Wednesday, October 26, 2016
NGÔ TRUNG PHÒNG * VƯỢT BIÊN THẤT LẠC
Vượt biên, bị cướp biển, thất lạc: Cha và con đoàn tụ - Dương Ngô Trung Phòng sưu tầm
Cha con Ông Trương Văn Hào
Mùa Lễ Tạ Ơn năm nay thật đặc biệt, thật tuyệt diệu, thật hạnh phúc không chỉ riêng với gia đình Ông Trương Văn Hào mà còn được Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn khắp nơi trên thế giới đón nhận, chia sẻ trong vui mừng. Hơn thế, phàm là con người, ai đọc câu chuyện đều mủi lòng với hoàn cảnh thương tâm, chết chốc, chia lìa của một trong hàng trăm ngàn cảnh bi thương mà hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do phải đối mặt. Nếu đã không cầm được nước mắt chia sẻ niềm đau, thì lại càng khó ngăn nước mắt lưng tròng chia sẻ niềm hạnh phúc, khi nhìn hình người cha ôm đứa con thất lạc từ lúc sơ sanh sau 34 năm tìm kiếm. Anh Dương Ngô Trung Phòng mời tất cả cùng theo dõi câu chuyện qua sự tường trình của ký giả Ngọc Lan, báo Người Việt đăng ngày 23 tháng 11 năm 2011 (NLSBDHN)
ROCHESTER, New York (NV) -“Ngay khi vừa nhìn thấy nó, tôi cảm giác như mình vừa tìm lại được vật gì quý giá lắm mà mình đánh mất từ lâu, cảm giác như vậy đó cô.” Ông Trương Văn Hào, qua cuộc điện thoại lần thứ hai với phóng viên Người Việt vào lúc hơn 10 giờ đêm Thứ Hai, trước ngày Lễ Tạ Ơn, nhắc lại cảm xúc của ông, khi nhìn thấy đứa con trai bị thất lạc từ 34 năm trước.
Trong cuộc điện thoại này, ông Hào cho biết đứa con trai mới tìm lại được, lúc đó đang ở Thái Lan, vừa hoàn tất cuộc phỏng vấn xin chiếu khán nhập cảnh vào Mỹ và đã được chấp thuận, với sự can thiệp của Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ Chuck Schumer (Dân Chủ-New York).
Câu chuyện tái ngộ của cha con ông Trương Văn Hào và Samart Khumkham (tức Trương Văn Khai), một người ở Rochester, New York, và một người ở một tỉnh xa xôi của Thái Lan, một lần nữa vừa gợi lại những thời khắc đau thương của những ai từng là thuyền nhân. Ðồng thời, câu chuyện lại mở ra thêm hy vọng cho những cha mẹ từng bị mất con, làm cho niềm tin của họ mạnh thêm, với hy vọng, đến một lúc nào đó, may mắn sẽ mỉm cười với mình.
Câu chuyện của 34 năm trước
“Tôi cùng vợ và đứa con trai mới 6 tháng tuổi, tên Trương Văn Khai, rời đảo Phú Quốc ngày 22 Tháng Mười Hai, 1977.” Ông Hào chầm chậm kể lại câu chuyện của mình.
Sau năm ngày lênh đênh trên biển, khi còn cách Songkhla, Thái Lan, chừng 35 dặm thì tàu ông Hào “bị bể.” Cùng lúc đó, họ gặp một chiếc tàu đánh cá Thái Lan, “thế là chúng tôi lên hết trên chiếc tàu Thái, và ở đó bốn ngày.”
Theo lời ông, ngay từ khi lên tàu, thuyền trưởng của chiếc tàu đánh cá “đã tỏ ra rất thích thằng bé. Ông ta đòi mua nó, nhưng chúng tôi không đồng ý.” Ông Hào kể. Cũng chính từ chi tiết này, mà hơn ba thập kỷ trôi qua, ông Hào vẫn tin rằng con trai ông còn sống.
Mọi chuyện vẫn bình thường, tuy nhiên, đến tối ngày thứ tư, “sau khi người thuyền trưởng bỏ sang một chiếc tàu khác đi mất,” những người đàn ông Việt Nam bị những người Thái còn lại trên tàu bắt nhảy xuống biển.
“Tôi cùng một anh đi cùng cứ lênh đênh như vậy trên nước. Ðến khoảng 6 giờ chiều hôm sau thì chúng tôi mới được một chiếc tàu đánh cá vớt.” Ông Hào tiếp tục nói, “Tôi cũng không biết bằng cách nào mà tôi đã sống.”
Ông Hào ở lại trên chiếc tàu này làm việc khoảng hai tuần, “cũng kéo cào, lặt cá.” Sau đó, họ lái tàu vô gần bờ, thả ông xuống, để ông tự bơi vô bờ.
Cha con Ông Trương Văn Hào
Mùa Lễ Tạ Ơn năm nay thật đặc biệt, thật tuyệt diệu, thật hạnh phúc không chỉ riêng với gia đình Ông Trương Văn Hào mà còn được Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn khắp nơi trên thế giới đón nhận, chia sẻ trong vui mừng. Hơn thế, phàm là con người, ai đọc câu chuyện đều mủi lòng với hoàn cảnh thương tâm, chết chốc, chia lìa của một trong hàng trăm ngàn cảnh bi thương mà hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do phải đối mặt. Nếu đã không cầm được nước mắt chia sẻ niềm đau, thì lại càng khó ngăn nước mắt lưng tròng chia sẻ niềm hạnh phúc, khi nhìn hình người cha ôm đứa con thất lạc từ lúc sơ sanh sau 34 năm tìm kiếm. Anh Dương Ngô Trung Phòng mời tất cả cùng theo dõi câu chuyện qua sự tường trình của ký giả Ngọc Lan, báo Người Việt đăng ngày 23 tháng 11 năm 2011 (NLSBDHN)
ROCHESTER, New York (NV) -“Ngay khi vừa nhìn thấy nó, tôi cảm giác như mình vừa tìm lại được vật gì quý giá lắm mà mình đánh mất từ lâu, cảm giác như vậy đó cô.” Ông Trương Văn Hào, qua cuộc điện thoại lần thứ hai với phóng viên Người Việt vào lúc hơn 10 giờ đêm Thứ Hai, trước ngày Lễ Tạ Ơn, nhắc lại cảm xúc của ông, khi nhìn thấy đứa con trai bị thất lạc từ 34 năm trước.
Trong cuộc điện thoại này, ông Hào cho biết đứa con trai mới tìm lại được, lúc đó đang ở Thái Lan, vừa hoàn tất cuộc phỏng vấn xin chiếu khán nhập cảnh vào Mỹ và đã được chấp thuận, với sự can thiệp của Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ Chuck Schumer (Dân Chủ-New York).
Câu chuyện tái ngộ của cha con ông Trương Văn Hào và Samart Khumkham (tức Trương Văn Khai), một người ở Rochester, New York, và một người ở một tỉnh xa xôi của Thái Lan, một lần nữa vừa gợi lại những thời khắc đau thương của những ai từng là thuyền nhân. Ðồng thời, câu chuyện lại mở ra thêm hy vọng cho những cha mẹ từng bị mất con, làm cho niềm tin của họ mạnh thêm, với hy vọng, đến một lúc nào đó, may mắn sẽ mỉm cười với mình.
Câu chuyện của 34 năm trước
“Tôi cùng vợ và đứa con trai mới 6 tháng tuổi, tên Trương Văn Khai, rời đảo Phú Quốc ngày 22 Tháng Mười Hai, 1977.” Ông Hào chầm chậm kể lại câu chuyện của mình.
Sau năm ngày lênh đênh trên biển, khi còn cách Songkhla, Thái Lan, chừng 35 dặm thì tàu ông Hào “bị bể.” Cùng lúc đó, họ gặp một chiếc tàu đánh cá Thái Lan, “thế là chúng tôi lên hết trên chiếc tàu Thái, và ở đó bốn ngày.”
Theo lời ông, ngay từ khi lên tàu, thuyền trưởng của chiếc tàu đánh cá “đã tỏ ra rất thích thằng bé. Ông ta đòi mua nó, nhưng chúng tôi không đồng ý.” Ông Hào kể. Cũng chính từ chi tiết này, mà hơn ba thập kỷ trôi qua, ông Hào vẫn tin rằng con trai ông còn sống.
Mọi chuyện vẫn bình thường, tuy nhiên, đến tối ngày thứ tư, “sau khi người thuyền trưởng bỏ sang một chiếc tàu khác đi mất,” những người đàn ông Việt Nam bị những người Thái còn lại trên tàu bắt nhảy xuống biển.
“Tôi cùng một anh đi cùng cứ lênh đênh như vậy trên nước. Ðến khoảng 6 giờ chiều hôm sau thì chúng tôi mới được một chiếc tàu đánh cá vớt.” Ông Hào tiếp tục nói, “Tôi cũng không biết bằng cách nào mà tôi đã sống.”
Ông Hào ở lại trên chiếc tàu này làm việc khoảng hai tuần, “cũng kéo cào, lặt cá.” Sau đó, họ lái tàu vô gần bờ, thả ông xuống, để ông tự bơi vô bờ.
Ông Hào được cảnh sát Thái “đưa vào trại.”
“Chừng một, hai tuần sau thì có một người Thái gốc Việt đi vào trại báo tin cho biết dân địa phương vừa mới vớt được hai xác người đàn bà và đã chôn cất. Hỏi thì nghe mô tả quần áo rất giống với quần áo vợ tôi và vợ người bạn đi cùng. Trên chiếc tàu chúng tôi đi vượt biên chỉ có hai người phụ nữ thôi. Khi đó tôi xin ra ngoài để đi đến đó hỏi thăm nhưng họ không cho ai ra khỏi trại. Từ đó tôi không còn biết tin tức gì nữa.” Ông Hào nói một cách nặng nề.
Sau gần năm tháng ở trong trại, ông Hào được người thân bảo lãnh sang định cư tại Mỹ.
Hành trình tìm con
Tin chắc là vợ mình đã chết, nhưng “trong suốt thời gian qua, chưa bao giờ tôi nghĩ là con tôi chết. Tôi tin là nó còn sống và đang ở đâu đó.” Chính từ niềm tin mãnh liệt này, mà chừng năm, sáu năm sau khi đến Mỹ, ông Hào tìm đến Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ nhờ tìm kiếm con trai ông.
“Nhưng lần đó họ nói tôi không có đủ tin tức cần thiết, như không có hình ảnh, hay giấy tờ gì. Cái gì tôi cũng không có bởi vì bị mất hết rồi.”
Dù bận bịu với cuộc sống, lập gia đình mới, có con nhỏ, ý định tìm đứa con trai thất lạc vẫn lẩn quẩn trong tâm trí người cha. Chừng 10 năm sau, ông Hào lại đến Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ một lần nữa, “cũng làm đơn nhờ họ kiếm, nhưng rồi câu trả lời vẫn là như vậy.”
Ðến cuối Tháng Năm vừa rồi, “khi mới xong khóa học mùa Spring, tôi mua vé đi Thái Lan tìm con tôi.”
Và chuyến đi kéo dài một tháng này của người cha đã thật sự có kết quả.
Chặng thứ nhất
Ông Trương Văn Hào rời New York vào ngày cuối Tháng Năm để thực hiện cho bằng được, một lần, hết sức mình, việc tìm kiếm đứa con rời xa ông khi nó mới sáu tháng tuổi. Ông đi, mang theo trong lòng niềm tin của người cha về đứa con vẫn còn sống, và sự ủng hộ về tinh thần lẫn vật chất của người vợ hiện tại, cùng bốn đứa con thân yêu.
“Ba, con hy vọng là ba sẽ mang được anh Khai về, bằng hết sức của ba.” Người con trai út 10 tuổi của ông, nói với ông như vậy.
Ðầu Tháng Sáu, ông Hào đặt chân đến Bangkok khi trời đã về chiều. Sáng sớm hôm sau, ông bay đến Hat Yai, một thành phố phía Nam Thái Lan, cách Songkhla, nơi có trại tị nạn ông Hào từng ở cách đây 34 năm, khoảng một giờ lái xe.
Ông lưu lại ba ngày. “Trong ba ngày này, tôi đi tìm kiếm một ngôi nhà thờ.”
Người cha đang trong hành trình đi tìm con rõ ràng đã vạch sẵn cho mình kế hoạch tìm kiếm.
Ông nói, “Tôi nhớ ngày xưa ở tỉnh Songkhla có một vị linh mục thường đưa thư vô cho người tị nạn. Tôi không biết tên cha nhưng tôi nghĩ ông chỉ có thể ở lòng vòng quanh tỉnh Songkhla hay quanh quanh đâu đây thôi.”
Ðó chính là lý do vì sao ông Hào lại đi tìm nhà thờ. Tuy nhiên, khi đến nhà thờ, ông Hào được biết “vị linh mục tôi muốn tìm đã ngoài 80 tuổi, nghỉ hưu và về sống ở Bangkok.”
Thất vọng vì không tìm được vị linh mục, nhưng ông Hào lại được vị linh mục mới, hướng dẫn ông đến “gặp một nhóm thanh niên trẻ chuyên giúp đỡ những người tị nạn.”
Sau khi nghe chuyện ông Hào muốn tìm kiếm đứa con thất lạc, nhóm thanh niên này chở ông ngược lại Hat Yai để “quay phim đưa lên tin tức.”
Cũng thời gian này, ông Hào gọi điện thoại về Mỹ cho vợ ông biết ông gặp khá nhiều khó khăn trong vấn đề giao tiếp, bởi vì “càng đi về miền Nam, người ta càng ít biết nói tiếng Anh, và có nói thì cũng rất khó nghe.”
Nhờ vào bạn bè quen biết, vợ ông tìm được một người biết nói tiếng Việt lẫn tiếng Thái, đang ở Lào, bay sang Thái Lan để đi cùng ông Hào.
Chặng thứ hai
Ông Hào và người bạn Lào thuê xe “đi tìm nơi ngày xưa người ta chôn vợ tôi.”
“Chúng tôi lái xe dọc theo bờ biển hết hướng Nam rồi đến hướng Bắc, cứ đi đến đâu thấy có làng là dừng lại hỏi thăm nhưng chẳng được tin tức gì hết,” người đàn ông nhẫn nại kể, như thể hành trình đó vẫn còn mồn một trong ông.
Ông Hào cũng đến sở cảnh sát và các trụ sở của chính quyền địa phương để nhờ giúp đỡ. Có điều, “do nhiều vấn đề tế nhị, nên tôi không nêu ra trong đơn là ngày xưa chúng tôi bị giết, bị cướp, mà chỉ nói là tàu gặp nạn thôi.”
Không tìm được mộ người vợ chết thảm năm xưa, ông Hào và người bạn trở lại Hat Yai, đến những nhà xác tìm tin tức, nhờ lục lọi lại hồ sơ giấy tờ ngày xưa.
Cũng trong những ngày lang thang đi tìm tin tức này, ông Hào tình cờ được giới thiệu gặp một người đang làm việc tại một đài truyền hình ở Bangkok.
Ông kể, “Ðài truyền hình này xuống gặp chúng tôi, dàn xếp một cuộc phỏng vấn cảnh đi tìm con để quay phim. Rồi họ chiếu lên TV.”
Dấu vết đứa con vẫn còn mờ mịt thì người bạn biết tiếng Thái của ông Hảo phải quay trở về Lào vì công việc gia đình.
Một lần nữa, người cha này lại “cảm thấy bế tắc.”
Chặng thứ ba
Khi đó, ông Hào đã ở Thái Lan chừng hai tuần.
Ông bắt đầu ngồi xuống, viết lại câu chuyện tìm con, rồi đưa lên Google cho dịch ra tiếng Thái. Ông đưa cả hình ông và người vợ quá cố của mình vào, “để hy vọng hoặc con giống cha hoặc con giống má thì người ta có thể nhận ra.”
“Xong, tôi in ra khoảng 500 tờ. Vào mỗi đêm, tôi đến con đường đông người qua lại và phát cho người ta. Trong tờ rơi đó tôi có hứa tặng cho ai tìm được tin tức con tôi một số tiền.” Ông kể về việc làm của mình.
Ðồng thời, ông Hào cũng tìm gặp được một số người của tổ chức “giống như nhân viên xã hội” nhờ giúp đỡ. Bên cạnh những chi tiết ông Hào cung cấp cho “nhân viên xã hội,” ông còn nhớ thêm được chiếc tàu ngày xưa ông bị bắt lên cùng vợ con ông là “tàu số 21, nhưng không nhớ tên.”
Thời gian này, ông Hào lại quen biết với một người đàn ông Thái biết nói tiếng Anh. Qua người đàn ông này, ông Hào có dịp gặp gỡ một số người làm nghề lái tàu.
Từ những người lái tàu, ông lại biết thêm một điều: nơi có thể tìm được “chiếc tàu 21 ngày xưa.” Có điều, không phải là một nơi mà có thể tới ba địa điểm.
Ông Hào mang tin tức này nói cho “nhân viên xã hội” biết, và “họ hứa đưa tôi đi đến những nơi đó.”
Thế nhưng, chuyện đời luôn có những chuyện “thế nhưng” nghiệt ngã như thế.
“Khi đó gần đến ngày bầu cử, rồi có nơi thì có bạo loạn xảy ra, nên họ không chịu đi,” ông Hào nhớ lại.
Người ta không đi, nhưng ông không có lý do gì để không đi, “Tôi thì có sợ gì chết nữa nên tôi có ý định sẽ đi một mình.”
Lần lữa tìm đường đi, cũng là lúc chiếu khán nhập cảnh ở Thái Lan của ông Hào chỉ còn ba ngày là hết hạn.
Chặng thứ tư
“Khi thấy còn ba ngày nữa là hết hạn visa, tôi trở lại tìm những người nhân viên xã hội một lần nữa để đưa hết thông tin cho họ, báo cho họ biết là tôi đi về Mỹ, có tin gì thì họ báo cho tôi biết.” Ông Hào có ý định chấm dứt hành trình tìm kiếm đứa con, ở thời điểm này.
Không ngờ, lúc đó các nhân viên xã hội lại báo cho ông Hào biết rằng họ đã có tin tức của ông chủ vừa mua lại “chiếc tàu số 21.”
“Ngày 28 Tháng Sáu, tôi cùng hai người nhân viên xã hội đi gặp ông chủ tàu.”
Có điều, người cha xem như “mất hết hy vọng,” vì “đó không phải là chiếc tàu hồi xưa tôi lên.”
Nhưng.
Lại một chữ “nhưng” bất ngờ.
Trong thời gian mấy tiếng đồng hồ đi loanh quanh bến cảng để tìm kiếm “con tàu 21,” một thanh niên làm cho ông chủ tàu vô tình nghe được câu chuyện tìm con của ông Hào.
Theo lời thanh niên này thì ngày xưa xóm anh có một gia đình nuôi một đứa trẻ Việt Nam.
Ðể chắc chắn, thanh niên này gọi điện thoại hỏi người mẹ, và được trả lời là “đúng rồi.”
Tia sáng lại lóe lên.
Sáng hôm sau, ông Hào cùng bốn nhân viên xã hội, “có cả ông sếp của họ,” lên xe hướng về ngôi làng người thanh niên cho biết.
Chặng thứ năm
“Sau bốn tiếng lái xe, chúng tôi đến nơi thì được chính quyền ở đó xác nhận đúng là hồi trước có một gia đình nuôi một đứa con người Việt,” ông Hào tiếp tục câu chuyện dài mà dường như chẳng hề mệt mỏi.
“Một người dân địa phương khẳng định, ‘Thằng nhỏ nhà đó nhìn rất giống ông.’” Lời nói đó càng khiến niềm tin sẽ kiếm được đứa con trở nên tràn trề và mãnh liệt trong lòng người cha.
“Nhưng gia đình đó đã dọn đi khỏi đây từ 15 năm trước rồi.”
Như trò đùa của số phận, hy vọng vừa lóe lên thì vụt mất. Hạnh phúc như gần kề bàn tay thì lại vuột bay.
Nhưng ý chí con người đôi lúc vượt lên trên những định mệnh nghiệt ngã.
Với sự giúp đỡ của cảnh sát, của chính quyền địa phương, mọi người có được địa chỉ của gia đình có đứa con Việt.
“Khoảng hơn 5 giờ chiều, chúng tôi dồn lên xe van đi tiếp đến nơi cách đó chừng 6 tiếng.”
Theo lời ông Hào, trong suốt đoạn đường này, điện thoại của bốn nhân viên xã hội bận nói chuyện liên tục.
“Khi còn cách chừng hai tiếng nữa đến nơi, thì họ báo cho tôi biết là họ đã gọi báo cho báo chí, truyền hình hay tin hết rồi. Họ nói họ tin chắc rằng thằng bé đó chính là con tôi, 80% là con tôi.” Ông Hào cười, kể tiếp.
Lúc 11 giờ 47 phút đêm 29 Tháng Sáu, ông Hào đến được ngôi nhà của vợ chồng người Thái nuôi đứa con trai ông từ 34 năm qua.
Cũng lúc đó, xe của đài truyền hình, báo chí, cảnh sát địa phương đều có mặt, để ghi nhận lại cuộc hội ngộ không xảy ra quá nhiều trên cuộc đời này.
Giây phút gặp gỡ
Ông Hào nhớ lại thời khắc mà ông mong chờ từ 34 năm nay:
“Tôi thấy tim mình đập mạnh lắm, thấy nôn nao lắm. Trời thì tối, lại không có điện, chỉ có ánh sáng của một bóng đèn nhỏ từ trong nhà hắt ra, cùng ánh sáng của mấy xe truyền hình. Nhưng, chỉ nhìn dáng nó bước ra. Chỉ nhìn cái dáng nó thôi, là tôi đã nhận ra nó là con tôi rồi,” ông Hào kể.
Rồi ông nói tiếp: “Rồi khi tôi gặp mặt nó, là tự nhiên, tôi biết ngay là nó, là thằng con tôi.”
Người cha kể lại khoảnh khắc gặp con qua điện thoại, mà tôi nghe ra, gương mặt ông khóc, và miệng ông cười.
Không một lời nói nào thốt ra trong giây phút đó.
Chỉ có người cha ôm chầm lấy đứa con mình.
Họ không thể nói cùng một ngôn ngữ. Con chỉ nói được tiếng Thái. Cha chỉ nói được tiếng Việt, tiếng Anh.
Nhưng sợi dây máu mủ ràng buộc từ trong sâu thẳm, để người cha tin chắc đó là con mình, và đứa con rời khỏi vòng tay cha mẹ đẻ từ khi 6 tháng tuổi, cũng trong giây phút đó kêu thầm trong đầu, “I know you are my daddy.” (Con biết ba là ba của con mà), (Anh nói với ba mình điều này vài ngày sau thời điểm ấy).
Câu chuyện tiếp theo
Cho dù giây phút đó là thần tiên và diệu kỳ đến mức nào, ông Hào cũng chỉ có thể lưu lại đó hơn 2 tiếng đồng hồ, sau đó phải lên đường ngay để trở lại Songkhla, rồi trở về Malaysia để gia hạn chiếu khán nhập cảnh.
Một ngày sau, ông Hào quay trở lại nơi Khai đang sống, ở đó cùng con trai ông thêm một tháng nữa, trước khi bay về Mỹ chuẩn bị những thủ tục cần thiết cho chuyện gặp lại cả “đại gia đình” tại Hoa Kỳ.
Samart Khumkham, người con trai thất lạc ngày nào của ông Hào, giờ đã là người đàn ông 34 tuổi, có vợ và hai con gái, sống trên rừng cao su, “để làm công việc chăm sóc cao su cho chủ.”
Theo những gì ông Hào được biết, cha mẹ nuôi của Samart ngày xưa làm ở cảng tàu. “Khi đó, bà vợ sanh được một đứa con gái nhưng hai ngày sau thì em bé chết. Lúc đó có một người bồng thằng Khai tới hỏi có muốn nuôi không với điều kiện không được hỏi nguồn gốc từ đâu có thằng bé đó. Thế là vợ chồng họ nhận nuôi đến bây giờ.”
Ở họ, không có khoảng cách của sự xa lạ về tình cảm. “Chỉ qua ngày sau, khi tôi trở lại, là cảm giác như hai cha con đã biết đâu từ hồi nào rồi, cảm giác cha con rất rõ ràng. Nó cũng như vậy. Mấy đứa cháu cũng như đã quen biết mình từ đời nào, rất thân thiện, tự nhiên.”
Nhưng chuyện trò lúc đầu giữa cha con họ thật sự khó khăn.
“Tôi muốn nói gì với nó, tôi gõ ra rồi Google dịch ra tiếng Thái. Ngược lại, nó nói chuyện với tôi cũng bằng cách đó,” ông Hào kể lại kinh nghiệm giao tiếp giữa hai cha con ông một cách hóm hỉnh.
Tuy nhiên, đến thời điểm này, sau hơn ba tháng ông Hào cùng vợ, con và các cô chú nói chuyện với Samart hằng ngày qua skype, vốn tiếng Anh của Samart đã tiến bộ rõ rệt.
Câu chuyện trùng phùng của gia đình ông Trương Văn Hảo đánh động đến Thượng Nghị Sĩ Chuck Schumer.
Ngày 9 Tháng Mười Một, đích thân vị thượng nghị sĩ Dân Chủ, đại diện tiểu bang New York, gọi điện thoại cho đại sứ Mỹ tại Bangkok, bà Kristie Kenney, yêu cầu cấp chiếu khán cho Khai nhập cảnh Hoa Kỳ.
Giây phút người cha Trương Văn Hào (trái) gặp người con Samart Khumkham (Trương Văn Khai) tại phi trường. (Hình: Phương Trương cung cấp
“Ðây là một câu chuyện rất hay, đáng được in thành sách,” ông Schumer nói, theo một thông cáo báo chí của văn phòng ông. “Samart và gia đình của anh bị chia ly quá lâu, và thủ tục hành chánh không nên là một sự cản trở cho cuộc hội ngộ có một không hai trong cuộc đời họ. Tôi yêu cầu bà đại sứ bằng mọi cách có thể, giúp Samart nhập cảnh và gặp gia đình anh.”
Sáng Thứ Hai, 14 Tháng Mười Một, từ Thái Lan, Samart Khumkham, tức Trương Văn Khai ngày nào, được chấp thuận cho nhập cảnh vào Mỹ với chiếu khán du lịch B-2 với thời hạn bốn tháng.
“Họ sẽ gửi visa về nhà. Chỉ trong một vài ngày nữa, con tôi sẽ nhận được. Khi đó, tôi sẽ mua vé máy bay cho nó sang Mỹ. Tôi hy vọng nó sẽ đến đây trước ngày lễ Thanksggiving.” Ông Hảo hớn hở nói.
Hôm Thứ Hai, 21 Tháng Mười Một, Samart Khumkham đến phi trường quốc tế Greater Rochester International Airport ở Chili, New York, hội ngộ với gia đình.
Bà Phương Lê, người vợ hiện tại và cũng là người đã sát cánh cùng ông Hào trong hành trình tìm đứa con bị thất lạc, nói với nhật báo Người Việt về giây phút chứng kiến sự gặp gỡ của hai cha con, “Không thể diễn tả được. Chỉ biết là nước mắt tôi chảy xuống khi chứng kiến cuộc trùng phùng này. Tôi cảm thấy quá xúc động.”
“Tôi rất hạnh phúc khi thấy ước nguyện của chồng tôi đã thành sự thật. Ðây là điều mà anh ấy đã trăn trở và ấp ủ từ mấy mươi năm nay. Tôi mừng cho chồng tôi vì những công sức anh ấy bỏ ra đã được ơn trên nhìn thấy và đền bù xứng đáng.” Bà Phương nói thêm.
Và như vậy, mùa Lễ Tạ Ơn năm nay, có lẽ sẽ là mùa lễ đẹp nhất với gia đình ông Hào, đặc biệt là với hai cha con ông, sau 34 năm bặt tin.––
“Chừng một, hai tuần sau thì có một người Thái gốc Việt đi vào trại báo tin cho biết dân địa phương vừa mới vớt được hai xác người đàn bà và đã chôn cất. Hỏi thì nghe mô tả quần áo rất giống với quần áo vợ tôi và vợ người bạn đi cùng. Trên chiếc tàu chúng tôi đi vượt biên chỉ có hai người phụ nữ thôi. Khi đó tôi xin ra ngoài để đi đến đó hỏi thăm nhưng họ không cho ai ra khỏi trại. Từ đó tôi không còn biết tin tức gì nữa.” Ông Hào nói một cách nặng nề.
Sau gần năm tháng ở trong trại, ông Hào được người thân bảo lãnh sang định cư tại Mỹ.
Hành trình tìm con
Tin chắc là vợ mình đã chết, nhưng “trong suốt thời gian qua, chưa bao giờ tôi nghĩ là con tôi chết. Tôi tin là nó còn sống và đang ở đâu đó.” Chính từ niềm tin mãnh liệt này, mà chừng năm, sáu năm sau khi đến Mỹ, ông Hào tìm đến Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ nhờ tìm kiếm con trai ông.
“Nhưng lần đó họ nói tôi không có đủ tin tức cần thiết, như không có hình ảnh, hay giấy tờ gì. Cái gì tôi cũng không có bởi vì bị mất hết rồi.”
Dù bận bịu với cuộc sống, lập gia đình mới, có con nhỏ, ý định tìm đứa con trai thất lạc vẫn lẩn quẩn trong tâm trí người cha. Chừng 10 năm sau, ông Hào lại đến Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ một lần nữa, “cũng làm đơn nhờ họ kiếm, nhưng rồi câu trả lời vẫn là như vậy.”
Ðến cuối Tháng Năm vừa rồi, “khi mới xong khóa học mùa Spring, tôi mua vé đi Thái Lan tìm con tôi.”
Và chuyến đi kéo dài một tháng này của người cha đã thật sự có kết quả.
Chặng thứ nhất
Ông Trương Văn Hào rời New York vào ngày cuối Tháng Năm để thực hiện cho bằng được, một lần, hết sức mình, việc tìm kiếm đứa con rời xa ông khi nó mới sáu tháng tuổi. Ông đi, mang theo trong lòng niềm tin của người cha về đứa con vẫn còn sống, và sự ủng hộ về tinh thần lẫn vật chất của người vợ hiện tại, cùng bốn đứa con thân yêu.
“Ba, con hy vọng là ba sẽ mang được anh Khai về, bằng hết sức của ba.” Người con trai út 10 tuổi của ông, nói với ông như vậy.
Ðầu Tháng Sáu, ông Hào đặt chân đến Bangkok khi trời đã về chiều. Sáng sớm hôm sau, ông bay đến Hat Yai, một thành phố phía Nam Thái Lan, cách Songkhla, nơi có trại tị nạn ông Hào từng ở cách đây 34 năm, khoảng một giờ lái xe.
Ông lưu lại ba ngày. “Trong ba ngày này, tôi đi tìm kiếm một ngôi nhà thờ.”
Người cha đang trong hành trình đi tìm con rõ ràng đã vạch sẵn cho mình kế hoạch tìm kiếm.
Ông nói, “Tôi nhớ ngày xưa ở tỉnh Songkhla có một vị linh mục thường đưa thư vô cho người tị nạn. Tôi không biết tên cha nhưng tôi nghĩ ông chỉ có thể ở lòng vòng quanh tỉnh Songkhla hay quanh quanh đâu đây thôi.”
Ðó chính là lý do vì sao ông Hào lại đi tìm nhà thờ. Tuy nhiên, khi đến nhà thờ, ông Hào được biết “vị linh mục tôi muốn tìm đã ngoài 80 tuổi, nghỉ hưu và về sống ở Bangkok.”
Thất vọng vì không tìm được vị linh mục, nhưng ông Hào lại được vị linh mục mới, hướng dẫn ông đến “gặp một nhóm thanh niên trẻ chuyên giúp đỡ những người tị nạn.”
Sau khi nghe chuyện ông Hào muốn tìm kiếm đứa con thất lạc, nhóm thanh niên này chở ông ngược lại Hat Yai để “quay phim đưa lên tin tức.”
Cũng thời gian này, ông Hào gọi điện thoại về Mỹ cho vợ ông biết ông gặp khá nhiều khó khăn trong vấn đề giao tiếp, bởi vì “càng đi về miền Nam, người ta càng ít biết nói tiếng Anh, và có nói thì cũng rất khó nghe.”
Nhờ vào bạn bè quen biết, vợ ông tìm được một người biết nói tiếng Việt lẫn tiếng Thái, đang ở Lào, bay sang Thái Lan để đi cùng ông Hào.
Chặng thứ hai
Ông Hào và người bạn Lào thuê xe “đi tìm nơi ngày xưa người ta chôn vợ tôi.”
“Chúng tôi lái xe dọc theo bờ biển hết hướng Nam rồi đến hướng Bắc, cứ đi đến đâu thấy có làng là dừng lại hỏi thăm nhưng chẳng được tin tức gì hết,” người đàn ông nhẫn nại kể, như thể hành trình đó vẫn còn mồn một trong ông.
Ông Hào cũng đến sở cảnh sát và các trụ sở của chính quyền địa phương để nhờ giúp đỡ. Có điều, “do nhiều vấn đề tế nhị, nên tôi không nêu ra trong đơn là ngày xưa chúng tôi bị giết, bị cướp, mà chỉ nói là tàu gặp nạn thôi.”
Không tìm được mộ người vợ chết thảm năm xưa, ông Hào và người bạn trở lại Hat Yai, đến những nhà xác tìm tin tức, nhờ lục lọi lại hồ sơ giấy tờ ngày xưa.
Cũng trong những ngày lang thang đi tìm tin tức này, ông Hào tình cờ được giới thiệu gặp một người đang làm việc tại một đài truyền hình ở Bangkok.
Ông kể, “Ðài truyền hình này xuống gặp chúng tôi, dàn xếp một cuộc phỏng vấn cảnh đi tìm con để quay phim. Rồi họ chiếu lên TV.”
Dấu vết đứa con vẫn còn mờ mịt thì người bạn biết tiếng Thái của ông Hảo phải quay trở về Lào vì công việc gia đình.
Một lần nữa, người cha này lại “cảm thấy bế tắc.”
Chặng thứ ba
Khi đó, ông Hào đã ở Thái Lan chừng hai tuần.
Ông bắt đầu ngồi xuống, viết lại câu chuyện tìm con, rồi đưa lên Google cho dịch ra tiếng Thái. Ông đưa cả hình ông và người vợ quá cố của mình vào, “để hy vọng hoặc con giống cha hoặc con giống má thì người ta có thể nhận ra.”
“Xong, tôi in ra khoảng 500 tờ. Vào mỗi đêm, tôi đến con đường đông người qua lại và phát cho người ta. Trong tờ rơi đó tôi có hứa tặng cho ai tìm được tin tức con tôi một số tiền.” Ông kể về việc làm của mình.
Ðồng thời, ông Hào cũng tìm gặp được một số người của tổ chức “giống như nhân viên xã hội” nhờ giúp đỡ. Bên cạnh những chi tiết ông Hào cung cấp cho “nhân viên xã hội,” ông còn nhớ thêm được chiếc tàu ngày xưa ông bị bắt lên cùng vợ con ông là “tàu số 21, nhưng không nhớ tên.”
Thời gian này, ông Hào lại quen biết với một người đàn ông Thái biết nói tiếng Anh. Qua người đàn ông này, ông Hào có dịp gặp gỡ một số người làm nghề lái tàu.
Từ những người lái tàu, ông lại biết thêm một điều: nơi có thể tìm được “chiếc tàu 21 ngày xưa.” Có điều, không phải là một nơi mà có thể tới ba địa điểm.
Ông Hào mang tin tức này nói cho “nhân viên xã hội” biết, và “họ hứa đưa tôi đi đến những nơi đó.”
Thế nhưng, chuyện đời luôn có những chuyện “thế nhưng” nghiệt ngã như thế.
“Khi đó gần đến ngày bầu cử, rồi có nơi thì có bạo loạn xảy ra, nên họ không chịu đi,” ông Hào nhớ lại.
Người ta không đi, nhưng ông không có lý do gì để không đi, “Tôi thì có sợ gì chết nữa nên tôi có ý định sẽ đi một mình.”
Lần lữa tìm đường đi, cũng là lúc chiếu khán nhập cảnh ở Thái Lan của ông Hào chỉ còn ba ngày là hết hạn.
Chặng thứ tư
“Khi thấy còn ba ngày nữa là hết hạn visa, tôi trở lại tìm những người nhân viên xã hội một lần nữa để đưa hết thông tin cho họ, báo cho họ biết là tôi đi về Mỹ, có tin gì thì họ báo cho tôi biết.” Ông Hào có ý định chấm dứt hành trình tìm kiếm đứa con, ở thời điểm này.
Không ngờ, lúc đó các nhân viên xã hội lại báo cho ông Hào biết rằng họ đã có tin tức của ông chủ vừa mua lại “chiếc tàu số 21.”
“Ngày 28 Tháng Sáu, tôi cùng hai người nhân viên xã hội đi gặp ông chủ tàu.”
Có điều, người cha xem như “mất hết hy vọng,” vì “đó không phải là chiếc tàu hồi xưa tôi lên.”
Nhưng.
Lại một chữ “nhưng” bất ngờ.
Trong thời gian mấy tiếng đồng hồ đi loanh quanh bến cảng để tìm kiếm “con tàu 21,” một thanh niên làm cho ông chủ tàu vô tình nghe được câu chuyện tìm con của ông Hào.
Theo lời thanh niên này thì ngày xưa xóm anh có một gia đình nuôi một đứa trẻ Việt Nam.
Ðể chắc chắn, thanh niên này gọi điện thoại hỏi người mẹ, và được trả lời là “đúng rồi.”
Tia sáng lại lóe lên.
Sáng hôm sau, ông Hào cùng bốn nhân viên xã hội, “có cả ông sếp của họ,” lên xe hướng về ngôi làng người thanh niên cho biết.
Chặng thứ năm
“Sau bốn tiếng lái xe, chúng tôi đến nơi thì được chính quyền ở đó xác nhận đúng là hồi trước có một gia đình nuôi một đứa con người Việt,” ông Hào tiếp tục câu chuyện dài mà dường như chẳng hề mệt mỏi.
“Một người dân địa phương khẳng định, ‘Thằng nhỏ nhà đó nhìn rất giống ông.’” Lời nói đó càng khiến niềm tin sẽ kiếm được đứa con trở nên tràn trề và mãnh liệt trong lòng người cha.
“Nhưng gia đình đó đã dọn đi khỏi đây từ 15 năm trước rồi.”
Như trò đùa của số phận, hy vọng vừa lóe lên thì vụt mất. Hạnh phúc như gần kề bàn tay thì lại vuột bay.
Nhưng ý chí con người đôi lúc vượt lên trên những định mệnh nghiệt ngã.
Với sự giúp đỡ của cảnh sát, của chính quyền địa phương, mọi người có được địa chỉ của gia đình có đứa con Việt.
“Khoảng hơn 5 giờ chiều, chúng tôi dồn lên xe van đi tiếp đến nơi cách đó chừng 6 tiếng.”
Theo lời ông Hào, trong suốt đoạn đường này, điện thoại của bốn nhân viên xã hội bận nói chuyện liên tục.
“Khi còn cách chừng hai tiếng nữa đến nơi, thì họ báo cho tôi biết là họ đã gọi báo cho báo chí, truyền hình hay tin hết rồi. Họ nói họ tin chắc rằng thằng bé đó chính là con tôi, 80% là con tôi.” Ông Hào cười, kể tiếp.
Lúc 11 giờ 47 phút đêm 29 Tháng Sáu, ông Hào đến được ngôi nhà của vợ chồng người Thái nuôi đứa con trai ông từ 34 năm qua.
Cũng lúc đó, xe của đài truyền hình, báo chí, cảnh sát địa phương đều có mặt, để ghi nhận lại cuộc hội ngộ không xảy ra quá nhiều trên cuộc đời này.
Giây phút gặp gỡ
Ông Hào nhớ lại thời khắc mà ông mong chờ từ 34 năm nay:
“Tôi thấy tim mình đập mạnh lắm, thấy nôn nao lắm. Trời thì tối, lại không có điện, chỉ có ánh sáng của một bóng đèn nhỏ từ trong nhà hắt ra, cùng ánh sáng của mấy xe truyền hình. Nhưng, chỉ nhìn dáng nó bước ra. Chỉ nhìn cái dáng nó thôi, là tôi đã nhận ra nó là con tôi rồi,” ông Hào kể.
Rồi ông nói tiếp: “Rồi khi tôi gặp mặt nó, là tự nhiên, tôi biết ngay là nó, là thằng con tôi.”
Người cha kể lại khoảnh khắc gặp con qua điện thoại, mà tôi nghe ra, gương mặt ông khóc, và miệng ông cười.
Không một lời nói nào thốt ra trong giây phút đó.
Chỉ có người cha ôm chầm lấy đứa con mình.
Họ không thể nói cùng một ngôn ngữ. Con chỉ nói được tiếng Thái. Cha chỉ nói được tiếng Việt, tiếng Anh.
Nhưng sợi dây máu mủ ràng buộc từ trong sâu thẳm, để người cha tin chắc đó là con mình, và đứa con rời khỏi vòng tay cha mẹ đẻ từ khi 6 tháng tuổi, cũng trong giây phút đó kêu thầm trong đầu, “I know you are my daddy.” (Con biết ba là ba của con mà), (Anh nói với ba mình điều này vài ngày sau thời điểm ấy).
Câu chuyện tiếp theo
Cho dù giây phút đó là thần tiên và diệu kỳ đến mức nào, ông Hào cũng chỉ có thể lưu lại đó hơn 2 tiếng đồng hồ, sau đó phải lên đường ngay để trở lại Songkhla, rồi trở về Malaysia để gia hạn chiếu khán nhập cảnh.
Một ngày sau, ông Hào quay trở lại nơi Khai đang sống, ở đó cùng con trai ông thêm một tháng nữa, trước khi bay về Mỹ chuẩn bị những thủ tục cần thiết cho chuyện gặp lại cả “đại gia đình” tại Hoa Kỳ.
Samart Khumkham, người con trai thất lạc ngày nào của ông Hào, giờ đã là người đàn ông 34 tuổi, có vợ và hai con gái, sống trên rừng cao su, “để làm công việc chăm sóc cao su cho chủ.”
Theo những gì ông Hào được biết, cha mẹ nuôi của Samart ngày xưa làm ở cảng tàu. “Khi đó, bà vợ sanh được một đứa con gái nhưng hai ngày sau thì em bé chết. Lúc đó có một người bồng thằng Khai tới hỏi có muốn nuôi không với điều kiện không được hỏi nguồn gốc từ đâu có thằng bé đó. Thế là vợ chồng họ nhận nuôi đến bây giờ.”
Ở họ, không có khoảng cách của sự xa lạ về tình cảm. “Chỉ qua ngày sau, khi tôi trở lại, là cảm giác như hai cha con đã biết đâu từ hồi nào rồi, cảm giác cha con rất rõ ràng. Nó cũng như vậy. Mấy đứa cháu cũng như đã quen biết mình từ đời nào, rất thân thiện, tự nhiên.”
Nhưng chuyện trò lúc đầu giữa cha con họ thật sự khó khăn.
“Tôi muốn nói gì với nó, tôi gõ ra rồi Google dịch ra tiếng Thái. Ngược lại, nó nói chuyện với tôi cũng bằng cách đó,” ông Hào kể lại kinh nghiệm giao tiếp giữa hai cha con ông một cách hóm hỉnh.
Tuy nhiên, đến thời điểm này, sau hơn ba tháng ông Hào cùng vợ, con và các cô chú nói chuyện với Samart hằng ngày qua skype, vốn tiếng Anh của Samart đã tiến bộ rõ rệt.
Câu chuyện trùng phùng của gia đình ông Trương Văn Hảo đánh động đến Thượng Nghị Sĩ Chuck Schumer.
Ngày 9 Tháng Mười Một, đích thân vị thượng nghị sĩ Dân Chủ, đại diện tiểu bang New York, gọi điện thoại cho đại sứ Mỹ tại Bangkok, bà Kristie Kenney, yêu cầu cấp chiếu khán cho Khai nhập cảnh Hoa Kỳ.
Giây phút người cha Trương Văn Hào (trái) gặp người con Samart Khumkham (Trương Văn Khai) tại phi trường. (Hình: Phương Trương cung cấp
“Ðây là một câu chuyện rất hay, đáng được in thành sách,” ông Schumer nói, theo một thông cáo báo chí của văn phòng ông. “Samart và gia đình của anh bị chia ly quá lâu, và thủ tục hành chánh không nên là một sự cản trở cho cuộc hội ngộ có một không hai trong cuộc đời họ. Tôi yêu cầu bà đại sứ bằng mọi cách có thể, giúp Samart nhập cảnh và gặp gia đình anh.”
Sáng Thứ Hai, 14 Tháng Mười Một, từ Thái Lan, Samart Khumkham, tức Trương Văn Khai ngày nào, được chấp thuận cho nhập cảnh vào Mỹ với chiếu khán du lịch B-2 với thời hạn bốn tháng.
“Họ sẽ gửi visa về nhà. Chỉ trong một vài ngày nữa, con tôi sẽ nhận được. Khi đó, tôi sẽ mua vé máy bay cho nó sang Mỹ. Tôi hy vọng nó sẽ đến đây trước ngày lễ Thanksggiving.” Ông Hảo hớn hở nói.
Hôm Thứ Hai, 21 Tháng Mười Một, Samart Khumkham đến phi trường quốc tế Greater Rochester International Airport ở Chili, New York, hội ngộ với gia đình.
Bà Phương Lê, người vợ hiện tại và cũng là người đã sát cánh cùng ông Hào trong hành trình tìm đứa con bị thất lạc, nói với nhật báo Người Việt về giây phút chứng kiến sự gặp gỡ của hai cha con, “Không thể diễn tả được. Chỉ biết là nước mắt tôi chảy xuống khi chứng kiến cuộc trùng phùng này. Tôi cảm thấy quá xúc động.”
“Tôi rất hạnh phúc khi thấy ước nguyện của chồng tôi đã thành sự thật. Ðây là điều mà anh ấy đã trăn trở và ấp ủ từ mấy mươi năm nay. Tôi mừng cho chồng tôi vì những công sức anh ấy bỏ ra đã được ơn trên nhìn thấy và đền bù xứng đáng.” Bà Phương nói thêm.
Và như vậy, mùa Lễ Tạ Ơn năm nay, có lẽ sẽ là mùa lễ đẹp nhất với gia đình ông Hào, đặc biệt là với hai cha con ông, sau 34 năm bặt tin.––
THANH VÂN * TẤM THẺ BÀI
Tấm thẻ bài
Thanh Vân
Thanh Vân
Mười hai năm rồi em không gặp anh và sẽ không bao giờ gặp được anh nữa vì anh đã bỏ mình trong trại cải tạo đã sáu năm qua.
Sáng nay nhận được thơ bạn anh từ Quê Hương gởi sang, nói đã làm xong nhiệm vụ em nhờ, đã đưa được hài cốt của anh từ Vĩnh Phú về Huế, nơi anh đã sinh ra, đã lớn lên, nơi chúng mình đã gặp nhau và thề nguyền sẽ yêu nhau mãi mãi, em buồn vui lẫn lộn.
Anh ơi, em vui vì biết anh đã về lại được Quê Hương nhưng em xót xa khi đọc đến đoạn bạn anh viết về những gian nan phải vượt qua khi đi tìm mộ anh, vì tất cả chỉ là núi rừng hoang dại, mỗi người tù chết đi chỉ được vùi sơ với miếng đá nhỏ ghi tên họ và ngày lìa đời cắm trên nấm mộ thấp. Đau đớn nhất cho em là khi đọc đến đoạn bạn anh kể xác thân đã rã mục của anh vẫn còn được bao trong chiếc áo len em tặng anh ngày xưa, chiếc mền dù bao phủ thân anh vẫn còn nguyên nhưng nơi xương cổ anh có mang thêm sợi xích nhỏ với tầm thẻ bài bằng nhôm ghi rõ tên họ và lý do bị quản thúc là “Phản quốc”!
Anh ơi, đã chết rồi mà thân thể còn mang nặng nhục nhằn. Có chế độ nào dã man hơn chế độ Việt Nam ngày nay ?
Vậy mà ngày xưa anh đã hãnh diện biết bao về Quê Hương, Tổ Quốc của mình. Thật ra thì Quê Hương vẫn còn đó, hai tiếng Việt Nam vẫn sống trong tim cả triệu người Việt xa xứ, nhưng với người ở lại, người đang trả nợ máu, người đã chết vùi thây trong núi rừng thì hai tiếng Việt Nam đè nặng tâm hồn.
Hôm nay đọc thơ bạn anh, nhớ lại đoạn đường đã qua của mình, sao lòng em thật nhiều đau xót. Năm nay mùa Xuân đến chậm vì mùa Đông không muốn đi, đã tháng Ba tháng Tư mà khí hậu vẫn còn lạnh, nhưng cái lạnh ngoài trời có thấm chi với cái lạnh, cái buồn của người Việt ly hương, mỗi năm khi tháng Tư về ?
Sáng nay em nhớ anh, em nhớ anh thật nhiều. Tháng tư làm em mất anh, giờ tháng Tư lại trở về, trên tay em cầm tấm thẻ bài có ghi tên họ và lý do hai đứa mình xa nhau. Đau đớn quá anh nhỉ, hai tiếng “Phản Quốc” như muôn ngàn lưỡi dao đâm vào tim em.
Em nhớ ngày nào, mỗi lần đi hành quân về, anh đến thăm em, mắt môi rạng rỡ. Mỗi lần được Huy chương là một ngày vui của hai đứa mình. Anh đến khoe với em và hai đứa lại ra Đập Đá nhìn trăng, nghe tiếng sáo diều lơ lửng trên không, anh mỉm cười hãnh diện vì sự thanh bình của Quê Hương, cái thanh bình mà anh đã đem mạng sống ra để bảo vệ. Các Huy chương đó ngày nay lại là bản án tử hình của các anh.
Tháng tư là mùa Xuân phải không anh ? Mùa Xuân ở đây cũng như mùa Xuân của Huế xưa. Nhà nào cũng có một vài khóm hồng đang e ấp nở, nhà em lại có thêm cây anh đào đang rực đỏ với nằng Xuân. Quê Hương người đẹp quá, nhưng sao lòng em vẫn thấy mất mát ngậm ngùi.
Em đang ngồi yên với tấm thẻ bài nhục nhã đau thương đã ôm ấp thân xác anh trong sáu năm qua dưới lòng huyệt lạnh, và em đang thả hồn về ngày hai đứa mình còn nhau. Tiếng đàn réo rắt ma quái, quyến rũ dị thường của người nhạc sĩ vô danh trong “Ru khúc mộng thường” đưa em về lại những ngày xưa cũ, những êm đềm của một mùa trăng xưa.
Ở đây không có tiếng sáo diều lơ lững trên không, cũng không có những nữ sinh áo trắng mổi sáng từ Vĩ Dạ đi ngang qua Đập Đá để đến trường nhưng tiếng đàn của người nghệ sĩ tài hoa kia đã đưa em về lại Quê Hương, có trăng sáng, có trời xanh, có mộng ước bình thường. Không hiểu sao sáng nay tiếng đàn ma quái đó ám ảnh em, phải chi tất cả mọi người trên trái đất này đều yêu thơ, yêu nhạc thì ngày nay mình đâu có mất nhau, anh chết sáu năm đâu phải mang thêm tấm thẻ bài nhục nhã.
Với tiếng Tây ban cầm độc tấu cô đơn nhưng đầy ắp tâm sự, em chắc người nhạc sĩ có cái tên cũng lạ như tiếng đàn phải có một nội tâm thật đẹp, một tâm sự thật buồn. Tên ông ta là “Vô Thường”. Phải rồi anh nhỉ, tất cả chỉ là hư vô, tất cả chỉ là bình thường, chỉ có tình người, tình Quê Hương là vĩnh cửu.
Nếu tiếng đàn của người Tây ban Nha mang âm điệu hoang dại của một Dân tộc nồng nàn ham sống, thì tiếng tây ban cầm của Vô Thường mang âm giai của một người lạc lõng, một kẻ du mục, một kẻ đang đi tìm miền đất hứa. Tiếng đàn khi thổn thức, khi vỗ về, khi chia xẻ thương đau, tiếng đàn mang dư âm của tiếc thương nhung nhớ, của tình yêu đã có và đã bay xa, của Quê Hương hiện hữu nhưng quá tầm tay với, của những mộng ước bình thường nhưng đã vời vợi xa bay.
Anh ơi, tiếng đàn ray rứt của người nhạc sĩ vô danh kia đã cho em ý thức được sự mất mát lớn lao của đời em, tấm thẻ bài nhục nhã trong tay em đã nói lên sự uất hận ngàn đời của người dân Việt phải xa lìa Tổ quốc thân yêu.
Quê Hương vẫn còn đó nhưng đã nhuộm màu, thành phố Huế của chúng mình còn đó nhưng đã đổ nát quạnh hiu. Nếu biết không có ngày trở lại, thì ngày xưa em đã rủ anh đi khắp hang cùng ngõ hẻm, đã yêu thương tâm sự với anh nhiều hơn. Quê Hương người tuy đẹp tuy giàu nhưng vẫn thiếu cái đậm đà giữa những người cùng huyết thống, thiếu khói lam chiều trên mái tranh xa, thiếu tiếng sáo diều lơ lửng đêm trăng, thiếu tiếng hò mái đẩy, thiếu tiếng rao hàng trên sông vắng mổi đêm khi khuya về sáng. Giờ chỉ còn lại đây tấm thẻ bài nhục nhằn của anh, của những người ngày xưa đã lấy “Tổ Quốc” làm lẽ sống và giờ đã chết vùi thây khắp các núi rừng gần trại tập trung với hai chữ “Phản Quốc” đè nặng linh hồn.
Quê Hương ! Quê Hương ! Em đang nhớ nhung hay đang thù hận đây ? Xưa em hãnh diện về Quê Hương gấm vóc bao nhiêu thì giờ nhìn tấm thẻ bài khốn khổ với hai chữ "Phản Quốc" em lại thù ghét Quê Hương bấy nhiêu.
Hãy trả lại cho em Quê Hương ngày cũ, ngày nào còn lũ giặc đỏ, còn hai chữ “Phản Quốc” trên cổ các người ngã ngựa thì ngày đó em còn xa lìa Quê Hương.
Lạy trời cho con giấc mộng bình thường, cho còn tìm lại được quê xưa, ngày còn lá me bay, còn sân cỏ mướt chứ không phải như bây giờ, sân cỏ làm nông trường, sức người thay máy móc, nhiên liệu, trâu bò.
Em sẽ thay anh mang tấm thẻ bài vào cổ, em sẽ mang nó với niềm hãnh diện vô biên của một người đã có người yêu suốt đời hy sinh cho lý tưởng, em cũng mang nó để nhắc nhở những người xa xứ hãy hướng về Quê Hương ngục tù khốn khổ mà làm một cái gì để thắp sáng ngày về.
Thật ra thì đã mười hai năm qua, lòng người đã có phần nào thay đổi. Tháng Tư vẫn mang đến ngậm ngùi, thương tiếc nhưng rồi cuộc sống chạy theo đồng hồ, những nhu cầu cấp bách hàng ngày đã làm tâm hồn nhụt dần chí khí. Phải chi những tấm thẻ bài có ghi hai chữ “Phản Quốc” của các anh hùng đã hy sinh cho đất nước được gởi qua cho mỗi người xa xứ thì ngày về của kẻ ly hương chắc sẽ gần hơn.
Trong tận cùng linh hồn, em chắc người dân nào khi xa quê cũng hoài vọng một ngày về, và dù có mất gốc đến đâu thì cũng có một giờ phút trong đời mơ ước về lại quê xưa, thăm lại ngôi nhà cũ.
Anh ơi, giờ em mới hiểu nỗi xúc động tận cùng của bà Giáo sư người Pháp dạy em năm em học lớp sáu. Bà đã khóc khi hát cho chúng em nghe một bài nói về Thành phố nơi bà đã sinh ra, bài hát lời lẽ thật đơn sơ mộc mạc nhưng sao người nghe thấy ngậm ngùi thổn thức. Bài hát chỉ có thế này :
Quand tout renait à l’espérance.
Et que l’hiver fut loin de nous.
Quand la nature est reverdie.
Quand l’hirondelle est de retour.
J’aime à revoir ma Normandie.
C’est le pays qui m’a donné le jour.
Em tạm dịch là :
Khi nào hy vọng trở về.
Và khi mùa Đông đã đi xa.
Khi thiên nhiên trở lại xanh thẳm.
Khi chim én trở về cùng ta.
Tôi mơ ước nhìn lại Normandie.
Là nơi tôi đã chào đời.
Anh ơi, tình hoài hương bàng bạc trong lòng mọi dân tộc. Em cũng đã khóc khi hát lại bài này. Em không mơ ước nhìn lại Normandie của bà giáo sư người Pháp nhưng em mơ ước nhìn lại xứ Huế nghèo nàn, thơ mộng của em ngày xưa. Em mơ ước nhìn lại một Việt Nam tự do đầy tình người, một Việt Nam mà em sẽ hãnh diện mang tấm thẻ bài có ghi hai chữ "Phản Quốc" của anh để trở về đi trong lá me bay, trong giòng người cùng huyết thống, cùng lý tưởng, vì anh ơi, dù muôn vàn thay đổi, em muôn đời vẫn là con bé Việt Nam thích lang thang khắp phố phường cho tóc bay, cho hồn mơ mộng và cho lá rơi đầy trên vai trên áo. Còn ở đây, cuộc sống sao quá vội vàng, bon chen, lừa lọc. Người ta yêu nhau cũng vội, ghét nhau còn vội vàng hơn.
Mùa Xuân quê người, nhưng cũng là mùa Đông của người xa xứ đang mất mát như em. Tiếng đàn tức tưởi cô đơn của người nhạc sĩ vô danh cũng là tiếng khóc nghẹn ngào của người đã mất hết niềm tin, chỉ còn lại Tấm Thẻ bài ghi lại một thời Hạnh Phúc Xưa và đánh dấu một sự nhục nhằn khốn khổ của người ở lại ngày nay.
Cầm tấm thẻ bài bằng nhôm bóng loáng trên tay, em liên tưởng đến trăm ngàn cái khác đang bị vùi sâu dưới lòng đất mẹ cùng những người con yêu của Tổ Quốc. Em chợt nhớ đến hai câu hát mở đầu trong bài Rêveries của Shumann :
“Ce soir dans le jardin du ciel.
Les étoiles ont fleuri comme un bouquet d’argent”...
Em hình dung ra một ngày gần đây, trăm ngàn Tấm thẻ bài bằng nhôm đó sẽ trở thành những bó hoa bằng bạc nở trên bầu trời để soi sáng và chỉ đường cho những người con xa xứ trở về giải phóng Quê Hương.
(Thương gởi hương hồn anh tôi đã chết ở trại cải tạo Vĩnh Phú, Bắc Việt tháng 11 năm 1983)
Tháng 4 năm 1987
Thanh Vân
Sáng nay nhận được thơ bạn anh từ Quê Hương gởi sang, nói đã làm xong nhiệm vụ em nhờ, đã đưa được hài cốt của anh từ Vĩnh Phú về Huế, nơi anh đã sinh ra, đã lớn lên, nơi chúng mình đã gặp nhau và thề nguyền sẽ yêu nhau mãi mãi, em buồn vui lẫn lộn.
Anh ơi, em vui vì biết anh đã về lại được Quê Hương nhưng em xót xa khi đọc đến đoạn bạn anh viết về những gian nan phải vượt qua khi đi tìm mộ anh, vì tất cả chỉ là núi rừng hoang dại, mỗi người tù chết đi chỉ được vùi sơ với miếng đá nhỏ ghi tên họ và ngày lìa đời cắm trên nấm mộ thấp. Đau đớn nhất cho em là khi đọc đến đoạn bạn anh kể xác thân đã rã mục của anh vẫn còn được bao trong chiếc áo len em tặng anh ngày xưa, chiếc mền dù bao phủ thân anh vẫn còn nguyên nhưng nơi xương cổ anh có mang thêm sợi xích nhỏ với tầm thẻ bài bằng nhôm ghi rõ tên họ và lý do bị quản thúc là “Phản quốc”!
Anh ơi, đã chết rồi mà thân thể còn mang nặng nhục nhằn. Có chế độ nào dã man hơn chế độ Việt Nam ngày nay ?
Vậy mà ngày xưa anh đã hãnh diện biết bao về Quê Hương, Tổ Quốc của mình. Thật ra thì Quê Hương vẫn còn đó, hai tiếng Việt Nam vẫn sống trong tim cả triệu người Việt xa xứ, nhưng với người ở lại, người đang trả nợ máu, người đã chết vùi thây trong núi rừng thì hai tiếng Việt Nam đè nặng tâm hồn.
Hôm nay đọc thơ bạn anh, nhớ lại đoạn đường đã qua của mình, sao lòng em thật nhiều đau xót. Năm nay mùa Xuân đến chậm vì mùa Đông không muốn đi, đã tháng Ba tháng Tư mà khí hậu vẫn còn lạnh, nhưng cái lạnh ngoài trời có thấm chi với cái lạnh, cái buồn của người Việt ly hương, mỗi năm khi tháng Tư về ?
Sáng nay em nhớ anh, em nhớ anh thật nhiều. Tháng tư làm em mất anh, giờ tháng Tư lại trở về, trên tay em cầm tấm thẻ bài có ghi tên họ và lý do hai đứa mình xa nhau. Đau đớn quá anh nhỉ, hai tiếng “Phản Quốc” như muôn ngàn lưỡi dao đâm vào tim em.
Em nhớ ngày nào, mỗi lần đi hành quân về, anh đến thăm em, mắt môi rạng rỡ. Mỗi lần được Huy chương là một ngày vui của hai đứa mình. Anh đến khoe với em và hai đứa lại ra Đập Đá nhìn trăng, nghe tiếng sáo diều lơ lửng trên không, anh mỉm cười hãnh diện vì sự thanh bình của Quê Hương, cái thanh bình mà anh đã đem mạng sống ra để bảo vệ. Các Huy chương đó ngày nay lại là bản án tử hình của các anh.
Tháng tư là mùa Xuân phải không anh ? Mùa Xuân ở đây cũng như mùa Xuân của Huế xưa. Nhà nào cũng có một vài khóm hồng đang e ấp nở, nhà em lại có thêm cây anh đào đang rực đỏ với nằng Xuân. Quê Hương người đẹp quá, nhưng sao lòng em vẫn thấy mất mát ngậm ngùi.
Em đang ngồi yên với tấm thẻ bài nhục nhã đau thương đã ôm ấp thân xác anh trong sáu năm qua dưới lòng huyệt lạnh, và em đang thả hồn về ngày hai đứa mình còn nhau. Tiếng đàn réo rắt ma quái, quyến rũ dị thường của người nhạc sĩ vô danh trong “Ru khúc mộng thường” đưa em về lại những ngày xưa cũ, những êm đềm của một mùa trăng xưa.
Ở đây không có tiếng sáo diều lơ lững trên không, cũng không có những nữ sinh áo trắng mổi sáng từ Vĩ Dạ đi ngang qua Đập Đá để đến trường nhưng tiếng đàn của người nghệ sĩ tài hoa kia đã đưa em về lại Quê Hương, có trăng sáng, có trời xanh, có mộng ước bình thường. Không hiểu sao sáng nay tiếng đàn ma quái đó ám ảnh em, phải chi tất cả mọi người trên trái đất này đều yêu thơ, yêu nhạc thì ngày nay mình đâu có mất nhau, anh chết sáu năm đâu phải mang thêm tấm thẻ bài nhục nhã.
Với tiếng Tây ban cầm độc tấu cô đơn nhưng đầy ắp tâm sự, em chắc người nhạc sĩ có cái tên cũng lạ như tiếng đàn phải có một nội tâm thật đẹp, một tâm sự thật buồn. Tên ông ta là “Vô Thường”. Phải rồi anh nhỉ, tất cả chỉ là hư vô, tất cả chỉ là bình thường, chỉ có tình người, tình Quê Hương là vĩnh cửu.
Nếu tiếng đàn của người Tây ban Nha mang âm điệu hoang dại của một Dân tộc nồng nàn ham sống, thì tiếng tây ban cầm của Vô Thường mang âm giai của một người lạc lõng, một kẻ du mục, một kẻ đang đi tìm miền đất hứa. Tiếng đàn khi thổn thức, khi vỗ về, khi chia xẻ thương đau, tiếng đàn mang dư âm của tiếc thương nhung nhớ, của tình yêu đã có và đã bay xa, của Quê Hương hiện hữu nhưng quá tầm tay với, của những mộng ước bình thường nhưng đã vời vợi xa bay.
Anh ơi, tiếng đàn ray rứt của người nhạc sĩ vô danh kia đã cho em ý thức được sự mất mát lớn lao của đời em, tấm thẻ bài nhục nhã trong tay em đã nói lên sự uất hận ngàn đời của người dân Việt phải xa lìa Tổ quốc thân yêu.
Quê Hương vẫn còn đó nhưng đã nhuộm màu, thành phố Huế của chúng mình còn đó nhưng đã đổ nát quạnh hiu. Nếu biết không có ngày trở lại, thì ngày xưa em đã rủ anh đi khắp hang cùng ngõ hẻm, đã yêu thương tâm sự với anh nhiều hơn. Quê Hương người tuy đẹp tuy giàu nhưng vẫn thiếu cái đậm đà giữa những người cùng huyết thống, thiếu khói lam chiều trên mái tranh xa, thiếu tiếng sáo diều lơ lửng đêm trăng, thiếu tiếng hò mái đẩy, thiếu tiếng rao hàng trên sông vắng mổi đêm khi khuya về sáng. Giờ chỉ còn lại đây tấm thẻ bài nhục nhằn của anh, của những người ngày xưa đã lấy “Tổ Quốc” làm lẽ sống và giờ đã chết vùi thây khắp các núi rừng gần trại tập trung với hai chữ “Phản Quốc” đè nặng linh hồn.
Quê Hương ! Quê Hương ! Em đang nhớ nhung hay đang thù hận đây ? Xưa em hãnh diện về Quê Hương gấm vóc bao nhiêu thì giờ nhìn tấm thẻ bài khốn khổ với hai chữ "Phản Quốc" em lại thù ghét Quê Hương bấy nhiêu.
Hãy trả lại cho em Quê Hương ngày cũ, ngày nào còn lũ giặc đỏ, còn hai chữ “Phản Quốc” trên cổ các người ngã ngựa thì ngày đó em còn xa lìa Quê Hương.
Lạy trời cho con giấc mộng bình thường, cho còn tìm lại được quê xưa, ngày còn lá me bay, còn sân cỏ mướt chứ không phải như bây giờ, sân cỏ làm nông trường, sức người thay máy móc, nhiên liệu, trâu bò.
Em sẽ thay anh mang tấm thẻ bài vào cổ, em sẽ mang nó với niềm hãnh diện vô biên của một người đã có người yêu suốt đời hy sinh cho lý tưởng, em cũng mang nó để nhắc nhở những người xa xứ hãy hướng về Quê Hương ngục tù khốn khổ mà làm một cái gì để thắp sáng ngày về.
Thật ra thì đã mười hai năm qua, lòng người đã có phần nào thay đổi. Tháng Tư vẫn mang đến ngậm ngùi, thương tiếc nhưng rồi cuộc sống chạy theo đồng hồ, những nhu cầu cấp bách hàng ngày đã làm tâm hồn nhụt dần chí khí. Phải chi những tấm thẻ bài có ghi hai chữ “Phản Quốc” của các anh hùng đã hy sinh cho đất nước được gởi qua cho mỗi người xa xứ thì ngày về của kẻ ly hương chắc sẽ gần hơn.
Trong tận cùng linh hồn, em chắc người dân nào khi xa quê cũng hoài vọng một ngày về, và dù có mất gốc đến đâu thì cũng có một giờ phút trong đời mơ ước về lại quê xưa, thăm lại ngôi nhà cũ.
Anh ơi, giờ em mới hiểu nỗi xúc động tận cùng của bà Giáo sư người Pháp dạy em năm em học lớp sáu. Bà đã khóc khi hát cho chúng em nghe một bài nói về Thành phố nơi bà đã sinh ra, bài hát lời lẽ thật đơn sơ mộc mạc nhưng sao người nghe thấy ngậm ngùi thổn thức. Bài hát chỉ có thế này :
Quand tout renait à l’espérance.
Et que l’hiver fut loin de nous.
Quand la nature est reverdie.
Quand l’hirondelle est de retour.
J’aime à revoir ma Normandie.
C’est le pays qui m’a donné le jour.
Em tạm dịch là :
Khi nào hy vọng trở về.
Và khi mùa Đông đã đi xa.
Khi thiên nhiên trở lại xanh thẳm.
Khi chim én trở về cùng ta.
Tôi mơ ước nhìn lại Normandie.
Là nơi tôi đã chào đời.
Anh ơi, tình hoài hương bàng bạc trong lòng mọi dân tộc. Em cũng đã khóc khi hát lại bài này. Em không mơ ước nhìn lại Normandie của bà giáo sư người Pháp nhưng em mơ ước nhìn lại xứ Huế nghèo nàn, thơ mộng của em ngày xưa. Em mơ ước nhìn lại một Việt Nam tự do đầy tình người, một Việt Nam mà em sẽ hãnh diện mang tấm thẻ bài có ghi hai chữ "Phản Quốc" của anh để trở về đi trong lá me bay, trong giòng người cùng huyết thống, cùng lý tưởng, vì anh ơi, dù muôn vàn thay đổi, em muôn đời vẫn là con bé Việt Nam thích lang thang khắp phố phường cho tóc bay, cho hồn mơ mộng và cho lá rơi đầy trên vai trên áo. Còn ở đây, cuộc sống sao quá vội vàng, bon chen, lừa lọc. Người ta yêu nhau cũng vội, ghét nhau còn vội vàng hơn.
Mùa Xuân quê người, nhưng cũng là mùa Đông của người xa xứ đang mất mát như em. Tiếng đàn tức tưởi cô đơn của người nhạc sĩ vô danh cũng là tiếng khóc nghẹn ngào của người đã mất hết niềm tin, chỉ còn lại Tấm Thẻ bài ghi lại một thời Hạnh Phúc Xưa và đánh dấu một sự nhục nhằn khốn khổ của người ở lại ngày nay.
Cầm tấm thẻ bài bằng nhôm bóng loáng trên tay, em liên tưởng đến trăm ngàn cái khác đang bị vùi sâu dưới lòng đất mẹ cùng những người con yêu của Tổ Quốc. Em chợt nhớ đến hai câu hát mở đầu trong bài Rêveries của Shumann :
“Ce soir dans le jardin du ciel.
Les étoiles ont fleuri comme un bouquet d’argent”...
Em hình dung ra một ngày gần đây, trăm ngàn Tấm thẻ bài bằng nhôm đó sẽ trở thành những bó hoa bằng bạc nở trên bầu trời để soi sáng và chỉ đường cho những người con xa xứ trở về giải phóng Quê Hương.
(Thương gởi hương hồn anh tôi đã chết ở trại cải tạo Vĩnh Phú, Bắc Việt tháng 11 năm 1983)
Tháng 4 năm 1987
Thanh Vân
TRẦN THỊ HOÀNG TRÂN * XE THỔ MỘ
Những chiếc xe thổ mộ trong ký ức tuổi thơ tôi
Trần thị Hoàng Tân
..."Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo"...
Trần thị Hoàng Tân
Khoảng cuối thu năm 1955, ba má tôi rời miền quê sông nước Cần Thơ
lên Bình Dương lập nghiệp. Thế là cả đám chị em tôi đã lớn lên trên vùng
đất quê hương này. Bình Dương ngày đó còn hoang sơ lắm, phía sau ngôi
nhà gỗ của gia đình tôi là một khoảng rừng rộng, cây cối um tùm. Có một
lối mòn nhỏ xuyên suốt cánh rừng. Con đường mòn mà chị em tôi thường
thích thú rủ nhau chạy một mạch để đến trại cưa gỗ nơi ba tôi làm việc.
Có rất nhiều cây cổ thụ cao ngất ngưỡng trong rừng, với chằng chịt
những dây rừng leo quấn. Thêm vào đó có cả những dây chùm gửi trổ hoa
theo mùa, bám chặt thân cổ thụ tạo thành những hình dáng kỳ dị. Trong
con mắt của tuổi thơ chị em tôi, những cây rừng đó giống như những con
dã nhân khổng lồ mình đầy lông lá. Những hình dáng kỳ dị ấy cứ lớn dần
theo trí tượng tưởng, rồi trở thành nỗi sợ hải ám ảnh chị em tôi trong
những buổi chiều nhập nhòa bóng tối! Chị em tôi không đứa nào dám đi một
mình trong cánh rừng đó để trở về nhà, khi mặt trời đã lẫn khuất sau
bóng tối rậm rạp của đám cây rừng!...
Nhưng đứa nào cũng thích thơ thẩn trên lối mòn đó trong những buổi
trưa khi ánh sáng mặt trời xuyên qua đám lá, không chói chan mà chỉ vừa
đủ soi sáng từng đám cây chồi thấp, mọc san sát nhau dọc lối mòn. Đó là
những đám cây dại đã cho chúng tôi những trái chín ngon lành mà có lẽ
không có gì ngon hơn trong ký ức tuổi thơ của chúng tôi ! Đó là những
quả cò ke chín đen bóng, những chùm cơm rượu đỏ hồng bóng mọng, những
trái chùm bao ngọt nhạt lẫn chút vị chua chua … Những quả dại như chiến
lợi phẩm càng làm chị em tôi yêu thích khu rừng quanh nhà mình. Rồi ngày
đêm cứ theo nhau tiếp nối. Không thể nhớ được ta đã lớn lên từ lúc nào.
Thời gian cứ vút qua mỗi đời người như một thứ ánh sáng tự nhiên. Đến
một lúc nào đó, ta giật mình quay nhìn lại, thì quá khứ đã trải dài một
khoảng đời xa lắc ! Trong khoảng đời đó, còn đọng lại trong tâm trí mỗi
người những niềm vui, hạnh phúc, cay đắng, buồn đau,… mà người ta đành
gọi là kỷ niệm, vì muốn hay không thì tất cả đều đã hiện diện, xen lẫn
vào nhau trong mỗi đời người !
Lối mòn trong cánh rừng ngày đó là con đường rong chơi của tuổi
thơ chị em tôi. Còn con đường đi học ngày ngày là con đường quốc lộ từ
nhà ra thị xã. Chỉ hơn 2 cây số đường bộ mà với chị em tôi con đường
như dài lắm. Có lẽ bước chân bé nhỏ ngày đó, chưa đủ dài để thu ngắn lại
khoảng cách, một khoảng cách sẽ trải dài theo số phận mỗi đời người !
Con đường đi học không bằng phẳng mà gập gềnh uốn khúc. Một con dốc cao
trên lối về làm thêm chậm bước chân. Đó phải chăng là con dốc đầu tiên
trong cuộc đời mà chị em tôi đã vượt qua trong vô thức, chưa hề cảm nhận
được chút gian nan khởi đầu như một lẽ thường tình ! Mỗi lần tan học
trên đường trở về nhà, chị em tôi mừng nhất khi gặp được má đang trên
chiếc xe ngựa từ chợ về nhà. Đứa nào cũng sung sướng được lên xe đi cùng
má, được ngồi bên má trên chiếc xe ngựa lộc cọc trên đường.
Tiếng lộc cọc mà mãi sau này khi không còn được nghe, không được
nhìn thấy, không còn được ngồi trên những chiếc xe đó nữa, chúng tôi mới
cảm nhận được rõ ràng sự mất mát của mình ! Cảm giác mất mát còn bổng
chốc trở thành sự nuối tiếc khôn cùng khi hình ảnh chiếc xe ngựa còn gắn
với bóng hình ông bà Ngoại thân yêu, từ quê nhà xa xôi lên Bình Dương
thăm con cháu. Mỗi năm vào mùa xoài chín, Ngoại tôi thường gom góp những
quả xoài vườn nhà mang lên cho chị em tôi. Thương vợ chồng cô con gái
duy nhất sống xa quê, ông bà ngoại còn chuẩn bị cả những gáo mắm ruột
Ngoại tự làm sau mỗi vụ tát đìa thu hoạch cá, những chai tương ớt cay
nồng đỏ thẳm và cả những quả chuối vườn nhà chín rục ngọt lịm, Ngoại đã
tỉ mẫn cán mỏng phơi khô. Những món quà quê đó mãi mãi là những món ăn
ngon nhất trong đời của chị em tôi !
Dù có đôi khi, trong những lúc không bình yên của cuộc sống, ký ức
như bị nhạt nhòa trước bao lo toan trăn trở, chị em tôi cũng không quên
được, hình ảnh những chiếc xe ngựa quen thuộc từng đưa Ngoại lên thăm
chúng tôi. Những chuyến xe ngựa tiếp nối cho mãi đến ngày Ngoại tôi
không còn đủ sức để vượt cả trăm cây số đường dài để đến với những tiếng
reo mừng: "Ngoại lên ! Ngoại lên" của chị em tôi nữa ! … Và rồi mãi
mãi chị em tôi không thể nào tìm lại được hình bóng Ngoại thương yêu
trên những chiếc xe ngựa lộc cọc trên đường đời!
Năm tháng cứ qua đi, không ai còn nhớ nỗi từ lúc nào tiếng xe ngựa
lộc cọc đã biến mất trên đường. Con quốc lộ trước nhà bây giờ rộng dài
thêm. Hai hàng đèn chạy dọc theo con đường sáng rực mỗi đêm. Con dốc
cao ngày xưa trên đường về nhà cũng thấp dần đi. Năm tháng đã vô tình
xóa đi những thứ nó tình cờ bắt gặp trên lối đi qua của nó và cũng làm
vơi đi bao con dốc đời thường !
(5/2014)
Tuesday, October 25, 2016
THANH THANH * NHÀ NGÔ “ĐI ĐÊM” VỚI NHÀ HỒ
Ô. Ngô Đình Nhu gặp phía CS Bắc Việt
NHÀ NGÔ “ĐI ĐÊM” VỚI NHÀ HỒ
I
Bài-viết của Ô. Nguyễn Văn Lục
11/ Ông Nguyễn Văn Lục vừa mới phổ-biến trên Đàn Chim Việt một bài-viết nhan đề “Maneli với Ngô Đình Nhu, chuyện gì đã xảy ra?” và kết-luận rằng:
Cuối cùng chỉ còn tài liệu gốc trong văn khố Ba Lan là có sở để chứng tỏ một cách khẳng định là không có một giao thiệp chính thức nào giữa chính quyền Ngô Đình Diệm và chính phủ miền Bắc.
Chuyện đi đêm giữa Maneli và ông Ngô Đình Nhu là một sự giàn dựng từ đầu tới cuối.
12/ Trong bài-viết gồm 2 phần nói trên, Ô. Nguyễn Văn Lục đã đề-cập đến hai vấn-đề khác nhau:
12a/ Chuyện đi đêm giữa Mieczyslaw Maneli (Trưởng Phái-Đoàn Ba-Lan trong Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Đình-Chiến) với ông Ngô Đình Nhu, mà Ô. Lục cho là một sự giàn dựng.
12b/ Mối giao thiệp chính thức giữa chính quyền Ngô Đình Diệm và chính phủ miền Bắc, mà Ô. Lục cho là không hề có.
13/ Đây là một lối chơi chữ của Ô. Nguyễn Văn Lục, để tránh né Sự Thật Lịch-Sử mà mọi người đều đã thấy rõ:
13a) Ô. Ngô Đình Nhu đã công-khai (trước mặt các nhà ngoại-giao ngoại-quốc) tiếp-xúc với Ô. Maneli, rồi sau đó đã hẹn gặp và lén-lút nói chuyện (tức là đi đêm) với Ô. Maneli, thì làm sao mà gọi là một sự giàn dựng từ đầu đến cuối được?
13b) Ô. Ngô Đình Nhu đã lén-lút tiếp-xúc (tức là đi đêm) với đại-diện CSVN thì làm sao mà gọi là giao-thiệp chính-thức được?
14/ Vì Ô. Nguyễn Văn Lục viết về 2 vấn-đề nói trên xen-lẫn với nhau, nên tôi trình-bày tách-biệt 2 vấn-đề ấy ra, để độc-giả dễ theo-dõi.
II
Vụ Maneli “đi đêm” với Ngô Đình Nhu
21/ Trong bài-viết liên-hệ, Ông Nguyễn Văn Lục đã xác-nhận các điểm sau đây là đúng sự thật:
21a) Ô. Maneli đến dự buổi tiếp-tân vào ngày 25-8-1963 của tân-Ngoại-Trưởng Trương Công Cừu (thay-thế cựu-Ngoại-Trưởng Vũ Văn Mẫu vừa từ-chức để phản-đối chính-sách tôn-giáo của Nhà Ngô). Trong buổi tiếp-tân này, có đại-sứ Mỹ Cabot Lodge. Đại-sứ Pháp Roger Lalouette, đại sứ Ý Giovanni Orlandi, và khâm-mạng Tòa Thánh Đức Cha Salvatore Asta, là những người đã giúp-đỡ cho Ô. Maneli gặp Cố-Vấn Ngô Đình Nhu trong dịp này. Ô. Nhu đã công-khai nói với Ô. Maneli rằng Ô. Nhu có thể tiếp riêng Ô. Maneli lúc nào cũng được, và Đại-Tá An sẽ sắp-xếp việc này.
21b) Sau đó, đại-sứ Ấn-Độ Ram Chundur Goburdhun gọi báo cho Ô. Maneli biết là Ô. Nhu hẹn gặp Ô. Maneli vào lúc 10 giờ sáng ngày 2-9-1963; rồi Đại-Tá An cũng gọi cho Ô. Maneli xác-nhận ngày giờ như trên [và nơi chốn] Ô. Nhu gặp riêng (tức là đi đêm) với Ô. Maneli.
22/ Ông Nguyễn Văn Lục viết rằng Ô. Maneli chỉ bí-mật gặp Ô. Nhu một lần vào ngày 2-9-1963 rồi thôi, vì sau đó thì chính-phủ Ba Lan đã cấm không cho Ô. Maneli gặp Ô. Nhu nữa; và kết-luận rằng Vụ Maneli “đi đêm” với Ngô Đình Nhu là một sự giàn dựng.
Nhưng, theo các tài-liệu do chính Ô. Lục tham-khảo, nhất là tập Poland and Vietnam, 1963: New Evidence on Secret Communist Diplomacy and the "Maneli Affair" by Margaret K. Gnoinska thì sự thật là:
22a) Ô. Maneli đã đến Việt Nam 2 lần: lần đầu 1954-1955 với tư-cách cố-vấn pháp-lý và chính-trị cho Phái-Đoàn Ba-Lan trong Ủy-Hội Quốc-Tế, lần sau 1963-1964 với tư-cách Trưởng Phái-Đoàn ấy.
Lần thứ hai này, Ô. Maneli đến Sài-Gòn vào đầu năm 1963, liền được Trưởng Phái-Đoàn Ấn-Độ trong Ủy-Hội Quốc-Tế là Ông Ramchundur Goburdhun đề-cập đến vấn-đề thiết-lập các đường dây liên-lạc giữa hai miền Bắc–Nam Việt-Nam. Đầu tháng 3-1963, Ô. Maneli báo-cáo về Ba-Lan rằng Tổng-Thống Ngô Đình Diệm đã hứa với Ô. Goburdhun là Ô. Diệm sẽ tự mình thoát Mỹ và đứng vào hàng-ngũ Ấn-Độ [trung-lập]. (Trước đây, Lê Xuân Nhuận đã đoán đúng về việc này, trong bài “Gạo Tàng-Hình”, Mục 53, Khoản 54, và Đoạn 54c.) Bà Ngô Đình Nhu cũng đồng ý như thế. (Có lần Bà Nhu ở trong biệt-thự của viên đại-sứ Ấn-Độ đến 4 tiếng đồng-hồ.) Điều cần-thiết là phải thực-hiện các cuộc tiếp-xúc Nam–Bắc Việt-Nam mà địa-điểm thuận-tiện là Tân-Đề-Li (thủ-đô Ấn-Độ) vì ở đây đã có sẵn đại-diện ngoại-giao của cả 2 Miền.
Nguyên là trước khi Ô. Maneli đến Sài-Gòn, ý-tưởng trung-lập-hóa Việt-Nam đã được Ba-Lan khởi-xướng vào đầu năm 1963, khi Ông Adam Rapacki ngoại-trưởng Ba-Lan gặp Ông Jawaharlal Nehru thủ-tướng Ấn-Độ tại Ấn-Độ trong các ngày 20 đến 22-1-1963. Ô. Rapacki đề-nghị một kế-hoạch trung-lập-hóa Nam Việt-Nam qua việc chọn-lựa một tân-chính-phủ thay-thế chính-phủ Diệm và có thể đàm-phán với Bắc Việt-Nam. Được sự đồng-thuận của Ô. Nehru, Ô. Rapacki nói chuyện ấy với Ông Galbraith là đại-sứ Hoa-Kỳ. Ô. Galbraith đáp-ứng tích-cực và đưa ra kế-hoạch của chính mình, xem như phù-hợp với quan-điểm của Tổng-Thống Mỹ Kennedy, dựa vào khuôn-mẫu Lào [đã trung-lập-hóa]. (Thật ra, đại-sứ Mỹ ở Ấn-Độ Galbraith chỉ nói cương như thế, chứ chưa nhận được chỉ-thị gì từ TT Kennedy.) Tuy nhiên, Ô. Galbraith đã ngỏ ý của mình như trên với các đại-diện Ba-Lan trong Ủy-Hội Quốc-Tế.
22b) Vì Ba-Lan nằm trong Khối Cộng-Sản Quốc-Tế, nên sáng-kiến của Ba-Lan được chuyển đến các nước CS khác, kể cả VNDCCH, mà đứng đầu là Liên-Xô. Tháng 2-1963, Trung-Ương Đảng Liên-Xô CC CPSU (Central Committee of the Communist Party of the Soviet Union) bày-tỏ thái-độ tích-cực đối với sáng-kiến này.
22c) Ngày 22-3-1963, Ông Maneli báo-cáo về Ba-Lan, rằng Ông Hà Văn Lâu, sĩ-quan liên-lạc của VNDCCH [CS Miền Bắc] tại Ủy-Hội Quốc-Tế, và các viên-chức Liên-Xô, đã khuyến-khích Ô. Maneli “mở rộng tối-đa các cuộc tiếp-xúc” trước khi có các quyết-định mới tại Hà-Nội. Ô. Maneli cũng yêu-cầu giữ các thông-dịch-viên Ba-Lan lại tại Việt-Nam, khoan rút họ về nước, vì sẽ cần có họ ở Nam Việt-Nam.
22d) Tóm lại, Ông Maneli, Trưởng Phái-Đoàn Ba-Lan trong UHQT, đã được biết về sáng-kiến trung-lập-hóa Nam Việt-Nam do Ngoại-Trưởng Ba-Lan của mình đề-xướng, đã thông qua Liên Xô, và được đại-sứ Mỹ ở Ấn-Độ loan-truyền; do đó, Ô. Maneli mới xông-xáo dính vào việc trao-đổi tin-tức giữa 2 Miền, để thi-hành kế-hoạch Rapacki-Galbraith mà chính Ô. Lục cho là có giá-trị (nếu được thi-hành thì sẽ không có cuộc thảm-sát anh+em Diệm+Nhu) từ tháng 2-1963 cho đến tháng 9-1963 sau ngày được Ô. Ngô Đình Nhu bí-mật tiếp-xúc. (Sau đó, Ô. Maneli bị [Liên-Xô và Ba-Lan] cấm gặp lại Ô. Nhu, vì CS Bắc-Việt đã ngả hẳn về phía Hoa Cộng [chủ-chiến, tấn-chiếm Miền Nam bằng vũ-lực] chống lại Liên-Xô rồi).
Bởi vậy không thể gọi vụ Maneli là giàn dựng từ đầu đến cuối.
23/ Ông Nguyễn Văn Lục viết rằng:
Cho nên, cuộc tiếp tân của ông Trương Công Cừu vào chiều ngày 25 tháng 8, 1963 trong đó có việc khâm sứ Salvatore Asta giới thiệu đại sứ Ba Lan Maneli với ông Ngô Đình Nhu, mở đầu cho một loạt những tin đồn thất thiệt.
Những tin đồn đủ thứ này củng cố cho quyết định loại trừ anh em Diệm-Nhu của Cabot Lodge và tướng lãnh Việt Nam.
Và cũng rất có thể suy đoán, chính vị khâm sứ này vừa giới thiệu Maneli cho ông Nhu và cũng chẳng ai khác thông báo “cuộc tiếp xúc của ông Nhu với đại sứ Ba Lan” cho đại sứ Cabot Lodge? Phải chăng không ai khác ngoài người bạn tín cẩn của ông ta là Khâm Sứ Salvatore Asta?
Như thế, Ô. Nguyễn Văn Lục đã quên biến-cố Công Đồng Vatican II được Giáo-Hoàng John XXIII tuyên-bố triệu-tập từ năm 1959, đã chính-thức khai-mạc từ ngày 11-10-1962, để đổi mới nhiều điều cho thích-nghi với các mối liên-hệ giữa Tòa Thánh với thế-giới hiện-thời, trong đó có việc Công Đồng Vatican II dù đề-cập đến nhiều vấn-đề nhưng không còn lên án [chống] cộng-sản như trước đó nữa. (Nguồn:)
“Từ đó, Tòa Thánh Vatican thay-đổi chiến-lược, chấp-nhận chung sống hòa-bình với những người cộng-sản.”
(Nguồn:) http://www.talawas.org/?p=26427
Không chống-Cộng nữa, nên Khâm Mạng Tòa Thánh Salvatore Asta hợp-tác với đại-sứ Ấn-Độ Ram Chundur Goburdhun (Khối “Không Liên-Kết”) và đại-sứ Pháp Roger Lalouette (chủ-trương trung-lập-hóa Việt Nam) giúp Trưởng Phái-Đoàn Ba-Lan trong Ủy-Hội Quốc-Tế Mieczyslaw Maneli (cộng-sản) bí-mật gặp Cố-Vấn Ngô Đình Nhu trong ý-đồ “đi đêm” với CSVN... ; đồng-thời cung-cấp tin-tức chống-Diệm cho đại-sứ Mỹ Cabot Lodge để căn-cứ vào đó mà báo-cáo về Hoa-Thịnh-Đốn rằng Diem himself cannot be preserved”... ; dần dần đưa đến tình-trạng ngày nay (cộng-sản cũng là con-cái của Chúa, cũng là anh+em của ta).
III
Vụ Ngô Đình Nhu “đi đêm” với CSBV
31/ Trong bài-viết liên-hệ, Ông Nguyễn Văn Lục đã xác-nhận các điểm sau đây là đúng sự thật:
31a) Cành đào của Chủ-Tịch VNDCCH Hồ Chí Minh gửi vào chúc Tết Tổng-Thống VNCH Ngô Đình Diệm đầu năm 1963.
Nhưng Ô. Lục lại dám viết: “Hậu ý của người cho cành đào thì không ai biết được”; nghĩa là chính Ông Ngô Đình Diệm và Ông Ngô Đình Nhu mà cũng không biết hậu ý của Ông Hồ Chí Minh khi gửi biếu cành đào đó?
31b) Tệ-nạn “độc-tài, gia-đình-trị, đàn-áp Phật-Giáo, tham-nhũng” dưới chế-độ Diệm.
Ô. Lục viết rằng [việc phía đối-lập lên án các tệ-nạn ấy] thật ra cũng không sai lầm.
32/ Ông Nguyễn Văn Lục trích-dẫn Ô. Nguyễn Ngọc Giao phản-bác Ô. Vũ Ngự Chiêu là người đã viết rằng Ô. Ngô Đình Nhu bí-mật gặp Ô. Phạm Hùng (Ô. Cao Xuân Vỹ trả lời Ô. Minh Võ cũng xác-nhận việc này là có), với lý-luận rằng vào thời-điểm đó Ô. Phạm Hùng còn làm Phó Thủ-Tướng ở Hà-Nội.
Nhưng Ô. Lục quên rằng Mặt Trận Giải-Phóng chỉ là tay sai của Cộng-Sản Bắc-Việt ở Miền Nam, đâu dám tự-ý làm gì khi chưa được CSBV ra lệnh; mà Ô. Phạm Hùng thì là Ủy-Viên Bộ Chính-Trị, Bí-Thư Trung-Ương Đảng, Trưởng Ban Thống-Nhất [Đất Nước] của Trung-Ương Đảng, và Phó Thủ-Tướng của Chính-Phủ VNDCCH. Với các tư-cách đó, Ô. Phạm Hùng [cao cấp và lớn quyền hơn MTDTGPMN] có thể tự mình hoặc được đặc-phái vào Miền Nam gặp Ô. Ngô Đình Nhu trong vấn-đề quan-trọng này.
33/ Ông Nguyễn Văn Lục bác-bỏ mọi lời chứng của tất cả những tác-giả Việt-Nam cũng như ngoại-quốc nào viết về các cuộc đi đêm (tiếp-xúc bí-mật) giữa Ông Cố-Vấn Ngô Đình Nhu với các đại-diện CSVN, nhất là Phạm Hùng. Ô. Lục kết-luận là “không có một giao thiệp chính thức nào giữa chính quyền Ngô Đình Diệm và chính phủ miền Bắc.” Nói như thế thì chẳng khác gì nói rằng quả thật đã có rất nhiều cuộc tiếp-xúc của Ô. Nhu với nhiều đại-diện của CSVN nhưng đều chỉ là đi đêm, lén-lút, bí-mật, chứ không có lần nào là giao-thiệp chính-thức cả.
Các tác-giả khác (Nguyễn Văn Châu, Vũ Ngự Chiêu, Tôn Thất Đính, Nguyễn Hưng Đạt, Trần Văn Đôn, Đại-Úy Hạp, Hoàng Duy Hùng, Lê Mạnh Hùng, Lữ Giang, LM Trần Văn Kiệm, Ngô Kỷ, Đỗ Mậu, Trần Kim Tuyến, Việt Thường...) có thể bị xem là đối-lập, bất-mãn, bàng-quan; nhưng các tác-giả phe ta thân-Diệm, hoài-Ngô mà cũng không tin lời chứng của họ hay sao?
Ô. Lục nghĩ gì về các trường-hợp sau đây:
33a) Ông Minh Võ phỏng-vấn Ông Cao Xuân Vỹ được Ô. Vỹ trả lời là Ô. Vỹ cùng đi với Ô. Nhu, tới vùng Việt Cộng kiểm-soát ở Quận Tánh Linh (Tỉnh Bình-Tuy) thì một mình Ô. Nhu đi về phía trước độ vài trăm mét, có Ô. Phạm Hùng chờ ở đó.
Nhưng Ô. Nguyễn Văn Lục bảo là Ô. Vỹ bịa.
Lúc Ô. Cao Xuân Vỹ tiếp và trả lời Ô. Minh Võ thì Ô. Vỹ đã 3 lần vào cấp-cứu và điều-trị tại bệnh-viện. Đó là năm 2007, tức là 32 năm sau ngày VNCH sụp đổ, và 44 năm sau ngày nhị vị Diệm+Nhu qua đời. Là một người phụ-tá thân-cận của Ông Ngô Đình Nhu, Ô. Vỹ hẳn đã đau xót rất nhiều, nhất là về lý-do các ông họ Ngô ra đi; thì có lẽ nào Ô. Vỹ lại nhẫn-tâm dựng lên một câu chuyện hoàn-toàn bịa như Ô. Nguyễn Văn Lục viết, để bôi bẩn thêm các thần-tượng của đời mình?
Cách đây không lâu, trong một cuộc hội-luận có thu-hình với Ô. Lâm Lễ Trinh, Ô. Cao Xuân Vỹ cũng vẫn xác-nhận việc Ô. Ngô Đình Nhu bí-mật tiếp-xúc với Ô. Phạm Hùng. (Nguồn:)
33b) Ông Tôn Thất Thiện là một nhân-vật trí-thức thân-cận với Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và Cố-Vấn Ngô Đình Nhu.
Trong bài biên-khảo của Lê Xuân Nhuận về cuốn sách “Chính Đề Việt Nam”, có đoạn f) viết như sau:
“Nay, chỉ còn tôi (Tôn Thất Thiện) là người nhân chứng duy nhứt... Tôi làm nhân chứng những điều sau đây do chính ông Nhu đã tiết lộ trong một cuộc họp báo với ký giả ngoại quốc vào cuối tháng 9, năm 1963. Tôi là thông dịch viên trong buổi họp báo đó, và tôi đã nghe và thông dịch hai điều sau đây: ông (Ngô Đình Nhu) đã tiếp Trần Độ ngay ‘trong phòng này’, văn phòng của ông (Nhu), nơi mà ông đang tiếp các ký giả (ngoại quốc); Trần Độ có hỏi ông (Ngô Đình Nhu), vân vân...” – Tức là rốt cuộc, Ông Tôn Thất Thiện đã kết-luận rằng “Ông Nhu quả thật đã có tiếp xúc với phía Cộng Sản.” Thế thì một số phần-tử hoài-Ngô lâu nay ngoan-cố không chịu tin vào chuyện đó, nay đã hết đường chối-cãi. (Nguồn:)
33c) Trong cuộc phỏng-vấn Bà Ngô Đình Nhu (trong bộ phim “Vietnam: A Television History” ngày 02-11-1982, do Open Vault thực-hiện, Bà Nhu kể lại nỗ lực của Ông Ngô Đình Nhu trong việc tiếp xúc với Bắc Việt:
‟Vì cộng sản không làm gì được; thay vì leo thang chiến tranh họ đã gởi người đến nói chuyện với chồng tôi; rồi họ lật lọng nói là chồng tôi đi nói chuyện với họ. Đó là nói láo. Không đúng chút nào. Họ là người đi bước đầu.”
Tức là Ông Ngô Đình Nhu (Đệ-Nhất VNCH) dù sao cũng đã có nói chuyện bí mật [đi đêm] với CSBV. (Nguồn:)
33d) Trong một cuộc bút-luận giữa Lê Xuân Nhuận với bác-sĩ Nguyễn Thị Thanh, Bà Thanh đã viết như sau:
<<From: Dr Nguyen Thi Thanh
Date: 13 sep. 2008 12:40
Subject: TONG THONG NGO DINH DIEM LA NGUOI YEU NUOC YEU DAN
Date: 13 sep. 2008 12:40
Subject: TONG THONG NGO DINH DIEM LA NGUOI YEU NUOC YEU DAN
NĂM 1962, TT NGÔ ĐÌNH DIỆM NGƯỜI CHỦ TRƯƠNG HÒA GIẢI ĐẦU TIÊN VỚI CSBV
ĐỂ TRÁNH LỆ THUÔC NGOẠI BANG
VÀ CHIẾN TRANH NỒI DA XÁO THỊT
... Và cũng vào thời ấy đường lối CSBV rất sát máu. Vậy mà TT Ngô Đình Diệm đã cương quyết đi theo dường lới dân tộc. Người đã phát biểu một câu nói lịch sử với ba tôi: " Thà rằng mình chịu nhục với anh em còn hơn bị nhục nhã với ngoại bang…" Ba tôi là dân biểu Ban Mê Thuộc, trông coi Dinh điền rừng cấm, đàn em thân tín của cụ Diệm, người nghĩ rằng sớm muộn Cụ Diệm sẽ bắt tay với Cụ Hồ...
... Một ngày kia ba tôi đi họp Sài gòn về Ban Mệ Thuộc. báo tin cho mạ tôi rằng cuối tuần ông Cụ Diệm và ông Nhu sẽ lên Ban Mê Thuộc đi săn...
... Sáng thứ bảy quảng vào mùa hè 1961 hay 1962 tôi không nhớ rõ... cả tỉnh Ban Mệ Thuôc chộn rộn dậy thật sớm. Toàn thể quân cán chính tấp nập sửa soạn, đi đón cụ Diệm và ông Nhu lúc 5 giở sáng đế cùng thẵng tiến vào rừng xanh BMT đi săn...
...
Đến gần 8 giờ [tối] ba tôi mới về đến nhà, người bơ phờ, xất ba xất
bất, mặt tái mét nhưng vẩn cười gượng... Ba tôi cho hay đây là cuộc đi săn tráo trộn. ba tôi kể:
... Một điều quá sức ngạc nhiên là đi săn mà ông Cụ và ông Nhu đều mặt đồ tây complet, cravate đàng hoàng, ông cụ măc bộ đồ tơ tằm 'Tussor', tay cầm baton.
Mọi người vào rừng, lúc đầu đi xe hơi một đoạn, sau bỏ lại xe đi ngựa
và đi bộ. Quân đội tỏa ra bao vây khắp nơi. Đi từ 6 giờ sáng đến chừng
hơn 11 giờ trưa đến một khoảng xa rừng cấm., thì ông Cụ ra lệnh ngưng
lại dùng cơm trưa. Ăn uống vui vẻ nghỉ ngơi chừng hơn một giờ.
... Sau đó ông Cụ quay lại nói với mọi người rằng: "Chúng tôi mời quý vị ngồi nghĩ cho khỏe ở đây, tôi và ông cố vấn sẽ đi với nhau mà thôi." Mọi người phản kháng. Quân đội đòi bao vây bảo vệ. Ông cụ dẹp hết. Ông Cụ Diệm mặc Veste, đội mủ, tay xách baton cùng ông Nhu cuốc bộ đi sâu vào rừng... Trời gần sập tối, mọi người mướt mồ hôi lo sợ thì đến 6 giờ hơn ông Cụ Diệm và ông Nhu lủi thủi từ trong rừng đi ra. Mọi người đều im lặng không một tiếng nói. Tất cả đều nhanh chóng ra về, và đưa ông Cụ thẵng lên tàu bay chờ sẵn về thù đô Sài Gòn.
... Ba tôi kết luận: "Rõ
ràng đây là ông Cụ thực hiện lời ông Cụ đã nói với tui nhiều lần, thà
chịu nhục với anh em, còn hơn nhục với ngoại bang. Rõ ràng là ông Cụ đi nói chuyện với CSBV và với Mặt Trận giải Phóng miền Nam, chua biết ra răng đây." Sau đó, ba tôi được ông Cụ gọi về Sài Gòn ba tôi mới được biết hôm đó ông Cụ Diêm và ông Nhu gặp đại diện đảng CSBV và đại diện MTGPMN nói chuyện, hai bên thỏa thuận nhiều điềm... Đó là lần độc nhất Cụ Diệm gặp gở phe bên kia không công khai, qua mặt Mỹ...
Đây là lần gặp gở đầu tiên đích thân Cụ Diệm đi gặp mà tôi biết rõ ràng và là nhân chứng.
... Sau đó còn vài cuộc gặp gở khác ở Di Linh vv. Cụ Diệm không đi gặp ai nữa. Coi như có sự dổng thuận giữa hai bên, đặt biệt là giữa TT Ngô Đình Diệm và chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ts. Bs. Nguyễn Thị Thanh>>
Muốn xem nhiều hơn, và phần phát-biểu của Lê Xuân Nhuận, thì xin mời vào:
(còn nữa)
Tham-khảo:
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 439
HOA HẬU ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM
HOA HẬU ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM
Ít ai biết rằng ngay từ thời Pháp thuộc, tại Sài Gòn đã tổ chức khá nhiều cuộc thi sắc đẹp để chọn ra những ngôi sao nhan sắc. Vậy ai là cô gái đầu tiên giành được giải hoa hậu của xứ Nam Kỳ?
Có rất nhiều tài liệu chứng minh rằng, ngay từ thời Pháp thuộc, khi chế
độ phong kiến vẫn còn hà khắc với người phụ nữ, thì tại đất Nam kỳ người
Pháp đã tổ chức khá nhiều cuộc thi sắc đẹp nhằm tìm kiếm những gương
mặt khả ái nhất vùng. Trên nền tảng những cuộc thi đó, người Việt cũng
đã manh nha tổ chức những cuộc thi sắc đẹp có uy tín. Hôm nay chúng ta
sẽ cùng tìm hiểu về những giai nhân nức danh Nam Kỳ một thời, để tìm xem
những ai được người dân gọi là hoa hậu đầu tiên của Nam Kỳ.
Cô Ba "xà bông" - Hoa khôi đầu tiên của đất Nam Kỳ
Cô Thiệu Trà Vinh còn được dân gian thường gọi là cô Ba Xà Bông là con thầy thông Chánh ở đất Trà Vinh xưa. Cô được nhiều người trong vùng ngưỡng mộ vì sở hữu một ngoại hình yêu kiều khó ai sánh bằng. Người ta nói rằng mẹ của cô vốn rất xinh đẹp, thế nên cô Ba được thừa hưởng những nét đẹp đó từ mẹ của mình. Trong cuốn "Sài Gòn tạp pín lù" của học giả Vương Hồng Sển, tác giả giới thiệu vẻ đẹp của cô Ba Thiệu như sau: "Kể về người đẹp trong Nam, xưa hơn hết, có cô Ba, con thầy Thông Chánh".
Khi mô tả về vẻ đẹp của cô Ba, học giả Vương Hồng Sển viết rằng: "Trong giới huê khôi, nghe nhắc lại, trước kia, hồi Tây mới đến, có cô Ba, con gái thầy Thông Chánh, là đẹp không ai bì; đẹp tự nhiên, không răng giả, không ngực keo su nhơn tạo, tóc dài chấm gót, bới ba vòng một ngọn, mướt mượt và thơm phức dầu dừa mới thắng, đẹp không vì son phấn giả tạo, đẹp đến nỗi nhà nước in hình vào con tem Nhà thơ Dây thép (Bưu điện), và một hiệu buôn xà bông xin phép họa hình làm mẫu rao hàng: xà bông Cô Ba; muốn biết danh tiếng bực nào xin ráng tìm các bà cỡ 1900 hỏi lại!".
Cuộc đời cô Ba xà bông gặp khá nhiều truân chuyên. Sau khi đoạt giải hoa khôi, cô cưới biện lý Jaboin và sống một cuộc sống khép kín. Tuy nhiên vào năm 1893, ông Chánh và Jaboin xảy ra mâu thuẫn, cô Ba đã cầm súng bắn chết tên biện lý Jaboin. Cô bị Tòa đại hình Mỹ Tho kết án ngày 19/6/1893 và bị xử tử ngày 18/1/1894 tại Trà Vinh.
Nam phương hoàng hậu - Người đẹp 3 lần giành giải hoa hậu Đông Dương
Nam Phương hoàng hậu tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan sinh ra tại huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang). Bà là vị hoàng hậu cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam.
Nam phương hoàng hậu vốn là cháu ngoại của đại phú gia giàu có bậc nhất Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20 - huyện Sỹ Lê Phát Đạt. Người thời đó cho rằng số tài sản của Huyện Sỹ còn nhiều hơn tổng tài sản của Vua Bảo Đại.
Năm 1932, người đẹp này đã nổi danh về nhan sắc khắp vùng Nam Kỳ và cả Đông Dương. Nhiều tài liệu cho rằng trước khi Thị Lan trở thành chính cung hoàng hậu của vua Bảo Đại, bà đã 3 lần giành được giải hoa hậu Đông Dương.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu của nhà sử học Dương Trung Quốc thì trong thời Pháp thuộc tuy có tổ chức nhiều cuộc thi sắc đẹp, nhưng không có cuộc thi nào mang tên Hoa hậu Đông Dương. Vì vậy có thể danh hiệu này được người dân trao tặng cho hoàng hậu vì yêu quý nhan sắc tuyệt trần của bà.
Cô Ba Trà - Ngôi Sao Sài Gòn
Cô Ba Trà tên thật là Trần Ngọc Trà, sinh năm 1906, bà là người phụ nữ sinh đẹp nổi tiếng đất Sài thành vào những năm đầu thế kỷ 20, và được mệnh danh là Étoile de Saigon (tạm dịch: ngôi sao Sài Gòn).
Xuất thân từ một làng quê nghèo ở Cần Đước (Long An). Năm 16 tuổi, sau khi cha qua đời, cô Ba Trà một mình lên Sài Gòn để mưu sinh. Nhiều người cho chính những bi thương từ thuở ấu thơ đã góp phần hình thành nên tính cách của người phụ nữ này: coi đời lạnh như băng.
Cô Ba Trà sớm bộc lộ dung mạo xinh đẹp khi mới chỉ 16 tuổi và nhanh chóng trở thành "ngôi sao" của đất Sài Gòn hoa lệ. Với vẻ đẹp "sắc nước nghiêng thành", cùng một trí thông minh và cách nói chuyện khôn khéo, cô Ba Trà đã đốn ngã hàng loạt tay chơi hào hoa giàu có bậc nhất đất Nam Kỳ như Hắc công tử (Trần Trinh Huy), Bạch công tử (Lê Công Phước), công tử Bích. Chính vì thế dù không đoạt được danh hiệu chính thức nào, nhưng người dân vẫn thường dành tặng cho cô Ba danh hiệu Người đẹp Nam Kỳ.
Trải qua 4 cuộc hôn nhân lần lượt là: viên quan ba người Pháp, con trai tỷ phú đất Phan Rang, bác sĩ Trần Ngọc Án, và cuối cùng là một triệu phú trẻ tuổi, nhưng tất cả đều tan vỡ. Kể từ đó, người đẹp lao vào ăn chơi, cặp kè hết người này đến người khác và dấn sâu vào con đường bài bạc.
Những canh bạc lớn đã đốt sạch gia sản của người đẹp. Khi còn trẻ, cô Ba Trà được nhiều người săn đón bao nhiêu thì đến lúc già, cô lại phải sống trong cảnh cô độc, nghèo túng. Đến cuối đời, hoa khôi Trần Ngọc Trà lâm vào cảnh nợ nần, túng bấn và phải đi làm công ở một cửa tiệm tồi tàn để kiếm sống qua ngày. Hết tiền, cô Ba phải bán nhà và sống trong một xó chân cầu thang của một chung cư, tài sản duy nhất là cái ghế bố cô nằm. Người ta nói rằng họ thấy cô Ba Trà chết trên ghế bố dưới chân cầu thang một chung cư ở Sài Gòn.
Cô Ba "xà bông" - Hoa khôi đầu tiên của đất Nam Kỳ
Cô Thiệu Trà Vinh còn được dân gian thường gọi là cô Ba Xà Bông là con thầy thông Chánh ở đất Trà Vinh xưa. Cô được nhiều người trong vùng ngưỡng mộ vì sở hữu một ngoại hình yêu kiều khó ai sánh bằng. Người ta nói rằng mẹ của cô vốn rất xinh đẹp, thế nên cô Ba được thừa hưởng những nét đẹp đó từ mẹ của mình. Trong cuốn "Sài Gòn tạp pín lù" của học giả Vương Hồng Sển, tác giả giới thiệu vẻ đẹp của cô Ba Thiệu như sau: "Kể về người đẹp trong Nam, xưa hơn hết, có cô Ba, con thầy Thông Chánh".
Cô Ba Thiệu là người giành chiến thắng trong cuộc thi sắc đẹp đầu tiên ở Nam Kỳ do người Việt tổ chức.
Có tài liệu cho rằng cuộc thi hoa hậu đầu tiên ở Việt Nam do chính người
Việt đứng ra là một cuộc thi mang tên Miss Sài Gòn được tổ chức vào năm
1865. Đây là cuộc thi sắc đẹp dành cho tất cả các cô gái Việt Nam ở Sài
Gòn và những vùng lân cận. Tuy là lần đầu tổ chức nhưng cuộc thi đã thu
hút gần 100 cô gái đăng ký dự thi. Và kết quả chung cuộc người đoạt
được vương miện và trở thành hoa khôi Nam kỳ là cô Ba Thiệu.
Khi mô tả về vẻ đẹp của cô Ba, học giả Vương Hồng Sển viết rằng: "Trong giới huê khôi, nghe nhắc lại, trước kia, hồi Tây mới đến, có cô Ba, con gái thầy Thông Chánh, là đẹp không ai bì; đẹp tự nhiên, không răng giả, không ngực keo su nhơn tạo, tóc dài chấm gót, bới ba vòng một ngọn, mướt mượt và thơm phức dầu dừa mới thắng, đẹp không vì son phấn giả tạo, đẹp đến nỗi nhà nước in hình vào con tem Nhà thơ Dây thép (Bưu điện), và một hiệu buôn xà bông xin phép họa hình làm mẫu rao hàng: xà bông Cô Ba; muốn biết danh tiếng bực nào xin ráng tìm các bà cỡ 1900 hỏi lại!".
Khi cô đăng quang, nhiều người Pháp đã đề nghị cô chụp ảnh để đăng báo ở
chính quốc. Họ rất muốn chụp cô trong trang phục áo tắm nhưng cô không
đồng ý.
Vì hình của người đẹp này được in nổi trên các sản phẩm nổi tiếng của
Hãng xà bông Việt Nam do ông Trương Văn Bền lập ra, nên mọi người thường
quen gọi cô Ba Thiệu là cô Ba Xà Bông. Có thể nói cô Ba là gương mặt
thương hiệu đầu tiên ở đất Nam Kỳ vì trở thành "người mẫu" gắn liền với
một thương hiệu nổi tiếng Việt Nam ra đời đầu thế kỷ 20.
Cuộc đời cô Ba xà bông gặp khá nhiều truân chuyên. Sau khi đoạt giải hoa khôi, cô cưới biện lý Jaboin và sống một cuộc sống khép kín. Tuy nhiên vào năm 1893, ông Chánh và Jaboin xảy ra mâu thuẫn, cô Ba đã cầm súng bắn chết tên biện lý Jaboin. Cô bị Tòa đại hình Mỹ Tho kết án ngày 19/6/1893 và bị xử tử ngày 18/1/1894 tại Trà Vinh.
Nam phương hoàng hậu - Người đẹp 3 lần giành giải hoa hậu Đông Dương
Nam Phương hoàng hậu tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan sinh ra tại huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang). Bà là vị hoàng hậu cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam.
Nam phương hoàng hậu vốn là cháu ngoại của đại phú gia giàu có bậc nhất Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20 - huyện Sỹ Lê Phát Đạt. Người thời đó cho rằng số tài sản của Huyện Sỹ còn nhiều hơn tổng tài sản của Vua Bảo Đại.
Năm 1932, người đẹp này đã nổi danh về nhan sắc khắp vùng Nam Kỳ và cả Đông Dương. Nhiều tài liệu cho rằng trước khi Thị Lan trở thành chính cung hoàng hậu của vua Bảo Đại, bà đã 3 lần giành được giải hoa hậu Đông Dương.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu của nhà sử học Dương Trung Quốc thì trong thời Pháp thuộc tuy có tổ chức nhiều cuộc thi sắc đẹp, nhưng không có cuộc thi nào mang tên Hoa hậu Đông Dương. Vì vậy có thể danh hiệu này được người dân trao tặng cho hoàng hậu vì yêu quý nhan sắc tuyệt trần của bà.
Cô Ba Trà - Ngôi Sao Sài Gòn
Cô Ba Trà tên thật là Trần Ngọc Trà, sinh năm 1906, bà là người phụ nữ sinh đẹp nổi tiếng đất Sài thành vào những năm đầu thế kỷ 20, và được mệnh danh là Étoile de Saigon (tạm dịch: ngôi sao Sài Gòn).
Xuất thân từ một làng quê nghèo ở Cần Đước (Long An). Năm 16 tuổi, sau khi cha qua đời, cô Ba Trà một mình lên Sài Gòn để mưu sinh. Nhiều người cho chính những bi thương từ thuở ấu thơ đã góp phần hình thành nên tính cách của người phụ nữ này: coi đời lạnh như băng.
Cô Ba Trà sớm bộc lộ dung mạo xinh đẹp khi mới chỉ 16 tuổi và nhanh chóng trở thành "ngôi sao" của đất Sài Gòn hoa lệ. Với vẻ đẹp "sắc nước nghiêng thành", cùng một trí thông minh và cách nói chuyện khôn khéo, cô Ba Trà đã đốn ngã hàng loạt tay chơi hào hoa giàu có bậc nhất đất Nam Kỳ như Hắc công tử (Trần Trinh Huy), Bạch công tử (Lê Công Phước), công tử Bích. Chính vì thế dù không đoạt được danh hiệu chính thức nào, nhưng người dân vẫn thường dành tặng cho cô Ba danh hiệu Người đẹp Nam Kỳ.
Trải qua 4 cuộc hôn nhân lần lượt là: viên quan ba người Pháp, con trai tỷ phú đất Phan Rang, bác sĩ Trần Ngọc Án, và cuối cùng là một triệu phú trẻ tuổi, nhưng tất cả đều tan vỡ. Kể từ đó, người đẹp lao vào ăn chơi, cặp kè hết người này đến người khác và dấn sâu vào con đường bài bạc.
Những canh bạc lớn đã đốt sạch gia sản của người đẹp. Khi còn trẻ, cô Ba Trà được nhiều người săn đón bao nhiêu thì đến lúc già, cô lại phải sống trong cảnh cô độc, nghèo túng. Đến cuối đời, hoa khôi Trần Ngọc Trà lâm vào cảnh nợ nần, túng bấn và phải đi làm công ở một cửa tiệm tồi tàn để kiếm sống qua ngày. Hết tiền, cô Ba phải bán nhà và sống trong một xó chân cầu thang của một chung cư, tài sản duy nhất là cái ghế bố cô nằm. Người ta nói rằng họ thấy cô Ba Trà chết trên ghế bố dưới chân cầu thang một chung cư ở Sài Gòn.
Năm 1955, nhân dịp lễ kỷ niệm khởi nghĩa Hai Bà Trưng, có một cuộc thi
người đẹp với danh nghĩa tìm kiếm hoa hậu được chính quyền Ngô Đình Diệm
tổ chức tại Sài Gòn. Trước đó, ở Việt Nam, chưa có cuộc thi người đẹp
nào mang tên thi hoa hậu, do vậy đây có thể được xem là cuộc thi hoa hậu
đầu tiên ở nước ta.
Cuộc thi diễn ra vào ngày 20/5/1955 tại rạp hát Lido ở khu Chợ Lớn. Gần như tất cả mỹ nhân đang sinh sống tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam đều xuất hiện tại cuộc thi này.
Xuất sắc vượt qua hàng loạt nhan sắc, người đoạt ngôi vị cao nhất của cuộc thi là cô gái có tên Thu Trang. Thu Trang đăng quang ngôi vị hoa hậu với chiều cao 1,61m, số đo 3 vòng 86-62-88, nặng 53kg.
Hoa hậu Thu Trang tên thật là Công Thị Nghĩa, sinh năm 1932 trong một gia đình tiểu tư sản, người gốc làng hoa Ngọc Hà, Hà Nội và là chị của hai người em, một trai một gái. Năm bà 10 tuổi, cha bà được điều động vào Sài Gòn làm việc, bà và gia đình theo cha vào miền Nam và ở lại Sài Gòn.
Vẻ đẹp đằm thắm, sắc nét của Thu Trang đã đưa bà đến với vương miện hoa
hậu. Á hậu 1 thuộc về bà Nguyễn Thị Ninh, người Hà Nội di cư vào Nam và Á
hậu 2 là bà Ngô Yên Thu, người Cần Thơ.
Cuộc thi diễn ra vào ngày 20/5/1955 tại rạp hát Lido ở khu Chợ Lớn. Gần như tất cả mỹ nhân đang sinh sống tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam đều xuất hiện tại cuộc thi này.
Xuất sắc vượt qua hàng loạt nhan sắc, người đoạt ngôi vị cao nhất của cuộc thi là cô gái có tên Thu Trang. Thu Trang đăng quang ngôi vị hoa hậu với chiều cao 1,61m, số đo 3 vòng 86-62-88, nặng 53kg.
Hoa hậu Thu Trang tên thật là Công Thị Nghĩa, sinh năm 1932 trong một gia đình tiểu tư sản, người gốc làng hoa Ngọc Hà, Hà Nội và là chị của hai người em, một trai một gái. Năm bà 10 tuổi, cha bà được điều động vào Sài Gòn làm việc, bà và gia đình theo cha vào miền Nam và ở lại Sài Gòn.
Nhan sắc mặn mà của hoa hậu Thu Trang. |
Năm 1950, khi phong trào Trần Văn Ơn bùng nổ mạnh mẽ ở Sài Gòn, Thu
Trang khi đó đang là học sinh đã cùng với các học sinh, sinh viên khác
tham gia những cuộc biểu tình lớn đang diễn ra khắp miền Nam.
Từ phong trào học sinh, sinh viên, Công Thị Nghĩa sớm được tiếp thu tư
tưởng yêu nước. Bà bị giam ở bốt Catinat ở Sài Gòn, chịu đủ các loại
hình tra tấn.
Thụ án ở bốt này một thời gian, bà bị chuyển qua Khám Lớn - Sài Gòn và
bị giam chung cùng với đồng chí Nguyễn Thị Bình. Những ngày thụ án của
bà chỉ được khép lại khi luật sư bào chữa của bà là Nguyễn Hữu Thọ thắng
lý quan tòa trong phiên xét xử và tháng 6/1953.
Sau khi thoát khỏi ngục tù, tiếp nối đam mê viết văn, viết báo, đặc biệt
là nghiên cứu về sử học từ thời còn con gái, Thu Trang học nghề báo và
làm ký giả tại Sài Gòn bởi bà ý thức được báo chí chính là một công cụ
đấu tranh lợi hại khi đó. Bà viết nhiều báo như báo Sài Gòn mới, Lẽ
sống… với các bút danh như Thanh Tâm, Huyền Thu, nhưng nhiều nhất là Thu
Trang. Thu Trang chính là bút danh chính cho tất cả các trang viết,
nghiên cứu lịch sử của bà.
Đến năm 1955, được tin chính quyền Ngô Đình Diệm sẽ tổ chức một cuộc thi
hoa hậu, thành phần ban giám khảo của cuộc thi này bao gồm nhiều nhân
sĩ, trí thức, nhà báo. Trong một lần đến phỏng vấn thành phần ban giám
khảo để đưa tin, vài thành viên ban giám khảo đã khuyên bà: "Cô đẹp như
vậy, nên đăng ký tham gia cuộc thi này". Nghe vậy, bà đăng ký tham gia.
Sau này, mọi người biết đến bà như một vị tiến sĩ ở Pháp nhiều hơn là danh hiệu hoa hậu. |
Phần thưởng của hoa hậu Thu Trang khi đăng quang là 1 chiếc xe máy hiệu
Lamberta, 1 chiếc kiềng 1 lượng vàng, 3 ngàn đồng (tương đương với 10
lượng vàng), nước hoa và mỹ phẩm của các hãng danh tiếng và một vé máy
bay đi Mỹ. Tuy nhiên, chính quyền Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ biết bà từng
là điệp báo của cách mạng nên đã cản trở, không cho bà sang Mỹ.
Năm 1961, nhận lời mời tham dự tuần lễ phim ảnh tại Pháp, bà đã rời Sài
Gòn và định cư lâu dài tại đất nước này. Sang Pháp, bà không tham gia
bất cứ hoạt động nghệ thuật cũng như điện ảnh nào. Thay vào đó, bà quay
trở lại thú đam mê thời còn trẻ là viết và nghiên cứu lịch sử.
CA DAO HIỆN ĐẠI
Miền Bắc có lắm thằng điên
Trong túi nhiều tiền nó bảo rằng không
Suốt ngày nó chạy long nhong
Nói thánh nói tướng, nhưng không làm gì
Nhưng mà chúng được cái lì
Chỉ thị, Nghị quyết, cái gì cũng thôngMiền Trung có lắm thằng khôn
Nó chun ngõ trước, nó luồn ngỏ sau
Một khi nó quyết làm giàu
Nó đi đúng chỗ, nó cân đúng người
Sinh ra vốn ở xứ nghèo
Nghiên cứu nghị quyết nên theo điều gìMiền Nam có lắm thằng tham
Nó ăn như hạm, nó làm như điên
Trong túi nó muốn nhiều tiền
Nó cưới vợ một, nghĩ liền vợ hai
Suốt ngày nó nhậu lai rai
Một chữ Nghị quyết, học hoài không thông
Mang danh Dân Chủ Cộng Hòa
Đi ra khỏi tỉnh phải qua cửa quyền
Xuất trình giấy phép liên miên
Chứng từ thị thực ở miền nào quaTrăm năm trong cõi người ta
Ở đâu cũng được đi ra đi vào
Xa xôi như xứ Bồ Đào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Đen đủi như Ăng Gô La
Người ta cũng được đi ra đi vào
Chậm tiến như ở nước Lào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Chỉ riêng có ở nước ta
Người ta không được đi ra đi vào
Chưa đi, chưa biết Sài Gòn
Đi rồi, trong túi chẳng còn đồng xu
Đêm nằm, ngẩm lại thấy ngu.
Thằng cha ăn ít thằng cu ăn nhiều
Tiếc thay cây quế còn soan
Để cho đám mọi Đài Loan nó trèoTìm em như thể tìm chim
Chim bay biển Bắc, anh tìm biển Đông
Tìm chi cho phải mất công
Đài Loan, Hàn Quốc em dông mất rồi.
Ngày xưa đại tướng cầm quân
Ngày nay đại tướng cầm quần chị em
Trăm năm bia đá cũng mòn
Bia chai cũng vỡ, chỉ còn bia ôm.
Phong lan, phong chức, phong bì
Trong ba thứ ấy, thứ gì quý hơn?
Phong lan ngắm mãi cũng buồn
Phong chức thì phải cúi luồn vào ra
Chỉ còn cái phong thứ ba
Mở ra thơm nức, cả nhà cùng vui.
Thank cha, thank mẹ, thank gì ?
Hễ có phong bì thì nó thank you
Ngày đi: Ðảng gọi Việt gian
Ngày về: Ðảng lại chuyển sang Việt kiều
Chưa đi: phản động trăm chiều
Ði rồi: thành khúc ruột yêu ngàn trùng
Trốn đi: Ðảng bắt đến cùng
Trở về: mời gọi, săn lùng Đô la
Việt Minh, Việt Cộng, Việt kiều
Trong ba Việt ấy, Đảng yêu Việt nào
Việt Minh tuổi đã khá cao
Việt Cộng ốm yếu xanh xao gầy mòn
Việt Kiều tuổi hãy còn non
Đảng yêu, Đảng quý như con đầu lòngNgày xưa: chửi Mỹ hơn người
Ngày nay: nịnh Mỹ hơn mười lần xưa
Ngày xưa: đánh Mỹ không chừa
Ngày nay: con cái lại lùa sang đây
Ngày xưa: Mỹ xấu, Ðảng hay
Ngày nay: Ðảng ngửa hai tay xin tiền!
HÀ TIẾN NHẤT * CỘNG SẢN BỊP
MỘT BỊP! MỘT BỊP! LẠI MỘT BỊP!
Cố Nhà Văn QLVNCH
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
(1938-2016)
Nếu bây gìờ còn có ai nói về sự thể gọi là nguy cơ mất nước thì nhất
đinh là sai. Tình trạng gọi là nguy cơ đã biến thành hiện thực có chứng
minh rồi. Đất nước ta đã thực sự mất vào tay Tầu cộng. Đó là một sự
thực hiển nhiên. Tuy rằng trên bình diện công pháp và đối với thế giới,
VN vẫn là một quốc gia độc lập có chủ quyền, nhưng nhìn vào thực tại của
tình hình đất nước, rõ ràng người VN đã mất nước vào tay người Tầu từ
lâu.
Những thực tế chứng minh
1. Những
đô thị Tầu mà người Việt gọi là khu phố Tầu mọc lên nhan nhản khắp nơi
từ Bắc chí Nam. Theo một người biết rành chuyện trong nước nói ra, phố
Tầu do người Tầu làm chủ, do quan chức Tầu cai trị. VGCS không có quyền sớ rớ tới.
Họ trưng bảng hiệu Tầu, sống phong tục Tầu, nói tiếng Tầu, lập trường
Tầu cho con em học, bán buôn đồ Tầu, chịu luật lệ Tầu chi phối. Nó khác
với China Town ở San Francisco, vì China Town do chính quyền thành phố
quản trị. Tóm lại, các khu phố Tầu thực sự là những nước Tầu thu gọn nằm trong lãnh thổ VN.
2.
khu mỏ quặng, Những khu rừng thượng nguồn, những đồn điền cây công
nghệ người Tầu sang chiếm cứ và khai thác. Công nhân là bộ đội Tầu cải
trang. Khu vực khai tác, tuyệt đối người VN, kể vả bọn cầm quyền và công
an không được héo lánhtới. tế là những vực đóng quân của Tầu, quân số
có nơi vượt cấp quân đoàn. Sách lược xâm thực này nhắm hai lợi ích vừa
kinh tế, vừa quân sự. Phải kể đến nữa là 80% các công trình xây dựng
trong nước do người Tầu trúng thầu với giá rẻ mạt. Tầu sử công nhân Tầu.
Từ kiến trúc sư vẽ đồ án cho đến người lau nhà, nấu bếp đều là Tầu,
trong khi trí thức và công nhân VN thất nghiệp đầy đường.
3. Người Tầu ra vào VN tự do
như đi trên đất Tầu không cần passort, không cần visa, công an phải
chừa mặt không giám xét giấy tờ. Chúng muốn ở đâu và ở bao lâu, nhà nước
VGCS không dám kiểm soát. Dân Tầu phạm pháp trên đất nước VN, luật pháp
VN không được quyền xét xử. Thường dân Tầu say xỉn phá phách ngoài
đường, chọc gái giữa đám đông, người dân địa phương khôn hồn thì đi trốn
để tránh vạ lây. Nếu thưa kiện, công an sẽ đứng về phía bọn Tầu làm
bậy.
4. Cách
Tầu xâm lăng VN hữu hiệu nhất. Hàng hóa Tầu đổ vào VN qua cửa khẩu
không phải đóng thuế. Xài hàng Tầu rẻ hơn hàng sản xuất tại quốc nội rất
nhiều. Các hãng xưởng VN đang chết dần chết mòn, hoặc sống thoi thóp và
chật vật. Dân VN ngày nay xài hàng hóa Tầu, xem phim Tầu, tập tễnh
phong hóa Tầu nên trở thành Tầu lúc nào mà không biết.
5. Các
đường lối chính sách quốc gia đều học theo Tầu. Tầu làm trước, VN bắt
chước làm theo sau. Mỗi khi có chuyện lớn, bọn lãnh đạo VGCS đều phải
sang lãnh chỉ thị từ Bắc Kinh. Tổng bí thư đảng CSVN không hơn không kém
là tên thái thú địa phương được thiên triều đặt lên để cai trị dân
Việt. Vân vân và vân vân.
Như vậy thì chủ quyền quốc gia ở đâu
mà không bảo là mất nước. Tình trạng Tầu hóa này trải qua chừng vài thế
hệ nữa thì VN sẽ trở thành quận huyện của Tầu là chắc chắn. Hiện còn
lại chuyện đôi khi xẩy ra như việc hải quân Tầu bắn giết ngư phủ VN, cắt
cáp tầu thăm dò của VGCS v.v. bất quá chỉ đáng ví như những roi đòn
quất vào mông đứa trẻ ngỗ nghịch không nghe lời dậy bảo. Hoặc, những
tiếng nói đe dọa chiến tranh từ cửa miệng các quan chức Tầu coi như
tiếng ông chủ rầy la đứa đầy tớ chểnh mảng công việc cho nó đi vào khuôn
phép. Thế thôi. Theo ngu ý thì vào lúc này, không thể có chuyện nước
Tầu xua quân xâm chiếm VN như hồi năm 1979 chúng dậy cho VN một bài học.
Xét về các mặt lợi ích chính trị, quân sự, cũng như kinh tế, nước Tầu
chẳng dại gì mà làm như vậy. Trước sau bề nào VN cũng phải nằm gọn trong
tay rồi thì tội tình gì Tầu cộng phải nhọc công mà gây chiến tranh.
Cách thôn tính hòa bình bằng sách lược chiến tranh không tiếng súng đã
tỏ ra hữu hiệu không phải là thượng sách sao? Cho nên, điều mà nhiều
người quan tâm vào lúc này, gọi nó là Biển Đông Dậy Sóng, chỉ là màn
khói của bọn xâm lược lẫn lũ bán nước tung ra cho những nhu cầu chiến
lược riêng của chúng mà thôi. Tầu muốn bành trướng chủ nghĩa Đại Hán,
hơn nữa cần có cơm để nuôi một tỷ rưỡi dân, và cũng cần có đất để di
dân. Hoa Kỳ cần con đường tự do đi lại trên biển và đầu tư. VGCS bán
nước cần thu gom người dân về một mối cho dễ bề cai trị. Chúng muốn chạy
tội bán nước trước nhân dân và lịch sử, và rất sợ bị trả thù nên cần
phải dẹp tan sức chống đối của mọi thành phần mà chúng gọi là thế lực
thù địch cả trong lẫn ngoài nước.
VGCS là là một lũ Việt gian bán nước rành rành ra như thế, nhắm mắt cũng còn thấy, thế mà chúng lại luôn luôn thành công trong việc sử dụng sách lược khơi dậy lòng yêu nước của đồng bào để chống ngoại xâm bịp.
Sách lược này mục đích là tiêu diệt những người yêu nước để chiếm độc
quyền cai trị. Nói một cách chính chị chính em thì đây là ĐIỂM. Chống
ngoại xâm chỉ là chiêu bài, hay là DIỆN. Sự thật trớ trêu nhưng rất
hiển nhiên này cứ diễn đi diễn lại hoài mà hầu như đồng bào ta, kể cả
những bậc đại trí thức cũng vẫn dễ dàng để cho VGCS lừa bịp.
Hồ Chí Minh gây chiến tranh để tiêu diệt người yêu nước
Trong quá khứ, sách lược gây chiến
tranh chống xâm lược bịp của VGCS để tiêu diệt những đảng phái quốc gia
và người yêu nước đã đem lại kết quả cho chúng ít nữa là hai lần.
Lần thứ nhất - Sau
Đệ Nhị Thế Chíến, phong trào Dân Tộc Tự Quyết dâng lên cao tại hai lục
địa Á Phi. Tất cả các nước thuộc địa lúc đó đều chọn giải pháp dành độc
lập bằng cách tạm thời liên kết với mẫu quốc với một nền độc lập chưa
hoàn chỉnh để tránh chiến tranh, xây dựng đất nước, và có thời gian kiện
toàn thể chế ngõ hầu tiến tới một nền độc lập hoàn chỉnh về sau. Lấy
thí dụ hai quốc gia gần gũi với VN là Philippines và Ấn Độ. Philippines
được Mỹ trao trả độc lập ngày 4-7-1946, và Ấn Độ thoát ách thực dân Anh
và tuyên bố độc lập ngày 15-8-1947. Những nước này không cần chủ nghĩa
CS, cũng không cần chiến tranh, nhưng đã dành được độc lập một cách
tương đối êm thắm, chẳng mấy tốn hao. Lý do là vì, một đàng chính các
nước thực dân ý thức rằng chế độ thực dân đã đến lúc phải cáo chung, ôm
giữ mãi thuộc địa chỉ là ảo tưởng. Đàng khác, các dân tộc bị trị cũng
nhận ra rằng, đấu tranh dành độc lập bằng con đường thương nghị là tiết
kiệm nhất và cũng hữu hiệu nhất.
Chỉ trừ có VN dưới sự lãnh đạo của
Hồ Chí Minh thì không thế. Trong khi nạn đói năm 1945 tại miền Bắc chưa
được khắc phục, thì Việt Minh phát động Tuần Lễ Vàng để vơ vét vàng
trong dân chúng. Hồ dùng số vàng này dút lót cho bọn tướng của Tưởng
Giới Thạch sang VN giải giới quân đội Nhật hầu ly gián Quốc Dân Đảng
Trung Hoa với các đảng phái quốc gia VN. Đồng thời, Hồ mua chuộc tướng
Tầu Tiêu Văn giúp thực hiện kế sách Chính Phủ Liên Hiệp (CPLH) của hắn.
CPLH là một âm mưu rất thâm độc của Hồ Chí Minh. Sau khi chính phủ này
ký Hiệp Ước Sơ Bộ ngày 6-3-1946 với Pháp. Hồ được rảnh tay đối phó với
quân Tưởng và với Pháp, hắn lập tức ra lệnh cho Việt Minh truy quyét và
tiêu diệt các đảng phái quốc gia và những thành phân bất phục tùng
chúng. Các lãnh tụ VN Quốc Dân Đảng và Đại Việt như cụ Huỳnh Thúc Kháng,
Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam v.v. phải chạy sang Tầu để thoát
thân. Hiệp Ước Sơ Bộ có điều khoản quan trọng là Pháp thừa nhận nền độc
lập của VN trong Khối Liên Hiệp Pháp với một số hạn chế về nội trị và
ngoại giao. Hiệp Ước này có chữ ký của Hồ Chí Minh, nhưng đến tháng 12
năm đó, Hồ xé bỏ bản Hiệp Ước, phản bội lại những điều đã ký kết với
Sainteny và cụ Vũ Hồng Khanh, và quay ra chống Pháp.
Do tinh thần yêu nước của nhân dân
ta rất cao, lại phải chịu đựng sự tủi nhục dưới ách thực dân Pháp trong
gần một thế kỷ, chiêu bài chống Pháp Hồ Chí Minh tung ra hợp thời và rất
tâm lý, đã dễ dàng lôi kéo được đa số quần chúng theo hắn, kể cả trí
thức và thành phần tiểu tư sản thành thị. Chống Pháp 8 năm [1946-1954],
với Hiệp Định Genève 1954, Hồ dành được một nửa phần giang sơn gấm vóc
của Tổ Tiên và tròng lên đó một thứ gông cùm hà khắc và tàn ác hơn cùm
gông của thực dân Pháp trước đó gấp trăm lần. Lịch sử ghi nhận,Tinh
thần yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân VN bị Hồ Chí Minh và đồng
đảng của hắn lừa bịp và ăn cướp thành công lần thứ nhất.
Lần thứ hai - Ngay
sau khi Hiệp Định Genève vừa ký kết, Hồ Chí Minh đã lập ngay kế hoạch
cướp miền Nam bằng võ lực cũng lại với chiêu bài chống đế quốc xâm lược.
Kẻ xâm lược lần này là Mỹ.
Bất cứ nhà viết sử vô tư và có lương
tâm nào cũng phải nhìn nhận rằng trong giai đoạn nước VN bị phân chia
thành hai miền Nam Bắc thì miền Nam có độc lập, tự do, dân chủ, xã hội
trù phú, đời sống ấm no và thanh bình hơn miền Bắc gấp bội. Hồ và đồng
đảng dù rất thèm muốn miền Nam nhưng không dám vô cớ ngang nhiên xua
quân xâm chiếm vì sợ dư luận của thế gìới. Ngay cả Pháp (lúc đó rất hận
Mỹ vì trận Điện Biên Phủ), Liên Sô và Trung cộng cũng không dám ngoảnh
mặt đi cho Hồ làm chuyện đó, bởi vì những nước này đã ký tên trên tờ
Hiệp Định Genève. Do đó Hồ buộc phải tạo ra lý do để hành động. Hồ biết
Mỹ muốn đem quân đội vào miền Nam, nên vấn đề là làm sao tạo cơ hội cho
Mỹ đạt được ý nguyện. Chỉ có khi nào Mỹ đem quân vào VN thì Hồ mới có lý
do trương chiêu bài chống xâm lược để gây chiến với phe Quốc Gia mà
thâu tóm miền Nam. Sự cản trở cho kế hoạch của Hồ là người lãnh đạo của
miền Nam lúc đó là TT Ngô Đình Diệm tuyệt đối không chịu để cho Mỹ đổ
quân. Để trừ đi được cái trở lực này, Hồ lôi kéo bọn trí thức bất tài
nhưng ham quyền, và dùng cán bộ nằm vùng là những nhà sư của nhóm Phật
Giáo Ấn Quang giàn dựng ra cái gọi là chính quyền đàn áp Phật Giáo để
giết TT Diệm. Mỹ hẳn biết nhiều nhà sư là đảng viên CS, nhưng vì là đúng
tủ của Mỹ, nên rất hoan hỉ tích cực tham gia vào việc sát nhân này.
TT Diệm chết, Mỹ tự do đổ quân vào
VN như chỗ không người vì bọn tướng lãnh lãnh đạo bất tài của miền Nam
lúc đó. Mỹ đem quân vào VN có nghĩa là ban cho CS miền Bắc cái lý do để
xua quân xâm chiếm miền Nam. Lại một cuộc chiến nữa bắt đầu do Hồ Chí
Minh và đồng đảng gây ra. Ngày 22-10-1957, lần đầu tiên toán cố vấn viện
trợ quân sự MAAG (Military Assistance Advisory Group) tại Saigon bị đặc
công CS đánh bom làm bị thương 13 nhân viên. Nếu lấy thời điểm này làm
khởi đầu cho cái gọi là cuộc chiến chống Mỹ cứu nước của Hồ Chí Minh và
kết thúc vào ngày 30-4-1975, thì chiến tranh kéo dài suýt soát 17 năm.
Cuộc chiến đã cướp đi khoảng 4 triệu sinh mạng người VN, gần 60 ngàn
người ngoại quốc kể cả 58.220 quân nhân Hoa Kỳ. Mất mát về vật chất và
tinh thần thì vô kể.
Tuy VGCS trương tấm bảng chống Mỹ,
nhưng chúng thừa hiểu rằng nước Mỹ không phải là một đế quốc có tham
vọng đất đai. Do đó, chống Mỹ chỉ là một chiêu bài bịp để vận động quần
chúng. Mục tiêu của cuộc chiến là chiếm miền Nam, và tiêu diệt những
người VN yêu nước để CS độc quyền cai trị. Với chiêu bài chống Mỹ
cứu nước, Hồ và đồng đảng lại lôi kéo thành công được nhân dân VN vào
cái âm mưu lừa bịp một lần nữa. Tinh thần yêu nước ngây thơ của người
dân VN lại bị cướp trắng. Nhân
dân miền Bắc không hiểu và không biết phân biệt bị bịp đã đành, trí
thức miền Nam, nhiều chính khách nữa, cũng sẵn sàng tự để cho mình bị
lừa bịp mới là chuyện lạ không hiểu nổi.
Lịch sử tái diễn
Hiện nay, VGCS lại đang dở trò
lừa bịp để ăn cướp lòng yêu nước của nhân dân VN một lần nữa qua chiêu
bài chống xâm lược với những cuộc biểu tình phô trương lá cờ đỏ sao vàng.
Quân xâm lược bây giờ là người anh em 16 chữ vàng ròng Trung
cộng.
Luật pháp của VGCS cấm tụ họp không
có phép từ 5 người trở lên. Vậy tại sao lại có những cuộc biểu tình hàng
ngàn người chống Trung cộng tại nhiều nơi trong nước trong mấy tuần lễ
vừa qua? Có phép hay không có phép? Thứ trưởng ngoại giao VGCS Hồ Xuân
Sơn đi Tầu hội họp, tuyên bố rằng liên hệ giữa Trung Hoa và VN vẫn dựa
trên phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt, tình hình vẫn tốt đẹp
và ổn định, đảng và nhà nước VGCS vẫn giao hảo bình thường với Tầu. Thế
mà tại sao dân VN xuống đường biểu tình chống Tầu lại được VGCS để yên?
Có phải là vô lý không? Nhưng xin thưa cái đuôi chồn lòi ra rồi. Các
cuộc biểu tình nhất định phải có phép mới có thể xẩy ra được. Chắc chắn
như vậy, bởi vì đây là VN xã hội chủ nghĩa chứ không phải Pháp, Mỹ,
Maroc, hay nước nào khác. Câu hỏi đặt ra là, VGCS để cho dân chúng biểu
tình như vậy thì chúng có thật tâm chống Trung cộng không? Thú thật
người viết hỏi chơi vậy thôi, chứ tin rằng, ai nấy đã có câu trả lời
chính xác rồi.
Ải Nam Quan đã mất vào tay Tầu. Thác
Bản Dốc đã mất vào tay Tầu. Nhiều đất đai biên giới phía Bắc đã mất vào
tay Tầu. Biển đã mất vào tay Tầu. Hoàng Sa, Trường Sa đã mất vào tay
Tầu. Lại nữa, những chứng cớ xâm lược của Tầu trên lãnh thổ VN mà chúng
tôi liệt kê ở trên, tất cả chứng minh rằng, giang sơn gấm vóc của Tổ
Tiên đã bị Tầu cướp đoạt, ít ra là từng phần, và là những phần quan
trọng. Còn nữa, khi hải quân Tầu bắn chìm tầu đánh cá của dân Việt trong
hải phận VN, và giết ngư phủ VN, cắt giây cáp của tầu thăm dò của VN,
VGCS cũng vẫn im thin thít, coi như chúng thừa nhận các hành động côn đồ
của Trung cộng là chính đáng. Trước tình trạng Trung cộng xâm chiếm VN
như thế, người ta không hề thấy đảng và nhà nước VGCS có phản ứng nào để
chống trả. Trái lại chúng vẫn duy trì tình anh em môi hở răng lạnh với
Tầu trên cơ sở phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt. Như vậy thì
VGCS chống Trung cộng xâm lược ở chỗ nào? Theo tuyên bố của tên thứ
trưởng ngoại giao Hồ Xuân Sơn sau các cuộc biểu tình mà chúng tôi vừa
tường trình thì VGCS chống Tầu xâm lược ở chỗ nào?
Hơn nữa theo binh pháp thì chống
ngoại xâm là phải chận đánh giặc ngay khi chúng còn ngoài cửa ngõ đất
nước. Để cho giặc vô ở hẳn trong nước rồi mới biểu tình đuổi giặc mà
gọi là chống xâm lược sao? Vài ngàn người biểu tình có đuổi được giặc
không? Vậy nên phải kết luận là, những cuộc biểu tình được VGCS cho phép
chỉ là những màn trình diễn nhắm những mục tiêu khác, chứ không phải là
chống Trung cộng. Những cuộc biểu tình tuy do VGCS ngầm tổ chức, nhưng
không thiếu sự có mặt của tuổi trẻ VN yêu nước. Đó là lý do chúng tôi
nói tinh thần yêu nước của nhân dân VN đã bị VGCS ăn cướp. Xin rành mạch
ở chỗ đó.
Vẫn như hai cuộc chiến tranh chống
Pháp và chống Mỹ trước đây, chống Trung cộng xâm lược hiện nay chỉ là
diện, tiêu diệt những người VN yêu nước mới là điểm. Những sự kiện nhìn
thấy bằng con mắt trong các cuộc biểu tình nói lên điều đó. Ở trong
nước, chỉ có những người biểu tình tuần hành theo lá cờ máu, hô các khẩu
hiệu của cán bộ trà trộn đi kèm, hát những bài ca ca tụng CS. Ai có
biểu hiện khác tức thì bị khóa tay, bóp họng, trấn áp, đẩy lên xe cây.
Những người này mới thực sụ tham gia biểu tình vì tinh thần chống xâm
lược. Biểu tình rõ ràng đã trở thành cái bẫy để thu hút những người
chống cộng xuất hiện. Tại hải ngoại, lá cờ máu xuất hiện tràn ngập trong
các cuộc biểu tình ngụ ý là chế độ VGCS cũng quyết tâm chống Tầu, nhưng
thực chất là để lấn át hầu đi đến việc xóa bỏ lá cờ Vàng 3 Sọc Đỏ của
đồng bào tỵ nạn. Đó mới là mục đích chính và tối hậu của VGCS. Trò chơi
này là sách lược lấn đất dành dân của VGCS. Nguyên tắc của trò chơi là
lá cờ máu cắm ở nơi nào có người Việt cư ngụ, người Việt nơi đó là thần
dân của chế độ. Cuộc chiến tranh hiện nay giữa hai phe người Việt không
phải bằng súng đạn như xưa, mà là bằng lá cờ, nên có thể gọi là cuộc
chiến của những lá cờ. Cắm được lá cờ máu trên các cộng đồng tỵ nạn là
coi như kết thúc được công cuộc bình định từ sau ngày 30-4-1975. Nếu
việc thành, người Việt Nam tỵ nạn sẽ được goị là Việt kiều. Mọi tầng lớp
theo nghề nghiệp hoặc tuổi tác sẽ được đoàn ngũ hoá thành hội, thành
đoàn để sinh hoạt. Các chi bộ và tổ đảng sẽ được thành lập để chỉ đạo
các cộng đồng. Những người còn mang tư tưởng chống cộng sẽ phải rút vào
cuộc sống của loài sò, ốc quanh quẩn trong các khe, hốc đá. Lúc đó VGCS
kể như là đã toàn thắng. Chúng tha hồ ăn ngon, ngủ yên.
Từ trước tới nay, chưa bao giờ VGCS
cắm được lá cờ máu lên giữa cộng đồng tỵ nạn. Nhưng sau cuộc biểu tình ở
trong nước ngày 5-6 đến nay, việc này xem ra chúng đã khá thành công.
Lá cờ máu bay thoải mái trên nhiều Website của người tỵ nạn, xuất hiện
trong nhiều cuộc xuống đường trên đường phố nơi người tỵ nạn cư ngụ. Nếu
truy nguyên nhân, thì lý do một phần là vì tinh thần chống cộng của
người tỵ nạn đã hầu như cạn kiệt mất rồi. Một phần khác là do bọn trở
cờ, bọn tay sai, và bè lũ hòa hợp hòa giải hỗ trợ. Không phải chúng hành
động vô ý thức, mà có chủ ý. Chúng tự nguyện đứng vào hàng ngũ với VGCS
để chống Trung cộng vì cho rằng, VGCS diễn vở tuồng chống Trung cộng
thật hay. Chủ trương của chúng, miễn là chống Trung cộng thì lá cờ nào
cũng OK, dù là lá cờ máu, và lá cờ này đứng ra lãnh đạo công cuộc cũng
tốt thôi. Chúng làm chính trị nên đã biết và biết rất rõ ràng, nhưng
chúng không ke (care,) lá cờ máu biểu tượng cho một chế độ từ bản chất
là tay sai ngoại bang và bán nước. Vì thế lá cờ máu chính là biểu tượng
của tinh thần bán nước. Một biểu tượng bán nước không thể đồng thời là
yêu nước được. Bây giờ chúng suy tôn lá cờ bán nước lên làm minh chủ cho
công cuộc chống xâm lược thì thật là thậm khôi hài và vô lý. Nhưng
chúng không ke. Trong khi chúng biết rõ lá cờ Vàng là biểu tượng của tự
do và những giá trị cáo quí. Nó đã có thành tích hơn nửa thế kỷ chống CS
miền Bắc xâm lược, và đã lập thành tích chống Tầu cộng chiếm đảo Hoàng
Sa năm 1974. Những kẻ đó đã một thời nương thân dưới lá cờ này, nhưng
chúng không quan tâm và cố tình quên. Công cuộc chống Đại Hán xâm lược
của Dân Tộc VN đang là một thảm kịch và còn là một thảm họa.
Tóm tắt dòng suy nghĩ
Người viết tự nhận rằng cái tiêu đề
của bài có vẻ tào lao nên có lẽ làm bạn đọc ngứa mắt. Vì thế nên sẽ
không có kết luận nào cho cái sự tào lao của mình. Thay vào đó người
viết xin có vài câu thơ con cóc để kết thúc. Thơ trái vần, chẳng niêm,
cũng chẳng vận, xin quí bạn đọc đừng cười chê:
Một bịp! Một bịp! Lại một bịp!
Nhắn này lũ chó chuyên ăn kít.
Theo voi dễ còn bã mía ăn
Bám Hồ chỉ có mà hửi địt.
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
MÙA THU BẮC MỸ
Nước Mỹ và Canada vào thu đẹp lộng lẫy trong sắc đỏ, vàng của lá cây chuyển mùa.
Mùa thu nước Mỹ đẹp nhất khi lá cây chuyển màu hoàn toàn, thường vào khoảng giữa tháng 10. Ảnh: ForestWanderNhững cây dương lá vàng, sơn thù du lá đỏ, cây phong màu cam và mại châu được nhuộm vàng tạo thành bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp ở công viên Oak Mountain (Birmingham, Alabama). Ảnh: Alabama Media GroupThu vàng ở Sedona, Arizona. Ảnh: John MorganCảnh đẹp nên thơ ở núi Ozark, Arkansas. Ảnh: Arkansas Department of Parks & TourismThảm cây dương lá vàng ở California. Ảnh: Mike BairdMùa thu ở Baldwin, Colorado. Ảnh: Pam MorrisThiên nga trắng giữa hồ thu ở công viên Young’s Pond, Branford, Connecticut. Ảnh: slack12Thu yên bình ở tiểu bang Delaware.Những đám mây mang mưa đến ở dãy núi Sawtooth, Idaho. Ảnh: Charles KnowlesCon đường lá đỏ thơ mộng ở Indiana. Ảnh: ayay
Trẻ em chơi đùa trên thảm lá vàng ở Kansas. Ảnh: Matthew & Karen Huber
Trại nổi trên sông Ouachita ở Louisiana được bao phủ trong sắc đỏ của lá thu. Ảnh: FinchLakeCảnh đẹp như tranh vẽ ở công viên Hinckley Park, South Portland, Maine. Ảnh: Brent DanleyMột góc mùa thu dưới chân cầu đường sắt qua sông St. Croix River, Minnesota.Sắc đỏ rực đến chói mắt của rừng cây ở Grantwood. Ảnh: Thomas HawkTàu hỏa lượn trong sắc vàng ở vườn quốc gia Glacier, Montana. Ảnh: Loco SteveThu rực rỡ sắc màu ở New Hampshire. Ảnh: bluepointMùa thu trên một con đường quê vắt qua những ngọn đồi ở Basking Ridge, New Jersey. Ảnh: joiseyshowaaSuối chảy róc rách dưới những tán cây vàng, đỏ ở Kaaterskill Creek, New York. Ảnh: E PalenĐàn bò rừng bizon thảnh thơi bên bờ sông Little Missouri, bắc Dakota. Ảnh: Good SamĐường xe chạy lướt qua những hàng cây rực rỡ ở công viên tiểu bang Geneva, Ohio. Ảnh: Mark K.Công viên Beavers Bend ở Oklahoma phác họa một bức tranh thu đẹp ngỡ ngàng. Ảnh: Carolyn FletcherHai chú hươu đuôi trắng ngắm cảnh thu lộng lẫy dọc Skyline Drive, Virginia. Ảnh: dherman1145Những ngôi nhà, chuồng trại bằng gỗ mộc mạc lẫn trong sắc thu ở Tây Virginia. Ảnh: ForestWander"Cây cầu dẫn đến mùa thu" ở Wisconsin. Ảnh: Indy KethdyCảnh thu vùng núi Grand Tetons, Wyoming. Ảnh: Rich Flynn_
MẶC NHÂN * TRẦN VĂN TRẠCH
Trường Nguyễn Đình Chiểu-Mỹ Tho
On Sunday, October 23, 2016 6:09 AM,
TRẦN VĂN TRẠCH khi còn là học sinh lớp 7 trường Nguyền đình Chiểu đã từng làm mưa làm gió về văn nghệ tại rạp hát Thầy Năm Tú Mỹ Tho-
Mặc Nhân TVC
Hiện tượng Trần Văn Trạch đã đến với tôi vào năm 1939 tại rạp hát Thầy Năm Tú, Mỹ Tho vào mùa bãi trường năm ấy.Trần Văn Trạch sinh năm 1924 tại làng Đông Hòa, tỉnh Mỹ Tho, học sinh trường Collège de Mỹ Tho. Ngày lễ phát thưởng bãi trường niên học 1937-38 của trường được tổ chức long trọng tại rạp hát Thầy Năm Tú. Trần Văn Trạch lúc bấy giờ mới học lớp 2ème (deuxième année tức là đệ nhị niên tức là lớp 7 bây giờ) được phân công phụ trách phần văn nghệ, đồng thời là hoạt náo viên (animateur) vừa bằng tiếng Việt vừa bằng tiếng Pháp. Có nghĩa là nhà trường khoán trắng cho Trần Văn Trạch, một học sinh lớp 7 cáng đáng một trọng trách không dễ chút nào.
Lúc bấy giờ, chính quyền Pháp ở Đông Dương đang tổ chức cuộc đua xe đạp vòng quanh Đông Dương, nên sau khi ra trình diện và chào khán giả xong, MC. Trần Văn Trạch nói: “Kính thưa quí vị. Hiện nay chúng ta đang theo dõi cuộc đua xe đạp vòng quanh Đông Dương, tôi cũng xin đưa quí vị đi vòng quanh Đông Dương nhưng bằng lời ca tiếng hát.”. Đợi cho tiếng vỗ tay chấm dứt, cậu bé lóp 7 tiếp tục: “Tôi xin bắt đầu cuộc hành trình từ Nam ra Bắc. Ở Nam kỳ có lối nói thơ “Lục Vân Tiên”, tôi xin nói một một đoạn thơ Lục Vân Tiên:Vân Tiên cõng mẹ đi raĐụng phải cột nhà cõng mẹ trở vôVân Tiên cõng mẹ trở vôĐụng phải cái bồ cõng mẹ trở raVân Tiên cõng mẹ trở raĐạp bãi cứt gà cõng mẹ trở vôVân Tiên cõng mẹ trở vôĐụng phải chày vồ cõng mẹ trở raVân Tiên cõng mẹ trở ra…Mặc dù còn nhỏ tuổi, trới phú cho Trần Văn Trạch một giọng ấm áp, cùng với lối diễn
xuất lẩm ca lẩm cẩm cỏng mẹ ra, vô... đầy tính chất mộc mạc phương nam, khán giả đổ ra cười nghiêng, cười ngửa. Đợi cho mọi người thôi cười, Trần Văn Trạch lấy lại vẻ trịnh trọng, xoa xoa tay và nhỏ nhẹ thưa: “Kính thưa quí vị, quí vị có biết Lục Vân Tiên cõng mẹ đi đâu không? Chính mẹ bịnh nên Lục Vân Tiên cõng mẹ đi tìm thầy hốt thuốc, nhưng vì mù loà, Lục Vân Tiên đi ra đụng vật nầy đi vô đụng vật kia. Loay hoay mãi không tìm ra lối đi... Vậy mà quí vị nỡ nào cười cho cái đau khỏ của một người con hiếu thảo cõng mẹ đi trị bịnh. Lẽ ra quí vị nên chỉ đường cho Lục Vân Tiên mới phải...”.Không khí đang vui vẻ ồn ào bỗng trở nên lặng trang. Quí bà mẹ học sinh dự lễ lấy khăn ra lau nước mắt. Các cô học sinh gái sụt sịt khóc, kể cả thầy cô cũng chưng hửng cho cái tài năng sớm lộ của đứa học trò mình.
Chưa hết, tiếp tục đi vòng quanh Đông Dương, Trần Văn Trạch đưa khán giả ra Huế. Nơi đây, chàng nghệ sĩ tí hon nầy không biết học ở đâu, vì thời bấy giờ việc giao lưu văn hóa giữa ba miền còn rất hạn chế, đã cho khán giả nghe với một giọng Huế nữ đặc sệt, trọ trẹ, nặng nặng, ấm ấm, ức ức... khó cho người miền Nam bắt chước:Chiều chiều trước bến Vân LâuAi ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.Thuyền ai thấp thoáng bên sông,Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.Tiếp tục ra Bắc, lại một thể loại dân ca đặc thù bài hát theo điệu cò lả:
Con cò... là cò bay lả... í a lả lả bay la
Bay từ... là từ cửa phủ... bay ra là ra cánh đồngTình tính tang... là tang tính tìnhCô mình rằng... ấy anh chàng ơiRằng có biết biết hay không... rằng có nhớ là nhớ hay không?Với giọng Bắc ẻo lả, mấy từ nhồi duyên dáng theo điệu ca dân gian, và qua từ màn văn nghệ đầu tiên đến giờ, anh học sinh Trần Văn Trạch thật sự đã chinh phục khán giả. Rạp hát Thầy Năm Tú rộng là thế, khán giả đông là thế mà cả rạp im phăng phắc để nghe, để thưởng thức một cái gì mà từ trước đến giờ chưa được nghe, chưa được thưởng thức.Đến khi anh đưa khán giả vào xứ Lào để trông anh múa lèo với những cánh tay uyển chuyển đưa lên cao, cùng với 10 ngón tay uốn éo cử động, và hai bàn chân khi nhón lên khi hạ xuống nhịp nhàng uyển chuyển theo dòng nhạc Lào buồn buồn, xa vắng. Rồi anh lại đưa khán giả vào xứ Chùa Tháp qua màn biểu diễn điệu múa Lâm thôn độc đáo Khmer cùng với nhưng câu hát Dù kê bòn ơi! Bòn ơi!... tâu náaaa...
Những điều nầy tôi viết theo ký ức của tôi không hề qua tư liệu hay bài viết của ai vì tôi nhỏ hơn anh 2 tuổi, học chung trường với anh nhưng sau anh 2 lớp. Tôi đến dự lễ phát thưởng để xem anh trình diễn văn nghệ không phải với tư cách lãnh thưởng, càng không thể là khách mời chỉ là thằng nhỏ... đi coi hát cọp.Sau buổi văn nghệ nầy một cô đầm, con của một người Pháp làm việc tại Mỹ Tho, nói với cha: “Ba gả con cho anh học trò đó, nếu không con cũng theo không ảnh.”. Và cô thiếu nữ người Pháp nầy, người bị anh chàng học trò tài ba nầy hớp hồn ngay trong đêm văn nghệ nầy, sau nầy là Trần Văn Trạch phu nhân.Chuyện nhân vật “Mỹ Tho Trần Văn Trạch” đến đây chấm dứt cũng đũ rồi nhưng tác giả xin phép viết thêm đôi dòng. Nói về Trần Văn Trạch phải nói đũ: Trần Văn Trạch nhạc sĩ, Trần Văn Trạch ca sĩ, Trần Văn Trạch kịch tác gia, Trần Văn Trạch kịch sĩ, Trần Văn Trạch soạn giả, Trần Văn Trạch người dẫn chương trình, Trần Văn Trạch người lập chương trình... Bất cứ trong lĩnh vực nào mà Trần Văn Trạch tham gia, ai ai cũng thấy cái “dấu ấn đặc thù Trần Văn Trạch” nổi lên.Một chuyện nhỏ. Ông Trần Văn Trạch có rất nhiều biệt tài. Như trong chương trình văn nghệ phát thưởng ở Trường Nguyễn Đình Chiểu nói trên, ông đã đưa khán giả từ đoạn đầu vui cười hả hê qua chất hài có duyên của ông, rồi lập tức chuyển qua chất bi thương xúc cảm một cách tài tình. Nhạc phẩm “ Chuyến xe lửa mùng năm ” cũng vậy. Đoạn đầu với cái giọng của một thằng bé ngoài Trung vì chiến tranh lìa mẹ vào Sài Gòn bán báo kiếm sống. Tết đến em có dư một số tiền nhỏ về quê cho mẹ. Ngồi trên xe lửa về quê thằng bé ca hát nghêu ngao vui vẻ nghĩ rằng sẽ gặp mẹ, ôm mẹ vào lòng, nhưng khi về quê thì mới biết chiến tranh đã thiêu rụi ngôi nhà và mẹ cũng đã chết từ lâu. Đoạn nầy dòng nhạc, lời ca chuyển thành thống thiết... thính giả chỉ còn biết lấy khăn lau nước mắt.Một chuyên nhỏ. Nhanh trí. Trong một vở kịch, nghệ sĩ Trần Văn Trạch đóng vai một anh hùng trừ gian diệt bạo. Theo vở kịch là khi bắt được tên cướp... đưa cây súng sáu chĩa vào đầu tên ăn cướp, bóp cò, súng nổ, tên cướp ngã ra chết, đền mạng... Nhưng trớ trêu, đạn giả bị lép, súng không nổ trái với kịch bản... Trần Văn Trạch bình tĩnh không để cho vở kịch bị sượng nên lớn tiếng nói với giọng kẻ cả, bảo tên cướp: “Ha… ha... lần nầy ta tha cho ngươi, lần sau còn tái phạm ta không tha đâu... ha... ha...”. Tên cướp lẽ ra khi súng nổ ngã lăn ra chết nhưng súng không nổ cũng lỡ bộ nhưng nghe Trần Văn Trạch cương một câu mừng quá cũng cương theo và xin... lạy Trần Văn Trạch cám ơn cứu tử. Màn hạ. Ông bầu... chịu quá. Khán giả không biết gì, cũng vỗ tay...Một chuyện nhỏ. Bản nhạc “Xổ số Kiến thiết”, một bản nhạc “quảng cáo” thôi, tầm thường như vậy, thế mà vào tay của Trần Văn Trạch đã trở thành một ca khúc hay mãi đến bây giờ cũng không ai có thể hát được như vậy.Một chuyện không nhỏ. Ngay khi còn nhỏ tập tành ca hát là Trần Văn Trạch, với giọng thiên phú nên bắt chước ca sĩ Pháp là Tino Rossi hát giọng ténor. Ca sĩ ténor Tino Rossi biết được điều nầy nên khi Trần Văn Trạch đến Pháp, chính Tino Rossi, không tị hiềm, lại tìm Trần Văn Trạch để lời khen ngợi và còn lăng-xê cho Trần Văn Trạch hát trên Radio, trên Télé của Pháp.Người đời ban tặng ông danh hiệu “quái kiệt” không ngoa và quái kiệt Trần Văn Trạch bị ung thư gan từ Mỹ trở về Paris chữa bệnh và đã mất vào ngày 12 tháng 4 năm 1994 ở tuổi 70. Và ông đã yên nghĩ tại nghĩa trang Valenton, Paris_.___Attachment(s) from kim phan | View attachments on the web1 of 1 Photo(s)
TS. TRẦN HUY BICH * NGUYỄN THANH LIÊM
Cảm nhận về “Tuyển tập Nguyễn Thanh Liêm”
TS Tr. H B
Nguyễn Công Trứ không nặng lòng với quê hương, đất nước. Nhưng tại sao ông có được những năm thật sự “hưởng nhàn” so với một trí thức họ Nguyễn khác ra đời sau ông 150 năm? Có lẽ đó là cũng là hoàn cảnh và nỗi niềm không của riêng Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm mà còn chung cho thế hệ chúng ta, những người Việt trưởng thành trên đất nước trong nừa sau của thế kỷ 20.
Cảm nhận về “Tuyển tập Nguyễn Thanh Liêm”
Trần Huy Bích (Tháng 3-2015)
TS Tr. H B
Nguyễn Công Trứ không nặng lòng với quê hương, đất nước. Nhưng tại sao ông có được những năm thật sự “hưởng nhàn” so với một trí thức họ Nguyễn khác ra đời sau ông 150 năm? Có lẽ đó là cũng là hoàn cảnh và nỗi niềm không của riêng Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm mà còn chung cho thế hệ chúng ta, những người Việt trưởng thành trên đất nước trong nừa sau của thế kỷ 20.
GS Trần Huy Bích & GS Nguyễn Thanh Liêm
Cảm nhận về “Tuyển tập Nguyễn Thanh Liêm”
Tình trạng giáo dục ở Việt Nam hiện nay (với kiến thức của học sinh,
sinh viên tốt nghiệp thấp hơn nhiều so với các nước chung quanh, kèm
theo một trình độ đạo đức, luân lý ở mức độ đáng lo ngại) đã khiến nhiều
bậc phụ huynh cùng nhiều thức giả lên tiếng bày tỏ mối lo âu. Ngay cả ở
trong nước, nhiều lời than phiền với hàm ý luyến tiếc đã nhắc tới “giáo
dục thời Việt Nam Cộng Hoà.” Nhưng Việt Nam Cộng Hòa thuộc về quá khứ
đã 40 năm (1975-2015). Giáo dục thời ấy như thế nào, cách tổ chức ra
sao, tôn chỉ cùng tinh thần có điểm gì đáng chú ý, ít ai còn nhớ rõ.
Nhân loại đang sống trong một thế giới với khá nhiều bất trắc. Tương lai cư dân trên địa cầu sẽ đi về đâu? Các ý niệm tự do, dân chủ phải chăng sẽ thắng thế để nhân loại cùng xây dựng những xã hội dân chủ tiến bộ, cùng sống trong hòa bình, như nhà chính trị, kinh tế học Francis Fukuyama đã phác họa trong cuốn The End of History and the Last Man xuất bản năm 1992? Hay những khác biệt về văn hóa và tôn giáo sẽ càng ngày càng trầm trọng, đưa tới những xô xát thật lớn như nhà chính trị học Samuel Huntington đã dự phóng một cách lo ngại trong cuốn The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order xuất bản năm 1996? Trong một thế giới đầy bất trắc như thế, tương lai đất nước và dân tộc Việt sẽ ra sao?
Sau biến cố 1975, hơn ba triệu người Việt lìa quê hương tới định cư tại nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới (một số lượng đáng kể ở trên 30 quốc gia). Trong tiến trình hội nhập vào những môi trường xã hội và văn hóa khác với quê hương cũ, người Việt, nhất là gia đình Việt, có những vấn đề gì? Trẻ em Việt sẽ có những khó khăn cùng tiềm năng ra sao? Đó là những câu hỏi mọi người Việt đều quan tâm.
Với một lãnh thổ dài và hẹp, ba miền của Việt Nam có nhiều nét khác nhau. Miền Nam là vùng đất tương đối mới. Văn hóa đồng bằng sông Đồng Nai - Cửu Long có những điểm gì khác miền Trung, miền Bắc? Ngay các địa phương của miền Nam cũng có những sắc thái khác nhau. Số người hiểu rõ những chỗ khác nhau ấy để có thể trình bày lại một cách vừa thấu đáo, uyên bác, vừa giản dị, dễ hiểu, không nhiều.
Với hơn 30 năm trong ngành giáo dục của miền Nam (20 năm dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa), qua các giai đoạn là học sinh, sinh viên, giáo sư, Hiệu trưởng Trung học, lãnh đạo ngành giáo dục ở trung cấp, rồi cao cấp, giáo sư Nguyễn Thanh Liêm đã chứng nghiệm, quan sát, suy nghĩ, và đã viết rất nhiều. Những bài “Giáo dục ở Nam Việt Nam từ xưa tới hết Đệ Nhất Cộng Hòa,” “Giáo dục Việt Nam từ đầu thập niên 1970 đến tháng 4 năm 1975” cung cấp những thông tin giá trị từ một “người trong cuộc” rất có thẩm quyền. Bài “Vai trò của các trường Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Petrus Ký, Gia Long hồi tiền bán thế kỷ XX” cho ta những kiến thức vừa mang tính cách giáo dục vừa mang tính cách lịch sử. Bài “Một vài ưu tư về giáo dục ở Việt Nam” mang nặng tâm huyết của một người lúc nào cũng thiết tha với giáo dục và luôn luôn nghĩ tới quê hương.
Những bài “Trật tự thể giới thế kỷ 21,” “Chiến lược của Hoa Kỳ,” “Trung Quốc trước khúc quanh nguy hiểm” … đưa ta tới với một thức giả đọc và suy nghĩ rất rộng. Nhà giáo dục cũng là một trí thức uyên bác, cần hiểu rõ môi trường sống cùng địa bàn sinh hoạt của mình cũng như của dân tộc mình trong hiện tại cũng như trong tương lai.
Những bài “Trẻ em Việt Nam trong tiến trình xã hội hóa vào xã hội, văn hóa Mỹ” và “Vấn đề văn hóa giáo dục cho con em ở hải ngoại” được viết với kiến thức chuyên môn của một Tiến sĩ ngành Giáo dục am hiểu xã hội Hoa Kỳ, nhưng vẫn mang tâm thức một nhà văn hóa, giáo dục của dân tộc Việt Nam.
Tác giả càng tỏ ra uyên bác khi viết về văn hóa miền Đồng Nai - Cửu Long. Từ những bài tổng quát như: “Những biến đổi trong văn hóa Việt Nam,” “Tìm hiểu văn hóa Đồng Nai - Cửu Long,” “Lối vào văn hóa Đồng Nai - Cửu Long,” “Vị trí của Đồng Nai - Cửu Long trong lục địa Đông Nam Á” cho tới những bài riêng về mỗi địa phương như lịch sử khai phá vùng Gia Định; Tây Ninh; Bà Rịa – Vũng Tàu; Định Tường - Mỹ Tho; Vĩnh Long; Rạch Giá – Hà Tiên; Cà Mau ..., tất cả đều cung cấp những kiến thức giá trị và hữu ích. Không riêng gì người Việt từ các miền Trung và Bắc, ngay cả nhiều người sinh trưởng ở miền Nam cũng sẽ thấy những công trình biên khảo ấy hấp dẫn và lý thú.
Tác giả đã viết những bài ấy trong hơn mười năm qua, ở tuổi 70 tới 80, và chọn lọc, đưa đi in khi đã trên 80. “Văn chương chi sự, thốn tâm thiên cổ.” Câu chuyện văn chương, tư tưởng, vẫn là tấc lòng gửi lại muôn đời. Một nhà văn lớp trước có câu, “Hướng ngàn thuở gửi hoàng hôn tùy bút.” Được đọc trước bản thảo do vị niên trưởng khả kính trao cho, nguời viết những dòng này không tránh khỏi bâng khuâng. Sau một cuộc đời sinh động, Nguyễn Công Trứ được “cáo lão hồi hưu” ở tuổi 70, và sau khi về hưu, ông thung dung, nhàn tản với “hàn cốc, thanh sơn” trong tâm trạng:
Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục...
Cùng mang họ Nguyễn, cùng sinh ra ở nước Việt Nam, xét về phương diện
tinh thần, Nguyễn Thanh Liêm ở tuổi trên 80 đã không được hưởng những
ung dung, thanh thản của Nguyễn Công Trứ ở tuổi 70. Không ai có thể nói
là Nguyễn Công Trứ không nặng lòng với quê hương, đất nước. Nhưng tại
sao ông có được những năm thật sự “hưởng nhàn” so với một trí thức họ
Nguyễn khác ra đời sau ông 150 năm? Có lẽ đó là cũng là hoàn cảnh và nỗi
niềm không của riêng Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm mà còn chung cho thế hệ
chúng ta, những người Việt trưởng thành trên đất nước trong nừa sau của
thế kỷ 20.
Nhân loại đang sống trong một thế giới với khá nhiều bất trắc. Tương lai cư dân trên địa cầu sẽ đi về đâu? Các ý niệm tự do, dân chủ phải chăng sẽ thắng thế để nhân loại cùng xây dựng những xã hội dân chủ tiến bộ, cùng sống trong hòa bình, như nhà chính trị, kinh tế học Francis Fukuyama đã phác họa trong cuốn The End of History and the Last Man xuất bản năm 1992? Hay những khác biệt về văn hóa và tôn giáo sẽ càng ngày càng trầm trọng, đưa tới những xô xát thật lớn như nhà chính trị học Samuel Huntington đã dự phóng một cách lo ngại trong cuốn The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order xuất bản năm 1996? Trong một thế giới đầy bất trắc như thế, tương lai đất nước và dân tộc Việt sẽ ra sao?
Sau biến cố 1975, hơn ba triệu người Việt lìa quê hương tới định cư tại nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới (một số lượng đáng kể ở trên 30 quốc gia). Trong tiến trình hội nhập vào những môi trường xã hội và văn hóa khác với quê hương cũ, người Việt, nhất là gia đình Việt, có những vấn đề gì? Trẻ em Việt sẽ có những khó khăn cùng tiềm năng ra sao? Đó là những câu hỏi mọi người Việt đều quan tâm.
Với một lãnh thổ dài và hẹp, ba miền của Việt Nam có nhiều nét khác nhau. Miền Nam là vùng đất tương đối mới. Văn hóa đồng bằng sông Đồng Nai - Cửu Long có những điểm gì khác miền Trung, miền Bắc? Ngay các địa phương của miền Nam cũng có những sắc thái khác nhau. Số người hiểu rõ những chỗ khác nhau ấy để có thể trình bày lại một cách vừa thấu đáo, uyên bác, vừa giản dị, dễ hiểu, không nhiều.
Với hơn 30 năm trong ngành giáo dục của miền Nam (20 năm dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa), qua các giai đoạn là học sinh, sinh viên, giáo sư, Hiệu trưởng Trung học, lãnh đạo ngành giáo dục ở trung cấp, rồi cao cấp, giáo sư Nguyễn Thanh Liêm đã chứng nghiệm, quan sát, suy nghĩ, và đã viết rất nhiều. Những bài “Giáo dục ở Nam Việt Nam từ xưa tới hết Đệ Nhất Cộng Hòa,” “Giáo dục Việt Nam từ đầu thập niên 1970 đến tháng 4 năm 1975” cung cấp những thông tin giá trị từ một “người trong cuộc” rất có thẩm quyền. Bài “Vai trò của các trường Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Petrus Ký, Gia Long hồi tiền bán thế kỷ XX” cho ta những kiến thức vừa mang tính cách giáo dục vừa mang tính cách lịch sử. Bài “Một vài ưu tư về giáo dục ở Việt Nam” mang nặng tâm huyết của một người lúc nào cũng thiết tha với giáo dục và luôn luôn nghĩ tới quê hương.
Những bài “Trật tự thể giới thế kỷ 21,” “Chiến lược của Hoa Kỳ,” “Trung Quốc trước khúc quanh nguy hiểm” … đưa ta tới với một thức giả đọc và suy nghĩ rất rộng. Nhà giáo dục cũng là một trí thức uyên bác, cần hiểu rõ môi trường sống cùng địa bàn sinh hoạt của mình cũng như của dân tộc mình trong hiện tại cũng như trong tương lai.
Những bài “Trẻ em Việt Nam trong tiến trình xã hội hóa vào xã hội, văn hóa Mỹ” và “Vấn đề văn hóa giáo dục cho con em ở hải ngoại” được viết với kiến thức chuyên môn của một Tiến sĩ ngành Giáo dục am hiểu xã hội Hoa Kỳ, nhưng vẫn mang tâm thức một nhà văn hóa, giáo dục của dân tộc Việt Nam.
Tác giả càng tỏ ra uyên bác khi viết về văn hóa miền Đồng Nai - Cửu Long. Từ những bài tổng quát như: “Những biến đổi trong văn hóa Việt Nam,” “Tìm hiểu văn hóa Đồng Nai - Cửu Long,” “Lối vào văn hóa Đồng Nai - Cửu Long,” “Vị trí của Đồng Nai - Cửu Long trong lục địa Đông Nam Á” cho tới những bài riêng về mỗi địa phương như lịch sử khai phá vùng Gia Định; Tây Ninh; Bà Rịa – Vũng Tàu; Định Tường - Mỹ Tho; Vĩnh Long; Rạch Giá – Hà Tiên; Cà Mau ..., tất cả đều cung cấp những kiến thức giá trị và hữu ích. Không riêng gì người Việt từ các miền Trung và Bắc, ngay cả nhiều người sinh trưởng ở miền Nam cũng sẽ thấy những công trình biên khảo ấy hấp dẫn và lý thú.
Tác giả đã viết những bài ấy trong hơn mười năm qua, ở tuổi 70 tới 80, và chọn lọc, đưa đi in khi đã trên 80. “Văn chương chi sự, thốn tâm thiên cổ.” Câu chuyện văn chương, tư tưởng, vẫn là tấc lòng gửi lại muôn đời. Một nhà văn lớp trước có câu, “Hướng ngàn thuở gửi hoàng hôn tùy bút.” Được đọc trước bản thảo do vị niên trưởng khả kính trao cho, nguời viết những dòng này không tránh khỏi bâng khuâng. Sau một cuộc đời sinh động, Nguyễn Công Trứ được “cáo lão hồi hưu” ở tuổi 70, và sau khi về hưu, ông thung dung, nhàn tản với “hàn cốc, thanh sơn” trong tâm trạng:
Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục...
Trần Huy Bích (Tháng 3-2015)
NGỌN TRIỀU SÔNG TIỀN ĐƯỜNG
NGỌN TRIỀU SÔNG TIỀN ĐƯỜNG
Đại thi hào Nguyễn Du tả cảnh gia đình Viên Ngoại cùng Kim Trọng đến sông Tiền Đường lập đàn tế linh nàng Kiều đã trầm mình tại đây. Khi ấy cả gia đình Viên Ngoại cùng Kim Trọng vẫn nghĩ rằng Thúy Kiều đã gieo mình xuống dòng sông Tiền Đường để tự kết liễu đời mình, mọi người không thể tin được nàng Kiều đang bị giam cầm nơi chốn lầu xanh.
Nguyễn Du đã tả cảnh ngọn triều cường dâng lên từ sông Tiền Đường qua hai câu thơ:
Ngọn triều non bạc trùng trùng
Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo
Mời quý vị đã từng thuộc làu TRUYỆN KIỀU , xem để biết SÔNG TIỀN ĐƯỜNG ở bên Tàu, mời đến đó ngâm KIỀU...
Ngày xưa khi trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp kém, người tàu gọi hiện tượng nầy là Long Giang nổi giận. Thế nhưng với trình độ khoa học hiện nay người ta đã tìm thấy được nguyên nhân của nó: Nước từ thượng nguồn đổ xuống (mùa mưa ở đây) vào khoảng trung tuần tháng 8 âm lịch và gặp thủy triều dâng cao (cường triều), vì thủy triều quá mạnh nên đẩy ngược giòng nước đổ về và tạo nên sóng to, cao... hiện tượng nầy đã được Geography/Discovery quay thành phim và phát sóng trên kênh truyền hình cáp.
Tình cờ xem cảnh thủy triều trên sông Tiền Đường, chợt nhớ đến hai câu Kiều cụ Nguyễn Du tả cảnh gia đình Viên Ngoại cùng Kim Trọng đến sông Tiền Đường lập đàn tế linh nàng Kiều đã trầm mình tại đây.
Ngọn triều non bạc trùng trùng
Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo
Khi học Đoạn Trường Tân Thanh ngày trước chưa hình dung ra nổi cảnh hùng vĩ này, nay nhìn ảnh mới thấy sự tài tình của Cụ Tiên Điền chỉ hai câu lục bát mà lột tả hết vừa tình vừa cảnh này .
Mời xem.
Kéo nhau xem thuỷ triều lớn trên sông Tiền Đường
(Dân trí) - Hàng nghìn du khách đã đổ tới bờ sông Tiền Đường tại thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang của Trung Quốc để chứng kiến cảnh những con sóng lớn cao tới 9m đổ vào bờ - một hiện tượng thiên nhiên ngoạn mục xảy ra thường niên.
Đại thi hào Nguyễn Du tả cảnh gia đình Viên Ngoại cùng Kim Trọng đến sông Tiền Đường lập đàn tế linh nàng Kiều đã trầm mình tại đây. Khi ấy cả gia đình Viên Ngoại cùng Kim Trọng vẫn nghĩ rằng Thúy Kiều đã gieo mình xuống dòng sông Tiền Đường để tự kết liễu đời mình, mọi người không thể tin được nàng Kiều đang bị giam cầm nơi chốn lầu xanh.
Nguyễn Du đã tả cảnh ngọn triều cường dâng lên từ sông Tiền Đường qua hai câu thơ:
Ngọn triều non bạc trùng trùng
Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo
Mời quý vị đã từng thuộc làu TRUYỆN KIỀU , xem để biết SÔNG TIỀN ĐƯỜNG ở bên Tàu, mời đến đó ngâm KIỀU...
Ngày xưa khi trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp kém, người tàu gọi hiện tượng nầy là Long Giang nổi giận. Thế nhưng với trình độ khoa học hiện nay người ta đã tìm thấy được nguyên nhân của nó: Nước từ thượng nguồn đổ xuống (mùa mưa ở đây) vào khoảng trung tuần tháng 8 âm lịch và gặp thủy triều dâng cao (cường triều), vì thủy triều quá mạnh nên đẩy ngược giòng nước đổ về và tạo nên sóng to, cao... hiện tượng nầy đã được Geography/Discovery quay thành phim và phát sóng trên kênh truyền hình cáp.
Tình cờ xem cảnh thủy triều trên sông Tiền Đường, chợt nhớ đến hai câu Kiều cụ Nguyễn Du tả cảnh gia đình Viên Ngoại cùng Kim Trọng đến sông Tiền Đường lập đàn tế linh nàng Kiều đã trầm mình tại đây.
Ngọn triều non bạc trùng trùng
Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo
Khi học Đoạn Trường Tân Thanh ngày trước chưa hình dung ra nổi cảnh hùng vĩ này, nay nhìn ảnh mới thấy sự tài tình của Cụ Tiên Điền chỉ hai câu lục bát mà lột tả hết vừa tình vừa cảnh này .
Mời xem.
Kéo nhau xem thuỷ triều lớn trên sông Tiền Đường
(Dân trí) - Hàng nghìn du khách đã đổ tới bờ sông Tiền Đường tại thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang của Trung Quốc để chứng kiến cảnh những con sóng lớn cao tới 9m đổ vào bờ - một hiện tượng thiên nhiên ngoạn mục xảy ra thường niên.
Hàng nghìn người dân địa phương và du khách đứng chen nhau trên một đoạn
bờ sông Tiền Đường tại thành phố Hàng Châu để xem thuỷ triều lên.
Hiện tượng thuỷ triều lớn sông Tiền Đường xảy ra thường niên vào tháng 8 âm lịch.
Khi đó, người xem được ngắm nhìn cảnh những con sóng khổng lồ, có lúc cao tới 9m, cuộn tròn dọc cửa sông.
Thủy triều dâng mạnh mẽ và kỳ lạ của sông Tiền Đường đã trở nên nổi tiếng khắp thế giới và thu hút rất đông du khách tới chiêm ngưỡng.
Hiện tượng thiên nhiên ngoạn mục này cũng xảy ra ở vài nơi khác trên thế giới, trong đó có sông Amazon ở Brazil hay sông Severn tại Anh nhưng không đâu mạnh như trên sông Tiền Đường.
Một phóng viên tiếp cận bờ sông để quay những con sóng lớn.
Sóng lớn ập vào bờ khi một phóng viên đang đưa tin tại hiện trường.
Do sự nguy hiểm mà những con sóng lớn có thể gây ra, cảnh sát đã khuyến
cao du khách không tới gần bờ và chỉ nên ngắm nhìn những con sóng từ xa.
Nhưng các du khách đã bỏ qua những lời cảnh báo và nhiều người đã bị sóng cuốn đi.
Sóng lớn chồm lên ập vào các du khách.
Mọi người bỏ chạy.
VƯỜN THƠ
Bài thơ của ông Thái bá Tân nhân việc ký giả Nguyễn đắc Kiên bị đuổi việc vì phê phán tổng bí thư Nguyễn phú Trọng.
Tôi không biết ông Thiệu,
Yêu mến lại càng không,
Nhưng buộc phải thừa nhận
Một thực tế đau lòng,
Rằng ông ấy nói đúng,
Thời còn ở miền Nam:
“Đừng nghe cộng sản nói.
Hãy xem cộng sản làm!”
Tôi sống ở miền Bắc
Sáu mươi lăm năm nay,
Và buộc phải thừa nhận
Một thực tế thế này:
Rằng ta, đảng, chính phủ,
Thường hay nói một đàng
Mà lại làm một nẻo.
Nhiều khi không đàng hoàng.
Đảng, chính phủ luôn nói,
Mà nói hay, nói nhiều,
Rằng sẵn sàng chấp nhận
Những ý kiến trái chiều.
Vậy mà một nhà báo,
Nói ý kiến của mình,
Nói đàng hoàng, chững chạc,
Có lý và có tình,
Liền bị buộc thôi việc.
Ai cũng hiểu vì sao.
Không khéo lại tù tội.
Như thế là thế nào?
Như thế là các vị,
Mặc nhiên thừa nhận mình
Không làm như đã nói,
Gây bức xúc dân tình.
Là một người yêu nước
Là công dân Việt Nam,
Tôi mong đảng đã nói,
Là nhất thiết phải làm.
Vì đó là danh dự,
Niềm tin và tương lai.
Hãy chứng minh ông Thiệu
Nói như thế là sai.
PS
Tôi không biết ông Trọng,
Yêu mến lại càng không,
Nhưng là chỗ người lớn,
Tôi thành thật khuyên ông
Rút cái giấy sa thải
Một nhà báo công minh.
Phần ông, nếu phục thiện,
Cũng nên xem lại mình.
Tôi nhận hưu nhà nước
Cũng đã mấy năm nay.
Hy vọng còn được nhận
Sau bài thơ ngắn này.
409
Đảng lãnh đạo sáng suốt,
Lịch sử thì vẻ vang,
Dân anh hùng, vĩ đại,
Biển bạc và rừng vàng.
Thế mà ta, thật tội,
Chẳng dám mơ cao xa
Thành bác Mỹ, bác Nhật
Bác EU, bác Nga.
Cái dân ta mơ ước,
Ngẫm mà thấy đau lòng,
Mơ được như Miến Điện,
Mà rồi cũng chẳng xong.
Tội mấy bác lãnh đạo,
Nói gì cũng toàn sai,
Bị dân tình la ó,
Nhiều lúc đến khôi hài.
Là vì danh không chính,
Ngôn không thuận được đâu.
Cố mấy cũng không đúng,
Khi đã sai từ đầu
Bài thơ đã làm bao người đọc xót xa cho Việt Nam !!!
THIS IS THE LITTLE YOUNG GIRL LIVING IN THE V.N. COMMUNIST REGIME
Bài thơ đã làm bao người đọc xót xa cho Việt Nam !!
Từ ngày Bác vô đây
Ever since you came
Bài thơ đầy nước mắt của một cô gái đang sống dật dờ tại thị xã Cần Thơ:
| |
"You " means Ho Chi Minh
|
Ever Since You Came
(Translated by Anne)
Before you guys arrived in here
I was not even born yet
Mom walked to school each morning
Rosy cheeks, a sweet sixteen
After you came, suddenly one day
Grandpa was persecuted and imprisoned
Every night Grandma shed mournful tears
Mom felt sullen -- her innocence was lost
Two years passed from the day you came
On a wintry morning which shrouded in mist
Armed with guns, you came knocking at our door
And whisked Mom away to a labor camp
After one month, Mom returned home
Nothing but skin and bones
Embracing Grandma, she wept:
They raped me, Ma, gang-raped and all!
And so I was born, a fatherless child
Grandma passed away, leaving Mom penniless
Mom scraped a living to support me
Dad was all the while anybody's guess!
Eighteen years after you came
We went totally broke
Mom died of a terminal illness
Now then, what's left but my own body to trade?
Almost twenty years after you came
At sixteen, my body withered -- hardly a dish
I toiled from dawn to dusk
In return just for a loaf of bread!
Translated by Anne
Saturday, October 1, 2016
«HÀ NỘI QUÊ TÔI» - MỘT TỨ THƠ LẠ, ĐỘC ĐÁO - Nguyễn Khôi
Nguyễn Khôi và Lê Mai
«HÀ NỘI QUÊ TÔI» - MỘT TỨ THƠ LẠ, ĐỘC ĐÁO
« Tạo hóa gây chi cuộc hý trường » ?
Thơ về Thăng Long- Hà Nội xưa nay có cả ngàn bài đáng đọc, nhưng sàng lọc ra qua vết thời gian, Nguyễn Khôi tôi chỉ thích có ba bài ở ba thời điểm lịch sử khác nhau, nhưng đều là người Hà Nội « xịn »:
Bà Huyện Thanh Quan quê ở làng Nghi Tàm (khoảng 1804- 1847), bà học rộng, được vua Minh Mạng triệu vào Huế làm cung trung giáo tập dạy học cho các cung phi, công chúa ; nhà thơ Nguyễn Đình Thi (1924- 2003) quê làng Vũ Thạch (nay là phố Bà Triệu) ; nhà thơ Lê Mai (Lê Văn Hùng) sinh năm 1953 tại Hà Nội, thương binh chống Mỹ hạng nặng, học đại học Sư Phạm, dạy trường PTTH Nguyễn Trãi, quận Ba Đình- Hà Nội. Xét về đẳng cấp, bà Huyện Thanh Quan thuộc tầng lớp quý tộc ; Nguyễn Đình Thi là quan chức văn nghệ, đứng thứ 2 (chỉ dưới ông Tố Hữu);
Lê Mai là dân nghèo thứ thiệt ở Hà Thành hoa lệ như thơ anh viết « tôi là người lao động »- một cậu bé « trèo me trèo sấu » nhất quỷ nhì ma thời bao cấp và chiến tranh khốc liệt. Có lẽ cần nói rõ thêm về nhà thơ Lê Mai này, anh vào hội Nhà văn Hà Nội với tư cách nhà thơ, nhưng lại nổi danh với tiểu thuyết « Tẩu hỏa nhập ma »- 2003 về sự hư nát của ngành giáo dục và truyện ngắn « Quyền được rên »- 2008 về thân phận nhà văn Hoàng Công Khanh, nạn nhân trong vụ « Nhân văn giai phẩm »... Những tác phẩm có lẽ anh thai nghén từ khi dạy môn “Giáo dục công dân”. ...
Nói qua về ba tác giả để ta hiểu thêm vì sao tôi thích ba bài thơ viết về Hà Nội ở ba giai đoạn lịch sử khác nhau:
Bà Huyện Thanh Quan trong « Thăng Long thành hoài cổ » với 2 câu tuyệt bút :
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Một tứ thơ lưu danh thiên cổ bởi đã nói lên nỗi đoạn trường (đứt ruột) trước cảnh hoang tàn của cố đô xứ Bắc. Ngôn ngữ thơ Hán- Nôm tuyệt xảo đan quyện hồn thơ hiu hắt, cô đơn trước đổi thay phũ phàng của thời cuộc. Một nỗi buồn hoài cổ đậm tính nhân văn, nuối tiếc thời vàng son của Đại Việt (nhà Lê) cũng là sự trở về cội nguồn của dân tộc...
« Người Hà Nội » hào hoa Nguyễn Đình Thi trong bài thơ « Đất nước » (viết từ 1948- 1955) với 7 câu mở đầu mang hồn thơ phơi phới đầy hứng khởi trước sự chuyển mình của dân tộc, đất nước với một niềm tin tất thắng như tan vào từng câu từng chữ :
/ Sáng mắt trong như sáng năm xưa/ Gió thổi mùa thu hương cốm mới/ Tôi nhớ những ngày thu đã xa/ Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội/ Những phố dài xao xác hơi may/ Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.../
3 câu đầu- một khúc hoài niệm... rồi cái hồn thơ, cái tứ lạ kết vào mấy chữ « đầu không ngoảnh lại... lá rơi đầy » thì bút lực ở đây quả là « thần cú » xuất thần, rất thơ là bịn rịn vấn vương như hồn người Hà Nội và chỉ người Hà Nội gốc mới cảm và viết ra như vậy giữa những ngày tiêu thổ kháng chiến...
Đến Lê Mai với « Hà Nội quê tôi » mở đầu anh đã khẳng định « Tôi là người lao động, thế thôi »- Anh có mẹ già nơi phố phường chật hẹp bon chen. Anh có người cha không quản phận nghèo vẫn nuôi con học hành không thua bè kém bạn... Tự bạch cũng chỉ là bình thường, nhưng đặc tả cái « quê xưa » của vua Lý Thái Tổ nơi địa thế rồng chầu hổ phục thì Lê Mai đặc tả rất khác thường:Đất quê tôi không lũ cao nắng hạnChỉ chân trời trên nóc bếp cheo leo
Đó là thời của gác xép/chuồng cọp- nay là chung cư cao tầng của dân tái định cư... gắn với tuổi học trò nghèo trèo me trèo sấu và lớn lên với « Sông Hồng xoáy trong tôi dòng nước mát ».Từ cái điểm tựa lấm lem nghèo khổ đó mà sao với Lê mai « Gió quê tôi đêm ngày vi vu nhắc » : / Giếng Ngọc là của tôi / Văn Miếu là của tôi/ Chùa Diên Hựu là của tôi/ Tháp Bút- đài Nghiên là của tôi/ Hồ Tây là của tôi/ Hồ Gươm là của tôi : Đó là là lẵng hoa thơm như môi con gái... đẹp đến thế sao mang tên Hoàn Kiếm ?/ Đài liệt sĩ vô danh là của tôi/ Và em là của tôi : Sự sống thiêng liêng kết bằng máu thịt người, cho tôi hiểu lẽ đời giản dị !/
Báu vật của đời được phép ví với em... Của tôi, của tôi... còn bao nhiêu tinh hoa, di sản văn hóa ở đất Hà Nội ngàn năm văn hiến tác giả chưa thể kể hết trong thơ, tất tật phải là « của tôi ». Ta chợt hiểu ra thâm ý nhà thơ lúc đầu tự bạch mình là người lao động bình thường, nghèo túng thật không đơn giản, bởi qua thơ anh đã hóa thân thành Nhân Dân, thành Dân Tộc cần lao. Chỉ có Nhân Dân mới là chủ nhân đích thực của mọi giá trị tốt đẹp nhất kết tinh vào văn hiến ngàn năm Thăng Long- Đông Đô- Hà Nội. Và vì thế cái kết cũng giản dị như cuộc đời thi sĩ: /Tôi là người lao động/ Thế thôi/ Nhưng quê tôi, Hà Nội !/ Mạch thơ ào ạt tuôn chảy đến đây kết là khá cộc lốc, hụt hẫng- chưa thể thôi được ? Theo mạch thơ ấy kẻ bình thơ nhân danh những người đọc Hà Nội còn có thể cùng nhà thơ ngẫm suy và tự nhủ :
Chiếu rời đô là của tôi, Hịch tướng sĩ là của tôi, Bình Ngô đại cáo là của tôi, Điện Biên Phủ trên không là của tôi... rồi phở Hà Nội là của tôi, bia hơi Hà Nội là của tôi, cafe vỉa hè là của tôi, bánh cuốn Thanh Trì là của tôi, gốm sứ Bát Tràng là của tôi, của tôi... Sao bây giờ chủ nhân đích thực thì khốn khổ khốn nạn còn lũ đầy tớ thì giầu sụ, phè phỡn, xa hoa thế ? Nhà thơ của Nhân Dân là vậy.
Viết đến đây NK lại nhớ tới bài thơ Liberte’ (Tự Do) của thi hào siêu thực Pháp Paul Eluard (1895- 1952) mà Lê Mai trình diễn thơ « Hà Nội quê tôi » có cái kết cấu, bố cục khá đồng điệu: /Trên quyển vở nhà trường/ Trên án viết thân cây/ Trên cát, trên tuyết/ Ta viết tên em/ Trên sức khỏe phục hồi/ Trên hiểm nguy tan biến/ Trên hy vọng chẳng nhớ nhung/ Ta viết tên em/ Và do phép màu một tiếng/ Ta làm lại cuộc đời/ Ta sinh ra để biết em/ Để gọi tên em (2 chữ)TỰ DO/.
Dẫu biết mọi sự liên tưởng, so sánh đều khập khiễng, nhưng ở góc độ người bình thơ NK tôi không thể không giật mình cầm bút thả chữ. Xưa nay người làm thơ rất mừng gặp được người thơ mới/cái tứ lạ, với cấu trúc độc đáo như bài « Hà Nội quê tôi » ngôn ngữ tinh luyện, câu chữ như nén chặt để rồi thoát xác thành hồn thơ cất cánh « Tấm gương trong mây hất tóc rối trời cho tôi hiểu vì đâu tình yêu người Hà Nội vời vợi mênh mang »... Thơ Lê Mai đẹp và lạ thế đó !...
Nguyễn Khôi
Phố Hàn, 27/9/2016
Nhà thơ Nguyễn Khôi
HÀ NỘI QUÊ TÔI
Tôi là người lao động, thế thôi!
Nhưng quê tôi:
Hà Nội!
Nơi tôi có mẹ già, mảnh đông quê ngát hương đồng nội, thơm phố phường chật chội bon chen
Nơi tôi có người cha không quản phận nghèo hèn, gắng nuôi con không thua bè kém bạn.
Đất quê tôi không lũ cao nắng hạn
Chỉ chân trời trên nóc bếp cheo leo
Tuổi thơ tôi những năm tháng leo trèo
Bắt bọ ngựa,
dính ve,
trèo me,
ném sấu.
Lời rủ rê của lũ ve yêu dấu
Gọi hè về thúc nở những mùa chơi.
Cơm nguội vàng háo hức giục bàng rơi
Sông Hồng xoáy trong tôi dòng nước mát
Gió quê tôi đêm ngày vi vút nhắc:
Giếng Ngọc là của tôi
Giọt nước mắt tổ tông ngàn năm còn nhức nhối trong đời
Cho tôi hiểu vì sao người Hà Nội, huyền thoại rồi còn rời rợi yêu thương.
Văn Miếu là của tôi
Pho sách thơm cha ông tạc để đời, cho tôi hiểu vì sao người Hà Nội đốt trầm trong lúc đọc thơ.
Chùa Diên Hựu là của tôi!
Đóa sen tâm bừng nở ngát cõi người cho tôi hiểu vì sao người Hà Nội cấp gạo thuyền giặc chết khỏi tha hương.
Tháp Bút – Đài Nghiên là của tôi
Tả Thanh Thiên xao xuyến cả cõi trời, cho tôi hiểu vì sao người Hà Nội nâng cốm Vòng trong những lá sen tươi.
Hồ Tây là của tôi!
Tấm gương trong mây hất tóc dỗi trời, cho tôi hiểu tình yêu người Hà Nội vì đâu mà vợi vợi mênh mang.
Hồ Gươm là của tôi !
Lẵng hoa tươi thiên nhiên kết dâng người, thơm như môi con gái, mềm mại như tuổi dậy thì,liễu bên hồ chớp chớp làn mi, đẹp đến thế sao mang tên Hoàn Kiếm ? Lẵng hoa đời nền văn hiến trổ bông.
Đài liệt sĩ vô danh là của tôi !
Sắc xám xanh lánh lạnh ánh sao trời, cho tôi hiểu vì đâu trăng Hà Nội suốt bốn mùa rười rượi thanh thanh.
Nén nhang thắp trong mỗi gia đình là của tôi !
Nén nhang tươi nhức nhối nhỏ kiếp người , cho tôi hiểu vì sao sông Cái đỏ, những nụ đào hé tỏ ánh phù sa.
Và em là của tôi !
Sự sống thiêng liêng kết bằng máu thịt người, cho tôi hiểu mình lẽ đời giản dị ! Báu vật của đời được phép ví với em !
Tôi là người lao động,
thế thôi !
Nhưng quê tôi, Hà Nội!
Lê Mai
Được đăng bởi Phu Đoan
Đây Bằng Lăng Một Chiều Lặng Gió ,
Anh Ghé Về Trong Giấc Mộng Bình yên .
Mầu Xanh Của Tre Và Mầu Vàng Của Lúa ,
Ru Anh Vào Cõi Nhớ Của Thời Gian . Ôi ! Chao Ôi ! Nhớ Sao Là Nhớ ,
Mầu Tím Bằng Lăng Tím Cả Cung Tơ .
Hồn Đi Hoang Lạc Vào Mộng Ảo ,
Chốn Địa Đàng Ấp Ủ Suối Tóc Mơ ...
Anh Trao Em Cánh Hoa Mầu Tím Tím ,
Hết Trọn Tình Anh , Hết Trọn Hồn .
Hoa Tím Bằng Lăng Và Mồng Tơi Tím ,
Em Trao Anh Mộng Thắm Cả Linh Hồn ...
Bằng Lăng Tím , Ôi Bằng Lăng Tím ,
Tím Cả Người Xưa , Tím Nỗi Lòng .
Tim Anh Thổn Thức , Đàn Buông Phím ,
Cò Quê Ngóng Đợi Luống Chờ Mong ...
Hoa Ơi Hoa ! Có Ai Về Nhắn Gởi ,
Gió Mây Trời Với Giấc Mộng Tình Ta .
Yêu Em Muôn Thuở Trong Nỗi Nhớ ,
Mầu Tím Bằng Lăng Nhớ Thiết Tha ...
Trần Trọng Miên .
** Thương Trao Xóm Bằng Lăng & Vườn Cò Bằng Lăng ,
Quận Huyện Thốt Nốt , Cần Thơ , Việt Nam .
CẢM TẠ MIỀN NAM.
Để biết đâu mới là Thiên Đường
Phan Huy, một thi nhân nổi tiếng ở miền Bắc: Phan Huy đã viết môt bài thơ có tựa đề là
“Cảm Tạ miền Nam” rất cảm động. Ngay trong phần mở đầu ông viết:
“Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói
Với miền Nam, miền đất mới thân quen
Một lời cảm ơn tha thiết chân tình
Của miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật.”
Sau cái gọi giải phóng và thống nhất, ông Huy đã có dịp vào miền Nam và ông đã nhận ra
miền Nam không tồi tệ như bác và đảng đã tuyên truyền và nhồi nhét vào đầu ông và khi đã nhận ra một sự thật phũ phàng, ông Huy đã bật khóc:
“Cảm Tạ miền Nam” rất cảm động. Ngay trong phần mở đầu ông viết:
“Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói
Với miền Nam, miền đất mới thân quen
Một lời cảm ơn tha thiết chân tình
Của miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật.”
Sau cái gọi giải phóng và thống nhất, ông Huy đã có dịp vào miền Nam và ông đã nhận ra
miền Nam không tồi tệ như bác và đảng đã tuyên truyền và nhồi nhét vào đầu ông và khi đã nhận ra một sự thật phũ phàng, ông Huy đã bật khóc:
Trước mắt tôi, một miền Nam sinh động
“Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi, một miền Nam sinh động
Đất nước con người dân chủ, tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng, giận đoàn bao năm phỉnh gạt.”
Phan Huy cũng không quên mô tả cuộc sống ở miền Bắc cs, nơi ông đã sinh ra và lớn lên,
vô cùng tồi tệ. Đời sống của nhân dân miền Bắc nghèo khó đến nỗi phải kéo cầy thay trâu
và nhân phẩm của nhân dân miền Bắc bị xô đẩy xuống tới mức ngang hàng với bèo dâu:
“Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi, một miền Nam sinh động
Đất nước con người dân chủ, tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng, giận đoàn bao năm phỉnh gạt.”
Phan Huy cũng không quên mô tả cuộc sống ở miền Bắc cs, nơi ông đã sinh ra và lớn lên,
vô cùng tồi tệ. Đời sống của nhân dân miền Bắc nghèo khó đến nỗi phải kéo cầy thay trâu
và nhân phẩm của nhân dân miền Bắc bị xô đẩy xuống tới mức ngang hàng với bèo dâu:
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều
“Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng "kính yêu"
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều
Con người nói năng như là chim vẹt.
Mở miệng ra là: "Nhờ ơn bác đảng
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh
Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lenin
Tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đường vô sản.
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng
Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu
Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu
Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu.”
Trong phần cuối bài thơ, ông Huy kết luận rằng, ngày 30-04-1975 thật sự
không phải là ngày cộng sản miền Bắc “giải phóng” miền Nam thoát khỏi sự
kìm kẹp của Mỹ Ngụy, mà ngược lại là ngày miền Nam đã phá màn u tối, đã
khai đường chỉ lối, đã khai sáng cho nhân dân miền Bắc thấy được bộ mặt
gian trá và độc ác của bè lũ cộng sản, thật sự chúng chỉ là một bầy ác
quỷ và ông đã không tiếc lời cảm tạ nhân dân miền Nam:
Giải phóng tháng tư đen
“Cảm tạ miền Nam phá màn u tối
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyền, tự do dân chủ
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.
Cảm tạ miền Nam khai đường chỉ lối
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc.
Cảm tạ miền nam mở lòng khai sáng
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu
Mà trước đây tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung cộng và Liên sô đại vĩ
Cảm tạ miền Nam đã một thời làm chiến sĩ
Chống lại cộng nô cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ
Dù không thành công cũng đã thành danh.”
Trong một bài thơ khác có nhan đề là “Tâm sự một đảng viên” ông Phan Huy đắng cay
bộc lộ rằng, sở dĩ ông theo đảng cộng sản là vì ông quá tin nghe theo lời hồ già dạy bảo:
“Cảm tạ miền Nam phá màn u tối
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyền, tự do dân chủ
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.
Cảm tạ miền Nam khai đường chỉ lối
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc.
Cảm tạ miền nam mở lòng khai sáng
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu
Mà trước đây tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung cộng và Liên sô đại vĩ
Cảm tạ miền Nam đã một thời làm chiến sĩ
Chống lại cộng nô cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ
Dù không thành công cũng đã thành danh.”
Trong một bài thơ khác có nhan đề là “Tâm sự một đảng viên” ông Phan Huy đắng cay
bộc lộ rằng, sở dĩ ông theo đảng cộng sản là vì ông quá tin nghe theo lời hồ già dạy bảo:
“Rằng đảng ta ưu việt nhất hành tinh
“Rằng đảng ta ưu việt nhất hành tinh
Đường ta đi, chủ nghĩa Mac Lê nin
Là nhân phẩm, là lương tri thời đại.”
Và sở dĩ ông đã xung phong đi cứu miền Nam ruột thịt là vì ông tin vào lời tuyên truyền của hồ già và đảng cs:
Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn
“Rằng tại miền Nam, ngụy quyền bách hại
Dìm nhân dân dưới áp bức bạo tàn
Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn
Đang rên siết kêu than cần giải phóng”
Khi dự tính vào miền Nam thăm viếng một người bà con họ hàng, vì tin vào lời tuyên truyền của bác và đảng là người dân miền Nam đói khổ, nên ông đã chẳng quản đường xa diệu vợi mang theo một mớ gạo mà ông đã phải, dành dụm trong nhiều ngày mới có được, để biếu người bà con đói khổ:
“Chẳng quên mang theo ký gạo để dành
Biếu người bà con trong nầy túng thiếu”
“Đến Sài Gòn, tưởng say men chiến thắng
Nào ngờ đâu sụp đổ cả niềm tin
Khi điêu ngoa, dối trá hiện nguyên hình
Trước thành phố tự do và nhân bản.”
Khi đến và đứng trước nhà người bà con, ông Phan Huy mới nhận ra rằng,
mớ gạo mà ông nâng niu mang từ miền Bắc thiên đường cộng sản, với hảo ý
để biếu người bà con miền Nam bị Mỹ Ngụy kìm kẹp đói khó là một điều
điều “lăng mạ” người bà con này:
Mộng miền Nam
“Tôi tìm đến người bà con trong xóm
Nhà xinh xinh, đời sung túc tiện nghi
Ký gạo đem theo nay đã mốc xì
Tôi vội vã dấu vào trong túi xách.
Anh bà con tôi- một người công chức ngụy
Nét u buồn nhưng cũng cố làm vui
Đem tặng cho tôi một cái đồng hồ
Không người lái, Sei-ko, hai cửa sổ.
Rồi anh nói: "Ngày mai đi cải tạo
Cái đồng hồ tôi cũng chẳng cần chi
Xin tặng anh, mong nhận lấy đem về
Một chút tình người bà con Nam bộ."
Sau khi đã nhận ra đời sống thật sự của toàn dân miền Nam và sự gian trá, phỉnh gạt
của hồ già và đảng cs, ông Huy cảm thấy hổ thẹn với lương tâm nên đã than khóc:
“Tôi tìm đến người bà con trong xóm
Nhà xinh xinh, đời sung túc tiện nghi
Ký gạo đem theo nay đã mốc xì
Tôi vội vã dấu vào trong túi xách.
Anh bà con tôi- một người công chức ngụy
Nét u buồn nhưng cũng cố làm vui
Đem tặng cho tôi một cái đồng hồ
Không người lái, Sei-ko, hai cửa sổ.
Rồi anh nói: "Ngày mai đi cải tạo
Cái đồng hồ tôi cũng chẳng cần chi
Xin tặng anh, mong nhận lấy đem về
Một chút tình người bà con Nam bộ."
Sau khi đã nhận ra đời sống thật sự của toàn dân miền Nam và sự gian trá, phỉnh gạt
của hồ già và đảng cs, ông Huy cảm thấy hổ thẹn với lương tâm nên đã than khóc:
Tác giả Phan Huy
“Trên đường về, đất trời như sụp đổ
Tôi thấy mình tội lỗi với miền Nam
Tôi thấy mình hổ thẹn với lương tâm
Tôi đã khóc, cho mình và đất nước”
Tôi thấy mình tội lỗi với miền Nam
Tôi thấy mình hổ thẹn với lương tâm
Tôi đã khóc, cho mình và đất nước”
Thư Không Niêm Gửi Bạn.
> Trần Văn Lương
> (Thay lời một vị thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa
>
> đang kẹt ở VN gửi người bạn cũ ngày xưa đã vượt biên
> nhưng nay lại viện dẫn đủ mọi lý do để về vui chơi)
>
> Gửi nhờ tập vé số trên tay,
> Chống nạng đến đây để gặp mày.
> Hụt hẫng thấy mày ngồi giữa quán,
> Đang cùng bầy cán bộ vui say.
>
> Không muốn bị mang tiếng quấy rầy,
> Khi lòng đang thất vọng chua cay,
> Nên đành mượn tạm vài trang giấy,
> Viết bậy đôi câu gửi tới mày.
>
> *
>
> Mày hãy cùng tao nhớ lại ngày,
> Cùng mày trong bóng tối chia tay,
> Mày thề rằng nếu Trời cho thoát,
> Mày ắt không quên mối hận này.
>
> Từ đó, trong đau đớn dập vùi,
> Bọn tao mòn mỏi đợi tin vui.
> Ngờ đâu hạnh phúc lùi xa mãi,
> Nghĩ đến quê hương lại ngậm ngùi.
>
> Mày trở về chơi đã lắm lần,
> Lúc thì viện cớ gặp người thân,
> Lúc theo "từ thiện" tìm danh vọng,
> Hí hửng vô tròng bọn ác nhân.
>
> Hàng vạn hàng trăm các hội đoàn,
> Tranh đua làm thiện thật gian nan.
> Hân hoan vì chút hào quang giả,
> Họ đã an nhiên giúp bạo tàn.
>
> Mày cũng lần theo đóm múa may,
> Hết quà lại cáp phát rền tay.
> Tiền Tây, tiền Mỹ xài như rác,
> Lầu các thi nhau mọc dẫy đầy.
>
> Mày biết dân đây được những gì,
> Khi đoàn cứu trợ đã ra đi?
> Đất đai ngập lụt, nhà tan nát,
> Ngơ ngác trên tay một gói mì!
>
> Biết chăng vì những đứa như mày,
> Sự thật quê nhà chẳng chịu hay,
> Hãnh diện ta đây về "cứu viện",
> Nên bầy quỷ đỏ hiện còn đây.
>
> Mày có biết mày đã tiếp tay,
> Nuôi dân cho chúng để rồi nay,
> Chúng càng thêm có đầy phương tiện,
> Để khiến dân ta mãi đọa đày.
>
> Cả bầy chúng vẫn sống xa hoa,
> Xuất ngoại đầu tư, sắm sửa nhà,
> Con cái tiêu ra hàng bạc triệu,
> Đồng tiền đó liệu lấy đâu ra?
>
> Mày so với chúng được bao lăm,
> Tỷ phú tiền Tây chúng cả trăm.
> Của cải một thằng trong Bắc phủ,
> Thừa nuôi dân sống đủ nhiều năm.
>
> Phải chăng vì cật ấm cơm no,
> Mày lại mơ màng chức vị to,
> Nên mới trở cờ o bế giặc,
> Qua sông ngoảnh mặt với con đò?
>
> Tao xót xa nhìn lũ bạn thân,
> Ngày xưa vượt biển lắm gian truân,
> Nay khuân tiền bạc về quê cũ,
> Góp sức nuôi bè lũ hại dân.
>
> Bạn mình giờ lắm kẻ giàu sang,
> Áo gấm xênh xang rộn xóm làng.
> Có đứa vênh vang bằng cấp lớn,
> Hùa theo lũ ngợm chống Cờ Vàng.
>
> Có thằng may mắn lắm đồng ra,
> Thơ thới về đây, bỏ vợ nhà.
> Có đứa làm sui gia với giặc,
> Ra ngoài trở mặt líu lo ca.
>
> Thấy miệng mày thoa mỡ nói năng,
> Lòng tao chua xót chợt hay rằng,
> Xuống thuyền mấy đứa đêm hôm đó,
> Giờ đã "vinh quy" đủ bấy thằng!
>
> Tao tưởng bao năm ở nước ngoài,
> Chúng mày phải biết rõ hơn ai,
> Ngày ngày đọc thấy nhiều tin tức,
> Sao lại vô tâm được thế này?
>
> Lần cuối cho tao nói một lời:
> Nếu còn người trở lại ăn chơi,
> Đua đòi danh lợi, buôn "từ thiện",
> Thì chớ mơ chi chuyện vá trời.
>
> *
>
> Nắng chiều cuốn xác lá trôi,
> Bóng đôi nạng gỗ đơn côi ngược dòng.
Sunday, October 23, 2016
BIỂN ĐÔNG
Trung Quốc lên án tàu chiến Mỹ chạy ngang Biển Đông
Trước đó, phía Mỹ nói hành động của họ là để thách thức ý đồ của Bắc
Kinh muốn giới hạn quyền tự do hàng hải trong vùng biển này.
Một người phát ngôn của Bộ Quốc phòng Mỹ nói tàu khu trục USS Decatur
chạy ngang qua quần đảo Trường Sa ngày hôm qua, thứ Sáu, trong một sứ
mạng ‘thường lệ và hợp pháp’ để thách thức "các tuyên bố chủ quyền hàng
hải thái quá" của Trung Quốc.
Ông nói tàu chiến Mỹ không tiến vào vùng biển trong phạm vi 12 hải lý
giới hạn chủ quyền từ các hòn đảo, theo luật quốc tế. Trung Quốc tuyên
bố chủ quyền tại các hòn đảo này, chồng lấn với tuyên bố chủ quyền của
Việt Nam và Đài Loan.
Trung Quốc không công nhận giới hạn chủ quyền lãnh thổ quốc tế, và còn tố cáo Mỹ là một quốc gia chuyên ‘gây rối’ trong khu vực.
Các tàu chiến Trung Quốc theo sát khu trục hạm USS Decatur của Mỹ đã lên
tiếng cảnh cáo, đồng thời yêu cầu khu trục hạm của Mỹ rời khỏi khu vực.
Như vậy tính cho đến thời điểm này thì trong một năm qua, tàu Hải quân
Mỹ đã thực hiện 4 chuyến hải hành để khẳng định quyền tự do hàng hải
trên khắp Biển Đông.
Trước đó, một thông cáo của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói tàu Mỹ đã không
xin phép đi vào các vùng biển của Bắc Kinh và vi phạm luật Trung Quốc
lẫn luật quốc tế.
Tòa Bạch Ốc nói hoạt động này nhằm bảo vệ quyền tự do hàng hải của các nước dựa trên luật quốc tế.
Trong cuộc họp báo thường nhật hôm 21/10, phát ngôn nhân Tòa Bạch Ốc, Josh Earnest, nhấn mạnh:
“Hoạt động này khẳng định các nước ven biển không được giới hạn một cách
bất hợp pháp tự do hàng hải, quyền tự do, và quyền được phép sử dụng
biển hợp pháp của Hoa Kỳ và tất cả các quốc gia khác, dựa trên luật quốc
tế.”
http://www.voatiengviet.com/a/trung-quoc-len-an-tau-my-chay-ngang-bien-dong/3561919.html
http://www.voatiengviet.com/a/trung-quoc-len-an-tau-my-chay-ngang-bien-dong/3561919.html
Mỹ tiến hành hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông
- Reuters
Tòa Bạch Ốc vừa lên tiếng xác nhận một tàu hải quân Mỹ ngày 21/10 đã di
chuyển gần các đảo Trung Quốc nhận chủ quyền ở Biển Đông và nhấn mạnh
rằng hoạt động này nhằm bảo vệ quyền của các nước được tự do hàng hải
theo luật quốc tế.
“Hoạt động này biểu thị rằng các nước ven biển không được giới hạn một cách bất hợp pháp tự do hàng hải, quyền tự do, cũng như quyền được phép sử dụng biển hợp pháp mà Mỹ và tất cả các nước thực thi theo luật quốc tế,” phát ngôn nhân Tòa Bạch Ốc, Josh Earnest, nhấn mạnh trong cuộc họp báo thường kỳ.
“Hoạt động này biểu thị rằng các nước ven biển không được giới hạn một cách bất hợp pháp tự do hàng hải, quyền tự do, cũng như quyền được phép sử dụng biển hợp pháp mà Mỹ và tất cả các nước thực thi theo luật quốc tế,” phát ngôn nhân Tòa Bạch Ốc, Josh Earnest, nhấn mạnh trong cuộc họp báo thường kỳ.
Tàu Mỹ tiếp tục thách thức tuyên bố chủ quyền của TQ ở Biển Đông
- Reuters
Một tàu khu trục của hải quân Mỹ ngày 21/10 di chuyển gần các đảo Trung
Quốc nhận chủ quyền ở Biển Đông, khiến các tàu chiến Trung Quốc đưa ra
khuyến cáo yêu cầu rời khỏi khu vực.
Đây là hành động mới nhất của Mỹ để đối lại điều mà Washington xem là nỗ lực của Bắc Kinh muốn giới hạn quyền tự do hàng hải trong vùng biển chiến lược này, theo giới chức Hoa Kỳ.
Bộ Quốc phòng Trung Quốc lên án hành động của Mỹ là "bất hợp pháp" và "khiêu khích," đồng thời cho biết 2 tàu chiến Trung Quốc đã cảnh cáo khu trục hạm của Mỹ phải ra khỏi khu vực.
Tàu khu trục USS Decatur thách thức "các tuyên bố chủ quyền hàng hải thái quá" gần quần đảo Hoàng Sa, giữa một chuỗi đảo nhỏ, rạn san hô, và bãi cạn mà Trung Quốc đang tranh chấp chủ quyền với các nước láng giềng, theo các giới chức Mỹ không muốn nêu tên.
Tàu Mỹ di chuyển trong các vùng biển Trung Quốc nhận chủ quyền, gần sát nhưng không vào trong phạm vi 12 hải lý giới hạn chủ quyền từ các hòn đảo, các giới chức nói.
Ngũ Giác Đài cho biết tàu khu trục Decatur thực hiện hoạt động này một cách thông lệ, hợp pháp, không có tàu hộ tống, và không xảy ra sự cố.
Tòa Bạch Ốc đã xác nhận tin này.
Trong năm vừa qua, đây là lần thứ tư Hoa Kỳ thách thức điều mà họ xem là các tuyên bố chủ quyền quá đáng của Trung Quốc ở Biển Đông, lần đầu tiên được tiến hành hồi tháng 5.
Một thông cáo từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói tàu Mỹ đã không xin phép đi vào các vùng biển chủ quyền của Bắc Kinh và vi phạm luật Trung Quốc lẫn luật quốc tế.
Bắc Kinh cũng tố cáo Washington cố ý tạo ra căng thẳng.
Tòa Bạch Ốc nói hoạt động này nhằm bảo vệ quyền của các nước được tự do hàng hải theo luật quốc tế.
“Hoạt động này biểu thị rằng các nước ven biển không được giới hạn một cách bất hợp pháp tự do hàng hải, quyền tự do, cũng như quyền được phép sử dụng biển hợp pháp mà Mỹ và tất cả các nước thực thi theo luật quốc tế,” phát ngôn nhân Tòa Bạch Ốc, Josh Earnest, nhấn mạnh trong cuộc họp báo thường nhật hôm 21/10.
Đây là hành động mới nhất của Mỹ để đối lại điều mà Washington xem là nỗ lực của Bắc Kinh muốn giới hạn quyền tự do hàng hải trong vùng biển chiến lược này, theo giới chức Hoa Kỳ.
Bộ Quốc phòng Trung Quốc lên án hành động của Mỹ là "bất hợp pháp" và "khiêu khích," đồng thời cho biết 2 tàu chiến Trung Quốc đã cảnh cáo khu trục hạm của Mỹ phải ra khỏi khu vực.
Tàu khu trục USS Decatur thách thức "các tuyên bố chủ quyền hàng hải thái quá" gần quần đảo Hoàng Sa, giữa một chuỗi đảo nhỏ, rạn san hô, và bãi cạn mà Trung Quốc đang tranh chấp chủ quyền với các nước láng giềng, theo các giới chức Mỹ không muốn nêu tên.
Tàu Mỹ di chuyển trong các vùng biển Trung Quốc nhận chủ quyền, gần sát nhưng không vào trong phạm vi 12 hải lý giới hạn chủ quyền từ các hòn đảo, các giới chức nói.
Ngũ Giác Đài cho biết tàu khu trục Decatur thực hiện hoạt động này một cách thông lệ, hợp pháp, không có tàu hộ tống, và không xảy ra sự cố.
Tòa Bạch Ốc đã xác nhận tin này.
Trong năm vừa qua, đây là lần thứ tư Hoa Kỳ thách thức điều mà họ xem là các tuyên bố chủ quyền quá đáng của Trung Quốc ở Biển Đông, lần đầu tiên được tiến hành hồi tháng 5.
Một thông cáo từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói tàu Mỹ đã không xin phép đi vào các vùng biển chủ quyền của Bắc Kinh và vi phạm luật Trung Quốc lẫn luật quốc tế.
Bắc Kinh cũng tố cáo Washington cố ý tạo ra căng thẳng.
Tòa Bạch Ốc nói hoạt động này nhằm bảo vệ quyền của các nước được tự do hàng hải theo luật quốc tế.
“Hoạt động này biểu thị rằng các nước ven biển không được giới hạn một cách bất hợp pháp tự do hàng hải, quyền tự do, cũng như quyền được phép sử dụng biển hợp pháp mà Mỹ và tất cả các nước thực thi theo luật quốc tế,” phát ngôn nhân Tòa Bạch Ốc, Josh Earnest, nhấn mạnh trong cuộc họp báo thường nhật hôm 21/10.
LŨ MIỀN TRUNG
Những gì còn lại sau lũ miền Trung
Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2016-10-21
2016-10-21
Một trận lũ mà theo người dân Hà Tĩnh và Quảng Bình là giống như đại
hồng thủy kéo qua, cuốn trôi và xô dạt mọi thứ, đời sống đảo lộn và gần
như mất trắng mọi thứ, không ngoại trừ mất cả mạng sống và ước mơ. Đó là
sự thật đau lòng mà sau một cú nhấp chuột khởi động lệnh xả thải, thủy
điện Hố Hô đã biến cả một đoạn ruột miền Trung thành biển nước theo lý
giải của họ là “đúng qui trình”.
Nước dâng quá nhanh, không kịp trở tay
Chị Lý, một người dân huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, buồn bã chia sẻ:
“Nước vào nhà là gần hai mét nhưng nó chảy khủng khiếp lắm, trôi dạt hết
đồ đạt, trôi mất bức tường sau của nhà em. Khi đó mình nghĩ mình chết
rồi, điện cho người thân nói rằng có thể bị chết trongt trận lũ. Nước nó
chảy nhanh…Giờ đồ đạt trong nhà không có chi nữa hết, chừ chẳng biết
lấy chi mà xây dựng lại bức tường sau đây, đã nghèo rồi còn thêm như thế
này nữa!” (khóc).
Chị Lý cho biết thêm là chưa bao giờ chị nhìn thấy một trận lũ có tốc độ
dâng nước cao và mạnh kinh hoàng như cái đêm 14 tháng 10 vừa qua. Chỉ
trong vòng chưa đầy hai giờ đồng hồ, từ lúc 10 giờ đêm đến 12 giờ đêm,
nước tăng tốc một cách thất thường. Nếu như lúc 5 giờ chiều đến 10 giờ
đêm, nước chỉ ngấp nghé ngoài ruộng như bao trận lụt bình thường và
người dân quan sát thấy có vẻ như lụt đang đà rút nước, chỉ dọn dẹp một
số thứ trong vườn, đưa một số thứ vật dụng và lương thực lên gác và đi
ngủ vì nước bắt đầu rút.
Đùng một cái, lúc 10 giờ đêm, lũ dâng lên lại và tốc độ nước dâng nhanh
chưa từng thấy, chỉ trong vòng hai giờ đồng hồ, nước dâng lên thêm trên
hai mét, nước từ ngoài ruộng đi vào ngõ chỉ chừng độ mươi phút và tiếp
tục vào sân, vào thềm nhà, vào nhà, lên bàn thờ và chấm gác. Lúc này
không ai kịp dọn dẹp đồ dùng, nhất là ti vi, tủ lạnh và trâu bò, không
tài nào có thể dắt trâu bò lên đường 1A để chạy lũ. Bên cạnh đó, tốc độ
nước chảy mạnh không thể tưởng tượng được.
Trong lúc chị Lý và các con ngồi trên gác gỗ nhìn nước dâng lên cao dần
và chấm đà gác thì bất ngờ nước xô bức tường sau căn nhà của chị đổ ầm,
cả căn gác đong đưa vì thiếu bệ đỡ. Lúc này mấy mẹ con chị Lý vừa cầu
nguyện Chúa thương tình cứu giúp vừa ôm nhau để nếu lở bị sụp gác, bị
nước cuốn trôi thì cũng chết cùng ngày, giỗ cùng ngày. Vì càng lúc căn
gác càng có dấu hiệu oằn xuống, sụm dần và có thể sụp xuống bất kì giờ
nào. Trong khi đó, nước cuốn điên cuồng, sâu hoắm và có thể đưa bất kì
thứ gì ra sông, ra biển.
Nhưng rồi có lẽ nhờ Chúa thương tình đã dang tay che chở cho gia đình
chị nên trên căn gác sắp sụp, không có bệ đở chính ở mặt sau, chứa năm
con người và gần nửa tấn lúa, vật dụng, bếp núc, đôi khi tụt xuống một
nhịp rồi lại đứng im ở nhịp đó, nước chạm dần vào gác, chiếu trải trên
gác ướt mèm… Cuối cùng, gia đình chị Lý cũng sống sót qua trận lũ. Có vẻ
như mọi đồ vật trong nhà chị đã đi thay cho mạng sống của gia đình chị.
Sống sót sau lũ, nhà chẳng còn gì để ăn, đói, lạnh, ướt, thèm được ăn
chén cơm, thèm được khóc cho thỏa cơn tuyệt vọng, thèm được nhìn thấy đồ
vật mà mình nâng niu lâu nay cho dù nó đã hư hỏng, nằm chỏng vơ ngoài
ruộng chăng nữa!
Nhưng dường như không còn thứ gì. Cái điệp khúc “chằng còn gì, chẳng còn
gì, chẳng còn gì…” cứ lặp đi lặp lại trong mắt, trong tâm tưởng chúng
tôi khi chúng tôi đi qua vùng lũ. Cái nghèo, cái đói, cái lạnh cứ hiện
ra khắp mọi nơi. Có nhà ăn cơm thiu và coi đó là hạt ngọc trời mà may
mắn mình còn có được bởi vì ít ra cũng còn cơm mà ăn.
Như lời ông Thành, một cư dân xã Quảng Văn, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình: “Ngày
qua thì riêng hộ gia đình cá nhân tôi thì nước vào sâu chừng 1,8 mét,
lúa ướt hết, chẳng biết tính sao đây! Còn ở trong địa bàn thôn thì dân
thiệt hại nhiều, trâu bò, súc vật bị trôi nhiều lắm!”.
Hà Tĩnh chìm trong biển nước, kẻ cười người khóc
Một người dân trong vùng lũ Hương Khê, Hà Tĩnh, tên Hưng, chia sẻ: “Nước lên một mét rưỡi, nước chảy xiết quá, đồ đạc gì cũng trôi hết..”.
Ông Hưng cho biết thêm là chuyện xả lũ của thủy điện Hố Hô đối với người
dân Hương Khê chẳng có gì là xa lạ, thậm chí quá quen thuộc, năm nào mà
chẳng có xả lũ, có chết heo gà, trâu bò. Bởi sống Ngàn Sâu chảy qua
Hương Khê vốn là cửa xả lũ chính của thủy điện Hố Hô. Chỉ có điều năm
2010 và năm 2016 này, thủy điện Hố Hô xả quá mạnh nên nước dâng quá cao,
quá nhanh khiến nhiều nhà bị ngập nặng, nước chấm nóc nhà.
Thiệt hại năm nay ở Hương Khê cũng tương đương với thiệt hại trận xả lũ
năm 2010. Khi chúng tôi hỏi thăm về chế độ đền bù cho người dân ở trận
xả lũ năm 2010 và những trận xả lũ sau này như thế nào thì ông Hưng chó
biết là người dân Hương Khê chưa có ai nhận được bất kì đồng đền bù nào
của thủy điện Hố Hô. Chuyện họ xả lũ, họ cho rằng đúng qui trình, mà thứ
gì đã đúng qui trình thì những ai bị thiệt hại là do sai qui trình của
họ nên phải tự chịu lấy.
Ông Hưng chua chát cho biết thêm là kể từ khi thủy điện Hố Hô đi vào
hoạt động, người dân Hà Tĩnh, Quảng Bình mỗi năm vào mùa mưa luôn phải
nhận vài trận xả lũ vừa vừa, đủ để nước vào nhà, ngập không đến nỗi chết
choc nhưng ướt vật dụng và hư hỏng mùa màng. Và khi nổi hứng thì làm
một phát xả lũ, cả khu vực Hà Tĩnh, Quảng Bình trở thành biển nước.
Ông Hưng lắc đầu, chua chát nói rằng biển thì bị độc tố do Formosa gây
ra, sống lưng chừng giữa núi và biển, đến mùa mưa thì thủy điện xả lũ,
chẳng biết sống dựa vào đâu! Ông Hưng nói vui là một ngày nào đó, Hố Hô
và Formosa bắt tay nhau, thay vì xả độc vào mùa nắng, Formosa chuyển
sang xả độc vào mùa mưa và liền sau đó thì Hố Hô xả lũ để đẩy độc ra
khơi và để đẩy trách nhiệm về một hướng khác nữa thì chắc là người dân
hết đường sống!
Lời nói đùa của ông Hưng tuy bâng quơ nhưng khiến chúng tôi cảm thấy ớn lạnh, thực sự là quá ớn lạnh nếu chuyện này xảy ra!
TIỂU TỬ * THẰNG DÂN VIỆT
Tiểu Tử: Thằng dân Việt - Đọc mà đứt ruột !
Ở xứ nào không biết, chớ ở Việt Nam xưa nay người dân vẫn được coi như không có… kí lô nào hết, mặc dù họ đông như kiến !
Hồi thời Pháp thuộc ( Phải lấy thời này để làm cái mốc cho thời chú Sam và thời bác Hồ. Bởi vì không có Pháp thuộc thì làm gì có bác Hồ, làm gì có chú Sam ? ), có ” ông Tây bà Đầm” ăn trên ngồi trốc. Người dân sanh ra vốn… thấp cổ bé miệng, không ngóc đầu lên được. Văn chương hồi đó hay viết ” dân ngu khu đen ” nghe thật miệt thị nhưng lại diễn tả rất rõ nét vị-trí… sát đất của người dân ( chỉ có ngồi lê dưới đất nên khu mới đen như vậy !) và xác nhận với chính sách ngu dân thời ấy, người dân ngu là cái chắc. Câu ” dân ngu khu đen ” cũng từ từ biến thể cho hợp thời trang ngôn ngữ, và trở thành ” dân đen ” cộc lốc. Không… sáng sủa hơn bao nhiêu, nhưng bớt được tiếng ” ngu ” cũng đã là một… tiến bộ. Không phải nhờ vậy mà người dân khôn ra, lẽ dĩ nhiên. Nhưng hai tiếng ” dân đen ” nói lên rõ rệt sự khác biệt giữa dân bản xứ da vàng và nhà cầm quyền hồi đó, toàn là dân da trắng !
Tiếp theo là lá cờ Giải Phóng Miền Nam lớn bằng tấm chiếu phe phẩy trên nóc dinh giống như người chạy việt dã vừa về tới đích. Và tiếp theo là hai câu đối thoại đáng ” đi vào lịch sử ” : Khi được ông Dương Văn Minh – vị tổng thống… phù du nhứt lịch sử – nói : “Mời các ông ngồi vào bàn để chúng tôi bàn giao “, một ông… nón cối Bắc Việt ” phang ” cho một câu ” Bàn giao cái gì ? Các anh thua trận, đầu hàng vô điều kiện mà còn cái gì để bàn giao ? “. Không biết những người miền Nam có mặt lúc đó – tổng thống, tổng bộ trưởng v.v…– có nghe ” đau như hoạn ” ?
Vậy là…giải phóng ! Người dân cũng có vỗ tay. Hết chạy loạn là… vui rồi. Hết giặc, con cái hết đi lính… là vui rồi. Một phóng viên miền Bắc phỏng vấn một bà già miền Nam : ” Thế… bà má có vui không nào ? “. Trả lời : ” Ờ… vui chớ ! Nhờ có mấy ông giải phóng về kịp nên mới yên ! Chớ không, tụi Việt Cộng nó pháo kích riết chắc chết quá !”. Ở một nơi khác, phỏng vấn một anh xích lô, anh ta trả lời : ” Vui chớ sao không vui ! Đạp xích lô lúc nào cũng bị tụi nó nghi là Việt Cộng”. Rồi anh chỉ vào mặt mình : ” Anh coi ! Mặt tui vầy mà là Việt cộng à ?”
Mà vui thật ! Ở Sàigòn đông lắm. Thiên hạ đi đầy đường. Xe hơi, xe gắn máy, xe đạp… nối đuôi nhau nhích nhích. Vậy mà chẳng thấy ai gây gổ với ai, cũng chẳng nghe ai nóng nảy tin một tiếng kèn ! Đó là lần đầu tiên người dân tự động ” xuống đường “, không phải để đấu tranh mà là để đi coi… bộ đội ! Cũng giống như đi coi chợ phiên sở thú. Vui lắm !
Gánh hát mới khai diễn chưa kịp đánh trống thổi kèn quảng cáo mời mọc mà đã được khán giả bốn phương kéo tới xem thật đông như vậy thì thật là…” thành công, thành công, đại thành công !” Người dân cũng thấy khoái bởi vì toàn là đào kép mới – cái gì lạ cũng hấp dẫn – và bởi vì được đi coi…thả giàn.
Sau mấy lớp hài hước mở màn như chuyện mấy anh bộ đội nói dóc nói phét ” Hà Nội cái gì cũng có “, chuyện ” nhà ỉa nhà đái… trong xô “.v.v… sân khấu bỗng chuyển sang bi hài kịch mà trong đó người dân được kịch tác gia cách mạng đẩy lên đóng vai chánh ! Người dân ngạc nhiên dở khóc dở cười… Vai chánh đó có cái tên nghe lạ hoắc : ” nhân dân làm chủ ” !
Từ một tay ngang bước lên sân khấu, dĩ nhiên là cần được các đạo diễn chăm sóc dạy dỗ tận tình để người dân được… lột xác biến thành kịch sĩ.
Đầu tiên, người dân được mang một cái tên khác cho đúng với điệu nghệ kịch trường: tên ” Nhân Dân ” ( Xưa nay, trong giới cải lương kịch nghệ có… truyền thống là khi đã ” đi hát ” thì người ta thường lấy một cái tên khác đẹp hơn kêu hơn là cái tên cúng cơm. Vậy mới là nghệ sĩ ! ) Rồi ” cái ” nhân dân đó được dạy hô khẩu hiệu – đó là những bài bản… gốc của cách mạng mà ai ai cũng phải biết hát, cũng như trong giới cải lương kép độc hay hề gì cũng phải rành ” sáu câu “…Đại khái, chỉ có mấy khẩu hiệu như ” vĩ đại, vĩ đại, vĩ đại “, như ” muôn năm, muôn năm, muôn năm “, như ” sống mãi, sống mãi, sống mãi “. Vậy mà không phải dễ ! Phải hô cùng một lúc và hô cho đúng nhịp. Hô lỏn chỏn là ” có vấn đề đấy nhá !”. Tiếp theo là tập vỗ tay. ” À… vỗ tay cũng phải tập chứ ! Có phải như thời Mỹ Ngụy đâu mà các anh các chị muốn vỗ thế nào là vỗ. Muốn làm chủ, nhân dân phải tập cả vỗ tay nữa cơ !” Thế là học vỗ tay : mọi người trong hội trường cùng vỗ một lúc, không cần khoái tỷ hay thích thú gì ráo, chỉ cần thấy anh cán bộ đang nói bỗng ngừng lại vỗ tay là ta vỗ tay thôi !
Tiếp theo là đi học tập ba hôm về đường lối chủ trương của cách mạng. Thượng vàng hạ cám gì cũng phải học tập ráo. Cùng ngồi chung với nhau – thường thì ngồi dưới đất vì không có đủ băng đủ ghế, và vì không đủ chỗ nên ngồi cả ra hàng ba, ra sân – cùng nghe chung những gì mấy cán bộ nói. Và vì mấy cha cán bộ nói dài quá, lại thay nhau nói cùng một đề tài bằng những lời lẽ y chang như nhau nên người ” nhân dân “, kẻ trước người sau, cùng chung nhau… ngáp ! Suy cho cùng, ngáp cũng là một cách… phát biểu. Nó nói lên sự mệt mỏi chán chường. Về sau, khi đã…” quen nước quen cái ” với những buổi hội họp học tập, với cái gọi là ” Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý “…cách ” phát biểu ” độc đáo đó đã được người dân ” khai triển ” rất thoải mái, không phải giơ tay xin phép ai hết và cũng không sợ bị quy tội ” bôi bác không khí nghiêm túc của hội trường “. Để thấy ” Trong chế độ ta, nhân dân vẫn làm chủ… cái ngáp của mình đấy chứ !”.
Tiếp theo ( trong ” thời bác Hồ “, lúc nào cũng có một sự ” tiếp theo ” nghĩa là chẳng bao giờ thấy một sự ngưng nghỉ, cứ ” học tập tiếp theo học tập “, cứ ” đấu tranh tiếp theo đấu tranh “, cứ ” khai báo tiếp theo khai báo “…) nhân dân học tập khai lý lịch, học tập báo công báo tội, học tập làm sổ hộ khẩu sổ gạo… Hết học tập ở tổ dân phố thì kéo nhau ra học tập ở phường – cũng như vậy thôi nhưng đông hơn nên… vui hơn – rồi học tập ở quận… Rồi đi mết-tinh, đi đón tiếp phái đoàn này, đi chào mừng phái đoàn nọ, đi làm lễ đón nhận lẵng hoa của bác Tôn ( ông già này thay thế bác Hồ, nhân dân đoán như vậy ) Ôi thôi ! Rộn rịp, vui lắm !
Khác hẳn với ” thời chú Sam “, người nhân dân bây giờ đi đến đâu cũng thấy cái sự làm chủ của mình nó… lòi ra cả đống. Bằng cớ là cái gì cũng thuộc về nhân dân ráo, cái gì cũng thấy dán nhãn ” nhân dân ” mà chẳng cần phải ” cầu chứng tại toà “. Sướng như vậy ! Này nhá : Ủy Ban Nhân Dân này, Toà Án Nhân Dân này, Quân Đội Nhân Dân này, Công An Nhân Dân này… đến tờ báo to nhất nước – của Đảng – cũng phải mang tên ” Nhân Dân ” đấy ! Làm chủ , sướng nhá !
Thế nhưng, có hai cơ quan mà nhân dân không được làm chủ : đó là tổng cục kế hoạch và ngân hàng. Chỉ có hai cơ quan này là đặc biệt mang nhãn ” Nhà Nước ” nên được gọi là ” Tổng cục kế hoạch Nhà Nước ” và ” Ngân Hàng Nhà Nước “. Nhà Nước nắm cái tổng cục để độc quyền lên kế hoạch… hốt bạc đổ vào ngân hàng của Nhà Nước, vậy là an toàn nhứt rồi ! Người ta nói : ” Đồng tiền là huyết mạch, Nhà Nước nắm cái huyết mạch đó là nhân dân… nhăn răng ! ” Nói như vậy là có ý bôi bác chế độ. ” Hãy nhớ rằng, trong chế độ ta có sự phân công rõ rệt : Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý, Nhân Dân làm chủ. Muốn quản lý, Nhà Nước phải nắm cái… hầu bao chứ. Không có cái đó thì quản lý cái đếch gì được. Rõ như thế đấy !”. Lý luận chắc nịch như đinh đóng cột, nhân dân chỉ còn nước đi chỗ khác chơi.
Dù sao đi nữa, được lên đóng vai chủ trong vở trường kịch của ” thời bác Hồ ” vẫn thấy khoái hơn ở ” thời chú Sam “. Thời đó, người dân chỉ là người dân quèn với bộ mặt thật của nó, chưa từng biết thế nào là ” vẽ lọ bôi hề “. Còn bây giờ, trên sân khấu cách mạng, người dân được tô son trét phấn để có bộ mặt khác – một bộ mặt không giống ai – vui chớ !
Qua ” thời bác Hồ “, cái gì cũng thay đổi hết. Đặc biệt là người dân. Ngoài chuyện ” nhân dân làm chủ “, người dân bây giờ nhìn lại mình cũng thấy không còn là mình nữa ! Cả cái thân hình trước đây, chỉ còn lại có… cái miệng. Mỗi một người dân được xem như là một ” nhân khẩu ” – một cái ” miệng người ” – Tờ khai gia đình thời trước bây giờ được thay bằng ” sổ hộ khẩu ” trong đó kê khai có bao nhiêu…cái miệng ! Nghĩ cho cùng, Nhà Nước cách mạng có lý, bởi vì trong công tác ” quản lý “, chuyện đầu tiên phải lo là ” nuôi ăn “. Vậy, phải biết rõ ” ta ” có bao nhiêu cái miệng. Thế… Ngoài ra, nếu thấy cái miệng nào đã có ăn mà còn đòi cả quyền ” nói ” thì ” ta ” chận ngay không cho nó ăn.
Có nói, đến chừng đói rã ruột ra thì cũng phải câm lại thôi. Đỉnh cao trí tuệ là ở chỗ này đấy !
Sau khi đã học tập tốt, nghĩa là người nhân dân đã rành bài bản để đóng vai ” nhân dân làm chủ “, người nhân dân phải biết ” đi thưa về trình “. Nói cho văn vẻ chớ thật ra là đi đâu phải xin giấy di chuyển của chánh quyền nơi cư ngụ và về phải trình lại giấy di chuyển có đóng dấu nơi mình đã đến.
Nhân dân làm chủ khi dọn nhà qua ở chỗ khác phải làm thủ tục giấy tờ dời địa chỉ – gọi là chuyển hộ – có sự chấp thuận của chánh quyền hai nơi – nơi ở cũ và nơi ở mới – Nhân dân làm chủ phải đi lao động xã hội chủ nghĩa ( Thời trước gọi là ” đi làm…chùa ” ). Nhân dân làm chủ ” phải ” triệt để thực thi quyền làm chủ của mình nghĩa là ” phải ” làm thế này, ” phải ” làm thế nọ… toàn là những thứ ” phải ” mà ở ” thời chú Sam ” tìm đỏ con mắt không có, ví dụ như phải đổi tiền, phải bị đánh tư sản, phải đi kinh tế mới, phải đi tập trung cải tạo… Chánh quyền mới gọi là ” một cuộc đổi đời”. Họ nói đúng ! Có điều là cuộc đổi đời đó xoay đến 180 độ, làm cho người dân thấy… ngất ngư !
Sau khi miền Nam được giải phóng, mấy cha Giải Phóng Miền Nam còn đang ” cờ phất trống khua ” trên sân khấu cách mạng bỗng bị… cúp điện hạ màn, đuổi vào hậu trường lảnh ” lương cà phê ” ( Tiếng nhà nghề nói gánh hát không trình diễn, nghệ sĩ chỉ lãnh chút tiền để uống cà phê thôi ) Họ bị giải tán một cách êm ru và dễ ợt như người ta liệng một miếng giẻ rách vào đống rác, trước sự ngạc nhiên của người nhân dân làm chủ. Bởi vì chuyện ” đại sự quốc gia ” như vậy mà chẳng thấy ” lũ đầy tớ ” nó hỏi qua ý kiến một lần ! Rồi đến vụ thống nhất đất nước, những ” công bộc của nhân dân “cũng cứ quyết định một mình ên !
Thật ra, lấy công tâm mà nói, nếu có được hỏi thì cái ” nhân dân làm chủ ” cũng chỉ gật đầu nhất trí. Cứ xem nhân dân miền Bắc, tính đến năm 1975, họ ” làm chủ ” đã hai mươi năm, có thấy họ không nhất trí bao giờ ? Người dân chắc nghĩ rằng mình làm chủ nhưng còn thằng khác nó làm chủ cái bao tử và sinh mạng của mình nữa, vậy, cứ luôn mồm nhất trí là…chắc ăn nhứt ! ( Một nhà văn lớn thời tiền chiến vào Nam thăm bạn bè sau 1975 đã nói nhỏ :” Tôi còn sống đây là nhờ tôi biết sợ “. Một câu để đời ! ) Cái ưu việt của chế độ là ở chỗ này đấy !
Tiếp theo là người dân học tập – lại học tập ! – đi bầu. Hồi thời trước, người dân cầm lá phiếu thấy mình… oai ghê lắm. Họ tự do chọn lựa ứng cử viên, họ nhìn ảnh của từng người và còn phê bình ” líp ba ga ” : ông này dễ thương, giống kép Hùng Cường , ông này…cha ! coi bậm trợn quá, à ! còn bà này giống Túy Hoa ghê, coi đặng à v.v… Bây giờ thì khác : Đảng chọn, dân bầu. Sợ nhân dân mất thời giờ và mất công nên Đảng chọn dùm cho dân. Nhân dân chỉ còn có… nhắm mắt bầu. Sướng gần chết còn muốn gì nữa ? Có điều là bầu bán bây giờ không còn rầm rộ trống kèn như thời trước nên chẳng thấy có gì hấp dẫn hết.
Sau giải phóng, người dân miền Bắc đua nhau vào Nam để ” cứu trợ đồng bào ruột thịt miền Nam sống trong sự kềm kẹp của bè lũ ác ôn Mỹ Ngụy, đói khổ thiếu thốn vô cùng “. Còn người dân miền Nam, ít lâu sau, cũng lục tục kéo nhau ra miền Bắc, không phải để ” tham quan ” mà để… thăm nuôi thân nhân bị đưa đi tập trung cải tạo ngoài đó. Kẻ vô người ra như vậy thật là một sự… giao lưu đáng đồng tiền bát gạo, bởi vì nó ” mở mắt ” người dân của cả hai miền. Để thấy rằng dù ” ở ” với bác Hồ hay ” ở ” với chú Sam, người dân vẫn là những con cờ, không hơn không kém !
Bây giờ, gần ba chục năm sau giải phóng, cuộc sống miền Nam cũng đã ổn định, nghĩa là người dân vẫn… sống nhăn, không phải nhờ khẩu hiệu ” dân giàu nước mạnh…” mà nhờ biết xoay sở để sinh tồn. Cũng có hàng hoá đầy chợ. Cũng có quán xá đầy đường. Cũng có vài tờ báo của đảng / đoàn / cơ quan để đọc – vài tờ cũng đủ… chán, đâu cần phải ba mươi tờ như ” thời chú Sam ” – Cũng có tiểu thuyết lai rai của Hội Nhà Văn – cái hội mà chế độ đẻ ra để ” gò ” các nhà văn đi cho ngay cho đúng ” đường lối chủ trương ” – Cũng có nhạc vàng lả lướt đã thông qua sự kiểm tra của Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn, một loại “cục ” lúc nào cũng thấy… nằm chình ình trên các DVD và băng nhạc dưới dạng con tem, trên đó có ghi rõ tên chương trình, hãng sản xuất, số giấy phép, mã số và hàng chữ đỏ “Nghiêm cấm in sao dưới mọi hình thức “.
Đảng vẫn lãnh đạo, Nhà Nước vẫn quản lý và Nhân Dân vẫn… làm chủ, lẽ dĩ nhiên !
Tính ra,” thời chú Sam ” chỉ dài có hai mươi năm. Cái ” số ” như vậy thầy bói gọi là… yểu tử ! Trong lúc ” thời bác Hồ ” vẫn còn tiếp diễn dài dài, gần bốn mươi năm mà chưa thấy hạ màn ! Đó là cái ” lô-gích ” của thời đại bởi vì bác Hồ lúc nào mà chẳng ” sống mãi! sống mãi ! sống mãi ! ” ?
Chỉ tội cho người dân, với bộ mặt ” không giống ai ” vì bị tô son trét phấn, có nhăn nhó vì đau quặn ruột người ta cũng vẫn thấy như đang…cười ! Và người ta kết luận : ” Tốt đấy chứ !”. Ở đây, phải hiểu ” người ta ” là Đảng và Nhà Nước.
Tiểu Tử
Trong chuyện phiếm này, tôi gọi ” thời chú Sam” để chỉ miền Nam trước
tháng 4 năm 1975 và ” thời bác Hồ ” để chỉ miền Nam dài dài sau đó. Cho
thấy miền Nam trước có chú, rồi sau có bác thay thế nhau chăm sóc tận
tình. Thật là…đại phước !
Ở xứ nào không biết, chớ ở Việt Nam xưa nay người dân vẫn được coi như không có… kí lô nào hết, mặc dù họ đông như kiến !
Hồi thời Pháp thuộc ( Phải lấy thời này để làm cái mốc cho thời chú Sam và thời bác Hồ. Bởi vì không có Pháp thuộc thì làm gì có bác Hồ, làm gì có chú Sam ? ), có ” ông Tây bà Đầm” ăn trên ngồi trốc. Người dân sanh ra vốn… thấp cổ bé miệng, không ngóc đầu lên được. Văn chương hồi đó hay viết ” dân ngu khu đen ” nghe thật miệt thị nhưng lại diễn tả rất rõ nét vị-trí… sát đất của người dân ( chỉ có ngồi lê dưới đất nên khu mới đen như vậy !) và xác nhận với chính sách ngu dân thời ấy, người dân ngu là cái chắc. Câu ” dân ngu khu đen ” cũng từ từ biến thể cho hợp thời trang ngôn ngữ, và trở thành ” dân đen ” cộc lốc. Không… sáng sủa hơn bao nhiêu, nhưng bớt được tiếng ” ngu ” cũng đã là một… tiến bộ. Không phải nhờ vậy mà người dân khôn ra, lẽ dĩ nhiên. Nhưng hai tiếng ” dân đen ” nói lên rõ rệt sự khác biệt giữa dân bản xứ da vàng và nhà cầm quyền hồi đó, toàn là dân da trắng !
Người dân hồi đó được thực dân gọi một cách miệt thị : cu-li, nhà quê.
Dù anh có ăn học, dù anh có nghề nghiệp, người da trắng vẫn coi anh là
cu-li là nhà quê tuốt. Nhớ lại một hôm, anh tôi và tôi đạp xe đi dạo bến
tàu Sạc-ne (sau này gọi là bến Chương Dương và sau này nữa tên là… Tôn
Đức Thắng ! ). Thấy hai tên lính lê-dương (légionnaire) Pháp, to như cái
tủ đứng, ngồi chồng lên nhau trên một chiếc xích-lô đạp, làm chổng bánh
sau lên. Anh phu xích-lô, ốm tong ốm teo, không biết làm sao để giải
thích rằng ảnh không thể nào chở được hai người, vì ảnh nhẹ quá. Ảnh bèn
cầu cứu chúng tôi.
Có lẽ ảnh thấy chúng tôi có vẻ học sinh sinh viên chắc biết ít nhiều
tiếng Pháp nên nhờ thông-ngôn. Anh tôi ” ra tay nghĩa hiệp ” can thiệp.
Một tên lê-dương túm ngực anh tôi, sừng sộ bằng tiếng Pháp : ” Đi chỗ
khác ! Đồ cu li khốn nạn !”. Dĩ nhiên chúng tôi không đợi nói thêm một
tiếng, vội vã phóng lên xe, đạp đi. Một đỗi xa nhìn lại thấy một thằng
lê-dương đạp xích-lô chở một thằng lê-dương, chạy vù vù, cười hắc hắc !
Còn anh cu li xích-lô thì hổn hển chạy bộ phía sau, chẳng nói chẳng
rằng… Những hình ảnh đó bây giờ nhớ lại, đã sáu chục năm qua mà sao lòng
vẫn còn nghe căm phẫn !
Sau hiệp định Genève, Pháp… phú-lơ-căng ( Âm tiếng Pháp ” Foutre le camp ” = dông mất – rất thông dụng thời đó ) Việt Nam bị chia làm đôi, lấy sông Bến Hải làm ranh giới. Người dân miền Bắc sống với cái-gọi-là tự do của miền Bắc. Người dân miền Nam cũng có cái tự do riêng của miền Nam. Cũng là ” tự do ” cả nhưng trong hình thức có rất nhiều dị-biệt. Bắc Nam bỗng trở thành hai xứ như là lạ hoắc ! Tuy nhiên, dù đất nước bị chia hai, cái ” khối ” người dân không có gì thay đổi, nghĩa là vẫn còn nguyên là những con cờ…
Rồi miền Nam có ông vua Bảo Đại – chuyên sống ở Pháp – vì thương dân nên gởi ông Diệm về Việt Nam tham chánh. ( Ông vua này thì người dân biết từ lâu. Ít ra cũng biết… tên ! ). Rồi có ông Diệm, vì thương dân nên… lật ông Bảo Đại rồi lên làm tổng thống. ( Ông này thì người dân chỉ mới biết khi ổng trèo lên ghế tổng thống. Cứ nghe ra rả hằng ngày ” Toàn dân nhớ ơn Ngô tổng thống “, không biết rồi cũng phải biết ! ) Rồi có chú Sam, vì thương dân Việt Nam, ra tay giúp đỡ ông Diệm hết mình. Người dân bắt đầu biết đến chú Sam với lá cờ nhiều sao và hình vẽ hai bàn tay nắm lấy nhau được dán lên nhiều món hàng ngoại quốc nhập cảng. Nhìn cái nhãn, người ta hiểu đơn giản là bàn tay chú Sam nắm bàn tay người bạn mà chú giúp đỡ. Chẳng nghe ai thắc mắc : ” Chú Sam muốn nói chú giúp mình hay chú muốn nói tao bắt mày phải đi theo tao ? ” Người dân miền Nam vốn… thiệt thà !
Bây giờ, người dân hết là dân đen. Không phải được… đổi màu như người dân miền Bắc, mà là được tẩy sạch trong từ ngữ miền Nam. Tuy nhiên tùy hoàn cảnh, tùy trường hợp, tùy tâm trạng mà người ta cũng có gọi người dân bằng ” thằng dân “, nghe hơi nặng một chút. Nhưng riết rồi ” người dân ” hay ” thằng dân ” đều nghe cũng… xêm xêm ( Âm tiếng Mỹ ” Same same ” = như nhau ). Bởi vì, nặng nhẹ gì thì người dân cũng đã quen được coi như không có kí lô nào hết xưa nay !
Lâu lâu người dân cũng nghe các chánh trị gia gọi mình là ” khối quảng đại quần chúng ” nghe thật… rổn-rảng khó hiểu nhưng lại khoái lỗ tai, hoặc gọi là ” toàn thể nhân dân ” rất nho-nhã nhẹ nhàn, và lắm khi gọi ” đồng bào thân mến ” nghe thật là… âu yếm !
Thật tình, người dân vào thời này bắt đầu thấy rằng mình coi vậy mà cũng ” có giá “. Hết còn nghe gọi người ” dân ” cộc lốc, mà lại được ghép vào với tiếng ” công ” oai vệ để trở thành ” công dân “. Không có gì, nhưng mang thêm chữ ” công ” vẫn thấy quan trọng như ” công chức “, ” công sở “, ” công khố “, ” công an ” …những thứ ” công ” làm toát ra sự ” chẳng có thằng nào dám đụng tới “.
Sướng chớ ! Mà thật vậy, có ai dám gọi ” thằng công dân ” đâu ? Thường thì gọi ” người công dân ” hay ít lắm cũng gọi “anh công dân “. ( Chưa nghe ai gọi ” ông công dân”. Có lẽ tại vì gọi như vậy, người ta sẽ nghĩ là có ” ẩn ý nhạo báng ” ! )
Từ ngày mang ” chức ” công dân, người dân được nhà nước chiếu cố…” đậm “. Ngày nào cũng kêu gọi ” Này công dân ơi ! Quốc gia đến ngày giải phóng…”. Rồi gần đến ngày bầu cử tổng thống, dân biểu v.v… luôn luôn được nhắc nhở ” đi làm bổn phận công dân “.
Nhân nói đến vụ bầu cử, phải thấy lúc đó người dân được… trọng vọng đến mức nào. Các ứng cử viên hay các liên danh ứng cử, trong thời gian vận động bầu cử, đều hết lời ” o bế ” người dân. Hằng ngày, trên truyền thanh truyền hình, trên báo chí bích chương… họ cúi xuống nâng người dân lên như nâng trứng mỏng, nói ngon nói ngọt để người dân bầu cho họ. Còn khuyên ” nên chọn mặt gởi vàng “, làm cho người dân thấy tự nhiên mình… giàu ngang xương ! Cái lá phiếu trong tay người dân – bằng giấy – coi vậy… mà nặng kí !
Sau bầu cử, người dân được trả về cương vị bình thường của người dân, cộng thêm những người bị thất cử. Những người này, không cần hỏi ý kiến ai, cứ ” đánh trống thổi kèn” tuyên bố rân lên rằng “Chúng tôi đứng về phe người dân để đối lập với chánh quyền!” Làm như hễ là dân là phải đối lập với chánh quyền vậy ! Cũng chẳng thấy có người dân nào đứng lên phản đối. Đã nói: người dân miền Nam vốn… thiệt thà !
Bỗng một hôm, ” người ta ” đảo chánh ông Diệm. Người dân ngơ ngác bởi vì, trái với những lần bầu bán, lần này người dân không được ai ” hỏi thăm ” hết, thậm chí chẳng nghe ai tuyên bố theo… truyền thống rằng ” đảo chánh vì dân ” ! Thì ra,” người ta ” toàn là tướng tá, binh chủng này binh chủng nọ. Họ không phải…dân ! Họ ” đảo rồi, lại đảo nữa. Cuối cùng cũng lật được ông Diệm. Lần này, người dân thấy có vẻ an toàn nên cũng xuống đường hoan hô. Thật ra, trong thời đệ nhứt cộng hoà, người dân đâu có bị chèn ép đè đầu cỡi cổ bốc lột tơi bời như thời Pháp thuộc. Người dân chỉ ” ngứa con mắt ” ở cái lối trịch thượng ăn trên ngồi trốc quá lố lăng của gia đình ông Diệm, cộng thêm hành động kỳ thị tôn giáo quá lộ liễu. Vì vậy, khi ông Diệm và gia đình bị lật xuống, người dân thấy như được… nhổ cái gai trong con mắt, cho nên họ cũng vỗ tay hoan hỉ !
Tiếp theo là mấy ông tướng, ông tá đảo chánh nhau, đảo qua đảo lại. Người dân vẫn bị cho ra rìa, nên đứng ở bên ngoài xem như xem tuồng hài hước trên sân khấu. Vở tuồng đang diễn bỗng bị chú Sam núp ở đâu đó giựt giây hạ màn ! Người dân ngẫn ngơ, rồi cũng… xách đít ” đi chỗ khác chơi ” để ” người ta ” làm chánh trị.
Thật ra, vào thời điểm đó, miền Nam còn được cái may là có một người trong giới lãnh đạo ” biết ” nghĩ đến dân : đó là ông tướng tầu bay Nguyễn Cao Kỳ. Khi nắm chánh quyền, ông tuyên bố và cho kẻ khẩu hiệu đầy đường : ” Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ là chính phủ của dân nghèo “. Thật là ngạc nhiên đến… ngỡ ngàng ! Người dân nào đã lỡ giàu bỗng thấy mình thuộc vào loại… vô chánh phủ nên cứ phập phồng lo sợ, còn người dân nghèo thì lại bâng khuâng không dám hoan hô vì không biết mình có thuộc vào cái…” típ ” nghèo mà ông tướng đã tuyên bố ? Bởi vì có hạng nghèo xơ nghèo xác, có hạng nghèo rớt mồng tơi, có hạng nghèo mạc rệp, có hạng nghèo kiết .v.v… Thành ra, lời tuyên bố rất ” nổ ” của ông tướng giống như cục đá nhỏ rơi xuống mặc nước hồ, nghe cái chũm rồi… hết ! Tuy nhiên, lần đầu tiên người dân thấy mình được đứng chung với chánh quyền – dù chỉ là trên khẩu hiệu – cũng thấy có chút gì an ủi !
>Rồi chú Sam ồ ạt đổ quân và đồ ” PX ” lên miền Nam mà chẳng thấy có ” trưng cầu dân ý “.
Người xưa nói ” ý dân là ý trời “. Người nay cầm quyền, đã không cần đến ý dân thì đâu có ông nào nói với chú Sam : ” Thưa chú, ông bà tôi nói như vầy…như vầy…”. Cho dù có ai nói cho chú Sam thì cũng chỉ làm cho chú cười văng… sơ-uynh-gum, bởi vì chú đâu có tin. Chú đã từng bay lên trời, bay lên cung trăng, bay lên bay xuống như ăn hamburger hằng bữa… chú đã gặp ông trời đâu mà tin ! Vả lại xưa nay chú Sam chỉ thấy ý của chú là ” năm bờ oan ” thì chú đâu cần hỏi ý kiến của ai khác. Vì vậy, chú cứ… nhắm mắt đưa quân vào miền Nam như đi… vào chỗ không người. Chẳng có một người dân nào đứng lên phản đối. ” Họ ” – người dân – nói : ” Mấy ổng ( ám chỉ nhà cầm quyền ) đã ô-kê Salem với chú Sam rồi, mình có la nô-gút nô-gút ( no good ! no good ! ) chỉ có… chó nó nghe !” Trong ” thời chú Sam “, mặc dù đang đánh giặc với Bắc Việt, người dân vẫn đi lại thong thả, miễn là đừng…lội sông Bến Hải để ra ngoài Bắc. Năm khi mười hoạ mới bị hỏi căn cước. Trong trường hợp vào ra ở các ” lãnh địa ” của chú Sam thì lúc nào người dân cũng bị chú lính của chú Sam hỏi giấy bằng tiếng Việt bỏ sai dấu:” Cán cuốc!Cán cuốc !”. Chẳng thấy người dân nào …cười !
Ngoài ra thì đời sống của người dân rất tự do thoải mái. Tự do buôn bán. Đồ PX ( dân gọi là pi-éc – là các mặt hàng nhập vào Việt Nam bán riêng cho quân đội chú Sam, không có thuế nên giá rẻ – lính chú Sam mua ra bán lại cho dân ) tràn ngập các chợ trời. Còn hàng hoá sản xuất trong xứ cũng bán đầy các chợ các phố. Tự do ngôn luận, in sách, ra báo. Thật tình, ở đây có… lạm phát : báo đủ loại – báo ngày, báo tuần, báo tháng… khoảng chừng trên 30 tờ ! Người dân đọc… mờ con mắt luôn !
Cuộc sống tương đối dễ chịu, dễ…thở. Đùng một cái, Việt Cộng tổng tấn công ngay trong ngày tết Mậu Thân. Chúng tin tưởng rằng ” toàn dân miền Nam sẽ nổi dậy lật đổ chánh quyền !”. Té ra, người dân, vì sợ, nên chỉ lo bồng bế nhau chạy ! Lần đó, Việt Cộng thất bại nặng. Lần đó, người dân thật sự thấy tận mắt Việt Cộng là ai, để sau đó biến sợ hãi thành căm thù. Chỉ cần một ngòi nổ là nó bùng lên để ” quạt ” cho Việt Cộng một đòn ” chí tử “. Vậy mà không thấy chú Sam… nhúc nhích một ngón tay ! Chú không đánh trả, đã đành. Chú còn ngăn không cho quân đội quốc gia đánh trả. Chú đi một nước cờ mà không ai hiểu gì hết ! Và lần đó người dân nhìn chú Sam bằng một con mắt khác.
Sau hiệp định Genève, Pháp… phú-lơ-căng ( Âm tiếng Pháp ” Foutre le camp ” = dông mất – rất thông dụng thời đó ) Việt Nam bị chia làm đôi, lấy sông Bến Hải làm ranh giới. Người dân miền Bắc sống với cái-gọi-là tự do của miền Bắc. Người dân miền Nam cũng có cái tự do riêng của miền Nam. Cũng là ” tự do ” cả nhưng trong hình thức có rất nhiều dị-biệt. Bắc Nam bỗng trở thành hai xứ như là lạ hoắc ! Tuy nhiên, dù đất nước bị chia hai, cái ” khối ” người dân không có gì thay đổi, nghĩa là vẫn còn nguyên là những con cờ…
Rồi miền Nam có ông vua Bảo Đại – chuyên sống ở Pháp – vì thương dân nên gởi ông Diệm về Việt Nam tham chánh. ( Ông vua này thì người dân biết từ lâu. Ít ra cũng biết… tên ! ). Rồi có ông Diệm, vì thương dân nên… lật ông Bảo Đại rồi lên làm tổng thống. ( Ông này thì người dân chỉ mới biết khi ổng trèo lên ghế tổng thống. Cứ nghe ra rả hằng ngày ” Toàn dân nhớ ơn Ngô tổng thống “, không biết rồi cũng phải biết ! ) Rồi có chú Sam, vì thương dân Việt Nam, ra tay giúp đỡ ông Diệm hết mình. Người dân bắt đầu biết đến chú Sam với lá cờ nhiều sao và hình vẽ hai bàn tay nắm lấy nhau được dán lên nhiều món hàng ngoại quốc nhập cảng. Nhìn cái nhãn, người ta hiểu đơn giản là bàn tay chú Sam nắm bàn tay người bạn mà chú giúp đỡ. Chẳng nghe ai thắc mắc : ” Chú Sam muốn nói chú giúp mình hay chú muốn nói tao bắt mày phải đi theo tao ? ” Người dân miền Nam vốn… thiệt thà !
Bây giờ, người dân hết là dân đen. Không phải được… đổi màu như người dân miền Bắc, mà là được tẩy sạch trong từ ngữ miền Nam. Tuy nhiên tùy hoàn cảnh, tùy trường hợp, tùy tâm trạng mà người ta cũng có gọi người dân bằng ” thằng dân “, nghe hơi nặng một chút. Nhưng riết rồi ” người dân ” hay ” thằng dân ” đều nghe cũng… xêm xêm ( Âm tiếng Mỹ ” Same same ” = như nhau ). Bởi vì, nặng nhẹ gì thì người dân cũng đã quen được coi như không có kí lô nào hết xưa nay !
Lâu lâu người dân cũng nghe các chánh trị gia gọi mình là ” khối quảng đại quần chúng ” nghe thật… rổn-rảng khó hiểu nhưng lại khoái lỗ tai, hoặc gọi là ” toàn thể nhân dân ” rất nho-nhã nhẹ nhàn, và lắm khi gọi ” đồng bào thân mến ” nghe thật là… âu yếm !
Thật tình, người dân vào thời này bắt đầu thấy rằng mình coi vậy mà cũng ” có giá “. Hết còn nghe gọi người ” dân ” cộc lốc, mà lại được ghép vào với tiếng ” công ” oai vệ để trở thành ” công dân “. Không có gì, nhưng mang thêm chữ ” công ” vẫn thấy quan trọng như ” công chức “, ” công sở “, ” công khố “, ” công an ” …những thứ ” công ” làm toát ra sự ” chẳng có thằng nào dám đụng tới “.
Sướng chớ ! Mà thật vậy, có ai dám gọi ” thằng công dân ” đâu ? Thường thì gọi ” người công dân ” hay ít lắm cũng gọi “anh công dân “. ( Chưa nghe ai gọi ” ông công dân”. Có lẽ tại vì gọi như vậy, người ta sẽ nghĩ là có ” ẩn ý nhạo báng ” ! )
Từ ngày mang ” chức ” công dân, người dân được nhà nước chiếu cố…” đậm “. Ngày nào cũng kêu gọi ” Này công dân ơi ! Quốc gia đến ngày giải phóng…”. Rồi gần đến ngày bầu cử tổng thống, dân biểu v.v… luôn luôn được nhắc nhở ” đi làm bổn phận công dân “.
Nhân nói đến vụ bầu cử, phải thấy lúc đó người dân được… trọng vọng đến mức nào. Các ứng cử viên hay các liên danh ứng cử, trong thời gian vận động bầu cử, đều hết lời ” o bế ” người dân. Hằng ngày, trên truyền thanh truyền hình, trên báo chí bích chương… họ cúi xuống nâng người dân lên như nâng trứng mỏng, nói ngon nói ngọt để người dân bầu cho họ. Còn khuyên ” nên chọn mặt gởi vàng “, làm cho người dân thấy tự nhiên mình… giàu ngang xương ! Cái lá phiếu trong tay người dân – bằng giấy – coi vậy… mà nặng kí !
Sau bầu cử, người dân được trả về cương vị bình thường của người dân, cộng thêm những người bị thất cử. Những người này, không cần hỏi ý kiến ai, cứ ” đánh trống thổi kèn” tuyên bố rân lên rằng “Chúng tôi đứng về phe người dân để đối lập với chánh quyền!” Làm như hễ là dân là phải đối lập với chánh quyền vậy ! Cũng chẳng thấy có người dân nào đứng lên phản đối. Đã nói: người dân miền Nam vốn… thiệt thà !
Bỗng một hôm, ” người ta ” đảo chánh ông Diệm. Người dân ngơ ngác bởi vì, trái với những lần bầu bán, lần này người dân không được ai ” hỏi thăm ” hết, thậm chí chẳng nghe ai tuyên bố theo… truyền thống rằng ” đảo chánh vì dân ” ! Thì ra,” người ta ” toàn là tướng tá, binh chủng này binh chủng nọ. Họ không phải…dân ! Họ ” đảo rồi, lại đảo nữa. Cuối cùng cũng lật được ông Diệm. Lần này, người dân thấy có vẻ an toàn nên cũng xuống đường hoan hô. Thật ra, trong thời đệ nhứt cộng hoà, người dân đâu có bị chèn ép đè đầu cỡi cổ bốc lột tơi bời như thời Pháp thuộc. Người dân chỉ ” ngứa con mắt ” ở cái lối trịch thượng ăn trên ngồi trốc quá lố lăng của gia đình ông Diệm, cộng thêm hành động kỳ thị tôn giáo quá lộ liễu. Vì vậy, khi ông Diệm và gia đình bị lật xuống, người dân thấy như được… nhổ cái gai trong con mắt, cho nên họ cũng vỗ tay hoan hỉ !
Tiếp theo là mấy ông tướng, ông tá đảo chánh nhau, đảo qua đảo lại. Người dân vẫn bị cho ra rìa, nên đứng ở bên ngoài xem như xem tuồng hài hước trên sân khấu. Vở tuồng đang diễn bỗng bị chú Sam núp ở đâu đó giựt giây hạ màn ! Người dân ngẫn ngơ, rồi cũng… xách đít ” đi chỗ khác chơi ” để ” người ta ” làm chánh trị.
Thật ra, vào thời điểm đó, miền Nam còn được cái may là có một người trong giới lãnh đạo ” biết ” nghĩ đến dân : đó là ông tướng tầu bay Nguyễn Cao Kỳ. Khi nắm chánh quyền, ông tuyên bố và cho kẻ khẩu hiệu đầy đường : ” Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ là chính phủ của dân nghèo “. Thật là ngạc nhiên đến… ngỡ ngàng ! Người dân nào đã lỡ giàu bỗng thấy mình thuộc vào loại… vô chánh phủ nên cứ phập phồng lo sợ, còn người dân nghèo thì lại bâng khuâng không dám hoan hô vì không biết mình có thuộc vào cái…” típ ” nghèo mà ông tướng đã tuyên bố ? Bởi vì có hạng nghèo xơ nghèo xác, có hạng nghèo rớt mồng tơi, có hạng nghèo mạc rệp, có hạng nghèo kiết .v.v… Thành ra, lời tuyên bố rất ” nổ ” của ông tướng giống như cục đá nhỏ rơi xuống mặc nước hồ, nghe cái chũm rồi… hết ! Tuy nhiên, lần đầu tiên người dân thấy mình được đứng chung với chánh quyền – dù chỉ là trên khẩu hiệu – cũng thấy có chút gì an ủi !
>Rồi chú Sam ồ ạt đổ quân và đồ ” PX ” lên miền Nam mà chẳng thấy có ” trưng cầu dân ý “.
Người xưa nói ” ý dân là ý trời “. Người nay cầm quyền, đã không cần đến ý dân thì đâu có ông nào nói với chú Sam : ” Thưa chú, ông bà tôi nói như vầy…như vầy…”. Cho dù có ai nói cho chú Sam thì cũng chỉ làm cho chú cười văng… sơ-uynh-gum, bởi vì chú đâu có tin. Chú đã từng bay lên trời, bay lên cung trăng, bay lên bay xuống như ăn hamburger hằng bữa… chú đã gặp ông trời đâu mà tin ! Vả lại xưa nay chú Sam chỉ thấy ý của chú là ” năm bờ oan ” thì chú đâu cần hỏi ý kiến của ai khác. Vì vậy, chú cứ… nhắm mắt đưa quân vào miền Nam như đi… vào chỗ không người. Chẳng có một người dân nào đứng lên phản đối. ” Họ ” – người dân – nói : ” Mấy ổng ( ám chỉ nhà cầm quyền ) đã ô-kê Salem với chú Sam rồi, mình có la nô-gút nô-gút ( no good ! no good ! ) chỉ có… chó nó nghe !” Trong ” thời chú Sam “, mặc dù đang đánh giặc với Bắc Việt, người dân vẫn đi lại thong thả, miễn là đừng…lội sông Bến Hải để ra ngoài Bắc. Năm khi mười hoạ mới bị hỏi căn cước. Trong trường hợp vào ra ở các ” lãnh địa ” của chú Sam thì lúc nào người dân cũng bị chú lính của chú Sam hỏi giấy bằng tiếng Việt bỏ sai dấu:” Cán cuốc!Cán cuốc !”. Chẳng thấy người dân nào …cười !
Ngoài ra thì đời sống của người dân rất tự do thoải mái. Tự do buôn bán. Đồ PX ( dân gọi là pi-éc – là các mặt hàng nhập vào Việt Nam bán riêng cho quân đội chú Sam, không có thuế nên giá rẻ – lính chú Sam mua ra bán lại cho dân ) tràn ngập các chợ trời. Còn hàng hoá sản xuất trong xứ cũng bán đầy các chợ các phố. Tự do ngôn luận, in sách, ra báo. Thật tình, ở đây có… lạm phát : báo đủ loại – báo ngày, báo tuần, báo tháng… khoảng chừng trên 30 tờ ! Người dân đọc… mờ con mắt luôn !
Cuộc sống tương đối dễ chịu, dễ…thở. Đùng một cái, Việt Cộng tổng tấn công ngay trong ngày tết Mậu Thân. Chúng tin tưởng rằng ” toàn dân miền Nam sẽ nổi dậy lật đổ chánh quyền !”. Té ra, người dân, vì sợ, nên chỉ lo bồng bế nhau chạy ! Lần đó, Việt Cộng thất bại nặng. Lần đó, người dân thật sự thấy tận mắt Việt Cộng là ai, để sau đó biến sợ hãi thành căm thù. Chỉ cần một ngòi nổ là nó bùng lên để ” quạt ” cho Việt Cộng một đòn ” chí tử “. Vậy mà không thấy chú Sam… nhúc nhích một ngón tay ! Chú không đánh trả, đã đành. Chú còn ngăn không cho quân đội quốc gia đánh trả. Chú đi một nước cờ mà không ai hiểu gì hết ! Và lần đó người dân nhìn chú Sam bằng một con mắt khác.
Họ nói : ” Không biết cái thằng cha chú Sam này muốn cái gì ? Thiệt là
ngược đời ! Kẻ thù thì mình biết rõ còn thằng bạn đồng minh nhai
sơ-huynh-gum này thì mình…mù tịt !”. Từ chỗ nhận định nói trên, người
dân bắt đầu nghi ngờ cái ý nghĩa của hai bàn tay nắm lấy nhau dưới lá cờ
nhiều sao làm nền cho loại nhãn dán trên các đồ viện trợ. Ai cũng nghĩ
rằng cái nhãn đó có…hai mặt. Giống như chú Sam, chú cứ phải nhai
sơ-huynh-gum liền tù tì để không ai ” bắt gân mặt ” mà đoán chú đang
nghĩ gì, bởi vì chú muốn giấu ” cái mặt bên kia ” của chú, không phải
giấu với địch mà giấu với thằng bạn đồng minh ! Thế mới đau !
Rồi vì không còn tin tưởng nữa, người dân lo… thủ. Ai cũng dự trữ đồ ăn ! Có tiền thì trữ nhiều, không tiền thì chạy nợ để trữ chút chút. Cho nó ” ăn chắc “, bởi vì thằng cha chú Sam này coi vậy mà không phải vậy !
Tình trạng nhập nhằng này kéo dài tới hiệp định gì gì đó ở Paris. Tiếp theo là lính chú Sam ” gô hôm ” từ từ, trước sự dửng dưng của người dân, bởi vì họ đã lật tẩy ” cái mặt bên kia ” của chú. Cái nhãn ” hai bàn tay nắm lấy nhau ” không bị mưa mà nó cũng tróc, giống như đồ thợ mã !Rồi thì ” cơm không lành canh không ngọt ” giữa chú Sam và ông Thiệu ( tổng thống đệ nhị cộng hoà – xin nhắc lại cho những ai không… muốn nhớ ! ) Đùng một cái, ông Thiệu ra lịnh bỏ Pleiku/ Kontum rút hết quân về vùng Duyên Hải. Quân đội và dân chúng ngạc nhiên đến bàng hoàng, bởi vì đã bị Việt cộng tấn công đâu mà phải rút ? Còn phía Việt cộng thì… giật mình vội vã ” nâng cao cảnh giác “, nín thở bất động , bởi vì không biết ” thằng ngụy ác ôn này định dở trò gì đây ?”.
Rồi vì không còn tin tưởng nữa, người dân lo… thủ. Ai cũng dự trữ đồ ăn ! Có tiền thì trữ nhiều, không tiền thì chạy nợ để trữ chút chút. Cho nó ” ăn chắc “, bởi vì thằng cha chú Sam này coi vậy mà không phải vậy !
Tình trạng nhập nhằng này kéo dài tới hiệp định gì gì đó ở Paris. Tiếp theo là lính chú Sam ” gô hôm ” từ từ, trước sự dửng dưng của người dân, bởi vì họ đã lật tẩy ” cái mặt bên kia ” của chú. Cái nhãn ” hai bàn tay nắm lấy nhau ” không bị mưa mà nó cũng tróc, giống như đồ thợ mã !Rồi thì ” cơm không lành canh không ngọt ” giữa chú Sam và ông Thiệu ( tổng thống đệ nhị cộng hoà – xin nhắc lại cho những ai không… muốn nhớ ! ) Đùng một cái, ông Thiệu ra lịnh bỏ Pleiku/ Kontum rút hết quân về vùng Duyên Hải. Quân đội và dân chúng ngạc nhiên đến bàng hoàng, bởi vì đã bị Việt cộng tấn công đâu mà phải rút ? Còn phía Việt cộng thì… giật mình vội vã ” nâng cao cảnh giác “, nín thở bất động , bởi vì không biết ” thằng ngụy ác ôn này định dở trò gì đây ?”.
Người ta đồn ( Hồi này, tin đồn đi nhanh hơn hỏa tiễn và người dân miền
Nam chỉ sống bằng… tin đồn ! ) rằng ông Thiệu giận lẫy thằng bạn đồng
minh ” xỏ lá ” nên chơi một cú cho nó xanh mặt ! Không biết chú Sam có
xanh mặt hay không chớ thằng dân thì xanh mặt dài dài… Bởi vì không biết
không hiểu gì hết. Cứ thấy quân đội tự nhiên rút chạy là cắm đầu chạy !
Mà có hỏi quân đội thì – than ôi ! – quân đội cũng bù trất ! Vậy là
kinh hoàng, là hỗn loạn ! Vậy là cứ… nhắm mắt chạy. Càng chạy càng sợ !
Càng sợ càng chạy ! Người dân giống như những con cờ bị người chơi cờ
hất trọn bàn cờ xuống đất, văng tung toé khắp nơi, rơi vào hốc vào kẹt,
rơi vào lỗ cống đường mương… Ai biết ? Ai thèm biết ? Nghĩ mà thương cho
người dân miền Nam ” sanh chẳng gặp thời “…
>Từ miền Trung dài vô Sàigòn, chỗ nào cũng thấy chạy. Dân chạy trước. Phía sau dân là quân đội. Phía sau quân đội, xa thật xa, là Việt cộng. Họ đã mất thời gian ” điều nghiên tình hình ” để nhận thấy hiện tượng ” ngụy quân ” rút đi là có thật. Thế là ” ta ” xua quân chạy theo ” toé phở ” nhưng vẫn láo phét rằng ” quân ta đuổi chúng nó chạy…toé khói ” !
Tình trạng hỗn loạn này được tiếp nối bằng sự ồ ạt di tản ra… biển Đông. Cũng là chạy nhưng chạy ra khỏi xứ !
” Thời chú Sam ” được hạ màn vào cuối tháng tư năm 1975. Màn không được hạ từ từ theo đúng ” điệu nghệ sân khấu ” với giàn kèn đồng thổi bản ” ò e rô be đánh đu ” ! Màn bị hạ… cái rẹt như bị đứt giây, bởi vì anh hạ màn… bỏ mẹ nó xuống cho rồi để còn vắt giò lên cổ chạy cho kịp nhảy lên chiếc trực thăng di tản cuối cùng !
Chú Sam ” gô hom ” để lại miền Nam vô số sơ-huynh-gum đã… nhai rồi và một lô con lai, có trắng có đen… gọi là kỷ niệm !
Đây nói về người dân vào ” thời bác Hồ “…
” Thời bác Hồ ” được… kéo màn khai diễn bằng một hình ảnh lẽ ra phải hào hùng, nhưng mấy anh Bắc Việt đã dàn cảnh vụng về cho nên đã trở thành ra lố bịch. Số là…
Ngày 30 tháng tư năm 1975, cổng vào dinh Độc Lập đã được mở rộng để ” đón tiếp các anh em Giải Phóng “, sau lời tuyên bố đầu hàng của ông Dương văn Minh. Thay vì cứ đường hoàng oai vệ tiến thẳng vào dinh – vì là người thắng trận – mấy ông Bắc Việt đã dàng cảnh bằng cách đóng cổng lại để cho một xe tăng mang cờ Giải Phóng ủi sập rồi ngất ngưỡng… bò vào bên trong như một thằng say.
Báo chí, truyền hình chụp ảnh quay phim liền tù tì, cho thế giới thấy rằng ” chính quân đội và nhân dân ta đã tiến công ủi sập chính quyền miền Nam “. Trong màn diễn xuất đó, họ quên mất người dân nên chỉ thấy có lèo tèo mấy anh Giải Phóng ! Trong lúc đó, dân chúng – khá đông – đứng xa xa nhìn một cách bàng quan, không hiểu “tại sao không chạy thẳng cha nó vô cho rồi, chớ đóng cổng làm chi để rồi phải ủi sập mới vô được, thiệt… làm chuyện ruồi bu !”
>Từ miền Trung dài vô Sàigòn, chỗ nào cũng thấy chạy. Dân chạy trước. Phía sau dân là quân đội. Phía sau quân đội, xa thật xa, là Việt cộng. Họ đã mất thời gian ” điều nghiên tình hình ” để nhận thấy hiện tượng ” ngụy quân ” rút đi là có thật. Thế là ” ta ” xua quân chạy theo ” toé phở ” nhưng vẫn láo phét rằng ” quân ta đuổi chúng nó chạy…toé khói ” !
Tình trạng hỗn loạn này được tiếp nối bằng sự ồ ạt di tản ra… biển Đông. Cũng là chạy nhưng chạy ra khỏi xứ !
” Thời chú Sam ” được hạ màn vào cuối tháng tư năm 1975. Màn không được hạ từ từ theo đúng ” điệu nghệ sân khấu ” với giàn kèn đồng thổi bản ” ò e rô be đánh đu ” ! Màn bị hạ… cái rẹt như bị đứt giây, bởi vì anh hạ màn… bỏ mẹ nó xuống cho rồi để còn vắt giò lên cổ chạy cho kịp nhảy lên chiếc trực thăng di tản cuối cùng !
Chú Sam ” gô hom ” để lại miền Nam vô số sơ-huynh-gum đã… nhai rồi và một lô con lai, có trắng có đen… gọi là kỷ niệm !
Đây nói về người dân vào ” thời bác Hồ “…
” Thời bác Hồ ” được… kéo màn khai diễn bằng một hình ảnh lẽ ra phải hào hùng, nhưng mấy anh Bắc Việt đã dàn cảnh vụng về cho nên đã trở thành ra lố bịch. Số là…
Ngày 30 tháng tư năm 1975, cổng vào dinh Độc Lập đã được mở rộng để ” đón tiếp các anh em Giải Phóng “, sau lời tuyên bố đầu hàng của ông Dương văn Minh. Thay vì cứ đường hoàng oai vệ tiến thẳng vào dinh – vì là người thắng trận – mấy ông Bắc Việt đã dàng cảnh bằng cách đóng cổng lại để cho một xe tăng mang cờ Giải Phóng ủi sập rồi ngất ngưỡng… bò vào bên trong như một thằng say.
Báo chí, truyền hình chụp ảnh quay phim liền tù tì, cho thế giới thấy rằng ” chính quân đội và nhân dân ta đã tiến công ủi sập chính quyền miền Nam “. Trong màn diễn xuất đó, họ quên mất người dân nên chỉ thấy có lèo tèo mấy anh Giải Phóng ! Trong lúc đó, dân chúng – khá đông – đứng xa xa nhìn một cách bàng quan, không hiểu “tại sao không chạy thẳng cha nó vô cho rồi, chớ đóng cổng làm chi để rồi phải ủi sập mới vô được, thiệt… làm chuyện ruồi bu !”
Tiếp theo là lá cờ Giải Phóng Miền Nam lớn bằng tấm chiếu phe phẩy trên nóc dinh giống như người chạy việt dã vừa về tới đích. Và tiếp theo là hai câu đối thoại đáng ” đi vào lịch sử ” : Khi được ông Dương Văn Minh – vị tổng thống… phù du nhứt lịch sử – nói : “Mời các ông ngồi vào bàn để chúng tôi bàn giao “, một ông… nón cối Bắc Việt ” phang ” cho một câu ” Bàn giao cái gì ? Các anh thua trận, đầu hàng vô điều kiện mà còn cái gì để bàn giao ? “. Không biết những người miền Nam có mặt lúc đó – tổng thống, tổng bộ trưởng v.v…– có nghe ” đau như hoạn ” ?
Vậy là…giải phóng ! Người dân cũng có vỗ tay. Hết chạy loạn là… vui rồi. Hết giặc, con cái hết đi lính… là vui rồi. Một phóng viên miền Bắc phỏng vấn một bà già miền Nam : ” Thế… bà má có vui không nào ? “. Trả lời : ” Ờ… vui chớ ! Nhờ có mấy ông giải phóng về kịp nên mới yên ! Chớ không, tụi Việt Cộng nó pháo kích riết chắc chết quá !”. Ở một nơi khác, phỏng vấn một anh xích lô, anh ta trả lời : ” Vui chớ sao không vui ! Đạp xích lô lúc nào cũng bị tụi nó nghi là Việt Cộng”. Rồi anh chỉ vào mặt mình : ” Anh coi ! Mặt tui vầy mà là Việt cộng à ?”
Mà vui thật ! Ở Sàigòn đông lắm. Thiên hạ đi đầy đường. Xe hơi, xe gắn máy, xe đạp… nối đuôi nhau nhích nhích. Vậy mà chẳng thấy ai gây gổ với ai, cũng chẳng nghe ai nóng nảy tin một tiếng kèn ! Đó là lần đầu tiên người dân tự động ” xuống đường “, không phải để đấu tranh mà là để đi coi… bộ đội ! Cũng giống như đi coi chợ phiên sở thú. Vui lắm !
Gánh hát mới khai diễn chưa kịp đánh trống thổi kèn quảng cáo mời mọc mà đã được khán giả bốn phương kéo tới xem thật đông như vậy thì thật là…” thành công, thành công, đại thành công !” Người dân cũng thấy khoái bởi vì toàn là đào kép mới – cái gì lạ cũng hấp dẫn – và bởi vì được đi coi…thả giàn.
Sau mấy lớp hài hước mở màn như chuyện mấy anh bộ đội nói dóc nói phét ” Hà Nội cái gì cũng có “, chuyện ” nhà ỉa nhà đái… trong xô “.v.v… sân khấu bỗng chuyển sang bi hài kịch mà trong đó người dân được kịch tác gia cách mạng đẩy lên đóng vai chánh ! Người dân ngạc nhiên dở khóc dở cười… Vai chánh đó có cái tên nghe lạ hoắc : ” nhân dân làm chủ ” !
Từ một tay ngang bước lên sân khấu, dĩ nhiên là cần được các đạo diễn chăm sóc dạy dỗ tận tình để người dân được… lột xác biến thành kịch sĩ.
Đầu tiên, người dân được mang một cái tên khác cho đúng với điệu nghệ kịch trường: tên ” Nhân Dân ” ( Xưa nay, trong giới cải lương kịch nghệ có… truyền thống là khi đã ” đi hát ” thì người ta thường lấy một cái tên khác đẹp hơn kêu hơn là cái tên cúng cơm. Vậy mới là nghệ sĩ ! ) Rồi ” cái ” nhân dân đó được dạy hô khẩu hiệu – đó là những bài bản… gốc của cách mạng mà ai ai cũng phải biết hát, cũng như trong giới cải lương kép độc hay hề gì cũng phải rành ” sáu câu “…Đại khái, chỉ có mấy khẩu hiệu như ” vĩ đại, vĩ đại, vĩ đại “, như ” muôn năm, muôn năm, muôn năm “, như ” sống mãi, sống mãi, sống mãi “. Vậy mà không phải dễ ! Phải hô cùng một lúc và hô cho đúng nhịp. Hô lỏn chỏn là ” có vấn đề đấy nhá !”. Tiếp theo là tập vỗ tay. ” À… vỗ tay cũng phải tập chứ ! Có phải như thời Mỹ Ngụy đâu mà các anh các chị muốn vỗ thế nào là vỗ. Muốn làm chủ, nhân dân phải tập cả vỗ tay nữa cơ !” Thế là học vỗ tay : mọi người trong hội trường cùng vỗ một lúc, không cần khoái tỷ hay thích thú gì ráo, chỉ cần thấy anh cán bộ đang nói bỗng ngừng lại vỗ tay là ta vỗ tay thôi !
Tiếp theo là đi học tập ba hôm về đường lối chủ trương của cách mạng. Thượng vàng hạ cám gì cũng phải học tập ráo. Cùng ngồi chung với nhau – thường thì ngồi dưới đất vì không có đủ băng đủ ghế, và vì không đủ chỗ nên ngồi cả ra hàng ba, ra sân – cùng nghe chung những gì mấy cán bộ nói. Và vì mấy cha cán bộ nói dài quá, lại thay nhau nói cùng một đề tài bằng những lời lẽ y chang như nhau nên người ” nhân dân “, kẻ trước người sau, cùng chung nhau… ngáp ! Suy cho cùng, ngáp cũng là một cách… phát biểu. Nó nói lên sự mệt mỏi chán chường. Về sau, khi đã…” quen nước quen cái ” với những buổi hội họp học tập, với cái gọi là ” Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý “…cách ” phát biểu ” độc đáo đó đã được người dân ” khai triển ” rất thoải mái, không phải giơ tay xin phép ai hết và cũng không sợ bị quy tội ” bôi bác không khí nghiêm túc của hội trường “. Để thấy ” Trong chế độ ta, nhân dân vẫn làm chủ… cái ngáp của mình đấy chứ !”.
Tiếp theo ( trong ” thời bác Hồ “, lúc nào cũng có một sự ” tiếp theo ” nghĩa là chẳng bao giờ thấy một sự ngưng nghỉ, cứ ” học tập tiếp theo học tập “, cứ ” đấu tranh tiếp theo đấu tranh “, cứ ” khai báo tiếp theo khai báo “…) nhân dân học tập khai lý lịch, học tập báo công báo tội, học tập làm sổ hộ khẩu sổ gạo… Hết học tập ở tổ dân phố thì kéo nhau ra học tập ở phường – cũng như vậy thôi nhưng đông hơn nên… vui hơn – rồi học tập ở quận… Rồi đi mết-tinh, đi đón tiếp phái đoàn này, đi chào mừng phái đoàn nọ, đi làm lễ đón nhận lẵng hoa của bác Tôn ( ông già này thay thế bác Hồ, nhân dân đoán như vậy ) Ôi thôi ! Rộn rịp, vui lắm !
Khác hẳn với ” thời chú Sam “, người nhân dân bây giờ đi đến đâu cũng thấy cái sự làm chủ của mình nó… lòi ra cả đống. Bằng cớ là cái gì cũng thuộc về nhân dân ráo, cái gì cũng thấy dán nhãn ” nhân dân ” mà chẳng cần phải ” cầu chứng tại toà “. Sướng như vậy ! Này nhá : Ủy Ban Nhân Dân này, Toà Án Nhân Dân này, Quân Đội Nhân Dân này, Công An Nhân Dân này… đến tờ báo to nhất nước – của Đảng – cũng phải mang tên ” Nhân Dân ” đấy ! Làm chủ , sướng nhá !
Thế nhưng, có hai cơ quan mà nhân dân không được làm chủ : đó là tổng cục kế hoạch và ngân hàng. Chỉ có hai cơ quan này là đặc biệt mang nhãn ” Nhà Nước ” nên được gọi là ” Tổng cục kế hoạch Nhà Nước ” và ” Ngân Hàng Nhà Nước “. Nhà Nước nắm cái tổng cục để độc quyền lên kế hoạch… hốt bạc đổ vào ngân hàng của Nhà Nước, vậy là an toàn nhứt rồi ! Người ta nói : ” Đồng tiền là huyết mạch, Nhà Nước nắm cái huyết mạch đó là nhân dân… nhăn răng ! ” Nói như vậy là có ý bôi bác chế độ. ” Hãy nhớ rằng, trong chế độ ta có sự phân công rõ rệt : Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý, Nhân Dân làm chủ. Muốn quản lý, Nhà Nước phải nắm cái… hầu bao chứ. Không có cái đó thì quản lý cái đếch gì được. Rõ như thế đấy !”. Lý luận chắc nịch như đinh đóng cột, nhân dân chỉ còn nước đi chỗ khác chơi.
Dù sao đi nữa, được lên đóng vai chủ trong vở trường kịch của ” thời bác Hồ ” vẫn thấy khoái hơn ở ” thời chú Sam “. Thời đó, người dân chỉ là người dân quèn với bộ mặt thật của nó, chưa từng biết thế nào là ” vẽ lọ bôi hề “. Còn bây giờ, trên sân khấu cách mạng, người dân được tô son trét phấn để có bộ mặt khác – một bộ mặt không giống ai – vui chớ !
Qua ” thời bác Hồ “, cái gì cũng thay đổi hết. Đặc biệt là người dân. Ngoài chuyện ” nhân dân làm chủ “, người dân bây giờ nhìn lại mình cũng thấy không còn là mình nữa ! Cả cái thân hình trước đây, chỉ còn lại có… cái miệng. Mỗi một người dân được xem như là một ” nhân khẩu ” – một cái ” miệng người ” – Tờ khai gia đình thời trước bây giờ được thay bằng ” sổ hộ khẩu ” trong đó kê khai có bao nhiêu…cái miệng ! Nghĩ cho cùng, Nhà Nước cách mạng có lý, bởi vì trong công tác ” quản lý “, chuyện đầu tiên phải lo là ” nuôi ăn “. Vậy, phải biết rõ ” ta ” có bao nhiêu cái miệng. Thế… Ngoài ra, nếu thấy cái miệng nào đã có ăn mà còn đòi cả quyền ” nói ” thì ” ta ” chận ngay không cho nó ăn.
Có nói, đến chừng đói rã ruột ra thì cũng phải câm lại thôi. Đỉnh cao trí tuệ là ở chỗ này đấy !
Sau khi đã học tập tốt, nghĩa là người nhân dân đã rành bài bản để đóng vai ” nhân dân làm chủ “, người nhân dân phải biết ” đi thưa về trình “. Nói cho văn vẻ chớ thật ra là đi đâu phải xin giấy di chuyển của chánh quyền nơi cư ngụ và về phải trình lại giấy di chuyển có đóng dấu nơi mình đã đến.
Nhân dân làm chủ khi dọn nhà qua ở chỗ khác phải làm thủ tục giấy tờ dời địa chỉ – gọi là chuyển hộ – có sự chấp thuận của chánh quyền hai nơi – nơi ở cũ và nơi ở mới – Nhân dân làm chủ phải đi lao động xã hội chủ nghĩa ( Thời trước gọi là ” đi làm…chùa ” ). Nhân dân làm chủ ” phải ” triệt để thực thi quyền làm chủ của mình nghĩa là ” phải ” làm thế này, ” phải ” làm thế nọ… toàn là những thứ ” phải ” mà ở ” thời chú Sam ” tìm đỏ con mắt không có, ví dụ như phải đổi tiền, phải bị đánh tư sản, phải đi kinh tế mới, phải đi tập trung cải tạo… Chánh quyền mới gọi là ” một cuộc đổi đời”. Họ nói đúng ! Có điều là cuộc đổi đời đó xoay đến 180 độ, làm cho người dân thấy… ngất ngư !
Sau khi miền Nam được giải phóng, mấy cha Giải Phóng Miền Nam còn đang ” cờ phất trống khua ” trên sân khấu cách mạng bỗng bị… cúp điện hạ màn, đuổi vào hậu trường lảnh ” lương cà phê ” ( Tiếng nhà nghề nói gánh hát không trình diễn, nghệ sĩ chỉ lãnh chút tiền để uống cà phê thôi ) Họ bị giải tán một cách êm ru và dễ ợt như người ta liệng một miếng giẻ rách vào đống rác, trước sự ngạc nhiên của người nhân dân làm chủ. Bởi vì chuyện ” đại sự quốc gia ” như vậy mà chẳng thấy ” lũ đầy tớ ” nó hỏi qua ý kiến một lần ! Rồi đến vụ thống nhất đất nước, những ” công bộc của nhân dân “cũng cứ quyết định một mình ên !
Thật ra, lấy công tâm mà nói, nếu có được hỏi thì cái ” nhân dân làm chủ ” cũng chỉ gật đầu nhất trí. Cứ xem nhân dân miền Bắc, tính đến năm 1975, họ ” làm chủ ” đã hai mươi năm, có thấy họ không nhất trí bao giờ ? Người dân chắc nghĩ rằng mình làm chủ nhưng còn thằng khác nó làm chủ cái bao tử và sinh mạng của mình nữa, vậy, cứ luôn mồm nhất trí là…chắc ăn nhứt ! ( Một nhà văn lớn thời tiền chiến vào Nam thăm bạn bè sau 1975 đã nói nhỏ :” Tôi còn sống đây là nhờ tôi biết sợ “. Một câu để đời ! ) Cái ưu việt của chế độ là ở chỗ này đấy !
Tiếp theo là người dân học tập – lại học tập ! – đi bầu. Hồi thời trước, người dân cầm lá phiếu thấy mình… oai ghê lắm. Họ tự do chọn lựa ứng cử viên, họ nhìn ảnh của từng người và còn phê bình ” líp ba ga ” : ông này dễ thương, giống kép Hùng Cường , ông này…cha ! coi bậm trợn quá, à ! còn bà này giống Túy Hoa ghê, coi đặng à v.v… Bây giờ thì khác : Đảng chọn, dân bầu. Sợ nhân dân mất thời giờ và mất công nên Đảng chọn dùm cho dân. Nhân dân chỉ còn có… nhắm mắt bầu. Sướng gần chết còn muốn gì nữa ? Có điều là bầu bán bây giờ không còn rầm rộ trống kèn như thời trước nên chẳng thấy có gì hấp dẫn hết.
Sau giải phóng, người dân miền Bắc đua nhau vào Nam để ” cứu trợ đồng bào ruột thịt miền Nam sống trong sự kềm kẹp của bè lũ ác ôn Mỹ Ngụy, đói khổ thiếu thốn vô cùng “. Còn người dân miền Nam, ít lâu sau, cũng lục tục kéo nhau ra miền Bắc, không phải để ” tham quan ” mà để… thăm nuôi thân nhân bị đưa đi tập trung cải tạo ngoài đó. Kẻ vô người ra như vậy thật là một sự… giao lưu đáng đồng tiền bát gạo, bởi vì nó ” mở mắt ” người dân của cả hai miền. Để thấy rằng dù ” ở ” với bác Hồ hay ” ở ” với chú Sam, người dân vẫn là những con cờ, không hơn không kém !
Bây giờ, gần ba chục năm sau giải phóng, cuộc sống miền Nam cũng đã ổn định, nghĩa là người dân vẫn… sống nhăn, không phải nhờ khẩu hiệu ” dân giàu nước mạnh…” mà nhờ biết xoay sở để sinh tồn. Cũng có hàng hoá đầy chợ. Cũng có quán xá đầy đường. Cũng có vài tờ báo của đảng / đoàn / cơ quan để đọc – vài tờ cũng đủ… chán, đâu cần phải ba mươi tờ như ” thời chú Sam ” – Cũng có tiểu thuyết lai rai của Hội Nhà Văn – cái hội mà chế độ đẻ ra để ” gò ” các nhà văn đi cho ngay cho đúng ” đường lối chủ trương ” – Cũng có nhạc vàng lả lướt đã thông qua sự kiểm tra của Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn, một loại “cục ” lúc nào cũng thấy… nằm chình ình trên các DVD và băng nhạc dưới dạng con tem, trên đó có ghi rõ tên chương trình, hãng sản xuất, số giấy phép, mã số và hàng chữ đỏ “Nghiêm cấm in sao dưới mọi hình thức “.
Đảng vẫn lãnh đạo, Nhà Nước vẫn quản lý và Nhân Dân vẫn… làm chủ, lẽ dĩ nhiên !
Tính ra,” thời chú Sam ” chỉ dài có hai mươi năm. Cái ” số ” như vậy thầy bói gọi là… yểu tử ! Trong lúc ” thời bác Hồ ” vẫn còn tiếp diễn dài dài, gần bốn mươi năm mà chưa thấy hạ màn ! Đó là cái ” lô-gích ” của thời đại bởi vì bác Hồ lúc nào mà chẳng ” sống mãi! sống mãi ! sống mãi ! ” ?
Chỉ tội cho người dân, với bộ mặt ” không giống ai ” vì bị tô son trét phấn, có nhăn nhó vì đau quặn ruột người ta cũng vẫn thấy như đang…cười ! Và người ta kết luận : ” Tốt đấy chứ !”. Ở đây, phải hiểu ” người ta ” là Đảng và Nhà Nước.
Tiểu Tử
Sunday, October 23, 2016
SAIGÒN CẢNH CŨ
SAIGÒN CẢNH CŨ
*********
Tiệm nước mía nổi tiếng là tiệm không bảng hiệu với tấm bạt chìa ra ở bên phải. Tui vẫn nhớ cách làm nước mía của họ rất độc đáo, trước khi đẩy bó mía vào máy ép họ nhét vào giữa 1 trái quýt còn nguyên vỏ, làm nước mía của họ thơm nồng mùi quýt tươi mà những nơi khác không có hay không dám làm vì thêm quýt thì bán không lời.
Nhìn cái bảng hiệu Viễn Đông bên trái thấy 1 chi tiết thú vị, công ty xuất nhập cảng số vốn 5 triệu, bằng 1 bữa ăn tiệm bây giờ. Với hồi đó là khá lớn vì ở thời gian này chỉ cần vài trăm ngàn có thể sang được 1 căn nhà ở khu vực này.
...... mía ép cùng với quýt còn vỏ, nước mía sẽ rất thơm và làm tăng thêm cảm giác ngọt của nước mía, còn ép chung với trái tắc vỏ còn màu xanh cũng thơm nhưng trước khi ép phải vắt nước của trái tắc chứ không nước mía ép ra sẽ bị chua, còn nữa, mía ép cũng phải chọn loại nào để khi ép nước sẽ ngọt , nhiều bọt , có màu trắng sữa và để lâu ( 5 - 10 phút ) sẽ không bị xuống màu.
Ở bên kia đường đối diện tiệm nước mía còn có ông già tàu đứng bán những xâu thịt bằm nướng nhét bánh mì trét tương ớt, ..... vừa rẻ vừa ngon. Kiểu bánh mì thịt của ông già ngộ cái không thấy nơi nào bán.
Bánh mì thịt nướng xỏ que đũa, mỗi lần bán mổ ổ bánh mì , xong kẹp que thịt vô ổ bánh mì rút que ra một cách điệu nghệ, xong cho đồ chua và tương đen hơi ngọt , tương ớt , ăn vô cay lè lưỡi, Cay mà ngon :-
Saigon 1974 - Góc Lê Lợi - Pasteur
....dãy nhà lầu khung vòm giữa hình lúc đó dưới trệt cũng có bán cà-rem : buổi tối cơm nước xong ra mua kem "vỏ ốc" đem lên Nhà thờ Đức Bà vừa ăn vừa hóng mát vừa coi cây kim phút đồng hồ Bưu điện cứ mỗi 5 phút nó mới lia cây kim bự rung rinh vui lắm ,lúc đó từ Công Viên tượng các cụ TQLC quẹo trái Tự Do (2 chiều)
từ xa đã thấy Đức Mẹ ngay giữa dưới các hàng vòm cây Tự Do là cảnh tượng rất đẹp (ban ngày)
Lua Culan: dãy nhà này,căn giửa là quán nhà Quang E. sát với thương xá
TAX mới là quán kem "Phương Lan" nơi này "học chò" lớn ưa tới,
hì..hì..vì Mai Hương là chổ mấy tay anh chị và lính rằn ri nên không
dám ngồi ở đây.
Bưu điện Q1 góc Lê Lợi - Pasteur
Ta Lien: Tiệm mì Hào Huê , còn tiệm bán cà phê Meilleur gout tui quen
chị tên Thảo nên hay ghé chơi , ngồi ngắm ông đi qua - bà đi lại .
Cao-Giang Oz: Mì Hào Huê có miếng bánh tôm đi kèm theo mỗi tô mì với nước lèo ngon tuyệt!!
Ngã tư Lê Lợi và Pasteur - Tiệm nước mía Viễn Đông phía bên tay phải - Kem Mai Hương phía trước bên phải
Tiệm kem Mai Hương góc Lê Lợi-Pasteur
Bưu điện Q1 góc Lê Lợi - Pasteur
Tiệm kem Mai Hương góc Lê Lợi-Pasteur
Saigon 1963 - Góc Lê Lợi-Pasteur. Bưu điện Q1
Thuần Nguyễn: Nơi đây bây giờ là tòa nhà Saigon Centre .Tòa nhà này
hiện tạm ngưng kinh doanh để chờ kết nối với tòa nhà thương mại phần 2
đang xây dựng. Bưu điện quận 1 cũng nằm trong tòa nhà SG Centre và vẫn
đang hoạt động vì thuộc khu hành chính , không nằm trong phần kinh
doanh.
SAIGON 1967 - Góc Lê Lợi-Pasteur
Đô Thành Sài Gòn - Công Quản Xe Buýt
Tòa nhà bên phải sau này là Bưu Điện Saigon-Lê Lợi số 57 Pasteur
Tiệm kem Mai Hương góc Lê Lợi-Pasteur
Hình ảnh xưa gom về từ mọi nơi trên mạng Net
CHỬI MẤT GÀ
CHỬI MẤT GÀ
Buổi sáng ở làng Bùi Trên hiu hắt cùng mây trắng, nắng vàng hắt hiu.
Vắng hẳn tiếng gà quang quác, lợn eng éc. Giữa hàng xóm láng giềng cũng
có hàng giậu thưa, vẩn vơ dăm con bươm bướm vàng, vài ba chú chuồn chuồn
kim vơ vẩn. Sau cây chanh thấp tè, rõ mồn một là bà phó rèn, áo sồi váy
đũng đang ngồi chồm hổm, nhởn nha sàng gạo với cái nia bé con con.
Thỉnh thỏang bà nhón một hạt thóc, bỏ vào miệng nhậm gấm, rồi nhổ bẹt
xuống đất. Lâu lâu bà nhìn ra góc vườn bâng quơ chụm môi, đánh lưỡi như
gọi mấy chị gà ấp bóng dưới luống cải giàn bầu.
Bên này hàng rào là cơ ngơi của ông Cửu. Nghe đâu làm thông ngôn cho
lính thợ mãi ở bên Tây, áo gấm về làng với “ba-đờ-suy” khuy đồng, giầy
đinh “săng-đá”. Nhà cửa đang một gian hai trái hẹp vanh vách, vậy mà ông
vật lên được cái nhà ngói cao nghệu, mái lợp ngói âm dương, đều tăm tắp
như vẩy rồng. Ruộng thượng đẳng hạ điền, chuồng rậm rịch lợn đàn, trâu
nghé có một dạo nhất làng nhất xứ. Chưa hết, số là có công với nhà nước
Bảo hộ, nên ông túm tó được cái hàm cửu phẩm văn giai ngon ơ. Rõ ra từ
hàng thất phẩm trở lên dành cho các quan thông kinh sử, còn bát phẩm và
cửu phấm cho hàng thứ dân. Nghe già làng kể lại, xưa kia chạy được hai
cái danh ôn này cũng hốc người ra chứ chẳng dễ sơi gì.
Vừa lúc bà Cửu vén cái mành mành chớm bước ra, tay che mắt nhìn trời đất
khô queo, chẳng một ngọn gió, cây đứng im, lá không lay động, chắc có
cơn giông, cơn bão âm ỉ đâu đó. Vừa định quay vào cũng vừa lúc bà láng
giềng hóng mắt qua bắt gặp. Mà sắp có giông tố thật, từ nẫy đến giờ bà
chỉ đợi có bấy nhiêu. Bà phó rèn đây nức tiếng chanh chua, ngang ngược ở
cái thôn này. Bà đang như con diều hâu từ trên cao dang cánh đảo một
vòng thăm chừng trước khi lặng lờ sà xuống kiếm mồi.
Thế nên bà đỏng đảnh mào đầu bằng câu chửi tự biên tự diễn dân dã trước
đã. Giọng bà phó rèn uồm uồm, oàng oàng như phát ra từ cái chum lớn:
“…Mả bố đứa nào bắt gà của bà! Mày bắt gà bà, mày băm, mày bổ, mày rỉa,
mày rói, mày gói, mày dâng cho thằng trắng râu đầu bạc, nó sắp sửa ngồi
bát bình hương nhà mày nó xơi nhá…” .
Còn ai trồng khoai đất này, thằng trắng râu đầu bạc sắp sửa ngồi bát
bình hương là ông Cửu chứ ai. Đang nằm trên cái phản kê trên hai ghế
ngựa ngang tầm bệ cửa sổ để ông thăm chừng hàng xóm láng giềng. Như hôm
nay chẳng hạn, đang nằm bẹp dí bên khay bàn đèn thuốc phiện, và ông nghe
vanh vách, không sót một tiếng…Dưới gầm phản, con vện cũng hãi quá thể,
cuộn đuôi nằm co rúm. Khác với mọi ngày, lúc này ông đang vật vờ về một
thời hoàng kim cùng ngẫm chuyện nhân gian. Nào là sống ở trên đời chả
được mấy. Không ăn chơi cũng thiệt, chả ăn cũng thiệt vào thân, không
chơi cũng già khú đế. Và ông tặc lưỡi một cái. Mà đã ngập vào nơi chốn
ấy, tương giao tri kỷ không ngòai khi buồn thuốc phiện, lúc vui cô đầu
đến…nhức đầu.
Chuyện nhức mình nhức mẩy là ông năm nay mới ngòai bốn mươi, vậy mà con
cháu vô phép vô tắc gọi là…“cụ”. Mà ông khọm thật cũng nên, chẳng qua
cũng vì ông theo đuổi nàng tiên nâu như gà ấp bóng đã lâu. Chả là dạo
nọ, nghe lỗm bỗm rằng làm dăm bi thì cái chuyện…ấy nó khỏe như vâm với
mấy cô nhà hát. Thọat đầu ông bỏ ra vài hào, làm vài khói ngòai phố
huyện. Nghĩ lại, ông gắn bó nàng tiên nâu cũng là một duyên hai nợ. Nào
khác gì vợ chồng về già sống với nhau vì nghĩa chứ chả vì tình. Với ý
nghĩ hoen hoẻn ấy, ông cho là mọi sự từ trên trời rớt xuống nên ông chả
có tội vạ gì sất.
Như chuyện ông lên huyện đi hát cô đầu chẳng hạn, bỗng đâu gặp ngay ông
chánh tổng Đoàn rủ rê đi…bắn khỉ. Cứ theo ông ta thì…thở ra hít vào
thông tim thông mạch khỏe lắm. Khỏe luôn cả cái mục kia. Ông chả tin
nhưng cứ ngoặt ngoẹo vào xem cái đã. Thế đấy. Thế là ông gặp ngay cô chủ
bàn đèn mắn chuyện. Âu là số mạt rệp. Vừa lúc ông chánh tổng vác
“ba-zô-ca” bắn kêu “ro..ro..” nghe như sáo diều cốc. Cô hú họa ông rằng
hút thuốc phiện khó lắm, nhiều người hút lần đầu, một là chẳng mấy khi
kêu thành tiếng. Hai là sẽ bị nhâm nhẩm đau bụng, ói mửa, ho khan. Ông
tức khí làm một điếu chơi. Ông thở ra một hơi ngắn, nhắm tịt mắt hít vào
một hơi dài thẳng băng nghe “ro..ro..” ngon ơ. Cô chủ bàn đèn nức nở
khen ông…có khiếu ít thấy.
Có khiếu đâu chả thấy, ông bị ả tiên nâu nó hành lúc nào không hay nên
hom hem, lụ khụ là vậy. Tối hồi hôm, ông ngủ cho béo mắt. Sáng nay dậy
muộn. Ông nằm khểnh trên phản nghe bà hàng xóm mắng chó chửi mèo, quên
tiệt đi mất là từ sáng đên giờ chưa làm ngao nào cho ra hồn. Tiện tay
quơ cái dọc tẩu. Ông phồng má lấy hơi thổi phù phù vào cái đít dọc tẩu
cho thông hơi thông điếu. Chậm rãi hơ cái nõ qua ngọn đèn dầu lạc cho
vừa đủ nóng. Nhét bi thuốc phiện lấy ra từ cái hộp dẹt tròn. Hộp có dấu
in hình nổi “Bà Đầm Xòe”. Với cái tít Công Quản Nha Phiến Đông Dương mà
ông đã cậy cục mua ở phố Khâm Thiên, tận Hà Nội. Ông lào thào: Ai bảo!
Cho đáng đới . Ấy là ông trộm vía rủa thầm vợ nhà đấy thôi cho bõ ghét.
Và ông nhón tai nghe tiếng văng vẳng từ bên kia giậu ruối:
“…Chém cha đứa nào bắt gà nhà bà! Chiều hôm qua, bà cho nó ăn nó hãy
còn, sáng hôm nay bà gọi nó, nó hãy còn, mà bây giờ nó đã bị bắt mất.
Mày muốn sống mà ở với chồng với con mày, thì buông tha thả bỏ nó ra,
cho nó về nhà bà. Nhược bằng mày chấp chiếm, thì bà đào mả thằng tam tứ
đại nhà mày ra, bà khai quật bật săng thằng ngũ đại, lục đại nhà mày
lên…”.
Ông nghiêng người, bâng quơ với bà: Này, cái con vợ nhà thằng phó rèn
quang quác gì ấy nhẩy. Tôi nghe khí có hơi lạ tai đấy. Ý đồ ông xem
chừng như “thằng phó rèn” vẫn còn sống nhăn, ông chả dậu đổ bìm leo đến
nhà ấy gì sất. Từ nãy đến giờ, mới bảnh mắt ra chả hiểu nếp tẻ gì, bà
quay lại vặc ông: Ông bảo lạ là lạ thế nào. Thì cái con của nợ của ông
đang nhiếc tôi chứ còn ai. Ông nghe rát cả mặt: Nhào, bà nói nghe thối
inh, nghe điếc cả lỗ đít. Bà quay ngoắt lại: Ông muốn trêu ngươi phỏng.
Ông phang bừa, rồi muốn ra sao thì ra: Chuyện xấu tốt mặc bố tôi, bà
đừng dây vào. Buông cái mành mành, trước khi đi ra hẳn, bà tiếp: Còn
quạc cái mồm ra nữa. Thì nó sờ sờ ra cả đấy, bánh đúc bầy hàng, đây đâu
có nói ngoa.
Ra ngoài, bà Cửu còn vọng vào chì chiết: Xời, ngữ ấy chừa ra, đừng có
lăn tăn vào mà thối hoăng lên nhá. Bà cũng đang tự hỏi chuyện đá thúng
búng nia gì đây, đồ cái thứ gái góa ăn không ngồi rồi, ngứa chôn ngứa
mồm mang mẹ con bà ra mà réo. Trong đầu bà Cửu lầng quầng: “Giời ơi là
giời, bỏ mẹ nó rồi, gặp bà thì cứ bỏ xác. Bà báo đời cho mày biết…Lạt
mềm buộc chặt, để đấy rồi bà sẽ văm như văm cám, bà sẽ bằm nó ra như bằm
chuối cho lợn ăn”. Nhưng bà im thin thít như thịt nấu đông, bà chưa
biết tung hê lời ăn tiếng nói sao cho mát mẻ, cho gọn gàng nề nếp.
Thì cũng vừa lúc bà phó rèn đứng lên vén váy, gấu áo giắt dưới cái giải
rút, hai tay vỗ đen đét vào nhau, chân nhún nhẩy. Bà ngóac mồm gào tóang
lên, âm thanh lỏang xỏang, chan chát như búa tạ đập xuống đe. Bây giờ
bà phó rèn mới nhập hồn, nhập vía vào những câu chửi ở làng quê ruộng
vườn có từ xửa từ xưa:
“…Làng trên xóm dưới, bên ngược bên xuôi, tôi có con gà mái xám. Hôm qua
tôi còn cho nó ăn, thế mà bây giờ nó bị mất. Ai bắt được thì cho tôi
xin, nếu không trả thì tôi chửi cho mà nghe. Ấy…ấy…”.
Ông Cửu ve ve mắt qua song cửa, vừa lúc bà phó rèn ngúng nguẩy quẹt
miệng và co cái đầu gối lên. Ông nhíu mày, miệng lầu nhầu: Giời ạ, ông
giời có mắt xuống đây mà xem người ngợm…người ấy cứ đuỗn ra như con cá
rô đực trông chán chết…Bỗng dưng gì đâu từ lỗ nẻ chui lên, đột nhiên ông
buồn, chỉ biết buồn không đâu. Tự nhiên ông nhớ, nhớ gì cũng chẳng hay.
Chợt nhớ tới người ấy tức cái con của nợ mà vợ nhà vừa đay nghiến ông.
Được thể cái đầu đất ông đùn ra câu: “Lợn vừa chứ”.
Thế là chuyện xưa, chuyện nay chui tọt vào đầu ông. Số là ông mới ở bên
Tây về. Về đến nhà, hôm trước hôm sau ông đảo mắt qua bên hàng giậu thưa
và tự hỏi chồng chị là ai, nào ai hay biết. Và ông chả phải đợi lâu vì
đợi đến ngày mai, dòm sang kẻ liếp là gặp ngay cái chị hàng xóm vừa mới
góa chồng là anh phó rèn mới rõ…hay. Ông được thể lâm râm cơm chín tới,
cải vồng non, gái một con, gà nhảy ổ, rồi ông râm ran cau phơi tái, gái
đoạn tang, chim ra ràng, gà mái ghẹ. Tiếp, ông búng lưỡi đến “tách” một
cái rằng các cụ ta dậy cấm chả sai. Rằng cái thứ giềng tỏi xóm gừng ấy
trông sao mà cứ phễn phễn ra. Tối về, ông vắt tay lên trán nghĩ dại là
thắm da đỏ thịt như thế ấy, rằng không ai nắm tay được đến tối, gối tay
được đến sáng được mãi đâu. Ông để cái đầu củ chuối của ông lêu bêu rằng
gớm sao mà ngực căng thây lẩy, cứ nổi phễnh lên như cái gáo dừa, thế
mới rõ khổ ông.
Ấy vậy mà sáng hôm sau bắt gặp chị phó đang vớt bèo bên cầu ao, quần vén
lên tận bắp đùi, cặp đùi trắng như ngó cần, trông phát khiếp, cứ rợn cả
người lên ấy. Dẫu gì ông cũng từ mẫu quốc về, ông bước tới tính xí xô
“bông-dua”…bông hoa cho nó Tây. Nghe tiếng chân ông đi đến. Chị phó quay
lại, mặt đang trắng nông nỗng, sau đỏ lựng dần. Đang lờ đờ như vịt
chống gậy, vậy mà ngoắt một cái cắm đầu chạy te tái về nhà. Ông lững
thững đi theo, tưởng chị phó đi đâu hóa ra đang lúi húi chổng mông cho
lợn ăn. Buồn tay, và cũng rất Tây, ông phát vào mông đánh đét một cái.
Thấy chả nói năng gì, người ngợm hiền hậu thế đấy. Và ông húyt sáo,
chống “ba toong” bỏ đi một nước. Quay lại, ông bắt gặp con mắt có đuôi
liếc xéo theo ông.
Và ông vểnh tai nghe ngóng…cái con của nợ nhỏ nhẹ xưng…”tôi” là sắp kiếm
chuyện chan tương đổ mẻ đây. Y như rằng, bà phó như chờ đợi cái thời cơ
này từ lâu lắm. Lúc này ấm ức giận hờn được bung ra như ngô rang. Bà
tung tóe:
“…Bố cái thằng chết đâm, cha cái thằng chết xỉa. Mày day tay mặt, mày
đặt tay trái, nỡ ăn cắp của bà đây con gà, này bà bảo cho chúng mày
biết: Con gà nó ở nhà bà, nó bị bắt trộm về nhà mày thì nó thành con cú,
con cáo, con “thành đanh mỏ đỏ”, nó mổ mắt xé xác ông, bà, cha, mẹ, vợ,
chồng, con cái nhà mày đấy. Ấy…ấy….
Mày ăn thịt con gà nhà bà thì mày ăn một miếng, chết một đứa, ăn hai
miếng chết hai đứa, ăn ba miếng chết ba đứa và ăn cả con gà đó sẽ chết
cả ổ nhà mày…”
Ông Cửu lầm rầm, cái thằng chết đâm, cha cái thằng chết xỉa này là ông
chứ còn ai. Ấy là chưa kể ăn ba miếng chết ba đứa ám chỉ cả lò nhà ông
rồi chứ còn gì nữa. Ông thong thả day tay mặt, đặt tay trái khẽ nhấn
nhấn chất dẻo như nhựa đường vừa đủ chặt vào cái nõ điếu, sau đó nhẹ
nhàng châm lửa. Trong cái vắng tanh vắng ngắt của gian phòng ẩm thấp,
gần như ông nghe được cả tiếng riu riu của chất nhựa quánh gặp nóng.
Trong cái giây lát yên ắng chờ đợi sắp gặp gỡ ả phù dung, ông thót bụng
lấy hơi từ lục phủ ngũ tạng. Đưa cái đít dọc tẩu ngang cửa miệng, thông
qua cái yết hầu nhấp nhô lồi lõm. Ông hít vào một chập thật lâm ly quy
phượng như lõ cả bộ điếu ra. Tiếng ống điếu kêu ròn tan, mùi thơm ngào
ngạt tỏa khắp nhà. Ông lờ đờ nhả ra từng ngụm khói giữa gian phòng thênh
thang không một bóng người. Trừ con thạch sùng đang đờ đẫn trên vách
tường, bỗng khi không nó buồn tình tặc lưỡi một tiếng “tách” vô nghĩa.
Cái màng cổ họng trăng trắng của nó đang phập phồng, kéo lên kéo xuống,
thì ra nó cũng đang hít hà chút hơi hám cơm thừa canh cặn của ông.
Bên kia, tiếng chửi bà phó nề vang vọng như kèn đồng của Tây báo hiệu
thức dậy, như con gà gáy sáng vang vang…tọ tè ti tọ tè ti…ti tọ ti tè mà
quen thói ông nghe ba chớp ba nháng ra là…một ngàn, ba mươi vạn thằng
Tây, xách cái bị, đi ăn mày.
“…Bốn thằng cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ba thằng cờ đỏ đứng đầu làng, đưa
đám tang cả nhà mày ra đồng làng chôn đấy. Mày có khôn hồn mang trả ngay
con gà đó cho tao, kẻo không tao đào mồ, quật mả cao tầng tổ khảo, cao
tằng tố tỉ, thúc, bá, huynh, đệ, cô, dì, tỉ muội nhà mày đấy…”.
Bất giác ông nhăn mặt vì chả hiểu bà phó này hát hỏng giống kéo đàn cò,
đàn gáo với cờ xanh đứng đầu ngõ, cờ đỏ đứng sau nhà, cờ vàng dựa bên
hữu, cờ trắng nghiêng bên tả là thể thống, thống chế Pétain gì. Tiên
nhân nhà nó chứ, chứ cứ như hát cô đầu không bằng và ông cho là vậy. Ông
lại ngần ngẫn đến chuyện cũ. Dạo ấy chị hàng xóm đây cũng đẹp gái, đẹp
nết ra phết chứ đâu có đanh đá cá cầy như bây giờ. Chả là cứ theo ông
thì dòm cũng ngồn ngộn gớm, cái yếm sồi rộng toang tóac đựng hai quả
bưởi to đùng, bắp đùi to bằng con cá trắm, đít chành bành như đít
trâu…Ông quay quắt bắt qua chuyện vợ nhà, chả hiểu sao lấy nhau rồi, gầy
thầy cơm, ăn thủng nồi trôi rế, người vẫn đuỗn ra như con lươn, con
trạch. Ông lân la qua chuyện đánh chén ở ngoài đình, qua câu nói của ông
Chánh tổng Đòan: Các mụ nhà ta đều giống miếng thịt ngan già luộc dối,
đã hoi lại dai như chão.
Từ cút rượu bắt qua mục đầu gà má lợn, ông chánh tổng âm ử: Tái dê chấm
với tương bần, ăn vào nó cứ bần thần như dê, đêm về vợ lạy tỉ tê, tối
mai ta lại tái dê tương bần. Bất thình lình ông tổng Đoàn hỏi ông vậy
chứ con gì càng già càng dai nhanh nhách như đỉa trâu. Chả lẽ lại…con
dê, ông chắc mẩm như cua gạch là…con ngan già chứ còn con của nợ gì nữa.
Ông chánh tổng cười hề hề và ấm ớ hội tề là…là…con vợ ông chứ còn ai
trồng khoai đất này. Vậy mà sau đấy, chả biết vợ nhà ăn gan giời trứng
trâu gì mà người cứ phình ra như cái đụn rơm, và quả tình có khó nhai
như chó gậm xương thật. Thế nên từ dạo ấy, ông cứ để mặc đầu óc lởn vởn
theo khói bếp lam chiều qua mái rạ, qua chuồng lợn. Như ếch vồ hoa mướp,
ông mơ tưởng đến…, ông vỡ bọng cứt mãi mới ra câu thâm nho của các ông
đồ xưa là thê…thê gì ấy nhẩy…Như: Thê bất như thiếp, thiếp bất như tì,
tì bất như đạo, đạo như đạo bất đạo.
Bỗng ông khóai chí tử cười khan, vỗ đùi đét một cái như…bị muỗi đốt với
đạo như đạo bất đạo là trở về những ngày vợ nhà nằm ổ. Ông ngồi buồn gãi
dái, dái lăn tăn cho đến một tối ngáo ra thao thức, co hai cái đầu gối
củ lạc đến tận mang tai. Và ông trằn trọc nghĩ đến thân phận đàn bà con
gái, ông nghĩ quẩn hóa dại, hóa dồ là đàn bà con gái thức được nửa đêm
về tối, chứ ai thức nửa đêm về sáng. Nhưng cái giuộc gái góa lại là
chuyện khác. Khác như thế nào thì ngay sáng hôm sau. Sau khi bắn
ba-zô-ca ở phố quận thì về nhà, người ngợm ông cứ phơn phớn bay bay như
cờ đuôi nheo. Chả hiểu ma đưa lối quỷ dẫn đường thế quái nào, ông cứ nhè
theo lối đi ngoằn ngoèo như vệt trâu đái và nghẹo ngoặt lạc bu nó vào
cửa chuồng lợn. Và nhòm thấy chị phó cũng lại đang lóng ngóng cho lợn
ăn. Thế mới rõ khỉ, mà khỉ thật.
Khỉ một nỗi chị ta lại mặc váy. Phiền thật chứ đâu có rỗi hơi nói chơi.
Vậy đấy. Vậy là ông đâm…ngứa mắt. Từ đằng sau ông tốc váy lên. Ông chả
thấy gì ngoài thấy rõ tổ con chuồn chuồn. Khi không bỗng ở góc chuồng
lợn có tiếng con cộp cộp đực giục giã “ì oạp, ì oạp” gọi con cộp cộp
cái. Thì như đã bảo, đúng là số ruồi. Và ông…”ì oạp, ì oạp” thế chó nào
chả biết nữa mà chị phó nhà ta cứ cắn răng ôm khư khư cái nồi cám. Mồm
miệng chả chịu hở môi cho một tiếng. Thì đã bảo người ta lành như đất
mà. Nói cho đúng ra, chỉ…ư…ư…thôi. Ấy vậy mà cái nồi cám lăn kềnh ra đất
mới…hay chứ lị. Lúc này chị phó mới bật văng ra khỏi miệng câu “Lợn vừa
chứ”.
Ông bụng bảo dạ làm gì mà hoắng lên vậy rồi huýt sáo bỏ đi…về nhà với vợ
nhà đang ở cữ. Ông cho là tất cả mọi sự từ đẩu từ đâu là tại…con cộp
cộp. Nhưng ông chẳng quên con mắt lá răm. Nhưng bố khỉ, lại để quên cái
“ba-toong”. Thế mới hốc.
***
Giờ này, hốc…hay không chửa biết. Vườn rộng ao sâu, ông lắng nghe bà phó
ỉ ôi chửi cả họ hàng hang ổ nhà ông, giọng âm ỉ như cuốc gọi hồn. Ông
nhẩm chừng bà có thể chửi cả buổi. Cứ như cái điệu văn vẻ có tông, có
tích, cứ thượng tổ, hạ tổ nhà hàng xóm đến tàn cây héo lá, mồ mả tổ tiên
nhà ông cũng phải nhẩy dựng đứng lên. Buồn buồn gãi khô búng ghét, ông
chả biết làm gì hơn là nghe cho vui ấy mà:
“…Cha tiên nhân ông nội, ông ngọai, ông dại, ông khôn, đồng môn chi rễ
nhà mày nhé. Mày gian tham đã ăn trộm, ăn cắp con gà nhà tao. Rồi ra,
nhà chúng mày chết một đời cha, chết ba đời con, đẻ non, đẻ ngược, chân
ra trước, đầu ra sau, đẻ sót nhau. Chết mau chết sớm, chết trẻ đẻ ngang
nhé…nhé”.
Đẻ với đái, đến đây thì giời chẳng chịu đất, đất phải chịu giời. Bên này
bà Cửu than thầm: Ối giời cao đất dầy ơi, đúng là giống mồm chó vó
ngựa, đúng là cái con mụ nạ dòng chết bầm chết tiệt này nó chửi gà, chửi
qué đến…thằng cả nhà bà thì phải. Giận bầm gan tím ruột, như muốn đào
mồ đào mả ông cố nội nhà nó lên, nhưng bà lẹo đẹo vào nhà xách cơi trầu
ra làm một miếng cho thấm giọng cái đã. Rồi bà Cửu ngồi bệt xuống bên
hè, vừa têm trầu vừa chửi vọng qua bên kia:
“…Cha tiên nhân tam tứ đại đồng đường nhà mày, đồ quạ tha ma bắt, đồ ăn
gian nói dối, dám đổi trắng thay đen, dám vu oan giá họa cho nhà bà. Bà
truyền bảo ba hồn chí vía cho nhà mày biết: Quân điêu ngoa đi ngang về
tắt, quen thói giăng hoa chim chuột, không chết treo chết chém thì cũng
chết sông chết ngòi, chết đường chết xá, mưa sa gió dập đời mày. Ba vạn
chín nghìn âm binh quen đựng điều đặt chuyện, cũng không cứu nổi cái tội
mỏng môi hay hớt của m..à..y…m…à..y..đấy nhá! nhá!..”.
Nghe đến câu rủa đi ngang về tắt, quen thói giăng hoa chim chuột…, bà
phó rèn mặt đỏ lên phừng phừng, hừng hực như cái lò rèn bốc khói. Bà
cũng bốc, tay vung miệng chửi, chửi đơn, chửi kép, chửi chùm, chửi lợp.
Bà chửi có gai, có ngạnh, cho thỏa chí bình sinh là dân đồng chua nước
mặn nhưng cũng văn tế, văn vẻ như ai. Bà, mồm miệng nước đầy bọt, nước
rãi dẻo quánh như nhựa sung, nhựa mít:
“…Con gà của tao nuôi bằng gạo, bằng thóc, vậy thằng cha nhà mày đã bắt
con gà của tao. Nó là con gà, con qué, nó về nhà mày là con cú, con cáo,
nó mổ gan lòi ruột đứa nào ăn miếng thịt gà nhà tao. Nó là thành đanh
đỏ mỏ rút ruột rút gan nhà mày ra. Mày không thả gà nhà tao ra, tao đóng
ghế 9 tháng 10 ngày, buổi sáng tao chửi, buổi chiều tao tế, buổi trưa
tao hú, buổi tối tao nguyền. Tao rủa cho cây vàng lá, cho quả chột thui,
cho thần trùng đến rút từng khúc ruột cha, ông, vợ, con nhà mày ra…”.
***
Buồn môi ngứa miệng, ông lầu bầu: “Vợ, con nhà mày…”, đúng là vợ dại cái
mang. Số là ông chưa đến cái tuổi…ngũ…ngũ thập tri thiên mệnh, chưa chi
vợ nhà đã nghe thằng cả xúi bẩy khuân cái quan tài bằng gỗ vàng tâm đặt
lù lù ở giữa nhà để báo cô, báo hiếu. Riêng ông chả dại về chầu ông bà
ông vải vội, trăm sự cứ ở chị “Lợn vừa chứ” mà ra. Ông thấy “gần” nhau
cứ dễ như quạ vào chuồng lợn nên ông càng hẻo lánh đến chuồng lợn nhiều
hơn và càng phải bắn ba-zô-ca…nhiều hơn nữa. Khỏe như vâm đâu chả thấy,
cả mà cà cập với chị “Lợn vừa chứ” được mấy nả thì ông ủ dột như canh bí
chiều đông. Rồi tịt mít. Ông đành quên tuốt luốt lối đi ngoằn nghoèo
như vệt trâu đái. Thôi cũng đành, bệnh già như cây hết nhựa. Đèo bòng
thêm là nửa đêm nửa khuya cứ lục đục đi giải xòanh xọach, tim gan phồi
phẻo ắt hẳn muốn ấm ớ gì đây. Nói dại chứ nếu mắt có trắng dã, tay có
bắt chuồn chuồn thì hai mẹ con thằng cả cứ trơ mắt chẫu nhìn nhau, của
khôn người khó, nhà lại độc đinh neo người. Cớ sự này thì ông phải tính,
ấy là tính chuyện kiếm vợ thằng cả. May quá là may. Mới ra giêng đây,
bà Chánh tổng làng “Bùi Dưới” bắn tiếng với vợ ông về cô gái rượu của
họ.
***
Vừa lúc vợ nhà dềnh dàng đi vào săm soi ba cái đầu rau, rồi lại đi ra.
Nhìn dáng đi kềnh càng của vợ nhà. Ông nghiệm ra rằng chả phải vì thuốc
phiện mà ông…liệt…liệt giường, liệt chiếu đâu. Mà theo nhẽ của đất trời
với âm thịnh dương suy. Các mụ vợ bắt đầu phát tướng thì thằng chồng
cũng bắt đầu chả…ngóc đầu lên nổi. Trên thì móm mém nhai không vỡ, dưới
lại chun choăn nhét chẳng vào mà các cụ ta dậy cứ như thật vậy. Chuyện
chéo ngoe dễ hiểu như thế đó. Mà các cụ non quanh ông ai chả mắc chứng
giời đày này. Các cụ ấy dấu nhau như mèo dấu cứt ấy thôi.
Ông đang óc ách đến đây thì bắt gặp bà Cửu ngoài kia đang ngó quanh ngó
quất. Bà đang lầu bầu một mình cái con giời đánh thánh đâm đâu rồi, ra
đây bà chửi cho mục mả cho biết tay. Chẳng cần bà hàng xóm có mặt, bà
oang oang: “…Thứ con gái trốn chúa lộn chồng…”. Bà định băm bổ vào mặt
nó tiếp: “Chồng mày là thứ đàn ông ba đời đi ở đợ...”. Vải thưa đâu che
được mắt thánh, nó…lộn chồng bà thì rành rành ra đấy. Nhưng bà chợt nhớ
ra là thằng chồng nó nhẩy tót lên bàn thờ ngồi ăn sôi nghe kèn từ đời
tám kiếp nào rồi. Nó đâu còn con gái mà là…gái góa. Nên bà bí rị chưa
biết tính sao. Nằm trong này, ông Cửu râm ran cứ nheo nhéo điếc cả lỗ
đít, có chuyện chửi mà…chửi cũng không xong thì
còn nước mẹ gì nữa. Và ông rị mọ tiếp…
Đất Nam Định của ông đây có hai làng sát nhau là làng Bùi Trên và làng
Bùi Dưới. Cả hai làng này có chung một họ Bùi…Chỉ khác một nhẽ làng Bùi
dưới lại…ngọng líu ngọng lo. Nói ngọng cứ đá ngược lên tận mái ngói, đến
quặn cả mồm miệng. Đau nhất là họ lại nhè ngọng chữ “Bù..i..” mới thành
chuyện. Chuyện là gái làng dưới vì vậy mới ế chỏng gọng ra, mới có
chuyện trâu đi tìm cọc, gái duới cứ nhè trai trên mà gá nghĩa tào khang.
Hương ước làng có ghi rành rành ra cả đấy, nói chả ai tin mới rõ khỉ.
Mà cô con gái rượu của bà Chánh tổng, ông biết thừa bứa ra đấy, lớn tuổi
nhầng nhầng, còi cọc cơm cớm như mèo bị kiết lỵ. Người ngợm vừa gầy vừa
khô. Ấy là khô chân gân mặt, các cụ ta xưa dậy đắt tiền mấy cũng mua,
như mua trâu mua lợn ấy thôi. Chuyến trâu đi tìm cọc, ông Cửu không…”đặt
cọc” cũng không xong. Nhưng chả biết cái thằng ôn vật có ưng hay không.
Cứ theo ông chỉ cần vác cái “ba-toong” ghè cho một trận thì nói phải củ
cải cũng phải nghe, vì ông biết thằng con ông sợ bố một phép.
Đụng đến cây gậy chống trời, ông mới hỡi ơi, cũng chỉ vì quên cái
“ba-toong” mà vợ nhà nó biết. Nó gào tướng lên như cha chết mẹ chết
không bằng nên ông đành phải khai tuốt cho yên cửa yên nhà. Trở về
chuyện lấy vợ cho thằng cả, được cái thằng con ông với lũ đàn ông, con
trai cá mè một lứa hết, như cái nơm chòm chọp úp xuống là cũng đâu vào
đấy cả, nên chuyện xem mắt vợ cho thằng con cũng xong tất.
Xong thế nào được, bên kia bà phó rèn cũng vừa bước ra. Bà hất hất cái
đầu ra cái vẻ nghe ngóng động tĩnh. Làm như mình đang điên tiết đây, hai
chân bà giẫm thình thịch xuống đất và dẫy đành đạch như đỉa phải vôi.
Giận mất khôn, chả hiểu nghĩ sao, hai tay nắm gấu váy, bà phó rèn vén
phứa lên như khoe của và há họng tung hê:
“…Tao hú ba hồn bẩy vía thằng đàn ông, ba hồn chín vía con đàn bà bắt
con gà nhà tao. Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc
văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn. Tao gọi ông cầm cờ xanh
đứng đầu ngõ, ông cờ đỏ đứng sau nhà, ông cờ vàng dựa bên hữu, ông cờ
trắng nghiêng bên tả, yểm cho nhà mày đẻ con ra thì ngược, sinh cháu ra
thì ngang vì dám cả gan ăn con gà mái nhà tao…”.
Vướng víu vào mắt ông là bà phó vén phứa váy lên…Bỏ mẹ…lại chình ình cái
tổ con chuồn chuồn. Thề trước ngọn đèn…thuốc phiện nào ông có tội vạ
gì. Ông búng lưỡi, cũng chả phải vì người “Lợn vừa chứ”..ư..ư…đâu. Vì Ta
khác Tây, bên trong Tây nó còn chút vải thừa bằng bàn tay để che mưa
che nắng. Còn Ta thi…thì…trống toang hoác mới điên người. Nói trắng ra
trăm sự ở…”cái váy” cả.
Bà Cửu bên này ngứa mắt bà phó rèn bên kia hai chân giẫm thình thịch. Bà
không thể để con mụ tai ngược mồm loa mép giải này lên chân được nữa.
Trên rừng có sơn lâm, dưới sông có hà bá, phải cho mụ này một mẻ, phải
trị nó thẳng tay. Đúng là cái thứ xanh vỏ đỏ lòng, mới hôm nào đây lẻo
mép nhà bác với nhà em. Nào là dạo này nhà em túng bấn lắm, đám Bùi Dưới
ấy em chẳng nhờ vả được ai, trăm sự nhờ bác, nay vay rá gạo, mai mượn
rổ khoai. Mà bây giờ giở mặt thớ lợ, nỏ mồm chua ngoa, nó muốn trêu
ngươi ai đây mà độc mồm, độc miệng thế không biết, hả giời.
Thế là ba máu sáu cơn bà nổi lên, bà Cửu bỏ cơi trầu xuống, khăn vuông
vắt vai, một tay chống sườn, một tay vung vẩy. Bà bước tới bước lui trên
mặt đất thô. Cứ mỗi bước đi, ngón tay trỏ cong khoằm như mỏ vẹt, lại mổ
đôm đốp sang bên kia xỉa xói. Như được thuê chửi mướn hay thuê đòi nợ
chiều ba mươi tết với năm cùng tháng tận. Bà chửi toang hóac: “Tổ cha
chúng mày…”. Bà cũng bắt chước con nặc nô, ngừng một chút nghe động
tĩnh, rồi bà lồng lộn, gân cổ như con gà chọi, bà chửi te tái:
“…Cha đẻ mẹ thằng đàn ông, con đàn bà nào quen thói bán không mua chịu,
quên vay đầy giả vơi, đẻ con có mồm nói điêu, có mắt mà nói mò như
mày…Cha đẻ nhà chúng mày nhá… ”.
Vừa làm thêm ngao nữa. Cạnh cái bàn đèn là ông đầu rau nhỏ bằng quả
bòng. Ông thong thả nhấc cái siêu nước trà được hâm nóng từ cái lò than,
những bông hoa lửa bắn ra như pháo hoa cà, hoa cải. Chiêu trà vào cái
chén sành to bằng quả bứa. Ông khẽ cất đầu khỏi cái gối mây, nghiêng
mình hớp một ngụm. Ông hãm khói thuốc từ nãy giờ. Giờ mới nhả ra những
mảng khói xanh nhạt nhỏ, từng đợt, từng sợi mỏng tang như hương tàn khói
lạnh. Ông lơ tơ mơ như cóc ngậm thuốc lào và rị mọ đến ngày nào. Ấy là
cái ngày ông như cờ phướn phất phơ. Đang định rẽ phải về nhà thì lại
theo lối đi ngoằn ngoèo như vệt trâu đái. Không gặp trâu lại gặp…“Lợn
vừa chứ”. Khẽ trở mình cho đỡ ê ẩm…Ông bâng khuâng, bâng quơ...
Chẻ hoe trắng phớ được nhăm câu, bà Cửu đã đứ đừ, mặt tái dại như dây
khoai kiệt nước. Bà Cửu ngừng một chốc, và thở rốc. Bà phó nề cũng chẳng
hơn gì, đến phiên mình, một tay vừa mệt mỏi vung lên nửa chừng, cái yếm
khi không lỏng…dây, tuột xuống phơi bày cái rốn lồi bằng quả sung. Cờm
rớm để lộ cặp vú như hai quả mướp già đầy gân xanh, gân đỏ. Bà phó nề
cắt ngang xẻ dọc đứt quãng, rời rạc:
“…Hôm nay tao chửi một, ngày mai tao chửi hai, tao chửi cho chúng mày
hóa điên hóa cuồng, tao rủa suốt tháng liên miên không ngừng, năm này
qua năm nọ. Bây giờ tao mệt quá rồi, tao vào lo cơm nước, muốn sống thì
phải thả gà tao ra, lạy tao hai lạy, tao tha cho mày. Nếu không, ngày
mai tao tế sống chúng mày cho mà biết, chúng mày hãy vén màng tai, gài
mái tóc, chặt hàng rào cho thấp mà nghe tao chửi: Bớ con nào bắt gà nhà
tao thì đẻ con không có lỗ đít. Bớ…”.
Bầm vập vào mặt ông là hai bầu vú xẹp lép…Bất giác ông tặc lưỡi một
cái... Mặt trời ngả gần con sào, cuộc đối đáp đến hồi giống phường chèo.
Khi chậm, khi nhanh. Lúc ngừng, lúc nghỉ. Lên cao, xuống thấp. Vung tay
đá chân đến gần giờ ngọ lúc nào bà phó rèn quên tiệt…bây giờ tao mệt
quá rồi, tao vào lo cơm nước. Bà khản cổ, giọng rè đặc, tóc xổ ra, mắt
đỏ ngầu, sùi bọt mép, thở hổn hển và ngồi bẹt xuống đất.
Bà Cửu cũng vừa nghỉ mệt xong và đang ngong ngóng đợi đến phiên mình.
Cũng ngay khi ấy, có tiếng gà gáy te te giữa trưa, bà Cửu nhớ lại lời
chồng bà là con gà biết những cái người không biết. Như gà biết gáy giờ
tí, giờ dậu. Gáy ròn rã là nắng, khào khào là mưa. Người chỉ biết sau
con gà là gáy giờ ngọ, thế nào trong làng cũng có đàn bà…chửa hoang và
bà như vỡ nhẽ ra…ngọ gần với...với…
Bà Cửu chợt nhớ ra bà hàng xóm kia tên Dần. Thế là bà gân cổ lên…dần cho
con đĩ rạc một trận. Báo đời cho con đĩ gầy này biết tay bà. Bà lộn mề
ứa gan, giật phắt cái khăn vuông vứt tọet xuống đất, bà chửi vỡ làng vỡ
nước, bà tế sống nhà chúng nó:
“…Có là…là… hùm, là hổ thì cũng chui từ cái lỗ kín của đàn bà mà ra. Từ
ông ba mươi đến con thối thây, thối xác cũng chẳng thóat được cái lỗ rò
ấy. Đời con đời cháu nhà mày cũng ở cái giống ấy mà chui ra. Này, bà báo
đời cho mày biết nhá, con đĩ gầy, đĩ rạc, con đĩ chửa hoang…”.
Nghe đến “chửa hoang”, ông giật thót người vì…hú vía. Đảo qua tít lại,
ông hồi tưởng đến…buổi trưa hôm ấy. Rồi ông đẩy đưa tới chiều hôm qua
thằng cả luộm thuộm áo dài “ba-ga”, quần trúc bâu, ắt hẳn lại thậm thụt
xuống làng Bùi Dưới điếu đóm như mấy chuyến trước, lúc rổ na, khi quả
mít. Ông biết tỏng cái thằng say gái này đang bám ả như cua cắp. Con
giống cha nhà có phúc, phúc đâu không thấy, dám…như ông lắm ạ. Mẹ bố nó
chứ, chứ trứng đòi khôn hơn rận, đến bố mày đây còn xém chết nữa là…Thế
là ông vặc thằng con mới nứt mắt ra đã tí tỡn, sướng con cu mù con mắt,
có ngày…trắng mắt ra. Thằng con mắt trắng như mắt lợn luộc, ngóac cái
mồm: Bố đay gì tôi. Bố nói gì tôi chả hiểu sất. Rồi bỏ đi một nước…
***
Đang lất phất đến đây, “Lợn vừa chứ” mặt không còn nhơn nhơn ra nữa với
con mắt lá răm. Chợt có tiếng con cộp cộp đực giục giã... “Lợn vừa chứ”
thộn mặt ra, vẩu môi lầu bầu…Ông không muốn nghe nhưng nó cứ bò vào tai
ông với tiếng đực tiếng cái nào là đồ ăn cháo đái bát này kia. Tới cái
thứ đàn ông qua sông dí bòi vào sóng kia nọ. Hóa ra “Lợn vừa chứ” không
chửi vì mất gà mà nhè ông chửi...Chưa nghĩ hết câu, ông thấy “Lợn vừa
chứ” dóng mỏ…chửi lại từ đầu mới rõ cơ khổ ông cơ chứ:
“…Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng
bế cái hài, thằng nhai thủ lợn. Con gà nó ở nhà tao nó là con gà, nó
sang nhà mày nó là thần đanh đỏ mỏ...”.
Hóa ra “Lợn vừa chứ” chửi ông thật mới đau. Vừa gãi bẹn sồn sột, ông vừa
thông điếu, thông manh ra rằng bấy lâu nay ông chả hiểu quái gì về đàn
bà, con gái cho mấy, mới quen thì rằm cũng ừ, mười tư cũng gật. Ấy vậy
mà bén hơi thài lài cứt chó rồi thì dính cứng vào nhau như chó dái, ít
lâu sau hóa dại, hóa dồ nào có khác gì…chó dại. Bỗng khi không ông buột
miệng: Tiên nhân cái lũ đàn bà, chúng càng ủng oẳng mình bao nhiêu thì
chúng lại càng bám mình như đỉa đói bấy nhiêu. Mà cái giuộc đàn bà nạ
dòng chúng nó lạ lắm, đất sinh cỏ già sinh tật, họ cứ như chuồn chuồn
khi vui thì đậu khi buồn thì bay nên chả biết đâu mà lần. Ông gật gù,
đúng là chó dại từng mùa người dại quanh năm. Ông lắc đầu lan man…Mà chả
ai dại gái như thằng con ông, mới chiều hôm qua đây, vừa hỗn láo với
ông “Bố đay gì tôi..”, là cung cúc lỉnh ra đầu ngõ. Nhòm từ xa, nó lum
khum phía đằng trước như giấu giếm gì đó. Với mắt quáng gà của ông thì
dường như hai tay nó củm nủm cùm nụm…cái bu gà thì phải. Khỉ thật, chẻ
tre không bằng ve gái, ai lại thằng nỡm đi ve gái với gà cơ chứ.
À mà dám chị…gà mái xám lắm ạ. Ông thốn người lại…
Ông thốn người thêm cái nữa với những lao xao…Vì bắt gặp “Lợn vừa chứ”
đang đi vào. Bỗng quay lại, mặt mũi nhẹ hẳn đi với con mắt có đuôi. “Lợn
vừa chứ” vớt vát:
“…Cha năm đời mười đứa nào bắt gà của bà thì thò mặt ra nghe bà chửi
thêm nhé! Mày bắt gà, mày vặt lông, mày luộc, mày nấu, mày nướng. Cho
vợ, cho chồng, cho con, cho cái, khi khi khú khí với nhau nhá! Mày có
khôn hồn thì trả ngay cho bà, nếu không ngày rằm, ngày một bà trồng cây
chuối ngược, bà... “.
Rồi thì “Lợn vừa chứ” cắp cái nia lon ton đi vào mất hút.
Đất trời lặng ngắt như tờ, còn lại chỉ là tiếng rì rào của cỏ cây. Ở
trong này, ông cảm thấy trống vắng đến dớ dẩn. Bỗng con thạch sùng đi
hoang tặc lưỡi một cái “tách”. Cành lá chanh ngả nghiêng trước gió, câu
chửi “Mày bắt gà, mày vặt lông, mày luộc…” như mời mọc đâu đây. Ông
chẳng biết làm gì hơn là nghe ngóng, đợi chờ. Ông không nghe thấy con
cộp cộp đực ì oạp gọi con cộp cộp cái nữa. Vắng lặng đến nhạt thếch
người. Buồn tình ông thò tay gãi háng, gãi bẹn, ghếch đầu đảo qua cái
quan tài gỗ vàng tâm, ngước mắt lên bàn thờ. Mẹ ơi, ông như nhìn thấy
chính ông đang ngồi nấp sau bát nhang, và thấp thỏm nhìn trộm…con gà
khỏa thân.
BB&LIÊM * TRỊNH CÔNG SƠN
Trịnh Công Sơn - Một loại ký sinh trùng
Tác giả: BB & Liêm
Ngày đăng: 17/02/2016
Sau khi miền Nam bị Cộng sản (CS) cưỡng chiếm thì bao nhiêu sự thật lịch sử đã lần lượt được phơi bày, nhưng chân tướng của Trịnh Công Sơn vẫn còn được một số người cố gắng che dấu. Những người này cố tròng vào cổ Trịnh Công Sơn cái vòng hào quang "Quốc Gia", họ tiếp tục ca tụng Trịnh Công Sơn là một người quốc gia !
Nhưng có một sự thật hiển nhiên mà họ không thể chối cãi được, là trong suốt cuộc chiến của người Việt Quốc Gia chống lại sự xích hoá của CS Quốc tế, được thực hiện bởi tay sai đắc lực là CS Hà Nội; Trịnh Công Sơn là một tên trốn lính. Chẳng những trốn lính, chẳng những đứng bên lề cuộc chiến, không hề chiến đấu bảo vệ chính bản thân của mình trước làn sóng xâm lăng của CS, Trịnh Công Sơn còn tiếp tay cho công cuộc xâm lăng của CS bằng những bài ca phản chiến !
Vào ngày 30.4.1975, Trịnh Công Sơn đã lớn tiếng minh định anh ta không phải là người Quốc Gia khi hát bài Nối Vòng Tay Lớn trên đài phát thanh Saigon để "chào mừng cách mạng thành công" vào lúc xe tăng CS Bắc Việt vừa tới dinh Độc Lập !
Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh Saigon hát bài "Nối vòng tay lớn" vào thời khắc đen tối nhất của lịch sử dân tộc 30.04.1975
Nguyễn Đắc Xuân, một người bạn rất thân của Trịnh Công Sơn, một tay đao phủ của thành phố Huế trong biến cố Tết Mậu Thân 1968, (đệ nhất đao phủ là Hoàng Phủ Ngọc Tường, cũng là bạn rất thân của Trịnh Công Sơn - Trịnh Cung và Đinh Cường), viết rằng:
"Từ sau ngày Trịnh Công Sơn qua đời, nhiều dư luận trong và ngoài nước có khuynh hướng lôi anh về phía bên này hoặc đẩy anh về phía bên kia. Đối với Trịnh Công Sơn ai lôi anh thì cứ lôi, ai đẩy anh thì cứ đẩy, kệ. Trịnh Công Sơn là Trịnh Công Sơn, ai muốn hiểu sao cứ hiểu. Tuy nhiên cuộc đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã thuộc về lịch sử, mà đã là lịch sử thì bên này hay bên kia phải được chứng minh bằng tư liệu, tư liệu thành văn và tư liệu sống, nói có sách mách có chứng. Không thể phát ngôn về Trịnh Công Sơn theo cảm tính hay theo một định kiến nào ..."
(Trịnh Công Sơn, có một thời như thế - Nguyễn Đắc Xuân - nhà xuất bản Văn Học).
Dựa theo những "tư liệu thành văn và tư liệu sống", Nguyễn Đắc Xuân đã trích lại những điều sau đây do chính Trịnh Công Sơn viết xuống trong quyển sách vừa dẫn:
1. Thời kỳ trốn lính
Trước khi sống qua một thời kỳ bất ổn định, tôi đã từng có được hai năm sống thong dong hợp pháp như tất cả mọi người đàng hoàng đứng đắn trên mặt đất. Muốn được thế, tôi đã phải đánh đổi bằng gần sáu mươi ngày nhịn đói tuyệt đối trong hai năm (mỗi năm 30 ngày liên tiếp trước khi trình diện) để đạt được cái mức độ không đủ tiêu chuẩn của một người lính. Nhưng muốn xuống kílô nhanh còn phải không ngủ và uống thêm điamox là một thứ thuốc rút bớt nước trong các tế bào ra. Qua năm thứ ba thì không ra trình diện nữa vì cảm thấy không đủ sức khoẻ để lặp lại cái chế độ ăn uống không có thực phẩm ấy nữa. Trốn lính gần như là một cái "nghề" đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh niên miền Nam lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy, dù được nhìn dưới một góc độ nào đó còn mang tính thụ động, vẫn phải được nhắc nhở đến như một nốt nhạc trong trẻo đã ngân lên trong một giai đoạn u ám, nhiễm độc, giữa những đô thị miền Nam.
Tôi đã sống lang thang như một kẻ vô gia cư, vô định trú thứ thiệt. Thời gian không xê dịch nhiều, chỉ kéo dài khoảng ba năm, đó là lúc tôi nhập cư cùng một số sinh viên trốn lính khác đã có mặt trong những căn nhà tiền chế tồi tàn bỏ trống ở khu đất rộng sau trường đại học Văn khoa. Ở đây có một lợi thế là rất hiếm bị khám xét. Vào thời điểm ấy, trên khoảng đất trống lại mọc thêm một cái trụ sở Hội Hoạ Sĩ trẻ bằng gổ, hiện đa số hoạ sĩ vẫn còn có mặt trong thành phố. Giấc ngủ của tôi cứ tuỳ nghi hoán chuyển từ trên cái ghế bố trong túp lều này qua cái mặt nền xi măng của trụ sở hội nọ. Việc ăn uống đã có hàng quán dọc đường gần đó. Rửa mặt đánh răng thì mỗi sáng vào phòng vệ sinh của những quán cà phê quen thuộc, chỉ có việc mang theo khăn, kem và bàn chải đánh răng.
Thế đấy, nhưng chính những năm này là những năm sôi động nhất của đời tôi.
Sống trong tình trạng bấp bênh như thế tôi vẫn phải làm việc không ngừng để sống. Tôi vẫn viết đều tay và vẫn tiếp tục đi hát. Những ca khúc của tôi được in ra từng tờ rời và từng tuyển tập. Phụ trách công việc in ấn và phát hành đã có người em ruột của tôi, cũng cùng trốn lính, chăm lo. Việc in ấn càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi có lệnh tịch thu của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của tôi. Cảnh sát lúc bấy giờ được lệnh vào tận các nhà in để truy lùng. Thế là phải đổi kế hoạch. Thay vì in trong một nhà in, nay phải rải ra trong ba bốn nhà in khác nhau. Tịch thu nơi này còn nơi khác, và dĩ nhiên, chuyện đi đứng không phải dễ dàng. Đi từ một nhà in ở vùng Sài Gòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi.
Sau lệnh tịch thu, tất cả báo chí trong và ngoài nước đều đưa tin. Các hãng thông tấn và truyền hình truyền thanh nước ngoài ào ạt đổ xô về nơi ăn chốn ở rất là "híp pi" đó của tôi càng lúc càng đông. Mỗi ngày trung bình ít lắm cũng phải ba lần phỏng vấn, thu hình, thu mặt. Tôi bỗng trở nên người nổi tiếng bất đắc dĩ. Ban đầu cái sự kiện này cũng mang đến cho tôi chút niềm vui nhưng càng về sau càng trở thành một tai nạn. Họ săn đuổi tôi đến mọi chỗ lánh mặt xa xôi nhất. Từ Sài Gòn ra Huế, chỉ vài hôm sau đã thấy có mấy mạng người đủ các màu da, xứ sở khác nhau xuất hiện ở cửa. Đời sống bỗng chốc mất đi cái tự do được quyền không nói năng, được quyền ngồi yên tĩnh một mình mà suy ngẫm cho đến nơi đến chốn bao nhiêu điều mình chưa biết trong cõi đời rộng lớn này. Tôi phải sống những khoảnh khắc phù phiếm trên báo chí và trước ông kính ấy cho đến mười ngày trước ngày thành phố được hoàn toàn giải phóng. Giờ đây sau hai mươi năm thành phố đã mang tên Bác, thỉnh thoảng vẫn còn những cuộc phỏng vấn của người nước ngoài, nhưng nó không còn là một nỗi ám ảnh kinh hoàng nữa.
Nghĩ lại chuyện cũ, tôi biết rằng những cái đó có được là do tấm lòng ưu ái của quần chúng đối với mình. Sức mạnh tình cảm của đám đông quần chúng là một trong những tấm khiên che chở mình trước những mối đe dọa và là những kèo cột chống đỡ tinh thần và tình cảm mình được vững vàng trước bao nhiêu khó khăn phức tạp của cuộc sống.
Nhẩm tính lại, tôi đã hùn hạp tất cả vốn liếng của mình vào cái đại gia đình trốn lính vừa tròn chẵn mười ba năm.
Đã qua hẵn rồi cái thời của "bèo giạt mây trôi", của những giấc ngủ bị săn đuổi.
(sđd tr. 179-183)
2. Thuở ấy Nhị Xuân, em ở nông trường, em ra biên giới
Đêm Nhị Xuân không còn thấy rõ màu đất đỏ và những bãi mía, bãi dứa cùng lán trại cũng khoác một màu áo khác. Mưa xuống. Hội trường dã chiến như một cái rá lọc nước thả xuống những giọt dài. Chúng tôi (Phạm Trọng Cầu, Trần Long Ẩn và tôi ...) cùng anh em Thanh niên Xung phong nam nữ hát với nhau dưới một bầu trời được trang trí lạ mắt như thế. Đêm cứ dài ra và những tiếng hát cứ dài ra. Nước ở con kênh dâng lên. Mặc kệ. Cứ đứng, cứ ngồi, cứ hát. Gần khuya có cô gái Thanh niên Xung phong nhanh nhẹn vui tươi mang cho cho chúng tôi những bát cháo gà trước khi chia tay. Những khuôn mặt ấy, tôi đã quen đã nhìn thấy nhiều lần. Một giờ khuya, lên xe giã từ Nhị Xuân, lòng còn âm vang tiếng cười, tiếng hát. Những bàn tay siết chặt, những cái vẫy trong đêm không nhìn thấy. Quá giờ giới nghiêm, xe dừng lại giữa đường, không được vào thành phố. Ngủ lại chờ sáng. về lại thành phố, trở lại công việc thường ngày. Nhưng ở Nhị Xuân, có hai mươi người con gái Thanh niên Xung phong đi về phía khác. Mấy tháng sau, tôi được tin tất cả hai mươi khuôn mặt tôi đã nhìn, đã gặp đêm hôm nào ở Nhị Xuân cùng nhau ca hát, đã hy sinh ở biên giới Tây Nam. Những tiếng hát giọng cười còn đó. Những cây mía cây dứa các bạn trồng vẫn còn đó, vẫn lớn lên. Tôi bồi hồi nhìn ra quãng trời rộng và thấy lại trong trí nhớ những con người trẻ trung ấy. Trong những trái tim ấy có gì khác chúng ta không. Trong giấc ngủ ban đêm, trên những vầng trán khoẻ mạnh ấy, đã có những cơn mơ nào. Chúng ta nói quá nhiều đến sự tròn đầy và chúng ta quên đi sự mất mát. Chúng ta vẽ ra lắm nụ cười mà quên đi những nỗi ngậm ngùi riêng tư. Những người bạn nhỏ đã ra đi thật vĩnh viễn, nhưng nỗi nhớ thương về họ chưa được hát đủ như một nỗi đau. Còn thiếu sót biết bao nhiêu điều chưa nói hết lúc ở nông trường và càng chưa nói được một mảy may lúc ra biên giới. Làm một điều gì chưa đến chốn với một người không còn nữa, có phải cũng đã là phạm tội với cuộc đời rồi hay không. Xin hãy tha thứ những dòng chữ óng mượt, những sắp xếp tinh khôn, những cân nhắc đong đưa xuôi chèo thuận lái.
(Sđd, chương V: Phát thảo chân dung tôi - Trịnh Công Sơn. Trang 186-188)
3. Anh Sáu Dân với Trịnh Công Sơn
Hơn hai mươi năm trước, đồng chí Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Văn Kiệt "rủ" Trịnh Công Sơn và tôi đi khảo sát đất Trị An. Từ chuyến đi ấy Trịnh Công Sơn và tôi cũng như một số bạn bè gọi đồng chí Bí thư bằng anh Sáu, anh Sáu Dân rất thân mật. Chuyến đi ấy anh mang đến cho hai đứa tôi về giấc mơ điện "Trị An". Còn anh, anh không chỉ mơ mà khẳng định quyết tâm và bắt tay tổ chức hiện thực.
Buổi chiều trên đường về mưa gió mịt mù. Trịnh Công Sơn và tôi ngồi trên chiếc xe jeep.
Về đến nhà anh Sáu, áo của Sơn đổi màu mưa bụi. Còn tôi, nhờ có chiếc áo gió, áo trong của tôi còn sạch. Anh Sáu bảo chúng tôi tắm, anh Sáu mang chiếc áo của anh cho Sơn. Chiếc áo ấy Sơn vẫn để trong tủ áo của mình, ít ai biết.
Anh Sáu đánh giá và bình phẩm ca khúc của Trịnh Công Sơn theo cách của anh. Với tôi anh Sáu là một nghệ sĩ, nghệ sĩ với con người chiến sĩ của anh. Không hề có khoảng cách về tuổi tác, về cương vị xã hội, hai người nghệ sĩ ấy đã gặp nhau, đã trở thành một đôi bạn chia sẻ nhiều nổi niềm không thành lời, không thành tiếng. Những năm khó khăn, cơm độn bo bo, có lần anh Sáu gởi gạo đến gia đình Trịnh Công Sơn.
Có một lần anh Sáu tâm sự với Sơn "Anh em trí thức ở thành phố mình bỏ đi nhiều quá. Mỗi người mỗi cương vị, làm sao giữ anh em lại, cùng xây dựng đất nước". Sau đó Trịnh Công Sơn viết ca khúc "Em còn nhớ hay em đã quên". Lần thứ hai, anh Sáu nói với Sơn "Trong lúc khó khăn này, làm sao mọi người đều có niềm tin, niềm vui, vượt lên khó khăn để xây dựng Thành phố ...". Sau đó, Trịnh Công Sơn cho ra bài "Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui".
Sau này anh Sáu về Trung Ương, ở cương vị Phó Thủ Tướng, Thủ Tướng, Cố Vấn BCH Trung Ương Đảng, dù ở cương vị nào, mỗi lần về Sài Gòn, ngoài công việc, anh hay gặp gỡ lại bạn bè. Trong những cuộc gặp gỡ ấy, thường có Trịnh Công Sơn. Những cuộc gặp ấy bao giờ Trịnh Công Sơn cũng ngồi gần anh Sáu, như không thể cách xa nhau. Theo tôi hiểu, ít có người Việt Nam nào đi khắp mọi miền như anh. Anh đến cả những vùng sâu vùng xa đến nỗi, chánh quyền địa phương cũng chưa đặt chân đến.
Anh kể với chúng tôi về những chuyến đi. Rồi ai có sáng tác nào mới, hát cho anh nghe. Trần Long Ẩn chuyên hát lời hai, lời ba. Nguyễn Duy đọc thơ, Trịnh Công Sơn chưa có bài mới thì tuỳ hứng. Một lần chị Sáu (vợ anh Sáu) nói "Sao mà tôi thích cái câu - sỏi đá cũng cần có nhau - sâu xa quá !". Thế là Trịnh Công Sơn cầm đàn hát "Diễm xưa". Thật khó có người nào hát hay bằng Sơn hát về mình.
Có một lần, tôi kể với Trịnh Công Sơn, anh Sáu nói với tôi rằng anh Sáu vừa nghe đài Hoa Kỳ hai buổi lúc 5 giờ 30 sáng, đài Hoa Kỳ bình luận về ba nhạc sĩ lớn của Việt Nam: Văn Cao, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn. Đài Hoa Kỳ bình luận, ca từ của Trịnh Công Sơn là lời của phù thuỷ. Họ không giải nỗi ý nghĩa nhiều tầng, nhiều góc ca từ của Trịnh Công Sơn, nên đành phải nói là lời của phù thuỷ. Anh Sáu thích lắm ! Trịnh Công Sơn không ngạc nhiên nhiều về lời bình của đài Hoa Kỳ mà ngạc nhiên: "Anh Sáu theo dõi kỹ vậy à ? Thế mà anh em mình không ai biết".
Anh Sáu quý trọng tài năng của Trịnh Công Sơn và rất yêu con người và tính cách của Sơn có khi hồn nhiên như trẻ thơ.
Có một đêm, anh Sáu rủ Sơn và tôi đến chơi. Anh Sáu mang chai Mao Đài đãi hai chúng tôi. Sơn xỉn. Thế là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bắt đầu dạy Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm chánh trị. "Anh đi Nhật mà không gọi em là không chính trị. Nhật họ quý em lắm. Anh đi nước ngoài anh phải thế này, thế kia, thế nọ ...". Anh Sáu và tôi cứ cười, Sơn thì vẫn cứ thao thao.
Hôm sau tỉnh rượu, tôi kể lại với Sơn, Sơn ngửa mặt cười:
- Có thật vậy à ? Anh Sáu có giận mình không ?
- Không ! Anh Sáu vui !
- Lần sau nhớ nhắc mình nhé !
Tôi thầm nghĩ, Sơn phải là Sơn nhắc làm gì ?
Vào một ngày cuối tháng ba năm nay, tôi gặp anh Sáu, anh Sáu hỏi thăm Sơn. Tôi báo anh, Sơn bịnh nhiều, Sơn đang cấp cứu trong bịnh viện. Anh nói:
- Mai mình đi Hà Nội, sau Đại hội Đảng mình về, mình thăm Sơn, các em Sơn. Xem nước ngoài nào chữa được Sơn, mình tạo điều kiện để Sơn đi.
Nhưng không kịp nữa, chiều ngày 01.04.2001 tôi gọi điện thoại cho anh "Anh Sáu ơi ! Sơn mất rồi ...". Anh hỏi, anh nói nhưng tôi không nhớ gì, chỉ nhớ "Đau lòng quá !" và chị Sáu kêu lên "... buồn quá ...".
Buổi chiều ngày 03.04.2001, vào 18 giờ, tôi nhận được điện thoại của anh, anh chị đi thăm mộ Trịnh Công Sơn đang trên đường về, hẹn tôi ở nhà Trịnh Công Sơn.
Buổi gặp này có anh Sáu, chị Sáu, các em của Trịnh Công Sơn, anh Phạm Phú Ngọc Trai và tôi. Anh hỏi những ngày cuối cùng của Sơn ... Anh nói:
- Những năm sau này, Sơn yếu nhưng sức sáng tác của Sơn rất dồi dào. Mỗi lần gặp lại là Sơn có sáng tác mới. Ca từ trong ca khúc sau này của Sơn càng thâm thuý. Ai nghe cũng thấy mình ở trong ấy. Sơn đi là một mất mát lớn, không chỉ cho nền âm nhạc nước nhà mà là còn sự mất mát nhiều mặt của nền văn hoá Việt Nam. Thương và tiếc, tiếc quá ! Một mất mát lớn, rất lớn.
Anh Phạm Phú Ngọc Trai thêm một vòng thông tin: "Nước ngoài đánh giá Trịnh Công Sơn không chỉ là một danh nhân Việt Nam mà còn là danh nhân thế giới". Anh Sáu trầm ngâm khẽ gật gù.
Tôi nói: "Lúc sinh thời Sơn vắng mặt chỗ này chỗ kia, nhưng khi Sơn ra đi, Sơn có mặt khắp mọi nơi". Chúng tôi đều gặp nhau trong ý nghĩ về Sơn.
Có một lần nhà thơ Nguyễn Duy nói với tôi: "Với anh Sáu thì mình phục rồi. Riêng tôi có điều phục nữa, anh Sáu là người rất dí dỏm, người biết đùa là người trẻ, người thông minh, mình là người thích nói đùa, mà nhiều khi mình đối đáp không kịp anh ấy !". Đúng như Nguyễn Duy nhận xét. Lần nào gặp anh, theo từng câu chuyện, lúc nào anh cũng rạng rỡ, nụ cười, giọng cười của anh như kéo mọi người gần nhau.
Buổi gặp gỡ chiều này, tôi ngồi bên anh suốt hai tiếng đồng hồ, tôi không thấy anh cười. Tôi có cảm tưởng Trịnh Công Sơn đã mang theo nụ cười của anh. Anh Sáu buồn, buồn lắm, Sơn có biết không.
05.05.2001
Nguyễn Quang Sáng .
(Trịnh Công Sơn, người hát rong qua nhiều thế hệ - Nhà xuất bản Trẻ, tr. 173-175)
Lý Quý Chung, một nhà báo và là một dân biểu Việt Nam Cộng Hoà, sau ngày 30.04.1975 đã chính thức phô bày bộ mặt thật, có viết về hai chữ "gia nô" như sau:
"Ở miền Nam trước 1975, một người chỉ cần nói đọc báo nào, nghe nhạc gì thì biết ngay người đó là ai, thái độ của người đó đối với chế độ Thiệu và người Mỹ như thế nào và thái độ của người đó đối với cuộc chiến tranh ra sao ? Có báo gia nô ( đó là cách gọi của người Sài Gòn trước 1975 đối với loại báo chí của chính quyền Thiệu hoặc theo phe Thiệu) ...."
(TCS MTNT tr. 210)
Bài viết của Nguyễn Quang Sáng ghi lại nguyên nhân ra đời của hai bản nhạc "Em còn nhớ hay em đã quên" và "Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui". Nguyễn Quang Sáng cho biết anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt chỉ mới nói vài lời mà Trịnh Công Sơn đã lãnh hội được ý của anh Sáu muốn cái gì và Sơn tự biết mình phải làm cái gì ! Nói theo cách của Lý Quý Chung, đây đúng là hành vi của một "gia nô". Thiên tài âm nhạc Trịnh Công Sơn sau 1975 đã tự biến hình thành một nhạc - nô viết nhạc theo ý muốn của "trên" để đáp ứng cho nhu cầu tuyên truyền.
Cũng qua bài viết của Nguyễn Quang Sáng, độc giả còn được nhìn thấy cung cách và thái độ của thiên tài âm nhạc họ Trịnh đối với anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt. Cái thái độ ấy phải gọi thế nào cho đúng ? Bưng bô ? Liếm gót ?
Riêng cái cung cách của một cán bộ tuyên truyền thì được Trịnh Công Sơn thể hiện rất rõ qua những lời sau đây: "việc in ấn càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi có lệnh tịch thu của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của tôi ... phải rải ra trong ba bốn nhà in khác nhau .... chuyện đi đứng không phải dễ dàng ... đi từ một nhà in ở Sài Gòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi ...".
Nếu chính quyền Nguyễn Văn Thiệu tịch thu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của Trịnh Công Sơn, thì chính quyền nào cấp giấy thông hành cho ca sĩ Khánh Ly sang Nhật hát bản Diễm Xưa của họ Trịnh tại Hội chợ Quốc tế Expo Osaka năm 1970 ? Chẳng lẽ đó là chính quyền Hà Nội ?
Khánh Ly hát "Diễm Xưa" lời Nhật trước Trụ sở Ngân hàng Việt Nam tại Osaka trong chương trình "Ngày Việt Nam" tại Hội chợ Quốc tế Expo 1970
Nếu chính quyền ông Thiệu ra lệnh tịch thu toàn bộ các tập ca khúc, thì tại sao các tập ca khúc của Trịnh Công Sơn với hình bìa do Trịnh Cung, Đinh Cường vẽ, vẫn được bày bán công khai tại các nhà sách ở Sài Gòn, ai muốn mua bao nhiêu cũng có ?
Nếu chính quyền ông Thiệu tịch thu toàn bộ băng nhạc thì tại sao "nhạc Trịnh" vẫn vang dội tại các quán cà phê ở Sài Gòn, tại các câu lạc bộ quân trường ? Khánh Ly vẫn nhởn nhơ trình diễn nhạc Trịnh tại Queen Bee hàng đêm, và nhạc Trịnh vẫn được hát tại câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc trong trại Phi Long - Tân Sơn Nhứt vào mỗi cuối tuần ?
Và đây mới là chuyện lạ bốn phương: "đi từ một nhà in ở Sài Gòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi ...". Đây là thời điểm nào ? Trước 30 tháng 4 năm 1975 hay sau ngày "giải phóng" ?
Chính quyền Thiệu đã đặt nhiều trạm kiểm soát như thế, mà người em ruột của Trịnh Công Sơn phụ trách phần in ấn và phát hành thường lui tới ba bốn nhà in hàng ngày mà vẫn không bị cảnh sát bắt vì tội trốn lính ?
Căn cứ vào những tài liệu "thành văn" và tài liệu "sống", hầu như ai cũng biết rằng, thiên tài âm nhạc của họ Trịnh có cơ hội nẩy nở và thăng hoa là nhờ môi trường tự do, khai phóng của miền Nam dưới hai thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hoà. Chính nhờ sự rộng lượng bao dung của chế độ Việt Nam Cộng Hoà và sư che chở của một số sĩ quan cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà (QLVNCH) mà họ Trịnh mới sáng tác được trên dưới 600 nhạc phẩm. Cũng chính chế độ Việt Nam Cộng Hoà đã đem bài Diễm Xưa đến Hội Chợ Quốc Tế Osaka 1970 để rồi họ Trịnh mới chiếm giải nhất về Dân Ca và được người Nhật thực hiện trên đĩa vàng. Bài hát Nối Vòng Tay Lớn được sử dụng trong các buổi sinh hoạt, họp mặt của thanh niên, sinh viên ...
Cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương (1933 - 1968, thứ 2 từ phải qua), một trong những ân nhân đã cưu mang che chở cho Trịnh Công Sơn
Tóm lại, danh vọng và tiếng tăm mà họ Trịnh có được là nhờ ở chế độ Việt Nam Cộng Hoà và những sĩ quan cao cấp trong QLVNCH đã cưu mang và che chở cho họ Trịnh. Nói một cách dễ hiểu hơn, Trịnh Công Sơn đã sống như một loại ký sinh trùng trong lòng hai chế độ Cộng Hoà miền Nam.
Ký sinh trùng như giun, sán sống trong ruột của con người, nhờ hấp thụ chất bổ dưỡng tích tụ trong ruột non của con người mà chúng nó mới sống khoẻ sống mạnh và sinh sôi nẩy nở. Thiên tài âm nhạc của Trịnh Công Sơn sẽ không thể phát triển và thăng hoa nếu không ký sinh trong môi trường tự do khai phóng của Việt Nam Cộng Hoà, cho dù đang ở trong giai đoạn chiến đấu chống xâm lăng cộng sản. Và trong lúc Trịnh Công Sơn trốn tránh trách nhiệm, sống như một loài ký sinh trùng giữa đô thị để viết những bài ca phản chiến thì hàng triệu thanh niên cùng lứa tuổi đang hy sinh xương máu tại các chiến trường miền Nam trong từng giây, từng phút.
Trịnh Công Sơn có bao giờ biết xấu hổ khi nhìn thấy những hình ảnh này ??
Đúng với lẽ công bình của trời đất và lương tâm con người, Trịnh Công Sơn đã mang một món nợ rất lớn đối với những người đã chết để họ Trịnh được hít thở không khí tự do cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Những người ấy đã nằm xuống để họ Trịnh được sống, để họ Trịnh được có cơ hội nói ra những lời vô ơn bạc nghĩa và thực hiện những hành vi phản bội trong ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhiều người miền Nam từng coi Trịnh Công Sơn là thần tượng, từng ngưỡng mộ thiên tài âm nhạc của họ Trịnh đã ngỡ ngàng và đau đớn biết bao nhiêu khi nghe Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh kêu gọi mọi người cùng hát bài Nối Vòng Lay Lớn để "chào mừng cách mạng thành công" giữa lúc Sài Gòn đang trong cơn hấp hối !
Nhiều người vẫn chưa quên giọng hát hồ hởi, tiếng vỗ tay đánh nhịp dồn dập đầy sự phấn khởi của họ Trịnh trong ngày uất hận, đau thương và đen tối nhất của lịch sử dân tộc !
Trong ngày đen tối đó, họ Trịnh đã công khai bội phản những người từng cưu mang, dung dưỡng, che chở cho anh ta; minh thị phản bội những "tấm lòng ưu ái của quần chúng đối với mình" !
Nếu Trịnh Công Sơn không phải là một con người có tâm địa phản trắc thì Trịnh Công Sơn là con người gì ?
Hãy nghe Trịnh Công Sơn định nghĩa: "trốn lính là một hành động phản kháng".
Trốn lính vào thời điểm cộng sản đang tiến chiếm miền Nam là một hành động phản kháng, vậy thì Trịnh Công Sơn muốn phản kháng ai và phản kháng điều gì ? Có phải là phản kháng chế độ Việt Nam Cộng Hoà đang dung dưỡng họ Trịnh, phản kháng những nổ lực của quân dân miền Nam đang ngăn chận làn sóng đỏ để bảo vệ cơm no áo ấm cho 25 triệu đồng bào, trong đó có cá nhân và gia đình của Trịnh Công Sơn ?
Thiên tài âm nhạc của Trịnh Công Sơn thật ra không ai phủ nhận, nhưng cái thiên tài ấy đã phản bội chính nghĩa quốc gia, tiếp tay với chế độ phi nhân, tiếp tay với những con người không còn lương tri đã đối đãi với đồng bào ruột thịt như kẻ thù không đội trời chung; cái thiên tài ấy đã góp phần gây ra tai hoạ khủng khiếp cho dân tộc, đẩy đất nước xuống hố diệt vong. Vậy thì cái vòng hào quang Quốc Gia mà ai đó cố choàng cho Trịnh Công Sơn là không có thật, không bao giờ có thật. Thật sự trong tận cùng tim đen, Trịnh Công Sơn cũng không hề muốn đội cái vòng hào quang Quốc Gia ấy.
Một lần nữa, hãy nghe họ Trịnh khẳng định chỗ đứng:
- Con kênh này sẽ kêu gọi những con kênh khác ra đời. Kênh chị, kênh em sẽ mọc lên cùng khắp để góp phần lợi ích cho những con người mới trong một thời đại mang tên Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam { (sđd, tr.170 : Nam Thạch Hãn những ngày đầu tháng ba (1979) }.
- Trốn lính gần như là một cái "nghề" đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh niên miền Nam lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy, dù nhìn dưới góc độ nào đó còn mang tính thụ động, vẫn phải được nhắc nhớ đến như một nốt nhạc trong trẻo đã ngân lên trong một giai đoạn u ám, nhiễm độc, giữa những đô thị miền Nam (sđd, tr.180).
Giai đoạn mà Trịch Công Sơn cho rằng "u ám, nhiễm độc" đó, như đã nói ở trên, chính là giai đoạn mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đang ra sức bảo vệ tự do no ấm cho 25 triệu đồng bào miền Nam, chống lại công cuộc xích hoá của CS quốc tế mà Hà Nội là tay sai. Trốn lính trong giai đoạn ấy chỉ có những loại người sau đây: hèn nhát, ích kỷ và CS nằm vùng.
Cho rằng có "hàng triệu thanh niên miền Nam trốn lính" vào thời bấy giờ, Trịnh Công Sơn đã mặc nhiên hoà nhịp theo cung điệu tuyên truyền của các cán bộ cộng sản, loại cán bộ đã huênh hoang "lên lớp" những sĩ quan QLVNCH trong các trại tù cải tạo rằng: máy bay của ta nấp ở trên mây, đợi lúc máy bay địch xuất hiện thì bất thần bay ra nghênh chiến ...
Gọi hành động trốn lính là một "thái độ phản kháng", Trịnh Công Sơn muốn xác định rõ ràng anh ta không phải là người Quốc Gia.
Gọi hành động trốn lính là "một nốt nhạc trong trẻo trong giai đoạn u ám, nhiễm độc ...", Trịnh Công Sơn muốn minh định rõ "thiên tài âm nhạc" họ Trịnh không thuộc Việt Nam Cộng Hoà mà thuộc về "thời đại mang tên Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam" !
Qua những tài liệu sống và những tài liệu thành văn, Trịnh Công Sơn là tổng hợp của:
- Một kẻ ích kỷ.
- Một tên hèn nhát trốn lính.
- Một tên nằm vùng.
- Một loại ký sinh trùng.
- Một kẻ phản bội.
- Một tên lừa dối.
- Một tên ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản.
Trước lịch sử, Trịnh Công Sơn đã hiện nguyên hình. Không nên bóp méo lịch sử bằng cách choàng lên đầu Trịnh Công Sơn vòng hào quang Quốc Gia không hề có thật; cũng đừng hô biến "Nối Vòng Tay Lớn" trở thành một biểu tượng đoàn kết đấu tranh dân chủ, trong khi bài hát ấy đã được tác giả của nó hát lên để đón mừng cái chế độ phi nhân bóp họng dân chủ !
Phải trả lại sự thật cho lịch sử !
Tác giả: BB & Liêm
Ngày đăng: 17/02/2016
Sau khi miền Nam bị Cộng sản (CS) cưỡng chiếm thì bao nhiêu sự thật lịch sử đã lần lượt được phơi bày, nhưng chân tướng của Trịnh Công Sơn vẫn còn được một số người cố gắng che dấu. Những người này cố tròng vào cổ Trịnh Công Sơn cái vòng hào quang "Quốc Gia", họ tiếp tục ca tụng Trịnh Công Sơn là một người quốc gia !
Nhưng có một sự thật hiển nhiên mà họ không thể chối cãi được, là trong suốt cuộc chiến của người Việt Quốc Gia chống lại sự xích hoá của CS Quốc tế, được thực hiện bởi tay sai đắc lực là CS Hà Nội; Trịnh Công Sơn là một tên trốn lính. Chẳng những trốn lính, chẳng những đứng bên lề cuộc chiến, không hề chiến đấu bảo vệ chính bản thân của mình trước làn sóng xâm lăng của CS, Trịnh Công Sơn còn tiếp tay cho công cuộc xâm lăng của CS bằng những bài ca phản chiến !
Vào ngày 30.4.1975, Trịnh Công Sơn đã lớn tiếng minh định anh ta không phải là người Quốc Gia khi hát bài Nối Vòng Tay Lớn trên đài phát thanh Saigon để "chào mừng cách mạng thành công" vào lúc xe tăng CS Bắc Việt vừa tới dinh Độc Lập !
Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh Saigon hát bài "Nối vòng tay lớn" vào thời khắc đen tối nhất của lịch sử dân tộc 30.04.1975
Nguyễn Đắc Xuân, một người bạn rất thân của Trịnh Công Sơn, một tay đao phủ của thành phố Huế trong biến cố Tết Mậu Thân 1968, (đệ nhất đao phủ là Hoàng Phủ Ngọc Tường, cũng là bạn rất thân của Trịnh Công Sơn - Trịnh Cung và Đinh Cường), viết rằng:
"Từ sau ngày Trịnh Công Sơn qua đời, nhiều dư luận trong và ngoài nước có khuynh hướng lôi anh về phía bên này hoặc đẩy anh về phía bên kia. Đối với Trịnh Công Sơn ai lôi anh thì cứ lôi, ai đẩy anh thì cứ đẩy, kệ. Trịnh Công Sơn là Trịnh Công Sơn, ai muốn hiểu sao cứ hiểu. Tuy nhiên cuộc đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã thuộc về lịch sử, mà đã là lịch sử thì bên này hay bên kia phải được chứng minh bằng tư liệu, tư liệu thành văn và tư liệu sống, nói có sách mách có chứng. Không thể phát ngôn về Trịnh Công Sơn theo cảm tính hay theo một định kiến nào ..."
(Trịnh Công Sơn, có một thời như thế - Nguyễn Đắc Xuân - nhà xuất bản Văn Học).
Dựa theo những "tư liệu thành văn và tư liệu sống", Nguyễn Đắc Xuân đã trích lại những điều sau đây do chính Trịnh Công Sơn viết xuống trong quyển sách vừa dẫn:
1. Thời kỳ trốn lính
Trước khi sống qua một thời kỳ bất ổn định, tôi đã từng có được hai năm sống thong dong hợp pháp như tất cả mọi người đàng hoàng đứng đắn trên mặt đất. Muốn được thế, tôi đã phải đánh đổi bằng gần sáu mươi ngày nhịn đói tuyệt đối trong hai năm (mỗi năm 30 ngày liên tiếp trước khi trình diện) để đạt được cái mức độ không đủ tiêu chuẩn của một người lính. Nhưng muốn xuống kílô nhanh còn phải không ngủ và uống thêm điamox là một thứ thuốc rút bớt nước trong các tế bào ra. Qua năm thứ ba thì không ra trình diện nữa vì cảm thấy không đủ sức khoẻ để lặp lại cái chế độ ăn uống không có thực phẩm ấy nữa. Trốn lính gần như là một cái "nghề" đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh niên miền Nam lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy, dù được nhìn dưới một góc độ nào đó còn mang tính thụ động, vẫn phải được nhắc nhở đến như một nốt nhạc trong trẻo đã ngân lên trong một giai đoạn u ám, nhiễm độc, giữa những đô thị miền Nam.
Tôi đã sống lang thang như một kẻ vô gia cư, vô định trú thứ thiệt. Thời gian không xê dịch nhiều, chỉ kéo dài khoảng ba năm, đó là lúc tôi nhập cư cùng một số sinh viên trốn lính khác đã có mặt trong những căn nhà tiền chế tồi tàn bỏ trống ở khu đất rộng sau trường đại học Văn khoa. Ở đây có một lợi thế là rất hiếm bị khám xét. Vào thời điểm ấy, trên khoảng đất trống lại mọc thêm một cái trụ sở Hội Hoạ Sĩ trẻ bằng gổ, hiện đa số hoạ sĩ vẫn còn có mặt trong thành phố. Giấc ngủ của tôi cứ tuỳ nghi hoán chuyển từ trên cái ghế bố trong túp lều này qua cái mặt nền xi măng của trụ sở hội nọ. Việc ăn uống đã có hàng quán dọc đường gần đó. Rửa mặt đánh răng thì mỗi sáng vào phòng vệ sinh của những quán cà phê quen thuộc, chỉ có việc mang theo khăn, kem và bàn chải đánh răng.
Thế đấy, nhưng chính những năm này là những năm sôi động nhất của đời tôi.
Sống trong tình trạng bấp bênh như thế tôi vẫn phải làm việc không ngừng để sống. Tôi vẫn viết đều tay và vẫn tiếp tục đi hát. Những ca khúc của tôi được in ra từng tờ rời và từng tuyển tập. Phụ trách công việc in ấn và phát hành đã có người em ruột của tôi, cũng cùng trốn lính, chăm lo. Việc in ấn càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi có lệnh tịch thu của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của tôi. Cảnh sát lúc bấy giờ được lệnh vào tận các nhà in để truy lùng. Thế là phải đổi kế hoạch. Thay vì in trong một nhà in, nay phải rải ra trong ba bốn nhà in khác nhau. Tịch thu nơi này còn nơi khác, và dĩ nhiên, chuyện đi đứng không phải dễ dàng. Đi từ một nhà in ở vùng Sài Gòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi.
Sau lệnh tịch thu, tất cả báo chí trong và ngoài nước đều đưa tin. Các hãng thông tấn và truyền hình truyền thanh nước ngoài ào ạt đổ xô về nơi ăn chốn ở rất là "híp pi" đó của tôi càng lúc càng đông. Mỗi ngày trung bình ít lắm cũng phải ba lần phỏng vấn, thu hình, thu mặt. Tôi bỗng trở nên người nổi tiếng bất đắc dĩ. Ban đầu cái sự kiện này cũng mang đến cho tôi chút niềm vui nhưng càng về sau càng trở thành một tai nạn. Họ săn đuổi tôi đến mọi chỗ lánh mặt xa xôi nhất. Từ Sài Gòn ra Huế, chỉ vài hôm sau đã thấy có mấy mạng người đủ các màu da, xứ sở khác nhau xuất hiện ở cửa. Đời sống bỗng chốc mất đi cái tự do được quyền không nói năng, được quyền ngồi yên tĩnh một mình mà suy ngẫm cho đến nơi đến chốn bao nhiêu điều mình chưa biết trong cõi đời rộng lớn này. Tôi phải sống những khoảnh khắc phù phiếm trên báo chí và trước ông kính ấy cho đến mười ngày trước ngày thành phố được hoàn toàn giải phóng. Giờ đây sau hai mươi năm thành phố đã mang tên Bác, thỉnh thoảng vẫn còn những cuộc phỏng vấn của người nước ngoài, nhưng nó không còn là một nỗi ám ảnh kinh hoàng nữa.
Nghĩ lại chuyện cũ, tôi biết rằng những cái đó có được là do tấm lòng ưu ái của quần chúng đối với mình. Sức mạnh tình cảm của đám đông quần chúng là một trong những tấm khiên che chở mình trước những mối đe dọa và là những kèo cột chống đỡ tinh thần và tình cảm mình được vững vàng trước bao nhiêu khó khăn phức tạp của cuộc sống.
Nhẩm tính lại, tôi đã hùn hạp tất cả vốn liếng của mình vào cái đại gia đình trốn lính vừa tròn chẵn mười ba năm.
Đã qua hẵn rồi cái thời của "bèo giạt mây trôi", của những giấc ngủ bị săn đuổi.
(sđd tr. 179-183)
2. Thuở ấy Nhị Xuân, em ở nông trường, em ra biên giới
Đêm Nhị Xuân không còn thấy rõ màu đất đỏ và những bãi mía, bãi dứa cùng lán trại cũng khoác một màu áo khác. Mưa xuống. Hội trường dã chiến như một cái rá lọc nước thả xuống những giọt dài. Chúng tôi (Phạm Trọng Cầu, Trần Long Ẩn và tôi ...) cùng anh em Thanh niên Xung phong nam nữ hát với nhau dưới một bầu trời được trang trí lạ mắt như thế. Đêm cứ dài ra và những tiếng hát cứ dài ra. Nước ở con kênh dâng lên. Mặc kệ. Cứ đứng, cứ ngồi, cứ hát. Gần khuya có cô gái Thanh niên Xung phong nhanh nhẹn vui tươi mang cho cho chúng tôi những bát cháo gà trước khi chia tay. Những khuôn mặt ấy, tôi đã quen đã nhìn thấy nhiều lần. Một giờ khuya, lên xe giã từ Nhị Xuân, lòng còn âm vang tiếng cười, tiếng hát. Những bàn tay siết chặt, những cái vẫy trong đêm không nhìn thấy. Quá giờ giới nghiêm, xe dừng lại giữa đường, không được vào thành phố. Ngủ lại chờ sáng. về lại thành phố, trở lại công việc thường ngày. Nhưng ở Nhị Xuân, có hai mươi người con gái Thanh niên Xung phong đi về phía khác. Mấy tháng sau, tôi được tin tất cả hai mươi khuôn mặt tôi đã nhìn, đã gặp đêm hôm nào ở Nhị Xuân cùng nhau ca hát, đã hy sinh ở biên giới Tây Nam. Những tiếng hát giọng cười còn đó. Những cây mía cây dứa các bạn trồng vẫn còn đó, vẫn lớn lên. Tôi bồi hồi nhìn ra quãng trời rộng và thấy lại trong trí nhớ những con người trẻ trung ấy. Trong những trái tim ấy có gì khác chúng ta không. Trong giấc ngủ ban đêm, trên những vầng trán khoẻ mạnh ấy, đã có những cơn mơ nào. Chúng ta nói quá nhiều đến sự tròn đầy và chúng ta quên đi sự mất mát. Chúng ta vẽ ra lắm nụ cười mà quên đi những nỗi ngậm ngùi riêng tư. Những người bạn nhỏ đã ra đi thật vĩnh viễn, nhưng nỗi nhớ thương về họ chưa được hát đủ như một nỗi đau. Còn thiếu sót biết bao nhiêu điều chưa nói hết lúc ở nông trường và càng chưa nói được một mảy may lúc ra biên giới. Làm một điều gì chưa đến chốn với một người không còn nữa, có phải cũng đã là phạm tội với cuộc đời rồi hay không. Xin hãy tha thứ những dòng chữ óng mượt, những sắp xếp tinh khôn, những cân nhắc đong đưa xuôi chèo thuận lái.
(Sđd, chương V: Phát thảo chân dung tôi - Trịnh Công Sơn. Trang 186-188)
3. Anh Sáu Dân với Trịnh Công Sơn
Hơn hai mươi năm trước, đồng chí Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Văn Kiệt "rủ" Trịnh Công Sơn và tôi đi khảo sát đất Trị An. Từ chuyến đi ấy Trịnh Công Sơn và tôi cũng như một số bạn bè gọi đồng chí Bí thư bằng anh Sáu, anh Sáu Dân rất thân mật. Chuyến đi ấy anh mang đến cho hai đứa tôi về giấc mơ điện "Trị An". Còn anh, anh không chỉ mơ mà khẳng định quyết tâm và bắt tay tổ chức hiện thực.
Buổi chiều trên đường về mưa gió mịt mù. Trịnh Công Sơn và tôi ngồi trên chiếc xe jeep.
Về đến nhà anh Sáu, áo của Sơn đổi màu mưa bụi. Còn tôi, nhờ có chiếc áo gió, áo trong của tôi còn sạch. Anh Sáu bảo chúng tôi tắm, anh Sáu mang chiếc áo của anh cho Sơn. Chiếc áo ấy Sơn vẫn để trong tủ áo của mình, ít ai biết.
Anh Sáu đánh giá và bình phẩm ca khúc của Trịnh Công Sơn theo cách của anh. Với tôi anh Sáu là một nghệ sĩ, nghệ sĩ với con người chiến sĩ của anh. Không hề có khoảng cách về tuổi tác, về cương vị xã hội, hai người nghệ sĩ ấy đã gặp nhau, đã trở thành một đôi bạn chia sẻ nhiều nổi niềm không thành lời, không thành tiếng. Những năm khó khăn, cơm độn bo bo, có lần anh Sáu gởi gạo đến gia đình Trịnh Công Sơn.
Có một lần anh Sáu tâm sự với Sơn "Anh em trí thức ở thành phố mình bỏ đi nhiều quá. Mỗi người mỗi cương vị, làm sao giữ anh em lại, cùng xây dựng đất nước". Sau đó Trịnh Công Sơn viết ca khúc "Em còn nhớ hay em đã quên". Lần thứ hai, anh Sáu nói với Sơn "Trong lúc khó khăn này, làm sao mọi người đều có niềm tin, niềm vui, vượt lên khó khăn để xây dựng Thành phố ...". Sau đó, Trịnh Công Sơn cho ra bài "Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui".
Sau này anh Sáu về Trung Ương, ở cương vị Phó Thủ Tướng, Thủ Tướng, Cố Vấn BCH Trung Ương Đảng, dù ở cương vị nào, mỗi lần về Sài Gòn, ngoài công việc, anh hay gặp gỡ lại bạn bè. Trong những cuộc gặp gỡ ấy, thường có Trịnh Công Sơn. Những cuộc gặp ấy bao giờ Trịnh Công Sơn cũng ngồi gần anh Sáu, như không thể cách xa nhau. Theo tôi hiểu, ít có người Việt Nam nào đi khắp mọi miền như anh. Anh đến cả những vùng sâu vùng xa đến nỗi, chánh quyền địa phương cũng chưa đặt chân đến.
Anh kể với chúng tôi về những chuyến đi. Rồi ai có sáng tác nào mới, hát cho anh nghe. Trần Long Ẩn chuyên hát lời hai, lời ba. Nguyễn Duy đọc thơ, Trịnh Công Sơn chưa có bài mới thì tuỳ hứng. Một lần chị Sáu (vợ anh Sáu) nói "Sao mà tôi thích cái câu - sỏi đá cũng cần có nhau - sâu xa quá !". Thế là Trịnh Công Sơn cầm đàn hát "Diễm xưa". Thật khó có người nào hát hay bằng Sơn hát về mình.
Có một lần, tôi kể với Trịnh Công Sơn, anh Sáu nói với tôi rằng anh Sáu vừa nghe đài Hoa Kỳ hai buổi lúc 5 giờ 30 sáng, đài Hoa Kỳ bình luận về ba nhạc sĩ lớn của Việt Nam: Văn Cao, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn. Đài Hoa Kỳ bình luận, ca từ của Trịnh Công Sơn là lời của phù thuỷ. Họ không giải nỗi ý nghĩa nhiều tầng, nhiều góc ca từ của Trịnh Công Sơn, nên đành phải nói là lời của phù thuỷ. Anh Sáu thích lắm ! Trịnh Công Sơn không ngạc nhiên nhiều về lời bình của đài Hoa Kỳ mà ngạc nhiên: "Anh Sáu theo dõi kỹ vậy à ? Thế mà anh em mình không ai biết".
Anh Sáu quý trọng tài năng của Trịnh Công Sơn và rất yêu con người và tính cách của Sơn có khi hồn nhiên như trẻ thơ.
Có một đêm, anh Sáu rủ Sơn và tôi đến chơi. Anh Sáu mang chai Mao Đài đãi hai chúng tôi. Sơn xỉn. Thế là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bắt đầu dạy Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm chánh trị. "Anh đi Nhật mà không gọi em là không chính trị. Nhật họ quý em lắm. Anh đi nước ngoài anh phải thế này, thế kia, thế nọ ...". Anh Sáu và tôi cứ cười, Sơn thì vẫn cứ thao thao.
Hôm sau tỉnh rượu, tôi kể lại với Sơn, Sơn ngửa mặt cười:
- Có thật vậy à ? Anh Sáu có giận mình không ?
- Không ! Anh Sáu vui !
- Lần sau nhớ nhắc mình nhé !
Tôi thầm nghĩ, Sơn phải là Sơn nhắc làm gì ?
Vào một ngày cuối tháng ba năm nay, tôi gặp anh Sáu, anh Sáu hỏi thăm Sơn. Tôi báo anh, Sơn bịnh nhiều, Sơn đang cấp cứu trong bịnh viện. Anh nói:
- Mai mình đi Hà Nội, sau Đại hội Đảng mình về, mình thăm Sơn, các em Sơn. Xem nước ngoài nào chữa được Sơn, mình tạo điều kiện để Sơn đi.
Nhưng không kịp nữa, chiều ngày 01.04.2001 tôi gọi điện thoại cho anh "Anh Sáu ơi ! Sơn mất rồi ...". Anh hỏi, anh nói nhưng tôi không nhớ gì, chỉ nhớ "Đau lòng quá !" và chị Sáu kêu lên "... buồn quá ...".
Buổi chiều ngày 03.04.2001, vào 18 giờ, tôi nhận được điện thoại của anh, anh chị đi thăm mộ Trịnh Công Sơn đang trên đường về, hẹn tôi ở nhà Trịnh Công Sơn.
Buổi gặp này có anh Sáu, chị Sáu, các em của Trịnh Công Sơn, anh Phạm Phú Ngọc Trai và tôi. Anh hỏi những ngày cuối cùng của Sơn ... Anh nói:
- Những năm sau này, Sơn yếu nhưng sức sáng tác của Sơn rất dồi dào. Mỗi lần gặp lại là Sơn có sáng tác mới. Ca từ trong ca khúc sau này của Sơn càng thâm thuý. Ai nghe cũng thấy mình ở trong ấy. Sơn đi là một mất mát lớn, không chỉ cho nền âm nhạc nước nhà mà là còn sự mất mát nhiều mặt của nền văn hoá Việt Nam. Thương và tiếc, tiếc quá ! Một mất mát lớn, rất lớn.
Anh Phạm Phú Ngọc Trai thêm một vòng thông tin: "Nước ngoài đánh giá Trịnh Công Sơn không chỉ là một danh nhân Việt Nam mà còn là danh nhân thế giới". Anh Sáu trầm ngâm khẽ gật gù.
Tôi nói: "Lúc sinh thời Sơn vắng mặt chỗ này chỗ kia, nhưng khi Sơn ra đi, Sơn có mặt khắp mọi nơi". Chúng tôi đều gặp nhau trong ý nghĩ về Sơn.
Có một lần nhà thơ Nguyễn Duy nói với tôi: "Với anh Sáu thì mình phục rồi. Riêng tôi có điều phục nữa, anh Sáu là người rất dí dỏm, người biết đùa là người trẻ, người thông minh, mình là người thích nói đùa, mà nhiều khi mình đối đáp không kịp anh ấy !". Đúng như Nguyễn Duy nhận xét. Lần nào gặp anh, theo từng câu chuyện, lúc nào anh cũng rạng rỡ, nụ cười, giọng cười của anh như kéo mọi người gần nhau.
Buổi gặp gỡ chiều này, tôi ngồi bên anh suốt hai tiếng đồng hồ, tôi không thấy anh cười. Tôi có cảm tưởng Trịnh Công Sơn đã mang theo nụ cười của anh. Anh Sáu buồn, buồn lắm, Sơn có biết không.
05.05.2001
Nguyễn Quang Sáng .
(Trịnh Công Sơn, người hát rong qua nhiều thế hệ - Nhà xuất bản Trẻ, tr. 173-175)
Lý Quý Chung, một nhà báo và là một dân biểu Việt Nam Cộng Hoà, sau ngày 30.04.1975 đã chính thức phô bày bộ mặt thật, có viết về hai chữ "gia nô" như sau:
"Ở miền Nam trước 1975, một người chỉ cần nói đọc báo nào, nghe nhạc gì thì biết ngay người đó là ai, thái độ của người đó đối với chế độ Thiệu và người Mỹ như thế nào và thái độ của người đó đối với cuộc chiến tranh ra sao ? Có báo gia nô ( đó là cách gọi của người Sài Gòn trước 1975 đối với loại báo chí của chính quyền Thiệu hoặc theo phe Thiệu) ...."
(TCS MTNT tr. 210)
Bài viết của Nguyễn Quang Sáng ghi lại nguyên nhân ra đời của hai bản nhạc "Em còn nhớ hay em đã quên" và "Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui". Nguyễn Quang Sáng cho biết anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt chỉ mới nói vài lời mà Trịnh Công Sơn đã lãnh hội được ý của anh Sáu muốn cái gì và Sơn tự biết mình phải làm cái gì ! Nói theo cách của Lý Quý Chung, đây đúng là hành vi của một "gia nô". Thiên tài âm nhạc Trịnh Công Sơn sau 1975 đã tự biến hình thành một nhạc - nô viết nhạc theo ý muốn của "trên" để đáp ứng cho nhu cầu tuyên truyền.
Cũng qua bài viết của Nguyễn Quang Sáng, độc giả còn được nhìn thấy cung cách và thái độ của thiên tài âm nhạc họ Trịnh đối với anh Sáu Dân Võ Văn Kiệt. Cái thái độ ấy phải gọi thế nào cho đúng ? Bưng bô ? Liếm gót ?
Riêng cái cung cách của một cán bộ tuyên truyền thì được Trịnh Công Sơn thể hiện rất rõ qua những lời sau đây: "việc in ấn càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi có lệnh tịch thu của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của tôi ... phải rải ra trong ba bốn nhà in khác nhau .... chuyện đi đứng không phải dễ dàng ... đi từ một nhà in ở Sài Gòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi ...".
Nếu chính quyền Nguyễn Văn Thiệu tịch thu toàn bộ các tập ca khúc và băng nhạc của Trịnh Công Sơn, thì chính quyền nào cấp giấy thông hành cho ca sĩ Khánh Ly sang Nhật hát bản Diễm Xưa của họ Trịnh tại Hội chợ Quốc tế Expo Osaka năm 1970 ? Chẳng lẽ đó là chính quyền Hà Nội ?
Khánh Ly hát "Diễm Xưa" lời Nhật trước Trụ sở Ngân hàng Việt Nam tại Osaka trong chương trình "Ngày Việt Nam" tại Hội chợ Quốc tế Expo 1970
Nếu chính quyền ông Thiệu ra lệnh tịch thu toàn bộ các tập ca khúc, thì tại sao các tập ca khúc của Trịnh Công Sơn với hình bìa do Trịnh Cung, Đinh Cường vẽ, vẫn được bày bán công khai tại các nhà sách ở Sài Gòn, ai muốn mua bao nhiêu cũng có ?
Nếu chính quyền ông Thiệu tịch thu toàn bộ băng nhạc thì tại sao "nhạc Trịnh" vẫn vang dội tại các quán cà phê ở Sài Gòn, tại các câu lạc bộ quân trường ? Khánh Ly vẫn nhởn nhơ trình diễn nhạc Trịnh tại Queen Bee hàng đêm, và nhạc Trịnh vẫn được hát tại câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc trong trại Phi Long - Tân Sơn Nhứt vào mỗi cuối tuần ?
Và đây mới là chuyện lạ bốn phương: "đi từ một nhà in ở Sài Gòn đến một nhà in ở vùng Chợ Lớn phải qua biết bao nhiêu là trạm xét hỏi ...". Đây là thời điểm nào ? Trước 30 tháng 4 năm 1975 hay sau ngày "giải phóng" ?
Chính quyền Thiệu đã đặt nhiều trạm kiểm soát như thế, mà người em ruột của Trịnh Công Sơn phụ trách phần in ấn và phát hành thường lui tới ba bốn nhà in hàng ngày mà vẫn không bị cảnh sát bắt vì tội trốn lính ?
Căn cứ vào những tài liệu "thành văn" và tài liệu "sống", hầu như ai cũng biết rằng, thiên tài âm nhạc của họ Trịnh có cơ hội nẩy nở và thăng hoa là nhờ môi trường tự do, khai phóng của miền Nam dưới hai thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hoà. Chính nhờ sự rộng lượng bao dung của chế độ Việt Nam Cộng Hoà và sư che chở của một số sĩ quan cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà (QLVNCH) mà họ Trịnh mới sáng tác được trên dưới 600 nhạc phẩm. Cũng chính chế độ Việt Nam Cộng Hoà đã đem bài Diễm Xưa đến Hội Chợ Quốc Tế Osaka 1970 để rồi họ Trịnh mới chiếm giải nhất về Dân Ca và được người Nhật thực hiện trên đĩa vàng. Bài hát Nối Vòng Tay Lớn được sử dụng trong các buổi sinh hoạt, họp mặt của thanh niên, sinh viên ...
Cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương (1933 - 1968, thứ 2 từ phải qua), một trong những ân nhân đã cưu mang che chở cho Trịnh Công Sơn
Tóm lại, danh vọng và tiếng tăm mà họ Trịnh có được là nhờ ở chế độ Việt Nam Cộng Hoà và những sĩ quan cao cấp trong QLVNCH đã cưu mang và che chở cho họ Trịnh. Nói một cách dễ hiểu hơn, Trịnh Công Sơn đã sống như một loại ký sinh trùng trong lòng hai chế độ Cộng Hoà miền Nam.
Ký sinh trùng như giun, sán sống trong ruột của con người, nhờ hấp thụ chất bổ dưỡng tích tụ trong ruột non của con người mà chúng nó mới sống khoẻ sống mạnh và sinh sôi nẩy nở. Thiên tài âm nhạc của Trịnh Công Sơn sẽ không thể phát triển và thăng hoa nếu không ký sinh trong môi trường tự do khai phóng của Việt Nam Cộng Hoà, cho dù đang ở trong giai đoạn chiến đấu chống xâm lăng cộng sản. Và trong lúc Trịnh Công Sơn trốn tránh trách nhiệm, sống như một loài ký sinh trùng giữa đô thị để viết những bài ca phản chiến thì hàng triệu thanh niên cùng lứa tuổi đang hy sinh xương máu tại các chiến trường miền Nam trong từng giây, từng phút.
Trịnh Công Sơn có bao giờ biết xấu hổ khi nhìn thấy những hình ảnh này ??
Đúng với lẽ công bình của trời đất và lương tâm con người, Trịnh Công Sơn đã mang một món nợ rất lớn đối với những người đã chết để họ Trịnh được hít thở không khí tự do cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Những người ấy đã nằm xuống để họ Trịnh được sống, để họ Trịnh được có cơ hội nói ra những lời vô ơn bạc nghĩa và thực hiện những hành vi phản bội trong ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhiều người miền Nam từng coi Trịnh Công Sơn là thần tượng, từng ngưỡng mộ thiên tài âm nhạc của họ Trịnh đã ngỡ ngàng và đau đớn biết bao nhiêu khi nghe Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh kêu gọi mọi người cùng hát bài Nối Vòng Lay Lớn để "chào mừng cách mạng thành công" giữa lúc Sài Gòn đang trong cơn hấp hối !
Nhiều người vẫn chưa quên giọng hát hồ hởi, tiếng vỗ tay đánh nhịp dồn dập đầy sự phấn khởi của họ Trịnh trong ngày uất hận, đau thương và đen tối nhất của lịch sử dân tộc !
Trong ngày đen tối đó, họ Trịnh đã công khai bội phản những người từng cưu mang, dung dưỡng, che chở cho anh ta; minh thị phản bội những "tấm lòng ưu ái của quần chúng đối với mình" !
Nếu Trịnh Công Sơn không phải là một con người có tâm địa phản trắc thì Trịnh Công Sơn là con người gì ?
Hãy nghe Trịnh Công Sơn định nghĩa: "trốn lính là một hành động phản kháng".
Trốn lính vào thời điểm cộng sản đang tiến chiếm miền Nam là một hành động phản kháng, vậy thì Trịnh Công Sơn muốn phản kháng ai và phản kháng điều gì ? Có phải là phản kháng chế độ Việt Nam Cộng Hoà đang dung dưỡng họ Trịnh, phản kháng những nổ lực của quân dân miền Nam đang ngăn chận làn sóng đỏ để bảo vệ cơm no áo ấm cho 25 triệu đồng bào, trong đó có cá nhân và gia đình của Trịnh Công Sơn ?
Thiên tài âm nhạc của Trịnh Công Sơn thật ra không ai phủ nhận, nhưng cái thiên tài ấy đã phản bội chính nghĩa quốc gia, tiếp tay với chế độ phi nhân, tiếp tay với những con người không còn lương tri đã đối đãi với đồng bào ruột thịt như kẻ thù không đội trời chung; cái thiên tài ấy đã góp phần gây ra tai hoạ khủng khiếp cho dân tộc, đẩy đất nước xuống hố diệt vong. Vậy thì cái vòng hào quang Quốc Gia mà ai đó cố choàng cho Trịnh Công Sơn là không có thật, không bao giờ có thật. Thật sự trong tận cùng tim đen, Trịnh Công Sơn cũng không hề muốn đội cái vòng hào quang Quốc Gia ấy.
Một lần nữa, hãy nghe họ Trịnh khẳng định chỗ đứng:
- Con kênh này sẽ kêu gọi những con kênh khác ra đời. Kênh chị, kênh em sẽ mọc lên cùng khắp để góp phần lợi ích cho những con người mới trong một thời đại mang tên Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam { (sđd, tr.170 : Nam Thạch Hãn những ngày đầu tháng ba (1979) }.
- Trốn lính gần như là một cái "nghề" đầy tính chất phiêu lưu của hàng triệu thanh niên miền Nam lúc bấy giờ. Thái độ phản kháng ấy, dù nhìn dưới góc độ nào đó còn mang tính thụ động, vẫn phải được nhắc nhớ đến như một nốt nhạc trong trẻo đã ngân lên trong một giai đoạn u ám, nhiễm độc, giữa những đô thị miền Nam (sđd, tr.180).
Giai đoạn mà Trịch Công Sơn cho rằng "u ám, nhiễm độc" đó, như đã nói ở trên, chính là giai đoạn mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đang ra sức bảo vệ tự do no ấm cho 25 triệu đồng bào miền Nam, chống lại công cuộc xích hoá của CS quốc tế mà Hà Nội là tay sai. Trốn lính trong giai đoạn ấy chỉ có những loại người sau đây: hèn nhát, ích kỷ và CS nằm vùng.
Cho rằng có "hàng triệu thanh niên miền Nam trốn lính" vào thời bấy giờ, Trịnh Công Sơn đã mặc nhiên hoà nhịp theo cung điệu tuyên truyền của các cán bộ cộng sản, loại cán bộ đã huênh hoang "lên lớp" những sĩ quan QLVNCH trong các trại tù cải tạo rằng: máy bay của ta nấp ở trên mây, đợi lúc máy bay địch xuất hiện thì bất thần bay ra nghênh chiến ...
Gọi hành động trốn lính là một "thái độ phản kháng", Trịnh Công Sơn muốn xác định rõ ràng anh ta không phải là người Quốc Gia.
Gọi hành động trốn lính là "một nốt nhạc trong trẻo trong giai đoạn u ám, nhiễm độc ...", Trịnh Công Sơn muốn minh định rõ "thiên tài âm nhạc" họ Trịnh không thuộc Việt Nam Cộng Hoà mà thuộc về "thời đại mang tên Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam" !
Qua những tài liệu sống và những tài liệu thành văn, Trịnh Công Sơn là tổng hợp của:
- Một kẻ ích kỷ.
- Một tên hèn nhát trốn lính.
- Một tên nằm vùng.
- Một loại ký sinh trùng.
- Một kẻ phản bội.
- Một tên lừa dối.
- Một tên ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản.
Trước lịch sử, Trịnh Công Sơn đã hiện nguyên hình. Không nên bóp méo lịch sử bằng cách choàng lên đầu Trịnh Công Sơn vòng hào quang Quốc Gia không hề có thật; cũng đừng hô biến "Nối Vòng Tay Lớn" trở thành một biểu tượng đoàn kết đấu tranh dân chủ, trong khi bài hát ấy đã được tác giả của nó hát lên để đón mừng cái chế độ phi nhân bóp họng dân chủ !
Phải trả lại sự thật cho lịch sử !
TS. PHAN VĂN SONG *THU NHẬP TỐI THIỂU
Thử đi tìm một mẫu xã hội cân bằng hơn:
Thu Nhập Tối Thiểu Cho Mỗi Công Dân?
Phan Văn Song
Mẫu Xã Hội Đương Thời Đã Lỗi Thời:
Nước Pháp là một trong những quốc gia có một chế độ An Sanh Xã Hội
thuộc về loại hàng đầu của thế giới. Ngoài những quốc gia Bắc Âu với một
văn hóa Tin lành rất xã hội, Pháp là quốc gia, tuy ảnh hưởng Thiên Chúa
La mã, nhưng nhờ hưởng gia tài tinh thần tả phái của Mặt Trận Bình Dân
năm1936 để lại, cùng với một hệ thống tổ chức xã hội đầy hổ tương công
bằng và một nguyên tắc thế tục – un principe de laïcité, khá hữu hiệu
trên 50 năm nay. Thế nhưng, với Toàn Cầu Hóa, với cuộc khủng hoảng Tài
Chánh và Kinh tế từ năm 2008, bộ máy An Sanh Xã Hộ của Pháp không còn
hữu hiệu nữa. Ý thức hệ Nhà Nước Bao Dung Mẫu Tử-État Providence tuy còn
đấy, nhưng không còn công bằng nữa vì quá tải. Tình Thương còn đấy, lá
lành đùm bọc lá rách còn đấy, nhưng, vô hiệu, vì lá rách nhiều hơn lá
lành. Mẫu Xã hội An Sanh chỉ hiệu quả khi bộ máy kinh tế hoạt động hữu
hiệu, nhà mày sản xuất dư đầy, công ăn việc làm đầy đủ, quỷ tương trợ
đầy ngập, quỷ dự trử dư thừa.
Với Toàn Cầu Hóa, sản xuất không còn ở Pháp nữa. Sản xuất qua gia
công ở ngoại quốc, nơi giá nhơn công rẻ. Kinh tế càng mất thăng bằng.
Nạn thất nghiệp ở Âu Châu càng tăng. Khủng hoảng kinh tế càng kéo
dài…Quỷ An Sanh Xã Hội càng thâm thụt. Vì phải tương trợ, vì phải kiếm
phiếu cho những bầu cử tương lai, các Chánh phủ, và nhứt là Chánh phủ
của Đảng Xã Hội đương quyền ở Pháp mở hầu bao. Nhưng vì tài chánh eo
hẹp, áp dụng phương pháp rắt muối, mỗi nơi một tý, lắc nhắc, lai rai,
chả thấm vào đâu cả! Và… “bán cái” qua các Hội Từ thiện…Các Nhà Thờ, Hội
Hồng Thập Tự, Hội Cứu Trợ Bình Dân-Secours Populaire, các Nhà Hàng Từ
Thiện-Restaurants du Cœur… Chưa bao giờ trong một quốc gia mà có nhiều
Hôi đoàn Từ Thiện, nhiều Xã Hội Dân Sự thay thế nhà chức trách đảm trách
những cứu trợ nhiều như lúc nầy. Và dĩ nhiên Thau Vàng lẫn lộn, Từ
Thiện biến thành Nghề Nghiệp, Tình Thương biến thành Thương
Mại-Business... Và giòng đời cứ thế mà trôi đi!
Phải “đổi mới”! Khẩu hiệu-Slogan ăn khách nhứt của ngày nay là Change!
Thay đổi! Việt Cộng ngày xưa cũng đã xài “Đời Mới, Đổi Mới”! Nhờ Toàn
Cầu Hóa, Tây Mỹ đăng tin, viết không dấu DOI MOI, nên muốn Đổi, muốn Đời nhưng muốn Đói đều được cả! Vì ngày nay, tại Việt Nam ta, tuy là Đời Mới có Đổi đấy, nhưng vẫn Đói dài dài!
Chúng tôi từ bao năm nay, cùng với một nhóm bạn bè, đa phần cựu giáo
chức chuyên những ngành Kinh tế, Chánh trị Xã hội họp định kỳ với nhau,
nghiên cứu tìm một mẫu kinh tế xã hội khả dĩ làm một mẫu suy nghĩ quản
trị đất nước, ngỏ hầu tạo một xã hội công bằng hơn.
Thu Nhập Tối Thiểu Cho Mỗi Công Dân:
Nhận mỗi tháng 2260 euros mà không phải đi làm việc, có quyền ngồi không
hưởng thụ, quý vị có thích không? Có bỏ phiếu thuận không? Nhận mỗi
tháng 2260 euros, không cần phải làm giấy tờ khai báo gì cả, không phải
dấu mặt mắc cở vì ăn không ngồi rồi. Quý vị nghĩ sao? Tháng sáu vừa qua
(2016), tại Thụy sĩ, dân chúng vừa bác bỏ, qua trưng cầu dân ý,
đề nghị một lương “xã hội tối thiểu” (2260 € một tháng cho một người
trưởng thành, và 600€ cho một vị thành niên) cho mọi công dân Thụy sĩ.
Ngon lành chưa? Dân tộc Thụy sĩ cũng đã thật tình “ngon lành” dám bỏ
phiếu “Không” năm 2012, cho một đề nghị “kéo dài thêm thời gian những
ngày nghỉ (vacation) hằng năm”. Thật sự, dân Thụy sĩ, là những con người
đầy thực tế, ngoài văn hóa Tin Lành Calviniste, vâng lời Kinh Thánh,
Chúa dạy phải kiếm ăn kiếm sống với sức lao động mình (mồ hôi phải đổ
trên trán), còn sợ rằng những sản xuất của mình sẽ mất sức cạnh tranh
với hàng ngoại quốc!
Trong cái không khí của một xã hội không tạo được việc làm của Âu Châu ngày nay, quan niệm ấy cũng nhờ Thụy sĩ, mà đã được đặt thành vấn đề,
đáng để suy nghĩ, nghiên cứu. Trong cái khung cảnh đầy bi quan, vừa
kinh tế, vừa xã hội, lây qua và cả chánh trị ấy, do những khủng hoảng
kinh tế, tài chánh, từ năm xưa và cả đương thời, mà dám nói “một
mức lương tối thiểu cho mọi người”, đặt thành một vấn đề, thiệt là không
thực tế! Tiền lấy ở đâu là lo cho cái “tào lao” ấy? Và làm sao có thể
“cắt nghĩa” cho dư luận hiểu? Cho không, biếu không một số tiền, gọi là
“lương tối thiểu”, mà không đòi hỏi một “bổn phận” hay một “nghĩa vụ”
nào? Từ bà tỷ phú số một của nước Pháp là bà Liliane Bettencourt đến anh
vô nhà vô cửa, tất cả đều nhận một số tiền, được gọi là là số thu nhập –
revenu tối thiểu để sống! Tất cả bằng nhau, từ bà tỷ phú,
qua anh sanh viên, đến anh cà ngổng, đều nhận một số tiền bằng nhau.
Sau đó, tùy. Ai đó, nếu thích làm thêm, thì đi làm hưởng thêm lương
bổng, ăn ngon mặc đẹp, giàu sang. Còn ai đó, thích an nhàn, “phè cánh
nhạn” thì cứ với số tiền nho nhỏ ấy, sống vừa đủ, thanh đạm, lè phè,
hưởng thơ, hưởng phú, nhưng cũng được ăn đủ no, mặc đủ ấm!
Thật ra, “Ý tưởng” nầy, chẳng mới mẻ gì. Đã có trên 300 năm rồi, nay bổng hiện trở lại.
Thế kỷ thứ 18, nhà hiền triết Thomas Paine (1737-1809), một nhà tranh
đấu chống bất công do bọn quý phái của nước Anh gom thâu mọi của cải của
Vương quốc, bèn có một tư tưởng “dẹp mọi bất công, sang bằng sự giàu
có, phân chia của cải của Vương Quốc cho mọi tầng lớp xã hội”, từ ngài
quý phái đến người nghèo hèn nhứt nước Anh, ai ai cũng được hưởng một
phần tối thiểu bằng nhau. Thomas Paine mong làm sao phải chia cho mọi
quốc dân của Anh, một căn nhà, một mãnh vườn, một con bò để sanh sống.
300 năm sau, thế kỷ thứ 21, suy nghĩ nầy trở lại, với những ý thức hệ tân thời. Nhóm xã hội-dân chủ-les sociaux-démocrates
nghĩ rằng nên phân phối đều một ít phần giàu có, sung túc do đất nước
làm ra, chia đều của cải, tạo công lý và cân bằng. Một nhóm khác, nhóm
tự do- les libéraux lại muốn dùng “cái tối thiểu” đó, để hạ bớt giá lương bổng công nhơn và tạo một uyển chuyển - une flexibilité cho ngành sản xuất và thị trường lao động. Còn nhóm gọi là nhơn ái-les humanistes, kêu gọi đặt trọng tâm vào Con Người và cái Tự Do Lựa Chọn của con người. “Có những người thích Tự do-la Liberté, có những người thích Công bằng-l’Égalité và có những người lựa chọn sự Tương Trợ-la Solidarité”.
Hiện ngay, ở Âu Châu và đặc biệt ở Pháp, đã có những tổ chức, những nhóm
-như chúng tôi- những hội đoàn suy nghĩ, nghiên cứu. Phần đông là những
think tanks với nhiều đề nghị, nhiều kịch bản khác nhau. Có cả
các hội do những cựu nhơn sĩ chánh trị đủ cả các khuynh hướng, tư tưởng,
ý thức hệ… nhập cuộc Khuynh hướng chung các đề nghị ở Pháp là quét dọn
sạch sẽ, dọn dẹp “cái chợ trợ cấp” hiện nay, lấy những tài khoản ấy, gọp
chung lại thành một tài trợ tổng hợp duy nhứt để chia đều cho toàn công
dân thành cái “thu nhập tối thiểu” ấy. Cũng nên thông cảm cho các nhà
làm chánh trị, ý kiến nầy có rất nhiều ưu điểm. Thứ nhứt giúp cho dân
Pháp quét dọn sạch sẽ hệ thống trợ cấp của cái “nùi giẻ” An Sanh Xã Hội.
Nhờ cái rừng luật rắc rối do ý thức hệ Nhà Nước Bao Dung của Pháp đẻ ra, chúng
tôi người viết, đã có thời kỳ 10 năm trời trước khi hưu trí (1993-2003)
kiếm ăn bằng làm thầy giáo dạy luật An Sanh Xã hội và Luật Y tế cho các
sanh viên cao học tại hai Trường Luật Poitiers và Tours. Bài toán
sơ khởi, nếu quét dọn, gom góp sạch sẽ, sẽ đẻ ra 11 Tỷ euros. Để tiết
kiệm, hay để sử dụng một cách thiết thực và hữu hiệu hơn. Thứ hai, khi
tạo một Thu Nhập Tối Thiểu cho mỗi công dân, Chánh Phủ Pháp sẽ cải tổ
lại một khu vực hành chánh xã hội đầy phức tạp ấy. Chỉ riêng việc tiết
kiệm về vấn đề quản trị nhơn sự hành chánh, văn phòng, nha sở… bằng giải
tỏa những khu vực nầy, để giúp đở những khu vực khác cần thiết hơn…
cũng, với nghiên cứu sơ khởi, có thể tiết kiệm được, từ 7 đến 10 Tỷ
euros năm.
Và nếu ta phát mỗi tháng 500 euros cho 51 Triệu người lớn và 160 euros cho 15 Triệu trẻ con, chúng ta chỉ cần một tài khoản chỉ 336 Tỷ euros một năm. Còn nếu chúng ta muốn tất cả đều có một mức thu nhập, đủ sống trên bực nghèo khổ là 1 ngàn euros hằng tháng cho người lớn và 320 euros mỗi tháng cho con trẻ, chúng ta phải cần đến 675 Tỷ euros, nghĩa là một phần ba-1/3 Tổng Sản lượng Nước Pháp! Và… 10 lần…tiền thu thuế lợi tức! Khó thực hiện hơn!
Để giải quyết vấn đề. Phải cắt giảm các trợ cấp ngày nay “cho” là căn
bản! Phụ cấp gia đình? Phụ cấp nhà cửa? Phụ cấp thất nghiệp có thể bỏ
hẳn vì Thu Nhập Tối Thiếu sẽ thay thế. Nhiều kịch bản. Ráng chọn lọc,
còn khoảng ba tối đa với những con số có thể thực hiện được, để suy nghĩ, nghiên cứu và đề nghị. Việc đầu tiên, là dù với một thu nhập tối thiểu khá cao đi nữa cũng không thể nào trang trãi nỗi chi phí bệnh viện thuốc men khi hữu sự, vì vậy phải buộc các công dân đi mua một bảo hiểm tư về sức khỏe - theo mẫu Huê kỳ - dỉ nhiên đối với Pháp là một sự thụt lùi! Việc thứ hai là hiện nay, còn rất nhiều người hưu trí lãnh tiền hưu khá cao. Thay thế tiền hưu hiện nay của họ bằng một con số đồng đều nầy sẽ tạo một luồng sóng bất mãn ngay!
Trong nhóm chúng tôi, có bạn đề nghị một cơ chế hổn hợp giữa cắt giàm
trợ cấp và cải tổ thuế vụ. Thí dụ 500 euros cho người lớn 200 cho trẻ
con, lấy từ những phụ cấp gia đình, học bổng, tối thiểu sanh tồn... (trừ
những phụ cấp cho tàn phế không được đụng tới) và một cải tổ một định
chế thuế vụ bình đẳng hợp lý hơn. Theo đề nghị của nhóm ấy, một cải tổ
về một định chế thuế vụ có thể mang lại một ngân khoản khả dĩ. Một mức
thuế 23% chẳng hạn cho mọi người, không có những đặc biệt giảm miễn, sẽ
đủ ngân khoản để tài trợ. Thế nhưng, dù lý tưởng thế nào đi nữa, những
đề nghị ngày nay sẽ gặp một chướng ngại vật khổng lồ do não trạng Thiên
Chúa Giáo là phải làm việc. Chúa đã dạy, đàn ông phải đổ mồ hôi để kiếm cơm, đàn bà phải mang nặng đẻ đau. Ngồi không ăn tiền là cái không có. Để
vượt bức tường đó, mọi công dân “ở nhà” phải đóng góp, thí dụ, một số
giờ tối thiểu (16 giờ?) một tuần làm “nghĩa vụ xã hội”: làm sạch sẻ
đường phố, an ninh giao thông, giúp đở trẻ, giúp đở người già vân vân…
Thí Nghiệm Hòa Lan và Phần Lan:
Tiếp theo cuộc thí nghiệm của Hoà Lan, với 10 thành phố đang thử áp dụng
chánh sách “một Thu Nhập Tối Thiểu cho Mỗi Công Dân” từ đầu năm 2016,
Phần Lan cũng sẽ bắt đầu vào đầu năm 2017. Chưa đi vào chi tiết, nhưng
dự báo ở Phần Lan, cho biết sẽ có từ 1700 đến 8000 người từ 25 đến 63
tuổi thu nhập yếu kém, sẽ lãnh 500 euros một tháng trong vòng 2 năm. Chi
phí sẽ vào khoảng vài chục triệu euros hằng năm, lấy trên những quỷ trợ
cấp gia đình, những học bổng, tối thiểu xã hội linh tinh trừ những trợ
cấp về tàn phế) và một chánh sách thuế vụ hoàn toàn sửa đổi. Chờ xem!
Hồi Nhơn Sơn, Thu 2016
Phỏng theo tường thuật của Philippe Robert
Phan Văn Song
MAI THANH TRUYẾT * TRẢ LỜI CÔ GIÁO TRẦN THỊ LAM
Trả lời các câu hỏi của Cô giáo Trần Thị Lam
Cô Giáo Trần Thị Lam: thắc mắc biết hỏi ai?
Sinh
ra trong thời bình, đã từng tự hào vể màu cờ sắc áo, đã từng yêu đảng,
yêu bác. Nhưng càng trưởng thành, tôi càng đặt ra cho mình nhiều câu
hỏi: thắc mắc biết hỏi ai?
Thưa Cô Giáo Lam,
Tôi xin tự giới thiệu, tên tôi là Mai Thanh Truyết làm nghề “dạy học” từ
lâu lắm rồi. Tôi phụ trách giảng dạy ở Phòng thí nghiệm Hóa Vô cơ tại
trường Institut
De Chimie, Besancon, Pháp; Giảng sư, Trưởng ban Hóa học trường Đại học
Sư Phạm Sài Gòn (trước 30/4/1975); Giám đốc Học vụ Viện Đại học Cao Đài,
Tây Ninh; Lecturer, King College, Fresno, Hoa Kỳ, đã nhận được “Thắc
mắc biết hỏi ai?” của cô trên mạng lưới toàn cầu.
1-Việt Nam có 9.000 giáo sư, 24.000 tiến sĩ nhưng không có bất kỳ bằng sáng chế nào. Vậy những giáo sư, tiến sĩ đó, họ làm gì?
Thưa Cô, tôi xin bổ túc là với số lượng Giáo sư và Tiến sĩ trên đây,
Việt Nam cũng có một vài bằng sáng chế “viết chung” với một vài khoa học
gia ngoại quốc. Có thể nói, trên 80% khoa bảng trên làm việc trong
ngành QUẢN LÝ, HÀNH CHÁNH và làm “đầy tớ dân”.
Chính vì vậy mà Bộ Chính Trị, Trung ương đảng, Quốc hội, Hội đồng Chánh
phủ có tỷ lệ Tiến sĩ cao nhất so với các quốc gia trên thế giời, bỏ xa
Hoa Kỳ... Trong giáo dục và nghiên cứu thì lèo tèo... vì không nằm trên
chính sách của cơ chế đảng! Một số rất ít có trình độ cao, nhưng vì có CHUYÊN nhưng thiếu HỒNG cho nên chỉ ngồi chơi xơi nước.
2- Giáo dục Việt Nam cải cách không ngừng, vậy tại sao 63% sinh viên thất nghiệp khi ra trường?
Đúng như Cô nói, giáo dục Việt Nam cải cách không ngừng, hàng năm đều có
những bộ phận chuyên môn nghiên cứu, sửa chữa và in lại sách giáo khoa,
tiêu tốn một tỷ lệ lớn trong ngân sách giáo dục, nhưng, rất tiếc những
lỗi trong sách năm trước vẫn còn nguyên, và cộng thêm những lỗi mới được
thêm vào trong tất cả bộ môn từ văn chương đến khoa học. (Cô có thể
kiểm chứng điếu nầy bằng cách lên Google truy tìm sẽ thấy). Chương trình
học nặng nề và từ chương, cũng như các môn học vô ích như Chính sách
Đảng, Tư tưởng HCM v.v… chiếm một tỷ lệ thời gian lớn, không đặt trọng
tâm vào sự phát triển quốc gia trong điều kiện hiện tại và viễn kiến của
đất nước trong tương lai. Vì vậy, sinh viên tốt nghiệp không đủ chuyên
môn và chuyên sâu khi bước vào làm việc trong các hãng xưởng.
3-
Báo chí ca ngợi người Việt Nam thân thiện hiếu khách, vậy tại sao đa số
du khách nước ngoài tuyên bố sẽ không quay trở lại Việt Nam lần thứ 2?
Không biết khuyến mãi - Cơ sở không đủ tiêu chuẩn - Hạ tầng cơ sở còn
yếu kém - Danh lam thắng cảnh vẫn còn trong thời kỳ “hoang dã” - Thiếu
thành thật - Lường gạt - Trấn lột. Và còn biết bao “sự cố” trong giao tế
giữa khách du lịch và dịch vụ ở Việt Nam, khiến cho hầu hết du khách
ngoại quốc đều…một lần đi không bao giờ trở lại nữa...
4-
Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể và
đầy đủ về thế nào là "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa", vậy rốt cuộc ai nghĩ ra mô hình này?
Cho đến giờ phút trả lời câu hỏi nầy, tôi chưa thấy một tài liệu nào
giải thích “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” cả.
Ngay chính nhiều đời TBT Đảng CS Bắc Việt đã từng nói tính ưu việt của
nền kinh tế nầy, nhưng không nói ưu việt ở điểm nào, có chăng là ưu
việt… xuống hố cả nước.
5- Nhiệm vụ của báo chí truyền thông là nói lên sự thật hay là nói lên những điều có lợi cho đảng?
Cả nước có trên 800 tờ báo, hàng trăm đài truyền thanh, truyền hình...
nhưng chì có một Lề Đảng mà thôi. Còn truyền thông Lề Dân thì phải trốn
chui trốn nhủi, nếu không thì bị vào tù, bị phạt tiền hay bị côn đồ
thanh toán, dằn mặt... Bao nhiêu năm rồi, tàu đánh cá Việt Nam bị Trung
Cộng ức hiếp, cướp bóc, giết hại... mà vẫn tiếp tục thông tin là...
"tàu lạ".
6- Nhà nước nhận lương từ tiền thuế của dân để làm việc phục vụ nhân dân hay để cai trị nhân dân?
Để trả lới câu hỏi nầy của Cô, tôi chỉ đưa ra một thí dụ là Nhà nước hay
“Đầy tớ dân” làm việc có thể nói 24/24 (trong nhiều vị trí lãnh đạo cơ
quan) nhưng chỉ nhận được lương khoảng US$200 (của hàng Tổng Bộ trưởng).
Nhưng trên thực tế, các đầy tớ nầy có nhà giá trị hàng triệu Mỹ kim,
tiền bạc khắp nơi, nhiều nhứt là ở các ngân hàng ngoại quốc; con cái đã
“hạ cánh” an toàn bằng cách đi “du học”, chuyển vận tài san ra nước
ngoài chuẩn bị cho cha ông hạ cánh an toàn sau đó. Như vậy, Đầy tớ dân
chẳng phục vụ nhân dân, chẳng cai trị nhân dân mà là... hút máu nhân
dân.
Theo Tổng Cục Thống Kê, vào năm 2012 Việt Nam có 246,144 người làm việc
cho 34,378 cơ sở của tổ chức chính trị, đoàn thể, xã hội được nhà nước
đãi ngộ theo chế độ. Số cán bộ, công chức làm việc cho các tổ chức chính
trị, đoàn thể, xã hội được nhà nước trả lương chiếm 7.2% nhân lực làm
việc cho nhà nước và 1.1% tổng lực lượng lao động xã hội. Nếu tính cả số
cán bộ không chuyên trách ở cấp xã, phường, thôn, xóm (hoạt động trong
các tổ chức quần chúng công cấp cơ sở), tổng số người hoạt động trong
lĩnh vực tổ chức quần chúng công (có biên chế và không có biên chế) ước
tính vào khoảng 337,981 người.
Một nước có khoảng 93 triệu dân mà cần đến 2,8 triệu cán bộ công nhân
viên chức so với Hoa Kỳ, với 320 triệu dân, chỉ cần khoảng 1,8 triệu
công chức mà thôi! Đây cũng là một tính ưu việt của CSVN.
7- Công an là lực lượng được thành lập để bảo vệ dân hay bảo vệ chế độ?
Chỉ nội trong một câu chuyện điển hình là Vũng Áng Formosa, chúng ta đã
thấy rõ ràng sự đàn áp của công an và công an giả dạng cồn đồ đàn áp
người dân như thế nào rồi. Giây thần kinh “tình dân tộc, nghĩa đồng bào”
của họ đã bị liệt từ khi được nhồi sọ hay tẩy não bằng cơ chế chuyên
chính vô sản, bằng tư tưởng HCM, bằng lý thuyết không tưởng Mác Lê bịnh
hoạn…
Hình ảnh ngày 18/10 vừa qua, do bạn đọc cung cấp mô tả hàng trăm CS Cơ
động của đảng CSVN đang được cung cấp bữa tối trong nhà ăn của Formosa
Hà Tĩnh. Tin tức cho biết phải có đến hàng ngàn CSCĐ sinh sống trong nhà
máy Formosa nhiều ngày nay. Chưa rõ tại sao họ lại có mặt ở đây, phải
chăng họ đến để tránh lụt miền Trung hay chuẩn bị để đàn áp bà con sắp
sửa tấn công Formosa để “bắt vài con tin công nhân Tàu?
8-
Khẩu hiệu của quân đội là "trung với đảng", vậy sao khi hy sinh lại ghi
trên bia mộ là "tổ quốc ghi công" chứ không phải "đảng ghi công"?
Cô cần bổ tức thêm là khẩu hiệu của quân đội là “trung với đảng, hiếu
với dân”. Đảng CSVN đã từ lâu dùng hai chữ đồng nghĩa với nhau là “tổ
quốc” và “đảng”. Tổ quốc là đảng. Mà Đảng cũng là tổ quốc. Cô đã từng
nghe Chế Lan Viên ngâm:"Bên đây biên giới là nhà - Bên kia biên giới cũng là quê hương". Do đó, tổ quốc hay quê hương, hay đảng cũng chỉ là một, thưa Cô.
9- Tại sao có "huân chương kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ" mà lại không có "huân chương kháng chiến chống Tầu"?
Quá giản dị mà Cô vẫn hỏi! Làm gì có... sự Chống Tàu của CSVN. Suốt 1020
năm Bắc thuộc, thái thú trong thời gian nầy là người Tàu nói tiếng Hán.
Bây giờ, Thái thú ngày hôm nay biết nói tiếng Việt với giọng đặc sệt
Bắc Kỳ ở miền núi!
10- Đảng cử thì đảng bầu, tại sao đảng cử lại bắt dân bầu?
Đây chỉ là một câu sáo ngữ mà thôi. Thêm một lần nữa Đảng nào biết có
chữ DÂN trong đầu. Dù dân có bầu hay không, cuộc bầu cử vẫn xảy ra và
vẫn có 100% “dân bầu” cũng như “Đảng” đắc cử!
11-
Chủ nghĩa xã hội là chế độ ưu việt, vậy tại sao nó sụp đổ tại Nga, nơi
nó được sinh ra và tại sao chỉ còn vài quốc gia theo mô hình này?
12-
Tư tưởng Mác-Lenin là tư tưởng khai sáng nhân loại, vậy tại sao tượng
Lenin bị phá sập tại Nga và các nước đông Âu trong tiếng hò reo của nhân
dân?
Để trả lời hai câu hỏi 11 và 12, xin Cô xem lại câu hỏi số 6. Xin kết luận “Con giun xéo lắm cũng quằn”.
13-
Hồ Chí Minh từng nói: "Không, tôi chẳng có tư tưởng gì ngoài tư tưởng
chủ nghĩa Mác-Lê". Vậy giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh ở đâu ra?
Giáo trình tư tưởng HCM ở nơi Ông Thiến heo, nơi Ông Thợ chích, nơi Ông
Cạo mũ cao su, nơi Ông Bồi Tây, và ở nơi 4 triệu đảng viên cộng sản vô
nhân tính.
Thưa Cô Giáo Trần Thị Lam,
Trên đây là những câu trả lời mạo muội của một thầy giáo đã “mất dạy” và
“bất lương” ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Mất dạy vì bị “cấm lên
lớp” và bất lương vì không còn được lảnh lương nữa.
Mong được Cô Giáo Lam góp ý về những “đáp án” trên.
Cám ơn Cô.
Houston, 10/2016
Thầy giáo Mai Thanh Truyết
Sunday, October 23, 2016
TÔ HẢI * NGUYỄN ĐÌNH HƯONG NGU!
ÔI! THẢM HẠI CHO MỘT CÁI LÃO NÝ SỰ CỰC NGU! (Tô Hải )
Đọc những gì mà lão ta càng ngày cang huyên thuyên mà thấy nó càng nói càng ngu đến thảm hại.
Nghe này:
'Nhà hỏng từ trong, gió nhẹ là đổ'
Một cựu lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam nêu định nghĩa 'tự diễn biến'
trong tầng lớp quan chức chính là hành vi 'lợi dụng chức quyền để tham
nhũng, vơ vét'.
Cựu phó Ban Tổ chức Trung ương của Đảng Cộng sản, ông Nguyễn Đình Hương, được VietnamNet (19/10/2016) trích lời nói:
"Với tư cách cá nhân, tôi cho rằng 'tự diễn biến' ở đây trước hết là đi
ngược lý tưởng phục vụ nhân dân, đi ngược lý tưởng làm cho đất nước
'đàng hoàng hơn, to đẹp hơn' - đó là những ai vô cảm trước khó khăn, bức
xúc của dân, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, vơ vét."
Nhắc đến các phát biểu của lãnh đạo đương chức tại Hội nghị Trung ương 4 vừa qua, ông Nguyễn Đình Hương cảnh báo:
"Trước đây, Liên Xô sụp đổ vì nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân đã
được báo chí quốc tế mổ xẻ là nhiều cán bộ cấp cao tham nhũng, đặc
quyền đặc lợi, không quan tâm tới đời sống người dân."
"Nhà hỏng từ bên trong thì chỉ cần gió nhẹ cũng đổ."
Ông kêu gọi "mỗi cán bộ, đảng viên hãy nghiêm túc xem xét mình đã sống lành mạnh, sống bằng lao động của mình hay chưa…"
Nói về 'tự suy thoái'
Có vẻ như định nghĩa cá nhân của ông Nguyễn Đình Hương về hiện tượng 'tự suy thoái', 'tự diễn biến' nhắm vào một góc độ khác những gì Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu ra từ vài năm qua.
Hồi tháng 2/2013, phát biểu tại Phú Thọ, Giáo sư Trọng nói nhiều hơn đến góc độ thay đổi quan điểm chính trị của "tự suy thoái'.
Ông hỏi: "Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không?"
"Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông
tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa! … Tham gia
khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể … thì đó là cái gì?"
Sang dịp Xuân 2014, ông nhắc lại trên Truyền hình Việt Nam:
"Đảng phải tự chỉnh đốn, ngày càng trong sạch, vững mạnh, phải chống cho được sự thoái hóa tư tưởng, đạo đức.
"Đấu tranh chống tham nhũng phức tạp, khó khăn vì nó xảy ra ngay trong nội bộ chúng ta...
"Phải làm mạnh hơn nữa công tác phòng ngừa, răn đe, làm tốt công tác
tuyên truyền giáo dục, để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải thấm nhuần
sâu sắc nguy cơ về tham nhũng với một Đảng cầm quyền, nếu không làm
thì sẽ có nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng."
Đến tháng 10/2016, ông Nguyễn Phú Trọng nhắc lại chủ đề 'tự diễn biến', 'tự suy thoái' tại Hội nghị Trung ương 4 tại Hà Nội.
Theo ông, tình trạng suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hoá vẫn chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi, có thể gây ra những hậu quả khôn lường.
Ông "tiến sỹ xây dựng đảng" duy nhất trên thế gian này, nhà "đại ný sự về
biến chứng" (Không phải biện chứng đâu nhé), mỗi lần phát ra một
điều gì "mới lạ" đều làm cả thế giới, mọi tầng lớp trẻ già trai gái nghe xong
phát phì cười về những sáng tạo "chưa ai nghe thấy bao giờ". . . Tỉ như "Ngoại
giao là liều thuốc cho Hòa Bình" (???) "Làm cán bộ ngoại giao là phải thuộc
bài"(??? "Đánh nội xâm là. . "Ta" đánh "Ta" (???). . . . Và định nghĩa cái tự
diễn biến củả lão ta thì. . . . cả thế giới này đều bị lão ta cho. . . vô tù
hoặc. . . hòa cả làng vì cả thế giới đã "tự diễn biến" , đang "tự suy thoái" và
đang tự diễn biến thành những thứ lão đang hăng say lên án. . .
Và ngu hơn nữa là chính cái đảng lão ta đang mò mẫm dắt lối, chỉ đường cũng đang 100% tự diễn biến để rời bỏ cái thứ đảng cộng sản Mác-Lê nhà lão từ lâu rồi !. . . đâu còn chi nữa mà "tồn vong" !? (Chính ngoại trưởng Mỹ J. Kerry, mới đây cũng phải công nhận là "đảng cộng sản ở Vietnam đã trở thành. . . tư bản! (nhưng đang ở thời "cổ lỗ" nên tha hồ bóc lột nhau tàn mạt, . . . . nhiều đến nỗi không ai còn có thể trị nổi ai nữa!)
Thế cho nên lần này lão Tổng mới đánh lộn sòng gọi "Ta là Địch-Địch là Ta" là lão ta ra cái đều CHỈ CÒN MỘT MÌNH TA LÀ MÁC LÊ CHÍNH HIỆU. . còn lại cả thế giới này đều tự chuyển biến, , tự suy thoái hết rồi. . . . Điềm báo trước: LÃO TA SẮP RA ĐI THEO CHÂN 2 ÔNG TÂY RÂU XỒM ĐẦU HÓI hoặc ít nhất cũng còn sức mang theo tượng Bác Hồ bằng vàng (nếu có) bay sang Thiên Triều ẩn nấp kỹ trong Tử Cấm Thành để chờ chết trong những ngày tàn còn lại. . . .
Buồn thay cho những kẻ mang tiếng là có đầu óc, có học hành, dù chỉ tí chút, cho tới hôm nay vẫn cúc cung "thu giọn vệ sinh" những gì vua Trọng nhả ra. . . và những tên đã tự suy thoái, tự diễn biến cao độ cho đến hôm nay vẫn giơ tay hua-ra ông vua đặc biệt có một không hai trong lịch sử loài người của họ, với chỉ một mục đích tối thượng:"Đua nhau vơ vét thật nhiều".
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Và ngu hơn nữa là chính cái đảng lão ta đang mò mẫm dắt lối, chỉ đường cũng đang 100% tự diễn biến để rời bỏ cái thứ đảng cộng sản Mác-Lê nhà lão từ lâu rồi !. . . đâu còn chi nữa mà "tồn vong" !? (Chính ngoại trưởng Mỹ J. Kerry, mới đây cũng phải công nhận là "đảng cộng sản ở Vietnam đã trở thành. . . tư bản! (nhưng đang ở thời "cổ lỗ" nên tha hồ bóc lột nhau tàn mạt, . . . . nhiều đến nỗi không ai còn có thể trị nổi ai nữa!)
Thế cho nên lần này lão Tổng mới đánh lộn sòng gọi "Ta là Địch-Địch là Ta" là lão ta ra cái đều CHỈ CÒN MỘT MÌNH TA LÀ MÁC LÊ CHÍNH HIỆU. . còn lại cả thế giới này đều tự chuyển biến, , tự suy thoái hết rồi. . . . Điềm báo trước: LÃO TA SẮP RA ĐI THEO CHÂN 2 ÔNG TÂY RÂU XỒM ĐẦU HÓI hoặc ít nhất cũng còn sức mang theo tượng Bác Hồ bằng vàng (nếu có) bay sang Thiên Triều ẩn nấp kỹ trong Tử Cấm Thành để chờ chết trong những ngày tàn còn lại. . . .
Buồn thay cho những kẻ mang tiếng là có đầu óc, có học hành, dù chỉ tí chút, cho tới hôm nay vẫn cúc cung "thu giọn vệ sinh" những gì vua Trọng nhả ra. . . và những tên đã tự suy thoái, tự diễn biến cao độ cho đến hôm nay vẫn giơ tay hua-ra ông vua đặc biệt có một không hai trong lịch sử loài người của họ, với chỉ một mục đích tối thượng:"Đua nhau vơ vét thật nhiều".
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
(2 ngày, ngồi lên, nằm xuống mò mẫm viết lại để. . . "ra vẻ ta đây" chưa chịu rời vũ khí dù mắt đã mù 60%, tắc thở liên tục do bênh luôn lịch phát. . . . nhưng không sao chết được. Mong các bạn đọc hãy mừng cho tớ tí chút!)
TÔ HẢI
HOÀNG THỦY * HẬU DUỆ VUA HÀM NGHI
Sự trở về của cô gái Pháp mang dòng máu vua Hàm Nghi
Một câu chuyện kì lạ khác về vua Hàm Nghi vừa làm ngỡ ngàng người Sài
Gòn, khi một nữ trí thức trẻ người pháp trở về nhận là hậu duệ của ông
và cho biết đang làm luận án tiến sĩ lịch sử nghệ thuật về chính bậc
tiền nhân của mình.
Hàm Nghi là vị hoàng đế có số phận kì lạ, từ chuyện ông được chọn lên ngôi, truyền hịch Cần Vương chống pháp, bị bắt lưu đày biệt xứ, từ chối học tiếng Pháp và cả việc ông vẽ hàng trăm bức tranh mà mãi sau này mới được biết đến.
Sống lại hình ảnh tuổi trẻ vua Hàm Nghi trong mắt cô cháu gái Nữ trí thức trẻ ấy có gương mặt xinh đẹp, thanh tú rất Pháp và cái tên cũng hoàn toàn Pháp: Amandine Dabat, sinh năm 1987 ở Paris, tốt nghiệp cử nhân Việt Nam học tại Pháp năm 2012. Vẻ đẹp rạng rỡ, phong cách ứng xử tinh tế và diễn ngôn lưu loát của cô làm dịu đi cái nắng xuân oi bức Sài Gòn tháng 3.2015. Điều gây ngạc nhiên cho mọi người là cô lại mang trong mình dòng máu của vị hoàng đế yêu nước Hàm Nghi, mà theo cách gọi của người Pháp thời thuộc địa là “ông hoàng An Nam”.
Bằng kiến văn sâu sắc và khách quan, cô đã giúp làm sáng tỏ thêm nhiều điều bất ngờ thú vị về ông vua có tâm hồn nghệ sĩ.
Lịch sử cho biết, Hàm Nghi tên huý Nguyễn Phúc Ưng Lịch là hoàng đế thứ 8 của triều đình nhà Nguyễn, do phái chủ chiến mà đứng đầu là hai đại thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường dựng lên làm vua khi ông mới 13 tuổi. Là con thứ 5 của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn, ông là một trong ba vị vua là ba anh em ruột được sinh trưởng trong cùng một gia đình hoàng tộc: Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh. Ông cũng là một trong ba vị vua nhà Nguyễn được lịch sử tôn vinh yêu nước chống giặc Pháp xâm lược: Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Và sau ba năm phất cờ khởi nghĩa Cần Vương, ông bị kẻ phản bội chỉ điểm và bị thực dân Pháp bắt xuống tàu đày sang an trí tận thủ đô Alger của Algeria năm 1888.
Bị giam lỏng xứ người xa xôi, sống buồn tủi trong ngôi biệt thự Rừng Thông (Villa des Pins, thuộc làng El Biar), cựu hoàng trẻ tuổi vẫn giữ cách ăn mặc, sinh hoạt của người Việt, từ chối học tiếng Pháp, vì ông cho đó là ngôn ngữ của kẻ thù xâm lược Tổ quốc mình. Tuy nhiên, cuối cùng nhận thấy người Pháp ở Algeria tỏ ra tử tế hơn người Pháp ở Việt Nam và cũng do nhu cầu giao tiếp, nên ông dần học và nói, viết rành tiếng Pháp.
Đến năm 1904, Hàm Nghi đã kết hôn với bà Marcelle Laloe ở Alger và lần lượt sinh hạ ba người con: hai công chúa Như Mai, Như Lý và hoàng tử Minh Đức. Trong đó, công chúa Như Lý (hoặc Như Luân, 1908 - 2005) từng tốt nghiệp tiến sĩ y khoa và lập gia đình với công tước Frangois Barthomivat de la Besse, mà cô Amandine Dabat là cháu đời thứ 4; cũng có nghĩa Amandine là hậu duệ đời thứ 5 của vua Hàm Nghi.
Đây không phải là chuyến trở về Việt Nam đầu tiên của Amandine Dabat, nhưng là lần đầu cô có buổi trò chuyện trước hàng trăm người tại Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. HCM, lại nói về cuộc đời kì lạ của một người thân thích của mình là hoàng đế - nghệ sĩ Hàm Nghi. Điều đó gây xúc động trong từng lời nói của nữ trí thức trẻ này và xúc động cả người nghe đông đảo khán phòng.
Hình ảnh vị vua yêu nước trẻ tuổi có số phận đặc biệt từ hơn một trăm năm trước như sống lại trong mỗi ánh mắt, cử chỉ thông minh của người chắt ngoại xa lạ mà dễ gần của ông. Mọi người bắt gặp phía trong hình hài rất Pháp của cô gái trẻ là một tâm hồn rất Việt, với tinh thần tự tôn về tổ tiên và tình yêu cháy bỏng đối với di sản yêu nước và nghệ thuật mà cụ tổ là hoàng đế Hàm Nghi để lại.
Amandine Dabat cho biết, cô càng nghiên cứu kho sử liệu gia đình thì càng tự hào vì trong mình có dòng máu của vị vua người Việt Nam yêu nước, một nghệ sĩ có cuộc đời thật kì lạ. Khi bị lưu đày tại Algeria, vua Hàm Nghi vẫn bị người Pháp cho rằng có thể quay về Việt Nam làm vua và xem ông như một quân bài dự bị chiến lược. Cả người quản gia cũng là nhân viên an ninh theo dõi nhà vua và đã làm báo cáo nhiều trang gửi chính quyền thực dân. Thư từ hoàn toàn bị kiểm soát và chỉ một số ít đến được tay của nhà vua.
Hàm Nghi là một trong hai hoạ sĩ Việt Nam đầu tiên theo phong cách phương Tây
Đối với thế giới nghệ thuật, cựu hoàng Hàm Nghi với nghệ danh Tử Xuân ký dưới các bức tranh, là một hoạ sĩ đích thực với niềm đam mê hội hoạ lớn lao và có thành tựu, chứ ông không chỉ đơn giản dùng tranh để khuây khoả những năm tháng bị đày ải biệt xứ.
“Thực sự lúc đầu tôi nghĩ rằng ông vẽ như một cách để tìm niềm vui. Nhưng qua tư liệu cho thấy, khi đã khởi đầu thì ông đam mê vẽ cả ngày, vẽ như một hoạ sĩ thực sự. Và theo tôi, ông đã trở thành hoạ sĩ một cách tự nhiên”. Amandine Dabat cũng nói rằng, nhà vua đã vượt ra khỏi sự giam lỏng của chính quyền thực dân Pháp để tìm đến với nghệ thuật như một cách bày tỏ nỗi nhớ cố hương đang chìm trong bóng giặc. Tác phẩm của ông không bộc lộ quan điểm chính trị.
Hành trình đến với nghệ thuật của cựu hoàng Hàm Nghi cũng khá đặc biệt. Ông vốn không tỏ ra có năng khiếu mỹ thuật. Vào năm 1899, từ Alger ông sang Paris và thích thú khi xem một cuộc triển lãm của danh họa Paul Gauguin, từ đó khơi lên trong ông ngọn lửa tình yêu hội họa. Và cũng từ đó ông dần đắm chìm trong sắc màu.
Tranh của ông chịu ảnh hưởng của trường phái ấn tượng của nước Pháp và châu Âu. Người gần gũi dạy vẽ trực tiếp cho ông 15 năm là hoạ sĩ Pháp Marius Reynaud sống ở Algeria. Ngoài ra, Hàm Nghi cũng từng “thọ giáo” nhà điêu khắc vĩ đại nhất nước Pháp August Rodin, mà tại cuộc triển lãm năm 1979, trong phần Rodin với vùng Viễn Đông có xác thực điều này.
Nhờ những chuyến du hành hạn chế sang Pháp và trên đất nước Algeria mà ông đã vẽ nhiều bức phong cảnh, tĩnh vật và điêu khắc một số tượng chân dung bằng đồng, thạch cao. Tranh tượng của Hàm Nghi dùng bút pháp phương Tây nhưng hoà quyện tinh thần văn hoá phương Đông, nơi sinh thành ra ông với những hình ảnh thân thuộc như cánh đồng, cây cối, hoa trái, cánh cò cánh vạc vào buổi hoàng hôn. Điều đó giúp ông giải toả nỗi nhớ cố hương và cũng là hồn cốt tạo nên sự khác biệt trong tác phẩm của ông.
Kì lạ là hơn nửa thế kỉ sau khi cựu hoàng Hàm Nghi qua đời, mọi người mới lơ mơ biết rằng ông từng vẽ tranh khắc tượng. Thông tin về các tác phẩm của ông chỉ được biết qua thư từ mà ông trao đổi với bạn bè, nhất là catalogue của cuộc triển lãm riêng vào năm 1926 tại Paris dưới bút danh Tử Xuân; còn đa số tranh của ông đã bị thất lạc, nhất là khi căn nhà ông ở bị cháy trong biến cố chiến tranh ở Algeria năm 1962.
Đến nay tranh của ông còn lại khoảng dưới 100 tác phẩm, về bức tranh Chiều tà (Déclin du jour) của Hàm Nghi được phát hiện và bán đấu giá 8.800 euro ở Paris ngày 24.11.2010, Amandine Dabat nói rằng cô và gia đình không hề hay biết cho tới khi nghe thông tin qua báo chí.
Vì sao Hàm Nghi ký tên dưới các bức tranh là Tử Xuân, chứ không phải Xuân Tử vốn là tên được cha mẹ đặt cho? Ông kí tên bằng chữ quốc ngữ rất rõ ràng nhưng không có dấu, theo kiểu tiếng Pháp: Tu Xuan. Vấn đề này được đặt ra và tranh luận nhỏ tại buổi giao lưu.
Theo lý giải của Amandine Dabat, khi chống Pháp và bị bắt lưu đày, Hàm Nghi chưa tiếp cận chữ quốc ngữ mà chỉ dùng chữ Pháp và chữ Hán. Về sau, những người Việt sang Pháp du học mới dạy cho cựu hoàng chữ quốc ngữ và ông đã sử dụng nó để kí tên vào tác phẩm của mình.
Có mặt tại buổi giao lưu, Tiến sĩ văn học Trần Hoài Anh cho rằng, việc Hàm Nghi đã viết tên mình theo ngữ pháp tiếng Việt chứ không phải ngữ pháp tiếng Hán cho thấy ý thức khát khao độc lập về văn hoá của vị vua yêu nước. Với trình độ Hán học uyên thâm, không thể có chuyện cựu hoàng viết nhầm Xuân Tử thành Tử Xuân được. Đây chắc chắn là một biểu hiện có chủ ý của vua Hàm Nghi.
Amandine Dabat cho hay, cô đã tập hợp trên 2.500 tư liệu thư từ gia đình, thư viện, chứng từ hành chính trong thời kỳ lịch sử có liên quan đến vua Hàm Nghi để dựng lại cuộc đời của ông. Cô đang hoàn thành hai công trình để xuất bản thành sách, đó là luận án tiến sĩ lịch sử nghệ thuật tại Đại học Sorbonne mà cô thực hiện năm 2010 có chủ đề: “Tử Xuân: danh mục các tác phẩm tranh ảnh, điêu khắc của Hàm Nghi (1871-1944), vị hoàng đế Việt Nam lưu vong” và luận án tiến sĩ ngành lịch sử nghệ thuật và khảo cổ với chủ đề “Vua An Nam: khảo cổ học nhân học”.
Ngoài thư viện gia đình, Amandine Dabat đã tiến hành nhiều chuyến đi khảo cứu ở Algeria, Việt Nam và ngay tại Paris có liên quan tới cuộc đời vua Hàm Nghi. Cô nói: “Tôi hi vọng sẽ sớm xuất bản cuốn sách phát triển từ luận án về vua Hàm Nghi viết bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. Mọi thông tin cần biết về vị vua yêu nước và là một nghệ sĩ tài năng đích thực sẽ là niềm tự hào cho tất cả chúng ta”.
Trong câu chuyện, cô hay nói từ “chúng ta” bằng tình cảm chân thành và gần gũi của một người con xa xứ trở về cố hương với bao trăn trở về quá khứ đau thương xen lẫn tự hào về bậc tiền nhân “vị quốc vong thân”!
Chúng ta đã biết Hàm Nghi là vị hoàng đế yêu nước và đã thể hiện được bản lĩnh tâm hồn, nhân cách Việt khi bị lưu đày ở xứ lạ quê người. Qua “giọt máu” đáng quý của ông là Amandine Dabat, nhất định rồi đây chúng ta sẽ biết rõ thêm một Hàm Nghi nghệ sĩ, có thể là người tiên phong của nền mỹ thuật Việt Nam đương đại.
Như nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân: “Luận án tiến sĩ của Amandine nghiên cứu về toàn bộ cuộc đời làm nghệ thuật của vua Hàm Nghi. Hàm Nghi nghệ sĩ vẽ tranh, Hàm Nghi nặn tượng và Hàm Nghi nhiếp ảnh. Khi luận án này trình xong, cùng với Lê Văn Miến, vua Hàm Nghi sẽ được khẳng định là một trong hai họa sĩ Việt Nam đầu tiên vẽ tranh, nặn tượng theo phong cách phương Tây”.
Hàm Nghi là vị hoàng đế có số phận kì lạ, từ chuyện ông được chọn lên ngôi, truyền hịch Cần Vương chống pháp, bị bắt lưu đày biệt xứ, từ chối học tiếng Pháp và cả việc ông vẽ hàng trăm bức tranh mà mãi sau này mới được biết đến.
Sống lại hình ảnh tuổi trẻ vua Hàm Nghi trong mắt cô cháu gái Nữ trí thức trẻ ấy có gương mặt xinh đẹp, thanh tú rất Pháp và cái tên cũng hoàn toàn Pháp: Amandine Dabat, sinh năm 1987 ở Paris, tốt nghiệp cử nhân Việt Nam học tại Pháp năm 2012. Vẻ đẹp rạng rỡ, phong cách ứng xử tinh tế và diễn ngôn lưu loát của cô làm dịu đi cái nắng xuân oi bức Sài Gòn tháng 3.2015. Điều gây ngạc nhiên cho mọi người là cô lại mang trong mình dòng máu của vị hoàng đế yêu nước Hàm Nghi, mà theo cách gọi của người Pháp thời thuộc địa là “ông hoàng An Nam”.
Bằng kiến văn sâu sắc và khách quan, cô đã giúp làm sáng tỏ thêm nhiều điều bất ngờ thú vị về ông vua có tâm hồn nghệ sĩ.
Lịch sử cho biết, Hàm Nghi tên huý Nguyễn Phúc Ưng Lịch là hoàng đế thứ 8 của triều đình nhà Nguyễn, do phái chủ chiến mà đứng đầu là hai đại thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường dựng lên làm vua khi ông mới 13 tuổi. Là con thứ 5 của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn, ông là một trong ba vị vua là ba anh em ruột được sinh trưởng trong cùng một gia đình hoàng tộc: Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh. Ông cũng là một trong ba vị vua nhà Nguyễn được lịch sử tôn vinh yêu nước chống giặc Pháp xâm lược: Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Và sau ba năm phất cờ khởi nghĩa Cần Vương, ông bị kẻ phản bội chỉ điểm và bị thực dân Pháp bắt xuống tàu đày sang an trí tận thủ đô Alger của Algeria năm 1888.
Bị giam lỏng xứ người xa xôi, sống buồn tủi trong ngôi biệt thự Rừng Thông (Villa des Pins, thuộc làng El Biar), cựu hoàng trẻ tuổi vẫn giữ cách ăn mặc, sinh hoạt của người Việt, từ chối học tiếng Pháp, vì ông cho đó là ngôn ngữ của kẻ thù xâm lược Tổ quốc mình. Tuy nhiên, cuối cùng nhận thấy người Pháp ở Algeria tỏ ra tử tế hơn người Pháp ở Việt Nam và cũng do nhu cầu giao tiếp, nên ông dần học và nói, viết rành tiếng Pháp.
Đến năm 1904, Hàm Nghi đã kết hôn với bà Marcelle Laloe ở Alger và lần lượt sinh hạ ba người con: hai công chúa Như Mai, Như Lý và hoàng tử Minh Đức. Trong đó, công chúa Như Lý (hoặc Như Luân, 1908 - 2005) từng tốt nghiệp tiến sĩ y khoa và lập gia đình với công tước Frangois Barthomivat de la Besse, mà cô Amandine Dabat là cháu đời thứ 4; cũng có nghĩa Amandine là hậu duệ đời thứ 5 của vua Hàm Nghi.
Đây không phải là chuyến trở về Việt Nam đầu tiên của Amandine Dabat, nhưng là lần đầu cô có buổi trò chuyện trước hàng trăm người tại Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. HCM, lại nói về cuộc đời kì lạ của một người thân thích của mình là hoàng đế - nghệ sĩ Hàm Nghi. Điều đó gây xúc động trong từng lời nói của nữ trí thức trẻ này và xúc động cả người nghe đông đảo khán phòng.
Hình ảnh vị vua yêu nước trẻ tuổi có số phận đặc biệt từ hơn một trăm năm trước như sống lại trong mỗi ánh mắt, cử chỉ thông minh của người chắt ngoại xa lạ mà dễ gần của ông. Mọi người bắt gặp phía trong hình hài rất Pháp của cô gái trẻ là một tâm hồn rất Việt, với tinh thần tự tôn về tổ tiên và tình yêu cháy bỏng đối với di sản yêu nước và nghệ thuật mà cụ tổ là hoàng đế Hàm Nghi để lại.
Amandine Dabat cho biết, cô càng nghiên cứu kho sử liệu gia đình thì càng tự hào vì trong mình có dòng máu của vị vua người Việt Nam yêu nước, một nghệ sĩ có cuộc đời thật kì lạ. Khi bị lưu đày tại Algeria, vua Hàm Nghi vẫn bị người Pháp cho rằng có thể quay về Việt Nam làm vua và xem ông như một quân bài dự bị chiến lược. Cả người quản gia cũng là nhân viên an ninh theo dõi nhà vua và đã làm báo cáo nhiều trang gửi chính quyền thực dân. Thư từ hoàn toàn bị kiểm soát và chỉ một số ít đến được tay của nhà vua.
Hàm Nghi là một trong hai hoạ sĩ Việt Nam đầu tiên theo phong cách phương Tây
Đối với thế giới nghệ thuật, cựu hoàng Hàm Nghi với nghệ danh Tử Xuân ký dưới các bức tranh, là một hoạ sĩ đích thực với niềm đam mê hội hoạ lớn lao và có thành tựu, chứ ông không chỉ đơn giản dùng tranh để khuây khoả những năm tháng bị đày ải biệt xứ.
“Thực sự lúc đầu tôi nghĩ rằng ông vẽ như một cách để tìm niềm vui. Nhưng qua tư liệu cho thấy, khi đã khởi đầu thì ông đam mê vẽ cả ngày, vẽ như một hoạ sĩ thực sự. Và theo tôi, ông đã trở thành hoạ sĩ một cách tự nhiên”. Amandine Dabat cũng nói rằng, nhà vua đã vượt ra khỏi sự giam lỏng của chính quyền thực dân Pháp để tìm đến với nghệ thuật như một cách bày tỏ nỗi nhớ cố hương đang chìm trong bóng giặc. Tác phẩm của ông không bộc lộ quan điểm chính trị.
Hành trình đến với nghệ thuật của cựu hoàng Hàm Nghi cũng khá đặc biệt. Ông vốn không tỏ ra có năng khiếu mỹ thuật. Vào năm 1899, từ Alger ông sang Paris và thích thú khi xem một cuộc triển lãm của danh họa Paul Gauguin, từ đó khơi lên trong ông ngọn lửa tình yêu hội họa. Và cũng từ đó ông dần đắm chìm trong sắc màu.
Tranh của ông chịu ảnh hưởng của trường phái ấn tượng của nước Pháp và châu Âu. Người gần gũi dạy vẽ trực tiếp cho ông 15 năm là hoạ sĩ Pháp Marius Reynaud sống ở Algeria. Ngoài ra, Hàm Nghi cũng từng “thọ giáo” nhà điêu khắc vĩ đại nhất nước Pháp August Rodin, mà tại cuộc triển lãm năm 1979, trong phần Rodin với vùng Viễn Đông có xác thực điều này.
Nhờ những chuyến du hành hạn chế sang Pháp và trên đất nước Algeria mà ông đã vẽ nhiều bức phong cảnh, tĩnh vật và điêu khắc một số tượng chân dung bằng đồng, thạch cao. Tranh tượng của Hàm Nghi dùng bút pháp phương Tây nhưng hoà quyện tinh thần văn hoá phương Đông, nơi sinh thành ra ông với những hình ảnh thân thuộc như cánh đồng, cây cối, hoa trái, cánh cò cánh vạc vào buổi hoàng hôn. Điều đó giúp ông giải toả nỗi nhớ cố hương và cũng là hồn cốt tạo nên sự khác biệt trong tác phẩm của ông.
Kì lạ là hơn nửa thế kỉ sau khi cựu hoàng Hàm Nghi qua đời, mọi người mới lơ mơ biết rằng ông từng vẽ tranh khắc tượng. Thông tin về các tác phẩm của ông chỉ được biết qua thư từ mà ông trao đổi với bạn bè, nhất là catalogue của cuộc triển lãm riêng vào năm 1926 tại Paris dưới bút danh Tử Xuân; còn đa số tranh của ông đã bị thất lạc, nhất là khi căn nhà ông ở bị cháy trong biến cố chiến tranh ở Algeria năm 1962.
Đến nay tranh của ông còn lại khoảng dưới 100 tác phẩm, về bức tranh Chiều tà (Déclin du jour) của Hàm Nghi được phát hiện và bán đấu giá 8.800 euro ở Paris ngày 24.11.2010, Amandine Dabat nói rằng cô và gia đình không hề hay biết cho tới khi nghe thông tin qua báo chí.
Vì sao Hàm Nghi ký tên dưới các bức tranh là Tử Xuân, chứ không phải Xuân Tử vốn là tên được cha mẹ đặt cho? Ông kí tên bằng chữ quốc ngữ rất rõ ràng nhưng không có dấu, theo kiểu tiếng Pháp: Tu Xuan. Vấn đề này được đặt ra và tranh luận nhỏ tại buổi giao lưu.
Theo lý giải của Amandine Dabat, khi chống Pháp và bị bắt lưu đày, Hàm Nghi chưa tiếp cận chữ quốc ngữ mà chỉ dùng chữ Pháp và chữ Hán. Về sau, những người Việt sang Pháp du học mới dạy cho cựu hoàng chữ quốc ngữ và ông đã sử dụng nó để kí tên vào tác phẩm của mình.
Có mặt tại buổi giao lưu, Tiến sĩ văn học Trần Hoài Anh cho rằng, việc Hàm Nghi đã viết tên mình theo ngữ pháp tiếng Việt chứ không phải ngữ pháp tiếng Hán cho thấy ý thức khát khao độc lập về văn hoá của vị vua yêu nước. Với trình độ Hán học uyên thâm, không thể có chuyện cựu hoàng viết nhầm Xuân Tử thành Tử Xuân được. Đây chắc chắn là một biểu hiện có chủ ý của vua Hàm Nghi.
Amandine Dabat cho hay, cô đã tập hợp trên 2.500 tư liệu thư từ gia đình, thư viện, chứng từ hành chính trong thời kỳ lịch sử có liên quan đến vua Hàm Nghi để dựng lại cuộc đời của ông. Cô đang hoàn thành hai công trình để xuất bản thành sách, đó là luận án tiến sĩ lịch sử nghệ thuật tại Đại học Sorbonne mà cô thực hiện năm 2010 có chủ đề: “Tử Xuân: danh mục các tác phẩm tranh ảnh, điêu khắc của Hàm Nghi (1871-1944), vị hoàng đế Việt Nam lưu vong” và luận án tiến sĩ ngành lịch sử nghệ thuật và khảo cổ với chủ đề “Vua An Nam: khảo cổ học nhân học”.
Ngoài thư viện gia đình, Amandine Dabat đã tiến hành nhiều chuyến đi khảo cứu ở Algeria, Việt Nam và ngay tại Paris có liên quan tới cuộc đời vua Hàm Nghi. Cô nói: “Tôi hi vọng sẽ sớm xuất bản cuốn sách phát triển từ luận án về vua Hàm Nghi viết bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. Mọi thông tin cần biết về vị vua yêu nước và là một nghệ sĩ tài năng đích thực sẽ là niềm tự hào cho tất cả chúng ta”.
Trong câu chuyện, cô hay nói từ “chúng ta” bằng tình cảm chân thành và gần gũi của một người con xa xứ trở về cố hương với bao trăn trở về quá khứ đau thương xen lẫn tự hào về bậc tiền nhân “vị quốc vong thân”!
Chúng ta đã biết Hàm Nghi là vị hoàng đế yêu nước và đã thể hiện được bản lĩnh tâm hồn, nhân cách Việt khi bị lưu đày ở xứ lạ quê người. Qua “giọt máu” đáng quý của ông là Amandine Dabat, nhất định rồi đây chúng ta sẽ biết rõ thêm một Hàm Nghi nghệ sĩ, có thể là người tiên phong của nền mỹ thuật Việt Nam đương đại.
Như nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân: “Luận án tiến sĩ của Amandine nghiên cứu về toàn bộ cuộc đời làm nghệ thuật của vua Hàm Nghi. Hàm Nghi nghệ sĩ vẽ tranh, Hàm Nghi nặn tượng và Hàm Nghi nhiếp ảnh. Khi luận án này trình xong, cùng với Lê Văn Miến, vua Hàm Nghi sẽ được khẳng định là một trong hai họa sĩ Việt Nam đầu tiên vẽ tranh, nặn tượng theo phong cách phương Tây”.
VĂN QUANG * THANH NAM
Đây là bài thứ nhất tôi viết về Thanh Nam, một người bạn thân trong số
vài người bạn thân của tôi từ xưa tới nay. Khi Thanh Nam mất ở Mỹ, tôi
hoàn toàn không biết và dù có biết cũng chưa thể “nói gì” với nhau được
khi VN còn “mù internet” và hoàn cảnh của tôi cũng chẳng dễ chịu chút
nào.
Thấm thoát thế mà đã hơn hai mươi năm. Ngày giỗ Thanh Nam lại đến. Tôi
chỉ còn nhớ có một người bạn nào đó gửi cho tôi một bài và vài tấm hình
về những ngày tháng cuối cùng của Thanh Nam, có các cháu Mai Hương,
Quỳnh Giao… đến bên giường bệnh hát cho chú nghe lần cuối. Những chi
tiết làm tôi cảm động. Bùi ngùi nhớ lại khoảng thời gian dài chúng tôi
sống và làm việc cùng nhau từ tòa soạn báo Điện Ảnh của anh Nguyễn Ngọc
Linh rồi đến Kịch Ảnh của ông Quốc Phong đến tòa báo Chiến sĩ Cộng Hòa
của Quân Đội. Nhưng nhiều kỷ niệm nhất vẫn là những ngày tháng Thanh Nam
chưa lập gia đình. Hầu như mỗi buổi tối chúng tôi thường ngồi với nhau
hoặc ở một quán cà phê, hoặc ở một quán ăn, hoặc ở một dancing nào đó,
mà thường là Tự Do, Mỹ Phụng giữa Sài Gòn. Có Thanh Nam là có Mai Thảo,
Hoài Bắc, đôi khi có cả các anh Vũ Khắc Khoan,
Mặc Đỗ. Các ông này uống rượu tì tì, tôi thì không dám uống vì bịnh bao
tử, nên chỉ ngồi ăn giỗ mồi. Có khi các ông ấy say khướt, người tỉnh
nhất là tôi nên phải lái xe đưa các ông về từng nhà. Có lúc hứng, tan
tầm ở tiệm nhảy Baccara đã là 3-4 giờ sáng, các ông ấy đòi đi Vũng Tàu -
Đà Lạt cùng với mấy em ca-nhe nổi máu điên bất tử, tôi cũng lại là
người lái xe. Đúng là những anh tỉnh táo thường bị thiệt.
Từ ngày Thanh Nam lập gia đình với chị Túy Hồng, chàng có vẻ ngoan hơn
và tôi cũng ít có dịp đi chơi với Thanh Nam. Chúng tôi vẫn cứ nói lén là
chỉ có cô gái Huế mới làm chàng lãng tử dừng bước chân giang hồ. Một
điều dễ nhận ra là Thanh Nam đã từng quen biết khá thân thiết với với ít
nhất 3 người đẹp, toàn là danh ca, kể cả tân nhạc và cải lương, nổi
tiếng ở Sài Gòn thời đó mà không một người nào giữ chân Thanh Nam được.
Chỉ có Túy Hồng mới làm được việc này.
Tuy nhiên, trước khi kể về những ngày tháng đó, tôi phải xin lỗi chị Túy
Hồng vì kỷ niệm nào “thời son trẻ” cũng không… qua ải mỹ nhân. Chính vì
điều này nên tôi cứ ngần ngại mãi, định dành cho một dịp khác. Nhưng
chị Lai Hồng và thêm chị Lê Thị Huệ chủ biên website gio-o cứ khuyến
khích mãi, kể rằng chị Túy Hồng biết hết những chuyện đó rồi, chính chị
ấy cũng viết về những “người đẹp” mà Thanh Nam đã từng quen biết. Cứ
viết đi, không sao đâu. Vậy nếu chị Túy Hồng có buồn thì nhớ buồn luôn
cả những người đã “xúi” tôi đấy nhé. Thật tình tôi cũng mong có một lần
được “sống lại” cùng một người bạn trên những dòng chữ này. Tuy nhiên, ở
đây tôi chỉ xin nhắc lại một vài kỷ niệm nhỏ đủ để “góp giỗ” cùng bạn
bè.
Thời Thanh Nam mới ra lò
Tôi quen biết Thanh Nam từ năm 1951 hay 1952 gì đó khi tôi từ Hải Phòng
đi với Cuồng Phong lên Hà Nội. Tôi gặp Thanh Nam, Huy Quang, Phan Nghị,
Nguyễn Minh Lang trong một khu hội chợ bên Hồ Gươm. Lúc đó các ông này
làm thành một tổ phụ trách về công việc phát thanh trong hội chợ. Toàn
những anh mới lớn mà đã được giao một nhiệm vụ khá quan trọng. Bởi dù
sao thì những anh “nhóc mới lớn” này, mỗi anh đều đã từng có tiểu thuyết
xuất bản hẳn hoi. Người lớn tuổi và nổi tiếng nhất thời đó vẫn là
Nguyễn Minh Lang với những cuốn tiểu thuyết đầy vẻ “lãng đãng” như “cuộc
đời một thiếu nữ”. N.M.Lang như cái đầu tàu. Sau đó là Thanh Nam, hai
người như lá bài trùng, chỉ khác cái là Nguyễn Minh Lang đã có vợ con và
còn có cả một người yêu mà anh thường tự phụ là “đệ nhất danh ca Bắc
hà”. Sau này Nguyễn Minh Lang cũng điêu đứng vì niềm tự hào ấy. Chỉ có
Thanh Nam là vẫn nhởn nhơ ngoài vòng cương tỏa.
Bẵng đi một thời gian, tôi được động viên vào trường Thủ Đức, ra trường
tôi ở Trường commandos Nha Trang rồi sau đó về làm ở ban Báo Chí cục Tâm
lý chiến, tôi mới có dịp gặp Thanh Nam nhiều hơn.
Những nơi Thanh Nam sống và làm việc
Khi đó Thanh Nam làm việc ở Đài Phát Thanh Quân Đội với ông Vũ Quang
Ninh và Huy Quang Vũ Đức Vinh cùng một lô các nghệ sĩ nổi tiếng như Đan
Thọ, Anh Ngọc, Vũ Huyến, Nhật Bằng, Ngọc Bích, Xuân Tiên, Xuân Lôi… Công
việc của anh là biên tập viên, có lẽ anh phải làm đầu bếp, “nấu nướng”
đủ các móm hầm bà làng từ tin tức đến bình luận, phóng sự và hợp tác
trong những chương trình ca nhạc đặc biệt. Ngoài ra trong chương trình
phát thanh “Tao Đàn” trên đài phát thanh Sài Gòn, do cố thi sĩ Đinh Hùng
phụ trách cũng có Thanh Nam.
Hồi đó ba chàng nghệ sĩ Thanh Nam, Thái Thủy, Hoàng Thư thường thuê nhà ở
chung. Có lẽ vì cả ba người đều không có gia đình cùng vào miền Nam. Từ
ngõ Phan Văn Trị, đến con hẻm bên rạp Quốc Thanh và cuối cùng là
building Cửu Long nằm trên đường Hai Bà Trưng. Cả ba ông nghệ sĩ nổi
tiếng này chỉ có một căn phòng hẹp téo, chiều ngang chừng 2m, vừa đủ kê
một chiếc giường cá nhân và một lối đi. Thường là các ông ấy chia phiên
nhau, một anh nằm trên giường, hai anh nằm dưới sàn nhà. Mãi sau này
Thanh Nam mới sắm được một cái tủ lạnh, trong chứa la de nhiều hơn đồ
ăn.
Cuộc đời quân ngũ dính liền với nghiêp phóng viên
Thanh Nam vào quân đội theo diện “đồng hóa”, nói cho rõ hơn là không
phải lính động viên mà là lính theo nhu cầu chuyên môn, được nhập ngũ
theo khả năng phục vụ. Những văn nghệ sĩ có tiếng thường được nhập ngũ
vào những phòng “tác động tinh thần” hay là phòng 5, sau này là Chiến
tranh tâm lý. Cũng như các anh Phạm Xuân Ninh (Hà Thượng Nhân), Phạm Văn
Sơn, Nguyễn Mạnh Côn… Phục vụ một thời gian nhất định rồi giải ngũ.
Sau thời gian phục vụ ở Đài phát thanh Quân Đội, Thanh Nam được giải
ngũ. Anh quay về với nghề làm báo. Cái số của tôi và Thanh Nam hay đi
liền với nhau ở các tờ báo dân sự. Từ Truyện Phim, Kịch Ảnh, Tiếng Vang,
Thời Thế đến những tờ báo của những ông chủ báo miền Nam như Tiếng
Chuông, Phụ nữ Diễn Đàn… đều có mặt. Thời kỳ này, Thanh Nam vẫn ở
building Cửu Long, nơi có khá nhiều nghệ sĩ, những nhà quay phim, phóng
viên thuê phòng ở trọ bên cạnh phòng năm ba em cave ở Sài Gòn. Đã ở
chung thường coi nhau như “người nhà” chứ không có những chuyện lộn xộn
khác.
Buổi tối chúng tôi thường ngồi ở phòng trà Hòa Bình của anh Ngọc Bích.
Hầu hết các ca sĩ trẻ hạng A, đều “chạy sô” qua đây. Từ Bạch Quyện, Minh
Hiếu, Bích Chiêu, Băng Tâm, Thùy Nhiên, Thanh Thúy, Ngân Hà, Trúc Mai…
đến những ca sĩ hạng B mới ra lò nhiều triển vọng cũng được các ông bầu
gửi đến cho tập tành “xuống núi”.
Chúng tôi viết ở vài tờ báo có nhiều độc giả chuyên về sân khấu kịch
trường nên quen biết khá nhiều và cũng có khối những chuyện lơ mơ… cho
vui cuộc đời. Thanh Nam là một chàng thanh niên rất dễ thương, nhưng có
“tật” thích những cô đào hạng nhất của các sân khấu, nhất là sân khấu
cải lương. Tôi nói là thích chứ không phải yêu. Rất nhiều lần, sau khi
ngà ngà say, Thanh Nam rủ tôi và Mai Thảo đến phía sau sân khấu đoàn
Thanh Nga… xem đào cải lương trang điểm và… rung đùi ngồi sau cánh gà
xem diễn.
Thanh Nga
Tài đạo diễn
Hôm nào có tuồng tích mới, bà bầu Thơ gửi vé mời, chúng tôi có ghế hàng
đầu ngồi, như những VIP chính hiệu. Tôi nhớ có một lần ngồi ở hàng ghế
đầu xem vở diễn mới, khán giả chật ních. Mai Thảo xem được một lát bèn
dựa đầu vào thành ghế ngủ ngon lành, ngáy o o. Cuối đêm diễn, bà bầu Thơ
mời đi ăn đêm ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh bên sông Sài Gòn, tất nhiên là có
cả cô con gái cưng và là “đào nhất” Thanh Nga. Bà bầu Thơ chỉ nói “chắc
là vở diễn hôm nay không hay nên các anh không chú ý”. Thanh Nam hiểu ý
nên càu nhàu với Mai Thảo: “Mày hại tao rồi”. Chắc bạn hiểu vì sao. Mai
Thảo vốn chiều bạn nên chỉ cười xòa.
Bức ảnh đẹp nhất của nữ nghệ sĩ Bích Sơn do anh Cao Lĩnh chụp và do
Thanh Nam đạo diễn. Khi lên phòng Thanh Nam, tôi thấy bức ảnh đó, Thanh
Nam kể: “Bích Sơn có mái tóc dài rất đẹp, chưa ai khai thác thành công
bằng tao. Mày biết không, trên tấm drap trắng trên giường tao kìa, Bích
Sơn nằm nghiêng, trải mái tóc ra, uốn nắn lại một tí, xoay ngang tấm ảnh
lại, giống hệt gió đang bay “mái tóc thiên thần” chứ có phải chụp ở
ngoài trời đâu”. Tôi lại biết Thanh Nam có thêm một cái tài đạo diễn
nữa.
Nhưng tất cả những chuyện tạm gọi là những mối tình “lửng lơ” như thế
chấm dứt lúc nào không biết. Bởi anh chàng nhà văn này lúc bình thường,
không uống rượu thì rất đàng hoàng và với tôi đó là một anh rất “nhát
gái”. Cứ ngồi nói chuyện như một cuộc phỏng vấn chứ không dám tỏ một
thái độ “thân thiện” nào. Nhưng khi uống rượu rồi thì chân tay quờ
quạng, như chiếc xe vọt hết tốc độ. Những người đẹp đâm hoảng. Thật ra
chỉ vài ly la de là đã đủ “vật ngã” anh chàng hiền lành đó rồi. Vì thế
ngoài cái biệt danh “người rung đùi”, anh còn một biệt danh nữa là “ba
băm ba”, tức là chỉ ba ly bia 33 là đã say. Bình thường Thanh Nam rất
chiều bạn, nhưng đến lúc đó thì hầu như tất cả bạn bè đều chiều anh.
Đáng lẽ của ông Thanh Nam lại là cái tội của tôi.
Tôi với Thanh Nam còn một chuyện khá “khôi hài” nữa. Sau khi Thanh Nam
tái ngũ, anh về làm báo Chiến Sĩ Công Hòa với tôi suốt thời gian tại ngũ
lần thứ hai.
Vào dịp tiểu đoàn 30 Chiến Tranh Chính Trị tổ chức tuyển chọn ca sĩ vào
phục vụ. Tôi và Nhật bằng được cử làm đại diện cho Phòng Báo chí và Đài
PTQĐ, kéo theo Thanh Nam sang làm giám khảo. Có một cô rất xinh, khỏe
mạnh và hát cũng rất khá, được ban giám khảo chấm điểm cao. Tôi và Nhật
Bằng đều đã có gia đình nên bàn nhau giới thiệu cho Thanh Nam. Vài hôm
sau, khi đi ăn tối với nhau xong, tôi đề nghị Thanh Nam đưa cô bé đi xem
phim. Nhưng cô bé níu lấy tay tôi nói là anh Thanh Nam say rồi, em đi
với anh được không? Thế là ông Thanh Nam lại cho tôi thêm một cái tội
nữa. Cũng may cho tôi, cuộc tình chỉ kéo dài vài tháng rồi chia tay…
trong êm đềm.
Tất cả những cuộc tình của Thanh Nam đều nhẹ nhàng, dường như chẳng có
chuyện nào làm anh mất ăn mất ngủ, kể cả khi người đẹp sang ngang. Chỉ
có một cuộc tình, theo tôi đó là “đáng kể” nhất.
Thanh Nam được giải ngũ, một vài năm sau vì nhu cầu quân lực mở rộng,
lại được lệnh tái ngũ. Trung Tâm nhập ngũ Quang Trung gần Sài Gòn, đông
quá nên một số quân nhân được gửi ra Trung Tâm nhập ngũ ngoài Đà Nẵng
học tập. Vào thời gian Tết Nguyên Đán, tôi thường đi làm phóng sự Tết
Đơn Vị. Lần đó, tôi xin sự vụ lệnh đi miền Trung, tất nhiên trong đó đã
tính tới chuyện ghé qua Đà Nẵng “lôi” Thanh Nam ra khỏi Trung Tâm Huấn
Luyện đi giang hồ. Ngày 28 tết đi xe lửa ra đến Đà Nẵng, tôi đến thẳng
tư dinh của tướng Đỗ Cao Trí thăm ông vì đã có thời gian tôi làm việc
với ông ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 ở Pleiku. Nói là thăm nhưng mục đích là
xin ông cho Thanh Nam đi cùng tôi làm phóng sự trong quân đoàn của ông
từ đây cho đến Bến Hải.
Đêm trên đèo Hải Vân
Tướng Đỗ Cao Trí rất “hắc búa” nhưng cũng rất “chịu chơi”. Ông điện
thoại ngay choTrung Tâm yêu cầu cho Thượng sĩ Trần Đại Việt (tên thật
của Thanh Nam) trình diện tư lệnh quân đoàn. Hôm đó là ngày Trung tâm
được nghỉ, cả bộ chỉ huy chạy tán loạn, bủa đi tìm ông Trần Đại Viêt
khắp Thành phố Đà Nẵng. Họ có biết đâu rằng tôi và Thanh Nam đã gặp nhau
ở nhà một người bạn. Tôi phải điện thoại cảm ơn tướng Trí đã tìm thấy
rồi. Tết đó tôi và Thanh Nam trên chiếc xe jeep đi khá nhiều đơn vị. Một
đơn vị đáng nhớ nhất là đồn Bảo An đóng trên đỉnh đèo Hải Vân, cao
chót vót. Chúng tôi ăn một cái Tết trên đỉnh đèo với sương mù dăng ngang
túi quần.
Nhưng trước khi tôi đi Đà Nẵng, một nữ ca sĩ, tôi coi như cháu gái, đã
cẩn thận gửi theo một túi quà cho “chàng”. Tất nhiên không thể thiếu một
“cánh thư hồng”, chở đầy nước mắt nhớ thương.
Thú thật lúc đó tôi mới biết chắc rằng mối tình này của Thanh Nam là
“nặng” và là “thật”. Lâu nay tôi cứ ngỡ, đó chỉ là chuyện “nhẹ nhàng”
giữa “chú cháu” rồi lại như “ngàn năm mây bay”, như những chuyện trước
đây tôi đã từng chứng kiến. Anh chàng quân nhân ngoài… tiền tuyến đó
suốt cuộc hành trình ôm gói quà bên mình. Anh lấy ra một chiếc khăn,
nhưng không phải là khăn thêu mà là một chiếc khăn len quàng cổ, có vẻ
như người tình mới mua ở chợ Bến Thành. Anh đứng giữa ba quân dõng dạc
tuyên bố rằng đây là quà của người yêu tôi gửi từ Sài Gòn ra, tôi sẽ làm
giải thưởng cho bạn nào kể chuyện tình hay nhất. Cuộc thi kể chuyện
tình đó vào đêm 29 Tết trên đỉnh đèo Hải Vân, một anh lính láu cá chiếm
được giải thưởng hí hửng lắm. Chẳng biết anh còn giữ được đến bao giờ
hay cũng mang tặng cho người yêu của mình? Đúng ngày 1 Tết, chúng tôi ra
đến Bến Hải vào những đơn bị pháo binh, bộ binh, rồi sau đó nghỉ lại
nhà ông Ninh con và bà Phượng vài ngày, lúc đó đang ở Huế.
Nhưng cuối cùng rồi “những cuộc tình” cũng đã qua, chỉ còn lại một. Cuộc
đời cũng đã qua, chỉ còn lại những kỷ niệm. Kỷ niệm thì quá nhiều, nói
làm sao cho hết.
Tôi viết những hàng này như một nén hương cho bạn tôi vào đúng ngày giỗ Thanh Nam 2-6-2007.
Văn Quang
Saturday, October 22, 2016
CÁNH CÒ * LỜI NÓI THẬT
Khi lời nói thật bị mạt sát
Thứ Ba, 10/18/2016 - 03:15 — canhco
Người ta thường nói sự thật mất lòng, ngay cả một người tự nhận là mình
vừa hiếp dâm, giết người, hay nhẹ hơn như ăn cắp, đốt nhà…cho dù là
thành thật thì người nghe ban đầu vẫn nghi ngờ cho sự thành thật đó và
với bản năng của con người ít nhất một thời gian sau người ta mới có thể
hoàn toàn cảm thông, chia sẻ hay tha thứ.
Nhưng có cái thành thật thú nhận lại bị người ta mạt sát và thời gian càng lâu, sự mạt sát càng tăng cường độ bởi lời trần tình ấy được phân tích qua lăng kính một sự thật khác, sự thật của tội ác và lòng tham lam vô tận của một tập đoàn, một chế độ.
Khi ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tuyên bố giữa nhân dân rằng: “Chống tham nhũng khó vì ta tự đánh ta” thì đó là lời thú nhận chân thành nhất. Nó hoàn toàn không lú, không ngớ ngẩn như rất nhiều người cười cợt. Nó thành thật, thành thật đến ngu xuẩn và vì vậy nó bị mạt sát.
Nó bị mạt sát vì đã thò ra đuôi cáo. Con cáo luôn giả vờ ngây ngô để được yên vị trên chiếc ghế cao nhất. Luôn kêu gọi chống tham nhũng để cuối cùng phải tự nhận bọn tham nhũng là chúng ta, những người đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà tôi, Nguyễn Phú Trọng là người đảng trưởng. Tôi cũng như các đồng chí, chúng ta đều không ít thì nhiều đều tham nhũng vì vậy thật là khó đánh, vì đánh càng trúng thì tôi và chúng ta cùng đau, cùng vỡ đầu sứt trán.
Có lời thú nhận nào khẩn thiết và đáng …mạt sát như vậy hay không, nhất là trong thời điểm này, một thời điểm mà cả nước đang căng lưng dưới bầu trời u ám của bão lũ, của ô nhiễm, từ tiếng khóc đứt ruột của hơn 30 gia đình có người thân vùi thây trong dòng nước cuồng nộ bởi những chiếc đập thủy điện “đúng quy trình”.
Lời thú nhận ấy sẽ còn âm vang sâu rộng trong các bài viết phân tích của nhiều tác giả sau này ngay cả khi ông Trọng và đảng của ông may mắn hạ cánh an toàn và đảng của ông may mắn không bị trả thù theo kiểu “mắt đền mắt, răng đền răng” của người Do Thái. Lời thú nhận ấy cũng sẽ bị đem ra làm bằng chứng cho hành vi của Đảng Cộng sản từng làm trên mảnh đất Việt Nam.
Ông Nguyễn Phú Trọng vắng mặt lúc người dân đau khổ và khi xuất hiện trở lại càng làm cho họ thù hằn uất hận nhiều hơn.
Giá như ông cứ giả bệnh nằm viện trong khi dân chúng lặn hụp trong trùng trùng sóng nước thì người dân sẽ làm ngơ cho ông. Đàng này ông được xum xuê bợ đỡ như một lãnh tụ đạo đức. Ông cười cợt chúc người này, tiếp người khác như ông là người ngoại quốc tới thăm Việt Nam. Ông không ý thức một việc nhỏ nhưng lại lãnh chức lớn nhất Việt Nam chỉ có hai giải thích: Một là hơn bốn triệu đảng viên đều đáng nguyền rủa như ông bởi họ thành tâm muốn ông làm lãnh tụ cho họ. Hai là hơn bốn triệu đảng viên ấy lợi dụng sự lú lẫn của ông để họ tiếp tục được vơ vét bởi tin chắc rằng ông cũng tham nhũng như họ. Hai giải thích tương đối giống nhau nhưng gộp chung lại đó là cách lý giải hay nhất cho vai trò của ông Trọng từ trước tới nay.
Ông là người lãnh đạo Cộng sản đáng được toàn đảng yêu nhất mặc dù bị toàn dân khó chịu và ghét bỏ nhất.
Đó là nguyên do sự thật ông tỏ bày một cách thảnh thật nhất lại đáng bị mạt sát hơn bất cứ lời tự thú nào.
Chính ông ra lệnh đánh Trịnh Xuân Thanh nhưng cũng ra lệnh hoãn binh đối với Đinh La Thăng là thầy của Thanh khi còn ở Tập đoàn dầu khí. Ông đánh thằng nhỏ nhưng lại sợ thằng lớn hơn. Ông đánh kẻ chạy đi nhưng lại phân vân với người đang trừng mắt nhìn ông ngay tại cái thành phố to nhất nước này. Vậy thì ông ơi, nếu người khác là ông họ sẽ không dại gì thú nhận cái sự thật chúng ta đều tham nhũng. Có nghĩa là ông cũng là Thanh là Thăng là hàng ngàn kẻ khác trong cái Đảng này.
Bời vậy người dân mạt sát ông là phải.
Chọn lựa bị mạt sát để đưa ra thông điệp đồng cảm cho hơn bốn triệu đảng viên là một thái độ khôn ngoan. Vì vậy nếu là đảng viên tôi cũng tuyên bố sẽ bầu cho ông thêm một nhiệm kỳ nữa cho tới khi nào lời tuyên bố sắp tới của ông hết bị mạt sát mới thôi.
Nhưng có cái thành thật thú nhận lại bị người ta mạt sát và thời gian càng lâu, sự mạt sát càng tăng cường độ bởi lời trần tình ấy được phân tích qua lăng kính một sự thật khác, sự thật của tội ác và lòng tham lam vô tận của một tập đoàn, một chế độ.
Khi ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tuyên bố giữa nhân dân rằng: “Chống tham nhũng khó vì ta tự đánh ta” thì đó là lời thú nhận chân thành nhất. Nó hoàn toàn không lú, không ngớ ngẩn như rất nhiều người cười cợt. Nó thành thật, thành thật đến ngu xuẩn và vì vậy nó bị mạt sát.
Nó bị mạt sát vì đã thò ra đuôi cáo. Con cáo luôn giả vờ ngây ngô để được yên vị trên chiếc ghế cao nhất. Luôn kêu gọi chống tham nhũng để cuối cùng phải tự nhận bọn tham nhũng là chúng ta, những người đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà tôi, Nguyễn Phú Trọng là người đảng trưởng. Tôi cũng như các đồng chí, chúng ta đều không ít thì nhiều đều tham nhũng vì vậy thật là khó đánh, vì đánh càng trúng thì tôi và chúng ta cùng đau, cùng vỡ đầu sứt trán.
Có lời thú nhận nào khẩn thiết và đáng …mạt sát như vậy hay không, nhất là trong thời điểm này, một thời điểm mà cả nước đang căng lưng dưới bầu trời u ám của bão lũ, của ô nhiễm, từ tiếng khóc đứt ruột của hơn 30 gia đình có người thân vùi thây trong dòng nước cuồng nộ bởi những chiếc đập thủy điện “đúng quy trình”.
Lời thú nhận ấy sẽ còn âm vang sâu rộng trong các bài viết phân tích của nhiều tác giả sau này ngay cả khi ông Trọng và đảng của ông may mắn hạ cánh an toàn và đảng của ông may mắn không bị trả thù theo kiểu “mắt đền mắt, răng đền răng” của người Do Thái. Lời thú nhận ấy cũng sẽ bị đem ra làm bằng chứng cho hành vi của Đảng Cộng sản từng làm trên mảnh đất Việt Nam.
Ông Nguyễn Phú Trọng vắng mặt lúc người dân đau khổ và khi xuất hiện trở lại càng làm cho họ thù hằn uất hận nhiều hơn.
Giá như ông cứ giả bệnh nằm viện trong khi dân chúng lặn hụp trong trùng trùng sóng nước thì người dân sẽ làm ngơ cho ông. Đàng này ông được xum xuê bợ đỡ như một lãnh tụ đạo đức. Ông cười cợt chúc người này, tiếp người khác như ông là người ngoại quốc tới thăm Việt Nam. Ông không ý thức một việc nhỏ nhưng lại lãnh chức lớn nhất Việt Nam chỉ có hai giải thích: Một là hơn bốn triệu đảng viên đều đáng nguyền rủa như ông bởi họ thành tâm muốn ông làm lãnh tụ cho họ. Hai là hơn bốn triệu đảng viên ấy lợi dụng sự lú lẫn của ông để họ tiếp tục được vơ vét bởi tin chắc rằng ông cũng tham nhũng như họ. Hai giải thích tương đối giống nhau nhưng gộp chung lại đó là cách lý giải hay nhất cho vai trò của ông Trọng từ trước tới nay.
Ông là người lãnh đạo Cộng sản đáng được toàn đảng yêu nhất mặc dù bị toàn dân khó chịu và ghét bỏ nhất.
Đó là nguyên do sự thật ông tỏ bày một cách thảnh thật nhất lại đáng bị mạt sát hơn bất cứ lời tự thú nào.
Chính ông ra lệnh đánh Trịnh Xuân Thanh nhưng cũng ra lệnh hoãn binh đối với Đinh La Thăng là thầy của Thanh khi còn ở Tập đoàn dầu khí. Ông đánh thằng nhỏ nhưng lại sợ thằng lớn hơn. Ông đánh kẻ chạy đi nhưng lại phân vân với người đang trừng mắt nhìn ông ngay tại cái thành phố to nhất nước này. Vậy thì ông ơi, nếu người khác là ông họ sẽ không dại gì thú nhận cái sự thật chúng ta đều tham nhũng. Có nghĩa là ông cũng là Thanh là Thăng là hàng ngàn kẻ khác trong cái Đảng này.
Bời vậy người dân mạt sát ông là phải.
Chọn lựa bị mạt sát để đưa ra thông điệp đồng cảm cho hơn bốn triệu đảng viên là một thái độ khôn ngoan. Vì vậy nếu là đảng viên tôi cũng tuyên bố sẽ bầu cho ông thêm một nhiệm kỳ nữa cho tới khi nào lời tuyên bố sắp tới của ông hết bị mạt sát mới thôi.
VIETTUSAIGON * LŨ VÀ LÒNG
Lũ và lòng
Thứ Sáu, 10/21/2016 - 11:22 — VietTuSaiGon
Người Việt Nam từ thời ông bà, cha mẹ đã có thói quen chia sẻ, lá lành
đùm lá rách, lá rách đùm lá nát, lá nát đùm lá te tua… Cái đạo lý ấy đôi
khi chẳng là đạo lý gì cả, chẳng có ai dạy ai mà chính lòng trắc ẩn,
lòng lân mẫn giữa người với người để rồi khi có sự cố, thấy đồng loại
khó khăn, đau khổ, người ta lại chìa bàn tay ấm áp của mình ra để chia
sẻ chút hơi ấm, chút tình người với những bàn tay đói rét, lạnh căm…
Điều ấy cũng phù hợp với sứ mệnh của đôi bàn tay, những tưởng đôi bàn tay có nhiều sứ mệnh lắm trong đời sống con người nhưng chung qui vẫn xoay quanh ba sứ mệnh: Úp, Ngửa và Phủi!
Bàn tay con người biết úp xuống, che chở và chia sẻ chút hơi ấm tình thương với những bàn tay đói lạnh, khốn khó đang ngửa ra trông đợi sự chia sẻ của đồng loại.
Trong một lúc nào đó giữa cuộc đời, nỗi buồn, sự không may mắn và cô đơn đến vây khốn, dù đã cố gắng chống chọi đến phút cuối mà bạn vẫn không thể đứng vững được, bạn trở nên đau khổ, yếu mềm, lúc đó, dù không nói ra, không ngửa bàn tay ra nhưng trong lòng bạn đã có một bàn tay ngửa ra chờ đón hơi ấm của đồng loại. Bởi chính hơi ấm ấy cho bạn thấy rằng cuộc đời này đáng sống, đáng để tiếp tục tồn tại và nỗ lực.
Và, trong một phút giây nào đó, bạn lại vốc một nắm đất hay một nắm cát, thả theo áo quan của người thân, bạn bè, người quen để tiễn biệt. Hành động phủi hai bàn tày vào nhau để tiễn những hạt đất cuối cùng vào nắp quan như một thông điệp chia ly, nó nói lên rằng giữa bạn và người nằm trong áo quan kia từ nay vĩnh viễn không nhìn thấy nhau trên cõi đời này. Và mọi nợ nần, ân oán gì cũng đã trả về cát bụi!
Nói về đôi bàn tay, có lẽ câu chuyện xoay quanh ba sứ mệnh này còn dài lắm. Nhưng chưa bao giờ tôi nhìn thấy sứ mệnh úp xuống của bàn tay lại ấm áp và đẹp như trong lần đến vùng lũ Quảng Bình, lũ Hà Tĩnh này.
Từ những người thoáng qua, dừng xe trên đường 1A, thuê một chiếc ca nô chạy thẳng vào khu rốn lũ Lệ Thủy, ghé thăm từng nhà, tặng mấy ổ bánh mì thịt gói ghém trong giấy giữ nhiệt, tặng một phong bì hai trăm ngàn đồng, hỏi thăm vài câu, động viên vài câu. Chủ nhà hỏi tên gì thì xưng tên nhưng sau đó không cho biết thêm chi tiết nào nữa, không muốn cho báo chí chụp hình hay quay phim.
Rồi một anh tài xế chạy xe từ Lệ Thủy đến Ba Đồn, lẽ ra đến bến Ba Đồn thì anh trả khách và đậu xe ở bến để ngày mai tiếp tục đón khách thì anh lại chở khách đi băng một con đường mà hai bên là hai biển nước, một độc đạo bằng bê tông, nằm chơi vơi giữa biển nước để đi đến cuối con đường này thì gặp một con đường vòng bằng đất, khách có thể đi bộ trên đường này về xóm rồi gọi người nhà bơi ghe ra đón. Khoảng cách giữa bến xe Ba Đồn và chỗ anh tự trả khách cuối cùng dài gần ba chục cây số, xe đi vô cùng khó nhưng anh vẫn đi. Hỏi ra mới biết là anh lo hành khách đi về bị nước cuốn nếu như họ nôn nóng về nhà, lội vào những con đường còn ngập nước.
Rồi nhóm anh Nguyễn Lân Thắng, Dũng VoVa và nhiều nghệ sĩ, doanh nghiệp đã đứng ra vận động, kêu gọi lòng hảo tâm để quyên góp tiền mang tặng bà con vùng lũ. Và trong mấy ngày đó, có một hiện tượng cứu trợ chính là MC Phan Anh. Anh này nhanh chóng vận động được số tiền ngót nghét mười lăm tỉ đồng để mang đến tặng bà con vùng lũ. Anh trở thành hiện tượng với những câu hỏi khác nhau, sự cảm mến cũng khác nhau…
Những người dân Quảng Ninh thì nghe tin bão đổ bộ vào tỉnh nhà thì vỗ tay reo mừng. Hỏi tại sao bão lớn, siêu bão đổ bộ vào tỉnh mình sẽ gây thiệt hại mà vỗ tay reo mừng thì hầu hết người dân trả lời rằng ban đầu dự kiến sẽ đổ bộ vào Quảng Bình, Hà Tĩnh. Mà nếu bão đổ bộ vào thì chắc miền Trung chết chóc, tang thương nhiều hơn nữa nên nghe bão tránh được miền Trung, đổ bộ vào Quảng Ninh thì xin cám ơn bão!
Có những tấm lòng, những hành động, những nghĩa cử làm rơi nước mắt, làm người ta cảm phục và thấy đời sống đáng yêu, đáng sống và Thượng Đế vẫn còn để cho cuộc đời này tươi đẹp bằng lòng yêu thương của Ngài!
Đó là những mẩu chuyện về lòng yêu thương trong hàng triệu mẩu chuyện như vậy của người Việt Nam khi miền Trung lũ lụt. Nhưng ở đây, tôi muốn nói đến tấm lòng của con người, nói đến lũ lụt và lũ lòng. Có lẽ, miền Trung vừa đón đến hai trận lũ, lũ lụt ở Quảng Bình, Hà Tĩnh và lũ lòng sau khi “hiện tượng Phan Anh” vận động nhanh chóng được số tiền to lớn để giúp đỡ bà con vùng lũ.
Có rất nhiều ý kiến cho rằng Phan Anh đánh bóng tên tuổi bằng cách làm từ thiện. Cũng có nhiều ý kiến phản đối. Nhưng tại sao lại phản đối nhỉ?! Giả sử như động cơ lớn nhất của Phan Anh là đánh bóng cái tên Phan Anh trong đợt cứu trợ này. Thì tôi cho rằng chẳng có gì là sai trái cả! Trước nhất, phải hỏi thế nào là đánh bóng tên tuổi? Xin thưa, đánh bóng là làm sạch, làm cho thứ mình đang đánh bóng sáng ra, đẹp ra. Làm người có ai không muốn cái tên của mình sạch sẽ và đẹp ra? Và có chính trị gia nào dám bảo tôi không bao giờ đánh bóng tên tuổi của tôi?
Điển hình như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, trong lúc miền Trung đang hứng chịu trận xả lũ của thủy điện Hố Hô và nhà nhà lo dọn dẹp đồ đạt mà vẫn không kịp bởi tốc độ nước dâng qúa nhanh thì tại Sài Gòn, Thủ tướng Phúc cũng đi đến từng hàng quán, cầm cái bát, cái dĩa lên kiểm tra vệ sinh, rồi kiểm tra từng trái cây thử có đạt chất lượng hay không, rồi ngồi ăn phở, uống cà phê vỉa hè… tất cả những hành vi đó đều là diễn, là đánh bóng tên tuổi của một người làm chính trị. Bởi thực tâm “vi hành” xem đời sống ra sao, dân tình thế thái như thế nào thì chẳng có ai đi mà cả bầu đàn lâu la kéo đi như vậy và ống kính thì có cả trăm cái chụp lấy chụp để. Rồi Thủ tướng nhắn tin ủng hộ đồng bào lũ lụt miền Trung. Tất cả những trò diễn đó cũng chỉ để đánh bóng tên tuổi của Thủ tướng, để cho thấy Thủ tướng có quan tâm đến đời sống người dân.
Điều ấy cũng phù hợp với sứ mệnh của đôi bàn tay, những tưởng đôi bàn tay có nhiều sứ mệnh lắm trong đời sống con người nhưng chung qui vẫn xoay quanh ba sứ mệnh: Úp, Ngửa và Phủi!
Bàn tay con người biết úp xuống, che chở và chia sẻ chút hơi ấm tình thương với những bàn tay đói lạnh, khốn khó đang ngửa ra trông đợi sự chia sẻ của đồng loại.
Trong một lúc nào đó giữa cuộc đời, nỗi buồn, sự không may mắn và cô đơn đến vây khốn, dù đã cố gắng chống chọi đến phút cuối mà bạn vẫn không thể đứng vững được, bạn trở nên đau khổ, yếu mềm, lúc đó, dù không nói ra, không ngửa bàn tay ra nhưng trong lòng bạn đã có một bàn tay ngửa ra chờ đón hơi ấm của đồng loại. Bởi chính hơi ấm ấy cho bạn thấy rằng cuộc đời này đáng sống, đáng để tiếp tục tồn tại và nỗ lực.
Và, trong một phút giây nào đó, bạn lại vốc một nắm đất hay một nắm cát, thả theo áo quan của người thân, bạn bè, người quen để tiễn biệt. Hành động phủi hai bàn tày vào nhau để tiễn những hạt đất cuối cùng vào nắp quan như một thông điệp chia ly, nó nói lên rằng giữa bạn và người nằm trong áo quan kia từ nay vĩnh viễn không nhìn thấy nhau trên cõi đời này. Và mọi nợ nần, ân oán gì cũng đã trả về cát bụi!
Nói về đôi bàn tay, có lẽ câu chuyện xoay quanh ba sứ mệnh này còn dài lắm. Nhưng chưa bao giờ tôi nhìn thấy sứ mệnh úp xuống của bàn tay lại ấm áp và đẹp như trong lần đến vùng lũ Quảng Bình, lũ Hà Tĩnh này.
Từ những người thoáng qua, dừng xe trên đường 1A, thuê một chiếc ca nô chạy thẳng vào khu rốn lũ Lệ Thủy, ghé thăm từng nhà, tặng mấy ổ bánh mì thịt gói ghém trong giấy giữ nhiệt, tặng một phong bì hai trăm ngàn đồng, hỏi thăm vài câu, động viên vài câu. Chủ nhà hỏi tên gì thì xưng tên nhưng sau đó không cho biết thêm chi tiết nào nữa, không muốn cho báo chí chụp hình hay quay phim.
Rồi một anh tài xế chạy xe từ Lệ Thủy đến Ba Đồn, lẽ ra đến bến Ba Đồn thì anh trả khách và đậu xe ở bến để ngày mai tiếp tục đón khách thì anh lại chở khách đi băng một con đường mà hai bên là hai biển nước, một độc đạo bằng bê tông, nằm chơi vơi giữa biển nước để đi đến cuối con đường này thì gặp một con đường vòng bằng đất, khách có thể đi bộ trên đường này về xóm rồi gọi người nhà bơi ghe ra đón. Khoảng cách giữa bến xe Ba Đồn và chỗ anh tự trả khách cuối cùng dài gần ba chục cây số, xe đi vô cùng khó nhưng anh vẫn đi. Hỏi ra mới biết là anh lo hành khách đi về bị nước cuốn nếu như họ nôn nóng về nhà, lội vào những con đường còn ngập nước.
Rồi nhóm anh Nguyễn Lân Thắng, Dũng VoVa và nhiều nghệ sĩ, doanh nghiệp đã đứng ra vận động, kêu gọi lòng hảo tâm để quyên góp tiền mang tặng bà con vùng lũ. Và trong mấy ngày đó, có một hiện tượng cứu trợ chính là MC Phan Anh. Anh này nhanh chóng vận động được số tiền ngót nghét mười lăm tỉ đồng để mang đến tặng bà con vùng lũ. Anh trở thành hiện tượng với những câu hỏi khác nhau, sự cảm mến cũng khác nhau…
Những người dân Quảng Ninh thì nghe tin bão đổ bộ vào tỉnh nhà thì vỗ tay reo mừng. Hỏi tại sao bão lớn, siêu bão đổ bộ vào tỉnh mình sẽ gây thiệt hại mà vỗ tay reo mừng thì hầu hết người dân trả lời rằng ban đầu dự kiến sẽ đổ bộ vào Quảng Bình, Hà Tĩnh. Mà nếu bão đổ bộ vào thì chắc miền Trung chết chóc, tang thương nhiều hơn nữa nên nghe bão tránh được miền Trung, đổ bộ vào Quảng Ninh thì xin cám ơn bão!
Có những tấm lòng, những hành động, những nghĩa cử làm rơi nước mắt, làm người ta cảm phục và thấy đời sống đáng yêu, đáng sống và Thượng Đế vẫn còn để cho cuộc đời này tươi đẹp bằng lòng yêu thương của Ngài!
Đó là những mẩu chuyện về lòng yêu thương trong hàng triệu mẩu chuyện như vậy của người Việt Nam khi miền Trung lũ lụt. Nhưng ở đây, tôi muốn nói đến tấm lòng của con người, nói đến lũ lụt và lũ lòng. Có lẽ, miền Trung vừa đón đến hai trận lũ, lũ lụt ở Quảng Bình, Hà Tĩnh và lũ lòng sau khi “hiện tượng Phan Anh” vận động nhanh chóng được số tiền to lớn để giúp đỡ bà con vùng lũ.
Có rất nhiều ý kiến cho rằng Phan Anh đánh bóng tên tuổi bằng cách làm từ thiện. Cũng có nhiều ý kiến phản đối. Nhưng tại sao lại phản đối nhỉ?! Giả sử như động cơ lớn nhất của Phan Anh là đánh bóng cái tên Phan Anh trong đợt cứu trợ này. Thì tôi cho rằng chẳng có gì là sai trái cả! Trước nhất, phải hỏi thế nào là đánh bóng tên tuổi? Xin thưa, đánh bóng là làm sạch, làm cho thứ mình đang đánh bóng sáng ra, đẹp ra. Làm người có ai không muốn cái tên của mình sạch sẽ và đẹp ra? Và có chính trị gia nào dám bảo tôi không bao giờ đánh bóng tên tuổi của tôi?
Điển hình như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, trong lúc miền Trung đang hứng chịu trận xả lũ của thủy điện Hố Hô và nhà nhà lo dọn dẹp đồ đạt mà vẫn không kịp bởi tốc độ nước dâng qúa nhanh thì tại Sài Gòn, Thủ tướng Phúc cũng đi đến từng hàng quán, cầm cái bát, cái dĩa lên kiểm tra vệ sinh, rồi kiểm tra từng trái cây thử có đạt chất lượng hay không, rồi ngồi ăn phở, uống cà phê vỉa hè… tất cả những hành vi đó đều là diễn, là đánh bóng tên tuổi của một người làm chính trị. Bởi thực tâm “vi hành” xem đời sống ra sao, dân tình thế thái như thế nào thì chẳng có ai đi mà cả bầu đàn lâu la kéo đi như vậy và ống kính thì có cả trăm cái chụp lấy chụp để. Rồi Thủ tướng nhắn tin ủng hộ đồng bào lũ lụt miền Trung. Tất cả những trò diễn đó cũng chỉ để đánh bóng tên tuổi của Thủ tướng, để cho thấy Thủ tướng có quan tâm đến đời sống người dân.
Giả sử Phan Anh đánh bóng tên tuổi thì giữa Phan Anh và Thủ tướng Phúc
có điểm giống nhau, đó là cùng quan tâm về miếng ăn, cái mặc. Nhưng ông
Phúc chọn Sài Gòn, Phan Anh chọn miền Trung, ông Phúc chọn hàng quán thì
Phan Anh chọn nhà nhà, ông Phúc chọn những cái dĩa, cái bát sạch và
chứa thức ăn thì Phan Anh chọn những cái dĩa dính bùn non và trống trơn
thức ăn. Suy cho cùng, cũng là đành bóng tên tuổi nhưng cách đánh bóng
nào ẩn chứa lòng trắc ẩn, lân mẫn tha nhân đều có vẻ đẹp và giá trị của
nó.
Và nói về lũ lụt với lũ lòng. Thường thì người còn nhân tính, nhân cảm,
khi nhìn đồng bào của mình đói khổ, đau thương, cơn lũ lòng sẽ dâng tròa
và người ta sẽ bất chấp, bất luận khó khăn hay tai tiếng gì đó để đến,
để chia sẻ. Ngược lại, với những kẻ cơ hội, vô cảm và thiếu tình người,
thiếu cả tính người thì thây kệ nỗi đau của đồng loại, miễn sao túi của
mình được đầy.
Có không thiếu những cán bộ nhà nước mà chỉ mới vài ngày sau lũ họ đã có
thành tích ăn chặn quà cứu trợ lên đến hàng trăm triệu đồng, thậm chí
hàng tỉ đồng. Và đặc biệt, đây không phải là lần xả lũ đầu tiên của thủy
điện Hố Hô, người dân Quảng Bình, Hà Tĩnh từng đau khổ, mất trắng do
trận xả lũ năm 2010 của thủy điện Hố Hô. Nhưng dường như thủy điện này
chưa từng đền bù gì cho người dân miền Trung. Sống chết mặc bây, tiền
thầy bỏ túi! Và nhà nước, chính phủ, có vẻ như họ cũng hô hào, cũng to
tiếng lắm. Nhưng có vẻ như mọi thứ đều có tính chất hình thức, hoa hòe,
màu mè! Tất cả đều cho thấy lũ lụt đi qua mà lũ lòng thì ở lại. Lũ lòng
lớn hay nhỏ lại hoàn toàn phụ thuộc vào tri thức, đạo đức và lòng trắc
ẩn của người với người!
SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những Người Đàn Bà Còn Ở Lại
- Vì không có hộ khẩu ở thành phố nên tôi sẽ phải đi kinh tế mới.
- Trong khi chờ đợi, bắt đầu từ ngày mai phải sắm “một cuốn sổ đi lại.” Khi đi đâu phải ghi ngày giờ khởi hành với chữ ký xác nhận của tổ trưởng dân phố, và đến đâu cũng phải có sự xác minh của người ở nơi đó.
- Mỗi tuần phải mang sổ lên phường để kiểm tra.
- ...
- ...
- Mua cái bút nữa con ạ. Đi đâu, đến đâu cũng phải nhờ người ký thì dắt viết theo luôn cho nó tiện ...
- Dạ.
Năm ấy, tôi hai mươi sáu tuổi.
Hai năm sau tôi bò đến được một trại tị nạn ở Thái Lan (tả tơi, ủ dột, eo xèo, và bèo nhèo như một cái mền Sakymen ngấm nước) vào đúng ngày sinh nhật của mình.
Hôm nay tôi hăm tám
Sáng tôi cầm gương soi
Tôi nhìn tôi bối rối
Tôi tưởng mình bốn mươi
Bây giờ thì tôi đã ngoài sáu mươi, đã sống gần hết đời (và tàn đời trong ngõ hẹp) ở xứ người nhưng chưa bao giờ bước chân trở lại chốn xưa – dù đôi lúc cũng nhớ nhà và nhớ quê muốn ứa nước mắt luôn. Bố mẹ tôi đều tự an ủi rằng vì “thằng con có số xa nhà” nên cả hai đành lặng lẽ từ trần trong cô quạnh!
Kiếp sống chung thân biệt xứ của tôi, xem ra, chả có gì là thú vị. Tuy thế, theo blogger Song Chi:
“Dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại. Chỉ trong một ngày, chat với người quen, bạn bè qua facebook, viber … cả 3 câu chuyện đều cùng một chủ đề: ra đi khỏi Việt Nam.
Nhưng họ muốn ra đi trước hết vì môi trường sống ở VN ngày càng tệ khiến con người luôn ở trong cảm giác bất an, lo lắng. Từ thực phẩm không an toàn, cho tới nguồn nước, không khí, biển…nhiều nơi bị ô nhiễm/nhiễm độc nặng nề; đạo đức xã hội xuống cấp, những vụ án cướp giết hiếp ngày nào cũng xảy ra với mức độ ngày càng dã man, con người dễ dàng bức hại nhau, lừa lọc nhau, giết nhau chỉ vì một lý do vặt vãnh; chế độ an sinh xã hội không có để bảo đảm cho người dân một sư hỗ trợ khi cần thiết, lúc ốm đau, tai nạn, thương vong; pháp luật không bảo đảm cho con người được xét xử công bằng, công lý được thực thi, những quyền lợi tối thiểu về tự do, dân chủ, nhân quyền không có, không được tôn trọng v.v…
Quan trọng hơn, họ ra đi vì không tin rằng chế độ này, nhà nước này sẽ tốt đẹp hơn hoặc sẽ đưa đất nước, dân tộc đến một tương lai sáng sủa-thời gian đảng cộng sản cầm quyền đã quá lâu đủ để chứng minh điều đó.
Đây không phải là lần đầu, ngược lại, rất nhiều lần, tôi chứng kiến những người quen, bạn bè, họ hàng chuẩn bị rời bỏ VN. Nhưng có vẻ như càng ngày số người tính chuyện ra đi càng nhiều hơn, thành phần đa dạng hơn, tạo cảm giác đất nước như một con thuyền đang đắm!”
Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai gợi ra ý niệm “tị nạn niềm tin,” và blogger Lam Thủy gọi đây là “một cuộc di cư đau lòng.” Dù “đau” nhưng nhà văn Dương Thu Hương vẫn khẳng định: “Trong thâm tâm, ai cũng mong ‘Thoát Việt!’, ra khỏi mảnh đất bùn lầy tối tăm này bằng mọi giá.”
Sự thực, cũng không hẳn thế. Không phải “ai cũng muốn thoát khỏi mảnh đất bùn lầy tôi tăm này.” Vẫn có những người quyết định, và quyết liệt, với một thái độ sống (hoàn toàn) khác: Dù thế nào cũng ở lại đây!
Tranh: Tuấn Khanh
Cái giá của sự lựa chọn dũng cảm này, tất nhiên, không rẻ. Ngày 10 tháng 10 vừa qua, Mạng Lưới Blogger Việt Nam (MLBVN) cho biết:
“Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh – tức Mẹ Nấm đã bị công an bắt khẩn cấp trái phép với cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 bộ luật hình sự.
Blogger Mẹ Nấm là người hoạt động tranh đấu cho nhân quyền, cải thiện dân sinh, chủ quyền biển đảo trong nhiều năm qua và là người được tổ chức Civil Rights Defenders trao giải thưởng Người Bảo Vệ Nhân Quyền 2015.
Trong suốt thời gian gần đây, blogger Mẹ Nấm đã tập trung nỗ lực tranh đấu của mình vào việc bảo vệ môi sinh, tố cáo Formosa và những dự án có ảnh hưởng nguy hại đến môi trường. Đây là những hoạt động dẫn đến việc công an bắt giam khẩn cấp blogger Mẹ Nấm.”
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là người mới nhất, chứ không phải là duy nhất, vừa bị bắt giữ tại Việt Nam. Ba tuần lễ trước đó, một phụ nữ khác cũng đã bị mang ra xét xử với với cáo buộc gây rối trật tự công cộng – theo tin của BBC:
“Tòa án Nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội, tuyên phạt bà Cấn Thị Thêu 20 tháng tù giam trong lúc một số người ủng hộ bà bị câu lưu.
Bà Cấn Thị Thêu, người từng bị bắt vì đấu tranh giữ đất trong vụ 'dân oan Dương Nội', lại bị công an bắt tháng 6/2016 do 'gây rối trật tự công cộng' ở Hà Nội.
Hôm 20/9, hình ảnh lan truyền trên mạng xã hội cho thấy nhiều người giăng biểu ngữ đòi trả tự do cho bà Thêu bên ngoài phiên tòa.”
Nếu “dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại” thì những kẻ lựa
chọn ở lại, và sẵn sàng đối mặt với cường quyền (như bà Cấn
Thị Thêu và bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh) cũng chưa bao giờ ngưng
nghỉ. Bởi vậy, biên tập viên Mặc Lâm nêu ra câu hỏi:
- Sau Mẹ Nấm là ai?
Trong một xã hội mà tất cả các thành viên đều là “tù nhân dự
khuyết” thì kẻ kế tiếp có thể là bất cứ ai. Tuy thế, sự
“rủi ro” này đã được tiên liệu và chấp nhận một cách bình
thản nhiên – như lời của blogger Phạm Thanh Nghiên:
“Từ lúc Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị bắt, số lần tôi nhận những tin nhắn đe doạ bị bắt, bị đánh gia tăng một cách đột biến.
Dạ xin kính thưa các loại đe doạ. Tôi biết, tôi biết là tôi hay bất cứ
cựu TNLT nào cũng có thể trở lại nhà tù lần 2, thậm chí lần 3.
Điều này tôi đã xác định được ngay khi bước chân khỏi nhà tù Trại 5
Thanh Hoá rồi. Nói thẳng là tôi thích ở ngoài hơn, không thích đi tù.
Nhưng nếu phải trả giá cho ước nguyện tự do, công bằng và dân chủ mà
phải trở lại nhà tù một lần nữa, xin sẵn lòng.”
Dù “đất nước như một con thuyền đang đắm” nhưng bao giờ ở Việt Nam
vẫn còn những vị nữ lưu vì “tự do, công bằng và dân chủ” mà “sẵn
lòng ... trả giá cho ước nguyện tự do, công bằng và dân chủ thì dân
Việt hy vọng vẫn còn đường thoát.
Mảnh đất này, tất nhiên, cũng có những công dân nam giới. Tuy
nhiên, vì bài viết đã khá dài; vả lại, tui cũng sắp có độ
nhậu (đang nóng như hơ) nên xin tạm ngưng tở nơi đây – kẻo trễ hẹn!NS.TUẤN KHANH * QUYỀN CÔNG DÂN
Quyền của bạn, quyền của mỗi con người
Tôi, và có lẽ nhiều người khác thật sự thất vọng về thư ngỏ của công ty
Taxi Mai Linh giãi bày sự cố ngày 18/10, khi những người dân ở huyện
Quỳnh Lưu đi taxi nộp đơn kiện Formosa ra toà, đã bị các tài xế của công
ty Mai Linh đuổi xuống theo lệnh trên. Tệ hơn, các tài xế của cty này
đã nhận tiền trước nhưng cũng không trả lại cho người đặt xe.
Thư ngỏ của cty Mai Linh, biện bạch loanh quanh về sự việc đã diễn ra, lại càng vô giá trị hơn nữa khi linh mục Đặng Hữu Nam chính thức trần tình về việc này. Đành phải thú nhận, nếu phải chọn lựa tin vào ai, thì tôi xin đặt niềm tin vào một linh mục đang dấn thân cho con người, hơn là một doanh nghiệp bề thế.
Tôi thấy mình không hối tiếc trong việc đã bày tỏ thái độ về việc cty Mai Linh ra lệnh cho tài xế đã bỏ khách hàng loạt, bất tín theo đơn đặt hàng. Những người dân nghèo huyện Quỳnh Lưu đã khốn khó vì thảm hoạ do ngoại bang gieo xuống vùng đất họ đang sinh sống, lại còn bị nhấn chìm trong sự bạc đãi của chính người cùng màu da và tiếng nói. Những người quay lưng với nỗi đau đồng loại.
Có vài ý kiến bênh vực cách làm của cty Mai Linh, nói rằng bởi doanh nghiệp không muốn liên quan đến "chính trị". Ngay trong tin riêng của một người trong ban lãnh đạo cty nhắn cho tôi cũng nhắc như vậy. Nhưng thực tế từ câu chuyện đó chỉ tố cáo về một dịch vụ tệ hại, không có gì là chính trị cả. Sự kỳ thị khách hàng của Mai Linh mới thật sự là một thái độ chính trị.
Thư ngỏ của cty Mai Linh, biện bạch loanh quanh về sự việc đã diễn ra, lại càng vô giá trị hơn nữa khi linh mục Đặng Hữu Nam chính thức trần tình về việc này. Đành phải thú nhận, nếu phải chọn lựa tin vào ai, thì tôi xin đặt niềm tin vào một linh mục đang dấn thân cho con người, hơn là một doanh nghiệp bề thế.
Tôi thấy mình không hối tiếc trong việc đã bày tỏ thái độ về việc cty Mai Linh ra lệnh cho tài xế đã bỏ khách hàng loạt, bất tín theo đơn đặt hàng. Những người dân nghèo huyện Quỳnh Lưu đã khốn khó vì thảm hoạ do ngoại bang gieo xuống vùng đất họ đang sinh sống, lại còn bị nhấn chìm trong sự bạc đãi của chính người cùng màu da và tiếng nói. Những người quay lưng với nỗi đau đồng loại.
Có vài ý kiến bênh vực cách làm của cty Mai Linh, nói rằng bởi doanh nghiệp không muốn liên quan đến "chính trị". Ngay trong tin riêng của một người trong ban lãnh đạo cty nhắn cho tôi cũng nhắc như vậy. Nhưng thực tế từ câu chuyện đó chỉ tố cáo về một dịch vụ tệ hại, không có gì là chính trị cả. Sự kỳ thị khách hàng của Mai Linh mới thật sự là một thái độ chính trị.
Từ chối một dịch vụ hay một tổ chức bất xứng với con người, là quyền hạn
cuối cùng của con người - của bạn, mà cần phải gìn giữ như phần tự vệ
cuối cùng của mình.
Cũng có ý kiến cho rằng từ chối Mai Linh là gây hại cho nhiều lao động
trong hệ thống này. Nhưng đó chỉ là loại trắc ẩn mang tính phân rã và
trì trệ. Người ta không thể chống sản phẩm Tân Hiệp Phát hay chuyện
Formosa xả thải độc mà lo rằng công nhân ở đó sẽ mất việc.
Bất bạo động từ Gandhi cho đến Gene Sharp đều cho thấy một yếu tố quan
trọng: con người trần trụi trong xã hội hôm nay chỉ còn hai thứ của
mình, là 'từ chối' hoặc 'chấp nhận'. Chúng ta sẽ từ chối những gì bất
xứng và vô đạo với chúng ta - con người, cho đến khi nhìn thấy sự đổi
thay và tái chấp nhận nó như một dấu hiệu về sự tiến bộ cần thiết.
Sự kiện Mai Linh chỉ là một trong những điều bất cập đang diễn ra trên
đất nước này, nơi mà những kẻ có tiền, có quyền vẫn đang tạo ra những
điều phi lý mà thường xuyên không gặp phản ứng nào. Chuỗi hành động từ
chối từ cộng đồng, có thể coi là phần diễn tập quan trọng để người dân
lấy lại tư thế và tên gọi đúng về sự tồn tại của mình, vốn đang bị quên
lãng trong một quốc gia.
Tôi cũng tập lấy lại tư thế của mình, bằng cách đứng lên và từ chối, ngay hôm nay.
-----------------------
Tham khảo thêm, qua lời kể của linh m5uc Đặng Hữu Nam / video do Con Đường Việt Nam thực hiện:
SƠN TRUNG * CỘNG SẢN BẠO TÀN
Cộng sản tấn công thành phố
CỘNG SẢN BẠO TÀN
Cộng sản nổi lên như cơn bão
lớn tàn phá khắp nơi Chiến thuật của chúng
gồm tuyên truyền dụ dỗ và tàn sát. Chúng điêu ngoa xảo trá, hứa hẹn nọ
kia, dân chúng vì lầm mà ủng hộ chúng. . Nếu ai không theo thì chúng bắt
giam và giết. Dù theo chúng, hoạt động trung thành chúng cũng giết như
trong CCRD, và chỉnh đốn đảng, không biết chúng đã giết bao nhiêu cán
bộ, thế mà khi thả họ ra, theo Võ Nguyên Giáp, số cán bộ được thả ra là
hơn mười ngàn! Rồi Nguyễn Văn Trấn, Trần Văn Giàu đã thủ tiêu Huỳnh giáo
chủ và các đạo hữu Cao Đài, Hòa Hảo lên đến hàng chục ngàn người. Cộng
thêm là số Cộng sản đệ tứ, đảng phái quốc gia cũng đến hàng ngàn.Đây là
thủ đoạn tàn ác của Cộng sản nhằm khủng bố nhân dân. Trong thời chiến
tranh, cộng sản vỗ ngực xưng cách mạng, yêu nước, ra tay giết hại
cácviên chức xã thôn và người yà người vô tội. chúng bắn sẻ, giật mìn,
phá cầu đường, pháo kích ngày đêm, gây kinh hoàng cho nhân dân.
Cộng sản gây kinh hoàng cho mọi người, mọi nơi. Chính người cộng sản
cũng sợ các đồng chí của họ.Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Bình, Chu Văn Tấn,
Hoàng Văn Thái ,Phạm Hùng, Võ Văn Kiệt....đã chết âm thầm do bàn tay các
đồng chí cộng sản của họ.
I. VÕ NGUYÊN GIÁP, TRÙM KHỦNG BỐ
Võ Nguyên Giáp là thủ lãnh đội sát thủ của Việt Cộng, ẩn dưới danh nghĩa hiền lành Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 người, được trang bị 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy.
Trong đám bộ hạ của Võ Nguyên Giáp có Văn Cao là một người kieêm tài
văn võ. Văn Cao đã ám sát các tư sản, hội tề, công lao lớn lao tràn ngập
máu dân lành, được Võ Nguyên Giáp ban cho một khẩu súng. Chính đám sát
thủ này đã gây ra vụ thảm sát Ôn Như Hầu, và các thành phần quốc gia như
Dương Quảng Hàm, Khái Hưng, Lan Khai... Hơn nữa, Võ Nguyên Giáp đã nước
quân tự vệ thành, Sư đoàn thủ Đô để diệt cho hết mầm móng tư sản.
II. MẸ CỘNG SẢN SỢ CỘNG SẢN
Kỳ Vân hoạt động bí mật. Nhà giàu, Kỳ Vân chuyên bị Nguyễn Lương Bằng bảo mua súng. Mua được năm khẩu súng trường rồi Kỳ Vân từ chối. “Cứ nã khống tiền tớ!”. Bằng bèn đưa tiền để Kỳ
CCRĐ
Vân mua năm khẩu pặc hoọc. Sau Kỳ Vân bị Pháp bắt . Tù ở Sơn La quá đông, Pháp giãn một số trong có Kỳ Vân về căng Bá Vân, Thái Nguyên. Đến đây, phớt lờ chi bộ, anh vượt ngục về Hải Phòng, sống ở Lạch Tray – mẹ anh có hàng dẫy nhà ở Hải Phòng và nhiều ruộng ở Kiến An – dặn mẹ ai hỏi thì bảo anh vẫn bị tù. “Vì sao?” Mẹ hỏi. “Vì không thì người ta giết con”, “Ai giết?”. “Các đồng chí của con… Con tự ý trốn tù mà…” (Tôi hỏi ngay: “Biết thế sao còn trốn?”. Kỳ Vân cười: “Thế triệt để tôn trọng pháp luật Tây mới là cách mạng à? Có thể trốn thì cứ trốn chứ. Cách mạng cần người hay cần tù?” (Đèn Cù. Ch.II)
III. CON CỘNG SẢN SỢ CỘNG SẢN
Lê Duẩn cũng là tay bạo tàn, đã gây nhiều chết chóc tù đày cho các đồng chí của ông. Sau khi ông chết, Lê Đức Thọ, đồng chí thân cận của ông đã từng hợp tác chặt chẽ với ông trong việc kìm chế Hồ Chí Minh và hạ nhuịc Võ Nguyên Giáp. Lê Đức Thọ và Lê Duẩn đã tạo ra vụ án xét lại mục đích là giết Võ Nguyên Giáp, khiến Võ Đại Tướng phải mặc áo đàn bà, deo trên mình những bao cao su! Cuối đời Lê Duẩn, Lê Đức Thọ muốn đạp Lê Duẩn để làm vua. Lê Duẩn chết, phe cánh Lê Đức Thọ muốn làm thịt gia đình Lê Duẩn .Ðoàn duy Thành kể rõ như sau:
“ Ra đến Hà Nội được 2, 3 ngày thì anh Ba mất. Tôi chạy lại gia đình anh. Chị và các cháu xúm lại
hỏi tôi đi đâu mấy tháng. “ Lúc anh Ba yếu
nặng sao không lại?” Tôi nói vì chuyến đi công tác ở miền Nam nên thất
lễ với anh Ba trong những ngày cuối cùng. Cả nhà anh Ba lo lắng, nhất là
mấy cháu gái Cừ, Muội, Hồng, các con rễ Lê bá Tôn, Hồ ngọc Ðại. Nói là
cháu, nhưng các cháu nhỏ chỉ kém tôi 5, 7 tuổi. Tất cả xúm lại hỏi tôi
và lo lắng:
Ba cháu mất rồi..liệu họ có giết gia đình nhà cháu không?
Tôi nói:
Tại sao các cháu lại có ý nghĩ lạ như vậy? Ba cháu là con người vĩ đại, một người hiền triết mới kế nghiệp cụ Hồ, giải phóng miền Nam. Không có Ba, làm sao giải phóng được miền Nam, thống nhất được đất nước, không để xảy ra lắm máu ? Ai dám hại gia đình nhà mình? Ðừng nghĩ linh tinh.Ðảng mình là đảng vĩ đại, nhân dân yêu quý Ba. Các cháu sao lại nghĩ vớ vẩn như vậy? Các cháu yên tâm, chú nghĩ không bao giờ có chuyện đó. Còn bao nhiêu người có mặt..ai dám làm bậy?
Bấy giờ các cháu mới yên tâm, Hồ ngọc Ðại nói chen vào ;
“ – Còn bao nhiêu các chú.. Họ chẳng dám làm bậy đâu!(Hồi ký Đoàn Duy Thành)
IV. DÂN SỢ CỘNG SẢN
Hiệp định Geneve được ký kết, năm 1954, hàng triệu người di cư vào Nam.Trong cuộc tổng tấn công của Việt Cộng từ 1968, dân Quảng Trị đã bỏ nhà cửa chạy vào Huế. Khi Việt Cộng chiếm Huế, dân miền Trung chạy vào Sài gòn. Khi Việt Cộng chiếm Miền Nam, dân ta đã liều chết vượt biển. Trong thế giới khoảng 1975, chưa có một dân tộc nào căm thù mà xa lánh quân thù như vậy.
Trần Độ kể lại lời chị họ của ông:" Tôi
có một bà chị có chồng là tù nhân trong thời đế quốc phong kiến, nay có
con rể là tù cách mạng. Chị có kể chuyện về hai cuộc đi thăm tù : trước
đi thăm chồng, nay (sau năm 1975) đi thăm con rể. Chị có một ấn tượng
rất nặng nề khi phải so sánh hai cuộc đi thăm ấy : tù nhân thời nay cực
hơn thời đế quốc (BÚT kÝ * MỘT CÁI NHÌN TRỞ LẠI I, 4)II. MẸ CỘNG SẢN SỢ CỘNG SẢN
Kỳ Vân hoạt động bí mật. Nhà giàu, Kỳ Vân chuyên bị Nguyễn Lương Bằng bảo mua súng. Mua được năm khẩu súng trường rồi Kỳ Vân từ chối. “Cứ nã khống tiền tớ!”. Bằng bèn đưa tiền để Kỳ
CCRĐ
Vân mua năm khẩu pặc hoọc. Sau Kỳ Vân bị Pháp bắt . Tù ở Sơn La quá đông, Pháp giãn một số trong có Kỳ Vân về căng Bá Vân, Thái Nguyên. Đến đây, phớt lờ chi bộ, anh vượt ngục về Hải Phòng, sống ở Lạch Tray – mẹ anh có hàng dẫy nhà ở Hải Phòng và nhiều ruộng ở Kiến An – dặn mẹ ai hỏi thì bảo anh vẫn bị tù. “Vì sao?” Mẹ hỏi. “Vì không thì người ta giết con”, “Ai giết?”. “Các đồng chí của con… Con tự ý trốn tù mà…” (Tôi hỏi ngay: “Biết thế sao còn trốn?”. Kỳ Vân cười: “Thế triệt để tôn trọng pháp luật Tây mới là cách mạng à? Có thể trốn thì cứ trốn chứ. Cách mạng cần người hay cần tù?” (Đèn Cù. Ch.II)
III. CON CỘNG SẢN SỢ CỘNG SẢN
Lê Duẩn cũng là tay bạo tàn, đã gây nhiều chết chóc tù đày cho các đồng chí của ông. Sau khi ông chết, Lê Đức Thọ, đồng chí thân cận của ông đã từng hợp tác chặt chẽ với ông trong việc kìm chế Hồ Chí Minh và hạ nhuịc Võ Nguyên Giáp. Lê Đức Thọ và Lê Duẩn đã tạo ra vụ án xét lại mục đích là giết Võ Nguyên Giáp, khiến Võ Đại Tướng phải mặc áo đàn bà, deo trên mình những bao cao su! Cuối đời Lê Duẩn, Lê Đức Thọ muốn đạp Lê Duẩn để làm vua. Lê Duẩn chết, phe cánh Lê Đức Thọ muốn làm thịt gia đình Lê Duẩn .Ðoàn duy Thành kể rõ như sau:
“ Ra đến Hà Nội được 2, 3 ngày thì anh Ba mất. Tôi chạy lại gia đình anh. Chị và các cháu xúm lại
Mậu thân |
Ba cháu mất rồi..liệu họ có giết gia đình nhà cháu không?
Tôi nói:
Tại sao các cháu lại có ý nghĩ lạ như vậy? Ba cháu là con người vĩ đại, một người hiền triết mới kế nghiệp cụ Hồ, giải phóng miền Nam. Không có Ba, làm sao giải phóng được miền Nam, thống nhất được đất nước, không để xảy ra lắm máu ? Ai dám hại gia đình nhà mình? Ðừng nghĩ linh tinh.Ðảng mình là đảng vĩ đại, nhân dân yêu quý Ba. Các cháu sao lại nghĩ vớ vẩn như vậy? Các cháu yên tâm, chú nghĩ không bao giờ có chuyện đó. Còn bao nhiêu người có mặt..ai dám làm bậy?
Bấy giờ các cháu mới yên tâm, Hồ ngọc Ðại nói chen vào ;
“ – Còn bao nhiêu các chú.. Họ chẳng dám làm bậy đâu!(Hồi ký Đoàn Duy Thành)
IV. DÂN SỢ CỘNG SẢN
Hiệp định Geneve được ký kết, năm 1954, hàng triệu người di cư vào Nam.Trong cuộc tổng tấn công của Việt Cộng từ 1968, dân Quảng Trị đã bỏ nhà cửa chạy vào Huế. Khi Việt Cộng chiếm Huế, dân miền Trung chạy vào Sài gòn. Khi Việt Cộng chiếm Miền Nam, dân ta đã liều chết vượt biển. Trong thế giới khoảng 1975, chưa có một dân tộc nào căm thù mà xa lánh quân thù như vậy.
Trong "Truyện Kể Năm 2000 ", Bùi Ngọc Tấn nói đến cái bất hạnh
của người tù trong chế độ cộng sản. Vào truyện, tác giả cho biết thân
phận người tù và thời gian ngồi tù:
Người một lệnh, người hai lệnh, người ba
lệnh. Nhiều người tới sáu, bảy lệnh. Mỗi lệnh ba năm. [. . ] Nhưng chưa
ai tù một lệnh (ba năm) mà được trở về. Chưa hết bọp này đã được dí
thêm bọp khác. Cái án cao-su. Cái án tù mù. (2). Số phận người tù không
phải là do công an một mình quyết định, mà còn do đảng, và cơ quan văn
hóa (161, 267).
Họ là những con người hiền lành, yêu nước và tin đảng như già Đô bên
Pháp, bỏ vợ con mà về Việt Nam cứu nước lời theo lời kêu gọi của Hồ Chí
Minh để rồi ngồi tù vì bị nghi là gián điệp. Tất cả bọn họ, thường dân,
bộ đội, nhà văn theo tác giả đều chung một tội ''Sự ngây thơ. Nhẹ dạ. Cả tin. Và đều phải trả giá ''(26).
Xã hội cộng sản là một nhà tù vĩ đại, hầu hết cư dân đều là tù nhân. Khi
ra tù, người cựu tù nhân thấy dường như đâu cũng là bạn tù:
Gặp ai, ở đâu hắn cũng tưởng như gặp
lại bạn tù cũ. Nhìn những người đi trên đường, hắn giật mình : "Quái
nhỉ, ở trại nào nhỉ. Quen quá. Không biết đã gặp ở đâu rồi. Được về bao
giờ nhỉ [.. .]. Hắn luôn gặp những khuôn mặt tù quen quen. Những khuôn
mặt tù ngờ ngợ. Không biết ở trại nào. Hẳn họ cũng như hắn. Mới được ra
trại (165).
Và sau đây là môn "tuốt nứa" của Trại Đầm Đùn do Trần Văn Thái thuật lại:
Đầu Trâu nhấc cây nứa đã lựa rồi bảo thợ
rèn:Bổ làm tư.Thợ rèn ngồi xuống lúi húi sửa soạn.. .. Tù thợ rèn thận
trọng nhấc một trong bốn mảnh nứa, vòng ra sau lưng 983, lom khom cúi
xuống, lựa khe hở giữa hai bắp đùi, đút đầu nứa cho lọt qua chừng gang
tay. Y ngắm nghía sửa lại cho hai mép nứa ngậm đều vào bắp đùi nạn nhân.
Mặc dầu 983 gầy gò nhưng vì hai đầu gối bi cột khít với nhau nên hai
cạnh của mảnh nứa úp chặt vào thớ thịt, chỉ khẽ cử động là tinh nứa cắt
đứt bắp đùi liền. Mãy người tù trong phòng tra tấn lấm lét nhìn nhau rợn
người. Họ thừa biết tinh nứa sắc là đường nào. Hai cẳng chân Toàn run
lẩy bẩy, đứng không vững. Trong mảnh nứa sắc sắp cắt lem lém da thit
người đồng cảnh, anh rợn khắp chân thân liên tiếp. .
. Một tiếng rú rùng rợn nổi lên, xiên vào
óc mọi người.. . .Y đảy ngược mảnh nứa để ấy đà tay rồi giật xuôi mạnh
một cái. Tức thì 983 thét lên một tiếng rùng rợn.Giám thị lại lùi theo
một tốc độ đồng đều, đến đoạn chót của mảnh nứa dài thì vừa vặn ngưng
như đã có cỡ tay. .
Việt cộng
Sau 30-4-1975, Việt cộng tập họp dân khu phố để tuyên truyền. Cán bộ hỏi: "Đồng bào suy nghĩ gì về đất nước thống nhất? Một bà già đứng lên trả lởi:
"Nhờ ơn Đảng và Bác vào giải phóng chúng tôi kịp thời , chứ ở trong này chúng tôi sợ Việt Cộng pháo kích ngày đêm"!
V. CỘNG SẢN SỢ CỘNG SẢN
1- Cộng sản từ lâu theo chủ nghĩa sùng bái cá nhân. Bọn thủ hạ Hồ Chí Minh tôn sùng Hồ Chí Minh. Trước 1945, Hồ Chí Minh là kẻ vô danh, còn Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Trần Văn giàu niổi danh. Hoàng Tùng cho biết trong cuộc Chỉnh phong 1942-1943, phe Hồ Chí Minh tra khảo Trương Ái Dân như sau:
Trương Ái Dân trong thời gian kháng chiến chống Pháp làm công tác công vận ở Liên khu III do tôi phụ trách. Đồng chí ấy nói với tôi rằng, sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-31, đồng chí ấy sang Trung Quốc hoạt động cách mạng, được đi Diên An. Trong cuộc vận động chỉnh phong năm 1942-43, đồng chí ấy bị thẩm vấn lí lịch. Người ta hỏi người đứng đầu Đảng Cộng sản là ai, đồng chí ấy trả lời là Trần Văn Giàu, liền bị chôn một nửa người xuống hố sâu .HOÀNG TÙNG * HỒI KÝ
2.Đoàn Duy Thành bị Pháp bắt ở Quỳnh Côi Nam Định , đến 1954-1954 mới được thả. Cộng sản nghi ngờ các đảng viện đã khai báo hoặc cộng tác với Pháp nên khi ra khỏi nhà tù Pháp họ liền được đem vào nhà tù của Cộng sản để thẩm vấn. Có kẻ bị giết, sa thải. Đoàn Duy Thành may mắn được sống sót, cho trở về làm việc cho Cộng sản. Cuộc thẩm vấn rất ghê rợn. Đoàn Duy Thành viết:
Sau khoảng một tuần nghỉ ngơi cho lại sức, tôi bước vào giai đoạn thẩm tra việc bị bắt, bị tù... Thành uỷ lập riêng một tổ thẩm tra do đồng chí Hoàng Mậu, Khu uỷ viên Khu uỷ Tả Ngạn, Bí thư Thành uỷ Hải Phòng làm tổ trưởng (cựu tù chính trị Côn Đảo thời kì 1930-1936); đồng chí Lê Thành Dương, Phó ban Tổ chức Thành uỷ và đồng chí Đào Luyện, Trưởng phòng chính trị Ti Công an làm uỷ viên.
Trong hơn hai tháng thẩm tra, tôi chỉ ở nhà chú Siêu thôn Đồn Xá, trừ 3 ngày phải di chuyển sang Hải Dương vì có tin địch tấn công vào Thái Bình phải tạm lánh sang huyện Ninh Giang, Hải Dương.[..].Trong thời gian ấy nhiều người ngoài cuộc tưởng như tôi bị giam lỏng ở nhà chú Siêu đợi thẩm tra, nên ít bè bạn đến chơi. Có một số đồng chí, bạn thân, đến nói nhỏ cho biết về tình hình cải cách ruộng đất chỉnh đốn tổ chức, đấu đá cường hào, địa chủ khắp nơi, nhất là tin Thái Nguyên đã bắn Nguyễn Thị Năm, liền khuyên tôi không nên đi đâu, không liên hệ với nhiều người. Các đồng chí còn kể cho nghe về vụ án H122 ở Hải Phòng và Hồng Quảng, bắt oan hơn 100 người, Trưởng phòng chính trị Ti Công an Hồng Quảng là An (hay đi ngựa) bị truy ép quá đã tự tử..[...].Rất nhiều chuyện đấu tố trong giảm tô, Cải cách ruộng đất, có nơi như ở thôn Lan, Kim - Can, Thanh Hà mới đấu tố về giảm tô đã đánh chết ngay trong đêm đó 3 người là địa chủ, cường hào (?). Không khí ngay ở Đồn Xá nơi tôi ở, thấy cũng căng thẳng. Nhà hàng xóm chú Siêu, người bà con có con bò cày, thỉnh thoảng rỗi rãi ngồi viết báo cáo mãi cũng muốn đi lao động đôi chút, tôi bảo gia chủ để tôi cày giúp. Được 2 buổi thì có cán bộ xã bảo: “Gia đình địa chủ đấy, đồng chí đừng làm như vậy, mất lập trường...”.[...].Trừ một vài người khi cùng cấp với mình thì vồn vã “bù khú”, nay thấy mình họ bắt tay hơi hờ hững, cũng không đến thăm mình. Có những anh trước là cấp dưới mình, nay tỏ ra lạnh nhạt, đúng là “Nhất tự cách trùng” tôi học lúc thiếu thời, nay mới được chứng minh bằng nghĩa thật của nó!
Tôi phải viết rất nhiều báo cáo, riêng báo cáo về nhà tù Côn Đảo. Tôi viết xong ngày 9-12-1953 đã hàng mấy chục trang, nay còn lưu trữ ở Cục Lưu trữ Trung ương Đảng. Đến gần Tết âm lịch 1953-1954, việc thẩm tra việc tôi bị bắt và bị tù đã xong.(ĐOÀN DUY THÀNH * HỒI KÝ Ch.V)
3.Vũ Thư Hiên nổi tiếng với tác phẩm Đêm Giữa Ban Ngày. Tuy nhiên tác phẩm này đem lại cho độc giả nhiều thắc mắc. Trong tác phẩm trên cũng như trong các cuộc phỏng vấn, Vũ Thư Hiên ghét ông Hồ nhưng cũng bênh vực Hồ Chí Minh và Cộng sản. Bố mẹ ông, ông bà Vũ Đình Huỳnh là người phò tá Hồ Chí Minh, thân cận với Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng..Ông có vinh hạnh nằm chung với bác Hồ yêu quái của ông. 15 tuổi ông đã đi lính Vệ Quốc Đoàn. Lý lịch bản thân và gia đình "hoành tráng " là như thế mà không được vinh hạnh làm "đảng viên cộng sản". Lúc bấy giờ, Việt Cộng vẫn cử người đi du học Nga, Tiệp, Hung. Và lúc ấy, đảng giữ quyền chọn học sinh, sinh viên và ngành nghề cho họ theo tiêu chuẩn của Việt Cộng:Nhất Y, nhì Dược,
tạm được Bách khoa,
Sư phạm bỏ qua,
Nông lâm vứt xó”.Thế sao "đảng quang vinh " của ông không cho ông học Y dược mà lại học Kịch nghệ là một ngành ở dưới Nông Lâm Súc? Phải chặng ông bà Huỳnh tận tụy với lãnh đạo mà lãnh đạo không coi gia đình ông ra ra kí lô gam nào! Đã thế, khi Lê Duẩn, Lê Đức Thọ bắt giam ông Huỳnh, ông Hồ không can thiệp.
Trong Đêm Giữa Ban Ngày, Vũ Thư Hiên ghi lại lời mẹ ông, bà Vũ Đình Huỳnh, người đã có kinh nghiệm với mật thám Pháp đã đưa ra một nhận định để đời:
Chúng
nó đến, con có tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám Pháp nữa
kia! ....Thời Pháp thuộc, mẹ còn chống chọi được, bọn thực dân tiếng
thế chứ không đến nỗi ác như bọn này. Bây giờ khó lắm, mọi sự làm ăn đều
khó, chúng nó bít kín mọi đường, bắt mọi người muốn sống phải phụ thuộc
chúng nó (DGBN, tr.28, 139).[...]. Từ Nam Ðịnh trở về, nhìn cảnh nhà tan hoang, tôi hỏi mẹ chuyện xảy ra thì bà cười cay đắng, mắt ướt nhòe:
- Chúng nó đến, con có tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám Pháp nữa kia. Tay bố to, còng không vừa, chúng nó cố ních khóa vào đến bật máu ra mà chúng nó vẫn cố khóa bằng được. Ðến khi biết không khóa nổi, chúng nó lấy thừng trói giật cánh khuỷu rồi điệu bố ra xe bịt bùng chở đi. Lúc chúng nó khám nhà, mẹ quẳng cái khung kính có giấy chứng nhận Huân chương Kháng chiến hạng nhất của bố vào mặt chúng nó: "Các người khám kỹ cái này đi, xem ở mặt trái nó có gì?". Chúng nó xử sự, hừm, đúng như cụ Nguyễn Du tả:" Người nách thước, kẻ tay đao. Ðầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi..." Trong lòng bà ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt.
- Lòng người khôn lường, con ạ! Mới biết
không thiếu gì kẻ quên đạo làm người khi ngồi vào ghế vương giả. Bàng
hoàng trước sự việc bất ngờ, bà không sao tin được rằng nó xảy ra, không
sao tin được rằng chính quyền được xây dựng nên bởi cuộc cách mạng mà
vợ chồng bà hiến dâng cả đời mình lại có thể nhẫn tâm với vợ chồng bà
đến thế[...]. Bà như hóa đá.
Linh tính người mẹ báo cho bà biết tôi đã gặp tai họa. Phân tích mọi dữ
kiện bà tin chắc tôi đã bị bắt một cách ám muội. - Trong những ngày ấy
mẹ lo nhất con bị thủ tiêu. Chúng nó có thể làm chuyện đó lắm. Bà nghẹn
ngào nói, ôm chặt đứa con trai đầu lòng. Cuối cùng, rồi nó cũng đã vượt
qua được cái chết để trở về với bà, chín năm sau đó. (Ch.I)- Chúng nó đến, con có tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám Pháp nữa kia. Tay bố to, còng không vừa, chúng nó cố ních khóa vào đến bật máu ra mà chúng nó vẫn cố khóa bằng được. Ðến khi biết không khóa nổi, chúng nó lấy thừng trói giật cánh khuỷu rồi điệu bố ra xe bịt bùng chở đi. Lúc chúng nó khám nhà, mẹ quẳng cái khung kính có giấy chứng nhận Huân chương Kháng chiến hạng nhất của bố vào mặt chúng nó: "Các người khám kỹ cái này đi, xem ở mặt trái nó có gì?". Chúng nó xử sự, hừm, đúng như cụ Nguyễn Du tả:" Người nách thước, kẻ tay đao. Ðầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi..." Trong lòng bà ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt.
Các nhân vật trong Đèn Cù đã cho ta thấy rõ tính " ưu việt" của chủ nghĩa cộng sản là tàn bạo, dã man hơn thực dân. Khi công an bắt Vũ Đình Huỳnh, ông nói: " - Các đồng chí cho tôi vào hôn mấy cháu bé.
- Thằng phản động, ai đồng chí với mày hả?
Sau ông Huỳnh nói với Trần Đĩnh: - Mật thám Tây đến bắt không vô văn hóa như vậy (ĐC, 338).
Này anh đồng đội người bạn pháo binh.
Đã đến giờ chưa nhỉ mà tôi nghe như trại giặc tan tành.
Anh rót cho khéo kẻo nhầm nhà tôi.
Nhà tôi ở cuối thôn đồi.
Có giàn hoa lý có người tôi thuơng.(Yên Thao-Nhà tôi)
Mọi người kể cả đảng viện cộng sản đều ghét cộng sản bạo tàn, gian dối. Ở đâu có áp bức là có đáu tranh. Muốn được độc lập, tự do, hạnh phúc thì phải diệt cộng sản.
No comments:
Post a Comment