Monday, October 31, 2016
NGỌC LAN * KÝ ỨC VƯỢT BIÊN
Tình người, lòng tri ân – ký ức còn lại sau 36 năm vượt biên
WESTMINSTER, California (NV) – “Tình người trong cơn tuyệt vọng, sự can
đảm của các thuyền nhân, nhất là những người phụ nữ, và lòng tri ân
những người đã cứu chúng tôi, như ông Ted Schweitzer, là những gì tôi
muốn lưu giữ.”
Câu trả lời đó của ông Hoàng Huy Thành, hiện là giám đốc Công ty tư vấn
về software Northwest EIS-OLAP ở Oregon, khiến tôi ngạc nhiên.
Bởi lẽ, khi đặt câu hỏi, “Giờ đây, trong thời khắc này, hồi tưởng lại
hành trình tìm tự do đầy khốc liệt của mình từ 36 năm trước, điều anh
còn lưu giữ trong ký ức là gì?”, tôi cứ ngỡ mình sẽ nghe được hồi ức đau
thương, tàn khốc nhất của những phận người tưởng chừng đã rơi vào tận
cùng của tuyệt vọng sau 11 ngày lênh đênh trên biển và 20 ngày kinh
hoàng trên đảo Kra, trong đó có nhà văn Nhật Tiến, tác giả của Thềm
Hoang, của Chim Hót Trong Lồng… từng làm say sưa biết bao trái tim độc
giả.
Và, đặc biệt hơn, câu chuyện đi tìm lại vị ân nhân Ted Schweitzer của
ông Thành sau hơn 35 năm, để ngỡ ngàng khám phá ra ông cùng 156 thuyền
nhân khác đã được giải thoát như thế nào trong thời điểm ấy càng vẽ lên
những nét đậm nhất, lãng mạn nhất, đẹp đẽ nhất về lòng người, tình người
dù trong hoàn cảnh nào.
Ông Thành, đang sống tại Portland, Oregon, rời Việt Nam vào ngày 19 Tháng Mười, 1979 từ Vũng Tàu, cùng 80 người khác, “thuộc giới văn nghệ sĩ, giới khoa học kỹ thuật, cả thầy tu, ni cô, các sĩ quan đào thoát khỏi trại cải tạo của Cộng sản, nhưng đông nhất là giới sinh viên.”
Nhà văn Nhật Tiến, hiện ở Quận Cam, người có mặt cùng chuyến hải hành đó, nhớ lại: “Mới ra khơi được một ngày thì biển động dữ dội. Sang ngày thứ ba thì thuyền chết máy, đành phó mặc cho sóng gió đưa đi. Tám ngày lênh đênh trôi giạt, thiếu ăn thiếu uống trầm trọng. 7, 8 con tàu đi qua nhưng không một tàu nào quan tâm tới dấu hiệu báo nguy của chúng tôi. Cho tới ngày thứ 10 của cuộc hành trình thì chúng tôi gặp một tàu đánh cá, khi đó chúng tôi mới biết là mình đã trôi giạt vào vịnh Thái Lan.”
Trong bài “Hành trình đi tìm tự do bằng tàu thuyền qua ngã Thái Lan”,
nhà văn Nhật Tiến có ghi nhận: “Chiếc tàu đầu tiên này sau khi lục soát
tịch thu tất cả đồ nữ trang, đồng hồ và một số quần áo mà họ ưng ý, đã
cho mượn bình điện để nổ máy và chỉ tọa độ cho chúng tôi đi vào đất
liền. Sau đó, lại gặp thêm hai chiếc tàu đánh cá Thái Lan khác cũng lục
soát, và một chiếc tàu dòng giây qua thuyền của chúng tôi để kéo vào
hoang đảo Kra nơi cách địa phận quận Pakpanang thuộc tỉnh Nakornsri
thamaraj chừng 5, 6 giờ tàu chạy.”
Cơn sợ hãi vì đắm thuyền giữa biển cả kéo dài từng giờ, từng phút triền
miên trong 11 ngày đêm liên tiếp của 81 con người trên chiếc thuyền mỏng
manh của ông Thành, của nhà văn Nhật Tiến kể như đã chấm dứt.
Tuy nhiên, sau hai ngày trên đảo hoang, những người này phát hiện ra dấu
tích của nhiều nhóm người vượt biên Việt Nam trước đó từng đặt chân đến
hòn đảo này. Những dòng chữ được ghi lại sơn trắng, bằng dấu than củi
đã phai lạt trên bốn bức tường vôi của một căn chòi cho biết “phụ nữ khi
lên đảo phải tìm cách trốn lên núi cao hay rừng sâu để khỏi bị hãm
hiếp.” Đồng thời cũng qua những dòng chữ được viết vội đó, mọi người còn
được biết “ngư phủ Thái Lan quanh vùng vừa là đánh cá vừa là cướp biển,
ban ngày họ có thể cho gạo cho cá, nhưng ban đêm thì kéo phụ nữ đi hành
hạ tập thể.”
Và từ đêm ấy, những gì khủng khiếp nhất bắt đầu xảy ra cho những phận người liều chết đi tìm tự do.
“Tối hôm ấy chúng tôi bị ba toán cướp vào lục soát liên tục. Riêng toán cuối cùng sau khi moi móc đã dồn tất cả đàn ông, thanh niên vào hết trong hang đá rồi canh giữ bằng súng ở bên ngoài. Sau đó bọn chúng lùa đàn bà đi một chỗ xa để hãm hiếp…. Cơn kinh hoàng tột độ đó kéo dài tới gần sáng mới chấm dứt. Những phụ nữ được kéo trở về nằm bết bát trên nền sỏi đá san hô. Nhiều người tấm tức khóc. Nhiều người lả đi trong vòng tay nghẹn ngào tủi nhục của thân nhân.” Tác giả “Chim Hót Trong Lồng” kể.
Ông Thành vẫn nhớ “Trong số những phụ nữ trở về thiếu một người. Chúng
tôi phải cùng nhau đốt đuốc đi tìm. Sau mới phát hiện ra cô gái đó trong
lúc bị bọn cướp lôi đi đã vùng chạy lên bờ đá cao ở ven biển rồi lao
mình xuống nước tự tử. Nhưng cô không chết mà bị sóng đẩy dạt vào bờ,
kẹt vào một hốc đá. Cô gái ấy đã nhất định không chịu ra khỏi hốc đá ấy
cho đến ngày có người đến cứu chúng tôi.”
“Hãy thử tưởng tượng một phụ nữ sống như vậy, trong hốc đá ẩm ướt đó 18 ngày. Lúc kéo được cô ấy ra, hai chân cổ như teo đi, không bước được. Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh ông Ted Schweitzer đã cắn môi ổng đến bật máu khi chứng kiến cảnh đó.” Ông Thành hồi tưởng trong nỗi xúc động lẫn sự cảm kích đến vô cùng về sức chịu đựng của người phụ nữ.
Ngày 8 Tháng 11, tức khoảng 10 ngày sau khi thuyền ông Thành bị đưa vào
đảo Kra, thêm một tàu tị nạn có 20 người được ngư phủ Thái Lan kéo vào.
Qua ngày hôm sau, thêm một tàu có 37 người nữa lên đảo. Tới ngày 15
Tháng 11, một chiếc tàu vượt biên có 34 người nhưng bị hải tặc Thái Lan
xô xuống biển làm chết đuối 16 người, còn lại 18 người bơi được vào nơi
đây.
“Nhưng chưa kịp nghỉ ngơi, phụ nữ đã bị lôi đi hành hạ ngay.” Nhà văn viết lại bằng nỗi bàng hoàng, đau xót.
Ông Thành nói, “Tôi nhớ có một người phụ nữ trốn trong bụi rậm, bị bọn
hải tặc phát hiện. Chúng kêu cô ấy ra, cổ nhất định không ra. Chúng tưới
dầu đốt. Cổ lăn dưới đất, tấm lưng bị phỏng hết.”
“Cũng trong ngày 15 Tháng 11, chúng tôi phát hiện một trực thăng bay qua
đảo, mọi người xô ra vẫy nhưng họ bay mất. Tình thế tưởng như không còn
hy vọng gì thì hai hôm sau họ trở lại, đổ xuống bãi biển cho chúng tôi
gạo, cá khô và thuốc men.” Dịch giả của “Thân Phận Dư Thừa” tiếp tục câu
chuyện.
“Việc chúng tôi được tiếp tế, các ngư phủ Thái Lan đều nhìn thấy rõ. Họ
lục lọi để kiếm chác thêm ít quần áo đã xơ xác của chúng tôi, lấy đi
từng cái áo mưa rách, từng cái áo len của trẻ con, và phụ nữ nào mệt mỏi
quá không đủ sức đi trốn nữa phải bò về thì lại bị tiếp tục hãm hiếp.
Có người bị cả ngày lẫn đêm.”
Tuy nhiên, ông Trời cũng có mắt, không đày con người ta vào tận cùng của nghiệt ngã.
Địa ngục kinh hoàng đó chỉ kéo dài thêm đúng một ngày nữa là chấm dứt.
Chiều ngày 18 Tháng 11 nhóm người tiếp tế bằng trực thăng hôm trước nay trở lại bằng một tàu tuần của Hải quân.
Nhà văn Nhật Tiến cho biết, “Đó là Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) ở
Thái Lan do ông Theodore G. Schweitzer III (tên đầy đủ của Ted
Schweitzer) là đại diện. Chính ông Theodore Schweitzer đã chứng kiến cái
cảnh chúng tôi lôi từng phụ nữ từ khe đá lên mặt đất. Ai nấy nhìn thấy
ánh sáng mặt trời đều ngất xỉu đến nỗi chính ông cũng phải xúc động quay
đi không dám nhìn. Trước tình cảnh cùng cực của chúng tôi, ông
Schweitzer đã an ủi, khích lệ chúng tôi rất nhiều, ông tuyên bố mọi sự
hãi hùng từ nay sẽ chấm dứt.”
Tổng số 157 người của 4 tàu tị nạn được cứu khỏi đảo Kra ngày 18 Tháng
11, 1979. Chấm dứt những ngày đen tối nhất của hành trình tìm đến tự do
của những người như ông Thành, như nhà văn Nhật Tiến.Đi tìm ân nhân
Sau hơn 8 tháng ở trại tị nạn Songkhla, Thái Lan, ông Thành đến Mỹ vào Tháng Bảy, 1980 và bắt đầu làm lại cuộc đời, tạm quên đi những biến cố đau thương đã xảy ra, quên đi cả những người đã từng cứu mình thoát khỏi hòn đảo ma quỷ, ngoài việc nhớ tên người đại diện cho UNHCR ở Thái Lan là Ted Schweitzer.
“Cho đến khi trung tâm Thúy Nga lên kế hoạch tổ chức chương trình Tôi Là Người Việt Nam 2 nhân tưởng niệm 40 năm biến cố 30 Tháng Tư, trong đó muốn vinh danh những người đã từng cứu thuyền nhân Việt Nam. Tôi nhớ đến ông Ted Schweitzer và nhận lời sẽ đi tìm tung tích của ông, dù hơn 35 năm qua tôi chưa một lần liên lạc, cũng không biết giờ ông đang làm gì, còn hay mất.” Ông Thành cho biết lý do ông muốn tìm về vị ân nhân xưa.
Ông Thành kể, sau hai ngày tìm kiếm trên Internet, ông tình cờ thấy có
quyển sách tựa đề “The Forgotten Pirate Hunter: Câu chuyện thật về Ted
Schweitzer, người quản thủ thư viện đeo đuổi mục tiêu giải thoát người
tị nạn Việt Nam,” viết bởi tác giả Reagan Martin do nhà xuất bản
CreateSpace Independent Publishing platform phát hành năm 2013, có nhắc
đến tên Ted Schweitzer.
“Khi tôi đọc trang đầu tiên của cuốn sách này, tôi đã thấy cả người mình
như có luồng điện chạy qua, bởi, tôi thấy tôi ở trên hòn đảo đó, Tháng
11 năm 1979. Và tôi chợt hiểu thì ra bốn tấm ảnh mà ông Ted tặng tôi lúc
ông ghé thăm chúng tôi ở trại tị nạn Songkhla từ đâu mà ra. Tôi đã giữ
những bức ảnh đó để làm kỷ niệm suốt hơn 35 năm qua và thật không bao
giờ có thể ngờ được là giờ đây mình đang được đọc xuất xứ của chúng, qua
một quyển sách.” Ông Thành, thuyền nhân 20 tuổi ngày nào, nói trong sự
vui mừng lẫn xúc động.
Quả thật, ngay trong lời giới thiệu của quyển “The Forgotten Pirate
Hunter”, tác giả đã kể lại: ngày 16 Tháng 11, 1979, viên phi công lái
trực thăng của một hãng dầu đã bay ngang qua đảo Kra trên đường trở về
nhà. Từ trên máy bay nhìn xuống, người phi công thấy thấp thoáng hàng
trăm con người mà không có chiếc tàu nào. Ngay lập tức ông hiểu chuyện
gì xảy ra, bởi lẽ ông từng nghe nói đây là nơi bọn hải tặc Thái Lan giam
cầm những người Việt Nam vượt biên.
Nghĩ rằng cần phải thông báo cho một ai đó biết tin này, nhưng báo cho
nhà cầm quyền Thái Lan thì thật là vô ích, vì họ chẳng quan tâm chuyện
gì đã xảy ra cho những con người này. Nghĩ vậy nên viên phi công gọi báo
cho UNHCR ở Thái Lan hay những gì ông nhìn thấy.
Một người đàn ông phía đầu dây bên kia đề nghị người phi công đưa ông ta
đến nơi hòn đảo ấy. Viên phi công thoạt đầu miễn cưỡng, không muốn dính
líu vào, nhưng sau đó, cũng đồng ý.
Hai ngày sau, người đại diện của UNHCR cùng viên phi công bay trở lại
đảo Kra. Từ trên máy bay nhìn xuống, người đại diện này cảm thấy lòng
mình quặn đau. Ông không chỉ thấy những chiếc tàu của bọn hải tặc, mà
còn thấy cả những xác người trôi trên biển. Từ trên máy bay, ông chụp
lại những gì mình trông thấy (những tấm ảnh ông Thành có được chính là
ảnh chụp từ đây – NV). Không thể thuyết phục người phi công đáp xuống
đảo lúc ấy, vị đại diện của UNHCR chỉ biết rằng mình sẽ phải trở lại,
bằng cách nào đó.
Viên chức đại diện cho UNHCR Thái Lan đó chính là Theodore Schweitzer, người mới nhận công việc này chưa bao lâu.
Ngay lập tức, ông Ted Schweitzer buộc Cảnh sát tuần duyên Thái Lan phải
đưa ông trở lại đảo Kra. Và ông đã cứu được 157 thuyền nhân Việt Nam có
mặt trên đảo lúc đó, như nhà văn Nhật Tiến kể trên.
Bàng hoàng lẫn xúc động khi thấy tên nhà văn Nhật Tiến cùng chuyện vượt
biên của nhóm thuyền nhân ở trên đảo Kra ngày nào được nhắc đến, ông
Thành đã thức suốt đêm để đọc cho hết quyển sách.
Ông kể, “Sáng hôm sau, tôi email cho nhà xuất bản để hỏi thăm tung tích
của ông Ted, nhân vật được nhắc đến trong quyển The Forgotten Pirate
Hunter. Ba ngày sau câu trả lời từ nhà xuất bản là họ cũng không biết
ông ấy đang ở đâu. Họ đề nghị tôi nên tìm ở ‘public record.’”
Bằng cách này, ông Thành có được địa chỉ và số điện thoại của rất nhiều
người cùng tên Ted Schweitzer. Tuy nhiên, mọi liên lạc cho biết đó không
phải là ông Ted mà ông Thành muốn tìm.
“Trong lúc tưởng chừng tuyệt vọng, thì tôi tìm được một website chuyên
tìm kiếm người. Tôi trả tiền và họ đưa một số email để tôi thử liên lạc.
Hơn một tiếng đồng hồ gửi email đi trong tâm trạng không mấy hy vọng
thì tôi nghe tiếng điện thoại reng. Linh tính cho tôi biết đó là Ted
Schweitzer. Tôi bắt phone, người phía đầu dây bên kia nói anh ta là con
trai của Ted Schweitzer, tên Max Schweitzer, và xác nhận cha anh ta
chính là người mà tôi đang muốn tìm.” Ông Thành kể lại với đầy niềm vui
của người hoàn thành sứ mạng được giao, dù không được nói chuyện trực
tiếp với ông Ted Schweitzer do ông đang có nhiệm vụ ngoài nước Mỹ, mà
đều qua trung gian con trai ông.
Cũng từ những trang sách này, người ta còn biết thêm rằng, sau nhóm
thuyền nhân đầu tiên mà ông Ted Schweitzer cứu, trong đó có ông Thành và
nhà văn Nhật Tiến, ông còn một mình quay trở lại đảo Kra nhiều lần, tự
bỏ tiền túi mướn tàu đánh cá chở ông vào đảo vì cảnh sát Thái Lan không
muốn giúp đỡ ông. Ông cũng bị hải tặc Thái Lan đánh hội đồng dã man đến
bất tỉnh, gãy xương, chảy máu thận và sau khi bị chính phủ Thái trục
xuất về Mỹ ông vẫn phải tiếp tục điều trị những thương tích này.
“Tôi nghĩ nếu chính phủ Thái không trục xuất ông thì có lẽ ông sẽ không
còn sống đến ngày hôm nay, vì với lòng thương yêu thuyền nhân vô bờ bến,
chắc chắn ông sẽ còn tiếp tục một mình đi ra đảo Kra để tiếp cứu thêm
rất nhiều thuyền nhân Việt Nam và như thế khó mà bảo toàn tánh mạng với
bọn hải tặc.” Ông Thành nhận xét.
Cũng trong “The Forgotten Pirate Hunter”, người ta ước tính rằng ông Ted
Schweitzer đã quay trở lại đảo Kra trên 20 lần và một mình ông đã cứu
được ít nhất là trên 1,200 thuyền nhân Việt Nam. Năm 1981, UNHCR được
trao giải Nobel Hòa Bình, một phần do công lao của Ted Schweitzer. Khi
nhận được giải thưởng cao quý nầy, các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Quốc đã
gởi tặng ông một tấm sao của huy chương Nobel để tỏ lòng biết ơn về
những sự hy sinh của ông trong công tác cứu vớt thuyền nhân Việt Nam.
Cũng theo ông Thành, trong lúc đi tìm kiếm lại vị ân nhân xưa, ông được
biết một nhà sản xuất phim đang dự định làm phim về cuộc đời và những
công việc mà ông Ted Schweitzer từng làm, từ một quản thủ thư viện ở một
trường học tại Thái Lan, một người từng được gửi sang Cambodia trước
khi chính quyền rơi vào tay Khmer Đỏ để làm nhiệm vụ thu nhặt lại những
tài liệu, những thiết bị đã bị phá hủy của quân đội Hoa Kỳ trong thời
chiến tranh Việt Nam, và đặc biệt là người có vai trò nhất định trong
việc đưa đến sự ban giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam vào năm 1995.
Tình người trong cơn tuyệt vọng
Ngoài sự can đảm của các thuyền nhân, nhất là những người phụ nữ, và
lòng tri ân những người như ông Ted Schweizer, thì tình người là điều
được cả nhà văn Nhật Tiến và ông Thành nâng niu trong ký ức suốt mấy
mươi năm qua.
“Tình người. Tôi thấy thấm thía hơn về chữ nhường cơm xẻ áo, nhất là
trong tình trạng tuyệt vọng như thế, thì đó không phải ai cũng có thể
làm được.” Ông Thành nói về điều mình còn lưu giữ về chuyến vượt biên từ
hơn 35 năm trước.
Tác giả Nhật Tiến kể, ngày mới lên đảo Kra ông còn mặc một chiếc áo len
dầy để có thể chịu qua được những đêm mưa lạnh hay ngủ ngoài trời. Tuy
nhiên, chiếc áo đó đã bị một tên hải tặc lột đi.
“Những ngày sau đó, tôi lạnh run những lúc đêm về, nhưng may mắn sao,
vào một lần đi quanh đảo, tôi bắt gặp cái áo nỉ cộc tay của ai đó vứt
ngay trên bờ cỏ. Tôi đã lượm lên và mặc nó suốt những ngày còn lại trên
đảo và cả hàng tháng trời sau khi nhập trại Songkhla.”
Cho tới khi nhận được tiền tiếp tế của thân nhân, ông mua được cái áo ấm
khác để thay. Đến khi đó mới có một người phụ nữ đi cùng ghe với ông
đến xin lại chiếc áo làm kỷ niệm. Bởi: “Bà cho biết cái áo nỉ ấy là của
bà, bị hải tặc lấy đi, nhưng sau chắc mặc không vừa nó vứt đi và vì thế
tôi lượm được. Những ngày sống trên đảo, chủ nhân của cái áo ấy đã nhìn
thấy tôi mặc, nhưng thấy tôi ốm yếu, trời lại lạnh, nên bà lẳng lặng
nhường cho tôi mặc. Nay mọi sự đã ổn định, bà xin lại chiếc áo để giữ
làm kỷ niệm.”
“Tôi đã ứa nước mắt trả lại cho bà, và những ngày sau, tôi vẫn còn khóc
được mỗi khi nghĩ đến tấm lòng nhường nhịn chia sẻ của bà, đã dành cho
tôi ở trong cái hoàn cảnh mà ai nấy đều đói, lạnh và yếu đau hết. Tình
người quả là thứ quý giá biết bao và không một thứ vật chất nào có thể
so sánh được.” Nhà văn của “Thềm Hoang” nhớ lại.
Với ông Thành thì “Có một hình ảnh mà tôi không thể nào không nhắc tới,
đó là khi được ông Ted Schweitzer đến cứu, mọi người đều muốn nhanh chân
chạy xuống tàu. Vậy mà chú Tiến (nhà văn Nhật Tiến – NV) lại quành trở
lại vừa đi vừa tìm những cục than rồi leo lên căn chòi nơi chứa những
bình gaz để thắp sáng cho ngọn hải đăng duy nhất trên đỉnh núi để ghi
lại chỉ chỗ gạo giấu ở đâu, lấy nước ở chỗ nào.”
“Nghĩa cử đó, trong hoàn cảnh đó, nói lên được rất nhiều điều về nhân cách của một con người.” Ông Thành nhận xét.
Gần bốn thập niên trôi qua, nếu mãi hoài niệm về nỗi đau thì sẽ thấy
“dân tộc này sao quá nhiều đắng cay”. Nhưng bước qua nỗi đau, cất lại
tất cả oan khiên cay nghiệt nhất của đời người vào ngăn tủ của ký ức, để
chỉ nâng niu, trân quý và nhớ đến những điều cao cả nhất về tình người,
sự quả cảm và lòng biết ơn là điều trái tim con người mong hướng tới.
Và nhiều người đã bước tới.
—Liên lạc tác giả: ngoclan@nguoi-viet.com
Ngọc Lan
NGUYỄN CHÍ THIỆN * ĐÀN BÒ SỮA
Ðàn Bò Sữa
Nhà Thơ Nguyễn Chí Thiện |
LTS. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện qua đời tháng Mười năm 2012, đến nay đã tròn bốn năm.
Hôm nay tưởng niệm anh, chúng tôi mời bạn đọc cùng chúng tôi xem lại bài Tựa cuốn Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện do Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích viết cách đây 15 năm. Bài Tựa như một đánh giá những đóng góp của Nguyễn Chí Thiện về văn, về thơ và về các vận động không ngừng nghỉ từ trong nước ra hải ngoại để tố cáo bộ mặt phi nhân của chế độ cộng sản.
Chúng tôi cũng đăng lại một truyện ngắn trong cuốn Hỏa Lò, truyện Đàn Bò Sữa, như một hoạt cảnh ngộ nghĩnh vừa gợi tò mò vừa thương tâm diễn ra trong một phòng nữ tù nhân của nhà tù Hỏa Lò giữa Hà Nội.
Và một bài thơ, Sẽ Có Một Ngày, như một tiên cảm, một nguyện ước ngày chế độ cộng sản sẽ tan biến trên đất nước Việt Nam. - DĐTK
Hôm nay tưởng niệm anh, chúng tôi mời bạn đọc cùng chúng tôi xem lại bài Tựa cuốn Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện do Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích viết cách đây 15 năm. Bài Tựa như một đánh giá những đóng góp của Nguyễn Chí Thiện về văn, về thơ và về các vận động không ngừng nghỉ từ trong nước ra hải ngoại để tố cáo bộ mặt phi nhân của chế độ cộng sản.
Chúng tôi cũng đăng lại một truyện ngắn trong cuốn Hỏa Lò, truyện Đàn Bò Sữa, như một hoạt cảnh ngộ nghĩnh vừa gợi tò mò vừa thương tâm diễn ra trong một phòng nữ tù nhân của nhà tù Hỏa Lò giữa Hà Nội.
Và một bài thơ, Sẽ Có Một Ngày, như một tiên cảm, một nguyện ước ngày chế độ cộng sản sẽ tan biến trên đất nước Việt Nam. - DĐTK
Mới chín giờ sáng, nắng đã gắt. Lại một ngày nóng dữ. Hàng chục nữ tù nhân đổ năm bao tải chặt cứng những túi ni-lông ra cạnh bể nước trước phòng. Đó là những túi ni-lông gia đình các phạm nhân đựng quà gửi vào. Họ rửa sạch sẽ từng túi một, rải ra phơi khắp sân. Ngoài khoản ni-lông, còn có khoản dép nhựa. Tù ở các buồng chung phải đi chân đất. Giầy dép thu, vất vào kho. Ban giám thị Hỏa-Lò đem bán hai khoản này. Tiền thu được, mua lợn, nuôi cạnh nhà bếp. Bọn cấp dưỡng có trách nhiệm phải nuôi chúng bằng cơm tù, rau tù. Trong chuồng, lúc nào cũng ủn ỉn bảy, tám “ông ỷ” béo nục nịch. Thỉnh thoảng, quản giáo, công an võ trang lại thịt một “ông”, liên hoan. Tù không được một miếng. Mùa hè, sân gạch nóng bỏng. Tù không giầy dép, ngồi ăn quà, ăn cơm, chân dát rộp. Mùa đông, sân gạch lạnh ngắt, chân buốt giá, tê tím, như kim châm.
Chẳng mấy
khi được ngồi ngoài hiên thoáng đãng, cạnh bể nước. Tha hồ vốc nước lên
mặt, lên cánh tay, cho nó mát da, mát thịt. Các ả vừa thủng thẳng làm,
vừa chuyện trò:
Thằng bé tội quá. Gầy còm, ghẻ lở đầy mình.
Hôm mới vào, trông nó kháu khỉnh. Cái mồm lúc nào cũng toe toét cười.
Nó giống mẹ nó nhỉ. Tao cũng ước có một đứa con.
Có con, để mày mang đầy nó vào tù với mày!
Khổ thân thằng bé, mới có mười tháng đã là tù nhân rồi!
Mẹ nó không có sữa nuôi nó.
Ăn uống thế, mà đòi có sữa!
Không ai có sữa hộp để cho nó.
Dạo này, nó ốm, khóc quấy quá.
Bố nó đi
chiến đấu ở Căm-pu-chia, bị mìn chết. Mẹ nó chỉ có một bà chị. Bà này
nghèo dớt mồng tơi, lại đông con, không dám nhận nuôi nó.
Gia đình bố nó ở tận Quảng-Bình. Nghe đâu cũng đói lắm. Đường xá xa xôi. Tiền đâu tầu xe mà ra tận Hà- Nội đón nó về.
Kể nó cũng liều. Là giáo viên, mà dám đem cả “Nghĩa vụ quốc tế” của Đảng ra chửi. Bị bắt là phải.
Liều cái gì? Được tin chồng chết, nó đau khổ quá, hoá điên, mới làm vậy. Nó bảo vợ chồng nó yêu nhau lắm.
Tiếng mụ quản giáo, the thé:
Mấy con
đượi, nhanh tay lên, rồi vào. Đừng có lợi dụng ngồi mát, tán hươu, tán
vượn với nhau. Bận sau, để những đứa khác làm. Không khiến chúng bay
nữa. Có tí ni-lông, mà dềnh dàng, từ sáng đến giờ chưa xong. Quen thói
nằm ngửa, ăn sẵn.
Các ả vội vã nhanh tay. Một lúc sau, xong việc, kéo nhau vào.
Đương ở
ngoài, bước vào phòng như bước vào lò hấp. Phòng nữ tuy không quá đông
như các phòng nam, nhưng cũng chật ních. Mùi cầu tiêu, mùi mồ hôi, mùi
máu mủ ghẻ lở, lậu, giang mai, kinh nguyệt, quện vào nhau, lan tỏa. Tệ
hơn phòng nam. Các ả đói meo, gầy teo, da dẻ nhăn nheo, ghét bẩn, đầu
tóc bù xù. Những đường cong tuyệt mỹ trở thành những đường thẳng khẳng
khiu. Không thể gọi là phái đẹp được nữa. Trừ những mụ tự giác, những mụ
tham ô, buôn bán, và dăm bảy “nữ quái” trấn lột được của người khác mà
ăn, là còn có da, có thịt.
Buổi chiều,
đếm tù xong, mụ quản giáo khóa phòng lại. Trong phòng, gần hai trăm ả,
kẻ cởi quần, kẻ cởi áo, nằm, ngồi ngổn ngang, lấy những miếng giẻ con,
thấm máu mủ, ghẻ lở cho nhau. Mấy mụ tự giác, mấy nữ quái, phanh ngực,
ngồi ở đầu phòng, gần cửa, chuyện trò.
Mụ trưởng phòng đã ngoài bốn mươi, nhưng vóc dáng thanh mảnh, trông còn tươi mát, bế đứa nhỏ trong tay, nựng:
Cô thương
cháu quá. Tí hon thế này, mà đã tù. Chỉ tại mẹ cháu trẻ người non dạ, ăn
nói dại dột. Ngoan nào! Cô sẽ kiếm sữa cho cháu. Cười đi! Khổ thân cháu
tôi quá. Ăn toàn cháo loãng. Mẹ nó có còn đường không? Cô giáo đừng ăn
của con đấy nhé.
Cảm ơn các
chị thương cháu, cho nó. Em đâu nỡ ăn của con. Đường còn đủ nó ăn vài
hôm nữa. Cháu nó ghẻ lở quá. Lại sốt. Em lo lắm. Ông y sĩ cho uống
át-pi-rin, nó cứ ọe ra. Thuốc bôi ghẻ, thì đợi mãi chưa có. Nó quấy suốt
đêm, không chịu ngủ. Gầy xọp đi. Không hiểu mẹ con em kiếp trước phạm
tội gì, mà trời đầy đọa đến thế này. Bố nó bỏ mạng xứ người. Mẹ con em
thì vào tù đã năm tháng rồi.
Nói xong, cố giáo ôm mặt, nức nở.
Mụ trưởng phòng an ủi:
Đừng khóc
nữa. Sẽ được về thôi. Trên thế nào cũng xét, chiếu cố cho mẹ con em. Em
thật là dại. Bao nhiêu người chồng chết, con chết. Có ai dám cả gan chửi
như em đâu. Em phải làm đơn, nhận hết khuyết điểm. Xin Đảng khoan hồng
cho mẹ con em.
Em đã nhận
hết tội lỗi. Làm hai lá đơn rồi. Có thấy gì đâu. Thực ra, em không chửi.
Em chỉ kêu khóc là “nghĩa vụ quốc tế” đã giết chồng em. Thế rồi, bị bắt
ngay.
Giữa trường học, mà kêu thế, ảnh hưởng lắm. Em phải thấy tội em nghiêm trọng.
Một nữ quái trẻ măng, thân hình thon thả, mặt trái xoan, mũi dọc dừa, da trắng mịn, đôi mắt to, đen láy, bĩu môi:
Nói một câu
như thế, mà cũng bỏ tù mẹ con người ta! Em cũng vậy. Có làm hại gì tới
chế độ đâu, mà cũng bắt bớ. Em ngủ với bọn sứ quán Tây phương, thì việc
gì tới Đảng? Em không có sức đi công trường đắp đường, gánh đá. Em kiếm
tiền theo lối của em. Thuận mua, vừa bán. Có ăn trộm, ăn cắp của ai đâu.
Mày là “phò
tây” còn kiếm ra tiền. Bọn tao, ngày đi lao động, tối đi “kiếm thêm”,
vẫn chưa đủ tiêu. Thế mà cũng tù ra, tù vào. Có lần, gặp thằng đểu. Nó
đèo lao ra tận ngoại thành. Đã chơi quỵt thì chớ. Nó còn lấy cả quần,
phóng xe đi mất. Lần ấy, may gặp một bác già cứu. Bác cho tao cái quần
của bác, mặc quần đùi, đèo tao trở về. Tao nhớ ơn suốt đời. Tiếc rằng
không gặp lại được bác ấy.
Mày tưởng
“phò tây” không nguy hiểm à? Mỗi lần ra vào sứ quán, tao phải nằm phục
xuống sàn xe. Lần này, vừa ra khỏi xe, xuống đường, là bị “chôm” ngay.
Còn bị nghi là gián điệp nữa!
Mụ trưởng phòng thở dài, nhớ lại thời xa xưa:
- Nói thực
với các em, chị cũng tiếp Tây nhiều lắm. Chúng nó sang trọng, lịch sự.
Cho chị nào tiền, nào ra-đi- ô, đồng hồ, xe đạp. Chị sống như một bà
hoàng. Chị không phải lén lút như các em bây giờ đâu. Hồi đó, chị ở
Hải-phòng. Bố Mẹ chị bán thuốc tây. Chị được ăn học. Nói tiếng Pháp khá
trôi chảy. Chị tích cực hoạt động nên được kết nạp vào Đoàn. Chị được
điều sang làm việc ở khách sạn Bắc-Kinh, gần ngang cầu Hạ-Lý. Đó là nơi
các đồng chí chuyên gia y tế Tiệp-Khắc ở. Trước khi nhận công tác, chị
được gặp một đồng chí trong Ban Bí-Thư thành-ủy, căn dặn là phải phục vụ
các đồng chí chuyên gia hết mình. Đồng chí đó giơ ngón tay lên, nhấn
mạnh: “Nhớ rằng phục vụ vô điều kiện. Thỏa mãn mọi yêu cầu của các bạn
Tiệp. Chắc cháu hiểu chú muốn nói gì? Đây là công tác cách mạng. Đòi hỏi
phải hy sinh. Bao đồng chí đã hy sinh cả cuộc sống cho cách mạng cơ mà.
Nhiệm vụ của cháu rất vẻ vang”. Nhìn thấy người Tiệp họ ăn uống, mà
thương cho các cán bộ của mình. Các loại thịt, các loại hải sản, thừa
mứa. Bữa nào cũng phải đổ đi. Mứt sen mình biếu, họ chê ngọt, đổ đầy
thùng rác. Cán bộ mình ăn có 18 đồng một tháng. Họ ăn những 180 đồng.
Lại hưởng giá cung cấp, rẻ thối. Hoa quả, đồ hộp, bia rượu, không tính.
Lương bác sĩ của họ hai nghìn đồng. Lương đầu bếp, sáu trăm đồng. Trong
khi lương bác sĩ mình có sáu mươi đồng. Đầu tiên, chị tưởng có mình chị
được giao trách nhiệm đó. Sau, chị mới biết có nhiều cô trẻ đẹp cũng làm
như chị. Họ không làm việc ở khách sạn. Họ chỉ được ô-tô đưa tới vào
buổi tối, hoặc buổi trưa. Tùy theo yêu cầu. Cô nào, cô ấy áo dài tha
thướt, nước hoa thơm ngát. Trong đời phục vụ cách mạng của chị, chỉ có
giai đoạn đó là vinh quang nhất. Mấy năm sau, chị được kết nạp vào Đảng.
Được Đảng giới thiệu, cho lấy chồng. Lần này, bị tù, chỉ vì tham ô hai
mươi tấn gạo. Nhân viên của chị ngồi bán hàng, đứa nào cũng giầu. Chúng
nó ăn cò con, năng nhặt, chặt bị. Chẳng ai bắt được cả. Tiêu chuẩn nhân
dân mười cân một tháng. Chúng cân cho chín cân rưỡi. Mỗi ngày, bán ra
bao nhiêu là tấn gạo. Chúng kiếm vô số. Có điều, chúng phải biếu xén đủ
mặt.
Nữ quái bất bình:
Chị cũng
làm như em, thì chị được coi là làm nhiệm vụ vẻ vang, được kết nạp vào
Đảng. Em thì bị bêu rếu, bị bắt bỏ tù. Chẳng còn trời đất nào cả!
Chị làm
theo lệnh của Đảng. Còn em, là tự ý em. Khác nhau là ở chỗ đó. Nhưng
thôi, chúng ta hãy tìm cách kiếm sữa cho thằng bé này.
Mụ đu đưa thằng bé, nựng:
Khổ thân cháu cô. Còm quá! Thương quá!
Ai mà chẳng thương. Nhưng những người có tiếp tế, không ai có sữa. Biết làm thế nào?
Nữ quái hớn hở:
Em đã có
cách. Tụi công an đi tuần ban đêm, biết chúng ta mùa hè không mặc quần
áo. Chúng thường trèo lên chỗ song sắt trên cao nhòm vào. Thèm ứ tới tận
họng. Tại sao chúng ta không giở nghề ra, kiếm sữa cho thằng cháu? Đêm,
em sẽ ra đứng ở cửa dụ chúng. Thằng nào muốn đụng vào người em, em bắt
phải đưa hai hộp sữa. Lão chánh giám thị ra lệnh bắt phải mặc quần áo.
Làm như nghiêm lắm! Nhưng chính em, một lần đi tiểu ban đêm, nhìn thấy
nó trèo lên, nhìn vào. Một hôm, em đi cung về, mắt lão hấp ha, hấp háy,
vờ vẫn hỏi chuyện, còn giáo dục em. Mồm sặc hơi rượu.
Lão ta đứt
mạch máu não, chết hơn một tuần rồi. Lão đã trắng trợn tán tỉnh chị mấy
lần. Đàn ông toàn một ruộc cả. Sáng kiến em hay đó. Bắt đầu ngay đêm nay
đi.
Cô giáo nhìn nữ quái, ngập ngừng:
Chị cảm ơn
lòng tốt của em. Không ngờ em thương cháu đến như vậy. Nhưng chị không
muốn em gặp phiền phức. Lộ chuyện, em có thể bị cùm.
Nữ quái cong cớn:
Vì thằng bé, cùm, em cũng không sợ. Phục vụ nó còn tốt hơn phục vụ cách mạng!
Mụ trưởng phòng cười:
Em nói xỏ xiên chị. Nhưng em nói đúng. Chị không giận. Nhớ phải thành công. Thận trọng một chút.
Đêm đó nữ
quái ngồi ngay ở cửa. Cả phòng đã ngủ. Muỗi vo vo từng đàn, tha hồ hút
máu trên tấm thảm người trần trụi, nham nhở ghẻ lở. Những tiếng mê sảng,
thẳng thốt, thỉnh thoảng bật ra, ú ớ, nức nở. Nghe tiếng giầy, nữ quái
gục đầu xuống đùi gối.
Đêm hôm không ngủ, ngồi ở đây làm gì?
Ả ngẩng đầu lên, cười:
Báo cáo cán bộ, nóng quá, em không ngủ được. Ngồi đây cho thoáng một chút. Phòng bí quá.
Ả đứng lên.
Chiếc áo không cài khuy tự động phanh ra. Hai tên công an không rời mắt
khỏi hai trái tuyết lê chắc nịch, núm hồng hấp dẫn.
Em có chuyện muốn báo cáo riêng với một trong hai cán bộ.
Một tên đưa mắt nhìn tên bạn, nói:
Cậu ra ngoài canh.
Tên kia đi khỏi. Ả nói ngay, nũng nịu:
Mấy hôm nay không có cơm. Em không ăn được bo bo. Em bị đau ngực lắm. Em muốn xin cán bộ hai hộp sữa.
Tên võ trang, giọng nhân đức:
Phải cố mà ăn, giữ sức khỏe chứ. Được, ba giờ đêm mai, tôi sẽ cho sữa. Đau thế nào? Tù mà ốm đau là khổ lắm.
Cảm ơn cán bộ. Em đau ở chỗ này. Nhức lắm.
Ả chỉ tay vào ngực. Tên võ trang thò ngay tay vào, mân mê.
Ả để yên khoảng một phút, rồi lùi lại:
Thôi, em đi ngủ. Đêm mai, em đợi cán bộ. Nhớ cho em hai hộp sữa. Em sẽ đền bù lại thỏa đáng.
Ả đi vào.Tên võ trang đứng tần ngần một lúc, rồi bỏ đi.
Sáng hôm sau, như thường lệ, gã nhà bếp tới lấy thùng nước đặt ngoài cửa mang đi.
Mụ trưởng phòng gọi lại:
Anh bạn cấp dưỡng, tôi muốn nhờ anh một việc.
Gã nhà bếp dừng lại, nhìn quanh, vẻ e ngại:
Có việc gì, nói nhanh lên.
Phòng tôi
có một cháu bé mới mười tháng. Nó không ăn được. Chúng tôi có kẹo, bánh.
Anh đổi dùm cho một hộp sữa để nó uống. Nếu có thể, anh kiếm cho ít
kháng sinh. Nó sốt cao mấy hôm rồi. Ông y sĩ bảo trại hết thuốc kháng
sinh, phải đợi. Anh làm phúc giúp hộ.
- Được, tôi sẽ cố.
Gã xách
thùng về nhà bếp, nghĩ ngợi. Cánh nhà bếp thường được ông quản giáo phụ
trách dẫn ra phố mua bán. Kiếm hộp sữa, không có gì là khó. Nhưng nội
quy cấm ngặt việc liên lạc với các phòng. Mồm đàn bà bép xép. Lộ ra thì
bị tống đi trại lập tức. Vợ gã phải mất mười cây vàng mới mua được chân
làm bếp ở Hỏa-Lò. Gã cũng muốn giúp thằng bé. Nhưng bản thân gã quan
trọng hơn nhiều. Không thể làm liều được. Còn chuyện thuốc kháng sinh,
thì gã đã có sẵn. Ông y sĩ mới đưa cho gã ba chục viên tétra, dặn gã
nghiền ra, rắc lên chỗ mông con lợn bị chuột gậm. Con lợn này béo quá,
không đi đứng được. Cứ nằm ềnh ra. Ban đêm, chuột tới gậm mông ăn. Nhà
bếp đã phải cấp tốc đan chiếc lồng bàn tre, úp lên nó. Cho thuốc thằng
bé uống, nhỡ nó làm sao, thì đại họa. Thôi, việc thiên hạ, không nên bận
tâm tới.
Đêm hôm đó, trước giờ hẹn, nữ quái đã đợi sẵn.
Tên võ trang hôm qua mò tới, cười nhăn nhở:
Anh bận
quá, chưa có thì giờ ra phố. Hẹn cm đêm mai, khoảng một giờ. Tuy không
phải phiên tuần tra của anh, nhưng vì em, anh sẽ mang sữa tới. Cho anh
xem chỗ đau của em đi.
Nữ quái ức
lắm, định chửi. Nhưng cố kìm lại. Vì hy vọng có hai hộp sữa đêm mai, ả
chiều lòng, cho hắn mân mê một phút. Hắn hăng máu, đưa tay xuống phía
dưới.
Á lùi lại, nói nhỏ:
Trong phòng có người vừa dậy. Hẹn anh tối mai.
Rồi đi vào, mặc tên võ trang đứng đờ đẫn ngoài song
sắt.
Nữ quái về chỗ nằm, uất ức, mặt bừng bừng.
Mây cô bạn nằm cạnh thì thào hỏi:
Thế nào? Thất bại à?
Gặp phải thằng bọ, chỉ muốn gỡ gạc, không muốn chi, phải không?
Phải có cách nào chứ? Chẳng lẽ chịu lỗ với nó sao?
Nữ quái thì thầm, bàn tán kế hoạch tác chiến với
mấy cô bạn. Tất cả đồng tình, quyết tâm phải làm bằng được. Phải thu hoạch lớn là đằng khác.
Sáng dậy, thấy không có sữa, mụ trưởng phòng than thở với nữ quái:
Chị đã nhờ
thằng nhà bếp. Nhưng nó sợ, không dám giúp. Em thì đã mất công toi hai
đêm. Thôi, để chị xin phép bà quản giáo viết thư về gia đình. Chồng chị
sẽ gửi sữa cho chị. Nhưng sớm nhất là tận cuối tháng mới có.
Nữ quái tươi cười:
Chị cứ an tâm. Em hứa với chị đêm mai là có sữa. Có thể đêm nay đã có, không biết chừng.
Gần một giờ
đêm, nữ quái đợi ở cửa. Ả đã mất hai đêm công cốc rồi, nên hận lắm. Ả
nhất định không chịu thất hại. Gặp thằng đểu, ả phải đểu hơn. Vỏ quít
dầy phải có móng tay nhọn.
Tên võ trang cay cú lại mò tới, tay không.
Ả đon đả:
Em nhớ anh
quá. Chỉ sợ anh không đến. Em đâu có phải vì hai hộp sữa, để em bỏ cả
ngủ, chờ anh. Chỗ đau của em đã đỡ rồi. Nhờ anh xoa hộ lần này nữa là
khỏi.
Tên võ trang vui mừng:
Nếu em thật lòng yêu anh. Khi ra tù, chúng ta sẽ cưới nhau.
Hắn thò tay
qua song sắt, say sưa xoa bóp. Hai tay nữ quái giữ chặt cánh tay hắn.
Một cô bạn nấp sẵn ở bên tường nhẩy tới, nhanh như cắt, tháo chiếc đồng
hồ đeo tay của hắn. Đó là nghề chuyên môn của ả. Tất cả diễn ra chớp
nhoáng vài giây.
Nữ quái vểu mỏ, nói vào cái mặt nghệt ra của tên võ trang:
Đồ bọ chó!
Mỗi lần hai hộp. Đúng 11 giờ tối mai, mà không mang sáu hộp sữa tới, bà
sẽ mang cái đồng hồ Seiko này báo cáo với Ban Giám-Thị. Bà không dọa mày
đâu. Đúng 11 giờ, bà không thức đợi được!
Nói xong, ả bỏ vào phòng, không thèm nghe hắn ấp úng xin xỏ.
Sau khi nhận đủ sáu hộp sữa, giả lại đồng hồ cho tên võ trang, nữ quái đưa tất cả cho mụ trưởng phòng, vẻ đắc thắng:
Chị giữ lấy. Mỗi ngày pha cho cháu nhỏ nửa hộp. Hết, em lại kiếm “con bò sữa” khác.
Mụ trưởng phòng thán phục:
Công nhận em có bản lĩnh. Mưu kế thực. Xứng đáng với danh hiệu “nữ quái”. Bọn võ trang rồi sẽ khốn đốn với em.
Từ nay trở đi, em phải chơi lối tiền trao, cháo múc. Không để rắc rối như lần này nữa.
Thằng bé có
sữa uống, đã mập ra đôi chút. Mụ trưởng phòng kiếm được thuốc ghẻ, bôi
cho nó. Ghẻ cũng đỡ. Không thuốc men gì, cơn sốt của nó cũng tự nhiên
khỏi.
Cô giáo đưa con cho nữ quái bế, cảm động:
Từ nay, em là mẹ nuôi của nó. Lớn lên, chị sẽ kể chuyện cho nó, bảo nó phải coi em như mẹ. Em đã cứu sống nó đấy.
Nữ quái nâng niu thằng bé trên tay, cười rất tươi. Ả vui trong lòng, vì thấy mình đã làm được một việc tốt.
Ngày lại ngày trôi đi. Trong vòng một tháng, đã có thêm ba tên võ trang nộp sữa cho nữ quái.
Mụ trương phòng cười vui:
Đúng là một “đàn bò sữa”. Nữ quái chăn bò cừ
thật!
Những ngày
đầu tháng tám. Thời tiết nóng lạ thường. Mặt trời chói lóa dội lửa
xuống. Tường, sàn xi-măng, mái ngói, phả hơi nóng ra, hầm hập, ngột
ngạt. Trong phòng đầy người, mùi hôi tanh nồng lên.
Mụ quản giáo ngồi dưới quạt trần, cau có:
Trời đất gì
mà như cái lò lửa. Quạt máy chỉ toàn quạt hơi nóng vào người. Tắt mẹ nó
đi. Đài nói nhiệt độ lên tới bốn mươi độ. Đợt nóng này còn kéo dài
nhiều ngày.
Các nữ tù
nhân, mình mẩy nổi mụn đỏ. Ngứa. Rát. Ban đêm không thể ngủ được. Thằng
bé lại sốt cao. Át- pi-rin, sữa, uống vào, đều ọe ra. Rôm sẩy đầy người.
Nó khóc tới nghẹt thở. Mẹ nó chỉ còn xương với da, mắt quầng thâm, ôm
con, lo lắng. Mất ngủ nhiều đêm liền, quá mệt.
Một buổi
sớm, cô giáo thiếp đi. Khi tỉnh dậy, thấy thằng con bé bỏng há hốc cái
miệng nhỏ xíu, mắt trợn lên, bất động. Hai bàn tay tí hon nắm chặt. Cô
sợ quá, ôm con vào lòng. Nó đã tắt thở. Cô hoảng loạn, kêu ầm lên, nước
mắt dàn dụa:
- Con tôi chết rồi! Con tôi chết rồi!
Cả phòng
xôn xao. Trưởng phòng, nữ quái, mấy ả nữa đổ xô tới. Nó đã chết thật. Cô
giáo gục đầu vào ngực con, ngất xỉu. Nữ quái úp mặt vào hai bàn tay,
nức nở.
Trưởng phòng nước mắt dòng dòng, ra cửa kêu:
Báo cáo cán bộ! Phòng nữ có người chết!
Một lúc, mụ quản giáo cùng một tên tù tự giác tới. Mụ mở cửa, hỏi:
Ai chết?
Báo cáo cán bộ, thằng bé con.
Đưa nó ra.
Trưởng phòng vào, định bế thằng bé ra. Mẹ nó đã tỉnh lại, ôm ghì con trong lòng, gào lên, điên loạn:
Con của tôi, nó phải ở với tôi! Không ai có quyền đưa con tôi đi đâu!
Thấy cô giáo mắt trợn trừng, ôm chặt con không rời.
Trưởng phòng bối rối, dỗ:
Em bình
tĩnh lại. Cháu nó đã mất. Nên để người ta đưa đi chôn cất, cho nó được
mồ êm, mả đẹp. Em giữ đây làm sao được. Nghe chị. Chị cũng đau khổ,
thương cháu lắm.
Cô giáo ôm chặt con hơn:
Không, không được, tôi phải giữ nó với tôi!
Mụ quản giáo ngoài cửa sốt ruột, bảo tên tự giác:
Vào mang nó ra!
Tên tự giác vào phòng. Nó giật đứa bé khỏi tay cô giáo, đẩy cô ngã chúi xuống. Rồi ôm đứa bé đi ra. Cửa khóa lại.
Cô giáo vùng dậy, chạy theo, gào thét:
Trả con tôi! Trả con tôi! Tôi tự tử chết!
Cô đập đầu
vào song sắt. Trưởng phòng, nữ quái ôm chặt lấy cô. Máu từ đầu chảy
xuống, hòa với nước mắt, đỏ lòm. Hai người khiêng cô vào, đặt lên sàn.
Nữ quái xé áo mình, băng vết thương trên đầu, lau máu trên mặt cô.
Khi tỉnh lại, miệng cô lảm nhảm:
Trả con tôi, trả con tôi. Con ơi, mẹ thương con quá!
Sợ cô giáo tự sát, suốt ngày, suốt đêm, nữ quái cùng mấy ả thay nhau ngồi bên, an ủi cô.
Sau cái đập
đầu vào song sắt, cô giáo không chết. Cô chỉ trở thành người mất trí.
Lúc cười, lúc khóc, lúc ngồi thừ ra, lúc ôm túi quần áo trong tay như ôm
con, hôn hít. Ngày nào cô cũng múa hát. Giọng cô khàn. Nhưng cố múa rất
dẻo. Cô chỉ hát một bài duy nhất. Bài hát đã được các thầy, các cô dạy,
từ thủa cô còn là một nhi đồng sáu, bảy tuổi. Cô vừa múa, vừa hát,
miệng tươi cười:
Ai yêu bác Hồ-chí-Minh hơn các em nhi đồng
Bác chúng em, dáng cao cao, người thanh thanh
Bác chúng em mắt như sao, râu hơi dài
Bác chúng em, vì đất nước, quên thân mình
Bác nay tuy đã già rồi
Già rồi, nhưng vẫn vui tươi
Mong sao Bác sống muôn đời
Để dìu dắt nhi đồng thành người...
Một hôm, ăn
cơm ngoài sân, cô đứng lên múa hát. Mụ quản giáo đương đọc tờ “Nhân
Dân” cũng phải ngừng đọc, nhìn. Mụ khen cô múa hát giỏi. Thấy tờ báo có
ảnh Bác Hồ to tướng, cô năn nỉ xin mụ quản giáo. Cô mất trí, nhưng hiền,
không phá phách, mất trật tự. Mụ cũng thương hại. Mụ cắt hình Bác ở báo
ra cho cô.
Từ đó, đêm
đêm, cô đặt ảnh Bác ở đầu chỗ nằm, quỳ xuống, xụt xùi khóc lóc, cầu
khấn: “Cháu lạy Bác. Chồng cháu đã hy sinh vì cách mạng. Bác thương tha
cho mẹ con cháu! Mẹ con cháu biết có tội với Đảng rồi. Xin Bác khoan
hồng, thương tha cho! ”
Nhìn cảnh tượng đó, trưởng phòng, nữ quái, nước mắt ứa ra.
Thế rồi, một sáng đầu tháng mười, ông y sĩ vào dẫn cô đi. Cô được đưa tới một trại giam người điên bên Châu-Quỳ, Gia-Lâm.
Trưởng phòng thì thầm với nữ quái:
- Chắc nó
được đưa đi bệnh viện Việt-Đức điều trị. Bác Hồ phù hộ đấy. Bác thiêng
lắm. Hôm Bác mất “Người tuôn nước mắt, Trời tuôn mưa” * cơ mà!
Nguyễn Chí Thiện
(Trích nguồn: http://www.diendantheky.net/)
VIỆT CỘNG KHỦNG HỎANG LÝ LUẬN
'Khủng hoảng lý luận' của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đào Anh Dũng Gửi cho BBC từ Hà Nội
- 4 giờ trước
Ngày 22/10 vừa qua, Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) trao Huân chương Độc
lập hạng Nhất cho cái gọi là "Hội đồng Lý luận Trung ương" của họ, nhân
kỷ niệm 20 năm ngày thành lập hội đồng này.
Cùng thời gian, ông Đinh Thế Huynh, Chủ tịch hội đồng ấy có chuyến công tác dài gần nửa tháng ở Trung Quốc và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, hai sự kiện có vẻ ngoài sáng màu ấy không che lấp được sự thật tối màu là ĐCSVN đã và đang ở trong một cuộc khủng hoảng lý luận kéo dài từ năm 1976, tới nay chưa thấy dấu hiệu khởi sắc.
Lúc mới thành lập, họ có sẵn lý luận của Lenin để dùng; lúc đánh Pháp đánh Mỹ, họ có thêm tư tưởng của Stalin, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai hỗ trợ. Trong thời kỳ chiến tranh ấy thì vốn lý luận như vậy là đủ giúp họ giành được chính quyền khắp cõi Việt Nam.
Nhưng niềm vui sau năm 1975 lại ngắn chẳng tày gang, do nền kinh tế ảm đạm trong nước, do cuộc chiến biên giới 1979 khốc liệt với người "vừa là đồng chí, vừa là anh em". Có thể nói rằng họ bị dội nước lạnh từ rất sớm; con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), cộng sản chủ nghĩa (CSCN) bỗng chốc mịt mù, hiểm trở hơn họ tưởng.
Có thể nói, suốt mấy chục năm qua, "thành tích" của Hội đồng Lý luận Trung ương chỉ là một cọng rơm ấy mà thôi. Vốn dĩ khái niệm "XHCN" họ đưa ra đã là mơ hồ, mà Marx và Engels từng phân biệt tới vài loại (phong kiến, tiểu tư sản, tư sản, "chân chính", không tưởng, khoa học). Định hướng theo cái mơ hồ là mất định hướng, căn cứ vào cái mơ hồ là vô căn cứ, lý luận có cũng như không. Còn thực tế thì trở thành "XHCN định hướng kinh tế thị trường", cho nên cũng chẳng lạ gì khi ông John Kerry chỉ nhìn thấy chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam.
'Tự chuyển hóa' từ đâu đến ?
VN: Chọn cả Trung Quốc lẫn Mỹ là 'khôn ngoan'?
Ngược lại quá khứ, ta thấy ông Hồ đánh giá khá cao vai trò của lý luận, nhưng chưa bao giờ ông ấy cho thấy năng lực của một nhà lý luận tầm cỡ vĩ mô theo kiểu Marx, Engels, Lenin.
Phó mặc công tác nghiên cứu lý luận về CNXH, CNCS cho các lãnh đạo Liên Xô và Trung Quốc, cái gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh" thực ra chỉ tập hợp các quan điểm rời rạc về những vấn đề riêng lẻ của Việt Nam, dành cho những nhóm đối tượng cụ thể, với văn phong rất "nôm na", nặng về dạy đạo đức, chịu ảnh hưởng nhiều của triết lý Khổng, Nho.
Chính vì rời rạc, chưa được hệ thống hóa, chưa được luận giải đến nơi đến chốn, nên rất dễ trở thành "siêu hình", không "biện chứng", thành giáo điều cứng nhắc khi đưa vào thực tiễn.
Về hoạt động lý luận, ông Lê Duẩn có cố gắng hơn ông Hồ, văn phong giống ba vị tiền bối kinh điển của CNCS hơn, và hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của triết lý Khổng, Nho.
Vì sao ông Đinh Thế Huynh thăm Mỹ?
John Kerry: 'Chỉ có chủ nghĩa tư bản' ở Việt Nam
Điểm chung của ông Hồ, ông Duẩn (ở đây phải kể thêm cả ông Giáp, ông Đồng nữa) là mạnh về chính trị, quân sự song lại lúng túng, kém cỏi khi quản lý, điều hành nền kinh tế.
Nguyên nhân khách quan, do chiến tranh liên miên khiến thời gian đi sâu nghiên cứu bị hạn chế, do bất đồng ngôn ngữ khiến việc tìm hiểu các trước tác của ba vị tiền bối kinh điển không được đầy đủ; nguyên nhân chủ quan, đó là sự thụ động lẫn ỷ lại trong công tác lý luận của Bắc Việt khi Liên Xô và Trung Quốc còn đang mạnh sau Thế chiến II.
Hệ quả là khi Trung Quốc quay lưng, Liên Xô sụp đổ thì các lãnh đạo Việt Nam bị hẫng hụt nghiêm trọng. Họ chỉ còn cách nhào nặn Chính sách kinh tế mới hay chủ nghĩa tư bản-nhà nước của Lenin, thành một món tạm thời nhai được. Đồng thời, sau 30 năm "đổi mới" họ đã phải lùi bước ở một số điểm quan trọng trong cương lĩnh, điều lệ của mình, chẳng hạn: vai trò của kinh tế nhà nước, đảng viên làm kinh tế tư nhân, tỷ lệ nhà nước nắm giữ cổ phần trong doanh nghiệp,...
Định nghĩa hiện nay của Đảng về XHCN không khác với cái xã hội mà các nước tư bản chủ nghĩa khác đều đang hướng tới (công bằng, dân chủ, thịnh vượng,... ), ngoài một điểm duy nhất: Đảng cộng sản ở vị trí lãnh đạo độc tôn.
Thực chất Hội nghị Trung ương 4
Để tạm thời an lòng dân chúng, họ đã vay mượn những khái niệm, khẩu hiệu mà ba vị tiền bối kinh điển cho là mang tính chất "tư sản". Họ bỏ qua vấn đề căn bản: sở hữu tư liệu sản xuất (đặc biệt là đất đai).
Đỉnh điểm của sự khủng hoảng lý luận hiện ra trong Cương lĩnh 2011, ở đó họ đưa vào định hướng "đoàn kết, bình đẳng các giai cấp" chứ không phải đấu "đấu tranh, xóa bỏ giai cấp" - một sự phản bội rõ ràng, nghiêm trọng so với Marx và Engels!
Những yếu kém trong công tác lý luận mà Nghị quyết 37-NQ/TW ngày 09/12/2014 của Bộ Chính trị đã kể ra (nếu nhắc lại ở đây sẽ quá dài) là có thật.
Tính chất "không có tiền lệ, không giống ai" của con đường quá độ từ xã hội tiểu nông lên xã hội CSCN, bỏ qua giai đoạn TBCN - mà đầu tiên là ông Lê Duẩn, sau này nhiều vị lãnh đạo khác thừa nhận - cũng là có thật.
Song liệu chúng có phải lý do chính đáng để phản bội Marx và Engels, trong khi vẫn hùng hồn tuyên bố "lấy chủ nghĩa Marx-Lenin làm nền tảng tư tưởng, hay không?
Bài viết nêu quan điểm riêng của tác giả ở Hà Nội.
http://www.bbc.com/vietnamese/forum-37825489
MELISA HOGENBOOM * NGƯỜI ĂN THỊT NGƯỜI
Vì sao một thời con người ăn thịt nhau?
Melissa Hogenboom BBC Earth
- 30 tháng 10 2016
Khoảng 15.000 năm trước, tại động Gough's Cave, ở vùng Sommerset gần Bristol, Anh Quốc, một nhóm người đã ăn thịt lẫn nhau.
Họ lóc thịt và tháo rời các khớp xương, sau đó nhai và nhằn nát xương. Họ cũng có thể đã bẻ xương để ăn phần tuỷ bên trong. Không chỉ có xác người lớn có dấu hiệu bị ăn. Một em bé ba tuổi và hai thiếu niên có thể đã có dấu hiệu bị ăn thịt và gặm xương.
Chuyện gì đã xảy ra trong động Gough's Cave? Đó có phải là một trường hợp cho thấy sự đối xử hung dữ của con người với kẻ thù không, hay đó là một nghi thức tín ngưỡng kỳ lạ? Hay đó chỉ đơn giản là nỗ lực tuyệt vọng nhằm mục đích sinh tồn?
Gough's Cave được khai quật lần đầu vào cuối thập niên 1880. Tuy nhiên, khi đó mục đích chỉ là để nhằm phục vụ du khách, cho nên công tác phân tích khảo cổ đã không được tiến hành cặn kẽ. Những mẫu hóa thạch được tìm thấy có thể cũng đã bị thất tán.
Những cốc sọ người có thể được sử dụng vì các nghi lễ
Qua nhiều phân tích chi tiết trong hàng thập niên sau, các nhà nghiên cứu kết luận xương người trong hang động đó là của những người đã bị ăn thịt.
Gough's Cave nằm ở vị trí xa xôi và đơn độc. Bằng chứng của hành động ăn thịt người gợi lại thời kỳ có người Neanderthals hoặc có thể là còn trước đó nữa.
Bằng chứng đầu tiên cho thấy người Neanderthals có thể đã ăn thịt bạn bè (hay kẻ thù) được tìm thấy ở Pháp và có niên đại khoảng 100.000 năm trước.
Có một số trường hợp khác cũng vậy. Một nhóm người Neanderthal sống trong một hang động ở miền bắc Tây Ban Nha 49.000 năm trước, có vẻ đã bị ăn thịt.
Xương trong một hang động ở Bỉ cũng cho thấy các dấu hiệu một nhóm người khác đã ăn thịt nhau, theo một nghiên cứu được công bố hồi tháng 7/2016.
Đặc biệt, rất khó để nhận diện vết dao cắt là do hành động ăn thịt người, hay từ việc người ta lóc thịt khỏi xương sau khi người đó chết, mà đây đôi lúc cũng là việc được thực hiện theo nghi lễ tâm linh.
Vết cắt trên xương động vật thường chắc chắn là dấu hiệu bị làm thịt. Nhưng khi có các dấu vết tương tự trên di hài của người, nhiều kết luận không "dễ dàng được chấp nhận", Silvia Bello từ Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở London, Anh Quốc, cho biết.
Các di chỉ xương người trong hang động Gough's Cave mà Bello đã phân tích nhiều năm qua lại có rất nhiều dấu vết cắt. Khoảng 65% xương cho thấy dấu cắt từ dụng cụ đồ đá. Hơn thế nữa, rất nhiều xương bị nghiền nát, mà có thể là để hút tuỷ xương.
"Nó rất đặc trưng," Bello nói. "Ta có thể thấy cùng những dấu vết như vậy trên các động vật khác. Bạn có thể nói họ xả thịt các động vật khác theo cùng một cách, [để lấy ra] từng miếng thịt."
"Một vài bộ phận bị biến đổi, đặc biệt là các ngón tay cho thấy có lẽ chúng đã bị ai đó nhai để ăn hết thịt dính trên đó," Bello nói.
"Dấu răng người trên xương người có lẽ là bằng chứng tốt nhất cho thấy hành động ăn thịt người."
Bello quyết định thử tìm cách giải đáp một số tranh cãi vốn được nêu lên khi các di chỉ với dấu vết như vậy được tìm ra.
Khác gì với lóc thịt?
Trong một nghiên cứu được công bố năm 2016, bà và đồng nghiệp cẩn thận vạch ra sự khác nhau giữa hành động ăn thịt người và "lóc thịt". Đây là quá trình khi thịt được lóc ra từ thi thể người đã chết, nhưng không thường để ăn.Những xương tìm thấy trong hang động Gough's Cave cho thấy những người này đã bị ăn thịt
Quá trình lóc thịt thường được thực hiện vì mục đích "chôn cất thứ cấp": người tiền sử thường có thói quen mang theo người chết khi họ di chuyển đến một vùng khác, và để làm vậy thì đầu tiên họ phải lóc thịt người chết ra.
Xương có thể "quan trọng hơn" thịt, Rosalind Wallduck, một đồng nghiệp của Bello tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, nói.
Có nhiều bằng chứng phong phú cho thấy điều này ở Serbia trong khoảng từ 10.000 đến 5.000 năm trước. "Người ta vẫn thường di chuyển theo mùa và mang người chết theo khi đi," Wallduck nói. "Tổ tiên của họ sẽ hiện diện gần gũi hơn trong đời sống của họ và họ cũng tương tác nhiều hơn với những thi thể đó."
Nhóm nghiên cứu nói di hài của người bị ăn thịt giờ đây đã dễ nhận diện hơn, vì họ có những dấu vết đặc biệt. "Chúng thực sự khớp với những xác động vật bị ăn thịt khác trong khu vực, trong khi đó việc chôn cất thứ cấp lại có dấu vết khác, về tỷ lệ phần trăm các vết cắt và độ dày đặc," Bello nói.
Sự khác biệt cơ bản là số lượng của vết cắt. Khi người hay động vật bị ăn thịt, có rất nhiều dấu vết có thể quan sát được, nhưng nếu thi thể được lóc thịt thì lại có dấu vết nhỏ hơn, chỉ chiếm diện tích trên 1% xương, và không có dấu răng.
Tuy nhiên, đó vẫn không phải là câu trả lời cho lý do tại sao những người cổ đại đó lại ăn thịt người.
Quá khắc nghiệt
Không có cách nào tìm ra câu trả lời tuyệt đối chính xác. Tuy nhiên, Bello nói những người sống trong Gough's Cave không có dấu hiệu nào cho thấy có dấu vết của sự giết người tàn bạo. "Họ đã ăn thịt xác chết, nhưng không có việc chém giết."Có thể do thời tiết trong thời đại đó đã đẩy họ đến hành động cực đoan như vậy. Họ sống trong một quãng nghỉ ngắn giữa hai đợt cực kỳ lạnh trong kỷ băng hà cuối cùng: thời tiết chỉ ấm lên trong vài trăm năm. Một mùa đông cực kỳ lạnh có thể đã làm cạn kiệt nguồn thức ăn, buộc họ phải ăn bất cứ xác người nào đã chết để sinh tồn.
Nhưng điều đó không giải thích được các cái cốc làm bằng sọ người trong hang động Gough's Cave. Các sọ người không có vẻ được đẽo gọt lại để đựng đồ ăn, và những cốc sọ người tương tự cũng được tìm thấy ở nhiều nơi khác.
Thay vào đó, Bello nghĩ những người sống trong hang Gough's Cave đã làm những cái cốc sọ người như thực hành một nghi lễ hay nghi thức chôn cất nào đó. Hoàn toàn có thể xảy ra việc họ uống bằng cái cốc đó. Nếu đó là thật thì việc ăn thịt những người khác có thể chỉ là một hành vi văn hoá, hơn là một hành động vì mục đích sinh tồn.
Thời đại của những người này sinh sống cũng là một manh mối nữa cho công tác nghiên cứu. Nếu những người này chết vì xung đột, thì hẳn là những nạn nhân bị ăn thịt phải là người lớn, nhưng trong trường hợp này thì không phải. "Đây không phải một nhóm chiến binh," Bello nói. "Tôi nghĩ họ chết vì lý do tự nhiên thôi."
Có thể là vậy, nhưng những trường hợp gần đây của việc ăn thịt người có thể cho thấy một bức tranh rất khác.
Nạn nhân bạo lực?
Ăn thịt người thường là kết quả của bạo lực, và người chiến thắng "tiến thêm một bước là hành hạ xác chết", Rick Schulting từ Đại học Oxford của Anh nói.Schulting lập luận rằng trường hợp ăn thịt người khá hiếm, dù có tình trạng bạo lực khá nhiều trong quá khứ của loài người. "Chúng tôi tìm thấy rất nhiều bằng chứng cho thấy người chết trong các xung đột thời tiền sử, nơi người ta không ăn, làm thịt hay chặt xác họ," ông nói. "Vì thế trường hợp này cho thấy điều gì đó cực đoan hơn."
Sự việc xảy ra trong thời kỳ hạn hán nghiêm trọng, nhưng Schulting nói điều đó không có nghĩa người ta sẽ ăn thịt nhau. Ông nghĩ đó có vẻ là những người đó đã ăn thịt nhau vì "xung đột nghiêm trọng về tài nguyên".
"Những người đó đánh nhau, và để cảnh báo không cho đối phương quay lại,
kẻ nào dám làm vậy sẽ bị xẻ thịt tàn bạo và nghiền nát, có lẽ bị tra
tấn," ông nói. "Vì thế những hành động cực đoan trở thành dấu hiệu nhận
biết."
Thậm chí có thể những cá nhân tại Gough's Cave đã bị giết hết, Schulting
nói. Không có chứng cứ nào có thể quan sát được cho thấy có bạo lực,
nhưng có rất nhiều cách để giết người mà không để lại dấu vết trên xương
người.
Có lẽ bài học từ tất cả những trường hợp này là không có một giải thích
chung cho tất cả các trường hợp ăn thịt người. "Thông thường bạo lực có
vẻ bị cho là có liên quan khi bạn thấy quá trình cực đoan như thế này,"
Schulting nói. "Nhưng ngay cả điều đó cũng cần thảo luận và tranh luận."
Dù cho tại sao sự việc đó xảy ra, rõ ràng là hành động ăn thịt người đã
xảy ra trong nhiều thời kỳ khác nhau trong lịch sử loài người. Đó là một
khía cạnh khủng khiếp khác tạo nên con người chúng ta. Và nó không hẳn
là điều gì đặc biệt đáng xấu hổ, ít nhất là khi bạn so sánh nó với những
điều tàn ác khác mà con người đã gây ra.
"Tôi không nghĩ [ăn thịt người] khiến chúng ta dã man hơn," Schulting
nói. "Chúng ta đã hoàn toàn có thể tạo ra những hành động tàn ác ngày
nay, dù là có ăn thịt ai hay không."
Bản tiếng Anh đã đăng trên BBC Earth.
BÚI VĂN PHÚ * ĐỊNH CƯ TẠI MỸ
Những ngả đường vào Mỹ
Bùi Văn Phú Gửi cho BBC từ San Jose, California
- 29 tháng 7 2016
Trong những ngày qua dư luận trong nước xôn xao việc ông Trương Đình
Anh, nguyên Tổng Giám đốc tập đoàn viễn thông FPT, đưa cả gia đình sang
Mỹ định cư.
Trước đó không lâu dư luận cũng bàn tán về việc một đại biểu quốc hội là
bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường bị truất quyền đại biểu vì mang song tịch
Việt Nam và Cộng hòa Malta, một đảo quốc nhỏ ở Địa Trung Hải gần bên
nước Ý.Theo luật Malta, một người nước ngoài chỉ cần bỏ nửa triệu đôla vào đầu tư, không bắt buộc phải sinh sống ở đó cũng có thể được nhập tịch. Điều này khơi lên nghi vấn là có bao nhiêu người Việt khác có chức quyền và những triệu phú đã có quốc tịch Malta như bà Hường, hoặc đang là thường trú nhân, hay đã mang hộ chiếu một nước khác.
Theo ông Lương Duy Phương từ Công ty Pháp lý DP Legal Solutions có văn phòng dịch vụ ở vùng Vịnh San Francisco thì có khả năng cao là ông Anh đến Mỹ định cư theo diện bỏ vốn đầu tư.
Ông Phương nói: “Hiện nay ở Mỹ có những vùng sâu xa cần đầu tư, nếu một người nước ngoài có thể bỏ ra 500 nghìn hay một triệu đôla đầu tư vào một cơ sở thương mại hay những dự án có sẵn và có thể thuê 10 công nhân làm việc chính thức toàn thời gian thì nhà đầu tư và cả gia đình sẽ được chính phủ Mỹ cấp thẻ xanh.”
Với kinh nghiệm dịch vụ về pháp lý và di dân lâu năm, ông Phương cho biết những địa phương nào người nước ngoài có thể đầu tư để được thẻ xanh thì do sở di trú Mỹ quyết định. Ngay ở California cũng có những vùng xâu xa, khu vực gần sa mạc nếu người nước ngoài bỏ tiền vào đầu tư sẽ được thẻ xanh, theo lời ông Phương.
“Với một người như ông Trương Đình Anh thì không chỉ cần 1 triệu đôla mà ngay cả 10 triệu đôla để đầu tư vào Mỹ thì điều đó không khó,” ông Phương đưa ra nhận xét như thế về trường hợp ông Trương Đình Anh và gia đình.
Như thế, cứ theo đúng tiến trình thì từ việc có thẻ xanh đến việc nhập tịch Mỹ, nếu muốn, chỉ còn là vấn đề thời gian đối với ông Anh.
Những ngả đường vào Mỹ
Bình thường một di dân đến Mỹ khi còn trẻ, có khả năng học hiểu tiếng Anh và hiểu biết cơ bản về tổ chức công quyền, quyền lợi công dân và không phạm luật thì chừng sáu bảy năm là có thể trở thành công dân Mỹ dễ dàng.
Những người lớn tuổi với khả năng tiếng Anh giới hạn, nếu trên 65 tuổi và ở Mỹ hơn 15 năm có thể xin thi nhập tịch bằng tiếng Việt.
Khi làn sóng thuyền nhân vượt biển chấm dứt, đến lớp người được Hoa Kỳ nhận cho định cư theo diện HO, con lai hay ROVR, là diện hồi hương từ các trại tị nạn, vào thập niên 1990 và hầu hết cũng được hưởng qui chế tị nạn với thẻ I-94.
Ngày nay vẫn còn nhiều người Việt đến Mỹ định cư, đa số theo diện di dân đoàn tụ do người thân trong gia đình bảo lãnh và họ nhận được thẻ xanh trong một thời gian rất ngắn, chừng vài tuần, sau khi đặt chân đến Hoa Kỳ.
Nếu đến Mỹ theo diện hôn thê hôn phu hay vợ chồng, thời gian có thẻ xanh sẽ lâu hơn vì cơ quan di trú muốn có thời gian để xác minh những đám cưới không phải những cuộc kết hôn giả tạo.
Trong những năm qua, với quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ phát triển hơn thì người Việt vào Mỹ qua diện đầu tư hay nghề nghiệp cũng nhiều.
Diện di dân theo nghề nghiệp, cao cũng như thấp, một năm chính phủ Mỹ cấp hơn một trăm nghìn visa, trong số đó khoảng 40 nghìn thuộc loại EB-3 dành cho những ngành nghề đòi hỏi có bằng cử nhân hay cao hơn từ đại học Mỹ như kiến trúc sư, kỹ sư, luật sư, bác sĩ, giáo viên các cấp và giới hạn không quá 7% số visa dành cho một quốc gia.
Nhiều sinh viên du học từ Việt Nam đã được định cư tại Mỹ sau khi hoàn tất học trình là qua diện này. Trung Quốc và Ấn Độ luôn sử dụng hết số visa được cấp vì quá đông dân.
Như thế con đường định cư và trở thành công dân Mỹ có nhiều cơ hội hơn cho người Việt, so với việc định cư ở các nước như Đức, Anh hay Pháp. Không những được định cư cho gia đình, sau đó còn có thể đem bố mẹ, anh chị em qua nữa.
Trong quá khứ đã có nhiều nghệ sĩ Việt di dân hợp pháp sang Mỹ như Thu Phương, Trần Thu Hà, Lam Trường, Bằng Kiều, Quang Dũng qua kết hôn với Việt kiều có quốc tịch Mỹ.
Chuyện ông Trương Đình Anh đưa cả gia đình sang Mỹ định cư tuần qua là sự kiện đầu tiên một người nổi tiếng trên thương trường bỏ nước ra đi được truyền thông công khai nhắc đến.
Cơ hội cho người Cộng sản?
Sự việc có nhiều người từ Việt Nam qua Hoa Kỳ định cư, trong đó có thể có những đảng viên Đảng Cộng sản, từ lâu nay đã gây chú ý trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt, đặc biệt ở California với nhiều cơ sở thương mại do người trong nước mới qua làm chủ.Điều này đã khiến một ứng cử viên gốc Việt ở San Jose quan tâm.
Kỹ sư Công Đỗ, ứng cử dân biểu tiểu bang California trong kỳ bầu sơ bộ vừa qua nhưng không thành công, đã lên tiếng yêu cầu chính phủ Mỹ thu hồi thẻ xanh của những người đã từng là đảng viên cộng sản và ông đã nêu vấn đề này với giới chức dân cử địa phương cũng như với sứ quán Mỹ tại Việt Nam.
Một đảng viên Đảng Cộng sản có thể định cư tại Mỹ được không? Theo hồ sơ xin thẻ xanh mẫu, I-485, có câu hỏi số 6, nguyên văn như sau: “Have you EVER been a member of, or in any way affiliated with, the Communist Party or any other totalitarian party?” (Ông/Bà đã có bao giờ là thành viên, hay qua bất cứ hình thức nào có liên hệ với Đảng Cộng sản hay một đảng độc tài toàn trị nào khác?)
Vì lý do này mà trong thập niên 1980 nhiều bộ đội cộng sản Việt Nam vượt
biên giới từ Cambodia qua Thái Lan và đến được các trại tị nạn thì
không được Hoa Kỳ nhận cho định cư. Hầu hết họ đi Canada, Úc hay các
nước Tây Âu.
Về việc thu hồi thẻ xanh, nếu đã cấp cho một đảng viên cộng sản, theo
nhận định của ông Lương Duy Phương là điều khó thực hiện: “Đưa việc này
vào vấn đề tranh cử thì được, nhưng để thực hiện thì rất khó vì sở di
trú INS không đủ người để điều tra. Chỉ khi một người có những hành vi
phạm luật khác, khi đó họ mới xét lại hồ sơ.”
Tôi biết một bà mẹ được con bảo lãnh qua Mỹ, khi khai hồ sơ đánh dấu YES
cho câu hỏi về tư cách đảng viên Đảng Cộng sản vì bà thực sự là một
đảng viên cấp chi bộ và đã nghỉ hưu. Nhân viên di trú bác hồ sơ và nói
với bà hãy thôi tham gia sinh hoạt đảng rồi khiếu nại thì phía Mỹ sẽ tái
cứu xét hồ sơ.
Hoa Kỳ là nước có chính sách đón tiếp di dân rất thoáng vì truyền thống
lịch sử. Những ai có tài năng vượt trội, có nhiều tiền đều có cơ hội đến
Mỹ để đóng góp cho sự thịnh vượng của đất nước này, dù theo nhiều bảng
xếp hạng toàn cầu nước Mỹ không phải là nơi hạnh phúc nhất.
Theo một khảo sát mới đây của tổ chức New Economics Foundation, Việt Nam
đứng cao thứ 5 về chỉ số hạnh phúc trong số 140 quốc gia, còn Hoa Kỳ
đứng thứ 108. Nhưng mỗi năm có gần trăm nghìn người rời Việt Nam đi định
cư ở nước khác, đông nhất vẫn là đến Mỹ.
Bài thể hiện quan điểm riêng và cách hành văn của tác giả, một nhà báo tự do sống tại California.http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2016/07/160729_vietnamese_us_residents
Sunday, October 30, 2016
TS. PHẠM CAO DƯƠNG * HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Bài học từ Hiệp định Geneva 1954
Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ RFA
2014-07-19
giaminh_07192014.mp3
Ông Tạ Quang Bửu, trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại buổi ký Hiệp định Genève 1954.
Photo courtesy of wikipedia
Hiệp định Geneva năm 1954 được ký kết nhằm giúp chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và cả Đông Dương. Thế nhưng mục tiêu đó đã không đạt được; trái lại chiến tranh lại diễn ra suốt trong mấy mươi năm sau đó, ngăn chặn sự phát triển của Việt Nam về mọi mặt.
TQ nhượng bộ Pháp và miền Nam?
Gia Minh hỏi chuyện sử gia Phạm Cao Dương hiện ngụ tại California, Hoa Kỳ về những điểm đáng chú ý của Hiệp định Geneva 1954 và bài học cần rút ra. Trước hết ông cho biết:
Phạm Cao Dương: Trước hết Hội nghị Geneva năm 1954 không phải được nhóm họp sau ngày sự kiện Điện Biên Phủ chấm dứt, mà nó đã được triệu tập từ trước rồi (từ ngày 26 tháng 4). Mục tiêu của hội nghị ban đầu không phải bàn về Việt Nam mà bàn về chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên). Việc bàn về Việt Nam vào ngày 8 tháng 5 mới bắt đầu và không phải là chính. Nhưng vì tình hình tại Việt Nam thay đổi: biến cố, trận chiến Điện Biên Phủ chấm dứt nên người ta họp vào ngày đó.
Thứ hai, sách trong nước thường ca ngợi đó là chiến thắng của phía Việt Minh. Điều đó không hoàn toàn đúng, vì nếu chúng ta theo dõi những gì xảy ra trước đó khi ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp sang họp với Chu Ân Lai ở Liễu Châu, người ta thấy phía Việt Minh tức tối lắm. Sau này ông Võ Nguyên Giáp có nói rằng khi ông thuyết trình thì bản đồ đưa ra ‘đỏ’ hết tất cả; nhưng đến khi Chu Ân Lai thuyết trình thì theo lời ông Võ Nguyên Giáp ‘Bác và tôi rất ngỡ ngàng’ vì sự nhượng bộ mà Chu Ân Lai dành cho phía Pháp và miền Nam.
Cần phải để ý là Trung Quốc trong thời điểm đó mới làm chủ được lục địa Trung Hoa và chưa có vai trò quốc tế nào nên họ muốn vai trò nào đó, và Hội nghị Geneva là cơ hội để họ đóng vai trò đó.
Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ RFA
2014-07-19
giaminh_07192014.mp3
Ông Tạ Quang Bửu, trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại buổi ký Hiệp định Genève 1954.
Photo courtesy of wikipedia
Hiệp định Geneva năm 1954 được ký kết nhằm giúp chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và cả Đông Dương. Thế nhưng mục tiêu đó đã không đạt được; trái lại chiến tranh lại diễn ra suốt trong mấy mươi năm sau đó, ngăn chặn sự phát triển của Việt Nam về mọi mặt.
TQ nhượng bộ Pháp và miền Nam?
Gia Minh hỏi chuyện sử gia Phạm Cao Dương hiện ngụ tại California, Hoa Kỳ về những điểm đáng chú ý của Hiệp định Geneva 1954 và bài học cần rút ra. Trước hết ông cho biết:
Phạm Cao Dương: Trước hết Hội nghị Geneva năm 1954 không phải được nhóm họp sau ngày sự kiện Điện Biên Phủ chấm dứt, mà nó đã được triệu tập từ trước rồi (từ ngày 26 tháng 4). Mục tiêu của hội nghị ban đầu không phải bàn về Việt Nam mà bàn về chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên). Việc bàn về Việt Nam vào ngày 8 tháng 5 mới bắt đầu và không phải là chính. Nhưng vì tình hình tại Việt Nam thay đổi: biến cố, trận chiến Điện Biên Phủ chấm dứt nên người ta họp vào ngày đó.
Thứ hai, sách trong nước thường ca ngợi đó là chiến thắng của phía Việt Minh. Điều đó không hoàn toàn đúng, vì nếu chúng ta theo dõi những gì xảy ra trước đó khi ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp sang họp với Chu Ân Lai ở Liễu Châu, người ta thấy phía Việt Minh tức tối lắm. Sau này ông Võ Nguyên Giáp có nói rằng khi ông thuyết trình thì bản đồ đưa ra ‘đỏ’ hết tất cả; nhưng đến khi Chu Ân Lai thuyết trình thì theo lời ông Võ Nguyên Giáp ‘Bác và tôi rất ngỡ ngàng’ vì sự nhượng bộ mà Chu Ân Lai dành cho phía Pháp và miền Nam.
Cần phải để ý là Trung Quốc trong thời điểm đó mới làm chủ được lục địa Trung Hoa và chưa có vai trò quốc tế nào nên họ muốn vai trò nào đó, và Hội nghị Geneva là cơ hội để họ đóng vai trò đó.
-Sử gia Phạm Cao Dương
Lý do hai ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không vừa ý vì hai ông tin tưởng được nhiều lợi thế hơn những gì mà phía Chu Ân Lai và Molotov (ngoại trưởng Nga lúc đó) buộc phía Việt Minh phải chấp nhận. Trước hết là sự hiện diện của bộ đội Việt Minh ở Miên và Lào. Chủ trương của Việt Minh hồi đó là muốn nâng đỡ hai tổ chức cộng sản bên Miên và Lào (Pathet Lào và Khmer Issarak). Phía đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa luôn phủ nhận không có sự hiện diện của bộ đội bên hai nước đó, nhưng cuối cùng Chu Ân Lai và Molotov ép buộc Việt Minh phải phần nào chấp nhận điều đó, và sau đó chấp nhận luôn. Có nghĩa chấp nhận đã rút rồi nhưng vẫn còn một phần ở lại bên Miên và Lào. Do vậy Pháp và phía Miên, Lào không chấp nhận nên cuối cùng chấp nhận ‘nếu còn sẽ rút đi’.
Điểm nữa về phân chia lãnh thổ. Khi có sự chia đôi, bên phía người Pháp đề nghị vĩ tuyến 19 và phía Việt Minh muốn vĩ tuyến 13 hay ít ra là vĩ tuyến 16; nhưng cuối cùng cũng hai ông Chu Ân Lai, Molotov và phía người Pháp - Mendes France, thỏa thuận vĩ tuyến 17.
Đến chuyện ngày bầu cử thống nhất, đầu tiên Phạm Văn Đồng muốn 6 tháng, nhưng sau đó lên 1 năm và 2 năm. Quyết định cuối cùng là năm 1956, tức 2 năm sau.
Cần phải để ý là Trung Quốc trong thời điểm đó mới làm chủ được lục địa Trung Hoa và chưa có vai trò quốc tế nào nên họ muốn vai trò nào đó, và Hội nghị Geneva là cơ hội để họ đóng vai trò đó.
Gia Minh: Việc tuyển cử như ông nói được thống nhất vào năm 1956, sau đó Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa có đề nghị với phía miền Nam, nhưng miền Nam từ chối. Lý do vì sao thưa ông?
Phạm Cao Dương: Thực ra phía miền Nam mà buổi đầu là Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và sau này là Việt Nam Cộng Hòa của ông Ngô Đình Diệm, không chấp nhận bản Tuyên bố Cuối cùng. Chúng ta nên nhớ sự thỏa thuận ở Geneva gồm hai phần: phần thứ nhất là đình chiến và phần thứ hai là chính trị. Phần đình chiến được ký kết hẳn hoi, có nhiều bản thỏa ước; còn phần chính trị không có bản thỏa ước được ký kết mà chỉ là Bản Tuyên bố Cuối cùng được các bên chấp nhận bằng miệng mà thôi.
Phía Quốc gia Việt Nam lúc đó và sau này là Việt Nam Cộng Hòa thì không chấp nhận Bản Tuyên bố Cuối cùng đó. Phía Mỹ cũng không chấp nhận. Nên nếu không chấp nhận thi hành cuộc bầu cử đó chẳng qua vì họ không bị ràng buộc về phương diện pháp lý.
Thứ hai nữa, nếu có bầu cử phải cần những điều kiện tối thiểu để có sự công bằng. Đằng này chưa chắc có sự công bằng đó, thành ra miền Nam không chấp nhận cũng có lý của họ.
Bài học kinh nghiệm
Trong những hoạt động bang giao quốc tế, các quốc gia luôn đặt quyền lợi của mình lên trên, kể cả đồng minh cũng đứng hàng thứ không quan trọng.
-Sử gia Phạm Cao Dương
Gia Minh: Sau 60 năm rồi, ông thấy có những bài học gì?
Phạm Cao Dương: Trong những hoạt động bang giao quốc tế, các quốc gia luôn đặt quyền lợi của mình lên trên, kể cả đồng minh cũng đứng hàng thứ không quan trọng. Nếu bên Trung Quốc vì quyền lợi riêng mà hy sinh đồng minh là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa thì đó cũng là điều tự nhiên mà thôi. Nhưng Hà Nội không thấy điều đó!
Thứ hai nếu nhìn vào thế giới trong thời gian đó và những năm tiếp theo, không phải chỉ có Việt Nam bị chia đôi. Còn nhiều nước khác bị chia đôi nữa nhưng không có nước nào dùng võ lực để tiến chiếm nước kia. Còn Việt Nam thì chuyện đó đã xảy ra.
Nhưng hậu quả là Hà Nội không có đủ thực lực để tự mình đánh xuống miền Nam nên phải dựa vào thế của Trung Quốc; Hà Nội và cả miền Nam đều không nhận ra điều, không biết đánh lá bài của Trung Quốc. Vì hồi đó Trung Quốc không muốn người Mỹ vào miền Nam và hiện diện tại miền Nam, họ muốn dùng người Pháp để giữ không cho Mỹ can thiệp vào Việt Nam.
Gia Minh: Cám ơn sử gia Phạm Cao Dương.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/geneva-accords-1954-essence-n-lessons-gm-07192014103843.html
TS. PHAN VĂN SONG * YERSIN
Gương Sáng Của Đời Tôi: Bác Sĩ Alexandre Yersin, Nhà Thám Hiểm, Nhà Bác Học, Hậu Duệ của Pasteur
Phan Văn Song, TS
:
Tuần qua, được anh láng giềng mời ăn tối. Nhà anh cách chúng tôi cở 500
thước, cùng đường, trên đầu dốc. Chúng tôi cùng sanh hoạt trong Hội đồng
Xã. Thói quen, vẫn mời nhau ăn cơm. Anh chị bạn, cũng như vợ chồng
chúng tôi, đều dân hưu trí, nên đều thích đi du lịch. Anh chị có một
chiếc Mobil Car to lớn nên, xuân hạ thu đông, hai vợ chồng lái đều đều
đi ngao du khi Pháp, khi âu châu. Mùa thủy triều cao, thì xuống biển
lượm sò, mùa cá vượt suối đẻ, thì lên núi câu cá. Mỗi khi về đều có sò,
có cá cho tôi cả. Nhưng tháng qua, anh chị vắng tin. Tuy nhiên vì hè,
nên tôi không để ý. Có dịp qua đầu dốc, thấy nhà đóng cửa, vẫn chiếc xe
nhỏ đậu cạnh nhà, nghĩ rằng hai ông bà lại cùng mobil car chu du đâu đó ?
Tuần qua, bổng nhận điện thoại.
-Anh chị vừa đi du lịch về ? Đi đâu ?
-Tối mai, đến dùng cơm với vợ chồng mình, xem phim thì biết !
Bà xã mình tinh ý đoán: « Chắc tụi hắn về Việt Nam, làm surprise anh đấy ! ». Tôi cãi lại : « Hắn đâu dám, nếu hắn đi Việt Nam hắn sẽ nhờ mình « cố vấn » sửa soạn buổi du lịch chứ ? Hắn đâu dám «thày lay gồng mình» đi một mình ?»
Vợ mình tủm tỉm cười kết luận : « Anh vexé – giận lẫy – em miễn bàn – tối mai đến xem sau ! ».
Hai vợ chồng bấm chuông, một bó hoa hồng đỏ cho vợ hắn, một chai rượu
ngon cho hắn ! Hôn hôn (Xứ tui hôn bốn cái). Chào chào. Apéritifs ngoài
vườn, hưởng những giọt nắng chiều cuối hạ. Hàn huyên đấu láo, chuyện
con, chuyện cái, chuyện chánh trị, chánh em, chuyện thời sự, thể thao,
nhưng …không một lời chuyện du lịch ! Nóng ruột, bực mình, nhưng lễ
phép, không hỏi, chờ chủ nhà bật mí. Và cứ thế… tà tà… hoàng hôn rực đỏ
chơn trời, và « ánh sáng chìm dần vào bóng tối » đưa chúng tôi vào phòng
ăn ! Suốt buổi cơm cũng không một lời về… « chuyến du lịch bí mật ! ».
Một buổi cơm thuần túy « lô can Tây nhà quê – đặc sản cây nhà lá vườn xứ
sở làng xã » – không một dấu hiệu đặc biệt, xứ lạ vật lạ nào cả – kể cả
bánh ngọt tráng miệng cũng mua đặc sản làng là macarons của Hồi Nhơn
Sơn. Cơm xong, chờ hai bà xã dọn dẹp bàn ăn xong, chàng chủ nhà mời qua
salon, mở chai Champagne, và tuyên bố : « On boit au VietNam-Tụi mình
uống mừng Việt Nam ! Tuị tao mới ở Việt Nam về ». Bà xã mình ngó mình
nháy mắt (anh phục tui chưa ?). Và thằng tui chưởi thề trong bụng, sao
nó không nhờ mình « quân sư tổ chức » ! Nhưng mở miệng mắc quai vì đã ăn
cơm nhà nó ! Và mở PC ra chiếu hình ảnh du lịch ở Việt Nam.
Du lịch, từ Bắc vô Nam, ghé cả qua Pnom Pênh Cam Bốt, đi đúng ba tuần,
chương trình hấp dẫn. Mở đầu với Hà nội, nóng bức, ồn ào, chụp giựt, lên
Sa Pa, hưởng gió núi, xuống Hạ Long hóng gió biển ! Khi hoài cổ, với cố
đô Hoa Lư, cái nôi của đất nước và dân tộc Đại Việt, với cựu đô thời
quân chủ, đất thần kinh Huế cổ kính, kín đáo với giòng sông Hương với
Núi Ngự Bình. Lúc tân thời, Đà Nẳng nhộp nhịp, xô bồ. Khi ngoạn mục, Hội
An, bảo tàng nhà cổ, phố xưa, cấu khỉ. Lúc thời trang, cát trắng Nha
Trang, « miền thùy dương, bóng dừa ngập nắng » khách du lịch Nga Tàu ồn
ào hổn độn.
Và Sài gòn, Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi ! Được gặp lại hình ảnh một đô
thị âu châu quen thuộc, được xuống biển tắm Bãi Trước Vũng Tàu, được lên
non thăm Đà Lạt, với nhà Ga hình dáng quan thuộc rất Tây, của nhà Ga
Deauville, miền Normandie. Đà Lạt, mình nhắc hắn, là thánh phố thời niên
thiếu của mình ! Và hắn chiếu mình xem hình Hồ Xuân Hương, nhưng đối
với mình, đã hết Xuân Hương rồi ! Hắn chiếu mình ngắm Trường Yersin thân
yêu, nhưng nay sao chỉ còn trơ trẻn cái tháp chuông và kiến trúc bằng
gạch đỏ đang « trơ gan cùng tuế nguyệt » ! Chương trình du lịch tiếp tục
đưa họ xuống thăm xứ Miệt Vườn, miền Tây, thăm giòng sông Cửu, thăm di
tích nhà nữ văn hào Marguerite Duras, căn nhà thời tuổi trẻ của nàng ở
Sa Đéc, di tích cầu Bắc Cần Thơ nơi nàng gặp người tình nhơn…Đoàn du
lịch vượt biên giới thăm Biển Hồ xứ Chùa Tháp Nam Vang…
Hình, hình, bạn mình, bạn họ, đoàn du lịch, phong cảnh, nụ cười, tiệc
tùng ăn uống …Chóng cả mặt ! Vì rượu ? Vì tình bạn ? Vì tình quê hương ?
Không, vì thất vọng ? Vì… Vài hình ảnh quen thuộc… ngoài nhà hàng, trời
xanh, biển đẹp, phong cảnh Việt Nam hữu tình, đấy chất Á Đông, nhưng
khi cố tìm quê hương gợi nhớ, quen thuộc … lại sao quá xa vời với ký ức ?
Lạ nhỉ ? Cố tìm Việt Nam, nhưng sao chả thấy ?
Và hôm ấy, mình làm một điều sai, ngày hôm sau phải mang hoa đến xin lỗi
bà chị bạn. Vì mình nổi giận, lớn tiếng với bạn, khi bạn mình kể cho
mình biết rằng lúc họ ghé Nha Trang họ được đoàn du lịch dắt đi viếng
Nhà thờ Ông Nam Bác sĩ Yẹt Xinh… (Mình viết đúng âm diễn tả như ông bạn
mình nói) Bạn mình kể theo lời hướng dẫn viên việt nam : « Ông ấy là
người Pháp, đến Việt Nam và đã khai quang vùng chung quanh Nha Trang và
làm phúc cho dân vùng Nha Trang… vân vân …Ông mất ở Nha Trang và dân Nha
Trang thờ cúng ông gọi là ông Nam – và người hướng dẫn viên du lịch
(việt nam) còn cường điệu cao ngạo và ngu dốt nói rằng, vì người Việt
thương ông quá nên gọi ông là ông Nam vì xem ông là người (việt) Nam !
Mình nghe đến như vậy nổi điên, nên ngắt lời bạn và lớn tiếng gây bạn,
trách bạn, « sao đi du lịch Việt Nam, mầy đi không hỏi ý kiến tao
vân…vân… » May quá là họ chỉ kể việc Bác sĩ Yersin sau khi duyệt hình
ảnh xong, Gia đình bạn người Pháp hoàn toàn không biết Bác sĩ Yersin là
ai cả. Và cả số đông người Pháp cũng không biết Ông Yersin là ai cả?
Có chăng là ai yêu đọc sách và theo dõi thời sự sách thì biết được và
may ra có đọc dược cuốn sách tựa đề là La Peste et le Choléra, do nhà
xuất bản Editions du Seuil ra ngày 23 /8/2012 của nhà văn Patrick
Deville viết chuyện về Bác sĩ Yersin, nhà vi khuẩn học, người khám phá
ra vi khuẩn Peste – Dịch hạch, từ nay được đặt tên là Yersinia Pestis.
Cuốn tiểu thuyết nhận được giải thưởng Fémina và giải của Tiểu
thuyết-Romans Fnac cùng năm ấy. Không hiểu tại sao, tối đó gia đình bạn
tôi không có hình nhà thờ ông Yersin. Có lẽ trong chương trình du lịch,
Nhà thờ Yersin là phần phụ ? Hay khách du lịch Pháp không chú ý đến
Yersin, hiểu lầm là một vị quan quyền thực dân da trắng đế quốc nào đó
chăng ?
Mình bèn kể cho gia đình bạn mình biết Ông YERSIN là ai ! Đọc là Dẹt
Xanh theo âm Pháp chứ không phải là Yét Xinh theo âm Mỹ. Mình cho biết
Alexandre Yersin sanh ở Thụy Sĩ năm 1863, là người có tôn Giáo Tin Lành
Cải Cách Calviniste. Ông qua Pháp làm việc ở Viện Pasteur, năm 1885. Vì
say tình viễn xứ nên ông tình nguyện đi phục vụ ở xứ thuộc địa Pháp, đến
Việt Nam năm 1890, trên một chiếc tàu của Hảng Thương Thuyền
Messageries Maritimes đi đường Marseille Manille, trong chức vụ Bác Sĩ…
Năm 1892, để tiện làm việc với Viện Pasteur ở Sài Gòn lúc bấy giờ theo
lời gọi của Bác Sĩ Calmette (Calmette et Guérin hai nhà Y sĩ bác học tìm
ra vi khuẩn BCG lao phổi), và cũng để tiện bề sanh nhai kinh tế, ông
nhập vào Quân Y Thuộc địa ngày 30 tháng 12 1892 với chức vụ Bác sĩ Quân Y
hạng 2 tức là Trung Úy. Năm 1913, Ông là Bác sĩ Quân Y trưởng hạnh nhứt
– Médecin principal de 1ère classe tức là Đại Tá, với 5 gạch vàng trên
tay áo – mang theo hải quân. Vì Năm Gạch đó, nên người Việt làm việc và
dân chúng khi ông săn sóc gọi ông là Ông Năm (Con số 5 vì năm Gạch)
Thời bấy giờ không có Thiếu Úy, Trung Úy gì cả – những chức vụ lon lá ấy
là thời của quân đội Quốc Gia Việt Nam sau nầy thôi!
Mình cũng cho hai bạn mình biết là Bác sĩ Yersin là người thám hiểm tìm
ra Đà lạt, một thành phố dưởng sức của ngườp Pháp thời ấy. Ngài cũng là
người khám phá ra Vi khuẩn bệnh dịch hạch Peste, cùng Émile Roux phát
mình thuốc ngừa chủng bệnh Yết hầu-Diphtérie. Chính Ngài đem hột giống
trồng Hévéa Cây cao su, hột giống trồng cây Quinquina tìm chất quinine
trị bệnh sốt rét, đem bò sữa… vào Việt Nam…
Vì vậy hôm nay, ba năm sau năm kỷ niệm (2013, năm Yersin, năm kỷ niệm
150 năm ngày sanh) của Alexandre Yersin, người đã đặt tên và cắt băng
khánh thành Trường Trung học thân yêu của chúng tôi, Xin có bài viết để
tưởng niệm và để cám ơn Ông Năm ! Trễ còn hơn không !
1/ Alexandre Yersin, Nhà Khoa Học :
Khi nói tên Louis Pasteur, ta nghĩ ngay bệnh Dại. Calmette và Guérin : Lao phổi và vi khuẩn BCG-Bacille Calmette et Guérin.
Nhưng Alexandre Yersin ? Là ai vậy ? Chỉ có chúng tôi, một nhóm cựu học sanh của Trường Trung học Yersin Đà Lạt Việt Nam, mới biết rõ ràng đến – chưa chắc hẳn là tất cả các cựu học sanh ? – tiểu sử của Bác sĩ Alexandre Yersin.
Alexandre Yersin sanh năm 1863 ở Lavaux, Thụy sĩ, trong một gia đình
thuộc Nhà Thờ Tin lành Cải cách – Église réformée hệ phái Calvin – cùng
Nhà Thờ người viết, chúng tôi – Mồ côi cha sớm, lúc vừa 3 tuổi, mẹ dọn
về sanh sống ở Morges bên hồ Léman, nên dễ dàng qua lại Pháp. Ngài tốt
nghiệp y sĩ sinh học-médecin biologiste, là một nhà bác học, nhà nghiên
cứu hơn là một y sĩ y khoa tổng quát, chữa bệnh. Năm 1894, Bác sĩ Yersin
đã tìm ra được vi khuẩn bệnh Dịch hạch – Peste. Từ đó trở về sau ông
sống ở Nhatrang, mất ở Nhatrang năm 1943, trong tình thương tiếc của dân
cư Việt Nam ở vùng ấy. Thật vậy, ngày nay, nếu ai về Suối Dầu, một địa
lý gần Nha Trang sẽ gặp Nhà thờ Ông Năm Yersin, cạnh mộ phần Ông Năm
quanh năm hương khói thờ phượng nghi ngút.
(Lần nữa xin nhắc nhở các hướng dẫn viên Nha du lịch, hay Sở du lịch hay
Cục du lịch… – Xin hãy đọc phát âm đúng tên của Bác sĩ Yersin ! Ông
sanh ở Thụy sĩ, quốc tịch Pháp, suốt đời ông phục vụ ở Việt Nam, ông là
người Pháp nên không thể phát âm Yẹt Xinh, như Pu Tinh, hay Ga Ga Rinh,
Ma ri Linh như âm Mỹ hay âm Nga được ! Và cũng ráng học rõ tiểu sử của
Ông Năm (như số 5 chứ không phải Nam nhé) Và mặc dù từ Năm nghe rất quê
mùa, nhưng đấy là tiếng gọi thân thương cũng những người xưa ngưởng mộ
Ông Năm và nay thờ phượng Ông Năm. Và cũng nhắc một lần nữa khi nói đúng
sự thật, là kính trọng khách du lịch, khi kể một đoạn di tích, một đoạn
lịch sử thật là kính trọng lịch sử và di tích của đất nước mình đấy !)
Năm 1885, sanh viên Y khoa Alexandre Yersin đến đất Pháp, Ngài nhập nội
trú – interne des hôpitaux vào Tổng Y viện Hôtel-Dieu, tiếp tục ngành y
khoa với Giáo sư Y Khoa, Bác sĩ Cornil. Trong một buổi phẩu thuật,
Yersin bị thương nơi bàn tay. Tai nạn nầy thay đổi quyết định và hướng
đi của cậu sanh viên nầy !
Nhà Bác học Bác sĩ Émile Roux nhìn thấy nơi cậu sanh viên nầy, dưới cái
vẻ rụt rè, nhút nhát có một nghị lực phi thường và một đam mê về nghiên
cứu. Vốn là một y sĩ – médecin, nhưng chuyên ngành về vi khuẩn học –
bactériologiste và kháng sanh học – immunologiste – bèn kéo Yersin về
làm phụ tá nghiên cứu sanh cho cơ sở thí nghiệm của ông.
Pierre Paul Émile Roux người Pháp sanh ngày 17 /12/1853 tại Confolens
(gần nhà người viết) mất tại Paris năm 1933, là một cộng sự viên đắc lực
với Louis Pasteur (1822-1895) và cũng là người cùng sáng lập các Viện
Pasteur. Émile Roux là người phát mình thuốc chủng ngừa – vaccin chống
bệnh Yết hầu -Diphtérie, chữa trừ hẳn con bệnh nầy (cùng người phụ tá là
Yersin).
Yersin trình luận án Tiến sĩ Y khoa năm 1888, luận án dưới sự dẫn dắt
với Bác học Vi Khuẩn Học người Đức Robert Koch. Năm sau, ngài về lại
Paris làm việc với Émile Roux nghiên cứu về bệnh Lao phổi và bệnh Yết
hầu-Diphtérie. Năm 1889, Yersin là chuyên viên hạng nhứt ở Viện Pasteur.
Năm ấy ngài nhập quốc tịch Pháp.
Năm 1890, chán cảnh văn phòng và phòng thí ngiệm, Ngài tình nguyện đi
phục vụ hành chánh thuộc địa. Tháng 9 năm ấy, Alexandre Yersin đến Đông
dương, phục vụ trên một thương thuyền của Hảng Massageries Maritimes
trong vai trò Bác sĩ Hàng Hải. Thoạt đầu trên tuyến Saigon Manille. Sau
đó Sàigòn Hải Phòng ! Đây là định mệnh.
2/ Alexandre Yersin, Nhà Thám Hiểm :
Và Bác sĩ Yersin « mê » Đông dương ngay. Năm 1891, Ông xin phép Hảng
Messageries Maritimes cho ông nghỉ dài hạn để « thám hiểm » Đông dương.
Ba lần, ba cuộc hành trình thám hiểm thăm dò những rừng Việt Nam. Xuyên
rừng, lội suối, ông lục lạo, biên chép và xoay quanh một địa lý biến
thành nơi ông yêu quý nhứt : vùng Nha Trang.
Với sự đở đầu của Pasteur, ông được nhận vào phái đoàn đi thám hiểm vùng
từ ven biển miền Trung đến cửa sông Cửu Long. Thành công của đoàn nầy
được nhập vào kết quả của hai đoàn thám hiểm địa lý Nam Việt Nam là đoàn
của Doudart de Lagrée và đoàn của Francis Garnier của thời 1860, và cả
sau nầy của thời mới hơn với phái đoàn Pavie để hoàn chỉnh việc hiểu
biết và khảo sát địa dư Việt Nam.
Cũng trong cuộc thám hiểm nầy, Yersin đã tìm ra địa lý một vùng có một
không khí trong lành tươi mát như nước Thụy sĩ quê nhà của Ông: Bình
nguyên Langbian. Với cái nhìn thực tiển của một nhà khoa học, ông chấm
ngay tọa độ của một vùng để lập ra một nơi nghỉ mát cho các công chức
hành chánh thuộc địa bị khó khăn về cái nóng nhiệt đới dưới đồng bằng
lên nghỉ mát. Và ông đề nghị với Toàn Quyền lúc bấy giờ là Paul Doumer
hãy thành lập ra thành phố nghỉ mát ấy.
Thành phố Đà Lạt. Nơi nghỉ mát của toàn bộ quan chức hành chánh Pháp
thuộc địa và sau nầy của toàn bộ người Việt Nam miệt đồng bằng của xứ
nhiệt đới ra đời.
Lycée Yersin. Kiến trúc trường trung học Lycée Yersin với cái tháp cao
được khánh thành năm 1927. Công trình do kiến trúc sư Paul Moncet. Kiến
trúc toàn bộ bằng gạch đỏ -briques nhập từ Pháp, mái bằng đá
đen-ardoises cũng nhập từ Pháp (Mái về sau năm1950 được lợp lại bằng
ngói đỏ Việt Nam). Toàn bộ căn nhà chánh cao ba từng với 24 phòng. Chiều
cao với tháp chuông là 54 thước. Toàn bộ kiến trúc hình cánh cung. Tháp
chuông có cả một đồng hồ. Năm 1954, khi chúng tôi nhập nội trú học lớp
6ème (Đệ thất Việt Nam), đồng hồ đã ngưng chạy rồi. Công trình được Hội
kiến trúc Sư Thế Giới Quốc tế – the World Association of Architects nhìn
nhận là một trong 1000 kỳ công của thế kỷ 20. Năm 1935, ngày 10 tháng
Năm, Trường Trung học Yersin chánh thức được đặt tên Lycée Yersin do
chính Bác sĩ Yersin đặt tên dưới sự chủ tọa của Toàn Quyền Jules Brévié.
3/ Alexandre Yersin Nhà Bác Học :
Năm 1894, Yersin bỏ hẳn thú thám hiểm. Đồng thời, một cơn dịch đang tràn từ Mông Cổ qua phía Nam xứ Tàu và đã đến Hong Kong. Chánh phủ Pháp và Viện Pasteur bèn phái Yersin qua, phải làm sao nghiên cứu lý do và cố chặn cơn sóng dịch hạnh đang làm chết 100 ngàn người.
Từ ngày 12 đến ngày 15 tháng sáu : Yersin đến Hong Kong với một ít phụ
tùng nghiên cứu rất sơ sài, lấy vội ở một phòng thí nghiệm về vi khuẩn
học của bệnh viện quân y Sài gòn (Nhà thương Grall sau nầy).
17 đến 19 tháng 6 : Giải phẩu liên tục các tử thi người bệnh để tìm hiểu
: không kết quả. Bèn quyết định dựng một căn phòng phụ cạnh, độc lập
hẳn, với Nhà thương Hong Kong để dễ dàng ra vào tự do nghiên cứu. Ông
quan sát, thấy nhóm cộng đồng người Âu không bị bệnh dịch hạch nhiều.
Tại Sao ? Do đâu ? Do người Âu sống trong một tình trạng đầy đủ vệ sinh
hơn người Tàu ?
20 tháng 6 : Trong một tình trạng khó khăn và thiếu thốn phương tiện.
Bác sĩ Yersin đã khám phá ra vi khuẩn Dịch Hạch. Ông trích hẳn một con «
vi khuẩn lạ » trên tử thi một người lính Anh đồn trú ở Hong Kong. Đoạn
ông cấy và nuôi con vi khuẩn ấy và chích nhiểm trên các con chuột phòng
thí nghiệm. Và tìm ra vi khuẩn bệnh dịch hạch.
3 tháng 8 : Ông rời Hong Kong trở về Sài gòn. Thành công. Đã tìm ra vi
khuẩn Dịch Hạch. Gởi sang Paris đễ tạo sérum-dung dịch – chủng chích
ngừa vaccin Dịch Hạch. Từ đó, các thuốc chủng ngừa dịch đều do vi khuẩn
Yersin (Yersinia Pestis).
Ông về ngụ tại Nha Trang. Vừa xa Sài gòn ồn ào, vừa trên hải lộ đi Tàu và Ấn, hai nơi ấy vẫn là những cái nôi bệnh dịch hạch.
Năm 1895 Ông thành lập Viện Pasteur Nhatrang, và lập ở đấy phòng sản xuất dung dịch ngừa Dịch Hạch.
Năm 1896 Dịch hạch lại hoành hành Quảng Đông, bên Tàu. Ông bèn chạy qua,
chích thử loại thuốc trừ Dịch Hạch do Viện Pasteur sản xuất. Thành
công.
Viện Pasteur Nhatrang biến thành chuyên nghiệp sản xuất tất cả những
chích ngừa các bệnh nhiệt đới cho súc vật. Như Dịch Hạch của Bò (Peste
bovine). Vì cách nghiên cứu khác nhau vể bệnh dịch giữa người và giữa
bò. Ông bèn cho nhập càng loại bò giống thụy sĩ, ông cho nuôi bò sữa và
tổ chức dạy người Việt Nam uống sữa bò tươi. Đồng thời ông cũng nhập
giống gà âu châu để làm tốt giống giống gà ta.
Để kiếm tiền, thêm nguồn tài chánh cho Viện Pasteur và công trình sánh tạo y khoa. Ông nghiên thực vật. Cho nhập trồng cây cao su, nhập cấy và tạo hột giống cây Hevea bresiliensis. Ông Michelin mua giống ông, trồng đồn điền cao su mang lợi tức cho xí nghiệp bánh xe và Việt Nam sau nầy.
Được khguyến khích ông nghiên cứu cho trồng một lô loại cây kỹ nghệ. Không thành công cho lắm Nhưng ông cũng gặp hái được kết quả với cây Cinchonas – tức là quinquina để bào chế chất quinine chữa trị bệnh sốt rét. Được trồng thử trên các đồi núi ở Dran phía Tây Nam Dalat, các đồn điền Quinquina đã sản xuất được 26 ngàn tấn vỏ cây quinquina năm 1939, trước thế chiến 2 bùng nổ. Nhờ những thành công ấy ông tự túc nuôi sống những khảo cứu nghiên cứu của cơ sở ông.
Kết Luận: Ông Năm
Cuối đời (từ 1894 dến 1943), ông sống ở Nha Trang. Ông chữa bệnh miễn phí. Ông thường bào « Hoặc túi tiền hay cái sống – la bourse ou la vie » Với Ông bỏ cái bourse đi lựa chọn cái sống. Người Việt Nam trong vùng gọi ông là Ông Năm một cái trìu mến. Ông còn ham mê về thiên văn học – astronomie, về dự đoán thời tiết – prévisions métérologiques : nhờ vậy ông được tay đánh cá vùng thương ông lắm !
Ngày 1 tháng 3 năm 1943, vừa tính xong bảng dự tính thời tiết cho các bạn đánh cá trong vùng, ông mệt, nằm xuống và mất trong căn nhà nhỏ ở Nhatrang.
« Bienfaiteur et humaniste, vénéré du peuple vietnamien – Ơn Nhơn và Nhơn Nghĩa, Người Dân Việt Biết Ơn » Câu nầy được viết trên mộ Ông. Một nhà thờ được xây đề tạ ơn ông, hương khói ngày đêm suốt từ 70 năm nay không lúc nào ngưng.
Bác sĩ Alexandre Yersin để lại cho hậu thế và cho Việt Nam 55 công trình nghiên cứu cho tất cả ngành nghề: Y khoa, thú y, thực vật, nhơn chủng học, địa dư, thiên văn, còn thêm về truyền tin – radiophonie vì suốt đời Alexandre Yersin, ông tò mò, học hỏi, tìm kiếm, nghiên cứu. Năm cuối cùng trước khi mất ông quyết định học lại Cổ ngữ Hy lạp để dịch lại Thánh Kinh La Bible.
Cám Ơn Thầy ? Cám Ơn Ông Năm !
Hồi Nhơn Sơn Lập Thu Bính Thìn.
TS Phan Văn Song
Cư dân Đà Lạt 1951-1961 (Thiếu Sinh Quân 54-Lycée Yersin 61)
Alexandre Emile Jean Yersin
Born
(1863-09-22)22 September 1863
Aubonne, Vaud, Switzerland
Died
1 March 1943(1943-03-01) (aged 79)
Nha Trang, Annam, French Indochina
Nationality
Swiss and French
Fields
Bacteriologist
Institutions
École Normale Supérieure, Institut Pasteur
Known for
Yersinia pestis
Influences
Kitasato Shibasaburō
Notable awards
Leconte Prize (1927)
Alexandre Emile Jean Yersin (22 September 1863 – 1 March 1943) was a Swiss and naturalized French physician and bacteriologist. He is remembered as the discoverer of the bacillus responsible for the bubonic plague or pest, which was later named in his honour (Yersinia pestis).
THI CA TRÀO PHÚNG HIỆN ĐẠI
Khi Gà Mái Gáy
Giống gà mái trời sinh không biết gáy
Bỗng om sòm cất tiếng ó ò o
Chuyện xảy ra nơi nước Vẹm triều Hồ
Khiến toàn thể thần dân đều kinh hãi
Xứ Bến Tre có con gà khờ dại
Chuyên cụp đuôi phục vụ đám trống cồ
Có biết gì ngoài bợ dái bưng bô
Và đưa đít đợi gà tồ xả nhớt
Nhưng từ khi được đảng Hồ phong chức
Trong cái chuồng cai quản đám heo dê
Gà mái ta cũng vấy máu ăn thề
Cùng với bọn sói Quang và chó Lú
Gà cất tiếng gáy vang lừng vũ trụ:
"Đám người kia toàn một lũ dân ngu
Chuyên biểu tình đòi hỏi chuyện ruồi bu
Các ngươi đã làm gì cho đất nước?"
Thật khốn khiếp cho con gà hỗn xược!
Dám vong ơn phụ nghĩa biết bao người
Nuôi dưỡng mi và cái đảng đười ươi
Mà giở giọng dạy đời đầy ngược ngạo.
Nhưng đây cũng quả là điềm trời báo
Ngày cáo chung Cộng đảng sắp kề gần
Xui khiến con gà mái gáy vang rần
Đánh thức cả toàn dân ta vùng dậy.
Phan Huy
Sài Gòn bây giờ.
Saigon bây giờ dù mưa hay nắn
Rác ngập đầy đường xe kẹt quanh năm
SàiGòn bây giờ ăn xin khắp lối
Quán nhậu lan tràn hạnh phúc tối tăm
Chỉ biết đến tiền tình người không có
Chân ngắn chân dài tìm cách lừa nhau
Ngậm đắng nuốt cay đổi tình thay bạn
Tan nát gia đình nuốt hận niềm đau
SàiGòn bây giờ bụi ơi là bụi
Cái nóng nung người da thịt mồ hôi
SàiGòn bây giờ cướp ngày hết ý
Tích tắc một giây tấm lắc bay rồi .
SàiGòn bây giờ khói xe mù mịt
Nghẹt thở tim gan phèo phổi mệt nhoài
SàiGòn bây giờ kẹt xe không ngớt
Đâu dám qua đường ngại chết banh thây
SàiGòn bây giờ suốt ngày ăn nhậu
Đĩ điếm đầy đường chèo kéo người qua
SàiGòn bây giờ khắp nơi đồ giả
Giả vật giả người giả cả tình xa
SàiGòn bây giờ cường hào ác bá
Tham nhũng vòi tiền mọi thứ trao tay
Tình người tan nhanh đồng tiền trước đã
SàiGòn bây giờ đạo đức đã bay .
Thực phẩm ngập đầy tràn lan hoá chất
Tráo trở lọc lừa giết cả Mẹ Cha
SàiGòn bây giờ dù mưa hay nắng
Cắt xéo lọc lừa xẻ thịt banh da .
SàiGòn bây giờ chỉ toàn người Bắc
Nắm giữ quyền hành to nhỏ cơ quan
Khắp cả phố phường âm thanh the thé
Một lũ ngu si cuồng sắt đầy đàng
SàiGòn bây giờ tang thương khiếp quá
Bệnh viện một giường năm bảy người chen
Bác sỹ y công đua nhau móc túi
Tán tận lương tâm một lũ ươn hèn
SàiGòn bây giờ Đài Loan kiếm vợ
Những gái trần truồng để lựa tự nhiên
Văn hoá thuần phong nát tan hết cả
Một đám côn đồ một xã hội điên .
.SàiGòn bây giờ trăm phương ngàn kế
Móc ngoặc phong bì tham nhũng mánh mung
Tai nạn giao thông lăn đùng ra chết
Vô cảm làm ngơ văn hoá điên khùng .
SàiGòn bây giờ nhà cao cửa rộng
Của đám cường quyền vơ vét người dân
Khóc lóc kêu oan biểu tình khắp lối
Sắt máu côn đồ đàn áp thẳng tay .
SàiGòn bây giờ ôi thôi hết biết
Còn nữa ta đâu Hòn NGọc Viễn Đông
Tan nát niềm tin lòng dân căm phẫn
Mong muốn có ngày xoá sạch cho xong
SàiGòn còn nhớ hay quên
Từng đêm ray rức cạnh bên đoạ đày
Hỡi người còn nhớ chăng thay
SàiGòn năm cũ tháng ngày yêu thương .
ÁO LỤA HÀ ĐÔNG
NGUYÊN SA
NGUYÊN SA
Nắng Saì gòn anh đi mà cjhợt mát.
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đômng
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bay vội vã vào trong hồn mở cửa
Gặp một bữa, anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỹ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu
Em không nói, đã nghe từng giai điệu
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng, em vào thơ diễm tuyệt
Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
Để anh giận, mắt anh nhìn vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi, sám hối chạy trên môi
Những tháng ngày trên vai buồn bỗng nặng
Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Ðông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng
Nguyên Sa
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bay vội vã vào trong hồn mở cửa
Gặp một bữa, anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỹ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu
Em không nói, đã nghe từng giai điệu
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng, em vào thơ diễm tuyệt
Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
Để anh giận, mắt anh nhìn vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi, sám hối chạy trên môi
Những tháng ngày trên vai buồn bỗng nặng
Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Ðông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng
Nguyên Sa
Forward Send Date: August 27, 2016.
Nắng Sài gòn anh đi mà lạnh ngắt
Bởi vì em sinh quán taị Hà Ðông
Bao lần anh khiếp hãi sợ vô cùng
Đây trên mặt vẫn còn nguyên vết sẹo !
Cầm khúc cây dàì lắm để đe anh
Anh kinh hồn vội vã né lung tung
Chờ sơ hở phóng ra đường dông tuốt.
Gặp một bữa, anh đã rầu một bữa
Gặp hai hôm thành rầu rĩ cả tâm hồn
Bao lâu rồi ăn uống chẳng thấy ngon
Và đôi mắt mơ màng đang bầm tím !
Em chưa hét đã vang lừng khắp xóm
Em chưa gầm mà đã động rừng xanh
Bao lần anh toan tính muốn làm lành
Lòng run sợ làm sao anh dám noí
Em thích đánh thích thoi anh vẫn biết
Lòng chợt lo chợt sợ chẳng vì đâu
Đôi khi em còn hăm dọa thiến thằng cu
Để anh lạy mặt xanh như tàu lá
Lúc em đánh, anh chỉ nhìn lấm lét
Giận điên lên nhưng nói chẳng nên lời
Em đi rồi, ôi khoái quá sướng mê tơi!
Những tháng ngày đời anh thôi bầm dập
Em ở đâu bên nầy hay bên nớ
Hởi người em sinh quán ở Hà Ðông
Anh vẫn run và sợ hãi vô cùng
Giữ hộ anh một chuyện tình khiếp đãm
Nguyên Sẹo
Nắng Ca li tôi đi mà thấy ấm
Bao cắn cấu vẫn còn yên trong trí
Tôi vẫn nhớ ai ngồi bên cấu chí
Và ngày sao dài thế mẹ cha ơi
Đau từng cơn mà không dám kêu ai
Cũng chẵng dám chạy ra khỏi cửa
Tha một bữa là mừng một bữa
Tha hai hôm là tưởng tới thiên đường
Vết sẹo lành ai cấu lại thành non
Xoa thêm muối chỉ còn quên tí ớt
Ai cấu véo nhịp nhàng như giai điệu
Ai véo von mà đau tới trời xanh
Ai trông lên cầu xin Chúa thương tình
Cho con thoát sư tử, con xin Chúa
Ai chợt dữ chợt ngoan tôi vẫn biết
Sau cơn mưa trời lại sáng vậy thôi
Ôi vết thương sao chẳng chịu lành ngay
Để chào đón cho cái gì mơi mới
Để tôi im vì có ai than thở
Thú đau thương làm sao nói thành lời
Ai đi rồi mà chẳng mất cái chi
Thú đau thương xem ra cũng không nặng
Ai đâu đó hỡi mãnh sư cỡ bự
Nhớ đừng quên có sư tử Hà Đông
Nghĩ mà run chắc cũng sợ tới già
Xin cầu cầu chứng tại tòa danh sư tử.
Bao cắn cấu vẫn còn yên trong trí
Tôi vẫn nhớ ai ngồi bên cấu chí
Và ngày sao dài thế mẹ cha ơi
Đau từng cơn mà không dám kêu ai
Cũng chẵng dám chạy ra khỏi cửa
Tha một bữa là mừng một bữa
Tha hai hôm là tưởng tới thiên đường
Vết sẹo lành ai cấu lại thành non
Xoa thêm muối chỉ còn quên tí ớt
Ai cấu véo nhịp nhàng như giai điệu
Ai véo von mà đau tới trời xanh
Ai trông lên cầu xin Chúa thương tình
Cho con thoát sư tử, con xin Chúa
Ai chợt dữ chợt ngoan tôi vẫn biết
Sau cơn mưa trời lại sáng vậy thôi
Ôi vết thương sao chẳng chịu lành ngay
Để chào đón cho cái gì mơi mới
Để tôi im vì có ai than thở
Thú đau thương làm sao nói thành lời
Ai đi rồi mà chẳng mất cái chi
Thú đau thương xem ra cũng không nặng
Ai đâu đó hỡi mãnh sư cỡ bự
Nhớ đừng quên có sư tử Hà Đông
Nghĩ mà run chắc cũng sợ tới già
Xin cầu cầu chứng tại tòa danh sư tử.
HALLOWEEN
Người Việt hòa vui trong lễ hội Halloween tại Mỹ
Cập nhật lúc 01-11-2015 04:29:34 (GMT+1)
Người Việt cùng bạn bè Mỹ phấn khởi đón lễ hội hóa trang tại Los Angeles, Hoa Kỳ. |
Những ngày này, khắp các cửa hàng ở thành phố Los Angeles, Hoa Kỳ đều
nhộn nhịp và bày bán các loại trang phục truyền thống cho lễ hội
Halloween. Đối với tôi và cộng đồng người Việt đang định cư tại thành
phố cũng hòa trong không khí xốn xang đón ngày hội độc đáo này.
Theo chia sẻ của một số vị cao niên tại khu tôi ở thành phố Los Angeles, Hoa Kỳ, nguồn gốc của lễ hội Halloween -
ngày hội hoá trang cũng chỉ được người ta kể lại, rồi truyền miệng với
nhau cho đến ngày nay. Chuyện kể rằng: “Vào ngày này những hồn ma vất
vưởng đã chết sẽ trở lại trần thế tìm một người nào đó nhập xác để còn
tiếp tục được tồn tại sau khi chết. Thế nhưng người dương thế thì lại
không muốn bị ma bắt hồn nên đến tối ngày 31/10 họ tắt đèn, tắt bếp lửa
để cho nhà cửa lạnh lẽo như cõi âm. Họ còn mặc quần áo giả trang cho lẫn
lộn với đám ma quỉ và khua động khắp xóm làng để đuổi tà ma”. Cũng vì
thế mà, bên cạnh các trang phục tương đối dễ nhìn còn có những người rơm
“mặt quỷ” trông đến phát sợ được mọi người mua về để dán trước cửa nhà.
Những ngày đầu đặt chân đến Los Angeles, tôi cũng rất sợ ngày hội hoá
trang này, bởi những trang phục cùng những gương mặt được trang điểm
theo kiểu kỳ quái, rùng rợn nhất. Những năm gần đây, lễ hội Halloween đã
có nhiều thay đổi, trở thành ngày hội của mọi người, nhất là giới trẻ.
Hoà cùng không khí náo nhiệt của lễ hội, tôi cùng gia đình đã chuẩn bị
thật tốt ngày hội độc đáo này, trong đó có phần thi hoá trang “ma quỷ”.
Ngày hội cũng là dịp để cho bọn trẻ được người lớn dẫn đi xin kẹo ở một
số nhà, tiếng cười, tiếng nói xôn xao náo nhiệt. Nhiều bạn trẻ cùng nhau
đến địa điểm tổ chức để tham dự lễ hội hoá trang mang đầy màu sắc kinh
dị, ma quái.
Trước đây, khi còn sống ở quê nhà tỉnh Vĩnh Long, tôi chưa từng nghe nói
đến ngày lễ Halloween. Sau này, khi đã định cư và sống tại Los Angeles,
Hoa Kỳ, mọi thứ sinh hoạt đối với chúng tôi dường như thay đổi hẳn.
Cuộc sống nơi đây tất bật với công việc mưu sinh và cả các lễ hội được
tổ chức thường niên vào mùa đông, trong đó có ngày lễ Hallowen độc đáo.
Nhớ những ngày đầu đặt chân đến Mỹ, mọi thứ và sinh hoạt đều xa lạ, rồi
được cộng đồng bà con người Việt giúp đỡ nên lâu ngày cũng thành quen.
Lễ hội hoá trang được xem là phong tục phổ biến nhất trong mùa Halloween
ở Mỹ. Gần đây, lễ hội truyền thống này đã được lan toả ở khắp các quốc
gia trên thế giới. Tại Việt Nam, không khí lễ hội này cùng đã có ở các
thành phố lớn, được biết giới trẻ cũng rất thích và tổ chức nhiều trò
vui chơi trong đêm Halloween.
Đối với tôi, lễ hội Hallween tại Mỹ có
ý nghĩa nhân văn rất lớn, con người không những phải tự thân đấu tranh
với bản chất xấu tốt đan xen, mà còn phải đấu tranh với những mặt tiêu
cực xã hội, đó là “những bóng ma” trong cuộc sống để hướng đến những
giá trị đích thực của cuộc sống. Và quan trọng hơn hết Hallween cũng là
một dịp để cộng đồng người Việt – những người con sinh sống ở nơi xa quê
hương hòa chung niềm vui với cư dân nơi bản địa.
Tác giả trong trang phục cho lễ hội hoá trang tại Los Angeles, Hoa Kỳ.
Trẻ em thích thú trong trang phục Hallwee ngộ nghĩnh. (ảnh: Thảo Lê)
Nguồn: Thảo Lê/ Danviet
Thây ma gây sốc trên đường phố
Những thây ma bước đi trên đường với hóa trang rùng rợn là một phần không thể thiếu của lễ hội Halloween ở Canada.
> Trẻ thơ hóa trang thành phù thủy trong công viên
ShocktoberFest (Shock October festival - Lễ hội Gây sốc) hay Zombie Walk
( Xác chết biết đi) là một trong những sự kiện của lễ hội Halloween ở
Canada, được tổ chức thường niên vào cuối tháng 10 để gây quỹ giúp người
nghèo. Lễ ShocktoberFest năm nay được tổ chức ngày 27/10 tại thủ đô
Ottawa.
ShocktoberFest năm nay có hơn 2000 người tham dự. Họ hóa trang thành những thây ma đa dạng và diễu hành trên đường phố
|
Cô gái hóa trang thành quỷ Dracula
|
Thây ma sẵn sàng dọa những ai đến gần
|
Hai cô gái dễ thương trong bộ dạng thây ma trên đường phố
|
Shocktober lần đầu tiên được tổ chức ở Willow Glen Park, PennySylvania, năm 1990. Rồi nhanh chóng lan rộng ra các thành phố khác của nước Mỹ, Canada và nhiều nước khác. Nó trở thành một phong tục không thể thiếu của lễ hội Halloween. |
Nụ cười ma quái
|
NẠN TRỘM CHÓ TẠI VIỆT NAM
Số phận những kẻ trộm chó Việt (I) : Tôi đã bị giết chỉ vì "là thằng trộm chó" như thế nào?
THỨ HAI, 11/04/2016 15:08:00 | TIN 24H
Vntinnhanh.vn - Khi họ còn đang bàn thảo về cách xử lý Phong, có ai
đó đã dội xăng và châm lửa thiêu gã. Khói độc bốc lên từ bộ quần áo đang
bùng cháy đã khiến Phong bất tỉnh, trước khi thân thể gã bị thiêu ra
tro tàn. Cảnh sát đã gọi điện cho mẹ Phong trong buổi sáng tiếp theo để
nhận diện thi thể con chị.
Lời tòa soạn Vntinnhanh: Nạn trộm chó ở Việt Nam và các màn trả đũa chết chóc của các cộng đồng dân cư bị mất chó là điều đã được báo chí trong nước phản ánh nhiều. Tuy nhiên vấn đề này ít khi xuất hiện trên báo chí nước ngoài và một bài viết đặc sắc như của tác giả Calvin Godfrey viết cho trang Roads & Kingdoms lại càng hiếm.
Đây không chỉ là câu chuyện về những kẻ trộm chó, mà còn là câu chuyện về nhân tính, về những lựa chọn hành động của chúng ta khi đứng trước điều gì đó chúng ta căm ghét. Hy vọng quý độc giả sẽ có một cái nhìn sâu hơn về vấn đề này, để thấy rằng phía sau một kẻ trộm chó bị đánh chết, có nhiều uẩn khúc và câu chuyện có thể khiến chúng ta phải nhìn và suy ngẫm rất nhiều về những gì đang diễn ra. Vntinnhanh xin giới thiệu với độc giả loạt bài viết vô cùng chân thực này.
Số phận những kẻ trộm chó Việt (II): Lần thoát chết rùng rợn, và ngựa quen đường cũ
Gã trộm chó
Không ai biết rằng Nguyễn Đình Phong rời khỏi căn nhà mái bằng của anh ta ở tỉnh Nghệ An vào lúc mấy giờ. Gã trai 27 tuổi gầy nhẳng và nghiện heroin nặng này đã vét sạch mọi của cải trong nhà để thỏa mãn nhu cầu hút hít.
Khi không còn lấy thêm được gì nữa, gã lắp biển số giả vào chiếc xe của mình, cầm một cây gậy có gắn thòng lọng và bắt đầu chuyến đi săn. Dọc theo hai bên con đường Phong chạy xe qua, hàng quán nằm san sát, bán đủ thứ từ bia tới vé máy bay.
Nhưng khi phóng xe trên đường, Phong chỉ quan tâm tới các quán thịt chó. Đằng sau các hàng rào tre của các quán này, những kẻ như Phong có thể dành cả đêm thưởng thức rượu gạo và thịt chó sẫm màu bày trong đĩa, cùng với rau sống, sả và mắm tôm dậy mùi.
Đêm đó, Phong hy vọng sẽ kiếm nhanh số tiền chừng 400.000 đồng. Tất cả những gì gã cần chỉ là một con chó. Gã rẽ vào một con đường lầy lội, chạy xuyên qua các cánh đồng lúa vẫn còn đầy những ngôi mộ cổ.
Dọc đường, Phong đã đón một người khác biết đường vòng tránh điểm kiểm tra do dân làng dựng nên để ngăn không cho những kẻ như gã vào làng. Cả hai đi tới làng Hưng Đông, ở cách nhà Phong hơn 1km, lúc đó hoàn toàn chìm trong bóng tối.
Kẻ đi cùng Phong cầm lái, tắt đèn pha rồi để tiếng nổ bùng bục của động
cơ khiến những con chó tỉnh giấc. Chúng bắt đầu thi nhau sủa và hú
lên. Phong căng mắt nhìn vào bóng đêm và rồi nhanh tay dùng thòng lọng
tóm lấy con chó đầu tiên chạy về phía hai gã.
Chiếc xe máy rú ga chồm lên và Phong cảm thấy khoảnh khắc con mồi của mình gãy cổ, cái xác nó bị kéo lê theo chiếc xe, nảy tưng tưng trên con đường gồ ghề. Phong kéo xác con chó bỏ vào một bao tải và khi đó, gã tưởng như phi vụ đã thành công.
Đột nhiên cả hai dừng lại giữa đường, khi thấy một nhóm dân làng xuất hiện từ xa. Kẻ đi cùng Phong hoảng sợ nhảy khỏi xe chạy trốn, để lại Phong đang ôm con mồi đã chết và chiếc gậy bắt chó.
Phong sợ cứng người, nhưng chẳng thể làm gì trước đám đông tức giận, đã nhanh chóng tung những cú đấm đạp liên tiếp vào người gã. Những tên trộm đã câu chó từ ngôi làng này trong nhiều tháng và Phong là kẻ đầu tiên mà họ tóm được.
Sau này mẹ Phong mới biết rằng lời van xin tha mạng của con bà đã khiến cả ngôi làng tỉnh giấc. Một số nhân chứng cho biết họ đã ở trong nhà, trong khi số khác ra đường để tham gia màn đánh hội đồng nhằm vào Phong.
Đã có lúc trong cơn điên, người ta cầm cả cái cào cỏ đâm thẳng vào bộ ngực xương xẩu của Phong. Trước khi mặt trời lên, đám đông kéo Phong, lúc này đã bị đánh tới sống dở chết dở, tới tòa nhà Ủy ban nhân dân và trói gã vào chiếc xe máy.
Khi họ còn đang bàn thảo về cách xử lý Phong, có ai đó đã dội xăng và châm lửa thiêu gã. Khói độc bốc lên từ bộ quần áo đang bùng cháy đã khiến Phong bất tỉnh, trước khi thân thể gã bị thiêu ra tro tàn. Cảnh sát đã gọi điện cho mẹ Phong trong buổi sáng tiếp theo để nhận diện thi thể con chị.
“May mắn thay, tôi đã nhận ra đôi tay và gương mặt con”, bà nói với tôi khi chúng tôi gặp nhau cách đây 2 năm. Lần gặp gỡ ấy, Tết Âm lịch vừa trôi qua nhưng ngôi nhà hoàn toàn chẳng có chút không khí đón xuân nào, như một lọ hoa hay mâm ngũ quả.
Nhà chức trách đã trao lại cho bà di cốt của Phong để bà có thể chôn cất con tử tế. Nhưng khi bà tới ngôi làng để xem ai đã giết Phong thì không nhiều người thể hiện thiện chí muốn giúp đỡ. “Họ coi con tôi như cỏ rác. Chẳng có ai thương xót cả”, bà nói.
Phong chết đi, gia đình gã cũng nhanh chóng xuống dốc. Cha gã qua đời không lâu sau cái chết của con. Rồi vợ gã bỏ lại những đứa con cho bà mẹ già đã 60 tuổi, để đi lấy chồng mới. Cảnh sát thì không bắt được ai trong vụ sát hại Phong.
Có lẽ vì thế mà trong cuộc gặp với tôi, bà nói rằng vẫn muốn biết ai đã giết con mình. “Tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Hãy đi hỏi họ đi”, bà nói với tôi, đôi mắt ngầu đỏ đầy đau khổ. Nhận sự ủy thác đó, tôi đi vào ngôi làng, băn khoăn không biết sẽ hỏi han người dân ở đây ra sao về vụ giết Phong.
Làng Hưng Đông không giống như nơi có thể diễn ra một vụ hành hình, như chuyện xảy ra với Phong. Nơi đây chỉ có những ngôi nhà một tầng và các cửa hàng lầm bụi như nhiều miền quê khác ở Việt Nam.
Vị cựu chiến binh ngồi ở bàn đón tiếp tại tòa nhà Ủy ban nhân dân của làng giơ tay ra bắt rồi nở một nụ cười tươi rói, chẳng hé lộ bất kỳ điều gì với tôi. Không có thư giới thiệu chính thức từ tờ báo của tôi và từ Bộ Ngoại giao, ông không thể nói về vụ giết Phong.
“Đi nhậu thịt chó nhé?” tôi gạ gẫm, nhằm tìm hiểu câu chuyện theo lối không chính thức. Ông gật đầu đồng ý, nhưng cho biết không phải hôm nay, vì còn bận. Ngày mai ông cũng bận và ngày kia nữa.
Trong cuộc trò chuyện đầy những khoảng lặng kéo dài, ông phát tín hiệu cho tôi biết rằng bản thân sẽ không bao giờ rảnh rỗi để tiếp chuyện tôi.
Nhưng khi tôi hỏi rằng có ai trong số họ tham gia vào vụ giết người như thế, tất cả đều đứng lên, ra xe máy đi thẳng mà không trả lời.
Cuộc sống. Công lý. Thịt chó.
Tôi dọn tới Việt Nam sống từ tháng 6/2010 để làm công việc biên tập cho một tờ báo thuộc sở hữu của nhà nước. Tháng tiếp theo thì Phong chết và các thông tin ngắn ngủi, rời rạc về vụ sát hại anh đã khiến tôi băn khoăn về bản chất cuộc sống, công lý và vấn đề thịt chó ở Việt Nam.
Những câu hỏi đó càng thôi thúc tôi hơn khi nhiều tin vắn cho biết về những cái chết liên quan tới hoạt động trộm chó đã lan rộng ra khắp các ngõ ngách. Tôi đếm được tổng cộng 30 cái chết chỉ riêng trong các tin tức bằng tiếng Anh.
Ít người tôi gặp gỡ dường như cảm thấy xu hướng này có vấn đề. Tất cả những gì các nhân chứng vô danh và thậm chí là người tham gia (hoạt động đánh kẻ trộm chó) nói với các phóng viên là: “Những con chó giống như thành viên trong gia đình”.
Các bài viết dài hơn dần xuất hiện sau đó - những cuộc phỏng vấn đẫm nước mắt với các gia đình đau khổ và những câu chuyện nghẹt thở của các tay trộm may mắn thoát chết sau khi bị đánh. Nhưng đồng nghiệp người Việt của tôi đánh giá những câu chuyện đó chỉ mang mục đích giật gân câu khách.
Lời tòa soạn Vntinnhanh: Nạn trộm chó ở Việt Nam và các màn trả đũa chết chóc của các cộng đồng dân cư bị mất chó là điều đã được báo chí trong nước phản ánh nhiều. Tuy nhiên vấn đề này ít khi xuất hiện trên báo chí nước ngoài và một bài viết đặc sắc như của tác giả Calvin Godfrey viết cho trang Roads & Kingdoms lại càng hiếm.
Đây không chỉ là câu chuyện về những kẻ trộm chó, mà còn là câu chuyện về nhân tính, về những lựa chọn hành động của chúng ta khi đứng trước điều gì đó chúng ta căm ghét. Hy vọng quý độc giả sẽ có một cái nhìn sâu hơn về vấn đề này, để thấy rằng phía sau một kẻ trộm chó bị đánh chết, có nhiều uẩn khúc và câu chuyện có thể khiến chúng ta phải nhìn và suy ngẫm rất nhiều về những gì đang diễn ra. Vntinnhanh xin giới thiệu với độc giả loạt bài viết vô cùng chân thực này.
Xác Nguyễn Đình Phong cháy đen bên chiếc xe máy hồi năm 2010.
Xem thêmSố phận những kẻ trộm chó Việt (II): Lần thoát chết rùng rợn, và ngựa quen đường cũ
Gã trộm chó
Không ai biết rằng Nguyễn Đình Phong rời khỏi căn nhà mái bằng của anh ta ở tỉnh Nghệ An vào lúc mấy giờ. Gã trai 27 tuổi gầy nhẳng và nghiện heroin nặng này đã vét sạch mọi của cải trong nhà để thỏa mãn nhu cầu hút hít.
Khi không còn lấy thêm được gì nữa, gã lắp biển số giả vào chiếc xe của mình, cầm một cây gậy có gắn thòng lọng và bắt đầu chuyến đi săn. Dọc theo hai bên con đường Phong chạy xe qua, hàng quán nằm san sát, bán đủ thứ từ bia tới vé máy bay.
Nhưng khi phóng xe trên đường, Phong chỉ quan tâm tới các quán thịt chó. Đằng sau các hàng rào tre của các quán này, những kẻ như Phong có thể dành cả đêm thưởng thức rượu gạo và thịt chó sẫm màu bày trong đĩa, cùng với rau sống, sả và mắm tôm dậy mùi.
Đêm đó, Phong hy vọng sẽ kiếm nhanh số tiền chừng 400.000 đồng. Tất cả những gì gã cần chỉ là một con chó. Gã rẽ vào một con đường lầy lội, chạy xuyên qua các cánh đồng lúa vẫn còn đầy những ngôi mộ cổ.
Dọc đường, Phong đã đón một người khác biết đường vòng tránh điểm kiểm tra do dân làng dựng nên để ngăn không cho những kẻ như gã vào làng. Cả hai đi tới làng Hưng Đông, ở cách nhà Phong hơn 1km, lúc đó hoàn toàn chìm trong bóng tối.
Thủ phạm một vụ trộm chó ở Phú Thọ bị người dân đánh bất tỉnh, trói gô vào xác chó. (Ảnh: Facebook)
Chiếc xe máy rú ga chồm lên và Phong cảm thấy khoảnh khắc con mồi của mình gãy cổ, cái xác nó bị kéo lê theo chiếc xe, nảy tưng tưng trên con đường gồ ghề. Phong kéo xác con chó bỏ vào một bao tải và khi đó, gã tưởng như phi vụ đã thành công.
Đột nhiên cả hai dừng lại giữa đường, khi thấy một nhóm dân làng xuất hiện từ xa. Kẻ đi cùng Phong hoảng sợ nhảy khỏi xe chạy trốn, để lại Phong đang ôm con mồi đã chết và chiếc gậy bắt chó.
Phong sợ cứng người, nhưng chẳng thể làm gì trước đám đông tức giận, đã nhanh chóng tung những cú đấm đạp liên tiếp vào người gã. Những tên trộm đã câu chó từ ngôi làng này trong nhiều tháng và Phong là kẻ đầu tiên mà họ tóm được.
Sau này mẹ Phong mới biết rằng lời van xin tha mạng của con bà đã khiến cả ngôi làng tỉnh giấc. Một số nhân chứng cho biết họ đã ở trong nhà, trong khi số khác ra đường để tham gia màn đánh hội đồng nhằm vào Phong.
Nguyễn Đình Phong bị đốt xác đến cháy đen, gần như không thể nhận dạng.
Đã có lúc trong cơn điên, người ta cầm cả cái cào cỏ đâm thẳng vào bộ ngực xương xẩu của Phong. Trước khi mặt trời lên, đám đông kéo Phong, lúc này đã bị đánh tới sống dở chết dở, tới tòa nhà Ủy ban nhân dân và trói gã vào chiếc xe máy.
Khi họ còn đang bàn thảo về cách xử lý Phong, có ai đó đã dội xăng và châm lửa thiêu gã. Khói độc bốc lên từ bộ quần áo đang bùng cháy đã khiến Phong bất tỉnh, trước khi thân thể gã bị thiêu ra tro tàn. Cảnh sát đã gọi điện cho mẹ Phong trong buổi sáng tiếp theo để nhận diện thi thể con chị.
“May mắn thay, tôi đã nhận ra đôi tay và gương mặt con”, bà nói với tôi khi chúng tôi gặp nhau cách đây 2 năm. Lần gặp gỡ ấy, Tết Âm lịch vừa trôi qua nhưng ngôi nhà hoàn toàn chẳng có chút không khí đón xuân nào, như một lọ hoa hay mâm ngũ quả.
Nhà chức trách đã trao lại cho bà di cốt của Phong để bà có thể chôn cất con tử tế. Nhưng khi bà tới ngôi làng để xem ai đã giết Phong thì không nhiều người thể hiện thiện chí muốn giúp đỡ. “Họ coi con tôi như cỏ rác. Chẳng có ai thương xót cả”, bà nói.
Phong chết đi, gia đình gã cũng nhanh chóng xuống dốc. Cha gã qua đời không lâu sau cái chết của con. Rồi vợ gã bỏ lại những đứa con cho bà mẹ già đã 60 tuổi, để đi lấy chồng mới. Cảnh sát thì không bắt được ai trong vụ sát hại Phong.
Hai kẻ trộm chó khác bị bắt đeo xác chó trên người, quỳ lạy xin lỗi.
Có lẽ vì thế mà trong cuộc gặp với tôi, bà nói rằng vẫn muốn biết ai đã giết con mình. “Tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Hãy đi hỏi họ đi”, bà nói với tôi, đôi mắt ngầu đỏ đầy đau khổ. Nhận sự ủy thác đó, tôi đi vào ngôi làng, băn khoăn không biết sẽ hỏi han người dân ở đây ra sao về vụ giết Phong.
Làng Hưng Đông không giống như nơi có thể diễn ra một vụ hành hình, như chuyện xảy ra với Phong. Nơi đây chỉ có những ngôi nhà một tầng và các cửa hàng lầm bụi như nhiều miền quê khác ở Việt Nam.
Vị cựu chiến binh ngồi ở bàn đón tiếp tại tòa nhà Ủy ban nhân dân của làng giơ tay ra bắt rồi nở một nụ cười tươi rói, chẳng hé lộ bất kỳ điều gì với tôi. Không có thư giới thiệu chính thức từ tờ báo của tôi và từ Bộ Ngoại giao, ông không thể nói về vụ giết Phong.
“Đi nhậu thịt chó nhé?” tôi gạ gẫm, nhằm tìm hiểu câu chuyện theo lối không chính thức. Ông gật đầu đồng ý, nhưng cho biết không phải hôm nay, vì còn bận. Ngày mai ông cũng bận và ngày kia nữa.
Trong cuộc trò chuyện đầy những khoảng lặng kéo dài, ông phát tín hiệu cho tôi biết rằng bản thân sẽ không bao giờ rảnh rỗi để tiếp chuyện tôi.
Nhiều kẻ trộm chó ở Việt Nam bị đánh hội đồng, thậm chí giết chết. (Ảnh: Roads and Kingdoms)
Tại một ruộng lúa gần đó, tôi thấy một nhóm đàn ông đang hút thuốc lào
từ một chiếc điếu không được sạch sẽ cho lắm. Những người này gật đầu
xác nhận và cười khi được hỏi có phải làng của họ đã đánh chết nhiều kẻ
trộm chó.Nhưng khi tôi hỏi rằng có ai trong số họ tham gia vào vụ giết người như thế, tất cả đều đứng lên, ra xe máy đi thẳng mà không trả lời.
Cuộc sống. Công lý. Thịt chó.
Tôi dọn tới Việt Nam sống từ tháng 6/2010 để làm công việc biên tập cho một tờ báo thuộc sở hữu của nhà nước. Tháng tiếp theo thì Phong chết và các thông tin ngắn ngủi, rời rạc về vụ sát hại anh đã khiến tôi băn khoăn về bản chất cuộc sống, công lý và vấn đề thịt chó ở Việt Nam.
Những câu hỏi đó càng thôi thúc tôi hơn khi nhiều tin vắn cho biết về những cái chết liên quan tới hoạt động trộm chó đã lan rộng ra khắp các ngõ ngách. Tôi đếm được tổng cộng 30 cái chết chỉ riêng trong các tin tức bằng tiếng Anh.
Ít người tôi gặp gỡ dường như cảm thấy xu hướng này có vấn đề. Tất cả những gì các nhân chứng vô danh và thậm chí là người tham gia (hoạt động đánh kẻ trộm chó) nói với các phóng viên là: “Những con chó giống như thành viên trong gia đình”.
Các bài viết dài hơn dần xuất hiện sau đó - những cuộc phỏng vấn đẫm nước mắt với các gia đình đau khổ và những câu chuyện nghẹt thở của các tay trộm may mắn thoát chết sau khi bị đánh. Nhưng đồng nghiệp người Việt của tôi đánh giá những câu chuyện đó chỉ mang mục đích giật gân câu khách.
Thịt chó là món ăn được bán phổ biến ở Việt Nam. (Ảnh: Một thế giới)
“Chuyện xảy ra đơn giản thôi”, một người từng nói với tôi và cười. “Kẻ trộm chó bị bắt và tất cả (dân làng) lao vào đánh hắn”.
Nhưng cả hai hướng giải thích này đều có vẻ không đúng. Thi thoảng ở
Việt Nam có chuyện trai làng đánh bị thương con trai làng khác tới tán
gái làng mình, hay một tên trộm xe đạp hoặc xe máy bị đánh tới bươu đầu,
chảy máu.
Song cùng nhau đánh tới chết một ai đó vì trộm cắp không phải là điều
diễn ra phổ biến ở Việt Nam. Tôi chưa từng nghe thấy chuyện dân làng
đánh chết một người đàn ông vì tội trộm một chiếc TV hay đầu karaoke.
Và câu “những con chó giống như thành viên của gia đình” cũng không giải
thích được vì sao vẫn có rất nhiều người Việt ăn thịt chó. Nó không
giải thích được tại sao người dân sống trong một ngôi làng hiền hòa lại
sẵn sàng tước đoạt mạng sống của một người như Phong.
Nó không mang tới câu trả lời, rằng vì sao người dân một ngôi làng khác
lại chặn xe cứu thương, không cho người ta cứu một kẻ trộm chó đang hấp
hối.
Tương tự, nó không có đáp án cho các bức ảnh báo chí chụp cảnh một kẻ
trộm chó máu me khắp mình mẩy đang quỳ trước đám đông, trên cổ treo tấm
biển đề dòng chữ: “Tôi là thằng trộm chó”.
"Con ăn trộm chó. Hãy đưa con đi".
Cũng phải nhắc tới một thực tế rằng những kẻ trộm chó tấn công đám đông
bằng đủ thứ vũ khí, từ ớt bột cho tới súng điện tự chế. Vài gã còn mang
theo đao kiếm khi “hành nghề”. Sự manh động của chúng chiến dân làng
cũng lập ra các chốt kiểm soát, các đội tuần tra để chống trả và khiến
câu chuyện trở nên phức tạp hơn.
Đã có các thành viên trong những đội tuần tra chống trộm chó phải vào tù
vì đánh chết nhầm người. Thi thoảng lại có chuyện người vô tội bị đánh
thành thương vì bị nhận nhầm là kẻ trộm chó.
Tuy nhiên tất cả những chuyện này nghe có vẻ xa xôi tại tờ báo tôi làm
việc, nơi các đồng nghiệp trẻ phải khó khăn lắm mới lên án hoạt động ăn
thịt chó, cho đó là thói quen khó bỏ.
Nhưng trên bàn nhậu, họ lại rỉ tai mời gọi tới một con hẻm đầy những quán thịt chó nằm ngay bên kia đường.
Một vị quan chức kiểm dịch động vật mà tôi có dịp nói chuyện đã ước tính
sơ bộ rằng tới nửa số các con chó bị thịt tại các nhà hàng là kết quả
từ hoạt động trộm chó. Số còn lại được nuôi lớn bởi các gia đình nghèo,
trước khi bán đi để có thêm thu nhập. Ông cũng tự hào tuyên bố rằng nhà
mình không có ai ăn thịt chó.
Những phát ngôn như thế khiến người ta dễ trở nên bối rối. Sau rốt thì
có bao nhiêu người thực sự ghét việc ăn thịt chó và bao nhiêu người chỉ
trả lời theo lối ngoại giao với người nước ngoài?
Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc và một số quốc gia châu Á khác vẫn còn phổ biến ăn thịt chó.
Một chủ quán cà phê giao thiệp rộng từng nói với tôi rằng anh bỏ không
ăn thịt chó nữa vì việc đó khiến bản thân thấy có lỗi, giống như anh
đang ăn thịt con vật nuôi của người khác. Theo anh, việc ăn thịt chó
mang tới khoái cảm tội lỗi, cũng có nghĩa rằng các nhà hàng thịt chó
thường không được bắt mắt, hoành tráng cho lắm.
Thế nhưng thịt chó vẫn rất hấp dẫn người ta, giống như tranh ảnh khiêu
dâm vậy. Nghe thấy vậy, tôi biết rằng sẽ có lúc mình phải nếm thử thịt
chó.
Năm 1959, nhà văn Vũ Bằng từng nói rằng một bữa thịt chó là đủ để người
thất tình thôi nghĩ tới việc tự sát. Ông đã viết những dòng như sau về
món thịt chó:
“Người ta viện lý con chó là bạn của loài người, ăn thịt chó là mọi rợ,
thế thì tại sao con ngựa, “một chinh phục cao cả nhất của loài người” mà
người Âu Mỹ cũng đem ra “đánh chén”? Bảo là con chó ăn bẩn, thế thì con
gà, con lợn, con cá ăn uống sạch sẽ ư?
Không. Con chó là con vật để cho người ta ăn thịt. Ăn thịt chó không khác gì ăn thịt thỏ, ăn thịt nai, ăn thịt bò.
Huống chi thịt chó lại còn ngon và bổ; vì thế tôi cho rằng mặc dầu người
ta đàm tiếu thế nào đi nữa, thịt chó vẫn cứ là một món ngon bất diệt
của dân ta và tôi tin rằng: “Nước ta còn, thịt chó còn” mà văn hóa ẩm
thực của ta mai sau hay, dở là ở điểm có biết duy trì thịt chó hay không
vậy?”.
Nhiều người Việt coi thịt chó là món ăn ngon, bổ dưỡng.
Nhà văn hải ngoại Nguyen Thanh Viet cũng từng viết về việc người Việt
sang Mỹ định cư phải khổ sở che giấu thói quen ăn thịt chó với những
người Mỹ bản địa. Các nhân vật của Viet có nhiều lý do để phải giữ im
lặng.
Đã có một thời điểm, văn minh phương Tây quyết định coi những con chó là
bạn tốt nhất của con người. Những ai ủng hộ quan điểm này tin rằng
người ta nên và cần phải đối xử với những con chó theo cách của người
Mỹ. Ai làm khác sẽ bị xem như những kẻ man rợ.
Năm 2013, Joel Brinkley, một giáo sư ở trường Đại học Stanford sau kỳ đi
nghỉ tại Việt Nam đã nêu đích danh hoạt động ăn thịt chó, coi đây là
“điều ghê rợn nhất” mà bản thân từng chứng kiến. Hiệp hội sinh viên
người Việt ở trường Stanford lập tức phản ứng lại bằng tuyên bố cho rằng
hiện chỉ còn một bộ phận nhỏ người Việt vẫn ăn thịt chó.
Có một thực tế là những người Việt sống ở đô thị, có học vấn cao cũng
đối xử với vật nuôi như ở phương Tây vậy. Vì điều này, họ thường bị bắt
trộm các con chó thuần chủng và phải trả rất nhiều tiền để mua lại thú
cưng. Có cả một đội trung gian hoạt động ở Hà Nội, sẵn sàng giúp bạn tìm
lại một con chó Doberman, nếu bạn chịu chi ra 1.000 USD.
Cùng thời điểm, những con chó ở vùng nông thôn tiếp tục phục vụ chủ
trong vai trò vật nuôi ăn cơm thừa, báo động chống trộm và nhiều chức
năng khác. Chúng có giá trị không đủ cao để khiến cảnh sát phải vào
cuộc, chỉ vừa đủ để trở thành con mồi cho những kẻ săn trộm chó.
Số phận những kẻ trộm chó Việt (II): Lần thoát chết rùng rợn, và ngựa quen đường cũ
THỨ BA, 12/04/2016 09:30:00 | TIN 24H
Vntinnhanh.vn - Ở phần II của loạt bài về vấn nạn trộm chó tại Việt
Nam, tác giả Calvin Godfrey dành thời gian rong ruổi các làng quê ở miền
Trung để tận mắt nghe, thấy những câu chuyện bi hài xung quanh 2 chữ
"trộm chó", vốn đã thành nỗi ám ảnh của nhiều người dân nông thôn.
Xem thêm
Số phận trộm chó Việt (I): Tôi đã bị giết chỉ vì "là thằng trộm chó" như thế nào?
3. Lần theo nguồn gốc
Cách đây 2 năm, tôi nghỉ việc tại tờ báo ở Sài Gòn và đi vào miền Trung còn nghèo khó ở Việt Nam để xem chuyện quái quỷ gì đang diễn ra. Tôi đi theo các con đường nhỏ, bụi bặm, nối các làng quê về hướng thành phố Vinh.
Những con chó đuổi tôi khỏi lều của các tay săn trộm, của những người khai thác gỗ và các trạm kiểm lâm đơn độc, dù rằng chủ nhân của chúng thậm chí còn mời tôi vào ăn cơm, uống nước.
Sau khoảng 1 tháng di chuyển (từ Sài Gòn), tôi đã tiến vào Nghệ Tĩnh, nơi Phong và chừng nửa tá kẻ trộm chó giống gã đã thiệt mạng.
Tôi đi vào một nhà hàng thịt chó trông giống như đã đóng cửa. Một con chó già tên Nít xuất hiện ở cửa ra vào trong khi anh Hùng, chủ của nó, ngồi uống rượu trên ghế gỗ ở phía trong.
Anh nói rằng vẫn chưa thể bán thịt chó trong 2 tuần tới vì ăn thịt chó vào giai đoạn đầu tháng thường bị xem là xui xẻo. Ăn thịt chó vào cuối tháng được xem là may mắn.
Sau vài ly rượu, Hùng ưỡn lưng, hắng giọng, nói bông đùa rằng ở Việt Nam chẳng có tay trộm chó nào cả. Rồi anh không muốn bàn về chó nữa mà chỉ mời tôi hút thuốc lào và uống chè.
Buổi chiều tiếp theo, thành phố Vinh dần hiện lên trước mắt. Khi nghỉ ngơi ăn tối tại Vinh, tôi không ngừng nghĩ về Nguyễn Đức Bình, có lẽ là tay trộm chó nổi tiếng nhất ở đây.
Một buổi sáng tháng 9/2011, Bình cầm theo gậy bắt chó và nhảy lên chiếc xe máy, cùng đồng bọn đi săn mồi. Nhưng trước khi cả hai bắt được con chó nào đó, chúng đã bị dân làng tóm gọn.
Chứng kiến đồng bọn bị đánh tới mức hỏng thận, Bình suy nghĩ nhanh rồi vùng chạy vội tới ngôi nhà dân gần nhất, kề dao vào cổ một bé gái đang hoảng sợ.
Điên tiết, đám đông đòi lấy đầu Bình, trong khi nhà chức trách cố gắng bảo vệ gã. Một đội 100 người lính đã được điều tới để kiềm chế dân chúng, khi họ tìm cách phá cửa vào “xử” Bình, và thương thảo với gã để giải thoát con tin.
Cuối cùng, Bình đã đồng ý trả tự do cho bé gái để được giải cứu. Phía lực lượng an ninh đưa cho gã một túi máu heo để bôi lên người. Sau khi thuyết phục đám đông rằng họ đã đạp Bình tới chết, những người lính đưa Bình tới một đồn cảnh sát nằm cách xa ngôi làng, nơi chính quyền phạt hành chính rồi thả gã về.
Bình nhanh chóng trở lại với hoạt động trộm chó sau lần chết hụt đó. Bình tiếp tục bắt rất nhiều con chó khác và khiến thù oán tăng lên. Khi cảnh sát bắt được Bình lần cuối, họ đã thu gom nhiều chứng cứ về tội trộm cắp, đủ để tống gã vào tù và khép lại các màn trêu ngươi của gã.
4. Bà quả phụ tên Xuân
Trong buổi sáng đầu tiên ở Vinh, tôi tiến về phía Nam, ngang qua một cây cầu sắt dẫn tới ngôi nhà cổ của cụ Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều.
Trên một con đường dưới cầu là một cộng đồng nằm gần biển, nơi những kẻ trộm chó thích lui tới làm ăn, do nơi này ở gần khu chợ của thành phố, đồng thời sau khi “ăn hàng” chúng sẽ dễ lẩn trốn vào màn sương dày đặc thường xuất hiện tại đây.
Nhiều người sống ở đây đổ lỗi cho vấn nạn trộm chó lên vai những kẻ nghiện heroin ở ngôi làng gần đó. Nhưng những người ở ngôi làng kia thì nói điều ngược lại. Và tôi đã đi theo sự chỉ dẫn của họ tới một đoạn đường đầy rác nhìn ra biển.
Tôi đã biết từ các câu chuyện trên báo chí về lý do để người ta trộm chó: để trả nợ cờ bạc, trả nợ chơi game online, để ăn thịt chó với bạn bè hoặc đơn giản là kiếm tiền dễ dàng. Và không chỉ có người nghiện heroin mới trộm chó.
Cụm từ “bọn nghiện” cũng không chỉ đơn thuần nói về đối tượng này mà còn đóng vai trò một hình mẫu về những kẻ suy đồi, sẵn sàng làm những trò mà người thường còn chẳng nghĩ tới.
Khi tôi rảo bước, một người ngư dân vạm vỡ tên Vinh dần xuất hiện trong làn sương mờ. Vinh nói rằng anh đã nhìn thấy rất nhiều kẻ trộm chó. Anh thậm chí còn chứng kiến chúng ăn trộm 2 con chó ngay trước mũi mình.
Nhưng dù có vai rộng và đôi tay rất khỏe nhờ cả đời kéo lưới, Vinh chưa từng nghĩ tới việc đuổi theo những tên trộm chó. Khi được hỏi vì sao, Vinh đã chỉ tôi tới gặp bà Bùi Thị Xuân, rồi bỏ đi.
Nhờ sự chỉ dẫn của một người đàn ông lớn tuổi đi xe đạp màu đỏ, tôi đã tới được nhà bà Xuân. Chẳng có con chó nào cất tiếng sủa khi tôi bước vào phần hiên nhà đầy những chậu cây và giỏ hoa lan đang treo dưới một dây phơi quần áo. Một tấm biển hiệu đã bị rỉ sét cho tôi biết rằng bà Xuân kiếm sống nhờ cho thuê bàn ghế phục vụ đám cưới và đám ma.
Bà Xuân đi vào phòng khách tiếp tôi với một gương mặt xanh nhợt và mệt mỏi. Ngay cả ở trạng thái bình thường, miệng bà vẫn há ra và đôi mắt thì đầy sự lo âu, như thể vẫn chưa hết sốc sau khi đón tin dữ. Bà đi lấy một đống giấy tờ của tòa án phủ đầy bụi nằm phía sau chiếc TV rồi đặt chúng trên một hộp bánh quy bơ. Trước khi tôi có thể đọc chúng, bà bật khóc.
“Tôi tới tòa nhà Ủy ban nhân dân, chỉ vừa kịp lúc để thấy có người rút dao đâm gã trộm," cậu kể. Tôi chưa thấy tin tức về vụ đâm dao này xuất hiện trên báo chí nên quyết định sẽ tự tìm hiểu.
Ngôi làng nằm lọt nằm giữa các ruộng lúa xanh rì, ở cuối một con đường đầy bụi bẩn - cũng là lối vào và ra duy nhất. Tôi dành 20 phút hút thuốc lá trong một quán cà phê và lắng nghe cô chủ quán kể việc đã lấy chồng ở Sài Gòn rồi dọn về đây ra sao.
Cô tỏ ra thân thiện và tò mò trước một người nước ngoài khoái tìm hiểu về vấn đề thịt chó, cho tới khi tôi lôi vụ đánh gã trộm ra. "Anh đi mà hỏi Ủy ban nhân dân ấy," cô nói rồi đi sang phòng khác.
Rời quán, tôi chạy xe tới tòa nhà Ủy ban nhân dân. Vị Chủ tịch Ủy ban, ông Nguyễn Quốc Trung kéo tôi phòng ông. Ông yên lặng không nói gì khi tôi nói về những điều mình đã đọc và nghe thấy về các vụ giết người liên quan tới chó trong vùng.
Những từ duy nhất ông thốt ra là "ừ, ừ". Cuối cùng, khi tôi nói về vụ đâm gã trộm chó xảy ra trước trụ sở Ủy ban, ông đứng dậy, mỉm cười rồi khoanh tay tiễn tôi ra cửa. "Làm ơn đừng tin vào những câu chuyện như thế," ông nói."Có lẽ người ta chỉ đùa anh tôi."
Số phận trộm chó Việt (I): Tôi đã bị giết chỉ vì "là thằng trộm chó" như thế nào?
3. Lần theo nguồn gốc
Cách đây 2 năm, tôi nghỉ việc tại tờ báo ở Sài Gòn và đi vào miền Trung còn nghèo khó ở Việt Nam để xem chuyện quái quỷ gì đang diễn ra. Tôi đi theo các con đường nhỏ, bụi bặm, nối các làng quê về hướng thành phố Vinh.
Những con chó đuổi tôi khỏi lều của các tay săn trộm, của những người khai thác gỗ và các trạm kiểm lâm đơn độc, dù rằng chủ nhân của chúng thậm chí còn mời tôi vào ăn cơm, uống nước.
Sau khoảng 1 tháng di chuyển (từ Sài Gòn), tôi đã tiến vào Nghệ Tĩnh, nơi Phong và chừng nửa tá kẻ trộm chó giống gã đã thiệt mạng.
Tôi đi vào một nhà hàng thịt chó trông giống như đã đóng cửa. Một con chó già tên Nít xuất hiện ở cửa ra vào trong khi anh Hùng, chủ của nó, ngồi uống rượu trên ghế gỗ ở phía trong.
Anh nói rằng vẫn chưa thể bán thịt chó trong 2 tuần tới vì ăn thịt chó vào giai đoạn đầu tháng thường bị xem là xui xẻo. Ăn thịt chó vào cuối tháng được xem là may mắn.
Sau vài ly rượu, Hùng ưỡn lưng, hắng giọng, nói bông đùa rằng ở Việt Nam chẳng có tay trộm chó nào cả. Rồi anh không muốn bàn về chó nữa mà chỉ mời tôi hút thuốc lào và uống chè.
(ảnh Roads and Kingdoms)
Buổi chiều tiếp theo, thành phố Vinh dần hiện lên trước mắt. Khi nghỉ ngơi ăn tối tại Vinh, tôi không ngừng nghĩ về Nguyễn Đức Bình, có lẽ là tay trộm chó nổi tiếng nhất ở đây.
Một buổi sáng tháng 9/2011, Bình cầm theo gậy bắt chó và nhảy lên chiếc xe máy, cùng đồng bọn đi săn mồi. Nhưng trước khi cả hai bắt được con chó nào đó, chúng đã bị dân làng tóm gọn.
Chứng kiến đồng bọn bị đánh tới mức hỏng thận, Bình suy nghĩ nhanh rồi vùng chạy vội tới ngôi nhà dân gần nhất, kề dao vào cổ một bé gái đang hoảng sợ.
Điên tiết, đám đông đòi lấy đầu Bình, trong khi nhà chức trách cố gắng bảo vệ gã. Một đội 100 người lính đã được điều tới để kiềm chế dân chúng, khi họ tìm cách phá cửa vào “xử” Bình, và thương thảo với gã để giải thoát con tin.
Cuối cùng, Bình đã đồng ý trả tự do cho bé gái để được giải cứu. Phía lực lượng an ninh đưa cho gã một túi máu heo để bôi lên người. Sau khi thuyết phục đám đông rằng họ đã đạp Bình tới chết, những người lính đưa Bình tới một đồn cảnh sát nằm cách xa ngôi làng, nơi chính quyền phạt hành chính rồi thả gã về.
Bình nhanh chóng trở lại với hoạt động trộm chó sau lần chết hụt đó. Bình tiếp tục bắt rất nhiều con chó khác và khiến thù oán tăng lên. Khi cảnh sát bắt được Bình lần cuối, họ đã thu gom nhiều chứng cứ về tội trộm cắp, đủ để tống gã vào tù và khép lại các màn trêu ngươi của gã.
4. Bà quả phụ tên Xuân
Trong buổi sáng đầu tiên ở Vinh, tôi tiến về phía Nam, ngang qua một cây cầu sắt dẫn tới ngôi nhà cổ của cụ Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều.
Trên một con đường dưới cầu là một cộng đồng nằm gần biển, nơi những kẻ trộm chó thích lui tới làm ăn, do nơi này ở gần khu chợ của thành phố, đồng thời sau khi “ăn hàng” chúng sẽ dễ lẩn trốn vào màn sương dày đặc thường xuất hiện tại đây.
Nhiều người sống ở đây đổ lỗi cho vấn nạn trộm chó lên vai những kẻ nghiện heroin ở ngôi làng gần đó. Nhưng những người ở ngôi làng kia thì nói điều ngược lại. Và tôi đã đi theo sự chỉ dẫn của họ tới một đoạn đường đầy rác nhìn ra biển.
Tôi đã biết từ các câu chuyện trên báo chí về lý do để người ta trộm chó: để trả nợ cờ bạc, trả nợ chơi game online, để ăn thịt chó với bạn bè hoặc đơn giản là kiếm tiền dễ dàng. Và không chỉ có người nghiện heroin mới trộm chó.
Cụm từ “bọn nghiện” cũng không chỉ đơn thuần nói về đối tượng này mà còn đóng vai trò một hình mẫu về những kẻ suy đồi, sẵn sàng làm những trò mà người thường còn chẳng nghĩ tới.
"Lý do để người ta trộm chó: để trả nợ cờ bạc, trả nợ chơi game
online, để ăn thịt chó với bạn bè hoặc đơn giản là kiếm tiền dễ dàng."
Khi tôi rảo bước, một người ngư dân vạm vỡ tên Vinh dần xuất hiện trong làn sương mờ. Vinh nói rằng anh đã nhìn thấy rất nhiều kẻ trộm chó. Anh thậm chí còn chứng kiến chúng ăn trộm 2 con chó ngay trước mũi mình.
Nhưng dù có vai rộng và đôi tay rất khỏe nhờ cả đời kéo lưới, Vinh chưa từng nghĩ tới việc đuổi theo những tên trộm chó. Khi được hỏi vì sao, Vinh đã chỉ tôi tới gặp bà Bùi Thị Xuân, rồi bỏ đi.
Nhờ sự chỉ dẫn của một người đàn ông lớn tuổi đi xe đạp màu đỏ, tôi đã tới được nhà bà Xuân. Chẳng có con chó nào cất tiếng sủa khi tôi bước vào phần hiên nhà đầy những chậu cây và giỏ hoa lan đang treo dưới một dây phơi quần áo. Một tấm biển hiệu đã bị rỉ sét cho tôi biết rằng bà Xuân kiếm sống nhờ cho thuê bàn ghế phục vụ đám cưới và đám ma.
Bà Xuân đi vào phòng khách tiếp tôi với một gương mặt xanh nhợt và mệt mỏi. Ngay cả ở trạng thái bình thường, miệng bà vẫn há ra và đôi mắt thì đầy sự lo âu, như thể vẫn chưa hết sốc sau khi đón tin dữ. Bà đi lấy một đống giấy tờ của tòa án phủ đầy bụi nằm phía sau chiếc TV rồi đặt chúng trên một hộp bánh quy bơ. Trước khi tôi có thể đọc chúng, bà bật khóc.
Mỗi buổi sáng, chồng bà Xuân thường mặc nguyên đồ ngủ và tưới cây ngoài
vườn nhà. Rồi một ngày nọ, có hai tên trộm đi ngang qua, tóm lấy con chó
của gia đình. Bà Xuân thấy chồng chửi ầm lên ngoài vườn rồi nổ máy đuổi
theo.
Bà vội gọi cho con rể và anh cũng lao theo bố vợ cùng những kẻ trộm chó.
Khi ra tới đường quốc lộ, anh chứng kiến một gã gầy gò ngồi sau xe của
bọn trộm giơ một khẩu súng cao su và bắn một viên bi vào trán bố vợ.
Ngay sau đó, anh thấy bố vợ loạng choạng rồi lao vào một rãnh nước. Anh
cố ghi nhớ biển số xe của những tên trộm rồi chạy xuống rãnh nước chỉ để
phát hiện bố vợ đã chết, do viên bi sắt xuyên trúng giữa hai mắt.
"Anh chứng kiến một gã gầy gò ngồi sau xe của bọn trộm giơ một khẩu
súng cao su và bắn một viên bi vào trán bố vợ" (ảnh: Roads and Kingdoms)
Quan tòa sau đó đã ra phán quyết nói rằng hai tên trộm chó phạm tội giết
người và tuyên phạt tù với chúng. Tòa cũng yêu cầu thân nhân của những
kẻ trộm chó chi tiền hỗ trợ cho bà Xuân mỗi tháng, nhưng gia đình của
chúng quá nghèo nên không thể thực hiện yêu cầu này.
Đêm đó, bà Xuân, con gái bà cùng con rể mời tôi uống bia và hát karaoke
trong quán cà phê mà họ xây dở nằm bên rìa một ruộng lúa. Bà quả phụ đã
tự cho phép mình bớt chút đau buồn và thết tôi một bữa tối thịnh soạn,
với gà nấu cà ri, chim rán và bánh cá.
Bà mỉm cười khi tôi tấm tắc khen ngợi về những con chim nhỏ, với hộp sọ nổ bôm bốp lúc tôi nhai chúng trong miệng.
Bà không muốn nói về người chồng đã khuất nên tôi cất tiếng hỏi về thịt
chó. “Chúng tôi không hay ăn thịt chó,” con rể bà Xuân nói. Rồi anh chợt
quay sang hỏi: “Anh có muốn tôi chạy ra ngoài kia và mua về ít thịt chó
không?”
5. Một chuyến thăm người làm thịt chó
5. Một chuyến thăm người làm thịt chó
Ngày tiếp theo, tôi dừng chân bên một cái bàn bày đầy thịt chó màu hồng.
Nhìn chung, công việc thường rơi vào tay những cá nhân không có nhiều
lựa chọn. “Anh muốn mua bao nhiêu?” chị Chinh, chủ bàn bán thịt chó kể
trên, cất tiếng hỏi. Chinh bán thịt chó bên về đường với giá 140.000
đồng một cân. Trả thêm chút tiền, chị sẽ cho tôi thêm rau sống, sả cùng
mắm tôm để ăn thịt chó.
Chị nói rằng không thứ gì có thể qua mặt được món dồi chó của mình. Khi
tôi tung ra hàng loạt câu hỏi cho Chinh, một đám đông chừng 30 đứa trẻ
là học sinh vẫn mặc đồng phục áo gió xanh trắng đã vây quanh, nhìn ngó
với vẻ tò mò.
“Tôi sẽ giết cậu, nếu cậu không mua thứ gì!” chị nói trước khi cất một
tràng cười hơi căng thẳng. Nhưng Chinh không phải là một tay đồ tể.
Chồng chị, anh Tinh Nang, làm mọi hoạt động giết mổ trong một khoảnh sân
sau nhà.
“Giết chó chắc khó lắm chị nhỉ,” tôi hỏi khi một con chó nhà chị nuôi
xuất hiện rồi nhanh chóng lẩn đi. “Cũng chẳng khó lắm,” chị nói. “Anh
chỉ cần cắt cổ và để chó chảy hết tiết.”
Những quán thịt chó xuất hiện đầy rẫy ở nông thôn lẫn thành thị.
Có lẽ để tránh không bị tôi làm phiền nữa, chị Chinh mời tôi tới ăn trưa
với người chồng “vui tính” của mình. Khi tôi hỏi về nạn trộm chó, chị
trả lời: “Đó là vấn đề gây đau đầu trong khu vực này, nhưng chưa xảy ra
với chúng tôi.”
Ngày tiếp theo, tôi trở lại để gặp anh Tinh Nang đang lau chùi, đánh
bóng phần chắn bùn trên chiếc Chevrolet Avalanche của mình. Anh đeo một
sợi dây chuyền bạc dày cộp và một chiếc đồng hồ mạ vàng nặng chịch. 2
vết sẹo sâu và to bằng giọt nước nằm ở trán anh.
Khi con chó của nhà Tinh Nang gầm gừ và nhảy lên sủa vào mặt vị khách
lạ, anh đã đẩy nó ra rồi đưa tôi vào căn phòng khách, nơi 4 cô con gái
đang ngồi im lặng quanh một đống lon bia Hà Nội và thịt chân giò muối.
Anh xin lỗi vì màn làm phiền của con chó. Những tên trộm đã đánh nó bất
tỉnh rồi mang bán vào buổi tối hôm trước nên nó vẫn chưa hoàn hồn.
Anh cười rinh rích khi kể lại việc đã khiến một người phụ nữ bán hàng
ngoài chợ ở Vinh phải bỏ ra tới gần 1 triệu đồng để chuộc con chó lại,
dù nó đã bị thương khắp nơi trên cơ thể.
7. Chỉ là câu nói đùa
Buổi sáng tiếp theo, tôi ăn trưa tại nhà một bà quả phụ ở ngoại ô của
Vinh. Người phụ nữ này nói một cách say sưa, đầy yêu mến về người chồng
đã mất của mình, rằng ông từng huấn luyện chó nghiệp vụ cho cảnh sát.
Khi ông qua đời vì tai nạn giao thông, bà đã đưa những con chó về nuôi
trong các cũi chó cũ mà chồng xây dựng ở sân sau và rồi bán chúng cho
các nhà hàng, các lò mổ để kiếm sống. Dù rất ghét những kẻ trộm chó, bà
lại chẳng quan tâm lắm tới ý tưởng giết thịt chó.
Khi ngồi tại cửa hàng của người phụ nữ này và thưởng thức bữa trưa, tôi
tiện thể bắt chuyện với một thiếu niên ngồi gần đó, đang chậm rãi uống
nước ngọt vị dâu. Cậu kể lại một ngày nọ, khi bạn bè gọi tới ngôi làng
cạnh đó để xem đám đông đã làm gì với một kẻ trộm chó.
Những kẻ trộm chó bị dân làng vây đánh
“Tôi tới tòa nhà Ủy ban nhân dân, chỉ vừa kịp lúc để thấy có người rút dao đâm gã trộm," cậu kể. Tôi chưa thấy tin tức về vụ đâm dao này xuất hiện trên báo chí nên quyết định sẽ tự tìm hiểu.
Ngôi làng nằm lọt nằm giữa các ruộng lúa xanh rì, ở cuối một con đường đầy bụi bẩn - cũng là lối vào và ra duy nhất. Tôi dành 20 phút hút thuốc lá trong một quán cà phê và lắng nghe cô chủ quán kể việc đã lấy chồng ở Sài Gòn rồi dọn về đây ra sao.
Cô tỏ ra thân thiện và tò mò trước một người nước ngoài khoái tìm hiểu về vấn đề thịt chó, cho tới khi tôi lôi vụ đánh gã trộm ra. "Anh đi mà hỏi Ủy ban nhân dân ấy," cô nói rồi đi sang phòng khác.
Rời quán, tôi chạy xe tới tòa nhà Ủy ban nhân dân. Vị Chủ tịch Ủy ban, ông Nguyễn Quốc Trung kéo tôi phòng ông. Ông yên lặng không nói gì khi tôi nói về những điều mình đã đọc và nghe thấy về các vụ giết người liên quan tới chó trong vùng.
Những từ duy nhất ông thốt ra là "ừ, ừ". Cuối cùng, khi tôi nói về vụ đâm gã trộm chó xảy ra trước trụ sở Ủy ban, ông đứng dậy, mỉm cười rồi khoanh tay tiễn tôi ra cửa. "Làm ơn đừng tin vào những câu chuyện như thế," ông nói."Có lẽ người ta chỉ đùa anh tôi."
Số phận những kẻ trộm chó Việt (III): Sự thật lạnh người sau miếng thịt chó
THỨ TƯ, 13/04/2016 14:50:00 | TIN 24H
Vntinnhanh.vn - Khi biết tôi đang tìm hiểu về những kẻ trộm chó, cô
kể lại cái ngày mình đi ngang qua một cái xác cháy đen nằm bên vệ đường.
“Tôi chẳng cảm thấy gì cả”, cô nói và mỉm cười. “Sau rốt thì hắn ta
cũng chỉ là một thằng trộm chó thôi mà”.
Rời khỏi Ủy ban nhân dân, tôi dừng lại ở một cửa hàng bán công cụ để hỏi thông tin về một vài tên trộm bị đánh chết. Một bà cụ đi ra bắt tay và chào tôi. Khi tôi hỏi bà về việc có hai gã trộm chó bị đánh chết trong làng, bà đã kêu một đứa cháu đưa cho mũ bảo hiểm rồi nhảy lên phía sau xe tôi.
Theo sự chỉ dẫn của bà cụ, tôi chạy tới một ngôi nhà nằm trong làng và thấy một gia đình ba người đang ngồi hút thuốc lá hiệu White Horse tại một bàn uống trà nhỏ nằm bên một ao cá. Bà cụ xuống xe, tiến lên trước rồi cho họ biết về mục đích chuyến viếng thăm của tôi.
Ánh nhìn sắc lạnh của người mẹ dịu đi khi nghe bà cụ đề cập đến con trai mình, nhưng rồi bà chẳng nói gì cả. Ông bố thì khoanh tay và nhìn vô hồn vào một điểm trống rỗng trên bàn. Anh trai của người đã chết đòi phải chi tiền để kể chi tiết vụ việc.
Cuối cùng tôi chẳng thu được gì. Gia đình để tôi thắp hương tại bàn thờ của người đã khuất. Họ rót cho tôi một chén trà, chúc may mắn khi tôi lên đường tới gia đình đau khổ tiếp theo, vốn nằm ngay bên cạnh.
Chừng 6 con cún con chạy ra lối đi, sủa loạn lên khi chúng tôi tiến vào phần sân được lát gạch. Một cặp vợ chồng cao tuổi mắng nhẹ những con chó để chúng im lặng.
Người đàn ông nói tuổi của mình là 55, nhưng mái tóc trắng và các cử chỉ rất chậm của ông trông giống như một người ở cuối cuộc đời. Sau vài câu trao đổi với bà cụ ở cửa hàng bán công cụ, ông bắt đầu tả lại đêm cuối cùng còn thấy đứa con trai tên Hùng của ông còn sống.
Cha Hùng nói rằng con ông không có gì nổi trội, chỉ hơi đẹp trai một chút. Không giống chị gái đã dọn vào sống ở Sài Gòn, Hùng ở lại quê để tiện chăm sóc cha mẹ. Anh nuôi gia đình bằng cách trồng rau củ và làm nghề xây dựng.
Hùng mới chỉ 21 tuổi vào cái đêm định mệnh đó, khi anh ra ngoài uống rượu với một người hàng xóm và vài người bạn. Hùng và người hàng xóm ngồi hút thuốc, chơi bài cho tới khi bạn bè gọi điện báo rằng một đám đông đã phát hiện hành vi trộm chó của họ.
Những người bạn này đề nghị Hùng cùng người hàng xóm tới giúp. Cả hai vội vã chạy đi cứu bạn tại địa điểm cách đó chừng hơn 1km, để rồi trở thành nạn nhân của đám đông.
Theo lời kể của báo chí, hàng chục dân làng đi xe máy đã rượt theo Hùng và người hàng xóm, sau khi chứng kiến họ kéo theo một con chó ở trên đường. Màn đuổi bắt kéo dài từ làng này tới làng khác và chỉ chấm dứt khi cả hai vứt bỏ xe máy để chạy vào cánh đồng gần đó.
Người hàng xóm đã không bao giờ có thể ra khỏi cánh đồng. Về phần mình, Hùng đã phải nhận một cái chết từ từ, đầy đau đớn trên một chiếc taxi chạy tới bệnh viện. Cha Hùng tin rằng những kẻ trộm chó thực sự đã thoát chết, còn con ông thì mất mạng chỉ vì muốn cứu bạn.
Ông nói rằng Hùng chưa từng nghiện heroin và cũng chẳng đi trộm chó. Cảnh sát đã không điều tra về vụ này. “Gia đình chúng tôi cũng không khởi kiện vì chẳng biết ai đã giết Hùng", ông nói. “Có quá nhiều người, có lẽ tới 1.000 người, đã đánh con tôi”.
Trên đường trở lại Vinh, tôi đã dừng chân để quan sát một chủ quán thịt chó đang xử lý một con chó ở đằng sau nhà. Người phụ nữ giúp việc cho ông ấy mời tôi lên phía trước. Cô chưa có chồng nên không ngại ngần trêu chọc một người ngoại quốc như tôi.
Rồi khi biết tôi đang tìm hiểu về những kẻ trộm chó, cô kể lại cái ngày mình đi ngang qua một cái xác cháy đen nằm bên vệ đường. “Tôi chẳng cảm thấy gì cả”, cô nói và mỉm cười. “Sau rốt thì hắn ta cũng chỉ là một thằng trộm chó thôi mà”.
Trong chợ thịt chó
Hành trình đi bộ từ khách sạn của tôi tới chợ thịt chó ở Vinh xuyên qua nhiều nhà kho, khoảnh đất trống và rất nhiều người phụ nữ bán thịt cá, rau củ. Cuối cùng tôi đã tới các sạp hàng nằm san sát của chừng gần một chục lò mổ chó.
“Ở đây chúng tôi đánh chúng tới chết”, chị chia sẻ. “Chỉ có những thằng nghiện ma túy mới trộm và bán chó, để mua ma túy. Tôi thì không mua chó từ bọn nghiện”.
“Thế một người nghiện trông như thế nào?”, tôi hỏi. “Trông như thằng kia kìa”, chị nói rồi chỉ vào người cháu gầy gò của mình. Người cháu này chia sẻ rằng nhà mình cũng mới bị trộm bắt mất chó và anh muốn bắt được một tên trộm để đánh cho hả giận.
Trong những giờ “làm việc” cho chị Ngọc, tôi đã chứng kiến trong những chú chó chị bán có cả một con Berger Đức, với vết thương rất lớn ở trên đầu.
Trước khi tôi có thể hỏi xem vì sao ai đó lại mất công huấn luyện một giống chó thông minh như thế để rồi cuối cùng lại tống nó vào lò mổ, một thầy dạy tiếng Nga đã về hưu bước vào và lựa chọn một con chó để làm thịt.
Sự hỗn loạn trong lò mổ
Không giống việc giết bò, gà hay lợn, luật Việt Nam không có quy định nào về việc giết chó. Khi Cơ quan thú y TP Hồ Chí Minh đề nghị cấp trên ở Hà Nội mở rộng quy định quản lý sang những con chó vào năm 2009, đề nghị này đã bị từ chối.
Giống như việc giết bất kỳ sinh vật nào khác để lấy thịt, tôi cho rằng tiến trình làm thịt chó hẳn cũng rất khó để chứng kiến. Tuy nhiên đây chẳng phải là điều khiến ông thầy kể trên bận tâm.
Ông đã chọn một con chó đen nặng chừng 15kg với lông mày màu vàng nhạt. Ông ra giá rồi châm thuốc hút và chờ đợi.
Con chó hẳn sẽ đóng vai trò trung tâm trong một bữa tiệc lớn, có sự tham gia của các đồng nghiệp cũ, bạn chiến đấu một thời. Vợ ông sẽ dành gần hết cả ngày để nấu thịt và nội tạng chó. Công việc của ông là lựa ra một con ngon nhất, được chuẩn bị tốt nhất.
Một cậu trai có nước da tai tái tên Tuấn Anh mở lồng nhốt chó và dùng kẹp sắt lôi ra con vật khốn khổ. Sau khi kéo cái đầu của con chó ra, cậu dùng một thanh tre to nặng đập liên tục vào đầu, cho tới khi cái lưỡi tím ngắt của con vật trôi ra qua kẽ răng.
Sau khi mổ con vật, Tuấn Anh ném cái xác lên một lồng chó chứa đầy những con chó khác đang đứng co vào nhau một cách sợ sệt. Sau đó cậu dùng đèn khò đốt qua phần da.
Tuấn Anh dành phần lớn buổi sáng để giết thêm những con chó khác cũng theo cách thức tương tự. Vào buổi chiều, cậu buộc dây vào cổ con Berger rồi cùng bạn dắt con vật chạy xe tới một bác sĩ thú y.
Một người họ hàng giải thích rằng Tuấn Anh thấy con chó quá đẹp nên không muốn làm thịt mà muốn nuôi nó khỏe trở lại và đưa nó về gia nhập đàn chó lớn đang sống ở nhà cậu. Vài tuần sau, tôi gọi điện cho Tuấn Anh và biết cậu đang đi nghỉ. Cậu nói rằng khi trở về sẽ tìm việc làm khác.
Phải mất một tuần loanh trong trong chợ Vinh, tôi mới quen với cảm giác rằng việc giết một con chó cũng chỉ giống như làm một con cá. Tôi đánh bạt mùi chó bằng cách rít thuốc liên tục và nhai kẹo gừng mà mẹ chị Ngọc bán.
Nhưng những tiếng sủa, tiếng kêu rên của những con chó vang lên vẫn gây cảm giác không thoải mái, giống như khi ta thấy một đứa trẻ khóc liên tục trong một chuyến bay dài. Những con người trong chợ Vinh bắt đầu quen tôi.
Về phần mình, tôi cũng ngừng hỏi xem chó đã tới đây từ đầu, bởi rõ ràng là chẳng ai quan tâm tới gốc gác của chúng. Rất nhiều người phụ nữ làm việc trong chợ nói với tôi về một “bữa tiệc” sắp diễn ra trong ngày Quốc tế phụ nữ.
Nhưng khi tôi xuất hiện vào tối 8/3, khu chợ đã chẳng còn ai, ngoại trừ một đám đàn ông đang ngồi nhậu quanh một mâm rau sống và thịt. Khi tôi hỏi chú Lực, người cao tuổi nhất trong đó, rằng vì sao họ lại được nhậu nhẹt trong ngày của phụ nữ, chú hắng giọng đáp: “Ở Việt Nam, phụ nữ phục vụ đàn ông”.
Chú Lực vẫy tay gọi tôi ngồi vào trước một cái bàn đầy rau sống tươi rói, các nhánh giềng, chuối chát và khế chua. Chú rót cho tôi một cốc rượu nhỏ, dùng cả hai tay trao cho tôi đôi đũa một cách trân trọng rồi mời tôi dùng món thịt từ một con chó họ vừa giết và nấu nướng trước đó có một giờ.
Những kỷ niệm từ cuộc sống thời thơ ấu quanh những con chó ùa về khi tôi giơ đũa lựa lấy một lát thịt chó luộc màu nâu. Khi cắn lấy một miếng nhỏ, tôi thấy nó có vị pha trộn giữa thịt vịt và thịt bò hảo hạng.
Các bác sĩ nói rằng thịt chó không vệ sinh gây ra đủ thứ bệnh, từ dịch tả tới bệnh dại. Nhưng khi chấm vào một bát mắm tôm đã được vắt chanh, ớt, thịt chó mang tới cảm giác như thuộc về một thế giới khác. Trong giờ tiếp theo đó, những người đàn ông và tôi vừa nếm thịt chó, lạc luộc, vừa tán phét.
Khi được hỏi về con chó trong văn hóa phương Tây, tôi cố gắng giải thích với họ rằng tất cả chúng tôi có thể sẽ phải vào tù vì những gì đang làm. “Chó sống trong nhà à?”, họ hỏi khi nghe chuyện. “Chó sống trên giường ư?”. Không ai tin câu chuyện của tôi cả.
Lúc tôi bàn về chủ đề trộm chó, họ đều kêu lên. Tôi nhân cơ hội để vặn vẹo họ về việc mua chó bị đánh cắp và họ đều khẳng định không làm điều đó, bởi bản thân rất muốn đánh chết một kẻ trộm chó. Mỗi người trong số họ đều từng bị trộm bắt mất chó. Nhiều người thậm chí đã mất tới vài con.
Không lâu sau đó, bữa tiệc giải tán. Những người đàn ông phải dậy từ 4 giờ sáng để tiếp tục làm thịt chó.
Không có câu trả lời cho một câu chuyện không đầu đũa
Một ngày nọ, tôi tỉnh dậy và nhận ra rằng mình không muốn thấy thêm cảnh một con chó nào khác phải từ giã cõi đời. Tôi đưa xe máy lên tàu và dành 8 giờ tiếp theo để uống bia với một người lạ trong toa ăn uống.
Tôi về TP Hồ Chí Minh trong tình trạng chuếnh choáng nặng, nhưng cảm thấy nhẹ nhõm vì đã thoát khỏi một thế giới khổ sở, nơi người nào cũng từng bị trộm chó nhưng chẳng ai bỏ tiền ra mua những con chó bị ăn trộm, nơi người nghèo lấy đi tài sản của những kẻ nghèo giống mình và ai đó sẵn sàng châm lửa thiêu kẻ khác.
Không lâu sau khi tôi trở về, có 3 cậu trai tuổi teen ở quận Củ Chi quyết định mang theo dao kiếm, cưỡi trên một chiếc xe máy để rình những kẻ bắt trộm chó mình trong đêm trước đó. Khi phát hiện hai thanh niên lạ mặt chạy lòng vòng với những chiếc bao tải rỗng và một chiếc nỏ tự chế gắn với một cục ắc quy xe máy, cả ba đã đuổi theo.
Trong cuộc đuổi bắt ấy, cả hai nhóm đều tăng ga hết cỡ. Cuối cùng, khi hai chiếc xe đã chạy song song với nhau, nhóm ba cậu trai bị trộm chó vung dao lên. Phía bọn trộm không phải dạng vừa, đã bắn một mũi tên từ cây nỏ điện tự chế vào nạn nhân ngồi giữa.
Bọn trộm không giảm tốc nên chẳng thể chứng kiến cảnh những kẻ đuổi theo mình lao xe thẳng vào một cột điện bê tông. Chúng đi ngủ mà không biết thiếu niên cầm lái chết ngay vì vỡ đầu và hai cậu trai ngồi sau thì do bị điện giật nên ngã xuống đường tử vong.
Chỉ tới ngày hôm sau, khi biết tin rằng đã có 3 người thiệt mạng, chúng mới ra đầu thú. Thành viên trẻ nhất trong nhóm trộm chó đã được hưởng án treo. Số còn lại nhận án tù chừng 10 năm. Riêng gã thủ lĩnh 20 tuổi bị kết án tử hình.
Việt Nam hiện vẫn khó xử lý vấn đề trộm chó. Khi cơ quan điều tra tỉnh Bắc Giang định khởi tố 13 người do liên quan tới một vụ đánh chết kẻ trộm chó, 800 người đã ký đơn nhận tội nhằm khiến vụ này chìm xuồng.
Ngoài ra còn phải kể tới những bất cập về luật. Ai đó phải lấy một món đồ trị giá chừng 2 triệu đồng mới bị bắt giữ và xét xử tại Việt Nam, trong khi những con chó có giá chưa đầy 400.000 đồng.
Nhưng điều này có thể thay đổi trong tương lai. Gần đây một tờ báo Việt Nam đưa tin chính quyền sẽ ban hành quy định chống những kẻ trộm chó, khiến chúng có thể bị bắt giữ và xét xử không cần biết con vật có giá trị lớn tới đâu.
Tờ báo này cũng nói rằng một lực lượng cảnh sát mặc thường phục nay đã bắt đầu săn bắt những kẻ trộm chó tại tỉnh mà Phong đã chết. Vọ đã tóm được nhiều tên trộm và còn bắt vài chủ lò giết mổ chó mua hàng từ những kẻ này.
Tuy nhiên, có vẻ như sẽ chẳng có ai tóm được những kẻ đã tước đoạt mạng sống của Phong.
Hết
Một nhóm trộm chó bị đánh đến bất tỉnh, trói vào xác chó. (Ảnh: Facebook)
Rời khỏi Ủy ban nhân dân, tôi dừng lại ở một cửa hàng bán công cụ để hỏi thông tin về một vài tên trộm bị đánh chết. Một bà cụ đi ra bắt tay và chào tôi. Khi tôi hỏi bà về việc có hai gã trộm chó bị đánh chết trong làng, bà đã kêu một đứa cháu đưa cho mũ bảo hiểm rồi nhảy lên phía sau xe tôi.
Theo sự chỉ dẫn của bà cụ, tôi chạy tới một ngôi nhà nằm trong làng và thấy một gia đình ba người đang ngồi hút thuốc lá hiệu White Horse tại một bàn uống trà nhỏ nằm bên một ao cá. Bà cụ xuống xe, tiến lên trước rồi cho họ biết về mục đích chuyến viếng thăm của tôi.
Ánh nhìn sắc lạnh của người mẹ dịu đi khi nghe bà cụ đề cập đến con trai mình, nhưng rồi bà chẳng nói gì cả. Ông bố thì khoanh tay và nhìn vô hồn vào một điểm trống rỗng trên bàn. Anh trai của người đã chết đòi phải chi tiền để kể chi tiết vụ việc.
Cuối cùng tôi chẳng thu được gì. Gia đình để tôi thắp hương tại bàn thờ của người đã khuất. Họ rót cho tôi một chén trà, chúc may mắn khi tôi lên đường tới gia đình đau khổ tiếp theo, vốn nằm ngay bên cạnh.
Chừng 6 con cún con chạy ra lối đi, sủa loạn lên khi chúng tôi tiến vào phần sân được lát gạch. Một cặp vợ chồng cao tuổi mắng nhẹ những con chó để chúng im lặng.
Hình ảnh em bé Việt Nam ngồi khóc bên con chó thui được chia sẻ trên Daily Mail.
Người đàn ông nói tuổi của mình là 55, nhưng mái tóc trắng và các cử chỉ rất chậm của ông trông giống như một người ở cuối cuộc đời. Sau vài câu trao đổi với bà cụ ở cửa hàng bán công cụ, ông bắt đầu tả lại đêm cuối cùng còn thấy đứa con trai tên Hùng của ông còn sống.
Cha Hùng nói rằng con ông không có gì nổi trội, chỉ hơi đẹp trai một chút. Không giống chị gái đã dọn vào sống ở Sài Gòn, Hùng ở lại quê để tiện chăm sóc cha mẹ. Anh nuôi gia đình bằng cách trồng rau củ và làm nghề xây dựng.
Hùng mới chỉ 21 tuổi vào cái đêm định mệnh đó, khi anh ra ngoài uống rượu với một người hàng xóm và vài người bạn. Hùng và người hàng xóm ngồi hút thuốc, chơi bài cho tới khi bạn bè gọi điện báo rằng một đám đông đã phát hiện hành vi trộm chó của họ.
Những người bạn này đề nghị Hùng cùng người hàng xóm tới giúp. Cả hai vội vã chạy đi cứu bạn tại địa điểm cách đó chừng hơn 1km, để rồi trở thành nạn nhân của đám đông.
Theo lời kể của báo chí, hàng chục dân làng đi xe máy đã rượt theo Hùng và người hàng xóm, sau khi chứng kiến họ kéo theo một con chó ở trên đường. Màn đuổi bắt kéo dài từ làng này tới làng khác và chỉ chấm dứt khi cả hai vứt bỏ xe máy để chạy vào cánh đồng gần đó.
Một đối tượng trộm chó ở Bắc Giang nổ súng bắn trả người dân khi bị truy đuổi. Người này sau đó bị dân chúng đánh chết.
Người hàng xóm đã không bao giờ có thể ra khỏi cánh đồng. Về phần mình, Hùng đã phải nhận một cái chết từ từ, đầy đau đớn trên một chiếc taxi chạy tới bệnh viện. Cha Hùng tin rằng những kẻ trộm chó thực sự đã thoát chết, còn con ông thì mất mạng chỉ vì muốn cứu bạn.
Ông nói rằng Hùng chưa từng nghiện heroin và cũng chẳng đi trộm chó. Cảnh sát đã không điều tra về vụ này. “Gia đình chúng tôi cũng không khởi kiện vì chẳng biết ai đã giết Hùng", ông nói. “Có quá nhiều người, có lẽ tới 1.000 người, đã đánh con tôi”.
Trên đường trở lại Vinh, tôi đã dừng chân để quan sát một chủ quán thịt chó đang xử lý một con chó ở đằng sau nhà. Người phụ nữ giúp việc cho ông ấy mời tôi lên phía trước. Cô chưa có chồng nên không ngại ngần trêu chọc một người ngoại quốc như tôi.
Rồi khi biết tôi đang tìm hiểu về những kẻ trộm chó, cô kể lại cái ngày mình đi ngang qua một cái xác cháy đen nằm bên vệ đường. “Tôi chẳng cảm thấy gì cả”, cô nói và mỉm cười. “Sau rốt thì hắn ta cũng chỉ là một thằng trộm chó thôi mà”.
Trong chợ thịt chó
Hành trình đi bộ từ khách sạn của tôi tới chợ thịt chó ở Vinh xuyên qua nhiều nhà kho, khoảnh đất trống và rất nhiều người phụ nữ bán thịt cá, rau củ. Cuối cùng tôi đã tới các sạp hàng nằm san sát của chừng gần một chục lò mổ chó.
Một lò mổ chó ở Việt Nam được ghi hình trên báo nước ngoài. (Ảnh: Red Door News)
Để tìm hiểu xem nơi này hoạt động như thế nào, tôi tình nguyện mời chào
khách tới cửa hàng thịt chó của một người phụ nữ tên Ngọc. Chị khẳng
định rằng những kẻ trộm chó không có vai trò gì trong hoạt động làm ăn
của mình.“Ở đây chúng tôi đánh chúng tới chết”, chị chia sẻ. “Chỉ có những thằng nghiện ma túy mới trộm và bán chó, để mua ma túy. Tôi thì không mua chó từ bọn nghiện”.
“Thế một người nghiện trông như thế nào?”, tôi hỏi. “Trông như thằng kia kìa”, chị nói rồi chỉ vào người cháu gầy gò của mình. Người cháu này chia sẻ rằng nhà mình cũng mới bị trộm bắt mất chó và anh muốn bắt được một tên trộm để đánh cho hả giận.
Trong những giờ “làm việc” cho chị Ngọc, tôi đã chứng kiến trong những chú chó chị bán có cả một con Berger Đức, với vết thương rất lớn ở trên đầu.
Trước khi tôi có thể hỏi xem vì sao ai đó lại mất công huấn luyện một giống chó thông minh như thế để rồi cuối cùng lại tống nó vào lò mổ, một thầy dạy tiếng Nga đã về hưu bước vào và lựa chọn một con chó để làm thịt.
Sự hỗn loạn trong lò mổ
Không giống việc giết bò, gà hay lợn, luật Việt Nam không có quy định nào về việc giết chó. Khi Cơ quan thú y TP Hồ Chí Minh đề nghị cấp trên ở Hà Nội mở rộng quy định quản lý sang những con chó vào năm 2009, đề nghị này đã bị từ chối.
Giống như việc giết bất kỳ sinh vật nào khác để lấy thịt, tôi cho rằng tiến trình làm thịt chó hẳn cũng rất khó để chứng kiến. Tuy nhiên đây chẳng phải là điều khiến ông thầy kể trên bận tâm.
Ông đã chọn một con chó đen nặng chừng 15kg với lông mày màu vàng nhạt. Ông ra giá rồi châm thuốc hút và chờ đợi.
Thịt chó là món ăn được bán phổ biến ở Việt Nam. (Ảnh: Một thế giới)
Con chó hẳn sẽ đóng vai trò trung tâm trong một bữa tiệc lớn, có sự tham gia của các đồng nghiệp cũ, bạn chiến đấu một thời. Vợ ông sẽ dành gần hết cả ngày để nấu thịt và nội tạng chó. Công việc của ông là lựa ra một con ngon nhất, được chuẩn bị tốt nhất.
Một cậu trai có nước da tai tái tên Tuấn Anh mở lồng nhốt chó và dùng kẹp sắt lôi ra con vật khốn khổ. Sau khi kéo cái đầu của con chó ra, cậu dùng một thanh tre to nặng đập liên tục vào đầu, cho tới khi cái lưỡi tím ngắt của con vật trôi ra qua kẽ răng.
Sau khi mổ con vật, Tuấn Anh ném cái xác lên một lồng chó chứa đầy những con chó khác đang đứng co vào nhau một cách sợ sệt. Sau đó cậu dùng đèn khò đốt qua phần da.
Tuấn Anh dành phần lớn buổi sáng để giết thêm những con chó khác cũng theo cách thức tương tự. Vào buổi chiều, cậu buộc dây vào cổ con Berger rồi cùng bạn dắt con vật chạy xe tới một bác sĩ thú y.
Một người họ hàng giải thích rằng Tuấn Anh thấy con chó quá đẹp nên không muốn làm thịt mà muốn nuôi nó khỏe trở lại và đưa nó về gia nhập đàn chó lớn đang sống ở nhà cậu. Vài tuần sau, tôi gọi điện cho Tuấn Anh và biết cậu đang đi nghỉ. Cậu nói rằng khi trở về sẽ tìm việc làm khác.
Tuấn Anh thấy con chó quá đẹp nên không muốn làm thịt mà muốn nuôi nó khỏe trở lại.
Ngày quốc tế phụ nữPhải mất một tuần loanh trong trong chợ Vinh, tôi mới quen với cảm giác rằng việc giết một con chó cũng chỉ giống như làm một con cá. Tôi đánh bạt mùi chó bằng cách rít thuốc liên tục và nhai kẹo gừng mà mẹ chị Ngọc bán.
Nhưng những tiếng sủa, tiếng kêu rên của những con chó vang lên vẫn gây cảm giác không thoải mái, giống như khi ta thấy một đứa trẻ khóc liên tục trong một chuyến bay dài. Những con người trong chợ Vinh bắt đầu quen tôi.
Về phần mình, tôi cũng ngừng hỏi xem chó đã tới đây từ đầu, bởi rõ ràng là chẳng ai quan tâm tới gốc gác của chúng. Rất nhiều người phụ nữ làm việc trong chợ nói với tôi về một “bữa tiệc” sắp diễn ra trong ngày Quốc tế phụ nữ.
Nhưng khi tôi xuất hiện vào tối 8/3, khu chợ đã chẳng còn ai, ngoại trừ một đám đàn ông đang ngồi nhậu quanh một mâm rau sống và thịt. Khi tôi hỏi chú Lực, người cao tuổi nhất trong đó, rằng vì sao họ lại được nhậu nhẹt trong ngày của phụ nữ, chú hắng giọng đáp: “Ở Việt Nam, phụ nữ phục vụ đàn ông”.
Các bác sĩ nói rằng thịt chó không vệ sinh gây ra đủ thứ bệnh, từ
dịch tả tới bệnh dại. Nhưng khi chấm vào một bát mắm tôm đã được vắt
chanh, ớt, thịt chó mang tới cảm giác như thuộc về một thế giới khác.
Không giống nhiều cậu trai đến rồi lại đi, phần lớn đàn ông trong khu
bán thịt chó của chợ Vinh làm việc cho vợ họ. Ví dụ như chồng chị Ngọc
từng là một kỹ sư điện. Nhưng vợ anh trả cho chồng khoản lương tới 9
triệu một tháng, cao hơn nhiều mức thu nhập trung bình trong vùng.Chú Lực vẫy tay gọi tôi ngồi vào trước một cái bàn đầy rau sống tươi rói, các nhánh giềng, chuối chát và khế chua. Chú rót cho tôi một cốc rượu nhỏ, dùng cả hai tay trao cho tôi đôi đũa một cách trân trọng rồi mời tôi dùng món thịt từ một con chó họ vừa giết và nấu nướng trước đó có một giờ.
Những kỷ niệm từ cuộc sống thời thơ ấu quanh những con chó ùa về khi tôi giơ đũa lựa lấy một lát thịt chó luộc màu nâu. Khi cắn lấy một miếng nhỏ, tôi thấy nó có vị pha trộn giữa thịt vịt và thịt bò hảo hạng.
Các bác sĩ nói rằng thịt chó không vệ sinh gây ra đủ thứ bệnh, từ dịch tả tới bệnh dại. Nhưng khi chấm vào một bát mắm tôm đã được vắt chanh, ớt, thịt chó mang tới cảm giác như thuộc về một thế giới khác. Trong giờ tiếp theo đó, những người đàn ông và tôi vừa nếm thịt chó, lạc luộc, vừa tán phét.
Khi được hỏi về con chó trong văn hóa phương Tây, tôi cố gắng giải thích với họ rằng tất cả chúng tôi có thể sẽ phải vào tù vì những gì đang làm. “Chó sống trong nhà à?”, họ hỏi khi nghe chuyện. “Chó sống trên giường ư?”. Không ai tin câu chuyện của tôi cả.
Một lò mổ chó ở Hà Nội. (Ảnh: AFP)
Lúc tôi bàn về chủ đề trộm chó, họ đều kêu lên. Tôi nhân cơ hội để vặn vẹo họ về việc mua chó bị đánh cắp và họ đều khẳng định không làm điều đó, bởi bản thân rất muốn đánh chết một kẻ trộm chó. Mỗi người trong số họ đều từng bị trộm bắt mất chó. Nhiều người thậm chí đã mất tới vài con.
Không lâu sau đó, bữa tiệc giải tán. Những người đàn ông phải dậy từ 4 giờ sáng để tiếp tục làm thịt chó.
Không có câu trả lời cho một câu chuyện không đầu đũa
Một ngày nọ, tôi tỉnh dậy và nhận ra rằng mình không muốn thấy thêm cảnh một con chó nào khác phải từ giã cõi đời. Tôi đưa xe máy lên tàu và dành 8 giờ tiếp theo để uống bia với một người lạ trong toa ăn uống.
Tôi về TP Hồ Chí Minh trong tình trạng chuếnh choáng nặng, nhưng cảm thấy nhẹ nhõm vì đã thoát khỏi một thế giới khổ sở, nơi người nào cũng từng bị trộm chó nhưng chẳng ai bỏ tiền ra mua những con chó bị ăn trộm, nơi người nghèo lấy đi tài sản của những kẻ nghèo giống mình và ai đó sẵn sàng châm lửa thiêu kẻ khác.
Nơi người nào cũng từng bị trộm chó nhưng chẳng ai bỏ tiền ra mua
những con chó bị ăn trộm, nơi người nghèo lấy đi tài sản của những kẻ
nghèo giống mình. (Đồ họa: Richard Manders)
Không lâu sau khi tôi trở về, có 3 cậu trai tuổi teen ở quận Củ Chi quyết định mang theo dao kiếm, cưỡi trên một chiếc xe máy để rình những kẻ bắt trộm chó mình trong đêm trước đó. Khi phát hiện hai thanh niên lạ mặt chạy lòng vòng với những chiếc bao tải rỗng và một chiếc nỏ tự chế gắn với một cục ắc quy xe máy, cả ba đã đuổi theo.
Trong cuộc đuổi bắt ấy, cả hai nhóm đều tăng ga hết cỡ. Cuối cùng, khi hai chiếc xe đã chạy song song với nhau, nhóm ba cậu trai bị trộm chó vung dao lên. Phía bọn trộm không phải dạng vừa, đã bắn một mũi tên từ cây nỏ điện tự chế vào nạn nhân ngồi giữa.
Bọn trộm không giảm tốc nên chẳng thể chứng kiến cảnh những kẻ đuổi theo mình lao xe thẳng vào một cột điện bê tông. Chúng đi ngủ mà không biết thiếu niên cầm lái chết ngay vì vỡ đầu và hai cậu trai ngồi sau thì do bị điện giật nên ngã xuống đường tử vong.
Chỉ tới ngày hôm sau, khi biết tin rằng đã có 3 người thiệt mạng, chúng mới ra đầu thú. Thành viên trẻ nhất trong nhóm trộm chó đã được hưởng án treo. Số còn lại nhận án tù chừng 10 năm. Riêng gã thủ lĩnh 20 tuổi bị kết án tử hình.
Việt Nam hiện vẫn khó xử lý vấn đề trộm chó. Khi cơ quan điều tra tỉnh Bắc Giang định khởi tố 13 người do liên quan tới một vụ đánh chết kẻ trộm chó, 800 người đã ký đơn nhận tội nhằm khiến vụ này chìm xuồng.
Một kẻ trộm chó bị bắt giữ, đánh trọng thương.
Rồi họ còn cáo buộc cơ quan công an nặn ra những lời cung khai, sau khi
không chấp nhận việc các nghi phạm đang ngủ hay đang đi tắm vào thời
điểm vụ giết người xảy ra. Tới nay, các nghi phạm này vẫn chưa phải ra
tòa.Ngoài ra còn phải kể tới những bất cập về luật. Ai đó phải lấy một món đồ trị giá chừng 2 triệu đồng mới bị bắt giữ và xét xử tại Việt Nam, trong khi những con chó có giá chưa đầy 400.000 đồng.
Nhưng điều này có thể thay đổi trong tương lai. Gần đây một tờ báo Việt Nam đưa tin chính quyền sẽ ban hành quy định chống những kẻ trộm chó, khiến chúng có thể bị bắt giữ và xét xử không cần biết con vật có giá trị lớn tới đâu.
Tờ báo này cũng nói rằng một lực lượng cảnh sát mặc thường phục nay đã bắt đầu săn bắt những kẻ trộm chó tại tỉnh mà Phong đã chết. Vọ đã tóm được nhiều tên trộm và còn bắt vài chủ lò giết mổ chó mua hàng từ những kẻ này.
Tuy nhiên, có vẻ như sẽ chẳng có ai tóm được những kẻ đã tước đoạt mạng sống của Phong.
Hết
Hương Giang (Theo Roads and Kingdoms)
GOC CỦA PHAN
Góc của Phan: Trẻ em dưới màu cờ đỏ…
Là một phần sâu lắng nhất trong tâm tư con người. Cho dù ở tuổi nào thì
bất chợt một hình ảnh, một lời ru, một truyện cồ tích… đều đưa chúng ta
về với những kỷ niệm. Những giây phút tiếp theo là hoài niệm lại một
thời đã qua. Dù chỉ để quên đi những gì không còn nữa; không trở lại.
Nhưng hoài niệm còn mãi, và mấy ai được hạnh phúc với những gì còn nhớ. Đặc biệt khi nhớ về thời thơ ấu là dễ chịu nhất trong tâm tư con người vì nhớ lại những vụng dại, ngổ nghịch của tuổi thơ thường làm nên nụ cười thầm lặng, một mình. Nhưng điều đó lại là chìa khóa cho một người lớn dễ dàng bỏ qua, tha thứ cho những lỗi lầm của trẻ nhỏ; Điều đó, dường như không giấy mực nào xác nhận mà lại là cáo trạng lớn lao và chính xác cho những người đánh cắp tuổi thơ của người khác. Giả sữ kẻ cắp xe đạp, có thể bồi thường nạn nhân; nếu không có tiền để bồi thường thì đi tù vài tháng. Người tù ra tù coi như đã trả nợ xong; người mất xe đạp cũng có thể mua lại chiếc xe đạp khác để sử dụng. Nhưng đánh cắp tuổi thơ của người khác thì không có cách gì để trả lại được, vì tuổi thơ của mỗi người chỉ có một lần trong đời.
Nhưng tuổi thơ của trẻ nhỏ ở những nước cộng sản, những nước cực đoan,… coi như không có thì không ai chịu trách nhiệm là kẻ cắp!
Một lần nói chuyện với Thiếu tá Đông, con trai của ca sĩ Thanh Tuyền, chồng của nghệ sĩ Ngọc Huyền. Anh Đông phục vụ cho không quân Hoa Kỳ đã lâu. Hôm gặp anh mới từ Iraq về. Trong cuộc trò chuyện với anh, điều tôi còn lưu giữ mãi trong ký ức về trẻ em ở Iraq qua tự sự của anh Đông như sau:
“…vì đất nước Iraq đang chiến tranh nên việc học của trẻ em bị giãn đoạn cũng y như mình thời nhỏ, ở những vùng quê, khi Việt cộng tấn công, pháo kích thì việc học giãn đoạn vì trường học đóng cửa. Bọn trẻ Iraq lang thang, túm năm tụm ba… Những đứa trẻ trai lanh lợi thì chạy việc cho cánh chợ trời, mua bán đủ thứ, kể cả súng đạn; Nhiều đứa bán phim sex cho lính Mỹ. Chúng cứ thấy lính Mỹ thì chìa cái DVD phim sex vô mặt và nói câu tiếng Anh duy nhất: ‘Five dollas’.
Đông còn nhỏ khi ở quê nhà, nhưng hình ảnh đám trẻ con Việt nam thấy lính Mỹ là xúm lại, chơi vui với họ vì tò mò, và họ thích trẻ em nên cho bánh kẹo. Trẻ em càng thích lính Mỹ! Nhưng ở Iraq thì khác, trẻ em Iraq không thân thiện với lính Mỹ.
Trong trại có chương trình tiếp xúc, làm quen để gần gũi với người địa phương. Trại Đông đóng quân thường có những ngày cuối tuần, cho một đám trẻ em Iraq vô chơi với lính. Lính chơi với các em đủ trò thể thao, bơi lội, đá banh, xem phim… Nói chuyện với các em là cách nói nhắn với cha mẹ các em về lính Mỹ, người Mỹ, nước Mỹ đến đây để giúp họ chứ không phải chiếm đóng đất nước họ. Lính Mỹ cho các em bánh, kẹo để ăn cho vui. Nhưng trước khi ra về thì nhiều em xin thêm bánh, kẹo để đem về nhà.
Đông cũng cho vì nhớ lại những hình ảnh trẻ em bản xứ và lính Mỹ ở Việt nam xa xưa. Nhưng Đông hỏi một em trai đã vui chơi với Đông cả ngày, ‘Sau này lớn lên. Em định làm gì?’ Nó trả lời nhanh gọn, dứt khoát… “Lớn lên. Đi đánh Mỹ!”
Truyện kể của Thiếu tá Đông cứ ám ảnh tôi về trẻ em Iraq nói riêng; trẻ em Trung Đông nói chung. Chúng không có tuổi thơ thuần khiết là yêu thương những người chơi chung với chúng, cho chúng bánh kẹo. Những đứa bé đã biết lợi dụng lính Mỹ để được vui chơi một ngày với những phương tiện giải trí mà chúng không làm sao có được; chúng biết cách lấy từ tay kẻ thù miếng bánh ngon, viên kẹo ngọt… để lớn lên trả ơn người lính Mỹ một viên đạn đắng.
Ai đã đánh cắp tuổi thơ hồn nhiên, vô tư của trẻ em Trung Đông? Thậm tệ hơn là nhồi nhét vào những đầu óc non trẻ ấy tư tưởng thù địch từ bé. Những đất nước lầm than vì lãnh đạo cực đoan không bao giờ nhận tội đánh cắp tuổi thơ của đồng bào để biến cả dân tộc thành cực đoan; biến đất nước giàu có tài nguyên dầu hỏa, nhưng phủ lên cơm no áo ấm, hạnh phúc của lương dân một lớp mảnh bom, đầu đạn ngày càng dầy hơn vì chính tư tưởng cực đoan, lòng hận thù vô cớ là nguyên nhân chiến tranh không bao giờ im tiếng súng ở Trung Đông.
Với những nước xã hội chủ nghĩa thì tuổi thơ bị đánh cắp cách khác. Ở Cuba và Bắc Hàn thì trẻ em chết vì bệnh tật không có thuốc men, hay suy dinh dưỡng; ngay cái ăn không có thì nói gì tới vui chơi, giải trí. Đầu óc thơ dại đã khổ hơn cỏ hoang lại bị nhồi nhét từ mẫu giáo – đạo tôn thờ lãnh tụ. Học những điều giả dối về nhân văn; về khoa học không học để phát minh mà chỉ học cách bẻ khóa để ăn cắp những phát minh khoa học của người khác. Điều này chúng ta thấy rõ ở con em của người Việt ở hải ngoại, một em nhỏ xin mẹ cha cho tiền mua bản nhạc em thích trên online – thuộc loại single dish – nghĩa là cái CD chỉ có một bản nhạc mà phải trả 17 dollas. Nhưng tuổi mười lăm, mười bảy của một em nhỏ trong nước Việt nam bây giờ thì nó muốn một ngàn bản nhạc thuộc loại single dish cũng là chuyện nhỏ với trình độ bẻ khóa của nó trên computer để download. Điều đã nhiều người nói, viết về việc cha mẹ Việt ở hải ngoại đi mua dĩa lậu những chương trình ca nhạc của Trung tâm Thúy Nga hay Asia đều bị con cái phản đối, dù chúng không xem. Tuổi nhỏ ở Mỹ được giáo dục hướng tới phát minh thì tuổi nhỏ ở những nước cộng sản được khuyến khích ăn cắp và phá hoại, nên đội quân hacker của Trung Cộng và Bắc Hàn mới hùng hậu và đông đảo tới trở thành bước ngăn phát triển của nhân loại…
Ngay bây giờ ở Mỹ, chúng ta cần Window 7, Window 10 của Microsoft… vẫn phải mua. Nhưng vào những website Việt nam thì có người đã bẻ khóa sẵn cho; cho luôn cả product key tràn lan trên facebook… Vào những trang điện toán của Việt nam thì học hỏi được vô vàn cách bẻ khóa software. Những bạn trẻ trong nước không có ý thức về hành vi đó là trộm cắp, chiếm đoạt trái phép phát minh của người khác, mà họ nghiễm nhiên cho đó là sự chia sẻ khoa học trong giới trẻ. Những người bạn trẻ trong nước không có tội mà tội từ nền giáo dục xã hội chủ nghĩa đã bình thường hóa chuyện trộm cắp thành lẽ tự nhiên trong đời sống xã hội xã hội chủ nghĩa.
Việt nam học từ đâu thói ăn cắp, làm đồ giả, nói láo không chớp mắt, cãi chày cãi cối không ngượng miệng… không ai dạy giỗ nổi những thói hư tật xấu cho người khác bằng Trung Cộng, trên nữa là chủ nghĩa xã hội. Với xã hội xã hội chủ nghĩa, một người được sinh ra phải giao nộp linh hồn cho màu cờ đỏ để đổi lấy hộ khẩu và sổ gạo. Từ đó, chỉ còn mang một nhân dáng giống người chứ không phải người vì bị nhồi nhét những điều sáo rỗng, giả trá từ nhỏ thì làm sao lớn lên thành người.
Ai đánh cắp tuổi thơ của trẻ em dưới những vòm trời xã hội chủ nghĩa? Cũng không ai khác hơn một nhóm người cực đoan, tin vào sự hoang tưởng của chủ nghĩa cộng sản mà làm cho nước tàn, dân mạt; hủy hoại nhân tính con người từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trung Quốc quay mặt với tổ sư Mác-Lê vì để dân đói nghèo hơn nữa thì chúng sẽ nổi loạn. Đất nước nội chiến triền miên theo dòng lịch sử Trung Hoa thì ai cũng đã biết; tranh bá đề vương là dân tộc tính của họ. Nhưng trở thành cường quốc thứ hai thế giới sau hai thập niên phản đồ chủ nghĩa cộng sản thì Trung Quốc cũng chỉ hình thành được tầng lớp tư bản đỏ. Đằng sau những khoe mẽ hào nhoáng với thế giới qua Thế vận hội Bắc kinh năm 2008; đằng sau con cọp biển ở Biển Đông bây giờ là hàng triệu quân nhân vẫn ăn khoai sắn, mì sợi, đi làm nghĩa vụ quân sự với đảng cầm quyền. Những người lính không chiến đấu cho lý tưởng của họ như tinh thần binh sĩ Trung Hoa trong chiến tranh Trung-Nhật, thì người lính Trung Cộng bây giờ khi đụng trận, họ có xả thân cho đảng cộng sản Trung Quốc hay không?
Tại sao người thanh niên Mỹ tự nguyện đi lính, chấp nhận hy sinh ở Việt nam, Iraq? Đó mới thực sự là sức mạnh của quân đội, chứ vũ khí mới là thứ yếu. Nhìn vào Trung Quốc không giống như Ngọa hổ tàng long mà chỉ thấy con cọp giấy mang đầy bệnh tật trong mình. Con cọp chết không để da vì cái quý nhất của con cọp giấy cũng chỉ là giấy. Chính sự cai trị của đảng cộng sản Trung Quốc bắt nguồn từ khoa trương với bên ngoài; nhưng lại không quan tâm đến bên trong là đời sống, tinh thần của người dân, nên Trung Quốc không bao giờ có nội lực như nước Mỹ.
Một tầng lớp mới với tên gọi “tư bản đỏ” trong chế độ, chính sách ưu đãi một thành phần những cơ hội làm tỉ phú. Đằng sau bức màn nhung che mắt thế giới ấy là một xã hội Trung Quốc đang đối mặt với diệt vong vì băng hoại đạo đức xã hội. Người Trung Hoa nhân văn đã sạch bóng trên lục địa mênh mông để dân tộc Trung Hoa đã biến thành Trung Cộng. Đọc lại bài viết “Vô cảm” của bác sĩ Nguyễn Ý Đức trò chuyện cùng độc giả Toronto* mới thấy nhân tính của con người trong xã hội Trung Quốc bây giờ. (Xin trích dẫn cuối bài).
Một bằng chứng mới nhất cho sự đánh cắp tuổi thơ là đánh cắp cả cuộc đời của lương dân nhưng nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn không quan tâm bằng huênh hoang với bên ngoài. Vụ việc xảy ra ở tỉnh Quý châu, tây nam Trung Quốc. Bốn anh em tuổi từ 5 đến 14, đã tự tử bằng thuốc trừ sâu, sau nhiều tháng bị cha mẹ bỏ rơi ở nhà. Mẹ của các em bỏ đi làm thuê nơi thành thị vào tháng 2, 2013. Trong khi cha là Zhang Fangqi cũng phải rời làng đi kiếm sống từ hồi tháng 3. Tuy ông vẫn đều đặn gửi tiền về nhà cho các con sinh sống. Nhưng số tiền quá khiêm nhường so với vật giá đời sống. Trẻ em ở nông thôn Trung Quốc thường bị bỏ lại ở nhà cùng ông bà đã cao tuổi, trong khi cha mẹ lên thành phố kiếm sống. Theo số liệu năm 2013, Trung Quốc có 60 triệu trẻ em có hoàn cảnh giống các em nêu trên, và gần 3.4% trong số này phải tự nuôi sống bản thân.
Chúng ta không cần nhắm mắt cũng hình dung ra được bọn trẻ bơ vơ, lạc loài như thế nào? Chúng lại không có ông bà. Nghĩa là đứa anh lớn nhất (14 tuổi) phải lo lắng hết mọi việc cho bốn anh em. Cháu trai này đã có ý định tự tử từ năm 2012 – nghĩ là mới 11 tuổi. Nhưng nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc giải quyết bằng cách để sự việc xảy ra rồi thì cách chức, đuổi việc một vài quan chức bé tẹo ở địa phương để xoa diệu dư luận trong và ngoài nước.
Tiền thuế ở những nước Âu Mỹ được dùng cho những chương trình phúc lợi xã hội của người dân thì tiền thuế ở những nước cộng sản được đổ vào trang thiết bị quốc phòng. Sự khác biệt nói lên hình ảnh người bình thường, sống dung hòa với mọi người thì nhu cầu súng đạn trong nhà anh ta không cần thiết lắm. Nhưng kẻ gây thù chuốc oán khắp năm châu bốn biển thì lúc nào cũng sợ bị tầm thù, trả thù. Nên bịt miệng ăn, che mắt thèm mà củng cố quốc phòng thường niên theo anh cả Nga sô.
Một nước Tàu đã hết người Tàu thích rao giảng về đạo nghĩa, hiếu để, vì đã nhiều thế hệ người Tàu bị đánh cắp tuổi thơ bởi đảng cộng sản Trung Quốc. Bây giờ nhìn mặt họ giống người Tàu nhưng không còn là dân tộc đại diện cho văn hóa phương Đông.
Và, bất hạnh thay cho nước cộng sản đàn em “môi hở răng lạnh” với họ lại là chính quê hương Việt nam của chúng ta. Đọc báo trong nước bây giờ ấp lẫm tin tức về việc trẻ em bị ngược đãi, lao động trẻ em bị bóc lột tới báo động. Nhưng nhà cầm quyền cộng sản Việt nam gom góp bạc cắc đi mua tàu ngầm – để đề phòng thằng môi hở răng lạnh với mình chứ đâu quan tâm tới lương dân Việt nam; đặc biệt là “nhi đồng”. Ôi, nói tới tương lai dân tộc thì Tố nịnh đã từng ca ngợi lãnh tụ tới mây xanh, “sữa để em thơ lụa tặng già”.
Chỉ cần đọc báo trong nước hằng ngày đã đủ thấy thực trạng tuổi thơ bị đánh cắp trong nước qua nhiều hình thức, từ sống cùng mẹ trong tù, bị bán từ các “trung tâm bảo trợ”, đến đứng đường tự nguyện bán mình cho những tên nhi dâm ngoại quốc….
Làm sao hiểu nổi khi xã hội trong nước hiện có 36% người trong tuổi lao động đang thất nghiệp, nhưng tỉ lệ trẻ em đi làm dưới tuổi lao động (có em mới 11 tuổi) thì lại chiếm 26% lực lượng lao động ở Sài gòn- theo thống kê của Bộ Thương binh & Xã hội…
Nếu quay ngược kim thời gian thì những đứa trẻ bị bỏ rơi, bạc đãi, ngược đãi, lạm dụng… từ chiến dịch Điện Biên (1954), cộng sản Bắc Việt đã nổi tiếng về việc sử dụng (lợi dụng, lạm dụng) trẻ em trong chiến tranh mà thế giới đã biết. Nếu chỉ tính từ khi thống nhất đất nước, đã bốn mươi năm. Đó là những người đã trưởng thành nhưng trong tâm tư họ có hạnh phúc không khi nhìn lại đời mình.
Phan
Nhưng hoài niệm còn mãi, và mấy ai được hạnh phúc với những gì còn nhớ. Đặc biệt khi nhớ về thời thơ ấu là dễ chịu nhất trong tâm tư con người vì nhớ lại những vụng dại, ngổ nghịch của tuổi thơ thường làm nên nụ cười thầm lặng, một mình. Nhưng điều đó lại là chìa khóa cho một người lớn dễ dàng bỏ qua, tha thứ cho những lỗi lầm của trẻ nhỏ; Điều đó, dường như không giấy mực nào xác nhận mà lại là cáo trạng lớn lao và chính xác cho những người đánh cắp tuổi thơ của người khác. Giả sữ kẻ cắp xe đạp, có thể bồi thường nạn nhân; nếu không có tiền để bồi thường thì đi tù vài tháng. Người tù ra tù coi như đã trả nợ xong; người mất xe đạp cũng có thể mua lại chiếc xe đạp khác để sử dụng. Nhưng đánh cắp tuổi thơ của người khác thì không có cách gì để trả lại được, vì tuổi thơ của mỗi người chỉ có một lần trong đời.
Nhưng tuổi thơ của trẻ nhỏ ở những nước cộng sản, những nước cực đoan,… coi như không có thì không ai chịu trách nhiệm là kẻ cắp!
Một lần nói chuyện với Thiếu tá Đông, con trai của ca sĩ Thanh Tuyền, chồng của nghệ sĩ Ngọc Huyền. Anh Đông phục vụ cho không quân Hoa Kỳ đã lâu. Hôm gặp anh mới từ Iraq về. Trong cuộc trò chuyện với anh, điều tôi còn lưu giữ mãi trong ký ức về trẻ em ở Iraq qua tự sự của anh Đông như sau:
“…vì đất nước Iraq đang chiến tranh nên việc học của trẻ em bị giãn đoạn cũng y như mình thời nhỏ, ở những vùng quê, khi Việt cộng tấn công, pháo kích thì việc học giãn đoạn vì trường học đóng cửa. Bọn trẻ Iraq lang thang, túm năm tụm ba… Những đứa trẻ trai lanh lợi thì chạy việc cho cánh chợ trời, mua bán đủ thứ, kể cả súng đạn; Nhiều đứa bán phim sex cho lính Mỹ. Chúng cứ thấy lính Mỹ thì chìa cái DVD phim sex vô mặt và nói câu tiếng Anh duy nhất: ‘Five dollas’.
Đông còn nhỏ khi ở quê nhà, nhưng hình ảnh đám trẻ con Việt nam thấy lính Mỹ là xúm lại, chơi vui với họ vì tò mò, và họ thích trẻ em nên cho bánh kẹo. Trẻ em càng thích lính Mỹ! Nhưng ở Iraq thì khác, trẻ em Iraq không thân thiện với lính Mỹ.
Trong trại có chương trình tiếp xúc, làm quen để gần gũi với người địa phương. Trại Đông đóng quân thường có những ngày cuối tuần, cho một đám trẻ em Iraq vô chơi với lính. Lính chơi với các em đủ trò thể thao, bơi lội, đá banh, xem phim… Nói chuyện với các em là cách nói nhắn với cha mẹ các em về lính Mỹ, người Mỹ, nước Mỹ đến đây để giúp họ chứ không phải chiếm đóng đất nước họ. Lính Mỹ cho các em bánh, kẹo để ăn cho vui. Nhưng trước khi ra về thì nhiều em xin thêm bánh, kẹo để đem về nhà.
Đông cũng cho vì nhớ lại những hình ảnh trẻ em bản xứ và lính Mỹ ở Việt nam xa xưa. Nhưng Đông hỏi một em trai đã vui chơi với Đông cả ngày, ‘Sau này lớn lên. Em định làm gì?’ Nó trả lời nhanh gọn, dứt khoát… “Lớn lên. Đi đánh Mỹ!”
Truyện kể của Thiếu tá Đông cứ ám ảnh tôi về trẻ em Iraq nói riêng; trẻ em Trung Đông nói chung. Chúng không có tuổi thơ thuần khiết là yêu thương những người chơi chung với chúng, cho chúng bánh kẹo. Những đứa bé đã biết lợi dụng lính Mỹ để được vui chơi một ngày với những phương tiện giải trí mà chúng không làm sao có được; chúng biết cách lấy từ tay kẻ thù miếng bánh ngon, viên kẹo ngọt… để lớn lên trả ơn người lính Mỹ một viên đạn đắng.
Ai đã đánh cắp tuổi thơ hồn nhiên, vô tư của trẻ em Trung Đông? Thậm tệ hơn là nhồi nhét vào những đầu óc non trẻ ấy tư tưởng thù địch từ bé. Những đất nước lầm than vì lãnh đạo cực đoan không bao giờ nhận tội đánh cắp tuổi thơ của đồng bào để biến cả dân tộc thành cực đoan; biến đất nước giàu có tài nguyên dầu hỏa, nhưng phủ lên cơm no áo ấm, hạnh phúc của lương dân một lớp mảnh bom, đầu đạn ngày càng dầy hơn vì chính tư tưởng cực đoan, lòng hận thù vô cớ là nguyên nhân chiến tranh không bao giờ im tiếng súng ở Trung Đông.
Với những nước xã hội chủ nghĩa thì tuổi thơ bị đánh cắp cách khác. Ở Cuba và Bắc Hàn thì trẻ em chết vì bệnh tật không có thuốc men, hay suy dinh dưỡng; ngay cái ăn không có thì nói gì tới vui chơi, giải trí. Đầu óc thơ dại đã khổ hơn cỏ hoang lại bị nhồi nhét từ mẫu giáo – đạo tôn thờ lãnh tụ. Học những điều giả dối về nhân văn; về khoa học không học để phát minh mà chỉ học cách bẻ khóa để ăn cắp những phát minh khoa học của người khác. Điều này chúng ta thấy rõ ở con em của người Việt ở hải ngoại, một em nhỏ xin mẹ cha cho tiền mua bản nhạc em thích trên online – thuộc loại single dish – nghĩa là cái CD chỉ có một bản nhạc mà phải trả 17 dollas. Nhưng tuổi mười lăm, mười bảy của một em nhỏ trong nước Việt nam bây giờ thì nó muốn một ngàn bản nhạc thuộc loại single dish cũng là chuyện nhỏ với trình độ bẻ khóa của nó trên computer để download. Điều đã nhiều người nói, viết về việc cha mẹ Việt ở hải ngoại đi mua dĩa lậu những chương trình ca nhạc của Trung tâm Thúy Nga hay Asia đều bị con cái phản đối, dù chúng không xem. Tuổi nhỏ ở Mỹ được giáo dục hướng tới phát minh thì tuổi nhỏ ở những nước cộng sản được khuyến khích ăn cắp và phá hoại, nên đội quân hacker của Trung Cộng và Bắc Hàn mới hùng hậu và đông đảo tới trở thành bước ngăn phát triển của nhân loại…
Ngay bây giờ ở Mỹ, chúng ta cần Window 7, Window 10 của Microsoft… vẫn phải mua. Nhưng vào những website Việt nam thì có người đã bẻ khóa sẵn cho; cho luôn cả product key tràn lan trên facebook… Vào những trang điện toán của Việt nam thì học hỏi được vô vàn cách bẻ khóa software. Những bạn trẻ trong nước không có ý thức về hành vi đó là trộm cắp, chiếm đoạt trái phép phát minh của người khác, mà họ nghiễm nhiên cho đó là sự chia sẻ khoa học trong giới trẻ. Những người bạn trẻ trong nước không có tội mà tội từ nền giáo dục xã hội chủ nghĩa đã bình thường hóa chuyện trộm cắp thành lẽ tự nhiên trong đời sống xã hội xã hội chủ nghĩa.
Việt nam học từ đâu thói ăn cắp, làm đồ giả, nói láo không chớp mắt, cãi chày cãi cối không ngượng miệng… không ai dạy giỗ nổi những thói hư tật xấu cho người khác bằng Trung Cộng, trên nữa là chủ nghĩa xã hội. Với xã hội xã hội chủ nghĩa, một người được sinh ra phải giao nộp linh hồn cho màu cờ đỏ để đổi lấy hộ khẩu và sổ gạo. Từ đó, chỉ còn mang một nhân dáng giống người chứ không phải người vì bị nhồi nhét những điều sáo rỗng, giả trá từ nhỏ thì làm sao lớn lên thành người.
Ai đánh cắp tuổi thơ của trẻ em dưới những vòm trời xã hội chủ nghĩa? Cũng không ai khác hơn một nhóm người cực đoan, tin vào sự hoang tưởng của chủ nghĩa cộng sản mà làm cho nước tàn, dân mạt; hủy hoại nhân tính con người từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trung Quốc quay mặt với tổ sư Mác-Lê vì để dân đói nghèo hơn nữa thì chúng sẽ nổi loạn. Đất nước nội chiến triền miên theo dòng lịch sử Trung Hoa thì ai cũng đã biết; tranh bá đề vương là dân tộc tính của họ. Nhưng trở thành cường quốc thứ hai thế giới sau hai thập niên phản đồ chủ nghĩa cộng sản thì Trung Quốc cũng chỉ hình thành được tầng lớp tư bản đỏ. Đằng sau những khoe mẽ hào nhoáng với thế giới qua Thế vận hội Bắc kinh năm 2008; đằng sau con cọp biển ở Biển Đông bây giờ là hàng triệu quân nhân vẫn ăn khoai sắn, mì sợi, đi làm nghĩa vụ quân sự với đảng cầm quyền. Những người lính không chiến đấu cho lý tưởng của họ như tinh thần binh sĩ Trung Hoa trong chiến tranh Trung-Nhật, thì người lính Trung Cộng bây giờ khi đụng trận, họ có xả thân cho đảng cộng sản Trung Quốc hay không?
Tại sao người thanh niên Mỹ tự nguyện đi lính, chấp nhận hy sinh ở Việt nam, Iraq? Đó mới thực sự là sức mạnh của quân đội, chứ vũ khí mới là thứ yếu. Nhìn vào Trung Quốc không giống như Ngọa hổ tàng long mà chỉ thấy con cọp giấy mang đầy bệnh tật trong mình. Con cọp chết không để da vì cái quý nhất của con cọp giấy cũng chỉ là giấy. Chính sự cai trị của đảng cộng sản Trung Quốc bắt nguồn từ khoa trương với bên ngoài; nhưng lại không quan tâm đến bên trong là đời sống, tinh thần của người dân, nên Trung Quốc không bao giờ có nội lực như nước Mỹ.
Một tầng lớp mới với tên gọi “tư bản đỏ” trong chế độ, chính sách ưu đãi một thành phần những cơ hội làm tỉ phú. Đằng sau bức màn nhung che mắt thế giới ấy là một xã hội Trung Quốc đang đối mặt với diệt vong vì băng hoại đạo đức xã hội. Người Trung Hoa nhân văn đã sạch bóng trên lục địa mênh mông để dân tộc Trung Hoa đã biến thành Trung Cộng. Đọc lại bài viết “Vô cảm” của bác sĩ Nguyễn Ý Đức trò chuyện cùng độc giả Toronto* mới thấy nhân tính của con người trong xã hội Trung Quốc bây giờ. (Xin trích dẫn cuối bài).
Một bằng chứng mới nhất cho sự đánh cắp tuổi thơ là đánh cắp cả cuộc đời của lương dân nhưng nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn không quan tâm bằng huênh hoang với bên ngoài. Vụ việc xảy ra ở tỉnh Quý châu, tây nam Trung Quốc. Bốn anh em tuổi từ 5 đến 14, đã tự tử bằng thuốc trừ sâu, sau nhiều tháng bị cha mẹ bỏ rơi ở nhà. Mẹ của các em bỏ đi làm thuê nơi thành thị vào tháng 2, 2013. Trong khi cha là Zhang Fangqi cũng phải rời làng đi kiếm sống từ hồi tháng 3. Tuy ông vẫn đều đặn gửi tiền về nhà cho các con sinh sống. Nhưng số tiền quá khiêm nhường so với vật giá đời sống. Trẻ em ở nông thôn Trung Quốc thường bị bỏ lại ở nhà cùng ông bà đã cao tuổi, trong khi cha mẹ lên thành phố kiếm sống. Theo số liệu năm 2013, Trung Quốc có 60 triệu trẻ em có hoàn cảnh giống các em nêu trên, và gần 3.4% trong số này phải tự nuôi sống bản thân.
Chúng ta không cần nhắm mắt cũng hình dung ra được bọn trẻ bơ vơ, lạc loài như thế nào? Chúng lại không có ông bà. Nghĩa là đứa anh lớn nhất (14 tuổi) phải lo lắng hết mọi việc cho bốn anh em. Cháu trai này đã có ý định tự tử từ năm 2012 – nghĩ là mới 11 tuổi. Nhưng nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc giải quyết bằng cách để sự việc xảy ra rồi thì cách chức, đuổi việc một vài quan chức bé tẹo ở địa phương để xoa diệu dư luận trong và ngoài nước.
Tiền thuế ở những nước Âu Mỹ được dùng cho những chương trình phúc lợi xã hội của người dân thì tiền thuế ở những nước cộng sản được đổ vào trang thiết bị quốc phòng. Sự khác biệt nói lên hình ảnh người bình thường, sống dung hòa với mọi người thì nhu cầu súng đạn trong nhà anh ta không cần thiết lắm. Nhưng kẻ gây thù chuốc oán khắp năm châu bốn biển thì lúc nào cũng sợ bị tầm thù, trả thù. Nên bịt miệng ăn, che mắt thèm mà củng cố quốc phòng thường niên theo anh cả Nga sô.
Một nước Tàu đã hết người Tàu thích rao giảng về đạo nghĩa, hiếu để, vì đã nhiều thế hệ người Tàu bị đánh cắp tuổi thơ bởi đảng cộng sản Trung Quốc. Bây giờ nhìn mặt họ giống người Tàu nhưng không còn là dân tộc đại diện cho văn hóa phương Đông.
Và, bất hạnh thay cho nước cộng sản đàn em “môi hở răng lạnh” với họ lại là chính quê hương Việt nam của chúng ta. Đọc báo trong nước bây giờ ấp lẫm tin tức về việc trẻ em bị ngược đãi, lao động trẻ em bị bóc lột tới báo động. Nhưng nhà cầm quyền cộng sản Việt nam gom góp bạc cắc đi mua tàu ngầm – để đề phòng thằng môi hở răng lạnh với mình chứ đâu quan tâm tới lương dân Việt nam; đặc biệt là “nhi đồng”. Ôi, nói tới tương lai dân tộc thì Tố nịnh đã từng ca ngợi lãnh tụ tới mây xanh, “sữa để em thơ lụa tặng già”.
Chỉ cần đọc báo trong nước hằng ngày đã đủ thấy thực trạng tuổi thơ bị đánh cắp trong nước qua nhiều hình thức, từ sống cùng mẹ trong tù, bị bán từ các “trung tâm bảo trợ”, đến đứng đường tự nguyện bán mình cho những tên nhi dâm ngoại quốc….
Làm sao hiểu nổi khi xã hội trong nước hiện có 36% người trong tuổi lao động đang thất nghiệp, nhưng tỉ lệ trẻ em đi làm dưới tuổi lao động (có em mới 11 tuổi) thì lại chiếm 26% lực lượng lao động ở Sài gòn- theo thống kê của Bộ Thương binh & Xã hội…
Nếu quay ngược kim thời gian thì những đứa trẻ bị bỏ rơi, bạc đãi, ngược đãi, lạm dụng… từ chiến dịch Điện Biên (1954), cộng sản Bắc Việt đã nổi tiếng về việc sử dụng (lợi dụng, lạm dụng) trẻ em trong chiến tranh mà thế giới đã biết. Nếu chỉ tính từ khi thống nhất đất nước, đã bốn mươi năm. Đó là những người đã trưởng thành nhưng trong tâm tư họ có hạnh phúc không khi nhìn lại đời mình.
Phan
CON NGƯỜI CỘNG SẢN
KHÁCH TÀU VIÊT THƯ XIN LỖI
sau khi đánh cắp... nắp bồn cầu vệ sinh
(Dân trí) - Hành vi kém văn minh của hai du khách Tàu tại Nhật Bản tiếp tục khiến dư luận nước này bất bình.
>> Du khách Trung Quốc bị chỉ trích bẻ san hô chụp ảnh “tự sướng”
Khách Trung Quốc đốt tiền ở Đà Nẵng bị liệt vào danh sách đen
Hai vị khách người Tàu vừa phải viết thư xin lỗi trước hành vi đánh cắp nắp bồn cầu thông minh khi tới nghỉ dưỡng tại một khách sạn ở Nagoya, Nhật Bản. Được biết, tối ngày 18/10, trên nhiều diễn đàn du lịch ở Tàu xuất hiện thông tin công dân nước này đã lấp cắp nắp bồn cầu đa năng tại khách sạn.
Nắp bồn cầu vệ sinh đa năng bị du khách Tàu lấy cắp
Trước đó, nhân viên tại khách sạn ở Nagoya phát hiện ra vụ việc. Họ lập tức liên lạc với hướng dẫn viên du lịch để yêu cầu du khách trả lại món đồ. Khi người hướng dẫn viên hỏi lại các thành viên trong đoàn, không ai chịu thừa nhận việc lấy cắp trên, buộc khách sạn phải báo cáo sự việc với cảnh sát.
Lá thư xin lỗi của cặp vợ chồng người Tàu.
Cuối cùng, một đôi vợ chồng người Tàu đã lên tiếng thừa nhận sự việc sau khi nắp bồn cầu vệ sinh được tìm thấy trong hành lý của họ. Cả hai đã gửi trả lại nắp bồn cầu, đồng thời viết thư xin lỗi tới toàn thể nhân viên khách sạn, đồng thời họ đưa ra lời hứa “sẽ không để sự việc tái phạm thêm lần nữa”.
Hiện vẫn chưa có thông tin cụ thể về việc xử phạt cặp vợ chồng du khách này. Tuy nhiên, sự việc kể trên càng khiến hình ảnh du khách Tàu thêm “xấu xí” khi tới nước ngoài du lịch.
Huy Hoàng
Đây là Con cháu bác Hồ nổi danh ở hải ngoại ?(Hải)
Khu định cư mới của ‘Việt cộng’ ở Quận Cam, USA”
sau khi đánh cắp... nắp bồn cầu vệ sinh
(Dân trí) - Hành vi kém văn minh của hai du khách Tàu tại Nhật Bản tiếp tục khiến dư luận nước này bất bình.
>> Du khách Trung Quốc bị chỉ trích bẻ san hô chụp ảnh “tự sướng”
Khách Trung Quốc đốt tiền ở Đà Nẵng bị liệt vào danh sách đen
Hai vị khách người Tàu vừa phải viết thư xin lỗi trước hành vi đánh cắp nắp bồn cầu thông minh khi tới nghỉ dưỡng tại một khách sạn ở Nagoya, Nhật Bản. Được biết, tối ngày 18/10, trên nhiều diễn đàn du lịch ở Tàu xuất hiện thông tin công dân nước này đã lấp cắp nắp bồn cầu đa năng tại khách sạn.
Nắp bồn cầu vệ sinh đa năng bị du khách Tàu lấy cắp
Trước đó, nhân viên tại khách sạn ở Nagoya phát hiện ra vụ việc. Họ lập tức liên lạc với hướng dẫn viên du lịch để yêu cầu du khách trả lại món đồ. Khi người hướng dẫn viên hỏi lại các thành viên trong đoàn, không ai chịu thừa nhận việc lấy cắp trên, buộc khách sạn phải báo cáo sự việc với cảnh sát.
Lá thư xin lỗi của cặp vợ chồng người Tàu.
Cuối cùng, một đôi vợ chồng người Tàu đã lên tiếng thừa nhận sự việc sau khi nắp bồn cầu vệ sinh được tìm thấy trong hành lý của họ. Cả hai đã gửi trả lại nắp bồn cầu, đồng thời viết thư xin lỗi tới toàn thể nhân viên khách sạn, đồng thời họ đưa ra lời hứa “sẽ không để sự việc tái phạm thêm lần nữa”.
Hiện vẫn chưa có thông tin cụ thể về việc xử phạt cặp vợ chồng du khách này. Tuy nhiên, sự việc kể trên càng khiến hình ảnh du khách Tàu thêm “xấu xí” khi tới nước ngoài du lịch.
Huy Hoàng
NGƯỜI TRUNG QUỐC TRỘM CẮP
TIN MỚI NHẤT : NGƯỜI TRUNG QUỐC TRỘM CẮP - NGUOI TRUNG QUOC TROM CAP
\
Thứ Sáu, 02/05/2014 19:03 GMT+7
Phạt người Trung Quốc móc túi cựu đại tá trên máy bay 1,5 triệu đồng
(NLĐO)
- Hành khách Wang Xingao, người Trung Quốc móc túi cựu đại tá không
quân trên chuyến bay từ nội địa từ Hà Nội đi TP HCM của Vietnam Airlines
ngày 30-4, đã bị xử phạt vi phạm hành chính 1,5 triệu đồng và trục xuất
về nước.
Bắt 2 người Trung Quốc vào chợ trộm cắp
13.04.2014
Vào
chợ giả mua hoa quả, 2 người Trung Quốc đã có một số động tác làm người
bán mất tập trung và lấy đi 6 triệu đồng rồi bỏ trốn.
Phạm Thị Hoài: Nghề ăn cắp của người Việt ở Đức
Posted on July 30, 2015 by haiz00
Đây là Con cháu bác Hồ nổi danh ở hải ngoại ?(Hải)
Đây là con Ngụy: Vô đây xem con cháu bọn Ngụy ở Hải Ngoại
Có lần tôi đi một phiên tòa xử nhanh hai thanh niên Việt Nam ăn trộm
trong cửa hàng. Một chàng diện Nike Air Max chói chang Một chàng quần bò
Dolce Gabbana rất xước. Cả hai đều mới
sang Đức hai tuần trước, đơn xin tị nạn còn chưa nộp. Họ ăn trộm phụ
kiện, nước hoa và mỹ phẩm trị giá gần 1000 Euro, trong một cửa hàng mà
họ hiển nhiên là những vật thể lạ. Xã hội tư bản tân tiến một thế kỷ
rưỡi sau Marx đã xóa đi nhiều ranh giới giữa các giai cấp đối kháng,
song lại mở rộng khoảng cách giữa các đẳng cấp. Hai thanh niên Nghệ An
này chỉ cần đặt một nửa bàn chân vào cửa hàng đó là toàn hộ hệ thống báo
động của nó đã đỏ rực. Hình phạt cho mỗi chàng là một cuối tuần quản
thúc, tức chiều tối thứ Sáu khăn gói đến Nhà Quản thúc Thanh thiếu niên
ở, chiều tối Chủ nhật được về. Đại diện tư pháp cho thanh thiếu niên cằn
nhằn rằng thế hơi nặng, phạt lao động công ích là đủ rồi. Công tố viên
nhún vai. Thẩm phán thở dài, biết rằng sớm muộn cũng gặp lại họ, nhiều
phần sớm hơn phần muộn.
Người Việt ở Đức hoàn toàn vắng mặt trong những tội phạm cỡ lớn như
khủng bố, đe dọa an ninh quốc gia; rất khiêm tốn trong những tội phạm
tài chính và công nghệ cao; khá thứ yếu trong những lĩnh vực như ma túy,
mại dâm…; quả thật không thể sánh vai các bạn thuộc khối Đông Âu cũ do
Nga dẫn đầu; nhưng lừng danh trước hết với mafia thuốc lá lậu và ngay
sau đó có thứ hạng đáng kể là những người ăn trộm, có lẽ chỉ đứng sau
Rumani. Trong ba năm gần đây, mỗi năm cộng đồng 84.000 người Việt ở Đức
phạm khoảng 5000 vụ hình sự, trong đó trên dưới 1000 vụ là tội ăn cắp.
Để so sánh: cộng đồng Trung Quốc 110.000 người, mỗi năm trên dưới 200 vụ
ăn cắp. Trừ tranh tượng nghệ thuật và bí mật công nghệ, nói chung không
có thứ gì mà người Việt ở đây không thể và không nỡ ăn cắp, từ mèo nhà
hàng xóm, xe nôi, xe đạp, hộ chiếu, thẻ tín dụng, điện, nước, biển số,
đến nhân thân, vịt trời…; làm nấm ăn cắp nấm, làm xúc xích ăn cắp xúc
xích, làm quán ăn cắp tất cả những gì không còn nguyên niêm phong; song
phổ biến nhất là ăn cắp trong cửa hàng.
Có thời, đồ ăn cắp được bày ngang nhiên ở nhiều góc Trung tâm Thương mại
Đồng Xuân, khu chợ Việt Nam nổi tiếng tại quận Lichtenberg. Đồng bào
xúm xít mua đồ tốt giá rẻ, từ hộp thuốc đánh răng, kem dưỡng da, rượu,
cà-phê đến túi xách, áo da, quần bò hàng hiệu. Sự nghiệp bán thuốc lá
lậu đã góp phần xây dựng cộng đồng người Việt ở miền Đông nước Đức trong
25 năm qua, song thời hoàng kim của nó đã là dĩ vãng, trong khi ăn cắp
thì tương lai còn khá vững bền.
Người Việt bán thuốc lá lậu tại Đức – NGUỒN: SPIEGEL TV
Ta hãy nhớ lại: Ngày 10/5/1996, cuộc chiến giành quyền kiểm soát thị
trường thuốc lá lậu ở Berlin giữa các băng đảng Việt Nam – mở màn ngày
6/12/1992 với một xác người Việt ở một bãi đậu xe tại quận Marzahn, Đông
Berlin – đạt tới đỉnh cao ghê rợn: sáu người Việt bị hành hình trong
một căn hộ chung cư cũng ở quận Marzahn, tất cả tay đều bị trói, mỗi
người lĩnh chính xác hai viên đạn của băng Ngọc Thiện bắn vào đầu. Bốn
ngày sau, để “tháng Năm đẫm máu” đi vào lịch sử tội phạm của thành phố
này, băng Quảng Bình “bị hại” đáp lễ bằng ba xác người Việt vứt ở đường
tàu quận Lichtenberg.
Một người Việt bị giết trong các cuộc thanh trừng của mafia thuốc lá – NGUỒN: SPIEGEL TV MAGAZIN
Mafia Việt Nam một thuở, nghe thì kinh, đếm xác nạn nhân càng kinh, song
diện mạo thật thì thô sơ đến bất ngờ. Một số lính, được trìu mến hay
trọng thị hay e sợ hay tất cả trộn lại – chỉ trừ không giễu nhại – gọi
là “bộ đội”, quân chủ lực của băng Quảng Bình, sa vào tay cảnh sát
Berlin không phải như trong phim hình sự, sau những pha săn lùng, đột
nhập nghẹt thở. Mà đơn giản là ngớ ngẩn. Sau một phiên tòa xử tội ăn
trộm một chiếc sơ-mi, một bộ đồ tắm và một chiếc quần short trị giá gần
500 DM trong cửa hàng xa xỉ KaDeWe, bị cáo là một phụ nữ Việt nhất định
không chịu rời khỏi phòng xét xử. Cô run rẩy bảo, “bộ đội” đang chờ
trước cửa tòa án, “bộ đội” sẽ bắt cóc cô để tra khảo, dù cô không khai
gì trước tòa. Một trong những “bộ đội” ấy, súng giắt cạp quần ngẩn ngơ,
gần như lao thẳng vào tay cảnh sát, và ngay trong ngày hôm ấy sào huyệt
của Quảng Bình bị lật tung, một trong hai khẩu Kalashnikov thu được ở đó
chính là vũ khí đoạt mạng ba người ở đường tàu. Vài hôm sau, một trong
những “bộ đội” đang bị truy nã cũng dính lưới, không phải trong khi chôn
sống một ai đó ngoài rừng, mà trong khi ăn trộm tại một cửa hàng ở quận
Lichtenberg.
Ăn cắp vậy là đã góp phần thanh toán mafia thuốc lá, chuyện của người
Việt thường trớ trêu như thế. Không bao giờ nghề buôn lậu thuốc lá của
người Việt ở đây còn đạt tới quy mô huy hoàng của những năm chín mươi đó
nữa. Đức không còn là điểm đến hấp dẫn nhất. Chính ở thời điểm đó, Anh
quốc nổi lên, với lợi nhuận kếch xù từ nghề trồng cỏ. Người Việt nghèo
nhưng nhiều tham vọng. Họ muốn giàu, nhưng phải là giàu một cục, thật
nhanh, thật xổi. Chắt chiu những đồng tiền lẻ để khấm khá dần lên từng
đời như người Tàu ở nước ngoài thì chẳng bõ.
Tháng Ba năm nay, một phụ nữ Việt Nam vừa bị kết án hai năm sáu tháng tù
vì tội bán đồ ăn cắp tổng trị giá 136.000 Euro trong cửa hàng châu Á
này – NGUỒN: MORGENPOST SACHSEN
Tuy một bước đổi đời bằng nghề cầm nhầm thì khó, song ăn trộm ở đây một ngày vẫn hơn đi cày ở nhà cả tháng. Và khác xa huyền thoại, đồng bào tôi – nhất là thế hệ hai chàng Nike và Dolce Gabbana – còn thiếu cần cù hơn cả thiếu kiên nhẫn. Ăn trộm là nghề nhàn, dạo phố, tia hàng, đi làm như đi chơi mà thu nhập không thua đứng đường bán thuốc lá từ sáng sớm đến tối mịt, tức mỗi tháng trên dưới một ngàn Euro, chưa kể tiền nhà, tiền bảo hiểm y tế và khoảng 350 Euro trợ cấp tị nạn, tất cả do nhà nước trả. Môi trường lại vô tận, nhân loại còn thì siêu thị còn, siêu thị còn thì người Việt còn. Và gần như không mất vốn.
Tuy một bước đổi đời bằng nghề cầm nhầm thì khó, song ăn trộm ở đây một ngày vẫn hơn đi cày ở nhà cả tháng. Và khác xa huyền thoại, đồng bào tôi – nhất là thế hệ hai chàng Nike và Dolce Gabbana – còn thiếu cần cù hơn cả thiếu kiên nhẫn. Ăn trộm là nghề nhàn, dạo phố, tia hàng, đi làm như đi chơi mà thu nhập không thua đứng đường bán thuốc lá từ sáng sớm đến tối mịt, tức mỗi tháng trên dưới một ngàn Euro, chưa kể tiền nhà, tiền bảo hiểm y tế và khoảng 350 Euro trợ cấp tị nạn, tất cả do nhà nước trả. Môi trường lại vô tận, nhân loại còn thì siêu thị còn, siêu thị còn thì người Việt còn. Và gần như không mất vốn.
Một cái kìm cắt tem từ. Một cái túi lót lớp giấy bạc để tránh báo động
khi qua cổng từ, gần đây người Việt giàu sáng kiến còn khâu luôn lớp
giấy bạc vào mặt trong áo khoác. Và không cần qua đào tạo. Hôm trước
theo đàn anh đàn chị đi tia, hôm sau tự mình đã ngon lành khánh thành
công ty một thành viên hai ngón. Và ít mạo hiểm. Khung hình phạt cao
nhất là năm năm, nhưng có ăn cắp cả Nữ thần Chiến thắng lẫn bốn con ngựa
trên cổng thành Brandenburger Tor cũng chưa chắc được tuyên bản án ấy.
Xã hội càng yên thì luật pháp càng hiền. Trong thực tế, không mấy người
Việt phải ngồi nhiều hơn vài ba tháng. Phần lớn chỉ phạt tiền, mỗi tháng
trả dần vài ba chục, án tù thường chuyển thành chế độ hưởng án treo.
Thanh thiếu niên chưa tròn hai mốt tuổi thường chỉ bị cảnh cáo, phạt lao
động công ích, tức dọn dẹp lau chùi ngay trong trại, hay quản thúc cuối
tuần. Có lần tôi suýt phì cười vì bản án dành cho một thanh niên Việt
Nam ăn cắp 17 gói cà-phê: bắt về trại đi học tiếng Đức!
Thế là hôm ấy khi ra cửa, tôi bảo, hai cháu chịu khó đi học tiếng Đức nhé, đừng ăn trộm nữa.
Chàng Dolce Gabbana đáp, bọn phát-xít, nó xử oan, cháu có cầm đồ đâu.
Cầm đồ ở đây không phải là cầm đồ mà là cầm đồ. Tôi đã tưởng mình khá
thông thạo ngôn ngữ của đồng bào ở Berlin, song có lần hỏi một chị làm
nghề gì và nghe câu trả lời, em nhặt tay nhặt chân, tôi vẫn hơi sững sờ.
Ám ảnh của chiến tranh mấy chục năm trước vụt hiện về: đó là một buổi
sáng, từ hầm trú ẩn nơi sơ tán chui lên, đứa trẻ khi ấy là tôi cùng
người lớn và những đứa trẻ khác lặng lẽ đi nhặt những mẩu chân tay vô
danh, có cái là nguyên một tảng ở khúc hông và bẹn, văng rải rác gần một
hố bom mới toanh. Nhưng ở Berlin, người phụ nữ Việt Nam nọ là chủ một
tiệm làm móng, việc thường trực là lấy khóe, tỉa da thừa ở móng tay móng
chân.
Tôi hỏi, cái gì cầm đồ?
Chàng Nike nhanh nhẹn giải thích, đồ thì cháu cầm, thằng này – hất hàm
về phía Dolce Gabbana – chỉ bóc tem thôi. Nhưng cháu đã ra đến cửa đâu.
Luật pháp đéo gì, bất công!
Tôi bảo, bóc tem với cầm đồ thì đúng là định ăn trộm rồi, oan với ai nữa.
Dolce Gabbana trừng mắt: Cô bênh bọn Đức lợn hử? Người Việt thì phải giúp người Việt chứ! Cô có phải người Việt không hử?
Vâng, tôi đúng là người Việt, sống ở Đức. Tháng trước, ở TTTM Đồng Xuân, trong lễ hội “40 năm hội nhập và phát triển”
của người Việt ở Đức, ông Nguyễn Thiện Nhân, tốt nghiệp đại học và bảo
vệ luận án tiến sĩ tại Đức, thay mặt chính phủ Việt Nam cảm ơn sự giúp
đỡ tận tình của chính phủ và nhân dân Đức, rồi kết thúc bài phát biểu
bằng tiếng Đức của mình với lời gửi gắm đến cộng đồng người Việt đang
sống ở đây: Đồng bào hãy chứng tỏ lòng biết ơn nước Đức bằng cách tôn
trọng luật pháp Đức. Hóa ra là chuyện ơn huệ. Vậy việc hai khách du lịch
Việt Nam vừa ăn trộm ở Zürich thật không đáng để làm ồn. Họ vừa không
có gì mang ơn Thụy Sĩ để phải tôn trọng luật pháp nước này, vừa quá vặt
vãnh so với hệ thống công ty hai ngón, chẳng hạn của người Việt ở Đức.
Theo BaotreOnline
Khu định cư mới của ‘Việt cộng’ ở Quận Cam, USA”
Posted on August 29, 2016 by editor — 1 Comment
Trần Phong Vũ
Từ những thông tin tại
chỗ, ông ghi nhận được cả những sinh hoạt từng ngày, từng mùa của những
người mới tới. Từ chuyện tìm nơi an ninh, sang trọng để mua nhà lớn nhà
nhỏ tới việc chọn trường ốc cho con cháu,…
Bạn bè từ quốc nội vừa gửi cho tôi bài viết mới của tác giả Tuấn Khanh
với tựa đề nêu trên. Đọc đi đọc lại tới lần thứ ba, tôi không khỏi suy
tư.Trước hết vì những điều tác giả thấy xảy ra ngay tại Sài Gòn Nhỏ, nơi
được mệnh danh là thủ đô của tập thể người Việt Nam tị nạn hải ngoại và
cũng là nơi cư ngụ của gia đình, con cái tôi. Chỉ một sự kiện bài được
một tác giả trẻ đã thành danh ở trong nước viết đã là một thôi thúc
khiến tôi phải quan tâm và không thể không lên tiếng. Ngoài giá trị
chứng từ của một bài viết nặng ký, tác giả còn cho tôi thấy tinh thần
dân tộc, lòng yêu nước, thương nòi và thái độ bao dung nhưng thẳng thăn,
can trường dám nói lên sự thật của ông.
Tuấn Khanh là ai?
Ông tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh sinh ngày 1-10-1968, và là một tác giả
nổi tiếng từ khi còn rất trẻ. Ngoài đam mê âm nhạc, Tuấn Khanh còn là
một nhà báo có hạng. ông đã cộng tác với nhiều tờ báo trong nước, như
Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Lao Động.
Ông đã được đài truyền hình Rai Italia của Ý trao tặng giải thưởng về âm
nhạc. Vào năm 2001, ông được chọn là một trong 10 nhân vật trẻ của Đông
Nam Á trong một cuộc bình chọn do tạp chí East Magazine tổ chức. Năm
2005, đài VTV mời Tuấn Khanh điều khiển trò chơi truyền hình mang tên
Trò chơi âm nhạc. Năm 2007 ông là thành viên Ban giám khảo chương trình
Việt Nam Idol.
Gần đây, Tuấn Khanh tuyên bố sẽ chấm dứt sáng tác tình ca phù phiếm để
chuyển qua những đề tài xã hội. Điều đáng chú ý là ông sẽ không xin phép
kiểm duyệt các đĩa nhạc do ông thực hiện. Điều này có nghĩa là những
sáng tác của ông hoàn toàn tự do bay bổng không chịu bất cứ ràng buộc
nào của bộ Thông Tin Tuyên Truyền nhà nước.
Trong mấy năm qua, kể từ khi Bắc Kinh công khai có những hành vi xâm
lăng biển đảo của Việt Nam(1), tác giả Tuấn Khanh đã viết những ca khúc
chống Tàu cộng, khơi gợi tình yêu nước, chống ngoại xâm và được giới trẻ
trong nước nhiệt liệt hưởng ứng. Điển hình như bài “Trái Tim Việt
Nam”(2) hiện được google post lên mạng như một tác phẩm tiêu biểu của
ông dưới dạng một video link có kèm hình ảnh hàng trăm thanh niên nam nữ
quốc nội đang cuồng nhiệt tham dự một cuộc biểu tình chống Trung cộng
xâm lăng Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.
Bản nhạc có những lời ca như “Việt
Nam phải vẹn tuyền / Không thẹn cùng tổ tiên… Hãy cất tiếng nói để mãi
lưu truyền / Lời thề giữ lấy nước Nam vẹn tuyền… Em có nghe chăng nước
non Việt Nam / Rên xiết phân ly trong tay kẻ gian…Nếu có chết ngày nào /
Thì cho thấy đất nước tôi Tư Do…”
Ngoài việc sáng tác nhạc, ông cũng viết nhiều bài mang tính phản biện
liên quan tới hiện tình đất nước. Bên cạnh những bài mang nội dung chống
bọn bá quyền Bắc Kinh, ông còn viết những bài về thảm họa cá chết hàng
loạt ở Vũng Áng, Hà Tĩnh mới đây.
Đánh giá về tính đấu tranh, dư luận trong nước cho rằng nhạc của Tuấn
Khanh và cả những bài viết của anh, đã tác hại cho chế độ không kém nhạc
Việt Khang. Nhưng sở dĩ nhà nước bắt giam Việt Khang mà không dám động
đến ông chỉ vì ảnh hưởng của ông trong cũng như ngoài nước quá lớn. Hà
Nội sợ bứt giây động rừng nên đành ngậm miệng. Tương tự như trường hợp
cô giáo Trần Thị Lam với bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?” Không bắt, không trù giập được thì “tha làm phúc”!
Nội dung bài viết mới của Tuấn Khanh
Mở đầu, Tuấn Khanh viết:
“Trên con đường dài dẫn ra biển Hungtington Beach, Quận Cam, có những khu nhà rất đẹp mà chủ hầu hết là người Việt… Bạn tôi, một người đã sống ở nơi này, gần bằng thời gian của thế hệ người Việt đầu tiên đặt chân đến Mỹ sau tháng 4/1975, nói rằng đó là những khu định cư mới của ‘Việt cộng’.Những ngôi nhà đó được mua rất nhanh trong khoảng vài năm gần đây – mỗi căn từ 450.000 cho đến hơn 1 triệu USD, cho thấy có một nguồn ngoại tệ khổng lồ được chuyển ra khỏi nước Việt Nam, để xây dựng một ước mơ thầm kín và khác biệt bên ngoài tổ quốc của mình. Phần lớn những người này đều nói giọng miền Bắc, mới. Họ có một lối diễn đạt thời thượng thật dễ gây ấn tượng.Anh bạn tôi, một người làm real estate – môi giới mua bán bất động sản ở Mỹ – kể lại cuộc trò chuyện với một khách hàng như vậy, và được biết nhà được mua ngay bằng tiền mặt, mà người khách dằn giọng “tiền tươi!”
Đường vào t.p. Huntington Beach. Nguồn: www.donovanblatt.com
Cũng
như phần đông bà con tị nạn ở Mỹ, tôi từng nghe rất nhiều tin đồn tương
tự về chuyện thời gian gần đây những đại gia trong nước, trong số không
thiếu những tay tham nhũng gộc thuộc cơ chế cầm quyền Hà Nội, Sài Gòn đã
và đang ồ ạt qua sinh sống và mua những căn nhà cả triệu mỹ kim ở các
khu sang trọng tại Sài Gòn Nhỏ thuộc miền nam tiểu bang California, Hoa
Kỳ. Tuy nghe vậy nhưng không mấy ai biết rõ thực hư ra sao. Vì thế khi
đọc bài viết của tác giả Tuấn Khanh từ quốc nội gửi ra tôi không khỏi
ngạc nhiên sửng sốt. Thật ra đây không phải là lần đầu tiên tôi mang cảm
giác này. Ngày từ cuối năm 2015, thời gian Bộ Chính Trị đảng cộng sản
Việt Nam đang ráo riết chuẩn bị Đại Hội đảng lần thứ 12, tôi đã từng một
lần choáng váng khi đọc trên mạng Chân Dung Quyền Lực(i) đưa tin chi
tiết kèm theo hình ảnh tiết lộ về sản nghiệp đồ sộ của ông Nguyễn Xuân
Phúc, trong đó có những căn biệt thự khang trang, bề thế ở ngay Quận Cam
vào thời gian ông ta còn giữ chức phó Thủ tướng dưới trào Nguyễn Tấn
Dũng.
Bài viết của Tuấn Khanh không chỉ nói tới những đại gia Việt Nam ẵm tiền
từ trong nước qua tậu biệt thự ở nam California mà còn ở nhiều nơi khác
như Texas chẳng hạn. Tác giả cho hay:
“Không chỉ ở nơi đó, nhiều năm gần đây, cộng đồng Việt Nam ở Texas cũng hay nói với nhau rằng khu Bellaire đang ngày càng nhiều những người chạy khỏi Việt Nam hợp pháp như vậy. Thậm chí, không chỉ xuỳ tiền nhanh để mua nhà – lớp người này rất nhiều tiền – họ mua luôn các cơ sở thương mại. Từ các tiệm nail với giá vài chục ngàn cho đến các siêu thị giá trên chục triệu USD, một thế hệ khác chính kiến, khác tư duy đang len lỏi vào các cộng đồng Việt Nam chống Cộng để mong an cư và sinh tồn. Nơi quần cư cho tiếng Việt, văn hoá Việt không chấp nhận chế độ cộng sản mà tác giả Trầm Tử Thiêng từng gọi là ‘một Việt Nam bên ngoài Việt Nam’”.
Tuân Khanh cho biết thêm:
“Có lẽ vì vậy, mà ở các khu người Việt, biển quảng cáo của các luật sư di trú ngày càng nhiều. Trên đài phát thanh hay truyền hình cũng ra rả các lời mời tư vấn tìm hiểu cách lấy thẻ xanh để được ở lại nước Mỹ.”
Đứng trên lãnh vực kinh doanh, thương mại thuần túy, chẳng ai trách giới
luật sư hay các cơ quan truyền thông quảng bá cho những dịch vụ này.
Giản dị vì đây thuộc phạm vi nghề nghiệp của họ, là một trong những
dịch vụ làm ăn để kiếm sống của giới này. Vả chăng ngoài những tay tham
nhũng trong hệ thống cầm quyền đảng và nhà nước CSVN và đông đảo những
kẻ thời cơ biết ăn chia với những kẻ quyền thế để làm giầu trên xương
máu dân đen rồi tìm đường qua Mỹ, cũng còn có nhiều đồng bào qua định cư
tại đây là bà con thân nhân của những người đã bỏ nước đi tị nạn sau
cơn hồng thủy 75.
Tuy nhiên, nếu nhìn sâu vào đàng sau những hiện tượng khác lạ trong giới
làm truyền thông, cách riêng các hệ thống truyền hình đang nở rộ ở nam
bắc California, những người còn quan tâm tới thân mệnh quê hương, dân
tộc không thể không nhận ra những chỉ dấu cần đặt câu hỏi. Có người nói,
cách tốt nhất để phân biệt lập trường chính trị giữa các đài truyền
hình, phát thanh là hãy quan sát cách chọn tin, đưa tin, nội dung các
chương trình hội luận thời sự và dàn xướng ngôn của mỗi đài là đủ rõ.
Trên thực tế có đài chỉ loan tin thế giới và những loại tin “cán chó” ở
quốc nội mà luôn tránh né những tin được đảng và nhà nước CSVN coi là
“nhạy cảm”. Cụ thể trong thời gian gần đây, những đài này không hề đưa
tin về những cuộc biểu tình với hàng chục ngàn đồng bào ở Nghệ Tĩnh
trương cao khẩu hiệu đỏi hỏi nhà cầm quyền phải minh bạch thảm họa cá
chết đồng loạt và trục xuất vĩnh viễn Formosa khỏi Vũng Áng. Giới hâm mộ
âm nhạc trong cộng đồng cũng than phiền về một trung tâm nọ đã dùng
tiền và những lời hứa hẹn để mua đứt những ca sĩ nổi tiếng từng hát
những bản nhạc đấu tranh chống Trung cộng xâm lược và một chính quyền
“hèn với giặc, ác với dân” từng làm rung động lòng người thưởng ngoạn
trong và ngoài nước. Giữa kẻ bị mua và tổ hợp dùng tiền từ đâu đó, âm
mưu làm bặt đi những tiếng hát đấu tranh được coi là vưu vật của cộng
đồng tị nạn, ai nặng tội hơn đối với những người không chấp nhận CS, mọi
người đều đã rõ(ii).
Với những lời lẽ mỉa mai, châm biếm, tác giả Tuấn Khanh đã can đảm, công
khai chỉ rõ bộ mặt gian manh, giả danh yêu nước thương nói của những kẻ
từng lớn tiếng tuyên bố là “chống Mỹ cho đến cái lai quần” là “đánh cho
Mỹ cút, Ngụy nhào” nhưng ngày nay lại là những kẻ đang tìm đường qua ấn
thân trên đất nước kẻ thù và cũng là nơi định cư cả triệu đồng bào một
thời bị họ coi là “ngụy” là “tay sai đế quốc Mỹ”!
Bài viết cho hay:
“Sẽ là một điều chua chát, nếu nhìn lại lịch sử. Dù nước Mỹ vẫn bị gọi là thua trận và bị “đuổi” khỏi Việt Nam theo các văn bản tuyên truyền, nhưng đích đến giờ đây của nhiều quan chức Việt Nam vẫn là nước Mỹ chứ không là đồng minh số một Trung Quốc. Thậm chí các quan chức, giới tư bản đỏ hiện tại của Việt Nam còn bỏ ra rất nhiều tiền để được trụ lại quốc gia thù địch đó, cho họ và cho con cái của họ.”Nhiều người Việt Nam sống bằng đồng tiền lương thiện ít ỏi của mình tại Mỹ đã ngạc nhiên hỏi rằng “họ là ai, sao giàu vậy”. Thật không dễ trả lời…”
Đan cử chứng từ của một người bạn đang sống đời tị nạn ở Mỹ, Tuấn Khanh viết:
“Anh Mến, một người sống ở Kansas hơn 10 năm, trong một cuộc gặp ngẫu nhiên đã thảng thốt kể rằng ông chứng kiến những người Việt đến Mỹ mua một lúc 2, 3 căn nhà. Thậm chí họ còn luôn đón mua hàng chục chiếc iPhone đời mới nhất để gửi về, so với ông đến nay vẫn còn mắng con khi thấy chúng xài viết chì được phân nửa đã vứt đi.”
Trước câu hỏi ngẩn ngơ, ngỡ ngàng của người bạn tên Mến là “Việt Nam bây
giờ dễ kiếm tiền lắm hả anh?” tác giả bản nhạc “Trái Tim Việt Nam” cảm
thấy lúng túng, khó giải thích cho bạn hiểu, dù cả hai đều là người Việt
và cùng đang dùng ngôn ngữ mẹ để đối thoại với nhau.
Xác định rằng việc kiếm tiền trong nước không dễ dàng thì lý giải sao
cho thông trước bắng chứng ông Mến đã thấy tận mắt là có những người
Việt vừa chân ướt chân ráo tới Mỹ đã có thể mua một lúc 2, 3 căn nhà “to
đùng” bằng “tiền tươi” không cần phải vay ngân hàn! Nhưng nếu bảo rằng
dễ thì biết trả lời với bạn ra sao khi ở Việt Nam ngày nay hàng triệu
gia đình dân vẫn đang phải sống dưới mức nghèo khó? Mà bằng cách nào có
thể giấu bạn khi hàng ngày gần như mỗi người đều thấy trên mạng hình ảnh
những em bé phải giãi nắng dầm mưa được cha mẹ bọc trong bao nylon kéo
qua sông suối, hoặc run rẩy bước trên những cây cầu khỉ mong manh, sau
đó lê la ngồi học dưới những mái trường dột nát, kể cả những lớp học lộ
thiên!
Tác giả viết:
“Thật khó mà giải thích với ông Mến, dù cùng là người nói tiếng Việt với nhau. Vì ngay ở quê hương lúc này, hàng triệu người đang nuốt các bữa ăn công nhân hàng ngày tệ bạc đến mức như công khai bào mòn tuổi xuân của họ. Những vùng quê đói nghèo phải xin gạo trợ cấp mỗi năm, nhưng đầy dẫy các quan lớn vẫn lên nhà cao, tậu xe to và viết các dự án xây tượng đài hàng ngàn tỉ.”
Tuy đang sống trên đất nước xa xôi bên kia bờ biển Thái Bình, nhờ tai
mắt của bạn bè thân sơ, tác giả Tuấn Khanh vẫn có được những thông tin
thật chính xác để nhận biết những gì đang xảy ra bên ngoài đất nước liên
hệ tới những con người, những sự việc trong sinh hoạt hàng ngày bên
cạnh anh. ông thấy được con số những người bỏ nước qua sống ở Mỹ hiện
nay không còn là mấy chục hay một vài trăm… mà hàng ngàn, hàng chục ngàn
người. Hiển nhiên nó đã trở thành một cao trào. Trong số những người
đi, không chỉ giới hạn những thành phần tạm coi như là làm ăn lương
thiện, nay có tiền thấy cần phải rời xa mảnh đất của tổ tiên nhưng bất
hạnh đã trở thành hang ổ những cạm bẫy không chỉ đe dọa an sinh mạng
sống bản thân mà còn di lụy tới tương lai con cháu họ sau này. Hơn thế,
nó còn bao gồm cả những khuôn mặt lớn nhất của chế độ hiện nay, những kẻ
thừa mứa tiền bạc, đến lúc phải tìm kế “hạ cánh an toàn”. Điều mỉa mai
đối với tác giả là nơi “hạ cánh an toàn” của những tay đầu sỏ này không
phải là quê hương của ông bạn “bốn tốt” và “mười sáu chữ vàng” Đại Hán
mà lại là xứ Cờ Hoa, đất nước của “ba đời Tổng Thống” mà họ từng tuyên
bố vung vít đã đánh bại và không giấu diếm thái độ khinh khi, miệt thị!
Từ những thông tin tại chỗ, ông ghi nhận được cả những sinh hoạt từng
ngày, từng mùa của những người mới tới. Từ chuyện tìm nơi an ninh, sang
trọng để mua nhà lớn nhà nhỏ tới việc chọn trường ốc cho con cháu, dĩ
nhiên là trường tốt không chỉ về mặt học vấn mà cả về chuẩn mực luân lý,
đạo đức…
Một đoạn trong bài, tác giả Tuấn Khanh ghi lại lời bạn anh:
“Trường St. Polycarp(3) ở thành phố Stanton, Quận Cam, là một trong những trường tư thục Công giáo mà nhiều gia đình người Việt dù tốn tiền nhưng vẫn hay gửi con vào vì mong chúng học kiến thức, và học được cả đức tin. Thỉnh thoảng, cũng có những gia đình đem con đến và cho con cái làm quen với Jesus thay cho học tin vào một lãnh tụ. Năm ngoái, chiếc xe đỗ trước cửa trường đưa đứa trẻ vào học, có cả ông bà theo để xem nơi học thế nào. Đó là những người vẫn còn mang đậm phong thái cán bộ với quần áo, giày dép vả cả giọng nói.Khi gia đình này bước qua sân trước, vòi nước tự động tưới cây bất ngờ bị hư, nên làm tràn ra một vũng nước. Người phụ nữ lớn tuổi bước qua, càu nhàu “Thế này là không được. Phải nói nhà trường xem lại coi chứ thế này thì đi hư hết cả giày”. Thấy tôi là người Việt, đang đứng gần ở nơi bán hàng gây quỹ cho trường, nên bà nói luôn, “Anh có làm ở đây không, ông nên nói với ban giám hiệu.”
Đúng là cung cách hành xử của một công dân biết rõ quyền của mình. Có
điều là khi đang nắm quyền sinh ở trong nước tuồng như các ông lớn, bà
bé này vì vô tình hay hữu ý đều chỉ biết đến quyến nạt nộ dân đen thôi!
Sau khi ghi lại câu chuyện trên đây, thấy chuyện người, Tuấn Khanh nghĩ tới chuyện xảy ra thường xuyên ở quê nhà, ông viết:
“Tôi nhớ đến Sài Gòn, Hà Nội… nhớ những ngày nước ngập lụt lội đến tận giường. Nhớ đến những mùa nhập học hàng ngàn phụ huynh vật vã, lê lết khắp nơi chạy trường cho con mình, dù phải gửi lót tay. Có lẽ người Việt đã quen sống vất vả và chịu đựng nên mọi thứ quen dần, đến khi tiếp cận với một đời sống tự do và dân chủ, ai cũng hăng hái tìm và thể hiện quyền của mình. Dĩ nhiên vòi nước được sửa ngay sau đó không lâu, mà ban giám hiệu không đổ thừa cho biến đổi khí hậu hay thiếu tiền ngân sách. Gia đình đó khi quay lại hôm sau, chắc sẽ hài lòng và nghĩ mình được tôn trọng, khác với những ngày tháng mà bao nhiêu người dân ở quê hương giận dữ với hiện trạng nhưng thấy mình luôn bị biến thành trò hề. Bài học của cuộc sống đơn giản hiện rõ trên gương mặt của gia đình đó, mà tôi thấy, là sự tự tin và quyền của con người, có thể rất khác khi họ ở Việt Nam, bị cảnh sát giao thông ngoắc xe vào vô cớ, đã vội móc túi tìm vài trăm ngàn để lướt qua nan đề thật nhanh,”
Nhắc lại câu nói nổi tiếng của nhà văn John Mason và cũng là một nhà
hùng biện “You were born an original. Don’t die a copy – Bạn được sinh
ra như một nguyên bản, xin đừng chết như một phó bản”, tác giả Tuấn
Khanh đẩy suy tư của ông đi thật xa tít tắp tới bến bờ lịch sử đất nước,
giống nòi với “những người muôn năm cũ” và gần gũi như mấy triệu bà con
đã liều mình vượt biên vượt biển, coi nhẹ mạng sống tìm đường chạy
thoát khỏi nơi có thể làm họ mất bản sắc, cho dẫu đấy là nơi chốn nhau
cắt rốn của mình.
Ông viết:
“Đã có rất nhiều người ra đi, để được thấy mình và con cái của mình được sống như là chính mình, như một nguyên bản. Nhiều năm sau 1975, vẫn có những dòng người ra đi rất xa khỏi quê hương để tìm lại phần nguyên bản của mình… Lịch sử thế giới chắc sẽ lại phải ghi thêm một chương kỳ lạ. Con người và muông thú lên thuyền ông Noah để gột sạch mình cho một thế giới mới, nhưng người Việt hôm nay lại lặng lẽ lên chiếc thuyền mong cứu chuộc nguyên bản của đời mình, cứu chuộc một cuộc sống đơn giản, thật thà và tự do.”
Con người luôn bao dung, giầu tình thương và tinh thần nhân bản nơi Tuấn
Khanh đã khiến ông nhận ra không phải chỉ những người từ bao đời nay
vốn mang sẵn tính “thiện bẩm sinh” mà ngay cả những kẻ do cảnh ngộ nhất
thời bị biến thành máu lạnh, sẵn sang làm điều gian ác nhưng khi đã
“buông dao đồ tể” bỏ nơi tăm tối tìm về ánh sáng… cũng chỉ là để tìm lại
chính mình.
Nhận định của tác giả trong đoạn văn trên đây khiến tôi nghĩ tới tâm sự
của ca sĩ Mỹ Lệ trong một bài viết trên mạng vừa đọc được hôm rồi mang
tiêu đề “Vì sao người Việt Quốc Nội lại đua nhau ‘tháo chạy’ khỏi thiên đường Cộng Sản?”
Được biết Mỹ Lệ là một ca sĩ nổi tiếng. Bà có hai con gái ở tuổi lên 10.
Vì thương con, lo lắng cho tương lai của con, bà gác sự nghiệp ca hát
qua một bên, tìm mọi cách cho con qua Đức du học. Mỹ Lệ tâm sự: “Là
một người mẹ không ai muốn xa con, nhất là khi con mới hơn 10 tuổi.
Nhưng, chỉ có cách đó, tôi mới bảo vệ được con mình khỏi bị đầu độc!”
Nói tới từ “đầu độc” ở đây, Mỹ Lệ không chỉ nói theo nghĩa tinh thần,
tâm linh hay trí tuệ. Điều này vốn dĩ là mối lo tâm phúc của những người
dân phải ép mình sống dưới chế độ cộng sản. Bà muốn nói tới những loại
thực phẩm “bẩn” mà từ trên xuống dưới người ta đang toa rập với nhau
tiếp tục chế biến, nuôi trồng bằng mọi thứ độc dược giết người để bán ra
thị trường. Nó len lỏi vào tủ lạnh, vào xó bếp, trên mâm ăn để giữa
người với người, thản nhiên giết nhau tư từ trên đất nước ta hôm nay.
Tinh thần nhân bản và lòng yêu thương của Tuấn Khanh không thể cột chặt
ông ở khía cạnh bao dung. Vì thế khi nghĩ tới cảnh hàng hàng lớp lớp
người ta chen nhau bỏ nước ra đi cho dù để bảo vệ nguyên bản, ông không
khỏi thảng thốt nêu lên câu hỏi: “Nhưng
tại sao chúng ta không thể là nguyên bản ở quê hương mình? Vì sao chúng
ta phải sống không là chính mình nơi chôn nhau cắt rốn của mình?”
Kết thúc, Tuấn Khanh viết:
“Tôi đang hình dung người đàn ông có xe hơi đắt tiền không bỏ xe giữa con đường ngập nước ở Sài Gòn mà ông ta cùng nhiều con người nữa đang ướt sủng sẽ đi thẳng đến cơ quan nhà nước để hỏi rằng vì sao? Tôi hình dung gia đình Việt Nam di cư đến Mỹ đó sẽ không chất vấn một ban giám hiệu ngoại quốc về của công, mà sẽ cất tiếng nói như vậy trên chính đất nước mình? Một cuộc sống thật và đơn giản – nguyên bản vì sao đang phải bị đánh tráo bằng những phiên bản vô hồn và nhạt nhẽo?Chúng ta được dặn dò hãy chỉ nên lo làm ăn, và đừng quan tâm đến chuyện gì khác. Và nhiều người Việt đã mất rất nhiều thời gian để làm được điều đó rồi giật mình nhìn thấy thế giới này không chỉ no đủ là tất cả. Không ít người giàu có, thậm chí quan chức đã dồn tất cả để ra đi và đổi một cuộc sống khác. Thậm chí đó là cuộc sống mà trước đây họ bảo vệ và coi những kẻ từ bỏ, ra đi là thù nghịch.Cuộc sống đang như vậy. Rất hiện thực. Khi viết một bài trước đây, một bạn trẻ, có khuynh hướng dư luận viên, đã nhắn cho tôi “vậy cứ nghèo đi, nghèo hoài đi”. Dĩ nhiên, đó lại là một khái niệm khác, mà nếu hiểu những gì tôi viết ắt bạn trẻ ấy sẽ không nói như vậy. Vì câu hỏi của tôi rất rõ rằng chúng ta – người Việt, đang cố giàu lên và sau đó sẽ là gì?”
Rời màn hình tôi tự hỏi: liệu những lời tâm huyết của người tác giả này
có chạm được tới trái tim, khối óc của những con người vô cảm, những kẻ
thờ ơ với con người, với vận mạng dân tộc, nhưng tên tay sai chạy cờ,
những dư-luận-viên, nhất là những kẻ đang nắm giữ vận mạng đất nước hôm
nay?
Nam California cuối tháng 8, 2016
Nam California cuối tháng 8, 2016
Xử vị thành niên 'cướp bánh mì' nặng hay nhẹ?
- 20 tháng 7 2016
Mức án tòa vừa tuyên đối với hai bị cáo vị thành niên phạm tội 'cướp
bánh mì' ở TP. Hồ Chí Minh là 'hợp lý, hợp tình', tuy nhiên mức đề nghị
của Viện Kiểm sát trước đó là 'quá nặng' và dựa trên 'nhận định sai',
trong khi cần xem xét lại khâu tạm giam, tạm giữ nói chung đối với đối
tượng bị cáo, bị can vị thành niên, theo bình luận của các luật sư với
BBC.
Ngày 20/7, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh đã tuyên phạt
bị cáo Nguyễn Hoàng Tuấn (sinh năm 1998) mức án 10 tháng tù, bị cáo Ôn
Thành Tân (cũng sinh năm 1998) 8 tháng 20 ngày tù, bằng thời gian tạm
giam, về tội cướp giật tài sản, theo truyền thông Việt Nam.Theo cáo trạng, "trong thời gian được tại ngoại để điều tra về hành vi Trộm cắp tài sản, Tuấn bỏ nhà đi lang thang. Khuya 17/10/2015 Tuấn gặp Tân, cùng chơi Internet tới sáng hôm sau thì rủ nhau đến nhà hàng ở quận Thủ Đức kiếm việc làm," VnExpress cho hay.
Trước đó vẫn theo truyền thông Việt Nam, cơ quan giữ quyền công tố trong xét xử vụ án đã đề nghị các mức án nhiều năm với hai bị cáo vị thành niên này khi họ phạm tội.
"Viện Kiểm sát Nhân dân quận Thủ Đức sau đó truy tố Tân và Tuấn ở khung hình phạt 3-10 năm tù với tình tiết "dùng thủ đoạn nguy hiểm" cướp giật tài sản. Thời điểm phạm tội cả hai chưa thành niên," VnExpress viết.
Hôm thứ Tư, báo Tiền Phong cũng đưa tin, cho hay: "Cả hai bị tạm giam từ ngày 18/10/2015. Sau đó, VKSND quận Thủ Đức ra cáo trạng truy tố Ôn Thành Tân và Nguyễn Hoàng Tuấn về tội "Cướp tài sản" theo Khoản 1 điều 136 Bộ Luật hình sự (khung hình phạt 1 – 5 năm tù)."
Còn tờ Dân Trí nói: "Tòa xác định 2 thanh niên cướp bánh mì trên đường đi tìm việc làm là tội danh “cướp giật tài sản”. Hành vi phạm tội của các bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến tài sản và sức khỏe, tính mạng của người khác. Hội đồng Xét xử đã tuyên 1 bị cáo 10 tháng tù và bị cáo còn lại là 8 tháng 20 ngày."
'Có thể chấp nhận'
Bình luận về các mức án được tuyên với các bị cáo 'cướp bánh mì', hôm thứ Tư, từ Văn phòng Luật sư Tín Việt và Cộng sự, Luật sư Trần Thu Nam, Trưởng văn phòng, nói với BBC:"Tôi thấy rằng các mức án ở đây xét xử đối với các vị cáo có thể chấp nhận được.
"Tôi nghĩ rằng mức án đó, hội đồng xét xử đã cân nhắc tất cả những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân và khi phạm tội hai đứa trẻ đó ở tuổi vị thành niên, và giá trị của nó cũng chỉ là mấy ổ bánh mì.
"Tôi nghĩ rằng mức án đó không thể chê trách được. Tuy nhiên trong quá trình xét xử, vai trò công tố là Viện Kiểm sát đã đưa ra đề nghị với mức hình phạt từ 3-10 năm, tôi nghĩ rằng đề xuất của Viện Kiểm sát trong vụ án này thứ nhất là quá cao.
"Thứ hai, nhận định chưa cân nhắc đến vai trò, vị trí cũng như tuổi khi mà các em phạm tội và nói rằng là dùng các 'thủ đoạn nguy hiểm', thì tôi cho rằng nhận định này của Viện kiểm sát là nhận định sai."
Luật sư giải thích:
"Bởi vì đối với tội cướp giật, cướp giật là những hành vi cướp tài sản của người khác, thì phương tiện dùng có thể là người điều khiển các phương tiện xe máy, rồi những phương tiện khác để cướp của người đi bộ, hoặc là người đi bộ cướp của những người đang đi trên các phương tiện, nó làm ảnh hưởng, làm nguy hiểm, vì vậy tội cướp giật không có một quy định về tài sản cướp, không có quy định phải cướp tài sản (giá trị) bao nhiêu mới cấu thành tội phạm,
Mức án đề ra đối với hai cháu này, tôi nhận thấy cũng đã có xem xét đối với trẻ em vị thành niên, đặc biệt, nó mang tính giáo dục nhiều
'Mang tính giáo dục'
Cũng hôm 20/7, bình luận với BBC từ Văn phòng Luật sư Hoàng Hưng về mức án, Luật sư Hoàng Văn Hướng, nêu quan điểm:"Hai trẻ em vị thành niên này thực ra đã phạm vào một tội trong trường hợp nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, vì tội phạm đó là tội phạm cướp giật.
"Tính chất của nó như thế, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng pháp luật để xét xử, quan điểm của tôi là xét về những yếu tố, tôi không có hồ sơ trong tay, mà qua báo chí và các thông tin, quan điểm xử lý hình sự tôi nghĩ là có cơ sở.
"Tuy nhiên, mức án đề ra đối với hai cháu này, tôi nhận thấy cũng đã có xem xét đối với trẻ em vị thành niên, đặc biệt, nó mang tính giáo dục nhiều."
Bình luận về mức án từ 3-10 năm mà Viện Kiểm sát Quận Thủ Đức từng một lần đề nghị, Luật sư nói:
"Tôi nghĩ rằng giữa hai cháu bé, gọi là hai trẻ vị thành niên mà với tính chất khách thể xâm phạm vào chỉ là hai cái bánh mì có mấy chục ngàn thôi, quan điểm của tôi là nên chăng các nhà làm luật, tiến hành tố tụng hãy mang nặng tính nhân văn, mang tính giáo dục nhiều hơn, hơn là vấn đề hình phạt."
Nhân dịp này, Luật sư Hoàng Văn Hướng cũng nêu nhận xét cho rằng 'khâu bất cập lớn' nhất hiện nay ở Việt Nam trong xử lý tội phạm vị thành niên nằm ở khâu tạm giam, tạm giữ.
Ông nói với BBC:
"Tôi cho vấn đề bất cập nhất đó là công tác tạm giam, tạm giữ, đặc biệt như trường hợp của em Đỗ Đăng Dư ở huyện Chương Mỹ, nó xảy ra một vấn đề hết sức phức tạp.
"Tại sao như thế, thứ nhất vấn đề hiện nay là hoàn thiện pháp luật công tác tạm giam, tạm giữ chưa xong, chính ra luật về thi hành tạm giữ và tạm giam vừa rồi có luật, nhưng người ta lại đình lại, cùng với bộ luật hình sự.
"Và vấn đề thứ hai là nhận thức của những cơ quan và con người tiến hành cụ thể, rõ ràng trẻ em vị thanh niên, họ là con người chưa hoàn thiện thể chất, thì rõ ràng mình cần phải xem xét có những cái mang tính chất giáo dục nhiều hơn.
"Cứ mang tính cứng nhắc thì rõ ràng là không đảm bảo được tính khách quan và bản chất của luật hình đó là mang tính giáo dục," Luật sư Hoàng Văn Hướng nói với BBC.
Theo truyền thông Việt Nam, hồ sơ vụ án đã được Tòa án trả lại cho các cơ quan điều tra, pháp luật một lần, trước phiên xử, sau đó, Viện Kiểm sát quận Thủ Đức cũng đã điều chỉnh lại kiến nghị hình phạt và các mức án của mình cho khả thi hơn.
Bị mời họp phụ huynh, nam sinh lớp 8 chém thầy giáo
Sự kiện: Tin pháp luật, Nghệ An
Bị nhà trường mời họp phụ huynh, một học sinh lớp 8 mang dao đến tận trường chém thầy giáo bị thương.
Mâu thuẫn tình cảm, học sinh chém bạn nhập viện
HN: Hai học sinh chém nhau giữa sân trường
Nam sinh đánh bạn cùng trường tử vong
Ngôi trường nơi xảy ra vụ việc
Ngày 30/10, Ông Đặng Văn Hóa – Trưởng phòng GD - ĐT huyện Thanh Chương, Nghệ Ancho biết, tại trường THCS thị trấn Thanh Chương đã xảy ra vụ việc, một học sinh mang dao tới trường đuổi chém thầy giáo bị thương.
Trước đó, vào sáng 27/10, Ban giám hiệu trường THCS thị trấn Thanh Chương, huyện Thanh Chương, Nghệ An đã mời phụ huynh em N.T.M. (học sinh lớp 8) đến để bàn bạc, phối hợp trong việc giáo dục học sinh này.
Khi thầy Nguyễn Hữu Hiếu là giáo viên bộ môn Hóa Học, kiêm trưởng ban an ninh nhà trường đang nói chuyện với phụ huynh em M., bất ngờ M. cầm dao xông vào chém thầy Hiếu.
Thầy Hiếu, dùng tay đỡ thì bị chém trọng thương ở phần tay. Ngay sau đó, nhà trường đã báo với công an thị trấn Thanh Chương.
Thầy Hiếu được các đồng nghiệp đưa đến Bệnh viện đa khoa huyện Thanh Chương cấp cứu. Tại cơ quan điều tra, M. đã khai nhận về hành vi của mình.
Được biết, M. là học sinh cá biệt thường xuyên vi phạm nội quy trong trường học.
Theo Diễn Kim (Dân Việt)
Can ngăn đánh nhau, một học sinh bị đâm trọng thương
Trong lúc can ngăn bạn cùng trường đánh nhau, một học sinh bị đâm trọng thương.
Cho rằng em mình bị bạn ăn hiếp, Khánh đón đường và dùng cây đập vào đầu em N.
Học sinh lớp 11 "hạ gục" tình địch bằng 2 nhát dao
Thấy người mình yêu đi cùng một chàng trai khác trong đêm diễn văn nghệ ở
nhà thờ, 1 học sinh lớp 11 đã hạ gục tình địch bằng 2 nhát dao
Thói ăn cắp vặt của 1 bộ phận người Việt ở Nhật – Đừng chặn đường của các thế hệ du học sinh đi sau!
Đăng ngày 31/12/2015 bởi iSenpai
Sang Nhật Bản du học, một số du học sinh,
nghiên cứu sinh Việt Nam đã có những hành vi trộm cắp vặt xấu xí, khiến
hình ảnh người Việt xấu đi trong mắt người Nhật.
Tại một vài nơi trên đất nước Nhật, người Việt không khỏi đau lòng khi
nhìn thấy những tấm biển báo mà người Nhật ghi bằng tiếng Việt với nội
dung: “Không được ăn cắp”, “Ăn cắp là hành vi xấu sẽ bị cảnh sát bắt”.
Đáng buồn, đó lại là một vấn nạn trong cộng đồng người Việt Nam tại
Nhật.
Trong một số lần tiếp xúc với cảnh sát Nhật, họ cũng hỏi tôi những câu hỏi xoay quanh vấn nạn này. Và người Việt ở Nhật như chúng tôi cũng không biết phải trả lời sao với họ nữa.
Những vụ ăn cắp của người Việt Nam trên báo Nhật
Đầu năm nay, báo Ashahi đưa tin 2 sinh viên người Việt, dù kiếm được khá nhiều tiền nhờ đi làm thêm hàng tháng nhưng lại bị bắt vì ăn trộm dê thí nghiệm để giết thịt tại một công viên thuộc tỉnh Gifu ở Nhật.
Trong một bài báo gần đây, một nghiên cứu sinh người Việt Nam sang Nhật theo diện học bổng 3 năm cho biết ở Nhật vì giá cả hàng hóa rất đắt đỏ, một đôi giày có giá từ 10 triệu đến 20 triệu nên những người như anh không thể có tiền mua giày và phải ăn cắp. Rồi việc các siêu thị ở Nhật không bắt gửi túi xách nên càng “tạo điều kiện” để có hành vi xấu. Sau nhiều lần ăn cắp các đồ ăn lặt vặt, anh nghiên cứu sinh này còn bê cả một chiếc tủ lạnh 200 lít về nhà để dùng vì giá tủ lạnh quá đắt. Sau đó anh còn ăn cắp rất nhiều đồ đạc để gửi cho người thân ở Việt Nam sử dụng.
Mới đây, vào tháng 10, một nữ sinh Việt Nam bị bắt vì ăn trộm thịt lợn trong siêu thị để nấu cho bạn trai ăn. Khi bị bắt và khám người, cô có mang theo trong người khoảng 80 nghìn yên, tức khoảng gần 15 triệu đồng Việt Nam nhưng cô vẫn cố tình ăn cắp gói thịt giá trị chỉ khoảng 50 nghìn đồng.
Trong một số lần tiếp xúc với cảnh sát Nhật, họ cũng hỏi tôi những câu hỏi xoay quanh vấn nạn này. Và người Việt ở Nhật như chúng tôi cũng không biết phải trả lời sao với họ nữa.
Những vụ ăn cắp của người Việt Nam trên báo Nhật
Đầu năm nay, báo Ashahi đưa tin 2 sinh viên người Việt, dù kiếm được khá nhiều tiền nhờ đi làm thêm hàng tháng nhưng lại bị bắt vì ăn trộm dê thí nghiệm để giết thịt tại một công viên thuộc tỉnh Gifu ở Nhật.
Trong một bài báo gần đây, một nghiên cứu sinh người Việt Nam sang Nhật theo diện học bổng 3 năm cho biết ở Nhật vì giá cả hàng hóa rất đắt đỏ, một đôi giày có giá từ 10 triệu đến 20 triệu nên những người như anh không thể có tiền mua giày và phải ăn cắp. Rồi việc các siêu thị ở Nhật không bắt gửi túi xách nên càng “tạo điều kiện” để có hành vi xấu. Sau nhiều lần ăn cắp các đồ ăn lặt vặt, anh nghiên cứu sinh này còn bê cả một chiếc tủ lạnh 200 lít về nhà để dùng vì giá tủ lạnh quá đắt. Sau đó anh còn ăn cắp rất nhiều đồ đạc để gửi cho người thân ở Việt Nam sử dụng.
Mới đây, vào tháng 10, một nữ sinh Việt Nam bị bắt vì ăn trộm thịt lợn trong siêu thị để nấu cho bạn trai ăn. Khi bị bắt và khám người, cô có mang theo trong người khoảng 80 nghìn yên, tức khoảng gần 15 triệu đồng Việt Nam nhưng cô vẫn cố tình ăn cắp gói thịt giá trị chỉ khoảng 50 nghìn đồng.
đồng.
Cô khai cô và bạn trai kiếm được mỗi tháng hơn 40 triệu đồng nhờ đi làm
nhiều việc khác nhau. Như vậy không thể nói vì đói nghèo túng bấn mà họ
phải đi ăn trộm trong siêu thị. Kết quả nữ sinh này đã bị trục xuất khỏi
Nhật. Và thường thì những người rời khỏi nước Nhật với lý do trên sẽ
không có cơ hội quay lại Nhật trong tương lai.
Những vụ việc trên đây là số ít trong hàng chục vụ người Việt Nam ăn cắp ở Nhật bị bắt giữ, có trường hợp cả tiếp viên hãng hàng không lớn cũng ăn cắp trong thời gian dài và bị dẫn độ về nước.
Không thể bao biện hành vi ăn cắp bằng lí do giá cả đắt đỏ
Chi phí sinh hoạt ở Nhật thực ra không cao như người nước ngoài nghĩ. Hai thứ chi phí tốn kém nhất là nhà ở và đi lại. Còn với chi phí đồ ăn, thức uống hay đồ dùng sinh hoạt hoàn toàn không quá đắt đỏ. Một đôi giày giá 10 đến 20 triệu đồng như anh nghiên cứu sinh nói thực ra là giá quá cao ngay cả so với rất nhiều người Nhật, nên việc người Việt Nam không có tiền mua là điều tất nhiên.
Quần áo ở Nhật có nhiều loại cao cấp hơn Việt Nam nhưng cũng có rất
nhiều hãng bình dân, giá cả chấp nhận được ngay cả khi chưa vào đợt giảm
giá. Ví dụ như một chiếc áo sơ mi thông thường có thể mua được ở mức
giá khoảng 500, 600 nghìn đồng Việt Nam. Ở thời điểm sale vào khoảng
tháng 7 hay tháng 12, chiếc áo sơ mi trên chỉ còn khoảng 300 nghìn,
tương đương với giá ở Việt Nam.
Đối với thực phẩm, một gói thịt lợn ăn được 1 bữa có giá khoảng 50, 60 nghìn đồng, thịt bò đắt hơn một chút. Tuy nhiên chỉ cần sau 8h tối thì giá giảm đến 50% hoặc hơn nữa. Giá thịt bò và các loại rau củ quả cũng có loại đắt loại rẻ nhưng nhìn chung mỗi tuần kể cả sống ở Tokyo thì ăn uống nấu tại nhà cũng chỉ mất tối đa khoảng 10 nghìn yên (1,8 triệu đồng Việt Nam).
Với mức sống trên thì số tiền đi làm của một du học sinh – theo đúng quy định của luật pháp Nhật là 28 tiếng/tuần – hoàn toàn đủ sống chứ không thể đến nỗi cùng cực.
Đừng chặn đường sang Nhật của những thế hệ du học sinh về sau
Ăn cắp ở bất kỳ nước nào cũng là xấu nhưng với người Nhật, đó còn là một hành vi tồi tệ khủng khiếp. Chắc hẳn chưa ai trong chúng ta quên được rằng sau trận động đất sóng thần năm 2011, dù hàng trăm nghìn người Nhật chìm trong đau khổ, cùng cực nhưng không có hành vi hôi của, trộm cắp, những người no bụng và có áo ấm sẵn sàng trả lại phần ăn, miếng áo của mình cho người thiếu thốn hơn.
Giáo sư Gregory Pflugfelder, người đứng đầu bộ môn nghiên cứu về văn hóa Nhật tại đại học Boston, Mỹ, khẳng định ở đâu cũng có người tốt người xấu nhưng chắc chắn rằng ở Nhật, từ “ăn cắp” và bạo lực gần như không có trong từ điển của họ.
Người Nhật luôn tôn trọng văn hóa hướng đến cộng đồng, tránh làm ảnh
hưởng đến cộng đồng một cách tối đa và cùng lúc đó đóng góp cho cộng
đồng càng nhiều càng tốt. Bất kỳ một hành vi phạm tội nào, trong đó có
ăn cắp, được coi như gây tổn tại nghiêm trọng đến cộng đồng. Cũng chính
vì tâm lý đó mà nước Nhật nằm trong nhóm nước có tỷ lệ tội phạm thấp
nhất thế giới.
Lí giải điều này để thấy rằng, những hành vi ăn cắp của một bộ phận người Việt Nam trên đất Nhật – trong con mắt của người dân đất nước mặt trời mọc – bị coi là vô cùng nghiêm trọng và ảnh hưởng không nhỏ đến cách họ nhìn nhận, đánh giá chung về người Việt Nam.
Theo số liệu Bộ Tư Pháp Nhật công bố tính đến cuối tháng 6/2015, có 124.820 người Việt Nam tại Nhật. Tốc độ tăng trưởng về số lượng người Việt Nam nhập cư vào Nhật trong năm vừa qua lên đến 140%.
Vì thế có cơ sở để lo ngại rằng nếu vẫn còn những vụ việc tương tự như trên, thì rõ ràng, một số ít người đi trước đang chặn đường sang Nhật của rất nhiều thế hệ du học sinh Việt đi sau.
Những vụ việc trên đây là số ít trong hàng chục vụ người Việt Nam ăn cắp ở Nhật bị bắt giữ, có trường hợp cả tiếp viên hãng hàng không lớn cũng ăn cắp trong thời gian dài và bị dẫn độ về nước.
Không thể bao biện hành vi ăn cắp bằng lí do giá cả đắt đỏ
Chi phí sinh hoạt ở Nhật thực ra không cao như người nước ngoài nghĩ. Hai thứ chi phí tốn kém nhất là nhà ở và đi lại. Còn với chi phí đồ ăn, thức uống hay đồ dùng sinh hoạt hoàn toàn không quá đắt đỏ. Một đôi giày giá 10 đến 20 triệu đồng như anh nghiên cứu sinh nói thực ra là giá quá cao ngay cả so với rất nhiều người Nhật, nên việc người Việt Nam không có tiền mua là điều tất nhiên.
Đối với thực phẩm, một gói thịt lợn ăn được 1 bữa có giá khoảng 50, 60 nghìn đồng, thịt bò đắt hơn một chút. Tuy nhiên chỉ cần sau 8h tối thì giá giảm đến 50% hoặc hơn nữa. Giá thịt bò và các loại rau củ quả cũng có loại đắt loại rẻ nhưng nhìn chung mỗi tuần kể cả sống ở Tokyo thì ăn uống nấu tại nhà cũng chỉ mất tối đa khoảng 10 nghìn yên (1,8 triệu đồng Việt Nam).
Với mức sống trên thì số tiền đi làm của một du học sinh – theo đúng quy định của luật pháp Nhật là 28 tiếng/tuần – hoàn toàn đủ sống chứ không thể đến nỗi cùng cực.
Đừng chặn đường sang Nhật của những thế hệ du học sinh về sau
Ăn cắp ở bất kỳ nước nào cũng là xấu nhưng với người Nhật, đó còn là một hành vi tồi tệ khủng khiếp. Chắc hẳn chưa ai trong chúng ta quên được rằng sau trận động đất sóng thần năm 2011, dù hàng trăm nghìn người Nhật chìm trong đau khổ, cùng cực nhưng không có hành vi hôi của, trộm cắp, những người no bụng và có áo ấm sẵn sàng trả lại phần ăn, miếng áo của mình cho người thiếu thốn hơn.
Giáo sư Gregory Pflugfelder, người đứng đầu bộ môn nghiên cứu về văn hóa Nhật tại đại học Boston, Mỹ, khẳng định ở đâu cũng có người tốt người xấu nhưng chắc chắn rằng ở Nhật, từ “ăn cắp” và bạo lực gần như không có trong từ điển của họ.
Ăn cắp ở bất kỳ nước nào cũng là xấu nhưng với người Nhật, đó còn là hành vi tồi tệ khủng khiếp – (Ảnh: Internet).
Lí giải điều này để thấy rằng, những hành vi ăn cắp của một bộ phận người Việt Nam trên đất Nhật – trong con mắt của người dân đất nước mặt trời mọc – bị coi là vô cùng nghiêm trọng và ảnh hưởng không nhỏ đến cách họ nhìn nhận, đánh giá chung về người Việt Nam.
Theo số liệu Bộ Tư Pháp Nhật công bố tính đến cuối tháng 6/2015, có 124.820 người Việt Nam tại Nhật. Tốc độ tăng trưởng về số lượng người Việt Nam nhập cư vào Nhật trong năm vừa qua lên đến 140%.
Vì thế có cơ sở để lo ngại rằng nếu vẫn còn những vụ việc tương tự như trên, thì rõ ràng, một số ít người đi trước đang chặn đường sang Nhật của rất nhiều thế hệ du học sinh Việt đi sau.
Theo Ngọc Thuý / Trí Thức Trẻ
TS. PHẠM CAO DƯƠNG * VĂN CHƯƠNG LÃNG MẠN
Đặc Tính Lãng Mạn Trong Những Năm Đầu Của Cuộc Kháng Chiến Chống Pháp (1946-1954) và Thi Ca Việt Nam Thời Chiến
Chiến tranh đồng nghĩa với bom đạn, với súng gươm, với giết chóc, với gian lao, khổ ải, với tàn phá, hủy diệt,… mà lại nói tới lãng mạn, hay dù hẹp hơn, tới thi ca lãng mạn là một điều hoàn toàn nghịch lý, khó có thể tưởng tượng được.Nhưng đối với những người Việt Nam đã từng sống trong cuộc chiến ba mươi năm vừa qua, đây lại là một sự thực, một sự thực có bằng chứng hẳn hoi mà người tìm hiểu khó có thể chối cãi.
Nó hoàn toàn đúng ít ra là cho ba năm đầu của cuộc chiến nếu ta tính từ cuối năm 1946 khi cuộc kháng chiến chống Pháp mới thực sự bùng nổ trên toàn quốc Việt Nam đến năm 1949 là năm Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản của ông làm chủ được Trung Hoa Lục Địa, Tưởng Giới Thạch phải bỏ chạy ra Đài Loan, biên giới Việt Trung trở thành biên giới giữa hai nước Cộng Sản Á Châu và Quốc Gia Việt Nam của Cựu Hoàng Bảo Đại được thành lập, mở đầu cho một giai đoạn mới cho cuộc chiến. Đây chính là ba năm cuối cùng của nửa đầu của thế kỷ hai mười, ba năm đầu của thời kỳ độc lập hay tranh đấu giành độc lập dưới hình thức này hay hình thức khác, sau một thời gian dài sống dưới sự cai trị của người Pháp. Đây ba năm đẹp nhất của lịch sử chiến tranh của người Việt trong thế kỷ hai mươi, trước khi mọi chuyện đều thay đổi và thay đổi một cách bi thảm ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Câu hỏi được đặt ra là do đâu mà đặc tính lãng mạn này đã có thể tồn tại và lãng mạn đã được thể hiện ra sao trong thi ca của thời này?
Nguyên nhân nào đã khiến cho đặc tính lãng mạn tiếp tục tồn tại trong ba năm đầu của thời kỳ kháng chiến chống Pháp?
Có nhiều nguyên nhân khiến cho cuộc sống lãng mạn của người Việt, vốn đã nảy nở và phát triển từ trước, đặc biệt là lãng mạn trong thi ca và đương nhiên trong bộ môn song sinh của nó là âm nhạc, không những vẫn có thể tồn tại được mà còn phát triển rộng rãi hơn trong giai đoạn này.
Thứ nhất: Người Cộng Sản chưa sẵn sàng để thực thi chính sách kiểm soát chặt chẽ sinh hoạt văn nghệ trong ba năm đầu của cuộc chiến
Thế lực của người Cộng Sản xuyên qua chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí Minh cho đến hết thời gian này còn quá mới, chưa đủ để cho họ có thể áp đặt một sự chỉ đạo và kiểm soát chặt chẽ lên mọi phạm vi sinh hoạt của người dân, trong đó có văn nghệ, vốn dĩ là một sinh hoạt rất tế nhị mà họ đang cần để tuyên truyền lôi cuốn mọi người vào cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, đồng thời tiêu diệt nốt những thành phần đối lập, dù cho là bản Đề Cương Văn Hóa của Đảng Cộng Sản đã được soạn thảo và phổ biến từ năm 1943. Làm sao có lợi cho vai trò lãnh đạo của họ là được rồi. Cũng cần phải để ý là trong thời gian này Hồ Chí Minh và chính phủ của ông đã dời bỏ thủ đô Hà Nội, di tản lên miền rừng núi Việt Bắc, do đó cần phải có thì giờ để củng cố lại thế lực cũng như để sắp đặt lại mọi cơ sở, mọi hệ thống liên lạc mới nhằm thắt chặt trung ương với địa phương, song song với vai trò lãnh đạo kháng chiến của mình.
Thứ hai: Lãng mạn trong thời gian này đã trở thành rất phổ biến trong sinh hoạt của giới thanh niên như là sự tiếp nối phong trào lãng mạn của những năm cuối của thập niên ba mươi và những năm đầu của thập niên bốn mươi của thế kỷ hai mươi
Ở thời điểm ba mươi của thế kỷ hai mươi người ta nói tới ý muốn thoát ly khỏi cuộc đời nhàm chán, dù cho là chẳng biết để đi đâu trong khi cách mạng hãy còn là một ý niệm mơ hồ và chế độ đô hộ của người Pháp có vẻ mỗi ngày một vững hơn. Sang đầu thập niên bốn mươi tất cả đã đổi khác. Lý do là sự bại trận của người Pháp ở ngay chính nước Pháp và sự thắng thế của quân đội Nhật và sự hiện diện của họ trên đất nước Việt Nam. Nếu vào cuối thập niên ba mươi người ta nói tới chuyện
Rũ áo phong sương trên gác trọ.
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang
hay ngồi trước lò sưởi trong một ngày mưa gió, hút thuốc lá, thở khói lên trần… thì vào đầu thập niên bốn mươi, ngưới ta lại sính hát “Hòn Vọng Phu” của Lê Thương hay tìm hiểu và ngâm những đoạn thơ và vẽ những cảnh diễn tả buổi chia ly tuyệt đẹp và vô cùng lãng mạn trong Chinh Phụ Ngâm:
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Mọi người dường như chờ đợi và sẵn sàng để làm công việc này.
Khi chiến tranh toàn quốc bùng nổ vào tháng Chạp năm 1946, tinh thần lãng mạn qua ý niệm thoát ly để đi làm cách mạng từ mơ hồ đến chỗ gần như bế tắc đã được thay thế bằng một thứ lãng mạn yêu nước cụ thể hơn. Người ta sẵn sàng từ bỏ gia đình, từ bỏ quê hương, ruộng vườn để ra đi và ra đi mà không ai trách cứ.
Nhiều thanh niên đã hăng hái xung phong gia nhập Vệ Quốc Đoàn, nhiều
người không được nhận vì thiếu sức khỏe đã khóc khi phải trở về nhà.
Người ta đã ra di để cứu quốc một cách ngây thơ, tự nhiên, đơn giản,
không cần biết ai là người lãnh đạo, nói như Phạm Duy ở một chỗ nào đó
trong hồi ký của ông. Trước đó, khi các mặt trận mới chỉ diễn ra ở các
thành phố, các lực lương Tự Vệ Thành đã thu hút một số lớn thanh thiếu
niên nam nữ thuộc đủ mọi thành phần từ các sinh viên, học sinh đến những
người làm nghề lao động. Họ tự bỏ tiền túi ra để may quần áo, khí giới,
làm huy hiệu… và đã ở lại giữ thành trong một thời gian khá dài, điển
hình là sáu mươi ngày ở Hà Nội, trong khi quân đội chính qui của Cộng
Sản được rút lên miền núi cùng với Hồ Chí Minh và các nhân viên chính
phủ của ông.
Thứ ba: Ảnh hưởng của các phong trào Hướng Đạo và thanh niên thể thao
Các phong trào Hướng Đạo và thanh niên thể thao qua những buổi cắm trại hay du ngoạn đã đưa giới trẻ đến chỗ có dịp thoát ra khỏi cuộc sống chặt hẹp nhàm chán ở các thành phố hay các phủ hay huyện lỵ của thời bấy giờ để có thể vào rừng, lên núi, ra các miền quê hay bờ biển sống gần với thiên nhiên, tiếp xúc với dân quê hay người miền núi hơn, đồng thời thăm viếng các thắng cảnh hay các di tích lịch sử của đất nước mà trước đó họ chỉ có dịp tiếp xúc qua sách vở hay trong lớp học. Lãng mạn tính thể hiện trong tình yêu thiên nhiên, tình yêu thương quê hương, đất nước và đồng bào cũng như cái đẹp của quê hương, đất nước, và của những người dân quê hay miền núi, công lao xây dựng và bảo vệ đất nước của người xưa… của một thế hệ người Việt mới đã nẩy nở trong bối cảnh này.
Thứ tư: Ảnh hưởng của những bài ca mới đầy tình cảm mang chủ đề quê hương, đất nước và lịch sử oai hùng của dân tộc đã xuất hiện trước đó
Những năm đầu của thập niên bốn mươi cũng là thời gian xuất hiện của nhiều bài ca mang nặng tình cảm bình thường của con người cùng tình yêu quê hương, đất nước, đặc biệt là những bài ca lịch sử. Bắt đầu những bài ca này được phổ biến ở thành thị, sau đã tràn về thôn quê do những cuộc tản cư thời phi cơ Mỹ ném bom các cơ sở của quân đội Nhật hay trong các cuộc cắm trại hay du khảo của các phong trào Hướng Đạo hay thanh niên. Nên nhớ là khi Cộng Sản còn ẩn náu ở các chiến khu Việt Bắc những bài ca được dùng trong các sinh hoạt của họ phần lớn là những bài ca của Hướng Đạo và khi Văn Cao được cán bộ Cộng Sản tiếp xúc, người
nhạc sĩ này đã được giao cho nhiệm vụ làm những bài ca mới để thay thế cho những bài ca của Hướng Đạo cũ với bài đầu tiên ông làm là bài “Tiến Quân Ca”, sau trở thành quốc ca của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Xã Hội Việt Nam hiện tại..
Từ sau năm 1949, mọi sự đã hoàn toàn thay đổi, ở trong nước cũng như trên thế giới. Ở trong nước, chính phủ của Hồ Chí Minh và những người Cộng Sản đã đứng vững được về cả hai phương diện chính trị và quân sự, những lực lượng chống đối không còn nữa. Ở Trung Quốc, Đảng Cộng Sản của Mao Trạch Đông đã hoàn toàn đánh bại được quân đội của Tưởng Giới Thạch và làm chủ được toàn thể Trung Hoa Lục Địa, biên giới giới hai khối Cộng Sản Hoa, Việt đã tiếp giáp với nhau và Cộng Sản Việt Nam đã được Cộng Sản Trung Quốc trực tiếp hỗ trợ kèm theo với những ảnh hưởng của họ. Sự e ngại kẻ thù từ phương bắc tới không còn nữa, nhưng áp lực của người anh em mới mỗi ngày một thêm đè nặnglên vai của người anh em đang cần sự giúp đỡ. Một mặt khác, cũng năm 1949, Quốc Gia Việt Nam của Cựu Hoàng Bảo Đại đã được chính thức thành lập với sự trao đổi văn kiện trực tiếp giữa Cựu Hoàng Bảo Đại với chính Tổng Thống Pháp Vincent Auriol thay vì với một nhân vật cấp dưới, rồi rất nhanh chóng chính quyền Quốc Gia này đã được hai nước Anh và Mỹ và rất nhiều quốc gia thuộc khối tự do thân Tây Phương thừa nhận, đe dọa sự chính thống của Hồ Chí Minh và của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Những biến chuyển này đã khiến cho Hồ Chí Minh và chính phủ của ông phải thay đổi hoàn toàn đường lối cai trị của mình, trong đó có lãnh đạo văn nghệ. Sự thả lỏng cho các văn nghệ sĩ dù là các người làm thơ, các người soạn kịch, các người vẽ tranh… muốn làm sao thì làm, muốn đi đâu thì đi, miễn là tất cả hướng vào toàn quốc kháng chiến, toàn quốc chống Pháp phải được bãi bỏ. Ở Đại Hội Văn Nghệ Lần Thứ Hai mà Phạm Duy đã tinh ý nhận xét là có thêm hai chữ Nhân Dân vào mùa hè năm 1950 ở Việt Bắc, chính quyền trung ương đã bắt đầu áp đặt đường lối mới.
Thiếu Tướng Nguyễn Sơn, một ngưới rất yêu mến văn học nghệ thuật và các văn, nghệ sĩ, người đã biến đại bản doanh của mình ở Thanh Hóa thành một thủ đô của giới văn nghệ sĩ thời bấy giờ, bên cạnh nhiều trung tâm khác như Cống Thần – Chợ Đại, Rừng Thông… đã bị triệu hồi về trung ương. Đây là thời điểm các cuộc dinh tê của mọi người bấy lâu theo chân kháng chiến tản cư trở nên ào ạt hơn trong đó có rất đông các văn nghệ sĩ mà sau này người ta thấy xuất hiện trong sinh hoạt văn hóa ở các vùng Quốc Gia, ở miền Nam và luôn cả ở Hải Ngoại trong những năm kế tiếp. Luận cứ cho rằng những người tản cư từ các thành phố về thôn quê hay lên miền trung du dinh tê về thành là do họ đã quen với cuộc sống tiểu tư sản thành thị không chịu nổi cuộc sống kham khổ, thiếu thốn ở trong vùng kháng chiến là không đúng. Nó chỉ là một trong nhiều nguyên nhân mà thôi. Còn nhiều nguyên nhân khác hơn nguyên nhân hoàn toàn vật chất này. Cuộc sống tự do, nhân bản và chính quyền quốc gia không Cộng Sản, tương lai học vấn của giới trẻ, chẳng hạn.
Thi ca lãng mạn thời chiến
Bây giờ nói tới thi ca thời chiến, đúng hơn thi ca lãng mạn thời chiến hay đúng hơn nữa, thi ca lãng mạn trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp của người Việt trong nửa sau của thế kỷ hai mươi, thời quân đội kháng chiến còn được gọi là Vệ Quốc Đoàn, chưa bị đổi tên là Quân Đội Nhân Dân, những năm tôi nghĩ đẹp nhất trong lịch sử giành độc lập của người Việt trong thế kỷ hai mươi, bất kể là do ai lãnh đạo, trước khi mọi chuyện thay đổi. Còn nếu so sánh với cả lịch sử của dân tộc Việt Nam thì đó cũng là một trong những thời gian đẹp nhất như chính những người tham dự đương thời đã miêu tả như:
Ở thời nhà Trần:
Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong
…………….
Lính già phơ tóc bạc
Kể chuyện thuở Nguyên Phong
(Thơ Trần Nhân Tông, Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng
Ngô Tất Tố dịch)
và thời kháng chiến chống Pháp:
Buông tay gầu vui
lại thuở bình Mông
Thơ Yên Thao, Nhà Tôi
Nếu người lính già của thời nhà Trần cứ thỉnh thoảng ngồi kể chuyện của thời Nguyên Phong thì những người đã từng là lính hay đã từng sống hay tham dự vào những sinh hoạt ở thời chống Pháp từ cuối năm 1946 đến đầu năm 1950 cũng không bao giờ quên được những ngày kháng chiến của mình dù là sau này họ sống ở vùng Tê hay ở hậu phương, ở trong Nam hay ở ngoài Bắc, ở trong nước hay ở hải ngoại, dù là họ tiếp tục được sống trong vinh quang hay bị bỏ quên ở một góc phố hay ở một làng thôn hẻo lánh nào đó.
Có điều văn thơ của họ đã được phổ biến mỗi ngày một rộng, từ hình thức những bài chép tay nằm dưới đáy ba lô của những người lính Vệ Quốc Đoàn hay những cán bộ còn nặng đầu óc tiểu tư sản ở ngay chính thời chúng mới được làm đến những bản in trong các sách vở, những bản phổ nhạc ở miền Nam hay được đưa lên sân khấu ở Hải Ngoại. Nhưng tên tuổi của Hoàng Cầm, Quang Dũng, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Yên Thao, Hữu Loan… đã được người ta nhắc tới. Những tác phẩm như Đêm Liên Hoan, Tâm Sự Đêm Giao Thừa, Bên Kia Sông Đuống, Tây Tiến, Đôi Bờ, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Đồng Chí, Bao Giờ Trở Lại, Làng Tôi, Màu Tím Hoa Sim...của các tác giả này đã được nhiều người thuộc lòng dù là thuộc một vài đoạn, một vài dòng hay một đôi câu hay ít ra là có thể nhận ra được vì đã được nghe ngâm, nghe hát vào một dịp nào đó trong đời mình, kể cả những người chưa từng được nghe, được học về cuộc kháng chiến chống Pháp của thời cha ông họ.
Nhận xét về các tác giả này, người ta thấy đa số họ là những tên tuổi mới và hầu hết đều rất trẻ. Tất nhiên là rất trẻ cho thời kỳ các tác phẩm của họ được sáng tác. Đa số năm sinh của họ là vào đầu hay giữa thập niên hai mươi, tuổi của những người đã đóng vai trò chính trong cuộc cướp chính quyền của Việt Minh vào tháng 8 năm 1945. Họ cũng là những người có học, đã từng là cựu học sinh các trường Sư Phạm, Bưởi, Thăng Long…. Điều này cũng có nghĩa là họ đã có dịp tiếp xúc với văn hóa tây phương, trong đó có văn chương lãng mạn Pháp. Nhưng quan trọng hơn hết họ là những nhà thơ có thực tài, có cảm giác rất bén nhậy với những nhận định tinh vi và đã được sống trong thời kỳ sôi sục nhất của lịch sử dân tộc.
Riêng Quang Dũng còn là một người rất tài hoa, phóng khoáng. Cái lãng mạn của họ do đó không phải chỉ khác hơn mà còn phức tạp hơn cái lãng mạn của những nhà thơ lớp trước. Lãng mạn của họ là lãng mạn kết hợp bởi không riêng tình yêu nam nữ mà luôn cả tình yêu gia đình, đặc biệt là tình yêu dành cho người mẹ, người vợ, cho đứa con còn bú, cho xóm làng, bờ sông, ruộng vườn, hình ảnh quê hương thuở còn thanh bình… và đương nhiên cả cuộc kháng chiến với những đồng đội, với đơn vị, với núi rừng, với bệnh hoạn, với cái chết kề bên, với những xóm làng đã đi qua…
Chính vì vậy mà có nhà nghiên cứu chỉ xếp Hữu Loan và Quang Dũng vào loại những tác giả lãng mạn, còn các tác giả khác vào loại tranh đấu hay tuyên truyền cho kháng chiến dù là ở một mức cao về nghệ thuật. Có điều dù xếp thơ của họ vào loại nào đi chăng nữa, người ta phải cũng phải công nhận rằng những thi ca này đã phát xuất một cách tự nhiên, từ tâm hồn của mỗi tác giả. Chúng đã được làm vào lúc họ vẫn còn được quyền tự do sáng tạo, chưa bị áp lực và sự kiềm chế chặt chẽ của chính quyền Cộng Sản như trong những năm sau này. Chính vì thế mà mỗi người có một phong cách riêng tùy theo bản chất và hoàn cảnh của mình. Ngôn từ họ dùng cũng rất đơn sơ, giản dị, trong sáng, dễ dàng khiến cho người nghe, người đọc không đến nỗi phải cố gắng, phải căng óc ra để tìm hiểu. Âm điệu cũng vậy. Đa số những bài mọi người ưa thích đều là thơ
tự do, nhưng dòng thơ rất tự nhiên, trôi chảy, nhẹ nhàng Chiến tranh đồng nghĩa với bom đạn, với súng gươm, với giết chóc, với gian lao, khổ ải, với tàn phá, hủy diệt,… mà lại nói tới lãng mạn, hay dù hẹp hơn, tới thi ca lãng mạn là một điều hoàn toàn nghịch lý, khó có thể tưởng tượng được.Nhưng đối với những người Việt Nam đã từng sống trong cuộc chiến ba mươi năm vừa qua, đây lại là một sự thực, một sự thực có bằng chứng hẳn hoi mà người tìm hiểu khó có thể chối cãi.
Nó hoàn toàn đúng ít ra là cho ba năm đầu của cuộc chiến nếu ta tính từ cuối năm 1946 khi cuộc kháng chiến chống Pháp mới thực sự bùng nổ trên toàn quốc Việt Nam đến năm 1949 là năm Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản của ông làm chủ được Trung Hoa Lục Địa, Tưởng Giới Thạch phải bỏ chạy ra Đài Loan, biên giới Việt Trung trở thành biên giới giữa hai nước Cộng Sản Á Châu và Quốc Gia Việt Nam của Cựu Hoàng Bảo Đại được thành lập, mở đầu cho một giai đoạn mới cho cuộc chiến. Đây chính là ba năm cuối cùng của nửa đầu của thế kỷ hai mười, ba năm đầu của thời kỳ độc lập hay tranh đấu giành độc lập dưới hình thức này hay hình thức khác, sau một thời gian dài sống dưới sự cai trị của người Pháp. Đây ba năm đẹp nhất của lịch sử chiến tranh của người Việt trong thế kỷ hai mươi, trước khi mọi chuyện đều thay đổi và thay đổi một cách bi thảm ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Câu hỏi được đặt ra là do đâu mà đặc tính lãng mạn này đã có thể tồn tại và lãng mạn đã được thể hiện ra sao trong thi ca của thời này?
Nguyên nhân nào đã khiến cho đặc tính lãng mạn tiếp tục tồn tại trong ba năm đầu của thời kỳ kháng chiến chống Pháp?
Có nhiều nguyên nhân khiến cho cuộc sống lãng mạn của người Việt, vốn đã nảy nở và phát triển từ trước, đặc biệt là lãng mạn trong thi ca và đương nhiên trong bộ môn song sinh của nó là âm nhạc, không những vẫn có thể tồn tại được mà còn phát triển rộng rãi hơn trong giai đoạn này.
Thứ nhất: Người Cộng Sản chưa sẵn sàng để thực thi chính sách kiểm soát chặt chẽ sinh hoạt văn nghệ trong ba năm đầu của cuộc chiến
Thế lực của người Cộng Sản xuyên qua chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí Minh cho đến hết thời gian này còn quá mới, chưa đủ để cho họ có thể áp đặt một sự chỉ đạo và kiểm soát chặt chẽ lên mọi phạm vi sinh hoạt của người dân, trong đó có văn nghệ, vốn dĩ là một sinh hoạt rất tế nhị mà họ đang cần để tuyên truyền lôi cuốn mọi người vào cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, đồng thời tiêu diệt nốt những thành phần đối lập, dù cho là bản Đề Cương Văn Hóa của Đảng Cộng Sản đã được soạn thảo và phổ biến từ năm 1943. Làm sao có lợi cho vai trò lãnh đạo của họ là được rồi. Cũng cần phải để ý là trong thời gian này Hồ Chí Minh và chính phủ của ông đã dời bỏ thủ đô Hà Nội, di tản lên miền rừng núi Việt Bắc, do đó cần phải có thì giờ để củng cố lại thế lực cũng như để sắp đặt lại mọi cơ sở, mọi hệ thống liên lạc mới nhằm thắt chặt trung ương với địa phương, song song với vai trò lãnh đạo kháng chiến của mình.
Thứ hai: Lãng mạn trong thời gian này đã trở thành rất phổ biến trong sinh hoạt của giới thanh niên như là sự tiếp nối phong trào lãng mạn của những năm cuối của thập niên ba mươi và những năm đầu của thập niên bốn mươi của thế kỷ hai mươi
Ở thời điểm ba mươi của thế kỷ hai mươi người ta nói tới ý muốn thoát ly khỏi cuộc đời nhàm chán, dù cho là chẳng biết để đi đâu trong khi cách mạng hãy còn là một ý niệm mơ hồ và chế độ đô hộ của người Pháp có vẻ mỗi ngày một vững hơn. Sang đầu thập niên bốn mươi tất cả đã đổi khác. Lý do là sự bại trận của người Pháp ở ngay chính nước Pháp và sự thắng thế của quân đội Nhật và sự hiện diện của họ trên đất nước Việt Nam. Nếu vào cuối thập niên ba mươi người ta nói tới chuyện
Rũ áo phong sương trên gác trọ.
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang
hay ngồi trước lò sưởi trong một ngày mưa gió, hút thuốc lá, thở khói lên trần… thì vào đầu thập niên bốn mươi, ngưới ta lại sính hát “Hòn Vọng Phu” của Lê Thương hay tìm hiểu và ngâm những đoạn thơ và vẽ những cảnh diễn tả buổi chia ly tuyệt đẹp và vô cùng lãng mạn trong Chinh Phụ Ngâm:
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Mọi người dường như chờ đợi và sẵn sàng để làm công việc này.
Khi chiến tranh toàn quốc bùng nổ vào tháng Chạp năm 1946, tinh thần lãng mạn qua ý niệm thoát ly để đi làm cách mạng từ mơ hồ đến chỗ gần như bế tắc đã được thay thế bằng một thứ lãng mạn yêu nước cụ thể hơn. Người ta sẵn sàng từ bỏ gia đình, từ bỏ quê hương, ruộng vườn để ra đi và ra đi mà không ai trách cứ.
Thứ ba: Ảnh hưởng của các phong trào Hướng Đạo và thanh niên thể thao
Các phong trào Hướng Đạo và thanh niên thể thao qua những buổi cắm trại hay du ngoạn đã đưa giới trẻ đến chỗ có dịp thoát ra khỏi cuộc sống chặt hẹp nhàm chán ở các thành phố hay các phủ hay huyện lỵ của thời bấy giờ để có thể vào rừng, lên núi, ra các miền quê hay bờ biển sống gần với thiên nhiên, tiếp xúc với dân quê hay người miền núi hơn, đồng thời thăm viếng các thắng cảnh hay các di tích lịch sử của đất nước mà trước đó họ chỉ có dịp tiếp xúc qua sách vở hay trong lớp học. Lãng mạn tính thể hiện trong tình yêu thiên nhiên, tình yêu thương quê hương, đất nước và đồng bào cũng như cái đẹp của quê hương, đất nước, và của những người dân quê hay miền núi, công lao xây dựng và bảo vệ đất nước của người xưa… của một thế hệ người Việt mới đã nẩy nở trong bối cảnh này.
Thứ tư: Ảnh hưởng của những bài ca mới đầy tình cảm mang chủ đề quê hương, đất nước và lịch sử oai hùng của dân tộc đã xuất hiện trước đó
Những năm đầu của thập niên bốn mươi cũng là thời gian xuất hiện của nhiều bài ca mang nặng tình cảm bình thường của con người cùng tình yêu quê hương, đất nước, đặc biệt là những bài ca lịch sử. Bắt đầu những bài ca này được phổ biến ở thành thị, sau đã tràn về thôn quê do những cuộc tản cư thời phi cơ Mỹ ném bom các cơ sở của quân đội Nhật hay trong các cuộc cắm trại hay du khảo của các phong trào Hướng Đạo hay thanh niên. Nên nhớ là khi Cộng Sản còn ẩn náu ở các chiến khu Việt Bắc những bài ca được dùng trong các sinh hoạt của họ phần lớn là những bài ca của Hướng Đạo và khi Văn Cao được cán bộ Cộng Sản tiếp xúc, người
nhạc sĩ này đã được giao cho nhiệm vụ làm những bài ca mới để thay thế cho những bài ca của Hướng Đạo cũ với bài đầu tiên ông làm là bài “Tiến Quân Ca”, sau trở thành quốc ca của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Xã Hội Việt Nam hiện tại..
Từ sau năm 1949, mọi sự đã hoàn toàn thay đổi, ở trong nước cũng như trên thế giới. Ở trong nước, chính phủ của Hồ Chí Minh và những người Cộng Sản đã đứng vững được về cả hai phương diện chính trị và quân sự, những lực lượng chống đối không còn nữa. Ở Trung Quốc, Đảng Cộng Sản của Mao Trạch Đông đã hoàn toàn đánh bại được quân đội của Tưởng Giới Thạch và làm chủ được toàn thể Trung Hoa Lục Địa, biên giới giới hai khối Cộng Sản Hoa, Việt đã tiếp giáp với nhau và Cộng Sản Việt Nam đã được Cộng Sản Trung Quốc trực tiếp hỗ trợ kèm theo với những ảnh hưởng của họ. Sự e ngại kẻ thù từ phương bắc tới không còn nữa, nhưng áp lực của người anh em mới mỗi ngày một thêm đè nặnglên vai của người anh em đang cần sự giúp đỡ. Một mặt khác, cũng năm 1949, Quốc Gia Việt Nam của Cựu Hoàng Bảo Đại đã được chính thức thành lập với sự trao đổi văn kiện trực tiếp giữa Cựu Hoàng Bảo Đại với chính Tổng Thống Pháp Vincent Auriol thay vì với một nhân vật cấp dưới, rồi rất nhanh chóng chính quyền Quốc Gia này đã được hai nước Anh và Mỹ và rất nhiều quốc gia thuộc khối tự do thân Tây Phương thừa nhận, đe dọa sự chính thống của Hồ Chí Minh và của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Những biến chuyển này đã khiến cho Hồ Chí Minh và chính phủ của ông phải thay đổi hoàn toàn đường lối cai trị của mình, trong đó có lãnh đạo văn nghệ. Sự thả lỏng cho các văn nghệ sĩ dù là các người làm thơ, các người soạn kịch, các người vẽ tranh… muốn làm sao thì làm, muốn đi đâu thì đi, miễn là tất cả hướng vào toàn quốc kháng chiến, toàn quốc chống Pháp phải được bãi bỏ. Ở Đại Hội Văn Nghệ Lần Thứ Hai mà Phạm Duy đã tinh ý nhận xét là có thêm hai chữ Nhân Dân vào mùa hè năm 1950 ở Việt Bắc, chính quyền trung ương đã bắt đầu áp đặt đường lối mới.
Thiếu Tướng Nguyễn Sơn, một ngưới rất yêu mến văn học nghệ thuật và các văn, nghệ sĩ, người đã biến đại bản doanh của mình ở Thanh Hóa thành một thủ đô của giới văn nghệ sĩ thời bấy giờ, bên cạnh nhiều trung tâm khác như Cống Thần – Chợ Đại, Rừng Thông… đã bị triệu hồi về trung ương. Đây là thời điểm các cuộc dinh tê của mọi người bấy lâu theo chân kháng chiến tản cư trở nên ào ạt hơn trong đó có rất đông các văn nghệ sĩ mà sau này người ta thấy xuất hiện trong sinh hoạt văn hóa ở các vùng Quốc Gia, ở miền Nam và luôn cả ở Hải Ngoại trong những năm kế tiếp. Luận cứ cho rằng những người tản cư từ các thành phố về thôn quê hay lên miền trung du dinh tê về thành là do họ đã quen với cuộc sống tiểu tư sản thành thị không chịu nổi cuộc sống kham khổ, thiếu thốn ở trong vùng kháng chiến là không đúng. Nó chỉ là một trong nhiều nguyên nhân mà thôi. Còn nhiều nguyên nhân khác hơn nguyên nhân hoàn toàn vật chất này. Cuộc sống tự do, nhân bản và chính quyền quốc gia không Cộng Sản, tương lai học vấn của giới trẻ, chẳng hạn.
Thi ca lãng mạn thời chiến
Bây giờ nói tới thi ca thời chiến, đúng hơn thi ca lãng mạn thời chiến hay đúng hơn nữa, thi ca lãng mạn trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp của người Việt trong nửa sau của thế kỷ hai mươi, thời quân đội kháng chiến còn được gọi là Vệ Quốc Đoàn, chưa bị đổi tên là Quân Đội Nhân Dân, những năm tôi nghĩ đẹp nhất trong lịch sử giành độc lập của người Việt trong thế kỷ hai mươi, bất kể là do ai lãnh đạo, trước khi mọi chuyện thay đổi. Còn nếu so sánh với cả lịch sử của dân tộc Việt Nam thì đó cũng là một trong những thời gian đẹp nhất như chính những người tham dự đương thời đã miêu tả như:
Ở thời nhà Trần:
Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong
…………….
Lính già phơ tóc bạc
Kể chuyện thuở Nguyên Phong
(Thơ Trần Nhân Tông, Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng
Ngô Tất Tố dịch)
và thời kháng chiến chống Pháp:
Buông tay gầu vui
lại thuở bình Mông
Thơ Yên Thao, Nhà Tôi
Nếu người lính già của thời nhà Trần cứ thỉnh thoảng ngồi kể chuyện của thời Nguyên Phong thì những người đã từng là lính hay đã từng sống hay tham dự vào những sinh hoạt ở thời chống Pháp từ cuối năm 1946 đến đầu năm 1950 cũng không bao giờ quên được những ngày kháng chiến của mình dù là sau này họ sống ở vùng Tê hay ở hậu phương, ở trong Nam hay ở ngoài Bắc, ở trong nước hay ở hải ngoại, dù là họ tiếp tục được sống trong vinh quang hay bị bỏ quên ở một góc phố hay ở một làng thôn hẻo lánh nào đó.
Có điều văn thơ của họ đã được phổ biến mỗi ngày một rộng, từ hình thức những bài chép tay nằm dưới đáy ba lô của những người lính Vệ Quốc Đoàn hay những cán bộ còn nặng đầu óc tiểu tư sản ở ngay chính thời chúng mới được làm đến những bản in trong các sách vở, những bản phổ nhạc ở miền Nam hay được đưa lên sân khấu ở Hải Ngoại. Nhưng tên tuổi của Hoàng Cầm, Quang Dũng, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Yên Thao, Hữu Loan… đã được người ta nhắc tới. Những tác phẩm như Đêm Liên Hoan, Tâm Sự Đêm Giao Thừa, Bên Kia Sông Đuống, Tây Tiến, Đôi Bờ, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Đồng Chí, Bao Giờ Trở Lại, Làng Tôi, Màu Tím Hoa Sim...của các tác giả này đã được nhiều người thuộc lòng dù là thuộc một vài đoạn, một vài dòng hay một đôi câu hay ít ra là có thể nhận ra được vì đã được nghe ngâm, nghe hát vào một dịp nào đó trong đời mình, kể cả những người chưa từng được nghe, được học về cuộc kháng chiến chống Pháp của thời cha ông họ.
Nhận xét về các tác giả này, người ta thấy đa số họ là những tên tuổi mới và hầu hết đều rất trẻ. Tất nhiên là rất trẻ cho thời kỳ các tác phẩm của họ được sáng tác. Đa số năm sinh của họ là vào đầu hay giữa thập niên hai mươi, tuổi của những người đã đóng vai trò chính trong cuộc cướp chính quyền của Việt Minh vào tháng 8 năm 1945. Họ cũng là những người có học, đã từng là cựu học sinh các trường Sư Phạm, Bưởi, Thăng Long…. Điều này cũng có nghĩa là họ đã có dịp tiếp xúc với văn hóa tây phương, trong đó có văn chương lãng mạn Pháp. Nhưng quan trọng hơn hết họ là những nhà thơ có thực tài, có cảm giác rất bén nhậy với những nhận định tinh vi và đã được sống trong thời kỳ sôi sục nhất của lịch sử dân tộc.
Riêng Quang Dũng còn là một người rất tài hoa, phóng khoáng. Cái lãng mạn của họ do đó không phải chỉ khác hơn mà còn phức tạp hơn cái lãng mạn của những nhà thơ lớp trước. Lãng mạn của họ là lãng mạn kết hợp bởi không riêng tình yêu nam nữ mà luôn cả tình yêu gia đình, đặc biệt là tình yêu dành cho người mẹ, người vợ, cho đứa con còn bú, cho xóm làng, bờ sông, ruộng vườn, hình ảnh quê hương thuở còn thanh bình… và đương nhiên cả cuộc kháng chiến với những đồng đội, với đơn vị, với núi rừng, với bệnh hoạn, với cái chết kề bên, với những xóm làng đã đi qua…
Chính vì vậy mà có nhà nghiên cứu chỉ xếp Hữu Loan và Quang Dũng vào loại những tác giả lãng mạn, còn các tác giả khác vào loại tranh đấu hay tuyên truyền cho kháng chiến dù là ở một mức cao về nghệ thuật. Có điều dù xếp thơ của họ vào loại nào đi chăng nữa, người ta phải cũng phải công nhận rằng những thi ca này đã phát xuất một cách tự nhiên, từ tâm hồn của mỗi tác giả. Chúng đã được làm vào lúc họ vẫn còn được quyền tự do sáng tạo, chưa bị áp lực và sự kiềm chế chặt chẽ của chính quyền Cộng Sản như trong những năm sau này. Chính vì thế mà mỗi người có một phong cách riêng tùy theo bản chất và hoàn cảnh của mình. Ngôn từ họ dùng cũng rất đơn sơ, giản dị, trong sáng, dễ dàng khiến cho người nghe, người đọc không đến nỗi phải cố gắng, phải căng óc ra để tìm hiểu. Âm điệu cũng vậy. Đa số những bài mọi người ưa thích đều là thơ
từ đó lôi cuốn người đọc khác với nhiều bài làm theo cùng thể về sau này.
Hữu Loan
Vì thời giờ có hạn, tôi không thể đi sâu vào từng tác phẩm, từng tác giả
mà chỉ đề cập tới hai tác giả chính, được nhiều người ưa thích là Hoàng
Cầm và Quang Dũng. Hữu Loan vì là, năm 2007, nên chắc chắn đã được mọi
người tìm hiểu nên tôi thấy không cần phải nói thêm ở đây.
Hoàng Cầm và Quang Dũng, hai người cùng một tuổi, một người sinh ở Bắc
Ninh, quê hương của dân ca miền Bắc, một người ở làng Phùng, một làng
được người ta biết tới là vừa chăm chỉ làm ăn, vừa ham mê du hí, nói
theo Trần Lê Văn, tác giả của một tuyển tập về Quang Dũng. Hai người
cùng có trình độ học vấn cao ở thời bấy giờ và cùng dự tính vào nghề dạy
học. Nhưng trong khi Hoàng Cầm ở lại với nghề trước khi tham gia kháng
chiến thì Quang Dũng, mặc dầu đã ra trường sư phạm nhưng lại bỏ nghề đi
đánh đàn, kéo nhị cho môt gánh hát, chỉ làm thày giáo dạy kèm để được đi
đây, đi đó, kể cả lên Yên Báy làm ký ga, sau mới về Hà Nội, tham gia
cách mạng rồi kháng chiến và kháng chiến thực sự trong đoàn quân Tây
Tiến.
Sự khác biệt trong đời sống của hai người đã ảnh hưởng lớn tới thi ca.
Thơ của Hoàng Cầm phát xuất từ quần chúng, từ đoàn thể, lấy quần chúng,
đoàn thể làm đối tượng nên có lời lẽ bình dị, dễ dàng, lôi cuốn, hấp
dẫn, khi thì mạnh mẽ, khi thì sôi nổi, khi thì nỉ non, kể lể, tha
thiết.., điển hình là ba bài bài Đêm Liên Hoan, Tâm Sự Đêm Giao Thừa và
Bên Kia Sông Đuống. Cả ba đều là thơ ca tụng kháng chiến và cổ võ cho
kháng chiến nhưng ca tụng và cổ võ với một nghệ thuật cao, một phong
thái tự nhiên vững vàng, không sống sượng thô lỗ như những bài thơ tuyên
truyền người ta thường thấy về sau này dưới chế độ Cộng Sản. Cả ba bài
đều lấy đám đông hay người của đám đông làm khởi điểm với những bối
cảnh, những tình tiết của đám đông hay những con người của đám đông, đám
đông làm công việc chiến đấu để bảo vệ quê hương với những hình ảnh
quen thuộc của quê hương được nêu lên trong truyện kể.
Bài Đêm Liên Hoan theo Phạm Duy được làm để thay thế cho một vở kịch thơ
mà ông Hoàng Cầm muốn dựng, hướng vào các Vệ Quốc Quân nhưng vì đội văn
nghệ của ông có rất ít người nên cuối cùng ông chỉ có thể làm một bài
thơ cho một hay hai người ngâm trên một sân khấu ngoài trời mà thôi.
Chính vì thế ta không lấy làm lạ là khi trình bày bài thơ này người ta
không thể chỉ có ngâm, chỉ có dùng lời nói để diễn tả mà thôi mà còn
phải kèm theo những cử chỉ, những điệu bộ và kèm ngay khi ngâm mấy câu
đầu:
Đêm liên hoan đầu người nhấp nhô như sóng biển ngang tàng
Ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Vệ Quốc Đoàn…
…
…
Hoàng Cầm
Cũng theo Phạm Duy, Phạm Duy đã cùng Hoàng Cầm diễn ngâm rất nhiều lần trước hàng trăm, hàng ngàn Vệ Quốc Quân với những lời lẽ vô cùng tha thiết và đầy hào khí như:
Trong tiểu đội của anh
Những ai còn ai mất?
Không ai còn ai mất
Ai cũng chết mà thôi!
Người sau kẻ trước lao vào giặc
Giữ vững nghìn thu một giống nòi!
Dù ta thịt nát xương rơi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam!
“Tâm Sự Đêm Giao Thừa” kể chuyện người lính nghèo có vợ mới sinh con. Vì
nghèo và đang chiến đấu ở chiến trường nên anh lính và cũng có thể
chính tác giả không có gì để gửi về cho vợ con ăn Tết . Còn nếu có thì
chỉ là ráng lập công để sớm được về. Trong khi đó thì người vợ ở nhà
sinh sống bằng bán hàng ở một quán nhỏ, cuối năm ế khách, thiếu ăn,
không đủ sữa cho con bú. Người lính tưởng tượng ra cảnh vợ mình đang đói
ăn, không có sữa cho con bú, nhưng nghe tin chồng thắng trận thì vui
mừng quá, máu bỗng chảy mạnh trong huyết quản, sữa bỗng căng trên đầu vú
và đứa con được bú một bữa no trong niềm vui lớn của cả dân tộc. Ta hãy
đọc những đoạn chính của “Tâm Sự Đêm Giao Thừa”:
Đêm nay hết một năm
Phải gác tới giao thừa
Quê hương chừng rét lắm
Lất phất mấy hàng mưa
Tôi có người vợ nghèo
Đời vất vả gieo neo
Từ khi chồng đi lính
Nhà tranh bóng hắt hiu
Lần hồi rau cháo dăm phiên chợ
Tóc rối, thân gầy, quán vắng teo.
Đêm ba mươi gió thổi
Tôi lại nhớ con tôi
Vợ đói, con cùng đói
Khóc thét lặng từng hồi
Mẹ thì nước mắt nhiều hơn sữa
Ngực lép con nhai đã rã rời…
với bốn câu kết luận:
À ơi! Cha con ăn Tết lập công
Cho sữa mẹ chảy một giòng nghìn thu
Cha đem cái chết quân thù
Làm nên cuộc sống bây giờ của con
Trong bài “Bên Kia Sông Đuống” Hoàng Cầm dùng lối kể chuyện để giải buồn cho người yêu. Ông đã dùng tất cả những hình ảnh tươi đẹp, hiền lành của quê hương thời thanh bình trước kia và mơ ước một ngày cùng người yêu trở về.
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Năm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
……
rồi Hoàng Cầm kể tiếp những hình ảnh hiền hòa dễ thương của cuộc sống ở quê hương ông như lúa nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ, áo the đen, cô hàng xén răng đen, những cô nàng cắn chỉ môi trầu, những em bé xột xoạt quân nâu… mà chiến tranh đã làm tan hoang phiêu bạt, để cùng người yêu mơ ước một ngày về:
Bao giờ về bên kia Sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
Quang Dũng
Thơ của Quang Dũng khác hẳn. Quang Dũng không làm thơ hướng vào đám
đông, để tuyên truyền, để cổ võ cho kháng chiến, để thúc đẩy mọi người
hy sinh cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Ông làm thơ cho ông hay chia sẻ
với bạn bè của riêng ông. Ông nhìn mọi chuyện qua con mắt riêng của ông,
trình bày những cảm nhận của riêng ông, của một con người vừa tài hoa,
vừa phóng khoáng, độc lập, không chịu sống gò bó, mà trước kia ông đã có
dịp thể hiện qua hành động không ở lại với nghề dạy học sau khi đã tốt
nghiệp trường sư phạm để đi theo một gánh hát kéo đàn nhị hay lên Yên
Bái làm thư ký nhà ga. Phong thái của ông đã hiện rõ nét trong thơ ông.
Đi kháng chiến, theo đơn vị vượt biên giới sang Lào, trải qua nhiều gian
lao, vất vả, hiểm nguy, bệnh tật, chết chóc… Nhưng qua thơ của ông tất
cả đã trở thành nhẹ nhàng, rất lãng mạn, rất đẹp và rất thơ, không vướng
vào những hạt sạn của tuyên truyền.
Ông viết:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Hiu hắt cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống…hay
Chiêu chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người…
hay:
Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Những hình ảnh thật hào hùng khó kiếm được ở những nhà thơ khác đương thời. Cần để ý đoàn quân không mọc tóc không phải là đoàn quân trọc đầu vì theo kỷ luật của quân đội mà là bị sốt rét nặng mà những ai đã từng sống ở miền Bắc trong thời gian tản cư về các miền quê hay miền núi đều có kinh nghiệm.
Với cái chết, Quang Dũng cũng nhìn với phong thái tương tự, một phong
thái bình thản, có thể nói là hồn nhiên của trẻ thơ bởi vì đi lính là
đương nhiên người ta phải chấp nhận tất cả dù là gian lao, nguy hiểm,
chết chóc, dù là đi lính cho một mục tiêu vô cùng đẹp đẽ, vô cùng lý
tưởng như Hoàng Cầm và các nhà thơ khác diễn tả. Nhưng Quang Dũng đã đạt
tới một trình độ cao hơn. Ông cảm nhận được sự mong manh của cuộc sống
ngoài chiến trận. Một phút trước người ta còn tồn tại, phút sau đã trở
thành hư vô. Ông đã chấp nhận sự mong manh đó như người ta chấp nhận trò
chơi hồi còn nhỏ. Chán, mệt thì không chơi nữa, không thèm chơi nữa,
lúc khác sẽ chơi lại.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
hay
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
hay:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Thực sự thì ở đây chết là chết không có chiếu mà chon nhưng người ta cũng có thể hiểu theo nghĩa tình cảm đối với là về với đất nước quê hương của dân tộc.
Những câu thơ kể trên được trích từ bài Tây Tiến của Quang Dũng. Nhưng
đó không phải là những câu hay nhất vì trong bài này câu nào cũng hay,
cũng xúc tích, cũng gợi nên những cảm xúc sâu xa ở người đọc. Xen vào
những câu này, là những câu dầy tình cảm, mang nặng bản chất hào hoa,
tiểu tư sản thành thị ở con người tác giả. Đêm trằn trọc không ngủ được
trên đường hành quân, Quang Dũng viết:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiêu thơm.
hay ở một bài thơ khác, bài Đôi Bờ:
Khói thuốc khơi dòng thương nhớ xưa
Đêm đêm Sông Đáy lạnh đôi bờ.
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ.
hay trong Đôi mắt Người Sơn Tây:
Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương.
Ngay cả đối với những sinh hoạt mà các văn nghệ sĩ đương thời thường gặp
hay tham gia trong những năm này ở vùng kháng chiến như các đêm liên
hoan chẳng hạn, khác với Hoàng Cầm, Quang Dũng cũng tham dự nhưng tham
dự như là một khách phong lưu, tài tử. Ông không gọi là liên hoan, tiếng
thời thượng, ai cũng dùng. Ông dùng hai hai chữ đuốc hoa và kèm theo
hai chữ xiêm áo của văn chương lãng mạn cổ điển:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
và còn nhiều nữa nhưng bài đã quá dài, viết thêm nữa e làm loãng những gì người viết muốn viết hay muốn nói. Xin để cho người đọc suy nghĩ, tìm tòi tiếp.
Kết luận:
Khi tham gia đoàn quân Tây Tiến vào năm 1947, một đoàn quân được nói để
bảo vệ miền Thượng Lào và biên giới Việt Lào nhưng rất có thể chỉ là để
thanh toán những thành phần tiểu tư sản trí thức còn lại của Trung Đoàn
Thủ Đô và của Tự Vệ Thành Hà Nội sau khi họ đã làm tròn nhiệm vụ vì ai
cũng biết chiến đấu ở các miền rừng núi đoàn quân này không thể nào so
sánh được với quân đội chính qui của Võ Nguyên Giáp mà để lại ở miền
đồng bằng thì nguy hiểm, Quang Dũng làm đại đội trưởng. Cuộc đời binh
nghiệp của ông đã không lên cao hơn được nữa, có thể là vì gốc gác của
ông cũng như bản chất con người nghệ sĩ phóng khoáng của ông. Sau này
khi về Hà Nội, ông đã được thấy những cảnh bi thảm của vợ con những tử
sĩ của thời chiến và đã ghi lại trong bài “Đường Chiều Thứ Bảy” với
những câu như sau:
Tôi đã gặp
Nhiều người vợ trẻ
Đàn ông đã ngã trên chiến trường
Vất vả nuôi con những ngày kháng chiến
Xót xa thương khóc bao ngày
Chiều thứ bảy hôm nay
Họ đi bên người chồng mới lấy
Và những đứa con
Bước còn bỡ ngỡ
Bên người cha mới hôm qua.
Ai biết được bây giờ
Tâm sự của những người
Ngậm ngùi cất kỹ ảnh chồng
Vào đáy hộp nữ trang
Bến nước đi thêm một bước nữa.
Bài thơ tả chân nhưng cũng có thể mang tính chất biểu tượng. Nó nói lên
sự thê thảm, thật là thê thảm của những người được gọi là thắng trận,
thê thảm như chính cuộc đời của tác giả, của Hữu Loan, của Nguyễn Hữu
Đang và của nhiều người khác… , những người nửa đường đứt gánh, những
người sáng tạo nhưng không được sáng tạo. Có điều vì những ngày theo
kháng chiến của họ đẹp quá, nên thơ họ luôn luôn tiếc nuối, bỏ không
được, giữ không xong. Họ không có được sự nhạy cảm, dứt khoát, nhanh và
gọn gàng của Phạm Duy sau khi người nhạc sĩ này được gọi về trung ương
tham dự Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân, người viết xin nhấn mạnh hai chữ sau,
hai chữ nhân dân, lần thứ hai vào mùa hè năm 1950 như Phạm Duy đã nhận
định và đã làm. Âu cũng là một sự bất hạnh cho nền văn học Việt Nam hậu
bán thế kỷ hai mươi.
Phạm Cao Dương
Tháng 10 năm 2007
Hiệu chính 30 Tháng 10, năm 2012
Ghi chú: Đây là bài phát biểu tác giả đọc trong buổi sinh hoạt ghi dấu Nguyệt San Khởi Hành sang năm Thứ Mười Hai và giải Văn Chương của báo này trao cho nhà thơ Hữu Loan được công bố.
GS. PHẠM ĐỨC LIÊN * TRẦN HƯNG ĐẠO
"Hưng Đạo Đại Vương" Trần Quốc Tuấn đại thắng quân Mông Cổ
Phạm Đức Liên, EdD
A. Dẫn nhập:
* Thành Cát Tư Hãn (Chinghis Khan, 1162-1227) là người sáng lập đế quốc Mông Cổ (Mongol Empire). Cháu nội ông là Hốt Tất Liệt (Kublai Khan, 1215-1294, trị vì 1260-1294), năm 1266 tôn vinh ông là Nguyên Thái Tổ của triều đại nhà Nguyên (Yuan Dynasty, 1271-1368). Hốt Tất Liệt là một đại danh tướng: oai phong lẫm liệt (the great military feat in the world history).
* Kỵ binh Mông Cổ - đánh Tây (Tây Hạ, 1227), dẹp Bắc (nước Kim 1234)... Vó ngựa của họ gây khiếp sợ khắp Trung Á và Đông Âu - và chuẩn bị tiến chiếm nhiều quốc gia ở Miền Nam: xâm lược Đại Lý (Vân Nam, 1254) - Đại Việt , 1258... Thế nhưng...
B. Nhà Trần (1225-1400): 3 lần chiến thắng quân Mông Cổ:
I. Đại Việt đại thắng quân Nguyên lần I (1258):
1. Tháng 1 năm 1258, với 45,000 quân, và kế hoạch tiến nhanh/đánh nhanh trong 2 tuần lễ, tướng Ngột Lương Hợp Thai (Vriyangqatai, 1200-1271) - tiến quân vào Đại Việt (lãnh thổ nước ta lúc đó chỉ là châu thổ Sông Hồng) theo hướng sông Chảy và chiếm được thành Thăng Long!. Xin nhắc lại: quân mông Cổ rất giỏi về kỵ bịnh (ngựa).
2. Vua Trần Thái Tông (1218-1277, trị vì 1225-1258) đích thân chỉ huy cuộc tổng phản công - cùng các tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Thủ Độ... và 100,000 quân (bộ binh, kỵ bịnh, tượng binh và thủy binh). Đại Việt toàn thắng quân Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu và truy kích địch quân trên đường tháo chạy về Vân Nam (sông Thao).
3. Trong lúc phản công, có lúc vua Trần xuống tinh thần!, Trần Thủ Độ tâu:
"Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo...".
4. Chiến tranh "Nguyên - Việt" lần thứ nhất kéo dài gần một tháng. Đồng bào thiểu số (minorities): người Dao (Yao), Miêu (H'Mong) ... đóng góp rất nhiều trong cuộc chống quân xâm lược Bắc Phương.
II. Đại Việt thắng quân Nguyên lần II (1285) và Trần Hưng Đạo:
1. Năm 1283, quân Nguyên do tướng Toa Đô (Sogetu) đánh chiếm Chiêm Thành (Champa). Vua Trần Nhân Tông (1258-1308, trị vì 1278-1293) cho chiến thuyền qua giúp vua Chiêm. Tháng 1 năm 1285, chủ tướng Thoát Hoan (Toghan) bằng đường bộ tiến vào Đại Việt: uy hiếp Thăng Long (theo ngả sông Chảy) và Vạn Kiếp (ngả Lạng Sơn). Đồng thời Thoát Hoan ra lệnh cho Toa Đô, Ô Mã Nhi (Omar) từ Chiêm Thành mà đánh ra Bắc tạo thế gọng kìm hòng tiêu diệt Đại Việt. Tổng số quân Nguyên trong trận nầy (1285) là khoảng 500,000 binh lính.
2. Tháng 2 năm 1285, vua Trần triệu tập Hội Nghị Diên Hồng và toàn dân quyết chiến. Vua Trân giao cho Trân Hưng Đạo (1228-1300) chỉ huy lực lượng Đại Việt (cuộc chiến diễn ra cả Bắc Việt và Bắc Trung Phần). Trần Quốc Tuấn thừa lịnh vua - viết Hịch Tướng Sĩ: "...điều quan trọng là chiến thắng sau cùng!". Khí thế dân quân cao vời vợi, binh sĩ tự nguyện xâm vào tay hai chữ Sát Thát (Sát = giết, Thát = Thát Đát = Mông Cổ). Các danh tướng của ta là Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái... Trần Hưng Đạo cho quân phục kích những nơi hiểm yếu (đóng chốt): Lạng sơn, Bắc Giang (Tổng Hành Dinh quân Đại Việt)... tiến hành du kích chiến trong giai đoạn đầu.
3. Vẫn nguyên tắc: tiến nhanh (quân mã Mông Cổ) đánh nhanh và thắng nhanh - Quân Mông Cổ tiến nhanh như vũ bảo. Trần Hưng Đạo ra lịnh rút lui để bảo toàn chủ lực và tiêu thổ kháng chiến (vườn không nhà trống !). Đại Việt lui quân về Vạn Kiếp cả ngàn chiến thuyền - để rồi Vạn Kiếp cũng phải di tản chiến thuật. Thoát Hoan vào Thăn Long ăn mừng chiến thắng - rồi ra đóng trại ở bờ bắc sông Hồng. Trần Bình Trọng bị giắt bắt và giết sau đó!. Vua Trần rút về Thiên Trường (Nam Định), Trường Yên (Ninh Bình) - lại bị Toa Đô tiến quân ra Quảng Bình, Nghệ An rồi Thanh Hóa. Trần Hưng Đạo lui về Nam Ninh cứu vua!. Đại Việt và quân Nguyên đánh nhau đã 5 tháng, tinh thần địch quân bắt đầu có phần suy yếu và nhất là thiếu lương thực...
4. Tháng 6, 1285, Trần Quốc Tuấn ra lịnh tổng phản công, quyết tâm trở lại Vạn Kiếp rồi dọc theo sông Hồng mà trở lại Thăng Long. Toa Đô bị quân Đại Việt chém chết, thủ cấp được trình lên vua Trần!. Rồi Đại Việt truy kích quân Nguyên trên bờ Bắc sông Hồng. Ở đây, Trần Quốc Toản đền nợ nước nhưng Thoát Hoan phải chui ống đồng để trốn thoát!. 500,000 quân Mông Cổ đầu tháng 1 năm 1285 chỉ còn lại 50,000 sau cuộc chiến lần hai! (thủy binh hầu như bị quân Trần tiêu diệt toàn bộ. Ô Mã Nhi thoát chết).
III. Đại Việt toàn thắng quân Nguyên lần III (1288) và "Hưng Đạo Đại Vương" Trần Quốc Tuấn:
1. Cho dù là một đạo quân "bách chiến bách thắng" thế nhưng lần xâm lăng Đại Việt (1285) 10 phần chết 9 còn 1 (chỉ còn 50,000 trong số 500,000 quân xâm lăng!) Hốt Tất Liệt vẫn không từ bỏ mộng tái chiếm nước ta. Với 100,000 quân tinh nhuệ, tướng lãnh chỉ huy sắc bén (sharp) và 500 chiến thuyền và 100 tàu vận tải lương thực do Ô Mã Nhi và Trương Văn Hổ cầm đầu. Thoát Hoan lại tiến chiếm Đại Việt: Chủ yếu là Vạn Kiếp, Thăng Long (trên toàn lãnh thổ Bắc Việt).
*Kỵ, tượng, bộ binh tiến vào châu thổ sông Hồng bằng 2 ngả: từ Vân Nam dọc theo sông Thao để dứt điểm Thăng Long và từ Quảng Tây dọc theo sông Lục Nam mà chiếm Vạn Kiếp để rồi tây tiến, vào Thăng Long. Quân Thoát Hoan vượt biên giới chiếm Lạng Sơn ngày 25 tháng 12 năm 1287, vào Vạn Kiếp đầu tháng 1/1288.
* Từ Quảng Đông, chiến thuyền của Ô Mã Nhi ra khơi theo bờ biển Móng Cái mà vào Bạch Đằng Giang rồi sẽ tiến lên Vạn Kiếp, Phả Lại!. Đầu tháng 2, 1288, quân Nguyên đánh Thăng Long, không vào được.
2. Trần Nhân Tông là 1 trong những ông vua anh minh nhất của dân tộc là Tổng Tư Lịnh tối cao. Hưng Đạo Đại Vương làm Tổng Chỉ Huy quân đội (commander - in-chief) cùng 300,000 quân chung một lời thề xưa của danh tướng Trần Thủ Độ.
* Trước tiếng vó ngựa nổi tiến vô địch của quân Mông Cổ - Hưng Đạo Đại Vương sai các tướng đóng chốt: bắc (Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái ở Lạng Sơn...), nam: (Lê phụ Trần tại Thanh, Nghệ Tĩnh...) e rằng quân Nguyên đánh gọng kìm như năm 1285. Tổng hành dinh của ngài đóng ở Quảng Yên. Những ngày đầu cuộc chiến, như nước vỡ bờ, hầu hết các chốt bị quân địch tràn ngập. Hưng Đạo Đại Vương phải rút về Đồ Sơn (Hải Phòng). Lúc Thoát Hoan bao vây kinh thành, hoàng đế Trần Nhân Tông dùng hải quân đi vào Thanh Hóa. Tình hình nguy ngập và Hưng Đạo Đại Vương sai sứ giả qua xin giảng hòa cùng Thoát Hoan! Worried to Death!..
* Thế rồi khí thiêng sông núi, hồn thiêng dân tộc (cụ thể là Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản... ) đã phù hộ Đại Việt: đoàn tàu vận tải lương thực của địch bị danh tướng Trần Khánh Dư đánh tan ở Vân Đồn... Cũng là lúc Đại Việt tổng công kích trên khắp chiến trường. Thoát Hoan bỏ Thăng Long về Vạn Kiếp để rồi cuối tháng 3 năm 1288 bại tướng Thoát Hoan ra lịnh rút quân bằng đường bộ (Lạng Sơn) và thủy binh do Ô Mã Nhi (sông Bạch Đằng). Xin lưu ý: địch bao vây Thăng Long nhưng không vào được.
* Đầu tháng 4 năm 1288, Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Đại Vương trực tiếp đánh tàn quân Ô Mã Nhi ở Bạch Đằng Giang bằng những cọc nhọn và chờ nước thủy triều rút xuống (ông đã thực hiện đúng bài bản của Ngô Quyền năm 938): 400 chiến thuyền của quân Nguyên bị tan nát! Bộ binh địch bị truy kích ráo riết và trung tuần tháng 4, 1288 mới rút được về nước (Vân Nam). Đại Việt toàn thắng quân Mông Cổ.
3. Đoàn tàu chở lương thực của quân Nguyên bị tiêu diệt ở Vân Đồn là một khúc rẽ của lịch sử Đại Việt (turning point of Tran Dynasty). Không có thực phẩm thì làm sao mà Thoát Hoan điều binh khiển tướng!. Hốt Tất Liệt băng hà năm 1294 là khúc rẽ thứ hai.
4. Chiến tranh "Đại Nguyên - Đại Việt" lần thứ 3 kéo dài trên ba tháng (cuối tháng 12,1287-đầu tháng 4,1288). Thủy binh địch hoàn toàn tan rã (400/500). Kỵ binh địch mười phần chết sáu còn bốn (chỉ còn 40,000 trong số 100,000 quân). Thắng thì thắng, thế nhưng vì là nước nhỏ nên hoàng đế Trần Nhân Tông : viết thơ cầu hòa và tặng phẩm đến Hốt Tất Liệt. Âu cũng là nhân tình thế thái: La raison du plus fort est toujours la meilleure!.
C. Lời kết:
* Tiếng vó ngựa của đoàn quân viễn chinh Mông Cổ (trong đó có nhiều binh sĩ gốc Hán/Trung Quốc - bằng chứng là tướng Phàn Tiếp...) vang dội cả một bầu trời rộng lớn Á Âu (đến tận Ba Lan, Hung Gia Lợi...) gần suốt 2 thế kỷ 13, 14. Ấy thế mà - tiếng ngựa hí của đoàn kỵ binh đó - đã không thể vang lên ở bầu trời Rồng Tiên (children of the Dragon and Fairies )!
* Vì sức mạnh của Hội Nghị Diên Hồng (tháng 2/1285) do vua Trần Nhân Tông triệu tập: "Quyết Chiến để Quyết Thắng". Dân quân Đại Việt đã thắng!.
* Ý dân là ý trời: 95 triệu dân Việt Nam Lục Địa đang thèm khát bốn chữ "Dân Quyền, Chủ Quyền". Chúng tôi xin muơn bài thơ Rừng Bạc Biển vàng của "Lão Hạc Mây Tần" thay cho phần kết. Đa tạ.
Rừng Bạc Biển Vàng
Lão hạc Mây Tần
1. Tôi yêu nước Việt lạ lùng,
Yêu từng ngọn núi - đến vùng biển Đông
2. Yêu qua châu thổ sông Hồng,
Là nơi ấp ủ - con Rồng cháu Tiên
3. Yêu vạn nẻo - yêu triền miên,
Trường Sơn lừng lững - rồi xuyên sơn hà
4. Ngọt thơm dòng nước La Ngà,
Cửu Long hồng thắm - núi Bà Tây Ninh
5. Bao cô thôn nữ duyên xinh,
Sông Hương núi Ngự - lung linh cho đời
6. Xiết tay - gìn giữ biển khơi,
Đánh quân xâm lược - tời bời - tim gan
7. Vững tâm - bảo vệ gian san,
Bao nhiêu tấc đất - tấc vàng ngàn sau.
8 Quyết tâm - bám trụ biển sâu,
Bao nhiêu thước biển - tấn dầu Lạc Long
Silvery forests, golden sea
1. We love Vietnam tremendously,
Love every each mountain - through Eastern Sea.
2. This beautiful strip of land, Red river delta - We love them all,
Cradle we swing - Dragons, Fairies we decend upon.
3. Loving with all our hearts - endearing non-stop,
Truong Son range - gigantically rising above, branching every passes.
4. Sweet - favored water from La Nga - the sparking stream,
Mekong river - the black virgin mount Tay Ninh.
5 From distant villages - Thousands of pretty young girls,
Perfume river, Ngu Binh mountain - enhance our good life.
6. Joining hands - We take care our fort,
We fight the aggressors and bleed their hearts.
7. Bravely, triumphantly - we protect our country,
Numerous feets of land turn to gold pieces - for the upcoming thousand years.
8. Full of efforts - under our deep sea,
Unmeasureable volumes of water - Lac Long millions barrels of oils !
Chicago, Dec 29/2015
(snow turned to sleet!)
Phạm Đức Liên, EdD
Nguyên Giáo Sư Sử Địa các trường trung học Trịnh Hoài Đức Bình Dương, Nguyễn Trải Sài Gòn và các trường tư.
Phạm Đức Liên, EdD
A. Dẫn nhập:
* Thành Cát Tư Hãn (Chinghis Khan, 1162-1227) là người sáng lập đế quốc Mông Cổ (Mongol Empire). Cháu nội ông là Hốt Tất Liệt (Kublai Khan, 1215-1294, trị vì 1260-1294), năm 1266 tôn vinh ông là Nguyên Thái Tổ của triều đại nhà Nguyên (Yuan Dynasty, 1271-1368). Hốt Tất Liệt là một đại danh tướng: oai phong lẫm liệt (the great military feat in the world history).
* Kỵ binh Mông Cổ - đánh Tây (Tây Hạ, 1227), dẹp Bắc (nước Kim 1234)... Vó ngựa của họ gây khiếp sợ khắp Trung Á và Đông Âu - và chuẩn bị tiến chiếm nhiều quốc gia ở Miền Nam: xâm lược Đại Lý (Vân Nam, 1254) - Đại Việt , 1258... Thế nhưng...
B. Nhà Trần (1225-1400): 3 lần chiến thắng quân Mông Cổ:
I. Đại Việt đại thắng quân Nguyên lần I (1258):
1. Tháng 1 năm 1258, với 45,000 quân, và kế hoạch tiến nhanh/đánh nhanh trong 2 tuần lễ, tướng Ngột Lương Hợp Thai (Vriyangqatai, 1200-1271) - tiến quân vào Đại Việt (lãnh thổ nước ta lúc đó chỉ là châu thổ Sông Hồng) theo hướng sông Chảy và chiếm được thành Thăng Long!. Xin nhắc lại: quân mông Cổ rất giỏi về kỵ bịnh (ngựa).
2. Vua Trần Thái Tông (1218-1277, trị vì 1225-1258) đích thân chỉ huy cuộc tổng phản công - cùng các tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Thủ Độ... và 100,000 quân (bộ binh, kỵ bịnh, tượng binh và thủy binh). Đại Việt toàn thắng quân Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu và truy kích địch quân trên đường tháo chạy về Vân Nam (sông Thao).
3. Trong lúc phản công, có lúc vua Trần xuống tinh thần!, Trần Thủ Độ tâu:
"Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo...".
4. Chiến tranh "Nguyên - Việt" lần thứ nhất kéo dài gần một tháng. Đồng bào thiểu số (minorities): người Dao (Yao), Miêu (H'Mong) ... đóng góp rất nhiều trong cuộc chống quân xâm lược Bắc Phương.
II. Đại Việt thắng quân Nguyên lần II (1285) và Trần Hưng Đạo:
1. Năm 1283, quân Nguyên do tướng Toa Đô (Sogetu) đánh chiếm Chiêm Thành (Champa). Vua Trần Nhân Tông (1258-1308, trị vì 1278-1293) cho chiến thuyền qua giúp vua Chiêm. Tháng 1 năm 1285, chủ tướng Thoát Hoan (Toghan) bằng đường bộ tiến vào Đại Việt: uy hiếp Thăng Long (theo ngả sông Chảy) và Vạn Kiếp (ngả Lạng Sơn). Đồng thời Thoát Hoan ra lệnh cho Toa Đô, Ô Mã Nhi (Omar) từ Chiêm Thành mà đánh ra Bắc tạo thế gọng kìm hòng tiêu diệt Đại Việt. Tổng số quân Nguyên trong trận nầy (1285) là khoảng 500,000 binh lính.
2. Tháng 2 năm 1285, vua Trần triệu tập Hội Nghị Diên Hồng và toàn dân quyết chiến. Vua Trân giao cho Trân Hưng Đạo (1228-1300) chỉ huy lực lượng Đại Việt (cuộc chiến diễn ra cả Bắc Việt và Bắc Trung Phần). Trần Quốc Tuấn thừa lịnh vua - viết Hịch Tướng Sĩ: "...điều quan trọng là chiến thắng sau cùng!". Khí thế dân quân cao vời vợi, binh sĩ tự nguyện xâm vào tay hai chữ Sát Thát (Sát = giết, Thát = Thát Đát = Mông Cổ). Các danh tướng của ta là Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái... Trần Hưng Đạo cho quân phục kích những nơi hiểm yếu (đóng chốt): Lạng sơn, Bắc Giang (Tổng Hành Dinh quân Đại Việt)... tiến hành du kích chiến trong giai đoạn đầu.
3. Vẫn nguyên tắc: tiến nhanh (quân mã Mông Cổ) đánh nhanh và thắng nhanh - Quân Mông Cổ tiến nhanh như vũ bảo. Trần Hưng Đạo ra lịnh rút lui để bảo toàn chủ lực và tiêu thổ kháng chiến (vườn không nhà trống !). Đại Việt lui quân về Vạn Kiếp cả ngàn chiến thuyền - để rồi Vạn Kiếp cũng phải di tản chiến thuật. Thoát Hoan vào Thăn Long ăn mừng chiến thắng - rồi ra đóng trại ở bờ bắc sông Hồng. Trần Bình Trọng bị giắt bắt và giết sau đó!. Vua Trần rút về Thiên Trường (Nam Định), Trường Yên (Ninh Bình) - lại bị Toa Đô tiến quân ra Quảng Bình, Nghệ An rồi Thanh Hóa. Trần Hưng Đạo lui về Nam Ninh cứu vua!. Đại Việt và quân Nguyên đánh nhau đã 5 tháng, tinh thần địch quân bắt đầu có phần suy yếu và nhất là thiếu lương thực...
4. Tháng 6, 1285, Trần Quốc Tuấn ra lịnh tổng phản công, quyết tâm trở lại Vạn Kiếp rồi dọc theo sông Hồng mà trở lại Thăng Long. Toa Đô bị quân Đại Việt chém chết, thủ cấp được trình lên vua Trần!. Rồi Đại Việt truy kích quân Nguyên trên bờ Bắc sông Hồng. Ở đây, Trần Quốc Toản đền nợ nước nhưng Thoát Hoan phải chui ống đồng để trốn thoát!. 500,000 quân Mông Cổ đầu tháng 1 năm 1285 chỉ còn lại 50,000 sau cuộc chiến lần hai! (thủy binh hầu như bị quân Trần tiêu diệt toàn bộ. Ô Mã Nhi thoát chết).
III. Đại Việt toàn thắng quân Nguyên lần III (1288) và "Hưng Đạo Đại Vương" Trần Quốc Tuấn:
1. Cho dù là một đạo quân "bách chiến bách thắng" thế nhưng lần xâm lăng Đại Việt (1285) 10 phần chết 9 còn 1 (chỉ còn 50,000 trong số 500,000 quân xâm lăng!) Hốt Tất Liệt vẫn không từ bỏ mộng tái chiếm nước ta. Với 100,000 quân tinh nhuệ, tướng lãnh chỉ huy sắc bén (sharp) và 500 chiến thuyền và 100 tàu vận tải lương thực do Ô Mã Nhi và Trương Văn Hổ cầm đầu. Thoát Hoan lại tiến chiếm Đại Việt: Chủ yếu là Vạn Kiếp, Thăng Long (trên toàn lãnh thổ Bắc Việt).
*Kỵ, tượng, bộ binh tiến vào châu thổ sông Hồng bằng 2 ngả: từ Vân Nam dọc theo sông Thao để dứt điểm Thăng Long và từ Quảng Tây dọc theo sông Lục Nam mà chiếm Vạn Kiếp để rồi tây tiến, vào Thăng Long. Quân Thoát Hoan vượt biên giới chiếm Lạng Sơn ngày 25 tháng 12 năm 1287, vào Vạn Kiếp đầu tháng 1/1288.
* Từ Quảng Đông, chiến thuyền của Ô Mã Nhi ra khơi theo bờ biển Móng Cái mà vào Bạch Đằng Giang rồi sẽ tiến lên Vạn Kiếp, Phả Lại!. Đầu tháng 2, 1288, quân Nguyên đánh Thăng Long, không vào được.
2. Trần Nhân Tông là 1 trong những ông vua anh minh nhất của dân tộc là Tổng Tư Lịnh tối cao. Hưng Đạo Đại Vương làm Tổng Chỉ Huy quân đội (commander - in-chief) cùng 300,000 quân chung một lời thề xưa của danh tướng Trần Thủ Độ.
* Trước tiếng vó ngựa nổi tiến vô địch của quân Mông Cổ - Hưng Đạo Đại Vương sai các tướng đóng chốt: bắc (Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái ở Lạng Sơn...), nam: (Lê phụ Trần tại Thanh, Nghệ Tĩnh...) e rằng quân Nguyên đánh gọng kìm như năm 1285. Tổng hành dinh của ngài đóng ở Quảng Yên. Những ngày đầu cuộc chiến, như nước vỡ bờ, hầu hết các chốt bị quân địch tràn ngập. Hưng Đạo Đại Vương phải rút về Đồ Sơn (Hải Phòng). Lúc Thoát Hoan bao vây kinh thành, hoàng đế Trần Nhân Tông dùng hải quân đi vào Thanh Hóa. Tình hình nguy ngập và Hưng Đạo Đại Vương sai sứ giả qua xin giảng hòa cùng Thoát Hoan! Worried to Death!..
* Thế rồi khí thiêng sông núi, hồn thiêng dân tộc (cụ thể là Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản... ) đã phù hộ Đại Việt: đoàn tàu vận tải lương thực của địch bị danh tướng Trần Khánh Dư đánh tan ở Vân Đồn... Cũng là lúc Đại Việt tổng công kích trên khắp chiến trường. Thoát Hoan bỏ Thăng Long về Vạn Kiếp để rồi cuối tháng 3 năm 1288 bại tướng Thoát Hoan ra lịnh rút quân bằng đường bộ (Lạng Sơn) và thủy binh do Ô Mã Nhi (sông Bạch Đằng). Xin lưu ý: địch bao vây Thăng Long nhưng không vào được.
* Đầu tháng 4 năm 1288, Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Đại Vương trực tiếp đánh tàn quân Ô Mã Nhi ở Bạch Đằng Giang bằng những cọc nhọn và chờ nước thủy triều rút xuống (ông đã thực hiện đúng bài bản của Ngô Quyền năm 938): 400 chiến thuyền của quân Nguyên bị tan nát! Bộ binh địch bị truy kích ráo riết và trung tuần tháng 4, 1288 mới rút được về nước (Vân Nam). Đại Việt toàn thắng quân Mông Cổ.
3. Đoàn tàu chở lương thực của quân Nguyên bị tiêu diệt ở Vân Đồn là một khúc rẽ của lịch sử Đại Việt (turning point of Tran Dynasty). Không có thực phẩm thì làm sao mà Thoát Hoan điều binh khiển tướng!. Hốt Tất Liệt băng hà năm 1294 là khúc rẽ thứ hai.
4. Chiến tranh "Đại Nguyên - Đại Việt" lần thứ 3 kéo dài trên ba tháng (cuối tháng 12,1287-đầu tháng 4,1288). Thủy binh địch hoàn toàn tan rã (400/500). Kỵ binh địch mười phần chết sáu còn bốn (chỉ còn 40,000 trong số 100,000 quân). Thắng thì thắng, thế nhưng vì là nước nhỏ nên hoàng đế Trần Nhân Tông : viết thơ cầu hòa và tặng phẩm đến Hốt Tất Liệt. Âu cũng là nhân tình thế thái: La raison du plus fort est toujours la meilleure!.
C. Lời kết:
* Tiếng vó ngựa của đoàn quân viễn chinh Mông Cổ (trong đó có nhiều binh sĩ gốc Hán/Trung Quốc - bằng chứng là tướng Phàn Tiếp...) vang dội cả một bầu trời rộng lớn Á Âu (đến tận Ba Lan, Hung Gia Lợi...) gần suốt 2 thế kỷ 13, 14. Ấy thế mà - tiếng ngựa hí của đoàn kỵ binh đó - đã không thể vang lên ở bầu trời Rồng Tiên (children of the Dragon and Fairies )!
* Vì sức mạnh của Hội Nghị Diên Hồng (tháng 2/1285) do vua Trần Nhân Tông triệu tập: "Quyết Chiến để Quyết Thắng". Dân quân Đại Việt đã thắng!.
* Ý dân là ý trời: 95 triệu dân Việt Nam Lục Địa đang thèm khát bốn chữ "Dân Quyền, Chủ Quyền". Chúng tôi xin muơn bài thơ Rừng Bạc Biển vàng của "Lão Hạc Mây Tần" thay cho phần kết. Đa tạ.
Rừng Bạc Biển Vàng
Lão hạc Mây Tần
1. Tôi yêu nước Việt lạ lùng,
Yêu từng ngọn núi - đến vùng biển Đông
2. Yêu qua châu thổ sông Hồng,
Là nơi ấp ủ - con Rồng cháu Tiên
3. Yêu vạn nẻo - yêu triền miên,
Trường Sơn lừng lững - rồi xuyên sơn hà
4. Ngọt thơm dòng nước La Ngà,
Cửu Long hồng thắm - núi Bà Tây Ninh
5. Bao cô thôn nữ duyên xinh,
Sông Hương núi Ngự - lung linh cho đời
6. Xiết tay - gìn giữ biển khơi,
Đánh quân xâm lược - tời bời - tim gan
7. Vững tâm - bảo vệ gian san,
Bao nhiêu tấc đất - tấc vàng ngàn sau.
8 Quyết tâm - bám trụ biển sâu,
Bao nhiêu thước biển - tấn dầu Lạc Long
Silvery forests, golden sea
1. We love Vietnam tremendously,
Love every each mountain - through Eastern Sea.
2. This beautiful strip of land, Red river delta - We love them all,
Cradle we swing - Dragons, Fairies we decend upon.
3. Loving with all our hearts - endearing non-stop,
Truong Son range - gigantically rising above, branching every passes.
4. Sweet - favored water from La Nga - the sparking stream,
Mekong river - the black virgin mount Tay Ninh.
5 From distant villages - Thousands of pretty young girls,
Perfume river, Ngu Binh mountain - enhance our good life.
6. Joining hands - We take care our fort,
We fight the aggressors and bleed their hearts.
7. Bravely, triumphantly - we protect our country,
Numerous feets of land turn to gold pieces - for the upcoming thousand years.
8. Full of efforts - under our deep sea,
Unmeasureable volumes of water - Lac Long millions barrels of oils !
Chicago, Dec 29/2015
(snow turned to sleet!)
Phạm Đức Liên, EdD
Nguyên Giáo Sư Sử Địa các trường trung học Trịnh Hoài Đức Bình Dương, Nguyễn Trải Sài Gòn và các trường tư.
PHAN HẠNH * VIỆT CỘNG KHỦNG BỐ
Ai khủng bố ở Việt Nam
TíhPhan Hạnh
Khủng bố là một từ ngữ mà con người định nghĩa mỗi người một
cách tùy theo họ ở phe nào. Sau biến cố 9-11, đối với hầu hết thế giới,
khủng bố gắn liền với những người hồi giáo cực đoan, đầu sỏ là Osama
bin Laden, trùm khủng bố.
Thật ra theo từ điển Oxford, từ ngữ khủng bố chủ nghĩa đã được
đặt ra từ năm 1798 ở Pháp để mô tả hệ thống đàn áp của chính phủ đối với
dân chúng trong thời kỳ được mệnh danh là Sự Thống Trị của Khủng Bố
trên đất Pháp (tiếng Pháp: la Terreur). Thời kỳ thống trị đó kéo dài từ
27 tháng 6 năm 1793 đến 27 tháng 7 năm 1794 là một thời kỳ bạo lực xảy
ra trong một năm và một tháng sau khi sự khởi đầu của cuộc Cách mạng
Pháp, kích động bởi cuộc xung đột giữa đối thủ chính trị phe phái, những
người Girondins và Jacobins, và đánh dấu bằng hành quyết hàng loạt các
“kẻ thù của cách mạng.”
Con số ước tính rất khác nhau về số người đã thiệt mạng, với số
lượng khác nhau, từ 16.000 đến 40.000 người, trong nhiều trường hợp, hồ
sơ không được lưu giữ hoặc, nếu có thì hồ sơ này bị coi là có khả năng
không chính xác. Các máy chém đã trở thành biểu tượng của một chuỗi các
vụ hành quyết: Louis XVI, Marie Antoinette, những Girondins, Philippe
Égalité (Louis Philippe II, Công tước của Orléans) và Madame Roland,
cũng như nhiều người khác, chẳng hạn như nhà hoá học tiên phong Antoine
Lavoisier, tất cả đều bị mất mạng dưới lưỡi dao máy chém.
Qua hàng bao thế kỷ, từ ngữ quân khủng bố đã được dùng để chỉ
những người vũ trang tranh đấu cho niềm tin tôn giáo, chính trị , những
người được gọi là chiến đấu cho tự do, giải phóng quân, những người nổi
dậy, những người đối kháng chống lại sự áp bức của nhà cầm quyền. Nhưng
cộng đồng quốc tế chưa có một định nghĩa luật định minh bạch nào cho từ
ngữ quân khủng bố.
Nhưng đừng tưởng dân chúng dùng phương cách bạo động chống nhà
nước mới gọi là khủng bố. Nhà nước đàn áp dân cũng bị coi là khủng bố
như thường. Bị coi là một chính quyền khủng bố khi chính quyền đó thống
trị đất nước dựa trên sự gieo rắc sợ hãi và kinh khiếp trong xã hội.
Tính đặc trưng của nó là một chính sách đàn áp hình sự có hệ thống và
quy mô lớn, thực hiện bởi các cơ quan công an mật vụ nhà nước.
Việt Nam ngày nay xứng hợp với định nghĩa này. Nhà cầm quyền
CSVN có dùng hành động bạo lực đối với dân chúng hay không? Tuy Việt Nam
ngày nay không do một bạo chúa cai trị nhưng do đảng cộng sản thì cũng
vậy thôi. Người dân có thể vô cớ bị công an hăm dọa, hành hung, đánh
đập, ép buộc nhận tội, tra tấn hay giết chết.
Thứ bảy, ngày 28 tháng tư năm 2012, người viết nhật ký mở lớn
tuổi nhất trong nước là nhạc sĩ Tô Hải qua bài “Lực bất tòng tâm mất rồi
các bạn của tôi ơi!” phải kêu lên: “Khủng bố! Khủng bố tinh thần,
khủng bố bằng võ lực! Khủng bố các kiểu, cà-rốt –cây gậy chán rồi chăng
nên lần này sau khi dán băng keo các cái miệng lắm điều về vụ Tiên Lãng
thì nay đến vụ Xuân Quan -Văn Giang “lực lượng thù địch” đã công khai
trải cả ngàn quân đủ loại để tấn công nhân dân ủi đất, cướp ruộng đồng
của dân để biến một vùng trồng cây cảnh nổi tiếng trở thành cái tên
Ê-Cô-Pắc đậm đà bản sắc… ngoại lai, sửa soạn chỗ ăn chơi cho mấy người
dân không phải là người Việt!?”
Đảng CSVN và nhà cầm quyền Hà Nội chủ trương và đỡ đầu chủ nghĩa
khủng bố để tiêu diệt các đảng phái không cùng đường lối như Đại Việt
và VNQDĐ, đàn áp mọi đối kháng từ dân chúng ngay kể từ khi Hồ Chí Minh
tuyên bố độc lập ngày 02/09/1945. Trong bí mật, Hồ Chí Minh cho thi hành
một chính sách khủng bố bằng bạo lực một cách dã man, áp dụng đúng theo
sách lược của Lênin trong thời cách mạng vô sản ở Nga. Chính sách đó là
“bắt cóc, ám sát, thủ tiêu, mổ bụng, cắt tiết, buộc đá thả trôi sông,
xảy ra như cơm bữa từ thành thị đến thôn quê”. Các ban ám sát Việt Minh
đêm ngày lùng sục bắt bớ thủ tiêu những cán bộ các đảng phái yêu nước
theo chủ nghĩa Dân tộc, những người có chút tiếng tăm hay gia sản, chụp
cho họ cái mủ “Việt Gian” để biện minh cho những vụ thảm sát vô nhân đạo
ấy. CSVN không bao giờ ngưng chính sách khủng bố ấy trong suốt 70 năm
qua. Hồ Chí Minh cũng chính là một trùm khủng bố chẳng khác gì Osama bin
Laden.
Trong những năm tháng trong cuộc chiến kháng Pháp, các cuộc
thanh trừng, khủng bố diễn ra từ Nam chí Bắc, không những chỉ đối với
các phe phái đối lập, mà còn xảy ra đối với chính các đồng chí trong
cùng nội bộ. Dưới thời VNCH, hoạt động khủng bố của VC càng tinh vi và
tàn bạo hơn. Thế cho nên một cựu quân nhân Mỹ từng tham chiến tại Việt
Nam, ông Bill Laurie khi đem so sánh thời gian và tính chất giết người
của khủng bố VC với bọn khủng bố Al-Qaeda, đã thốt lên rằng “Việt Cộng
chính là sư tổ của bọn khủng bố” (mother of all terrorists).
Sư tổ khủng bố Việt Cộng Hồ Chí Minh học từ sư tổ khủng bố Nga
Cộng Lenin, chủ trương là phải tra tấn, phải giết thật man rợ để những
người ở cách đó cả trăm dặm cũng phải run sợ. Hồ Chí Minh, đảng viên đệ
tam quốc tế cộng sản, đã học cái tàn bạo dã man của Nga, cái thâm hiểm
và độc ác của Tàu để đem về áp đặt trên đầu dân tộc Việt Nam. Chính vì
cái xấu (CSBV man rợ) chiếm đoạt và thay thế cho cái tốt (VNCH tự do dân
chủ) đã làm cho hàng triệu người uất ức. Sau ngày 30-4-1975, khi Dương
Thu Hương theo đoàn quân CSBV vào chiếm Saigon, bà đã khóc. Vì sao? Bà
kể: “Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó
chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam
người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ… nếu người ta
muốn. Ðó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn
minh đã thua chế độ man rợ. Ðó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Ðó
là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.”
Việt Nam ngày nay nằm trong danh sách những nước được gọi là
quốc gia công an trị hay cảnh sát trị. Theo Bách Khoa Từ Điển Mở
Wikipedia, thuật từ “police state” trong Anh ngữ được dùng để chỉ một
quốc gia mà chính phủ của nó thực hiện các biện pháp kiểm soát cứng rắn
và có tính áp bức đối với đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của toàn
dân. Nhà nước cảnh sát thường thường bộc lộ các yếu tố của chủ nghĩa
toàn trị và kiểm soát xã hội. Thông thường, có ít hoặc không có khác
biệt giữa luật pháp và việc thực thi quyền lực chính trị của người cầm
quyền trong một nhà nước cảnh sát. Các nuớc cộng sản, độc tài toàn trị,
phát xít, thường dùng đến một lực lượng cảnh sát công an mật vụ lớn lao
hoạt động vượt qua phạm vi hiến định để kềm chế, đàn áp, ngăn chận các
quyền tự do báo chí, phát biểu hay truyền đạt quan điểm chính trị cũng
như những quan điểm khác như tôn giáo, niềm tin và khác biệt chủng tộc.
Qua định nghĩa trên, rõ ràng Việt Nam ngày nay là một nước công
an trị khủng bố người dân. Nghĩ cũng buồn cười khi nhà cầm quyền cộng
sản Hà Nội ngày nay bảo rằng Việt Nam là một quốc gia an toàn không có
nạn khủng bố. Càng buồn cười hơn khi họ bảo “Nếu có khủng bố thì đó
chính là những người Việt lưu vong.” Nếu sách Kỷ Lục Thế Giới Guinness
có đề mục kỷ lục nói láo và nói ngược, chắc chắn CSVN sẽ đứng đầu. Các
sư tổ khủng bố VC hồi trước 1975 bây giờ đã tóm hết giang sơn vào một
mối rồi và đang trị vì thiên hạ bằng hệ thống công an khổng lồ “hoành
tráng” chuyên bóp cổ đá đít dân thì làm sao dân có thể khủng bố được
chứ. Mới sáng hai bản nhạc yêu nước để hát mà nhạc sĩ Việt Khang bị ghép
tội là “phản động chống phá nhà nước” và bị tống vô nhà giam Phan Đăng
Lưu thì thử hỏi ai là khủng bố đây hở bà “người phát ngôn” Bộ Ngoại Giao
Nguyễn Phương Nga?
Công an CSVN nhiều khi còn giả dạng côn đồ hoặc đóng kịch làm
thường dân bất bình để khủng bố nạn nhân bị nhắm mục tiêu như trường hợp
đã xảy ra với cụ bà Lê Hiền Đức (sinh năm 1932), một giáo viên về hưu
và là người tích cực đấu tranh bênh vực dân oan và chống tham nhũng, là
một trong hai người đoạt Giải thưởng Liêm chính năm 2007 (2007 Integrity
Awards) của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International). Bà
Đức cho biết trong tháng Ba 2012, bà bị công an khủng bố bằng cách gọi
điện thoại nặc danh rồi dùng lời lẽ thô tục chửi mắng và hăm dọa đến
tính mạng của bà.
Sau vụ cưỡng chế đất ở diện rộng tại huyện Văn Giang,
tỉnh Hưng Yên hôm thứ Ba ngày 24/4 khiến hàng chục nông dân bị
bắt giữ, ngày hôm sau Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012, trang mạng Đài BBC
Luân Đôn đăng bài viết tựa đề Dùng vũ lực mạnh với dân Văn Giang
tường thuật:
“Chính quyền huyện Văn Giang,
tỉnh Hưng Yên, đã huy động lực lượng hùng hậu gồm hàng ngàn
cảnh sát cưỡng chế các nông dân kiên quyết bám trụ không giao
đất để xây dựng khu đô thị thương mại-du lịch Ecopark. Một số
hình ảnh video được đưa lên mạng sau đó cho thấy đã có hành
động bạo lực mạnh tay của lực lượng cưỡng chế đối với những
người nông dân phản kháng. Trong một video gần 10 cảnh sát và những
người mặc thường phục đeo băng đỏ đã xông vào dùng dùi cui và tay chân
đánh hội đồng một nông dân không vũ khí. Sau đó có nhiều tiếng ổn ào và
có tiếng nổ.”
Một đám công an mặc sắc phục lẫn thường phục đang đánh một người dân ở Văn Giang ngày 24-4-2012.
Một đám công an khác đang nắm đầu đánh một phụ nữ ở Văn Giang ngày 24-4-2012.
Cụ bà Lê Hiền Đức có mặt và chứng kiến cuộc đàn áp kể lại: “Tôi
nhìn thấy cảnh sát cơ động chi chít. Cảnh sát địa phương áo
xanh lá mạ cũng đầy ra.Tôi đứng đấy, tôi gặp tất cả bà con.
Bà con đang khóc ầm ĩ kêu gào. Nghe những tiếng khóc của các
cụ già tám, chín mươi tuổi, thương lắm. Chỉ có súc vật mới
không động lòng thôi. Tôi cảm tưởng như đang trong trận chiến đấu
ác liệt cách đây nửa thế kỷ mà tôi đã từng phải chiến đấu
…lửa cháy ngút trời. Các lực lượng đã dùng súng hơi cay đánh
đập dân rất dã man. Đây rõ ràng là lực lượng ấy đang cưỡng
chế dân. Tôi ngồi tôi khóc. Tôi ức quá mà tôi khóc vì tại sao
tôi không bênh vực được những con người như thế. Tôi gọi đó
(thanh niên bị đánh) là những thanh niên dũng cảm, dám đối mặt
với lực lượng công an. Họ đàn áp vô cùng tệ hại. Bắn súng,
đánh đập một cách rất dã man.”
Bà Đức kể tiếp: “Tôi
nhục nhã đến mức là, thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ,
tôi đã từng hy sinh tuổi thanh xuân của tôi, tôi đã chiến đấu
đủ mọi hình thức, mọi ngả đường nhưng bây giờ hoà bình rồi,
mà tôi phải cải trang. Hôm qua, tôi phải mượn cái nón rách, cáo
áo nâu, quần sắn móng lợn để trà trộn vào với nhân dân. Nếu
không nó nhìn thấy mình, nó thay đổi thái độ ngay. Có như thế
thì mới chứng kiến được hành động của họ đối với những
người dân lành. Có những người ngày hôm qua là trắng tay rồi,
không còn gì cả, thì cuộc sống ngày mai đây họ sẽ ra sao? Đây
là dấu hỏi rất to, tôi mong công luận sẽ đánh dấu hỏi cho
những người dân Văn Giang hôm qua.”
Luật sư bất đồng chính kiến Lê Quốc Quân nói ông tin
rằng chính quyền địa phương đã có ‘vi phạm nghiêm trọng’ khi
‘sử dụng vũ lực trái pháp luật’ trong hành động đàn áp dân để
cưỡng chế đất đai này. Qua các hình ảnh video mà ông xem được,
ông Quân cho biết lực lượng công cả mặc đồng phục lẫn không mặc
đồng phục và đeo băng đỏ ‘cùng nhau vây dân lại bắt dân và
đánh dân’.
Luật sư Quân nói “Họ đánh rất
nặng và dã man. Điều này hoàn toàn sai pháp luật vì pháp
luật quy định quyền tự do thân thể rất rõ. Nếu tôi gặp một kẻ
cắp thì việc ăn cắp có thể bắt giữ hoặc tri hô nhưng nếu
đánh người ăn cắp đó thì tôi cũng phạm tội.” Ông nói những nông dân bị đánh đập hoàn toàn có thể kiện lực lượng cưỡng chế về tội ‘cố ý gây thương tích’.
Ông cũng không cho rằng người dân Văn Giang phản kháng
chống đối người thi hành công vụ vì theo như ông thấy qua hình
ảnh được quay lại thì có đến hàng chục cảnh sát mặc quân
phục lẫn không mặc quân phục vây vào đánh chỉ một người. “Nói
họ (nông dân Văn Giang) chống (người thi hành công vụ) là hoàn
toàn sai vì họ chỉ có một (đối đầu với công an) và họ rất
hiền lành.” Ông cho biết pháp luật không quy định số
lượng người tham gia cưỡng chế nhưng trong vụ việc ở Văn Giang
thì chính quyền ‘đã huy động lực lượng quá sức’.
Dẫn chứng trên cho thấy ngày nay cũng như trong thời chiến trước
năm 1975 ở miền Nam, kẻ khủng bố chính là Việt Cộng chứ không ai khác.
Bài viết với tựa đề “Mỹ nghi từng thấy khủng bố ở VN” đăng trên
trang nhà BBC Việt ngữ ngày thứ Sáu, 9 tháng Chín, 2011 có đoạn viết:
“Trước nỗi quan tâm của Hoa Kỳ về sự
hoạt động lén lút của các tiểu tổ khủng bố Hồi giáo, Hà Nội trấn an rằng
hiểm họa “khủng bố Hồi giáo” ở Việt Nam rất thấp và hầu như không có,
nhưng nguy cơ lớn là từ các tổ chức người Việt lưu vong.”
Tại buổi họp báo hôm 3/05 khi được hỏi về phản ứng của Việt Nam
trước cái chết của Bin Laden, bà Nga đã trả lời một cách chung chung: “Việt
Nam phản đối chủ nghĩa khủng bố và lên án các hoạt động khủng bố dưới
mọi hình thức. Những kẻ khủng bố phải chịu trách nhiệm về những hành
động của mình và cần phải bị nghiêm trị”.
Một mặt phản đối và lên án nạn khủng bố, một mặt nhà cầm quyền
Hà Nội do đảng cộng sản lãnh đạo luôn triệt để áp dụng những biện pháp
khủng bố như đàn áp, gán tội, đánh đập, bắt bớ, giam cầm nhằm tạo nên sự
kinh hoàng sợ hãi trong dân chúng và triệt tiêu mọi đối kháng. Ở Việt
Nam ngày nay, nói đến công an Việt Cộng là người dân đen ghê sợ những
đòn phép khủng bố của họ.
Trong một cuộc gặp với quan chức của Ủy ban Đối ngoại Thượng
viện Frank Jannuzi, ông Trần Kim Tuyến, Phó Cục trưởng Cục chống khủng
bố thuộc Tổng cục An ninh Việt Nam tuyên bố rằng Việt Nam chưa phát hiện
các tổ chức khủng bố ở trong nước và chưa bị tấn công khủng bố. Ông ta
nhấn mạnh: “Khủng bố ở đây là người Việt
lưu vong. Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam và Chính phủ
Việt Nam Tự do là hai tổ chức đã gửi tiền, người và vũ khí vào Việt Nam
với mục tiêu gây bất ổn và lật đổ chế độ.”
Ông Tuyến nói “Các tổ chức này đã
ủng hộ hay tiến hành các cuộc tấn công ở bên trong Việt Nam và đối với
cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, cụ thể là ở Manila và
Bangkok.” Ông cũng cho biết “hàng chục” thành viên của các
tổ chức này đã bị bắt với thuốc nổ và “các thiết bị khủng bố khác”. Ông
nói các nhóm “khủng bố” này là mối đe dọa nghiêm trọng đối với Việt Nam
và ông “không hiểu tại sao họ lại được phép hoạt động ở Hoa Kỳ trong bối cảnh hiện nay.”
À thì ra ông ta mắng vốn Hoa Kỳ với ngầm ý bảo rằng “Những
người khủng bố là công dân của Hoa Kỳ xuất phát từ Hoa Kỳ, tại sao Hoa
Kỳ lại làm ngơ cho họ vào Việt Nam vậy, phải đàn áp họ đi chứ, có cần
chỉ dẫn cách thức đàn áp không thì chúng tôi cố vấn cho. Đàn áp là món
nghề của chúng tôi mà.”
Đảng cộng sản Việt Nam vốn thoát thai từ một tổ chức khủng bố
với nửa thể kỷ kinh nghiệm. Chính họ là loại khủng bố tàn độc nhất.
Trước biến cố 30 tháng Tư 1975, họ đã tổ chức không biết bao nhiêu vụ
khủng bố ở Miền Nam Việt Nam nhắm vào tất cả mọi mục tiêu quân cũng như
dân, đồng bào hay người ngoại quốc.
Sau khi đã chiếm được Miền Nam, họ càng khủng bố mãnh liệt hơn
để đàn áp mọi nhen nhúm đối kháng. Họ đàn áp đến mức độ ít còn ai dám hó
hé gì nữa để được sống yên thân. Lực lượng an ninh Việt Cộng gồm cảnh
sát công an và tai mắt đông như ruồi theo dõi nhất cử nhất động của
người dân khắp nẻo đường đất nước. Có một câu chuyện vui cười như thế
này cho thấy lý do tại sao nạn khủng bố khó xảy ra trong nước dưới sự
cai trị của Việt Cộng:
Một điệp viên của một tổ chức
chống Cộng ở hải ngoại bí mật về Việt Nam để đặt bom khủng bố. Đến thời
hạn điệp viên trở về, thủ lãnh tổ chức hỏi:
– Công tác thi hành thế nào? Có thành công không? Sao tôi chẳng nghe tin tức trong nước nói có vụ nổ bom nào xảy ra cả.
– Báo cáo với thẩm quyền là tôi
có làm đúng theo kế hoạch đặt bom. Chẳng may lực lượng công an mặc
thường phục giả trang người đi thu nhặt ve chai hè phố đông quá. Tôi vừa
đặt bom xong là cả bọn nhào đến, đứa tháo lấy giây điện, đứa lấy đinh
sắt, đứa lấy chất nổ. May mà tôi chạy thoát.
Vẫn biết đó là chuyện đùa cho vui thôi nhưng nó cũng không khác xa sự thật lắm đâu.
Tính chất dã man của các vụ Việt Cộng khủng bố
Trong hồi ký “Deliver us from Evil”, y sĩ Hải Quân Hoa Kỳ Tom
Dooley đã mô tả nhiều tội ác kinh hoàng của Cộng sản gây ra cho người
dân đang cố gắng rời bỏ miền Bắc để vào Nam. Ông kể: “Bảy
học sinh và thầy giáo bị lôi ra khỏi lớp. Tất cả bị bắt ngồi xuống đất
và hai tay bị trói gập ra sau lưng. Hai cán binh Cộng Sản đi đến từng
đứa trẻ. Một nguời dùng hai tay kèm chặt lấy đầu đứa bé, nguời kia đặt
chiếc đũa bằng tre đóng mạnh sâu vào hai lỗ tai, tiếng kêu la thất thanh
vang dội cả làng, máu trào ra lênh láng… ”
(Ghi chú: Bác sĩ Dooley theo tàu chuyển vận người di cư đến Hải
Phòng năm 1954. Ông được mời lên bờ để cứu giúp bệnh nhân, sau đó đã
quyết định rời khỏi Hải quân và ở lại Việt Nam trong nhiều năm cuối thập
niên 1950 để mang lại sự chăm sóc y tế cho dân làng ở những vùng xa xôi
nơi mà người da trắng chưa hề đặt chân đến cho tới khi ông trở về Mỹ
trước khi qua đời vì bệnh ung thư đầu năm 1961 ở tuổi 34.)
Uwe Siemon-Netto, ký giả nổi tiếng người Đức từng trải qua 5 năm
phục vụ chiến trường VN, sau khi theo một đơn vị QLVNCH hành quân giải
vây một ngôi làng tỉnh Định Tường bị Việt cộng bố ráp năm 1965, tường
thuật: “Treo trên các cành cây sào trong
sân làng là xác xả trưởng, nguời vợ và 12 đứa con vừa trai, vừa gái kể
cả cháu bé. Tất cả nạn nhân phái nam đều bị cắt bộ phận sinh dục nhét
vào mồm, còn phụ nữ thì bị cắt nhũ bộ. Dân làng kể họ bị VC bắt gom lại
để chứng kiến cảnh tàn sát. Việt cộng bắt đầu giết em bé nhất rồi bằng
một màn trình diễn, chậm rãi ra tay lần lượt giết các em lớn hơn, tới
nguời mẹ và sau cùng là nguời cha, viên xả trưởng. Việt cộng đã giết cả
nhà 14 nguời, giết một các lạnh lùng như thể bấm cò súng đại liên bắn
máy bay. Việc VC tàn sát thế này là việc bình thuờng hàng ngày… Vì với
chúng tôi nó đã trở thành bình thường nên chúng tôi không tường thuật
tới, tuờng thuật tới lui mãi. Chúng tôi chỉ tường thuật điều bất thường
như vụ thảm sát ở Mỹ Lai mà thôi.”
(Ghi chú: Qua bài viết “A German Remembers Vietnam”, Uwe
Siemon-Netto nói rằng VC thắng không phải vì chiếm được cảm tình của dân
chúng mà vì những hình thức khủng bố tàn bạo vô nhân. Dân làng kể với
ông là VC thường vào làng hăm dọa dân không được hợp tác với chính
quyền, nếu không sẽ lãnh lấy hậu quả nghiêm khắc. Xả trưởng không nghe
nên nửa đêm VC bắt dân làng thức dậy để chứng kiến tận mắt cảnh hành
hình. Ông Netto nói rất tiếc là ông không còn nhớ tên làng, nhưng điều
đó chẳng quan trọng vì những vụ VC khủng bố dân như vậy xảy ra rất
thường hàng đêm ở miền Nam trong thời chiến tranh. Tiến sĩ Netto hiện là
cư dân ở Laguna Woods, California, Hoa Kỳ và hay giao tiếp với bạn bè
người Việt. Địa chỉ trang blog:http://uwesiemon.blogspot.ca/2012/04/german-remembers-vietnam.html)
Trong quyển “The Soldiers’ Story”, phóng viên Hoa kỳ Ron
Steinman ghi lại lời kể về kinh nghiệm chiến trường ở VN của 77 chiến
binh Mỹ: “Tôi còn nhớ đã từng đi ngang qua các nghĩa địa nơi Bộ đội
miền Bắc giết hàng nhóm nguời dân lành. Họ đào hầm, rãi vôi rồi bắn
nguời dân quăng xuống… Những hầm (chôn tập thể) rất khó nhận ra… Vài cán
binh Bắc Việt và Việt Cộng đã cắt rời những bộ phận sinh dục của nạn
nhân rồi đánh dấu thi thể những nạn nhân đó.” (trang176, The Soldiers’ Story – Ron Steinman).
Vì Việt Cộng đã từng là vua khủng bố trong suốt hơn nửa thế kỷ
nên họ có kinh nghiệm đầy mình để ngăn chận khủng bố. Theo dữ liệu của
Bách khoa Tự điển mở Wikipedia, lịch sử Việt Nam chưa ghi nhận những vụ
khủng bố có quy mô lớn, nhưng các âm mưu khủng bố rất nhiều. Trong Chiến
tranh Việt Nam, tại miền Nam từng xảy ra nhiều vụ đặt bom nhằm mục đích
phá hoại các cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Việt
Cộng thực hiện.
Tại Việt Nam ngày nay, các điều khoản về khủng bố được quy định
trong Bộ luật Hình sự ra đời sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 tại New
York. Các hoạt động mang tính đối kháng bằng bạo lực với Nhà nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thường bị chính quyền Việt Cộng liệt vào
dạng “khủng bố” và đều bị lực lượng an ninh Việt Nam phát hiện và ngăn
chặn. Ngăn chận để dành độc quyền.
Như vậy rõ ràng là Việt Cộng vừa ăn cướp vừa la làng, vừa ra tay
khủng bố cả nước vừa la làng lên là bị người Việt hải ngoại về nước
khủng bố, thật đúng với bài bản của quan thầy Trung Cộng. Tàu Cộng giỏi
nghề Sơn Đông mãi võ bán thuốc dán thường la làng. Tàu Cộng nói:
– “Tranh chấp liên tục trên Biển Đông chủ yếu bắt nguồn từ Việt Nam”,
– “Thách thức lớn nhất đối với sự nhấn mạnh về một giải pháp hòa bình của Trung Quốc cũng có thể do Việt Nam”,
– “Việt Nam ngày càng gây sự
trong việc thu tóm các đảo làm của riêng mình, không đếm xỉa đến chính
sách truyền thống của Trung Quốc”, v.v.
Sự thật ra sao chúng ta ai cũng biết là chính Trung Cộng ra sức
ăn cướp trắng trợn đất biển của Việt Nam, cố tình gây căng thẳng nhằm
biến khu vực không có tranh chấp và thuộc chủ quyền của Việt Nam thành
vùng có tranh chấp để thực hiện kế hoạch “đường lưỡi bò” hay “đường 9
đoạn” trên Biển Đông.
Qua bài “Khủng Bố: Xưa và Nay”, tác giả Lê Minh ở Úc châu viết: “Nạn
khủng bố của Việt Cộng đã có từ lâu, có từ thời ông Hồ Chí Minh mới đem
chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Các vụ ám sát khủng bố do các đảng
viên, cán bộ cộng sản thực hiện đã xảy ra từ những năm tháng trước thời
điểm 1945. Từ sau thời điểm 8/1945 thì các vụ ám sát, khủng bố lại diễn
ra với hình thức quy mô, rộng lớn hơn. Những đối thủ chính trị của các
đảng phái khác khi bị ám sát thì được chụp cho cái mũ “Việt gian, phản
động” hay “tay sai”. Đây là những thủ thuật được dùng để che mắt quần
chúng và giúp kẻ nhận nhiệm vụ ám sát có thể ra tay dễ dàng, dã man và
dứt khoát hơn. Những năm tháng trong cuộc chiến kháng Pháp, các cuộc
thanh trừng, khủng bố vẫn diễn ra từ Nam chí Bắc, không những chỉ đối
với các phe phái đối lập, mà còn xảy ra đối với chính các đồng chí trong
cùng nội bộ.”
Những vụ khủng bố do VC gây ra trong thời chiến, kể ra thì có
hàng ngàn đã được kiểm tra và đúc kết hồ sơ đầy đủ bởi các cơ quan chính
phủ Mỹ; người viết xin liệt kê nơi phần liệt kê ở cuối bài.
Thông thường, kẻ giết người luôn tìm cách che đậy hành vi tội ác
ghê tởm. Hành động lén lút ám sát giết người thường là do lệnh của tổ
chức đảng phái chính trị, là một thứ công tác sứ mạng điệp vụ. Đàng sau
sứ mạng đó, cho dù thành công thì vẫn là chết chóc đau thương cho một
người hay nhiều người có khi vô tội và bị giết oan khuất. Đối với lương
tâm con người, hành động đó là việc làm bắt buộc và đáng lý ra không có
gì vinh quang để kiêu hãnh. Nhưng đối với những con người cộng sản khát
máu, họ lại xem đó như một thứ hào quang đáng tự hào khoe khoang và hãnh
diện.
Xe hơi chở giáo sư Nguyễn Văn Bông
bị hư hại sau khi trúng bom chất nổ của khủng bố VC ngày 10 tháng 11
năm 1971. Tổ trinh sát vũ trang Ban An ninh T4 gồm có Vũ Quang Hùng và
Lê Văn Châu ám sát giáo sư Bông, (Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành
chánh, lãnh đạo của đảng Tân Đại Việt, người thành lập Phong trào Quốc
gia Cấp tiến) tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản bằng 4kg chất nổ C4
được liên kết với ba trái lựu đạn.
Vũ Quang Hùng, người đã đặt bom giết chết giáo sư Nguyễn Văn
Bông, từng là phó Tổng biên tập báo Công an TP. HCM. Hùng khoe khoang
thú nhận “Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng Sài Gòn” ca ngợi chiến công
hiển hách của 2 biệt động Sài Gòn là Hùng và Châu. Giáo sư Bông bị sát
hại khi 42 tuổi, là một trí thức cấp tiến có khả năng trở thành thủ
tướng của Việt Nam Cộng Hòa. Lúc mất ông là Viện trưởng Học viện Quốc
gia Hành chánh, cố vấn cho Tối cao Pháp viện, ủy viên Hội đồng Quản trị
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Cùng thiệt mạng với ông còn có 3 người khác
là vệ sĩ là lái xe. Ông để lại người vợ góa 30 tuổi và 3 con nhỏ.
Một kẻ khủng bố Việt Cộng khác khoe thành tích là Trịnh Thị
Thanh Mão. Bà Mão khoe là từng đã nhúng tay vào một vụ mưu sát Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu.
Bài viết “Chân dung nữ du kích từng mưu sát Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu” trên báo trong nước tiết lộ rằng Tháng 9/1970, trong một lần
đi kinh lý bên dòng sông Thạch Hãn, ông tổng thống VNCH suýt chết trước
nòng súng của nữ du kích Trịnh Thị Thanh Mão. Hiện tại, cựu nữ du kích
Mão đang cư ngụ ở làng Hà Xá, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng
Trị. Với cái gọi là “Ký ức hào hùng”, bà Mão kể lại năm 1964 khi 14
tuổi, “Lợi dụng sự sơ hở của địch ít chú ý
tới trẻ con, tôi đã “chuyển vũ khí, thuốc men vào căn cứ cách mạng; hóa
thân vào làm người bán hàng rong trà trộn vào lòng địch cài bom hẹn giờ
nổ đánh xe, tiêu diệt địch”. Sau một loạt thành tích đặt bom, năm 18
tuổi tôi được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng. Việc ám sát Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu được tôi thực hiện vào năm 1970 trong buổi khánh thành
hệ thống “ấp chiến lược”, tôi bắn 2 viên đạn nhưng không viên nào
nổ.“Tiếc thật nếu sau cái bóp cò đó súng nổ thì Thiệu đã tiêu rồi”.
Ảnh: Bác sĩ Lê Minh Trí, Bộ Trưởng
Giáo Dục VNCH đẫm máu vì bị thương nặng (và sau đó chết) đang nằm trên
mặt đường và vệ sĩ của ông cũng bị thương đang ngồi trên lề đường trước
sự canh gác của một quân cảnh Mỹ. Tài xế của ông chết trong chiếc xe
đang bốc cháy sau khi khủng bố VC tung lựu đạn vào xe trên đường phố Sài
Gòn ngày 6 tháng 1, 1969.
Nếu việc khủng bố chỉ được đảng CS thi hành trong chiến tranh
thì cũng chưa phải là điều đáng nói. Thực tế, sau 36 năm thống nhất đất
nước, họ vẫn tiếp tục hành động khủng bố của mình bằng nhà tù, bằng còng
số 8 thông qua điều 88 và 79 của bộ luật Hình sự. Phương tiện họ dùng
khủng bố không phải là bom ba càng, mìn hẹn giờ mà dùng chính Hiến pháp,
thông qua điều IV và lực lượng công an, an ninh dày đặc để đàn áp những
người bất đồng chính kiến.
Hàng loạt các trí thức, nhân sĩ yêu nước bị bỏ tù vì đòi hỏi
thực thi dân chủ nhân quyền đã bị cầm tù như Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công
Nhân, LM Nguyễn Văn Lý, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy
Thức, Lê Thăng Long, Vi Đức Hồi, Phạm Thanh Nghiên, Phạm Hồng Sơn, Trần
Khải Thanh Thủy, Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày, Bùi Thị Minh Hằng, Đỗ Thị Minh
Hạnh, Paulus Lê Sơn, Huỳnh Thục Vy, Việt Khang, v.v. Đó chính là sự
tiếp tục chủ nghĩa khủng bố từ những năm xưa. Những trí thức trên và còn
nhiều người khác nữa bị kết những bản án từ vài năm tới cả chục năm tù
chỉ vì quan điểm của mình qua phỏng vấn hay các bài viết, bài nhạc. Vậy
không là khủng bố thì sao?
Một số những vụ khủng bố của VC ở miền Nam VN
từ 1960 đến 1969 ghi nhận được:
từ 1960 đến 1969 ghi nhận được:
Ngày 2 tháng Hai 1960:
VC phá và đốt chùa Phật giáo ở làng Phước Thành tỉnh Tây Ninh, đâm chết
thiếu niên 17 tuổi tên Phan Văn Ngọc do em này kháng cự.
Ngày 22 tháng Tư 1960:
Khoảng 30 cán bộ võ trang VC ruồng bố làng Thới Long tỉnh An Xuyên định
bắt Cao văn Nành 45 tuổi. Dân làng tụ lại phản đối. Việt Cộng nổ súng
giết chết một thiếu niên 16 tuổi.
Ngày 23 tháng Tám 1960:
Việt Cộng đang đêm bắt hai giáo viên Nguyễn Khoa Ngôn và Nguyễn Thị
Thiệt đến trường Rau Ran tỉnh Phong Dinh để chứng kiến cảnh chúng xử tử
hai người đàn ông tên Cảnh và Văn để răn đe và gây khiếp đảm.
Ngày 24 tháng Chín 1960: Một toán VC lục phá và đốt cháy tiêu trường An Lạc tỉnh An Giang.
Ngày 28 tháng Chín 1960:
VC chận xe của Cha xứ Hoàng Ngọc Minh, giáo phận Kontum, dùng súng máy
bắn ông chết, xong còn cắm cọc tre vào người ông. Tài xế Huỳnh Hữu, cháu
cha Minh, bị thương nặng.
Ngày 30 tháng Chín 1960:
Một toán VC bắt nông dân Trương văn Đáng 67 tuổi ra trước một phiên
“tòa án nhân dân”, cáo buộc tội ông mua hai mẫu ruộng mà trái lệnh chúng
không giao cho người khác. Ông bị VC bắn chết trên mảnh ruộng của ông
sau phiên xử.
Ngày 6 tháng Mười Hai 1960: VC đặt chất nổ nhà bếp Sân Cù Sài Gòn làm chết một phụ bếp và làm bị thương hai đầu bếp.
Báo cáo tổng kết các vụ VC khủng bố năm 1960 của chính phủ VNCH
nạp trình cho Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến gồm có 284 chiếc cầu
bị phá hoại, 60 trạm y tế bị đốt. Và do hậu quả của những trường học bị
VC phá hủy, việc học của 25,000 học sinh bị ảnh hưởng.
Ngày 22 tháng Ba 1961:
20 nữ sinh đi xe đò trên đường từ Sài Gòn về Vũng Tàu sau khi tham dự
Lễ Hai Bà Trung bị VC giật mìn và xả súng bắn làm thiệt mạng hai nữ sinh
và làm bị thương 10 em khác.
Ngày 15 tháng Ba 1961:
12 sơ nữ tu dòng Chúa Quan Phòng đi xe đò từ Tây Ninh đi Sài Gòn bị VC
phục kích chận lục soát hành lý. Sơ Theophile phản đối nên bị chúng bắn
chết tại chỗ và sơ Phan thị Nở bị thương.
Ngày 26 tháng Bảy 1961:
Hai dân biểu gốc người Thượng tên Rmah Pok and Yet Nic Bounrit bị VC
phục kích bắn chết gần Đà Lạt cùng với một giáo viên cùng đi thăm viếng
một làng định cư.
Ngày 20 tháng Chín 1961:
Một lực lượng hàng ngàn VC tràn ngập thị xã Phước Vinh tỉnh Phước
Thành, đốt phá mọi cơ sở hành chánh, chặt đầu hầu hết công chức trong
thị xã, chiếm giữ trọn ngày trước khi rút lui.
Tháng Mười 1961: Nghiên cứu của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ước đoán số lượng dân chúng VNCH bị VC giết mỗi tháng là một ngàn năm trăm người.
Ngày 13 tháng Mười Hai 1961: Cha Bonnet người Pháp thuộc giáo phận Kontum bị quân khủng bố VC ám sát trong lúc ông viếng thăm giáo dân ở Ngok Rongei.
Ngày 20 tháng Mười Hai 1961:
kỹ sư S. Fuka người Nhật làm việc cho dự án đập thủy điện Đa Nhim bị VC
chận đường bắt cóc. Số phận của ông ra sao không bao giờ được rõ.
Ngày 1 tháng Giêng 1962: VC chém chết ông Lê văn Thiều 63 tuổi, thủ lãnh lao công tại đòn điền cao su nơi ông làm việc.
Ngày 2 tháng Giêng 1962:
VC giết chết hai nhân viên tên Pham văn Hải và Nguyễn văn Thạch trong
đoàn diệt trừ sốt rét đang làm việc ở địa điểm cách khoảng 20km về phía
nam Sài Gòn.
Ngày 20 tháng Hai 1962:
VC ném 4 quả lựu đạn vào một đám dân làng đang xem hát ở Cần Thơ, giết
chết 24 phụ nữ và trẻ con và làm cho 84 người khác bị thương.
Ngày 8 tháng Tư 1962:
VC xử tử hai tù thương binh Hoa Kỳ gần làng An Châu Trung phần Việt Nam.
Hai thương binh Mỹ này bị trói và bị bắn vào mặt vì họ không đi theo
kịp toán VC đang rút lui.
Ngày 19 tháng Năm 1962: Khủng bố VC ném lựu đạn vào nhà hàng
Aterbea ở Sài Gòn làm bị thương viên quản lý đoàn xiệc đến từ Bá Linh và
tham vụ văn hóa Tòa Đại Sứ Tây Đức ở Sài Gòn.
Ngày 20 tháng Năm 1962:
VC đánh bom trước khách sạn Hưng Đạo Sài Gòn, nơi cư ngụ của quân nhân
Hoa Kỳ, làm bị thương 8 người Việt và 3 quân nhân Mỹ đang đứng bên ngoài
khách sạn.
Ngày 12 tháng Sáu 1962: VC phục kích xe đò hành khách gần Lệ Tri tỉnh An Giang giết chết tất cả người trên xe gồm tài xế, người phụ lơ và hành khách.
Thi thể của hai thiếu niên trai và
một người đàn ông nằm trên đường phố trong vụ VC tung lựu đạn trước Tòa
Đô Chính Sài Gòn Ngày Quốc Khánh 26 tháng Mười năm 1962.
Ngày 20 tháng Mười 1962:
Đội Biệt động 159 của Việt Cộng tung lựu đạn giết chết 7 người và làm
bị thương 47 người đang đứng xem một cuộc triển lãm có trưng bày một phi
cơ trực thăng cùng một số chiến lợi phẩm tịch thu được của địch quân
trước Tòa Đô Chính Sài Gòn và một đoạn dài của đại lộ Nguyễn Huệ.
Theo lời thuật có tính cách tuyên truyền khoác lác của báo chí
VC, nữ du kích nội thành Lê Thị Thu Nguyệt giả dạng nữ sinh đảm nhận
công tác mang thuốc nổ vào Sài Gòn. Trong bộ quần áo dài trắng giả trang
một nữ sinh từ quê lên Sài Gòn học, Nguyệt mang theo hai chậu kiểng
được ngụy trang dưới lớp đất là những quả lựu đạn. Bài báo kể Nguyệt bị
chận xét nơi trạm kiểm soát như sau.
(Trích: “Tim
chị cơ hồ nhảy ra khỏi lồng ngực khi tên lính xét giấy tờ đòi đập vỡ
hai chậu kiểng xem có chất nổ không. Quá bất ngờ, Thu Nguyệt òa khóc,
nói rằng ông bà ngoại sẽ đánh chết cô nếu đem hai chậu kiểng về nhà
không còn nguyên vẹn. Vẻ đẹp tinh khiết và nước mắt cô nữ sinh làm mềm
lòng tên lính. Hắn ta khoát tay ra hiệu đồng bọn bỏ đi. 8 giờ sáng ngày
26/10/1962, Nguyệt chọn bộ quần áo dài đẹp nhất cùng Tùng, Quang giả làm
thường dân đi xem triển lãm. Trong chiếc khăn mùi soa của Thu Nguyệt là
quả lựu đạn. Tới nơi, thấy địch để bên cạnh chiếc trực thăng Mỹ là
súng, mìn “chiến lợi phẩm”, Quang định ném trái lựu đạn vào đống mìn
nhưng Thu Nguyệt ngăn lại. Chị giải thích hành động của mình lúc ấy:
“Chỗ đó quá đông người, tôi sợ mìn nổ làm chết dân. Nơi chiếc trực thăng
đậu vắng người hơn. Tôi bí mật chuyển “chiếc khăn mùi soa” qua cho
Quang. Anh hiểu ý nhanh tay ném vào mục tiêu này”. Một tiếng nổ vang
lên, chiếc máy bay sụm xuống, bốc cháy mù mịt. Mọi người hỗn loạn tranh
nhau thoát ra khỏi khu vực triển lãm. Lợi dụng thời cơ đó, các chiến sĩ
biệt động hòa vào đám đông, thoát ra ngoài an toàn. Sáng hôm sau đọc
báo, chị biết được kết quả trận đánh. Vậy là với chiếc khăn mùi soa
trắng mỏng manh trong bàn tay bé nhỏ của Thu Nguyệt, quả lựu đạn đã phá
hỏng 1 trực thăng HU1A, làm chết 3 tên, 2 tên bị thương và chiến công
lớn hơn của trận đánh là đã phá vỡ được cuộc triển lãm của địch dự định
kéo dài trong bảy ngày, làm thất bại âm mưu chính trị của ngụy quyền Sài
Gòn.” Ngưng trích).
Bạn đọc ắt thấy bài báo trên đây kém trung thực. Hình ảnh tài
liệu cho thấy rõ ràng là các nạn nhân của vụ khủng bố này cũng chỉ là
thường dân, trong đó có trẻ em.
Ngày 4 tháng Mười Một 1962:
VC ném lựu đạn trong một đường hẽm tại Cần Thơ, giết chết một quân nhân
Hoa Kỳ và 2 trẻ em Việt Nam và làm một em khác bị thương nặng.
Ngày 25 tháng Giêng 1963: VC đặt chất nổ xe lửa chở gạo gần Qui Nhơn, giết chết 8 hành khách và làm bị thương 15 người khác.
Ngày 4 tháng Ba 1963:
VC chận xe trên đường Sài Gòn Đà Lạt, bắn chết 2 nhà truyền giáo Tin
Lành là Elwood Forreston, người Mỹ, và Gaspart Makil, người Phi Luật
Tân. Hai đứa con song sinh của Makil bị bắn và bị thương.
Ngày 16 tháng Ba 1963:
VC ném lựu đạn vào một ngôi nhà của một gia đình người Mỹ đang tiếp
khách ăn tối ở Sài Gòn, giết chết một thương gia người Pháp và làm bị
thương 4 người khác.
Ngày 25 tháng Ba 1963:
Cơ sở nội tuyến của Đội biệt động 159 (do Mười Luân, bí số 8E, và Lê
Thị Thu Nguyệt, đóng vai người yêu của Mười Luân) đã gắn một quả mìn hẹn
giờ vào chiếc máy bay Boeing 707 cho chuyến bay từ Sài Gòn đi Mỹ. Chiếc
máy bay vừa đáp xuống phi trường Honolulu thì mìn phát nổ nhưng không
làm ai bị thương vong vì tất cả hành khách đã di chuyển vào nhà ga sân
bay. Nguyên nhân mìn phát nổ chậm là do áp suất trên cao làm đồng hồ hẹn
giờ của quả mìn thay đổi.
Vụ khủng bố này lại cũng có sự nhúng tay của nữ khủng bố Lê Thị Thu Nguyệt. Báo Việt Cộng viết: (Trích) “Cũng
không ai nghĩ, người phụ nữ bé nhỏ, dịu dàng ngồi trước mặt tôi nói
những chuyện đời thường về cơm ăn áo mặc, mối lo toan thường tình như
bao phụ nữ khác là nữ biệt động Đội 159 đưa được mìn nổ chậm, một loại
vũ khí do Quân giới Quân khu sản xuất từ Củ Chi vào sân bay Tân Sơn
Nhất, gài được mìn hẹn giờ trên máy bay Boeing 707.
Để thực hiện được trận đánh quan
trọng này, Đội Biệt động 159 trước đó đã tiến hành gài người vào làm
nhân viên điều khiển không lưu ở sân bay, mang bí số 8E, tức Mười Luân;
đồng thời đưa Thu Nguyệt đóng vai người yêu của Mười Luân ra vào sân bay
để điều nghiên mục tiêu. Ngày 25/3/1963, một gói thuốc nổ mạnh C4 cài
đồng hồ hẹn giờ được ngụy trang trong một chiếc túi du lịch, giống y hệt
chiếc túi du lịch mà bọn cố vấn Mỹ thường dùng. Khi khoác “túi du lịch”
đến từ giã “người yêu”, Thu Nguyệt đánh tráo túi du lịch của một tên Mỹ
trong phòng đợi.
Theo kế hoạch, quả mìn sẽ nổ khi
máy bay cất cánh 15 phút. Nhưng chiếc Boeing 707 hôm ấy chở 80 cố vấn Mỹ
rời Sài Gòn sang San Francisco, quá cảnh sân bay Honolulu được 2 phút
mìn mới phát nổ. Toàn bộ máy bay bị phá hỏng. Thoát chết trong gang tấc,
bọn cố vấn Mỹ vô cùng kinh hoàng. Nếu như hôm ấy, chiếc đồng hồ hẹn giờ
không bị trục trặc do máy bay lên độ cao 10.000 mét, áp suất không khí
khiến nó chạy chậm lại, thì 80 cố vấn Mỹ xâm lược đã đền mạng. Đài Tiếng
nói Việt Nam đưa tin về trận đánh này, trong đó có lời khen ngợi của Hồ
Chủ tịch. Quả mìn ấy tuy không nổ đúng giờ nhưng có sức “công phá” lớn
trong dư luận, gây kinh hoàng cho quân đội Mỹ ngay phía bên kia bờ Thái
Bình Dương: “Không chỉ Việt cộng đánh chúng ta trong thành phố, mà ngay
cả bên Mỹ”. (Ngưng trích).
Có bao nhiêu phần trăm sự thật trong câu chuyện VC kể này, xin để đọc giả tự thẩm định.
Ngày 3 tháng Tư 1963:
Khủng bố VC tung hai quả lựu đạn vào một trường học ở Long Xuyên, giết
chết một giáo viên và hai người lớn đang xem học sinh trình diễn ca nhạc
hàng năm.
Ngày 4 tháng Tư 1963:
VC ném lựu đạn vào khán giả đang xem chiếu bóng ở một làng quê quận Cao
Lãnh tỉnh Định Tường, giết chết 4 người và làm bị thương 11 người khác.
Ngày 23 tháng Năm 1963: VC đánh bom bằng hai chiếc xe đạp có gài chất nổ trên đường phố Sài Gòn giết chết hai người và làm bị thương 10 người khác.
Ngày 12 tháng Chín 1963: Cô giáo Võ Thị Lộ 26 tuổi ở An Phước tỉnh Kiến Hòa sau 3 ngày bị VC bắt cóc, đã bị VC cắt cổ chết và vứt thây ở rìa làng.
Ngày 16 tháng Mười 1963: Hai chiếc xe đò ở Kiến Hòa và Quảng Tín bị trúng mìn VC khiến cho 18 hành khách tử vong và 23 người khác bị thương.
Ngày 9 tháng Mười Một 1963: Trong một ngày 3 vụ ném lựu đạn xảy ra tại 3 địa điểm khác nhau tại Sài Gòn làm bị thương 16 người.
Ngày 9 tháng Hai 1964:
VC kích nổ bom tại một sân vận động thể thao nơi người Mỹ chơi banh làm
cho 2 chết và 41 bị thương trong đó có 4 phụ nữ và 5 trẻ em. Một phần
bom khác không nổ, nếu không, số người tử thương sẽ cao hơn nhiều.
Ngày 16 tháng Hai 1964: Khủng bố VC kích nổ bom tại rạp chiếu bóng Kinh Đô ờ Sài Gòn gây tử thương 3 người Mỹ và làm bị thương 32 người khác.
Ngày 14 tháng Bảy 1964: Phạm Thảo, chủ tịch ủy ban hành động Công giáo tỉnh Quảng Ngãi bị VC xử tử khi ông về thăm sinh quán làng Phổ Lợi Quảng Ngãi.
Tháng Mười 1964: Giới
chức Hoa Kỳ tại Sài Gòn cho biết từ đầu năm đến tháng Mười 1964 VC đã
giết chết 429 viên chức địa phương của VNCH và bắt cóc 482 người khác.
Ngày 24 tháng 12, 1964:
Một vụ nổ do khủng bố VC ở cư xá Brink trong đêm Giáng Sinh. Cư xá
Brinks ở Sài Gòn là nơi trú ngụ của hơn 125 sĩ quan Mỹ và dân thường bị
đánh bom do một đặc công Việt Cộng đóng giả làm sĩ quan Việt Nam Cộng
hòa. Bom được đưa vào garage của cư xá và cho phát nổ làm sập 3 tầng của
tòa nhà, giết 66 người trong đó có 2 sĩ quan Mỹ và làm hơn 100 người
khác bị thương.
Ngày 6 tháng Hai 1965: Đài phát thanh VC cho biết VC đã đem hai tù binh người Mỹ ra bắn chết để trả thù cho 2 khủng bố VC vừa bị VNCH xử bắn.
Ngày 10 tháng Hai 1965: Khủng bố VC đặt bom phá nổ trại lính ở Qui Nhơn, giết chết 23 binh sĩ Mỹ.
Quang cảnh bên ngoài Tòa Đại Sứ Mỹ cũ trên đại lộ Hàm Nghi trong vụ VC khủng bố ngày 30/3/1965.
Ngày 30 tháng Ba 1965:
Một toán đặc công VC phối hợp đánh bom Tòa Đại Sứ Mỹ trên đại lộ Hàm
Nghi gây thiệt mạng cho 22 người, trong đó có 19 người Việt, 2 nhân viên
Mỹ và một người Phi Luật Tân, 83 người khác bị thương, trong đó có phó
đại sứ Mỹ A.Johnson.
Lối đi vào nhà hàng nổi Mỹ Cảnh từ
Bến Bạch Đằng sau khi VC giật quả mìn Claymore thứ nhì để giết hại thêm
thực khách từ nhà hàng chạy lên sau vụ nổ trước.
Ngày 25 tháng Sáu, 1965:
Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh trên sông Sài Gòn bị đặt bom làm hơn 40 người
thiệt mạng, trong đó có 9 người Mỹ và làm hơn 50 thường dân bị thương.
Ngày18 tháng Tám, 1965: Tổng Nha Cảnh sát bị đánh bom làm 6 người chết và 15 người bị thương.
Ngày 4 tháng Mười, 1965: Sân vận động Cộng Hòa bị đặt bom làm 11 người thiệt mạng, 42 thường dân khác bị thương.
Ngày 5 tháng Mười, 1965:
Bom nổ trên một chiếc taxi trên đường phó chính ở Sài Gòn, có thể do
bom phát nổ sớm hơn giờ ấn định, làm hai người chết và 10 bị thương.
Ngày 4 tháng 12, 1965:
Bom khủng bố nổ trước một biu đing cư xá quân nhân ngoại quốc ở Saigon
làm 137 người bị thương gồm 72 người Mỹ, 3 người Tân Tây Lan và 62 người
Việt.
Ngày 12 tháng 12, 1965:
Hai trung đội khủng bố VC giết 23 công nhân đào kinh trong một ngôi
chùa Phật giáo ở Tân Hưng tỉnh Định Tường và 7 người bị thương.
Ngày 30 tháng 12, 1965:
Ký giả Từ Chung của nhật báo Chính Luận bị VC kê súng bắn vào đầu khi
ông từ tòa soạn về nhà để ăn trưa vì trước đó ông đã cho đăng lên báo
lời hăm dọa mà ông nhận được của cộng sản.
Ngày 7 tháng 1, 1966: Cộng sản gài và giật nổ một quả mìn Claymore tại cổng vào phi trường Tân Sơn Nhất, làm 2 người chết và 12 bị thương.
Ngày 17 tháng 1,1966: Cộng sản giật mìn xe đò trên công lộ tỉnh Kiến Tường làm chết 26 thường dân, trong đó có 7 trẻ em, và 8 người bị thương.
Ngày 29 tháng 1, 1966:
VC giết chết cha xứ Phan Khắc Dậu 74 tuổi ở Thạnh Trị tỉnh Kiến Tường
cùng với 5 giáo dân. Đám khủng bố xúc phạm và hủy hoại thánh kinh và
tượng chúa cùng các vật dụng khác.
Ngày 2 tháng Hai, 1966:
Một toán du kích VC phục kích bắn xả vào một chiếc xe Jeep chở nhân
viên ty thông tin tỉnh Hậu Nghĩa, làm 6 chết và một bị thương.
Ngày 14 tháng Hai, 1966: VC gài nổ hai quả mìn dưới xe đò gần Tuy Hòa giết chết 48 nông dân và làm bị thương 7 người khác.
Ngày 18 tháng Ba, 1966: Thêm 15 hành khách xe đò chết và 4 bị thương vì trúng mìn VC 8km phía tây Tuy Hòa tỉnh Phú Yên.
Ngày 22 tháng Năm, 1966:
Quân khủng bố VC đang đêm tấn công một khu nhà trú ngụ của nhân công
đào kinh tỉnh An Giang, giết chết 18 đàn ông, 1 phụ nữ và 4 trẻ em.
Ngày 10 tháng Chín, 1966:
Trong đêm trước ngày bầu cử Quốc Hội miền Nam, Việt Cộng tung ra 166
cuộc tấn công trên toàn quốc, phá hoại địa điểm đặt thùng phiếu, bắt cóc
và ám sát.
Ngày 11tháng Chín, 1966: Trong ngày bầu cử, khủng bố VC giết chết 19 cử tri, làm bị thương 120 người, đốt phá phòng phiếu, đặt mìn vệ đường và ám sát.
Ngày 24 tháng Chín, 1966:
Quân đội Hoa Kỳ giải cứu 11 tù nhân tại một trại giam của VC ở tỉnh Phú
Yên. Có 70 tù nhân bị VC bỏ đói đến chết và 20 người khác chết vì tra
tấn.
Ngày 11 tháng Mười, 1966:
Theo sự chỉ dẫn của một thiếu niên 14 tuổi, lực lượng Đồng Minh tìm
thấy một nhà tù VC ở tỉnh Bình Định với 12 tử thi tù nhân đã bị VC bắn
và ném lựu đạn chết trước khi chúng tẩu thoát.
Ngày 22 tháng Mười, 1966: Một cán bộ nông thôn nửa đêm bị VC vào nhà bắn chết ở Bình Chánh tỉnh Gia Định.
Ngày 24 tháng Mười, 1966: Một chiếc xe đò chạy tuyến đường Huế – Quảng Trị trúng mìn VC tại Phong Điền khiến 15 hành khách bị thương.
Ngày 27 tháng Mười, 1966: VC tung lựu đạn vào nhà dân ở Ban Mê Thuột giết chết 2 người và làm bị thương 7 người gồm trẻ em và phụ nữ.
Ngày 28 tháng Mười, 1966: Cảnh sát kịp thời bắt giữ một nữ du kích VC định đặt bom dưới khán đài lễ hội ở Khánh Hưng tỉnh Ba Xuyên.
Ngày 1 tháng 11, 1966: VC pháo kích Sài Gòn trong Ngày Cách Mạng giết chết và làm bị thương 51 người.
Ngày 2 tháng 11, 1966:
VC ném lựu đạn vào trường đua Phú Thọ Sài Gòn làm 2 người chết và 8
người bị thương. Cùng ngày một toán khủng bố VC tấn công quận châu thành
tỉnh Phong Dinh, đặt chất nổ gây hư hại cầu sắt Đầu Sấu.
Ngày 3 tháng 11, 1966: Khủng bố
VC xâm nhập ngoại ô Sài Gòn và pháo kích 24 phát vào trung tâm thủ đô.
Các nơi bị trúng đạn là Chợ Bến Thành, nhà thương Grall, nhà thờ Đức Bà
và một số nhà dân cư; có 8 người chết và 37 người bị thương nặng.
Ngày 4 tháng 11, 1966:
VC bắn súng cối vào một làng tỉnh Hậu Nghĩa, làm một người chết và 8
người bị thương. Cùng ngày VC tấn công một làng ở Tây Ninh làm 6 người
chết và một số bị thương.
Ngày 7 tháng 11, 1966: VC bắt cóc hai viên chức hành chánh trên tỉnh lộ 8 tỉnh Quảng Đức.
Ngày 16 tháng 11, 1966:
Một chiếc xe đạp chứa chất nổ do khủng bố VC gài phát nổ trên đường
Nguyễn Văn Thoại Sài Gòn khiến hai quân nhân và một thường dân bị
thương.
Ngày 19 tháng 11, 1966: VC pháo kích tổng cộng 28 phát đạn súng cối ở Cần Giộc và Cần Đước tỉnh Long An gây cho 2 trẻ em chết và 17 người bị thương.
Ngày 20 tháng 11, 1966: Hai cảnh sát viên bị thương khi gỡ băng rôn VC có gài chất nổ.
Ngày 23 tháng 11, 1966:
VC mặc quân phục giả dạng binh sĩ VNCH giết chết cảnh sát gác cầu ở
Khánh Hưng tình Ba Xuyên và ném 2 quả lựu đạn làm 2 binh sĩ và 7 thường
dân bị thương.
Ngày 26 tháng 11, 1966:
VC gài mìn Claymore ở sân chơi trường tiểu học Trịnh Hoài Đức ở An
Thạnh tỉnh Bình Dương cạnh một địa điểm huấn luyện của một đơn vị Đại
Hàn. Mìn nổ giết chết 3 binh sĩ Đại Hàn và làm bị thương một học viên
người Việt.
Ngày 30 tháng 11, 1966: VC pháo kích chợ Tân Uyên tỉnh Biên Hòa giết chết 3 thường dân và làm bị thương 7 người khác.
Ngày 4 tháng 12, 1966:
Một đơn vị đặc công VC phá thủng chu vi phòng thủ 20,8 cây số xung
quanh Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt và pháo kích khu vực trong 4 giờ.
Lực lượng bảo vệ Mỹ và VNCH sau đó đã đẩy lui toán đặc công này, giết
chết 18 người. Một máy bay trinh sát 101 của Mỹ bị thiệt hại nặng. Quân
du kích quay lại trong đêm cùng ngày, nhưng lực lượng phòng thủ một lần
nữa đã đẩy lui, giết thêm 11 đặc công Việt Cộng.
Ngày 7 tháng 12, 1966:
Du kích Việt Cộng dùng súng lục Đông Đức ám sát dân biểu Trần Văn Văn
khi ông đang trên đường đi đến trụ sở Quốc Hội. Hai tên du kích bị bắt.
Ngày 10 tháng 12, 1966:
Du kích Việt Cộng ném lựu đạn vào sân chơi của ty Chiêu Hồi tỉnh Bình
Dương làm cho 3 trẻ em bị thương nặng. Cùng ngày, một xe đò trúng mìn
Việt Cộng ở Phong Dinh khiến 5 hành khách toàn phụ nữ thiệt mạng và làm
tài xế bị thương nặng.
Ngày 27 tháng 12, 1966:
Dân biểu bác sĩ Phan Quang Đán may mắn thoát chết khi xe ông phát nổ ở
Gia Định. Bánh chất nổ gắn dưới lườn xe của ông kích nổ khi ông mở cửa
xe bước ra. Bác sĩ Đán bị thương nhưng một phụ nữ đi đường tử thương và 5
người bộ hành khác bị thương.
Ngày 6 tháng 1, 1967: Một cảnh sát viên ở quận Tân Châu tỉnh Kiến Phong bị Việt Cộng hành quyết trước sự chứng kiến của gia đình.
Ngày 7 tháng 1, 1967: Việt Cộng đặt chất nổ phá sập một lớp học và một trạm y tế quận Hồng Ngự tỉnh Kiến Phong.
Ngày 8 tháng 1, 1967:
Việt Cộng ném lựu đạn vào nhà một xã trưởng tỉnh An Xuyên làm một đứa
con của ông ta chết và làm bị thương 3 thành viên khác trong gia đình.
Ngày 12 tháng 1, 1967: VC phục kích xe đò trên Quốc lộ 14 ở Tân Cảnh giết chết 3 thường dân và làm bị thương 3 quân nhân.
Ngày 21 tháng 1, 1967: VC đột nhập làng Buôn Hô tỉnh Darlac gom dân tuyên truyền và bắt đi 6 thanh thiếu niên.
Ngày 6 tháng 2, 1967:
VC bố ráp Liêu Trì tỉnh Quảng Tín bắt cóc giáo viên và viên chức . Giáo
viên bị giết sau đó. Cùng ngày VC ném lựu đạn một buổi tiếp tân của Phó
Tỉnh trưởng Kontum, giết chết Trưởng Ty Giáo Dục và 2 viên chức khác
cùng 8 người bị thương nặng.
Ngày 4 tháng 3, 1967:
Biết tin một đơn vị VNCH hành quân giải cứu, toán canh tù VC trói 12 tù
nhân VNCH xong bắn, đâm và cắt cổ. Chỉ có hai người được cứu sống.
Ngày 5 tháng 3, 1976:
VC mở 2 vụ đột kích ban đêm giết hai cán bộ xây dựng nông thôn ở Vĩnh
Phú tỉnh Phú Yên. Trong một vụ khác, thêm 7 người khác bị giết và 4
người bị thương.
Ngày 30 tháng 3, 1967: VC pháo kích trại gia binh tỉnh lỵ Bạc Liêu, phá hủy 200 căn nhà, giết chết 32 người.
Ngày 13 tháng 4, 1967:
VC nhắm mục tiêu khủng bố ban đêm vào một đoàn văn nghệ trình diễn ở Lữ
Sơn gần Đà Nẵng. Trưởng và phó đoàn đều bị giết, 2 đoàn viên bị thương.
Ngày 14 tháng 4, 1967: Du kích VC bắt cóc Nguyễn Văn Sơn, người ra ứng cử hội đồng làng thuộc quận Bình Chánh tỉnh Gia Định.
Ngày 16 tháng 4, 1967:
VC ám sát một ứng cử viên hội đồng làng Cẩm Hà tỉnh Quảng Nam. Thân
nhân trong gia đình cũng bị vạ lây gồm 1 em bé chết và 3 người lớn bị
thương.
Ngày 18 tháng 4, 1967:
VC tấn công vào ấp Suối Chồn thuộc tỉnh Long Khánh đông bắc Sài Gòn,
giết chết 5 cán bộ xây dựng nông thôn, làm bị thương 3 người và bắt cóc 7
người. Trong số 5 người bị giết có 3 cô gái trẻ bị trói và bắn vào đầu.
Một phần ba nhà cửa trong ấp bị VC đốt cháy rụi.
Ngày 26 tháng 4, 1967: Nguyễn Cầm, trưởng ấp Ba Đàn tỉnh Quảng Nam bị VC giết.
Ngày 10 tháng 5, 1967: Một chiếc xe đò cán trúng mìn VC ở tỉnh Phú Bổn làm một hành khách chết, tài xế và 5 hành khách khác bị thương.
Ngày 11 tháng 5, 1967:
Bác sĩ Trần Văn Lữ Y, bộ trưởng Y Tế tường trình trước Tổ Chức Y Tế Thế
Giới ở Geneva rằng trong 10 năm qua có hơn 200 nhân viên y tế bị VC
giết hại. Con số chính xác là 211 người gồm bác sĩ và y tá đã bị VC giết
hoặc bắt cóc; 174 bệnh xá, bệnh viện và nhà bảo sanh bị phá hủy, 40 xe
cứu thương bị trúng mìn hoặc bị bắn bằng súng máy.
Ngày 16 tháng 5, 1967: VC mở hai vụ khủng bố ở hai tỉnh Quảng Tín và Quảng Trị giết chết 8 cán bộ xây dựng nông thôn và làm 5 người bị thương.
Ngày 24 tháng 5, 1967: VC tung lựu đạn vào nhà trưởng ban thông tin Phú Thạnh tỉnh Biên Hòa giết chết ông cùng với hai đứa con lúc 3 giờ sáng.
Ngày 29 tháng 5, 1967:
Đặc công người nhái VC từ dưới Sông Hương ở Huế làm nổ một khách sạn
nơi các thành viên của Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến thường trú
ngụ. Không có thành viên nào của 3 nước hội viên là Ấn Độ, Gia Nã Đại và
Ba Lan bị nguy hại; Vụ tấn công của VC làm cho 5 thường dân người Việt
tử thương và 15 bị thương. 80% khách sạn bị hư hại.
Ngày 2 tháng 6, 1967:
Hai trung đội VC có trang bị súng máy giữa khuya tấn công Trung Tâm
Chiêu Hồi tỉnh Long An làm 5 binh sĩ và 5 thường dân bị thương.
Ngày 27 tháng 6, 1967: Một xe đò đầy hành khách cán phải mìn VC ở đông nam Lai Khê tỉnh Bình Dương khiến 23 người trên xe đều chết.
Ngày 6 tháng 7, 1967: 7
trẻ em đi bộ trên đường lộ để đến chùa tại xã Cẩm Phổ tỉnh Quảng Nam
nhằm lúc một xe hàng chạy ngang làm nổ một quả mìn chống tăng do VC gài
khiến một em chết vầ em bị thương.
Ngày 13 tháng 7, 1967:
Một nhà hàng ở Huế bị VC gài bom nổ làm chết 2 thực khách người Việt,
làm bị thương 12 người Việt, 7 người Mỹ và 1 người Phi Luật Tân.
Ngày 14 tháng 7, 1967:
VC giả dạng binh lính VNCH tấn công một trại tù tỉnh Quảng Nam, giải
thoát cho 1,000 trên tổng số 1,200 tù nhân, xử tử 30 người tại sân trại.
10 thường dân bị giết và 29 thường dân khác bị thương khi VC mở đường
rút lui.
Ngày 25 tháng 7, 1967:
VC vào nhà dân ở Bình Triệu tỉnh Long An bắt đi 4 đàn ông, 1 phụ nữ và
đứa con trai 16 tuổi của bà. Sáng hôm sau trên tỉnh lộ 13, người ta tìm
thấy thi thể 6 người này với hai tay bị trói sau lưng và mỗi người có
một vết đạn bắn vào đầu.
Ngày 5 tháng 8, 1967:
Khủng bố VC bắt một bé gái học sinh cầm một quả lựu đạn đã rút chốt sẵn
dặn em đưa cho thầy cô giáo của em. Em học sinh này đi đến trường em
thuộc tỉnh An Xuyên đang có chương trình đặc biệt cổ động cho chiến dịch
Rủ Nhau Đi Bầu Tháng Chín. Vừa tới cửa lớp học, em học sinh buông tay
thả lựu đạn khiến cho em chết và làm 9 em học sinh ngồi trong lớp bị
thương.
Ngày 24 tháng 8, 1967: VC ném bom vào nhà một cảnh sát viên ở Cần Thơ làm một người chết và 4 người bị thương.
Ngày 26 tháng 8, 1967: Xe đò chở hành khách cán trúng mìn trong tỉnh Kiến Hòa làm cho 22 người chết và 6 người bị thương.
Ngày 27 tháng 8, 1967:
VC gia tăng các vụ khủng bố bằng pháo kích một tuần trước ngày bầu cử
tổng thống và thượng nghị viên. 46 chết và 227 bị thương ở Cần Thơ. 10
chết và 10 bị thương trong tỉnh Phước Long. 9 thường dân và 5 trẻ em bị
thương ở Ban Mê Thuột. 2 chết và 1 bị thương ở Bình Long. 6 người bị bắt
cóc ở làng Phước Hưng tỉnh Thừa Thiên.
Ngày 29 tháng 8, 1967: VC xâm nhập 4 xã thuộc quận Thăng Bình tỉnh Quảng Nam, giết chết 2 và bắt đi 6 người.
Ngày 1 tháng 9, 1967:
VC phá quốc lộ 4 trong tỉnh Định Tường với 6 hố bom khiến mọi lưu thông
tắt nghẽn ngoại trừ một xe cứu thương quân đội cán trúng mìn áp suất
khiến 13 hành khách chết và 23 bị thương.
Ngày 3 tháng 9, 1967:
Trong ngày bầu cử, vụ khủng bố VC đầu tiên xảy ra tại một địa điểm bỏ
phiếu ở Tuy Hòa Phú Yên khiến 3 chết và 42 bị thương. Tính chung trong
buổi sáng ngày bầu cử. có tổng cộng 48 cử tri bị VC sát hại.
Ngày 8 tháng 11, 1967: Trung tâm tị nạn Kỳ Chánh tỉnh Quảng Tín bị VC xâm nhập giết chết 4, làm bị thương 9 và bắt đi 9 người khác, lớp học bị đốt.
Ấp tân sinh Đắc Sơn bị VC dùng súng phun lửa hủy diệt, giết 114 dân làng và làm bị thương 47 người (AP Photo)
Ngày 5 tháng 12, 1967:
Một trong những vụ VC khủng bố tồi tệ nhất gây tiếng vang lớn là cuộc
thảm sát ở Dak Son tỉnh Phước Long. Người Mỹ ví nó như vụ thảm sát làng
Lidice ở Tiệp Khắc dưới thời nước này bị Đức Quốc Xã chiếm đóng. Dak Son
là một làng người Thượng với khoảng 2,000 dân. Vì ngôi làng này gần một
căn cứ quân đội Mỹ và được dân làng có thiện cảm, VC căm thù muốn tiêu
diệt. Hơn 300 VC trang bị 60 súng phun lửa đang đêm tấn công định thiêu
sống tất cả: người già trẻ lớn bé, gia súc, thực phẩm, nhà cửa… Sáng hôm
sau, một cảnh hoang tàn với từng đống thây người chết cháy thành than
cùng với mọi vật. Tổng cộng có 252 người chết, hai phần ba là phụ nữ và
trẻ em. 200 người bị bắt đi và không bao giờ trở lại. Số người còn sống
sót là vì cư trú trong các dãy nhà khác và VC đã xài cạn hết súng phun
lửa.
Ngày 14 tháng 12, 1967:
Dân biểu Bùi Quang San bị VC xông vào nhà ám sát. Hai ngày trước khi bị
giết, ông San cho biết có nhận được thư VC hăm dọa tính mạng. Cả gia
đình ông ở Hội An từng bị VC sát hại gồm mẹ, vợ và 6 đứa con. Cùng ngày,
thông cáo Bộ Thông Tin cho biết trong tuần lễ qua có 232 người chết vì
các vụ VC khủng bố.
Ngày 16 tháng 12, 1967:
VC cướp máy vi âm trong một buổi diễn kịch trong trường Đại Học Sài Gòn
để tuyên truyền và nổ súng làm 3 người bị thương khi bị ngăn cản, xong
tẩu thoát.
Ngày 20 tháng 1, 1968:
Một toán du kích VC có võ trang cưỡng bức khoảng 100 dân cư quận Tam
Quan tỉnh Bình Định tập họp để nghe chúng tuyên truyền. Một người lớn
tuổi lên tiếng phản đối liền bị VC bắn chết.
Ngày 30 tháng 1, 1968:
Trong đêm giao thừa Tết Mậu Thân, một lực lượng Cộng quân khoảng 12,000
người đã thừa dịp hưu chiến xâm nhập thành phố Huế và tức khắc biến Huế
trở thành một trong những thành phố buồn nhất trên quả địa cầu. Thành
phố bị VC chiếm đóng 26 ngày, xử tử gần 6,000 nạn nhân không vũ khí mà
VC cho là kẻ thù của CS. Sau khi thành phố được giải cứu, người ta tìm
thấy nhiều mồ chôn tập thể hàng ngàn người bị VC trói, giết cà chôn vội
vã trên đường rút lui. Dấu hiệu cho thấy có cả nạn nhân bị chôn sống.
Ngày 6 tháng 4, 1968:
Một toán du kích VC vào làng Thất Vinh Đông tỉnh Tây Ninh bắt dân mua
trái phiếu và bắt đi một giáo viên, 2 người con gái và một người cháu
trai của xả trưởng cùng 6 thiếu niên 15, 16 tuổi.
Từ 5/5 đến 22/6, 1968:
VC pháo kích 417 quả đạn hỏa tiễn 107 ly của Trung Cộng và 122 ly của
Sô Viết vào Sài Gòn, làm chết 115 người và 528 người bị thương, phần
lớn là cư dân Quận Tư.
Ngày 29 tháng 5, 1968:
VC chận đường lộ 155 ở tỉnh Vĩnh Bình, đốt 2 xe đò và 28 xe lam 3 bánh,
bắt đi 50 hành khách thường dân gồm một mục sư Tin Lành.
Ngày 28 tháng 6, 1968:
VC tấn công bằng vũ khí nặng, chất nổ và lựu đạn vào trung tâm tị nạn
và làng chài Sơn Trà, phía nam Đà Nẵng làm 88 người chết và 103 bị
thương. 450 ngôi nhà bị phá hủy khiến cho hàng ngàn dân không nhà ở. Sau
đó VC lại phục kích tấn công bắn vào đám người đi đốn tre để cất lại
nhà tị nạn.
Ngày 28 tháng 7, 1968:
Một tốp 4 đặc công VC gồm 2 nam 2 nữ đột kích cơ sở nhật báo Chợ Lớn,
đuổi hết mọi người, đặt 60 cân Anh chất nổ dẻo làm nổ tung tòa nhà
Ngày 1 tháng 9, 1968:
Các bác sĩ bệnh viện dã chiến 27 Hoa Kỳ cho biết có 2 phụ nữ người
Thượng được đưa vào bệnh viện với chứng thiếu máu trầm trọng. Các bác sĩ
khám phá ra rằng 2 phụ nữ này đã bị cán binh VC rút máu để sang cho
thương binh của họ.
Ngày 12 tháng 9, 1968:
Một tài liệu của VC do chính quyền tịch thu được ở quận châu thành tỉnh
Bình Dương cho biết rằng VC ra lệnh giết 7 tù binh của họ để khỏi vướng
bận trên đường rút lui.
Ngày 26 tháng 9, 1968: VC ném lựu đạn vào Chợ Bến Thành làm 1 người chết và 11 người bị thương.
Ngày 11 tháng 12, 1968:
VC vào nhà trưởng toán nhân dân tự vệ quận Tri Tôn tỉnh Châu Đốc bắt
trói ông lôi ra ngoài sân rồi dùng súng liên thanh ria nát người ông.
Ngày 6 tháng 1, 1969:
Hai đặc công VC cỡi xe gắn máy áp xe hơi của Bộ Trưởng Giáo Dục Lê Minh
Trí rồi ném lựu đạn vô xe khiến ông và tài xế tử thương và cận vệ bị
thương.
Ngày 7 tháng 2, 1969: VC cho nổ một túi mìn gài ở chợ Cần Thơ làm 1 người chết và 3 người bị thương.
Ngày 16 tháng 2, 1969:
Du kích VC vào làng Phước Mỹ tỉnh Quảng Tín tung lựu đạn nhiều nhà giết
chết một số cư dân gồm người già và trẻ em không chạy kịp.
Ngày 19 tháng 2, 1969:
VC gài bom trong xe đạp và cho nổ tại một tiệm đông người ở thị xã
Trúng Giang tỉnh Kiến Hòa làm chết 6 thường dân và 16 người bị thương.
Ngày 24 tháng 2, 1969: VC vào nhà thờ Thiên Chúa giáo tỉnh Quảng Ngãi ám sát một linh mục và một thiếu sinh.
Ngày 4 tháng 3, 1969:
VC đi xe gắn máy bắn chết giáo sư Trần Anh, viện trưởng đại học Sài Gòn.
Trước đó ông đã nhận được thư hăm dọa của Biệt đội Cảm tử Nội thành Sài
Gòn của VC.
Ngày 5 tháng 3, 1969:
VC định quăng túi chất nổ vào xe hơi để ám sát Thủ tướng Trần Văn Hương
nhưng thất bại và đa số VC can dự trong vụ này đã bị bắt.
Ngày 6 tháng 3, 1969: VC đặt chất nổ tại bệnh viện tỉnh Quảng Ngãi làm hư hại 2 xe cứu thương và một bệnh nhân sản khoa chết.
Ngày 9 tháng 3, 1969:
VC vào nhà bà Phan thị Trí ở Xóm Láng tỉnh Gò Công bắt bà chặt đầu vì
chồng bà đã bỏ VC và ra đầu thú với chính quyền. Cùng ngày trong tỉnh
Quảng Nam, VC bố ráp các làng Lộc An, Lộc Mỹ và Lộc Hưng giết hai thường
dân và bắt đi 10 thiếu niên theo chúng.
Ngày 13 tháng 3, 1969:
VC tấn công vào hai làng người Thượng Kon Sitiu và Kon Bobanh thuộc
tỉnh Kontum, giết chết 15 người, bắt đi 23 người, 2 người trong số này
sau đó bị VC xử tử. 3 nhà dài, 1 nhà thờ, 1 trường học bị đốt. Một
trưởng làng bị đánh chết. Những người sống sót kể lại VC hăm dọa họ
không được hợp tác với chính quyền.
Ngày 21 tháng 3, 1969:
VC tấn công một trung tâm tị nạn lần thứ hai bằng súng cối và B-40 giết
chết 17 thường dân và làm bị thương 36 người khác, phần nhiều là phụ
nữ và trẻ em.
Ngày 4 tháng 4, 1969: VC đặt mìn một ngôi chùa trong tỉnh Quảng Nam làm 4 người chết và 14 người bị thương.
Ngày 9 tháng 4, 1969: VC tấn công trại tị nạn Phú Bình tỉnh Quảng Ngãi đốt cháy 70 căn nhà, bắt cóc 4 người, làm cho 200 dân không còn nơi cư ngụ.
Ngày 11 tháng 4, 1969: VC gài túi chất nổ ở đình làng Long Thạnh tỉnh Phong Dinh làm 4 trẻ em bị thương.
Ngày 15 tháng 4, 1969:
VC đột nhập trung tâm tị nạn An Kỳ tỉnh Quảng Ngãi để tuyên truyền và
cưỡng bức đuổi người tị nạn về nhà. Khi dân phản đối, VC xả súng giết
chết 9 người và làm bị thương 10 người khác.
Ngày 16 tháng 4, 1969:
Du kích VC có võ trang vào trại tị nạn Hòa Đại tỉnh Bình Định tuyên
truyền kêu gọi người tị nạn hồi cư. Bị từ chối, VC đốt sạch 146 căn nhà
tạm trú.
Ngày 19 tháng 4, 1969: VC vào trại tị nạn Hiếu Đức tỉnh Quảng Nam bắt đi 10 người.
Ngày 22 tháng 4, 1969: VC tấn công một trung tâm chiêu hồi trong tỉnh Vĩnh Bình làm 5 người chết và 11 người bị thương.
Ngày 23 tháng 4, 1969: VC tấn công khủng bố trại tiếp cư ở Sơn Tịnh Quảng Ngãi, bắn chết 2 phụ nữ và bắt đi 10 người.
Ngày 6 tháng 5, 1969: VC bắt cóc và giết ông Lê Văn Giáo 37 tuổi ở làng Vĩnh Phú tỉnh An Giang vì ông này từ chối đóng thuế cho VC.
Cảnh đổ nát bên trong Bưu Điện Sài Gòn do VC đặt bom ngày 8-5-1969.
Ngày 8 tháng 5, 1969: Đặc công VC đặt bom trong trụ sở Bưu Điện Sài Gòn làm 4 thường dân chết và 19 người bị thương.
Ngày 10 tháng 5, 1969: VC giật chất nổ ở Dương Hồng tỉnh Quảng Nam giết chết 8 thường dân và làm 4 người bị thương.
Ngày 12 tháng 5, 1969: Đặc công VC tấn công Phú Mỹ tỉnh Bình Định làm chết 10 thường dân và làm bị thương 19 người. 87 nhà bị hư hại.
Ngày 14 tháng 5, 1969: VC pháo kích 5 phát đạn hỏa tiễn 122ly vào khu dân cư thành phố Đà Nẵng làm 5 người chết và 18 người bị thương.
Ngày 18 tháng 6, 1969: 3 trẻ em ở Quản Long An Xuyên bị thương khi chạy giỡn gần nhà đạp trúng mìn VC.
Ngày 19 tháng 6, 1969:
VC bắt cóc và bắn chết đoàn viên nhân dân tự vệ Lương văn Thành ở Tân
Thuận Đông tỉnh Định Tường. Cùng ngày tại Phú Mỹ Thừa Thiên, VC ám sát
chết một người đàn ông 51 tuổi và bà mẹ 70 tuổi.
Ngày 24 tháng 6, 1969: VC pháo kích hỏa tiễn 122 ly vào bệnh xá Thanh Tâm ở Hố Nai Biên Hòa làm một bệnh nhân tử thương.
Ngày 30 tháng 6, 1969:
VC pháo kích chùa Phước Long tỉnh Bình Dương làm một nhà sư tử thương
và 10 khách viếng chùa bị thương. Cùng ngày, 3 đoàn viên nhân dân tự vệ
bị bắt cóc ở Phú Mỹ Biên Hòa.
Ngày 30 tháng 6, 1969: Trung tâm tiếp cư Hưng Mỹ tỉnh Bình Dương trúng đạn hỏa tiễn VC làm 76 người bị thương.
Ngày 2 tháng 7, 1969: VC đột nhập văn phòng xã Thái Phú tỉnh Tây Ninh ám sát xả trưởng và người phụ tá.
July 17 tháng 7, 1969: VC tung lựu đạn vào Chợ Cồn Đà Nẵng làm bị thương 13 người, phần lớn là phụ nữ.
Ngày 5 tháng 8, 1969:
VC tung 2 quả lựu đạn vào trường tiểu học Vĩnh Châu tỉnh Quảng Nam trong
lúc trường đang có một buổi họp mặt, làm 5 người chết và 21 người bị
thương.
Ngày 7 tháng 8, 1969:
Đặc công VC gài và cho nổ 30 thỏi chất nổ Bệnh Viện Dã Chiến 6 của Hoa
Kỳ ở Vịnh Cam Ranh, gây 2 tử vong và 57 bị thương, phần nhiều là bệnh
nhân.
Ngày 13 tháng 8, 1969:
Khủng bố VC tấn công hai trạm tiếp cư dân chạy loạn ở Quảng Nam và Thừa
Thiên làm 23 người chết và 75 người bị thương, một số lớn nhà cửa bị
phá sập hoặc hư hại.
Ngày 26 tháng 8, 1969: Một gia đình 8 người gồm cả trẻ sơ sinh mới 9 tháng đều bị VC giết bằng súng bắn vào gáy ở Hòa Phát tỉnh Quảng Nam.
Ngày 6 tháng 9, 1969: VC pháo kích Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Dã Chiến ở Đà Lạt khiến 5 học viên chết và 26 bị thương.
Ngày 9 tháng 9, 1969: Chính phũ VNCH đưa ra con số tổng kết trong 8 tháng đầu của năm 1969 có gần 5 ngàn thường dân bị VC sát hại.
Ngày 20 tháng 9, 1969:
VC tấn công Trung Tâm Tị Nạn Từ Vân tỉnh Quảng Ngãi giết chết 8 người
và làm 2 người bị thương. Tất cả nạn nhân đều là vợ con của các đoàn
viên Nhân Dân Tự Vệ. Tại Bình Sơn, toàn thể 8 người trong gia đình một
viên chức cảnh sát đều bị giết.
Ngày 24 tháng Chín, 1969: Một chiếc xe đò trúng mìn Việt Cộng trên Quốc Lộ 1 về phía bắc Đức Thọ Quảng Ngãi làm 12 hành khách thiệt mạng.
Ngày 13 tháng Mười, 1969:
Việt Cộng bắt cóc một linh mục Thiên Chúa Giáo và một phó tế tại nhà
thờ Phú Hội tỉnh Biên Hòa. Cùng ngày, Việt Cộng ném lựu đạn vào Trung
Tâm Chiêu Hồi Vị Thanh tỉnh Chương Thiện giết chết 3 thường dân và làm
cho 46 người khác bị thương, khoảng phân nửa số người đó là thân nhân
của các hồi chánh viên gồm phụ nữ và trẻ em.
Những vụ khủng bố liệt kê trên đây chỉ là một phần của những tội
ác chiến tranh mà Việt Cộng gây ra đối với dân lành miền Nam, dư đủ để
dùng làm bằng chứng truy tố và kết tội Đảng Cộng Sản Việt Nam trước Tòa
Án Quốc Tế.
Tiến sĩ Carol Winkler, giáo sư Trường Đại Học Maryland qua quyển
sách In The Name of Terrorism cho biết rằng giữa khoảng thời gian từ
1965 đến 1972, khủng bố VC đã giết chết hơn 33 ngàn người và bắt cóc 57
ngàn người khác trên toàn quốc VNCH. Riêng tại thủ đô Sài Gòn, các vụ
khủng bố tàn độc quyết liệt hơn và giết hại nhiều sinh mạng hơn cả.
Riêng trong năm 1964 không thôi có 19 ngàn vụ khủng bố VC, trong đó có
vụ ám sát hụt thủ tướng Trần Văn Hương.
Douglas Pike, chuyên gia uy tín về Chiến Tranh Việt Nam và là
người bỏ công sưu tầm nguồn tài liệu khổng lồ về đề tài này cho Trung
Tâm Việt Nam tại Trường Đại Học Kỹ Thuật Texas ở Lubbock, cho rằng vụ
thảm sát năm Mậu Thân ở Huế của VC là vụ khủng bố tàn độc nhất trong
suốt cuộc chiến với số người bị giết dã man lên đến cỡ 5 ngàn người. VC
Hoàng Phủ Ngọc Tường nhúng tay vào vụ thảm sát này bào chữa cho rằng số
nạn nhân trên do Mỹ dội bom khi chiếm lại nội thành nhưng ai cũng biết
các mồ chôn tập thể nằm ở ngoại vi trên đường VC rút quân.
Phe Cộng sản tuyên truyền tạo cho thế giới cảm tưởng rằng chiến
tranh Việt Nam là cuộc nổi dậy của dân chúng chống ngoại xâm. Trên thực
tế, đa số những người thiệt mạng do Việt Cộng khủng bố là thường dân
người Việt, nạn nhân của các vụ phục kích khi di chuyển trên xe đò. Nhà
cửa vùng quê xa xôi bị đốt, thanh thiếu niên bị cưỡng bức theo VC. Có sự
hiện diện của ngoại nhân trên quê hương hay không, chính sách khủng bố
để tạo khiếp đảm kinh hoàng sợ hãi của VC vẫn là một. Sau biến cố 30
tháng Tư 1975, hàng triệu người liều chết bỏ nước ra đi đủ nói lên điều
đó.
Phan Hạnh Toronto.
Nguồn tham khảo:http://antgct.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=50462
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/09/110909_wikileaks_hanoi_embassy_post_911.shtml
https://hoalaivn.wordpress.com/2011/05/04/chuy%E1%BB%87n-kh%E1%BB%A7ng-b%E1%BB%91-%E1%BB%9F-vi%E1%BB%87t-nam/
http://www.11thcavnam.com/education/namterror.htm
http://en.wikipedia.org/wiki/State_terrorism
http://en.wikipedia.org/wiki/Communist_terrorism
http://vnafmamn.com/VNWar_atrocities.html
http://letungchau.blogspot.ca/p/tin-van.html
Saturday, October 29, 2016
VIỆT NAM HÔM NAY
Sau cơn lũ
Kính Hòa, phóng viên RFA
2016-10-28
2016-10-28
"Người dân Việt đang trả giá cho những gì họ không làm"
Cơn lũ dữ dội ở miền Trung rồi cũng qua đi, nhưng ở thời buổi truyền
thông mạng, thì hình ảnh hệ lụy của nó còn đó, mãi mãi. Nhạc sĩ Tuấn
Khanh ghi nhận hình ảnh một chú bò trong cơn lũ giương đôi mắt mà nhạc
sĩ nói rằng đầy tuyệt vọng, mệt mỏi. Đôi mắt bò làm Tuấn Khanh nhớ đôi
mắt người phu xe của nhà văn Nguyễn Công Hoan hơn nửa thế kỷ trước, vào
cái thời người ta gọi là thực dân phong kiến, cũng mệt mỏi và đầy tuyệt
vọng.
Ông cho rằng Người dân Việt đang trả giá cho những gì họ không làm.
“Đôi mắt của con bò cố sống sót ở Quảng Bình hôm nay, sẽ đi vào lịch
sử. Nó là bức tranh hiện thực đau nghiến, nhưng căng phồng những nỗi
niềm mà người dân cũng đang loay hoay và cố sống sót như chính con bò
của mình. Gần một thế kỷ sau, hình ảnh đôi mắt của một con người không
tương lai của Nguyễn Công Hoan lại ám ảnh người xem, nhưng lần này còn
thấp hơn nữa, qua số phận một con vật.”
Dòng người cứu trợ thiện nguyện đến ngay vùng lũ ngay lúc dòng nước đục
chưa rút đi. Các quan chức, các cơ quan có trách nhiệm tuy có muộn nhưng
rồi cũng đến với những cộng đồng người dân bị thiên tai.
Và không mô hình nhà phao nào có thể cứu vãn được niềm tin dân chúng sau những phát ngôn lạnh lùng, vô cảm kiểu “xả lũ đúng quy trình” của nhà chức trách.
- Nguyễn An Sa
Blogger Nguyễn An Sa viết trên trang blog Kinh tế Sài Gòn câu chuyện đã
lâu rồi về sáng kiến làm nhà phao cho dân vùng lũ, một sáng kiến đáng
tiếc là như chưa bao giờ được thực hiện một cách trọn vẹn. Song, dù có
nhà phao đi nữa, thì theo ông cũng không phải là động cơ chính để giải
đi nỗi khổ đau của người dân nghèo:
"Người dân nghèo cần đến những chiếc phao để được an toàn về tính
mạng, nhưng họ cũng cần hơn những chiếc phao của niềm tin. Sẽ không tổ
chức xã hội nào có thể đảm bảo hay lo xuể cho người dân nghèo ở những
vùng rốn lũ nếu như cơ quan chức năng vẫn cứ vì nguồn lợi trước mắt, lợi
ích nhóm mà nhân rộng mô hình phát triển không bền vững, bỏ qua những
hệ lụy tác động lên đời sống người dân. Cũng không tổ chức từ thiện nào
có thể lo cho dân hết đói nếu như những chính sách phát triển bỏ qua
những điều kiện an sinh dành cho họ.
Và không mô hình nhà phao nào có thể cứu vãn được niềm tin dân chúng
sau những phát ngôn lạnh lùng, vô cảm kiểu “xả lũ đúng quy trình” của
nhà chức trách."
Nhóm lợi ích mà An Sa đề cập chính là hàng loạt đập thủy điện treo lơ
lững trên đầu nguồn các con sông ngắn, chảy xiết của miền Trung. Chủ
nhân ông của những hồ thủy điện này thường xả nước vào đúng những cơn
bão lũ, để bảo vệ con đập, làm cho người dân vùng hạ lưu hứng chịu những
cơn lũ của trời và cả những cơn lũ do người.
Cũng trên trang blog của tờ Thời báo Kinh tế Sài gòn, người ta thấy bài
của blogger Nguyễn Vĩnh Nguyên viết về nước. Ông so sánh những nông dân
miền Tây Nam bộ thiếu nước vì những con đập trên thượng nguồn sông Cửu
Long của Trung quốc, trong khi ngư dân và nông dân Quảng Bình, Hà Tĩnh,
phải chạy nước.
“Nước ơi” có lẽ là tiếng kêu đầy cảm thán của dân nghèo năm nay,
trong hạn và cả trong lũ. Nhưng “nước ơi” đâu chỉ là dòng nước vật chất,
để làm dịu cơn khát của đất hay sự hung hãn từ thiên nhiên, mà còn hình
như là tiếng kêu đau sâu thẳm.
“Nước ơi”, cũng từng là tiếng kêu đau đớn trong rất nhiều vụ bê bối
môi trường, từ Formosa đến cá chết trắng sông rạch do chất thải. Môi
trường nước đang bị đe dọa vì chính sách phát triển thiếu hài hòa.
Nước, từ một cổ mẫu văn hóa, trở thành một mối ám ảnh của đời sống
hiện tại khi đường vào tương lai không được thiết kế bằng những nhịp cầu
bền vững. Từ đó mà trong tiếng kêu than “nước ơi” của dân lành, nước
không chỉ có nghĩa một hình thái vật chất."
Những từ như là bê bối môi trường, chính sách phát triển thiếu hài hòa
có lẽ là những từ thẳng thắn nhất mà một tờ báo do nhà nước quản lý có
thể nêu lên, khi những nhà báo Việt Nam được ông Hoàng Vĩnh Bảo, Thứ
trưởng bộ thông tin truyền thông cảnh báo rằng vấn đề về môi trường có
thể bị kẻ xấu lợi dụng.
Cái tên Formosa mà Nguyễn Vĩnh Nguyên nêu ra trong bài viết của ông có
lẽ là một trong những từ được nhắc đến nhiều nhất trên không gian mạng
tiếng Việt kể từ tháng tư đến nay, và có thể sẽ còn được nhắc đến nhiều
nữa, một khi mà ngư dân, nông dân miền Trung chưa cảm thấy rằng họ được
đối xử công bằng như là những nạn nhân của thảm họa môi trường.
Những dòng người tiếp tục biểu tình, tiếp tục kiện tụng đòi Formosa đóng cửa.
Chính quyền phải đối phó, họ đối phó bằng nhiều cách, một trong những
cách đó được cho là ra lệnh cho công ty taxi Mai Linh không được chở
người dân đi kiện. Dù công ty này có trần tình là họ không hề nhận được
lệnh như vậy, nhưng khắp các trang mạng xã hội, người ta lên tiếng kêu
gọi tẩy chay Mai Linh.
Tuấn Khanh viết:
"Chúng ta sẽ từ chối những gì bất xứng và vô đạo với chúng ta - con
người, cho đến khi nhìn thấy sự đổi thay và tái chấp nhận nó như một dấu
hiệu về sự tiến bộ cần thiết.
Sự kiện Mai Linh chỉ là một trong những điều bất cập đang diễn ra
trên đất nước này, nơi mà những kẻ có tiền, có quyền vẫn đang tạo ra
những điều phi lý mà thường xuyên không gặp phản ứng nào. Chuỗi hành
động từ chối từ cộng đồng, có thể coi là phần diễn tập quan trọng để
người dân lấy lại tư thế và tên gọi đúng về sự tồn tại của mình, vốn
đang bị quên lãng trong một quốc gia."
Việc tẩy chay Mai Linh làm người ta nhớ những vụ tẩy chay khác trong
thời gian gần đây như công ty Tân Hiệp Phát với nghi vấn sản phẩm của họ
không hợp vệ sinh.
Không phải ai cũng đồng tình việc tẩy chay. Lý do của những người này
đưa ra là việc tẩy chay sẽ làm một số công nhân mất việc làm, làm tổn
hại đến những thương hiệu Việt Nam đã dày công xây dựng.
Luật sư Lê Luân không đồng tình với lập luận này:
"Đến đây, tôi tự hỏi, từ khi nào mà ở cái xứ này lại tồn tại một loại
tư duy cho rằng, sự thương cảm về cuộc sống của một nhóm người làm công
lại quan trong hơn sự an nguy của cả một cộng đồng mà bỏ qua những hành
vi không được phép (bất hợp pháp) của một doanh nghiệp, lại sẵn sàng
được dung túng và chấp nhận để đánh đổi trong quan điểm của một vài con
người nào đó? Họ định tiếp tay cho những hành vi gian manh, dối trá và
gây hại cho con người, cho cộng đồng từ các doanh nghiệp bằng cách đưa
ra mặc cả về những lợi ích sinh tồn của vài cá thể làm cho những doanh
nghiệp bất chấp trong kinh doanh mà kiếm chác lợi ích đó để cốt sao cho
nó được tiếp tục tồn tại trên thị trường?"
Một điều lý tưởng lại gây nên tranh cãi
Một việc khác xảy ra giữa cơn lũ, tưởng chừng như là một điều lý tưởng
cũng lại gây nên tranh cãi. Đó là việc ông Phan Anh tự gây quĩ đi cứu
trợ đồng bào bị nạn. Một số trang mạng nói rằng ông không có quyền làm
việc đó, rằng ông đang nhận tiền từ các thế lực thù địch. Nhưng cho đến
khi bài điểm blog này hoàn tất cũng chưa có một lời buộc tội nào chính
thức từ các cơ quan truyền thông của nhà nước, giống như câu hỏi mà
người dẫn chương trình truyền hình Việt Nam đã từng đặt ra cho ông là
ông có động cơ gì không khi lên tiếng chống Formosa.
Nhà văn Thùy Linh chúc mừng ông Phan Anh và viết rằng Mọi con đường dẫn đến trái tim rất khó dựng rào chắn bởi những bàn tay bọc sắt lạnh lùng, ác độc...
Blogger Song Chi cho rằng nguyên nhân của những tranh cãi kỳ lạ xung
quanh những việc thiện nguyện phục vụ xã hội, chính là cơ sở ý thức hệ
của xã hội Việt Nam hiện nay:
"Từ những câu chuyên này, thêm một lần nữa chúng ta thấy rằng chế độ
cộng sản đã hủy hoại đạo đức xã hội, hủy hoại nhân cách con người, đã
làm hỏng con người rất nặng. Cả một xã hội thiếu vắng lòng tốt, thiếu
vắng sự tử tế nên khi có một chuyện tử tế, lập tức gây bão. Con người
quá thiếu lòng tin vào con người, và đầy những đố ky, ganh ghét, nghi
ngờ. Mà chính mỗi chúng ta khi phải sống trong một chế độ như vậy cũng
không ý thức hết được mức độ phá hoại, mức độ ảnh hưởng của nó lên từng
suy nghĩ, cách nhìn cho tới nhân cách của mình."
Chính trong cơ sở ý thức hệ đó mà blogger Nguyễn Anh Tuấn mô tả cách
thức hành xử của những nhà cầm quyền Việt Nam trước những sự việc như vụ
bê bối môi trường Formosa. Sau câu nói của ông Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng về vấn đề chống tham nhũng chính là chống chính đảng của ông,
Nguyễn Anh Tuấn viết trong bài tại sao họ không chịu đối thoại:
Trong một lúc nào đó giữa cuộc đời, nỗi buồn, sự không may mắn và cô đơn đến vây khốn, dù đã cố gắng chống chọi đến phút cuối mà bạn vẫn không thể đứng vững được, bạn trở nên đau khổ, yếu mềm, lúc đó, dù không nói ra, không ngửa bàn tay ra nhưng trong lòng bạn đã có một bàn tay ngửa ra chờ đón hơi ấm của đồng loại.
- Blogger Viết Từ Sài Gòn
"Trong bối cảnh những buổi hội nghị được sắp đặt như thế mà ông Trọng
và các ông bà tứ trụ còn thường xuyên có những phát ngôn ngớ ngẩn, tệ
hại như trên, thì thử hỏi nếu đứng trước cử hàng nghìn cư dân địa phương
đang phẫn nộ vì bị mất sinh kế với hàng loạt câu hỏi sát sườn thực tế
thảm họa, ông Trọng và tứ trụ của ông sẽ 'trụ' được trong bao lâu, nhất
là khi xung quanh hàng loạt camera/phone đang chĩa vào đưa tin trực
tiếp? Họ sẽ xuất hiện ra trước công chúng với bộ dạng thế nào?
Tới đây tôi hiểu vì sao bạo lực là giải pháp duy nhất họ nghĩ đến.Đơn giản là vì họ sợ đối thoại công khai.
Mà lý do họ sợ thì lại càng đơn giản hơn:
Họ không quen và không được chuẩn bị cho những buổi đối thoại chưa được sắp đặt trước, và nhiều khả năng sẽ mất hết tự tin trước những câu hỏi họ chưa lường trước từ người dân."
Trong tất cả những hệ lụy do cơn lũ để lại, về cuộc sống vật chất lẫn
tinh thần, trong tất cả những rối loại xã hội chưa chấm dứt do vụ bê bối
Formosa gây ra, blogger Viết từ Sài gòn lại nhìn thấy một sự tương trợ
nhau, hòa giải nhau giữa những người Việt khắp năm châu, cũng như hơi ấm
của con người mà Viết từ Sài Gòn cảm thấy sau mấy tháng biến động vừa
qua. Chúng tôi xin lấy đó làm lời kết của bài điểm blog này:
"Tiến trình hòa giải giữa người dân Việt với nhau nhanh chóng đâm hoa
kết trái, những trăn trở, yêu thương, chia sẻ và đùm bọc của người Việt
hải ngoại với người Việt trong nước đã nhanh chóng gắn kết họ lại với
nhau sau mỗi cơn hoạn nạn, thiên tai. Và sự yêu thương, chia sẻ này đóng
vai trò như những viên gạch, dần xây nên căn nhà đại đồng Việt Nam
trong tương lai. Mỗi sứ giả thiện nguyện hay nhà hoạt động xã hội dân
sự, nhà đấu tranh dân chủ đóng vai trò như một người thợ xây, đang tỉ
mẫn bốc từng viên gạch, dán từng mạch hồ để căn nhà tương lai được vững
chãi, đảm bảo thẩm mỹ.
Trong một lúc nào đó giữa cuộc đời, nỗi buồn, sự không may mắn và cô
đơn đến vây khốn, dù đã cố gắng chống chọi đến phút cuối mà bạn vẫn
không thể đứng vững được, bạn trở nên đau khổ, yếu mềm, lúc đó, dù không
nói ra, không ngửa bàn tay ra nhưng trong lòng bạn đã có một bàn tay
ngửa ra chờ đón hơi ấm của đồng loại. Bởi chính hơi ấm ấy cho bạn thấy
rằng cuộc đời này đáng sống, đáng để tiếp tục tồn tại và nỗ lực."
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ReadingBlogs/after-the-flood-10282016101630.htmlÂm mưu tiêu diệt một sản phẩm văn hóa ẩm thực
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2016-10-28
2016-10-28
Nói tới nước mắm là nói tới Việt Nam
Trong giai đoạn người Việt định cư ồ ạt tại nước ngoài, văn hóa ẩm thực
Việt Nam đã chinh phục được khẩu vị của những nước có truyền thống về ẩm
thực. Những món ăn Việt được phổ biến rộng rãi nhờ vào gia vị và nguyên
liệu đa dạng thích hợp được với khẩu vị nhiều nước nếu không muốn nói
là hầu như đa số. Những món phổ thông như bánh mì Việt Nam, Phở hay chả
giò đã làm thế giới ngạc nhiên do vị đậm đà lôi cuốn của nó. Hầu như rất
ít người để ý, trong cái hương vị lặng lẽ phía sau mỗi món ăn Việt
không bao giờ thiếu một thứ hương vị mà chỉ Việt Nam mới có, đó là nước
mắm.
Nói tới nước mắm là nói tới Việt Nam, ngay cả khi không nói về chuyện ẩm thực.
Khoảng hơn 20 năm trước một câu chuyện thú vị về nước mắm mà người Việt
Nam đứng tuổi nào cũng biết: Trên xe về miền Trung, từ Sài gòn ngủ gà
ngủ gật cách mấy thì khi ngang qua Phan Thiết mọi người đều tỉnh giấc
bởi một mùi hương khó tả xốc vào mũi họ, đó là mùi nước mắm. Những chiếc
thùng gỗ to bằng cả một căn nhà được người dân gọi là “thùng liều” chứa
đầy cá chờ ngày phân rã để biến thành nước mắm hảo hạng khiến người dân
Phan Thiết hãnh diện và luôn giới thiệu với khách đường xa những công
đoạn mà họ chế biến món gia vị này.
Về góc độ ẩm thực thì người nội trợ nào cũng biết nước mắm là gia vị chủ đạo để chế biến cho một thức ăn rất đặc biệt của Việt Nam đấy là món kho.
-TS Nguyễn Thị Hậu
Và khi nghe kể chuyện người ta sẽ ngạc nhiên vì sự đơn giản của nó. Đơn
giản vì từ bao đời nay Phan Thiết sống trên hai nguồn tài nguyên quý giá
đó là cá và muối biển. Hai nguồn sống này thượng đế dành riêng cho
nhiều địa phương dọc theo duyên hải miền Trung nhưng có lẽ Phan Thiết
được trời ưu đãi hơn hết.
Những ngày được mùa, cá tấp nập vào bến trên những chiếc thuyền từ khơi
xa trở về. Nhiều quá nên thị trường không tiêu thụ nổi vậy là từ tàu cá,
hàng trăm gánh cá chuyển thẳng vào “thùng liều” của các cơ sở làm nước
mắm, số cá này không phân loại mà đổ thẳng vào thùng. Cứ một lớp cá là
một lớp muối hột chồng lên cho tới khi đầy thùng. Một năm sau nước mắm
từ thùng sẽ được xả ra, phân loại đóng chai và tiêu thụ.
Từ đời này sang đời khác, Phan Thiết làm nước mắm đơn giản như thế và
chưa bao giờ có một câu hỏi đặt ra là trong nước mắm có hóa chất độc hại
nào không, nhất là trong tình trạng thực phẩm bẩn hiện nay. Câu trả lời
đơn giản và dễ chứng minh: Hoàn toàn không. Bởi vị ngon mà nước mắm có
là từ da thịt con cá chứ không phải từ một hóa chất nào phụ trợ nó cả.
Nói về nước mắm truyền thống, TS Nguyễn Thị Hậu hiện giảng dạy tại khoa
Văn hóa học của trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ
Chí Minh và một số đại học khác cho biết:
“Ai cũng biết chúng ta có hơn 3.000 cây số bờ biển từ Móng Cái đến
Kiên Giang và hàng trăm ngàn cây số vuông thềm lục địa, hàng trăm đảo,
quần đảo lớn nhỏ, nhưng mà khi nói về Việt Nam chỉ thấy nói đến văn minh
trồng lúa nước!
Gần như ít nói đến văn hóa – văn minh vùng duyên hải Việt Nam, từ
miền Trung vào Nam, đây có thể coi là cái “mặt tiền” nhìn ra Biển Đông
với ngư trường rộng lớn có truyền thống hàng ngàn năm, nay còn là vùng
thềm lục địa giàu có “vàng đen” tức dầu mỏ.
Tuy nhiên nhìn dưới khía cạnh văn hóa ẩm thực thì vùng duyên hải còn
có nhiều nơi làm ra loại gia vị độc đáo từ cá biển là nước mắm. Nước mắm
thì rất nhiều vùng làm, có lẽ ngoài Bắc thì có vùng Bắc Trung bộ vùng
Nghệ Tĩnh và miền Nam thì gần như tất cả các tỉnh ven biền miền Nam đều
có những cơ sở làm nước mắm nổi tiếng. Vào đến Nam bộ chẳng hạn thì có
nước mắm Phú Quốc có thể nói là sản phẩm được người tiêu dùng biết đến
rất sớm và bây giờ thì một vài nơi như Thái Lan chẳng hạn đã sử dụng
thương hiệu này đề đưa ra nước ngoài mặc dù nước mắm không phải từ Phú
Quốc của Việt Nam.
Về góc độ ẩm thực thì người nội trợ nào cũng biết nước mắm là gia vị
chủ đạo để chế biến cho một thức ăn rất đặc biệt của Việt Nam đấy là món
kho. Kho là món không thể không có nước mắm. Những món khác mình có thể
dùng gia vị mặn khác như muối hay là một vị nào đấy nhưng riêng món kho
nếu không có mùi vị nước mắm thì không thể gọi là món kho được nữa.”
Nước mắm “truyền thống”
Nước mắm có thêm một cái tên nữa là “truyền thống” khi phong trào nước
chấm công nghiệp xuất hiện trên thị trường. Loại nước chấm này được pha
chế từ muối, chất phụ gia, hương vị công nghiệp có mùi của cá và đóng
chai tung ra thị trường với những quảng cáo hấp dẫn. Thế nhưng dù hấp
dẫn cách mấy nó cũng không được người tiêu dùng chấp nhận thay thế cho
nước mắm truyền thống vì nó thiếu thứ nguyên liệu quan trọng nhất đó là
con cá.
Và để đối phó với cái thiếu này, nước chấm công nghiệp tung ra chiến
dịch truyền thông lập lờ tố cáo nước mắm truyền thống có mang chất độc
Arsen tức thạch tín, vốn bị cấm trên mọi loại thực phẩm. Kỹ sư Lê Anh,
người điều hành hãng nước mắm truyền thống Lê Gia cho biết:
Vâng, đây có thể là một cuộc chiến về truyền thông và người ta nhắm vào nước mắm truyền thống.
-Kỹ sư Lê Anh
“Vâng, đây có thể là một cuộc chiến về truyền thông và người ta nhắm
vào nước mắm truyền thống. Những người làm nước mắm truyền thống thì hôm
qua cũng có nhóm họp, tổ chức một cuộc hội thảo taị trụ sở VASEP ở Sài
Gòn, cũng có nhiều người lên tiếng và cũng rất là mạnh mẽ và chúng tôi
là những người làm nước mắm truyền thống rất là bức xúc bởi vì đây là
một sự đánh tráo khái niệm với mục đích là làm mai một đi nước mắm
truyền thống. Thực tế, qua các cuộc khảo sát thì thấy sau khi có công bố
của Hội Người Tiêu dùng thì những hãng nước mắm công nghiệp cũng có
những chiến dịch rất là kịp thời để chứng minh họ an toàn.
Và cũng có những thông tin rất là quan trọng mà tôi có thể chứng minh
được là các hội chợ truyền thống cũng như là các tiệm tạp hóa ở chợ thì
ngay sau khi có công bố của Hội Người Tiêu Dùng thì các bảng danh sách
của các nhản nước mắm bị nhiễm Arsen đã được phát tận tay các cửa hàng
đại lý cũng như người tiêu dùng ở vùng nông thôn. Điều này phải nói là
một sự cạnh tranh không lành mạnh mặc dù không có một bằng chứng khoa
học cũng như được các nhà khoa học lên tiếng phản đối. Điều đó là một sự
cạnh tranh rất là không lành mạnh và các nhà làm nước mắm truyền thống
chúng tôi rất là bức xúc về vấn đề này.”
Hiệp hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ Người tiêu dùng,Vinastas, là nơi đầu tiên
mở đầu chiến lược này. Vinastas đã công bố cuộc khảo sát trên 150 mẫu
nước mắm tại 19 tỉnh thành, phát hiện có đến 101 mẫu, chiếm 67,33% số
nước mắm được khảo sát có hàm lượng Arsen tổng vượt ngưỡng cho phép.
Nhận xét về tuyên bố này của Vinastas, TS Trần Thị Dung, chuyên gia của Viện Kinh tế quy hoạch Thủy sản cho biết:
“Thông cáo báo chí của Hội Tiêu Chuẩn và Bảo Vệ Người Tiêu Dùng trong
ngày 27 tháng 10 tại Hà Nội đã làm cho người đọc, các nhà báo và người
tiêu dùng hiểu lầm về chuyện Arsen vô cơ và Arsen tổng trong khái niệm
lập lờ mà họ đưa ra: thứ nhất, là không có khái niệm Arsen tổng về mức
độ độc hại trong nước mắm hay trong bất cứ thực phẩm nào khác mà nó chỉ
là Arsen vô cơ. Trong khi đó, khi đi làm thì họ kiểm tra Arsen tổng thì
họ đưa ra một con số nồng độ Arsen tổng vượt ngưỡng cho phép trong 50
mẫu kiểm tra. Thứ hai, sau đó thì họ kiểm tra 20 mẫu về Arsen vô cơ và
họ khẳng định là không có Arsen vô cơ trong 20 mẫu nước mắm đó. Có nghĩa
là với Arsen tổng mà họ kiểm thì không có Arsen vô cơ và theo tiêu
chuẩn quy định của Codex về thực phẩm thì họ nói rằng khi nói đến Arsen
thì phải nói đến Arsen vô cơ và khi chúng ta kiểm mà không có Arsen vô
cơ hoặc là Arsen vô cơ dưới mức cho phép thì nghiễm nhiên chúng ta hiểu
rằng thực phẩm đó là an toàn.”
Chiến lược tấn công nước mắm truyền thống được nhiều tờ báo hỗ trợ trong đó tờ Thanh Niên dẫn đầu với nhiều bài phân tích sự bất tiện của nước mắm truyền thống từ giá cả tới mùi vị và lập lờ về vấn đề độc chất Arsen. Ba ngày sau khi Vinastas có thông báo về Arsen, báo này còn đăng quảng cáo của Chin Su và Nam Ngư với câu chữ: “Chúng tôi tin rằng nước mắm phải ngon nhưng trước hết phải an toàn”.
TS Trần Thị Dung nhận xét sự kết hợp giữa Masan và Thanh Niên qua quảng cáo mà Thanh Niên nhận đăng, bà nói:
“Ngay trên báo Thanh Niên đã quảng cáo nước mắm Masan là không nhiễm
thạch tín thì người tiêu dùng và những bạn đọc khác người ta liên tưởng
giữa việc công bố nước mắm Vinastas với chiến dịch quảng cáo nước mắm
công nghiệp không có thạch tín và chúng ta cũng thấy rất nhiều người
comment là chỉ có ăn nước mắm pha chế công nghiệp mới không có thạch tín
chứ còn thật sự nước mắm phải có thạch tín và phải là thạch tín hữu cơ
mới an toàn cho người tiêu dùng. Cho nên thời gian gần đây những người
tiêu dùng đã bắt đầu xem xét lại vấn đề và họ tin tưởng vào nước mắm
truyền thống.”
Ông Nguyễn Công Khế nguyên Tổng biên tập tờ báo Thanh Niên trong suốt 23
năm cho biết rất đau lòng về hành vi này của Thanh Niên, ông nói:
“Người Việt Nam mình ai sinh ra mà chẳng thấm giọt nước mắm trong
lưỡi mình? nhưng mà anh có làm nước mắm công nghiệp, anh có giàu có bao
nhiêu thì cũng trên cơ sở nước mắm cá cơm với lại cá thu, nước muối mà
làm ra. Bây giờ, cái thời nó lạ lùng đến cái mức là một sản phẩm lâu
đời, ngon mà người Việt nam nào cũng biết và cũng thấm sâu vào trong họ.
Nhưng mà bây giờ. Nhưng mà bây giờ cái kinh tế cạnh tranh không lành
mạnh này, đạo đức suy đồi này. Tôi linh cảm cái sản phẩm mà không có
người Việt Nam nào mà không biết và không có người Việt Nam nào mà không
ăn, thành ra ngư dân đánh cá để mà về làm nước mắm. Tôi nói ở đây là về
cái tác động của văn hoá xuống cấp.”
Sự sốt sắng bị dư luận cho là do yếu tố đồng tiền của Vinastas và Thanh
Niên đã làm cho thương hiệu nước mắm Việt Nam bị hoen ố trên thị trường
cả trong và ngoài nước nhất là sau khi vụ Formosa xảy ra càng làm cho
nhiều người tin là trong lúc này nước mắm Việt Nam đang có vấn đề. TS
Nguyễn Thị Hậu chia sẻ nước mắm truyền thống nhìn dưới góc độ văn hóa
nếu thực sự bị mất đi qua câu chuyện này:
“Trong văn hóa thì nước mắm là một trong các yếu tố văn hóa biển.
Chúng ta sử dụng thường xuyên hàng ngày nhưng mà ít khi nào chúng ta
nghĩ rằng nó là yếu tố bên cạnh yếu tố truyền thống mà chúng ta vẫn nói
là văn minh lúa nước thì nước mắm có thể coi là một trầm tích văn hóa
biển rất quý giá của Việt Nam. Chúng tôi không hình dung được nếu Việt
Nam mình không có nước mắm làm từ cá thì nó còn cái hương vị ẩm thực của
rất nhiều món ăn của Việt Nam hay không. Còn nước chấm làm từ hương
liệu không có mùi vị không có hương của cá thì tôi nghĩ đấy không phải
gia vị phù hợp với bàn ăn và đặc biệt phù hợp với cách chể biến của món
ăn người Việt Nam.”
Sự cạnh tranh được dư luận cho là bất chính của các thương hiệu nước
chấm được tiếp sức bởi Vinastas và báo Thanh Niên làm cho Bộ thông tin
và Truyền thông cùng với Bộ Y tế cũng phải nhập cuộc. Cuộc điều tra cho
thấy văn bản của Vinastas là có động cơ cần phải xem xét và các bài
viết của Tờ Thanh Niên được ông Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông
Trương Minh Tuấn gọi là sự “bất lương” của báo chí.
Ngay khi có kết quả kiểm định từ Bộ Y tế và báo Thanh Niên phải gỡ bài
xuống, cổ phiếu của Masan lập tức tụt xuống và số tiền mất đi hơn hai
ngàn tỷ.
Nước mắm truyền thống lại trở về trên những kệ hàng của các siêu thị
nhưng đâu đó di chứng mà Vinastas cũng như truyền thông và Masan để lại
trong lòng người Việt là mất mát khá lớn niềm tin về sự tử tế của những
doanh nghiệp cũng như tính trung thực của báo chí trước những bài viết
cố tình giết chết một sản phẩm văn hóa ẩm thực của Việt Nam.
Thiên tai một, nhân tai mười!
Song Chi
2016-10-17
2016-10-17
Cảnh tang thương mùa lũ năm nào cũng diễn ra…
Báo chí, truyền thông trong nước cho tới trên facebook mấy hôm nay tràn ngập thông tin, hình ảnh về cơn lũ kinh hoàng ở miền Trung.
Không một người VN nào còn có tấm lòng với quê hương với đồng bào, mà không nhói buốt lòng khi nhìn những hình ảnh rớt nước mắt giữa cơn bão lũ: Hàng chục ngàn căn nhà chìm trong nước, bà con leo lên mái chờ nước rút, một người phụ nữ ngồi chông chênh trên mái nhà giữa biển nước mênh mông, những đứa trẻ thò đầu qua cái lỗ trổ trên mái nhà ngóng ra xa chờ sự hỗ trợ, một em bé vừa bơi vừa đội cái thau trên đầu trong đó có con chó ngồi run rẩy, một con bò được cột treo lên, thân chìm trong nước, chỉ còn cái đầu cái mõm nghếch lên thở, một đám tang chạy trong lũ…
Cái nghèo cái khổ vốn đã đeo theo đồng bào miền Trung, lại thêm bão lũ, thiên tai liên miên… Không chỉ tài sản mất hết, hư hại hết, mà đã có ít nhất một chục người chết và hơn một chục người khác bị mất tích.
Đó là mới ở Quảng Bình, Hà Tĩnh, còn nữa, Nghệ An, còn nữa, bão lũ vẫn đang chuẩn bị đổ tới…
Nhưng điều đáng nói hơn là bão lũ năm nào cũng xảy ra, nhưng từ trung ương tới địa phương cũng không tính toán được những cách thức làm sao để bà con bớt thiệt hại về tài sản, con người.
Năm nào dân cũng phải tự lo, rồi sau đó chính quyền địa phương, có khi quân đội cũng tham gia, cứu hộ bằng sức người là chính, cộng với những phương tiện thuyền bè thô sơ, rồi các tờ báo, các tổ chức dân sự lại kêu gọi cứu giúp, người dân lại “lá rách đùm lá nát” gửi cho nhau những gói mì tôm, chai nước suối… Bao nhiêu năm rồi vẫn cứ là mì tôm, lương khô!
Mỗi vùng nơi hay xảy ra bão lũ lẽ ra nên cấp hàng chục ngàn cái phao cứu sinh cho bà con trước mỗi mùa mưa; tìm cách xây ít nhất vài ba địa điểm lánh nạn tạm thời ở trên cao hoặc nhà cao tầng để sơ tán người và tài sản tạm vài ngày; đất nước có sông ngòi, biển từ Nam ra Bắc sao không có được một đội tàu cứu nạn, cứu trợ to, chuyên nghiệp để cứu trợ dễ dàng hơn; thậm chí, thay vì xây xây bao nhiêu cổng chào, tượng đài hoang phí sao không đầu tư cho một đội trực thăng chuyên cứu nạn, cứu trợ, vừa nhanh vừa hiệu quả v.v… Có vẻ như tài sản của dân chứ có phải của các ông đâu mà các ông đau, xót.
Như năm nay, một cái đập Hố Hô xả hết cỡ khiến người dân Hà Tĩnh không kịp trở tay, mới qua hai ngày đã có hàng chục ngàn căn nhà chìm trong nước, chưa kể người chết, người mất tích.
Nào đã yên, lại rục rịch chuẩn bị xả lũ ở hồ Vực Mấu là hồ thủy lợi lớn nhất Nghệ An. Báo chí đưa tin, cũng chính đơn vị này, năm 2013 “hồ Vực Mấu đã từng mở tràn xả lũ gây nên trận lụt lịch sử, người dân vùng hạ lưu đã chìm trong biển nước. Hàng ngàn ngôi nhà bị ngập, tổng thiệt hại ước tính gần 800 tỷ đồng”.
Và sau đó những người có trách nhiệm trả lời do không lường hết trước được hậu quả! (“Ngày 16/10, sẽ xả lũ ở hồ thủy lợi lớn nhất Nghệ An”, VOV, “Chúng tôi không lường hết hậu quả khi xả lũ”, bài đăng năm 2013 trên VNExpress)…
Một cách trả lời vô cảm, cũng như năm nay, "Ông Vũ Mạnh Hùng, Giám đốc nhà máy thủy điện Hố Hô (công ty CP thuỷ điện Hồ Bốn) cho rằng, việc xả lũ tại Hương Khê là đúng quy trình." ("Thủy điện xả lũ nhấn chìm nhà dân, chủ tịch huyện nóng mặt", VietnamNet).
“Đúng quy trình", một cụm từ xài quen trên cửa miệng các quan!
Bao nhiêu tài sản tính mạng của dân, chả ai bồi thường một xu cũng chả ai bị sứt mẻ gì, ghế ai nấy tiếp tục ngồi!
Dẹp mấy cái đập thủy điện đi, nhất là ở khu vực miền Trung, nước ta nắng gió thừa thãi, xách cặp theo học mấy nước châu Âu và Bắc Âu lấy điện từ năng lượng gió, năng lượng mặt trời đi. An toàn hơn thủy điện và điện hạt nhân nhiều. Nhưng do sự bất cập trong chính sách của nhà cầm quyền và một số lý do khác, rất nhiều dự án điện gió, điện mặt trời ở VN vẫn chưa triển khai được, hầu hết đang “bất động” hoặc nhà đầu tư bỏ cuộc.
Trong khi đó thì những năm qua nhà cầm quyền VN lại hăm hở phá triển thủy điện, là do các nhà thầu Trung Quốc bỏ thầu thấp, lại rất biết cách “lại quả”, rộng rãi chi “tiền huê hồng”, hoặc do Bắc Kinh “hào phóng” cho vay với điều kiện phải là công ty Trung Cộng thực hiện…
Vì tầm nhìn không quá lỗ mũi nhưng cái chính vì lòng tham vô đáy, nhà cầm quyền VN đã không hề nghĩ gì tới cái hại khi xây thủy điện trong một quốc gia có lượng mưa quá lớn, năm nào cũng có bão lũ nên năm nào cũng xảy ra chuyện xả lũ, lũ chồng lũ như vậy!
Chưa kể lại còn lao vào những dự án điện hạt nhân với Tàu với Nga, lại càng thêm nhiều mối lo. Nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Đức đã chính thức dẹp bỏ các nhà máy điện hạt nhân.
Việt Nam là một nước nhỏ, nghèo, các điều kiện đảm bảo an toàn, cứu trợ đã kém, mà lại đất chật, dân đông, rất không nên phát triển điện hạt nhân. Điện hạt nhân chỉ có thể tiền hảnh ở những quốc gia có trỉnh độ kỹ thuật cao, năng lực ứng phó, cứu trợ hữu hiệu, đất rộng, người thưa…
Bài học nổ/rò rỉ nhà máy điện hạt nhân ở Nga, ở Nhật chưa đủ làm nhà cầm quyền Việt Nam quan tâm. Với họ, tiền là trên hết, tính mạng tài sản, tính mạng của dân thì là cái đinh gì!
Thảm họa biển chết, cá chết xảy ra đã hơn nửa năm, hàng chục ngàn hộ ngư dân lâm vào cảnh thất nghiệp hoặc gần thất nghiệp, hàng trăm ngàn người thuộc các lĩnh vực như du lịch, nhà hàng, xuất khẩu thủy hải sản… cũng bị điêu đứng theo, và những nguy cơ ô nhiễm môi trường, bệnh tật kéo dài hàng chục năm treo lơ lửng trên đầu người dân VN.
Rồi hiện tượng cá chết lan rộng ra cả những vùng khác, cả những lồng bè nuôi cá, khiến người dân nơi này nơi khác phẫn nộ xuống đường biểu tình, mang theo những con cá chết trương sình, mắt mở trừng trừng đầy ám ảnh. Rồi lũ lụt ở miền Trung v.v…
Nhưng ngẫm cho kỹ tất cả những tai họa trên, thiên tai chỉ là một phần, cái chính là nhân tai-do con người gây nên. Hạn hán, ngập mặn và cả cái chết dần dần của đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất nước là hậu quả từ việc sử dụng nguồn nước thiếu khoa học của các nước láng giềng cộng với việc Trung Quốc xây mấy cái đập thủy điện “khủng” ở đầu nguồn, điều này đã được các nhà khoa học, chuyên môn cảnh báo từ lâu nhưng nhà cầm quyền VN vẫn không chịu tính cách đối phó lâu dài. Bây giờ cứ xảy ra hạn hán, ngập mặn thì lại đi năn nỉ Trung Quốc xả bớt nước!
Rồi nếu không phá rừng bừa bãi, xây đập thủy điện vô tội vạ thì lũ lụt đâu có kinh hoàng đến thế. Nếu không mở cửa cho Formosa vào xây nhà máy thép với những điều kiện hết sức lỏng lẻo thì thảm họa biển chết đâu diễn ra.
Còn nữa, họa “bùn đỏ” bauxite Tây Nguyên, họa rò rỉ phóng xạ hạt nhân từ các nhà máy hạt nhân do Trung Cộng xây sát biên giới VN và chính VN cũng đang triền khai mấy nhả máy điện hạt nhân, cũng lại ở khu vực miền Trung…
Sau khi ép được tụi Formosa nhả ra 500 triệu USD gọi là bồi thường, ngược lại, phía VN phải bồi hoàn tiền thuế còn lớn hơn cả số tiền đó, nhà cầm quyền tự cho như thế là xong.
Dân đen ai biểu tình phản đối liền bị bắt giữ, hạch sách, nhà cầm quyền còn công khai đứng về phía Formosa, đưa quân đội, vũ khí, xây hàng rào bảo vệ Formosa, sẵn sàng quyết chiến với dân.
Hội nghị Trung ương đảng lần thứ tư khai mạc. “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong phát biểu khai mạc hội nghị Trung ương lần thứ tư, sáng 9/10.”
Thảo luận, ra nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ... Bởi vì đó là mối quan tâm lớn nhất của Tổng Trọng và tập đoàn Ba Đình. ("Tổng bí thư: Ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, VNEconomy).
Khi lũ lụt xảy ra tang thương ở miền Trung, tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN làm gì? Ông Thủ thì gửi "công điện hỏi thăm đồng bào", ra chỉ thị cho cấp dưới chống lũ, rồi ông và đám phó, đám đại biểu ngồi trong phòng máy lạnh êm ru nhắn tin ủng hộ người nghèo (“Thủ tướng nhắn tin ủng hộ người nghèo”, VNExpress); bà Chủ tịch Quốc hội thì chưng diện áo dài, mặt tươi hơn hớn đi dự khai mạc Festival áo dài tại Hà Nội (“Chủ tịch Quốc hội dự khai mạc Festival áo dài”, Tuổi Trẻ).
Ông Chủ tịch lặn đâu không biết, ông Tổng Trọng còn đang bận kêu gọi dân cứu đảng, dân cứu đảng còn ai cứu dân?
Rõ rồi, dân đen tự lo cứu nhau, trước giờ vẫn thế. Còn các quan đầu đẳng thì chờ khi nào dân chửi quá hoặc nước rút hết thì mới có một hai tay làm bộ xắn quần xuống vùng lũ ngó ngó chỉ tay năm ngón…
Phải nói thật, quá rõ bản chất cái nhà nước này, thế nhưng tôi vẫn chưa bao giờ hết kinh ngạc về mức độ vô cảm, tàn ác của họ đối với dân với nước, cũng như chưa bao giờ thôi sửng sốt trước sức chịu đựng vô bờ bến của người VN!
Nếu người dân Việt mình đừng giỏi chịu đựng đến thế...
Song Chi, 16/10/2016
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.
Báo chí, truyền thông trong nước cho tới trên facebook mấy hôm nay tràn ngập thông tin, hình ảnh về cơn lũ kinh hoàng ở miền Trung.
Không một người VN nào còn có tấm lòng với quê hương với đồng bào, mà không nhói buốt lòng khi nhìn những hình ảnh rớt nước mắt giữa cơn bão lũ: Hàng chục ngàn căn nhà chìm trong nước, bà con leo lên mái chờ nước rút, một người phụ nữ ngồi chông chênh trên mái nhà giữa biển nước mênh mông, những đứa trẻ thò đầu qua cái lỗ trổ trên mái nhà ngóng ra xa chờ sự hỗ trợ, một em bé vừa bơi vừa đội cái thau trên đầu trong đó có con chó ngồi run rẩy, một con bò được cột treo lên, thân chìm trong nước, chỉ còn cái đầu cái mõm nghếch lên thở, một đám tang chạy trong lũ…
Cái nghèo cái khổ vốn đã đeo theo đồng bào miền Trung, lại thêm bão lũ, thiên tai liên miên… Không chỉ tài sản mất hết, hư hại hết, mà đã có ít nhất một chục người chết và hơn một chục người khác bị mất tích.
Đó là mới ở Quảng Bình, Hà Tĩnh, còn nữa, Nghệ An, còn nữa, bão lũ vẫn đang chuẩn bị đổ tới…
Nhưng điều đáng nói hơn là bão lũ năm nào cũng xảy ra, nhưng từ trung ương tới địa phương cũng không tính toán được những cách thức làm sao để bà con bớt thiệt hại về tài sản, con người.
Năm nào dân cũng phải tự lo, rồi sau đó chính quyền địa phương, có khi quân đội cũng tham gia, cứu hộ bằng sức người là chính, cộng với những phương tiện thuyền bè thô sơ, rồi các tờ báo, các tổ chức dân sự lại kêu gọi cứu giúp, người dân lại “lá rách đùm lá nát” gửi cho nhau những gói mì tôm, chai nước suối… Bao nhiêu năm rồi vẫn cứ là mì tôm, lương khô!
Mỗi vùng nơi hay xảy ra bão lũ lẽ ra nên cấp hàng chục ngàn cái phao cứu sinh cho bà con trước mỗi mùa mưa; tìm cách xây ít nhất vài ba địa điểm lánh nạn tạm thời ở trên cao hoặc nhà cao tầng để sơ tán người và tài sản tạm vài ngày; đất nước có sông ngòi, biển từ Nam ra Bắc sao không có được một đội tàu cứu nạn, cứu trợ to, chuyên nghiệp để cứu trợ dễ dàng hơn; thậm chí, thay vì xây xây bao nhiêu cổng chào, tượng đài hoang phí sao không đầu tư cho một đội trực thăng chuyên cứu nạn, cứu trợ, vừa nhanh vừa hiệu quả v.v… Có vẻ như tài sản của dân chứ có phải của các ông đâu mà các ông đau, xót.
Đã ngu, đã tham lại còn ác!
Điều thứ hai, đáng phẫn nộ hơn là chuyện thủy điện xả lũ làm lũ chồng lũ, thiệt hại nặng nề hơn, năm nào cũng vậy.Như năm nay, một cái đập Hố Hô xả hết cỡ khiến người dân Hà Tĩnh không kịp trở tay, mới qua hai ngày đã có hàng chục ngàn căn nhà chìm trong nước, chưa kể người chết, người mất tích.
Nào đã yên, lại rục rịch chuẩn bị xả lũ ở hồ Vực Mấu là hồ thủy lợi lớn nhất Nghệ An. Báo chí đưa tin, cũng chính đơn vị này, năm 2013 “hồ Vực Mấu đã từng mở tràn xả lũ gây nên trận lụt lịch sử, người dân vùng hạ lưu đã chìm trong biển nước. Hàng ngàn ngôi nhà bị ngập, tổng thiệt hại ước tính gần 800 tỷ đồng”.
Và sau đó những người có trách nhiệm trả lời do không lường hết trước được hậu quả! (“Ngày 16/10, sẽ xả lũ ở hồ thủy lợi lớn nhất Nghệ An”, VOV, “Chúng tôi không lường hết hậu quả khi xả lũ”, bài đăng năm 2013 trên VNExpress)…
Một cách trả lời vô cảm, cũng như năm nay, "Ông Vũ Mạnh Hùng, Giám đốc nhà máy thủy điện Hố Hô (công ty CP thuỷ điện Hồ Bốn) cho rằng, việc xả lũ tại Hương Khê là đúng quy trình." ("Thủy điện xả lũ nhấn chìm nhà dân, chủ tịch huyện nóng mặt", VietnamNet).
“Đúng quy trình", một cụm từ xài quen trên cửa miệng các quan!
Bao nhiêu tài sản tính mạng của dân, chả ai bồi thường một xu cũng chả ai bị sứt mẻ gì, ghế ai nấy tiếp tục ngồi!
Dẹp mấy cái đập thủy điện đi, nhất là ở khu vực miền Trung, nước ta nắng gió thừa thãi, xách cặp theo học mấy nước châu Âu và Bắc Âu lấy điện từ năng lượng gió, năng lượng mặt trời đi. An toàn hơn thủy điện và điện hạt nhân nhiều. Nhưng do sự bất cập trong chính sách của nhà cầm quyền và một số lý do khác, rất nhiều dự án điện gió, điện mặt trời ở VN vẫn chưa triển khai được, hầu hết đang “bất động” hoặc nhà đầu tư bỏ cuộc.
Trong khi đó thì những năm qua nhà cầm quyền VN lại hăm hở phá triển thủy điện, là do các nhà thầu Trung Quốc bỏ thầu thấp, lại rất biết cách “lại quả”, rộng rãi chi “tiền huê hồng”, hoặc do Bắc Kinh “hào phóng” cho vay với điều kiện phải là công ty Trung Cộng thực hiện…
Vì tầm nhìn không quá lỗ mũi nhưng cái chính vì lòng tham vô đáy, nhà cầm quyền VN đã không hề nghĩ gì tới cái hại khi xây thủy điện trong một quốc gia có lượng mưa quá lớn, năm nào cũng có bão lũ nên năm nào cũng xảy ra chuyện xả lũ, lũ chồng lũ như vậy!
Chưa kể lại còn lao vào những dự án điện hạt nhân với Tàu với Nga, lại càng thêm nhiều mối lo. Nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Đức đã chính thức dẹp bỏ các nhà máy điện hạt nhân.
Việt Nam là một nước nhỏ, nghèo, các điều kiện đảm bảo an toàn, cứu trợ đã kém, mà lại đất chật, dân đông, rất không nên phát triển điện hạt nhân. Điện hạt nhân chỉ có thể tiền hảnh ở những quốc gia có trỉnh độ kỹ thuật cao, năng lực ứng phó, cứu trợ hữu hiệu, đất rộng, người thưa…
Bài học nổ/rò rỉ nhà máy điện hạt nhân ở Nga, ở Nhật chưa đủ làm nhà cầm quyền Việt Nam quan tâm. Với họ, tiền là trên hết, tính mạng tài sản, tính mạng của dân thì là cái đinh gì!
Thiên tai một, nhân tai mười
Nhìn lại chỉ mới từ đầu năm đến nay, bao nhiêu thảm họa đổ xuống đầu nhân dân. Hạn hán và ngập mặn ở đồn bằng sông Cửu Long khiến mùa màng mất trắng, bà con chỉ còn biế ngồi khóc trong câm lặng trên những cánh đồng khô nứt toác.Thảm họa biển chết, cá chết xảy ra đã hơn nửa năm, hàng chục ngàn hộ ngư dân lâm vào cảnh thất nghiệp hoặc gần thất nghiệp, hàng trăm ngàn người thuộc các lĩnh vực như du lịch, nhà hàng, xuất khẩu thủy hải sản… cũng bị điêu đứng theo, và những nguy cơ ô nhiễm môi trường, bệnh tật kéo dài hàng chục năm treo lơ lửng trên đầu người dân VN.
Rồi hiện tượng cá chết lan rộng ra cả những vùng khác, cả những lồng bè nuôi cá, khiến người dân nơi này nơi khác phẫn nộ xuống đường biểu tình, mang theo những con cá chết trương sình, mắt mở trừng trừng đầy ám ảnh. Rồi lũ lụt ở miền Trung v.v…
Nhưng ngẫm cho kỹ tất cả những tai họa trên, thiên tai chỉ là một phần, cái chính là nhân tai-do con người gây nên. Hạn hán, ngập mặn và cả cái chết dần dần của đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất nước là hậu quả từ việc sử dụng nguồn nước thiếu khoa học của các nước láng giềng cộng với việc Trung Quốc xây mấy cái đập thủy điện “khủng” ở đầu nguồn, điều này đã được các nhà khoa học, chuyên môn cảnh báo từ lâu nhưng nhà cầm quyền VN vẫn không chịu tính cách đối phó lâu dài. Bây giờ cứ xảy ra hạn hán, ngập mặn thì lại đi năn nỉ Trung Quốc xả bớt nước!
Rồi nếu không phá rừng bừa bãi, xây đập thủy điện vô tội vạ thì lũ lụt đâu có kinh hoàng đến thế. Nếu không mở cửa cho Formosa vào xây nhà máy thép với những điều kiện hết sức lỏng lẻo thì thảm họa biển chết đâu diễn ra.
Còn nữa, họa “bùn đỏ” bauxite Tây Nguyên, họa rò rỉ phóng xạ hạt nhân từ các nhà máy hạt nhân do Trung Cộng xây sát biên giới VN và chính VN cũng đang triền khai mấy nhả máy điện hạt nhân, cũng lại ở khu vực miền Trung…
Nếu người Việt mình đừng giỏi chịu đựng đến thế…
Bao nhiêu thảm họa xảy ra nhưng từ thái độ cho tới cách ứng phó của nhà cầm quyền như thế nào? Suốt thời gian qua trước hậu quả nghiêm trọng của thảm họa môi trường do Formosa gây nên, tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN làm gì?Sau khi ép được tụi Formosa nhả ra 500 triệu USD gọi là bồi thường, ngược lại, phía VN phải bồi hoàn tiền thuế còn lớn hơn cả số tiền đó, nhà cầm quyền tự cho như thế là xong.
Dân đen ai biểu tình phản đối liền bị bắt giữ, hạch sách, nhà cầm quyền còn công khai đứng về phía Formosa, đưa quân đội, vũ khí, xây hàng rào bảo vệ Formosa, sẵn sàng quyết chiến với dân.
Hội nghị Trung ương đảng lần thứ tư khai mạc. “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong phát biểu khai mạc hội nghị Trung ương lần thứ tư, sáng 9/10.”
Thảo luận, ra nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ... Bởi vì đó là mối quan tâm lớn nhất của Tổng Trọng và tập đoàn Ba Đình. ("Tổng bí thư: Ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, VNEconomy).
Khi lũ lụt xảy ra tang thương ở miền Trung, tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN làm gì? Ông Thủ thì gửi "công điện hỏi thăm đồng bào", ra chỉ thị cho cấp dưới chống lũ, rồi ông và đám phó, đám đại biểu ngồi trong phòng máy lạnh êm ru nhắn tin ủng hộ người nghèo (“Thủ tướng nhắn tin ủng hộ người nghèo”, VNExpress); bà Chủ tịch Quốc hội thì chưng diện áo dài, mặt tươi hơn hớn đi dự khai mạc Festival áo dài tại Hà Nội (“Chủ tịch Quốc hội dự khai mạc Festival áo dài”, Tuổi Trẻ).
Ông Chủ tịch lặn đâu không biết, ông Tổng Trọng còn đang bận kêu gọi dân cứu đảng, dân cứu đảng còn ai cứu dân?
Rõ rồi, dân đen tự lo cứu nhau, trước giờ vẫn thế. Còn các quan đầu đẳng thì chờ khi nào dân chửi quá hoặc nước rút hết thì mới có một hai tay làm bộ xắn quần xuống vùng lũ ngó ngó chỉ tay năm ngón…
Phải nói thật, quá rõ bản chất cái nhà nước này, thế nhưng tôi vẫn chưa bao giờ hết kinh ngạc về mức độ vô cảm, tàn ác của họ đối với dân với nước, cũng như chưa bao giờ thôi sửng sốt trước sức chịu đựng vô bờ bến của người VN!
Nếu người dân Việt mình đừng giỏi chịu đựng đến thế...
Song Chi, 16/10/2016
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.
Cuộc sống con lai Mỹ còn ở lại Việt Nam
Thanh Trúc, phóng viên RFA
2016-10-27
2016-10-27
Theo số liệu chính thức từ cuộc chiến 41 năm trước, hơn 58.000 quân
nhân Hoa Kỳ bỏ mình trên chiến trường Việt Nam, khoảng 2.000 được coi là
mất tích trong lúc đang thi hành nhiệm vụ (POW/MIA), nhưng hầu như
chẳng ai nhớ hay biết đích xác đã có bao nhiêu chục ngàn trẻ lai đã ra
đời thưở đó.
Khổ cả tinh thần lẫn vật chất
Khi cuộc chiến chấm dứt, khi bom đạn thôi cày nát quê hương và tước đi sinh mạng bao dân lành, thì cũng là lúc bắt đầu cuộc sống hẩm hiu bầm dập, rẻ rúng, lẻ loi đối với những tuổi thơ trót mang tronng người hai giòng máu, những đứa con lai cha Mỹ mẹ Việt.
Năm 1982, quốc hội Mỹ thông qua đạo luật Amerasian Immigration Act. Năm 1987, đạo luật Amerasian Home Coming Act, tạm dịch Con Lai Về Nhà, mở đường cho những cuộc hành trình rời quê mẹ về quê cha của gần 30.000 con lai Mỹ.
Còn những người, vì lý do này lý do khác mà bị đánh rớt, nghĩa là không được chấp thuận cho đi Mỹ, đành tiếp tục cuộc sống hầm hiu và cuộc mưu sinh nghèo khó ở nơi mẹ sinh ra mình.
Quả thật từ sau 1975, qua bao thăng trầm thì cuộc sống những người con lai kẹt lại Việt Nam, hầu hết ở vùng sâu vùng xa, cũng thay đổi theo nhưng cái nghiệp con lai và và cái nghèo túng chừng như vẫn đeo đẳng họ.
Em ở thôn Hộ Diêm 1, xã Hộ Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, chỗ nhà quê cách Nha Trang 100 cây số. Em lai trắng, khổ từ nhỏ tới lớn. Hồi đó đi học ngồi đằng trước thì ở đằng sau nó nắm đầu tóc mình nó giựt, nó nói đồ Mỹ lai sao mày ở đây. Khổ quá mẹ không cho đi học, không có tiền phải ra đồng mót.
Năm 12 tuổi Ngọc Thuyền phải đi chăn bò. Khi có chương trình cho con lai làm thủ tục đi Mỹ thì Ngọc Thuyền, vì ở mãi trong quê, nên không hay biết:
Sau này biết nhưng không có tiền làm giấy tờ để đi thì có người ta bỏ tiền làm giấy đi với người ta. Vô phỏng vấn thấy gia đình đông quá nên người Mỹ đánh rớt thì em bị kẹt lại.
Em đi buôn phế liệu, đi mua ve chai đó, bữa nào có làm thì ăn còn không có thì thiếu thốn. Bữa giờ trời mưa đâu có đi mua bán gì được, ở không mà cái nhà nó dột nữa khổ lắm.
Vì sao họ còn kẹt lại?
Lê Văn Phương, lai trắng, cho biết cuộc sống của anh cũng không khá hơn Ngọc Thuyền mấy:
Em ở thôn Bảo Vinh, xã Phước Vinh, huyện Nam Phước, tỉnh Ninh Thuận, vùng sâu vùng xa ở trên núi. Từ chỗ em xuống chỗ chị Thuyền là 50 cây số.
Đây là vùng kinh tế mới mà Lê Văn Phương được đưa về từ lúc còn nhỏ. Vì mẹ đau yếu không thể ra đi, để dì ruột dẫn Phương đi làm giấy tờ sang Mỹ thì bị đánh rớt với lý do khai báo không thành thật:
Bà dì khai là mẹ em chết mà bà không nói cho em biết, tới chừng phỏng vấn người ta hỏi thì em nói em còn mẹ. Rồi mấy người nói em là xạo, nói không đúng, coi như là cho em về luôn, không mời tới mời lui gì nữa hết.
Bây giờ nghề chính của Lê Văn Phương là đi bán than:
Em đốn củi đốt than, đốt năm bảy ngày ra than, vào bao rồi đem tới vựa bán, gánh xuống núi đó chị à. Nói chung sống ở vùng sâu mà, khó khăn lắm. Con đưa học được Lớp Ba, Lớp Bốn rồi nghĩ, tiền đâu lo cho nổi mà đi, khó khăn lắm.
Chị con lai thứ ba, Đỗ Thị Hường, không biết đọc biết viết, ở thôn Ninh Chữ 1, xã Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận:
Em lai trắng, đi đâu người ta cũng nói em là lai hết, mắt em màu vàng. Hồi nhỏ em đi ra đường là trẻ nhỏ nó đi theo nó kêu nó chọc, nó nói em lai Mỹ sao không về nước mà lại ở đây. Năm 92 em làm giấy đi, vô phỏng vấn thì họ đánh rớt em không biết sao nữa. Nói chung em cũng dốt em có biết gì đâu. Họ gạch giấy thì vợ chồng em buồn quá rồi dắt con đi về quê luôn.
Từ năm 1992 đến giờ cuộc sống của chị con lai Đỗ Thị Hường như thế nào:
Em hả, em đi lượm ve chai, ngày nào em cũng đi lượm, có ít chục ngàn mua gạo. Em đi lượm ở chỗ công ty , dọc theo bãi biển rồi em vô trong làng em lượm hết. Khổ quá phải đi lượm chớ không lấy gì ăn, người ta bỏ trong bị rồi mình bươi ra đổ ra mình lượm.
Em 5 đứa, khổ quá đứa nào cũng dốt hết, em mà còn dốt thì khả năng đâu cho con đi học, em không biết đọc biết viết đâu. Ví dụ đi làm giấy tờ em chỉ biết cái chữ ký em ghi thôi chứ không biết chữ gì hết.
Chị Hà Thị Hoa, khu phố 1, phường Mỹ Đông, Long Hải, có 5 con đã lớn, hiện là phu quét chợ:
Em lai trắng, không biết đọc biết chữ gì hết, mù chữ hồi nhỏ tới giờ lận. Ở chỗ đó toàn đi bắt ốc hái rau rồi cũng không đi học luôn. Hồi đó thì hai vợ chồng đi bắt ốc bán, giờ ốc cũng ít có thì người ta thuê mình quét chợ hàng ngày kiếm vài chục ngàn ăn qua ngày.
Hồi đó, năm 91, thì cũng làm giấy làm tờ đi mà vô thì bị đánh rớt, bà già ở nhà cũng không biết chữ biết nghĩa gì hết, vô cũng không biết đường nào khai, mẹ ruột mà không biết đường khai họ khả nghi rồi họ đánh rớt. Nộp đơn lại họ lại trả về miết thôi, không biết đường nào mà chạy đâu, đâu có tiền mà chạy đâu. Cuộc sống bây giờ vẫn đi quét rác, lượm rác bán kiếm thêm hai ba chục gì nữa mới đủ chi tiêu hàng ngày.
Sau cùng, chị Nguyễn Thị Phi, chỉ biết mình lai nhưng không rõ cha mẹ là ai. Những lời chọc ghẹo, chê bai, nhạo báng của người chung quanh là vết sẹo đau đớn của tuổi thơ in hằn trong lòng chị tới giờ phút này:
Hồi nhỏ thì bà ngoại nuôi cũng cho đi học được Lớp Ba, em biết đọc biết viết. Đi ra đường thì người ta nói Mỹ đen, nó cứ thấy đầu tóc chung bung ra thì nó nắm nó giựt, còn người lớn thấy mình thì nói “trời ôi phải lai trắng còn dễ dòm chứ lai đen thì xấu dễ sợ nữa chớ”. Lúc nhỏ ai nói gì chỉ biết nhìn, còn lớn chút nữa người ta nói gì mình chỉ cúi mặt, thấy người ta thì phải tránh nữa.
Khổ lắm chị à, nói chung trong ánh mắt người ta nhìn mình như mình là tàn tệ vậy. Nhỏ tới lớn em buồn lắm, cuộc sống thì rất là khổ.
Năm 1992, chị Nguyễn Thị Phi được bà ngoại nuôi giao cho một bà hàng xóm để người này làm giấy tờ ghép tên cùng chị sang Mỹ theo diện con lai:
Lúc đó em cũng được 22 hay 23 tuổi rồi chớ, đánh rớt thì đưa ra tờ giấy nói là em không đủ tiêu chuẩn gì đó, mà người làm giấy tờ thì nói là nhà chị dắt đi đông quá, làm giấy ghép mà không phù hợp.
Đến năm 1999, một người hàng xóm với chị Nguyễn Thị Phi, qua Mỹ rồi trở về thăm nhà, nghe tình cảnh chị Nguyễn Thị Phi thì đã cho chị một ít tiền để chạy lại giấy tờ:
Em cũng đi nộp giấy tiếp, vô lần đó thì ở trong người ta nói em về lấy giấy Chứng Minh Nhân Dân thiệt sự đem vô đây. Em chạy về lấy xong em vô lại lần nữa. Khoảng 20 ngày sau thì có giấy kêu em vô, phái đoàn Mỹ nhìn em rồi nói đi về gắng kiếm cái chứng từ của cha đem vô để giải quyết cho em đi. Nhưng lúc đó em làm gì có chứng từ thành em về em ở nhà luôn.
Không chữ nghĩa, không nơi nương tụa, chị Nguyễn Thị Phi phải kiếm một nghề để mưu sinh:
Em đi lượm phân bò, hễ mà mưa như vầy thì phân bò nhão lượm không được thì em lên núi đi chặt củi hầm than. Mỗi ngày của em là như vậy, chịu cảnh thiếu thốn đói nghèo vậy đó. Nhiều khi mưa như vậy là buổi trưa không có gạo nấu luôn, mượn người ta thì người ta cũng cho mượn hai lon nấu đỡ. Còn có khi bí quá thì xuống quán mua chịu gói mì tôm chế ăn đỡ.
Đó là những mảnh đời cơ cực vất vả của thân phận con lai, không thể sang Mỹ vì giấy tờ bị từ chối do ghép hộ với người không phải cha mẹ ruột hoặc là khai man mà không ý thức được là mình đang phạm luật.
Cuộc sống của anh chị em lai ở Ninh Thuận cũng chính là hoàn cảnh sống của con lai những tỉnh khác ở miền Nam Việt Nam, hầu hết là nghèo khó với những nghề tận cùng xã hội, không thể vươn lên và không có thay đổi theo năm tháng.
Tình Lai Không Biên Giới
Để giúp đỡ anh chị em con lai còn kẹt lại Việt Nam, từ tháng Bảy 2016 tổ chức có tên Amerasians without Borders Tình Lai Không Biên Giới lần đầu tiên vận động quốc hội Hoa Kỳ cứu xét hồ sơ của hơn 400 con lai Mỹ .
Bà Thủy Lê, hội trưởng hội Tình Lai Không Biên Giới, cho biết đây là tiến trình xét nghiệm DNA để xác minh họ đích thực có cha là cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến ở Việt Nam:
Điều chính gởi đến chính giới Hoa Kỳ là phải chấp nhận kết quả xét nghiệm DNA cho những anh chị em con lai ở Việt Nam để họ được qua Mỹ bởi những anh chị em đó là con của cựu chiến binh Mỹ.
Bà Nga Standley, một trong những người đi vận động, nói về trường hợp của chính bà được chia sẻ với chính giới Mỹ:
Nga đến đây để chia sẻ câu chuyện của mình cùng các Dân biểu và Thượng Nghị sĩ với mong muốn họ có tiếng nói DNA là công cụ để chứng minh cho khoảng 400 anh chị em lai còn ở Việt Nam rằng họ là con lai Mỹ và họ được quyền đến quê cha của mình, được đoàn tụ và được hưởng tự do mà đất nước Mỹ dành cho mọi công dân. Chính bản thân Nga rất vui và hãnh diện và mong các anh chị em đang ở Việt Nam cũng có cơ hội giống như Nga.
Cuộc vận động kéo dài 2 ngày của Tình Lai Không Biên Giới là niềm hy vọng, dẫu rất mong manh, đối với những anh chị lai Mỹ còn ở lại Việt Nam:
Hy vọng của em là được làm giấy tờ, được đi Mỹ. Qua bên đó là những ngày còn lại của em đỡ vất vả, với lại cho con em được thoát cái khổ, thoát khỏi cảnh như mẹ nó. Cớ còn ở đây thì em đã vất vả rồi mà con em nó vất vả nó thảm quá.
Em cũng muốn đi về quê ba của mình, chứ ở bên đây người ta coi mình con lai rất là rẻ, chỉ là đi mua bán ve chai khổ cực lắm.
Ước sao mình đi được, về bển cho con mình có tương lai hơn mình chứ mình đã u tối hồi đó tới giờ rồi.
Liên lạc góp ý với Thanh Trúc: nguyent@rfa.org
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/OverseasVietnamese/amerasian-sad-lives-in-remote-areas-of-vn-10272016133756.html
Khổ cả tinh thần lẫn vật chất
Khi cuộc chiến chấm dứt, khi bom đạn thôi cày nát quê hương và tước đi sinh mạng bao dân lành, thì cũng là lúc bắt đầu cuộc sống hẩm hiu bầm dập, rẻ rúng, lẻ loi đối với những tuổi thơ trót mang tronng người hai giòng máu, những đứa con lai cha Mỹ mẹ Việt.
Năm 1982, quốc hội Mỹ thông qua đạo luật Amerasian Immigration Act. Năm 1987, đạo luật Amerasian Home Coming Act, tạm dịch Con Lai Về Nhà, mở đường cho những cuộc hành trình rời quê mẹ về quê cha của gần 30.000 con lai Mỹ.
Còn những người, vì lý do này lý do khác mà bị đánh rớt, nghĩa là không được chấp thuận cho đi Mỹ, đành tiếp tục cuộc sống hầm hiu và cuộc mưu sinh nghèo khó ở nơi mẹ sinh ra mình.
Quả thật từ sau 1975, qua bao thăng trầm thì cuộc sống những người con lai kẹt lại Việt Nam, hầu hết ở vùng sâu vùng xa, cũng thay đổi theo nhưng cái nghiệp con lai và và cái nghèo túng chừng như vẫn đeo đẳng họ.
Em đi buôn phế liệu, đi mua ve chai đó, bữa nào có làm thì ăn còn không có thì thiếu thốn. Bữa giờ trời mưa đâu có đi mua bán gì được, ở không mà cái nhà nó dột nữa khổ lắm.Ngọc Thuyền là một trong những người con lai kém may mắn đó:
- Ngọc Thuyền
Em ở thôn Hộ Diêm 1, xã Hộ Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, chỗ nhà quê cách Nha Trang 100 cây số. Em lai trắng, khổ từ nhỏ tới lớn. Hồi đó đi học ngồi đằng trước thì ở đằng sau nó nắm đầu tóc mình nó giựt, nó nói đồ Mỹ lai sao mày ở đây. Khổ quá mẹ không cho đi học, không có tiền phải ra đồng mót.
Năm 12 tuổi Ngọc Thuyền phải đi chăn bò. Khi có chương trình cho con lai làm thủ tục đi Mỹ thì Ngọc Thuyền, vì ở mãi trong quê, nên không hay biết:
Sau này biết nhưng không có tiền làm giấy tờ để đi thì có người ta bỏ tiền làm giấy đi với người ta. Vô phỏng vấn thấy gia đình đông quá nên người Mỹ đánh rớt thì em bị kẹt lại.
Em đi buôn phế liệu, đi mua ve chai đó, bữa nào có làm thì ăn còn không có thì thiếu thốn. Bữa giờ trời mưa đâu có đi mua bán gì được, ở không mà cái nhà nó dột nữa khổ lắm.
Vì sao họ còn kẹt lại?
Lê Văn Phương, lai trắng, cho biết cuộc sống của anh cũng không khá hơn Ngọc Thuyền mấy:
Em ở thôn Bảo Vinh, xã Phước Vinh, huyện Nam Phước, tỉnh Ninh Thuận, vùng sâu vùng xa ở trên núi. Từ chỗ em xuống chỗ chị Thuyền là 50 cây số.
Đây là vùng kinh tế mới mà Lê Văn Phương được đưa về từ lúc còn nhỏ. Vì mẹ đau yếu không thể ra đi, để dì ruột dẫn Phương đi làm giấy tờ sang Mỹ thì bị đánh rớt với lý do khai báo không thành thật:
Bà dì khai là mẹ em chết mà bà không nói cho em biết, tới chừng phỏng vấn người ta hỏi thì em nói em còn mẹ. Rồi mấy người nói em là xạo, nói không đúng, coi như là cho em về luôn, không mời tới mời lui gì nữa hết.
Bây giờ nghề chính của Lê Văn Phương là đi bán than:
Em đốn củi đốt than, đốt năm bảy ngày ra than, vào bao rồi đem tới vựa bán, gánh xuống núi đó chị à. Nói chung sống ở vùng sâu mà, khó khăn lắm. Con đưa học được Lớp Ba, Lớp Bốn rồi nghĩ, tiền đâu lo cho nổi mà đi, khó khăn lắm.
Chị con lai thứ ba, Đỗ Thị Hường, không biết đọc biết viết, ở thôn Ninh Chữ 1, xã Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận:
Em lai trắng, đi đâu người ta cũng nói em là lai hết, mắt em màu vàng. Hồi nhỏ em đi ra đường là trẻ nhỏ nó đi theo nó kêu nó chọc, nó nói em lai Mỹ sao không về nước mà lại ở đây. Năm 92 em làm giấy đi, vô phỏng vấn thì họ đánh rớt em không biết sao nữa. Nói chung em cũng dốt em có biết gì đâu. Họ gạch giấy thì vợ chồng em buồn quá rồi dắt con đi về quê luôn.
Từ năm 1992 đến giờ cuộc sống của chị con lai Đỗ Thị Hường như thế nào:
Em hả, em đi lượm ve chai, ngày nào em cũng đi lượm, có ít chục ngàn mua gạo. Em đi lượm ở chỗ công ty , dọc theo bãi biển rồi em vô trong làng em lượm hết. Khổ quá phải đi lượm chớ không lấy gì ăn, người ta bỏ trong bị rồi mình bươi ra đổ ra mình lượm.
Em 5 đứa, khổ quá đứa nào cũng dốt hết, em mà còn dốt thì khả năng đâu cho con đi học, em không biết đọc biết viết đâu. Ví dụ đi làm giấy tờ em chỉ biết cái chữ ký em ghi thôi chứ không biết chữ gì hết.
Chị Hà Thị Hoa, khu phố 1, phường Mỹ Đông, Long Hải, có 5 con đã lớn, hiện là phu quét chợ:
Em lai trắng, không biết đọc biết chữ gì hết, mù chữ hồi nhỏ tới giờ lận. Ở chỗ đó toàn đi bắt ốc hái rau rồi cũng không đi học luôn. Hồi đó thì hai vợ chồng đi bắt ốc bán, giờ ốc cũng ít có thì người ta thuê mình quét chợ hàng ngày kiếm vài chục ngàn ăn qua ngày.
Hồi đó, năm 91, thì cũng làm giấy làm tờ đi mà vô thì bị đánh rớt, bà già ở nhà cũng không biết chữ biết nghĩa gì hết, vô cũng không biết đường nào khai, mẹ ruột mà không biết đường khai họ khả nghi rồi họ đánh rớt. Nộp đơn lại họ lại trả về miết thôi, không biết đường nào mà chạy đâu, đâu có tiền mà chạy đâu. Cuộc sống bây giờ vẫn đi quét rác, lượm rác bán kiếm thêm hai ba chục gì nữa mới đủ chi tiêu hàng ngày.
Sau cùng, chị Nguyễn Thị Phi, chỉ biết mình lai nhưng không rõ cha mẹ là ai. Những lời chọc ghẹo, chê bai, nhạo báng của người chung quanh là vết sẹo đau đớn của tuổi thơ in hằn trong lòng chị tới giờ phút này:
Bà dì khai là mẹ em chết mà bà không nói cho em biết, tới chừng phỏng vấn người ta hỏi thì em nói em còn mẹ. Rồi mấy người nói em là xạo, nói không đúng, coi như là cho em về luôn, không mời tới mời lui gì nữa hết.Em đang ở thôn An Hòa, xã Xuân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Em lai đen mà nói thiệt hồi nhỏ thì em đen hung, ai cũng cười em hết, cái đầu thì quăn chùng bùng ra, người đen thui mà ốm, ai nhìn cũng nói trời ơi con Mỹ đen này nó xấu ghê luôn. Cho nên hồi nhỏ gặp người ta là em cứ trốn chứ không dám nhìn người ta.
- Lê Văn Phương
Hồi nhỏ thì bà ngoại nuôi cũng cho đi học được Lớp Ba, em biết đọc biết viết. Đi ra đường thì người ta nói Mỹ đen, nó cứ thấy đầu tóc chung bung ra thì nó nắm nó giựt, còn người lớn thấy mình thì nói “trời ôi phải lai trắng còn dễ dòm chứ lai đen thì xấu dễ sợ nữa chớ”. Lúc nhỏ ai nói gì chỉ biết nhìn, còn lớn chút nữa người ta nói gì mình chỉ cúi mặt, thấy người ta thì phải tránh nữa.
Khổ lắm chị à, nói chung trong ánh mắt người ta nhìn mình như mình là tàn tệ vậy. Nhỏ tới lớn em buồn lắm, cuộc sống thì rất là khổ.
Năm 1992, chị Nguyễn Thị Phi được bà ngoại nuôi giao cho một bà hàng xóm để người này làm giấy tờ ghép tên cùng chị sang Mỹ theo diện con lai:
Lúc đó em cũng được 22 hay 23 tuổi rồi chớ, đánh rớt thì đưa ra tờ giấy nói là em không đủ tiêu chuẩn gì đó, mà người làm giấy tờ thì nói là nhà chị dắt đi đông quá, làm giấy ghép mà không phù hợp.
Đến năm 1999, một người hàng xóm với chị Nguyễn Thị Phi, qua Mỹ rồi trở về thăm nhà, nghe tình cảnh chị Nguyễn Thị Phi thì đã cho chị một ít tiền để chạy lại giấy tờ:
Em cũng đi nộp giấy tiếp, vô lần đó thì ở trong người ta nói em về lấy giấy Chứng Minh Nhân Dân thiệt sự đem vô đây. Em chạy về lấy xong em vô lại lần nữa. Khoảng 20 ngày sau thì có giấy kêu em vô, phái đoàn Mỹ nhìn em rồi nói đi về gắng kiếm cái chứng từ của cha đem vô để giải quyết cho em đi. Nhưng lúc đó em làm gì có chứng từ thành em về em ở nhà luôn.
Không chữ nghĩa, không nơi nương tụa, chị Nguyễn Thị Phi phải kiếm một nghề để mưu sinh:
Em đi lượm phân bò, hễ mà mưa như vầy thì phân bò nhão lượm không được thì em lên núi đi chặt củi hầm than. Mỗi ngày của em là như vậy, chịu cảnh thiếu thốn đói nghèo vậy đó. Nhiều khi mưa như vậy là buổi trưa không có gạo nấu luôn, mượn người ta thì người ta cũng cho mượn hai lon nấu đỡ. Còn có khi bí quá thì xuống quán mua chịu gói mì tôm chế ăn đỡ.
Đó là những mảnh đời cơ cực vất vả của thân phận con lai, không thể sang Mỹ vì giấy tờ bị từ chối do ghép hộ với người không phải cha mẹ ruột hoặc là khai man mà không ý thức được là mình đang phạm luật.
Cuộc sống của anh chị em lai ở Ninh Thuận cũng chính là hoàn cảnh sống của con lai những tỉnh khác ở miền Nam Việt Nam, hầu hết là nghèo khó với những nghề tận cùng xã hội, không thể vươn lên và không có thay đổi theo năm tháng.
Tình Lai Không Biên Giới
Để giúp đỡ anh chị em con lai còn kẹt lại Việt Nam, từ tháng Bảy 2016 tổ chức có tên Amerasians without Borders Tình Lai Không Biên Giới lần đầu tiên vận động quốc hội Hoa Kỳ cứu xét hồ sơ của hơn 400 con lai Mỹ .
Bà Thủy Lê, hội trưởng hội Tình Lai Không Biên Giới, cho biết đây là tiến trình xét nghiệm DNA để xác minh họ đích thực có cha là cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến ở Việt Nam:
Điều chính gởi đến chính giới Hoa Kỳ là phải chấp nhận kết quả xét nghiệm DNA cho những anh chị em con lai ở Việt Nam để họ được qua Mỹ bởi những anh chị em đó là con của cựu chiến binh Mỹ.
Bà Nga Standley, một trong những người đi vận động, nói về trường hợp của chính bà được chia sẻ với chính giới Mỹ:
Nga đến đây để chia sẻ câu chuyện của mình cùng các Dân biểu và Thượng Nghị sĩ với mong muốn họ có tiếng nói DNA là công cụ để chứng minh cho khoảng 400 anh chị em lai còn ở Việt Nam rằng họ là con lai Mỹ và họ được quyền đến quê cha của mình, được đoàn tụ và được hưởng tự do mà đất nước Mỹ dành cho mọi công dân. Chính bản thân Nga rất vui và hãnh diện và mong các anh chị em đang ở Việt Nam cũng có cơ hội giống như Nga.
Cuộc vận động kéo dài 2 ngày của Tình Lai Không Biên Giới là niềm hy vọng, dẫu rất mong manh, đối với những anh chị lai Mỹ còn ở lại Việt Nam:
Hy vọng của em là được làm giấy tờ, được đi Mỹ. Qua bên đó là những ngày còn lại của em đỡ vất vả, với lại cho con em được thoát cái khổ, thoát khỏi cảnh như mẹ nó. Cớ còn ở đây thì em đã vất vả rồi mà con em nó vất vả nó thảm quá.
Em cũng muốn đi về quê ba của mình, chứ ở bên đây người ta coi mình con lai rất là rẻ, chỉ là đi mua bán ve chai khổ cực lắm.
Ước sao mình đi được, về bển cho con mình có tương lai hơn mình chứ mình đã u tối hồi đó tới giờ rồi.
Liên lạc góp ý với Thanh Trúc: nguyent@rfa.org
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/OverseasVietnamese/amerasian-sad-lives-in-remote-areas-of-vn-10272016133756.html
TIN QUỐC TẾ
Nhật và Ấn thắt chặt quan hệ quốc phòng để đối phó với Trung Quốc
Hai thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe (t) và Ấn Độ Narendra Modi có
vẻ rất tâm đầu ý hợp. Ảnh chụp tại New Delhi (Ấn Độ) ngày 12/12/2015.© Reuters
Theo thông cáo của bộ Ngoại Giao Ấn Độ ngày 28/10/2016, thủ tướng
Narenda Modi sẽ đến Tokyo ngày 11/11 trong một chuyến công du hai ngày.
Ông Modi sẽ họp thượng đỉnh với đồng nhiệm Nhật Bản Shinzo Abe để bàn
việc tăng cường quan hệ quốc phòng, hạt nhân dân sự giữa hai nước. Tại
Tokyo, thủ tướng Ấn Độ cũng sẽ có cuộc hội kiến với Nhật Hoàng Akihito.
Thông cáo bộ Ngoại Giao Ấn Độ cho biết thêm là cuộc gặp thượng đỉnh
Modi-Abe lần này « sẽ là dịp để lãnh đạo hai nước trao đổi kỹ lưỡng về
các vấn đề song phương, khu vực và thế giới vì lợi ích chung ».
Trong khi đó báo chí tại Ấn Độ đưa tin, trong cuộc gặp lần này, lãnh đạo hai nước sẽ ký thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự, mà lần gặp trước hai bên đã thảo luận nhưng không đạt được kết quả. Một thỏa thuận hạt nhân sẽ cho phép Nhật xuất khẩu các công nghệ hạt nhân dân sự sang Ấn Độ, nước không phê chuẩn Hiệp ước không phổ biến vũ khi hạt nhân của quốc tế.
Một trọng tâm khác của cuộc gặp thượng đỉnh Ấn – Nhật lần này là tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng, trong đó có vấn đề tổ chức tập trận chung giữa quân đội hai nước.
Ấn Độ và Nhật Bản là hai nước đều có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc, Ấn Độ là trên đất liền và Nhật Bản là trên biển. Lãnh đạo hai nước đều được đánh giá là là những người theo xu hướng dân tộc chủ nghĩa cứng rắn.
Ngay sau khi lên lãnh đạo Ấn Độ, tháng 8 năm 2014, thủ tướng Modi đã có
chuyến công du đầu tiên đến Nhật Bản. Tháng 12 /2015, thủ tướng Shinzo
Abe cũng đã tới thăm chính thức Ấn Độ. Trong chuyến đi đó hai bên đã có
những phác thảo ban đầu cho cho sự hợp tác quốc phòng và hạt nhân dân
sự.
Trong khi đó báo chí tại Ấn Độ đưa tin, trong cuộc gặp lần này, lãnh đạo hai nước sẽ ký thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự, mà lần gặp trước hai bên đã thảo luận nhưng không đạt được kết quả. Một thỏa thuận hạt nhân sẽ cho phép Nhật xuất khẩu các công nghệ hạt nhân dân sự sang Ấn Độ, nước không phê chuẩn Hiệp ước không phổ biến vũ khi hạt nhân của quốc tế.
Một trọng tâm khác của cuộc gặp thượng đỉnh Ấn – Nhật lần này là tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng, trong đó có vấn đề tổ chức tập trận chung giữa quân đội hai nước.
Ấn Độ và Nhật Bản là hai nước đều có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc, Ấn Độ là trên đất liền và Nhật Bản là trên biển. Lãnh đạo hai nước đều được đánh giá là là những người theo xu hướng dân tộc chủ nghĩa cứng rắn.
Không chỉ Đức, cả thế giới sợ đầu tư Trung Quốc
Đồng bảng Anh, nhân dân tệ, đô la Hồng Kông, đô la Mỹ và đồng euro. Ảnh minh họa.REUTERS
Chính phủ Đức mới đây đã ngăn chặn Quỹ Đầu Tư Phúc Kiến của Trung Quốc (Fujian Grand Chip Investment Fund, FGC) mua lại một cơ sở của công ty điện tử Aixtron. Quyết định này cho thấy Berlin cảm thấy bị đe dọa trước những khối lượng đầu tư của Trung Quốc, tính trong sáu tháng đầu năm 2016 đã lên đến 10 tỉ euro.
Trong số ra ngày 27/10/2016, Le Figaro nhận định trên trang nhất, nỗi sợ này không chỉ có riêng ở Đức mà « thói háu ăn của Trung Quốc khiến cả thế giới lo sợ ».
Chưa hết năm 2016, các nhà đầu tư Trung Quốc đã chi đến 200 tỉ đô la để
đầu tư và mua lại các doanh nghiệp nước ngoài trong mọi lĩnh vực. Con
số thống kê sơ bộ này đã khiến nhiều quốc gia châu Âu giật mình và tăng
cường kiểm soát, mà Đức là ví dụ mới nhất.
Tuy nhiên, phải nói là Trung Quốc « háu ăn » nhưng có chọn lọc. Tại Pháp chẳng hạn, theo bài xã luận của Le Figaro, các nhà đầu tư Trung Quốc chi nhiều tỉ đô la trong các lĩnh vực nguyên tử, hóa học, công nghệ robot, khách sạn, trang trại trồng nho sản xuất rượu hay câu lạc bộ bóng đá.
Vậy « còn ai khác sợ đầu tư Trung Quốc ? ». Trước hết, phải kể đến Úc. Theo Le Figaro, chỉ riêng quốc gia Thái Bình Dương này đã thu hút đến 1/3 tổng số đầu tư ra ngước ngoài của Trung Quốc. Ngay từ cuối thập niên 1990, Úc là một trong những điểm đầu tư được các doanh nghiệp Trung Quốc ưa chuộng nhất, dưới sự chỉ đạo của trung ương, để thâm nhập vào nguồn tài nguyên. Sau đó, Bắc Kinh nhắm đến lĩnh vực chăn nuôi và hệ thống điện lực. Tuy nhiên, gần đây, Canberra đã nhanh chóng ngăn chặn một số thương vụ vì lý do an ninh quốc gia.
Việc các tập đoàn Trung Quốc đổ vốn vào kinh đô điện ảnh Hollywood khiến công luận Mỹ lo ngại. Còn Berlin phải chịu thua trước tập đoàn Midea của Trung Quốc khi mua lại công ty Kuka, nổi tiếng trong lĩnh vực robot với các khách hàng quan trọng như Airbus, Audi hay Mercedes.
Nhận thấy sự phản kháng của các nước phương Tây, tại thượng đỉnh G20, tổ chức đầu tháng 09/2016, ở Hàng Châu, Bắc Kinh đã « mở lời »
mời các nhà đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc. Tuy nhiên, một số nước
bắt đầu tính đến việc tăng cường về mặt pháp lý để có khả năng kiểm tra
các thương vụ. Đây cũng chính là nhận định của bài xã luận trên Le
Figaro : « bảo vệ mô hình tự do không đồng nghĩa với « ngây thơ » ».
Hoa Kỳ hiểu rõ điều này khi quyền lợi của họ bị xâm phạm. Pháp và một
số nước khác cũng có những điều khoản đặc biệt để bảo vệ các lĩnh vực
được cho là nhạy cảm.
Trung Quốc dùng tiền mua kiến thức và ảnh hưởng
Nhìn từ Trung Quốc, chiến lược đầu tư của Bắc Kinh được Le Figaro cho là để « tìm kiếm bí quyết và ảnh hưởng », đồng thời tăng cường ảnh hưởng của chủ tịch Tập Cận Bình đối với những cơ cấu nhà nước quan trọng, trong đó có lĩnh vực kinh tế.
Theo giải thích của chuyên gia kinh tế Hồ Tinh Đẩu (Hu Xing Dou), thuộc đại học Công Nghệ Bắc Kinh, Trung Quốc « có ngân quỹ hơn 3.000 tỉ đô la » phục vụ cho « những đầu tư sinh lợi ở nước ngoài, trong bối cảnh thị trường nội địa ngày càng có ít cơ hội » do nền kinh tế chững lại. Không còn hài lòng là « công xưởng của thế giới », Bắc Kinh tìm cách bổ xung những gì còn thiếu : kinh nghiệm-bí quyết và các thương hiệu nổi tiếng mà người tiêu dùng Trung Quốc ưa chuộng.
Đam mê đầu tư ra nước ngoài của Bắc Kinh nằm trong chiến lược quy mô hơn nhằm khẳng định vị trí lãnh đạo của Trung Quốc trên mọi lĩnh vực. Với việc thâu tóm các doanh nghiệp nước ngoài nước, Trung Quốc tham gia vào hội đồng quản trị và có thể tác động đến chiến lược của các doanh nghiệp phương Tây. Một mục tiêu cơ bản là để cải thiện hình ảnh của cường quốc thứ hai thế giới, mà thường được gọi là « quyền lực mềm » : một khi nhắc đến những tên tuổi nổi tiếng (các câu lạc bộ bóng đá hay các công ty sản xuất phim ảnh ở Hollywood), người ta buộc phải nhắc đến các tập đoàn Trung Quốc.
« Chính phủ Trung Quốc phản ứng ngay lập tức nếu một doanh nghiệp không được phép kí kết hợp đồng » theo nhận định của một chuyên gia kinh tế về châu Á-Thái Bình Dương tại Natixis. Anh Quốc là ví dụ điển hình. Cuối tháng 07/2016, khi thủ tướng Theresa May đưa ra ý định hoãn quyết định về nhà máy điện hạt nhân Hinkley Point, đại sứ Trung Quốc tại Anh, tức giận, đã dùng ngôn từ ngoại giao công khai dọa bà về việc trả đũa thương mại. Cuối cùng, Luân Đôn đành chấp nhận để tổng công ty điện hạt nhân CGN Trung Quốc tiếp tục đầu tư với tập đoàn EDF của Pháp vào dự án điện nguyên tử.
Đòn trả thù của tổng thống Philippines với thượng nghị sĩ đối lập
Vẫn tại châu Á, tổng thống Philippines bị cộng đồng quốc tế lên án vì chiến dịch bài trừ những kẻ buôn ma túy mà không cần xét xử. Ông không ngần ngại miệt thị bất kỳ ai lên tiếng chỉ trích, từ tổng thống Mỹ Barack Obama đến Liên Hiệp Châu Âu.
Tiếng nói phản đối cũng nảy sinh ngay trong nội bộ Philippines, mà người phản ứng dữ dội nhất là nữ thượng nghị sĩ Leila de Lima, luật sư và từng giữ chức bộ trưởng Tư Pháp trong chính phủ tiền nhiệm. Theo đặc phái viên Le Monde, trong buổi phỏng vấn bà Lima tại Manila, tổng thống Duterte công khai đe dọa nữ thượng nghị sĩ : « Đừng có đấu với tôi, bà sẽ thua ! »
Thực ra, mối « hận thù » giữa hai chính trị gia có lâu, trước khi thị trưởng Davao trở thành tổng thống Philippines. Năm 2009, khi luật sư Lima phụ trách một ủy ban nhân quyền nhà nước, bà đã muốn điều tra về « phi đội tử thần » Davao Death Squad khiến hơn 1.000 người chết trong vòng hai thập kỷ. Và cựu thị trưởng « đã không quên vụ này ».
Sau khi ông Duterte lên làm tổng thống, « bản tổng kết chết chóc » còn trầm trọng hơn, với hơn 3.600 người bị sát hại vì cảnh sát hay vì những biệt đội tử thần. Giữa tháng 09/2016, bà Leima đưa Edgar Matobato, một cựu sát thủ thuộc nhóm Lambada Boys ở Davao, ra làm chứng trước Thượng Viện. Nhân chứng này thuật lại những vụ sát hại dã man, như ném một người cho cá sấu ăn thịt, được nhận lệnh trực tiếp từ « Charlie Mike », bí danh của thị trưởng Davao. Từ khi trở thành tổng thống, phương pháp bài trừ những kẻ buôn bán ma túy, từ quy mô địa phương, đã được mở rộng hoạt động trên phạm vi toàn quốc.
Dĩ nhiên, tổng thống Duterte không khoanh tay chịu thua. Hàng loạt vụ điều tra được tiến hành nhắm vào thượng nghị sĩ Lima. Ngay trong chiến dịch tranh cử tổng thống, ứng viên Duterte cáo buộc bà « ngoại tình » với lái xe riêng, trong khi người này lại là trung gian với tội phạm buôn ma túy đang bị giam ở nhà tù nổi tiếng New Bilibid để chuyển tiền bẩn ủng hộ chiến dịch tranh cử thượng nghị sĩ của bà Lima. Người đứng đầu nhà nước Philippines không ngần ngại tuyên bố : « Bà ấy không chỉ ngủ với lái xe riêng mà còn lừa phỉnh cả nước ».
Chưa dừng ở đó, Hebert Colangco, một kẻ cầm đầu băng trộm cắp từng bị bà Lima triệt hạ khi còn làm bộ trưởng Tư Pháp, được mời đến làm chứng chống lại bà. Trong phiên điều trần được truyền hình trên các kênh quốc gia, người này đã công bố số điện thoại riêng của thượng nghị sĩ. Ngay lập tức bà nhận được hơn 2.000 tin nhắn chửi rủa và đe dọa.
Trả lời phóng viên của Le Monde, bà công nhận mình « không phải là một bậc thánh ». Ngoài bác bỏ những cáo buộc trên, bà cho rằng tổng thống Duterte cố tình dựng chuyện để bà mất tín nhiệm và « ông ta bị ám ảnh bởi ý định tiêu diệt tôi ».
Thỏa thuận CETA buộc Liên Hiệp Châu Âu suy nghĩa lại cách hoạt động
Thỏa thuận tự do mậu dịch Canada-Liên Hiệp Châu Âu lẽ ra sẽ được phê chuẩn ngày 27/10/2016. Tuy nhiên, ý kiến phản đối của vùng Wallonie, Bỉ, buộc lễ ký kết phải lùi lại, « dù không chính thức bị hủy bỏ » theo nhận định của nhật báo kinh tế Les Echos.
Còn trang nhất của Le Monde thì đánh giá, thêm một cuộc khủng hoảng cho thấy « mặt trái chính trị » của Liên Hiệp Châu Âu và chứng tỏ khối này đang bất đồng và suy yếu như thế nào. Ngày 23/06/2016, việc người dân Anh rũ áo rời ngôi nhà chung đã phá vỡ huyền thoại xây dựng một khối đoàn kết. Vẫn theo Le Monde, việc không ký được thỏa thuận CETA đã làm tê liệt hoàn toàn động cơ châu Âu và buộc thực thể này « phải suy nghĩ lại cách hoạt động ».
Về chủ đề này, trong bài viết « Thỏa thuận EU-Canada bị tạm ngừng vì phủ quyết của vùng Wallonie », Le Figaro nhận định thêm một hạt cát trong cỗ máy mà khối 28 nước tưởng như chạy suôn sẻ, việc kéo dài thời gian từ phía vùng Wallonie của Bỉ là một nỗi đau của châu Âu.
Bị yếu đi vì Anh Quốc rời khỏi Liên Hiệp, bị chia rẽ vì cuộc khủng hoảng di dân vẫn chưa có lối thoát và bất lực trước nước Nga trong cuộc chiến tại Syria, Liên Hiệp Châu Âu từng muốn biến thỏa thuận CETA thành biểu tượng đột phá cho sức tăng trưởng và chính sách mở rộng với thế giới. Thế nhưng, cộng đồng châu Âu lại bị dính vào những bất đồng của hệ thống chính trị nội bộ và những tranh giành thể hiện « cái tôi » tại Bỉ.
Người Mỹ gốc Cuba tìm về nguồn cội
Sau khi Hoa Kỳ và Cuba tuyên bố xích lại gần nhau, những người từng bỏ trốn ra nước ngoài vì chống chế độ Castro đã có cơ hội tìm về nơi chôn rau cắt rốn.
Bài phóng sự « Người Mỹ gốc Cuba khám phá lại quê hương » của Le Figaro cho biết sau chừng 1,2 triệu du khách Canada, khoảng 500.000 người Mỹ gốc Cuba đã trở lại hòn đảo. Cách nhìn của người Cuba tị nạn và người Mỹ gốc Cuba đã thay đổi từ hơn 10 năm nay. Làn sóng tị nạn đầu tiên sau cuộc Cách Mạng, chủ yếu là những người phản đối chế độ Castro, tay trắng rời đất nước. Hiện số này không còn nhiều, nhưng con cái họ vẫn giữ nguyên định kiến về chế độ.
Trong những năm gần đây, chủ tịch Raul Castro đã chìa bàn tay với cộng đồng này ở Miami và giải thích rằng thời thế đã thay đổi so với từ đầu Cách Mạng. Phải nhấn mạnh rằng nguồn ngoại tệ mà những người Cuba sống ở nước ngoài gửi về cho gia đình lên đến 3 tỉ đô la mỗi năm. Đây là nguồn thu nhập thứ hai của La Habana sau việc cung cấp dịch vụ y tế cho Venezuela và Brazil.
Ngoài việc giúp đỡ gia đình, người gốc Cuba ở Miami còn là những nhà đầu tư chính cho các hoạt động kinh tế đời thường và bất động sản. Không có những nhà đầu tư này, các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, nằm trong dự án được chủ tịch Raul Castro phát động, có lẽ đã không tồn tại.
Để thể hiện sự khác biệt với người dân địa phương, người Mỹ gốc Cuba không uống bia do Cuba sản xuất mà uống bia ngoại Corona, đắt gấp hai lần. Theo bài phóng sự của Le Figaro, đây là biểu tượng của sự giầu có và thể hiện đẳng cấp của người Mỹ gốc Cuba.
Tuy nhiên, phải nói là Trung Quốc « háu ăn » nhưng có chọn lọc. Tại Pháp chẳng hạn, theo bài xã luận của Le Figaro, các nhà đầu tư Trung Quốc chi nhiều tỉ đô la trong các lĩnh vực nguyên tử, hóa học, công nghệ robot, khách sạn, trang trại trồng nho sản xuất rượu hay câu lạc bộ bóng đá.
Vậy « còn ai khác sợ đầu tư Trung Quốc ? ». Trước hết, phải kể đến Úc. Theo Le Figaro, chỉ riêng quốc gia Thái Bình Dương này đã thu hút đến 1/3 tổng số đầu tư ra ngước ngoài của Trung Quốc. Ngay từ cuối thập niên 1990, Úc là một trong những điểm đầu tư được các doanh nghiệp Trung Quốc ưa chuộng nhất, dưới sự chỉ đạo của trung ương, để thâm nhập vào nguồn tài nguyên. Sau đó, Bắc Kinh nhắm đến lĩnh vực chăn nuôi và hệ thống điện lực. Tuy nhiên, gần đây, Canberra đã nhanh chóng ngăn chặn một số thương vụ vì lý do an ninh quốc gia.
Việc các tập đoàn Trung Quốc đổ vốn vào kinh đô điện ảnh Hollywood khiến công luận Mỹ lo ngại. Còn Berlin phải chịu thua trước tập đoàn Midea của Trung Quốc khi mua lại công ty Kuka, nổi tiếng trong lĩnh vực robot với các khách hàng quan trọng như Airbus, Audi hay Mercedes.
Trung Quốc dùng tiền mua kiến thức và ảnh hưởng
Nhìn từ Trung Quốc, chiến lược đầu tư của Bắc Kinh được Le Figaro cho là để « tìm kiếm bí quyết và ảnh hưởng », đồng thời tăng cường ảnh hưởng của chủ tịch Tập Cận Bình đối với những cơ cấu nhà nước quan trọng, trong đó có lĩnh vực kinh tế.
Theo giải thích của chuyên gia kinh tế Hồ Tinh Đẩu (Hu Xing Dou), thuộc đại học Công Nghệ Bắc Kinh, Trung Quốc « có ngân quỹ hơn 3.000 tỉ đô la » phục vụ cho « những đầu tư sinh lợi ở nước ngoài, trong bối cảnh thị trường nội địa ngày càng có ít cơ hội » do nền kinh tế chững lại. Không còn hài lòng là « công xưởng của thế giới », Bắc Kinh tìm cách bổ xung những gì còn thiếu : kinh nghiệm-bí quyết và các thương hiệu nổi tiếng mà người tiêu dùng Trung Quốc ưa chuộng.
Đam mê đầu tư ra nước ngoài của Bắc Kinh nằm trong chiến lược quy mô hơn nhằm khẳng định vị trí lãnh đạo của Trung Quốc trên mọi lĩnh vực. Với việc thâu tóm các doanh nghiệp nước ngoài nước, Trung Quốc tham gia vào hội đồng quản trị và có thể tác động đến chiến lược của các doanh nghiệp phương Tây. Một mục tiêu cơ bản là để cải thiện hình ảnh của cường quốc thứ hai thế giới, mà thường được gọi là « quyền lực mềm » : một khi nhắc đến những tên tuổi nổi tiếng (các câu lạc bộ bóng đá hay các công ty sản xuất phim ảnh ở Hollywood), người ta buộc phải nhắc đến các tập đoàn Trung Quốc.
« Chính phủ Trung Quốc phản ứng ngay lập tức nếu một doanh nghiệp không được phép kí kết hợp đồng » theo nhận định của một chuyên gia kinh tế về châu Á-Thái Bình Dương tại Natixis. Anh Quốc là ví dụ điển hình. Cuối tháng 07/2016, khi thủ tướng Theresa May đưa ra ý định hoãn quyết định về nhà máy điện hạt nhân Hinkley Point, đại sứ Trung Quốc tại Anh, tức giận, đã dùng ngôn từ ngoại giao công khai dọa bà về việc trả đũa thương mại. Cuối cùng, Luân Đôn đành chấp nhận để tổng công ty điện hạt nhân CGN Trung Quốc tiếp tục đầu tư với tập đoàn EDF của Pháp vào dự án điện nguyên tử.
Đòn trả thù của tổng thống Philippines với thượng nghị sĩ đối lập
Vẫn tại châu Á, tổng thống Philippines bị cộng đồng quốc tế lên án vì chiến dịch bài trừ những kẻ buôn ma túy mà không cần xét xử. Ông không ngần ngại miệt thị bất kỳ ai lên tiếng chỉ trích, từ tổng thống Mỹ Barack Obama đến Liên Hiệp Châu Âu.
Tiếng nói phản đối cũng nảy sinh ngay trong nội bộ Philippines, mà người phản ứng dữ dội nhất là nữ thượng nghị sĩ Leila de Lima, luật sư và từng giữ chức bộ trưởng Tư Pháp trong chính phủ tiền nhiệm. Theo đặc phái viên Le Monde, trong buổi phỏng vấn bà Lima tại Manila, tổng thống Duterte công khai đe dọa nữ thượng nghị sĩ : « Đừng có đấu với tôi, bà sẽ thua ! »
Thực ra, mối « hận thù » giữa hai chính trị gia có lâu, trước khi thị trưởng Davao trở thành tổng thống Philippines. Năm 2009, khi luật sư Lima phụ trách một ủy ban nhân quyền nhà nước, bà đã muốn điều tra về « phi đội tử thần » Davao Death Squad khiến hơn 1.000 người chết trong vòng hai thập kỷ. Và cựu thị trưởng « đã không quên vụ này ».
Sau khi ông Duterte lên làm tổng thống, « bản tổng kết chết chóc » còn trầm trọng hơn, với hơn 3.600 người bị sát hại vì cảnh sát hay vì những biệt đội tử thần. Giữa tháng 09/2016, bà Leima đưa Edgar Matobato, một cựu sát thủ thuộc nhóm Lambada Boys ở Davao, ra làm chứng trước Thượng Viện. Nhân chứng này thuật lại những vụ sát hại dã man, như ném một người cho cá sấu ăn thịt, được nhận lệnh trực tiếp từ « Charlie Mike », bí danh của thị trưởng Davao. Từ khi trở thành tổng thống, phương pháp bài trừ những kẻ buôn bán ma túy, từ quy mô địa phương, đã được mở rộng hoạt động trên phạm vi toàn quốc.
Dĩ nhiên, tổng thống Duterte không khoanh tay chịu thua. Hàng loạt vụ điều tra được tiến hành nhắm vào thượng nghị sĩ Lima. Ngay trong chiến dịch tranh cử tổng thống, ứng viên Duterte cáo buộc bà « ngoại tình » với lái xe riêng, trong khi người này lại là trung gian với tội phạm buôn ma túy đang bị giam ở nhà tù nổi tiếng New Bilibid để chuyển tiền bẩn ủng hộ chiến dịch tranh cử thượng nghị sĩ của bà Lima. Người đứng đầu nhà nước Philippines không ngần ngại tuyên bố : « Bà ấy không chỉ ngủ với lái xe riêng mà còn lừa phỉnh cả nước ».
Chưa dừng ở đó, Hebert Colangco, một kẻ cầm đầu băng trộm cắp từng bị bà Lima triệt hạ khi còn làm bộ trưởng Tư Pháp, được mời đến làm chứng chống lại bà. Trong phiên điều trần được truyền hình trên các kênh quốc gia, người này đã công bố số điện thoại riêng của thượng nghị sĩ. Ngay lập tức bà nhận được hơn 2.000 tin nhắn chửi rủa và đe dọa.
Trả lời phóng viên của Le Monde, bà công nhận mình « không phải là một bậc thánh ». Ngoài bác bỏ những cáo buộc trên, bà cho rằng tổng thống Duterte cố tình dựng chuyện để bà mất tín nhiệm và « ông ta bị ám ảnh bởi ý định tiêu diệt tôi ».
Thỏa thuận CETA buộc Liên Hiệp Châu Âu suy nghĩa lại cách hoạt động
Thỏa thuận tự do mậu dịch Canada-Liên Hiệp Châu Âu lẽ ra sẽ được phê chuẩn ngày 27/10/2016. Tuy nhiên, ý kiến phản đối của vùng Wallonie, Bỉ, buộc lễ ký kết phải lùi lại, « dù không chính thức bị hủy bỏ » theo nhận định của nhật báo kinh tế Les Echos.
Còn trang nhất của Le Monde thì đánh giá, thêm một cuộc khủng hoảng cho thấy « mặt trái chính trị » của Liên Hiệp Châu Âu và chứng tỏ khối này đang bất đồng và suy yếu như thế nào. Ngày 23/06/2016, việc người dân Anh rũ áo rời ngôi nhà chung đã phá vỡ huyền thoại xây dựng một khối đoàn kết. Vẫn theo Le Monde, việc không ký được thỏa thuận CETA đã làm tê liệt hoàn toàn động cơ châu Âu và buộc thực thể này « phải suy nghĩ lại cách hoạt động ».
Về chủ đề này, trong bài viết « Thỏa thuận EU-Canada bị tạm ngừng vì phủ quyết của vùng Wallonie », Le Figaro nhận định thêm một hạt cát trong cỗ máy mà khối 28 nước tưởng như chạy suôn sẻ, việc kéo dài thời gian từ phía vùng Wallonie của Bỉ là một nỗi đau của châu Âu.
Bị yếu đi vì Anh Quốc rời khỏi Liên Hiệp, bị chia rẽ vì cuộc khủng hoảng di dân vẫn chưa có lối thoát và bất lực trước nước Nga trong cuộc chiến tại Syria, Liên Hiệp Châu Âu từng muốn biến thỏa thuận CETA thành biểu tượng đột phá cho sức tăng trưởng và chính sách mở rộng với thế giới. Thế nhưng, cộng đồng châu Âu lại bị dính vào những bất đồng của hệ thống chính trị nội bộ và những tranh giành thể hiện « cái tôi » tại Bỉ.
Người Mỹ gốc Cuba tìm về nguồn cội
Sau khi Hoa Kỳ và Cuba tuyên bố xích lại gần nhau, những người từng bỏ trốn ra nước ngoài vì chống chế độ Castro đã có cơ hội tìm về nơi chôn rau cắt rốn.
Bài phóng sự « Người Mỹ gốc Cuba khám phá lại quê hương » của Le Figaro cho biết sau chừng 1,2 triệu du khách Canada, khoảng 500.000 người Mỹ gốc Cuba đã trở lại hòn đảo. Cách nhìn của người Cuba tị nạn và người Mỹ gốc Cuba đã thay đổi từ hơn 10 năm nay. Làn sóng tị nạn đầu tiên sau cuộc Cách Mạng, chủ yếu là những người phản đối chế độ Castro, tay trắng rời đất nước. Hiện số này không còn nhiều, nhưng con cái họ vẫn giữ nguyên định kiến về chế độ.
Trong những năm gần đây, chủ tịch Raul Castro đã chìa bàn tay với cộng đồng này ở Miami và giải thích rằng thời thế đã thay đổi so với từ đầu Cách Mạng. Phải nhấn mạnh rằng nguồn ngoại tệ mà những người Cuba sống ở nước ngoài gửi về cho gia đình lên đến 3 tỉ đô la mỗi năm. Đây là nguồn thu nhập thứ hai của La Habana sau việc cung cấp dịch vụ y tế cho Venezuela và Brazil.
Ngoài việc giúp đỡ gia đình, người gốc Cuba ở Miami còn là những nhà đầu tư chính cho các hoạt động kinh tế đời thường và bất động sản. Không có những nhà đầu tư này, các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, nằm trong dự án được chủ tịch Raul Castro phát động, có lẽ đã không tồn tại.
Để thể hiện sự khác biệt với người dân địa phương, người Mỹ gốc Cuba không uống bia do Cuba sản xuất mà uống bia ngoại Corona, đắt gấp hai lần. Theo bài phóng sự của Le Figaro, đây là biểu tượng của sự giầu có và thể hiện đẳng cấp của người Mỹ gốc Cuba.
Biển Đông: Tuần duyên Trung Quốc đã rút khỏi Scarborough ?
Ảnh một ngư dân Philippines chụp từ điện thoại di động ngày
07/06/2016 cho thấy Hải Cảnh Trung Quốc dùng thuyền cao tốc (phía sau
bên trái và bên phải) để chặn đường một tàu cá Philippines tại vùng bãi
cạn Scarborough.STR / AFP
Bãi cạn Scarborough của Philippines đã vắng bóng hải thuyền Trung Quốc
từ ba ngày nay. Trên đây là báo cáo của tuần duyên Philippines được
tiết lộ ngày 28/10/2016, không đầy một tuần sau chuyến công du Trung
Quốc của tổng thống Rodrigo Duterte. Washington và Manila cho biết
đang kiểm chứng hư thực.
Bộ trưởng Quốc Phòng Philippines Delfin Lorenzana cho biết là đã nhận
được thông tin về việc các tàu Trung Quốc đã rút khỏi khu vực bãi cạn
Scarborough, một điểm nóng tại Biển Đông.
Nếu sự kiện này có thật, đúng như báo cáo của tuần duyên Philippines, thì ngư dân Philippines sẽ trở lại vùng biển đảo bị Bắc Kinh lấn chiếm từ tháng Tư năm 2012, theo bình luận của bộ trưởng Delfin Lorenzana. Tuy nhiên, ông cho biết thêm phải chờ thêm vài ngày để Không Quân kiểm chứng.
Bộ ngoại giao Philippines cũng cho biết chưa kiểm chứng được thông tin hải thuyền Trung Quốc rút khỏi khu vực bãi Scarborough.
Phát ngôn viên của tổng thống Rodrigo Duterte thẩm định đây là « một diễn tiến tích cực » trong quan hệ với Trung Quốc, nhưng Manila chưa nhận được giải thích chính thức nào từ Bắc Kinh.
Washington cũng tỏ thái độ thận trọng. Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Mỹ
Mark Toner cho biết đang « kiểm chứng » thông tin trên và « hy vọng »
Trung Quốc cũng như Philippines tiến tới một thỏa thuận « tuân thủ phán
quyết của Toà Trọng tài La Haye », hồi tháng Bảy năm nay.
Về phần Trung Quốc, theo Reuters, khi được hỏi về khả năng ngư dân Philippines trở lại vùng Scarborough, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Lục Khảng không nói gì về tin tuần duyên Trung Quốc rút khỏi khu vực bãi cạn, mà chỉ vắn tắt cho rằng « hai nước cùng hợp tác để giải quyết xung khắc »
Nếu sự kiện này có thật, đúng như báo cáo của tuần duyên Philippines, thì ngư dân Philippines sẽ trở lại vùng biển đảo bị Bắc Kinh lấn chiếm từ tháng Tư năm 2012, theo bình luận của bộ trưởng Delfin Lorenzana. Tuy nhiên, ông cho biết thêm phải chờ thêm vài ngày để Không Quân kiểm chứng.
Bộ ngoại giao Philippines cũng cho biết chưa kiểm chứng được thông tin hải thuyền Trung Quốc rút khỏi khu vực bãi Scarborough.
Phát ngôn viên của tổng thống Rodrigo Duterte thẩm định đây là « một diễn tiến tích cực » trong quan hệ với Trung Quốc, nhưng Manila chưa nhận được giải thích chính thức nào từ Bắc Kinh.
Về phần Trung Quốc, theo Reuters, khi được hỏi về khả năng ngư dân Philippines trở lại vùng Scarborough, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Lục Khảng không nói gì về tin tuần duyên Trung Quốc rút khỏi khu vực bãi cạn, mà chỉ vắn tắt cho rằng « hai nước cùng hợp tác để giải quyết xung khắc »
Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ nói gì ở Việt Nam?
Người đứng đầu Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ tuyên bố “không thể
xem thường” vấn đề an ninh biển khi tham dự lễ khánh thành cơ sở bảo
dưỡng và sửa chữa tàu của cảnh sát biển Việt Nam.
Trong chuyến thăm Việt Nam, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ, Đô đốc Harry B. Harris, hôm 28/10, đã cùng với các quan chức Mỹ và Việt Nam như Thiếu tướng Bùi Trung Dũng, Phó Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ Mary Tarnowka và Đại tá Đào Hồng Nghiệp, Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 2, đã dự lễ khánh thành một cơ sở sửa chữa bảo dưỡng tàu cảnh sát biển Việt Nam tại Quảng Nam.
Theo thông cáo của Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội, cơ sở này được xây dựng “với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ”, và “giúp nâng cao năng lực của Cảnh sát biển Việt Nam trong việc huấn luyện nhân viên và bảo dưỡng tàu nhằm ngăn chặn hiệu quả và đối phó với các mối đe dọa trên biển dọc theo bờ biển của Việt Nam”.
Phát biểu tại lễ khánh thành, Đô đốc Harris nói: “Các cơ sở này thể hiện cam kết của Hoa Kỳ trong việc tăng cường hợp tác song phương và cam kết của Việt Nam đối với an ninh hàng hải của nước mình. Hoạt động đào tạo các sĩ quan cảnh sát biển Việt Nam sẽ mang lại tác động lâu dài và là biểu tượng cho cam kết bền vững của chúng tôi dành cho Việt Nam và khu vực”.
Hoa Kỳ tuyên bố rằng cơ sở bảo dưỡng trên “chứng rõ ràng của quan hệ đối tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, thể hiện cam kết chung trong việc tăng cường quan hệ quân sự song phương, đặc biệt trong các lĩnh vực an ninh biển, thực thi luật pháp và các nỗ lực tìm kiếm, cứu hộ”.
Đô đốc Harris nói thêm: “An ninh biển là lĩnh vực ảnh hưởng đến tất cả chúng ta và là điều chúng ta không thể xem thường. Những cơ sở tốt này là một minh chứng cho công việc vất vả và sự cống hiến của rất nhiều người nhằm nâng cao khả năng chung của chúng ta trong việc đối phó với các thách thức an ninh biển”.
Trong thời gian thăm Việt Nam, Đô đốc Harris có các cuộc nói chuyện với lãnh đạo Việt Nam ở Hà Nội, thăm Bệnh viện Quân y 175 và chùa Ngọc Hoàng ở thành phố Hồ Chí Minh và gặp gỡ lãnh đạo Ủy ban Nhân dân và Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân ở Đà Nẵng.
Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ tới thăm Việt Nam đúng tuần người được cho nhiều khả năng lên kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng tới thăm Hoa Kỳ, sau khi hội kiến Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ở Bắc Kinh.
Phát biểu bên cạnh ông Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư của Việt Nam, hôm 25/10, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đề cập tới tới “các sáng kiến mới liên quan việc phản ứng trong tình thế khẩn cấp, hợp tác chống khủng bố cũng như khả năng thúc đẩy pháp quyền ở biển Đông”.http://www.voatiengviet.com/a/tu-lenh-thai-binh-duong-my-noi-gi-o-viet-nam/3571229.html
Trong chuyến thăm Việt Nam, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ, Đô đốc Harry B. Harris, hôm 28/10, đã cùng với các quan chức Mỹ và Việt Nam như Thiếu tướng Bùi Trung Dũng, Phó Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ Mary Tarnowka và Đại tá Đào Hồng Nghiệp, Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 2, đã dự lễ khánh thành một cơ sở sửa chữa bảo dưỡng tàu cảnh sát biển Việt Nam tại Quảng Nam.
Theo thông cáo của Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội, cơ sở này được xây dựng “với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ”, và “giúp nâng cao năng lực của Cảnh sát biển Việt Nam trong việc huấn luyện nhân viên và bảo dưỡng tàu nhằm ngăn chặn hiệu quả và đối phó với các mối đe dọa trên biển dọc theo bờ biển của Việt Nam”.
Phát biểu tại lễ khánh thành, Đô đốc Harris nói: “Các cơ sở này thể hiện cam kết của Hoa Kỳ trong việc tăng cường hợp tác song phương và cam kết của Việt Nam đối với an ninh hàng hải của nước mình. Hoạt động đào tạo các sĩ quan cảnh sát biển Việt Nam sẽ mang lại tác động lâu dài và là biểu tượng cho cam kết bền vững của chúng tôi dành cho Việt Nam và khu vực”.
Hoa Kỳ tuyên bố rằng cơ sở bảo dưỡng trên “chứng rõ ràng của quan hệ đối tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, thể hiện cam kết chung trong việc tăng cường quan hệ quân sự song phương, đặc biệt trong các lĩnh vực an ninh biển, thực thi luật pháp và các nỗ lực tìm kiếm, cứu hộ”.
Đô đốc Harris nói thêm: “An ninh biển là lĩnh vực ảnh hưởng đến tất cả chúng ta và là điều chúng ta không thể xem thường. Những cơ sở tốt này là một minh chứng cho công việc vất vả và sự cống hiến của rất nhiều người nhằm nâng cao khả năng chung của chúng ta trong việc đối phó với các thách thức an ninh biển”.
Trong thời gian thăm Việt Nam, Đô đốc Harris có các cuộc nói chuyện với lãnh đạo Việt Nam ở Hà Nội, thăm Bệnh viện Quân y 175 và chùa Ngọc Hoàng ở thành phố Hồ Chí Minh và gặp gỡ lãnh đạo Ủy ban Nhân dân và Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân ở Đà Nẵng.
Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ tới thăm Việt Nam đúng tuần người được cho nhiều khả năng lên kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng tới thăm Hoa Kỳ, sau khi hội kiến Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ở Bắc Kinh.
Phát biểu bên cạnh ông Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư của Việt Nam, hôm 25/10, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đề cập tới tới “các sáng kiến mới liên quan việc phản ứng trong tình thế khẩn cấp, hợp tác chống khủng bố cũng như khả năng thúc đẩy pháp quyền ở biển Đông”.http://www.voatiengviet.com/a/tu-lenh-thai-binh-duong-my-noi-gi-o-viet-nam/3571229.html
Nhập viện 34 học sinh Nhật sau chuyến bay Vietnam Airlines
- 28 tháng 10 2016
34 học sinh trung học của Nhật Bản vào viện do nghi bị ngộ độc thực phẩm sau chuyến bay của Vietnam Airlines hôm 28/10.
251 học sinh trung học của tỉnh Kanagawa có mặt trên chuyến bay từ thành phố Hồ Chí Minh tới sân bay Narita, trong đó 34 em nói bị chóng mặt và tiêu chảy.
Chính quyền địa phương đang điều tra nguyên do.
Truyền thông Việt Nam đưa tin, phía Nhật Bản đã cho phép máy bay của Vietnam Airlines trở về Việt Nam sau khi kiểm tra, và 33 trong số 34 học sinh đã được ra viện.
Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) nói nhóm hành khách đã "gặp vấn đề về sức khỏe không rõ lý do, ngay sau khi máy bay cất cánh", theo Thông Tấn Xã Việt Nam.
"Hiện tại, đã có 33 khách trên tổng số 34 khách đã được bệnh viện cho ra viện trở về nhà. Máy bay đã được nhà chức trách sân bay Nhật Bản kiểm tra và cho phép đưa trở lại khai thác và bay trở về Việt Nam," đại diện Vietnam Airlines cho biết.
Còn báo Nhật Japan Times nói vụ việc đang được nghi là "ngộ độc thực ăn tập thể".
http://www.bbc.com/vietnamese/media-37799785
251 học sinh trung học của tỉnh Kanagawa có mặt trên chuyến bay từ thành phố Hồ Chí Minh tới sân bay Narita, trong đó 34 em nói bị chóng mặt và tiêu chảy.
Chính quyền địa phương đang điều tra nguyên do.
Truyền thông Việt Nam đưa tin, phía Nhật Bản đã cho phép máy bay của Vietnam Airlines trở về Việt Nam sau khi kiểm tra, và 33 trong số 34 học sinh đã được ra viện.
Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) nói nhóm hành khách đã "gặp vấn đề về sức khỏe không rõ lý do, ngay sau khi máy bay cất cánh", theo Thông Tấn Xã Việt Nam.
"Hiện tại, đã có 33 khách trên tổng số 34 khách đã được bệnh viện cho ra viện trở về nhà. Máy bay đã được nhà chức trách sân bay Nhật Bản kiểm tra và cho phép đưa trở lại khai thác và bay trở về Việt Nam," đại diện Vietnam Airlines cho biết.
Còn báo Nhật Japan Times nói vụ việc đang được nghi là "ngộ độc thực ăn tập thể".
http://www.bbc.com/vietnamese/media-37799785
Những người Nga lo sợ chiến tranh với phương Tây
Gabriel Gatehouse BBC Newsnight
- 5 giờ trước
Tại miền rừng ngoại ô của Moscow, hàng chục học viên đang chạy chiến đấu
trong sự căng thẳng, hòng nhắm những viên đạn từ súng hơi hạng nhẹ vào
đối phương.
Chuyến đi chơi trò đạn sơn cuối tuần này được một đảng đối lập tổ chức.
Một cuộc chơi thoạt nghe tưởng chừng như hoàn toàn vô hại. Nhưng ở Nga,
mọi thứ không nhất thiết phải đúng như tên gọi của nó. "Chúng tôi cung cấp nhiều chủ đề liên kết đến quân sự," Stepan Zotov cho biết. Ông này là một nhà hoạt động của đảng đang điều khiển chuyến đi này.
Và những hoạt động của ông ta là một phần của chương trình "giáo dục quân sự yêu nước" cho học viên, được chính phủ ủng hộ.
Tôi đến gặp ông Zotov là do, theo dõi tin tức từ truyền hình Nga trong vài tuần trở lại đây, chúng ta có thể mơ hồ nghĩ rằng nước Nga đang trong tư thế chuẩn bị nghênh chiến với phương Tây.
Khoảng đầu tháng này, một kênh truyền hình do nhà nước kiểm soát khuyến cáo người xem đài đi tìm hầm tránh bom hạt nhân gần nhất trước khi quá muộn. Nga gần đây đã tiến hành những bài tập dượt với quy mô toàn lãnh thổ để chuẩn bị cho tình huống nêu trên có thể xảy ra. Ông Zotov thực hiện nhiệm vụ này rất nghiêm túc.
"Chúng tôi đang chuẩn bị nghênh chiến với phương Tây. Nhưng phần lớn sự đương đầu này nằm ở lĩnh vực văn hoá, thông tin, và giá trị. Nền văn minh Nga là một sự văn hoá của những anh hùng và chiến binh."
Ông Zotov hồi tưởng về sự sụp đổ của Liên Xô không phải là thắng lợi của sự tự do mà là một bi kịch.
"Đất nước vĩ đại của chúng tôi giải tán không có chiến tranh, không xung đột. Vì chúng tôi bắt đầu yêu một dân tộc khác và một nền văn hoá khác, không phải của chúng tôi."
Nato 'không muốn Chiến tranh Lạnh mới'
24 quốc gia thỏa thuận bảo tồn Biển Ross
Stepan Zotov đã kể với tôi là ông đã chiến đấu dưới tư cách là một tình nguyện viên sát cạnh lực lượng ly khai ở miền Đông Ukraine.
"Tôi và những đồng chí, thật không may là cả những học viên trường sĩ quan của tôi đã tham gia. Đây là cuộc xung đột giữa nước Nga và phương Tây."
Qua tiếp xúc, tôi nhận thấy không học viên nào bày tỏ sự mong muốn tình nguyện đi đánh trận ở Ukraine. Họ chỉ xấp xỉ tuổi đôi mươi hay trên dưới 20 tuổi, tất cả đều sinh ra sau thời Xô Viết. Và họ xem chừng như không lấy làm thuyết phục bởi bài nói trên truyền thông về sự xung đột sắp tới.
"Mọi người đừng nên theo dõi TV ở Nga," một cô gái trẻ nói.
"Truyền thông đang thổi phồng mọi thứ lên. Đây là cuộc chiến thông tin. Mọi người không nên để tâm vào đấy. Họ đang làm mọi người lo lắng vì điều không đâu vào đâu."
Tôi hỏi khái niệm phương Tây có ý nghĩa gì với họ.
"Chủ nghĩa tư bản," một ý kiến cho biết.
"Cơ hội," một ý kiến khác.
"Vả lại, văn hoá rất thú vị. Đó là một nền văn hóa khác. Có thể một ngày nào đó sẽ có sự hợp tác bởi vì chúng ta cùng chung sống trên một hành tinh và chẳng có lý do gì để chiến tranh."
Các chương trình tin tức có nhiều câu chuyện về chiến trạnh và khủng hoảng nước ngoài, và những tiêu chuẩn kép quốc tế. Chính quyền Ukraine bị cáo buộc hành xác trẻ nhỏ; BBC dàn cảnh cho vụ tấn công hoá học ở Syria.
"Sự thật là một câu hỏi về đức tin," ông nói với tôi, khi tôi đến thăm ông tại đài truyền hình tôn giáo riêng của ông gần Kremlin.
"Hậu hiện đại cho thấy rằng cái gọi là sự thật chỉ là vấn đề niềm tin. Bởi thế, chúng ta tin vào những việc chúng ta làm, chúng ta tin vào những lời chúng ta nói. Và đó là phương pháp duy nhất để định nghĩa sự thật. Do đó chúng tôi có sự thật đặc biệt của nước Nga mà mọi người cần phải chấp nhận."
Triết lý của Dugin được biết đến là sự lai Á-Âu. Nó nói rằng nước Nga Chính thống không thuộc về Đông hay Tây, mà là một sự khai hoá riêng biệt và duy nhất, một nền văn minh chiến đấu đòi vị trí hợp pháp giữa các thế lực trên thế giới. Triết lý của ông dần tạo sự ảnh hưởng ngày một lớn trong giới tinh hoa chính trị và quân sự của Nga.
"Nếu Mỹ không muốn khơi mào chiến tranh, các bạn nên nhận thấy rằng Mỹ không còn là nhân tố chỉ huy duy nhất. Và với tình hình ở Syria và Ukraine, Nga phát biểu, 'Mỹ không còn là ông trùm nữa." Đó là câu hỏi ai mới là người thống trị thế giới. Duy nhất chiến tranh có thể thực sự quyết định."
Sự xung đột trong tâm trí của ông Dugin không nhắm độc nhất vào Tây phương. Thông điệp này còn dành cho người trong nước. Đó là: không tồn tại cái gọi là giá trị tự do toàn cầu; không có sự mâu thuẫn nội tại trong chế độ dân chủ không cho phép bất đồng quan điểm.
"Tôi vẫn luôn tin là sự thật còn tồn tại," Mikhail Shneider nói. Ông này từng là người bất đồng chính kiến thời Liên Xô và là đồng đội của ông Nemtsov.
"Sự thật là họ đã giết Boris Nemtsov ở đây, cách chỗ chúng ta đang đứng 10 mét. Sự thật là Putin đang ở Kremlin. Sự thật là tivi của Putin dối trá."
Phần lớn người Nga không thật sự tin là chiến tranh hạt nhân với phương Tây sẽ nổ ra. Có lẽ ban lãnh đạo của họ cũng không tin tưởng vào điều đó. Họ dường như không tin tưởng lắm vào một nhà nước độc đoán hậu hiện đại.
Tuy nhiên khi một lời nói dối được lặp lại nhiều lần, nó có thể biến thành một thực tế.
Tổng Thống Philippines nói sẽ không chửi thề nữa
RFA
2016-10-28
2016-10-28
Tổng Thống Rodrigo Duterte của Philippines cho hay ông sẽ không chửi thề
nữa, sau khi nghe thấy tiếng của Thiên Chúa nói ông không nên làm điều
mà ông thường làm.
Ông Duterte kể lại rằng hôm qua, trên chuyến bay từ Nhật Bản về lại Phi, ông nhìn ra ngài cửa sổ của chiếc phi cơ, và nghe thấy có tiếng nói, bảo rằng nếu ông không ngưng ngay những lời chửi thề tục tĩu, thì chiếc phi cơ này sẽ đâm xuống đất.
Ông cho biết thêm tiếng nói đó là tiếng của Thiên Chúa, và ông đã hứa sẽ không bao giờ chửi thề, văng tục nữa.
Ông còn kể thêm là lúc ông nghe tiếng nói của Chúa, mọi người trên máy bay đang ngủ, có cả người ngáy khò khò.
Tổng Thống Phi là người nổi tiếng ưa chửi thề, thích văng tục, từng gọi Đức Giáo Hoàng Phan Xi Cô và Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama “con của đồ điếm”, nguyền rủa ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon là “đồ quỷ sứ” và dùng những lời nặng hơn nữa để mắng chửi EU.
Khi được hỏi chuyện Tổng thống Duterte nghe thấy tiếng nói của Thiên Chúa đúng sai như thế nào, Phó Tổng Thống Alan Peter Cayetano trả lời rằng nhà lãnh đạo Phi tin tưởng đó là thông điệp Thiên Chúa gửi đến ông, bảo thêm cá nhân Tổng Thống Duterte không phải là người ngoan đạo, nhưng ông tin có Chúa ngự trên Trời.
Ông Duterte kể lại rằng hôm qua, trên chuyến bay từ Nhật Bản về lại Phi, ông nhìn ra ngài cửa sổ của chiếc phi cơ, và nghe thấy có tiếng nói, bảo rằng nếu ông không ngưng ngay những lời chửi thề tục tĩu, thì chiếc phi cơ này sẽ đâm xuống đất.
Ông cho biết thêm tiếng nói đó là tiếng của Thiên Chúa, và ông đã hứa sẽ không bao giờ chửi thề, văng tục nữa.
Ông còn kể thêm là lúc ông nghe tiếng nói của Chúa, mọi người trên máy bay đang ngủ, có cả người ngáy khò khò.
Tổng Thống Phi là người nổi tiếng ưa chửi thề, thích văng tục, từng gọi Đức Giáo Hoàng Phan Xi Cô và Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama “con của đồ điếm”, nguyền rủa ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon là “đồ quỷ sứ” và dùng những lời nặng hơn nữa để mắng chửi EU.
Khi được hỏi chuyện Tổng thống Duterte nghe thấy tiếng nói của Thiên Chúa đúng sai như thế nào, Phó Tổng Thống Alan Peter Cayetano trả lời rằng nhà lãnh đạo Phi tin tưởng đó là thông điệp Thiên Chúa gửi đến ông, bảo thêm cá nhân Tổng Thống Duterte không phải là người ngoan đạo, nhưng ông tin có Chúa ngự trên Trời.
Ảo tưởng của khối BRICS
Nguyên Lam & Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA
2016-10-26
2016-10-26
Tuần qua, Thượng đỉnh thứ tám của khối BRICS đã hoàn tất tại Ấn Độ mà
không có đột phá. Năm quốc gia với nền kinh tế đang phát triển là
Brazil, Liên bang Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi, với tên gọi được
viết tắt là BRICS, có tham vọng tăng cường hợp tác và lập ra một trật tự
kinh tế mới. Nhưng thực tế kinh tế và an ninh lại gây ra nhiều trở ngại
bất ngờ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ngày xưa, tôi chơi chữ theo Pháp ngữ mà gọi khối kinh tế này là “bric-à-brac” là đồ tầm tầm. Tuần qua có người cũng chơi chữ theo Anh ngữ, với từ ‘brics’ là gạch, mà thiếu xi măng! Năm quốc gia này muốn thành lập một khối kinh tế liên kết mà thật ra thiếu chất keo sơn hợp tác. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu tại sao việc năm nước có dân số bằng phân nửa của địa cầu, với sản lượng tổng cộng chừng 17 ngàn tỷ đô la, bằng 30% sản lượng toàn cầu, lại khó trở thành một khối.
Nguyên Lam: Trước hết, xin đề nghị ông trình bày lại bối cảnh của sự hình thành nhóm quốc gia có tên tắt là BRICS và giải thích vì sao ông không đánh giá cao khả năng hợp tác của họ.
Sáng kiến quảng cáo ấy ngộ nghĩnh vì gây ấn tượng các nền kinh tế đang lên có thể tách khỏi khối công nghiệp hóa để thành đầu máy kinh tế mới cho thế giới và là năm trung tâm thu hút đầu tư. Truyện thần tiên là 10 năm sau khi phát minh ra chữ BRIC, các nền kinh tế ấy vẫn lệ thuộc vào đà tăng trưởng của khối Âu-Mỹ-Nhật và đều bị suy trầm, thậm chí mấp mé khủng hoảng, như trường hợp Nga, Brazil hay Nam Phi từ vài năm nay. Nhưng khi có kẻ thổi bóng thì các quốc gia này chạy theo với ảo tưởng sẽ cạnh tranh rồi thay thế trật tự kinh tế do Hoa Kỳ và các nước Âu Châu lập ra từ sau Thế chiến II.
Nguyên Lam: Nhưng thưa ông, sau vụ khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ vào năm 2008 rồi khó khăn triền miên của khối Euro kể từ năm 2010, thì năm 2014, khối BRICS đã lập ra Ngân hàng Phát triển BRICS và một Quỹ cấp cứu các nền kinh tế bị khủng hoảng nhằm thay thế dần vai trò của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Ngày nay thì các dự án đó tiến tới đâu và liệu rằng ước mơ thay thế kiến trúc tài chính và trật tự kinh tế của họ có thành không mà có người mỉa mai như ông vừa nhắc là mấy cục gạch thiếu xi măng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Khi người ta phát minh ra chữ này thì quả là các nền kinh tế đó đang tăng trưởng mạnh, dẫn đầu là Trung Quốc và Ấn Độ, và họ thấy là chưa được thế giới nể nang trong khi các định chế tài chính nói trên vẫn do Tây phương chi phối nên họ muốn là giải pháp thay thế. Nhưng khi thế giới bị Tổng suy trầm vào các năm 2008-2009 thì cả năm quốc gia đó đều gặp khó khăn, nhất là Nga và Brazil, Nam Phi và việc khối này đề nghị tung tiền cấp cứu Âu Châu chỉ là chuyện hão. Kết luận đầu tiên là đà tăng trưởng cao chưa là cơ sở của tích lũy và thứ hai, năm nước chưa thể mua bán với nhau mà tạo ra sự thịnh vượng chung vì phải tìm bạn hàng ở ngoài. Ngoại lệ ở đây là Trung Quốc, có mức xuất nhập khẩu đáng kể với bốn nước kia và có dự trữ ngoại tệ để đề ra sáng kiến thành lập Ngân hàng Phát triển với số vốn sơ khởi là 50 tỷ đô la. Sở dĩ sáng kiến này có vẻ hấp dẫn vì cho các nước đang phát triển một nguồn tài trợ khác mà chẳng có đòi hỏi khắt khe như Ngân hàng Thế giới hay Quỹ Tiền Tệ IMF.
Nhưng đã nói về bối cảnh thì ta chẳng quên rằng từ năm 2010 Chính quyền của Tổng thống Barack Obama đồng ý cải cách IMF trong tinh thần mở rộng việc tham gia cho các nước khác và cuối năm ngoái thì Quốc hội Mỹ chính thức chấp nhận việc cải cách, nên sáng kiến của Bắc Kinh cũng mất phần hấp dẫn. Rồi IMF còn đồng ý đưa đồng Nguyên của Trung Quốc vào rổ ngoại tệ gọi là Quyền Đặc Trích SDR từ đầu Tháng 10 này, khi ấy, các nước còn lại, nhất là Ấn Độ, thấy việc hợp tác với BRICS chưa hẳn là có lợi về kinh tế lẫn tư thế ngoại giao hay cả an ninh trong khi đối thủ lâu đời là Trung Quốc lại có vẻ giữ thế thượng phong.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng như vậy và cả hai mục tiêu ấy đang thành viển vông.
Sau giai đoạn tăng trưởng mạnh thì kể từ 2008, năm quốc gia này đã rẽ qua hai ngả. Ba nước Brazil, Nga và Nam Phi đều bị suy thoái và đồng bạc sụt giá nặng so với Mỹ kim, còn lại chỉ có Trung Quốc và Ấn Độ là còn có tăng trưởng. Nhưng sự khác biệt trong cấu trúc kinh tế mới cản trở nỗ lực hợp tác hay hội nhập và từng nước đang có mục tiêu thương mại và đầu tư riêng, nhắm vào các thị trường ở ngoài khối. Vì vậy, sáng kiến của Bắc Kinh tại thượng đỉnh là thành lập một khối mậu dịch tự do giữa năm nước qua một Hiệp ước Thương mại lại chẳng được các nước hưởng ứng. Ngoài ba nước bị khủng hoảng là Brazil, Nga và Nam Phi, chỉ có Trung Quốc và nhất là Ấn Độ còn sức tăng trưởng, nhưng Trung Quốc cần xuất khẩu và sẵn sàng đổ hàng rẻ vào bốn nước kia thì khối BRICS lập tức tan rã và Nam Phi có thể xin triệt thoái trước tiên!
Nguyên Lam: Khi ấy, thưa quý thính giả, người ta còn thấy một sự khác biệt quan điểm khá trầm trọng giữa lãnh đạo ba nước Nga, Tầu và Ấn khi Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi muốn nêu đích danh một tổ chức khủng bố xuất phát từ Pakistan đã vừa tấn công thị trấn Uri tại khu vực Kashmir của Ấn Độ mà ông Modi gặp sự cản trở của Tổng thống Vladimir Putin và Chủ tịch Tập Cận Bình. Nếu vậy, thưa ông, làm sao khối BRICS có thể hợp tác sâu xa hơn về an ninh?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chuyện này quả thật rắc rối và cho thấy nhiều mâu thuẫn bên trong.
Số là hôm 18 tháng trước, bốn tên khủng bố của lực lượng Jaish-e-Mohammed, tức là đạo quân của Mohammad, đã từ khu vực Kashmir của Pakistan lẻn qua tấn công một đồn binh của Ấn. Các nước trên thế giới đều lên án hành động này và tổ chức Jaish-e-Mohammed đã bị Liên hiệp quốc cùng nhiều nước khác xếp vào danh mục khủng bố mà thực tế thì vẫn được Pakistan bao che, nhưng nhóm BRICS tránh đả kích tổ chức khủng bố tại Pakistan trong thông cáo chung. Về lịch sử thì Ấn Độ và Pakistan có hiềm khích từ lâu đời, và Nga là đồng minh của Ấn từ thời Liên Xô, còn Pakistan là đồng minh của Trung Cộng. Riêng hai nước Tầu và Ấn cũng có mâu thuẫn nặng và năm 1962 giao tranh quân sự Ấn-Hoa đã bùng nổ và tình trạng đối nghịch ấy vẫn còn. Ngày nay, Trung Quốc vẫn muốn bênh Pakistan và Nga giữ thái độ hữu nghị với Ấn để bán võ khí và vừa ký một hợp đồng trị giá gần 11 tỷ đô la tại Thượng đỉnh của nhóm BRICS, nhưng tránh làm Pakistan mất lòng vì, như Bắc Kinh, Nga cũng muốn sử dụng quân cảng Gwadar có nước sâu của Pakistan tại Ấn Độ Dương.
Trong khi ấy, các nước của Hiệp hội Hợp tác Khu vực Nam Á hay SAARC, như Afghanistan, Bhutan và Bangladesh, lại ủng hộ Ấn Độ và từ chối dự Thượng đỉnh SAARC vào tháng tới tại thủ đô Islamabad của Pakistan. Cùng Thượng đỉnh BRICS, Ấn Độ cũng tổ chức hội nghị của Sáng kiến Vịnh Bengale về Hợp tác Đa ngành Kỹ thuật và Kinh tế, gọi là BIMSTEC, gồm các nước Nam Á và Đông Nam Á là Bangladesh, Ấn Độ, Sri Lanka, Bhutan, Nepal, Thái Lan và Miến Điện. Ngược với nhóm BRICS cố tránh chuyện khủng bố, các nước kia, kể cả Thái Lan, cũng đều có cùng quan điểm với Ấn Độ.
Nguyên Lam: Như vậy, người ta thấy Ấn Độ lại bị cản trở ngay trong nội bộ của nhóm BRICS trong khi quan điểm của mình lại được các nước bên ngoài ủng hộ. Gặp hoàn cảnh đó, làm sao năm quốc gia này lại có thể hợp tác gắn bó hơn về các lĩnh vực ngoài kinh tế?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi không nghĩ rằng sẽ có sự hợp tác sâu xa về an ninh hay ngoại giao, mà hợp tác kinh tế thì giới hạn và hội nhập kinh tế thành một khối tự do mậu dịch thì xa vời, trong khi từng nước như Nga hay Ấn có khi lại muốn mở rộng giao dịch với kinh tế Nhật, Đức, Mỹ, Anh hoặc Nam Hàn. Còn lại thì chỉ có hai chương trình khởi động từ hai năm nay là có hy vọng. Đó là Ngân hàng Phát triển BRICS với 100 tỷ vốn và vài dự án đã được tài trợ và Quỹ cấp cứu có 100 tỷ đô là cho các nước nhất thời cần thanh khỏan bằng ngoại tệ. Năm nước chưa thể xé chiếu ngồi riêng, nhưng chỉ hợp tác với nhiều nghi ngại và đáng nghi ngại nhất là Trung Quốc cho hai lân bang kia là Nga và Ấn Độ. Kết luận thì năm hòn gạch thiếu xi măng chỉ là cái bệ cho các lãnh tụ hàng năm gặp nhau để nói thách và ngã giá, chứ mục tiêu tranh đua với các nước Tây phương chỉ là ảo giác tốn kém và vô bổ.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ Đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ ông về cuộc phỏng vấn tuần này.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/EconomicForum/brics-illusions-nxn-10262016145931.html
Thượng đỉnh BRICS lần tám gây thất vọng?
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, sau hai ngày làm việc tại khu nghỉ mát thuộc tỉnh Goa của Ấn Độ, hội nghị của lãnh đạo năm nước có tên gọi tắt là BRICS đã kết thúc hôm 16 vừa qua mà không có gì nổi bật trong bản thông cáo chung. Có một thời mà năm quốc gia này từng hy vọng là đầu máy kinh tế của thế giới và là cường quốc có ảnh hưởng với các nền kinh tế đang lên. Thế thì vì sao thượng đỉnh lần thứ tám vừa qua của nhóm BRICS lại gây thất vọng?Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ngày xưa, tôi chơi chữ theo Pháp ngữ mà gọi khối kinh tế này là “bric-à-brac” là đồ tầm tầm. Tuần qua có người cũng chơi chữ theo Anh ngữ, với từ ‘brics’ là gạch, mà thiếu xi măng! Năm quốc gia này muốn thành lập một khối kinh tế liên kết mà thật ra thiếu chất keo sơn hợp tác. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu tại sao việc năm nước có dân số bằng phân nửa của địa cầu, với sản lượng tổng cộng chừng 17 ngàn tỷ đô la, bằng 30% sản lượng toàn cầu, lại khó trở thành một khối.
Nguyên Lam: Trước hết, xin đề nghị ông trình bày lại bối cảnh của sự hình thành nhóm quốc gia có tên tắt là BRICS và giải thích vì sao ông không đánh giá cao khả năng hợp tác của họ.
Việc hợp tác với BRICS chưa hẳn là có lợi về kinh tế lẫn tư thế ngoại giao hay cả an ninh trong khi đối thủ lâu đời là Trung Quốc lại có vẻ giữ thế thượng phong.Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ là trong kinh tế học, ta cũng có truyện thần tiên! Số là năm 2001, một kinh tế gia gốc Anh của một tổ hợp đầu tư Mỹ là ông Jim O’Neill của tập đoàn Goldman Sachs đề xướng ý tưởng ngộ nghĩnh có lẽ với dụng ý quảng cáo cho việc đầu tư của họ. Ý tưởng đó là sự xuất hiện của các nền kinh tế "đang lên" hay đang tiến lên trình độ công nghiệp hóa. Ông nêu tên bốn nền kinh tế lớn của loại này là Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc, viết tắt theo Anh ngữ là B.R.I.C. Sau đó, bốn nước tưởng thật, kể từ 2009 thì hàng năm hội họp với ước mơ lập ra một trật tự kinh tế mới cho thế giới, rồi qua năm sau mời thêm một xứ khác tại lục địa Phi Châu là Cộng hoà Nam Phi, từ năm 2011 đó mới có tên chính thức là B.R.I.C.S.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Sáng kiến quảng cáo ấy ngộ nghĩnh vì gây ấn tượng các nền kinh tế đang lên có thể tách khỏi khối công nghiệp hóa để thành đầu máy kinh tế mới cho thế giới và là năm trung tâm thu hút đầu tư. Truyện thần tiên là 10 năm sau khi phát minh ra chữ BRIC, các nền kinh tế ấy vẫn lệ thuộc vào đà tăng trưởng của khối Âu-Mỹ-Nhật và đều bị suy trầm, thậm chí mấp mé khủng hoảng, như trường hợp Nga, Brazil hay Nam Phi từ vài năm nay. Nhưng khi có kẻ thổi bóng thì các quốc gia này chạy theo với ảo tưởng sẽ cạnh tranh rồi thay thế trật tự kinh tế do Hoa Kỳ và các nước Âu Châu lập ra từ sau Thế chiến II.
Nguyên Lam: Nhưng thưa ông, sau vụ khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ vào năm 2008 rồi khó khăn triền miên của khối Euro kể từ năm 2010, thì năm 2014, khối BRICS đã lập ra Ngân hàng Phát triển BRICS và một Quỹ cấp cứu các nền kinh tế bị khủng hoảng nhằm thay thế dần vai trò của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Ngày nay thì các dự án đó tiến tới đâu và liệu rằng ước mơ thay thế kiến trúc tài chính và trật tự kinh tế của họ có thành không mà có người mỉa mai như ông vừa nhắc là mấy cục gạch thiếu xi măng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Khi người ta phát minh ra chữ này thì quả là các nền kinh tế đó đang tăng trưởng mạnh, dẫn đầu là Trung Quốc và Ấn Độ, và họ thấy là chưa được thế giới nể nang trong khi các định chế tài chính nói trên vẫn do Tây phương chi phối nên họ muốn là giải pháp thay thế. Nhưng khi thế giới bị Tổng suy trầm vào các năm 2008-2009 thì cả năm quốc gia đó đều gặp khó khăn, nhất là Nga và Brazil, Nam Phi và việc khối này đề nghị tung tiền cấp cứu Âu Châu chỉ là chuyện hão. Kết luận đầu tiên là đà tăng trưởng cao chưa là cơ sở của tích lũy và thứ hai, năm nước chưa thể mua bán với nhau mà tạo ra sự thịnh vượng chung vì phải tìm bạn hàng ở ngoài. Ngoại lệ ở đây là Trung Quốc, có mức xuất nhập khẩu đáng kể với bốn nước kia và có dự trữ ngoại tệ để đề ra sáng kiến thành lập Ngân hàng Phát triển với số vốn sơ khởi là 50 tỷ đô la. Sở dĩ sáng kiến này có vẻ hấp dẫn vì cho các nước đang phát triển một nguồn tài trợ khác mà chẳng có đòi hỏi khắt khe như Ngân hàng Thế giới hay Quỹ Tiền Tệ IMF.
Nhưng đã nói về bối cảnh thì ta chẳng quên rằng từ năm 2010 Chính quyền của Tổng thống Barack Obama đồng ý cải cách IMF trong tinh thần mở rộng việc tham gia cho các nước khác và cuối năm ngoái thì Quốc hội Mỹ chính thức chấp nhận việc cải cách, nên sáng kiến của Bắc Kinh cũng mất phần hấp dẫn. Rồi IMF còn đồng ý đưa đồng Nguyên của Trung Quốc vào rổ ngoại tệ gọi là Quyền Đặc Trích SDR từ đầu Tháng 10 này, khi ấy, các nước còn lại, nhất là Ấn Độ, thấy việc hợp tác với BRICS chưa hẳn là có lợi về kinh tế lẫn tư thế ngoại giao hay cả an ninh trong khi đối thủ lâu đời là Trung Quốc lại có vẻ giữ thế thượng phong.
Nhiều mâu thuẫn?
Nguyên Lam: Như vậy, thưa ông, phải chăng dự án BRICS thành hình trên hai nền móng, thứ nhất là hợp tác kinh tế cho sự thịnh vượng chung và thứ hai, đáng kể không kém, là lập ra một thế đối trọng với định chế quốc tế do các nước Tây phương thành lập từ sau Thế chiến II?Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng như vậy và cả hai mục tiêu ấy đang thành viển vông.
Sau giai đoạn tăng trưởng mạnh thì kể từ 2008, năm quốc gia này đã rẽ qua hai ngả. Ba nước Brazil, Nga và Nam Phi đều bị suy thoái và đồng bạc sụt giá nặng so với Mỹ kim, còn lại chỉ có Trung Quốc và Ấn Độ là còn có tăng trưởng. Nhưng sự khác biệt trong cấu trúc kinh tế mới cản trở nỗ lực hợp tác hay hội nhập và từng nước đang có mục tiêu thương mại và đầu tư riêng, nhắm vào các thị trường ở ngoài khối. Vì vậy, sáng kiến của Bắc Kinh tại thượng đỉnh là thành lập một khối mậu dịch tự do giữa năm nước qua một Hiệp ước Thương mại lại chẳng được các nước hưởng ứng. Ngoài ba nước bị khủng hoảng là Brazil, Nga và Nam Phi, chỉ có Trung Quốc và nhất là Ấn Độ còn sức tăng trưởng, nhưng Trung Quốc cần xuất khẩu và sẵn sàng đổ hàng rẻ vào bốn nước kia thì khối BRICS lập tức tan rã và Nam Phi có thể xin triệt thoái trước tiên!
Khối BRICS muốn cải cách cấu trúc quốc tế nhưng có thành viên vẫn duy trì những gì có lợi cho họ và trong năm nước này, Nga và Tầu trong Hội đồng Bảo an lại là hai nước chưa có dân chủ! Tội gì mà họ thay đổi theo yêu cầu của ba nước còn lại?Nền móng hợp tác thứ hai là trở thành một thế lực đối trọng với các định chế do Tây phương thành lập từ sau Thế chiến II thì lại càng viển vông hơn. Định chế quốc tế số một là Liên hiệp quốc thì có Hội đồng Bảo an với năm thành viên thường trực có quyền phủ quyết là Anh, Pháp, Mỹ, Nga và Tầu. Nếu muốn cải cách kiến trúc quốc tế thành hình từ 70 năm trước thì vì sao Bắc Kinh không cải tổ Liên hiệp quốc và nhận Ấn Độ làm thành viên thứ sáu của Hội đồng Bảo an? Ta nhớ là Tháng Chín vừa qua, Thủ tướng Nhật là Shinzo Abe cũng lên tiếng yêu cầu cải cách Liên hiệp quốc, và việc nước Nhật, với kinh tế có sản lượng đứng hạng ba sau Mỹ và Tầu, lại chẳng được nhận là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an cũng là điều không thỏa đáng. Tức là khối BRICS muốn cải cách cấu trúc quốc tế nhưng có thành viên vẫn duy trì những gì có lợi cho họ và trong năm nước này, Nga và Tầu trong Hội đồng Bảo an lại là hai nước chưa có dân chủ! Tội gì mà họ thay đổi theo yêu cầu của ba nước còn lại?
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyên Lam: Khi ấy, thưa quý thính giả, người ta còn thấy một sự khác biệt quan điểm khá trầm trọng giữa lãnh đạo ba nước Nga, Tầu và Ấn khi Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi muốn nêu đích danh một tổ chức khủng bố xuất phát từ Pakistan đã vừa tấn công thị trấn Uri tại khu vực Kashmir của Ấn Độ mà ông Modi gặp sự cản trở của Tổng thống Vladimir Putin và Chủ tịch Tập Cận Bình. Nếu vậy, thưa ông, làm sao khối BRICS có thể hợp tác sâu xa hơn về an ninh?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chuyện này quả thật rắc rối và cho thấy nhiều mâu thuẫn bên trong.
Số là hôm 18 tháng trước, bốn tên khủng bố của lực lượng Jaish-e-Mohammed, tức là đạo quân của Mohammad, đã từ khu vực Kashmir của Pakistan lẻn qua tấn công một đồn binh của Ấn. Các nước trên thế giới đều lên án hành động này và tổ chức Jaish-e-Mohammed đã bị Liên hiệp quốc cùng nhiều nước khác xếp vào danh mục khủng bố mà thực tế thì vẫn được Pakistan bao che, nhưng nhóm BRICS tránh đả kích tổ chức khủng bố tại Pakistan trong thông cáo chung. Về lịch sử thì Ấn Độ và Pakistan có hiềm khích từ lâu đời, và Nga là đồng minh của Ấn từ thời Liên Xô, còn Pakistan là đồng minh của Trung Cộng. Riêng hai nước Tầu và Ấn cũng có mâu thuẫn nặng và năm 1962 giao tranh quân sự Ấn-Hoa đã bùng nổ và tình trạng đối nghịch ấy vẫn còn. Ngày nay, Trung Quốc vẫn muốn bênh Pakistan và Nga giữ thái độ hữu nghị với Ấn để bán võ khí và vừa ký một hợp đồng trị giá gần 11 tỷ đô la tại Thượng đỉnh của nhóm BRICS, nhưng tránh làm Pakistan mất lòng vì, như Bắc Kinh, Nga cũng muốn sử dụng quân cảng Gwadar có nước sâu của Pakistan tại Ấn Độ Dương.
Trong khi ấy, các nước của Hiệp hội Hợp tác Khu vực Nam Á hay SAARC, như Afghanistan, Bhutan và Bangladesh, lại ủng hộ Ấn Độ và từ chối dự Thượng đỉnh SAARC vào tháng tới tại thủ đô Islamabad của Pakistan. Cùng Thượng đỉnh BRICS, Ấn Độ cũng tổ chức hội nghị của Sáng kiến Vịnh Bengale về Hợp tác Đa ngành Kỹ thuật và Kinh tế, gọi là BIMSTEC, gồm các nước Nam Á và Đông Nam Á là Bangladesh, Ấn Độ, Sri Lanka, Bhutan, Nepal, Thái Lan và Miến Điện. Ngược với nhóm BRICS cố tránh chuyện khủng bố, các nước kia, kể cả Thái Lan, cũng đều có cùng quan điểm với Ấn Độ.
Nguyên Lam: Như vậy, người ta thấy Ấn Độ lại bị cản trở ngay trong nội bộ của nhóm BRICS trong khi quan điểm của mình lại được các nước bên ngoài ủng hộ. Gặp hoàn cảnh đó, làm sao năm quốc gia này lại có thể hợp tác gắn bó hơn về các lĩnh vực ngoài kinh tế?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi không nghĩ rằng sẽ có sự hợp tác sâu xa về an ninh hay ngoại giao, mà hợp tác kinh tế thì giới hạn và hội nhập kinh tế thành một khối tự do mậu dịch thì xa vời, trong khi từng nước như Nga hay Ấn có khi lại muốn mở rộng giao dịch với kinh tế Nhật, Đức, Mỹ, Anh hoặc Nam Hàn. Còn lại thì chỉ có hai chương trình khởi động từ hai năm nay là có hy vọng. Đó là Ngân hàng Phát triển BRICS với 100 tỷ vốn và vài dự án đã được tài trợ và Quỹ cấp cứu có 100 tỷ đô là cho các nước nhất thời cần thanh khỏan bằng ngoại tệ. Năm nước chưa thể xé chiếu ngồi riêng, nhưng chỉ hợp tác với nhiều nghi ngại và đáng nghi ngại nhất là Trung Quốc cho hai lân bang kia là Nga và Ấn Độ. Kết luận thì năm hòn gạch thiếu xi măng chỉ là cái bệ cho các lãnh tụ hàng năm gặp nhau để nói thách và ngã giá, chứ mục tiêu tranh đua với các nước Tây phương chỉ là ảo giác tốn kém và vô bổ.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ Đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ ông về cuộc phỏng vấn tuần này.
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/EconomicForum/brics-illusions-nxn-10262016145931.html
Thương mại Trung Quốc lãnh gáo nước lạnh
Công nghiệp tiên tiến bỏ Hoa lục rút về các nước phát triển. Các nước đang phát triển trở thành đối thủ cạnh tranh mãnh liệt hơn. Đó là hai vấn nạn của guồng máy kinh tế Trung Quốc, theo nhận định của hải quan và chuyên gia quốc tế.
Ngoại thương Trung Quốc trong tháng 9 gây thất vọng cho Bắc Kinh. Theo
số liệu của hải quan Trung Quốc công bố ngày hôm nay, 13/10/2016, xuất
khẩu bị thụt lùi 10% trong một năm qua với 184,5 tỷ đô la trong khi
nhập khẩu giảm 1,9% với 142,5 tỷ.
Thặng dư thương mại của Trung Quốc trong tháng 9 cũng giảm đến 30%, tuy thu về 42 tỷ đô la nhưng thua xa thành quả 60 tỷ cùng thời kỳ cách nay một năm. Cụ thể xuất khẩu sang Mỹ giảm 7,8% và sang Liên Hiệp Châu Âu sụt 4,3%.
Theo AFP, kết quả này là một bất ngờ đối với Trung Quốc và các chuyên gia tài chính quốc tế. Đa số các nhà phân tích cho rằng tệ lắm thì xuất khẩu chỉ lùi độ 3,3% trong tháng 9 sau khi giảm 2,8% trong tháng 8. Nhập khẩu cũng giảm đi đáng kể, không tới 1/3 so với mức dự báo.
Phát ngôn viên hải quan Trung Quốc Hoàng Tụng Bình nhìn nhận ngành ngoại thương Trung Quốc có vấn đề. Trong cuộc họp báo hồi tháng 4, khi công bố thành quả xuất nhập khẩu của ba tháng đầu năm 2016, viên chức này đã tỏ ra bi quan cho kinh tế Hoa lục mà ông gọi là « đứng trước nhiều biến chuyển phức tạp ». Trong quý một, xuất khẩu giảm 4%, nhập khẩu giảm 8,2% so với cùng thời kỳ năm 2015.
« Ngành mũi nhọn bỏ đi, đối thủ cạnh tranh ráo riết »
Trong cuộc họp báo hôm nay, Hoàng Tụng Bình lập lại nhận xét cũ : Trao đổi thương mại của Trung Quốc « đang đối đầu với những chướng ngại hiển nhiên ».
Trước các áp lực này, đồng tiền Trung Quốc bắt buộc phải hạ giá với hai hệ quả : có thể trợ lực cho xuất khẩu nhưng cùng lúc tăng thêm gánh nặng cho doanh nghiệp nhập khẩu nhiên liệu và nguyên liệu, ông Hoàng Tụng Bình thừa nhận.
Chuyên gia kinh tế Julian Evans-Pritchard của Capital Economics cũng lo ngại : giảm nhập khẩu khoáng sản là tín hiệu « kinh tế Trung Quốc mất sức ».
Lời cảnh báo của Ôn Gia Bảo
Theo giải thích của phát ngôn viên Hải Quan Trung Quốc, những khó khăn trên phát xuất từ ba nguyên nhân : một là chính sách « bảo hộ mậu dịch » của các nước giàu và hai là do các nước đang phát triển cạnh tranh ác liệt với Trung Quốc. Cũng theo viên chức này thì ngành công nghiệp « mũi nhọn » bỏ Trung Quốc, hồi hương. Trong khi hàng hóa của các quốc gia đang lên, nhờ giá thành rẻ, lấn áp hàng hóa Trung Quốc.
Mối đe dọa thứ ba là, cũng theo phát ngôn viên Hoàng Tụng Bình, các thủ tục bảo hộ thị trường của nhiều quốc gia trên thế giới chống hàng Trung Quốc sẽ làm cho ngành ngoại thương của Trung Quốc bị thiệt hại.
IMF dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc sẽ từ 6,6% trong năm nay rơi xuống 6,2% trong năm 2017.
Thời thủ tướng Ôn Gia Bảo, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc phất phới trên 10%. Tuy nhiên, ông cảnh cáo, nếu tỷ lệ tăng trưởng xuống « dưới 8% thì Trung Quốc sẽ gặp loạn ».
http://vi.rfi.fr/chau-a/20161013-thuong-mai-trung-quoc-lanh-gao-nuoc-lanh
Thặng dư thương mại của Trung Quốc trong tháng 9 cũng giảm đến 30%, tuy thu về 42 tỷ đô la nhưng thua xa thành quả 60 tỷ cùng thời kỳ cách nay một năm. Cụ thể xuất khẩu sang Mỹ giảm 7,8% và sang Liên Hiệp Châu Âu sụt 4,3%.
Theo AFP, kết quả này là một bất ngờ đối với Trung Quốc và các chuyên gia tài chính quốc tế. Đa số các nhà phân tích cho rằng tệ lắm thì xuất khẩu chỉ lùi độ 3,3% trong tháng 9 sau khi giảm 2,8% trong tháng 8. Nhập khẩu cũng giảm đi đáng kể, không tới 1/3 so với mức dự báo.
Phát ngôn viên hải quan Trung Quốc Hoàng Tụng Bình nhìn nhận ngành ngoại thương Trung Quốc có vấn đề. Trong cuộc họp báo hồi tháng 4, khi công bố thành quả xuất nhập khẩu của ba tháng đầu năm 2016, viên chức này đã tỏ ra bi quan cho kinh tế Hoa lục mà ông gọi là « đứng trước nhiều biến chuyển phức tạp ». Trong quý một, xuất khẩu giảm 4%, nhập khẩu giảm 8,2% so với cùng thời kỳ năm 2015.
Trong cuộc họp báo hôm nay, Hoàng Tụng Bình lập lại nhận xét cũ : Trao đổi thương mại của Trung Quốc « đang đối đầu với những chướng ngại hiển nhiên ».
Trước các áp lực này, đồng tiền Trung Quốc bắt buộc phải hạ giá với hai hệ quả : có thể trợ lực cho xuất khẩu nhưng cùng lúc tăng thêm gánh nặng cho doanh nghiệp nhập khẩu nhiên liệu và nguyên liệu, ông Hoàng Tụng Bình thừa nhận.
Chuyên gia kinh tế Julian Evans-Pritchard của Capital Economics cũng lo ngại : giảm nhập khẩu khoáng sản là tín hiệu « kinh tế Trung Quốc mất sức ».
Lời cảnh báo của Ôn Gia Bảo
Theo giải thích của phát ngôn viên Hải Quan Trung Quốc, những khó khăn trên phát xuất từ ba nguyên nhân : một là chính sách « bảo hộ mậu dịch » của các nước giàu và hai là do các nước đang phát triển cạnh tranh ác liệt với Trung Quốc. Cũng theo viên chức này thì ngành công nghiệp « mũi nhọn » bỏ Trung Quốc, hồi hương. Trong khi hàng hóa của các quốc gia đang lên, nhờ giá thành rẻ, lấn áp hàng hóa Trung Quốc.
Mối đe dọa thứ ba là, cũng theo phát ngôn viên Hoàng Tụng Bình, các thủ tục bảo hộ thị trường của nhiều quốc gia trên thế giới chống hàng Trung Quốc sẽ làm cho ngành ngoại thương của Trung Quốc bị thiệt hại.
IMF dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc sẽ từ 6,6% trong năm nay rơi xuống 6,2% trong năm 2017.
Thời thủ tướng Ôn Gia Bảo, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc phất phới trên 10%. Tuy nhiên, ông cảnh cáo, nếu tỷ lệ tăng trưởng xuống « dưới 8% thì Trung Quốc sẽ gặp loạn ».
http://vi.rfi.fr/chau-a/20161013-thuong-mai-trung-quoc-lanh-gao-nuoc-lanh
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 440
TS. MAI THANH TRUYẾT * KHO CÁ NỤC HÀ TĨNH- QUẢNG BÌNH
Chuyện dài Vũng Áng: Các kho chứa Cá Nục ở Hà Tĩnh và Quảng Bình
Mai Thanh Truyết (Danlambao) -
Căn cứ theo một số tin tức nhận được, kể từ đầu tháng 6 vừa qua cho đến nay, ngư dân bắt đầu đi đánh cá trở lại và tiếp tục cho đến nay (10/2016). Số cá đánh bắt được trong suốt thời gian kể trên đã được xét nghiệm đầu tiên tại kho chứa Cửa Tùng của một cơ sở chế biến cá tại Vĩnh Linh. Trong 30 tấn cá đánh bắt được đã được Ông Hồ Sỹ Biên, Trưởng Chi cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm Quảng Trị cho biết nồng độ trung bình của phenols (tổng hợp) trong cá là 0,037 mg/Kg. Hiện cơ sở nầy chứa 110 tấn cá đông lạnh.
Ngoài kho chứa cá Cửa Tùng ra, từ đó đến nay lần lượt các kho chứa khác tọa lạc từ ngay phía Nam Khu Formosa (nằm phía trên biên giới Hà Tĩnh và Quảng Bình, được xây dựng trên những cồn cát thiên nhiên rộng lớn nằm phía đông của quốc lộ Bắc Nam 1), các kho trải dài từ biên giới phía Nam khu Formosa khoảng 10 Km. Bắt đầu là Kho ở Trường Hải, tiếp theo là Cồn Sẻ, Ba Đồn, Xuân Hòa, Thanh Khê, và Tân Mỹ. Cũng theo ước tính mỗi kho chứa từ 100 cho đến 500 tấn cá. (Cá đánh bắt được sau này có nồng độ thấp hơn LD50, cho nên chưa chết hẳn (còn sống lờ đờ vì độ nhiễm còn thấp) như nồng độ phenols trong các mẫu phân tích cá chết ở phần dưới đây.)
Vì vậy, câu hỏi được đặt ra là tại sao cá đã bị nhiễm độc phenols và các kim loại nặng có nồng độ thấp (nhưng trong vòng an toàn (?) theo tiêu chuẩn Việt Nam) như Cadmium, Chrome, Nicken, Đồng, Sắt, Kẽm, và Mangan… lại được lưu trữ trong phòng đông lạnh tiêu tốn chi phí năng lượng quá lớn?
Lượng cá bị nhiễm độc trên được giữ lại để làm gì?
Để tiêu hủy? Hay dùng để biến chế thành thực phẩm?
Các phân tích dưới đây sẽ cho chúng ta có thêm khái niệm về mức độ nhiễm độc của cá và giới hạn an toàn trong việc tiêu thụ các loại cá trên.
Hàm lượng độc hại LD50
LD50 (Lethal Dose 50) là lượng hóa chất có thể gây ra cái chết của 50% nhóm động vật thử nghiệm. LD50 là phương pháp dùng để đo lường khả năng bị ngộ độc ngắn hạn (cấp tính) của động vật. Sau đây là nồng độ LD50 của hóa chất xâm nhập vào trong các mô của cá:
Cyanide (CN-): 20 – 76 ug/L (phần tỷ- part per billion-ppb) tùy theo loại cá.
Phenol (C6H5-OH): 1 – 4.11mg/L (phần triệu- part per million-ppm).
Mercury (Hg), Thủy ngân: Có đời sống bán hủy (half life của Hg là 2 tháng rưởi (nghĩa là trong thời hạn nầy Hg bị hủy tự nhiên). Tánh sinh tiếp nhận (bio-accumulation) của thủy ngân lên hàng triệu lần so với môi trường nước bên ngoài do đó thủy ngân trong nước sẽ tạo ra sự nhiễm độc lâu dài (long term poisoning).
LD50: 0.12 +/- 0.08 ppm cho cá trên mặt nước và 0.08 - +/; 0.06 ppm cho cá dưới đáy vì tính sinh tiếp nhận).
Arsenic (As), Thạch tín: 2 – 5 ug/L (ppb) cho cá nước ngọt. Đối với cá nước mặn giao động từ 20 – 50 ppb.
Cadmium (Cd): 0.072ppm (72 ppb).
Sắt (Fe): Sắt trong nước có nhiều tác dụng vào đời sống thủy sinh, cả tốt và xấu. Trong thiên nhiên, Sắt (Fe) có trong nước biển với tỉ lệ khoảng 1-3 phần tỷ (ppb), khoảng 1 phần triệu (ppm) trong nước sông và 100ppm trong nước ngầm. Sắt đến từ các khoáng chất khác nhau trong đất, đó là lý do tại sao nước ngầm có chứa nồng độ sắt cao nhất. Lượng sắt trong nước khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố và có thể ảnh hưởng đến các quần thể thủy sản.
LD50 - Nồng độ sắt trong nước và cá: Khi một lượng cao bất thường của sắt tồn tại trong nước, điều này thường là do ô nhiễm liên quan đến xây dựng, khai thác mỏ sắt. Sắt đến trong nhiều hình thức trong nước. Nó có thể được hòa tan trong nước hoặc vì quá nặng mà nó tạo thành một chất kết tủa (colloidal) hoặc những hạt sắt thật nhỏ lơ lửng trong nước. Đây là trường hợp chất thải có trong nước xả thải của Formosa sau ngày 6/4 vừa qua, mà một số “khoa học gia” Việt Nam gọi đó là do tảo đỏ khi thấy dòng nước biển màu đỏ cuồng cuộn chảy ngay sau khi thoát ra từ miệng cống của Formosa.
Ở mức độ bình thường, sắt không gây chết người với bất kỳ động vật thủy sản, nhưng ở mức cao hơn khi sắt không hòa tan trong nước, cá và các sinh vật khác không thể tiêu thụ tất cả các chất sắt có trong nước hoặc thức ăn của chúng. Chất sắt có thể tích tụ trong cơ quan nội tạng của động vật, cuối cùng giết chết chúng. Mức độ cao hơn của sắt trong các loại cá và thực vật thủy sinh cũng có tác động xấu đối với người dân hoặc các sinh vật tiêu thụ chúng.
Hậu quả là một lượng lớn chất sắt thúc đẩy sự phát triển của tảo, trong
đó có thể chặn ánh sáng mặt trời từ các nhà máy khác và có thể phá vỡ
môi trường sống. Sự hiện diện của tảo lớn trong nước sẽ làm giảm độ tươi
(freshness) của nước. Sắt hấp thụ nhiều trong cá sẽ ảnh hưởng đến mức
sinh sản, làm giảm thiểu nhiều quần thể cá và các động vật khác sống
trong nước. Nồng độ cao của sắt đôi khi dẫn đến tăng nồng độ acid trong
nước - giết chết hoặc làm tổn thương đời sống thủy sinh.
Vì vậy không thể định lượng được mức LD50 cho cá.
Vì vậy không thể định lượng được mức LD50 cho cá.
Trong kỹ nghệ luyện gang thép, cứ 1 tấn gang hay thép được chế tạo, phát
thải ra 500 kg rỉ (gỉ) sắt dưới dạng sắt nguyên chất, Hydroxid sắt II
(Fe (OH)2), và Oxid sắt II và III (FeO hoặc Fe2O3). Hỗn hợp của hai chất
sắt sau cùng gọi là sesqui Iron Oxide.
Đây chính là nguyên nhân làm cá chết nhiều nhứt và tồn tại lâu dài ở tầng đáy (sediment) và chuyển mức nhiễm độc đi xa do dòng hải lưu.
Phân tích các mẩu cá sau ngày 6/4
Một số mẫu nước và cá chết dọc theo bờ biển từ Cửa Lò, Nghệ An xuôi phía Nam Vũng Áng đến tận Thừa Thiên, được phân tích tại Hoa Kỳ từ tháng 6 vừa qua cho chúng ta có thể đưa ra kết luận ban đầu là nước xả thải của Formosa chứa những hóa chất và kim loại nặng của kỹ nghệ gang thép.
Kết quả phân tích tại Hoa Kỳ cho thấy sự hiện diện của các hóa chất sau đây trong nước xả thải:
Phenols: 3,7 - 73 mg/Kg
Thủy ngân: 0,017 - 2,5 mg/Kg
Arsenic: 3,8 - 21 mg/Kg
Sắt: 6,3 - 110 mk/Kg
Đây chính là nguyên nhân làm cá chết nhiều nhứt và tồn tại lâu dài ở tầng đáy (sediment) và chuyển mức nhiễm độc đi xa do dòng hải lưu.
Phân tích các mẩu cá sau ngày 6/4
Một số mẫu nước và cá chết dọc theo bờ biển từ Cửa Lò, Nghệ An xuôi phía Nam Vũng Áng đến tận Thừa Thiên, được phân tích tại Hoa Kỳ từ tháng 6 vừa qua cho chúng ta có thể đưa ra kết luận ban đầu là nước xả thải của Formosa chứa những hóa chất và kim loại nặng của kỹ nghệ gang thép.
Kết quả phân tích tại Hoa Kỳ cho thấy sự hiện diện của các hóa chất sau đây trong nước xả thải:
Phenols: 3,7 - 73 mg/Kg
Thủy ngân: 0,017 - 2,5 mg/Kg
Arsenic: 3,8 - 21 mg/Kg
Sắt: 6,3 - 110 mk/Kg
(Về sự hiện diện của cyanide, không thể phân tích được vì các mẫu đã quá ngày lưu trữ (holding time) khi được di chuyển đến Mỹ).
Qua các kết quả nầy, chúng ta đã thấy rõ nguyên nhân làm cho cá chết là do bị nhiễm bất cứ một yếu tố nào trong 4 hóa chất khi so với nồng độ LD50 đã nêu ở phần trên. Từ đó, kết luận khẳng quyết là vấn đề biển đã bị nhiễm độc trầm trọng và mức di hại sẽ lan tỏa và kéo dài hàng vài chục năm theo dòng hải lưu về phương Nam. Hệ lụy trước mắt là cá ở tầng dưới, san hô và các bè cá ở đảo Phú Quý, Ninh Thuận bị chết đồng loạt vào tháng 8 vừa qua.
Chúng ta hẳn đã chưa quên thảm nạn do việc xả thải cyanide và phenols của một nhà máy hóa chất từ thập niên 50 của thế kỷ trước ở vịnh Minamata thuộc tỉnh Kumamoto, Nhật đã gây ra chứng bịnh thế kỷ có tên Minamata (tay chân phân liệt, bắp thịt co giật, liệt não, điếc, mù, dị dạng) mặc dù Nhật đã mất 37 năm để tẩy rửa trầm tích ngay sau đó và tiêu tốn khoảng 200 tỷ Mỹ kim tính theo thời giá năm2016. Chúng ta cũng không quên Cty sản xuất hóa chất D.T.T. ở Palos Verdes, phía Bắc thành phố Long Beach, CA, Hoa Kỳ vào thập niên 1960, xả nước thải nhà máy thẳng vào biển nơi đây, mà mãi cho đến năm 2000, US EPA mới xử phạt Cty và bắt buộc phải thanh lọc một vùng biển rộng lớn chung quanh.
Qua các kết quả nầy, chúng ta đã thấy rõ nguyên nhân làm cho cá chết là do bị nhiễm bất cứ một yếu tố nào trong 4 hóa chất khi so với nồng độ LD50 đã nêu ở phần trên. Từ đó, kết luận khẳng quyết là vấn đề biển đã bị nhiễm độc trầm trọng và mức di hại sẽ lan tỏa và kéo dài hàng vài chục năm theo dòng hải lưu về phương Nam. Hệ lụy trước mắt là cá ở tầng dưới, san hô và các bè cá ở đảo Phú Quý, Ninh Thuận bị chết đồng loạt vào tháng 8 vừa qua.
Chúng ta hẳn đã chưa quên thảm nạn do việc xả thải cyanide và phenols của một nhà máy hóa chất từ thập niên 50 của thế kỷ trước ở vịnh Minamata thuộc tỉnh Kumamoto, Nhật đã gây ra chứng bịnh thế kỷ có tên Minamata (tay chân phân liệt, bắp thịt co giật, liệt não, điếc, mù, dị dạng) mặc dù Nhật đã mất 37 năm để tẩy rửa trầm tích ngay sau đó và tiêu tốn khoảng 200 tỷ Mỹ kim tính theo thời giá năm2016. Chúng ta cũng không quên Cty sản xuất hóa chất D.T.T. ở Palos Verdes, phía Bắc thành phố Long Beach, CA, Hoa Kỳ vào thập niên 1960, xả nước thải nhà máy thẳng vào biển nơi đây, mà mãi cho đến năm 2000, US EPA mới xử phạt Cty và bắt buộc phải thanh lọc một vùng biển rộng lớn chung quanh.
Trở về câu chuyện “cá chết” ở Vũng Áng, căn cứ theo công bố của “nhà
nước” vào cuối tháng sáu vừa qua là nước xả thải từ Formosa chỉ chứa:
Hydroxid Sắt, Cyanide, và Phenols.
Như vậy, phải có điều gì không ổn trong việc công bố kết quả phân tích của CSVN hay không?
Chắc chắn là phải có!
CSVN công bố như thế để che mắt dư luận thế giới về thành phần hóa học của nước xả thải không phải là nước thải từ Cty gang thép Hưng Nghiệp, Vũng Áng vì Cty nầy chưa có một ngày nào đi vào sản xuất gang thép cả.
Tất cả nhằm mục đích làm giảm đi tội trạng của Khu công nghiệp Formosa Vũng Áng mà họ đã từng “ăn chịu” trong việc cho phép xây dựng Formosa mà không áp dụng Luật Môi trường qua dự án nghiên cứu tác động môi trường (Environmental Assessement Impacts – EAI) và việc xây dựng nhà máy thanh lọc nước thải của khu công nghiệp, cùng vi phạm Luật Đầu tư vì không qua thủ tục đấu thầu quốc tế nếu dự án lớn hơn 300 triệu Mỹ Kim, cũng như việc sử dụng nhân công nội địa nằm trong chính sách phát triển quốc gia (hơn 80% trong tổng số khoảng 18 ngàn công nhân là người Tàu).
Như vậy nước xả thải trong suốt thời gian qua đến từ đâu?
Phải chăng đến từ hơn 150 Cty gang thép của Trung Cộng và được chở sang xả thải ở Formosa, một bãi rác của TC. Việt Nam cũng vừa “tạm giam” một tàu TC chở trên 500 tất bùn đỏ vào Vũng Áng trong tháng 9 vừa qua!
Kết luận
Nói đến cá, nhứt là một số lượng lớn cá dọc theo bờ biển, chúng ta liên tưởng ngay đến kỹ nghệ làm nước mắm. Theo tin tức ngày 17-10 ở Việt Nam, Hội Tiêu Chuẩn Và Bảo Vệ Người Tiêu Dùng, phối hợp với Liên Hiệp Các Hội Khoa Học Kỹ Thuật Việt Nam, đã tổ chức công bố kết quả khảo sát, kiểm tra các mẫu nước mắm được lấy tại 10 tỉnh, thành phố. Theo đó, có khoảng 67% mẫu có chỉ tiêu Arsenic (thạch tín, một loại hóa chất độc hại cho sức khỏe) vượt quy định của Bộ Y Tế của Việt Nam. Theo qui định, hàm lượng Arsen cho phép có trong sản phẩm nước chấm tối đa là 1.0mg/l. Tuy nhiên kết quả thử nghiệm cho thấy có đến 101/150 mẫu khảo sát vượt quy định này, có khi đến trên 5 mg/l.
Bác sĩ Trần Văn Ký, Hội Khoa học Kỹ thuật An toàn Thực phẩm Việt Nam nhận xét: “Việc một chai nước mắm mà phụ gia có đến 17 loại có thể ví như hành động đong nước hòa hóa chất để bán lấy tiền, chứ sao gọi là nước mắm?”. Một chai nước mắm 0.5 lít mà có đến 17 hóa chất là quá nhiều, bởi đây là thực phẩm dùng hàng ngày. Các tin tức trên đây có thể cho phép chúng ta liên tưởng đến sự hiện diện của những nhà kho chứa cá đông lạnh nhiễm kim loại nặng ở vùng Formosa, Hà Tĩnh.
Tòa án Hình sự Quốc tế (International Criminal Court-CC) vì tội ác chống lại nhân loại vừa ra phán quyết mở rộng quyền hạn, cho phép xét xử các vụ lạm dụng chiếm đoạt đất đai và phá hủy môi trường.
Ngày 16/9, theo The Diplomat, Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) tại The Hague đạt được bước chuyển đổi chính sách đáng kể trong tiến trình khởi kiện của nội bộ ICC về chọn lựa và ưu tiên vụ kiện. ICC thay đổi trong chính sách, cho phép mở rộng điều tra thêm các tội ác vi phạm hoặc hệ quả để lại khiến môi trường bị phá hủy, do việc khai thác bất hợp pháp tài nguyên thiên nhiên hoặc chiếm đoạt đất đai.
Bà Gillian Caldwell, Giám đốc điều hành Tổ chức Nhân chứng toàn cầu cho biết:"Các lãnh đạo công ty, chính trị gia vi phạm việc chiếm đoạt đất đai, phá hoại rừng nhiệt đới hoặc làm nhiễm độc nguồn nước sẽ sớm phải hầu tòa quốc tế tại The Hague cũng như những tội phạm và kẻ độc tài khác".
Qua quyết định trên của ICC, chúng ta thấy cánh cửa đã hé mở, cho phép các nhóm nhân quyền và NGO có nhiều hy vọng sẽ tạo thành một tiền lệ pháp lý cho những vụ xét xử các "ông trùm chiếm đoạt đất đai" như TC ở Việt Nam với sự tiếp tay của Thái thú biết nói tiếng Việt là CSVN.
22.10.2016
Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam (VEPS)
Mai Thanh Truyết
Như vậy, phải có điều gì không ổn trong việc công bố kết quả phân tích của CSVN hay không?
Chắc chắn là phải có!
CSVN công bố như thế để che mắt dư luận thế giới về thành phần hóa học của nước xả thải không phải là nước thải từ Cty gang thép Hưng Nghiệp, Vũng Áng vì Cty nầy chưa có một ngày nào đi vào sản xuất gang thép cả.
Tất cả nhằm mục đích làm giảm đi tội trạng của Khu công nghiệp Formosa Vũng Áng mà họ đã từng “ăn chịu” trong việc cho phép xây dựng Formosa mà không áp dụng Luật Môi trường qua dự án nghiên cứu tác động môi trường (Environmental Assessement Impacts – EAI) và việc xây dựng nhà máy thanh lọc nước thải của khu công nghiệp, cùng vi phạm Luật Đầu tư vì không qua thủ tục đấu thầu quốc tế nếu dự án lớn hơn 300 triệu Mỹ Kim, cũng như việc sử dụng nhân công nội địa nằm trong chính sách phát triển quốc gia (hơn 80% trong tổng số khoảng 18 ngàn công nhân là người Tàu).
Như vậy nước xả thải trong suốt thời gian qua đến từ đâu?
Phải chăng đến từ hơn 150 Cty gang thép của Trung Cộng và được chở sang xả thải ở Formosa, một bãi rác của TC. Việt Nam cũng vừa “tạm giam” một tàu TC chở trên 500 tất bùn đỏ vào Vũng Áng trong tháng 9 vừa qua!
Kết luận
Nói đến cá, nhứt là một số lượng lớn cá dọc theo bờ biển, chúng ta liên tưởng ngay đến kỹ nghệ làm nước mắm. Theo tin tức ngày 17-10 ở Việt Nam, Hội Tiêu Chuẩn Và Bảo Vệ Người Tiêu Dùng, phối hợp với Liên Hiệp Các Hội Khoa Học Kỹ Thuật Việt Nam, đã tổ chức công bố kết quả khảo sát, kiểm tra các mẫu nước mắm được lấy tại 10 tỉnh, thành phố. Theo đó, có khoảng 67% mẫu có chỉ tiêu Arsenic (thạch tín, một loại hóa chất độc hại cho sức khỏe) vượt quy định của Bộ Y Tế của Việt Nam. Theo qui định, hàm lượng Arsen cho phép có trong sản phẩm nước chấm tối đa là 1.0mg/l. Tuy nhiên kết quả thử nghiệm cho thấy có đến 101/150 mẫu khảo sát vượt quy định này, có khi đến trên 5 mg/l.
Bác sĩ Trần Văn Ký, Hội Khoa học Kỹ thuật An toàn Thực phẩm Việt Nam nhận xét: “Việc một chai nước mắm mà phụ gia có đến 17 loại có thể ví như hành động đong nước hòa hóa chất để bán lấy tiền, chứ sao gọi là nước mắm?”. Một chai nước mắm 0.5 lít mà có đến 17 hóa chất là quá nhiều, bởi đây là thực phẩm dùng hàng ngày. Các tin tức trên đây có thể cho phép chúng ta liên tưởng đến sự hiện diện của những nhà kho chứa cá đông lạnh nhiễm kim loại nặng ở vùng Formosa, Hà Tĩnh.
Tòa án Hình sự Quốc tế (International Criminal Court-CC) vì tội ác chống lại nhân loại vừa ra phán quyết mở rộng quyền hạn, cho phép xét xử các vụ lạm dụng chiếm đoạt đất đai và phá hủy môi trường.
Ngày 16/9, theo The Diplomat, Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) tại The Hague đạt được bước chuyển đổi chính sách đáng kể trong tiến trình khởi kiện của nội bộ ICC về chọn lựa và ưu tiên vụ kiện. ICC thay đổi trong chính sách, cho phép mở rộng điều tra thêm các tội ác vi phạm hoặc hệ quả để lại khiến môi trường bị phá hủy, do việc khai thác bất hợp pháp tài nguyên thiên nhiên hoặc chiếm đoạt đất đai.
Bà Gillian Caldwell, Giám đốc điều hành Tổ chức Nhân chứng toàn cầu cho biết:"Các lãnh đạo công ty, chính trị gia vi phạm việc chiếm đoạt đất đai, phá hoại rừng nhiệt đới hoặc làm nhiễm độc nguồn nước sẽ sớm phải hầu tòa quốc tế tại The Hague cũng như những tội phạm và kẻ độc tài khác".
Qua quyết định trên của ICC, chúng ta thấy cánh cửa đã hé mở, cho phép các nhóm nhân quyền và NGO có nhiều hy vọng sẽ tạo thành một tiền lệ pháp lý cho những vụ xét xử các "ông trùm chiếm đoạt đất đai" như TC ở Việt Nam với sự tiếp tay của Thái thú biết nói tiếng Việt là CSVN.
22.10.2016
Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam (VEPS)
Mai Thanh Truyết
TÈO NGU KHÌN * MẤT ĐẤT BIÊN GIỚI
Hơn 15.000 km2 đất của Việt Nam mất vào tay ai?
Tèo Ngu Khìn - Nếu truy cập vào trang dữ liệu của Ngân Hàng Thế Giới
(World Bank) để tìm thông tin về diện tích đất liền của Việt Nam, bạn
sẽ nhận ra diện tích đất liền của nước mình vào năm 1999 World Bank được
ghi nhận là: 325.490 (km2).
Thế nhưng, chỉ cần rà con chuột nhích qua một năm, tức vào năm 2000, bạn sẽ sửng sốt khi thấy số liệu bỗng tụt đi một cách rõ rệt: 311.060 (km2)! [Xem hình số 2]. Năm 2002 diện tích giảm tiếp xuống còn: 310.550 (km2).
Và từ 2003 trở đi, diện tích đất liền của Việt Nam chỉ còn: 310.070 (km2).
Xin truy cập vào trang dữ liệu của ngân hàng thế giới để kiểm chứng.
Vì sao có chuyện lạ lùng này? Vì sao diện tích của Việt Nam đột ngột
giảm vào năm 1999, từ 325,490 km2 xuống còn 311,060 km2? 14.430 (km2)
bỗng nhiên mất tích chỉ trong một năm, trong khi 1999 là năm chẳng hề có
đại thiên tai hay đại hồng thủy để có thể nghĩ rằng do thiên nhiên
“gặm” mất đất liền.
Vậy là từ 325.490 (km2) năm 1999 giảm xuống còn 310.070 (km2) từ năm 2003 trở đi. ‘Bay” mất 15.420 (km2)!
Bạn sẽ nghĩ rằng 15.420 (km2) chắc không lớn lắm, chả đáng để “tâm tư”.
Nhưng nếu bạn biết quốc đảo giàu có hùng cường Singapore chỉ có 719,10
(km2), lại chẳng có tài nguyên gì ngoài muối mặn biển sâu, bạn sẽ giật
mình khi phần diện tích nước Việt mất đi bằng 21 lần nước Singapore cộng
lại!
Israel, một quốc gia hùng cường khác nằm lọt thỏm giữa vùng Trung Đông,
bao nhiêu năm nay vẫn bị bủa vây bởi các quốc gia Hồi giáo thù địch,
cũng nghèo nàn tài nguyên, đất đai phần lớn là sa mạc hoang hóa, thiếu
thốn nước ngọt trầm trọng. Diện tích của họ bao nhiêu? 20.770 km2, vâng,
chỉ có 20.770 (km2) thôi. Và diện tích đất liền nước mình bị mất gần
bằng 75% diện tích nước Israel!
Nếu năm 1999 không có thảm họa thiên nhiên nào làm mất đất thì phải có
sự kiện chính trị – xã hội nào đấy là tác nhân. Đến đây, bạn sẽ cay đắng
nhận ra: năm 1999 là năm Việt Nam ký kết Hiệp ước Biên giới trên đất
liền với Trung Quốc! Một đoạn dài biên giới phía bắc, phần cương thổ của
tổ quốc khoảng 15.420 (km2) đã mất từ đây.
Chuyện Việt Nam mất đất về tay Trung Quốc từ năm 1999 không mới vì nhiều
tin liên quan đến chuyện này đã râm ran từ mười mấy năm qua. Chuyện ông
cựu Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu – một trong những nhân vật chính liên quan
đến cái hiệp ước này – phải rời ghế giữa nhiệm kỳ và về hưu sớm, rồi
ông Tiến Sĩ Trần Công Trục – nguyên trưởng ban biên giới chính phủ rất
nhiều lần đăng đàn cả báo trong nước lẫn hải ngoại để “thanh minh” rằng
Việt Nam không bán nước, không mất đất…đều liên quan đến cái hiệp định
đau lòng kia.
Nhiều năm trước, tôi cố công đi tìm nguyên văn bản hiệp định biên giới
1999 này để đọc kỹ nhưng đều thất bại. Chuyện nước non quốc sự, đáng lẽ
người ta phải để “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” trước khi thay mặt
nhân dân đặt bút ký. Thế nhưng, người ta đã làm chuyện ấy sau lưng nhân
dân nên việc tôi thất bại khi truy tìm bản gốc hiệp định thì cũng dễ
hiểu. Con mèo nó còn biết phải che dấu những thứ thối tha khi vùi phân
vào tro thì chuyện hiệp định biên giới nhiều năm nằm trong vòng bí mật
có gì lạ đâu.
Vài năm gần đây, trước sức ép dư luận đòi hỏi minh bạch, người ta đã dần
dần hé mở cái hiệp định ấy khi sự đã rồi, đất đã mất. Bạn có thể đọc tham khảo bản hiệp định này trên trang của Biên phòng Việt Nam tại đây.
Mười năm sau hiệp định biên giới 1999, chính quyền hiện nay của Việt Nam
và Trung Quốc còn ký thêm một bản hiệp ước khác để cụ thể hóa thêm
chuyện quản lý, hợp tác, phân định cắm thêm mốc biên giới, dựa trên cơ
sở hiệp định 1999. Hiệp định ấy có tên “Hiệp Định Về Quy Chế Quản Lý
Biên Giới Trên Đất Liền Việt Nam – Trung Quốc”, kèm theo 18 phụ lục về
sửa chữa cột mốc, khôi phục xây dựng cột mốc, quản lý xuất nhập cảnh,
giao lưu biên giới, v.v. Ai quan tâm có thể tìm đọc tại đây: HIỆP
ĐỊNH VỀ QUY CHẾ QUẢN LÝ BIÊN GIỚI TRÊN ĐẤT LIỀN VIỆT NAM – TRUNG QUỐC
GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC
CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA.
Lần giở lịch sử sẽ thấy: năm 41 sau Công Nguyên, vua Quang Vũ nước Đông
Hán sai Mã Viện (tức Phục Ba Tướng Quân) sang đánh Giao Chỉ của Hai Bà
Trưng. Quyết tâm chiến đấu ngoan cường của Đô Dương bộ tướng của
Trưng Vương, Mã Viện phải tạm ký hòa ước và cắm trụ đồng làm
mốc đánh dấu biên giới cực nam của Đông Hán ở động Cổ Sâm
thuộc Khâm Châu. Trên trụ đồng Mã Viện cho khắc 6 chữ: “Đồng trụ
chiết, Giao Chỉ diệt”, nghĩa là đồng trụ gãy thì Giao Chỉ mất.
Như thế, biên giới cực nam của nước Hán kể từ thời Đông Hán đầu
công nguyên cho tới tận gần đây vẫn được đánh dấu rõ ràng bằng
cột mốc biên giới ở Khâm Châu (Khâm Châu trước thuộc tỉnh Quảng
Đông nay được Trung Quốc điều chỉnh thuộc về tỉnh Quảng Tây).
Sách “Lĩnh Ngoại Đại Đáp” của Trung Quốc (đời Đường) và “An Nam Chí
Lược” của Lê Tắc, đều chép cột này được dựng ở Khâm Châu, trong vùng
hang động Cổ Sâm. Sách “Vân Đài Loại Ngữ” của Lê Quế Đường (tức Lê Quý
Đôn) có ghi: “Giữa đỉnh núi Phân Mao ở Khâm Châu có cột đồng to độ hai
thước. Có lẽ đây là Mã Tống dựng lên”.
Núi Phân Mao ở đâu? Sách “Dư Địa Chí” của Nguyễn Trãi viết: “Vân Cừ, Kim
Tiêu, Phân Mao ở về Yên Bang (sau tránh húy đổi làm Yên Quảng). Vân Cừ
là tên sông, tên khác của sông Bạch Đằng, Tiền Ngô Vương bắt Hoằng Tháo,
Hưng Đạo Vương bắt Ô Mã Nhi đều ở đây. Phân Mao là tên núi, Kim Tiêu là
cột đồng. Ở phía Tây lộ Hải Đông 300 dặm có đèo Phân Mao, ở nửa đèo có
cột đồng của Mã Viện dựng…” (Dư Địa Chí, Nguyễn Trãi toàn tập, bản dịch
của Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội – Hà Nội, trang 202).
Sách “Gia Khánh Trùng Tu Nhất Thống Chí” của Nhà Thanh cho biết: núi
Phân Mao ở phía Tây Khâm Châu. Năm Tuyên Đức thứ 2 (1427) thời Minh, núi
ấy thuộc vào châu Tân An của Giao Chỉ. Đến năm Gia Tĩnh thứ 21 (1542)
Mạc Đăng Dung hàng, mới thuộc về nước Tàu.
Cái gọi là ranh giới phía Nam của nước Hán tưởng đã quá rõ,
vậy mà rất nhiều bậc học giả (không học thật) người Trung Quốc
vẫn đang gân cổ cố cãi về một vùng biển lịch sử của Trung Quốc
có từ thời nhà Hán!
Chuyện xưa thì thế. Còn gần đây là thời đường biên giới các quốc gia đã được “thế giới văn minh” công nhận.
Sau nhiều lần thương lượng gay cấn, kể cả dùng sức mạnh quân sự, ngày
9/6/1885 nhà cầm quyền Pháp và Trung Hoa đã ký Công Ước Thiên Tân về
biên giới Việt – Trung được gọi là “Hiệp Ước Hòa Bình, Hữu Nghị và
Thương Mại” (Traité de Paix, d’Amitié, et de Commerce). Công ước này đã
được bổ túc thêm bởi công ước ngày 26/6/1887 và công ước ngày 20/6/1895.
Thế nhưng, bất kể công ước của loài người văn minh thời hiện đại
nói trên thì chuyện tưởng không thể xảy ra vẫn xảy ra. Hãy xem những
tấm ảnh chụp người Trung Quốc đào cột mốc biên giới theo hiệp
ước Pháp – Thanh 1885 – 1895 (hình ảnh đính kèm, từ hình số 3 trở đi)
để đem về trưng bày ở nhà bảo tàng sai khi có Hiệp định biên giới
Việt – Trung 1999 đề cập bên trên. Nhìn kỹ, trên cột đá khắc hàng
chữ “Đại Nam Quốc Giới”. Đại Nam quốc giới sao nay lại nằm
trong lãnh thổ Trung Quốc?
Trong một ảnh khác là cột mốc ở tỉnh Vân Nam. Trên cột còn ghi rõ
một bên là lãnh thổ Chine (Trung Hoa) và một bên là Annam (Việt
Nam). Rõ ràng như thế tại sao giờ lại nằm hẳn trong lãnh thổ
Trung Quốc?
Người Trung Quốc đào bỏ cột mốc biên giới Việt Trung (cột mốc cũ) đem về trưng bày ở viện bảo tàng của họ! Cột mốc biên giới mà giờ lại nằm sâu trong đất Trung Hoa?
"Đại Thanh Quốc Khâm Châu Giới", "Đại Nam Quốc Giới", cột mốc biên giới mà giờ lại nằm sâu trong đất Trung Hoa?
Người Trung Quốc đào bỏ cột mốc biên giới Việt Trung (cột mốc cũ?) đem về trưng bày ở viện bảo tàng của họ! Cột
mốc biên giới mà giờ lại nằm sâu trong đất Trung Hoa? Chữ Chine (Trung
Hoa) & An Nam (Việt Nam) còn rành rành thế kia! Đau lòng.
Cột đá tưởng vô tri vô giác nhưng hàng chữ “Đại Thanh Quốc Khâm
Châu giới” làm rúng động lòng người. Lịch sử 2000 năm bỗng hiện
ra: Khâm Châu, Cổ Sâm, Mã Viện, Quang Vũ, ranh giới cực nam nước
Đông Hán… rõ mồn một. Sao “Khâm Châu giới” nay lại nằm bên trong
lãnh thổ Trung Quốc?
“Đại Nam quốc giới”? Cột mốc “Chine (và) Annam”? Sao lại nằm sâu
trong lãnh thổ Tàu? Chả lẽ đường biên giới liên tục từ Vân Nam phía
tây cho tới Quảng Đông phía đông đều bị thế hết ư?
Cột mốc biên giới mà giờ lại nằm sâu trong đất Trung Hoa?
Khi tòa quốc tế PCA ra phán quyết lịch sử bác bỏ cái gọi là đường 9 đoạn
(đường “lưỡi bò”, U-line) sau khi Philippines kiện, Trung Quốc vẫn
ngang nhiên bác bỏ, tiếp tục tôn tạo bãi đá, đưa vũ khí ra củng cố thì
làm sao lại có thể thơ ngây như ông cựu cố vấn Lê Đức Thọ (Sáu Búa) nói
khi Trung Quốc chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa từ tay chính thể Việt Nam
Cộng Hòa vào năm 1974: “Họ có giải phóng Hoàng Sa giúp ta thì sau này họ
cũng trả lại thôi”. Niềm tin của ông Thọ đã được Trung Quốc “củng cố”
mạnh mẽ thêm vào năm 1988 khi Trung Quốc cho hải quân ra Trường Sa thảm
sát 64 người lính, Việt Nam mất đi Gạc Ma và nhiều đảo khác từ đấy.
Lòng tự hỏi: Bao nhiêu tấc thước núi sông đã rơi vào tay giặc? Và ai
sẽ phải trả lời cho toàn dân biết rõ vì sao cương thổ Việt Nam lại mất
đi 15.420 (km2) vào năm 1999?
1) Bài Học Bị Đánh Cắp:
2) Trung Quốc đã cho nhổ cột mốc biên giới tại các tỉnh lân cận Việt Nam:
3) Trung Quốc nhổ cột mốc lịch sử ở biên giới phía Bắc:
4) Chiến dịch thủ tiêu các cột mốc biên giới Việt Trung:
5) Tìm hiểu các mô hình mốc giới được cắm trên đường biên giới Việt Trung theo các công ước Pháp-Thanh 1887 và 1895:
6) Biên giới Việt-Trung: bản đồ nói gì?
7) Việt Nam có nhượng bộ Trung Quốc về biên giới không?
8) Chứng Minh Lịch Sử Ải Nam Quan Là Của Việt Nam:
9) ẢI NAM QUAN TRONG LỊCH SỬ (1):
10) ẢI NAM QUAN TRONG LỊCH SỬ (2):
11) ẢI NAM QUAN TRONG HIỆN TẠI (3):
12) Thác Bản Giốc của Việt Nam hay của Trung Quốc (Phần I):
13) Thác Bản Giốc của Việt Nam hay của Trung Quốc (Phần II):
14) Việt Nam có bị mất đất ở khu vực Ải Nam Quan cho Trung Quốc?
15) Sách Giáo Khoa dứt khoát không được né tránh cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc:
16) Thác Bản Giốc còn hay đã mất?
DAVID THIÊN NGỌC * VIỆT CỘNG THẾ CÙNG
Thế cùng của CSVN
David Thiên Ngọc (Danlambao)
- Qua sự vụ san bằng nghĩa trang, tốc mồ cày mả, vương vãi cốt xương
của người đã khuất ở nghĩa trang Giải Phướn, Dương Nội-Hà Nội trong mấy
ngày qua và nhiều nghĩa trang trên toàn quốc với mục đích trả thù nhân
dân, giáo dân, tín đồ các tôn giáo và bán đất thu lợi về cho bọn chúng
là tội ác của bọn csVN đã gây ra cho nhân dân VN mỗi ngày mỗi chất cao
thành núi. Máu của nhân VN đã chảy thành sông... Con đường đấu tranh của
nhân dân chống lại bọn cường quyền độc tài khát máu, man rợ này không
thể bằng con đường ôn hòa được nữa mà hãy vùng lên tiêu diệt bọn chúng,
thiêu hủy, cáo chung đảng csVN.
Phương pháp đấu tranh bất bạo động của Thánh Gandhi thế kỷ trước nay đã
xa rồi và không còn phù hợp với tình thế của XH VN thời cộng sản tiếm
quyền này nữa. Chúng ta không thể lấy “Tâm Phật”, “Lòng Chúa” để cảm hóa
được lũ vô thần, vô luân và vô đạo. Chúng san bằng Chùa Liên Trì Q2 Sài
Gòn, đập phá tượng Đức Mẹ ở giáo xứ Đông Yên-Kỳ Anh, Hà Tĩnh, san bằng
nghĩa trang giáo xứ Cồn Dầu Đà Nẵng, cùng các nghĩa trang của nhân dân
Dương Nội và trên toàn nước từ Nam chí Bắc. Đồng thời truy bức Linh Mục,
giáo dân các giáo xứ ở Nghệ An, Hà Tĩnh và đe dọa mạng sống của các vị,
đàn áp, đánh đập, cầm tù các dân oan, các nhà đấu tranh cho nhân quyền
cho môi trường, cho sự sống còn của Quốc Gia Dân Tộc như bắt giam Mẹ Nấm
- Nguyễn Ngọc Như Quỳnh mới đây là một minh chứng cho thói côn đồ vô
loại, hại dân, bán nước, chúng không đội trời chung với Nhân Dân, Giáo
Dân, Phật Tử và tín đồ các tôn giáo khác.
Thế đã đến nước cùng, chúng ta không thể đem thịt da, xương máu ra mà
chống chọi một cách mềm yếu, tiêu cực với súng còng mà phải mạnh mẽ,
ngoan cường, sử dụng mọi phương tiện có thể để tiêu trừ chúng một cách
tích cực hơn. Chúng ta chắc hẳn không quên lời của bọn Lê Duẫn, Trường
Chinh… chóp bu csVN từng nói rằng chúng “giữ chính quyền bằng nòng súng”
rồi sao? Và Hồ Quang cùng bè lũ cũng đã từng cướp chính quyền bằng
“nòng súng”! Dân gian thường nói “đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma
mặc áo giấy” vậy thì tại sao chúng ta lại đem đạo đức, hòa bình, nhân
bản để đối thoại với quỉ dữ sa tăng? Đem chân thành ra mà đối lại và tin
nghe lời “xảo ngôn, điếm ngữ” của bọn bất nhân vô liêm sỉ? mà sự việc
này đã kéo dài hơn ¾ thế kỷ qua.
Nòng súng của cường quyền chỉ bắn ngã một số người chứ không thể bắn gục
hàng triệu nhân dân? Để đối lại với nòng súng của cường quyền độc tài
khát máu... nhân dân Bắc Phi đã vùng lên và nòng súng đành gục xuống,
còng cũng rớt rơi theo chế độ và người dân cũng đã làm chủ được lấy
mình! Tại sao chúng ta không thể? Nhân dân VN hãy ngoan cường đoàn kết
đứng lên sát cánh bên nhau đem hết sức mình vì Quốc Gia, Dân Tộc cho dù
một số phải hy sinh để “làm tất cả những gì cộng sản sợ” và dứt khoát
không hãi sợ những gì mà cộng sản âm mưu làm hại nhân dân. Khi đó ắt hẳn
sẽ thành công.
Con đường chống cộng cứu nước của chúng ta tuy mỗi người, mỗi hội đoàn,
tổ chức có khác nhau nhưng cũng không ngoài mục đích, lý tưởng là một
nước Việt Nam không cộng sản và xây dựng lại quê hương sau hàng thập kỷ
tan hoang vì thù trong giặc ngoài tàn phá, bán mua, xà xẻo… chứ không
đối nghịch để chuốc lấy thương đau. Ta còn nhớ ở thế kỷ 13 khi quân
Nguyên bao phen xâm lược cõi bờ nước ta. Các vì Vương như Hưng Đạo
Vương, Trần Quang Khải… đã gác mối hiềm riêng trong Hoàng Tộc mà sát
cách bên nhau lo việc nước. Cuối cùng thì “Đằng Giang tự cổ huyết do
hồng”, non sông không còn bóng giặc. Tấm gương sáng này thiết tưởng ta
còn soi mãi… đoàn kết để vì một Tổ Quốc Việt Nam thương yêu.
27.10.2016
TRẦN QUỐC VIỆT * ĐÁNH VỢ
Hồ than phiền các đồng chí đánh vợ
AP 18/3/1967, Sài Gòn - Hồ Chí Minh đã kêu gọi các đồng chí cộng sản của ông không đánh vợ nữa.
“Đánh vợ là dã man và vi phạm pháp luật,” Chủ Tịch Bắc Việt Nam nói với
các thành viên của một hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh Hà Tây. Bài diễn
văn của Hồ Chủ Tịch, do Hà Nội phát thanh, đã nghe được tại Sài Gòn.
Nhà lãnh đạo 76 tuổi này đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau trong bài
phát biểu của ông trước nhiều người cả nam lẫn nữ ở hợp tác xã “T”, một
hợp tác xã thí điểm ở tỉnh tiếp giáp với Hà Nội về hướng tây nam.
Hồ Chủ Tịch cũng nói ngoài ra còn có quá nhiều các cuộc liên hoan ở tỉnh Hà Tây.
“Ở nhiều vùng người ta tổ chức liên hoan khi bắt đầu cấy, khi cấy xong,
khi cán bộ huyện xuống kiểm tra, khi đặt ống cống, hay khi thực hiện bất
kỳ sự cải thiện nào.” Ông nhận xét.
“Được biết người ta đã giết vài con lợn để tổ chức cuộc liên hoan về cần kiệm.”
Nguồn:
Báo Christian Science Monitor số ra ngày 18 tháng Ba , 1967. Tựa đề nguyên tác "Ho deplores comrades’ wife beating".
Bản tiếng Việt:
danlambaovn.blogspot.com
VAN MỘC CƯ SĨ BÌNH:
Đừng đánh vợ nhưng giết vợ, rồi quăng xác cho xe cán thì được! Đó là lời dạy của Bác!
GS. PHẠM ĐỨC LIÊN * ĐỊNH MỆNH
Như là Ðịnh Mệnh
Phạm Đức Liên
Lời giới thiệu:
"Như là Định Mệnh" của Thiên Thai Phạm Đức Liên chỉ là một chương nhỏ trong tập: "43 năm gõ đầu TRẺ" của cùng tác giả. Ông là nhân chứng của lịch sử: - từ trận đói năm Ất Dậu (1945): hơn 2 triệu dân miền Bắc Việt Nam bị chết đói do Thực Dân Pháp và Phát Xít Nhật "chơi" nhau!! - đến buổi Lễ Tưởng Niệm Nạn Nhân Mỹ trong cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 bởi bọn khủng bố lúc 7 giờ sáng ngày 11/9/2016 (CNN)...
*****
A. Dẫn nhập:
1:
Tháng 6 năm 1959 - với quá nhiều may mắn - tôi đậu Tú Tài II ban Toán (A: Khoa Học Thực Nghiệm, B: Toán, C: Văn Chương, Cổ Ngữ...) hạng Bình Thứ (theo thang điểm 20, trên 12 là Bình Thứ, trên 14: Bình, trên 16: Ưu, trên 18: Tối Ưu, Ưu Ban Khen...) - vì trúng tủ bài Lý Hóa (mà Lý Hóa hệ số 4). Vốn con nhà giàu / xứ quê (Nghĩa Hưng, Nam Định; lenhaque) - tôi cho rằng - bằng Tú Tài Toàn Phần là to lắm rồi ! - nên ghi danh học Đại Học Khoa Học Sài Gòn (MPC ; Math, Physics, Chimie) - học phất phơ - còn đi dạy học tư (1959 với bằng Tú Tài II có thể xin dạy khế ước hay dạy giờ - bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp - ngay tại Sài Gòn, Gia Định nếu có good connection. Xã hội nào cũng thế/tôi sống thực tế từ Việt Nam qua Canada, và Mỹ - tài ba nhưng phải có tay trong).
Sinh viên thời VNCH
2:
Tháng 7 năm 1959, tôi bước vào nghề gõ đầu TRẺ (godauTRE, chữ TRẺ viết hoa - tôi yêu tuổi trẻ Việt Nam lắm - nhất là tuổi trẻ Việt Nam Đại Lục đang làm nên lịch sử oai hùng cho một dân tộc hùng anh (Children of the Dragons and Fairies). Tôi dạy Lý Hóa lớp đệ Tứ (lớp 9) tại Hội Thanh Niên Thiện Chí (đường Phan Đình Phùng, gần tiệm giải khát quí phái Sing Sinh) và trường Xuân Thu (đường Phan Thanh Giản mà hiệu trưởng là kỹ sư Nguyễn Đăng Thục - Ngài là Khoa Trưởng Đại Học Văn Koa Sài Gòn) ... rồi Lý Hóa lớp Đệ Nhị B (lúc nầy còn thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, Tú Tài I, Tú Tài II - thi những môn chánh / đậu thi viết - mới đưọc vào thi vấn đáp = oral cho tất cả 7, 8 môn học. Trung học, tỉ lệ đậu 20%, Tú Tài I = 10%, Tú Tài II = 25%. Đây là tỉ lệ toàn quốc. Trịnh Hoài Đức, Ngô Quyền, các trường công lập thì cao hơn. Dạy Đệ Tứ, được trả 50 đồng/giờ và Đệ Nhị là 70 đồng/giờ (trong khi tô phở hay lít xăng là 2, 3 đồng và thuê gác xép = phòng trọ là 300 đồng/tháng, lạng vàng = 2,000 đồng. Làm Lục Sự ở tòa án cần Tú Tài II lường 2,700 đồng tháng và 1 đô la Mỹ = 35 đồng VNCH). Dạy Lý Hóa trường tư - nổi danh lúc đó là Đặng Sĩ Hỷ và đệ nhị là Đinh Công Hoạt (trường Hưng Đạo của GS Nguyễn Văn Phú). Dạy khơi khơi, Lý Hóa 2 lớp Đệ Nhị là mỗi tháng có 2,800 đồng: 5 giờ/tuần x 70 đồng x 4 tuần) - trong khi học bổng ở Đại Học Sư Phạm Sài Gòn là 1,500 đồng / tháng, Quốc Gia Hành Chánh là 1,000 đồng, còn Kỹ Sư Phú Thọ tự sinh viên phải làm đơn xin học bổng ở các Nha Sở, ngành minh theo học như công chánh, công nghệ, điện, hóa học... Kỹ Sư Phú Thọ, Giáo Sư ĐHSP mới ra trường có chỉ số lương 470 (BS), Kỹ Sư Nông Lâm Súc, Quốc Gia Hành Chánh chỉ số lương 430 (BA).
B. Đại Học Sư Phạm Sài Gòn: một định mệnh:
I. Miền Nam nở rộ (sau 20/7/1954):
1. Quyết tâm ngăn chặn làn sóng đỏ từ phương Bắc bằng Domino Policy - Hoa Kỳ dùng lá bài Ngô Đình Diệm và khai sinh ra Việt Nam Cộng Hòa.
- "Mời người Pháp ra chỗ khác chơi" - tháng 4 năm 1954 - 50 cố vấn quân sự Mỹ đến Gài Gòn và thiết lập cơ quan đầu não MAAG (Military Aid Advisory Group) do Trung Tướng O'Daniel cầm đầu (các tướng lãnh Mỹ - tình nguyện được qua Sài Gòn - O'Daniel là đại tướng 4 sao , xin xuống lon trung tướng 3 sao = a voluntary drop in rank - vì Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp là Trung Tướng Collins, rồi Trung tướng Ely). Trong MAAG có Đại Tá Lansdale (1908-1987) là sĩ quan tình báo (OSS and CIA) - làm cố vấn cho Thủ Tướng Diệm (1954-1957). Lansdale từng làm cố vấn cho Hồ Chí Minh (1944-45) và cho Tồng Thống Magsaysay (Phi Luật Tân). Lansdale được lên Thiếu Tướng và trở lại là Phó Đại Sứ Mỹ tại VNCH năm 1965-1968 . Ông cũng là một trong những thầy dạy tình báo cho Phạm Xuân Ẩn. Theo Lansdale - những năm đầu - cố vấn Mỹ dầy đặc - đủ các ngành - xung quanh cụ Diệm - trừ giờ ngủ). Khi cố vấn quân sự Mỹ tăng nhiều (đến 31/12/1962, số cố vấn quân sự Mỹ trên các lãnh vực đên đến gần 20,000 người ) thì MAAG đổi thành MACV (Military Assistance Commmand Vietnam), 1962 và Đại Tướng Paul Harkins chỉ huy.
- Và viện trợ kinh tế dồn dập cho Saigon (Xin nhớ rằng: đồng thời Trung Cộng và Liên Xô ồ ạt viện trợ cho Hà Nội để xâm chiếm Miền Nam. Lê Duẩn:" Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô , Trung Quốc"). Hà Nội, Sài Gòn ; làm gì có chủ quyền!.
- Tiền viện trợ do dân nước viện trợ đóng thuế - mà đồng tiền thì liền với khúc ruột - viện trợ/ bản chất là cho có điều kiện ẩn tàng: "xong việc, đương sự phải trả lại bằng dâng biển, hiến đất - trừ khi anh đưọc khai tử!" Cay đắng cho Việt Nam!.
2. Miền Nam trăm hoa đua nở:
a. Để quốc tế hóa “tờ khai sanh” Việt Nam Cộng Hòa, người Mỹ kêu gọi Đồng Minh: Australia, New Zealand, Pakistan (East), Phi Luật Tân, Thái Lan, Pháp, Anh cùng mình ký Minh Ước Phòng thủ Đông Nam Á = SEATO (The Southeast Asia Treaty Organization) tại Manila (Phi) vào tháng 9 năm 1954 (gọi là Manila Pact) trong đó nhấn mạnh là bảo vệ tới cùng Miền Nam Việt Nam và Vương Quốc Lào. Với cây dù SEATO vững chắc như thế làm gì mà tướng Trần ngọc Tám (tư lịnh quân khu II = Cao Nguyên + duyên hải Trung Phần) chẳng chểnh mảng trong việc rèn luyện binh lính – bảo vệ dãy Trường Sơn !. Thế nhưng Miền Nam vẫn nở rộ nhất là văn hóa, giáo dục – sau khi có SEATO,
b. Từ năm 1956, hội đoàn (tôn giáo, phe nhóm…) thi nhau mở trường học khiến người người đua nhau đến trường. Những lớp học , lớp luyện thi được mở cả buổi tối. Tại trung học công lập như Gia Long, Pétrus Ký … giáo sư vẫn còn chưa đủ (giáo sư dạy trung học đệ I cấp = còn có thể vá víu, giáo sư trung học đệ II cấp = giáo sư cử nhân = thiếu đến 40%) nên thầy cô ở trường tư là một nan giải. Có những thầy dạy Pháp văn Đệ Nhị (lớp 11, thi Tú Tài I) mà chỉ học lực Certificate d’étude primaire (Bằng Tiểu Học thời Pháp đô hộ)!. Tiểu học là école primaire – kiến thức đâu mà dạy Tú Tài I. Ngay có bằng Diplôme d’étude secondaire du premier cycle (Trung Học Đệ Nhất Cấp) cũng không thể được vì đệ nhất cấp biết gì mà dạy Tú Tài!.
c. “Việt Nam Độc Lập” từ ngày 11 tháng 3 năm 1945 ngay sau khi Đại Sứ Nhật yết kiến vua Bảo Đại và “xin kính dâng nền độc lập lên Ngài và dân tộc Việt Nam mà quý quốc dầy công tranh đấu” !. Chương trình giáo dục Hoàng Xuân Hãn ra đời (HXH là Kỹ Sư và Thạc Sĩ Toán = Agrégé):
Giáo sư trung học đệ Nhất cấp = huấn luyện 2 năm đại học = Professeur de l’enseigment secondaire du 1er cycle.
Giáo sư trung học đệ Nhị cấp (dạy Tú Tài) = huấn luyện 4 năm đại học = Professeur de l’enseigment secondaire du 2ème cycle.
Giáo sư Tiến Sĩ = Giáo sư Đại Học = Professeur Docteur.
Giáo sư Thạc Sĩ= Professeur Agrégé!
II. Đại Học Sư Phạm Saigon – như một định mệnh:
1. Tôi yêu người lính Cộng Hòa, nhất là hình ảnh “sinh viên thủ khoa trường Võ Bị Liên Quân Dalat bắn tên đi bốn phương trời ngày tốt nghiệp” nên ngay tháng 9/1957/58, đệ Nhị B2, Chu Văn An) tôi có ý định đi Dalat (khóa 15?). Thế rồi – như một định mệnh – tôi học Sử Địa Đại Học Sư Phạm Saigon. Vừa ý cha mẹ 50%, tôi thi vào Quốc Gia Hành Chánh và Đại Học Sư Phạm (học cùng sách = Sử Địa Trung Học và Cử nhân Luật I – mà thi được hai nơi). Tôi yêu chỉ số 470 và học bổng 1,500 đồng/tháng.
Đại học Dược Khoa Saigon (Tú Tài + 5 năm)
Đại Học Văn Khoa (1954/65), Sau Cách Mạng1963, ĐHDK và ĐH VK di chuyển về Cường Để (vốn là Thành Cộng Hòa = Liên binh phòng vệ Tổng Thống Phủ). Sau ngày 1/11/1963, trường Dược tổ chức kỳ thi tuyển để mọi người dù bình dân cũng có thể nhập học ( trước kia 90% là COCC)
2. Lứa tuổi chúng tôi (sanh vào đại chiến thứ hai, 1939-1945) là đợt tuổi giao thời – thật là khó khăn trên đường học vấn: học 4 năm đại học thì thầy cô toàn là người Pháp (ngay cả thầy cô người Việt cũng giảng bài bắng tiếng Pháp vì giáo sư được đào tạo từ Paris về) = thời điểm 1959/1960. Quay lại đại học – để học Cao học (Diplôme d’etude supérieure = DES, Master’s Degree) thì giáo sư là người Mỹ hay thầy cô là người Việt được huấn luyện PhD từ Mỹ về (Tiến sĩ Huỳnh văn Quảng, Huỳnh Huynh, Đoàn Viết Hoạt…) thời điểm 1969/70. Lại vừa học vừa chờ - chờ thầy cô vừa xong PhD ở Mỹ về mới có lớp mới – mà Cao Học hay Tiến Sĩ theo quy chế Mỹ - phải đậu đủ số lớp của năm I – rồi mới được học năm II chuyên ngành và viết Memoirs hay Thesis (Luận Án). Quả thật là đoạn trường, và đoạn trường.
Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!
Vừa qua được những khó khăn – thì ù té chạy (di tản 1975). Đó là may mắn (10%). 70% ở lại quê mẹ thì bị đi cải tạo, kinh tế mới… Và 20% đã hy sinh cho tổ quốc. (Đón đọc: “Nói với tuổi 60” của Mây Tần, 78 tuổi – trải nghiệm xuyên 3 quốc gia: Vietnam, Canada, US – từ một anh thợ làm bánh như cụ Hồ thuở xưa !).
3. Chương trình Sử Địa lớp Đệ Nhất (12) Việt Nam Cộng Hòa – rất bổ ích- trước khi bước vào đại học – học sinh có cái nhìn tổng quát 1958/59:
a. Tình hình thời sự, chánh trị toàn cầu – thế giới đi về đâu ? – Á Phi và Châu Mỹ La Tinh – những chế độ độc tài… (Lịch Sử Thế Giới).
b. Hiện tình kinh tế thế giới: - Các cường quốc kinh tế chi phối quả địa cầu – những khối kinh tế (tư bản, cộng sản …). Đó là phần địa lý. Từ sau đại chiến thứ Hai (1939/45) kinh tế Hoa Kỳ nổi bật lên (nhà máy đúc súng đạn trở thành nhà máy sản xuất hàng hóa). Mỹ lãnh đạo phe Tư Bản đương đầu với Cộng Sản.
4. Rồi tốt nghiệp từ ĐHSP Saigon tôi được giảng dạy môn Sử Địa lớp Đệ Nhất. Tôi miệt mài soạn bài (quên cả giờ hẹn với người tình Dược Khoa !). Rồi chỉ mong đến lớp – đối thoại với học trò – vì chương trình Sử Địa lớp 12 tuyệt vời nhất là nền kinh tế Mỹ - số 1 toàn cầu:
“Hăng say qua nhịp bước,,
Ban mai- mờ tinh sương”
(Thiên Thai)
(Phương, Cúc, Thoại … ơi, Định, Tâm, Hạnh … ơi ! Các em còn nhớ hay đã quên: Thầy giảng bài đến khàn cả giọng – Vì tôi yêu tuổi trẻ, nhất là Lục Địa Việt Nam lắm !.)
C: Lời kết: Giáo Sư Sử Địa , một sứ mệnh.
Sứ mệnh lịch sử là sứ mệnh cao cả. Con đường lịch sử là con đường quyết định. Các bạn trẻ Việt Nam yêu dấu ơi – Việt Nam Lục Địa . Xin ghi nhớ: “ L’histoire est un éternel recommend = Lịch sử là một tái diễn không ngừng!. Thế hệ đàn anh bán nước thì thế thệ đàn em phải vùng lên cho dẫu vị quốc vong thân!. “Người làm chánh trị (politicians) không phải là đọc mà phải học và đậu bằng Lịch Sử “ - “đậu cho đời biết tay”.
1. May mắn lắm – tôi được dạy Sử Địa nước Mỹ và được di tản vào phút chót từ nóc tòa đại sứ Hoa Kỳ (2,000 người, tối khuya ngày 29/4/1975 – trong tổng số 130,000 người di tản năm 1975). Lại được sống ở Mỹ (cường quốc kinh tế số 1 và là đàn anh đùm bọc các em !).. Tôi học Statistics and Probability (Xác xuất và Thống Kê - Education) và dạy Toán (trong trường đại học - college) nên hơi méo mó nghề nghiệp – nhìn các đảng phái bằng con số thống kê. Các chánh trị gia – nhất là nhưng ứng cử viên tổng thống – bằng những bài diễn văn hay những cuộc tranh luận chỉ là rỗng tuếch (absolutely empty), ru ngủ cử tri bằng những mỹ từ hào nhoáng học được từ những sách giáo khoa. Cái oái oăm là đa số cử tri (80%) lại thích ru ngủ qua những lời nói khêu lên tự ái dân tộc, những lời hứa suông (hollow promise, empty word!). Ấy là dân Mỹ - trình độ trung bình là 1.5 năm đại học. Dân chủ đó – thế nhưng ứng cử, tranh cử, bầu cử là có lừa dối (cheating) vì ngay từ lúc chia đơn vị bầu cử là đã có phe nhóm, chia chác rồi. Chia chác để cầm quyền và cầm quyền để chia chác. Tin vào đâu ? Tin vào kẻ nói dối it hơn (còn chút xíu lương tâm = 30% cho quốc gia dân tộc). Chi bằng (wouldn’t it be better to…) tin vào con số thống kê (ngay con số thống kê cũng có thể phục vụ chế độ nhất là chế độ độc tài cộng sản). Ứng cử viên lừa bịp cử tri nhưng không nói dối được con số.
2.
a. Từ những năm đầu của thế kỷ 21:
- Một nước Mỹ chỉ đi lên,
- Một nước Mỹ chỉ hùng cường,
- Một nước Mỹ chỉ tiến bộ,
- Một nước Mỹ chỉ lãnh đạo…
b. Thế nhưng – từ năm 2008 – Đảng Dân chủ cầm quyền thì:
- 8 năm đảng Cộng Hòa lãnh đạo, năm 2004 thâm hụt công quỹ nhiều nhất là 413 tỉ đô.
- 8 năm đảng Dân Chủ nắm quyền, năm 2009 thâm hụt công quỹ 1,413 tỉ, cứ thế liên tiếp 3 năm sau: 2010, 2011, 2012 năm nào cũng trên 1,300 tỉ !!!
Thống kê của The World Almanac 2016 – trang 59
Làm gì mà nợ của chúng ta (Debt held by the public) = nợ như Chúa Chổm !.
Thống kê của The World Almanac 2016 – trang 60
Cho đến hôm nay (2016): con cháu chúng ta nợ 14,100 tỉ hay 14.1 Ức (xin được tính tròn). Hình như quý vị dân cử của đảng Dân Chủ nói nhiều hơn làm (easy talk than done), lại nói giỏi và dai (long lasting) và chỉ thích tiêu tiền thuế của dân trung lưu dưới bình phong bao bọc dân nghèo !. Tám năm cầm quyền, Tổng Thống Dân Chủ đưa dân Mỹ nợ thêm 9,000 tỉ. Too, very too much!!!. Cộng Hòa = nói ít làm nhiều (less talking – more doing). Time (1) to change…
3. Từ năm 2008:
- Một nước Mỹ chỉ đi ngang,
- Một nước Mỹ chỉ rụt rè (chiến cuộc Syria…)
- Một nước Mỹ chỉ làng nhàng,
- Một nước Mỹ hết lãnh đạo !
a. Về công nghệ high-tech: Hoa Kỳ có Iphone 7 thì Samsung Galaxy 7 (Nam Hàn), Hua Wei P8 (China) … cạnh tranh (Hua Wei P8 là Iphone 6)
b. Về uy tín nước Mỹ: ngày 27 tháng 1 năm 1973 (với Hiệp Định Paris) Mỹ chánh thức khai tử VNCH = uy tín lãnh đạo quốc tế của Hoa Kỳ xuống dốc. Tổng Thống Dân Chủ - mới đây – đầu tháng 9/2016:
- bị Trung Cộng hạ nhục ở Hàng Châu – trong kỳ đại hội thường niên của 20 cường quốc kinh tế hàng đầu nhân loại - G20. Nhân viên nghi lễ của phái đoàn Mỹ cải vã với nhân viên phi trường về thảm đỏ đón TT Obama !!!
-Tại Asean – US Summit (8 tháng 9 2016 tại Vientian – Lào), bị TT Phi Luật Tân Duerte sỉ nhục (Son of the Bitch !) Mà Tổng Thống Mỹ là đại diện cho màu cờ xứ sở, dân tộc Hoa Kỳ …
4. Hoa Kỳ là một dân tộc “thượng tôn luật pháp”, học thức và đời sống vật chất cao (GDP per capita $58,000) Lãnh đạo (Tổng Thống, Phó Tổng Thống) đâu đến nổi khó khăn:
a. Chỉ cần giữ làm sao chi tỉ lệ thất nghiệp trên dưới 5%.
b. Thế nhưng ngoại giao phải luôn luôn đi những nước cờ táo bạo đánh phủ đầu đối phương (Nga, Trung Cộng, Bắc Hàn…) tát cho chúng những cái tát nẩy lửa (không rụt rè, do dự, đánh nhanh đánh mạnh và phải tung bộ binh ra để chiếm đất, giữ dân. Phòng thủ hữu hiệu nhất là phải tấn công (offensive). Thổ Nhĩ Kỳ theo Putin, Phi Luật Rân ngã về Tập Cận bình. Dân Chủ tiêu biết bao nhiêu là tiền mà Mỹ mất hết, mất tất cả !!! Làm phúc mà bị chúng chưởi ?
5. Đừng để “Our country lose anymore, we are Americans, America will start winning again, America back on track, we can do better than Democrats. God bless America and In God We Trust. Hey, Republicans: “ À la victoire finale, le 8 Novembre 2016”.
Moment of silence Honoring Victim of September 11 2001.
Chicago 9/11/2016
Phạm Đức Liên
EdD in Edu Statistics.
Chú thích:
1. Về nhân văn – không có định luật/chính xác 100% như STEM. Nhưng có định đề chánh trị trong Geopolitics (Địa Lý Chánh Trị): Về những nhân vật ứng cử chức Tổng Thống thì hể ai đã xuất hiện trên chính trường quốc gia sở tại – liên tiếp 8 năm – trong những chức vụ cao cấp như Phó Tổng Thống, Thượng Nghị Sĩ, Tổng Bộ Trưởng – thì cử tri tỉnh táo mà cho vào viện bảo tàng ! Thông minh đến đâu (4.00 GPA in college) thì óc cũng cùn rồi. Tổng Thống phải là người rất thông minh để đương đầu, đối đáp những tình huống cực kỳ khó khăn và ngay tức thời tại chỗ không chậm chạp, rụt rè … đến độ ngẩn ngơ !)
Không cần phải Geopolitics, chỉ cần tú Tài VNCH rồi dùng kinh nghiệm (common sense…) cũng thấy điều trên mà đi đông, bầu đúng, cử xứng” để cứu vãn tình thế!
- Hởi cử tri Mỹ ơi! 55% quý vị đã làm lỡ một đường tơ trong cuộc bầu cử tháng 11 năm 2008 ! – đã bỏ quên Mc Cain ! - . Cũng thế 55% quý vị lại làm mất một nhịp cầu trong chuyến bầu chọn tháng 11 năm 2012 – lại bỏ quên Romney ! khiến Hoa Kỳ bị hạ nhục , sỉ vả !.
- Tỉnh dậy mà đi: đi bầu ngày 8 tháng 11 năm 2016 và đừng sai lầm nữa. Sai lầm lần thứ ba thì nước Mỹ đi xuống !!
Phạm Đức Liên
Lời giới thiệu:
"Như là Định Mệnh" của Thiên Thai Phạm Đức Liên chỉ là một chương nhỏ trong tập: "43 năm gõ đầu TRẺ" của cùng tác giả. Ông là nhân chứng của lịch sử: - từ trận đói năm Ất Dậu (1945): hơn 2 triệu dân miền Bắc Việt Nam bị chết đói do Thực Dân Pháp và Phát Xít Nhật "chơi" nhau!! - đến buổi Lễ Tưởng Niệm Nạn Nhân Mỹ trong cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 bởi bọn khủng bố lúc 7 giờ sáng ngày 11/9/2016 (CNN)...
*****
A. Dẫn nhập:
1:
Tháng 6 năm 1959 - với quá nhiều may mắn - tôi đậu Tú Tài II ban Toán (A: Khoa Học Thực Nghiệm, B: Toán, C: Văn Chương, Cổ Ngữ...) hạng Bình Thứ (theo thang điểm 20, trên 12 là Bình Thứ, trên 14: Bình, trên 16: Ưu, trên 18: Tối Ưu, Ưu Ban Khen...) - vì trúng tủ bài Lý Hóa (mà Lý Hóa hệ số 4). Vốn con nhà giàu / xứ quê (Nghĩa Hưng, Nam Định; lenhaque) - tôi cho rằng - bằng Tú Tài Toàn Phần là to lắm rồi ! - nên ghi danh học Đại Học Khoa Học Sài Gòn (MPC ; Math, Physics, Chimie) - học phất phơ - còn đi dạy học tư (1959 với bằng Tú Tài II có thể xin dạy khế ước hay dạy giờ - bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp - ngay tại Sài Gòn, Gia Định nếu có good connection. Xã hội nào cũng thế/tôi sống thực tế từ Việt Nam qua Canada, và Mỹ - tài ba nhưng phải có tay trong).
Sinh viên thời VNCH
2:
Tháng 7 năm 1959, tôi bước vào nghề gõ đầu TRẺ (godauTRE, chữ TRẺ viết hoa - tôi yêu tuổi trẻ Việt Nam lắm - nhất là tuổi trẻ Việt Nam Đại Lục đang làm nên lịch sử oai hùng cho một dân tộc hùng anh (Children of the Dragons and Fairies). Tôi dạy Lý Hóa lớp đệ Tứ (lớp 9) tại Hội Thanh Niên Thiện Chí (đường Phan Đình Phùng, gần tiệm giải khát quí phái Sing Sinh) và trường Xuân Thu (đường Phan Thanh Giản mà hiệu trưởng là kỹ sư Nguyễn Đăng Thục - Ngài là Khoa Trưởng Đại Học Văn Koa Sài Gòn) ... rồi Lý Hóa lớp Đệ Nhị B (lúc nầy còn thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, Tú Tài I, Tú Tài II - thi những môn chánh / đậu thi viết - mới đưọc vào thi vấn đáp = oral cho tất cả 7, 8 môn học. Trung học, tỉ lệ đậu 20%, Tú Tài I = 10%, Tú Tài II = 25%. Đây là tỉ lệ toàn quốc. Trịnh Hoài Đức, Ngô Quyền, các trường công lập thì cao hơn. Dạy Đệ Tứ, được trả 50 đồng/giờ và Đệ Nhị là 70 đồng/giờ (trong khi tô phở hay lít xăng là 2, 3 đồng và thuê gác xép = phòng trọ là 300 đồng/tháng, lạng vàng = 2,000 đồng. Làm Lục Sự ở tòa án cần Tú Tài II lường 2,700 đồng tháng và 1 đô la Mỹ = 35 đồng VNCH). Dạy Lý Hóa trường tư - nổi danh lúc đó là Đặng Sĩ Hỷ và đệ nhị là Đinh Công Hoạt (trường Hưng Đạo của GS Nguyễn Văn Phú). Dạy khơi khơi, Lý Hóa 2 lớp Đệ Nhị là mỗi tháng có 2,800 đồng: 5 giờ/tuần x 70 đồng x 4 tuần) - trong khi học bổng ở Đại Học Sư Phạm Sài Gòn là 1,500 đồng / tháng, Quốc Gia Hành Chánh là 1,000 đồng, còn Kỹ Sư Phú Thọ tự sinh viên phải làm đơn xin học bổng ở các Nha Sở, ngành minh theo học như công chánh, công nghệ, điện, hóa học... Kỹ Sư Phú Thọ, Giáo Sư ĐHSP mới ra trường có chỉ số lương 470 (BS), Kỹ Sư Nông Lâm Súc, Quốc Gia Hành Chánh chỉ số lương 430 (BA).
B. Đại Học Sư Phạm Sài Gòn: một định mệnh:
I. Miền Nam nở rộ (sau 20/7/1954):
1. Quyết tâm ngăn chặn làn sóng đỏ từ phương Bắc bằng Domino Policy - Hoa Kỳ dùng lá bài Ngô Đình Diệm và khai sinh ra Việt Nam Cộng Hòa.
- "Mời người Pháp ra chỗ khác chơi" - tháng 4 năm 1954 - 50 cố vấn quân sự Mỹ đến Gài Gòn và thiết lập cơ quan đầu não MAAG (Military Aid Advisory Group) do Trung Tướng O'Daniel cầm đầu (các tướng lãnh Mỹ - tình nguyện được qua Sài Gòn - O'Daniel là đại tướng 4 sao , xin xuống lon trung tướng 3 sao = a voluntary drop in rank - vì Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp là Trung Tướng Collins, rồi Trung tướng Ely). Trong MAAG có Đại Tá Lansdale (1908-1987) là sĩ quan tình báo (OSS and CIA) - làm cố vấn cho Thủ Tướng Diệm (1954-1957). Lansdale từng làm cố vấn cho Hồ Chí Minh (1944-45) và cho Tồng Thống Magsaysay (Phi Luật Tân). Lansdale được lên Thiếu Tướng và trở lại là Phó Đại Sứ Mỹ tại VNCH năm 1965-1968 . Ông cũng là một trong những thầy dạy tình báo cho Phạm Xuân Ẩn. Theo Lansdale - những năm đầu - cố vấn Mỹ dầy đặc - đủ các ngành - xung quanh cụ Diệm - trừ giờ ngủ). Khi cố vấn quân sự Mỹ tăng nhiều (đến 31/12/1962, số cố vấn quân sự Mỹ trên các lãnh vực đên đến gần 20,000 người ) thì MAAG đổi thành MACV (Military Assistance Commmand Vietnam), 1962 và Đại Tướng Paul Harkins chỉ huy.
- Và viện trợ kinh tế dồn dập cho Saigon (Xin nhớ rằng: đồng thời Trung Cộng và Liên Xô ồ ạt viện trợ cho Hà Nội để xâm chiếm Miền Nam. Lê Duẩn:" Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô , Trung Quốc"). Hà Nội, Sài Gòn ; làm gì có chủ quyền!.
- Tiền viện trợ do dân nước viện trợ đóng thuế - mà đồng tiền thì liền với khúc ruột - viện trợ/ bản chất là cho có điều kiện ẩn tàng: "xong việc, đương sự phải trả lại bằng dâng biển, hiến đất - trừ khi anh đưọc khai tử!" Cay đắng cho Việt Nam!.
2. Miền Nam trăm hoa đua nở:
a. Để quốc tế hóa “tờ khai sanh” Việt Nam Cộng Hòa, người Mỹ kêu gọi Đồng Minh: Australia, New Zealand, Pakistan (East), Phi Luật Tân, Thái Lan, Pháp, Anh cùng mình ký Minh Ước Phòng thủ Đông Nam Á = SEATO (The Southeast Asia Treaty Organization) tại Manila (Phi) vào tháng 9 năm 1954 (gọi là Manila Pact) trong đó nhấn mạnh là bảo vệ tới cùng Miền Nam Việt Nam và Vương Quốc Lào. Với cây dù SEATO vững chắc như thế làm gì mà tướng Trần ngọc Tám (tư lịnh quân khu II = Cao Nguyên + duyên hải Trung Phần) chẳng chểnh mảng trong việc rèn luyện binh lính – bảo vệ dãy Trường Sơn !. Thế nhưng Miền Nam vẫn nở rộ nhất là văn hóa, giáo dục – sau khi có SEATO,
b. Từ năm 1956, hội đoàn (tôn giáo, phe nhóm…) thi nhau mở trường học khiến người người đua nhau đến trường. Những lớp học , lớp luyện thi được mở cả buổi tối. Tại trung học công lập như Gia Long, Pétrus Ký … giáo sư vẫn còn chưa đủ (giáo sư dạy trung học đệ I cấp = còn có thể vá víu, giáo sư trung học đệ II cấp = giáo sư cử nhân = thiếu đến 40%) nên thầy cô ở trường tư là một nan giải. Có những thầy dạy Pháp văn Đệ Nhị (lớp 11, thi Tú Tài I) mà chỉ học lực Certificate d’étude primaire (Bằng Tiểu Học thời Pháp đô hộ)!. Tiểu học là école primaire – kiến thức đâu mà dạy Tú Tài I. Ngay có bằng Diplôme d’étude secondaire du premier cycle (Trung Học Đệ Nhất Cấp) cũng không thể được vì đệ nhất cấp biết gì mà dạy Tú Tài!.
c. “Việt Nam Độc Lập” từ ngày 11 tháng 3 năm 1945 ngay sau khi Đại Sứ Nhật yết kiến vua Bảo Đại và “xin kính dâng nền độc lập lên Ngài và dân tộc Việt Nam mà quý quốc dầy công tranh đấu” !. Chương trình giáo dục Hoàng Xuân Hãn ra đời (HXH là Kỹ Sư và Thạc Sĩ Toán = Agrégé):
Giáo sư trung học đệ Nhất cấp = huấn luyện 2 năm đại học = Professeur de l’enseigment secondaire du 1er cycle.
Giáo sư trung học đệ Nhị cấp (dạy Tú Tài) = huấn luyện 4 năm đại học = Professeur de l’enseigment secondaire du 2ème cycle.
Giáo sư Tiến Sĩ = Giáo sư Đại Học = Professeur Docteur.
Giáo sư Thạc Sĩ= Professeur Agrégé!
II. Đại Học Sư Phạm Saigon – như một định mệnh:
1. Tôi yêu người lính Cộng Hòa, nhất là hình ảnh “sinh viên thủ khoa trường Võ Bị Liên Quân Dalat bắn tên đi bốn phương trời ngày tốt nghiệp” nên ngay tháng 9/1957/58, đệ Nhị B2, Chu Văn An) tôi có ý định đi Dalat (khóa 15?). Thế rồi – như một định mệnh – tôi học Sử Địa Đại Học Sư Phạm Saigon. Vừa ý cha mẹ 50%, tôi thi vào Quốc Gia Hành Chánh và Đại Học Sư Phạm (học cùng sách = Sử Địa Trung Học và Cử nhân Luật I – mà thi được hai nơi). Tôi yêu chỉ số 470 và học bổng 1,500 đồng/tháng.
Đại học Dược Khoa Saigon (Tú Tài + 5 năm)
Đại Học Văn Khoa (1954/65), Sau Cách Mạng1963, ĐHDK và ĐH VK di chuyển về Cường Để (vốn là Thành Cộng Hòa = Liên binh phòng vệ Tổng Thống Phủ). Sau ngày 1/11/1963, trường Dược tổ chức kỳ thi tuyển để mọi người dù bình dân cũng có thể nhập học ( trước kia 90% là COCC)
2. Lứa tuổi chúng tôi (sanh vào đại chiến thứ hai, 1939-1945) là đợt tuổi giao thời – thật là khó khăn trên đường học vấn: học 4 năm đại học thì thầy cô toàn là người Pháp (ngay cả thầy cô người Việt cũng giảng bài bắng tiếng Pháp vì giáo sư được đào tạo từ Paris về) = thời điểm 1959/1960. Quay lại đại học – để học Cao học (Diplôme d’etude supérieure = DES, Master’s Degree) thì giáo sư là người Mỹ hay thầy cô là người Việt được huấn luyện PhD từ Mỹ về (Tiến sĩ Huỳnh văn Quảng, Huỳnh Huynh, Đoàn Viết Hoạt…) thời điểm 1969/70. Lại vừa học vừa chờ - chờ thầy cô vừa xong PhD ở Mỹ về mới có lớp mới – mà Cao Học hay Tiến Sĩ theo quy chế Mỹ - phải đậu đủ số lớp của năm I – rồi mới được học năm II chuyên ngành và viết Memoirs hay Thesis (Luận Án). Quả thật là đoạn trường, và đoạn trường.
Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!
Vừa qua được những khó khăn – thì ù té chạy (di tản 1975). Đó là may mắn (10%). 70% ở lại quê mẹ thì bị đi cải tạo, kinh tế mới… Và 20% đã hy sinh cho tổ quốc. (Đón đọc: “Nói với tuổi 60” của Mây Tần, 78 tuổi – trải nghiệm xuyên 3 quốc gia: Vietnam, Canada, US – từ một anh thợ làm bánh như cụ Hồ thuở xưa !).
3. Chương trình Sử Địa lớp Đệ Nhất (12) Việt Nam Cộng Hòa – rất bổ ích- trước khi bước vào đại học – học sinh có cái nhìn tổng quát 1958/59:
a. Tình hình thời sự, chánh trị toàn cầu – thế giới đi về đâu ? – Á Phi và Châu Mỹ La Tinh – những chế độ độc tài… (Lịch Sử Thế Giới).
b. Hiện tình kinh tế thế giới: - Các cường quốc kinh tế chi phối quả địa cầu – những khối kinh tế (tư bản, cộng sản …). Đó là phần địa lý. Từ sau đại chiến thứ Hai (1939/45) kinh tế Hoa Kỳ nổi bật lên (nhà máy đúc súng đạn trở thành nhà máy sản xuất hàng hóa). Mỹ lãnh đạo phe Tư Bản đương đầu với Cộng Sản.
4. Rồi tốt nghiệp từ ĐHSP Saigon tôi được giảng dạy môn Sử Địa lớp Đệ Nhất. Tôi miệt mài soạn bài (quên cả giờ hẹn với người tình Dược Khoa !). Rồi chỉ mong đến lớp – đối thoại với học trò – vì chương trình Sử Địa lớp 12 tuyệt vời nhất là nền kinh tế Mỹ - số 1 toàn cầu:
“Hăng say qua nhịp bước,,
Ban mai- mờ tinh sương”
(Thiên Thai)
(Phương, Cúc, Thoại … ơi, Định, Tâm, Hạnh … ơi ! Các em còn nhớ hay đã quên: Thầy giảng bài đến khàn cả giọng – Vì tôi yêu tuổi trẻ, nhất là Lục Địa Việt Nam lắm !.)
C: Lời kết: Giáo Sư Sử Địa , một sứ mệnh.
Sứ mệnh lịch sử là sứ mệnh cao cả. Con đường lịch sử là con đường quyết định. Các bạn trẻ Việt Nam yêu dấu ơi – Việt Nam Lục Địa . Xin ghi nhớ: “ L’histoire est un éternel recommend = Lịch sử là một tái diễn không ngừng!. Thế hệ đàn anh bán nước thì thế thệ đàn em phải vùng lên cho dẫu vị quốc vong thân!. “Người làm chánh trị (politicians) không phải là đọc mà phải học và đậu bằng Lịch Sử “ - “đậu cho đời biết tay”.
1. May mắn lắm – tôi được dạy Sử Địa nước Mỹ và được di tản vào phút chót từ nóc tòa đại sứ Hoa Kỳ (2,000 người, tối khuya ngày 29/4/1975 – trong tổng số 130,000 người di tản năm 1975). Lại được sống ở Mỹ (cường quốc kinh tế số 1 và là đàn anh đùm bọc các em !).. Tôi học Statistics and Probability (Xác xuất và Thống Kê - Education) và dạy Toán (trong trường đại học - college) nên hơi méo mó nghề nghiệp – nhìn các đảng phái bằng con số thống kê. Các chánh trị gia – nhất là nhưng ứng cử viên tổng thống – bằng những bài diễn văn hay những cuộc tranh luận chỉ là rỗng tuếch (absolutely empty), ru ngủ cử tri bằng những mỹ từ hào nhoáng học được từ những sách giáo khoa. Cái oái oăm là đa số cử tri (80%) lại thích ru ngủ qua những lời nói khêu lên tự ái dân tộc, những lời hứa suông (hollow promise, empty word!). Ấy là dân Mỹ - trình độ trung bình là 1.5 năm đại học. Dân chủ đó – thế nhưng ứng cử, tranh cử, bầu cử là có lừa dối (cheating) vì ngay từ lúc chia đơn vị bầu cử là đã có phe nhóm, chia chác rồi. Chia chác để cầm quyền và cầm quyền để chia chác. Tin vào đâu ? Tin vào kẻ nói dối it hơn (còn chút xíu lương tâm = 30% cho quốc gia dân tộc). Chi bằng (wouldn’t it be better to…) tin vào con số thống kê (ngay con số thống kê cũng có thể phục vụ chế độ nhất là chế độ độc tài cộng sản). Ứng cử viên lừa bịp cử tri nhưng không nói dối được con số.
2.
a. Từ những năm đầu của thế kỷ 21:
- Một nước Mỹ chỉ đi lên,
- Một nước Mỹ chỉ hùng cường,
- Một nước Mỹ chỉ tiến bộ,
- Một nước Mỹ chỉ lãnh đạo…
b. Thế nhưng – từ năm 2008 – Đảng Dân chủ cầm quyền thì:
- 8 năm đảng Cộng Hòa lãnh đạo, năm 2004 thâm hụt công quỹ nhiều nhất là 413 tỉ đô.
- 8 năm đảng Dân Chủ nắm quyền, năm 2009 thâm hụt công quỹ 1,413 tỉ, cứ thế liên tiếp 3 năm sau: 2010, 2011, 2012 năm nào cũng trên 1,300 tỉ !!!
Thống kê của The World Almanac 2016 – trang 59
Làm gì mà nợ của chúng ta (Debt held by the public) = nợ như Chúa Chổm !.
Thống kê của The World Almanac 2016 – trang 60
Cho đến hôm nay (2016): con cháu chúng ta nợ 14,100 tỉ hay 14.1 Ức (xin được tính tròn). Hình như quý vị dân cử của đảng Dân Chủ nói nhiều hơn làm (easy talk than done), lại nói giỏi và dai (long lasting) và chỉ thích tiêu tiền thuế của dân trung lưu dưới bình phong bao bọc dân nghèo !. Tám năm cầm quyền, Tổng Thống Dân Chủ đưa dân Mỹ nợ thêm 9,000 tỉ. Too, very too much!!!. Cộng Hòa = nói ít làm nhiều (less talking – more doing). Time (1) to change…
3. Từ năm 2008:
- Một nước Mỹ chỉ đi ngang,
- Một nước Mỹ chỉ rụt rè (chiến cuộc Syria…)
- Một nước Mỹ chỉ làng nhàng,
- Một nước Mỹ hết lãnh đạo !
a. Về công nghệ high-tech: Hoa Kỳ có Iphone 7 thì Samsung Galaxy 7 (Nam Hàn), Hua Wei P8 (China) … cạnh tranh (Hua Wei P8 là Iphone 6)
b. Về uy tín nước Mỹ: ngày 27 tháng 1 năm 1973 (với Hiệp Định Paris) Mỹ chánh thức khai tử VNCH = uy tín lãnh đạo quốc tế của Hoa Kỳ xuống dốc. Tổng Thống Dân Chủ - mới đây – đầu tháng 9/2016:
- bị Trung Cộng hạ nhục ở Hàng Châu – trong kỳ đại hội thường niên của 20 cường quốc kinh tế hàng đầu nhân loại - G20. Nhân viên nghi lễ của phái đoàn Mỹ cải vã với nhân viên phi trường về thảm đỏ đón TT Obama !!!
-Tại Asean – US Summit (8 tháng 9 2016 tại Vientian – Lào), bị TT Phi Luật Tân Duerte sỉ nhục (Son of the Bitch !) Mà Tổng Thống Mỹ là đại diện cho màu cờ xứ sở, dân tộc Hoa Kỳ …
4. Hoa Kỳ là một dân tộc “thượng tôn luật pháp”, học thức và đời sống vật chất cao (GDP per capita $58,000) Lãnh đạo (Tổng Thống, Phó Tổng Thống) đâu đến nổi khó khăn:
a. Chỉ cần giữ làm sao chi tỉ lệ thất nghiệp trên dưới 5%.
b. Thế nhưng ngoại giao phải luôn luôn đi những nước cờ táo bạo đánh phủ đầu đối phương (Nga, Trung Cộng, Bắc Hàn…) tát cho chúng những cái tát nẩy lửa (không rụt rè, do dự, đánh nhanh đánh mạnh và phải tung bộ binh ra để chiếm đất, giữ dân. Phòng thủ hữu hiệu nhất là phải tấn công (offensive). Thổ Nhĩ Kỳ theo Putin, Phi Luật Rân ngã về Tập Cận bình. Dân Chủ tiêu biết bao nhiêu là tiền mà Mỹ mất hết, mất tất cả !!! Làm phúc mà bị chúng chưởi ?
5. Đừng để “Our country lose anymore, we are Americans, America will start winning again, America back on track, we can do better than Democrats. God bless America and In God We Trust. Hey, Republicans: “ À la victoire finale, le 8 Novembre 2016”.
Moment of silence Honoring Victim of September 11 2001.
Chicago 9/11/2016
Phạm Đức Liên
EdD in Edu Statistics.
Chú thích:
1. Về nhân văn – không có định luật/chính xác 100% như STEM. Nhưng có định đề chánh trị trong Geopolitics (Địa Lý Chánh Trị): Về những nhân vật ứng cử chức Tổng Thống thì hể ai đã xuất hiện trên chính trường quốc gia sở tại – liên tiếp 8 năm – trong những chức vụ cao cấp như Phó Tổng Thống, Thượng Nghị Sĩ, Tổng Bộ Trưởng – thì cử tri tỉnh táo mà cho vào viện bảo tàng ! Thông minh đến đâu (4.00 GPA in college) thì óc cũng cùn rồi. Tổng Thống phải là người rất thông minh để đương đầu, đối đáp những tình huống cực kỳ khó khăn và ngay tức thời tại chỗ không chậm chạp, rụt rè … đến độ ngẩn ngơ !)
Không cần phải Geopolitics, chỉ cần tú Tài VNCH rồi dùng kinh nghiệm (common sense…) cũng thấy điều trên mà đi đông, bầu đúng, cử xứng” để cứu vãn tình thế!
- Hởi cử tri Mỹ ơi! 55% quý vị đã làm lỡ một đường tơ trong cuộc bầu cử tháng 11 năm 2008 ! – đã bỏ quên Mc Cain ! - . Cũng thế 55% quý vị lại làm mất một nhịp cầu trong chuyến bầu chọn tháng 11 năm 2012 – lại bỏ quên Romney ! khiến Hoa Kỳ bị hạ nhục , sỉ vả !.
- Tỉnh dậy mà đi: đi bầu ngày 8 tháng 11 năm 2016 và đừng sai lầm nữa. Sai lầm lần thứ ba thì nước Mỹ đi xuống !!
TRẦN QUỐC VIỆT * HỒ CHÍ MINH
Hồ Chí Minh thoát khỏi dẫn độ
Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch
- Hồng Kông- Peter Griffiths, người đứng đầu luật sư đoàn ở đây, kể câu
chuyện mà tổng kết hoàn toàn đúng sự khác biệt rất lớn giữa công lý của
người Anh-dựa trên luật pháp-và loại công lý độc đoán được phân phát
đằng sau các bức màn Sắt và Tre.
Trước chiến tranh, Đông Dương Pháp yêu cầu dẫn độ một người cộng sản đã
trốn sang Hồng Kông để tránh bị truy tố về một loạt các trọng tội. Có
được luật sư giỏi, ông chống lại yêu cầu ấy nhưng vẫn bị ra lệnh trục
xuất để có thể phải chịu kết án và tử hình dựa trên vụ án nhà đương cuộc
ở Sài Gòn đã xác lập.
Tuy nhiên khi kháng cáo sang Luân Đôn, lệnh dẫn độ bị hủy. Tòa phúc thẩm
phán quyết rằng ông đã bị hỏi một câu hỏi nằm ngoài phạm vi hợp lệ của
phiên tòa sơ thẩm. Câu hỏi ấy là: “Có phải ông đã đến Mạc Tư Khoa?”
Nhà lãnh đạo cộng sản ấy là Hồ Chí Minh, hiện nay lãnh đạo cộng sản ở
Bắc Việt Nam, người mà sau đấy đã trở lại Đông Dương qua ngả Trung Hoa
để lãnh đạo cuộc tấn công chống Pháp ở đấy thắng lợi.
Nguồn: Báo The Washington Post and Times Herald số ra ngày
9 tháng Mười Hai, 1958, trang A4. Tựa đề của người dịch. Tựa đề trong
nguyên tác “Ho Chi Minh’s Escape”
TS. MAI THANH TRUYẾT * TRUNG CỘNG
Trung Cộng không đáng sợ đâu...
Mai Thanh Truyết (Danlambao)
- Nền kinh tế quốc gia Trung Cộng (TC) đã bắt đầu được vực dậy qua
chương trình hiện đại hóa của Đặng Tiểu Bình từ 37 năm qua. Và trong
vòng 15 năm trở lại đây, mức phát triển của TC vẫn ở mức 8-9% hàng năm,
tuy có chậm lại khoảng 7% ở 5 năm cuối cùng. Điều nầy đã làm thế giới
ngạc nhiên nhất là qua các cuộc khủng hoảng tiền tệ ảnh hưởng lên các
nước trong vùng mà TC vẫn tiếp tục phát triển chứ không bị suy thoái.
Nhưng nếu theo dõi qua những thay đổi về phát triển kinh tế của TC,
chúng ta có thể tiếp cận và hiểu được, cách đây 10 năm, báo chí trên hầu
hết khắp nơi đều đặt vấn đề và xem đây là một hiện tượng “con rồng TC”
bắt đầu trở mình và một đất nước “Thiên Tử” đang hồi sinh; và hiện tại,
năm 2016, cũng chính “con rồng TC” đang co cụm trở lại với trên 600
triệu nhân khẩu sống dưới mức nghèo đó là 2 Mỹ kim/ngày/người!
Nhưng qua các thành tựu trước cũng như ở thời điểm kinh tế thoái trào ở
TC hiện nay, chúng ta có thực sự thấy những gì đang diễn ra ở TC qua các
“thành quả” đã đạt được trong suốt 37 năm qua.
Trước hết, xin liệt kê ra đây vài số liệu căn cứ vào thông tin của cia.gov (2016) trên mạng lưới toàn cầu, để nói lên tình trạng phát triển chung của TC:
Đất nước Trung Cộng
TC là một nước lớn chiếm diện tích 9.596.960 km2, nhỏ hơn Hoa Kỳ một ít;
có dân số là 1,355,692,576 (July 2014 est.), co mật độ dân số là 147
người/km2 (hay 381 người/mi2).
Về tỷ lệ tuổi tác:
- Lứa tuổi 0 -14 chiếm 17,1% với tỷ lệ nam/nữ 124.340.516/107.287.324;
- Lứa tuổi 15 -24 chiếm 14,7% với tỷ lệ nam/nữ 105.763.058/93.903.845;
- Lứa tuổi 25 -54 chiếm 47,2% (77.751.100/75.737.968);
- Lứa tuổi 55 -64 chiếm 9,6% (62.646.075/75.737.968).
- Tuổi trung bình: 36,7 tuổi nam và 35,8 nữ
- Dân số tăng trưởng 0,44%/năm
- Tỷ lệ nhà cư dân có “chỗ làm vệ sinh”: 55,8%
Lực lượng lao động của TC lớn nhất thế giới với 840 triệu (2015), trong
đó tỷ lệ lao động được chia ra như sau: Lao động nông nghiệp, 50%
(2001), lao động kỹ nghệ, 22% (2001) và lao động dịch vụ, 28%. Trung
bình mức lạm phát vào khoảng 2 đến 5%. Lợi tức đầu người là 900 Mỹ kim
(2004). Mãi lực toàn quốc (Purchasing power parity) năm 2003 là 6.449 tỷ
Mỹ kim đưa đến mãi lực đầu người là 5000 Mỹ kim (2003). Mãi lực các năm
sau đó như sau: $19,39 trillion (2015 est.), $18,14 trillion (2014
est.), $16,91 trillion (2013 est.).
Lợi tức đầu người hàng năm là (GDP-per capita (PPP): $14100 (2015 est.), $13300 (2014 est.), $12400 (2013 est.).
Trong tiến trình phát triển chung trên thế giới, định mức sự phát triển
của một quốc gia vẫn còn căn cứ vào thuyết “tam khu” của Colin Clarke,
trong đó gồm khu nông nghiệp, khu công nghiệp, và khu dịch vụ. Từ đó qua
sự phát triển, và qua từng giai đoạn, chỉ số phát triển của một quốc
gia được tính toán qua tỷ lệ của từng khu vực.
Phát triển kinh tế của Trung Cộng
Như đã nói ở phần trên, TC đã đi đôi hia “bảy dặm” bằng cách mở cửa giao
tiếp với thế giới bên ngoài từ năm 1979 dưới thời Đặng Tiểu Bình với
một phương châm bất hủ là: "Dù mèo trắng hay mèo đen cũng chẳng sao, chỉ cần biết bắt chuột là được".
Trong tinh thần thực dụng trên, TC đã thành công và đưa đất nước ra
khỏi tụt hậu chỉ trong một thời gian không dài như đã dẫn ở phần trên.
Lý do tại sao chương trình hiện đại hóa của Đặng Tiểu Bình đã thành công
là, ngay cả trong khi mở cửa, TC đã vận dụng được thị trường nội địa
(1,38 tỷ người dân) để đẩy mạnh kỹ nghệ sản xuất hàng tiêu dùng. Chính
nhờ kỹ nghệ này và đây cũng là lý do chính yếu, TC đã chuyển dịch được
một số lớn lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ từ 70% (1970) xuống
còn 50% (2001). Cho đến hôm nay, mức đói nghèo của TC đã giảm xuống còn
16% (theo tiêu chuẩn của TC thấp hơn con số của LHQ là 3 US$/ngày), và
mức dự trữ ngoại tệ nặng của TC từ năm 2004 là 414 tỷ Mỹ kim tăng lên
2300 tỷ năm 2015.
Trong những năm trở lại đây, TC đã phát triển vượt bực, cao hơn mức dự
tính của thế giới. Vào năm 2004, Ngân hàng Phát triển Á châu đã dự tính
TC sẽ tăng 7,9%. Nhưng trên thực tế TC đã gia tăng 9,3%. Có nhiều lý do
đúc kết sự thành công vượt bực của TC cho những năm gần đây là:
1- Đất nước TC không phải chịu những tai ương thiên nhiên ảnh hưởng đến
phát triển như những quốc gia trong vùng. Cuộc khủng hoảng dầu hỏa gần
đây đã được TC kiểm soát và điều tiết chừng mực do đó không tạo ra khủng
hoảng năng lượng như những năm 1979-1980.
3- Qua vốn đầu tư ngoại quốc, TC đã cân bằng được mức phát triển qua
những dịch vụ thâm thủng trong cán cân thương mại xuất nhập nguyên liệu
và thành phẩm.
4- Phát triển TC hiện nay đang dựa vào đầu tư ngoại quốc, do đó sự gia
tăng giá dầu thô đã được mức ngoại tệ đầu tư trên bổ sung vào mức thiếu
hụt.
5 – Quan trọng hơn cả là 1,38 tỷ nhân khẩu nội địa. Hiện tại người dân
TC còn cần quá nhiều nhu cầu để phục vụ tối thiểu cho đời sống của người
dân ở một quốc gia tân tiến, do đó kỹ nghệ TC chỉ cần tập trung vào
những mũi dùi phát triển là có thể làm cho kinh tế cất cánh mau. Những
mũi dùi phát triển đó là những mặt hàng thông dụng như xe cộ, tủ lạnh,
microwave, máy giặt, máy sấy, truyền thanh, truyền hình, xây dựng, và
những mặt hàng gia dụng khác v.v...
Tuy nhiên, thiết nghĩ sự phát triển kinh tế của TC ngày hôm nay chỉ là
một quá trình chuyển tiếp mục đích để phục vụ nhu cầu cần thiết cho
người dân của nước này, hầu có được một đời sống vật chất “tử tế”. Một
khi mức sống tối thiểu của người dân đã được bảo hòa, vấn đề phát triển
kinh tế của TC sẽ chuyển qua một tiến trình khó khăn hơn nữa mà lãnh đạo
TC cần phải tiên liệu cho tương lai, nếu muốn ngăn chặn những cơn khủng
hoảng xã hội có thể xảy ra sau đó.
Đó là việc chuyển tải lực lượng lao động qua công nghiệp và dịch vụ. Ở
các quốc gia đã phát triển như Tây Âu và Bắc Mỹ, lực lượng lao động nông
nghiệp không quá 15%. Riêng tại Hoa Kỳ, lực lượng nầy chỉ còn dưới 2
triệu, so với dân số 320 triệu mà vẫn có đầy đủ lương thực cho nước Mỹ
cũng như viện trợ cho hầu hết các nước nghèo trên thế giới.
Qua những nhận xét và phân tích ở phần trên, chúng ta thấy TC đang có
những bước phát triển “nhanh” trong tiến trình hiện đại hóa quốc gia,
nhưng những bước phát triển của TC chỉ là những bước đột phá ban đầu.
Thực sự những chỉ số phát triển vừa nêu trên chỉ là những chỉ số biểu
kiến và tương đối trong việc ổn định xã hội TC hiện nay mà thôi.
1- Gọi là biểu kiến vì trong quá trình phát triển quốc gia vì TC đã để
lại biết bao vấn nạn môi trường với ảnh hưởng và hậu quả nghiêm trọng
chắc chắn sẽ xảy ra trong một vài thập niên tới. TC không có chính sách
cân bằng phát triển và quản lý môi trường. Vì vậy:
- Tình trạng môi trường ngày càng xuống cấp: không khí đầy bụi bặm chứa
các kim loại độc hại như chì (lead) và thủy ngân (mercury) cùng nhiều
hợp chất hữu cơ nhẹ, nguồn nước ở nhiều nơi không còn sự hiện diện của
tôm cá và đã là những “dòng sông đen”, đặc biệt là trong các phụ lưu của
sông Hoàng Hà và Dương Tử.
- Ngay cả dòng chảy của sông Hoàng Hà đã chậm dần so với trước kia, và không còn chảy ra biển nữa.
- Thành phố Vân Nam đã biến thành khu đại kỹ nghệ hóa chất và khi gió
đổi chiều, khói và bụi thành phố đã di chuyển đến tận... Hoa Kỳ.
- Thành phố Thượng Hải và thềm lục địa chung quanh đang bị báo động về ô nhiễm.
- Thí dụ điển hình là trong việc chuẩn bị cho Thế vận hội vào ngày
8/8/2008, TC vẫn chưa giải quyết được tình trạng ô nhiễm không khí tại
Bắc Kinh theo yêu cầu của Ủy ban Thế vận Quốc tế, mặc dù đã có rất nhiều
cố gắng qua các biện pháp như ngăn cấm người dân hút thuốc, hạn chế
lượng xe cộ chạy vào thành phố, đóng cửa những nhà máy phát điện sử dụng
than, Hội nghị Thượng đỉnh tại Thành Đô (thủ đô của tỉnh Tứ Xuyên), các
nhà máy, xe cộ chuyên chở không được hoạt động nhiều tuần lễ trước đó
để có được bầu không khí “tương đối” trong lành và người dân có thể thấy
mây bay thay vì một màu xám xịt thường xuyên.
2- Gọi là tương đối, vì sự phát triển của TC chỉ tương đối so với nhu
cầu của 1,38 tỷ dân chúng và thị trường nhân công rẻ mạt. Các chương
trình hiện đại hóa điển hình của TC sau đây thể hiện rõ nét của tính
tương đối trong phát triển của họ. Theo một báo cáo của Hàn Lâm Viện TC
(Chinese Academy of Sciences, 2006) thì TC đã phát triển chậm hơn so với
Hoa Kỳ 100 năm, với Đức Quốc 70 năm, và 60 năm so với Nhật Bản.
Vào năm 2001, mãi lực tính theo đầu người của một người TC là 3583 Mỹ
kim (năm 2004 lên đến $5000, và năm 2014 lên 7000 Mỹ kim)), trong lúc đó
thời điểm một người Hoa Kỳ có mãi lực trên là vào năm 1892, tức 109 năm
trước đó. Vào năm 2002, lợi tức người dân HK là 35.400 Mỹ kim, tăng 4%
so với năm trước đó, tức tăng 1416 Mỹ kim. Trong lúc đó, lợi tức của một
người TC ở thời điểm trên là 900 Mỹ kim, tăng 8% so với năm trước, tức
72 Mỹ kim. Qua các số liệu trên, chứng tỏ rằng dù mức tăng trường hàng
năm của TC có là 15%, thì khoảng cách lợi tức so với HK cũng ngày càng
cách xa dù KH chỉ tăng trưởng 3-4% mỗi năm.
Thêm nữa, theo một báo cáo của Chương trình Môi trường LHQ vào năm 2002
và mới nhất vào năm 2015, hậu quả của việc phát triển ồ ạt ở TC và lơ là
trong việc bảo vệ môi trường làm cho chi phí ước tính cho việc giải
quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường có thể lên đến 7% tổng sản lượng quốc
gia. Nói như thế, có nghĩa là với mức tăng trưởng trung bình hàng năm là
8-9%, nhưng trên thực tế, mức tăng trưởng thực sự chỉ vào khoảng 2% mà
thôi, cộng thêm sự di hại môi trường ảnh hưởng đến các thế hệ về sau
nữa.
TC hiện nay vẫn còn là một quốc gia đang phát triển dù hiện đang thúc
đẩy rất mạnh tiến trình hiện đại hóa và khó có thể hình dung được một
hình ảnh TC vượt trội lên hàng quốc gia phát triển trong vòng 30-40 năm
tới.
Cũng theo tài liệu của Hàn Lâm Viện Khoa học TC, TC sẽ vươn lên thứ hạng
39 về kinh tế so với các quốc gia trên thế giới vào năm 2080, và năm
2005, TC đang được xếp vào hạng 69.
Ngay tại Hội thảo "Tổng kết 30 năm đổi mới ở Hà Nội năm 2015", TS Carl Thayer (Úc) nhấn mạnh rằng: "Sau
một phần tư thế kỷ cải cách, mô hình TC không thể giải quyết được những
vấn đề cấp bách như cấu trúc ngân hàng và tài chánh yếu kém, quốc doanh
bị nợ nặng nề, tham nhũng tràn lan.Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều
vần đề tương tự, và việc học tập mô hình TC không thể giúp Việt Nam
giải quyết được".
Hiện tại, kinh tế TC đang chịu nhiều áp lực làm cho chính phủ TC phải đối mặt với nhiều thách thức kinh tế bao gồm:
- Tỉ lệ tiết kiệm trong nước giảm nhiều và mức tiêu thụ trong nước tương ứng thấp;
- Tạo điều kiện cho và cơ hội việc làm lương cao hơn cho tầng lớp trung
lưu đầy tham vọng, bao gồm cả người di cư nông thôn và số lượng sinh
viên tốt nghiệp đại học ngày càng tăng;
- Cần giảm thiểu tham nhũng và tội phạm kinh tế khác;
- Tình trạng ô nhiễm môi trường và xung đột xã hội liên quan đến sự thay
đổi nhanh chóng của nền kinh tế. Phát triển kinh tế đã tiến triển nhanh
hơn tại các tỉnh ven biển so với các tỉnh nằm sâu trong nội địa;
- Cho đến năm 2014 hơn 274 triệu lao động nhập cư và người phụ thuộc của
họ đã di cư ra thành phố để tìm việc làm. Một hệ quả của chính sách
kiểm soát dân số là TC hiện là một trong những quốc gia lão hóa nhanh
nhất trên thế giới. Môi trường bị thoái hóa trong suốt quá trình phát
triển mà không cân bằng với việc bảo vệ môi trường, đặc biệt là ô nhiễm
không khí, sói mòn đất, đất đai bị sa mạc hóa, sông ngòi và nước ngầm
không còn sử dụng dược nữa vì bị nhiễm độc hóa chất độc hại. TC tiếp tục
bị mất đất canh tác do xói mòn và phát triển kinh tế;
- Tăng trưởng năm 2015 của nền kinh tế thứ hai thế giới rơi xuống mức
thấp nhất từ 25 năm qua, chỉ đạt mức 6,9%. Theo thẩm định ngày 05/10 của
Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Cộng sẽ chỉ
ở mức 6,9% vào năm 2016, sau đó sẽ giảm xuống còn 6,2% vào năm 2017.
Với tổng số nợ chiếm 250% GDP năm 2015 và niềm hy vọng phục hồi kinh tế
không chắc chắn, tỉ lệ nợ xấu của các ngân hàng TC có thể tăng cao, nguy
cơ mất khả năng thanh toán ngày càng lớn và thậm chí có thể dẫn đến
khủng hoảng tài chính. Ngoài ra, nếu không giải quyết được các vấn đề cơ
cấu kinh tế, mọi nỗ lực của TC có nguy cơ tan thành mây khói.
Khi kinh tế TC phát triển chậm lại, nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu đi
xuống. Hậu quả là xuất khẩu nguyên liệu của các nước đang trỗi dậy giảm,
trong khi đây lại là nguồn thu quan trọng, thúc đẩy tăng trưởng của các
nước này.
Căn cứ theo bản tin của hãng Bloomberg ngày 07/10/2016 cảnh báo: ngành
ngân hàng TC sẽ phải hứng chịu đến 600 tỷ đô la nợ xấu trong trường hợp
nổ ra khủng hoảng địa ốc. Căn cứ trên nghiên cứu của các cơ quan tài
chính DBS Vickers Hong Kong, Ngân hàng ngoại thương Đức, Commerzbank AG,
Blomberg cho biết: nếu như thị trường bất động sản TC mất giá 30%, nợ
khó đòi của các ngân hàng nước này sẽ lên tới 4,1 ngàn tỷ nhân dân tệ,
tức tương đương với 615 tỷ đô la. Ngành tài chính và ngân hàng Trung
Quốc sẽ bị lung lay.
Do đó, để kết luận cho trường hợp TC là quốc gia này sẽ không bao giờ
trở thành một huyền thoại trong tiến trình hiện đại hóa theo chiều hướng
hiện tại, trừ phi có một sự thay đổi não trạng và quan điểm đúng đắn về
việc bảo vệ môi trường, vấn đề cần phải được đặt ưu tiên hàng đầu trong
phát triển quốc gia.
Sự phô trương sức mạnh ở biển Đông chỉ là một hình thức để giải tỏa tính
ức chế cực đoan sẳn có của dân tộc “Trung Quốc” của người Hán, cũng như
làm nhẹ sức ép của quyết tâm dành lại độc lập của người dân Tây Tạng,
Tân Cương cùng áp lực của 600 triệu dân chúng sống dưới định mức nghèo
của LHQ.
Cũng cần nói thêm cho trường hợp Việt Nam là, mô hình hiện đại hóa của
TC sau 1/4 thế kỷ đã mang lại cho Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm về
các mâu thuẫn trong phát triển hơn là một khuôn mẫu để phát triển. Nhưng
tiếc thay, cho đến hôm nay, Việt Nam vẫn còn rập khuôn theo tiến trình
trên, một tiến trình chắc chắn sẽ đưa đất nước vào ngõ cụt.
28.10.2016
No comments:
Post a Comment