NHÃ CA * TRUYỆN CHO NHỮNG TÌNH NHÂN
Truyện Cho Những Tình Nhân
Tác Giả: Nhã Ca
Tìm Kiếm bằng Tựa Đề:
Vừa dừng xe trước cổng nhà bác, Diễm đã bấm chuông inh ỏi. Chị Bé Tý
chạy ra, vừa cười vừa với cái giỏ mây: Vô đây đã Diễm, vô cúng. Diễm
lắc đầu quầy quậy: Thôi để em về, sáng mồng một em sang mừng tuổi hai
bác, các anh các chị.
Em về, nhà em hôm ni cũng cúng ba mươi mà chị. Chị Bé Tý nhìn chăm chăm
vào bàn tay của Diễm đang cầm chặt chiếc ghi đông xe đạp: A, con ni khá
quá hí, đeo nhẫn rồi ta. Ra giêng cưới há? Diễm cúi đầu e thẹn: Dạ --
Mời tao đi phụ dâu nghe. -- Dạ, mời chị chớ. -- A, con này đeo nhẫn
không sợ tụi bạn cười há? -- Anh Phan biểu em đeo. Chị Bé Tý cười ngất:
-- Khỉ, khi mô cưới xong mới đeo, đeo rứa tụi nó nói dị chết. Mi đi lấy
chồng còn học không? Diễm buồn buồn: Không biết nữa chị, ba anh Phan nói
em cứ đi học. -- Học con khỉ, ở đó mà học. Diễm lật cái nón đội lên
đầu: Thôi em về chị, má đợi. Hôm ni ở nhà cũng cúng.
Diễm xoay ghi đông, cua vòng ra sân rồi leo lên. Diễm sửa lại hai
vạt áo dài, vạt sau giắt vào sợi dây thun nơi cái bót ba ga, vạt trước
phủ trên hai đùi. Theo thói quen, Diễm ngẩng đầu lên hất cho hết tóc ra
đằng sau, rồi đạp xe, đi thong thả. Diễm phải vất vả lắm mới lách xe qua
khỏi được con đường Trần Hưng Ðạo dọc theo vườn hoa Nguyễn Hoàng, phía
gần cầu là chợ hoạ Diễm nhìn chỉ thấy những cánh hoa mai vàng giơ cao
lên khỏi đầu người.
Diễm đạp xe qua cầu Tràng Tiền, đi rẽ ngả bưu điện, rồi đạp qua vài con
đường nhỏ, đến hàng Ðoát. Diễm biết chắc thế nào đi trên con đường này,
giờ này cũng gặp Phan. Con đường hàng Ðoát này vắng nhất và cũng đẹp
nhất. Diễm không thể nào quên được những buổi trời chạng vạng. Phan và
nàng, hai người hai chiếc xe đạp, đạp song song vừa đi vừa nói chuyện.
Diễm cũng không quên được vẻ hốt hoảng vụng về của cả hai đứa khi dang
hai ghi đông xe ra cho xa nhau, một đứa đạp chậm một tí, một đứa đạp
nhanh lên, khi có người từ đằng xa đi ngược chiều tới. Và lịch sử mối
tình của hai đứa cũng đầy di tích trên con đường ngắn này. Hình như hôm
đó Diễm đi xe đạp, cũng trên con đường này, chiếc sên xe bị sút ra.
Diễm dựng xe lên loay hoay sửa mãi mà không được. May nhà Phan gần đó,
và phút làm quen không mấy khó khăn. Nửa giờ sau, Diễm lên xe đi về,
trời chiều, những ngọn điện đường đã bật. Phan đạp xe đi hộ tống đằng
sau. Khi tới gần nhà Diễm chậm lại một chút, quay mặt lại giấu trong
nón: Cám ơn anh, Diễm vô nhà. Và Diễm đạp xe rẽ vào ngõ chè tàu. Về sau,
nghe Phan nói lại là Phan bắt đầu yêu Diễm ngay buổi tối hôm đó, khi
hai vạt áo trắng cùng chiếc xe đạp ghi đông chữ U khuất sau hai dãy chè
tàu xanh, cắt bằng phẳng.
Ngang qua nhà Phan, Diễm không dám nhìn vào nhưng nàng biết Phan sẽ
trông thấy nàng. Một lát Diễm nghe tiếng xe đạp lách cách đằng sau, rồi
tới sát bên. Diễm cúi mặt, chiếc nón che kín chỉ chừa hai mớ tóc buông
xõa phía trước vai. Nhưng Diễm đợi chờ, hai má nàng nóng bừng.
-- Diễm.
-- Dạ.
-- Em đi mô về đó?
--
Em đi sang nhà bác đưa trái cây cúng. Má sai em đi.
-- Chừ em đi mô?
-- Em về nhà.
Câu chuyện thật nhạt nhẽo, nhưng Diễm thấy quá quen thuộc, nàng đoán
trước những câu hỏi của Phan. Lần nào cũng chừng đó câu hỏi, rồi hai
đứa đưa nhau trên đoạn đường từ hàng Ðoát, nghẹo qua đường Nguyễn Huệ,
đi ngang qua Ty Công Chánh rồi về đường Trần Thúc Nhẫn. Nhưng lần này
thì không, Phan nói tiếp:
-- Anh đưa Diễm tới vườn bông Bến Ngự thôi nghe, lên cầu về túi lắm.
Hôm ni anh cúng ba mươi.
-- Em cũng cúng ba mươi.
-- Sáng mồng hai anh sang hí. Mồng một anh về Truồi, ông nội dưới
nớ.
-- Dạ.
Phan nhìn thấy ngón tay của Diễm đang bấu trên ghi đông:
-- Diễm.
-- Dạ.
-- Diễm đeo nhẫn à?
Diễm liếc nhìn Phan rồi háy một cái:
-- Ðeo dị òm.
Phan cười, mặt hơi cúi xuống
-- Ừ, mai anh đeo luôn hí.
-- Dị òm, bắt chước người ta chi lạ rứa.
-- Dị chi mà dị.
-- Dị quá, anh đi xê ra, rủi gặp ai...
Phan vừa bẻ ghi đông quẹo ra và nói nhỏ:
-- Kệ họ, mình sắp cưới rồi mà...
Diễm đưa tay trật nón ra đằng sau, nàng nhìn con đường hàng Ðoát sắp
nhập vào con đường thẳng Nguyễn Huệ:
-- Má nói khi mô cưới hẳn hay.
-- Chán mấy bà già.
-- Anh không thấy à, khi mô anh tới má cũng bắt em đi rót nước, sai
gọi em lăng xăng. À, hay bữa ni anh lên nhà em ăn cúng ba mươi.
-- Không được, ông rốp chửi chết. Hôm ni lạy bàn thờ. Dưới chú anh
cúng buổi trưa, nhà anh cúng túi.
-- Mệt hỉ.
-- Ừ.
Bàn tay Phan thả ghi đông, đưa sang chụp tay Diễm. Diễm để yên nhưng
lắc đầu quầy quậy:
-- Anh làm rứa té chết. Dị chết.
Ngón tay Phan đã vuốt trên ngón tay đeo nhẫn của Diễm:
-- Em hỉ?
-- Dạ chi anh.
-- Thương anh không?
-- Thương anh hoài. Khi mô cái nhẫn này rời khỏi tay em thì em chết.
-- Chớ không phải em tháo ra, em vất dưới sông Hương hay liệng trên
núi Ngự à?
-- Mần chi có.
-- Em hỉ?
-- Chi anh.
-- Nói thiệt nghe !
-- Anh dị òm. Còn có mấy ngày mà lo chi cho mệt.
-- Biết răng mà noái. Khi sáng anh tới má em noái cho cưới tháng
Giêng để anh còn đi Thủ Ðức. Còn chưa đầy mười ngày.
-- Em chưa nói chi cho tụi bạn em biết hết. Tụi bạn noái em bí mật
quân sự.
-- Ðầu năm em với anh đi thăm tụi nó, nói cho tụi nó biết.
Diễm lắc mạnh cánh tay:
-- Anh, gần tới cầu, anh về đi.
-- Em sợ túi không?
-- Không, khoảng đường ni sáng rồi, qua khỏi cầu, đi lên dốc một tí,
có ông cảnh sát gác nơi cầu anh tề.
--
Anh về hỉ.
-- Dạ, anh về.
Diễm trả lời xong cúi đầu đi thẳng. Hàng chè tàu đã lấp ló đằng xa,
nơi cột điện. Khi Diễm re vào nhà, ngọn điện đường cũng vừa bật lên. Má
nàng đang gội đầu trước hiên. Diễm dựng xe dưới gốc cây khế. Má nàng
ngẩng lên:
-- Ðưa đồ cúng cho bác chưa, Diễm.
-- Dạ rồi.
-- Con thay áo, đi gội đầu bồ kết nì. Má có để sẵn phần cho con. Ra
vườn hái trái chanh mà gội cho trơn tóc. À con ơi, con lau lại cho má cá
sập gụ nghe. Tối ni rảnh đánh tứ sắc chơi.
Diễm vừa đi vào nhà đã nghe tiếng mẹ vọng theo:
-- Chút xíu nữa con dặn bác Bảy mang xích lô tới bác Thị đón ông nội
về. Ra sau hè mà gọi qua cũng được, đừng đi ra ngõ chi cho xa con hí.
Diễm đi vào phòng, thay quần áo rồi nằm duỗi ra giường. Chút nữa hãy
đi hái chanh, đi gội đầu. Diễm nhìn bình bông nhỏ cắm mấy bông tường vi
của Phan mang sang cho hồi sáng. Mấy đóa tường vi màu hồng sáng lạng,
nhưng lòng Diễm chợt vui chợt buồn. Nàng nghĩ tới những mùa xuân cũ,
những mùa xuân cũ khác hẳn xuân này. Năm nay Diễm không thấy nô nức đón
xuân như mọi hôm, mà Diễm thấy mình bắt đầu lớn, bắt đầu thay đổi. Thay
đổi cả một đoạn đời cũ. Ði lấy chồng, lấy chồng đối với Diễm như bước
vào một đoạn đời dài lắm và đầy xa lạ, bỡ ngỡ. Ở với một người cho tới
già, tới chết, dù đó là người yêu, Diễm cũng thấy trong lòng sôi động
bao lo sợ, nghi ngờ. Dĩ vãng của Diễm yên lặng quá, hiện tại, Diễm không
một điểm nhỏ phàn nàn, còn tương lai nữa. Diễm như một đứa bé con đang
đứng trước một ngôi nhà quá lớn và hiểu được rằng không bao giờ mình
khám phá hết nổi nó. Diễm nhìn ngón tay đeo nhẫn của mình, nàng đưa lên
môi, chà chà cạnh nhẫn lên làn da môi mềm mát. Thôi thế cũng xong, một
ước mộng bình thường, cứ thế, ta sẽ sung sướng.
Diễm cắn chặt ngón tay đeo nhẫn: Anh Phan, răng em có sắc mấy cũng không
cắt nổi ngón tay đeo nhẫn.
Diễm mở cái rương nhỏ, ngắm nghía chiếc áo phin trắng nõn. Chiếc áo
này Diễm sẽ mặc để tiếp Phan vào ngày mồng hai. Phan sẽ hỏi: Ai may áo
đó. Diễm sẽ sung sướng mà cho Phan biết là chính nàng đã cắt và may lấy.
Em sẽ là một bà nội trợ giỏi.
Chắc chắn mà, không tin thì thôi. Diễm mỉm cười một mình.
Sau đó, Diễm nhớ là mình phải ra vườn hái chanh gội đầu, nhân tiện
đó Diễm sẽ gọi luôn bác Bảy. Diễm vừa đi vừa nhảy ra vườn.
Chiếc áo trắng vải phin nõn còn lung linh trong trí tưởng tượng của
nàng. Hình ảnh Diễm đang ở trong đó cùng áo cánh trắng thêu hoa hồng đỏ
trên ngực và mái tóc chảy dài. Nhưng ơ kìa, làm gì có cánh hoa hồng đỏ
tựa như trái tim thêu trên ngực? Diễm bật cười: Thêu như vậy cũng đẹp,
nhưng chiếc áo đó đã không thêu. Màu đỏ không hợp với sở thích của nàng.
Nàng coi màu đỏ như sự bất trắc, sự hung bạo. Bởi thế, Diễm thích đi
lấy chồng hơn là đi học nghề cô mụ. Tụi bạn Diễm đã nạp đơn xin học
nghành này gần hết.
Cây chanh đã hiện ra trước mặt Diễm. Diễm chỉ cần nhìn lên, chỉ cần
với một cành ví xuống, tha hồ mà nàng lựa chọn. Hạnh phúc của nàng cũng
giản dị quá, mọi lúc đều như vừa vặn trong tầm tay của nàng. Diễm nghĩ
đêm nay, sau khi ngồi chầu rìa coi cả nhà đánh tứ sắc, Diễm sẽ nằm lăn
nơi cái sập gụ, trước khi ngủ, nàng sẽ ăn hết những cánh hoa tường vi
cuối năm của Phan gửi tặng
.
- o O o -
Anh Phan,
Rứa là anh kẹt dưới Truồi không lên được rồi. Anh ơi, em cũng đã
kiệt lực. Em ngồi viết thư cho anh lúc đang sống trong một căn hầm hết
sức chật. Một cái hầm nổi, làm sát góc nhà với mười bốn mạng người. Ngày
nào cũng chừng đó tiếng động, chừng đó nỗi kinh hoàng. Từ đêm mồng một
rạng ngày mồng hai, cả nhà bị mắc kẹt không còn tản cư vào đâu được nữa.
Em viết thư này cho anh là ngày mười bốn, và gia đình em đã chịu sống
mười ba ngày trong chiếc hầm nhỏ hẹp này. Xung quanh, Thạch bạn em đã
trúng đạn chết, xác lấp vội vã ngoài vườn. Ngay trong nhà mình, phòng
bên cạnh cũng có một gia đình hàng xóm xin làm hầm, mang sang hai người
bị thương, đêm nào họ cũng la hét khóc lóc ghê quá. Mấy ngày đầu, mấy
anh ngoài nớ còn cho thuốc băng bó, mấy ngày nay họ bỏ liều rồi. Chắc
mấy người đó chết quá anh ơi, mà họ chết là thành ma trong nhà mình rồi.
Em có bị bắt đi khiêng đạn và chở người bị thương bằng xe ba bánh
lên phía Tây Thiên mấy lần, lần nào đi cũng sợ muốn chết giấc vì những
quả bom dưới Phú Bài câu lên. Những người đi với em chết nhiều lắm. Em
đi khiêng đạn được năm hôm, khiêng người bị thương được hai hôm thì
khiếp quá ngất xỉu mấy lần. Em theo mấy người trốn về lại bị nạn kiểm
soát. Họ tới tận nhà. Má phải xoa nghệ lên mặt em, vả vào mắt em cho
sưng húp để xưng bệnh cho họ khỏi bắt đi.
Mà em muốn bệnh thật, em bệnh vì lo sợ, vì buồn phiền, vì thương cảm. Má
đã rơi nước mắt ròng khi đưa bàn tay tát vào mắt em cho sưng vù. Em
cũng không cầm được giọt lệ khi nhìn thấy anh Văn trốn trên trần nhà
mười mấy hôm, khi ăn khi nhịn, sợ tới chết điếng người vì những trái
mọt-chê rơi đều đều dội tứ tung trên miệt bến Ngự, Từ Ðàm.
Mấy hôm nay thì đạn đại bác bắn quá lắm. Em nằm ép mình sát đất, cứ
bị dội người lên vì đất đai nhà cửa rung chuyển, ngực em cơ hồ như đã vỡ
vụn bên trong nhưng lạ em không thấy đau đớn và tắt thở. Em vẫn thở
được nhưng hơi thở nặng nề, em vẫn nhai được bát cơm nấu vội vã, đôi khi
chưa kịp ăn đã vất bát cơm, nằm sát xuống mặt hầm, hoặc ôm cứng lấy
nhau, và khi dứt tiếng nổ, thấy mắt mình hết nổ đom đóm, ngắt vào da
thịt thấy đau, em mới biết rằng mình còn sống. Anh Phan, chắc em chết
không gặp anh. Chắc chết quá anh ơi, súng vẫn bắn như mưa trên đầu những
người chờ đợi. Nhưng anh ơi, trong những phút kinh hoàng như thế này,
trong những phút nằm chờ một quả bom canh đúng rơi trúng miệng hầm đôi
lúc em vẫn còn đầy tư tưởng lãng mạn. Em nhớ anh hơn, nao nức hơn, và
thấy mối tình mình trở nên quan trọng hơn. Em nhớ buổi chiều cuối năm đi
với anh trên con đường hàng Ðoát. Thơ mộng quá, đẹp quá phải không anh?
Và em đã thề thốt gì với anh, anh còn nhớ không? Anh ơi nếu em chết,
anh tìm cho được xác em, nhìn ngón tay em đeo nhẫn nhé. Nhưng em sợ chết
quá, em chết đi rồi anh sẽ còn ai để thương, còn ai để cưới làm vợ...
mà anh lấy người khác em ghen, em chết không nhắm mắt. Con gái Huế ghen
dễ sợ lắm, ghen cay như ớt. Anh ơi, ớt đầy một vườn mà bữa ăn nào em
cũng thèm tới rớt nước miếng. Em muốn được ăn trái ớt trước khi chết để
thành một con ma ghen kinh khủng, em nói bậy quá rồi. Lại bắt đầu bắn đó
anh. Làm sao đưa cơm lên cho anh Văn, làm sao cho anh ấy trốn đi được.
Ngọn đèn cầy đặt trong hầm lại sắp hết.
Phải tiết kiệm, thôi em tắt. Nằm xuống khoảng tối em sẽ nhớ anh, nhớ
anh như điên để rủi có chết đêm nay còn tưởng tượng ra anh, anh nghe.
Ngọn đèn lụi quá rồi, chữ em viết không biết đang lên dốc Nam Giao hay
xuống dốc bến Ngự...
Anh Phan,
Tai nạn đã xảy ra rồi. Sáng hôm nay chị Tư ra khỏi miệng hầm thật
sớm để đưa vắt cơm lên trần nhà cho anh Văn, sợ lát nữa mấy ổng vào kiểm
soát, chị vừa ra khỏi miệng hầm thì bị mảnh bom chơm. Máu ra nhiều quá.
Em phải xé chiếc áo dài mới để băng bó cho chị. Bây giờ chị đang nằm
lịm nơi chân em đây này. Còn anh Văn, anh ấy đã chết. Anh Phan, anh Văn
khg^ bị bom không bị đạn, anh đói lả và rơi từ trên trần nhà xuống, chết
liền tại chỗ. Xác anh Văn đang nằm nơi chiếc sập gụ của ông nội, nằm
chung với ông nội em còn sống. Má đã khóc lóc xin mấy anh ngoài nớ ra
vườn chôn tạm anh Văn nhưng họ nói ra ngoài đó máy bay thấy đào đất rồi
bắn xuống. Trưa nay mấy ổng họ lại rút lên phía trên nữa rồi.
Má nói có thể trốn được. Nhưng trước khi trốn đi tản cư, Phải tìm cách
chôn anh Văn đã. Cách tốt nhất là đặt anh Văn trong hầm này, khi về hãy
hay. Nhưng lại gặp chuyện phiền phức khác là chị Tư và ông nộị Chị Tư bị
thương, khó khiêng đi, ông nội thì nhất định ở nhà. Cả nhà khóc mãi,
ông vẫn không đổi ý. Chị nói thà chết ở nhà, và năn nỉ cả nhà nên tìm
cách trốn đi.
Anh ơi, gia đình em sao thê thảm thế này. Không, đâu phải chỉ gia
đình em. Nhà chú Bảy xích lô đã chết hết, cả một cái hầm sụp xuống. Ðứa
cháu bên đó chạy sang cho hay vậy. Ngoài đường còn những xác người chưa
chôn. Chị Thọ cho biết là bây giờ chỉ có hai lối đi, một là xuống cầu
bến Ngự, rồi băng về bên kia sông, nghe nói có Mỹ, một là đi ngược lên
Tây Thiên. Nhưng lên Tây Thiên thì gặp họ cũng không sống được. Bà Minh,
anh Vỹ, anh Cao, bác Hịch đã bị họ bắt theo lên Tây Thiên hết rồi. Nhà
mình có anh Văn đã chết. Còn bà già, con nít. Có em thì họ chưa bắt đi,
vì vậy má nói phải trốn. Ðêm qua họ đem mấy cậu sinh viên vào xử tại sau
vườn nhà. Em nghe thấy tiếng súng bắn, tiếng người hét, họ vào nhà xin
chiếu, chiếu hết rồi. Em nghe họ đào sau vườn. Họ lấp đất, rồi họ kéo
nhau đi. Ðại bác vẫn câu lên đều đều. Má nói đến chiều tối, khi bớt
tiếng đại bác, sẽ tìm cách trốn ra khỏi nhà. Ở đây thì thế nào cũng
chết. Nhưng ông nội thì sợ chết đường. Em không chịu ý kiến ông nội.
Thà mình cứ đi tìm lối thoát còn hơn ở nhà chịu chết. Phía dưới dốc cầu
người ta đi cũng nhiều, chết cũng nhiều, buổi sáng khi khóc anh Văn, em
nhìn ra cửa ngõ thấy một bà mẹ đang nhét một đứa nhỏ vào bụi chè tàu
trước cổng rồi vừa khóc vừa chạy. Em chưa kịp la thì phải vào hầm vì
những tiếng nổ gần quá, con Mẹo có ra coi, hắn nói thằng nhỏ chết rồi,
đang bị kiến đỏ bu đầy người, có con chó Mực đang rình rập vào ăn thịt.
Lũ chó đói quá, chúng cứ xông vào nhà. Trên sập của ông nội có một đống
gạch thật lớn. Ông lấy ném để canh xác anh Văn. Từ sáng đến giờ, ông nội
vừa khóc vừa đọc kinh, đôi khi ông chửi bới lung tung. Có một trái đạn
rớt giữa sân, mảnh bay đầy sân nhà mà chỗ ông nằm vẫn yên lành, ông nói
đạn sợ ông rồi, ông chỉ sợ bầy chó đói.
Anh ơi ! chắc em chết, gia đình em chết hết. Em khóc ròng đây, em
khóc muốn ngất khi nghĩ rằng, khi yên, anh sẽ tới tìm em nơi này, anh sẽ
không thấy xác em đâu nữa.
Tay em nằm trong bụng con chó này, mặt em ở trong bụng con chó khác.
Anh ơi, em tội tình chi mà không được một nấm mồ. Anh Văn em, ông nội
em... Em thèm cúng giỗ, thèm được người ta cúng giỗ quá. Bây giờ em mới
hiểu tại sao mọi nhà đều cúng chiều ba mươi, tại sao có trầm hương, có
cô hồn, có ác quỉ.
Anh Phan, em vừa nghe cả nhà bàn sáu giờ chiều nay sẽ trốn đi vùng
khác, ông nội ở lại, chị Tư ở lại, xác anh Văn đặt trong hầm, má em với
Út, với Tây, với Bằng sẽ trốn đi. Mẹo đi theo. Bác Chắc ở lại canh chừng
ông nội và rửa vết thương cho chị Tư. Ông nội, chị Tư sẽ vào hầm nằm
chung với anh Văn để khỏi đuổi chó. Em sẽ đặt lá thư này dưới chiếc sập
gụ, chiếc sập gụ lát nữa đây sẽ được đem tới kê trước miệng hầm. Nếu em
chết, má sẽ chỉ cho anh thấy lá thư này. Em nghĩ là má sẽ sống, cả em
cũng phải sống. Chiếc nhẫn mấy ngày nay đã lỏng lẻo, nhưng em vẫn đeo,
coi như một thẻ bùa may mắn. Anh ơi, anh đang ở Truồi hay ở đâu. Em lo
sợ quá...
Chiều tối em sẽ đi, chưa biết là tìm thấy sự sống hay sự chết.
Ðến hôm nay đèn cầy hết, thực phẩm chỉ đủ cho hai người ăn trong
mười lăm hôm. Cầu mong sẽ yên sớm hơn. Nghe nói Mỹ đã chiếm được
Công-chánh, phía hữa ngạn. Anh có về đến đó chưa?
Em đã ăn hết những bông hoa tường vi của anh đêm ba mươi Tết, thuốc
trường sinh, thuốc tình yêu. Anh ơi, em phải sửa soạn để đi, lá thư này
xin gửi lại dưới sập gụ...
Từ trường Kiểu-mẫu, Phan đã mấy lần kiếm cách đi lên mạn bến Ngự,
nhưng mấy ngày nay, súng nhỏ súng lớn nổ ran về miệt đó. Phan đi lần
được tới bờ sông, người Mỹ đuổi Phan trở lui lại, Phan đứng dọc đường
đón mọi người tản cư đi qua, hỏi thăm tin tức, nhưng chàng cũng không
nhận được một tin tức nào.
Cho tới khi gặp được một người từ bến Ngự chạy về lánh nạn ở Tân-lăng,
Phan đến hỏi tin tức, được biết gia đình Diễm một nửa còn mắc kẹt ở lại,
một nửa đã trốn theo đường rầy về An Cựu, nhưng tới nửa đường thì Diễm
bị một trái bom rơi trúng, cả thân thể Diễm bay kẹt vào một bụi cây. Chỉ
nghe chừng đó Phan đã bụm mặt khóc òa, chàng không còn đủ sức hỏi thăm
thêm gia đình Diễm nữa. Mười mấy ngày sau, khi Bến Ngự đã dẹp xong, Phan
là người trước nhất đi dọc theo đường rầy xe hỏa về Bến Ngự. Dọc đường,
Phan đã nhận ra xác Diễm. Diễm chỉ còn lại đầu tóc, chiếc mặt đã bầm
dập, cả người đã sình thối, nàng kẹt vào giữa bụi cây, và những dòng
nước vàng đã chảy xuống. Cánh áo phin trắng của Diễm đã rách nát, nhưng
nơi ngực áo, hai chữ P D lồng nhau thêu bằng chỉ trắng vẫn chưa bị mục,
và nhờ đó Phan nhìn ra xác Diễm.
Diễm mất một cánh tay, và nơi bàn tay còn lại, Phan không nhìn thấy
ngón đeo nhẫn đâu hết. Ngón tay đeo nhẫn của Diễm đã bị cắt lìa. Phan
tìm cùng khắp không thấy vết tích đốt tay và chiếc nhẫn đó nữa.
Khi đem xác Diễm về tẩm liệm, mọi người phát giác ngón tay đeo nhẫn
của nàng đã nằm gọn trong đám ruột bầy nhầy, không ai hiểu tại sao, và
chiếc nhẫn cũng không tìm thấy.
Chôn cất Diễm xong, Phan đi tìm mẹ Diễm, bà đang nằm tại một bệnh
viện của Mỹ. Phan tìm tới ngôi nhà cũ của Diễm, ông nội nàng đã chết,
chị Tư cũng đã chết, xác của Văn, của ông nội, của chị Tư bị chó chui
vào gặm nát, người mất tay, người mất chân. Khi dở cái gập sụ ra để lôi
những xác chết, Phan đã tìm thấy bức thư của Diễm.
Chiếc xe của Diễm vẫn còn nguyên, dựng ở một góc tường chưa bị sập.
Phan dắt chiếc xe đạp ra khỏi nhà, chàng dắt đi bộ chớ không ngồi lên
đạp.
Căn nhà của Phan chỉ bị thủng mấy lỗ đạn. Những ngày sau đó, bạn bè
của Diễm còn sống sót, chiều đi ngang qua con đường hàng Ðoát thấy Phan
ngồi trên chiếc xe đạp, dắt theo một chiếc xe đạp, và bên ghi đông chiếc
xe không người, lủng lẳng cột một chiếc nhẫn vàng. Bạn bè không ai dám
hỏi thăm, dám an ủi, vì Phan không bao giờ trả lời, không bao giờ đứng
lại nghe ai nhắc tới tên Diễm.
Con đường hàng Ðoát đến bây giờ vẫn còn đẹp, và chiều chiều vẫn còn
những đôi tình nhân song song đạp xe đi trên đó. Bóng dáng của Diễm cũng
như những đống gạch vụn, những dấu bom đạn đã lùi dần trong trí nhớ bạn
bè. Người ta bắt đầu quen dần với cảnh Phan vừa đi vừa dắt thêm một
chiếc xe đạp bên cạnh. Không ai còn thì giờ nhắc tới mối tình của họ.
Kết Thúc (END)
Thursday, August 23, 2012
THƠ BÙI GIÁNG
Thưa cô nương
April1
Tại hạ ra biển
Phen này lần ấy
Để nhìn cô nương tắm
Lúc bấy giờ bỗng dưng
Tâm hồn tại hạ biến ra
Làm nước biển
Vậy xin cô nương dừng ngay cuộc tắm
Kẻo mà đau đớn tâm hồn tại hạ vô cùng.
(theo Mùa thu trong thi ca, An Tiêm xuất bản, Sài Gòn, 1970)
Phen này lần ấy
Để nhìn cô nương tắm
Lúc bấy giờ bỗng dưng
Tâm hồn tại hạ biến ra
Làm nước biển
Vậy xin cô nương dừng ngay cuộc tắm
Kẻo mà đau đớn tâm hồn tại hạ vô cùng.
(theo Mùa thu trong thi ca, An Tiêm xuất bản, Sài Gòn, 1970)
Bây giờ
March13
Bây giờ không nói nữa rồi
Vì em đã bỏ ngọn đồi thông xanh
Bây giờ bên cạnh thân anh
Chỉ còn cánh mỏng mong manh chuồn chuồn
Bây giờ nhớ núi thương truông
Nhớ rừng cao nhớ mưa nguồn thu xanh
Hoang mang nhớ thị nhớ thành
Nhớ em quá lắm nhưng đành làm ngơ
Bây giờ con cá bay lên
Vì triều biển động mông mênh tới trời
Anh làm chú mọi con thôi
Nhớ nàng mọi nhỏ… cái môi của nàng…
Bây giờ dốc núi chon von
Một nàng mọi nhỏ là con ông trời
Da nâu là bởi làn môi
Tóc nâu là bởi ông trời thương yêu
Bây giờ núi đá mốc meo
Vì nhân gian đã quên trèo sườn non
Ống chân nhân loại đã mòn
Mai sau gối rụng thôi còn mong chi
Bây giờ thôi nói làm chi
Chuyện buồn cô Thúy chuyện Dì Lyn Rô
Trái thu mòn rụng em so
Trời thu mòn rụng em cho bây giờ
Vì em đã bỏ ngọn đồi thông xanh
Bây giờ bên cạnh thân anh
Chỉ còn cánh mỏng mong manh chuồn chuồn
Bây giờ nhớ núi thương truông
Nhớ rừng cao nhớ mưa nguồn thu xanh
Hoang mang nhớ thị nhớ thành
Nhớ em quá lắm nhưng đành làm ngơ
Bây giờ con cá bay lên
Vì triều biển động mông mênh tới trời
Anh làm chú mọi con thôi
Nhớ nàng mọi nhỏ… cái môi của nàng…
Bây giờ dốc núi chon von
Một nàng mọi nhỏ là con ông trời
Da nâu là bởi làn môi
Tóc nâu là bởi ông trời thương yêu
Bây giờ núi đá mốc meo
Vì nhân gian đã quên trèo sườn non
Ống chân nhân loại đã mòn
Mai sau gối rụng thôi còn mong chi
Bây giờ thôi nói làm chi
Chuyện buồn cô Thúy chuyện Dì Lyn Rô
Trái thu mòn rụng em so
Trời thu mòn rụng em cho bây giờ
ĐINH HÙNG * BAO GIỜ EM LẤY CHỒNG
Bao Giờ Em Lấy Chồng
Như bao người gái đến xuân thì.
Mỗi đêm say tỉnh vài cơn mộng,
Trở giấc, lòng ơi! buồn làm chi?
Ôi biết bao giờ em lấy chồng?
Đầu thu hay cuối một mùa đông?
Bên người có ánh trăng, đèn mới,
Em nhận thơ lòng tôi nữa không?
Hoa nở cô đơn, bóng động thềm,
Vườn xưa còn thoảng chút hương em.
Xót xa lá cỏ vương mùi tóc,
Tà áo bay về, nhớ suốt đêm.
Em cũng như làn hương phấn kia,
Gió về rồi đến buổi chia lỵ
Nhớ trong khung cửa, mong ngoài ngõ,
như kẻ xưa buồn lối phượng đi.
Nhớ buổi người yêu, kẻ hững hờ,
Em là thục nữ, chỉ mê thơ.
Còn lòng tôi đấy, em không rõ,
Chẳng đến dò thăm, chẳng muốn ngờ.
Mà chẳng tình chung cũng hẹn nhiều,
Lời em bay bướm, tưởng rằng yêu.
Vì ai làm đẹp mây trời thế?
Tôi đợi tin thu sớm lại chiều.
Em ướp hương vào những giấy thư,
Tôi hôn lên chữ một đôi tờ.
Nghĩ rằng: Em gửi hồn thơm đấy,
Là bởi lòng kia đã ước mơ.
Mơ ước hiền như truyện trẻ thơ,
Hoài nghi từng nét mực phai mờ.
Chữ Yêu lượn nét hoa kiều diễm,
Tưởng thấy nghìn đuôi mắt hẹn hò.
Vầng trăng vừa ngả bóng chung đôi,
Em đã xa như dĩ vãng rồị
Tình cũng quan san từ đáy mắt,
Một hàng mi lặng, mấy trùng khơi.
Nghe động bàn chân, nắng tỏa hương,
Mong manh từng gợn phấn còn vương.
Em đi, nửa gối hoa tàn mộng,
Thương nhớ bay cùng mây viễn phương.
SƠN TRUNG * SUFERING OF THE PLANTS
I am a tree, a simple tree.I live in Canada, which is the most wonderful country in the world. My voice is the voice of trees in the forests, and trees in the parks.My voice is also the voice of grass on the hills, vegetables on the farms, and flowers in the gardens.
A lot of people don't understand us. They think that we are insensible and inaniamate things. In fact, we aren't different from humain beings. We can eat and drink like people, so they have to water and fertilize us. Some of our brothers in Africa are anthropophagous.
As human beings are divided into men and women, men are loving women, and women loving men, so are we. Some of us are stamens, and others are pistils. We also have polination that like women's pregnancy.
We also exhale and inhale like human beings. If they inhale and exhale by mouth nad nose, we also do that with our leaves. We dismiss oxygen by day, and we send out carbondioxide and breathe oxygen by night.
We have a life. We were born, we grow up and some day we'll be dead. We have a history. We have a past, present and future. We also have our families, our ancestors, our parents, our brothers and sisters.We have a lot of friends too. We need to love and to be loved. We are different from stones, which are very different, cold and motionless. We have soul and sentiment. Among the poets in the world, we love Chataubriand- a French poet in the 19th century-very much, because he understood us.He said that trees, stones,rivers,lakes... have had a soul and his soul and ours were related in perception and sentiment:
"Inanimate objects, do you have a soul
That attaches to ours and force us to love them?"
We have joy and sadness. We are in hope and sometimes in disappointment. Spring is the most beautiful season in the year. It is the happiest time in our life. The sky is bright and the sun shines. The weather is wonderful and we are very fine. The birds sing in the sky and we smile with our beautiful flowers. We are very happy when we see couples hand in hand walking in the parks.
We are also happy in the summer. Everybody leaves his winter coat , his hat and his boots. They go to the parks, to the beaches with light clothing. It is the time we give them a lot of flowers, fruits,vegetables.
After summer comes autumn. A lot of poets, writers praise autumn. They describe the beauty of autumn, especially the fall in Canada. They are very happy when they see trees leaves change color from green to yellow, and from pink to red. In fact, they don't understand us. They are happy before our pain, our sadness,our disappointment. Autumn is the beginning of our sorrow, our death.Indeed, Phåm Duy, a Vietnamese music composer ,understood us when he wrote the song entitled" The Dead Autumn". People like red, pink and yellow color, but we don't. We only love the color green because it is our natural color,our fine color.People say that green is color of hope.Sure ! Green is our color of life. Other colors are signs of sickness, of death. For human beings,multicolors are good, but we hate it. Why? Because the weather changes in fall. In summer, the weather is about 20-30 degree.It is very good for human beings, animals and plants. But when the autumn comes, the weather is about 0 to -10. We cannot undergo this terrible weather. We begin to fade. We begin to struggle against this miserable condition, so we begin to change color. When winter comes,we are really dead or nearly dead. Our leaves fall day by day. Finally, we stand alone with dry and dead branches in the snow except pines, a kind of evergreen tree.My friends- vegetables and grass are more miserable. Vegetables on the farms are now really dead while grass has disappeared under the thick layer of snow.
What we have just said to you is to prove that we have sentiment and soul. We also have reason.
Sometimes we are very upset because of the hard condition of life, but we aren't pessimistic. We realize that life has its ups and downs, but it's important to get through hard times and to make the best of every situation. After the rain, the sun shines. After winter, comes spring. It is warmer, and the snow begins to melt, Grass on the hills and on the roads appear with a green color. Trees in forests and parks have new buds. Flowers are blooming everywhere. A new life comes back to us and to everybody. We enjoy the warmth of sunlight in spring and summer which compensate everybody for the sad and dead fall and winter.
Sơn Trung
SƠN TRUNG * MẬU THÂN
Những Nghi Vấn Trong Vụ Việt Cộng Tấn Công Mậu Thân (1968)
Sơn Trung
Cuộc tổng tấn công của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân đã đưa lại cho chúng ta nhiều nghi vấn. Chúng tôi xin trình bày sơ lược dư luận quần chúng thời đó qua những điểm sau:
1. VNCH và Mỹ có biết trước không ?
Trước Tết Mậu Thân, Việt Nam cộng hòa và Việt Cộng đã đồng ý ngưng bắn 36 giờ kể từ đêm giao thừa (30-1-1968). Bên ta đã thực hiện lời cam kết. Một nửa quân số đã được nghỉ phép ăn tết.Trong khi đó VC chuẩn bị cuộc chiến rất chu đáo
a. Theo quần chúng Huế, mấy tháng trước tết Mậu thân, Việt cộng đã cho người về Huế mua thuốc men, gạo muối, và mua rất nhiều vải nylon. Thứ nylon này dùng để che mưa, bọc thuốc men, đạn dược, dùng để lội sông...Ở các địa phương miền Trung và mìền Nam, việc chuấn bị cũng sôi nổi không kém.
b.Trên báo chí, đài phát thanh, cộng sản cũng đã tỏ rõ ý muốn xâm chiếm miền Nam. Đầu năm 1967, cộng sản đã mở nhiều cuộc tấn công trên lãnh thổ miền Nam như Lộc Ninh,Khe Sanh,Dakto,và Cồn Tiên.. .Họ đã đưa ra kế hoạch tổng công kích,tổng khởi nghĩa.Nghị quyết 13 tháng 3 năm 1967 của trung ương đảng kêu gọi:Đồng khởi để giành thắng lợi quyết định trong thời gian càng ngắn càng tốt. (1)
c.Khoảng cuối năm 1967, quân ta hành quân ,bắt được nhiều tài liệu nói về tổng tấn công. Các tù hàng binh cộng sản cũng cho ta biết sẽ có việc tổng tấn công.(2)
Theo những sĩ quan VNCH, họ đã báo cáo tình hình lên cấp trên,nhưng có lẽ cấp thẩm quyền đã không tin là VC sẽ tấn công . Có lẽ VN và Mỹ thiếu khả năng phán đoán chính xác .
Những lý do sau đây cho phép ta nghĩ rằng VNCH và Mỹ biết tin CS chuyển quân nhưng không tin rằng VC tấn công :
- Họ tin vào hiệp ước đình chiến với CS
- Các sĩ quan và binh sĩ được về nghỉ Tết khoảng một nửa quân số.
- Nguyễn Văn Thiệu về quê ăn tết tại Mỹ Tho
- Sĩ quan Mỹ tại Sài gòn rất ngạc nhiên " khi thấy địch có khả năng mở một cuộc tổng công kích vào những thành phố" (3)
Họ ngạc nhiên thật sự hay gỉả đò ngạc nhiên ?
Mỹ với phương tiện khoa học như tia laser có thể nhìn suốt mọi vật trong ban đêm,lẽ nào trong những chuyến bay tuần thám ,họ không thấy gì hết hay sao, nhất là ở đường mòn Hồ Chí Minh ?
Hoặc là người Mỹ biết nhưng giả như không biết ? Tại sao ?
2. Tại sao ban đầu người Mỹ im lặng ?
Qua ý kiến của binh sĩ cộng hòa và đồng bào khắp nơi, mấy ngày đầu quân VC không tấn công đồn Mỹ và các cơ quan Mỹ, và quân Mỹ cũng giữ thái độ tọa thủ bàng quan, khoanh tay nhìn hai phe đánh nhau ngoại trừ tại Sàigon , VC đã tấn công tòa đại sứ Mỹ trước tiên. Tài liệu của Khối Quân Sử viết :
Địch không đánh cơ quan nào của Hoa Kỳ ngoại trừ đánh tòa đại sứ Hoa Kỳ. (4) .
Chúng ta có vài tin tức tiêu biểu :
Thành phố | Ngày giờ CS tấn công VNCH | Ngày giờ CS tấn công Mỹ |
HUẾ | Mồng hai Tết | Mồng 4 Mỹ giải tỏa xung quanh khu MACV |
QUẢNG TRI | bốn giờ sáng mồng hai | Chiều VC bắn vào MACV |
ĐA NẴNG | Đêm 30 | Mồng một Mỹ giải tỏa khu Quảng Đà |
KONTUM | Đêm 30 | Mồng hai Mỹ giải tỏa |
BAN MÊ THUÔT | Đêm 30 | Mồng 2 đánh MACV (5) |
Có lẽ sau vì VC phản bội mật ước hoặc thấy quân Cộng Hòa chiến đãu anh dũng ,họ mớI phản công Việt Cộng. Có lẽ Việt Cộng muốn đánh một trận để đời hoặc muốn bắt sống hoặc giết đại sứ Mỹ ! Điều nhận xét này đúng không ? Nếu đúng , ta sẽ có nhiều câu hỏi :
a. Mỹ đem quân sang giúp VNCH, hai bên đã cùng sát vai chiến đãu chống cộng.Tại sao, nay VC sờ sờ trước mắt, quân Mỹ lại khoanh tay nhìn ?
Nhiều người đặt giả thuyết rằng có lẽ quân Mỹ muốn chờ xem tình hình quân VNCH ra sao đã. Nếu như quân VNCH rã ngũ, quần chúng nổi dậy theo cộng sản, có lẽ họ sẽ buông tay luôn. Sau họ thấy quân ta tuy bị đánh bất ngờ, quân số ít mà vẫn chiến đãu dũng mãnh, cho nên họ mới phản kích.
Một số cho rằng vì VNCH cương quyết không chịu hòa đàm với CS nên Mỹ để mặc cho CS tấn công.(6)
Cũng có giả thuyết cho rằng Mỹ im lặng, quân VNCH cứ cho binh sĩ nghỉ tết là có ý dụ địch để diệt địch .Một vị sĩ quan cao cấp VNCH ở Thừa Thiên đã tuyên bố như vậy. Ông nói thực hay nói chơi ?
Giả thuyết trên không vững vì chúng ta thấy cả hai phía Mỹ và CS lúc đầu đều bất tương xâm.
b.Phải chăng hai bên có một mật ước ? Nếu có, mật ước đó như thế nào ? Và ai đã xé rào trước , Mỹ hay VC? Tại sao ?
3.Ai đã lãnh đạo cuộc tổng tấn công mậu thân ?
Nhiều tài liệu kể cả tài liệu Mỹ và VNCH đều cho rằng Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo cuộc tấn công này. Sự thực, suốt đời ông Giáp chỉ làm bù nhìn, làm cha hờ. Ông Giáp không phải là một tướng giỏi. Ông nổi danh là do sự tuyên truyền của CS và gặp thời. Ông nổi danh từ trận Điện Biên Phủ, nhưng sự thực tướng Giáp chỉ là một bù nhìn vì mọi sự bên trong đều do Trung quốc lãnh đạo. Các tướng Trung quốc như Vi Quốc Thanh soạn thảo kế hoạch,Trần Canh,tư lệnh chiến trường, với 20 ngàn quân Trung cộng. Cuộc chiến Điện Biên Phủ là một cuộc thử thách giữa Trung cộng và Pháp. Sau khi thâu phục Trung Hoa lục địa, Trung cộng muốn mở rộng ở hai phía bắc và Nam. Cộng sản và quốc gia chỉ là quân cờ trong trận chiến quốc tế.
Trận chiến 1975 cũng vậy. Trong cuốn Đại Thắng Mùa Xuân ấn bản đầu tiên ghi tên Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng, nhưng qua ấn bản hai, chỉ có tên Văn Tiến Dũng. Nay trận mậu thân có lẽ không do Võ Nguyên Giáp lãnh đạo bởi vì từ khi Lê Duẩn lên làm Tổng bí thư, Võ đại tướng đã không còn nguyên giáp (7)
Dường như trước thời gian mậu thân, Võ Nguyên Giáp đi Mạc Tư Khoa.(8) Phải chăng ông bị Duẩn Thọ đẩy ông ra khỏi cuộc chơi ? Nếu ông có tham dự cuộc bàn luận chiến trận, ông cũng chỉ là khách bàng quan.
Người nắm chủ chốt có lẽ một người khác. Ngoài Duẩn Thọ, phải chăng Nguyễn Chí Thanh mới là người lãnh đạo cuộc chiến ?
Chúng ta nói đến Nguyễn Chí Thanh vì những nguyên nhân sau:
a.Theo Nguyễn Văn Trấn , Duẩn Thọ có âm mưu lật đổ ông Hồ và đưa Nguyễn Chí Thanh lên làm chủ tịch nước.(9)
b.Nguyễn Chí Thanh lãnh đạo cuộc chiến tranh tại Miền Nam.
c.Nguyễn Chí Thanh có mặt tại Hà Nội trong năm 1967 có lẽ là để bàn luận chiến lược chiến thuật với Duẩn Thọ.
d.Trong một bài phát biểu, Tố Hữu đã nói rằng Nguyễn Chí Thanh có công lớn trong sách lược tấn công mậu thân và ông tỏ lòng thương tiếc Nguyễn Chí Thanh đã không sống thêm để hưởng thành quả của trận đánh này.
Nhưng sau đó Nguyễn Chí Thanh chết. Phải chăng ông bị sụp hầm mà chết vì B52 của Mỹ tại Tây Ninh trong tháng 2 - 1967 theo tin đồn ở miền Nam ?
Hay ông cũng như Phạm Hùng bị nhồi máu cơ tim mà chết ở Hà Nội ngày 6-7-1967 như đảng tuyên bố ? Hay ông bị chân tay ông Hồ hạ độc thủ tại Hà Nội hay tại Miền Nam?
Theo thiển kiến, làm sĩ quan cấp tá CS là bảo đảm lắm rồi huống hồ cấp tứơng kiêm bí thư trung ương cục miền nam! Tưóng cộng sản bao giờ cũng ở trong an toàn khu, không bao giờ ra mặt trận dù là đi thanh sát như tướng Mỹ và VNCH. Lúc bấy giờ những tên CS gộc thường ở trong đất Miên cho nên tin đồn bị B52 mà chết có lẽ sai lầm.
Nếu Nguyễn Chí Thanh còn sống, sau trận mậu thân, có lẽ Duẩn Thọ sẽ đánh bóng ông, đưa ông lên thay thế ông Hồ. Nhưng than ôi !
Chúng ta nên biết rằng để chuẩn bị lật đổ ông Hồ, Duẩn Thọ đã triệt hạ phe cánh ông Hồ ,ông Giáp như Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang, Hoàng Minh Chính.. . Lẽ dĩ nhiên, phe ông Hồ cũng phản công lại !Và Nguyễn Chí Thanh phải chết !
Dù ai lãnh đạo cuộc chiến, trận mậu thân là một thất bại nếu so với Điện Biên Phủ:
-Điện Biên Phủ là trận chiến giữa quân đội với quân đội, ở một nơi xa dân chúng, còn trong trận mậu thân, cộng sản đưa chiến tranh vào nhân dân,gây đổ nát ,tang thưong cho dân chúng. Cộng sản đã sát hại thường dân vô tội.Trận mậu thân chỉ làm dân chúng căm thù cộng sản.
-Điện Biên Phủ đã làm Pháp thất trận dù Cộng sản Trung quốc và cộng sản Việt Nam đã tốn nhiều xương máu và tiền của. Trái lại trận mậu thân, VC bị đánh bại, tổn thất nặng nề về nhân mạng và cơ sở.
4.Cộng sản quốc tế đã làm gì trong vụ mậu thân ?
Ai cũng biết trong thời chiến tranh VN, Mỹ đã tốn khoảng 10 tỷ mỹ kim và sử dụng nửa triệu quân tại Việt Nam. Ai cũng nghĩ rằng VC một mình đánh với VNCH và Mỹ, và họ tự hào về tinh thần độc lập của họ. Và dân chúng VN đa số nghĩ vậy vì:
-Không nghe radio, không thấy báo chí nào nói về sự viện trợ sức người, sức của của phe Cộng sản quốc tế trong khi đó tin tức viện trợ Mỹ được phổ biến tại quốc hội,báo chí, đài phát thanh ầm ĩ từng chi tiết !
-Không ai thấy lính Trung quốc, lính Cu Ba, Liên Xô đi ngoài đưòng như Mỹ đen, Mỹ trắng ở miền Nam.
Sự thực ,khối CS quốc tế viện trợ cho VC rất nhiều.
Trước đây, qua đài Bắc kinh, Hoàng Văn Hoan đã cám ơn Trung quốc đã chi viện tận tình cho nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Nếu Mỹ viện trợ cho VNCH khoảng 10 tỷ mỹ kim với nửa triệu quân thì Trung Hoa cũng viện trợ tương tự cho Bắc Việt.
Gần đây, chúng ta được tin quân Bắc Hàn cũng sang VN chống Mỹ. Vậy quân Liên Xô, Cu Ba,Hung, Tiệp khắc ... là bao nhiêu ? Họ làm gì, ở đâu ? VNCH và Mỹ có biết không ?
Tài liệu khối Quân Sử VNCH cho biết tháng 10-1967, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh ghé Bắc kinh trên đường sang Mạc Tư Khoa dự lễ kỷ niệm 50 Cách Mạng Nga, nhưng sự thực là đi cầu viện . Băc kinh đề nghị giúp 100 ngàn binh sĩ, 200 ngàn nhân viên giữ đường sá và thiết lộ,Giáp không nhận quân đội và nhân viên. Bắc kinh hứa giúp đỡ hỏa tiễn mới 107 ly và 240 ly. Mặc Tư khoa hứa giúp xe tăng và các vũ khí khác.(10)
Cọng sản bao giờ cũng che dấu sự thực. Họ nói không nhận nghĩa là nhận.
So sánh sự viện trợ của hai phe, chúng ta thấy :
- cộng sản kín đáo hơn.
- Tế nhị hơn
- Tận tình hơn.
- Vũ khí tối tân hơn: trong khi binh sĩ VNCH sử dụng Garant , Carbine thì cộng sản sử dụng AK Tiệp khắc vừa nhẹ vừa chính xác.. .Pháo CS bắn xa hơn, xe tăng cộng sản mạnh hơn.. .
- Quân sĩ cộng sản chiến đãu thường trực tại mặt trận, còn quân Mỹ một số nghỉ phép tại Saigon, Huế, Hawai hay Hongkong, Mỹ..
Tuy nhiên, bên cộng sản chỉ viện trợ quân sự, ít viện trợ kinh tế.
Mỹ có biết vũ khí ta yếu hơn CS không ? Tại sao Mỹ viện trợ đồ cũ như thế ?
Phải chăng Mỹ không biết gì về sự giúp đỡ lớn lao của Nga Tàu và đàn em cho Việt cộng. Nếu không tại sao sau mậu thân, tướng Westmoreland báo cáo quân số VC bị tiêu diệt , Ngũ giác đài cho là sai lầm. Ngũ giác đài cho rằng nếu quân VC bị giết nhiều như thế ,sau 1968, VC không đủ sức mở các cuộc tấn công lớn vào miền Nam. Mỹ lý luận như thế, vì không biết:
- VC luôn có quân trừ bị để bổ sung cấp thời.Đó là dân quân, là bộ đội điạ phương như chủ lực xã, chủ lực huyên, chủ lực tỉnh..
- VC bắt trẻ con và phụ nữ bổ sung chiến trường.
- VC được quân cộng sản quốc tế viện trợ mạnh mẽ , vượt trội VNCH và Mỹ về quân số và vũ khí.
5.Tại sao Ông Hồ chết ?
Ông Hồ chết ngày 2-9-1969, sau tết mậu thân hơn một năm, thọ 79 tuổi. Phải chăng ông chết bệnh như trung ương đảng đã loan tin ? Phải chăng cái chết của ông có liên quan đến vụ mậu thân ?
Trong vụ mậu thân, đồng bào Huế được VC tuyên truyền là Hồ chủ tịch sẽ vào thăm đồng bào Miền Nam .Ông có vào Huế không hay chỉ là xạo ?
Có thể ông không vào Huế nhưng nghe tin mậu thân thất bại,ông buồn mà chết ?
Chúng tôi trình bày những thắc mắc trên, xin quý vị có thẩm quyền trả lời để làm sáng tỏ lịch sử.
Sơn Trung
CHÚ THÍCH
____________
1.Nguyễn Đức Phương, Những trận đánh lịch sử trong chiến tranh Việt Nam 1963-1975,
Đai Nam, Mỹ,1993,tr.34
2.như trên.
3.Phạm Văn Sơn, Lê Văn Dương,Cuộc Tổng Công Kích Tổng KhởI Nghĩa của Việt Cộng mậu thân 1968. Khối Quân Sử,Trung Tâm Ấn Loát Phẩm,1968,tr.30
4.như trên,tr.53, 269.
5.như trên,tr.50, 278
6.như trên,tr.269,30
7.Câu đối truyền tụng trong nhân dân:
Ba mươi năm chinh chiến, Võ đại tướng nay không còn nguyên giáp,
Một cuộc đời dựng nước, Bác Hồ giờ hết cả chí minh
8.Lê Văn Dương,sđd,tr.27
9.Nguyễn Văn Trấn, Viêt Cho Mẹ Và Quốc HộI, Văn Nghê.CA,1995,tr.220-320.
10.Lê Văn Dương,sđd,tr.27.
THƠ CAO TẦN
Cao Tần
Thơ Cao Tần
1
Gần 30 năm trước, một tập thơ mỏng của một
tác giả hoàn toàn vô danh xuất hiện như một sự kiện giữa nền văn học vừa hình
thành của người Việt hải ngoại: Thơ Cao Tần. Chúng tôi trân trọng giới thiệu lại
tập thơ này với độc giả của ngày hôm nay, và nhân dịp này
đăng lại bài viết về thơ Cao Tần của Nam Chi(bút hiệu của
nhà phê bình Đặng Tiến) năm 1982, nhận định của Bùi Vĩnh Phúc năm 1988, cùng
với bài phê bình mới nhất của Đặng Tiếntháng
8.2006.
talawas
1. Chuyện thần tiên
(Có bà tiên hiền hỏi chàng lưu lạc
Con ước mơ chi cuối cuộc đời này?)
Ta ước khi không bừng tỉnh giấc
Thấy bình minh muộn nắng đầy hiên
Một khung cửa sổ trời xanh ngắt
Đầu sân xao xác tiếng chim quen
Đường phố ngất ngây mùi bụi mới
Những vòm cây biếc lá me tươi
Quán cóc sở ta bè bạn đợi
Rất tưng bừng đấu hót những buồn vui
Chợt nhớ lại, ồ đêm qua khiếp quá
Mình đã mơ một giấc thật kinh hoàng
Mơ thấy cả một quê hương đổ vỡ
Mình lên đường ngơ ngẩn, lang thang
Sẽ vội vã trên đường lao tới sở
Nghe xôn xao tiếng Việt ở quanh mình
Giữa phố bụi mù lại mơ cây cỏ
Xanh khắp quê hương giấc mộng thanh bình
Ta muốn điều chi cuối đời luân lạc?
Này bà tiên vừa hỏi giấc mơ ta
“Hãy đem hết những đổi đời tan tác
Gói giùm vào cơn mộng dữ đêm qua”
2. Chiều bát phố
Chiều đi bát phố gặp toàn Tây
Bỗng tiếc xưa không làm quen cả xóm
Tự trách mình ngu hơn con cầy
Đáng kẹt lại cho thằng Cộng tóm
Bác xích lô mỗi sớm qua nhà
Đầu óc như ta lo cơm lo áo
Co cẳng cà phê quán cóc la cà
Chửi bới lăng nhăng nội các anh Thiệu
Em điếm rẻ tiền hành nghề Gò Vấp
Anh tìm vui hoang em hát cải lương
Ôm nhau dửng dưng, rời nhau hấp tấp
Lòng vẫn chung mang nỗi sợ sa trường
Nhớ ông thầy tu nghiêm trang cúng lễ
Ta ít khi lảng vảng vào chùa
Sao cùng thấy đời sầu một bể
Cùng tỉnh queo trước chuyện hơn thua.
Nhớ kẻ ngất ngư mình gặp ngoài phố
Hai thằng lạ hoắc chẳng thèm ngó nhau
Giờ nghĩ lại, ôi, như ta, nó khổ
Cũng xây nhà trên cát nương dâu.
Giờ nghĩ thân ta chỉ còn có vợ
Vợ trót bỏ quên bên kia bán cầu
Ngày ngày phất phơ giữa rừng mũi lõ
Tìm người tình Việt chưa biết tìm đâu
Chỉ gặp toàn Tây một chiều bát phố
Tiếc sao xưa cả nước chẳng quen nhau
Quen cả nước? Ra đường chào gẫy cổ
Và chắc gì nay nghĩ lại không sầu.
Nhưng quen cả nước chắc lòng sẽ nhẹ
Khi đi có chào may bớt xót xa
Ôi! Xóm xưa ơi, khi nào đổi kiếp
Ta về thành chim hót trước hiên nhà
Tháng 2-77
(Có bà tiên hiền hỏi chàng lưu lạc
Con ước mơ chi cuối cuộc đời này?)
Ta ước khi không bừng tỉnh giấc
Thấy bình minh muộn nắng đầy hiên
Một khung cửa sổ trời xanh ngắt
Đầu sân xao xác tiếng chim quen
Đường phố ngất ngây mùi bụi mới
Những vòm cây biếc lá me tươi
Quán cóc sở ta bè bạn đợi
Rất tưng bừng đấu hót những buồn vui
Chợt nhớ lại, ồ đêm qua khiếp quá
Mình đã mơ một giấc thật kinh hoàng
Mơ thấy cả một quê hương đổ vỡ
Mình lên đường ngơ ngẩn, lang thang
Sẽ vội vã trên đường lao tới sở
Nghe xôn xao tiếng Việt ở quanh mình
Giữa phố bụi mù lại mơ cây cỏ
Xanh khắp quê hương giấc mộng thanh bình
Ta muốn điều chi cuối đời luân lạc?
Này bà tiên vừa hỏi giấc mơ ta
“Hãy đem hết những đổi đời tan tác
Gói giùm vào cơn mộng dữ đêm qua”
2. Chiều bát phố
Chiều đi bát phố gặp toàn Tây
Bỗng tiếc xưa không làm quen cả xóm
Tự trách mình ngu hơn con cầy
Đáng kẹt lại cho thằng Cộng tóm
Bác xích lô mỗi sớm qua nhà
Đầu óc như ta lo cơm lo áo
Co cẳng cà phê quán cóc la cà
Chửi bới lăng nhăng nội các anh Thiệu
Em điếm rẻ tiền hành nghề Gò Vấp
Anh tìm vui hoang em hát cải lương
Ôm nhau dửng dưng, rời nhau hấp tấp
Lòng vẫn chung mang nỗi sợ sa trường
Nhớ ông thầy tu nghiêm trang cúng lễ
Ta ít khi lảng vảng vào chùa
Sao cùng thấy đời sầu một bể
Cùng tỉnh queo trước chuyện hơn thua.
Nhớ kẻ ngất ngư mình gặp ngoài phố
Hai thằng lạ hoắc chẳng thèm ngó nhau
Giờ nghĩ lại, ôi, như ta, nó khổ
Cũng xây nhà trên cát nương dâu.
Giờ nghĩ thân ta chỉ còn có vợ
Vợ trót bỏ quên bên kia bán cầu
Ngày ngày phất phơ giữa rừng mũi lõ
Tìm người tình Việt chưa biết tìm đâu
Chỉ gặp toàn Tây một chiều bát phố
Tiếc sao xưa cả nước chẳng quen nhau
Quen cả nước? Ra đường chào gẫy cổ
Và chắc gì nay nghĩ lại không sầu.
Nhưng quen cả nước chắc lòng sẽ nhẹ
Khi đi có chào may bớt xót xa
Ôi! Xóm xưa ơi, khi nào đổi kiếp
Ta về thành chim hót trước hiên nhà
Tháng 2-77
LÊ TÙNG MINH * PHAN CHU TRINH
Phan Chu Trinh:
Nhà Yêu Nước Ðấu Tranh
Cho Dân Quyền
Lê
Tùng Minh
"Vẻ
vang thay cái oai quyền dân chủ!
Gớm ghê thay cái dục vọng của quân chủ!"
(1) Ðây chính là quan niệm căn bản của Phan Chu
Trinh,
một nhà yêu nước đấu tranh cho Dân Quyền.
Ðể có cái
nhìn sâu sắc như vậy trong việc so sánh giữa
Dân
Chủ và Quân Chủ, Phan Chu Trinh đã lận đận
trên đường tìm chân lý cách mạng trong
suốt
hơn 20 năm (1905-1925). Cuộc đời yêu nước
nhiệt thành của ông cùng với quá
trình hoạt
động vận động cho dân chủ của Phan Chu
Trinh là một bài học lịch sử quý giá cho
thế
hệ ngày nay học tập.
I - Thân
Thế Và
Học Vấn
Phan Chu Trinh
tên chữ là Tử Cam, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu
Hy Mã, sinh vào ngày 9-9-1872 (tháng
Tám năm Nhâm Thân) tại làng Tây
Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam.
Cha của
ông là cụ Phan Văn Bình, một võ quan của
triều
đình Huế. Mẹ của ông là bà Lê Thị
Chung,
xuất thân trong một gia đình vọng tộc, thông
thạo chữ Hán và rành thi phú. Phan Chu
Trinh có 3 anh chị em
mà ông là con út trong gia đình.
Chẳng may bà mẹ mất
sớm nên sự rèn luyện, dậy dỗ trên
đường học vấn của ông đã bị
bỏ dở từ lúc bé. Còn cha của ông bận lo
việc quan võ, ít khi ngó ngàng đến việc học
của ông. Vì thế, mãi đến năm 10 tuổi (1882)
ông mới cắp sách đến trường.
Từ
năm 10 tuổi đến năm 17 tuổi (1882-1889), Phan
Chu Trinh hoàn toàn không chuyên tâm
học hành, không phải vì ông
không thông minh, mà vì chán học lối
từ chương
trích cú. Trong thời gian này, Phan Chu Trinh lại
thích học
võ theo ý muốn của cha, phòng "ứng dụng
vào
việc đánh giặc cứu nước" (ông
học võ từ lúc 13 tuổi) . Lúc này, cha của
ông đang
theo phò Hàm Nghi kêu gọi cần vương cứu
nước, lãnh nhiệm vụ "chuyển vận
sứ" ở đồn An Bá thuộc phủ Tam Kỳ.
Nhưng đến năm Ðinh Hợi (1887), cha của ông
đã bị giết (?). Phan Chu Trinh vô cùng đau
xót vì
nỗi bạc mệnh của cha.
Một
năm sau (1887) lại thêm một tin sét đánh có
quan hệ
đến sự nghiệp cần vương cứu
nước, đó là tin: Vua Hàm Nghi đã bị hai
tên
phản quốc là Trương Quang Ngọc và Nguyễn
Ðịnh Tĩnh bắt nộp cho Pháp, và bị Pháp
đưa đi đầy tận bên xứ Algérie. Phan Chu
Trinh lúc này đã đến tuổi 16 - tuổi bắt
đầu có nhận thức về những sự
biến của đất nước, dân tộc.
Phan Chu Trinh
thấm nỗi đau bạc mệnh của cha, lại
càng thương xót khốn cảnh của vua Hàm Nghi,
uất hận tên phản bội Trương Quang Ngọc
qua câu nói của nhà vua đối với Trương Quang
Ngọc rằng: "Mày hãy giết tao đi, còn hơn
là
đưa tao về nạp cho Tây." Do đó, Phan Chu
Trinh quyết định trở lại con đường
học vấn, vì ông nghĩ ra một chân lý: "Một
dân tộc muốn tự cường, trước hết
phải có dân trí. Muốn đạt được dân
trí,
phải cải cách nnền giáo dục cũ, dựng
nền học thuật mới cho dân tộc!" Cho nên
Phan Chu Trinh quyết tâm nhờ sự giúp đỡ của
người anh cả rước thầy về nhà
để học lại, nhằm đạt
được mục đích cứu nước của
tuổi trẻ! Ðó là vào năm 1889, Phan Chu Trinh
đã lên 17
tuổi.
Trong 4 năm
(1889-1892) Phan Chu Trinh đã theo học tại nhà do cụ
đốc Trần Mã Sơn dậy dỗ, rèn luyện.
Thấy Phan Chu Trinh thông minh, khẳng khái, hay tranh biện
với lẽ phải, nên cụ Mã Sơn rất yêu mến
và bổ Phan Chu Trinh vào ngạch Học Sinh của triều
đình.
Từ
năm 1893, Phan Chu Trinh đã ra học ở trường
ngoài. Sau 7 năm dùi mài kinh sử (1893-1900) Phan
Chu Trinh đã
đỗ Cử Nhân vào kỳ thi năm Canh Tý (1900) .
Và
năm sau, năm Tân Sửu (1901) Phan Chu Trinh đã
đỗ Phó Bảng. Thế là, đến năm 29
tuổi, Phan Chu Trinh đã làm rạng rỡ tông môn
và
đạt được sở nguyện trên
đường học vấn.
II.
Công Danh Và Sự
Nghiệp Cứu Nước
Con
đường công danh của Phan Chu Trinh chỉ là phù du
trong một thời gian ngắn ngủi.
- Năm Nhâm
Dần (1901) làm Hậu Bổ ở Huế không bao lâu, nghe
tin người anh cả mất, Phan Chu Trinh trở về
quê dậy học.
- Năm Quý
Mão (1903) Phan Chu Trinh được bổ nhiệm chức
Thừa Biện Bộ Lễ tại triều đình
Huế.
Len lỏi
trong chốn quan trường từ năm 1903 đến
năm 1905, Phan Chu Trinh quá chán chường tệ quan
liêu
thối nát, và xót xa cái nỗi còn lắm
nho sĩ quá hũ
bại giữa lúc Tổ Quốc đang mất trong tay
thực dân Pháp! Vì vậy, nhân lúc
còn cái thế quan
trường, ông đã tìm cơ hội để giao du
với những trí thức tân học như các cụ Thân
Trọng Huề, Ðào Nguyệt Phổ. Chính hai nhà
tân học
Việt Nam này đã cho Phan Chu Trinh mượn để
nghiên cứu các sách được gọi là "Tân
Thư"
của các ông Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi,
Ðàm
Tự Ðồng (Trung Quốc); của Montesquieu, J.J. Rousseau...
Nhờ thế mà Phan Chu Trinh đã sớm nhận ra "Dân
Trị Chủ Nghĩa", và cương quyết từ
quan để đi theo con đường đó!
Năm
Ất Tỵ (1905), Phan Chu Trinh từ quan về quê
để chuẩn bị cho cơ hội hoạt
động cứu nước theo đường
hướng riêng của mình.
Trước
khi từ quan (1904), Phan Chu Trinh có tiếp xúc với Phan
Bội Châu khi Phan Bội Châu mới từ Nghệ An vào
Huế (2). Ngày từ lần tiếp xúc đầu tiên này,
hai nhà yêu nước họ Phan đã có một
vài bất
đồng về quan điểm thực hành cách mạng
giải phóng dân tộc! Quan điểm bất đồng
sẽ bộc lộ rõ khi hai ông gặp nhau ở Nhật
Bản (sẽ trình bầy ở phần sau) .
Ðúng vào
năm Phan Chu Trinh từ quan (1905) cũng là lúc cuộc
chiến tranh Nga-Nhật bùng nổ (Thời ấy gọi
là Nga-Nhật Chiến Kỷ). Phan Chu Trinh tự thấy
đã đến cơ hội thực hành chí hướng
"Dân Trị Chủ Nghĩa" mà ông đã nuôi
dưỡng trong mấy năm qua (1903-1904) bằng cách
đi diễn thuyết khắp nơi để thức
tỉnh đồng bào. Phan Chu Trinh đã kết giao
đồng chí với Huỳnh Thúc Kháng và Trần
Quý Cáp,
tổ chức một chuyến vào Nam Kỳ để
vận động Duy Dân.
Cái chí
lớn của Phan Chu Trinh lần đầu tiên đã công
khai thể hiện trong bài thơ "Chí Thành Thông
Thái".
Thơ rằng:
"Gẫm
thế sự càng ngao ngán nỗi,
Ðoái
giang san tức tối anh hùng.
Ðoan`
dân nô lệ đã xong,
Sĩ
phu còn ở trong vòng say mê!
Thân
nhục nhã ê chề muôn kiếp,
Biết
ngày nào khỏi nghiệp oan gia!
Ai
ơi, tưởng nước đến nhà,
Bài
này mở mắt xem qua một lần." (3)
Nhưng ý
nguyện vào Nam Kỳ để vận động Duy Dân
không thành, bởi vì khi tới Phan Thiết thì
Phan Chu Trinh lâm
bệnh! Chuyến đi Nam Kỳ bị đình lại.
Phan Chu Trinh ở lại Phan Thiết trị bịnh,
mấy tháng sau mới trở về Huế. Trong thời
gian ở Phan Thiết, Phan Chu Trinh đã được
nhiều thân hào nhân sĩ địa phương tích
cực hưởng ứng kêu gọi Duy Tân của ông. Phan
Chu Trinh đã tranh thủ thời gian lưu lại ở
Phan Thiết, mở lớp quảng bá về "Tư
tưởng cách mạng của Khang Hữu Vi và
Lương Khải Siêu", được đông
đảo các nho sĩ và đồng bào địa
phương tham dự.
Sau khi về
Huế, được tin Phan Bội Châu đã sang
đến Nhật, Phan Chu Trinh liền ra Bắc,
đến vùng Yên Thế (Bắc Giang) để yết kiến
Hoàng Hoa Thám (Ðề Thám). Sống tại Yên
Thế mấy
tháng, tiếp kiến, luận đàm với Ðề Thám
vài
lần, ông thấy quan điểm đấu tranh võ trang
của Ðề Thám không hợp với quan điểm ôn
hoà
bất bạo động của mình, nên Phan Chu Trinh
đành rời khỏi Yên Thế. Sau khi rời khỏi Yên
Thế, Phan Chu Trinh tìm cách xuất dương sang Nhật
(2-1906) để tìm hiểu nước Nhật và gặp
Phan Bội Châu, trao đổi kế sách cứu
nước.
Cuối tháng
2-1906, Phan Chu Trinh đã đến Hương Cảng và
đã gặp Phan Bội Châu tại nhà của Lưu
Vĩnh Phúc ở Quảng Ðông. Trong 10 ngày ở Quảng
Ðông, tình chiến hữu của hai nhà yêu nước
họ
Phan thật đậm đà, tuy nhiên họ vẫn hoàn toàn
xa cách nhau về quan điểm!
Theo lời
tự thuật của Phan Bội Châu thì Phan Chu Trinh "hết
sức công kích tội ác của dân tặc độc phu,
mà
nói đến hiện triều quân chủ, họa quốc
ương dân càng tỏ ra ý nghiến răng, rách mắt,
hình như cụ nghĩ rằng cái tệ quân chủ chuyên
chế không trừ thì tuy phục quốc cũng vẫn
chưa phải là hạnh phúc". Và Phan Chu Trinh
"mới tự làm một bức thư cảnh cáo,
đem đi in, cuối thư tự ký tên 'Dân Tặc
Hậu Cường Ðể'" (4).
Trong thờ
gian ở Nhật, cũng theo lời tự thuật
của Phan Bội Châu, rằng "Hồi tôi lên đông
Kinh, cụ Tây Hồ cùng đi với tôi, tham quan khắp
các học đường, và khảo sát khắp những
công việc chính trị giáo dục của Nhật Bản,
cụ bảo tôi rằng "Trình độ dân
Nhật Bản như thế, mà trình độ dân ta như
thế, không nô lệ làm sao được! Ðược bao
nhiêu học sinh vào học trường học Nhật
Bản là sự nghiệp rất lớn của ông. Từ
nay nên lưu Ðông yên nghỉ, chăm việc làm
sách, bất
tất nói bài Pháp làm gì. Chỉ
nên đề xướng dân
quyền, dân ta đã biết có quyền thì việc
có
thể tính lần được." Từ đó luôn
mười ngày hơn, tôi với cụ bàn bạc, ý
kiến rất trái nhau. Cụ thì muốn đánh đổ
quân chủ, mà cốt vun trồng lấy nền tảng dân
quyền, hãy dựa vào Pháp mà đánh đổ
quân chủ.
Còn ý của tôi thì trước muốn đánh đổ
người Pháp, chờ lúc nước nhà độc
lập rồi mới bàn đến việc khác.
Ðương lúc đánh với Pháp phải lợi dụng
quân chủ." (5)
Cuối
năm Bính Ngọ (1906), Phan Chu Trinh trở về
nước; khi chia tay với Phan Bội Châu ông có
nói: "Quốc
dân chỉ hy vọng nơi ông, Kỳ Ngoại Hầu không
cần gì đâu." (6)
Từ khi
về đến nước nhà, Phan Chu Trinh đã không còn
liên hệ với Phan Bội Châu và tổ chức Duy Tân
Hội do Cường Ðể làm minh chủ. Phan Chu Trinh
quyết tâm thực hiện chính kiến qua bức thư
gửi cho toàn quyền Beau (15-8-1906), và việc này
đã
trở thành câu chuyện: "Phan Chu Trinh đầu thư
cho chánh phủ Pháp" (nguyên văn chữ Hán
là:
"Ðầu Pháp chính phủ thư" - Bản Việt
ngữ do Ngô Ðức Kế dịch).
Bức
thư dài đến 20 trang in (khổ 12x20 cm) với
nội dung chủ yếu là phê phán "chính phủ
bảo hộ ngược đãi người Việt nam,
không hề lấy nhân đạo mà đãi người
Việt Nam bao giờ"; và vạch trần bản
chất bảo hộ của chính phủ Pháp là "để
cho một giống nòi bóc lột lẫn nhau, tàn hại
lẫn nhau, rồi người Pháp thi hành cái kế
thực dân cho dễ". Ðồng thời, Phan Chu Trinh
cũng lên án chính phủ bảo hộ "đã dung
dưỡng cho bọn quan lại An Nam để gây nên
tệ lậu", và "khi thị sĩ dân Việt
Nam thái quá, khiến cho đôi bên phải xa
cách nhau",
do đó bọn "quan lại nhân cái sự ly gián
mà hành
hà dân" (8).
Cuối
thư Phan Chu Trinh kiến nghị rằng:
"Nếu
ngày nay chính phủ biết hối ngộ lại thì mau mau
đổi lại chính sách, kén dùng hiền
tài, giao cho
quyền binh, lấy lễ đãi người, lấy lòng
thành xử với người, rồi cùng nhau trù hoạch
cái kế sách hưng lợi trừ hại, mở cái
quyền nghị luận... mở nhà báo để thấy
rõ dân tình; minh thưởng phạt để thanh trừ
lại tệ; những việc cần thiết như
đổi pháp luật, bỏ khoa cử, mở nhà học,
dựng phòng sách, chấn hưng công thương kỹ
nghệ, các việc đều lần lượt cải
lương. Như thế thì dân An Nam ai cũng vui, lại
chỉ sợ nước Pháp bỏ nước Nam đi mà
thôi, còn có gì mà kình địch
nữa."
Ðể
kết luận, Phan Chu Trinh đưa ra hai điều
kiện với chính phủ bảo hộ: Một là, "nhận
lời nói" của ông "thì thật là hạnh
phúc cho dân An Nam lắm." Hai là, đem ông
"mà
trị vào các tội hủy báng cho thật nặng,
để làm gương cho các thân sĩ trong nước
khóa cổ ngậm miệng mà lách cho xa, chứ cho bắt
trước như tôi đường đột dám nói mà
mắc tội." (9)
Tuy toàn
bộ của bức thư là tố cáo chính sách thưc.
dân
của chính phủ Pháp và lên án gắt gao
đối với
bọn quan lại Nam triều, nhưng Phan Chu Trinh cố
dùng ngôn từ ôn hòa, nhã nhặn
và có lúc còn hạ mình như
đoạn mở đầu lá thư, rằng: "Phan
Chu Trinh đệ bức thư này lên quan toàn quyền
đại thần, tôi xin bầy tỏ cái tình hình nguy
cấp của nước Việt Nam tôi ngày nay để
quan lớn biết". Hay ở đoạn cuối
thư, Phan Chu Trinh đã viết: "nếu quan lớn
bảo hộ mà quả có tấm lòng thành thật khoản
đãi dân Nam, thì nên lượng tấm lòng
của tôi."
Dù vậy
Phan Chu Trinh vẫn không có thể làm cảm động
những tên thực dân đã rắp tâm biến nước
ta thành thuộc địa của chúng. Nhà yêu nước
Phan Chu Trinh có thể nhận thức được sự
phũ phàng này, nhưng có lẽ ông muốn thử thực
hiện chí hướng cải lương, xem thử
kết quả ra sao? Vì từ trước đến nay,
hầu như chưa có một chí sĩ nào thực hiện
phương cách cải lương như ông đã làm!
Và
kết quả chỉ là tiếng vang như một hồi
chuông khuấy động dư luận một thời! Câu
chuyện "Phan Chu Trinh đầu thư cho chính phủ
Pháp" lan nhanh trong giới nhân sĩ, trí thức
và trên quan
trường của chính phủ bảo hộ, lẫn chính
phủ Nam Triều. Từ nay, Phan Chu Trinh đã trở thành
"cái gai phải nhổ" của cả thực dân Pháp
và triều đình Huế.
Hưởng
ứng chủ trương "quốc dân phải liên
hiệp với nhau mà mở rộng đường giáo
dục và phát triển kinh tế" của Phan Chu Trinh,
ngoài Bắc, Lương Văn Can và các đồng chí
của ông mở trường "Ðông Kinh Nghĩa
Thục". Ở Trung Kỳ, Huỳnh Tùng Bá và Nguyễn
Quyền lập "Quảng Nam Hiệp Thương Công
Ty", trong Nam, các ông Trần Chánh Chiếu (Gillbert
Chiếu) và Nguyễn Thành Út đã lập "Minh
Tân Công
Ty"...
Phong trào Duy
Tân ở trong nước trong những năm 1906-1908 là do
Phan Chu Trinh cùng Trần Quý Cáp và Huỳnh
Thúc Kháng phát
động. Ðó là một phong trào yêu nước
và cách
mạng theo đường lối ôn hòa, bất bạo
động. Ðường lối này đã được
nhiều sĩ phu hưởng ứng (như Phan Thúc Duyên
ở Quảng Nam; Nguyễn Bá Loan, Lê Tựu Khiết,
Nguyễn Mai, Lê Ðình Cẩn ở Quảng Ngãi; Ngô
Ðức
Kế, Ðặng Nguyên Cẩn ở Nghệ Tĩnh v.v...)
Ðường
lối Duy Tân của Phan Chu Trinh đang thực hiện
trong nước đã làm Phan Bội Châu lo ngại, nên
ông
vội vàng viết một bức thư gửi cho Phan Chu
Trinh (4-1908). trong thư có câu: "Dân
chí bất tồn,
chủ ư hà hữu", nghĩa là nếu dân đã
không còn, thì chủ có ở đây?
Không chỉ có Phan Bội
Châu, mà ở trong nước nhóm sĩ phu chủ
trương đấu tranh vũ trang để giải
phóng dân tộc đều bất đồng ý kiến
với Phan Chu Trinh!
Tháng 12-1907,
trong khi Phan Chu Trinh đang diễn thuyết ở
trường Ðông Kinh Nghĩa Thục (Hà Nội), thì
chính
quyền thực dân Pháp đã ra lệnh đóng cửa
trường Ðông Kinh Nghĩa Thục với lý do là dẹp
"cái lo phiếm loạn" ở Bắc Kỳ? Vì
thế, Phan Chu Trinh dự định trở vào Nam
để tiếp tục quảng bá đường
lối duy tân của ông. Những diễn biến của
"phong trào chống đi phu, chống sưu thuế"
mở ra ở Quảng Nam và lan ra các tỉnh Miền Trung
(2-1908) đã tạo nên một bước ngoặt mới
trên con đường yêu nước của Phan Chu Trinh.
Trường
Ðông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa! Ngày
15-10-1908,
Dương Bá Trạc bị tuyên án 15 năm khổ sai và
bị đầy đi Côn Ðảo. Còn Lương Văn Can
bị 15 năm phát vãng (banissement) và bị 10 năm
biệt
xứ, bị an trí tại Nam Vang. Nguyễn Quyền bị
đi đầy 2 năm ở Côn Ðảo, rồi bị
đưa về an trí ở Bến Tre...
Phong trào Duy
Tân ở Trung Kỳ cũng bị khủng bố dữ
dội: Trần Quý Cáp, Nguyễn Bá Loan, Lê Tựu
Khiết
bị kết án tử hình. Huỳnh Thúc Kháng, Phạm
Văn Ngôn, Ngô Ðức Kế, Nguyễn Ðình
Kiên, Lê Văn
Huân, Trần Cao Vân, Phan Thúc Duyên, Nguyễn
Ðình Quảng,
Trần Kỳ Phong đều bị bắt và bị
đày đi Côn Ðảo. Phan Chu Trinh cũng đồng chung
số phận với các đồng chí của mình!
Ngày 29-2-1908,
Khâm Sứ Trung Kỳ Levecque đã điện cho Khâm Sứ
Bắc Kỳ Morel cho hay rằng: "Cơ Mật
Viện khẳng định kẻ chủ mưu phiến
loạn là Phan Chu Trinh đang sống tại Hà Nội".
Ngày 31-3-1908, Thống Ðốc Bonhoure, quyền chức Toàn
Quyền Ðông Dương thay cho Paul Beau, ra lệnh cho Khâm
Sứ Morel bắt Phan Chu Trinh ngay tại nơi ông đang
ở (phố Hàng Gai, Hà Nội). Và ngày 2-4-1908,
Thanh Tra
Ganthier đã áp giải Phan Chu Trinh xuống Hải Phòng
và
đưa ông vào Huế bằng đường thủy
(4-11-1908).
Khi mới
giải Phan Chu Trinh về Huế, chúng giam ông tại tòa
Khâm
Sứ. Phan Chu Trinh đã tuyệt thực 7 ngày để
phản đối. Ðể tránh trách nhiệm, tên Khâm
Sứ
Levecque mới chuyển giao ông cho Cơ Mật Viện,
để giam ông này tại nhà lao Hộ Thành trong
Hà Nội.
Tại đây, ông bị đối xử như một
tử tù, chân bị xiềng, tay bị trói và cổ bị
mang gông.
Ngày 10-4-1908,
Khâm Sứ Levecque giao cho Cơ Mật Viện họp
luận tội Phan Chu Trinh, nhưng hắn không tham dự
để tránh dư luận phản đối! Rõ ràng,
Cơ Mật Viện của triều Huế chỉ là
một tổ chức tay sai của Pháp! Cơ Mật
Viện đã chiếu điều 224 Luật Gia Long,
buộc tội và kết án Phan Chu Trinh như sau: "Thủ
phạm âm mưu phản nghịch nhưng chưa thực
hiện: xử giảo (thắt cổ) án treo, sẽ
đày đi Lao Bảo, cấm cố chung thân, không
được ân xá."
Nhưng tên
Khâm Sứ Levecque không chịu duyệt y bản án của
Cơ Mật Viện. Hắn triệu tập một phiên
họp để xét lại bản án (11-4-1908). Hắn yêu
cầu phải áp dụng điều 223 của Luật Gia
Long về tội "phản loạn". Hắn tuyên
bố: "Phan Chu Trinh đã phạm hai tội: Phản
quốc vì kêu gọi Nhật Bản giúp (?). Và
làm loạn vì
khích động dân chúng chống lại quyền lực
của nhà vua và nhà nước bảo hộ". Cho nên
Cơ Mật Viện đành phải làm lại bản án,
kết tội Phan Chu Trinh như sau: "Kết án Phan Chu
Trinh là một trong những chủ phạm vào tội
tử hình, nên bị tuyên án trảm quyết!"
Ðược
tin "tuyên án trảm quyết" Phan Chu Trinh, một
người bạn Pháp của ông là Ernest Babut - chủ
bút
tờ "Ðăng Cổ Thời Báo" ở Hà Nội, và
là hội viên của Hội Nhân Quyền (Ligne des Droit de
l'Homme) đã ra mặt can thiệp, yêu cầu toàn quyền
Ðông Dương buộc Khâm Sứ Huế xét lại bản
án. Kết quả, do sự tranh đấu tích cực
của Ernest Babut và Hội Nhân Quyền, cuối cùng bản
án được sửa lại là: "Côn Lôn ngộ
xá
bất nguyên", nghĩa là đưa đi đày
ở Côn Ðảo, dù có đại xá Phan Chu Trinh
vẫn không
được tha!
Ngày 17-4-1908,
Phan Chu Trinh bị giải về Sàigòn để đưa
ra Côn Ðảo vào ngày 24-4-1908. Khi bọn
lính Pháp dẫn ông
rời nhà lao trong Thành Nội (Huế), đi ngang qua
cửa thành Thượng Tứ, Phan Chu Trinh đã cảm
khái làm bài thơ "Xuất Ðô Môn" như
sau:
"Mang
xiềng nhẹ bước khỏi đô môn,
Hăng
hái hò reo lưỡi vẫn còn,
Ðất
nước hãm chìm, dân tộc héo,
Làm
trai đâu xá thứ Côn Lôn." (10)
Phan Chu Trinh
bị lưu đầy tại Côn Ðảo, tuy là án chung
thân
không được ân xá, nhưng ông không
chán nản vẫn
nuôi dưỡng chí đấu tranh cho công cuộc giải
phóng dân tộc. Tinh thần quả cảm ấy đã
được thể hiện trong bài thơ "Ði Ðập
Ðá" của ông. Thơ rằng:
"Làm
trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng
lãy làm cho lở núi non.
Xách
búa đánh tan năm bẩy đống,
Ra
tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng
ngày bao quản thân sành sõi,
Mưa
nắng chi sờn dạ sắt son.
Những
kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian
nan nào sá sự con con."
Trong thời
gian Phan Chu Trinh bị lưu đầy ở Côn Ðảo
(1908-1910), ở bên ngoài người bạn Pháp Ernest
Babut
tiếp tục vận động Hội Nhân Quyền Pháp
đấu tranh đòi thả Phan Chu Trinh, cho nên vụ án
Phan Chu Trinh đã được đua ra quốc hội
Pháp. Ông Pressené - Chủ Tịch Hội Nhân Quyền
- đã
chất vấn ông Trouillet - Bộ Trưởng Thuộc
Ðịa, về việc bắt giữ và lưu đày Phan Chu
Trinh đi Côn Ðảo. Trouillet đổ cho triều đình
Huế vì "căm thù Phan Chu Trinh" nên mới hành
động như vậy! Về phía chính phủ bảo
hộ - Trouillet chỉ thừa nhận - là "thiếu
sáng suốt không kịp thời can thiệp"... Nhờ
vậy, Thủ Tướng Pháp Raymond Poincaré mới ra lệnh
tái thẩm bản án của Phan Chu Trinh (1910). Toàn
Quyền
Ðông Dương Klobulowsky thi hành lệnh của
Poincaré
lập Hội Ðồng Tái Thẩm bản án Phan Chu Trinh, do
Chánh Tham Biện tỉnh Mỹ Tho là Cousineau làm
chánh
thẩm. Và trước khi quyết định thả Phan
Chu Trinh, Klobulowsky đã cử một viên Thống Ðốc
(?) ra tận Côn Ðảo để thẩm vấn Phan Chu
Trinh lần chót.
Theo lời
kể của Huỳnh Thúc Kháng, cùng ở tù với Phan
Chu
Trinh thì việc thẩm vấn diễn tiến như sau:
"Thống
đốc hỏi:
- Ông có
tư tưởng phản đối nước Pháp hay
không?
Phan Chu
Trinh trả lời:
- Bản
lai tôi không có tư tưởng đó. Tôi phản
đối là phản đối cái chính sách ngược
đãi người Việt Nam chúng tôi, chứ không phản
đối nước Pháp.
- Có
biết Phan Bội Châu không?
- Chính anh
em bạn tôi.
- Vậy
thì ông cũng là đảng bài Pháp chứ
gì?
- Phan
Bội Châu hiệu là Sào Nam, là một tay
hào kiệt ái
quốc của nước Nam, trong nước không ai không
biết tiếng. Nhưng tôi với Sào Quân ý kiến
không
đồng mà lại trái nhau hẳn.
- Trái nhau
thế nào?
- Phan Quân
nhận hẳn rằng người Pháp không thật lòng
khai hóa cho người Nam, nên trước phải tìm
cách
đánh đổ chính phủ Pháp, mà muốn đánh
đổ chính phủ Pháp, không nhờ cậy một
thế lực nước ngoài
thì không làm gì được...
Tôi bác thuyết trên của Sào Quân, lấy
lẽ rằng vì
nước Việt Nam chui núp dưới chính thể chuyên
chế trên nghìn năm, chưa có tư cách quốc
dân
độc lập, dù có nhờ cậy sức nước
ngoài thì chỉ diễn cái trò "dịch chủ
tái
nô"... Còn theo chính kiến tôi, cậy sức nước
ngoài thì có quanh co khúc chiết,
mình không tự lập, ai
cũng là kẻ cừu của mình. Triều Tiên, Ðài
Loan cái
gương rõ ràng. Người Nhật chắc gì hơn
người Pháp?
- Vậy
ông sang Nhật làm gì?
- ... Tôi
sang Nhật để thuật rõ tình hình trong nước
cho Sào Quân nghe. Khuyên Sào Quân chăm
lo đào tạo thiếu
niên du học, gác tư tưởng hành vi bạo
động lại, đợi thời hội khác. Tôi
ở Nhật cũng cùng Sào Quân biện cãi nhiều
lần, rốt cuộc Sào Quân không nghe, tôi
bèn từ về.
- Về
nước ông làm những gì?
- Về
nước tôi cùng anh em đồng chí tổ chức
lập những
hội công khai như học hội, thương hội
v.v... Tôi làm một bức thư điều trần
gửi lên quan Toàn Quyền, quan Khâm Sứ và đăng
các
báo Tây, thuật rõ tình trạng trong nước
cùng hiểm
tượng Ðông Dương, bản ý là cốt tỏ bày
mối tâm sự, mở đường khai hóa sau này, không
dè vì thế mà mang tội. Tôi xem xứ Âu
Tây, có khi anh em
một nhà mà chính kiến cũng khác nhau, huống
chi là anh
em bạn.
Viên Thống
đốc gật đầu và nói:
- Ông nói phải. Chính
kiến không
đồng nhau, cái đó vẫn thường. Ông còn
muốn nói gì nữa không?
- ... Tôi ra ngoài hòn
đảo này đã gần hai năm, cách xa trong
đất, tin tức không thông, nhưng có bạn tù mới
ra thuật chuyện nơi biên giới Bắc Việt và
Trung Việt thỉnh thoảng có những hành vi kịch
liệt, nhà nước xử bằng nghiêm hình trọng
phạt, e nhân đó là gây ra mối biên loạn
to, cái đó
rất thất sách, không phải cách xử trí
thích hợp"
(11).
Qua những
câu trả lời của Phan Chu Trinh, chúng ta thấy ông
rất thông minh và khôn khéo, lấy được cảm
tình của viên thống đốc. Vì vậy, trước
khi ra về, hắn hứa rằng: "Tôi sẽ
đạt ý ông lên quan toàn quyền, có lẽ
chúng ta sẽ
gặp nhau ở Sàigòn nay mai". (12)
Tháng 1 năm
1911, Phan Chu Trinh được trả tự do, nhưng
bị đưa về quản chế ở Mỹ Tho! Phan
Chu Trinh cực lực phản đối, và tuyên bố
rằng: "Nếu không cho tôi hoàn toàn tự do
thì hãy
trả về Côn Lôn". Chánh phủ thực dân
Pháp
đành phải nhượng bộ, bãi bỏ lệnh
quản chế cho Phan Chu Trinh.
Ở vài
tháng tại Mỹ tho, quan sát tình thế, Phan Chu
Trinh
thấy ở trong nước không có đất cho ông
tiếp tục chí hướng của mình, nên ông đệ
đơn cho viên toàn quyền xin sang cư trú trên
đất Pháp - mảnh đất tự do có thể
để ông tiếp tục chí hướng đấu
tranh cho dân quyền của dân tộc Việt Nam. Chính
phủ Pháp chấp thuận ngay vì đã nhổ được
cái gai cho chính phủ bảo hộ và Nam Triều!
Thế là,
tháng 4-1911, Phan Chu Trinh và người con trai 14 tuổi -
Phan
Châu Dật (13), theo viên Toàn Quyền Klobukowsky
lên
đường sang Pháp.
Trước
khi xa tổ quốc, Phan Chu Trinh có làm một bài thơ
gửi quốc dân, đồng bào, bày tỏ ý lòng
của
ông. Thơ rằng:
"Làm
trai trót gánh gánh gian nan,
Dám
lại xa xôi bỏ giữa đàng.
Coi
ra chỉ có ba tấc lưỡi,
Trải
qua đã nát mấy buồng gan.
Tếch
Dương Ấn Ðộ như thiên hạ,
Lên
tháp Ba Lê nhất thế gian.
Mượn
bút Tương Như đề mấy chữ,
Thân
này đành phó với giang san."
Khi mới
đến Pháp, Phan Chu Trinh ở tại Paris và
được chính phủ Pháp trợ cấp 450 Francs
mỗi tháng để sinh sống - một số tiền
quá ít so với mức sinh hoạt ở Paris cho hai cha con. Do
đó, Phan Chu Trinh phải làm thêm nghề rửa ảnh
để có thêm tiền cho người con đi học
(14).
Dù phải
vật lộn với cuộc sống khó khăn ở
thủ đô ánh sáng của Pháp, nhưng Phan Chu
Trinh vẫn
một lòng vì sự nghiệp đấu tranh cho dân
quyền của dân tộc Việt Nam bằng con
đường ngôn luận. Trong mấy tháng cuối
năm 1911, Phan Chu Trinh đã hoàn thành hai
công trình: "Trung
Kỳ Dân Biến Thĩ Mạt Ký" và "Ðông
Dương Chính Trị Luận."
Cuốn sách
"Trung Kỳ Dân Biến Thĩ Mạt Ký" viết
bằng chữ Hán, Phan Chu Trinh tự dịch ra chữ Nôm,
với nội dung miêu tả nỗi khổ đau cùng cực
của nhân dân Trung Kỳ dưới sự đè nặng
của thuế má do chính phủ bảo hộ đặt
ra, nghẹt thở đến phải nổi dậy
đòi giảm thuế để sinh tồn; nhưng
họ đã bị chính quyền bảo hộ đàn áp
tàn
bạo... Cuốn sách này đã được Thiếu Tá
Rules Roux dịch ra Pháp ngữ đưa cho Albert Sarraut xem,
khi ông ta sắp nhận chức Toàn Quyền Ðông
Dương.
Còn tác
phẩm "Ðông Dương Chính Trị Luận" thì Phan
Chu Trinh trình bầy tình trạng chính trị áp
bức
khắc nghiệt tại Ðông Dương và lên án tội
ác
của chủ nghĩa thực dân Pháp, điển hình
như "Sự tàn bạo của các nhà kinh doanh Pháp
ở
Ðông Dương", rằng: "Bất kỳ
người Pháp nào có quan chức ở Ðông Dương
hễ gặp bất cứ việc nào họ cũng sách
nhiễu dân chúng, việc tệ hại nào không
làm... Còn có một
số người Pháp ở Ðông Dương chuyên kinh doanh
các nghề nông, công, thương nghiệp cũng ỷ
thế hoành hành với dân quê."
Ðầu
năm 1912, Phan Chu Trinh và con được Luật Sư
Phan Văn Trường mời về ở chung tại ngôi
nhà do ông thuê, số 6 Villa des Gobelins ở quận 13,
Paris.
Trước
năm 1912, Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường chưa
hề quen nhau. Phan Văn Trường đã nghe danh của
Phan Chu Trinh từ năm 1908, trước ngày ông sang
Pháp.
Nhưng Phan Chu Trinh thì mới nghe danh Phan Văn
Trường khi ông đến sống ở Paris (1911). Tuy
vậy, hai nhà yêu nước họ Phan khi mới gặp
nhau nơi xứ người, họ đã cảm thấy
thân nhau ngay. Do đó, khi Phan Văn Trường ngỏ
lời mời về sống chung thì Phan Chu Trinh nhận
lời ngay, và cũng là cơ hội bắt đầu
sự hợp tác của hai nhà chí sĩ họ Phan trong
việc chung lo đại nghiệp của dân tộc (15).
Hai ông đã đồng tâm nhất trí khai sinh một tổ
chức yêu nước của người Việt ở
Pháp, công khai mang tên là Hội Ðồng
Bào Thân Ái (HÐBTA). Và
"căn nhà ở phố Gobelins đã trở thành nơi
gặp gỡ Việt kiều" ở Pháp bao gồm
mọi thành phần xã hội. Luật Sư Phan Văn
Trường "là người có học thức nhất
trong bọn" nên được cử làm "Hội
Trưởng Hội Ðồng Bào Thân Ái". Ðây
là một
tổ chức có "xu hướng dân tộc chủ
nghĩa rõ rệt" (16). Phải nói rằng: Từ
năm 1912, số phận chính trị của Phan Chu Trinh
đã gắn chặt với HÐBTA, với Luật Sư Phan
Văn Trường, và sau này là nhóm Ngũ Long (5
con rồng
Việt Nam tại Pháp) (17).
Phan Chu Trinh
đã tích cực hoạt động cho HÐBTA, ông đã
trực tiếp tuyên truyền vận động thành
phần học sinh, sinh viên Việt Nam tại Paris gia
nhập Hội và hoạt động cho Hội.
Năm 1913,
sau vụ nổ bom ở Hà Nội của các chiến
sĩ Việt Nam Quang Phục Hội (26-4-1913), mật thám
Pháp tại Paris đặc biệt quan tâm đến
hoạt động của HÐBTA, vì chúng nghi rằng HÐBTA
có
liên hệ chặt chẽ với phong trào yêu nước
ở Việt Nam. Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường là
hai đối tượng chính trị nguy hiểm của
bọn mật thám Pháp ở Paris. Do đó, khi Phan Chu
Trinh
nhận được thư của Cường Ðể,
do Trương Duy Toản (18) mang từ Luân Ðôn sang,
thì Phan
Chu Trinh ngờ là cái bẫy của mật thám Pháp,
nên ông
"núm lấy Trương Duy Toản đưa
đến thuộc địa của Pháp, có ý báo cho
người Pháp: quỷ kế của các người, lão
biết rồi đó" (19).
Ngày 3-8-1914,
chiến tranh Pháp-Ðức bùng nổ, thì ngày
28-8-1914, Bộ
Trưởng Bộ Thuộc Ðịa liền trình công văn
lên Bộ Trưởng Chiến Tranh (Pháp) đề
nghị có biện pháp ngăn ngừa bạo loạn
của Phan Văn Trường và Phan Chu Trinh, vì hai nhân
vật này đã "có những hành vi
đáng ngờ
(agissements suspects) rằng họ đã khích động sinh
viên Việt Nam hận thù chính phủ Pháp,
đã tập
họp những người này lại trong một hội
đoàn để gây mầm phản loạn" (20). Và
theo lời kể của Phan Văn Trường: "Tháng
9-1914, chính phủ (Pháp) lợi dụng tình trạng
chiến tranh để buộc tội ông (Phan Chu Trinh) cùng
với tôi có âm mưu chính trị chống lại
nước Pháp và giam chúng tôi vào ngục
tối trong 11
tháng" (21).
Phan Chu Trinh
bị bắt vào ngày 14-9-1914 (sau Phan Văn Trường hai
ngày) và bị giam tại nhà lao dân sự La
Santé. Trong
thời gian ở tù, Phan Chu Trinh vẫn không nhụt chí
đấu tranh và vẫn ung dung sống như lời
thơ do ông sáng tác sau đây:
"Từ
ấy giam luôn mấy tháng tròn
Nhờ
trời ngủ kỹ lại ăn ngon
Ngày
ba lần xực coi còn đói
Ðêm
chín giờ ngơi ngáy vẫn dòn
Mỗi
bữa nửa giờ ra hóng mát
Một
tuần hai bận xuống thăm con
Vui
buồn mình biết lòng mình vậy
Miễn
trả cho rồi nợ nước non" (22)
Phan Chu Trinh
cũng đã phản đối quyết liệt
đối với viên chánh án kết tội ông. Một
lần, tại văn phòng viên chánh án, Phan Chu
Trinh đã nói
thẳng với hắn rằng: "Quan án là một tên
gian dối, thay mặt cho quân thù nghịch của tôi,
lấy ý riêng mà bắt tôi, giam tôi. Từ
nay, tôi cứ
đem lời lẽ công bằng mà chống cự lại
với những việc làm gian dối, không công bằng
của quan lớn." Phan Chu Trinh cũng đã hiên ngang
tuyên bố trước mặt tên chánh án rằng: "Tôi
thề chết giữa bàn giấy quan lớn. Tôi thề
lấy máu tôi mà bôi đầy đầu, đầy
mặt, đầy cổ, đầy mình quan lớn, tôi bôi
cho đỏ cả buồng giấy gian dối. Tôi
chẳng chịu chết mòn, chết rục, chết
vằm, chết thảm ở cái buồng giam 26 này
đâu." (23).
Trong
những ngày tháng bị tù giam ở La Santé
(Paris)
điều lo lắng nhất của Phan Chu Trinh là bệnh
tình của người con trai Phan Chu Dật! Năm Phan Chu
Trinh bị bắt giam, cũng là năm Phan Chu Dật
đậu bằng Tú Tài Vật Lý học. Nhưng vì
quá lo
cho cha nên Dật đã phát nệnh. Nghe tin con bệnh
nặng, Phan Chu Trinh quyết định nhờ ông M. Moutet
lo liệu đưa con về trong nước để
dưỡng bệnh và điều trị. Khi chia tay con
trai, Phan Chu Trinh đã nói lên một lời tâm
huyết mà ông
không ngờ đó là lời vĩnh biệt cuối cùng
của ông đối với Phan Chu Dật (24). Ông nói: "Này
con, cha xa nhà bỏ nước ra đi để tìm một
miếng đất tự do, bình đẳng, bác ái,
đặng sống. Sống không phải là ký sinh trùng
của thế gian, sống để mưu đồ
một công cuộc hữu ích gì cho đồng bào, tổ
quốc. Thế nhưng hôm nay cha cảm thấy
nước Pháp văn minh chưa phải gồm toàn
những người có tâm hồn cao thượng ấy
hết. Cha đã bị bao cảnh khốn khổ trong lao
tù. Việc ấy cha nào kể, việc cha lo là lo cho
đồng bào kia. Bây giờ con phải về nước.
Chẳng khéo lại hệ lụy đến con nữa. Với
sức học của con, cha tin tưởng ở con
sẽ sáng suốt phụng sự đồng bào."
(25).
Giữa
năm 1915, tại tòa án binh Paris, Marlus Moutet (đảng
viên
Xã Hội Pháp, hội viên Hội Nhân Quyền, nghị
sĩ quốc hội vùng Rhône) (26) cùng với cựu
Thiếu Tá Jules Roux, đã bênh vực cho Phan Chu
Trinh, bác bỏ
lời kết tội của viên chánh án. Nhờ đó,
mà
tháng 7-1915 (Ất Mão) chính phủ Poincaré
phải ký lệnh
trả tự do cho Phan Chu Trinh. Nhưng bọn thực dân
Pháp lại thực hiện chính sách triệt nguồn
sống của ông "bằng cách hủy bỏ trợ
cấp hàng tháng 450 frs, có lẽ với hy vọng rằng
ông không biết tiếng Pháp, lại không
rành một
nghề nào có thể kiếm sống ở Pháp, ông sẽ
buộc phải xin về nước để khỏi
chết đói trên nước Pháp..." (27).
Bọn
thực dân Pháp đã lầm! Với thủ đoạn
đê hèn ấy, chúng không thể nào
làm nhụt chí của
một chí sĩ như Phan Tây Hồ. Ông vẫn ở
lại đất Pháp và vừa lao động sinh sống
vừa tiếp tục hoạt động đấu tranh
cho dân quyền của dân tộc Việt Nam.
o0o
Sau khi ra
khỏi nhà tù La Santé, Phan Chu Trinh vẫn
kiên tâm ở lại
nước Pháp để tiếp tục con
đường cách mạng dân quyền mà theo chủ
kiến của ông là đúng (?). Ðã bị thực
dân Pháp
cắt đứt nguồn sống bằng tiền trợ
cấp xã hội, ông quyết tâm học nghề sửa
ảnh và phóng đại ảnh để sinh sống (28).
Theo báo cáo của viên mật thám Jean
(8-1-1920) thì "Ông
Trinh làm nghề sửa ảnh, mỗi ngày kiếm
được độ 30 Francs". Tuy không có thời
giờ nhà rỗi để hoạt động yêu
nước như trước khi ở tù, nhưng
đời sống Phan Chu Trinh đã khá hơn lúc ăn
tiền trợ cấp rất nhiều, và ông còn trợ giúp
một phần chi phí cho Luật Sư Phan Văn
Trường (19).
Từ tháng
8-1915 đến khi chiến tranh Thế Giới Lần
Thứ Nhất chấm dứt (cuối năm 1918), Phan Chu
Trinh vẫn sống tại căn nhà do Phan Văn
Trường mướn (số 6, Villa des Goblins, quận
13, Paris) với vai trò chủ chính; còn Phan Văn
Trường thì thỉnh thoảng mới về thăm,
cùng Phan Chu Trinh bàn bạc việc phát động phong
trào
yêu nước của Việt kiều ở Pháp ủng hộ
công cuộc đấu tranh chống chính quyền thực
dân Pháp ở trong nước. Trong một báo cáo
tổng
hợp của Paul Arnous - Giám Ðốc Sở Tình Báo
Chính
Trị Ðặc Biệt - đã cho biết: "Phan Văn
Trường và Phan Chu Trinh đã bị tố cáo về
vụ âm mưu chống an ninh quốc gia." Sở
dĩ bọn mật thám Pháp tại Paris đã tố cáo
như vậy, là vì hai chí sĩ họ Phan đã chỉ
đạo thành lập một tổ chức mới:
Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước (30)
(thay cho Hội Ðồng Bào Thân Ái đã tan
rã từ 1916).
Thời gian
từ 1919 đến 1922, Phan Chu Trinh được xem là
nhân vật lãnh đạo trụ cột của Hội
Những Người Việt Nam Yêu Nước; bởi vì
Phan Văn Trường đã sang làm việc tại
nước Ðức vào cuối năm 1919, với tư cách
là "Trạng Sư trước Hội Ðồng Quân
Sự Mayence", thỉnh thoảng ông mới về Paris.
Nhưng vì Phan Chu Trinh (và Phan Văn Trường) đang
bị bọn mật thám Pháp theo dõi quá chặt chẽ
nên
ông không tiện công khai đứng ra lãnh đạo
Hội. Do đó, hai ông đã thống nhất giao cho
Nguyễn Tất Thành (lấy tên Nguyễn Ái Quốc)
đảm trách công việc điều hành công khai.
Việc làm
có ảnh hưởng vang dội đầu tiên của
Hội là đưa bản "Yêu sách của nhân dân
Việt Nam" tới Nghị Viện Pháp và đại
biểu của các nước dự hội nghị
Versailles vào ngày 18-6-1919. Chính Phan Chu
Trinh là người
đề xuất việc đưa bản yêu sách
đến hội nghị Versailles và được ông
được cả nhóm Ngũ Long giao cho soạn thảo
bản yêu sách bằng chữ Hán với tựa đề
là: "Việt Nam Nhân Dân Thỉnh Nguyện Thư".
Căn cứ vào bản văn chữ Hán, Phan Văn
Trường viết lại (có sửa chữa) bằng
chữ Pháp với tựa đề là: "Renvendications du
Peuple Ananamite" để gửi đi và phổ biến
rộng rãi trên báo chí (31).
Năm 1922,
nhân dịp vua Khải Ðịnh sang Pháp để dự
cuộc đấu xảo quốc tế, từ Marseille,
Phan Chu Trinh đã viết bức thư gửi cho Khải
Ðịnh. Bức thư với đầu đề
"Thất Ðiều Thư" và đề ngày 15-7-1922.
Nội dung
căn bản của bức thư, như Phan Chu Trinh
đã viết cảnh cáo vua Khải Ðịnh rằng: "Nói
ra không xiết, song bây giờ hãy đem 7 tội mà
Bệ
Hạ đã phạm với quốc dân, kể cho rõ ràng, khi
Bệ Hạ nhận bức thư này, hãy nên tỉnh
ngộ lại mà tự xử lấy mình" (32).
Cuối cùng Phan Chu Trinh nêu
yêu
sách rằng: "Bệ Hạ còn một chút thiên
lương mà biết hối ngộ ra, tin rằng quân
quyền không có thể cậy được, dân quyền
không có thể đoạt được, đem chính
quyền trao trả cho quốc dân, để quốc dân
được trực tiếp ngay với chính phủ Pháp
mà làm công việc, để mưu sự ích lợi sau
này,
vậy thì may ra quốc dân còn thương cái
lòng mà tha cái
tội ấy đi, ấy là cái kế sách của Bệ
Hạ ngày nay, không còn gì hơn nữa."
(33). Phan Chu
Trinh cũng tuyên bố rằng: Nếu Khải Ðịnh
không chấp nhận yêu sách đó "thì
Trinh này sẽ
bố cáo với quốc dân và thương thuyết
với chánh phủ Pháp, lĩnh mạng hai mươi
lăm triệu đồng bào Việt Nam cùng với Bệ
Hạ tuyên chiến một trận kịch liệt."
(34).
Ðã sống
trên đất Pháp, tại thủ đô "ánh sáng
dân
chủ" (Paris) hơn 10 năm (1911-1922) và đã một
lần bị tù oan (1914-1915) mà Phan Chu Trinh vẫn chưa
nhận thấy hết bản chất của chủ
nghĩa thực dân Pháp trong việc chiếm lấy
Việt Nam làm thuộc địa, nên ông vẫn còn
nuôi
mộng "thương thuyết với chính phủ
Pháp"?
Luật
Sư Phan Văn Trường cũng không đồng ý thái
độ "đề huề" với chủ
nghĩa thực dân Pháp của Phan Chu Trinh, nhất là từ
khi Phan Chu Trinh ra tù (1919). Trong chương "Nhà Nho
Phan Chu
Trinh và nỗi thống khổ của ông" (35), Phan
Văn Trường đã phản ảnh như sau:
"Ông
Phan Chu Trinh là một người bền chí! Tuy phải
sống trong cảnh khốn khổ và tủi nhục, ông
vẫn nuôi hy vọng một ngày kia sẽ tranh thủ
được ân huệ của chính phủ thực dân. Ông
tiếp tục lui tới Bộ Thuộc Ðịa, tìm cách
tiếp cận các viên chức cao cấp phụ trách
Ðông
Dương để bầy tỏ lòng thành của mình."
"Người
ta nghĩ rằng sau những bài học đau đớn
ấy (bị chính phủ Pháp bắt bỏ tù oan, bị
bọn thực dân Pháp cắt trợ cấp xã hội...?)
ông Phan Chu Trinh sẽ chữa được bệnh
lạc quan, rằng lần này sẽ dứt khoát từ
bỏ hy vọng lại được chính phủ
thực dân thi ân bố đức. Thế nhưng không
phải vậy! Ông ứng xử như chẳng có việc
gì xẩy ra: Ông nối lại quan hệ với Bộ
Thuộc Ðịa, lại tìm cách tiếp cận với
những kẻ đã ngược đãi ông, nhiều
lần xin yết kiến ông Albert Sarraut." (36).
Trong sự
nghiệp chính trị của Phan Chu Trinh với quan
điểm "Pháp-Việt đề huề" và kiên trì
quan điểm này đến cùng, là sự thất bại
lớn nhất của ông!
Thất
bại trước hết là làm mất dần bạn bè và
đồng chí trên đường đấu tranh giải
phóng dân tộc. Tuy nhiên họ vẫn kính trọng
nhiệt
huyết cứu nước, cứu dân của ông; nhưng
họ không thể tán thành đường lối kiên
trì
"Pháp-Việt đề huề" của ông. Phan
Văn Trường đã phán xét như sau: "Phan Chu
Trinh đã để 20 năm trời đề đạt
lên chính quyền thuộc địa về thuyết
thỏa hiệp này. Ông đã là người vận
động không hề biết mệt mỏi cho chính sách
Pháp-Việt đề huề. Nhưng ông đã gặt hái
được gì đã gieo rắc giữa người Pháp
và người Nam?" (37). Sau này, giáo sư
Hoàng Xuân Hãn
cũng nhận xét rằng: "Sự thất bại
của ông đã làm cho người ngày nay, khi đọc
lại thư (gửi Toàn Quyền Beau) chỉ có cảm
tưởng ông ngây thơ về chính trị và cảm
thấy tức tối khi ông mạt sát quá đáng
đồng bào mình và tâng bốc vượt mức
đối với thực dân Pháp... (38).
Thất
bại thứ hai của Phan Chu Trinh là ông vô tình
đã
tạo kẽ hở cho thực dân Pháp lợi dụng
để đánh phá phong trào cách mạng triệt
để của các lực lượng yêu nước
Việt Nam! trong báo cáo đề ngày 22-12-1921 gửi Bộ
trưởng Thuộc Ðịa của P. Guesde, có đoạn
viết về Phan Chu Trinh như sau: "Tối qua, tôi có
cuộc nói chuyện với Phan Chu Trinh... tôi thấy ông
ta
không phải là loại làm cho chánh quyền của
ta lo
ngại. Phan Chu Trinh là một người dân tộc
chủ nghĩa. Ông ta nuôi hy vọng trông thấy đất
nước của ông ta một ngày kia được
độc lập, nhưng cũng tin ở sự cần
thiết phải duy trì nền bảo hộ của chúng ta
ở Annam." và "Tin chắc rằng chính sách
tốt nhất lúc này là thỏa mãn yêu cầu
của Phan Chu
Trinh, tôi hân hạnh đề nghị Ngài cho phép
ông ta
trở về nước và chỉ thị cho ngân sách Ðông
Dương phải đãi thọ việc hồi
hương này..." (39).
Vì vậy, có
một số người đã nghi vấn việc Phan Chu
Trinh trở về nước (28-5-1925) là có quan hệ
đến chính sách lợi dụng đường lối
"Pháp-Việt đề huề" của Phan Chu Trinh?
Ðây có thể xem là một nghi án lịch sử
đối
với nhà yêu nước Phan Chu Trinh!
nh
III
. Những Năm Cuối Ðời
Theo lời yêu cầu
ráo riết của Phan Chu Trinh, với sự đề
nghị tận tình của P. Guesde (một viên chức cao
cấp của Bộ Thuộc Ðịa), nên Phan Chu Trinh đã
được Bộ Thuộc Ðịa cho phép hồi
hương.
Có một nghi vấn
của nhiều đồng chí của Phan Chu Trinh là:
Trước khi về nước do sự thúc đẩy
của ai mà Phan Chu Trinh đã hợp tác với Trần Văn
Khá để thành lập "Hội liên Hiệp
Pháp-Ðông
Dương" (Union Franco-Indochinoise) do Phan Chu Trinh làm
Hội trưởng và Trần văn Kha làm Tổng thư
ký (40)
Nhưng có một điều là bạn
bè và các đồng chí của ông
không đồng ý với
quan điểm "Pháp-Việt đề huề"
của ông điều khẳng định là Phan Chu Trinh
đã không thể rút chân ra khỏi cái vũng
lầy
"Liên Hiệp Pháp-Ðông Dương"! Bởi vì,
chính Phan
Chu Trinh đã tự nhận rằng: ông là "một
người đã day dứt suy tưởng làm thế nào
để tạo mối liên hệ hoàn toàn giữa Pháp
và
Ðông Dương trong thời gian sắp tới" (41). Phan
Chu Trinh còn nuôi ảo vọng rằng: "Ðể sống
và mở mang một vùng ở Châu Á, chúng
tôi cần sự
trợ lực của nước Pháp, về vật
chất, mà chỉ có nước Pháp là có thể
làm
được" (42). Hơn thế nữa, Phan Chu
Trinh còn tự tin đến mức chủ quan rằng: "Nếu
nước Pháp ở bên cạnh chúng tôi thì
đó là
điềm có lợi, vì làm tăng uy tín của
Pháp ở
vùng Cận Ðông, như vậy cần sự hợp tác
của tôi" (43).
Chính lòng tự tin,
chủ quan nầy, đã khiến một số chí sĩ
yêu nước đầy nhiệt huyết đã dấn
thân vào con đường cải lương chủ nghĩa
cho đến ngày trút hơi thở cuối cùng.
Phan Chu Trinh rời
nước Pháp vào hạ tuần tháng 6-1925. Ông
đã cùng
đi về nước chung một chuyến tàu với
Nguyễn An Ninh (44). Tuy không cùng quan điểm đấu
tranh chống thực dân Pháp, nhưng Nguyễn An Ninh
(cũng như Phan Văn Trường) rất coi trọng
tình đồng chí (của nhóm Ngũ Long) đối
với Phan Chu Trinh. Do đó, việc Nguyễn An Ninh cùng
về nước với Phan Chu Trinh không phải là
ngẫu nhiên, mà là do sự thảo luận trước giữa
Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh, nhằm mục
đích giúp đỡ Phan Chu Trinh có nơi ăn chốn
ở và tạo điều kiện trị bệnh cho ông.
Bài học Thân Tình nầy - "Không bao giờ quay
lưng
với bạn bè trong lúc khó khăn" cho dù quan
điểm chính trị khác nhau, thậm chí đối nghịch
nhau giữa Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh
đối với Phan Chu Trinh là một bài học lịch
sử có giá trị về đạo đức và tình
người, là một truyền thống đoàn kết
của dân tộc ta!
Ngày 26-6-1925, Phan Chu
Trinh và Nguyễn An Ninh đã về tới Sài Gòn.
Nguyễn
An Ninh đưa Phan Chu Trinh về thẳng khách sạn Chiêu
Nam Lầu (45). Nghỉ tại Chiêu Nam Lầu cho đến
ngày 29-6-1925, thì Phan Chu trinh đã được Nguyễn
An
Ninh đưa về nhà cha của ông, là cụ Nguyễn An
Khương, ở Mỹ Hoà để tiện việc
tiếp đón bạn bè đến thăm hỏi và trao
đổi công việc; đồng thời cũng
để tiện cho cụ Nguyễn An Cư (Chú ruột
của Nguyễn An Ninh, một lương y nổi
tiếng ở Nam Kỳ) chăm sóc sức khoẻ cho Phan
Chu Trinh (đang thời kỳ suy yếu nhất).
Thời gian ở
Chiêu Nam Lầu và tại nhà cụ Nguyễn An Khương,
Phan Chu Trinh đã tiếp xúc với các nhân vật
như:
Trần Quang Nghiêm, Nguyễn Kim Ðính, Khánh
Ký, Lâm Hiệp Châu,
De Jean de la Bâtre, Paul Monin, Malraux... Trong các cuộc
tiếp xúc
nầy, ông Phan Chu Trinh đã bày tỏ tâm
tình như sau: "Một
khi đã trở lại sống trên quê hương xứ
sở, tôi nguyện đem hết nghị lực bình sinh mà
thức tỉnh dân khí ba miền đồng tâm, hiệp lực
đạp đổ cường quyền áp chế".
Chính vì tâm quyết
phụng sự cho dân quyền, nên dù sức khỏe còn
yếu, Phan Chu Trinh cũng đã cùng Nguyễn An Ninh
(với vợ chồng người con gái của ông là ông
bà Lê Ấm) đi xuống các tỉnh Trà Vinh, Mỹ
Tho...
để vận động tài chánh cho việc tái bản
tờ "La Cloche Fêlée". Nhờ vậy, mà ngày
26-11-1925,
báo "La Cloche Fêlée" số 20 được tái bản
đợt II.
Phan Chu Trinh đã trao đổi với
Nguyễn An Ninh việc mở một trường trung
học lớn (Lycée) ở Sài Gòn để đào tạo
nhân tài (theo chương trình cải cách). Dự
án nầy
đã được các nhà tư sản, nhân sĩ yêu
nước hết lòng ủng hộ ... Tiếc thay! Dự
án nầy không thể thực hiện được vì nhiều
nguyên nhân, trong đó có một nguyên
nhân là Phan Chu Trinh -
người chủ xướng - ngày càng lâm bịnh
nặng và qua đời sau khi về nước không
được bao lâu (6-1925 - 3-1926).
Tuy được
sự điều trị và chăm sóc chu đáo của
cụ Lương Y Nguyễn An Cư, nhưng căn
bịnh của Phan Chu Trinh vẫn không giảm bớt. Dù thế,
Phan Chu Trinh cũng gắng sức tàn của ông để
vận động thực hiện chủ trương
"Pháp-Việt đề huề". Trong thư
đề ngày 12-11-1925, gửi cho cựu thiếu tá Jules
Roles ở Paris, có đoạn ông đã biểu lộ tâm
tình như sau: "Tôi là người khổ sở, đã
từ bỏ quê hương, từ bỏ vợ
conđến 9 năm trời rồi. Tôi đã chịu
trăm điều xấu hổ, trăm điều
cực khổ, hy vọng của tôi là cốt sao cho hai dân
tộc Pháp-Việt liên hiệp một cách thật tình.
Nếu như tôi chết mà có lợi cho nước tôi
và có
lợi cho nước anh, thì tôi dẫu chết cũng
cười".
Vì vậy, dù sức
khỏe đã kiệt, nhưng Phan Chu Trinh vẫn cố
gắng truyền bá quan điểm cải lương của
ông. Cuối năm 1925 ông đã hai lần đăng đàn
diễn thuyết tại "Hội Quán Thanh Niên" ở
Sài Gòn.
Lần thứ
nhất Phan Chu Trinh diễn thuyết về đề tài
"Ðạo Ðức Và Luân Lý Ðông
Tây".
Ðề tài diễn
thuyết lần thứ hai là "Quân Trị Chủ
Nghĩa Và Dân Trị Chủ Nghĩa".
Hai lần diễn
thuyết nầy của Phan Chu Trinh đã có đến hàng
trăm nhân sĩ, trí thức và học sinh tham dự;
và
cả hai đề tài của ông trình bài nói
chung là được
hoan nghênh. Thính giả hoan nghênh là hoan
nghênh bầu nhiệt
huyết canh tân của ông, hoan nghênh cách
nói duyên dáng, và
nhiệt tình của ông. Nhưng, một số người
có kiến thức và theo đường lối chống
thực dân Pháp kịch liệt thì âm thầm
không tán thành,
tuy họ không phản đối ra mặt vì lẽ tôn
trọng sự hy sinh cả cuộc đời của ông
cho sự nghiệp dân quyền của dân tộc!
Với bài
"Ðạo Ðức Và Luân Lý Ðông
Tây", Phan Chu Trinh mong
muốn cho người nghe có được nhận
thức mới về phạm trù Ðạo Ðức và Luân
Lý: "Ðạo
đức là đạo đức , luân lý là luân
lý. Ðạo
đức bao gồm cả luân lý mà luân lý chỉ
là một
phần trong đạo đức mà thôi". Và "Luân
lý như cái áo tùy người lớn nhỏ mà
thay
đổi, nhưng không mất hình cái áo đi,
chí như
đạo đức là như cơm, như nước,
như bổ dưỡng cần cho mọi người
dầu muốn thay đổi cũng không thay đổi
được, nếu thay đổi được là
đạo đức giả" (47). Theo Phan Chu Trinh,
mục đích của ông khi giải thích hai khái
niệm
Ðạo Ðức và Luân Lý như trên là
"Cốt ý bàn
về sự thay đổi Luân Lý của nước
ta" (48)
Vậy Phan Chu Trinh
đề nghị sửa đổi Luân Lý của
nước ta như thế nào? Tại sao?
Phan Chu Trinh khẳng
định rằng: "Bàn đến quốc gia luân lý
thì tôi xin thưa rằng nước ta tuyệt nhiên
không
có". Bởi vì "quốc gia luân lý của ta
từ xưa đến nay chỉ có trong vòng chật
hẹp của vua và tôi. Không nói đến "Dân
và
Nước" vì dân không được bàn đến
việc nước". (49)
Trong lúc ấy, ở
Châu Âu thì sao? Phan Chu Trinh đã cho biết: "Quốc
gia
luân lý Châu Âu phát đạt từ thời Trung
Cổ",
thì đến bây giờ "cái thời đại quốc
gia đã qua, không thể duy trì được nữa đành
phải bỏ mà tiến lên thời đại xã hội
vậy". "Ấy là bước tiến lên, bỏ
quốc gia luân lý mà bước lên xã hội
luân lý"
(50)
Cho nên Phan Chu Trinh đề nghị
rằng: "cứu chữa lấy cái luân lý cũ
của ta, rồi đem chấp nối với cái luân lý
của Châu Âu" theo phương sách "đem cái
chân
văn minh ở Âu Tây hoà hợp với chân Nho
giáo ở Á
Ðông" (51).
Nếu Phan Chu Trinh đã
đem đến cho người nghe một nhận
thức mới về khái niệm về đạo
đức và luân lý (dù chưa thực hoàn
chỉnh?); và ông
cũng mang đến một nhiệt huyết cách mạng
(bỏ luân lý cũ, xây dựng nền luân lý
mới?)
để "trong đôi ba mươi năm chúng ta
phải bước qua cái nền quốc gia luân lý, rồi
mới mong tiến lên xã hội luân lý được"
(52); thì Phan Chu Trinh cũng đã gây nên một
sự bất
mãn ngầm trong lòng những người trí thức yêu
nước lúc bây giờ (!?)
Bởi lẽ, Phan Chu Trinh đã
đề cao quá mức đối với sự bảo
hộ của thực dân Pháp, như ông đã nói: "Hơn
sáu mươi năm nay ở dưới quyền một
nước bảo hộ rất văn minh, rất tự
do (?) mà cái mầm tự do không nẩy ra được là
bởi từ đâu?" (53). Phan Chu Trinh còn bênh vực
cho việc đàn áp của chính quyền thực dân
đối với dân tộc ta là: "Cái lỗi ấy bởi
ông cha ta để lại... Người ta nhận lấy
đó (cái xiềng chuyên chế) mà cột
mình, chớ nào
phải người ta đặt ra hay là mang ở bên Pháp
qua mà cột mình đâu" (54).
Trong khi đề cao
cái gọi là "văn minh" của chủ nghĩa
thực dân Pháp, Phan Chu Trinh đã không tiếc
lời
mạt sát dân tộc Việt, rằng: "người
mình quanh năm trọn tháng chỉ lo cho cái
xác thịt, cái
tuổi già, mà vẫn không xong thì cũng
đã xấu
hổ rồi, huống là nói đến xã hội nhân
quần" (55). Phan Chu Trinh còn nói: "Theo
ý tôi
tưởng, chẳng qua dân Việt Nam mình hèn hạ nên
người ta mới đè nén" (56). Không chỉ
thế, Phan Chu Trinh còn lên án những nhà
yêu nước
đã đứng lên vũ trang đánh Pháp, rằng: "Có
một vài người anh hùng không chịu đi xem
xét, mê
tín lịch sử thời xưa, trọng chủ nghĩa
trung quân, chủ nghĩa phục thù, tìm mưu kiếm
kế phỉnh phờ cho dân dấy lên, nhưng than ôi!
Một con dao, một đoạn tre thì có làm gì.
Cái nỗi
thảm hại, đưa đầu ra cho người ta
bắn, đem thịt ra cho người ta bằm nào có ích
gì! Chẳng qua làm cho dân đức của ta trụy
lạc..." (57)
Phan Chu Trinh đã
kết luận rằng: "Thương nước cho
phải đường mới là thương nước,
nếu thương không phải đường thì đã
không giúp được gì mà còn làm
hại sinh linh
nữa" (58). Và ông kêu gọi: "Từ nay dân
Việt Nam ta phải biết thương nước...
không thù nghịch gì với người Pháp" (59).
Phan Chu Trinh đã
chết cách nay hơn 70 năm, nhưng những lời nói
thiếu thận trọng này vẫn còn lưu truyền
trong lịch sử, phần nào làm giảm giai trò của
ông
trong trên bảng vàng lưu danh những bật tiền
bối cách mạng của dân tộc!
- Với bài "Quân Trị
Chủ Nghĩa Và Dân Trị Chủ Nghĩa", Phan Chu
Trinh đã cố gắng dẫn chứng lịch sử
của các nước Á Ðông để giảng giải cái
chính thể quân trị chủ nghĩa, và theo ông
"Quân
Trị Chủ Nghĩa" tức là "Nhân Trị
Chủ Nghĩa" (?) Ðồng thời, ông cũng chứng
minh bằng tiến hoá lịch sử của Âu Tây,
để giảng giải "Dân Trị Chủ
Nghĩa" tức là "Pháp Trị Chủ Nghĩa"
(?).
Phan Chu Trinh đã
kịch liệt phê phán "Quân Trị Chủ Nghĩa"
của các nước Á Ðông, chủ yếu là nước
Tàu. Ông đã kết luận như sau: "Từ Tần
Thủy Hoàng về sau, các nước nói theo Ðạo Nho
đó kỳ thật trong nước không có thi hành một
chút Ðạo Nho nào, chỉ còn xót lại một
hai
điều ở trong gia đình mà thôi. Kỳ dư là
những điều mà mấy ông vua chuyên chế dựa vào
Ðạo Nho để đè nén dân" (60).
Còn ở nước
ta, theo Phan Chu Trinh thì "trong hai nghìn năm
các nhà vua
chẳng ngó chi đến lợi hại dân tộc, chỉ
lo tính toán để đè nén cái
trí dân, để mà giữ
chặt cái chìa khóa tủ sắt ngôi Thiên
Tử cho con cháu
mình" (61). Vì thế, "tôi nghĩ trong hai
mươi triệu ai cũng biết có nhà mà không biết
có nước" (?). "Còn đến việc
"mất nước" thì chẳng ai mơ màng vào
đâu. Một dân tộc mà đối với nước
lơ láo lạt lẽo như thế nó cũng khốn
nạn thật". (62).
Không hiểu vì sao mà
Phan Chu Trinh đã hằn học và mạt sát dân tộc
mình
như vậy (?). Qua cách nhìn
chủ quan của một nhà Nho cấp tiến, bất mãn
tột cùng với triều đình Huế, Phan Chu Trinh
đã quơ đũa cả nắm, xóa bỏ tất
cả những thành tựu của dân tộc trong quá
trình
dựng nước và giữ nước (!)
Ngược lại,
Phan Chu Trinh đã đề cao quá mức nền "Dân
Trị Chủ Nghĩa" của các nước ở Châu
Âu, đặc biệt là nước Pháp. Sau khi trình
bày
"về cái chính thể bên Pháp", Phan Chu Trinh
kết
luận một cách khẳng định rằng: "Trong
nước đã có hiến pháp, ai cũng phải tôn
trọng hiến pháp. Cái chính quyền cũng bởi
hiến pháp qui định cho, lười biếng không
được, mà dẫu muốn áp chế cũng không có
chỗ nào thò ra được. Vả lại khi có
điều gì phạm đến pháp luật, thì
người nào cũng như người nào, từ ông
Tổng Thống cho đến một người nhà quê
cũng đều chịu theo một pháp luật như
sau" (63). Rõ ràng, Phan Chu Trinh đã
"lý tưởng
hóa thực tế" mà quên đi nỗi oan của ông khi
bị chính phủ Pháp vô cớ bắt ông đem giam ở
nhà tù La Santé (!?)
Phan Chu Trinh còn cho
rằng các dân tộc theo "Dân Trị Chủ Nghĩa
là khôn ngoan biết tự cường tự lập, mưu
lấy sự lợi ích chung của mình thì càng
ngày càng
bước tới con đường vui vẻ"; còn
các dân tộc theo "Quân Trị Chủ Nghĩa" là "ngu
dại cứ ngồi yên mà nhờ trời mà mong
đợi trông cậy ở vua, ở quan, giao phó tất
cả những quyền lợi của mình vào trong một
người, hay là một chánh phủ muốn làm sao
thì làm,
mà mình không hành động, không
bàn luận, không kiểm xét
thì dân ấy phải khốn khổ mọi
đường" (63).
Thật ra, không nên áp
đặt cho dân tộc này "khôn ngoan", dân tộc kia
"ngu dại", mà phải xét hoàn cảnh lịch
sử cụ thể của từng dân tộc: Nguyên nhân nào
đưa các dân tộc Âu-Mỹ tiến nhanh? Nguyên
nhân nào
làm cho các dân tộc Á-Ðông chậm
tiến, lạc hậu?
Sức khoẻ quá
yếu, lại lao tâm nhiều, nên Phan Chu Trinh đã
lâm
trọng bệnh từ sau ngày Tết Bính Dần (1926).
Mọi phương thuốc so cụ lương y
Nguyễn An Cư lo điều trị cho ông cũng không
hiệu quả. Phan Chu Trinh đang thoi thóp trên giường
bệnh lại hay tin Nguyễn An Ninh đã bị bọn
mật thám Pháp bắt tại nhà, vào lúc
11 giờ 30 trưa
ngày 24-3-1926. Không hiểu có phải vì
quá xúc cảm vì
chuyện Nguyễn An Ninh bị bắt hay không (?) mà Phan Chu
Trinh đã trút hơi thở cuối cùng vào
lúc 9 giờ 30
tối hôm đó (24-3-1926)!
Phan
Chu Trinh qua đời tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và
được đem quàn tại nhà số 54
đường Pellerin (nay là đường Nguyễn
Thị Minh Khai - tức đường Pasteur trước 30-4-1975).
Một "Ủy Ban tổ chức lễ quốc táng nhà
yêu nước Phan Chu Trinh" đã được hình
thành ngay trong đêm 24-3-1926. Những thành
viên của ủy
ban tổ chức lễ quốc tang nhà yêu nước Phan
Chu Trinh gồm nhiều nhân sĩ, trí thức yêu
nước đang sống, làm việc và tranh đấu
tại Nam Kỳ. Những thành viên đó là:
1. Kỹ
sư Bùi Quang Chiêu (65),
Chủ tịch Ðảng Lập hiến, Thanh Tra Canh Nông
ở Nam Kỳ;
2. Phan
Văn Trường, Tiến
Sĩ Luật Khoa, Chủ Nhiệm báo "La Cloche Fêlée";
3.
Tiến Sĩ Y Khoa Nguyễn Văn Thinh;
4.
Tiến Sĩ Y Khoa Trần Văn Ðôn;
5. Lê
Quang Liêm, Ðốc Phủ Sứ, Rạch Giá;
6. Nguyễn Phan Long,
Hội Ðồng Ðịa Hạt Sài Gòn;
7. Trương Văn
Bền, Hội Ðồng Ðịa Hạt Chợ Lớn;
8. Nguyễn Tấn
Văn, Hội Ðồng Thành
Phố Sài Gòn;
9.
Nguyễn Tấn Ðạt, Hội Ðồng Ðịa Hạt Sa
Ðéc;
10.
Nguyễn Kim Ðính, Chủ
Nhiệm báo Ðông Pháp, Sài Gòn;
11.
Võ Công T?n, Hội Ðồng Ðịa
Hạt Chợ Lớn;
12.
Nguyễn Huỳnh Ðiểu,
Hội Ðồng Canh Nông Trà Vinh;
13.Trần
Huy Liệu, tự Nam Kiều, Chủ Bút báo Ðông
Pháp, Sài Gòn;
14.
Nguyễn Dư Khánh, tự Khánh
Lý, Sài Gòn;
15.
Trương Văn Công, Hội
Ðồng Thành Phố Chợ Lớn;
16.
Huỳnh Ðình Ðiểu, nhân sĩ,
Sài Gòn.
Ủy
ban tổ chức lễ quốc táng Phan Chu Trinh đã
thống nhất giao cho nhà văn Phan Khôi viết lời
"Hiệu triệu quốc dân" nhân việc tạ
thế của nhà yêu nước vốn được toàn
dân kính trọng! Họa sĩ Ðặng Văn Ký lãnh
nhiệm
vụ tìm đất, chọn làm nơi an nghỉ của
chí sĩ Phan Tây Hồ. Và ủy ban tổ chức cũng
đã quyết định ngày làm lễ quốc tang cho
cụ - ngày 04 tháng Tư năm 1926 (Bính Dần). Vậy
là,
thi hài của cụ Phan được quàn trong một
tuần để cho mọi giới đồng bào
khắp ba kỳ có thời gian đến kính điếu.
Theo
sự quan sát và thông tin của báo chí
ở Sài Gòn lúc bấy
giờ thì hàng ngày có cả ngàn người
đến dâng
hương, kính điếu, đặt vòng hoa thương
tiếc và tưởng nhớ đến nhà yêu nước
Phan Chu Trinh (66). Người ta nhận thấy có mặt
đầy đủ các đại diện của các
đảng phái, tôn giáo, đoàn thể và
các công chức,
học sinh... đều đến thành kính nghiêng mình
trước thi hài của nhà ái quốc suốt đời
hy sinh cho dân tộc!
Trong lịch
sử cận đại Việt Nam chưa thấy có
một quốc tang nào, được đồng bào
mọi giới khắp ba kỳ (đông nhất là ở
Nam Kỳ tham gia với con số lên tới hàng chục
vạn người tiễn đưa linh cửu
đến nơi an nghĩ cuối cùng, như lễ
quốc tang cụ Phan Chu Trinh. Ðúng là:
-
"Vì nước quên nhà, hai mươi năm bôn ba,
trời đất trông ra còn hẹp,"
-
"Ðem thân cứu thế, Một bầu tâm huyết,
quỉ thần xem thấy phải kinh" (69).
Ðúng 6
giờ sáng ngày 04 tháng Tư năm 1926 (tức
ngày 22 tháng Hai
năm Bính Dần) đám tang cụ Phan Chu Trinh đã
được tiến hành theo nghi thức quốc tang, mô
phỏng theo quốc tang của lãnh tụ cách mạnh Trung
Hoa Dân Quốc Tôn Dật Tiên. Thực tế đó
đã
chứng tỏ một cách hùng hồn rằng: Cụ Phan
Chu Trinh đã được tôn vinh như một lãnh
tụ cách mạng đấu tranh cho dân quyền!
Linh
cữu của cụ Phan Chu Trinh được đặt
trên một chiếc xe tang do ngựa kéo, và một số
Ðảng Thanh Niên Cao Vọng (còn gọi là Việt Nam
Thanh
Niên) của Nguyễn An Ninh, được cữ ra
để phò linh cữu của cụ. Ði đầu linh
cữu là toán học sinh trường Nguyễn Phan Long
với Một tấm bảng lớn, chữ trắng trên
nền nỉ đen như sau:
Deuil
National
A Notre
Compatriote Regretté
Phan
Chu Trinh
Ði
tiếp sau linh cữu, các toán xếp hàng theo thứ tự
trước sau như:
-
Học sinh trường bản quốc Sài Gòn
- Học sinh
trường trung học Mỹ Tho
- Học sinh
trường Nguyễn Xích H?ng
- Nữ Học sinh
các trường
- Công
nhân sở Ba Son
- Ðoàn
Phự nữ Việt Nam
- Ðoàn
Ðảng Thanh Niên Cao Vọng
Và hàng
trăm ngàn đồng bào của mọi tầng lớp xã
hội ở Sài Gòn nối tiếp theo sau (68). Xe tang và
đoàn người khổng lồ đã diễn qua trung
tâm thành phố, tiến về nghĩa trang Hội
Tương Tế Gò Công (gần phi trường Tân Sơn
Nhất hiện nay). Trong khi tang hành, dàn nhạc của
trường Taberd trổi lên liên tục các bản nhạc
thương tiếc và các bài thánh ca, thật
làm xúc
động lòng người như hai câu để
đời của "Ðảng Tháp thời báo" đã
viết:
- "Thiên hạ theo về, tổ chức
dân đoàn tài
đại lão"
- "Tiên sinh đi mất,
đánh tan đế chế
biết là ai?"
(69)
Hoặc
như hai câu thơ:
"Chí kia chưa đặc công
chưa lập
Non nước nghìn thu luống thở
dài".
Vào
thời trước quốc tang của cụ Phan Chu Trinh,
chưa bao giờ có đám tang nào nhận được
nhiều điếu văn như quốc tang của nhà yêu
nước Phan Chu Trinh. Có đến 40 tỉnh và
địa phương từ khắp ba miền của
đất nước đã tới tấp gởi
điện văn chia buồn, thương tiếc nhà ái
quốc và hứa hẹn noi gương nhà chí sĩ Phan Chu
Trinh, tiếp tục sự nghiệp đấu tranh vì dân
chủ tự do cho dân tộc Việt Nam ! Phan Bội Châu
từ Huế cung gửi điện văn vào tỏ lòng
thương nhớ và cảm xúc trước sự ra
đi của người bạn chung chí hướng
cứu nước, cứu dân, nhưng không cùng
đường lối cách mạng (70).
Trước
giờ hạ linh cữu của cụ Phan Tây Hồ
xuống huyệt mộ, rất nhiều bài điếu
văn mang tính lịch sử của cuộc đời nhà
yêu nước đã gắn bó với vận mệnh
của dân tộc, đã được đọc lên
trước hàng vạn người tham gia ngày quốc táng
của cụ, gieo vào lòng quần chúng nhân
dân Việt Nam,
không chỉ gieo vào lòng người một nỗi tiếc
thương, mà còn thúc đẩy sự giác ngộ
và
thức tỉnh lòng yêu nước của đồng bào
Việt Nam lúc ấy, và cũng đã để lại cho
thế hệ ngày nay và mai sau những lời lẽ bất
hủ. Có những bài điếu văn của đoàn
thể như: Ðiếu văn của Hội Gò Công
Tương Tế, của tập thể công nhân viên Ba Son
... và của Những cá nhân như điếu văn
của ông Bùi Quang Chiêu và điếu văn của cụ
Huỳnh Thúc Kháng v.v...
Mỗi
điếu văn có thể xem là một áng văn lịch
sử, có những nét độc đáo riêng về sự
diễn tả tấm lòng kính trọng, tiếc
thương và nêu cao gương chí sĩ của cụ Phan
Chu Trinh, làm cho người nghe vừa xúc động,
vừa tự hào về một con người "đã
chết về thể xác mà tinh thần vẫn sáng mãi
trong
lòng dân tộc"!
Ðiển
hình như bài điếu văn của Hội Gò Công
Tương Tế, có đoạn viết rằng: "Cụ
là một nhà Ðại Chí Sĩ Việt Nam, bình
sinh cụ
thương nước yêu dân hơn gia đình thê tử.
Người Việt Nam xa gần ai cung đều kính
mến cụ". "Hôm nay chẳng may cụ tạ
thế ở trong Nam, hài cốt quý báo của cụ giở
trong một khoảng đất tuy hẹp hòi thấp
thỏi, không xứng với tâm tính cao thâm của cụ
mặc dầu, nhưng cũng là một khoảng
đất Việt Nam, nên có lẽ cụ cũng vui lòng
nơi chín suối". Và "Nghĩa địa Gò
Công chúng tôi nguyện sẽ chăm sóc, gìn
giữ, bồi
bổ phần mộ cụ đời đời!"
Càng
xúc động hơn khi đọc những đoạn sau
đây, trong điếu văn của công nhân Ba Son,
rằng:
"Ngài ôi! Trải mấy năm lao
khổ, chưa phỉ ước nguyện, sao Ngài vội
tách theo miền di lộ; Một gánh non sông quằn
quại. Ngài đã đành trao lại cho hậu sinh.
Gương trung nghia ấy chúng tôi xin noi dấu..." Và "Anh
em tâm huyết ta ơi! Ðường hãy còn nhiều nỗi
chông gai, vậy thì đồng bào ta vịn lấy nhau
nơi dấu tiền hiền, cho người quá vãng
ngậm cười nơi cõi thọ."
Còn ông
Bùi Quang Chiêu (Chủ Tịnh Ðảng Lập Hiến)
lại gửi gấm quan điểm của mình trong bài
điếu văn khóc cụ Phan Chu Trinh như sau: "Ôi!
Tây Hồ anh ơi! Anh đã vì nước, vì đồng
bào mà lăn lóc trong đám chông gai,
chẳng quảng thân,
chẳng nhà mà chịu hao mòn tâm huyết, để
yêu
cầu điều công lý, sự tự do, nên anh đã
đề xướng cái chủ nghĩa Ý-Pháp cầu tiến
bộ, cái chủ nghia cao thượng ấy ngày nay các
phái
Pháp-Việt quốc dân học thức đều hoan nghênh
sùng bái... ". "Vậy là tôi và anh chị
em đây xin
thề cùng anh rằng nắm chặt mối dây đoàn
thể Trung Nam Bắc, để giữ gìn nhau mà bảo
thủ cho cái chủ nghĩa Pháp-Việt đề
huề".
Người
bạn tù với cụ Phan Chu Trinh ở Côn Ðảo
(1908-1910), ông Huỳnh Thúc Kháng - thay mặt cho
anh em
Trung-Việt đã đọc một bài điếu văn
mang ý nghĩa lịch sử rõ nét nhất về quan
điểm chính trị của nhà yêu nước Phan Chu
Trinh. Ðoạn văn xúc tích nhất trong điếu văn
của ông Huỳnh Thúc Kháng là: "Một đoạn
lịch sử của tiên sinh hơn hai mươi năm
trời, nào bị tù đày, ở nước này sang
nước khác, trải bao nhiêu phen nguy hiểm, trong giây
phút này không thể lược thuật lại cho
được; chúng tôi xin tóm tắt lại mà
nói sơ:
Chủ nghĩa tiên sinh đệ nhất là đánh
đổ chuyên chế, làm cho dân quyền tự do, còn
cái
phương pháp tiến hành thì tiên sinh thường
nói
rằng: "Tình hình trong nước ta bây giờ đang
vào nguy ngập, nếu muốn cải cách thì cần
liên
lạc đoàn thể mới được". Tiếc
cho người nước mình còn đang mê mộng,
đồng chí với tiên sinh chẳng được
mấy người. Vì vậy mà tấm lòng bị phân
hóa ra
uất ức, uất ức hóa nên đại bịnh;
huống gì những điều mắt thấy tai nghe
dể làm cho tiên sinh cảm xúc mà đau được,
chết được, thương ôi!"
Nếu
đoạn văn rõ nét về ý nghia lịch sử về
quan điểm chính trị, thì đoạn kết của
bài điếu văn, ông Huỳnh Thúc Kháng đã
viết
bằng trái tim rướm máu của một nhà nho yêu
nước, thương tiếc đồng chí của mình
rằng:
"Thôi, đất vàng một
nắm, giấc mộng
ngàn thu, sự nghiệp anh hùng, ngày nay hết cuộc.
Chúng
tôi chỉ mong mai sau này những người kế chí
tiên
sinh, làm cho vẻ vang dân tộc Việt Nam ta. Thì linh
hồn
tiên sinh sẽ được yên ổn mà ngậm
cười nơi chín suối vậy."
Phan
Bội Châu trong những năm Ðông Du còn phản đối
thuyết dân chủ của Phan Chu Trinh, nhưng lúc Phan
Tây
Hồ đã qua đời, trong bài Văn Tế khóc
người bạn cố tri, Phan Bội Châu hình như
đã thừa nhận quan điểm dân chủ của Phan
Chu Trinh rằng:
"Thương ôi !
Bể bạc còn
trơ
Trời xanh khó
hỏi.
Nghìn vàng khôn chọn
lấy anh hào,
Tấc dạ dám
thề cùng sông núi.
Trước đã
giỏi thời sau nên giỏi nữa, dấu "Cộng
Hòa" xin ráng sức theo đòi,
Thác còn thiêng thời
sống phải thiêng hơn, "độc lập"
quyết điều tay xin với,
Lời này ông có xét
chăng?
Lòng ấy trời
đã soi dọi!"
Ðặc biệt còn có
một số nhân vật trong hàng ngũ lãnh đạo
của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng cũng đã gởi
điếu văn đến để tưởng
nhớ nhà ái quốc Việt Nam Phan Chu Trinh. Bài điếu
văn có tính chất quốc tế này được
lược dịch như sau:
"Chúng tôi là Phan
Kiến Minh, Lương Chí Vĩ thuộc Ðảng Quốc
Dân nước Tàu,
xin kính dâng một nén hương thơm, ba ly rượu lạt, đọc bài văn tế ở trước linh hồn Phan Quân rằng:
xin kính dâng một nén hương thơm, ba ly rượu lạt, đọc bài văn tế ở trước linh hồn Phan Quân rằng:
Phan Quân chết
rồi, tinh thần không chết,
Sự nghiệp cách
mạng, gắng không đoái mình.
Lập công chưa
rồi, chợt vậy đã chết,
Hỡi trời xanh
kia, sao nỡ làm rầu người triết nhân ấy?
Hết thảy
người Nam Việt đều để tang, ngọn
gió đau thương thổi vào hiu hắt.
Ta đây là bạn
đồng chí, giọt nước mắt thắm áo.
Chỉ mong những
người sau, noi theo cái tinh thần ấy.
Cùng nhau ráng sức,
đời chờ tới chủ nghĩa tam dân.
Rồi hai giống,
người Tàu, người Nam, dắt tay nhau cùng thân,
cùng
yêu.
Giải trừ chuyên
chế, thức tỉnh người đồng bọn.
Hy sinh đưa
chết, chết thành được nhân
Thương ơi!
Xin hưởng" (71)
Ngoài những bài
điếu văn, còn có vô số câu đối kính
dâng
hương hồn cụ Phan Chu Trinh, trong đó nổi
bật là những câu đối của các ông: Phan Bội
Châu, Nguyễn An Ninh, Sở Cuồng Lê Dư, Ngô Ðức
Kế, Dương Bá Trạc và Mai Ðăng Ðệ ...
Nói chung, các câu
đối, tuy khác nhau về nội dung đều tỏ
thương tiếc nhà yêu nước đã ra đi quá
sớm, trong khi "Biển thẩm lấp chưa
bằng, tinh vệ còn đội đá" (Phan Bội
Châu), mà chưa làm được nguyện ước "dắt
dìu nhau vì hai mươi triệu đồng bào gánh
một
cái gánh nặng" (Nguyễn An Ninh), nên đã
hận cao
xanh rằng: "Trời không để sót lại
một ông già cho ta" (Sở Cuồng Lê Dư). Còn
cụ Nghè Ngô Ðức Kế thì lo lắng: "thương
nỗi đoàn sau ngơ ngáo, giang san gánh vác
biết cùng
ai?" Nhưng ông cu Dương Bá Trạc thì đề
cao tinh thần: "vì nước vì nòi, gan sắt dễ
đâu vùi nơi chín suối!" Rõ ràng,
Phan Chu Trinh
chết vào năm 1926 là một tổn thất lớn cho
phong trào duy tân của nước Việt Nam; nhưng cái
chết của cụ Tây Hồ cung để lại cho
lịch sử đấu tranh cho dân quyền của dân
tộc Việt Nam những bài học quý giá mà
ngày nay các
thế hệ nối tiếp cần rút kinh nghiệm.
Không có ai có thể
nghi ngờ lòng yêu nước nhiệt thành của Phan Chu
Trinh! Không người nào không kính trọng tinh
thần hy
sinh của Phan Chu Trinh suốt đời với sự nghiệp
Ðộc Lập, Tự Do của đất nước và
dân tộc Việt Nam. Thực tế đã chứng minh
một cách hùng hồn qua ngày lễ quốc táng của
cụ!
Nhưng không phải
vì thế mà các sử gia không suy xét về
chủ
trương "Pháp-Việt Ðề Huề" của ông.
Vì sao chủ
trương "Pháp-Việt Ðề Huề" của Phan
Chu Trinh đã bị nhiều bạn bè, đồng chí
của ông không tán thành? Phan Văn Trường
đã giải
bày câu hỏi này như sau:
"Trước khi
viết bản thỉnh nguyên (tức bản "Ðầu
Pháp Chính Phủ Thư") (72) ông hỏi ý kiến
nhiều bạn bè nhà Nho của ông. Họ khuyên
ông
đừng viết, bảo rằng: "Chính sách thuộc
địa chỉ dựa trên sự dung hợp quyền
lợi. Thế nhưng trong vấn đề giáo dục,
người Pháp nhận thấy quyền lợi của
họ đối lập với quyền lợi của
chúng ta đến mức họ cho là không thể dung
hợp được. Vậy thì dù có trăm ngàn
người hay cả đến toàn thể nhân dân Việt
nam có ký vào bản nguyện thư của ông
thì chính phủ
Pháp cung sẽ không chấp thuận cho ông một
điều gì... Thế nhưng bạn bè không thuyết
phục được ông" (73)
Tại sao Phan Chu Trinh
lại không nghe lời khuyên của bạn bè, đồng
chí, mà ông vẫn cứ viết bản thỉnh nguyện và
đã gởi cho chính phủ Pháp ở Ðông Dương?
Ðiểm xuất phát
cơ bản để Phan Chu Trinh kiên trì chủ
trương "Pháp-Việt Ðề Huề", đã
được trình bày tỏ khá rõ ràng trong
bức thư
gởi chính phủ Pháp hồi 1906, là vì
ông muốn "chính
phủ (bảo hộ) biết hối ngộ lại mà mau
đời lại chính sách, kén dùng hiền
tài, giao cho
quyền bính, lấy lễ đãi người, lấy lòng
thành xử với người, rồi cùng nhau trù hoạch
cái kế sách chung hưng lợi trừ hại, mở con
đường nuôi sống cho dân nghèo, cho nhân sĩ
cái
quyền nghị luận, mở nhà báo để thấu rõ
dân tình, minh thưởng phạt để thanh trừng
lại tệ, những việc cần thiết như
đổi pháp luật, khoa cử, mở nhà học,
dựng phòng sách, chấn hưng công thương kỹ
nghệ, các việc đều lần lượt cải
lương, như thế thì dân Nam ai cũng yên vui, lại
chỉ sợ nước Pháp bỏ nước Nam đi mà
thôi, còn cái gì mà kình địch
nữa."
Sở dĩ Phan Chu
Trinh chủ trương kêu gọi thực dân Pháp thực
hiện cải cách vì ông thấy dân ta chưa đủ
lực để mà tiến hành lật đổ ách thuộc
địa của thực dân Pháp bằng bạo lực!
Ðúng vậy! Thực tiễn lịch sử trong mấy
thập niên đầu thế kỷ 20 của nước
ta, đã chứng thực rằng dân tộc ta chưa
đủ lực để quật ngã sự thống
trị của thực dân Pháp bằng đấu tranh vũ
trang để khởi nghĩa cướp chính quyền,
thực hiện độc lập, tự do cho dân tộc.
Từ giữa năm 1924, Nguyễn An Ninh đã tổng
kết thực tế lịch sử này như sau: "Phan
Chu Trinh đã sống ở Paris, tuổi già đã hạn
chế không cho phép ông hoạt động tích cực.
Ðề Thám không tìm ra được một người
nối chí. Phan Bội Châu không còn nữa.
Thành Thái và vua Duy
Tân chỉ còn cách tiêu khiển thời gian
trên sân quần
vợt. Nhóm Gilbert Chiêu còn lại chỉ có hai,
ba
người sống sót... Những người khác sống
lưu vong nơi đất lạ, chịu bao nỗi
đau lòng tủi nhục, họ chỉ còn lại những
giất mơ về một cố quốc được
thoát khỏi bàn tay kẻ ngoại bang để dịu
vợi bớt cuộc sống quá nhọc nhằn..."
Tuy "thỉnh thoảng vẫn có vài phong trào quần
chúng rời rạc, nông nổi mà chỉ cần một
trăm họng súng, một hai khẩu liên thanh là
có thể
dập tắt được, và chỉ một tháng sau thì
sự im lặng lại xóa nhà trong ký ức mọi
người cơn giận dữ của một dân tộc
bất lực" (La Cloche Fêlée, 15-6-1924).
Chính vì thực tế
lịch sử quá phũ phàng đó mà Phan Chu Trinh
nuôi ảo
tưởng vào sự cải cách của chính phủ
thực dân Pháp, nên ông đã đề nghị tha
thiết
rằng: "Nếu quan lớn bảo hộ mà có
tấm lòng thành thật khoản đãi dân Nam,
thì nên
lượng tấm lòng của tôi, nhận lời nói
của tôi, cứ gọi tôi đến tôi sẽ nói cho
mà
nghe..." (Thư đã dẫn). Sự thất bại
của Phan Chu Trinh trong chủ trương "Pháp Việt
đề huề" là bắt đầu từ sự
nhận thức sai lầm về bản chất của
chủ nghĩa thực dân Pháp (!)
Gián tiếp phê phán
Phan Chu Trinh về phương diện này, Nguyễn An Ninh
đã viết rằng: "Làm sao mà người ta có
thể nghĩ đến sự hợp tác thật sự
và chân thành, trong khi quan niệm thực dân
vẫn là đào
tạo những người An Nam làm tay sai nhằm thực
hiện mệnh lệnh của ông chủ Pháp." Và "Chừng
nào có người chiến thắng và kẻ chiến
bại, có kẻ đi đàn áp và người bị
đàn áp, có chủ và nô lệ, thì
không thể có sự hòa
hợp giữa người và người" (Bài báo
đã dẫn).
Thật tội nghiệp cho lòng yêu
nước của một nhà Nho ôn hòa, chỉ vì sợ
dân
Việt phải chịu hy sinh quá nhiều trước
họng súng, làn đạn bạo tàn của thực dân
Pháp, mà ông cố kiên trì chống chủ
trương
đấu tranh vũ trang (hay bạo lực cách mạng)
của Phan Bội Châu, dẫn đến sự bất
hợp tác giữa hai người đồng chí
hướng, như Phan Bội Châu đã kể lại khi
Phan Chu Trinh gặp ông ở Nhật: "Từ đó luôn
mười ngày hơn, tôi với cụ (Tây Hồ) bàn
bạc, ý kiến rất trái nhau. Cụ thì muốn đánh
đổ quân chủ, mà cốt lấy nền tảng dân
quyền, hãy dựa vào Pháp mà đánh đổ
quân
chủ..." (Tự Phán)
Thái độ kiên trì
đề huề với Pháp của Phan Chu Trinh làm cho
nhiều bạn bè yêu nước và cách mạng
cùng thời
của ông đều khó hiểu, ngay cả luật sư
Phan Văn Trường cũng phải tỏ ra không hiểu
nổi người bạn của mình, rằng: "Ông
Phan Chu Trinh là một người bền chí. Tuy phải
sống trong cảnh buồn khổ và tủi nhục, ông
vẫn nuôi hy vọng một ngày kia sẽ tranh thủ
được ân huệ của chính phủ thực
dân." "Người ta nghĩ rằng sau
những bài học đau đớn (bị Pháp bỏ tù)
ấy, ông Phan Chu Trinh sẽ chữa được
bệnh lạc quan, rằng lần này ông sẽ dứt
khoát từ bỏ hy vọng lại được chính
phủ thực dân thi ân bố đức. Thế nhưng
không phải vậy! Ông ứng xử như chẳng có
việc gì xảy ra. Ông nối lại quan hệ với
Bộ Thuộc Ðịa, lại tìm cách tiếp cận
với những kẻ ngược đãi ông, nhiều
lần xin yết kiến ông Albert Sarraut" (trong "La
Vérité sur L'Indochine, chương X).
Chính vì thái độ
nhẫn nhục để hợp tác với Pháp của Phan
Chu Trinh như thế, nên có người đã nghi ngờ
lòng yêu nước, yêu dân tộc của ông. Thật
là
đau lòng! Một con người có lòng yêu nước,
đấu tranh cho quyền sống của dân tộc
thật sự như Phan Chu Trinh mà còn bị nghi ngờ!
Ðó
là một sự hẹp hòi, chủ quan, không nhìn thấu
bản chất của Phan Chu Trinh (cho dù đó chỉ là
yêu
nước theo con đường cải lương
chủ nghĩa!) Không nên nghi vấn lòng yêu nước
cũng như thái độ mong muốn (một cách ảo
tưởng) trong việc hợp tác với thực dân Pháp
của Phan Chu Trinh, mà chỉ xem xét nguyên
nhân bảo thủ
ý kiến "Pháp Việt Ðề Huề" của ông là
bắt nguồn từ đâu (?)
Ngoài cách nhìn
không
thấu triệt thực tế lịch sử chuyển
biến đấu tranh giải phóng dân tộc ở
đầu thế kỷ XX, tương quan chặt chẽ
với phong trào cách mạng dân chủ trên
toàn thế
giới, Phan Chu Trinh còn bị sự ràng buột quá nặng
nề vào tư tưởng cải lương của Khang
Hữu Vị và Lương Khải Siêu (hai nhà cải
lương chủ nghĩa của Trung Quốc) mà Phan Chu
Trinh đã hâm mộ, như Nguyễn An Ninh đã nói:
"Phan Chu Trinh trong mấy mươi năm ở Pháp
cứ ôm bộ " Băng" của Lương
Khải Siêu, cho đến ngày về cũng đem theo tàu
để lót đầu nằm" (Báo Trung Lập, ngày
27-4-1933, bài "Vài Lời Nhắc Nhở"). Tệ
hại thay cái tính bảo thủ, nhất là bảo thủ
quan điểm chính trị đã lỗi thời, hay không
thích hợp với thực tế lịch sử! Có lẽ, Phan Chu Trinh cứ nghĩ
là việc kiên trì
"Pháp-Việt Ðề Huề" của mình là đúng,
nên
không chịu nghe lời khuyên của Phan Văn Tường
và Nguyễn An Ninh.
Thật
chí lý thay! Khi Nguyễn An Ninh tuyên bố trước
công
luận rằng: "Chống đối lại một
trật tự, phải dùng một trật tự khác, giáng
trả lại một sức mạnh, bằng một
sức mạnh". Vì vậy "cho dù "có" hay
"không" tiến hành cuộc cách mạng (ở
Việt Nam), thì một công việc chắc chắn
trước mắt có thể làm được là
đấu tranh chống những hành vi bạo ngược
đã hằn sâu trong tập quán thực dân,
làm cho bầu
không khí trở nên nghẹt thở, gieo rắc nung nấu
một hận thù kẻ thắng trận trong lòng
người chiến bại" ("Có thể tiến
hành một cuộc cách mạng hay không?" La Cloche
Fêlée,
15-6-1924).
Tóm
lại, chủ trương "Pháp-Việt Ðề
Huề" của Phan Chu Trinh thật sự không phải
là bài học để đời sau noi theo, mà nó chỉ
là
một kinh nghiệm thất bại để cho các
thế hệ cách mạng nối tiếp nhận thấy
rõ để tránh đi trên con đường ảo
tưởng trong sự hợp tác với kẻ thù, mong
kẻ thù ban bố ân huệ cho mình (!) Nhưng Phan Chu
Trinh
đã để lại một tấm gương hy sinh cao
cả, không vụ lợi để cho các thế hệ sau
noi theo. Sự hy sinh cho Tổ Quốc và Dân Tộc của
Phan Chu Trinh thật vô cùng có ý nghĩa lịch
sử,
giống như câu nói lưu truyền muôn đời
của Danton: "Không ai mang tổ quốc theo bên
mình,
dưới đế giày để vọng mãi bên tai
những người đã đạt được trình
độ làm chủ được mình, vì họ đã
hiểu rằng sinh ra giữa dân tộc này trong giai
đoạn lịch sử hiện nay, họ có nghĩa
vụ phải hy sinh cả cuộc đời. Cuộc
sống của họ là một cuộc sống phải hy
sinh!"
Lê
Tùng Minh
Chú
Thích:
1. Xem "Quân Trị Chủ
Nghĩa Và Dân Trị Chủ Nghĩa" - bài diễn
thuyết của Phan Chu Trinh vào cuối năm 1925, tại
nhà Hội Việt Nam (tức Hội Quán Thanh Niên
Sàigòn).
2. Lúc này, Phan Bội
Châu cùng các đồng chí của ông đang
tích cực trù
tính việc xuất dương (1915) để lo cho phong
trào Ðông Du.
3. Bài thơ này nguyên
văn bằng chữ Hán. Trên đây là bản dịch
của báo "Thời Cuộc" số 169, ngày 24-3-1955.
Bài "Chí Thành Thông Thái" được Phan
Chu Trinh làm,
nhân khi tới Bình Ðịnh, gặp lúc quan tỉnh khảo
hạch học trò. Có nhiều bản dịch khác nhau
về ngôn từ. Chúng tôi thấy bản dịch trên
đây
là sát ý, nghĩa rõ ràng nhất.
4. Phan Bội Châu:
"Tự Phán", nhà xb Xuân Thu, Los Alamitos,
California, USA,
1998, tr. 75.
5. Phan Bội Châu:
"Tự Phán", đã dẫn, tr. 77.
6. Phan Bội Châu:
"Tự Phán", đã dẫn, tr. 78
7. Phan Chu Trinh, thư
gửi chính phủ Pháp, ngày 15-8-1906. Xem
"Tài liệu tham
khảo cách mạng cận đại VN", Tập III,
nhà xb Văn Sử Ðịa, Hà Nội, 1958.
8. Phan Chu Trinh,
"Thư gửi chính phủ Pháp", đã dẫn.
9. Ông Huber đã
dịch bức thư này sang Pháp ngữ và cho đăng
trên tạp chí Trường Viễn Ðông Bác Cổ
vào năm
1907. Xem thêm bản quốc ngữ do ông Ngô Ðức Kế
dịch, đăng trên "Tân Dân Tuần Báo" (24-3-1949).
10. Bài thơ này
viết bằng chữ Hán và Phan Khôi đã dịch ra
quốc âm (như trên)
11. Huỳnh Thúc Kháng:
"Thi Tù Tùng Thư".
12. Huỳnh Thúc Kháng,
đã dẫn
13. Phan Chu Trinh có 3
người con: hai gái, một trai. Chị cả là Phan Chu
Liên, sau trở thành vợ của Ðốc học Lê Ấm,
Chị hai là Phan Chu Lang, sau làm vợ của Kinh Lý
Nguyễn
Ðồng Hợi. Phan Chu Dật là con út.
14. Phan Chu Dật vào
học trường Montparnasse, và nổi tiếng là học
giỏi nhất lớp.
15. Sự việc này
Phan Văn Trường có nói trong cuốn "Une histoire des
Conoperateurs annamites à paris" ou La vérité sur
L'indochine", nhà
in Ðông Pháp - Nguyễn Kim Ðính, Gia
Ðịnh, 1928. Xem chương
X: "Nhà nho Phan Chu Trinh và nỗi thống khổ của
ông."
16. Theo thư viết
tay của trùm mật thám ở Paris - Paul Arnoux - gửi
Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Pháp (thư
đề ngày 22-11-1919) - Arnoux là Vụ Trưởng Vụ
Tình Báo Chính Trị Ðặc Biệt kiêm
Phó Giám Ðốc
Tổng Nha Giám Sát Người Ðông Dương tại
Pháp.
17. Phan Văn
Trường, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền,
Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ai
Quốc sau này).
18. Trương Duy
Toản (1885-1957) làm thư ký tại văn phòng
Khâm Sứ
Pháp ở Cambodge, sau tham gia Việt Nam Quang Phục Hội,
đi Châu Âu với Cường Ðể vào năm 1913, bị
Pháp bắt giam ở Paris một thời gian rồi
giải về nước. Ra tù, làm báo ở
Sàigòn.
19. Tòng Lâm:
"Cuộc Ðời Cách Mạng Cường Ðể" -
Tôn Thất Lễ xuất bản, Sàigòn 1957, tr. 86.
Có
người cho rằng: "Phan Chu Trinh đã hiểu
lầm nên Trương Duy Toản phải vào tù" ?
20. Theo "Hồ Chí
Minh à Paris" của Thu Trang, Gaspard L'Harmattan - paris, 1992,
tr.
41.
21. Phan Văn
Trường "La vérité sur l'Indochine", đã dẫn, tr.
81.
22. Theo "Phan Chu
Trinh..." của Thế Nguyên, nhà xb VHTT,
sàigòn, 1998, tr.
39-40.
23. Theo Hứa Hoành,
dẫn trong bài "Lễ quốc táng nhà cách mạng
Phan Chu
Trinh...", đăng trên bán nguyệt san Tự Do, Houston,
Texas.
24. Phan Chu Dật
về nước và chết trước khi Phan Chu Trinh ra
tù (8-1915).
25. Theo Thế Nguyên,
sách đã dẫn, tr. 40.
26. Sai Chiến Tranh
Thế Giới II, M. Moutet làm Bộ Trưởng Bộ
Nước Pháp Hải Ngoại (Bộ Thuộc Ðịa
cũ)
27. Phan Văn
Trường "La Vérité sur L'Indochine", đã dẫn, xem
Chương X: "Nhà nho Phan Châu Trinh và nỗi thống
khổ của ông".
28. Khánh Ký (tên thật
là Nguyễn Ðình Khánh) là người tận
tình giúp Phan Chu
Trinhhành nghề sửa ảnh. Khánh Ký quê ở Nam
Ðịnh,
sang Pháp kinh doanh máy ảnh và dụng cụ nhiếp ảnh.
Ông đã mở một hiệu ảnh ở Sàigòn (số 34
đường Bonard). Năm 1946, Khánh Ký đã qua
đời tại Pháp, và nộ táng của ông
được tọa lạc trong nghĩa địa Thoais
Parisien (Paris).
29. Theo báo cáo ngày
8-1-1920, viên mật thám Jean cho biết: "Khách
Ký và Phan Chu
Trinh "cũng giúp đỡ ông Trường... làm
trạng sư không có văn phòng nên không
có nhiều thân chủ".
Sau khi ra tù (7-1915), Phan Văn Trường vẫn còn ở
lại trong quân ngũ, và làm thông dịch
viên tại một
Binh Công xưởng ở Toulouse cho đến hết chiến
tran (1918).
30. Tên chính thức
bằng tiếng Pháp là "Groupe Des Patriotes Annamites".
31. Nguyễn Tất
Thành đã căn cứ vào bản chữ Pháp, viết
than`h
bản quốc ngữ, theo thể thơ lục bát với
tựa đề là "Việt Nam Yêu Cầu Ca"
để phổ biến trong dân chúng Việt Nam.
32. 7 tội đó có
thể tóm tắt như sau:
1
- Tôn bậy quân quyền
2
- Lạm hành thưởng phạt
3
- Ưa chuộng sự quỳ lậy
4
- Xa xí quá độ
5
- Ăn mặc không phải cách
6
- Chơi bời vô độ
7
- Sang Pháp chuyến này có sự ám muội
(Xem
bản dịch của Nguyễn Kim Ðính)
33 & 34. "Thư
Thất Ðiểu",
đã dẫn theo bản dịch của Nguyễn Kim Ðính.
35. Phan Văn
Trường: "La Vérité sur L'Indochine" (Sự Thật
Về Ðông Ðương) đã dẫn.
36. Khoảng tháng
8-1920, Phan Chu Trinh xin gặp Albert Sarraut (Bộ trưởng
Bộ Thuộc Ðịa) đưa ra mấy điều
thỉnh cầu như: Cho người Annam được
tự do buôn bán, nâng cao trình độ học vấn hơn
đối với dân Annam... và ân xá tất cả
chính
trị phạm ở Côn Ðảo. Albert Sarraut hứa
"sẽ suy nghĩ" nhưng rốt cuộc chẳng
có thi hành điều thỉnh cầu nào của Phan Chu Trinh!
37. Xem bài "La
plaisauterie de l'entente franco-annaite" (Thỏa Hiệp
Pháp-Việt là một trò đùa) của Phan Văn
Trường - La Cloche Félée, số ra ngày 22-4-1926.
38. Hoàng Xuân Hãn, trong
lời tựa cuốn "Những Hoạt Ðộng
Của Phan Chu Trinh Tại Pháp..." của Thu Trang, nhà xb
Ðông Nam Á, Paris, 1983.
39. Chính P. Guesde đã
sắp xếp cho Phan Chu Trinh vào làm công việc rửa
và
sửa ảnh tại triển lãm thuộc địa
ở Marseille từ đầu năm 1921 (?).
40) Theo báo cáo của mật
thám Désiré
(26-6-1925), về nước, Trần Văn Khá gia nhập
Ðảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu; và
được thực dân Pháp đưa vào làm nghị
viên
Hội Ðồng Quản Hạt... Ðến năm 1951, Khá làm
Bộ Trưởng Bộ Kinh Tế Quốc Gia (của
chính phủ Quốc gia do Bảo Ðại làm Quốc
Trưởng. Sau đó, Khá đi làm đại sứ
Việt Nam tại Mỹ cho đến ngày 6-8-1954.
41) & 42) Phan Chu Trinh đã
nói trong bài
thuyết trình về "chính sách đối với
người bản xứ ở Ðông Dương" vào
đêm 3-2-1925, do Hội LHPÐD tổ chức tại Hội
quán Sociétés Savantes số 8 đường Danton (Paris).
Theo
Thu Trang, sách đã dẫn, trang 200.
43) Thu Trang, sách
đã dẫn, trang 200.
44) Nguyễn An Ninh
trở sang Pháp lần thứ tư (1-1925 -- 6-1925) nhằm
mục đích mở chiến dịch đấu tranh
tại Pháp để đòi "quyền Tự do cho
người An Nam". Ông đã đi diễn thuyết
nhiều nơi trên nước Pháp, và đã cho xuất
bản cuốn sách của ông vừa viết xong (4-1925)
tại Paris. Ðó là cuốn "La France en Indochine"
(nước Pháp ở Ðông Dương), do nhà in A và
F
Debeaufauve Tournefort- Paris ấn hành 2000 quyển, phát
hành
tại Paris và chuyển về nước 150 quyển.
45) Khách sạn
Chiêu Nam Lầu do chính bà Nguyễn Thị Xuyên
(bí danh Chiêu Nam
Lầu) là cô ruột của Nguyễn An Ninh, cùng bà
Nguyễn An Khương (mẹ của Nguyễn An Ninh)
tổ chức và cai quản, nhằm làm nơi liên lạc,
đưa đón, học tập và an dưỡng các sĩ
phu đương thời; còn là nơi đưa
rước du học sinh sang Nhật trong phong trào Ðông Du.
Ðịa điểm khách sạn tại số 49 Nguyễn
Huệ ngày nay.
46) Theo Thế
Nguyên, sách đã dẫn, tr. 50.
47) & 48) Trích
nguyên văn trong bài "Ðạo Ðức Và Luân
Lý Ðông Tây"
của Phan Chu Trinh. Giải thích này của Phan Chu Trinh
có hoàn
toàn đúng hay không? Xin nhường lại cho các
nhà
đạo đức và luân lý học có ý kiến?
49), 50) & 51)
Dẫn nguyên văn của Phan Chu Trinh.
52), 53) & 54) Trích
nguyên văn, bài đã dẫn, của Phan Chu Trinh.
55), 56) & 57)
Nguyên văn của Phan Chu Trinh, bài đã dẫn.
58) & 59) Nguyên
văn của Phan Chu Trinh trong bài "Quân Trị Chủ
Nghĩa Và Dân Trị Chủ Nghĩa".
60), 61) & 62)
Nguyên văn của Phan Chu Trinh, bài đã dẫn.
63) Nguyên văn
của Phan Chu Trinh, bài đã dẫn.
64) Nguyên văn
của Phan Chu Trinh, bài đã dẫn.
65) Bùi Quang Chiêu
vừa mới ở Pháp về tới Sài Gòn vào
ngày 24-3-1926.
66) Hai người
con gái của cụ Phan đã có mặt bên linh cữu
của cha suốt trong những ngày này. Ðó
là Phan Thị Châu
Liên cùng chồng là Lê Ấm (giáo sư
trường Quốc
học Huế) và Phan Thị Châu Lan cùng chồng là
Nguyễn Ðông Hội (tham tá công chánh).
67) Hai câu
đối của Ðoàn Phụ Nữ Việt Nam. Nguyên
văn chữ Hán như sau:
- "Vị quốc vong thân, trấp
tãi bôn ba, thiên
địa ải,"
- "Ðỉnh thân cứu thế,
nhất xoang tâm
huyết, quỷ thần kinh!"
68) Nên nhớ, Sài
Gòn lúc này chỉ có số dân là
300.000 người. Vậy là
1/3 dân số Sài Gòn đã đi đưa tang cụ Phan
Chu
Trinh.
69) Nguyên văn
chữ Hán như sau:
- "Thiên hạ quy chi, tổ chức
dân đoàn suy
đại lão"
- "Tiên sinh khứ lữ,
đã phiên đế chế
thị thùy nhân".
70) Như Phan
Bội Châu đã viết trong cuốn Tự Phán của ông
rằng: "Cụ với tôi vẫn đồng một
mục đích, mà thủ đoạn thì khác nhau"...
"Chính kiến vẫn trái nhau, mà ý kiến rất ưa
nhau". "Cụ thì muốn đánh đổ quân
chủ, mà cốt vun trồng lấy nền tảng dân
quyền... Còn ý tôi thì trước muốn
đánh
đổ người Pháp, chờ lúc nước nhà
độc lập rồi mới bàn đến việc
khác."
(Sách đã dẫn,
tr. 77, nhà xb Xuân Thu, Los Alamitos, CA, USA, 1998)
71)
Bản lược dịch của Nguyễn Văn Ðính.
72) Xem
bản dịch của Ngô Ðức Kế, đăng trên
"Tân Dân Tuần báo", số 3, 24 tháng 3 năm 1949.
73)
"Sự Thật Về Ðông Dương" (La varité sur
L'indochine), chương X, sách đã dẫn.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 05
THƠ LÊ MỘNG NGUYÊN
NT 129 - Giáng Sinh - tháng 12 - 2004
Thô khoùc
VUÕ THAØNH
Leâ Moäng Nguyeân
. Meán taëng höông hoàn taùc giaû "Doøng Soâng Daõ Thuù".
Anh nhö moät aùng thieân thaàn
Qua vöôøn thô nhaïc moät laàn maø thoâi
Roài bay, bay maõi, bay hoaøi
Cho gia ñình, baïn thô nhieàu tieác thöông
Anh ôi, sao sôùm leân ñöôøng
Qua beân theá giôùi, lôõ laøng traàn ai
Vieáng anh khoâng ñöôïc thô daøi
Khoùc anh chæ coù laïc loaøi vaøi caâu
Bieát anh qua maáy thô saàu
Thöông anh moät thuôû nhö haàu thieân thu.
Thô khoùc
VUÕ THAØNH
Leâ Moäng Nguyeân
. Meán taëng höông hoàn taùc giaû "Doøng Soâng Daõ Thuù".
Anh nhö moät aùng thieân thaàn
Qua vöôøn thô nhaïc moät laàn maø thoâi
Roài bay, bay maõi, bay hoaøi
Cho gia ñình, baïn thô nhieàu tieác thöông
Anh ôi, sao sôùm leân ñöôøng
Qua beân theá giôùi, lôõ laøng traàn ai
Vieáng anh khoâng ñöôïc thô daøi
Khoùc anh chæ coù laïc loaøi vaøi caâu
Bieát anh qua maáy thô saàu
Thöông anh moät thuôû nhö haàu thieân thu.
VIỆT PHƯƠNG * NHÀ VĂN CHẾ ĐỘ CS
Nhà
Văn Dưới
Chế Độ Cộng Sản
Việt Phương
Một thoáng
mắt nhìn qua những nhà văn quốc tế,
sống dưới chế độ Cộng Sản, hoặc dưới chế độ tự do dân chủ nhưng vẫn mơ
đến
thiên đường cộng sản. Trước hết, ta có thể nhắc đến văn hào Pháp André
Gide.
Ông đã có dịp đến thăm Liên Xô, sau những điều mắt thấy tai nghe tại
đất nước
lý tưởng của chủ nghĩa Cộng Sản, trở về Pháp ông viết tập " Retour de
l'
URSS " (Ở Liên Xô về) phơi bày những sự thật không đẹp
của xã hội Liên Xô đã làm ông vỡ mộng và từ
đó từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản. Khoảng thập niên 40 của thế kỷ thứ 20, một
số nhà
văn, nhà thơ Pháp đã gia nhập đảng cộng sản Pháp như Louis Aragon, Paul
Eluard
... Aragon từng có câu thơ: "Mon parti m'a rendu mes yeux et ma
mémoire", (Xuân Diệu (?) đã dịch:
"Đảng cho tôi sáng mắt sáng lòng") và sáng tác tập
"Les
Communistes" (Những người cộng sản). Paul Eluard khá nổi tiếng
với
bài thơ "Liberté" (Tự do). Một số nhà văn Mỹ như Jack London, có
khuynh hướng thiên tả với tác phẩm
"The Iron heel" (Gót sắt), John Steinbeck với tác phẩm "The grapes of wrath" (Chùm nho
phẫn nộ). Ở Liên Xô, dưới thời Staline, các nhà văn đã tận dụng ngòi
bút phục
vụ chế độ cộng sản qua các tác phẩm viết theo đường lối chủ nghĩa hiện
thực xã
hội. Đó là các nhà văn ca ngợi những người làm cách mạng trong hàng ngũ
cộng
sản với tác phẩm "Người Mẹ"
(của Maxim Gorki), Kỵ binh đỏ" (của Babel), "Con đường đau khổ"
(của Alexis Tolstoi), "Sông Đông êm đềm" (của Cholokhov), "Thép
đã tôi thế đấy" (của Ostroski). Tiếp theo là những cây bút ca ngợi cuộc
sống
lao động ở nông trường với tập truyện
"Đất vỡ hoang" (Cholokhov), ở công xưởng với tập
"Xi măng" (Fiodor Gladkov). Thời
gian này, ở các nước chư hầu của Liên Xô, cũng có các nhà văn sáng tác
văn nghệ
dưới hình thức chủ nghĩa hiện thực xã hội như ở Ba Lan, trong tác phẩm
"Tro than và kim cương" (của Jerzy Andrzejewski) mô tả cuộc xung đột
giữa 2 phe cộng sản và quốc gia; ở Hung Gia Lợi, trong tập truyện
"Người
đứng trên bờ" (của Tamas Aczél) được viết dưới dấu hiệu song hành của
cách
mạng (cộng sản) và tự do; ở Lỗ Ma Ni trong tập "Đường không bụi bám"
(của Detru Dumitriu) mô tả các trại lao tác. Ở Trung Quốc, từ năm 1950,
sau khi
chiếm lĩnh toàn thể lục địa, chính quyền Mao Trạch Đông đã khởi sự xây
dựng chủ
nghĩa xã hội trên xứ sở
mà vấn đề chủ yếu là sản xuất và kiến thiết.
Mao Thuẫn là nhà văn mở đầu cho kỷ nguyên văn học cộng sản về phương
diện này,
mô tả cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội đương thời. Đồng thời, có Lão
Xá với
các tác phẩm bênh vực tự do kết hôn, lên án bọn công chức tham nhũng;
Tào Ngu
với những vở kịch "Lôi Vũ" và "Nhật Xuất" mô tả thảm kịch
nội tâm của con người; Quách Mạt Nhược (cùng với Mao Thuẫn) được xem
như là
"người chép lịch sử cách mạng đỏ"; Lỗ Tấn với các tác phẩm mô tả đời
sống người dân trong trong thời cao trào cách mạng bùng nổ trên đất
nước Trung
Quốc.
Ở Việt Nam,
người viết muốn đề cập đến những
người làm báo, làm văn, thơ, nhạc, họa..... trước và sau năm 1975,
những vinh
nhục của họ khi cầm bút phục vụ hay chống đối đảng và chế độ cộng sản.
Sau
tháng 8/1945, một số nhà văn, nhà thơ có tiếng tăm trong thời kỳ văn
học lãng
mạn đã quy phục chế độ mới như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nguyên
Hồng, Ngô
Tất Tố, Nguyễn Huy Tưởng, Trương Tửu, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh,
Nguyễn Xuân
Sanh..... Họ đã hiện diện trong tạp chí Tiên Phong, cơ quan nòng cốt
của Hội
Văn Hóa Cứu Quốc Việt Minh, có những bài ký sự về hoạt động cách mạng
của mặt
trận Việt Minh của Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng; truyện nông thôn của
Kim Lân,
Nam Cao; những bài thơ ngợi ca cách mạng tháng 8 của Nguyễn Đình Thi,
chủ tịch
Hồ Chí Minh của Tế Hanh, Quốc hội Việt Nam (do Việt Minh lãnh đạo) của
Xuân
Diệu..... Thời kỳ này, Tố Hữu xuất hiện với tập "Thơ Tố Hữu", gồm
những bài thơ sáng tác trong thời kỳ thuộc Pháp, mô tả cuộc sống lao tù
của tác
giả và các đồng chí, bức tranh đen tối
của xã hội Việt Nam và bóng gió đề cập đến những hoạt động cách mạng
theo đường
hướng cộng sản. Giai đoạn 1945 - 1946 là giai đoạn phấn khởi của những
người
làm văn nghệ phục vụ đất nước vừa được thâu hồi nền độc lập sau thời
Pháp và
Nhật thuộc. Các nhạc sĩ sáng tác những bài ca cách mạng như "Tiến quân
ca" (Văn Cao), sau được chấp nhận làm Quốc Ca (cộng sản), "Bắc
Sơn" (Văn Cao), "Diệt Phát Xít" (Nguyễn Đình Thi), "Đàn
Chim Việt" (Văn Cao), "Có một đàn chim" (Phan Huỳnh Điểu)..... Đồng
thời, họ cũng sáng tác những bài hát trữ tình: Suối mơ (Phạm Duy), Bến
xuân
(Phạm Duy - Văn Cao), Thiên Thai (Văn Cao), Tiếng đàn tôi (Phạm Duy),
Bên cầu
biên giới (Phạm Duy), Dứt đường tơ (Dzoãn Mẫn). Nhà xuất bản Minh Đức
của Trần
Thiếu Bảo ấn hành các tác phẩm về chính trị, văn hóa của Hồ Hữu Tường:
Vấn đề
dân tộc, Tương lai văn hóa Việt Nam, Chủ nghĩa Tam Dân; về văn học của
Đặng
Thái Mai: Văn học khái luận, Lôi vũ, A.Q. chính truyện; của Nguyễn
Tuân: Chùa
đàn ......
Cuộc chiến
tranh Việt - Pháp bùng nổ ở miền Nam
từ năm 1946. Văn nghệ trong thời kỳ ấy có nhiệm vụ hô hào toàn dân
kháng chiến
với các bài ca Đoàn Giải Phóng Quân, Xuất Quân, Chiến Sĩ Vô Danh, Chinh
Phụ Ca
(của Phạm Duy)..... Cho đến khi Việt Nam biến thành những vùng trái độn
thì
Việt Minh lôi cuốn một số đông văn nghệ sĩ
đi theo kháng chiến. Họ sống rải rác ở các vùng chiến khu Việt
Bắc,
Trung Việt và Nam Việt. Thời gian này họ làm văn nghệ lấy đề tài trong
cuộc
kháng chiến, như Tô Hoài viết tập "Xuống làng" mô tả cuộc kháng Pháp
của bộ đội Việt và dân tộc thiểu số ở miền thượng du Bắc Việt, một số
các nhà
thơ tập hợp sáng tác của họ trong tác phẩm "Tập thơ kháng chiến" gồm
những bài thơ đấu tranh chống Pháp, tưởng nhớ quê hương, lao động ở
rừng núi,
xen lẫn những bài đề cao lãnh tụ (chủ tịch Hồ) và "Bộ đội cụ Hồ".
Tinh thần kháng chiến chống Pháp bàng bạc trong nhiều tác phẩm của các
nhà văn,
nhà thơ già cũng như trẻ, từ năm 1949 đến 1954, đánh dấu bằng Hiệp Định
Genève,
chia cắt hai miền Nam - Bắc Việt Nam.
Từ năm 1956, do ảnh hưởng của Đại
Hội Cộng
Đảng Liên Xô lần thứ 20 mà Khrutchev đã hạ bệ uy tín Staline, cởi mở
cho nền
văn nghệ nước này, gọi là "thời kỳ băng rã" và phong trào "bách
hoa tề phóng, bách gia tranh minh" (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua
tiếng) ở
Trung Quốc. Sinh hoạt văn nghệ ở miền Bắc Việt Nam cũng theo đà đó khởi
xướng
phong trào "trăm hoa đua nở". Các nhà văn, nhà thơ lợi dụng phong
trào đó để xuất bản các tạp chí
"Nhân Văn" và "Giai Phẩm" tập hợp một số cây bút như Phan
Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Phùng Quán, Thụy An Hoàng Dân, Nguyễn
Mạnh
Tường..... lên án những sai lầm về chính sách cải cách ruộng đất, quyền
lãnh
đạo văn nghệ của đảng và nhà nước, cũng như những bất công xã hội đương
thời.
Sự chống đối này của các văn nghệ sĩ chân chính là điều hiển nhiên. Sau
nhiều
năm sống dưới chế độ cộng sản, họ đã nhận thức được những sai trái của
giới
lãnh đạo đảng qua những chủ trương chính sách thiếu tính chất nhân bản.
Trong giai
đoạn nầy, ở Liên Xô vào "thời
kỳ băng rã" có những nhà văn viết nên những tác phẩm như "Bác sĩ
Zhivago" (của Boris Pasternak) phác họa bức tranh đen tối của xã hội
Nga
trong thời kỳ nội chiến giữa các thế lực Hồng quân, Bạch vệ, Du kích
quân. Tác
phẩm này đã được giải thưởng văn chương Nobel, chỉ được ra mắt độc giả
ở nước
ngoài với các bản dịch Anh, Pháp và nhà nước Liên Xô đã không cho phép Boris Pasternak xuất ngoại để nhận lãnh giải
thưởng, rồi tác giả gặp nhiều khó khăn từ phía chính quyền cộng sản.
Một tác
giả khác là A. Solzhenitsyn cũng chỉ được ấn hành tác phẩm của mình ở
ngoài
Liên Xô vì đã mô tả những điều không hay ở các trại cải tạo với tác
phẩm
"Quần đảo ngục tù". Ở Lỗ Ma Ni, C. V. Gheorghiu cũng gặp tình trạng
như vậy với tác phẩm "Giờ thứ 25" mô tả những hạn chế của con người
sống dưới chế độ cộng sản.
Sứ mệnh của
văn nghệ là giúp cuộc sống con
người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ, đồng thời cũng chống lại những bạo lực
ngăn
cản con người có cuộc sống đó; cho nên ở xã hội nào, thời nào cũng vậy,
những
người làm văn nghệ chân chính vẫn không bẻ cong ngòi bút để phục vụ các
chế độ
độc tài, thiếu dân chủ, hoặc xu nịnh chính quyền đi ngược nguyện vọng
của người
dân, dù họ biết rằng những điều họ viết ra sẽ gây nguy hại
cho đời sống và tính mạng của họ.
Thời kỳ Nhân
Văn - Giai Phẩm xuất hiện, sau một
thời gian ngắn, những người viết cho các đặc san, tạp chí đó đã bị
chính quyền
cộng sản Việt Nam lên án. Kẻ thì bị cô lập hóa, truất quyền nhà văn, tù
đày,
như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Thụy An Hoàng Dân,
Trần Dần,
Phùng Quán và nhà xuất bản Trần Thiếu Bảo. Sau năm 1975, Trần Dần,
Phùng Quán
được phục hồi danh dự, nhưng họ không viết được tác phẩm nào đáng lưu
ý. Sống
trong xã hội cộng sản, những người làm văn nghệ thiếu lương tri đã dùng
ngòi
bút của họ để ca ngợi chế độ, bợ đỡ chính quyền, xu phụ lãnh tụ, như
trường hợp
Tố Hữu đã làm thơ khóc Staline , Hồ Chủ Tịch, Xuân Diệu ca ngợi Bác và
Đảng, cổ
động tàn sát địa chủ trong cuộc cải cách ruộng đất năm 1955 - 56, Chế
Lan Viên
đề cao Bác - Đảng và chủ nghĩa xã hội, Nguyễn Công Hoan xu phụ lãnh đạo
văn
nghệ (Tố Hữu), mạt sát Phan Khôi và các nhà trong nhóm Nhân Văn - Giai
Phẩm.
Nền văn học
Việt Nam dưới chế độ cộng sản được
xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa hiện thực xã hội, những người làm văn
học, văn
nghệ đều bị bắt buộc sáng tác theo đường hướng đó, nên phần lớn tác
phẩm của họ
đều khô khan, gượng ép, phản ảnh cuộc sống lao động của nhân dân ở các
nông
trường, công trường tập thể với ý thức đấu tranh giai cấp giả tạo,
không đúng
với bản chất giàu tình cảm của ngưới Việt. Vì vậy, từ sau năm 1975,
tiếp tục
tinh thần chống đối của các nhà văn, nhà thơ từ trước, một số người cầm
bút đã
có những sáng tác nhằm đả kích các mặt tiêu cực của chế độ công sản.
Ngoài các
tác phẩm có nội dung chống đối chế độ cộng sản của Nguyễn Huy Thiệp,
Dương Thu
Hương, Trần Mạnh Hảo.....còn có những tạp chí đấu tranh cho tự do dân
chủ như
tờ "Langbian" do Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự chủ trương, hay tờ
"Thao Thức" mà người ta thường gọi là "báo chui" xuất hiện
bí mật ở trong nước.
Hậu quả của
những người làm văn nghệ dưới chế
độ cộng sản thế nào? Nếu họ là những người viết lách theo đúng chính
sách, chủ
trương của đảng cộng sản thì họ được xem như là những cán bộ văn hóa
hữu công,
được chính quyền nâng đỡ về đời sống, trả tiền nhuận bút cao, được kết
nạp vào
đảng và Hội Nhà Văn, được "thắt cà vạt đỏ, đi giày vàng, đọc đít cua,
ăn
tiệc nhồm nhoàm và bay đó bay đây" như Nguyễn Tuân, đa "lột xác"
sau cuộc chỉnh huấn năm 1953, vì bị đảng phê bình là lãng mạn, lập dị.
Nếu trái
lại, họ có tác phẩm chống đảng hoặc lên tiếng phê bình đường lối, chủ
trương
của đảng thì bị bắt bớ, tù đày hoặc khai trừ, tước bỏ quyền viết văn,
bị đe dọa
"xử lý kỷ luật" như trường hợp Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự khi họ
đi thu thập chữ ký của các văn nghệ sĩ để phản đối việc đóng cửa tờ báo
"Langbian" của họ. Hoặc như Mai Thái Lĩnh, với tư cách hội viên Hội
Văn Nghệ Lâm Đồng, năm 1989, lên tiếng bênh vực cho Bùi Minh Quốc và
Tiêu Dao
Bảo Cự thì bị chụp mũ là có liên quan đến nhóm Hà Sĩ Phu, Nguyễn Thanh
Giang và
những nhà trí thức đã thảo ra bản tuyên ngôn đòi dân chủ có tên "Kết
Ước
2000". Và những người này có thể bị qui tội phản quốc và có thể bị kết
án
tử hình theo điều luật 78 của bộ Luật Hình Sự Việt Nam hiện thời.
Song không
phải vì vậy mà nhữing người cầm bút
có lương tâm dưới chế độ cộng sản chịu im tiếng. Họ vẫn giữ được khí
phách của
kẻ trượng phu, như Nguyễn Mạnh Tường sau nhiều năm bị đày đọa, đã hoàn
thành
tập hồi ký viết bằng tiếng Pháp: "Un Excommunié": Hanoi 1954 - 1991:
Procès d'un intellectuel" vào năm 1991 (Quê Mẹ Paris xuất bản năm 1997).
Trong tập hồi
ký này, Nguyễn Mạnh Tường đã có
đoạn viết: "Họ (những người cộng sản) là những cái thùng rỗng tuếch,
khua
ầm ỹ. Mở miệng ra là nói Mác, nhưng không bao giờ đọc sách vở của Mác,
hoặc nếu
ngẫu nhiên đọc một trang trong cuốn "Tư Bản Luận" cũng chẳng hiểu ất
giáp gì..... Đất nước mất đi bản sắc, chỉ nhắm bắt chước, sao chép Liên
Xô và
Trung Quốc (Le Vietnam perd sa personalité pour devenir le reflet, le
fac-simile de l' Union Soviétique et de la Chine).
Không chỉ
những nhà cách mạng tranh đấu cho tự
do dân chủ, no cơm ấm áo của người dân, mà những người làm văn nghệ bất
cứ ở xã
hội nào cũng mang một sứ mệnh cao đẹp là hướng dẫn quần chúng ý thức và
hưởng
thụ một đời sống tinh thần an lạc, hạnh phúc. Vì vậy, dưới chế độ cộng
sản ở
Việt Nam, những người cầm bút chân chính đã nhận thức được chế độ phi
nhân bản
này và tiếp nối các bậc đàn anh ở thế hệ trước lên tiếng đòi hỏi tự do
dân chủ
cho đất nước và dân tộc. Những tác phẩm của họ do điều kiện truyền
thông hiện
đại là những thông điệp gởi ra ngoài nước, kêu gọi thế giới tự do nhận
định bản
chất băng hoại của chế độ cộng sản, tạo điều kiện giải trừ chế độ này
hiện còn
tồn tại ở Việt Nam, một trong thiểu số quốc gia nghèo nàn và lạc hậu
nhất trên
thế giới.
Việt Phương
Ghi
Chú:
- Các
tác phẩm Nga và các nước Đông Âu được xuất bản dưới nhan đề tiếng Pháp
hoặc
tiếng Anh:
Nga: Người Mẹ
= La Mère; Kỵ binh đỏ = Cavalerie rouge
Con đường đau
khổ = Le chemin des tourments
Sông Don êm
đềm = Le Don paisible;
Đất vỡ hoang
= Terres défrichées
Xi măng = Le
ciment
Bác sĩ
Zhivago = Doctor Zhivago
Quần đảo ngục
tù = The Gulag Archipelago
Ba Lan:
Tro than và kim cương = La cendre et la Diamant
Hung :
Người đứng trên bờ = Un homme sur la rive
Lỗ:
Đường không bụi bám = Route sans poussière
Giờ thứ 25 =
La vingt cinquième heure
Trung Quốc :
Nhật xuất = Mặt trời mọc
Lôi vũ =
Giông tố.
SƠN TRUNG *HỘI HOA TULIP
S÷N TRUNG
Tåi Canada, mùa Çông là mùa tuy‰t lånh . Mùa Xuân ljn v§i Canada rÃt chÆm. Mùa xuân tåi Çây b¡t ÇÀu tØ 21 tháng ba dÜÖng lÎch. Tuy‰t Çã tan,tr©i Çã Ãm áp. ñây là lúc cÕ b¡t ÇÀu xanh, cây trong rØng, trong công viên Çâm chÒi nÄy l¶c.
Trong nh»ng ngày xuân ÇÀu tiên, thû Çô Ottawa Çã tràn ÇÀy n¡ng Ãm và hoa ÇËp. Nào hoa thûy tiên, hoa kÎ phù lam và hàng triŒu hoa uÃt kim cÜÖng nª kh¡p nÖi. Tháng næm có h¶i hoa UÃt kim cÜÖng. ñây là m¶t dÎp Ç‹ chào mØng mùa xuân ljn xÙ này. Có hàng ngàn du khách Çã ljn vi‰ng thû Çô Ottawa vào dÎp này.
Hàng næm, n» hoàng Juliana Çã gºi ljn cho dân chúng Canada m¶t món quà gÒm có 15 ngàn cû uÃt kim cÜÖng. Món quà này là phÀn b° sung cho món quà ÇÀu tiên gÒm hàng ngàn cû uÃt kim cÜÖng mà n» hoàng Çã t¥ng cho dân chúng Canada sau khi chÃm dÙt ÇŒ nhÎ th‰ chi‰n Ç‹ tÕ lòng bi‰t Ön Canada Çã giúp Ç« bà trong th©i gian bà lÜu vong tåi Çây.
Thû Çô Canada ti‰p nhÆn món quà này và Çã Çem trÒng trên các ÇÜ©ng phÓ tráng lŒ cûa thû Çô .
From early spring, Ottawa is ablaze with the warmth and beauty of daffodils , crocuses and over a million exotic tulips. The May Tulip Festival highlights the spring season and brings thousands of visistors to the Capital City.
Each year Queen Juliana sends to the people of Canada a gift of some 15,000 tulip bulbs. This adds to her original gift of several thousand bulbs which she gave in gratitude after ending her exile in Canada during the Second World War. The National Capital Commission supplements this gift and maintains many miles at scenic driverways.
TS. LÂM LỄ TRINH *VĂN NGHỆ
TRÁCH
NHIỆM CỦA VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
TRONG
CÔNG CUỘC DÂN CHỦ HÓA VIỆT NAM
TS.Lâm
Lễ Trinh
LTS: Dưới
đây là bài nói chuyện có ghi âm
của Ls Lâm Lễ Trinh
trong buổi giới thiệu sách “Tuyết Xưa, Viết
về Văn học” của Gs Trần Ngọc Ninh ngày 29.9.2002
tại Viện Việt Học, Intitute of Vietnamese Studies,
ở số 15355 Đại lộ Brookhurst, Westminster,
Californie.
Sau
sự giới thiệu và phân tích khá đầy đủ
của ông Viện trưởng Nguyễn Khắc Hoạch
và nhà thơ Viên Linh, tôi xin mạo muội
góp thêm một vài
nhận định và ý kiến về quyển sách
“Tuyết Xưa” do ông bạn Trần Ngọc Ninh đã có
nhã ý đề tặng.
Sáng
tác rất công phu này gồm có ba phần: 1)
các tạp bút mà
tác giả hài hước mệnh danh “rơm rác đời
làm báo” đăng trước năm 1954, lúc còn
là sinh viên y
khoa, trong tập san y học Vui Sống tại Hà Nội. 2)
một số diễn văn và bài nghiên cứu sau 1954,
về nguồn gốc văn hóa thái cổ Việt Nam và
các
mối liên hệ với dân tộc, lịch sử, xã hội…
3) Ý nghĩa và vai trò của huyền thoại dân
tộc.
Nhiều hình ảnh và minh họa mỹ thuật
được trình bày khoa học qua 320 trang sách.
Nơi
đây, tôi chỉ
đề cập đến hai phần chót trong đó có 3
điểm đáng được đem ra thảo
luận thêm:
A
– Trước hết, vấn đề định
nghĩa Dân tộc và Văn hóa.
Theo
tác giả Trần Ngọc Ninh, Dân tộc là “một
khối người có chung một nguyên tổ trong
huyền sử, một ngôn ngữ chung và một văn hóa
chung” (trang 180,181,182). Và ông đã định nghĩa
ngắn gọn “Văn hóa là cái mà ta khác
họ” về ý
thức hệ và trong cuộc sống. (trang 112).Trên thực
tế, vấn đề định nghĩa phức
tạp hơn nhiều từ khi hai ngành khoa học mới
mẻ về nhân chủng (anthropology) và ngôn ngữ
(linguistique) xâm nhập lãnh vực nghiên cứu văn minh
và
văn hóa.
Đúng
vậy, Dân tộc và Văn hóa là đề tài
tranh luận
sôi nổi những thập niên gần đây. Hai nhà
nhân
chủng học Kroeber và Kluckhohn xác nhận đến nay,
có ít nửa 163 định nghĩa khác nhau về Dân
tộc. Định nghĩa của kinh tế gia
Đức Max Weber, lãnh tụ CS Nga Josef Stalin và nhà
sử
học Pháp Ernest Renan thường được nhắc
đến. Weber quan niệm Dân tộc là một nhóm
cộng đồng sắc tộc kết tụ bởi
sự tin tưởng họ thuộc một nòi giống
riêng, đồng hướng về một quyết tâm
chính trị và được phó thác một sứ mạng
văn hóa. Đối với Stalin, đời sống kinh tế,
ngôn ngữ chung và lãnh thổ là ba yếu tố
chính
yếu. Còn Ernest Renan thì ông cho rằng Dân
tộc là một
hình thức đạo lý (a form of morality), một giác
quan
hợp quần (a sense of solidarity), phát sinh từ một ý
thức lịch sử đặc biệt, (a distinctive
historical conscience). Dưới lăng kính nhân chủng học,
Gs Clifford Geertz quan niệm hai yếu tố cấu tạo
chủ nghĩa dân tộc là sắc tộc và công
dân bổ
túc lẫn nhau trong khi vẫn đối địch.
Về
Văn hóa, trước thập niên 60, có hai định
nghĩa xem như sáng giá nhất, do hai nhà nhân
chủng
học trứ danh Edward Tyler, gốc Anh, và Kenneth Lowie,
gốc Mỹ, đề nghị. Theo Tyler văn hóa là “những
năng khiếu và tập quán thụ đắc bởi con
người với tư cách một thành viên của xã
hội.” Còn Lowie thì ông cho rằng văn hóa
là “tất
cả những gì một cá nhân thu thập được
từ cộng đồng xã hội như một di
sản của quá khú chớ không phải do các cố
gắng của bản thân.” Thập niên 70, quan
điểm trên đây bị nhiều thức giả kích
bác, trong số này có Clifford Geertz, tác
giả của quyển
sách danh tiếng “The Interpretation of Cultures” (NY Basic
Books, 1973).
Khuynh hướng mới chủ trương ngành nghiên
cứu văn hóa cần có tính cách giải
thích, hướng
về việc tìm ý nghĩa, thay vì là một
môn khoa học
thực nghiệm nhằm mục đích khám phá định
luật. Văn hóa không còn là một khái
niệm thuần
nhất nữa. Văn hóa được phân tích như “những
màng tơ ý nghĩa do chính con người dệt chằng
chịt xung quanh mình để rồi bị vướng
mắc trong đó - Webs of significance which man himself has spun
and
in which he is suspended.”
Tại
Việt Nam, trong tác phẩm “Việt Nam Văn hóa sử
cương”, học giả Đào Duy Anh định
nghĩa tổng quát : “Văn hóa không những bao gồm
học thuật tư tưởng mà còn liên hệ
đến tất cả các phương tiện sinh
hoạt của con người.” Hoàng Văn Chí, tác
giả của “Văn hóa sử quan”, sai lầm khi phân
biệt Văn hóa và Văn nghệ và ông đề nghị
tạm định nghĩa văn hóa như “lối sinh
hoạt và suy nghĩ của nhân loại.” Gs Nguyễn
Khắc Kham, trong bài khảo luận “Đặc sắc
của nền văn hóa Việt Nam”, nhận định
Việt Nam có một nền văn hóa “đa nguyên
mà
lại có đặc tính nhất nguyên”. Đa nguyên
vì
kết tụ nhiều nền văn hóa khác nhau, phát
xuất từ Phật giáo qua Ấn Ðộ, từ Tây
Phương qua ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo,
từ Trung Quốc dưới hình thức Khổng và Lão
giáo, không kể văn hóa thạch khí Hòa
Bình, thạch khí
Bắc Sơn, đồng đen Đồng Sơn v.v…
Nhất nguyên, mặt khác, vì Việt Nam thành
công dung hợp
các trào lưu văn hóa nói trên để khởi
sắc
phong phú. Khá đông học giả Tây Phương, đa
số là người Pháp, như Dufell, Ernest Gourou, và
Charles
Robequain, đã nghiên cứu sâu sắc thực chất và
đặc tính của nền văn hóa Việt.
B
– Thứ nữa, “sự thăng trầm và sống chết
của các văn hóa” được đề cập trong
Tuyết Xưa từ trang 97 đến 186.
Tác
giả Trần Ngọc Ninh cho rằng các nền văn hóa,
lớn hay nhỏ, vô danh hay hữu danh, vì là nhân
tạo nên
phải trải qua bốn giai đoạn - như bốn
mùa xuân, hạ, thu, đông - chớm nở, phát
triển,
vượt đến tột đỉnh để
rồi tàn lụi dần dần và tắt hẳn. Theo Gs
Trần Ngọc Ninh, văn hóa không biến đổi là
văn hóa chết. Văn hóa phải đổi mới
“nhật tân, hưu nhật tân, nhật nhật tân” như
Khổng Tử căn dặn. Một nền văn hóa có
thể tan vỡ vì hai lý do: do sự cưỡng bách thay
đổi toàn diện (trường hợp cổ Ai
Cập bị Hy Lạp chinh phục rồi bị La Mã
đô hộ; trường hợp Đức Quốc Xã
từ bỏ sứ mệnh văn hóa của mình) hay tình
trạng “ chia rẽ và đối kỵ trong lòng dân
tộc”.
Để
kết luận, tác giả nhắc lại câu nói của Paul
Valéry: “Chúng ta, các văn minh, biết rằng
chúng ta
đều phải chết - Civilisations, nous savons que nous
sommes mortelles.” Nói cách khác, văn
hóa cam chịu số
phận phù du, sớm nở tối tàn.
Nơi
đây, chúng tôi xin phát biểu một sự e
dè. Thật
vậy, lịch sử chứng minh những nền văn
hóa lớn ảnh hưởng mạnh đến nhân
loại thường đi kèm với sức mạnh
về quân sự như các đế quốc cổ
đại Hy Lạp, La Mã, Ai Cập, Persia, Ấn Ðộ,
Đế quốc Anh trước Đệ nhị Thế
chiến v.v… Khi văn hóa (culture) tạo ra được
một nền văn minh (civilisation) vượt xa ngoài biên
cương quốc gia thì dù những đế quốc này
sụp đổ đi nữa, ảnh hưởng của
họ về trí tuệ và kỹ thuật không chấm
dứt. Ngạn ngữ VN có câu: Hùm chết để da.
Khoa học nhân văn La Hy (les humanités
gréco-latines), nền Hòa
bình Pax Romana, khái niệm về vũ trụ nhân sinh của
Socrate, Aristote, Eschyle và Sénèque.. nay vẫn
được
nhắc mãi và giữ nguyên giá trị.
Trong
tạp chí Foreign Affairs, Feb.1998, Gs Samuel Huntington,thuộc
đại học Harvard, tiên đoán thiên niên kỷ
này
sẽ dự kiến một va chạm nảy lửa
giữa các nền văn minh đối nghịch (a clash of
civilizations) trong đó tôn giáo đóng vai
trò hệ trọng.
Sự đối đầu sẽ tàn khốc hơn hai
Thế giới Đại chiến vừa qua vì dựa vào
tín ngưỡng.
C
– Sau hết, sự tranh luận về giá trị của
Huyền thoại dân tộc trong Văn hóa thái cổ VN
được tác giả đề cập trong 97 trang chót
của Tuyết Xưa. Phần này quả là một khám phá
thích thú đối với người đọc.
Tại
Việt Nam, công việc chép sử chỉ bắt
đầu dưới Triều Lý (1010- 1225),
được kiện toàn dưới Triều Trần
(1225-1400) và tương đối hoàn chỉnh dưới
Triều Lê (1418-1527). Vì chiến tranh liên
miên, nhiều
văn kiện lịch sử bị tiêu hủy hay thất
lạc. Từ Triều Lý trở lên về trước,
gần bốn ngàn năm, lịch sử Việt Nam không
được ghi chép vào văn bản. Để đánh
dấu những giai đoạn phát triển của dân
Việt từ thời Hồng Bàng (2879-258 trước tây
lịch), các sử gia phải căn cứ vào những
lời truyền tụng, những di tích, hiện vật
như cung tên, khí giới, trống đồng, đồ
gốm..vv.., đặc biệt vào vô số huyền
thoại liên hệ đến nguồn gốc của
Đất nước và Dân tộc do cha ông chúng ta thừa
kế từ đòi trước và truyền lại cho các thế
hệ sau.
Vào
cuối thế kỷ 14,
thời Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, Trần
Thế Pháp là người đầu tiên sưu tầm
những huyền thoại ấy và chép lại trong một
tài liệu tựa đề Lĩnh Nam Chích Quái. Năm 1492,
cuối thế kỷ 15, tác giả Vũ Quỳnh sắp
xếp lại tác phẩm này thành một văn bản
mới. Tiếp theo quyển Lược khảo về
Thần thoại Việt Nam (1956) của Nguyễn
Đổng Chí, Tiếng Đông Phương xuất bản
năm 1973 quyển sách dày 665 trang của Hoàng Trọng
Miên
mang tên “Việt Nam Văn Học Toàn thư, Thần
thoại Cổ tích”, có thêm vào nhiều câu
chuyện của
các sắc tộc thiểu số. Ngoài ra, cũng nên kể
tác phẩm Légende des Terres Sereines của Gs Phạm Duy
Khiêm
viết bằng Pháp văn. Các học giả vừa nói
dùng
huyền thoại để làm văn chương hơn là
thực hiện một công tác nghiên cứu khoa học.
Huyền
sử đi trước lịch sử, không phải là
lịch sử nhưng tại Việt Nam, phản chiếu
một cách sâu đậm tâm lý và tâm
linh dân tộc. Vì
thế chúng ta cần tìm hiểu huyền thoại theo
nghĩa nổi và nghĩa chìm. Tôi đồng ý với
tác
giả của Tuyết Xưa khi ông khẳng định
huyền thoại Việt Nam là “những di ngôn của
Tổ tiên để lại từ thời lập quốc,
những nét đặc thù của văn hóa dân tộc"
phải được bảo vệ và khảo sát theo
phương pháp khoa học.
Đi
xa hơn nữa, tôi nghĩ mỗi huyền thoại
đều nhắn gởi một sứ điệp
thực tiễn của Cha Ông. Vì thế cần nghiên
cứu để nhận thức ý nghĩa của các
sứ điệp ấy và khai khác những mạch
sống mới trong công cuộc đấu tranh sắp
tới.
Từ
Âu sang Á, tại các quốc gia có một nền văn
hóa
cổ kính, kể cả những xứ tự nhận là
“tiến bộ”, mọi vấn đề nguồn gốc
đều có tính cách kỳ diệu. Ở Việt Nam, qua
nhiều thế kỷ, quần chúng, từ lúc mở
mắt chào đời, sống giữa vô số huyền
thoại truyền khẩu: Âu Cơ, Lạc Long Quân, Sơn
Tinh, Thủy Tinh, Phù Đổng Thiên Vương, Trọng
Thủy, Mị Châu, Chử Đồng Tử, Sự tích
Trầu Cau, Bánh Dày và Bánh Chung của Lang
Liệu, Thằng
Cuội và Cây Đa, Trương Chi và Mỵ Nương
v.v... Đây không hẳn là chuyện hoang đường,
sản phẩm phi lý của trí tưởng tượng.
Trong
quyển sách “Tổ quốc ăn năn”, nhà báo Nguyễn
Gia Kiểng đã bị dư luận phê bình gắt gao khi
ông châm biếm giá trị của huyền sử và
đề nghị thẩm lượng lại những nhân
vật lịch sử lớn như Quang Trung Nguyễn
Huệ.
Câu
nói của Thần Kim Qui, trả lời cho An Dương
Vương: “Kẻ thù đang ngồi ở sau lưng Nhà
Vua” còn mang tính thời sự trong hoàn cảnh Đất
Nước ngày nay. Trong tâm hồn của mỗi
người Việt nặng lòng vì xứ sở, có một
Phù Đổng nho nhỏ, đợi được
đánh thức và võ trang về thể chất lẫn tinh
thần để đứng dậy, lên đường,
đấu tranh cho Quê Hương. Chúng ta gọi nhau là
Đồng Bào vì tổ tiên cùng ở trong một bọc
trứng. Khi chia năm chục người con về
Thủy phủ và 50 lên núi, Lạc Long Quân căn dặn
Âu
Cơ: “Tuy đôi bên, kẻ ở rừng, người
biển, song đến khi có việc gì thì tin cho nhau,
không
được bỏ nhau!”. Tổ tiên đề
nghị cho chúng ta phương hướng hóa giải
vấn đề muôn thuở: Khác biệt nhưng phải
Nhất tâm!
Nói
cách khác, chúng ta cần hội nhập các
bài học quý giá
rút từ một gia tài phong phú. Cần chuyển biến
những sứ điệp này thành thực tế trong sinh
hoạt hằng ngày và cách xử thế ở đời.
o0o
“Tuyết
Xưa”nói nhiều về lịch sử và huyền sử.
Để kết thúc, chúng ta hãy thoáng
nhìn về một
số hiện tượng thay đổi bộ mặt
của Văn hóa trong thế giới ngày nay:
1
–Ảnh hưởng không ngớt gia tăng của Văn
hóa đối với Chính trị.
Trong
tác phẩm best-seller “Cultural Forces in World Politics - Những
sức mạnh văn hóa trong chính trường quốc
tế”, GS Ali A.Mazrui, gốc Kenya, Phi châu, nhận
định rằng sau Đệ nhị thế chiến,
sự chia cắt địa cầu về ý thức hệ
(Dân chủ Tự do chống Xã hội chủ nghĩa) theo
lằn ranh Đông - Tây có tính cách giao
thời trong khi cái
hố phân cách Nam-Bắc về kỹ thuật và lợi
tức mỗi ngày đào thêm sâu. Theo ông,
ý thức hệ và
kỹ thuật bắt nguồn từ văn hóa; văn hóa
là trung tâm điểm của bản chất quyền
lực trong bang giao quốc tế; một nền văn hóa
hùng mạnh là “cái khiên bảo vệ hữu hiệu tự
do - a protective shield for freedom.” Với chủ đích khai
thông
dân trí, văn hóa không thể tách rời
khỏi tự do.
Văn hóa thiếu tự do không còn là văn
hóa. Một danh
từ mới “văn hóa chính trị, culture of politics”
trở nên thông dụng trong giới nhân chủng học,
ý
muốn nói; khi vi khuẩn Dân chủ và Tự do đột
nhập Văn hóa thì Chính trị bị ảnh hưởng
và buộc phải canh tân.
2-
Siêu cường Hoa Kỳ tạo ra một Văn hóa
của Sức Mạnh.
Thông
thường, hào quang văn hóa tạo uy tín và sức
mạnh tinh thần. Ngày nay, hiện tượng “Sức
mạnh tạo Văn hóa” xảy ra với nước
Mỹ. một quốc gia đa chủng, thành lập
năm 1775 bởi di dân tứ xứ. Kinh tế phong phú, khoa
học siêu đẳng, truyền thống dân chủ
vững chắc và khả năng quân sự vô địch
giúp siêu cường Hoa Kỳ gầy dựng
được Văn hóa của Sức mạnh hiện
thay đổi bộ mặt thế giới. Nền văn
minh Hoa Kỳ hiếu động, đa sắc và cuồng
nhiệt, vì thế thường bị các nước
Cựu Thế giới mỉa mai mệnh danh “Văn hóa Coca
Cola, Văn hóa trọc phú, Văn hóa Đô-la”. Sự
phát
triển mạnh của văn hóa Hoa Kỳ, nhất là
việc phổ biến gần đây chủ thuyết quân
sự Tiên Hạ Thủ Vi Cường của Tổng
thống George Busk không phải không bị phản
đối tại nhiều xứ.
Thẩm
lượng văn hóa Mỹ qua phim ảnh đồi
trụy, nhạc jazz-bebop, nếp sống vội vã và
thức ăn fast food là môt phán xét dễ
dãi và phiến
diện. Trên thực tế, Văn minh và Văn hóa Hoa
Kỳ đang đóng góp hệ trọng vào kho tàng
nhân
loại về khoa học, kỹ thuật, văn nghệ,
kinh tài và tư tưởng chính trị. Sự đóng
góp
quý giá nhất là Hoa Kỳ giúp vãn hồi
và duy trì hòa bình trên
địa cầu để bảo vệ văn hóa
của các xứ khác không bị chiến tranh tiêu
hủy.
3-
Tác dụng hàng đầu của Văn hóa trong công
cuộc
Dân chủ hóa Việt Nam.
Như
đã nêu trên đây, không thể coi Văn
hóa như một
ý niệm trừu tượng của trí tuệ. Văn hóa
là một vũ khí đa năng, đa hiệu để
thực hiện những giấc mơ cao quý của con
người, trong đó có giấc mơ hòa bình, hạnh
phúc. Bá quyền chính trị không bao giờ chấp
nhận
văn hóa tự do mà chúng xem là phản động.
Trước cái thiện và cái ác, người văn
nghệ sĩ VN không thể trung lập. Đứng trên hay
ngoài chính trị, khi sự tồn vong của dân tộc
và
phát triển của đất nước tùy thuộc
hơn lúc nào hết vào dân chủ và tự do,
là một sai
lầm nguy hại. Không có ý kiến cũng là
ý kiến, ý kiến
của kẻ trốn trách nhiệm.
Nhà
cầm quyền CS hiện chủ trương giao lưu
văn hóa một chiều và nơm nớp lo sợ sự
tấn công của văn hóa đối kháng có tổ
chức. CS hãy hóa giải trước, rồi nói
đến hòa giải sau. Miệng cổ võ giao lưu
nhưng lòng tính toán hợp lưu.
Qua
siêu xa lộ điện tử, tư tưởng của
những người biệt kích cầm bút có thể
đột nhập lãnh địa đối phương
dễ dàng và mau chóng hơn cả hỏa tiễn và phi
cơ siêu âm để khích động quần chúng.
Cộng đồng hải ngoại nên siết chặt hàng
ngũ để đánh liên tục và tới tấp vào
các
kẽ hở “cởi mở” của chế độ Hà
Nội bằng cách quảng bá sâu rộng những ý
niệm dân chủ và pháp trị. Xã hội chủ nghĩa
Đông Âu sụp đổ không vì bom đạn nhưng
vì
trận tuyến tuyên truyền dai dẳng của Thế
giới tự do.
Trong
lịch sử nhân loại, những cuộc cách mạng
thành công bền vững không phải là những cuộc
cách
mạng đẫm máu mà là những chiến thắng
của lý trí và ý thức hệ.
LÂM
LỄ TRINH
Ngày
29.9.2002
Californie
THƯ
TỊCH:
*
“Cultures, A critical review of concepts and definitions” của Kroeber
và
Kuckhohn, Random Publishers, London 1952.
*
“Cultural forces in World politics” của Ali A.Mazrui, 1998, Houghton
Miflin Co, London.
*
“The interpretation of cultures” của Clifford Geertz, New York Basic
Books, 1973.
*
“Les traits fondamentaux de la civilisation vietnamienne” của
Thái
Văn Kiểm, L’Harmatan Paris 1996.
“Qu’est
ce qu’une nation” của Ernest Renan; “The Nation” của Josef Stalin:
“Économie et Société” của Max Weber.
*
Đọc các bài của tác giả Lâm Lễ Trinh
đăng trong nhiều báo tại Hoa kỳ và Âu châu:
“Sức mạnh của Văn hóa và Văn hóa của
Sức Mạnh”, “Từ Văn hóa lưu vong đến Giao
lưu văn hóa”, “Văn hóa khai thông bế tắc
chính tri”,
“Văn hóa Việt Nam SOS”, “Văn hóa Hòa bình,
một ảo
giác”, “Tận dụng văn hóa để đấu tranh
cho Dân chủ”, “A Culture of Opposition abroad”.TRẦN HỒNG CHÂU * NGẢ BA SỎI ĐÁ
NGÃ BA SỎI ĐÁ
TRẦN HỒNG CHÂU
Gió mưa tính sổ vào đời
Đèn khuya bóng lẻ bồi hồi thế nhân.
Từ đêm binh lửa ầm ầm
Gió bay nhà bạc, cát lầm cửa thưa
Tuổi xanh thao thức mấy mùa,
Núi nhìn sông rộng cũng thừa cảm thông
Nhưng sao mỏi mắt chờ trông
Chân dung hồn Việt một vòng không tên
Triền miên góc biển lãng quên
Tình người vắng bóng mấy miền hoang vu
Vong thân lẻ chiếc ngôn từ
Nửa vòng trời thấp đỏ từ cỏ cây
Quê hương băng địa héo gầy
Vòng quay tiền sử vơi đầy lệ rơi
Ngã ba sõi đá cuộc đời
Tấm lòng nghiêng ngửa trông vời biển xanh.
Nhớ Đất Thương Trời
GIA HỘI * NÔNG THÔN VIET NAM
Đời Sống Nông Thôn Dưới Chế Độ Cộng Sản
Gia Hội
Trước cải cách ruộng đất (1954), người nông dân được đảng hứa hẹn chia ruộng đất . Trong cải cách, đảng đã bắt nông dân tố cáo địa chủ . Ai tố cáo địa chủ đuợc đảng chia cho của cải ,nhà cửa và ruộng đất của địa chủ.
Mà địa chủ là ai ? Trong trí tưỏng của mọi người, địa chủ là những người có ruộng cò bay thẳng cánh hay có ít nhất cũng hai ba chục mẫu ruộng. Đảng không quy định có bao nhiêu ruộng là địa chủ. Việc qui kết hoàn toàn do đội cải cách quyết định vào giờ chót. Tuyệt đối bí mật. Cho nên nhiều trung tá,nhiều cán bộ cao cấp vẫn nghĩ rằng mình là thành phần cốt cán, không ngờ khi về đến địa phương, khi bị trói lại đem xử bắn mới biết mình và gia đình bị quy là địa chủ, là phản động! Nói chung, ai đã và đang có nhiều ruộng nhất trong làng đều là địa chủ. Nếu người giàu nhất trong làng có hai mẫu ruộng thôi,họ cũng là địa chủ. Họ có một vài sào thôi,nhưng không làm ruộng,lại giao cho người khác ,vì họ làm nghề khác như buôn bán,thầy thuốc, cũng bị quy là địa chủ vì tội không sản xuất, bóc lột nông dân. Nhiều người trước giàu, nay theo kháng chiến, bán hết ruộng nương, đem tiền của theo kháng chiến, cũng bị quy là địa chủ. Nhiều người có hai ba sào ruộng, trước được quy là trung nông, phú nông , vì nhu cầu đãu tố , vì muốn vượt chỉ tiêu, cũng được thăng là địa chủ.
Ngoài địa chủ, những ông chánh tổng, hương, lý, xã, dù đã khánh tận trong kháng chiến, cũng bị quy là cường hào, ác bá, bị đem ra xử bắn.Trong cải cách, thật là tiếng oan dậy đất ! Đâu đâu cũng vang tiếng khóc than,hờn oán!
Đó cũng là đường lối chung của quốc tế cộng sản,trong đó có Liên Xô,Trung quốc, chứ không riêng gì Việt Nam.
Có cải cách ruộng đất, CS mới cướp được tài sản nhân dân.
Có cải cách ruộng đất, CS mới thủ tiêu các thành phần chống đối, để cho CS toàn quyền thống trị . Đất nước từ đây do vô sản độc quyền chiếm lĩnh, các giai cấp khác chỉ làm nô lệ cho đảng.
Có cải cách, CS mới khủng bố người giàu lẫn ngừơi nghèo. Họ dùng cái chết của địa chủ, cường hào để khủng bố dân nghèo mặc dù dân nghèo được nưng niu,vỗ về!
Và có chiến tranh, họ mới dễ dàng cai trị, dễ dàng khủng bố nhân dân.
Như đã nói, trong cải cách,nông dân được chia ruộng đất. Nhưng đó là trò mèo vờn chuột, trò dụ khị con nít, bởi vì không bao lâu,( sáu tháng ? một năm ?), đảng thu hồi quyền tư hữu, bắt nông dân vào tập đoàn, vào Hợp tác xã!
Từ đây mọi người thực sự chấm dứt tư hữu! Cuộc đời nông dân đổi khác.
I.ĐờI sống.
*Từ đây ngưòi nông dân phải đem ruộng đất, trâu bò... vào Hợp tác xã. Không ai
dám trái lệnh!
Trong HTX, ông chủ nhiệm HTX đứng đầu, phải tuân theo lệnh của chi bộ đảng địa phương.Còn nông dân là nông nô.Con cái ông chủ nhiệm HTX, ông bí thư chi bộ đảng thì làm văn phòng,trong khi mọi nông dân đều phải ra đồng canh tác.Trước kia, nông dân làm cá thể, có người ở nhà, có người đi làm. Nay ai cũng phải ra ruộng canh tác .
Trước kia người ta dậy rất sớm, khoảng 4,5 giờ sáng đã cho trâu ra đồng, đến tối mịt (khoảng 6,7 giờ tối ) mới về. Nay thì làm việc có giờ giấc theo cơ quan nhà nước. Bảy giờ sáng mọi người tập tru ng ở HTX chờ HTX phân công tác, sau đó khoảng 8, 9 giờ mới ra đồng. Làm việc khoảng 4 giờ chiều thì về.
Khi làm việc thì không tích cực, đúng như tục ngữ cũ :
Cha chung không ai khóc !
Tục ngữ mới có câu : Xã hội chủ nghĩa, mười người khiêng một cọng rơm là thế đó.
Lúa mùa thu hoạch do HTX quản lý, họ và chi bộ đảng toàn quyền sử dụng.
Nếu cần, họ có thể nộp lên huyện, tỉnh 60% hay 80% và bỏ túi một mớ.
Khi làm việc có tính công,tính điểm. Người nông dân giỏi nhất được lãnh một ngày một ký lúa ( khoảng nủa ký gạo),không đủ cơm một ngày ,và không có cá mắm, quần áo,thuốc men.Và số lúa này,phải chờ mùa sau mới được lãnh.
Nhiều học sinh phải bỏ học để lấy công,lấy điểm.
Để tồn tại, ngưòi nông dân phải ăn cắp của HTX, phải âm thầm giết hại trâu bò để có chất tươi !
Xã hội chủ nghĩa tất yếu là phải theo HTX nhưng HTX là nơi thất bại dù trước kia dân chúng làm một năm một vụ, nay tăng lên hai vụ.Càng tăng vụ thì người mệt mỏi,năng suất kém đi, và ruộng đất thêm cằn khô. Dân chúng làm không đủ ăn, lại phải nuôi bộ đội, công an, đảng, chính quyền.. .trăm điều khốn khổ.
Để chống lại tình trạng trên, CS bày ra phương thức mỗi nhà một vườn rau.
Mỗi nhà được cấp vài thước đất trồng rau.Đó là tư hữu duy nhất trong XHCN.Ngưòi nông dân thức khuya dậy sớm chăn bón mảnh đất này.Họ tưói phân,nước, cày sâu cuốc bẫm cho nên có hoa lợi. Số đất trồng rau chiếm khoảng 5%-15% ruộng đất nhưng nó cho đến khoảng 30 - 60%tổng sản luợng. Nhờ đó mà nông dân sống được.
HTX là miễn cưỡng còn đất trồng rau mới chính là nguồn sống của nông dân.
Những con cái địa chủ không được vinh dự vào HTX và đi bộ đội. Họ phải ở riêng,sống riêng. Họ được giao cho canh tác một thửa đất nơi hoang vu, cằn cỗi nào đó trong thôn xã. Trong cái chết, họ tìm ra lối sống. Họ tích cực vun xới mảnh đất này cho nên họ có lúa nhiều, tiền nhiều, sống thoải mái. Nhờ bị truất quyền hy sinh cho tổ quốc, nên con cháu họ không ai phải chết chiến trận trong khi các gia đình khác có hai ba liệt sĩ.. .( Nhận thấy điều này có lợi cho con cháu địa chủ, sau 1975, CS bắt mọi người phải thi hành nghĩa vụ quân sự và nghĩa vụ lao động).
II.Phương thức canh tác.
Ta có thể nói cộng sản muốn thực hiện một số phương thức canh tác mới.
1.Sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa .
CS chê bai phưong thức canh tác xưa lạc hậu, nay muốn đưa cả nước lên sản xuất lớn XHCN. Cả nước thành đại nông trường.Mỗi vùng, mỗi huyện sẽ chuyên canh chứ không đa canh như trước. Để thực hiện nông trường lớn, nhà nước sẽ dùng cày máy. Muốn cày máy,phải san bằng bờ lề cũ, san bằng đất cao thấp, dẹp bỏ mồ mả( tập trung lại một nơi)...
2.Xây dựng hệ thống thủy lợi khắp nơi.
3.Điện khí hóa nông thôn.
Nhưng CS đã thất bại.
1.Cộng sản đã san bằng bờ lề, san bằng cao thấp khiến cho đất xấu ,cát sạn nổi lên trên, gây thất thu quan trọng.
2.Cộng sản đưa cày máy vào một vài nơi để tuyên truyền,phỉnh phờ nông dân rằng từ nay đảng đưa ta lên nền canh tác XHCN,khiến cho ta thoát kiếp trâu cày thoát cảnh con trâu đi trước, cái cày theo sau.
Nhưng chủ trương này chỉ là lừa bịp , và không thực hiện được vì :
Không có tiền mua máy cày cho đủ trong nước.
không có đồ phụ tùng thay thế.
Không có thợ sửa chửa khi cần thiết.
Cày máy qúa sâu,không thích hợp tại nhiều nơi.
Vì vậy cày máy ít lâu, người nông dân thấy một đêm kia cày máy biến mất, và họ phải cày thay trâu vì trâu đã đem thịt khi có cày máy về huyện, về xã ! Cho đến nay, người nông dân vẫn tiếp tục cảnh con trâu đi trước, cái cày theo sau mặc dù cách đây gần nửa thế kỷ, đảng đã lên tiếng khai tử nó !
3.Cộng sản đã bắt dân ngày đêm làm thủy lợi. Cộng sản tự hào về chính sách này:
Thằng trời đứng lại một bên,
Để cho thủy lợi tiến lên thay trời!
Chính sách này hại nhiều hơn lợi cho nên dân chúng gọi là thủy hại.
Ngày xưa tổ tiên ta đã đào kênh,khơi ngòi như Thoaị Ngọc hầu. Công việc rất tốt
Còn cộng sản thì ngu dốt lại muốn làm gấp để báo cáo thành tích cho nên làm đi làm lại,hao tiền,tốn sức mới xong. Một khuyết điểm chung là từ khi đào thủy lợI mùa mưa nước nhiều hơn, mùa nắng, nước ít hơn, bởi vì sẵn thủy lợi, mùa mưa nước sông, biển và các nơi tràn ngập ruộng đồng, trái lại mùa nắng, nước theo thủy lợi ra biển hết sạch !
Làm thủy lợi phải đi kèm điện khí hóa vì không điện làm sao bơm nước vào mấy trăm mẫu ? Nhưng nước và điện đều thiếu, mà đảng thì ưa kiểm soát mọi thứ một cách chặt chẽ ! Mỗi ngày HTX chỉ được mở vài giờ. Muốn có nước, HTX phải cử người lên huyện, lên xã xin ông nhà đèn mở điện, xin ông thủy lợi mở nước. Muốn mấy ổng vui vẻ, HTX phải biết điều, nghĩa là phải thi hành thủ tục đầu tiên.:
Có cầu thớt mới có cầu dao
Khi được mở nước, HTX phải cho người đi canh vì HTX trên dòng có thể trộm nước của ta. Những trận chửi bới, xô xát vì nước đã xãy ra!
Ngoài ông điện, nông dân còn phải lụy ông cày máy.Phải lo lót cho ông ,ông mới chịu cày cho,nhất là cày trước cho kịp thời vụ;
Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà
HTX là một thất bại.Người nông dân mai mỉa:
Hợp tác lên to,lấy mo đựng thóc
Vì vậy sau 1975,CS bỏ HTX thay bằng chính sách khoán. Trong HTX, nông dân là nông nô, nhưng có thể trốn việc, lười biếng vì lời lỗ chủ chịu. Còn khoán là chính sách thu tô, thu tức của địa chủ ngày xưa. Ở đây, nông dân là tá điền.Nếu có lời,nông dân được hưởng, nếu thất bại, nhân dân mắc nợ,phải bán nhà mà trả nợ HTX. Nhà nào nhiều thanh niên gỉỏi thì có lợi, còn ra đa số là thua vì tô tức quá cao. Nhiều người miền Băc bỏ vào Nam để trốn nợ HTX. Tại Quảng Ngãi,Quảng Nam, khoảng 1990,dân chúng đã vùng lên chống đảng vì đảng xiết nhà cửa, trâu bò của nông dân.
Nói tóm lại, dưới chế độ CS, dân chúng rất khổ,khổ hơn thời quân chủ và thực dân.
Người nông dân VN nay là con bò già đã kiệt sức rồi ! Ta có thể cứu họ được khộng ? Và làm sao cứu họ đây ?
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 05
Đời Sống Nông Thôn Dưới Chế Độ Cộng Sản
Gia Hội
Trước cải cách ruộng đất (1954), người nông dân được đảng hứa hẹn chia ruộng đất . Trong cải cách, đảng đã bắt nông dân tố cáo địa chủ . Ai tố cáo địa chủ đuợc đảng chia cho của cải ,nhà cửa và ruộng đất của địa chủ.
Mà địa chủ là ai ? Trong trí tưỏng của mọi người, địa chủ là những người có ruộng cò bay thẳng cánh hay có ít nhất cũng hai ba chục mẫu ruộng. Đảng không quy định có bao nhiêu ruộng là địa chủ. Việc qui kết hoàn toàn do đội cải cách quyết định vào giờ chót. Tuyệt đối bí mật. Cho nên nhiều trung tá,nhiều cán bộ cao cấp vẫn nghĩ rằng mình là thành phần cốt cán, không ngờ khi về đến địa phương, khi bị trói lại đem xử bắn mới biết mình và gia đình bị quy là địa chủ, là phản động! Nói chung, ai đã và đang có nhiều ruộng nhất trong làng đều là địa chủ. Nếu người giàu nhất trong làng có hai mẫu ruộng thôi,họ cũng là địa chủ. Họ có một vài sào thôi,nhưng không làm ruộng,lại giao cho người khác ,vì họ làm nghề khác như buôn bán,thầy thuốc, cũng bị quy là địa chủ vì tội không sản xuất, bóc lột nông dân. Nhiều người trước giàu, nay theo kháng chiến, bán hết ruộng nương, đem tiền của theo kháng chiến, cũng bị quy là địa chủ. Nhiều người có hai ba sào ruộng, trước được quy là trung nông, phú nông , vì nhu cầu đãu tố , vì muốn vượt chỉ tiêu, cũng được thăng là địa chủ.
Ngoài địa chủ, những ông chánh tổng, hương, lý, xã, dù đã khánh tận trong kháng chiến, cũng bị quy là cường hào, ác bá, bị đem ra xử bắn.Trong cải cách, thật là tiếng oan dậy đất ! Đâu đâu cũng vang tiếng khóc than,hờn oán!
Đó cũng là đường lối chung của quốc tế cộng sản,trong đó có Liên Xô,Trung quốc, chứ không riêng gì Việt Nam.
Có cải cách ruộng đất, CS mới cướp được tài sản nhân dân.
Có cải cách ruộng đất, CS mới thủ tiêu các thành phần chống đối, để cho CS toàn quyền thống trị . Đất nước từ đây do vô sản độc quyền chiếm lĩnh, các giai cấp khác chỉ làm nô lệ cho đảng.
Có cải cách, CS mới khủng bố người giàu lẫn ngừơi nghèo. Họ dùng cái chết của địa chủ, cường hào để khủng bố dân nghèo mặc dù dân nghèo được nưng niu,vỗ về!
Và có chiến tranh, họ mới dễ dàng cai trị, dễ dàng khủng bố nhân dân.
Như đã nói, trong cải cách,nông dân được chia ruộng đất. Nhưng đó là trò mèo vờn chuột, trò dụ khị con nít, bởi vì không bao lâu,( sáu tháng ? một năm ?), đảng thu hồi quyền tư hữu, bắt nông dân vào tập đoàn, vào Hợp tác xã!
Từ đây mọi người thực sự chấm dứt tư hữu! Cuộc đời nông dân đổi khác.
I.ĐờI sống.
*Từ đây ngưòi nông dân phải đem ruộng đất, trâu bò... vào Hợp tác xã. Không ai
dám trái lệnh!
Trong HTX, ông chủ nhiệm HTX đứng đầu, phải tuân theo lệnh của chi bộ đảng địa phương.Còn nông dân là nông nô.Con cái ông chủ nhiệm HTX, ông bí thư chi bộ đảng thì làm văn phòng,trong khi mọi nông dân đều phải ra đồng canh tác.Trước kia, nông dân làm cá thể, có người ở nhà, có người đi làm. Nay ai cũng phải ra ruộng canh tác .
Trước kia người ta dậy rất sớm, khoảng 4,5 giờ sáng đã cho trâu ra đồng, đến tối mịt (khoảng 6,7 giờ tối ) mới về. Nay thì làm việc có giờ giấc theo cơ quan nhà nước. Bảy giờ sáng mọi người tập tru ng ở HTX chờ HTX phân công tác, sau đó khoảng 8, 9 giờ mới ra đồng. Làm việc khoảng 4 giờ chiều thì về.
Khi làm việc thì không tích cực, đúng như tục ngữ cũ :
Cha chung không ai khóc !
Tục ngữ mới có câu : Xã hội chủ nghĩa, mười người khiêng một cọng rơm là thế đó.
Lúa mùa thu hoạch do HTX quản lý, họ và chi bộ đảng toàn quyền sử dụng.
Nếu cần, họ có thể nộp lên huyện, tỉnh 60% hay 80% và bỏ túi một mớ.
Khi làm việc có tính công,tính điểm. Người nông dân giỏi nhất được lãnh một ngày một ký lúa ( khoảng nủa ký gạo),không đủ cơm một ngày ,và không có cá mắm, quần áo,thuốc men.Và số lúa này,phải chờ mùa sau mới được lãnh.
Nhiều học sinh phải bỏ học để lấy công,lấy điểm.
Để tồn tại, ngưòi nông dân phải ăn cắp của HTX, phải âm thầm giết hại trâu bò để có chất tươi !
Xã hội chủ nghĩa tất yếu là phải theo HTX nhưng HTX là nơi thất bại dù trước kia dân chúng làm một năm một vụ, nay tăng lên hai vụ.Càng tăng vụ thì người mệt mỏi,năng suất kém đi, và ruộng đất thêm cằn khô. Dân chúng làm không đủ ăn, lại phải nuôi bộ đội, công an, đảng, chính quyền.. .trăm điều khốn khổ.
Để chống lại tình trạng trên, CS bày ra phương thức mỗi nhà một vườn rau.
Mỗi nhà được cấp vài thước đất trồng rau.Đó là tư hữu duy nhất trong XHCN.Ngưòi nông dân thức khuya dậy sớm chăn bón mảnh đất này.Họ tưói phân,nước, cày sâu cuốc bẫm cho nên có hoa lợi. Số đất trồng rau chiếm khoảng 5%-15% ruộng đất nhưng nó cho đến khoảng 30 - 60%tổng sản luợng. Nhờ đó mà nông dân sống được.
HTX là miễn cưỡng còn đất trồng rau mới chính là nguồn sống của nông dân.
Những con cái địa chủ không được vinh dự vào HTX và đi bộ đội. Họ phải ở riêng,sống riêng. Họ được giao cho canh tác một thửa đất nơi hoang vu, cằn cỗi nào đó trong thôn xã. Trong cái chết, họ tìm ra lối sống. Họ tích cực vun xới mảnh đất này cho nên họ có lúa nhiều, tiền nhiều, sống thoải mái. Nhờ bị truất quyền hy sinh cho tổ quốc, nên con cháu họ không ai phải chết chiến trận trong khi các gia đình khác có hai ba liệt sĩ.. .( Nhận thấy điều này có lợi cho con cháu địa chủ, sau 1975, CS bắt mọi người phải thi hành nghĩa vụ quân sự và nghĩa vụ lao động).
II.Phương thức canh tác.
Ta có thể nói cộng sản muốn thực hiện một số phương thức canh tác mới.
1.Sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa .
CS chê bai phưong thức canh tác xưa lạc hậu, nay muốn đưa cả nước lên sản xuất lớn XHCN. Cả nước thành đại nông trường.Mỗi vùng, mỗi huyện sẽ chuyên canh chứ không đa canh như trước. Để thực hiện nông trường lớn, nhà nước sẽ dùng cày máy. Muốn cày máy,phải san bằng bờ lề cũ, san bằng đất cao thấp, dẹp bỏ mồ mả( tập trung lại một nơi)...
2.Xây dựng hệ thống thủy lợi khắp nơi.
3.Điện khí hóa nông thôn.
Nhưng CS đã thất bại.
1.Cộng sản đã san bằng bờ lề, san bằng cao thấp khiến cho đất xấu ,cát sạn nổi lên trên, gây thất thu quan trọng.
2.Cộng sản đưa cày máy vào một vài nơi để tuyên truyền,phỉnh phờ nông dân rằng từ nay đảng đưa ta lên nền canh tác XHCN,khiến cho ta thoát kiếp trâu cày thoát cảnh con trâu đi trước, cái cày theo sau.
Nhưng chủ trương này chỉ là lừa bịp , và không thực hiện được vì :
Không có tiền mua máy cày cho đủ trong nước.
không có đồ phụ tùng thay thế.
Không có thợ sửa chửa khi cần thiết.
Cày máy qúa sâu,không thích hợp tại nhiều nơi.
Vì vậy cày máy ít lâu, người nông dân thấy một đêm kia cày máy biến mất, và họ phải cày thay trâu vì trâu đã đem thịt khi có cày máy về huyện, về xã ! Cho đến nay, người nông dân vẫn tiếp tục cảnh con trâu đi trước, cái cày theo sau mặc dù cách đây gần nửa thế kỷ, đảng đã lên tiếng khai tử nó !
3.Cộng sản đã bắt dân ngày đêm làm thủy lợi. Cộng sản tự hào về chính sách này:
Thằng trời đứng lại một bên,
Để cho thủy lợi tiến lên thay trời!
Chính sách này hại nhiều hơn lợi cho nên dân chúng gọi là thủy hại.
Ngày xưa tổ tiên ta đã đào kênh,khơi ngòi như Thoaị Ngọc hầu. Công việc rất tốt
Còn cộng sản thì ngu dốt lại muốn làm gấp để báo cáo thành tích cho nên làm đi làm lại,hao tiền,tốn sức mới xong. Một khuyết điểm chung là từ khi đào thủy lợI mùa mưa nước nhiều hơn, mùa nắng, nước ít hơn, bởi vì sẵn thủy lợi, mùa mưa nước sông, biển và các nơi tràn ngập ruộng đồng, trái lại mùa nắng, nước theo thủy lợi ra biển hết sạch !
Làm thủy lợi phải đi kèm điện khí hóa vì không điện làm sao bơm nước vào mấy trăm mẫu ? Nhưng nước và điện đều thiếu, mà đảng thì ưa kiểm soát mọi thứ một cách chặt chẽ ! Mỗi ngày HTX chỉ được mở vài giờ. Muốn có nước, HTX phải cử người lên huyện, lên xã xin ông nhà đèn mở điện, xin ông thủy lợi mở nước. Muốn mấy ổng vui vẻ, HTX phải biết điều, nghĩa là phải thi hành thủ tục đầu tiên.:
Có cầu thớt mới có cầu dao
Khi được mở nước, HTX phải cho người đi canh vì HTX trên dòng có thể trộm nước của ta. Những trận chửi bới, xô xát vì nước đã xãy ra!
Ngoài ông điện, nông dân còn phải lụy ông cày máy.Phải lo lót cho ông ,ông mới chịu cày cho,nhất là cày trước cho kịp thời vụ;
Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà
HTX là một thất bại.Người nông dân mai mỉa:
Hợp tác lên to,lấy mo đựng thóc
Vì vậy sau 1975,CS bỏ HTX thay bằng chính sách khoán. Trong HTX, nông dân là nông nô, nhưng có thể trốn việc, lười biếng vì lời lỗ chủ chịu. Còn khoán là chính sách thu tô, thu tức của địa chủ ngày xưa. Ở đây, nông dân là tá điền.Nếu có lời,nông dân được hưởng, nếu thất bại, nhân dân mắc nợ,phải bán nhà mà trả nợ HTX. Nhà nào nhiều thanh niên gỉỏi thì có lợi, còn ra đa số là thua vì tô tức quá cao. Nhiều người miền Băc bỏ vào Nam để trốn nợ HTX. Tại Quảng Ngãi,Quảng Nam, khoảng 1990,dân chúng đã vùng lên chống đảng vì đảng xiết nhà cửa, trâu bò của nông dân.
Nói tóm lại, dưới chế độ CS, dân chúng rất khổ,khổ hơn thời quân chủ và thực dân.
Người nông dân VN nay là con bò già đã kiệt sức rồi ! Ta có thể cứu họ được khộng ? Và làm sao cứu họ đây ?
GIA HỘI * NÔNG THÔN VIET NAM
Đời Sống Nông Thôn Dưới Chế Độ Cộng Sản
Gia Hội
Trước cải cách ruộng đất (1954), người nông dân được đảng hứa hẹn chia ruộng đất . Trong cải cách, đảng đã bắt nông dân tố cáo địa chủ . Ai tố cáo địa chủ đuợc đảng chia cho của cải ,nhà cửa và ruộng đất của địa chủ.
Mà địa chủ là ai ? Trong trí tưỏng của mọi người, địa chủ là những người có ruộng cò bay thẳng cánh hay có ít nhất cũng hai ba chục mẫu ruộng. Đảng không quy định có bao nhiêu ruộng là địa chủ. Việc qui kết hoàn toàn do đội cải cách quyết định vào giờ chót. Tuyệt đối bí mật. Cho nên nhiều trung tá,nhiều cán bộ cao cấp vẫn nghĩ rằng mình là thành phần cốt cán, không ngờ khi về đến địa phương, khi bị trói lại đem xử bắn mới biết mình và gia đình bị quy là địa chủ, là phản động! Nói chung, ai đã và đang có nhiều ruộng nhất trong làng đều là địa chủ. Nếu người giàu nhất trong làng có hai mẫu ruộng thôi,họ cũng là địa chủ. Họ có một vài sào thôi,nhưng không làm ruộng,lại giao cho người khác ,vì họ làm nghề khác như buôn bán,thầy thuốc, cũng bị quy là địa chủ vì tội không sản xuất, bóc lột nông dân. Nhiều người trước giàu, nay theo kháng chiến, bán hết ruộng nương, đem tiền của theo kháng chiến, cũng bị quy là địa chủ. Nhiều người có hai ba sào ruộng, trước được quy là trung nông, phú nông , vì nhu cầu đãu tố , vì muốn vượt chỉ tiêu, cũng được thăng là địa chủ.
Ngoài địa chủ, những ông chánh tổng, hương, lý, xã, dù đã khánh tận trong kháng chiến, cũng bị quy là cường hào, ác bá, bị đem ra xử bắn.Trong cải cách, thật là tiếng oan dậy đất ! Đâu đâu cũng vang tiếng khóc than,hờn oán!
Đó cũng là đường lối chung của quốc tế cộng sản,trong đó có Liên Xô,Trung quốc, chứ không riêng gì Việt Nam.
Có cải cách ruộng đất, CS mới cướp được tài sản nhân dân.
Có cải cách ruộng đất, CS mới thủ tiêu các thành phần chống đối, để cho CS toàn quyền thống trị . Đất nước từ đây do vô sản độc quyền chiếm lĩnh, các giai cấp khác chỉ làm nô lệ cho đảng.
Có cải cách, CS mới khủng bố người giàu lẫn ngừơi nghèo. Họ dùng cái chết của địa chủ, cường hào để khủng bố dân nghèo mặc dù dân nghèo được nưng niu,vỗ về!
Và có chiến tranh, họ mới dễ dàng cai trị, dễ dàng khủng bố nhân dân.
Như đã nói, trong cải cách,nông dân được chia ruộng đất. Nhưng đó là trò mèo vờn chuột, trò dụ khị con nít, bởi vì không bao lâu,( sáu tháng ? một năm ?), đảng thu hồi quyền tư hữu, bắt nông dân vào tập đoàn, vào Hợp tác xã!
Từ đây mọi người thực sự chấm dứt tư hữu! Cuộc đời nông dân đổi khác.
I.ĐờI sống.
*Từ đây ngưòi nông dân phải đem ruộng đất, trâu bò... vào Hợp tác xã. Không ai
dám trái lệnh!
Trong HTX, ông chủ nhiệm HTX đứng đầu, phải tuân theo lệnh của chi bộ đảng địa phương.Còn nông dân là nông nô.Con cái ông chủ nhiệm HTX, ông bí thư chi bộ đảng thì làm văn phòng,trong khi mọi nông dân đều phải ra đồng canh tác.Trước kia, nông dân làm cá thể, có người ở nhà, có người đi làm. Nay ai cũng phải ra ruộng canh tác .
Trước kia người ta dậy rất sớm, khoảng 4,5 giờ sáng đã cho trâu ra đồng, đến tối mịt (khoảng 6,7 giờ tối ) mới về. Nay thì làm việc có giờ giấc theo cơ quan nhà nước. Bảy giờ sáng mọi người tập tru ng ở HTX chờ HTX phân công tác, sau đó khoảng 8, 9 giờ mới ra đồng. Làm việc khoảng 4 giờ chiều thì về.
Khi làm việc thì không tích cực, đúng như tục ngữ cũ :
Cha chung không ai khóc !
Tục ngữ mới có câu : Xã hội chủ nghĩa, mười người khiêng một cọng rơm là thế đó.
Lúa mùa thu hoạch do HTX quản lý, họ và chi bộ đảng toàn quyền sử dụng.
Nếu cần, họ có thể nộp lên huyện, tỉnh 60% hay 80% và bỏ túi một mớ.
Khi làm việc có tính công,tính điểm. Người nông dân giỏi nhất được lãnh một ngày một ký lúa ( khoảng nủa ký gạo),không đủ cơm một ngày ,và không có cá mắm, quần áo,thuốc men.Và số lúa này,phải chờ mùa sau mới được lãnh.
Nhiều học sinh phải bỏ học để lấy công,lấy điểm.
Để tồn tại, ngưòi nông dân phải ăn cắp của HTX, phải âm thầm giết hại trâu bò để có chất tươi !
Xã hội chủ nghĩa tất yếu là phải theo HTX nhưng HTX là nơi thất bại dù trước kia dân chúng làm một năm một vụ, nay tăng lên hai vụ.Càng tăng vụ thì người mệt mỏi,năng suất kém đi, và ruộng đất thêm cằn khô. Dân chúng làm không đủ ăn, lại phải nuôi bộ đội, công an, đảng, chính quyền.. .trăm điều khốn khổ.
Để chống lại tình trạng trên, CS bày ra phương thức mỗi nhà một vườn rau.
Mỗi nhà được cấp vài thước đất trồng rau.Đó là tư hữu duy nhất trong XHCN.Ngưòi nông dân thức khuya dậy sớm chăn bón mảnh đất này.Họ tưói phân,nước, cày sâu cuốc bẫm cho nên có hoa lợi. Số đất trồng rau chiếm khoảng 5%-15% ruộng đất nhưng nó cho đến khoảng 30 - 60%tổng sản luợng. Nhờ đó mà nông dân sống được.
HTX là miễn cưỡng còn đất trồng rau mới chính là nguồn sống của nông dân.
Những con cái địa chủ không được vinh dự vào HTX và đi bộ đội. Họ phải ở riêng,sống riêng. Họ được giao cho canh tác một thửa đất nơi hoang vu, cằn cỗi nào đó trong thôn xã. Trong cái chết, họ tìm ra lối sống. Họ tích cực vun xới mảnh đất này cho nên họ có lúa nhiều, tiền nhiều, sống thoải mái. Nhờ bị truất quyền hy sinh cho tổ quốc, nên con cháu họ không ai phải chết chiến trận trong khi các gia đình khác có hai ba liệt sĩ.. .( Nhận thấy điều này có lợi cho con cháu địa chủ, sau 1975, CS bắt mọi người phải thi hành nghĩa vụ quân sự và nghĩa vụ lao động).
II.Phương thức canh tác.
Ta có thể nói cộng sản muốn thực hiện một số phương thức canh tác mới.
1.Sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa .
CS chê bai phưong thức canh tác xưa lạc hậu, nay muốn đưa cả nước lên sản xuất lớn XHCN. Cả nước thành đại nông trường.Mỗi vùng, mỗi huyện sẽ chuyên canh chứ không đa canh như trước. Để thực hiện nông trường lớn, nhà nước sẽ dùng cày máy. Muốn cày máy,phải san bằng bờ lề cũ, san bằng đất cao thấp, dẹp bỏ mồ mả( tập trung lại một nơi)...
2.Xây dựng hệ thống thủy lợi khắp nơi.
3.Điện khí hóa nông thôn.
Nhưng CS đã thất bại.
1.Cộng sản đã san bằng bờ lề, san bằng cao thấp khiến cho đất xấu ,cát sạn nổi lên trên, gây thất thu quan trọng.
2.Cộng sản đưa cày máy vào một vài nơi để tuyên truyền,phỉnh phờ nông dân rằng từ nay đảng đưa ta lên nền canh tác XHCN,khiến cho ta thoát kiếp trâu cày thoát cảnh con trâu đi trước, cái cày theo sau.
Nhưng chủ trương này chỉ là lừa bịp , và không thực hiện được vì :
Không có tiền mua máy cày cho đủ trong nước.
không có đồ phụ tùng thay thế.
Không có thợ sửa chửa khi cần thiết.
Cày máy qúa sâu,không thích hợp tại nhiều nơi.
Vì vậy cày máy ít lâu, người nông dân thấy một đêm kia cày máy biến mất, và họ phải cày thay trâu vì trâu đã đem thịt khi có cày máy về huyện, về xã ! Cho đến nay, người nông dân vẫn tiếp tục cảnh con trâu đi trước, cái cày theo sau mặc dù cách đây gần nửa thế kỷ, đảng đã lên tiếng khai tử nó !
3.Cộng sản đã bắt dân ngày đêm làm thủy lợi. Cộng sản tự hào về chính sách này:
Thằng trời đứng lại một bên,
Để cho thủy lợi tiến lên thay trời!
Chính sách này hại nhiều hơn lợi cho nên dân chúng gọi là thủy hại.
Ngày xưa tổ tiên ta đã đào kênh,khơi ngòi như Thoaị Ngọc hầu. Công việc rất tốt
Còn cộng sản thì ngu dốt lại muốn làm gấp để báo cáo thành tích cho nên làm đi làm lại,hao tiền,tốn sức mới xong. Một khuyết điểm chung là từ khi đào thủy lợI mùa mưa nước nhiều hơn, mùa nắng, nước ít hơn, bởi vì sẵn thủy lợi, mùa mưa nước sông, biển và các nơi tràn ngập ruộng đồng, trái lại mùa nắng, nước theo thủy lợi ra biển hết sạch !
Làm thủy lợi phải đi kèm điện khí hóa vì không điện làm sao bơm nước vào mấy trăm mẫu ? Nhưng nước và điện đều thiếu, mà đảng thì ưa kiểm soát mọi thứ một cách chặt chẽ ! Mỗi ngày HTX chỉ được mở vài giờ. Muốn có nước, HTX phải cử người lên huyện, lên xã xin ông nhà đèn mở điện, xin ông thủy lợi mở nước. Muốn mấy ổng vui vẻ, HTX phải biết điều, nghĩa là phải thi hành thủ tục đầu tiên.:
Có cầu thớt mới có cầu dao
Khi được mở nước, HTX phải cho người đi canh vì HTX trên dòng có thể trộm nước của ta. Những trận chửi bới, xô xát vì nước đã xãy ra!
Ngoài ông điện, nông dân còn phải lụy ông cày máy.Phải lo lót cho ông ,ông mới chịu cày cho,nhất là cày trước cho kịp thời vụ;
Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà
HTX là một thất bại.Người nông dân mai mỉa:
Hợp tác lên to,lấy mo đựng thóc
Vì vậy sau 1975,CS bỏ HTX thay bằng chính sách khoán. Trong HTX, nông dân là nông nô, nhưng có thể trốn việc, lười biếng vì lời lỗ chủ chịu. Còn khoán là chính sách thu tô, thu tức của địa chủ ngày xưa. Ở đây, nông dân là tá điền.Nếu có lời,nông dân được hưởng, nếu thất bại, nhân dân mắc nợ,phải bán nhà mà trả nợ HTX. Nhà nào nhiều thanh niên gỉỏi thì có lợi, còn ra đa số là thua vì tô tức quá cao. Nhiều người miền Băc bỏ vào Nam để trốn nợ HTX. Tại Quảng Ngãi,Quảng Nam, khoảng 1990,dân chúng đã vùng lên chống đảng vì đảng xiết nhà cửa, trâu bò của nông dân.
Nói tóm lại, dưới chế độ CS, dân chúng rất khổ,khổ hơn thời quân chủ và thực dân.
Người nông dân VN nay là con bò già đã kiệt sức rồi ! Ta có thể cứu họ được khộng ? Và làm sao cứu họ đây ?
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 05
No comments:
Post a Comment