tô Đông Pha đời Tống đã viết lời kết trong Tiền Xích Bích Phú….” khi đồ nhắm hoa quả đã hết, mâm bát bỏ ngổn ngang, cùng nhau gối đầu mà ngủ ở trong thuyền, không biết vầng đông đã sáng bạch tự bao giờ. (hào hạch ký tận, bôi bàng lang tạ, tương dữ chẩm tạ hồ chu trung, bất tri đông phương chi ký bạch)
Người xưa say mèm giựt mình thức giấc, bất giác thấy vầng đông đã sáng bạch. Người nay tuy đang dạo chơi rừng thu – khi trở ra xe thì áo măng tô đã ẩm nước. Hai trạng thái thức ngủ tuy khác mà cảm giác như một. Độc giả cũng bất giác, ngạc nhiên sững sờ thú vị. Viết ngắn gọn được như vậy là tuyệt bút. Đâu cần phải có câu chuyện ly kỳ, tâm sự éo le, tư tưởng siêu tuyệt,… mới là văn chương.
Còn bao nhiêu điều chưa khám phá trong thế giới văn chương HTA? Tôi tin là nhiều lắm nhưng do tình cờ đọc lại xấp thư cũ bạn gởi cho, đâm giựt mình. Một ngày cuối thu năm 1993 An đã viết ‘viết về HTA, xin bạn đừng nên, việc gì phải quậy lên cho độc giả chú ý. Tôi khác mụ X… ở chỗ đó, không quá khiêm tốn để tự hạ mình, không quá hách xì xằng, không khua động… Cố viết sao cho anh em bằng hữu vui, rồi mình cũng vui theo là được. Mà Điền tin đi, hễ mình vui là độc giả vui lây…’
HTA đã viết rành rành như vậy mà thiệt tình, tuy tay tôi không cầm bầu rượu nắm nem mà cũng vì mãng vui nên đành quên mất lời anh dặn dò. Trong mớ trí nhớ hổn độn mù mờ, chợt nhớ hai câu thơ của một người bạn gái văn sĩ:
Người đã nói rồi hay chưa nói,
Người đã nói rồi hay chưa nói ra…
Quả tình mấy ông, mấy bà làm cái nghề thi sĩ, văn sĩ thiệt rắc rối, nói tới nói lui, vòng qua vòng lại không ai hiểu gì hết trơn. Thực sự đến giờ phút nầy, cũng không biết tôi đã viết được chút ít gì về văn tài HTA, người bạn văn sĩ ở bên Tây của tôi chưa. Thôi đành kể như là có nói mà chưa hết ý…
Võ Kỳ Điền
(Văn Học, tháng 5 1999)
Nguồn: Tác giả gửi
Hồ Trường An
… Tôi là một người đầy ham muốn và khá tò mò, và tin rằng nhiều độc giả cũng có tánh nầy, hể đọc tác phẩm nào mình yêu thích thì bất cứ điều gì liên quan tới tác giả cũng muốn biết hết, mà phải biết cho thật rõ mới chịu (cũng như khán thính giả tò mò muốn biết đời tư của các tài tử, cải lương, điện ảnh Holywood, phim bộ Hồng Kông, cầu thủ hockey hay đá banh vậy). Nhớ lại những năm về trước, có lần tôi viết thơ cho Hồ Trường An (HTA) để điều tra cho kỹ -chơi với bạn lâu lắm rồi, hình dáng của bạn ra sao tôi không hình dung ra được, mấy hình đăng trên sách báo, cái thì mập, cái thì ốm, mắt mũi không rõ nét, khi nào rảnh làm ơn gởi cho vài tấm chụp thiệt đàng hoàng, để coi dung nhan mùa hạ (hay thu?) của bạn hiền ra sao.
Sau đó tôi liền nhận được ảnh của HTA chụp chung với nhiều bạn bên Tây, trong đó chỉ biết có chị Nguyễn Thị Vinh. Trong hình, còn thấy ba bốn đấng nam nhi trạc tuổi trung niên, ông nào cũng giống nhau vì đen thui, cũng bụng bự bự, không đoán được HTA đứng ở giữa hay ở bìa. Thôi đành ngắm cô trẻ trẻ đứng gần chị Vinh vì cô nầy ốm ốm, cao cao, thon thon và đẹp ơi là đẹp, trong bụng vẫn còn thắc mắc không biết HTA là ông đen nào trong hình, dĩ nhiên cũng tò mò muốn biết cô trẻ đẹp đó (sau nầy biết tên là Mỹ Nương) quen với bạn mình ở mức độ nào, có thân thiết nhau không, biết đâu chừng …
Nhớ có lần học giả Lâm Ngữ Đường đã nói “một người biết đọc sách xét kỹ tác giả từ trong ra tới ngoài như người ăn mày lật áo ra để tìm rận. Một số tác giả luôn luôn kích thích độc giả như một chiếc áo đầy rận của người ăn mày. Ngứa ngáy là một cái thú trên đời.” Đó là ông nói về điểm thích thú của người đọc. Tôi cũng là một trong hằng ngàn độc giả có được cái đam mê đọc sách đồng thời là một người bạn bút mực khá gần gũi của HTA trong giai đọan phôi thai của nền văn học hải ngoại vào thập niên 80, nên chuyện tìm hiểu HTA là một ngứa ngáy đầy thú vị.
Tôi sở dĩ nói lòng vòng như vậy vì tôi mê văn HTA, muốn biết rõ con người HTA và cố gắng tìm tòi nét đặc biệt nào trong bút pháp mà anh đã tạo nên tên tuổi và tìm được một chỗ đứng vững vàng trong văn đàn hải ngoại nầy. Nhìn cái cây xanh trĩu lá hoa, ta phải thấy được bên dưới lớp vỏ nâu sần sùi, luân lưu đầy mạch nhựa non tươi mát. Cây hết nhựa hay không còn chút nhựa nào thì chỉ còn dành cho lò sưởi… Cũng vậy chất liệu quí báu để nuôi cây tươi tốt là nhựa non bổ dưỡng, còn chất liệu để nuôi một tác phẩm nghệ thuật là bút pháp và khí hậu ấm áp của nó, cũng như máu nóng đối với cơ thể. Máu là điều kiện ắt có nhưng chưa đủ, muốn đủ là phải nóng, điều nầy cần thiết hơn. Cũng vậy muốn trở thành nhà văn phải chú ý đến trước hết là bút pháp và khí hậu của tác phẩm mình tạo ra, tức là cách viết đặc biệt của riêng mình.
Với một nhà văn, không có lời nhận xét nào thê thảm hơn khi bị phê bình là cách viết nầy giống giống nhà văn nào đó. Viết văn mà giống người khác là mới tập viết, còn ăn đậu ở nhờ nhà người chớ mình chưa có nhà riêng. Phải cất nhà riêng cho mình, dù nhà lá hay biệt thự, phải do mình tạo ra. Nhà không có nóc, phải nương tựa vách nhà hàng xóm thì chỉ là cái chòi…
Trước hết tôi muốn nói đến khí hậu ấm lạnh của bài văn, đó là cái vốn căn bản để làm văn chương nghệ thuật. Muốn trở thành một tác phẩm, bài văn phải ấm áp, đầy nhiệt tình. Dù kỹ thuật có hay, cách viết có khéo, tư tưởng có cao, chữ dùng có đạt mà khí hậu lạnh tanh thì xấp giấy có chữ viết tèm lem đó phải chịu nằm ở xó kẹt nhà kho chớ không phải được đặt trên kệ sách quí.
Nhưng làm sao để tạo sinh khí cho câu văn? Cũng như Chúa Trời tạo ra loài người, Chúa phải chịu khó thổi hơi nóng cho người đầu tiên được nặn bằng đất sét. Nếu không truyền cho một ít hơi nóng tự bản thân Chúa thì con người chỉ là một cục đất sét có mặt mũi tay chưn nhưng không nhúc nhích. Có nhiều cách tạo hơi nóng cho tác phẩm, có tác giả dùng đối thoại dí dỏm, hoặc đốp chát tưng bừng gây cho người đọc cảm giác tươi vui, có tác giả quan sát tỉ mỉ, phân tách chi ly khiến độc giả ngạc nhiên nhảy dựng lên, có tác giả kiêu kỳ, khinh bạc ngông nghênh, có tác giả thiệt thà, chất phác, bình dị, có tác giả ba trợn, ngang tàng, mỗi người là một sắc thái riêng tư, không ai giống ai. Nhà văn là thượng đế đầy quyền uy với nhiều chất liệu sáng tạo, phải biết tận dụng cách thức riêng để tạo sinh khí cho tác phẩm mình.
Riêng HTA, tôi vẫn thường thấy anh tạo hơi nóng cho tác phẩm, là trong khi sáng tác, coi độc giả như người bạn thân tình để chia xẻ những buồn vui, cùng nhau tâm sự, rồi lần lần đi đến nhiệt tình. Thế giới văn chương HTA không phải là thế giới nghiêm trang của nhà thờ hay chùa nơi đó tác giả khoát bộ mặt ông cha hay thầy tu để giảng đạo mong cứu vớt kẻ tội lỗi hoặc khổ đau; cũng không phải là trường học để thầy giáo phô trương kiến thức uyên bác, giảng bài dạy dỗ cho học trò là độc giả nghe; cũng không phải là chiến trường sắt máu hay chiếu rượu ồn ào để cho tác giả múa may tung hoành, phô diễn những âm mưu lừa lọc, xão trá, hoặc ca tụng thù tạc; cũng không phải là chợ búa mua danh bán lợi để tác giả và độc giả chia nhau từng mớ chữ nghiã, giành giựt chút danh hão; cũng không phải là thế giới của người thành thị giả dạng quê mùa hoặc ngược lại…
Thế giới văn chương của HTA là thế giới của những người bạn thân tình, cùng chung những đau khổ và hạnh phúc, cùng chung những ước mơ và hy vọng, cùng chung những an ủi và chia xẻ. Anh đã viết ra như vậy và đã sống thực như vậy. Độc giả từng đọc truyện của HTA, bạn bè từng giao tiếp với An, thân cũng vậy, quen sơ cũng vậy, An đều coi như bạn thâm giao, đem hết trái tim cùng ruột gan ra mà cùng nhau chia xẻ buồn vui, không mảy may dè dặt, thủ thế …
Ở tác phẩm HTA, bất cứ cuốn nào, bài nào, thì độc giả cũng thấy ở mỗi chữ, mỗi câu, mỗi thiên, mỗi tiết, ngay cả ở cách đặt tựa của những truyện ngắn, truyện dài, là những lời thủ thỉ tâm tình của tác giả và độc giả. Như có lần trong một bài tạp ghi viết về những sinh hoạt văn học nghệ thuật ở Montréal, bạn đọc đã ngạc nhiên khi thấy cái tựa đề lạ lùng “Montréal, một thành phố hãy còn trong mường tượng” Chỉ với mấy chữ ngắn gọn, vậy mà HTA nói được biết bao nhiêu điều, như muốn kể trước cho bạn đọc nghe anh đang mơ mộng về một phương trời Montréal xa thẳm, ở đó đang có những người bạn văn, đang chơi trò chơi chữ nghiã, có lẽ rất tưng bừng, phải chi một ngày nào mình đến đó…
HTA đã viết và độc giả theo dõi ‘Chuyện miệt vườn’, ‘Chuyện quê Nam’, ‘Lúa tiêu ruộng biền’ ‘Đêm chong đèn’’Tạp ghi xanh’ ‘Lá thư mùa thu’ ‘Trên dải tân bồi’… nói chung những tác phẩm của HTA toàn là những câu chuyện riêng tư vụn vặt của một người bạn là tác giả rù rì rủ rĩ, kể lễ cho bạn hiền, là độc giả nghe, y như hai người bạn thân đang nói chuyện với nhau, ngồi xổm ở quán cóc hay vĩa hè, bên một liếp rẩy hay trên một bờ mương rong rêu, bên chiếc cà ràng đất đầy tro bụi, tất cả xuất hiện trong một không khí đầy ấm áp và nhiệt tình.
Họ nói với nhau cái gì vậy? Có gì lớn lao đâu, toàn là chuyện cà kê dê ngỗng, chuyện con mẹ nầy thương thằng cha kia, chuyện bà hàng xóm kia đánh ghen cô láng giềng nọ, chuyện bếp núc làm tôm làm cá, cách kho thịt làm sao cho ngon, cách phi hành sao cho thơm, về quần áo thì thứ lãnh nào đẹp, loại xuyến nào bền, may mặc đường kim mũi chỉ sao cho khéo, cách trang điểm của mấy cô mấy bà, với các lớp kem lót mặt hiệu nào, làm sao cho da được mịn,… Những người bạn độc giả nầy cũng dễ tánh, ai nấy đều xuề xoà, khi thì lắng nghe kỹ lưỡng, khi thì lim dim mắt nhắm mắt mở, nhiều khi giựt mình ngơ ngác hỏi, bạn kể tới đâu rồi, hình như vụ đánh ghen đó, vụ kho cá bóng kèo kia, rồi vụ nấu canh rau đắng, rau ngổ, rau tập tàng, vụ ma nhát ở Đồng Chó Ngáp… lần trước đã kể rồi mà.
Tác giả cũng với nụ cười hịch hạc dễ dãi, có gì đâu mà bạn phải bận tâm, cứ yên lòng mà nghe kể tiếp. Hình như đức Phật có lần nói, chớ cho bất cứ chuyện gì là quan trọng, đừng để tâm vướng mắc, cứ buông bỏ hết đi, thì sẽ đạt được hạnh phúc ngay trong cõi đời nầy. Đời tự nó đã khổ rồi, tại sao lại phải dằn vặt khổ thêm. Văn chương phải làm cho đời thêm tươi mát đẹp đẽ hơn, đừng nhắc chi chuyện buồn rầu…mệt lắm.
Thử coi cho kỹ trong đống tác phẩm hàng ngàn quyển đã in ra, nhà văn nhà báo nào cũng nói thương yêu quí mến độc giả mà ai lo lắng chăm sóc độc giả kỹ lưỡng bằng HTA không? Tại sao bằng chữ nghiã có sẵn, mình không dọn cho độc giả những mâm thịt cá ê hề, mời họ ăn cho ngon, thêu may quần áo toàn bằng lụa là để họ mặc cho đẹp, rồi chịu khó dẫn cả nhà đi coi hát bóng, coi cải lương, lắng nghe họ cãi nhau cho đã đời rồi nhìn họ yêu nhau thắm thiết… HTA cắt nghiã rõ cho bạn đọc nghiã đen của chữ tiểu thuyết, tiểu là nhỏ mà thuyết là lời nói hay câu chuyện. Đó là viết những chuyện vụn vặt để thể hiện được cái quan trọng là cõi lòng tốt đẹp, trong sáng, dịu dàng, cái tình cảm nhân hậu của con người đối với con người thương mến nhau. HTA đã gởi gấm và đã được độc giả chia xẻ trong niềm tương thân tương ái, ấm áp thân tình.
Như đã trình bày, trong văn giới có tác giả thâm trầm mà khinh bạc, người sắc sảo đến độ chi ly, người thì phù hoa óng chuốt, có người ngông nghênh bất cần đời, người mộc mạc chất phác, người thì thô kệch…tất cả đều phải thể hiện nét sắc sảo, ly kỳ của ngòi bút mong đạt tới nét độc đáo tài hoa của mình, điều đó khó mà dễ. Nhưng với cách viết giản dị tươi sáng, mà tạo được sự ấm áp thân tình hầu như hiếm lắm và ít người đạt đến được như HTA, tưởng dễ mà thật khó. Nhà học giả nổi tiếng của Trung Hoa, Lâm Ngữ Đường có lần đã nói: ‘cá tươi không cần gia vị vẫn nấu được món ăn ngon, còn cá ươn thì phải thêm mắm muối càng nhiều càng tốt….’
Coi độc giả như bạn thân, HTA đã làm được nhưng chưa đủ, các tác giả nữ công gia chánh, nhà báo gỡ rối tơ lòng, trả lời thơ tín, rõ ràng họ đâu phải là nhà văn. Cũng vậy những vị học lực thâm sâu, kiến thức quảng bác, bằng cấp cao tột, cũng không phải là nhà văn, họ chỉ là những học giả nổi tiếng. Muốn là nhà văn, như có lần Mai Thảo đã nói, phải là người giàu có, tha hồ tiêu xài chữ nghiã. Mai Thảo nói gì mà rắc rối khó hiểu quá vậy?
Nếu chịu khó suy nghĩ thì đúng thiệt, ông ta nói là làm. Nhà văn Mai Thảo vốn là tay ăn hoang tiêu rộng, phung phí chữ nghiã vì quá sức giàu có. Quả thật, ngôn ngữ là để diễn đạt tư tưởng, tình cảm. Vốn liếng của nhà văn là ngôn ngữ, nếu ngôn ngữ nghèo nàn, khô cạn, héo khô, ngọng nghịu…thì làm sao mà trao đổi, làm sao mà bàn bạc, diễn đạt. Giàu chữ nghiã có nhiều cách hiểu. Muốn diễn tả một ý niệm, nhà văn có thể dùng rất nhiều từ để diễn đạt, dùng nhiều cụm từ phụ thuộc như tĩnh từ (adjectif), trạng từ (adverbe) làm đậm đà thêm ý muốn nói. Đó là cách thường dùng của các nhà văn Tây phương. Câu văn nhờ đó mà trở nên đẹp đẽ, mỹ miều, tinh tế và nhứt là diễn đạt được tới cùng tận chỗ chi ly, sâu kín nhứt của lòng người. Cách ngược lại là cũng có thể dùng vài từ mà diễn đạt được nhiều ý, để độc giả tuỳ trình độ học thức và thưởng ngoạn, tự nghiền ngẫm thấm thiá cái thú vị riêng tư (như cách của các nhà văn Trung Hoa).
HTA đã áp dụng được cả hai cách nhuần nhuyễn. Tuy anh học khoa học (ngành Dược) nhưng khả năng hiểu biết và kiến thức văn chương Việt Nam và thế giới khá cao, anh đọc rất nhiều sách và trí nhớ phải nói là như máy điện toán. Trong những thơ từ qua lại, nhiều khi tôi phải sững sờ tự hỏi làm sao HTA nhớ nổi các mẫu chuyện vụn vặt xảy ra ở một góc phố nào đó, vào một thời điểm xa lơ xa lắc của quá khứ. Vậy mà HTA đã nhớ rõ mồn một, kể lại từng chi tiết, tên tuổi của từng nhân vật tỉ mĩ có ngọn có ngành không sai sót… Chúng ta thử đọc vài đoạn hầu coi mức giàu có trong kho tàng ngôn ngữ miêu tả của anh:
“răng năm nào của tôi tuy hô tuy vẫu nhưng vẫn xước mía thật tài tình, nhai ổi ngau ngáu. Mắt tôi tuy hí năm nào hễ khi nhắm mắt ngủ một giấc thoải mái trong veo. Giờ đây bốn chiếc răng giả xinh như hạt lựu, ngời sắc men mịn bóng, dẫu tôi có giận ai, chửi ai thì dám chửi chớ không dám cắn. Mắt tôi thụt sâu để gương mặt tôi sáng hơn, nhưng đôi mắt ấy biết bao đêm mở dài tráu tráu trong bóng đêm vì mất ngủ, và hễ khi tôi nuốt thuốc ngủ vào, đôi mắt vừa nhắm là thấy ác mộng, dị mộng nườm nượp kéo về. Kiệt (Kiệt Tấn ) nhắc lại đôi mắt cũ, hàm răng cũ của tôi, nhưng làm sao hắn trả lại cho tôi hai thứ quí báu đó để tôi nhai xương gà, cạp bắp, gặm giò heo, nhai khô mực, để đêm đêm nhắm mắt là ngủ một giấc êm suông sẻ, óng chuốt.”
Hoặc trong Chân Trời Lam Ngọc:
“Hôm đó chị mặc chiếc áo dài màu rêu sẩm nổi hoa xám bạc. Màu sắc rất chìm, rất nguội nhưng rất trang nhã. Đặc biệt nhất là chiếc khăn choàng hiệu Pierre Cardin màu đen nổi vạch màu hoàng kim, màu xanh lân tinh và màu đỏ yên chi làm cho màu áo khiêm tốn và màu son phấn tranh điểm kín đáo của chị nổi bật xôn xao hẳn lên. Tôi có bảo một anh bạn: bà Diệu Tâm hôm nay chơi trội màu sắc quá.”
Qua hai đoạn ngắn trên chúng ta thấy tác giả dùng nhiều danh từ, nhiều tĩnh từ khiến phong cảnh, nhân vật đầy màu sắc lung linh và hình ảnh tràn đầy. HTA thường viết như vậy và lối viết đó trở thành thói quen. Anh phóng bút thoải mái, nghĩ sao viết vậy không sửa đổi, trau chuốt gạn lọc, nhờ vậy nên văn rất tự nhiên. Độc giả chỉ cần đọc vài câu và biết ngay tác giả là ai, không hề lẫn lộn hoặc sai lầm qua người khác. Đám đông quần chúng dễ đón nhận và cảm thấy gần gũi vì chuyện xảy ra y hệt cuộc sống bình dị hằng ngày.
Nhưng đôi khi HTA cũng dùng cách thứ hai, “đạt ý ở ngoài lời ” của Trung Hoa. Đó là khi anh cố ý làm văn, khi viết thì câu văn ngắn gọn, chữ nghiã đơn giản, không nhiều tiếng phụ thuộc rườm rà, nhưng gây nhiều hình ảnh. Hình ảnh được tác giả cố ý gợi ra để độc giả tưởng tượng thêm. Một lần trong Lá Thư Mùa Thu (11.1984) HTA đã than thở:
“Giờ, Troyes đối với tôi là đất trích. Nhưng đất trích nầy đẹp quá, không có “lau vàng trúc võ nẫy mầm quanh hiên” như cảnh đất trích của nhà thơ Bạch Cư Dị. Nhưng tôi biết, bắt đầu giữa thu, cây sẽ trụi hết lá, cảnh vật sẽ buồn thảm, bầu trời thường thấp xuống và phủ mây màu chì. Có thể là vào đầu thu ở đây đẹp. Lá vàng như còn rạo rực ánh rạng rỡ. Vào buổi sáng hay buổi chiều, sương lam mỏng vương vất từ chòm cây khóm lá. Vào chơi trong rừng thu như vào cảnh mộng, đến khi trở ra xe thì áo măng tô đã ẩm nước” .
Thử phân tích đoạn văn ngắn nầy thì thấy ngay văn tài của HTA. Chúng ta hay bất cứ ai cũng có thể tả cảnh mùa thu có có lá vàng, có mây đen màu chì, có sương lam mỏng, có khí trời ẩm đụt, nhưng với tất cả đường nét đó không nói lên được điều gì, đó là những đường nét chết, miêu tả một cảnh vật không sinh khí… Chỉ thêm vào mấy chữ cuối dòng, HTA đã làm cho mọi sự sống động. Tác giả không chỉ vẽ hình ảnh một người lạc loài bơ vơ nơi đất khách, sống hiu quạnh thê lương qua thân xác bên ngoài mà còn vẽ được trong cõi lòng cảm nghĩ nữa. Con người lưu lạc đó cũng biết tận hưởng cảnh đẹp như mộng đang có của phương trời Tây. Cái không khí mùa thu đất Pháp bàng bạc qua văn của Anatole France với hình ảnh chú bé lưng mang cặp sách, nhảy chân sáo tung tăng buổi tựu trường đầu thu ngang qua công viên Luxembourg, lãng đãng với không khí mùa thu Tô Châu, Hàng Châu của Trung Hoa ngàn năm trước. Thi hào Tô Đông Pha đời Tống đã viết lời kết trong Tiền Xích Bích Phú….” khi đồ nhắm hoa quả đã hết, mâm bát bỏ ngổn ngang, cùng nhau gối đầu mà ngủ ở trong thuyền, không biết vầng đông đã sáng bạch tự bao giờ. (hào hạch ký tận, bôi bàng lang tạ, tương dữ chẩm tạ hồ chu trung, bất tri đông phương chi ký bạch)
Người xưa say mèm giựt mình thức giấc, bất giác thấy vầng đông đã sáng bạch. Người nay tuy đang dạo chơi rừng thu – khi trở ra xe thì áo măng tô đã ẩm nước. Hai trạng thái thức ngủ tuy khác mà cảm giác như một. Độc giả cũng bất giác, ngạc nhiên sững sờ thú vị. Viết ngắn gọn được như vậy là tuyệt bút. Đâu cần phải có câu chuyện ly kỳ, tâm sự éo le, tư tưởng siêu tuyệt,… mới là văn chương.
Còn bao nhiêu điều chưa khám phá trong thế giới văn chương HTA? Tôi tin là nhiều lắm nhưng do tình cờ đọc lại xấp thư cũ bạn gởi cho, đâm giựt mình. Một ngày cuối thu năm 1993 An đã viết ‘viết về HTA, xin bạn đừng nên, việc gì phải quậy lên cho độc giả chú ý. Tôi khác mụ X… ở chỗ đó, không quá khiêm tốn để tự hạ mình, không quá hách xì xằng, không khua động… Cố viết sao cho anh em bằng hữu vui, rồi mình cũng vui theo là được. Mà Điền tin đi, hễ mình vui là độc giả vui lây…’
HTA đã viết rành rành như vậy mà thiệt tình, tuy tay tôi không cầm bầu rượu nắm nem mà cũng vì mãng vui nên đành quên mất lời anh dặn dò. Trong mớ trí nhớ hổn độn mù mờ, chợt nhớ hai câu thơ của một người bạn gái văn sĩ:
Người đã nói rồi hay chưa nói,
Người đã nói rồi hay chưa nói ra…
Quả tình mấy ông, mấy bà làm cái nghề thi sĩ, văn sĩ thiệt rắc rối, nói tới nói lui, vòng qua vòng lại không ai hiểu gì hết trơn. Thực sự đến giờ phút nầy, cũng không biết tôi đã viết được chút ít gì về văn tài HTA, người bạn văn sĩ ở bên Tây của tôi chưa. Thôi đành kể như là có nói mà chưa hết ý…
Võ Kỳ Điền
(Văn Học, tháng 5 1999)
Nguồn: Tác giả gửi
TRẦN BÌNH NAM * IRAQ
IRAQ, CÁI GÂN GÀ CỦA BUSH
(Phỏng dịch từ “Seeing Through Iraq”, The Economist, December 14th – 20th, 2002 – Trần Bình Nam)
Câu hỏi chính là: Hoa Kỳ sẽ đánh Iraq hay không? Các chuyên viên tình báo Hoa Kỳ đang bận rộn nghiên cứu tài liệu dày trên 12.000 trang Iraq vừa đệ nạp cho Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc theo tinh thần của bản Nghị quyết 1441. Theo Nghị quyết này Iraq phải báo cáo với Hội đồng “chính xác và đầy đủ” các chương trình chế tạo vũ khí hóa học, vi trùng và nguyên tử của mình. Hoa Kỳ nóng lòng nhưng không tỏ ra vội vàng vì Hoa Kỳ không muốn làm cho thế giới có cảm tưởng rằng vì muốn đánh Iraq nên không thèm tìm bằng chứng Iraq vi phạm Nghị quyết 1441, mặc dù cũng không cần phải bỏ công nhiều mới biết bản báo cáo đó nói gì. Iraq vừa gởi tài liệu đến Liên hiệp quốc vừa tuyên bố họ đã bỏ ý định chế tạo các loại vũ khí giết người hàng loạt kia lâu rồi.
Sự quả quyết của Iraq trái với sự hiểu biết của tình báo Hoa Kỳ và – theo lời của ông bộ trưởng quốc phòng Mỹ Donald Rumsfeld – trái với sự hiểu biết của bất cứ nước nào có khả năng tình báo. Nước Anh chẳng hạn, – nhờ tình báo hữu hiệu – đã biết trước rằng al Quada là thủ phạm đánh bom bằng máy bay làm sập hai tòa nhà chọc trời ở New York, lần này cũng nhanh chóng tuyên bố có bằng chứng Iraq có những thứ vũ khí nói trên. Tháng 9/2002 vừa qua ông Tony Blair, thủ tướng Anh đã công bố một hồ sơ về các chương trình chế tạo vũ khí của Iraq. Ông Blair nói tình báo Anh có bằng chứng Saddam Hussein đang sản xuất vũ khí hoá học và vi trùng, và đang nỗ lực giải quyết các khó khăn về kỹ thuật và tiếp liệu để chế tạo vũ khí nguyên tử, và đang tìm cách tăng tầm bắn của các hỏa tiễn tồn kho. Tài liệu của Anh nói Iraq có 20 hoả tiễn loại al-Hussein có khả năng mang đầu đạn hóa học và vi trùng và Iraq đã tìm cách mua uranium ở Phi châu mặc dù Iraq không có một chương trình sản xuất năng lượng nguyên tử nào cần uranium.
Nếu George Bush và Tony Blair nói Saddam Hussein có vũ khí giết người tập thể, trong khi Saddam nói ông ta không có thì ai đáng tin hơn? Câu trả lời có thể là hiển nhiên vì Liên hiệp quốc có bằng chứng Saddam Hussein đã nhiều lần nói láo và đã nhiều lần gạt đoàn thanh tra Liên hiệp quốc trước khi phái đoàn này bực mình rút lui năm 1998. Hơn nữa các nghị quyết của Liên hiệp quốc ràng buộc Iraq phải chứng minh không có vũ khí giết người tập thể chứ không phải người khác phải chứng minh. Tuy vậy, muốn được cộng đồng thế giới ủng hộ, Hoa Kỳ và Anh cũng cần phải trưng bằng cớ rằng Iraq có.
Nguyên tắc dân chủ không cho phép các nhà lãnh đạo các nước dân chủ muốn đánh ai thì đánh và bảo dân hãy “tin tôi”. Vì cuộc chiến trước mắt với Iraq có nguyên nhân nổi (khủng bố) và chìm (dầu hỏa) và nếu xẩy ra có những hậu quả khó lường nên trong thế giới Tây phương không thiếu người không tin những nhà lãnh đạo của mình thành thật, nghi ngờ tin tức tình báo là ngụy tạo và bản án tố cáo Iraq chỉ là bày đặt ra vì một ý đồ khác. Cho nên Hoa Kỳ cần phải có bằng chứng để thuyết phục các nước đồng minh. Nếu ông Rumsfeld nói đúng thì những lãnh tụ các nước có khả năng tình báo như Jacques Chirac của Pháp, Vladimir Putin của Liên bang Nga và các nước A rập đồng minh của Hoa Kỳ đều biết (qua tình báo của riêng mình) Iraq có (hay không có) những thứ vũ khí mà Liên hiệp quốc không cho phép Iraq được thủ đắc. Theo tinh thần của Nghị quyết 1441 nước nào biết gì về các chương trình vũ khí của Iraq đều có bổn phận chia xẻ với phái đoàn thanh tra Liên hiệp quốc, nhưng Pháp, Nga và các nước A Rập đồng minh với Hoa Kỳ không muốn có chiến tranh với Iraq nên không chuyện gì họ phải trưng bằng cớ (nếu họ có). Cho nên quả banh bằng chứng nằm trên sân của Hoa Kỳ và Anh.
Các dấu hiệu cho thấy trước sau Hoa Kỳ và Anh cũng trưng bằng chứng. Nhưng bằng chứng đó có đủ sức thuyết phục không là một chuyện khác. Ông Tony Blair nói bằng chứng nước Anh có sẽ không làm ai nghi ngờ nữa. Và biết đâu tình báo Hoa Kỳ hay tình báo Anh sẽ chỉ chỗ cho đoàn thanh tra Liên hiệp quốc đến tận nơi chứa hỏa tiễn loại quốc tế cấm hoặc một phòng thí nghiệm vũ khí ngầm nào đó dưới mặt đất. Nhưng sự im lặng khó hiểu gần đây của Hoa Kỳ sau khi Saddam lên tiếng thách thức “tôi nói tôi không có vũ khí giết người tập thể quí vị có bằng chứng thì xin đưa ra” làm cho người ta nghĩ không chắc Hoa Kỳ có khả năng đó. Có thể Hoa Kỳ chỉ chứng minh được rằng bản báo cáo của Iraq không giải thích được các vật liệu phái đoàn thanh tra Liên hiệp quốc trước năm 1998 biết Iraq có thí dụ như hàng trăm tấn hóa chất để sản xuất khí vx làm tê liệt não bộ con người, và hơn 30.000 đầu đạn có thể dùng để phóng vũ khí hoá chất và vi trùng bây giờ ở đâu.
Điều rõ ràng nhất là: Nếu Hoa Kỳ không đưa ra những bằng chứng không chối cãi được thì Hoa Kỳ không có đồng minh. Tổng thống Bush có thể biện minh rằng Hoa Kỳ không thể làm lộ nguồn lấy tin và phương pháp tình báo và rằng Iraq là một quốc gia độc tài nên rất khó lấy tin tức. Lập luận này hữu lý nhưng không thể dùng để thắng trận giặc tâm lý với Saddam Hussein được. Tình báo là một trò chơi muôn mặt. Nếu trong tài liệu công bố tháng 9 vừa qua thủ tướng Blair ghi rõ Saddam có những gì, cất dấu ở đâu thì Saddam dại gì không mang cất dấu chỗ khác. Nếu Saddam Hussein quả là một con người nguy hiểm như Hoa Kỳ và Anh kết luận thì hai nước này đã bám sát những gì Saddam làm trong hơn10 năm qua. Và người ta chờ đợi rằng nỗ lực chung của tình báo Mỹ (CIA), Anh, Do thái (Mossad), và tình báo của vài nước bạn khác đã phải tìm thấy một cái gì thật cụ thể sau một thời gian theo dõi dài như vậy. Nếu Anh, Mỹ, Do Thái không tìm thấy gì cụ thể thì làm thế nào một đoàn thanh tra hơn 100 người của Liên hiệp quốc đi đâu cũng ồn ào xe cộ với máy bay trực thăng bảo vệ có thể tìm ra vũ khí và phòng thí nghiệm được dấu kỹ trong một nước rộng mênh mông như Iraq?
Vậy tình huống sẽ ra sao? Câu trả lời dễ nhất là: sẽ có chiến tranh và không còn lâu.
Lý do? Một phần vì tháng Ba (2003) vùng sa mạc Trung đông bước vào mùa hè nóng bức rất trở ngại cho các cuộc hành quân. Nhưng lý do chính là Hoa Kỳ không muốn để cho sự việc nguội lạnh.
Nhưng Hoa Kỳ kẹt vì không thể rút ngắn nghị trình. Khi quyết định mang sự việc ra Liên hiệp quốc cho Saddam Hussein một cơ hội trả lời, nay Saddam đã trả lời thì Bush phải trả lời lại. Ông Hans Blix, trưởng đoàn thanh tra vũ khí chưa báo cáo cho Liên hiệp quốc kết quả của cuộc thanh tra. Nhưng Saddam đã nói ông ta không có vũ khí cấm đoán. Và vì Hoa Kỳ và Anh quốc không tin nên diễn trình tự nhiên là Mỹ và Anh sẽ yêu cầu triệu tập Hội đồng Bảo an để trình bằng chứng rằng Saddam Hussein nói láo, và xin biểu quyết xử dụng vũ lực (mặc dù Hoa Kỳ và Anh nói rằng một cách hợp pháp họ không cần xin một lần nữa trước khi hành động).
Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc có biểu quyết cho phép Hoa Kỳ đánh Iraq khi Hoa Kỳ xin phép không? Câu trả lời tùy thuộc vào giá trị các bằng chứng Hoa Kỳ sẽ trình cho Hội đồng. Mặc dù Nga, Pháp và Trung quốc không muốn có chiến tranh, họ cũng không thể biểu quyết “không” nếu có bằng chứng hùng hồn rằng Iraq đã một lần nữa qua mặt dối gạt Liên hiệp quốc. Ngược lại nếu bằng chứng thiếu sức thuyết phục, do đó Nga, Pháp và Trung quốc không thể bỏ phiếu “thuận” mà Hoa Kỳ và Anh vẫn đơn phương hành động thì Hoa Kỳ và Anh phải chấp nhận chiến đấu một cách cô đơn trước dư luận quốc tế bất lợi.
Tuy nhiên các nhà theo dõi thời cuộc vẫn trăn trở với câu hỏi. Nếu Hoa Kỳ và Anh quốc không có cái gì cụ thể trong tay để kết án Iraq thì có lẽ hai nước này đã không mang nó ra Liên hiệp quốc để Iraq có cơ hội cù nhầy, và cuối cùng cũng phải nuốt chiếc gân gà đai dách.
The Economist, Dec. 14th-20th 2002
Trần Bình Nam phỏng dịch
Dec. 22, 2002
(Phỏng dịch từ “Seeing Through Iraq”, The Economist, December 14th – 20th, 2002 – Trần Bình Nam)
Câu hỏi chính là: Hoa Kỳ sẽ đánh Iraq hay không? Các chuyên viên tình báo Hoa Kỳ đang bận rộn nghiên cứu tài liệu dày trên 12.000 trang Iraq vừa đệ nạp cho Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc theo tinh thần của bản Nghị quyết 1441. Theo Nghị quyết này Iraq phải báo cáo với Hội đồng “chính xác và đầy đủ” các chương trình chế tạo vũ khí hóa học, vi trùng và nguyên tử của mình. Hoa Kỳ nóng lòng nhưng không tỏ ra vội vàng vì Hoa Kỳ không muốn làm cho thế giới có cảm tưởng rằng vì muốn đánh Iraq nên không thèm tìm bằng chứng Iraq vi phạm Nghị quyết 1441, mặc dù cũng không cần phải bỏ công nhiều mới biết bản báo cáo đó nói gì. Iraq vừa gởi tài liệu đến Liên hiệp quốc vừa tuyên bố họ đã bỏ ý định chế tạo các loại vũ khí giết người hàng loạt kia lâu rồi.
Sự quả quyết của Iraq trái với sự hiểu biết của tình báo Hoa Kỳ và – theo lời của ông bộ trưởng quốc phòng Mỹ Donald Rumsfeld – trái với sự hiểu biết của bất cứ nước nào có khả năng tình báo. Nước Anh chẳng hạn, – nhờ tình báo hữu hiệu – đã biết trước rằng al Quada là thủ phạm đánh bom bằng máy bay làm sập hai tòa nhà chọc trời ở New York, lần này cũng nhanh chóng tuyên bố có bằng chứng Iraq có những thứ vũ khí nói trên. Tháng 9/2002 vừa qua ông Tony Blair, thủ tướng Anh đã công bố một hồ sơ về các chương trình chế tạo vũ khí của Iraq. Ông Blair nói tình báo Anh có bằng chứng Saddam Hussein đang sản xuất vũ khí hoá học và vi trùng, và đang nỗ lực giải quyết các khó khăn về kỹ thuật và tiếp liệu để chế tạo vũ khí nguyên tử, và đang tìm cách tăng tầm bắn của các hỏa tiễn tồn kho. Tài liệu của Anh nói Iraq có 20 hoả tiễn loại al-Hussein có khả năng mang đầu đạn hóa học và vi trùng và Iraq đã tìm cách mua uranium ở Phi châu mặc dù Iraq không có một chương trình sản xuất năng lượng nguyên tử nào cần uranium.
Nếu George Bush và Tony Blair nói Saddam Hussein có vũ khí giết người tập thể, trong khi Saddam nói ông ta không có thì ai đáng tin hơn? Câu trả lời có thể là hiển nhiên vì Liên hiệp quốc có bằng chứng Saddam Hussein đã nhiều lần nói láo và đã nhiều lần gạt đoàn thanh tra Liên hiệp quốc trước khi phái đoàn này bực mình rút lui năm 1998. Hơn nữa các nghị quyết của Liên hiệp quốc ràng buộc Iraq phải chứng minh không có vũ khí giết người tập thể chứ không phải người khác phải chứng minh. Tuy vậy, muốn được cộng đồng thế giới ủng hộ, Hoa Kỳ và Anh cũng cần phải trưng bằng cớ rằng Iraq có.
Nguyên tắc dân chủ không cho phép các nhà lãnh đạo các nước dân chủ muốn đánh ai thì đánh và bảo dân hãy “tin tôi”. Vì cuộc chiến trước mắt với Iraq có nguyên nhân nổi (khủng bố) và chìm (dầu hỏa) và nếu xẩy ra có những hậu quả khó lường nên trong thế giới Tây phương không thiếu người không tin những nhà lãnh đạo của mình thành thật, nghi ngờ tin tức tình báo là ngụy tạo và bản án tố cáo Iraq chỉ là bày đặt ra vì một ý đồ khác. Cho nên Hoa Kỳ cần phải có bằng chứng để thuyết phục các nước đồng minh. Nếu ông Rumsfeld nói đúng thì những lãnh tụ các nước có khả năng tình báo như Jacques Chirac của Pháp, Vladimir Putin của Liên bang Nga và các nước A rập đồng minh của Hoa Kỳ đều biết (qua tình báo của riêng mình) Iraq có (hay không có) những thứ vũ khí mà Liên hiệp quốc không cho phép Iraq được thủ đắc. Theo tinh thần của Nghị quyết 1441 nước nào biết gì về các chương trình vũ khí của Iraq đều có bổn phận chia xẻ với phái đoàn thanh tra Liên hiệp quốc, nhưng Pháp, Nga và các nước A Rập đồng minh với Hoa Kỳ không muốn có chiến tranh với Iraq nên không chuyện gì họ phải trưng bằng cớ (nếu họ có). Cho nên quả banh bằng chứng nằm trên sân của Hoa Kỳ và Anh.
Các dấu hiệu cho thấy trước sau Hoa Kỳ và Anh cũng trưng bằng chứng. Nhưng bằng chứng đó có đủ sức thuyết phục không là một chuyện khác. Ông Tony Blair nói bằng chứng nước Anh có sẽ không làm ai nghi ngờ nữa. Và biết đâu tình báo Hoa Kỳ hay tình báo Anh sẽ chỉ chỗ cho đoàn thanh tra Liên hiệp quốc đến tận nơi chứa hỏa tiễn loại quốc tế cấm hoặc một phòng thí nghiệm vũ khí ngầm nào đó dưới mặt đất. Nhưng sự im lặng khó hiểu gần đây của Hoa Kỳ sau khi Saddam lên tiếng thách thức “tôi nói tôi không có vũ khí giết người tập thể quí vị có bằng chứng thì xin đưa ra” làm cho người ta nghĩ không chắc Hoa Kỳ có khả năng đó. Có thể Hoa Kỳ chỉ chứng minh được rằng bản báo cáo của Iraq không giải thích được các vật liệu phái đoàn thanh tra Liên hiệp quốc trước năm 1998 biết Iraq có thí dụ như hàng trăm tấn hóa chất để sản xuất khí vx làm tê liệt não bộ con người, và hơn 30.000 đầu đạn có thể dùng để phóng vũ khí hoá chất và vi trùng bây giờ ở đâu.
Điều rõ ràng nhất là: Nếu Hoa Kỳ không đưa ra những bằng chứng không chối cãi được thì Hoa Kỳ không có đồng minh. Tổng thống Bush có thể biện minh rằng Hoa Kỳ không thể làm lộ nguồn lấy tin và phương pháp tình báo và rằng Iraq là một quốc gia độc tài nên rất khó lấy tin tức. Lập luận này hữu lý nhưng không thể dùng để thắng trận giặc tâm lý với Saddam Hussein được. Tình báo là một trò chơi muôn mặt. Nếu trong tài liệu công bố tháng 9 vừa qua thủ tướng Blair ghi rõ Saddam có những gì, cất dấu ở đâu thì Saddam dại gì không mang cất dấu chỗ khác. Nếu Saddam Hussein quả là một con người nguy hiểm như Hoa Kỳ và Anh kết luận thì hai nước này đã bám sát những gì Saddam làm trong hơn10 năm qua. Và người ta chờ đợi rằng nỗ lực chung của tình báo Mỹ (CIA), Anh, Do thái (Mossad), và tình báo của vài nước bạn khác đã phải tìm thấy một cái gì thật cụ thể sau một thời gian theo dõi dài như vậy. Nếu Anh, Mỹ, Do Thái không tìm thấy gì cụ thể thì làm thế nào một đoàn thanh tra hơn 100 người của Liên hiệp quốc đi đâu cũng ồn ào xe cộ với máy bay trực thăng bảo vệ có thể tìm ra vũ khí và phòng thí nghiệm được dấu kỹ trong một nước rộng mênh mông như Iraq?
Vậy tình huống sẽ ra sao? Câu trả lời dễ nhất là: sẽ có chiến tranh và không còn lâu.
Lý do? Một phần vì tháng Ba (2003) vùng sa mạc Trung đông bước vào mùa hè nóng bức rất trở ngại cho các cuộc hành quân. Nhưng lý do chính là Hoa Kỳ không muốn để cho sự việc nguội lạnh.
Nhưng Hoa Kỳ kẹt vì không thể rút ngắn nghị trình. Khi quyết định mang sự việc ra Liên hiệp quốc cho Saddam Hussein một cơ hội trả lời, nay Saddam đã trả lời thì Bush phải trả lời lại. Ông Hans Blix, trưởng đoàn thanh tra vũ khí chưa báo cáo cho Liên hiệp quốc kết quả của cuộc thanh tra. Nhưng Saddam đã nói ông ta không có vũ khí cấm đoán. Và vì Hoa Kỳ và Anh quốc không tin nên diễn trình tự nhiên là Mỹ và Anh sẽ yêu cầu triệu tập Hội đồng Bảo an để trình bằng chứng rằng Saddam Hussein nói láo, và xin biểu quyết xử dụng vũ lực (mặc dù Hoa Kỳ và Anh nói rằng một cách hợp pháp họ không cần xin một lần nữa trước khi hành động).
Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc có biểu quyết cho phép Hoa Kỳ đánh Iraq khi Hoa Kỳ xin phép không? Câu trả lời tùy thuộc vào giá trị các bằng chứng Hoa Kỳ sẽ trình cho Hội đồng. Mặc dù Nga, Pháp và Trung quốc không muốn có chiến tranh, họ cũng không thể biểu quyết “không” nếu có bằng chứng hùng hồn rằng Iraq đã một lần nữa qua mặt dối gạt Liên hiệp quốc. Ngược lại nếu bằng chứng thiếu sức thuyết phục, do đó Nga, Pháp và Trung quốc không thể bỏ phiếu “thuận” mà Hoa Kỳ và Anh vẫn đơn phương hành động thì Hoa Kỳ và Anh phải chấp nhận chiến đấu một cách cô đơn trước dư luận quốc tế bất lợi.
Tuy nhiên các nhà theo dõi thời cuộc vẫn trăn trở với câu hỏi. Nếu Hoa Kỳ và Anh quốc không có cái gì cụ thể trong tay để kết án Iraq thì có lẽ hai nước này đã không mang nó ra Liên hiệp quốc để Iraq có cơ hội cù nhầy, và cuối cùng cũng phải nuốt chiếc gân gà đai dách.
The Economist, Dec. 14th-20th 2002
Trần Bình Nam phỏng dịch
Dec. 22, 2002
TRẦN HOÀNG ANH * MỘNG ĐỜI TAN HOANG
MỘNG ĐỜI TAN HOANG
TRẦN HOÀNG ANH
TRẦN HOÀNG ANH
Tôi đi nắng lộng cuối trời
Biển xanh sóng dậy mộng đời tan hoang
Tôi đi trên lá thông vàng
Heo may trổi gió hai hàng lệ rơi
Thương mình lưu lạc phương trời
Không ngày hạnh phúc không người tri âm
Một mình một bóng âm thầm
Cười cười nói nói trong lòng đớn đau
Thời gian vùn vụt qua mau
NGUYỄN CAO QUYỀN * CHINA THE EXPECTED CHANGES
China: the expected changes
China has entered into the 21st century with both cheer and anxiety . In the past two years, Chinás international prestige has been higher. Sanghai was a place of the APEC Summit in 2001, China won the hosting of the 2008 Olympics, and it was admitted to the WTO.
Efforts have been made by Chinás current leadership group to have a transfer of power to the 4th generation in a peaceful and most effective manner. The two men who have good chance to replace the positions of Jiang Zemin and Zhu RongJi are Hu Jintao and Wen Jiabao. A third person who is also cited as an emerging star is Zeng Qinghong (Chief of the Organizing Committee of the CPC).. Hu was a member of the prestigious Quin Hua University, Chairman of
the China Communist Youth League and Director of the Party Central School (since 1993). Both the three are institutions which train leaders for the state. Hús personalities include such good qualities as humbleness, prudence, never showing off. Hús deficiencies include little relationship with the military world, lack of health and little administrative experience at the provincial and national levels.
While Hús future looks guaranteed, Wen and Zeng are also bright stars, and no one of the trio can eliminate the other. They surely have to work together and share power.
What can people expect from the new generation of leaders of communist China? The new leaders will surely aim at two major objectives: The CPC continues to rule China (they expect not to repeat the case of the Russian Communist Party which lost its power in 1991) and Chinahas to integrate into the new world, with its greatest challenge being to meet the demands of a
member of the WTO.
TRUNG QUỐC :
NHỮNG CHUYỂN BIẾN MONG ĐỢI
Nguyễn Cao Quyền
Trung Quốc tiến vào thế kỷ 21 với tâm trạng vừa vui mừng vừa lo sợ. Vui mừng vì từ hai năm nay uy tín quốc tế của xứ này có chiều hướng đi lên . Việc Hoa Lục được tuyển chọn làm nơi tranh tài cho Thế Vận Hội 2008, việc Thượng Hải đứng đăng cai cho cho cuộc họp thượng đỉnh của APEC ( Asia-Pacific Economic Cooperation ) vừa qua, việc Trung Quốc được thâu nhận vào Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới ( WTO) là những dấu hiệu tích cực của một cố gắng hội nhập được tán thưởng rộng rãi. Tuy nhiên, những nỗi vui mừng này không làm vơi được một tâm trạng thường xuyên lo sợ.
Lo sợ phát xuất từ thực trạng kinh tế phát triển quá mau lẹ. Phản ứng phụ
Lo sợ phát xuất từ thực trạng kinh tế phát triển quá mau lẹ. Phản ứng phụ (side effect ) nguy hiểm nhất của tốc độ phát triển nhanh, trong một xã hội có nền chính trị độc tài và có đồng lương không đủ sống, là sự xuất hiện càng ngày càng trầm trọng của hố cách biệt giàu nghèo giữa thành thị
và nông thôn, cũng như của tệ nạn tham nhũng đe dọa sự sống còn của chế độ. Ngoài hai nguy cơ bùng nổ này, việc gia nhập WTO chắc chắn rồi đây cũng sẽ tạo nên một nguy cơ bùng nổ thứ ba. Dự đoán cho biết sẽ có khoảng 170 triệu nông dân thất nghiệp trong thời gian trước mắt. Đây là một áp lực chính trị khủng khiếp, cho nên chế độ chưa biết sụp đổ lúc nào.
Những người lãnh đạo Trung Quốc ý thức đầy đủ mối nguy hiểm nói trên
và đang tìm cách hóa giải. Cơ hội hóa giải tốt nhất sẽ đến trong vòng 1
năm khi Đại Hội Đảng lần thứ 16 và Đại Hội Toàn Dân lần thứ 10 được
triệu tập. Mục tiêu chủ yếu của hai đại hội đó là để giải quyết vấn đề
nhân sự, vì hiện nay 50% các chức sắc cao cấp nhất của chế độ đã tới
tuổi hồi hưu. Người dân Trung Quốc hy vọng là với thế hệ lãnh đạo thứ tư
( ba thế hệ trước do Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân
đại diện ) Trung Nam Hải sẽ có không gian chính trị rộng rãi hơn để có thể
dân chủ hóa chế độ một cách tiệm tiến, hầu tránh một cuộc nổi dậy
của quần chúng. Họ nghĩ rằng các lãnh tụ của thế hệ mới, ra đời vào
thập niên 1940 và ít ràng buộc với dĩ vãng cách mạng, sẽ có một tầm
nhìn chính xác và linh động hơn về những việc phải làm cho tương lai của
đất nước.
I- Những đặc tính chung của thế hệ thứ tư
Tại Trung Quốc mỗi thế hệ lãnh đạo thường phải đối diện với một biến
cố lịch sử trọng đại, chẳng hạn như cuộc Vạn Lý Trường Chinh, chiến tranh
Trung-Nhật, Phong Trào Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa hay cuộc Cách MạngVăn Hóa. Thế hệ lãnh đạo thứ tư gồm những người sinh ra và lớn lên
trong cuộc cách mạng này. Phần đông họ đã là những Hồng Vệ Binh của
Mao Trạch Đông. Lúc còn trẻ họ được huấn luyện và nhồi sọ là phải hy
sinh tất cả cho cách mạng và cho chủ nghĩa xã hội. Nhưng dần dà với thời
gian, ước mơ của họ bị đổ vỡ nên tin tưởng của họ bị sói mòn. Về mặt ý
thức hệ, họ bị hai lần thất vọng. Lần thứ nhất bởi chủ nghĩa Marx, lần thứ
hai bởi chủ thuyết Mao. Giờ đây, thấy sựï dấn thân của mình bị phản bội,
họ có thái độ rấât cẩn trọng trong việc tìm hiểu những chủ thuyết mới. Họ
phân tích và mổ xẻ rất kỹ lưỡng chứ không vội vã tin tưởng và chấp
nhận ngay như trong mấy chục năm về trước.
Họ là những con người đã được đảng CSTQ tôi luyện trong thử thách. Hồ
Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, hai nhân vật được cảm nhận thay thế Giang Trạch Dân và Chu Dung Cơ, đã được phái từ Thượng Hải đi Gansu ( một vùng đất nghèo nàn thuộc Tây Tạng ) trong một thời gian khá dài, để phấn đấu và
giải quyết những khó khăn của vùng này. Tại đây, phải đối diện với tình
hình chính trị phức tạp của địa phương, họ được rèn luyện khả năng thích
ứng, khả năng chịu đựng và khả năng biến báo để khắc phục mọi khó
khăn và ổn định tình hình tại chỗ mà không cần đến sự can thiệp hoặc trợ
giúp của Trung Ương.
Các lãnh tụ thuộc thế hệ thứ tư thuộc thành phần có học ở trong nước.
Thành phần này, trước kia, là những kỹ sư được huấn luyện tại Liên Sô
nhưng trong thời gian gần đây rất nhiều người đã thụ huấn tại Hoa Kỳ. Hiện
nay đa số các du sinh Trung Quốc sang Mỹ, được chỉ định theo học trong nhữngbộ môn kinh tế, chính trị, tài chánh và luật. Luật là một ngành mà từ
lâu Hoa Lục thiếu thốn trầm trọng. Vậy mà phải đợi tới thập niên cuối
cùng của thế kỷ vừa qua người ta mới ghi nhận một vài dấu hiệu khắc
phục rụt rè. Năm 1980, cả nước Tầu, với hơn 1 tỷ dân, chỉ có 3000 luật
gia. Con số này, ngày nay, đã lên tới 150.000 người. Hàng năm sĩ số ghi
danh học luật tại Trung Quốc, tuy vẫn còn khiêm tốn, cũng đã ỏ vào
khoảng 27.000 người cho năm 2002. Sự kiện này được giải thích như một cố
gắng nghiêm túc của Bắc Kinh trong nỗ lực phát huy và củng cố các định
chế pháp lý yếu kém trong nước để tự trang bị cho mình một khả năng hội
nhập nhịp nhàng và nhanh chóng hơn vào cộng đồng thế giới văn minh.
II - Những đặc tính cá nhân của các ngôi sao chính trị đang lên.
Hồ Cẩm Đào, đương kim phó chủ tịch nhà nước Trung Quốc, Ôn Gia Bảo,
đương kim phó thủ tướng và Tăng Khánh Hồng, đương kim chủ tịch Cơ Quan
Tổ Chức Đảng, là những khuôn mặt sáng của tương lai. Tuy không có
thành tích cách mạng thâm hậu như những lãnh tụ tiền bối, nhưng họ là
những nguời tháo vát trong chính trị và có khả năng quản lý công việc
của đất nước theo những tiêu chuẩn hiện đại. Với khả năng này, họ được
xem như những nhân vật hợp thời để léo lái con thuyền quốc gia vào lúc
"chính sự " của Trung Quốc di chuyển từ tay một người ( như dưới thời Mao,
Đặng ) sang tay một tập thể như đang được thử nghiệm dưới thời Giang Trạch Dân. Người ta hy vọng rằng khi các lãnh tụ của thế hệ thứ tư lên thay thế thì quyền hành sẽ được chia sẻ một cách dân chủ hơn trong tập thể lãnh
đạo và trách nhiệm điềâu khiển quốc gia sẽ dựa trên thương lượng và tham
khảo để đi tới đồng thuận.
Hồ Cẩm Đào sẽ được chỉ định để thay thế Giang Trạch Dân. Hồ không
phải là người của họ Giang mà là nhân vật được Đặng Tiểu Bình tuyển
lựa. Sự kiện này giúp Hồ có nhiều chính danh hơn các nhân vật khác khi
bước vào phương vị mới. Ngoài ra trong suốt quãng đời chính trị quá khứ
của mình Hồ đã trông xa nhìn rộng và thiết lập được nhiều quan hệ tốt.
Hồ là thành viên được nể trọng của Nhóm Đại Học Quin Hua, chủ tịch Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Trung Quốc và giám đốc Trường Đảng Trung Ương từ năm 1993. Cả 3 định chế này đều là những nơi cung cấp lãnh tụ cho chế độ. Như vậy thế hậu thuẫn cần thiết cho Hồ khi lên nắêm chính quyền,
được coi như rất khả quan và người ta dự đoán sự chuyển quyền sẽ xẩy ra
êm thắm.
Đặc biệt, Hồ Cẩm Đào lúc nào cũng tỏ ra khiêm tốn, không ồn ào và
cũng không bao giờ "chơi nổi ". Hồ hiểu rõ rằng khi Giang Trạch Dân chưa
chính thức rời bỏ chính trường thì vai trò cũa Hồ cần được che đậy càng
nhiều càng tồt. Lý do khác là Hồ rất sợ các cơ quan truyền thông của
Tây Phương.Trong vị thế chính trị hiện nay, Hồ ý thức rất rõ là những bình
luận của Tây Phương có hại nhiều hơn là có lợi. Lúc này, Hồ chỉ tập trung
vào việc xây dựng cho mình một nhãn hiệu " ái quốc ". Khi sứ quán Trung
Quốc tại Nam Tư bị ném bom nhầm, Hồ là người đầu tiên đã xuất hiện
trên truyền hình để lên án Hoa Kỳ.Với phản ứng này Hồ được giới trẻ
hoan hô và cả hai phe ( bảo thủ và đổi mới ) trong đảng công khai ủng
hộ.
Tất cả những sự cẩn trọng và toan tính nói trên là những mặt mạnh của
Hồ Cẩm Đào trong việc thay thế Giang Trạch Dân. Tuy nhiên Hồ không phải là toàn hảo mà trái lại, vẫn còn nhiều mặt yếu. Thứ nhất, Hồ có ít quan
hệ với giới quân nhân. Thứ hai, Hồ chưa có nhiều kinh nghiệm hành chánh
tại cấp tỉnh cũng như tại cấp quốc gia. Thứ ba, khả năng của Hồ về các
lãnh vực kinh tế và ngoại giao cũng chưa được xác nhận. Ngoài ra, sức khoẻ của Hồ rất mong manh. Chính vì lý do này mà Hồ đã vắng mặt trong nhiềubuổi họp quan trọng liên quan đến tình hình đất nước.
Nhân vật thứ hai cần lưu tâm là Ôn Gia Bảo. Ôn là một lãnh tụ khá nổi
tiếng và được cảm nhận gần như chắc chắn sẽ thay thế thủ tướng Chu
Dung Cơ vào năm 2003. Ôn có những thành tích chính trị hiếm thấy. Ôn đã
từng là tham mưu trưởng của các lãnh tụ lớn như Hồ Diệu Bang, Triệu Tử
Dương và Giang Trạch Dân. Hai trong số ba người này đã bị đảng khai trừ
nhưng Ôn vẫn tồn tại. Ôn cũng dính líu vào nhiều biến cố trọng đại khác
như vụ Thiên An Môn năm 1989, những vụ chuyển quyền giữa các lãnh tụ
và vụ cứu lụt năm 1998 ( vụ này làm Ôn nổi tiếng giống như thị trưởng
New York Giuliani trong vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 ).
Ôn được dư luận đánh giá như là một người rất thông minh, học nhanh, biết
rộng và đã tự tạo cho mình những kiến thức về kinh tế, tài chánh, ngân
hàng một cách tài tình. Khả năng quản lý và thành tích kết hợp của Ôn
đã trở thành huyền thoại và giúp Ôn tránh khỏi nhiều cơn nguy khốn.
Trong thập niên 1990, Ôn là người quán xuyến các vấn đề nông nghiệp,
tài chánh và cải tổ hệ thống ngân hàng của Trung Quốc. Ôn được sự
nâng đỡ của Chu Dung Cơ và sự hậu thuẫn của cả Giang Trạch Dân lẫn Hồ
Cẩm Đào.Tuy nhiên, ở nhân vật này người ta cũng ghi nhận vài nhược
điểm. Thứ nhất, cũng như Hồ Cẩm Đào, Ôn không có quan hệ mật thiết
với giới quân nhân. Thứ hai, Ôn chưa được trắc nghiệm về khả năng lãnh
đạo ở cấp tỉnh và thành phố. Sau cùng, Ôn chưa thủ đắc được một cơ sở
quyền hành vững chắc.
Nhân vật thứ ba cần theo dõi là Tăng Khánh Hồng, một người có bản
lãnh chính trị khá xuất sắc. Tăng có viễn kiến , linh hoạt và khôn khéo.
Trong dĩ vãng Tăng đã có một vài hành động khác người, được đánh giá
như những thành tích tiên liệu sáng suốt. Vào thời điểm của thập niên
1980, trong khi những người có quyền thế của chế độ thi nhau vận động để
tranh thủ những chức vụ có nhiều bổng lộc trong ngành ngoại thương thì
Tăng đã từ bỏ ghế Phó Giám Đốc Ngoại Thương thuộc Bộ Công Nghiệp
Dầu Lửa. Cũng trong thời gian này, khi đảm nhiệm trách vụ Tổ Chức Đảng
ở Thượng Hải, Tăng đã tuyển chọn 5 sinh viên xuất sắc và gửi họ sang Mỹ
học về khoa chính trị thay vì học những bộ môn thông thường khác. Khác
với suy nghĩ sai lầm của những lớp lãnh đạo đàn anh, Tăng cho rằng tương
lai của Trung Quốc phụ thuộc vào lớp người có kiến thức sâu rộng về
luật pháp và chính trị. Gần đây, Tăng không được bầu vào Bộ Chính Trị
mà vẫn ở lại với Cơ Quan Tổ Chức Đảng. Nhiều người nghĩ rằng đây là
một dấu hiệu của sự thất sủng, nhưng giới thân cận với Tăng thì cho rằng
đây là một nước cờ cao. Ở lại Cơ Quan Tổ Chức Đảng, Tăng có điều kiện
thuận lợi để đặt người vào các địa vị chủ yếu, không những tại các tỉnh,
bộ, mà còn cả tại các cơ cấu quyền lực trung ương. Việc đặt người sẽ cần
thiết cho tương lai chính trị của Tăng sau này hơn là việc được vào ngồi trong Bộ Chính Trị lúc này.
Dư luận chỉ chê Tăng là quá thân mật với Giang Trạch Dân và đã giúp
Giang đắc lực trong việc hình thành "Nhóm Thượng Hải" (Shangai Gang) để
âm mưu đưa nhóm này vào các chức vụ lãnh đạo quốc gia. Những toan tính
chính trị của Nhóm Thượng Hải, hiện đang bị Quốc Hội Trung Quốc và NghịHội Đảng ngăn chặn bằng lá phiếu để không cho xâm nhập vào các thế
đứng chủ chốt trong chính quyền.
Cả ba tên tuổi nói trên đều là những nhân vật có trọng lượng chính trị
lớn nếu xét về khả năng được lựa chọn để lãnh đạo đất nước. Đặc biệt,
không có nhân vật nào có ưu thế để loại bỏ hai nhân vật kia. Chắc chắn
họ sẽ phải chia sẻ quyền hành và hành động theo tinh thần đồng đội.
III- Sứ mạng của thành phần lãnh đạo mới
Mối quan tâm của nguời nước ngoài đối với tương lai chính trị của Trung
Quốc nằm trong câu hỏi sau đây : " Liệu trong Đại Hội Đảng lần thứ 16
sắp tới, Giang Trạch Dân có tự dành cho mình chức vụ Chủ Tịch Quân Ủy
Trung Ương để đóng vai trò Thái Thượng Hoàng như Đặng Tiểu Bình đã từng làm trong dĩ vãng hay không ? ". Dư luận không tin là Giang sẽ hành động
như vậy vì uy tín của Giang thua kém uy tín của Đặng xa. Thêm nữa, đảng
CSTQ gần đây đã quyết định tuổi về hưu cho mọi đảng viên. Sau cùng, cả
ba nhân vật mới này đều không có quan hệ mật thiết với giới quân
nhân. Hiện tại, trên chính trường Trung Quốc, không thấy bóng dáng một
người hùng quân đội nào xuất hiện, nên người ta tin rằng sự chuyển
quyền trong tương lai sẽ là một sự chuyển quyền trong êm ả, một bước
tiến đáng kể cho nền chính trị của Trung Quốc trong quá trình hội nhập vào
cộng đồng dân chủ của thế giới.
Sứ mạng của thành phần lãnh đạo mới là tạo điều kiện và giữ cho Trung
Quốc có những bước phát triển tốt đẹp về các mặt chính trị quốc nội và
quốc tế. Về mặt quốc nội, không được để xảy ra tình trạng giống như ở
Liên Sô cách đây hơn mười năm, nghĩa là đảng CSTQ bị loại khỏi vị thế
lãnh đạo. Về mặt quốc tế, phải bảo đảm cho sự hội nhập vào cộng đồng
thế giới được tiến hành xuông sẻ để lấy về cho Trung Quốc uy tín của
một đại cường chia sẻ trách nhiệm chung của nhân loại.
Từ những lời tuyên bố của các nhân vật sẽ thay thế nhóm lãnh đạo già
nua người ta chờ đợi một số cải cách sau đây : 1/ Dân chủ hóa sinh hoạt
nội bộ của đảng CSTQ, 2/ Cải thiện hệ thống pháp trị trong nước, 3/ Phân
định rõ rệt quyền hạn và trách nhiệm giữa đảng và nhà nước, 4/ Thiết
lập một Ủy Ban An Ninh Quốc Gia đứng trên cả đảng lẫn quân đội.
Có thể là Bắc Kinh sẽ chưa chính thức chấp nhận cho một đảng đối lập
hoạt động công khai nhưng chắc chắn những người lãnh đạo mới sẽ để cho
dân chúng có nhiều quyền công dân hơn thời gian trước. Kinh tế cũng sẽ
được hoạch định để mọi khu vực trên lãnh thổ đều có thể phát triển cùng
mức độ. Đồng thời, tiếng nói của quần chúng tại những vùng nghèo khó
cũng sẽ được lắng nghe và chú trọng nhiều hơn. Báo chí cũng sẽ được tự do
hơn và sự kiện AOL-Time Warner và Fox News được phép hoạt động tại HoaLục là một điềm báo trước rất thuận lợi.
Các quan sát viên quốc tế tin rằng tất cả những dự đoán nói trên sẽ
phải xảy ra để giảm áp lực đè nặng lên số phận của chế độ. Đó là
một chiều hướng dân chủ hóa được nhiều người mong đợi và chiều hướng
này sẽ xảy ra trong một môi trường chính trị quốc tế không còn những
dấu hiệu đe dọa đối với nền an ninh của Trung Quốc.
Thật vậy, biến cố 11 tháng 9 năm 2001 đã là một biến cố làm thay đổi
hoàn toàn quan hệ chính trị Trung Mỹ. Nếu biến cố này không xảy ra thì
người Mỹ vẫn coi Trung Quốc là mội đe dọa chính. Giờ đây thực trạng đã
thay đổi và hai chuyến công du liên tiếp của tổng thống Bush sang Bắc Kinh
đã chứng minh điều đó. Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện nay có rất nhiều vấn
đề cùng quan tâm để chia sẻ và hợp tác giải quyết.
Ngoài ra, với không khí chính trị của thế giới vào lúc này và với thực tế
của hai nước Trung Hoa, vấn đề Đài Loan cũng dịu dần. Giải pháp quân sự
để thống nhất đất nước không còn cần thiết vì ai cũng biết Đài Loan càng
ngày càng phụ thuộc vào Hoa Lục về mặt kinh tế. Hơn 300.000 người Đài
Loan đã về định cư tại Thượng Hải và Jang Su để hoạt động thương mại, và
xu hướng này đang trên đà tăng trưởng. Thế Vận 2008 cũng sẽ làm cho hai
nước sát lại gần nhau hơn vì cả hai đều có nhu cầu đề cao một bản sắc
chung : bản sắc Trung Hoa. Quan trọng hơn cả là những lá bài dân chủ mà
những người lãnh đạo mới ở Bắc Kinh sẽ chơi như đã nói ở trên, chắc
chắn sẽ chiếm đoạt trái tim và khối óc của những người dân ngoài đảo.
Hòa bình và sự phồn vinh của nhân loại trong thế kỷ 21 đòi hỏi một Trung
Hoa có thái độ hợp tác và có tinh thần trách nhiệm nghiêm chỉnh. Người
ta hy vọng là nhóm lãnh đạo mới của Bắc Kinh sẽ đáp ứng được đòi hỏi
nói trên và sẽ hoàn tất được sứ mạng giao phó vì họ thuộc một thế hệ
đã trải qua quá nhiều kinh nghiệm đau thương gây ra bởi những giáo điều
không tưởng để rứt khoát quyết tâm từ bỏ những mơ ước hão huyền. /
NCQ (7-2002).
China has entered into the 21st century with both cheer and anxiety . In the past two years, Chinás international prestige has been higher. Sanghai was a place of the APEC Summit in 2001, China won the hosting of the 2008 Olympics, and it was admitted to the WTO.
Efforts have been made by Chinás current leadership group to have a transfer of power to the 4th generation in a peaceful and most effective manner. The two men who have good chance to replace the positions of Jiang Zemin and Zhu RongJi are Hu Jintao and Wen Jiabao. A third person who is also cited as an emerging star is Zeng Qinghong (Chief of the Organizing Committee of the CPC).. Hu was a member of the prestigious Quin Hua University, Chairman of
the China Communist Youth League and Director of the Party Central School (since 1993). Both the three are institutions which train leaders for the state. Hús personalities include such good qualities as humbleness, prudence, never showing off. Hús deficiencies include little relationship with the military world, lack of health and little administrative experience at the provincial and national levels.
While Hús future looks guaranteed, Wen and Zeng are also bright stars, and no one of the trio can eliminate the other. They surely have to work together and share power.
What can people expect from the new generation of leaders of communist China? The new leaders will surely aim at two major objectives: The CPC continues to rule China (they expect not to repeat the case of the Russian Communist Party which lost its power in 1991) and Chinahas to integrate into the new world, with its greatest challenge being to meet the demands of a
member of the WTO.
TRUNG QUỐC :
NHỮNG CHUYỂN BIẾN MONG ĐỢI
Nguyễn Cao Quyền
Trung Quốc tiến vào thế kỷ 21 với tâm trạng vừa vui mừng vừa lo sợ. Vui mừng vì từ hai năm nay uy tín quốc tế của xứ này có chiều hướng đi lên . Việc Hoa Lục được tuyển chọn làm nơi tranh tài cho Thế Vận Hội 2008, việc Thượng Hải đứng đăng cai cho cho cuộc họp thượng đỉnh của APEC ( Asia-Pacific Economic Cooperation ) vừa qua, việc Trung Quốc được thâu nhận vào Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới ( WTO) là những dấu hiệu tích cực của một cố gắng hội nhập được tán thưởng rộng rãi. Tuy nhiên, những nỗi vui mừng này không làm vơi được một tâm trạng thường xuyên lo sợ.
Lo sợ phát xuất từ thực trạng kinh tế phát triển quá mau lẹ. Phản ứng phụ
Lo sợ phát xuất từ thực trạng kinh tế phát triển quá mau lẹ. Phản ứng phụ (side effect ) nguy hiểm nhất của tốc độ phát triển nhanh, trong một xã hội có nền chính trị độc tài và có đồng lương không đủ sống, là sự xuất hiện càng ngày càng trầm trọng của hố cách biệt giàu nghèo giữa thành thị
và nông thôn, cũng như của tệ nạn tham nhũng đe dọa sự sống còn của chế độ. Ngoài hai nguy cơ bùng nổ này, việc gia nhập WTO chắc chắn rồi đây cũng sẽ tạo nên một nguy cơ bùng nổ thứ ba. Dự đoán cho biết sẽ có khoảng 170 triệu nông dân thất nghiệp trong thời gian trước mắt. Đây là một áp lực chính trị khủng khiếp, cho nên chế độ chưa biết sụp đổ lúc nào.
Những người lãnh đạo Trung Quốc ý thức đầy đủ mối nguy hiểm nói trên
và đang tìm cách hóa giải. Cơ hội hóa giải tốt nhất sẽ đến trong vòng 1
năm khi Đại Hội Đảng lần thứ 16 và Đại Hội Toàn Dân lần thứ 10 được
triệu tập. Mục tiêu chủ yếu của hai đại hội đó là để giải quyết vấn đề
nhân sự, vì hiện nay 50% các chức sắc cao cấp nhất của chế độ đã tới
tuổi hồi hưu. Người dân Trung Quốc hy vọng là với thế hệ lãnh đạo thứ tư
( ba thế hệ trước do Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân
đại diện ) Trung Nam Hải sẽ có không gian chính trị rộng rãi hơn để có thể
dân chủ hóa chế độ một cách tiệm tiến, hầu tránh một cuộc nổi dậy
của quần chúng. Họ nghĩ rằng các lãnh tụ của thế hệ mới, ra đời vào
thập niên 1940 và ít ràng buộc với dĩ vãng cách mạng, sẽ có một tầm
nhìn chính xác và linh động hơn về những việc phải làm cho tương lai của
đất nước.
I- Những đặc tính chung của thế hệ thứ tư
Tại Trung Quốc mỗi thế hệ lãnh đạo thường phải đối diện với một biến
cố lịch sử trọng đại, chẳng hạn như cuộc Vạn Lý Trường Chinh, chiến tranh
Trung-Nhật, Phong Trào Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa hay cuộc Cách MạngVăn Hóa. Thế hệ lãnh đạo thứ tư gồm những người sinh ra và lớn lên
trong cuộc cách mạng này. Phần đông họ đã là những Hồng Vệ Binh của
Mao Trạch Đông. Lúc còn trẻ họ được huấn luyện và nhồi sọ là phải hy
sinh tất cả cho cách mạng và cho chủ nghĩa xã hội. Nhưng dần dà với thời
gian, ước mơ của họ bị đổ vỡ nên tin tưởng của họ bị sói mòn. Về mặt ý
thức hệ, họ bị hai lần thất vọng. Lần thứ nhất bởi chủ nghĩa Marx, lần thứ
hai bởi chủ thuyết Mao. Giờ đây, thấy sựï dấn thân của mình bị phản bội,
họ có thái độ rấât cẩn trọng trong việc tìm hiểu những chủ thuyết mới. Họ
phân tích và mổ xẻ rất kỹ lưỡng chứ không vội vã tin tưởng và chấp
nhận ngay như trong mấy chục năm về trước.
Họ là những con người đã được đảng CSTQ tôi luyện trong thử thách. Hồ
Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, hai nhân vật được cảm nhận thay thế Giang Trạch Dân và Chu Dung Cơ, đã được phái từ Thượng Hải đi Gansu ( một vùng đất nghèo nàn thuộc Tây Tạng ) trong một thời gian khá dài, để phấn đấu và
giải quyết những khó khăn của vùng này. Tại đây, phải đối diện với tình
hình chính trị phức tạp của địa phương, họ được rèn luyện khả năng thích
ứng, khả năng chịu đựng và khả năng biến báo để khắc phục mọi khó
khăn và ổn định tình hình tại chỗ mà không cần đến sự can thiệp hoặc trợ
giúp của Trung Ương.
Các lãnh tụ thuộc thế hệ thứ tư thuộc thành phần có học ở trong nước.
Thành phần này, trước kia, là những kỹ sư được huấn luyện tại Liên Sô
nhưng trong thời gian gần đây rất nhiều người đã thụ huấn tại Hoa Kỳ. Hiện
nay đa số các du sinh Trung Quốc sang Mỹ, được chỉ định theo học trong nhữngbộ môn kinh tế, chính trị, tài chánh và luật. Luật là một ngành mà từ
lâu Hoa Lục thiếu thốn trầm trọng. Vậy mà phải đợi tới thập niên cuối
cùng của thế kỷ vừa qua người ta mới ghi nhận một vài dấu hiệu khắc
phục rụt rè. Năm 1980, cả nước Tầu, với hơn 1 tỷ dân, chỉ có 3000 luật
gia. Con số này, ngày nay, đã lên tới 150.000 người. Hàng năm sĩ số ghi
danh học luật tại Trung Quốc, tuy vẫn còn khiêm tốn, cũng đã ỏ vào
khoảng 27.000 người cho năm 2002. Sự kiện này được giải thích như một cố
gắng nghiêm túc của Bắc Kinh trong nỗ lực phát huy và củng cố các định
chế pháp lý yếu kém trong nước để tự trang bị cho mình một khả năng hội
nhập nhịp nhàng và nhanh chóng hơn vào cộng đồng thế giới văn minh.
II - Những đặc tính cá nhân của các ngôi sao chính trị đang lên.
Hồ Cẩm Đào, đương kim phó chủ tịch nhà nước Trung Quốc, Ôn Gia Bảo,
đương kim phó thủ tướng và Tăng Khánh Hồng, đương kim chủ tịch Cơ Quan
Tổ Chức Đảng, là những khuôn mặt sáng của tương lai. Tuy không có
thành tích cách mạng thâm hậu như những lãnh tụ tiền bối, nhưng họ là
những nguời tháo vát trong chính trị và có khả năng quản lý công việc
của đất nước theo những tiêu chuẩn hiện đại. Với khả năng này, họ được
xem như những nhân vật hợp thời để léo lái con thuyền quốc gia vào lúc
"chính sự " của Trung Quốc di chuyển từ tay một người ( như dưới thời Mao,
Đặng ) sang tay một tập thể như đang được thử nghiệm dưới thời Giang Trạch Dân. Người ta hy vọng rằng khi các lãnh tụ của thế hệ thứ tư lên thay thế thì quyền hành sẽ được chia sẻ một cách dân chủ hơn trong tập thể lãnh
đạo và trách nhiệm điềâu khiển quốc gia sẽ dựa trên thương lượng và tham
khảo để đi tới đồng thuận.
Hồ Cẩm Đào sẽ được chỉ định để thay thế Giang Trạch Dân. Hồ không
phải là người của họ Giang mà là nhân vật được Đặng Tiểu Bình tuyển
lựa. Sự kiện này giúp Hồ có nhiều chính danh hơn các nhân vật khác khi
bước vào phương vị mới. Ngoài ra trong suốt quãng đời chính trị quá khứ
của mình Hồ đã trông xa nhìn rộng và thiết lập được nhiều quan hệ tốt.
Hồ là thành viên được nể trọng của Nhóm Đại Học Quin Hua, chủ tịch Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Trung Quốc và giám đốc Trường Đảng Trung Ương từ năm 1993. Cả 3 định chế này đều là những nơi cung cấp lãnh tụ cho chế độ. Như vậy thế hậu thuẫn cần thiết cho Hồ khi lên nắêm chính quyền,
được coi như rất khả quan và người ta dự đoán sự chuyển quyền sẽ xẩy ra
êm thắm.
Đặc biệt, Hồ Cẩm Đào lúc nào cũng tỏ ra khiêm tốn, không ồn ào và
cũng không bao giờ "chơi nổi ". Hồ hiểu rõ rằng khi Giang Trạch Dân chưa
chính thức rời bỏ chính trường thì vai trò cũa Hồ cần được che đậy càng
nhiều càng tồt. Lý do khác là Hồ rất sợ các cơ quan truyền thông của
Tây Phương.Trong vị thế chính trị hiện nay, Hồ ý thức rất rõ là những bình
luận của Tây Phương có hại nhiều hơn là có lợi. Lúc này, Hồ chỉ tập trung
vào việc xây dựng cho mình một nhãn hiệu " ái quốc ". Khi sứ quán Trung
Quốc tại Nam Tư bị ném bom nhầm, Hồ là người đầu tiên đã xuất hiện
trên truyền hình để lên án Hoa Kỳ.Với phản ứng này Hồ được giới trẻ
hoan hô và cả hai phe ( bảo thủ và đổi mới ) trong đảng công khai ủng
hộ.
Tất cả những sự cẩn trọng và toan tính nói trên là những mặt mạnh của
Hồ Cẩm Đào trong việc thay thế Giang Trạch Dân. Tuy nhiên Hồ không phải là toàn hảo mà trái lại, vẫn còn nhiều mặt yếu. Thứ nhất, Hồ có ít quan
hệ với giới quân nhân. Thứ hai, Hồ chưa có nhiều kinh nghiệm hành chánh
tại cấp tỉnh cũng như tại cấp quốc gia. Thứ ba, khả năng của Hồ về các
lãnh vực kinh tế và ngoại giao cũng chưa được xác nhận. Ngoài ra, sức khoẻ của Hồ rất mong manh. Chính vì lý do này mà Hồ đã vắng mặt trong nhiềubuổi họp quan trọng liên quan đến tình hình đất nước.
Nhân vật thứ hai cần lưu tâm là Ôn Gia Bảo. Ôn là một lãnh tụ khá nổi
tiếng và được cảm nhận gần như chắc chắn sẽ thay thế thủ tướng Chu
Dung Cơ vào năm 2003. Ôn có những thành tích chính trị hiếm thấy. Ôn đã
từng là tham mưu trưởng của các lãnh tụ lớn như Hồ Diệu Bang, Triệu Tử
Dương và Giang Trạch Dân. Hai trong số ba người này đã bị đảng khai trừ
nhưng Ôn vẫn tồn tại. Ôn cũng dính líu vào nhiều biến cố trọng đại khác
như vụ Thiên An Môn năm 1989, những vụ chuyển quyền giữa các lãnh tụ
và vụ cứu lụt năm 1998 ( vụ này làm Ôn nổi tiếng giống như thị trưởng
New York Giuliani trong vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 ).
Ôn được dư luận đánh giá như là một người rất thông minh, học nhanh, biết
rộng và đã tự tạo cho mình những kiến thức về kinh tế, tài chánh, ngân
hàng một cách tài tình. Khả năng quản lý và thành tích kết hợp của Ôn
đã trở thành huyền thoại và giúp Ôn tránh khỏi nhiều cơn nguy khốn.
Trong thập niên 1990, Ôn là người quán xuyến các vấn đề nông nghiệp,
tài chánh và cải tổ hệ thống ngân hàng của Trung Quốc. Ôn được sự
nâng đỡ của Chu Dung Cơ và sự hậu thuẫn của cả Giang Trạch Dân lẫn Hồ
Cẩm Đào.Tuy nhiên, ở nhân vật này người ta cũng ghi nhận vài nhược
điểm. Thứ nhất, cũng như Hồ Cẩm Đào, Ôn không có quan hệ mật thiết
với giới quân nhân. Thứ hai, Ôn chưa được trắc nghiệm về khả năng lãnh
đạo ở cấp tỉnh và thành phố. Sau cùng, Ôn chưa thủ đắc được một cơ sở
quyền hành vững chắc.
Nhân vật thứ ba cần theo dõi là Tăng Khánh Hồng, một người có bản
lãnh chính trị khá xuất sắc. Tăng có viễn kiến , linh hoạt và khôn khéo.
Trong dĩ vãng Tăng đã có một vài hành động khác người, được đánh giá
như những thành tích tiên liệu sáng suốt. Vào thời điểm của thập niên
1980, trong khi những người có quyền thế của chế độ thi nhau vận động để
tranh thủ những chức vụ có nhiều bổng lộc trong ngành ngoại thương thì
Tăng đã từ bỏ ghế Phó Giám Đốc Ngoại Thương thuộc Bộ Công Nghiệp
Dầu Lửa. Cũng trong thời gian này, khi đảm nhiệm trách vụ Tổ Chức Đảng
ở Thượng Hải, Tăng đã tuyển chọn 5 sinh viên xuất sắc và gửi họ sang Mỹ
học về khoa chính trị thay vì học những bộ môn thông thường khác. Khác
với suy nghĩ sai lầm của những lớp lãnh đạo đàn anh, Tăng cho rằng tương
lai của Trung Quốc phụ thuộc vào lớp người có kiến thức sâu rộng về
luật pháp và chính trị. Gần đây, Tăng không được bầu vào Bộ Chính Trị
mà vẫn ở lại với Cơ Quan Tổ Chức Đảng. Nhiều người nghĩ rằng đây là
một dấu hiệu của sự thất sủng, nhưng giới thân cận với Tăng thì cho rằng
đây là một nước cờ cao. Ở lại Cơ Quan Tổ Chức Đảng, Tăng có điều kiện
thuận lợi để đặt người vào các địa vị chủ yếu, không những tại các tỉnh,
bộ, mà còn cả tại các cơ cấu quyền lực trung ương. Việc đặt người sẽ cần
thiết cho tương lai chính trị của Tăng sau này hơn là việc được vào ngồi trong Bộ Chính Trị lúc này.
Dư luận chỉ chê Tăng là quá thân mật với Giang Trạch Dân và đã giúp
Giang đắc lực trong việc hình thành "Nhóm Thượng Hải" (Shangai Gang) để
âm mưu đưa nhóm này vào các chức vụ lãnh đạo quốc gia. Những toan tính
chính trị của Nhóm Thượng Hải, hiện đang bị Quốc Hội Trung Quốc và NghịHội Đảng ngăn chặn bằng lá phiếu để không cho xâm nhập vào các thế
đứng chủ chốt trong chính quyền.
Cả ba tên tuổi nói trên đều là những nhân vật có trọng lượng chính trị
lớn nếu xét về khả năng được lựa chọn để lãnh đạo đất nước. Đặc biệt,
không có nhân vật nào có ưu thế để loại bỏ hai nhân vật kia. Chắc chắn
họ sẽ phải chia sẻ quyền hành và hành động theo tinh thần đồng đội.
III- Sứ mạng của thành phần lãnh đạo mới
Mối quan tâm của nguời nước ngoài đối với tương lai chính trị của Trung
Quốc nằm trong câu hỏi sau đây : " Liệu trong Đại Hội Đảng lần thứ 16
sắp tới, Giang Trạch Dân có tự dành cho mình chức vụ Chủ Tịch Quân Ủy
Trung Ương để đóng vai trò Thái Thượng Hoàng như Đặng Tiểu Bình đã từng làm trong dĩ vãng hay không ? ". Dư luận không tin là Giang sẽ hành động
như vậy vì uy tín của Giang thua kém uy tín của Đặng xa. Thêm nữa, đảng
CSTQ gần đây đã quyết định tuổi về hưu cho mọi đảng viên. Sau cùng, cả
ba nhân vật mới này đều không có quan hệ mật thiết với giới quân
nhân. Hiện tại, trên chính trường Trung Quốc, không thấy bóng dáng một
người hùng quân đội nào xuất hiện, nên người ta tin rằng sự chuyển
quyền trong tương lai sẽ là một sự chuyển quyền trong êm ả, một bước
tiến đáng kể cho nền chính trị của Trung Quốc trong quá trình hội nhập vào
cộng đồng dân chủ của thế giới.
Sứ mạng của thành phần lãnh đạo mới là tạo điều kiện và giữ cho Trung
Quốc có những bước phát triển tốt đẹp về các mặt chính trị quốc nội và
quốc tế. Về mặt quốc nội, không được để xảy ra tình trạng giống như ở
Liên Sô cách đây hơn mười năm, nghĩa là đảng CSTQ bị loại khỏi vị thế
lãnh đạo. Về mặt quốc tế, phải bảo đảm cho sự hội nhập vào cộng đồng
thế giới được tiến hành xuông sẻ để lấy về cho Trung Quốc uy tín của
một đại cường chia sẻ trách nhiệm chung của nhân loại.
Từ những lời tuyên bố của các nhân vật sẽ thay thế nhóm lãnh đạo già
nua người ta chờ đợi một số cải cách sau đây : 1/ Dân chủ hóa sinh hoạt
nội bộ của đảng CSTQ, 2/ Cải thiện hệ thống pháp trị trong nước, 3/ Phân
định rõ rệt quyền hạn và trách nhiệm giữa đảng và nhà nước, 4/ Thiết
lập một Ủy Ban An Ninh Quốc Gia đứng trên cả đảng lẫn quân đội.
Có thể là Bắc Kinh sẽ chưa chính thức chấp nhận cho một đảng đối lập
hoạt động công khai nhưng chắc chắn những người lãnh đạo mới sẽ để cho
dân chúng có nhiều quyền công dân hơn thời gian trước. Kinh tế cũng sẽ
được hoạch định để mọi khu vực trên lãnh thổ đều có thể phát triển cùng
mức độ. Đồng thời, tiếng nói của quần chúng tại những vùng nghèo khó
cũng sẽ được lắng nghe và chú trọng nhiều hơn. Báo chí cũng sẽ được tự do
hơn và sự kiện AOL-Time Warner và Fox News được phép hoạt động tại HoaLục là một điềm báo trước rất thuận lợi.
Các quan sát viên quốc tế tin rằng tất cả những dự đoán nói trên sẽ
phải xảy ra để giảm áp lực đè nặng lên số phận của chế độ. Đó là
một chiều hướng dân chủ hóa được nhiều người mong đợi và chiều hướng
này sẽ xảy ra trong một môi trường chính trị quốc tế không còn những
dấu hiệu đe dọa đối với nền an ninh của Trung Quốc.
Thật vậy, biến cố 11 tháng 9 năm 2001 đã là một biến cố làm thay đổi
hoàn toàn quan hệ chính trị Trung Mỹ. Nếu biến cố này không xảy ra thì
người Mỹ vẫn coi Trung Quốc là mội đe dọa chính. Giờ đây thực trạng đã
thay đổi và hai chuyến công du liên tiếp của tổng thống Bush sang Bắc Kinh
đã chứng minh điều đó. Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện nay có rất nhiều vấn
đề cùng quan tâm để chia sẻ và hợp tác giải quyết.
Ngoài ra, với không khí chính trị của thế giới vào lúc này và với thực tế
của hai nước Trung Hoa, vấn đề Đài Loan cũng dịu dần. Giải pháp quân sự
để thống nhất đất nước không còn cần thiết vì ai cũng biết Đài Loan càng
ngày càng phụ thuộc vào Hoa Lục về mặt kinh tế. Hơn 300.000 người Đài
Loan đã về định cư tại Thượng Hải và Jang Su để hoạt động thương mại, và
xu hướng này đang trên đà tăng trưởng. Thế Vận 2008 cũng sẽ làm cho hai
nước sát lại gần nhau hơn vì cả hai đều có nhu cầu đề cao một bản sắc
chung : bản sắc Trung Hoa. Quan trọng hơn cả là những lá bài dân chủ mà
những người lãnh đạo mới ở Bắc Kinh sẽ chơi như đã nói ở trên, chắc
chắn sẽ chiếm đoạt trái tim và khối óc của những người dân ngoài đảo.
Hòa bình và sự phồn vinh của nhân loại trong thế kỷ 21 đòi hỏi một Trung
Hoa có thái độ hợp tác và có tinh thần trách nhiệm nghiêm chỉnh. Người
ta hy vọng là nhóm lãnh đạo mới của Bắc Kinh sẽ đáp ứng được đòi hỏi
nói trên và sẽ hoàn tất được sứ mạng giao phó vì họ thuộc một thế hệ
đã trải qua quá nhiều kinh nghiệm đau thương gây ra bởi những giáo điều
không tưởng để rứt khoát quyết tâm từ bỏ những mơ ước hão huyền. /
NCQ (7-2002).
LÊ TÙNG MINH * CHIẾN LƯỢC HOA KỲ
Trước Thềm Thế Kỷ
21:
Nghiên Cứu Lại Những Bài Học Thất Bại Chiến Lược Của Hoa Kỳ Trong Chiến Tranh Việt
Nam
Lê Tùng Minh
Lê Tùng Minh
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam (1955-1975) Hoa Kỳ đã vấp phải
ba bài học thất bại chiến lược như sau:
bài học thất bại thứ nhất
Ngay từ đầu Mỹ không có một
chiến lược đúng trong vai trò đồng minh yểm trợ Việt Nam Cộng Hòa để chiến thắng
Cộng Sản.
Chúng ta đều biết rằng:
Theo tinh thần hiệp định Genève 1954, sau 300 ngày tập kết chuyển quân, quân đội
Việt Minh từ vĩ tuyến 17 trở vào đến mũi Cà Mau phải rút hết quân ra Bắc. Phải
công minh rằng, lúc này Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị Đảng Lao Động Việt Nam (tức
CSVN) chủ quan trong việc thắng lợi khi tiến hành cuộc tổng tuyển cử vào tháng
7/1956. Cho nên Hồ Chí Minh ra lệnh rút hết quân chính quy (các tiểu đoàn độc
lập) và quân địa phương (các đại đội tập trung) ra Bắc để học tập, huấn luyện và
trang bị hiện đại để về thu tiếp miền Nam Việt Nam sau khi đã giành thắng lợi
trong cuộc Tổng tuyển cử 20/7/56(!?). Số quân này, sau khi tập kết ra Bắc đã
được tổ chức lại thành 3 sư đoàn: sư đoàn 305 (quân khu 5) sư đoàn 330 (Đông Nam
Bộ) và sư đoàn 338 (Tây Nam Bộ).
Lực lượng Việt Minh cài lại
ở Nam VN chỉ là dân quân du kích ở các xã ấp, cán bộ Đảng ở cơ sở... và một số
cán bộ trung cao cấp Đảng đóng vai trò lãnh đạo như Lê Duẩn (Bí thư Xứ ủy Nam
Bộ), Võ Văn Kiệt (Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn), Mai Chí Thọ (Bí thư Khu ủy
Khu Đông Nam Bộ), Trần Bạch Đằng (Bí thư Xứ đoàn Thanh niên Nam Bộ), Võ Chí Công
(Bí thư Khu ủy Khu 5), Nguyễn Thị Định (Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre), Phạm Ngọc Thảo
(Phó ban tình báo Nam Bộ)... Họ đã chôn giấu súng ống đạn dược và tổ chức học
tập rộng rãi xuống đến cơ sở xã ấp là chỉ tiến hành đấu tranh chính trị đòi
chính quyền miền Nam thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Genève (Nghị Quyết 9/1954
của Bộ Chính Trị ĐLĐVN) [Xem "Rừng U Minh" của Trần Hiếu Minh, miền Bắc xuất
bản, sẽ thấy rõ phản ứng của các Đảng viên CS cài tại miền Nam phản đối chủ
trương này sau 20/7/1956].
Trong khi đó, chính quyền
miền Nam VN có đến 300,000 quân chính quy, thoát thai từ 60 tiểu đoàn Việt Nam
của Pháp hồi 1952 (gọi tắt là B.V.N., Bataillon du Vietnam) làm nhiệm vụ tiếp
quản miền Nam VN. Thực chất phải nói rằng sau khi quân đội chính quy của Việt
Minh ở miền Nam rút ra Bắc, thì quân đội quốc gia (tiền thân của quân lực Việt
Nam Cộng Hòa) là mạnh hơn hẳn, có ưu thế tuyệt đối so với lực lượng dân quân du
kích của Việt Minh cài lại sau tháng 7/1954. Vì thế, quân đội quốc gia có khả
năng tiếp quản nhanh chóng và ổn định tình hình trên khắp miền Nam từ vĩ tuyến
17 vào đến mũi Cà Mau trong hai năm 1955-1956. Đồng thời với việc áp dụng kinh
nghiệm "dồn dân", "tát nước bắt cá" bằng biện pháp "ấp chiến lược" theo kinh
nghiệm của Mã Lai, chính quyền miền Nam VN thời ông Diệm đã thành công trong
việc cô lập và dồn bọn CS nằm vùng phải chui vào rừng sâu, nằm hầm ngủ bụi.
Chúng gọi thời gian này là thời kỳ "hoá chỉnh vi linh" (!). Vì vậy mà từ năm
1957 một phúc trình của chính quyền Ngô Đình Diệm đã ghi rằng: "Phía các giới
chức Việt Minh đã tan rã, và kể như không còn làm gì được nữa!" Phúc trình
này hoàn toàn đúng với thực tại của những năm 1956-57. Trong báo cáo mật của Lê
Duẩn gửi ra cho Bộ Chính Trị Đảng Lao Động Việt Nam đã đề nghị cho "miền Nam
tiến hành đấu tranh võ trang để giữ vững phong trào. Nếu không, cách mạng miền
Nam sẽ thất bại". Chính vì tình thế quá bất lợi cho "công cuộc đấu tranh chính
trị ở miền Nam", Hồ Chí Minh quyết định gọi Lê Duẩn ra Bắc báo cáo mọi tình hình
để làm cơ sở cho Nghị Quyết 59, nghị quyết phát động cuộc đấu tranh vũ trang ở
miền Nam Việt Nam.
Nhưng ông bạn đồng minh vĩ
đại của miền Nam VN là chính phủ Hoa Kỳ, đã không chịu nhìn vấn đề một cách
khách quan, trên cơ sở phân tích đến nơi đến chốn về thực lực chính trị lẫn quân
sự của cả hai bên. Đúng như nhà viết lịch sử của quân đội Hoa Kỳ, đại tá Dave
Richard Palmer nhận xét rằng: "Có thể nói rằng thất bại lớn đầu tiên của Mỹ
khi tham dự về quân sự tại Việt Nam là sự bất lực, không chịu nhận diện được
hình thức của cuộc chiến ấy".
Thật vậy, hình thức (đúng
ra là hình thái) của cuộc chiến giữa quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong giai đoạn
đầu sau 1959 (tức là sau cuộc nổi dậy ở Bến Tre mà Cộng Sản gọi là Đồng Khởi) là
cuộc chiến của hình thái chiến tranh nhân dân với chiến thuật "Ba mũi giáp công"
(tức là quân sự, chính trị kết hợp với binh vận). Kẻ thù Cộng Sản không có lực
lượng đủ mạnh để giáp mặt đánh trận địa chiến hay vận động chiến. Các chiến lược
gia về chiến tranh của Hoa Kỳ coi thường chiến thuật này của Cộng Sản
(!?).
Các nhà lãnh đạo quân sự Mỹ
quan niệm, như P. Devilliers và J. Lacouture đã phản ảnh trong cuốn End of a
War rằng: "Nước Mỹ muốn Việt nam có một đạo quân 90,000, không phải để chống
giữ xâm lăng từ ngoài vào (ý nói sự xâm lăng của Bắc Việt - LTM). Quân đội ấy
chỉ có mục đích duy nhất là giữ trật tự công cộng, và diệt trừ mọi mưu toan
khuynh đảo". Chính vì quan niệm thụ động này nên việc huấn luyện và xử dụng các
sư đoàn quân lực Việt Nam Cộng Hòa theo kinh nghiệm của cuộc chiến tranh Cao Ly
1950, nghĩa là bố trí một số sư đoàn VNCH theo chiều sâu của lãnh thổ từ vĩ
tuyến 17 trở vào. Sự bố trí kiểu ấy, cho các sư đoàn VNCH hiểu rằng: Nếu có cuộc
xâm lăng của quân đội Bắc Việt thì các sư đoàn VNCH chỉ làm nhiệm vụ cầm cự tạm
thôi, chờ quân đội Đồng Minh trong Minh Ước Đông Nam Á tới giải cứu
(!?)
Tình báo CSVN đã nắm bắt
được ý đồ này của Mỹ qua Phạm Ngọc Thảo (Phạm Ngọc Thảo, Phó ban Tình Báo Nam
Bộ, chức vụ Trung đoàn trưởng được Lê Duẩn bố trí cho về "hồi chánh" theo ông
Diệm. Phạm Ngọc Thảo nhận ông Ngô Đình Thục làm cha nuôi. Ông Thục đã giới thiệu
cho ông Diệm. Ông Diệm phong cho Phạm Ngọc Thảo chức vụ Thiếu Tá, Trưởng Bảo An
Đoàn. Chính nhờ có sự hỗ trợ ngầm của Phạm Ngọc Thảo mà cuộc Đồng Khởi Bến Tre
mới giành được thắng lợi. Bộ tiểu thuyết Ván Bài Lật Ngửa của Trần Bạch
Đằng viết về cuộc đời tình báo của Phạm Ngọc Thảo, tức nhân vật Phạm Thành Luân.
Tất nhiên, Trần Bạch Đằng có hư cấu và giấu kín những gì cần giấu). Cho nên Hồ
Chí Minh và Bộ Tham Mưu của ông ta quyết định hành động bất ngờ. Mở đường mòn Hồ
Chí Minh và lập binh trạm 559 (nghĩa là thành lập từ tháng 5 năm 1959), đưa viện
quân từ Bắc vào Nam (trước hết là đưa các sư đoàn miền Nam tập kết trở về) cùng
với việc đưa một đội ngũ cán bộ Đảng, dân chánh và kinh tài về chuẩn bị cho việc
thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam vào ngày 20/12/60. Và đến lúc này
"người Mỹ mới bắt đầu mở mắt" (theo Dave Richard Palmer). Nhưng thật buồn thay,
sự "mở mắt" của một số người Mỹ có trách nhiệm không làm thay đổi cách nhìn chủ
quan của Tòa Bạch Ốc, vì lẽ người có thẩm quyền đánh giá tình hình miền Nam VN
là Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn. Trong bản tường trình về cho chánh phủ Hoa Kỳ, ông Đại
sứ khẳng định: "An ninh nội bộ của miền Nam VN không gặp nguy cơ trầm trọng."
(!?)
Thật ra, ngay cuối năm
1960, với sự ra đời của Mặt Trận Giải Phóng miền Nam VN, Việt Cộng (nhằm chỉ
Cộng Sản miền Nam) vẫn chưa có lực lượng quân sự đủ mạnh khả dĩ đối mặt chiến
đấu với quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Họ đang chuẩn bị ráo riết cho cuộc đấu tranh
vũ trang toàn miền Nam, chờ đợi thời cơ tốt chẳng hạn như một cuộc đảo chánh
giữa một nhóm tướng tá và "tập đoàn gia đình trị Diệm Nhu", (theo cách nói của
CSVN). Khi cử Nguyễn Chí Thanh, đại tướng hàm, nguyên là Bí thư Khu ủy Thừa
Thiên trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đang là ủy viên Bộ Chính Trị, vào Nam
giữ chức Bí thư Trung ương cục (Cục R). (Nguyễn Chí Thanh lấy bí danh là Trường
Sơn, Hai Trường Sơn). Hồ Chí Minh chỉ thị "phải khai thác triệt để mâu thuẫn
giữa nhóm tướng tá bất mãn với Diệm Nhu" (!?)
Đúng lúc ở Mỹ tiến hành bầu
cử tổng thống, và Kennedy đã đắc cử, còn ở miền Nam VN ông Ngô Đình Diệm tái đắc
cử Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa. Tổng Thống Kennedy là người tích cực ủng hộ
Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên ông vẫn không có một giải pháp đúng cho tình
hình thực tế của cuộc chiến đấu tiêu diệt Cộng Sản ở miền Nam VN.
Việc đầu tiên đối với VNCH
là ông cử hai nhân vật quân sự cao cấp nhất của Mỹ tới thăm Việt Nam. Tướng
Lyman Lemnitzer, chủ tịch Bộ tham mưu liên quân của Bộ Quốc Phòng Mỹ, và tướng
Maxwell Taylor, cố vấn quân sự của Kennedy. Và khi đi thăm VN về tướng Lemnitzer
đã nhận định sai về tình hình như sau:
"Tân chính phủ (Hoa Kỳ) đã
bị người ta nhồi quá nhiều về tầm quan trọng của chiến tranh du kích, và buộc
quân lực VNCH chú trọng quá nhiều đến các biện pháp chống du kích thì quân lực
ấy sẽ giảm khả năng chống lại một cuộc tấn công cổ điển tương tự cuộc tấn công
vào Nam Cao Ly bằng hàng chục sư đoàn Bắc Việt" (1). Lịch sử đã chứng minh nhận
định sai này của tướng Lemnitzer. Mãi 7 năm sau (1968) Cộng quân mới tiến hành
được tổng công kích vào Tết Mậu Thân, nhưng lực lượng chỉ có 3 sư đoàn, chứ đâu
hàng chục sư đoàn. Cộng quân vô cùng phấn khởi trước nhận định này của tướng
Lemnitzer. Cho nên chúng quyết tâm đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân mà không
lo sợ phải bị tiêu diệt bởi chiến thuật "du kích phản du kích" của Việt Nam Cộng
Hòa.
Để khuyến khích và động
viên Việt Nam Cộng Hòa, Kennedy quyết định gửi thêm cố vấn Mỹ giữ các lực lượng
yểm trợ tiếp vận, như tăng cường trực thăng cho quân lực VNCH. Đồng thời Tổng
Thống Kennedy gửi một lá thư cho Tổng Thống Diệm, có đoạn như
sau:
"Tôi xin cam đoan chắc một lần nữa với Ngài rằng Hoa Kỳ cương
quyết giúp Việt Nam gìn giữ độc lập của mình, bảo vệ người dân chống bọn sát
nhân Cộng Sản, và xây dựng một đời sống tốt đẹp hơn, bằng sự phát triển kinh tế"
(Hồ sơ lưu trữ của Phủ Tổng Thống VNCH).
Và ngày 8/2/1962 Mỹ thành
lập một phái bộ quân sự mới tại Sài Gòn mang tên MACV (Military Assistance
Command Vietnam) do tướng Paul Harkins cầm đầu nhằm chuyển việc tham gia quân sự
của Mỹ ở VNCH từ vai trò cố vấn đến "gần hơn nữa vai trò một đại bản doanh hành
quân" (như lời giải thích của tướng Taylor). Cho nên từ khi Tổng Thống Diệm ban
hành lệnh khẩn cấp tại miền Nam Việt Nam đến cuối năm 1962, Mỹ đã đưa vào Nam
Việt Nam 18,000 cố vấn quân sự và dân sự. Đó lại chính là một tai họa không
lường được cho quân lực VNCH vì như Dave Palmer đã nói: "Cố vấn Mỹ hoàn toàn
bỡ ngỡ với chiến trường Đông Dương khi được lệnh lên đường tới Việt Nam".
Bernard Fall, nhà báo Pháp đã mỉa mai về tình trạng này như sau: " Có quá
nhiều đầu bếp để nấu nồi cháo chống du kích tại Việt Nam".
Trong khi có sự đáng giá
sai về chiến lược quân sự như vậy, Mỹ không quan tâm lắm đến tình hình chính trị
của Việt Nam Cộng Hòa: Chế độ Ngô Đình Diệm đã gây nên sự bất mãn lan tràn trong
nhân dân vì chính sách phân biệt đối xử (Chính sách 3Đ, nghĩa là trọng dụng
những người có đạo Công giáo, những người theo Đảng Cần Lao Nhân Vị và những
người địa phương Quảng Bình). Cộng Sản đã khai thác và thúc đẩy những mâu thuẫn
này, biến từ mâu thuẫn nội bộ chuyển thành mâu thuẫn đối kháng, có lợi cho
chúng.
Thất bại của quân lực VNCH
trong trận ấp Bắc vào ngày 2/1/1963 đã đánh dấu sự thất bại đầu tiên
về quân sự và chính trị của Hoa Kỳ trong việc yểm trợ quân lực VNCH, cũng là
đánh dấu sự thành công của Việt Cộng trong cuộc chiến tranh du kích và gây niềm
tin tưởng trong lòng dân chúng ở vùng nông thôn. Dave Palmer đã ghi nhận phản
ứng từ nước Mỹ như sau: "Báo chí Hoa Kỳ mô tả trận ấy là một trong những vụ
bại trận tốn kém nhất và nhục nhã nhất của quân lực VNCH, cũng như các cố vấn
quân sự Mỹ (!?)"
Tiếc thay! Lịch sử đã sang
trang và không bao giờ lập lại như cũ nữa. Thời gian 1955-61 là thời gian mà
Việt Nam Cộng Hòa có điều kiện tốt nhất để triệt tiêu lực lượng Cộng Sản nằm
vùng bằng cả 3 mặt kết hợp đồng bộ: kinh tế, chính trị và quân sự. Tấm gương
chiến thắng Cộng Sản của Pac Chung Hy ở Nam Hàn (nay là Đại Hàn) không được anh
em ông Diệm, Nhu tham khảo và học tập kinh nghiệm. Và cũng vì Mỹ quá tự tôn tự
đại: Hoa Kỳ là một quốc gia chỉ có thắng chứ không bại trong đại chiến thứ hai
thì làm sao có thể thua CSVN (!?) Nhưng Mỹ quên rằng, trong thực tế Mỹ đã không
thắng trong cuộc chiến tranh Cao Ly (1950).
Do đó, ngay từ đầu Mỹ đã
không có chiến lược đúng trong việc yểm trợ VNCH chiến thắng Cộng Sản ở giai
đoạn mà Cộng Sản còn quá yếu (1955-58), lại không có chiến lược đúng để phản
công và đàn áp đến triệt tiêu cuộc chiến tranh du kích của Việt Cộng (1959-63)
thì làm sao có thể thắng ở các giai đoạn sau, nếu Mỹ không bỏ bệnh chủ quan, coi
thường kẻ thù. Đó là chưa nói đến vấn đề sai lầm về chính trị.
Để kết thúc bài học thất
bại thứ nhất, tôi xin viện dẫn lời phát biểu của tướng Westmoreland như sau:
"Trong lúc chiến sự đẫm máu thì sự cắt giảm viện trợ của Mỹ đưa đến hậu quả
rất tai hại. Napoléon thường nói rằng khi ra trận yếu tố tinh thần quan trọng
hơn yếu tố vật chất gấp 3 lần. Thế mà nước Mỹ đã phá hoại yếu tố tinh thần của
đồng minh Nam Việt Nam". (Xem A Soldier Reports, hồi ký của Westmoreland).
Đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của nền Đệ Nhị Cộng Hòa và tháng tư
1975 đẫm máu. Chắc hẳn vị cố vấn quân sự Mỹ nào đã từng sát cánh với quân lực
VNCH ngoài mặt trận đều hiểu rất rõ điều này.
bài học thất bại thứ hai
Thay vì giúp ông Diệm củng
cố lại Việt Nam Cộng Hòa, Mỹ lại chủ trương "thay ngựa giữa đường".
Trận ấp Bắc
ngày 2/1/1963, phải nói thật rằng là một trận chiến làm nên "lịch sử lẫy lừng"
của Tiểu đoàn 514 của Việt Cộng? Thật ra không đáng có một trang lịch sử "lẫy
lừng" như thế đối với một tiểu đoàn du kích quân không được huấn luyện, trang bị
bằng đủ các loại súng thông thường, và với số quân không đầy 300 người (2) (gồm
cả lực lượng hậu cần) trong khi đó quân lực Việt Nam Cộng Hòa có cả một sư đoàn
7 với đầy đủ chiến cụ, có pháo binh và trực thăng yểm trợ, lại thêm chiến xa
M113, để thực hiện một kế hoạch tấn công áp đảo bằng chiến thuật lấy đông và
mạnh diệt kẻ ít và yếu. Trung tá cố vấn Mỹ John Paul Vann, vị sĩ quan cao cấp
của Mỹ đi sát với Sư đoàn 7, trước khi vào trận đánh đã nói với tân tư lệnh Sư
đoàn là "cần biểu diễn một trận đánh ngoạn mục để thế giới và dư luận biết tới"
khả năng chiến đấu của quân đội VNCH được đồng minh Mỹ yểm trợ. Chúng ta nên nhớ
rằng đây là cuộc hành quân chủ động "diệt Cộng" sau khi được tin tức tình báo
của Mỹ cung cấp! Nhưng kết quả của trận đánh thì sao? Chúng ta nghe cả hai luồng
dư luận thì mới hiểu sự sai lầm của Mỹ và quân lực VNCH.
Phía báo chí của Cộng Sản
thì thổi phồng "đây là một trận đánh điển hình cho cuộc chiến tranh nhân dân
đầy sáng tạo, một trận đánh mở đầu làm phá sản chiến thuật trực thăng vận của
Hoa Kỳ". Nhưng những cán bộ Việt Cộng đã từng tham gia trận đánh thì nói
thật rằng: "Chúng tôi tìm đường rút lui không được, đành phải trụ lại đánh
với lực lượng đông gấp bội với tinh thần liều chết để cứu lấy mạng sống. Và
chúng tôi thắng là nhờ quân đối phương quá chủ quan khinh địch!"
Còn phía báo chí Mỹ thì đã
"thổi phồng" sự thất bại của quân lực VNCH một cách nhẫn tâm, không có thiện
chí, như Đại tá Dave Palmer viết: "Báo chí Hoa Kỳ cho loan hàng đầu về tin
của trận đánh đó (ấp Bắc).
Họ mô tả trận đánh ấy là trận đánh đẫm máu nhất của Nam Việt Nam trong bốn năm
đánh Cộng Sản, và đó là một trong những cuộc bại trận tốn kém nhất, và nhục nhã
nhất của quân lực Nam Việt Nam cũng như các cố vấn quân sự Mỹ của
họ".
Trong chiến tranh tâm lý,
báo chí có tầm quan trọng đặc biệt. Ai biết sử dụng báo chí làm vũ khí đánh đối
phương coi như đã giành thắng lợi được 1/3, có khi đến 1/2.
Trong chiến dịch tuyên
truyền cho trận Ấp Bắc, mở màn cho nhiều trận đánh loại Ấp Bắc sau này, Cộng Sản
quốc tế đã yểm trợ CSVN bằng cách tung tiền mua chuộc những ký giả sẵn sàng đánh
mướn như loại G. Burchett (người Úc gốc Tân Tây Lan) (3) làm cái loa tuyên
truyền đánh Mỹ trên đất Mỹ như kiểu viết trên đây.
"ấp Bắc" có
phải là nguyên nhân đưa đến việc thay đổi chính sách của chính quyền Kennedy
trong việc "thay ngựa giữa đường" như dư luận báo chí Pháp hay không?
Theo chúng tôi, đó chỉ là
một cái cớ!
Và đây là cái cớ thứ hai:
"Các cuộc hành quân do Tổng thống Diệm dàn dựng (còn cố vấn Mỹ đâu? - LTM),
hoặc do Bộ tham mưu trực tiếp của ông ta, kế hoạch được lập ra một cách tài tử
hơn là được phối hợp với các tư lệnh quân đoàn. Một vài tư lệnh sư đoàn hoặc
tỉnh trưởng được cưng chìu của TT Diệm đã thuyết phục được ông ta chỉ chấp thuận
các hành động nào có lợi cho tham vọng cá nhân của những kẻ ấy" (4).
Sự thật thì theo những
tướng tá quân lực VNCH có tinh thần khách quan, không định kiến hay bè phái đều
chê ông Diệm ở phương diện độc quyền chỉ huy tối cao này; tuy nhiên đó không
phải là nguyên cớ chính dẫn đến chính sách "thay ngựa giữa đường" của Hoa Kỳ.
Nguyên nhân đưa đến việc Mỹ thay ông Diệm là ở chỗ khác.
Theo tài liệu lịch sử để
lại (hồ sơ của Phủ Tổng Thống VNCH) cho thấy: Hồi đầu năm 1963, đặc sứ của Tổng
Thống Kennedy cũng là đương kim đại sứ của Hoa Kỳ tại Sài gòn, ông Cabot Lodge,
đã đến gặp ông Diệm, đưa lời khuyến cáo của chính quyền Kennedy "Tổng Thống
Ngô Đình Diệm nên thay đổi cách thức làm việc cho dân chủ hơn". Tổng Thống
đã thẳng thắn trả lời cho Tổng Thống Kennedy là "Hoa Kỳ có nên vượt quá vai
trò của đồng minh.Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia có chủ quyền và tôi là một
tổng thống!" Tinh thần độc lập, tự chủ của ông Diệm đã làm cho Kennedy nổi
giận! Nhưng lúc này, chính quyền Kennedy vẫn chưa có quyết định dứt khoát, mặc
dù Cabot Lodge đã đề nghị phải "cho Diệm Nhu ra đi!"
Tin tức này đã truyền nhanh
đến Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị Đảng CSVN (qua tổ điệp viên của CS Bắc Việt cài
vào miền Nam hồi sau tháng 7/1954 mà trưởng nhóm là Vũ Ngọc Nhạ.) Ai đã từng
nghiên cứu tiểu sử của Hồ Chí Minh thì rõ: Trước khi trở thành lãnh tụ Đảng Cộng
Sản Đông Dương, ông đã là một điệp viên cao cấp của Quốc Tế Cộng Sản được phái
sang Trung Quốc những năm 1936-39, mang bí danh là Lin, với chức vụ công khai là
Bí Thư của Đại sứ quán Nga ở nước trung Hoa dưới thời Tôn Dật Tiên, nhưng trong
bóng tối Lin là trưởng chi Tình Báo của Quốc Tế Cộng Sản phụ trách khối Châu
á. Do đó, Hồ Chí Minh rất có tài tổ chức phản gián. Bởi
thế, khi nhận được tin tức về sự bất đồng giữa Ngô Đình Diệm và chính quyền
Kennedy, giữa Ngô Đình Diệm và các tướng tá của quân lực VNCH (trong đó có Dương
Văn Minh). Hồ Chí Minh cho Phan Triêm (Phó ban tổ chức Trung Ương Đảng, đặc
trách Tình Báo chiến lược miền Nam) và Hoàng Văn Thái (Trung tướng đặc trách
Tình Báo quân sự) cùng thiết lập một "hồ sơ giả" bao gồm những bức thư viết tay
trao đổi giữa ông Ngô Đình Diệm và ông Hồ Chí Minh, trong đó ông Hồ Chí Minh
hứa: Sau khi gạt được áp lực của Hoa Kỳ ra ngoài, hai miền sẽ thống nhất và Hồ
Chí Minh sẽ tự nguyện giao ghế chủ tịch nước cho ông Ngô Đình Diệm, giao cho ông
Ngô Đình Nhu nắm bộ Nội Vụ (?)
"Hồ sơ giả" được hoàn thành
nhanh chóng và được tung vào Nam theo đường dây của tình báo Pháp (qua điệp viên
nhị trùng Hoàng Hồ, sau này là dân biểu của Đệ nhị VNCH). Và bằng cách nào đó đã
lọt vào tay của Dương Văn Minh, Dương Văn Minh liền báo cáo cho Đại sứ Cabot
Lodge (!)
Khi được mật báo cho biết
kết quả thành hình của tập "hồ sơ giả", Hồ Chí Minh cho tập họp một cuộc triệu
tập bất thường của Bộ Chính Trị quyết định mở một cuộc tấn công về chính trị,
lấy Phật Giáo do Thích Trí Quang lãnh đạo làm đầu tàu gây rối nhằm khoét sâu mâu
thuẫn giữa chánh quyền Kennedy và Ngô Đình Diệm. Hồ Chí Minh nói: "Cái trở
ngại lớn của cuộc cách mạng giải phóng miền Nam Việt Nam là tập đoàn Diệm Nhu.
Nếu chúng ta làm cho nhóm tướng tá bất mãn và chính quyền Kennedy quyết định
thay Diệm thì chắc chắn chúng ta sẽ giành được miền Nam Việt Nam sau đó"
(5). Cho nên sau đó chúng ta thấy nổi lên cao trào Phật Giáo miền Nam chống
chính quyền ông Diệm do Thích Trí Quang lãnh đạo (6). Xin mời quý độc giả tìm
đọc cuốn Our Vietnam Nightmare của nữ ký giả Mỹ Margueritte Higgins. Bà ta đã
dành nhiều chương trong cuốn sách dầy 314 trang để vạch trần "mưu mô thâm độc"
của Thích Trí Quang trong chiến lược sách động của Hà Nội, dọn đường chiếm toàn
bộ miền Nam Việt Nam. Chính sự tác động của phong trào Phật Giáo miền Nam Việt
Nam do Thích Trí Quang đứng đầu hồi tháng 5 năm 1963, mà chương trình nghị sự
của Liên Hiệp Quốc vào ngày 20/9/1963 đã ghi vấn đề "vi phạm nhân quyền tại Nam
Việt Nam". Chính Cabot Lodge cũng bị mất bình tĩnh trước tình hình đó. Và Lodge
đã báo cáo khẩn về Tòa Bạch Ốc. Thế là Kennedy quyết định "chỉ cần thay thế
Ngô Đình Diệm là chúng ta có thể thắng Cộng Sản mau lẹ". (Thắng hay thất
bại? - LTM) Một phát đạn của Hồ Chí Minh đã bắn trúng hai con đại bàng cùng một
lúc. Bài học này là bài học xương máu cho cả Hoa Kỳ và VNCH!
Khi cuộc đảo chính 1-11-63
bùng nổ và đưa đến sự thảm sát anh em ông Diệm Nhu (sáng 2-11-63) do các tướng
lãnh tham quyền cố vị chủ mưu do lệnh của Cabot Lodge. Thật ra, lệnh của Kennedy
là thay ông Diệm và cho anh em Diệm Nhu "ra nước ngoài", nhưng nhóm tướng lãnh
thù oán cá nhân (cụ thể là Big Minh) đã thừa cơ hội hỗn quân hỗn quan, ra lệnh
giết anh em ông Diệm Nhu! Vết nhơ này bao giờ mới rửa sạch trước công luận
(?!)
Chính William Colby, trùm
CIA lúc bấy giờ đã khẳng định trách nhiệm của Mỹ đối với cuộc đảo chánh thất
nhân tâm này: "Đây là một cuộc đảo chính của tướng lãnh Việt Nam, đúng thế,
những tôi nghĩ rằng những điều căn bản của cuộc đảo chánh ấy đã được định đoạt
tại tòa Bạch ốc của chúng ta" (7). Và trong tập tài liệu The Pentagon Papers (8), Vol.
Two, trang 207, viết rõ ràng hơn, rằng: "Về cuộc đảo chánh quân sự chống
lại Ngô Đình Diệm, nước Mỹ phải nhâ.n hoàn toàn trách nhiệm của mình trong đó.
Từ đầu tháng 8 năm 1963, chúng ta đã lần lượt khi thì cho phép, khi thì cản lại,
khi thì khuyến khích đám tướng lãnh Việt Nam, và đề nghị sẽ hoàn toàn ủng hộ một
chính phủ thay thế. Đến tháng 10/1963, chúng ta cắt viện trợ để làm áp lực trực
tiếp với Diệm, do đó, chúng ta bật đèn xanh cho đám tướng lãnh. Chúng ta lén lút
duy trì liên lạc với đám tướng lãnh ấy, tán thành việc lập kế hoạch và sự thi
hành cuộc đảo chánh ấy, duyệt xét các kế hoạch của họ, và đề nghị một chính phủ
mới. Vậy thì, triều đại 9 năm của Ngô Đình Diệm chất dứt bằng một kết thúc đẫm
máu. Sự đồng lõa của chúng ta trong việc lật đổ Diệm làm tăng trách nhiệm của
chúng ta, và làm tăng sự dính líu của chúng ta vào một nước Việt Nam không có
lãnh đạo nữa. " (chúng tôi gạch dưới dòng này - LTM)
Khi nghe đài phát thanh BBC
loan tin cuộc đảo chánh 1-11-63 và anh em ông Diệm bị giết chết, tập đoàn lãnh
đạo CSVN rất mừng rỡ. Hồ Chí Minh triệu tập ngay "bộ ngũ" Lê Duẩn, Trường chinh,
Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp để quyết định "đường hướng mới cho
miền Nam Việt nam". Hồ Chí Minh nói: "Chúng ta bất chiến tự nhiên thành. Như
vậy, bức tường kiên cố nhất đã bị sụp đổ. Bây giờ chúng ta cứ việc khuất đống
gạch vừa sụp đổ để cho nó vữa ra mới thôi." (Theo lời Vũ Kỳ, thư ký riêng
của Hồ Chí Minh). Thế là Bộ Chính Trị của Đảng CSVN, do sự chỉ đạo của Hồ Chí
Minh và sự ủng hộ của Trung Cộng lẫn Liên Xô, quyết định dồn lực lượng cho công
cuộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Vào cuối năm 1963 đầu năm 1964, miền Bắc
"tổng động viên không tuyên bố" và phát động cuộc học tập trong toàn dân, toàn
quân về tinh thần "Tất cả cho cuộc giải phóng miền Nam Việt Nam". Ở miền Bắc lúc
này, hầu hết cán bộ CS đều nghĩ rằng: "Chậm nhất tới năm 1965 là giải phóng xong
miền Nam Việt Nam" (!?) Không những thế, Hồ Chí Minh còn chỉ thị cho Phan Triêm
và Hoàng Minh Thái đẩy mạnh mũi tấn công bằng phản gián đối với VNCH bằng cách
thăng cấp cho Dương Thành Nhật (9) từ đại úy lên thiếu tá và cử vào miền Nam để
móc nối với Dương Văn Minh.
Lịch sử của nền Đệ nhị Cộng
Hoà sau ngày 1-11-63, như một ký giả người Pháp viết "Giống như bầy ngựa háu
đá nhốt chung một chuồng". Thật vậy, chính phủ Dương Văn Minh ngồi chưa đầy
ba tháng đã bị Nguyễn Khánh lật đổ (!). Khánh lại dựng lên chính phủ dân sự Trần
Văn Hương (10-1964) để ổn định tình thế. Nhưng sau đó Khánh và Nguyễn Cao Kỳ lại
dùng thủ đoạn "giải tán" nội các của Trần Văn Hương. Và những cuộc đảo chánh
liên tiếp ấy đã làm cho Mỹ nổi giận. Tướng Maxwell Taylor vừa được cử sang thay
Cabot Lodge làm đại sứ Mỹ ở VNCH, liền triệu tập nhóm tướng lãnh cầm quyền đến
tòa đại sứ của Mỹ (trong đó có Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ). Vị tân đại sứ
Mỹ hằn học, khinh bỉ nói: "Mấy người có hiểu tiếng Anh không? Tôi nói cho mấy
người rõ là nước Mỹ đã chán nản vì những cuộc đảo chánh rồi. Bây giờ, các người
đã làm cho tình hình bầy nhầy rồi, và chúng tôi sẽ phải xem làm thế nào ra khỏi
sự ung thối ấy". (10)
Như vậy, ông Diệm vừa mới
nằm xuống 14 tháng mà miền Nam đã xảy ra biết bao cuộc đảo chánh làm cho tình
hình trở nên rối beng, tạo cơ hội thuận lợi cho CS mở cuộc tiến công cả hai mặt
quân sự và chính trị.
Tóm lại, vì sai lầm về
đường lối, thay vì giúp đỡ ông Diệm củng cố Việt Nam Cộng Hòa về mặt chính trị,
đồng thời yểm trợ tăng cường về mặt quân sự để đánh trốc cơ sở hậu cần tại chỗ
của Việt Cộng, ngăn chặn đường xâm nhập vào Nam của quân đội Bắc Việt, để giành
chiến thắng hoàn toàn, chính phủ Hoa Kỳ lại thực hiện một chính sách "thay ngựa
giữa đường", dùng những tướng lãnh bất tài, vô đạo đức, nên hậu quả thất bại
thảm hại là điều tất nhiên, không tránh khỏi. Đúng như lời thántrách của tướng
Maxwell Taylor: "Có thể chúng ta không thắng (Cộng Sản) được với Diệm, nếu
không có Diệm thì có ai?" (Chúng tôi gạch dưới - LTM)
bài học thất bại thứ ba
Trong khi Cộng Quân đã thua
nặng trên chiến trường, Mỹ lại chấp nhận hòa đàm Paris.
Mọi sai lầm đều có thể khắc
phục! Trong cuộc chiến đấu chống Cộng ở miền Nam Việt Nam sau cuộc đảo chánh
ngày 1-11-63 cũng vậy. Nếu Mỹ nhận ra sai lầm trong suốt 10 năm đầu (1955-1965)
với tư cách là đồng minh của Việt Nam Cộng Hòa, thì còn có khả năng giúp cho
Việt Nam Cộng Hòa đánh bại Việt Cộng ngay trên chiến trường miền Nam Việt nam.
Điều này lịch sử của những năm 1965-1973 đã chứng minh thật rõ ràng.
1. Sự Kiện Lịch Sử Thứ
Nhất
Để chuẩn bị cho cuộc Tổng
Công Kích, Tổng Nổi Dậy vào năm 1965, Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị Đảng Lao Động
Việt Nam quyết định tăng cường lực lượng quân sự có võ trang đầy đủ vũ khí hiện
đại vào cuối năm 1964. Và lần đầu tiên "Quân Giải Phóng" (Việt Cộng) được tổ
chức cấp sư đoàn (mang bí danh là Công Trường; Công Trường 9 ra đời trong thời
gian này). Trận đánh thắng đầu tiên của sư đoàn Việt Cộng là Trận Bình Giả (11)
đã gây sự chú ý của quốc tế về sức mạnh mới của CS. Do đó mà tập đoàn lãnh đạo
của CSVN quyết định mở cuộc "Tổng Công Kích, Tổng Nổi Dậy" 1965. Nhưng chúng đã
thất bại từ trong trứng nước.
Nguyên nhân làm cho Việt
Cộng bị thất bại trong âm mưu "Tổng Công Kích, Tổng Nổi Dậy" năm 1965 là công
lao của nhóm Tình Báo chiến lược A17 của Việt Nam Cộng Hòa. Điệp viên A17 được
cài vào trong Bộ Tham Mưu của Quân Giải Phóng (Việt Cộng) đã chụp được bản kế
hoạch Tổng Công Kích, Tổng Nổi Dậy vào năm 1965. Nhờ đó mà ngành an ninh của
quân lực VNCH phối hợp Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia tiến hành bắt giữ các điểm
chứa vũ khí của Việt Cộng đã đưa vào Sài Gòn Chợ Lớn từ năm 1964
(12).
Trong khi đó Tổng Thống
Nixon lại không cho lực lượng Hoa Kỳ thực hiện cuộc "chiến tranh phá hoại miền
Bắc", đánh tan tiềm lực hậu phương lớn của Việt Cộng. Nhưng Chánh phủ Hoa Kỳ đã
dừng lại cuộc oanh kích miền Bắc sau khi thấy Việt Cộng đã thất bại trong kế
hoạch Tổng Công Kích, Tổng Nổi Dậy năm 1965 (?). Chính sách "ngăn chận mà không
tiến công" của Hoa Kỳ đã gây nên hậu quả tai hại cho cuộc chiến chống cộng của
VNCH.
2. Sự Kiện Lịch Sử Thứ
Hai
Sau năm 1965, miền Bắc đã
hoàn hồn qua một phen chịu đựng cuộc không tập của Hoa Kỳ, và nhờ sự tiếp sức
tối đa của Trung Cộng (70% lương thực của quân cán chính Bắc Việt đều do nguồn
cung cấp của Trung Cộng). Chúng lại tiếp tục đổ quân vào Nam với nguồn tiếp tế
vũ khí, lương thực của Trung Cộng, nhằm tạo lại thế là, cuộc Tổng Công Kích,
Tổng Nổi Dậy trên toàn miền Nam. Lúc này qua sự móc nối của Dương Thành Nhật và
có sự hứa hẹn của Hồ Chí Minh: "Nếu Cách Mạng Giải Phóng miền Nam Việt Nam
thành công sẽ dành cho Dương Văn Minh ghế Phó Chủ Tịch nước" (!?) Vì thế mọi
tin tức về nội bộ của Việt Nam Cộng Hòa, Big Minh đều báo cáo cho Hồ Chí Minh,
thông qua em ruột của ông ta (Dương Thành Nhật).
Năm 1967 phe nhóm Thiệu Kỳ
đã tạo ra vụ bầu cử bịp bợm, để rồi Thiệu nắm lấy chức Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo
Quốc Gia, và Kỳ nắm lấy chức Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Việc làm đó
của nhóm ttướng lãnh cầm quyền đã tạo nên một cơn khủng hoảng chính trị rộng
lớn. Các đảng phái, tôn giáo bất mãn, các tầng lớp dân chúng oán than. Sĩ quan,
quân sĩ trong quân lực VNCH chán nản, nhưng vẫn không rời tay súng đánh trả sự
tấn công của Việt Cộng ở ngoài mặt trận. Thật là tủi nhục khi chúng ta đọc được
một nhận xét sau đây của một học giả Mỹ, rằng: "Như lời một sĩ quan Mỹ đã có
lần nhận xét, quân đội Nam Việt Nam không phải là một quân đội trong một quốc
gia, mà là một quốc gia trong một quân đội" (13).
Chớp được thời cơ này, Bộ
Chính Trị CS ở miền Bắc quyết định mở một cuộc Tổng Công Kích, Tổng Nổi Dậy vào
Tết Mậu Thân (1968). Nhóm A17 Tình Báo chiến lược của Việt Nam Cộng Hòa đã nắm
bắt được ý đồ này của Việt Cộng và báo cáo về sở Tình Báo chiến lược hỗn hợp
Việt Mỹ trước khi nổ ra cuộc Tổng Công Kích, Tổng Nổi Dậy đến 2 tháng. Nhưng
không hiểu vì sao, lý do nào mà bộ Tổng Tham Mưu của quân lực VNCH và MACV của
tướng Paul Harkins không có kế hoạch bóp chết ngay từ mầm mống của cuộc tiến
công vào Sài Gòn đúng ngày mồng một Tết Mậu Thân (1968)? Nhưng sau này mới có dư
luận trong các giới Tình Báo cao cấp Việt Mỹ tung ra rằng: Sở dĩ chúng ta không
ngăn cuộc tiến công của Việt Cộng ngay từ trước là vì "dụ chúng vô trận đồ
của ta để ta diệt gọn 3 sư đoàn của chúng" (?) Không biết sự thật có đúng
như vậy hay không? Nhưng thực tế thì hoàn toàn đúng như vậy!
Trong cuộc Tổng Công Kích,
Tổng Nổi Dậy vào Tết Mậu Thân 1968, mà nổi bật là ở Sài Gòn, Huế. Phía quân lực
VNCH cũng tổn thất nặng. Tuy nhiên ngược lại về phía Việt Cộng hầu như bị xóa sổ
gần hết 3 sư đoàn chủ lực (Công Trường 9, 7 và 5). Quan trọng hơn là cơ sở mật
hội viên của Việt Cộng ở Sài Gòn, Huế và các thành phố khác như Đà Nẵng, Cần
Thơ... đã bị ngành an ninh, cảnh sát của VNCH bắt gần hết (14). Thừa cơ đó, các
tướng lãnh chỉ huy hành quân của quân lực VNCH cùng các cố vấn quân sự Mỹ ở
ngoài mặt trận, đã kịp thời tổ chức những cuộc hành quân "tìm diệt". Chẳng hạn
như cuộc hành quân hỗn hợp Việt Mỹ kéo dài từ tháng 10/10/69 đến mãi năm 1970,
bao trùm ba tỉnh Phước Bình, Bình Long và Tây Ninh. Cuộc hành quân này đã đánh
tan căn cứ đầu não của Việt Cộng, bắt buộc Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R) và
Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng phải bỏ đất chạy lên trú ẩn trên đất Miên (trên vùng
đất của 2 tỉnh Kratié và Kompongcham). Có thể nói những cuộc hành quân lớn "tìm
diệt" của quân lực VNCH trong 2 năm 1970 và 1971 đạt kết quả lẫy lừng nhất trong
chiến sử từ 1955 đến nay. Tuy rằng, quân lực VNCH cũng bị thương vong nhiều, gấp
hai lần trong những trận chiến trước năm 1969. Bù lại, đã đạt được kết quả không
lường được! Hãy đọc một đoạn báo cáo tổng kết của Trung Ương Cục Miền Nam (Việt
Cộng) do Nguyễn Văn Linh (Phó Bí Thư Trung Ương Cục) viết và đọc trước cuộc hội
nghị đặc biệt của đảng bộ CS Miền Nam, mà thành phần tham dự là các bí thư tỉnh
ủy và thường vụ Trung Ương Cục Miền Nam, vào tháng 9, 1972 tại một khu rừng
thuộc vùng đất mang tên "Tua Xà Ke" của huyện Tim-phờ-lơn, tỉnh Kompongcham, do
Phạm Hùng, Bí Thư Trung Ương Cục chủ trì. Báo cáo của Nguyễn Văn Linh
viết:
"Tính đến cuối năm 1970,
chúng ta đã hoàn toàn bị đánh bật ra khỏi vùng căn cứ địa của mình. Như các đồng
chí đã biết, không những chỉ có cơ quan đầu não của Trung Ương Cục phải lánh địa
sang đất bạn, mà các cơ quan cấp huyện, cấp tỉnh của các tỉnh miền Nam (chỉ trừ
có Cà Mau) đều phải bỏ đất, lên đóng ở vùng biên giới của bạn. Các chi bộ xã của
chúng ta, chi bộ nào vững nhất còn được 3 đồng chí! Vậy mà cũng bị đánh bật ra
khỏi dân, trụ lại trong các hầm bí mật, ngày trốn, đêm ra hoạt động. Về mặt
chính trị thì như vậy. Về mặt quân sự, sau tổn thất lớn của cuộc Tổng Tiến Công
Tết Mậu Thân 1968, 3 sư đoàn chính quy chỉ còn lại bộ khung cán bộ thiếu (từ cấp
đại đội trở nên). Việc bổ sung lực lượng tân binh từ Bắc vào hơi chậm vì mùa mưa
lũ, do đó đến nay các sư đoàn vẫn còn đang thời kỳ huấn luyện. Chúng ta đang cố
gắng phái từng đơn vị nhỏ (cấp tiểu đội) thọc về miền Nam để trinh sát, nhưng vô
cùng khó khăn! Vì không còn cơ sở để dựa. Cho nên chỉ thị của Bộ Chính Trị (Miền
Bắc - LTM) là chúng ta phải lấy chiến trường Campuchea để thực tập chiến đấu,
vừa giúp bạn đánh quân Lon Nol." (15)
Chỉ một đoạn này thôi,
chúng ta cũng hiểu rõ thực trạng khốn đốn của Việt Cộng hồi những năm
1969-1971.
Trong khi đó Việt Cộng cũng
gặp khó khăn không ít trên đất Campuchea. Khờ-me đỏ ở cùng căn cứ vừa bắt tay
lợi dụng Việt Cộng giúp đỡ chúng về mặt quân sự, vừa tìm cách đánh phá Việt Cộng
như tổ chức cướp vũ khí, phá kho gạo, bắt cóc cán bộ Việt Cộng...
Vì thế trung Ương Cục Miền
Nam đã có kế hoạch dự phòng: Khi bí thế thì rút ra vùng ba biên giới (tam biên)
Việt Miên Lào (!?) nghĩa là nếu có một cuộc hành quân "tìm diệt" của liên quân
VNCH và Lon Nol được Hoa Kỳ yểm trợ, diễn ra trên vùng đất Campuchea để tảo
thanh lực lượng bằng cách rút trở lui ra vùng tam biên Việt Miên Lào, và dựa
lưng vào Hạ Lào dể đối phó lại quân lực VNCH, đợi thời cơ mới? Nhưng tiếc thay
không có cuộc hành quân "tìm diệt" như dự đoán của Việt Cộng!
Tai hại hơn nữa là chính
quyền Nixon đã bị sự thông tin sai lệch của giới báo chí Mỹ, những kẻ ăn tiền
của Quốc Tế Cộng Sản, như nhà viết lịch sử quân đội Mỹ, đại tá Dave Palmer đã
viết một cách chua cay rằng: "Ít ra cũng đã có 30.000 cộng quân bị giết trong 10
ngày tấn công tự sát của chúng (ý nói cuộc tấn công vào Tết Mậu Thân - LTM)
Nhưng đối với dân chúng Mỹ, người Mỹ chỉ được nghe nói là Việt Nam đã bị thiêu
rụi, rằng sứ quán của chúng ta ở Việt Nam đã bị chiếm đóng, rằng một cuộc chiến
tranh đang được tường trình là thắng lợi thì nay đang ở bên bờ của sự bại trận"
(16). Một trong những kẻ vô tình (hay cố ý?) đã tiếp tay cho Việt Cộng là Walter
Cronkite "nhân vật khả kính của ngành truyền hình Mỹ" đã nói trên đài truyền
hình CBS rằng "Chiến tranh đã bế tắc một cách tuyệt vọng. Và nước Mỹ chỉ còn
cách thương thuyết mới rút chân ra được mà thôi". Rõ ràng đây là luận điệu được
tung ra từ điện Kremlin của Quốc Tế Cộng Sản, nhằm giải cứu cho CSVN khỏi sự
thất bại, và có thời gian để thực hiện chiến lược theo nhận định của Hồ Chí Minh
khi còn sống rằng "Mỹ cút" thì "Ngụy nhào" (!?)
Không những đã bỏ qua một
cơ hội ngàn năm có một để giành thắng lợi, chính quyền Nixon có sự cố vấn của
Kissinger lại thụt lùi trong cái gọi là "Việt Nam hóa chiến tranh". Chủ thuyết
chủ bại của Nixon Kissinger, là xuất phát từ quyền lợi của Hoa Kỳ và hy sinh
quyền lợi của Việt Nam Cộng Hòa một cách không thương tiếc.
Đây là bài học để đời, ngàn
năm không được quên cho các quốc gia nhược tiểu chỉ biết dựa dẫm vào các siêu
cường.
Chúng ta hãy nghe các chính
khách Mỹ chỉ trích chủ thuyết Việt Nam hóa chiến tranh của Nixon.
Sử gia Mỹ Tad Szule chỉ
trích: "Lén lút, ám muội và gian dối là toàn bộ chính sách đối ngoại của
Kissinger Nixon cho năm 1971" (Trong The Illusion of Peace, trang 376). Paul M.
Kattenburg, một nhà nghiên cứu chiến lược của Mỹ đã nêu lý do đẻ ra chủ thuyết
Nixon hết sức rõ ràng rằng: "Điều tối thiểu mà Nixon và Kissinger chờ đợi ở
chủ thuyết Nixon, và họ đã đạt được điều ấy, là mua thêm một ít thời gian để chờ
cuộc bầu cử sắp tới ở Mỹ. Sau đó, nước Mỹ có thể quên hẳn vấn đề Việt
Nam".
Và Kattenburg đã chỉ trích:
"Chính sách của ông ta là thứ chính sách phi luân" (Xem trong The Vietnam Trauma
in American Foreign Policy 1945-1970, trang 142, 143, 144).
3. Sự Kiện Lịch Sử Thứ
Ba
Có lẽ "Sự Kiện Lịch Sử Thứ
Hai" là đáng nói hơn cả, vì nó chứa đựng cả sự oanh liệt của các chiến sĩ quân
lực VNCH đương đầu với Việt Cộng ngoài trận tuyến, và sự nhục nhã của chính
quyền Nixon, người bạn đồng minh lớn của VNCH. Dù cái "thời cơ ngàn năm có một"
đã qua rồi, và số phận của VNCH đã đượt định đoạt trong cuộc đi dạo của Nixon và
Mao Trạch Đông trên Vạn Lý Trường Thành vào năm 1972. Nhưng lịch sử vẫn còn cho
VNCH một cơ hội cuối cùng. Bỏ mất cơ hội này, chắc lịch sử của VNCH sẽ khép lại
và không biết bao giờ mới mở lại trang sử mới?!
Trong khi Kissinger đi đêm
với Quốc Tế Cộng Sản, thông qua ngoại trưởng Liên Xô, thì Mao Trạch Đông, Chu Ân
Lai gợi ý cho Lê Duẩn, Võ nguyên Giáp mở mặt trận Quảng Trị Khe Sanh với sự hỗ
trợ hậu cần của Trung Cộng để làm nên "mùa hè đỏ lửa" năm 1972. Mục đích của
chiến dịch này là buộc VNCH, chớ không phải buộc Mỹ, vì Mỹ đã đánh tiếng cho
Trung Cộng về việc hòa đàm và rút quân ra khỏi Việt Nam Cộng Hòa, ngồi vào hòa
đàm với Việt Cộng?
Chúng ta cần nhắc lại trang
sử nhỏ về lịch sử chiến tranh cận đại ở Châu Âu. Khi hay tin quân Tây Ban Nha
đang chiến đấu bỗng loan báo rút quân, Thống chế Pháp Lyautey đã than rằng:
"Trời ạ, khi nào cần thì một đạo quân sẽ rút, nhưng không bao giờ đạo quân ấy
lại nên báo trước cho địch biết chừng nào mình sẽ rút!" Soi lại việc làm của
Nixon Kissinger, đã chứng tỏ các ngài đã ngầm xúi Việt Cộng cứ đánh tới, có thể
thực hiện được sự tiên đoán của Hồ Chí Minh "Mỹ cút, Ngụy nhào" (Chữ của Hồ Chí
Minh dùng trong thư chúc Tết đầu năm 1969 - LTM).
Tuy nhiên, các tướng tá, sĩ
quan và chiến sĩ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa không dễ chịu thua như sự mong
muốn của Việt Cộng! Nhưng vinh quang này không có dự phần của nhóm tướng lãnh và
cả ông tướng làm Tổng Thống phè phỡn dưới ánh đèn màu ở các vũ trường, nhà hàng
sang trọng ở Sài Gòn trước giờ tắt thở của VNCH!
Thực tế "mùa hè đỏ lửa"
không chỉ có diễn ra ở Quảng Trị Khe Sanh mà mặt trận còn kéo dài đến Huế và một
mặt trận phụ ở Bình Long Kontum.
Từ mờ sáng ngày 20-3-1972,
tướng Giáp (Bắc Việt) đã tung 3 sư đoàn quân chính quy (17) có trên 200 xe tăng
yểm trợ tiến dọc quốc lộ 9 hướng về các tiền đồn A Sao, A Lưới để đánh thẳng về
Huế. Giáp còn dùng rất nhiều đại bác 130 ly, một loại đại bác được mệnh danh là
"đại bác vô địch". Quân của Giáp đã mau lẹ tràn ngập hai căn cứ Rockpile và
Caroll... và trong vòng 2 tuần lễ, đã chiếm được dải đất rộng 10 dặm giữa khu
phi quân sự và sông Cửa Việt. Nhờ đó mà tạo được huyền thoại: "Cuộc tấn công
thần tốc này cho thấy sự xuất sắc của tướng Giáp về chiến lược" (Peace is not at
Hand của Sir Robert Thompson, trang 89). Còn mũi dùi thứ hai nhắm vào tỉnh Bình
Long do tướng Trần Văn Trà trực tiếp chỉ huy, đã chiếm được Lộc Ninh rồi tiến về
An Lộc với lực lượng phối hợp của 3 Công Trường 5, 7 và 9. trong thời gian này
lực lượng Việt Cộng ở miền Trung (Khu 6) được sự tăng viện của quân đội Cộng Sản
Bắc Việt đã chiếm được 3 quận lỵ dọc bờ biển của tỉnh Bình Định, và đe dọa cắt
Nam Việt Nam ra làm hai!?
Tuy yếu thế hơn về trang bị
và quân số, nhưng quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu rất anh dũng tại An
Lộc và viết nên thiên anh hùng ca, giữ được tuyến phòng thủ ở Kontum, chặn được
các cuộc tấn công thọc sâu của quân đội Bắc Việt. Tại Huế và Quảng Trị, nhờ tinh
thần chiến đấu dũng cảm, nhờ tài lãnh đạo của các vị chỉ huy ở Vùng 1 nên ba sư
đoàn quân lực VNCH đã cầm chân được 6 sư đoàn của CSBV, không để cho chúng tự do
làm mưa làm gió nữa.
Vì lương tâm của nước Mỹ
trước toàn thế giới và với một đồng minh trung thành dũng cảm như VNCH, vì uy
tín của một siêu cường và vì không muốn mang tiếng là một kẻ chiến bại, nên
Nixon quyết định cho B52 ném bom xuống Hà Nội, đồng thời mở cuộc oanh tạc suốt
dọc đường tiến quân của Giáp với "số lượng bom nhiều nhất từ khi có cuộc chiến
đến nay" (Theo Dave Palmer, trong Summons of the trumpet, trang 252). Phải nói
rằng: Cuộc dội bom này đã thiêu hủy thiên tài quân sự của Võ Nguyên Giáp và làm
cho Bộ Chính Trị CS ở Bắc Việt nhanh chóng chấp nhận hòa đàm Paris.
Thừa cơ hội đó, quân lực
VNCH ở Quân Khu 1 do tướng Ngô Quang Trưởng chỉ huy đã nhanh chóng mở cuộc phản
công ở khắp các mặt trận. Tướng Vanuxem (Pháp) đã nhận định cuộc phản công đẫm
máu này như sau: "Đây là cuộc thử lửa, đến rất mau, sau khi quân Mỹ rút.
chúng ta cần phải ghi nhớ thành tích quân sự lẫy lừng của quân đội trẻ trung
VNCH" (theo La Mort du Viet Nam của General Vanuxem, trang 71).
Chính cuộc thử lửa đẫm máu
1972 đã đưa đến Hòa Đàm Paris đúng theo kế hoạch của hai siêu cường Hoa Kỳ và
Liên Xô, có sự tán thành của Trung Cộng.
Có người xét trên bình diện
chính trị quốc tế lúc này đã cho rằng "Sau năm 1972, và với hiệp định Paris
đã chín muồi cho sự sụp đổ của Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa".
Theo chúng tôi, nhận xét đó
không hoàn toàn đúng.
Trước hết, nhiều chính
khách Quốc Gia của VNCH bị hoảng loạn vì bộ máy tuyên truyền của Việt Cộng,
thông qua những trí thức hoạt đầu về chính trị đã tiếp tay cho Việt Cộng tung
tin vịt trên diễn đàn của các tờ báo Tin Sáng (của Ngô Công Đức), Đại
Dân Tộc (của Võ Long Triều), Điện Tín (của Hồng Sơn
Đông)...
Chúng tôi xin cung cấp cho
quý độc giả một tài liệu phản ảnh đúng thực tế lúc bấy giờ. Đó là bản Báo Cáo
Chính Trị của Trung Ương Cục Miền Nam do Phạm Hùng tổng kết sau khi có Hiệp Định
Paris (1973) để cho các cán bộ trung cao cấp Việt Cộng thấy được sự khó khăn mà
quyết tâm "lấn đất giành dân" với Việt Nam Cộng Hòa, đấu tranh chống "tư tưởng
hòa bình mất cảnh giác". Bản tài liệu đó có đoạn như sau:
"Hòa bình chưa có nghĩa là thắng! Chúng ta còn rất nhiều khó
khăn. Tính đến tháng 7.1973, khi đã ký Hiệp Định Ba Lê, chúng ta vẫn chưa có
được vùng giải phóng như báo chí nói. Con số 2/3 vùng đất miền Nam thuộc về vùng
giải phóng thực chất là gì? Đó chỉ toàn là rừng núi hiểm trở không có dân. Không
giấu giếm gì các đồng chí, chúng ta chỉ có vùng giải phóng Bình Long An Lộc coi
như là rộng nhất. Còn trên toàn miền Nam không có ở đâu có vùng giải phóng đến
liên xã, chỉ trừ có vùng U Minh và chiến khu D. Về dân số, vùng giải phóng thì
không quá 2.000.000 người tính từ vĩ tuyến 17 trở vào.
Một đoạn khác, bản Báo Cáo
viết:
"Về đời sống của cán bộ,
chiến sĩ của chúng ta còn quá thấp, vì nguồn tiếp tế từ hậu phương lớn (ám
chỉ Trung Cộng - LTM) đã bắt đầu giảm, chớ không còn cung cấp đầy đủ như
trong thời chiến. Cho nên, mỗi địa phương, mỗi đơn vị cần có kế hoạch tăng gia
sản xuất phục vụ cho cuộc chiến lấn đất giành dân" (18).
Chỉ dẫn chứng bấy nhiêu
thôi cũng đủ cho ta thấy: Sau Hiệp Định Ba Lê được ký kết. Việt Cộng vẫn còn
yếu, rất yếu. Chúng chỉ mạnh trên bình diện tuyên truyền thổi phồng!
Nếu Việt Nam Cộng Hòa có
những người lãnh đạo tài giỏi có đức độ, toàn tâm toàn ý vì nền dân chủ, tự do
của dân tộc, quyết tâm chống Cộng Sản đến cùng thì vẫn có cơ hội củng cố và giữ
vững chế độ trước cơn giông tố 74-75.
Tiếc thay! Chúng ta gặp một
nhóm lãnh đạo quốc gia chỉ vì quyền lợi cá nhân.
Nguyễn Văn Thiệu đáng lý
nên tự nguyện ra đi, ngược lại cứ cố bám lấy cái ghế tổng thống. Còn một số
người khác cũng vì quyền lợi cá nhân mà gây nên cảnh rối loạn không thể tha thứ.
Thí dụ như Nguyễn Văn Ngân, dựa vào thế của Nguyễn Văn Thiệu để tranh ghế Thủ
Tướng của Trần Thiện Khiêm, nhưng ông Thiệu lại không chịu bãi chức ông Khiêm,
nên Ngân quay ra chống Thiệu bằng cách vận động ngầm các nghị sĩ, dân biểu Dân
Chủ cắt xén ngân sách Bộ Thông Tin của Hoàng Đức Nhã !... Trong khi đó những
người thân cộng đối lập, vì bất mãn với Thiệu nên đã sa vào cái bẫy "Hoà Giải
Hòa Hợp Dân Tộc" của Việt Cộng như Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung, Ngô Công Đức,
bà luật sư Phạm Thị Thanh Vân (tức bà Bgô Bá Thành)... Thật là đáng lên án những
kẻ vì quyền lợi cá nhân, coi thường quyền lợi của dân tộc mà xâu xé, đấm đá nhau
để cho Việt Cộng "đục nước béo cò". Chính bọn này đã nhẫn tâm đạp lên sự hy sinh
không tiếc mạng sống của các chiến sĩ quốc gia đang cầm súng chống Cộng ở ngoài
trận tuyến.
Dù vậy, vẫn còn cơ hội củng
cố thế và lực của VNCH trong 2 năm đầy lộn xộn (74-75) này, nếu chính quyền Hoa
Kỳ làm đầy đủ trách nhiệm với đồng minh của chính mình. Lúc này mới là đúng lúc
ép buộc Thiệu ra đi, để lập lại trật tự và đưa những người có tài đức trong hàng
ngũ quốc gia lập nội các mới để đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang tự vệ,
bắt buộc Việt Cộng phải nghiêm chỉnh thi hành Hiệp Định Ba Lê, dưới sự giám sát
của lực lượng quốc tế (Liên Hiệp Quốc). Nhưng Mỹ không chịu làm điều đó, mặc dù
Mỹ thừa khả năng để giúp Việt Nam Cộng Hoà!?
Tướng L.A. Marshall, một
nhà viết sử quân đội Mỹ đã nhận định rất đúng về sự sai lầm của Nixon trong giai
đoạn này. Ông viết: "Môt triển vọng chiến thắng lớn đã bị đổi thành một sự
thất bại tai hại, vì sự ước tính sai lầm,bị mất tinh thần, bị cố vấn tồi, lãnh
đạo thất bại và có làn sóng chủ bại kèm theo". (Xem Summons of Trumpet,
trang 203)
Ngày 6 tháng 8 năm 1974 hai
ngày trước khi Nixon buộc phải từ chức vì vụ Watergate thì Quốc Hội Mỹ còn biểu
quyết cắt bớt nhiều viện trợ hơn nữa cho Việt Nam Cộng Hòa. Chính việc làm bất
tín nghĩa của Quốc Hội Mỹ lúc ấy, đã bị dân biểu Robert Sides phê phán
rằng:
"Đừng có dâng Nam Việt
Nam cho Hà Nội trên một chiếc đĩa bạc. Hãy giúp Việt Nam tiếp tục một cuộc chiến
đấu dũng cảm". (Xem Betrayal in Vietnam của Louis A. Fanning, tr.
176).
Để thay lời kết luận cho
Bài Học Thất Bại Thứ Ba về chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam
1955-1975, chúng ta hãy nghe vị tướng Không Quân Mỹ là T. R. Milton khẳng
định:
"Dẫu sao thì chúng ta đã
bán đứng đồng minh của chúng ta". (Air Force magazine, March 1983, tr.
110)
Kết Luận
Nhân dịp Hoa Kỳ đang mở
rộng đầu tư và giao thương với chế độ CSVN, chúng tôi viết "Bài Học Thất Bại Về
Chiến Lược Của Mỹ Trong Chiến Tranh Việt Nam 1955-1975" có thể là chạm đến tự ái
của nhà cầm quyền đương thời, cụ thể là Tổng Thống Clinton. Nhưng làm sao được
vì đây là sự thật lịch sử mà nhiều sử gia Mỹ, nhiều tướng lĩnh vô tư và khách
quan của Mỹ đều thừa nhận. Thí dụ: Vào mùa xuân 1983, tại Smithsonian Institute
Hoa Kỳ, có tổ chức một cuộc hội thảo rút kinh nghiệm về cuộc chiến tranh Việt
Nam, quy tụ trên 50 nhà nghiên cứu nổi tiếng thuộc nhiều ngành khoa học xã hội
Mỹ, trong đó có nhà học giả và bình luận gia nổi tiếng Allan Goodman thuyết
trình một đề tài đặc biệt về "Mối quan hệ giữa Việt Nam Cộng Hòa và nước Mỹ
trong chiến tranh Việt Nam" và ông khẳng định rất đúng rằng: "Mỹ chưa bao giờ
chịu tìm hiểu Nam Việt Nam"!
Vì vậy, chủ điểm của tôi
khi viết bài này là muốn góp ý với các chiến lược gia Hoa Kỳ hiện đang cố vấn
cho Tổng Thống Bill Clinton trong chính sách mới đối với chế độ Cộng Sản Việt
Nam.
Chúng tôi nghĩ: Việc phát
triển bang giao với CSVN là một tất yếu trong tiến trình thúc đẩy mối quan hệ
bang giao của Hoa Kỳ với khu vực Châu Á Thái Bình Dương, vì Mỹ không thể bỏ
trống khu vực đó trong khi thế lực Trung Cộng và Nhật Bản đang bành trướng ngày
một lớn ở khu xung yếu này của thế giới.
Nhưng bản chất của Cộng Sản
Việt Nam là thủ đoạn lọc lừa. Họ muốn bang giao với Mỹ chưa có nghĩa là họ muốn
trở thành chư hầu của Mỹ. Họ biết Mỹ cần họ và họ lợi dụng Mỹ trong thời gian
trước mắt để vực dậy nền kinh tế đang suy đổ toàn diện, để củng cố quyền lực
chính trị của họ trong trào lưu tan rã của Cộng Sản Quốc Tế. Cho nên Mỹ mà coi
họ là đồng minh thì đó là một con dao hai lưỡi, họ quay lại thọc vào hông của Mỹ
bất cứ lúc nào họ có cơ hội. Các lão nông Việt Nam có kinh nghiệm thường dậy con
cháu rằng đối với rắn độc đã đánh thì phải đánh cho giập đầu, chớ nắm cái đuôi
mà vuốt nhẹ thì coi chừng nó quay đầu cắn lại, và đến lúc ấy không còn thuốc
chữa được!
Viết bài này, chúng tôi còn
nhằm mục đích khác quan trọng hơn. Chúng tôi hy vọng qua những bài học lịch sử
1955-1975, các lãnh tụ đảng phái hội đoàn, tôn giáo, quốc gia chân chính, lúc
này hơn lúc nào hết, hãy dẹp bỏ mọi định kiến cá nhân, mọi quan điểm chính hướng
khác nhau, hãy cùng nhau ngồi chung lại và thật sự bàn bạc một giải pháp tốt
nhất, một đường lối đúng nhất, một tổ chức thống nhất, thích hợp nhất với tình
hình mới, tình hình mà Đảng CSVN sắp tung ra một lá bài lừa bịp mới "Đổi Mới
Chính Trị" và "Mở Rộng Chính Chính Phủ Trên Tinh Thần Hoà Giải Hòa Hợp Dân Tộc"
để "Xây Dựng Nhà Nước Pháp trị"...
Chúng ta phải chuẩn bị một
cách hữu hiệu nhất cho đại nghiệp dựng lại một nước Việt Nam tự do, dân chủ,
không có Cộng Sản như thế nào?
chú thích
(1) Theo "To More A Nation. The Politics Foreign Policy in the
Administration of J. F. Kennedy" của Roger Hillsman, New York, Doubleday
1967.
(2) Không phải 500 người như một số tài liệu đã công bố.
(3) Có dịp chúng tôi xin cống hiến độc giả về "Vụ án Burchett"
trong việc tuyên truyền cho Cộng Sản Thế Giới và Việt Nam.
(4) Xem bộ "War in the Shadow của Robert Asprey", trang 1005.
Robert Asprey trích từ cuốn Lost Revolution của Robert Shaplen.
(5) Sau đảo chánh ngày 1-11-63, tin này được tiết lộ ra từ Lưu
Quý Kỳ (Phó ban tuyên giáo của CSVN và đặc trách Báo Chí Thông Tấn).
(6) Thích Trí Quang là ai? Đó là đề tài của một bài khác.
(7) Xem "The Ten Thousand Day War", trang 66, của Michael
McLear.
(8) "Hồ Sơ Của Lầu Năm Góc" (Mỹ) The Senator Gravel, Edition
1975.
(9) Tên thật là Dương Văn Nhật, em ruột của tướng Dương Văn
Minh. Có dịp chúng tôi sẽ viết về "Sự cộng tác của Big Minh với Cộng Sản thông
qua sự móc nối của Dương Văn Nhật thế nào?"
(10) Xem 'Summons of the Trumpet", trang 40-47 của Dave
palmer.
(11) Một làng công giáo cách Sài Gòn 40 dặm về phía đông.
(12) The Hồ Sơ Mật của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo VNCH.
(13) Xem "Without Honor: Defeat In Vietnam and Cambodia" của
Arol Tsaac, trang 102.
(14) Theo báo cáo mật của Trần Bạch Đằng (1969, lúc này TBĐ vừa
lên làm Bí Thư T4 tức Sài Gòn Gia Định, thay Võ Văn Kiệt) gửi về cho Lê Duẩn
(Tổng Bí Thư Đảng Lao Động Việt Nam) thì cơ sở nội thành bị bắt, bị chết trong
cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân là 90%.
(15) Xem Hồ Sơ Mật của Việt Cộng, lưu trữ ở ban R, Phủ Đặc Ủy
Trung Ương Tình Báo VNCH.
(16) Tài liệu đã dẫn.
(17) Sau đó không lâu Giáp cho tăng viện thêm 3 sư đoàn hậu
binh. Tổng cộng lực lượng tham chiến của Bắc Việt là 6 sư đoàn.
(18) Tài liệu này do nội gián của ta trong cơ quan Thành Đoàn
Việt Cộng ở Sài Gòn, gửi về cho nhóm Tình Báo A17. Tài liệu mang mã số Z15 (Hồ
sơ của Phủ Đặc Ủy TƯTB).
No comments:
Post a Comment