DƯ THI DIỄM BUỒN * NHỮNG MÙA TRUNG THU
Dư Thị Diễm Buồn
Những Mùa Trung Thu
E m ra đời mùa thu năm đó, vào ngày rằm tháng tám Âm lịch. Đem so với ngày dương lịch đúng y chang trong tờ giấy khai sanh của em.
Mẹ thường kể cho cả nhà nghe, vào những ngày mừng em sinh nhựt:
- Nằm trong nhà bảo sanh mẹ nghe tiếng hò, tiếng hát, reo vui của thiếu nhi cùng tiếng phèn la, tiếng chiên trống múa lân của đoàn dâng cộ đèn mừng Tết Trung Thu, hay Tết Nhi Đồng của nước ta thuở đó, vào thời Việt Nam Cộng Hòa. Theo lẽ mẹ đặt cho con cái tên là Thu, là Nguyệt, là Hằng, là Nga, là Thu Nga, là Thu Hằng, là Nguyệt Thu hay Thu Nguyệt… mới đúng nghĩa với ngày sanh tháng đẻ của con. Nhưng lần về thăm đâu mấy tháng trước khi con ra đời. Lúc ra đi, ba đưa cho mẹ phong thư, bảo chừng nào làm khai sanh thì dỡ ra xem. Ba đã đặt tên cho con cái tên rồi!
Mẹ em chép miệng trầm ngâm một hồi, rồi tiếp:
- Quê hương mình chinh chiến triền miên. Ba con theo đơn vị đóng quân mãi ở miệt rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ… tận Cà Mau lận. Tôi nghiệp ba, biết khoảng giữa tháng đó đứa con đầu lòng chào đời, mà ông hằng mong đợi nhưng vẫn không ở nhà được, để nghe “Con khóc “oa, oa… khi lọt lòng mẹ. Còn ông bà, họ hàng thì cười tươi vui mừng đón con…”.
Em lớn khôn dần trong vòng tay mẹ, và tình thương yêu vô bờ của hai đấng sanh thành. Ba em là lính chiến luôn xa nhà, cả trong những mùa Trung Thu là ngày ra đời con gái cưng của ông cũng ít khi có dịp về!
Rồi mùa Trung Thu năm em vào học lớp Năm (lớp một) của trường nữ Tiểu học Trưng Vương. Ngôi trường nữ, hai tầng có vách tường, mái ngói màu gạch tôm, khang trang nằm trên đường ông bà Nguyễn Trung Long (Mỹ Tho) đường ra bến bắc Rạch Miễu qua sông có nhiều cồn nhỏ, cồn lớn… Còn Ông Đạo Dừa, rồi đi về tỉnh Bến Tre.
Địa phận tỉnh Định Tường có Thành phố Mỹ Tho, nổi tiếng hiền hòa nằm mơ màng trên dòng sông Cửu Long… Mà những câu hò, câu hát bình dân khen ngợi ở một khía cạnh nào đó về thành phố khá ái nầy. Miệng truyền miệng từ đời nầy qua đời khác trong dân gian:
“Mỹ Tho đẹp lắm, đi tắm Cầu Dầu/ Anh hỏi em đang ở nơi đâu? Để cha mẹ anh đến cau trầu cưới em…”
Hoặc là câu: “Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ/ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu/ Anh về học lấy chữ nhu/ Chín trăng em đợi, mười thu em chờ…”
Còn có câu: “Mỹ Tho có kẹo hột điều/ Có cô thôn nữ mỹ miều dễ thương/Ai về Chợ Cũ, Trung Lương/ Hồng đào chín mộng, có đường mạch nha/ Đêm thu đẹp ánh trăng ngà/ Mái chèo dưa đẩy qua nhà thăm em…”
Ở xứ mình, thường tiệm buôn bán trong các chợ, chủ nhà ở phía sau, hoặc trên lầu, còn phía trước, mặt tiền thì bày hàng để buôn bán.
Mỗi năm, cứ vào cuối tháng sáu, đầu tháng bảy Âm lịch là thành phố Mỹ Tho trong các cửa tiệm thấy rõ rệt màu sắc tươi vui rộn rang. Bởi các dãy phố tiệm ở chợ gần như đều trưng bày bán các loại bánh Trung Thu. Họ còn treo bán đầy đủ các loại lồng đèn giấy màu sặc sở, có vẽ thêm những nét đặc biệt lên hình dáng mỗi thứ lồng đèn như: Đèn kéo quân, đèn cá chép, đèn con rồng, đèn ngôi sao, đèn máy bay, đèn xe tăng, thiết giáp, đèn tàu, đèn chuồn chuồn, đèn trái bí, đèn bướm…
Bánh Trung thu thập cẩm có bốn trứng, ba trứng, hai trứng, một trứng hột vịt muối để trong nhưn thập cẩm, có lạp xưởng, thịt khô, vi cá… đó là bánh mặn. Còn bánh thập cẩm chay không có thịt và hột vịt, bánh nhưn đậu đỏ, nhưn mứt. Cùng bánh dẻo nhưn mứt, nhưn đậu xanh…
Riêng em thích nhứt vẫn là bánh ông Địa. Chắc là bánh có hình dáng như ông Địa trên bàn thờ nên gọị là bánh ông Địa? Trên đầu bánh còn có sợi chỉ đỏ dài. Bánh ông địa ăn ngọt, giòn thơm mùi trái vị, ngũ vị hương, mùi quế… rất đặc biệt.
Trong dãy phố công chức đó, có nhà của gia đình em ở. Vào tối mười ba, mười bốn, rằm tháng tám là trẻ con đốt lồng đèn cầm chạy chơi quanh xóm. Nhà nhà đốt lồng đèn, hương khói nhang, mùi bánh Trung Thu thơm tho cúng ở bàn thờ Ông Thiên, cùng mùi trà Tàu, hoa, quả… thơm lừng trong gió thoảng bay.
Em vui vẻ tung tăng chạy nhảy, theo đuôi các bạn quanh quẩn trước sân năm bảy căn nhà quen biết trong xóm sát bên … Vì mẹ đã căn dặn em từ mấy ngày trước:
- Tối con được đốt lồng đèn chơi trong vài nhà gần. Để khi mẹ gọi thì nghe mà lên tiếng… Không được đi xa, mẹ gọi, con không nghe để trả lời thì sẽ có đòn nghe chưa…
Em vâng dạ nghe lời, vì không phải mẹ em không có lý do… Bởi gần đây giặc giã càng sôi động… Đêm đêm Việt cộng thường pháo kích ầm ầm vào thành phố… Đạn pháo vô tình tàn phá nhà cửa, thây phơi, máu đổ… khiến sanh linh đồ thán, trời sầu, đất thảm… Tuổi thơ em sớm nhuốm màu chinh chiến!
Đã hai mùa Trung Thu rồi, bận rộn ba em không về. Vì đoàn quân ba em trấn giữ, chặn thù… khi ở Vị Thanh, Cờ Đỏ (một địa danh ở mền Tây), khi Tịnh Biên, Đồng Tháp Mười nơi nổi tiếng đĩa lội như bánh canh. Còn thường trực ở chỗ có muỗi kêu như sáo thổi và nhiều con vắt là rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ… Bởi ba em là lính chiến thuộc Sư Đoàn 21BB, còn có biệt danh là Sét Miền Tây.
Từ chạng vạng, phố xá đã lên đèn… Tiếng hát vang vang rền vọng, tiếng chiên trống lân giục giã trên các nẻo đường của thành phố, làm lòng dạ em nôn nao, náo nức lắm… Mấy đứa cùng xóm đến trước rào nhà, rủ rê nhập bọn đi dâng cộ đèn, hoặc cầm đèn qua nhà chúng chơi.
Nghe lời má dặn, và nhớ ba muốn khóc! Em lắc đầu xua tay nguầy nguậy có ý bảo với chúng là em không đi. Ba em đang dãi dầu ngoài trận tuyến! Với những người lính chiến như ba em thì không có ngày lễ. Cho dù là lễ Tết hay phép thường niên cũng vậy, ít khi được như ý… Ba em chợt đi, chợt đến ghé thăm nhà bất ngờ không hẹn trước.
Đêm nay các nhà trong xóm đều đốt lồng đèn trước cửa. Hương trầm, bánh, trái, hòa với mùi thơm của nước trà Tàu… ấm cúng mừng đón Trung Thu. Riêng nhà em lạnh lẽo vắng tanh! Má không buồn đốt đèn dù là đèn điện. Chiều đi học về sau khi ăn cơm, má còn dặn:
- Con ra sân đốt lồng đèn chơi một mình, đừng đi đâu nghe… Nhà mình ba không về nên đêm nay không có mừng Trung Thu… Ít bữa ba về mình sẽ ăn Trung Thu muộn, nhe con…
Em cầm lồng đèn đi tới đi lui trong sân nhà với chú mèo tam thể, “meo, meo…” tiếng kêu, quấn quít bên chân em. Gió hiu hiu mát rượi, đưa đẩy cây lệ liễu hông nhà, làm những cành lá tha thướt lay động, và lồng bóng trăng tròn. Trăng rực rỡ tỏa ánh sáng trong thanh thoát xuống muôn loài… Em nghe trẻ hàng xóm trước nhà hát những bài Trung Thu:“…Đêm Trung Thu em đốt đèn đi chơi… Em đốt đèn đi khắp phố phường… Đèn Ông Sao với đèn cá chép, đèn thiên nga với đèn trái bí…”
Và em còn nghe anh chị con nhỏ Bạch Nhạn nhà bên cạnh hát ca líu lo. Khiến em ganh tị thấy mắc ghét lắm… Em cũng biết hát vậy chớ bộ! Liền rống họng, em cất tiếng hát lanh lảnh, cố tình cho tui nó ngán chơi:
“Hôm nay đêm rằm, rằm là rằm tháng Tám? Ông Trăng kia đã lên cao rồi ông nhìn chúng em ông tủm tỉm cười! Ông Trăng ơi, nầy ông Trăng ơi, xuống đây với chúng em cùng vui chơi! Ông Trăng ơi nầy ông Trăng ơi, Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang trời… Có chi nữa không? Có trống ếch cà lùng tùng xèng… Có chi nữa không? Có bánh ngọt thơm phưng phức… Có chi nữa không? Có những đèn Trung Thu ở miền Nam tự do, ấm no hạnh phúc… ông Trăng ơi! Ông Trăng ơi, xuống đây với chúng em cùng vui chơi… Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang trời… ông Trăng ơi… nầy ông Trăng ơi, ơi…”
Tiếng vỗ tay lớn và nhanh, làm em ngạc nhiên quá đỗi! Mèn ơi, ai mà vỗ tay khen tặng em dữ vậy cà? Chắc chị anh mấy con nhỏ hàng xóm chớ gì? Còn khuya à, chúng nó ganh tị chẳng thèm nghe em hát, thiếu điều muốn bịt hai cái lỗ tai lại nữa kìa. Chớ ở đó mà chúng vỗ tay khen em hát…
Sừng Sững lồng ánh trăng lộng lẫy của đêm rằm! Người lính chiến hiên ngang, oai phong đứng đó! Ông mặc bộ trây-di màu cỏ úa, đầu nón sắt, trên thắt lưng cây súng nhỏ… Giầy sô cao ống bám bụi đường xa, mùi nắng cháy khen khét quen thuộc… trìu mến nhìn em mỉm miệng cười. Rồi ông hơi khum lưng xuống, đưa hai tay đón chờ…
Thảy cái lồng đèn dưới sân, em phóng tới ôm chầm thật chặt lấy ba. Hôn tứ tung lên mặt, lên mũi, lên ngực, lên áo ba… Giọng rộn ràng, vui mừng em ơi ới gọi lớn:
- Mẹ ơi, mẹ ơi ba về! Ba về, ba về mẹ ơi…
Trong nhà nhanh chân bước ra tới hàng ba. Mẹ nhìn hai cha con em nở nụ cười mà mắt hoen lệ vui mừng hạnh phúc.
Đèn điện nhà em được thắp sáng! Lồng đèn treo hai bên cửa trước, trong nhà, và sân sau… ba châm lửa đốt đèn cầy. Ánh lửa dạ giấy màu, hồng, vàng, tím xanh… tươi trẻ, vui mắt. Má lúi húi nấu nước châm trà. Ba cắt bánh Trung Thu… Em vui mừng chạy qua mẹ, rồi chạy sang ba… Em ôm cổ ba, nói cười líu lo như con chim chích chòe vào buổi bình minh… Và nhà em, những nhà trên trần thế… được thắp sáng ánh trăng vàng của đêm Trung thu.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam bị giặc cưỡng chiếm! Năm đó trẻ con chúng em không có lễ Trung Thu! Ba em bị bắt tù cải tạo… Nhà cửa em trống trơn vì phải bán lần, bán hồi các đồ vật trong nhà… Rồi má em đi bán chợ trời… Đó là kế sinh nhai duy nhứt của mẹ con em, và chắt chiu dành dụm để dành đi thăm nuôi ba.
Những năm về sau, vào đêm rằm tháng tám không ai còn nghe tiếng hát hò, trống múa lân của đoàn dâng cộ đèn nữa. Chợ búa không có bánh trung thu bày bán khắp nơi như xưa. Có chăng họ chỉ làm chui, bán lén… vì đó là mặt hàng xa xí phẩm! Nhà nhà xác xao, cửa đóng then gày.
Những đứa nhỏ hàng xóm em thưa dần, vì chúng theo gia đình về quê ngoại, quê nội, hoặc đi kinh tế mới… Và em không có đèn lồng trái bí dễ xếp cất, dễ đốt mẹ mua cho như những năm qua!
Sau bao nhiêu năm giặc chiếm miền Nam. Là mấy năm ba em bị giặc nhốt trong tù cải tạo! Hôm nay không định trước, mẹ dắt em đi thăm ba, lại lọt đúng vào mùa Trung Thu.
Mẹ con em vượt qua biết bao nhiêu chặng đường lồi lõm có khi bằng xe hơi. Có lúc lội bộ, có lúc đi xe tàu mo, đò chèo… Khi thì mẹ gánh em ngồi trong thúng bên đầu gióng nầy, đầu gióng kia chất chồng đồ ăn, áo quần cũ, thuốc men. Đi từ một hai giờ khuya đến chiều tối hai ngày sau mới đến nơi!
Khi đến nơi thì đã quá giờ thăm nuôi, nên mẹ con em và một vài bà khác cũng đi thăm nuôi chồng con... Những kẻ lỡ bước được chủ vườn ở gần trại tù (cách mấy cây số) tốt bụng cho ngủ trong trại ruộng của nhà họ.
Tối đó, mọi người lỡ đường vùi mình vào đống cỏ khô dưới nền đất sét nứt nẻ, thiếp đi vì mệt mỏi… May mà cả đêm qua trời không mưa, nhưng gió núi tê tái lạnh lùng. Hai mẹ con em nằm chèo queo một góc trong tại ruộng không vách, không phênh.
Em nhìn trăng qua nhiều lỗ trống không trên mái chòi. Trăng rằm lên cao, càng lên cao ánh trăng càng sáng vằng vặt. Sương khuya xuống mờ đỉnh núi và chập chờn trên dải đồi mờ ảo xa xa. Tiếng côn trùng về đêm, hòa cùng tiếng dế tỉ tê… Những con chim ăn đêm bay qua ẩn hiện mịt mờ, kêu oan oát trên trời cao… Tiếng gió hú qua đồi làm xào xạc nhành cây lá chung quanh, khiến em sợ hãi rúc vào lòng mẹ.
Để rồi sáng dậy ra mặt, tay, chân… người nào cũng đầy vết muổi cắn. Bầy muổi đêm qua được ăn bữa giỗ no nê. Chúng thiệt là ác độc, nỡ đành hút máu của những kẻ lỡ đường ngủ trong trại ruộng!
Mẹ em lồm cồm ngồi dậy khi nghe vẳng tiếng gà gáy trong xóm xa… Bà sửa soạn lại túi nải chờ rạng đông đi vào trại thăm ba. Bỗng hai bóng đen lù lù xuất hiện khi mờ khi tỏ trong màng sương sớm. Càng lúc họ đến càng gần… Mẹ sợ quá gọi mấy người kia thức dậy, để cùng đối phó nếu rủi gặp kẻ xấu, hoặc chuyện không may!
Họ càng đến gần trời cũng sáng thấy rõ hơn… Thì ra là hai người thanh niên đi giỡ bẫy chim, chuột, gà rừng… Nói chuyện một hồi thì mấy bà cùng mẹ con em vào nhà cha mẹ họ là chủ trại ruộng nầy.
Nhớ lại đã bao nhiêu năm rồi mới đi thăm nuôi chồng. Ba đói khổ lắm, má em liền cởi chiếc nhẫn cưới bằng vàng 18K đang đeo trên ngón tay áp út ra. Đó là di vật sau cùng của ba tặng bà trong ngày đính hôn! Má đem đổi lấy con gà giò (gà mới lớn nhổ lông xong, còn hơn nắm tay) và lít gạo trắng của chủ nhà… Rồi mượn nồi niu của họ làm gà rô ti và nấu nồi cơm còn nóng hồi đem cho ba em!
Bao nhiêu năm tù tội, là bấy nhiêu năm vợ, chồng, con mới gặp lại nhau! Má em khóc sướt mướt chẳng nói nên lời! Ba ôm em vào lòng nghẹn ngào thổn thức… Ba trông thật tiều tụy, ông ốm gầy, tay chân lỏng thỏng, mặt mày hốc hác, mắt hõm sâu, da đen chì, mét chẹt, nắng cháy nám đen… Chân tay ghẻ chốc, thẹo vít chỗ lành, chỗ lở…
Ba em già quá nhiều! Nếu bất ngờ gặp ngoài đường không ai nói, chắc em sẽ không nhận ra, và sẽ không tin tù nhân đó chính là cha của mình! Em xót xa thương ba vô cùng, ôm chặt ba nức nở khóc òa…
Gần hết giờ thăm nuôi, mẹ đưa cho ba tất cả đồ đem theo, trong đó có con gà được chặt ra làm bốn và nồi cơm đầy… Ba em múc hết nồi cơm, cạo lấy luôn cơm cháy, đưa nồi không còn dính một hột để chút nửa đây trên đường về má em ghé trả lại người cho mượn. Ba lấy hai cục thịt gà (nửa con) đưa cho má và em.
Mắt ông rưng rưng dòng lệ mỏng, nhẹ giọng bảo:
- Em và con đem theo ăn, trên đường về. Chắc con và em đói khổ lắm? Thôi mẹ con về đi, anh sẽ giữ gìn sức khỏe. Đường xa xôi, khó khăn đừng lên thăm nữa…
Má em lật đật lấy gà để trở vào gói cho ba, mếu máo:
- Ở nhà không gì vất vả cả, chỉ lo cho anh thôi. Anh đem gà vào ăn đi. Mẹ con em tới bến xe sẽ mua ăn, thiếu gì…
Dáng ba thất thểu đi, cổng vào trại tù kéo đóng lại! Mẹ em nát dạ tan lòng đứng nhìn theo, rồi lủi thủi dắt con ra về… Vừa đi bà vừa lau dòng lệ lả chả chảy dài xuống má. Còn em nước mắt cũng trào tuôn…
Đường về nhà em còn xa xôi lắm, lại gặp cơn nắng cháy, mưa sa! Hai mẹ con không ai nói với ai lời nào, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình… Trong đầu óc thơ ngây bé nhỏ của em lúc bấy giờ! Ba em tội tình gì mà họ bắt nhốt trong tù nơi xa xôi hiểm trở? Để ba em và đồng đội đau không thuốc uống, đói không có ăn, lạnh không đủ ấm! Lại bị nhốt trong vùng hoang dã đìu hiu đi cả ngày không thấy bóng người như thế nầy?
Đã đi gần đến tối mà vẫn chưa đén nhà. Giờ đây mẹ con em vừa khát và mỏi mệt cả tứ chi. Em kêu đói bụng, mẹ chép miệng bảo:
- Ráng nhịn về nhà sẽ có đồ ăn, vì mẹ chỉ còn đủ tiền để đi xe thôi. Lúc nãy mẹ định bới cơm cho ba, còn miếng cơm cháy mẹ con ăn cho đỡ dạ đi về. Nhưng thấy ba vét sạch nồi cơm nên mẹ làm thinh! Tội nghiệp ba ở trong tù đói khát nhọc nhằn lắm con ơi…
Nói đến đó, mẹ em nghẹn lời sụt sùi dòng lệ khổ! Về đến nhà, em không sao ngủ được. Hoàn cảnh trại tù, ba em và đồng đội của ông bị hành hạ đọa đày… cứ lởn vởn trong đầu óc thơ dại của em. Từ đó nỗi hờn oán nhen nhúm ngày càng lớn trong tâm hồn em: “Không bao giờ! Phải, không bao giờ em quên, và tha thứ cho những kẻ đã đày đọa ba, và đồng đội của ba em…”
Em thẩn thờ ngồi bên cửa sổ vò võ nhìn bầu trời cao rộng, trong sáng ánh trăng thu! Và con mèo tam thể dễ thương vẫn cào, kéo… lai quần em, và chạy nhảy tung tăng giỡn trăng như để làm vui cô chủ nhỏ.
Thấy em buồn, má cũng chẳng vui gì hơn! Một lúc sau, bà tìm ra cái lồng đèn trái bí mấy năm trước đã cũ mèm, giấy dán đổi màu và bị chuột cắn tưa mấy lỗ. Nhớ lại lâu lắm rồi, em đã cẩn thận nhét cái lồng đền nầy dưới vào thùng sách truyện, và báo cũ của ba…
Đã mấy mùa Trung Thu qua đi, ba vẫn chưa được thả về. Em lơ là nhìn cái lồng đèn nghe chừng xa lạ, mà cảm thấy lòng xao xác héo hắt buồn loan! Làm sao em vui được khi ba em còn bị đày nơi rừng sâu Việt Bắc, nơi nổi tiếng rừng thiêng, và nước độc! Nước độc đến nỗi, từ bờ suối bên nầy, lội qua suối thì lông chân bị rụng hết! Ở đó họ chỉ uống được nước mưa, và đi cả mấy ngày trời không thấy bóng sơn nhân hay lâm nhân…
Em lại càng xót xa đau buồn nhức nhối hơn, khi bắt gặp nửa đêm trở giấc nghe mẹ khóc lén, khóc thầm!
Thế nhân dù có buồn vui! Nhưng đêm nay trăng thu vẫn ngạo nghễ lên cao. Càng lên cao, trăng càng trải ánh sáng ngà ngọc xuống muôn loài. Gió thu vẫn nhè nhẹ man mác và mây thu vẫn bàng bạc bay bay. Những cánh chim đêm thu, in chập chờn trên không gian rồi hối hả bay đi… Chúng như ngầm hiểu nỗi thống khổ đoạn trường của con người theo vận nước nổi trôi! Và cảm thông trời miền Nam tự do ấm no từ đây không còn nữa… Cả loài chim muông còn biết buông tiếng kêu áo nảo như oán, hờn, trách, hận…
Sau khi ba em được thả về, gia đình đùm túm dùng thuyền chài vượt biển Đông! Mười mấy ngày lênh đênh trên biển cả, gió vồn, sóng dập, đói khát thảm thê. Tưởng chừng cả gia đình dìm dưới mồ huyệt lạnh của đại dương rồi… Hành trình vượt biên trùng trùng hiểm nguy thừa chết thiếu sống! Nhờ Ơn Trên, rồi gia đình em cũng trôi giạt vào Nam Dương (Indonesia) quần đảo với những kẻ chung chuyến tàu.
Sống lang thang từ đảo nầy qua đảo khác: Pacikata, Terrempa, Ku Ku, rồi Galang (Trung tâm tị nạn Cộng sản vùng Đông Nam Á) Tại trại tị nạn Galang, nếp sống của người tị nạn Cộng sản có quy củ hơn…
Nơi đây có trường học dạy Anh văn, có nhà thương, có nhà thờ, có chùa, có bệnh viện… Có văn phòng Cao ủy tị nạn làm việc, để nhận người vào đệ tam Quốc Gia… Và nhiều tiệm buôn bán gia dụng nấu ăn của dân bản xứ… Dần dà có quán phở, quán hủ tíu, quán nhạc, quán cà-phê, quán sinh tố…
Galang là một trong những hòn đảo đẹp của Nam Dương. Chùa được cất trên đồi cao gần các dãy trại, để dân tị nạn dễ dàng chiêm ngưỡng và cúng bái. Ngôi chùa khang trang có nhiều tượng phật cao lớn hơn người… được tàu và trực thăng chở đến… Phí tổn của ngôi chùa nầy, nghe đâu do các thương gia ở Nam Dương và Singapore góp gom để xây cất…
Sáng sớm và chiều tối nào em cũng theo ba má lên chùa. Vì trên chùa gió mát, và đôi khi em được sư cho trái cây hoặc bánh, kẹo… của bá tánh đã cúng phật. Ở đảo đói khát thấy mồ, em thèm đủ mọi thứ, hôm nào được đồ ăn dư của Phật thì mừng húm rồi!
Đi lên sau chùa chừng hơn trăm thước cao nữa. Phóng tầm mắt nhìn, chúng ta có thể thấy rõ bốn hướng của biển cả mênh mông vô bờ, vô tận…
Em hạnh phúc đứng bên ba má em nhìn hoàng hôn xuống. Mặt trời ráng màu đỏ nghệ như quả trứng gà, treo lơ lững trên nền trời nhiều mây có vân ngũ sắc. Nắng vàng ánh trải trên mặt thủy triều bao la xanh ngát một màu. Ánh nắng lung linh chấp chóa lúc mây tạnh gió yên. Và những buổi sáng mờ sương, biển thanh thoát và hiền dịu vô cùng… Mặt nước lăn tăn gợn sóng theo từng đợt gió đùa… Nền trời trong như ngọc, lác đác từng làn mây trắng mỏng như nằm bất động có pha những sắc màu rực rỡ: ửng hồng, tím, xanh, vàng, xám, thiên thanh, hồ thủy... do những tia nắng bắn ra từ mặt trời cao ngạo vừa nhú lên ở phương đông.
Rồi sương mờ dần tan, chỉ trong chốc lác thôi… Biển tịnh yên, mặt biển xanh lơ, và vầng hồng rạng rỡ cho nắng ấm, gió the the man mác lay nhẹ chòm lau, khóm đước và hòa cùng lá thông reo… Hải âu xoãi cánh bàng bạc loang loáng trong ánh bình minh… “Chim én không làm thành mùa xuân/ Nhưng có chim én mùa xuân thêm phần ý nghĩa” Ở chốn hải đảo nầy, em xin nói lên thiển ý của mình rằng: “Nếu biển cả không có cánh hải âu thì biển cả mất đi phần thi vị”.
Có hôm em dưới mái hiên phóng tầm mắt nhìn trời biển động! Gió thổi vùn vụt cây cối ngả nghiêng. Sấm ầm ầm, sét nổ giòn chớp sáng lòe rội phụt tắt! Mưa tầm tả ào ào, từng cột sóng dâng cao nhhư muốn đảo lộn càn khôn! Thật dễ sợ trước sự cuồng nộ của biển cả! Em ngồi co ro chợt nhớ câu: “Đời không đau khổ đời vô vị/ Biển chẳng phong ba, biển chẳng hùng”.
Ba em khéo tay làm cho em cái lồng đèn trái bí bằng lon nhôm coca cola, trong mùa Trung Thu ở trên hải đảo Galang. Lon nhôm sau khi rửa sạch, lau khô, ba em kiên nhẫn dùng nhiều cục đá có cạnh nhọn, bén… Ông đụt từng đường dài, nhắm sao cho ngay và đều… Ba ngồi cả ngày trời tẳn mẳn đụt, chà cạnh cho hết bén… Rồi nhẹ tay bóp cho những cọng lon nhôm cong (không gãy) mà ông đã bỏ không biết bao nhiêu cái lon nhôm. Bị xuể tay, rướm máu mới làm được một cái lồng đèn trái bí, tạm vừa ý cho con gái mình!
Thuở đó gần cuối năm 1979, đảo Galang có mấy chục ngàn người dân tị nạn Cộng sản, đại đa số là từ miền Nam Việt Nam. Họ bôn đào khi miền Nam bị Cộng sản và Việt cộng cưỡng chiếm!
Chiều đến cầm lồng đèn trái bí ba làm cho, lòng em tươi vui phơi phới như hoa nở mùa xuân. Len ten theo bọn trẻ con, em đi dâng cộ đèn vòng vòng trong các trại do những anh chị hướng dẫn.
Ôi hải đảo phủ ánh trăng thanh thoát giữa vùng mây nước, có tiếng sóng biển bủa rạt rào, tiếng gió vi vu hòa cùng tiếng hát mừng Trung Thu vang dội, rền vọng ngút trời xanh, của những đứa trẻ cùng gia đình trốn chạy khỏi vùng Cộng sản để đi tìm phương trời tự do…
Đêm Trung Thu, chúng em được ăn nhiều bánh kẹo, uống nước trái cây thơm ngọt, từ các nhà hảo tâm của xứ người chở đến cả tàu, cả xe đến tặng. Họ đem cho cả lồng đèn làm đủ kiểu hình thù các con vật… được sơn phết, dán giấy, vẽ, tô đẹp đẽ, màu sắc rực rỡ, chói lộng hấp dẫn và quyến rủ vô cùng… Nhưng em không nhận, bởi ba đã làm cho em lồng đèn trái bí bằng lon nhôm rồi. Em quý cái lồng đèn nầy hơn tất cả mọi lồng đèn trên thế giới, trong mùa Trung Thu. Bởi cái lồng đèn trái bí bằng lon coca làm thành đó, ngoài tốn nhiều công sức, còn là tâm ý và gói ghém cả tình cha thương con của ba em…
Mùa Trung Thu ở trại tị nạn Cộng sản Galang, khắc ghi đậm nét trong đời, và cho em niềm nhớ không nguôi… Đó còn là hành trang mang theo trong ký ức em trên khắp nẻo đường lưu lạc.
Đã mấy mươi năm lưu lạc xứ người… Ba má em vất vả nuôi dưỡng chăm lo cho em học hành đỗ đạt nên người… Ngày nay em đã thành nhân, ông bà có cháu ngoại để bồng bế thương yêu, nuông chiều… Và thời gian thắm thoát trôi mãi trôi, nay ba má em đã ngoài tám mươi! Ông bà ở cái tuổi “Bát thập cổ lai hy” Cái tuổi dễ bịnh hoạn, và gần đất xa trời!
Em buồn đau thắm thía trong lòng, mỗi khi nghĩ đến! Nhưng phải làm sao đây? Vì đó là định luật của tạo hóa, mà trót sanh ra làm kiếp con người thì kẻ trước, người sau không một ai tránh khỏi…
Rồi ngày đó cũng đã đến! Một mất mát lớn cho gia đình! Má em đã qua đời! Giờ đây, đêm đêm em luôn nguyện cầu, xin Ơn Trên cho ba em ăn ngon, ngủ khỏe… Và em cố gắng làm mọi thứ để ba được an ổn tâm hồn, vui vẻ hạnh phúc trong thời gian còn lại bên cháu con!
Dẫu biết rằng, trong cuộc đời có đầy dẫy hỉ, nộ, ái, ố… thăng trầm, dâu bể, phế hưng… Nhứt là trên quê hương khốn khổ Việt Nam của em sau ngày Cộng sản và Việt cộng chiếm đóng! Giặc đã mang nền giáo dục (ở mọi khía cạnh, mọi phương diện) của làn sóng đỏ từ ngoài miền Bắc tràn vào miền Nam.
Hoàn cảnh xã hội miền Bắc mấy mươi năm theo chế độ Cộng sản. Đã gây và ảnh hưởng tác hại mọi mặt, tâm lý, cách sống, đời sống… Đã thấm nhuần, ăn sâu trong tâm hồn, trong máu huyết của con người từ trong gia đình, ra ngoài xã hội. Với những điều nghịch lý, giả nhân, giả nghĩa, lừa bịp, dối gian, tính toán, tinh ma… Đã xẩy ra hàng ngày với cha con, anh em, bạn bè… thì nói chi đến tình nghĩa vợ chồng!
Vì thế, những đổ vỡ của gia đình nhan nhản xẩy ra hàng ngày trước mắt, và khắp nơi… không sao đếm cho xuể! Khuôn ngọc thước vàng từ nghìn xưa ông cha ta để lại “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” dưới chế độ Cộng sản vô thần, giờ đây đã bị thui chột, vô nghĩa hết rồi! Thì thử hỏi xã hội Việt Nam ngày nay làm sao không rối bời? Và quê hương đất nước Việt Nam làm sao không nát tan, không bị chia năm xẻ bảy… hiến dâng cho ngoại bang!
Hôm nay là ngày rằm tháng Tám, đã vào chánh mùa Trung Thu. Em đẩy ba ngồi trên xe lăn chầm chậm rẻ vào chợ (vì cả hai chân ba đều yếu). Vùng gia đình em tạm cư, có rất nhiều chợ Á Đông. Cả tháng nay, tiệm nào cũng bán đầy dẫy bánh trung thu. Bánh trung thu đủ loại ở địa phương, nội địa sản xuất… và bánh từ các nước khác nhập vào. Bánh nằm phơi phới trong các hộp vẽ hoa bướm màu sắc tươi trẻ rực rỡ. Các hộp đều có nắp đậy bằng kiếng, nhìn thấy rõ bánh bên trong, gợi thèm cho khách vào ra chợ…
Năm nay các bánh được làm từ nước Tàu Cộng, Việt Cộng chắc hẳn ít ai dám rớ tới? Vì lợi ích riêng, họ không nghĩ đến sức khỏe của người tiêu thụ, đã dùng quá nhiều hóa chất … Ăn vào dễ, lấy ra khó, sẽ hại cho thân thể, và có khi còn chết người!
Ba em nhìn từng hộp bánh… trong tủ kiếng. Ông lựa rồi chỉ tay, muốn mua một hộp bánh Trung Thu có trứng, và lấy thêm hộp bánh dẻo nữa. Nhà em ngoài ba, chỉ có hai vợ chồng em và hai đứa nhỏ (nhưng chúng không thích bánh trung thu) Ai cũng sợ ngọt, nên chắc chắn sẽ ăn không hết… Chỉ cần mua một hộp, hai bánh nầy, hai bánh kia đủ rồi. Nhưng em lấy hai hộp bánh người bán đặt vào bao xách, máng trên xe cho ba vui lòng.
Ba em chỉ hai chiếc lồng đèn treo trên vách. Em biết ba mua cho hai cháu ngoại… Trả tiền xong em định đẩy ba đi ra, nhưng ông chỉ thêm cái lồng đèn trái bí, làm em ngạc nhiên nhìn ba?
Ông nhìn em mỉm cười, trìu mến:
- Ba mua lồng đèn trái bí cho con! Nhớ thuở con còn bé nhỏ thích chơi đèn Trung Thu với đám trẻ con trong xóm… Năm đó đi lính xa, bất ngờ được về thăm nhà trong đêm Trung Thu. Ba đứng sau lưng cả buổi mà con không hay! Khi thấy ba, con phóng tới ôm chầm thật chặt như sợ ba vuột mất. Rồi con mừng rỡ, líu lo gọi mẹ báo tin ba về…
Mắt già nua trắng dã, ba em cảm động nghẹn lời! Ông tiếp:
- Ba mua bánh về cúng má, lúc sanh thời bả ưa bánh Trung Thu và bánh dẻo lắm… Cho dù con gái ba bây giờ tuổi đời có lớn hay già đi nữa, nhưng trong mắt ba lúc nào con cũng còn nhỏ bé! Và tình thương con trong lòng ba càng ngày càng lớn vô bờ, vô tận… con ơi!
Em dang đôi tay ôm chầm lấy ba! Hôn lên trán ba em, mà mắt rưng rưng dòng lệ kính yêu và hạnh phúc!
Em may mắn được sanh ra trong miền Nam! Em diễm phúc được thừa hưởng rất nhiều, rất nhiều thứ mà chỉ ở miền tư do dưới Chánh thể Cộng Hòa mới có… Em đã nghe được câu nói của ai đó, để riêng mình thẩm thấu và nghiệm thấy rằng: “Trên cõi đời ô trọc nầy, có hai người đàn ông để cho em kính nể và yêu thương nhứt. Đó là ba em và chồng em!”
Đường phố đã lên đèn, nhưng ánh trăng thu rực rỡ cao ngạo, thanh thoát áp chế ánh đèn đường vàng võ. Cha con em dừng lại bên lề nhìn đoàn múa lân dẫn đầu, các thiếu nhi dâng cộ đèn náo nhiệt đi qua. Trên đất nước tự do, các em vô tư, thảnh thơi, mặt mày hớn hở nhịp nhàng cất vang tiếng hát vang vang: “Đêm Trung Thu em đốt đèn đi chơi/ Em đốt đèn đi khắp phố phường/ Đèn ông sao với đèn trái bí/ Đèn xe tăng với đèn cá chép…Em đốt đèn đi khắp phố phường…”
Mùa Trung Thu, năm 2011
Tệ xá Diễm diễm Khánh an
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
HỒ ÔNG *KHO BÁU TRONG TÁC PHẨM CỦA LÊ XUYÊN
Kho Báu Trong Tác Phẩm Của Lê Xuyên
Hồ Ông
Từ quê nhà, Nhà văn Văn Quang đã sớm gửi bản tin ngắn cho tôi
báo tin một người anh em cũ, Nhà văn Lê Xuyên vừa qua đời.
Kèm theo là 4 tấm hình gồm: một tấm chân dung Lê Xuyên vào
thời kỳ còn dọc ngang trong làng viết Sài-gòn, một tấm chụp di thể
được đặt trên giường với nải chuối trên bụng, hai tấm khác chụp
chị Lê Xuyên cùng người con gái út vào tấm sau cùng là quang
cảnh chuẩn bị tang lễ.
Chưa bao giờ những tấm hình lại giữ được nhiều chi tiết về một
đời người như vậy. Có lẽ tại vì khoảng cách thời gian với bao
nhiêu biến đổi vô thường đã tô đậm thêm những nét hình bất di
bất dịch được lưu giữ qua ống kính, hoặc còn tồn tại trong trí nhớ.
Tôi mày mò phóng lớn tấm chân dung thời trung niên của Lê
Xuyên trên màn hình máy vi tính. Từ đôi mắt của anh, bao nhiêu
mảng rời của một thời đã qua của làng báo quen thuộc năm xưa
lại trổi dậy xôn xao...
Tôi nhớ vào khoảng năm 1970, lúc đó với sức trẻ và lòng yêu
nghề cuồng nhiệt, tôi đã viết cùng lúc cho 4 tờ báo gồm: Nhật báo
là Tự Do (Chủ nhiệm Phạm Việt Tuyền, Tổng thư ký Nguyễn
Trọng), Nhật báo Thời Thế (Chủ nhiệm Hồ Anh, Tổng thư ký Lê
Xuyên), Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong (Chủ nhiệm Hồ Anh,
Tổng thư ký Tử Vi Lang) và Tuần báo trào phúng Con Ong (Chủ
nhiệm "Chí sĩ" Minh Vồ, Chủ bút Thương Sinh, tức Duyên Anh).
Tuy có thể la cà đàn đúm với anh em ở bất cứ toà soạn nào mà
mình cộng tác bài vở thường xuyên, nhưng tôi vẫn thích đóng đô
ở toà soạn báo Con Ong hơn vì toà soạn tờ báo này là chỗ duy
nhất có thể đến đó nói và nghe... chuyện tục được!
Tuy cùng cộng tác chung ở Nhật báo Thời Thế, nhưng tôi chưa có
duyên tiếp xúc với Nhà văn Lê Xuyên, Tổng thư ký của báo này.
Nguyên do vì tôi thường đến sớm đưa bài cho người thư ký của
toà báo Văn nghệ Tiền Phong, và luôn tiện nhờ chuyển cho Nhật
báo Thời Thế, rồi rút ngay về bên toà soạn Con Ong hưởng ứng
những cuộc đấu hót hết từ toà soạn đến mấy cái quán xá nằm
trên đường Võ Tánh.
Chính vì thế đối với nhà văn Lê Xuyên, mặc dù tôi rất ái mộ lời
văn "đối thoại dấm dẳng" pha chất sex nhẹ nhàng kiểu "cởi cái nút
áo người yêu cả tuần lễ chưa xong", rất Lê Xuyên, rất Nam Bộ với
những ngôn ngữ địa phương thuần tuý, không hề bị pha trộn với
ngôn ngữ của thời đại... nhưng tôi vẫn chưa một lần được đối
diện để xem "Chú Tư Cầu" ngoài đời chịu chơi đến mức nào. Cứ
căn cứ vào các nhân vật "Chú Tư Cầu", "Rặng Trâm Bầu", tôi
tưởng nhà văn Lê Xuyên phải là một ông Nam Bộ bậm trợn lắm
mới viết rành lối văn "dấm dẳng ướt át" đến độ độc giả nào đã
2 | P a g e
theo dõi "fueilleton" của anh trên Nhật báo là không thể nào bỏ
qua được tờ báo xuất bản vào ngày hôm sau. Có lần tôi thắc mắc
hỏi "Chí sĩ" Minh Vồ, thì anh cười toáng lên, nói: "Cậu lầm rồi, Lê
Xuyên nó còn hiền lành hơn thầy tu, nhát hơn con gái nhà lành
nữa đấy. Nghe nói tục là nó biến ngay, đố dám!".
Cùng làm việc lâu với Minh Vồ, tôi biết tay "Chí sĩ" này chỉ giỏi
phùng mang trợn mắt nói tục sùi cả bọt mép cho anh em vui, chứ
không hề nói dóc những chuyện không có chủ đích để gây cười
một cách vô tội vạ. Tuy thế tôi vẫn không tin và lòng thầm nghĩ thế
nào cũng phải gặp Lê Xuyên ở Nhật báo Thời Thế một lần cho
biết. Nhưng tôi không phải đợi lâu. Chỉ ít ngày sau, trong một buổi
tôi và Minh Vồ cùng Dê Húc Càn, Hùng Phong rủ nhau ra ăn sáng
tại quán hủ tíu ở "mũi tàu" Võ Tánh - Lê Văn Duyệt gần tượng
Phù Đổng Thiên Vương. Đang đấu hót rôm rả trong lúc chờ đợi
đồ ăn, bất chợt Minh Vồ đứng vụt dậy chạy ra ngoài kêu lớn: "Lê
Xuyên! Lê Xuyên! Vào đây ăn sáng với tụi tao đã!". Nghe thế tôi
cũng mừng rỡ vì tình cờ lại được gặp người mình vẫn thường ái
mộ. Tôi nhìn ra ngoài thấy Minh Vồ đang tíu tít nắm chiếc guidon
xe Vespa giữ ghịt lại như sợ Lê Xuyên bận rộn sẽ không chịu vào
quạn
Lê Xuyên, năm đó trạc khoảng trên 40 tuổi, người hơi nhỏ con, ăn
mặc tươm tất. Anh vừa kịp kéo ghế ngồi xuống và Minh Vồ thay vì
giới thiệu, đã chỉ tôi bô bô hỏi Lê Xuyên: "Mày chắc biết thằng Hồ
Ông, nó viết báo Thời Thế bên mày nó ký bút hiệu Gã Kéo Màn
đó?". Lê Xuyên nhìn tôi và đưa tay bắt tay tôi, nhẹ lắc đầu: "Nghe
tên thì quen nhưng hôm nay mới gặp. Gã Kéo Màn còn trẻ quá
há!". Tôi chưa kịp nói gì, Minh Vồ đã quát chủ quán cho thêm một
tô hủ tíu, rồi quay qua nói với Lê Xuyên: "Tao bắt gặp quả tang
mày hôm thứ bảy". Lê Xuyên thực thà hỏi: "Quả tang chuyện
chi?" - "Mày còn giả bộ hỏi nữa". Nghe Minh Vồ nói thế, Lê Xuyên
càng ngạc nhiên: "Mà chuyện chi chớ?". Minh Vồ cười một tràng
lớn rồi oang oang nói: "Hôm thứ Bảy tao lái xe ngang trường Hai
Bà Trưng, tao thấy mày chạy xe Vespa yên sau chở một em thơm
như múi mít, thơm hơn em Phấn trong Chú Tư Cầu của mày, nó
ôm eo ếch mày, duỗi cặp giò trường túc trắng muốt. Tao còn nhớ
nó mặc mini-jupe ngắn lòi cả cái quần sì-líp màu hồng, lông nách
nó thì bay phất phới, phất phới!". Giọng Minh Vồ bình thường vốn
đã lớn, nhưng có lẽ nhằm chủ đích chọc Lê Xuyên, nên anh càng
cố nói oang oang cho cả quán cùng nghe, khiến ai cũng quay
nhìn về phía bàn chúng tôi.
Lúc đó Lê Xuyên mặt đỏ gay, đứng dậy không kịp chào ai, bước
vụt ra xe Vespa phóng một mạch. Minh Vồ đắc ý cười hô hố, quay
nói với tôi: "Đó cậu thấy tôi nói có sai đâu! Lê Xuyên viết văn thì
dữ dằn như thế, nhưng ngoài đời hắn còn hiền hơn cả mấy ông
thầy tu nữa!".
Đấy là lần đầu tiên tôi gặp tác giả "Chú Tư Cầu", Lê Xuyên. Sau
đó ít lâu, khi gặp lại anh ở quán Tần Phương Khanh, kế toà báo
Muỗi Sài-gòn của Thanh Chiêu Nhữ Văn Uý (sau là Dân Biểu,
Chủ tịch Uỷ ban Thông Tin, Hạ Nghị Viện), Lê Xuyên hình như
3 | P a g e
vẫn còn bối rối và mắc cỡ về câu chuyện dựng đứng của Minh Vồ,
đã cười cười nói với tôi: "Minh Vồ thiệt là bậm trợn, nói năng bậy
bạ không ai bằng. Tôi sợ hắn luôn!".
Tính cách của Lê Xuyên là như thế. Anh không giống các nhân
vật nam trong tiểu thuyết của mình ở khía cạnh quan hệ trai gái,
nhưng tự cốt tuỷ lại rất phù hợp với tính cách chân chất, mộc mạc
và hiền lành của những người dân quê Nam Bộ.
Khi còn làm ở báo Dân Việt, tôi nhận được thư của Thủy Tinh,
một cây viết trẻ độc đáo đã có những bài viết đã thu hút được
nhiều cảm tình của mọi tầng lớp độc giả qua tờ Dân Việt trước
đây và Văn Nghệ Tuần Báo sau này. Trong thư, Thủy Tinh kể
chuyện trong chuyến về Việt Nam thăm gia đình, anh có gặp "ông
già bán thuốc lá" thật tội nghiệp ở ngã tư đường Bà Hạt - Ngô
Quyền. Qua mấy người bạn, Thủy Tinh mới biết ông già tội
nghiệp đó là Nhà văn Lê Xuyên lừng lẫy một thời. Qua câu
chuyện, Thủy Tinh có hỏi nhà văn Lê Xuyên: "Cháu thấy một số
tờ báo ở hải ngoại có đăng lại tác phẩm của Bác, họ có gửi trả
nhuận bút cho Bác không?". Lê Xuyên cười tủm tỉm hiền lành:
"Anh em họ vẫn nhớ đến tôi, nên mới đem truyện cũ của tôi ra
đăng, như vậy là quý lắm rồi, mình còn đòi hỏi chi nữa!".
Thế đấy, dù già yếu bệnh tật mà vì hoàn cảnh sống phải lê thân ra
đường, nhưng Lê Xuyên vẫn thoải mái, rộng lượng với các đồng
nghiệp cũ và mới. Anh không vội nghĩ anh em đã lợi dụng tên tuổi
và tác phẩm ăn khách của mình, mà chỉ nghĩ đến cái tình.
Cũng qua Thủy Tinh, tôi được biết địa chỉ của anh và anh em Dân
Việt lúc đó, có thêm sự đóng góp của anh P.L.P và N.G bên Nhật
báo Chiêu Dương đã gửi về biếu anh một chút tiền nhỏ để chi xài.
Sau này, qua lời kêu gọi của anh Văn Quang, anh em Văn Nghệ
cũng gửi về anh chút quà. Từ đó, bẵng đi hơn một năm và rồi
bỗng nghe tin anh đã qua đời...
Trong một lần nói chuyện thân mật với cây bút trẻ Thủy Tinh, mới
37 tuổi, kỹ sư điện toán ở Adelaide, Thuỷ Tinh cho biết anh rất
khoái thứ ngôn ngữ đặc thù của người dân quê Nam Bộ qua các
tác phẩm tiêu biểu của Lê Xuyên như Chú Tư Cầu, Rặng Trâm
Bầu, Vợ Thầy Hương, Thủy Tinh nói rằng anh đọc sách của
Vương Hồng Sển nói về cái thú chơi đồ cổ, anh cũng khoái lắm,
nhưng không đủ khả năng tiền bạc để chơi thứ của nhà giàu đó.
Nhưng theo anh có một thứ "đồ cổ" vô cùng quý giá không thể để
mai một đi và ai cũng có thể "chơi" được - đó chính là thứ ngôn
ngữ của người dân quê Nam Bộ như những hạt ngọc quý lấp lánh
trong các tiểu thuyết đồng quê của Nhà văn Lê Xuyên. Người ta
có thể đọc bất cứ trang nào, cuốn tiểu thuyết nào của tác giả này
cũng vẫn dễ dàng bắt gặp. Chẳng hạn như một đoạn đối thoại
nhỏ sau đây giữa Tư Cầu và cô Phấn trong tiểu thuyết Chú Tư
Cầu:
........
4 | P a g e
"-Coi, anh có làm phiền thằng chả cái gì đâu? Có em chạy tới
chạy lui lo cho anh nầy nọ, chớ thằng chả cứ ở miết trong tiệm và
có chịu nhúc nhích cục cựa gì đâu! Vậy mà thằng chả còn cằn
nhằn em nhức xương nhức cốt nữa!
Tư Cầu lắc đầu:
-Thì làm phiền chú Ba là ở chỗ đấy em ơi! Đã đành rằng hai đứa
mình là... tình xưa nghĩa cũ. Nhưng bây giờ, bề nào chú cũng là
chồng của em... Anh nói có phải vậy hông?
- Thì phải... nhưng ai biểu hồi đó...
- Biểu khỉ gì! Cũng có em... tham dự vô chớ bộ một mình ên chú
mà... mà xảy ra chuyện đó sao? Kể ra chú Ba cũng hiền lắm chớ
đứng vào địa vị anh mà lại có vợ con bạt mạng như em, thì nhứt
định anh vặn họng bẻ hầu nó liền chớ đâu có để luồng tuông vậy
được!
- Xí, anh hổng biết mốc gì hết mà cũng nói! Thằng chả mà hiền!
Em vì thương anh nên em mới bất kể như vậy, chớ bộ anh nói dễ
chịu đựng với thằng chả lắm hả? Có điều là thằng chả khôn cải
trời cho nên không dám làm gì tới vì sợ em liều bỏ đi luôn, và
nhứt là sợ tùm lum lên, rủi ro anh có bề gì thì cũng kẹt luôn thằng
chả vô trỏng nữa.
........
Văn Lê Xuyên không chải chuốt, nhưng vẫn ẩn hiện chất bóng
mướt như mái tóc chải dầu dừa pha hương sả của cô thôn nữ
đồng quê. Không khai thác độc thoại, nội tâm, triết lý, nhưng vẫn
thể hiện được chiều sâu của tâm hồn nhân vật. Không tả tình tả
cảnh dài dòng, nhưng vẫn nêu bật được thời gian và không gian
sống của nhân vật truyện qua những câu đối thoại sống động. Dù
người đọc có thể đọc thiên kinh vạn quyển nhưng với chỉ một
đoạn văn ngắn ngủi, chưa chắc đã đủ sức để gọi lại đúng tên tác
giả. Với Lê Xuyên thì khác, chỉ một đoạn văn ngắn ngủi như nêu
trên, người ta có thể dễ dàng gọi đúng tên Lê Xuyên mà không sợ
lầm lẫn với ai.
Nếu nói theo cách của Thủy Tinh, thì mỗi tác phẩm của Lê Xuyên
là một kho chứa "đồ cổ" quý giá với những ai còn nặng tình với
quê hương. Lê Xuyên đã trở về với cát bụi, nhưng chắc chắn
"Chú Tư Cầu" vẫn mãi rực rỡ với "kho đồ cổ ngôn ngữ" như báu
vật một thời đã qua cần lưu giữ vì trong đó còn chứa cả tình quê.
Hồ Ông
Hồ Ông
Từ quê nhà, Nhà văn Văn Quang đã sớm gửi bản tin ngắn cho tôi
báo tin một người anh em cũ, Nhà văn Lê Xuyên vừa qua đời.
Kèm theo là 4 tấm hình gồm: một tấm chân dung Lê Xuyên vào
thời kỳ còn dọc ngang trong làng viết Sài-gòn, một tấm chụp di thể
được đặt trên giường với nải chuối trên bụng, hai tấm khác chụp
chị Lê Xuyên cùng người con gái út vào tấm sau cùng là quang
cảnh chuẩn bị tang lễ.
Chưa bao giờ những tấm hình lại giữ được nhiều chi tiết về một
đời người như vậy. Có lẽ tại vì khoảng cách thời gian với bao
nhiêu biến đổi vô thường đã tô đậm thêm những nét hình bất di
bất dịch được lưu giữ qua ống kính, hoặc còn tồn tại trong trí nhớ.
Tôi mày mò phóng lớn tấm chân dung thời trung niên của Lê
Xuyên trên màn hình máy vi tính. Từ đôi mắt của anh, bao nhiêu
mảng rời của một thời đã qua của làng báo quen thuộc năm xưa
lại trổi dậy xôn xao...
Tôi nhớ vào khoảng năm 1970, lúc đó với sức trẻ và lòng yêu
nghề cuồng nhiệt, tôi đã viết cùng lúc cho 4 tờ báo gồm: Nhật báo
là Tự Do (Chủ nhiệm Phạm Việt Tuyền, Tổng thư ký Nguyễn
Trọng), Nhật báo Thời Thế (Chủ nhiệm Hồ Anh, Tổng thư ký Lê
Xuyên), Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong (Chủ nhiệm Hồ Anh,
Tổng thư ký Tử Vi Lang) và Tuần báo trào phúng Con Ong (Chủ
nhiệm "Chí sĩ" Minh Vồ, Chủ bút Thương Sinh, tức Duyên Anh).
Tuy có thể la cà đàn đúm với anh em ở bất cứ toà soạn nào mà
mình cộng tác bài vở thường xuyên, nhưng tôi vẫn thích đóng đô
ở toà soạn báo Con Ong hơn vì toà soạn tờ báo này là chỗ duy
nhất có thể đến đó nói và nghe... chuyện tục được!
Tuy cùng cộng tác chung ở Nhật báo Thời Thế, nhưng tôi chưa có
duyên tiếp xúc với Nhà văn Lê Xuyên, Tổng thư ký của báo này.
Nguyên do vì tôi thường đến sớm đưa bài cho người thư ký của
toà báo Văn nghệ Tiền Phong, và luôn tiện nhờ chuyển cho Nhật
báo Thời Thế, rồi rút ngay về bên toà soạn Con Ong hưởng ứng
những cuộc đấu hót hết từ toà soạn đến mấy cái quán xá nằm
trên đường Võ Tánh.
Chính vì thế đối với nhà văn Lê Xuyên, mặc dù tôi rất ái mộ lời
văn "đối thoại dấm dẳng" pha chất sex nhẹ nhàng kiểu "cởi cái nút
áo người yêu cả tuần lễ chưa xong", rất Lê Xuyên, rất Nam Bộ với
những ngôn ngữ địa phương thuần tuý, không hề bị pha trộn với
ngôn ngữ của thời đại... nhưng tôi vẫn chưa một lần được đối
diện để xem "Chú Tư Cầu" ngoài đời chịu chơi đến mức nào. Cứ
căn cứ vào các nhân vật "Chú Tư Cầu", "Rặng Trâm Bầu", tôi
tưởng nhà văn Lê Xuyên phải là một ông Nam Bộ bậm trợn lắm
mới viết rành lối văn "dấm dẳng ướt át" đến độ độc giả nào đã
2 | P a g e
theo dõi "fueilleton" của anh trên Nhật báo là không thể nào bỏ
qua được tờ báo xuất bản vào ngày hôm sau. Có lần tôi thắc mắc
hỏi "Chí sĩ" Minh Vồ, thì anh cười toáng lên, nói: "Cậu lầm rồi, Lê
Xuyên nó còn hiền lành hơn thầy tu, nhát hơn con gái nhà lành
nữa đấy. Nghe nói tục là nó biến ngay, đố dám!".
Cùng làm việc lâu với Minh Vồ, tôi biết tay "Chí sĩ" này chỉ giỏi
phùng mang trợn mắt nói tục sùi cả bọt mép cho anh em vui, chứ
không hề nói dóc những chuyện không có chủ đích để gây cười
một cách vô tội vạ. Tuy thế tôi vẫn không tin và lòng thầm nghĩ thế
nào cũng phải gặp Lê Xuyên ở Nhật báo Thời Thế một lần cho
biết. Nhưng tôi không phải đợi lâu. Chỉ ít ngày sau, trong một buổi
tôi và Minh Vồ cùng Dê Húc Càn, Hùng Phong rủ nhau ra ăn sáng
tại quán hủ tíu ở "mũi tàu" Võ Tánh - Lê Văn Duyệt gần tượng
Phù Đổng Thiên Vương. Đang đấu hót rôm rả trong lúc chờ đợi
đồ ăn, bất chợt Minh Vồ đứng vụt dậy chạy ra ngoài kêu lớn: "Lê
Xuyên! Lê Xuyên! Vào đây ăn sáng với tụi tao đã!". Nghe thế tôi
cũng mừng rỡ vì tình cờ lại được gặp người mình vẫn thường ái
mộ. Tôi nhìn ra ngoài thấy Minh Vồ đang tíu tít nắm chiếc guidon
xe Vespa giữ ghịt lại như sợ Lê Xuyên bận rộn sẽ không chịu vào
quạn
Lê Xuyên, năm đó trạc khoảng trên 40 tuổi, người hơi nhỏ con, ăn
mặc tươm tất. Anh vừa kịp kéo ghế ngồi xuống và Minh Vồ thay vì
giới thiệu, đã chỉ tôi bô bô hỏi Lê Xuyên: "Mày chắc biết thằng Hồ
Ông, nó viết báo Thời Thế bên mày nó ký bút hiệu Gã Kéo Màn
đó?". Lê Xuyên nhìn tôi và đưa tay bắt tay tôi, nhẹ lắc đầu: "Nghe
tên thì quen nhưng hôm nay mới gặp. Gã Kéo Màn còn trẻ quá
há!". Tôi chưa kịp nói gì, Minh Vồ đã quát chủ quán cho thêm một
tô hủ tíu, rồi quay qua nói với Lê Xuyên: "Tao bắt gặp quả tang
mày hôm thứ bảy". Lê Xuyên thực thà hỏi: "Quả tang chuyện
chi?" - "Mày còn giả bộ hỏi nữa". Nghe Minh Vồ nói thế, Lê Xuyên
càng ngạc nhiên: "Mà chuyện chi chớ?". Minh Vồ cười một tràng
lớn rồi oang oang nói: "Hôm thứ Bảy tao lái xe ngang trường Hai
Bà Trưng, tao thấy mày chạy xe Vespa yên sau chở một em thơm
như múi mít, thơm hơn em Phấn trong Chú Tư Cầu của mày, nó
ôm eo ếch mày, duỗi cặp giò trường túc trắng muốt. Tao còn nhớ
nó mặc mini-jupe ngắn lòi cả cái quần sì-líp màu hồng, lông nách
nó thì bay phất phới, phất phới!". Giọng Minh Vồ bình thường vốn
đã lớn, nhưng có lẽ nhằm chủ đích chọc Lê Xuyên, nên anh càng
cố nói oang oang cho cả quán cùng nghe, khiến ai cũng quay
nhìn về phía bàn chúng tôi.
Lúc đó Lê Xuyên mặt đỏ gay, đứng dậy không kịp chào ai, bước
vụt ra xe Vespa phóng một mạch. Minh Vồ đắc ý cười hô hố, quay
nói với tôi: "Đó cậu thấy tôi nói có sai đâu! Lê Xuyên viết văn thì
dữ dằn như thế, nhưng ngoài đời hắn còn hiền hơn cả mấy ông
thầy tu nữa!".
Đấy là lần đầu tiên tôi gặp tác giả "Chú Tư Cầu", Lê Xuyên. Sau
đó ít lâu, khi gặp lại anh ở quán Tần Phương Khanh, kế toà báo
Muỗi Sài-gòn của Thanh Chiêu Nhữ Văn Uý (sau là Dân Biểu,
Chủ tịch Uỷ ban Thông Tin, Hạ Nghị Viện), Lê Xuyên hình như
3 | P a g e
vẫn còn bối rối và mắc cỡ về câu chuyện dựng đứng của Minh Vồ,
đã cười cười nói với tôi: "Minh Vồ thiệt là bậm trợn, nói năng bậy
bạ không ai bằng. Tôi sợ hắn luôn!".
Tính cách của Lê Xuyên là như thế. Anh không giống các nhân
vật nam trong tiểu thuyết của mình ở khía cạnh quan hệ trai gái,
nhưng tự cốt tuỷ lại rất phù hợp với tính cách chân chất, mộc mạc
và hiền lành của những người dân quê Nam Bộ.
Khi còn làm ở báo Dân Việt, tôi nhận được thư của Thủy Tinh,
một cây viết trẻ độc đáo đã có những bài viết đã thu hút được
nhiều cảm tình của mọi tầng lớp độc giả qua tờ Dân Việt trước
đây và Văn Nghệ Tuần Báo sau này. Trong thư, Thủy Tinh kể
chuyện trong chuyến về Việt Nam thăm gia đình, anh có gặp "ông
già bán thuốc lá" thật tội nghiệp ở ngã tư đường Bà Hạt - Ngô
Quyền. Qua mấy người bạn, Thủy Tinh mới biết ông già tội
nghiệp đó là Nhà văn Lê Xuyên lừng lẫy một thời. Qua câu
chuyện, Thủy Tinh có hỏi nhà văn Lê Xuyên: "Cháu thấy một số
tờ báo ở hải ngoại có đăng lại tác phẩm của Bác, họ có gửi trả
nhuận bút cho Bác không?". Lê Xuyên cười tủm tỉm hiền lành:
"Anh em họ vẫn nhớ đến tôi, nên mới đem truyện cũ của tôi ra
đăng, như vậy là quý lắm rồi, mình còn đòi hỏi chi nữa!".
Thế đấy, dù già yếu bệnh tật mà vì hoàn cảnh sống phải lê thân ra
đường, nhưng Lê Xuyên vẫn thoải mái, rộng lượng với các đồng
nghiệp cũ và mới. Anh không vội nghĩ anh em đã lợi dụng tên tuổi
và tác phẩm ăn khách của mình, mà chỉ nghĩ đến cái tình.
Cũng qua Thủy Tinh, tôi được biết địa chỉ của anh và anh em Dân
Việt lúc đó, có thêm sự đóng góp của anh P.L.P và N.G bên Nhật
báo Chiêu Dương đã gửi về biếu anh một chút tiền nhỏ để chi xài.
Sau này, qua lời kêu gọi của anh Văn Quang, anh em Văn Nghệ
cũng gửi về anh chút quà. Từ đó, bẵng đi hơn một năm và rồi
bỗng nghe tin anh đã qua đời...
Trong một lần nói chuyện thân mật với cây bút trẻ Thủy Tinh, mới
37 tuổi, kỹ sư điện toán ở Adelaide, Thuỷ Tinh cho biết anh rất
khoái thứ ngôn ngữ đặc thù của người dân quê Nam Bộ qua các
tác phẩm tiêu biểu của Lê Xuyên như Chú Tư Cầu, Rặng Trâm
Bầu, Vợ Thầy Hương, Thủy Tinh nói rằng anh đọc sách của
Vương Hồng Sển nói về cái thú chơi đồ cổ, anh cũng khoái lắm,
nhưng không đủ khả năng tiền bạc để chơi thứ của nhà giàu đó.
Nhưng theo anh có một thứ "đồ cổ" vô cùng quý giá không thể để
mai một đi và ai cũng có thể "chơi" được - đó chính là thứ ngôn
ngữ của người dân quê Nam Bộ như những hạt ngọc quý lấp lánh
trong các tiểu thuyết đồng quê của Nhà văn Lê Xuyên. Người ta
có thể đọc bất cứ trang nào, cuốn tiểu thuyết nào của tác giả này
cũng vẫn dễ dàng bắt gặp. Chẳng hạn như một đoạn đối thoại
nhỏ sau đây giữa Tư Cầu và cô Phấn trong tiểu thuyết Chú Tư
Cầu:
........
4 | P a g e
"-Coi, anh có làm phiền thằng chả cái gì đâu? Có em chạy tới
chạy lui lo cho anh nầy nọ, chớ thằng chả cứ ở miết trong tiệm và
có chịu nhúc nhích cục cựa gì đâu! Vậy mà thằng chả còn cằn
nhằn em nhức xương nhức cốt nữa!
Tư Cầu lắc đầu:
-Thì làm phiền chú Ba là ở chỗ đấy em ơi! Đã đành rằng hai đứa
mình là... tình xưa nghĩa cũ. Nhưng bây giờ, bề nào chú cũng là
chồng của em... Anh nói có phải vậy hông?
- Thì phải... nhưng ai biểu hồi đó...
- Biểu khỉ gì! Cũng có em... tham dự vô chớ bộ một mình ên chú
mà... mà xảy ra chuyện đó sao? Kể ra chú Ba cũng hiền lắm chớ
đứng vào địa vị anh mà lại có vợ con bạt mạng như em, thì nhứt
định anh vặn họng bẻ hầu nó liền chớ đâu có để luồng tuông vậy
được!
- Xí, anh hổng biết mốc gì hết mà cũng nói! Thằng chả mà hiền!
Em vì thương anh nên em mới bất kể như vậy, chớ bộ anh nói dễ
chịu đựng với thằng chả lắm hả? Có điều là thằng chả khôn cải
trời cho nên không dám làm gì tới vì sợ em liều bỏ đi luôn, và
nhứt là sợ tùm lum lên, rủi ro anh có bề gì thì cũng kẹt luôn thằng
chả vô trỏng nữa.
........
Văn Lê Xuyên không chải chuốt, nhưng vẫn ẩn hiện chất bóng
mướt như mái tóc chải dầu dừa pha hương sả của cô thôn nữ
đồng quê. Không khai thác độc thoại, nội tâm, triết lý, nhưng vẫn
thể hiện được chiều sâu của tâm hồn nhân vật. Không tả tình tả
cảnh dài dòng, nhưng vẫn nêu bật được thời gian và không gian
sống của nhân vật truyện qua những câu đối thoại sống động. Dù
người đọc có thể đọc thiên kinh vạn quyển nhưng với chỉ một
đoạn văn ngắn ngủi, chưa chắc đã đủ sức để gọi lại đúng tên tác
giả. Với Lê Xuyên thì khác, chỉ một đoạn văn ngắn ngủi như nêu
trên, người ta có thể dễ dàng gọi đúng tên Lê Xuyên mà không sợ
lầm lẫn với ai.
Nếu nói theo cách của Thủy Tinh, thì mỗi tác phẩm của Lê Xuyên
là một kho chứa "đồ cổ" quý giá với những ai còn nặng tình với
quê hương. Lê Xuyên đã trở về với cát bụi, nhưng chắc chắn
"Chú Tư Cầu" vẫn mãi rực rỡ với "kho đồ cổ ngôn ngữ" như báu
vật một thời đã qua cần lưu giữ vì trong đó còn chứa cả tình quê.
Hồ Ông
NGUYỄN NGU Ý * HỒ HỮU TƯỜNG
Hồ Hữu Tường Trò Chuyện Với Nguyễn Ngu Í
03-12-2010
LTS. Sau đây là một số đoạn chứng tôi trích từ cuốn "Sống và viết với Hồ HữuTường," do Nguyễn Ngu Í viết lại những cuộc trò chuyện với Hồ Hữu Tường, bắtđầu từ năm 1946 ỏ Hà Nội, kết thúc vào 1966 ở Sài Gòn. Nguyễn Ngu Í viếtquyển này theo lối chữ quốc ngữ cải cách của ông, chúng tôi đánh máy lại sửathành chữ thường để độc giả dễ đọc.
(...)
Một đêm mùa hạ, năm l954. Anh sắp sửa lên đường sang Pháp để rồi đi Genève
vận động cho "trung lập chế," tôi ở lại chơi với anh có hơi khuya, và bởi căn
phố anh ở hẻm Frère Louis ấy tối đến muỗi khá nhiều, nên chúng tôi chui vô mùng
trò chuyện. Bỗng anh hỏi tôi có đọc Phong Kiếm Xuân Thu?
Tôi gật đầu.
- Thế anh phục ai?
- Tôi đọc lúc lên mười. Đúng hơn là đọc cho bà chủ trọ nghe trong những ngày
nghỉ học lúc ở Phú Lâm. Không nhớ mình phục ai, song thương ai thì lại nhớ rõ!
- Ai vậy?
- Tôn Tẩn.
- Chắc vì Tôn Tẩn bị chặt cụt chân.
- Vì nạn ấy thì ít mà vì Tôn Tẩn quá thương mẹ, quá yêu Tổ quốc mình mà
đem hết sức chống lại nhà Tần, tuy biết rằng "số Trời" đã định,
Tần Thỉ Hoàng sẽ gồm thâu Lục quốc.
Anh im lặng một hồi, rồi chậm rãi:
- Trường hợp bi đát của Tôn Tẩn ám ảnh tôi từ
thuở nhỏ. Và bây giờ, tôi càng thông cảm cái nỗi bi
đát ấy của họ Tôn. Tâm sự với anh một chút trước khi đi. Từ cuối
năm ngoái, tôi được biết Pháp và Việt cộng đã bí mật điều đình với nhau: chia
hai đất nước mình. Như thế là một đại họa cho dân tộc. Miền Bắc Cộng sản sẽ bị
áp bức và bóc lột nặng nề; miền Nam Quốc gia sẽ bị Cộng sản dùng sách thuật "thả
sâu vào quả" mà chịu cảnh nội chiến triền miên. Thế là sau mười năm máu lửa,
nước mình không được thống nhút, dân mình còn bị lầm than và chết hại, "số Trời"
định thế đó, tôi nghĩ ra biện pháp "Trung lập chế" thuyết trình trước một số
thính giả chọn lựa, đăng trên báo Phương Đông (l) rồi sắp
đích thân đi vận động ở Genève, là tôi muốn "cãi số Trời" như Tôn Tẩn thuở xưa.
Im lặng một chặp.
- Tôi có khi đâm ra lẩn quẩn. Không tin rằng dân tộc ta đã dùng
sắt máu để tiêu diệt dân Chàm, mà đã đồng hóa họ nhờ văn hóa cao hơn,
thế mà sao đôi lúc tôi nghĩ rằng tổ tiên ta đã "làm sao ấy" đối với họ cho nên
con cháu ngày nay phải trả cái "nợ" nặng nề kia. Có vùng vẫy đến đâu, rốt cuộc
rồi bi đát cũng hoàn bi đát!
Và tôi nghe một tiếng thở dài. Nhưng liền sau đó:
- Nhưng đã là con thằn lằn đã chọn
nghiệp (2) thì "cãi số Trời" cứ cãi cho đến hơi thở cuối cùng xem
sao!
*
Một trưa mùa thu năm 1946, ở thủ đô Hà Nội. Tôi ngừng ở lại đầu thang
gác. Anh đang chăm chú sửa ấn cảo một cuốn sách, trông anh có vẻ một học giả lừ
đừ hơn là một chiến sĩ say sưa, hay một công nhân lanh lẹ, hai hình ảnh quen
thuộc của anh lúc ở trong Nam. Tôi ngừng lại ở đầu thang gác, vì lần đầu bắt gặp
ở anh hiện thân của sự đau buồn: cái lưng khom khom như mang gánh nặng vô hình,
đầu tóc dài kém trật tự như không hề làm bạn với cái lược cái gương, đôi mắt có
vẻ mệt mỏi, có dáng nặng nề, gương mặt hằn nỗi lo âu của sự
luôn luôn phải đối phó, ở trong căn gác im lìm bày biện sơ sài, cạnh chiếc nôi
mà thỉnh thoảng anh với tay đẩy nhẹ. Mấy người bạn đường cũ, nay
cỏ đã
xanh mồ, riêng anh ngồi đây, giỡn chữ, đưa con.
-
Người chưa chết đang làm gì đó?
Anh quay lại, tròn đôi mắt, mỉm cười:
- Đang sửa di chúc đây.
Tôi bước lại gần anh:
- Di chúc để lại cho ai?
- Chịu khó đọc vậy.
- Tương lai văn hóa Việt Nam. "Tặng X. T. độc giả vị lai của quyển này
..."
Tôi nhìn "đứa con đỏ" đang nằm ngủ trong nôi, rồi nhìn anh:
- Để cho hai chục năm về sau?
- Ba chục năm.
- Tam thập nhị lập... À, anh khinh người đồng thời mà trọng kẻ đến
sau. Anh "làm phách," thế mà "thiên hạ" chưa cho anh mò tôm nhá!
Anh không đáp, chỉ cười, một cái cười buồn,
rất buồn.
*
( ... )
Xét lại đời anh trong hai mười lăm năm nay, hết thất bại này đến thất
bại khác. Anh thì chắc sau những phen mệt mỏi, chán ngán không tránh khỏi, sẽ
liên tục con đường "cãi số Trời" của mình đến hơi thở cuối cùng "để xem sao."
Nhưng còn
người bạn đời mà tù đày đã giành hết phân nửa thời gian
chung sống với chồng?
- Chị có thất vọng về anh không?
Chị nhìn tôi, như chưa hiểu câu tôi hỏi.
- Anh cứ đuổi theo những mộng mà thiên hạ cho là khó thành, để mình chị gánh
vác bao nhiêu là bổn phận, hẳn chị có lúc cũng thấy ông chồng "kỳ khôi" của mình
làm mình thất vọng phần nào.
- Tôi hiểu chú muốn gì rồi. Tôi có những lúc khổ vì nhà tôi thật, mà không
thất vọng. Vì ba mươi năm về trước, khi nhận lời làm vợ nhà tôi, thì nhà tôi là
một anh chàng công nhân, mà tôi không biết tên thật là gì.
- Sao lạ vậy chị?
- Lúc đó chúng tôi là đồng chí, hoạt động trong bí mật.
- Việc cũng ly kỳ. Nếu chẳng có gì bí mật, chị có thể cho biết sơ qua cái
thuở ban đầu gặp gỡ ấy ...
- Năm ấy, tôi hoạt động trong một chi bộ ở Cà Mau, thì được lệnh
lên Sài Gòn. Bắt được liên lạc với người đồng chí cao cấp ấy rồi, tôi
kín
đáo theo anh xuống dưới gầm cầu Móng. Gặp một đồng chí lạ, mặc áo công
nhân. Đó là đồng chí Năm, mà tôi phải sống chung làm một cặp "vợ chồng đối phó"
để tiện bề hoạt động.
- Vậy anh chị đóng vai vợ chồng giả trong bao lâu thì thành "vợ chồng thật"?
- Ba tháng sau, chú à.
*
Năm
đã hầu tàn. Anh có phần rỗi rãi. Tôi lợi dụng khoảng thời gian anh hết
bận rộn vì chức vụ Phó viện trưởng và Giáo sư viện Đại học Vạn Hạnh mà quấy rối
anh.
- Nhờ anh cho biết anh bắt đầu viết lúc nào.
- Lúc tôi mười sáu tuổi, đang theo học Đệ nhị trường Trung học Cần Thơ.
Tôi viết báo, báo tay với anh em cùng lớp. Chủ bút là người anh
biết, Trúc Hà Trần Thiêm Thới, sau này sẽ đi xa trong báo giới và học giới;
trong bộ biên tập, có hai anh này sau sẽ đi xa về Quân sự và Chánh trị, là
Nguyễn Văn Tây và Ung Văn Khiêm. Lâu quá, tôi quên tên tờ báo học trò ấy. Nhưng
tôi không quên việc tréo cẳng ngỗng này: báo Quốc ngữ, mà anh em giao tôi mỗi kỳ
cố "rặn" cho ra một bài xã thuyết bằng tiếng Tây. Đố anh biết để chi? Để rủi báo
có bị tịch thâu thì ông đốc Tây biết ngay đại ý tờ báo muốn nói gì.
- Chắc bài này không ký tên.
- Có chớ. Ký biệt hiệu Tây đàng hoàng: Vu-Tren!
- Vu-Tren?
- Nói lái là Ventru. Ventru nghĩa là "Bụng bự." Lúc đó bụng tôi to hơn mức
bình thường, anh em gọi đùa tôi là "Tường bụng."
- Hồi đó, mà anh đã tỏ ra "rắc rối" rồi! May mà anh
chưa biết biện chứng pháp... phổ thông! Không thì bạn học còn "ngán" anh đến
đâu!
- Tờ báo tay ấy có thọ không, anh?
Anh lắc đầu:
- Nhân vụ án Nguyễn An Ninh, bọn chúng tôi tham gia phong trào bãi khóa, và
bị đuổi. Sang Pháp, tôi lại viết báo... bằng tiếng Pháp lần nữa, và ở một trường
hợp đặc biệt. Anh Thâu đang viết loạt bài "Après Yên-Bái, que faire?" (3)
trong tờ La Vérité, thì bị trục xuất vì dự cuộc biểu tình trước điện Élysée phản
đối việc xử tử Nguyễn Thái Học với 12 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Tôi và anh
Hùm nhờ lẹ chân trốn sang Bỉ nên khỏi bị đuổi về nước. Tôi thay anh Thâu viết
tiếp loạt bài bỏ dở.
- Après Yên-bái, que faire? Ký tên ai?
- Ký: Un émigré indochinois (4).
- Thế bao giờ anh mới bắt tình với báo Việt?
- Năm 1931. Khi ở Pháp về. Anh Thâu
có người
thày cũ rất thương anh, anh Nguyễn Văn Bá, lúc ấy nghỉ dạy và trông nom
tờ Công Luận. Anh Thâu đưa tôi lại thăm thầy cũ, và trổ tài hùng biện để kéo
thầy cũ theo chủ nghĩa của mình. Ảnh nói nhiều, không để thày nói bao nhiêu. Làm
ông Bá bực. Còn tôi vốn trầm lặng, ít nói, nên ngồi làm thinh mà nghe. Ông Bá
hỏi, tôi mới trả lời; ông có cảm tình với tôi ngay và mời tôi cộng tác. Tôi nhận
lời, và bút hiệu Bửu Liên của tôi xuất hiện từ đó.
- Báo Tây, báo Ta, báo công khai ... giờ anh cho biết về báo ... bí mật, thứ
báo chẳng thấy trưng bày trong cuộc triển lãm 100 năm Báo chí vừa qua ở nhà Văn
hóa.
- Tôi chắc anh em bây giờ không ai còn giữ được số nào. Có trên ba chục
năm rồi, và biết bao nhiêu phen máu lửa xảy ra! Họa may Công an còn giữ số nào
chăng, nếu được thực dân Pháp không chở về Tây để làm của quý! Anh nhờ nói đến
việc này, là anh làm tôi trẻ lại như hồi mới hai mươi! Viết bài, thì tôi viết.
Anh Đào Hưng Long, chữ tốt, đóng vai trò "thợ sắp chữ," nghĩa là ảnh chép lại
những bài của tôi bằng mực tím đậm rồi giao cho "nhà in," tức là những nữ đồng
chí có nhiệm vụ "in" ra trên xu xoa. Anh chắc cũng biết qua lối "in" này. Úp bản
cái lên
mặt khuôn xu xoa, vuốt cho đều tờ giấy, để đó mười lăm phút cho mực thấm
vô xu xoa, vuốt cho giấy sát. Rồi gỡ bản cái ấy lên, mình có bản chánh "in"
ngược lên xu xoa. Giờ chỉ còn lấy giấy để lên mặt xu xoa, vuốt giấy cho sát,
để chừng một phút, gỡ ra. "In" độ năm mươi bản thì chữ mờ. Tôi có nghĩ ra một
cách có lợi cho việc "in xu xoa" này. Thói thường là nấu xu xoa, đổ vô một cái
khuôn, và chỉ dùng được có mặt xu xoa ở trên mà thôi. Tôi
cho cắt những tấm kiếng bằng nhau để trong khuôn, tấm này cách tấm kia độ một
phân (giữa hai tấm kiếng ở hai đầu, có cây cạnh cao chừng một phân), đổ xu xoa
vô, thì mỗi lớp xu xoa có hai mặt, mặt
trên in cũng được, mà lật lại mặt dưới, in cũng được. Ví như
ta có năm tấm kiếng thì ta có sáu miếng xu xoa, tức là mười một mặt xu
xoa in được.
- Chẳng khác nào trước ta có một máy in, mà giờ ta có mười một máy in vậy.
Thế mà anh chẳng làm đơn xin bằng phát minh cũng uổng!
Chúng tôi cùng cười. Rồi anh tiếp:
- Đến khoảng 1935, chúng tôi có ý chẳng ngu này: làm sao báo bí mật của đoàn
thể mình "in" bằng chữ nhà in, mà gạt được bọn mật thám Tây. Nghĩa là làm sao
cho chúng nó bảo nhau báo này không thể in ở Việt Nam được, mà in ở bên Pháp;
được thế, chúng không tìm ở bên này, mà lo kiếm ở bên Pháp để làm cho ướt ngòi
từ Mẫu quốc.
"Chúng tôi tổ chức một cuộc ăn cắp. (Anh mỉm cười).
Chuyện đã
xưa rồi, bây giờ khai ra đây, chắc không ai bắt thường bắt tội mình đâu.
Chúng tôi tổ chức một đám trẻ em, xin vô làm nhà
in Ardin, học nghề sắp chữ. Anh còn nhớ nhà in Pháp này ở đường Catinat chớ? Nhà
in lớn, có chú hạch gác cửa, giờ về, chú khám thợ thuyền, sợ ăn cắp chữ. Thế mà
không khỏi tay ... các "tiểu đồng chí" của chúng tôi. Mò túi, rờ lưng, chú hạch
chẳng bắt được gì. Thế mà về đến cơ quan, các em nộp "chiến lợi phẩm" cho chúng
tôi: trung bình mỗi ngày bốn gói, mỗi gói độ vài chục chữ. Đố anh biết các em
làm sao qua mặt chú Chà-và gác dan kia
không? Chữ ăn cắp, các em giấu trong... ghi đông xe đạp. Kiến tha lâu đầy ổ. Rồi
một ngày nào đó, chúng tôi "đủ sức" dựng một cái "nhà in" bí mật. Nói dựng nhà
in cho oai, chớ thật ra là cất một cái chòi, để các em ở đó. Ban ngày lại nhà in
thực dân, học; ban đêm, về nhà in của mình, thực hành. Tôi còn nhớ anh bạn phụ
trách "nhà in" này, anh tên X hiện ở Paris. Sắp chữ xong xuôi, "mi" rồi, là vỗ.
Công phu nhất là phần việc chót này. Vỗ cho cẩn thận, cho khéo léo, thì tờ báo
xem i hệt như là in máy thật. Tờ Thường Trực Cách Mạng "in"
bí mật theo lối này, làm bọn mật thám bứt đầu bút cổ. Số in à? Thường thì vài
trăm. Gặp trường hợp đặc biệt, tới mấy ngàn.
Và mắt anh như mơ màng. Chẳng biết anh nhớ đến một thời hay những bóng hình
ai.
Tôi thì nhớ dịp
kỷ niệm trăm năm Báo chí, nên chưa muốn rời địa hạt này. Huống hồ chi lại định
hỏi anh về tờ báo đã từng đóng một vai trò lịch sử
trong công cuộc chống thực dân và phong kiến, mà đời hoạt động cách mạng của anh
lúc đầu "ăn chịu" nhiều với báo.
- Anh bật mí báo chí bí mật do anh điều khiển, bao nhiêu đó cũng tạm đủ. Nhờ
anh cho biết về tờ báo công khai La Lutte. Mấy anh dính líu
mật thiết với nó đã bị Đệ tam sát hại cả, chỉ còn có
mình anh. Gợi kỷ niệm xưa, chắc anh buồn, nhớ những bạn đồng hành xấu số, nhưng
anh lại giúp cho anh em đến sau một số tài liệu sống của người
trong cuộc.
Anh hơi mỉm cười:
- Nói ra, thì khó tin, nhưng nguyên nhân ra báo là một trò "giỡn chơi."
Mà giỡn chơi với nhà cầm quyền Pháp. Số là sắp có cuộc tranh cử Hội đồng thành
phố. Anh em có ý đưa ra một sổ đối lập với các sổ tay sai thực dân. Lấy tên là
sổ Lao động, gồm có mười hai người. Tôi chỉ nhớ tên sáu người là
Nguyễn Ván Tạo, Trần Văn Thạch, Lê Văn Thử, Lê Văn Lưỡng, Huỳnh Văn Tài. Đứng
trong sổ Lao động nên nghề nghiệp anh em đưa ra đều có màu sắc Lao động cả, trái
lại với các ông điền chủ nhà giàu. Tạo làm nghề viết báo, Thạch làm nghề dạy
học. Thử với "chức": thợ nhà in, Lưỡng: thợ máy, Tài: lon ton. Có sổ rồi, phải
có báo, vì có báo ai mà dám cổ động cho bọn tay làm hàm nhai này. Ra báo chữ Tây
cho khỏi phải chịu chế độ kiểm duyệt. Chúng tôi nhờ ông Ganofsky làm quản lý.
Ông là một nhà báo, có tinh thần cấp tiến, nên vui lòng tham gia "trò chơi" này.
Anh em thì nghèo mà số đầu cần ra gấp, tiền chạy chưa đủ. May thay, ông huyện
Của, chủ nhà in Union và cũng là chủ tờ báo kỳ cựu Lục tỉnh tân
văn, vui lòng cho in chịu. Báo chạy. Trả nợ nhà in và lo tiền cho số kế. La
Lutte đợt đầu chỉ bán ra có bốn số, trong thời vận động tranh cử. Đến số bốn,
mới có tôi.
- Thế lúc ấy, anh ở đâu?
- Tôi bị kẹt trong tù. Kẹt sáu tháng. Về tội... "báo bí mật." Và
lãnh ba năm tù treo. Sẵn đây, tôi kể anh nghe vì sao tôi từ bí mật ra hoạt động
công khai. Cũng do một người bạn "giỡn chơi." Vừa ra tù,
tôi đi dự một cuộc họp ở rạp hát Thầy đội Có ở Tân Định, do các ứng cử viên đối
lập với sổ Lao động tổ chức để vận động cử tri. Những cuộc họp như thế, có chất
vấn, có tranh luân, nên mở đầu là giới thiệu người vào chủ tọa đoàn. Anh Nguyễn
Bá Tường (giờ là một nhà triệu triệu phú, một trụ cột của xưởng thuốc điếu
Bastos) muốn phá tôi chơi, bèn giới thiệu tôi làm thị sự (ascesseur). Tôi đành
phải bước lên diễn đàn. Thính giả cười ồ. Vì tôi mới ở khám ra, "cái đầu trọc
lóc như trái dừa khô." Anh bạn nhân đó bồi thêm một chưởng: "Đây là một nhà
chánh trị thứ thiệt. Thành tích chống thực dân ở ngay trên đầu. Để đồng bào tiện
bề kiểm soát!" Cả rạp vỗ tay. Từ trước, tôi hoạt động trong bí mật, có viết bài
ở báo công khai, thì đều ký biệt hiệu, nên đại chúng chẳng biết tôi làm chánh
trị. Lần này vì bạn phá chơi, tôi kẹt, mà phải ra công khai từ đó. À, tôi quên
nói là việc xảy ra năm 1933. Còn có điều đáng nói là trong những
buổi tổ chức như thế, anh em trong sổ Lao động thường "cướp diễn đàn." Nhờ kinh
nghiệm quần chúng, nhờ tài hùng biện, nhờ tài xoay xở. Người ta
tốn của mướn rạp, tốn công mời công chúng, mình chỉ có chờ cơ hội là nhảy ra bắt
bí diễn giả đối lập, làm họ tắc tị, hay khiến họ làm trò cười cho thính giả, rồi
mình lôi cuốn công chúng về phe mình, và tha hồ tuyên truyền, cổ động cho "gà"
nhà. Người
ta dọn cỗ sẵn để mình ăn !
Anh như toan nói gì thêm, nhưng lại dừng. Sao tôi lại đoán rằng anh định nói:
"Sân khấu Chánh tri ba mươi năm về trước coi vui nhộn hơn bây giờ
nhiều."
- Theo anh, thì ra La Lutte đợt đầu là để "giỡn chơi" trong mùa tranh cử Hội
đồng thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, nhưng còn qua năm sau, các anh cho ra lại La
Lutte, cơ quan binh vực quyền lợi cho giới lao động, thì lần này là "làm thiệt"
chớ?
Anh gật đầu.
- Vậy vì nguyên do nào?
- Hơi dài dòng đó. Năm 1934, phái đoàn Cộng sản Pháp đo Gabriel Péri cầm đầu
qua xem xét tình hình, thấy hàng ngũ Đệ tam tan rã gần hết, Péri mới tìm Nguyễn
An Ninh để bàn bạc (Anh Ninh vốn là một chiến sĩ thuần túy quốc gia, nhưng
anh không ngần ngại gì bắt tay với các tổ chức quốc tế để chống thực dân, nên có
cuộc đối thoại mà tôi rút gọn như sau:)
Péri - Thất bại trong bí mật, sao Đệ tam không tìm ra công khai?
Ninh - Vì không đủ tài.
Péri - Không đủ tài thì bước đầu hợp tác với những ngươi có tài. Rồi sau sẽ
tủy cơ ứng biến. Nhóm nào có năng lực?
Ninh - Nhóm Tờ rôt kít.
Péri - Có đông không?
Ninh - Năm, sáu đứa
Pérl - Họ bằng lòng hợp tác?
Ninh - Tụi nó dễ chịu lắm.
Thế là Péri chuyển đề nghị qua Moscou. Moscou chấp nhận. Paris mới đưa ra chỉ
thị cho Sài Gòn; anh Ninh làm mối lái. Anh em chúng tôi bằng lòng: nhóm La Lutte
thật sự ra đời sau đó. Nó gồm có những phần tử Đệ tam, Đệ tứ và những phần tử
chân chánh quốc gia như Nguyễn An Ninh, Trịnh Hưng Ngẫu. Tờ La
Luttelại ra đời, đánh số 5 ngày 4-l0-1934.
Qua tháng hai năm sau, nhóm quyết định đưa người ra tranh cử Hội đồng Quản
hạt. Bản tuyên ngôn của nhóm (Aux électeurs des classes moyennes: Gởi cử tri các
giai cấp trung lưu), Thâu và tôi thảo. Anh em bảo tôi ra, tôi không chịu, vì
không thích, mà cũng vì tôi trẻ nhất trong đám anh em, thiếu hai tuổi để làm
ứng cử viên. Nhưng anh em cứ biên đại tên tôi, đứng cùng sổ với Phan Văn Hùm,
Nguyễn Văn Nguyễn, ra quận 1, gồm những tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một. À,
chút nữa quên, còn Côn Nôn nữa!
Tôi cười:
- Quả là tiền định. Ba anh ra ứng cử cái quận có Côn Nôn, nên về sau, anh nào
cũng nếm mùi Côn Đảo. Con anh thì thiếu hai tuổi... nên duyên nợ với nó đến hai
lần! Mà này, như thế, thì hai Đệ tứ và một Đệ tam ra ứng cử. Đệ tam chịu lép vế
sao?
- Đâu có, còn sổ thứ nhì: Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Thạch ra
ứng cử quận nhì (tức Sài Gòn, Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho). Nam kỳ lúc đó chia ra
làm năm quận bầu cử.
- Nhưng chuyến "xuất quân" đầu tiên ấy thắng hay bại?
- Bại. Chúng tôi thất cử vì bị ăn gian thăm.
- Trong thời làm báo La Lutte, có gì vui không anh? Tranh đấu, thì có lúc
bại, lúc thắng, khi buồn, khi vui ...
- Tôi còn nhớ hai cái khoái. Một là ủng hộ Trần Văn Thạch trong việc mở mục
Petits clous (Đinh cúc), và góp ý với ảnh để ảnh dùng giọng văn trào phúng mà
viết mục bài phong kiến, đả thực dân này. Anh Thạch viết Pháp văn rất cừ và có
duyên, nên mục Đinh Cúcđược độc giả hoan nghênh. Anh biết
hạng độc giả nào đọc mục châm biếm này nhiều nhất không? Ba phần tư là... người
Pháp. Thực dân Pháp ghét cay ghét đắng tờ La Lutte. Nhưng lại thích đọc
mục Petits clous (có những người mua La Lutte để chỉ đọc có
mỗi mục này), và buồn cười, là họ lại cho chúng tôi tuy dô để viết bài "hạ" đồng
bào họ nữa chớ. Đó là cái khoái thứ nhất. Cái khoái thứ nhì là việc hạ uy tín
Nguyễn Phan Long ở phe Lập hiến. Bọn chúng tôi biết được hiện tượng kỳ cục này:
thiên hạ phục Nguyễn Phan Long, chẳng phải vì đường lối chính trị của ông, mà vì
ông viết tiếng Tây hay. Vậy muốn hạ con "Rồng" có uy tin với đồng bào này, thì
tìm cách chứng minh rằng ông ta viết tiếng Pháp... sai mẹo. Anh em đọc thật kỹ
các bài của ông Long, hễ thấy lỗi là mách cho anh Thạch. Anh Thạch bèn viết bài
bắt bẻ Gờ ram me ông Long. Vài lần, là ông Long mất mặt với
độc giả. Uy tín riêng của ông - và cả uy tín của đảng Lập hiến - sút đi vì vụ
này. Các bạn trẻ bây giờ hẳn không tin đó là sự thật. Phải sống vào thời kỳ ấy,
mới thấy có lúc không thể lấy cái "lô gíc" (logique) mà giải thích một hiện
tượng xã hội.
"Lại còn một điều tức cười này. Tòa soạn La Lutte ở 99 đường Lagrandière, giờ
là đường Gia Long. Chắc chắn đó là toà soạn nhỏ hẹp nhất của báo... công khai.
Nửa căn phố thôi vì phân nửa đầu bị cái thang lầu chiếm gần hết. Nhỏ, hẹp lại
bất tiện, nên chẳng ai thèm mướn. Phố của chú Hỏa. Chúng tôi chỉ phải trả tiền
phố tháng đầu. Những tháng sau - mà chúng tôi ở đó tới hai năm - chú Hỏa không
dám thâu tiền phố chúng tôi.
- Không dám? Anh chủ quan rồi đó. Chú Hỏa cũng thuộc về đám...
thực dân da vàng, thì có sợ gì đám dân lao động bị trị các
anh. Chẳng qua là chú Hỏa biết các anh nghèo, nên... thương tình, không nỡ thâu
tiền phố đó thôi. Vả lại người Tàu vốn thấy xa, nên chú tư
bản này bắt đầu thực hiện khẩu hiệu: "lao tư hợp tác"' mà các anh vì say cái
thuyết tranh đấu nên chẳng hiểu cái "lo- gíc" ấy!
Chúng tôi cùng cười.
- Bây giờ, hỏi anh đôi cái bí mật trong nghề đây. Tuần báo La Lutte
mỗi kỳ in bao nhiêu số?
- Một ngàn.
- Cái vốn để ra báo ...
- Anh em chúng tôi góp tiền kẻ ít người nhiều. Rồi các nhà trí thức
hảo tâm giúp đỡ, nên phần tài chánh cũng nhẹ lo. Hơn nữa, lần lần tờ báo tự túc
được.
- Làm báo mà khỏi lo "chạy tiền" là các anh thành công trên mặt
thương mãi rồi đó.
- Nhưng làm báo để tranh đấu, thành ra vẫn cứ "chạy tiền" như thường. Cần tổ
chức những cuộc đình công, bãi thị để chống thực dân, thì phải sẵn tiền để giúp
đỡ anh chị em cơm nước hoặc thuốc men trong suốt thời gian tranh đấu.
- Anh còn nhớ mỗi lần tổ chức một cuộc tranh đấu như thế, cần bao nhiêu tiền?
- Một ngàn. Nhưng ngàn đồng lúc đó lớn hơn ngàn đồng bây giờ nhiều. Anh
muốn hỏi "chạy" đâu ra một số tiền lớn thế? Thì đi quyên. Những người bạn
hay quen biết giầu có mà ghét thực dân, không phải ít. Họ luôn luôn sẵn lòng. Kẻ
công người
của!
- Có chút thắc mắc nầy, vừa dính đến báo lại dính đến sách. Có vài người nói
quyển "Phong kiến là gì?" của anh ký Duy Minh, do nhà Minh Đức
xuất bản năm 1946 ở Hà Nội là gồm những bài báo trước đăng ở Công luận,
ký Phan Văn Hùm. Chẳng hay chị Hùm - Mai Huỳnh Hoa (5) - có tìm anh để hỏi đầu
đuôi câu chuyện chưa?
Anh "à" lên một tiếng.
- Chị Hùm - Mai Huỳnh Hoa (để nói theo anh) tới nay chưa làm "khó dễ"
gì tôi về vụ "sang đoạt" này. Chắc là chỉ chưa hay. Số là dạo ấy, năm 1935, nếu
tôi nhớ không lầm, "ông già" Phan Khôi có viết một bài dài, cho rằng nước Việt
ta không có gì là phong kiến cả, và những kẻ nào nói có, là những kẻ dốt. Rồi
ông lại kêu đích danh Phan Văn Hùm ra bút chiến với ông. Anh Hùm không thể làm
thinh. Nhưng khổ nỗi là ảnh chuyên về Triết học, mà không chuyên về Xã hội học.
Trong anh em, tôi là người đã nghiên
cứu chút ít về môn này, nên lãnh cái "nợ viết những bài trả lời lão tướng Phan
Khôi. Anh Hùm sửa lại cho có "giọng" của anh và ký tên ảnh. Tuy thế, vốn
là
người cẩn trọng, ảnh chú rằng tài liệu vốn mượn của tôi.
- À ra thế!
- Trong những phong trào chính trị, thường thì người này
viết tài bệu, rồi để người khác ký tên. Các sử gia về
sau nếu chỉ căn cứ theo những gì nằm trên giấy trắng mực đen, thì làm sao tìm
cho ra sự thật! Tôi xin đưa ra một trường hợp của tôi: chính tôi là người điều
khiển tạp chí bí mật Thường trực Cách Mạng, nhưng khi đổ vỡ,
thì một đồng chí đứng ra "chịu tội" trước pháp luật. Mai sau, có sử gia nào đó
tìm tòi trong hồ sơ của tòa án, thấy tên người đồng chí nọ, vội bằng lòng
với kết quả đó, rồi công bố trong sách vở mình, trong khi "chánh danh thủ phạm
tên là thằng tôi!" Và nếu lúc ấy, những người trong cuộc không còn, thì sự
sai lầm kia được truyền mãi về sau, như là một chân lý!
Nhân trường hợp của tôi mà suy ra, tôi mong những ai muốn viết về lịch
sử nước nhà trong thời Pháp thuộc - nhất là về những đảng Cách mạng - phải hết
sức cẩn trọng và chớ có bằng lòng những tài liệu đã có trong sách, trong báo. Khảo
cứu mà làm như Nguyễn Văn Tố trước kia, tôi cho là hẹp hòi, máy móc, khó tiìm ra
sự thật.
- Tôi nhớ anh có đem "ông cụ" Ứng Hòe nhà ta mà ngạo trong Phi Lạc sang Tàu,
với bốn câu hỏi đặt vào miệng ông ấy: "Ngài dựa vào sách nào? Trang mấy? Tờ a
hay tờ b? Dòng thứ mấy?"
- Tôi dụng ý công kích cái tinh thần "nệ sách" của một hạng người khảo
cứu mà điển hình là "Tố tiên sinh!"
- Thế là anh đả kích phương pháp sử học của Âu - Mỹ mà các "sử gia" của ta
tốt nghiệp tại các trường Sorbonne, Harvard, Columbia đang áp dụng trong khi
nghiên cứu sử nước nhà hoặc đang truyền lại cho sinh viên "bản xứ."
- Tôi đâu dám phê bình phương pháp sử học Tây phương, vì tôi không phải
là một sử gia, mà cũng không phải là người rành sử. Chẳng qua là
tôi muốn góp chút ý mọn của mình, là hoàn cảnh nước nhà nó có khác, vậy nên uyển
chuyển trong việc nghiên cứu sử của dân tộc, chớ còn một mực áp dụng phương pháp
học ở phương trời Tây, thì e kết quả thâu thập có phần thiếu sót, không sống
động, đôi khi còn có thể sai lạc. Bởi vì nước ta thường sống trong cảnh loạn ly,
tài liệu chép, in mất đã nhiều, mà còn tệ một nỗi là
triều đại sau có cái thói hủy diệt dấu tích triều đại trước nếu triều đại này
vốn là thù nghịch; lại còn ngàn năm thuộc Tàu, trăm năm thuộc Pháp. Viết sử nước
nhà trong hai thời này, mà chỉ căn cứ vào tài liệu của sử gia Tàu, Tây (hoặc sử
gia
người mình mà mất gốc), thì hẳn là khó mà đầy đủ, khó mà chính xác. Tôi
tưởng ta không thể bỏ qua loại văn chương truyền khẩu thời Bắc thuộc, văn chương
"quốc cấm" thời Pháp thuộc ở trường hợp này.
"Tôi mong sao các sử gia của ta xuất thân từ các trường dạy sử danh tiếng Âu
- Mỹ, ngoài các phương pháp của Seignobos, còn cố tìm phương pháp của văn chương
sử liệu."
...
- Tác phẩm mà tôi mong được dịch ra tiếng Pháp, Anh... va xuất bản ở Âu
Mỹ để làm bức thơ cám ơn chung cho những ai ở ngoại quốc và ở trong nước đã ký tên
xin ân xá cho tôi, là bộ Thuốc trường Sanh.
Tôi viết nó ở trong tù Côn Đảo, tháng 4 và tháng 5-1958. Đó là một quyển khảo
cứu về Triết học, trình bày dưới hình thức tiểu thuyết, có tánh chất thời đại.
Nó khảo cứu về thuyết nhân quả, về hành động, về đức tin. Các nhà văn Âu châu tả
sự cô đơn của cá nhân; trong Thuốc Trường Sanh, tôi tả sự cô đơn
tập thể, sự cô đơn của nhóm Tuyết-Lê, trong thế giới hai phe đương chống đối
nhau kịch liệt bằng máu lửa, mà không theo một bên nào được, nên đuổi theo mộng
"lập cái hố của đấu tranh, của hận thù." Và nhân vật chánh trong tiểu thuyết
tượng trưng này, tôi dành cho loài cọp, mà tôi thấy hơn loài người: cọp
giết người
vì bản tánh tự nhiên, còn người giết người lắm
khi vì một cớ không đâu.
- Anh viết nó chắc là không giống như mấy lần trước: bị anh em giao cho trách
nhiệm viết tuyên ngôn, thuyết trình, khảo cứu, bị vợ hụt tiền chợ xúi anh bán
văn, bị ở vào cảnh không còn sanh kế nào khác, như có lần ở Côn Đảo anh viết thơ
cho tôi, khi tôi phỏng vấn anh về truyện ngắn hay cho Bách Khoa.
- Đúng vậy. Lần này, không bị ai hay bị gì bắt mình phải viết. Mà chính mình
buộc mình phải viết. Và viết có chương trình hẳn hoi. Để quên cái ám ảnh bị chết
mòn. Vì rời khám Chí Hòa, vô ngục Côn Nôn, chúng tôi thấy ngay anh em họ Ngô
Đình quyết tình giết chúng tôi một cách từ từ mà chắc chắn: chân bị còng, đồ ăn
nuốt chẳng vô: mắm chưng thì mục nát, cơm đỏ thì hẩm, lộn dầy thóc sạn. Tôi cắm
đầu cắm cổ viết, trừ giờ ngủ và giờ ăn.
- Hẳn lúc ấy, anh viết một cách say sưa?
- Không đâu. Tôi say sưa hành động thì có, còn say sưa viết thì không.
Tôi viết đều đều, chậm chậm. Anh đã thấy bản thảo mấy tác phẩm tôi
viết ở Côn Dào thì rõ: tuồng chữ đều đều, chẳng có vẻ gì là "chuếnh choáng hơi
men" cả, thỉnh thoảng mới bôi hay thêm đôi chữ.
- Với bộ Thuốc Trưòng Sanh, hẳn là anh phải làm một cái dàn trước?
- Làm sơ trong đầu thì có, chớ làm trên giấy thì không. Mà quyển nào cũng
thế, trước kia cũng như bây giờ. Nuôi đề tài trong trí, rồi cầm viết lên là
viết. Chỉ trừ một lần. Mà lần này, chẳng phải tôi làm cho tôi, mà cho anh Khái
Hưng. Việc xảy ra ở Hà Nội, năm 1946. Tôi có bàn với anh Khái Hưng nên đưa hình
thức tiểu thuyết mới, vì từ 1945, quần chúng bước ra sân khấu lịch sử, vai trò
của cá nhân phải lu mờ trước vai trò của đoàn thể. Vậy, nội dung và thể tài của
tiểu thuyết này phải khác. Anh Khái Hưng đồng ý, và chúng tôi hợp tác với nhau
để viết chung một bộ tràng giang tiểu thuyết. Tôi chọn đề tài dựng sườn, phác
họa nhân vật; anh Khái Hưng viết. Tên bộ tiểu thuyết: Gái nước Nam làm gì? Quyển
đầu có tên: Nổi cơn gió bụi, mượn ở câu đầu "Chinh phụ ngâm": Thuở
Trời Đất ...
- Chớ không phải Thu Hương?
- Không. Thu Hương, Chị Tập là hai phần trong bộ Gái nước Nam làm
gì? cũng như Jean Valjean, Fantine, Cosette, Mrius, trong bộ Les
Misérables của Victo Hugo.
- Nhưng sao lại chọn đề tài Gái nước Nam làm gì? mà không Trai nước
Nam làm gì? như một cuốn sách viết về thanh niên của anh Hoàng Đạo Thúy?
- Vì người con gái hành động do tình
cảm, theo bản năng, mà rất nhẹ về lý trí. Tôi thấy lúc ấy lịch sử sắp lật qua
trang mới, nên tôi muốn đặt lại vấn đề: "Hành động phải làm sao?" trong bộ
Gái nước Nam làm gì? Anh Khái Hưng sửa soạn bắt tay vào
việc, thì chiến tranh toàn quốc bùng nổ. Anh tản cư rồi bị hại. Tôi bị quân Pháp
bắt về Hà Nội, rồi tôi về Sài Gòn. Tôi mới viết hai phần giữa rút ra trong bộ
ấy. Thu Hương, rồi Chị Tập ra đời trên nhật báo Ánh
sáng,rồi sau in thành sách. Đây chỉ là hai phác họa trong cái bích họa
dự định để
đánh dấu sự chỗi dậy của dân tộc khởi từ 1945, mà sự chỗi dậy này chẳng
những
đánh dấu lịch sử nước mình, mà cũng đánh dấu lịch sử nhân loại, vì do
đó mà khơi mào cuộc chiến tranh nguội giữa hai khối Cộng sản và Tư bản. Tôi vẫn
luyến tiếc cái dự định văn chương này, nên ra ngoài ngày tôi sẽ khởi đầu viết để
đăng trên Hòa đồng.
- Trước Thu Hương, Chị Tập, có Phi Lạc sang Tàu sáng tác dài
đầu tay này hẳn làm anh mệt, như phần đông sáng tác đầu lòng?
Anh xác nhận rằng anh rất mệt vì cái quyển tiểu thuyết trào phúng này. Bởi
anh phải giải quyết một bài toán hết sức khó, gồm năm phương trình:
1) Làm sao mà trình một văn kiện chánh trị vạch rõ được tiền đồ, chiến lược
và triển vọng của dân tộc Việt?
2) Làm sao mà văn kiện này lọt qua lưới kiểm duyệt của Việt Minh cũng như của
Pháp?
3) Làm sao mà văn kiện này, tuy lọt qua lưới kiểm duyệt, mà vẫn để cho quần
chúng hiểu được nó nói gì?
4) Làm sao mà nó thâm nhập được trong nhân gian mau lẹ và có thể ảnh hưởng
được thời cuộc nước nhà?
5) Làm sao mà độc giả xem qua một lần, không ném nó một bên lại đành để
mà đọc đi đọc lại, và nhờ ánh sáng của thời cuộc rọi, mỗi lần đọc lại thấy phong
phú và xác
đáng hơn?
Do đó mà nói chuyện nước Tàu (Quốc, Cộng đánh nhau) để nói chuyện nước nhà
sẽ phải chia hai, và chọn hình thức tiểu thuyết với thể tài trào phúng vốn được
dân gian thích, rồi đến dùng sấm kí của Tàu và của Ta (dân ta thích nghe sấm,
bàn sấm và suy nghĩ về sấm); họ của nhân vật chánh nhắc lại Quang Trung với
chiến lược trước thành công ở Nam, sau thu công ở Bắc (nhưng không dùng biện
pháp quân sự, mà phải dùng biện pháp chánh trị và đạo đức, tức là Minh
đạo) và tên là tượng trưng cho đường lối dân tộc.
- Anh mà bạc đầu sớm cũng vì "mang nặng" đứa con so nầy. Như thế, hẳn khi đẻ
nó cũng đau chớ?
- Mang nặng thì có, mà đẻ không đau. Lúc bấy giờ - năm 1948 - cả ngày lo chạy
sống, gặp bạn bè xa gần, rồi khoảng bốn giờ chiều, ngồi lại, viết một mạch. Báo
Sài gòn mới cho tùy phái đến, viết được trang nào họ lấy trang nấy, tôi
không thì giờ để đọc lại nữa.
- Anh tạo nhân vật chánh của bộ Ngàn năm một thuở ấy, cái anh chàng
Phi Lạc chỉ đem cái miệng tài mà chọc Tàu, phá Mỹ, bỡn Nga, chắc cũng do một
nhân vật thật nào đó...
- Do một nhân vật tưởng tượng mà người Việt nào cũng biết và cũng
thích: đó là Cống Quỳnh.
- Còn nàng Thu Hương, cô sinh viên xinh đẹp và khả ái, tham gia phong trào
cách mạng năm 45, và đi buôn lậu cho đoàn thể?
- Không có Thu Hương sinh viên, nhưng có Thu Hương buôn lậu mà tôi và
anh Thâu đi nhờ xe từ Huế ra Hà Nội, sau khi tôi xoay cho cổ một cái giấy phép
của ông bộ trưởng Tiếp tế, như trong sách đã kể.
- Việc cũ rồi qua việc mới. Một số anh em bực mình vì những gì anh viết
sau này thường hay nói đến cái "tôi." Mà cái "tôi" của anh lại là cái "tôi" đặc
biệt: anh thông minh, anh nhớ giỏi, anh có dính dấp đến những người,
những việc lịch sử...
Anh cười.
- Thì tôi xin các anh em ấy đừng đọc những gì tôi viết nữa.
Rồi anh chau mày:
- Nghĩ cũng buồn: ta học thầy Pháp rồi đem cái câu "cái tôi
đáng ghét" (Le moi est haissable) của Pascal nói từ thế kỷ XVII mà
áp dụng cho ngày nay. Ngày nay, các nhà tư tưởng trên thế giới đều nhận cái học
nó minh mông vô cùng, không ai dám nhận rằng mình nắm được chân lý, mình thấu
hiểu tất cả, không ai dám nói với cái giọng tuyệt đối. Cho nên phải nói đến kinh
nghiệm cá nhân của mình. Vì lẽ đó mà các nhà tư tưởng lớn hiện đại đều nói đến
cái "tôi" của họ cả. Tôi đem cái "tôi" của tôi ra, chẳng phải để cho mình là một
nhà tu tưởng lớn, mà để chịu trách nhiệm những gì mình nói. Kinh nghiệm bản thân
tôi là thế. Tôi đã nghe như thế, tôi đã thấy
như vầy, tôi
đã nghĩ như vậy, tôi đã làm như ri, tôi đã là thế
đó. Trong không gian nào, trong hoàn cảnh nào. Tôi thành thật với chính tôi. Tôi
cho những ai hành động như thế mới đích thị là khiêm tốn. Tôi thẳng thắn: tôi
không dùng ngôi thứ ba, tôi không nhờ một ai khác vỉết. Còn những anh em nào đó
lại cho như thế là thiếu khiêm tốn, là tự đề cao, là khoe khoang khoác lác, thì
tôi còn biết nói sao.
Ngừng một chặp anh tiếp:
- Tôi viết tự truyện Thằng Thuộc, con nhà nônglà để tôi tìm hiểu
lại tôi, cái tôi thật ẩn náu tận đáy lòng, ở trong tiềm thức sau
này tô lên một lớp sơn dày. Mà Thằng Thuộc, con nhà nông cũng là
quyển đầu của bộ Một kinh nghiệm sống. Quyển kế sẽ là Căm
hờn, tả nỗi lòng của tôi từ khi ý thức được thân phận của mình, thân
phận của con một nhà nông nghèo bị đè đầu, bị hiếp đáp, bị bóc lột; phải phục thù,
tôi chụp lấy cái khí giới Mác-Lê. Quyển ba là Mê li đồ: người
tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa Mác-Lê là tôi đã hành
động, rồi băn khoăn để tỉnh ngộ ra sao, đó là đại ý quyển này.
...
- À, tôi muốn biết anh em, ngoài "cái tôi của tôi" còn thắc mắc gì nữa?
- Còn ba điều. Anh em muốn biết rõ vì sao anh công khai rời bỏ chủ
nghĩa Mác-Lê mà anh đã phụng sự hết mình?
- Có nhiều nguyên do. Nhưng tựu trung có hai nguyên do chánh. Sau 1936, phong
trào thợ thuyền ở Pháp xẹp, cuộc cách mạng bình dân ở I-pha-nho bị bỏ rơi, tôi
thấy cuộc Cách mạng vô sản thế giới mà chủ nghĩa hứa hẹn sẽ không bao giờ có ,
tôi mất đức tin từ đó. Rồi tính năng nguyên tử xuất hiện, loài ngươi mà cứ theo
thuyết tranh đấu, sẽ tận diệt lẫn nhau. Tôi thấy chủ nghĩa Mác- Lê lỗi thời nên
tìm một ý thức hệ khác cao đẹp hơn (6).
- Điều thứ hai: anh em thắc mắc sao khi đọc hai tiểu thuyết trào phúng mới
cửa anh đăng trên Hòa đồng: Tiểu Phi Lạc náo Sài Gòn và Diễm
Hồng xuất giá. Họ thấy trong đó, anh "nói xuôi cũng ngược, nói ngược cũng
xuôi." Chẳng biết đâu mà rờ!
Anh cười:
- Đó là tôi cố ý chứng minh rằng "biện chứng pháp" chỉ là một... luật
sư. Luật sư ăn tiền thì dầu biết thân chủ mình có tội cũng cãi xuôi rót. Với
biện chứng pháp, hễ "ở đâu" muốn nó "trắng" thì nó biện luận ra cho trắng, mà ở
đâu muốn nó đen, thì nó làm ra cho đen. Không thể nhờ nó mà tìm ra Chân lý được.
Thế là tôi
đã giải hai điều anh em thắc mắc. Còn điều thứ ba?
- Điều thứ ba ... còn khuya! Để bao giờ thế chiến thứ ... ba nổ, tôi sẽ cho
anh biết. À này, anh ở tù nhiều lần, lại nhiều năm, hẳn lắm kỷ niệm. Anh kể cho
đôi cái làm quà cho bạn đọc.
- Cha! người ta khó dễ với nhau để làm
tiền, anh khó dễ với tôi để làm kỷ niệm. Thì tôi kể cho anh một kỷ niệm có tánh
chất... lưu manh vậy.
"Lần tôi ở Côn Lôn kỳ nhất, có hai anh bạn trẻ rất mến tôi. Anh L. và anh N.
Sau này, một anh làm khu trưởng, một anh làm bộ trưởng. Hai anh mến tôi đến đỗi
học nghề ăn cắp để ăn cắp đồ ăn chia cho tôi! Ở tù, lúc nào mà no được, nên được
một miếng khi đói trong hoàn cảnh ấy, bằng mấy gói khi no.
"Coi bộ anh muốn 'làm' một kỷ niệm nữa. Thì đây: lần này trong đất
liền. khám Ca-Ti-Na, năm 1932. Tôi bị nhốt vào xà lim. Một lần nọ, người nhân
viên gác khám trao qua cái lỗ vuông ở cửa một cái hộp quẹt, bảo nhỏ rằng trong
đó có một bức thơ, của một cô 'rất ngộ' bị nhốt ở xà lim đằng kia nhờ gởi cho
tôi, dặn tôi coi rồi thì nhai cho nhỏ rồi bỏ lỗ cầu tiêu. Tôi mở hộp quẹt ra,
bức thơ là một bài thơ tứ tuyệt:
Thươngngười tình nghĩa nặng oằn vai,
Hồ hải tang bồng cả chí trai.
Hữu chí vô phần thân phải lụy,
Tường cao ngăn đón bực anh tài!
"Năm qua, có lúc buồn chán quá, tôi lại nhớ đến
người-rất-ngộ-nạn mà mình không biết mặt, cũng chẳng biết tên. Và
buồn cười, là tôi có lúc bắt gặp mình như chờ đợi một bà già tóc bạc đến tìm
mình, mở đầu: "Ba mươi năm về trước, một đêm vừa..."
*
Anh tỏ ý muốn tôi kết thúc bài này bằng một chuyện ngụ ngôn do anh đặt từ Côn
Đảo, nhưng tôi không đồng ý với anh, mà lại chấm dứt bằng bốn câu của một bài
thơ do anh làm ở Hà Nội (và anh đặt vào miệng một nhân vật đứng vào hạng chót
trong xã hội nước nhà) nhưng lại đổi đi một dấu chấm câu: Việc đời may rủi hỡi
này ai, Thành bại nào do một chữ Taì? Lắm lúc không mong mà lại được, Cho hay
chờ đợi hóa ra sai?
Thủ đô nước Việt, đầu năm Ngựa (1966)
Sống và viết với Hồ Hữu Tường - Nguyễn Ngu Í, Sài Gòn, 1966
(Thế Kỷ 21 số 170 June 2003)
Chú thích:
(1) Số 12, ngày 13-3-1964
(2) Con Thằn lằn chọn nghiệp, tên một truyện ngắn triết lý của anh
đăng ỏ tuần báo Mới, số 28, ngày 16-5-1956, sau đăng trong quyển "Nợ tinh thần,"
1965. Bạn thân thường gọi đùa anh là "Thằn lằn chưa chọn nghiệp"
(3) "Sau Yên-Bái, làm gì đây?"
(4) Một người dân Đông Pháp kiều cư.
(5) Gọi dài dòng thế) vì có tới hai chị Phan Văn Hùm; chị Hùm trên
đây vừa là bạn đời vừa là bạn văn của tác giả "Nỗi Lòng Đồ Chiểu."
(6) Tôi nghĩ đến hai câu ca này của Phạm Duy ờ bài hát Kẻ thù
ta trong "Mười bài Tâm ca" vừa xuất bản:
Kẻ thù ta đâu có phải là người
Giết người đi thì ta ở với ai?
| |||
|
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 030
THƠ VƯƠNG ĐỨC LỆ
1. đá mặt trăng
Người đã mang về đá mặt trăng
Phi thuyền nao chở hết ăn năn ?
Riêng ta hốt hoảng mê trường dạ
Nguyệt điện đìu hiu bóng chị Hằng .!
2. bốn bức tường không
Chân về bốn bức tường không
Vui ngoài mộng tưởng, buồn trong giãi bầy
Ngó quanh cửa đóng then cài
Dáng Em nẻo khuất vào đầy chiêm bao !
3. ngẫu hứng
Chiều mưa nước ngập lề đường
Thuở xưa em đứng ở truồng tắm mưa
Xuân hồng tắt lửa ngây thơ
Vàng thu áo khép, giấc mơ rụt rè !
4. qua phan rang
Gạch vỡ xanh rêu, sắc áo Chàm
Đường chiều thấp thoáng mấy gùi than
Ma Hời bật khóc Vương triều cũ
Đỉnh tháp quay đầu, lệ chứa chan !
5 . chân dung
Ta còn nhận được ta không ?
Với râu, tóc ấy ... tuổi hồng ta đâu ?
Hoa râm chợt nửa mái đầu,
Khư khư ôm trái tim sầu cỏn con !
6. nghiêp dĩ
Thất nghiệp còn đeo cái nghiệp thơ
Ra vào ngẩn ngẩn lại ngơ ngơ
Bằng bằng, trắc trắc, Nôm cùng Hán
Thơ chứa chan và thơ chán chưa !
7. trách kinh kha
Danh ai tráng sĩ đời xưng tụng
Nuốt hận nghìn năm thái tử Đan !
Một gã Kinh Kha dường kiếm vụng
Để Tần làm cỏ sạch yên bang !
8. chút bẽ bàng
Giấc mộng thanh xuân đã ố vàng
Ta ngồi góp nhặt mảnh hồn tan
Thây Em nhuộm tóc bên bàn phấn
Từng sợi sương pha chút bẽ bàng
9. hoàng hôn thế kỷ
Ngưỡng cửa đây rồi thế kỷ sau
Bình minh hay khởi một đêm sâu ?
Chỉ nghe tiếng máy rền vô tận
Và tiếng hò reo chấn địa cầu!
10. tôi tìm bóng tôi
Em về hỏi bóng tôi đâu ?
Nhìn quanh vách dựng nỗi sầu cô đơn
Chân quen tìm đến ngọn nguồn,
Đèn không hắt bóng tôi ruồng bỏ tôi !
11. hoá thân
Từ thân tứ đại ta về
Cùng Em phân nhỏ ngồi chia cát lầm
Dìu nhau suốt nẻo đường trần
Quẩn quanh rồi cũng mộ phần chia hai !
12. tháp chữ Kim
Sừng sững chân trời tháp chữ Kim
Nghìn thu hoang mạc ngủ im lìm
Từng trang dị sử chờ khai quật
Có thấy chi ngoài mộng đã chìm ?
13. xa và gần
Gần quá nên xa quá đấy thôi
Ngưới yêu dấu hỡi ! tuổi xa người
Nửa vòng trái đất - tầm xa nhất
Ta gíap vòng, nên cách gấp đôi !
14 của tư riêng
Của nả trần gian chẳng bõ bèn
Ta về tính lại của tư riêng
Giật mình bỗng thấy con ngồi khóc
Biết đến bao giờ Bụt hiện lên ?
15 bên lò thiêu xác
Củi mục trần gian bén lửa rồi
Kìa xương thịt ấy xác còn tươi !
Tro tàn ai bới , tìm chi đó ?
Có thấy không ? này, chút hổ ngươi !
16 tín hiệu
Tín hiệu loài người đã gửi đi
Đến hành tinh ấy, định tinh kia
Một trăm năm nữa ngồi bên máy
Giải mã hồi âm, tín hiệu gì ?
17 trái tim nhân loại
Thuở đó tình thương sẽ bão hòa
Năm châu, bốn biển một màu da
Trắng, đen, vàng, đỏ lưu truyền thuyết
Một trái tim người sẽ mở ra!
18 vô đề
Ta sẽ về theo dấu buị hồng
Em chờ, biết có gặp nhau không ?
Vầng trăng thái cổ sầu vô cớ
Dõi bóng riêng ta bỗng ngại ngùng !
19 nội tâm
Hồn ta cửa đóng then cài
Tình Em hun hút nẻo ngoài chân mây
Xòe tay, chỉ nhện giăng đầy
Thoát đêm biển động, chờ ngày bão dông !
20. nhịp sống
Nhịp sống quay cuồng tăng tốc mãi
Cơ tim không đủ sức đàn hồi
Ngoảnh đầu, chợt thấy lòng kinh hãi
Máu đỏ, tim hồng sắc đã phai !
Người đã mang về đá mặt trăng
Phi thuyền nao chở hết ăn năn ?
Riêng ta hốt hoảng mê trường dạ
Nguyệt điện đìu hiu bóng chị Hằng .!
2. bốn bức tường không
Chân về bốn bức tường không
Vui ngoài mộng tưởng, buồn trong giãi bầy
Ngó quanh cửa đóng then cài
Dáng Em nẻo khuất vào đầy chiêm bao !
3. ngẫu hứng
Chiều mưa nước ngập lề đường
Thuở xưa em đứng ở truồng tắm mưa
Xuân hồng tắt lửa ngây thơ
Vàng thu áo khép, giấc mơ rụt rè !
4. qua phan rang
Gạch vỡ xanh rêu, sắc áo Chàm
Đường chiều thấp thoáng mấy gùi than
Ma Hời bật khóc Vương triều cũ
Đỉnh tháp quay đầu, lệ chứa chan !
5 . chân dung
Ta còn nhận được ta không ?
Với râu, tóc ấy ... tuổi hồng ta đâu ?
Hoa râm chợt nửa mái đầu,
Khư khư ôm trái tim sầu cỏn con !
6. nghiêp dĩ
Thất nghiệp còn đeo cái nghiệp thơ
Ra vào ngẩn ngẩn lại ngơ ngơ
Bằng bằng, trắc trắc, Nôm cùng Hán
Thơ chứa chan và thơ chán chưa !
7. trách kinh kha
Danh ai tráng sĩ đời xưng tụng
Nuốt hận nghìn năm thái tử Đan !
Một gã Kinh Kha dường kiếm vụng
Để Tần làm cỏ sạch yên bang !
8. chút bẽ bàng
Giấc mộng thanh xuân đã ố vàng
Ta ngồi góp nhặt mảnh hồn tan
Thây Em nhuộm tóc bên bàn phấn
Từng sợi sương pha chút bẽ bàng
9. hoàng hôn thế kỷ
Ngưỡng cửa đây rồi thế kỷ sau
Bình minh hay khởi một đêm sâu ?
Chỉ nghe tiếng máy rền vô tận
Và tiếng hò reo chấn địa cầu!
10. tôi tìm bóng tôi
Em về hỏi bóng tôi đâu ?
Nhìn quanh vách dựng nỗi sầu cô đơn
Chân quen tìm đến ngọn nguồn,
Đèn không hắt bóng tôi ruồng bỏ tôi !
11. hoá thân
Từ thân tứ đại ta về
Cùng Em phân nhỏ ngồi chia cát lầm
Dìu nhau suốt nẻo đường trần
Quẩn quanh rồi cũng mộ phần chia hai !
12. tháp chữ Kim
Sừng sững chân trời tháp chữ Kim
Nghìn thu hoang mạc ngủ im lìm
Từng trang dị sử chờ khai quật
Có thấy chi ngoài mộng đã chìm ?
13. xa và gần
Gần quá nên xa quá đấy thôi
Ngưới yêu dấu hỡi ! tuổi xa người
Nửa vòng trái đất - tầm xa nhất
Ta gíap vòng, nên cách gấp đôi !
14 của tư riêng
Của nả trần gian chẳng bõ bèn
Ta về tính lại của tư riêng
Giật mình bỗng thấy con ngồi khóc
Biết đến bao giờ Bụt hiện lên ?
15 bên lò thiêu xác
Củi mục trần gian bén lửa rồi
Kìa xương thịt ấy xác còn tươi !
Tro tàn ai bới , tìm chi đó ?
Có thấy không ? này, chút hổ ngươi !
16 tín hiệu
Tín hiệu loài người đã gửi đi
Đến hành tinh ấy, định tinh kia
Một trăm năm nữa ngồi bên máy
Giải mã hồi âm, tín hiệu gì ?
17 trái tim nhân loại
Thuở đó tình thương sẽ bão hòa
Năm châu, bốn biển một màu da
Trắng, đen, vàng, đỏ lưu truyền thuyết
Một trái tim người sẽ mở ra!
18 vô đề
Ta sẽ về theo dấu buị hồng
Em chờ, biết có gặp nhau không ?
Vầng trăng thái cổ sầu vô cớ
Dõi bóng riêng ta bỗng ngại ngùng !
19 nội tâm
Hồn ta cửa đóng then cài
Tình Em hun hút nẻo ngoài chân mây
Xòe tay, chỉ nhện giăng đầy
Thoát đêm biển động, chờ ngày bão dông !
20. nhịp sống
Nhịp sống quay cuồng tăng tốc mãi
Cơ tim không đủ sức đàn hồi
Ngoảnh đầu, chợt thấy lòng kinh hãi
Máu đỏ, tim hồng sắc đã phai !
SƠN TRUNG * ANH SẼ ĐƯA EM VỀ
ANH SẼ ĐƯA EM VỀ
Ngày mai không còn màu cờ đỏ
Anh sẽ đưa em về thăm låi quê xưa
Anh sẽ đưa em về Sơn Tây,
Thăm quê em Thạch Thất
Anh sẽ cùng em lên Sài Sơn
Thăm chùa Thầy
Chúng mình sẽ đi khắp
Một trăm gian chùa cổ.
Anh sẽ cùng em,
Thăm chùa Tây Phương
Đãnh lễ Bồ tát nghìn mắt trăm tay.
Anh sẽ cùng em lên núi Tản,
Cao chót vót chín tầng mây.
Thăm động phủ của Sơn Tinh đại thắng
Anh sẽ đưa em về Hà Nội,
Thăm phố phường năm cửa Ô xưa
Anh sẽ cùng em đi dạo Bờ Hồ
Thăm chùa Trấn Quốc,
Thăm đền Ngọc Sơn
Thăm những hàng bia Văn Miếu
Thăm cung điện của Ngọc Hân, Nguyễn Huệ.
Anh sẽ cùng em đi trẫy hội Chùa Hương
Thăm am Phật Tích,
Thăm động Tuyết Quynh
Và cầu nguyện chư Phật mười phương!
Anh sẽ đưa em về Bắc Ninh
Quê hương Quan họ
Đêm trăng rằm nghe khúc hát ân tình.
Anh sẽ cùng em
Ghé phủ Từ Sơn
Tìm những khúc ca ân ái
Của Trương Quỳnh Như và Phạm Thái.
Anh sẽ đưa em về Quảng Bình
Qua sông Gianh
Quê hương anh,
Bốn bề núi sông vây phủ
Nghe âm vang thời Trịnh Nguyễn phân tranh!
Anh sẽ đưa em vào đất Thần Kinh
Để nghe tiếng chuông chùa Thiên Mụ
Để nhìn nước sông Hương xanh
Để lên thăm núi Ngự Bình
Để vào trong Đại Nội
Thăm điện ngọc đền vàng!
Anh sẽ đưa em lên Đà Lạt,
Thăm Cao nguyên bốn mùa thông bát ngát.
Anh sẽ cùng em thăm hồ Than Thở,
Thăm thác Cam Ly
Thăm tuần trăng mật!
Rồi chúng ta sẽ trở về Đồng Nai
" Nhà Bè nước chảy chia hai,
Trăm năm nghìn kiếp chưa phai ân tình!"
Em ơi!
Vừng trăng không bao giờ mất,
Và muôn năm còn những buổi bình minh!
Ngày mai không còn màu cờ đỏ
Anh sẽ đưa em về thăm låi quê xưa
Anh sẽ đưa em về Sơn Tây,
Thăm quê em Thạch Thất
Anh sẽ cùng em lên Sài Sơn
Thăm chùa Thầy
Chúng mình sẽ đi khắp
Một trăm gian chùa cổ.
Anh sẽ cùng em,
Thăm chùa Tây Phương
Đãnh lễ Bồ tát nghìn mắt trăm tay.
Anh sẽ cùng em lên núi Tản,
Cao chót vót chín tầng mây.
Thăm động phủ của Sơn Tinh đại thắng
Anh sẽ đưa em về Hà Nội,
Thăm phố phường năm cửa Ô xưa
Anh sẽ cùng em đi dạo Bờ Hồ
Thăm chùa Trấn Quốc,
Thăm đền Ngọc Sơn
Thăm những hàng bia Văn Miếu
Thăm cung điện của Ngọc Hân, Nguyễn Huệ.
Anh sẽ cùng em đi trẫy hội Chùa Hương
Thăm am Phật Tích,
Thăm động Tuyết Quynh
Và cầu nguyện chư Phật mười phương!
Anh sẽ đưa em về Bắc Ninh
Quê hương Quan họ
Đêm trăng rằm nghe khúc hát ân tình.
Anh sẽ cùng em
Ghé phủ Từ Sơn
Tìm những khúc ca ân ái
Của Trương Quỳnh Như và Phạm Thái.
Anh sẽ đưa em về Quảng Bình
Qua sông Gianh
Quê hương anh,
Bốn bề núi sông vây phủ
Nghe âm vang thời Trịnh Nguyễn phân tranh!
Anh sẽ đưa em vào đất Thần Kinh
Để nghe tiếng chuông chùa Thiên Mụ
Để nhìn nước sông Hương xanh
Để lên thăm núi Ngự Bình
Để vào trong Đại Nội
Thăm điện ngọc đền vàng!
Anh sẽ đưa em lên Đà Lạt,
Thăm Cao nguyên bốn mùa thông bát ngát.
Anh sẽ cùng em thăm hồ Than Thở,
Thăm thác Cam Ly
Thăm tuần trăng mật!
Rồi chúng ta sẽ trở về Đồng Nai
" Nhà Bè nước chảy chia hai,
Trăm năm nghìn kiếp chưa phai ân tình!"
Em ơi!
Vừng trăng không bao giờ mất,
Và muôn năm còn những buổi bình minh!
THƠ QUÁCH TẤN
MỘT BUỔI TRƯA MÙA THU
Gió tự đâu về ? thổi đến mô ?
Mấy cành sao rụng bóng hoa nô
Đây vài giọt nhẹ rơi mưa lá
Đó một màu im trải nắng hồ
Tóc vướng hơi hương vườn thuý liễu
Lòng nương tiếng địch bến vi lô
Trưa Bồng Lai khẽ rung rinh biếc
Nghiêng cả hồn thu xuống lững lờ...
Nguồn: http://www.quachtan.com/m...mp;pa=showpage&pid=65
BÊN SÔNG
Gió rủ canh đi ngàn liễu khóc,
Sông đưa lạnh tới bóng trăng run ...
Thuyền ai tiếng hát bên kia vẳng?
Ghé lại cho nhau gởi chút buồn.
Sông đưa lạnh tới bóng trăng run ...
Thuyền ai tiếng hát bên kia vẳng?
Ghé lại cho nhau gởi chút buồn.
NÔN NAO
Sông dài bãi vắng núi chênh vênh
Chùa lánh sau mây tiếng trống rền
Gió nước nôn nao lòng đại độ
Lạnh lùng sương xuống bóng trăng lên
THƠ TRẦN MỘNG TÚ`
ĐẾN
Em đến đó nhưng em không ở lại
em ra về có thêm một trái tim
bàn tay nhỏ cầm trái tim luống tuổi
em ngỡ em đang cầm một mặt trời
Mặt trời theo em vào trong giấc ngủ
sưởi
ấm cho em suốt cả một đêm
em không đắp chăn mà sao không lạnh
mặt trời
nằm ngoan cạnh trái tim em
Em đến đó nhưng em không ở lại
anh tặng
cho em những mảnh linh hồn
vai em nhỏ mảnh hồn anh sáng quá
em ngỡ em
đang gánh một vầng trăng
Vầng trăng sáng đan sợi vàng sợi
bạc
em mê đi như ở giữa chiêm bao
trái tim em hoang mang trong
lồng ngực
nhưng thân em thì lấp lánh đầy sao
Em đến đó nhưng em
không ở lại
tình yêu hai ta rất đỗi lạ lùng
những câu thơ tình cho nhân
gian đọc
mặt trời mặt trăng có thật hay không ?
thơ Trần Mộng Tú
Bông Hoa Đỏ
"Xuân xưa chưa theo chồng
Hồn như vuông lụa nhỏ
Anh đến từ phương xa
Đặt vào bông hoa đỏ.
Em gói hoa vào lòng
Sợ hương bay theo gió
Ngờ đâu hoa có gai
Rạch hồn vuông lụa nhỏ.
Như xuân không trở lại
Anh đến rồi anh đi
Để mặc em ngơ ngẩn
Nhìn vết thương dậy thì.
Hạ về em nức nở
Thu sang gió ngập phòng
Gấp hồn như gấp lụa
Mùa đông em sang sông.
Tháng năm tàn như mộng
Chảy một giòng sóng đời
Anh trở về đòi lại
Bông hoa anh bỏ rơị
Anh ơi hoa đã héo
Vết thương xưa đã lành
Vuông lụa chồng em giữ
Không còn gì cho anh."
thơ Trần Mộng
Tú
Kiếp Sau
- Đêm qua em nằm mơ
Mẹ đem em gả chồng
Cho một chàng thi sĩ
Số chàng rất long đong
Hai vợ chồng làm thơ
Trong một gian lều cỏ
Mái dột mái cứ dột
Làm thơ vẫn làm thơ
Thơ chàng dán trên vách
Thơ em che trời mưa
Một đàn con tám đứa
Lớn lên chỉ mê thơ
Ngoài vườn đầy hoa nở
Trong lòng ngập mộng mơ
Cửa lều thường không khép
Nên Xuân đến bốn mùa
Mặc người đời mua bán
Mặc cuộc đời hơn thua
Cả nhà làm thi sĩ
Nên nghèo xác nghèo xơ
Em cầu cùng thượng đế
Kiếp sau có lấy chồng
Xin lấy chàng thi sĩ
Dầu biết chàng tay không...
thơ Trần Mộng Tú
Con Mèo Cô Đơn
Con mèo nằm ngoài sân
Cô đơn đùa với nắng
Tôi bên trong cửa kính
Cô đơn ngắm con mèo
Cỏ màu xanh ngọc thạch
Chiếc lưng trắng quay tròn
Nắng lung linh từng giọt
Mèo xoay quanh nỗi buồn
Tôi nhìn tôi trên kính
Chiếc bóng mờ vết loang
Cửa hôn nhân khép chặt
Giam tôi rất nhẹ nhàng
Mèo có góc sân nhỏ
Tôi có khung kính mờ
Hai ta cùng bé nhỏ
Niềm cô đơn vô bờ
Mèo ơi phơi trong nắng
Khô hộ tôi nỗi buồn
Quê xưa, người tình cũ
Vẫn ướt sũng trong hồn.
thơ Trần Mộng Tú
HÀ THÚC SINH * TRUYỆN CŨ
Hà Thúc Sinh
Truyện Cũ
Tính chàng cẩn thận, đi
đâu khoá cửa trước sau, huống hồ tủ giả ngăn kéo trong nhà; vậy mà một
chiều mùa Đông từ toà báo về, lười nấu, ghé quán ăn bậy tô mì, tính rút
điện thoại ngủ sớm, vừa mở cửa thấy ngay nàng ngồi nơi bàn viết, mặc tấm
áo vàng chàng tặng khi xưa nay thời gian đã làm ố bạc phần nào. Nàng
ngồi kín đáo khép chân, tưởng như sự phát phì đã nuốt trửng phong cách
khiêu khích cũ. Đàn bà, chàng nghĩ, chỉ thời gian hạ nổi sự cường dã nơi
họ!
Nàng lên tiếng trước, giọng mệt, khá mềm mỏng:
“Ngạc nhiên?”
Chàng cởi áo khoác móc trên giá:
“Tài ha, vào cách nào vậy em?”
“Anh không từng bảo em luôn sống giữa tim anh?”
Cải lương! Chàng cười thầm, xoa tay, hỏi lảng:
“Sao không vặn sưởi cho ấm?”
“Thành tro lâu rồi còn biết gì lạnh!”
Lại dỗi! Nhưng nhờ đó chàng lại hiểu rõ hơn một điều. Thời gian chỉ làm mòn nét đẹp nàng nhưng không làm mòn được cá tính. Nàng chúa gây. Và đó là một cách gây. Nhưng thôi. Ba năm rồi ít gì. Gặp lại con mèo lạc người ta còn thương, huống hồ tình cũ.
Chàng đến bên đặt khẽ tay trên vai nàng. Nàng không chống mà vói một tay chận trên tay chàng. Giữa lúc chàng bâng khuâng nhìn làn da tay nàng nhăn nhúm khác thường thì nàng đột ngột ngửa mặt cười; chàng cố cười theo, giọng đấu dịu:
“Nhiều lúc nhớ em...”
“Những tối không có lũ đào non quấy rầy?”
“Đừng...”
“Lạ gì bọn đàn ông các anh.”
“Nữa.”
“Chúa ích kỷ.”
Chàng thả người xuống chiếc ghế kế bên, giọng giả lả:
“Sao, ích kỷ sao, nói nghe.”
“Văn mình vợ người. Ấy chứ đứa nào chim vợ mình không phạm tội giết người cũng toan tội tự tử!”
Thấy bất nhẫn, chàng toan ôm lấy nàng thì nàng hơi dạt ra, nhẹ khoa tay, giọng thương cảm bất ngờ: “Thôi em rút lại. Em nào phải vợ anh. Mười năm sống ba năm xa.”
Nàng đặt hai tay trên đùi, cúi nhìn chiếc bụng đẫy đà trên đôi hông nở nang, thở dài: “Em xộc xệch quá rồi anh hả. Bị quên cũng đáng đời. Nhưng chớ nghĩ em quên anh đâu đấy. Báo anh giờ hàng đầu. Chiến lắm. Hôm nay không dưng nhớ, ghé thăm, nhưng đừng lo, chẳng nhờ đăng hiếu hỉ miễn phí đâu.”
Thế là:
“Chai nào ngon em?”
Nàng cười:
“Người có danh rượu vanh có tuổi, chai nào quên lâu nhất sẽ đậm đà nhất!”
Căn phòng bít bùng ba năm qua lại đầy khói thuốc lá, rượu, tiếng cười, tiếng khóc, và dường như có hơn hai con người.
Rượu nắm tay chàng dẫn đến sự ngả ngớn nhưng nàng thì không, mặt cứ sạm dần như bụi phủ.
Nàng bảo:
“Anh hứa mình sẽ sống với nhau tròn ba mươi năm. Ba mươi năm phải là ba mươi chương đời thấm thía.”
“Sao?”
“Anh làm hỏng em, bôi bẩn lên tường đời một bệt và bảo đó là chữ yêu.”
“Anh...”
Nàng thở dài:
“Chẳng trách giận đâu, nhưng bao giờ anh bỏ được thói hư đó?”
Chàng nốc chút cặn rượu, nói kiểu chữa ngượng:
“Đời có những thói hư chưa kịp sửa đã già!”
“Chạy làng đấy!”
Đột ngột nàng đứng lên lặng lẽ nhìn ra bóng đêm ngoài cửa sổ, lâu lắm mới thầm thì: “Dãy lê kia đã nhìn em với bao mùa Đông trôi qua!”
Chàng khẽ nhắm mắt, đầu nổi những chòm cây lấm tấm hoa trắng như lũ bạc đầu, bất giác nghĩ cần an ủi cho sự bẽ bàng của người đàn bà chàng quá hiểu vì đâu đâm dang dở.
Chàng nói khẽ:
“Anh xấu quá, phải không?”
Nàng quay phắt lại, mắt có ngấn lệ, giọng cay đắng hẳn:
“Nhưng anh là đàn ông!”
“Thà làm người đàn bà đẹp hơn làm người đàn ông xấu!”
Nàng chưng hửng:
“Vẫn thói ngạo mạn! Nhưng tệ là anh không làm theo điều anh nghĩ. Anh phá huỷ em. Đến sự hiện hữu của em anh còn chẳng thiết, nữa là đẹp.”
“Nhảm nào. Có điều...”
“Lại biện bác.”
“Không, thật đấy. Anh thề anh muốn em sống mãi, đẹp mãi, nhưng...”
“Trăm sự có phải vì anh tham, anh lý tưởng?”
“Có thể, nhưng em ơi, em cần biết mọi dự tính đều thần tiên lúc khởi đầu nhưng ác quỷ xuất hiện trong chi tiết.”
“Và vì thế giày chật vứt giày đi, không gọt chân mình được?”
“Anh...”
Chàng nói ngập ngừng như kẻ ngọng, rồi úp mặt vào lòng nàng không rõ để cầu hoà hay giấu khổ sở. Nghe giọng nàng biết. Xỉn đến nơi. Trời đêm bên ngoài bê bết màu đèn vàng lạnh. Biết có nói, có kể, thậm chí có rên xiết cũng bằng thừa, nàng lặng lẽ lấy gối kê đầu chàng, đi thu dọn ly tách chai lọ, lau bàn, sắp xếp gọn ghẽ mọi thứ như một người vợ hiền. Rồi nàng ra soi trước gương, phủi nhẹ ít nếp nhăn trên tấm áo khoác vàng, thở dài ngửi thấy mùi bụi mốc. Ngủ lại với chàng chăng? Nàng tự hỏi. Trời ơi nàng chưa quên chút nào những tật xấu của chàng khi ân ái, nhưng cũng vì đó nàng say đắm chàng. Yêu xong chàng hay vói tay lấy gói thuốc chỗ đó, bật diêm, gác chân lên thành giường chỗ kia, rít sâu từng hơi, mắt đăm chiêu như cố hình dung lại một thân thể nào đó trong lũ đào non của chàng. Nhưng đêm nay rõ chàng đã già, mới nửa chai vanh đã lăn như cái lọ thế này còn nước non gì! Nàng quyết định ra về với mối sầu chịu đựng. Lần cuối liếc qua bàn, nàng đọc trúng câu thơ chàng viết dở, ngẫm nghĩ giây lâu.
Câu thơ viết:
...
Ô hô ai tai!
Ô hô ai tai!
(Có nhiều gạch xoá.)
Những cánh buồm xưa giờ đã rách,
không còn ủ được gió tương lai (*)
...
Nghĩa là sao vậy nhỉ? Thốt nhiên nàng phát giận đùng đùng. Nàng phun vào bàn viết chàng một tràng những từ không đẹp đẽ. Rồi như phải tìm cho ra kẻ xúi giục chàng bệ rạc, bỏ bê mình, nàng nhìn quanh, khi bất lực, điên tiết nàng gạt luôn một xấp báo của chàng vào thùng rác, đẩy mạnh cửa bước ra ngoài trời sương.
Có giọng nhừa nhựa dễ ghét nói với theo:
“Khoá trái giùm anh, cưng nhé!”
Gần sáng lạnh ngắt nhưng men rượu khiến chàng thèm nàng, thèm khủng khiếp. Chàng vòng tay ôm lấy nàng, mò mẫm trong ngực nàng, bất giác thất kinh. Đâu mà gầy nhanh thế. Lạnh gáy nghĩ có người đàn bà lạ vừa xâm nhập phòng mình, chàng bật đèn, ngơ ngác thấy trên giường chỉ một khối cô đơn, vài quyển sách vụn vặt, dăm tờ báo lem nhem. Nhưng lạ, không hiểu sao trên bàn viết lại nằm xộc xệch chồng bản thảo đã dày bộn chàng cất đâu trong ngăn kéo mấy năm qua; đó là bản thảo một tiểu thuyết viết dở dang, một tiểu thuyết chàng từng mơ một thời, ước một thủa.
Ngồi xuống ghế, rà nhẹ bàn tay trên bìa sách vàng ố có những vết mực cũ loang như máu mắt, chàng lắng mãi vẫn chưa định được ngoài trời gió nổi hay lòng vừa chộn rộn một nỗi ray rứt, u hoài./.
___
(*) thơ Trần Kiêu Bạt
Nàng lên tiếng trước, giọng mệt, khá mềm mỏng:
“Ngạc nhiên?”
Chàng cởi áo khoác móc trên giá:
“Tài ha, vào cách nào vậy em?”
“Anh không từng bảo em luôn sống giữa tim anh?”
Cải lương! Chàng cười thầm, xoa tay, hỏi lảng:
“Sao không vặn sưởi cho ấm?”
“Thành tro lâu rồi còn biết gì lạnh!”
Lại dỗi! Nhưng nhờ đó chàng lại hiểu rõ hơn một điều. Thời gian chỉ làm mòn nét đẹp nàng nhưng không làm mòn được cá tính. Nàng chúa gây. Và đó là một cách gây. Nhưng thôi. Ba năm rồi ít gì. Gặp lại con mèo lạc người ta còn thương, huống hồ tình cũ.
Chàng đến bên đặt khẽ tay trên vai nàng. Nàng không chống mà vói một tay chận trên tay chàng. Giữa lúc chàng bâng khuâng nhìn làn da tay nàng nhăn nhúm khác thường thì nàng đột ngột ngửa mặt cười; chàng cố cười theo, giọng đấu dịu:
“Nhiều lúc nhớ em...”
“Những tối không có lũ đào non quấy rầy?”
“Đừng...”
“Lạ gì bọn đàn ông các anh.”
“Nữa.”
“Chúa ích kỷ.”
Chàng thả người xuống chiếc ghế kế bên, giọng giả lả:
“Sao, ích kỷ sao, nói nghe.”
“Văn mình vợ người. Ấy chứ đứa nào chim vợ mình không phạm tội giết người cũng toan tội tự tử!”
Thấy bất nhẫn, chàng toan ôm lấy nàng thì nàng hơi dạt ra, nhẹ khoa tay, giọng thương cảm bất ngờ: “Thôi em rút lại. Em nào phải vợ anh. Mười năm sống ba năm xa.”
Nàng đặt hai tay trên đùi, cúi nhìn chiếc bụng đẫy đà trên đôi hông nở nang, thở dài: “Em xộc xệch quá rồi anh hả. Bị quên cũng đáng đời. Nhưng chớ nghĩ em quên anh đâu đấy. Báo anh giờ hàng đầu. Chiến lắm. Hôm nay không dưng nhớ, ghé thăm, nhưng đừng lo, chẳng nhờ đăng hiếu hỉ miễn phí đâu.”
Thế là:
“Chai nào ngon em?”
Nàng cười:
“Người có danh rượu vanh có tuổi, chai nào quên lâu nhất sẽ đậm đà nhất!”
Căn phòng bít bùng ba năm qua lại đầy khói thuốc lá, rượu, tiếng cười, tiếng khóc, và dường như có hơn hai con người.
Rượu nắm tay chàng dẫn đến sự ngả ngớn nhưng nàng thì không, mặt cứ sạm dần như bụi phủ.
Nàng bảo:
“Anh hứa mình sẽ sống với nhau tròn ba mươi năm. Ba mươi năm phải là ba mươi chương đời thấm thía.”
“Sao?”
“Anh làm hỏng em, bôi bẩn lên tường đời một bệt và bảo đó là chữ yêu.”
“Anh...”
Nàng thở dài:
“Chẳng trách giận đâu, nhưng bao giờ anh bỏ được thói hư đó?”
Chàng nốc chút cặn rượu, nói kiểu chữa ngượng:
“Đời có những thói hư chưa kịp sửa đã già!”
“Chạy làng đấy!”
Đột ngột nàng đứng lên lặng lẽ nhìn ra bóng đêm ngoài cửa sổ, lâu lắm mới thầm thì: “Dãy lê kia đã nhìn em với bao mùa Đông trôi qua!”
Chàng khẽ nhắm mắt, đầu nổi những chòm cây lấm tấm hoa trắng như lũ bạc đầu, bất giác nghĩ cần an ủi cho sự bẽ bàng của người đàn bà chàng quá hiểu vì đâu đâm dang dở.
Chàng nói khẽ:
“Anh xấu quá, phải không?”
Nàng quay phắt lại, mắt có ngấn lệ, giọng cay đắng hẳn:
“Nhưng anh là đàn ông!”
“Thà làm người đàn bà đẹp hơn làm người đàn ông xấu!”
Nàng chưng hửng:
“Vẫn thói ngạo mạn! Nhưng tệ là anh không làm theo điều anh nghĩ. Anh phá huỷ em. Đến sự hiện hữu của em anh còn chẳng thiết, nữa là đẹp.”
“Nhảm nào. Có điều...”
“Lại biện bác.”
“Không, thật đấy. Anh thề anh muốn em sống mãi, đẹp mãi, nhưng...”
“Trăm sự có phải vì anh tham, anh lý tưởng?”
“Có thể, nhưng em ơi, em cần biết mọi dự tính đều thần tiên lúc khởi đầu nhưng ác quỷ xuất hiện trong chi tiết.”
“Và vì thế giày chật vứt giày đi, không gọt chân mình được?”
“Anh...”
Chàng nói ngập ngừng như kẻ ngọng, rồi úp mặt vào lòng nàng không rõ để cầu hoà hay giấu khổ sở. Nghe giọng nàng biết. Xỉn đến nơi. Trời đêm bên ngoài bê bết màu đèn vàng lạnh. Biết có nói, có kể, thậm chí có rên xiết cũng bằng thừa, nàng lặng lẽ lấy gối kê đầu chàng, đi thu dọn ly tách chai lọ, lau bàn, sắp xếp gọn ghẽ mọi thứ như một người vợ hiền. Rồi nàng ra soi trước gương, phủi nhẹ ít nếp nhăn trên tấm áo khoác vàng, thở dài ngửi thấy mùi bụi mốc. Ngủ lại với chàng chăng? Nàng tự hỏi. Trời ơi nàng chưa quên chút nào những tật xấu của chàng khi ân ái, nhưng cũng vì đó nàng say đắm chàng. Yêu xong chàng hay vói tay lấy gói thuốc chỗ đó, bật diêm, gác chân lên thành giường chỗ kia, rít sâu từng hơi, mắt đăm chiêu như cố hình dung lại một thân thể nào đó trong lũ đào non của chàng. Nhưng đêm nay rõ chàng đã già, mới nửa chai vanh đã lăn như cái lọ thế này còn nước non gì! Nàng quyết định ra về với mối sầu chịu đựng. Lần cuối liếc qua bàn, nàng đọc trúng câu thơ chàng viết dở, ngẫm nghĩ giây lâu.
Câu thơ viết:
...
Ô hô ai tai!
Ô hô ai tai!
(Có nhiều gạch xoá.)
Những cánh buồm xưa giờ đã rách,
không còn ủ được gió tương lai (*)
...
Nghĩa là sao vậy nhỉ? Thốt nhiên nàng phát giận đùng đùng. Nàng phun vào bàn viết chàng một tràng những từ không đẹp đẽ. Rồi như phải tìm cho ra kẻ xúi giục chàng bệ rạc, bỏ bê mình, nàng nhìn quanh, khi bất lực, điên tiết nàng gạt luôn một xấp báo của chàng vào thùng rác, đẩy mạnh cửa bước ra ngoài trời sương.
Có giọng nhừa nhựa dễ ghét nói với theo:
“Khoá trái giùm anh, cưng nhé!”
Gần sáng lạnh ngắt nhưng men rượu khiến chàng thèm nàng, thèm khủng khiếp. Chàng vòng tay ôm lấy nàng, mò mẫm trong ngực nàng, bất giác thất kinh. Đâu mà gầy nhanh thế. Lạnh gáy nghĩ có người đàn bà lạ vừa xâm nhập phòng mình, chàng bật đèn, ngơ ngác thấy trên giường chỉ một khối cô đơn, vài quyển sách vụn vặt, dăm tờ báo lem nhem. Nhưng lạ, không hiểu sao trên bàn viết lại nằm xộc xệch chồng bản thảo đã dày bộn chàng cất đâu trong ngăn kéo mấy năm qua; đó là bản thảo một tiểu thuyết viết dở dang, một tiểu thuyết chàng từng mơ một thời, ước một thủa.
Ngồi xuống ghế, rà nhẹ bàn tay trên bìa sách vàng ố có những vết mực cũ loang như máu mắt, chàng lắng mãi vẫn chưa định được ngoài trời gió nổi hay lòng vừa chộn rộn một nỗi ray rứt, u hoài./.
___
(*) thơ Trần Kiêu Bạt
BS. HỒ ĐẲC DUY * TÌNH DỤC
TÍNH
DỤC TRONG CA DAO VIỆT NAM
BS HỒ ĐẮC
DUY
Tình
Dục là một khía cạnh văn hóa, một sắc thái rất đặc trưng, một vấn đề rất đời
thường và luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của con người. Nghiên cứu sâu về
Tình Dục thì không thể bỏ qua khía cạnh văn hóa này, vì ở đó nó thể hiện được
quan niệm của mỗi dân tộc, mổi sắc dân thậm chí là từng vùng nhỏ địa lý, tình
dục dược nói đến trong các tác phẫn văn học nổi tiếng như Truyện Kiều, Cung Oán
Ngâm Khúc, Bích Câu Kỳ Ngộ, Phan Trần, Hoa
Tiên... và cũng là một đề tài vô cùng phong phú trong ca
dao.
Ca dao Việt Nam là một loại văn
chương bình dân có một sức mô tả rất sinh động tất cả nếp sống, sinh hoạt, phong
tục tập quán xã hội của đại đa số dân chúng, nó được thể hiện qua lối nói rất
giản dị, thẳng thắng, trung thực không màu mè, chải chuốt,là một kho tàng bất
tận để khai thác trong nhiều lãnh vực khác. Khảo sát về mặt tình dục trong ca
dao Việt Nam mới thấy được những nhận xét thật uyên bác rất tinh tế của người
nông dân, mới thấy được sự mô tả tâm tư, tình cảm, sự rung động về tình yêu, sự
khao khát và nỗi đam mê về thân xác là rất thật, rất đời
thường.
Bộ mặt tình dục trong loại văn chương bình dân được thể hiện theo đúng nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của mỗi chử, mỗi câu nói điều đó có thể làm cho một số nhà “đạo đức ” lên án là dâm ô, tục tỉu, những chuyện không nên nói nơi chỗ đông người. Sự thật là: dù có chỉ trích thế nào đi nữa thì nó vẫn đã tồn tại và sẽ tồn tại vì nó là ý thức châm biếm, óc hài hước của dân tộc, của một lớp người bình dân trong suốt lịch sử tồn tại.
Bộ mặt tình dục trong loại văn chương bình dân được thể hiện theo đúng nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của mỗi chử, mỗi câu nói điều đó có thể làm cho một số nhà “đạo đức ” lên án là dâm ô, tục tỉu, những chuyện không nên nói nơi chỗ đông người. Sự thật là: dù có chỉ trích thế nào đi nữa thì nó vẫn đã tồn tại và sẽ tồn tại vì nó là ý thức châm biếm, óc hài hước của dân tộc, của một lớp người bình dân trong suốt lịch sử tồn tại.
Hôm qua lên núi
hái chè
Gặp thằng phải gió nó đè em ra
Em kêu nó cũng không tha
Nó đè nó nhét cái mả cha nó vào
Gặp thằng phải gió nó đè em ra
Em kêu nó cũng không tha
Nó đè nó nhét cái mả cha nó vào
Lại có
câu:
Văn chương chữ
nghỉa bề bề
Thần L.. (ô huyền) ám ảnh mà mê mẫn đời
Thần L.. (ô huyền) ám ảnh mà mê mẫn đời
Hóa ra Thần L.. chi phối cả cuộc
sống, bởi vậy không lạ khi người Champa đem hai “cái ấy“ Yoni và Linga đễ thờ
phượng. Ngày xưa người Việt cũng như người Tàu đều có khuynh hướng sùng bái tính
dục bao gồm sự sùng bái cơ quan sinh dục, sùng bái chuyện sinh nở, sùng bái vấn
đề tính giao. Cho nên trong ca dao người ta nói nhiều đến chuyện này. Ông Đổng,
bà Banh có thể xem là biểu tượng về tình dục trong ca dao
Có chồng từ
thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!
Hết đồng anh lại pha chì
Anh hàn chín tháng cô mình thụ thai
Sinh ra được thằng bé con trai
Về sau, giống bố gặp ai nó cũng hàn.
Tròng trành như nón không quai
Như thuyền không lái như ai không chồng
Thôi thôi, tôi van cậu rằng đừng
Tôi lạy cậu rằng đừng
Tuổi tôi còn bé chưa từng nguyệt hoa
Tôi về gọi chị tôi ra
Chi tôi đã lớn nguyệt hoa đã từng
Em đừng khinh quân tử nhỏ nhoi
Con lươn bao lớn nó xoi lủng bờ
Em ơi đừng thấy nhỏ mà rầu
Con ong bây lớn đốt cái bầu cù queo!
Em ơi đừng thấy nhỏ mà khinh
Con thằn lằn bây lớn ôm cây cột đình tổ cha!
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!
Hết đồng anh lại pha chì
Anh hàn chín tháng cô mình thụ thai
Sinh ra được thằng bé con trai
Về sau, giống bố gặp ai nó cũng hàn.
Tròng trành như nón không quai
Như thuyền không lái như ai không chồng
Thôi thôi, tôi van cậu rằng đừng
Tôi lạy cậu rằng đừng
Tuổi tôi còn bé chưa từng nguyệt hoa
Tôi về gọi chị tôi ra
Chi tôi đã lớn nguyệt hoa đã từng
Em đừng khinh quân tử nhỏ nhoi
Con lươn bao lớn nó xoi lủng bờ
Em ơi đừng thấy nhỏ mà rầu
Con ong bây lớn đốt cái bầu cù queo!
Em ơi đừng thấy nhỏ mà khinh
Con thằn lằn bây lớn ôm cây cột đình tổ cha!
Chú ý: Tổ
cha: tiếng địa phương có nghĩa là rất lớn
Em đừng chê anh
nhỏ mà lầm
Hòn đá đập nằm dưới,
hòn đá cầm nằm trên
Chẳng thà nó nhỏ mà dài
Còn hơn chụp bụp nữa ngoài nữa trong
Hòn đá đập nằm dưới,
hòn đá cầm nằm trên
Chẳng thà nó nhỏ mà dài
Còn hơn chụp bụp nữa ngoài nữa trong
(Chụp bụp
nghĩa là to mà ngắn)
Chẳng thà nó nhỏ mà cong
Còn hơn tổ bố nữa trong nữa ngoài
Cồng cộc bắt cá bầu eo
Chi chê tôi bé, tôi trèo chị coi
Còn hơn tổ bố nữa trong nữa ngoài
Cồng cộc bắt cá bầu eo
Chi chê tôi bé, tôi trèo chị coi
Câu
đố:
C..
(ă xê nặng)
ba chia đút vô
L.. ngoáy
Chảy máu ra lè lưởi liếm liền
Chảy máu ra lè lưởi liếm liền
Câu
đố:
Ngất nga
ngất ngưỡng tựa cần câu
Tay chân không có miệng trên đầu
Tay chân không có miệng trên đầu
Câu
đố:
Đi nhai, đứng
ngậm ngồi cười
L.. này L.. chẳng sợ ai
Sợ thằng say rượu đ...(u nặng) dai đau L...
C ..(ă xê nặng) to lo chi đói
Cơm nhà L..vợ
Sờ L..béo, đéo L... gầy
Vú nẫy L.. sưng
Ví phấn với vôi
Ví L.. con đĩ với môi thợ kèn
Bà ba đi chợ đường quai
Vừa đi vừa tỉa lá khoai bưng L..
Bà ba đi chợ đường cồn
Vừa đi vừa tỉa lông L.. bán trăm
Trên trời có ông sao
Rua L.. em tua tủa có thua chi nào
Lông tơ lún phún mép L..
Lăn tăng con cá diếc lòn vào lòn ra
Cây trời có cái chỉa ba
Thương em thì hảy đem tra nó vào
Trèo lên cây khế giữa ngày
Váy thì trụt mất, lưỡi cày thò ra
Lưỡi cày ba góc chẻ ba
Muốn đem đòn gánh mà va lưỡi cày
Trời mưa trời gió đùng đùng
Cả bầy C..(nặng) lọ mang tơi đi tìm
Cơm ăn mỗi bửa mỗi niêu
Tội gì bắt ốc cho rêu bám L..
Ví ví von von
Anh cho một cái, cỏng con về nhà
Thấy L.. lạ như quạ quạ thấy gà con
Trong nhà đã có đồ chơi
Song le còn muốn của người thêm xinh
Kim mà đâm thịt thì đau
Thịt mà đâm thịt nhớ nhau suốt đời
C.. vạy thì ngoáy L.. già
Ngoáy lui ngoáy tới chết cha L.. già
C.. vạy thì ngoáy l.. già
Ngoáy lui ngoáy tới nó ra nước nhờn
Gió nam non thổi lòn hang chuột
Đ.. em rồi, đ.. nữa được không em
Nhiều phân tốt lúa
Nhiều lụa tốt L..
L... tốt vì lụa Lúa tốt vì phân
Vú em như quả mướp hương
Tay anh phật thủ đôi đường gặp nhau
Hơn nhau tấm áo manh quần
Cởi ra bóc trần ai cũng như ai
Lở khi ăn miếng trầu xanh
Đêm lo ngày sợ mặt xanh như chàm
L.. vàng, bẹn ngọc, đóc san hô
Chóc ngóc như đóc mồ côi
Con gái mười bảy mười ba
Đêm nằm với mẹ, khóc la đòi chồng
Mẹ giận mẹ phát ngang hông:
“Đồ con chết chủ đòi chồng thâu đêm”!
Chú ý: Đồ chết chủ, địa phương ngữ, có nghĩa là mất dạy Phát: đánh vào người bằng bàn tay xòe (phách)
L.. này L.. chẳng sợ ai
Sợ thằng say rượu đ...(u nặng) dai đau L...
C ..(ă xê nặng) to lo chi đói
Cơm nhà L..vợ
Sờ L..béo, đéo L... gầy
Vú nẫy L.. sưng
Ví phấn với vôi
Ví L.. con đĩ với môi thợ kèn
Bà ba đi chợ đường quai
Vừa đi vừa tỉa lá khoai bưng L..
Bà ba đi chợ đường cồn
Vừa đi vừa tỉa lông L.. bán trăm
Trên trời có ông sao
Rua L.. em tua tủa có thua chi nào
Lông tơ lún phún mép L..
Lăn tăng con cá diếc lòn vào lòn ra
Cây trời có cái chỉa ba
Thương em thì hảy đem tra nó vào
Trèo lên cây khế giữa ngày
Váy thì trụt mất, lưỡi cày thò ra
Lưỡi cày ba góc chẻ ba
Muốn đem đòn gánh mà va lưỡi cày
Trời mưa trời gió đùng đùng
Cả bầy C..(nặng) lọ mang tơi đi tìm
Cơm ăn mỗi bửa mỗi niêu
Tội gì bắt ốc cho rêu bám L..
Ví ví von von
Anh cho một cái, cỏng con về nhà
Thấy L.. lạ như quạ quạ thấy gà con
Trong nhà đã có đồ chơi
Song le còn muốn của người thêm xinh
Kim mà đâm thịt thì đau
Thịt mà đâm thịt nhớ nhau suốt đời
C.. vạy thì ngoáy L.. già
Ngoáy lui ngoáy tới chết cha L.. già
C.. vạy thì ngoáy l.. già
Ngoáy lui ngoáy tới nó ra nước nhờn
Gió nam non thổi lòn hang chuột
Đ.. em rồi, đ.. nữa được không em
Nhiều phân tốt lúa
Nhiều lụa tốt L..
L... tốt vì lụa Lúa tốt vì phân
Vú em như quả mướp hương
Tay anh phật thủ đôi đường gặp nhau
Hơn nhau tấm áo manh quần
Cởi ra bóc trần ai cũng như ai
Lở khi ăn miếng trầu xanh
Đêm lo ngày sợ mặt xanh như chàm
L.. vàng, bẹn ngọc, đóc san hô
Chóc ngóc như đóc mồ côi
Con gái mười bảy mười ba
Đêm nằm với mẹ, khóc la đòi chồng
Mẹ giận mẹ phát ngang hông:
“Đồ con chết chủ đòi chồng thâu đêm”!
Chú ý: Đồ chết chủ, địa phương ngữ, có nghĩa là mất dạy Phát: đánh vào người bằng bàn tay xòe (phách)
Đêm bảy ngày ba vô ra không kể
Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh sổ trản trà
Nhất nguyệt dâm nhất độ
Lương y bất đáo gia
Đêm tối uống vài ba chén rượu
Sáng ra lót dạ mấy chung trà
Một lần một tháng e vừa đủ
Chắc chắn lương y khỏi tới nhà
Bảy lượt mổi ngày đòi má nó
Đương nhiên y sĩ phải xông nhà ???
Cha chết không lo, lo trâu méo L...
Áo xông hơi của chàng vắt mắc
Đêm em nằm em đắp lấy hơi
Trời mưa gió rét kìn kìn
Đắp đôi dãi yếm hơn nghìn chăn bông
Chuột kêu chút chít trong rương
Anh đi cho khéo đụng giường mẹ la
Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh sổ trản trà
Nhất nguyệt dâm nhất độ
Lương y bất đáo gia
Đêm tối uống vài ba chén rượu
Sáng ra lót dạ mấy chung trà
Một lần một tháng e vừa đủ
Chắc chắn lương y khỏi tới nhà
Bảy lượt mổi ngày đòi má nó
Đương nhiên y sĩ phải xông nhà ???
Cha chết không lo, lo trâu méo L...
Áo xông hơi của chàng vắt mắc
Đêm em nằm em đắp lấy hơi
Trời mưa gió rét kìn kìn
Đắp đôi dãi yếm hơn nghìn chăn bông
Chuột kêu chút chít trong rương
Anh đi cho khéo đụng giường mẹ la
Chú ý:
Ngày xưa cái giường của người đàn bà nhà quê là loại giường chỏng đóng bằng tre
già, lâu ngày thành xiu lỏng, đụng vào đó kêu cót két, giống như tiếng chuột kêu
chút chít. Có lẽ bà mẹ của cô gái kia đã một lần chợt thức giấc vì nghe tiếng
chuột kêu, hoặc nghe tiếng giường kêu.
Mẹ ơi con muốn
lấy chồng
Con ơi mẹ cũng một lòng như con
Cô Ba, cô Bốn lấy chồng
Cô Năm ở lại giật mồng tăng tăng
Xót lòng mẹ góa con côi
Kiến ăn lần hồi. L.. lớn bằng mo
Áo dài chẳng nệ quần thưa
Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm
Em ham giàu em lấy thằng bé tí ti
Làng trên xã dưới thiếu gì trai tơ
Ngó lên gò mả Ngó xuống gò găng
Gặp chị bẻ măng Trật quần bắt kiến
Thấy tôi hay liếng Chị bảo bắt giùm
Tôi bắt một đổi Thấy cái đùm đen thui!
Gió nam non thổi lòn hang cóc
Phận em nghèo nên mồng đóc khô rang
Gió nam tốc dải yếm đào
Sao anh trông thấy oán anh không vào thắp hương
Anh về sương gió lạnh lùng
Ở đây chung gối chung mùng với em
Anh về để áo lại đây
Đêm khuya em đắp, kẻo gió tây lạnh lùng
Đêm đông trời lạnh như đồng
Mượn chi (thì) cho mượn, mượn chồng thì không
Làm thân con gái phải lo
Mùa đông rét mướt ai cho mượn chồng
Thương em đút C. qua rào
Không thương rút lại gai quào rách da.
Thương em đút C. qua rào
Tai nghe chó sủa, rút lại nên bị gai cào xướt da.
Trăng lên đỉnh núi mu rùa
Cho anh đ. chịu đến mùa anh trả khoai
Vú em như cái chủm cau
Cho anh bóp cái có đau anh đền
Vú em đáng giá một tiền
Cho anh bóp cái anh đền năm quan
Nứng L … mà cạ cây vông
Cạ lên cạ xuống gai châm đầy l...
Vân Tiên ngồi dựa gốc môn
Chờ cho trăng lặn sờ L. Nguyệt Nga
Nguyện Nga biết ý không la
Vân Tiên thấy vậy sờ ba bốn lần
Mười ba mười bốn lum săng
Mười lăm mưới sáu lông quăm mép L.
Mười bảy mười tám thẹn thùng
Hai mươi mười chín như khùng như điên
Ra đường con mắt ngó nghiêng
Về nhà chui chốn buồng riêng vê mồng
Dậm chân xuống đất cái đùng
Vỗ L ...cái phạch chào anh hùng đến đây!
Con ơi mẹ cũng một lòng như con
Cô Ba, cô Bốn lấy chồng
Cô Năm ở lại giật mồng tăng tăng
Xót lòng mẹ góa con côi
Kiến ăn lần hồi. L.. lớn bằng mo
Áo dài chẳng nệ quần thưa
Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm
Em ham giàu em lấy thằng bé tí ti
Làng trên xã dưới thiếu gì trai tơ
Ngó lên gò mả Ngó xuống gò găng
Gặp chị bẻ măng Trật quần bắt kiến
Thấy tôi hay liếng Chị bảo bắt giùm
Tôi bắt một đổi Thấy cái đùm đen thui!
Gió nam non thổi lòn hang cóc
Phận em nghèo nên mồng đóc khô rang
Gió nam tốc dải yếm đào
Sao anh trông thấy oán anh không vào thắp hương
Anh về sương gió lạnh lùng
Ở đây chung gối chung mùng với em
Anh về để áo lại đây
Đêm khuya em đắp, kẻo gió tây lạnh lùng
Đêm đông trời lạnh như đồng
Mượn chi (thì) cho mượn, mượn chồng thì không
Làm thân con gái phải lo
Mùa đông rét mướt ai cho mượn chồng
Thương em đút C. qua rào
Không thương rút lại gai quào rách da.
Thương em đút C. qua rào
Tai nghe chó sủa, rút lại nên bị gai cào xướt da.
Trăng lên đỉnh núi mu rùa
Cho anh đ. chịu đến mùa anh trả khoai
Vú em như cái chủm cau
Cho anh bóp cái có đau anh đền
Vú em đáng giá một tiền
Cho anh bóp cái anh đền năm quan
Nứng L … mà cạ cây vông
Cạ lên cạ xuống gai châm đầy l...
Vân Tiên ngồi dựa gốc môn
Chờ cho trăng lặn sờ L. Nguyệt Nga
Nguyện Nga biết ý không la
Vân Tiên thấy vậy sờ ba bốn lần
Mười ba mười bốn lum săng
Mười lăm mưới sáu lông quăm mép L.
Mười bảy mười tám thẹn thùng
Hai mươi mười chín như khùng như điên
Ra đường con mắt ngó nghiêng
Về nhà chui chốn buồng riêng vê mồng
Dậm chân xuống đất cái đùng
Vỗ L ...cái phạch chào anh hùng đến đây!
Dậm chân xuống
đất kêu bon
Vọc C. cho cứng
chào con nứng L.
Bà Đội cho chí bà
Cai
Bà nào hay đố chữ
cũng váy ngoài L.. trong
Nứng l... đỏ mặt
Nứng C... đỏ lổ tai
Sướng lổ
khu su con mắt (lổ khu tiếng Huế là hậu môn)
Cực chi da diếc
diếc da
Áo em hai vạc trải ra anh nằm
Nứng C. máu Cái L. què
Trăng lên khuất bóng cây dừa
Làm thân con gái phải chừa đi đêm!
Thương em không dám vô nhà
Đi qua đi lại hỏi: “gà bán không?”
Em là con gái đêm hôm
Anh đừng lui tới mà nam nồm tội em!
Áo em hai vạc trải ra anh nằm
Nứng C. máu Cái L. què
Trăng lên khuất bóng cây dừa
Làm thân con gái phải chừa đi đêm!
Thương em không dám vô nhà
Đi qua đi lại hỏi: “gà bán không?”
Em là con gái đêm hôm
Anh đừng lui tới mà nam nồm tội em!
Chú ý: Nam, nồm: gió nam, gió nồm,
đây ý nói tiếng
đồn xấu,
tiếng chì tiếng
bấc.
Thương nhau nào ngại sang giàu
Tối lửa tắt đèn nhà ngói như nhà tranh
Chị kia lớn mổng cao mu
Lại đây cho tôi gởi con cu trọc đầu
Cu tôi vừa mới đâm lông
Cho mượn cái lồng nhốt đỡ vài đêm
Cu tui ăn đậu ăn mè
Ăn chi của chị mà chị đè cu tui
Tui chưa trách chị mà chị lại trách tui
Con chị đi lên đi xuống nên con tui mang bầu
Con chị mang chín tháng không rầu
Con tui mang hai hòn dái nặng đầu quanh năm
Ôi O bán cồm hai lu
Đi mô tui gởi con cu về cùng
Cu tui tui ấp tui bồng
Chớ bỏ vào lồng mà ốm cu tui
(Tiếng Huế
goi O là cô )
Thấy đua, thì cũng đua đòi
Thấy tỉa lông nách cũng xoi lông L..
Tham giàu lấy phải thằng Ngô
Đêm nằm như thể cành khô đâm vào
Tiếc thay con gái mười ba
Liều thân mà lấy ông già tám mươi
Tiếc thay con ngựa bạch mà thắt cái dây cương thừng
Tiếc thay con người ấy thế ma đi ôm lưng cái lảo già
Tiếc thay cây mía ngọt lại sâu
Tiếc con gái tốt mà cái bím bầu không lông
Hởi cô mặc yếm hoa tầm
Chồng cô đi lính cô nằm với ai
Cô nằm cô đẻ thằng bé con trai
Chồng cô về hỏi: Con ai thế này ?
Con tôi đi kiếm về đây
Có cho nó gọi bằng thầy thì cho
Hởi cô cô yếm thắm bùa đeo
Chồng cô cô bỏ cô theo chồng người
Hỡi nàng má đỏ hồng hồng
Cổ cao, miệng rộng, lông L. vắt vai
Hát cho chó cắn, bò lồng
Hát cho con gái bỏ chồng mà theo
Rung rinh nước chảy trên đèo
Bà già lật đật mua heo cưới chồng
Ở đây có đứa lấy trai
Cho nên trời hạn nắng hoài không mưa
Ông già ông đội nón cời
Ông ve con nít ông trời đánh ông
Ông ơi tôi chẳng lấy đâu
Ông đừng cạo mặt nhỗ râu tốn tiền
Tiện đây mận hỏi thăm đào
Vườn hồng đã có kẻ vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
Khứ nhật ngã đề xuân nhất tự
Hà nhân lai đáo phá thành thung
Lang quân bất thức lang quân hận
Tọa tất xuân đề ngọa tất thung
Ngày ấy ta đề ”Xuân” một chữ
Cớ sao ai lại phá thành “thung”
Bởi chàng không rõ nên chàng giận
Ngồi ắt là “xuân”, nằm ắt “thung”
Ngó vô đám bắp khô bao
Muốn vô mà bẻ người ta rào tứ tung
Một mai trống thủng còn vành
Lấy da trâu bịt lại cũng lành như xưa
Đau bụng, lấy bụng mà chườm
Nhược bằng không khỏi, hắc hương với gừng
Em ơi! Trống lũng khó hàn
Dây dùng khó đứt, người khôn khó tìm
Nước chảy hòn đá lăn cù
Con chị đã vậy thì bèn con em!
Rộng đồng thì gió thổi luôn
Khi vui cô chị khi buồn cô em
Mít ngon anh đánh cả xơ
Em xinh chị đẹp anh sờ cả đôi
Gió đưa bụi chuối sau hè
Đã ve con chị lại tò vè con em!
Trông chồng mà chẳng thấy chồng
Để em vắng lạnh phòng không một mình
Buồn tình cha chả buồn tình
Biết ai lẻ bạn cho mình kết đôi
Quét nhà long mốt long hai
Cha mẹ đi vắng dẫn trai vô nhà
Chú ý: long mốt long hai: làm dối, quét một chổi sót một chổi.
Đây ý nói làm thì
vụng về, chỉ giỏi đường trai gái.
Chàng vông mà đậm lúa lép
Rựa lụt mà cắt dép da
Trai tơ mà lấy vợ già
Nhai cơm mà sú thưa:”bà nuốt đi”!
Chú ý:
chàng vông: chàng bằng gỗ vông, nhẹ.
Mèo hoang thì
chó cũng hoang
Một chàng ăn trộm gặp nàng nhổ môn
Một chàng ăn trộm gặp nàng nhổ môn
Chú ý:
nên hiểu theo nghĩa bóng (gian phu dâm phụ)
Cầm chài mà vải
bụi tre
Con gái mười bảy đi ve ông già!
Một vợ mà xử không xong
Còn đòi hai vợ cho cong … cái xương suờn
Từ nay sống cũng bằng không
Thôi rồi cái kiếp làm chồng làm cha
Cho dù có sống đến già
Cho dù béo tốt cũng là phí toi
Bây giờ pháo đả tịt ngòi
Gia tài còn lại … một vòi nước trong
Củ lang nấu lộn củ mì
Cháu lấy chồng dì kêu dượng bằng anh
Xứ tôi có núi “Xách Quần”
Lấy ai thì lấy xin đừng lanh chanh
Yêu anh thì giữ lấy anh
Xin đừng ăn tỏi chê hành là hôi
Xách quần chạy ngược chạy xuôi
Chạy mỏi cẳng rồi đứng lại bơ vơ …
Con gái chơi với con trai
Coi chừng cặp vú như hai sọ dừa
Có chồng thì mặc có chồng
Tôi đi ngủ dạo kiếm ít đồng mua rau!
Một hai họ nói rằng không
Dấu chân ai đứng bờ sông hai người
Mẹ ơi mẹ bạc như gà
Con chưa lẻ mẹ, mẹ đà lẻ con
Ai về nhắn với ông câu
Cá ăn không giật để lâu mất mồi
Cam đường bóc vỏ còn the
Thấy em còn nhỏ anh ve để giành
Con gái mười bảy đi ve ông già!
Một vợ mà xử không xong
Còn đòi hai vợ cho cong … cái xương suờn
Từ nay sống cũng bằng không
Thôi rồi cái kiếp làm chồng làm cha
Cho dù có sống đến già
Cho dù béo tốt cũng là phí toi
Bây giờ pháo đả tịt ngòi
Gia tài còn lại … một vòi nước trong
Củ lang nấu lộn củ mì
Cháu lấy chồng dì kêu dượng bằng anh
Xứ tôi có núi “Xách Quần”
Lấy ai thì lấy xin đừng lanh chanh
Yêu anh thì giữ lấy anh
Xin đừng ăn tỏi chê hành là hôi
Xách quần chạy ngược chạy xuôi
Chạy mỏi cẳng rồi đứng lại bơ vơ …
Con gái chơi với con trai
Coi chừng cặp vú như hai sọ dừa
Có chồng thì mặc có chồng
Tôi đi ngủ dạo kiếm ít đồng mua rau!
Một hai họ nói rằng không
Dấu chân ai đứng bờ sông hai người
Mẹ ơi mẹ bạc như gà
Con chưa lẻ mẹ, mẹ đà lẻ con
Ai về nhắn với ông câu
Cá ăn không giật để lâu mất mồi
Cam đường bóc vỏ còn the
Thấy em còn nhỏ anh ve để giành
Chú ý:
cam đường: loại cam dại trái nhỏ,
thường mọc dưới
chân núi,
mùi thơm như mùi
cam,
lá giống lá
chanh,
cây có gai như
gai quít,
trái chín ăn rất
ngọt,
trái xanh thì
đắng và hơi chua.
Thằn lằn tặc
lưỡi mái tranh
Đôi ta còn nhỏ để giành mai sau
Bông thơm nở cạnh bìa rừng
Ong ve chưa dám đậu, lũ bướm đừng lau chau!
Cô tú kẽo kẹt cậu cai
Vợ chồng thuyền chài kẽo kẹt dưới sông
Con chim điểu nó biểu con chim huỳnh
Biểu tổ chức, biểu nhỏ, biểu mình ưng ta
Chim chuyền bụi ớt líu lo
Líu lo bụi ớt đừng cho con chim chuyền
Liệu bề dát được thì đau
Đừng gầy rồi bỏ thế gian họ đào
Trời sinh cái cửa ra vào
Đôi ta còn nhỏ để giành mai sau
Bông thơm nở cạnh bìa rừng
Ong ve chưa dám đậu, lũ bướm đừng lau chau!
Cô tú kẽo kẹt cậu cai
Vợ chồng thuyền chài kẽo kẹt dưới sông
Con chim điểu nó biểu con chim huỳnh
Biểu tổ chức, biểu nhỏ, biểu mình ưng ta
Chim chuyền bụi ớt líu lo
Líu lo bụi ớt đừng cho con chim chuyền
Liệu bề dát được thì đau
Đừng gầy rồi bỏ thế gian họ đào
Trời sinh cái cửa ra vào
Sao em lại khoe
sắc tài
Độc bình để trống nhành mai anh cắm vào!
Độc bình để trống nhành mai anh cắm vào!
Chú ý:
đào (đào bới): chưởi rủa
Em ơi anh bịnh
nhức dầu
Hay đi đái rát lại đau ngọc hành
Thuốc gì đỏ đỏ xanh xanh
Thì em đi lấy cho anh một liều
Sáng trăng tôi được chồng ai
Tôi cột gốc xoài ai chuộc cho tôi
Ba quan tiền điếu bó mo
Con heo đóng cũi tôi cho chuộc chồng
Hay đi đái rát lại đau ngọc hành
Thuốc gì đỏ đỏ xanh xanh
Thì em đi lấy cho anh một liều
Sáng trăng tôi được chồng ai
Tôi cột gốc xoài ai chuộc cho tôi
Ba quan tiền điếu bó mo
Con heo đóng cũi tôi cho chuộc chồng
Chú ý: Đại ý: một gã chuyên “hai hoa” bị gái ngoan bắt được trói lại rồi đánh tiếng.
Quan tiền điếu bó
mo: tiền đúc bằng đồng điếu, tức loại đồng tiền thau. 1 quan = 10 tiền; 1 tiền =
60 đồng.
Đem những đồng
tiền bó vào mo cau cho dễ mang.
Những mạng thích chí ngao du
Dạo chơi cho biết xuân thu thế nào
Nhất lê, nhì lựu, ba đào
Nhìn xem thấy cảnh muốn vào bẻ bông.
Thương cha nhớ mẹ có hồi
Thương anh lúc đứng lúc ngồi không an
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dãi yếm cho chàng sang chơi
Ước gì dãi yếm em dài
Để em buột lấy những hai anh chàng
Ai ơi chơi lấy kẻo già
Măng mọc có lứa người ta có thì
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xồng xộc nó thì theo sau
Chẳng ăn chẳng mặc chẳng chơi
Bo bo giử lấy của trời làm chi
Bà già đã tám mươi tư
Ngồi bên cửa sổ viết thư tìm chồng
Trai tơ lấy gái nạ dòng
Cầm bằng uống máu làng trong làng ngoài
Cô kia má đỏ hồng hồng
Cô chửa có chồng, còn đợi chờ ai
Buồng không lần lữa hôm mai
Đầu xanh mấy lúc da mồi tóc sương
Cô kia cắt cỏ bên sông
Cái váy thì cột, cái lông thì dài
Thuyền chài nó trả quan hai
Thưa rằng chẳng bán để dài quét sân
Cổ tay em trắng lại vừa tròn
Để cho ai gối đến mòn một bên
Nghiêng tai hỏi nhỏ ông Phật rằng:
Trai thanh lấy gái có chồng được không?
Chơi cho thủng trống long bồng
Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm
Chơi cho thủng trống long chiêng
Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng
Tính quen chừa chẳng được đâu
Vạ làng, làng bắt mấy trâu mặc làng
Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian thường tình
Em mất chồng em chẳng có lo
Anh đây mất vợ nằm co một mình
Em đây là gái năm con
Chồng em rộng lượng em còn chơi xuân
Có chồng càng dể chơi ngang
Đẻ ra con thiếp con chàng con ai
Hai tay cầm lấy quả hồng
Quả chát phần chồng, quả chín phần trai
Vú sửa mà bửa làm đôi
Nữa cho con bú, nữa cho trai đem về
Đêm nằm vuốt bụng thở dài
Thương chồng thì ít thương trai thì nhiều
Mày ăn cơm hay ăn khoai
Một bài thơ ấy ngâm hai ba lần
Chử tình đáng giá ngàn vàng
Từ anh chồng củ đến chàng là năm
Còn như yêu trộm nhớ thầm
Họp chợ trên bụng đến trăm con người
Đánh tôi thì tôi chịu đau
Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu
Lẳng lơ chết cũng ra ma
Chính chuyên chết cũng chôn ra ngoài đồng
Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để dành
Cau khô mà bỏ hộp đồng
Mặt mi không xứng làm chồng tau mô
Chưa quen đi lại cho quen
Tuy rằng cửa đóng mà then không gài
Em đang bắc nước sôi sôi
Nghe anh có vợ, quăng nồi đá vung
Gặp nhau từ bến Đại Đồng
Quên nhau hay đã có chồng mà quên
Đêm đêm ngồi dưới bóng trăng
Thương cha nhớ mẹ không bằng thương anh
Đêm nằm lưng chẳng bén giường
Mong cho mau sáng ra đường gặp anh
Thương anh chẳng dám nói ra
Chiều chiều đi dạo vườn hoa khóc ràn
Đêm nằm khô héo lá gan
Mong cho mau sáng ra đàng gặp anh
Ngó lên trăng chúc sao nghiêng
Vui chung với bạn sầu riêng một mình
Ngồi buồn nghĩ càng thấm
Hột cơm tấm cắn làm hai
Rau lang đỡ bữa liễu với mai đừng lìa
Em với anh như khóa với chìa
Đừng để cho ống liệt, khóa với chìa lìa nhau
Chú ý: bụng ống khóa bị hư
Bóng trăng ngã
lộn bóng tre
Xin chàng đứng lại mà nghe thiếp thề
Vườn đào, vườn lựu vườn lê
Bởi người lấy nhụy buớm xê ra ngoài
Nghĩ mình lại giận lấy mình
Ao chưa đậu sống rập rình tra khuy
Xin chàng đứng lại mà nghe thiếp thề
Vườn đào, vườn lựu vườn lê
Bởi người lấy nhụy buớm xê ra ngoài
Nghĩ mình lại giận lấy mình
Ao chưa đậu sống rập rình tra khuy
Chú ý:
Đậu sống: Ao chưa may đường sống lưng
Đèn hết dầu đèn tắt
Nhang hết vị hết thơm
Anh đừng lên xuống đêm hôm
Để thế gian đàm tiếu tiếng bấc tiếng nồm tội em
Tay cầm cọng lạc bẻ cò
Lòng thương da diết, giả đò làm lơ
Thương sao thương dại thương khờ
Trong nhà không dám khóc, ra bụi bờ khóc than
Hai tay vin lầy đòn rồng
Tội trời con chịu, theo chồng con cứ theo
Ra đi cha mắng mẹ rầy
Không đi thì sợ ngoài này anh trông
Con cu bay bổng qua sông
Hỏi thăm cô đó có chồng hay chưa?
Có chồng năm ngoái ngày xưa
Năm nay chồng để như chưa có chồng
Đói lòng ăn trái khổ qua
Nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười
Bạn cười thì mặc bạn cười
Tháng năm đi cưới tháng muời có con
Có con nên phải thua người
Mắc cho con bú, mắc cười với con.
Đang khi lửa tắt cơm sôi
Lợn kêu con khóc chồng đòi tòm tem
Bây giờ lửa đã cháy lên
Lợn no con nín, tòm tem thì tòm
Bài ghi chép này chỉ làm mỗi một việc là thu thập các câu ca dao, tuc ngữ liên quan đến chuyện này và cũng rất mong rằng quí vị có biết thêm thì xin gởi về cho chúng tôi để cho tập hợp này được phong phú hơn. Nếu không, e có ngày nó sẽ mai một bỏi vì đây là loại văn chương truyền khẩu mà bây giờ thì người ta xữ dụng giấy và internet nhiều hơn là nói.
BS HỒ ĐẮC DUY
Tục ngữ phong dao (trích “Tục Ngữ Phong Dao” của Nguyễn văn Ngọc) Ca dao
Ba bà đi chợ đường quai,
Vừa đi, vừa tỉa lá khoai bưng L.
Ba bà đi chợ đường cồn
Vừa đi vừa tỉa lông L. bán trăm.
Nước nóng đổ lọ bình vôi
Tôi ngồi tôi nghĩ bố tôi, tôi buồn
Bố tôi dở dại dở khôn,
Say mê cái L. bỏ mẹ con tôi.
Câu đố:
Ba bà mà giang chân ra
Một ông đứng giữa mà tra C. vào.
(ba ông đầu
rau và nồi cơm)
Ba ông ngồi ghế
Một ông cậy thế,
Một ông cậy thần
Một ông tần ngần đút C. vào bếp.
(Bể thổi
lửa)
Bì bà, bí bạch chân cò
Bí ba bí bách, nằm co giữa giường
Đoạn rồi sờ vú sờ sườn
Sờ sao cho nó đỡ buồn mà thôi.
(Bánh
dầy)
Bốn chân chong chóng, hai bụng kề nhau
Cắn giữa phau câu, nghiến đi nghiến lại.
(cối
xay)
Bốn chân mà lại
có đuôi
Đầu như đầu c., lưng lại gù lưng.
Đầu như đầu c., lưng lại gù lưng.
(con
chuột)
Cái gì
vừa quả
vừa hoa,
Con nít cũng thích ông già cũng mê
Ra đường dù thấy tràn trề
Ngắm nhìn thì được, mân mê thì đừng
Con nít cũng thích ông già cũng mê
Ra đường dù thấy tràn trề
Ngắm nhìn thì được, mân mê thì đừng
(hai
“quả
đào tiên”).
Cái hoa tim tím, cái nhị điều đều,
Đàn ông đâm nhiều, đàn bà đâm ít.
(cái máy
khâu)
Canh một thì trải chiếu ra,
Canh hai bóp vú, canh ba sờ l.
Canh tư thì lắc om sòm
Canh năm cuộn chiếu ẳm con ra về.
(Người kéo
vó)
Chấm chấm mút mút đút vào lỗ trôn,
Hai cái lông l. cái dài cái ngắn.
(xỏ
kim)
Chưa chết đã đem đi chôn
Chưa ra đầu ngõ, vạch lồn xem ghe.
(Người cầm bó
rơm xin lửa)
Chưa hỏi đã cưới liền tay
Bức chí ta nên phải lấy mày
Đêm nằm tơ tưởng sờ cùng mó
Mó đến mày, lại sướng đến ta.
(cái
quạt)
Gầy gò có bốn cái xương
Cái giải thòng thõng vướng anh c. dài.
(Quả
nhãn)
Già thì đặc bí bì bì
Con gái đương thì rỗng toách toành toanh.
(cau lúc già
và lúc là cau hoa)
Lồm xồm hai mép những lông
Ở giữa có lỗ đàn ông chui vào
Chui vào rồi lại chui ra
Năm thì mười họa đàn bà mới chui.
(Cái áo tơi)
Già ăn với cà kheo
Lại thêm c. lõ, lại đèo nắm lông.
(Miếng giầu
thuốc)
L. già da dính tận xương
Váy xanh mỏng mảnh lại thương c. dài.
(Cối giã gạo)
Lù lù như mu l. chị
Lị xị như đầu c. tôi
Ngày ngay đi khắp mọi nơi
Đến đêm lại chui vao mu l. chị.
(Con rùa)
Lưng tròn đít lại bảnh bao
Mân mân mó mó đút ngay vào
Thủy hỏa âm dương sôi sình sịch
Âm dương nhị khí sướng làm sao.
(điếu thuốc
lào)
Mình bằng quả chuối tiêu
L. bằng vỏ trấu, lổ bằng niêu.
(Con
chuột)
Mình tròn, da lại trắng tinh
Hể nóng đến mình thì ưỡn vú ra
Ăn với thịt gà lại tịt vú đi.
(bánh đa
sát-kê)
Mình tròn trùng trục, đầu toét toè loe
Đút vào con gái, cô con gái nghe,
Đút vào bà lão, bà lão lắc.
(đôi hoa tai)
Người thì cao lớn trượng phu
Đóng mười lần khố, trật cu ra ngoài.
(cây chuối có
hoa)
Rành rành ba góc, giữa con cóc ngồi
Hai bên thiên lôi, hai bên địa võng.
(hai cái vú)
Rau âm phủ nấu với mủ l. tiên
Ngựa cửa quyền nấu với ả l. tranh.
(Măng nấu với
rươi, cua nấu với khế)
Thoạt vào thì vén váy lên
Cái dưới mấp máy, cái trên gật gù
(dệt cửi)
Trên lông dưới lông,
tối lồng làm một
(con mắt)
Vừa bằng cổ tay đâm ngay vô l.
Gặp ông quan ôn, bỏ l. mà chạy.
(Con chuột và
con mèo)
Tục ngữ phong dao
Anh em bất nghĩa chi tồn
Anh đánh miếng l. em đánh miếng gh.
Anh em bất nghĩa chi khoèo
Anh thì đ. mèo, em lại cầm đuôi.
Bủng người tươi đ.
Ba chiếc sóng cồn, mấy cái lông l. rụng sạch.
Bà cốt đánh trống long tong
Nhảy lên nhảy
xuống con ong đốt l.
Bà đội cho chí bà
cai
Bà nào hay đố chữ
cũng l. ngoài, váy trong.
C. ai vửa mũi
người ấy.
Của l., l. đòi,
của c., c. quên.
Có l. thì giữ, c.
ông Chữ hay đi đêm.
Con mày con nuôi
chẳng bằng con c. làm ra
Chơi no bỏ gio vào đ.
Chồng chết còn chửa hết tang
L. đà ngấm ngáp như mang cá mè.
Đánh đĩ gặp năm toi c.
Đĩ có tông, ai giồng nên đĩ
Đủn đỡn như đĩ được cái đanh.
Đẻ con khôn mát l. rời rợi
Đẻ con dại thảm hại cái l.
Đi sau ăn rau bà đẻ,
Ăn giẻ chùi trôn, ăn l. chấm muối.
Đĩ xơ, đĩ xác, đĩ xạc, đĩ xờ
Đĩ ở trên bờ, đĩ lặn xuống ao.
Gà Tò, lợn Tó, vó Vạn Đồn,
l. Cổ Am, c. Hành Thiện.
Gái đâu có gái lạ đời,
Chỉ còn thiếu một ông trời không chim.
Giữ được đằng trôn, đằng l. quạ mổ.
Trai thấy l. lạ như quạ thấy gà con.
Già thì già tóc, già tai,
Già răng già lợi, đồ chơi không già.
L. rằng l. chẳng sợ ai,
Sợ thằng say rượu, đ. dai đau l. Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo
l. không cạp, l. méo làm ba. Mưu con đĩ, trí học trò.
May hơn khôn, lớn l. hơn đẹp.
Nuôi con chẳng biết tính con
Hể vú gai gạo thì l. chớp đông.
Nứng c. thì vặc đến nhà
L. còn đau mắt không ra đến ngoài.
No cơm ấm cật dậm dật mọi nơi
Quần áo tả tơi mọi nơi chẳng dật.
Nằm đất hàng hương còn hơn nằm hàng cá
L. cô hàng cá còn nhẵn hơn má anh chàng hương.
Nhăn nhở như l. lở sơn.
Quang không lành, mắng giành không trơn
L. không lành, mắng quanh hàng xóm.
Rền rĩ như đĩ phải tim la.
Ra đường ai nói thế nào
Về nhà lấy thớt lấy dao băm l.
Thấy đua thì cũng đua đòi
Thấy tỉa lông nách, cũng xoi lông l.
Trân trân như l. trần không đáy.
Uống rượu ngồi dai, dái mài xuống đất.
Văn chương chữ nghĩa bề bề,
Thần l. ám ảnh cũng mê mẫn nguời.
Xót lòng mẹ góa con côi
Kiếm ăn lần hồi, l. lớn bằng mo.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 030
No comments:
Post a Comment