TCHYA *THẦY CỬ
THẦY CỬ
Tchya
Ngày hôm ấy, thầy Cử Sinh chán nản việc đời. Mài thoi mực đen, cắn đầu bút thỏ, thầy viết. Thầy viết cổ thi, kim phú, ngón tài hoa bay nhẩy lối Lan đình. Viết xong, thầy đọc, đọc rồi thầy xé, xé rồi thầy đốt.
Thú làm thơ khôn tiêu tán nỗi lòng tức bực, thầy Cử xách nón đi chơi; không khí chiều thu êm dịu, thầy ngắm cảnh trời xanh trăng bạc, dường như nhè nhẹ cơn sầu. Bóng cây chiếu thẳng giữa đường, trông tựa mấy giọt mực đen, rải rắc trên tờ giấy trắng.
Say cảnh tiêu điều, tịch mịch, thầy Sinh nghĩ ngợi bâng khuâng; bụi tre cằn lẩn mầu chiếc áo lương thâm, khiến hình ảnh thầy trộn lộn với hình ảnh chung của Tạo vật. Bồi hồi, thất vọng, thầy Cử nhớ lại cuộc đời dĩ vãng, một nỗi buồn vô hạn tự nhiên chan chứa trong lòng.
Khoa Mão hồi trước, cũng như mọi nhà hàn sĩ, thầy Sinh lều tráp đi thi. May nhờ phúc ấm tổ tiên, thầy được dự tên chót bảng. Không đến nỗi thẹn với hai mươi năm đèn sách, thầy Sinh lấy thế làm mừng. Trên bước vu quy, thầy những mong chen lọt vào lầu hoa, gác thắm, thanh vân nhẹ bước công hầu. Có ngờ đâu thời thế lại đảo điên, mà mệnh đồ nhiều nỗi khó! Nghĩ đến cảnh Lý Quảng nan phong, Phùng Đường dị lão, thầy đâm ra chán hẳn cuộc đời. Thôi thì: "Quân tử an bần", thầy cũng chả thèm bôn tẩu, nhất tâm nằm dạt xó nhà, ngâm thơ uống rượu; dẫu bị cảnh bần hàn thanh bạch, thầy không màng kiếm miếng đỉnh chung!
Vì thế, quan huyện Thanh Hồ, nghe nói thầy người chí khí, thân hành đến đón tận nhà. Võng lọng linh đình, thầy Cử về nha dạy học; có nhẽ số phong lưu nhàn hạ, ngày nay đã theo thời vận, cứu thầy khỏi bước nghèo nàn. Một quãng thời khắc cỏn con, thầy Sinh đã nghiễm nhiên ra mặt con nhà mô phạm! Rồi, thơ chặt túi, rượu lưng bầu, mặc sức nhà nho lỡ vận rung đùi mà ta thán nhân tình thế thái, hoặc ngậm ngùi cảm khái, ngâm nga những khúc tiêu tao!
Trông bóng trăng thu, đã nhiều phen, thầy Cử lên giọng đắng cay chua chát, nghe ai oán như tiếng trùng than dưới cỏ, lâm ly như hạt móc đập cành tiêu, khiến tàn canh sực tỉnh giấc cô miên, bà lớn huyện những xúc cảm, sụt sùi bên gối phượng...
Bà lớn, từ xưa, vẫn có tiếng là người hay chữ; không những làm ăn khéo léo, đi đứng nhu mì, đến nghề thi phú văn chương, bà lớn thực là tài nữ. Yêu thú làm thơ, bà lớn thường đặt ra những khúc não nùng, tiêu sái, lẳng lơ như hoa lả gió, buồn bã như cảnh thu tàn, sành xem văn đến như cụ Bảng Châu Giang, cũng phải phục bà lớn là một thi nhân lãng mạn.
Thầy Cử, từ ngày về huyện, trà sớm, đèn khuya, chăm nom hai thằng cháu bé. Hai cháu học mỗi ngày một khá, quan lớn rất đỗi vui lòng, bà lớn cũng thường đẹp dạ. Vì thế, cơm tám, rượu sen, chả thơm, canh ngọt, ông thầy thong thả thời cơm; yêu con nên trọng đến thầy, bà lớn là người khéo xử. Vui cảnh xuân tàn, quan lớn thì câu thơ chén rượu; khách thâm nho may lại gặp tay đồng chí, tài nào không ý hiệp, tâm đầu! Trong hoàn cảnh tương kính, tương thân, thầy Cử không đến nỗi thẹn với những kẻ, tình thế giống thầy, mà chịu cúi luồn theo khuôn phép những nhà quyền quý. Kể ra, thầy cũng thực là sung sướng: được chỗ an nhàn ngồi giảng sách, còn gì hơn trong lúc khốn cùng này?
Tuy nhiên, gặp những buổi gió vàng gieo lá rụng, không tài nào thầy tránh khỏi mối bi thu. Đối cảnh thu sơ, thầy trông cúc nở, sen tàn, bất giác thương thân mình chịu mai mòn theo tuế nguyệt. Giọt móc rụng nhịp nhàng trên khóm trúc, lại khiến thầy đau đớn phận tha hương. Sẵn mối hoài cảm chứa chan, thầy không đủ sức đè nén nổi con tâm thổn thức. Gióng bóng trước ngọn đèn le lói, thầy buồn rầu ngâm nga những khúc "Ly tao". Giọng thầy não nuột, du dương, lúc canh khuya phẳng lặng êm đềm, thường réo rắt vang suốt trong ngoài huyện lỵ. Dư âm man mác như bay lượn nhẹ nhàng trong bóng tối, như giục lòng ai ngây ngất suốt đêm trường...
Trên gối phượng, đôi phen, bà lớn giật mình tỉnh giấc. Cám cảnh trăng tà gió lạnh, bà lớn xót phận mình, ngao ngán, những hờn duyên. Lại vẳng nghe giọng ai oán, thiết tha, hồn thi sĩ nào tránh khỏi lúc bâng khuâng, tê tái? Dưới chăn loan, bà lớn bất giác ngậm ngùi tuôn lệ ngọc; mà, nằm co ro trong thư viện, thầy Cử vẫn nghêu ngao vẳng ra những khúc não nùng...
Than ôi! Cái nghiệp văn chương! Nó thường bắt người phải cảm hoài, ảo não, tủi cảnh mình nghĩ thương ai chung hội, mà bẽ bàng trông bóng suốt năm canh!...
*
- Thì ông cố đẻ lấy một thằng con nữa chứ!
Bà lớn huyện vốn là con gái yêu cụ Tuần Hà thuở trước, lấy chồng vừa được chín mười năm. Trong mười năm trời, cảnh gia đình bà lớn tuy có nhiều phen bực tức, song ngắm lại hai thằng con nhỏ dại, bà lớn cũng hả lòng vàng. Thoạt bước chân về nhà chồng, tình ân ái nồng nàn, khiến bà lớn vội vã đẻ dồn hai cháu bé: thằng Cả, thằng Hai, một thằng lên chín, một thằng lên tám. Chỉ giận nỗi Hóa công, sau những lúc say vui thường đem lại nỗi buồn dằng dặc của một tương lai lạnh lẽo, nên bà lớn huyện, từ ngày hai em bé nhớn lên đi học, bỗng càng ngày càng yếu càng buồn; mà, sự đâu rõ khéo bẽ bàng: bà lớn tựa hồ quên, không đẻ nữa!
Tuy nói là bà lớn yếu: đó chỉ là một cách nói cho trại ý mà thôi; thực ra, bà lớn chỉ thường hay sổ mũi, nhức đầu, đau gân, mỏi cốt. Ngoài sự đó, bà lớn vẫn tốt tươi, óng ả: nhan sắc khuynh thành, kiều diễm, đọ với thời gian vẫn không chịu kém màu xuân. Con người mặn mà, bà lớn càng ngày càng đẹp, trong khi, chăn bông, nệm gấm, quan lớn một tuổi một già.
Quan lớn huyện đỗ Cử nhân từ độ ngoài ba mươi tuổi; về làm rể cụ Tuần Hà, bấy giờ ngài đã bốn mươi. Ngài đến nhậm huyện Thanh Hồ, đến nay, đã hai năm có lẻ. Dân yên, lúa tốt, trong xóm, ngoài làng, ai ai cũng đều công nhận quan lớn là người phúc đức. Mà không những chỉ có thế; về phương diện thanh liêm, cương trực, danh thơm ngài còn lừng lẫy khắp nơi nơi.
Duy có một nỗi đáng phiền: là mới năm chục tuổi đầu, mà râu tóc quan đã lâm râm đốm bạc, chả bì với bà lớn nhà còn trẻ non, trẻ nõn, đỉnh đầu chưa đội hết hăm chín cái xuân thu. Hai mươi chín cái xuân thu! Bà lớn còn ôm chặt một mối lo mong, nửa bầu nhiệt huyết; con Tạo hóa rõ khéo trêu ngươi quá tệ, cớ làm sao mới được có hai mụn con còn bé dại, mà khiến chốn loan phòng đã lạnh lẽo, hững hờ duyên!
Không phải rằng quan lớn không chiều, không quý; không phải rằng quan lớn không mến, không yêu; chỉ tại cái yêu ngài là cái yêu suông, mà cuộc đời chửa ngoại ba mươi chưa có thể là cuộc đời suông được! Năm mươi tuổi, nào tuổi ấy già đâu! Thế sao quan đã đầu trắng, mắt mờ, con Tạo sao mà tệ thế? Chỉ những đau lưng, mỏi gối, quan lớn chưa đến tuần ăn thượng thọ đã suy tàn! Vui cảnh xuân già, quan chỉ câu thơ chén rượu; lúc hội tổ tôm cùng thầy Lại, lúc cuộc cờ nhạt với ông Đồ, ngày tháng thanh nhàn, quan chỉ dùng để sống trong những thú suông thậm là suông; có lúc cảm hứng muốn vui, thì lại thết bữa tiệc nhỏ ở mai viên, cùng thầy Cử hùng biện, cao đàm, hăm hở bàn đến chuyện thánh hiền kim cổ...
Cảnh chồng già, chị em ôi! Rõ là một cảnh éo le! Dẫu có hưởng êm ả những thú đệm ấp, chăn lồng, tính tình lãnh đạm của đức lang quân, lắm phen, càng xui giục bể lòng dào dạt, càng làm cho tấm thân ngà ngọc bồi hồi mơ ước nỗi yêu đương! Một người có tình cảm chứa chan, có thân thể chất đầy sinh khí, nhất là người ấy lại là đàn bà, một người đàn bà còn trẻ nõn, thì, càng sống trong bầu không khí an nhàn lặng lẽ, càng hưởng mùi đỉnh chung êm ái phong lưu, người ấy càng khó lòng tránh khỏi những thời khắc mà tâm hồn mê mỏi, mà các tia gân, các luồng máu, các thớ thịt trong người rung động, bồi hồi gọi thú ái tình. Cho nên bà lớn huyện Thanh Hồ, một đóa hoa quý xuân còn cười với gió chiều chớt nhả, một vừng trăng mười tám còn đủ ánh sáng đục vừng mây ám tạt qua, bà lớn thường thấy mình như khao khát ái ân, như bị một mãnh lực gì bí hiểm của con tâm ngày đêm làm bải hoải cả tấm thân tròn đẹp.
Muốn khuây mối xuân tình phơi phới, bà lớn chỉ còn cách làm văn, đọc sách, đỡ buồn. Thiếu sách sang mượn thầy Đồ, bà lớn đã nhiều phen sai hai đứa con thơ chạy đến thư viện bắt thầy Cử lục hết ngăn trên, tủ dưới.
- Thầy cho mợ mượn pho "Tình sử"!
- Thầy cho mợ mượn bộ "Chiến quốc" có phê bình.
"Thầy cho mợ mượn quyển nọ, quyển kia..." đến nỗi sau cùng, phát giận, thầy Cử Sinh phải nói dối không có pho truyện nào mới nữa. Có sách mà không cho mượn, nào phải đâu thầy xấu bụng, hẹp hòi; chỉ tại thầy tránh chuyện vô duyên, không muốn dấn thân làm một sự khó coi, nhơ nhuốc. Có ai ngờ bà lớn lại đa tình đến thế: không quyển sách nào trả không kèm theo một bức thơ, mây gió lăng nhăng, khiến thầy Cử đọc thư xong những khắc khoải bồn chồn, nghĩ đến thân phận, chức vụ mình, ruột rối như tơ vò lại.
Càng nghĩ, thầy càng khó xử, chả biết đến sau này, tấm thân thầy có được ở yên không? Biết bao cuộc thất bại trong đời, mãi ngày nay thầy mới được một chỗ thảnh thơi, nhàn hạ, nào ai biết vận xấu cố theo riết mãi con người lận đận, làm cho thầy mới tạm an đã thấy khó khăn rồi! Ô hay! Ông Trời độc địa làm sao! Ai xui khiến cặp mắt tinh anh sắc sảo của giai nhân lại cứ chiếu thẳng vào một anh đồ xơ xác! Khó xử.
Đối với quan ông, một ngày cũng là nghĩa, đối với hai cháu bé, một khắc cũng là tình, thầy nỡ nào không nghĩ đến hai chữ "thủy chung", mà nỡ bỏ mấy đứa trẻ kia, để mang tiếng tệ bạc với bố chúng nó là người, đối với mình, đã có chút ơn tri ngộ? Nhưng mà, nếu thực quả thầy bị sao "Hồng Loan" trực chiếu sang cung Thiên di và sao "Đào hoa" sang cung mệnh, nếu cùng bà lớn thầy không may có chút nghiệt duyên tiền kiếp thì, không đang tâm dứt áo ra đi, cũng còn mặt mũi nào ngồi dạy học ở huyện nha mãi được?
Nghĩ đi mãi rồi nghĩ lại, thầy Cử Sinh càng đâm ra tức bực, chán chường. Ngán ngẩm sự đời, thầy bải hoải biếng ăn biếng ngủ, rượu ngon nhấp chẳng thấy mùi gì thú; mà làm thơ cũng không cảm hứng chút nào! Thầy chỉ lo, lo lại sợ, sợ nhỡ cầm lòng khôn được, thì có phen bị ai kia lôi cuốn vào gầm tội lỗi, rồi suốt đời, hận bên lòng đeo mãi biết bao nguôi!
Cắn đầu bút lông, thầy những muốn viết thư từ giã, từ quan, từ huyện, từ cả hai đứa học trò ngoan ngoãn thơ ngây, để mặc bà lớn cùng cuộc đời gió lả mây vờn, cùng những ý tưởng trăng hoa không chính đính... Cắn bút, nhưng nào thầy Cử đã tìm ra chữ; thầy phải suy đi tính lại, hạ một câu có khi ngẫm nghĩ đến hàng giờ. Mãi sau cùng, thầy cũng thảo xong thư vĩnh biệt; đọc lại thư, thầy cảm thấy một nỗi buồn vô hạn đè ngang cuống họng nghẹn ngào. Những chứng cớ thầy viện để từ giã bạn, chả qua chỉ toàn điều giả dối mà thôi; song le, sự thế bắt buộc thầy phải thế, xưa nay thầy có từng là người gian trá bao giờ?
Sửa soạn hành lý xong xuôi, thầy Cử Sinh đem thư ra kiểm duyệt một lần chót nữa. Thấy lời lẽ vẫn chưa được gọn, thầy kiên tâm ngồi sao một bức thứ hai. Bức thứ hai cũng chả vừa lòng, thầy lại nán ở ít ngày, định gọt rũa lời lẽ thế nào cho quan huyện không thể trách được thầy bội bạc. Nhưng, viết làm sao vẫn thấy còn hớ hênh, dại dột, thầy Sinh hết nằm lại ngồi, hết đi lại đứng, vò tai bứt tóc, lưỡng lự bâng khuâng. Viết rồi, thầy vò xé đi; xé xong, còn sợ có người thóc mách, nên đem ra châm lửa đốt. Cứ những sao đi chép lại, chung quy mất ngót một tháng trời. Thầy Cử bứt rứt nôn nao, tự buông một câu hỏi trong tâm thần rối loạn: "Về hay ở? Nên ở hay nên về?".
Vấn đề giải quyết mãi không xong, thầy đâm ra chán nản. Không khí gian phòng học, vì cớ đó, cũng thành ra khó thở, nặng nề. Thầy Cử cảm thấy lục phủ ngũ tạng nóng bừng lên, cần phải ra sân đổi gió. Thầy đi ra dạo mát ngoài vườn. Tìm một chỗ tối vắng, thầy ngồi phịch xuống cỏ, thả tâm hồn lâng lâng bay theo ngọn gió, nhất định bỏ mặc sau lưng những nỗi ưu tư khổ cực của mọi ngày...
Bóng thầy chìm lẫn trong bóng cây, bởi chỗ thầy ngồi kề ngay bên một khóm tre dầy, ánh sáng giăng lờ mờ khôn phân biệt rõ hình ảnh thầy với hình ảnh chung của Tạo hóa.
Thầy ngồi thẫn thờ như thế, chẳng biết được mấy giờ, mấy phút; lòng thầy tự nhiên thư thái, thầy lim dim đôi mắt, thiu thiu dường muốn ngủ gà. Bỗng đâu, những tiếng sột soạt tỉ tê làm lay động quãng đêm trường hiu quạnh. Thầy Cử mở bừng mắt dậy: một bức tranh hoạt động giúp thầy khỏi bị nghĩ đến nát gan nát ruột, mới tìm ra câu trả lời cương quyết cho vấn đề khó xử "ở hay về"...
*
- Mình! Mình ơi! Chàng có đoán được em yêu chàng đến thế nào không hở? Mình có hiểu, vì mình, em đã hi sinh cả phẩm giá lẫn danh dự của em rồi?
Tiếng người đàn bà vừa nói đượm một vẻ nũng nịu say sưa; người đàn ông nghe xong không trả lời, chỉ vít cổ bạn tình xuống để đặt lên môi ai một cái hôn chắc hẳn là đậm đà ngây ngất, vì nó lâu đến hai ba phút mới xong. Dưới ánh trăng mờ, hai bóng người thấp thoáng khi ẩn khi hiện, trông xa xa không phân biệt được là ai. Đêm lúc ấy đã gần khuya, những chòm lá cây cùng mấy bụi tre già, găng rậm, từ buổi tàn hoàng hôn, đã đổi màu xanh thẫm ra mầu xám ngắt; không gian nhuộm một vẻ ảm đạm tiêu sơ, biểu hiện của những quãng đêm thu quạnh quẽ.
Thầy Cử ngồi ở góc vườn, cách cặp tình nhân đến non ba chục thước, không nhìn rõ hết mọi cử chỉ của họ, chỉ nhờ sức tưởng tượng mà đoán rằng họ đương cùng nhau đọc một bài kinh ân ái rất nồng nàn. Những cái hôn cứ năm bảy phút lại trao đi đổi lại, diễn tấn trò đắm đuối của ái tình. Rồi, ngoài mấy bận má kề môi giáp, cặp uyên ương bá vai nhau khăng khít như đương cùng thắt mối đồng tâm; họ chỉ thả nhau ra để lặng yên ngắm vuốt mặt nhau; xong lại kéo nhau ngồi bệt xuống cỏ xanh, vỗ về âu yếm và ri rỉ tự tình, nói những câu nhỏ quá, nhỏ quá, khách ngoại cuộc chẳng ai nghe rõ cả.
Thoạt mới ngắm nhìn, thầy Cử cho là cậu lính dắt một cô sen ra chốn vườn khuya giở những chuyện trong dâu trên bộc; thầy cũng không thèm chú ý lắm. Nhưng, nếu thực quả đôi nhân ngãi kia là kẻ hạ lưu bần tiện, thì cớ sao họ hành vi phong lưu nhàn nhã thế này? Chú lính cô sen nào đâu đã biết trò bá vai, quàng cổ, vuốt má hôn môi? Họ làm gì thừa thãi thì giờ để ngồi chuyện vãn dài dòng như vậy? Giá chú lệ được vài giờ thong thả, hẹn hò chị vú ra vườn, lẽ tất nhiên chúng lo ngại nhìn ngang trông ngửa, thì thào dăm ba câu thân mật, rồi mau chóng thi hành những dục vọng dâm ô. Có đâu hào hoa lịch sự như đôi lứa thiếu niên này, chỉ thấy những thái độ đắm đuối say mê, mà không có chút tư cách nào phàm phu thô bỉ?
Thế thì chắc không phải hàng người ở trong vòng nô bộc, ắt hẳn là duyên cớ chi đây! Quái! Quan huyện chả có cháu giai cháu gái nào lớn tuổi, cũng chả có họ hàng thân thích theo ngài, cớ sao xảy ra chuyện lạ lùng này nhỉ?
Con ma tò mò thường rung động tâm người thóc mách; thầy Cử ngắm đôi trai gái, bỗng thấy trong lòng sôi nổi những ý nghĩ muốn đi rình. Thầy bèn rón rén bò đến mé hai chiếc bóng. Nhưng, vốn xưa nay thầy không sành nghề đi lắng trộm, nên không đủ tài nghệ làm cho xuôi công việc táo bạo của thầy. Bị một sợi rễ cây thò lên mặt đất vướng đế giầy, thầy vô ý trượt chân, ngã sóng soài trên bãi cỏ, kêu lên một tiếng.
Liền lúc ấy, mặt trăng đương bị mây vẩn, cũng tự nhiên thành tỏ rạng; cặp uyên ương nghe tiếng hét, hốt hoảng vùng căng bỏ chạy; người đàn ông can đảm đi lại mé thầy Cử xem kẻ nào hỗn xược dám phá tan giấc mộng ân ái của mình; còn chị đàn bà thì kinh khủng chạy tuột thẳng vào trong tư thất.
Lồm cồm trở dậy, thầy Sinh chỉ còn được thoáng thấy trước khi biến hẳn vào bóng tối, một tà áo lụa màu sữa, phất phơ bay theo chiều gió heo may. Thầy, hốt nhiên, cảm thấy tâm can tê tái ngậm ngùi, cứ đứng ngẩn người ra như pho tượng. Giữa lúc ấy, một bóng đen sừng sững hiện ra trước mặt thầy, rồi một giọng nói đột ngột làm cho thầy nhận được người đối diện với mình đang ngạc nhiên lo ngại đến cực điểm.
- Ơ! Thầy Cử!
- Kìa, ông Thừa, ông làm gì ở đây mà khuya khoắt thế?
*
- Nhân chi sơ, tính bản thiện, ya, ya...
- Nhân chi sơ, tính bản thiện, ya, ya...
Hai đứa bé tinh sương đã dậy, nghêu ngao ngồi học trong thư phòng. Trên tấm phản gụ giữa nhà, chăn màn chưa dọn, trên mặt án thư, từng pho sách chồng chất lên nhau, ngổn ngang bên cạnh ngọn đèn huê kỳ không ai tắt, bên cạnh điếu thuốc lào, ấm tích nước, và bộ khay chén Giang Tây hoen vẩn dấu trà còn sót.
Thầy đồ, chả biết dậy từ bao giờ, mà bỏ vắng nhà học; những ngày thường, giờ này thầy đương rửa mặt, vấn khăn. Theo lệ mọi hôm, một thằng hề đồng đun nước sôi lên để thầy điểm tâm dăm chén trà ướp hoa, trước khi đốt hương ngồi giảng sách.
- Ô hay! Thầy đi đâu lâu nhỉ?
- Có lẽ thầy ra vườn.
- Không mà, em vừa ra, không thấy thầy.
- Hay là thầy ra ao sen?
- Em cũng không thấy!
Một khắc, hai khắc, nửa giờ, hai đứa bé cứ nghêu ngao, chờ thầy về cho kỳ được.
- Nhân chi sơ, tính bản thiện, nhân chi sơ, tính bản thiện... Quái! Thầy không về thực, mày ạ! Chả biết thầy đi đâu?
- Kìa, anh xem thử cái gì trên kia, có phải một lá thư thầy để lại đó không? Chúng ta cầm lên cho ba đọc.
- Phải rồi, phải rồi! Một bức thư! Ta đem trình ba xem ba bảo thế nào...
Quan lớn huyện buổi mai đương ngồi vuốt râu hãm ấm chè Ninh Thái, bình tĩnh ngâm mấy vần thơ của Đỗ Thiếu Lăng. Hai cậu ấm ton ton chạy đến.
- Ba ạ. Thầy đồ đi đâu mất rồi, chả thấy về. Chỉ để lại trên án có bức thư này thôi, chúng con cầm lên ba đọc!
Quan huyện vuốt xuôi bộ râu lác đác, thưởng nốt chén trà sen, rồi mới thong thả xé bức hoa tiên, đeo mục kỉnh vào, ngồi xem chăm chú lắm.
Thư rằng:
"Kính bẩm quan lớn,
Nổi nênh chân bèo khách địa, lỗi sinh nên phải bước giang hồ; ngậm ngùi gốc tử cố hương, vụng hóa khôn đền ơn tri ngộ.
Lão đệ nay:
Nhớ gốc tử phần, chạnh niềm cố thổ.
Những tưởng một ngày là nghĩa, dạy hai em cho trọn đạo thủy chung; ai ngờ nửa khắc chia tình, mới bẩy tháng đã đến kỳ thượng lộ.
Kết bạn để mong tương ích, ý quan huynh cũng trọng đệ có văn tài; thụ ơn vẫn tính gắng công, lòng lão đệ đối với quan hằng ái mộ.
Kẻ sĩ gặp người tri thức, niềm gắn bó sao không?
Phận hèn nên kẻ gia sư, số tôn vinh hẳn có.
Rắp tâm rèn luyện, cho trẻ em nên bậc tài danh,
Xót nỗi cù lao, để quan lớn ngán duyên thế cố!
Nghĩ như đệ:
Học chỉ biết chi hồ giả giã, đã hợm mình hạ bút quỷ thần kinh; trí không màng Nam Bắc Đông Tây, vẫn múa mép ra tay thành quách đổ.
ở đây:
Nhất mực phong lưu, đủ nghề thi thố.
Rượu Gia Bì lúc tỉnh khi say; chè Liên Thái sớm phong chiều mở.
Của ngon vật lạ, quan bà gửi đến xiết bao;
áo vóc giầy da, quan ông ban ra vô số.
No lòng, ấm cật, nghĩ thân thực đã vẻ vang,
Nay đến, mai đi, cám cảnh lại càng tủi hổ.
Chỉ bởi vì:
Dâu ngả bóng, cảm tình phụ mẫu, tuyết một vừng xót kẻ bơ vơ; mai chia cành, chạnh nghĩa phu thê, nguyệt ngàn dặm thương ai vò võ;
Láng giềng ít kẻ tới nhà; thân thích chẳng ai nhìn họ.
Vừa nhận được lá thơ tiện nội, báo rằng nhà đương gặp buổi nguy nan; nên kíp đi chẳng biệt quan huynh, sợ nỗi trẻ khó qua cơn khốn khó.
Khi đến dù che võng đỡ, ơn quan khắc tận thâm tâm;
Lúc đi áo xách giầy ôm, tội đệ đáng nên chém cổ.
Hỡi ôi! Giã trò, giã bạn, từ đây buồng văn gió lạnh, cỏ cây sùi sụt sương tuôn;
Thương thay! Cám cảnh cám tình, rồi nữa dặm liễu trăng mờ, thân thế ngậm ngùi lệ rỏ!
Buổi trò chuyện ngàn năm vẫn nhớ, cung cầm tiếng trống, buồn nghĩ càng buồn; tiệc vui vầy bao thuở cho quên, chén rượu câu thơ, nhớ thôi lại nhớ!..
Li đệ chất bằng sông núi, biết đến khi nào gột rửa, xin hiếu sinh mở rộng lượng thứ tha; lượng quan ví tựa bể trời, rồi đây có buổi trùng phùng, thề chí tử cũng cam lòng báo bổ.
Chúc quan lớn quan bà trăm năm giai ngẫu, đệ trước sau chẳng đổi lòng khuyển mã, khấn thầm Thần thánh chở che; mong em Cả em Hai mau chóng thành tài, thầy xa xôi không đến nỗi thẹn thùng, cầu nguyện Phật Trời phù hộ.
Mảy chút chưa đền đức cả, thân mà tàn nát, bên mình quan hồn sẽ khấu đầu; muôn vàn vẫn đội ơn sâu, tình khó phôi pha, trước quy án đệ xin đốn thủ.
Lão đệ: Nguyễn Văn Sinh bái
Ngày mười chín tháng tám năm Kỷ Dậu".
Quan lớn huyện xem xong, cau mày chép miệng thở dài, không hiểu tại sao thầy đồ có cử chỉ lạ lùng đến thế! Thực là người chẳng biết điều hay dở, để cho quan nghĩ những giận mà buồn! Bỏ huyện nha, bỏ thư viện, bỏ hai đứa trẻ còn thơ, thầy đồ gàn rồi xoay trở nghề gì, cho gia quyến được no thân lành áo? Có phải chăng đó chỉ là hành tung vô nghĩa lý của một anh đồ nho cuồng chữ muốn ngông nghênh? Sao không thân lên bẩm rõ việc quan nghe, rồi vay ít chục quan tiền gửi bà vợ mang về quê cho ổn thỏa? Lạ, lạ thực!
Thầy đồ là người bội bạc, phản trắc; đến thì võng điều đem đón, đi lại không chính đính giã từ! Mà đi, thì biết đi đâu, những lẽ viện trong thơ này xem chẳng phải những lời thành thực! à mà quên! Lão ta còn đâu có mẹ, vợ cũng không có nữa mà, cớ sao lại nói về quê vì thương xót mẹ già, vợ dại? Lão đồ này có lẽ hóa điên rồi!
Thầy Cử ngày nay đi mất, một đi, đi chẳng trở về! Bèo nổi mây trôi, rồi thầy sẽ phiêu bạt tấm thân yếu ớt, điêu linh mảnh hồn trụy lạc, biết ngày nào mới tìm được chỗ ấm no? Quan huyện chợt nghĩ tới đây, bất giác ngậm ngùi thương hại kẻ cùng nho, bỏ mục kỉnh xuống lau hai khóe mắt...
Cho hay cái nghiệp văn chương! Nó thường bắt kẻ yêu văn phải hoàn toàn vong kỷ, giữ tiết giá chẳng làm điều nhục nhã, vì tha nhân mà âm thầm chịu khổ, để bẽ bàng trông bóng suốt năm canh...
Tchya
(Phổ Thông bán nguyệt san - số 39 -
16.7.1939)
TRUYỆN PHẠM DUY TỐN
CON NGƯỜI SỞ KHANH
Phạm Duy Tốn
Thầy thông Ất làm việc ở sở... tỉnh, mới kết duyên với cô Giáp, là lệnh ái ông bá hộ Ðinh. Hai bên lấy nhau cũng là xứng đôi phải lứa. Thiên hạ chẳng ai chê cười điều gì. Thầy Ất đẹp trai, mặt mày nhẵn nhụi. Chàng vừa trạc tuổi thanh xuân; hình dung chải chuốt, áo quần bảnh bao. Cô Giáp, người mũm mĩm, trông cũng xinh xinh. Nàng đương xuân chỉ nhị đào, rượu nồng dê béo, ai nào chẳng ưa!
Nhà ông bá, bà bá cũng có, cho nên đám cưới to. Ðồ tư trang sắm đủ: vòng, xuyến, hột, hoa, mớ ba, mớ bảy, chẳng thiếu thứ gì. Giá người không kể, chỉ những đồ vàng cô dâu đeo ở trong mình, cũng đã ngót nghìn đồng bạc. Lại còn tiền hồi môn, kẻ đồn một nghìn, người nói năm trăm; nhưng thực sự thì chỉ có bốn gói mà thôi, mỗi gói là năm mươi nguyên (Ðồng, tiếng Hán) chẵn. Quý hóa lắm thay! Thầy Ất được cả người lẫn của! Thật là chuột sa chĩnh gạo... Cưới xong, hai vợ chồng mới, dọn nhà ở riêng. Trừ lúc nào thầy thông đi làm việc thì thôi, còn khi ở nhà, hai người cứ bám chặt lấy nhau, không chịu rời ra một phút. Ngày đêm đóng kín cửa lại, vợ chồng hú hí với nhau: Loan ôm phượng, phượng bồng loan. Miệt mài trong cuộc truy hoan, trai tơ gái nõn, xuân đang mặn mà. Tha hồ vui chữ "nghi gia"!... * Cách ít lâu, một hôm chồng bảo vợ rằng:
- Mình ơi, mình với tôi, ta lên Hà Nội chơi một phen cho phỉ chí. Tôi sẽ đưa mình đi coi hát tuồng, đi ăn cao lâu; lên xem Quán-thánh, trại Hàng-hoa, xuống chơi Bôn-be, hồ Hoàn-kiếm. Thuê xe cao su dạo khắp nơi cho thỏa thích. Mình có ưng không ? Vợ hớn hở vui mừng, hỏi:
- Thế thì hôm nào đi?
- Ðể yên xem... Hôm nay thứ mấy?... Thứ tư, có phải không?... Vậy thì mai tôi xin phép, đến thứ bảy ta đi.
- Thật chứ?
- Thật.
- Ừ, thế thì nhẤt định thứ bảy đi, nhé!
- Nhất định.
Tối thứ sáu, vợ bảo chồng rằng:
- À này, mình ạ. Hai trăm bạc, tôi đem gửi thầy đẻ, nhé? Mang đi làm gì cho nó phiền, nhỉ?
Chồng đáp:
- Ừ, đem cả đi làm gì!... Ơ! Thế nhưng mà ngộ mình còn muốn mua bán sắm sửa gì nữa chăng? Bất nhược cứ đem quách cả đi cho tiện.
- Ừ, mà phải. Mấy khi lên Hà Nội, tội gì chẳng sắm? Ðể mai đổi cả lấy giấy, mang đi cho khỏi nặng.
Chiều hôm sau, lúc sắp ra tàu, bố vợ dặn rằng:
- Trong mình mang nhiều tiền bạc, đi đường phải cẩn thận lắm mới được. Tôi chỉ lo vợ chồng trẻ, mê ăn mê ngủ, mà ở tàu thủy, thì kẻ cắp như rươi.
Chàng rể thưa:
- Xin thầy đừng ngại. Con ở sở, lắm khi chủ giao cho bạc nghìn, giắt ở trong lưng, một mình con còn chẳng hề gì, huống hồ nay lại có cả nhà con nữa, thì thầy còn lo sợ gì!
Bà bá bảo rằng:
- Ấy ở nhà không sao, chứ đi tàu thì phải giữ. Tiền đã bỏ cả trong ví, mà để vào va-lít cẩn thận rồi, có phải không?... Thế thì những hoa, hột, vòng, xuyến, nhẫn của chị thông, cũng nên tháo hết ra mà cất vào trong va-lít ấy. Người ngồi đâu thì để liền ngay bên cạnh; hễ nằm thì gối đầu lên trên, nhé.
- Vâng, vâng.
Vội vàng miệng nói tay làm, bao nhiêu bộ cánh thu cả vào va-lít, chỉ để lại đôi hoa đeo tai mà thôi.
*
Tàu xúp-nê (Tiếng Pháp souffler: thổi còi), kéo neo, xịch xịch chạy. Hai giờ đêm, đến bến Hà-thành. Ðèn hiệu sáng trưng, cô thông nom cũng choáng mắt. Chồng bảo vợ rằng:
- Ta thuê xe cao su vào ô-ten (Tiếng Pháp hôtel: khách sạn) cho tiện.
Vợ ưng:
- Ừ, đi đâu cũng được. Nhưng mà có xa không?
Chồng nói:
- Không. Chỉ năm xu xe, chạy nhoáng một cái đến nơi ngay.
Rồi gọi:
- Cao su!... Hai cái!
Vợ lên một xe, chồng lên một xe. Xe vợ chạy trước, xe chồng chạy sau. Xe kéo rập rình, qua hết phố này sang phố khác. Ðêm khuya, đường sá vắng ngắt, thiên hạ ngủ im. Ðến Hàng-đào, phu xe hỏi:
- Ði cà-phê nào đây, cô?
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Anh thử hỏi xe sau xem.
Phu xe ngoảnh lại, chẳng thấy bóng cao-su nào. Cô thông thò đầu ra, bảo quay xe lại; nhìn mãi cũng không thấy gì. Hai bên hàng phố, cửa đóng kín mít; bốn bề im lặng như tờ. Dãy đèn điện sáng choang, thăm thẳm một dải đường dài trắng xóa... Cô thông giật mình:
- Ô, hay! Xe kia đi vào đường nào?... Ðây là phố gì, hử bác?
- Phố Hàng Ðào.
- Bác có biết xe sau chạy ngả nào, không?
- Không biết!
- Chết chửa! Coi khéo chẳng lại lạc, nhé!...
Cậu cu-li (Tiếng Pháp: coolie: phu) giở giọng ngay:
- Ơ, hay! Có lẽ bây giờ cứ đứng giữa đường này, ư? Cô bảo tôi kéo đi đâu, chứ?
- Hãy khoan đã, bác. Thử đợi tí nữa, xem sao. Ngộ xe nhà tôi đi chậm chăng, vì còn mắc cái va-lít nặng.
Cu-li bèn nạc mỡ rằng:
- Thôi, mất câu rồi. Ðừng mong người với va-lít nữa. Hụt món này, ta lõng món khác vậy.
Cô ta nghe nói, lạnh gáy cả người; những lo ngay ngáy, bụng bảo dạ rằng: "Chết nỗi! Bây giờ làm thế nào đây? Bơ vơ phận gái, đêm khuya một mình ở nơi đẤt khách, biết nương vào đâu?... Mà chồng thì đi đường nào? Sao lại có lạc được? Lẽ đâu vô ý thế!...".
Còn đang lúng túng, thì có phu-lít (Tiếng Pháp: police: cảnh sát) đi qua hỏi: "Cái gì?" Cô kia vừa buồn, vừa hãi, thấp cao kể rõ sự tình. Phu-lít bảo: "Ði lên bóp!" ấy mới rầy rà! ấy mới thật là chết! Làm thế nào được bây giờ. Trời ơi?...May sao, giữa lúc ấy, có một thầy ra dáng làm việc Tây, cũng đi qua đó, thấy lôi thôi, đứng lại gần, xem. Thốt nhiên, thầy ta giương mắt trừng trừng, nhìn vào tận mặt người đàn bà mà hỏi:
- Có phải cô Giáp đấy không?
Cô Giáp ngạc nhiên, đổi lo ra mừng:
- Phải, tôi đây... Kìa, thầy Bính!...
- Chết rồi! Cô lên đây bao giờ?... Lên làm gì trên này?... Ði với ai?... Ðêm hôm khuya khoắt, sao lại chỉ có một mình thôi?
- Tôi vừa ở tàu thủy lên với nhà tôi...
- Vậy... thầy đâu?
- Xe tôi đi trước, xe nhà tôi đi sau. Bây giờ trông lại, không thấy đâu nữa. Dễ thường lạc rồi, thầy ạ.
- Hừ!... Lạ thật! Sao lại lạc được?
Thầy Bính nghĩ một lát, rồi lại đoán rằng:
- Hay là gặp anh em, còn đứng lại nói chuyện, chăng?... Nhưng cũng không có lẽ... Ai lại bỏ vợ bỡ ngỡ, đi một mình trong thành phố đêm khuya như vậy!... Thôi, để tôi nói với thầy đội. Xin mời cô hãy về tạm đằng nhà, nghỉ ngơi với mẹ cháu cho tiện. Rồi sáng mai ta sẽ liệu.
*
Mai cũng chẳng thấy gì; kia cũng chẳng thấy gì. Trong hai ba ngày, tịnh vô âm tín. Cô Giáp sốt gan sốt ruột. Hai vợ chồng thầy Bính trong lòng cũng áy náy mà phân vân: "Ô, hay! Tìm hết nơi này, hỏi hết chỗ kia, sao mà chẳng thấy tăm hơi đâu cả, là nghĩa làm sao? Kỳ thật!..."
Ðến ngày thứ tư nhân ngồi nói chuyện việc cưới mình, cô Giáp mới thuật lại cả đầu đuôi: "Chồng tôi nghe đâu như người ở tỉnh X (nguyên in: XXX). Cha mẹ mẤt sớm, mồ côi một mình, trước sau chẳng có ai cả; thân lập lấy thân. Thầy đẻ thương tình mà gả, chứ nào có phải rằng là tham của tham cải gì đâu! Vả chưng chồng tôi vốn là thanh bạch. Thôi thì nhờ trời, nhờ quan trên, có lẽ nay mai cũng lo được bổ vào làm việc Nhà nước. Tiền của bây giờ chẳng ngại, chỉ cốt lấy chút công danh với họ hàng làng nước. Nay hai vợ chồng đem nhau lên Hà Nội chơi. Có mang cả mấy trăm bạc đi nữa..."
Thầy Bính bèn hỏi rằng:
- Thế thì bạc ấy đâu?
- Ấy, nhà tôi giữ. Bỏ ở trong va-lít... Va-lít nhà tôi mang... Lại bao nhiêu đồ vàng của tôi, cũng để cả trong va-lít ấy.
Thầy Bính lắc đầu, thở dài nhìn cô Giáp mà nói rằng:
- Thôi, cô mắc lừa rồi, cô ạ.
Cô Giáp không hiểu:
- Mắc lừa ai?... Thầy bảo tôi mắc lừa ai?...
- Mắc lừa thằng bợm, chớ mắc lừa ai?... Nó cuỗm cả vàng lẫn bạc, nó tếch lên ngàn rồi... Sao lại tin cái đứa vu vơ, trên không chằng dưới không rễ thế?!...
- Nhà... nhà... nhà tôi ấy, ư?
- Chứ lại gì!
Cô Giáp chết điếng người. Ngồi lặng im một lát, rồi bưng mặt khóc òa lên:
- Trời đất ôi! Ngờ đâu con người thế, mà xỏ lá ba que!...
- Cô ơi, đời bây giờ thiếu gì những giống tốt mã dài đuôi, làm nghề cậu Sở!... Thôi đà mắc lận thì thôi, đi đâu chẳng biết con người Sở khanh!...
*
Cách hai ba tháng sau, dò la mãi, quả nhiên biết rõ tin rằng: cậu Sở ấy đồng mưu với một ả giang hồ, để lập cái kế tàn nhẫn này, mà lấy của và hại một đời người đờn bà đầu xanh tuổi trẻ. Xong rồi, hai đứa đem nhau đi trốn sang đâu Xiêm, Lào, để cùng vui hưởng cái của bất nhân bất nghĩa.
Phạm Duy Tốn
(tháng
2 năm 1919)
TRẦN TIÊU * MA
MA
Trần Tiêu
Thủa nhỏ, tôi tin cả ma
lẫn quỷ.
Quỷ, theo trí tưởng
tượng của tôi, là những quân đầu trâu
mặt ngựa, hung ác vô ngần, có những cánh tay nổi
đầy bắp thịt rắn như sắt, và
những bàn tay gân guốc cầm những kìm để
cặp lưỡi, vặn răng, những bàn vả,
những búa rìu, những cưa để bổ xẻ
tội nhân. Tôi liên tưởng đến những hình
cụ ghê gớm như vạc dầu, cột đồng
lửa… đến cả những cầu vồng với
đàn chó ngao đứng chực sẵn dưới.
Những hình ảnh kỳ quái, ghê sợ ấy không phải
tự óc non nớt của tôi nghĩ ra, mà do ở những
bức tranh treo ở chùa Huệ, mỗi khi có đám chay
lập đàn phá ngục.
Còn Ma thì mỗi lúc tôi
tưởng tượng một khác, tùy theo câu chuyện
người ta kể cho tôi nghe. Có lúc tôi tưởng
tượng ra một người con gái xinh đẹp
như một nàng tiên. Có lúc là một vị ác thần
với nét mặt thay đổi đủ các hình kỳ
quái, dữ tợn. Những sự tưởng
tượng ấy in sâu mãi vào óc tôi và nung đúc tôi thành
một đứa trẻ nhút nhát. Nhưng tính tự
đắc của tôi lại rất mãnh liệt, có khi làm át
hẳn tính nhút nhát của tôi đi.
Tôi còn nhớ, một
đêm tối trời và giá lạnh, anh tôi kể xong
một chuyện ma. Rồi muốn thử xem trong chúng tôi
có đứa nào bạo, anh tôi đặt ra một cuộc
thi rất giản dị nhưng rất khó cho những tay
nhút nhát.
Cuộc thi như
thế này: ở tận cùng vườn có cây ngâu. Ai ra
tận đấy, bẻ được cành ngâu cầm
về, sẽ được cuộc.
Vừa nghe nói
đến cây ngâu, tôi đã rủn cả người,
rợn cả tóc gáy. Vì cây ngâu không cách cây sung mọc trên
bờ ao mấy. Và cây sung đã nổi tiếng sẵn
ma.Chúng tôi nhìn nhau. Xem chừng anh nào cũng muốn thi tài,
song chẳng một anh nào dám nhúc nhích… Bỗng một anh ló
đầu ra khỏi cửa lại thụt vào ngay, lè
lưỡi, trợn mắt, tỏ vẻ sợ hãi.
Sách, người anh
họ đã lớn, đứng cạnh phỉnh tôi: “Ai
chứ Tíu thì bạo lắm. Đâu nó còn đi
được nữa là từ đây đến cây ngâu.”
Anh tôi nói khích:
- có các vàng cũng đố
dám!
Lòng tự đắc
của tôi bỗng sôi nổi. Mặt tôi nóng bừng vì
cơn tức khí. Không nghĩ ngợi, tôi chạy vụt ra
sân, bước mạnh bạo vào trong vườn. Trời
tối đen như mực. Tôi đâm choạng vào các
bụi cây. Luống cuống, quên cả lối, mò mãi
chẳng tìm thấy cây ngâu. Trở về không thì bẽ quá.
Anh em còn ai cho mình là bạo nữa. Họ sẽ thi nhau
chế riễu mình. Lòng tự đắc bắt tôi tìm cho
được cây ngâu, dù lúc ấy trí tôi rối loạn,
chân tay tôi bủn rủn và quả tim tôi đập như
trống ngũ liên. Vừa đi vừa sờ soạng,
tôi lần ra tận gốc sung mà không biết. Sờ
đến cái da xù xì của nó, tôi giật mình, lạnh toát
cả người. May mà lúc ấy yên gió. Không một
quả sung nào rụng, không một con ếch, con nhái nào
nhẩy xuống ao. Thật, chỉ thêm một tiếng
tõm, không biết tôi sẽ trở nên thế nào?
Tôi bước
giở lại, mồm luôn luôn đọc hai câu chữ nho:
“Thiên tích thông minh, thành phù công dung.” Thường tôi vẫn
thấy nói: ma bao giờ cũng sợ giời, sợ
thần thánh, nên lúc nào đi đêm, tôi cũng nhẩm
đọc hai câu ấy để làm bùa trừ tà.
Cây ngâu cách cây sung có
vài bước. Tôi tìm được, bẻ vội một
cành. Cái mừng đắc thắng làm cho lòng tôi bớt
sợ. Song chỉ một loáng, đâu lại hoàn
đấy. Cái sợ có phần tăng gấp bội. Hai
cẳng chân tôi như bị chuột rút. Tôi cố dấn
bước mà không sao dấn lên được.
Đằng sau tôi như có người đuổi theo,
tiếng chân nện thình thịch, sắp sửa vồ
lấy tôi. Lúc ấy, nếu có ai hét một tiếng,
chắc tôi sẽ ngã sấp xuống, chết ngất
đi.
Tôi được
cuộc, được tiếng bạo nhất nhà,
nhưng đã hao tổn bao nhiêu tinh thần. Từ
đấy, nhiều phen tôi điêu đứng khổ
sở về cái bạo bề ngoài. Còn gì khổ bằng
một anh tí hon nhát gan, làm ra mặt bạo. Động có
cuộc thử thách là bắt buộc phải đến
tôi. Nhát cũng được, nào ai cấm. Nhưng mà
đã trót bạo mất rồi, không sao đủ can
đảm mà thú thực mình nhát được nữa.
Một buổi
chiều, tình cờ chúng tôi đứng trước một
túp lều tranh bỏ hoang, ở sau trường học.
Túp lều ấy, khi trước là nhà Cai trường.
Từ khi hắn chết, người kế chân hắn
sợ, không dám ở. Họ đồn nhà ấy có ma. Vì
thế, chưa nói đến cuộc thi, tôi đã tái
mặt, đau khổ như người sắp chịu
tội. Trời ơi! ước gì anh tôi quên.
Tôi chưa kịp
lủi thì anh tôi đã họp lũ trẻ lại, thách vào
trong túp lều, đánh nhau với ma. Sách cũng có
đấy. Hình như giời sinh ra anh chỉ để
làm khổ tôi. Anh quay ra nhìn tôi, nói: “Xem chừng ở đây
lại chỉ có Tíu là bạo nhất. Quỷ nó còn chả
sợ nữa là ma”.
Tôi tìm cách thoái thác:
- Cuộc thi phải có thưởng.
- Một xu nhé? – Anh tôi hỏi.
- Một xu thì chả bõ.
- Thế bao nhiêu?
- Một hào.
Tôi chắc không khi nào
anh tôi chịu bỏ ra một hào. Như thế cuộc thi
sẽ hoãn và tôi cũng không đến nỗi mất
thể diện. Chẳng ngờ anh tôi nhận lời ngay.
Làm thế nào? Đành nhắm mắt bước liều
vậy. Trong nhà ba gian xiêu vẹo, tường vách kín như
bưng. Và hôi hám và ẩm thấp, lạnh lẽo, rùng
rợn như một nhà hầm chứa… ma. Tôi chưa
kịp định thần thì hàng chục con đom đóm
lập lòe bay loạn xạ. Không biết anh tôi bắt
bỏ vào từ lúc nào? Con nào con ấy như sấn lại
tôi, khiêu khích. Tôi liều mạng, đấm đá, quay tít
đi mấy vòng, rồi chạy vội ra ngoài thở
hồng hộc.
Anh tôi và lũ trẻ
kêu lên: “Vừa mới thoáng một cái đã ra. Không
được! Thua cuộc rồi!”
Tôi làm ra mặt
giận dỗi, vừa nói vừa lảng đi chỗ khác:
“Tôi biết mà! Các anh đánh lừa.”.
Đêm ấy và luôn
mấy đêm liền, tôi chiêm bao thấy toàn ma, và mắt
con nào con nấy tròn xoe, đỏ như hòn than hồng. Con
kéo lên ngực bóp cổ, con nhe răng nhọn như
răng bừa, con lè lưỡi dài lê thê. Tôi thất
đởm, kêu ú ú, hai tay ôm chặt lấy anh tôi.
Thầy tôi cho vì âm
hư huyết ráo, bốc thuốc cho tôi uống. Thầy
tôi biết thuốc. Me tôi vẫn mê tín, cho là bệnh nhà
người, mua vàng hương đi lễ các đền
miếu. Chỉ có tôi là biết rõ bệnh tôi, song vì lòng
tự đắc quá mạnh, không khi nào tôi chịu thú…
*
Tôi đã lớn,
đã theo học năm thứ nhất trường
Bảo hộ. Nhờ về khoa học tôi đã hiểu
biết, đã quả quyết nói là không có ma. Và những ma
trơi, những thần đất chập chờn,
đuổi nhau trên gò đống, chỉ là chất lân tinh
ở hồ, ao tù hãm bốc lên, gặp dưỡng khí trong
khí giời, bùng cháy. Tôi hiểu biết thế. Nhưng tính
tôi vẫn nhút nhát sợ ma, sợ quỷ như xưa.
Lắm đêm, ngồi một mình trong căn phòng
vắng vẻ, đèn sáng hẳn hoi, tôi thấy rờn
rợn, tưởng một vật ghê gớm như
một con ma ở trên nóc nhà sắp rơi phịch
xuống, hoặc ở xó xỉnh hay trước mặt
sắp hiện lên để hại tôi. Rồi thần
hồn nát thần tính, một con chuột khẽ
động dưới khe hòm, một tiếng cú vẳng
ngoài xa, cũng đủ làm cho tôi mất vía. Có khi chẳng
cần phải có tiếng gì, tôi cũng sợ. Sau lưng
tôi như có một quái vật đứng lù lù, chỉ
chờ tôi ngoái cổ lại là trợn mặt, lè
lưỡi ra nhát. Thế là tôi phải rời căn phòng,
tìm đến chỗ đông người. Nhiều khi,
vấn tâm, tôi xấu hổ, tự bỉ sao mình lại
nhát gan đến thế. Hay là tính nhút nhát là một
bệnh, một cố bệnh không sao chữa
được? Vì hiện giờ, tôi thú thực, tôi
vẫn còn tính nhút nhát, sợ ma, mặc dầu đầu
óc suy xét của tôi tin rằng: người ta cũng như
các sinh vật, một khi đã chết, xác thịt sẽ
mục nát, tiêu tán đi. Còn linh hồn hoặc không có, hoặc
có thì cũng khác nào như hơi thở, tan vào trong không khí,
hòa lẫn với các linh hồn khác; óc suy xét tôi tin rằng:
không khi nào linh hồn lại hiện ra được thành
người, thành quái vật để dọa nạt, hãm
hại người sống.
Ngoài tính nhút nhát, tôi
còn một tính xấu nữa, là tính dễ tin, dễ thay
đổi ý tưởng. Vì thế mà khi xem xong quyển
sách thuyết về chủ nghĩa vật chất
“Matériellisme”, tôi đã một dạo gần như bạo
dạn, dám đi đêm một mình. Đến khi xem
hết bộ sách thần linh học “Spiritisme”, đồng
cốt học “médiumnisme”, tôi lại trở lại nhút nhát
quá trước.
*
Năm 19… tôi xin thôi
giáo học, xoay về quê nhà làm ruộng. Tôi thường
giao thiệp với những ông Lý, ông Khán quê mùa cục
mịch. Trong câu chuyện xã giao, họ hay kể
đến chuyện ma quỷ.
Vì họ mà tôi
biết được trong làng tôi, ở xóm Cõi Hùng có con ma
to lắm. Nó dám cả gan đè cả cụ Thượng
làng tôi xuống cái rãnh sâu, ngay sát khóm tre cu. Đồng
Mộ Và những đêm giăng suông, nó uốn rập
một cành tre xuống mặt đường. Ai vô ý
bước qua, nó sẽ bật cành tre lên, như bật
cần câu để làm cho người ta ngã dập
đầu, vỡ sọ. Có khi nó dìm cả người ta
xuống cái ao gần đấy.
Vì họ mà tôi
biết được ở trước quán Ngói có con ma
chẳng kém con ma Cõi Hùng. Con này, chính ông Quản Sâm đã
gặp. Theo lời ông kể, một hôm, một hôm giăng
suông, ông đi thăm bệnh cho ông Chánh Bá làng Đoài,
liền cạnh làng tôi. Đến quán Ngói, ông đâm
phải vật gì nhũn nhũn, mềm mềm. Ông cúi
xuống thấy một cái đầu lâu nhìn ông, nhe răng
ra cười. Cái đầu lâu, trước còn bằng cái
đầu thường, bỗng to ra bằng cái thủ
lợn, rồi bằng cái thúng. Ông vốn là người
trong đạo Gia tô, lại bạo có tiếng. Sẵn
gậy, ông giơ lên, vụt một cái thật mạnh,
mồm nói: “Giêsu ma, lạy chúa tôi!” Cái đầu lâu
biến mất, chỉ còn trơ lại một hòn
đất thô. Ông bước qua, chẳng tỏ chút sợ
hãi. Phục thật!
Lại một ông, ông
Xã Chưởng vừa mất năm ngoái, một buổi
chiều, xâm xẩm tối, ông đi chợ Hạ Am
về. Cũng đến quán Ngói, ông gặp một
người con gái rất đẹp cắp thúng đi
ngược lại. Ông nói ghẹo:
- “Cô đi đâu đấy? Muốn lấy tớ thì
về nhà với tớ.”
Cô con gái nhoẻn miệng cười, trả lời:
- “Vâng, mình cứ về trước, rồi em về.”
Xã Chưởng về đến nhà, vào buồng đã
thấy người con gái ban nãy, ngồi trên giường,
cười nói lả lơi:
- “Mình về chậm thế? Em về trước mình
đã lâu,”
Vừa nói vừa ôm ghì lấy Xã Chưởng hôn.
Cặp môi cô ta ép vào má Xã Chưởng, lạnh buốt
đến tận ruột. Từ đấy, đêm nào
người con gái cũng hiện lên, nằm sát cạnh,
lạnh như bùn.
Sau Xã Chưởng phải cầu cứu đến ông
Pháp Rục, một thầy phù thủy cao tay có tiếng
trong làng chữa chạy ba ngày ba đêm mới trừ
được nó.
Vì họ, tôi còn
biết cây đa chợ Cầm, lối đi ra
trường học, có một con ma tuy không ghê gớm
bằng hai con kia nhưng cũng đáng sợ. Con này là vong
hồn một người đàn bà chết đuối
ở giếng chùa, gần đấy. Đêm đến, nó
thường ngồi chồm chỗm trên cành đa, rũ
tóc xuống tận đất. Người nào yếu bóng
vía, nó sẽ giương đôi mắt xanh như mắt
mèo và lè lưỡi dài lê thê ra nhát.
Còn, còn nhiều
chuyện ma. Tôi không tin. Tin sao được những
chuyện hoang đường vô lý như thế, trừ phi
là trẻ con mê tín như tôi khi xưa. Nhưng mà một
đêm về… phải, về tháng chạp, hai mươi
mốt tháng chạp, năm 19… Tôi còn nhớ rõ ràng như
vừa mới hôm qua vậy.
Tôi đến ăn
cơm đằng ông Giáo. Ăn xong, chúng tôi bày ra đánh
cờ. Mải nghĩ nước cờ, lúc giở ra
về thì giời tối mịt. Ông Giáo ở ngay
trường. Trường có hai buồng: một buồng
học và một buồng ông dùng làm chỗ ở. Trong
buồng vẻn vẹn có hai chiếc giường thì
một chiếc vợ chồng ông nằm còn chiếc
phần người vú với thằng bé lên ba, con ông.
Thằng nhỏ ốm, xin phép về từ ban sáng. Tình hình
như thế, ở lại bất tiện.Bên ngoài,
giời mưa phùn và tối đen như mực. Gió
bấc thổi từng cơn mạnh. Không dùng được
đèn đóm. May sao bà Giáo, hôm rằm đi lễ, còn
để lại một thẻ hương. Đành
lấy hương thay đèn đóm vậy. Hai vợ chồng
ông Giáo ái ngại hộ:
-“Giời mưa rét
này mà về thì khí phiền cho anh lắm nhỉ. Hay là…”
Tôi vẫn không bỏ được tính tự
đắc, vội trả lời, không kịp nghĩ:
-“Không sao. Từ đây về nhà tôi cũng gần”.
Cổ áo tơi che kín má, tôi mạnh bạo bước
xuống sân, một tay thọc trong túi, một tay cầm
nắm hương cháy, khua đi khua lại cho sáng. Ông Giáo
đứng trên thềm nói ra:
-“Rét lắm nhỉ!”
Trời ơi!
Nếu chỉ có rét.Đôi cánh cửa trường vừa
khép thì một chút mạnh bạo bám hờ lấy tôi, bay
đi như một hơi thở. Khắp người tôi
chỉ còn toàn sợ. Bao nhiêu sợi tóc trên đầu tôi
dựng ngược cả lên. Hai hàm răng tôi thi nhau
đập. Tay chân tôi run lật bật, cầm không
chắc, đi không vững. Chốc chốc lại một
khối đen hiện ra, lù lù tiến đến
trước mặt tôi, làm tôi rùng mình lùi lại mấy
bước.Không bao giờ tôi thấy tôi cô độc,
sợ hãi bằng lúc này. Người lạc vào trong
rừng rậm, vừa đi vừa nghĩ đến ác
thú còn hy vọng vào đôi mắt, vào tứ chi. Tôi chẳng
còn hy vọng vào đâu. Trước mặt tôi, đằng
sau tôi, chung quanh tôi, toàn bí mật của tối đen.
Một tiếng xào xạc, một tiếng rền rĩ
của côn trùng, một tiếng cỏ ẹp dưới
gót chân cũng đủ khiến tâm hồn tôi kinh
hoảng. Không hiểu sao, lúc ấy lại là lúc tôi giầu
tưởng tượng quá. Và toàn những tưởng
tượng ghê gớm về huyền bí. Tiếng thông chùa
Đông, theo luồng gió bấc đưa lại là
những tiếng than khóc bi ai của những linh hồn
đau khổ, đương quằn quại dưới
mồ. Những đom đóm lập lòe trong tối là
những con ma nghịch ngợm, từ dưới mà
vụt lên để đi trêu ghẹo những
người yếu bóng vía. Những tiếng kẽo
kẹt của những gốc tre già cọ vào nhau là
những tiếng nghiến răng của những con ma
hung ác hay là những tiếng võng đưa của một
Bà Nàng trên rừng xanh, núi thẳm… Rồi bao nhiêu những
chuyện ma người ta kể cho tôi từ thuở
nhỏ, bỗng trở lại trong trí nhớ tôi.
Bực quá. Tôi cố nghĩ sang chuyện khác để
xua đuổi cái ý nghĩ vô lý ấy đi mà không sao
được. Hình như nó xuất phát từ cảm giác
yếu đuối của tôi và tâm tính tôi như không
chịu theo cùng một điệu với trí xét đoán xác
thực của tôi. Không còn cách gì hơn, tôi bèn huýt sáo…
Chợt có tiếng động trong bụi tre. Nghĩ
đến rắn, tôi hoảng sợ, im bặt. Rồi
như một cuồng sĩ, tôi lảm nhảm nói
triết lý một mình, cốt để khỏi nghĩ. Vô
hiệu. Mồm tôi vẫn nói, mà ý nghĩ, mà cảm giác,
nhất là cảm giác vẫn chìm đắm trong cái sợ
vô biên…
- Thế là nghĩa lý gì? Chậc, mặc kệ! Cứ
sợ đi. Cóc cần!… Liều!
Nói đoạn, tôi vứt bó hương, vì bó
hương với cái ánh sáng đỏ lòm của nó xem
chừng cũng vô ích. Hai tay thọc trong túi áo len, tôi
vươn thẳng mình, ưỡn ngực, bước
mạnh bạo để cố chống với cái sợ,
chẳng khác lúc đứng trên phà, chống với
những cơn gió rét buốt thịt.
Chưa kịp thấy công hiệu thì vài tiếng cú
thất đảm kinh hồn báo trước tôi biết:
tôi sắp đến chơ. Cầm và cái giếng chùa
gần đấy. Một cảm giác rùng rợn chuyển
khắp người tôi, làm cho da thịt tôi tê tái, tứ chi
và gân cốt tôi rời rạc, bủn rủn.
- Sắp đến cây đa rồi nhỉ. Chả còn
mấy bước nữa đến nhà. Tôi nói to
để gợi hết can đảm, nhưng chỉ
tổ làm cho tôi bối rối thêm.
Khó nghĩ quá. Tránh cây đa thì lại gần cái
giếng. Mà tránh cái giếng thì…
Hú… ú… ú… Một tiếng hú ngân dài
vang động cả một bầu trời đen,
dầy đặc, vừa ai oán, vừa ghê rợn như
tiếng… ma kêu. Tiếp liền sau, một chuỗi
cười khanh khách… lạnh lẽo, khô sắc, rắn
chắc như hai ống xương gõ vào nhau. Đấy
là cảm giác của tôi về sau, khi nhớ lại,
chứ lúc ấy hồn vía tôi bay đi đằng nào
rồi, còn đâu. Hai chân tôi như cái máy đưa xác
thịt tôi về phía cây đa. Một vật gì lơ
lửng trên không, lơ thơ như tóc, bay tạt vào
mặt tôi. Chết rồi! Tóc nó! Hai chân tôi lùi lại.
Tiếng hú ngân dài và tiếng cười khanh khách vang lên
lần nữa. Đầu tôi díu về đằng
trước, hai chân tôi chạy bán sống bán chết. Còn
hai tay tôi làm gì? Mắt tôi thấy gì? Cảm giác, trí lực
tôi thế nào? Làm sao tôi chạy về được
đến nhà mà không vấp ngã? Tôi chịu, không sao biết
được. Có lẽ vì hằng ngày tôi đi lại
nhiều lần, nên chân tôi bước đã quen, như
bước chân thầy bói vậy. Phải, chắc
thế. Vì hai bên đường có ao, có ruộng, có rãnh, và
đường có chỗ cong, chỗ rẽ vào nhà. Nếu
không quen như thầy bói quen đường thì sao thoát
khỏi ngã.
Bây giờ, nếu ai hỏi tôi:
“Trong đời, anh bạo nhất lúc nào?” Tôi sẽ
quả quyết trả lời là lúc ấy. Lúc ấy,
mặc dầu đạn bay bom nổ ngay trước
mắt, tôi cũng chẳng coi vào đâu. Tôi coi như không,
vì lẽ cố nhiên là tôi chẳng còn hồn vía, trí giác
đâu nữa mà biết để mà sợ. Có lẽ
những tên lính hùng mạnh, đánh giáp lá cà, dấn mình
trong mưa đạn, cũng đến như tôi lúc
ấy mà thôi.
Thấy tôi tái
nhợt như cái xác, nhà tôi hốt hoảng nắm lấy
cánh tay tôi hỏi dồn:
-“Chết chửa! Cậu làm sao thế? Có việc gì
thế, cậu?”
Rồi quay ra giục đầy tớ:
-“Đóng ngay
cổng lại, mày!
Tôi nằm vật xuống giường, nói như
người thở hắt ra:
- Ma! Ma! Mợ ạ… Tôi gặp ma!
Cái dáng điệu
với giọng nói thành thực ấy khiến nhà tôi không
thể không tin được, dẫu ngày thường
không bao giờ tôi ngỏ ý sợ ma, không bao giờ tôi nói
đến chuyện ma hay chuyện gặp mạ
Tôi ngủ thiếp
đi. Sáng hôm sau tôi hoàn hồn, và tối sau tôi bắt
đầu sợ, sợ quá đến nỗi không lúc nào
dám ngồi một mình, dám rời khỏi nhà, dám bén mảng
xuống bếp. Lúc đi ngủ, tôi đã nằm len vào
giữa. Một bên nhà tôi, một bên thằng con nhỏ mà
vẫn thấy rờn rợn. Mỗi luồng gió lọt
qua khe cửa, tôi nghe như tiếng hú của con ma.
Tiếng chuột rúc, tiếng dế kêu tôi nghe như
tiếng cười khanh khách của nó. Chốc chốc tôi
lại lay người nhà tôi dậy, hỏi vơ hỏi
vẩn cốt để nhà tôi thức giấc.
Cách vài hôm, vào ngày
chủ nhật, tôi đến chơi ông Giáo, Giáp và Dần,
bạn tôi cũng có đấy. Tôi đem chuyện ma ra
kể. Ông Giáo không tin, cười nói:
- Thôi đi, anh
đừng thấy tôi ở vào chỗ hẻo lánh, gần
tha ma mà đem ma ra dọa. Tôi chẳng sợ đâu.
Giáp không cười,
nói, giọng chân thật:
- Có lẽ thật
đấy, các anh ạ. Chính tôi cũng gặp ma một
lần, mà cũng ở giếng Chùa gần cây đa
chợ Cầm. Đêm ấy, cách đây độ… nửa
tháng, giời sáng giăng hẳn hoi, tuy sáng lờ mờ.
Tôi đi đến gần giếng, thì thấy một cái
bóng người ngồi xõa tóc trên bờ bên kia. Tôi dừng
bước hỏi:
- Ai? Cái bóng lừ
lừ đứng dậy, lừ lừ đi đến
cái tháp rồi biến mất.
Ông Giáo cãi lại:
- Chắc đâu là ma
hay là người thật.
- Đích thực ma
chứ không phải người, vì tôi thấy cái bóng nó
mập mờ, ẩn hiện như ma, và người tôi
lúc ấy thấy rờn rợn. Mọi lần đi
đêm, có bao giờ tôi thấy rợn đâu.
Ông Giáo nhìn Dần,
nói, coi Dần như đã biểu đồng tình với
ông vậy:
- Cái đó thì đã
dĩ nhiên. Vì mọi lần anh Giáp tôi không có cái gì
để mà rùng rợn, có phải không anh Dần?
Dần từ nãy
vẫn giữ vẻ điềm tĩnh, yên lặng
ngồi nghe, bèn cất giọng nói thong thả: “Tôi chưa
gặp ma bao giờ vì lẽ không mấy khi đi đêm.
Nhưng mà người ta thường nói: “hay đi đêm
lắm có ngày gặp ma. Câu ấy có lẽ đúng.”
Ông Giáo chau mày, ném mẩu thuốc lá hút dở qua cửa
sổ:
“Lại nhà triết học này nữa. Nhà triết học cũng tin nhảm như hai bác mê tín kia ư? Thế thì hỏng, hỏng bét.”
“Lại nhà triết học này nữa. Nhà triết học cũng tin nhảm như hai bác mê tín kia ư? Thế thì hỏng, hỏng bét.”
Dần nhếch mép
cười, rút một điếu thuốc lá trong bao “ba
tốt” để trên bàn, cầm dỗ mấy cái xuống
mu bàn tay rồi bật diêm hút ba bốn hơi liền.
Đoạn anh ung dung đáp lại:
- Tin hẳn thì không
dám chắc, nhưng mà phân vân thì có… Các anh đã đọc
quyển “Spiritisme” chưa nhỉ. Anh Tíu thì chắc đã
xem rồi, vì quyển sách ấy chính anh cho tôi mượn…
Chưa à? Vậy các anh cũng nên đọc qua. Trong sách có
nhiều đoạn họ viện khoa học ra thuyết
đúng lý lắm, có phải không, anh Tíu nhỉ. Như
đoạn… họ nói: linh hồn một khi đã thoát
khỏi xác thịt, vẫn giữ được tính
chất riêng của từng cá nhân, chứ không tan vào không
trung như lời của phần nhiều nhà triết
học khác. Theo thuyết họ thì linh hồn còn có một
chất bọc ngoài là “périsprit”. Chất ấy giữ cho
linh hồn nguyên tính như khi còn tù hãm trong phần xác
vậy. Vì thế mà có linh hồn cao siêu, linh hồn tầm
thường, linh hồn hèn kém, linh hồn lương
thiện, linh hồn hung ác, linh hồn giảo quyệt,
nghịch ngợm, đủ hạng như đủ
hạng người trên dương gian… Chả biết ý
tưởng các anh thế nào, chứ tôi thì tôi cho là
phải.
Ông Giáo xem chừng
không phục cái thuyết ấy, nhưng vì tò mò muốn
nghe, nên ông cũng nói:
- Được! Nhà
triết học cứ thuyết đi.
Giáp nghe có vẻ
chăm chú lắm. Còn tôi tuy đã đọc qua, cũng
muốn nghe lại.
Dần uống vài ngụm nước nhấp giọng.
Đoạn, anh nói tiếp:
- Linh hồn có khi tan
ra như không khí khiến mắt ta không nhìn thấy
được. ấy là theo thuyết của họ
chứ không phải thuyết của tôi đâu nhé, vừa
nói anh vừa tủm tỉm cười. Có khi tụ lại
như sương mù, có khi đọng lại thành hình tùy
theo ý muốn của linh hồn. Vì thế mà ban đêm,
thường trong sáng trăng suông, có người nhìn
thấy linh hồn hiện hình tức là ma…
Ông Giáo không nhịn
được, ngắt lời:
- Thuyết ấy vô
lý lắm, tôi bất phục. Có lẽ nào đương vô
hình mà lại thành hình, nhất là hình người…
Giáp đương
thích nghe, cản lại:
- Thì anh hãy để
anh Dần nói nốt đã nào.
Không nể lời
bạn, ông Giáo còn chêm một câu hỏi nữa:
- Thí dụ như con
ma ngồi xõa tóc của anh Giáp. Vậy tóc lấy ở
đâu ra? Lại còn có người thấy ma hiện thành
con gái, cắp thúng. Vậy những thức ấy ở
đâu ra hay cũng ở linh hồn là chất vô hình? Vô lý!
Vô lý!
Dần vẫn
điềm tĩnh, bật diêm châm lại điếu
thuốc hút dở rồi khoan thai đáp:
- Xem đến
đoạn ấy, tôi cũng nghĩ như anh Chữ (tên
ông Giáo), nhưng mà, các anh ạ, vũ trụ của
Tạo hóa… Chẳng nói gì vũ trụ, ngay cõi dương
gian chúng ta đương sống đây, biết bao nhiêu
sự mà ta cho là lạ lùng huyền bí. Song đối
với Tạo hóa không có sự gì là huyền bí, lạ lùng
cả. Chữ “surnaturel” chỉ là lời nói của ta
đặt, những cái mà ta thấy khác thường
với ta đó thôi: với Tạo hóa nó vẫn là
thường “naturel”.
Nghỉ một lát
để hút thêm vài khói (Dần vốn nghiện thuốc
lá và nghiện nặng). Đoạn anh nói tiếp:
- Lại còn thuyết
này nữa: cái gì có ở thế gian, ở trên quả
đất của ta, đều có hết thẩy trong không
trung. Thí dụ như nước. Theo phép thí nghiệm, là
hai chất dưỡng khí và khinh khí (H2O) hợp lại mà
thành ra. Hai chất ấy không ở không trung thì ở
đâu? Lấy một nhẽ ấy mà suy thì hết
thẩy, từ con vi trùng nhỏ nhỏ biến, cho chí các
loài các giống, các đồ đạc, các thứ,
đều là những chất “éléments” sẵn có trong không
của Tạo hóa cả. Vậy thì sao linh hồn, nhờ
quyền phép của Tạo hóa, lại không lấy các
chất cần dùng ở đấy mà lập thành ra
được. Theo lý ấy, linh hồn có thể làm ra cái
nhẫn vàng, hạt kim cương, đủ mọi
thức tùy theo sở thích của linh hồn… Chắc các anh
sẽ bẻ: Sao những thức ấy không thành thật
được, nghĩa là không thành những thức mà ta có
thể cầm trong tay, giữ lấy mà dùng
được. Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng đó
lại là bí quyết của Tạo hóa. Ta chỉ nên lấy
những việc xảy ra “les faits” mà xét đoán. Ma, tức
linh hồn hiện hình đã xẩy ra. Anh Chữ không
gặp. Tôi cũng không gặp. Nhưng mà anh Tíu, anh Giáp
đã gặp, thì tức cũng như chúng ta đã gặp
vậy.
Ông Giáo vốn có óc
thiết thực, vẫn không chịu, cãi lại:
- Như thế nào
được. Hai anh ấy sẵn có tính nhút nhát.
Động đêm đến là sợ ma, lúc nào cũng
nơm nớp gặp ma. Rồi tưởng tượng
giúp trí nghĩ, khiến mắt các anh ấy nhìn ra hình
người, hình quái vật, khiến tai các anh ấy nghe
thấy đủ mọi thứ tiếng, như tiếng
hú, tiếng cười khanh khách chẳng hạn. ừ ma,
nói đến tiếng, tôi lại xin hỏi tiếng hú,
tiếng cười khanh khách lấy ở đâu ra hay lại
cũng ở không trung? Hay chính linh hồn kêu, linh hồn
cười?
Nói
rồi anh đắc chí cười khanh khách.
Dần vứt
mẩu thuốc xuống đất, rút điếu khác hút,
rồi điềm nhiên hỏi lại:
- Tiếng máy hát
ở đâu ra? Tất ở cái kim chuyển trên đĩa
nhựa. Cái kim, đĩa nhựa đều hợp thành
bởi những chất có sẵn trong không. Vậy thì linh
hồn có thể lấy ở đấy mà ra, lập thành
tiếng hú, tiếng cười khanh khách.
Nói
rồi anh cũng cười trả lại. Đoạn
anh tóm tắt:
-Tạo hóa huyền
bí vô cùng. Ta cũng là một huyền bí của Tạo hóa.
Tạo hóa tạo ra ta, cho ta biết đến đâu, ta
được biết đến đấy. Ta không
thể lấy triết lý mong manh và kiêu hãnh của ta mà
quyết đoán được Tạo hóa.
Cuộc đàm
đạo đã thấy lâu. Sau chiếc bình phong, tiếng
bát đũa chạm vào nhau lạch cạch. Bà Giáo ra vào,
băn khoăn. Thằng nhỏ nói thì thầm. Tôi biết ý
đứng dậy. Dần, Giáp sực nhớ tới
bữa ăn của nhà chủ, đứng dậy theo. Ông
Giáo cũng đứng dậy nói:
- Cứ kể cãi lý
với anh Dần thì tôi cãi mãi được. Nhưng
thuyết ấy, tôi không phục lắm. Nhưng mà, nếu
có thể được, anh cho mượn quyển
“Spiritisme, của anh Tíu. Chắc trong ấy còn có nhiều
thuyết nó sẽ làm cho tôi phục lăn
.Ông Giáo vừa cười như
chế nhạo.
Giáp xem chừng đã
ham mê quyển sách, vội nói:
- Anh Chữ xem xong
lại chuyển sang cho tôi nhé. Hay là anh còn bận dậy
học, anh để tôi xem trước.
Ông Giáo vui vẻ xua
tay:
- Không! Không
được! Phải để mỗ xem trước.
Mỗ nói mượn trước.
Dần đập vào vai tôi, cười nói:
- Được hay không, còn phải hỏi
chủ nhân của nó đã chứ đệ không có
quyền.
Tôi vội đáp:
- Được, anh nào muốn
mượn thì mượn, tôi xin sẵn lòng. Miễn là anh Giáo
tôi đừng cáu với nó quá mà vò nát nó ra thôi.
Tôi cười theo và tiếp liền:
- Còn quyển
“Đồng cốt”, anh nào muốn học lên đồng
cô, đồng cậu, đồng quan lớn quan liếc
thì tôi cho mượn nhân thể.
Ông Giáo vốn lười đọc, hỏi:
- Có dầy lắm
không, anh?
Tôi cười:
- Dầy chẳng kém
quyển “Spiritisme”
- Thế quyển
“Spiritisme”?
- Dầy bằng
quyển “Đồng cốt”.
Mọi người cười ồ.
Dần nói dọa:
- Bằng hai quyển
tự vị của anh kia kìa. Thấy ông Giáo chau mày,
thở dài, Dần thương hại, nói tiếp:
- Đùa đấy.
Dầy độ gấp rưỡi quyển Tiêu Sơn
tráng sĩ của anh để trên ngăn tủ ấy.
Ra khỏi cổng
trường, chúng tôi bắt tay nhau, rồi mỗi anh
một ngả. Tôi vừa đi, vừa nghĩ đến
những lời của Dần. Cả ngày hôm ấy, tôi
thơ thẩn như một thi sĩ đương tìm
vần thơ. Những thuyết trong quyển “Thần linh
học” lần lượt thức dậy trong trí nhớ.
Tôi còn nhớ mang máng một câu: “Nhờ Tạo hóa, nhờ
cả khoa học mở mang tột bực, rồi một
ngày kia ta sẽ biết rõ đời vô hình của linh
hồn trên thế giới vô hình của họ, rõ như
một với một là hai vậy. Lúc ấy chỉ có
kẻ nào điên hay loạn óc mới dám nói: Không có linh
hồn. Người chết đi là hết, là hư vô…”
Không biết bao nhiêu
ngày, bao nhiêu đêm, trí tôi luẩn quẩn trong quyển
“Thần linh học” đến nỗi nhãng bỏ cả
thực hiện. Trong nhà, ngoài sân, ngoài đường, trên
không, chỗ nào cũng nhan nhản những linh hồn.
Tôi sắp thành
một người mê tín như các ông đồng, bà
cốt thì một buổi chiều, đi thăm
đồng về, gần đến chơ. Cầm, tôi
thấy một đám đông, phần nhiều là trẻ
con, đứng vây bọc chung quanh gốc đa. Tôi thoáng
nghe thấy tiếng hát lanh lảnh, rồi những
tiếng cười reo của lũ trẻ làm lấp
đi. Tôi lại gần, dãn lũ trẻ ra. Một
người đàn bà còn trẻ, quần áo lấm láp và rách
để hở từng mảng da sém nắng. Đầu
óc rối bù, xõa xuống trông không rõ mặt. Hai tay ôm khúc
chuối áp vào vú để lõa lồ. Biết bà là con
điên, tôi quay gót giở ra… Bỗng một chuỗi
cười khanh khách giòn tan, khô xác, rắn chắc… làm tôi
rùng mình ghê rợn. Từ đấy, tôi như trút
được gánh nặng. Trí tôi và tâm hồn tôi trở
lại bình tĩnh. Linh hồn và thế giới vô hình cùng
với quyển sách thần linh học cũng dần
dần chìm trong bể quên.
Trần Tiêu
(Sau luỹ tre - nxb.
Đời Nay, Hà Nội, 1942)
NGUYỄN BÁ HỌC *CÂU CHUYỆN NHÀ SƯ
CÂU CHUYỆN NHÀ SƯ
Nguyễn Bá Học
Ngày tháng 6 năm 1906, vừa độ các trường nghỉ hè, tôi cũng đi thăm một vị sư ở chùa hàng Bưởi, về hạt Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh. Đến nơi thì bản sư cùng tăng chúng đi đọc hạ(1) bên chùa Thiên Thai, từ mấy hôm trước. Bấy giờ trời đã gần hôm, tôi phải nghỉ lại đó. Một mình ngồi trong phòng khách trông sang hiên tây, vắng ngắt không có người đi lại. Bóng chiều phản chiếu, lá cây lẫn với rêu sân một màu nhàn nhạt, trong cảnh thanh tịch hiện ra một cái vẻ thê lương, khiến cho lòng kẻ khách du ngao ngán nỗi mây ngàn hạc nội.
Trong một cái phòng sâu và tối, nghe có tiếng người ho khoải khắc(2). Hỏi ra mới biết là một vị hành tăng(3) tạm trụ cảnh chùa để xem kinh và dưỡng bệnh. Tôi liền tới nơi, có ý cùng sư nói mấy câu chuyện nhà chùa cho khuây cơn sầu tịch.
Bước vào, vừa thấy một người chừng năm mươi tuổi, mặt xanh mình gầy, ngồi tựa lưng vào cột, nét mặt đăm đăm, trông ra cửa sổ, thỉnh thoảng thở dài một cái, như đem bao nhiêu cái uất cái não đã chất chứa trong óc nhờ hơi thở để tiết ra bên ngoài. Tôi sẽ lên tiếng mà chào:
- A di đà Phật! Tôi là người có quyến thuộc với sư bản tự(4) đến chào người.
Người kia nhìn tôi lúc lâu, rồi nói một tiếng nặng nề rằng:
- Thầy hãy đứng xa tôi ra. Tôi là một người có tội: tôi là người sắp xuống địa ngục. Thầy hỏi tôi làm gì?
Tôi nghe nói phát lạnh cả người, như mình đứng bên ma quỷ. Tôi nói:
- Tội nghiệp thay, người ở cảnh nào? Người có bệnh gì? Sao người không vào nhà thương mà uống thuốc?
Người kia nói:
- Tôi không có nơi thường trụ. Bệnh tôi đã lâu, không có thể chữa khỏi, mà cũng không ai có thể chữa khỏi; chẳng bao lâu mà tôi sẽ ra người dưới cửu trùng địa ngục. Thôi, thầy về phòng khách mà nghỉ.
Nói rồi cứ đăm đăm trông ra
cửa sổ.
Tôi lui về phòng khách, cứ một mình mình nghĩ: người này hẳn có oan nghiệt gì đây, cho nên cái lương tâm nó cứ dõi theo mà cắn giắt(5), ấy là một sự hình phạt rất nặng. Than ôi sinh, lão, bệnh, tử là bốn nghiệp của loài người, đã có thân phải có nghiệp. Kìa người đã xả thân diệt tục còn phải mang lấy nghiệp vào mình, huống chi người túng dục tứ tình(6), biết bao giờ cho ra khỏi bến mê bể khổ.
Đương ngồi đương nghĩ thấy thoáng có bóng người vào cửa, như có hơi gió lạnh thổi lọt vào mình, sởn cả gai ốc. Trông ra thì là người bên tây hiên, bước vào kéo ghế mà ngồi. Tôi cũng vội vàng đứng lên mà chào hỏi. Người kia liền nói:
- Hẳn thầy đang nghĩ ngợi về việc tôi. Nếu tôi không nói chuyện cho thầy nghe, để cái nghi đoan(7) bận trí khôn cho thầy cũng không phải. Vả lại, chẳng bao lâu mà tôi sẽ bỏ cái thế giới này, cũng nên đem chuyện mình để làm gương cho thiên hạ. Tôi xem thầy cũng là người văn sĩ, cũng nên ký lấy những nỗi khắt khe ở đời, điều hay để mà khuyên, điều dở để mà răn, cũng không phải là sự vô ích.
Tôi nói:
- Người ta ai cũng có điều hay điều dở, hễ biết dở ấy là người hay. Cho nên đạo Thích ca cho chúng sinh sám hối, đạo Thiên chúa cho con chiên rửa tội. Nếu người đã sẵn lòng nói thật, tự mình không phụ với lương tâm, trời Phật nào chẳng chứng minh cho lòng người ngay thật. Người kia ngồi đối diện với tôi mà nói:
- Tôi họ Trần, hiệu là Nguyễn Khuê, người Hà Đông. Cha mẹ mất sớm ở với chị, cũng cho ăn đi học. Năm 15 tuổi chị chết, anh rể lấy vợ khác, thế không ở được, phải bỏ mà đi. May gặp một bà họ Lý, ở một làng bên, thấy con nhà khốn khó, đem về mà nuôi. Bà không có con trai, chỉ nuôi một người cháu gái tên là Lý cô. Bà thấy tôi đã lớn, cho lên tỉnh vào tràng(8) Pháp Việt mà học.
Nghĩ tôi có khác gì chiếc lá lìa rừng, con chim lạc tổ; sao cho khỏi sa ngã chìm đắm đã là khá, còn mong gì sự học hành, dù có thiên tư thông tuệ thế nào, cũng phải đoạ lạc ra con nhà thất giáo(9). Nay thân trầm luân đã được nhờ tay tế độ, được ấm no, có giáo dục tưởng cái ân cái nghĩa ấy, biết lấy gì mà trả cho phu(10).
Một hôm nhân ngày nghỉ học, tôi về thăm Lý bà. Bà lấy mẹ con mà xưng hô, tình âu yếm, cách ôn tồn, đã cảm động lòng tôi cho đến rơm rớm hai hàng nước mắt. Tôi nói: "Tôi là một đứa con nhà bạc đức, đã không cha không mẹ lại không anh không em. Trời đất sinh tôi ra có ý đày đoạ vào một đời khốn cùng khổ nhục, dù bà có lòng từ thiện thế nào, không tô điểm đất bùn cho nên tượng được". Lý bà nói: "Già hiếm hoi, thèm chút con hiền cháu thảo, thấy con cũng là con nhà lương thiện, coi người dĩnh ngộ, có vẻ thông minh, để già sớm khuya bầu bạn và tin cậy về sau. Con ôi, đường sinh phúc con còn dài, việc gì mà lỗi chí(11). Từ nay mẹ khuyên con phải phấn phát tinh thần, học hành tấn tới cho bằng người, cho khỏi phụ lòng mẹ đã thương con ngày nay". Nói rồi Lý bà gọi Lý cô đến mà bảo: "Nay Trần sinh đã là người trong một nhà, cháu phải lấy đạo anh em mà xử, không có điều gì phải hiềm nghi, phải giúp anh mày những việc mà mày có thể làm được". Lý cô nghe nói, sẽ ngoảnh lại mà chào tôi, rồi cứ cúi đầu mà đứng. Tôi vô ý cứ chú mắt mà nhìn, làm cho Lý cô thẹn đỏ cả tai cả cổ. Lý bà biết ý gọi Lý cô ra ngoài nói sang chuyện khác. Tôi cũng ngơ ngẩn hồi lâu, rồi xin trở về trường học.
Tự bấy giờ Lý cô thường đem tiền gạo cho tôi ở nhà trọ, vá may giặt gịa đều là việc Lý cô. Lần kia tôi phải đau ở nhà trọ, một tay Lý cô thuốc thang cơm nước; thực là một người có nữ công, có đức hạnh; con nhà khuê tú chưa dễ đã có mấy người. Vả từ thuở nhỏ đã quen ăn cần ở kiệm, không nhiễm một chút gì là thói đãng tình kiêu.
Một bữa, Lý cô bưng thuốc đến, tôi lấy lời cảm tạ mà bảo Lý cô rằng: "Lý cô đã khó nhọc với tôi là biết dường nào! Tôi là con nhà bạc đức, sống thác có kể chi mà cái ân cho toàn, nghĩa trân trọng của Lý cô tôi biết lấy gì mà đền bù cho xứng đáng?" Lý cô nói: "Việc giúp đỡ anh em cũng là việc trong nhà, có gì mà kể ân kể nghĩa". Tôi nói: "Tôi thương Lý cô hết lòng, không biết Lý cô có thương tôi như thế không?" Lý cô nói: "Anh em thương nhau là lẽ tự nhiên". Tôi nói: "Tuy nhiên, chẳng những tôi thương Lý cô vì tình anh em, và thương Lý cô vì tình...:". Nói đến đây tôi ngừng lại. Lý cô lại hỏi: "Còn vì tình gì?" Tôi nói: "Vì tình ân ái". Lý cô nhìn tôi một cách nghiêm nghị mà nói: "Tôi không hiểu lời anh nói. Thôi anh uống thuốc đi kẻo nguội, tôi cũng phải về kẻo cô mong".
Nói rồi thảo thảo(12) ra về, đến cửa còn trông lại.
Bấy giờ tinh thần tôi chuyên chú vào mình Lý cô. Lý cô mới mười sáu tuổi, kém tôi hai tuổi. Như trăng còn non, như hoa còn tụ, chưa có thể lấy tình động, lấy ý dụ. Vả Lý bà đã hứa nhận mình là con nuôi, hẳn không có ý cho mình là cháu rể. Nếu nghe Lý cô kể lại những lời thô bỉ của mình vừa rồi, có khi bao nhiêu lòng âu yếm xưa nay sẽ đổi ra tình yếm bạc(13). Tôi cứ nghĩ quanh nghĩ quẩn, nửa thẹn nửa buồn. Sau thấy Lý cô vẫn đi lại như thường, mới yên lòng dần dần. Từ đó không còn dám giở thói khinh bạc ra nữa. ấy là sự giao thiệp lần thứ nhất của tôi với người họ Lý; mà chính là điều ân sâu tình nặng đã in sâu vào óc đã nhuộm vào lòng, không bao giờ tôi quên đi cho được.
Năm 20 tuổi, tôi thi đỗ thông ngôn(14), 21 tuổi bổ lên thượng du. Vừa được bảy tháng thuỷ thổ bất phục(15), phải cáo mà về. Lần ấy Lý cô lại vất vả nuôi tôi hơn là lần trước.
Một tối tôi đang băn khoăn dằn dọc vì mối tình riêng, Lý bà liền lại mà hỏi rằng: "Nay bệnh con đã thanh thả, sao còn trằn trọc canh khuya! Nay con đã đến ngày khôn lớn, mà mẹ cũng một tuổi một già, mong cho con trẻ sớm thành gia thất, để già được yên lòng. Nay Lý cô là con nhà có nết, có thể giúp cho con trong việc tảo tần, thực đã hoa vừa thắm cánh, trăng vừa tròn gương; để đợi ngày lành tháng tốt, mẹ hãy định liệu cho chúng con thành duyên phu phụ".
Tôi nghe nói như thừa ngọc sắc(16) tự chín tầng mây trời chuyền xuống, mừng mừng tủi tủi, không biết lấy gì mà hình dung.
Chẳng bao lâu nguyện xưa đã vẹn, duyên mới càng nồng, thực là cái hạnh phúc mà sinh bình tôi mới được hưởng là lần thứ nhất. Bây giờ Lý bà đã nên vật hóa(17), Lý cô cũng còn phải trầm oan. Trời ơi! Biết bao giờ...
Đến đấy tiếng thổn thức làm cho dứt câu nói, cứ gục đầu xuống cánh tay mà khóc, nước mắt ròng ròng, không ngẩng đầu lên được.Chưa biết câu chuyện kết cục ra làm sao, mà cái tình đau đớn của người này đến cực điểm. Một lúc nhà sư lại ngồi ngay lên, hai tay ôm lấy ngực, lông mày chau lại thành một cái rãnh giữa trán, vai so lên tận tai. Trông bộ gớm ghiếc, như một người tù bị giam đã lâu nay đem ra mà hỏi án.
Tôi trông mặt cầm lòng không đậu, bảo hãy ngồi yên mà nghỉ cho khỏi mệt. Nhà sư mỉm cười miễn cưỡng làm bộ mạnh mẽ, cho tôi khỏi chán. Rồi cứ tiếp tục mà nói: "Chúng tôi cùng hưởng cái lạc cảnh đoàn viên trong gia đình được hơn một năm, sinh được một đứa con trai, rồi tôi lại bổ ra làm thông ngôn dưới tàu trận(18), nay đóng cửa này, mai ra bể nọ. Từ bấy giờ lại kẻ ra hồ thỉ bốn phương, người chịu sớm hôm chiếc bóng, sum họp có ít biệt ly thì nhiều; thương thay! Sự sinh hoạt của chúng tôi nó đã tiêu ma mất bao nhiêu là cái thanh niên hạnh phúc!
Sáu năm sau tôi mới lại được đổi về toà Sứ ở trung châu, thì Lý bà mất đã hết việc(19), bao nhiêu di sản cũng để lại cho vợ chồng tôi. Đứa con trai tôi cũng đã biết đi học. Làm việc ở toà Sứ như tôi cũng là bậc có danh giá, từ tỉnh quan cho đến phủ huyện ai cũng tới lui, cho nên bổng lộc cũng nhiều mà chi tiêu cũng lắm. Tưởng ngày nào vợ còn cắp từng rổ khoai, đội từng thúng gạo đi nuôi chồng, nay đã dù che ngựa cưỡi, ăn trắng mặc trơn, sự hy vọng của chúng tôi, tưởng thế đã là mãn nguyện. Ai ngờ no đủ sinh ra dâm dật, quyền quý sinh ra kiêu căng; sự tai hoạ ở đời thường phát đoan(20) từ những khi đắc chí.
Một hôm tôi vừa ở nhà hầu ra thấy có cái xe sừng sực(21) trước mặt đi lại, một người trong xe bước xuống mà nói: "Thầy quên tôi rồi ư? Tôi đã đến mấy hôm nay, cứ đi tìm thầy mãi". Tôi cũng mừng rỡ mà nói: "Chào cô Ba". Cô Ba nói: "Quan lớn tôi đã về, có khi không sang đất thuộc địa nữa". Tôi vừa cười vừa nói: "Thế thì cô Ba càng được tự do". Cô Ba nói: "Phải, chẳng thế sao tôi được đến đây mà tìm thầy?".
Nguyên người này là vợ một viên quan ở tàu trận. Vẫn ở trên bộ, trước có dan díu cùng tôi. Ngày nay lại gặp, không kịp tính gần tính xa, cứ đón rước về nhà, nhận là người quen thuộc cũ.
Đại để những người đã lũa(22) đường giao thiệp, không quen lấy lễ phép buộc mình, từ lời ăn tiếng nói cho đến nết đứng nết ngồi, đều đủ cho người ta chỉ trích. Trong bấy nhiêu ngày cô Ba lui tới ở nhà tôi thì Lý cô miệng nói không ra, mà thực như đanh đóng trong con mắt.
Sau tôi phải thuê một cái nhà khác cho cô Ba ở, mà một mình tôi cứ tả xung hữu đột, như ông chiến tướng đứng giữa trùng vi. Một là tránh cho khỏi tiếng chì tiếng bấc trong gia đình, hai là dê béo rượu nồng; ai thấy của trời mà chẳng tiếc. Thân thế tôi bấy giờ chẳng khác gì Tiết Đinh Sơn đã hãm vào mê hồn trận, lên, lui, tả, hữu, chẳng còn bước nào là một bước quang minh. Mấy nơi ca quán, mấy chỗ để trường, không chỗ nào là không có tôi với cô Ba làm khai mạc chủ.
Một hôm canh đã tàn, rượu đã tỉnh, cô Ba ngần ngại mà nói với tôi rằng: "Sự hành lạc của chúng ta nay sắp đến ngày thu cục(23), vậy phải liệu mà tính cách duy trì, cuộc cạnh tranh có nhanh chân, nhẹ bước mới hơn người, nếu ngồi chờ nước đến chân có khi nhỡ bước. Tôi ngắm anh cũng có vẻ phát đạt, sao anh không liệu thế mà ra làm quan? Cứ lấy tài lực tôi mà xem, tưởng cũng là việc dung dị(24)". Mới nghe thấy hai chữ "làm quan" thì tôi rộn rịp cả tâm thần, như ai đã mở lá cờ trong bụng, xưa nay chỉ tơ tưởng quan lớn, bây giờ hóa ra sự thực thì biết đâu? Tôi vội vàng hỏi: "Nói chơi hay nói thật? Đường sĩ hoạn bây giờ mỗi ngày một hẹp; có phải đồ trong túi đâu để tuỳ ý mình vơ vét". Cô Ba tủm tỉm mà nói: "Không phải nói chơi. Nếu mấy tay cốt yếu với mình đã là người quen; nhất sắc nhị tài (25), thiên hạ còn có sự gì là khó!".
Tôi mới nghe, mặt nóng lên bừng bừng, sau lạnh như nước đổ vào lưng, bao nhiêu ý khí tiêu ma đi đâu mất cả. Nghĩ mình với người này chẳng qua là duyên gặp gỡ, có lý gì lấy trinh bạch mà buộc nhau. Và xem tính tình cô Ba như chim ngoài lồng, như thú sổ cũi, hồ dễ chịu cho ai lung lạc hay cơ mi (26), của tam bảo chỉ để bố thí cho thập phương ai có duyên thì hưởng. Tôi làm bộ ngẩn ngơ mà nói: "Tôi coi cô Ba mày cao trán rộng, đường đường một vị phu nhân, mà trong số tôi quan lộc có đào hồng lại là số công danh phải nhờ nội trợ. Không biết cô Ba sẽ liệu ra cách nào?". Cô Ba nói: "Muốn ăn lãi thì phải bỏ vốn. Thầy cần phải chuộc về cho tôi mấy bọn đồ vàng là đồ cần dùng của tôi, còn việc gì nữa thì cứ mặc tôi tuỳ cơ ứng biến".
Tôi vội vàng về nhà vơ vét được bao nhiêu đưa cả cho cô Ba mà cô Ba vẫn còn chưa đủ dụng. Nghĩ đi nghĩ lại chỉ còn mấy bức văn tự của di sản Lý bà để lại và còn ở tay Lý cô, phải lập thế mà lấy cho được, thế là hết.
Tối hôm ấy về nhà, thấy Lý cô đang ngồi dưới bóng đèn mà vá áo. Tôi ghé lại mà bảo rằng: "Nay vì chút công danh nên phải tiêu cũng tốn. Tôi muốn mượn mấy bức văn tự của Lý bà để lại. Rồi đây có bổng có lộc lại kiếm ra bằng trăm bằng nghìn bấy nhiêu, bấy giờ cũng của chồng công vợ chớ đi đâu mất mà sợ". Lý cô vội gạt lời tôi đi mà nói: "Thôi, lâu nay tôi đã biết thân phận mẹ con tôi rồi. Công danh phú quý cũng xin nhường cả cho ai. Thầy hãy xem tôi bây giờ đã mình trần tay trắng còn có cái gì mà cho ai nhờ được nữa".
Nghe mấy tiếng châm phong(27), tôi đã tím gan tức ruột phải bấm bụng mà lui ra. Vừa gặp cô Ba vồn vã mà hỏi: "Này, đây vừa có tin may mắn lắm, thật là cái dịp tốt cho mình. Nào khoản tôi bảo thầy biện đã đủ chưa? Sợ chậm ra thì nhỡ cả".
Nhiệt trường của tôi bấy giờ lại nóng như lửa đốt. Nghĩ đến mấy bức văn tự phải dùng vũ đoán mới xong. Tối hôm ấy lại về nhà, không thấy Lý cô ngồi ngoài. Hỏi con ở nói Lý cô đau bụng, từ mấy bữa không ăn, phải uống thuốc mới vào phòng nghỉ.
Tôi biết ngay Lý cô thóai thác: vợ con như thế, còn nhờ nhau lấy gì! Tôi vào ngay chỗ nằm mà hỏi: "Mấy bức văn tự cô để đâu? Nếu cô chối tôi một lời là có sự chẳng lành đến tính mệnh". Lý cô còn tưởng là nói doạ, cứ thủng thỉnh mà nói: "Văn tự nào của thầy mà cứ tra hỏi?". Nói rồi lại cứ nằm vật xuống. Tôi căm quá, vừa bước ra rít lên một tiếng. Như có người giẫy lại, hai con mắt nóng như kéo màng, bao nhiêu mạch máu trong mình sưng lên hết. Bấy giờ tôi trông thấy Lý cô như người đi săn đè được con thú dữ, cố đánh cho thật phải phục xuống kẻo chạy thóat đi chăng. Khi đã móc được cuốn văn tự ở trong lưng Lý cô, thì Lý cô không còn một hơi thở. Tôi cũng bước rảo ra mà đi thẳng. Đem cuộn văn tự ký lấy mấy trăm đồng bạc mà đưa hết cho cô Ba.
Mấy hôm sau, lén về nhà, vừa đến cửa đã thấy rộn rịp kẻ vào người ra, nghe nói Lý cô phải chứng băng huyết đã mấy hôm nay nguy lắm. Thấy nói chột dạ mà mình không mặt nào dám vào trông thấy Lý cô, cứ bàng hoàng thất thế, như người không hồn không vía. Dù xin phép ở nhà nuôi vợ ốm, cũng cứ lẩn lút một nơi, bưng mặt mà khóc.
Một hôm thấy thằng con chạy lại, mắt hoe hoe đỏ nói: "Mẹ cứ gọi thầy mãi, xin thầy vào". Tôi liền theo đứa con mà vào. Lý cô còn trông tôi miệng muốn nói mà không nên tiếng nữa. Tôi đứng chân không vững, dựa mình vào vách, hai tay bưng lấy mặt, tưởng mình như một đứa tù nặng đưa ra mà xử án. Thấy có người vực tôi ra ngoài rồi mê thẳng đi. Việc Lý cô mất rồi tống táng ra làm sao không biết gì nữa.
Bâng khuâng tưởng mình ra khỏi cửa lại tìm đến nhà cô Ba. Trông lên nhà gác, không có bóng đèn, đã hồ nghi. Hỏi người ở nói: "Cô đi chơi ngay từ hôm thầy không ở đó". Hỏi cô đi với ai? Người ở nói: "Cô đi với một ông khách lạ". Tôi tưởng chẳng có lẽ thấy anh vừa dốc túi mà chị đã đổi lòng; hẳn cô này đi vận động câu chuyện của mình, hãy chờ lâu thế nào cũng có giai tín. Cô này những lúc biếng son nhạt phấn, tóc xoã ngang vai áo che nửa ngực, cũng đủ cho người ta điên đảo, huống lại vàng đeo ngọc giắt, gấm bọc hoa cài, thì sắt nào mà chẳng ngây, đá nào mà chẳng chuyển.
Tôi lại thơ thẩn đi ra, vừa đến cửa nhà hát, thấy suýt qua một cái xe ngựa. Người trong xe chính là cô Ba ngồi với một người luật sư, nhác thấy tôi ngoảnh mặt làm thinh, giục đứa đánh xe ra roi cho ngựa tế.
Tôi cứ đứng đực một bên đường, rồi đến nhà một người chị em mà hỏi chuyện, vừa đến, người chị em đưa cho tôi cái thư của cô Ba để lại. Tôi bóc tuột cái thư ra mà xem. Thư rằng: "Anh Phán, khi anh đọc cái thư này, thì tôi đã thuộc về tay một người khác. Duyên kỳ phùng chúng ta có thế mà thôi, không còn bồi tiếp với anh được nữa. Xin anh về hà mà hưởng cái hạnh phúc vợ hiền con thảo, bấy giờ sẽ quên có biết một người con gái tên là cô Ba. Cái khoản anh đã gửi cho tôi cũng đủ chi son phấn. Cảm ơn anh lắm".
Đọc cái thư rồi, mắt nẩy đom đóm, tay run cầm cập, như con thú dữ phải cái tên thuốc mà phát điên. Muốn hét lên một tiếng: "Ai ngờ?" giật mình thành ra một cơn ác mộng.
Biết chính mình đã phạm một tội rất lớn là tội giết người, biết Lý cô đã chịu khuất nhục đau đớn mà chết; biết cái lòng tham dục mình nó đã đưa dắt mình vào những đường tội lỗi, biết nhân tình thế lợi chẳng qua là một cảnh chiêm bao, bấy giờ óc tôi không sao mà chứa cho hết những điều hối hận. Thôi! Mình đã vị một người xấu xa, rất hèn hạ, mà phụ với một người đáng quý hóa, đáng ơn nghĩa; mặt mũi nào còn đối với mọi người? Lý cô có biết cũng tha thứ cho tôi chăng? Đa mang phóng túng cũng là cái thông bệnh của người đàn ông, còn tội ngộ phạm của người nóng, cũng như người điên, hoặc có thể nguyên tình mà khoan giảm. Tuy nhiên cái lương tâm tôi nó càng nghiêm nhặt, nó bắt tôi nhớ mãi cái tội tôi, rửa cũng không phai, mài cũng không sạch, đã mười năm nay, tôi bỏ hết mọi sự ái luyến ở đời, đã quy y đầu Phật, đội đức từ bi, mở đường tế độ, cho tôi gặp lại bạn tôi cùng về chính giác. Đứa con tôi cũng theo chúng bạn mà đi Sài Gòn. Khi đi có gửi lại cho tôi một cái thư, xin thầy hãy đọc cái thư này, thì biết can tràng con trẻ...".
Nói rồi đưa tôi một cái thư gói kỹ lưỡng lắm, rồi cứ dựa ghế mà ngồi, hoặc sa nước mắt hoặc cau đôi mày, tình thái thê lương, lâu lâu thiu ngủ. Tôi đem cái thư đến bóng đèn mà đọc.
Thư rằng:
"Thưa cha. Tôi là một đứa con trẻ rất khốn nạn(28). Vì chính mắt con đã làm chứng một cái thảm kịch đáng kinh hãi đã diễn ra ở trong gia đình. Cái ác cảm ấy không bao giờ cho con khuây đi được. Thù mẹ khôn trả, nghĩa cha chưa đền, thực con không đáng kể là một người trên thế giới. Nếu con chưa tìm đến non cao vực thẳm cũng vì không nỡ để cha thêm nặng tội tình. Xin cha hãy quên có sinh đứa con tên là X... hãy sẵn lòng mạnh mẽ ăn năn cải hối. Sự sum họp của chúng ta ở nơi chín suối, ngày hãy còn dài".
Tôi vừa đọc cái thư xong thì nhà sư cũng vừa thức dậy; hỏi tôi đọc đã xong chưa. Tôi nói:
- Sự tình thuộc thực, thì cái thương tâm của người cũng là quá đáng.
Khi về nhà nhân ký đầu đuôi như thế. Năm sau có người nhà chùa về hội Phủ Giầy, hỏi thăm, thì nói: Vị hành tăng ấy đã tịch tại chùa Thiên Thai ngày tháng Chạp năm ấy.
(Tạp chí Nam Phong - số 26 - Tháng 8 – 1919).
1. Mỗi năm, sư tăng phải tập trung học tập kinh sách một thời gian, vào mùa hạ, nên gọi là "kết hạ", "đọc hạ".
2. Như khúc khắc.
3. Vị sư đi vân du nơi này nơi khác.
4. Chùa sở tại.
5. Cắn rứt.
6. Buông thả tình dục.
7. Mối ngờ.
8. Trường.
9. Như thất học.
10. Có lẽ là phủ hoặc phù: vừa, đủ.
11. Bại chí.
12. Tất tả, qua loa.
13. Khinh rẻ.
14. Phiên dịch
15. Không hợp thuỷ thổ.
16. Nhận được sắc chỉ quý báu.
17. Hóa thành vật khác, tức đã chết.
18. Tàu chiến.
19. Mãn tang.
20. Bắt nguồn.
21. Như sừng sững.
22. Lũa: thạo, sành.
23. Kết cục.
24. Dễ dàng.
25. Thứ nhất là sắc đẹp, thứ nhì là tiền tài.
26. Cơ my hay ky my là dây giàm ngựa, bò, ý là ràng buộc.
27. Như mũi kim chích vào mình.
28. Chữ khốn nạn ở đây chỉ có nghĩa như khốn khổ. Nguyễn Văn Vĩnh thời ấy dịch Những người khốn khổ là Những kẻ khốn nạn
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 029
HỒ DZẾNH *CHỊ YÊN
CHỊ YÊN
Hồ Dzếnh
Chính tên chị là An. Mẹ tôi gọi tránh ra là Yên. Yên là con nuôi mẹ tôi, nuôi để thay cho người nhà, để có ai hỏi thì bảo: nó là con nuôi tôi. Mẹ tôi thường kể lại rằng mua chị ta với cái giá hai quan tiền vào một năm lụt lội, đói kém. Yên như biết phận mình là con nuôi, nên không bao giờ lên mặt với tôi hết. Ngày tôi còn nhỏ, Yên trông nom tôi. Đó là người bạn gái ngày xưa, để sau này thành một người chị rất tốt. Kể ra, đối với Yên, tôi chịu lỗi nhiều lắm. Lòng tử tế, trung thành của Yên, mỗi lần nhắc đến, tôi không khỏi ngậm ngùi. Ngày nay, tuy Yên không còn sống chung với tôi trên quả đất này nữa, nhưng hình ảnh Yên vẫn theo tôi bên những hình ảnh thân mến khác.
Chị Yên có một thân hình gầy nhẵng, trái hẳn lại với cái sức dai dẳng của chị. Cái nghệ thuật độc nhất, cái nghệ thuật đạt được đến độ tối cao của Yên, là bổ hết năm tạ củi trong một ngày liền. Mẹ tôi đảm đang là thế mà vẫn phải lắc đầu, mỗi lần thuật lại cái kỳ công ấy.
Một hôm, chị Yên cầm dao rựa bổ củi, vô ý để lưỡi dao phập vào đầu ngón chân cái bắn ra cách đấy vài thước. Không một tiếng kêu, chị lấy vạt áo bịt ngay chỗ máu chảy, lê dần nhặt đầu ngón chân lìa ra kia, chắp lại. Tuy bị thương, chị vẫn bổ củi, với một vẻ điềm tĩnh không hai.
Không phải chị Yên bị mẹ tôi bạc đãi, nhưng vì tính chị thích làm, nên Yên tự muốn đầy đọa mình luôn. Người con gái ấy, suốt trong mười mấy năm trời, đã chứng kiến cảnh lên xuống của gia đình tôi, đã chia chung niềm vui vẻ, nỗi nghèo khổ với mọi người trong nhà. Ngày hai lượt, chị gánh hàng cho mẹ tôi đi, về chợ, tiếng kẽo kẹt của chiếc đòn tre trên vai, bình yên nhịp với tháng ngày âm u, vắng mọi xa hoa của một người đàn bà Việt Nam chân chính.
Chị Yên của tôi không đẹp, nhưng có duyên. Chị ăn trầu cắn chỉ và vá vai một cách tài tình. Đôi khi có ai giễu cợt chị, chị chỉ yên lặng. Tôi không hiểu có phải vì chịu thương chịu khó như vậy mà đời Yên chỉ là một chuỗi ngày đau khổ, nó thu ngắn cuộc sống của Yên lại không?
Trước sau, dưới sự phán xét nghiêm nhặt của kỷ niệm, đối với chị Yên, tôi vẫn là người bội bạc. Chữ bội bạc, tôi cho còn là nhẹ, tôi toan mượn hai tiếng "dã man". Tôi không thể nào quên được, một hôm, đi học về, lục nồi không thấy cá thu, thứ cá tôi ưa nhất, vì chị đã để cho mèo tha mất rồi, tôi nóng mắt, sẵn đôi giày đang đi, nhằm xương ống chân chị mà chọt một cái thật mạnh. Yên nhắm mắt lại, nghiến răng chịu đựng sự tàn ác của tôi. Chợt nghe tiếng guốc của mẹ tôi xuống nhà, Yên vội đứng lên, xuýt xoa:
- Khiếp! Cái bậc cửa cao quá, vấp phải luôn!
Mẹ tôi lườm chị mà mắng:
- Rõ mù! Người ta đi thì chẳng việc gì. Chỉ được cái bị thịt!
Tôi không còn biết nói thế nào cả, nên yên lặng. Đợi mẹ tôi đi khỏi, tôi tháo đôi giày tây ra, trói cả hai chiếc làm một, định vất xuống ao. Chị Yên thấy thế, vội can tôi:
- Đừng em! Vất giày đi lỡ mẹ hỏi không thấy, mẹ đánh chết!
Tôi phụng phịu trả lời:
- Nó đá chị, thì em vất quách nó đi.
Đôi giày ấy, tôi đem ném nó vào một xó, nói thác với mẹ tôi là đau chân phải đi guốc. Tôi vất nó đi, nhưng thỉnh thoảng Yên lại mang nó ra lau chùi, làm tôi phát gắt:
- Chị còn tiếc nó làm gì nữa. Để em chặt nó ra.
Tôi chặt nó ra thật. Từ đấy, không bao giờ tôi còn dùng thứ giày tây mõm nhái và có ống như thế nữa. Thậm chí tôi ghét lây cả những người mang nó. Tôi thương Yên ngày một thêm, bởi chỗ tôi đá Yên đã loét thành một mụn sâu quảng, rồi biến thành một vết sẹo thâm đen. Lòng tôi đòi phen thắt lại, rùng rợn nghĩ đến cái cử chỉ hung hãn của mình. Còn Yên, Yên không nghĩ gì hết. Mỗi lần tôi nhắc lại chuyện xưa, Yên chỉ cười mà gạt đi:
- Trò con nít, nhắc lại làm gì!
Lòng Yên chỉ biết có trung thành và tận tụy. Yên không thể nào như tôi, một người tự tạo ra đau khổ để sống, để sung sướng vì thấy mình đau khổ hơn người. Tâm hồn mơ ước kín đáo của người con gái ấy chỉ hé mở để rung động vì một trong số những người thích Yên.
Tôi biết chuyện, trêu Yên, và Yên chỉ đỏ mặt. Yên không biết chữ nên vẫn nhờ tôi đọc các truyện Phạm Công Cúc Hoa cho nghe. Yên thuộc lòng từng đoạn và đôi khi ngâm lên. Dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu con, nhiều tối, Yên chăm chú nghe tôi đọc, và đôi lúc đọc theo.
Cuối năm ấy, người yêu Yên đến hỏi Yên. Mẹ tôi bằng lòng gả, nhưng bảo đợi đến hết tang ba tôi. Non ba năm đối với người con gái ấy có là bao, đó chỉ là một sự đợi chờ nhỏ nhặt, bên cạnh những công việc liên miên. Hơn nữa, chị Yên lại không biết thế nào là phản bội, thì mối tình chị thầm nuôi trong lòng hẳn phải là đẹp đẽ, thủy chung.
Trong gia đình tôi, sau ngày ba tôi mất, xảy ra nhiều chuyện bất bình giữa mẹ tôi và dì ghẻ tôi, chuyện bất bình kéo theo nó cả một cảnh chia rẽ vĩnh viễn. Hôm cãi cọ đầu tiên, hai người xung đột nhau. Chị Yên giúp mẹ tôi một cách đắc lực. Chị lăn vào gỡ tóc cho mẹ tôi, chị tát, chị xé những người về phái khác, trong khi tôi vừa khóc vừa chạy loanh quanh. Rút cuộc, chị Yên được đôi mắt sưng tím, mất một mảng da đầu. Chị bảo:
- Giá chúng nó còn đánh mẹ nữa, thì chị cho nhừ đòn.
Trông chị Yên lúc ấy đến gan dạ. Ai dám bảo đó là một người con gái nhà quê, một người con gái gầy nhẵng, yếu ớt? Yên trung thành trên hết những người trung thành. Tuy nghèo nhưng chị Yên không bao giờ lấy cắp, mặc dù nhiều lúc mẹ tôi giao chìa khóa cho chị giữ.
Vốn liếng của Yên là vài hào chỉ giắt trong thắt lưng để ăn trầu dần. Chị Yên có cả chiếc gương nhỏ hình bầu dục, cả chiếc lược đồi mồi, và bằng những thức này, Yên giữ gìn nhan sắc để đợi một ngày đẹp đẽ đến trong đời Yên. Người thiếu nữ Việt Nam gương mẫu ấy còn một cách trang sức khác là soi dung nhan mình trên làn nước giếng lặng lẽ, rồi lấy tay từ từ rẽ ra bên tai mái tóc đen lanh lánh.
Bánh quà nhận được sau mỗi buổi mẹ tôi đi chợ về, tôi đều đem chia cho Yên. Nhưng Yên để dành, trả lại cho tôi. Tôi hỏi chị:
- Sao bánh ngon thế mà chị không ăn?
Yên đáp, đôi mắt buồn buồn:
- Chị lớn rồi, chị không thích ăn nữa.
- Chị lớn rồi, chị đi lấy chồng phải không?
Yên hơi đỏ mặt,
đáp:
- Không, chị không lấy chồng, chị ở với mẹ và em.
Yên hay ru tôi ngủ. Tiếng hát của Yên rất buồn, buồn vì lòng Yên sẵn buồn, hay vì tự ngàn xưa tiếng hát ru em vẫn buồn như thế? Câu Yên thường hát là:
Cát bay vàng lại ra vàng
Những người quân tử dạ càng đinh ninh
Nếu văn mà bây giờ tôi tin là người, thì tiếng hát xưa kia, biết đâu, lại không là tâm hồn Yên một ít? Ngủ trong tình thương của mẹ, trong tình thương của Yên, tôi say sưa trọn mười mấy năm trời đằng đẵng, và chỉ tỉnh dậy, cách đây không bao lâu, để tin rằng nước Việt Nam, quê hương thứ hai của tôi, còn đẹp lắm, người nước tôi vẫn rất đỗi hiền lành!
Đã bao nhiêu lần, cánh mây xuân ngừng trên quãng đồng đầy hứa hẹn, trên dòng nước sông trong, đã bao nhiêu lần, những người đàn bà nhà quê đau khổ, chua xót, nhưng vẫn bị sống quên lãng trong lũy tre xanh!
Hỡi nước Việt Nam! Tôi nghiêng lòng xuống Người, trên những luống cày mà hương thơm còn phảng phất, vì tôi đã từng uống nước và nói tiếng nói của Người, vì tôi đã thề yêu Người trên bậc tuyệt vời của tôn giáo. Trên dải đất súc tích những tinh hoa của văn chương, những công trạng của lịch sử, tôi còn ghi cả những bóng dáng người xưa tôi thương yêu, và trong số những người này, chị Yên tôi là một.
Tôi kể nốt chuyện chị Yên.
Hình như bao giờ chị Yên cũng đứng trước mặt tôi với những nét nhăn nhó, với cái thân hình gầy oặt vì sức gieo nặng của đau thương. Chị Yên chết rồi, nhưng chết như chị Yên là thoát. Tôi sống không hơn một chiếc lá lạc, một cánh mây vương. Tôi lớn rồi, tôi đã hiểu thế nào là bổn phận một người sống. Tôi đã biết thế nào là tha thứ, mặc dầu mỗi khi nhìn lại thời xưa, tôi vẫn căm ghét hình ảnh con người đáng nguyền rủa mà đã có lần tôi từ chối không nhận trong sổ họ nhà tôi.
Còn hơn hai tháng nữa đến ngày cưới chị Yên thì nhà tôi nhận chứa thêm một người khách: cậu họ tôi. Đó là một cái bóng thân thích lạc đi đâu lâu ngày, rồi một hôm, không hiểu vì túng tiền hay buồn sao đó, sà xuống cái mái nhà quen biết một cách vô lý và hết sức vô duyên. Tôi không ưa được những hạng người như thế, những người sống không ra sống, giằng cướp tay trên hạnh phúc không thuộc về mình.
Tôi hỏi mẹ tôi:
- Cái người nào đấy mẹ? Con trông ghét lắm!
Mẹ tôi trợn mắt lên:
- Hỗn nào! Cậu mày đấy! Một giọt máu đào còn hơn ao nước lã!
Cậu thì cậu, tôi nhất định không ưa. Tình cảm của tôi trao cho ai, tôi muốn nó thẳng một mạch. Bắt nó quẹo lại hay xiên đi, tôi rất hậm hực. Đến mỗi bữa cơm, tôi so cho người ấy một đôi đũa xấu nhất, nhưng chị Yên lại đổi ngay cho đôi đũa đẹp, Yên làm như thế chỉ là do lòng tử tế, nhưng có ai hiểu lòng tử tế cho Yên? Yên đã bị hiểu lầm một cách tai hại.
Cậu tôi trông người xấu thế nào ấy, ăn thì ăn nhiều, ngủ lại ngủ mê mệt đến tám chín giờ. Từ ngày có mặt vị khách ấy, tôi mất vui. Chị Yên chắc cũng không vui gì, nhưng tính tình kín đáo. Yên không để lộ vẻ bất mãn như tôi. Có cái bóng gì hắt lên ngày sống vui tươi của tôi, làm tôi khó chịu.
Chị Yên hay dậy sớm đun nước pha trà. Biết lệ ấy, cậu tôi cũng lò mò dậy sớm, vào bếp, ngồi ngay cạnh Yên. Mỗi lần xuống bếp, tôi lại lộn tiết lên vì cái dáng điệu đáng ghét của cậu. Tôi bảo chị Yên:
- Sao chị không chừa cái mặt ấy ra?
- Chừa mặt làm sao được, vì cậu ấy là người nhà kia mà!
Tôi biết chị Yên đau khổ lắm. Chị bị vướng, bị ngáng, đủ tình đủ tội. Một hôm không nén được giận nữa, tôi bảo mẹ tôi:
- Mẹ ạ, mẹ đuổi quách cái cậu gì đi!
Mẹ tôi ngừng tay khâu, lườm tôi:
- Lần này là lần thứ mấy rồi hả?
Tôi ngập ngừng:
- Cậu ấy... cậu ấy...
Nhưng tôi im bặt, chạy vội ra ngoài sân. Tôi biết là nếu nói rõ sự thực ra, trong nhà tôi sẽ có sự xô xát, và chị Yên sẽ không còn được "cát bay vàng lại ra vàng" nữa. Cơn tức giận, hằn học, tôi trút cả vào bức thư gửi ra Hà Nội cho anh tôi:
"Anh ơi, nhà ta có cái người cậu gì ấy. Trông cậu ấy em chỉ muốn đánh chết đi thôi. Cậu ta cứ sán lại gần chị Yên rồi cười thế nào ấy. Em nghĩ giá anh có ở nhà thì mấy mà chúng mình chả làm nên chuyện. Không tin anh cứ về nhà mà xem, em không nói dối đâu. Chúc anh bình yên. Em tức lắm anh ạ."
"Tái bút: Anh có về thì mua bánh về nhé. Anh mua cả khăn chít đầu của chị Yên nữa. Về mà xem, mau lên anh!"
Viết xong thư, tôi hả lắm, nhủ thầm:
- Rồi phen này biết tay nhau!
Mẹ tôi vẫn không hay biết gì hết, vẫn lặng lẽ ngày hai buổi đi về chợ, đều đều mua cho cậu tôi những thức nhắm rượu. Tôi ngứa mắt lắm, nhưng không biết làm sao được. Yên cũng dần dần lây cái buồn của tôi. Yên hay ngồi một mình, thỉnh thoảng lại thở dài. Một sáng, tôi thức dậy sớm, thì đã nghe tiếng cậu tôi nói trong bếp:
- Trông Yên ngồi bên lửa hay lắm!
Không có tiếng trả lời, rồi tiếng tiếp theo:
- Người ta khen còn làm bộ!
Tôi vội gọi to lên:
- Chị Yên ra đây, chị Yên!
Yên vớ được dịp tốt, chạy ra với tôi, nét mặt hớt hải, xanh ngắt. Tôi cầm tay chị mà tội nghiệp hộ. Yên nhìn tôi, lộ vẻ cảm ơn, rồi lấy dải yếm lau nước mắt. Từ đấy, tôi không gọi cái người kia là cậu nữa, tôi gọi là "ấy" hay "này", mỗi khi bắt buộc phải nói chuyện với.
Rồi đến một sáng kia - độc ác thay là cái sáng hôm ấy - tôi đang ngủ thì chợt một bàn tay đánh thức tôi dậy. Tôi hốt hoảng nhận ra là Yên, Yên đang khóc. Lúc ấy trời sáng chưa rõ mặt người. Ngọn đèn canh trộm vẫn leo lét cháy, ủ dột. Tôi ngồi dậy, hỏi chị:
- Sao chị khóc?
Yên lắc đầu, không đáp, mãi sau mới nức nở:
- Em ở lại, chị đi đây.
Tôi rụng rời:
- Chị Yên đi đâu? Ai đánh chị Yên?
Yên như chợt biết câu nói của mình là hớ, nên vội chữa lại:
- Không ai đánh chị hết! Chị đi rồi chị lại về!
Thấy tôi giữ riết lấy vạt áo, mà bên ngoài thì đã có tiếng gà gáy báo trăng hạ tuần lên, Yên nóng ruột
- Không, chị không lấy chồng, chị ở với mẹ và em.
Yên hay ru tôi ngủ. Tiếng hát của Yên rất buồn, buồn vì lòng Yên sẵn buồn, hay vì tự ngàn xưa tiếng hát ru em vẫn buồn như thế? Câu Yên thường hát là:
Cát bay vàng lại ra vàng
Những người quân tử dạ càng đinh ninh
Nếu văn mà bây giờ tôi tin là người, thì tiếng hát xưa kia, biết đâu, lại không là tâm hồn Yên một ít? Ngủ trong tình thương của mẹ, trong tình thương của Yên, tôi say sưa trọn mười mấy năm trời đằng đẵng, và chỉ tỉnh dậy, cách đây không bao lâu, để tin rằng nước Việt Nam, quê hương thứ hai của tôi, còn đẹp lắm, người nước tôi vẫn rất đỗi hiền lành!
Đã bao nhiêu lần, cánh mây xuân ngừng trên quãng đồng đầy hứa hẹn, trên dòng nước sông trong, đã bao nhiêu lần, những người đàn bà nhà quê đau khổ, chua xót, nhưng vẫn bị sống quên lãng trong lũy tre xanh!
Hỡi nước Việt Nam! Tôi nghiêng lòng xuống Người, trên những luống cày mà hương thơm còn phảng phất, vì tôi đã từng uống nước và nói tiếng nói của Người, vì tôi đã thề yêu Người trên bậc tuyệt vời của tôn giáo. Trên dải đất súc tích những tinh hoa của văn chương, những công trạng của lịch sử, tôi còn ghi cả những bóng dáng người xưa tôi thương yêu, và trong số những người này, chị Yên tôi là một.
Tôi kể nốt chuyện chị Yên.
Hình như bao giờ chị Yên cũng đứng trước mặt tôi với những nét nhăn nhó, với cái thân hình gầy oặt vì sức gieo nặng của đau thương. Chị Yên chết rồi, nhưng chết như chị Yên là thoát. Tôi sống không hơn một chiếc lá lạc, một cánh mây vương. Tôi lớn rồi, tôi đã hiểu thế nào là bổn phận một người sống. Tôi đã biết thế nào là tha thứ, mặc dầu mỗi khi nhìn lại thời xưa, tôi vẫn căm ghét hình ảnh con người đáng nguyền rủa mà đã có lần tôi từ chối không nhận trong sổ họ nhà tôi.
Còn hơn hai tháng nữa đến ngày cưới chị Yên thì nhà tôi nhận chứa thêm một người khách: cậu họ tôi. Đó là một cái bóng thân thích lạc đi đâu lâu ngày, rồi một hôm, không hiểu vì túng tiền hay buồn sao đó, sà xuống cái mái nhà quen biết một cách vô lý và hết sức vô duyên. Tôi không ưa được những hạng người như thế, những người sống không ra sống, giằng cướp tay trên hạnh phúc không thuộc về mình.
Tôi hỏi mẹ tôi:
- Cái người nào đấy mẹ? Con trông ghét lắm!
Mẹ tôi trợn mắt lên:
- Hỗn nào! Cậu mày đấy! Một giọt máu đào còn hơn ao nước lã!
Cậu thì cậu, tôi nhất định không ưa. Tình cảm của tôi trao cho ai, tôi muốn nó thẳng một mạch. Bắt nó quẹo lại hay xiên đi, tôi rất hậm hực. Đến mỗi bữa cơm, tôi so cho người ấy một đôi đũa xấu nhất, nhưng chị Yên lại đổi ngay cho đôi đũa đẹp, Yên làm như thế chỉ là do lòng tử tế, nhưng có ai hiểu lòng tử tế cho Yên? Yên đã bị hiểu lầm một cách tai hại.
Cậu tôi trông người xấu thế nào ấy, ăn thì ăn nhiều, ngủ lại ngủ mê mệt đến tám chín giờ. Từ ngày có mặt vị khách ấy, tôi mất vui. Chị Yên chắc cũng không vui gì, nhưng tính tình kín đáo. Yên không để lộ vẻ bất mãn như tôi. Có cái bóng gì hắt lên ngày sống vui tươi của tôi, làm tôi khó chịu.
Chị Yên hay dậy sớm đun nước pha trà. Biết lệ ấy, cậu tôi cũng lò mò dậy sớm, vào bếp, ngồi ngay cạnh Yên. Mỗi lần xuống bếp, tôi lại lộn tiết lên vì cái dáng điệu đáng ghét của cậu. Tôi bảo chị Yên:
- Sao chị không chừa cái mặt ấy ra?
- Chừa mặt làm sao được, vì cậu ấy là người nhà kia mà!
Tôi biết chị Yên đau khổ lắm. Chị bị vướng, bị ngáng, đủ tình đủ tội. Một hôm không nén được giận nữa, tôi bảo mẹ tôi:
- Mẹ ạ, mẹ đuổi quách cái cậu gì đi!
Mẹ tôi ngừng tay khâu, lườm tôi:
- Lần này là lần thứ mấy rồi hả?
Tôi ngập ngừng:
- Cậu ấy... cậu ấy...
Nhưng tôi im bặt, chạy vội ra ngoài sân. Tôi biết là nếu nói rõ sự thực ra, trong nhà tôi sẽ có sự xô xát, và chị Yên sẽ không còn được "cát bay vàng lại ra vàng" nữa. Cơn tức giận, hằn học, tôi trút cả vào bức thư gửi ra Hà Nội cho anh tôi:
"Anh ơi, nhà ta có cái người cậu gì ấy. Trông cậu ấy em chỉ muốn đánh chết đi thôi. Cậu ta cứ sán lại gần chị Yên rồi cười thế nào ấy. Em nghĩ giá anh có ở nhà thì mấy mà chúng mình chả làm nên chuyện. Không tin anh cứ về nhà mà xem, em không nói dối đâu. Chúc anh bình yên. Em tức lắm anh ạ."
"Tái bút: Anh có về thì mua bánh về nhé. Anh mua cả khăn chít đầu của chị Yên nữa. Về mà xem, mau lên anh!"
Viết xong thư, tôi hả lắm, nhủ thầm:
- Rồi phen này biết tay nhau!
Mẹ tôi vẫn không hay biết gì hết, vẫn lặng lẽ ngày hai buổi đi về chợ, đều đều mua cho cậu tôi những thức nhắm rượu. Tôi ngứa mắt lắm, nhưng không biết làm sao được. Yên cũng dần dần lây cái buồn của tôi. Yên hay ngồi một mình, thỉnh thoảng lại thở dài. Một sáng, tôi thức dậy sớm, thì đã nghe tiếng cậu tôi nói trong bếp:
- Trông Yên ngồi bên lửa hay lắm!
Không có tiếng trả lời, rồi tiếng tiếp theo:
- Người ta khen còn làm bộ!
Tôi vội gọi to lên:
- Chị Yên ra đây, chị Yên!
Yên vớ được dịp tốt, chạy ra với tôi, nét mặt hớt hải, xanh ngắt. Tôi cầm tay chị mà tội nghiệp hộ. Yên nhìn tôi, lộ vẻ cảm ơn, rồi lấy dải yếm lau nước mắt. Từ đấy, tôi không gọi cái người kia là cậu nữa, tôi gọi là "ấy" hay "này", mỗi khi bắt buộc phải nói chuyện với.
Rồi đến một sáng kia - độc ác thay là cái sáng hôm ấy - tôi đang ngủ thì chợt một bàn tay đánh thức tôi dậy. Tôi hốt hoảng nhận ra là Yên, Yên đang khóc. Lúc ấy trời sáng chưa rõ mặt người. Ngọn đèn canh trộm vẫn leo lét cháy, ủ dột. Tôi ngồi dậy, hỏi chị:
- Sao chị khóc?
Yên lắc đầu, không đáp, mãi sau mới nức nở:
- Em ở lại, chị đi đây.
Tôi rụng rời:
- Chị Yên đi đâu? Ai đánh chị Yên?
Yên như chợt biết câu nói của mình là hớ, nên vội chữa lại:
- Không ai đánh chị hết! Chị đi rồi chị lại về!
Thấy tôi giữ riết lấy vạt áo, mà bên ngoài thì đã có tiếng gà gáy báo trăng hạ tuần lên, Yên nóng ruột
- Chị ra tỉnh mua hàng
cho mẹ. Em có tiền cho chị vay mấy
hào.
Tôi lục rương đưa cho Yên một đồng bạc, tiền mẹ tôi cho để mua sách. Chị Yên còn nắm tay tôi mấy lượt nữa rồi mới bước ra đi.
Bên ngoài, tiếng một con chó sủa bóng trăng lạnh. Tôi bắt đầu trở lại giường ngủ, thì chợt nghĩ đến một sự. Tâm linh vô cùng sáng suốt của tuổi trẻ đã cho phép tôi phác vẽ một chuyện ghê người. Tôi nhảy xuống đất, gọi:
- Cậu! Cậu đâu rồi!
Không có tiếng thưa. Tôi vặn to ngọn đèn lên, chạy lại lay tay cậu. Sự thông minh riêng làm tôi ngờ rằng cách ngủ của cậu tôi là giả vờ. Đợi tôi lay đến lần thứ năm - người lớn ai lại ngủ mê thế nhỉ - cậu tôi mới choàng tỉnh dậy, làm ra vẻ ngơ ngác nhìn tôi. Trước cặp mắt mở ra không vướng một bóng mệt nào của giấc ngủ, tôi tức điên lên:
- à, ra cậu gớm thật! Cậu tồi thật!
Cậu tôi tỏ vẻ kinh ngạc, hỏi tôi:
- Sao cháu lại bảo cậu tồi?
Tôi càng tức thêm:
- Còn không tồi! Được, để tôi mách với mẹ tôi cho mà xem!
Sáng hôm sau, vị quý khách ấy vội vàng từ giã nhà tôi, nói dối là đã tìm được việc làm.
Câu chuyện trên kia, tôi không dám nói cho ai biết. Tôi chỉ hiểu nó bằng khiếu thông minh của trẻ nhỏ, mà không bắt được tang chứng. Ròng rã trong hai năm trời tìm kiếm, mẹ tôi tìm thấy chị Yên ở làng Nhồi gần thị xã Thanh Hóa, an phận bên một người chồng ngày ngày xe đá về tạc những hình tượng xinh xinh...
Tôi sống bên núi Nhồi, bên chị tôi, trong hơn một năm trời nữa, hưởng lại, lúc cuộc đời bắt đầu chớm buồn, những ý vị đậm đà của một mối tình cao quý.
*
Ở Hà Nội, nhiều lúc tôi bạc bẽo quên mất người chị nuôi của tôi đi, vì phấn son và phù hoa đã quyến tôi đi xa ngày trước quá. Trong một bức thư gửi ra Hà Nội thăm tôi, mẹ tôi báo tin chị Yên đã chết, một tháng sau chồng và hai tháng trước đứa con trai. Mẹ tôi thêm: "à, ra nhà nó bị trùng làm đấy con ạ".
Thế là hết, một trong những tấn kịch buồn bã nhất của gia đình tôi. Trên đỉnh núi Nhồi ngày nay vẫn còn nhô lên một mô đá, tượng hình người mẹ dắt con, đợi chồng trong quãng bao la vô hạn. Và ngày nay, mỗi lần về Thanh Hóa, ngồi trong tàu, đưa mắt nhìn mô đá cũ, tôi ngờ đó là hình dáng người chị dắt em...
Tôi lục rương đưa cho Yên một đồng bạc, tiền mẹ tôi cho để mua sách. Chị Yên còn nắm tay tôi mấy lượt nữa rồi mới bước ra đi.
Bên ngoài, tiếng một con chó sủa bóng trăng lạnh. Tôi bắt đầu trở lại giường ngủ, thì chợt nghĩ đến một sự. Tâm linh vô cùng sáng suốt của tuổi trẻ đã cho phép tôi phác vẽ một chuyện ghê người. Tôi nhảy xuống đất, gọi:
- Cậu! Cậu đâu rồi!
Không có tiếng thưa. Tôi vặn to ngọn đèn lên, chạy lại lay tay cậu. Sự thông minh riêng làm tôi ngờ rằng cách ngủ của cậu tôi là giả vờ. Đợi tôi lay đến lần thứ năm - người lớn ai lại ngủ mê thế nhỉ - cậu tôi mới choàng tỉnh dậy, làm ra vẻ ngơ ngác nhìn tôi. Trước cặp mắt mở ra không vướng một bóng mệt nào của giấc ngủ, tôi tức điên lên:
- à, ra cậu gớm thật! Cậu tồi thật!
Cậu tôi tỏ vẻ kinh ngạc, hỏi tôi:
- Sao cháu lại bảo cậu tồi?
Tôi càng tức thêm:
- Còn không tồi! Được, để tôi mách với mẹ tôi cho mà xem!
Sáng hôm sau, vị quý khách ấy vội vàng từ giã nhà tôi, nói dối là đã tìm được việc làm.
Câu chuyện trên kia, tôi không dám nói cho ai biết. Tôi chỉ hiểu nó bằng khiếu thông minh của trẻ nhỏ, mà không bắt được tang chứng. Ròng rã trong hai năm trời tìm kiếm, mẹ tôi tìm thấy chị Yên ở làng Nhồi gần thị xã Thanh Hóa, an phận bên một người chồng ngày ngày xe đá về tạc những hình tượng xinh xinh...
Tôi sống bên núi Nhồi, bên chị tôi, trong hơn một năm trời nữa, hưởng lại, lúc cuộc đời bắt đầu chớm buồn, những ý vị đậm đà của một mối tình cao quý.
*
Ở Hà Nội, nhiều lúc tôi bạc bẽo quên mất người chị nuôi của tôi đi, vì phấn son và phù hoa đã quyến tôi đi xa ngày trước quá. Trong một bức thư gửi ra Hà Nội thăm tôi, mẹ tôi báo tin chị Yên đã chết, một tháng sau chồng và hai tháng trước đứa con trai. Mẹ tôi thêm: "à, ra nhà nó bị trùng làm đấy con ạ".
Thế là hết, một trong những tấn kịch buồn bã nhất của gia đình tôi. Trên đỉnh núi Nhồi ngày nay vẫn còn nhô lên một mô đá, tượng hình người mẹ dắt con, đợi chồng trong quãng bao la vô hạn. Và ngày nay, mỗi lần về Thanh Hóa, ngồi trong tàu, đưa mắt nhìn mô đá cũ, tôi ngờ đó là hình dáng người chị dắt em...
Hồ Dzếnh
2-1939
(Chân Trời Cũ - nxb Á Châu – 1946)
THƠ HÀ THÚC SINH
.
Dự cảm dưới trăng
Bài thơ sau cùng viết ở Sài Gòn tự do
Cúc nở đêm tàn
Ai đuổi theo áng mây hề
Nguyệt cầm ngủ muộn
Với sao khuê
Ta lang thang đêm ngõ trúc hề
Gió gửi theo chi thơm mùi phấn
Ai đó nhớ ai hề
Nghe thèm muốn dưới trăng
Hận bất tương phùng thượng thiếu thời hề
Gió chuyển lời ai hát
Trong xiêm y nàng có gì hề
Mà ta hoài tiếc nuối mông lung
75
Thủy nguyệt
Bài thơ đầu viết ở Pulau Bidong
Đêm yểu điệu trên hàng dương liễu
Lời hẹn hò những lối chưa đi
Sóng bạc đầu mối sầu trăm tuổi
Mây lang thang buồn lạc lối về
Em không đến hay em sẽ đến
Nhạc lòng anh sóng cũng tràn trề
Một chén rượu làm nên giấc mộng
Quá đủ rồi biển nói anh nghe
Chẳng cùng ai ngồi nơi cuối núi
Quán cà phê có điệu nhạc buồn
Sống những phút cát bồi lặng lẽ
Hạnh phúc nào bằng nỗi cô đơn
Sung sướng quá trời ơi nguyệt hiện
Chìm sâu anh một hạt cát vàng
Trăng vướng núi rơi chìm đáy nước
Anh khóc mùi đúng lúc hân hoan
12-80
Bài thơ tháng năm
Bài thơ đầu viết ở Mỹ, trên lan can khách sạn tạm trú Windsor Park, D.C
Tháng này trí nhớ là đêm
Gió mùa lên tới ngang anh thì ngừng
Lầu cao lũng thấp xe tuôn
Quanh co đường lạ phân vân ánh đèn
Cây xanh chót vót cây xanh
Vàng mười nắng mỏng đồi nghiêng dán vào
Dang tay rừng hát lao xao
Gió như cởi áo vào sâu lòng người
Tháng này xa xứ lạ nơi
Buồn thâm trầm khẽ phanh phui ra ngoài
1 May 81
Buổi Chiều Ở Nhà Mời Bạn Đánh Chén Nửa Chừng Hết Rượu
Tác giả: Hà Thúc Sinh
Dằn ly xuống chiếu cười gượng cười
Ta biết rằng chưa ấm bụng ngươi
Bực thay bạn đến từ muôn dặm
Mà rượu hề không đủ say chơi
Con ta chợt ré lên sau bếp
Buổi chiều đổ lửa xuống nhà tôn
Hà Thúc phu nhân coi buồn lắm
Sữa thiếu làm sao tiếp rượu chồng
Bạn ta người của mùa chinh chiến
Đời quen rộng rãi thú tiêu pha
Kéo ta ra quán hề ra quán
Ngó trời ngó đất mà thương ta
Trăng kia sao chẳng vào dinh thự
Mà chỉ nằm chơi một ngọn cây
Bạn ta nào hiểu niềm sung sướng
Đời ta hề chưa bẩn đôi tay
Dự cảm dưới trăng
Bài thơ sau cùng viết ở Sài Gòn tự do
Cúc nở đêm tàn
Ai đuổi theo áng mây hề
Nguyệt cầm ngủ muộn
Với sao khuê
Ta lang thang đêm ngõ trúc hề
Gió gửi theo chi thơm mùi phấn
Ai đó nhớ ai hề
Nghe thèm muốn dưới trăng
Hận bất tương phùng thượng thiếu thời hề
Gió chuyển lời ai hát
Trong xiêm y nàng có gì hề
Mà ta hoài tiếc nuối mông lung
75
Thủy nguyệt
Bài thơ đầu viết ở Pulau Bidong
Đêm yểu điệu trên hàng dương liễu
Lời hẹn hò những lối chưa đi
Sóng bạc đầu mối sầu trăm tuổi
Mây lang thang buồn lạc lối về
Em không đến hay em sẽ đến
Nhạc lòng anh sóng cũng tràn trề
Một chén rượu làm nên giấc mộng
Quá đủ rồi biển nói anh nghe
Chẳng cùng ai ngồi nơi cuối núi
Quán cà phê có điệu nhạc buồn
Sống những phút cát bồi lặng lẽ
Hạnh phúc nào bằng nỗi cô đơn
Sung sướng quá trời ơi nguyệt hiện
Chìm sâu anh một hạt cát vàng
Trăng vướng núi rơi chìm đáy nước
Anh khóc mùi đúng lúc hân hoan
12-80
Bài thơ tháng năm
Bài thơ đầu viết ở Mỹ, trên lan can khách sạn tạm trú Windsor Park, D.C
Tháng này trí nhớ là đêm
Gió mùa lên tới ngang anh thì ngừng
Lầu cao lũng thấp xe tuôn
Quanh co đường lạ phân vân ánh đèn
Cây xanh chót vót cây xanh
Vàng mười nắng mỏng đồi nghiêng dán vào
Dang tay rừng hát lao xao
Gió như cởi áo vào sâu lòng người
Tháng này xa xứ lạ nơi
Buồn thâm trầm khẽ phanh phui ra ngoài
1 May 81
HTS
THƠ HOÀNG PHONG LINH
HỒN CA ….
TRÊN BIỂN ĐÔNG
TRÊN BIỂN ĐÔNG
Thơ:
Hoàng Phong Linh.
(Lưu
niệm chuyến đi viếng thăm mộ bia Thuyền Nhân tại các đảo Galang và Pinang ( Nam
Dương) cùng phái đoàn Văn Khố Thuyền Nhân và các Bạn từ các quốc gia trên thế
giới, từ ngày 10.10.09 đến 17.10.09.
CSVN đang yêu
cầu chính quyền Nam Dương đóng cửa các khu di tích Thuyên Nhân trên các đảo.
Ngày nào còn
CSVN, ngay cả những người đã chết trên các đảo hoang vu, lìa xa Tổ Quốc, cũng
không được yên nghỉ ngàn thu ! )
Viết tại đảo
PINANG này 14.10.09.
Võ Đại
Tôn (Hoàng {hong Linh)
1
HỒN AI ĐÓ?
Chập trờn trên khói sóng
Dòng máu tươi theo nước
chẳng hoà tan.
HỒN AI ĐÓ?
Vạn tinh cầu chao bóng
Đảo gềnh xa còn vọng tiếng
kêu than.
Hãy về đây - trên sóng nước
dâng tràn
Chung tiếng khóc nghẹn đau
cùng Dân Tộc.
HỒN AI ĐÓ?
Đã lìa xa Tổ Quốc
Vẫn còn ôm sông núi xuống mồ
hoang.
Tiếng oan khiên từ đáy vực
còn vang
Hay chìm đắm giữa khơi ngàn
sóng dữ?
Mảnh thuyền tan, bập bềnh
trôi viễn xứ
Biết về đâu ? - Hồn phiêu
bạt nơi đâu ?
Thân cá Hồi tan tác đã chìm
sâu
Không tìm thấy lối quay về
chốn cũ !
Giữa trùng khơi vang tiếng
cười dã thú
Hải tặc giằng co thân xác -
kinh hoàng.
Tiếng Mẹ kêu, dòng máu chảy
đầy khoang
Tay vời níu đàn con run
khiếp sợ.
Biển lạnh chiều hoang, trần
gian nín thở,
Vòng tai ương kiếp nạn đến
vô cùng.
HỒN AI ĐÓ ?
Bờ Tự Do bốn hướng, cõi mông
lung
Tìm đâu thấy - giữa muôn
trùng đen thẳm?
Tiếng kêu “ Trời ! ” trước
phút giây chìm đắm
Biến tan vào giông bão, thét
trùng dương.
Vực mồ sâu thịt rã máu còn
vương
San hô trắng hay là xương ai
trắng?
Dòng tóc đen bám gềnh xa
hoang vắng
Thành rong rêu sẫm tím một
mầu tang.
HỒN AI ĐÓ?
Chiếc thuyền Không Gian
Trôi về Vô Tận.
Bánh xe Thời Gian chuyển
ngàn uất hận
Chập chờn mấy cõi U Minh.
Lịch sử nghìn thu trang giấy
rợn mình
Ghi chép lại phút kinh hoàng
Vượt Biển !
2
HỒN AI ĐÓ?
Đảo hoang sơ, ai về đây khấn
nguyện
Mộ bia tàn, ai thắp nén
hương dâng ?
Nơi Ba Đình vui chuốc rượu
Vô Thần
Cười nghiêng ngả mừng reo hò
chiến thắng!
Đồng ruộng phơi bầy xương
trắng
Oan khiên máu lệ thành sông.
Bao thây vùi trong sóng nước
biển Đông
Còn sót lại mấy hoang tàn di
tích?
HỒN AI ĐÓ ?
Đảo xa xôi mộ phần cô tịch
Giấc ngủ chẳng bình an.
Họ còn theo, cố phá đập
tan (*)
Để tô hồng chế độ:
-
“ Chủ nghĩa
huy hoàng, không ai chối bỏ
Không có người vượt
thoát để tồn sinh!” -
Nhưng bia đời như nắng rọi
bình minh
Luôn soi rõ từng vết sâu tội
ác
Của loài dã tâm vời ngôn từ
khoác lác
Đang tôn thờ chủ thuyết lai
căn.
HỒN AI ĐÓ ?
Từ bao cõi Vĩnh Hằng
Xin về đây chứng kiến.
Tấm long chúng tôi trọn đời
Tâm Nguyện
Chí bền gan, xin vẹn Nghĩa
Tình.
Dù ngăn cách Tử Sinh
Giữa hai bờ Nhật Nguyệt
Dù có ai phá tan mộ huyệt
Đến nghìn sau Hồn mãi còn
đây.
Nhìn trùng khơi sóng nước
dâng đầy
Gửi mơ về cố quốc.
Hồn vẫn sống trong lòng Dân
Tộc
Vì hai chữ Tự Do.
Chiều Galang bão tố sóng to
Hay tĩnh lặng trăng rơi thềm
đá.
Sáng Pinang nắng xuyên rừng
lá
Hay đêm vờn tiếng hát nhân
ngư.
Hồn mãi còn đây, dù bia mộ
hoang vu
Không tên tuổi - sá gì tên
với tuổi!
Dù xác thân đã hoà chung cát
bụi
Biển Đông còn - HỒN MÃI SỐNG
THIÊN THU!
Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)
PINANG ( INDONESIA )
14.10.2009
Email :
lmqpvn@gmail.com
( * ) …. csvn
NGUYỄN THỤY KHA * PHÙNG CUNG
NẮNG TRONG THƠ PHÙNG CUNG
Posted on 27.06.2012 by nguyentrongtao
NGUYỄN THỤY KHA
Phùng
Cung là một trong những nhà thơ ViệtNamđi theo con đường của nghệ thuật
tối giản. Thơ Phùng Cung đặc sắc bởi thi tứ, thi ảnh, thi từ, thi điệu,
thi pháp đậm đặc chất đồng bằng châu thổ Bắc. Bởi vậy, thế giới thơ
Phùng Cung rất cần thiết được nghiên cứu kỹ càng. Tuy nhiên, công việc
này đòi hỏi một thời gian dài lâu. Cảm nhận đầu tiên về thơ Phùng Cung
với riêng tôi, là cảm nhận ấn tượng khi gặp những cái nắng lạ trong
những câu thơ của ông. Cái nắng rất đa sắc
nhưng không phải của màu mà là của văn minh sông Hồng. Cái nắng lấp lánh
trong đêm mà Phùng Cung đã dẫn dắt mọi người cùng xem.
Đấy là cái “Nắng Âu Cơ” – cái
nắng từ tổ tiên thuở hồng hoang khi ông nghĩ về tổ quốc. Đấy là cái nắng
“Nhuộm hoàng hôn đỏ gạch” rơm rớm bên “Ao con”. Đấy là “sông chảy bồn
chồn hoa nắng” mùa lũ lên. Đấy là cái “nắng ngả tương” oai oải mùi hương
quê. Đấy là cái “nắng hẩy gió lên” để rồi bóng râm rẽ lối sang sông.
Đấy là “hạt nắng non” hồn nhiên rây qua kẽ lá như hạt ngô non khiến gà
nhầm rình mổ. Đấy là cái nắng “ấp úng rạng đông”, cái “nắng cũ” ngời
trong khóe mắt đồng chiêm, cái “nắng thả chào mào” nghiêng nghé căn nhà
lụp xụp tồi tàn, cái “nắng phơi rơm” bồng bềnh mùa gặt, cái “nắng vắt
ngọn tre đuôi én” mùa gieo mạ, cái nắng trong bước chân con vạc ăn ngày
“đạp cánh đồng xơ xác”. Đấy là những “chiều vừa đuối nắng” nơi con sông
vặn dòng, là cái “nắng vẽ” trên lưng cua đồng chài chã đời đời kiếp kiếp
lấm lem, là “trời thu thả nắng” bâng khuâng mùi ổi chín, là cái đuôi
nắng uể oải cuối chiều trong tiếng bò rống, là cái “nắng đồng trinh”
trong “chiều hoa râm” là cái “nắng hàn vi” mỏng mảnh hoa rau sam, là
“nắng hoa ngâu” se sém nỗi ong vàng chết điếng, là “cuối nắng” có con đò
lá tre lênh đênh. Đấy là “chút nắng thừa” trong chiều khây khẩy cơn sốt
rét run rảy mảnh chăn chiên, là “nắng thắm quết trầu dốc bến”, là “nắng
ánh cam” nhuộm nương ngô, là “nắng trôi lụa” xa xăm đẹp đến huyễn diệu
với cánh bướm vẫy. Viết về nắng mùa rươi “tháng chín đôi mươi- tháng
mười mồng năm” tài tình đến nhất mực: “Nắng đổ xanh chổi cốm hoa rươi”.
Đấy là chút “nắng ghé” trên mảnh rêu chiều mênh mang, là “hoa khế đỏ màu
cua chết nắng”, là gương mặt phong trần “chịu nắng”, là tia “nắng xéo”
mo cơm lủng lẳng sau lưng người tha phương. Đấy là “Nắng chiêm thành
quanh quất tháp hoang” đầy bi tráng, là “nắng dứ” đầu mùa đậm nhạt, là
tia “nắng tía” lay lay hàng râm bụt khúc khích tiếng cười, là cái nắng
có sợi tơ trời nghiêng bay, là màu “nắng son” đổ vụn trên ngưỡng cửa
trưa hè, là chút nắng hong khi mùa xuân đã vãn, là tia nắng hoang giữa
cánh rừng, là cái nắng dạt liệm vào chiều chia biệt bạn bè, là cái nắng
lạnh chuyển mùa chiều hưu hắt, là cái nắng hanh góc sân quê, là tia nắng
lay trên con đường gánh gồng thuê mướn lam lũ, là tia nắng chột trong
tiếng cóc ho, là cái nắng chói chang vắt kiệt đồng quê in dấu chân cua
trốn nắng, là tia nắng quái nhắm vàng trên hoa chua me đất, là nắng thơm
mật đồng mía, là tia nắng tắt tần ngần trên sào phơi váy.
Trước Phùng Cung, người yêu thơ
đã từng chím đắm trong cái nắng đầy âm thanh của Nguyễn Mỹ: “Đôi bên là
nắng- thu đã đượm vàng- nắng soi từng giọt nắng ngân vang- ở trong nắng
có một ngàn cái chuông”. Những cái nắng lạ trong thơ Phùng Cung khiến
ta nhận ra sự lấp lánh của phía bên kia bán cầu tưởng tượng mà người thơ
ngồi trong đêm phía bán cầu bên này hy vọng về một đời thường bình dị
mà quá đỗi khó khăn. Đời thường ấy hôm nay đã mất giữa một thời chao
đảo, thời mà con người chỉ được sống trong bóng đêm bí ẩn của chính
mình.
Tuesday, August 28, 2012
DƯ THỊ DIỄM BUỒN * BA TÔI
BA TÔI
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Thời gian như cơn gió lốc! Chúng tôi vượt biên rời quê hương tính đến
nay tròm trèm cũng gần 30 năm. Ba mươi năm, đã nửa đời người rồi chớ có
ít ỏi chi đâu? Hết sức gian lao hiểm trở gia đình tôi mới được vào làm
thân chùm gởi ở xứ người. Biết thân phận mình ăn nhờ ở đậu trong cái xứ
bon chen lắm bạc tiền, thừa vật chất và thiếu thốn tình nghĩa nầy. Cho
nên chúng tôi đi cày chăm lắm! Chồng 2 việc, vợ 2 việc, nuôi 5 miệng ăn
(2 vợ chồng và 3 đứa con). Ở đây, ai mà không biết về cái ăn, cái mặc
không phải lo âu nhiều. Chỉ lo sợ thiếu thời gian cho gia đình và sự gần
gũi cảm thông giữa cha mẹ với con cái mà thôi.
Khi làm tạm đủ số
tiền để dằn chân mua cái nhà cũ ngân hàng tịch thu của chủ nhà cũ (30
năm già) vì không có tiền trả tiền nhà theo định kỳ. Vợ chồng tôi nghỉ
bớt việc làm phụ, chỉ mỗi người một việc bình thường. Đó cũng là nhờ con
gái tôi nhắc nhở. Năm ấy cháu vào lớp 9 trường trung học:
- Má ba
làm việc nhiều quá! Có thể làm bớt bớt giờ và đổi việc nào thích hợp để
cuối tuần được nghỉ ở nhà với chúng con không? Ba má cuối tuần nào cũng
đi làm. Chúng con lớn dần... và cũng dần xa ba má khi vào đại học, đi
làm xa, rồi lập gia đình...
Nghe con nói có lý, thế là tôi xin việc
làm khác ở một hãng chế đồ điện tử bằng nhựa của Nhật. Tuy lương không
cao bằng việc làm ở chỗ cũ, nhưng tôi có những ngày cuối tuần và lễ được
nghỉ với các con, thay vì đi làm ở bịnh viện lâu lắm mới được nghỉ một
cuối tuần.
Mấy đứa con tôi cũng lớn dần theo năm tháng. Ba đứa vào
đại học, 3 năm liền nhau. Thế là hai cái thân già nầy đi cày mệt nghỉ.
Bởi vì nào phải chi tiền cho 3 đứa nhỏ đang đi học... Tiền gởi về cho
người thân: ốm đau, mất mùa, nước ngập, bão tố... còn đang bị khốn khổ
đọa đày ở quê nhà!
Ai ra được xứ người sung sướng? Chớ riêng chúng
tôi thiệt là vất và trăm chiều chớ có thong thả chi đâu? Nhưng ở đây
thật sự được hưởng tự do, và tương lai của các con tôi được bảo đảm, nếu
chúng chịu khó học hành và không làm việc phạm pháp.
Vì tương lai
các con, vì nỗi khó khăn gian khổ của những người thân còn kẹt bên kia
bức màn tre. Nên dù làm việc nhọc nhằn, vất vả mấy chúng tôi vẫn cảm
thấy thỏa mãn trong lòng... Nhứt là ngày các con ra trường, mãn khóa...
Hơn
cả ngàn người, từ dân bản xứ cho đến những kẻ tạm dung đủ loại da màu
sống trên xứ nầy. Hôm nay họ đến đông nứt hội trường, để dự lễ mãn khóa
của con cháu mình. Chúng tôi đến dự, bởi thằng con út cũng bảng hổ đề
tên trong những tân khoa. Sau lễ nghi, diễn văn của buổi ra trường...
Đến
phần xướng danh những tân khoa: “...Người chiếm Thủ khoa niên khóa vừa
qua của trường là cô Tạ Nguyễn Thị Thiên Hương...”. Tiếng vỗ tay tán
thưởng vang dội đó đã đưa tôi về thời thanh xuân. Và bỗng dưng tôi nhớ
đến người bạn cùng khóa đậu thủ khoa năm xưa có họ và tên lót na ná
giống cô Thủ khoa hôm nay. Thế là tôi theo dõi cô Thủ khoa Thiên Hương
nầy. Không khó khăn lắm, và đúng y như rằng Thiên Hương là con cô bạn
Thiên Nga của tôi 40 năm về trước.
Gặp lại nhau, chúng tôi mừng vui
khôn kể. Hai đứa cứ quấn quít trong suốt buổi ra trường của con mình.
Chúng tôi hỏi thăm gia đình nhau trong hiện tại...và những chuyện vụn
vặt, bạn bè kẻ còn người mất, kẻ kẹt bên nhà, người ra hải ngoại khắp
năm Châu... Năm đó, Thiên Nga ở cùng tiểu bang Illinois với chúng tôi,
nhưng cô ta ở miền Bắc, còn tôi ở mãi miền Nam.
Và sau lần
gặp lại đó, tuần nào cũng đôi ba lần chúng tôi luôn liên lạc thăm hỏi,
kể lể chuyện ngày xưa, bàn chuyện hôm nay... Trong những lần hai đứa tâm
tình khi thì mủi lòng khóc thút thít với nhau, khi thì hai đứa cười
muốn vỡ mái nhà như hai mụ điên. Có lần Thiên Nga bảo tôi:
- Thu Minh
à, lúc biết mầy đi rồi, tao rất mừng cho mầy và buồn cho số phận của
chồng con tao. Đến khi ổng được thả về thì chúng tao tìm đường bôn đào.
Ba tao cũng đi với bọn tao. Nếu ba tao ở lại chắc là tao không đi đâu.
Bởi tao là con một, ông ở lại tao đi sao đành? Thật sự ông không muốn
đi, nhưng thương mấy cháu ổng mới xót xa rời quê cha đất tổ đó chớ.
Tôi cũng buồn buồn, nói với bạn:
-
Con người chớ phải gỗ đá chi đâu, mà không đau buồn khi lìa xa nơi chôn
nhau cắt rún? Tao hết nước mắt khi ra đi, chớ có vui sướng gì mầy ơi.
Mầy may phước ông già chịu đi theo. Còn ba tao ở lại, vì ý ông muốn khi
chết được chôn gần mộ má tao... Lúc sinh thời, ông sống với gia đình bà
chị tao bên đó. Nên ra đi tao cũng tạm yên lòng. Còn ba mầy nếu ở lại
thì sống với ai? Họ hàng làm sao bằng con ruột của mình! Ờ, hôm gặp lại
bác trong ngày mãn khóa của cháu ngoại. Ông năm nay cũng hơn 70 rồi hả
mậy? Tóc ông bạc trắng, nhưng da dẻ có phần hồng hào, nên trông khỏe
mạnh quá. Mặt ông tươi tắn, luôn nói cười vui vẻ ... Ba mầy thật đẹp
lão. Mầy có phước mới được còn ba đó nghen Thiên Nga.
Thiên Nga cười hô hố bên kia đầu dây điện thoại. Nàng ta bảo:
-
Nghe mầy nhắc, tao chợt nhớ đến chuyện ở cái thời năm ngoái kỳ xưa. Sau
khi má tao qua đời. Năm đó hình như bọn mình đang học chuyên môn năm
thứ hai phải không? Tao với mầy thường ngồi dưới gốc cây phượng già tâm
sự trong giờ ăn trưa. Tao nhớ có lần mầy đã khuyên tao bằng một chuyện
kể. Mầy nói rằng chị Tiểu Thu bạn của chị Hai mầy đã tâm sự:
“...Ba
má tao khỏe mạnh đó là điều hạnh phúc cho anh chị em tao. Nếu má tao qua
đời trước, thì sau đó tao sẽ tìm một người đàn bà hiền thục đàng hoàng,
tương đương tuổi má tao, và phải là đàn bà góa, hoặc lỡ thời... để chắp
nối với ba tao, nếu ông bằng lòng. Hay là ông tìm được người nào khác
hợp ý về lên tiếng, thì tao sẽ không phản đối, mà còn rước bà ta về sống
với ông già. Bọn em tao nghe nói nhao nhao lên phản đối. Trách tao làm
như vậy là bất hiếu, là phản bội... má tao.
Rồi mặt chị u buồn, nhẹ giọng bày giải với các em mình:
-
Các em phải hiểu, ba là người đàn ông khỏe mạnh. Ông sống hơn 2/3 cuộc
đời cho gia đình, cho má và chị em mình rồi. Bây giờ má bỏ ba mà đi. Đó
là điều bất hạnh cho ba và của chúng ta... Rồi đây bọn mình mỗi đứa sẽ
lập gia đình riêng người lấy chồng, kẻ cưới vợ, sẽ bỏ ba mà đi xây dựng
tương lai cho chính mình. Mấy em hãy nghĩ xem sau đó ba sẽ ở với ai? Với
con trai hay con gái? Ba mình muốn sống với đứa nào cũng được, vì niềm
yêu kính ba của chúng ta đều giống nhau... Nhưng khi ba đau ốm ai săn
sóc ba chu đáo hơn người bạn gối chăn? Nếu, chị nói là nếu nghen! Rủi ba
bị bịnh đau nơi chỗ kín của người đàn ông, thì con gái, hoặc con dâu
săn sóc kỹ lưỡng được sao? Còn những nỗi niềm riêng tư mà chỉ có vợ
chồng mới san sẻ với nhau được thôi, chớ không có người thứ ba nào có
thể! Nên chị em mình làm con, dù không muốn cũng phải thực tế và chấp
nhận chuyện đó...”
Bên kia đầu dây, Thiên Nga chép miệng:
- Thu
Minh à, thú thật lúc đó khi nghe mầy khuyên, tao ghét và cảm thấy mầy là
một đứa vô duyên tận mạng. Mầy còn nhớ tao hỏi ngược lại không? “Nếu ba
của chị Tiểu Thu qua đời trước, thì chị ấy có xúi má mình lấy chồng
khác không?...”. Và mầy đã trả lời với tao rằng:
- Ồ, tâm tình mầy thiệt giống y như tao vậy Thiên Nga. Tao đã hỏi câu đó với chị ta. Và chỉ đã trả lời như sau:
“...Chị
không bao giờ để má chị tái giá! Chị sẽ săn sóc chu đáo cho bà. Người
đàn bà ở vá thờ chồng suốt đời không có gì khó khăn cả. Điển hình là bà
ngoại chị, mới 23 tuổi chồng chết... Bà ở vậy nuôi má chị và hai đứa con
trai nên người... Đến khi bà ngoại chị trăm tuổi già vẫn không tái giá.
Thiên Nga ngừng nói, cười khúc khích, ỡm ờ tiếp:
-
Mầy có biết không? Càng nghe mầy kể, lúc đó tao lại càng cảm thấy mầy
là đứa hồ đồ và càng ghét cay, ghét đắng mầy nhiều hơn. Bởi tao nghĩ như
vậy là hết sức bất công với phụ thân, hoặc với phụ mẫu mình. Nhưng rồi
thời gian qua mau. Có phải thời gian là liều thuốc bổ chữa mọi bịnh tật,
như người ta thường nói không? Tao không trả lời được! Nhưng có điều
tao báo cho Thu Minh mầy biết là đến bây giờ, ba tao vẫn chưa tục huyền.
Tôi cười, nói liền:
-
Mầy khỏi nói tao cũng biết chuyện đó. Bởi mầy là đứa ích kỷ, độc tài...
Nên chỉ muốn ông già tròn đời phải thủ tiết với má mầy, và phải thương
yêu một mình mầy thôi, vì mầy là đứa con duy nhứt của ông mà. Cho dù ổng
có muốn tục huyền, năn nỉ ỉ ôi cách mấy đi nữa thì mầy cũng sẽ làm kỳ
đà cản mũi. Tao nghĩ, nếu mà ba mầy lỡ dan díu với bà nào có con rơi bên
ngoài, thì mầy sẽ ra lịnh tiền trãm hậu tấu đứa con rơi và má của nó
liền. Và tru di tam tộc gia đình bà ta chớ không phải chơi đâu?
Thiên Nga không nhịn được, cười ha hả và la quải quải:
-
Đó, đó thấy chưa mầy quả đoán rồi. Mầy còn nhớ không Thu Minh? Ngày xưa
trong lớp mình, mọi đứa tôn mầy là Gia Cát Lượng tái thế. Bởi mầy đoán
việc đúng, hay như thần! Nay qua bao nhiêu cuộc dâu bể thăng trầm... đã
hết linh rồi! Nên chưa chi mầy đã nói sai bét!
Tôi cười ngất, rống họng hỏi:
- Vậy sao? Hãy mau nói đi, tao đoán sai chỗ nào? Việc gì?
Thiên Nga cười giòn giã như tiếng bể của thủy tinh. Tôi ghẹo:
- Bộ vui lắm sao mà cười tủng tủng vậy mậy?
Bên kia đầu điện thoại, Thiên Nga càng cười già hơn. Tiếng nói hụt hẫng trong tiếng cười:
-
Mấy mươi năm ở Mỹ, đã ăn uống biết bao nhiêu bơ sữa vậy mà mầy vẫn
không gì thay đổi. “Thập niên sơn thủy luân lưu chuyển”, tao nghĩ câu
nầy không thể áp dụng với mầy được rồi đa.
Tôi cười vuốt đuôi:
- Ờ
hén! “Thiên địa đổi thay, bản tánh khó dời”. May mà tao không có độc
tài, cố chấp như mầy. Mầy cũng có thay đổi chi đâu? Thôi thì mầy hãy kể
những gì tao đã đoán sai đi.
Có tiếng tằng hắng, và cô nàng sửa giọng âm u như bóng chiều rơi:
-
Thì có gì đâu, mấy năm gần đây người Việt mình về thăm lại quê hương
rần rần, càng ngày càng đông. Có người về thăm cha mẹ, mồ mả ông bà, anh
chị em, có người về sửa sắc đẹp, có người về làm ăn buôn bán, có người
về khoe sang để lấy le, có người về cưới vợ, có người về cưới chồng, có
người về kiếm bồ ngày, vợ tháng... Tao thật sự không biết dùng những
danh từ đó có ổn không? Nhưng thực tế là như vậy mầy à. Vì từ ngày rời
quê hương đến giờ, cũng như mầy, bọn tao chưa trở lại thăm lần nào cả.
Chỉ có ba tao về thôi. Bởi bên đó tao còn gia đình bà dì ở dưới quê và
ông chú ở Sài Gòn. Ba tao lần đầu về sẽ ở lại chơi một tháng. Chắc là ở
bển vui quá vì gặp lại họ hàng... nên ông gọi điện thoại qua cho biết sẽ
gia hạn ở thêm một tháng nữa. Đúng hai tháng ba tao trở qua. Vóc dáng
ông không gì thay đổi, nhưng sắc diện có vẻ mệt mỏi, uể oải, bơ phờ hơn
lúc đi. Và tao thường bắt gặp ông có vẻ trầm ngâm, hay thở dài trong nửa
đêm thức giấc... Cho đến một hôm, phu quân tao đưa mấy đứa nhỏ trở vào
trường ở xa. Tao bèn thỏ thẻ hỏi. Lúc đầu ông giấu không chịu nói.
Bên đầu dây nầy tôi đang chăm chú nghe, con nhỏ cà chớn đó bỗng dưng ngừng lại, ho hen mấy tiếng rồi hỏi:
- Mầy còn đó không Thu Minh?
Tôi trả lời vội:
- Tao đây, đang nói tới điểm chánh sao mầy ngưng vậy?
-
Ờ, thì để tao kể tiếp. Ba tao nói: “Lúc về quê ngoại thăm dì Tư con, ba
có gặp cô Lan trong bữa ăn dì dượng Tư mừng đãi ba về. Con còn nhớ cô
Lan bạn làm chung ở Ty Điền Địa với dì Út Hằng không? Cô Lan năm nay
cũng ngoài 50 tuổi rồi mà từ nhỏ đến giờ vẫn chưa có chồng. Bất ngờ gặp
lại cô, ba không nhớ vì cũng đã mấy mươi năm qua rồi... Được dì dượng Tư
con giới thiệu. Ba và cô ấy nói chuyện với nhau coi bộ hợp rơ. Nên ba
và cô Lan sống chung trong suốt tháng trước khi trở về Mỹ. Sau khi cúng
má con mâm cơm tạ lỗi với bả... Ba không cho con biết lúc còn bên nhà vì
sợ con buồn... Chắc con không trách ba chớ?” Nghe ông già kể xong, tao
như trên trời mới rớt xuống! Và giận ổng quá chừng mậy! Phu quân tao đưa
mấy đứa nhỏ xuống trường trở về, sau buổi cơm chiều nhạt nhẽo. Ổng liền
hỏi nhỏ tao, trong lúc ông già đi bộ ngoài đường. Tao bèn kể hết sự
tình cho ông xã tao nghe. Nghe xong ổng cười cười mỉm chi cọp, nói:
“Thiên cổ chi mê mà... Ba đã sống thời gian dài không có đàn bà khác sau
khi má qua đời. Như vậy là quá tốt rồi... Em phải cởi mở tấm lòng để
cho ba vui vẻ lúc tuổi già chớ...”. Tao nổi nóng, lấy gối chọi ổng...
Ổng cười ha hả bảo là tao ghen vì sợ ổng giống ba tao ở điểm đó.
Tôi phì cười, hỏi nó:
- Rồi mầy chiến tranh lạnh với ba mầy bao lâu? Bây giờ thì thế nào?
Thiên Nga vui vẻ:
-
Mầy biết tánh tao mà, có cái gì để trong bụng lâu được đâu? Và bỗng
dưng tao nhớ câu chuyện mầy kể về chị Tiểu Thu tâm sự với chị Hai mầy.
Nghiệm lại tao nghĩ cũng có phần đúng. Nên làm hòa với Ba tao. Ổng vui
mừng quá đổi biết là tao thông cảm cho ổng. Rồi mấy năm nay, đều đều mỗi
năm ổng về bển ở lại khi 3 tháng, khi 4 tháng... Tiền hưu trí của ba
tao dư sức qua cầu để hai người tiêu pha. Phu quân tao còn lén tao nhét
thêm cho ổng chút ít trước khi đi nữa. Có lần tao hỏi ba tao có nghĩ đến
bảo lãnh bả qua không? Ba tao lắc đầu nói là : “Phiền phức lắm! Ba với
bà Lan chỉ là đôi bạn già thôi. Trong đời ba, má con là người đàn bà ba
thương yêu nhứt, không ai có thể thay thế bả được...”. Câu nói chân tình
nầy của ổng, nếu ở suối vàng má tao biết được chắc bà sẽ hết sức ấm
lòng!
Nói đến đây, Thiên Nga ngừng lại rồi cười ngất nga ngất nghẻo
như mụ điên. Tôi còn đang thắc mắc không biết chuyện gì nữa? Chưa kịp
hỏi, thì nó nói hụt hẫng trong tiếng cười:
- Mầy thấy chưa, tao đâu
có ngoan cố, độc tài và tệ như mầy nghĩ. Nên mầy đã đoán sai rồi! Mà nầy
Thu Minh à, tức cười lắm. Mầy có biết không Thu Minh? Ba tao mỗi lần
trước lúc về quê nhà thì khỏe mạnh. Khi trở qua đây ổng đi cà khụm, cà
khụm, ba xí, ba tú muốn sụm bánh chè vậy!
Tôi cũng mắc cười, nhưng nạt vội nó, rồi lên giọng thầy đời:
-
Mầy thiệt là con mắc toi ! Đến chết cái nết không chừa, đầu óc luôn
chứa đầy dơ dáy không hà! Nhưng mầy để cho ông già về bên ấy như vậy,
tao thấy tốt lắm. Làm con, chúng ta phải thấu hiểu và cảm thông với cha
mẹ trong lúc nhiều biến đổi nhứt của tuổi người già... Đừng ích kỷ, chỉ
biết lợi cho mình mà không chịu hiểu cái cảm nghĩ của song đường... Mà
quên đi phận làm con rồi sau nầy có hối hận cũng không kịp... Trên cõi
đời nầy, cái gì mất rồi, chúng ta cũng có thể tìm kiếm lại được. Nhưng
cha mẹ mất rồi, vĩnh viễn chia xa!
Sacramento, cuối Hạ năm 2006
Tệ xá Diễm Diễm Khánh An
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
GS. NGUYỄN VĂN PHÚ
GS
NGUYỄN
VĂN
PHÚ
nguyên Hiệu trưởng
trường Trung học Tư thục Hưng Đạo Sài Gòn
trường Trung học Tư thục Hưng Đạo Sài Gòn
|
TÁC
PHẨM:
QUYỂN 2 - BƯỚC VÀO CỬA PHẬT
"Bước Vào Cửa PHẬT" được tác giả nhìn một cách khái quát và đơn giản trong 69 bài như đã ghi trong Mục Lục bên dưới...
Hoằng Hữu
NGUYỄN
VĂN
PHÚ
BƯỚC VÀO
CỬA PHẬT
Quyển 2
HƯNG ĐẠO XUẤT BẢN
Montréal 2010
Montréal 2010
GS
NGUYỄN
VĂN
PHÚ
nguyên Hiệu trưởng
trường Trung học Tư thục Hưng Đạo Sài Gòn
trường Trung học Tư thục Hưng Đạo Sài Gòn
QUYỂN 2
37. TRƯỞNG GIẢ CẤP CÔ ĐỘC
1. Khi tụng kinh A-Di-Đà, cũng như khi tụng nhiều kinh khác, Phật tử chúng ta bắt đầu bằng câu : “Chính tôi được nghe : vào một thời kia, đức Phật trụ ở vườn Cấp Cô Độc, rặng cây Kỳ đà, thuộc nước Xá -Vệ, …”.Cấp Cô Độc là ai? Có liên hệ gì với Phật giáo thời đức Thế Tôn còn tại thế?Hôm nay, chúng tôi xin trình bày vài điều về vị trưởng giả Cấp Cô Độc ấy, người được gọi là một đại hộ pháp của Phật giáo.2. Tại kinh thành Xá-Vệ nước Câu-Tất-La do vua Ba-Tư-Nặc trị vì, có một vị thương gia tên là Tu-Đạt-Đa rất giầu có, được coi là người giầu nhất nước. Dinh cơ của ông thật to lớn tráng lệ, gia nhân của ông hết sức đông đảo. Một điểm đặc biệt nơi ông là lòng từ thiện rất rộng rãi, lúc nào ông cũng tích cực giúp đỡ những người nghèo đói, khổ sở, già nua, bệnh tật, cô đơn. Vì thế người ta gọi ông là Cấp Cô Độc (nghĩa là chu cấp cho những người cô độc) hay là Chẩn tế bần phạp (chẩn tế nghĩa là giúp đỡ, bần phạp nghĩa là nghèo túng), Cấp chư cô lão (cô lão nghĩa là người già cô đơn). Được người đời xưng tụng như thế, hẳn là hạnh bố thí của ông phải cao lắm! Theo tiếng Phạn thì danh hiệu ấy của ông viết là Anātthapindika, trong đó anāttha nghĩa là không được ai che chở và pindika nghĩa là dân nghèo. (1)Ông Tu-Đạt-Đa có gia đình : ông có vợ và ba con gái, một con trai. Bà Tu-Đạt-Đa tên là Punnalakkhana (tên này có nghĩa là người phụ nữ có phúc tướng), bà là một người hiền lành, đối xử với gia nhân có độ lượng nên được kính mến. Cũng như chồng, bà là một Phật tử thuần thành, một trong các nữ tín đồ đầu tiên của đức Phật, và thường xuyên thành tâm hộ trì Tam Bảo. Cả ba cô con gái đều là người đức hạnh, thấm nhuần chánh pháp, y giáo tu hành, và đều đắc quả. Riêng người con trai thì hàng ngày chỉ mài miệt trong công việc kinh doanh và chăm lo quản trị tài sản khổng lồ của gia đình, ít chú tâm tu tập nhưng sau được cha hướng dẫn vào đường Đạo và theo được gương sáng của cha, trở thành một đại hộ pháp và cũng đắc quả.3. Thời bấy giờ, khi mới thành đạo vô thượng bồ-đề, đức Phật Thích-Ca đến thành Vương Xá, kinh đô nước Ma-Kiệt-Đà do vua Tần-Bà-Sa-La trị vì. “Vua Tần-Bà-Sa-La quy y Phật, cúng cảnh Trúc Viên cho Phật và ngôi Tam Bảo, để Phật an trụ nơi đó mà truyền bá đạo lý. Vua cất luôn nơi đó cảnh Tinh xá rất trang nghiêm, có đủ nhà giảng, tăng phòng và mọi đồ vật dụng cho Giáo Hội. Tại Trúc Viên, Phật dạy đạo cho mấy vị đệ tử đại danh đầu tiên như các ngài Xá-Lỵ-Phất, Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Diếp v.v… Cảnh Trúc Viên là ngôi Tinh xá trước nhất mà người ta dâng cúng cho Giáo Hội vậy” (theo Phật học Từ điển của Đoàn Trung Còn).Một ngày kia, do công việc buôn bán, ông Cấp Cô Độc đi từ thành Xá-Vệ tới thành Ma-Kiệt-Đà. Ông tới ngụ tại nhà một người anh rể và cũng là một bạn thân. Thấy gia đình này đang bận rộn tíu tít, hình như đang lo thu xếp đón tiếp quốc vương hay là đón một vị thượng khách nào đó, ông ngạc nhiên.Hỏi rõ thì biết rằng họ đang sửa soạn cung nghinh đức Phật và chư Tăng. Thì ra người anh rể của ông Cấp Cô Độc, cũng là một đại phú thương, đã quy y Tam Bảo và đã phát tâm cúng dường Giáo Hội một số tịnh cốc.Ông Cấp Cô Độc nghe nói đến Phật đang ở gần thì thao thức suốt đêm, mới sáng tinh mơ ông đã tìm đường tới Trúc Lâm tịnh xá.Tới nơi, trong làn sương buổi sớm, ông thấy ở đằng trước ông một người đang đi kinh hành. Bỗng người ấy quay lại, gọi đích tên thực của ông bằng một giọng rất hiền hòa. Vô cùng kinh ngạc, ông cảm thấy một sức mạnh vô hình kéo ông tiến lên và khi đến gần, ông vội sụp lạy, đó chính là đức Phật. Ông vấn an Ngài và được Ngài chúc lành. Rồi ông theo chân Ngài đi kinh hành. Vừa đi Ngài vừa giảng giải căn bản Pháp Bảo cho ông. Khi Ngài nhận thấy thiện căn của ông đã lộ rõ, tâm thức đã khai mở, Ngài bèn thuyết Tứ Diệu Đế cho ông. Lành thay! Ông giác ngộ, hiểu vạn pháp đúng như sự thật và tin tưởng sâu xa, vững chắc vào Đạo Giải Thoát, ông đắc quả tu-đà-hoàn.4. Đức Phật được anh rể của ông Cấp Cô Độc cung thỉnh đến nhà để cúng dàng trai tăng. Nhân dịp này, ông Cấp Cô Độc xin Ngài cho ông được xây cất một tinh xá tại thành Xá-Vệ ở nước ông là nước Câu-Tất-La. Ngài bảo ông rằng chư Phật chỉ ưng những nơi thanh tịnh. Ông hiểu ý Ngài và thưa rằng ông sẽ tìm một nơi an tịnh gần Xá-Vệ.Về đến nhà, sau khi cố gắng, ông tìm được một khu rừng thưa cây gần thành Xá-Vệ thuộc quyền sở hữu của thái tử Kỳ Đà, con vua Ba-Tư-Nặc. Ông hỏi mua nhưng thái tử không có ý bán. Thấy ông khẩn khoản mãi, thái tử ra giá thật cao, cốt ý cho ông thoái chí. Không ngờ ông ưng thuận điều kiện trải vàng kín cả khoảng đất mà ông muốn mua. Thái tử phải chịu vậy. Ông Cấp Cô Độc bèn cho gia nhân chở vàng đến phủ kín đất nhưng chỉ vừa đủ đất để xây chùa mà thôi nên phải về chở thêm.Hết sức xúc động trước đạo tâm và hạnh bố thí cúng dường của vị thí chủ ấy, thái tử Kỳ Đà bảo ngưng chở vàng và chính ông cũng phát tâm cúng dường vùng đất cùng cây cối còn lại. Hơn thế nữa, khi ông Cấp Cô Độc cho thợ xây cất chính điện, tịnh thất và giảng đường, trai đường, tăng phòng, đường kinh hành với mọi căn nhà phụ thuộc cùng ao sen, giếng nước v.v… thì thái tử sai xây cất mọi thứ ngoại vi như tường bao, cổng ra vào, sân cỏ, vườn cảnh với hoa lá màu sắc xinh tươi. Chính vì lý do này mà sách vở về sau gọi tên nơi này là Kỳ thụ Cấp Cô Độc viên nghĩa là cây của thái tử Kỳ Đà, vườn của ông Cấp Cô Độc. Người ta cũng gọi ngắn là Kỳ Viên.5. Xong việc xây cất, ông Cấp Cô Độc cung thỉnh đức Phật tới nơi làm lễ lạc thành để ông dâng hiến ngôi chùa có tính cách quan trong trong lịch sử Phật giáo. Đức Phật thuyết pháp độ sinh trong 45 năm, Ngài đã nhập hạ 19 lần ở Kỳ Viên, việc ấy cho chúng ta thấy rằng nơi này quả thật có tính cách thiêng liêng.Khi đức Phật và chư Tăng an trú tại Kỳ Viên thì ông Cấp Cô Độc cùng gia đình và gia nhân chăm lo về mọi phương diện. Danh từ Phật học nói gọn là tứ sự cúng dường, nghĩa là thức ăn, quần áo, nơi ở giường nằm và thuốc men. Trong thực tế, ông Cấp Cô Độc còn chú ý đến nhiều chi tiết khác như săn sóc vườn hoa cây cảnh, cây cối lớn nhỏ, giếng nước cùng hồ tắm v.v… Không những ông là một đại hộ pháp của chùa Kỳ Viên mà ông còn là đại hộ pháp của chư tăng không cư ngụ trong Kỳ Viên: ông thường cúng dàng trai tăng, có khi trong nhà ông có tới hàng ngàn vị được cung thỉnh, như thế ta biết rằng dinh cơ biệt thự của ông lớn đến chừng nào.Có một lần, địa phương của ông Cấp Cô Độc bị một cơn bão lụt lớn, tài sản của ông coi như tiêu tán: nhà cửa bị đổ nát, tiền bạc bị cuốn trôi. Dù bị đẩy vào cảnh nghèo khó, ông vẫn tận tâm cúng dàng Tăng Bảo trong phạm vi tài lực của mình. Nhưng do sức phù hộ của các thiên thần hay nói cách khác, do phúc nghiệp vĩ đại của ông, chẳng bao lâu ông lại trở nên giàu có, mà giàu có hơn trước nữa, để tiếp tục công việc hộ pháp của mình.6. Không phải lúc nào đức Phật cũng trụ tại Kỳ Viên vì Ngài còn phải đi hoằng pháp nhiều nơi khắp lưu vực sông Hằng. Những lúc ấy, ông Cấp Cô Độc không thể hàng ngày đến lễ bái hầu hạ Ngài được. Ông bèn xin với chư Thánh tăng giúp ông có cách gì để hàng ngày nhớ đến đức Phật, chiêm ngưỡng và lễ bái. Ngài A-Nan bạch chuyện ấy với đức Thế Tôn và được Ngài dạy rằng có ba hình thức là bảo tháp tức đền thờ, thánh địa tức nơi ghi dấu các di tích và cuối cùng là nơi lưu giữ những vật kỷ niệm. Suy nghĩ kỹ, ông Cấp Cô Độc chọn cách thứ ba là đem trồng một nhánh cây bồ-đề tại cổng của Kỳ Viên. Ngài Mục-Kiền-Liên dùng thần thông giúp ông việc này: ngài tới Khổ Hạnh Lâm, cạnh sông Ni-Liên-Thiền, bẻ một nhánh cây bồ-đề là nơi đức Phật ngồi nhập định trước khi thành đạo, đem về cho ông. Ông Tu-Bồ-Đề được vua Ba-Tư-Nặc nhường cho cái vinh dự trồng cây bồ-đề này. Nhà vua nghĩ rằng tuy đất nằm trong lãnh thổ của nhà vua nhưng với việc gieo mầm Phật giáo trên cả nước thì rõ ràng là ông Cấp Cô Độc là người xứng đáng nhất để nhận vinh dự ấy.7. Khi ông Cấp Cô Độc bị bệnh nặng thì hai thánh tăng là trưởng lão Xá-Lỵ-Phất và tôn giả A-Nan đến thăm. Ngài Xá-Lỵ-Phất nhận thấy ông Cấp Cô Độc sắp lìa đời bèn thuyết pháp cho ông, đại ý khuyên ông dứt khoát buông xả sự dính mắc với lục căn, tách rời tâm thức ra khỏi lục trần, không cho lục thức duyên theo lục trần nữa. Ngài A- Nan khuyên ông giữ tâm bình thản, thanh tịnh.Khi Ngài Xá-Lỵ-Phất cho ông biết rằng những lời thuyết pháp ấy chỉ để dành cho các vị xuất gia nhưng nay đem thuyết cho ông vì tâm của ông không khác gì tâm của một vị đại sa-môn, ông Cấp Cô Độc thỉnh cầu đức Phật và chư Thánh tăng ban cho hàng cư sĩ tại gia nhiều phạm hạnh được nghe các bài pháp nhiệm mầu như vậy. Sau đó, ông Cấp Cô Độc nhập chánh định và xả báo thân ngũ uẩn, giác linh của ông được lên cõi trời Đâu-Suất.Phật học Từ điển của Đoàn Trung Còn ghi rằng : “ Trong Soạn tập bá duyên kinh đức Phật có thọ ký cho ông Cấp Cô Độc quả bồ-đề vô thượng, mách rằng trong ba a-tăng-kỳ kiếp, ông Cấp Cô Độc sẽ thành Phật hiệu là Abhayaprada (Cấp cho sự yên ổn)”.Cuốn sách nhỏ nhan đề Sự tích Tu-Đà Cấp Cô Độc của Hellmut Hecker, do Nguyễn Điều dịch, cho biết rằng : “Điều đáng tưởng niệm và ngưỡng mộ vị cố đại ân nhân Phật giáo ở đây là sau khi gia nhập Thiên chúng, “ông” là vị thiên thần hộ trì Tam Bảo nhiệt thành nhất. Theo kinh sách kể lại thì chùa Kỳ Viên, sau lễ hỏa táng Tu-Đà, có nhiều đêm được Thiên chúng viếng thăm. Hào quang sáng rực. Vị dẫn đầu chư Thiên thần ấy dĩ nhiên là giác linh cố cư sĩ Tu-Đà Cấp Cô Độc”.Sách ấy còn cho biết : “Trong mười tám bài pháp nói đến Tu-Đà Cấp Cô Độc ghi trong Tạng kinh, có mười bốn bài do đức Phật tùy cơ duyên tự nói ra, một bài Phật thuyết do Tu-Đà đặt câu hỏi, một bài khác Phật giảng sau khi nghe Tu-Đà thuật chuyện đã đối thoại với những đạo sĩ Bà-la-môn giáo. Và sau cùng là hai bài pháp do tôn giả A-Nan và trưởng lão Xá-Lỵ-Phất đến bên giường bệnh của Tu-Đà để nhắc nhở. Mười tám bài pháp này chứng tỏ rằng trong kho tàng Phật giáo, hẳn đã có một phần quan trọng dành riêng cho người cư sĩ hay Phật tử tại gia, khi họ muốn đạt đến thánh quả mà không cần sống trong Giáo Hội!” □QUYỂN 245. ANH EM VUA A-DỤC
Vua A-Dục hay được nói đến trong lịch sử truyền bá Phật giáo. Đó là một vị vua anh hùng, đã thống nhất toàn cõi Ấn-Độ vào thế-kỷ thứ ba trước Tây lịch.Vua A-Dục quy y Phật pháp, thọ giới tỳ-kheo và gia nhập giáo hội Tăng-già. Tuy nhiên, Ngài vẫn giữ ngôi báu để tiện hoằng dương Phật pháp. Sự nghiệp hoằng dương này rất là vĩ đại. Không kể hàng ngàn hàng vạn chùa, tháp thờ Phật, không kể vô số kinh sách phát cho các hàng xuất gia và tại gia, Ngài lo việc khuyến thiện bằng cách cho làm nhiều tấm bảng đá dựng trên các ngã ba ngã tư đường để chỉ dẫn cho dân chúng làm lành, và chính bản thân Ngài nêu gương đời sống đạo đức, cấm sát sanh trong đền vua, chẩn tế cho người nghèo, cúng dường các vị sư sãi. Dưới triều Ngài, toàn dân được hưởng thanh bình. Công việc lớn nhất của Ngài đối với Phật giáo là triệu tập đại hội gồm một ngàn vị thánh tăng để viết nên Tam Tạng (Kinh, Luật và Luận).Kinh Câu Ly Lao Ngục có kể một câu truyện về vua A-Dục và người em ruột là Thiện Dung. Câu chuyện có thật hay chăng, chúng ta không bàn tới mà chỉ cần nắm lấy ý nghĩa mà thôi, vì đây lại là một cách thuyết pháp bằng thí dụ như ta thường thấy ...Một hôm Thiện Dung vào rừng săn bắn, thấy mấy nhà tu khổ hạnh, bèn nghĩ rằng: “Ăn sương uống gió, khổ sở thế kia, khí lực mòn mỏi, mà hãy còn dâm dục, tội lỗi chẳng trừ. Thế thì mấy ông sa-môn họ Thích ở trong nhà, nằm trên giường, được ăn uống, làm sao mà diệt dục được!”Vua A-Dục biết ý của em như vậy bèn nghĩ cách trừ ác niệm cho em. Ngài sai kỹ nữ của Ngài đến cung của Thiện Dung mà đàn hát, đồng thời nói với một đại thần: “Nếu ta có ra lệnh chém Thiện Dung thì người can ta, xin để bảy ngày sau hãy chém, chớ chém ngay.”Ngài bất ngờ đến chỗ Thiện Dung đang cùng các kỹ nữ vui đùa, nạt rằng: “Sao ngươi dám cả gan cùng kỹ nữ của ta chơi bời như vậy”; rồi Ngài họp quần thần luận tội. Khi Ngài ra lệnh đem Thiện Dung ra chợ chém đầu thì vị đại thần can gián: “Cúi xin Đại Vương hoãn cho, thi hành việc ấy bảy ngày nữa cũng chẳng muộn.”Nhà vua giả vờ lặng lẽ nghe theo và phán: “Vì nó là em của Trẫm nên hãy lấy quần áo của Trẫm cho nó mặc, cho nó ở trong lâu đài của Trẫm và bảo bọn kỹ nữ đến đó ca hát cho vui lòng nó trong vòng bảy ngày.”Nhà vua lại ra lệnh cho một đại thần mặc áo giáp, cầm gươm bén đến bảo Thiện Dung rằng: “Hoàng Thượng đã phán quyết, nên Vương Tử hãy nổ lực mở tung năm căn mà hưởng năm món dục lạc cho thỏa thích kẻo uổng, vì mấy ngày nữa chết đi, phí mất.” Sau mỗi ngày, vị đại thần này lại đến nhắc: “Còn mấy ngày nữa là đến kỳ hạn đem chém, nên ráng sức mà hưởng thụ kẻo uổng.”Hết ngày thứ bảy, nhà vua đến hỏi Thiện Dung rằng: “Sao? mấy ngày qua tâm ý của hiền đệ được tự do hưởng khoái lạc có sung sướng không?”Thiện Dung đáp: “Quả thật em chẳng thấy, chẳng nghe gì cả, có đâu mà sung sướng.”Vua A-Dục bảo: “Hiền đệ mặc quần áo của ta, ở trong cung điện của ta, ăn những món hảo hạng, lại cùng chung vui với bọn kỹ nữ, lại nói chẳng sung sướng gì hết, sao giám khi ta như vậy?”Thiện Dung tâu: “Tuy em chưa chết, nhưng so với người sắp chết cũng chẳng khác mấy thì còn lòng dạ nào mà hưởng vui nữa!”Lúc đó nhà vua mới nói rõ: “Theo ý ta, hiền đệ mới chỉ lo rầu cho cái thân một đời mà còn khổ đến như thế! Khi thân sắp chết, hiện đang trong cảnh ngũ dục mà chẳng thể vui; huống chi các sa-môn lo nghĩ nổi khổ não trong ba đời: một khi thân này chết, lại thụ thân khác, cứ như thế mãi thật là cái khổ vô lượng không nói xiết. Vì thế các ngài mới xuất gia tu đạo để tự độ và độ thế. Nếu các ngài chẳng tinh tiến tu trì thì sẽ chịu khổ trong nhiều kiếp. Hiền đệ có hiểu không?Bấy giờ, Thiện Dung mới sáng mắt, bèn tâu: “Em đã tỉnh ngộ. Sinh Lão Bệnh Tử thật là đáng sợ, lo buồn khổ não trôi lăn chẳng dừng. Cúi xin Vương huynh cho em xuất gia cầu Đạo...”Sau, Thiện Dung chứng quả a-la-hán. □(theo một truyện cũ)GS NGUYỄN VĂN PHÚnguyên Hiệu trưởng
trường Trung học Tư thục Hưng Đạo Sài Gòn
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 029
PHAN NHẬT NAM *ÐI VỀ PHÍA MẶT TRỜI
Dẫn nhập Do vận động của Ðỗ Thông Minh, Người Bạn Ðông Kinhtừ hai thập niên qua của giới báo chí truyền thông, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của cộng đồng người Việt hải ngoại, tiếp theo lần tìm gặp, tiếp xúc chạy vòng từ đông-tây, dọc theo trục nam-bắc nước Mỹ qua trung gian của Dương Phục (Ðài Phát Thanh Sài Gòn- Houston, Texas), và Huỳnh Lương Thiện (Báo Mõ, San Francisco, CA).. Cuối cùng, người bạn kiếm ra anh nơi hẻm hóc, chốn giá lạnh, nóc nhà nước Mỹ để giao nhiệm vụ - Ði về phía Ðông, đến nói cùng người Nhật và thế giới Ký Ức về Chiến Tranh Việt Nam - Công việc mà tự thân anh đã tình nguyện gánh vác dài theo hơn bốn mươi năm của đời người, từ đầu thập niên 60, lúc chọn nghiệp lính vào năm thanh xuân 17 tuổi.
Người Lính-Viết Văn không có một nhiệm vụ nào khác- Phải nói, viết cho đến tận cùng - Bởi Nỗi Ðau nầy luôn là Nỗi Ðau chung.
Cách đây hai mươi năm, ngày 7 tháng 9, 1981, nơi Trại Lam Sơn, Thanh Hóa bắc Việt Nam, bắt đầu lần kiên giam đợt thứ hai, anh bước vào căn hầm kín cửa dài hai thước, rộng một thước, cao ba thước, sau bốn lớp cửa gỗ bọc tôn thiếc, ngăn cách khu kiên giam với khu giam giữ tù nhân; nhưng nếu tính với xã hội bên ngoài, miền đất phương Nam xa xôi, thế giới của những quốc gia văn minh, dân chủ - Khu kiên giam nầy, nơi giam tù cấm cố, hoặc tử tội chờ ngày đem đi bắn, cách biệt đủ 10 cánh cửa - bằng số cửa địa ngục Dante mô tả trong The Inferno. Người Lính-viết văn nhìn lên ô cửa thông hơi rộng hơn gang tay chắn lưới sắt, tự hỏi: "Con người có thể đối xử với nhau như thế nầy hay không? Người có thể bị kết tội từ những chữ viết mà quả thật không hề là một đe dọa, xúc phạm đối với bất cứ ai?!" Trong nỗi bi phẫn khốn cùng ấy, quả thật anh thấy được chết dễ dàng hơn phải sống - Tuy nhiên anh không hề tuyệt vọng.
Anh không tuyệt vọng bởi vững tin: Sẽ có một ngày (nếu như không phải bức tử), anh được quyền nói lên tình cảnh bi thảm nầy. Bởi, tình cảnh đau thương mà anh phải hứng chịu, chứng kiến, sống cùng, đã và đang trải qua không của riêng cá nhân anh; cũng không phải chỉ là hậu quả thua trận của một quân đội; và cũng không là tác động có giới hạn đối với những công dân của chế độ cộng hòa phần đất phía Nam nước Việt. Không phải như thế - Nỗi Ðau không từ một ai, xuyên suốt theo cùng Lịch Sử, rung động tự thâm sâu vận mệnh Dân Tộc Việt.
Người Lính-Viết Văn không có một nhiệm vụ nào khác- Phải nói, viết cho đến tận cùng - Bởi Nỗi Ðau nầy luôn là Nỗi Ðau chung.
Qua hai vòng thế giới, xuyên suốt khắp đại lục Bắc Mỹ từ ngày anh ra khỏi nước (5 tháng 11, 1993), hơn bốn mươi lần anh đi đến nơi những cộng đồng Người Việt, ngày 14 tháng Giêng, 2002, Lễ Thành Nhân cổ truyền của Nhật, nơi diễn đàn vinh hạnh, trước hiện diện của những Người Bạn trung thực, thêm một lần, ước vọng sâu xa dài hơn phần tư thế kỷ nay đã trở thành hiện thực. Anh cám ơn Bằng Hữu Thế Giới và Ðất Nước Nhật Bản - Nơi đi lên của Mặt Trời, biểu hiện bất diệt Con Người - Sự Sống. Và anh bắt đầu bản tường trình dài dường như không hề chấm dứt về những con người của một quê hương khắc nghiệt bi thảm, nhưng không thiếu phần siêu việt kỳ diệu - Người và Khổ Nạn Việt Nam.
Chiến tranh nhìn từ nhiều phía
Buổi sinh hoạt được tổ chức tại Trường Ðại Học Ngoại Ngữ, Học Viện Ngoại Giao Tokyo vào Ngày Lễ Thành Nhân (14 tháng 1 Dương Lịch) của truyền thống Nhật. Ngày lễ đánh dấu buổi con người từ tuổi thiếu niên nên trưởng thành, khởi đầu giai đoạn mới - giai đoạn quyết định- từ đấy người tự lập, chủ động cuộc sống riêng mình. Buổi sinh hoạt không vô cớ chọn ngày, tháng, thời điểm ý nghĩa sâu xa nầy - ý hẳn ban tổ chức muốn truyền đạt một thông điệp - Từ đây, chúng ta nhìn lại cuộc chiến không chỉ tác động riêng đối với người và xã hội Việt Nam, nhưng liên hệ đến nhiều sắc dân, quân đội của những chế độ chính trị khác nhau - những nước đã từng tham dự cuộc chiến mà hậu quả đến hôm nay vẫn còn sâu xa ảnh hưởng. Hội chứng Việt Nam hiện tại vẫn hằn sâu lên tâm lý giới cầm quyền, điều hành nước Mỹ, cũng như hệ lụy Ðệ Nhị Thế Chiến, phần đau thương của nước Nhật gây nên tự quân đội Nhật (đối với các nước vùng Ðông -Nam Á, Trung Hoa, Ðại Hàn, Việt Nam), hoặc nhân dân Nhật hứng chịu hôm nay vẫn hằng (được và phải) nhắc lại. Nhắc lại để tránh những lỗi lầm của quá khứ, nhắm đến tương lai - Thiên niên kỷ Thứ Ba của nhân loại mà Châu Á-Thái Bình Dương sẽ là diễn trường quyết định với vai trò quan trọng hàng đầu của Nhật Bản. Nước Nhật hẳn đang chuẩn bị cho tương lai hiện thực nầy. Thế nên, buổi sinh hoạt chắc đã hình thành không do những lý do tùy tiện, ngẫu nhiên.
Sau phần giới thiệu của ban tổ chức gồm có các Giáo Sư Susumu Fugita, Minoru Iwasaki, và Imai Akio của học viện, các thuyết trình viên lần lượt trình bày nội dung chủ đề mà ban tổ chức đã thông báo, chỉ định từ tháng 11 năm 2001. Người thuyết trình xử dụng ngôn ngữ của quốc gia mình, thông dịch sang Nhật ngữ do những giáo sư, sinh viên đang giảng dạy, hoặc theo học các học trình tiến sĩ chuyên khoa ngôn ngữ của quốc gia đó.
Theo chương trình dự định, Bảo Ninh, tác giả Nỗi Buồn Chiến Tranh (đã được dịch sang Nhật ngữ), và Thân Phận Tình Yêu(những cuốn sách nói về mất mát, đau thương của tuổi trẻ miền Bắc Việt Nam trong chiến tranh) phát biểu trước. Nhưng vào tuần lể đầu tiên của tháng 1, 2002, tác giả nầy thông báo không tham dự buổi hội thảo được vì lý do "trở ngại giấy tờ hành chánh", nên anh gởi một bản văn đến ban tổ chức hội thảo. Văn bản nầy được dịch ngay sang tiếng Nhật, và được phổ biến vào giờ khai mạc. Sự kiện Bảo Ninh vắng mặt sẽ được đề cập lại trong phần hậu từ của bản tường trình nầy. Người thay thế Bảo Ninh, Nguyễn Minh Tuấn, nguyên biên tập viên, chuyên bình luận kinh tế của Báo Ðại Ðoàn Kết, Hà Nội, hiện là giảng viên tiếng Việt của trường từ năm 2000, di dân qua Nhật theo diện gia cảnh (do kết hôn cùng cô Keiko Watanabé, biên tập viên Báo Yomiuri, nhật báo lớn nhất của Nhật) bắt đầu buổi hội thảo. Nguyễn Minh Tuấn khởi đầu phần trình bày với tư thế: "..Năm 1975, tôi mới mười-lăm tuổi, nên dẫu đã khai thêm hai tuổi để đang ký vào quân đội thì cũng chỉ đi lính được một ngày, và miền Nam đã được "giải phóng".. Tất cả ký ức về chiến tranh của tôi là những ngày sơ tán tại miền Bắc Việt Nam để tránh bom Mỹ.. Những hoàn cảnh cực khổ và dễ sợ." Tuấn có những nhận xét trong phần kết luận: "Hiện tại ở Việt Nam, hầu hết mọi người hình như không ai muốn nói về chiến tranh. Hằng năm, vào những ngày lễ lớn như "giải phóng miền Nam 30 tháng Tư", ngày Quốc Khánh 2 Tháng 9, chỉ những tờ báo nhà nước (Báo Nhân Dân, Quân Ðội Nhân Dân, Công An..) mới nhắc lại những chiến thắng quân sự. Còn phần đông dân chúng chỉ chú trọng vào đời sống, lo toan sinh kế vật chất. Và đời sống xã hội, thị trường tài chính, kinh tế thì bị nạn tham nhũng hoành hoành, hiện tượng áp bức tràn khắp.. với thành phần nạn nhân đầu tiên chính là những người đã dựng nên những chiến thắng kể trên."Nguyễn Minh Tuấn cũng không "ngạc nhiên" về sự kiện Bảo Ninh vắng mặt. Qua kinh nghiệm làm báo ở Việt Nam, anh đã quá quen với những lý do "trở ngại giấy tờ hành chánh" nầy, bởi chính bản thân anh cũng đã là nạn nhân của những lý do tương tự đôi ba phen. Phần phát biểu của Nguyễn Minh Tuấn được chuyển sang Nhật Ngữ bởi Giáo Sư Odaka Tai, Giảng Viên Khoa Quan Hệ Quốc Tế, Ðại Học Daitobunka.
Tiếp đến phần trình bày của Người Lính-viết văn. Trái với người bạn đến từ miền Bắc Việt Nam kia, anh đã chứng kiến, chịu đựng chiến tranh từ thuở thơ ấu, khi chưa đến tuổi lên mười trong những vùng gọi là chiến khu(địa phương thuộc quyền kiểm soát của lực lượng Việt Minh trong giai đoạn chiến tranh 1945-1954) suốt một đời dài cho tới hôm nay, sắp đến tuổi 60. Anh chịu đựng với chính thân xác mình, nghe bằng tai, thấy tận mắt, hít thở thấm đẫm hơi người chết, đầm đìa khắc khoải tiếng kêu thương tâm của vạn, triệu cảnh đời khốn cùng, đau đớn oan khốc diễn ra qua từng ngày, từng giờ trên suốt giải quê hương - không chỉ giới hạn nơi những xóm làng, đồng ruộng, thị trấn miền Nam, nhưng đến tận đầu nguồn biên giới, vùng núi non cực bắc đối diện lãnh thổ Trung Quốc, hoặc nước Lào ở phía Tây. Tình cảnh anh không phải là trường hợp đơn lẻ, cá biệt, nhưng là cảnh huống điển hình của toàn dân tộc khổ nạn. Anh chỉ là một con người sống tận cùng với khổ nạn Việt Nam. Anh không nói quá lời mà sợ rằng không đủ tiếng lời để nói. Và không chỉ trong ba mươi phút ấn định, nhưng nếu có thể với ba mươi giờ vẫn chưa đủ để kể hết toàn cảnh xót xa khắc nghiệt kéo dài hơn nửa thế kỷ, từ ngày Mặt Trận Việt Minh (do đảng cộng sản Việt Nam ẩn danh lãnh đạo) khởi đầu cuộc chiến, 19 tháng 12, 1946, đến khi mặc áo lính, 1960-61, cho đến ngày tàn cuộc 30 tháng tư, 1975, tiếp lần vào trại tập trung sau đó, chuyển ra giam cấm cố ở miền Bắc, 1976, và cho đến tận hôm nay - Dấu vết, ký ức chiến tranh vẫn còn nguyên độ sắc. Anh sống đủ đời với của cuộc chiến và hứng trọn hệ quả của nó dẫu hôm nay tạm lìa bỏ quê hương.
Nầy đây, hãy anh kể lại: "Chỉ trong vòng bốn mươi tám giờ kể từ khi bắt đầu cuộc hành quân trực thăng vận của ngày 20 tháng 8, 1964, từ phi trường Bến Tranh xuống một ngôi làng Quận Bình Ðại, tỉnh Kiến Hòa.. Ði sau hai người khinh binh, tôi bước e dè, nhọc mệt, do tiểu đoàn đã đụng nặng từ lúc xuống trực thăng, thêm việc nhặt những xác chết của đơn vị bạn, người tôi lao đao trong cảnh trận địa nguy khốn, mùi hôi tanh từ máu người lẫn hơi bùn xông lên ngây ngây ngật ngật. Ðến ngày thứ hai thì nỗi thảm hại trong lòng càng thêm độ sắc, bởi đám tàn binh cộng sản bị thiệt hại của ngày hôm trước nay không đường thoát thân, phải chui vào đụn rơm, ao bèo lẫn trốn. Tôi kéo ra một gã du kích.. Chỉ là một thiếu niên mặt mày ngơ ngẫn do quá sợ hãi, mồm ngậm búng cơm. Tôi nhìn kỹ vào mắt hắn ta, tự hỏi: Ðây là kẻ thù của mình sao? Ðây là "chiến sĩ giải phóng", đầu mối tai họa, kiệt cùng khổ nạn Việt Nam? Thêm một ngày nơi trận địa, cảnh tượng bi thảm càng thêm nặng nề, vây bọc, siết cứng lại.. Tôi đi vào khu vực Nhà Thờ Công Giáo xã Bình Ðại, ngôi nhà thờ đẹp đẽ đã trở nên đống gạch đổ nát giữa hàng rừng dừa ngã nghiêng trốc gốc bốc khói xanh. Khi cúi xuống nhặt bàn tay gãy của tượng thiên thần, tôi khám phá ra năm xác chết. Ðấy là gia đình người giữ nhà thờ, hai vợ chồng, ba đứa con. Năm người chết từ đâu ngày hôm trước. Chết không biết do đạn của bên nào? Những xác chết còn "tươi" do sức nổ gây hơi ép, nét mặt in dấu, vẻ kinh hoàng, chết ở vị thế ngồi dưới bàn thờ Chúa. Năm xác người được kéo ra nằm trên sân đá lạnh, nắng dọi xuống gây gây im lặng vàng khô. Nhìn lên hàng rào, chiếc áo tím của cô con gái đầu lòng bay dật dờ như nỗi oan khuất không nói ra.
Tiếp ngày hôm sau, quân đi vào một khu vườn với căn nhà đang cháy nghi ngút khói, những cột gỗ cháy đỏ xiêu lệch, nền gạch vỡ loang lỗ những dấu đạn pháo.. Có người đàn bà chưa đến tuổi ba mươi, nét mặt đôn hậu, trong sáng của người phụ nữ miền Nam chưa phải chịu đời khó khăn, vất vả. Chị ngồi ngơ ngẩn trên thềm ngôi nhà đang cháy dỡ. Tôi đi đến... Không biết đang có đánh nhau hay sao mà chị lại ngồi đây? Im lặng, chị ta đứng dậy, đưa chiếc giỏ mây vào mặt tôi. Ðộng tác nhanh gọn như người tập thể dục. Tôi mở gói giấy cột chặt bởi những vòng cao su... Sợi giây chuyền vàng, đôi bông tai, hai chiếc nhẫn và cái kiềng. "Vàng, chắc hơn một lượng, con mẹ nầy sợ quá hoá điên rồi. Lấy đi thiếu úy, không ai thấy, em cũng không nói cho ai biết đâu.. Ê, đi đi.." Người lính mang máy truyền tin thầm thì bên vai tôi. Anh hươi mũi súng đuổi chị đàn bà. Người nầy bước đi với nét mặt không cảm giác.
- Không được, vàng của người ta, mình đâu có quyền lấy. Nầy, chị trở lui đi, tôi trả lại đây". Tôi nói với theo. Người đàn bà quay lại, cũng với bước chân vô hồn không cảm giác. Nhưng khi đưa tay đón lấy chiếc giỏ, nét mặt chị ta bỗng nhiên nhăn nhúm lại như đang phải chịu cơn đau quá độ: Chị buông thỏng hai tay, chiếc giỏ rơi xuống đất.. Từ từ người đàn bà đưa tay lên hàng nút áo.. những ngón tay xoắn giữ chặt, toàn thân run bần bật.
- Trời đất ơi!! Tôi kêu lên tiếng nhỏ. Người đàn bà có thể đã không hiểu lời tôi do từ cách phát âm giọng người miền Trung pha âm Bắc, nhưng chắc rằng, bởi đã sống trong vùng du kích cộng sản kiểm soát, chịu sự tuyên truyền dai dẵng dài lâu, nên chị đã nhìn tôi như "một gã lính hung bạo với áo quần rằn ri, chuyên hiếp dâm, giết người, cướp giật - như lời "tuyên truyền giáo dục"thường trực tác động sâu xa của cán bộ chính trị cộng sản. Ðộng tác trả vàng lại cho người đàn bà cũng không phải là thái độ, hành vi đạo đức lớn, đấy chỉ là việc làm nhỏ bé, bình thường của một người "có giáo dục tại Miền Nam"- Biết trọng người và yêu thương đồng loại.Sự hiểu lầm cay đắng của người đàn bà đồng thời chỉ cho tôi hiểu ra rằng: Tính ác độc tàn nhẫn của chiến tranh, không chỉ làm cho người trở nên "hai kẻ xa lạ", nhưng là đầu mối, tai họa thống khổ đối với nhau.
Tôi dẫn người đàn bà ra bến sông qua Mỹ Tho. Chị đi tới với bước chân vô định.. Lai! Lai! Má đây con ơi!! Một người nào dưới sông kêu thất thanh, chị quay lại. Aùnh mắt trống không. Vẫn bước chân vô hồn, chị đi về chỗ thuyền đậu chen chúc.. Má! Má, nhà mình cháy rồi, cháy hết rồi. Chị vẫn còn trong cơn mê của sợ hãi. Chị vẫn chưa phục hồi trí nhớ để nhận ra rằng: "Mình đã được gìn giữ, bảo vệ bởi gã lính trẻ tuổi mà chị vừa hiểu nhầm rằng y đòi lấy của, muốn hiếp dâm". Tôi nói với những người lính đang đứng nhìn theo người đàn bà: "Nhìn gì mấy cha, đi lẹ lẹ còn qua phà, về Sài Gòn cho kịp." Về Sàigòn lại đứng đường, gác chợ cứ như thằng ăn mày, sung sướng gì mà ham về sớm thiếu úy ơi!!
Ðơn vị xuống phà qua Mỹ Tho để tiếp lên xe về Sàigòn, nhận nhiệm vụ chống biễu tình, giữ an ninh thủ đô.. Hai gã thiếu niên đi đầu đoàn người căng biễu ngữ màu vàng: "Cương quyết bảo vệ Ðạo Pháp". Hai gã khác mang một tấm khác có giòng chữ nguệch ngoạt, "Hoan hô quân đội".. Ðám đông la ó, những viên đá ném tới.. Những viên đá rơi trên nón sắt, thân áo giáp, lời chưởi bới ào ào nghiệt ngã:"..đ..má chúng mầy ăn tiền mỹ-ngụy bao nhiêu hỡ... Ai trả lương cho chúng mầy giết thầy, hại đạo!!"Những người lính chúng tôi chưa kịp rửa đôi giày lấm bùn của chiến trận ngày hôm qua, vết cháy ở áo Hạ Sĩ Ty, máu khô còn đóng trên mặt Binh Nhất Thái, và chính tôi - mùi người chết còn nguyên nơi miệng, lưỡi.. Tất cả chỉ vừa qua của bốn-mươi tám bốn giờ từ một vùng đất gọi là Bình Ðại, Tỉnh Kiến Hòa. Bình Ðại- Sài Gòn chỉ khoảng trăm cây số đường chim bay."
"Câu chuyện kể tiếp tục với cảnh tượng những đứa trẻ sống sót trong ngôi làng Xã Chánh Khoan, vùng Quận Phù Cát, Tỉnh Bình Ðịnh. Làng trù phú, vườn củ đậu xanh ngắt, lúa chín vàng, chĩu nặng bông trái nhưng không bóng người, nhà nhà cửa đóng kín, mùi tử khí âm âm.. Những đứa bé được tìm thấy từ căn nhà cha mẹ đã chết vì dịch hạch. Bé kiệt sức vì đói, rét do trời đang ở cuối mùa Ðông 1966.
Câu chuyện tiếp tục với hoạt cảnh xót xa im lặng nơi vùng đất lửa hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, biên giới cực bắc của miền Nam đối diện với miền Bắc qua vùng "Phi Quân Sự". Mùa Ðông năm 1967, hai giờ sáng từ Cửa Việt, đơn vị anh, Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù đưa quân lên hướng Bắc sát sông Bến Hải. Trời sáng dần để thấy lẫn sau giải đụn cát, gò đất có những "ngôi nhà" nhỏ. Không biết đáng để gọi là "nhà" hay chăng, vì thật sự chỉ là những hầm hố, trên đó người dân úp lên một mui thuyền và cả gia đình, những con người ngồi bó gối sát vào nhau. Khi nhận ra những người lính đang làm việc lục soát, những con người ngồi trong những căn nhà kia cử động.. Họ bò ra. Vâng, những "con người gọi là người Việt Nam" kia bò ra bằng hai bàn tay và đầu gối, như một loại dã nhân tiền sử chưa đứng thẳng được cột sống. Bao đời nay, người đàn bà ở hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên, bất kể giai cấp xã hội nào, theo phong tục kín đáo luôn có thói quen luôn mặc áo dài, dù áo dài cũ kỷ, rách vá, hoặc đang làm việc nặng nhọc, lầm than. Những chiếc áo dài rách tay, độn vai bởi hàng chục miếng vá, khác màu, khác vải. Nhưng chiếc áo dài của người đàn bà làng Diêm Hà Thượng ở vùng giới tuyến không còn chức năng của mục đích, ý niệm ban đầu - Ðể bảo vệ phẩm tính cao quý, thể hiện phong cách kín đáo của người nữ. Tất cả những danh, tỉnh từ huênh hoang, tô vẻ mà những kẻ lãnh đạo chiến tranh của cả hai bên hằng nại đến để chiếm đoạt "lý chính nghĩa" đã trở nên vô dụng, mất ý nghĩa đích thực, vì vạt áo dài kia không được kéo dài hơn, không đủ lành lặn để thay thế chiếc quần che phần hạ thể trong động tác bò lết."
Nhưng chiến tranh bên cạnh chuỗi cảnh tượng thê thiết dằng dặt kể trên vẫn có những hoạt cảnh bi tráng mà mỗi người lính, người dân miền Nam hằng hiện thực qua từng ngày giờ bão táp với cách thế chịu đựng vô vàn kỳ lạ tưởng chừng như không thật. Chúng ta hãy chứng kiến những phận người sống-chết qua lửa đạn.. "Ngày 25 tháng 6, 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn I quyết định khai diễn chiến dịch tái chiếm Quảng Trị. Khi đổ quân xuống bãi cát nam Quận Hải Lăng, trên trục tiến quân hướng khu Nhà Thờ La Vang, mục tiêu cực tây, vị trí giữ cạnh sườn trông về hướng Trường Sơn, những người lính thấy những luồng hơi ong óng trên mặt cát kia sao. Trời sáng dần, quân tiến sâu vào vùng hơi bốc lên kia thì họ khám phá ra.. Luồng khí bốc lên ấy là tàn hơi của một loại lửa đặc biệt. Lửa được cấu tạo không chỉ do vật chất bị đốt cháy như gỗ, sắt, thép của các loại súng đạn, xe cộ, vật dụng chiến tranh; lửa còn được tăng cường nung nấu bởi áo quần, quang gánh, giày dép...Và cuối cùng, lửa được bền bỉ gìn giữ bởi một chất liệu bất ngờ, phí phạm và thực sự không cần thiết - Những tế bào hữu cơ của thân thể người bị xé rách, vùi dập, thiêu đốt cháy âm ỉ làm chảy sênh sếâch mặt nhựa đường. Loại lửa thuần túy "nhân tạo" nầy đã tồn tại từ bao ngày qua - từ ngày 29 tháng Tư, 1972, thời điểm những sư đoàn Miền Bắc tấn công, cưỡng chiếm thị xã Quảng Trị, phục kích đoàn người di tản, chạy loạn qua vùng đất 9 cây số từ La Vang xuống Cầu Câu Nhi Phường, nam Quảng Trị. Con người nghe tiếng nổ cấp kỳ và thân người tung xé bay bay lên với lửa.. Họ "biết rõ" như thế và chỉ biết giương tròng mắt ngó trân..
Lửa! Lửa! Lửa!Những cái chết kia không chỉ một lần, vì cảnh tượng thương tâm kia không chỉ riêng cho ngày 29 tháng 4, mà được lập đi lập lại suốt gần hai tháng qua với đạn, bom cực độ của cả hai bên, bên nầy lẫn bên kia sông Bến Hải để tạo nên một địa ngục lặng im dưới trời sáng nắng, trên bãi cát lây lất màu máu cặn. Nhưng loại lửa nhân tạo kia lại không đủ độ nóng cần thiết để thiêu cháy toàn diện, nên những xác người dù qua bao ngày chết lâu dài vẫn còn nguyên vẹn nét kinh hoàng của lần bức tử, dẫu chỉ là khối xương sọ nằm trơ bên hố bom kho cạn nước, sênh sếch váng lớp thịt xương, dạng thây người chưa hoàn toàn tiêu hủy.
Lửa dậy từ Hải Lăng
Giăng giăng triền cát trắng
Lửa phần phật nung rền
Ðỏ cọng cỏ đồi sim.
Bao xác người cháy đen
Dọc dài Ðường số I
Xác mẹ chồng xác con
Chập chờn màu lửa nghẹn
Dòng "Ðá Chảy Mồ Hôi"
Sôi sục hơi tử khí
Ðồi"Thánh Mẹ Sầu Bi"
Nhầy nhầy thây kinh dị.
Thây thê thảm quắp co
Ðặc quánh vũng máu đỏ
Ðất sềnh sệch thịt người
Lặng nở trời nắng to...
... Kẹt trong xích xe tăngNhưng từ sâu khổ nạn với cảnh chết tận cùng kia, bỗng sáng chói điều kỳ diệu như tia chớp của giữa đêm đen giông bão. Khi những người lính vượt tuyến xuất phát, đội pháo vượt qua vũng lửa Hải Lăng, Giáp Hậu, La Vang thì trên đồng cháy xuất hiện những bóng người thấp thoáng xiêu lệch.. Họ chạy ngã nghiêng, chập choạng như những bóng ma nhập tràng vừa dựng dậy từ đám xác chết. Và như được hồi sinh bởi một năng lực mầu nhiệm, đám "ma người" đồng thất thanh kêu lớn... Lính tới! Lính tới! Lính cộng hoà tới! Và chắc rằng chính tiếng kêu trong đáy thẵm chết chóc của những người dân nầy là tin cậy trao gởi cổ vũ mãnh liệt nhất để những người lính dựng nên kỳ tích của trận chiến Mùa Hè 1972 ở mặt trận Quảng Trị trong ngày 14 Tháng 9- Khi những chiến binh của các Tiểu Ðoàn 1 và 6 TQLC đồng khép chặt, diệt gọn ổ kháng cự cuối cùng nơi Cổ Thành Ðinh Công Tráng, dựng NGỌN CỜ VÀNG lúc đúng Ngọ- Giờ mặt trời lên thiên đỉnh chiếu ánh sáng rực rỡ uy nghi xuống Ba Vạch Ðỏthắm tươi thêm sắc máu của những người hằng chết cho một điều không bao giờ nói nên lời: Con người luôn sẵn chết vì TỰ DO- Những người LÍNH vô danh, những người DÂN không ai biết đến - Dân và Lính Miền Nam. Của Quốc Gia tên gọi VIỆT NAM CỘNG HÒA." Câu chuyện vốn còn rất dài, nhưng bởi thời lượng không đủ, anh chấm dứt phần trình bày với kết luận: "Thượng đế ban cho con người sự sống, và kế hoạch hóa tình cảnh, thời điểm từ giả cuộc đời trần thế- Nhưng con người trong chuỗi sinh tồn kia đã hiện thực điều bi thiết vĩ đại của mình - Người quyết định lần chết cho chính bản thân. Người trao gởi lại sau cái chết xác thân một trị giá vinh diệu.Người Việt Nam đã hiện thực điều cao cả kia một cách tự nhiên trong suốt đêm đen bất hạnh dài theo thế kỷ, giữa vũng lửa chiến tranh mà toàn dân tộc đang gánh chịu một cách khắc kỷ- Xem như một sự cùng đành. Chúng tôi không nói điều tán tụng với chữ nghĩa phù phiếm, không nội dung- Chúng tôi xác tín với giá máu của mỗi người anh em đã, đang hằng hằng lâu dài gánh chịu... Không chỉ là những người lính nơi trận điạ, mà là hằng loạt tướng lãnh giữ chức tư lệnh đại đơn vị, hoặc sĩ quan cấp tá cao cấp: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Hữu Thông, Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long... Người không chỉ chết một mình, mà với toàn gia đình cùng một lần quyết tử- Chị Nguyễn Thị Thàng, vợ một nghĩa quân chết với chồng và đàn con nơi chiếc đồn cô quạnh ở vùng IV; Thiếu Tá Vĩnh, bào huynh của gia đình niên trưởng Hà Thượng Nhân (Trung Tá Phạm Xuân Ninh, Chủ Nhiệm Báo Tiền Tuyến) chết cùng với cả nhà gồm ba thế hệ: ông, cha, cháu; những người lính Thủy Quân Lục Chiến đồng tự sát nơi Bãi Mỹ Khê, Ðà Nẵng cuối tháng 3, 1975; Trung đội Nhảy Dù của Huỳnh Văn Thái cùng nỗ chung một lần lựu đạn sáng 30 tháng Tư. Ánh chớp thanh quang của anh hồn bao người trung liệt kia hẳn đã rung mờ nhật, nguyệt hiện thực lần Núi Sông cùng khóc với Con Người. Và Người cùng một lần sống mãi với Quê Hương."(*)
Xác thân ai rây máu
Trời ơi đau Hải Lăng
Hồn cào sôi bi phẫn.
Phần trình bày của anh đã được Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, Giám Ðốc Ðài Phát Thanh Á Châu Tự Do (RFA), Washington DC chuyển sang Anh Ngữ, bản dịch quay ronéo để sẵn nơi cửa phòng hội, cùng với văn bản tiếng Việt, được tóm lược qua Nhật Ngữ. Giáo Sư Nhật Văn, Lê Văn Cừ, bạn cùng lớp Trần Viết Ðại Hưng (San José, CA) cựu học sinh Hàm Nghi, Huế, người đã thấm hiểu, và chịu cơn đau của sự kiện lực lượng cộng sản tàn sát người Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968; lần chạy loạn oan khốc của ngày 29 tháng 4, 1972 nơi 9 cây số "Ðại Lộ Kinh Hoàng", phiên dịch cho anh theo kỹ thuật phiên dịch nghị trường qua phối hợp với anh từ đêm đầu tiên đến Nhật. Người Lính-viết văn cũng chuẩn bị sẵn ấn bản tiếng Anh "The Stories Must Be Told",cuốn sách được huynh đệ, bằng hữu khắp nơi giúp hoàn thành trong một thời gian kỹ lục trước ngày đi.
Tiếp theo, Cô Ku Sujeong, Hàn Quốc (tên Mỹ Suzane; tên Việt, Trâm), sinh viên học trình tiến sĩ sử học trình bày chủ điểm, "Những đơn vị Ðại Hàn có mặt trong chiến tranh Việt Nam"(Các Sư Ðoàn Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến, Thanh Long, Bạch Mã, Bạch Hổ chịu trách nhiệm vùng duyên hải Miền Trung từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận, 1965-1973). Cô Sujeong được một sinh viên người Ðại Hàn hiện theo học tại học viện giúp phiên dịch.
Chu Kiên, người Trung Hoa trình bày "Chiến tranh Việt Nam đối với Mao Trạch Ðông". Với những chứng liệu lịch sử cận đại còn rất mới, diễn giả người Hoa nầy minh xác ảnh hưởng lý thuyết, lẫn kinh nghiệm thực tiển của Mao Trạch động đối với những quyết định chiến lược, cũng như chiến thuật của giới lãnh đạo miền Bắc, đặc biệt đối với Hồ Chí Minh. Diễn giả nầy trình bày trực tiếp bằng Nhật Ngữ.
Và cuối cùng, Ado Makoto, thủ lãnh của phong trào phản chiến Nhật trong suốt nhiều thập niên qua những vận động đòi quân đội Mỹ rút khỏi Okinawa, phản đối Hiệp Ước An Ninh Nhật-Mỹ, trình bày quan điểm "Nhật Bản và Phong Trào chống Chiến Tranh" do ông và các nhóm bạn đồng quan điểm lãnh đạo, vận động, thực hiện.
Sau lần trình bày của Ông Ado Makoto, buổi hội thảo chuyển qua phần thứ hai: Ðối thoại giữa cử tọa và các diễn giả, hoặc phần bổ túc giữa những người thuyết trình. Khoảng bốn trăm người tham dự, phần đông thuộc lớp sinh viên trẻ tuổi (đang theo học các phân khoa chính trị, lịch sử của trường) hoặc những người lớn tuổi có lòng quan tâm đến thời cuộc, sinh hoạt chính trị. Ðáng kể nhất là các ký giả, phóng viên Hara, Tabata, Oshima phụ trách trang tiếng Nhật của tờ Mê-Kông do Hồ Thông Minh chủ biên. Các anh Hà Ngọc Giao, Lê Văn Xe, Trần Kiến Võ, chị Hà Anh Võ, và những thanh niên, thiếu nữ người Việt đến Nhật từ lúc tuổi ấu, thiếu, ở những nơi rất xa Tokyo (di chuyển ở Nhật luôn là một vấn đề khó khăn vì khoảng cách quá xa, dân số quá lớn. Tokyo là một trong những thành phố đông dân nhất của thế giới với 12 triệu người) đã đến tham dự buổi nói chuyện. Tuy nhân số ít nhưng các anh, chị, các cháu trẻ tuổi đã theo dõi với tất cả tấm lòng của những người Việt hằng thấm đau cảnh khổ. Các anh Lê Văn Xê, Trần Kiến Võ thuộc các khoá 19, 25 Trường Võ Bị Ðà Lạt, anh Hà Ngọc Giao là sĩ quan Hải Quân QLVNCH.
(*) Bản tường trình đầy đủ "Nỗi Ðau Ðầy Hơn Trí Nhớ" đã được chuyển sang Anh ngữ trong "The Stories Must Be Told".
Sự Thật ở đâu?
(Nếu lần phát biểu được ban tổ chức điều hành theo thứ tự kể trên, sang đến phần đối thoại thì thực hiện theo chiều ngược lại. Và Bản Tường Trình chỉ ghi lại những đối thoại của hai diễn giả người Việt, và những nội dung có liên hệ trực tiếp đến người và việc từ, của Việt Nam.)
Ông Ado với tinh thần phản chiến cực đoan, đã nhận định: "Chiến cuộc Việt Nam là biểu hiện nhất quán của chính sách "thực dân kiểu mới" được Mỹ hóa (Americanized, Ado lập lại nhiều lần) với những phương tiện quân sự khổng lồ, sức mạnh siêu đẳng của nền kinh tế, tài chánh của chủ nghĩa tư bản." Do quan niệm một chiều nầy được diễn đạt bằng tư thế trấn áp cơ hữu của diễn giả qua cách phát âm Nhật ngữ mạnh mẽ, với dẫn chứng sự kiện quân lực Mỹ đã từng tham chiến ở Ðại Hàn, trấn đóng tại Nhật trước khi có mặt ở Việt Nam, nên từ phía cử tọa đã có thắc mắc với cô Sujeong (Ðại Hàn): "Phải chăng lần tham dự của quân đội Ðại Hàn có nguyên do từ sự đe dọa của Bắc Hàn?" Có thể do cô đã không chuẩn bị cho câu hỏi thắc mắc nầy (vì chỉ đặt trọng tâm vào hoạt động quân sự của lực lượng Ðại Hàn tại Nam Việt Nam), nên Người Lính-viết văn đã xin phép được phép trả lời hộ, anh nói: "Chúng tôi đã quả đã dự tri cho câu hỏi nầy nên đem sẵn theo đây một dĩa CD có 30 hình ảnh về chiến tranh không phải chỉ riêng với hoàn cảnh VN mà còn của nhiều vùng đất, và những sắc dân khác. Một của 30 bức ảnh nầy là cảnh tượng người Bắc Hàn vượt sông Naktong chạy về phía nam vĩ tuyến 38 trong chiến tranh 1950-1953 (cũng được trích đăng trong phụ bản của The Stories Must Be Told). Hình ảnh nầy đủ để chứng minh sự kiện đe dọa của lực lượng quân sự, chính sách hà khắc chính trị của phe cộng sản không chỉ xảy ra với chiến tranh Việt Nam (mà chỉ do nguyên cớ là tham dự của người Mỹ như ôngAdo vừa kể ra)- Nhưng đe dọa mang tính danh cộng sảnđã có và hằng tác động lên toàn cầu, nên đã xẩy ra cảnh tượng như vừa kể trên trong nam 1950ở Ðại Hàn; sự kiện người lính Ðông Ðức đào thoát qua bức tường Bá Linh năm 1960; và hiện tượng vạn, triệu người Việt chấp nhận cái chết để thoát khỏi tay người cộng sản ở Việt Nam.. Di cư, vượt tuyến khỏi miền Bắc sau tháng 10 năm 1954; chạy loạn Mậu Thân 1968; chạy tỵ nạn năm 1972; di tản tháng Ba, Tư năm 1975, và cuối cùng đồng loạt (cả hai miền Bắc, Nam) vượt biên suốt hơn một thập niên sau 30 tháng Tư, 1975. Tóm lại, không những chỉ có đe dọa của Bắc hàn đối với Ðại Hàn, của Ðông Ðức đối với Tây Ðức, của Bắc đối với Nam Việt Nam- Nhưng đe dọa cộng sản là thực tiển của tình hình chính trị-quân sự toàn cầu trong suốt nửa thế kỷ vừa qua. Tóm lại, chiến tranh Việt Nam là chiến tranh hai miền Bắc-Nam, giữa chế độ cộng sản Miền Bắc và chế độ cộng hòa, dân chủ Miền Nam - Chiến tranh nầy khởi đi rất lâu trước khi chính phủ Mỹ đổ quân vào đến Việt Nam (mùa Hè 1965 tại bãi Ðà Nẵng)- Ít nhất cũng chính thức từ 19 tháng 12, 1960, ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam theo nghị quyết của Ðại Hội 3 Trung Ương Ðảng Lao Ðộng (cộng sản), ngày 10 tháng 6, 1960 tại Hà Nội. Và chiến tranh ấy vẫn kéo dài sau khi quân nhân Mỹ hoàn toàn rút khỏi Miền Nam (27 tháng 3, 1975), ngoại trừ một văn phòng tùy viên quân lực (DAO) theo điều khoản của Hiệp Ðịnh Paris. Có một cán binh bộ đội nào đã giao tranh với đơn vị chiến đấu Mỹ trong khoản thời gian trước, sau thời đoạn 1965-1973 ngắn ngủi của cuộc chiến tưởng chừng bất tận đau thương kia?
Một người khác (mà anh đoán chừng phải là người am hiểu rõ tình hình, văn hóa Việt do chữ viết (Việt ngữ) rất đều và đẹp) đặt cho anh câu hỏi: 1/ Phải chăng ở Miền nam có chánh sách cưỡng ép người vào lính? 2/Ðời sống vật chất của cấp sĩ quan rất thoải mái bởi có mức lương cao. 3/Chính sách giam giữ của chính quyền miền Nam đối với tù binh bộ đội cộng sản? Anh có trả lời như sau: "Trong một nước có chiến tranh thường trực, lẽ tất nhiên phải có chính sách tổng động viên nhân, vật lực cho cuộc chiến. Tuy nhiên như trường hợp anh, tự nguyện vào lính năm 17 tuổi đã chứng tỏ, miền Nam không thiếu những thanh niên tình nguyện vào quân ngũ, (không những chỉ tình nguyện vào Trường Võ Bị mà còn phải thi tuyển gắt gao). Hơn thế nữa, đơn vị anh, binh chủng nhẩy dù chỉ nhận người tình nguyện - từ cấp binh sĩ đến hàng tướng lãnh- và được gia nhập vào binh chủng nầy là một vinh dự lớn, mà người sĩ quan khi tốt nghiệp trường võ bị phải đậu thứ hạng cao, hoặc thủ khoa khóa học mới có quyền ưu tiên chọn lựa. Tuy nhiên, hoàn toàn không phải phải vì đồng lương mà người thanh niên vào lính- bởi đây là một nghề nghiệp có mức sống thấp nhất của xã hội miền nam- Số tiền lương của cấp sĩ quan chỉ ngang chừng 10 Ðô-la Mỹ, chứ đừng nói binh sĩ, hạ sĩ quan. Anh dẫn chứng với lời tự sự cá nhân anh trong mục tiểu sử tác giả của cuốn "Những Chuyện Cần Ðược Kể Lại: Chưa hề có một tài sản nào lớn hơn 10 đô-la Mỹ, tài sản lớn nhất có được là số tiền Bộ Xã Hội Mỹ cấp phát vào ngày nhập cư đất Mỹ năm 1993". Anh cũng không quên kể lại câu nói của người đàn anh thương mến, Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 2 TQLC: "Tao mấy năm làm tiểu đoàn trưởng chưa hề cầm số tiền lớn hơn 100.000 đồng (thời giá năm 1970, khoảng 60 đô-la Mỹ)" Chương "Người Lính Không Hề Chết"- NCCDKL (sđd)". Về câu hỏi thứ ba, tương tự như vấn nạn đối với cô Sujoeng về vấn đề "Mối đe dọa từ Bắc Hàn", lần nầy anh cũng chuẩn bị đủ đối với tình thế (dự liệu) qua chương "Tù Binh, Anh đi về đâu?" của cuốn sách viết từ 1974, "Tù Binh và Hòa Bình". Trong chương nầy anh đã viết nên lời: "Ở trại giam Phú Quốc do quân cảnh VNCH quản trị, người tù cộng sản được bảo vệ bởi những quy luật trại giam theo Công Ước Quốc Tế Genève về tù binh (cố vấn Mỹ của đơn vị quân cảnh lại là người giám sát nghiêm chỉnh việc thi hành nầy). Và trái lại, mối đe dọa nguy khốn đến từ những "đồng chí" của họ - Những cán bộ chính trị của tập thể tù binh cộng sản. Và khi ra khỏi nhà tù, trả về phía cộng sản, họ tiếp tục bị đày ải bởi nhà cầm quyền Miền Bắc bởi tội danh "đã để phía ngụy quân bắt cầm tù".Anh đã không dự tri điều hoang tưởng- Năm 1976, khi chuyển ra giam giữ ở đất Bắc, anh gặp lại đủ những người mà anh đã trao trả về phía cộng sản trong những tháng đầu năm 1973 tại địa điểm trao trả bên kia sông Thạch Hãn (Quảng Trị)".
Nhưng Nguyễn Minh Tuấn đã không tin về câu trả lời trên, anh cho rằng, sự hà khắc, độc ác của chế độ giam giữ của VNCH là một điều không thể chối cải được, vì sự kiện nầy đã bị chính các nhân vật "hòa bình" ở Miền Nam tố cáo. Vì thời giờ không cho phép, hơn nữa vần đề đã đẩy qua vùng chính trị mà nếu muốn đề cập thì phải dẫn chứng với nhiều người, việc khác (thành phần thứ ba, các phong trào hòa bình ở Miền Nam, những nhân vật phản chiến "ngụy danh" mà sau 1975 đã hoàn toàn lộ mặt.. Những Lý Chánh Trung, Nguyễn Thị Thanh Vân (vợ Ngô Bá Thành), Huỳnh Tấn Nẫm..) Và anh cũng đã dự tri chính xác về những con người nầy cùng cái gọi là "cuộc cách mạng gọi là giải phóng miền Nam" qua khẳng định đã viết thành lời từ 30 năm trước: "Rồi đây trận chiến cuối cùng sẽ là giữa chúng tôi với những sư đoàn chính quy cộng sản Bắc Việt.. Lá cờ ba mầu của mặt trận giải phóng (Miền Nam), cùng những kẻ múa rối ở Miền Nam sẽ bị vất đi như một thứ phế phẩm!! (TB& HB, Trang 411-417, ấn bản 1974, Hiện Ðại Sàigòn)".Anh cũng không trả lời câu hỏi có tính cách "chiến thuật nầy" là cốt dùng thì giờ còn lại để trả lời về câu hỏi mấu chốt: "Ông nghĩ thế nào về sự kiện Hà Nội bị Mỹ dội bom". Câu hỏi nầy do một thính giả nêu ra nhưng Nguyễn Minh Tuấn chuyển "gánh nặng" qua cho anh. Không chút bối rối và ngạc nhiên, anh trả lời: "Trước tiên tôi cực lực phản đối việc Mỹ ném bom Hà Nội, vì một lẽ rất giản dị: Không ai cam tâm muốn đất nước mình bị tàn phá.Mà cũng không hẳn như thế, tất cả những con người có lương tri, lương năng không ai hoan nghênh những vụ tàn phá, tấn công bằng bom đạn. Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, trong dĩa CD sẵn mang theo hôm nay (nhưng rất tiếc vì lý do kỹ thuật, CD nầy đã không phóng chiếu được. Anh đưa CD lên thêm một lần) có hình ảnh phố Khâm Thiên, khu dân cư Hà Nội bị dội bom trong chiến dịch dội bom 12 ngày (Tháng 12, 1972) của chính quyền Mỹ. Nhưng nếu đã kết án vụ việc phi cơ Mỹ ném bom ở Khâm Thiên thì cũng phải kết án những vụ pháo kích của lực lượng cộng sản vào những thành phố, khu dân cư ở Miền Nam. Trong dĩa CD nầy cũng như trong những cuốn sách tôi trình bày trước quý vị hôm nay (có những ảnh do chính bản thân hoặc các phóng viên chiến trường bạn hữu tôi chụp trong trận chiến mùa Hè 1972), những ảnh nầy trình bày đủ cảnh tượng thường dân bị tàn sát trên 9 cây số "Ðại Lộ Kinh Hoàng" nam Quảng Trị, ngày 29 tháng 4, 1972; thị xã An Lộc bị san thành bình địa, dân chạy loạn về Chơn Thành, Bình Dương bị tàn sát bởi cuộc pháo kích tập trung đêm 12 tháng 4, 1972. Trường Tiểu Học Cai Lậy, Ðịnh Tường (vùng đồng bằng Cửu Long) ngày 9 tháng 3, 1974 gây thương vong 43 trẻ nhỏ, bị thương 70 em khác.. Những vụ giết người không cần thiết và cực độ vô nghĩa nầy phải một lần bị lên án cùng lần với việc phố Khâm Thiên Hà Nội bị dội bom. Và trở lại vấn đề dội bom thì thật ra mà nói- ba phần tư số bom Mỹ với chất độc khai quang là dội xuống Miền Nam-Thế nên, nhân dân Miền Nam mới là người có đủ toàn quyền trước hết để nói lên vấn nạn đau xót nầy. Phải, chính chúng tôi - Người Miền Nam mới là nạn nhân đầu tiên và hứng chịu phần nặng nề nhất của cuộc chiến. Hai trăm ngàn dân, lính trong lần di tản Tây Nguyên khởi từ 15 tháng Ba, 1975 kết thúc ngày 28 cùng tháng, chỉ còn khoảng 60.000 con người đếm được tại trại tiếp cư đèo Rù Rì, Nha Trang, không có một đơn vị quân đội nào còn được khả năng chiến đấu khi về đến vùng đồng bằng. Biết bao nhiêu người đã chết trong chiến tranh? Chỉ biết sau 1975, trong hai triệu người Nam, Bắc vượt biên ra khỏi nước đã có 600.000 ngàn người bỏ mạng trên biển đông, nơi rừng già biên giới Việt- Miên-Thái (thống kê của Ủy Ban Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc). Biết bao nhiêu người Việt Nam đã chết trong chiến tranh? Biết bao người Việt Nam đã chết sau thống nhất, trong hòa bình? Anh hỏi mình, hỏi cử tọa, hỏi người bạn Nguyễn Minh Tuấn đến từ miền Bắc, hỏi người phản chiến Ado Makoto.. Người nào đã chiến thắng, kẻ nào đã thua trận? Phải chăng chỉ Dân Tộc Việt Nam chịu nguồn uất hận dằng dặt khôn nguôi!!
Còn có những câu hỏi về việc Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên đặc công ở Chợ Lớn (1968); thái độ đối với kẻ khủng bố hiện tại? Nhưng anh có thể nói gì thêm và nói gì hơn nữa (dẫu cũng đã tiên liệu cho những vấn đề nầy) ngoài mối đau thương quá đỗi lớn lao còn rất mới sau 26 năm gọi là hòa bình ở Việt Nam.
Hậu từ
Tương tự như những lần ở sông Thạch Hãn, Quảng Trị sau những cuộc trao trả tù binh đầu năm 1973, mỗi buổi chiều trở về bờ sông phía nam, phần đất kiểm soát của Thủy Quân Lục Chiến VNCH, qua thành phố đổ nát, hoang tàn, hậu quả của lần tàn phá cực độ trong suốt năm 1972.. Anh có cảm giác ngậm ngùi, khắc khoải: Rồi đây sẽ chẳng đi đến đâu, tất cả chỉ là vô ích, những nỗ lực của bản thân, bằng hữu, chiến hữu trong cuộc chiến nhiều thiên lệch, không cân sức, bị xuyên tạc, ngộ nhận, mạ lỵ từ nhiều phía- Cuộc chiến đấu tự tồn của dân và lính Miền Nam từ lâu nào đã mấy ai hay, cho dù bậc đại trí, đạo hạnh như Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, Giáo Hoàng Vatican.. ?! Nay cũng thế, dẫu anh đã nói đến tận cùng, đã chuẩn bị thật chu đáo, đã diễn dịch vô vàn từ sự thật, nhưng làm sao đẩy được khối đả tảng "chiến tranh Việt Nam được Mỹ hóa trong tất cả mọi tình thế, mọi điều kiện" ra khỏi quan niệm cố định của những người phản chiến Nhật như Ado Makoto? Và dẫu cho anh thật lòng tin tưởng về tính trong sáng, trung trực của thế hệ người trẻ tuổi (điển hình qua số đông của phòng hội), mà thái độ nghiêm túc, cẩn mật của họ trong suốt buổi hội thảo đã làm anh cảm khích- nhưng phần đông những người nầy đều nhận quá trình huấn luyện, sưu khảo từ học trình đại học Việt Nam hiện tại - mà lý thuyết xã hội chủ nghĩa vẫn là quan điểm chủ đạo của tất cả mọi công trình văn hóa, văn nghệ, giáo dục, kể cả kinh tế. Từ "thực tế- thực tế gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" nầy anh rơi vào một tình trạng não nề với câu hỏi nhói đau: "Nước Nhật chỉ sau mười lăm năm (1945-1960), từ hoang tàn đổ nát do hai trái bom nguyên tử; danh dự, kiêu hãnh dân tộc, quân đội bị xúc phạm (Nhật Hoàng Hirohito tuyên cáo đầu hàng, Mỹ thiết lập tòa án Tokyo xử tội phạm chiến tranh); cảnh cùng khổ, sa đọa xã hội hiện ra cùng khắp (đến nổi cảnh sát phải dùng đến biện pháp truy quét mới dọn sạch được cảnh sống lầm than của dân bụi đời ở khu nhà ga Ueno, Tokyo những năm sau 1945)- Nhưng chỉ đến thập niên 60 Nhật đã là một cường quốc kinh tế, và hiện nay là đối thủ không khoan nhượng của Mỹ trong tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, tài chánh, sản xuất. Phép mầu nầy đến bao giờ xuất hiện ở Việt Nam - Ðất nước đang ở đầu thiên niên kỷ thứ ba với chiến lược kinh tế "nhất quyết tiến lên xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở nông nghiệp và công nghiệp nhẹ". Hình thái phát triển xã hội (và chỉ thực hiện được) do dịch vụ tiêu thụ và tệ nạn bàn giấy thông qua thủ tục hối lộ. Hơn một phần tư thế kỷ kể từ ngày thống nhất đất nước số phận người dân vẫn bị chi phối và quyết định bởi Bộ Hình Luật An Ninh Tổ Quốc- biến thái của nghị quyết An Ninh Tổ Quốc từ đại hội III năm 1960 của trung ương đảng chuẩn bị lần xâm chiếm Miền Nam bằng vũ lực - Công An Bộ Nội Vụ toàn quyền bắt và kết án người bằng biện pháp tập trung cải tạo!! Linh Mục Nguyễn Văn Lý (bạn đồng hành chung chiếc cùm với người viết trong lần chuyển trại 8 tháng 1, 1988 từ Thanh Cẩm, Thanh Hóa ra trại Ba Sao, Hà Nam Ninh) nay đang chịu thêm một án tù thứ ba trong đời cũng chỉ vì lý do "vi phạm an ninh tổ quốc".
Trong bữa cơm từ giả tại nhà Nguyễn Minh Tuấn, anh có kể cho chúng tôi nghe về nỗ lực của báo giới Vệt Nam hiện tại.. Báo Ðại Ðoàn Kết của anh đã có công đầu trong vụ án xét xử ông Nguyễn An Trung, một Việt kiều mang tiền về nước để phát triển ngành giao thông, nhưng bị kết án tù vì tội khai gian thuế, chịu án tù, tịch thu tài sản và phạt vạ 1 triệu đô-la Mỹ; hoặc báo đã làm sáng tỏ vụ công an bắn chết một thanh niên trên cầu Chương Dương Hà Nội, cướp tiền của người nầy, xong vu oan nạn nhân là kẻ cướp giật. Cha nạn nhân đưa đơn thưa kiện khắp nơi các cấp nhưng đều bị chìm lấp vì hồ sơ (giả tạo) của công an đã hoàn tất. Nỗi oan uổng của người chết chỉ được sáng tỏ khi báo Ðại Ðoàn Kết (qua đều tra của Nguyễn Minh Tuấn) đưa nội vụ ra ánh sáng. Hoặc vụ một chị đàn bà sắc tộc Tày bị vu oan đã thiếu nợ 200.000 đồng (khoản chừng 15 Mỹ Kim), bị kết án 18 tháng tù trong tình trạng ung thu bướu đang giai đoạn nguy kịch!! Tuấn kết luận: "Báo chí phải biết tránh né, muốn viết phải nhắm vào, đánh tỉa từng cá nhân- nhưng đừng bao giờ đụng đến chính sách và trung ương đảng!"Anh biết người bạn nói điều thật lòng, và can đảm thực hiện nghĩa vụ báo chí - Nhưng anh nghĩ thầm: "Nếu là một nước có kỹ cương người dân có bao giờ lâm cảnh nguy biến đến như thế? Và anh biết có hỏi người bạn chăng nữa thì mối xót xa nầy vẫn giữ nguyên độ sắc nên anh đành im lặng. Và anh chợt hiểu ra: Tại sao Bảo Ninh không được tham dự buổi hội thảo - Hẳn những người cầm quyền ở Việt Nam e ngại về tiếng nói của một người viết văn trung trực.
Từ nhà Tuấn, anh cùng Ðỗ T. Minh và Ng. Thủy đi bộ ra đường đón taxi, ngang qua cơ sở chính của Hãng Sony, nhìn lên, chỉ là một tấm bảng đơn giản ghi tên hiệu của cơ quan nắm giữ quyền lực, khả năng kinh tế - kỹ thuật toàn cầu. Anh hỏi thầm thêm một lần.. Biết đến bao giờ ở Việt Nam. Về đến Mỹ, tin tức đầu tiên anh đọc được: "Những người cầm quyền ở Hà Nội đang chuẩn bị thông qua đạo luật về biên giới và lãnh hải ký với Bắc Kinh trong những năm 1999 và 2000- Theo đó Việt Nam chỉ còn 53, 23% vùng biển chủ quyền và Trung Quốc chiếm 46, 77%. Và công an thành phố Sàigòn tìm cách phá đám tang Hòa Thượng Thích Ðức Nhuận.
Anh chờ đợi gì nơi những người cầm quyền Hà Nội, hôm nay đang lập lại lần đê nhục của Mạc Ðăng Dung ở thế kỷ 16, nhưng với lý do thậm tệ đốn hèn hơn - chỉ để củng cố vị thế chính trị của cá nhân và tổ chức của họ.
Hóa ra, những kẻ có tội luôn ở tình trạng sợ hãi. Họ sợ Anh Linh Con Người dẫu đã chết và quỳ lạy loại xác ma hủy hoại hư thối.
Phan Nhật Nam
17 tháng 1, 2002.
Ðể nhớ ngày ký kết "Hiệp Ðịnh Tái Lập Hòa Bình ở Việt Nam"
hai-mươi chín năm trước tại Paris.
THƠ NGUYỄN VỸ
Hoàng Hôn
Nguyễn
Vỹ
Một đàn
Cò con
Trắng nõn
Trắng non
Bay về
Sườn non.
Gió giục
Mây dồn,
Tiếng gọi
Hoàng hôn
Buồn bã
Nỉ non
Từ giã
Cô thôn ...
Còn con
Cò con
Trắng non
Nào kia,
Lạc bầy,
Lại bay
Vào mây,
Ô kìa!
Cò con
Trắng nõn
Trắng non
Bay về
Sườn non.
Gió giục
Mây dồn,
Tiếng gọi
Hoàng hôn
Buồn bã
Nỉ non
Từ giã
Cô thôn ...
Còn con
Cò con
Trắng non
Nào kia,
Lạc bầy,
Lại bay
Vào mây,
Ô kìa!
Sương
rơi
Sương rơi
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu ...
Nhưng hơi
Gió bấc
Lạnh lùng
Hắt hiu
Thấm vào
Em ơi,
Trong lòng
Hạt sương
Thành một
Vết thương!...
Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng
Tả tơi
Em ơi !
Từng giọt
Thánh thót,
Từng giọt
Điêu tàn
Trên nấm
Mồ hoang !...
Rơi sương
Cành dương
Liễu ngã
Gió mưa
Tơi tả
Từng giọt,
Thánh thót,
Từng giọt.
Tơi bời
Mưa rơi,
Gió rơi,
Lá rơi,
Em ơi !...
(Văn học Tạp chí, 1935)
SƠN TRUNG * CẬU NĂM CHÓ
CẬU NĂM CHÓ
Khi quân Tây Sơn đánh thắng quân Xiêm và đuổi chúa Nguyễn ra khỏi thành
Gia Định, những quan quân chúa Nguyễn đều bị bắt giam. Liêu sinh là một sinh viên
giỏi của Trường Tú Lâm cục, thuộc Viện Quốc học ở kinh đô. Chàng chưa đến ba mươi mà đã có ba bằng cử nhân và
sau khi đỗ Thạc sĩ, sinh được nhận vào dạy ở Tú Lâm cục. Lúc bấy giờ các thanh
niên, sinh viên Nam
hà và Bắc hà đều phải đi lính theo luật tổng động viên, nên Liêu sinh là một thầy
giáo và cũng là một sĩ quan trong quân chúa Nguyễn. Vì vậy mà Liêu sinh cũng phải
ngồi tù một thời gian. Tại trại giam, Liêu sinh gặp Lâm tiên sinh, cũng bị giam tại đây, vốn là thầy cũ của sinh
tại Tú Lâm cục, là người bảo trợ
sinh khi sinh làm luận án Thạc sĩ và tiến
sĩ. Liêu sinh thông minh, tải ba, mà lại hết lòng đối xử trung hậu với thầy,
cho nên Lâm tiên sinh yêu mến là phải. Trước kia, nước ta tổ chức thi Hương tại các địa phương để lấy cử nhân và tú tài,
sau này giáo dục canh tân, khoa học phát triển, thi hương chỉ lấy tú tàI, còn tiến sĩ , cử nhân là do các viện đạI học đào tạo.
TạI Nam Hà , người
Pháp Lan Tây đã giúp chúa Nguyễn
đúc súng đại bác, chế tàu thủy. Viện Đại
Học Quốc Gia lúc bấy giờ
gồm nhiều trường như Khoa học Cục, Y học cục, Dược học cục, Pháp luật cục, Hành
chánh cục, và Tú lâm cục. Tú lâm cục sinh sau đẻ muộn và yếu thế nhất. Trong
khi các trường khác đã lập ban tiến sĩ từ hơn hai mươi năm trước, Tú lâm cục chỉ
có cử nhân và thạc sĩ. Lâm tiên sinh lúc này làm Tổng thư ký viện Đại học quốc
gia. Do nhiệt tình xây dựng nền giáo dục quốc gia, tiên sinh đã hăng hái lập đề án tiến sĩ cho Tú lâm cục. Dự án của
tiên sinh được hội đồng viện đại học Quốc Gia chấp thuận. Lâm tiên sinh tích cực
xúc tiến việc thi tiến sĩ cho các sinh viện Tú Lâm cục.
Do lòng ưu ái của Lâm tiên sinh,
Liêu sinh là người được Lâm tiên sinh chọn làm người trình luận án tiến sĩ đầu tiên và sau đó thêm một
hai người nữa thì chấm dứt vì mấy tháng sau, Nam Hà sụp đổ, giang sơn đổi chủ, Liêu sinh và Lâm tiên sinh đều
bị bắt giam vì tội theo chúa Nguyễn. Thầy trò gặp nhau
trong trại giam, buổi đầu không biết thế nào, nhưng về sau, thấm nhuần ‘’tư tưởng
cách mạng’’, và ‘’tác phong vô sản’’, trong các cuộc sinh hoạt của đội sản xuất,
sinh đã tỏ ra tiến bộ vượt bực, thẳng thắn phê bình Lâm tiên sinh. Nguyên Lâm
tiên sinh vốn thích hút ống vố, nhưng trong tù không có thuốc, Lâm tiên sinh đành
ngậm cái ống vố không theo thói quen. Liêu sinh đứng lên phê bình Lâm tiên sinh
là còn luyến tiếc cái cũ, chưa dứt khoát theo cách mạng, ôm ấp tư tưởng phản động,
chống đối triều đình.
Vì tỏ ra tiến bộ, Liêu sinh được về
nhà sớm. Và vì có chuyên môn về điền thổ, và cũng vì có anh chị đã theo quân Tây
Sơn từ trước cho nên Liêu sinh được nhận vào ban Doanh điền Thủ Đức. Làm việc được
ít lâu thì Liêu sinh bị tù vì tham nhũng sao đó. It lâu, Liêu sinh ra tù, làm
nghề coi bói và tử vi cũng đắt khách. Trong lúc này, kinh tế toàn quốc sụp đổ, miền
Nam Hà là vựa lúa mà dân chúng phải ăn khoai sắn thay cơm. Toàn miền thất nghiệp,
kinh tế vào tay tư bản Bắc Hà, bao nhiêu của cải bị vơ vét đem hết ra Bắc. Cơm không có đủ ăn mà cá thịt lại càng khan hiếm.
Trong khi đó, kinh tế gia đình của sinh rất khá. vì sinh là người thông
minh, tài giỏi và lanh lợi. Sinh rất yêu chó, nuôi hai ba con, ngày tắm hai ba lần,
mua từng ký thịt bò cho chó ăn, trong khi đó, cậu không quan tâm đến bố mẹ cậu,
mặc cho họ cơm rau qua ngày tháng, sống
chết mặc thây! Vì vậy mà dân Thủ Đức gọi sinh là ‘’Cậu năm
chó’’. Ai muốn xem bói, hay tìm thăm Liêu sinh, cứ hỏi nhà cậu Năm chó là trẻ
già trai gái ai ai cũng biết!
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 029
LÊ THỊ HUỆ * MAI THẢO
LÊ THỊ
HUỆ
ThơMai Thảo
Ở những trang thứ nhất tác giả
thổ lộ tâm tình: Một xóa bỏ nó. Tôi xoá bỏ xong tôi. Không còn gì nữa
hết. Tôi thơ.
Ở những trang cuối cùng có đôi hàng
chữ nghiêng vai tâm sự:"Có như thơ với ông, trọn đời như một tình yêu kín
thầm tới cuối đời mới chịu phơi bày ra ánh sáng"
Mai
Thảo sống suốt đời với
chuyện.
Theo lời giới thiệu
trang sau, ông đã viết 45 tác phẩm văn xuôi, đến năm 62
tuổi mới in tập thơ đầu tiên. Tập thơ chỉ gom lại những bài ông sáng tác
những năm quanh đây, mà cuộc trốn tránh vượt thoát đất nước
Cộng Sản 1975 là một khởi đầu
Không biết có nên tiếc là ông đã
không nghĩ đến thơ sớm hơn không.
Một người đàn ông. Tuổi lục tuần.
Tứ cố vô thân. Không quê nhà. Không chốn ở (ở apartment). Không xe. Chưa vợ. Một
"Cõi Không!". Không cả không là cái số không.
Người đàn ông ấy rất điềm tĩnh ngó
thông suốt cái cuộc đời ấy, và làm thơ! Thơ trộn vào: một ngụm chiều
rơi lệ. Thơ rót ra: và một bình đêm rót rất đầy.
Thơ nhảy vọt Dậy đi! Dậy
hết thành dông bão. Nhảy dựng ngang đời thế đá tung. Thơ bình thản dỗ bệnh:
Gối tay lên bệnh nằm thanh thản... Dỗ nó chớ gây thành chuyện lớn. Nó nghĩ
sao rồi nó lại cho.
Vẫn. Có thể ngồi lên một thảm cỏ
xanh, và làm một bài thơ ướt nước nhất. Thanh niên nhất.
Tường. Ở bên kia có một
nàng
Cỏ nằm phơi nắng chẳng che
thân
Tường bên này có tên nhìn
trộm
Hai cỏ cùng hai vũng mát
đằm
Hãy nghe một người đàn ông sáu mươi
tuổi ngoài, làm thơ tả ông mặt trời:
Trưa. Những buổi trưa rất đẹp
người
Trên đầu chói lọi ông mặt
trời
Trán ai cũng chút mồ hôi
thấm
Ráng tới xong ngày mới nghỉ
ngơi
Có phải cái tâm lúc sáng tác bốn
câu thơ trên trẻ thơ qúa không ? Tưởng như con nít học lớp sáu mới dương mắt
ngó thấy và chợt khám phá cảnh tượng trên lần đầu và vọt miệng làm thơ. Tuổi sáu
mươi này có những giây phút "ngộ" như vậy. Phải mới mẻ như một đứa trẻ. Có vậy
mới yêu sáng tác. Phải hơi ngơ ngẩn lệch hồn
đôi chút. Vậy mới làm thơ. Cứ phăng phăng đi qua cuộc đời đi. Thơ mới níu cuộc
đời, mới ở lại với đời.
Ở cái thế sự thông thường,
những bài thơ "ngộ" ở tuổi sáu mươi thường là những bài thơ ngộ cảnh điền viên,
ngộ chúa ngộ chùa cho gần với thiên đàng gần với niết bàn. Thơ Mai
Thảo khác. Và có những câu thơ
rất
Mai Thảo đã gây đôi chút phiền lòng cho
thế sự thông thường. Ví dụ như khi thơ phô diễn rực rỡ ý niệm về sự đau khổ của
cái việc lăn vào làm kiếp người:
Chúa khổ hình trên gỗ đóng
đinh
Nghìn sau tôi tới đứng im
nhìn
Thấy trưa thả bóng từ thân
tượng
Xuống nhói vai mình thánh giá
in
Cả cái tựa đề của tập thơ Ta
Thấy Hình Ta Những Miếu Đền cũng được mô tả là không thế sự thông thường
chút nào cả
Tập thơ phần lớn là những bài bốn
câu bảy chữ. Tuy có những bài dài tuyệt vời thơ mộng như Em Đã Hoang Đường
Từ Cổ Đại. Nhưng có vẻ thơ Mai Thảo dễ nhớ
và nhớ lâu với những bài bốn câu bảy chữ. Bốn câu rất vàng ròng của nghĩa. Bảy
chữ rất khít khao của thanh âm trắc trắc bằng bằng cổ điển thi ca Việt
Nam. Làm nhớ đến một người, Bà Huyện Thanh Quan.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng đẹp ở
hơi hướm khít khao của một chuỗi âm thanh rót ngọt vào lỗ tai một suối
thơ:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế
tà
Cỏ cây chen đá, lá chen
hoa
Lom khom dưới núi tiều vài
chú
Lác đác bên sông rợ mấy
nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc
quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia
gia
Dừng chân đứng lại trời,
non, nước
Một mảnh tình riêng ta với
ta.
Những bài thơ bốn câu bảy chữ
của Mai
Thảo trong tập Ta
Thấy Hình Ta Những Miếu Đền váng vất không khí cổ điển của loại thi ca Bà
Huyện Thanh Quan này. Là lối dàn chữ đẹp, điều này cũng dễ thấy trong văn xuôi
của ông.
Hãy nghe Mai
Thảo chơi
chữ:
Tận ngữ tìm lung một tĩnh
từ
Tưởng còn sót lọt ở phần
thư
Đập tay điếu thuốc tàn không
rụng
Đã lượng đời vơi tới đáy ư?
Khác với những bài khuôn
thước giới hạn như trên, thơ Tự Do của Mai Thảo tràn
đầy những tính chất mới mẻ. Đó là những bài rất gần với thân thế Việt
Nam đâu đây, gần với những nỗi niềm thời đại trước mặt.
Những bài như Hỏi Mình Giữa Biển, Viết Văn Trở Lại là những bài dài hơi,
trẻ trung, băng băng, tuôn tràn, sinh động, sôi nổi, có mùi Sáng Tạo hơn. So với
những bài thất ngôn như bài Em Đã Hoang Đường Từ Cổ Đại ... Các bài
Chờ Đợi, Nghìn Năm, Thơ Say Trên Máy Bay là thơ của một thế sống cự
phách, lão luyện, già đời, và qúa đỗi ngậm ngùi.
Có những tác giả
ta không nên gặp mà chỉ nên tìm đọc tác phẩm của họ. Gặp họ ta hơi
thất vọng. Có những tác giả gặp họ xong, đọc tác
phẩm thấy hay hơn. Và có những tác giả gặp họ rồi, đọc tác
phẩm xong, ta phân vân không biết người hay hơn hay tác
phẩm hay hơn. Trường hợp của Mai Thảo, tôi
chắc bạn bè của ông cùng đồng ý với tôi: Ít ra đối với văn xuôi, Mai
Thảo nổi hơn nhiều nhân vật nam
trong chuyện của ông.
Bởi trong văn xuôi, có vẻ như
ông tả người khác. Ông dấu mình hơi kỹ. Ông khéo léo lặn chìm giữa những nhân
vật ông yêu mến và không yêu mến. Có như ông tách được một lối cho ông và
những lối cho các nhân vật của ông.
Đến khi ông cho xuất
bản tập thơ, ta mới thấy Mai Thảo dồn
tất cả những kinh nghiệm, những tâm tình của chính cuộc đời ông vào thơ. Ông là
nhân vật chính trong thơ ông. Nên thơ thật hơn. Thơ thấm thía hơn. Như những
chi tiết về đời sống riêng tư của tác giả, đời sống một mình chưa
lập gia đình, thói uống rượu, những cuộc tình lãng mạn nhất nước, tấm lòng qúi
bạn nhất trên đời, đã được phô bày rõ ràng trong tập thơ Ta Thấy Hình
Ta Những Miếu Đền
Một điểm đặc biệt khác
nữa là nếu trong văn xuôi của Mai Thảo đàn bà
là nguồn sáng tác chính, thì trong thơ
ông đàn bà là cảm hứng phu. Độc giả đã quen chờ đợi những tình ý bay bướm,
những văn chương bay lượn trong chuyện của Mai Thảo, sẽ
ngạc nhiên khi thấy suốt tập thơ Ta Thấy Hình Ta Những
Miếu Đềnchỉ có dăm ba bài thơ phụ nữ. Như bài thơ tình đại lãng
mạn Mai
Thảo là bài Em Đã
Hoang Đường Từ Cổ Đại, và bài thơ tinh nghịch đã thành đề tài trong giới cầm
bút là bài Chỗ Đặt.
Mỗi sự nghiệp sáng tác
thường chỉ có một hai tác phẩm xuất sắc nhất.
Mỗi tác
giả thường chỉ được nhắc đến ở một hai tác phẩm nổi bật nhất. Liệu tập
thơ Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đềnsẽ là sáng tác
được nhắc đến hơn nhiều tác phẩm văn xuôi khác
của Mai
Thảo chăng.
Lê Thị Huệ
1990
trích báo Thời Tập do Viên
Linh chủ biên tại Hoa Kỳ
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 029
No comments:
Post a Comment