SƠN TRUNG * NGHỀ ĐÀO VÀNG
Nghề đào vàng tại Việt Nam
Sơn Trung
Sau 1975, nhiều nghề cũ mới đã phát triển tại Việt Nam như nghề buôn bán chợ trời, nghề đào rác Mỹ, nghề tìm trầm, nghề tìm máy bay Mỹ, nghề tìm xác chết Mỹ, nghề tìm mộ tử sĩ, và nghề đào vàng. Trong bài này, chúng tôi xin nói về nghề tìm vàng.
Không hiểu tại sao sau 1975, ở Việt Nam chỗ nào cũng có vàng. Trước đây chúng ta chỉ nghe nói vàng Bồng Miêu ở Quảng Ngãi. Có lẽ Trời Phật thương dân Việt đọa đày, nghèo khổ vì chiến tranh cho nên ban phát vàng bạc xuống cho dân ta. Trước 1975, một ông bạn tôi là trung úy ở Phan Rang có tìm được một chỗ có vàng, ông bạn nhờ tôi tìm người phân kim thì họ cho biết là vàng còn non. Không biết ai là người đầu tiên tìm ra vàng, và tại sao lại tìm ra vàng. Có nhiều người cho rằng khởi đầu là do việc tìm rác Mỹ tại những nơi xa xôi như Long Bình, Chu Lai, Plei Me. Có người tìm được răng vàng, nhẫn vàng. Có người tìm được những thỏi vàng. Một đồn mười, mười đồn trăm, người ta rủ nhau đi tìm vàng. Trước là đào tại hố rác Mỹ, sau lan rộng đến những nơi khác. Vàng ở ngoài bắc thì ít và chỉ là lấm tấm. Vàng từ Huế trở vào thì nhiều và to, có khi là cả khối nguyên, nhưng phần nhiều chỉ là quặng, phải qua sự phân chất. Vàng có nhiều hình dạng. To bằng nắm tay hoặc là như gói mì ăn liền, nghĩa là từng sợi xoắn laị với nhau. Có người đuợc hai ba ký. Có người đào được vài lạng, có người đuợc vài chỉ. Đó là hoàn toàn may rủi. Vàng có nhiều ở vùng Nha Trang, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Vàng phần nhiều ở núi rừng. Người ta tìm mò, không có máy móc dụng cụ, không có phương pháp gì ráo trọi. Hễ nơi nào có người tìm được vàng là cả bọn xúm lại. Sự tranh giành, cãi cọ, đấm đá là chuyện hiển nhiên. Vì vậy, người ta thường rủ anh em, họ hàng hay bạn bè để chia quyền lợi và bảo vệ cho nhau. Dân trong Nam lính tráng đi tù về không nghề nghiệp rủ nhau đi đào vàng. Dân ngoài bắc trốn Hợp tác xã, một ngày không được lon gạo cũng rủ nhau vào nam tìm vàng. Người ta đào sâu xuống một hai thước, có khi ba bốn thước tây, tạo thành một cái giếng. Không có kinh nghiệm, không có khoa học chỉ đạo, họ làm ẩu, làm mò, nhiều vụ sụp hầm chết người. Tìm được quặng vàng, người ta đãi vàng tại chỗ hoặc phải ra sông. Nhiều nơi tập trung cả trăm, cả ngàn người. Đây là một dịp béo bở cho công an địa phương. Công an hạch hỏi giấy tờ. Công an phân lô cấp đất, cấp giấy phép đào vàng. Mỗi giấy phép là hàng trăm ngàn, hàng triệu bạc. Nếu nơi nào nhiều vàng thì người tứ xứ đổ về. có cơ sở phân kim, có nơi thu mua vàng, có quán cà phê, hủ tiếu, có nhà trọ, có em út, và dĩ nhiên có các tay anh chị, có cướp bóc như là như là cái xã hội miền tây Hoa kỳ trong cơn sốt đào vàng ở thế kỷ trước. Nếu chỗ nào trở thành quy mô lớn lao, dân đào được nhiều vàng thì chính quyền tỉnh, chính quyền trung ương xía vào, đuổi dân và đảng độc quyền đào vàng mặc dầu đã cấp giấy và bán đất!
Ca dao có câu về thân phận người nghèo:
‘ Cây khô xuống nước cũng khô,
Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo’
Đa số người đi đào vàng là người nghèo. Một số người đào được vài ký vàng thì dĩ nhiên là trở nên người giàu sang phú quý. Một số người nghèo cũng nhờ đào vàng mà cải thiện đời sống. Nhưng đa số thì điêu tàn vì nhiều lý do. Thứ nhất là đất ở nơi có vàng thường rất độc. Bệnh sốt rét là một bệnh kinh khủng. Những người tham dự đào vàng phải nằm sương gió, bị muỗi độc, nhất là bệnh sốt rét cấp tính ở Việt Nam chỉ vài ngày thôi là đủ đi đong! Rồi nạn sụp hầm làm cho bán thân bất tọai hay gảy chân tay, bầm dập thân thể. Nạn cướp bóc, đâm chém có thể làm cho nạn nhân phải nằm nhà thương vài tháng. Thế là bao chỉ vàng kiếm được không đủ tiền thuốc. Chỉ làm giàu cho các ông bác sĩ chuyên tu, y sĩ tại chức và y tá nông thôn. Một ông bạn trẻ đi tù về thất nghiệp, sắp sửa đi diện H.O. nghe theo bạn bè đi đào vàng. Kết quả thì anh cũng nâng cấp được căn nhà lụp xụp cho vợ con nhưng anh đã phải bán mình cho ma thiêng nước độc để lấy vài chỉ vàng mong manh !
Nước ta hiện nay do cộng sản nắm quyền, mọi quyền lợi lớn bé, trong nước và ngoài nước đều do cộng sản mặc tình thao túng. Tiền viện trợ, tiền cứu trợ, tiền vay ngân hàng quốc tế, cho đến ruộng đất, cà phê, thịt cá trong nước cũng do cộng sản nắm giữ. Nghề đào vàng cũng vậy. Dân chỉ là lao công ăn chút cơm thừa canh cặn để rồi hoặc mang bệnh tật, hoặc chết vì ma thiêng nước độc, bao lợi lộc vẫn là vào tay công an địa phương và các tổ chức đảng.
Xin Đoc :
VĂN Học tân kỷ nguyên
Sơn Trung
Sau 1975, nhiều nghề cũ mới đã phát triển tại Việt Nam như nghề buôn bán chợ trời, nghề đào rác Mỹ, nghề tìm trầm, nghề tìm máy bay Mỹ, nghề tìm xác chết Mỹ, nghề tìm mộ tử sĩ, và nghề đào vàng. Trong bài này, chúng tôi xin nói về nghề tìm vàng.
Không hiểu tại sao sau 1975, ở Việt Nam chỗ nào cũng có vàng. Trước đây chúng ta chỉ nghe nói vàng Bồng Miêu ở Quảng Ngãi. Có lẽ Trời Phật thương dân Việt đọa đày, nghèo khổ vì chiến tranh cho nên ban phát vàng bạc xuống cho dân ta. Trước 1975, một ông bạn tôi là trung úy ở Phan Rang có tìm được một chỗ có vàng, ông bạn nhờ tôi tìm người phân kim thì họ cho biết là vàng còn non. Không biết ai là người đầu tiên tìm ra vàng, và tại sao lại tìm ra vàng. Có nhiều người cho rằng khởi đầu là do việc tìm rác Mỹ tại những nơi xa xôi như Long Bình, Chu Lai, Plei Me. Có người tìm được răng vàng, nhẫn vàng. Có người tìm được những thỏi vàng. Một đồn mười, mười đồn trăm, người ta rủ nhau đi tìm vàng. Trước là đào tại hố rác Mỹ, sau lan rộng đến những nơi khác. Vàng ở ngoài bắc thì ít và chỉ là lấm tấm. Vàng từ Huế trở vào thì nhiều và to, có khi là cả khối nguyên, nhưng phần nhiều chỉ là quặng, phải qua sự phân chất. Vàng có nhiều hình dạng. To bằng nắm tay hoặc là như gói mì ăn liền, nghĩa là từng sợi xoắn laị với nhau. Có người đuợc hai ba ký. Có người đào được vài lạng, có người đuợc vài chỉ. Đó là hoàn toàn may rủi. Vàng có nhiều ở vùng Nha Trang, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Vàng phần nhiều ở núi rừng. Người ta tìm mò, không có máy móc dụng cụ, không có phương pháp gì ráo trọi. Hễ nơi nào có người tìm được vàng là cả bọn xúm lại. Sự tranh giành, cãi cọ, đấm đá là chuyện hiển nhiên. Vì vậy, người ta thường rủ anh em, họ hàng hay bạn bè để chia quyền lợi và bảo vệ cho nhau. Dân trong Nam lính tráng đi tù về không nghề nghiệp rủ nhau đi đào vàng. Dân ngoài bắc trốn Hợp tác xã, một ngày không được lon gạo cũng rủ nhau vào nam tìm vàng. Người ta đào sâu xuống một hai thước, có khi ba bốn thước tây, tạo thành một cái giếng. Không có kinh nghiệm, không có khoa học chỉ đạo, họ làm ẩu, làm mò, nhiều vụ sụp hầm chết người. Tìm được quặng vàng, người ta đãi vàng tại chỗ hoặc phải ra sông. Nhiều nơi tập trung cả trăm, cả ngàn người. Đây là một dịp béo bở cho công an địa phương. Công an hạch hỏi giấy tờ. Công an phân lô cấp đất, cấp giấy phép đào vàng. Mỗi giấy phép là hàng trăm ngàn, hàng triệu bạc. Nếu nơi nào nhiều vàng thì người tứ xứ đổ về. có cơ sở phân kim, có nơi thu mua vàng, có quán cà phê, hủ tiếu, có nhà trọ, có em út, và dĩ nhiên có các tay anh chị, có cướp bóc như là như là cái xã hội miền tây Hoa kỳ trong cơn sốt đào vàng ở thế kỷ trước. Nếu chỗ nào trở thành quy mô lớn lao, dân đào được nhiều vàng thì chính quyền tỉnh, chính quyền trung ương xía vào, đuổi dân và đảng độc quyền đào vàng mặc dầu đã cấp giấy và bán đất!
Ca dao có câu về thân phận người nghèo:
‘ Cây khô xuống nước cũng khô,
Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo’
Đa số người đi đào vàng là người nghèo. Một số người đào được vài ký vàng thì dĩ nhiên là trở nên người giàu sang phú quý. Một số người nghèo cũng nhờ đào vàng mà cải thiện đời sống. Nhưng đa số thì điêu tàn vì nhiều lý do. Thứ nhất là đất ở nơi có vàng thường rất độc. Bệnh sốt rét là một bệnh kinh khủng. Những người tham dự đào vàng phải nằm sương gió, bị muỗi độc, nhất là bệnh sốt rét cấp tính ở Việt Nam chỉ vài ngày thôi là đủ đi đong! Rồi nạn sụp hầm làm cho bán thân bất tọai hay gảy chân tay, bầm dập thân thể. Nạn cướp bóc, đâm chém có thể làm cho nạn nhân phải nằm nhà thương vài tháng. Thế là bao chỉ vàng kiếm được không đủ tiền thuốc. Chỉ làm giàu cho các ông bác sĩ chuyên tu, y sĩ tại chức và y tá nông thôn. Một ông bạn trẻ đi tù về thất nghiệp, sắp sửa đi diện H.O. nghe theo bạn bè đi đào vàng. Kết quả thì anh cũng nâng cấp được căn nhà lụp xụp cho vợ con nhưng anh đã phải bán mình cho ma thiêng nước độc để lấy vài chỉ vàng mong manh !
Nước ta hiện nay do cộng sản nắm quyền, mọi quyền lợi lớn bé, trong nước và ngoài nước đều do cộng sản mặc tình thao túng. Tiền viện trợ, tiền cứu trợ, tiền vay ngân hàng quốc tế, cho đến ruộng đất, cà phê, thịt cá trong nước cũng do cộng sản nắm giữ. Nghề đào vàng cũng vậy. Dân chỉ là lao công ăn chút cơm thừa canh cặn để rồi hoặc mang bệnh tật, hoặc chết vì ma thiêng nước độc, bao lợi lộc vẫn là vào tay công an địa phương và các tổ chức đảng.
Xin Đoc :
VĂN Học
PHAN NHẬT NAM * ĐI VỀ PHÍA MẶT TRỜI
Phan Nhật Nam
--------------------------------------------------------------------------------
ĐI VỀ PHÍA MẶT TRỜI
--------------------------------------------------------------------------------
Dẫn nhập
Do vận động của Đỗ Thông Minh, Người Bạn Đông Kinh từ hai thập niên qua của giới báo chí truyền thông, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của cộng đồng người Việt hải ngoại, tiếp theo lần tìm gặp, tiếp xúc chạy vòng từ đông-tây, dọc theo trục nam-bắc nước Mỹ qua trung gian của Dương Phục (Đài Phát Thanh Sài Gòn- Houston, Texas), và Huỳnh Lương Thiện (Báo Mõ, San Francisco, CA).. Cuối cùng, người bạn kiếm ra anh nơi hẻm hóc, chốn giá lạnh, nóc nhà nước Mỹ để giao nhiệm vụ - Đi về phía Đông, đến nói cùng người Nhật và thế giới Ký Ức về Chiến Tranh Việt Nam - Công việc mà tự thân anh đã tình nguyện gánh vác dài theo hơn bốn mươi năm của đời người, từ đầu thập niên 60, lúc chọn nghiệp lính vào năm thanh xuân 17 tuổi.
Người Lính-Viết Văn không có một nhiệm vụ nào khác- Phải nói, viết cho đến tận cùng - Bởi Nỗi Đau nầy luôn là Nỗi Đau chung.
Cách đây hai mươi năm, ngày 7 tháng 9, 1981, nơi Trại Lam Sơn, Thanh Hóa bắc Việt Nam, bắt đầu lần kiên giam đợt thứ hai, anh bước vào căn hầm kín cửa dài hai thước, rộng một thước, cao ba thước, sau bốn lớp cửa gỗ bọc tôn thiếc, ngăn cách khu kiên giam với khu giam giữ tù nhân; nhưng nếu tính với xã hội bên ngoài, miền đất phương Nam xa xôi, thế giới của những quốc gia văn minh, dân chủ - Khu kiên giam nầy, nơi giam tù cấm cố, hoặc tử tội chờ ngày đem đi bắn, cách biệt đủ 10 cánh cửa - bằng số cửa địa ngục Dante mô tả trong The Inferno. Người Lính-viết văn nhìn lên ô cửa thông hơi rộng hơn gang tay chắn lưới sắt, tự hỏi: "Con người có thể đối xử với nhau như thế nầy hay không? Người có thể bị kết tội từ những chữ viết mà quả thật không hề là một đe dọa, xúc phạm đối với bất cứ ai?!" Trong nỗi bi phẫn khốn cùng ấy, quả thật anh thấy được chết dễ dàng hơn phải sống - Tuy nhiên anh không hề tuyệt vọng.
Anh không tuyệt vọng bởi vững tin: Sẽ có một ngày (nếu như không phải bức tử), anh được quyền nói lên tình cảnh bi thảm nầy. Bởi, tình cảnh đau thương mà anh phải hứng chịu, chứng kiến, sống cùng, đã và đang trải qua không của riêng cá nhân anh; cũng không phải chỉ là hậu quả thua trận của một quân đội; và cũng không là tác động có giới hạn đối với những công dân của chế độ cộng hòa phần đất phía Nam nước Việt. Không phải như thế - Nỗi Đau không từ một ai, xuyên suốt theo cùng Lịch Sử, rung động tự thâm sâu vận mệnh Dân Tộc Việt.
Người Lính-Viết Văn không có một nhiệm vụ nào khác- Phải nói, viết cho đến tận cùng - Bởi Nỗi Đau nầy luôn là Nỗi Đau chung.
Qua hai vòng thế giới, xuyên suốt khắp đại lục Bắc Mỹ từ ngày anh ra khỏi nước (5 tháng 11, 1993), hơn bốn mươi lần anh đi đến nơi những cộng đồng Người Việt, ngày 14 tháng Giêng, 2002, Lễ Thành Nhân cổ truyền của Nhật, nơi diễn đàn vinh hạnh, trước hiện diện của những Người Bạn trung thực, thêm một lần, ước vọng sâu xa dài hơn phần tư thế kỷ nay đã trở thành hiện thực. Anh cám ơn Bằng Hữu Thế Giới và Đất Nước Nhật Bản - Nơi đi lên của Mặt Trời, biểu hiện bất diệt Con Người - Sự Sống. Và anh bắt đầu bản tường trình dài dường như không hề chấm dứt về những con người của một quê hương khắc nghiệt bi thảm, nhưng không thiếu phần siêu việt kỳ diệu - Người và Khổ Nạn Việt Nam.
Chiến tranh nhìn từ nhiều phía
Buổi sinh hoạt được tổ chức tại Trường Đại Học Ngoại Ngữ, Học Viện Ngoại Giao Tokyo vào Ngày Lễ Thành Nhân (14 tháng 1 Dương Lịch) của truyền thống Nhật. Ngày lễ đánh dấu buổi con người từ tuổi thiếu niên nên trưởng thành, khởi đầu giai đoạn mới - giai đoạn quyết định- từ đấy người tự lập, chủ động cuộc sống riêng mình. Buổi sinh hoạt không vô cớ chọn ngày, tháng, thời điểm ý nghĩa sâu xa nầy - ý hẳn ban tổ chức muốn truyền đạt một thông điệp - Từ đây, chúng ta nhìn lại cuộc chiến không chỉ tác động riêng đối với người và xã hội Việt Nam, nhưng liên hệ đến nhiều sắc dân, quân đội của những chế độ chính trị khác nhau - những nước đã từng tham dự cuộc chiến mà hậu quả đến hôm nay vẫn còn sâu xa ảnh hưởng. Hội chứng Việt Nam hiện tại vẫn hằn sâu lên tâm lý giới cầm quyền, điều hành nước Mỹ, cũng như hệ lụy Đệ Nhị Thế Chiến, phần đau thương của nước Nhật gây nên tự quân đội Nhật (đối với các nước vùng Đông -Nam Á, Trung Hoa, Đại Hàn, Việt Nam), hoặc nhân dân Nhật hứng chịu hôm nay vẫn hằng (được và phải) nhắc lại. Nhắc lại để tránh những lỗi lầm của quá khứ, nhắm đến tương lai - Thiên niên kỷ Thứ Ba của nhân loại mà Châu Á-Thái Bình Dương sẽ là diễn trường quyết định với vai trò quan trọng hàng đầu của Nhật Bản. Nước Nhật hẳn đang chuẩn bị cho tương lai hiện thực nầy. Thế nên, buổi sinh hoạt chắc đã hình thành không do những lý do tùy tiện, ngẫu nhiên.
Sau phần giới thiệu của ban tổ chức gồm có các Giáo Sư Susumu Fugita, Minoru Iwasaki, và Imai Akio của học viện, các thuyết trình viên lần lượt trình bày nội dung chủ đề mà ban tổ chức đã thông báo, chỉ định từ tháng 11 năm 2001. Người thuyết trình xử dụng ngôn ngữ của quốc gia mình, thông dịch sang Nhật ngữ do những giáo sư, sinh viên đang giảng dạy, hoặc theo học các học trình tiến sĩ chuyên khoa ngôn ngữ của quốc gia đó.
Theo chương trình dự định, Bảo Ninh, tác giả Nỗi Buồn Chiến Tranh (đã được dịch sang Nhật ngữ), và Thân Phận Tình Yêu (những cuốn sách nói về mất mát, đau thương của tuổi trẻ miền Bắc Việt Nam trong chiến tranh) phát biểu trước. Nhưng vào tuần lể đầu tiên của tháng 1, 2002, tác giả nầy thông báo không tham dự buổi hội thảo được vì lý do "trở ngại giấy tờ hành chánh", nên anh gởi một bản văn đến ban tổ chức hội thảo. Văn bản nầy được dịch ngay sang tiếng Nhật, và được phổ biến vào giờ khai mạc. Sự kiện Bảo Ninh vắng mặt sẽ được đề cập lại trong phần hậu từ của bản tường trình nầy. Người thay thế Bảo Ninh, Nguyễn Minh Tuấn, nguyên biên tập viên, chuyên bình luận kinh tế của Báo Đại Đoàn Kết, Hà Nội, hiện là giảng viên tiếng Việt của trường từ năm 2000, di dân qua Nhật theo diện gia cảnh (do kết hôn cùng cô Keiko Watanabé, biên tập viên Báo Yomiuri, nhật báo lớn nhất của Nhật) bắt đầu buổi hội thảo. Nguyễn Minh Tuấn khởi đầu phần trình bày với tư thế: "..Năm 1975, tôi mới mười-lăm tuổi, nên dẫu đã khai thêm hai tuổi để đang ký vào quân đội thì cũng chỉ đi lính được một ngày, và miền Nam đã được "giải phóng".. Tất cả ký ức về chiến tranh của tôi là những ngày sơ tán tại miền Bắc Việt Nam để tránh bom Mỹ.. Những hoàn cảnh cực khổ và dễ sợ." Tuấn có những nhận xét trong phần kết luận: "Hiện tại ở Việt Nam, hầu hết mọi người hình như không ai muốn nói về chiến tranh. Hằng năm, vào những ngày lễ lớn như "giải phóng miền Nam 30 tháng Tư", ngày Quốc Khánh 2 Tháng 9, chỉ những tờ báo nhà nước (Báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An..) mới nhắc lại những chiến thắng quân sự. Còn phần đông dân chúng chỉ chú trọng vào đời sống, lo toan sinh kế vật chất. Và đời sống xã hội, thị trường tài chính, kinh tế thì bị nạn tham nhũng hoành hoành, hiện tượng áp bức tràn khắp.. với thành phần nạn nhân đầu tiên chính là những người đã dựng nên những chiến thắng kể trên." Nguyễn Minh Tuấn cũng không "ngạc nhiên" về sự kiện Bảo Ninh vắng mặt. Qua kinh nghiệm làm báo ở Việt Nam, anh đã quá quen với những lý do "trở ngại giấy tờ hành chánh" nầy, bởi chính bản thân anh cũng đã là nạn nhân của những lý do tương tự đôi ba phen. Phần phát biểu của Nguyễn Minh Tuấn được chuyển sang Nhật Ngữ bởi Giáo Sư Odaka Tai, Giảng Viên Khoa Quan Hệ Quốc Tế, Đại Học Daitobunka.
Tiếp đến phần trình bày của Người Lính-viết văn. Trái với người bạn đến từ miền Bắc Việt Nam kia, anh đã chứng kiến, chịu đựng chiến tranh từ thuở thơ ấu, khi chưa đến tuổi lên mười trong những vùng gọi là chiến khu (địa phương thuộc quyền kiểm soát của lực lượng Việt Minh trong giai đoạn chiến tranh 1945-1954) suốt một đời dài cho tới hôm nay, sắp đến tuổi 60. Anh chịu đựng với chính thân xác mình, nghe bằng tai, thấy tận mắt, hít thở thấm đẫm hơi người chết, đầm đìa khắc khoải tiếng kêu thương tâm của vạn, triệu cảnh đời khốn cùng, đau đớn oan khốc diễn ra qua từng ngày, từng giờ trên suốt giải quê hương - không chỉ giới hạn nơi những xóm làng, đồng ruộng, thị trấn miền Nam, nhưng đến tận đầu nguồn biên giới, vùng núi non cực bắc đối diện lãnh thổ Trung Quốc, hoặc nước Lào ở phía Tây. Tình cảnh anh không phải là trường hợp đơn lẻ, cá biệt, nhưng là cảnh huống điển hình của toàn dân tộc khổ nạn. Anh chỉ là một con người sống tận cùng với khổ nạn Việt Nam. Anh không nói quá lời mà sợ rằng không đủ tiếng lời để nói. Và không chỉ trong ba mươi phút ấn định, nhưng nếu có thể với ba mươi giờ vẫn chưa đủ để kể hết toàn cảnh xót xa khắc nghiệt kéo dài hơn nửa thế kỷ, từ ngày Mặt Trận Việt Minh (do đảng cộng sản Việt Nam ẩn danh lãnh đạo) khởi đầu cuộc chiến, 19 tháng 12, 1946, đến khi mặc áo lính, 1960-61, cho đến ngày tàn cuộc 30 tháng tư, 1975, tiếp lần vào trại tập trung sau đó, chuyển ra giam cấm cố ở miền Bắc, 1976, và cho đến tận hôm nay - Dấu vết, ký ức chiến tranh vẫn còn nguyên độ sắc. Anh sống đủ đời với của cuộc chiến và hứng trọn hệ quả của nó dẫu hôm nay tạm lìa bỏ quê hương.
Nầy đây, hãy anh kể lại: "Chỉ trong vòng bốn mươi tám giờ kể từ khi bắt đầu cuộc hành quân trực thăng vận của ngày 20 tháng 8, 1964, từ phi trường Bến Tranh xuống một ngôi làng Quận Bình Đại, tỉnh Kiến Hòa.. Đi sau hai người khinh binh, tôi bước e dè, nhọc mệt, do tiểu đoàn đã đụng nặng từ lúc xuống trực thăng, thêm việc nhặt những xác chết của đơn vị bạn, người tôi lao đao trong cảnh trận địa nguy khốn, mùi hôi tanh từ máu người lẫn hơi bùn xông lên ngây ngây ngật ngật. Đến ngày thứ hai thì nỗi thảm hại trong lòng càng thêm độ sắc, bởi đám tàn binh cộng sản bị thiệt hại của ngày hôm trước nay không đường thoát thân, phải chui vào đụn rơm, ao bèo lẫn trốn. Tôi kéo ra một gã du kích.. Chỉ là một thiếu niên mặt mày ngơ ngẫn do quá sợ hãi, mồm ngậm búng cơm. Tôi nhìn kỹ vào mắt hắn ta, tự hỏi: Đây là kẻ thù của mình sao? Đây là "chiến sĩ giải phóng", đầu mối tai họa, kiệt cùng khổ nạn Việt Nam? Thêm một ngày nơi trận địa, cảnh tượng bi thảm càng thêm nặng nề, vây bọc, siết cứng lại.. Tôi đi vào khu vực Nhà Thờ Công Giáo xã Bình Đại, ngôi nhà thờ đẹp đẽ đã trở nên đống gạch đổ nát giữa hàng rừng dừa ngã nghiêng trốc gốc bốc khói xanh. Khi cúi xuống nhặt bàn tay gãy của tượng thiên thần, tôi khám phá ra năm xác chết. Đấy là gia đình người giữ nhà thờ, hai vợ chồng, ba đứa con. Năm người chết từ đâu ngày hôm trước. Chết không biết do đạn của bên nào? Những xác chết còn "tươi" do sức nổ gây hơi ép, nét mặt in dấu, vẻ kinh hoàng, chết ở vị thế ngồi dưới bàn thờ Chúa. Năm xác người được kéo ra nằm trên sân đá lạnh, nắng dọi xuống gây gây im lặng vàng khô. Nhìn lên hàng rào, chiếc áo tím của cô con gái đầu lòng bay dật dờ như nỗi oan khuất không nói ra.
Tiếp ngày hôm sau, quân đi vào một khu vườn với căn nhà đang cháy nghi ngút khói, những cột gỗ cháy đỏ xiêu lệch, nền gạch vỡ loang lỗ những dấu đạn pháo.. Có người đàn bà chưa đến tuổi ba mươi, nét mặt đôn hậu, trong sáng của người phụ nữ miền Nam chưa phải chịu đời khó khăn, vất vả. Chị ngồi ngơ ngẩn trên thềm ngôi nhà đang cháy dỡ. Tôi đi đến... Không biết đang có đánh nhau hay sao mà chị lại ngồi đây? Im lặng, chị ta đứng dậy, đưa chiếc giỏ mây vào mặt tôi. Động tác nhanh gọn như người tập thể dục. Tôi mở gói giấy cột chặt bởi những vòng cao su... Sợi giây chuyền vàng, đôi bông tai, hai chiếc nhẫn và cái kiềng. "Vàng, chắc hơn một lượng, con mẹ nầy sợ quá hoá điên rồi. Lấy đi thiếu úy, không ai thấy, em cũng không nói cho ai biết đâu.. Ê, đi đi.." Người lính mang máy truyền tin thầm thì bên vai tôi. Anh hươi mũi súng đuổi chị đàn bà. Người nầy bước đi với nét mặt không cảm giác.
- Không được, vàng của người ta, mình đâu có quyền lấy. Nầy, chị trở lui đi, tôi trả lại đây". Tôi nói với theo. Người đàn bà quay lại, cũng với bước chân vô hồn không cảm giác. Nhưng khi đưa tay đón lấy chiếc giỏ, nét mặt chị ta bỗng nhiên nhăn nhúm lại như đang phải chịu cơn đau quá độ: Chị buông thỏng hai tay, chiếc giỏ rơi xuống đất.. Từ từ người đàn bà đưa tay lên hàng nút áo.. những ngón tay xoắn giữ chặt, toàn thân run bần bật.
- Trời đất ơi!! Tôi kêu lên tiếng nhỏ. Người đàn bà có thể đã không hiểu lời tôi do từ cách phát âm giọng người miền Trung pha âm Bắc, nhưng chắc rằng, bởi đã sống trong vùng du kích cộng sản kiểm soát, chịu sự tuyên truyền dai dẵng dài lâu, nên chị đã nhìn tôi như "một gã lính hung bạo với áo quần rằn ri, chuyên hiếp dâm, giết người, cướp giật - như lời "tuyên truyền giáo dục" thường trực tác động sâu xa của cán bộ chính trị cộng sản. Động tác trả vàng lại cho người đàn bà cũng không phải là thái độ, hành vi đạo đức lớn, đấy chỉ là việc làm nhỏ bé, bình thường của một người "có giáo dục tại Miền Nam"- Biết trọng người và yêu thương đồng loại. Sự hiểu lầm cay đắng của người đàn bà đồng thời chỉ cho tôi hiểu ra rằng: Tính ác độc tàn nhẫn của chiến tranh, không chỉ làm cho người trở nên "hai kẻ xa lạ", nhưng là đầu mối, tai họa thống khổ đối với nhau.
Tôi dẫn người đàn bà ra bến sông qua Mỹ Tho. Chị đi tới với bước chân vô định.. Lai! Lai! Má đây con ơi!! Một người nào dưới sông kêu thất thanh, chị quay lại. Aùnh mắt trống không. Vẫn bước chân vô hồn, chị đi về chỗ thuyền đậu chen chúc.. Má! Má, nhà mình cháy rồi, cháy hết rồi. Chị vẫn còn trong cơn mê của sợ hãi. Chị vẫn chưa phục hồi trí nhớ để nhận ra rằng: "Mình đã được gìn giữ, bảo vệ bởi gã lính trẻ tuổi mà chị vừa hiểu nhầm rằng y đòi lấy của, muốn hiếp dâm". Tôi nói với những người lính đang đứng nhìn theo người đàn bà: "Nhìn gì mấy cha, đi lẹ lẹ còn qua phà, về Sài Gòn cho kịp." Về Sàigòn lại đứng đường, gác chợ cứ như thằng ăn mày, sung sướng gì mà ham về sớm thiếu úy ơi!!
Đơn vị xuống phà qua Mỹ Tho để tiếp lên xe về Sàigòn, nhận nhiệm vụ chống biễu tình, giữ an ninh thủ đô.. Hai gã thiếu niên đi đầu đoàn người căng biễu ngữ màu vàng: "Cương quyết bảo vệ Đạo Pháp". Hai gã khác mang một tấm khác có giòng chữ nguệch ngoạt, "Hoan hô quân đội".. Đám đông la ó, những viên đá ném tới.. Những viên đá rơi trên nón sắt, thân áo giáp, lời chưởi bới ào ào nghiệt ngã:"..đ..má chúng mầy ăn tiền mỹ-ngụy bao nhiêu hỡ... Ai trả lương cho chúng mầy giết thầy, hại đạo!!" Những người lính chúng tôi chưa kịp rửa đôi giày lấm bùn của chiến trận ngày hôm qua, vết cháy ở áo Hạ Sĩ Ty, máu khô còn đóng trên mặt Binh Nhất Thái, và chính tôi - mùi người chết còn nguyên nơi miệng, lưỡi.. Tất cả chỉ vừa qua của bốn-mươi tám bốn giờ từ một vùng đất gọi là Bình Đại, Tỉnh Kiến Hòa. Bình Đại- Sài Gòn chỉ khoảng trăm cây số đường chim bay."
"Câu chuyện kể tiếp tục với cảnh tượng những đứa trẻ sống sót trong ngôi làng Xã Chánh Khoan, vùng Quận Phù Cát, Tỉnh Bình Định. Làng trù phú, vườn củ đậu xanh ngắt, lúa chín vàng, chĩu nặng bông trái nhưng không bóng người, nhà nhà cửa đóng kín, mùi tử khí âm âm.. Những đứa bé được tìm thấy từ căn nhà cha mẹ đã chết vì dịch hạch. Bé kiệt sức vì đói, rét do trời đang ở cuối mùa Đông 1966.
Câu chuyện tiếp tục với hoạt cảnh xót xa im lặng nơi vùng đất lửa hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, biên giới cực bắc của miền Nam đối diện với miền Bắc qua vùng "Phi Quân Sự". Mùa Đông năm 1967, hai giờ sáng từ Cửa Việt, đơn vị anh, Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù đưa quân lên hướng Bắc sát sông Bến Hải. Trời sáng dần để thấy lẫn sau giải đụn cát, gò đất có những "ngôi nhà" nhỏ. Không biết đáng để gọi là "nhà" hay chăng, vì thật sự chỉ là những hầm hố, trên đó người dân úp lên một mui thuyền và cả gia đình, những con người ngồi bó gối sát vào nhau. Khi nhận ra những người lính đang làm việc lục soát, những con người ngồi trong những căn nhà kia cử động.. Họ bò ra. Vâng, những "con người gọi là người Việt Nam" kia bò ra bằng hai bàn tay và đầu gối, như một loại dã nhân tiền sử chưa đứng thẳng được cột sống. Bao đời nay, người đàn bà ở hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên, bất kể giai cấp xã hội nào, theo phong tục kín đáo luôn có thói quen luôn mặc áo dài, dù áo dài cũ kỷ, rách vá, hoặc đang làm việc nặng nhọc, lầm than. Những chiếc áo dài rách tay, độn vai bởi hàng chục miếng vá, khác màu, khác vải. Nhưng chiếc áo dài của người đàn bà làng Diêm Hà Thượng ở vùng giới tuyến không còn chức năng của mục đích, ý niệm ban đầu - Để bảo vệ phẩm tính cao quý, thể hiện phong cách kín đáo của người nữ. Tất cả những danh, tỉnh từ huênh hoang, tô vẻ mà những kẻ lãnh đạo chiến tranh của cả hai bên hằng nại đến để chiếm đoạt "lý chính nghĩa" đã trở nên vô dụng, mất ý nghĩa đích thực, vì vạt áo dài kia không được kéo dài hơn, không đủ lành lặn để thay thế chiếc quần che phần hạ thể trong động tác bò lết."
Nhưng chiến tranh bên cạnh chuỗi cảnh tượng thê thiết dằng dặt kể trên vẫn có những hoạt cảnh bi tráng mà mỗi người lính, người dân miền Nam hằng hiện thực qua từng ngày giờ bão táp với cách thế chịu đựng vô vàn kỳ lạ tưởng chừng như không thật. Chúng ta hãy chứng kiến những phận người sống-chết qua lửa đạn.. "Ngày 25 tháng 6, 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I quyết định khai diễn chiến dịch tái chiếm Quảng Trị. Khi đổ quân xuống bãi cát nam Quận Hải Lăng, trên trục tiến quân hướng khu Nhà Thờ La Vang, mục tiêu cực tây, vị trí giữ cạnh sườn trông về hướng Trường Sơn, những người lính thấy những luồng hơi ong óng trên mặt cát kia sao. Trời sáng dần, quân tiến sâu vào vùng hơi bốc lên kia thì họ khám phá ra.. Luồng khí bốc lên ấy là tàn hơi của một loại lửa đặc biệt. Lửa được cấu tạo không chỉ do vật chất bị đốt cháy như gỗ, sắt, thép của các loại súng đạn, xe cộ, vật dụng chiến tranh; lửa còn được tăng cường nung nấu bởi áo quần, quang gánh, giày dép...Và cuối cùng, lửa được bền bỉ gìn giữ bởi một chất liệu bất ngờ, phí phạm và thực sự không cần thiết - Những tế bào hữu cơ của thân thể người bị xé rách, vùi dập, thiêu đốt cháy âm ỉ làm chảy sênh sếâch mặt nhựa đường. Loại lửa thuần túy "nhân tạo" nầy đã tồn tại từ bao ngày qua - từ ngày 29 tháng Tư, 1972, thời điểm những sư đoàn Miền Bắc tấn công, cưỡng chiếm thị xã Quảng Trị, phục kích đoàn người di tản, chạy loạn qua vùng đất 9 cây số từ La Vang xuống Cầu Câu Nhi Phường, nam Quảng Trị. Con người nghe tiếng nổ cấp kỳ và thân người tung xé bay bay lên với lửa.. Họ "biết rõ" như thế và chỉ biết giương tròng mắt ngó trân..
Lửa! Lửa! Lửa!
Lửa dậy từ Hải Lăng
Giăng giăng triền cát trắng
Lửa phần phật nung rền
Đỏ cọng cỏ đồi sim.
Bao xác người cháy đen
Dọc dài Đường số I
Xác mẹ chồng xác con
Chập chờn màu lửa nghẹn
Dòng "Đá Chảy Mồ Hôi"
Sôi sục hơi tử khí
Đồi"Thánh Mẹ Sầu Bi"
Nhầy nhầy thây kinh dị.
Thây thê thảm quắp co
Đặc quánh vũng máu đỏ
Đất sềnh sệch thịt người
Lặng nở trời nắng to...
Những cái chết kia không chỉ một lần, vì cảnh tượng thương tâm kia không chỉ riêng cho ngày 29 tháng 4, mà được lập đi lập lại suốt gần hai tháng qua với đạn, bom cực độ của cả hai bên, bên nầy lẫn bên kia sông Bến Hải để tạo nên một địa ngục lặng im dưới trời sáng nắng, trên bãi cát lây lất màu máu cặn. Nhưng loại lửa nhân tạo kia lại không đủ độ nóng cần thiết để thiêu cháy toàn diện, nên những xác người dù qua bao ngày chết lâu dài vẫn còn nguyên vẹn nét kinh hoàng của lần bức tử, dẫu chỉ là khối xương sọ nằm trơ bên hố bom kho cạn nước, sênh sếch váng lớp thịt xương, dạng thây người chưa hoàn toàn tiêu hủy.
... Kẹt trong xích xe tăng
Xác thân ai rây máu
Trời ơi đau Hải Lăng
Hồn cào sôi bi phẫn.
Nhưng từ sâu khổ nạn với cảnh chết tận cùng kia, bỗng sáng chói điều kỳ diệu như tia chớp của giữa đêm đen giông bão. Khi những người lính vượt tuyến xuất phát, đội pháo vượt qua vũng lửa Hải Lăng, Giáp Hậu, La Vang thì trên đồng cháy xuất hiện những bóng người thấp thoáng xiêu lệch.. Họ chạy ngã nghiêng, chập choạng như những bóng ma nhập tràng vừa dựng dậy từ đám xác chết. Và như được hồi sinh bởi một năng lực mầu nhiệm, đám "ma người" đồng thất thanh kêu lớn... Lính tới! Lính tới! Lính cộng hoà tới! Và chắc rằng chính tiếng kêu trong đáy thẵm chết chóc của những người dân nầy là tin cậy trao gởi cổ vũ mãnh liệt nhất để những người lính dựng nên kỳ tích của trận chiến Mùa Hè 1972 ở mặt trận Quảng Trị trong ngày 14 Tháng 9- Khi những chiến binh của các Tiểu Đoàn 1 và 6 TQLC đồng khép chặt, diệt gọn ổ kháng cự cuối cùng nơi Cổ Thành Đinh Công Tráng, dựng NGỌN CỜ VÀNG lúc đúng Ngọ- Giờ mặt trời lên thiên đỉnh chiếu ánh sáng rực rỡ uy nghi xuống Ba Vạch Đỏ thắm tươi thêm sắc máu của những người hằng chết cho một điều không bao giờ nói nên lời: Con người luôn sẵn chết vì TỰ DO - Những người LÍNH vô danh, những người DÂN không ai biết đến - Dân và Lính Miền Nam. Của Quốc Gia tên gọi VIỆT NAM CỘNG HÒA."
Câu chuyện vốn còn rất dài, nhưng bởi thời lượng không đủ, anh chấm dứt phần trình bày với kết luận: "Thượng đế ban cho con người sự sống, và kế hoạch hóa tình cảnh, thời điểm từ giả cuộc đời trần thế- Nhưng con người trong chuỗi sinh tồn kia đã hiện thực điều bi thiết vĩ đại của mình - Người quyết định lần chết cho chính bản thân. Người trao gởi lại sau cái chết xác thân một trị giá vinh diệu. Người Việt Nam đã hiện thực điều cao cả kia một cách tự nhiên trong suốt đêm đen bất hạnh dài theo thế kỷ, giữa vũng lửa chiến tranh mà toàn dân tộc đang gánh chịu một cách khắc kỷ- Xem như một sự cùng đành. Chúng tôi không nói điều tán tụng với chữ nghĩa phù phiếm, không nội dung- Chúng tôi xác tín với giá máu của mỗi người anh em đã, đang hằng hằng lâu dài gánh chịu... Không chỉ là những người lính nơi trận điạ, mà là hằng loạt tướng lãnh giữ chức tư lệnh đại đơn vị, hoặc sĩ quan cấp tá cao cấp: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Hữu Thông, Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long... Người không chỉ chết một mình, mà với toàn gia đình cùng một lần quyết tử- Chị Nguyễn Thị Thàng, vợ một nghĩa quân chết với chồng và đàn con nơi chiếc đồn cô quạnh ở vùng IV; Thiếu Tá Vĩnh, bào huynh của gia đình niên trưởng Hà Thượng Nhân (Trung Tá Phạm Xuân Ninh, Chủ Nhiệm Báo Tiền Tuyến) chết cùng với cả nhà gồm ba thế hệ: ông, cha, cháu; những người lính Thủy Quân Lục Chiến đồng tự sát nơi Bãi Mỹ Khê, Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975; Trung đội Nhảy Dù của Huỳnh Văn Thái cùng nỗ chung một lần lựu đạn sáng 30 tháng Tư. Ánh chớp thanh quang của anh hồn bao người trung liệt kia hẳn đã rung mờ nhật, nguyệt hiện thực lần Núi Sông cùng khóc với Con Người. Và Người cùng một lần sống mãi với Quê Hương."(*)
Phần trình bày của anh đã được Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, Giám Đốc Đài Phát Thanh Á Châu Tự Do (RFA), Washington DC chuyển sang Anh Ngữ, bản dịch quay ronéo để sẵn nơi cửa phòng hội, cùng với văn bản tiếng Việt, được tóm lược qua Nhật Ngữ. Giáo Sư Nhật Văn, Lê Văn Cừ, bạn cùng lớp Trần Viết Đại Hưng (San José, CA) cựu học sinh Hàm Nghi, Huế, người đã thấm hiểu, và chịu cơn đau của sự kiện lực lượng cộng sản tàn sát người Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968; lần chạy loạn oan khốc của ngày 29 tháng 4, 1972 nơi 9 cây số "Đại Lộ Kinh Hoàng", phiên dịch cho anh theo kỹ thuật phiên dịch nghị trường qua phối hợp với anh từ đêm đầu tiên đến Nhật. Người Lính-viết văn cũng chuẩn bị sẵn ấn bản tiếng Anh "The Stories Must Be Told", cuốn sách được huynh đệ, bằng hữu khắp nơi giúp hoàn thành trong một thời gian kỹ lục trước ngày đi.
Tiếp theo, Cô Ku Sujeong, Hàn Quốc (tên Mỹ Suzane; tên Việt, Trâm), sinh viên học trình tiến sĩ sử học trình bày chủ điểm, "Những đơn vị Đại Hàn có mặt trong chiến tranh Việt Nam" (Các Sư Đoàn Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến, Thanh Long, Bạch Mã, Bạch Hổ chịu trách nhiệm vùng duyên hải Miền Trung từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận, 1965-1973). Cô Sujeong được một sinh viên người Đại Hàn hiện theo học tại học viện giúp phiên dịch.
Chu Kiên, người Trung Hoa trình bày "Chiến tranh Việt Nam đối với Mao Trạch Đông". Với những chứng liệu lịch sử cận đại còn rất mới, diễn giả người Hoa nầy minh xác ảnh hưởng lý thuyết, lẫn kinh nghiệm thực tiển của Mao Trạch động đối với những quyết định chiến lược, cũng như chiến thuật của giới lãnh đạo miền Bắc, đặc biệt đối với Hồ Chí Minh. Diễn giả nầy trình bày trực tiếp bằng Nhật Ngữ.
Và cuối cùng, Ado Makoto, thủ lãnh của phong trào phản chiến Nhật trong suốt nhiều thập niên qua những vận động đòi quân đội Mỹ rút khỏi Okinawa, phản đối Hiệp Ước An Ninh Nhật-Mỹ, trình bày quan điểm "Nhật Bản và Phong Trào chống Chiến Tranh" do ông và các nhóm bạn đồng quan điểm lãnh đạo, vận động, thực hiện.
Sau lần trình bày của Ông Ado Makoto, buổi hội thảo chuyển qua phần thứ hai: Đối thoại giữa cử tọa và các diễn giả, hoặc phần bổ túc giữa những người thuyết trình. Khoảng bốn trăm người tham dự, phần đông thuộc lớp sinh viên trẻ tuổi (đang theo học các phân khoa chính trị, lịch sử của trường) hoặc những người lớn tuổi có lòng quan tâm đến thời cuộc, sinh hoạt chính trị. Đáng kể nhất là các ký giả, phóng viên Hara, Tabata, Oshima phụ trách trang tiếng Nhật của tờ Mê-Kông do Hồ Thông Minh chủ biên. Các anh Hà Ngọc Giao, Lê Văn Xe, Trần Kiến Võ, chị Hà Anh Võ, và những thanh niên, thiếu nữ người Việt đến Nhật từ lúc tuổi ấu, thiếu, ở những nơi rất xa Tokyo (di chuyển ở Nhật luôn là một vấn đề khó khăn vì khoảng cách quá xa, dân số quá lớn. Tokyo là một trong những thành phố đông dân nhất của thế giới với 12 triệu người) đã đến tham dự buổi nói chuyện. Tuy nhân số ít nhưng các anh, chị, các cháu trẻ tuổi đã theo dõi với tất cả tấm lòng của những người Việt hằng thấm đau cảnh khổ. Các anh Lê Văn Xê, Trần Kiến Võ thuộc các khoá 19, 25 Trường Võ Bị Đà Lạt, anh Hà Ngọc Giao là sĩ quan Hải Quân QLVNCH.
(*) Bản tường trình đầy đủ "Nỗi Đau Đầy Hơn Trí Nhớ" đã được chuyển sang Anh ngữ trong "The Stories Must Be Told".
Sự Thật ở đâu?
(Nếu lần phát biểu được ban tổ chức điều hành theo thứ tự kể trên, sang đến phần đối thoại thì thực hiện theo chiều ngược lại. Và Bản Tường Trình chỉ ghi lại những đối thoại của hai diễn giả người Việt, và những nội dung có liên hệ trực tiếp đến người và việc từ, của Việt Nam.)
Ông Ado với tinh thần phản chiến cực đoan, đã nhận định: "Chiến cuộc Việt Nam là biểu hiện nhất quán của chính sách "thực dân kiểu mới" được Mỹ hóa (Americanized, Ado lập lại nhiều lần) với những phương tiện quân sự khổng lồ, sức mạnh siêu đẳng của nền kinh tế, tài chánh của chủ nghĩa tư bản." Do quan niệm một chiều nầy được diễn đạt bằng tư thế trấn áp cơ hữu của diễn giả qua cách phát âm Nhật ngữ mạnh mẽ, với dẫn chứng sự kiện quân lực Mỹ đã từng tham chiến ở Đại Hàn, trấn đóng tại Nhật trước khi có mặt ở Việt Nam, nên từ phía cử tọa đã có thắc mắc với cô Sujeong (Đại Hàn): "Phải chăng lần tham dự của quân đội Đại Hàn có nguyên do từ sự đe dọa của Bắc Hàn?" Có thể do cô đã không chuẩn bị cho câu hỏi thắc mắc nầy (vì chỉ đặt trọng tâm vào hoạt động quân sự của lực lượng Đại Hàn tại Nam Việt Nam), nên Người Lính-viết văn đã xin phép được phép trả lời hộ, anh nói: "Chúng tôi đã quả đã dự tri cho câu hỏi nầy nên đem sẵn theo đây một dĩa CD có 30 hình ảnh về chiến tranh không phải chỉ riêng với hoàn cảnh VN mà còn của nhiều vùng đất, và những sắc dân khác. Một của 30 bức ảnh nầy là cảnh tượng người Bắc Hàn vượt sông Naktong chạy về phía nam vĩ tuyến 38 trong chiến tranh 1950-1953 (cũng được trích đăng trong phụ bản của The Stories Must Be Told). Hình ảnh nầy đủ để chứng minh sự kiện đe dọa của lực lượng quân sự, chính sách hà khắc chính trị của phe cộng sản không chỉ xảy ra với chiến tranh Việt Nam (mà chỉ do nguyên cớ là tham dự của người Mỹ như ôngAdo vừa kể ra)- Nhưng đe dọa mang tính danh cộng sản đã có và hằng tác động lên toàn cầu, nên đã xẩy ra cảnh tượng như vừa kể trên trong nam 1950ở Đại Hàn; sự kiện người lính Đông Đức đào thoát qua bức tường Bá Linh năm 1960; và hiện tượng vạn, triệu người Việt chấp nhận cái chết để thoát khỏi tay người cộng sản ở Việt Nam.. Di cư, vượt tuyến khỏi miền Bắc sau tháng 10 năm 1954; chạy loạn Mậu Thân 1968; chạy tỵ nạn năm 1972; di tản tháng Ba, Tư năm 1975, và cuối cùng đồng loạt (cả hai miền Bắc, Nam) vượt biên suốt hơn một thập niên sau 30 tháng Tư, 1975. Tóm lại, không những chỉ có đe dọa của Bắc hàn đối với Đại Hàn, của Đông Đức đối với Tây Đức, của Bắc đối với Nam Việt Nam- Nhưng đe dọa cộng sản là thực tiển của tình hình chính trị-quân sự toàn cầu trong suốt nửa thế kỷ vừa qua. Tóm lại, chiến tranh Việt Nam là chiến tranh hai miền Bắc-Nam, giữa chế độ cộng sản Miền Bắc và chế độ cộng hòa, dân chủ Miền Nam - Chiến tranh nầy khởi đi rất lâu trước khi chính phủ Mỹ đổ quân vào đến Việt Nam (mùa Hè 1965 tại bãi Đà Nẵng)- Ít nhất cũng chính thức từ 19 tháng 12, 1960, ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam theo nghị quyết của Đại Hội 3 Trung Ương Đảng Lao Động (cộng sản), ngày 10 tháng 6, 1960 tại Hà Nội. Và chiến tranh ấy vẫn kéo dài sau khi quân nhân Mỹ hoàn toàn rút khỏi Miền Nam (27 tháng 3, 1975), ngoại trừ một văn phòng tùy viên quân lực (DAO) theo điều khoản của Hiệp Định Paris. Có một cán binh bộ đội nào đã giao tranh với đơn vị chiến đấu Mỹ trong khoản thời gian trước, sau thời đoạn 1965-1973 ngắn ngủi của cuộc chiến tưởng chừng bất tận đau thương kia?
Một người khác (mà anh đoán chừng phải là người am hiểu rõ tình hình, văn hóa Việt do chữ viết (Việt ngữ) rất đều và đẹp) đặt cho anh câu hỏi: 1/ Phải chăng ở Miền nam có chánh sách cưỡng ép người vào lính? 2/Đời sống vật chất của cấp sĩ quan rất thoải mái bởi có mức lương cao. 3/Chính sách giam giữ của chính quyền miền Nam đối với tù binh bộ đội cộng sản? Anh có trả lời như sau: "Trong một nước có chiến tranh thường trực, lẽ tất nhiên phải có chính sách tổng động viên nhân, vật lực cho cuộc chiến. Tuy nhiên như trường hợp anh, tự nguyện vào lính năm 17 tuổi đã chứng tỏ, miền Nam không thiếu những thanh niên tình nguyện vào quân ngũ, (không những chỉ tình nguyện vào Trường Võ Bị mà còn phải thi tuyển gắt gao). Hơn thế nữa, đơn vị anh, binh chủng nhẩy dù chỉ nhận người tình nguyện - từ cấp binh sĩ đến hàng tướng lãnh- và được gia nhập vào binh chủng nầy là một vinh dự lớn, mà người sĩ quan khi tốt nghiệp trường võ bị phải đậu thứ hạng cao, hoặc thủ khoa khóa học mới có quyền ưu tiên chọn lựa. Tuy nhiên, hoàn toàn không phải phải vì đồng lương mà người thanh niên vào lính- bởi đây là một nghề nghiệp có mức sống thấp nhất của xã hội miền nam- Số tiền lương của cấp sĩ quan chỉ ngang chừng 10 Đô-la Mỹ, chứ đừng nói binh sĩ, hạ sĩ quan. Anh dẫn chứng với lời tự sự cá nhân anh trong mục tiểu sử tác giả của cuốn "Những Chuyện Cần Được Kể Lại: Chưa hề có một tài sản nào lớn hơn 10 đô-la Mỹ, tài sản lớn nhất có được là số tiền Bộ Xã Hội Mỹ cấp phát vào ngày nhập cư đất Mỹ năm 1993". Anh cũng không quên kể lại câu nói của người đàn anh thương mến, Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 TQLC: "Tao mấy năm làm tiểu đoàn trưởng chưa hề cầm số tiền lớn hơn 100.000 đồng (thời giá năm 1970, khoảng 60 đô-la Mỹ)" Chương "Người Lính Không Hề Chết"- NCCDKL (sđd)". Về câu hỏi thứ ba, tương tự như vấn nạn đối với cô Sujoeng về vấn đề "Mối đe dọa từ Bắc Hàn", lần nầy anh cũng chuẩn bị đủ đối với tình thế (dự liệu) qua chương "Tù Binh, Anh đi về đâu?" của cuốn sách viết từ 1974, "Tù Binh và Hòa Bình". Trong chương nầy anh đã viết nên lời: "Ở trại giam Phú Quốc do quân cảnh VNCH quản trị, người tù cộng sản được bảo vệ bởi những quy luật trại giam theo Công Ước Quốc Tế Genève về tù binh (cố vấn Mỹ của đơn vị quân cảnh lại là người giám sát nghiêm chỉnh việc thi hành nầy). Và trái lại, mối đe dọa nguy khốn đến từ những "đồng chí" của họ - Những cán bộ chính trị của tập thể tù binh cộng sản. Và khi ra khỏi nhà tù, trả về phía cộng sản, họ tiếp tục bị đày ải bởi nhà cầm quyền Miền Bắc bởi tội danh "đã để phía ngụy quân bắt cầm tù". Anh đã không dự tri điều hoang tưởng- Năm 1976, khi chuyển ra giam giữ ở đất Bắc, anh gặp lại đủ những người mà anh đã trao trả về phía cộng sản trong những tháng đầu năm 1973 tại địa điểm trao trả bên kia sông Thạch Hãn (Quảng Trị)".
Nhưng Nguyễn Minh Tuấn đã không tin về câu trả lời trên, anh cho rằng, sự hà khắc, độc ác của chế độ giam giữ của VNCH là một điều không thể chối cải được, vì sự kiện nầy đã bị chính các nhân vật "hòa bình" ở Miền Nam tố cáo. Vì thời giờ không cho phép, hơn nữa vần đề đã đẩy qua vùng chính trị mà nếu muốn đề cập thì phải dẫn chứng với nhiều người, việc khác (thành phần thứ ba, các phong trào hòa bình ở Miền Nam, những nhân vật phản chiến "ngụy danh" mà sau 1975 đã hoàn toàn lộ mặt.. Những Lý Chánh Trung, Nguyễn Thị Thanh Vân (vợ Ngô Bá Thành), Huỳnh Tấn Nẫm..) Và anh cũng đã dự tri chính xác về những con người nầy cùng cái gọi là "cuộc cách mạng gọi là giải phóng miền Nam" qua khẳng định đã viết thành lời từ 30 năm trước: "Rồi đây trận chiến cuối cùng sẽ là giữa chúng tôi với những sư đoàn chính quy cộng sản Bắc Việt.. Lá cờ ba mầu của mặt trận giải phóng (Miền Nam), cùng những kẻ múa rối ở Miền Nam sẽ bị vất đi như một thứ phế phẩm!! (TB& HB, Trang 411-417, ấn bản 1974, Hiện Đại Sàigòn)". Anh cũng không trả lời câu hỏi có tính cách "chiến thuật nầy" là cốt dùng thì giờ còn lại để trả lời về câu hỏi mấu chốt: "Ông nghĩ thế nào về sự kiện Hà Nội bị Mỹ dội bom". Câu hỏi nầy do một thính giả nêu ra nhưng Nguyễn Minh Tuấn chuyển "gánh nặng" qua cho anh. Không chút bối rối và ngạc nhiên, anh trả lời: "Trước tiên tôi cực lực phản đối việc Mỹ ném bom Hà Nội, vì một lẽ rất giản dị: Không ai cam tâm muốn đất nước mình bị tàn phá. Mà cũng không hẳn như thế, tất cả những con người có lương tri, lương năng không ai hoan nghênh những vụ tàn phá, tấn công bằng bom đạn. Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, trong dĩa CD sẵn mang theo hôm nay (nhưng rất tiếc vì lý do kỹ thuật, CD nầy đã không phóng chiếu được. Anh đưa CD lên thêm một lần) có hình ảnh phố Khâm Thiên, khu dân cư Hà Nội bị dội bom trong chiến dịch dội bom 12 ngày (Tháng 12, 1972) của chính quyền Mỹ. Nhưng nếu đã kết án vụ việc phi cơ Mỹ ném bom ở Khâm Thiên thì cũng phải kết án những vụ pháo kích của lực lượng cộng sản vào những thành phố, khu dân cư ở Miền Nam. Trong dĩa CD nầy cũng như trong những cuốn sách tôi trình bày trước quý vị hôm nay (có những ảnh do chính bản thân hoặc các phóng viên chiến trường bạn hữu tôi chụp trong trận chiến mùa Hè 1972), những ảnh nầy trình bày đủ cảnh tượng thường dân bị tàn sát trên 9 cây số "Đại Lộ Kinh Hoàng" nam Quảng Trị, ngày 29 tháng 4, 1972; thị xã An Lộc bị san thành bình địa, dân chạy loạn về Chơn Thành, Bình Dương bị tàn sát bởi cuộc pháo kích tập trung đêm 12 tháng 4, 1972. Trường Tiểu Học Cai Lậy, Định Tường (vùng đồng bằng Cửu Long) ngày 9 tháng 3, 1974 gây thương vong 43 trẻ nhỏ, bị thương 70 em khác.. Những vụ giết người không cần thiết và cực độ vô nghĩa nầy phải một lần bị lên án cùng lần với việc phố Khâm Thiên Hà Nội bị dội bom. Và trở lại vấn đề dội bom thì thật ra mà nói- ba phần tư số bom Mỹ với chất độc khai quang là dội xuống Miền Nam- Thế nên, nhân dân Miền Nam mới là người có đủ toàn quyền trước hết để nói lên vấn nạn đau xót nầy. Phải, chính chúng tôi - Người Miền Nam mới là nạn nhân đầu tiên và hứng chịu phần nặng nề nhất của cuộc chiến. Hai trăm ngàn dân, lính trong lần di tản Tây Nguyên khởi từ 15 tháng Ba, 1975 kết thúc ngày 28 cùng tháng, chỉ còn khoảng 60.000 con người đếm được tại trại tiếp cư đèo Rù Rì, Nha Trang, không có một đơn vị quân đội nào còn được khả năng chiến đấu khi về đến vùng đồng bằng. Biết bao nhiêu người đã chết trong chiến tranh? Chỉ biết sau 1975, trong hai triệu người Nam, Bắc vượt biên ra khỏi nước đã có 600.000 ngàn người bỏ mạng trên biển đông, nơi rừng già biên giới Việt- Miên-Thái (thống kê của Ủy Ban Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc). Biết bao nhiêu người Việt Nam đã chết trong chiến tranh? Biết bao người Việt Nam đã chết sau thống nhất, trong hòa bình? Anh hỏi mình, hỏi cử tọa, hỏi người bạn Nguyễn Minh Tuấn đến từ miền Bắc, hỏi người phản chiến Ado Makoto.. Người nào đã chiến thắng, kẻ nào đã thua trận? Phải chăng chỉ Dân Tộc Việt Nam chịu nguồn uất hận dằng dặt khôn nguôi!!
Còn có những câu hỏi về việc Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên đặc công ở Chợ Lớn (1968); thái độ đối với kẻ khủng bố hiện tại? Nhưng anh có thể nói gì thêm và nói gì hơn nữa (dẫu cũng đã tiên liệu cho những vấn đề nầy) ngoài mối đau thương quá đỗi lớn lao còn rất mới sau 26 năm gọi là hòa bình ở Việt Nam.
Hậu từ
Tương tự như những lần ở sông Thạch Hãn, Quảng Trị sau những cuộc trao trả tù binh đầu năm 1973, mỗi buổi chiều trở về bờ sông phía nam, phần đất kiểm soát của Thủy Quân Lục Chiến VNCH, qua thành phố đổ nát, hoang tàn, hậu quả của lần tàn phá cực độ trong suốt năm 1972.. Anh có cảm giác ngậm ngùi, khắc khoải: Rồi đây sẽ chẳng đi đến đâu, tất cả chỉ là vô ích, những nỗ lực của bản thân, bằng hữu, chiến hữu trong cuộc chiến nhiều thiên lệch, không cân sức, bị xuyên tạc, ngộ nhận, mạ lỵ từ nhiều phía- Cuộc chiến đấu tự tồn của dân và lính Miền Nam từ lâu nào đã mấy ai hay, cho dù bậc đại trí, đạo hạnh như Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, Giáo Hoàng Vatican.. ?! Nay cũng thế, dẫu anh đã nói đến tận cùng, đã chuẩn bị thật chu đáo, đã diễn dịch vô vàn từ sự thật, nhưng làm sao đẩy được khối đả tảng "chiến tranh Việt Nam được Mỹ hóa trong tất cả mọi tình thế, mọi điều kiện" ra khỏi quan niệm cố định của những người phản chiến Nhật như Ado Makoto? Và dẫu cho anh thật lòng tin tưởng về tính trong sáng, trung trực của thế hệ người trẻ tuổi (điển hình qua số đông của phòng hội), mà thái độ nghiêm túc, cẩn mật của họ trong suốt buổi hội thảo đã làm anh cảm khích- nhưng phần đông những người nầy đều nhận quá trình huấn luyện, sưu khảo từ học trình đại học Việt Nam hiện tại - mà lý thuyết xã hội chủ nghĩa vẫn là quan điểm chủ đạo của tất cả mọi công trình văn hóa, văn nghệ, giáo dục, kể cả kinh tế. Từ "thực tế- thực tế gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" nầy anh rơi vào một tình trạng não nề với câu hỏi nhói đau: "Nước Nhật chỉ sau mười lăm năm (1945-1960), từ hoang tàn đổ nát do hai trái bom nguyên tử; danh dự, kiêu hãnh dân tộc, quân đội bị xúc phạm (Nhật Hoàng Hirohito tuyên cáo đầu hàng, Mỹ thiết lập tòa án Tokyo xử tội phạm chiến tranh); cảnh cùng khổ, sa đọa xã hội hiện ra cùng khắp (đến nổi cảnh sát phải dùng đến biện pháp truy quét mới dọn sạch được cảnh sống lầm than của dân bụi đời ở khu nhà ga Ueno, Tokyo những năm sau 1945)- Nhưng chỉ đến thập niên 60 Nhật đã là một cường quốc kinh tế, và hiện nay là đối thủ không khoan nhượng của Mỹ trong tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, tài chánh, sản xuất. Phép mầu nầy đến bao giờ xuất hiện ở Việt Nam - Đất nước đang ở đầu thiên niên kỷ thứ ba với chiến lược kinh tế "nhất quyết tiến lên xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở nông nghiệp và công nghiệp nhẹ". Hình thái phát triển xã hội (và chỉ thực hiện được) do dịch vụ tiêu thụ và tệ nạn bàn giấy thông qua thủ tục hối lộ. Hơn một phần tư thế kỷ kể từ ngày thống nhất đất nước số phận người dân vẫn bị chi phối và quyết định bởi Bộ Hình Luật An Ninh Tổ Quốc- biến thái của nghị quyết An Ninh Tổ Quốc từ đại hội III năm 1960 của trung ương đảng chuẩn bị lần xâm chiếm Miền Nam bằng vũ lực - Công An Bộ Nội Vụ toàn quyền bắt và kết án người bằng biện pháp tập trung cải tạo!! Linh Mục Nguyễn Văn Lý (bạn đồng hành chung chiếc cùm với người viết trong lần chuyển trại 8 tháng 1, 1988 từ Thanh Cẩm, Thanh Hóa ra trại Ba Sao, Hà Nam Ninh) nay đang chịu thêm một án tù thứ ba trong đời cũng chỉ vì lý do "vi phạm an ninh tổ quốc".
Trong bữa cơm từ giả tại nhà Nguyễn Minh Tuấn, anh có kể cho chúng tôi nghe về nỗ lực của báo giới Vệt Nam hiện tại.. Báo Đại Đoàn Kết của anh đã có công đầu trong vụ án xét xử ông Nguyễn An Trung, một Việt kiều mang tiền về nước để phát triển ngành giao thông, nhưng bị kết án tù vì tội khai gian thuế, chịu án tù, tịch thu tài sản và phạt vạ 1 triệu đô-la Mỹ; hoặc báo đã làm sáng tỏ vụ công an bắn chết một thanh niên trên cầu Chương Dương Hà Nội, cướp tiền của người nầy, xong vu oan nạn nhân là kẻ cướp giật. Cha nạn nhân đưa đơn thưa kiện khắp nơi các cấp nhưng đều bị chìm lấp vì hồ sơ (giả tạo) của công an đã hoàn tất. Nỗi oan uổng của người chết chỉ được sáng tỏ khi báo Đại Đoàn Kết (qua đều tra của Nguyễn Minh Tuấn) đưa nội vụ ra ánh sáng. Hoặc vụ một chị đàn bà sắc tộc Tày bị vu oan đã thiếu nợ 200.000 đồng (khoản chừng 15 Mỹ Kim), bị kết án 18 tháng tù trong tình trạng ung thu bướu đang giai đoạn nguy kịch!! Tuấn kết luận: "Báo chí phải biết tránh né, muốn viết phải nhắm vào, đánh tỉa từng cá nhân- nhưng đừng bao giờ đụng đến chính sách và trung ương đảng!" Anh biết người bạn nói điều thật lòng, và can đảm thực hiện nghĩa vụ báo chí - Nhưng anh nghĩ thầm: "Nếu là một nước có kỹ cương người dân có bao giờ lâm cảnh nguy biến đến như thế? Và anh biết có hỏi người bạn chăng nữa thì mối xót xa nầy vẫn giữ nguyên độ sắc nên anh đành im lặng. Và anh chợt hiểu ra: Tại sao Bảo Ninh không được tham dự buổi hội thảo - Hẳn những người cầm quyền ở Việt Nam e ngại về tiếng nói của một người viết văn trung trực.
Từ nhà Tuấn, anh cùng Đỗ T. Minh và Ng. Thủy đi bộ ra đường đón taxi, ngang qua cơ sở chính của Hãng Sony, nhìn lên, chỉ là một tấm bảng đơn giản ghi tên hiệu của cơ quan nắm giữ quyền lực, khả năng kinh tế - kỹ thuật toàn cầu. Anh hỏi thầm thêm một lần.. Biết đến bao giờ ở Việt Nam. Về đến Mỹ, tin tức đầu tiên anh đọc được: "Những người cầm quyền ở Hà Nội đang chuẩn bị thông qua đạo luật về biên giới và lãnh hải ký với Bắc Kinh trong những năm 1999 và 2000- Theo đó Việt Nam chỉ còn 53, 23% vùng biển chủ quyền và Trung Quốc chiếm 46, 77%. Và công an thành phố Sàigòn tìm cách phá đám tang Hòa Thượng Thích Đức Nhuận.
Anh chờ đợi gì nơi những người cầm quyền Hà Nội, hôm nay đang lập lại lần đê nhục của Mạc Đăng Dung ở thế kỷ 16, nhưng với lý do thậm tệ đốn hèn hơn - chỉ để củng cố vị thế chính trị của cá nhân và tổ chức của họ.
Hóa ra, những kẻ có tội luôn ở tình trạng sợ hãi. Họ sợ Anh Linh Con Người dẫu đã chết và quỳ lạy loại xác ma hủy hoại hư thối.
Phan Nhật Nam
17 tháng 1, 2002.
Để nhớ ngày ký kết "Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình ở Việt Nam"
hai-mươi chín năm trước tại Paris.
--------------------------------------------------------------------------------
ĐI VỀ PHÍA MẶT TRỜI
--------------------------------------------------------------------------------
Dẫn nhập
Do vận động của Đỗ Thông Minh, Người Bạn Đông Kinh từ hai thập niên qua của giới báo chí truyền thông, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của cộng đồng người Việt hải ngoại, tiếp theo lần tìm gặp, tiếp xúc chạy vòng từ đông-tây, dọc theo trục nam-bắc nước Mỹ qua trung gian của Dương Phục (Đài Phát Thanh Sài Gòn- Houston, Texas), và Huỳnh Lương Thiện (Báo Mõ, San Francisco, CA).. Cuối cùng, người bạn kiếm ra anh nơi hẻm hóc, chốn giá lạnh, nóc nhà nước Mỹ để giao nhiệm vụ - Đi về phía Đông, đến nói cùng người Nhật và thế giới Ký Ức về Chiến Tranh Việt Nam - Công việc mà tự thân anh đã tình nguyện gánh vác dài theo hơn bốn mươi năm của đời người, từ đầu thập niên 60, lúc chọn nghiệp lính vào năm thanh xuân 17 tuổi.
Người Lính-Viết Văn không có một nhiệm vụ nào khác- Phải nói, viết cho đến tận cùng - Bởi Nỗi Đau nầy luôn là Nỗi Đau chung.
Cách đây hai mươi năm, ngày 7 tháng 9, 1981, nơi Trại Lam Sơn, Thanh Hóa bắc Việt Nam, bắt đầu lần kiên giam đợt thứ hai, anh bước vào căn hầm kín cửa dài hai thước, rộng một thước, cao ba thước, sau bốn lớp cửa gỗ bọc tôn thiếc, ngăn cách khu kiên giam với khu giam giữ tù nhân; nhưng nếu tính với xã hội bên ngoài, miền đất phương Nam xa xôi, thế giới của những quốc gia văn minh, dân chủ - Khu kiên giam nầy, nơi giam tù cấm cố, hoặc tử tội chờ ngày đem đi bắn, cách biệt đủ 10 cánh cửa - bằng số cửa địa ngục Dante mô tả trong The Inferno. Người Lính-viết văn nhìn lên ô cửa thông hơi rộng hơn gang tay chắn lưới sắt, tự hỏi: "Con người có thể đối xử với nhau như thế nầy hay không? Người có thể bị kết tội từ những chữ viết mà quả thật không hề là một đe dọa, xúc phạm đối với bất cứ ai?!" Trong nỗi bi phẫn khốn cùng ấy, quả thật anh thấy được chết dễ dàng hơn phải sống - Tuy nhiên anh không hề tuyệt vọng.
Anh không tuyệt vọng bởi vững tin: Sẽ có một ngày (nếu như không phải bức tử), anh được quyền nói lên tình cảnh bi thảm nầy. Bởi, tình cảnh đau thương mà anh phải hứng chịu, chứng kiến, sống cùng, đã và đang trải qua không của riêng cá nhân anh; cũng không phải chỉ là hậu quả thua trận của một quân đội; và cũng không là tác động có giới hạn đối với những công dân của chế độ cộng hòa phần đất phía Nam nước Việt. Không phải như thế - Nỗi Đau không từ một ai, xuyên suốt theo cùng Lịch Sử, rung động tự thâm sâu vận mệnh Dân Tộc Việt.
Người Lính-Viết Văn không có một nhiệm vụ nào khác- Phải nói, viết cho đến tận cùng - Bởi Nỗi Đau nầy luôn là Nỗi Đau chung.
Qua hai vòng thế giới, xuyên suốt khắp đại lục Bắc Mỹ từ ngày anh ra khỏi nước (5 tháng 11, 1993), hơn bốn mươi lần anh đi đến nơi những cộng đồng Người Việt, ngày 14 tháng Giêng, 2002, Lễ Thành Nhân cổ truyền của Nhật, nơi diễn đàn vinh hạnh, trước hiện diện của những Người Bạn trung thực, thêm một lần, ước vọng sâu xa dài hơn phần tư thế kỷ nay đã trở thành hiện thực. Anh cám ơn Bằng Hữu Thế Giới và Đất Nước Nhật Bản - Nơi đi lên của Mặt Trời, biểu hiện bất diệt Con Người - Sự Sống. Và anh bắt đầu bản tường trình dài dường như không hề chấm dứt về những con người của một quê hương khắc nghiệt bi thảm, nhưng không thiếu phần siêu việt kỳ diệu - Người và Khổ Nạn Việt Nam.
Chiến tranh nhìn từ nhiều phía
Buổi sinh hoạt được tổ chức tại Trường Đại Học Ngoại Ngữ, Học Viện Ngoại Giao Tokyo vào Ngày Lễ Thành Nhân (14 tháng 1 Dương Lịch) của truyền thống Nhật. Ngày lễ đánh dấu buổi con người từ tuổi thiếu niên nên trưởng thành, khởi đầu giai đoạn mới - giai đoạn quyết định- từ đấy người tự lập, chủ động cuộc sống riêng mình. Buổi sinh hoạt không vô cớ chọn ngày, tháng, thời điểm ý nghĩa sâu xa nầy - ý hẳn ban tổ chức muốn truyền đạt một thông điệp - Từ đây, chúng ta nhìn lại cuộc chiến không chỉ tác động riêng đối với người và xã hội Việt Nam, nhưng liên hệ đến nhiều sắc dân, quân đội của những chế độ chính trị khác nhau - những nước đã từng tham dự cuộc chiến mà hậu quả đến hôm nay vẫn còn sâu xa ảnh hưởng. Hội chứng Việt Nam hiện tại vẫn hằn sâu lên tâm lý giới cầm quyền, điều hành nước Mỹ, cũng như hệ lụy Đệ Nhị Thế Chiến, phần đau thương của nước Nhật gây nên tự quân đội Nhật (đối với các nước vùng Đông -Nam Á, Trung Hoa, Đại Hàn, Việt Nam), hoặc nhân dân Nhật hứng chịu hôm nay vẫn hằng (được và phải) nhắc lại. Nhắc lại để tránh những lỗi lầm của quá khứ, nhắm đến tương lai - Thiên niên kỷ Thứ Ba của nhân loại mà Châu Á-Thái Bình Dương sẽ là diễn trường quyết định với vai trò quan trọng hàng đầu của Nhật Bản. Nước Nhật hẳn đang chuẩn bị cho tương lai hiện thực nầy. Thế nên, buổi sinh hoạt chắc đã hình thành không do những lý do tùy tiện, ngẫu nhiên.
Sau phần giới thiệu của ban tổ chức gồm có các Giáo Sư Susumu Fugita, Minoru Iwasaki, và Imai Akio của học viện, các thuyết trình viên lần lượt trình bày nội dung chủ đề mà ban tổ chức đã thông báo, chỉ định từ tháng 11 năm 2001. Người thuyết trình xử dụng ngôn ngữ của quốc gia mình, thông dịch sang Nhật ngữ do những giáo sư, sinh viên đang giảng dạy, hoặc theo học các học trình tiến sĩ chuyên khoa ngôn ngữ của quốc gia đó.
Theo chương trình dự định, Bảo Ninh, tác giả Nỗi Buồn Chiến Tranh (đã được dịch sang Nhật ngữ), và Thân Phận Tình Yêu (những cuốn sách nói về mất mát, đau thương của tuổi trẻ miền Bắc Việt Nam trong chiến tranh) phát biểu trước. Nhưng vào tuần lể đầu tiên của tháng 1, 2002, tác giả nầy thông báo không tham dự buổi hội thảo được vì lý do "trở ngại giấy tờ hành chánh", nên anh gởi một bản văn đến ban tổ chức hội thảo. Văn bản nầy được dịch ngay sang tiếng Nhật, và được phổ biến vào giờ khai mạc. Sự kiện Bảo Ninh vắng mặt sẽ được đề cập lại trong phần hậu từ của bản tường trình nầy. Người thay thế Bảo Ninh, Nguyễn Minh Tuấn, nguyên biên tập viên, chuyên bình luận kinh tế của Báo Đại Đoàn Kết, Hà Nội, hiện là giảng viên tiếng Việt của trường từ năm 2000, di dân qua Nhật theo diện gia cảnh (do kết hôn cùng cô Keiko Watanabé, biên tập viên Báo Yomiuri, nhật báo lớn nhất của Nhật) bắt đầu buổi hội thảo. Nguyễn Minh Tuấn khởi đầu phần trình bày với tư thế: "..Năm 1975, tôi mới mười-lăm tuổi, nên dẫu đã khai thêm hai tuổi để đang ký vào quân đội thì cũng chỉ đi lính được một ngày, và miền Nam đã được "giải phóng".. Tất cả ký ức về chiến tranh của tôi là những ngày sơ tán tại miền Bắc Việt Nam để tránh bom Mỹ.. Những hoàn cảnh cực khổ và dễ sợ." Tuấn có những nhận xét trong phần kết luận: "Hiện tại ở Việt Nam, hầu hết mọi người hình như không ai muốn nói về chiến tranh. Hằng năm, vào những ngày lễ lớn như "giải phóng miền Nam 30 tháng Tư", ngày Quốc Khánh 2 Tháng 9, chỉ những tờ báo nhà nước (Báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An..) mới nhắc lại những chiến thắng quân sự. Còn phần đông dân chúng chỉ chú trọng vào đời sống, lo toan sinh kế vật chất. Và đời sống xã hội, thị trường tài chính, kinh tế thì bị nạn tham nhũng hoành hoành, hiện tượng áp bức tràn khắp.. với thành phần nạn nhân đầu tiên chính là những người đã dựng nên những chiến thắng kể trên." Nguyễn Minh Tuấn cũng không "ngạc nhiên" về sự kiện Bảo Ninh vắng mặt. Qua kinh nghiệm làm báo ở Việt Nam, anh đã quá quen với những lý do "trở ngại giấy tờ hành chánh" nầy, bởi chính bản thân anh cũng đã là nạn nhân của những lý do tương tự đôi ba phen. Phần phát biểu của Nguyễn Minh Tuấn được chuyển sang Nhật Ngữ bởi Giáo Sư Odaka Tai, Giảng Viên Khoa Quan Hệ Quốc Tế, Đại Học Daitobunka.
Tiếp đến phần trình bày của Người Lính-viết văn. Trái với người bạn đến từ miền Bắc Việt Nam kia, anh đã chứng kiến, chịu đựng chiến tranh từ thuở thơ ấu, khi chưa đến tuổi lên mười trong những vùng gọi là chiến khu (địa phương thuộc quyền kiểm soát của lực lượng Việt Minh trong giai đoạn chiến tranh 1945-1954) suốt một đời dài cho tới hôm nay, sắp đến tuổi 60. Anh chịu đựng với chính thân xác mình, nghe bằng tai, thấy tận mắt, hít thở thấm đẫm hơi người chết, đầm đìa khắc khoải tiếng kêu thương tâm của vạn, triệu cảnh đời khốn cùng, đau đớn oan khốc diễn ra qua từng ngày, từng giờ trên suốt giải quê hương - không chỉ giới hạn nơi những xóm làng, đồng ruộng, thị trấn miền Nam, nhưng đến tận đầu nguồn biên giới, vùng núi non cực bắc đối diện lãnh thổ Trung Quốc, hoặc nước Lào ở phía Tây. Tình cảnh anh không phải là trường hợp đơn lẻ, cá biệt, nhưng là cảnh huống điển hình của toàn dân tộc khổ nạn. Anh chỉ là một con người sống tận cùng với khổ nạn Việt Nam. Anh không nói quá lời mà sợ rằng không đủ tiếng lời để nói. Và không chỉ trong ba mươi phút ấn định, nhưng nếu có thể với ba mươi giờ vẫn chưa đủ để kể hết toàn cảnh xót xa khắc nghiệt kéo dài hơn nửa thế kỷ, từ ngày Mặt Trận Việt Minh (do đảng cộng sản Việt Nam ẩn danh lãnh đạo) khởi đầu cuộc chiến, 19 tháng 12, 1946, đến khi mặc áo lính, 1960-61, cho đến ngày tàn cuộc 30 tháng tư, 1975, tiếp lần vào trại tập trung sau đó, chuyển ra giam cấm cố ở miền Bắc, 1976, và cho đến tận hôm nay - Dấu vết, ký ức chiến tranh vẫn còn nguyên độ sắc. Anh sống đủ đời với của cuộc chiến và hứng trọn hệ quả của nó dẫu hôm nay tạm lìa bỏ quê hương.
Nầy đây, hãy anh kể lại: "Chỉ trong vòng bốn mươi tám giờ kể từ khi bắt đầu cuộc hành quân trực thăng vận của ngày 20 tháng 8, 1964, từ phi trường Bến Tranh xuống một ngôi làng Quận Bình Đại, tỉnh Kiến Hòa.. Đi sau hai người khinh binh, tôi bước e dè, nhọc mệt, do tiểu đoàn đã đụng nặng từ lúc xuống trực thăng, thêm việc nhặt những xác chết của đơn vị bạn, người tôi lao đao trong cảnh trận địa nguy khốn, mùi hôi tanh từ máu người lẫn hơi bùn xông lên ngây ngây ngật ngật. Đến ngày thứ hai thì nỗi thảm hại trong lòng càng thêm độ sắc, bởi đám tàn binh cộng sản bị thiệt hại của ngày hôm trước nay không đường thoát thân, phải chui vào đụn rơm, ao bèo lẫn trốn. Tôi kéo ra một gã du kích.. Chỉ là một thiếu niên mặt mày ngơ ngẫn do quá sợ hãi, mồm ngậm búng cơm. Tôi nhìn kỹ vào mắt hắn ta, tự hỏi: Đây là kẻ thù của mình sao? Đây là "chiến sĩ giải phóng", đầu mối tai họa, kiệt cùng khổ nạn Việt Nam? Thêm một ngày nơi trận địa, cảnh tượng bi thảm càng thêm nặng nề, vây bọc, siết cứng lại.. Tôi đi vào khu vực Nhà Thờ Công Giáo xã Bình Đại, ngôi nhà thờ đẹp đẽ đã trở nên đống gạch đổ nát giữa hàng rừng dừa ngã nghiêng trốc gốc bốc khói xanh. Khi cúi xuống nhặt bàn tay gãy của tượng thiên thần, tôi khám phá ra năm xác chết. Đấy là gia đình người giữ nhà thờ, hai vợ chồng, ba đứa con. Năm người chết từ đâu ngày hôm trước. Chết không biết do đạn của bên nào? Những xác chết còn "tươi" do sức nổ gây hơi ép, nét mặt in dấu, vẻ kinh hoàng, chết ở vị thế ngồi dưới bàn thờ Chúa. Năm xác người được kéo ra nằm trên sân đá lạnh, nắng dọi xuống gây gây im lặng vàng khô. Nhìn lên hàng rào, chiếc áo tím của cô con gái đầu lòng bay dật dờ như nỗi oan khuất không nói ra.
Tiếp ngày hôm sau, quân đi vào một khu vườn với căn nhà đang cháy nghi ngút khói, những cột gỗ cháy đỏ xiêu lệch, nền gạch vỡ loang lỗ những dấu đạn pháo.. Có người đàn bà chưa đến tuổi ba mươi, nét mặt đôn hậu, trong sáng của người phụ nữ miền Nam chưa phải chịu đời khó khăn, vất vả. Chị ngồi ngơ ngẩn trên thềm ngôi nhà đang cháy dỡ. Tôi đi đến... Không biết đang có đánh nhau hay sao mà chị lại ngồi đây? Im lặng, chị ta đứng dậy, đưa chiếc giỏ mây vào mặt tôi. Động tác nhanh gọn như người tập thể dục. Tôi mở gói giấy cột chặt bởi những vòng cao su... Sợi giây chuyền vàng, đôi bông tai, hai chiếc nhẫn và cái kiềng. "Vàng, chắc hơn một lượng, con mẹ nầy sợ quá hoá điên rồi. Lấy đi thiếu úy, không ai thấy, em cũng không nói cho ai biết đâu.. Ê, đi đi.." Người lính mang máy truyền tin thầm thì bên vai tôi. Anh hươi mũi súng đuổi chị đàn bà. Người nầy bước đi với nét mặt không cảm giác.
- Không được, vàng của người ta, mình đâu có quyền lấy. Nầy, chị trở lui đi, tôi trả lại đây". Tôi nói với theo. Người đàn bà quay lại, cũng với bước chân vô hồn không cảm giác. Nhưng khi đưa tay đón lấy chiếc giỏ, nét mặt chị ta bỗng nhiên nhăn nhúm lại như đang phải chịu cơn đau quá độ: Chị buông thỏng hai tay, chiếc giỏ rơi xuống đất.. Từ từ người đàn bà đưa tay lên hàng nút áo.. những ngón tay xoắn giữ chặt, toàn thân run bần bật.
- Trời đất ơi!! Tôi kêu lên tiếng nhỏ. Người đàn bà có thể đã không hiểu lời tôi do từ cách phát âm giọng người miền Trung pha âm Bắc, nhưng chắc rằng, bởi đã sống trong vùng du kích cộng sản kiểm soát, chịu sự tuyên truyền dai dẵng dài lâu, nên chị đã nhìn tôi như "một gã lính hung bạo với áo quần rằn ri, chuyên hiếp dâm, giết người, cướp giật - như lời "tuyên truyền giáo dục" thường trực tác động sâu xa của cán bộ chính trị cộng sản. Động tác trả vàng lại cho người đàn bà cũng không phải là thái độ, hành vi đạo đức lớn, đấy chỉ là việc làm nhỏ bé, bình thường của một người "có giáo dục tại Miền Nam"- Biết trọng người và yêu thương đồng loại. Sự hiểu lầm cay đắng của người đàn bà đồng thời chỉ cho tôi hiểu ra rằng: Tính ác độc tàn nhẫn của chiến tranh, không chỉ làm cho người trở nên "hai kẻ xa lạ", nhưng là đầu mối, tai họa thống khổ đối với nhau.
Tôi dẫn người đàn bà ra bến sông qua Mỹ Tho. Chị đi tới với bước chân vô định.. Lai! Lai! Má đây con ơi!! Một người nào dưới sông kêu thất thanh, chị quay lại. Aùnh mắt trống không. Vẫn bước chân vô hồn, chị đi về chỗ thuyền đậu chen chúc.. Má! Má, nhà mình cháy rồi, cháy hết rồi. Chị vẫn còn trong cơn mê của sợ hãi. Chị vẫn chưa phục hồi trí nhớ để nhận ra rằng: "Mình đã được gìn giữ, bảo vệ bởi gã lính trẻ tuổi mà chị vừa hiểu nhầm rằng y đòi lấy của, muốn hiếp dâm". Tôi nói với những người lính đang đứng nhìn theo người đàn bà: "Nhìn gì mấy cha, đi lẹ lẹ còn qua phà, về Sài Gòn cho kịp." Về Sàigòn lại đứng đường, gác chợ cứ như thằng ăn mày, sung sướng gì mà ham về sớm thiếu úy ơi!!
Đơn vị xuống phà qua Mỹ Tho để tiếp lên xe về Sàigòn, nhận nhiệm vụ chống biễu tình, giữ an ninh thủ đô.. Hai gã thiếu niên đi đầu đoàn người căng biễu ngữ màu vàng: "Cương quyết bảo vệ Đạo Pháp". Hai gã khác mang một tấm khác có giòng chữ nguệch ngoạt, "Hoan hô quân đội".. Đám đông la ó, những viên đá ném tới.. Những viên đá rơi trên nón sắt, thân áo giáp, lời chưởi bới ào ào nghiệt ngã:"..đ..má chúng mầy ăn tiền mỹ-ngụy bao nhiêu hỡ... Ai trả lương cho chúng mầy giết thầy, hại đạo!!" Những người lính chúng tôi chưa kịp rửa đôi giày lấm bùn của chiến trận ngày hôm qua, vết cháy ở áo Hạ Sĩ Ty, máu khô còn đóng trên mặt Binh Nhất Thái, và chính tôi - mùi người chết còn nguyên nơi miệng, lưỡi.. Tất cả chỉ vừa qua của bốn-mươi tám bốn giờ từ một vùng đất gọi là Bình Đại, Tỉnh Kiến Hòa. Bình Đại- Sài Gòn chỉ khoảng trăm cây số đường chim bay."
"Câu chuyện kể tiếp tục với cảnh tượng những đứa trẻ sống sót trong ngôi làng Xã Chánh Khoan, vùng Quận Phù Cát, Tỉnh Bình Định. Làng trù phú, vườn củ đậu xanh ngắt, lúa chín vàng, chĩu nặng bông trái nhưng không bóng người, nhà nhà cửa đóng kín, mùi tử khí âm âm.. Những đứa bé được tìm thấy từ căn nhà cha mẹ đã chết vì dịch hạch. Bé kiệt sức vì đói, rét do trời đang ở cuối mùa Đông 1966.
Câu chuyện tiếp tục với hoạt cảnh xót xa im lặng nơi vùng đất lửa hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, biên giới cực bắc của miền Nam đối diện với miền Bắc qua vùng "Phi Quân Sự". Mùa Đông năm 1967, hai giờ sáng từ Cửa Việt, đơn vị anh, Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù đưa quân lên hướng Bắc sát sông Bến Hải. Trời sáng dần để thấy lẫn sau giải đụn cát, gò đất có những "ngôi nhà" nhỏ. Không biết đáng để gọi là "nhà" hay chăng, vì thật sự chỉ là những hầm hố, trên đó người dân úp lên một mui thuyền và cả gia đình, những con người ngồi bó gối sát vào nhau. Khi nhận ra những người lính đang làm việc lục soát, những con người ngồi trong những căn nhà kia cử động.. Họ bò ra. Vâng, những "con người gọi là người Việt Nam" kia bò ra bằng hai bàn tay và đầu gối, như một loại dã nhân tiền sử chưa đứng thẳng được cột sống. Bao đời nay, người đàn bà ở hai tỉnh Quảng Trị-Thừa Thiên, bất kể giai cấp xã hội nào, theo phong tục kín đáo luôn có thói quen luôn mặc áo dài, dù áo dài cũ kỷ, rách vá, hoặc đang làm việc nặng nhọc, lầm than. Những chiếc áo dài rách tay, độn vai bởi hàng chục miếng vá, khác màu, khác vải. Nhưng chiếc áo dài của người đàn bà làng Diêm Hà Thượng ở vùng giới tuyến không còn chức năng của mục đích, ý niệm ban đầu - Để bảo vệ phẩm tính cao quý, thể hiện phong cách kín đáo của người nữ. Tất cả những danh, tỉnh từ huênh hoang, tô vẻ mà những kẻ lãnh đạo chiến tranh của cả hai bên hằng nại đến để chiếm đoạt "lý chính nghĩa" đã trở nên vô dụng, mất ý nghĩa đích thực, vì vạt áo dài kia không được kéo dài hơn, không đủ lành lặn để thay thế chiếc quần che phần hạ thể trong động tác bò lết."
Nhưng chiến tranh bên cạnh chuỗi cảnh tượng thê thiết dằng dặt kể trên vẫn có những hoạt cảnh bi tráng mà mỗi người lính, người dân miền Nam hằng hiện thực qua từng ngày giờ bão táp với cách thế chịu đựng vô vàn kỳ lạ tưởng chừng như không thật. Chúng ta hãy chứng kiến những phận người sống-chết qua lửa đạn.. "Ngày 25 tháng 6, 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I quyết định khai diễn chiến dịch tái chiếm Quảng Trị. Khi đổ quân xuống bãi cát nam Quận Hải Lăng, trên trục tiến quân hướng khu Nhà Thờ La Vang, mục tiêu cực tây, vị trí giữ cạnh sườn trông về hướng Trường Sơn, những người lính thấy những luồng hơi ong óng trên mặt cát kia sao. Trời sáng dần, quân tiến sâu vào vùng hơi bốc lên kia thì họ khám phá ra.. Luồng khí bốc lên ấy là tàn hơi của một loại lửa đặc biệt. Lửa được cấu tạo không chỉ do vật chất bị đốt cháy như gỗ, sắt, thép của các loại súng đạn, xe cộ, vật dụng chiến tranh; lửa còn được tăng cường nung nấu bởi áo quần, quang gánh, giày dép...Và cuối cùng, lửa được bền bỉ gìn giữ bởi một chất liệu bất ngờ, phí phạm và thực sự không cần thiết - Những tế bào hữu cơ của thân thể người bị xé rách, vùi dập, thiêu đốt cháy âm ỉ làm chảy sênh sếâch mặt nhựa đường. Loại lửa thuần túy "nhân tạo" nầy đã tồn tại từ bao ngày qua - từ ngày 29 tháng Tư, 1972, thời điểm những sư đoàn Miền Bắc tấn công, cưỡng chiếm thị xã Quảng Trị, phục kích đoàn người di tản, chạy loạn qua vùng đất 9 cây số từ La Vang xuống Cầu Câu Nhi Phường, nam Quảng Trị. Con người nghe tiếng nổ cấp kỳ và thân người tung xé bay bay lên với lửa.. Họ "biết rõ" như thế và chỉ biết giương tròng mắt ngó trân..
Lửa! Lửa! Lửa!
Lửa dậy từ Hải Lăng
Giăng giăng triền cát trắng
Lửa phần phật nung rền
Đỏ cọng cỏ đồi sim.
Bao xác người cháy đen
Dọc dài Đường số I
Xác mẹ chồng xác con
Chập chờn màu lửa nghẹn
Dòng "Đá Chảy Mồ Hôi"
Sôi sục hơi tử khí
Đồi"Thánh Mẹ Sầu Bi"
Nhầy nhầy thây kinh dị.
Thây thê thảm quắp co
Đặc quánh vũng máu đỏ
Đất sềnh sệch thịt người
Lặng nở trời nắng to...
Những cái chết kia không chỉ một lần, vì cảnh tượng thương tâm kia không chỉ riêng cho ngày 29 tháng 4, mà được lập đi lập lại suốt gần hai tháng qua với đạn, bom cực độ của cả hai bên, bên nầy lẫn bên kia sông Bến Hải để tạo nên một địa ngục lặng im dưới trời sáng nắng, trên bãi cát lây lất màu máu cặn. Nhưng loại lửa nhân tạo kia lại không đủ độ nóng cần thiết để thiêu cháy toàn diện, nên những xác người dù qua bao ngày chết lâu dài vẫn còn nguyên vẹn nét kinh hoàng của lần bức tử, dẫu chỉ là khối xương sọ nằm trơ bên hố bom kho cạn nước, sênh sếch váng lớp thịt xương, dạng thây người chưa hoàn toàn tiêu hủy.
... Kẹt trong xích xe tăng
Xác thân ai rây máu
Trời ơi đau Hải Lăng
Hồn cào sôi bi phẫn.
Nhưng từ sâu khổ nạn với cảnh chết tận cùng kia, bỗng sáng chói điều kỳ diệu như tia chớp của giữa đêm đen giông bão. Khi những người lính vượt tuyến xuất phát, đội pháo vượt qua vũng lửa Hải Lăng, Giáp Hậu, La Vang thì trên đồng cháy xuất hiện những bóng người thấp thoáng xiêu lệch.. Họ chạy ngã nghiêng, chập choạng như những bóng ma nhập tràng vừa dựng dậy từ đám xác chết. Và như được hồi sinh bởi một năng lực mầu nhiệm, đám "ma người" đồng thất thanh kêu lớn... Lính tới! Lính tới! Lính cộng hoà tới! Và chắc rằng chính tiếng kêu trong đáy thẵm chết chóc của những người dân nầy là tin cậy trao gởi cổ vũ mãnh liệt nhất để những người lính dựng nên kỳ tích của trận chiến Mùa Hè 1972 ở mặt trận Quảng Trị trong ngày 14 Tháng 9- Khi những chiến binh của các Tiểu Đoàn 1 và 6 TQLC đồng khép chặt, diệt gọn ổ kháng cự cuối cùng nơi Cổ Thành Đinh Công Tráng, dựng NGỌN CỜ VÀNG lúc đúng Ngọ- Giờ mặt trời lên thiên đỉnh chiếu ánh sáng rực rỡ uy nghi xuống Ba Vạch Đỏ thắm tươi thêm sắc máu của những người hằng chết cho một điều không bao giờ nói nên lời: Con người luôn sẵn chết vì TỰ DO - Những người LÍNH vô danh, những người DÂN không ai biết đến - Dân và Lính Miền Nam. Của Quốc Gia tên gọi VIỆT NAM CỘNG HÒA."
Câu chuyện vốn còn rất dài, nhưng bởi thời lượng không đủ, anh chấm dứt phần trình bày với kết luận: "Thượng đế ban cho con người sự sống, và kế hoạch hóa tình cảnh, thời điểm từ giả cuộc đời trần thế- Nhưng con người trong chuỗi sinh tồn kia đã hiện thực điều bi thiết vĩ đại của mình - Người quyết định lần chết cho chính bản thân. Người trao gởi lại sau cái chết xác thân một trị giá vinh diệu. Người Việt Nam đã hiện thực điều cao cả kia một cách tự nhiên trong suốt đêm đen bất hạnh dài theo thế kỷ, giữa vũng lửa chiến tranh mà toàn dân tộc đang gánh chịu một cách khắc kỷ- Xem như một sự cùng đành. Chúng tôi không nói điều tán tụng với chữ nghĩa phù phiếm, không nội dung- Chúng tôi xác tín với giá máu của mỗi người anh em đã, đang hằng hằng lâu dài gánh chịu... Không chỉ là những người lính nơi trận điạ, mà là hằng loạt tướng lãnh giữ chức tư lệnh đại đơn vị, hoặc sĩ quan cấp tá cao cấp: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Hữu Thông, Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long... Người không chỉ chết một mình, mà với toàn gia đình cùng một lần quyết tử- Chị Nguyễn Thị Thàng, vợ một nghĩa quân chết với chồng và đàn con nơi chiếc đồn cô quạnh ở vùng IV; Thiếu Tá Vĩnh, bào huynh của gia đình niên trưởng Hà Thượng Nhân (Trung Tá Phạm Xuân Ninh, Chủ Nhiệm Báo Tiền Tuyến) chết cùng với cả nhà gồm ba thế hệ: ông, cha, cháu; những người lính Thủy Quân Lục Chiến đồng tự sát nơi Bãi Mỹ Khê, Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975; Trung đội Nhảy Dù của Huỳnh Văn Thái cùng nỗ chung một lần lựu đạn sáng 30 tháng Tư. Ánh chớp thanh quang của anh hồn bao người trung liệt kia hẳn đã rung mờ nhật, nguyệt hiện thực lần Núi Sông cùng khóc với Con Người. Và Người cùng một lần sống mãi với Quê Hương."(*)
Phần trình bày của anh đã được Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, Giám Đốc Đài Phát Thanh Á Châu Tự Do (RFA), Washington DC chuyển sang Anh Ngữ, bản dịch quay ronéo để sẵn nơi cửa phòng hội, cùng với văn bản tiếng Việt, được tóm lược qua Nhật Ngữ. Giáo Sư Nhật Văn, Lê Văn Cừ, bạn cùng lớp Trần Viết Đại Hưng (San José, CA) cựu học sinh Hàm Nghi, Huế, người đã thấm hiểu, và chịu cơn đau của sự kiện lực lượng cộng sản tàn sát người Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968; lần chạy loạn oan khốc của ngày 29 tháng 4, 1972 nơi 9 cây số "Đại Lộ Kinh Hoàng", phiên dịch cho anh theo kỹ thuật phiên dịch nghị trường qua phối hợp với anh từ đêm đầu tiên đến Nhật. Người Lính-viết văn cũng chuẩn bị sẵn ấn bản tiếng Anh "The Stories Must Be Told", cuốn sách được huynh đệ, bằng hữu khắp nơi giúp hoàn thành trong một thời gian kỹ lục trước ngày đi.
Tiếp theo, Cô Ku Sujeong, Hàn Quốc (tên Mỹ Suzane; tên Việt, Trâm), sinh viên học trình tiến sĩ sử học trình bày chủ điểm, "Những đơn vị Đại Hàn có mặt trong chiến tranh Việt Nam" (Các Sư Đoàn Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến, Thanh Long, Bạch Mã, Bạch Hổ chịu trách nhiệm vùng duyên hải Miền Trung từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận, 1965-1973). Cô Sujeong được một sinh viên người Đại Hàn hiện theo học tại học viện giúp phiên dịch.
Chu Kiên, người Trung Hoa trình bày "Chiến tranh Việt Nam đối với Mao Trạch Đông". Với những chứng liệu lịch sử cận đại còn rất mới, diễn giả người Hoa nầy minh xác ảnh hưởng lý thuyết, lẫn kinh nghiệm thực tiển của Mao Trạch động đối với những quyết định chiến lược, cũng như chiến thuật của giới lãnh đạo miền Bắc, đặc biệt đối với Hồ Chí Minh. Diễn giả nầy trình bày trực tiếp bằng Nhật Ngữ.
Và cuối cùng, Ado Makoto, thủ lãnh của phong trào phản chiến Nhật trong suốt nhiều thập niên qua những vận động đòi quân đội Mỹ rút khỏi Okinawa, phản đối Hiệp Ước An Ninh Nhật-Mỹ, trình bày quan điểm "Nhật Bản và Phong Trào chống Chiến Tranh" do ông và các nhóm bạn đồng quan điểm lãnh đạo, vận động, thực hiện.
Sau lần trình bày của Ông Ado Makoto, buổi hội thảo chuyển qua phần thứ hai: Đối thoại giữa cử tọa và các diễn giả, hoặc phần bổ túc giữa những người thuyết trình. Khoảng bốn trăm người tham dự, phần đông thuộc lớp sinh viên trẻ tuổi (đang theo học các phân khoa chính trị, lịch sử của trường) hoặc những người lớn tuổi có lòng quan tâm đến thời cuộc, sinh hoạt chính trị. Đáng kể nhất là các ký giả, phóng viên Hara, Tabata, Oshima phụ trách trang tiếng Nhật của tờ Mê-Kông do Hồ Thông Minh chủ biên. Các anh Hà Ngọc Giao, Lê Văn Xe, Trần Kiến Võ, chị Hà Anh Võ, và những thanh niên, thiếu nữ người Việt đến Nhật từ lúc tuổi ấu, thiếu, ở những nơi rất xa Tokyo (di chuyển ở Nhật luôn là một vấn đề khó khăn vì khoảng cách quá xa, dân số quá lớn. Tokyo là một trong những thành phố đông dân nhất của thế giới với 12 triệu người) đã đến tham dự buổi nói chuyện. Tuy nhân số ít nhưng các anh, chị, các cháu trẻ tuổi đã theo dõi với tất cả tấm lòng của những người Việt hằng thấm đau cảnh khổ. Các anh Lê Văn Xê, Trần Kiến Võ thuộc các khoá 19, 25 Trường Võ Bị Đà Lạt, anh Hà Ngọc Giao là sĩ quan Hải Quân QLVNCH.
(*) Bản tường trình đầy đủ "Nỗi Đau Đầy Hơn Trí Nhớ" đã được chuyển sang Anh ngữ trong "The Stories Must Be Told".
Sự Thật ở đâu?
(Nếu lần phát biểu được ban tổ chức điều hành theo thứ tự kể trên, sang đến phần đối thoại thì thực hiện theo chiều ngược lại. Và Bản Tường Trình chỉ ghi lại những đối thoại của hai diễn giả người Việt, và những nội dung có liên hệ trực tiếp đến người và việc từ, của Việt Nam.)
Ông Ado với tinh thần phản chiến cực đoan, đã nhận định: "Chiến cuộc Việt Nam là biểu hiện nhất quán của chính sách "thực dân kiểu mới" được Mỹ hóa (Americanized, Ado lập lại nhiều lần) với những phương tiện quân sự khổng lồ, sức mạnh siêu đẳng của nền kinh tế, tài chánh của chủ nghĩa tư bản." Do quan niệm một chiều nầy được diễn đạt bằng tư thế trấn áp cơ hữu của diễn giả qua cách phát âm Nhật ngữ mạnh mẽ, với dẫn chứng sự kiện quân lực Mỹ đã từng tham chiến ở Đại Hàn, trấn đóng tại Nhật trước khi có mặt ở Việt Nam, nên từ phía cử tọa đã có thắc mắc với cô Sujeong (Đại Hàn): "Phải chăng lần tham dự của quân đội Đại Hàn có nguyên do từ sự đe dọa của Bắc Hàn?" Có thể do cô đã không chuẩn bị cho câu hỏi thắc mắc nầy (vì chỉ đặt trọng tâm vào hoạt động quân sự của lực lượng Đại Hàn tại Nam Việt Nam), nên Người Lính-viết văn đã xin phép được phép trả lời hộ, anh nói: "Chúng tôi đã quả đã dự tri cho câu hỏi nầy nên đem sẵn theo đây một dĩa CD có 30 hình ảnh về chiến tranh không phải chỉ riêng với hoàn cảnh VN mà còn của nhiều vùng đất, và những sắc dân khác. Một của 30 bức ảnh nầy là cảnh tượng người Bắc Hàn vượt sông Naktong chạy về phía nam vĩ tuyến 38 trong chiến tranh 1950-1953 (cũng được trích đăng trong phụ bản của The Stories Must Be Told). Hình ảnh nầy đủ để chứng minh sự kiện đe dọa của lực lượng quân sự, chính sách hà khắc chính trị của phe cộng sản không chỉ xảy ra với chiến tranh Việt Nam (mà chỉ do nguyên cớ là tham dự của người Mỹ như ôngAdo vừa kể ra)- Nhưng đe dọa mang tính danh cộng sản đã có và hằng tác động lên toàn cầu, nên đã xẩy ra cảnh tượng như vừa kể trên trong nam 1950ở Đại Hàn; sự kiện người lính Đông Đức đào thoát qua bức tường Bá Linh năm 1960; và hiện tượng vạn, triệu người Việt chấp nhận cái chết để thoát khỏi tay người cộng sản ở Việt Nam.. Di cư, vượt tuyến khỏi miền Bắc sau tháng 10 năm 1954; chạy loạn Mậu Thân 1968; chạy tỵ nạn năm 1972; di tản tháng Ba, Tư năm 1975, và cuối cùng đồng loạt (cả hai miền Bắc, Nam) vượt biên suốt hơn một thập niên sau 30 tháng Tư, 1975. Tóm lại, không những chỉ có đe dọa của Bắc hàn đối với Đại Hàn, của Đông Đức đối với Tây Đức, của Bắc đối với Nam Việt Nam- Nhưng đe dọa cộng sản là thực tiển của tình hình chính trị-quân sự toàn cầu trong suốt nửa thế kỷ vừa qua. Tóm lại, chiến tranh Việt Nam là chiến tranh hai miền Bắc-Nam, giữa chế độ cộng sản Miền Bắc và chế độ cộng hòa, dân chủ Miền Nam - Chiến tranh nầy khởi đi rất lâu trước khi chính phủ Mỹ đổ quân vào đến Việt Nam (mùa Hè 1965 tại bãi Đà Nẵng)- Ít nhất cũng chính thức từ 19 tháng 12, 1960, ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam theo nghị quyết của Đại Hội 3 Trung Ương Đảng Lao Động (cộng sản), ngày 10 tháng 6, 1960 tại Hà Nội. Và chiến tranh ấy vẫn kéo dài sau khi quân nhân Mỹ hoàn toàn rút khỏi Miền Nam (27 tháng 3, 1975), ngoại trừ một văn phòng tùy viên quân lực (DAO) theo điều khoản của Hiệp Định Paris. Có một cán binh bộ đội nào đã giao tranh với đơn vị chiến đấu Mỹ trong khoản thời gian trước, sau thời đoạn 1965-1973 ngắn ngủi của cuộc chiến tưởng chừng bất tận đau thương kia?
Một người khác (mà anh đoán chừng phải là người am hiểu rõ tình hình, văn hóa Việt do chữ viết (Việt ngữ) rất đều và đẹp) đặt cho anh câu hỏi: 1/ Phải chăng ở Miền nam có chánh sách cưỡng ép người vào lính? 2/Đời sống vật chất của cấp sĩ quan rất thoải mái bởi có mức lương cao. 3/Chính sách giam giữ của chính quyền miền Nam đối với tù binh bộ đội cộng sản? Anh có trả lời như sau: "Trong một nước có chiến tranh thường trực, lẽ tất nhiên phải có chính sách tổng động viên nhân, vật lực cho cuộc chiến. Tuy nhiên như trường hợp anh, tự nguyện vào lính năm 17 tuổi đã chứng tỏ, miền Nam không thiếu những thanh niên tình nguyện vào quân ngũ, (không những chỉ tình nguyện vào Trường Võ Bị mà còn phải thi tuyển gắt gao). Hơn thế nữa, đơn vị anh, binh chủng nhẩy dù chỉ nhận người tình nguyện - từ cấp binh sĩ đến hàng tướng lãnh- và được gia nhập vào binh chủng nầy là một vinh dự lớn, mà người sĩ quan khi tốt nghiệp trường võ bị phải đậu thứ hạng cao, hoặc thủ khoa khóa học mới có quyền ưu tiên chọn lựa. Tuy nhiên, hoàn toàn không phải phải vì đồng lương mà người thanh niên vào lính- bởi đây là một nghề nghiệp có mức sống thấp nhất của xã hội miền nam- Số tiền lương của cấp sĩ quan chỉ ngang chừng 10 Đô-la Mỹ, chứ đừng nói binh sĩ, hạ sĩ quan. Anh dẫn chứng với lời tự sự cá nhân anh trong mục tiểu sử tác giả của cuốn "Những Chuyện Cần Được Kể Lại: Chưa hề có một tài sản nào lớn hơn 10 đô-la Mỹ, tài sản lớn nhất có được là số tiền Bộ Xã Hội Mỹ cấp phát vào ngày nhập cư đất Mỹ năm 1993". Anh cũng không quên kể lại câu nói của người đàn anh thương mến, Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 TQLC: "Tao mấy năm làm tiểu đoàn trưởng chưa hề cầm số tiền lớn hơn 100.000 đồng (thời giá năm 1970, khoảng 60 đô-la Mỹ)" Chương "Người Lính Không Hề Chết"- NCCDKL (sđd)". Về câu hỏi thứ ba, tương tự như vấn nạn đối với cô Sujoeng về vấn đề "Mối đe dọa từ Bắc Hàn", lần nầy anh cũng chuẩn bị đủ đối với tình thế (dự liệu) qua chương "Tù Binh, Anh đi về đâu?" của cuốn sách viết từ 1974, "Tù Binh và Hòa Bình". Trong chương nầy anh đã viết nên lời: "Ở trại giam Phú Quốc do quân cảnh VNCH quản trị, người tù cộng sản được bảo vệ bởi những quy luật trại giam theo Công Ước Quốc Tế Genève về tù binh (cố vấn Mỹ của đơn vị quân cảnh lại là người giám sát nghiêm chỉnh việc thi hành nầy). Và trái lại, mối đe dọa nguy khốn đến từ những "đồng chí" của họ - Những cán bộ chính trị của tập thể tù binh cộng sản. Và khi ra khỏi nhà tù, trả về phía cộng sản, họ tiếp tục bị đày ải bởi nhà cầm quyền Miền Bắc bởi tội danh "đã để phía ngụy quân bắt cầm tù". Anh đã không dự tri điều hoang tưởng- Năm 1976, khi chuyển ra giam giữ ở đất Bắc, anh gặp lại đủ những người mà anh đã trao trả về phía cộng sản trong những tháng đầu năm 1973 tại địa điểm trao trả bên kia sông Thạch Hãn (Quảng Trị)".
Nhưng Nguyễn Minh Tuấn đã không tin về câu trả lời trên, anh cho rằng, sự hà khắc, độc ác của chế độ giam giữ của VNCH là một điều không thể chối cải được, vì sự kiện nầy đã bị chính các nhân vật "hòa bình" ở Miền Nam tố cáo. Vì thời giờ không cho phép, hơn nữa vần đề đã đẩy qua vùng chính trị mà nếu muốn đề cập thì phải dẫn chứng với nhiều người, việc khác (thành phần thứ ba, các phong trào hòa bình ở Miền Nam, những nhân vật phản chiến "ngụy danh" mà sau 1975 đã hoàn toàn lộ mặt.. Những Lý Chánh Trung, Nguyễn Thị Thanh Vân (vợ Ngô Bá Thành), Huỳnh Tấn Nẫm..) Và anh cũng đã dự tri chính xác về những con người nầy cùng cái gọi là "cuộc cách mạng gọi là giải phóng miền Nam" qua khẳng định đã viết thành lời từ 30 năm trước: "Rồi đây trận chiến cuối cùng sẽ là giữa chúng tôi với những sư đoàn chính quy cộng sản Bắc Việt.. Lá cờ ba mầu của mặt trận giải phóng (Miền Nam), cùng những kẻ múa rối ở Miền Nam sẽ bị vất đi như một thứ phế phẩm!! (TB& HB, Trang 411-417, ấn bản 1974, Hiện Đại Sàigòn)". Anh cũng không trả lời câu hỏi có tính cách "chiến thuật nầy" là cốt dùng thì giờ còn lại để trả lời về câu hỏi mấu chốt: "Ông nghĩ thế nào về sự kiện Hà Nội bị Mỹ dội bom". Câu hỏi nầy do một thính giả nêu ra nhưng Nguyễn Minh Tuấn chuyển "gánh nặng" qua cho anh. Không chút bối rối và ngạc nhiên, anh trả lời: "Trước tiên tôi cực lực phản đối việc Mỹ ném bom Hà Nội, vì một lẽ rất giản dị: Không ai cam tâm muốn đất nước mình bị tàn phá. Mà cũng không hẳn như thế, tất cả những con người có lương tri, lương năng không ai hoan nghênh những vụ tàn phá, tấn công bằng bom đạn. Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, trong dĩa CD sẵn mang theo hôm nay (nhưng rất tiếc vì lý do kỹ thuật, CD nầy đã không phóng chiếu được. Anh đưa CD lên thêm một lần) có hình ảnh phố Khâm Thiên, khu dân cư Hà Nội bị dội bom trong chiến dịch dội bom 12 ngày (Tháng 12, 1972) của chính quyền Mỹ. Nhưng nếu đã kết án vụ việc phi cơ Mỹ ném bom ở Khâm Thiên thì cũng phải kết án những vụ pháo kích của lực lượng cộng sản vào những thành phố, khu dân cư ở Miền Nam. Trong dĩa CD nầy cũng như trong những cuốn sách tôi trình bày trước quý vị hôm nay (có những ảnh do chính bản thân hoặc các phóng viên chiến trường bạn hữu tôi chụp trong trận chiến mùa Hè 1972), những ảnh nầy trình bày đủ cảnh tượng thường dân bị tàn sát trên 9 cây số "Đại Lộ Kinh Hoàng" nam Quảng Trị, ngày 29 tháng 4, 1972; thị xã An Lộc bị san thành bình địa, dân chạy loạn về Chơn Thành, Bình Dương bị tàn sát bởi cuộc pháo kích tập trung đêm 12 tháng 4, 1972. Trường Tiểu Học Cai Lậy, Định Tường (vùng đồng bằng Cửu Long) ngày 9 tháng 3, 1974 gây thương vong 43 trẻ nhỏ, bị thương 70 em khác.. Những vụ giết người không cần thiết và cực độ vô nghĩa nầy phải một lần bị lên án cùng lần với việc phố Khâm Thiên Hà Nội bị dội bom. Và trở lại vấn đề dội bom thì thật ra mà nói- ba phần tư số bom Mỹ với chất độc khai quang là dội xuống Miền Nam- Thế nên, nhân dân Miền Nam mới là người có đủ toàn quyền trước hết để nói lên vấn nạn đau xót nầy. Phải, chính chúng tôi - Người Miền Nam mới là nạn nhân đầu tiên và hứng chịu phần nặng nề nhất của cuộc chiến. Hai trăm ngàn dân, lính trong lần di tản Tây Nguyên khởi từ 15 tháng Ba, 1975 kết thúc ngày 28 cùng tháng, chỉ còn khoảng 60.000 con người đếm được tại trại tiếp cư đèo Rù Rì, Nha Trang, không có một đơn vị quân đội nào còn được khả năng chiến đấu khi về đến vùng đồng bằng. Biết bao nhiêu người đã chết trong chiến tranh? Chỉ biết sau 1975, trong hai triệu người Nam, Bắc vượt biên ra khỏi nước đã có 600.000 ngàn người bỏ mạng trên biển đông, nơi rừng già biên giới Việt- Miên-Thái (thống kê của Ủy Ban Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc). Biết bao nhiêu người Việt Nam đã chết trong chiến tranh? Biết bao người Việt Nam đã chết sau thống nhất, trong hòa bình? Anh hỏi mình, hỏi cử tọa, hỏi người bạn Nguyễn Minh Tuấn đến từ miền Bắc, hỏi người phản chiến Ado Makoto.. Người nào đã chiến thắng, kẻ nào đã thua trận? Phải chăng chỉ Dân Tộc Việt Nam chịu nguồn uất hận dằng dặt khôn nguôi!!
Còn có những câu hỏi về việc Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên đặc công ở Chợ Lớn (1968); thái độ đối với kẻ khủng bố hiện tại? Nhưng anh có thể nói gì thêm và nói gì hơn nữa (dẫu cũng đã tiên liệu cho những vấn đề nầy) ngoài mối đau thương quá đỗi lớn lao còn rất mới sau 26 năm gọi là hòa bình ở Việt Nam.
Hậu từ
Tương tự như những lần ở sông Thạch Hãn, Quảng Trị sau những cuộc trao trả tù binh đầu năm 1973, mỗi buổi chiều trở về bờ sông phía nam, phần đất kiểm soát của Thủy Quân Lục Chiến VNCH, qua thành phố đổ nát, hoang tàn, hậu quả của lần tàn phá cực độ trong suốt năm 1972.. Anh có cảm giác ngậm ngùi, khắc khoải: Rồi đây sẽ chẳng đi đến đâu, tất cả chỉ là vô ích, những nỗ lực của bản thân, bằng hữu, chiến hữu trong cuộc chiến nhiều thiên lệch, không cân sức, bị xuyên tạc, ngộ nhận, mạ lỵ từ nhiều phía- Cuộc chiến đấu tự tồn của dân và lính Miền Nam từ lâu nào đã mấy ai hay, cho dù bậc đại trí, đạo hạnh như Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, Giáo Hoàng Vatican.. ?! Nay cũng thế, dẫu anh đã nói đến tận cùng, đã chuẩn bị thật chu đáo, đã diễn dịch vô vàn từ sự thật, nhưng làm sao đẩy được khối đả tảng "chiến tranh Việt Nam được Mỹ hóa trong tất cả mọi tình thế, mọi điều kiện" ra khỏi quan niệm cố định của những người phản chiến Nhật như Ado Makoto? Và dẫu cho anh thật lòng tin tưởng về tính trong sáng, trung trực của thế hệ người trẻ tuổi (điển hình qua số đông của phòng hội), mà thái độ nghiêm túc, cẩn mật của họ trong suốt buổi hội thảo đã làm anh cảm khích- nhưng phần đông những người nầy đều nhận quá trình huấn luyện, sưu khảo từ học trình đại học Việt Nam hiện tại - mà lý thuyết xã hội chủ nghĩa vẫn là quan điểm chủ đạo của tất cả mọi công trình văn hóa, văn nghệ, giáo dục, kể cả kinh tế. Từ "thực tế- thực tế gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" nầy anh rơi vào một tình trạng não nề với câu hỏi nhói đau: "Nước Nhật chỉ sau mười lăm năm (1945-1960), từ hoang tàn đổ nát do hai trái bom nguyên tử; danh dự, kiêu hãnh dân tộc, quân đội bị xúc phạm (Nhật Hoàng Hirohito tuyên cáo đầu hàng, Mỹ thiết lập tòa án Tokyo xử tội phạm chiến tranh); cảnh cùng khổ, sa đọa xã hội hiện ra cùng khắp (đến nổi cảnh sát phải dùng đến biện pháp truy quét mới dọn sạch được cảnh sống lầm than của dân bụi đời ở khu nhà ga Ueno, Tokyo những năm sau 1945)- Nhưng chỉ đến thập niên 60 Nhật đã là một cường quốc kinh tế, và hiện nay là đối thủ không khoan nhượng của Mỹ trong tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, tài chánh, sản xuất. Phép mầu nầy đến bao giờ xuất hiện ở Việt Nam - Đất nước đang ở đầu thiên niên kỷ thứ ba với chiến lược kinh tế "nhất quyết tiến lên xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở nông nghiệp và công nghiệp nhẹ". Hình thái phát triển xã hội (và chỉ thực hiện được) do dịch vụ tiêu thụ và tệ nạn bàn giấy thông qua thủ tục hối lộ. Hơn một phần tư thế kỷ kể từ ngày thống nhất đất nước số phận người dân vẫn bị chi phối và quyết định bởi Bộ Hình Luật An Ninh Tổ Quốc- biến thái của nghị quyết An Ninh Tổ Quốc từ đại hội III năm 1960 của trung ương đảng chuẩn bị lần xâm chiếm Miền Nam bằng vũ lực - Công An Bộ Nội Vụ toàn quyền bắt và kết án người bằng biện pháp tập trung cải tạo!! Linh Mục Nguyễn Văn Lý (bạn đồng hành chung chiếc cùm với người viết trong lần chuyển trại 8 tháng 1, 1988 từ Thanh Cẩm, Thanh Hóa ra trại Ba Sao, Hà Nam Ninh) nay đang chịu thêm một án tù thứ ba trong đời cũng chỉ vì lý do "vi phạm an ninh tổ quốc".
Trong bữa cơm từ giả tại nhà Nguyễn Minh Tuấn, anh có kể cho chúng tôi nghe về nỗ lực của báo giới Vệt Nam hiện tại.. Báo Đại Đoàn Kết của anh đã có công đầu trong vụ án xét xử ông Nguyễn An Trung, một Việt kiều mang tiền về nước để phát triển ngành giao thông, nhưng bị kết án tù vì tội khai gian thuế, chịu án tù, tịch thu tài sản và phạt vạ 1 triệu đô-la Mỹ; hoặc báo đã làm sáng tỏ vụ công an bắn chết một thanh niên trên cầu Chương Dương Hà Nội, cướp tiền của người nầy, xong vu oan nạn nhân là kẻ cướp giật. Cha nạn nhân đưa đơn thưa kiện khắp nơi các cấp nhưng đều bị chìm lấp vì hồ sơ (giả tạo) của công an đã hoàn tất. Nỗi oan uổng của người chết chỉ được sáng tỏ khi báo Đại Đoàn Kết (qua đều tra của Nguyễn Minh Tuấn) đưa nội vụ ra ánh sáng. Hoặc vụ một chị đàn bà sắc tộc Tày bị vu oan đã thiếu nợ 200.000 đồng (khoản chừng 15 Mỹ Kim), bị kết án 18 tháng tù trong tình trạng ung thu bướu đang giai đoạn nguy kịch!! Tuấn kết luận: "Báo chí phải biết tránh né, muốn viết phải nhắm vào, đánh tỉa từng cá nhân- nhưng đừng bao giờ đụng đến chính sách và trung ương đảng!" Anh biết người bạn nói điều thật lòng, và can đảm thực hiện nghĩa vụ báo chí - Nhưng anh nghĩ thầm: "Nếu là một nước có kỹ cương người dân có bao giờ lâm cảnh nguy biến đến như thế? Và anh biết có hỏi người bạn chăng nữa thì mối xót xa nầy vẫn giữ nguyên độ sắc nên anh đành im lặng. Và anh chợt hiểu ra: Tại sao Bảo Ninh không được tham dự buổi hội thảo - Hẳn những người cầm quyền ở Việt Nam e ngại về tiếng nói của một người viết văn trung trực.
Từ nhà Tuấn, anh cùng Đỗ T. Minh và Ng. Thủy đi bộ ra đường đón taxi, ngang qua cơ sở chính của Hãng Sony, nhìn lên, chỉ là một tấm bảng đơn giản ghi tên hiệu của cơ quan nắm giữ quyền lực, khả năng kinh tế - kỹ thuật toàn cầu. Anh hỏi thầm thêm một lần.. Biết đến bao giờ ở Việt Nam. Về đến Mỹ, tin tức đầu tiên anh đọc được: "Những người cầm quyền ở Hà Nội đang chuẩn bị thông qua đạo luật về biên giới và lãnh hải ký với Bắc Kinh trong những năm 1999 và 2000- Theo đó Việt Nam chỉ còn 53, 23% vùng biển chủ quyền và Trung Quốc chiếm 46, 77%. Và công an thành phố Sàigòn tìm cách phá đám tang Hòa Thượng Thích Đức Nhuận.
Anh chờ đợi gì nơi những người cầm quyền Hà Nội, hôm nay đang lập lại lần đê nhục của Mạc Đăng Dung ở thế kỷ 16, nhưng với lý do thậm tệ đốn hèn hơn - chỉ để củng cố vị thế chính trị của cá nhân và tổ chức của họ.
Hóa ra, những kẻ có tội luôn ở tình trạng sợ hãi. Họ sợ Anh Linh Con Người dẫu đã chết và quỳ lạy loại xác ma hủy hoại hư thối.
Phan Nhật Nam
17 tháng 1, 2002.
Để nhớ ngày ký kết "Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình ở Việt Nam"
hai-mươi chín năm trước tại Paris.
TRÂN NHẬT TÂN * ĐIỆU SÁO
Điệu Sáo Cuối Cùng Của Người Duy Mộng
Trần Nhật Tân
Khi ra đi, trong hành lý của tôi có tập thơ CÕI LÒNG của ông bạn Trần Nhật Tân ấn hành
năm 1994 tại Sàigon. Nay xin giới thiệu cùng độc giả(Gia Hội).
Đêm nay mặt trăng xám dần rồi trổi lên điệu sáo cuối cùng của người
duy mộng.
Rừng xõa tóc ngọc nào những chiếc cánh linh hồn còn xanh trong hồ
mắt em.
Bầu trời in hình người con gái nằm phơi linh hồn trên đài lan mà hoàng tử
đã chết vì lòng yêu cây cỏ.
Linh hồn tôi quạnh hiu đầu thai người thế kỷ đợi thời gian về đổi mới.
Mùa Xuân mang nhạc và thơ về dạy tôi viết trên trán em tên vị hoàng tử
thường cưỡi ngựa bạch khắp miền hải lưu để tìm một ánh trăng mà chỉ nghe
biển vọng áo não.
Nhạc vương giả reo len phím hương thần thoại của linh hồn anh đứng trên
lưng thú hoang sử thổi sáo gọi tên em
Trần Nhật Tân
Khi ra đi, trong hành lý của tôi có tập thơ CÕI LÒNG của ông bạn Trần Nhật Tân ấn hành
năm 1994 tại Sàigon. Nay xin giới thiệu cùng độc giả(Gia Hội).
Đêm nay mặt trăng xám dần rồi trổi lên điệu sáo cuối cùng của người
duy mộng.
Rừng xõa tóc ngọc nào những chiếc cánh linh hồn còn xanh trong hồ
mắt em.
Bầu trời in hình người con gái nằm phơi linh hồn trên đài lan mà hoàng tử
đã chết vì lòng yêu cây cỏ.
Linh hồn tôi quạnh hiu đầu thai người thế kỷ đợi thời gian về đổi mới.
Mùa Xuân mang nhạc và thơ về dạy tôi viết trên trán em tên vị hoàng tử
thường cưỡi ngựa bạch khắp miền hải lưu để tìm một ánh trăng mà chỉ nghe
biển vọng áo não.
Nhạc vương giả reo len phím hương thần thoại của linh hồn anh đứng trên
lưng thú hoang sử thổi sáo gọi tên em
LÂM CHƯƠNG * QUỶ LOẠN
Lâm Chương
Quỷ Loạn
Lê Điệt, người làng Phước Trạch, huyện Gò Dầu, lúc nhỏ học hành chăm chỉ thông minh, đậu bằng tiểu học, bằng cấp thấp nhất trong ngành giáo dục thời bấy giờ. Khi tuyển sinh vào trường tỉnh, tên của Lê Điệt đứng đầu bảng niêm yết kết qủa, nức tiếng học giỏi.
Một lần, Điệt đi chơi với đám bạn, ngang qua miếu Thành Hoàng, vô tình, Điệt quay măt vào cửa miếu mà đái. Thần quở, về nhà, Điệt bệnh mấy ngày, bộ phận sinh dục đau buốt. Cha mẹ Điệt biết chuyện, sắm sưœa nhang đèn, hoa quaœ mang đến miếu tạ tội cho con. Điệt khỏi bệnh. Một lần khác, Điệt đi ngang qua miếu, đứng lại nhìn vào và nói:
“Làm thần thụ hưởng hương khói, không lo vun bồi công đức, phù trì dân làng, chỉ gây nỗi sợ hã lấy sự hành tội người khác làm điều linh hiển. Mai sau, ta thành đạt, sẽ ra lệnh phá boœ miếu này!”
Năm hai mươi tuổi, Điệt thi tú tài bị hỏng, về nhà đóng cửa, ôn luyện bài vở, quyết tiến thân theo đường khoa bảng. Chữ nghĩa làm Điệt mờ mắt, phải mang kính cận. Người làng khen Điệt ý chí săt đá. Năm nào mở khoa thi, Điệt cũng thi, và cũng hỏng.
Lê Điệt có đứa cháu gái. Lúc Điệt thi tú tài lần đầu, nó còn bé, vừa lên đệ thất. Mãi đến khi nó thành thiếu nữ, chú cháu cùng vào trường thi tú tài, nó đậu, Điệt vẫn hỏng. Nổi giận, Điệt quăng bút, xé sách, chửi cả quan trường giám khảo. Điệt thề không bao giờ thi nữa.
Đời Thiệu Nguyễn năm thứ tư, giặc giả nổi lên như châu chấu, bao nhiêu sinh mạng cung ứng cho chiến trường cũng không. Lệnh tổng động viên ban ra, biện pháp gắt gao, đón đường bắt lính. Túng thế, Điệt chui vào cưœa tu hành, núp bóng từ bi, trốn lính. Ba năm sau, Điệt bỏ ra ngoài, luôn mồm chửi rủa. Có người hỏi lý do, Điệt nói:
“Chỉ là những thứ dung tục, thối ta, không ngửi nổi. Giáo chủ đã chết mấy ngàn năm rồi, bọn đệ tử đang lao đầu về địa ngục.”
Điệt lất phất lang bang, khinh đời, ngạo thế. Đang dự định trở về làng cũ, ẩn thân làm người sằn dã thì bị tóm cổ lôi vào quân trường. Tập cách bắn giết sơ sơ vài tháng, Điệt bị đẩy ra trận mạc. Chưa bắn được viên nào, Điệt đào ngũ. Xã hội không chấp nhận con người bất mãn kinh niên. Điệt lại bị bắt, và lần này không phaœi vào quân trường nữa, người ta đưa Điệt vào tù.
Cuối tháng Tư năm Ất Mão, giặc tràn lên như nước vỡ bờ, phất cờ đỏ khắp nơi. Quan quân Thiệu Nguyễn xẻ nghé tan đàn, đạp lên nhau mà chạy ra biển. Một số chết chìm, xác thân làm mồi kình ngạc. Những kẻ chậm chân lần lượt bị xô xuống hầm tai vạ. Nhà tù chế độ cũ bị phá cửa. Tù cũ thoát ra ngoài, trong đó có Điệt. Cánh cửa tù mau chóng khép lại vớ những người tù mới. Dân gian thời ấy đã khóc hết nước mắt cho nỗi nghiệt ngã kinh thiên của tù mới.
Khí thế “cách mạng” như dầu sôi. Cuộc đổi đời diễn ra nhanh như cướp cạn. Nền tảng xã hội bị bứng tận gốc. Vô lại, đày tớ, ăn mày... nhảy lên làm ông chủ . Trí phú, địa hào... bỗng chốc hóa thành tên đầu đường xó chợ. Sấm ký rao truyền quỷ loạn. Nhà nhà đóng cửa. Đêm nghe tiếng ma tru rợn tóc. Qủy đỏ hiện giữa ban ngày, quấy nhiễu. Dân tình ta thán, ám khí xung thiên, mây mù vần vũ, mống trời vắt ngang đỉnh núi. Điềm báo thiên tai, chết chóc. Điệt kinh hoàng, muốn tìm chỗ ẩn thân. Trước kia, có thể lẩn trốn tu hành. Bây giờ, tất caœ đều bị quét sạch, chui xuống đất, trốn trong lùm bụi cũng không khỏi. Người chết còn không yên mồ mả, nói chi người sống.
Phá mả tìm vàng
Cạy nắp áo quan
Huyệt sâu chấn động hồn thiên cổ
Gỗ đá còn đau nhức thấu xương.
Điện bị bắt trong đợt truy quét tàn dư Mỹ Ngụy, phải đi học tập chính sách mới một tuần, chủ yếu là tự giác làm tờ khai ba đời lý lịch. Điệt khai: Đời ông, không biết rõ. Đời cha, không theo thực dân Pháp. Và đời của Điệt, bị bắt đi lính nhưng đào nguœ để tỏ rõ tinh thần phản chiến.
Thời “cách mạng” mới vào, ban ngày lo lùng bắt tàn dư Mỹ Ngụy, việc tra hỏi thường diễn ra vào ban đêm. Một đêm, Điệt được gọi lên phòng làm việc.
“Phản chiến nghĩa là gì?”
“Chống chiến tranh!”
“Láo! Phản động! Chống cách mạng hả!”
“ Không chống cách mạng.”
“Lý luận một cách logic, cách mạng làm đấu tranh giải phóng. Chống chiến tranh là chống cách mạng! Chống cách mạng là bảo vệ Mỹ Ngụy! Ngươi là ai?”
“Lê Điệt!”
“Lê Điệt là ai?”Là ta!”
“Quân xả lá! Hãy trả lời nghiêm túc! Ta là ai?”
“....”
“Câm hả? Là Ngụy! Hiểu chưa?”
Điệt được trả về làng cũ, bắt đi làm xâu công trường thủy lợi. Thót bụng cháo rau, khoai sắn, suốt ngày quần quật giữa chốn đầm lầy nước đọng. Muỗi, đỉa hoành hành hút máu. Keœ đói lao nhao. Thuốc thang không đến tay người bệnh. Thiên tai, mất mùa, lại thêm sưu cao, thuế nặng. Dân lành kêu rên khôn xiết. Khổng Khâu viết Hoàng Thiên hữu nhãn, mà Lão Đam lại nói Thiên Địa bất nhân. Làm người chẳng biết tin ai, kêu trời không thấu, đau khổ nhìn nhau, không dám khóc. Thời ấy, có ông thi sĩ tên Chu Vương Miện, làm thơ tả oán, còn truyền lại đến sau này:
Ta đến đó vùng đất phèn vàng xậm
Cuốc đất cằn trên lớp cỏ tai heo
Ngày mười tiếng khom lưng cùng nước đục
Nào bùn non beng xeœng mũ tai bèo
Yêu quê hương không gì hơn đào kinh
Dẫn nước biển vào đồng bằng phá lúa
Ôi một thuở gạo cơm thành sỏi đá
Đời văn thơ đi vỡ núi be bờ
Ta ở đó ba năm dài sáu tháng
Đến tình cờ và ra đi chẳng tiển đưa
Quần áo rách phơi ra lòng no ấm
Chút tự do như cơm sấy trên lò...
Thời Tần Thủy Hoàng, kẻ trọng tội bị khắc chữ lên mặt đày đi xây Vạn Lý Trường Thành đến chết. Thời “cách mạng”, ai mang tiếng Ngụy, ba đời con cháu không ngóc đầu lên được. Điệt còn độc thân, quyết không lấy vợ, tuyệt đường con cái, khỏi chịu cái di họa đời sau. Điệt nói với người đồng cảnh:
“Ta hối, xưa kia hai thế đối đầu còn đang tranh chấp, ta không chịu tiếp tay diệt lũ vô thần. Bây giờ đã muộn. Ta không thiết sống nữa!”
Người ấy sợ hãi, lãng đi, không dám nghe.
Một ngày, Điệt đang cầm xẻng đắp đê. Có hai đốc công đến gần. Bất ngờ Điệt vung xẻng chém tét đầu một tên chết tốt. Điện bị tên thứ hai bắn gục. Lôi trong túi áo Điệt, có một bức thư ngắn như một lời nguyền:
“Ta chết, thề làm ma báo oán kẻ phủ nhận thiên địa qủy thần.”
Điệt chết bảy ngày, miếu Thành Hoàng bị phá bỏ. Và không lâu sau đó, những kẻ phá miếu bỗng nằm lăn ra hộc máu tươi mà chết. Có người nói, chúng ăn uống bị trúng độc. Cũng có người nói, chúng bị hồn ma của Điệt vật chết.
Quỷ Loạn
Lê Điệt, người làng Phước Trạch, huyện Gò Dầu, lúc nhỏ học hành chăm chỉ thông minh, đậu bằng tiểu học, bằng cấp thấp nhất trong ngành giáo dục thời bấy giờ. Khi tuyển sinh vào trường tỉnh, tên của Lê Điệt đứng đầu bảng niêm yết kết qủa, nức tiếng học giỏi.
Một lần, Điệt đi chơi với đám bạn, ngang qua miếu Thành Hoàng, vô tình, Điệt quay măt vào cửa miếu mà đái. Thần quở, về nhà, Điệt bệnh mấy ngày, bộ phận sinh dục đau buốt. Cha mẹ Điệt biết chuyện, sắm sưœa nhang đèn, hoa quaœ mang đến miếu tạ tội cho con. Điệt khỏi bệnh. Một lần khác, Điệt đi ngang qua miếu, đứng lại nhìn vào và nói:
“Làm thần thụ hưởng hương khói, không lo vun bồi công đức, phù trì dân làng, chỉ gây nỗi sợ hã lấy sự hành tội người khác làm điều linh hiển. Mai sau, ta thành đạt, sẽ ra lệnh phá boœ miếu này!”
Năm hai mươi tuổi, Điệt thi tú tài bị hỏng, về nhà đóng cửa, ôn luyện bài vở, quyết tiến thân theo đường khoa bảng. Chữ nghĩa làm Điệt mờ mắt, phải mang kính cận. Người làng khen Điệt ý chí săt đá. Năm nào mở khoa thi, Điệt cũng thi, và cũng hỏng.
Lê Điệt có đứa cháu gái. Lúc Điệt thi tú tài lần đầu, nó còn bé, vừa lên đệ thất. Mãi đến khi nó thành thiếu nữ, chú cháu cùng vào trường thi tú tài, nó đậu, Điệt vẫn hỏng. Nổi giận, Điệt quăng bút, xé sách, chửi cả quan trường giám khảo. Điệt thề không bao giờ thi nữa.
Đời Thiệu Nguyễn năm thứ tư, giặc giả nổi lên như châu chấu, bao nhiêu sinh mạng cung ứng cho chiến trường cũng không. Lệnh tổng động viên ban ra, biện pháp gắt gao, đón đường bắt lính. Túng thế, Điệt chui vào cưœa tu hành, núp bóng từ bi, trốn lính. Ba năm sau, Điệt bỏ ra ngoài, luôn mồm chửi rủa. Có người hỏi lý do, Điệt nói:
“Chỉ là những thứ dung tục, thối ta, không ngửi nổi. Giáo chủ đã chết mấy ngàn năm rồi, bọn đệ tử đang lao đầu về địa ngục.”
Điệt lất phất lang bang, khinh đời, ngạo thế. Đang dự định trở về làng cũ, ẩn thân làm người sằn dã thì bị tóm cổ lôi vào quân trường. Tập cách bắn giết sơ sơ vài tháng, Điệt bị đẩy ra trận mạc. Chưa bắn được viên nào, Điệt đào ngũ. Xã hội không chấp nhận con người bất mãn kinh niên. Điệt lại bị bắt, và lần này không phaœi vào quân trường nữa, người ta đưa Điệt vào tù.
Cuối tháng Tư năm Ất Mão, giặc tràn lên như nước vỡ bờ, phất cờ đỏ khắp nơi. Quan quân Thiệu Nguyễn xẻ nghé tan đàn, đạp lên nhau mà chạy ra biển. Một số chết chìm, xác thân làm mồi kình ngạc. Những kẻ chậm chân lần lượt bị xô xuống hầm tai vạ. Nhà tù chế độ cũ bị phá cửa. Tù cũ thoát ra ngoài, trong đó có Điệt. Cánh cửa tù mau chóng khép lại vớ những người tù mới. Dân gian thời ấy đã khóc hết nước mắt cho nỗi nghiệt ngã kinh thiên của tù mới.
Khí thế “cách mạng” như dầu sôi. Cuộc đổi đời diễn ra nhanh như cướp cạn. Nền tảng xã hội bị bứng tận gốc. Vô lại, đày tớ, ăn mày... nhảy lên làm ông chủ . Trí phú, địa hào... bỗng chốc hóa thành tên đầu đường xó chợ. Sấm ký rao truyền quỷ loạn. Nhà nhà đóng cửa. Đêm nghe tiếng ma tru rợn tóc. Qủy đỏ hiện giữa ban ngày, quấy nhiễu. Dân tình ta thán, ám khí xung thiên, mây mù vần vũ, mống trời vắt ngang đỉnh núi. Điềm báo thiên tai, chết chóc. Điệt kinh hoàng, muốn tìm chỗ ẩn thân. Trước kia, có thể lẩn trốn tu hành. Bây giờ, tất caœ đều bị quét sạch, chui xuống đất, trốn trong lùm bụi cũng không khỏi. Người chết còn không yên mồ mả, nói chi người sống.
Phá mả tìm vàng
Cạy nắp áo quan
Huyệt sâu chấn động hồn thiên cổ
Gỗ đá còn đau nhức thấu xương.
Điện bị bắt trong đợt truy quét tàn dư Mỹ Ngụy, phải đi học tập chính sách mới một tuần, chủ yếu là tự giác làm tờ khai ba đời lý lịch. Điệt khai: Đời ông, không biết rõ. Đời cha, không theo thực dân Pháp. Và đời của Điệt, bị bắt đi lính nhưng đào nguœ để tỏ rõ tinh thần phản chiến.
Thời “cách mạng” mới vào, ban ngày lo lùng bắt tàn dư Mỹ Ngụy, việc tra hỏi thường diễn ra vào ban đêm. Một đêm, Điệt được gọi lên phòng làm việc.
“Phản chiến nghĩa là gì?”
“Chống chiến tranh!”
“Láo! Phản động! Chống cách mạng hả!”
“ Không chống cách mạng.”
“Lý luận một cách logic, cách mạng làm đấu tranh giải phóng. Chống chiến tranh là chống cách mạng! Chống cách mạng là bảo vệ Mỹ Ngụy! Ngươi là ai?”
“Lê Điệt!”
“Lê Điệt là ai?”Là ta!”
“Quân xả lá! Hãy trả lời nghiêm túc! Ta là ai?”
“....”
“Câm hả? Là Ngụy! Hiểu chưa?”
Điệt được trả về làng cũ, bắt đi làm xâu công trường thủy lợi. Thót bụng cháo rau, khoai sắn, suốt ngày quần quật giữa chốn đầm lầy nước đọng. Muỗi, đỉa hoành hành hút máu. Keœ đói lao nhao. Thuốc thang không đến tay người bệnh. Thiên tai, mất mùa, lại thêm sưu cao, thuế nặng. Dân lành kêu rên khôn xiết. Khổng Khâu viết Hoàng Thiên hữu nhãn, mà Lão Đam lại nói Thiên Địa bất nhân. Làm người chẳng biết tin ai, kêu trời không thấu, đau khổ nhìn nhau, không dám khóc. Thời ấy, có ông thi sĩ tên Chu Vương Miện, làm thơ tả oán, còn truyền lại đến sau này:
Ta đến đó vùng đất phèn vàng xậm
Cuốc đất cằn trên lớp cỏ tai heo
Ngày mười tiếng khom lưng cùng nước đục
Nào bùn non beng xeœng mũ tai bèo
Yêu quê hương không gì hơn đào kinh
Dẫn nước biển vào đồng bằng phá lúa
Ôi một thuở gạo cơm thành sỏi đá
Đời văn thơ đi vỡ núi be bờ
Ta ở đó ba năm dài sáu tháng
Đến tình cờ và ra đi chẳng tiển đưa
Quần áo rách phơi ra lòng no ấm
Chút tự do như cơm sấy trên lò...
Thời Tần Thủy Hoàng, kẻ trọng tội bị khắc chữ lên mặt đày đi xây Vạn Lý Trường Thành đến chết. Thời “cách mạng”, ai mang tiếng Ngụy, ba đời con cháu không ngóc đầu lên được. Điệt còn độc thân, quyết không lấy vợ, tuyệt đường con cái, khỏi chịu cái di họa đời sau. Điệt nói với người đồng cảnh:
“Ta hối, xưa kia hai thế đối đầu còn đang tranh chấp, ta không chịu tiếp tay diệt lũ vô thần. Bây giờ đã muộn. Ta không thiết sống nữa!”
Người ấy sợ hãi, lãng đi, không dám nghe.
Một ngày, Điệt đang cầm xẻng đắp đê. Có hai đốc công đến gần. Bất ngờ Điệt vung xẻng chém tét đầu một tên chết tốt. Điện bị tên thứ hai bắn gục. Lôi trong túi áo Điệt, có một bức thư ngắn như một lời nguyền:
“Ta chết, thề làm ma báo oán kẻ phủ nhận thiên địa qủy thần.”
Điệt chết bảy ngày, miếu Thành Hoàng bị phá bỏ. Và không lâu sau đó, những kẻ phá miếu bỗng nằm lăn ra hộc máu tươi mà chết. Có người nói, chúng ăn uống bị trúng độc. Cũng có người nói, chúng bị hồn ma của Điệt vật chết.
PHAN BỘI CHÂU * CAO ĐẲNG QUỐC DÂN
TI”U S±
Phan B¶i
Châu trܧc tên là
Phan Væn San, hiŒu Sào Nam, Häi Thu, ThÎ
Hán, ñ¶c Tïnh Tº, Hãn Mån
Tº, quê làng
ñan NhiÍm, huyŒn Nam ñàn, tÌnh NghŒ
An. Næm 1900 LJ giäi nguyên trÜ©ng
thi NghŒ
An. Sau khi thi LJ, ông vào nam ra b¡c
vÆn Ƕng chÓng Pháp. Næm 1904,
ông thành
lÆp h¶I Duy Tân, næm sau, ông cùng
Tæng Båt H° sang Trung quÓc rÒi
NhÆt Bän gây
d¿ng phong trào ñông Du.Næm 1908,
ông bi trøc xuÃt khÕi NhÆt Bän,
ông sang
Trung quÓc và Thái Lan xây d¿ng
cÖ sª.
Næm 1911, sau cách
mång tân h®i, ông thành lÆp
ViŒt Nam Quang Phøc h¶i.
Næm 1922, Ç°I
Viêt Nam Quang Phøc h¶i thành ViŒt Nam
QuÓc Dân Çäng. Næm 1925, ông
bÎ HÒ Chí
Minh báo Pháp b¡t ông ª ThÜ®ng
Häi, giäi vŠ nܧc. Dân chúng phän
ÇÓi, Pháp
không dám gi‰t ông, chúng
giam lÕng ông
ª B‰n Ng¿ Hu‰. Tác phÄm T¿
Phán, LÜu Càu Huy‰t LŒ Tân ThÜ, Häi
Ngoåi Huy‰t
ThÜ, Giác QuÀn ThÜ, Chu DÎch QÓc
Âm Chú Giäi, Phan Sào Nam Tiên Sinh
QuÓc Væn
Thi TÆp, ViŒt Nam QuÓc Sº Khäo, Nam QuÓc
Dân Tu Tri, N» QuÓc Dân Tu Tri, Kh°ng
H†c ñæng, Sào Nam Thi TÆp....
Cao Đẳng Quốc Dân
Dẫn ngôn
Nước ta bây giờ đang cần có sách ho.c. Học
sách Tàu\? Hán văn đã không
còn
thích dụng ở đời naỵ Học sách Tây\? Pháp văn
còn chưa mấy người thông hiểu. Lấy
người mình đọc tiếng mình, thì sách nước
mình ở lúc bây giờ không gì hơn
làm
bằng quốc văn. Tuy nhiên việc làm sách đó
có dễ dàng đâu! Tất phải: dò xét lịch
sử của nước mình đời xưa, thăm dò tệ bệnh của nước
mình ngày nay, trông các
gương liệt cường ở hiện tại, đo tính vận mạng dân tộc ở
tương lai, nghĩ thế
nào, viết một chữ, mở một lời mà hữu ích cho
nhân tâm thế đạo, có thế sách mới
có giá trị...
Tôi viết quyển sách này, chẳng qua dâng một
phần nghĩa vụ với Quốc dân, hay dở,
đúng không, hoặc có công hiệu gì
không, thì quyền ở người đọc sách. Khổng Tử
nói:"Tri ngã giả, kỳ duy Xuân thu hồ, tội
ngã giả, kỳ duy Xuân thu
hồ" , nghĩa là ai biết lòng ta tất ở sách
Xuân thu, ai bắt tội ta tất cũng
ở sách Xuân thu. Quyển sách tôi viết
đây cũng nói như vậy.
Sào Nam,
1927
1. Chương
thứ nhất Nghĩa hai chữ "quốc dân"
Xưa nay người ta thường hay nói đến nước thì trước hết kể
vua, thứ nửa quan,
còn dân không bao giờ kể đến. nhưng đời bây
giờ thì khác thế! Bên Âu, bên Mỹ
cho đến Nhật Bổn, Trung Hoa ở Á Đông, họ không
nói đến nước thì thôi, thoạt nói
đến nước thì tức khắc nói đến dân, tai nghe chữ
Quốc dân, mắt thấy chữ Quốc
dân, miệng đọc chữ Quốc dân. Quốc dân! Quốc
dân! Hai chữ đó như hình cha cha mẹ
mẹ, không bao giờ quên.
Gần mấy năm đây, làn sóng Âu Mỹ tràn
vào nước ta, mà người bảo hộ ta lại là
người nước dân chủ, người ta trông có dân chủ
mà hai chữ quốc dân mới phãng
phất trong óc mình, nhưng miệng đọc hai chữ Quốc
dân mà hỏi nghĩa chữ Quốc dân
là sao chắc không ai trả lời đươ.c.
Chữ "Quốc" vì sao liền chữ "Dân", chữ "Dân"
vì
sao dính chữ "Quốc". Muốn trả lời câu hỏi đó, tất
phải theo lịch sử.
Sử nước ta đến đời Đường Nghêu mới có hai chữ "Việt
thường", đời nhà
Hán mới có hai chữ "Giao chỉ", đời nhà Đường mới
có hai chữ "Yên
Nam". Vậy từ đời nhà Đường Nghêu về trước, đã
có gì nên nước đâu, núi rậm
rừng hoang, đồng không mông hoạnh, bốn mặt chim kêu
vượn hót, một vùng nước bạc
đất vàng, xó này năm ba chú mọi, góc
nọ sáu bảy anh Lào, kể bộ lạc cũng chưa
nên gì, huống gì là nước\? Vì ai
gây dựng, vì ai mở mang, ai dọn đường, ai trổ
lối ai xẻ núi, ai đốt rừng, bỗng chốc núi rậm hóa
nên thôn cử đồng hoang gây
nên thành thị\? Đó chẳng phải ngìn vạn ức
những người tổ tiên cao tằng ta làm
nên ử Huống gì Quãng bình dĩ Nam Cao man dĩ
Bắc, xưa vẫn có đất, mà đất gì của
ta đâu\? Vẫn có người mà người gì của
nòi giống ta!
Nào Lâm Ấp, nào Chiêm Thành,
nào Mên nào Lạp, nếu không dân ta xưa
dắt đoàn kéo
đội, từ Bắc vào Nam, chải gió gội mưa, trèo non
vượt bể, khua nòi Chiêm, đuổi
bầy Lạp, hốt mấy nghìn dặm non sông mà bỏ
vào túi mình, thì cơ đồ gấm vóc như
sau này, chúng ta làm sao trông thấy được\?
Suy thấu lẽ ấy, mới biết rằng Quốc là Quốc của dân ta,
dân là ông chủ tiên
chiếm của Quốc ta. Xưa tôi làm quyễn "Hải ngoại huyết thư"
mà ông Lê
Đại dịch đã có câu rằng: "Nghìn muôn
ức triệu người chung hiê.p. "Gầy
dựng nên cơ nghiêp nước nhà. "Người dân ta,
của dân ta "Dân là dân
nước, nước là nước dân" Đọc mấy câu ấy thời nghĩa
"Quốc dân"
cũng đã rõ lắm.
Anh em thử nghĩ, trên dưới bốn nghìn năm, trong
ngoài ba mươi vạn dặm, biết bao
nhiêu giây máu hột mủ tuôn đổ ra cung cấp cho
nước đó, có một giọt nào là không
phải của dân ta đâủ Biết bao lũ trước đàn sau, dắt
díu nhau kinh dinh cho nước
đó, có người nào không phải dân ta
đâu! Vì vậy nếu không dân thì ai
làm nên nước\?
Nếu không nước thời còn quý gì dân\?
Linh hồn nước là đâu! hẳn là dân đó!
Khu
xác dân ở đâu, hẳn là nước đó! Quốc
tức dân, dân tức Quốc, hai chữ "Quốc
dân" không thể rời nhau đươ.c. Nghĩa hai chữ "Quốc
dân" là thế.
2. Chương
thứ hai Quốc dân với gia nô
Đau đớn thay!
Thãm hại thay! Địa vị mình quốc dân mà chưa
từng một ngày nào được chịu cái ơn
giáo dục cho làm quốc dân; thân phận
mình quốc dân mà chưa từng một ngày
nào
được hưỡng cái quyền lợi quốc dân.
Tục ngữ có câu: "Dân như trùn như dế" lại
có câu thường nói:
"Dân như gổ tròn", điều đó suốt xưa nay, khắp
Đông Tây không một dân
nước nào như dân nước ta cã. Vì sao\? Hay
là trời cách chức quốc dân của nước
mình rồi chăng\? Hay là người nước mình
không đang nổi cái chức quốc dân chăng\?
Hai lẽ tất có một . Đạo trời rất công, lòng trời
rất nhân ái, người nước nào
cũng là con trời cả, trời vẫn xem làm bình đẵng,
trời có thương riêng gì dân
nước Pháp, nước Anh, nước Mỹ, nước Nhật Bản\? Có
ghét riêng gì nước ta\? Cái
chức Quốc dân này, có lẽ nào trời cho ở họ
mà cướp mất ở ta\? Vậy thời cái chức
làm Quốc dân vẫn là trời thưỡng cho ta đó,
nhưng tội tình thay! Trời vẫn ban
cho ta mà ta không biết vâng chịu! Xem lịch sử nước
ta từ xưa đến nay hơn ba
nghìn năm chỉ có gia nô mà không quốc
dân thâ.t. Quyền vua quá nặng, nặng không
biết chừng nào; gia dĩ quyền quan lại hứng đở quyền vua
mà tầng tầng áp chế, từ
cửu phẩm kể lên đến nhất phẩm, chồng càng cao, ép
càng nặng đến dân là vô phẩm,
thân giá lại còn gì. Thằng này
là con ngựa, thằng nọ là con trâu, buộc cương
vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách vào
thì cúi đầu cứ lủi, gặp Đinh thời làm nô với
Đinh, gặp Trần thời làm nô với Trần, gặp Lê
Lý thời làm nô với Lê Lý, phận con
hầu với thằng ở, được đôi miếng cơm thừa canh thải thời đã
lấy làm hớn hở vinh quang,
tối năm đứng đầu ruộng mới được bát cơm, suốt đêm ngồi
trên bàn khung cửi, mới
có tấm áo mặc, mà thoạt mở miệng ra thời chỉ
nói rằng "cơm vua áo
chúa", đồn điền nầy sông núi nọ, mồ hôi lẫn
nước mắt mà cày cấy mở mang,
nhưng mà "chân đạp đất vua", lại giử chặt một câu
hoạt kê vô lý. Than
ôi! Cái tư tưởng gia nô! Bệnh gia truyền làm
nô đó không biết tự bao giờ để lại
cho chúng ta, bắt ta phãi gông đầu khóa
miệng, xiềng tay xích chưn, mà chịu
gánh gia nô cho già đời mãn kiếp! Đau đớn
thật! Thãm hại thật! Anh em ôi!
"Dân vi quý" là câu nói của ông
Mạnh Đại Hiền, "Dân vi ban
bản" là câu nói của ông thánh Hạ Vũ
hai người đó có phải nói lừa ta đâi\?
Ta ngu, ta ngẫn, ta hèn hạ quá chừng!
Mình ta sang trọng nhứt là cái quốc dân
mà ta bỏ xó đi không nhắc tới, khăng
khăng chỉ ôm lấy cái phẩm hàm gia nô
làm vinh quý; Ôi! phẩm hàm làm
gì anh em
ôi! Nhà giàu phỉnh thằng ở thời vất cho một hai
đồng tiền, nhà vua phỉnh đứa
dân thời vất cho một hai trương giấỵ Nhưng nghĩ cho ra kỹ, thời
một đồng tiền
của nhà giàu phỉnh ta đó mà thân
giá ta vẫn còn, đến như một trương giấy của
nhà vua phỉnh ta đó, thời thân giá ta
đã ô hô, ai tai rồi hẳn. Lại còn khi rủi
gặp cơn dâu bể đổi đời, tờ giấy của nhà Đinh trải qua
nhà Lý thời đã không đáng
một xu, tờ giấy của nhà Lý trải qua nhà Lê
hoặc nhà Trần thời cũng không ai ngó
đến, huống gì vì một trương giấy đó mà quỳ
mòn đầu gối, lạy lắm cả cằm râu, lại
phải vất vô số máu me, ép vô số dầu mở cung
cấp cho nhà ai mới hủ hỉ được một
trương giấy đó, thời còn gì vinh quý nữa
đâu! Gia nô! Gia nô! Cái oai kiếp đó,
từ đây nên sám hối là phải.
3. Chương
thứ ba Quốc dân nên tự lập
Ô hô gia nô! Ô hô gia nô! tủi
thân vai ngựa lưng lừa, một kiếp gia nô biết bao
giờ là thôỉ Câu hỏi đó là một
câu hỏi rất thiết ở đời bây giờ. Tôi xin trả lời
rằng:"Gia nô nay đã biết thân, thời lo gánh
chức quốc dân mới là".
Gia nô là thằng ở của một nhà, Quốc dân
là ông chủ của một nuớc, một bên thì ty
tiện rất mực, một bên thì cao quý rất mực, mắt
còn chưa mù, miệng còn nói được
thời chắc cũng muốn lấy phần cao quý mà bỏ phần ty tiện.
Ham cao quý mà chê ty
tiện là gốc tự tấm lòng lương tri của chúng tạ
Người xưa có câu
rằng:"Vương giã dĩ dân vi thiên", nghĩa là
dầu ông vua cũng phải xem
dân bằng trờị Vậy thời không gì cao quý hơn
dân hẳn. Nhưng với cái chúc Quốc
dân đó, chúng ta đã ngu hèn dại dột,
bị ai cướp bóc những tự bao giờ, nay muốn
khôi phục lại cái chức quốc dân, chúng ta
phải gấp lo thế nào mới được.
Chức Quốc dân đó ta muốn khôi phục lại, có lẽ
xin xõ với ai mà được rủ Xin với
trời, thời trời vẫn cho ta tự bao giờ, không cần xin nữạ
Sách Tây có câu: mình
hãy tự giúp lấy mình, thời trời giúp cho
(aide-toi, le ciel t’.aidra). Sách
Đông Phương có câu:"Dân ta muốn điều
gì, trời vẫn nghe theo điều ấy".
Nếu đạo lý ấy mà thật, không cần gì xin ở
trời.
Hay là xin ở người mà được rủ Lòng beo dạ
thú, mắt ó miệng hùm, người thế giới
đời bây giờ không ai thương ta hẳn. Nếu một mai mà
ta lấy chức quốc dân quốc
dân ta lại, thời ách cổ trâu, cương đầu ngựa, tức
khắc phải giải phóng cho ta
ngaỵ Lòng tham dục họ lấy gì đầỷ Tay
hung tàn họ lấy gì
sướng. Nào xe, nào ngựa, nào lầu, nào
đài, nào vợ đẹp hầu non, nào của ngon vật
lạ: những giống ép nặn máu mủ ta mà được
đó, lấy gì như ý sở cầủ Ta một ngày
thoát ngục gia nô thời nó một ngày đổ nền
phú quý, nếu ta rày xin may xõ, lưỡi
rát cổ khan, chúng nó có ân thưỡng
cho ta chỉ qua "ngọn roi" và
"ngòi bút", có đời nào mà
chúng nó đem chức quốc dân cho ta đâụ Huống
hố chức quốc dân là chúc sẵn trời ban cho ta, ta
lấy lại thời còn, ta bỏ đi
thời mất, không cần ai cho, mà ta cũng không cần
gì xin ai cả.
Ôi quốc dân! Ôi! quốc dân! Cái
chúc đó là chức rất cao quý của
chúng ta, vẫn
không ai cách được, mà cũng không ai cho
được, chỉ cốt ở lòng ta cầu, vai ta
gánh, tay ta đỡ, sức ta đua trí khôn ta tìm
tòi, quyết lấy được mà thôị
Thiệt là : "Của ta, ta cậy gì ai Gánh ta ai
có nghiêng vai đỡ
cùng".
Vậy nên tôi nói rằng: Quốc dân nên tự
lập.
4.
Chương thứ tư Bài thuốc tự lập có những vị gì?
Muốn cho quốc dân hay tự lập, trước hết phải biết tệ bệnh của
quốc dân ta những
điều gì. Có biết tệ
bệnh quốc dân ta vậy sau chứng nào thuốc ấy mới bày
ra phương tự lập được. Bây
giờ tôi xin kể những tệ bệnh của quốc dân:
1. Tính ỷ lạị
2. Lòng giả dốị
3. Thói nhút nhát.
4. Tham lợi riêng.
5. Đua những việc hư danh vô vị
6. Không lòng thực yêu nước.
7. Không biết nghĩa hiệp quần.
8. Mê tín những tục hủ cổ.
9. Không biết đường kinh tế.
10. Không thương nòi giống.
Những bệnh đó muốn chữa cho lành, phải theo bệnh
nguyênmà trị cho đến gốc. tôi
xin kê bài thuốc như sau này:
1. Khí tự cường: nặng vô số ki-lô-gờ-ram (kg)
2. Lòng thành thực: mười phần già.
3. Gan quả quyết: hai lá thực lớn
4. Lòng công ích: một tấm rất dày
5. Vai thực nghiệp: một gánh càng nặng càng haỵ
6. Bụng nhiệt thành: mười phân luyện chín.
7. Giãi đồng tâm: một dây càng kiên
thực càng tốt.
8. Trí thúc mới: 100 phân, trộn vào "hoa tự
do" không kỳnhiều ít.
9. Nội hóa: một vạn thức: kiêng ngoại hóa
10. Giống thân ái: hằng hà sa số, hột nào
càng chắc càng haỵ
Hiệp cả bài như trên kia, tổng cộng 10 vị, bài
thuốc đó là hiệp cả Đông Tây lại
một lò, hòa cả tân, cựu làm một tể,
dùng làm thuốc tự lập, chắc là không
bài
nào hơn.Anh em ta muốn biết cái ý dụng được,
tôi xin kể vị thuốc nào chứng ấy
như sau:
5. Chương
thứ năm Chữa chứng bệnh "tính ỷ lại"
Bệnh người nước ta, kể có 10 chứng , tôi đã
nói như bài trên kia mà thăm xét
cho ra chúng gì nặng thứ nhất thời có một chứng
gọi rằng "ỷ lại
tính".
Ỷ lại tính như thế nàỏ Tục ngữ có câu rằng "
Tháp đổ có Ngô xây, việc gìvợ
góa lo ngày lo đêm". Xem như câu ấy thực
đáng nực cười! Tháp đó là tháp
của ta, ta không xây được hay saỏ Nghễnh đầu nghểnh cổ
trông ngóng vào Ngô, nếu
Ngô không xây thời vạn tuế thiên thu chắc
không bao giờ có tháp. Kìa người vợ
góa thấy tháp đổ mà lo ngày, lo đêm,
vẫn là một người có tâm huyết, mà lại bị
những món bàng quan kia mỉa mai chê trách,
thế thời những người đứng xung quanh
tháp đó, tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng
dòm, chém cha món này, nghiễm nhiên
là một đống bồ nhìn rồi hẳn? Hỏi vì can cớ
làm saỏ
Thời chỉ ỷ lại mà thôị Câu tục ngữ ấy thiệt vẽ
đúng tâm tính của người nước tạ
Hai muơi triệu người, ai nấy cũng mắt cũng tai, cũng tay chân
mày mặt, nếu ai
cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của
mình thời có gánh gì không cất nổỉ
Nhưng tội tình thay! Anh nào chị nào trong
óc cũng chất đầy một khối ỹ lại: anh
Cột trông mong vào chú Kèo, cô Hường
trông mong vào thiếm Lục, lại chắc chắn có
anh Cột cô Hường rồị Rày lần mai lửa, tháng đợi năm
chờ, kết cục không một
người làm mà cũng không một người phụ trách
nhiệm. Thế thời 25 triệu người, kỳ
thực thời không người nào cả.
Chao ôi! Ma bệnh tính ỷ lại không xua đuổi cho sạch,
còn mong có nòi giống ta
nữa đâu! Bây giờ muốn chữa bệnh ỷ lại đó, tất cần
phải dùng một vị rất quý
trọng đem dùng chửa bệnh tính ỷ lại chắc kiến hiệu như
thần. Tên vị thuốc này
gọi rằng "khí tự cường". Khí tự cường đó
không phải vay mượn cùa ai
đâu: khi trời đất inh ra ta thời phải phú dữ cho ta một
vừng chính khí. Xưa
thầy Mạnh Tử có câu nói rằng:"chí đại,
chí cường", bốn chử đó tức là
khí tự cường của tạ Xương sắt, gan đồng ngang tàng 7
thước, đã mang tiếng ở trong
trời đất, phải có danh gì với núi sông. Ta
chẳng phải là người hay saỏ Cớ gì
người mạnh mà ta hèn? Người vinh mà ta nhục? Người
chủ nhân mà ta nô lệ? Ta
chẳng oan uỗng kiếp người lắm ru! Thôi cái tội tự bạo, tự
khí, ta quyết rửa
sạch cái vết nhơ này mới thôị
Ỷ lại mà chi! Ỷ lại mà chi! Ta quyết tự cường cho
chúng mày biết. Xin các anh
em! Xin các chị em! Ai nấy cũng nhức nhối tinh thần, rán
vai nong cánh, đồng
một lòng, đều một sức, mình sắp lấy núi sông
mình, tháp mình mình xâỵ Khí
tự
cường đã đầy đủ như thế, thời ma bệnh tính ỷ lại
còn dám dùng dằng nữa đâủ
Vậy nên bài thuốc tự lập, vị thứ nhất phải dùng
khí tự cường nặng vô số
ki-lô-gờ-ram.
6. Chương
thứ sáu Chữa bệnh "giả dối"
Bởi vì có tính ỹ lại mới nảy ra các chứng
bệnh nữa: một chứng là hay giả dốị
Xưa Đức Khổng Tử có câu: "Dân vô tín
bất lập" nghĩa là người không có
thành tín thời không có thể nào đứng
nổị Sách Tây có câu: "Tin thực là một
cục vàng vô giá", nghĩa là người ở đời
không có gì quí trọng hơn tin thực.
Quái gở cho người nước ta thời lại đua nhau giả dối!
Tục ngử có câu "Trăm voi không được bát nước
xáo" lại có câu
"Mười thóc không được một gạo" Xem đó mới biết
tính chất người nước
ta, chứng bệnh giả dối là một chứng rất nặng: Sĩ hay giả dối
thời tìm tòi đạo
lý, không cậy óc mình mà cậy tai;
nông hay giả dối thời cày cấy ruộng trưa,
không cậy mình mà cậy đất; công hay giả dối
thời phấn sức lừa đời mà không cầu
thực dụng; thương hay giả dối thời đua nhau bợm vặt mà mất cả
lợi tọ Thậm chí
mướn đạo đức làm lối cầu danh mà chá vàng ở
ngoài mặt; mướn nhân nghĩa làm mồi
câu lợi mà xức mật ở đầu môị Chẵng những
ngoài đối với xả hội, trên đối với
quốc gia, gốc cây trăm năm đã bị con mọt giả dối kia đục
đổ, bức thành muôn dặm
đã bị con mọt giả dối kia xoi tan, mà lại trong đối với
một nhà, dưới đối với
một mình cũng mắc con ma bệnh giả dối đó đục thấu cao
hoang, khoét vào cốt tủỵ
Tay dối lòng, miệng dối dạ, ăn bánh vẻ mà toan đầy
bụng, mặc áo giấy mà đi với
ma, kết quả không việc gì là thật. Bệnh giả dối
đó mà không chừa, còn mong gì
nước ta phú cường được? Xưa nay đất tốt mới vắt nên
khuôn, đồng tốt mới vắt nên
tượng, người tốt mới làm nên sự nghiệp lớn, mà
lòng tin thực đó là chất rất tốt
của con ngườị Lời tục ngữ có câu: " ngay thật mọi tật mọi
khỏi".
Sự ngay thật đó là bộ xương sống của thân thể
người; nếu người không có xương
sống mà muốn tay chân đẹp đẽ mạnh mẽ, có lẽ
nào được? Vậy nên muốn làm người
tốt cần thứ nhất là lòng thành thực. Nói
một tiếng tất thành thực, dầu ngoài
muôn nghìn dặm, mà lời vàng ngọc không
bao giờ phai; làm một việc tất thành
thực, dầu trải mười trăm năm mà dạ sắc son không bao giờ
dời đổị Mình đã dốc
một lòng thành thực như thế thời phẩm hạnh mình
càng ngày càng chắc, thanh giá
mình càng ngày càng cao, ngưòi ta
tin dụng mình ngày càng nhiều, mà thế lực
mình lớn thời có việc gì không làm
nên. Vì vậy trong bài thuốc "tự
lập" cốt ở chữa chứng bệnh giả dối, tất phải dùng vị thuốc
này: "Lòng
thành thực" mười phân già.
7. Chương
thứ bảy Chữa chứng bệnh nhút nhát
Bệnh giả dối đã chữa lành rồi, nhưng còn có
một chúng bệnh nữa là thói nhút
nhát. Chứng bệnh đó chữa không lành thời
người mạnh hóa người hèn, người khôn
hóa người dại, trăm việc gì ưu thắng nhượng cho người
mà mình cam chịu về đường
liệt bại; biết việc nên nói mà tiếng không
dám hở môi, biết đường nên đi mà một
bước không dám ra khỏi cửa, miệng hùm gan sứa,
thiệt là những bọn anh hùng hào
kiệt của nước ta, mà huống chi những kẻ thôn quê
hèn hạ đó còn maong gì với
chúng nó bàn việc to lớn được?
Xưa ông Hải quân đại tướng nước Anh là Nốt Nhỉ Tốn
có nói: "Trong pho tự
điển của người giỏi không bao giờ viết chử khó." Người anh
hùng nước Pháp
là ông Nã Phá Luân có
nói: "Kìa chử khó đó chỉ thấy trong pho tự
điển của
người ngu mà thôi". Tục ngử ta cũng có câu:
"Có gan thời chọi với trời",
lại có câu hát: " Đố ai lượm đá quăng trời,
đan gàu tát bể, mới người khôn
ngoan". Xem mấy câu nói đó thời thiên hạ
có việc gì khó đâủ Mà thế thật.
Ta có gan xuống vực thời thuồng luồng phải sợ ta; ta có
gan vào rừng thời hùm
beo phải kiêng tạ
Hùm beo với thuồng luồng chỉ bắt nạt được những người
nhát gan mà thôị Bây giờ
người ta chưa thấy bóng thuồng luồng mà đã rỡn ốc,
chưa nghe tiếng hùm beo mà
đã rùng mình!
Ôi! nước ta là một nước thỏ hay saỏ Rụt rụt rè
rè, sợ đầu sợ đít, còn có gì
là tư
cách con người nữa rủ Bệnh nhút nhát còn
đeo lấy một ngày, thời công việc tự
lập tự cuờng không một ngày nào cất nổi, mà
muốn chữa chứng bệnh đó, thời phải
dùng vị thuốc này mới hay: vị thuốc gan quả quyết.
Xưa nay những người can đãm cũng phải luyện tập mới nên,
mà khi đầu luyện tập
thời phải có một tấm gan quả quyết. Toan vượt núi thời
chớ thấy núi mà gớm cao;
toan qua sông thời chớ thấy sông mà ghê
sông rô.ng.
Bao nhiêu nguy hiểm, ta kể cho là sự rất thường; bao
nhiêu khó khăn ta kể cho là
sự rất dể. Bước con đường muôn dặm phải cậy tấm gan quả quyết
đó làm roi ngựa,
máy xe, dầu chông gai mà quản gì. Đã
có tay chân ta đó, nhứt chết nhì sống,
còn
mình thời việc ấy chắc phải xong, có sợ gì
mà nhút nhát? Vậy nên trong bài
thuốc "Tự lập", phải dùng một vị như sau: "Gan quả quyết"
hai lá rất lớn.
8. Chương thứ tám Chữa Chứng Bệnh "Tham Lợi Riêng"
Lại có chứng bệnh nữa là chứng bệnh "Tham lợi
riêng".
Chứng bệnh ấy, người các nước tuy có ít nhiều,
nhưng người nước ta tất cả 25 triệu
người, ai nấy cũng trúng bệnh ấy đó. Tục ngữ có
câu "cơm ai đầy nồi
ấy", lại có câu "Thử thân bất độ, độ hà
thân", lại có câu rằng
" con vua, con dấu, con chậu chậu yêu". Đọc bấy nhiêu lời
thời biết
rằng: trong ruột người nước ta, viết dọc viết ngang, vạch xuôi
vạch ngược, chỉ
một chử "tham" mà ở trong chử "tham" chỉ có vài
nét
"Lợi riêng" là vừa hết bút mực. Xưa cụ Uy Viễn
có câu rằng:
"Tiền tài hai chủ son khuyên ngược,"
"Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi"
Mười bốn chủ
đó, thật là
vẽ đúng tâm tính người nước tạ Than ôi!
cái lòng tham dục mà muốn cho như ý,
mới nảy ra kế mưu, vì kế mưu mà muốn cho thành
công, mới nảy ra sự nghiệp. Tục
ngữ có câu: "muốn ăn hoét phải đào
trùn", nhất thiết việc đời đều ở
lòng tham dục, bảo cấm tham tuyệt dục không có lẽ
thiệt! Ôi! Các anh em! Các
chị em! Tôi vẫn không cho các ngài biết tham
biết dục. Thà không tham, nếu tham
thời tham cho lớn; thà không dục, nếu dục thời dục cho
hàọ Xưa ông Đế Nghêu
muốn thiên hạ làm của chung mà bỏ ngôi vua
của mình, vì vậy nước Trung Hoa bây
giờ xưng ông Nghêu là đại thánh. Ông
Hoa Thịnh Đốn muốn nước Hoa Kỳ thành một
nước dân chủ, mà bỏ ngôi phú quý của
mình, vì vậy nước Hoa Kỳ bây giờ còn gọi
ông Hoa Thịnh Đốn là "Quốc Phụ". Kìa hai ông
đó há phải không tham
đâu, nhưng tham dục về cái lợi chung của ức muôn
người, thời tham dục càng to,
làm lợi ích cho loài người càng lớn, nhờ
tham dục của một người đó mà gió xuân
mưa hạ tràn trề khắp bốn bể năm châu, đội đức mang ơn
dài đặc đến thiên thu vạn
thế. Tham dục mà được như những bậc người ấy, ai bảo rằng tham
dục là dở đâủ
Đau đớn thay cho những người nước ta, trước mắt không bao giờ
thấy lợi chung,
trong óc không bao giờ có tư tưởng cao thượng,
túi chất đầy tham, mà tham tột
mực, chẳng qua là nghiện hơi đồng, hối vẫn đầy dục, mà
dục kỳ cùng, chẳng qua
là hầu xác thịt, kết quả đến nổi hy sinh hết lương
tâm thiên lý mà làm nô lệ
cho những món tư tình; vì lo sung sướng cho vợ,
vì lo sung suớng cho con, vì lo
sung sướng cho thân mình, suốt đêm suốt ngày
hết khôn hết khéo, nhưng chắc rằng
núi đồng không bao giờ lở, cây tiền không bao
giờ lá rụng hoa rơị Nào hay
"Nhứt đán vô thường vạn sự hưu", của cải tiền tài
không thể nào vào
tay người chêt; vợ vì sẳn của mà vợ hóa
nên vợ hèn, con vì sẳn của mà con hóa
nên con dại, tiền bạc hóa ra của phá nhà,
ruộng vườn hóa ra mồ chôn sống, chẳng
những nhân quần xã hội không lợi ích một
tí gì, mà chính giữ thân với gia cũng
lợi chưa xong mà hại đã tớị Ấy là tử chứng của
những người tham lợi riêng đã
rành rành rồi đó. Người ta mắc bệnh đó gần
đây càng ngày càng nặng thêm, nếu
không gấp chữa cho mau thì nòi tuyệt giống
mòn, không thể nào cứu được. Tôi xin
vì đồng bào dâng một vị thuốc này gọi rằng
"Lòng công ích".
"Lòng công ích" là cầu sự lợi ích
chung cho xã hội, mà cầu lợi chung
xã hội tức là lợi ích cho mình. Đạo
lý đó chẳng phải nói không đâụ Những
người
có tai mắt, có ruột gan chắc cũng hiểụ Bao bọc chung
quanh mình là xã hội, nhờ
ơn xã hội mới có thân mình, mình ăn
thóc thời nhờ có người cầy, mình mặc áo
thời có người dệt, mình cần có công
dùng thời phải nhờ người người thợ thuyền,
mình cần có giao thông thời phải nhờ người
buôn bán; nếu một ngày không xã hội
tức một ngày đó không thân mình. Vun
trồng cho xã hội sung sướng vẻ vang thời
chẳng những một thân mình đã hưỡng hạnh phúc
chung, mà con cháu mình sau cũng
sung sướng chung mãi mãị Vậy thời cái lòng
công ích đó, thật là một phương
thuốc trường xuân bất lão cho người tạ Vậy nên trong
bài thuốc tự lập, phải có
một vị nầy: "Lòng công ích" một tấm rất dàỵ
9. Chương
thứ chín Chữa Chúng Bệnh Đua Đuổi Hư Danh
Còn một chúng bệnh nữa là chứng bệnh người ta hay
đua đuổi theo cái hư danh vô
vi..
Muốn chữa cái chứng bệnh đó thời trước phải giải quyết
một số vấn đề như sau
này: Lòng tham người ta chỉ có hai hạng: một
là lợi, hai là danh.
Danh nên tham hay không? Bảo rằng không nên
tham thời từ xưa đến nay không
người thánh hiền hào kiệt nào mà
không thành danh cả. Sách truyện có
câu:
"Đạo đức giả tất tất đắc kỳ danh", nghĩa là những người đạo đức
lớn,
nhứt định được cái danh dư.. Thế thời danh có phải
không nên tham đâu! Bảo rằng
nên tham ử Thời từ xưa đến nay, những người phấn sức hư danh, kết
quả hữu danh
nhi vô thực, chẳng những không lợi ích gì cho
xã hội, mà cũng không thêm được
giá trị cho mình tạ Thế thời danh có gì
đáng tham. Nói cho đúng lẽ, danh vẫn
đáng tham, mà cũng không đáng tham. Cớ sao
thế? Bởi vì danh có nhỏ, có lón,
danh có gần có xa, danh nhỏ và gần, như lữa lốm
đốm đầu hôm, tiếng ve ve khi
mùa hạ, vẫn cũng lập lòe chòe choẹt ở trong một
lúc, nhưng chẳng bao lâu thời
tắt ngay; danh lớn và xa thời như sấm mùa xuân, nhu
bóng thái dương mùa hạ,
vang một tiếng mà lừng lẫy cả năm châu, dọi môt tia
mà chói chang khắp bốn bể.
Người ta thử cân nhắc hai đường danh đó thời danh
gì đáng tham, danh gì không
đáng tham. Không cần phải nói nữa.
Bây giờ tôi chỉ bệnh người nước tạ Tục ngữ có
câu: "Tiếng lành đồn xa,
tiếng dữ đồn ba ngày đường" lại có câu rằng: "Cọp
chết để da, người
ta chết để tiếng". Xem những câu đó thời danh vẫn
nên quý, người ta cũng
biết dư rồị Nhưng tội tình thay! Óc tí ti như
óc dơi, mắt ti hí như mắt muỗi,
ngoài buồng the bếp núc, vẫn không biết gì
là nước non, trừ sọ bò đầu lợn không
biết gì là rồng rắn, mà huống gì vết xấu
trong gia đình, thói hư ở xã hội gắn
sâu buộc chặc, trải mấy ngàn năm ông Nghè
ông Cử đã tràn đất chó rơm, mà
ông
Đốc ông Tham lại đầy phên rồng vẽ. Đoàn thanh
niên cho đến phường tân tấn, đua
danh cạnh giá, chẳng cu li thượng đẵng, thời nô lệ tối ưu,
ức chưa rời nôi mà
đã ưu mề đay, kim khánh, mệng chưa ráo sữa
mà đã lóc lẽm những thẽ bạc ngà. Ôi!
thế là vinh danh, đáng quý hóa hay sao?
Anh chị em sao không nghĩ, đội mảo mo cho khỉ, mặc áo giấy
cho ma, những giống
ấy là rặc giống của người phỉnh phờ ta, chẳng những không
vinh gì, mà thật là
một cái gương sỉ nhục. Anh gì mà danh như thế,
còn gì đáng quý nữa đâu . Gông
đầu khóa cổ, núi sông đã mãn kiếp
ngựa trâu, mỏi gối chân chồn, cây cỏ cũng
chán vai tôi tớ, thế mà còn bằng sắc, sắc
bằng gì? Thế mà còn hàm, thế mà
còn
phẩm, phẩm hàm gì? Người ta bỏ đi mà ta lượm lấy,
người xem làm rẽ rúng mà ta
xem làm vinh hoa! Óc khôn ngoan ta đi đâủ
Chí khí ta ở đâủ Xin các anh chị em,
chứng bệnh đua hư danh đó, ta phải gấp chữa lành mới
được.
Muốn chữa chứng bệnh đó, thời phải có một vị thuốc rằng
"vai thực
nghiệp".
Thực nghiệp là những giống gì? Là nghiệp
nông, nghiệp công, nghiệp thương,
nghiệp sâm lâm, nghiệp lục súc, nghiệp ngư
diêm, nói tóm lại là nghiệp lao
đô.ng.
Lao động về nông, nông siêng thời gạo thóc đầy
đủ; lao động về việc công thời
công siêng mà nghề nghiệp mở mang; lao động về việc
thương, thời thương siêng
mà giao thông phát đạt, còn ra các
việc hể lao động hết bổn phận thời việc nào
việc ấy chắc cũng được thành công. Các nước
Âu Mỹ bây giờ, những người quý
trọng là rặt những người rất cần khổ, đắp nền danh giá,
tất lấy thực nghiệp làm
gốc, mở bể phú cường, tất lấy thực nghiệp làm nguồn. Thủ
xem nước Hoa Kỳ mới
đây, những người rất hữu danh rặt là nhà thực
nghiệp; ông Hỏa du đại vương, ông
Thiết lộ đại vương, ông Ngân hàng đại dương, những
người đó là nhà thực nghiệp
lớn. Vì thực nghiệp lớn nên tư bản nhiều, vì tư bản
nhiều nên cất nổi những
việc công ích lớn. Vì vậy mang ơn đội đức, khắp cả
muôn người, trổi tiếng vang
tăm nghe khắp cà vạn quốc.
Lời cổ ngử có câu rằng "Hữu thực dã danh tất qui
chi" nghĩa là những
người có việc thực thời danh tất đến chọ Người ta nếu biết thấu
đạo lý ấy, thời
hư danh còn đua đuổi làm gì! Bắt cân
công lý mà cân, một li thực nghiệp quí
trọng hơn một đồng hư danh, người ta xưa nay quen thói dã
man, đua tuồng huyền
ảo, giấc chiêm bao lợi lộc, ngày tháng say mê
tuồng trò rối hư vinh, trẻ già
hớn hở, những mua chuốc hư danh đó, hao biết bao nhiêu
tiền của, những trau
chuốc cái hư danh đó, tốn bao nhiêu thời giờ,
mà hư danh càng ngày càng múa
men, thời tướng thực nghiệp không bao giờ xuất thế. Kết quả
dân ngày càng
nghèo, nước càng ngày yếu, nòi giống
mình càng ngày càng đê tiện,
mà giá trị
người mình cân đi nhắc lại chỉ có "thân bồi
phận bếp" mà thôi, việc
đáng khóc đáng than, không gì hơn
thế! Anh chị em ta, nếu một mai tỉnh giấc mê,
thay lốt cổ, những tiền của mua hư danh đó, xây nền thực
nghệp, những thời giờ
đuổi hư danh đó dùng vào trường thực nghiệp, thực
nghiệp đã phát đạt thời nền
móng phú cường đã vững bền; giá trị người
lao động nước ta chắc cũng có một
ngày lừng lẫy tiếng tăm cùng thế giớị
Tục ngữ có câu rằng: "Trăm năm bia đá vẫn
mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn
trơ trơ". Người nước ta nếu biết tham danh thời không gì
đáng tham hơn thế
nữạ vậy nên bài thuốc "Tự Lập" lại phải gia vào một
vị như sau này:
"vai thực nghiệp" một gánh càng nặng càng hay.
10. Chương thứ mười Chữa chứng bệnh "ái quốc giả"
Chứng bệnh hay giả dối là chúng bệnh chung của người nước
ta, mà ở trong chứng
bệnh đó lại có một chứng đặc biệt là ái
quốc giả.
Gần mấy năm nay, cuộc Âu chiến cũ vừa xong, mà cuộc "thế
giới đại
chiến" mới đã toan gây núi, chủ nghĩa quốc gia
bành trướng cực điểm, người
nước ta bây giờ, ngoài thời bị làn sóng thế
giới xô đẩy, ngủ không thể nào yên
trong thòi bị dây sắt cường quyền trói đau,
mà sống không thể nào khõẹ Lúc bấy
giờ những bạn thiếu niên với phường học mới, cho đến những người
ngủ say quá độ
mớI đánh thót ở trong giấc chiêm bao; thấy con em
mà đau đớn cho kiếp ngựa thân
trâu, trông non sông mà ngậm ngùi những
ngày mưa sầu gió thảm.
Tiếng hai chử "Ái quốc" mới văng vẳng ở bên tai người ta,
hồn ái quốc
tuy còn dở tỉnh dở say, mà bóng ái quốc
đã nửa mờ nửa tỏ, nào là đám truy điệu,
nào là tiệc hoan nghinh, nào là kỷ niệm anh
hùng, nào là sùng bái chí sĩ,
chuông dồn trống dục, nam bắc hát hò, xem ở trong
một đám rần rần rực rực, cũng
đã có mấy phần người biết quyền nước mất. Biết quyền nước
mất thời tính mạng
không còn, hồn nước có về thời giang sơn mới sống.
Ngòi bút ái quốc cũng đã có
một đôi kẻ múa men, trên tờ giấy nhật trình
cũng đã tô vẻ một vài câu thương
nòi thương nước.
Nếu những tấm lòng ái quốc đó thật thà chắc
chắn, thời giống Tiên Rồng, giống
Hồng Lạc chẳng hạnh phúc lắm saỏ Nhưng tội tình thay!
Người ưu thời mẫn thế
chẳng bao lăm, mà người bán tiếng mua danh thời đầy đường
chật ngõ; giọt nước
mắt khóc vẫn đêm ngày chan chúa, mà
xem cho kỷ thời rặt là nuớc mắt gừng, tiếng
chuông trống kêu hồn, vẫn trong ngoài dóng
dã, mà nghe cho tới nơi thời rặt là
tiếng chuông trống trò bội; ngoài miệng thời
ái quốc mà trong bụng vẫn là ái
kim khánh mề đay, khi trước mặt người vẫn ái quốc,
mà đến đêm thời tính toan
những việc chó săn chim mồị
Chao ôi! Trời ôi! Ái quốc thế ru?
Treo mặt nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời
mua chuốc lấy tiếng
chí sĩ nhân dân, một mặt thời ôm chặt lấy lốt
ông Tham bà Đốc. Ôi! Các anh em!
Ôi các chị em! người Âu châu Nhật Bản, ai
ái quốc nhu thế, thà không ái quốc
còn hơn, chá vàng ngoài mặt làm tai
vạ cho những kẻ chuộng vàng, xức mật đầu
môi, làm khổ cực cho những người say mật, vì
đã vũ phu mà oan đến ngọc, vì
tròng mắt cá mà họa đến châụ
Ôi! Chứng bệnh ái quốc giả kia, chết nước chết nòi
vì chứng bệnh đó, chứng bệnh
đó nếu không trừ khỏi 25 triệu dân tộc chắc
chôn sống ở rày maị Tôi ngồi sâu
nghỉ lặng, khấn nguyện chín phương trời, ước ao thần hộ phật
phù, cứu khổ cứu
nạn cấp cho tôi vị thuốc để chữa chứng bệnh đó cho người
ta, mới được vị thuốc
này: "Bụng nhiệt thành".
Bụng nhiệt thành đó là gốc ở một tấm lòng
đỏ của loài ngườị Khi mẹ mới hoài
thai thời đã đúc sẵn một hòn máu
nóng, đến khi sinh thành trưỡng đại, thời hòn
máu đó càng nuôi nấng càng lớn lao,
càng nấu nung càng tươi thắm, giọt máu đó
xối vào sắt, sắt phải tan, giọt máu đó rưới
vào ma, ma phải tránh. Người Nhật
Bản có câu rằng "Tinh thành sở chí kim thạch
năng khai" nghĩa là khi
tinh thành đã tới nơi, dầu đá vàng cũng nức
nở. Ông Khổng Tử có câu: "Thất
phu bất khả đạt chí", nghĩa là chí vững bền của
một người không ai cướp
được. Những câu nói đó, đều là vẽ cả nết
nhiệt thành người ta, có đầy đủ một
tấm nhiệt thành mới trọn vẹn mười phần ái quốc,
thành mà không nhiệt thời kém
phần nóng sốt, mà cái thành đó dễ
nguội, nhiệt mà không thành kém sức vững
bền,
mà cái nhiệt đó dễ lạnh, đã thành
lại nhiệt, đã nhiệt lại thành thời thần quỷ
phải kinh, gió mưa chông gai cũng phải dẹp, chỉ có
ai sợ ta, mà ta không phải
sợ ai, chỉ có ai ỷ lại vào ta, mà ta không ỷ
lại vào aị
Đã biết nước là mẹ ta, thời dầu hy sinh ta với nước
mà ta không quản, trong óc
chỉ có nước, ngoài việc nước ta không màng
gì lợi, ta không thiết gì danh;
nhiệt thành thế này mới là ái quốc,
ái quốc thế này mới hay cứu quốc.
Ruột tằm máu quốc thề sống thác với non sông, dạ
sắt lòng son chẳng lụt sờn vì
mưa nắng, nhiệt thành như vậy, người nước ta có
khó gì tự lập đâụ Vậy nên trong
bài tự lập lại cần nhất là vị thuốc này: "Bụng
nhiệt thành" 10 phân
luyện chín.
11. Chương
thứ mười một Chữa chứng bệnh "không
biết hợp quần"
Các chứng bệnh như trên kia là các chứng
bệnh cá nhân. Bây giờ lại kể một chúng
bệnh như sau này là bệnh chung về đoàn thể. Người
ngoại quốc thường khinh bỉ
người nước ta, có một câu rằng: "Không có một
đoàn thể nào từ ba người trở
lên". Câu nói đó, thoạt mới nghe, tưỡng chừng
là quá đáng, nhưng xét cho
đến tình hình xả hội nưóc ta, tinh thần người
dân nước ta, tan tan, tác tác,
rạc rạc, ghét nhau, ngờ nhau, ai lo thân nấy, bảo rằng
không đoàn thể từ ba
người trở lên, vẫn có thể thật.
Suy cho đến nguyên cớ bởi vì sau đây, thời chỉ
vì không biết nghĩa hợp quần mà
thôị Hợp quần là saỏ Là hợp cả một bầy lại cho
thành một đoản thể. Ví như tay
chơn tai mắt có hợp mới thành được một thân; cột
kèo rui mèn có hợp mới thành
được một nhà; từ việc nhỏ đến việc to, muốn nên một việc,
tất phải có một bầy;
muốn nên một bầy, tất phải có cách hợp. Thuở xưa
giao thông chật hẹp, núi bể
chia lìa, mưa gió riêng trời mình, bờ cỏi
riêng đất mình, người mình đua đuổi
với người mình, dầu kém dầu hơn, dầu thua dầu được, cũng
chẳng qua là nhà mình
mình ở, của mình mình ăn, nếu không biết hợp
quần cũng chưa lấy gì làm tai hại
lắm. Thử xem đời bây giờ có thể được ử Bể Đông
Tây chung nhau làm một vũng câu;
châu Âu Á chung nhau làm một rừng bắn, người
đem cả trăm chân nghìn tay, trăm
khôn nghìn khéo dắt đoàn kéo lủ
mà áp đến nhà mình, xô cửa phá
buồng, bửa rương
móc túi, bầy người càng đông thời thế người
càng mạnh, bầy mình càng ít thời
thế mình càng cô, lửa đốt nhà đã tận
nóc, nước nuốt thuyền đã tận mui, mà bà
con trong nhà, trong thuyền đây hãy còn anh
với em cắp dao trỏ nhau, lái với
bạn trừng mắt dòm nhau, kể việc rất ngu ở trong loài
người có ai hơn thế nữa!
Than ôi! Thịt nát thì xương cũng tan, môi mất
thì răng cũng la.nh. Nghĩa hợp
quần đó còn mờ mịt thêm một ngày thời họa
diệt chủng càng câp bách thêm một
ngàỵ Ôi! Các anh chị em! Cái chứng bệnh
không biết nghĩa hợp quần đó không biết
chữa mau, còn chờ gặp ma Chiêm Thành mà gục
đầu thú tội saỏ Thấy tình cảnh các
anh chị em mà óc tôi nhức, máu tôi
sôi, tay chân tôi nổi gai gốc. Tổ tiên ta
nếu còn thiêng, nòi giống ta nếu còn
phúc thời chứng bệnh ly quần đó chắc được
một vị thuốc sẽ chũa lành ngaỵ Tôi nghĩ đi nghĩ lại, suốt
mấy đêm ngày mới được
một vị thuốc là giãi "Đồng tâm". Đồng tâm
nghĩa là người nào người
nấy đồng một lòng: giãi đồng tâm nghĩa là ức
muôn triệu người kết hợp nhau làm
một dây, thân thể tuy khác nhau, mà tinh thần
in nhau như hệt. Xưa ông Trụ có
ức muôn người, hưng cũng ức muôn bụng: vua tôi
Võ Vương có mười người, kết quả
thời vua Võ Vương được mà ông Trụ thuạ Đó
mới biết rằng tâm đồng nhau thời
nhược hóa nên cường, tâm chẳng đồng thời cường
hóa nên nhược, Vì sao thế? Lòng
khác nhau thời rẽ bầy, rẽ bầy thời mạnh hóa nên
hèn; lòng đồng nhau thời chung
bầy, chung bầy thời hèn hóa nên ma.nh. Vậy
nên hai chử "Đồng tâm" là
phương thuốc hiệp quần rất thiêng liêng, rất ứng nghiệm.
Tuy nhiên có kẻ nói rằng: "đông ngưòi
thời tất phải nhiều bụng, nhiều bụng
thời không thể nào đồng lòng. Cái sự đồng
tâm đó thật là khó khăn lắm".
Ôi! Các anh chị em! Câu nói đó thật
quá ngu! Xưa nay đồng lòng, không đồng lòng
chỉ vì có một cớ: chủng tộc không đồng, ngôn
ngữ không đồng, tập tục không
đồng, thế mà muốn đồng lòng vẫn khó lắm. Đến như
người nước ta, nòi giống vẫn
đồng với nhau, ngôn ngữ vẫn đồng với nhau, tập tục vẫn đồng với
nhau, mà huống
gì lối tử sinh đường vinh nhục lại đồng với nhau; chim ở chung
một rừng, cá ở
chung một bể, nếu chẳng may bể khô rừng cháy thời một
lồng, một tấm vãy còn
mong sống sót được saỏ May gặp lúc bây giờ rừng
hãy còn cây, bể hãy còn nước,
kết hợp cả bầy, đồng một lòng, chung một dạ, tính đường
đi đứng, lựa bước lên
lui, dắt nhau ra khỏi ngục trầm luân, kéo nhau
thoát khỏi vùng đồ thán, xoay
họa xưa làm phúc, rửa vết dơ trong pho sử củ, thay lấy vẻ
vinh quang biết bao
nhiêu công nghiệp lớn lao chỉ ở trong một gốc lòng
anh chị em mà nên tất cả.
Vậy thời giãi đồng tâm đó thật là phương
thuốc khỡi tử hồi sinh của món ta
không còn gì hơn nữạ Vậy nên trong bài
thuốc "Tự Lập" có một vị thuốc
như sau này: "Giãi đồng tâm" một dây
càng kiên thực càng tốt.
12. Chương
thứ mười hai Chữa chứng bệnh "mê tín
hủ tục"
Nưóc ta kể người có 25 triệu, kể đất có 70 vạn
ngàn thước vuông tây, nếu làm
một nước tự lập chắc không khó gì! Cớ sao mà
hèn hạ suy đồỉ Thuở xưa còn làm
một nước phụ dung, tới bây giờ lại trụt xuống làm một nước
nô lê.. Ôi! Nước ta
không phải một nước hay saỏ Người nước ta không phải
là người hay saỏ
Không phải, nước ta vẫn là một nước, người nước ta vẫn
là người, nhưng chỉ vì
dân không có quyền, nên mỗi bước không
tự lập. Dân vì sao mà không có quyền?
Thời vì dân không trí; dân không
có trí; nên mới mê tín quá
nhiềụ Bệnh mê tín
rất nặng là mê tín quyền vua; vì mê
tín quyền vua, nên mê tín quyền quan,
mà
quyền vua quyền quan lại lợi dụng quyền thần làm xe pháọ
Ba quyền đó một ngày
một nặng, thời quyền dân không còn một tí
gì; quyền dân đã không còn, thời
dân
dại, dân yếu đuối hư hèn, muôn việc chỉ trông
mong vào vua với quan. Vua với
quan không làm xong, thời trông mong vào
thần; đến thần cũng không làm xong,
thời bó tay chịu chết. Mấy ngàn năm trở lại triều
đình là bồi bếp của một nhà,
nhân dân là ngựa trâu của một họ; mấy mươi
triệu đầu đen máu đỏ, còn gì là tư
cách người; rặt là mù mà người mù
có mắt; rặt là điếc, mà người đếc có tai;
rặt
là câm; mà người câm có miệng, rặt
là què mà người què mà ngưới
què có chân
tay; cái việc lạ lùng quái gở ở thế gian,
không ai như người nước ta nữạ Thăm cho
đến gốc bệnh, chỉ vì mê tín những tục hủ cổ
mà thôị Mê tín vua, mê tín quan,
chưa lấ gì làm kỳ, kỳ thứ nhất là mê
tín thần; vì mê tín thần đó mà
sinh ra vô
số việc nực cười; ngày giờ nào cũng là trời
bày định, mà bảo rằng có ngày dử
ngày lành; núi sông nào cũng
là đất tự nhiên, mà bảo rằng có đất tốt đất
xấu;
vì nấu ăn mới có bếp mà bảo rằng ông thần
táo; vì che mưa gió mới có nhà;
mà
bảo rằng có ông thần nhà; cho đến thần cửa, thần
đường, thần cầu tài, thần cầu
tử, trăm việc gì cũng trông mong vào thần, kết quả
thời thần chẳng thấy đâu,
chỉ thấy cửa nát nhà tan, của mòn người hết.
Tin thần bao nhiêu thời tai họa bấy nhiêụ Kìa xem
như đạo Thiên Chúa chỉ sùng
phụng một vị Đức Chúa Trời ngoài ra không thần
gì cả, nhưng nuớc vẫn mạnh, nhà
vẫn giàu, người họ vẫn sung suớng, họ chỉ thua ta một việc: thần
đã không tế
thời xôi không, thịt không, heo bò cũng
không, mà phần kỉnh phần biếu đều không
tất cả; nhưng họ vì đó mà của hao thời ít,
của nở thời nhiều, tốn phí vô ích
bớt một phân. Ấy mới biết rằng mê tín thần quyền
là tục ngu hủ của người ta,
thật rõ ràng rồi đó. Tục ngu hủ đó
không quét sạch thời nền phú cường kia không
bao giờ dựng nên. Nhân vì ngu mà sinh ra hủ,
nhân vì hủ lại thêm ngu, mắt người
bị người bịt, mà lại bảo rằng trước mí mắt không
nước non; tai bị người bưng mà
lại bảo rằng bên lổ tai không gió sấm; tay
chân bị người người xiềng khóa mà
lại bảo rằng tay chân mình đáng số cu li!
"Chúng tôi dại dột", câu
nói ấy giắt chặc ở bên lưng. Quỳ lạy trước tượng đất
hình bùn mà xem làm quốc
túy; giữ gìn lấy áo hôi mũ thúi
mà bảo rằng gia truyền! Ngẫn ngơ, ngơ ngẫn đến
thế thời thôi! Trông người lại gẫm đến ta, thiệt cười dở
mà khóc cũng dở.
Than ôi! Xưa nay chứng bệnh mê tín hủ tục kia phải
gấp chữa mau mới có lẽ sống.
Tuy nhiên, muốn chữa chúng bệnh đó, phải thế
nàỏ Xưa nay, những tập tục hủ bại
vì có hai lẽ; một thời vì cơ quan giáo dục
chẳng hoàn toàn, một thời vì trí
khôn người ta chưa phát đạt.
Từ thế kỹ 19 trở lại đây, khoa học các nước cảng
ngày càng phát sinh, trí não
các nước càng ngày càng nẫy nở. Thử xem
điện học phát minh mà ông "thần
lôi" đã không dám hống hách; địa học
phát minh mà nhà phong thủy long hổ
đã không dám múa men; sinh lý học
phát minh mà thần rắn quỷ trâu đã
cùng đường
trốn tránh; huống gì học thuyết Lư thoa đã xuất
hiện thời quyền dân với quyền
lao động đã vùn vùn vụt vụt như gió thổi,
như thủy triều lên, dầu ai muốn ngăn
mà ngăn sao đặng? muốn cấm mà sao cấm đặng? Ngọn cờ thần
quyền chắc rày mai
cũng bị trận gió văn minh kia đánh đổ, mà
vách tường hủ tục cũ chắc cũng bị làn
sóng văn minh kia đánh tan.
Thế thời muốn chữa bệnh mê tín ngưới nước ta, không
thuốc gì hơn trí thức mới
nữạ Trí thức đó, nếu tìm tòi suy xét
thăm cho tận gốc, dò cho tận nguồn biết
tính người là thiêng hơn vạn vật thời không
thần gì hơn thần ở tâm; biết nhơn
dân là quí trọng hơn vua với quan, thời không
quyền gì hơn quyền lao đô.ng. Có
óc thời ta dùng sức nghĩ, có tai thời ta
dùng sức nghe, có mắt thời ta dùng sức
thấy, có tay chân thời ta dùng sức hoạt động, đua
khôn đấu mạnh cùng dân các
nước đời nay, 20 triệu con Lạc cháu Hổng bỗng chốc mà tỏ
ra giòng thần giống
thánh.
Người nước ta có khó gì tự lập đâủ Vậy
nên dùng bài thuốc tự lập, phải có một
vị dầy "Trí thức mới" 10 phân, trộn vào "hoa tự do"
không
kỳ nhiều ít.
13. Chương thứ mười ba Chữa chứng bệnh "không biết đường kinh tế"
Nếu có ai hỏi rằng: nước vì sao mà mạnh, dân
vì sao mà giàủ Thời tôi xin trả
lời rằng: "Nguồn bể phú cường chỉ cốt ở đường kinh tế." Người ta
nghe
hai chử "kinh tế", chưa hiểu nghĩa ra làm sao, huống gì
là đường kinh
tế. Xưa truyện Đại học có câu rằng: "Sinh chi giả
chúng, thực chi giả quả,
vi chi giả tật, dụng chi giả thư", nghĩa là của sinh nở ra thời
nhiều, của
ăn tiêu đi thời ít, người làm của thời cần
kíp, người dùng của thời dè dặt. Sách
Tây cũng có câu: "Những hạng người sinh ra lợi thời
nhiều, những hạng
người chia mất lợi thời ít", Góp hai câu nói
đó thời cách đường kinh tế,
dầu đông tây cũng chẳng khác gì. Nói
tóm lại, chỉ có một cách sinh nở thời
thường vô cùng, mà tiêu hao thời thường phải
hạn, của trời đất sinh ra thời
biết đường lợi dụng, của nhân lực làm ra thời biết đường
mở mang, có thế mới
gọi là "Kinh Tế". Người nuớc ta thời thế nàỏ Việc
tiêu dùng thời
không biết đường hạn chế, cách làm ăn thời
không biết đường cải lương, sự
nghiệp dân sinh trong một nước chỉ nhờ cậy về nông,
chân lấm tay bồng, kẻ làm
khôn hết mực, cày sâu cuốc bẩm, xem làm
khéo cùng kỳ. Ngoài mấy đám đồng cạn
ruộng sâu, nào khoáng sản, nào sơn
lâm, nào công trình nào thủy lợi chẳng
biết
một tí gì. Người ngoại quốc lấy máy móc đở
tay chân tay, mà mình thời không
biết đua, của sinh sản ngày không một hào một li,
mà của tiêu xài ngày có hàng
nghìn hàng vạn; thấy người ta sang trọng, ta cũng sang
trọng, nhưng cái đồ sang
trọng đó rặt là cắt thịt nhà để vá
cánh giặc; thấy người ta sung sướng, ta cũng
sung sướng nhưng cái mồi sung sướng đó, rặt là nặn
sữa mẹ để nuôi người dưng.
Bao nhiêu vật lạ của ngon, nào rượụ nào thuốc,
nào trà, nào vải bông, gấm vóc,
không một thức gì là tay chân mình chế
tạo, mà cũng không một đồng tiền nào
không phải máu mủ mình ép ra; tiền của người
không một đồng nào vào tay mình,
mà máu mủ mình thời trót tháng quanh
năm chỉ những trét miệng hùm, no bụng sấụ
Trí khôn người ta như thế, còn nói "Kinh Tế"
được đâu! Than ôi! Thiên
thời ta vẫn tốt, địa lợi ta vẫn giàu, mà tay mắt tay
chân ta vẫn không kém gì
ai cả! thuốc ta, rượu ta, trà ta, vải vóc ta, không
dùng được hay saỏ
Không chế tạo được hay saỏ Cớ sao thợ thuyền buôn
bán thời không thấy tới, mà
chỉ thấy lui; xài phí ăn tiêu thời chỉ thấy
thêm mà không thấy bớt, đã một mặt
thời quen nết tham thanh chuộng lạ, một mặt thời giử nết ở nể ăn
không; bể toan
khô nước mà ngồi đợi trời mưa, đèn toan hết dầu
mà nằm chờ trăng mọc.
Người ngu ngẩn đến thế, không chết rày thời chết mai, chỉ
e mấy tấm ván hòm
chưa dự bị bao giờ đă.ng. Tôi nghỉ đến nông nổi thế
mà khóc than cho vận mệnh
người nước ta, chúng bệnh về đường kinh tế nếu không lo
chạy chữa cho mau thời
nòi giống chúng ta chẳng tuyệt diệt về thủy hỏa, binh
đao, mà tuyệt diệt về đồ
ăn thức mặc! Ai là người có tâm huyết, chắc cũng
lấy lời nói làm đúng rồị Bây
giờ xin nghĩ một vị thuốc để chữa chứng bệnh nàỵ Vị thuốc ấy
là giải đấỷ Là vị
"Nội Hóa" Trình độ dân ta còn thấp
trí thức dân ta còn non, bảo nhờ
cậy việc công, việc thương, sẽ đấu mạnh đua giàu với
các nước, cái hy vọng đó,
ở ngày nay thiệt chưa có được ngay, song e tục ngữ
có câu rằng "Khéo ăn
thời no, khéo co thời ấm", đồng bào ta bây giờ
mà muốn cho được điều no,
điều ấm thời phải có một cách khéo mà
thôi.
Đường sanh lợi chưa có thể phát đạt được đến mười
phân thời đường tiêu xài phải
dè dặt từ một li, một mảy cần thứ nhứt là dùng nội
hóạ Đó thiệt là một vị cứu
cho chứng bệnh người tạ Đồ ăn ta; ta ăn, đồ mặc ta; ta mặc, đồ
dùng ta; ta
dùng, dầu mỡ máu mủ ta, ta bồi bổ cho ta, bớt một li của
ra tức là thêm một li
của vào, bớt một đồng tiền chết, tức là thêm một
đồng tiền sống. Nội hóa tiêu
dùng ngày càng chảy, thời các món
công thương nghề nghiệp cũng nhân đó mà cạnh
khéo đua khôn, đắp tư cơ sẽ tạo nên thời, đúc
trí tuệ sẽ gây nên thế, họa may
bụng đà khỏi đói, mà óc cũng thêm no;
dân sinh đã khỏi nỗi khốn cùng thời dân
trí cũng có cơ tấn bô.. Theo tạo nhân
mà tìm đường kết quả, cái việc chấn hưng
nội hóa đó chẳng phải là gấp lắm saỏ Vậy nên
trong bài thuốc tự lập phải có một
vị thuốc như sau này "Nội hóa" một vạn thức, kiêng
ngoại hóạ
14. Chương thứ mười bốn "Chữa chứng bệnh" "không biết thương nòi giống"
Người ta còn một chứng bệnh rất to, là chứng bệnh
"không biết thương nòi
giống ". Người ta mắc lấy chứng bệnh đó, chẳng những trái
hẵn tính loài
người, mà với các giống vật có một điễm trí
khôn cũng còn thua kém nữạ
Kể chứng bệnh ác độc thứ nhất, không gì hơn chứng
bệnh này: Kìa con ong vẫn có
nọc, mà ong ở chung một ổ không bao giờ cắn nhau; cọp vẫn
hay ăn thịt, mà cọp ở
chung một xứ không bao giờ ăn nhaụ Thường xem bầy kiến, nó
vẫn là một loài vật
rất nhỏ nhen, mà cũng có một điễm tốt rất lạ: nó ở
chung nhau một bộng, có hàng
trăm hàng ngàn con, một con đi ra thoạt thấy được mồi ăn,
thời tức khắc chạy về
tin cho anh em mình cả; tha mồi thời khó nhọc chia với
nhau, ăn mồi thời ngon
ngọt chung với nhau, không bao giờ được mồi mà ăn
riêng cả; lại có khi tránh
mưa trốn gió, dắt đoàn kéo lũ đi chung, con nhỏ,
con lớn, đoàn trước, đoàn sau,
dắt nhau đi không khác gì một đội quân
lính; chẳng may giữa đường có con nào bị
tử thương thời chúng kiến xúm nhau cõng nó
về hang, không bao giờ bỏ bạn chết
mà đi cả! Thế mới biết thương nòi giống, dầu loài
vật cũng có tấm lòng thành,
chung một máu mủ thời họa phúc chia nhau, nghĩa đồng
tO17; đồng sinh vẫn trước
sau một mực.
Vật còn như thế, người có lẽ thua nó hay saỏ
Quái ngán thay! Lạ lùng thay! Đến
người nưóc ta thời khác hẵn! Tục ngữ có câu
rằng: "Gà một chuồng bôi mặt
đá nhau!" lại có câu: "Kẻ chết đã xanh,
người nhăn nanh mà
cười!" lại có câu: "Đi ra tưỡng bắt trâu cò,
trâu cò không bắt, bắt
bò, bò ôi!", mấy câu thí dụ đó,
ngẫm nghĩ cho kỹ thiệt là về nết xấu của
người nước ta quá đúng rồi đó.
Ôi! Các anh chị em! Máu in nhau giọt đỏ, da in nhau
sắc vàng, đầu in nhau tóc
đen, mắt in nhau tròng mắt, giống
Tiên Rồng, nòi Hồng Lạc trãi qua mấy nghìn
năm mới có bây giờ con một họ, cháu
một giòng, nếu cứ như lẽ thường chắc máu ai thấm thịt
nấy, đánh đá thời đau đến
lòng gạch, chết thỏ thời sa nước mắt hồ; vẫn đạo trời có
thế mới đương nhiên,
mà tính người cũng có thế mới chính
đáng. Cớ sao mấy mươi năm gần đây tình hình
ở xã hội, cách hành động các anh chị em ta,
thương nhau, bênh nhau, chẳng bao
lăm người, mà ghét nhau, hại nhau thời không xiết
kê?? Rước voi dầy mồ ông vải,
cõng rắn về cắn gà nhà, việc đó thiệt bất
nhân vô đạo đã quá chừng, mà người
mình trở lại nhận làm khôn làm khéo!
Xin ai thử nghĩ, mồ ông vải trúc, mà voi có
ơn gì đến mình không? Một mai gió
mây biến hóa, dâu bể đổi dời, voi đã tan
xương, rắn cũng đứt nọc, các ngài lúc
bấy giờ đêm khuya mò bụng hỏi bóng thăm
hình, mồ tan hoang vì aỉ Gà nhao nhác
vì aỉ Mình còn mặt mũi nào thấy ông
bà ở dưới đất, trông cô bác ở trên đờỉ
Đau
đớn thay! Tội tình thay! Cái chút bệnh không
biết thương nòi giống đó, hú ba
hồn chín vía các ngài, nên thang
thuốc cho mau mới phải! Bây giờ tôi xin làm ơn
cho các ngài vị thuốc này: "Giống thân
ái" đó, vào trong lòng ngườị
Người v ` có hột giống ấy mới khai nên hoa, mới kết
nên quả, mà nòi giống người
mới sinh trưỡng vô cùng. Nếu lòng người mà
không có hạt giống ấy thời gọi rằng
"Lòng chết" .
Ông Lão Tử có câu: "Ai mạc đại ư tâm
tử", nghĩa là người ta lòng chết
không gì đau đớn hơn; nếu thiệt lòng người thời bao
giờ chết đặng! Lòng mà đến
chết, vì không hột "giống thân ái" mà
thôị
Đức Gia Tổ có câu: "Ái nhân như kỹ", nghĩa
là thương yêu người như
thương yêu mình. Đức Phật Tổ có câu: "Nhất
thiết từ bi", nghĩa là
không kể người không kể ta, nhứt nhứt luật thương yêu
cả.
Đạo Nho cũng có hai chử "Khiêm ái". Nhà
triết học Tây cũng chủ trương
hai chử "Bác ái". Xem chừng như những đạo lý
các thánh hiền nói đó,
thời hể chung một loài người dầu ai cũng nên thân
ái, huống gì chung một nòi
giống nữa ru! Nòi giống ta, ta thương yêu lấy nhau;
có cơm ta no chung, có áo
ta ấm chung, có nhà cửa ta ở chung, gặp việc vui ta vui
chung, vì hột giống
thân ái đó càng ngày càng nẩy
nở, hoa tự do nhân đó mà muôn tía
ngàn hồng, Nam
reo Bắc thổị Việc đồng tâm của 25 triệu nòi giống ta chắc
cũng do ta rày mai mà
trông được hẳn! Vậy nên ở trong bài thuốc tự lập lại
còn có một vị như sau này:
giống "thân ái". Hằng hà sa số hột, hột nào
càng chắc càng hay!
15. Chương sau hết Bài tóm cách làm việc
Các chứng bịnh đã chữa lành rồi bây giờ mới
tính cách làm việc.
Thứ nhất là phải có chủ nghĩa, thứ nhì là
phải có chương trình, thứ ba là phải
có kế hoạch. Có đủ ba điều đó thời việc mới
có thể làm nên.
Bây giờ xin giãi thích điều thứ nhất:
Hể phàm làm một việc, tất trước phải có chủ nghĩạ
Chủ nghĩa có tốt có xấu, có
phải có chẳng, Khi ta bắt đầu sắp sửa làm việc thời ta
phải hết sức kén chọn
Thấy chủ nghĩa gì đã tốt lại phải, thời ta phải giử chặc
chủ nghĩa ấy mà làm;
ví như bắn bia phải nhìn các trung tâm bia
cho chắc chắn; ví như vượt bể tất
phải dòm xét cái mũi châm phương hướng cho
kỹ càng. Trung tâm bia đó đã nhìn
được chắc chắn bắn mới không sai, châm phương hướng
đó xét được rành thời
thuyền đi mới không lỗị Người làm việc mà có
chủ nghĩa, đó là vào trường bắn mà
xem thấu bia, vặn máy thuyền mà định chắc hướng, Vậy
nên người làm việc, trước
hết phải kén chọn chủ nghĩa cho vững vàng. Bây giờ
lại giãi thích điều thứ nhì:
Khi sắp sửa làm việc thời kén chọn chủ nghĩa vẫn cần lắm;
nếu đã có chủ nghĩa
mà khi bắt tay vào làm mà không
có chương trình, thời như người đánh cờ mà
không tính suốt cả bàn, vội vàng lụp chụp,
thấy nước thời đi, nước sau đem lại
nước trước, nước trước đem lại nước sau, thời bàn cờ đó
tất nhiên phải thuạ Vì
vậy, làm một việc gì, tất phải định một cái chương
trình cho việc ấỵ Ví như
muốn đi một lối đường từ Huế ra Hà Nội, tất phải tính
toan từ khi bước chân ra
đi, cho đến khi tới Hà Nội, tiền đi xe lửa tốn hết bao
nhiêu, tiền đi ô tô hết
bao nhiêu, tiền đi xe tay và tổn phí ở trên
xe hết bao nhiêu, lại phải nghĩ
trước cả mọi điều, như giấy thông hành, giấy căn cước, đồ
hành trang, người đày
tớ, với giữa đường phải xuống ga nào; đến nơi thời trú
những nhà nào; vả lại,
khi giữa đường hoặc khi đến nơi, có điều gì trở ngại hay
không, thời phải tính
làm cách gì cho trơn chảỵ Lại như tiền tổn
phí, tất phải phòng dự, chớ "đo
bò làm chuồng", lỡ khi thiếu thời dang dở; việc
phòng bị tất phải sắp đặt
sẵn sàng, chớ "bắc nước đòi gà"; sợ khi gấp thời
không xong.
Người trỏ lối đưa đường phải lựa cho thập phần chắc chắn, chớ có
rước thầy mù
coi đất mà đến khi lỡ làng. Tính toán
các điều ấy đủ rồi thời ta định sẵn một
cái chương trình, việc gì trước ta làm
trước, việc gì sau ta làm sau, việc gì
lành ta theo, việc dữ thời ta tránh. Chương trình
chắc chắn, noi đó mà đi, có
sợ gì đi không tới nơi đâủ Bây giờ lại
giãi thích về điều ba: Hể phàm một chủ
nghĩa vẫn chính đáng, chương trình vẫn tinh tường,
còn một điều đáng lo là còn
sợ kế hoạch không được hoàn thiện, vậy nên cần
có kế hoa.ch. Ông Khổng tử có
câu rằng:
"Hiếu mưu nhi thành", nghĩa là làm việc phải
có tìm mưu mẹo, mà mưu
mẹo phải tìm cho đến chốn đến nơị Sách Binh thư có
câu: "Đa toán thắng,
thiểu toán bất thắng", nghĩa là tính toán
được nhiều nước thời ăn hơn,
tính toán được ít nước thời phải thuạ Ví
như hai người vật nhau một người sức
mạnh mà không có mẹo, một người sức yếu mà
có nhiều mẹo, thời người sức yếu
chắc ăn hơn. Cái mẹo đó, tức là kế hoạch;
mà trong khi tính toán kế hoạch, thời
phải đủ ba điều: một là cân nhắc về phần trí
khôn; hai là cân nhắc về phần lực
lượng; ba là cân nhắc về phần thời thế. Lựa trong ba điều
đó, mà tính toan bày
đặt cho đủ cả mọi đường, như làm một bài tính,
không bỏ sót một con số nàọ Đó
là kế hoa.ch. Việc thiên hạ đầu nhỏ đầu to, nhưng mỗi một
việc tất phải có một
kế hoạch; nếu kế hoạch được tinh tường chu đáo, thời có
việc gì là chẳng nên?
Nói tóm lại, làm việc phải có chủ nghĩa,
mà mình đối với chủ nghĩa tất phải hết
sức trung thành, thà là vì chủ nghĩa
mà giết mình, chẳng nên vì mình
mà giết
chủ nghĩa. Như ông Tôn Văn trót một đời người hết
sức trung thành với "Tam
Dân chủ nghĩa", thật là gương cho ta đó. Còn
ngoài ra như chương trình tất
phải châm chước cho kỹ càng, tổ chức cho hoàn
thiện, mà lại phải có kế hoạch
cho kỹ càng thời chương trình mới thực hành được;
nếu có chủ nghĩa mà không có
chương trình, thời chủ nghĩa không bao giờ thực hiện; nếu
có chưong trình mà
không kế hoạch thời chương trình không bao giờ
thành công. Vậy nên ở trong cách
làm việc phải cần có cả ba điều đó.
Lại còn có một lẽ người ta cần phải biết, biết
không thấu thời làm không xong.
Ông Tôn Văn có câu nói rằng "Tri nan
hành dị", nghĩa là biết được
rành thời khó; đã biết rồi mà làm
thời dễ. Nếu anh em làm việc cần phải biết
cho rành. Lại còn một tệ bệnh, người ta càng
nên biết lắm.
Thí dụ: Muốn lấy trộm một nhà ông giàu thời
làm thế nàỏ những khi bình thường
phải giả ngẫn giả ngơ, giả khờ giả dại, chớ cho ông nhà
giàu đó biêt mình là kẻ
trộm bợm. Vậy sau khi thực hành mới dễ được thành
công. Ông Lão Tử có câu nói
rằng: "Đại trí nhược ngu", Nghĩa là những người
khôn rất to thời phải
làm như hình người ngụ Lại có câu rằng: "Đại
xảo nhược chuyết", nghĩa
là những người khéo rất to, thời phải làm như
hình người vu.ng. Vậy nên những
người muốn làm việc, trước phải bồi dưỡng hai cái tinh
thần:
1 Tinh thần nín nhịn;
2 Tinh thần tránh tiếng.
Hay nín nhịn thời chớ có giận vặt với hung hăng những
thói vũ phu; hay tránh
tiếng thời chớ có bán tiếng mua danh, để cho những người
tầm thường không kể
mình là giỏi mới là haỵ
Sách Binh Thư có câu rằng: "Tịnh như xử nử, động
như thoát thố". Câu
trên nghĩa là: Khi ta hãy còn lặng lẽ, thời
êm đềm kín đáo như chị con gái chưa
lấy chồng ở trong một chốn buồng sâu, vẫn mình là
rất muốn lấy chồng, mà không
để cho ai biết". Câu nói đó là bày vẻ
cách kế hoạch cho người ta làm việc.
Câu nói dưới nghĩa là: "Khi ta hành động tất
phải nhìn theo thời thế mà
theo cho gấp, như con thỏ ở trong lồng mà được xổ ra, thời bổng
chốc mà chạy
rất mau, dầu ai lanh đến mấy cũng không có thể bắt được
nó". Câu nói đó là
bày vẻ cho cách người ta hành động. Cách
làm việc nếu được như hai câu nói đó
thời việc gì cũng thành công; nếu không được
như hai câu nói đó, thời việc gì
cũng thất bại.
Tuy nhiên, lại có một lẽ: Hể phàm tính việc
thời tất muốn thành công, mà đã có
gan làm việc thời lại phảI không sợ thất bại; bởi
vì, hể làm việc tất phải trải
qua một lối thất bại mới đến thành công.
Sách Tây có câu: "Thất bại là mẹ đẻ ra
thành công". Tục ngữ ta có câu
rằng: "Đứt tay mới hay thuốc", Vây nên những việc thất bại,
chính là
trường học thiên nhiên mà dạy bảo cho mình
đến thành công. Người ta chỉ sợ mình
không có gan làm việc, còn thất bại thời
không nên sợ gì; càng thất bại càng
làm, càng làm càng sinh ra khôn
khéo; trải qua một phen thất bại thời thêm ra
được một mối thành công. Vậy mới biết: Thất bại là
mẹ đẻ ra thành công, có thế
thật!
Chung
Cao
Đẳng Quốc Dân này.
Dẫn ngôn
Nước ta bây giờ đang cần có sách ho.c. Học
sách Tàu\? Hán văn đã không
còn
thích dụng ở đời naỵ Học sách Tây\? Pháp văn
còn chưa mấy người thông hiểu. Lấy
người mình đọc tiếng mình, thì sách nước
mình ở lúc bây giờ không gì hơn
làm
bằng quốc văn. Tuy nhiên việc làm sách đó
có dễ dàng đâu! Tất phải: dò xét lịch
sử của nước mình đời xưa, thăm dò tệ bệnh của nước
mình ngày nay, trông các
gương liệt cường ở hiện tại, đo tính vận mạng dân tộc ở
tương lai, nghĩ thế
nào, viết một chữ, mở một lời mà hữu ích cho
nhân tâm thế đạo, có thế sách mới
có giá trị...
Tôi viết quyển sách này, chẳng qua dâng một
phần nghĩa vụ với Quốc dân, hay dở,
đúng không, hoặc có công hiệu gì
không, thì quyền ở người đọc sách. Khổng Tử
nói:"Tri ngã giả, kỳ duy Xuân thu hồ, tội
ngã giả, kỳ duy Xuân thu
hồ" , nghĩa là ai biết lòng ta tất ở sách
Xuân thu, ai bắt tội ta tất cũng
ở sách Xuân thu. Quyển sách tôi viết
đây cũng nói như vậy.
Sào Nam,
1927
1. Chương
thứ nhất Nghĩa hai chữ "quốc dân"
Xưa nay người ta thường hay nói đến nước thì trước hết kể
vua, thứ nửa quan,
còn dân không bao giờ kể đến. nhưng đời bây
giờ thì khác thế! Bên Âu, bên Mỹ
cho đến Nhật Bổn, Trung Hoa ở Á Đông, họ không
nói đến nước thì thôi, thoạt nói
đến nước thì tức khắc nói đến dân, tai nghe chữ
Quốc dân, mắt thấy chữ Quốc
dân, miệng đọc chữ Quốc dân. Quốc dân! Quốc
dân! Hai chữ đó như hình cha cha mẹ
mẹ, không bao giờ quên.
Gần mấy năm đây, làn sóng Âu Mỹ tràn
vào nước ta, mà người bảo hộ ta lại là
người nước dân chủ, người ta trông có dân chủ
mà hai chữ quốc dân mới phãng
phất trong óc mình, nhưng miệng đọc hai chữ Quốc
dân mà hỏi nghĩa chữ Quốc dân
là sao chắc không ai trả lời đươ.c.
Chữ "Quốc" vì sao liền chữ "Dân", chữ "Dân"
vì
sao dính chữ "Quốc". Muốn trả lời câu hỏi đó, tất
phải theo lịch sử.
Sử nước ta đến đời Đường Nghêu mới có hai chữ "Việt
thường", đời nhà
Hán mới có hai chữ "Giao chỉ", đời nhà Đường mới
có hai chữ "Yên
Nam". Vậy từ đời nhà Đường Nghêu về trước, đã
có gì nên nước đâu, núi rậm
rừng hoang, đồng không mông hoạnh, bốn mặt chim kêu
vượn hót, một vùng nước bạc
đất vàng, xó này năm ba chú mọi, góc
nọ sáu bảy anh Lào, kể bộ lạc cũng chưa
nên gì, huống gì là nước\? Vì ai
gây dựng, vì ai mở mang, ai dọn đường, ai trổ
lối ai xẻ núi, ai đốt rừng, bỗng chốc núi rậm hóa
nên thôn cử đồng hoang gây
nên thành thị\? Đó chẳng phải ngìn vạn ức
những người tổ tiên cao tằng ta làm
nên ử Huống gì Quãng bình dĩ Nam Cao man dĩ
Bắc, xưa vẫn có đất, mà đất gì của
ta đâu\? Vẫn có người mà người gì của
nòi giống ta!
Nào Lâm Ấp, nào Chiêm Thành,
nào Mên nào Lạp, nếu không dân ta xưa
dắt đoàn kéo
đội, từ Bắc vào Nam, chải gió gội mưa, trèo non
vượt bể, khua nòi Chiêm, đuổi
bầy Lạp, hốt mấy nghìn dặm non sông mà bỏ
vào túi mình, thì cơ đồ gấm vóc như
sau này, chúng ta làm sao trông thấy được\?
Suy thấu lẽ ấy, mới biết rằng Quốc là Quốc của dân ta,
dân là ông chủ tiên
chiếm của Quốc ta. Xưa tôi làm quyễn "Hải ngoại huyết thư"
mà ông Lê
Đại dịch đã có câu rằng: "Nghìn muôn
ức triệu người chung hiê.p. "Gầy
dựng nên cơ nghiêp nước nhà. "Người dân ta,
của dân ta "Dân là dân
nước, nước là nước dân" Đọc mấy câu ấy thời nghĩa
"Quốc dân"
cũng đã rõ lắm.
Anh em thử nghĩ, trên dưới bốn nghìn năm, trong
ngoài ba mươi vạn dặm, biết bao
nhiêu giây máu hột mủ tuôn đổ ra cung cấp cho
nước đó, có một giọt nào là không
phải của dân ta đâủ Biết bao lũ trước đàn sau, dắt
díu nhau kinh dinh cho nước
đó, có người nào không phải dân ta
đâu! Vì vậy nếu không dân thì ai
làm nên
nước\? Nếu không nước thời còn quý gì
dân\? Linh hồn nước là đâu! hẳn là dân
đó! Khu xác dân ở đâu, hẳn là nước
đó! Quốc tức dân, dân tức Quốc, hai chữ
"Quốc dân" không thể rời nhau đươ.c. Nghĩa hai chữ "Quốc
dân" là thế.
2. Chương
thứ hai Quốc dân với gia nô
Đau đớn thay!
Thãm hại thay! Địa vị mình quốc dân mà chưa
từng một ngày nào được chịu cái ơn
giáo dục cho làm quốc dân; thân phận
mình quốc dân mà chưa từng một ngày
nào
được hưỡng cái quyền lợi quốc dân.
Tục ngữ có câu: "Dân như trùn như dế" lại
có câu thường nói:
"Dân như gổ tròn", điều đó suốt xưa nay, khắp
Đông Tây không một dân
nước nào như dân nước ta cã. Vì sao\? Hay
là trời cách chức quốc dân của nước
mình rồi chăng\? Hay là người nước mình
không đang nổi cái chức quốc dân
chăng\? Hai lẽ tất có một . Đạo trời rất công, lòng
trời rất nhân ái, người
nước nào cũng là con trời cả, trời vẫn xem làm
bình đẵng, trời có thương riêng
gì dân nước Pháp, nước Anh, nước Mỹ, nước Nhật
Bản\? Có ghét riêng gì nước ta\?
Cái chức Quốc dân này, có lẽ nào trời
cho ở họ mà cướp mất ở ta\? Vậy thời cái
chức làm Quốc dân vẫn là trời thưỡng cho ta
đó, nhưng tội tình thay! Trời vẫn
ban cho ta mà ta không biết vâng chịu! Xem lịch sử
nước ta từ xưa đến nay hơn
ba nghìn năm chỉ có gia nô mà không
quốc dân thâ.t. Quyền vua quá nặng, nặng
không biết chừng nào; gia dĩ quyền quan lại hứng đở quyền
vua mà tầng tầng áp
chế, từ cửu phẩm kể lên đến nhất phẩm, chồng càng cao,
ép càng nặng đến dân là
vô phẩm, thân giá lại còn gì. Thằng
này là con ngựa, thằng nọ là con trâu, buộc
cương vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách
vào thì cúi đầu cứ lủi, gặp Đinh thời làm
nô với Đinh, gặp Trần thời làm nô với Trần, gặp
Lê Lý thời làm nô với Lê Lý,
phận con hầu với thằng ở, được đôi miếng cơm thừa canh thải thời
đã lấy làm hớn
hở vinh quang, tối năm đứng đầu ruộng mới được bát cơm, suốt
đêm ngồi trên bàn
khung cửi, mới có tấm áo mặc, mà thoạt mở miệng ra
thời chỉ nói rằng "cơm
vua áo chúa", đồn điền nầy sông núi nọ, mồ
hôi lẫn nước mắt mà cày cấy mở
mang, nhưng mà "chân đạp đất vua", lại giử chặt một
câu hoạt kê vô
lý. Than ôi! Cái tư tưởng gia nô! Bệnh gia
truyền làm nô đó không biết tự bao
giờ để lại cho chúng ta, bắt ta phãi gông đầu
khóa miệng, xiềng tay xích chưn,
mà chịu gánh gia nô cho già đời mãn
kiếp! Đau đớn thật! Thãm hại thật! Anh em
ôi! "Dân vi quý" là câu nói của
ông Mạnh Đại Hiền, "Dân vi ban
bản" là câu nói của ông thánh Hạ Vũ
hai người đó có phải nói lừa ta đâi\?
Ta ngu, ta ngẫn, ta hèn hạ quá chừng!
Mình ta sang trọng nhứt là cái quốc dân
mà ta bỏ xó đi không nhắc tới, khăng
khăng chỉ ôm lấy cái phẩm hàm gia nô
làm vinh quý; Ôi! phẩm hàm làm
gì anh em
ôi! Nhà giàu phỉnh thằng ở thời vất cho một hai
đồng tiền, nhà vua phỉnh đứa
dân thời vất cho một hai trương giấỵ Nhưng nghĩ cho ra kỹ, thời
một đồng tiền
của nhà giàu phỉnh ta đó mà thân
giá ta vẫn còn, đến như một trương giấy của
nhà vua phỉnh ta đó, thời thân giá ta
đã ô hô, ai tai rồi hẳn. Lại còn khi rủi
gặp cơn dâu bể đổi đời, tờ giấy của nhà Đinh trải qua
nhà Lý thời đã không đáng
một xu, tờ giấy của nhà Lý trải qua nhà Lê
hoặc nhà Trần thời cũng không ai ngó
đến, huống gì vì một trương giấy đó mà quỳ
mòn đầu gối, lạy lắm cả cằm râu, lại
phải vất vô số máu me, ép vô số dầu mở cung
cấp cho nhà ai mới hủ hỉ được một
trương giấy đó, thời còn gì vinh quý nữa
đâu! Gia nô! Gia nô! Cái oai kiếp đó,
từ đây nên sám hối là phải.
3. Chương
thứ ba Quốc dân nên tự lập
Ô hô gia nô! Ô hô gia nô! tủi
thân vai ngựa lưng lừa, một kiếp gia nô biết bao
giờ là thôỉ Câu hỏi đó là một
câu hỏi rất thiết ở đời bây giờ. Tôi xin trả lời
rằng:"Gia nô nay đã biết thân, thời lo gánh
chức quốc dân mới là".
Gia nô là thằng ở của một nhà, Quốc dân
là ông chủ của một nuớc, một bên thì ty
tiện rất mực, một bên thì cao quý rất mực, mắt
còn chưa mù, miệng còn nói được
thời chắc cũng muốn lấy phần cao quý mà bỏ phần ty tiện.
Ham cao quý mà chê ty
tiện là gốc tự tấm lòng lương tri của chúng tạ
Người xưa có câu
rằng:"Vương giã dĩ dân vi thiên", nghĩa là
dầu ông vua cũng phải xem
dân bằng trờị Vậy thời không gì cao quý hơn
dân hẳn. Nhưng với cái chúc Quốc
dân đó, chúng ta đã ngu hèn dại dột,
bị ai cướp bóc những tự bao giờ, nay muốn
khôi phục lại cái chức quốc dân, chúng ta
phải gấp lo thế nào mới được.
Chức Quốc dân đó ta muốn khôi phục lại, có lẽ
xin xõ với ai mà được rủ Xin với
trời, thời trời vẫn cho ta tự bao giờ, không cần xin nữạ
Sách Tây có câu: mình
hãy tự giúp lấy mình, thời trời giúp cho
(aide-toi, le ciel t’.aidra). Sách
Đông Phương có câu:"Dân ta muốn điều
gì, trời vẫn nghe theo điều ấy".
Nếu đạo lý ấy mà thật, không cần gì xin ở
trời.
Hay là xin ở người mà được rủ Lòng beo dạ
thú, mắt ó miệng hùm, người thế giới
đời bây giờ không ai thương ta hẳn. Nếu một mai mà
ta lấy chức quốc dân quốc
dân ta lại, thời ách cổ trâu, cương đầu ngựa, tức
khắc phải giải phóng cho ta
ngaỵ Lòng tham dục họ lấy gì đầỷ Tay
hung tàn họ lấy gì
sướng. Nào xe, nào ngựa, nào lầu, nào
đài, nào vợ đẹp hầu non, nào của ngon vật
lạ: những giống ép nặn máu mủ ta mà được
đó, lấy gì như ý sở cầủ Ta một ngày
thoát ngục gia nô thời nó một ngày đổ nền
phú quý, nếu ta rày xin may xõ, lưỡi
rát cổ khan, chúng nó có ân thưỡng
cho ta chỉ qua "ngọn roi" và
"ngòi bút", có đời nào mà
chúng nó đem chức quốc dân cho ta đâụ Huống
hố chức quốc dân là chúc sẵn trời ban cho ta, ta
lấy lại thời còn, ta bỏ đi
thời mất, không cần ai cho, mà ta cũng không cần
gì xin ai cả.
Ôi quốc dân! Ôi! quốc dân! Cái
chúc đó là chức rất cao quý của
chúng ta, vẫn
không ai cách được, mà cũng không ai cho
được, chỉ cốt ở lòng ta cầu, vai ta
gánh, tay ta đỡ, sức ta đua trí khôn ta tìm
tòi, quyết lấy được mà thôị
Thiệt là : "Của ta, ta cậy gì ai Gánh ta ai
có nghiêng vai đỡ
cùng".
Vậy nên tôi nói rằng: Quốc dân nên tự
lập.
4.
Chương thứ tư Bài thuốc tự lập có những vị gì?
Muốn cho quốc dân hay tự lập, trước hết phải biết tệ bệnh của
quốc dân ta những
điều gì. Có biết tệ
bệnh quốc dân ta vậy sau chứng nào thuốc ấy mới bày
ra phương tự lập được. Bây
giờ tôi xin kể những tệ bệnh của quốc dân:
1. Tính ỷ lạị
2. Lòng giả dốị
3. Thói nhút nhát.
4. Tham lợi riêng.
5. Đua những việc hư danh vô vị
6. Không lòng thực yêu nước.
7. Không biết nghĩa hiệp quần.
8. Mê tín những tục hủ cổ.
9. Không biết đường kinh tế.
10. Không thương nòi giống.
Những bệnh đó muốn chữa cho lành, phải theo bệnh
nguyênmà trị cho đến gốc. tôi
xin kê bài thuốc như sau này:
1. Khí tự cường: nặng vô số ki-lô-gờ-ram (kg)
2. Lòng thành thực: mười phần già.
3. Gan quả quyết: hai lá thực lớn
4. Lòng công ích: một tấm rất dày
5. Vai thực nghiệp: một gánh càng nặng càng haỵ
6. Bụng nhiệt thành: mười phân luyện chín.
7. Giãi đồng tâm: một dây càng kiên
thực càng tốt.
8. Trí thúc mới: 100 phân, trộn vào "hoa tự
do" không kỳnhiều ít.
9. Nội hóa: một vạn thức: kiêng ngoại hóa
10. Giống thân ái: hằng hà sa số, hột nào
càng chắc càng haỵ
Hiệp cả bài như trên kia, tổng cộng 10 vị, bài
thuốc đó là hiệp cả Đông Tây lại
một lò, hòa cả tân, cựu làm một tể,
dùng làm thuốc tự lập, chắc là không
bài
nào hơn.Anh em ta muốn biết cái ý dụng được,
tôi xin kể vị thuốc nào chứng ấy
như sau:
5. Chương
thứ năm Chữa chứng bệnh "tính ỷ lại"
Bệnh người nước ta, kể có 10 chứng , tôi đã
nói như bài trên kia mà thăm xét
cho ra chúng gì nặng thứ nhất thời có một chứng
gọi rằng "ỷ lại
tính".
Ỷ lại tính như thế nàỏ Tục ngữ có câu rằng "
Tháp đổ có Ngô xây, việc gìvợ
góa lo ngày lo đêm". Xem như câu ấy thực
đáng nực cười! Tháp đó là tháp
của ta, ta không xây được hay saỏ Nghễnh đầu nghểnh cổ
trông ngóng vào Ngô, nếu
Ngô không xây thời vạn tuế thiên thu chắc
không bao giờ có tháp. Kìa người vợ
góa thấy tháp đổ mà lo ngày, lo đêm,
vẫn là một người có tâm huyết, mà lại bị
những món bàng quan kia mỉa mai chê trách,
thế thời những người đứng xung quanh
tháp đó, tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng
dòm, chém cha món này, nghiễm nhiên
là một đống bồ nhìn rồi hẳn? Hỏi vì can cớ
làm saỏ
Thời chỉ ỷ lại mà thôị Câu tục ngữ ấy thiệt vẽ
đúng tâm tính của người nước tạ
Hai muơi triệu người, ai nấy cũng mắt cũng tai, cũng tay chân
mày mặt, nếu ai
cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của
mình thời có gánh gì không cất nổỉ
Nhưng tội tình thay! Anh nào chị nào trong
óc cũng chất đầy một khối ỹ lại: anh
Cột trông mong vào chú Kèo, cô Hường
trông mong vào thiếm Lục, lại chắc chắn có
anh Cột cô Hường rồị Rày lần mai lửa, tháng đợi năm
chờ, kết cục không một
người làm mà cũng không một người phụ trách
nhiệm. Thế thời 25 triệu người, kỳ
thực thời không người nào cả.
Chao ôi! Ma bệnh tính ỷ lại không xua đuổi cho sạch,
còn mong có nòi giống ta
nữa đâu! Bây giờ muốn chữa bệnh ỷ lại đó, tất cần
phải dùng một vị rất quý
trọng đem dùng chửa bệnh tính ỷ lại chắc kiến hiệu như
thần. Tên vị thuốc này
gọi rằng "khí tự cường". Khí tự cường đó
không phải vay mượn cùa ai
đâu: khi trời đất inh ra ta thời phải phú dữ cho ta một
vừng chính khí. Xưa
thầy Mạnh Tử có câu nói rằng:"chí đại,
chí cường", bốn chử đó tức là
khí tự cường của tạ Xương sắt, gan đồng ngang tàng 7
thước, đã mang tiếng ở
trong trời đất, phải có danh gì với núi
sông. Ta chẳng phải là người hay saỏ Cớ
gì người mạnh mà ta hèn? Người vinh mà ta
nhục? Người chủ nhân mà ta nô lệ? Ta
chẳng oan uỗng kiếp người lắm ru! Thôi cái tội tự bạo, tự
khí, ta quyết rửa
sạch cái vết nhơ này mới thôị
Ỷ lại mà chi! Ỷ lại mà chi! Ta quyết tự cường cho
chúng mày biết. Xin các anh
em! Xin các chị em! Ai nấy cũng nhức nhối tinh thần, rán
vai nong cánh, đồng
một lòng, đều một sức, mình sắp lấy núi sông
mình, tháp mình mình xâỵ Khí
tự
cường đã đầy đủ như thế, thời ma bệnh tính ỷ lại
còn dám dùng dằng nữa đâủ
Vậy nên bài thuốc tự lập, vị thứ nhất phải dùng
khí tự cường nặng vô số
ki-lô-gờ-ram.
6. Chương
thứ sáu Chữa bệnh "giả dối"
Bởi vì có tính ỹ lại mới nảy ra các chứng
bệnh nữa: một chứng là hay giả dốị
Xưa Đức Khổng Tử có câu: "Dân vô tín
bất lập" nghĩa là người không có
thành tín thời không có thể nào đứng
nổị Sách Tây có câu: "Tin thực là một
cục vàng vô giá", nghĩa là người ở đời
không có gì quí trọng hơn tin thực.
Quái gở cho người nước ta thời lại đua nhau giả dối!
Tục ngử có câu "Trăm voi không được bát nước
xáo" lại có câu
"Mười thóc không được một gạo" Xem đó mới biết
tính chất người nước
ta, chứng bệnh giả dối là một chứng rất nặng: Sĩ hay giả dối
thời tìm tòi đạo
lý, không cậy óc mình mà cậy tai;
nông hay giả dối thời cày cấy ruộng trưa,
không cậy mình mà cậy đất; công hay giả dối
thời phấn sức lừa đời mà không cầu
thực dụng; thương hay giả dối thời đua nhau bợm vặt mà mất cả
lợi tọ Thậm chí
mướn đạo đức làm lối cầu danh mà chá vàng ở
ngoài mặt; mướn nhân nghĩa làm mồi
câu lợi mà xức mật ở đầu môị Chẵng những
ngoài đối với xả hội, trên đối với
quốc gia, gốc cây trăm năm đã bị con mọt giả dối kia đục
đổ, bức thành muôn dặm
đã bị con mọt giả dối kia xoi tan, mà lại trong đối với
một nhà, dưới đối với
một mình cũng mắc con ma bệnh giả dối đó đục thấu cao
hoang, khoét vào cốt tủỵ
Tay dối lòng, miệng dối dạ, ăn bánh vẻ mà toan đầy
bụng, mặc áo giấy mà đi với
ma, kết quả không việc gì là thật. Bệnh giả dối
đó mà không chừa, còn mong gì
nước ta phú cường được? Xưa nay đất tốt mới vắt nên
khuôn, đồng tốt mới vắt nên
tượng, người tốt mới làm nên sự nghiệp lớn, mà
lòng tin thực đó là chất rất tốt
của con ngườị Lời tục ngữ có câu: " ngay thật mọi tật mọi
khỏi".
Sự ngay thật đó là bộ xương sống của thân thể
người; nếu người không có xương
sống mà muốn tay chân đẹp đẽ mạnh mẽ, có lẽ
nào được? Vậy nên muốn làm người
tốt cần thứ nhất là lòng thành thực. Nói
một tiếng tất thành thực, dầu ngoài
muôn nghìn dặm, mà lời vàng ngọc không
bao giờ phai; làm một việc tất thành
thực, dầu trải mười trăm năm mà dạ sắc son không bao giờ
dời đổị Mình đã dốc
một lòng thành thực như thế thời phẩm hạnh mình
càng ngày càng chắc, thanh giá
mình càng ngày càng cao, ngưòi ta
tin dụng mình ngày càng nhiều, mà thế lực
mình lớn thời có việc gì không làm
nên. Vì vậy trong bài thuốc "tự
lập" cốt ở chữa chứng bệnh giả dối, tất phải dùng vị thuốc
này: "Lòng
thành thực" mười phân già.
7. Chương
thứ bảy Chữa chứng bệnh nhút nhát
Bệnh giả dối đã chữa lành rồi, nhưng còn có
một chúng bệnh nữa là thói nhút
nhát. Chứng bệnh đó chữa không lành thời
người mạnh hóa người hèn, người khôn
hóa người dại, trăm việc gì ưu thắng nhượng cho người
mà mình cam chịu về đường
liệt bại; biết việc nên nói mà tiếng không
dám hở môi, biết đường nên đi mà một
bước không dám ra khỏi cửa, miệng hùm gan sứa,
thiệt là những bọn anh hùng hào
kiệt của nước ta, mà huống chi những kẻ thôn quê
hèn hạ đó còn maong gì với
chúng nó bàn việc to lớn được?
Xưa ông Hải quân đại tướng nước Anh là Nốt Nhỉ Tốn
có nói: "Trong pho tự
điển của người giỏi không bao giờ viết chử khó." Người anh
hùng nước Pháp
là ông Nã Phá Luân có
nói: "Kìa chử khó đó chỉ thấy trong pho tự
điển của
người ngu mà thôi". Tục ngử ta cũng có câu:
"Có gan thời chọi với
trời", lại có câu hát: " Đố ai lượm đá quăng
trời, đan gàu tát bể,
mới người khôn ngoan". Xem mấy câu nói đó
thời thiên hạ có việc gì khó đâủ
Mà thế thật. Ta có gan xuống vực thời thuồng luồng phải
sợ ta; ta có gan vào
rừng thời hùm beo phải kiêng tạ
Hùm beo với thuồng luồng chỉ bắt nạt được những người
nhát gan mà thôị Bây giờ
người ta chưa thấy bóng thuồng luồng mà đã rỡn ốc,
chưa nghe tiếng hùm beo mà
đã rùng mình!
Ôi! nước ta là một nước thỏ hay saỏ Rụt rụt rè
rè, sợ đầu sợ đít, còn có gì
là
tư cách con người nữa rủ Bệnh nhút nhát còn
đeo lấy một ngày, thời công việc tự
lập tự cuờng không một ngày nào cất nổi, mà
muốn chữa chứng bệnh đó, thời phải
dùng vị thuốc này mới hay: vị thuốc gan quả quyết.
Xưa nay những người can đãm cũng phải luyện tập mới nên,
mà khi đầu luyện tập
thời phải có một tấm gan quả quyết. Toan vượt núi thời
chớ thấy núi mà gớm cao;
toan qua sông thời chớ thấy sông mà ghê
sông rô.ng.
Bao nhiêu nguy hiểm, ta kể cho là sự rất thường; bao
nhiêu khó khăn ta kể cho
là sự rất dể. Bước con đường muôn dặm phải cậy tấm gan quả
quyết đó làm roi
ngựa, máy xe, dầu chông gai mà quản gì.
Đã có tay chân ta đó, nhứt chết nhì
sống, còn mình thời việc ấy chắc phải xong, có sợ
gì mà nhút nhát? Vậy nên
trong bài thuốc "Tự lập", phải dùng một vị như sau: "Gan
quả
quyết" hai lá rất lớn.
8. Chương thứ tám Chữa Chứng Bệnh "Tham Lợi Riêng"
Lại có chứng bệnh nữa là chứng bệnh "Tham lợi
riêng".
Chứng bệnh ấy, người các nước tuy có ít nhiều,
nhưng người nước ta tất cả 25
triệu người, ai nấy cũng trúng bệnh ấy đó. Tục ngữ
có câu "cơm ai đầy nồi
ấy", lại có câu "Thử thân bất độ, độ hà
thân", lại có câu rằng
" con vua, con dấu, con chậu chậu yêu". Đọc bấy nhiêu lời
thời biết
rằng: trong ruột người nước ta, viết dọc viết ngang, vạch xuôi
vạch ngược, chỉ
một chử "tham" mà ở trong chử "tham" chỉ có vài
nét
"Lợi riêng" là vừa hết bút mực. Xưa cụ Uy Viễn
có câu rằng:
"Tiền tài hai chủ son khuyên ngược,"
"Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi"
Mười bốn chủ
đó, thật là
vẽ đúng tâm tính người nước tạ Than ôi!
cái lòng tham dục mà muốn cho như ý,
mới nảy ra kế mưu, vì kế mưu mà muốn cho thành
công, mới nảy ra sự nghiệp. Tục
ngữ có câu: "muốn ăn hoét phải đào
trùn", nhất thiết việc đời đều ở
lòng tham dục, bảo cấm tham tuyệt dục không có lẽ
thiệt! Ôi! Các anh em! Các
chị em! Tôi vẫn không cho các ngài biết tham
biết dục. Thà không tham, nếu tham
thời tham cho lớn; thà không dục, nếu dục thời dục cho
hàọ Xưa ông Đế Nghêu
muốn thiên hạ làm của chung mà bỏ ngôi vua
của mình, vì vậy nước Trung Hoa bây
giờ xưng ông Nghêu là đại thánh. Ông
Hoa Thịnh Đốn muốn nước Hoa Kỳ thành một
nước dân chủ, mà bỏ ngôi phú quý của
mình, vì vậy nước Hoa Kỳ bây giờ còn gọi
ông Hoa Thịnh Đốn là "Quốc Phụ". Kìa hai ông
đó há phải không tham
đâu, nhưng tham dục về cái lợi chung của ức muôn
người, thời tham dục càng to,
làm lợi ích cho loài người càng lớn, nhờ
tham dục của một người đó mà gió xuân
mưa hạ tràn trề khắp bốn bể năm châu, đội đức mang ơn
dài đặc đến thiên thu vạn
thế. Tham dục mà được như những bậc người ấy, ai bảo rằng tham
dục là dở đâủ
Đau đớn thay cho những người nước ta, trước mắt không bao giờ
thấy lợi chung,
trong óc không bao giờ có tư tưởng cao thượng,
túi chất đầy tham, mà tham tột
mực, chẳng qua là nghiện hơi đồng, hối vẫn đầy dục, mà
dục kỳ cùng, chẳng qua
là hầu xác thịt, kết quả đến nổi hy sinh hết lương
tâm thiên lý mà làm nô lệ
cho những món tư tình; vì lo sung sướng cho vợ,
vì lo sung suớng cho con, vì lo
sung sướng cho thân mình, suốt đêm suốt ngày
hết khôn hết khéo, nhưng chắc rằng
núi đồng không bao giờ lở, cây tiền không bao
giờ lá rụng hoa rơị Nào hay
"Nhứt đán vô thường vạn sự hưu", của cải tiền tài
không thể nào vào
tay người chêt; vợ vì sẳn của mà vợ hóa
nên vợ hèn, con vì sẳn của mà con hóa
nên con dại, tiền bạc hóa ra của phá nhà,
ruộng vườn hóa ra mồ chôn sống, chẳng
những nhân quần xã hội không lợi ích một
tí gì, mà chính giữ thân với gia cũng
lợi chưa xong mà hại đã tớị Ấy là tử chứng của
những người tham lợi riêng đã
rành rành rồi đó. Người ta mắc bệnh đó gần
đây càng ngày càng nặng thêm, nếu
không gấp chữa cho mau thì nòi tuyệt giống
mòn, không thể nào cứu được. Tôi xin
vì đồng bào dâng một vị thuốc này gọi rằng
"Lòng công ích".
"Lòng công ích" là cầu sự lợi ích
chung cho xã hội, mà cầu lợi chung
xã hội tức là lợi ích cho mình. Đạo
lý đó chẳng phải nói không đâụ Những
người
có tai mắt, có ruột gan chắc cũng hiểụ Bao bọc chung
quanh mình là xã hội, nhờ
ơn xã hội mới có thân mình, mình ăn
thóc thời nhờ có người cầy, mình mặc áo
thời có người dệt, mình cần có công
dùng thời phải nhờ người người thợ thuyền, mình
cần có giao thông thời phải nhờ người buôn
bán; nếu một ngày không xã hội tức
một ngày đó không thân mình. Vun trồng
cho xã hội sung sướng vẻ vang thời chẳng
những một thân mình đã hưỡng hạnh phúc
chung, mà con cháu mình sau cũng sung
sướng chung mãi mãị Vậy thời cái lòng
công ích đó, thật là một phương thuốc
trường xuân bất lão cho người tạ Vậy nên trong
bài thuốc tự lập, phải có một vị
nầy: "Lòng công ích" một tấm rất dàỵ
9. Chương
thứ chín Chữa Chúng Bệnh Đua Đuổi Hư Danh
Còn một chúng bệnh nữa là chứng bệnh người ta hay
đua đuổi theo cái hư danh vô
vi..
Muốn chữa cái chứng bệnh đó thời trước phải giải quyết
một số vấn đề như sau
này: Lòng tham người ta chỉ có hai hạng: một
là lợi, hai là danh.
Danh nên tham hay không? Bảo rằng không nên
tham thời từ xưa đến nay không
người thánh hiền hào kiệt nào mà
không thành danh cả. Sách truyện có
câu:
"Đạo đức giả tất tất đắc kỳ danh", nghĩa là những người đạo đức
lớn,
nhứt định được cái danh dư.. Thế thời danh có phải
không nên tham đâu! Bảo rằng
nên tham ử Thời từ xưa đến nay, những người phấn sức hư danh, kết
quả hữu danh
nhi vô thực, chẳng những không lợi ích gì cho
xã hội, mà cũng không thêm được
giá trị cho mình tạ Thế thời danh có gì
đáng tham. Nói cho đúng lẽ, danh vẫn
đáng tham, mà cũng không đáng tham. Cớ sao
thế? Bởi vì danh có nhỏ, có lón,
danh có gần có xa, danh nhỏ và gần, như lữa lốm
đốm đầu hôm, tiếng ve ve khi
mùa hạ, vẫn cũng lập lòe chòe choẹt ở trong một
lúc, nhưng chẳng bao lâu thời
tắt ngay; danh lớn và xa thời như sấm mùa xuân, nhu
bóng thái dương mùa hạ,
vang một tiếng mà lừng lẫy cả năm châu, dọi môt tia
mà chói chang khắp bốn bể.
Người ta thử cân nhắc hai đường danh đó thời danh
gì đáng tham, danh gì không
đáng tham. Không cần phải nói nữa.
Bây giờ tôi chỉ bệnh người nước tạ Tục ngữ có
câu: "Tiếng lành đồn xa,
tiếng dữ đồn ba ngày đường" lại có câu rằng: "Cọp
chết để da, người
ta chết để tiếng". Xem những câu đó thời danh vẫn
nên quý, người ta cũng
biết dư rồị Nhưng tội tình thay! Óc tí ti như
óc dơi, mắt ti hí như mắt muỗi,
ngoài buồng the bếp núc, vẫn không biết gì
là nước non, trừ sọ bò đầu lợn không
biết gì là rồng rắn, mà huống gì vết xấu
trong gia đình, thói hư ở xã hội gắn
sâu buộc chặc, trải mấy ngàn năm ông Nghè
ông Cử đã tràn đất chó rơm, mà
ông Đốc
ông Tham lại đầy phên rồng vẽ. Đoàn thanh niên
cho đến phường tân tấn, đua danh
cạnh giá, chẳng cu li thượng đẵng, thời nô lệ tối ưu, ức
chưa rời nôi mà đã ưu
mề đay, kim khánh, mệng chưa ráo sữa mà đã
lóc lẽm những thẽ bạc ngà. Ôi! thế
là vinh danh, đáng quý hóa hay sao?
Anh chị em sao không nghĩ, đội mảo mo cho khỉ, mặc áo giấy
cho ma, những giống
ấy là rặc giống của người phỉnh phờ ta, chẳng những không
vinh gì, mà thật là
một cái gương sỉ nhục. Anh gì mà danh như thế,
còn gì đáng quý nữa đâu . Gông
đầu khóa cổ, núi sông đã mãn kiếp
ngựa trâu, mỏi gối chân chồn, cây cỏ cũng
chán vai tôi tớ, thế mà còn bằng sắc, sắc
bằng gì? Thế mà còn hàm, thế mà
còn
phẩm, phẩm hàm gì? Người ta bỏ đi mà ta lượm lấy,
người xem làm rẽ rúng mà ta
xem làm vinh hoa! Óc khôn ngoan ta đi đâủ
Chí khí ta ở đâủ Xin các anh chị em,
chứng bệnh đua hư danh đó, ta phải gấp chữa lành mới
được.
Muốn chữa chứng bệnh đó, thời phải có một vị thuốc rằng
"vai thực
nghiệp".
Thực nghiệp là những giống gì? Là nghiệp
nông, nghiệp công, nghiệp thương,
nghiệp sâm lâm, nghiệp lục súc, nghiệp ngư
diêm, nói tóm lại là nghiệp lao
đô.ng.
Lao động về nông, nông siêng thời gạo thóc đầy
đủ; lao động về việc công thời
công siêng mà nghề nghiệp mở mang; lao động về việc
thương, thời thương siêng
mà giao thông phát đạt, còn ra các
việc hể lao động hết bổn phận thời việc nào
việc ấy chắc cũng được thành công. Các nước
Âu Mỹ bây giờ, những người quý
trọng là rặt những người rất cần khổ, đắp nền danh giá,
tất lấy thực nghiệp làm
gốc, mở bể phú cường, tất lấy thực nghiệp làm nguồn. Thủ
xem nước Hoa Kỳ mới
đây, những người rất hữu danh rặt là nhà thực
nghiệp; ông Hỏa du đại vương, ông
Thiết lộ đại vương, ông Ngân hàng đại dương, những
người đó là nhà thực nghiệp
lớn. Vì thực nghiệp lớn nên tư bản nhiều, vì tư bản
nhiều nên cất nổi những
việc công ích lớn. Vì vậy mang ơn đội đức, khắp cả
muôn người, trổi tiếng vang
tăm nghe khắp cà vạn quốc.
Lời cổ ngử có câu rằng "Hữu thực dã danh tất qui
chi" nghĩa là những
người có việc thực thời danh tất đến chọ Người ta nếu biết thấu
đạo lý ấy, thời
hư danh còn đua đuổi làm gì! Bắt cân
công lý mà cân, một li thực nghiệp quí
trọng hơn một đồng hư danh, người ta xưa nay quen thói dã
man, đua tuồng huyền
ảo, giấc chiêm bao lợi lộc, ngày tháng say mê
tuồng trò rối hư vinh, trẻ già
hớn hở, những mua chuốc hư danh đó, hao biết bao nhiêu
tiền của, những trau
chuốc cái hư danh đó, tốn bao nhiêu thời giờ,
mà hư danh càng ngày càng múa
men, thời tướng thực nghiệp không bao giờ xuất thế. Kết quả
dân ngày càng nghèo,
nước càng ngày yếu, nòi giống mình
càng ngày càng đê tiện, mà giá
trị người
mình cân đi nhắc lại chỉ có "thân bồi phận
bếp" mà thôi, việc đáng
khóc đáng than, không gì hơn thế! Anh chị em
ta, nếu một mai tỉnh giấc mê, thay
lốt cổ, những tiền của mua hư danh đó, xây nền thực nghệp,
những thời giờ đuổi
hư danh đó dùng vào trường thực nghiệp, thực
nghiệp đã phát đạt thời nền móng
phú cường đã vững bền; giá trị người lao động nước
ta chắc cũng có một ngày
lừng lẫy tiếng tăm cùng thế giớị
Tục ngữ có câu rằng: "Trăm năm bia đá vẫn
mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn
trơ trơ". Người nước ta nếu biết tham danh thời không gì
đáng tham hơn thế
nữạ vậy nên bài thuốc "Tự Lập" lại phải gia vào một
vị như sau này:
"vai thực nghiệp" một gánh càng nặng càng hay.
10. Chương thứ mười Chữa chứng bệnh "ái quốc giả"
Chứng bệnh hay giả dối là chúng bệnh chung của người nước
ta, mà ở trong chứng
bệnh đó lại có một chứng đặc biệt là ái
quốc giả.
Gần mấy năm nay, cuộc Âu chiến cũ vừa xong, mà cuộc "thế
giới đại
chiến" mới đã toan gây núi, chủ nghĩa quốc gia
bành trướng cực điểm, người
nước ta bây giờ, ngoài thời bị làn sóng thế
giới xô đẩy, ngủ không thể nào yên
trong thòi bị dây sắt cường quyền trói đau,
mà sống không thể nào khõẹ Lúc bấy
giờ những bạn thiếu niên với phường học mới, cho đến những người
ngủ say quá độ
mớI đánh thót ở trong giấc chiêm bao; thấy con em
mà đau đớn cho kiếp ngựa thân
trâu, trông non sông mà ngậm ngùi những
ngày mưa sầu gió thảm.
Tiếng hai chử "Ái quốc" mới văng vẳng ở bên tai người ta,
hồn ái quốc
tuy còn dở tỉnh dở say, mà bóng ái quốc
đã nửa mờ nửa tỏ, nào là đám truy điệu,
nào là tiệc hoan nghinh, nào là kỷ niệm anh
hùng, nào là sùng bái chí sĩ,
chuông dồn trống dục, nam bắc hát hò, xem ở trong
một đám rần rần rực rực, cũng
đã có mấy phần người biết quyền nước mất. Biết quyền nước
mất thời tính mạng
không còn, hồn nước có về thời giang sơn mới sống.
Ngòi bút ái quốc cũng đã có
một đôi kẻ múa men, trên tờ giấy nhật trình
cũng đã tô vẻ một vài câu thương
nòi thương nước.
Nếu những tấm lòng ái quốc đó thật thà chắc
chắn, thời giống Tiên Rồng, giống
Hồng Lạc chẳng hạnh phúc lắm saỏ Nhưng tội tình thay!
Người ưu thời mẫn thế
chẳng bao lăm, mà người bán tiếng mua danh thời đầy đường
chật ngõ; giọt nước
mắt khóc vẫn đêm ngày chan chúa, mà
xem cho kỷ thời rặt là nuớc mắt gừng, tiếng
chuông trống kêu hồn, vẫn trong ngoài dóng
dã, mà nghe cho tới nơi thời rặt là
tiếng chuông trống trò bội; ngoài miệng thời
ái quốc mà trong bụng vẫn là ái
kim khánh mề đay, khi trước mặt người vẫn ái quốc,
mà đến đêm thời tính toan
những việc chó săn chim mồị
Chao ôi! Trời ôi! Ái quốc thế ru?
Treo mặt nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời
mua chuốc lấy tiếng
chí sĩ nhân dân, một mặt thời ôm chặt lấy lốt
ông Tham bà Đốc. Ôi! Các anh em!
Ôi các chị em! người Âu châu Nhật Bản, ai
ái quốc nhu thế, thà không ái quốc
còn hơn, chá vàng ngoài mặt làm tai
vạ cho những kẻ chuộng vàng, xức mật đầu
môi, làm khổ cực cho những người say mật, vì
đã vũ phu mà oan đến ngọc, vì
tròng mắt cá mà họa đến châụ
Ôi! Chứng bệnh ái quốc giả kia, chết nước chết nòi
vì chứng bệnh đó, chứng bệnh
đó nếu không trừ khỏi 25 triệu dân tộc chắc
chôn sống ở rày maị Tôi ngồi sâu
nghỉ lặng, khấn nguyện chín phương trời, ước ao thần hộ phật
phù, cứu khổ cứu
nạn cấp cho tôi vị thuốc để chữa chứng bệnh đó cho người
ta, mới được vị thuốc
này: "Bụng nhiệt thành".
Bụng nhiệt thành đó là gốc ở một tấm lòng
đỏ của loài ngườị Khi mẹ mới hoài
thai thời đã đúc sẵn một hòn máu
nóng, đến khi sinh thành trưỡng đại, thời hòn
máu đó càng nuôi nấng càng lớn lao,
càng nấu nung càng tươi thắm, giọt máu đó
xối vào sắt, sắt phải tan, giọt máu đó rưới
vào ma, ma phải tránh. Người Nhật
Bản có câu rằng "Tinh thành sở chí kim thạch
năng khai" nghĩa là khi
tinh thành đã tới nơi, dầu đá vàng cũng nức
nở. Ông Khổng Tử có câu: "Thất
phu bất khả đạt chí", nghĩa là chí vững bền của
một người không ai cướp
được. Những câu nói đó, đều là vẽ cả nết
nhiệt thành người ta, có đầy đủ một
tấm nhiệt thành mới trọn vẹn mười phần ái quốc,
thành mà không nhiệt thời kém
phần nóng sốt, mà cái thành đó dễ
nguội, nhiệt mà không thành kém sức vững
bền,
mà cái nhiệt đó dễ lạnh, đã thành
lại nhiệt, đã nhiệt lại thành thời thần quỷ
phải kinh, gió mưa chông gai cũng phải dẹp, chỉ có
ai sợ ta, mà ta không phải
sợ ai, chỉ có ai ỷ lại vào ta, mà ta không ỷ
lại vào aị
Đã biết nước là mẹ ta, thời dầu hy sinh ta với nước
mà ta không quản, trong óc
chỉ có nước, ngoài việc nước ta không màng
gì lợi, ta không thiết gì danh;
nhiệt thành thế này mới là ái quốc,
ái quốc thế này mới hay cứu quốc.
Ruột tằm máu quốc thề sống thác với non sông, dạ
sắt lòng son chẳng lụt sờn vì
mưa nắng, nhiệt thành như vậy, người nước ta có
khó gì tự lập đâụ Vậy nên trong
bài tự lập lại cần nhất là vị thuốc này: "Bụng
nhiệt thành" 10 phân
luyện chín.
11. Chương
thứ mười một Chữa chứng bệnh "không
biết hợp quần"
Các chứng bệnh như trên kia là các chứng
bệnh cá nhân. Bây giờ lại kể một chúng
bệnh như sau này là bệnh chung về đoàn thể. Người
ngoại quốc thường khinh bỉ
người nước ta, có một câu rằng: "Không có một
đoàn thể nào từ ba người trở
lên". Câu nói đó, thoạt mới nghe, tưỡng chừng
là quá đáng, nhưng xét cho
đến tình hình xả hội nưóc ta, tinh thần người
dân nước ta, tan tan, tác tác,
rạc rạc, ghét nhau, ngờ nhau, ai lo thân nấy, bảo rằng
không đoàn thể từ ba
người trở lên, vẫn có thể thật.
Suy cho đến nguyên cớ bởi vì sau đây, thời chỉ
vì không biết nghĩa hợp quần mà
thôị Hợp quần là saỏ Là hợp cả một bầy lại cho
thành một đoản thể. Ví như tay
chơn tai mắt có hợp mới thành được một thân; cột
kèo rui mèn có hợp mới thành
được một nhà; từ việc nhỏ đến việc to, muốn nên một việc,
tất phải có một bầy;
muốn nên một bầy, tất phải có cách hợp. Thuở xưa
giao thông chật hẹp, núi bể
chia lìa, mưa gió riêng trời mình, bờ cỏi
riêng đất mình, người mình đua đuổi
với người mình, dầu kém dầu hơn, dầu thua dầu được, cũng
chẳng qua là nhà mình
mình ở, của mình mình ăn, nếu không biết hợp
quần cũng chưa lấy gì làm tai hại
lắm. Thử xem đời bây giờ có thể được ử Bể Đông
Tây chung nhau làm một vũng câu;
châu Âu Á chung nhau làm một rừng bắn, người
đem cả trăm chân nghìn tay, trăm
khôn nghìn khéo dắt đoàn kéo lủ
mà áp đến nhà mình, xô cửa phá
buồng, bửa rương
móc túi, bầy người càng đông thời thế người
càng mạnh, bầy mình càng ít thời
thế mình càng cô, lửa đốt nhà đã tận
nóc, nước nuốt thuyền đã tận mui, mà bà
con trong nhà, trong thuyền đây hãy còn anh
với em cắp dao trỏ nhau, lái với
bạn trừng mắt dòm nhau, kể việc rất ngu ở trong loài
người có ai hơn thế nữa!
Than ôi! Thịt nát thì xương cũng tan, môi mất
thì răng cũng la.nh. Nghĩa hợp
quần đó còn mờ mịt thêm một ngày thời họa
diệt chủng càng câp bách thêm một
ngàỵ Ôi! Các anh chị em! Cái chứng bệnh
không biết nghĩa hợp quần đó không biết
chữa mau, còn chờ gặp ma Chiêm Thành mà gục
đầu thú tội saỏ Thấy tình cảnh các
anh chị em mà óc tôi nhức, máu tôi
sôi, tay chân tôi nổi gai gốc. Tổ tiên ta
nếu còn thiêng, nòi giống ta nếu còn
phúc thời chứng bệnh ly quần đó chắc được
một vị thuốc sẽ chũa lành ngaỵ Tôi nghĩ đi nghĩ lại, suốt
mấy đêm ngày mới được
một vị thuốc là giãi "Đồng tâm". Đồng tâm
nghĩa là người nào người
nấy đồng một lòng: giãi đồng tâm nghĩa là ức
muôn triệu người kết hợp nhau làm
một dây, thân thể tuy khác nhau, mà tinh thần
in nhau như hệt. Xưa ông Trụ có
ức muôn người, hưng cũng ức muôn bụng: vua tôi
Võ Vương có mười người, kết quả
thời vua Võ Vương được mà ông Trụ thuạ Đó
mới biết rằng tâm đồng nhau thời
nhược hóa nên cường, tâm chẳng đồng thời cường
hóa nên nhược, Vì sao thế? Lòng
khác nhau thời rẽ bầy, rẽ bầy thời mạnh hóa nên
hèn; lòng đồng nhau thời chung
bầy, chung bầy thời hèn hóa nên ma.nh. Vậy
nên hai chử "Đồng tâm" là
phương thuốc hiệp quần rất thiêng liêng, rất ứng nghiệm.
Tuy nhiên có kẻ nói rằng: "đông ngưòi
thời tất phải nhiều bụng, nhiều bụng
thời không thể nào đồng lòng. Cái sự đồng
tâm đó thật là khó khăn lắm".
Ôi! Các anh chị em! Câu nói đó thật
quá ngu! Xưa nay đồng lòng, không đồng lòng
chỉ vì có một cớ: chủng tộc không đồng, ngôn
ngữ không đồng, tập tục không
đồng, thế mà muốn đồng lòng vẫn khó lắm. Đến như
người nước ta, nòi giống vẫn
đồng với nhau, ngôn ngữ vẫn đồng với nhau, tập tục vẫn đồng với
nhau, mà huống
gì lối tử sinh đường vinh nhục lại đồng với nhau; chim ở chung
một rừng, cá ở
chung một bể, nếu chẳng may bể khô rừng cháy thời một
lồng, một tấm vãy còn
mong sống sót được saỏ May gặp lúc bây giờ rừng
hãy còn cây, bể hãy còn nước,
kết hợp cả bầy, đồng một lòng, chung một dạ, tính đường
đi đứng, lựa bước lên
lui, dắt nhau ra khỏi ngục trầm luân, kéo nhau
thoát khỏi vùng đồ thán, xoay
họa xưa làm phúc, rửa vết dơ trong pho sử củ, thay lấy vẻ
vinh quang biết bao
nhiêu công nghiệp lớn lao chỉ ở trong một gốc lòng
anh chị em mà nên tất cả.
Vậy thời giãi đồng tâm đó thật là phương
thuốc khỡi tử hồi sinh của món ta
không còn gì hơn nữạ Vậy nên trong bài
thuốc "Tự Lập" có một vị thuốc
như sau này: "Giãi đồng tâm" một dây
càng kiên thực càng tốt.
12. Chương
thứ mười hai Chữa chứng bệnh "mê tín
hủ tục"
Nưóc ta kể người có 25 triệu, kể đất có 70 vạn
ngàn thước vuông tây, nếu làm
một nước tự lập chắc không khó gì! Cớ sao mà
hèn hạ suy đồỉ Thuở xưa còn làm
một nước phụ dung, tới bây giờ lại trụt xuống làm một nước
nô lê.. Ôi! Nước ta
không phải một nước hay saỏ Người nước ta không phải
là người hay saỏ
Không phải, nước ta vẫn là một nước, người nước ta vẫn
là người, nhưng chỉ vì
dân không có quyền, nên mỗi bước không
tự lập. Dân vì sao mà không có quyền?
Thời vì dân không trí; dân không
có trí; nên mới mê tín quá
nhiềụ Bệnh mê tín
rất nặng là mê tín quyền vua; vì mê
tín quyền vua, nên mê tín quyền quan,
mà
quyền vua quyền quan lại lợi dụng quyền thần làm xe pháọ
Ba quyền đó một ngày
một nặng, thời quyền dân không còn một tí
gì; quyền dân đã không còn, thời
dân
dại, dân yếu đuối hư hèn, muôn việc chỉ trông
mong vào vua với quan. Vua với quan
không làm xong, thời trông mong vào thần; đến
thần cũng không làm xong, thời bó
tay chịu chết. Mấy ngàn năm trở lại triều đình là
bồi bếp của một nhà, nhân dân
là ngựa trâu của một họ; mấy mươi triệu đầu đen máu
đỏ, còn gì là tư cách
người; rặt là mù mà người mù có mắt;
rặt là điếc, mà người đếc có tai; rặt là
câm; mà người câm có miệng, rặt là
què mà người què mà ngưới què
có chân tay;
cái việc lạ lùng quái gở ở thế gian, không
ai như người nước ta nữạ Thăm cho
đến gốc bệnh, chỉ vì mê tín những tục hủ cổ
mà thôị Mê tín vua, mê tín quan,
chưa lấ gì làm kỳ, kỳ thứ nhất là mê
tín thần; vì mê tín thần đó mà
sinh ra vô
số việc nực cười; ngày giờ nào cũng là trời
bày định, mà bảo rằng có ngày dử
ngày lành; núi sông nào cũng
là đất tự nhiên, mà bảo rằng có đất tốt đất
xấu;
vì nấu ăn mới có bếp mà bảo rằng ông thần
táo; vì che mưa gió mới có nhà;
mà
bảo rằng có ông thần nhà; cho đến thần cửa, thần
đường, thần cầu tài, thần cầu
tử, trăm việc gì cũng trông mong vào thần, kết quả
thời thần chẳng thấy đâu,
chỉ thấy cửa nát nhà tan, của mòn người hết.
Tin thần bao nhiêu thời tai họa bấy nhiêụ Kìa xem
như đạo Thiên Chúa chỉ sùng
phụng một vị Đức Chúa Trời ngoài ra không thần
gì cả, nhưng nuớc vẫn mạnh, nhà
vẫn giàu, người họ vẫn sung suớng, họ chỉ thua ta một việc: thần
đã không tế
thời xôi không, thịt không, heo bò cũng
không, mà phần kỉnh phần biếu đều không
tất cả; nhưng họ vì đó mà của hao thời ít,
của nở thời nhiều, tốn phí vô ích
bớt một phân. Ấy mới biết rằng mê tín thần quyền
là tục ngu hủ của người ta, thật
rõ ràng rồi đó. Tục ngu hủ đó không
quét sạch thời nền phú cường kia không bao
giờ dựng nên. Nhân vì ngu mà sinh ra hủ,
nhân vì hủ lại thêm ngu, mắt người bị
người bịt, mà lại bảo rằng trước mí mắt không nước
non; tai bị người bưng mà
lại bảo rằng bên lổ tai không gió sấm; tay
chân bị người người xiềng khóa mà
lại bảo rằng tay chân mình đáng số cu li!
"Chúng tôi dại dột", câu
nói ấy giắt chặc ở bên lưng. Quỳ lạy trước tượng đất
hình bùn mà xem làm quốc
túy; giữ gìn lấy áo hôi mũ thúi
mà bảo rằng gia truyền! Ngẫn ngơ, ngơ ngẫn đến
thế thời thôi! Trông người lại gẫm đến ta, thiệt cười dở
mà khóc cũng dở.
Than ôi! Xưa nay chứng bệnh mê tín hủ tục kia phải
gấp chữa mau mới có lẽ sống.
Tuy nhiên, muốn chữa chúng bệnh đó, phải thế
nàỏ Xưa nay, những tập tục hủ bại
vì có hai lẽ; một thời vì cơ quan giáo dục
chẳng hoàn toàn, một thời vì trí
khôn người ta chưa phát đạt.
Từ thế kỹ 19 trở lại đây, khoa học các nước cảng
ngày càng phát sinh, trí não
các nước càng ngày càng nẫy nở. Thử xem
điện học phát minh mà ông "thần
lôi" đã không dám hống hách; địa học
phát minh mà nhà phong thủy long hổ
đã không dám múa men; sinh lý học
phát minh mà thần rắn quỷ trâu đã
cùng đường
trốn tránh; huống gì học thuyết Lư thoa đã xuất
hiện thời quyền dân với quyền
lao động đã vùn vùn vụt vụt như gió thổi,
như thủy triều lên, dầu ai muốn ngăn
mà ngăn sao đặng? muốn cấm mà sao cấm đặng? Ngọn cờ thần
quyền chắc rày mai
cũng bị trận gió văn minh kia đánh đổ, mà
vách tường hủ tục cũ chắc cũng bị làn
sóng văn minh kia đánh tan.
Thế thời muốn chữa bệnh mê tín ngưới nước ta, không
thuốc gì hơn trí thức mới
nữạ Trí thức đó, nếu tìm tòi suy xét
thăm cho tận gốc, dò cho tận nguồn biết
tính người là thiêng hơn vạn vật thời không
thần gì hơn thần ở tâm; biết nhơn
dân là quí trọng hơn vua với quan, thời không
quyền gì hơn quyền lao đô.ng. Có
óc thời ta dùng sức nghĩ, có tai thời ta
dùng sức nghe, có mắt thời ta dùng sức
thấy, có tay chân thời ta dùng sức hoạt động, đua
khôn đấu mạnh cùng dân các
nước đời nay, 20 triệu con Lạc cháu Hổng bỗng chốc mà tỏ
ra giòng thần giống
thánh.
Người nước ta có khó gì tự lập đâủ Vậy
nên dùng bài thuốc tự lập, phải có một
vị dầy "Trí thức mới" 10 phân, trộn vào "hoa tự do"
không
kỳ nhiều ít.
13. Chương thứ mười ba Chữa chứng bệnh "không biết đường kinh tế"
Nếu có ai hỏi rằng: nước vì sao mà mạnh, dân
vì sao mà giàủ Thời tôi xin trả
lời rằng: "Nguồn bể phú cường chỉ cốt ở đường kinh tế." Người ta
nghe
hai chử "kinh tế", chưa hiểu nghĩa ra làm sao, huống gì
là đường kinh
tế. Xưa truyện Đại học có câu rằng: "Sinh chi giả
chúng, thực chi giả quả,
vi chi giả tật, dụng chi giả thư", nghĩa là của sinh nở ra thời
nhiều, của
ăn tiêu đi thời ít, người làm của thời cần
kíp, người dùng của thời dè dặt.
Sách Tây cũng có câu: "Những hạng người sinh
ra lợi thời nhiều, những hạng
người chia mất lợi thời ít", Góp hai câu nói
đó thời cách đường kinh tế,
dầu đông tây cũng chẳng khác gì. Nói
tóm lại, chỉ có một cách sinh nở thời
thường vô cùng, mà tiêu hao thời thường phải
hạn, của trời đất sinh ra thời biết
đường lợi dụng, của nhân lực làm ra thời biết đường mở
mang, có thế mới gọi là
"Kinh Tế". Người nuớc ta thời thế nàỏ Việc tiêu
dùng thời không biết
đường hạn chế, cách làm ăn thời không biết đường
cải lương, sự nghiệp dân sinh
trong một nước chỉ nhờ cậy về nông, chân lấm tay bồng, kẻ
làm khôn hết mực, cày
sâu cuốc bẩm, xem làm khéo cùng kỳ.
Ngoài mấy đám đồng cạn ruộng sâu, nào
khoáng sản, nào sơn lâm, nào công
trình nào thủy lợi chẳng biết một tí gì.
Người ngoại quốc lấy máy móc đở tay chân tay,
mà mình thời không biết đua, của
sinh sản ngày không một hào một li, mà của
tiêu xài ngày có hàng nghìn
hàng
vạn; thấy người ta sang trọng, ta cũng sang trọng, nhưng cái đồ
sang trọng đó
rặt là cắt thịt nhà để vá cánh giặc; thấy
người ta sung sướng, ta cũng sung sướng
nhưng cái mồi sung sướng đó, rặt là nặn sữa mẹ để
nuôi người dưng. Bao nhiêu
vật lạ của ngon, nào rượụ nào thuốc, nào
trà, nào vải bông, gấm vóc, không một
thức gì là tay chân mình chế tạo, mà
cũng không một đồng tiền nào không phải
máu mủ mình ép ra; tiền của người không một
đồng nào vào tay mình, mà máu mủ
mình thời trót tháng quanh năm chỉ những
trét miệng hùm, no bụng sấụ Trí khôn
người ta như thế, còn nói "Kinh Tế" được đâu! Than
ôi! Thiên thời ta
vẫn tốt, địa lợi ta vẫn giàu, mà tay mắt tay chân
ta vẫn không kém gì ai cả!
thuốc ta, rượu ta, trà ta, vải vóc ta, không
dùng được hay saỏ
Không chế tạo được hay saỏ Cớ sao thợ thuyền buôn
bán thời không thấy tới, mà
chỉ thấy lui; xài phí ăn tiêu thời chỉ thấy
thêm mà không thấy bớt, đã một mặt
thời quen nết tham thanh chuộng lạ, một mặt thời giử nết ở nể ăn
không; bể toan
khô nước mà ngồi đợi trời mưa, đèn toan hết dầu
mà nằm chờ trăng mọc.
Người ngu ngẩn đến thế, không chết rày thời chết mai, chỉ
e mấy tấm ván hòm
chưa dự bị bao giờ đă.ng. Tôi nghỉ đến nông nổi thế
mà khóc than cho vận mệnh
người nước ta, chúng bệnh về đường kinh tế nếu không lo
chạy chữa cho mau thời
nòi giống chúng ta chẳng tuyệt diệt về thủy hỏa, binh
đao, mà tuyệt diệt về đồ
ăn thức mặc! Ai là người có tâm huyết, chắc cũng
lấy lời nói làm đúng rồị Bây
giờ xin nghĩ một vị thuốc để chữa chứng bệnh nàỵ Vị thuốc ấy
là giải đấỷ Là vị
"Nội Hóa" Trình độ dân ta còn thấp
trí thức dân ta còn non, bảo nhờ
cậy việc công, việc thương, sẽ đấu mạnh đua giàu với
các nước, cái hy vọng đó,
ở ngày nay thiệt chưa có được ngay, song e tục ngữ
có câu rằng "Khéo ăn
thời no, khéo co thời ấm", đồng bào ta bây giờ
mà muốn cho được điều no,
điều ấm thời phải có một cách khéo mà
thôi.
Đường sanh lợi chưa có thể phát đạt được đến mười
phân thời đường tiêu xài phải
dè dặt từ một li, một mảy cần thứ nhứt là dùng nội
hóạ Đó thiệt là một vị cứu
cho chứng bệnh người tạ Đồ ăn ta; ta ăn, đồ mặc ta; ta mặc, đồ
dùng ta; ta
dùng, dầu mỡ máu mủ ta, ta bồi bổ cho ta, bớt một li của
ra tức là thêm một li
của vào, bớt một đồng tiền chết, tức là thêm một
đồng tiền sống. Nội hóa tiêu
dùng ngày càng chảy, thời các món
công thương nghề nghiệp cũng nhân đó mà cạnh
khéo đua khôn, đắp tư cơ sẽ tạo nên thời, đúc
trí tuệ sẽ gây nên thế, họa may
bụng đà khỏi đói, mà óc cũng thêm no;
dân sinh đã khỏi nỗi khốn cùng thời dân
trí cũng có cơ tấn bô.. Theo tạo nhân
mà tìm đường kết quả, cái việc chấn hưng
nội hóa đó chẳng phải là gấp lắm saỏ Vậy nên
trong bài thuốc tự lập phải có một
vị thuốc như sau này "Nội hóa" một vạn thức, kiêng
ngoại hóạ
14. Chương thứ mười bốn "Chữa chứng bệnh" "không biết thương nòi giống"
Người ta còn một chứng bệnh rất to, là chứng bệnh
"không biết thương nòi
giống ". Người ta mắc lấy chứng bệnh đó, chẳng những trái
hẵn tính loài người,
mà với các giống vật có một điễm trí
khôn cũng còn thua kém nữạ
Kể chứng bệnh ác độc thứ nhất, không gì hơn chứng
bệnh này: Kìa con ong vẫn có
nọc, mà ong ở chung một ổ không bao giờ cắn nhau; cọp vẫn
hay ăn thịt, mà cọp ở
chung một xứ không bao giờ ăn nhaụ Thường xem bầy kiến, nó
vẫn là một loài vật
rất nhỏ nhen, mà cũng có một điễm tốt rất lạ: nó ở
chung nhau một bộng, có hàng
trăm hàng ngàn con, một con đi ra thoạt thấy được mồi ăn,
thời tức khắc chạy về
tin cho anh em mình cả; tha mồi thời khó nhọc chia với
nhau, ăn mồi thời ngon
ngọt chung với nhau, không bao giờ được mồi mà ăn
riêng cả; lại có khi tránh
mưa trốn gió, dắt đoàn kéo lũ đi chung, con nhỏ,
con lớn, đoàn trước, đoàn sau,
dắt nhau đi không khác gì một đội quân
lính; chẳng may giữa đường có con nào bị
tử thương thời chúng kiến xúm nhau cõng nó
về hang, không bao giờ bỏ bạn chết
mà đi cả! Thế mới biết thương nòi giống, dầu loài
vật cũng có tấm lòng thành,
chung một máu mủ thời họa phúc chia nhau, nghĩa đồng
tO17; đồng sinh vẫn trước sau
một mực.
Vật còn như thế, người có lẽ thua nó hay saỏ
Quái ngán thay! Lạ lùng thay! Đến
người nưóc ta thời khác hẵn! Tục ngữ có câu
rằng: "Gà một chuồng bôi mặt
đá nhau!" lại có câu: "Kẻ chết đã xanh,
người nhăn nanh mà
cười!" lại có câu: "Đi ra tưỡng bắt trâu cò,
trâu cò không bắt, bắt
bò, bò ôi!", mấy câu thí dụ đó,
ngẫm nghĩ cho kỹ thiệt là về nết xấu của
người nước ta quá đúng rồi đó.
Ôi! Các anh chị em! Máu in nhau giọt đỏ, da in nhau
sắc vàng, đầu in nhau tóc
đen, mắt in nhau tròng mắt, giống
Tiên Rồng, nòi Hồng Lạc trãi qua mấy nghìn
năm mới có bây giờ con một họ, cháu
một giòng, nếu cứ như lẽ thường chắc máu ai thấm thịt
nấy, đánh đá thời đau đến
lòng gạch, chết thỏ thời sa nước mắt hồ; vẫn đạo trời có
thế mới đương nhiên,
mà tính người cũng có thế mới chính
đáng. Cớ sao mấy mươi năm gần đây tình hình
ở xã hội, cách hành động các anh chị em ta,
thương nhau, bênh nhau, chẳng bao
lăm người, mà ghét nhau, hại nhau thời không xiết
kê?? Rước voi dầy mồ ông vải,
cõng rắn về cắn gà nhà, việc đó thiệt bất
nhân vô đạo đã quá chừng, mà người
mình trở lại nhận làm khôn làm khéo!
Xin ai thử nghĩ, mồ ông vải trúc, mà voi có
ơn gì đến mình không? Một mai gió
mây biến hóa, dâu bể đổi dời, voi đã tan
xương, rắn cũng đứt nọc, các ngài lúc
bấy giờ đêm khuya mò bụng hỏi bóng thăm
hình, mồ tan hoang vì aỉ Gà nhao nhác
vì aỉ Mình còn mặt mũi nào thấy ông
bà ở dưới đất, trông cô bác ở trên đờỉ
Đau
đớn thay! Tội tình thay! Cái chút bệnh không
biết thương nòi giống đó, hú ba
hồn chín vía các ngài, nên thang
thuốc cho mau mới phải! Bây giờ tôi xin làm ơn
cho các ngài vị thuốc này: "Giống thân
ái" đó, vào trong lòng ngườị
Người v ` có hột giống ấy mới khai nên hoa, mới kết
nên quả, mà nòi giống người
mới sinh trưỡng vô cùng. Nếu lòng người mà
không có hạt giống ấy thời gọi rằng
"Lòng chết" .
Ông Lão Tử có câu: "Ai mạc đại ư tâm
tử", nghĩa là người ta lòng chết
không gì đau đớn hơn; nếu thiệt lòng người thời bao
giờ chết đặng! Lòng mà đến
chết, vì không hột "giống thân ái" mà
thôị
Đức Gia Tổ có câu: "Ái nhân như kỹ", nghĩa
là thương yêu người như
thương yêu mình. Đức Phật Tổ có câu: "Nhất
thiết từ bi", nghĩa là
không kể người không kể ta, nhứt nhứt luật thương yêu
cả.
Đạo Nho cũng có hai chử "Khiêm ái". Nhà
triết học Tây cũng chủ trương
hai chử "Bác ái". Xem chừng như những đạo lý
các thánh hiền nói đó,
thời hể chung một loài người dầu ai cũng nên thân
ái, huống gì chung một nòi
giống nữa ru! Nòi giống ta, ta thương yêu lấy nhau;
có cơm ta no chung, có áo
ta ấm chung, có nhà cửa ta ở chung, gặp việc vui ta vui
chung, vì hột giống
thân ái đó càng ngày càng nẩy
nở, hoa tự do nhân đó mà muôn tía
ngàn hồng, Nam
reo Bắc thổị Việc đồng tâm của 25 triệu nòi giống ta chắc
cũng do ta rày mai mà
trông được hẳn! Vậy nên ở trong bài thuốc tự lập lại
còn có một vị như sau này:
giống "thân ái". Hằng hà sa số hột, hột nào
càng chắc càng hay!
15. Chương sau hết Bài tóm cách làm việc
Các chứng bịnh đã chữa lành rồi bây giờ mới
tính cách làm việc.
Thứ nhất là phải có chủ nghĩa, thứ nhì là
phải có chương trình, thứ ba là phải
có kế hoạch. Có đủ ba điều đó thời việc mới
có thể làm nên.
Bây giờ xin giãi thích điều thứ nhất:
Hể phàm làm một việc, tất trước phải có chủ nghĩạ
Chủ nghĩa có tốt có xấu, có
phải có chẳng, Khi ta bắt đầu sắp sửa làm việc thời ta
phải hết sức kén chọn
Thấy chủ nghĩa gì đã tốt lại phải, thời ta phải giử chặc
chủ nghĩa ấy mà làm;
ví như bắn bia phải nhìn các trung tâm bia
cho chắc chắn; ví như vượt bể tất
phải dòm xét cái mũi châm phương hướng cho
kỹ càng. Trung tâm bia đó đã nhìn
được chắc chắn bắn mới không sai, châm phương hướng
đó xét được rành thời
thuyền đi mới không lỗị Người làm việc mà có
chủ nghĩa, đó là vào trường bắn mà
xem thấu bia, vặn máy thuyền mà định chắc hướng, Vậy
nên người làm việc, trước
hết phải kén chọn chủ nghĩa cho vững vàng. Bây giờ
lại giãi thích điều thứ nhì:
Khi sắp sửa làm việc thời kén chọn chủ nghĩa vẫn cần lắm;
nếu đã có chủ nghĩa
mà khi bắt tay vào làm mà không
có chương trình, thời như người đánh cờ mà
không tính suốt cả bàn, vội vàng lụp chụp,
thấy nước thời đi, nước sau đem lại
nước trước, nước trước đem lại nước sau, thời bàn cờ đó
tất nhiên phải thuạ Vì
vậy, làm một việc gì, tất phải định một cái chương
trình cho việc ấỵ Ví như
muốn đi một lối đường từ Huế ra Hà Nội, tất phải tính
toan từ khi bước chân ra
đi, cho đến khi tới Hà Nội, tiền đi xe lửa tốn hết bao
nhiêu, tiền đi ô tô hết
bao nhiêu, tiền đi xe tay và tổn phí ở trên
xe hết bao nhiêu, lại phải nghĩ
trước cả mọi điều, như giấy thông hành, giấy căn cước, đồ
hành trang, người đày
tớ, với giữa đường phải xuống ga nào; đến nơi thời trú
những nhà nào; vả lại,
khi giữa đường hoặc khi đến nơi, có điều gì trở ngại hay
không, thời phải tính
làm cách gì cho trơn chảỵ Lại như tiền tổn
phí, tất phải phòng dự, chớ "đo
bò làm chuồng", lỡ khi thiếu thời dang dở; việc
phòng bị tất phải sắp đặt
sẵn sàng, chớ "bắc nước đòi gà"; sợ khi gấp thời
không xong.
Người trỏ lối đưa đường phải lựa cho thập phần chắc chắn, chớ có
rước thầy mù
coi đất mà đến khi lỡ làng. Tính toán
các điều ấy đủ rồi thời ta định sẵn một
cái chương trình, việc gì trước ta làm
trước, việc gì sau ta làm sau, việc gì
lành ta theo, việc dữ thời ta tránh. Chương trình
chắc chắn, noi đó mà đi, có
sợ gì đi không tới nơi đâủ Bây giờ lại
giãi thích về điều ba: Hể phàm một chủ
nghĩa vẫn chính đáng, chương trình vẫn tinh tường,
còn một điều đáng lo là còn
sợ kế hoạch không được hoàn thiện, vậy nên cần
có kế hoa.ch. Ông Khổng tử có
câu rằng:
"Hiếu mưu nhi thành", nghĩa là làm việc phải
có tìm mưu mẹo, mà mưu
mẹo phải tìm cho đến chốn đến nơị Sách Binh thư có
câu: "Đa toán thắng,
thiểu toán bất thắng", nghĩa là tính toán
được nhiều nước thời ăn hơn,
tính toán được ít nước thời phải thuạ Ví
như hai người vật nhau một người sức
mạnh mà không có mẹo, một người sức yếu mà
có nhiều mẹo, thời người sức yếu
chắc ăn hơn. Cái mẹo đó, tức là kế hoạch;
mà trong khi tính toán kế hoạch, thời
phải đủ ba điều: một là cân nhắc về phần trí
khôn; hai là cân nhắc về phần lực
lượng; ba là cân nhắc về phần thời thế. Lựa trong ba điều
đó, mà tính toan bày
đặt cho đủ cả mọi đường, như làm một bài tính,
không bỏ sót một con số nàọ Đó
là kế hoa.ch. Việc thiên hạ đầu nhỏ đầu to, nhưng mỗi một
việc tất phải có một
kế hoạch; nếu kế hoạch được tinh tường chu đáo, thời có
việc gì là chẳng nên?
Nói tóm lại, làm việc phải có chủ nghĩa,
mà mình đối với chủ nghĩa tất phải hết
sức trung thành, thà là vì chủ nghĩa
mà giết mình, chẳng nên vì mình
mà giết
chủ nghĩa. Như ông Tôn Văn trót một đời người hết
sức trung thành với "Tam
Dân chủ nghĩa", thật là gương cho ta đó. Còn
ngoài ra như chương trình tất
phải châm chước cho kỹ càng, tổ chức cho hoàn
thiện, mà lại phải có kế hoạch
cho kỹ càng thời chương trình mới thực hành được;
nếu có chủ nghĩa mà không có
chương trình, thời chủ nghĩa không bao giờ thực hiện; nếu
có chưong trình mà
không kế hoạch thời chương trình không bao giờ
thành công. Vậy nên ở trong cách
làm việc phải cần có cả ba điều đó.
Lại còn có một lẽ người ta cần phải biết, biết
không thấu thời làm không xong.
Ông Tôn Văn có câu nói rằng "Tri nan
hành dị", nghĩa là biết được
rành thời khó; đã biết rồi mà làm
thời dễ. Nếu anh em làm việc cần phải biết
cho rành. Lại còn một tệ bệnh, người ta càng
nên biết lắm.
Thí dụ: Muốn lấy trộm một nhà ông giàu thời
làm thế nàỏ những khi bình thường
phải giả ngẫn giả ngơ, giả khờ giả dại, chớ cho ông nhà
giàu đó biêt mình là kẻ
trộm bợm. Vậy sau khi thực hành mới dễ được thành
công. Ông Lão Tử có câu nói
rằng: "Đại trí nhược ngu", Nghĩa là những người
khôn rất to thời phải
làm như hình người ngụ Lại có câu rằng: "Đại
xảo nhược chuyết", nghĩa
là những người khéo rất to, thời phải làm như
hình người vu.ng. Vậy nên những
người muốn làm việc, trước phải bồi dưỡng hai cái tinh
thần:
1 Tinh thần nín nhịn;
2 Tinh thần tránh tiếng.
Hay nín nhịn thời chớ có giận vặt với hung hăng những
thói vũ phu; hay tránh
tiếng thời chớ có bán tiếng mua danh, để cho những người
tầm thường không kể
mình là giỏi mới là haỵ
Sách Binh Thư có câu rằng: "Tịnh như xử nử, động
như thoát thố". Câu
trên nghĩa là: Khi ta hãy còn lặng lẽ, thời
êm đềm kín đáo như chị con gái chưa
lấy chồng ở trong một chốn buồng sâu, vẫn mình là
rất muốn lấy chồng, mà không
để cho ai biết". Câu nói đó là bày vẻ
cách kế hoạch cho người ta làm việc.
Câu nói dưới nghĩa là: "Khi ta hành động tất
phải nhìn theo thời thế mà
theo cho gấp, như con thỏ ở trong lồng mà được xổ ra, thời bổng
chốc mà chạy
rất mau, dầu ai lanh đến mấy cũng không có thể bắt được
nó". Câu nói đó là
bày vẻ cho cách người ta hành động. Cách
làm việc nếu được như hai câu nói đó
thời việc gì cũng thành công; nếu không được
như hai câu nói đó, thời việc gì
cũng thất bại.
Tuy nhiên, lại có một lẽ: Hể phàm tính việc
thời tất muốn thành công, mà đã có
gan làm việc thời lại phảI không sợ thất bại; bởi
vì, hể làm việc tất phải trải
qua một lối thất bại mới đến thành công.
Sách Tây có câu: "Thất bại là mẹ đẻ ra
thành công". Tục ngữ ta có câu
rằng: "Đứt tay mới hay thuốc", Vây nên những việc thất bại,
chính là
trường học thiên nhiên mà dạy bảo cho mình
đến thành công. Người ta chỉ sợ mình
không có gan làm việc, còn thất bại thời
không nên sợ gì; càng thất bại càng
làm, càng làm càng sinh ra khôn
khéo; trải qua một phen thất bại thời thêm ra
được một mối thành công. Vậy mới biết: Thất bại là
mẹ đẻ ra thành công, có thế
thật!
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 088
HOÀNG NGỌC LIÊN * HUẾ
Huế Của Tôi –
Những Bài Thơ Huế
HOÀNG NGỌC LIÊN
Đúng ra, thành phố nào bên Nhà cũng là của chúng ta hết. Nhưng tôi rất... thương Huế, vì sau cố đô Hoa Lư là nơi tôi được sanh ra, Huế đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm. Do vậy mà thập niên 60 trước đây, tôi viết được nhiều về Huế, làm quen được không ít bạn thân sinh trưởng tại Huế. Từ huynh trưởng như Phan Du, đến người ít tuổi hơn như Bửu Chánh, ai cũng... thương tôi. Còn nữ giới, tôi tự giữ một làn ranh, không cho mình vượt qua. Bởi tôi là người đã có gia đình. Nhưng tôi vẫn vấn vương hình ảnh những cô gái Huế, nữ sinh trường Đồng Khánh. Một ông bạn già vẫn bảo tôi, rằng kẻ làm thơ vốn nòi tình. Nhưng không sao, ông bạn nói tiếp, cũng cần có tình mới có thơ, miễn giữ được cái Tâm trong sáng. Tôi cũng biết, rằng muốn giữ được cái Tâm trong sáng không phải là chuyện dễ dàng.
Dạo ấy khung cảnh và con người Huế giúp tôi làm thơ. Khung cảnh, trên khắp các ngả đường, từ khi qua đèo Hải Vân đến Hoàng Thành Huế, hai bên hữu, tả ngạn sông Hương, rồi theo Quốc Lộ 1 đến Cổ Thành Quảng Trị, đối với tôi đều là ... Huế. Các cô gái Miền Trung mà tôi gặp trên những ngả đường ấy, đều nói giọng Huế. Giọng nói dễ thương chi lạ. Có phải vậy không, hỡi những chàng trai xứ Bắc, xứ Quảng?
Có một điều mà các thân hữu Huế của tôi chưa bao giờ nghe tôi nói, là tôi làm thơ ... Huế từ khi còn ở
Chim đang bay lượn bỗng đứng khựng lại, khiến thằng Cộc thích chí hết sức. Nó theo dõi con chim thầy bói ấy từ nãy đến giờ, chờ đợi cái phút nầy đây.
Thật là huyền diệu, sự đứng yên được một chỗ trên không trung, trông như là chim ai treo phơi khô ngoài sân nhà. Chim thầy bói nghiêng đầu dòm xuống mặt rạch giây lát rồi như bị đứt dây treo, nó rơi xuống nước mau lẹ như một hòn đá nặng. Vừa đụng nước, nó lại bị bắn tung trở lên như một cục cao su bị tưng, mỏ ngậm một con cá nhỏ.
Cộc ngửa mặt lên trời để theo dõi ông câu kỳ dị và tài tình ấy nữa, nhưng mắt nó bị ngọn dừa nước bên kia bờ rạch níu lại. Trên một tàu dừa nước, một con chim thằng chài xanh như da trời trưa tháng giêng, đang yên lặng và bền chí rình cá.
Trong thế giới bùn lầy mà thằng Cộc đang sống, ai cũng là ông câu cả, từ ông nội nó cho đến những con sinh vật nhỏ mọn qui tụ quanh các ngọn nước.
Màu xanh của chim thằng chài đẹp không có màu xanh nào sánh kịp. Sự bền chí của nó cũng chỉ có sự bền chí của các lão cò sầu não là ngang vai thôi, cái bền chí nhìn rất dễ mê, nhưng mê nhứt là mũi tên xanh bắn xuống nước nhanh như chớp, mỗi khi thằng chài trông thấy con mồi. Thằng Cộc là một đứa bé bạc tình. Một đàn cò lông bông bay qua đó, đủ làm cho nó quên thằng chài ngay. Là vì đầu cò chởm chởm những cọng lông bông, nhắc nhở nó những kép võ hát bội gắn lông trĩ trên mão kim khôi mà nó đã mê, cách đây mấy năm, hồi gia quyến nó còn ở trên làng.
Hồi ấy nó sướng lắm. Quanh nhà nó, có hàng trăm nhà khác, có vườn cây trái, có nước ngọt quanh năm, có trẻ con để nó làm bạn, để nó đùa giỡn với. Nhưng không hiểu sao một hôm tía nó bán chiếc chòi lá đi, rồi ông nội nó, tía nó, má nó và nó, một đứa bé mười tuổi, kéo nhau xuống một chiếc xuồng cui, một thứ xuồng to mà người ta gọi là xuồng mẹ, ghe con. Rồi họ đi lang thang từ rạch hoang vắng nầy đến kinh hiu quạnh nọ, và rốt cuộc dừng bước nơi cái xó không người nầy mà ông nội nó đặt tên là xóm Ô-Heo. Nghĩ đến những năm cũ, thằng Cộc bỗng nghe thèm người vô cùng, thèm còn hơn là thèm một trái xoài ngọt, một trái khế chua mà từ năm năm nay nó không được nếm.
Những người di cư năm nọ trên chiếc xuồng cui vẫn còn sống đủ cả. Những chiều nghi ngút sương mù từ đất lầy bốc lên, và những đêm mưa gào gió hú, những người ấy kể chuyện cho Cộc nghe, những chuyện ma rởn óc như ăn phải trái bần chua. Nhưng dầu sao, Cộc cũng thích người khác hơn, cũng như nó thích vườn tược sầm uất hơn cảnh rừng tràm tối mịt hoặc cảnh đồng không bát ngát ở đây. Ở đây, cho đến tiếng chó sủa, tiếng gà gáy nó cũng không nghe từ lâu. Con chó săn và mấy con gà giống mang theo, đã ngã lăn đùng ra mà chết ngay trong tháng mới tới. Thằng Cộc ngạc nhiên mà thấy sao người vẫn không chết trong khí hậu tàn ác nầy: nóng, ẩm, còn muỗi mòng thì quơ tay một cái là nắm được cả một nắm đầy.
Chưa bao giờ mong mỏi của Cộc được thỏa mãn mau lẹ như hôm nay. Nó vừa thèm người thì tiếng hò của ai bỗng vẳng lên trong rừng tràm, rồi tiếp theo đó là tiếng chèo khua nước:
Hò ơ... tháng ba cơm gói ra hòn,
Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai.
Mũi xuồng cui ló ra khỏi khúc quanh của con rạch, và trên xuồng, chồng chèo lái, vợ ngồi không trước mũi mà hò. Cặp vợ chồng nầy, Cộc quen mặt mấy năm nay, nhưng không biết họ từ đâu đến. Nó chỉ biết họ ra biển để bắt cua và bắt ba khía, một năm mấy kỳ. Nghe tiếng người lạ nói, nhứt là tiếng hát, Cộc sướng như có lần tía nó cho nó ăn một cục đường từ nơi xa mang về.
Thà là không được ăn, chớ còn ăn một chút xíu thì cái vị của món ăn còn chọc thèm hơn bao giờ cả. Nên chi Cộc nhìn xuồng chèo khuất dạng rồi thì xây lưng tức khắc để chạy lên Ô-Heo.
Trọn vùng nầy, ông nội nó đặt tên là Ô-Heo. Nhưng riêng trong trong riêng gia quyến nó thì Ô-Heo chánh hiệu là một cái gò xa ở trên kia, cách mé rạch đến hai dặm hú. Số là hồi trước, ngày đầu tới đây, ông nội nó với tía nó đi kiếm đồ ăn trong rừng, đã gặp nơi đó một ổ heo rừng. Cả ổ heo đều bị sát hại hôm đó và việc canh tác của gia quyến nó về sau nầy đã đuổi thú dữ đi xa.
Tuy nhiên, đề phòng chúng trở lại, ông nội nó đã cấm nó lên Ô-Heo một mình. Thằng Cộc lại thích lên đó, ban đầu chỉ vì Ô-Heo có sức quyến rũ của một trái cấm, nhưng về sau, nó gặp người nơi đó. Ðó là vài người đàn ông và đàn bà, nói là ở xa lắm, cách đó một ngày đường sông. Ðàn ông thì đến để gác quốc, gác nhan sen, còn đàn bà thì để nhổ bồn-bồn về làm dưa bán. Ðó là những người bạn bí mật của nó, nó giữ kín không cho nhà nó biết. Họ hay kể chuyện xóm làng, chuyện đám cưới, đám ma, đám hát, đám cúng đình, tóm lại tất cả sanh hoạt của làng mạc mà từ lâu Cộc không thấy và ngậm ngùi tưởng đến như nhớ những kỷ niệm xa xôi. Cộc chạy qua khỏi ruộng nhà và đứng lại nghỉ mệt. Nó mệt lắm vì nó chạy dưới nước và dưới bùn, mặc dầu lúa đã đến mùa gặt.
Năm xưa, gia quyến nó đến đây vào cuối tháng giêng, sau khi cúng ông vải xong ở quê cũ. Ông nội nó với tía nó đốt rừng tràm từ ngoài bờ rạch. Gió thổi vô rừng, và lửa, như con vật khổng lồ, đã táp một cái vào khối thịt xanh um của biển rừng tràm nầy. Thành ra ruộng nhà nó mang một hình tròn kì dị, không tròn đều đặn vì không ai chỉ huy được sự cháy rất là rắn mắt của ngọn lửa.
Cộc nhìn ruộng mình một hồi rồi cười khan lên. Ðám rừng bị khoét một lỗ để làm ruộng, trông như đầu tóc trẻ con được mẹ cạo, nhưng mới cạo có một mảng thì có chuyện gấp, bỏ dở công việc; đứa bé bị chúng bạn chế nhạo là đầu chó táp.
Lúc ruộng chín, cây lúa cao quá, ngã rạp xuống, để lòi trăm ngàn gốc tràm lên, trông như ai đóng cọc để cất nhà sàn; năm xưa đốt rừng nhưng không đủ sức đánh những gốc tràm tươi rói không cháy được nầy, tía thằng cộc đành cấy lúa giữa những gốc ấy, mãi cho đến ngày nay mà gốc vẫn chưa mục. Tía nó nói mười năm nữa, tràm chết cũng vẫn còn đưa cẳng lên như vầy. Sau lưng Cộc là những rặng tràm bị cháy sém dưới trận lửa khai hoang, không chết ngay, nhưng "chết nhát", cứ mỗi năm chết lần mòn thêm vài mươi cây. Mấy hàng tràm đầu nám đen và trụi nhánh như cột nhà cháy, câm hận nhìn chiếc chòi lá xa tít mù dưới mé rạch đang chứa chấp kẻ thù đã lấn đất của chúng, đã sát hại chúng. Sau đó, rừng dày mịt, chằn chịt những dây bòng bong, dây choại, bò từ thân cây nầy qua thân cây khác.Thằng Cộc lắng tai nhưng không nghe tiếng động nào cả. Nó đánh bạo chen qua những cây bình-bát, cây ráng, mọc xen với tràm, để đi tới đích. Một ổ chồn cộc bỗng chạy qua trước mặt nó, khua lên một cái roạch, làm nó giựt mình, nhưng tiếng người trên Ô-Heo cách đó chững hai hàng cây, giúp cho nó vững dạ.Tiếng đàn bà hỏi:
- Anh hổng sợ thằng Mùi hay sao ?
Tiếng đàn ông đáp:
- Thằng Mùi thì qua cho một loi là nhào hớt.
Cộc vẹt cỏ lá, đi mau đến đó và khi nó chun ra khỏi khối xanh thì hai người có mặt trên gò Ô-Heo sợ hãi ngồi dang ra. Người đàn ông gác quốc là người quen, người đàn bà nhổ bồn-bồn thì lạ hoắc. Chị nầy trẻ đẹp hơn tất cả những chị mà nó quen biết từ lâu. Người đàn ông tự trấn tỉnh lại ngay, ngoắt nó lại mà hỏi:
- Muốn về trển hay không Cộc ? Muốn thì đi theo chị hai mầy đây, chỉ có một đứa em gái ngộ lắm.
Trong khi thằng Cộc mắc cở tía tai thì chị đàn bà hỏi anh kia:
- Ở miệt nầy có người sao anh ?
- Chỉ có một nhà thôi. Mới tới đây chừng năm năm.
- Quen hay lạ ?
- Lạ. Họ ở trên Sa-Ðéc lận.
Chị đàn bà an lòng, vui lại được và nói với Cộc để mua lòng kẻ đã bắt chợt việc thầm lén của chị:
- Em của chị không bao giờ chịu về làm dâu ở một chổ như vầy. Em có muốn thì phải ở rể thôi.
Rồi hai người lớn cười ngặt nghẹo với nhau.
Thằng Cộc mới mười lăm, nhưng cao lớn gần bằng người đàn ông kia. Mình trần của nó nổi u, nổi nần những bắp thịt rắn như nắn bằng đất sét gắn vào đó rồi nung cho đen và cứng.
Sự nẩy nở của thân thể nó đi song đôi với sự trưởng thành của đời sống sinh lý bên trong của nó. Năm nay nó đã bắt đầu bâng khuâng mỗi khi chiều xuống, mặt trời đốt cháy đỏ đầu rừng tràm trầm thủy trước nhà. Nhưng sống cô đơn ở đây, nó không biết chuyện trai gái như vầy là xấu đến mức nào và nó phải có thái độ làm sao nên bối rối lắm.Chị đàn bà nắm tay nó, rị nó ngồi xuống bên cạnh chị, vỗ lên đầu nó rồi dỗ ngọt:
- Chị không ăn thịt em rể chị đâu mà sợ. Mầy mà về trển làm ruộng thì ai cũng ưa. Làm rể có công, ba năm thì má chị gả con Thôi cho mầy liền. Nói thiệt đó mà.
- Nó muốn trốn theo qua dữ lắm, người đàn ông nói, nhưng nó còn ngại.
- Ngại gì ?
- Thì lo sợ cái việc xa xôi đất lạ đó mà.
- Em nè, chị đàn bà lại hỏi, nhà có mấy người ?
- Bốn người ?
- Ai với ai ?
- Ông nội tui, tía tui, má tui với tui.
- Làm mấy công đất ?
- Hồi đó bốn công, bây giờ mười công.
- Gặt được bao nhiêu giạ mỗi mùa ?
- Tám giạ.
Chị đàn bà cười ngất một hồi rồi day lại hỏi nhơn tình:
- Trời ơi, ruộng gì mà mười công đất, chỉ gặt được có tám giạ thôi ?
Người đàn ông không cười, đáp:
- Ðất nước mặn nào mới khai hoang cũng như vậy hết.
- Rồi lấy gì mà ăn em nhỏ ?
- Tía tôi đi đổi lúa thêm, ở đâu không biết, xa lắm.
- Ðổi bằng gì ?
- Bằng cá khô. Với lại cũng chẳng cần ăn cơm. Nhiều khi ăn rùa, ăn rắn trừ cơm. Ở đây, rùa nhiều như kiến. Ðốt rừng rồi đón trên đầu gió một lát là chúng nó lạch cạch chạy trốn lửa, bắt không kịp lận.
Chị đàn bà tỏ vẻ ái ngại một hồi rồi nói:
- Nãy giờ chị nói chơi đó. Nhưng biết được tình cảnh của em, chị thật bụng thấy là em cần đi theo chị hoặc là anh đây cũng được.
Chị ta vói tay sau lưng, lấy bầu nước ngọt, mở nút ra rồi ngước mặt lên trời, rót nước vào miệng. Chị uống ừng ực vài cái rồi lại nói:
- Em có được ăn chè lần nào không ?
- Không, từ năm năm nay rồi. Cách đây một ngày đường nước, không có nhà cửa ai cả, không có quán tiệm gì hết. Với lại cũng không có tiền.
- Ở Sa-Ðéc sao lại không vô Tháp Mười mà nhè xuống U-Minh nầy ?
- Tui cũng không biết tại sao. Nhưng ở Tháp Mười dễ chịu hơn hả ?
- Chị cũng không biết. Chỉ biết đất hoang ở Tháp Mười gần quê cũ của em hơn. Quê em ở gần Cao Lãnh phải không ?
- Gần.
- Em có nhớ xoài Cao Lãnh hôn ?
- Tui lạy chị, đừng có nhắc chè, nhắc xoài nữa, tui thèm muốn chết đi. Năm năm nay, tui không có biết món ngọt là gì. Mấy cây chuối trồng sau nhà cũng chết queo vì đất còn mặn quá. Năm nay một cây trổ buồng, chắc tôi được ăn ngọt đây. Úi chà ! Trưa rồi, chắc tới bữa cơm, thôi tui về nha, anh, chị ?
- Ừ về, mai mốt lại lên đây nữa nha ?
- Xuồng anh chị ở đâu ?
- Dưới kia. Nhổ bồn-bồn ở dưới ấy, nhưng lên đây cho khô ráo để ăn cơm trưa é mà. Em Cộc nè, em của chị ngộ lắm, trắng lắm nghe không ?
Chuỗi cười của hai người nhơn tình ấy đuổi theo sau lưng Cộc khiến cho nó, trong giây phút, không muốn về nhà nữa. Ra khỏi rừng tràm râm mát, mắt Cộc bỗng dưng như đổ hào quang trước ánh nắng tháng mười. Không khí bị đốt cháy, đang rung rinh như nước xao, và nó tưởng chừng như mái lá nhà nó, đen thui dưới kia, sắp cháy đến nơi.Thằng Cộc về tới nhà thì cơm trưa đã dọn xong.
- Mầy đi đâu mà tới đứng bóng mới về ?
- Tui đi lượm lông chim Long ô.
- Lông đâu ?
- Mà kiếm hoài hổng có.
- Mồ tổ cha mầy, nhiều chuyện. Chim Long ô đời xưa mới có chớ đời nay đâu còn nữa. Mai gặt nghe không ? Ăn cơm khuya rồi xuống đồng cho sớm, đừng đi đâu hết.
Cả nhà lặng lẽ ngồi quanh mâm cơm, Không ai nói với ai lời nào. Những người nầy, sống biệt tịch ở đây lâu ngày rồi, đã biến thành á khẩu vì thói quen. Riêng thằng Cộc, sự cần nói của tuổi thơ đang lên mạnh lắm như cần chạy nhảy, cần ăn uống vậy. Câu chuyện hồi nãy trên gò Ô-Heo khiến nó càng bắt mùi nói thêm, nên nín không được, nó hỏi ông nội nó:
- Nội nè, hồi mới tới, giữa mùa nắng, mình uống nước gì, tui quên rồi ?
Nó hỏi như vậy vì nó vừa nhìn ra cái giếng bên hè và nhớ ra là giếng đã ngọt nước hôm mùa nắng trước, mặc dầu đã được đào từ năm năm rồi.
Cả nhà đều hớn hở trước dự định tương lai tốt đẹp kia. Nhưng thằng Cộc chưa thấy gì là xán lạn cả. Trồng ổi thì cũng phải khá lâu mới có trái, trong khi đó nó tiếp tục thèm chè, thèm xưng xa, nhớ đám cúng đình, nhớ hát bội và bị một hình ảnh mới quyến rũ, hình ảnh của con Thôi, chắc là giống hệt chị nhổ bồn-bồn, tức là có duyên lắm.
Con trai làng thấy con gái rất thường, thế mà họ còn thầm lén rủ nhau đi một ngày đường nước để ra đây gặp nhau, huống hồ gì nó chưa được nói chuyện với con gái lớn lần nào hết. Những đứa con gái bạn của nó cách đây năm năm, nó nhớ lại thì không có gì quyến rũ cả. Ðứa nào cũng cạo trọc chừa bánh bèo phía sau và giữa chiếc bánh bèo, mọc ra một chòm đuôi dài trông đến buồn cười. Nhưng mà con gái lớn phải khác. Cộc chưa thấy con gái lớn, nhưng tin chắc như vậy. Có một linh cảm gì, ở đâu từ kiếp tiền thân của nó bay lại và giúp cho nó biết như vậy. Những cô con gái lớn chưa thấy hình ấy, mà đã có tiếng kêu được, chúng âm thầm gọi Cộc, tiếng gọi như văng vẳng đâu trong không trung. Thẩn thờ, thằng Cộc nói lại câu hồi nãy, và giận giỗi, thêm một đoạn khiến ông nội nó giựt mình, chống đũa mà nhìn nó trừng trừng:
- Ở đây mình có ruộng nhưng cũng khổ cả đời. Tui muốn đi quá, đi đâu cũng được, miễn ở đó có làng xóm, có người ta.
Thằng Cộc thích mấy cây nọc nạng lắm. Bó lúa nào gác lên đó cũng nằm yên cả chớ không chực rớt xuống nước ruộng như những bó lúa gác trên đầu nọc thường. Ðó là những gốc tràm mà cháng hai chẻ ra rất thấp. Khi đốn tràm cháy, tía thằng Cộc đã trù xa, đốn ở trên cháng hai ấy độ một gang rưỡi nên bây giờ họ mới có nọc nạng rất tiện mà dùng gác lúa. Ông nội thằng Cộc chống xuồng trên ruộng, len lỏi qua mấy gốc tràm. Ông ghé từng gốc để cho lúa xuống xuồng.
Ðủ thứ là cò, cò ma, cò lông bông, cò quắm, cò hương, thân mật nhìn gia đình bốn người gặt lúa nhà. Ðây là bốn người độc nhứt mà chúng thấy mỗi ngày ở vùng hoang vắng nầy; ban đầu chúng sợ hãi họ, nhưng về sau, thấy họ hiền từ quá, chúng làm quen với họ đã được bốn thế hệ cò rồi.
Má thằng Cộc lội sình tới đầu gối, và lội nước gần tới háng nhưng vui vẻ hơn ngày nào hết. Bà ta tằng hắng rồi cất tiếng hò:
Hò... ơ... tiếng anh ăn học làu thông,
Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường ?
Hò xong câu đố ấy, bà lắng đợi chồng bà hò đáp. Nhưng tía thằng Cộc cứ làm thinh mà gặt, khiến bà đâm ngượng nên cười rồi cự chồng cho đỡ mắc cỡ:
- Tía nó sao câm cái miệng lại, không bắt vậy ?
- Hứ, nhiều chuyện nà ! Già rồi mà còn hò với hát, bắt với ghẹo. Bộ còn trai gái gì đó sao ?
Vì vui kết quả của cần cù nên má thằng Cộc quên rằng bà ta đã quá mùa hò rồi. Tía nó nhắc lại bà ta mới chợt nhận ra. Tuy nhiên bà vẫn ngậm ngùi nhớ cái thú vui ấy thuở bà còn con gái và ngay bây giờ đây, tóc đã nhuốm hoa râm rồi, bà cũng hưởng được nếu còn ở làng, hưởng bằng cách khuyến khích bọn trai trẻ hò đối đáp với nhau. Thằng Cộc thì xôn xao trong lòng, nhớ lại lời chị nhổ bồn-bồn bảo rằng nó mà về làng làm ruộng thì ai cũng ưa. Ừ, nó sẽ hò đối đáp với con Thôi. Chậc ! Mà nó phải nhờ má nó dạy hò mới được. Nó có nghe hò lần nào đâu để mà thuộc giọng và biết câu. Ðến chiều thì xong xuôi cả. Ông nội thằng Cộc chống xuồng lúa để ra bờ rạch, còn tía nó, má nó và nó thì lội nước sình mà về bộ.
Ðập lúa và phơi phong mất hết mười ngày. Trong những ngày buồn tẻ, phẳng lì giữa cảnh bùn lầy nước đọng ấy, thằng Cộc càng nao nức muốn về làng.
Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường ?
Câu hò của má nó ám ảnh nó từ hôm gặt đến nay. Nếu con Thôi mà hỏi đố nó câu ấy chắc nó phải ngậm câm, cho dẫu được phép trả lời bằng văn xuôi.
Khăn lông là vật dụng mà nó đã quên rồi thì còn biết là mấy đường để còn đáp cho thông. Từ lâu, nó chỉ có một chiếc quần xà lỏn trên người, mùa nắng cháy như mùa mưa lạnh. Ðêm nó nhờ nóp che thân cho đỡ bị muỗi đốt và gió cắt da. Những món đồ cần dùng của thế giới văn minh ấy cũng thuộc vào những thứ gợi thèm như bánh trôi nước, bánh ít trần và mái tóc của con Thôi. Hôm ấy, dùng bồ cho con cháu đổ lúa vào, ông nội thằng Cộc long trọng nói:
- Ngày mai ra biển.
Không ai hỏi ra biển để làm gì hết. Thằng Cộc cũng làm thinh, trái với mọi ngày mà nó hỏi không kịp đáp. Con rạch Ô-Heo trước nhà, nếu có đi trên ấy thì phải về ngọn, nó nghĩ như vậy, đi về ngọn để rẽ qua những kinh rạch khác mà tìm làng mạc sầm uất, chớ xuôi dòng ra biển thì còn nghĩa lý gì nữa chớ ? Nó chưa được ra biển lần nào cả và mấy năm trước đây nó muốn theo ghe của bọn bắt cua để đi một chuyến lắm, mà không được phép đi. Chuyến đi đầu đến một chơn trời xa lạ mà ông nội nó vừa cho biết, không làm cho nó phấn khởi chút nào cả. Ông nội nó tiếp, dặn mẹ nó:
- Con mẹ Trùm, ngày mai phải dậy khuya nấu cơm. Tao đi với thằng Trùm và thằng Cộc, đi thật sớm để gặp con nước lớn ngay tại cửa mà về cho tiện.
Rạch Ô-Heo nhỏ xíu cho nên tràm mọc ở hai bên bờ giao nhành với nhau được và phủ kín cả mặt nước. Rạch tối om, đi như đi trong hang. Bây giờ thằng Cộc mới thấu nghĩa hai tiếng "hang mai" trong câu hát của bọn đi bắt ba-khía. Những nơi ánh nắng lọt vào được thì hai bên bờ, ô-rô và cóc kèn mọc đầy. Nước ròng chảy xiết, xuồng trôi bon bon. Tuy vậy, ông nội và tía cũng chèo cẩn thận để mau tới nơi, hầu về kịp nội buổi chiều ngày đó. Gần tới trưa, xuồng không đi mau nữa.
- Nước đứng rồi, ông nội nói, tức ta gần tới cửa rồi.
Họ thôi chèo, để cho xuồng trôi linh đinh, không tiến cũng không lùi, rồi lấy cơm dỡ trong mo nang ra mà ăn. Không đi thì thôi, đã trót đi, và lúc gần tới đích, thằng Cộc nghe thích thấy biển coi ra sao. Nó và cơm hối hả rồi hỏi:
- Ra đó làm gì ông nội ?
- Rồi mầy sẽ biết.
Họ ăn cơm xong thì nước bắt đầu lớn. Họ chèo ngược nước cho đến quá đứng bóng thì đến một nơi kia mà ông nội tuyên bố rằng đó là biển. Thằng Cộc ngạc nhiên lắm mà chẳng thấy biển đâu cả. Con rạch tiếp tục đi xa ra ngoài kia, hai hàng rào cây như đứt khúc, đâm vào một vách tường xanh như da trời.
- Biển ở đâu, ông nội ? Cộc hỏi.
bài do chị Trương Kim Anh gởi
Sau khi cha tôi mất, gia đình càng ngày càng túng bấn, một mình mẹ tôi không đủ sức nuôi nấng hai đứa con mồ côi nơi thành thị nên mẹ đưa hai anh em tôi trở về làng cũ . Bên nội xóa bỏ tên cha tôi trong gia phả vì cha tôi xé tờ khai sinh mà ông tôi cố tình điền tên tuổi người vợ cả vào chỗ tên tuổi mẹ tôi . Ông tôi muốn gạt mẹ khỏi cuộc đời cha tôi bấy giờ và cuộc đời tôi mai hậu. Việc ấy rất giản dị như ông đã xóa bỏ tên chú Nghị vì chú mê cô đào cải lương gia nhập ban hát, lang thang rày đây mai đó. Bên ngoại từ bỏ mẹ tôi ngay từ dạo mẹ có mang ba tháng vì mẹ trốn nhà, vượt luật lệ cổ truyền, theo cha tôi làm vợ lẽ. Thành thử lớn lên anh em tôi mù mịt cả ý niệm gia tộc. Mẹ tôi thường kể rằng trước khi lấy mẹ tôi, cha tôi đã có vợ . Người vợ ấy cha tôi không yêu thương, nên bốn năm liền bà tôi cứ hoài công mong bế cháu. Ông tôi buồn phiền, thở dài thườn thượt, ông nghĩ đến nghiệp chướng xa xôi nào, lúc này sự quả báo hiện hình khiến dù con gái. Thật vô phúc. Cha tôi đi vắng luôn luôn, cha năng ở nhà ông phó Nhị hầu hạ ông để hòng ông truyền hết ngón đàn thập lục.
Cha tôi phải giặt quần áo, đấm bóp chân tay hay kiếm rượu, đồ nhắm cho ông Phó, phục dịch ông đủ điều. Rốt cuộc ông Phó vẫn giữ lại đôi ngón sở trường, ông sợ dạy hết, mai mốt cha tôi giỏi hơn ông. Bởi vậy, tài nghệ của cha tôi chưa nổi bật, và chưa đủ thời giờ nghiên cứu âm nhạc quê hương thì cha tôi đã gặp mẹ tôi. Cuộc tình duyên này làm đảo lộn đời cha và ảnh hưởng rất nhiều đến anh em tôi sau này
Ông nội tôi biết chuyện tức sôi ruột, chửi bới cả gia đình nhà mẹ tôi. Tiếng dữ đồn tới xóm làng bên kia sông. Ông ngoại tôi đuổi mẹ tôi khỏi cửa. Bấy giờ mẹ tôi có mang tôi được ba tháng. Cha tôi lén lút gởi mẹ tôi nương náu nhờ người bà con xóm cuối thôn. Bà nội tôi thương con cả, lại nghe tin mẹ tôi có chửa nên bớt giận. Bà nội xin ông nội nhận mẹ tôi làm vợ lẽ cha tôi. Cuộc hôn nhân không giá thú. Việc tưởng vậy êm thắm. Ai ngờ ông ngoại tôi lồng lộn tìm bắt mẹ tôi, đánh đập mẹ tôi một trận tàn nhẫn. Tệ hơn nữa, ông ngoại tôi lại gọt hết tóc, bôi vôi trắng xóa đầu mẹ tôi rồi mới đoạn tình phụ tử. Mẹ tôi phải trùm khăn vuông kín mít ngót hai năm trời.
Mẹ về sống dưới gian nhà mái dột, vách bùn trát nham nhở bên cạnh chuồng trâu của đại gia đình họ Nguyễn nhà tôi. Suốt thời gian đèo bòng cái hình hài tôi, cái bọc đau khổ, mẹ tôi chịu đựng bao nhiêu điều tủi nhục. Hết người vợ cả hẹp hòi, ích kỷ của cha tôi hằn học ghen tuông, lại đến các cô tôi kiếm cớ sinh sự. Vợ cả cha tôi bảo mẹ tôi độn vải đầy bụng để đánh lừa ông tôi. Ông tôi nhiều bận chỉ mặt mẹ tôi dọa nạt rằng nếu đúng tháng mà không sinh nở thì sẽ tống cổ mẹ tôi đi. Chú Nghiêm thỉnh thoảng về thăm nhà cũng hạch sách mẹ tôi. Ông tôi quý chú Nghiêm lắm. Trong khi cha tôi mải đàn sáo, chú Nghị giang hồ phiêu bạt, chú khéo léo chiều ông tôi. Bởi thế chú Nghiêm được xuống tỉnh học, đỗ đạt giỏi giang. Chú khinh bỉ mẹ tôi, sự khinh bỉ chú học mót của đám dân trưởng giả thành phố. Mẹ tôi đau khổ trăm chiều, ngày làm quần quật như con vật, tối ôm bụng khóc một mình. Tội nghiệp mẹ tôi, tôi chả biết ví mẹ giống ai. Ðầy tớ nhà ông tôi còn sung sướng còn nói đùa nghịch, chứ mẹ tôi thì câm nín suốt ngày đêm. Cha tôi hy vọng mẹ tôi sinh con trai và đứa đầu lòng sẽ là nhịp cầu bắc qua những tâm hồn người bên nội với tâm hồn mẹ tôi. Chắc chắn mẹ tôi hết tủi cực.
Ðến ngày mẹ tôi trở dạ, ông tôi cất vội vàng túp lều nhỏ ở xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu. Tôi cất tiếng khóc ban đầu nơi ấy, ở túp lều xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu, cạnh những con người hà tiện tình thương mến. Vì đêm tôi mở mắt chào đời, cha tôi đi vắng nên cớ sự xảy ra như tôi đa nói đoạn đầu. Tuần lễ sau cha tôi về, cha nghiến răng xé nát tờ khai sinh rồi đưa mẹ con tôi xuống tỉnh ly. Tôi vĩnh biệt họ hàng bên nội bằng mấy tiếng "oe oe". Tôi lớn dần, lớn dần để thu vào tầm mắt non nớt hình ảnh cuộc đời cha tôi : hình ảnh gã nhạc công hậu trường sân khấu cải lương, hình ảnh ông lái thuốc bắc, hình ảnh ông thư ký sở tư, hình ảnh ông thợ chữa xe đạp và sau rốt là hình ảnh ông lang chế thuốc cao đơn hoàn tán. Mãi tới ngày cha tôi mất, tôi mới thù hằn những hình ảnh méo mó đọa đầy linh hồn cha tôi. Sao đời cha tôi nhiều hình ảnh thế? Và đời tôi nữa, hình ảnh thẫm nét nhất là một đêm mù mịt bên khóm chuối tiêu. Thế mà anh em tôi lại phải về quê ngoại. Tôi không hiểu tại sao mẹ tôi chịu nhục nhã, nương náu dưới túp nhà lá bỏ hoang vườn sau, trước đây ông bà ngoại dành riêng cho bọn thợ gặt mỗi vụ mùa. Mẹ tôi chỉ nghĩ đến anh em tôi. Trời ơi, tôi muốn khóc quá.
Ở đây, chúng tôi sống lủi thủi cô độc. Mẹ tôi dọn quán bán nước chè tươi, xôi chè, canh bún ngoài bến đò Ðồng - đức, bòn nhặt từng hào chỉ. Thường mẹ dậy sớm sửa soạn đồ hàng, cơm nước buổi sáng để anh em tôi ăn. Mẹ nắm thêm hai nắm nhỏ phòng trưa đói còn lót dạ tạm. Chập tối mẹ lần mò về nhóm bếp thổi cơm. Bữa nào hàng ế ẩm, mẹ con tôi ăn canh bún, ăn xôi chè thay cơm. Mẹ tôi luôn luôn vui vẻ dù thỉnh thoảng cậu mợ, dì bác tôi mỉa mai đủ điều. Họ nói những lời mà bây giờ tôi hãy còn nhớ. Tôi không thể tưởng tượng nỗi tê tái nghiến nát cõi lòng mẹ khi bà ngoại gọi mà là "đồ đĩ", bác tôi bảo mẹ là "con lăng loàn" và mợ tôi nói bâng quơ "cóc chết ba năm quay đầu về núi". Tôi thấy mẹ tôi cúi đầu lẳng lặng, nước mắt nhỏ giọt trên mái tóc em tôi, thì tôi đoán rằng mẹ buồn. Hồi ấy, tuy tôi bó bỏng nhưng tôi đã biết xét đoán những con mắt soi mói, những lời tiếng bấc chì, những bộ mặt ích kỷ của mọi người họ hàng bên ngoại. Tôi thương mẹ. Tôi thương em gái tôi hơn, chưa được hưởng sung sướng thì cha vội lìa đời. Tôi hằng mơ ước một mai khôn lớn, tôi sẽ kiếm tiền nuôi mẹ, sẽ tậu nhà ở tỉnh, mẹ tôi thôi bán hàng, em tôi cắp sách đi học. Nghĩ vậy tôi thèm đọc sách lắm. Khốn nỗi mẹ tôi nghèo cực, lấy tiền đâu mà mua. Tôi đành học ôn mớ sách cũ nát và dạy em tôi từng trang, từng đoạn dè sẻn, sợ hết chữ.
Ðám con cái cậu mợ tôi vào hùa cha mẹ chúng bắt nạt anh em tôi. Hễ em tôi hở ra món đồ chơi nào là chúng nó tìm cách ăn cắp. Tôi đòi, chúng xúm nhau đánh đập tôi sưng tím cả mặt mày. Em tôi khóc, mẹ tôi thở dài đau đớn. Dần dần cuộc sống quen nếp. Anh em tôi biết thân phận, bắt chước mẹ tôi, tập nhịn nhục, tập nghiến răng và hy vọng. Anh em tôi đùa nghịch với nhau, chẳng dám lai vãng đến thềm nhà ông bà ngoại.
Tôi hay bắt dế, bắt chuồn chuồn, bắt công cống cho em tôi chơi. Bạn bè của chúng tôi có chừng chỉ có con chim chích chòe sáng nào cũng đậu trên cành soan ca hát líu lo rồi tung cánh bay xa tìm mồi. Em tôi thích chim. Tôi vụng về, không trèo cao được. Tôi hẹn sẽ bắt tặng em tôi một con sáo khi mùa xuân sang.
Mùa xuân, hoa soan vườn nhà nở nhiều, mầu tím dịu mắt. Mẹ tôi nói hoa soan nở chỉ tổ đuổi muỗi mệt xác. Cùng lượt hoa soan khoe sắc, sáo trên rừng đổ xô xuống đồng bằng hàng đám, cơ man. Em tôi nhìn những con sao đen, lông muôn muốt, viền mắt vàng vàng, ra chiều thèm ước. Tôi theo bọn trẻ con bến đò, lấy rổ rách, vất cạp rồi buộc lại tựa hình cái đó đơm tép. Xong, tôi bó manh chiếu bên ngoài bịt chặt một đầu, còn đầu kia để ngỏ cho sáo ra vào. Tôi buộc tổ sáo trên cành sung thấp nhất. Hai hôm sau vợ chồng nhà sáo bắt đầu tha rác về tổ của anh em tôi. Chúng tôi hoan hỉ đợi chờ. Em tôi chưa chi đã vọi lo cái lồng nhốt con sáo. Tôi bảo em tôi phải mong ba tháng. Em tôi sốt ruột. Ngày nào cũng hỏi thăm sáo. Mẹ mắng em, em dỗi bỏ cơm. Tôi dỗ dành em mới chịu ăn.
Ít lâu sau tôi trèo lên thăm tổ. Tôi thò tay tận phía trong và biết sáo đẻ bốn trứng. Tôi lôi ra xem. Trứng sáo to bằng ngón tay cái của tôi, màu xanh xanh vân vân đẹp quá. Tôi kể chuyện em nghe. Em nhẩy reo ầm ỹ. Mẹ tôi dọa rằng :
- Rắn ưa tìm tổ chim ăn trứng. Con liệu hồn, nó cắn thì chết.
Tôi phát run, thề sẽ chừa thói liều lĩnh nguy hiểm. Nhưng em tôi muối coi trứng sáo, em cứ nằn nì đem xuống một trứng. Tôi đành mạo hiểm lần nữa. Lúc tôi đang lúi húi trước cửa sổ thì vợ chồng đôi sáo bay về. Chúng nó lượn trên đầu tôi, kêu inh ỏi. Tôi bỏ trứng vào túi áo, tụt xuống, sướt cả tay, máu chảy đầm đìa. Em tôi thỏa mãn sự tò mò, em trông tôi, thương hại. Tôi an ủi em và trả lại trứng cho sáo. Tối hôm ấy mẹ tôi đánh tôi hai roi tội không vâng lời. Mẹ nói :
- Còn trèo nữa, sáo sẽ bỏ tổ.
Anh em tôi lo ngại ngủ chẳng ngon giấc. Ngày tháng mùa xuân trôi vùn vụt. Một buổi sáng anh em tôi nghe rõ tiếng sáo con kêu trong tổ, em tôi hỏi :
- Anh ơi! Sáo con có bú mẹ không?
Tôi vuốt tóc em dịu dàng trả lời :
- Em bú mẹ chứ sáo nào bú mẹ
Em ngây thơ :
- Thế làm sao nó lớn được?
- À sáo mẹ mớm mồi.
- Sáo bố làm gì hở anh?
- Sáo bố đứng canh. Em nhìn thì biết. Kia kìa, trên cành cây gần tổ. Khi sáo mẹ mớm mồi cho các con, cũng như khi ấp trứng, sáo bố bao giờ cũng lởn vởn ngoài tổ em ạ!
Tôi giảng nghĩa thế vì tôi nghe lỏm bọn trẻ con ngoài bến đò. Em tôi ngạc nhiên, ngây người đứng ngắm. Lát lâu em mỉm cười nũng nịu :
- Sáo con ngủ, sáo mẹ có ru không anh?
- Chắc có.
- Anh biết à?
- Thì anh đoán, chim cũng như người vậy em ạ!
- Mẹ ru em bằng bài "Con cò mà đi ăn đêm", sáo ru con bằng bài gì hở anh?
- Anh chịu, chả biết được.
- Giá sáo là người để em hỏi nó chắc thích lắm anh nhỉ?
- Ừ.
Ðám con cái ngỗ nghịch của cậu mợ tôi đã thấy chỗ tôi buộc tổ sáo. Tôi tức' sôi ruột, tức muốn đốt nhà chúng nó. Chúng nó rình mò làm tôi không thể ra bến đò trông hàng giùm mẹ tôi những lúc đông khách. Anh em tôi thay phiên nhau canh gác. Mẹ tôi khuyên tôi nên chia sáo cho chúng nó. Tôi miễn cưỡng phải rỡ tổ đáng lẽ chờ vài hôm nữa sáo con già dặn hơn. Hôm tôi bắt sáo con, vợ chồng sáo bay lượn kêu thảm não. Sáo mẹ sà xuống sát đâu tôi như thể nó sắp mổ mắt tôi. Chẳng trách cha tôi xé tờ khai sinh, mẹ tôi chịu vất vả, khổ sở. Mẹ tôi mua giỏ bắt cua để tôi nhốt sáo. Cậu mợ tôi chọn lựa ba con đẹp, lớn ; phần tôi là con sáo đẹt, bé nhỏ, xấu xí nhất đàn. Tôi buồn, khóc mấy đêm ròng. Làm sao tôi nhớ hết mọi chi tiết vụn vặt cái hôm ông cậu bà mợ tôi chia sáo? Cậu tôi bóp con sáo xấu số của tôi khiến cho nó há mỏ ra. Em tôi run rây chỉ sợ nó chết? Mợ tôi bảo :
- Bọn mày nuôi sáo làm quái gì, cơm còn không đủ ăn lại có cơm thừa nuôi sáo.
Tôi cáu tiết cãi lại :
- Sáo ăn cào cào chứ cần gì cơm gạo.
Cậu tôi chẳng nể nang gì mẹ tôi cả, cậu chúi đầu tôi một cái thật mạnh. Tôi lao đao xuýt ngã. Cậu mắng mỏ :
- Ðồ chết cha, đồ con hoang có khác. Anh em mày lớn lên thì thành đồ ăn cắp!
Tôi nín lặng, em tôi chạy vào ôm lấy mẹ. Và cả tôi cũng lủi thủi cầm con sáo vừa đi vừa khóc. Tiếng khóc của em tôi, em tôi rõ ràng hơn. Mẹ tôi thương anh em tôi, mẹ bỏ bán hàng nửa buổi đan cái làn mắt thưa. Mẹ bảo nhốt sáo vào đấy rồi treo lên cây, sáo mẹ luyến con sẽ mớm mồi, như vậy sáo chóng lớn. Tôi nghe mẹ. Quả con sáo của anh em tôi được sáo mẹ chăm lo chu đáo. Ðám con cái của cậu mợ tôi ghen ghét. Chúng nó chăm chăm đòi bắn đôi sáo già. Tôi chỉ ngại nhỡ chúng bắn sáo của tôi. Bọn ranh con mất dạy, ích kỷ bắn súng cao su không trúng, chúng nó nhờ người thổi ống xì đồng. Buổi sáng hôm cái gã mắt chột rình rập ngoài vườn, anh em tôi lo cuống quýt. Em tôi nhìn sâu chim đủ loại : chào mào, chích chòe, liếu tiếu lủng lẳng trên vai hắn, em nói nhỏ :
- Khéo nó bắn chết sáo mất anh ạ!
Tôi run run trả lời em :
- Ðừng sợ em ơi! Mắt nó chột bắn chả tin đâu.
Nhưng đôi sáo già đi kiếm mồi đã về. Tim anh em tôi đập mạnh. Tôi rõi mắt lên cành sung chờ đợi. Sáo bố đậu cách cái làn khá xa, sáo mẹ mon men lại gần mớm mồi. Trong lúc đó, viên đạn đất oan nghiệt từ ống xì đồng thổi phụt ra. Sáo bố trúng đạn rơi xuống ao. Em tôi giật nẩy mình kêu lớn :
- Chết em rồi!
Tôi cảm thấy như viên đạn trúng đầu tôi. Con sáo bố đã chết. Sáo mẹ bay lượn, rỉa rói ai oán hàng giờ. Em tôi ứa nước mắt :
- Sáo của anh em mình mất bố rồi nó sẽ khổ lắm anh nhỉ?
Câu nói khiến lòng tôi se lại. Tôi nhớ cha tôi. Phải chi cha tôi còn sống thì anh em tôi đâu khổ sở thế này. Sáo mẹ thỉnh thoảng bay tới, nó chỉ dám sà vội qua cái làn, có khi sáo con chưa kịp há mỏ, mồi đã rơi mất. Sáo mẹ sợ sệt tất cả. Tôi chạnh nghĩ đến mẹ tôi mà buồn vời vợi.
Em tôi lo cho sáo con, đòi mang xuống. Tự đấy sáo mẹ không trở lại nữa. Có lẽ nó đã chết vì cô độc hay đã về rừng. Chúng tôi nuôi sáo bằng chuối. Dần dần sáo lớn, tôi ra đồng đập cào cào lấy mồi nuôi sáo. Tội nghiệp sáo con côi cút, đêm ngày âm thầm chui rúc trong cái giỏ cua. Em tôi đang phân vân không hiểu mai kia sáo lớn nhốt vào đâu. Ước gì có cái lồng tre, chúng tôi mơ ước song mẹ tôi không thừa tiền chiều chuộng con.
Giữa lúc đó thì chú Nghị đến thăm mẹ tôi. Họ hàng bên nội nhà tôi chỉ chú Nghị là kẻ có lòng. Bao nhiêu năm tháng qua rồi, từ ngày tôi sinh ra đời tới bây giờ, chú luôn luôn an ủi, giúp đỡ mẹ tôi. Tuy chú nghèo, tôi thường nghĩ giang hồ phiêu bạt như chú, giầu sao được. Chú Nghị tốt lắm, chú bên vực mẹ tôi thuở mẹ tôi bị cả gia đình chồng xúm vào cấu xé, đay nghiến chỉ vì mẹ tôi thương yêu cha tôi quá đến nỗi mẹ bằng lòng lấy cha tôi không cần giá thú. Hôm đưa xác cha tôi tới nghĩa địa, tôi thấy chú khóc nức nở khi những tảng đất phủ kín dần chiếc quan tài bằng gỗ mộc. Tôi còn đủ trí nhớ để hình dung ra bộ mặt khắc khổ phong sương của chú Nghị. Và hình dung ra thì tôi lại ghét cay đắng ông bà nội, các cô các chú tôi, nhất là người vợ cả ích kỷ của cha tôi.
Dạo cha tôi ở Hà - nội, ban tuồng chú Nghị sau nhiều chuyến lang thang dọc. đường gió bụi, trở về trình diễn tại thành phố này. Chú dành ghế cho cha mẹ tôi xem tuồng liên miên. Mỗi buổi tan hát, chú dẫn đi ăn mì. Khi rảnh rang, chú dắt tôi tới vườn Bách - thú xem xiếc hoặc dạo mát loanh quanh trong công viên rồi ra ngồi ăn bánh tôm trên đường Cổ - ngư bên hồn Trúc - bạch. Mỗi phố tôi qua, chú dạy tôi cách trông chừng hai đường xe cộ lưu thông. Vì chú cháu tôi hay thơ thẩn buổi sáng, chú bảo tôi thở hít mạnh, chú giữ lưng tôi ngay thẳng tựa người lính tập đứng nghiêm. Tôi yếu đuối, chắn chắn sự yếu đuối ảnh hưởng phần nào những ngày mẹ tôi mang thai tôi, tâm hồn mẹ bị dằn vặt, thôi thúc thời gian đó. Huệ, Lê - Lợi, Lý - Thường - Kiệt, câu kết luận của chú bao giờ cũng hàm đầy ý khuyến khích :
- Cháu gắng lên, mai mốt cháu sẽ giỏi, cháu sẽ hãnh diện làm con của cha mẹ cháu.
Tôi không nghe chú nói tới quãng đời luân lạc chim nổi của một kép hát. Sau này vợ chú bỏ chú lấy người khác, chú nghiện rượu và thù hằn tất cả. Tôi không biết tại sao chú hay giấu điếm sự uẩn ức mà đáng lẽ nói được thì chú bớt giận dữ kẻ khác trên đời. Nhưng, ngay trong những cơn điên tàn bạo, chú tôi rất h iền hòa với mẹ tôi. Tôi nhớ dạo gia đình tôi sống ở ngoại ô Khâm - thiên, nhà tôi phải đi qua cái ngõ hẹp bẩn thỉu. Một buổi tối, tôi đang cắm cổ bước, vì tôi sợ ma, thình lình chú Nghị nấp sau đám giậu kêu "ú a ú ớ" cơ hồ tiếng ma quỷ giận hờn rồi xô ra chắn lối. Chú muốn dọa tôi nên chú chơi thế. Song lúc ấy tôi không thèm hiểu. Trong khoảnh khắc, đầu óc tôi tràn ngập sợ hãi, khích động. Tôi cáu tiết đá chú nột cái thật mạnh. Tôi mới lên mười nhưng tôi mang giầy, trong cơn tức giận tôi đá mạnh kinh khủng và cái đá làm sước ống chân chú Nghị. Máu chảy ròng ròng, chú đau đớn, rên nhè nhẹ rồi ngẩng lên mỉm cười. Chú ôm tôi xin lỗi. Tôi khóc thương chú khiến chú rớt nước mắt. Chú Nghị mang vết sẹo trên da tháng năm nối tiếp. Thỉnh thoảng vui vẻ, chú kéo ống quần khoe vết sẹo. Anh em tôi lại sà vào lòng chú nũng nịu.
Ngày mẹ tôi dìu anh em tôi về quê ngoại, chú phiêu bạt mãi tận Sài - gòn. Thành thử chúng tôi trống rỗng buồn tẻ. Không ai bênh vực an ủi anh em tôi. Nay tự nhiên chú Nghị đến, hỏi chi anh em tôi không vui mừng sung sướng. Bên ngoại vẫn thù bên nội vì ngày mẹ tôi trốn nhà theo cha, ông nội cứ gọi tên ông ngoại chửi bới, trách móc. Lúc này chú Nghị có mặt ở đây, tôi thấy chú nhét bông đầy tai và đeo kính râm suốt ngày. Chú mua cho tôi vô số sách đẹp. Chú dạy anh em tôi học. Tôi thích chú Nghị nói chuyện lịch sử. Em tôi thì bận tâm về con sáo nhỏ. Em khóc khi chú dạy tôi toán pháp. Chú hỏi em tại sao, em bảo ước' gì có cái lồng như bọn anh chị em con cậu con bác tôi. Chú Nghị vuốt tóc em, chú tháo cặp kính, mắt chú đỏ ngầu, chú thẫn thờ giây lát rồi ghé tai em tôi thầm thì. Em tôi nhảy lên reo múa. Mấy hôm sau, chú bỏ việc dạy học, ngồi cặm cụi vót tre đan lồng. Ba bốn ngày liền chú mới đang xong. Cái lồng sáo của em tôi đẹp chả thua gì lồng bán ngoài bến đò. Chú làm chiếc thang ngang lấy chỗ cho sáo đậu, chú buộc cóng đựng nước và cóng chưa có gạo, nước. Con sáo được nuôi trong lồng ra bỏ đi. Mẹ tôi giữ thế nào cũng chẳng nổi. Tôi hết hy vọng học chú. Hôm chú mới đến, chú hứa chú ở lâu, chú nói dối anh em tôi. Chú Nghị ra đi, ít tháng sau được tin chú chết, mẹ con tôi buồn não nuột. Từ đó, sớm chiều anh em tôi đành tâm sự với con sáo.
Tôi ra đồng đập cào cào, châu chấu làm mồi cho sáo ăn. Em tôi thích đút chuối cho sáo. Em cắn miếng chuối nhỏ, xâu vào đầu cây tăm. Em thổi sao miệng, chú sáo đói kêu "khách khách" trả lời rồi há mỏ ra đợi em tôi mớm ăn. Em còn cho sáo ăn thịt nữa. Những buổi trời ấm áp, em tôi tắm sáo, rửa lồng. Nhìn sáo phơi mình dưới ánh nắng, mắt em tôi bừng lên những tia sung sướng, hy vọng. Em hay thả sáo tự do nhởn nhơ khỏi lồng. Em đi trước, sáo theo sau tựa hồ đôi bạn côi cút thương yêu nhau. Con sáo của em khôn lắm, nó thường "làm nũng" em lúc em cho nó ăn. Nó nhảy lên cánh tay em rồi bậy trắng lòe áo. Em thích ôm sáo trong lòng đôi bàn tay hoặc để nó đậu trên vai rất âu yếm. Bữa nào sáo ăn ít, em sợ sáo ốm, sáo chết, em buồn có khi em khóc. Nhiều đêm trời mưa bão, em ngủ không yên, thức giấc là hỏi chuyện sáo.
Ngày tháng trôi qua, con sáo của em tôi thay hình đổi dạng. Bộ lông đen mượt, nó nhẩy nhót luôn chân. Nó đã biết mổ gạo. Như thế anh em tôi khỏ cần lo cào cào, châu chấu, chuối, thịt nữa. Mẹ tôi bảo bóc lưỡi sáo vài lần thì nó mới nói được. Em tôi sợ sáo đau nên ngần ngừ. Nghe ai mách rằng cho sáo uống nước cua kẻo nó "sốt rét", em tôi định làm, song mẹ tôi mắng :
- Sáo đẻ ở đồng bằng thì ngã nước cái gì, chỉ vẽ chuyện.
Thế rồi anh em tôi cũng phải nhờ mẹ tôi bóc lưỡi sáo. Con sáo xấu xí út ít không ngờ đẹp quá. Bọn trẻ gạ gẫm mua, anh em tôi từ chối. Chúng nó tức giận bèn mang con mèo già hung ác tới dọa nạt. Anh em tôi thay phiên gác sáo.
Bây giờ con sáo tập hót. Mắt nó còn viền vàng xinh đáo để. Thỉnh thoảng vắng người nó líu lo đôi tiếng. Hễ có người thì nó câm tiếng. Em tôi cho rằng nó xấu hổ. Một buổi trưa anh em tôi đang thiu thiu ngủ bỗng nghe con sáo kêu hoảng hốt. Em tôi vùng dậy, thấy ở thềm nhà gã mèo hung ác đứng gầm gừ nhìn lên. Em vác guốc ném trúng mèo, nó co đuôi chạy mất. Chúng tôi lo sợ. Mẹ tôi bắt mang lồng sáo ra ngoài hàng, tối mang về.
Khách hàng ghé quán mẹ tôi, họ dạy anh em tôi cách tập sáo nói. Họ bóc hộ lưỡi rồi họ che kín mít lồng. Quả nhiên sáo không nhìn rõ ai, hót líu lo. Giọng nó trong vắt mà buồn làm sao. Trưa hè ở bến đò vắng vẻ, tiếng nó gợi cho anh em tôi bao nỗi nhớ nhung thương tiếc. Tôi lại nhớ chú Nghị, nhớ cha tôi. Dần dần em tôi dạy nó nói. Bài học vỡ lòng để sáo nói tiếng người là :
- "Sáo dạ, sáo dạ, nhà có khách".
Em tôi kiên nhẫn dạy sáo, mãi rồi con sáo côi cút của em tôi nói được. Em ngây thơ lắm, em dạy cả sáo hát, dạy nói những lời hết sức tha thiết :
-"Sáo nhớ mẹ, sáo khóc ".
Con sáo dường như hiểu nỗi lòng của em tôi nên cố gắng. Khi em hát, sáo hót và nói "Sáo nhớ mẹ..." Càng ngày sáo hót càng hay. Thấy là lạ, ông ngoại tôi xuống chơi nhà tôi nghe sáo nói. Việc này quá sự tưởng tượng của mẹ tôi. Từ ngày gia đình tôi về nương náu ở đây có khi nào ông ngoại tôi thèm thăm hỏi. Ông thích con sáo, ông đòi mượn. Em tôi lăn ra khóc' từ chối. Sau hôm ấy, ông ngoại ghét anh em tôi hơn.
Ở bến đồ, vô khối người muốn mua, họ trả một trăm đồng nhưng em không bán. Mẹ tôi khuyên em nên bán vì trăm bạc sẽ may được cho hai anh em tôi mỗi đứa hai bộ quần áo diện tết. Em tôi không cần quần áo, nếu mẹ bán sáo thì em tôi sẽ nhịn đói đến chết. Cuối cùng mẹ chiều em. Anh em tôi có con sáo nên bớt cô độc. Trẻ con hàng xóm năng lui tới nhà tôi trừ bọn anh em họ độc ác của tôi. Trong quãng đời thơ ấu buồi tủi, anh em tôi thèm thuồng đủ thứ. May mắn mẹ đưa anh em tôi về quê chứ ở lại Hà - nội thì anh em tôi còn khổ sở dường nào. Ðiều chắc chắn là em tôi không có con sáo để trút nỗi niềm. Em tôi ưa ngồi một mình nói chuyện với sáo. Em tôi kể nỗi hiu quạnh của em làm như sáo hiểu nổi. Em hỏi sáo :
- Mất bố mẹ sáo có khổ không?
Rồi em nói tiếp :
- Khổ ư? tội nghiệp nhỉ , bé bỏng thì chỉ bị bắt nạt thôi sáo ạ! Sáo đừng khóc nhé! À sáo ăn no chóng lớn, chớ bỏ bữa, gầy còm rồi chết thì tôi buồn đấy sáo ạ! Chả ai chơi thân với người nghèo như mình đâu.
Con sáo đôi khi vô tình buột miệng :
- "Sáo nhớ mẹ sáo khóc"
Em tôi dỗ dành :
- Ừ, sáo nhớ mẹ, tôi cũng nhớ cha. Sáo khóc à, thì khóc đi...
Tôi nằm nghe, nước mắt trào ra cay đắng. Dạo ấy tôi mới chỉ mười ba tuổi, em tôi tám tuổi. Nhưng tôi sớm tiếp nhận nỗi u sầu vào tâm hồn. Và bao nỗi niềm tủi nhục thay phiên hất hủi mẹ con tôi nên tôi đã khôn ngoan, đã biết khinh bỉ họ hàng bên nội bên ngoại trừ chú Nghị.
Cuộc đời đọa đầy tôi ngay ở cái tuổi đáng được hưởng hạnh phúc, sung sướng. Thành ra nếu có ai nghi ngờ, tôi vẫn nói rằng suốt thời thơ ấu của tôi, tôi không biết trông trăng trông sao, không biết bẻ hoa bắt bướm mà chỉ biết be bờ ruộng đơm đó kiếm tép để ăn, ăn thừa thì mẹ tôi đem ra bến đò bán. Cùng tuổi tôi, đám con cái của cậu MỢ tôi còn vòi vĩnh cha mẹ, ngu ngơ chả hiểu gì. Thế mà tôi hiểu cách rang cám cho thơm, cắt màn cũ khâu thành vó, vót tre thành giọng, cất vó tôm. Tôi hiểu cách cưa ống nứa, đan hom đào giun xào với lá bòng thả ống lươn. Tôi hiểu cách đan rọ cá rô, ngâm thóc vào nước gạo cho thối nhử đàn cá. Tôi hiểu nhiều lắm, hiểu cả những lời bóng gió, mỉa mai của thiên hạ để sau này bước xuống cuộc đời đem tâm sự của một con chim hụt mũi tên.
Mẹ tôi ví tôi như trái chín rấm. Tôi tưởng tôi là trái chín hoang. Vì trừ trái chín cây không thèm kể đến, trái chín rấm còn được người ta xếp vào lò hay bỏ vào vựa, vào chum, người ta nhét vào đầy lá soan cho mau chín chứ đời tôi, đời anh em tôi nhất định là hai trái chín hoang. Ngày nào đó, người ta thấy hai trái xanh quá, xấu xí quá, người ta ném vô bụi giậu. Mưa, nắng, gió bão tới tấp, chịu đựng nổi thì trái chín. Tôi biết tôi chịu đựng nổi bởi vì ngoài họ hàng bên nội bên ngoại còn mẹ tôi, còn chú Nghị. Ngoài đám con cái cậu mợ tôi hay bắt nạt, hếp đáp anh em tôi còn bọn trẻ con ở bến đò Ðồng - đức dạy tôi buộc tổ sáo... Và mai mốt tôi sẽ chín, chín chẳng để trả thù ai đâu, nhưng chín để kể lại chuỗi ngày tháng anh em tôi nuôi con sáo.
Con sáo là niềm an ủi duy nhất, là niều kiêu hãnh duy nhất của anh em tôi. Trong khi chung quanh tôi, trẻ con nhà giầu nuôi sáo bằng lồng son, cóng sứ, thức ăn thì gạo trộn lòng đỏ trứng gà, nước uống thì pha sôm nhị hồng, sáo của chúng nó vẫn chết. Anh em tôi nuôi sáo chỉ có gạo trắng, nước lã, lồng tre mà sáo hót lại hót hay, sáo nói lại nói giỏi. Tưởng con sáo cũng nên kiêu hãnh. Với tình thương mến của anh em tôi, với cái lồng do chú Nghị đan, nó đã thành con sáo quý khác cả những sáo quý nhất trên đời.
Tính ra anh em tôi nuôi sáo dã lâu. Năm ngoái mẹ tôi buôn bán phát tài, tết nhất cũng đủ bánh trái, thịt ăn mấy ngày. Anh em tôi mỗi đứa có bồ quần áo mới , có tiền xu, tiền hào chơi đáo, chơi cò quay, có tranh con lợn treo tường, có long đình, tượng bụt chơi làm đình làm chùa. Giá nghe mẹ bán con sáo thì tiếc chừng nào. Năm nay hàng quán ế ẩm. Suốt mùa đông mưa lê thê, bến đò vắng khách. Mẹ tôi lại đau yếu luôn luôn, phải nghỉ ở nhà. Con sáo cùng chung nỗi buồn, biếng ca hót lười bay nhảy, nó quên cả lải nhải mấy câu nói em tôi dạy thuộc lòng.
Trời cuối tháng chạp mưa phùn rả rích. Gió bấc thổi vù vù. Rét thấu xương. Anh em tôi co ro trong ổ rơm, lồng sáo đặt bên cạnh. Mẹ tôi lại sốt từ hôm ông Táo lên chầu trời. Ba hôm nữa tết rồi mà mẹ vẫn nằm rên rỉ. Tôi lo ngại quá, tâm hồn thờ thẫn. Em tôi sốt ruột vì trời mưa. Nhà chỉ còn gạo, mẹ tôi chưa sắm sửa đồ cúng. Gà vịt cũng chưa mua. Cho đến tối ba mươi, mẹ tôi lên cơn sốt nặng. Mẹ tôi rên hừ hừ. Ðắp hai cái chăn, hai cái chiếu, mẹ vẫn còn rét. Anh em tôi ôm nhau khóc thút thít. Em hỏi những câu quái gở khiến tôi rùng mình.
- Anh ơi! liệu mẹ có chết không?
- Không, mẹ phải sống nuôi anh em mình thành người chứ.
- Sao mãi mẹ chải khỏi gì cả?
- Tại trời mưa lạnh, tạnh nắng là mẹ khỏi, em đừng lo.
Tôi nói dối em tôi tại mưa lạnh, thực ra mẹ tôi chẳng uống thuốc men gì cả. Con nhà nghèo, ốm no bò dạy. Tôi thường bị sổ mũi, ho mà có cần mời thầy lang đâu. Nằm vài bữa, trở dậy lại khỏe như cũ. Tôi tin thế nên đỡ lo.
- Dạo cha còn sống mẹ có ốm nặng không anh?
- Anh chả nhớ rõ.
Trưa nay, em ngủ nằm mơ thấy cha, em nhớ cha quá, ước gì cha sống lại... Em tôi khóc to hơn. Tôi ôm em vào lòng, thương mến. Bên ngoài trời còn mưa lai rai. Ðêm cuối năm mù mịt. Anh em tôi lo lắng không dám ngủ. Lúc mẹ tung chăn chiếu, anh em tôi nhảy bổ vào ôm mẹ. Hơi nóng và mồi hôi sau cơn sốt thoát ra sưởi ấm anh em tôi giữa đêm trừ tịch. Mẹ tôi vuốt tóc em.
- Mai, ngủ thôi chứ con, mai dậy sớm mẹ mừng tuổi tiền mua pháo tép.
Em tôi nũng nịu :
- Con mua pháo ống lệnh cơ!
- Ừ thì mua pháo ống lệnh.
- Mới lại cái gương cho con sáo nó soi.
- Gớm cô ả vòi vĩnh mãi.
Mẹ tôi chiều con, mẹ nói hơi nhiều, giọng mẹ mệt nhọc. Tôi định hỏi mẹ cái gì, nhưng thương mẹ lại nghĩ không ra. Anh em tôi tắt đèn đi ngủ. Sáng mồng một tôi dậy sớm. Em tôi ngủ mê mệt, tôi đắp thêm chiếu cho em ấm áp ngủ lâu. Mẹ tôi hình như đã đỡ. Mẹ nhìn em tôi, lắc đầu ái ngại. Dưới ngọn đèn lù mù, tôi thấy nước mắt mẹ tôi lăn tăn trên gò má xanh xao, khắc khổ. Mẹ tôi nói nhỏ :
- Hữu này, mẹ dặn con nghe nhé! Hôm nay đừng lởn vởn ngoài ngõ, đừng lấy tiền của ai cho.
Mẹ tôi dặn tôi bằng thừa. Cậu mợ tôi dạy tôi nhiều bài học độc ác, giả đạo đức quá rồi, tôi thèm thuồng gì mà ngửa tay ra để người ta nhổ bọt vào. Nhưng tôi phải đáp :
- Vâng ạ!
Giọng mẹ tôi đứt từng câu ngắn :
- Tại mẹ ốm... thành thử... tết này nhà mình... thiếu cỗ. Con nhớ... thắp hương... bàn thờ cha con nhé! Con lớn rồi, chả cần, chứ em con, ngày tết... không được miếng thịt...
Mẹ tôi bỏ lửng câu nói, ôm mặt khóc tấm tức. Tôi bỏ ra ngoài sân. Trời lạnh hẳn. Phía nhà trên, gia đình ông ngoại đang giết gà, vo gạo, thổi xôi... Chiều qua nhà ông mổ lợn. Tôi muốn lên chầu chực để may ra ông thương hại thí cho một miếng về ăn tết. Song tôi nhớ tới chú Nghị, tới những bài học làm người chú dạy tôi nên tôi lại thôi. Dường như hồi chú ghé đây để đan cái lồng sáo, chú nhìn tôi rồi gật gù, bao giờ chú cùng gật gù sau buổi dạy học :
- Cháu thông minh lắm, cháu giỏi lắm.
- Nhưng mẹ cháu nghèo.
- Hề gì, đói rách đâu phải là tội lỗi, cháu đừng buồn. Rồi ngày kia cháu sẽ lẻ loi, cháu sẽ thấy trong sự đau khổ người ta mới xét đoán mọi việc đứng đắn.
- Rồi cháu có sung sướng không chú?
- Chú không dám nói cháu sung sướng nhưng chú quả quyết cháu có tài, có nhiều tài...
- Thật hả chú?
- Thật chứ, song cháu chả nên quy lụy ai , quy lụy nó hèn con người đi thì rồi cái tài cũng đến xếp xó.
Chú ưa kể chuyện cha tôi và ngón sở trường âm nhạc : đàn thập lục. Chú bảo ngày ông nội đuổi cha tôi khỏi nhà, cha tôi không có đồng xu nào dính túi. Thế mà cha tôi gây dựng nổi đời cha. Tại cha tôi chết sớm chứ không thể nào cũng có ngày cha về làng mua đất dựng nhà. Tôi kém cha tôi nhiều quá, tôi chỉ biết khóc.
Lúc này đứng nhìn thiên hạ đón xuân, tôi nghĩ đến em gái tôi, nghĩ đến miếng thịt gà, thịt lợn hay thịt chim khi em tôi tỉnh dậy. Anh em tôi chỉ có mỗi con sáo. Con sáo nuôi bao nhiêu ngày mới biết nói. Chẳng lẽ tôi giết nó? Chẳng lẽ em tôi ăn cơm với muối ngày đầu năm? Năm nay em tôi mười tuổi, mười mùa xuân bay vụt qua, mười mùa xuân tẻ nhạt, buồn thảm chấp nối thành thời thơ ấu của em tôi. Mùa xuân trôi theo kỷ nhiệm, có khi nào níu lại được? Tôi không muốn em tôi lớn lên phải nghẹn ngào nhắc tới một trang chua chát, xiên lệch trong cuộc đời. Vậy thì tôi sẽ giết con sáo. Tôi nghĩ tôi biết buộc tổ, biết nuôi sáo, nuôi bằng cái lồng của chú Nghị thì sáo nào chẳng biết nói, biết hót. Dẫu con sáo này chết, tháng sau tôi buộc tổ sáo khác. Mùa xuân tàn rất nhanh, tôi có đàn sáo mới, tôi nuôi một đôi để chúng quyến luyến nhau cơ hồ anh em tôi, chắc em tôi sung sướng lắm. Ý tưởng ấy khiến tôi bớt se sắt, bớt tủi nhục. Tôi len lén trở vào xách cái lồng sáo xuống bếp. Trời còn tối, sáo không nhận ra tôi. Nếu nó chết thì nó oán hờn sự nghèo khổ và bàn tay tàn ác nào đó. Vong hồn cha tôi sẽ phù hộ tôi. Giết nó, tôi đau đớn vô ngần nhưng tôi phải thương em tôi hơn. Em tôi phải được ăn thịt sáo nấu su hào ngày mồng một tháng giêng năm mới. Chỉ vì em, tôi quên tất cả.
Tôi mở cửa lồng thò tay tìm con sáo. Nó nhảy trốn, móng chân nó cào vào tay tôi đau buốt. Cuối cùng tôi tóm nó. Nó kêu ai oán, từ xưa nó chưa từng kêu như thế. Nó giẫy giụa. Tôi vặn cổ nó chết tươi. Làm xong công việc tàn nhẫn đó, tôi nhóm lửa nấu nước làm lông. Tôi run run chặt dao trúng ngón tay. Máu tôi hòa cùng máu con sáo. Tôi xào thịt với hành mỡ thơm lừng rồi đổ nước đun thật lâu. Trong khi chờ đợi, tôi gọt su hào. Lúc ở bếp bước ra, trời hừng sáng. Tôi đem lông sáo và cái lồng giấu phía sau nhà. Tôi ngồi bệt xuống đất, ôm mặt khóc. Pháo nổ vang trời đất, chuông trống khua inh ỏi. Lòng tôi sôi bùng bùng, tan nát. Tôi nhớ chú Nghị, tôi nhớ cha tôi. Những người thân yêu có thể che chở cuộc đời mẹ con tôi đều bỏ đi cả. Bây giờ mùa xuân về, mẹ con tôi cô độc, nghèo nàn. Tôi đâu đớn trút nỗi buồn vào hai bàn tay non nớt, bóp bẹp cái lồng sáo. Niềm vui thơ ấu của anh em phần bị chết chóc, phần bị dúm dó, gẫy vụn. Tôi cứ ngồi tưởng tiếc. Mãi khi nghe tiếng mẹ gọi , tôi mới trở vào. Mẹ tôi hỏi :
- Tại sao con khóc?
Tôi đưa vạt áo thấm nước mắt, trả lời :
- Thưa mẹ khói làm con cay mắt đấy ạ!
Rồi tôi mỉm cười, nhưng nụ cười gượng gạo ấy giấu sao nổi một tâm tư đang cuồn cuộn muôn vàn ý nghĩ. Tôi nghe tiếng mẹ thở dài. Tôi đánh thức em tôi dạy. Mẹ tôi mừng tuổi cho mỗi đứa hai đồng. Tôi tặng cả em. Em tôi sung sướng nhận ngay không hỏi lôi thôi như những ngày thường. Gió xuân vừa tạt qua đôi má thơ ngây của em. Tôi nói :
- Mai, đi rửa mặt rồi vào ăn cỗ em!
Em reo to :
- Có cỗ hở anh?
- Ừ, cỗ to lắm.
- Anh cúng cha chưa?
- Ðã.
Tôi nói dối em chứ ai lại cúng cha bằng thịt sáo. Em tôi chưa biết gì cả. Khi ngồi ăn, em mơ màng chuyện đâu đâu. Em khen thịt ngon. Bất chợt em hỏi tôi :
- Thịt gì đấy anh?
- Thịt chim.
- Anh mua à?
- Không.
- Thế ai cho, ông ngoại hở?
Tôi im lặng nghĩ câu trả lời. Em tôi tự nhiên buông đũa, đứng dậy, cuống quít :
- Con sáo của anh em mình anh ạ! Ta mừng tuổi nó chứ?
Thấy tôi rầu rầu không nói, đứa em gái sầu thảm của tôi ngây người đứng ngó. Và em chạy vụt ra sân ngơ ngác tìm kiếm xong lại chạy vô gậm giường? Chẳng thấy lồng sáo đâu, em hỏi :
- Nó ở đâu hở anh?
- Chắc trộm bắt mất rồi em ạ!
Em tôi thẫn thờ bước khỏi ngưỡng cửa. Lòng tôi rối bời. Nước mắt trào dâng lên, nhỏ giọt xuống bát canh su hào thịt sáo. Tôi cứ ngồi, nước mắt cứ rơi, lặng thinh như phiến gỗ. Tôi đợi em vào để xin lỗi. Tôi hối hận, tôi muốn chạy ngay ra ngõ gào khóc bi thương ngộ may có Phật hiện hình thì xin ước cho con sáo sống lại. Nhưng cõi đời tăm tôi của anh em tôi, Phật là chú Nghị, chú chết rồi, tôi ước nguyện gì đây? Mãi chả thấy em trở vào, tôi hoảng hốt chạy về phía nhà sau. Ở đấy có bộ lông sáo sũng nước và cái lồng tre chú Nghị đã đan cho em tôi. Em tôi ôm cái lồng vào tay thương tiếc. Tôi đi nhẹ tới gần em. Bước chân tôi run rẩy trên nền đất quê ngoại. Tôi khẽ gọi :
- Mai, em Mai...
Em không ngoảnh lại. Tôi biết em ghét tôi lắm. Em đứng dậy, vẫn ôm cái lồng, lững thững đi ra bờ ao. Tôi phải nói thế nào để em tôi hiểu tại sao tôi giết con sáo? Tôi toan giãi bày, nhưng khốn nạn, sự nghẹn ngào rình mò đúng lúc vít chặt lấy cổ họng tôi. Tôi chỉ còn biết ấp úng :
- Em ơi! Anh xin...
Tôi buông chưa dứt lời, em quay lại nhìn tôi, đôi mắt chớp mau. Bốn con mắt anh em tôi lúc ấy mờ đi dưới cái màng sám hối, đau thương. Bộ mặt đau khổ của tôi nói với em nhiều rằng tôi quý con sáo nhưng tôi yêu em. Em tôi chừng hiểu chuyện, em buông đôi tay. Cái lồng và bộ lông con sáo rơi xuống đất. Em chạy xô tới ôm lấy tôi, khóc nức nở.
Hồi tôi còn 14 tuổi, 15 tuổi, thì đã nghe người làng nói nhiều về cái tên Năm Chuột. Về gốc gác của hắn, chỉ thấy nói là người làng Kỳ Lam, cái làng ở phía Bắc làng tôi, cách một con sông, về sau có cái ga xe hỏa gọi là ga Kỳ Lam, còn mọi sự khác không biết rõ. Hình như hắn cũng không có nhà cửa, cha mẹ, vợ con gì ở làng. Hắn làm thợ bạc, quanh năm đi làm nghề ở các nơi, nhất là các nơi đô hộ, như Huế, Ðà Nẵng, Hội An.
Họ nói Năm Chuột là thợ bạc khéo nhất đời, ở Huế có nhiều thợ bạc danh tiếng cũng phải chịu thua. Nhưng lại nói hắn tổ làm đồ vàng giả, mỗi khi được gọi đến nhà làm đồ nữ trang cho người ta, nhà chủ dù ngồi cạnh một bên, hắn cũng cứ tráo bạc, tráo đồng vào, lấy vàng ra, không làm sao biết được. Bởi vậy cả vùng quê chúng tôi, những nhà giàu có, vốn biết Năm Chuột là thợ khéo, nhưng không ai dám thuê hắn làm việc gì về cái nghề của hắn cả. Nhiều người còn nói Năm Chuột đúc súng, đúc bạc giả được. Mỗi khi nói điều ấy, họ làm ra vẻ bí mật, hình như họ có ý ngờ cho Năm Chuột định làm một việc gì lớn, “làm giặc” chẳng hạn.
Nhưng không biết thế nào, người ta lại cho Năm Chuột là kẻ nói láo nói phét, vào cái hạng “mười voi không được bát nước xáo” tức là mắng người ấy đã lại nói láo nói phét rồi, có khi chỉ dùng độc một chữ: Chuột quá tức là láo quá.
Lúc bấy giờ tôi đang đi học ở những nơi cách xa làng, mỗi khi về làng, lại thỉnh thoảng nghe người ta nói chuyện về Năm Chuột như thế, như thế, tôi cũng chỉ nghe làm tai mà thôi, không để ý mấy. Mà hẳn thế, cậu cả con quan phủ, học giỏi có tiếng, đang lo xôi kinh nấu sử để khoa tới đây đỗ thủ-khoa, không thì cũng cử-nhân năm tên trở lên, việc gì mà phải để ý đến chuyện một anh thợ bạc.
Năm hai mươi tuổi, tôi thi đỗ tú tài - quái lạ, sao lại đỗ tú tài ? - về nhà, cách mấy hôm thì tôi đi về làng Xuân Ðài thăm bà ngoại tôi và cậu tôi. Ở ăn một bữa cơm trưa, đến xế chiều, tôi cáo về thì vừa có một người đến. Người trạc dưới bốn mươi tuổi, mặt trẹt, nước da xanh xám, mắt sáng, miệng rộng, hai môi trề ra, hàm và cằm như nguyên không có râu, không phải cạo, người thấp song cũng không thấp lắm, đầu trọc, quấn cái khăn vải đen, áo cộc cúc giữa, quấn đến đầu gối, chân mang dép da sống.
Người ấy lúc vào đến cửa, hai tay cắp cái nón lá ngang ngực cúi chào cậu tôi, khi bỏ cái nón lá ra, mới thấy trong tay còn cầm một cái nữa mà sau này tôi mới biết đó là cái dọc tẩu. Nó là cái ống tròn mà dài, thấy thoáng như có khảm xà cừ và bịt bạc, bịt vàng gì đó. Cậu tôi như chào như không phải chào:
- Anh Năm phải không?
- Dạ, lâu lắm, có thể quan lớn quên tôi.
Tôi nguyên đã cáo về rồi, cho nên dù có gặp một người khách mới vào hơi lạ như thế cũng cứ việc ra về. Không ngờ khi tôi ra khỏi cổng, lên đường về mới một chặng, nghe có người chạy theo đằng sau gọi tôi đứng lại, thì ra là người thấy lúc nãy. Anh ta tự giới thiệu:
- Tôi là Năm Chuột đây.
Rồi đột ngột hỏi tôi:
- Nghe nói cậu đậu Tú Tài mà cậu khóc, có phải không? Giả sử cậu được đậu thủ-khoa thì cậu làm nên cái trò trống gì?
Một gáo nước lạnh xối vào xương sống! Tôi bẽn lẽn ấp úng, cười hì hì không trả lời được. Bởi vì cái lẽ anh ta nói đó tôi cũng có nghĩ tới, nhưng không đi thi thì thôi, đã đi thi thì lại muốn đậu to. Thế rồi Năm Chuột đi cùng đường với tôi, vừa đi vừa nói chuyện. Anh ta có đưa cái dọc tẩu lên, nói với tôi:
- Ông cậu của cậu thật là keo quá, cái dọc-tẩu thế này mà cầm trả có 5 đồng bạc.
- Hoặc giả cậu tôi không có nhiều tiền chăng?
Tôi nói cho có nói, chứ không có ý gì cả. Nhưng anh ta cãi phăng:
- Quan lớn hồi xưa (chỉ ông ngoại tôi) làm đến Tổng đốc Hà Nội vừa chi, mà không có tiền lợp nổi cái nhà của ông bà để lại đã tróc ngói ; còn ông phủ (chỉ cậu tôi) mới làm Tri-phủ có 3 năm về “chung dưỡng”, mua được những mươi mẫu ruộng, tôi biết là hạng đất tốt nhất, thế sao nói là không có nhiều tiền?
Tôi thấy cái điều anh ta nói đó hình như đúng, tôi làm thinh. Bỗng dưng anh ta cất tiếng cười một cách rất xỏ lá, rồi nói tiếp:
- Ai có đời, cha chết vì đánh Tây mà con trở đi làm quan với Tây!
Nghe câu này tôi cảm động quá. Tôi không dám chống lại ý anh ta, chỉ nói như vớt vát một ít:
- Thấy bà ngoại tôi kể chuyện, lúc ông ngoại tôi mất rồi thì cảnh nhà sa sút quá đỗi, nếu cậu tôi không làm như thế thì đến lụn bại mất.
Anh ta bĩu môi, cái môi đã trề rồi, còn bĩu nữa, rất khó coi:
- Ra chỉ có làm quan mới cứu vãn được nghiệp nhà. Thế thì bao nhiêu người không làm quan, họ đều đi ăn mày hết.
Tôi lại làm thinh. Ngừng một lúc, anh ta nói tiếp:
- Hèn chi mà quan lớn chết ở Hà Nội năm Ngọ, năm Dậu thất thủ kinh đô, Nghĩa-hội nổi lên đánh Tây, năm Hợi, Tây kéo lên đóng đồn ở chùa Phi Phú, thì ông cậu của cậu đã làm bang tá trong cái đồn ấy. Ðể làm gì? Cậu có biết không? Ðể đàn áp Nghĩa-hội.
Những chuyện ấy, thầy mẹ tôi có kể cho tôi nghe hồi còn nhỏ, tôi biết cả, nhưng tảng lờ nói:
- Tháng tám năm Hợi, mẹ tôi mới đẻ tôi ra, tôi làm gì biết được những chuyện ấy?
Anh ta lại cười, nhưng không xỏ lá, nhìn vào mặt tôi:
- Thấy người ta nói cậu thông minh, nói chuyện với cậu, tôi cũng thấy cậu thông minh thật.
Thình lình anh ta nhảy mũi dặp hai ba cái, lấy khăn lau nước mũi cả nước mắt nữa, rồi nói thêm:
- Như tôi, (anh ta lấy tay phải ấn vào ngực) ghiền thuốc phiện cho đáng, chứ ông cậu của cậu mà cũng hút thì hết thảy những người nghiện chúng tôi đều phải lấy làm lạ.
- Sao vậy?
- Quan lớn hồi xưa có cùng mấy ông em lập một bản “gia ước”, trong đó có một điều cấm con cháu hút thuốc phiện, nếu phạm thì trừng trị bằng những cách nào đó. Thế mà dám phạm. Ðủ biết con người của ông cậu của cậu là vậy đó: cái gì cũng làm nghịch lại với cha.
Cái “gia ước” mà anh ta nói đây, tôi không hề biết, vì không hề nghe ai nói tới. Nhưng tôi nghĩ, nếu đúng như thế, thì anh ta nói cũng có lý. Tôi lại làm thinh. Ðây đã đến chỗ con đường rẽ vào nhà tôi, tôi đứng lại, nói mấy lời từ biệt. Năm Chuột nắm lấy tay tôi và nói:
- Tôi nói nãy giờ có làm mếch lòng cậu không ? ở đời có thiếu gì chuyện nói, hà tất tôi gặp cậu lần đầu phải nói để làm mếch lòng cậu, nhưng tình cờ gặp câu chuyện đáng nói thì cứ nói.
Rồi anh ta tỏ ý mong gặp tôi lần khác. Tôi vừa đi về nhà vừa nghĩ, “À, ra Năm Chuột là con người như thế đấy”. Là một anh thợ bạc, sao lại nói được những điều như thế, tôi lấy làm lạ.
Tối hôm ấy, tôi đem cả câu chuyện Năm Chuột nói với tôi kể lại cho thầy tôi nghe. Thầy tôi bảo:
- Cái thằng láo đến thế là cùng!
- Nhưng những điều hắn nói, con thấy như cũng có cái đúng.
Tôi rón rén thưa lại.
- Ðúng kia à? Mặc dầu đúng chăng nữa, cái hạng thằng Năm Chuột mà lại được nói thế à?
Thấy thầy tôi nói hơi xẵng , tôi làm thinh. Một chặp tôi mới dịu giọng hỏi:
- Cái “gia ước” ông ngoại lập ra mà Năm Chuột nói đó, thầy có biết không?
- Tao không biết. Thấy nói sự cấm hút ấy ở nhà Ðông Bàn (nhà quan thượng Phạm Phú Thứ) thì có, còn nhà Xuân Tài, tao không nghe.
Ngày đốn hai cây trúc
Bán đi để dằn bụng
Trong cửa tre đầy kho
Ngoài cửa tiền chẳng cho
Không nói thì cũng khổ
Nói thì roi dài sẽ quật chú
Rày về sau đừng đốn tre nữa
Ðói nằm trong tre chết cũng đủ!
Từ khi biết Năm Chuột có biết chữ Hán nhiều, xem sách xem thơ được rồi, tôi có lúc đem văn học nói với anh ta, anh ta chỉ nghe và hỏi chứ không tỏ ý kiến. Tôi có ý trách. Anh ta giải thích thế này:
Trước sự bành trướng trên toàn cầu của Trung Quốc, chúng tôi cho rằng vì tham vọng làm bá chủ hoàn cầu, Trung Quốc có thể gây ra đại chiến thế giới.
Đa số nhà chính trị rất thận trọng khi nhận định về chiến tranh vì xưa nay nhiều cuộc chiến có thể bùng lên rồi tự nhiên tan biến như đám mây.mưa sấm sét có thể làm cơn bão hay sóng thần nhưng bỗng chốc tan đi.Trước khi Gorbachov lên làm Tổng bí thư cộng đảng Liên Xô, người ta đã thấy cuộc chiến tranh Nga Hoa sắp bùng nổ (Phải chăng vì vậy mà Trung Hoa thỏa thuận với Mỹ gì đó và Mỹ rút quân về để đứng ra ngoài cuộc chiến?). Nhưng Gorbachov lên, đã lui binh, gỡ cho hai nuớc Nga Hoa và thế giới qua cơn tàn phá của bom hạch nhân.
Vì thận trọng hay vì chủ quan, một số nhà nghiên cứu chính trị, học giả, ngoại giao cho rằng Mỹ Trung không thể xảy ra chiến tranh vì cả hai cần nhau như trong bài CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC VÀ MỸ CÓ THỂ XẢY RA HAY KHÔNG...
Theo thiển kiến, con người có thể gây chiến tranh vì tức giận, vì nóng nẩy nhất thời . Chiến tranh Nga Hoa đã xảy ra và xảy nhỏ, chưa đi đến đại chiến vì đó chỉ là cuộc tranh nhau danh tiếng hão. Nga và Hoa đều muốn giành địa vị độc tôn trong thế giới cộng sản. Nhất là Mao Trạch Đông tức giận vì Khroushchev đã triệt hạ Stalin, thần tượng của Mao. Và đường lối xét lại của Nga là trái với đường lối hiếu chiến của Mao. Nói tóm lại, đó cũng chỉ là một cuộc chiến tranh ý thức hệ, hay nói nôm na đó là chiến tranh của những con gà tức nhau vì tiếng gáy. Gorbachov là ân nhân của hai nước Nga Hoa và của thế giới.
Nhưng cuộc chiến của Đế quốc Anh, thực dân Pháp và phát xít Đức, Nhật, Ý là có dự tính kỹ lưõng, là cuộc chiến một mất một còn giữa tư bản và phát xít, nguyên do là vì thị trường.
Nay Trung Quốc cũng đứng vào vị thế của Nhật, Đức, Ý quyết sống mái với Mỹ để chiếm lĩnh thi trường và nguyên liệu trên thế giới. Đây là một cuộc chiến quan trọng mà Trung Quốc đã muốn thực hiện từ khi Marx còn sống, chuyển qua Lenin, Stalin và Mao.Tất cả những người này đều muốn tiêu diệt Mỹ, tiêu diệt tư bản để làm bá chủ hoàn cầu, để thay đế quốc tư bản bằng đế quốc cộng sản.
Hơn một thế kỷ, hàng trăm triệu sinh linh đã chết oan uổng cho mộng bá chủ đồ vương của thánh tổ Marx mà mộng đó vẫn không thành!
Đây là một cuộc chiến do lý trí quyết định, và đã chuẩn bị từ lâu. Người Đông Phương nói"Trả thù mười năm cũng không muộn." Từ khi Mao lấy lục địa đã hơn nửa thế kỷ, và nay, Trung quốc đã có tiền bạc, vũ khí, tàu bay, tàu thủy chẳng thua Mỹ thì họ sẽ ra tay trả hận bát liên quân xâu xé Trung Hoa thời Từ Hi thái hậu, và nối tiếp truyền thống đế quốc xâm lược của Thần Thủy hoàng,Hốt Tất Liệt và di chỉ của Marx mà chiếm lĩnh thế giới
Có nhiều nguyên do bắt buộc Trung Quốc phải dùng võ lực:
1. Vì nhu cầu dầu hỏa. Biển Đông là túi dầu khá lớn, vì vậy mà Trung Quốc phải chiếm Thái Bình Dương.Lý luận của Trung Quốc là Trung Quốc đòi mở rộng hải phận đến 200 hải lý.
Nếu tàu Trung Quốc cứ sấn vào, hoặc ngăn chận tàu Nhật Bản, Sigapore, Đài Loan thì sao? Hai trường hợp sẽ xảy ra. Nếu Nam Hàn, Nhật Bản và tàu Mỹ thấy tàu Trung Quốc mà cụp đuôi chạy thì là Mỹ nhượng bộ. Nếu tàu Trung Quốc tiến lên mà tàu Nam Hàn, Trung Quốc, Nhật Bản cũng tiến lên là đại chiến bùng ra từ nhỏ dần dần triển khai thành lớn.
Có lẽ Mỹ và Hoa đang thương lượng. Cái chính sách của cộng sản là "đả đả đàm đàm".
Nếu Mỹ làm cho Bắc Nam Triều Tiên hợp nhất dưới quyền Bắc Triều Tiên, nếu Mỹ thuận cho Đài Loan thống nhất với Trung Cộng thế là Mỹ chịu điều kiện Trung Cộng, chia nửa Thái Bình Dương.
Làm đại tướng, hy sinh vài trăm, vài ngàn tên quân là chuyện thường. Trên bàn cờ thí tốt, thí mã cứu xe cũng là chuyện thường. Kẻ chơi cờ tâm can tầm thường thì vò đấu bứt tóc, chửi rủa om sòm, nhưng tay chơi trí tuệ thì thản nhiên, thắng bại là chuyện thường của binh gia, đâu kể đến vinh nhục!
Nếu Việt Nam cúi đầu thì tất nhiên là Việt Nam trở thành lệ thuộc Trung Quốc.Chúng ta không nên tin những lời phỉnh phờ mười sáu chữ vàng,của Giang Trạch Dân là bảo vệ lãnh thổ. Bảo vệ lãnh thổ sao được khi bọn đầu gấu cứ sang quỳ lạy Bắc Kinh và ký hết hiệp ước này đến hiệp ước khác bán nước cho Trung Quốc? Và những lời kêu gọi của các tướng già là thật hay chỉ "làm dáng yêu nước"? Phải chăng Việt Nam chờ mua vũ khí về rồi sẽ hay? Hoặc việc mua vũ khí này cũng chỉ là "làm dáng anh hùng"?
Ở Việt Nam có lắm chuyện hài. Khi có quyền có thế, khi còn trẻ, không ai lên tiếng cho chính nghĩa, cho độc lập, tự do, phải chờ khi gần chết mới phát biểu. Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Nguyễn Khải, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, Võ Văn Kiệt . . . đều thế cả.Thật là:
"Lúc sống thì chẳng nói năng,
Gần chết thì mới nhăn răng ra cười!"
Trong dân tộc Việt Nam có một số yêu nước, chống Trung Quốc xâm lược, nhưng một số muốn làm Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống. Hạng này rất nhiều trong hệ thống đảng Việt Cộng::
"Chúng nó không yêu giống nòi, Chúng muốn làm kiếp tôi đòi cho xong! Ngày xưa chúng xưng anh hùng, Bây giờ rõ mặt côn trùng trong phân!
Vì những lý do sống còn, Trung Quốc phải dùng võ lực, nhưng những vụ trên chỉ là những cú thăm dò cũng như trong trận đấu vật, đây chỉ là những cái hất tay, cái vờn thử sức.
Từ đây đến cuối năm thử xem sau, có thể mỗi ngày ta sẽ thấy rõ sự việc hơn. Chúng ta chỉ là những người mù xem voi, phải có tin tức chính xác của ngành gián điệp mới nắm vững tình hình. Chưa chắc CIA đã nắm rõ tình hình!
Theo thiển kiến, Khi cộng sản nói chung sống hòa bình,cũng như hội đàm Paris nghĩa là sau hòa đàm họ sẽ tiếp tục đánh. Khi cộng sản nói đình chiến, nghỉ ngơi tức là cộng sản đánh. Như vụ mậu thân, cộng sản đề nghị hưu chiến để họ tấn công mậu thân. Việc Trung Quốc mời Kissinger lên tiếng cho rằng Bắc Kinh yêu hòa bình không đánh Mỹ nghĩa là Trung Quốc sẽ đánh Mỹ. Kissinger là con người như thế nào? Ông giả mù?
Cái chuẩn bị chiến tranh thế giới và xâm lược Việt Nam là họ vẽ biển Đông hình lưỡi bò là của họ. Họ đã viết lịch sử và dạy cho dân Trung Quốc Việt Nam là của họ, và người Trung Quốc đã đi khắp thế giới. . .Thậm chí những việc xâm lăng Việt Nam, họ bảo là tội lỗi ở Việt Nam xâm chiếm và quấy rối biên cương Hoa Việt. . .
Nay Trung Quốc cho tàu ngư chính canh tuần chặt chẽ vùng Trường Sa, Hoàng Sa và ra lệnh cấm tàu Việt Nam đánh cá từ tháng 5 cho đến tháng 8-2010. Phải chăng đây là giai đoạn hoạt động mạnh mẽ và bí mật của hải quân Trung Quốc? Và việc này có ảnh hưởng đến độc lập và chủ quyền toàn thể Việt Nam?
Thế giới ngày nay đứng giữa ngả ba đường:
+Mỹ sẽ rút lui , cúi đầu để mặc Trung Quốc cướp quyền lợi.
+Mỹ và Trung Quốc sẽ chia quyền lợi.
+Mỹ và Trung Quốc sẽ đánh nhau.
Quốc Văn Giáo Khoa Thư kể chuyện hai thằng bé đi chơi nhặt được quả bứa. Hai đứa tranh nhau, đứa bảo của tao vì tao thấy trước. Đứa kia cũng bảo của tao vì tao thấy trước. Cũng vậy, trong trường hợp này, hai đứa sẽ đánh nhau, hoặc cả hai cùng chia đôi quả bứa, hoặc một đứa phải bỏ đi! Trung Cộng thì không thể bỏ đi vì đây là cơ hội bằng vàng mà Trung Cộng đã chờ đợi ngót thế kỷ để trả thù bát quốc liên quân, để noi gương Tần Thủy Hoàng, Hốt Tất Liệt và thánh kinh của Marx tiêu diệt tư bản, nắm quyền cai trị thế giới!
Trong trường hợp Mỹ không chấp thuận hoặc chấp thuận điều kiện của Trung Quốc, Việt Nam muốn tồn tại đều phải thực hiện các điều sau:
+Đoàn kết toàn dân
+Thanh lọc bộ máy chính quyền thối nát
+Liên kết với các nước trên thế giới, nhất là các nước châu Á , quan trọng là Úc, Nhật Bản và Ấn Độ.
Những Bài Thơ Huế
HOÀNG NGỌC LIÊN
Đúng ra, thành phố nào bên Nhà cũng là của chúng ta hết. Nhưng tôi rất... thương Huế, vì sau cố đô Hoa Lư là nơi tôi được sanh ra, Huế đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm. Do vậy mà thập niên 60 trước đây, tôi viết được nhiều về Huế, làm quen được không ít bạn thân sinh trưởng tại Huế. Từ huynh trưởng như Phan Du, đến người ít tuổi hơn như Bửu Chánh, ai cũng... thương tôi. Còn nữ giới, tôi tự giữ một làn ranh, không cho mình vượt qua. Bởi tôi là người đã có gia đình. Nhưng tôi vẫn vấn vương hình ảnh những cô gái Huế, nữ sinh trường Đồng Khánh. Một ông bạn già vẫn bảo tôi, rằng kẻ làm thơ vốn nòi tình. Nhưng không sao, ông bạn nói tiếp, cũng cần có tình mới có thơ, miễn giữ được cái Tâm trong sáng. Tôi cũng biết, rằng muốn giữ được cái Tâm trong sáng không phải là chuyện dễ dàng.
Dạo ấy khung cảnh và con người Huế giúp tôi làm thơ. Khung cảnh, trên khắp các ngả đường, từ khi qua đèo Hải Vân đến Hoàng Thành Huế, hai bên hữu, tả ngạn sông Hương, rồi theo Quốc Lộ 1 đến Cổ Thành Quảng Trị, đối với tôi đều là ... Huế. Các cô gái Miền Trung mà tôi gặp trên những ngả đường ấy, đều nói giọng Huế. Giọng nói dễ thương chi lạ. Có phải vậy không, hỡi những chàng trai xứ Bắc, xứ Quảng?
Có một điều mà các thân hữu Huế của tôi chưa bao giờ nghe tôi nói, là tôi làm thơ ... Huế từ khi còn ở
ở
Hà Nội, bữa ghé thăm Thị Xã Hà Đông: "Mưa Xứ Huế", bài thơ làm từ năm
1953, trước tháng 9, khi tôi nhận lệnh đi Thủ Đức, cho đến 1960 là năm
đầu tiên tôi đến Huế! "Mưa Xứ Huế" in trong thi tập "Nhớ Thương" do nhà
Nam Sơn xuất bản năm 1962:
Năm nao tôi qua làng Duệ,
Cùng Em bàn chuyện mai sau.
Nghe Em nói về xứ Huế,
Mơ màng biết hẹn tìm đâu?
Em kể: Song Hương man mác
Thuyền trôi, dòng nước nao nao.
Gió thoảng qua lầu Thương Bạc
Nắng vàng đường xuống Nam Giao.
Em nói: -“Nếu về Vỹ Dạ,
Thôn Em, trong khung dừa xinh.
Anh sẽ đi qua Đập Đá,
Lá hoa kể chuyện ân tình.
Sau nhiều mùa thu xa Em
Tôi được đến thăm xứ Huế.
Chân bước trên cầu Tràng Tiền,
Thời gian sao qua mau thế!
Tôi đã thăm phong cảnh Huế,
Còn Em, tôi biết tìm đâu
Chiều xuống cố đô lặng lẽ
Khói mờ mái Phu Văn Lâu.
Mưa giăng đường vô Thành Nội,
Ngỡ ngàng tôi đã gặp em.
Nhìn tôi, thản nhiên đi tới,
Như người chưa một lần quen!
Vì em đi bên "người ấy"
Chứa chan hạnh phúc với ... tình!
Tôi đứng bên đường tự thấy
Mình sao xa lạ với ... mình!
Đã trọn một mùa vọng tưởng
Ngày xưa, chuyện cũ, xa rồi!
Nhìn em khuất sau cửa Thượng, **
Mờ mờ xứ Huế mưa rơi!
Năm 1960 tôi là một thành viên trong ban tổ chức buổi Nhảy Dù biểu diễn xuống sông Hương. Tôi giới thiệu chương trình các vòng bay và những huấn luyện viên nhảy điều khiển rơi tự do...Khán giả đông nghẹt, từ Câu Lạc Bộ Hương Giang đến cầu Bạch Hổ. Những chiếc xuồng máy, ho-bo lượn tới tấp để vớt những huấn luyện viên rơi trên mặt sông. Có đến bốn người rơi trúng khu vực khán đài, được đông đảo bà con vỗ tay hoan hô. Nơi đặt máy phóng thanh để tôi giới thiệu các vòng bay là Câu Lạc Bộ Thể Thao (CLBTT) Huế, gần đài phát thanh nên buổi tối, tôi ngủ đò ngay bến CLBTT.
Khoảng hơn 10 giờ tối, có tiếng gọi trên bờ. Đò áp bến, một cô bé mặc áo dài trắng có thêu hiệu đoàn Đồng Khánh để xe đạp ven bờ sông rồi thoăn thoắt bước xuống.
Giọng nói của cô nhỏ nhẹ:
- Em là PD, có ông anh bà con nhà cũng trên đường Phan Châu Trinh, tên là CB, muốn mời trung úy ngày mai ghé nhà chơi.
Tôi vui vẻ:
- Được rồi, PD cứ cho địa chỉ, sáng mai tôi sẽ đến.
Thuở ấy, mà có thể bây giờ (2004), việc ngủ đò vẫn được coi như có chuyện "kèm theo". Cô bé nữ sinh này hẳn là không biết việc ấy, nên sau khi được một ông bạn tôi chỉ đường, cô cứ hồn nhiên xuống đò tìm tôi.
Tôi nói thiếp:
- Bây giờ khuya rồi, PD về đi nha.
Cô bé "dạ" rồi đạp xe đi trong màn sương mỏng của Huế. Những ngày tiếp theo, tôi được hai anh em BC-PD hướng dẫn đi thăm hầu hết các danh lam thắng cảnh của Cố Đô, chỉ trừ Lăng Gia Long là không tới được, vì lý do an ninh. Nhờ tình cảm trong sáng của Huế, tôi làm được hai bài thơ Thuyền Về I và II:
Thuyền về I
Năm nao kết ngọn tre làng,
Trăng sông Bến Ngự ,một khoang thuyền về.
Gửi Cố Đô, để nhớ về xứ Huế
Buổi giã từ còn vương vấn chút duyên thơ!
Chiều nao, tim máu thẫn thờ,
Mái lầu Thương Bạc còn ngờ... hư không!
Hoa trời trải một dòng sông,
Bao giờ nguyện ước mà mong tâm tình?
Khi mô trở lại thần kinh,
Nhịp cầu, dòng nước, còn hình ảnh xưạ
Con thuyền neo bóng trăng thơ
Bàn tay ủ bóng mà chưa hẹn hò!
Gửi Cố Đô màu nhớ,
Những nẻo đường tâm tư,
Những bến chiều lộng gió
Mây buồn nhỏ lệ nhớ thương chung
Ngày nao hoa dậy không trung,
Bàn tay, ánh mắt ngại ngùng tiễn đưạ
Con thuyền chở mãi gió mưa,
Nửa đêm neo bóng, đợi chờ bao năm?
Gửi một lời thăm
Nhắn ai về xứ Huế
Rằng người em mái đầu xanh trẻ
Còn nhớ chăng chiều ánh nước Hương Giang?
Năm nao kết ngọn tre làng,
Trăng sông Bến Ngự một khoang thuyền về!
Thuyền Về II
Năm nao kết ngọn tre làng,
Trăng sông Bến Ngự ,một khoang thuyền về.
Mái chèo buông chậm vô sông cũ,
Lơ đãng thuyền neo bến vắng người!
Ngả rẽ hoang sơ, lối đường bụi phủ,
Thôn Vỹ hàng cau màu lá bạc rồi!
Vòng tay đỉnh trúc reo cười,
Nắng tím Nam Giao từ tạ.
Núi sông cũ đã trở thành phương lạ
Dẫu người xưa còn đó, cố nhân ơi!
Giải mây trắng lạc chân trời,
Mờ phai dáng cũ bước đờị.. hẹn nhaụ
Thuyền ngược về đâủ
Sương lạnh nửa đêm lần cuốị
Những tin gió đường xa rong ruổi,
Những câu thề lạc nẻo hư vộ
Biết bây giờ là bao giờ?
Nghiêng mái tóc, cúi chào dĩ vãng.
Nét kỷ niệm, vết chăn mờ năm tháng,
Chuyễn Hoa Trời xin dành lại ngàn saụ
Ai vấn vương mà đón nhận thương đaủ
Ai trao gửi mà không hề ký thác.
Trên khói sóng, vẫn trăng vàng, nước bạc,
Giải câu thề còn lại một dòng sông.
Hởi ngàn xưa, từng khấn nguyện, chờ mong,
Xin chứng giám, đã thuyền về bến cũ!
Hoàng Ngọc Liên
Khung Trời Tưởng Nhớ - Saigon 1966
Cầu Tràng Tiền
Năm 1999, nghe tin Huế bị lụt, tôi làm bài thơ
GỬI VỀ XỨ HUẾ:
thân tặng anh chị Ái Khanh & Xuân Hùng
và các cháu Quang Tuấn - Thanh Hương
H.N.L
Trên màn ảnh xa xôi
Tôi nhìn khung cảnh Huế
Nước mênh mông lưng trời
Nỗi lo trào mắt lệ !
Tôi thấy cầu Tràng Tiền
Chìm trong vùng lũ lụt
Chỉ mái vòm xám đen
Còn nhô trên mặt nước!
Tôi thấy một căn nhà
Nước ngập tới lầu ba!
Từ Ngọ Môn thành Nội,
Nước tràn điện Thái Hòa!
Nước sông Hương, Bến Ngự,
Đã hòa chung một dòng.
Trên cánh cửa Thượng Tứ
Trôi lạc mui thuyền cong!
Phía bên chùa Diệu Đế,
Nước cuốn đi Kinh, Kệ.
Nước ngập một tầng lầu
Khu Dòng Chúa Cứu Thế!
Những hình ảnh như thế
Làm ray rứt lòng già
Xin gửi về xứ Huế
Lời thăm hỏi từ xạ
Orlando (Florida) November 04, 1999
Hoàng Ngọc Liên
Trong truyện dài Đoàn Quân Mũ Đỏ (1969 Chấn Mỹ SG; 1999,2001 Văn Tuyển HK), Tôn Nữ Diệu Khanh là một trong hai nhân vật chính của truyện và tôi đã viết nhiều về Huế. Với các thân hữu Huế, mỗi khi cần bài vở về Huế cho các báo, đặc san, luôn luôn tôi hân hoan cộng tác.
Hôm nay, tôi gửi bài này đến chị Ái Khanh, cũng trong sự hân hoan nói trên.
Miền Đông Hoa Kỳ, tháng 5 năm 2004.
Hoàng Ngọc Liên
Năm nao tôi qua làng Duệ,
Cùng Em bàn chuyện mai sau.
Nghe Em nói về xứ Huế,
Mơ màng biết hẹn tìm đâu?
Em kể: Song Hương man mác
Thuyền trôi, dòng nước nao nao.
Gió thoảng qua lầu Thương Bạc
Nắng vàng đường xuống Nam Giao.
Em nói: -“Nếu về Vỹ Dạ,
Thôn Em, trong khung dừa xinh.
Anh sẽ đi qua Đập Đá,
Lá hoa kể chuyện ân tình.
Sau nhiều mùa thu xa Em
Tôi được đến thăm xứ Huế.
Chân bước trên cầu Tràng Tiền,
Thời gian sao qua mau thế!
Tôi đã thăm phong cảnh Huế,
Còn Em, tôi biết tìm đâu
Chiều xuống cố đô lặng lẽ
Khói mờ mái Phu Văn Lâu.
Mưa giăng đường vô Thành Nội,
Ngỡ ngàng tôi đã gặp em.
Nhìn tôi, thản nhiên đi tới,
Như người chưa một lần quen!
Vì em đi bên "người ấy"
Chứa chan hạnh phúc với ... tình!
Tôi đứng bên đường tự thấy
Mình sao xa lạ với ... mình!
Đã trọn một mùa vọng tưởng
Ngày xưa, chuyện cũ, xa rồi!
Nhìn em khuất sau cửa Thượng, **
Mờ mờ xứ Huế mưa rơi!
Năm 1960 tôi là một thành viên trong ban tổ chức buổi Nhảy Dù biểu diễn xuống sông Hương. Tôi giới thiệu chương trình các vòng bay và những huấn luyện viên nhảy điều khiển rơi tự do...Khán giả đông nghẹt, từ Câu Lạc Bộ Hương Giang đến cầu Bạch Hổ. Những chiếc xuồng máy, ho-bo lượn tới tấp để vớt những huấn luyện viên rơi trên mặt sông. Có đến bốn người rơi trúng khu vực khán đài, được đông đảo bà con vỗ tay hoan hô. Nơi đặt máy phóng thanh để tôi giới thiệu các vòng bay là Câu Lạc Bộ Thể Thao (CLBTT) Huế, gần đài phát thanh nên buổi tối, tôi ngủ đò ngay bến CLBTT.
Khoảng hơn 10 giờ tối, có tiếng gọi trên bờ. Đò áp bến, một cô bé mặc áo dài trắng có thêu hiệu đoàn Đồng Khánh để xe đạp ven bờ sông rồi thoăn thoắt bước xuống.
Giọng nói của cô nhỏ nhẹ:
- Em là PD, có ông anh bà con nhà cũng trên đường Phan Châu Trinh, tên là CB, muốn mời trung úy ngày mai ghé nhà chơi.
Tôi vui vẻ:
- Được rồi, PD cứ cho địa chỉ, sáng mai tôi sẽ đến.
Thuở ấy, mà có thể bây giờ (2004), việc ngủ đò vẫn được coi như có chuyện "kèm theo". Cô bé nữ sinh này hẳn là không biết việc ấy, nên sau khi được một ông bạn tôi chỉ đường, cô cứ hồn nhiên xuống đò tìm tôi.
Tôi nói thiếp:
- Bây giờ khuya rồi, PD về đi nha.
Cô bé "dạ" rồi đạp xe đi trong màn sương mỏng của Huế. Những ngày tiếp theo, tôi được hai anh em BC-PD hướng dẫn đi thăm hầu hết các danh lam thắng cảnh của Cố Đô, chỉ trừ Lăng Gia Long là không tới được, vì lý do an ninh. Nhờ tình cảm trong sáng của Huế, tôi làm được hai bài thơ Thuyền Về I và II:
Thuyền về I
Năm nao kết ngọn tre làng,
Trăng sông Bến Ngự ,một khoang thuyền về.
Gửi Cố Đô, để nhớ về xứ Huế
Buổi giã từ còn vương vấn chút duyên thơ!
Chiều nao, tim máu thẫn thờ,
Mái lầu Thương Bạc còn ngờ... hư không!
Hoa trời trải một dòng sông,
Bao giờ nguyện ước mà mong tâm tình?
Khi mô trở lại thần kinh,
Nhịp cầu, dòng nước, còn hình ảnh xưạ
Con thuyền neo bóng trăng thơ
Bàn tay ủ bóng mà chưa hẹn hò!
Gửi Cố Đô màu nhớ,
Những nẻo đường tâm tư,
Những bến chiều lộng gió
Mây buồn nhỏ lệ nhớ thương chung
Ngày nao hoa dậy không trung,
Bàn tay, ánh mắt ngại ngùng tiễn đưạ
Con thuyền chở mãi gió mưa,
Nửa đêm neo bóng, đợi chờ bao năm?
Gửi một lời thăm
Nhắn ai về xứ Huế
Rằng người em mái đầu xanh trẻ
Còn nhớ chăng chiều ánh nước Hương Giang?
Năm nao kết ngọn tre làng,
Trăng sông Bến Ngự một khoang thuyền về!
Thuyền Về II
Năm nao kết ngọn tre làng,
Trăng sông Bến Ngự ,một khoang thuyền về.
Mái chèo buông chậm vô sông cũ,
Lơ đãng thuyền neo bến vắng người!
Ngả rẽ hoang sơ, lối đường bụi phủ,
Thôn Vỹ hàng cau màu lá bạc rồi!
Vòng tay đỉnh trúc reo cười,
Nắng tím Nam Giao từ tạ.
Núi sông cũ đã trở thành phương lạ
Dẫu người xưa còn đó, cố nhân ơi!
Giải mây trắng lạc chân trời,
Mờ phai dáng cũ bước đờị.. hẹn nhaụ
Thuyền ngược về đâủ
Sương lạnh nửa đêm lần cuốị
Những tin gió đường xa rong ruổi,
Những câu thề lạc nẻo hư vộ
Biết bây giờ là bao giờ?
Nghiêng mái tóc, cúi chào dĩ vãng.
Nét kỷ niệm, vết chăn mờ năm tháng,
Chuyễn Hoa Trời xin dành lại ngàn saụ
Ai vấn vương mà đón nhận thương đaủ
Ai trao gửi mà không hề ký thác.
Trên khói sóng, vẫn trăng vàng, nước bạc,
Giải câu thề còn lại một dòng sông.
Hởi ngàn xưa, từng khấn nguyện, chờ mong,
Xin chứng giám, đã thuyền về bến cũ!
Hoàng Ngọc Liên
Khung Trời Tưởng Nhớ - Saigon 1966
Cầu Tràng Tiền
Năm 1999, nghe tin Huế bị lụt, tôi làm bài thơ
GỬI VỀ XỨ HUẾ:
thân tặng anh chị Ái Khanh & Xuân Hùng
và các cháu Quang Tuấn - Thanh Hương
H.N.L
Trên màn ảnh xa xôi
Tôi nhìn khung cảnh Huế
Nước mênh mông lưng trời
Nỗi lo trào mắt lệ !
Tôi thấy cầu Tràng Tiền
Chìm trong vùng lũ lụt
Chỉ mái vòm xám đen
Còn nhô trên mặt nước!
Tôi thấy một căn nhà
Nước ngập tới lầu ba!
Từ Ngọ Môn thành Nội,
Nước tràn điện Thái Hòa!
Nước sông Hương, Bến Ngự,
Đã hòa chung một dòng.
Trên cánh cửa Thượng Tứ
Trôi lạc mui thuyền cong!
Phía bên chùa Diệu Đế,
Nước cuốn đi Kinh, Kệ.
Nước ngập một tầng lầu
Khu Dòng Chúa Cứu Thế!
Những hình ảnh như thế
Làm ray rứt lòng già
Xin gửi về xứ Huế
Lời thăm hỏi từ xạ
Orlando (Florida) November 04, 1999
Hoàng Ngọc Liên
Trong truyện dài Đoàn Quân Mũ Đỏ (1969 Chấn Mỹ SG; 1999,2001 Văn Tuyển HK), Tôn Nữ Diệu Khanh là một trong hai nhân vật chính của truyện và tôi đã viết nhiều về Huế. Với các thân hữu Huế, mỗi khi cần bài vở về Huế cho các báo, đặc san, luôn luôn tôi hân hoan cộng tác.
Hôm nay, tôi gửi bài này đến chị Ái Khanh, cũng trong sự hân hoan nói trên.
Miền Đông Hoa Kỳ, tháng 5 năm 2004.
Hoàng Ngọc Liên
TRẦN HOÀNG ANH * TÌNH MẸ
Tình Mẹ
Trần Hoàng Anh
Khi con bước vào đời
Mẹ nhìn theo ái ngại.
Chỉ biết cầu Phật Trời.
Che chở con thơ dại.
Đúng như mẹ lo âu,
Cuộc đời dễ sợ quá.
Con vấp và con ngã,
Đứng dậy buồn thiu thiu.
Mẹ lại đến nâng niu
Vuốt nếp nhăn trên áo,
Xức vết trầy trên chân.
Đau khi con khổ não
Mẹ muốn lấy thân mẹ
Che cho con gió bão
Nỗi đau của lòng con
Là nỗi đau lòng mẹ
Mẹ ơi tình của mẹ
Con sống không thể quên.
Nếu chưa thể đền đáp
Con chết nào có yên!
Trần Hoàng Anh
( THƠ TRầN HOàNG ANH )
tܪng Ç©i nhÜ lòng mË
TrÀn Hoàng Anh
MË Öi con Çã l§n,
Con Çã yêu Çã thÜÖng
Con Çã h©n Çã giÆn
ñã Çau ǧn chán chÜ©ng.
Con Çã lao vào Ç©i
RÃt låc quan tin tܪng
Con Çã Çói Çã khát
Cä cÖm gåo tình thÜÖng
Con Çã r©i xa mË
ñã vui vÈ lên ÇÜ©ng
TÜ©ng Ç©i nhÜ lòng mË
ChiŠu chu¶ng và yêu thÜÖng
Con bÎ vÃp gai nh†n
Con bÎ rÖi hÓ sâu
BÎ trÀy da xܧc thÎt
BÎ nhÙc nhÓi cä ÇÀu
MË Öi con m§i bi‰t
Thiêt thà là thua thiŒt
MË Öi con m§i bi‰t,
MË yêu con thi‰t tha.
( ThÖ TrÀn Hoàng Anh)
Trần Hoàng Anh
Khi con bước vào đời
Mẹ nhìn theo ái ngại.
Chỉ biết cầu Phật Trời.
Che chở con thơ dại.
Đúng như mẹ lo âu,
Cuộc đời dễ sợ quá.
Con vấp và con ngã,
Đứng dậy buồn thiu thiu.
Mẹ lại đến nâng niu
Vuốt nếp nhăn trên áo,
Xức vết trầy trên chân.
Đau khi con khổ não
Mẹ muốn lấy thân mẹ
Che cho con gió bão
Nỗi đau của lòng con
Là nỗi đau lòng mẹ
Mẹ ơi tình của mẹ
Con sống không thể quên.
Nếu chưa thể đền đáp
Con chết nào có yên!
Trần Hoàng Anh
( THƠ TRầN HOàNG ANH )
tܪng Ç©i nhÜ lòng mË
TrÀn Hoàng Anh
MË Öi con Çã l§n,
Con Çã yêu Çã thÜÖng
Con Çã h©n Çã giÆn
ñã Çau ǧn chán chÜ©ng.
Con Çã lao vào Ç©i
RÃt låc quan tin tܪng
Con Çã Çói Çã khát
Cä cÖm gåo tình thÜÖng
Con Çã r©i xa mË
ñã vui vÈ lên ÇÜ©ng
TÜ©ng Ç©i nhÜ lòng mË
ChiŠu chu¶ng và yêu thÜÖng
Con bÎ vÃp gai nh†n
Con bÎ rÖi hÓ sâu
BÎ trÀy da xܧc thÎt
BÎ nhÙc nhÓi cä ÇÀu
MË Öi con m§i bi‰t
Thiêt thà là thua thiŒt
MË Öi con m§i bi‰t,
MË yêu con thi‰t tha.
( ThÖ TrÀn Hoàng Anh)
TRÂN HỒNG CHÂU * GIANG HỒ
GIANG HỒ
Trần Hồng Châu
Muời phương quán gió đời ly loạn,
Tavẫn ngồi đây mộng vẫn xây.
Nửa đêm trừù tịch cờ dăm ván,
Trà thanh vị đắng ngát giang hồ.
Viễn khách bụi trần nhòa hương phấn,
Tình dài nửa đoạn vút lời thơ.
Cánh hoa tỉ muội cười như ngọc,
Em thương bé bỏng tóc cài mây.
Bèo nước lênh đênh chẳng hẹn ngày.
Giang hồ rót mãi giọt buồn say.
Ai đi ngang dọc cho ta nhắn,
Ta vẫn ngồi đây mộng vẫn xây.
TRẦN HỒNG CHÂU
( HẠNHPHÚC ĐẾN TỪNG PHÚT GIÂY)
Trần Hồng Châu
Muời phương quán gió đời ly loạn,
Tavẫn ngồi đây mộng vẫn xây.
Nửa đêm trừù tịch cờ dăm ván,
Trà thanh vị đắng ngát giang hồ.
Viễn khách bụi trần nhòa hương phấn,
Tình dài nửa đoạn vút lời thơ.
Cánh hoa tỉ muội cười như ngọc,
Em thương bé bỏng tóc cài mây.
Bèo nước lênh đênh chẳng hẹn ngày.
Giang hồ rót mãi giọt buồn say.
Ai đi ngang dọc cho ta nhắn,
Ta vẫn ngồi đây mộng vẫn xây.
TRẦN HỒNG CHÂU
( HẠNHPHÚC ĐẾN TỪNG PHÚT GIÂY)
BÌNH NGUYÊN LỘC * RỪNG MẮM
RỪNG MẮM
Bình Nguyên Lộc
Chim đang bay lượn bỗng đứng khựng lại, khiến thằng Cộc thích chí hết sức. Nó theo dõi con chim thầy bói ấy từ nãy đến giờ, chờ đợi cái phút nầy đây.
Thật là huyền diệu, sự đứng yên được một chỗ trên không trung, trông như là chim ai treo phơi khô ngoài sân nhà. Chim thầy bói nghiêng đầu dòm xuống mặt rạch giây lát rồi như bị đứt dây treo, nó rơi xuống nước mau lẹ như một hòn đá nặng. Vừa đụng nước, nó lại bị bắn tung trở lên như một cục cao su bị tưng, mỏ ngậm một con cá nhỏ.
Cộc ngửa mặt lên trời để theo dõi ông câu kỳ dị và tài tình ấy nữa, nhưng mắt nó bị ngọn dừa nước bên kia bờ rạch níu lại. Trên một tàu dừa nước, một con chim thằng chài xanh như da trời trưa tháng giêng, đang yên lặng và bền chí rình cá.
Trong thế giới bùn lầy mà thằng Cộc đang sống, ai cũng là ông câu cả, từ ông nội nó cho đến những con sinh vật nhỏ mọn qui tụ quanh các ngọn nước.
Màu xanh của chim thằng chài đẹp không có màu xanh nào sánh kịp. Sự bền chí của nó cũng chỉ có sự bền chí của các lão cò sầu não là ngang vai thôi, cái bền chí nhìn rất dễ mê, nhưng mê nhứt là mũi tên xanh bắn xuống nước nhanh như chớp, mỗi khi thằng chài trông thấy con mồi. Thằng Cộc là một đứa bé bạc tình. Một đàn cò lông bông bay qua đó, đủ làm cho nó quên thằng chài ngay. Là vì đầu cò chởm chởm những cọng lông bông, nhắc nhở nó những kép võ hát bội gắn lông trĩ trên mão kim khôi mà nó đã mê, cách đây mấy năm, hồi gia quyến nó còn ở trên làng.
Hồi ấy nó sướng lắm. Quanh nhà nó, có hàng trăm nhà khác, có vườn cây trái, có nước ngọt quanh năm, có trẻ con để nó làm bạn, để nó đùa giỡn với. Nhưng không hiểu sao một hôm tía nó bán chiếc chòi lá đi, rồi ông nội nó, tía nó, má nó và nó, một đứa bé mười tuổi, kéo nhau xuống một chiếc xuồng cui, một thứ xuồng to mà người ta gọi là xuồng mẹ, ghe con. Rồi họ đi lang thang từ rạch hoang vắng nầy đến kinh hiu quạnh nọ, và rốt cuộc dừng bước nơi cái xó không người nầy mà ông nội nó đặt tên là xóm Ô-Heo. Nghĩ đến những năm cũ, thằng Cộc bỗng nghe thèm người vô cùng, thèm còn hơn là thèm một trái xoài ngọt, một trái khế chua mà từ năm năm nay nó không được nếm.
Những người di cư năm nọ trên chiếc xuồng cui vẫn còn sống đủ cả. Những chiều nghi ngút sương mù từ đất lầy bốc lên, và những đêm mưa gào gió hú, những người ấy kể chuyện cho Cộc nghe, những chuyện ma rởn óc như ăn phải trái bần chua. Nhưng dầu sao, Cộc cũng thích người khác hơn, cũng như nó thích vườn tược sầm uất hơn cảnh rừng tràm tối mịt hoặc cảnh đồng không bát ngát ở đây. Ở đây, cho đến tiếng chó sủa, tiếng gà gáy nó cũng không nghe từ lâu. Con chó săn và mấy con gà giống mang theo, đã ngã lăn đùng ra mà chết ngay trong tháng mới tới. Thằng Cộc ngạc nhiên mà thấy sao người vẫn không chết trong khí hậu tàn ác nầy: nóng, ẩm, còn muỗi mòng thì quơ tay một cái là nắm được cả một nắm đầy.
Chưa bao giờ mong mỏi của Cộc được thỏa mãn mau lẹ như hôm nay. Nó vừa thèm người thì tiếng hò của ai bỗng vẳng lên trong rừng tràm, rồi tiếp theo đó là tiếng chèo khua nước:
Hò ơ... tháng ba cơm gói ra hòn,
Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai.
Mũi xuồng cui ló ra khỏi khúc quanh của con rạch, và trên xuồng, chồng chèo lái, vợ ngồi không trước mũi mà hò. Cặp vợ chồng nầy, Cộc quen mặt mấy năm nay, nhưng không biết họ từ đâu đến. Nó chỉ biết họ ra biển để bắt cua và bắt ba khía, một năm mấy kỳ. Nghe tiếng người lạ nói, nhứt là tiếng hát, Cộc sướng như có lần tía nó cho nó ăn một cục đường từ nơi xa mang về.
Thà là không được ăn, chớ còn ăn một chút xíu thì cái vị của món ăn còn chọc thèm hơn bao giờ cả. Nên chi Cộc nhìn xuồng chèo khuất dạng rồi thì xây lưng tức khắc để chạy lên Ô-Heo.
Trọn vùng nầy, ông nội nó đặt tên là Ô-Heo. Nhưng riêng trong trong riêng gia quyến nó thì Ô-Heo chánh hiệu là một cái gò xa ở trên kia, cách mé rạch đến hai dặm hú. Số là hồi trước, ngày đầu tới đây, ông nội nó với tía nó đi kiếm đồ ăn trong rừng, đã gặp nơi đó một ổ heo rừng. Cả ổ heo đều bị sát hại hôm đó và việc canh tác của gia quyến nó về sau nầy đã đuổi thú dữ đi xa.
Tuy nhiên, đề phòng chúng trở lại, ông nội nó đã cấm nó lên Ô-Heo một mình. Thằng Cộc lại thích lên đó, ban đầu chỉ vì Ô-Heo có sức quyến rũ của một trái cấm, nhưng về sau, nó gặp người nơi đó. Ðó là vài người đàn ông và đàn bà, nói là ở xa lắm, cách đó một ngày đường sông. Ðàn ông thì đến để gác quốc, gác nhan sen, còn đàn bà thì để nhổ bồn-bồn về làm dưa bán. Ðó là những người bạn bí mật của nó, nó giữ kín không cho nhà nó biết. Họ hay kể chuyện xóm làng, chuyện đám cưới, đám ma, đám hát, đám cúng đình, tóm lại tất cả sanh hoạt của làng mạc mà từ lâu Cộc không thấy và ngậm ngùi tưởng đến như nhớ những kỷ niệm xa xôi. Cộc chạy qua khỏi ruộng nhà và đứng lại nghỉ mệt. Nó mệt lắm vì nó chạy dưới nước và dưới bùn, mặc dầu lúa đã đến mùa gặt.
Năm xưa, gia quyến nó đến đây vào cuối tháng giêng, sau khi cúng ông vải xong ở quê cũ. Ông nội nó với tía nó đốt rừng tràm từ ngoài bờ rạch. Gió thổi vô rừng, và lửa, như con vật khổng lồ, đã táp một cái vào khối thịt xanh um của biển rừng tràm nầy. Thành ra ruộng nhà nó mang một hình tròn kì dị, không tròn đều đặn vì không ai chỉ huy được sự cháy rất là rắn mắt của ngọn lửa.
Cộc nhìn ruộng mình một hồi rồi cười khan lên. Ðám rừng bị khoét một lỗ để làm ruộng, trông như đầu tóc trẻ con được mẹ cạo, nhưng mới cạo có một mảng thì có chuyện gấp, bỏ dở công việc; đứa bé bị chúng bạn chế nhạo là đầu chó táp.
Lúc ruộng chín, cây lúa cao quá, ngã rạp xuống, để lòi trăm ngàn gốc tràm lên, trông như ai đóng cọc để cất nhà sàn; năm xưa đốt rừng nhưng không đủ sức đánh những gốc tràm tươi rói không cháy được nầy, tía thằng cộc đành cấy lúa giữa những gốc ấy, mãi cho đến ngày nay mà gốc vẫn chưa mục. Tía nó nói mười năm nữa, tràm chết cũng vẫn còn đưa cẳng lên như vầy. Sau lưng Cộc là những rặng tràm bị cháy sém dưới trận lửa khai hoang, không chết ngay, nhưng "chết nhát", cứ mỗi năm chết lần mòn thêm vài mươi cây. Mấy hàng tràm đầu nám đen và trụi nhánh như cột nhà cháy, câm hận nhìn chiếc chòi lá xa tít mù dưới mé rạch đang chứa chấp kẻ thù đã lấn đất của chúng, đã sát hại chúng. Sau đó, rừng dày mịt, chằn chịt những dây bòng bong, dây choại, bò từ thân cây nầy qua thân cây khác.Thằng Cộc lắng tai nhưng không nghe tiếng động nào cả. Nó đánh bạo chen qua những cây bình-bát, cây ráng, mọc xen với tràm, để đi tới đích. Một ổ chồn cộc bỗng chạy qua trước mặt nó, khua lên một cái roạch, làm nó giựt mình, nhưng tiếng người trên Ô-Heo cách đó chững hai hàng cây, giúp cho nó vững dạ.Tiếng đàn bà hỏi:
- Anh hổng sợ thằng Mùi hay sao ?
Tiếng đàn ông đáp:
- Thằng Mùi thì qua cho một loi là nhào hớt.
Cộc vẹt cỏ lá, đi mau đến đó và khi nó chun ra khỏi khối xanh thì hai người có mặt trên gò Ô-Heo sợ hãi ngồi dang ra. Người đàn ông gác quốc là người quen, người đàn bà nhổ bồn-bồn thì lạ hoắc. Chị nầy trẻ đẹp hơn tất cả những chị mà nó quen biết từ lâu. Người đàn ông tự trấn tỉnh lại ngay, ngoắt nó lại mà hỏi:
- Muốn về trển hay không Cộc ? Muốn thì đi theo chị hai mầy đây, chỉ có một đứa em gái ngộ lắm.
Trong khi thằng Cộc mắc cở tía tai thì chị đàn bà hỏi anh kia:
- Ở miệt nầy có người sao anh ?
- Chỉ có một nhà thôi. Mới tới đây chừng năm năm.
- Quen hay lạ ?
- Lạ. Họ ở trên Sa-Ðéc lận.
Chị đàn bà an lòng, vui lại được và nói với Cộc để mua lòng kẻ đã bắt chợt việc thầm lén của chị:
- Em của chị không bao giờ chịu về làm dâu ở một chổ như vầy. Em có muốn thì phải ở rể thôi.
Rồi hai người lớn cười ngặt nghẹo với nhau.
Thằng Cộc mới mười lăm, nhưng cao lớn gần bằng người đàn ông kia. Mình trần của nó nổi u, nổi nần những bắp thịt rắn như nắn bằng đất sét gắn vào đó rồi nung cho đen và cứng.
Sự nẩy nở của thân thể nó đi song đôi với sự trưởng thành của đời sống sinh lý bên trong của nó. Năm nay nó đã bắt đầu bâng khuâng mỗi khi chiều xuống, mặt trời đốt cháy đỏ đầu rừng tràm trầm thủy trước nhà. Nhưng sống cô đơn ở đây, nó không biết chuyện trai gái như vầy là xấu đến mức nào và nó phải có thái độ làm sao nên bối rối lắm.Chị đàn bà nắm tay nó, rị nó ngồi xuống bên cạnh chị, vỗ lên đầu nó rồi dỗ ngọt:
- Chị không ăn thịt em rể chị đâu mà sợ. Mầy mà về trển làm ruộng thì ai cũng ưa. Làm rể có công, ba năm thì má chị gả con Thôi cho mầy liền. Nói thiệt đó mà.
- Nó muốn trốn theo qua dữ lắm, người đàn ông nói, nhưng nó còn ngại.
- Ngại gì ?
- Thì lo sợ cái việc xa xôi đất lạ đó mà.
- Em nè, chị đàn bà lại hỏi, nhà có mấy người ?
- Bốn người ?
- Ai với ai ?
- Ông nội tui, tía tui, má tui với tui.
- Làm mấy công đất ?
- Hồi đó bốn công, bây giờ mười công.
- Gặt được bao nhiêu giạ mỗi mùa ?
- Tám giạ.
Chị đàn bà cười ngất một hồi rồi day lại hỏi nhơn tình:
- Trời ơi, ruộng gì mà mười công đất, chỉ gặt được có tám giạ thôi ?
Người đàn ông không cười, đáp:
- Ðất nước mặn nào mới khai hoang cũng như vậy hết.
- Rồi lấy gì mà ăn em nhỏ ?
- Tía tôi đi đổi lúa thêm, ở đâu không biết, xa lắm.
- Ðổi bằng gì ?
- Bằng cá khô. Với lại cũng chẳng cần ăn cơm. Nhiều khi ăn rùa, ăn rắn trừ cơm. Ở đây, rùa nhiều như kiến. Ðốt rừng rồi đón trên đầu gió một lát là chúng nó lạch cạch chạy trốn lửa, bắt không kịp lận.
Chị đàn bà tỏ vẻ ái ngại một hồi rồi nói:
- Nãy giờ chị nói chơi đó. Nhưng biết được tình cảnh của em, chị thật bụng thấy là em cần đi theo chị hoặc là anh đây cũng được.
Chị ta vói tay sau lưng, lấy bầu nước ngọt, mở nút ra rồi ngước mặt lên trời, rót nước vào miệng. Chị uống ừng ực vài cái rồi lại nói:
- Em có được ăn chè lần nào không ?
- Không, từ năm năm nay rồi. Cách đây một ngày đường nước, không có nhà cửa ai cả, không có quán tiệm gì hết. Với lại cũng không có tiền.
- Ở Sa-Ðéc sao lại không vô Tháp Mười mà nhè xuống U-Minh nầy ?
- Tui cũng không biết tại sao. Nhưng ở Tháp Mười dễ chịu hơn hả ?
- Chị cũng không biết. Chỉ biết đất hoang ở Tháp Mười gần quê cũ của em hơn. Quê em ở gần Cao Lãnh phải không ?
- Gần.
- Em có nhớ xoài Cao Lãnh hôn ?
- Tui lạy chị, đừng có nhắc chè, nhắc xoài nữa, tui thèm muốn chết đi. Năm năm nay, tui không có biết món ngọt là gì. Mấy cây chuối trồng sau nhà cũng chết queo vì đất còn mặn quá. Năm nay một cây trổ buồng, chắc tôi được ăn ngọt đây. Úi chà ! Trưa rồi, chắc tới bữa cơm, thôi tui về nha, anh, chị ?
- Ừ về, mai mốt lại lên đây nữa nha ?
- Xuồng anh chị ở đâu ?
- Dưới kia. Nhổ bồn-bồn ở dưới ấy, nhưng lên đây cho khô ráo để ăn cơm trưa é mà. Em Cộc nè, em của chị ngộ lắm, trắng lắm nghe không ?
Chuỗi cười của hai người nhơn tình ấy đuổi theo sau lưng Cộc khiến cho nó, trong giây phút, không muốn về nhà nữa. Ra khỏi rừng tràm râm mát, mắt Cộc bỗng dưng như đổ hào quang trước ánh nắng tháng mười. Không khí bị đốt cháy, đang rung rinh như nước xao, và nó tưởng chừng như mái lá nhà nó, đen thui dưới kia, sắp cháy đến nơi.Thằng Cộc về tới nhà thì cơm trưa đã dọn xong.
- Mầy đi đâu mà tới đứng bóng mới về ?
- Tui đi lượm lông chim Long ô.
- Lông đâu ?
- Mà kiếm hoài hổng có.
- Mồ tổ cha mầy, nhiều chuyện. Chim Long ô đời xưa mới có chớ đời nay đâu còn nữa. Mai gặt nghe không ? Ăn cơm khuya rồi xuống đồng cho sớm, đừng đi đâu hết.
Cả nhà lặng lẽ ngồi quanh mâm cơm, Không ai nói với ai lời nào. Những người nầy, sống biệt tịch ở đây lâu ngày rồi, đã biến thành á khẩu vì thói quen. Riêng thằng Cộc, sự cần nói của tuổi thơ đang lên mạnh lắm như cần chạy nhảy, cần ăn uống vậy. Câu chuyện hồi nãy trên gò Ô-Heo khiến nó càng bắt mùi nói thêm, nên nín không được, nó hỏi ông nội nó:
- Nội nè, hồi mới tới, giữa mùa nắng, mình uống nước gì, tui quên rồi ?
Nó hỏi như vậy vì nó vừa nhìn ra cái giếng bên hè và nhớ ra là giếng đã ngọt nước hôm mùa nắng trước, mặc dầu đã được đào từ năm năm rồi.
- Uống nước
đọng trên lung, trên rừng, chớ uống
nước gì.
- Sao mình tới đây ông nội ?
- Ðã nói cho mầy biết rồi. Trên xứ, mình không có ruộng, làm công khổ cả đời.
- Ở đây, mình có ruộng, nhưng cũng khổ cả đời.
Ông nội thằng Cộc lặng thinh. Nó nhìn ông nội nó rồi chợt nhận ra rằng năm nay ông cụ già quá. Tóc râu của ông cụ đã trắng bông. Nhớ ra ông cụ thường than mình nhớ mồ, nhớ mả ông bà quá, nó bùi ngùi thương ông nên dòm ra sân để quên.
Bấy giờ bóng của bốn cái nồi rau đã tròn vành, chỉ rằng thật đúng ngọ. Bốn cái nồi bể ấy, hèn là thế mà rất là công dụng đối với nhà nó. Ðể tránh nước mặn tràn bờ ngập sân, tía nó đã đóng mười hai cây cọc, làm thành bốn cái giá ba chơn tréo như giá trống của bọn đờn thổi đám ma. Trên mỗi giá, đặt một cái nồi lủng đít, và trong nồi để đầy đất mà tía nó mang từ xa về. Ðất ở đây mặn chát dùng không được. Hành, ớt, rau răm, rau mồ om, được trồng trong mấy cái vườn cao cẳng đó. Ðó là bốn thứ tối cần, đất mặn bao nhiêu cũng phải lập thế mà trồng cho được, không thôi không có món gia vị nào để ăn cá nữa. Bốn miếng vườn cao cẳng và tí hon lại là chiếc đồng hồ của nhà nầy vào mùa khô. Cứ bằng vào bề dài của bóng giá là tính giờ được ngay, và khi bóng nồi tròn vụm che mất bóng giá là đúng ngọ ngay bon. Nhìn ra sân một hơi, nhai nuốt hết cơm, nó day vô và hỏi tía nó:
- Năm nay mình gặt cỡ được bao nhiêu tía ?
- Nhờ ông bà, đất nước, ít lắm cũng được hăm lăm giạ.
- Cũng chưa đủ ăn.
- Ðủ gì mà đủ, má nó nói, nhà mình phải ăn trăm rưỡi là số chót.
- Với lại, tía thằng Cộc trở vào câu chuyện, tại lúa nàng Cụm thất gạo lắm. Năm tới ta gieo giống Tầm Vuột chắc được gạo hơn nhiều. Năm nay hễ chuối trổ buồng thì năm tới tao trồng sả, trồng ổi được rồi đó.
- Sao mình tới đây ông nội ?
- Ðã nói cho mầy biết rồi. Trên xứ, mình không có ruộng, làm công khổ cả đời.
- Ở đây, mình có ruộng, nhưng cũng khổ cả đời.
Ông nội thằng Cộc lặng thinh. Nó nhìn ông nội nó rồi chợt nhận ra rằng năm nay ông cụ già quá. Tóc râu của ông cụ đã trắng bông. Nhớ ra ông cụ thường than mình nhớ mồ, nhớ mả ông bà quá, nó bùi ngùi thương ông nên dòm ra sân để quên.
Bấy giờ bóng của bốn cái nồi rau đã tròn vành, chỉ rằng thật đúng ngọ. Bốn cái nồi bể ấy, hèn là thế mà rất là công dụng đối với nhà nó. Ðể tránh nước mặn tràn bờ ngập sân, tía nó đã đóng mười hai cây cọc, làm thành bốn cái giá ba chơn tréo như giá trống của bọn đờn thổi đám ma. Trên mỗi giá, đặt một cái nồi lủng đít, và trong nồi để đầy đất mà tía nó mang từ xa về. Ðất ở đây mặn chát dùng không được. Hành, ớt, rau răm, rau mồ om, được trồng trong mấy cái vườn cao cẳng đó. Ðó là bốn thứ tối cần, đất mặn bao nhiêu cũng phải lập thế mà trồng cho được, không thôi không có món gia vị nào để ăn cá nữa. Bốn miếng vườn cao cẳng và tí hon lại là chiếc đồng hồ của nhà nầy vào mùa khô. Cứ bằng vào bề dài của bóng giá là tính giờ được ngay, và khi bóng nồi tròn vụm che mất bóng giá là đúng ngọ ngay bon. Nhìn ra sân một hơi, nhai nuốt hết cơm, nó day vô và hỏi tía nó:
- Năm nay mình gặt cỡ được bao nhiêu tía ?
- Nhờ ông bà, đất nước, ít lắm cũng được hăm lăm giạ.
- Cũng chưa đủ ăn.
- Ðủ gì mà đủ, má nó nói, nhà mình phải ăn trăm rưỡi là số chót.
- Với lại, tía thằng Cộc trở vào câu chuyện, tại lúa nàng Cụm thất gạo lắm. Năm tới ta gieo giống Tầm Vuột chắc được gạo hơn nhiều. Năm nay hễ chuối trổ buồng thì năm tới tao trồng sả, trồng ổi được rồi đó.
Cả nhà đều hớn hở trước dự định tương lai tốt đẹp kia. Nhưng thằng Cộc chưa thấy gì là xán lạn cả. Trồng ổi thì cũng phải khá lâu mới có trái, trong khi đó nó tiếp tục thèm chè, thèm xưng xa, nhớ đám cúng đình, nhớ hát bội và bị một hình ảnh mới quyến rũ, hình ảnh của con Thôi, chắc là giống hệt chị nhổ bồn-bồn, tức là có duyên lắm.
Con trai làng thấy con gái rất thường, thế mà họ còn thầm lén rủ nhau đi một ngày đường nước để ra đây gặp nhau, huống hồ gì nó chưa được nói chuyện với con gái lớn lần nào hết. Những đứa con gái bạn của nó cách đây năm năm, nó nhớ lại thì không có gì quyến rũ cả. Ðứa nào cũng cạo trọc chừa bánh bèo phía sau và giữa chiếc bánh bèo, mọc ra một chòm đuôi dài trông đến buồn cười. Nhưng mà con gái lớn phải khác. Cộc chưa thấy con gái lớn, nhưng tin chắc như vậy. Có một linh cảm gì, ở đâu từ kiếp tiền thân của nó bay lại và giúp cho nó biết như vậy. Những cô con gái lớn chưa thấy hình ấy, mà đã có tiếng kêu được, chúng âm thầm gọi Cộc, tiếng gọi như văng vẳng đâu trong không trung. Thẩn thờ, thằng Cộc nói lại câu hồi nãy, và giận giỗi, thêm một đoạn khiến ông nội nó giựt mình, chống đũa mà nhìn nó trừng trừng:
- Ở đây mình có ruộng nhưng cũng khổ cả đời. Tui muốn đi quá, đi đâu cũng được, miễn ở đó có làng xóm, có người ta.
Thằng Cộc thích mấy cây nọc nạng lắm. Bó lúa nào gác lên đó cũng nằm yên cả chớ không chực rớt xuống nước ruộng như những bó lúa gác trên đầu nọc thường. Ðó là những gốc tràm mà cháng hai chẻ ra rất thấp. Khi đốn tràm cháy, tía thằng Cộc đã trù xa, đốn ở trên cháng hai ấy độ một gang rưỡi nên bây giờ họ mới có nọc nạng rất tiện mà dùng gác lúa. Ông nội thằng Cộc chống xuồng trên ruộng, len lỏi qua mấy gốc tràm. Ông ghé từng gốc để cho lúa xuống xuồng.
Ðủ thứ là cò, cò ma, cò lông bông, cò quắm, cò hương, thân mật nhìn gia đình bốn người gặt lúa nhà. Ðây là bốn người độc nhứt mà chúng thấy mỗi ngày ở vùng hoang vắng nầy; ban đầu chúng sợ hãi họ, nhưng về sau, thấy họ hiền từ quá, chúng làm quen với họ đã được bốn thế hệ cò rồi.
Má thằng Cộc lội sình tới đầu gối, và lội nước gần tới háng nhưng vui vẻ hơn ngày nào hết. Bà ta tằng hắng rồi cất tiếng hò:
Hò... ơ... tiếng anh ăn học làu thông,
Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường ?
Hò xong câu đố ấy, bà lắng đợi chồng bà hò đáp. Nhưng tía thằng Cộc cứ làm thinh mà gặt, khiến bà đâm ngượng nên cười rồi cự chồng cho đỡ mắc cỡ:
- Tía nó sao câm cái miệng lại, không bắt vậy ?
- Hứ, nhiều chuyện nà ! Già rồi mà còn hò với hát, bắt với ghẹo. Bộ còn trai gái gì đó sao ?
Vì vui kết quả của cần cù nên má thằng Cộc quên rằng bà ta đã quá mùa hò rồi. Tía nó nhắc lại bà ta mới chợt nhận ra. Tuy nhiên bà vẫn ngậm ngùi nhớ cái thú vui ấy thuở bà còn con gái và ngay bây giờ đây, tóc đã nhuốm hoa râm rồi, bà cũng hưởng được nếu còn ở làng, hưởng bằng cách khuyến khích bọn trai trẻ hò đối đáp với nhau. Thằng Cộc thì xôn xao trong lòng, nhớ lại lời chị nhổ bồn-bồn bảo rằng nó mà về làng làm ruộng thì ai cũng ưa. Ừ, nó sẽ hò đối đáp với con Thôi. Chậc ! Mà nó phải nhờ má nó dạy hò mới được. Nó có nghe hò lần nào đâu để mà thuộc giọng và biết câu. Ðến chiều thì xong xuôi cả. Ông nội thằng Cộc chống xuồng lúa để ra bờ rạch, còn tía nó, má nó và nó thì lội nước sình mà về bộ.
Ðập lúa và phơi phong mất hết mười ngày. Trong những ngày buồn tẻ, phẳng lì giữa cảnh bùn lầy nước đọng ấy, thằng Cộc càng nao nức muốn về làng.
Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường ?
Câu hò của má nó ám ảnh nó từ hôm gặt đến nay. Nếu con Thôi mà hỏi đố nó câu ấy chắc nó phải ngậm câm, cho dẫu được phép trả lời bằng văn xuôi.
Khăn lông là vật dụng mà nó đã quên rồi thì còn biết là mấy đường để còn đáp cho thông. Từ lâu, nó chỉ có một chiếc quần xà lỏn trên người, mùa nắng cháy như mùa mưa lạnh. Ðêm nó nhờ nóp che thân cho đỡ bị muỗi đốt và gió cắt da. Những món đồ cần dùng của thế giới văn minh ấy cũng thuộc vào những thứ gợi thèm như bánh trôi nước, bánh ít trần và mái tóc của con Thôi. Hôm ấy, dùng bồ cho con cháu đổ lúa vào, ông nội thằng Cộc long trọng nói:
- Ngày mai ra biển.
Không ai hỏi ra biển để làm gì hết. Thằng Cộc cũng làm thinh, trái với mọi ngày mà nó hỏi không kịp đáp. Con rạch Ô-Heo trước nhà, nếu có đi trên ấy thì phải về ngọn, nó nghĩ như vậy, đi về ngọn để rẽ qua những kinh rạch khác mà tìm làng mạc sầm uất, chớ xuôi dòng ra biển thì còn nghĩa lý gì nữa chớ ? Nó chưa được ra biển lần nào cả và mấy năm trước đây nó muốn theo ghe của bọn bắt cua để đi một chuyến lắm, mà không được phép đi. Chuyến đi đầu đến một chơn trời xa lạ mà ông nội nó vừa cho biết, không làm cho nó phấn khởi chút nào cả. Ông nội nó tiếp, dặn mẹ nó:
- Con mẹ Trùm, ngày mai phải dậy khuya nấu cơm. Tao đi với thằng Trùm và thằng Cộc, đi thật sớm để gặp con nước lớn ngay tại cửa mà về cho tiện.
Rạch Ô-Heo nhỏ xíu cho nên tràm mọc ở hai bên bờ giao nhành với nhau được và phủ kín cả mặt nước. Rạch tối om, đi như đi trong hang. Bây giờ thằng Cộc mới thấu nghĩa hai tiếng "hang mai" trong câu hát của bọn đi bắt ba-khía. Những nơi ánh nắng lọt vào được thì hai bên bờ, ô-rô và cóc kèn mọc đầy. Nước ròng chảy xiết, xuồng trôi bon bon. Tuy vậy, ông nội và tía cũng chèo cẩn thận để mau tới nơi, hầu về kịp nội buổi chiều ngày đó. Gần tới trưa, xuồng không đi mau nữa.
- Nước đứng rồi, ông nội nói, tức ta gần tới cửa rồi.
Họ thôi chèo, để cho xuồng trôi linh đinh, không tiến cũng không lùi, rồi lấy cơm dỡ trong mo nang ra mà ăn. Không đi thì thôi, đã trót đi, và lúc gần tới đích, thằng Cộc nghe thích thấy biển coi ra sao. Nó và cơm hối hả rồi hỏi:
- Ra đó làm gì ông nội ?
- Rồi mầy sẽ biết.
Họ ăn cơm xong thì nước bắt đầu lớn. Họ chèo ngược nước cho đến quá đứng bóng thì đến một nơi kia mà ông nội tuyên bố rằng đó là biển. Thằng Cộc ngạc nhiên lắm mà chẳng thấy biển đâu cả. Con rạch tiếp tục đi xa ra ngoài kia, hai hàng rào cây như đứt khúc, đâm vào một vách tường xanh như da trời.
- Biển ở đâu, ông nội ? Cộc hỏi.
- Ðàng xa kia,
xanh xanh đó.
- Sao không ra ngoài, ông nội ?
- Không cần.
Tía thằng Cộc chèo mũi, rút sào cặm xuống bùn, theo lịnh của ông nội nó. Ông nội gọi Cộc hỏi:
- Con có thấy gì khác lạ không ?
- Không, ông nội à.
- Không thấy ? Cây ở đây không khác cây sau lưng mình à ?
- À... phải rồi.
Cộc nhìn lại thì quả như lời ông nội nó nói. Nơi đây, đất đã hết, mà chỉ còn bùn. Tràm mọc tới mé đất cuối cùng thì dừng lại, như là dân ở biên giới một nước kia dừng lại nơi bìa lảnh thổ mình.Hết tràm thì có một khoảng trống, nửa bùn, nửa đất, trên ấy cỏ ống rậm ri và chim cao cẳng đủ loại đáp đầy trong cỏ. Tràm đứng trước bãi cỏ mà nhìn dân láng giềng mọc trên bùn đen. Ðó là những cây ốm nhom chen nhau mà vượt cao lên, cây nầy cách cây kia không đầy bốn gang tay. Bờ biển thoai thoải dốc xuống, trông rừng cây lạ ấy như một đạo binh xuống núi, tuôn hãm thành hầu lập công.
- Nhìn xuống gốc cây, ông nội bảo.
Nước chưa lớn hẳn, để lộ bùn đen dưới gốc cây ra. Bùn đen từng nơi lại trắng xóa những đóa hoa năm cánh, hai màu đen trắng đối chọi nhau trông rất đẹp.
- Cây gì mà lạ vậy ông nội ? Trổ bông ngay dưới gốc ?
- Bông trổ trên đầu những cái rễ ăn lên mà người ta gọi là rễ gió. Cây nầy là cây mắm. Ðây là rừng mắm đây.
- Cây mắm ? Sao tui không nghe nói đến cây mắm bao giờ ?
- Con không nghe nói vì cây mắm không dùng được để làm gì hết, cho đến làm củi chụm cũng không được.
- Sao không ra ngoài, ông nội ?
- Không cần.
Tía thằng Cộc chèo mũi, rút sào cặm xuống bùn, theo lịnh của ông nội nó. Ông nội gọi Cộc hỏi:
- Con có thấy gì khác lạ không ?
- Không, ông nội à.
- Không thấy ? Cây ở đây không khác cây sau lưng mình à ?
- À... phải rồi.
Cộc nhìn lại thì quả như lời ông nội nó nói. Nơi đây, đất đã hết, mà chỉ còn bùn. Tràm mọc tới mé đất cuối cùng thì dừng lại, như là dân ở biên giới một nước kia dừng lại nơi bìa lảnh thổ mình.Hết tràm thì có một khoảng trống, nửa bùn, nửa đất, trên ấy cỏ ống rậm ri và chim cao cẳng đủ loại đáp đầy trong cỏ. Tràm đứng trước bãi cỏ mà nhìn dân láng giềng mọc trên bùn đen. Ðó là những cây ốm nhom chen nhau mà vượt cao lên, cây nầy cách cây kia không đầy bốn gang tay. Bờ biển thoai thoải dốc xuống, trông rừng cây lạ ấy như một đạo binh xuống núi, tuôn hãm thành hầu lập công.
- Nhìn xuống gốc cây, ông nội bảo.
Nước chưa lớn hẳn, để lộ bùn đen dưới gốc cây ra. Bùn đen từng nơi lại trắng xóa những đóa hoa năm cánh, hai màu đen trắng đối chọi nhau trông rất đẹp.
- Cây gì mà lạ vậy ông nội ? Trổ bông ngay dưới gốc ?
- Bông trổ trên đầu những cái rễ ăn lên mà người ta gọi là rễ gió. Cây nầy là cây mắm. Ðây là rừng mắm đây.
- Cây mắm ? Sao tui không nghe nói đến cây mắm bao giờ ?
- Con không nghe nói vì cây mắm không dùng được để làm gì hết, cho đến làm củi chụm cũng không được.
- Vậy chớ trời sanh
nó ra làm chi mà vô ích dữ vậy ông nội, lại sanh
hằng hà sa số như là cỏ ấy ?
- Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được.
Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:
- Ông với lại tía của con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Ðời con là tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau.
Ðời cây mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu của họ hưởng. Con, con sắp được hưởng rồi, sao lại muốn bỏ mà đi ? Vả lại con không thích hi-sinh chút ít cho con cháu của con hưởng hay sao ?
Thằng Cộc nhìn lại ông nội nó và nghe thương không biết bao nhiêu ông già đã bỏ mồ bỏ mả ông cha để hì-hục năm năm trong đồng chua, nước mặn ở Ô-Heo.Phải, cứ theo dự đoán của gia đình thì nó sắp được hưởng, tuy không nhiều, mà rồi sẽ nhiều. Nó nắm chặt tay ông nội nó và nó thấy ông nội nó giỏi quá. Ông có biết chữ nho kia mà.
- Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được.
Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:
- Ông với lại tía của con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Ðời con là tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau.
Ðời cây mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu của họ hưởng. Con, con sắp được hưởng rồi, sao lại muốn bỏ mà đi ? Vả lại con không thích hi-sinh chút ít cho con cháu của con hưởng hay sao ?
Thằng Cộc nhìn lại ông nội nó và nghe thương không biết bao nhiêu ông già đã bỏ mồ bỏ mả ông cha để hì-hục năm năm trong đồng chua, nước mặn ở Ô-Heo.Phải, cứ theo dự đoán của gia đình thì nó sắp được hưởng, tuy không nhiều, mà rồi sẽ nhiều. Nó nắm chặt tay ông nội nó và nó thấy ông nội nó giỏi quá. Ông có biết chữ nho kia mà.
- Ông ơi, nó than,
nhưng tràm buồn quá.
- Tràm sẽ khỏi buồn nữa. Năm tới, đất thuần rồi thì ta làm ba mươi công và sẽ gọi dân cấy gặt ở xa tới phụ lực. Rồi tía con sẽ cưới vợ cho con, rồi thiên hạ sẽ bắt chước ta, tràn tới đây mà phá rừng, vùng Ô-Heo sẽ sầm uất, vui biết bao nhiêu. Tràm hết buồn vì sẽ đẻ ra cau, dừa, xoài, quít, đầy nhà, nước sẽ ngọt một khi đất thuần...
- Và sẽ có chè ăn ?
Ông nội cười ha hả mà rằng:
- Gì chứ chè thì sẽ có lu bù.
- Mà ông nội nè, cưới vợ làm sao được, ai thèm tới Ô-Heo ?
- Hai năm nữa người ta sẽ đồn rằng đất Ô-Heo thuần. Những kẻ nghèo khó như ta chỉ mong được tới đây. Ông nói điều nầy, không biết con hiểu được hay không. Là tổ tiên ta ngày xưa từ Bắc, Trung tràn vào đây đều chịu số phận của cây mắm hết, từ xứ Ðồng Nai nước ngọt cho tới đây, ở đâu cũng hoang vu cả. Họ đã ngã rạp trong chốn ma thiêng nước độc nầy để lót đường cho con cháu họ đi tới, y như là đàn kiến xung phong, tốp đầu liều chết đuối, lội qua tô nước rọng hủ đường để làm cầu cho bọn đi sau vào đến nơi có chất ngọt. Nhiều lớp tiên phuông đã ngã gục như rừng mắm. Rồi thì ông sơ, ông cố con, ông nội đây là tràm mới kiếm được miếng ăn...
- Tía.
Thằng Cộc lo lắng không biết tía nó sẽ làm tràm như nó được hay không nên kêu tía nó bằng một giọng thương yêu trìu mến hết sức.
- Thôi, nhổ sào để đi về cho kịp con nước, ông nội ra lịnh.
Ông nội vui vẻ quá, vì ông bỗng sực nhớ lại những câu hò của thế hệ người tiên phuông đi khai thác đất hoang ở miền Nam, mà ngày nay thế hệ tràm không hát nữa. Ông cất giọng khàn khàn lên:
Hò... ơ... Rồng chầu ngoài Huế,
Ngựa tế Ðồng Nai.
Nước sông trong sao cứ chảy hoài,
Thương người xa xứ lạc loài đến đây.
- Tràm sẽ khỏi buồn nữa. Năm tới, đất thuần rồi thì ta làm ba mươi công và sẽ gọi dân cấy gặt ở xa tới phụ lực. Rồi tía con sẽ cưới vợ cho con, rồi thiên hạ sẽ bắt chước ta, tràn tới đây mà phá rừng, vùng Ô-Heo sẽ sầm uất, vui biết bao nhiêu. Tràm hết buồn vì sẽ đẻ ra cau, dừa, xoài, quít, đầy nhà, nước sẽ ngọt một khi đất thuần...
- Và sẽ có chè ăn ?
Ông nội cười ha hả mà rằng:
- Gì chứ chè thì sẽ có lu bù.
- Mà ông nội nè, cưới vợ làm sao được, ai thèm tới Ô-Heo ?
- Hai năm nữa người ta sẽ đồn rằng đất Ô-Heo thuần. Những kẻ nghèo khó như ta chỉ mong được tới đây. Ông nói điều nầy, không biết con hiểu được hay không. Là tổ tiên ta ngày xưa từ Bắc, Trung tràn vào đây đều chịu số phận của cây mắm hết, từ xứ Ðồng Nai nước ngọt cho tới đây, ở đâu cũng hoang vu cả. Họ đã ngã rạp trong chốn ma thiêng nước độc nầy để lót đường cho con cháu họ đi tới, y như là đàn kiến xung phong, tốp đầu liều chết đuối, lội qua tô nước rọng hủ đường để làm cầu cho bọn đi sau vào đến nơi có chất ngọt. Nhiều lớp tiên phuông đã ngã gục như rừng mắm. Rồi thì ông sơ, ông cố con, ông nội đây là tràm mới kiếm được miếng ăn...
- Tía.
Thằng Cộc lo lắng không biết tía nó sẽ làm tràm như nó được hay không nên kêu tía nó bằng một giọng thương yêu trìu mến hết sức.
- Thôi, nhổ sào để đi về cho kịp con nước, ông nội ra lịnh.
Ông nội vui vẻ quá, vì ông bỗng sực nhớ lại những câu hò của thế hệ người tiên phuông đi khai thác đất hoang ở miền Nam, mà ngày nay thế hệ tràm không hát nữa. Ông cất giọng khàn khàn lên:
Hò... ơ... Rồng chầu ngoài Huế,
Ngựa tế Ðồng Nai.
Nước sông trong sao cứ chảy hoài,
Thương người xa xứ lạc loài đến đây.
Bình Nguyên Lộc
LINH BẢO * NGƯỜI QUÂN TỬ
NGƯỜI QUÂN TỬ
Linh Bảo
Loan, cô
bạn gái duy nhất ngày xưa ra về rồi,
Dung băn khoăn suy nghĩ, lăn lộn trên giường đã hơn một tiếng đồng hồ. Đáng lẽ nàng phải đi chợ mua đồ ăn nấu cơm chiều, nhưng hôm nay có cớ để cho nàng giận dữ, nên định đâm liều một bữa xem sao.
Dung còn nhớ rõ, dù đã nhiều năm về trước, mà hình ảnh, cảm xúc vẫn còn sống động như vừa mới xảy ra. Hôm ấy nàng đang chạy dưới làn mưa đạn thì gặp hắn. Hắn mời nàng đến nhà tạm trú trong khu vực an toàn. Vợ hắn về quê mẹ bên Pháp chưa trở lại, nên hắn rất tự do. Luôn mấy ngày, hai người bị kẹt trong cái tổ ấm đó.
Thế là hắn thành ra “chính phủ bảo hộ" của Dung. Kể ra, lúc đầu suốt mấy tháng trời hắn cũng mất một ít công phu. Nào là hái hoa tặng nàng, nào là thức dậy từ ba giờ sáng pha cà phê cho nàng uống để sửa soạn đi bay vì nàng là Nữ chiêu đãi viên của hãng Máy bay VN. Nhưng hắn thuộc về loại đàn ông tán gái chỉ mất ba bó hoa, về sau lấy lại cả vốn lẫn lời.
Khi hãng máy bay Dung làm đóng cửa, hắn hết sức dỗ dành Dung đừng làm nơi khác. Hắn nói nghề nữ chiêu đãi viên hàng không là một nghề rất nguy hiểm, phải thức khuya dậy sớm, nay đây mai đó, sống giang hồ lãng tử như thế không phải là cuộc sống thích hợp cho một bà mẹ hiền. Hắn hứa sẽ trả lương cho Dung gấp đôi, nếu Dung làm thơ ký cho hắn. Hắn nói:
- Tôi đã có vợ rồi, nên không thể chính thức cưới em được. Tôi chỉ là một ân nhân, một Người Quân tử, giúp em qua khỏi lúc khó khăn hoạn nạn. Em cần có một người đàn ông làm hậu thuẫn, để em dựa vào làm ăn, để tinh thần em có chỗ ký thác.
Con em cần phải có cha. Cha chúng nó đã lên chiến khu mất tăm mất tích em còn trông mong gì nữa! Người ta ai cũng cần phải có gia đình như con chim cần có tổ ấm. Em không thể sống mãi cuộc sống cô độc, trống trải tâm hồn, lại còn phải một mình vừa làm cha vừa làm mẹ, vừa làm thầy, vừa làm bạn cho con, phải một mình phấn đấu lo miếng cơm manh áo cho con như thế mãi được.
Hắn tán ngọt hơn mía lùi. Dung nghe như ăn phải bùa mê. Nàng tin tưởng trân trọng ký thác cả thể xác lẫn tâm hồn theo lời yêu cầu đầy hứa hẹn. Mỗi năm nàng đẻ cho hắn một đứa con. Những đứa bé này đều theo họ mẹ, và gọi hắn bằng bác.
Với mọi người, hắn chỉ nhận Dung là thư ký. Mà cũng đúng như thế thật. Dung phải viết thư đòi nợ cho hắn. Rồi còn phải giao thiệp với Luật sư, vì hắn rất thích kiện tụng, phải đi thu tiền nhà cho thuê là một việc rất khổ tâm, phải lo thu xếp tất cả giấy tờ công việc buôn bán của hắn. Nay chạy đến sở này, mai chầu chực bộ nọ, vì hắn làm việc đấu thầu xây cất nhà cửa nên có rất nhiều thủ tục pháp lý phải làm.
Hắn cho phép Dung toàn quyền làm phận sự của cô thư ký. Còn những việc "phi phận sự" thư ký như lau nhà, đi chợ, làm bếp, đẻ con, hắn cũng nhờ Dung “toàn quyền” luôn cho tiện việc sổ sách
Hắn rất hà tiện, nhất định không mướn người làm. Hắn lấy cớ là không tin ai hết, để bắt Dung tự làm lấy tất cả. Cái thời chiến tranh nửa nóng nửa lạnh, người hai vùng “bên ni bên tê” qua lại như đi chợ. Ai cũng có thể là Giao liên hay Mật vụ, không chơi với họ là an toàn nhất, khỏi lo bị đâm dao sau lưng bất thình lình. Hắn đưa cho Dung mỗi tháng ba nghìn, gọi là tiền lương thư ký. Và trong số ba nghìn đó, thời giá tương đương với 1 lượng vàng, cô thư ký phải nấu cơm cho ông chủ ăn nữa.
Số tiền ấy chỉ bằng một phần năm lương Dung đi làm trước kia. Nhưng biết làm sao được, khi từ một thư ký thường, người ta biến thành một cô thư ký "vạn năng".
Và người "quân tử" lại là hạng quân tử khôn, chứ không phải quân tử dại. “Quân tử nhất ngôn là quân tử dại, Quân tử nói đi nói lại là Quân tử khôn”. Hắn thuộc về loại quân tử khôn. Còn Dung xưa nay vẫn nổi tiếng khôn, nhưng lại là khôn nhà dại chợ.
Hắn sợ Dung tiếp xúc với bạn bè bà con, nhỡ người ta xui khôn xui dại, nên cấm nàng không được giao thiệp thăm viếng gặp gỡ ai cả. Hắn không cho Dung diện đẹp đi chơi phố, sở thích duy nhất của Dung, vì hắn biết Dung còn "xinh ơi là xinh", nhỡ gặp người "cao tay ấn" hơn hắn, thì hắn mất một món bở. Còn biết tìm đâu trên đời này một người đàn bà vừa tháo vác, giỏi giang, xinh đẹp lại vừa khờ dại một cách lý tưởng như Dung?
Trong thế giới làm vợ "chợ đen" ai cũng đòi được hưởng thụ vật chất tràn trề đầy đủ, để đền bù sự thiệt hại về tinh thần. Chỉ có một mình Dung đã làm cách mạng, trái với định luật ấy. Mãi đến khi Dung đẻ cho hắn đứa con trai thứ hai, hắn mới mua cho nàng một cái nhẫn hột cẩm thạch giả thật to.
Đó là món quà nữ trang đầu tiên, từ khi nàng về làm "thư ký vạn năng" cho hắn. Không đeo thì sợ hắn giận, đeo thì cũng khổ tâm lắm! Cuối cùng, Dung nghĩ được cách đeo nhưng quay mặt nhẫn vào trong. Nàng sợ người ta biết nhẫn giả, nên quay mặt nhẫn cố ý để mập mờ, cho mọi người tưởng mình có đồ thật nhưng khiêm nhượng, không muốn khoe khoang cho ai biết.
Dung được hắn nhồi sọ rất kỹ, hắn bắt nàng tâm niệm hắn là ân nhân của nàng, hắn là người quân tử đã cưu mang, cứu vớt nàng trong cảnh lửa đạn, hắn là người độc nhất mà Dung phải trung thành phục vụ suốt đời. Còn Dung đã bị tẫy não quá kỹ nên cũng tưởng thật.
Dung vẫn giữ vững lòng tin tuyệt đối ấy cho đến hôm nay hắn tình cờ chạm trán với Loan, một bạn gái cùng lớn lên với Dung từ thuở bé. "Bác” của mấy đứa nhỏ nói với Loan thao thao bất tuyệt như lên diễn đàn:
- Tôi là Người Quân tử. Tôi là ân nhân của Dung. Nếu không có tôi, Dung đã chết giữa cảnh tên bay đạn lạc. Tôi dạy cho Dung cách thức làm ăn. Tôi không muốn Dung có tánh ỷ lại, sống nhờ vào đàn ông, như những người đàn bà khác, lỡ khi chồng chết thì phải làm sao? Vì thế nên tôi không nuôi Dung, tôi tập cho Dung phải làm lấy mà sống, và sống "độc lập"!
Hắn nói xong, chừng cũng biết mình ngụy biện, sợ chỉ có riêng mình Dung đã mê man như ăn phải bùa mới nghe lọt tai, chứ còn ngoài ra chẳng ai tin những lời quỷ quái của hắn, nên vừa dứt câu, hắn sợ Loan trả lời, vội chân sau đá chân trước, chạy ra cửa như bị ma đuổi:
- Tôi xin lỗi, tôi phải đi đây có chút việc gấp.
Hắn đi rồi, Loan cáu lên với Dung:
- Hừ, Quân tử ! Hừ ! Ân nhân ! Đã quân tử, đã ân nhân, sao lại làm cho người ta có con ? Đồ không chịu trách nhiệm, thừa nước đục thả câu, còn dám mở miệng xưng là ân nhân, là quân tử!
Dung làm Luật sư biện hộ cho hắn:
- Nếu hôm ấy không có hắn giúp đỡ, thì tôi thực chết vì đạn lạc đấy Loan ạ.
Loan cười gằn:
- Nếu là em, thì thà chết phức đi còn hơn! Hắn chỉ nghĩ đến phần hắn, mà không nghĩ đến phần người ta. Hắn giúp chị, thì cũng không có gì lạ. Trong hoàn cảnh ấy, ai chả giúp nhau! Nhưng có phải giúp một tí rồi bắt người ta làm tôi mọi suốt đời để trả ơn không? Người quân tử mà như thế sao?
Dung ngẩn người ra:
- Bây giờ tôi mới biết, lạ quá! Thì ra, hắn đòi tôi trả ơn như thế đấy!
Loan nói giọng dằn vặt:
- Người đàn bà nào cũng cần phải có một người đàn ông riêng của mình, yêu mình và hoàn toàn thuộc về mình. Cần phải có một mái ấm gia đình thực sự. Hắn quân tử gì ? Ân nhân gì ? Hắn hại chị thì có. Hắn lấy chị, đẻ con ra, mà hắn khỏi nuôi. Chị không phải là vợ hắn, mà kẹt với hắn như thế này thì còn ai dám gặp chị để tìm hiểu xây dựng nữa, còn mong gì có một tương lai rạng rỡ cho các con.
Chị chỉ là nô lệ của hắn, chỉ làm bổn phận mà không có quyền lợi gì hết! Con đẻ ra mang họ mẹ! Đấy chị xem, hắn nhẫn tâm biết bao nhiêu! Chị sẽ phải nai lưng ra suốt đời làm tôi mọi nuôi con cho hắn, làm giàu cho hắn, trong khi hắn có tiền, đều lo chuyển về cho vợ lớn hết. Đến lúc hắn bỏ rơi chị, thì chị đã thành một bà già, đi ở đợ nuôi con! Hắn chỉ lợi dụng, ích kỷ thế mà dám xưng là Quân tử cho nhục nhã cái chữ quân tử đi.
Chẳng thà cứ vỗ ngực nói:
"Tao là một thằng đểu, đểu chính cống, đểu thượng hạng. Ai ngu thì mắc mưu ta! Nghe còn sảng khoái hơn."
Dung ngơ ngác như vừa bị mất cắp! Đúng là cuộc đời của Dung đã bị hủy hoại mà nàng như vẫn sống trong mơ. Kẻ đánh cắp, ngay giữa thanh thiên bạch nhật, còn cười vào mũi người bị mất cắp là ngu nữa!
Loan thấy Dung sững sờ, nói tiếp:
- Em còn nhớ câu chuyện "Áo người quân tử" của ba em kể:
"Ngày xưa, có một anh chàng nọ có một cái áo lạnh khoác ngoài rất đẹp, một hôm túng tiền, anh vào một tiệm cầm đồ hỏi cầm. Chủ tiệm bảo :
" Cái áo này, tôi cầm cho ông hai trăm. Ba tháng sau ông chuộc, phải trả thêm hai trăm tiền lời nữa, thành bốn trăm đồng". Anh chàng kia vì quá cần tiền nên dù biết là bị bắt chẹt tính giá cắt cổ cũng bằng lòng, Anh cởi áo giao cho chủ tiệm và đếm tiền xong định ra về.
Anh vừa ra đến cửa thì ông chủ tiệm gọi giật lại:
-"Này ông, tôi có ý kiến này hay lắm. Tôi thấy ông thật thà, tôi thương, tôi làm phúc làm đức, nói hơn thiệt cho ông nghe. Bây giờ trong túi ông không có lấy một đồng, đến nỗi phải đi cầm áo. Vậy ba tháng sau ông lấy đâu ra bốn trăm để chuộc áo về ? Nếu lúc ấy ông không trả đủ cả vốn lẫn lời cho tôi, để quá ba tháng nữa, thì sẽ phải trả gấp đôi, thành tám trăm đồng. Tôi hỏi thật, ông sẽ đào đâu ra số tiền ấy?"
Anh chàng kia gật đầu, cho là phải:
-“Vâng, ông nói đúng lắm. Ba tháng nữa, tôi cũng không làm sao xoay được bốn trăm đồng".
Chủ tiệm cười híp cả mắt lại:
"Tôi biết mà! Vì vậy, tôi mới khuyên ông, nếu ông chịu nghe tôi thì đỡ tốn đỡ khổ. Này nhé, bây giờ trong túi ông đã có hai trăm đồng rồi. Vậy ông trả trước cho tôi hai trăm đồng đi. Ba tháng sau, ông chỉ phải trả có hai trăm đồng nữa thôi, chứ không phải là bốn trăm đồng. Như thế có phải lợi biết bao nhiêu! Nếu ông không trả được, trễ đến ba tháng nữa cũng chỉ thành có bốn trăm đồng, chứ không phải là tám trăm đồng. Lợi đến một nửa, ông nghĩ thế nào?"
Anh chàng nghĩ đi nghĩ lại, thấy bài toán rất rõ ràng minh bạch mà quả thực cũng đúng lý vô cùng. Anh móc túi lấy hai trăm đồng ra trả cho chủ tiệm và ra về. Anh về nhà, thấy lạnh, chợt nhớ ra mình không có áo khoác nữa, trái lại còn có một món nợ quá lớn phải lo trả, lạ quá!"
Dung thét lên:
- Thôi, tôi biết rồi! Chính tôi mới là người quân tử! Tôi là cái anh chàng đem áo đi cầm. Khi chưa biết hắn, thì tôi độc thân, tôi trẻ, tôi đẹp, tôi tự do, tôi có khối bạn bè thương mến, tôi có việc làm để nuôi con tôi.
Còn bây giờ?
Bây giờ tôi không có gì cả. Tôi phải săn sóc hầu hạ hắn, nấu cơm cho hắn ăn, nuôi con cho hắn. Tôi vẫn phải làm việc công sở của hắn lấy đồng lương để sống, mà lại còn phải mang ơn hắn nữa. Tôi vẫn không chồng, không có tổ ấm gia đình. Hắn ở nhà hắn, tôi ở nhà tôi, thế mà tôi vẫn phải thuộc quyền hắn sử dụng.
Loan ngắt lời:
- Chị hiểu thế là đủ! Thôi em về nhé!
Loan về rồi, Dung gục đầu lên gối khóc nức nở. Nàng muốn liều lĩnh làm reo một phát cho bõ ghét, nhưng chợt nhớ đến những cái tát như trời giáng của hắn. Dung vội vàng dậy mặc áo đi chợ. Dung chỉ mong còn có đủ thì giờ nấu nướng xong đem đến nhà hắn cho đúng bữa cơm chiều.
Dung không có cách nào để kháng cự lại với hắn được. Dung đâm ra giận Loan. Phải, tại Loan tất cả! Trước khi gặp Loan, nàng thấy đời vẫn êm đẹp. Tuy nhà cửa Dung bề bộn bẩn thỉu thực, tuy con cái trông rách rưới bơ vơ thực, tuy những lời hắn nói đều lếu láo thực. Tuy Dung phải làm việc quần quật suốt ngày, tuy hắn hay gây gỗ mắng chửi Dung thực, nhưng nàng đã coi như một sự dĩ nhiên.
Ngày trước, hắn khuyên Dung lấy hắn để cho con nàng sung sướng, ngày nay chúng nó giống như con mồ côi cả cha lẫn mẹ, Dung cũng không hề phàn nàn, băn khoăn, thắc mắc, nghĩ ngợi, tìm hiểu ai hơn ai thiệt. Tất cả mọi sự đều thành ra dĩ nhiên cả rồi.
Dung chỉ biết cố nấu cơm ngon cho hắn ăn. Lo đi đòi được tiền nhà và tiền nợ cho hắn vui. Mỗi ngày làm tròn phận sự và "phi phận sự" xong, tối về ngủ với con, Dung không hề thấy khổ hay nghĩ đến đau khổ. Nhưng không ngờ, hôm nay những câu nói của Loan làm đảo lộn cả tâm hồn nàng.
Không lẽ lại chửi người đàn ông đã từng âu yếm mình. Dung nghĩ được cách giải quyết an toàn là trút hết cả tội lỗi lên đầu Loan. Nàng nghiến răng lẩm bẩm:
- Đồ ranh con ! Mày thì đã hơn ai! Con mày cũng phải tự nuôi lấy, còn nhiếc tao! Chỉ được cái tài nói dóc, chửi người ta là giỏi, chính mình thì cũng ngu như con bò!
Dung thấy thỏa mãn như đã trả được thù. Nàng nghĩ đến lúc hắn khen món Tôm Càng luộc ăn vói xà lách trộn dầu dấm đặc biệt của nàng pha chế.
- Chao ơi! ngon quá là ngon!
Hắn sẽ sung sướng cười tít lên, rung rinh cả cái thân hình đồ sộ và cái bộ mặt "Đồng tháp mười", bộ mặt bí hiểm thâm trầm, dữ tợn và cũng "phì nhiêu" ấy!
Bỗng nhiên Dung cảm thấy buồn nôn. Đã có kinh nghiệm Dung biết chắc không phải dạ dày phản ứng vì nghĩ đến hắn, nhưng chắc lại có một người "quân tử bé con" nữa sắp ra đời !
Linh Bảo
Dung băn khoăn suy nghĩ, lăn lộn trên giường đã hơn một tiếng đồng hồ. Đáng lẽ nàng phải đi chợ mua đồ ăn nấu cơm chiều, nhưng hôm nay có cớ để cho nàng giận dữ, nên định đâm liều một bữa xem sao.
Dung còn nhớ rõ, dù đã nhiều năm về trước, mà hình ảnh, cảm xúc vẫn còn sống động như vừa mới xảy ra. Hôm ấy nàng đang chạy dưới làn mưa đạn thì gặp hắn. Hắn mời nàng đến nhà tạm trú trong khu vực an toàn. Vợ hắn về quê mẹ bên Pháp chưa trở lại, nên hắn rất tự do. Luôn mấy ngày, hai người bị kẹt trong cái tổ ấm đó.
Thế là hắn thành ra “chính phủ bảo hộ" của Dung. Kể ra, lúc đầu suốt mấy tháng trời hắn cũng mất một ít công phu. Nào là hái hoa tặng nàng, nào là thức dậy từ ba giờ sáng pha cà phê cho nàng uống để sửa soạn đi bay vì nàng là Nữ chiêu đãi viên của hãng Máy bay VN. Nhưng hắn thuộc về loại đàn ông tán gái chỉ mất ba bó hoa, về sau lấy lại cả vốn lẫn lời.
Khi hãng máy bay Dung làm đóng cửa, hắn hết sức dỗ dành Dung đừng làm nơi khác. Hắn nói nghề nữ chiêu đãi viên hàng không là một nghề rất nguy hiểm, phải thức khuya dậy sớm, nay đây mai đó, sống giang hồ lãng tử như thế không phải là cuộc sống thích hợp cho một bà mẹ hiền. Hắn hứa sẽ trả lương cho Dung gấp đôi, nếu Dung làm thơ ký cho hắn. Hắn nói:
- Tôi đã có vợ rồi, nên không thể chính thức cưới em được. Tôi chỉ là một ân nhân, một Người Quân tử, giúp em qua khỏi lúc khó khăn hoạn nạn. Em cần có một người đàn ông làm hậu thuẫn, để em dựa vào làm ăn, để tinh thần em có chỗ ký thác.
Con em cần phải có cha. Cha chúng nó đã lên chiến khu mất tăm mất tích em còn trông mong gì nữa! Người ta ai cũng cần phải có gia đình như con chim cần có tổ ấm. Em không thể sống mãi cuộc sống cô độc, trống trải tâm hồn, lại còn phải một mình vừa làm cha vừa làm mẹ, vừa làm thầy, vừa làm bạn cho con, phải một mình phấn đấu lo miếng cơm manh áo cho con như thế mãi được.
Hắn tán ngọt hơn mía lùi. Dung nghe như ăn phải bùa mê. Nàng tin tưởng trân trọng ký thác cả thể xác lẫn tâm hồn theo lời yêu cầu đầy hứa hẹn. Mỗi năm nàng đẻ cho hắn một đứa con. Những đứa bé này đều theo họ mẹ, và gọi hắn bằng bác.
Với mọi người, hắn chỉ nhận Dung là thư ký. Mà cũng đúng như thế thật. Dung phải viết thư đòi nợ cho hắn. Rồi còn phải giao thiệp với Luật sư, vì hắn rất thích kiện tụng, phải đi thu tiền nhà cho thuê là một việc rất khổ tâm, phải lo thu xếp tất cả giấy tờ công việc buôn bán của hắn. Nay chạy đến sở này, mai chầu chực bộ nọ, vì hắn làm việc đấu thầu xây cất nhà cửa nên có rất nhiều thủ tục pháp lý phải làm.
Hắn cho phép Dung toàn quyền làm phận sự của cô thư ký. Còn những việc "phi phận sự" thư ký như lau nhà, đi chợ, làm bếp, đẻ con, hắn cũng nhờ Dung “toàn quyền” luôn cho tiện việc sổ sách
Hắn rất hà tiện, nhất định không mướn người làm. Hắn lấy cớ là không tin ai hết, để bắt Dung tự làm lấy tất cả. Cái thời chiến tranh nửa nóng nửa lạnh, người hai vùng “bên ni bên tê” qua lại như đi chợ. Ai cũng có thể là Giao liên hay Mật vụ, không chơi với họ là an toàn nhất, khỏi lo bị đâm dao sau lưng bất thình lình. Hắn đưa cho Dung mỗi tháng ba nghìn, gọi là tiền lương thư ký. Và trong số ba nghìn đó, thời giá tương đương với 1 lượng vàng, cô thư ký phải nấu cơm cho ông chủ ăn nữa.
Số tiền ấy chỉ bằng một phần năm lương Dung đi làm trước kia. Nhưng biết làm sao được, khi từ một thư ký thường, người ta biến thành một cô thư ký "vạn năng".
Và người "quân tử" lại là hạng quân tử khôn, chứ không phải quân tử dại. “Quân tử nhất ngôn là quân tử dại, Quân tử nói đi nói lại là Quân tử khôn”. Hắn thuộc về loại quân tử khôn. Còn Dung xưa nay vẫn nổi tiếng khôn, nhưng lại là khôn nhà dại chợ.
Hắn sợ Dung tiếp xúc với bạn bè bà con, nhỡ người ta xui khôn xui dại, nên cấm nàng không được giao thiệp thăm viếng gặp gỡ ai cả. Hắn không cho Dung diện đẹp đi chơi phố, sở thích duy nhất của Dung, vì hắn biết Dung còn "xinh ơi là xinh", nhỡ gặp người "cao tay ấn" hơn hắn, thì hắn mất một món bở. Còn biết tìm đâu trên đời này một người đàn bà vừa tháo vác, giỏi giang, xinh đẹp lại vừa khờ dại một cách lý tưởng như Dung?
Trong thế giới làm vợ "chợ đen" ai cũng đòi được hưởng thụ vật chất tràn trề đầy đủ, để đền bù sự thiệt hại về tinh thần. Chỉ có một mình Dung đã làm cách mạng, trái với định luật ấy. Mãi đến khi Dung đẻ cho hắn đứa con trai thứ hai, hắn mới mua cho nàng một cái nhẫn hột cẩm thạch giả thật to.
Đó là món quà nữ trang đầu tiên, từ khi nàng về làm "thư ký vạn năng" cho hắn. Không đeo thì sợ hắn giận, đeo thì cũng khổ tâm lắm! Cuối cùng, Dung nghĩ được cách đeo nhưng quay mặt nhẫn vào trong. Nàng sợ người ta biết nhẫn giả, nên quay mặt nhẫn cố ý để mập mờ, cho mọi người tưởng mình có đồ thật nhưng khiêm nhượng, không muốn khoe khoang cho ai biết.
Dung được hắn nhồi sọ rất kỹ, hắn bắt nàng tâm niệm hắn là ân nhân của nàng, hắn là người quân tử đã cưu mang, cứu vớt nàng trong cảnh lửa đạn, hắn là người độc nhất mà Dung phải trung thành phục vụ suốt đời. Còn Dung đã bị tẫy não quá kỹ nên cũng tưởng thật.
Dung vẫn giữ vững lòng tin tuyệt đối ấy cho đến hôm nay hắn tình cờ chạm trán với Loan, một bạn gái cùng lớn lên với Dung từ thuở bé. "Bác” của mấy đứa nhỏ nói với Loan thao thao bất tuyệt như lên diễn đàn:
- Tôi là Người Quân tử. Tôi là ân nhân của Dung. Nếu không có tôi, Dung đã chết giữa cảnh tên bay đạn lạc. Tôi dạy cho Dung cách thức làm ăn. Tôi không muốn Dung có tánh ỷ lại, sống nhờ vào đàn ông, như những người đàn bà khác, lỡ khi chồng chết thì phải làm sao? Vì thế nên tôi không nuôi Dung, tôi tập cho Dung phải làm lấy mà sống, và sống "độc lập"!
Hắn nói xong, chừng cũng biết mình ngụy biện, sợ chỉ có riêng mình Dung đã mê man như ăn phải bùa mới nghe lọt tai, chứ còn ngoài ra chẳng ai tin những lời quỷ quái của hắn, nên vừa dứt câu, hắn sợ Loan trả lời, vội chân sau đá chân trước, chạy ra cửa như bị ma đuổi:
- Tôi xin lỗi, tôi phải đi đây có chút việc gấp.
Hắn đi rồi, Loan cáu lên với Dung:
- Hừ, Quân tử ! Hừ ! Ân nhân ! Đã quân tử, đã ân nhân, sao lại làm cho người ta có con ? Đồ không chịu trách nhiệm, thừa nước đục thả câu, còn dám mở miệng xưng là ân nhân, là quân tử!
Dung làm Luật sư biện hộ cho hắn:
- Nếu hôm ấy không có hắn giúp đỡ, thì tôi thực chết vì đạn lạc đấy Loan ạ.
Loan cười gằn:
- Nếu là em, thì thà chết phức đi còn hơn! Hắn chỉ nghĩ đến phần hắn, mà không nghĩ đến phần người ta. Hắn giúp chị, thì cũng không có gì lạ. Trong hoàn cảnh ấy, ai chả giúp nhau! Nhưng có phải giúp một tí rồi bắt người ta làm tôi mọi suốt đời để trả ơn không? Người quân tử mà như thế sao?
Dung ngẩn người ra:
- Bây giờ tôi mới biết, lạ quá! Thì ra, hắn đòi tôi trả ơn như thế đấy!
Loan nói giọng dằn vặt:
- Người đàn bà nào cũng cần phải có một người đàn ông riêng của mình, yêu mình và hoàn toàn thuộc về mình. Cần phải có một mái ấm gia đình thực sự. Hắn quân tử gì ? Ân nhân gì ? Hắn hại chị thì có. Hắn lấy chị, đẻ con ra, mà hắn khỏi nuôi. Chị không phải là vợ hắn, mà kẹt với hắn như thế này thì còn ai dám gặp chị để tìm hiểu xây dựng nữa, còn mong gì có một tương lai rạng rỡ cho các con.
Chị chỉ là nô lệ của hắn, chỉ làm bổn phận mà không có quyền lợi gì hết! Con đẻ ra mang họ mẹ! Đấy chị xem, hắn nhẫn tâm biết bao nhiêu! Chị sẽ phải nai lưng ra suốt đời làm tôi mọi nuôi con cho hắn, làm giàu cho hắn, trong khi hắn có tiền, đều lo chuyển về cho vợ lớn hết. Đến lúc hắn bỏ rơi chị, thì chị đã thành một bà già, đi ở đợ nuôi con! Hắn chỉ lợi dụng, ích kỷ thế mà dám xưng là Quân tử cho nhục nhã cái chữ quân tử đi.
Chẳng thà cứ vỗ ngực nói:
"Tao là một thằng đểu, đểu chính cống, đểu thượng hạng. Ai ngu thì mắc mưu ta! Nghe còn sảng khoái hơn."
Dung ngơ ngác như vừa bị mất cắp! Đúng là cuộc đời của Dung đã bị hủy hoại mà nàng như vẫn sống trong mơ. Kẻ đánh cắp, ngay giữa thanh thiên bạch nhật, còn cười vào mũi người bị mất cắp là ngu nữa!
Loan thấy Dung sững sờ, nói tiếp:
- Em còn nhớ câu chuyện "Áo người quân tử" của ba em kể:
"Ngày xưa, có một anh chàng nọ có một cái áo lạnh khoác ngoài rất đẹp, một hôm túng tiền, anh vào một tiệm cầm đồ hỏi cầm. Chủ tiệm bảo :
" Cái áo này, tôi cầm cho ông hai trăm. Ba tháng sau ông chuộc, phải trả thêm hai trăm tiền lời nữa, thành bốn trăm đồng". Anh chàng kia vì quá cần tiền nên dù biết là bị bắt chẹt tính giá cắt cổ cũng bằng lòng, Anh cởi áo giao cho chủ tiệm và đếm tiền xong định ra về.
Anh vừa ra đến cửa thì ông chủ tiệm gọi giật lại:
-"Này ông, tôi có ý kiến này hay lắm. Tôi thấy ông thật thà, tôi thương, tôi làm phúc làm đức, nói hơn thiệt cho ông nghe. Bây giờ trong túi ông không có lấy một đồng, đến nỗi phải đi cầm áo. Vậy ba tháng sau ông lấy đâu ra bốn trăm để chuộc áo về ? Nếu lúc ấy ông không trả đủ cả vốn lẫn lời cho tôi, để quá ba tháng nữa, thì sẽ phải trả gấp đôi, thành tám trăm đồng. Tôi hỏi thật, ông sẽ đào đâu ra số tiền ấy?"
Anh chàng kia gật đầu, cho là phải:
-“Vâng, ông nói đúng lắm. Ba tháng nữa, tôi cũng không làm sao xoay được bốn trăm đồng".
Chủ tiệm cười híp cả mắt lại:
"Tôi biết mà! Vì vậy, tôi mới khuyên ông, nếu ông chịu nghe tôi thì đỡ tốn đỡ khổ. Này nhé, bây giờ trong túi ông đã có hai trăm đồng rồi. Vậy ông trả trước cho tôi hai trăm đồng đi. Ba tháng sau, ông chỉ phải trả có hai trăm đồng nữa thôi, chứ không phải là bốn trăm đồng. Như thế có phải lợi biết bao nhiêu! Nếu ông không trả được, trễ đến ba tháng nữa cũng chỉ thành có bốn trăm đồng, chứ không phải là tám trăm đồng. Lợi đến một nửa, ông nghĩ thế nào?"
Anh chàng nghĩ đi nghĩ lại, thấy bài toán rất rõ ràng minh bạch mà quả thực cũng đúng lý vô cùng. Anh móc túi lấy hai trăm đồng ra trả cho chủ tiệm và ra về. Anh về nhà, thấy lạnh, chợt nhớ ra mình không có áo khoác nữa, trái lại còn có một món nợ quá lớn phải lo trả, lạ quá!"
Dung thét lên:
- Thôi, tôi biết rồi! Chính tôi mới là người quân tử! Tôi là cái anh chàng đem áo đi cầm. Khi chưa biết hắn, thì tôi độc thân, tôi trẻ, tôi đẹp, tôi tự do, tôi có khối bạn bè thương mến, tôi có việc làm để nuôi con tôi.
Còn bây giờ?
Bây giờ tôi không có gì cả. Tôi phải săn sóc hầu hạ hắn, nấu cơm cho hắn ăn, nuôi con cho hắn. Tôi vẫn phải làm việc công sở của hắn lấy đồng lương để sống, mà lại còn phải mang ơn hắn nữa. Tôi vẫn không chồng, không có tổ ấm gia đình. Hắn ở nhà hắn, tôi ở nhà tôi, thế mà tôi vẫn phải thuộc quyền hắn sử dụng.
Loan ngắt lời:
- Chị hiểu thế là đủ! Thôi em về nhé!
Loan về rồi, Dung gục đầu lên gối khóc nức nở. Nàng muốn liều lĩnh làm reo một phát cho bõ ghét, nhưng chợt nhớ đến những cái tát như trời giáng của hắn. Dung vội vàng dậy mặc áo đi chợ. Dung chỉ mong còn có đủ thì giờ nấu nướng xong đem đến nhà hắn cho đúng bữa cơm chiều.
Dung không có cách nào để kháng cự lại với hắn được. Dung đâm ra giận Loan. Phải, tại Loan tất cả! Trước khi gặp Loan, nàng thấy đời vẫn êm đẹp. Tuy nhà cửa Dung bề bộn bẩn thỉu thực, tuy con cái trông rách rưới bơ vơ thực, tuy những lời hắn nói đều lếu láo thực. Tuy Dung phải làm việc quần quật suốt ngày, tuy hắn hay gây gỗ mắng chửi Dung thực, nhưng nàng đã coi như một sự dĩ nhiên.
Ngày trước, hắn khuyên Dung lấy hắn để cho con nàng sung sướng, ngày nay chúng nó giống như con mồ côi cả cha lẫn mẹ, Dung cũng không hề phàn nàn, băn khoăn, thắc mắc, nghĩ ngợi, tìm hiểu ai hơn ai thiệt. Tất cả mọi sự đều thành ra dĩ nhiên cả rồi.
Dung chỉ biết cố nấu cơm ngon cho hắn ăn. Lo đi đòi được tiền nhà và tiền nợ cho hắn vui. Mỗi ngày làm tròn phận sự và "phi phận sự" xong, tối về ngủ với con, Dung không hề thấy khổ hay nghĩ đến đau khổ. Nhưng không ngờ, hôm nay những câu nói của Loan làm đảo lộn cả tâm hồn nàng.
Không lẽ lại chửi người đàn ông đã từng âu yếm mình. Dung nghĩ được cách giải quyết an toàn là trút hết cả tội lỗi lên đầu Loan. Nàng nghiến răng lẩm bẩm:
- Đồ ranh con ! Mày thì đã hơn ai! Con mày cũng phải tự nuôi lấy, còn nhiếc tao! Chỉ được cái tài nói dóc, chửi người ta là giỏi, chính mình thì cũng ngu như con bò!
Dung thấy thỏa mãn như đã trả được thù. Nàng nghĩ đến lúc hắn khen món Tôm Càng luộc ăn vói xà lách trộn dầu dấm đặc biệt của nàng pha chế.
- Chao ơi! ngon quá là ngon!
Hắn sẽ sung sướng cười tít lên, rung rinh cả cái thân hình đồ sộ và cái bộ mặt "Đồng tháp mười", bộ mặt bí hiểm thâm trầm, dữ tợn và cũng "phì nhiêu" ấy!
Bỗng nhiên Dung cảm thấy buồn nôn. Đã có kinh nghiệm Dung biết chắc không phải dạ dày phản ứng vì nghĩ đến hắn, nhưng chắc lại có một người "quân tử bé con" nữa sắp ra đời !
Linh Bảo
(từ tập
truyện Mây Tần)
(*)
Truyện ngắn "Người Quân Tử" năm
1961 đã được ông Nghiêm Xuân Việt tuyển
chọn đem đi dự thi truyện ngắn hay nhất
thế giới. Bản dự do ông Thùy Dzung dịch.
Kết quả, "Người Quân Tử" cùng với
truyện “Áo mới” của Linh Bảo được
chọn vào chung kết 26 truyện ngắn hay nhất
thế giới trong số 256 truyện dự thi, do Trung Tâm
Văn Bút Quốc Tế ở Luân Đôn chấm giải.
DUYÊN ANH * CON SÁO CỦA EM TÔI
CON SÁO CỦA EM TÔI
Duyên Anh
Sau khi cha tôi mất, gia đình càng ngày càng túng bấn, một mình mẹ tôi không đủ sức nuôi nấng hai đứa con mồ côi nơi thành thị nên mẹ đưa hai anh em tôi trở về làng cũ . Bên nội xóa bỏ tên cha tôi trong gia phả vì cha tôi xé tờ khai sinh mà ông tôi cố tình điền tên tuổi người vợ cả vào chỗ tên tuổi mẹ tôi . Ông tôi muốn gạt mẹ khỏi cuộc đời cha tôi bấy giờ và cuộc đời tôi mai hậu. Việc ấy rất giản dị như ông đã xóa bỏ tên chú Nghị vì chú mê cô đào cải lương gia nhập ban hát, lang thang rày đây mai đó. Bên ngoại từ bỏ mẹ tôi ngay từ dạo mẹ có mang ba tháng vì mẹ trốn nhà, vượt luật lệ cổ truyền, theo cha tôi làm vợ lẽ. Thành thử lớn lên anh em tôi mù mịt cả ý niệm gia tộc. Mẹ tôi thường kể rằng trước khi lấy mẹ tôi, cha tôi đã có vợ . Người vợ ấy cha tôi không yêu thương, nên bốn năm liền bà tôi cứ hoài công mong bế cháu. Ông tôi buồn phiền, thở dài thườn thượt, ông nghĩ đến nghiệp chướng xa xôi nào, lúc này sự quả báo hiện hình khiến dù con gái. Thật vô phúc. Cha tôi đi vắng luôn luôn, cha năng ở nhà ông phó Nhị hầu hạ ông để hòng ông truyền hết ngón đàn thập lục.
Cha tôi phải giặt quần áo, đấm bóp chân tay hay kiếm rượu, đồ nhắm cho ông Phó, phục dịch ông đủ điều. Rốt cuộc ông Phó vẫn giữ lại đôi ngón sở trường, ông sợ dạy hết, mai mốt cha tôi giỏi hơn ông. Bởi vậy, tài nghệ của cha tôi chưa nổi bật, và chưa đủ thời giờ nghiên cứu âm nhạc quê hương thì cha tôi đã gặp mẹ tôi. Cuộc tình duyên này làm đảo lộn đời cha và ảnh hưởng rất nhiều đến anh em tôi sau này
Ông nội tôi biết chuyện tức sôi ruột, chửi bới cả gia đình nhà mẹ tôi. Tiếng dữ đồn tới xóm làng bên kia sông. Ông ngoại tôi đuổi mẹ tôi khỏi cửa. Bấy giờ mẹ tôi có mang tôi được ba tháng. Cha tôi lén lút gởi mẹ tôi nương náu nhờ người bà con xóm cuối thôn. Bà nội tôi thương con cả, lại nghe tin mẹ tôi có chửa nên bớt giận. Bà nội xin ông nội nhận mẹ tôi làm vợ lẽ cha tôi. Cuộc hôn nhân không giá thú. Việc tưởng vậy êm thắm. Ai ngờ ông ngoại tôi lồng lộn tìm bắt mẹ tôi, đánh đập mẹ tôi một trận tàn nhẫn. Tệ hơn nữa, ông ngoại tôi lại gọt hết tóc, bôi vôi trắng xóa đầu mẹ tôi rồi mới đoạn tình phụ tử. Mẹ tôi phải trùm khăn vuông kín mít ngót hai năm trời.
Mẹ về sống dưới gian nhà mái dột, vách bùn trát nham nhở bên cạnh chuồng trâu của đại gia đình họ Nguyễn nhà tôi. Suốt thời gian đèo bòng cái hình hài tôi, cái bọc đau khổ, mẹ tôi chịu đựng bao nhiêu điều tủi nhục. Hết người vợ cả hẹp hòi, ích kỷ của cha tôi hằn học ghen tuông, lại đến các cô tôi kiếm cớ sinh sự. Vợ cả cha tôi bảo mẹ tôi độn vải đầy bụng để đánh lừa ông tôi. Ông tôi nhiều bận chỉ mặt mẹ tôi dọa nạt rằng nếu đúng tháng mà không sinh nở thì sẽ tống cổ mẹ tôi đi. Chú Nghiêm thỉnh thoảng về thăm nhà cũng hạch sách mẹ tôi. Ông tôi quý chú Nghiêm lắm. Trong khi cha tôi mải đàn sáo, chú Nghị giang hồ phiêu bạt, chú khéo léo chiều ông tôi. Bởi thế chú Nghiêm được xuống tỉnh học, đỗ đạt giỏi giang. Chú khinh bỉ mẹ tôi, sự khinh bỉ chú học mót của đám dân trưởng giả thành phố. Mẹ tôi đau khổ trăm chiều, ngày làm quần quật như con vật, tối ôm bụng khóc một mình. Tội nghiệp mẹ tôi, tôi chả biết ví mẹ giống ai. Ðầy tớ nhà ông tôi còn sung sướng còn nói đùa nghịch, chứ mẹ tôi thì câm nín suốt ngày đêm. Cha tôi hy vọng mẹ tôi sinh con trai và đứa đầu lòng sẽ là nhịp cầu bắc qua những tâm hồn người bên nội với tâm hồn mẹ tôi. Chắc chắn mẹ tôi hết tủi cực.
Ðến ngày mẹ tôi trở dạ, ông tôi cất vội vàng túp lều nhỏ ở xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu. Tôi cất tiếng khóc ban đầu nơi ấy, ở túp lều xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu, cạnh những con người hà tiện tình thương mến. Vì đêm tôi mở mắt chào đời, cha tôi đi vắng nên cớ sự xảy ra như tôi đa nói đoạn đầu. Tuần lễ sau cha tôi về, cha nghiến răng xé nát tờ khai sinh rồi đưa mẹ con tôi xuống tỉnh ly. Tôi vĩnh biệt họ hàng bên nội bằng mấy tiếng "oe oe". Tôi lớn dần, lớn dần để thu vào tầm mắt non nớt hình ảnh cuộc đời cha tôi : hình ảnh gã nhạc công hậu trường sân khấu cải lương, hình ảnh ông lái thuốc bắc, hình ảnh ông thư ký sở tư, hình ảnh ông thợ chữa xe đạp và sau rốt là hình ảnh ông lang chế thuốc cao đơn hoàn tán. Mãi tới ngày cha tôi mất, tôi mới thù hằn những hình ảnh méo mó đọa đầy linh hồn cha tôi. Sao đời cha tôi nhiều hình ảnh thế? Và đời tôi nữa, hình ảnh thẫm nét nhất là một đêm mù mịt bên khóm chuối tiêu. Thế mà anh em tôi lại phải về quê ngoại. Tôi không hiểu tại sao mẹ tôi chịu nhục nhã, nương náu dưới túp nhà lá bỏ hoang vườn sau, trước đây ông bà ngoại dành riêng cho bọn thợ gặt mỗi vụ mùa. Mẹ tôi chỉ nghĩ đến anh em tôi. Trời ơi, tôi muốn khóc quá.
Ở đây, chúng tôi sống lủi thủi cô độc. Mẹ tôi dọn quán bán nước chè tươi, xôi chè, canh bún ngoài bến đò Ðồng - đức, bòn nhặt từng hào chỉ. Thường mẹ dậy sớm sửa soạn đồ hàng, cơm nước buổi sáng để anh em tôi ăn. Mẹ nắm thêm hai nắm nhỏ phòng trưa đói còn lót dạ tạm. Chập tối mẹ lần mò về nhóm bếp thổi cơm. Bữa nào hàng ế ẩm, mẹ con tôi ăn canh bún, ăn xôi chè thay cơm. Mẹ tôi luôn luôn vui vẻ dù thỉnh thoảng cậu mợ, dì bác tôi mỉa mai đủ điều. Họ nói những lời mà bây giờ tôi hãy còn nhớ. Tôi không thể tưởng tượng nỗi tê tái nghiến nát cõi lòng mẹ khi bà ngoại gọi mà là "đồ đĩ", bác tôi bảo mẹ là "con lăng loàn" và mợ tôi nói bâng quơ "cóc chết ba năm quay đầu về núi". Tôi thấy mẹ tôi cúi đầu lẳng lặng, nước mắt nhỏ giọt trên mái tóc em tôi, thì tôi đoán rằng mẹ buồn. Hồi ấy, tuy tôi bó bỏng nhưng tôi đã biết xét đoán những con mắt soi mói, những lời tiếng bấc chì, những bộ mặt ích kỷ của mọi người họ hàng bên ngoại. Tôi thương mẹ. Tôi thương em gái tôi hơn, chưa được hưởng sung sướng thì cha vội lìa đời. Tôi hằng mơ ước một mai khôn lớn, tôi sẽ kiếm tiền nuôi mẹ, sẽ tậu nhà ở tỉnh, mẹ tôi thôi bán hàng, em tôi cắp sách đi học. Nghĩ vậy tôi thèm đọc sách lắm. Khốn nỗi mẹ tôi nghèo cực, lấy tiền đâu mà mua. Tôi đành học ôn mớ sách cũ nát và dạy em tôi từng trang, từng đoạn dè sẻn, sợ hết chữ.
Ðám con cái cậu mợ tôi vào hùa cha mẹ chúng bắt nạt anh em tôi. Hễ em tôi hở ra món đồ chơi nào là chúng nó tìm cách ăn cắp. Tôi đòi, chúng xúm nhau đánh đập tôi sưng tím cả mặt mày. Em tôi khóc, mẹ tôi thở dài đau đớn. Dần dần cuộc sống quen nếp. Anh em tôi biết thân phận, bắt chước mẹ tôi, tập nhịn nhục, tập nghiến răng và hy vọng. Anh em tôi đùa nghịch với nhau, chẳng dám lai vãng đến thềm nhà ông bà ngoại.
Tôi hay bắt dế, bắt chuồn chuồn, bắt công cống cho em tôi chơi. Bạn bè của chúng tôi có chừng chỉ có con chim chích chòe sáng nào cũng đậu trên cành soan ca hát líu lo rồi tung cánh bay xa tìm mồi. Em tôi thích chim. Tôi vụng về, không trèo cao được. Tôi hẹn sẽ bắt tặng em tôi một con sáo khi mùa xuân sang.
Mùa xuân, hoa soan vườn nhà nở nhiều, mầu tím dịu mắt. Mẹ tôi nói hoa soan nở chỉ tổ đuổi muỗi mệt xác. Cùng lượt hoa soan khoe sắc, sáo trên rừng đổ xô xuống đồng bằng hàng đám, cơ man. Em tôi nhìn những con sao đen, lông muôn muốt, viền mắt vàng vàng, ra chiều thèm ước. Tôi theo bọn trẻ con bến đò, lấy rổ rách, vất cạp rồi buộc lại tựa hình cái đó đơm tép. Xong, tôi bó manh chiếu bên ngoài bịt chặt một đầu, còn đầu kia để ngỏ cho sáo ra vào. Tôi buộc tổ sáo trên cành sung thấp nhất. Hai hôm sau vợ chồng nhà sáo bắt đầu tha rác về tổ của anh em tôi. Chúng tôi hoan hỉ đợi chờ. Em tôi chưa chi đã vọi lo cái lồng nhốt con sáo. Tôi bảo em tôi phải mong ba tháng. Em tôi sốt ruột. Ngày nào cũng hỏi thăm sáo. Mẹ mắng em, em dỗi bỏ cơm. Tôi dỗ dành em mới chịu ăn.
Ít lâu sau tôi trèo lên thăm tổ. Tôi thò tay tận phía trong và biết sáo đẻ bốn trứng. Tôi lôi ra xem. Trứng sáo to bằng ngón tay cái của tôi, màu xanh xanh vân vân đẹp quá. Tôi kể chuyện em nghe. Em nhẩy reo ầm ỹ. Mẹ tôi dọa rằng :
- Rắn ưa tìm tổ chim ăn trứng. Con liệu hồn, nó cắn thì chết.
Tôi phát run, thề sẽ chừa thói liều lĩnh nguy hiểm. Nhưng em tôi muối coi trứng sáo, em cứ nằn nì đem xuống một trứng. Tôi đành mạo hiểm lần nữa. Lúc tôi đang lúi húi trước cửa sổ thì vợ chồng đôi sáo bay về. Chúng nó lượn trên đầu tôi, kêu inh ỏi. Tôi bỏ trứng vào túi áo, tụt xuống, sướt cả tay, máu chảy đầm đìa. Em tôi thỏa mãn sự tò mò, em trông tôi, thương hại. Tôi an ủi em và trả lại trứng cho sáo. Tối hôm ấy mẹ tôi đánh tôi hai roi tội không vâng lời. Mẹ nói :
- Còn trèo nữa, sáo sẽ bỏ tổ.
Anh em tôi lo ngại ngủ chẳng ngon giấc. Ngày tháng mùa xuân trôi vùn vụt. Một buổi sáng anh em tôi nghe rõ tiếng sáo con kêu trong tổ, em tôi hỏi :
- Anh ơi! Sáo con có bú mẹ không?
Tôi vuốt tóc em dịu dàng trả lời :
- Em bú mẹ chứ sáo nào bú mẹ
Em ngây thơ :
- Thế làm sao nó lớn được?
- À sáo mẹ mớm mồi.
- Sáo bố làm gì hở anh?
- Sáo bố đứng canh. Em nhìn thì biết. Kia kìa, trên cành cây gần tổ. Khi sáo mẹ mớm mồi cho các con, cũng như khi ấp trứng, sáo bố bao giờ cũng lởn vởn ngoài tổ em ạ!
Tôi giảng nghĩa thế vì tôi nghe lỏm bọn trẻ con ngoài bến đò. Em tôi ngạc nhiên, ngây người đứng ngắm. Lát lâu em mỉm cười nũng nịu :
- Sáo con ngủ, sáo mẹ có ru không anh?
- Chắc có.
- Anh biết à?
- Thì anh đoán, chim cũng như người vậy em ạ!
- Mẹ ru em bằng bài "Con cò mà đi ăn đêm", sáo ru con bằng bài gì hở anh?
- Anh chịu, chả biết được.
- Giá sáo là người để em hỏi nó chắc thích lắm anh nhỉ?
- Ừ.
Ðám con cái ngỗ nghịch của cậu mợ tôi đã thấy chỗ tôi buộc tổ sáo. Tôi tức' sôi ruột, tức muốn đốt nhà chúng nó. Chúng nó rình mò làm tôi không thể ra bến đò trông hàng giùm mẹ tôi những lúc đông khách. Anh em tôi thay phiên nhau canh gác. Mẹ tôi khuyên tôi nên chia sáo cho chúng nó. Tôi miễn cưỡng phải rỡ tổ đáng lẽ chờ vài hôm nữa sáo con già dặn hơn. Hôm tôi bắt sáo con, vợ chồng sáo bay lượn kêu thảm não. Sáo mẹ sà xuống sát đâu tôi như thể nó sắp mổ mắt tôi. Chẳng trách cha tôi xé tờ khai sinh, mẹ tôi chịu vất vả, khổ sở. Mẹ tôi mua giỏ bắt cua để tôi nhốt sáo. Cậu mợ tôi chọn lựa ba con đẹp, lớn ; phần tôi là con sáo đẹt, bé nhỏ, xấu xí nhất đàn. Tôi buồn, khóc mấy đêm ròng. Làm sao tôi nhớ hết mọi chi tiết vụn vặt cái hôm ông cậu bà mợ tôi chia sáo? Cậu tôi bóp con sáo xấu số của tôi khiến cho nó há mỏ ra. Em tôi run rây chỉ sợ nó chết? Mợ tôi bảo :
- Bọn mày nuôi sáo làm quái gì, cơm còn không đủ ăn lại có cơm thừa nuôi sáo.
Tôi cáu tiết cãi lại :
- Sáo ăn cào cào chứ cần gì cơm gạo.
Cậu tôi chẳng nể nang gì mẹ tôi cả, cậu chúi đầu tôi một cái thật mạnh. Tôi lao đao xuýt ngã. Cậu mắng mỏ :
- Ðồ chết cha, đồ con hoang có khác. Anh em mày lớn lên thì thành đồ ăn cắp!
Tôi nín lặng, em tôi chạy vào ôm lấy mẹ. Và cả tôi cũng lủi thủi cầm con sáo vừa đi vừa khóc. Tiếng khóc của em tôi, em tôi rõ ràng hơn. Mẹ tôi thương anh em tôi, mẹ bỏ bán hàng nửa buổi đan cái làn mắt thưa. Mẹ bảo nhốt sáo vào đấy rồi treo lên cây, sáo mẹ luyến con sẽ mớm mồi, như vậy sáo chóng lớn. Tôi nghe mẹ. Quả con sáo của anh em tôi được sáo mẹ chăm lo chu đáo. Ðám con cái của cậu mợ tôi ghen ghét. Chúng nó chăm chăm đòi bắn đôi sáo già. Tôi chỉ ngại nhỡ chúng bắn sáo của tôi. Bọn ranh con mất dạy, ích kỷ bắn súng cao su không trúng, chúng nó nhờ người thổi ống xì đồng. Buổi sáng hôm cái gã mắt chột rình rập ngoài vườn, anh em tôi lo cuống quýt. Em tôi nhìn sâu chim đủ loại : chào mào, chích chòe, liếu tiếu lủng lẳng trên vai hắn, em nói nhỏ :
- Khéo nó bắn chết sáo mất anh ạ!
Tôi run run trả lời em :
- Ðừng sợ em ơi! Mắt nó chột bắn chả tin đâu.
Nhưng đôi sáo già đi kiếm mồi đã về. Tim anh em tôi đập mạnh. Tôi rõi mắt lên cành sung chờ đợi. Sáo bố đậu cách cái làn khá xa, sáo mẹ mon men lại gần mớm mồi. Trong lúc đó, viên đạn đất oan nghiệt từ ống xì đồng thổi phụt ra. Sáo bố trúng đạn rơi xuống ao. Em tôi giật nẩy mình kêu lớn :
- Chết em rồi!
Tôi cảm thấy như viên đạn trúng đầu tôi. Con sáo bố đã chết. Sáo mẹ bay lượn, rỉa rói ai oán hàng giờ. Em tôi ứa nước mắt :
- Sáo của anh em mình mất bố rồi nó sẽ khổ lắm anh nhỉ?
Câu nói khiến lòng tôi se lại. Tôi nhớ cha tôi. Phải chi cha tôi còn sống thì anh em tôi đâu khổ sở thế này. Sáo mẹ thỉnh thoảng bay tới, nó chỉ dám sà vội qua cái làn, có khi sáo con chưa kịp há mỏ, mồi đã rơi mất. Sáo mẹ sợ sệt tất cả. Tôi chạnh nghĩ đến mẹ tôi mà buồn vời vợi.
Em tôi lo cho sáo con, đòi mang xuống. Tự đấy sáo mẹ không trở lại nữa. Có lẽ nó đã chết vì cô độc hay đã về rừng. Chúng tôi nuôi sáo bằng chuối. Dần dần sáo lớn, tôi ra đồng đập cào cào lấy mồi nuôi sáo. Tội nghiệp sáo con côi cút, đêm ngày âm thầm chui rúc trong cái giỏ cua. Em tôi đang phân vân không hiểu mai kia sáo lớn nhốt vào đâu. Ước gì có cái lồng tre, chúng tôi mơ ước song mẹ tôi không thừa tiền chiều chuộng con.
Giữa lúc đó thì chú Nghị đến thăm mẹ tôi. Họ hàng bên nội nhà tôi chỉ chú Nghị là kẻ có lòng. Bao nhiêu năm tháng qua rồi, từ ngày tôi sinh ra đời tới bây giờ, chú luôn luôn an ủi, giúp đỡ mẹ tôi. Tuy chú nghèo, tôi thường nghĩ giang hồ phiêu bạt như chú, giầu sao được. Chú Nghị tốt lắm, chú bên vực mẹ tôi thuở mẹ tôi bị cả gia đình chồng xúm vào cấu xé, đay nghiến chỉ vì mẹ tôi thương yêu cha tôi quá đến nỗi mẹ bằng lòng lấy cha tôi không cần giá thú. Hôm đưa xác cha tôi tới nghĩa địa, tôi thấy chú khóc nức nở khi những tảng đất phủ kín dần chiếc quan tài bằng gỗ mộc. Tôi còn đủ trí nhớ để hình dung ra bộ mặt khắc khổ phong sương của chú Nghị. Và hình dung ra thì tôi lại ghét cay đắng ông bà nội, các cô các chú tôi, nhất là người vợ cả ích kỷ của cha tôi.
Dạo cha tôi ở Hà - nội, ban tuồng chú Nghị sau nhiều chuyến lang thang dọc. đường gió bụi, trở về trình diễn tại thành phố này. Chú dành ghế cho cha mẹ tôi xem tuồng liên miên. Mỗi buổi tan hát, chú dẫn đi ăn mì. Khi rảnh rang, chú dắt tôi tới vườn Bách - thú xem xiếc hoặc dạo mát loanh quanh trong công viên rồi ra ngồi ăn bánh tôm trên đường Cổ - ngư bên hồn Trúc - bạch. Mỗi phố tôi qua, chú dạy tôi cách trông chừng hai đường xe cộ lưu thông. Vì chú cháu tôi hay thơ thẩn buổi sáng, chú bảo tôi thở hít mạnh, chú giữ lưng tôi ngay thẳng tựa người lính tập đứng nghiêm. Tôi yếu đuối, chắn chắn sự yếu đuối ảnh hưởng phần nào những ngày mẹ tôi mang thai tôi, tâm hồn mẹ bị dằn vặt, thôi thúc thời gian đó. Huệ, Lê - Lợi, Lý - Thường - Kiệt, câu kết luận của chú bao giờ cũng hàm đầy ý khuyến khích :
- Cháu gắng lên, mai mốt cháu sẽ giỏi, cháu sẽ hãnh diện làm con của cha mẹ cháu.
Tôi không nghe chú nói tới quãng đời luân lạc chim nổi của một kép hát. Sau này vợ chú bỏ chú lấy người khác, chú nghiện rượu và thù hằn tất cả. Tôi không biết tại sao chú hay giấu điếm sự uẩn ức mà đáng lẽ nói được thì chú bớt giận dữ kẻ khác trên đời. Nhưng, ngay trong những cơn điên tàn bạo, chú tôi rất h iền hòa với mẹ tôi. Tôi nhớ dạo gia đình tôi sống ở ngoại ô Khâm - thiên, nhà tôi phải đi qua cái ngõ hẹp bẩn thỉu. Một buổi tối, tôi đang cắm cổ bước, vì tôi sợ ma, thình lình chú Nghị nấp sau đám giậu kêu "ú a ú ớ" cơ hồ tiếng ma quỷ giận hờn rồi xô ra chắn lối. Chú muốn dọa tôi nên chú chơi thế. Song lúc ấy tôi không thèm hiểu. Trong khoảnh khắc, đầu óc tôi tràn ngập sợ hãi, khích động. Tôi cáu tiết đá chú nột cái thật mạnh. Tôi mới lên mười nhưng tôi mang giầy, trong cơn tức giận tôi đá mạnh kinh khủng và cái đá làm sước ống chân chú Nghị. Máu chảy ròng ròng, chú đau đớn, rên nhè nhẹ rồi ngẩng lên mỉm cười. Chú ôm tôi xin lỗi. Tôi khóc thương chú khiến chú rớt nước mắt. Chú Nghị mang vết sẹo trên da tháng năm nối tiếp. Thỉnh thoảng vui vẻ, chú kéo ống quần khoe vết sẹo. Anh em tôi lại sà vào lòng chú nũng nịu.
Ngày mẹ tôi dìu anh em tôi về quê ngoại, chú phiêu bạt mãi tận Sài - gòn. Thành thử chúng tôi trống rỗng buồn tẻ. Không ai bênh vực an ủi anh em tôi. Nay tự nhiên chú Nghị đến, hỏi chi anh em tôi không vui mừng sung sướng. Bên ngoại vẫn thù bên nội vì ngày mẹ tôi trốn nhà theo cha, ông nội cứ gọi tên ông ngoại chửi bới, trách móc. Lúc này chú Nghị có mặt ở đây, tôi thấy chú nhét bông đầy tai và đeo kính râm suốt ngày. Chú mua cho tôi vô số sách đẹp. Chú dạy anh em tôi học. Tôi thích chú Nghị nói chuyện lịch sử. Em tôi thì bận tâm về con sáo nhỏ. Em khóc khi chú dạy tôi toán pháp. Chú hỏi em tại sao, em bảo ước' gì có cái lồng như bọn anh chị em con cậu con bác tôi. Chú Nghị vuốt tóc em, chú tháo cặp kính, mắt chú đỏ ngầu, chú thẫn thờ giây lát rồi ghé tai em tôi thầm thì. Em tôi nhảy lên reo múa. Mấy hôm sau, chú bỏ việc dạy học, ngồi cặm cụi vót tre đan lồng. Ba bốn ngày liền chú mới đang xong. Cái lồng sáo của em tôi đẹp chả thua gì lồng bán ngoài bến đò. Chú làm chiếc thang ngang lấy chỗ cho sáo đậu, chú buộc cóng đựng nước và cóng chưa có gạo, nước. Con sáo được nuôi trong lồng ra bỏ đi. Mẹ tôi giữ thế nào cũng chẳng nổi. Tôi hết hy vọng học chú. Hôm chú mới đến, chú hứa chú ở lâu, chú nói dối anh em tôi. Chú Nghị ra đi, ít tháng sau được tin chú chết, mẹ con tôi buồn não nuột. Từ đó, sớm chiều anh em tôi đành tâm sự với con sáo.
Tôi ra đồng đập cào cào, châu chấu làm mồi cho sáo ăn. Em tôi thích đút chuối cho sáo. Em cắn miếng chuối nhỏ, xâu vào đầu cây tăm. Em thổi sao miệng, chú sáo đói kêu "khách khách" trả lời rồi há mỏ ra đợi em tôi mớm ăn. Em còn cho sáo ăn thịt nữa. Những buổi trời ấm áp, em tôi tắm sáo, rửa lồng. Nhìn sáo phơi mình dưới ánh nắng, mắt em tôi bừng lên những tia sung sướng, hy vọng. Em hay thả sáo tự do nhởn nhơ khỏi lồng. Em đi trước, sáo theo sau tựa hồ đôi bạn côi cút thương yêu nhau. Con sáo của em khôn lắm, nó thường "làm nũng" em lúc em cho nó ăn. Nó nhảy lên cánh tay em rồi bậy trắng lòe áo. Em thích ôm sáo trong lòng đôi bàn tay hoặc để nó đậu trên vai rất âu yếm. Bữa nào sáo ăn ít, em sợ sáo ốm, sáo chết, em buồn có khi em khóc. Nhiều đêm trời mưa bão, em ngủ không yên, thức giấc là hỏi chuyện sáo.
Ngày tháng trôi qua, con sáo của em tôi thay hình đổi dạng. Bộ lông đen mượt, nó nhẩy nhót luôn chân. Nó đã biết mổ gạo. Như thế anh em tôi khỏ cần lo cào cào, châu chấu, chuối, thịt nữa. Mẹ tôi bảo bóc lưỡi sáo vài lần thì nó mới nói được. Em tôi sợ sáo đau nên ngần ngừ. Nghe ai mách rằng cho sáo uống nước cua kẻo nó "sốt rét", em tôi định làm, song mẹ tôi mắng :
- Sáo đẻ ở đồng bằng thì ngã nước cái gì, chỉ vẽ chuyện.
Thế rồi anh em tôi cũng phải nhờ mẹ tôi bóc lưỡi sáo. Con sáo xấu xí út ít không ngờ đẹp quá. Bọn trẻ gạ gẫm mua, anh em tôi từ chối. Chúng nó tức giận bèn mang con mèo già hung ác tới dọa nạt. Anh em tôi thay phiên gác sáo.
Bây giờ con sáo tập hót. Mắt nó còn viền vàng xinh đáo để. Thỉnh thoảng vắng người nó líu lo đôi tiếng. Hễ có người thì nó câm tiếng. Em tôi cho rằng nó xấu hổ. Một buổi trưa anh em tôi đang thiu thiu ngủ bỗng nghe con sáo kêu hoảng hốt. Em tôi vùng dậy, thấy ở thềm nhà gã mèo hung ác đứng gầm gừ nhìn lên. Em vác guốc ném trúng mèo, nó co đuôi chạy mất. Chúng tôi lo sợ. Mẹ tôi bắt mang lồng sáo ra ngoài hàng, tối mang về.
Khách hàng ghé quán mẹ tôi, họ dạy anh em tôi cách tập sáo nói. Họ bóc hộ lưỡi rồi họ che kín mít lồng. Quả nhiên sáo không nhìn rõ ai, hót líu lo. Giọng nó trong vắt mà buồn làm sao. Trưa hè ở bến đò vắng vẻ, tiếng nó gợi cho anh em tôi bao nỗi nhớ nhung thương tiếc. Tôi lại nhớ chú Nghị, nhớ cha tôi. Dần dần em tôi dạy nó nói. Bài học vỡ lòng để sáo nói tiếng người là :
- "Sáo dạ, sáo dạ, nhà có khách".
Em tôi kiên nhẫn dạy sáo, mãi rồi con sáo côi cút của em tôi nói được. Em ngây thơ lắm, em dạy cả sáo hát, dạy nói những lời hết sức tha thiết :
-"Sáo nhớ mẹ, sáo khóc ".
Con sáo dường như hiểu nỗi lòng của em tôi nên cố gắng. Khi em hát, sáo hót và nói "Sáo nhớ mẹ..." Càng ngày sáo hót càng hay. Thấy là lạ, ông ngoại tôi xuống chơi nhà tôi nghe sáo nói. Việc này quá sự tưởng tượng của mẹ tôi. Từ ngày gia đình tôi về nương náu ở đây có khi nào ông ngoại tôi thèm thăm hỏi. Ông thích con sáo, ông đòi mượn. Em tôi lăn ra khóc' từ chối. Sau hôm ấy, ông ngoại ghét anh em tôi hơn.
Ở bến đồ, vô khối người muốn mua, họ trả một trăm đồng nhưng em không bán. Mẹ tôi khuyên em nên bán vì trăm bạc sẽ may được cho hai anh em tôi mỗi đứa hai bộ quần áo diện tết. Em tôi không cần quần áo, nếu mẹ bán sáo thì em tôi sẽ nhịn đói đến chết. Cuối cùng mẹ chiều em. Anh em tôi có con sáo nên bớt cô độc. Trẻ con hàng xóm năng lui tới nhà tôi trừ bọn anh em họ độc ác của tôi. Trong quãng đời thơ ấu buồi tủi, anh em tôi thèm thuồng đủ thứ. May mắn mẹ đưa anh em tôi về quê chứ ở lại Hà - nội thì anh em tôi còn khổ sở dường nào. Ðiều chắc chắn là em tôi không có con sáo để trút nỗi niềm. Em tôi ưa ngồi một mình nói chuyện với sáo. Em tôi kể nỗi hiu quạnh của em làm như sáo hiểu nổi. Em hỏi sáo :
- Mất bố mẹ sáo có khổ không?
Rồi em nói tiếp :
- Khổ ư? tội nghiệp nhỉ , bé bỏng thì chỉ bị bắt nạt thôi sáo ạ! Sáo đừng khóc nhé! À sáo ăn no chóng lớn, chớ bỏ bữa, gầy còm rồi chết thì tôi buồn đấy sáo ạ! Chả ai chơi thân với người nghèo như mình đâu.
Con sáo đôi khi vô tình buột miệng :
- "Sáo nhớ mẹ sáo khóc"
Em tôi dỗ dành :
- Ừ, sáo nhớ mẹ, tôi cũng nhớ cha. Sáo khóc à, thì khóc đi...
Tôi nằm nghe, nước mắt trào ra cay đắng. Dạo ấy tôi mới chỉ mười ba tuổi, em tôi tám tuổi. Nhưng tôi sớm tiếp nhận nỗi u sầu vào tâm hồn. Và bao nỗi niềm tủi nhục thay phiên hất hủi mẹ con tôi nên tôi đã khôn ngoan, đã biết khinh bỉ họ hàng bên nội bên ngoại trừ chú Nghị.
Cuộc đời đọa đầy tôi ngay ở cái tuổi đáng được hưởng hạnh phúc, sung sướng. Thành ra nếu có ai nghi ngờ, tôi vẫn nói rằng suốt thời thơ ấu của tôi, tôi không biết trông trăng trông sao, không biết bẻ hoa bắt bướm mà chỉ biết be bờ ruộng đơm đó kiếm tép để ăn, ăn thừa thì mẹ tôi đem ra bến đò bán. Cùng tuổi tôi, đám con cái của cậu MỢ tôi còn vòi vĩnh cha mẹ, ngu ngơ chả hiểu gì. Thế mà tôi hiểu cách rang cám cho thơm, cắt màn cũ khâu thành vó, vót tre thành giọng, cất vó tôm. Tôi hiểu cách cưa ống nứa, đan hom đào giun xào với lá bòng thả ống lươn. Tôi hiểu cách đan rọ cá rô, ngâm thóc vào nước gạo cho thối nhử đàn cá. Tôi hiểu nhiều lắm, hiểu cả những lời bóng gió, mỉa mai của thiên hạ để sau này bước xuống cuộc đời đem tâm sự của một con chim hụt mũi tên.
Mẹ tôi ví tôi như trái chín rấm. Tôi tưởng tôi là trái chín hoang. Vì trừ trái chín cây không thèm kể đến, trái chín rấm còn được người ta xếp vào lò hay bỏ vào vựa, vào chum, người ta nhét vào đầy lá soan cho mau chín chứ đời tôi, đời anh em tôi nhất định là hai trái chín hoang. Ngày nào đó, người ta thấy hai trái xanh quá, xấu xí quá, người ta ném vô bụi giậu. Mưa, nắng, gió bão tới tấp, chịu đựng nổi thì trái chín. Tôi biết tôi chịu đựng nổi bởi vì ngoài họ hàng bên nội bên ngoại còn mẹ tôi, còn chú Nghị. Ngoài đám con cái cậu mợ tôi hay bắt nạt, hếp đáp anh em tôi còn bọn trẻ con ở bến đò Ðồng - đức dạy tôi buộc tổ sáo... Và mai mốt tôi sẽ chín, chín chẳng để trả thù ai đâu, nhưng chín để kể lại chuỗi ngày tháng anh em tôi nuôi con sáo.
Con sáo là niềm an ủi duy nhất, là niều kiêu hãnh duy nhất của anh em tôi. Trong khi chung quanh tôi, trẻ con nhà giầu nuôi sáo bằng lồng son, cóng sứ, thức ăn thì gạo trộn lòng đỏ trứng gà, nước uống thì pha sôm nhị hồng, sáo của chúng nó vẫn chết. Anh em tôi nuôi sáo chỉ có gạo trắng, nước lã, lồng tre mà sáo hót lại hót hay, sáo nói lại nói giỏi. Tưởng con sáo cũng nên kiêu hãnh. Với tình thương mến của anh em tôi, với cái lồng do chú Nghị đan, nó đã thành con sáo quý khác cả những sáo quý nhất trên đời.
Tính ra anh em tôi nuôi sáo dã lâu. Năm ngoái mẹ tôi buôn bán phát tài, tết nhất cũng đủ bánh trái, thịt ăn mấy ngày. Anh em tôi mỗi đứa có bồ quần áo mới , có tiền xu, tiền hào chơi đáo, chơi cò quay, có tranh con lợn treo tường, có long đình, tượng bụt chơi làm đình làm chùa. Giá nghe mẹ bán con sáo thì tiếc chừng nào. Năm nay hàng quán ế ẩm. Suốt mùa đông mưa lê thê, bến đò vắng khách. Mẹ tôi lại đau yếu luôn luôn, phải nghỉ ở nhà. Con sáo cùng chung nỗi buồn, biếng ca hót lười bay nhảy, nó quên cả lải nhải mấy câu nói em tôi dạy thuộc lòng.
Trời cuối tháng chạp mưa phùn rả rích. Gió bấc thổi vù vù. Rét thấu xương. Anh em tôi co ro trong ổ rơm, lồng sáo đặt bên cạnh. Mẹ tôi lại sốt từ hôm ông Táo lên chầu trời. Ba hôm nữa tết rồi mà mẹ vẫn nằm rên rỉ. Tôi lo ngại quá, tâm hồn thờ thẫn. Em tôi sốt ruột vì trời mưa. Nhà chỉ còn gạo, mẹ tôi chưa sắm sửa đồ cúng. Gà vịt cũng chưa mua. Cho đến tối ba mươi, mẹ tôi lên cơn sốt nặng. Mẹ tôi rên hừ hừ. Ðắp hai cái chăn, hai cái chiếu, mẹ vẫn còn rét. Anh em tôi ôm nhau khóc thút thít. Em hỏi những câu quái gở khiến tôi rùng mình.
- Anh ơi! liệu mẹ có chết không?
- Không, mẹ phải sống nuôi anh em mình thành người chứ.
- Sao mãi mẹ chải khỏi gì cả?
- Tại trời mưa lạnh, tạnh nắng là mẹ khỏi, em đừng lo.
Tôi nói dối em tôi tại mưa lạnh, thực ra mẹ tôi chẳng uống thuốc men gì cả. Con nhà nghèo, ốm no bò dạy. Tôi thường bị sổ mũi, ho mà có cần mời thầy lang đâu. Nằm vài bữa, trở dậy lại khỏe như cũ. Tôi tin thế nên đỡ lo.
- Dạo cha còn sống mẹ có ốm nặng không anh?
- Anh chả nhớ rõ.
Trưa nay, em ngủ nằm mơ thấy cha, em nhớ cha quá, ước gì cha sống lại... Em tôi khóc to hơn. Tôi ôm em vào lòng, thương mến. Bên ngoài trời còn mưa lai rai. Ðêm cuối năm mù mịt. Anh em tôi lo lắng không dám ngủ. Lúc mẹ tung chăn chiếu, anh em tôi nhảy bổ vào ôm mẹ. Hơi nóng và mồi hôi sau cơn sốt thoát ra sưởi ấm anh em tôi giữa đêm trừ tịch. Mẹ tôi vuốt tóc em.
- Mai, ngủ thôi chứ con, mai dậy sớm mẹ mừng tuổi tiền mua pháo tép.
Em tôi nũng nịu :
- Con mua pháo ống lệnh cơ!
- Ừ thì mua pháo ống lệnh.
- Mới lại cái gương cho con sáo nó soi.
- Gớm cô ả vòi vĩnh mãi.
Mẹ tôi chiều con, mẹ nói hơi nhiều, giọng mẹ mệt nhọc. Tôi định hỏi mẹ cái gì, nhưng thương mẹ lại nghĩ không ra. Anh em tôi tắt đèn đi ngủ. Sáng mồng một tôi dậy sớm. Em tôi ngủ mê mệt, tôi đắp thêm chiếu cho em ấm áp ngủ lâu. Mẹ tôi hình như đã đỡ. Mẹ nhìn em tôi, lắc đầu ái ngại. Dưới ngọn đèn lù mù, tôi thấy nước mắt mẹ tôi lăn tăn trên gò má xanh xao, khắc khổ. Mẹ tôi nói nhỏ :
- Hữu này, mẹ dặn con nghe nhé! Hôm nay đừng lởn vởn ngoài ngõ, đừng lấy tiền của ai cho.
Mẹ tôi dặn tôi bằng thừa. Cậu mợ tôi dạy tôi nhiều bài học độc ác, giả đạo đức quá rồi, tôi thèm thuồng gì mà ngửa tay ra để người ta nhổ bọt vào. Nhưng tôi phải đáp :
- Vâng ạ!
Giọng mẹ tôi đứt từng câu ngắn :
- Tại mẹ ốm... thành thử... tết này nhà mình... thiếu cỗ. Con nhớ... thắp hương... bàn thờ cha con nhé! Con lớn rồi, chả cần, chứ em con, ngày tết... không được miếng thịt...
Mẹ tôi bỏ lửng câu nói, ôm mặt khóc tấm tức. Tôi bỏ ra ngoài sân. Trời lạnh hẳn. Phía nhà trên, gia đình ông ngoại đang giết gà, vo gạo, thổi xôi... Chiều qua nhà ông mổ lợn. Tôi muốn lên chầu chực để may ra ông thương hại thí cho một miếng về ăn tết. Song tôi nhớ tới chú Nghị, tới những bài học làm người chú dạy tôi nên tôi lại thôi. Dường như hồi chú ghé đây để đan cái lồng sáo, chú nhìn tôi rồi gật gù, bao giờ chú cùng gật gù sau buổi dạy học :
- Cháu thông minh lắm, cháu giỏi lắm.
- Nhưng mẹ cháu nghèo.
- Hề gì, đói rách đâu phải là tội lỗi, cháu đừng buồn. Rồi ngày kia cháu sẽ lẻ loi, cháu sẽ thấy trong sự đau khổ người ta mới xét đoán mọi việc đứng đắn.
- Rồi cháu có sung sướng không chú?
- Chú không dám nói cháu sung sướng nhưng chú quả quyết cháu có tài, có nhiều tài...
- Thật hả chú?
- Thật chứ, song cháu chả nên quy lụy ai , quy lụy nó hèn con người đi thì rồi cái tài cũng đến xếp xó.
Chú ưa kể chuyện cha tôi và ngón sở trường âm nhạc : đàn thập lục. Chú bảo ngày ông nội đuổi cha tôi khỏi nhà, cha tôi không có đồng xu nào dính túi. Thế mà cha tôi gây dựng nổi đời cha. Tại cha tôi chết sớm chứ không thể nào cũng có ngày cha về làng mua đất dựng nhà. Tôi kém cha tôi nhiều quá, tôi chỉ biết khóc.
Lúc này đứng nhìn thiên hạ đón xuân, tôi nghĩ đến em gái tôi, nghĩ đến miếng thịt gà, thịt lợn hay thịt chim khi em tôi tỉnh dậy. Anh em tôi chỉ có mỗi con sáo. Con sáo nuôi bao nhiêu ngày mới biết nói. Chẳng lẽ tôi giết nó? Chẳng lẽ em tôi ăn cơm với muối ngày đầu năm? Năm nay em tôi mười tuổi, mười mùa xuân bay vụt qua, mười mùa xuân tẻ nhạt, buồn thảm chấp nối thành thời thơ ấu của em tôi. Mùa xuân trôi theo kỷ nhiệm, có khi nào níu lại được? Tôi không muốn em tôi lớn lên phải nghẹn ngào nhắc tới một trang chua chát, xiên lệch trong cuộc đời. Vậy thì tôi sẽ giết con sáo. Tôi nghĩ tôi biết buộc tổ, biết nuôi sáo, nuôi bằng cái lồng của chú Nghị thì sáo nào chẳng biết nói, biết hót. Dẫu con sáo này chết, tháng sau tôi buộc tổ sáo khác. Mùa xuân tàn rất nhanh, tôi có đàn sáo mới, tôi nuôi một đôi để chúng quyến luyến nhau cơ hồ anh em tôi, chắc em tôi sung sướng lắm. Ý tưởng ấy khiến tôi bớt se sắt, bớt tủi nhục. Tôi len lén trở vào xách cái lồng sáo xuống bếp. Trời còn tối, sáo không nhận ra tôi. Nếu nó chết thì nó oán hờn sự nghèo khổ và bàn tay tàn ác nào đó. Vong hồn cha tôi sẽ phù hộ tôi. Giết nó, tôi đau đớn vô ngần nhưng tôi phải thương em tôi hơn. Em tôi phải được ăn thịt sáo nấu su hào ngày mồng một tháng giêng năm mới. Chỉ vì em, tôi quên tất cả.
Tôi mở cửa lồng thò tay tìm con sáo. Nó nhảy trốn, móng chân nó cào vào tay tôi đau buốt. Cuối cùng tôi tóm nó. Nó kêu ai oán, từ xưa nó chưa từng kêu như thế. Nó giẫy giụa. Tôi vặn cổ nó chết tươi. Làm xong công việc tàn nhẫn đó, tôi nhóm lửa nấu nước làm lông. Tôi run run chặt dao trúng ngón tay. Máu tôi hòa cùng máu con sáo. Tôi xào thịt với hành mỡ thơm lừng rồi đổ nước đun thật lâu. Trong khi chờ đợi, tôi gọt su hào. Lúc ở bếp bước ra, trời hừng sáng. Tôi đem lông sáo và cái lồng giấu phía sau nhà. Tôi ngồi bệt xuống đất, ôm mặt khóc. Pháo nổ vang trời đất, chuông trống khua inh ỏi. Lòng tôi sôi bùng bùng, tan nát. Tôi nhớ chú Nghị, tôi nhớ cha tôi. Những người thân yêu có thể che chở cuộc đời mẹ con tôi đều bỏ đi cả. Bây giờ mùa xuân về, mẹ con tôi cô độc, nghèo nàn. Tôi đâu đớn trút nỗi buồn vào hai bàn tay non nớt, bóp bẹp cái lồng sáo. Niềm vui thơ ấu của anh em phần bị chết chóc, phần bị dúm dó, gẫy vụn. Tôi cứ ngồi tưởng tiếc. Mãi khi nghe tiếng mẹ gọi , tôi mới trở vào. Mẹ tôi hỏi :
- Tại sao con khóc?
Tôi đưa vạt áo thấm nước mắt, trả lời :
- Thưa mẹ khói làm con cay mắt đấy ạ!
Rồi tôi mỉm cười, nhưng nụ cười gượng gạo ấy giấu sao nổi một tâm tư đang cuồn cuộn muôn vàn ý nghĩ. Tôi nghe tiếng mẹ thở dài. Tôi đánh thức em tôi dạy. Mẹ tôi mừng tuổi cho mỗi đứa hai đồng. Tôi tặng cả em. Em tôi sung sướng nhận ngay không hỏi lôi thôi như những ngày thường. Gió xuân vừa tạt qua đôi má thơ ngây của em. Tôi nói :
- Mai, đi rửa mặt rồi vào ăn cỗ em!
Em reo to :
- Có cỗ hở anh?
- Ừ, cỗ to lắm.
- Anh cúng cha chưa?
- Ðã.
Tôi nói dối em chứ ai lại cúng cha bằng thịt sáo. Em tôi chưa biết gì cả. Khi ngồi ăn, em mơ màng chuyện đâu đâu. Em khen thịt ngon. Bất chợt em hỏi tôi :
- Thịt gì đấy anh?
- Thịt chim.
- Anh mua à?
- Không.
- Thế ai cho, ông ngoại hở?
Tôi im lặng nghĩ câu trả lời. Em tôi tự nhiên buông đũa, đứng dậy, cuống quít :
- Con sáo của anh em mình anh ạ! Ta mừng tuổi nó chứ?
Thấy tôi rầu rầu không nói, đứa em gái sầu thảm của tôi ngây người đứng ngó. Và em chạy vụt ra sân ngơ ngác tìm kiếm xong lại chạy vô gậm giường? Chẳng thấy lồng sáo đâu, em hỏi :
- Nó ở đâu hở anh?
- Chắc trộm bắt mất rồi em ạ!
Em tôi thẫn thờ bước khỏi ngưỡng cửa. Lòng tôi rối bời. Nước mắt trào dâng lên, nhỏ giọt xuống bát canh su hào thịt sáo. Tôi cứ ngồi, nước mắt cứ rơi, lặng thinh như phiến gỗ. Tôi đợi em vào để xin lỗi. Tôi hối hận, tôi muốn chạy ngay ra ngõ gào khóc bi thương ngộ may có Phật hiện hình thì xin ước cho con sáo sống lại. Nhưng cõi đời tăm tôi của anh em tôi, Phật là chú Nghị, chú chết rồi, tôi ước nguyện gì đây? Mãi chả thấy em trở vào, tôi hoảng hốt chạy về phía nhà sau. Ở đấy có bộ lông sáo sũng nước và cái lồng tre chú Nghị đã đan cho em tôi. Em tôi ôm cái lồng vào tay thương tiếc. Tôi đi nhẹ tới gần em. Bước chân tôi run rẩy trên nền đất quê ngoại. Tôi khẽ gọi :
- Mai, em Mai...
Em không ngoảnh lại. Tôi biết em ghét tôi lắm. Em đứng dậy, vẫn ôm cái lồng, lững thững đi ra bờ ao. Tôi phải nói thế nào để em tôi hiểu tại sao tôi giết con sáo? Tôi toan giãi bày, nhưng khốn nạn, sự nghẹn ngào rình mò đúng lúc vít chặt lấy cổ họng tôi. Tôi chỉ còn biết ấp úng :
- Em ơi! Anh xin...
Tôi buông chưa dứt lời, em quay lại nhìn tôi, đôi mắt chớp mau. Bốn con mắt anh em tôi lúc ấy mờ đi dưới cái màng sám hối, đau thương. Bộ mặt đau khổ của tôi nói với em nhiều rằng tôi quý con sáo nhưng tôi yêu em. Em tôi chừng hiểu chuyện, em buông đôi tay. Cái lồng và bộ lông con sáo rơi xuống đất. Em chạy xô tới ôm lấy tôi, khóc nức nở.
Duyên Anh
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 088
Sunday, September 9, 2012
BS. HỒ VĂN CHÂM * CHỦ NGHĨA QUỐC GIA
Chủ Nghĩa Quốc Gia
nhìn từ góc độ
Chủ Thể
Ðược Phục Vụ
Tình hình Việt Nam và thân phận
người quốc gia chủ nghĩa trong hơn nửa thế kỷ vừa qua là vô cùng phức tạp. Thực
vậy, người mác-xít lê-ni-nít cố tình lẫn lộn quốc gia với dân tộc để manh tâm đội
lốt quốc gia; một số người chống cộng mù quáng mạo danh là quốc gia chân chính
chỉ cốt để thực hiện mục tiêu chống cộng; phần đông người yêu nước quốc gia chủ
nghĩa lầm lạc phục vụ chủ nghĩa cộng sản mà tưởng là phục vụ quốc gia; trong
lúc đó, hầu hết người quốc gia chính hiệu lại bị nhân dân hiểu lầm, bị cộng sản
bôi lọ, bị liên minh thực dân, đế quốc và tay sai cấu kết cùng tập đoàn cộng sản
ngày đêm đàn áp, khủng bố và tiêu diệt. Sở dĩ có tình trạng lẫn lộn vàng thau
như vậy là vì mọi người đều dễ dàng phóng tâm đồng hóa chủ nghĩa quốc gia với
chủ nghĩa yêu nước, lẫn lộn quốc gia với dân tộc, không phân biệt bản thể của
quốc gia với bản thể của nhà nước, không phân định minh bạch ranh giới giữa
nghĩa rộng và nghĩa hẹp của từ quốc gia, và nhất là không quán triệt sự khác biệt
định nghĩa chủ nghĩa quốc gia như là một tổng thể với các thực thể cấu thành quốc
gia, và quan trọng hơn cả là không nhận định được một thực tế đáng buồn là chủ
thể phục vụ của các chính quyền từ trước đến nay tại Việt Nam chưa bao giờ là
quốc dân Việt Nam, là quốc gia Việt Nam cả.
Vậy trước hết, cần nhắc lại câu hỏi quốc gia là gì?
Quốc gia bao gồm ba thành tố :
-quốc dân,
-lãnh thổ,
-chế độ.
Quốc dân là người trong nước, gồm một
hoặc một vài sắc tộc chính và nhiều sắc tộc thiểu số. Quốc dân được hình thành
và phát triển theo dòng lịch sử, từ những bộ lạc ban sơ kết hợp thành chủng tộc
đồng nhất. Danh từ sắc tộc dùng để nói đến các sắc dân sống trong một nước
chính xác hơn danh từ dân tộc mà người cộng sản hiện đang dùng và nhiều người
khác thường có thói quen dùng lẫn lộn với danh
từ quốc dân.
Lãnh thổ là đất nước, bao gồm cả
vùng trời bên trên và vùng biển và thềm lục địa vây quanh. Lãnh thổ là địa bàn
sinh hoạt của quốc dân từ thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, suốt dọc chiều dài lịch
sử. Lãnh thổ có thể biến thiên theo thời gian, tăng giảm diện tích và xê dịch địa
điểm, nhưng cơ bản là ổn định và là một thực thể tâm lý bất biến trong lòng quốc
dân.
Chế độ bao gồm các mặt chính trị,
văn hóa và xã hội. Theo với đà phát triển lịch sử, trình độ văn hóa quy định sự
hình thành các mô thức xã hội thích nghi và những định chế chính trị phù hợp.
Văn hóa mỗi ngày một lên cao, mô thức xã hội và định chế chính trị cũng thay đổi.
Tính chất khả biến của chế độ về các mặt chính trị, văn hóa và xã hội có tác động
hỗ tương mật thiết và sâu đậm, và là động lực thúc đẩy sự phát triển quốc gia,
tuy nhiên trong một vài trường hợp cũng có thể gây nên những hậu quả phản động,
cản đà phát triển của quốc gia.
Nói một cách tổng quát, các thành tố
quốc dân và lãnh thổ mang tính chất ổn định và đặc thù, là những thành tố chủ yếu
của thực thể quốc gia. Trong lúc đó, thành tố chế độ có tính chất khả biến,
thay đổi theo các điều kiện khách quan, nên chỉ là thành tố thứ yếu của thực thể
quốc gia mà thôi. Mặt khác, thành tố chế độ lại chi phối mạnh mẽ các thành tố
quốc dân và lãnh thổ, nhất là thành tố quốc dân mà thông thường vẫn được xem
như là chủ thể được phục vụ. Nếu đứng về phương diện chủ thể được phục vụ mà nhận
xét chế độ, ta sẽ thấy từ quốc gia bao hàm 2 ý niệm rõ rệt: cho toàn dân, và
trong cả nước.
Cho toàn dân nên cái gì là quốc gia
thì là cho tất cả mọi người dân trong cả nước, không có biệt lệ, không có đặc
ân, không có hạn chế, không có phân biệt đối xử.
Trong cả nước nên cái gì là quốc gia
thì là áp dụng đồng đều ở tất cả các địa phương, không ưu tiên cho địa phương
nào mà cũng không kỳ thị địa phương nào.
Trên cơ sở định nghĩa cổ điển đó của
danh từ quốc gia, và trong bối cảnh lịch sử của quốc gia Việt Nam từ trước đến
nay, đặc biệt là trong hơn nửa thế kỷ vừa qua, ta thử xác định lại thực tế của
các dữ kiện quan yếu để phân tích một cách khách quan tiến trình phát triển của
đất nước, ngõ hầu rút ra những kết luận chính xác làm tiền đề cho những qui định
cơ bản trong việc hình thành chủ nghĩa quốc gia Việt Nam.
Quốc gia và chuyên chính nhất nguyên dưới chế độ quân
chủ.
Trên cơ sở cho toàn dân và trong cả
nước, ta thấy rõ ràng là dưới chế độ quân chủ chuyên chính, ở nước ta chưa có
tinh thần quốc gia. Đời nhà Trần, mở khoa thi Thái học sinh, lấy Trạng nguyên
(người đỗ đầu) thì phân biệt Kinh/Trại, Kinh Trạng nguyên cho các lộ ở trung
châu và Trại Trạng nguyên cho các lộ phía nam và mạn ngược. Con trai con gái họ
Trần kết hôn với nhau, con gái tôn thất tuyệt đối không gã cho con trai bách
tính. Đời vua Lê chúa Trịnh, quân đội thì phân biệt Ưu binh và Nhất binh, Ưu
binh được tuyển mộ ở Hoan Ái (Nghệ An, Thanh Hoa) là đất Thang Mộc, Nhất binh
được tuyển mộ ở tứ trấn Bắc Hà. Buổi đầu thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Đào Duy
Từ (con nhà xướng ca vô loài không được đi thi) là thí dụ điển hình về phân biệt
đối xử đối với các hạng người trong nước. Triều Nguyễn thì có lệ không lập
Hoàng hậu, và có thêm lệ là chỉ tuyển Hoàng phi từ Quảng Bình trở vào nam mà
thôi. Trường hợp công chúa Lê Ngọc Bình của đất Đông Đô được vua Gia Long sách
lập làm Đệ tam cung là một biệt lệ có tính cách chính trị. Các cử nhân tân khoa
trúng tuyển tại trường thi Thừa Thiên được bổ dụng ngay, còn các cử nhân trúng
tuyển ở các trường thi Hương khác (1) đều phải tu nghiệp thêm một năm tại Quốc
Tử giám trước khi được bổ dụng làm Hành tẩu. Người Hoàng tộc được đặc biệt ưu
đãi. Khi nhỏ, ngày ngày còn mài đũng quần trên ghế nhà trường, học sinh tôn thất
mặc áo dài xanh còn học sinh bách tính mặc áo dài đen nếu được vào Đại Nội ăn
bánh trong những ngày lễ Vạn Thọ hay Hưng Quốc Khánh niệm. Lớn lên, dù chẳng có
tài cán gì, con nhà tôn thất đều được thu xếp cho một chức quan, con trai lớn
dòng trưởng được tập tước, nếu cha được phong vương thì con được phong quận
công, cháu được phong huyện công, xuống nữa được phong hầu, rồi trợ quốc khanh,
tá quốc khanh. Sự thiếu mặt của các tính chất cho toàn dân và trong cả nước còn
kéo dài mãi đến cuối thời Pháp thuộc. Người Pháp chia cắt lãnh thổ Đại Nam làm
nhiều mảnh, lập ra các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, mỗi kỳ riêng biệt một chế
độ hành chánh, tài chánh, tư pháp (2); lại lấy phủ Cần Bột (Kampot) và đất đai
phía tây kinh Vĩnh Tế trả lại cho Cao Miên; lấy đường phân thủy Trường Sơn làm
phân ranh Lào-Việt, sáp nhập tất cả các phủ huyện phía tây đường phân ranh ấy
(Trấn Ninh, Trấn Biên, Trấn Định, Trấn Tĩnh, Cam Cát, Cam Môn) vào vương quốc
Luang Prabang để lập ra xứ bảo hộ Ai Lao. Ngoài ra, nghị định của Toàn quyền Đông Dương về quy chế
sĩ quan bản xứ có những quy định khác nhau cho người cùng một nước, hạn chế cấp
bậc tối đa cho người Nam Kỳ là Đại tá, cho người Bắc Kỳ là Thiếu tá, và cho người
Trung Kỳ là Trung úy. Nói tóm lại, dưới thời quân chủ chuyên chính, dù độc lập
hay bảo hộ, tinh thần quốc gia chưa có mà tinh thần cục bộ thì phát triển nhằm
mục đích phục vụ lợi ích của nhà vua và triều đình, và của tập đoàn thống trị
thuộc địa. Tình trạng này còn kéo dài trong vùng Pháp chiếm đóng từ sau Thế chiến
II đến năm 1955, kể luôn cả thời kỳ Bảo Đại làm Quốc Trưởng. Thực vậy, mặc dù
có lúc đã có một cuộc tập hợp rộng rãi những người Việt Nam quốc gia chủ nghĩa
trong cả nước thuộc đủ thành phần chính trị, tôn giáo, xã hội, đằng sau lưng Bảo
Đại, sau Hội nghị Chính trị Hồng Kông, nhưng rút cục, quốc gia Việt Nam dưới chế
độ Quốc Trưởng không khác biệt với thời thuộc địa, cũng chỉ vì người Pháp lươn
lẹo, không thật tâm thi hành giải pháp Bảo Đại, và cũng chính vì Bảo Đại không
phải là con người của thời thế, hóa ra độc lập quốc gia và thống nhất lãnh thổ
chỉ có trên giấy tờ mà thôi.
Quốc gia và chuyên chính nhất nguyên dưới chế độ quốc
tế vô sản.
Dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa trước đây và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay, giai cấp công
nhân vô sản một mình làm chủ đất nước thông qua đại diện là đảng cộng sản giữ
chức năng lãnh đạo và cơ chế nhà nước giử chức năng thừa hành. Đảng và Nhà nước
là hai hệ thống song hành, một chìm một nổi, ở tất cả các ngành hành pháp, lập
pháp và tư pháp, trong tất cả các lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội,
từ trung ương đến địa phương, theo đúng chức năng đã định mà áp đặt quyền lực
thống trị chuyên chính lên toàn bộ nhân dân cả nước. Với chức năng lãnh đạo, cấp
ủy đảng chỉ thị và kiểm soát cơ quan nhà nước cấp tương ứng. Thành thử, chỉ có
đảng viên đảng cộng sản một mình một chợ nắm giử chính quyền, không chia sẻ với
một ai khác. Người ngoài đảng chỉ được sử dụng trong các địa hạt chuyên môn, nếu
có cần phải đặt để vào các chức vụ chỉ huy trong phạm vi hành chánh thì cũng
không thể hơn chức vụ Trưởng phòng. Ngay cả các đảng viên không phải là cấp ủy,
nghĩa là đảng viên quần chúng, vẫn có nhiều đặc quyền hơn người công dân ngoài
đảng, vì chỉ có họ mới được quyền bầu cử đại biểu vào các cơ cấu chính quyền và
Đại hội đảng, tức là gián tiếp bầu các cấp ủy đảng, còn quần chúng ngoài đảng
thì chỉ được bầu Quốc hội, các cơ quan Nhà nước, Hội đồng nhân dân các cấp,
nghĩa là các cơ chế không có quyền quyết định chính trị. Đảng viên có lớp học
chính trị riêng , có chế độ cung cấp
riêng, đặc biệt ưu đãi hơn quần chúng ngoài đảng. Chỉ có đảng viên mới được ứng
cử, vì muốn ứng cử thì phải được Mặt Trận Tổ Quốc giới thiệu, mà không phải là
đảng viên thì làm thế nào mà được Mặt Trận Tổ Quốc giới thiệu. Nhưng khốc liệt
nhất của chuyên chính vô sản là chuyên chính về mặt tư tưởng. Học thuyết Mác Lê
là hệ tư tưởng độc tôn, chi phối toàn bộ sinh hoạt xã hội. Tất cả mọi người đều
phải tham gia các lớp học tập về "quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, ba
dòng thác cách mạng trên thế giới, duy vật biện chứng, duy vật sử quan, học
thuyết Mác Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh...". Không còn có chỗ cho các hệ tư
tưởng nào khác. Các triết gia kim cổ, thảy thảy đều bị báo chí sách vở của Đảng
và Nhà nước bài xích, rầm rộ và công khai; các tôn giáo có gốc rễ lâu đời trong
nước hay mới được du nhập từ ngoài vào, thảy thảy đều bị chính sách tôn giáo của
Đảng và Nhà nước từ từ triệt hạ, âm thầm và tinh tế. Nói tóm lại, chủ nghĩa Mác
Lê "bách chiến bách thắng, chủ nghĩa Mác Lê "vô địch", đã thể hiện
trọn vẹn quyền lực chuyên chính quốc tế vô sản tại Việt Nam, dành đặc quyền đặc
lợi cho thiểu số đảng viên cộng sản độc tôn cầm quyền, ghìm đại khối nhân dân
trong nghèo đói, lạc hậu, sợ hãi, lừa dối, đố kỵ và ngu dốt. Dưới chế độ xã hội
chủ nghĩa, quốc gia không có chỗ đứng; chỉ có tinh thần quốc tế vô sản và bản
chất chuyên chính nhất nguyên mà thôi, thể hiện qua các cơ chế Đảng và Nhà nước.
Quốc gia và dân chủ đa nguyên thời Đệ nhất Cộng Hoà.
Trong thời gian từ 1955 đến 1975, ở phía nam vĩ tuyến 17, do hiệp nghị
Genève 1954 giữa các đại cường, và do trưng cầu dân ý 1955 của nhân dân Việt
Nam, quốc gia Việt Nam Cộng Hòa đã được thành lập và tồn tại gần 20 năm. Việt
Nam Cộng Hòa đầy dẫy những thí dụ sống động về các yếu tố cấu thành chủ nghĩa
quốc gia, nhất là trong giai đoạn đầu mà dân chúng miền nam quen gọi là Đệ nhất
Cộng Hòa. Thực vậy, bản thân người khai sinh nền cộng hòa đã là mẫu người quốc
gia chủ nghĩa chân chính. Ngô Đình Diệm năm 1946 từ chối không nhận làm Bộ Trưởng
Nội vụ (sau đó được giao cho Huỳnh Thúc Kháng) vì nhận định Hồ Chí Minh chỉ
khoác áo quốc gia lừa bịp công luận chứ thâm tâm thì tận dụng phương tiện dân tộc
để đạt cứu cánh đưa Việt Nam vào hàng ngũ quốc tế vô sản. Ngô Đình Diệm năm
1948 từ chối không nhận làm Thủ Tướng (sau đó được giao cho Trần Văn Hữu) vì nhận
định Bảo Đại chỉ là con cờ người Pháp dùng làm chiêu bài lôi kéo người Việt Nam
yêu nước về với mình để dễ bề tiêu diệt kháng chiến, chứ một khi kháng chiến bị
tiêu diệt rồi thì đừng hòng đòi hỏi người Pháp trao trả độc lập. Ngô Đình Diệm
năm 1955 đánh dẹp Bình xuyên, giải giới các tổ chức võ trang chính trị và tôn
giáo, cải tổ cơ cấu quân đội và thay đổi nhân sự hành chánh vì quan niệm rằng
quốc gia phải nhất thống, quốc gia phải có chủ quyền, quốc gia không thể là hỗn
loạn vô chính phủ. Ngô Đình Diệm ban hành các Dụ 52 ngày 29- 8-1956 và 53 ngày
6-9-1956 bắt buộc người gốc Hoa thổ sinh phải nhập Việt tịch và cấm ngoại kiều
(chủ yếu là Hoa kiều) làm 11 nghề, và ra lệnh đóng cửa các trường học dạy
chương trình Hoa ngữ, vì nhận thấy sự phi lý hiển nhiên trong sự kiện những người
sinh ra và lớn lên nhờ ăn cơm uống nước của Việt Nam, hít thở không khí của Việt
Nam, lại không chịu hội nhập vào xã hội Việt Nam, không nói được tiếng Việt
Nam, cứ khư khư giữ chặt những đặc quyền đặc lợi thủ đắc dưới thời Pháp thuộc.
Ngô Đình Diệm cuối năm 1963 bị thảm sát vì cương quyết bảo toàn chủ quyền quốc
gia, chống lại những áp đặt thay đổi về chiến lược, về tổ chức, về nhân sự, và
nhất là chống lại kế hoạch đưa quân Mỹ vào Việt Nam, bởi lẽ Ngô Đình Diệm quan
niệm rất đúng rằng một khi quân Mỹ có mặt trên chiến trường thì cuộc chiến đấu
của người Việt quốc gia yêu nước không cộng sản chống lại người Việt quốc tế mác-xít lê-ni-nít không còn chính
nghĩa nữa trước con mắt trọng tài của quốc dân Việt Nam. Nhưng ngược lại, chế độ
Ngô Đình Diệm cũng còn những mặt hạn chế, trái với tinh thần quốc gia chân
chính, vì trong khá nhiều lãnh vực đã bộc lộ tính chất cục bộ, kỳ thị, thiếu
dân chủ, phân biệt đối xử, nghĩa là không phục vụ quốc gia theo đúng tinh thần cho
toàn dân và trong cả nước. Ngô Đình Diệm thích chọn cộng sự viên gốc gác Bình
Trị Thiên và dòng dõi quan lại, đề cao người Nghệ Tịnh và Nam Ngãi là trung
nghĩa khí khái, nghi kỵ người Bắc và người Hoàng tộc (nhất Bắc Kỳ, nhì các Mệ)
cho là giảo quyệt, không coi trọng người Nam vì định kiến cho rằng người Nam
tính tình bộc trực và nhất là thiếu tinh thần quốc gia, dễ dàng nghe theo lời
người nước ngoài. Dư luận về tiêu chuẩn nhân sự thời đệ nhất cộng hòa là
"người Trung, công giáo, cần lao" không phải là không có căn cứ. Ngô
Đình Diệm lãnh đạo theo tinh thần gia trưởng, tự xem mình là cha mẹ dân, thương
dân như cha mẹ thương con, tự đặt mình lên trên hiến pháp, lên trên quốc gia
("Sau hiến pháp còn có tôi"). Nhưng trầm trọng hơn hết là vấn đề tôn
giáo. Thay vì đấu tranh trên cơ sở dân chủ/chuyên chính, hữu sản/vô sản, đa
nguyên đa đảng/độc tài độc đảng, kinh tế thị trường/kinh tế hoạch định, chính
quyền Ngô Đình Diệm đã đem ý hệ Cơ Đốc ra đối đầu với ý hệ Mác Lê trong cuộc
phân tranh quốc cộng nên dần dà mất sự hưởng ứng nhiệt tình buổi đầu của đại khối
quần chúng cũng như của phần đông những người quốc gia chủ nghĩa. Gần một trăm
năm mươi năm về trước, nước Pháp đã có đạo luật tách rời quốc gia với giáo hội.
Vậy mà nay ở miền Nam Việt Nam lại xảy ra tình trạng không phải chỉ là kỳ thị
tôn giáo hay công giáo độc tôn không thôi, mà là quốc gia bị tôn giáo phủ lấp,
tức là điều trái với khái niệm quốc gia mọi người ngày nay hiểu. Bản thân Ngô
Đình Diệm vốn là người quốc gia chủ nghĩa nên cũng không chấp nhận sự kiện tôn
giáo phủ lấp quốc gia, do đó, buổi đầu chấp chính đi kinh lý một số địa phương
thấy dân chúng treo cờ Tòa Thánh lấn áp quốc kỳ, Ngô Đình Diệm đã chỉ thị Bộ Nội
vụ ban hành nghị định 78/NV/NA/85 tháng 9 năm 1957 và nghị định 189/NV/NA/PS
ngày 12-5-1958 qui định thể thức treo quốc kỳ và giáo kỳ, trong tinh thần đặt
quốc gia lên trên hết. Thế nhưng chế độ Ngô Đình Diệm càng về sau càng bộc lộ
tinh thần cục bộ và bản chất chuyên chính, không còn tìm đâu ra tinh thần dân
chủ đa nguyên buổi đầu. Một số nguời có thế lực bên cạnh Ngô Đình Diệm lại chủ
trương lấy Công giáo làm quốc giáo, do đó mà có sự phân biệt đối xử quá đáng,
trong lúc cờ Tòa Thánh được treo rợp trời nhân dịp lễ Ngân khánh của Tổng Giám
mục Ngô Đình Thục, thì 2 ngày trước lễ Phật đản 8-5-1963, phủ Tổng Thống ban
hành văn thư cấm treo cờ Phật giáo, gây phẫn nộ trong quần chúng Phật tử, tạo
cơ hội cho người Mỹ James Scott gài lựu đạn trước đài phát thanh Huế châm ngòi
nổ phát động một chiến dịch chống đối chính quyền sôi động hơn nửa năm trời và
kết thúc vào ngày 2-11-1963 với sự kiện anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu bị
giết chết, ám muội và thê thảm.
Quốc gia và Dân chủ đa nguyên thời Đệ nhị Cộng Hòa.
Sau khi lật đổ chính quyền Ngô Đình
Diệm, Hội đồng Quân nhân Cách mạng tạo dựng một chế độ mà dân chúng miền nam
quen gọi là Đệ nhị Cộng Hòa, một chế độ bề ngoài có vẻ dân chủ pháp trị nhưng
thực chất lại là quân phiệt, dân chủ nửa vời, và lệ thuộc nước ngoài. Quốc gia
thời Đệ nhị Cộng Hòa hoàn toàn bị quân đội phủ lấp, bị Toà Đại sứ Mỹ áp lực, bị
cộng đồng người Hoa thao túng, và chơi vơi giữa dòng nước xoáy của 2 tôn giáo
kình địch Phật và Chúa. Thực tình thì hiến pháp ngày 1-4-1967 tạo dựng một định
chế nửa phần tổng thống, nửa phần đại nghị, đã có nhiều mặt tích cực và tiến bộ
về tự do dân chủ, đa nguyên đa đảng và địa phương phân quyền, thế nhưng quân đội
đã phủ lấp quốc gia nên thực trạng sinh hoạt chính trị không phải như hiến pháp
qui định. Mặt khác, để khắc phục sự trì trệ của thủ tục công vụ và tài chánh, từ
1964, người Mỹ đã giúp chính phủ Việt Nam Cộng Hòa lập thêm qui chế cán bộ để dễ
dàng tuyển dụng nhân viên, và thể thức chi tiêu "xây dựng nông thôn"
để các địa phương mau chóng thanh lý ngân khoản tại chỗ. Những qui chế nhân sự
và thể thức tài chánh này rất cần thiết cho việc thực hiện cấp kỳ những dự án
phát triển địa phương phục vụ dân sinh. Ngoài ra lại còn những quỹ ứng trước
ngoại ngân sách như Quỹ Tạm Ứng Bộ Chiêu Hồi, Quỹ Khẩn Hoang Lập Ấp Bộ Xã Hội
mà các bộ sở quan toàn quyền sử dụng không phải qua thủ tục chiếu hội. Các
chương trình tự túc phát triển xã, điện khí hóa nông thôn, người cày có ruộng,
khẩn hoang lập ấp, đã thực sự thay đổi bộ mặt nông thôn miền Nam; quang cảnh
trên đồng thì máy cày, dưới nước thì máy đuôi tôm cho thấy cuộc sống của người
dân quê thay đổi rõ rệt. Những sự kiện này biểu hiện thiện chí của người Mỹ. Có
điều đáng tiếc là người Mỹ không hề có ý định đánh bại cộng sản Bắc Việt, nhưng
lại quyết tâm đưa quân vào Nam Việt chỉ để tìm đáp số cho bài toán chiến tranh
nhân dân, và điều này làm cho cuộc chiến đấu của chính quyền miền Nam chống lại
sự xâm nhập của quân cán miền Bắc gặp phải thái độ thờ ơ của quần chúng nông
thôn và các giới nhân sĩ và trí thức thành thị. Trận Khe sanh 1967-1968 chứng
minh vũ khí, chứ không phải con người, là yếu tố quyết định trên chiến truờng;
chương trình bình định và phát triển 1969-1970 chứng minh thực trạng kinh tế,
chứ không phải lý luận ý hệ, là hấp lực hữu hiệu tranh thủ lòng người. Đó là
đáp số cho bài toán chiến tranh nhân dân. Tìm ra đáp số rồi thì người Mỹ lại quyết
tâm đưa quân ra khỏi Nam Việt, bỏ mặc nhân dân miền Nam tự lo liệu lấy thân,
trong lúc chính trường vô cùng rối rắm, Quân đội phủ lấp Quốc gia, từ Tổng Thống,
Thủ Tuớng và đa số Tổng Bộ Trưởng, đến Tư Lệnh Cảnh sát, Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng,
Trưởng Cuộc Cảnh sát quận và Ủy viên An ninh xã, thảy thảy đều là quân nhân. Tư
Lệnh vùng chiến thuật chỉ biết có Tổng Thống và cố vấn Mỹ, ngoài ra chẳng còn
kiêng nể ai, ngoại trừ Thủ Tướng vốn là Đại Tướng. Người của quân đội chia nhau
làm chủ đất nước, người tài trí đã hiếm hoi mà người tâm huyết thì hầu như vắng
bóng. Tóm lại, dân chủ và đa nguyên chỉ thấy viết ra trong hiến pháp. Trong thực
tế, nền Đệ nhị Cộng Hoà rõ ràng mang tính chất dân chủ nửa vời, chuyên chính và
quân phiệt. Quốc gia thời Đệ nhị Cộng Hòa hoàn toàn lệ thuộc người nước ngoài.
Nếu về phương diện chính trị và quân sự, Việt Nam Cộng Hòa lệ thuộc người Mỹ
thì về phương diện kinh tế, Việt Nam Cộng Hòa bị cộng đồng người Hoa khống chế.
Thực vậy, sau cái chết của Ngô Đình Diệm, cộng đồng người Hoa ở miền Nam sống
trở lại những ngày vàng son cũ thời Pháp thuộc, các bang hội lại được tự do hoạt
động, thi đua nhau xây cất chùa miếu, trường học, bệnh viện, tổ đình, hội quán,
và dân số đã gia tăng từ 800.000 người năm 1956 lên 2.200.000 người năm 1972. Thống
kê năm 1972 cho biết người Hoa chiếm lĩnh 80% thị trường hàng chế biến, 100%
ngành buôn sỉ, 50% ngành bán lẻ, 90% hàng hóa xuất nhập khẩu, và 80% tín dụng
ngân hàng. Người Hoa làm chủ hầu hết các cơ
sở kỹ nghệ tân tiến (3) và các đại tửu lầu, cung cấp 2/3 vốn đầu tư cho
toàn bộ nền kinh tế tư nhân của Việt Nam Cộng Hòa, xuất bản 10 nhật báo và 5 tuần
báo Hoa ngữ (4), điều hành một hệ thống trường học đầy đủ từ cấp 1 tới cấp 3 giảng
dạy bằng tiếng phổ thông (quan thoại) theo chương trình giáo dục của Đài Loan
(5). Người Hoa khai dụng tài nguyên và nhân lực của miền Nam, tuy đã tích cực
đóng góp vào sự phồn vinh của Việt Nam, nhưng người Hoa lại sống bên lề xã hội
Việt Nam, ở ngoài vòng pháp luật Việt Nam, không thi hành bổn phận công dân,
cũng không tuân thủ qui chế ngoại kiều. Người Hoa hủ hóa chính quyền để tự tung
tự tác bòn rút sức người sức của Việt Nam, tùy tiện ấn định giá cả hàng hóa, đã
đóng thuế cho Việt cộng lại còn triệt để chấp hành chỉ thị của phân bộ Quốc Dân
Đảng Trung Hoa tại Việt Nam (Hưng Trung Hội) chuyển tiền đều đặn về Đài Loan,
biến Việt Nam Cộng Hòa thành thuộc địa kinh tế.
Kết luận.
Chủ nghĩa quốc gia Việt Nam là một đề
tài rộng lớn. Bàn về chủ nghĩa quốc gia Việt Nam cần phải có nhiều pho sách,
không thể một vài bài tham luận mà có thể đề cập đến tất cả mọi khía cạnh của vấn
đề. Bởi vậy, bài này giới hạn việc phân tích chủ nghĩa quốc gia Việt Nam xuyên qua
các dữ kiện quan yếu trong lịch sử cận đại Việt Nam để nhận xét chính quyền nhìn từ
góc độ chủ thể được phục vụ.
Nói chung, từ quốc gia bao hàm hai ý
niệm cơ bản là cho toàn dân và trong cả nước. Như vậy, xuyên qua việc kiểm điểm
các dữ kiện lịch sử quan yếu, ta có một kết luận khá rõ rệt là các chế độ chính
quyền xưa nay tại Việt Nam chưa bao giờ thực sự phục vụ đúng đối tượng, hay nói
một cách khác, chủ thể phục vụ của các chính quyền Việt Nam xưa nay chưa bao giờ
thực sự là quốc dân Việt Nam, là quốc gia Việt Nam cả. Tuy cũng đã từng có những
nhà lãnh đạo tài giỏi và đức độ biết lấy dân làm gốc, quán triệt tư tưởng của Mạnh
tử: ‘Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh’, như các vua nhà Lý biết thương
dân như con đẻ, Đoan Quận công biết chăm lo cho dân Thuận Quảng được an lạc,
ngoài đường không ai nhặt của rơi, ban đêm không nhà nào cài cửa; nhưng nhìn
chung, đã chuyên chính thì không thể nào có quyền lợi đồng đều cho tất cả mọi
người trong cả nước, đã chuyên chính thì có tệ doan đặc quyền đặc lợi cho thiểu
số có quyền. Muốn cho chủ thể được phục vụ đúng là quốc dân Việt Nam, là quốc
gia Việt Nam, thì chính quyền phải thực sự thuộc về toàn dân, nghĩa là phải có
dân chủ. Quốc gia phải là tối thượng, quốc gia đứng trên hết, đứng trên nhà nước,
đứng trên đảng phái, đứng trên tôn giáo, đứng trên quân đội, đứng trên thần
linh (6).
Tháng
5, 1999
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Ghi chú:
(1). Dưới Triều Nguyễn có các trường thi Hương sau đây:
Trường Hà (Hà Nội), Trường Nam (Nam Định), Trường Nghệ (Vinh), Trường Thừa
(Huế), Trường Bình Định, và Trường Gia Định (Sài Gòn).
(2). Nam Kỳ là thuộc địa
Pháp, theo luật Pháp, tiêu tiền Đông Dương. Trung Kỳ và Bắc Kỳ là Bảo hộ, ngoài
đồng bạc Đông Dương còn tiêu tiền của Nam Triều, một quan ăn 600 đồng, nhưng từ
Thanh Hóa vào nam thì dùng tiền đồng, từ Ninh Bình trở ra thì dùng tiền kẽm.
Ngoài ra, Trung Kỳ và Bắc Kỳ áp dụng những bộ luật hình và luật hộ khác nhau.
(3)
Vinatexco, Vinatéfilco, Vimitex, Donafitex (hàng dệt); Vicasa (cán sắt);
Viso (bột giặt); Sakimco (cán thép); Vị Hương Tố (bột ngọt); Hynos, Perlon,
Leyna (kem đánh răng); Viễn Đông (phim ảnh); Con Ó (pin); Sakybomi (bột mì).
(4) Nhật báo buổi sáng: Viễn
Đông, Thế Giới, Đại Hạ, Á Châu, Luận Đàm, Trung Quốc, Dân Tinh, Quần Thanh.
Nhật báo buổi chiều: Vạn Quốc vãn báo, Việt Hoa vãn báo.
Tuần
báo: Quang Hạ, Trung Nam,
Hoa Nam,
Cầu Cầu, Du Lạc.
(5) Trường học Hoa Kiều:
Trường cấp 1: Thánh Tâm, Dật Tiên,
Trung Chánh, Sanh Huy, Pháp Vân, Sùng Mãn, Nam Hải, Đức Trí, Khoan Tánh, Dương
Minh, Nghĩa An, Trung San, Sùng Hoa.
Trường cấp 2 và 3: Quảng
Đông Chợ Lớn, Quảng Đông Sài Gòn, Phúc Kiến, Nghĩa An, Sùng Chính, Trí Dũng,
Sanh Chí, Quốc Dân, Lĩnh Nam, Chí Sanh, Nam Dương.
Trường
tỉnh: Hệ thống các trường Tân Sanh tại các tỉnh lẻ.
(6) Thí dụ: Nếu cùng có mặt cùng
một lúc ở cùng một địa điểm, thì quốc kỳ là chính, đảng kỳ là phụ; quốc kỳ là
chính, giáo kỳ là phụ; quốc kỳ là chính, quân kỳ, hiệu kỳ là phụ; bàn thờ Tổ quốc
là chính, bàn thờ thần linh, bàn thờ tổ tiên là phụ.
PHAN KHÔI * ÔNG NĂM CHUỘT
ÔNG NĂM CHUỘT
Phan Khôi
Hồi tôi còn 14 tuổi, 15 tuổi, thì đã nghe người làng nói nhiều về cái tên Năm Chuột. Về gốc gác của hắn, chỉ thấy nói là người làng Kỳ Lam, cái làng ở phía Bắc làng tôi, cách một con sông, về sau có cái ga xe hỏa gọi là ga Kỳ Lam, còn mọi sự khác không biết rõ. Hình như hắn cũng không có nhà cửa, cha mẹ, vợ con gì ở làng. Hắn làm thợ bạc, quanh năm đi làm nghề ở các nơi, nhất là các nơi đô hộ, như Huế, Ðà Nẵng, Hội An.
Họ nói Năm Chuột là thợ bạc khéo nhất đời, ở Huế có nhiều thợ bạc danh tiếng cũng phải chịu thua. Nhưng lại nói hắn tổ làm đồ vàng giả, mỗi khi được gọi đến nhà làm đồ nữ trang cho người ta, nhà chủ dù ngồi cạnh một bên, hắn cũng cứ tráo bạc, tráo đồng vào, lấy vàng ra, không làm sao biết được. Bởi vậy cả vùng quê chúng tôi, những nhà giàu có, vốn biết Năm Chuột là thợ khéo, nhưng không ai dám thuê hắn làm việc gì về cái nghề của hắn cả. Nhiều người còn nói Năm Chuột đúc súng, đúc bạc giả được. Mỗi khi nói điều ấy, họ làm ra vẻ bí mật, hình như họ có ý ngờ cho Năm Chuột định làm một việc gì lớn, “làm giặc” chẳng hạn.
Nhưng không biết thế nào, người ta lại cho Năm Chuột là kẻ nói láo nói phét, vào cái hạng “mười voi không được bát nước xáo” tức là mắng người ấy đã lại nói láo nói phét rồi, có khi chỉ dùng độc một chữ: Chuột quá tức là láo quá.
Lúc bấy giờ tôi đang đi học ở những nơi cách xa làng, mỗi khi về làng, lại thỉnh thoảng nghe người ta nói chuyện về Năm Chuột như thế, như thế, tôi cũng chỉ nghe làm tai mà thôi, không để ý mấy. Mà hẳn thế, cậu cả con quan phủ, học giỏi có tiếng, đang lo xôi kinh nấu sử để khoa tới đây đỗ thủ-khoa, không thì cũng cử-nhân năm tên trở lên, việc gì mà phải để ý đến chuyện một anh thợ bạc.
Năm hai mươi tuổi, tôi thi đỗ tú tài - quái lạ, sao lại đỗ tú tài ? - về nhà, cách mấy hôm thì tôi đi về làng Xuân Ðài thăm bà ngoại tôi và cậu tôi. Ở ăn một bữa cơm trưa, đến xế chiều, tôi cáo về thì vừa có một người đến. Người trạc dưới bốn mươi tuổi, mặt trẹt, nước da xanh xám, mắt sáng, miệng rộng, hai môi trề ra, hàm và cằm như nguyên không có râu, không phải cạo, người thấp song cũng không thấp lắm, đầu trọc, quấn cái khăn vải đen, áo cộc cúc giữa, quấn đến đầu gối, chân mang dép da sống.
Người ấy lúc vào đến cửa, hai tay cắp cái nón lá ngang ngực cúi chào cậu tôi, khi bỏ cái nón lá ra, mới thấy trong tay còn cầm một cái nữa mà sau này tôi mới biết đó là cái dọc tẩu. Nó là cái ống tròn mà dài, thấy thoáng như có khảm xà cừ và bịt bạc, bịt vàng gì đó. Cậu tôi như chào như không phải chào:
- Anh Năm phải không?
- Dạ, lâu lắm, có thể quan lớn quên tôi.
Tôi nguyên đã cáo về rồi, cho nên dù có gặp một người khách mới vào hơi lạ như thế cũng cứ việc ra về. Không ngờ khi tôi ra khỏi cổng, lên đường về mới một chặng, nghe có người chạy theo đằng sau gọi tôi đứng lại, thì ra là người thấy lúc nãy. Anh ta tự giới thiệu:
- Tôi là Năm Chuột đây.
Rồi đột ngột hỏi tôi:
- Nghe nói cậu đậu Tú Tài mà cậu khóc, có phải không? Giả sử cậu được đậu thủ-khoa thì cậu làm nên cái trò trống gì?
Một gáo nước lạnh xối vào xương sống! Tôi bẽn lẽn ấp úng, cười hì hì không trả lời được. Bởi vì cái lẽ anh ta nói đó tôi cũng có nghĩ tới, nhưng không đi thi thì thôi, đã đi thi thì lại muốn đậu to. Thế rồi Năm Chuột đi cùng đường với tôi, vừa đi vừa nói chuyện. Anh ta có đưa cái dọc tẩu lên, nói với tôi:
- Ông cậu của cậu thật là keo quá, cái dọc-tẩu thế này mà cầm trả có 5 đồng bạc.
- Hoặc giả cậu tôi không có nhiều tiền chăng?
Tôi nói cho có nói, chứ không có ý gì cả. Nhưng anh ta cãi phăng:
- Quan lớn hồi xưa (chỉ ông ngoại tôi) làm đến Tổng đốc Hà Nội vừa chi, mà không có tiền lợp nổi cái nhà của ông bà để lại đã tróc ngói ; còn ông phủ (chỉ cậu tôi) mới làm Tri-phủ có 3 năm về “chung dưỡng”, mua được những mươi mẫu ruộng, tôi biết là hạng đất tốt nhất, thế sao nói là không có nhiều tiền?
Tôi thấy cái điều anh ta nói đó hình như đúng, tôi làm thinh. Bỗng dưng anh ta cất tiếng cười một cách rất xỏ lá, rồi nói tiếp:
- Ai có đời, cha chết vì đánh Tây mà con trở đi làm quan với Tây!
Nghe câu này tôi cảm động quá. Tôi không dám chống lại ý anh ta, chỉ nói như vớt vát một ít:
- Thấy bà ngoại tôi kể chuyện, lúc ông ngoại tôi mất rồi thì cảnh nhà sa sút quá đỗi, nếu cậu tôi không làm như thế thì đến lụn bại mất.
Anh ta bĩu môi, cái môi đã trề rồi, còn bĩu nữa, rất khó coi:
- Ra chỉ có làm quan mới cứu vãn được nghiệp nhà. Thế thì bao nhiêu người không làm quan, họ đều đi ăn mày hết.
Tôi lại làm thinh. Ngừng một lúc, anh ta nói tiếp:
- Hèn chi mà quan lớn chết ở Hà Nội năm Ngọ, năm Dậu thất thủ kinh đô, Nghĩa-hội nổi lên đánh Tây, năm Hợi, Tây kéo lên đóng đồn ở chùa Phi Phú, thì ông cậu của cậu đã làm bang tá trong cái đồn ấy. Ðể làm gì? Cậu có biết không? Ðể đàn áp Nghĩa-hội.
Những chuyện ấy, thầy mẹ tôi có kể cho tôi nghe hồi còn nhỏ, tôi biết cả, nhưng tảng lờ nói:
- Tháng tám năm Hợi, mẹ tôi mới đẻ tôi ra, tôi làm gì biết được những chuyện ấy?
Anh ta lại cười, nhưng không xỏ lá, nhìn vào mặt tôi:
- Thấy người ta nói cậu thông minh, nói chuyện với cậu, tôi cũng thấy cậu thông minh thật.
Thình lình anh ta nhảy mũi dặp hai ba cái, lấy khăn lau nước mũi cả nước mắt nữa, rồi nói thêm:
- Như tôi, (anh ta lấy tay phải ấn vào ngực) ghiền thuốc phiện cho đáng, chứ ông cậu của cậu mà cũng hút thì hết thảy những người nghiện chúng tôi đều phải lấy làm lạ.
- Sao vậy?
- Quan lớn hồi xưa có cùng mấy ông em lập một bản “gia ước”, trong đó có một điều cấm con cháu hút thuốc phiện, nếu phạm thì trừng trị bằng những cách nào đó. Thế mà dám phạm. Ðủ biết con người của ông cậu của cậu là vậy đó: cái gì cũng làm nghịch lại với cha.
Cái “gia ước” mà anh ta nói đây, tôi không hề biết, vì không hề nghe ai nói tới. Nhưng tôi nghĩ, nếu đúng như thế, thì anh ta nói cũng có lý. Tôi lại làm thinh. Ðây đã đến chỗ con đường rẽ vào nhà tôi, tôi đứng lại, nói mấy lời từ biệt. Năm Chuột nắm lấy tay tôi và nói:
- Tôi nói nãy giờ có làm mếch lòng cậu không ? ở đời có thiếu gì chuyện nói, hà tất tôi gặp cậu lần đầu phải nói để làm mếch lòng cậu, nhưng tình cờ gặp câu chuyện đáng nói thì cứ nói.
Rồi anh ta tỏ ý mong gặp tôi lần khác. Tôi vừa đi về nhà vừa nghĩ, “À, ra Năm Chuột là con người như thế đấy”. Là một anh thợ bạc, sao lại nói được những điều như thế, tôi lấy làm lạ.
Tối hôm ấy, tôi đem cả câu chuyện Năm Chuột nói với tôi kể lại cho thầy tôi nghe. Thầy tôi bảo:
- Cái thằng láo đến thế là cùng!
- Nhưng những điều hắn nói, con thấy như cũng có cái đúng.
Tôi rón rén thưa lại.
- Ðúng kia à? Mặc dầu đúng chăng nữa, cái hạng thằng Năm Chuột mà lại được nói thế à?
Thấy thầy tôi nói hơi xẵng , tôi làm thinh. Một chặp tôi mới dịu giọng hỏi:
- Cái “gia ước” ông ngoại lập ra mà Năm Chuột nói đó, thầy có biết không?
- Tao không biết. Thấy nói sự cấm hút ấy ở nhà Ðông Bàn (nhà quan thượng Phạm Phú Thứ) thì có, còn nhà Xuân Tài, tao không nghe.
Ðến lúc tắt đèn,
đi ngủ rồi, thầy tôi còn nói một mình:
- Cái thằng láo quá!
Ðó về sau hơn 10 năm, tôi không gặp lại Năm Chuột lần nào. Chừng vào khoảng 1920, một lần tôi ở Hà Nội về nhà, thấy người ta nói Năm Chuột bây giờ lập gia đình ở ngụ tại làng tôi, tôi bỗng có cảm giác như là một vật gì mình đã bỏ quên đi mà bây giờ thấy lại.
- Cái thằng láo quá!
Ðó về sau hơn 10 năm, tôi không gặp lại Năm Chuột lần nào. Chừng vào khoảng 1920, một lần tôi ở Hà Nội về nhà, thấy người ta nói Năm Chuột bây giờ lập gia đình ở ngụ tại làng tôi, tôi bỗng có cảm giác như là một vật gì mình đã bỏ quên đi mà bây giờ thấy lại.
Làng tôi có một chỗ
gọi là Cồn Mũi Gươm, có một vạt
đất gọi là đất Chó ỉa, theo lời thì
Năm Chuột đã xin làm cái túp tranh trên vạt
đất ấy, và cưới vợ là con gái quá lứa
của một nhà có môn bài bán rượu và thuốc
phiện cũng ở làng tôi. Hắn vẫn
làm thợ bạc.
Một hôm tôi đến thăm, thấy trong nhà chỉ có một căn ván nhỏ, trên đặt cái bàn đèn, một cái buồng che phên tre, ngoài ra là cái lò bễ bạc để ngay chỗ cửa ra vào. Bấy giờ gần đến Tết, trời hơi lạnh, hắn ở trần, ngồi cạnh cái lò bễ đang hơ cả người trên lửa. Hắn xin lỗi tôi và nói:
- Người ta tắm bằng nước, nhưng tôi quanh năm tắm bằng lửa. Hơ thế này cho đổ mồ hôi ra, kỳ sạch ghét, thì cũng chẳng khác tắm bằng nước.
Hắn mời tôi ngồi trên ván, tôi không ngồi, ngồi trên cái đòn kê đặt ở đất gần lò bễ, chỗ sắm cho bạn hàng ngồi xem hắn làm việc. Anh ta không tắm nữa, mặc áo vào, cho than thêm vào lò bễ, bắc ấm nước lên, rồi gọi vợ súc cái bình tích trà hãm đi, cho trà khác vào, pha nước mời tôi uống và sưởi lửa, cũng nói chuyện. Lần này anh ta gọi tôi bằng ông, nói rằng:
- Mười năm về trước tôi mong lại gặp ông mà không được gặp, lần này gặp, tôi không có chuyện nói.
- Ông mà thiếu gì chuyện, như chuyện nói với tôi năm nọ khi đi đường từ Xuân Ðài đến Bảo An.
Anh ta đưa tay lên khoát khoát, nói thật nhanh:
- Thôi thôi, đã lâu nay tôi không còn nói những chuyện như thế nữa. Nói không có người nghe mà còn có hại. Giá tôi còn cứ nói cái lối đó thì không thể nào lấy vợ và lập gia cư ở làng ông được.
Tôi nói:
- Ðã thế thì đến phiên tôi. Trước kia ông không sợ mếch lòng tôi, thì bây giờ tôi cũng không sợ mếch lòng ông mà hỏi ông một vài điều.
Anh ta cười một cách thẳng thắn.
- Ðược lắm, những nhà giàu làng tôi họ đều nói ông hay ăn cắp vàng nên họ không dám thuê ông làm cái gì hết, bây giờ ông vác lò bễ đến đây làm gì?
Anh ta lại cười, nói dằn từng tiếng:
- Sở dĩ tôi ở đây là vì có thể chữa đồng hồ, xe đạp, bút máy, khóa tây, nội những việc đó đủ cho tôi làm hàng ngày rồi, còn sự làm đồ vàng bạc thì chỉ thỉnh thoảng mới có.
- Nhưng tôi muốn biết ông quả có ăn cắp vàng không? Và ăn cắp như thế nào?
Anh ta lại cười một cách xỏ lá:
- Thứ ăn cắp mà kể gì ? Có những kẻ ăn cướp thì không ai nói đến. Tôi có ăn cắp vàng thật đấy, nhưng cũng tùy chỗ tùy người, ở làng Bảo An đây thì tôi không thèm.
Rồi anh ta thuật lại chuyện ăn cắp vàng cho tôi nghe:
- Năm Thành Thái thập nhị, ông Nguyễn Hữu Thẳng làm Tổng đốc tỉnh ta, cô hầu ông ấy gọi là cô Hóa Mộc, tuy cô hầu mà oai quyền như bà lớn. Một hôm, tôi được trát đòi đến, lính bẩm báo rồi dắt vào nhà trong. Cô ta muốn tôi ở lại đây làm cho cô một đôi vòng chạm y như đôi cô có sẵn, và hỏi tôi có thể làm được không. Tôi nói “được”, và xin cho xem đôi vòng chạm sẵn có của cô. Cô ta mở tủ lấy ra, toan trao cho tôi. Tôi có 1 vuông lụa trắng tinh khiết bỏ sẵn trong túi, bèn lấy lót trên bàn tay, rồi mới nhận lấy đôi vòng tự tay cô đặt lên vuông lụa. Tôi đem ra chỗ sáng, cô đi theo. Tôi nhắc nhắc xem thử đôi vòng nặng bao nhiêu, và cầm tuổi vàng cho thật đúng, ngắm xem những nét chạm cho thật đâu ra đó, còn vặn chỗ cái cổ ra coi thử có chữ hay dấu hiệu gì không. Xong rồi, tôi trả đôi vòng lại và nói: “Bẫm bà lớn, đôi vòng này khéo lắm, chỗ cổ vặn ra vặn vô của nó có khắc cái chữ, bà lớn có để ý không?”. Cô ta nói: “Tôi biết, nó là chữ “ngọc”. Tôi nói: “Con có thể làm đúng y như thế, nhưng hôm nay con có việc riêng, không ở lại được, mười ngày nữa con xin đến làm hầu bà lớn, không dám sai hẹn”. Cô ta đồng ý.
Nói đến đây, anh ta nổi ngáp một ngoi đôi ba cái, rồi xin lỗi tôi cho lên ván đốt đèn hút mấy điếu, và mời tôi nằm đối diện nghe nói tiếp.
- Tôi về nhà, cầy cục làm mất sáu bảy ngày mới xong một đôi vòng cốt giả mạ vàng. Ðáng lẽ làm bằng đồng thì được lợi nhiều hơn nhưng vì có chạm phải làm bằng bạc. Thành khi rồi, xem tuổi vàng nét chạm cho đến cái chữ ở trong đều y hệt như đôi vòng của cô Hóa Mộc, đem mà đánh tráo, có thánh cũng không biết...
Tôi ngắt:
- Ðành rằng ông làm 1 cái rất giống, còn như đồng cân của đôi vòng, tức là sức nặng của nó, ông biết là bao nhiêu mà làm cho đúng được?
- Ấy thế mới là tài. Anh ta cười híp mắt mà không ra tiếng. Chính ăn người là ở chỗ đó. Bất kỳ thử kim khí gì, tôi nhắc nhắc trên tay khắc đồng cân của nó đúng không sai. Chẳng tin, ông tháo cái dây chuyền đồng hồ đưa đây xem.
Tôi tháo ngay cái dây chuyền để trước mặt anh ta. Kéo xong điếu thuốc anh ta đằng hắng một cái, ngồi dậy, cầm dây chuyền trên nhắc nhắc một cái rồi đứng dậy đi lấy cái cân tiểu-ly đưa cho tôi, nói quả quyết:
- Ông biết mặt cân chứ ? Cân xem. Cái dây chuyền này nếu nó là vàng thì nó nặng hơn, nhưng nó là đồng mạ vàng cho nên nó chỉ có ba chỉ tám.
Tôi cân, quả thật, ba chỉ tám hơi yếu một chút, song đem vao chỗ ba chỉ thì hơi vát. Tôi kêu lên:
- Thế thì tài thật. Xin chịu.
Anh ta lại nói:
- Còn một chỗ bí quyết nữa. Ông biết, vàng nặng hơn các thứ kim khí khác, nghĩa là vàng, bạc, đồng, chì cùng một thể tích thì lượng của vàng phải nhiều hơn. Vậy thì mình muốn cho đồng cân của đôi vòng giả bằng đôi vòng thật, mà cái vóc của nó cũng chỉ bằng đôi vòng thật, không to hơn, thế mới là khó. Nhưng cái đó có thực hành mới cắt nghĩa được, nói bằng miệng sợ ông cũng không hiểu.
Nghỉ một lát anh ta kể tiếp đến cuộc đánh tráo:
- Ðúng 10 ngày tội lại đến. Hai bên thỏa thuận với nhau về điều kiện làm việc rồi, cô ta mở tủ lấy đôi vòng và vàng diệp ra đặt trên sạp, rồi gọi tôi đến đứng bên cạnh xem cô cân. Cân đôi vòng nặng một lạng hai - tôi chắc dạ lắm, vì đôi vòng giả của tôi cũng đúng một lạng hai - cho nhích một chút, định giao cả cho tôi. Tôi chưa nhận, xin cho xem đôi vòng đã. Cô ta đứng dậy cầm bó vàng diệp cả chỗ một lạng hai cất vào tủ. Trong lúc đó tôi lấy đôi vòng giả ra đặt trên bàn tay trái, đậy vuông lụa trắng lên trên. Khi cô ta quay ra đưa đôi vòng cho tôi, tôi chìa bàn tay có vuông lụa trắng ra nhận lấy cũng như lần trước. Tôi đi ra chỗ sáng ngồi xuống làm bộ xem lại đôi vòng, cô ta cũng đi theo. Xem xong tôi đứng lên. Cô ta sấp lưng đi về chỗ sập. Tôi đi sau, lật cả vòng và vuông lụa từ bàn tay trái qua bàn tay phải, thành ra đôi vòng giả nằm trên, cứ thế mà trả lại cho cô ta, và tôi gấp nhanh vuông lụa có đôi vòng thật ở trong mà bỏ vào túi. Cô ta hỏi: “Chứ chú thợ không giữ lấy để làm mẫu à?”. Tôi nói:”Bẫm bà lớn, con xem hai lần như thế đủ rồi, xin bảo đảm làm thật đúng”. Cô ta khen: “Hèn chi mà nổi tiếng là thợ khéo. Tôi nhờ ông Phủ Ðiện viết trát đòi chú là vì có bà Phủ mách miệng”. Bấy giờ chừng mười giờ sáng, tôi xin đi ra mua thuốc phiện rồi trở lại nhận vàng diệp bắt đầu làm. Ra đến chợ Vĩnh Ðiện, tôi đem đôi vòng chạm vàng mười chính hiệu của “bà lớn” gửi cho một người anh em “đồng đạo”. Tôi không quên câu tục ngữ: “Có gian phải có ngoan”.
- Ông ăn cắp chỉ có thế, hay là lúc trở lại làm còn ăn cắp nữa? Tôi hỏi.
- Không, tôi dại gì mà ăn cắp nữa. Trong những ngày làm, cô ta ngồi giữ một bên, không phải vì thế mà tôi không ăn cắp được, có điều tôi đã định bụng không ăn cắp. Khi làm xong, tôi hỏi muốn khắc chữ gì. Cô ta ngẫm nghĩ rồi bảo: “ Tôi là người Hóa Mộc, khắc chữ “mộc” cho tôi”. Tôi khôn ở chỗ đó. Bởi vì hai đôi vòng giống nhau như hệt, có khắc chữ khác nhau đễ làm dấu thì mai sau đôi giả có xì ra, hắn mới không có thể ngờ được là đôi do tay tôi làm. Cho đến bây giờ tôi cũng còn ân hận là, như thế, sẽ làm cho ông bạn đồng nghiệp nào của tôi đã làm cho hắn đôi vòng thật đó hóa ra là người bất lương thiện, nhưng ông tính, đã giết người ai còn gớm chảy máu.
- Ông làm cái việc như thế có nhiều lần không ? Kể ra cũng không ít. Nhưng tôi đều ăn cắp ở bọn ăn cướp như Tổng Ðốc, Bố Chánh, án Sát, Phủ, Huyện, chính cái bà Phủ nói lúc nãy đã mất với tôi mấy lạng vàng mà không biết, đi “mách miệng” cho người khác. Những việc như thế tôi cũng chẳng dấu, cứ hay đem nói với người ta cũng như nói với ông đây, cho nên mang tiếng, chứ thuở nay đã có ai bắt được tôi ăn cắp đâu.
Hỏi đến sự đúc súng, làm bạc giả, anh ta bảo:
- Ta có nấu sắt được đâu mà đúc súng? Nhưng chữa súng thì có. Hồi tôi ở Ðà Nẵng, các thứ súng liệt máy của Tây thường đem thuê tôi sửa. Bạc giả thì tôi có làm, nhưng tính ra không có lợi gì mấy, về sau tôi không làm nữa.
Năm Chuột còn nói cho tôi nghe về tính chất của các thứ loài kim và phép hợp kim, như đồng và kẽm, mỗi thứ bao nhiêu, hợp nhau thành ra thứ gì, đồng và thiếc bao nhiêu, hợp nhau thì thành ra thứ gì, nghe ra thông thạo như người có học chuyên môn. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi:
- Ông có học với thầy nào mà biết được những điều ấy là những điều mà các thợ bạc khác hầu như không biết?
Anh ta vùng ngồi dậy, cười, ra điều đắc ý, vỗ vào đùi tôi:
- Xưa nay mới có một người hỏi tôi câu ấy, là ông! Tôi chẳng học với thầy nào hết, tôi chỉ đọc có 1 cuốn sách là cuốn Kim Thạch chí-biệt.
Tôi sửng sốt, nghĩ bụng: té ra anh này còn biết chữ nữa kìa. Cái tên sách ấy tôi chưa hề nghe, cũng không dám ngờ là anh ta bịa đặt. Một hôm khác tôi hỏi thầy tôi có biết cuốn Kim-Thạch Chí Biệt không, thầy tôi cũng chịu không biết, và hỏi tôi nghe ở đâu, tôi kiếm đường nói trớ, chứ không dám nói nghe ở Năm Chuột. Cho mãi đến gần nay, đọc Lỗ Tấn toàn tập, tôi mới thấy trong đó có nhắc đến tên cuốn sách ấy. Tôi nghĩ mà lấy làm thẹn, sao mình đã không biết mà lúc bấy giờ không hỏi ngay anh ta, chỉ vì nghĩ mình là người học thức viết báo viết biếc, mà tỏ cái dốt trước mặt một anh thợ bạc thì ê quá.
Ðó về sau mấy năm, mỗi năm tôi ở Hà Nội hoặc Saigon về thăm nhà, đều có đến với anh ta. Anh ta còn in trong đầu tôi mấy câu chuyện lý thú và bất ngờ nữa.
*
Năm Chuột từng nói với tôi rằng từ rày anh ta không nói những chuyện như đã phê bình cậu tôi một cách không nể nang, nhưng rồi lại chứng nào tật ấy, vẫn không cải nết. Một lần, phê bình nhân vật làng tôi, anh ta chê ông Tú nọ dốt, ông Bá kia keo kiệt, cuối cùng anh ta nói:
Một hôm tôi đến thăm, thấy trong nhà chỉ có một căn ván nhỏ, trên đặt cái bàn đèn, một cái buồng che phên tre, ngoài ra là cái lò bễ bạc để ngay chỗ cửa ra vào. Bấy giờ gần đến Tết, trời hơi lạnh, hắn ở trần, ngồi cạnh cái lò bễ đang hơ cả người trên lửa. Hắn xin lỗi tôi và nói:
- Người ta tắm bằng nước, nhưng tôi quanh năm tắm bằng lửa. Hơ thế này cho đổ mồ hôi ra, kỳ sạch ghét, thì cũng chẳng khác tắm bằng nước.
Hắn mời tôi ngồi trên ván, tôi không ngồi, ngồi trên cái đòn kê đặt ở đất gần lò bễ, chỗ sắm cho bạn hàng ngồi xem hắn làm việc. Anh ta không tắm nữa, mặc áo vào, cho than thêm vào lò bễ, bắc ấm nước lên, rồi gọi vợ súc cái bình tích trà hãm đi, cho trà khác vào, pha nước mời tôi uống và sưởi lửa, cũng nói chuyện. Lần này anh ta gọi tôi bằng ông, nói rằng:
- Mười năm về trước tôi mong lại gặp ông mà không được gặp, lần này gặp, tôi không có chuyện nói.
- Ông mà thiếu gì chuyện, như chuyện nói với tôi năm nọ khi đi đường từ Xuân Ðài đến Bảo An.
Anh ta đưa tay lên khoát khoát, nói thật nhanh:
- Thôi thôi, đã lâu nay tôi không còn nói những chuyện như thế nữa. Nói không có người nghe mà còn có hại. Giá tôi còn cứ nói cái lối đó thì không thể nào lấy vợ và lập gia cư ở làng ông được.
Tôi nói:
- Ðã thế thì đến phiên tôi. Trước kia ông không sợ mếch lòng tôi, thì bây giờ tôi cũng không sợ mếch lòng ông mà hỏi ông một vài điều.
Anh ta cười một cách thẳng thắn.
- Ðược lắm, những nhà giàu làng tôi họ đều nói ông hay ăn cắp vàng nên họ không dám thuê ông làm cái gì hết, bây giờ ông vác lò bễ đến đây làm gì?
Anh ta lại cười, nói dằn từng tiếng:
- Sở dĩ tôi ở đây là vì có thể chữa đồng hồ, xe đạp, bút máy, khóa tây, nội những việc đó đủ cho tôi làm hàng ngày rồi, còn sự làm đồ vàng bạc thì chỉ thỉnh thoảng mới có.
- Nhưng tôi muốn biết ông quả có ăn cắp vàng không? Và ăn cắp như thế nào?
Anh ta lại cười một cách xỏ lá:
- Thứ ăn cắp mà kể gì ? Có những kẻ ăn cướp thì không ai nói đến. Tôi có ăn cắp vàng thật đấy, nhưng cũng tùy chỗ tùy người, ở làng Bảo An đây thì tôi không thèm.
Rồi anh ta thuật lại chuyện ăn cắp vàng cho tôi nghe:
- Năm Thành Thái thập nhị, ông Nguyễn Hữu Thẳng làm Tổng đốc tỉnh ta, cô hầu ông ấy gọi là cô Hóa Mộc, tuy cô hầu mà oai quyền như bà lớn. Một hôm, tôi được trát đòi đến, lính bẩm báo rồi dắt vào nhà trong. Cô ta muốn tôi ở lại đây làm cho cô một đôi vòng chạm y như đôi cô có sẵn, và hỏi tôi có thể làm được không. Tôi nói “được”, và xin cho xem đôi vòng chạm sẵn có của cô. Cô ta mở tủ lấy ra, toan trao cho tôi. Tôi có 1 vuông lụa trắng tinh khiết bỏ sẵn trong túi, bèn lấy lót trên bàn tay, rồi mới nhận lấy đôi vòng tự tay cô đặt lên vuông lụa. Tôi đem ra chỗ sáng, cô đi theo. Tôi nhắc nhắc xem thử đôi vòng nặng bao nhiêu, và cầm tuổi vàng cho thật đúng, ngắm xem những nét chạm cho thật đâu ra đó, còn vặn chỗ cái cổ ra coi thử có chữ hay dấu hiệu gì không. Xong rồi, tôi trả đôi vòng lại và nói: “Bẫm bà lớn, đôi vòng này khéo lắm, chỗ cổ vặn ra vặn vô của nó có khắc cái chữ, bà lớn có để ý không?”. Cô ta nói: “Tôi biết, nó là chữ “ngọc”. Tôi nói: “Con có thể làm đúng y như thế, nhưng hôm nay con có việc riêng, không ở lại được, mười ngày nữa con xin đến làm hầu bà lớn, không dám sai hẹn”. Cô ta đồng ý.
Nói đến đây, anh ta nổi ngáp một ngoi đôi ba cái, rồi xin lỗi tôi cho lên ván đốt đèn hút mấy điếu, và mời tôi nằm đối diện nghe nói tiếp.
- Tôi về nhà, cầy cục làm mất sáu bảy ngày mới xong một đôi vòng cốt giả mạ vàng. Ðáng lẽ làm bằng đồng thì được lợi nhiều hơn nhưng vì có chạm phải làm bằng bạc. Thành khi rồi, xem tuổi vàng nét chạm cho đến cái chữ ở trong đều y hệt như đôi vòng của cô Hóa Mộc, đem mà đánh tráo, có thánh cũng không biết...
Tôi ngắt:
- Ðành rằng ông làm 1 cái rất giống, còn như đồng cân của đôi vòng, tức là sức nặng của nó, ông biết là bao nhiêu mà làm cho đúng được?
- Ấy thế mới là tài. Anh ta cười híp mắt mà không ra tiếng. Chính ăn người là ở chỗ đó. Bất kỳ thử kim khí gì, tôi nhắc nhắc trên tay khắc đồng cân của nó đúng không sai. Chẳng tin, ông tháo cái dây chuyền đồng hồ đưa đây xem.
Tôi tháo ngay cái dây chuyền để trước mặt anh ta. Kéo xong điếu thuốc anh ta đằng hắng một cái, ngồi dậy, cầm dây chuyền trên nhắc nhắc một cái rồi đứng dậy đi lấy cái cân tiểu-ly đưa cho tôi, nói quả quyết:
- Ông biết mặt cân chứ ? Cân xem. Cái dây chuyền này nếu nó là vàng thì nó nặng hơn, nhưng nó là đồng mạ vàng cho nên nó chỉ có ba chỉ tám.
Tôi cân, quả thật, ba chỉ tám hơi yếu một chút, song đem vao chỗ ba chỉ thì hơi vát. Tôi kêu lên:
- Thế thì tài thật. Xin chịu.
Anh ta lại nói:
- Còn một chỗ bí quyết nữa. Ông biết, vàng nặng hơn các thứ kim khí khác, nghĩa là vàng, bạc, đồng, chì cùng một thể tích thì lượng của vàng phải nhiều hơn. Vậy thì mình muốn cho đồng cân của đôi vòng giả bằng đôi vòng thật, mà cái vóc của nó cũng chỉ bằng đôi vòng thật, không to hơn, thế mới là khó. Nhưng cái đó có thực hành mới cắt nghĩa được, nói bằng miệng sợ ông cũng không hiểu.
Nghỉ một lát anh ta kể tiếp đến cuộc đánh tráo:
- Ðúng 10 ngày tội lại đến. Hai bên thỏa thuận với nhau về điều kiện làm việc rồi, cô ta mở tủ lấy đôi vòng và vàng diệp ra đặt trên sạp, rồi gọi tôi đến đứng bên cạnh xem cô cân. Cân đôi vòng nặng một lạng hai - tôi chắc dạ lắm, vì đôi vòng giả của tôi cũng đúng một lạng hai - cho nhích một chút, định giao cả cho tôi. Tôi chưa nhận, xin cho xem đôi vòng đã. Cô ta đứng dậy cầm bó vàng diệp cả chỗ một lạng hai cất vào tủ. Trong lúc đó tôi lấy đôi vòng giả ra đặt trên bàn tay trái, đậy vuông lụa trắng lên trên. Khi cô ta quay ra đưa đôi vòng cho tôi, tôi chìa bàn tay có vuông lụa trắng ra nhận lấy cũng như lần trước. Tôi đi ra chỗ sáng ngồi xuống làm bộ xem lại đôi vòng, cô ta cũng đi theo. Xem xong tôi đứng lên. Cô ta sấp lưng đi về chỗ sập. Tôi đi sau, lật cả vòng và vuông lụa từ bàn tay trái qua bàn tay phải, thành ra đôi vòng giả nằm trên, cứ thế mà trả lại cho cô ta, và tôi gấp nhanh vuông lụa có đôi vòng thật ở trong mà bỏ vào túi. Cô ta hỏi: “Chứ chú thợ không giữ lấy để làm mẫu à?”. Tôi nói:”Bẫm bà lớn, con xem hai lần như thế đủ rồi, xin bảo đảm làm thật đúng”. Cô ta khen: “Hèn chi mà nổi tiếng là thợ khéo. Tôi nhờ ông Phủ Ðiện viết trát đòi chú là vì có bà Phủ mách miệng”. Bấy giờ chừng mười giờ sáng, tôi xin đi ra mua thuốc phiện rồi trở lại nhận vàng diệp bắt đầu làm. Ra đến chợ Vĩnh Ðiện, tôi đem đôi vòng chạm vàng mười chính hiệu của “bà lớn” gửi cho một người anh em “đồng đạo”. Tôi không quên câu tục ngữ: “Có gian phải có ngoan”.
- Ông ăn cắp chỉ có thế, hay là lúc trở lại làm còn ăn cắp nữa? Tôi hỏi.
- Không, tôi dại gì mà ăn cắp nữa. Trong những ngày làm, cô ta ngồi giữ một bên, không phải vì thế mà tôi không ăn cắp được, có điều tôi đã định bụng không ăn cắp. Khi làm xong, tôi hỏi muốn khắc chữ gì. Cô ta ngẫm nghĩ rồi bảo: “ Tôi là người Hóa Mộc, khắc chữ “mộc” cho tôi”. Tôi khôn ở chỗ đó. Bởi vì hai đôi vòng giống nhau như hệt, có khắc chữ khác nhau đễ làm dấu thì mai sau đôi giả có xì ra, hắn mới không có thể ngờ được là đôi do tay tôi làm. Cho đến bây giờ tôi cũng còn ân hận là, như thế, sẽ làm cho ông bạn đồng nghiệp nào của tôi đã làm cho hắn đôi vòng thật đó hóa ra là người bất lương thiện, nhưng ông tính, đã giết người ai còn gớm chảy máu.
- Ông làm cái việc như thế có nhiều lần không ? Kể ra cũng không ít. Nhưng tôi đều ăn cắp ở bọn ăn cướp như Tổng Ðốc, Bố Chánh, án Sát, Phủ, Huyện, chính cái bà Phủ nói lúc nãy đã mất với tôi mấy lạng vàng mà không biết, đi “mách miệng” cho người khác. Những việc như thế tôi cũng chẳng dấu, cứ hay đem nói với người ta cũng như nói với ông đây, cho nên mang tiếng, chứ thuở nay đã có ai bắt được tôi ăn cắp đâu.
Hỏi đến sự đúc súng, làm bạc giả, anh ta bảo:
- Ta có nấu sắt được đâu mà đúc súng? Nhưng chữa súng thì có. Hồi tôi ở Ðà Nẵng, các thứ súng liệt máy của Tây thường đem thuê tôi sửa. Bạc giả thì tôi có làm, nhưng tính ra không có lợi gì mấy, về sau tôi không làm nữa.
Năm Chuột còn nói cho tôi nghe về tính chất của các thứ loài kim và phép hợp kim, như đồng và kẽm, mỗi thứ bao nhiêu, hợp nhau thành ra thứ gì, đồng và thiếc bao nhiêu, hợp nhau thì thành ra thứ gì, nghe ra thông thạo như người có học chuyên môn. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi:
- Ông có học với thầy nào mà biết được những điều ấy là những điều mà các thợ bạc khác hầu như không biết?
Anh ta vùng ngồi dậy, cười, ra điều đắc ý, vỗ vào đùi tôi:
- Xưa nay mới có một người hỏi tôi câu ấy, là ông! Tôi chẳng học với thầy nào hết, tôi chỉ đọc có 1 cuốn sách là cuốn Kim Thạch chí-biệt.
Tôi sửng sốt, nghĩ bụng: té ra anh này còn biết chữ nữa kìa. Cái tên sách ấy tôi chưa hề nghe, cũng không dám ngờ là anh ta bịa đặt. Một hôm khác tôi hỏi thầy tôi có biết cuốn Kim-Thạch Chí Biệt không, thầy tôi cũng chịu không biết, và hỏi tôi nghe ở đâu, tôi kiếm đường nói trớ, chứ không dám nói nghe ở Năm Chuột. Cho mãi đến gần nay, đọc Lỗ Tấn toàn tập, tôi mới thấy trong đó có nhắc đến tên cuốn sách ấy. Tôi nghĩ mà lấy làm thẹn, sao mình đã không biết mà lúc bấy giờ không hỏi ngay anh ta, chỉ vì nghĩ mình là người học thức viết báo viết biếc, mà tỏ cái dốt trước mặt một anh thợ bạc thì ê quá.
Ðó về sau mấy năm, mỗi năm tôi ở Hà Nội hoặc Saigon về thăm nhà, đều có đến với anh ta. Anh ta còn in trong đầu tôi mấy câu chuyện lý thú và bất ngờ nữa.
*
Năm Chuột từng nói với tôi rằng từ rày anh ta không nói những chuyện như đã phê bình cậu tôi một cách không nể nang, nhưng rồi lại chứng nào tật ấy, vẫn không cải nết. Một lần, phê bình nhân vật làng tôi, anh ta chê ông Tú nọ dốt, ông Bá kia keo kiệt, cuối cùng anh ta nói:
- tôi
chỉ phục có hai người, một là ông Biện Chín,
một là ông Tám Thứ.
Ông Tám Thứ, người Minh Hương, ở ngụ làng tôi, nghèo, chuyên nghề làm thuốc, ít hay giao du với ai, tôi không biết ông ta cho lắm. Còn ông Biện Chín, tên thật là Phan Ðịnh, chú ruột tôi, cha của Phan Thanh, Phan Bôi. Chú tôi là dân tráng, nghèo, cố gắng lắm mới cho con đi học được, nhưng đúng là người “cần kiệm liêm chính” lại khẳng khái nữa, chính tôi, tôi cũng phục chú tôi mà sợ thầy tôi.
Tôi không tham gia ý kiến gì, chứ ngấm ngầm chịu anh ta là biết người, phê bình đúng. Nhưng, trước mặt tôi mà nói như thế, tôi ngờ anh ta có ngụ một thâm ý, là anh ta không phục thầy tôi. Thầy tôi đã đỗ đại khoa, làm quan, bỏ quan về ở làng, cầm cân nẩy mực cho cả làng, cả tổng, không có mang tai mang tiếng gì, nếu anh ta không lấy làm đáng phục, chắc anh ta thấy về khía cạnh nào đó. Từ đó tôi đâm ra áy náy, hoặc giả cha mình cũng có khuyết điểm gì như cậu mình, làm cho người ngoài phi nghị mà mình không biết chăng. Tôi có đem hỏi chú tôi và thuật lại lời Năm Chuột khen phục chú, thì chú tôi trách tôi sao lại đi nghe chuyện của Năm Chuột. Thì ra chú tôi cũng có thành kiến đối với Năm Chuột như thầy tôi, như những người làng.
Lần khác, bỗng dưng anh ta hỏi tôi:
- Quan lớn nhà ta (chỉ thầy tôi) sao lại không làm quan nữa ? Ông co 'nhớ lúc ngài bỏ quan mà về là bao nhiêu tuổi không?
Tôi lấy làm lạ sao hắn lại hỏi mình điều ấy. Song cũng cứ theo mình biết mà trả lời:
- Thầy tôi tuổi Tuất, cái năm cáo bệnh mà về là năm Kỷ Hợi, mới có ba mươi tám tuổi. Sở dĩ không làm quan nữa, có lẽ là tại không chịu làm với Tây.
Cho đến lúc tôi ngoài 20 tuổi, thầy tôi vẫn coi tôi như trẻ con, những việc như thế chưa hề đem nói với tôi. Có điều một đôi khi tôi nghe thoảng qua dư luận bên ngoài, nhất là lúc ở Hải Phòng gặp Lê Bá Cử, ông ấy có kể cho tôi nghe khi ông làm phán-sự toà án Nha Trang, thầy tôi làm tri phủ, có lần cãi nhau kịch liệt với viên công sứ, chính ông đứng làm thông ngôn, thì tóm tắt mà trả lời như vậy. Nhưng Năm Chuột hỏi vặn tôi một câu rất oái ăm:
- Ở làng này còn có 2 ông nữa đều làm đến tri huyện, đều bỏ quan mà về trước tuổi hưu trí, vậy thì ông cũng cho rằng 2 ông ấy cũng không chịu làm quan với Tây hay sao ?
“Thằng cha khó chịu thật” tôi nghĩ bụng. Không biết đối đáp thế nào với hắn, tôi phải nói một câu mà tự mình cũng thấy là non nớt quá:
- Việc hai ông ấy thì tôi không biết.
Anh ta vẫn cười cái lối xỏ lá rất khả ố. Ngớt cơn cười mới bình tĩnh nói:
- Tôi cũng có nghe và biết về chánh tích và nhân phẩm của quan lớn nhà ta, nhưng tôi lại có một sở kiến khác, nói ra, ông đừng tưởng tôi cố ý làm đôi vòng thật nhanh thành ra đôi vòng giả thì tôi mới nói.
- Thì ông cứ nói đi.
- Làng Bảo An, người ta nói, không có đất phát quan lớn, mà kinh nghiệm xưa nay rành rành như thế. Từ trước bao nhiêu ông làm đến tứ phẩm trở lên đều bị cách tuột hết. Cho nên Ðồng Khánh, Thành Thái đến giờ, ông nào cũng làm đến phủ huyện rồi kiếm cách từ chức mà về. Nếu nói không chịu làm quan với Tây thì không làm từ đầu, chứ không có lẽ lúc mới ra làm, không biết rằng mình sẽ làm với Tây. Hai ông huyện kia cầy cục mãi đến ngoài bốn năm mươi tuổi mới về, còn quan lớn nhà ta về sớm là vì mới 38 tuổi đã làm Tri-phủ.
Tôi làm như không để ý gật gật nhìn anh ta, kỳ thực tôi cho là cái sở kiến của anh ta đó, không biết chừng, là độc đáo. Làng tôi, tây giáp làng Ðông-Mỹ, đông giáp làng Xuân-Ðài, hai làng này đều có Tổng Ðốc, mà làng tôi, thi đỗ thì đông, đại khoa cũng có, nhưng không có quan to. Thuở Tự Ðức ông Nguyễn Duy Tự, làm đến phủ doãn Thừa Thiên, ông nội tôi làm đến án-sát Khánh Hòa, cũng đều bị cách.
Tôi không tin phong thủy, nhưng đó là sự thực. Hoặc giả các ông quan làng tôi, trong đó có thầy tôi, thấy thế mà sợ, làm đến phủ huyện lo rút lui cũng nên. Huống chi cái luận chứng của Năm Chuột rõ ràng mà đanh thép lắm, tôi bấy lâu trau dồi cái đức tính ngay thực của người viết báo, tôi không thể cãi chày cãi cối được. Tôi thấy chắc chắn lắm, vì tôi biết chịu chuyện cho nên anh ta thích nói chuyện với tôi, còn anh ta, hay nói cái lối móc ruột móc gan người ta như thế, cho nên họ mắng anh ta là nói láo nói phét.
Có một sự rất lạ. Một lần tôi đến chơi, vẫn ngồi trên đòn kê xem anh ta làm việc, liếc thấy trong cái thùng đựng đồ nghề có quyển sách, tôi thò tay lấy xem, thì là một cuốn Thương-Sơn thi tập không có bìa, đã xé mất nhiều trang. Tôi hỏi:
- Ông cũng có sách này à? Nó là một bộ đến 10 cuốn, sao ở đây chỉ còn 1 cuốn?
- Tôi có mà tôi xé để quấn thuốc lá hết, chỉ còn 1 cuốn, bởi vì in bằng giấy quyến, quấn thuốc tốt lắm.
- Ông có xem qua chứ?
- Thơ của ông Hoàng mình xem thế nào được ? Tôi chỉ xem được có mỗi một bài Mại Trúc Diêu.
Tôi phát lạnh người. Tôi có đọc thơ Thương-Sơn rồi, tôi cũng không thích, nhưng cái bài Mại trúc diêu là bài thế nào, tôi có biết đâu? Chỉ vi `dấu dốt, tôi lại cứ làm thinh, không hỏi anh ta. Về nhà, tối hôm ấy, tôi lật bộ thơ Thương-Sơn ra tìm, tìm được bài Mại trúc diêu. Về sau, tôi dịch ra đăng báo Phụ Nữ Tân Văn, sau nữa, đem in trong Chương Dân thi-thoại. Lục ra đây để bạn đọc thưởng thức cái mức thưởng thức văn học của anh thợ bạc:
Bài hát bán tre
Ông Tám Thứ, người Minh Hương, ở ngụ làng tôi, nghèo, chuyên nghề làm thuốc, ít hay giao du với ai, tôi không biết ông ta cho lắm. Còn ông Biện Chín, tên thật là Phan Ðịnh, chú ruột tôi, cha của Phan Thanh, Phan Bôi. Chú tôi là dân tráng, nghèo, cố gắng lắm mới cho con đi học được, nhưng đúng là người “cần kiệm liêm chính” lại khẳng khái nữa, chính tôi, tôi cũng phục chú tôi mà sợ thầy tôi.
Tôi không tham gia ý kiến gì, chứ ngấm ngầm chịu anh ta là biết người, phê bình đúng. Nhưng, trước mặt tôi mà nói như thế, tôi ngờ anh ta có ngụ một thâm ý, là anh ta không phục thầy tôi. Thầy tôi đã đỗ đại khoa, làm quan, bỏ quan về ở làng, cầm cân nẩy mực cho cả làng, cả tổng, không có mang tai mang tiếng gì, nếu anh ta không lấy làm đáng phục, chắc anh ta thấy về khía cạnh nào đó. Từ đó tôi đâm ra áy náy, hoặc giả cha mình cũng có khuyết điểm gì như cậu mình, làm cho người ngoài phi nghị mà mình không biết chăng. Tôi có đem hỏi chú tôi và thuật lại lời Năm Chuột khen phục chú, thì chú tôi trách tôi sao lại đi nghe chuyện của Năm Chuột. Thì ra chú tôi cũng có thành kiến đối với Năm Chuột như thầy tôi, như những người làng.
Lần khác, bỗng dưng anh ta hỏi tôi:
- Quan lớn nhà ta (chỉ thầy tôi) sao lại không làm quan nữa ? Ông co 'nhớ lúc ngài bỏ quan mà về là bao nhiêu tuổi không?
Tôi lấy làm lạ sao hắn lại hỏi mình điều ấy. Song cũng cứ theo mình biết mà trả lời:
- Thầy tôi tuổi Tuất, cái năm cáo bệnh mà về là năm Kỷ Hợi, mới có ba mươi tám tuổi. Sở dĩ không làm quan nữa, có lẽ là tại không chịu làm với Tây.
Cho đến lúc tôi ngoài 20 tuổi, thầy tôi vẫn coi tôi như trẻ con, những việc như thế chưa hề đem nói với tôi. Có điều một đôi khi tôi nghe thoảng qua dư luận bên ngoài, nhất là lúc ở Hải Phòng gặp Lê Bá Cử, ông ấy có kể cho tôi nghe khi ông làm phán-sự toà án Nha Trang, thầy tôi làm tri phủ, có lần cãi nhau kịch liệt với viên công sứ, chính ông đứng làm thông ngôn, thì tóm tắt mà trả lời như vậy. Nhưng Năm Chuột hỏi vặn tôi một câu rất oái ăm:
- Ở làng này còn có 2 ông nữa đều làm đến tri huyện, đều bỏ quan mà về trước tuổi hưu trí, vậy thì ông cũng cho rằng 2 ông ấy cũng không chịu làm quan với Tây hay sao ?
“Thằng cha khó chịu thật” tôi nghĩ bụng. Không biết đối đáp thế nào với hắn, tôi phải nói một câu mà tự mình cũng thấy là non nớt quá:
- Việc hai ông ấy thì tôi không biết.
Anh ta vẫn cười cái lối xỏ lá rất khả ố. Ngớt cơn cười mới bình tĩnh nói:
- Tôi cũng có nghe và biết về chánh tích và nhân phẩm của quan lớn nhà ta, nhưng tôi lại có một sở kiến khác, nói ra, ông đừng tưởng tôi cố ý làm đôi vòng thật nhanh thành ra đôi vòng giả thì tôi mới nói.
- Thì ông cứ nói đi.
- Làng Bảo An, người ta nói, không có đất phát quan lớn, mà kinh nghiệm xưa nay rành rành như thế. Từ trước bao nhiêu ông làm đến tứ phẩm trở lên đều bị cách tuột hết. Cho nên Ðồng Khánh, Thành Thái đến giờ, ông nào cũng làm đến phủ huyện rồi kiếm cách từ chức mà về. Nếu nói không chịu làm quan với Tây thì không làm từ đầu, chứ không có lẽ lúc mới ra làm, không biết rằng mình sẽ làm với Tây. Hai ông huyện kia cầy cục mãi đến ngoài bốn năm mươi tuổi mới về, còn quan lớn nhà ta về sớm là vì mới 38 tuổi đã làm Tri-phủ.
Tôi làm như không để ý gật gật nhìn anh ta, kỳ thực tôi cho là cái sở kiến của anh ta đó, không biết chừng, là độc đáo. Làng tôi, tây giáp làng Ðông-Mỹ, đông giáp làng Xuân-Ðài, hai làng này đều có Tổng Ðốc, mà làng tôi, thi đỗ thì đông, đại khoa cũng có, nhưng không có quan to. Thuở Tự Ðức ông Nguyễn Duy Tự, làm đến phủ doãn Thừa Thiên, ông nội tôi làm đến án-sát Khánh Hòa, cũng đều bị cách.
Tôi không tin phong thủy, nhưng đó là sự thực. Hoặc giả các ông quan làng tôi, trong đó có thầy tôi, thấy thế mà sợ, làm đến phủ huyện lo rút lui cũng nên. Huống chi cái luận chứng của Năm Chuột rõ ràng mà đanh thép lắm, tôi bấy lâu trau dồi cái đức tính ngay thực của người viết báo, tôi không thể cãi chày cãi cối được. Tôi thấy chắc chắn lắm, vì tôi biết chịu chuyện cho nên anh ta thích nói chuyện với tôi, còn anh ta, hay nói cái lối móc ruột móc gan người ta như thế, cho nên họ mắng anh ta là nói láo nói phét.
Có một sự rất lạ. Một lần tôi đến chơi, vẫn ngồi trên đòn kê xem anh ta làm việc, liếc thấy trong cái thùng đựng đồ nghề có quyển sách, tôi thò tay lấy xem, thì là một cuốn Thương-Sơn thi tập không có bìa, đã xé mất nhiều trang. Tôi hỏi:
- Ông cũng có sách này à? Nó là một bộ đến 10 cuốn, sao ở đây chỉ còn 1 cuốn?
- Tôi có mà tôi xé để quấn thuốc lá hết, chỉ còn 1 cuốn, bởi vì in bằng giấy quyến, quấn thuốc tốt lắm.
- Ông có xem qua chứ?
- Thơ của ông Hoàng mình xem thế nào được ? Tôi chỉ xem được có mỗi một bài Mại Trúc Diêu.
Tôi phát lạnh người. Tôi có đọc thơ Thương-Sơn rồi, tôi cũng không thích, nhưng cái bài Mại trúc diêu là bài thế nào, tôi có biết đâu? Chỉ vi `dấu dốt, tôi lại cứ làm thinh, không hỏi anh ta. Về nhà, tối hôm ấy, tôi lật bộ thơ Thương-Sơn ra tìm, tìm được bài Mại trúc diêu. Về sau, tôi dịch ra đăng báo Phụ Nữ Tân Văn, sau nữa, đem in trong Chương Dân thi-thoại. Lục ra đây để bạn đọc thưởng thức cái mức thưởng thức văn học của anh thợ bạc:
Bài hát bán tre
Ngày đốn hai cây trúc
Bán đi để dằn bụng
Trong cửa tre đầy kho
Ngoài cửa tiền chẳng cho
Không nói thì cũng khổ
Nói thì roi dài sẽ quật chú
Rày về sau đừng đốn tre nữa
Ðói nằm trong tre chết cũng đủ!
Từ khi biết Năm Chuột có biết chữ Hán nhiều, xem sách xem thơ được rồi, tôi có lúc đem văn học nói với anh ta, anh ta chỉ nghe và hỏi chứ không tỏ ý kiến. Tôi có ý trách. Anh ta giải thích thế này:
“Người
ta, cái gì biết ít thì chỉ nên nghe chứ không nên nói, tôi
nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông,
cũng như ông không dạy nghề làm thợ bạc cho
tôi”.
Anh ta làm thợ bạc, nhưng cũng kiêm luôn thợ rèn nữa mà là thợ rèn rất khéo. Những dụng cụ của anh ta như cái kìm, cái búa, cái kéo, anh ta đều đi đến lò bễ rèn, ngồi mà tự đánh lấy. Cái đó thì ở làng tôi có nhiều người biết, cái kìm của anh ta đánh, ai cũng chịu là không kém của Tây.
Năm 1944, tôi ở Hà Nội, về nhà được mấy hôm thì thầy tôi mất. Làm đám xong, tôi ở luôn trong nhà ba bốn tháng không ra khỏi cổng. Buồn quá, một hôm tôi đi tìm anh ta. Ðến nơi, cái túp tranh không có nữa. Hỏi thì người ta nói Năm Chuột dọn đi đâu đã lâu rồi. Từ đó tôi mất Năm Chuột của tôi.
Một lần, trước mặt ông Tú già, anh Giáp trong làng gọi Năm Chuột bằng ông, ông Tú già đập bàn quở: “Mầy gọi thằng Năm Chuột bằng ông, thì gọi tao bằng gì?” .Tôi nghe mà tức mình, cho nên bài này, tôi nêu đầu đề là Ông Năm Chuột”.
PHAN KHÔI
(báo Văn số 36, ra ngày 10-1-1958)
Anh ta làm thợ bạc, nhưng cũng kiêm luôn thợ rèn nữa mà là thợ rèn rất khéo. Những dụng cụ của anh ta như cái kìm, cái búa, cái kéo, anh ta đều đi đến lò bễ rèn, ngồi mà tự đánh lấy. Cái đó thì ở làng tôi có nhiều người biết, cái kìm của anh ta đánh, ai cũng chịu là không kém của Tây.
Năm 1944, tôi ở Hà Nội, về nhà được mấy hôm thì thầy tôi mất. Làm đám xong, tôi ở luôn trong nhà ba bốn tháng không ra khỏi cổng. Buồn quá, một hôm tôi đi tìm anh ta. Ðến nơi, cái túp tranh không có nữa. Hỏi thì người ta nói Năm Chuột dọn đi đâu đã lâu rồi. Từ đó tôi mất Năm Chuột của tôi.
Một lần, trước mặt ông Tú già, anh Giáp trong làng gọi Năm Chuột bằng ông, ông Tú già đập bàn quở: “Mầy gọi thằng Năm Chuột bằng ông, thì gọi tao bằng gì?” .Tôi nghe mà tức mình, cho nên bài này, tôi nêu đầu đề là Ông Năm Chuột”.
PHAN KHÔI
(báo Văn số 36, ra ngày 10-1-1958)
SƠN TRUNG * NGƯỜI GHÉT ĂN MÀY
SƠN TRUNG
NGƯỜI GHÉT ĂN MÀY
Ông phú hộ họ Cao là một trong những người giàu nhất phố Hiến. Ông là một thương gia buôn bán tơ lụa và đồ cổ ngoạn. Ông lại còn là một nhà buôn đường biển. Thuyền của ông thường ra vào buôn bán ở Thăng Long, Thuận Hóa, Hội An, Đồng Nai. Thỉnh thoảng ông cũng sang buôn bán ở Hải Nam hay Tiểu Tây Dương tức là vùng quần đảo Nam Trung Quốc và An Nam. Những chuyến đi của ông có khi kéo dài gần nửa năm trời. Nhà của ông rất rộng lớn, gồm tòa ngang dãy dọc thênh thang. Ông và vợ con ở trong ngôi nhà chính, và ngôi nhà ngang. Các ct và cửa bức bàn đều chạm trỗ rất mỹ thuật. Các bà vợ thứ thì ở trong một ngôi nhà đàng sau ngôi nhà chính, mỗi bà một phòng. Sau nữa là nhà ở các gia nhân và bếp núc. Bên cạnh ngôi nhà ngang là kho hàng hóa. Xung quanh nhà có tường cao bao bọc. Nhà nuôi một đàn chó rất dữ. Trong nhà ông nuôi khoảng năm sáu gia nhân khỏe mạnh và biết võ nghệ để chống trộm cướp và vận chuyển hàng hóa. Mỗi tối, các gia nhân thay nhau canh gác nghiêm ngặt như là một trại lính. Ngoài ra, trong nhà, ông nuôi một thầy đồ Nghệ để dạy văn cho các con ông, và một võ sư dạy võ cho con ông và các gia nhân. Bà vợ cả và con gái lớn của ông trông coi của hàng tơ lụa ở ngoài phố. Thỉnh thoảng ông cũng ra đây trông coi, kiểm soát mọi việc.
Cao phú h là một người chăm chỉ kinh doanh. Ông không hút thuốc, không uống rượu, không chơi bài bạc. Ông không muốn giao thiệp với người ngoài vì sợ họ vay mượn hoặc nhờ vả. Ông cũng sợ bọn cướp giả dạng ăn mày để dò xét nhà ông, hoặc giả làm khách sang để vào cướp của cải. Cửa nhà ông luôn đóng kín. Ông dặn trước với vợ con và gia nhân rằng ông chỉ tiếp các quan lớn hoặc nhà giàu trong vùng mà thôi. Khách lạ và sang trọng phải đưa thiếp cho gia nhân trình ông thì mới được vào. Ông có cái tật là ghét những người nghèo, đặc biệt là ghét ăn mày. Ông cho rằng những người nghèo là do lười biếng, cờ bạc, rượu chè. Bần cùng sinh đạo tặc. Người nghèo thường sinh ra trôm cướp, bất lương. Ông thường đem bản thân ông làm thí dụ. Ông đâu phải sinh trưởng trong cảnh giàu sang mà sinh ra kiêu căng, khinh người. Quan niệm ông là do trải qua thực tế. Ông vốn xuất thân nghèo khổ, nhưng nhờ chí phấn đãu mà dựng được sự nghiệp ngày nay. Ông cấm tiệt ăn mày đến nhà. Ông không bao giờ giúp đỡ người nghèo hoặc bố thí cho ăn mày vì ông cho rằng làm thế là khuyến khích họ lười biếng. Vì vậy khi người nghèo và ăn mày đến thì bị gia nhân xua đuổi. Nếu đuổi nhiều lần mà họ không đi, gia nhân có quyền xua chó ra cắn. Đó là luật lệ bất di bất dịch đã được thiết lập ra trong mấy chục năm kể từ ngày ông về làm chủ ngôi nhà này.
Cao phú ông thuở nhỏ trải nhiều gian truân. Quê ông ở vùng dồi núi Hải dương. Nhà nghèo, mẹ mất sớm, cha lấy vợ kế. Lúc bấy giờ Cao lên mười. Bà dì ghẻ này rất đc ác, thường hành hạ, đánh đập con chồng tàn nhẫn. Uât ức và căm thù, Cao bèn ôm quần áo và thu vén mt ít tiền bạc vào trong mt cái bị rồi trốn đi. Ngày đêm đi mãi miết, mt hôm Cao đến mt vùng dất xa lạ, Cao bèn dừng chân tại mt miếu hoang. Trong miếu lúc bấy giờ đã có sẵn mt đám ăn mày, già có trẻ có. Chúng nhìn chăm chú vào cái bị của Cao và chúng nhường cho Cao mt chỗ ngả lưng. Khi Cao tỉnh dậy thì mặt trời đã lên cao. Đám ăn mày trong miếu đã đi hết mà cái bị của Cao cũng biến mất. Không quần áo, không tiền bạc, Cao đành phải đi xin khắp chợ và quê. Vài ngày sau, Cao đến mt thị trấn, và đêm đến Cao ngủ ngoài chợ. Tại đây có rất nhiều ăn mày. Ban ngày chúng là ăn mày nhưng ban đêm chúng làm chủ khu chợ. Chúng chiếm các lều trại, và đánh đuổi những dân mới đến như Cao. Chúng đòi Cao np cho chúng năm đồng chinh để được ngủ mt đêm. Cao không có tiền nên chúng đánh đập Cao và đuổi Cao đi. Cao phải ngủ trước mt mái hiên nhà nọ. Sáng sớm, Cao phải dậy đi thật sớm. Ngày đi đêm nghỉ, sau mấy tháng, Cao đã đến phố Hiến. Nơi đây buôn bán tập nập. Phố xá nhn nhịp cả ngày lẫn đêm. Cao đi ăn xin và được mt số tiền. Cao bèn mua quần áo mới và đi khắp nơi kiếm việc. Cuối cùng Cao đã được mt quán cơm nhận Cao làm việc. Công việc cũng nhàn hạ, Cao chỉ có việc bưng đồ ăn cho khách và đứng hầu khách, hoặc làm các việc vặt cho bà chủ. Khi bà chủ hay cô chủ đi chợ, Cao đi theo gánh cá thịt rau đưa. Khi rảnh thì Cao lo việc đun bếp, bổ củi. Bà chủ cho Cao ở luôn tại quán, thỉnh thoảng cho Cao mt số tiền. Cao tích cực làm việc nên được bà chủ tín nhiệm. Mt thời gian sau, bà chủ già yếu, bị bệnh rồi mất, con cái bỏ nghề cũ, sang nhượng cửa hàng cho mt người khác. Cao bèn xin làm phu khuân vác cho mt hãng tàu buôn. Thấy Cao khỏe mạnh và chăm chỉ, thông minh, ông chủ hãng giao cho Cao việc chỉ huy đám phu khuân vác, sau Cao lên phụ trách việc coi kho hàng và đi biển cùng ông chủ. Từ đó Cao học tập nghề buôn bán đường biển, quen thuc thủy đạo, và gỉỏi việc điều khiển tàu biển, rành việc buôn bán, giao dịch. Cao được ông chủ tín nhiệm, gả con gái cho. Từ đó Cao trở thành con rể ông chủ. Khi ông chủ già yếu, giao hẳn cơ nghiệp cho Cao vì ông chủ chỉ có mt con gái duy nhất.
Từ khi ông chủ mất đi, Cao bắt đầu chấn chỉnh mọi việc trong ngoài. Cao xây tường quanh nhà, tuyển thanh niên mạnh khỏe vào canh gác nhà cửa, và phụ trách việc chuyển vận hàng lên tàu hoặc xuống tàu, tuyển gái đẹp phụ trách buôn bán ở các cửa hàng. Đối với các người giúp việc, Cao trả luơng cho họ rất hậu và đối xử tử tế. Mỗi khi vợ con họ đau ốm, Cao thường cho họ tiền bạc, rước thầy chẩn bệnh và cung cấp thuốc men cho họ. Vì vậy mọi người rất quý mến Cao.
Chuyến đi này Cao đã chuẩn bị mấy tháng rồi. Cao mua trà, cao, quế, lụa, vải vóc các thứ định sang bán tại các nuớc ở phía nam Trung quốc như là Tiểu Tây dương, Tân Gia Ba. . . Khi về Cao mua vàng bạc, ngọc, ngà, và vải vóc để bán. Công việc mua bán rất thuận lợi hứa hẹn mt tương lai sáng chói.
Trên đường trở về đuợc ba ngày thì hai bên thuyền bỗng xuất hiện mt đàn ‘cú biển’ . Đó là những con cá rất lớn có cái mặt và tiếng kêu giống chim cú. Những người đi biển rất sợ loài cá này. Nó là mt thứ chim cú báo tử. Những tiếng kêu của nó kéo dài trong đêm khuya khiến cho mọi người sợ hãi. Ai nấy nín thở đón nhận mt tai họa sắp giáng xuống đầu họ. Trưa hôm sau, trời bỗng trở nên im lặng mt cách kinh dị. Mặt biển yên tĩnh như nước hồ Gươm. Trời oi bức như cả không gian đang nằm trong chão nóng. Bỗng nhiên đằng tây mây hồng bừng lên rực rỡ lạ thường. Mây hồng từng lớp hiện lên rất đẹp. Rồi từ từ từng đám mây chuyển màu từ hồng sang tía rồi vàng. Và cuối cùng mây đen phủ ngập không gian. Sấm sét nổi lên. Mặt biển như rung rinh, và dần dần từ xa, những đợt sóng bốc cao lên tận trời xanh để rồi đổ xuống như những dãy nhà lầu bị đng đất lún xuống và biến mất dưới làn nước xanh. Hết đợt sóng này lại đến lớp sóng khác. Những lớp sóng này như muốn nhận chìm thuyền ông xuống tận đáy biển. Có những lúc thuyền ông như đi trong lòng mt ống cống lớn mà bốn bề đều là nước. Nhưng lớp sóng khác lại đẩy thuyền ông lên. Cứ như vậy suốt buổi. Ai cũng lo lắng không biết lúc nào thì thuyền chìm thật sự. Ông Cao đã từng đi biển nhiểu lần nhưng không lần nào nguy hiểm như lần này. Ông Cao rất lo lắng và sợ hãi vì ông biết giờ lâm tử đã đến. Khắp thuyền ai cũng niệm chú Quan Âm, hoặc kêu gọi tên mẹ cha và vợ con.
Thuyền ông đã gãy bánh lái, và ct buồm. Thuyền cứ chồm lên trời rồi lại rút xuống đáy biển. Và thuyền cứ trôi theo cơn bão, tài công không còn điều khiển đuợc thuyền. Nhưng rồi trời tạnh mưa, gió ngừng thổi, sóng cũng êm và phương đông mặt trời thẹn thùng lấp ló sau đám mây, và không gian như lóe lên mt chút ánh sáng yếu ớt. Thuyền vẫn trôi đi theo giòng nước. Đầu bếp chuẩn bị nấu ăn. Nước đã làm ướt hết thuyền nhưng nhờ sự khôn ngoan của ông mà gạo nước, thức ăn và than củi vẫn khô. Ấy là ông đã tính trước những hiểm nguy trong nghề nên trước đó ông đã mua những thùng rượu Bồ Đào mỹ tửu bán hết rượu ông giữ lại thùng. Ông đặt vào những thùng này những thứ cần thiết như gạo, thức ăn, lương khô, than củi, và lấy chai gắn lại. Ông cũng đặt riêng những hòm đựng vải vóc, ngọc ngà có gắn chai để khỏi thấm nước. Nhờ sáng kiến đó, mọi người ăn uống đầy đủ và lấy lại sức khỏe sau bao đêm bão tố hãi hùng. Nhưng rồi buổi chiều, mây đen lại nổi lên, gió thổi nhè nhẹ rồi cơn bão lại đến. Thuyền ông như mũi tên lướt trên biển. Những đợt sóng thần lại nổi lên như trái núi. Mọi người nghe muôn vạn tiếng thét, tiếng la khóc nổi lên bốn bề. Và trước mắt họ bỗng hiện lên những hình ảnh ma quỷ nhe răng trợn mắt và những thây người đầy dòi bọ nhảy múa. Giữa cơn bão tố , mọi người nghe mt tiếng nổ rất lớn như trái đất vỡ tan thành muôn mảnh. Mặt biển chao đng như sụp đổ. Cùng lúc đó mt lỗ hổng rất lớn xuất hiện làm thành mt vòng xoáy. Tiếng nuớc réo ầm ầm như thiên binh vạn mã. Những bọt nước rất lớn nổi lên và chạy xung quanh xoáy rồi tất cả chui tọt xuống hố nước vĩ đại. Ông ra lệnh mọi người đeo phao cấp cứu là những tấm ván dày hay thân gỗ tạp có những dây đeo vào thân. Thuyền ông càng lúc càng tiến dần vào vũng xoáy rồi chui tọt vào vũng xoáy vô tận.
Không biết bao lâu, ông tỉnh dậy. Ông thấy xung quanh ông có nhiều người lạ. Họ ăn mặc giống như người Mường, người Mán. Họ nói với nhau bằng mt thứ ngôn ngữ mà ông không hiểu họ là người nuớc nào. Nơi ông nằm là một ổ rơm, dường như ông đang nằm nơi điếm canh của một thôn xã nào đó. Họ cho ông ăn uống đầy đủ. Sau mấy ngày ông đã đi đứng được, họ đưa ông lên một cơ quan địa phương. Quan địa phương cho lính đưa ông xuống nhà giam. Sau mấy hôm, họ đưa ông lên thẩm vấn. Họ cho ông giấy bút để khai. Lúc nhỏ ông thất học, nhưng từ khi làm việc cho chủ thuyền buôn, ông đã học được ít nhiều chữ Hán. Ông viết rằng ông họ Cao, người An Nam quốc, đi buôn bán ở Tiểu Tây Dương, khi về bị bão đánh chìm tàu, và nguyện vọng của ông là được trở về An Nam quốc. Họ nghi ông là gián điệp ngoại bang nên giam giữ ông bốn năm , sau nhận thấy ông thật thà, nên phóng thích ông. Khi ông ra về, viên quan địa phương cấp cho ông một giấy chứng nhận ghi rằng quan trấn thủ Thiên Tân bắt được một người An Nam, xưng họ Cao, đi thuyền bị đắm trôi vào đất Thiên Tân. Nay xét tên này vô ti nên phóng thích. Nhờ xem tờ giấy này, ông mới biết là mình trôi đến bắc Trung quốc rồi bị giải về Thiên Tân. Ông vội vàng nhắm phương Nam trực chỉ. Ngày đi đêm nghỉ. Ông phải đi hành khất kiếm tiền độ nhật. Trên đường đi nhiều khi ông phải nằm liệt một xó ở các miếu hoang vì đau ốm gượng đi không nổi. Thân già dầm giải nắng mưa khiến cho ông xác xơ như là ông lão bảy tám chục tuổi. Đã thế, ông thường xuyên bị bọn sơn tặc và bọn lưu manh chận đường cướp của.Thấy ông không có tiền bạc, chúng tức giận đánh đập ông và xé luôn giấy chứng nhận của ông. Vì không có giấy tờ, ông lại bị quan binh bắt giam vì nghi ông là gian tế. Lần này ông bị giam năm năm . Lúc này quân Thanh xâm chiếm Thăng Long và bị vua Quang Trung đánh cho mt trận xiểng niểng nên họ thù ghét người An Nam quốc và họ nghi ông là gián điệp nhà Tây Sơn. Đến khi bang giao giữa nhà Thanh và Tây Sơn tốt đẹp, họ mới phóng thích ông. Ở trong tù quá lâu lại cực khổ trăm bề nên ông rụng hết răng, nói không ra tiếng và đi đứng không vững, phải chống gậy. Từ đó về đến Nam quan ông mất thêm hai năm. Và ông lần mò từ Nam quan về phố Hiến phải mất thêm sáu tháng nữa. Khi ông về đến cây đa đầu làng thì ông đã ngoại sáu mươi. Phong cảnh bây giờ khác xưa. Phố Hiến sau loạn kiêu binh, sau việc quân Tây Sơn ra bắc dẹp Trịnh và sau những biến loạn do Nguyễn Hữu Chỉnh, Trịnh Bồng và Vũ Văn Nhậm cai trị thì đã sa sút.
Ngôi nhà ông vẫn uy nghi như xưa. Vẫn hàng tường cao bao bọc. Vẫn khói lam chiều tỏa nhẹ trên mái nhà. Vẫn cái cổng tam quan với cửa gỗ chắc nịch. Khi ông tới gần cổng thì một bọn hai ba tráng đinh xa lạ ra chận lại. Chúng cầm roi xua đuổi ông. Chúng lớn tiếng bảo: Cấm ăn mày vào! Ăn xin thì cút đi! Nếu còn đứng đó thì chúng tao xua chó ra đuổi. Ông cứ tiến tới. Ông gọi tên vợ ông, con ông! Nhưng giọng ông không thoát ra khỏi cuống họng! Dù ông ta có kêu rõ tiếng cũng chẳng ai nghe vì vợ con ông ở bên trong rất xa ngõ. Ông vẫn đứng mãi đó. Bọn trai tráng tức giận mở cửa xút chó đuổi ông. Năm sáu con chó há miệng đỏ ngầu chạy ra, mắt nhìn ông hau háu. Ông sợ hãi cúi đầu chạy. Ông chạy mãi đến bờ sông thì đuối sức ngã lăn ra. Sáng hôm sau, dân làng thấy xác chết mt ông già nằm còng queo trên bờ sông. Thương tình mt ông già vô danh, họ bó chiếu rồi chôn ông ở ven sông.
Sơn Trung
NGƯỜI GHÉT ĂN MÀY
Ông phú hộ họ Cao là một trong những người giàu nhất phố Hiến. Ông là một thương gia buôn bán tơ lụa và đồ cổ ngoạn. Ông lại còn là một nhà buôn đường biển. Thuyền của ông thường ra vào buôn bán ở Thăng Long, Thuận Hóa, Hội An, Đồng Nai. Thỉnh thoảng ông cũng sang buôn bán ở Hải Nam hay Tiểu Tây Dương tức là vùng quần đảo Nam Trung Quốc và An Nam. Những chuyến đi của ông có khi kéo dài gần nửa năm trời. Nhà của ông rất rộng lớn, gồm tòa ngang dãy dọc thênh thang. Ông và vợ con ở trong ngôi nhà chính, và ngôi nhà ngang. Các ct và cửa bức bàn đều chạm trỗ rất mỹ thuật. Các bà vợ thứ thì ở trong một ngôi nhà đàng sau ngôi nhà chính, mỗi bà một phòng. Sau nữa là nhà ở các gia nhân và bếp núc. Bên cạnh ngôi nhà ngang là kho hàng hóa. Xung quanh nhà có tường cao bao bọc. Nhà nuôi một đàn chó rất dữ. Trong nhà ông nuôi khoảng năm sáu gia nhân khỏe mạnh và biết võ nghệ để chống trộm cướp và vận chuyển hàng hóa. Mỗi tối, các gia nhân thay nhau canh gác nghiêm ngặt như là một trại lính. Ngoài ra, trong nhà, ông nuôi một thầy đồ Nghệ để dạy văn cho các con ông, và một võ sư dạy võ cho con ông và các gia nhân. Bà vợ cả và con gái lớn của ông trông coi của hàng tơ lụa ở ngoài phố. Thỉnh thoảng ông cũng ra đây trông coi, kiểm soát mọi việc.
Cao phú h là một người chăm chỉ kinh doanh. Ông không hút thuốc, không uống rượu, không chơi bài bạc. Ông không muốn giao thiệp với người ngoài vì sợ họ vay mượn hoặc nhờ vả. Ông cũng sợ bọn cướp giả dạng ăn mày để dò xét nhà ông, hoặc giả làm khách sang để vào cướp của cải. Cửa nhà ông luôn đóng kín. Ông dặn trước với vợ con và gia nhân rằng ông chỉ tiếp các quan lớn hoặc nhà giàu trong vùng mà thôi. Khách lạ và sang trọng phải đưa thiếp cho gia nhân trình ông thì mới được vào. Ông có cái tật là ghét những người nghèo, đặc biệt là ghét ăn mày. Ông cho rằng những người nghèo là do lười biếng, cờ bạc, rượu chè. Bần cùng sinh đạo tặc. Người nghèo thường sinh ra trôm cướp, bất lương. Ông thường đem bản thân ông làm thí dụ. Ông đâu phải sinh trưởng trong cảnh giàu sang mà sinh ra kiêu căng, khinh người. Quan niệm ông là do trải qua thực tế. Ông vốn xuất thân nghèo khổ, nhưng nhờ chí phấn đãu mà dựng được sự nghiệp ngày nay. Ông cấm tiệt ăn mày đến nhà. Ông không bao giờ giúp đỡ người nghèo hoặc bố thí cho ăn mày vì ông cho rằng làm thế là khuyến khích họ lười biếng. Vì vậy khi người nghèo và ăn mày đến thì bị gia nhân xua đuổi. Nếu đuổi nhiều lần mà họ không đi, gia nhân có quyền xua chó ra cắn. Đó là luật lệ bất di bất dịch đã được thiết lập ra trong mấy chục năm kể từ ngày ông về làm chủ ngôi nhà này.
Cao phú ông thuở nhỏ trải nhiều gian truân. Quê ông ở vùng dồi núi Hải dương. Nhà nghèo, mẹ mất sớm, cha lấy vợ kế. Lúc bấy giờ Cao lên mười. Bà dì ghẻ này rất đc ác, thường hành hạ, đánh đập con chồng tàn nhẫn. Uât ức và căm thù, Cao bèn ôm quần áo và thu vén mt ít tiền bạc vào trong mt cái bị rồi trốn đi. Ngày đêm đi mãi miết, mt hôm Cao đến mt vùng dất xa lạ, Cao bèn dừng chân tại mt miếu hoang. Trong miếu lúc bấy giờ đã có sẵn mt đám ăn mày, già có trẻ có. Chúng nhìn chăm chú vào cái bị của Cao và chúng nhường cho Cao mt chỗ ngả lưng. Khi Cao tỉnh dậy thì mặt trời đã lên cao. Đám ăn mày trong miếu đã đi hết mà cái bị của Cao cũng biến mất. Không quần áo, không tiền bạc, Cao đành phải đi xin khắp chợ và quê. Vài ngày sau, Cao đến mt thị trấn, và đêm đến Cao ngủ ngoài chợ. Tại đây có rất nhiều ăn mày. Ban ngày chúng là ăn mày nhưng ban đêm chúng làm chủ khu chợ. Chúng chiếm các lều trại, và đánh đuổi những dân mới đến như Cao. Chúng đòi Cao np cho chúng năm đồng chinh để được ngủ mt đêm. Cao không có tiền nên chúng đánh đập Cao và đuổi Cao đi. Cao phải ngủ trước mt mái hiên nhà nọ. Sáng sớm, Cao phải dậy đi thật sớm. Ngày đi đêm nghỉ, sau mấy tháng, Cao đã đến phố Hiến. Nơi đây buôn bán tập nập. Phố xá nhn nhịp cả ngày lẫn đêm. Cao đi ăn xin và được mt số tiền. Cao bèn mua quần áo mới và đi khắp nơi kiếm việc. Cuối cùng Cao đã được mt quán cơm nhận Cao làm việc. Công việc cũng nhàn hạ, Cao chỉ có việc bưng đồ ăn cho khách và đứng hầu khách, hoặc làm các việc vặt cho bà chủ. Khi bà chủ hay cô chủ đi chợ, Cao đi theo gánh cá thịt rau đưa. Khi rảnh thì Cao lo việc đun bếp, bổ củi. Bà chủ cho Cao ở luôn tại quán, thỉnh thoảng cho Cao mt số tiền. Cao tích cực làm việc nên được bà chủ tín nhiệm. Mt thời gian sau, bà chủ già yếu, bị bệnh rồi mất, con cái bỏ nghề cũ, sang nhượng cửa hàng cho mt người khác. Cao bèn xin làm phu khuân vác cho mt hãng tàu buôn. Thấy Cao khỏe mạnh và chăm chỉ, thông minh, ông chủ hãng giao cho Cao việc chỉ huy đám phu khuân vác, sau Cao lên phụ trách việc coi kho hàng và đi biển cùng ông chủ. Từ đó Cao học tập nghề buôn bán đường biển, quen thuc thủy đạo, và gỉỏi việc điều khiển tàu biển, rành việc buôn bán, giao dịch. Cao được ông chủ tín nhiệm, gả con gái cho. Từ đó Cao trở thành con rể ông chủ. Khi ông chủ già yếu, giao hẳn cơ nghiệp cho Cao vì ông chủ chỉ có mt con gái duy nhất.
Từ khi ông chủ mất đi, Cao bắt đầu chấn chỉnh mọi việc trong ngoài. Cao xây tường quanh nhà, tuyển thanh niên mạnh khỏe vào canh gác nhà cửa, và phụ trách việc chuyển vận hàng lên tàu hoặc xuống tàu, tuyển gái đẹp phụ trách buôn bán ở các cửa hàng. Đối với các người giúp việc, Cao trả luơng cho họ rất hậu và đối xử tử tế. Mỗi khi vợ con họ đau ốm, Cao thường cho họ tiền bạc, rước thầy chẩn bệnh và cung cấp thuốc men cho họ. Vì vậy mọi người rất quý mến Cao.
Chuyến đi này Cao đã chuẩn bị mấy tháng rồi. Cao mua trà, cao, quế, lụa, vải vóc các thứ định sang bán tại các nuớc ở phía nam Trung quốc như là Tiểu Tây dương, Tân Gia Ba. . . Khi về Cao mua vàng bạc, ngọc, ngà, và vải vóc để bán. Công việc mua bán rất thuận lợi hứa hẹn mt tương lai sáng chói.
Trên đường trở về đuợc ba ngày thì hai bên thuyền bỗng xuất hiện mt đàn ‘cú biển’ . Đó là những con cá rất lớn có cái mặt và tiếng kêu giống chim cú. Những người đi biển rất sợ loài cá này. Nó là mt thứ chim cú báo tử. Những tiếng kêu của nó kéo dài trong đêm khuya khiến cho mọi người sợ hãi. Ai nấy nín thở đón nhận mt tai họa sắp giáng xuống đầu họ. Trưa hôm sau, trời bỗng trở nên im lặng mt cách kinh dị. Mặt biển yên tĩnh như nước hồ Gươm. Trời oi bức như cả không gian đang nằm trong chão nóng. Bỗng nhiên đằng tây mây hồng bừng lên rực rỡ lạ thường. Mây hồng từng lớp hiện lên rất đẹp. Rồi từ từ từng đám mây chuyển màu từ hồng sang tía rồi vàng. Và cuối cùng mây đen phủ ngập không gian. Sấm sét nổi lên. Mặt biển như rung rinh, và dần dần từ xa, những đợt sóng bốc cao lên tận trời xanh để rồi đổ xuống như những dãy nhà lầu bị đng đất lún xuống và biến mất dưới làn nước xanh. Hết đợt sóng này lại đến lớp sóng khác. Những lớp sóng này như muốn nhận chìm thuyền ông xuống tận đáy biển. Có những lúc thuyền ông như đi trong lòng mt ống cống lớn mà bốn bề đều là nước. Nhưng lớp sóng khác lại đẩy thuyền ông lên. Cứ như vậy suốt buổi. Ai cũng lo lắng không biết lúc nào thì thuyền chìm thật sự. Ông Cao đã từng đi biển nhiểu lần nhưng không lần nào nguy hiểm như lần này. Ông Cao rất lo lắng và sợ hãi vì ông biết giờ lâm tử đã đến. Khắp thuyền ai cũng niệm chú Quan Âm, hoặc kêu gọi tên mẹ cha và vợ con.
Thuyền ông đã gãy bánh lái, và ct buồm. Thuyền cứ chồm lên trời rồi lại rút xuống đáy biển. Và thuyền cứ trôi theo cơn bão, tài công không còn điều khiển đuợc thuyền. Nhưng rồi trời tạnh mưa, gió ngừng thổi, sóng cũng êm và phương đông mặt trời thẹn thùng lấp ló sau đám mây, và không gian như lóe lên mt chút ánh sáng yếu ớt. Thuyền vẫn trôi đi theo giòng nước. Đầu bếp chuẩn bị nấu ăn. Nước đã làm ướt hết thuyền nhưng nhờ sự khôn ngoan của ông mà gạo nước, thức ăn và than củi vẫn khô. Ấy là ông đã tính trước những hiểm nguy trong nghề nên trước đó ông đã mua những thùng rượu Bồ Đào mỹ tửu bán hết rượu ông giữ lại thùng. Ông đặt vào những thùng này những thứ cần thiết như gạo, thức ăn, lương khô, than củi, và lấy chai gắn lại. Ông cũng đặt riêng những hòm đựng vải vóc, ngọc ngà có gắn chai để khỏi thấm nước. Nhờ sáng kiến đó, mọi người ăn uống đầy đủ và lấy lại sức khỏe sau bao đêm bão tố hãi hùng. Nhưng rồi buổi chiều, mây đen lại nổi lên, gió thổi nhè nhẹ rồi cơn bão lại đến. Thuyền ông như mũi tên lướt trên biển. Những đợt sóng thần lại nổi lên như trái núi. Mọi người nghe muôn vạn tiếng thét, tiếng la khóc nổi lên bốn bề. Và trước mắt họ bỗng hiện lên những hình ảnh ma quỷ nhe răng trợn mắt và những thây người đầy dòi bọ nhảy múa. Giữa cơn bão tố , mọi người nghe mt tiếng nổ rất lớn như trái đất vỡ tan thành muôn mảnh. Mặt biển chao đng như sụp đổ. Cùng lúc đó mt lỗ hổng rất lớn xuất hiện làm thành mt vòng xoáy. Tiếng nuớc réo ầm ầm như thiên binh vạn mã. Những bọt nước rất lớn nổi lên và chạy xung quanh xoáy rồi tất cả chui tọt xuống hố nước vĩ đại. Ông ra lệnh mọi người đeo phao cấp cứu là những tấm ván dày hay thân gỗ tạp có những dây đeo vào thân. Thuyền ông càng lúc càng tiến dần vào vũng xoáy rồi chui tọt vào vũng xoáy vô tận.
Không biết bao lâu, ông tỉnh dậy. Ông thấy xung quanh ông có nhiều người lạ. Họ ăn mặc giống như người Mường, người Mán. Họ nói với nhau bằng mt thứ ngôn ngữ mà ông không hiểu họ là người nuớc nào. Nơi ông nằm là một ổ rơm, dường như ông đang nằm nơi điếm canh của một thôn xã nào đó. Họ cho ông ăn uống đầy đủ. Sau mấy ngày ông đã đi đứng được, họ đưa ông lên một cơ quan địa phương. Quan địa phương cho lính đưa ông xuống nhà giam. Sau mấy hôm, họ đưa ông lên thẩm vấn. Họ cho ông giấy bút để khai. Lúc nhỏ ông thất học, nhưng từ khi làm việc cho chủ thuyền buôn, ông đã học được ít nhiều chữ Hán. Ông viết rằng ông họ Cao, người An Nam quốc, đi buôn bán ở Tiểu Tây Dương, khi về bị bão đánh chìm tàu, và nguyện vọng của ông là được trở về An Nam quốc. Họ nghi ông là gián điệp ngoại bang nên giam giữ ông bốn năm , sau nhận thấy ông thật thà, nên phóng thích ông. Khi ông ra về, viên quan địa phương cấp cho ông một giấy chứng nhận ghi rằng quan trấn thủ Thiên Tân bắt được một người An Nam, xưng họ Cao, đi thuyền bị đắm trôi vào đất Thiên Tân. Nay xét tên này vô ti nên phóng thích. Nhờ xem tờ giấy này, ông mới biết là mình trôi đến bắc Trung quốc rồi bị giải về Thiên Tân. Ông vội vàng nhắm phương Nam trực chỉ. Ngày đi đêm nghỉ. Ông phải đi hành khất kiếm tiền độ nhật. Trên đường đi nhiều khi ông phải nằm liệt một xó ở các miếu hoang vì đau ốm gượng đi không nổi. Thân già dầm giải nắng mưa khiến cho ông xác xơ như là ông lão bảy tám chục tuổi. Đã thế, ông thường xuyên bị bọn sơn tặc và bọn lưu manh chận đường cướp của.Thấy ông không có tiền bạc, chúng tức giận đánh đập ông và xé luôn giấy chứng nhận của ông. Vì không có giấy tờ, ông lại bị quan binh bắt giam vì nghi ông là gian tế. Lần này ông bị giam năm năm . Lúc này quân Thanh xâm chiếm Thăng Long và bị vua Quang Trung đánh cho mt trận xiểng niểng nên họ thù ghét người An Nam quốc và họ nghi ông là gián điệp nhà Tây Sơn. Đến khi bang giao giữa nhà Thanh và Tây Sơn tốt đẹp, họ mới phóng thích ông. Ở trong tù quá lâu lại cực khổ trăm bề nên ông rụng hết răng, nói không ra tiếng và đi đứng không vững, phải chống gậy. Từ đó về đến Nam quan ông mất thêm hai năm. Và ông lần mò từ Nam quan về phố Hiến phải mất thêm sáu tháng nữa. Khi ông về đến cây đa đầu làng thì ông đã ngoại sáu mươi. Phong cảnh bây giờ khác xưa. Phố Hiến sau loạn kiêu binh, sau việc quân Tây Sơn ra bắc dẹp Trịnh và sau những biến loạn do Nguyễn Hữu Chỉnh, Trịnh Bồng và Vũ Văn Nhậm cai trị thì đã sa sút.
Ngôi nhà ông vẫn uy nghi như xưa. Vẫn hàng tường cao bao bọc. Vẫn khói lam chiều tỏa nhẹ trên mái nhà. Vẫn cái cổng tam quan với cửa gỗ chắc nịch. Khi ông tới gần cổng thì một bọn hai ba tráng đinh xa lạ ra chận lại. Chúng cầm roi xua đuổi ông. Chúng lớn tiếng bảo: Cấm ăn mày vào! Ăn xin thì cút đi! Nếu còn đứng đó thì chúng tao xua chó ra đuổi. Ông cứ tiến tới. Ông gọi tên vợ ông, con ông! Nhưng giọng ông không thoát ra khỏi cuống họng! Dù ông ta có kêu rõ tiếng cũng chẳng ai nghe vì vợ con ông ở bên trong rất xa ngõ. Ông vẫn đứng mãi đó. Bọn trai tráng tức giận mở cửa xút chó đuổi ông. Năm sáu con chó há miệng đỏ ngầu chạy ra, mắt nhìn ông hau háu. Ông sợ hãi cúi đầu chạy. Ông chạy mãi đến bờ sông thì đuối sức ngã lăn ra. Sáng hôm sau, dân làng thấy xác chết mt ông già nằm còng queo trên bờ sông. Thương tình mt ông già vô danh, họ bó chiếu rồi chôn ông ở ven sông.
Sơn Trung
SƠN TRUNG * BIỂN ĐÔNG
BIỂN ĐÔNG DẬY SÓNG
Trước sự bành trướng trên toàn cầu của Trung Quốc, chúng tôi cho rằng vì tham vọng làm bá chủ hoàn cầu, Trung Quốc có thể gây ra đại chiến thế giới.
Đa số nhà chính trị rất thận trọng khi nhận định về chiến tranh vì xưa nay nhiều cuộc chiến có thể bùng lên rồi tự nhiên tan biến như đám mây.mưa sấm sét có thể làm cơn bão hay sóng thần nhưng bỗng chốc tan đi.Trước khi Gorbachov lên làm Tổng bí thư cộng đảng Liên Xô, người ta đã thấy cuộc chiến tranh Nga Hoa sắp bùng nổ (Phải chăng vì vậy mà Trung Hoa thỏa thuận với Mỹ gì đó và Mỹ rút quân về để đứng ra ngoài cuộc chiến?). Nhưng Gorbachov lên, đã lui binh, gỡ cho hai nuớc Nga Hoa và thế giới qua cơn tàn phá của bom hạch nhân.
Vì thận trọng hay vì chủ quan, một số nhà nghiên cứu chính trị, học giả, ngoại giao cho rằng Mỹ Trung không thể xảy ra chiến tranh vì cả hai cần nhau như trong bài CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC VÀ MỸ CÓ THỂ XẢY RA HAY KHÔNG...
Có lẽ chúng ta đều là những thấy
bói mù, hoặc là cả hai đều là những tay chơi tài xỉu, không biết cuộc đời sấp
ngữa sẽ về đâu?
Theo thiển kiến, con người có thể gây chiến tranh vì tức giận, vì nóng nẩy nhất thời . Chiến tranh Nga Hoa đã xảy ra và xảy nhỏ, chưa đi đến đại chiến vì đó chỉ là cuộc tranh nhau danh tiếng hão. Nga và Hoa đều muốn giành địa vị độc tôn trong thế giới cộng sản. Nhất là Mao Trạch Đông tức giận vì Khroushchev đã triệt hạ Stalin, thần tượng của Mao. Và đường lối xét lại của Nga là trái với đường lối hiếu chiến của Mao. Nói tóm lại, đó cũng chỉ là một cuộc chiến tranh ý thức hệ, hay nói nôm na đó là chiến tranh của những con gà tức nhau vì tiếng gáy. Gorbachov là ân nhân của hai nước Nga Hoa và của thế giới.
Nhưng cuộc chiến của Đế quốc Anh, thực dân Pháp và phát xít Đức, Nhật, Ý là có dự tính kỹ lưõng, là cuộc chiến một mất một còn giữa tư bản và phát xít, nguyên do là vì thị trường.
Nay Trung Quốc cũng đứng vào vị thế của Nhật, Đức, Ý quyết sống mái với Mỹ để chiếm lĩnh thi trường và nguyên liệu trên thế giới. Đây là một cuộc chiến quan trọng mà Trung Quốc đã muốn thực hiện từ khi Marx còn sống, chuyển qua Lenin, Stalin và Mao.Tất cả những người này đều muốn tiêu diệt Mỹ, tiêu diệt tư bản để làm bá chủ hoàn cầu, để thay đế quốc tư bản bằng đế quốc cộng sản.
Hơn một thế kỷ, hàng trăm triệu sinh linh đã chết oan uổng cho mộng bá chủ đồ vương của thánh tổ Marx mà mộng đó vẫn không thành!
Đây là một cuộc chiến do lý trí quyết định, và đã chuẩn bị từ lâu. Người Đông Phương nói"Trả thù mười năm cũng không muộn." Từ khi Mao lấy lục địa đã hơn nửa thế kỷ, và nay, Trung quốc đã có tiền bạc, vũ khí, tàu bay, tàu thủy chẳng thua Mỹ thì họ sẽ ra tay trả hận bát liên quân xâu xé Trung Hoa thời Từ Hi thái hậu, và nối tiếp truyền thống đế quốc xâm lược của Thần Thủy hoàng,Hốt Tất Liệt và di chỉ của Marx mà chiếm lĩnh thế giới
Có nhiều nguyên do bắt buộc Trung Quốc phải dùng võ lực:
1. Vì nhu cầu dầu hỏa. Biển Đông là túi dầu khá lớn, vì vậy mà Trung Quốc phải chiếm Thái Bình Dương.Lý luận của Trung Quốc là Trung Quốc đòi mở rộng hải phận đến 200 hải lý.
2.Dân Trung Quốc càng ngày càng
đông. Phải tìm kiếm nguồn kinh tế nuôi họ. Vì vậy Trung Quốc đã xâm lấn Việt Nam, dồn ép
Nhật Bản, Singapore, Indonesia và Malaysia. Xa
hơn nữa, Trung Quốc đã dùng những tên Phi Châu cũng như những tên Việt Nam bán nước
cho chúng nó it tiền và ép chúng dâng biển, bán đất, bán rừng.. Nay Trung Quốc
đã khai thác các mỏ và lập công ty tại ở Việt Nam và ở Phi Châu thực hiện chính
sách thực dân kiểu cũ.
3. Trung Quôc tìm kiếm thị trường nhằm tiêu thụ số hàng khổng lồ ế đọng sau một thời gian sản xuất ồ ạt.
4 Dân Trung Quốc ngày càng bất mãn vì ruộng nương, nhà cửa bị cộng sản chiếm đoạt. Luật nhà đất Trung Quốc quy định mỗi người chỉ làm chủ ngôi nhà mình ở trong khoảnh 30 đến 50 năm mà thôi! Nhiều cuộc biểu tình nổi lên. Bọn Cộng sản muốn dùng chiến tranh để chiếm thêm đất đai, làm bá chủ thế giới, mà cũng muốn nhò chiến tranh mà kìm kẹp dân chúng, giết chết đi vài chục, vài trăm triệu người để khỏi tốn cơm! Lấy chiến tranh để ổn định nội bộ là một chính sách rất thông thường trong lịch sử nhân loại do các tên bạo chúa thực hiện.
Cuộc chiến ngày càng đến gần qua các sự kiện sau:
+Cuối năm 2009, tàu Trung Quốc ngăn chận tàu Mỹ tại Hải Nam.
+Trung Quốc bắn tiếng muốn chia Mỹ nửa Thái Bình Dương. Nếu Mỹ tỏ vẻ nhượng bộ thì Trung Quốc sẽ đòi Mỹ cút khỏi Thái Bình Dương!
+Từ 1974, Trung Quốc lấn biển Động, xâm lấn biên giới Việt Nam.
3. Trung Quôc tìm kiếm thị trường nhằm tiêu thụ số hàng khổng lồ ế đọng sau một thời gian sản xuất ồ ạt.
4 Dân Trung Quốc ngày càng bất mãn vì ruộng nương, nhà cửa bị cộng sản chiếm đoạt. Luật nhà đất Trung Quốc quy định mỗi người chỉ làm chủ ngôi nhà mình ở trong khoảnh 30 đến 50 năm mà thôi! Nhiều cuộc biểu tình nổi lên. Bọn Cộng sản muốn dùng chiến tranh để chiếm thêm đất đai, làm bá chủ thế giới, mà cũng muốn nhò chiến tranh mà kìm kẹp dân chúng, giết chết đi vài chục, vài trăm triệu người để khỏi tốn cơm! Lấy chiến tranh để ổn định nội bộ là một chính sách rất thông thường trong lịch sử nhân loại do các tên bạo chúa thực hiện.
Cuộc chiến ngày càng đến gần qua các sự kiện sau:
+Cuối năm 2009, tàu Trung Quốc ngăn chận tàu Mỹ tại Hải Nam.
+Trung Quốc bắn tiếng muốn chia Mỹ nửa Thái Bình Dương. Nếu Mỹ tỏ vẻ nhượng bộ thì Trung Quốc sẽ đòi Mỹ cút khỏi Thái Bình Dương!
+Từ 1974, Trung Quốc lấn biển Động, xâm lấn biên giới Việt Nam.
+ Từ trước, cho đến nay, Trung
Quốc bắt bọn đầu nậu Cộng sản Việt Nam bán đất tai miền Bắc và miền Trung dưới
danh nghĩa khai thác quăng mỏ và gỗ.
+Đầu năm 2010, Bắc Triều Tiên thử hỏa tiển. Bắc Triều Tiên thực ra là tay sai của Trung Cộng. Vừa rồi Bắc Triều Tiên đã uy hiếp Nam Triều Tiên và tháng 4-2010 đánh đắm một tàu Nam Triều Tiên.
+Đầu năm 2010, Bắc Triều Tiên thử hỏa tiển. Bắc Triều Tiên thực ra là tay sai của Trung Cộng. Vừa rồi Bắc Triều Tiên đã uy hiếp Nam Triều Tiên và tháng 4-2010 đánh đắm một tàu Nam Triều Tiên.
+Tháng 4 năm 2010 Trung Quốc diễu
võ dương oai với Nhật Bản, tập trận gần Okinawa.
+Tháng 4 -2010. tàu Trung Quốc và tàu Malaysia đã nghênh nhau ở Biển Đông.
+Khoảng tháng 3, 4 năm 2010, tàu Trung Cộng đóng ở vùng Hoàng sa, chuyên tuần tra khu vực này. Ngư dân Việt Nam bị bắt, bị phạt, còn ngư dân Trung Quốc đánh cá sát tình Quảng Ngãi.Trong khi đó, Trung Quốc ngang nhiên ra lệnh cấm Việt am đánh cá từ tháng ba cho đến tháng 8-2010. Và trong khi đó, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng sang Trung Quốc lạy lục , thật là nhục nhã trăm đường.
Nhưng Trung Cộng có tin Việt Cộng hay không? Cái đó là tùy ở cái tâm của Trung Quốc. Trung Quốc đã dùng vũ lực và kế tằm ăn dâu, cương nhu đều có cả, nhưng không có nghĩa là họ không dùng vũ lực trong giai đoạn quyết định. Đã là cộng sản, xuất thân từ tổ sư Stalin và Mao, người cộng sản mang hai đặc tính:
+Cương quyết, không nhân nhượng:
Cha mẹ, anh em chúng cũng đấu tố, cũng giết, không ngần ngại.
+Đa nghi, không tình cảm, không cần lý trí, không cần suy nghĩ:
Giết lầm hơn bỏ sót, giết tất cả không cần bằng cớ,dù là đồng chí, hay không đồng chí, dù có tội hay không có tội. Trong viễn cảnh đó, dù Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng có thề nguyền, lạy lục, đến lúc cần giết là Trung Cộng sẽ giết.
Hệ quả ra sao?
+Tháng 4 -2010. tàu Trung Quốc và tàu Malaysia đã nghênh nhau ở Biển Đông.
+Khoảng tháng 3, 4 năm 2010, tàu Trung Cộng đóng ở vùng Hoàng sa, chuyên tuần tra khu vực này. Ngư dân Việt Nam bị bắt, bị phạt, còn ngư dân Trung Quốc đánh cá sát tình Quảng Ngãi.Trong khi đó, Trung Quốc ngang nhiên ra lệnh cấm Việt am đánh cá từ tháng ba cho đến tháng 8-2010. Và trong khi đó, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng sang Trung Quốc lạy lục , thật là nhục nhã trăm đường.
Nhưng Trung Cộng có tin Việt Cộng hay không? Cái đó là tùy ở cái tâm của Trung Quốc. Trung Quốc đã dùng vũ lực và kế tằm ăn dâu, cương nhu đều có cả, nhưng không có nghĩa là họ không dùng vũ lực trong giai đoạn quyết định. Đã là cộng sản, xuất thân từ tổ sư Stalin và Mao, người cộng sản mang hai đặc tính:
+Cương quyết, không nhân nhượng:
Cha mẹ, anh em chúng cũng đấu tố, cũng giết, không ngần ngại.
+Đa nghi, không tình cảm, không cần lý trí, không cần suy nghĩ:
Giết lầm hơn bỏ sót, giết tất cả không cần bằng cớ,dù là đồng chí, hay không đồng chí, dù có tội hay không có tội. Trong viễn cảnh đó, dù Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng có thề nguyền, lạy lục, đến lúc cần giết là Trung Cộng sẽ giết.
Hệ quả ra sao?
Nếu tàu Trung Quốc cứ sấn vào, hoặc ngăn chận tàu Nhật Bản, Sigapore, Đài Loan thì sao? Hai trường hợp sẽ xảy ra. Nếu Nam Hàn, Nhật Bản và tàu Mỹ thấy tàu Trung Quốc mà cụp đuôi chạy thì là Mỹ nhượng bộ. Nếu tàu Trung Quốc tiến lên mà tàu Nam Hàn, Trung Quốc, Nhật Bản cũng tiến lên là đại chiến bùng ra từ nhỏ dần dần triển khai thành lớn.
Có lẽ Mỹ và Hoa đang thương lượng. Cái chính sách của cộng sản là "đả đả đàm đàm".
Nếu Mỹ làm cho Bắc Nam Triều Tiên hợp nhất dưới quyền Bắc Triều Tiên, nếu Mỹ thuận cho Đài Loan thống nhất với Trung Cộng thế là Mỹ chịu điều kiện Trung Cộng, chia nửa Thái Bình Dương.
Làm đại tướng, hy sinh vài trăm, vài ngàn tên quân là chuyện thường. Trên bàn cờ thí tốt, thí mã cứu xe cũng là chuyện thường. Kẻ chơi cờ tâm can tầm thường thì vò đấu bứt tóc, chửi rủa om sòm, nhưng tay chơi trí tuệ thì thản nhiên, thắng bại là chuyện thường của binh gia, đâu kể đến vinh nhục!
Nếu Việt Nam cúi đầu thì tất nhiên là Việt Nam trở thành lệ thuộc Trung Quốc.Chúng ta không nên tin những lời phỉnh phờ mười sáu chữ vàng,của Giang Trạch Dân là bảo vệ lãnh thổ. Bảo vệ lãnh thổ sao được khi bọn đầu gấu cứ sang quỳ lạy Bắc Kinh và ký hết hiệp ước này đến hiệp ước khác bán nước cho Trung Quốc? Và những lời kêu gọi của các tướng già là thật hay chỉ "làm dáng yêu nước"? Phải chăng Việt Nam chờ mua vũ khí về rồi sẽ hay? Hoặc việc mua vũ khí này cũng chỉ là "làm dáng anh hùng"?
Ở Việt Nam có lắm chuyện hài. Khi có quyền có thế, khi còn trẻ, không ai lên tiếng cho chính nghĩa, cho độc lập, tự do, phải chờ khi gần chết mới phát biểu. Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Nguyễn Khải, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, Võ Văn Kiệt . . . đều thế cả.Thật là:
"Lúc sống thì chẳng nói năng,
Gần chết thì mới nhăn răng ra cười!"
Trong dân tộc Việt Nam có một số yêu nước, chống Trung Quốc xâm lược, nhưng một số muốn làm Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống. Hạng này rất nhiều trong hệ thống đảng Việt Cộng::
"Chúng nó không yêu giống nòi, Chúng muốn làm kiếp tôi đòi cho xong! Ngày xưa chúng xưng anh hùng, Bây giờ rõ mặt côn trùng trong phân!
Vì những lý do sống còn, Trung Quốc phải dùng võ lực, nhưng những vụ trên chỉ là những cú thăm dò cũng như trong trận đấu vật, đây chỉ là những cái hất tay, cái vờn thử sức.
Từ đây đến cuối năm thử xem sau, có thể mỗi ngày ta sẽ thấy rõ sự việc hơn. Chúng ta chỉ là những người mù xem voi, phải có tin tức chính xác của ngành gián điệp mới nắm vững tình hình. Chưa chắc CIA đã nắm rõ tình hình!
Theo thiển kiến, Khi cộng sản nói chung sống hòa bình,cũng như hội đàm Paris nghĩa là sau hòa đàm họ sẽ tiếp tục đánh. Khi cộng sản nói đình chiến, nghỉ ngơi tức là cộng sản đánh. Như vụ mậu thân, cộng sản đề nghị hưu chiến để họ tấn công mậu thân. Việc Trung Quốc mời Kissinger lên tiếng cho rằng Bắc Kinh yêu hòa bình không đánh Mỹ nghĩa là Trung Quốc sẽ đánh Mỹ. Kissinger là con người như thế nào? Ông giả mù?
Cái chuẩn bị chiến tranh thế giới và xâm lược Việt Nam là họ vẽ biển Đông hình lưỡi bò là của họ. Họ đã viết lịch sử và dạy cho dân Trung Quốc Việt Nam là của họ, và người Trung Quốc đã đi khắp thế giới. . .Thậm chí những việc xâm lăng Việt Nam, họ bảo là tội lỗi ở Việt Nam xâm chiếm và quấy rối biên cương Hoa Việt. . .
Nay Trung Quốc cho tàu ngư chính canh tuần chặt chẽ vùng Trường Sa, Hoàng Sa và ra lệnh cấm tàu Việt Nam đánh cá từ tháng 5 cho đến tháng 8-2010. Phải chăng đây là giai đoạn hoạt động mạnh mẽ và bí mật của hải quân Trung Quốc? Và việc này có ảnh hưởng đến độc lập và chủ quyền toàn thể Việt Nam?
Thế giới ngày nay đứng giữa ngả ba đường:
+Mỹ sẽ rút lui , cúi đầu để mặc Trung Quốc cướp quyền lợi.
+Mỹ và Trung Quốc sẽ chia quyền lợi.
+Mỹ và Trung Quốc sẽ đánh nhau.
Quốc Văn Giáo Khoa Thư kể chuyện hai thằng bé đi chơi nhặt được quả bứa. Hai đứa tranh nhau, đứa bảo của tao vì tao thấy trước. Đứa kia cũng bảo của tao vì tao thấy trước. Cũng vậy, trong trường hợp này, hai đứa sẽ đánh nhau, hoặc cả hai cùng chia đôi quả bứa, hoặc một đứa phải bỏ đi! Trung Cộng thì không thể bỏ đi vì đây là cơ hội bằng vàng mà Trung Cộng đã chờ đợi ngót thế kỷ để trả thù bát quốc liên quân, để noi gương Tần Thủy Hoàng, Hốt Tất Liệt và thánh kinh của Marx tiêu diệt tư bản, nắm quyền cai trị thế giới!
Trong trường hợp Mỹ không chấp thuận hoặc chấp thuận điều kiện của Trung Quốc, Việt Nam muốn tồn tại đều phải thực hiện các điều sau:
+Đoàn kết toàn dân
+Thanh lọc bộ máy chính quyền thối nát
+Liên kết với các nước trên thế giới, nhất là các nước châu Á , quan trọng là Úc, Nhật Bản và Ấn Độ.
XX.VẤN
ĐỀ TỶ GIÁ ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ ( NGUYÊN "YUAN" ) CỦA TRUNG QUỐC
Tháng 4. 2010, khi Hồ Cẩm Đào sang Mỹ họp LHQ, ông đã hứa sẽ uyển chuyển về vấn đề tiền tệ. Loan báo này cũng làm cho Mỹ và châu Âu hoan nghênh. Đài RFA ngày 25.05.2010 loan tin với hàng chữ lớn "Mỹ - Trung hài lòng sau thương thuyết về giá trị nhân dân tệ" mà nội dung như sau: "Trung Quốc tuyên bố sẽ theo cách của mình trong vấn đề cải tổ tiền tệ, trong khi cả Bắc Kinh lẫn Washington đều tự cho là có thắng lợi trong cuộc thương thuyết về giá trị nhân dân tệ, tuy nhiều vấn đề vẫn chưa có câu trả lời.. .
“Trung Quốc sẽ thấy vấn đề hồi phục giá trị đồng nhân dân tệ là có lợi cho chính họ”, bộ trưởng Geither nói như vậy trên đài truyền hình Bloomberg. Phía Trung Quốc tuyên bố, Hoa Kỳ thấu hiểu rằng, Trung Quốc sẽ quyết định một cách độc lập về những bứơc nhất định trong cải tổ tỷ giá, dựa trên lợi ích của mình, cũng như điều kiện kinh tế thế giới và định hướng phát triển của Trung Quốc.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-and-US-each-claim-gains-on-Yuan-in-talks-05252010175847.html
Trong tháng này, đài VOA ngày 16 tháng 6 năm 2010, loan tin rất lạc quan là Trung Quốc đã đồng ý tăng giá đồng Nhân dân tệ. Và tin này đã làm cho Tổng thống Obama "hồ hởi, phấn khởi!". Nói chung, trong cuộc chiến tiền tệ này, cả hai bên Hoa Mỹ đều tuyên bố "đại thắng"!
"Bắc Kinh vẫn chịu áp lực của quốc tế muốn họ định giá lại đồng tiền để giúp giảm bớt sự mất thăng bằng của kinh tế toàn cầu, trong đó phải kể đến cán cân thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc." Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama hoan nghênh loan báo hôm thứ Bảy của Trung Quốc sẽ để cho đồng tiền của họ có tỷ giá trao đổi linh hoạt hơn. Tổng thống Obama gọi quyết định của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc là một bước xây dựng, giúp cho kinh tế toàn cầu hồi phục.
Lãnh đạo Quỹ Tiền Tệ Quốc tế cũng hoan nghênh động thái của Trung Quốc sẽ để cho đồng Nhân dân tệ được định giá lại, sau gần hai năm giữ đồng tiền này ở mức khoảng 6,8 ăn một đôla Mỹ".
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/world/china-currency-6-19-10-96731214.html
Thật ra thiên hạ đã mắc mưu Trung Quốc. Tháng tư-2010, Hồ Cẩm Đào tuyên bố chính sách đẹp để lấy lòng thế giới và gạt thế giới trong cuộc họp LHQ. Nay tháng 6, trước hội nghị G20 sắp diễn ra ngày 26 và 27-10-2010 tại Toronto (Canada) , Trung Quốc cũng diễn lại màn cũ mà thiên hạ cũng có người tin theo.
Cả hai lần tuyên bố trên, Trung Quốc chỉ hứa hão huyền vì không nói rõ bao giờ và tỷ giá là bao nhiêu. Có thể vài ngày, vài tuần, vài tháng nữa và tỷ giá có thể tăng 0,1% hay 0,3% ai mà biết được!
Và nếu như vậy thì coi như là không thay đổi gì cả. Cũng có thể họ tăng giá vài bữa rồi trở lại như cũ! Đấy là một chính sách tiền tệ " linh hoạt", "linh động" và mềm dẻo của Trung Quốc xin ai chớ có than van! Cũng như dân ta dại dột mà cho rằng đem tiền một tháng không có nghĩa là chỉ "học tập một tháng". Chính sách kinh tế linh hoạt là một cách nói vô cùng ngọai giao, vô cùng bóng bảy. Linh hoạt có nghĩa là thay đổi, có thể tăng, có thể giảm, có thể đứng yên, nay thế này, mai thế khác. Trung quốc đâu có nói là họ sẽ tăng trị giá đồng nguyên của họ, và tăng bao nhiêu thế mà các ông lớn trong tòa Bạch Ốc đã mừng húm! Ôi! Các ông cố vấn, các ông tiến sĩ Mỹ lẽ nào lại "dởm" đến thế sao?
Dẫu sao thì cũng có người biết đưọc mánh khóe gian xảo của Trung Quốc. Theo tin Reuters hôm thứ ba, kết thúc hai ngày Đối thoại Kinh Tế Chiến lược Mỹ-Hoa, Bộ trưởng Ngân Khố Hoa Kỳ Timothy Geithner tuyên bố rằng, thảo luận về đồng nhân dân tệ Trung Quốc có kết quả đáng khích lệ, nhưng chưa thể cho rằng Bắc Kinh sẽ nâng giá nhân dân tệ như giới lập pháp Hoa Kỳ đòi hỏi.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-and-US-each-claim-gains-on-Yuan-in-talks-05252010175847.html
Tin RFA ngày 19-6-2010, nhan đề "Hoa Kỳ nghi ngờ thiện chí của Trung Quốc"nội dung như sau: Giới lập pháp Hoa Kỳ, lên tiếng đầu tiên là nghị sĩ Charles Schumer, tuyên bố nỗ lực này của Bắc Kinh đầy mơ hồ và hạn chế. Ông Shumer là người dẫn đầu trong hành động đòi Quốc hội ra luật cho phép hành pháp sử dụng biện pháp tăng thuế nhập khẩu để chống lại những nước có chính sách lạc lõng về hối suất tiền tệ quốc tế. Nghị sĩ Schumer nói điều công bố này vẫn là điển hình cho sự đối phó của Trung Quốc khi có áp lực. Thông cáo của văn phòng nghị sĩ Schumer cho rằng khi Trung Quốc chưa nói cụ thể về thời gian thay đổi và thay đổi bao nhiêu về hối suất, thì Hoa Kỳ chưa thể cảm nhận được rằng Bắc Kinh bắt đầu hành động theo luật tắc quốc tế. Người đứng đầu về chiến lược tiền tệ toàn cầu của công ty Brown Brothers ở New York, ông Marc Chandler, tuyên bố ông nghi ngờ thiện chí của Trung Quốc trong việc này, và chỉ lời nói suông không đủ.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-move-vague-and-limited-us-senator-schumer-06192010160040.html
Luận điệu của Trung Quốc vẫn là ngang ngược và dối trá.Trung Quốc tỏ ra độc lập, kiên cường, bất khuất khi tuyên bố: Trung Quốc sẽ theo cách của mình trong vấn đề cải tổ tiền tệ.. .Trung Quốc sẽ quyết định một cách độc lập về những bứơc nhất định trong cải tổ tỷ giá, dựa trên lợi ích của mình, cũng như điều kiện kinh tế thế giới và định hướng phát triển của Trung Quốc.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-and-US-each-claim-gains-on-Yuan-in-talks-05252010175847.html
Trung Quốc tỏ ra ngang ngược. Một đàng họ tỏ ra mềm dẻo, một mặt rất là ngoan cố khi các nhà báo và các nhà kinh tế, chính trị thế giới muốn đưa ra bàn tại hội nghị G20 nhưng Trung Quốc khước từ:
"Có nhiều phần chắc tiền tệ của Trung Quốc sẽ được mang ra bàn tại hội nghị này, nhưng báo chí Trung Quốc hôm thứ Sáu dẫn lời các quan chức của họ nói rằng Trung Quốc sẽ không tham gia bất cứ cuộc thảo luận nào liên quan đến Nhân dân tệ."
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/world/china-currency-6-19-10-96731214.html
Tin RFA ngày 18-6-2010 loan tin "Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã gởi văn thư cho các lãnh tụ G20, lưu ý sự dị biệt gay gắt về lập trường tiền tệ Trung Quốc, và việc Âu Châu ra sức ứng phó tình trạng thâm hụt ngân sách đáng ngại.
Theo một viên chức Canada thì chính sách tiền tệ gây nhiều tranh cãi của Trung Quốc sẽ được thảo luận tại thượng đỉnh G20 dù Bắc Kinh cảnh báo là đừng nêu lên vấn đề nầy tại hội nghị.
Hiện Trung Quốc ngày càng gặp áp lực quốc tế là phải định lại tỷ giá đồng nhân dân tệ, mà theo Washington, Bắc Kinh cố tình giữ ở mức thấp có lợi cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc và góp phần gây nên tình trạng thất nghiệp tại Hoa Kỳ."
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/US-China-face-off-over-currency-ahead-of-G20-06182010202355.html
Nghe Trung Quốc nói thì thiên hạ khoái chí vỗ tay đồm độp nhưng sau hai ba ngày suy nghĩ ý nghĩa sâu xa của lời nói và nhìn vào hành động của Trung Quốc, thiên hạ đã tỉnh ngộ!
Nay thì chính giới Mỹ tỏ ra bất mãn khi họ nhận ra Trung Quốc đã lươn lẹo trong lời nói và hành động.
RFA 23.06.2010 loan tin:
Các nhà lập pháp Hoa Kỳ vẫn tỏ ra phẫn nộ đối với chính sách tiền tệ của Trung Quốc, mặc dù Bắc Kinh mới công bố một chính sách gọi là uyển chuyển về hối suất nhân dân tệ.
Chính sách tiền tệ của Bắc Kinh bị Quốc hội Mỹ lên án là giữ giá thấp để có lợi thế sắc bén bất công trên thị trường thế giới. Quốc hội Hoa Kỳ hô hào trả đũa.
Cả hai đảng Dân chủ và Cộng hoà đều muốn ra luật để trừng phạt điều họ gọi là thao túng tiền tệ, coi đó như biện pháp trợ giá bất hợp pháp, và luật lệ phải giúp hành pháp Mỹ áp thuế lên hàng Trung Quốc.
Hôm thư tư dân biểu Tim Murphy của đảng Công hoà tuyên bố từ nhiều thập niên Trung Quốc đã cho gián địêp dọ thám, chuyển vũ khí sang cho những kẻ thù của Mỹ ở Trung Đông, ăn cắp bản quyền, làm giả hàng Mỹ. Ông cho rằng những người quýêt định chính sách ở Bắc Kinh đã phá giá bán rẻ hơn hàng Mỹ tới 40% bằng cách giữ giá đồng yuan thấp so với Mỹ kim.
Dân biểu Dân chủ Tim Ryan tuyên bố nếu Trung Quốc muốn tham dự nền thương mại toàn cầu thì phải nhập cuộc theo cùng luật lệ với mọi người khác, nhưng hiện nay Bắc Kinh không làm như vậy. Dân biểu Betty Sutton của đảng Dân chủ mô tả cuộc đấu tranh về tiền tệ với Trung Quốc là cuộc chiến phải đánh và phải thắng trong thời gian ngắn.
Giới lập pháp Hoa Kỳ đã dự thảo một loạt dự luật nhắm vào Trung Quốc ở nhiều vấn đề, từ trị giá tiền tệ, bản quyền trí tuệ, đến quy chế ưu đãi cho hàng hoá và dịch vụ của Trung Quốc dành cho các hợp đồng công chi của chính phủ Mỹ.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/Angry-US-lawmakers-target-China-currency-06232010211337.html
Đài VOA, ngày 23-6-2010 với nhan đề "Bộ trưởng Thương Mại Mỹ: Đồng Nguyên vẫn thấp so với trị giá thực" loan tin:
Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ Gary Locke nói rằng Bộ Thương Mại đang duyệt xét lại yêu cầu của 2 công ty Mỹ muốn áp dụng thuế chống bán phá giá đối với Trung Quốc
Bộ trưởng Thương Mại Hoa Kỳ Gary Locke nói rằng Trung Quốc vẫn giữ tỉ giá đồng nguyên thấp mặc dù mới đây nước này đã quyết định cho tăng hối suất giữa đồng nguyên với đồng đô la. Hôm thứ Tư ông Locke nói trước các thượng nghị sỹ rằng bộ Thương Mại đang duyệt xét lại những yêu cầu của 2 công ty Mỹ muốn áp dụng “ các sắc thuế đối trọng” nhắm vào tiền Trung Quốc. Bộ trưởng Locke và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Rom Kirk nói rằng họ dự kiến các nhà lãnh đạo trong khối G-20 sẽ thảo luận về trị giá của đồng nguyên khi họp thượng đỉnh tại Canada vào cuối tuần này. Thứ Bảy tuần trước, ngân hàng trung ương Trung Quốc loan báo những kế hoạch để hối suất đồng nguyên được linh động hơn. Hôm thứ Tư, các thượng nghị sỹ Hoa Kỳ tỏ ý ngờ vực về hành động này của Trung Quốc và than phiền rằng hành động của Trung Quốc chưa đủ xa. Các nhà làm luật Hoa Kỳ chỉ trích rằng Trung Quốc giữ giá đồng nguyên thấp một cách giả tạo để tạo ưu thế giá rẻ cho hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu sang các thị trường thế giới. Càng ngày Trung Quốc càng bị nhiều áp lực từ Hoa Kỳ, Liên Hiệp Châu Âu và Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế buộc họ phải tăng trị giá đồng nguyên.
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/world/us-china-currency-6-23-10-97031629.html
Trên đây là những tin cho biết Trung Quốc đã đồng ý nâng giá đồng nhân dân tệ dù chỉ là tượng trưng để phỉnh phờ thiên hạ, nay thì Trung Quốc lật mặt ngay. Thay đổi một bữa lại trở về giá cũ! Sao họ không chờ sau hội nghị G20, chỉ còn mấy ngày nữa rồi sẽ trở lại giá cũ? Phải chăng phe diều hâu trong đảng tấn công, gây áp lực? Hoặc một ngày thôi mà đã thiệt hại vô số kể? Nhiều kẻ than phiền :"Ông Trung Quốc thiệt là không xài nổi! Và thiệt là khó chơi!" Ấy! Cổ nhân Việt Nam đã nói rồi: "Quân tử nhất ngôn là quân tử dại,
Quân tử nói đi nói lại là quân tử khôn"!
Chỉ có người đần trong truyện cổ tích mới nghe theo lời đường mật của bọn chuyên bịp!
Đài RFA ngày 22.06.2010 nhan đề " Trung Quốc lại giữ và hạ giá đồng yuan" loan tin:
Trung Quốc lại giữ và hạ giá đồng yuan sau khi thi hành chính sách thả nổi hạn chế, trong một kế hoạch có tính toán để nhấn mạnh chính sách này không phải chỉ theo chiều nâng giá tiền tệ. Những ngân hàng lớn của Nhà nước Trung Quốc đã kìm giá đồng yuan, một ngày sau khi giá đồng tiền này tăng không nhiều nhưng cùng là mức kỷ lục tính từ năm 2005 đến nay, và là điều hiếm thấy Bắc Kinh thực hiện. Hôm thứ Hai, đồng tiền Trung Quốc đã tăng giá 0,4%, qua cuối ngày thứ ba lại hạ 0,2%.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-makes-good-on-flexibility-vow-yuan-falls-06222010211826.html
Bản tin đài VOA ngày 20-6-2010 loan tin :
"Ngân hàng Trung ương Trung Quốc hôm nay thông báo sẽ không thực hiện một lần điều chỉnh lớn về tỷ giá hối đoái của đồng Nguyên.
Thông báo đăng trên trang web của ngân hàng hôm nay nói rằng giới hữu trách phải tiếp tục kiểm soát các dao động về tỷ giá hối đoái để duy trì sự ổn định căn bản của đồng Nguyên."
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/china-currency-6-20-10-96759074.html
Tờ VN Express ngày 21-6-2010 viết như sau: "Trung Quốc gây sốc thị trường tiền tệ".
Một ngày sau cam kết điều hành đồng NDT linh hoạt hơn, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) lại bất ngờ quyết định giữ nguyên chính sách tỷ giá và không tăng giá đồng NDT.
PBOC cho rằng, hiện đại không có bất kỳ yếu tố căn bản có lợi nào ủng hộ cho việc thả nổi đồng NDT, cũng như nới rộng biên độ dao động của đồng tiền vốn thường được gọi là “Đồng tiền nhân dân” (People’s money). Giữ nguyên tỷ giá ở mức “có lợi và cân bằng” sẽ góp phần giữ ổn định tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, và giúp chính phủ rảnh tay trong việc tái cấu trúc nền kinh tế chuyển dần sang dịch vụ và tiêu dùng. Trong bản báo cáo, PBOC hé mớ định hướng điều hành chính sách tỷ giá mới sẽ dựa nhiều hơn vào nền tảng kho dự trự ngoại hối khổng lồ thay vì các yếu tố chủ quan được Bắc Kinh đưa ra.
http://vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/Quoc-te/2010/06/3BA1D2B3/
Nói tóm lại, Trung Quốc nhất định " chống Mỹ cứu nước" và để làm bá chủ thiên hạ. Theo nhiều nhà kinh tế, Trung Quốc thủ đoạn khi hạ giá đồng nguyên của họ là để kiếm lời. Ông Clinton là vua playboy nên chẳng lo nghĩ gì vấn đề này, nhưng tổng thống Bush đã nhiều lần đặt vấn đề này mà Trung Quốc làm ngơ. Nay Obama quyết liệt thì Trung Quốc miệng lưỡi mềm dẻo nhưng thực tế thì vẫn khư khư giữ đường lối cũ.
Theo các nhà kinh tế, Trung Quốc không thể nâng giá đồng nguyên vì:
- không còn lời lãi bao nhiêu!
- số Mỹ kim cất trong kho sẽ bay hơi ít nhiều.
-hàng hóa tăng giá, it người mua đi.
-sẽ phải đóng cửa một số công ty, sa thải một số công nhân, và như thế sẽ gây ra nạn thất nghiệp, có thể xảy ra bạo loạn nguy cơ cho nền cai trị của cộng sản.
Nếu Trung Quốc muốn hòa thì mỗi bên phải nhường một bước. Nhưng e Trung Quốc quyết chiến, mà kinh tế là một chiến thuật rất hữu dụng trong giai đoạn này để đánh phá tư bản Mỹ. Hơn nữa, phe quân phiệt đang lăm le tiến quân, nếu Hồ Cẩm Đào không nghe họ thì sẽ bị đảo chánh để cử một tay quân phiệt lên gây máu tanh trong thế giới này!
Nhưng ma quỷ mưu cao mà thầy pháp cũng cao tay thì vấn đề sẽ trở nên khác. Rõ ràng là cuộc thế chiến thứ ba đã xảy ra bắt đầu bằng nguyên nhân vật chất đó là kinh tế và dầu hỏa.
Nếu thảo luận hòa bình không xong, thì đường ai nấy đi. Trung cộng hạ giá đồng nguyên thì Mỹ và Tây Âu sẽ hạ giá tiền tệ của họ. Nay đồng Euro hạ giá ngang ngửa đồng Mỹ kim, và Mỹ kim cũng đã hạ giá rồi và Mỹ đã in thêm tiền rồi.
Ngoài ra chính sách thuế khóa sẽ được áp dụng. Mỹ đánh thuế hàng Trung Cộng thì Trung Cộng cũng đánh thuế hàng Mỹ. Cuối cùng, Mỹ phải rút vốn và công ty về Mỹ và bế môn tỏa cảng với Trung Cộng. Thị trường Mỹ là thị trường lớn nhất chiếm gấp nhiều lần thị trường thế giới. Trung Cộng nhún nhường thì còn kiếm được cháo, nếu hùng hổ thì sẽ ra sao? Chúng ta tưởng tượng cảnh hai tiệm phở cạnh tranh. Ban đầu giá mỗi tô phở là 30 ngàn, xuống hai chục ngàn, xuống năm ngàn và đi đến chiến thuật " mua một tặng một" hoặc cho không, lúc đó phải có một bên chết! Bấy giờ thì phải dao mác, gây gộc để trả hận thôi! Người Trung Quốc đã sẵn sàng. Phe quân phiệt Trung cộng đã sẵn sàng!
Tháng 4. 2010, khi Hồ Cẩm Đào sang Mỹ họp LHQ, ông đã hứa sẽ uyển chuyển về vấn đề tiền tệ. Loan báo này cũng làm cho Mỹ và châu Âu hoan nghênh. Đài RFA ngày 25.05.2010 loan tin với hàng chữ lớn "Mỹ - Trung hài lòng sau thương thuyết về giá trị nhân dân tệ" mà nội dung như sau: "Trung Quốc tuyên bố sẽ theo cách của mình trong vấn đề cải tổ tiền tệ, trong khi cả Bắc Kinh lẫn Washington đều tự cho là có thắng lợi trong cuộc thương thuyết về giá trị nhân dân tệ, tuy nhiều vấn đề vẫn chưa có câu trả lời.. .
“Trung Quốc sẽ thấy vấn đề hồi phục giá trị đồng nhân dân tệ là có lợi cho chính họ”, bộ trưởng Geither nói như vậy trên đài truyền hình Bloomberg. Phía Trung Quốc tuyên bố, Hoa Kỳ thấu hiểu rằng, Trung Quốc sẽ quyết định một cách độc lập về những bứơc nhất định trong cải tổ tỷ giá, dựa trên lợi ích của mình, cũng như điều kiện kinh tế thế giới và định hướng phát triển của Trung Quốc.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-and-US-each-claim-gains-on-Yuan-in-talks-05252010175847.html
Trong tháng này, đài VOA ngày 16 tháng 6 năm 2010, loan tin rất lạc quan là Trung Quốc đã đồng ý tăng giá đồng Nhân dân tệ. Và tin này đã làm cho Tổng thống Obama "hồ hởi, phấn khởi!". Nói chung, trong cuộc chiến tiền tệ này, cả hai bên Hoa Mỹ đều tuyên bố "đại thắng"!
"Bắc Kinh vẫn chịu áp lực của quốc tế muốn họ định giá lại đồng tiền để giúp giảm bớt sự mất thăng bằng của kinh tế toàn cầu, trong đó phải kể đến cán cân thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc." Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama hoan nghênh loan báo hôm thứ Bảy của Trung Quốc sẽ để cho đồng tiền của họ có tỷ giá trao đổi linh hoạt hơn. Tổng thống Obama gọi quyết định của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc là một bước xây dựng, giúp cho kinh tế toàn cầu hồi phục.
Lãnh đạo Quỹ Tiền Tệ Quốc tế cũng hoan nghênh động thái của Trung Quốc sẽ để cho đồng Nhân dân tệ được định giá lại, sau gần hai năm giữ đồng tiền này ở mức khoảng 6,8 ăn một đôla Mỹ".
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/world/china-currency-6-19-10-96731214.html
Thật ra thiên hạ đã mắc mưu Trung Quốc. Tháng tư-2010, Hồ Cẩm Đào tuyên bố chính sách đẹp để lấy lòng thế giới và gạt thế giới trong cuộc họp LHQ. Nay tháng 6, trước hội nghị G20 sắp diễn ra ngày 26 và 27-10-2010 tại Toronto (Canada) , Trung Quốc cũng diễn lại màn cũ mà thiên hạ cũng có người tin theo.
Cả hai lần tuyên bố trên, Trung Quốc chỉ hứa hão huyền vì không nói rõ bao giờ và tỷ giá là bao nhiêu. Có thể vài ngày, vài tuần, vài tháng nữa và tỷ giá có thể tăng 0,1% hay 0,3% ai mà biết được!
Và nếu như vậy thì coi như là không thay đổi gì cả. Cũng có thể họ tăng giá vài bữa rồi trở lại như cũ! Đấy là một chính sách tiền tệ " linh hoạt", "linh động" và mềm dẻo của Trung Quốc xin ai chớ có than van! Cũng như dân ta dại dột mà cho rằng đem tiền một tháng không có nghĩa là chỉ "học tập một tháng". Chính sách kinh tế linh hoạt là một cách nói vô cùng ngọai giao, vô cùng bóng bảy. Linh hoạt có nghĩa là thay đổi, có thể tăng, có thể giảm, có thể đứng yên, nay thế này, mai thế khác. Trung quốc đâu có nói là họ sẽ tăng trị giá đồng nguyên của họ, và tăng bao nhiêu thế mà các ông lớn trong tòa Bạch Ốc đã mừng húm! Ôi! Các ông cố vấn, các ông tiến sĩ Mỹ lẽ nào lại "dởm" đến thế sao?
Dẫu sao thì cũng có người biết đưọc mánh khóe gian xảo của Trung Quốc. Theo tin Reuters hôm thứ ba, kết thúc hai ngày Đối thoại Kinh Tế Chiến lược Mỹ-Hoa, Bộ trưởng Ngân Khố Hoa Kỳ Timothy Geithner tuyên bố rằng, thảo luận về đồng nhân dân tệ Trung Quốc có kết quả đáng khích lệ, nhưng chưa thể cho rằng Bắc Kinh sẽ nâng giá nhân dân tệ như giới lập pháp Hoa Kỳ đòi hỏi.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-and-US-each-claim-gains-on-Yuan-in-talks-05252010175847.html
Tin RFA ngày 19-6-2010, nhan đề "Hoa Kỳ nghi ngờ thiện chí của Trung Quốc"nội dung như sau: Giới lập pháp Hoa Kỳ, lên tiếng đầu tiên là nghị sĩ Charles Schumer, tuyên bố nỗ lực này của Bắc Kinh đầy mơ hồ và hạn chế. Ông Shumer là người dẫn đầu trong hành động đòi Quốc hội ra luật cho phép hành pháp sử dụng biện pháp tăng thuế nhập khẩu để chống lại những nước có chính sách lạc lõng về hối suất tiền tệ quốc tế. Nghị sĩ Schumer nói điều công bố này vẫn là điển hình cho sự đối phó của Trung Quốc khi có áp lực. Thông cáo của văn phòng nghị sĩ Schumer cho rằng khi Trung Quốc chưa nói cụ thể về thời gian thay đổi và thay đổi bao nhiêu về hối suất, thì Hoa Kỳ chưa thể cảm nhận được rằng Bắc Kinh bắt đầu hành động theo luật tắc quốc tế. Người đứng đầu về chiến lược tiền tệ toàn cầu của công ty Brown Brothers ở New York, ông Marc Chandler, tuyên bố ông nghi ngờ thiện chí của Trung Quốc trong việc này, và chỉ lời nói suông không đủ.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-move-vague-and-limited-us-senator-schumer-06192010160040.html
Luận điệu của Trung Quốc vẫn là ngang ngược và dối trá.Trung Quốc tỏ ra độc lập, kiên cường, bất khuất khi tuyên bố: Trung Quốc sẽ theo cách của mình trong vấn đề cải tổ tiền tệ.. .Trung Quốc sẽ quyết định một cách độc lập về những bứơc nhất định trong cải tổ tỷ giá, dựa trên lợi ích của mình, cũng như điều kiện kinh tế thế giới và định hướng phát triển của Trung Quốc.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-and-US-each-claim-gains-on-Yuan-in-talks-05252010175847.html
Trung Quốc tỏ ra ngang ngược. Một đàng họ tỏ ra mềm dẻo, một mặt rất là ngoan cố khi các nhà báo và các nhà kinh tế, chính trị thế giới muốn đưa ra bàn tại hội nghị G20 nhưng Trung Quốc khước từ:
"Có nhiều phần chắc tiền tệ của Trung Quốc sẽ được mang ra bàn tại hội nghị này, nhưng báo chí Trung Quốc hôm thứ Sáu dẫn lời các quan chức của họ nói rằng Trung Quốc sẽ không tham gia bất cứ cuộc thảo luận nào liên quan đến Nhân dân tệ."
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/world/china-currency-6-19-10-96731214.html
Tin RFA ngày 18-6-2010 loan tin "Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã gởi văn thư cho các lãnh tụ G20, lưu ý sự dị biệt gay gắt về lập trường tiền tệ Trung Quốc, và việc Âu Châu ra sức ứng phó tình trạng thâm hụt ngân sách đáng ngại.
Theo một viên chức Canada thì chính sách tiền tệ gây nhiều tranh cãi của Trung Quốc sẽ được thảo luận tại thượng đỉnh G20 dù Bắc Kinh cảnh báo là đừng nêu lên vấn đề nầy tại hội nghị.
Hiện Trung Quốc ngày càng gặp áp lực quốc tế là phải định lại tỷ giá đồng nhân dân tệ, mà theo Washington, Bắc Kinh cố tình giữ ở mức thấp có lợi cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc và góp phần gây nên tình trạng thất nghiệp tại Hoa Kỳ."
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/US-China-face-off-over-currency-ahead-of-G20-06182010202355.html
Nghe Trung Quốc nói thì thiên hạ khoái chí vỗ tay đồm độp nhưng sau hai ba ngày suy nghĩ ý nghĩa sâu xa của lời nói và nhìn vào hành động của Trung Quốc, thiên hạ đã tỉnh ngộ!
Nay thì chính giới Mỹ tỏ ra bất mãn khi họ nhận ra Trung Quốc đã lươn lẹo trong lời nói và hành động.
RFA 23.06.2010 loan tin:
Các nhà lập pháp Hoa Kỳ vẫn tỏ ra phẫn nộ đối với chính sách tiền tệ của Trung Quốc, mặc dù Bắc Kinh mới công bố một chính sách gọi là uyển chuyển về hối suất nhân dân tệ.
Chính sách tiền tệ của Bắc Kinh bị Quốc hội Mỹ lên án là giữ giá thấp để có lợi thế sắc bén bất công trên thị trường thế giới. Quốc hội Hoa Kỳ hô hào trả đũa.
Cả hai đảng Dân chủ và Cộng hoà đều muốn ra luật để trừng phạt điều họ gọi là thao túng tiền tệ, coi đó như biện pháp trợ giá bất hợp pháp, và luật lệ phải giúp hành pháp Mỹ áp thuế lên hàng Trung Quốc.
Hôm thư tư dân biểu Tim Murphy của đảng Công hoà tuyên bố từ nhiều thập niên Trung Quốc đã cho gián địêp dọ thám, chuyển vũ khí sang cho những kẻ thù của Mỹ ở Trung Đông, ăn cắp bản quyền, làm giả hàng Mỹ. Ông cho rằng những người quýêt định chính sách ở Bắc Kinh đã phá giá bán rẻ hơn hàng Mỹ tới 40% bằng cách giữ giá đồng yuan thấp so với Mỹ kim.
Dân biểu Dân chủ Tim Ryan tuyên bố nếu Trung Quốc muốn tham dự nền thương mại toàn cầu thì phải nhập cuộc theo cùng luật lệ với mọi người khác, nhưng hiện nay Bắc Kinh không làm như vậy. Dân biểu Betty Sutton của đảng Dân chủ mô tả cuộc đấu tranh về tiền tệ với Trung Quốc là cuộc chiến phải đánh và phải thắng trong thời gian ngắn.
Giới lập pháp Hoa Kỳ đã dự thảo một loạt dự luật nhắm vào Trung Quốc ở nhiều vấn đề, từ trị giá tiền tệ, bản quyền trí tuệ, đến quy chế ưu đãi cho hàng hoá và dịch vụ của Trung Quốc dành cho các hợp đồng công chi của chính phủ Mỹ.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/Angry-US-lawmakers-target-China-currency-06232010211337.html
Đài VOA, ngày 23-6-2010 với nhan đề "Bộ trưởng Thương Mại Mỹ: Đồng Nguyên vẫn thấp so với trị giá thực" loan tin:
Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ Gary Locke nói rằng Bộ Thương Mại đang duyệt xét lại yêu cầu của 2 công ty Mỹ muốn áp dụng thuế chống bán phá giá đối với Trung Quốc
Bộ trưởng Thương Mại Hoa Kỳ Gary Locke nói rằng Trung Quốc vẫn giữ tỉ giá đồng nguyên thấp mặc dù mới đây nước này đã quyết định cho tăng hối suất giữa đồng nguyên với đồng đô la. Hôm thứ Tư ông Locke nói trước các thượng nghị sỹ rằng bộ Thương Mại đang duyệt xét lại những yêu cầu của 2 công ty Mỹ muốn áp dụng “ các sắc thuế đối trọng” nhắm vào tiền Trung Quốc. Bộ trưởng Locke và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Rom Kirk nói rằng họ dự kiến các nhà lãnh đạo trong khối G-20 sẽ thảo luận về trị giá của đồng nguyên khi họp thượng đỉnh tại Canada vào cuối tuần này. Thứ Bảy tuần trước, ngân hàng trung ương Trung Quốc loan báo những kế hoạch để hối suất đồng nguyên được linh động hơn. Hôm thứ Tư, các thượng nghị sỹ Hoa Kỳ tỏ ý ngờ vực về hành động này của Trung Quốc và than phiền rằng hành động của Trung Quốc chưa đủ xa. Các nhà làm luật Hoa Kỳ chỉ trích rằng Trung Quốc giữ giá đồng nguyên thấp một cách giả tạo để tạo ưu thế giá rẻ cho hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu sang các thị trường thế giới. Càng ngày Trung Quốc càng bị nhiều áp lực từ Hoa Kỳ, Liên Hiệp Châu Âu và Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế buộc họ phải tăng trị giá đồng nguyên.
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/world/us-china-currency-6-23-10-97031629.html
Trên đây là những tin cho biết Trung Quốc đã đồng ý nâng giá đồng nhân dân tệ dù chỉ là tượng trưng để phỉnh phờ thiên hạ, nay thì Trung Quốc lật mặt ngay. Thay đổi một bữa lại trở về giá cũ! Sao họ không chờ sau hội nghị G20, chỉ còn mấy ngày nữa rồi sẽ trở lại giá cũ? Phải chăng phe diều hâu trong đảng tấn công, gây áp lực? Hoặc một ngày thôi mà đã thiệt hại vô số kể? Nhiều kẻ than phiền :"Ông Trung Quốc thiệt là không xài nổi! Và thiệt là khó chơi!" Ấy! Cổ nhân Việt Nam đã nói rồi: "Quân tử nhất ngôn là quân tử dại,
Quân tử nói đi nói lại là quân tử khôn"!
Chỉ có người đần trong truyện cổ tích mới nghe theo lời đường mật của bọn chuyên bịp!
Đài RFA ngày 22.06.2010 nhan đề " Trung Quốc lại giữ và hạ giá đồng yuan" loan tin:
Trung Quốc lại giữ và hạ giá đồng yuan sau khi thi hành chính sách thả nổi hạn chế, trong một kế hoạch có tính toán để nhấn mạnh chính sách này không phải chỉ theo chiều nâng giá tiền tệ. Những ngân hàng lớn của Nhà nước Trung Quốc đã kìm giá đồng yuan, một ngày sau khi giá đồng tiền này tăng không nhiều nhưng cùng là mức kỷ lục tính từ năm 2005 đến nay, và là điều hiếm thấy Bắc Kinh thực hiện. Hôm thứ Hai, đồng tiền Trung Quốc đã tăng giá 0,4%, qua cuối ngày thứ ba lại hạ 0,2%.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-makes-good-on-flexibility-vow-yuan-falls-06222010211826.html
Bản tin đài VOA ngày 20-6-2010 loan tin :
"Ngân hàng Trung ương Trung Quốc hôm nay thông báo sẽ không thực hiện một lần điều chỉnh lớn về tỷ giá hối đoái của đồng Nguyên.
Thông báo đăng trên trang web của ngân hàng hôm nay nói rằng giới hữu trách phải tiếp tục kiểm soát các dao động về tỷ giá hối đoái để duy trì sự ổn định căn bản của đồng Nguyên."
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/china-currency-6-20-10-96759074.html
Tờ VN Express ngày 21-6-2010 viết như sau: "Trung Quốc gây sốc thị trường tiền tệ".
Một ngày sau cam kết điều hành đồng NDT linh hoạt hơn, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) lại bất ngờ quyết định giữ nguyên chính sách tỷ giá và không tăng giá đồng NDT.
PBOC cho rằng, hiện đại không có bất kỳ yếu tố căn bản có lợi nào ủng hộ cho việc thả nổi đồng NDT, cũng như nới rộng biên độ dao động của đồng tiền vốn thường được gọi là “Đồng tiền nhân dân” (People’s money). Giữ nguyên tỷ giá ở mức “có lợi và cân bằng” sẽ góp phần giữ ổn định tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, và giúp chính phủ rảnh tay trong việc tái cấu trúc nền kinh tế chuyển dần sang dịch vụ và tiêu dùng. Trong bản báo cáo, PBOC hé mớ định hướng điều hành chính sách tỷ giá mới sẽ dựa nhiều hơn vào nền tảng kho dự trự ngoại hối khổng lồ thay vì các yếu tố chủ quan được Bắc Kinh đưa ra.
http://vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/Quoc-te/2010/06/3BA1D2B3/
Nói tóm lại, Trung Quốc nhất định " chống Mỹ cứu nước" và để làm bá chủ thiên hạ. Theo nhiều nhà kinh tế, Trung Quốc thủ đoạn khi hạ giá đồng nguyên của họ là để kiếm lời. Ông Clinton là vua playboy nên chẳng lo nghĩ gì vấn đề này, nhưng tổng thống Bush đã nhiều lần đặt vấn đề này mà Trung Quốc làm ngơ. Nay Obama quyết liệt thì Trung Quốc miệng lưỡi mềm dẻo nhưng thực tế thì vẫn khư khư giữ đường lối cũ.
Theo các nhà kinh tế, Trung Quốc không thể nâng giá đồng nguyên vì:
- không còn lời lãi bao nhiêu!
- số Mỹ kim cất trong kho sẽ bay hơi ít nhiều.
-hàng hóa tăng giá, it người mua đi.
-sẽ phải đóng cửa một số công ty, sa thải một số công nhân, và như thế sẽ gây ra nạn thất nghiệp, có thể xảy ra bạo loạn nguy cơ cho nền cai trị của cộng sản.
Nếu Trung Quốc muốn hòa thì mỗi bên phải nhường một bước. Nhưng e Trung Quốc quyết chiến, mà kinh tế là một chiến thuật rất hữu dụng trong giai đoạn này để đánh phá tư bản Mỹ. Hơn nữa, phe quân phiệt đang lăm le tiến quân, nếu Hồ Cẩm Đào không nghe họ thì sẽ bị đảo chánh để cử một tay quân phiệt lên gây máu tanh trong thế giới này!
Nhưng ma quỷ mưu cao mà thầy pháp cũng cao tay thì vấn đề sẽ trở nên khác. Rõ ràng là cuộc thế chiến thứ ba đã xảy ra bắt đầu bằng nguyên nhân vật chất đó là kinh tế và dầu hỏa.
Nếu thảo luận hòa bình không xong, thì đường ai nấy đi. Trung cộng hạ giá đồng nguyên thì Mỹ và Tây Âu sẽ hạ giá tiền tệ của họ. Nay đồng Euro hạ giá ngang ngửa đồng Mỹ kim, và Mỹ kim cũng đã hạ giá rồi và Mỹ đã in thêm tiền rồi.
Ngoài ra chính sách thuế khóa sẽ được áp dụng. Mỹ đánh thuế hàng Trung Cộng thì Trung Cộng cũng đánh thuế hàng Mỹ. Cuối cùng, Mỹ phải rút vốn và công ty về Mỹ và bế môn tỏa cảng với Trung Cộng. Thị trường Mỹ là thị trường lớn nhất chiếm gấp nhiều lần thị trường thế giới. Trung Cộng nhún nhường thì còn kiếm được cháo, nếu hùng hổ thì sẽ ra sao? Chúng ta tưởng tượng cảnh hai tiệm phở cạnh tranh. Ban đầu giá mỗi tô phở là 30 ngàn, xuống hai chục ngàn, xuống năm ngàn và đi đến chiến thuật " mua một tặng một" hoặc cho không, lúc đó phải có một bên chết! Bấy giờ thì phải dao mác, gây gộc để trả hận thôi! Người Trung Quốc đã sẵn sàng. Phe quân phiệt Trung cộng đã sẵn sàng!
SƠN TRUNG * HOÀI NIỆM
Hoài niệm
Sơn Trung
Giữa một mùađông.
Bốn bề tuyết trắng!
Mưa rơi lạnh lùng
Đọng thành từng giọt
Trên cành cây thông
Thành niềm giá băng
Em còn nhớ không?
Ba mươi tháng tư,
Sài gòn lửa đỏ.
Vũ trụ hồng hoang,
Hay ngày tận thế?
Một trời tóc tang,
Bốn bề đạn nổ,
Dắt con chạy quàng!
Trại binh bỏ ngõ,
Giày sô đầy đường!
Nửa đời nước mắt
Nửa đời bỏ hoang!
Anh trôi bềnh bồng
Vào cơn ác mộng.
Anh nghe biển động,
Thân tàu vỡ tan,
Mênh mông đại dương.
Muôn ngàn đợt sóng ,
Một thoáng vô thường!
Buổi sớm sương mù,
Núi rừng hoang vu.
Thêm vài nấm mộ
Vùi nông thân tù!
Anh Trần Văn Bá,
Anh Lê Quốc Quân,
Anh là thiên thần,
Trên đầu quỷ dữ!
Lịch sử tôi đó,
Dân tộc tôi đó.
Một sân rêu phong,
Một mái nhà đổ,
Một trang máu đỏ,
Một tháng tư đen!
Sơn Trung
Giữa một mùađông.
Bốn bề tuyết trắng!
Mưa rơi lạnh lùng
Đọng thành từng giọt
Trên cành cây thông
Thành niềm giá băng
Em còn nhớ không?
Ba mươi tháng tư,
Sài gòn lửa đỏ.
Vũ trụ hồng hoang,
Hay ngày tận thế?
Một trời tóc tang,
Bốn bề đạn nổ,
Dắt con chạy quàng!
Trại binh bỏ ngõ,
Giày sô đầy đường!
Nửa đời nước mắt
Nửa đời bỏ hoang!
Anh trôi bềnh bồng
Vào cơn ác mộng.
Anh nghe biển động,
Thân tàu vỡ tan,
Mênh mông đại dương.
Muôn ngàn đợt sóng ,
Một thoáng vô thường!
Buổi sớm sương mù,
Núi rừng hoang vu.
Thêm vài nấm mộ
Vùi nông thân tù!
Anh Trần Văn Bá,
Anh Lê Quốc Quân,
Anh là thiên thần,
Trên đầu quỷ dữ!
Lịch sử tôi đó,
Dân tộc tôi đó.
Một sân rêu phong,
Một mái nhà đổ,
Một trang máu đỏ,
Một tháng tư đen!
No comments:
Post a Comment