XUÂN VŨ * ÔNG XÀ BENG
ÔNG XÀ BENG
Khán
giả đến đông nghẹt nhưng ủy ban ra lệnh dẹp hết phông màn buổi diễn
kịch của khóa huấn luyện Thanh niên Cứu Quốc Khóa Chiến Thắng để lấy
ngôi đình họp phiên tòa khẩn cấp. Chỉ chập sau là các vị quan tòa đã
bước lên sân khấu. Trời sụp tối nhanh. Trên bàn giữa, để một chiếc đèn
chân gỗ đốt bằng dầu cá. Ba ngọn đèn đỏ chạch như ba miếng giẻ rách te
tua bay phất trong gió biển thổi mạnh. Bộ sậu tòa vừa an tọa thì bên
dưới khán giả đến xem kịch lại bị bắt xem xử án – xôn xao. Không hiểu
đến giờ phút chót “kịch” mới đổi ra “tòa” hay đó là một sự sắp đặt? Vì
nếu người dân biết trước thì sẽ đi loe hoe vài người. Ai ở không đi coi
xử án? – Như vậy tòa sẽ “diễn” không hứng thú và dân sẽ không có dịp
biết oai cách mạng chăng?
Khán
giả xoay đầu nhìn về phía căn giữa của ngôi đình rộng lớn nơi các “tội
nhân” đang bị dẫn vào. Bốn người đàn ông, hai người đàn bà: hai người
đàn ông đi đầu, kế đến, một người đàn bà, hai người đàn ông, lại một
người đàn bà. Không hiểu cách mạng khoan hồng và nhân đạo nên để vợ gần
chồng trong lúc nguy nan hay họ được xếp theo thứ tự tội nặng đi trước
tội nhẹ theo sau, chỉ thấy tất cả đều bị trói thúc ké bằng nhiều loại
dây khác nhau: dây dàm trâu, dây nịt da, dây giềng lưới, khăn rằn… Đây
là sự thi hành một cách sáng tạo lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch “… ai có
súng dùng súng ai có gươm dùng gươm, không có súng gươm thì dùng gậy
gộc…” trong lãnh vực bắt trói. Ai quơ được dây nịt thì trói bằng dây
nịt, ai chộp được lưới thì xé lấy giềng lưới, ai có khăn rằn thì xài
khăn rằn… không có khăn, dây thì dùng áo quần trói cũng được – miễn trói
chặt thì thôi..
Trong
đám “tội nhân” chỉ đàn bà là đủ quần áo, còn đàn ông thì phơi lưng trần
với những vết bầm to nhỏ ngang dọc, mặt mũi không biết có còn nguyên
vẹn không vì họ gục đầu, không trông rõ.
Tất cả được xỏ xâu bằng một sợi dây luộc dừa và một người nắm đầu dây dắt đến đây. Người đó là ông Xà Beng.
Vừa
trông thấy ông, tiếng xì xào đã nổi lên. Mặt ông đỏ bầm như trái sắn,
đầu bịt khấc đầu rìu làm cho tóc ông xửng đứng lên như chiếc nôm dựng
ngược. Hai cánh tay ông thòi ra thay cho hai tay áo bành tô đã bị cắt
mất, như cặp trăn cuộn mình xâm những hình thù kỳ quái. Từ túi áo trái
nhô ra một cái có chai bầu. Nó cũng là một khán giả đi coi hát hụt phải
dòm những người đang ngồi trên sân khấu mà tưởng tượng đó là kịch.
Ông
Xà Beng làm nhiệm vụ dắt tội nhân vào trình tòa xong thì ngồi phệch
xuống gốc cột, móc chai rượu ra ngửa cổ tu một hơi dài, giơ cái chai lên
ánh đèn như để xem rượu còn đủ hay không cho ông tẩm gân để hát màn
chót mà ông chắc mình sẽ là kép chính. Tự nhiên đám đông vẹt xa ông ra
nhường cái gốc cột danh dự cho ông.
Từ
lâu chẳng ai còn lạ gì tên Xà Beng. Ông là trưởng ban trừ gian xã.
Trước kia ông ở trong một cái thum ngoài rìa chợ dưới một gốc gáo già
đứng ở mé sông. Do đó người ta gọi ông là ông Gáo. Ông Gáo sống bằng rác
chợ. Đôi khi người ta cũng có thí cho ông một con cá biển ế nhưng chưa
thối.
Cách
mạng tháng 8 nổ ra. Chánh quyền cướp được. Viên Hội đồng địa hạt ở
trong xã bị xử tử tại sân chợ. Người ta trói lão vào cọc bắn rồi đem dập
ở sau đình. Hôm sau, thấy ông Hội bò lê trên bãi cỏ. Ủy ban nhân dân
khiếp vía. Trưởng ban Công An là Tư Quắn, mặt mũi hì hợm, được coi là
hung dữ nhất làng và là kẻ đã bắn ông Hội đồng bằng cây súng bắn chim
của chính ông ta. Ủy Ban gọi anh ta đến để “giải quyết” vấn đề, nhưng
anh ta nói: “Tiết Cương oan oan tương báo”1 rồi bỏ xứ đi biệt luôn. Do
đó, ủy ban mới “tam cố gốc gáo” thỉnh ông Gáo. Ông Gáo nhận công tác
nhưng đòi một chai rượu đúng một lít. Ủy Ban cho ông một thùng năm lít
lấy của tiệm Chệt. Làm gì lắm thế? Ông Gáo chỉ cần một xị thôi mà. Ông
Hội đồng thay vì được hưởng phát súng ân huệ lại bị ông Gáo đập bằng Xà
beng. Cây Xà beng một đầu dẹp một đầu tà ông nhặt được của lơ xe hơi bỏ
quên ngoài bến xe ven tỉnh lộ. Đầu tà để nện, đầu dẹp để đâm, xeo.
Thấy
ông Gáo hoàn thành công tác xuất sắc, ủy ban dùng ông luôn, cho ông nhà
cửa, cơm áo, rượu thịt, ngoài ra còn tặng thưởng ông chức trưởng ban
trừ gian. Đúng ra là Công An bắt người, người nào đáng tội chết thì giao
cho ông. Người nào ông nhận là ông giết, cách nào cũng được, không cần
giấy tờ hoặc lệnh lọt của ai cả.
Ông
trưởng ban trừ gian chuyên đập đầu người ta bằng xà beng. Trong làng có
một chiếc cầu đúc xi măng bắc ngang con rạch chảy qua suốt làng. Ông
Gáo đem người lên cầu, kê đầu lên thanh cầu đập bằng xà beng rồi đạp
xuống rạch. Đó là những tội nhân tốt phước. Vì người nhà chỉ cần đón ở
vàm rạch đổ ra sông cái thì vài ngày sau vớt được. Còn những kẻ bất hạnh
ông Gáo chở bằng xuồng ra sông Cái, ghếch đầu lên be xuồng mà đập –
cũng bằng xà beng – rồi hất xác xuống sông. Xác trôi mênh mông người nhà
không vớt được. Do đó mà Cách mạng có cái danh từ đặc biệt “mò tôm” mà
xuất xứ là ông Gáo chăng? Sau cách mạng tôm cá vùng này ế nhệ, không ai
mua vì người ta cho là chúng ăn thây ma. Mà thật vậy thây ma sau cách
mạng nhiều lắm. Không mấy hôm là nó vắng trôi trên sông.
Một
người lạ mặt đến tìm bà con vớ vẩn bị dân quân hỏi giấy – không có – bị
xét, thấy trên lai áo có ba lằn chỉ xanh-trắng-đỏ, thế là bị hồ nghi dọ
thám cho Pháp (ba lằn chỉ đó là rìa vải của hãng dệt). Một người mặc đồ
trắng mang giày Tây quen thói cũ nói chuyện xen mấy tiếng “bông-giua và
toa toa moa moa” là bị gán cho tiếng Việt gian, một người đàn bà góa có
nhân ngãi, do đó ông trưởng công an ấp không xơ múi được, thế là nhân
ngãi bà ta bị bắt không với tội danh cũng không có sự giải thích nào…
Tất cả những hạng người kể trên đều được giao cho ông Gáo đưa đi đầu
thai bằng xà beng hết cả. Do đó mà có cái tên “ông Xà Beng” và trong xã
có câu rủa ác: “Cho xà beng ăn mày đi!” và câu thề độc: “Đứa nào có làm
như thế mà chối hoặc đứa nào nói thêm sẽ bị xà-beng ăn!”
Và
đó là câu làm cho người trong cuộc sợ hãi nhất. Bởi vì ông Xà Beng ở
ngay đó, bởi vì cây xà beng ông lận lưng đó, dưới vạt áo bành tô không
tay càng ngày càng thêu thêm những đốm những sọc đỏ sậm, hoặc tươi ướt
chồng lên nhau ghi dấu những thành tích của ông. Cái khúc sắt ấy khá
nặng nhưng ông giắt lưng như trưởng ban công an giắt súng lục nhờ một
sợi dây nịt to bảng của một chú chệt bán thịt heo dùng đựng tiền đã rách
vứt đi. Người lối xóm hễ thấy ông đi vô quán đong rượu thì biết tối đó
ông có công tác. Cách mạng trả lương cho ông hậu quá, một chai bầu một
mạng người, thảo nào ông chả hăng hái? Cái xà beng đã có cô hồn, người
ta bảo vậy, nên ông đi đến đâu chó cụp tai lủi trốn, và ban đêm nó rên
rỉ như tiếng người vì vậy lối xóm của ông đã dời đi hết. Cũng như xóm
nhà ở vùng Cầu Đúc, Tây không ruồng tới nổi mà cũng tản cư sạch láng.
Bộ
sậu tòa đã chỉnh đốn tư thế xong, sắp diễn trò. Người đứng bên cực trái
của chiếc bàn dài, mặt nhọn như chữ V đứng lên tuyên bố, không thưa hỏi
đồng bào để mào đầu gì cả.
“Hôm
nay tỉnh bộ Việt Minh đặt ra phiên tòa dân chủ nhân dân này để xét xử
sáu tên Hòa Hảo phản động bị bắt ở quận Chợ Lách. Thần phần phiên tòa
gồm có ông chủ nhiệm tỉnh bộ Việt Minh làm chánh án, ông trưởng ty Công
An làm ủy viên Chánh phủ, ông Đoàn trưởng Nông dân cứu quốc làm hội thẩm
và tôi làm lục sự. Ngoài ra, còn có hai bà Đoàn trưởng và cán bộ Phụ Nữ
Cứu Quốc, ông Đoàn trưởng Thanh Niên Cứu Quốc làm biện hộ luật sư. Vậy
mọi người hãy im lặng để phiên tòa bắt đầu.”
Thế
là phiên tòa bắt đầu, không chào cờ, không hát quốc ca, không cả treo
ảnh cụ Hồ để chào – có vẻ hấp tấp như Hòa Hảo Chợ Lách sắp tấn công tới
đây vậy.
Ông
chủ nhiệm Việt Minh tỉnh gầy nhom, mũi rất to, suýt che bít cả môi
trên, còn môi dưới thì xệ và thâm sịt như môi người ghiền á phiện. Ông
nói giọng đặc dấu nặng:
“Tội thạy mặt tọa tuyện bộ khại mạc phiện xự sạu tện phạn động.”
Bên
dưới dân quân xô đẩy xâu tội nhân giàn ra cho ngay ngắn thành một hàng
ngang trước mặt tòa. Ông chánh án móc túi lấy một tờ giấy, mở ra. Tiếng
giấy khua sột soạt trong không khí im đặc. Ông nghiêng vào ánh đèn xao
động vì gió thổi ác liệt. Ông đọc chậm chạp, dừng lại ở từng tên, ngó
xuống như để nhận diện và hốt hồn họ – những tội nhân chưa được xét xử
nhưng đã bị đối đãi như tử tội. Bằng chứng là tốp dân quân ở sau đình
đang hì hục đào lỗ và nói oang oang một cách vui vẻ cố ý cho mọi người
nghe rằng “hai con đàn bà và bốn thằng đàn ông sẽ ngủ chung trên cái
giường này!”
Đọc tên xong, ông Chánh Án bắt đầu làm việc của quan tòa. Ông hất hàm xuống người đàn ông đứng cực phải:
“Anh
Nguyễn Văn X…! Tại sao anh không chịu hạ cờ Già xuống để treo cờ đỏ sao
vàng lên trong ngày quốc khánh đầu tiên của nước ta?”
Bị
hỏi, người đàn ông bây giờ mới ngước mặt lên, hất mớ tóc xụ xộp qua một
bên phơi trần nửa vầng trán và đuôi mắt tím bầm, từ tốn và run run, anh
ta đáp:
“Thưa
quan “tà”, hồi nào tới giờ tôi vô đạo của Huỳnh Giáo Chủ thì tôi treo
cờ đạo của Huỳnh Giáo Chủ chớ không treo cờ nào khác”
“Nhưng
cờ của Huỳnh Giáo Chủ…ủa…ủa” viên quan tòa “ủa” liên tục. “Cờ Đạo không
ai được treo trong ngày Quốc Khánh, anh biết không?”
Bây
giờ mọi người mới vỡ nhẽ ra là người đàn ông và có thể cả mấy người kia
nữa bị bắt và xử vì tội không treo cờ đỏ sao vàng trong ngày Quốc
Khánh.
Nhiều
người không treo cờ nhưng đâu có bị bắt. Chắc mấy người này bị bắt vì
họ là tín đồ Hòa Hảo, vì họ thờ Huỳnh Giáo Chủ. Vì Huỳnh Giáo Chủ có
chân trong Ủy Ban Nam Bộ và đã bị ám hại chăng?
“Dạ, chánh phủ đâu có nói là cấm treo cờ Đạo!”
“Anh coi trọng cờ đó lắm hả?”
“Dạ.”
“Còn cờ đỏ sao vàng?”
“Dạ cờ đỏ sao vàng thì mới có đây nên tôi còn lạ.”
“Trước lạ sau quen, Chánh Phủ biểu treo thì anh treo nghe chưa?”
“Dạ để ít lâu coi sao rồi treo cũng không muộn.”
“Bây giờ anh có treo cũng đã muộn rồi.”
Người đàn ông vẫn chẫm rãi đáp:
“Thưa
quan tòa, trong hiến pháp cụ Hồ Chí Minh có tuyên bố với toan dân là
khi độc lập, người dân được năm quyền Tự Do dân chủ. Quyền số một là tự
do bầu cử, quyền số hai là tự do hội họp, quyền số ba là tự do tín
ngưỡng, quyền số bốn là tự do thư tín, quyền số năm là tự do đi lại. Vậy
tôi theo đạo của Đức Thầy tôi làm trúng vô quyền tự do tín ngưỡng, tôi
đâu có mần gì sái mà người ta bắt đánh tôi dử vầy?”
Quan tòa hất hàm:
“Nhưng tại sao anh không treo cờ đỏ sao vàng chớ?”
“Dạ vợ tôi không chịu may nên không có để treo.”
“Tại sao lại may cờ đạo?”
Chị
đàn bà đứng cách đó một người nghe câu hỏi của tòa bèn ngẩng đầu lên.
(Té ra cách mạng chia loan rẽ túy đến kỳ cùng, không để cho vợ bị xâu
gần chồng như người ta lầm tưởng tự nãy giờ). Chị đáp:
“Dạ, tôi không có may cờ đạo!”
“Không may tại sao lại có cờ treo?”
“Dạ,
thưa tà cờ có đâu hồi nẵm tới giờ rồi, chớ không phải tôi mới may. Có
trước chớ đâu phải vợ tôi may cờ đạo mà không may cờ đỏ sao vàng.” Người
chồng phân trần.
Quan tòa gắt nhẹ:
“Này,
anh nghe cho rõ đây: nếu anh lỡ treo cờ đạo thì cũng được đi, nhưng anh
phải treo cờ đỏ sao vàng trên cờ Già. Có dân tộc mới có đạo giáo, anh
rõ không?”
Người đàn ông đáp:
“Dạ, phàm trong tâm con người, hễ thờ đạo nào thì chỉ thờ một đạo thôi.”
“Nhưng
cờ đỏ là của chung đất nước, là dân thì phải thờ. Treo cờ đỏ là thờ đất
nước. Không treo cờ đỏ là anh đứng ngoài dân tộc là anh đi lạc đường
rồi. Tôi coi bộ anh là người hiểu biết, anh hiểu điều đó không?”
“Dạ thưa tà…”
Ông ủy viên Chánh phủ đập bàn trỏ mặt người đàn ông:
“Anh câm ngay! Anh là người hiểu biết, sao anh gọi “tòa” là “tà”?”
“Dạ tôi nói vậy đã quen miệng rồi!”
“Anh coi tòa là quan gia tà, tà mị hả? Anh dám coi cách mạng là tà mị hả?”
“Dạ không phải! Ông nói vậy chớ tôi đâu có nghĩ vậy!”
“Ngoan cố!” – Ủy viên chánh phủ lại đập bàn quát:
“Anh nói tiếp đi!” Quan tòa gắt.
“Dạ thưa quan t…, thưa quan, tôi hổng biết tiếp ở chỗ nào.”
“Ở chỗ anh không chịu treo cờ đỏ, mà chỉ treo cờ Già!”
“Dạ
tôi đâu có hổng chịu treo. Cờ đỏ treo ở đằng trụ sở Ủy ban ai đi ngang
cũng thấy! Bữa nào có mít tinh nghe ở trên xuống tuyên truyền thì đồng
bào đứng chung quanh, tôi cũng có đứng. Còn đây là cờ đạo của Đức Thầy,
ai theo đạo mới thờ, ai không theo thì thôi. Đức Thầy đâu có bắt treo.
Đức Thầy cũng không có dạy tôi là đạo đứng ở ngoài dân tộc!”
“Nhưng nếu anh không treo cờ đỏ thì anh phải hạ cờ đạo xuống, anh rõ không?”
“Dạ nếu Chánh phủ cụ Hồ phán vậy thì dân đâu dám cãi.”
“Không phải cụ Hồ đâu, mà là ủy ban tỉnh thôi.”
“Dạ, ủy ban có muốn hạ thì hạ chớ cần gì phải hỏi, nhưng hạ cờ còn cột cờ.”
“Hạ luôn cột cờ!” Quan tòa nổi giận thét.
“Dạ hạ ở ngoài nhưng không hạ được bên trong…”
“Trong nhà cũng hạ luôn. Dẹp luôn bàn thờ Thầy, cấm luôn tụng kinh gõ mõ.”
“Dạ không phải trong nhà…”
“Mấy người đem bàn thờ giấu trong buồng hả?”
“Dạ không phải trong buồng mà trong b…ụng!”
Ông
ủy viên Chánh phủ nãy giờ như ngồi bàn chông. Bộ mặt chè bè nung núc
những thịt của ông run run như nở bạnh ra. Cặp mắt lồi của ông tia xuống
tội nhân. Đến đây thì ông không còn kiên nhẫn nữa, ông lại đập bàn
quát. Đập bàn là tác phong dân chủ nhân dân của ông.
“Thằng này cứng đầu, chối quanh không chịu nhận tội!”
Cánh
tay hộ pháp của ông đập quá mạnh làm tiêm đèn sụt xuống. Đèn tắt một
ngọn. Hai ngọn còn lại lắc lư trước gió như cái chân lý của phiên tòa.
Quan tòa nói:
“Như vậy đã rõ! Xin mời ông ủy viên chánh phủ buộc tội!”
“Tử
hình!” Một tiếng buông ra cộc lốc từ cái bộ mặt nở bạnh có những luống
thịt run run nhịp nhàng với bàn tay đập bàn phát nữa để chấm dứt một
cuộc đời. Tiếng quát của ủy viên Chánh phủ làm ông Xà Beng giật mình
tỉnh giấc mơ tiên. Ông nhướng mắt nghiêng đầu nhìn người đàn ông vừa bị
ném cho tiếng “tử hình” rồi lại ngã vào gốc cột ngủ tiếp yên trí rằng
đêm nay ông sẽ bận rộn nhiều.
Các
ông các bà biện hộ sư ngồi ở phía dưới sân khấu không có phản ứng gì
khi án tử hình đã gán cho tội nhân mà chưa kịp mở miệng cãi lại. Quan
tòa vẫn nhớ rằng những ông bà ấy có mặt đêm nay ở đây là để biện hộ cho
những tội nhân mà án tử đã được định trước khi phiên tòa khai mạc. Hoặc
ông không nhầm thì các vị biện hộ sư này có nhiệm vụ lý luận bằng cách
nào đó để nhắc khéo ông ủy viên chánh phủ rằng nếu tội nhân chỉ đáng tù
chung thân thì phải tăng lên tử hình, còn nếu đáng tử hình thì phải
chồng hai án một lúc – nghĩa là thay vì cởi ra lại buộc thêm.
Do
đó, quan chánh án thấy không có gì phải thắc mắc khi ông ủy viên chánh
phủ tuyên án tử hình mà các biện hộ sư chưa có một lời cãi… hộ. Và có lẽ
cũng hiểu chuyện đời như vậy nên người tử tội vãn thản nhiên, không nói
gì thêm mà cũng không cúi đầu nhận tội.
Quan
tòa tiếp tục hỏi cung người đàn ông thứ hai. Theo kế hoạch đã định
trước thì quan tòa chỉ hỏi một người rồi kết án chung một lần cho đỡ mất
thì giờ, vì 6 người cùng bị bắt trong một đêm và cùng một hoàn cảnh,
nhưng vì ủy viên chánh phủ nổi cáu đã tuyên án tử hình ngay người thứ
nhất rồi, nên quan tòa phải bắt sang người thứ hai. Ông hất hàm:
“Tại
sao anh gõ mõ tụng kinh chuyền cho nhà bên cạnh để cả xóm đồng tâm
không đón đội tuyên truyền xung phong vào và đồn Cầu Ông Ngò gồm ba phần
tư là lính Hòa Hảo canh giữ đã đem lính ra phục kích bắn chết ba đội
viên của đội tuyên truyền xung phong khu?”
“Dạ thưa tà…”
“Tòa”!
Không phải “tà”! Anh liệu cái thần hồn!” Ông ủy viên chánh phủ lại vỗ
bàn làm thếp đèn nhảy lên, nhưng may quá cái ánh sáng chân lý chỉ run
run, chưa cái nào tắt thêm.
“Dạ thưa bẩm… bẩm quan.” Người đàn ông có vẻ khiếp sợ, đáp.
“Đây
là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không phải thực dân mà “Dạ, Thưa” rồi còn
“bẩm”. Ở đây cũng không có quan quyền gì hết. Chỉ toàn là những nô bộc
của dân. Ông Chánh án gọi các anh bằng “anh” để chứng tỏ cho mọi người
thấy nước ta là nước dân chủ, anh rõ chưa?”
Ông
Bồi thẩm ngồi bên trái ông Chánh án tự nãy giờ chỉ có mấy nhiệm vụ. Một
là khêu đèn nghĩa là giữ cho ánh sáng chân lý không trụt xuống mỗi khi
ông ủy viên chánh phủ đập bàn. Hai là xua muỗi cho ông chánh án. Muỗi
cũng là một loại khán giả quan trọng và náo động nhất ở đây. Nhiệm vụ
thứ ba là phải giải thích cho tội nhân về cái sự dân chủ của nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa như vừa rồi và để chắc chắn rằng tội nhân đã nhận
rõ lời ông giải thích, ông hỏi gặn:
“Anh có thấy nước ta ban hành tự do dân chủ đầy đủ chưa?”
“Dạ thấ…ấy!”
“Vậy
thì anh hãy trả lời vì sao anh đánh mõ gõ chuông chuyền như vậy? Nếu
anh khai thật và nói cho tòa biết trong vùng anh còn mật hiệu nào khác
để báo động khi bộ đội tới nữa không, thì anh sẽ được chánh phủ tỏ lượng
khoan hồng.”
“Dạ đánh mõ tụng kinh như vậy là chuyện thường đêm của người đạo chúng tôi chớ đâu phải mật hiệu gì.”
“Xin tòa hỏi xem anh ta tụng kinh thiệt hay kinh giả?” Viên Bồi thẩm nói.
“Dạ, kinh là kinh chớ đâu có kinh thiệt kinh giả.” Người đàn ông đáp ngay.
“Kinh anh đọc tên là Kinh gì?”
“Dạ, Kinh Giác Mê Tâm Kệ!”
“Có ý nghĩa gì?”
“Dạ có ý nghĩa làm tỉnh dậy những người mê muội chìm đắm bể trầm luân.”
Quan
tòa thở hắt ra, ngó sang ông Bồi Thẩm như để cầu cứu một câu giải thích
tiếp trong khi ông tìm thêm lý lẽ để vặn tội nhân, nhưng ông Bồi Thẩm
chỉ hỏi:
“Ai mê đắm bể trầm luân, anh nói nghe thử?”
“Dạ,
chúng sanh mê muội giết người đồng loại. Dạ, Đức Thầy đã kêu gọi thiện
Nam tín Nữ chúng tôi hãy làm lành lánh dữ, lấy thiện chống ác, lấy minh
chống u, lấy phước chống tội, lấy chánh chống tà…”
“Bốp!” Ông chánh án mặt to lại đập bàn. “Đây không phải chỗ cho anh đọc kinh!”
Trong
hai nữ biện hộ sư, có một bà mặt rỗ, một bà mặt trái soan rất đẹp. Thấy
tòa nổi giận, bà trái soan khẽ thúc cùi chỏ bà mặt rỗ. Bà này vội vã
đứng lên không xin phép, nói ngay – vì bà biết, nếu chậm trễ ông ủy viên
Chánh phủ sẽ phun thêm một cái án tử hình mới. Giọng bà eo éo như tiếng
đờn cò lên cao:
“Thưa
đồng chí Chánh án, thưa ông Ủy viên Chánh phủ! Thân chủ tôi nghĩ rằng
giác mê tậm kệ sẽ làm người ta hết mê muội, nhưng chính anh ta lại là kẻ
mê muội đáng được ánh sáng của cách mạng soi rọi để dắt ra khỏi cõi mê,
từ chỗ u ra chỗ minh, từ kẻ dữ hóa lành, từ ác quỷ ra thiện nhân, từ
tội lỗi ra phứ…c ức…ức!” Một con bồ hông bay tới lao vào cái lỗ phóng
thanh – như một chiếc Thần Phong của Nhật Hoàng nhủi xuống ống tàu chiến
của đồng minh – rấp tâm trám bít nó lại, nhưng vì thân bồ bé bỏng nên
chỉ làm cho máy phát tiếng trục trặc chút thôi.
Nhưng
sự hy sinh của nó không phải là vô ích. Người nữ tội nhân nãy giờ gục
đầu nức nở vì cái án tử hình đã giáng xuống cho chồng, vừa nghe tiếng ho
“ức ức” của bà biện hộ sư thì tưởng bà ta cùng giới mà cảm thương phận
đàn bà bị “ức” hiếp…, nên chị khóc ré to lên.
Còn
bà biện hộ sư thì lại nghĩ rằng lời bào chữa của mình đã xuyên thấu tim
đen của tội nhân làm bật tung dòng lệ thảm cho nên sau khi nuốt chửng
chiếc Thần Phong tí hon bà lại tiếp tục biện hộ:
“Thưa
đồng chí Chánh án, thân chủ tôi đã vì mê muội của thứ bàn môn tả đạo
nên phạm tội sát nhân. Luật pháp trên thế giới là giết người thì phải
đền mạng dù rằng ngộ sát hay cố sát. Trong trường hợp này thân chủ tôi
đã cố sát nhưng xét cho cùng đoàn tuyên truyền xung phong chỉ mất có mấy
cán bộ, thay vì tổn thất nhiều hơn nữa. Và xét cho cùng nữa thì đó
không phải thân chủ tôi rắp tâm mà do sự mê muội…”
Ông Bồi Thẩm chờ bà biện hộ sư dứt câu, bèn mớm:
“Đồng chí biện hộ sư đã giảm tội cho thân chủ được bảy phần rồi đó, chỉ còn câu cuối cùng nữa là thân chủ được tha bổng.”
Bà
nữ biện hộ sư thấy phấn chấn hẳn lên. Những nốt rỗ chứa bóng tối trên
mặt bà làm chúng đen ra như những trái sắn già không ai hái cũng như cái
tuổi của bà bây giờ.
Bà
tằng hắng to lên vì con bồ hong còn kẹt trong họng, nhưng quan tòa lại
nghĩ rằng bà biện hộ sư hăng hái bảo vệ nhân dân quá mức nên đã dám cả
gan nạt tòa làm tòa giật mình suýt giảm án cho tội nhân. Quan tòa sực
nhớ ra rằng ông bà thầy cãi ngồi dưới kia chỉ là cây cảnh, hơn nữa các
án đã được định bằng mồm trước khi tòa xử.
…
Các tội nhân tiếp tục được biện hộ một cách nhiệt tình cho nên khi dĩa
dầu cá được châm thêm ba lần và cạn đến lần thứ ba thì ủy viên Chánh phủ
cũng vừa buộc thêm cái án nữa, cho người cuối cùng: một người đàn bà có
thai gần ngày. Nhưng lần này ông không đập bàn, có lẽ sợ làm trụt mất
ánh sáng công lý hoặc không muốn làm thai nhi trong bụng mẹ giật mình,
cho nên ông chỉ chém bàn tay ông trong không khí.
“Tử hình luôn!”
Những tội nhân sụp quỳ xuống cùng một lúc như để tỏ lòng biết ơn Chánh phủ. Nhưng không phải! Họ bắt đầu niệm kinh.
“Dắt chúng nó đi ngay!” Ông ủy viên Chánh phủ hét. “Đưa ra ngoài kia!”
Ông
Xà Beng đã tỉnh giấc từ khi ông Ủy viên chánh phủ thét cái án thứ nhất
để chờ lệnh đi công tác. Như máy, ông rút chai rượu trút vào mồm để
chuẩn bị. Nhưng, tội nghiệp, hôm nay ông phí của giời!
Ông
ủy viên Chánh phủ có một lô người võ trang đi theo hộ tống và giữ trật
tự cho phiên tòa. Ông chỉ mượn ngôi đình để xử tội nhân và đất để chôn
họ thôi, còn việc đưa linh hồn họ về cõi U thì đã có đám võ trang kia.
Bị tranh mất công, ông lấy làm ức lắm, ông vùng vằng đứng dậy định đi về
không chơi với Cách mạng nữa, nhưng cái món phép ông giắt trong lưng
như ngọ nguậy làm ông ngứa ngáy. Ông không về nhà được. Ông rút nó ra
cầm tay và xăm xăm đi ra bãi pháp trường.
Ngài Ủy viên Chánh phủ đã được ủy ban xã giới thiệu rõ thành tích của ông Xà Beng nên chận ông lại và năn nỉ:
“Tôi
biết tài đồng chí! Nhưng để khi khác tôi sẽ dùng đến. Tôi còn cả trăm
tên nữa. Đừng lo. Còn hôm nay thì xử bắn; trước mặt đồng bào, mình phải
văn minh. Cất binh khí đi, kẻo người ta trông thấy bảo mình dã man.”
Ông
Xà Beng nhìn ngài ủy viên Chánh phủ bằng cặp mắt quái dị, đến nỗi ông
này phải sụt lùi, vừa sụt lùi vừa cảnh giác, như sợ bị một phát xà beng
bất ngờ. Còn ông Xà Beng thì cứ lầm lũi đi ra sau sân đình.
Đoàn
trại sinh của khóa huấn luyện TNCQ hụt diễn kịch được phân công giữ
trật tự vòng ngoài trong lúc một nửa đội võ trang làm nhiệm vụ ấy ở vòng
trong, nghĩa là gần miệng lỗ. Viên đội trưởng cầm chiếc đèn dẫn đầu sáu
cái án bằng xương bằng thịt ra huyệt. Mấy ngọn đèn cũng rất phải chăng,
đợi tòa xử xong mới lụn, như hàm ý rằng ánh sáng công lý không còn hoặc
nó không thể soi sáng cái gì ở đây, thà biến đi cho xong. Hũ dầu cá dự
trữ cũng đã cạn nên không thể giúp cho chân lý sáng thêm.
Viên
đội trưởng cứ để cho ba cái tiêm đèn cháy lan trên thếp sành thành một
ngọn to như đuốc, đuốc cách mạng tả tơi trước gió. Dầu cạn, nước đọng
cháy xèo xèo và nổ lắc rắc nghe rõ mồm một. Theo sau ngọn “Đuốc cách
mạng” thay vì ông Xà Beng lại là một đội viên, tay nắm sợi dây luộc dừa
xâu tử tội, tay cầm súng, miệng nạt đường. Người xem kịch hụt bỗng nhiên
đông lên gấp hai gấp ba. Mặt trận tỉnh đã lầm tưởng rằng nếu nghe tin
xử án phản động chắc ít người đến xem và cách mạng sẽ mất cơ hội thị oai
với quần chúng. Ngược lại, nghe tin đó, người ta đi xem đông hơn đi xem
kịch. Những vụ xử bắn như thế này làng nào không có mà sợ.
Người
ta bu chung quanh đám tử tội, không ai nói gì, cũng không ai dám đụng
họ nhưng không hiểu tại sao người ta cứ ùa tới cho gần như muốn đưa họ
ra nơi yên nghỉ cuối cùng bằng một lời tiễn biệt câm chăng?
Từ
chỗ họ đứng hứng bản án đến nơi họ thụ án chỉ hơn trăm thước. Trăm
thước đó dày đặc những người cuồn cuộn như sóng không ngăn được. Người
ta quyết tình xem oai võ của cách mạng ra sao không phải trên thân xác
một ông Hội đồng già nua, cũng không phải qua tiếng gào thét của người
bị đập đầu trên cầu đúc hay tiếng rên rỉ của cây Xà Beng yêu tinh, mà
trên thân hình của đàn ông lẫn đàn bà và đàn bà có thai: sáu người hiện
hữu, một công dân chưa kịp thành người.
Viên
đội trưởng đặt chiếc đèn xuống đất và quát giữ trật tự, cái trật tự
không giữ được từ lâu. Đám tử tội đã đến miệng lỗ. Họ vẫn còn bị xâu
chùm. Viên đội trưởng ra lệnh cho đội viên buông dây và quát:
“Bắt nó quỳ xuống! Hai đứa!” Rồi tiếp. “Hai đồng chí sẵn sàng thi hành lệnh.”
Một
người đội viên đẩy hai người đàn ông đứng meo trước miệng lỗ rồi ấn vai
bắt họ quỳ, thay vì ra lệnh. Cả hai đều quỳ quay mặt về phía họng súng.
Viên đội trưởng quát:
“Bắt nó quay lưng ra họng súng quay mặt nhìn lỗ.”
“Chúng tôi muốn nhìn họng súng của các ông!” Một tử tội ngoảnh lên nói.
“Không được! Chúng tao không có sẵn vải bịt mắt.”
Một cánh tay từ đám khán giả tiếp cận chìa vào một mảnh khăn.
Viên đội trưởng chụp lấy xé làm đôi nhưng một tội nhân quắc mắc:
“Chúng
tôi không cần phải bịt mắt.” Rồi cả hai quỳ mím đó không chịu quay lưng
và mắt vẫn nhìn hai họng súng đã chĩa ngang tầm ngực họ. Miệng họ lâm
râm niệm kinh, không rõ tiếng chỉ nghe giọng và thấy môi mấp máy đều
đều. Mắt họ trợn lên nhìn họng súng cách chỉ một vói tay. Cách mạng tuy
mới thành công nhưng đã có mút-cơ-tông, không phải xài súng bắn chim
nữa.
“Bắn!” Viên đội trưởng giơ ngọn đuốc lên và hét.
Bùm!
Hai phát súng nổ cùng một lúc nên nghe như một. Nhưng hai tín đồ về
chầu Phật thì vẫn cứ hai và hai linh hồn rời xác. Một rơi nằm sấp một
nằm ngửa dưới đáy lỗ. Nhưng cả hai đều lồng lên khi vừa đụng đất. Vì sợi
dây luộc quá chắc, không đứt, cho nên người đàn bà và người đàn ông
đứng kế bị giật nhào xuống lỗ. Cả người bị đạn lẫn người sắp bị đạn đều
gào thét dãy dụa như muốn phá vỡ bốn vách thành của cái thảm huyệt để
trở lại trần gian. Một người đàn ông đã ngoi lên và bất thần nắm được
chân viên đội trưởng đang đến gần miệng lỗ xem xét, để cất mình trườn
lên. Tên này hoảng kinh nhảy tưng và chạy lùi ra vừa hét vừa quơ tay
loạn xạ:
“Bắn! Bắn! Bắn!”
Hai
tay súng chạy tới nhắm mắt mũi cứ lên đạn dí súng bóp cò, bất kể đầu
mình tay chân của đối tượng và bất kể bắn bao nhiêu phát.
Người
đàn ông và người đàn bà cuối cùng còn lại vẫn đứng trơ trơ bên miệng
lỗ. Lần này thì sợi dây xâu bị bắn đứt nên họ không bị giật té xuống lỗ.
Họ không quay lưng lại họng súng, họ bị bắn từ sau lưng. Họ ngã chồng
lên đồng đạo dưới lỗ.
Súng
cách mạng thật tốt, bắn đến viên đạn cuối cùng của gấp đạn thứ hai mà
không lép phát nào và nổ to gấp trăm lần súng bắn chim.
Miệng lỗ rưới đầy máu tươi đã trở thành miệng cối ngoáy trầu khổng lồ be bét chỉ khác là lỗ hình chữ nhật còn miệng cối tròn.
Người
đàn bà bị bắn từ phía sau lưng, viên đạn xé rách bụng ruột lòi ra từng
cuộn. Một tay chị ôm bụng, một tay soài tới ôm lấy người đàn ông cùng
ngã một lúc với chị, úp mặt lên một người đàn ông khác. Chị gào lên:
“Chết con mình rồi mình ơi! Mìn…h ơi ơi…!! Mì…ơ ơ…” tiếng gào tắt lịm
dần. Huyệt mộ cạn xợt nên sáu cái xác chồng đầy tới miệng, một người đàn
ông nhô hẳn đầu lên quá mặt đất. Một nửa cái cằm đã bay mất. Anh muốn
nói gì, muốn la hét, nhưng máu phún ra có vòi, anh chỉ ngáp ngáp, lấy
máu thay lời.
Một
ngọn gió thổi qua như luồng oan hồn cuộn mất ngọn đuốc tàn làm mặt đất
càng ùn lên oai vũ cách mạng, một thứ oai vũ màu đen và mùi tanh.
Bất
thần một ánh đèn pin xẹt lên xanh lét làm mặt người hóa ra mắt quỷ và
mảnh sân đình trở thành con sông Nại Hà lúc nhúc quỷ sứ đuổi bắt người
ăn thịt. Đó cũng lại là ánh sáng công lý phát ra từ tay ông ủy viên
Chánh phủ. Ông cầm đèn pin đứng xa xa để giám sát cuộc hành quyết tự nãy
giờ.
“Đừng bắn nữa! Lạc đạn! Đập cho chết!” Thấy biến động bất ngờ, ông quát.
Tức
thì “cốp, cốp, cốp!” Một người lao tới, hai tay hộ pháp hươi lia lịa
một chiếc gậy sắt. Người đàn ông mất cằm bị ánh đèn soi rõ và tức thì
“cốp”, một nửa chiếc cằm còn lại bay luôn. Máu phọt tràn đất.
“Khoan lấp!” Một tiếng quát. “Để đập cho thiệt chết!”
Chiếc
gậy sắt vẫn quơ loang loáng. Cái ánh đèn xanh bây giờ đã trở thành đỏ
lòe như một tia máu vĩ đại xối vào mặt đám khán giả gan lỳ muốn xem đến
phút cuối cùng của màn kịch.
“Ông Xà Beng! Ông Xà Beng!” Một tiếng la hoảng ré lên.
Đây
đúng là công tác của ông. Ông chờ đợi rình rập cái giờ phút này. Chưa
bao giờ ông được tung hoành đến thế. Trước đây ông loay hoay trên chiếc
cầu, sợ người bất ngờ qua lại, hoặc xoay trở trên sông cái, nhiều lúc
suýt lật úp xuồng. Thật là gian khổ vô cùng. Còn ở đây thì dù đến sáu
bảy mạng, vẫn dễ dàng hơn, tha hồ đập, dù chúng có la rú cũng chẳng sợ,
đã có Chánh phủ đứng ở đây rọi đèn cho ông hành sự mà. Cái Xà Beng lầy
lụa, nắm cứ tuột hoài, ông phải lau tay vào vạt áo hoặc muối cát hai ba
lần để quay cho chắc cú.
Ông
ủy viên Chánh phủ đứng điềm nhiên quơ ánh sáng qua lại để chỉ đạo ngọn
Xà Beng ban hành luật tự do tín ngưỡng đến tận đáy huyệt. Ông khuyến
khích ông trưởng ban trừ gian xã:
“Tôi đề bạt đồng chí lên Phó ban trừ gian tỉnh, đặc trách vùng này.”
Ông
tân phó ban trừ gian tỉnh ngừng tay đứng thẳng người, quay mặt về phía
thượng cấp tỏ vẻ biết ơn và nhận chức mới. Bất thần ông ủy viên Chánh
phủ sụt lui mấy bước liền và bấm tắt đèn. Ông không muốn hoặc không dám
nhìn cái mặt thật của cái con người mà chính ông đã tạo ra và vừa thăng
chức.
“Thôi, được rồi đồng chí Phó Ban! Để chúng nó lấp lại.”
Ông
Xà Beng ngừng tay. Nhiệm vụ đã hoàn thành, chức vụ mới đã nhận xong,
ông đi về. Rảo bước qua những tiếng lào xào của khán giả bên tai, ông
ngỡ đó là những lời khen ngợi triền miên. Ông thọc tay vào túi áo rút
cái chai bầu ngửa cổ tu rượu, nhưng lần đầu tiên kể từ khi đập chết “tên
Việt gian” thứ nhất trên Cầu Đúc, ông nghe mùi rượu lạ kỳ. Ngửi thì
tanh đến buồn nôn, mà nuốt thì nhám. Ông vừa phun vừa khạc. Rượu đã pha
máu lẫn cát. Máu và cát dính ngay ở mặt ở môi ông. Ông quệt ngang, ông
nâng vạt áo lên chùi, lại phun, khạc. Ông không về nhà. Ông đi thẳng tới
quán đạp cửa đòi rượu mới. Người chủ quán nghe tiếng thì biết ông khách
hàng đầu rìu, nên thòi chai rượu qua kẹt vách. Ông đớp lấy mở nút nốc
dài về tới nhà, quăng cái vỏ chai, dựng binh khí trong hóc và văng mình
lên võng, bó thân trong chiếc áo bành tô vừa điểm thêm nhiều hoa mới.
Chiếc võng lắc lư, cột kèo run rắn rắC. Ông co chân đạp vào vách cho võng đưa nhanh ru ông sớm vào mộng tiên.
“Ta bây giờ là Phó ban tỉnh. Ở nhỉ… tỉnh lớn bằng mấy chục xã!”
Cũng
may là ông không có vợ con. Nếu có, chắc vợ con ông sẽ khổ. Nhưng nếu
ông có vợ con thì ông không làm tới chức Phó ban trừ gian tỉnh cũng
không làm cả trưởng ban trừ gian xã để được trả công một chai rượu một
mạng người.
Ông Xà Beng thức giấc khi rượu đã loãng. Ông nằm im trong sự bó chẹt của chiếc võng lát đã hết đong đưa tự bao giờ.
Bỗng
ông nghe trong tiềm thức sâu xa tiếng kêu rống. Không phải trong tiềm
thức của ông mà từ âm ty vọng lên. Ông vụt nghe ốc mọc đầy lưng rồi khắp
người. Ông nghe tiếng rống văng vẳng càng lúc càng to. Ông vùng dậy
bước lại cửa thò đầu ra, lắng nghe. Tiếng rống đến từ phía đình. Một
cách bản năng, ông quơ lấy binh khí chạy trở lại sân đình. Trăng non y
hệt cái liềm không cán, cong như mõn quỷ. Đụn cát run run phập phều như
lượng sóng. Tiếng rống phát ra từ đây. Như quỷ giục ông quơ xà beng lên
nhắm ngay chỗ có tiếng rống to phóng thẳng. Ông đu người lên để găm lút
chiếc cọc sắt. Nhưng mỗi lần ông ấn xuống thì in như tiếng rống càng bật
lên to hơn. Ông bỏ chiếc xà beng đứng run rẩy. Ông thở hổn hển giữa mô
cát nhấp nhô. Ông chạy vào xóm tìm một chiếc chày. Ông vọt trở ra, giơ
thẳng cánh bổ xuống đầu Xà Beng như giả gạo. Cốp cốp cốp. Chiếc Xà Beng
lút tới cán nhưng tiếng rống đã không tắt lại còn vang to hơn. Không gì
dập được tiếng kêu đau.
Ông
ném chiếc chày, hai tay nắm cán xà beng lôi lên. Vuột tay, ông té ngửa.
Chiếc xà beng vẫn ghim lút trong cát như có người níu giữ. Ông chụp lấy
chày và nện và bổ bất cứ chỗ nào đang run động để dập tắt tiếng rống.
Nhưng nó vẫn không tắt. Nó cứ vang lên bằng nhiều giọng, nhiều cách,
nhiều nơi khắp nấm đất và dường như khắp mặt đất. Năm người và hai mẹ
con nằm vùi dưới lỗ. Bảy mảnh linh hồn lởn vởn bay trên đầu. Cả xác lẫn
hồn đều không chịu im. Ông bỗng nhận ra vật gì như một cái đầu đang trồi
lên khỏi nấm cát rồi hai cánh tay mọc thẳng lên trời quơ qua quơ lại
như muốn lôi tuột cái liềm kia xuống.
Ông
nghe cả thân mình mềm nhũn. Ông vứt cái chày và quay đầu chạy. Ông lại
đụng nhằm một bóng đen đang lù lù đi tới. Ông không phân biệt được đó là
ai, người hay ma quỷ? Ông thụt lùi rồi vừa chạy vừa la. Lần đầu tiên
ông Xà Beng biết sợ.
Sáng hôm sau người đi qua đình thấy ông nằm sải tay sải chân trên cát
VÕ PHƯỚC HIẾU * ĐÁM CHÁY ĐẦU XUÂN
Đám Cháy Đầu Xuân
Võ Phước Hiếu
Bà Bảy Nở vội kéo hai vạt áo dài, buộc tréo phía trước lưng quần, miệng
rang rảng vọng xuống hướng bến sông. Nơi đầu bến có cái cầu vó, cất bằng
thân cây mù u già chắc thịt, thêm tiện nghi nhờ có mái lợp với chỏng
tre dùng để ngã lưng đêm hôm tăm tối:
- Bún! Bún!
Chiếc xuồng ba lá đổi bún quày quả chĩa thẳng hướng bến sông. Thím Chín
Tý lanh tay, ghịt mũi xuồng vào chân cầu vó.
Thím nói như có ý trách vu vơ:
- Nước rặc quá! Bến cạn queo. Nghe rồi chị Bảy. Tui neo ghe ở cầu vó
đây. Chị cảm phiền chịu khó xuống bến nghe!
Chẳng mấy chốc, bà Bảy Nở đã đối diện xuồng bún. Tay bà cầm cái rổ quảo
có lót một mớ lá chuối xanh um mướt mượt. Trước đó không lâu, bà vừa đi
vừa rọc vội vàng trên đường xuống bến:
- Hôm nay ăn mấy vậy thím? Lúa của tôi kỳ này là nàng hương thơm ngon
chớ không phải loại sóc nâu, nàng phệt hay nàng quớt như mấy lần trước
đâu.
- Nàng hương sạch, tui đổi hai quảo rưỡi. Quảo lum lúp. Còn sóc nâu,
nàng phệt, nàng quớt… phải ba quảo gạt mặt.
Thím Chín Tý độ non bốn mươi tuổi. Nhà ở cheo chéo đình làng, có bến
nước công cộng với một cầu ván lâu đời láng o. Nước lớn ngập khỏi chân
cầu, nuốt trọn tấm ván, chỉ còn lé đé đoạn kê trên bờ.
Nhưng lúc nước rặc ròng như hôm nay, chảy mạnh như cắt, tấm ván cầu chúi
nhủi thòng xuống lòng sông cả đôi ba thước tây, giúp người qua đò không
phải lội sình, lấm lem lúc bước lên bờ. Những lúc này, phải tuyệt đối
thận trọng, chú ý từng bước đi. Tấm ván cầu trơn chùi đó do bụi bùn non
bám vào càng trơn như thoa dầu trét mỡ. Không khéo, khách trợt chân nhào
xuống sông như trở bàn tay.
Nhờ ở sát bến nước công cộng, có con đò nhỏ đưa rước khách bộ hành,
người qua kẻ lại tuy không tấp nập rộn rịp nhưng chẳng ngày nào vắng
bóng. Ngoài công việc đồng áng phụ giúp chú Chín ngày mùa, thím còn có
cái nghề tay trái, bổ sung phần thu nhập gia đình nơi vùng khẩn hoang
lập ấp, lúc nào cũng cần một số vốn tối thiểu để chịu đựng đường dài.
Đất khẩn hoang, một hai mùa đầu, đôi khi cả ba bốn mùa tiếp nối là khác,
đã vất vả khổ cực trần thân nhưng đất mới còn ráo hổi nào có huê lợi
chi đáng kể. Mùa màn èo uộc. May mắn lắm mới đủ ăn.
Thím nghĩ ra một cách giúp chồng khá độc đáo. Thím xay gạo làm
bún rồi đem đổi lấy lúa kiếm chút lời. Cứ đôi ba ngày đổi một
lần. Riết rồi bà con tôi thuộc lòng ngày nào lò bún của thím hoạt động.
Công việc cũng đăng đăng đê đê liền tay. Xay lúa, giả gạo, tẻ
bột, giáo trùng, đổ bún... May nhờ có mấy cô cháu chồng, tuổi vừa cập
kê, tận tình tận lực giúp một tay nên bà con trong xóm có bún ăn thường
xuyên.
Bún đổ xong từ hừng đông được thím Chín bươn bả chất lên chiếc
xuồng ba lá, bơi dọc theo sông rạch, kinh đào, từ ấp này qua ấp kia rao
lanh lảnh gọi mời:
- Đổi bún! Đổi bún!
Lò bún của thím Chín Tý rất đơn sơ do hoàn cảnh phương tiện
thiếu thốn nơi vùng đất mới khẩn hoang. Mỗi lần thím đổ không nhiều. Chỉ
ngam ngám vừa đủ nhu cầu tính theo đầu nhân mạng trong xóm có thói quen
đổi bún. Thím còn canh theo thời tiết mùa màn hoặc lễ lộc, Tết nhứt. Có
thiếu cũng tốt. Nhưng tuyệt đối không cho dư. Ế ẩm, lỗ vốn.
Bộ ván ngựa được tách đôi, kẹp chặt khuôn bún với cần ép bằng
lỏi cây dẹt rắng chắc mà bọn róng mắc, lục lăn lục lửa chúng tôi hay
nhảy thót lên ngồi ép bún hụ hợ với mấy anh chị lớn. Có đứa quen thói
trửng giỡn phá phách cứ đánh đu lúc la lúc lắc khiến thím Chín la ó
không ngớt miệng.
Dưới bộ ván ngựa có nồi nước to bình rỉnh, nám khói đen xì. Lửa
củi phừng phực, nước sôi bùng, khói nóng quyện cuồn cuộn. Mặt mày thím
thường xuyên tươm lấm tấm mồ hôi hột cứ quyện vào nhau nhỏ giọt xuống
sàn đất nhưng dường như thím không bao giờ để ý đến.
Mỗi quảo bún được đổi lấy mấy quảo lúa tùy theo lúa tốt xấu, mới
cũ, sạch dơ và cũng tùy theo sự kỳ kèo mà cả của bà con. Bún của thím
Chín trắng ngần, mềm nhủn lại dai nên bà con rất ưa thích. Nhờ cái nghề
đổi bún này, thím Chín đỡ vất vả so với bà con lối xóm, dầm sương dãi
nắng quanh năm suốt tháng ngoài đồng không mông quạnh.
Bà Bảy Nở và thím Chín Tý trao đổi thêm bớt một đỗi rồi sau cùng
cũng đồng ý với nhau về tỷ lệ bún và lúa. Cả hai đều tỏ ra bằng lòng
ưng ý lắm qua những nụ cười giã từ níu kéo, niềm nở cảm thông.
Chiếc xuồng thím Chín vừa trở mũi tách khỏi cầu vó, bà Bảy Nở
băng tắt qua liếp mía huyết, khom lưng dưới giàn bầu lòng thòng đôi ba
chục trái lớn nhỏ đủ cỡ. Có trái được gióng bằng một vỉ tre, ghịt lên
giàn để trái nặng không làm đứt dây bầu cái.
Bà hối hả đổ bún vào rá, treo lủng lẳng ở trần mái hiên nhà, đậy
đượm cẩn thận. Chó treo mèo đậy mà! Ông bà xưa cảnh giác đề phòng nhưng
thực tế không sai chút nào.
Chiều nay cả gia đình bà có dịp cùng quây quần ngồi chung nhau
nơi một mâm cơm ấm cúng, hạnh phúc và sẽ thỏa thê với bún nước mắm tỏi
ớt. Loại nước mắm này lấp lánh những miếng ớt hiểm cay thấu mây xanh,
vừa xanh mơn mởn vừa đỏ au, to nhỏ không đều, nổi lềnh bềnh hấp dẫn nhãn
quan. Bún ráo hổi, thơm ngon lại được trộn với mỡ hành hương, dậm thêm
một ít tép mỡ gáy dòn rụm, ăn lúc đói sau ngày dài làm lụng cực nhọc
thấy đời lên hương vô bờ bến.
Trong xóm, khi nói đến bún ngon là biết ngay bún của thím Chín
Tý. Hôm nào đau ốm ể mình, thím đóng cửa lò bún, bà con phải gởi mua bún
ở chợ quận. Đường nước xa xôi cả ngày cả buổi, bún để lâu lạnh ngắt,
đóng thành về, không sao so bì được.
Cái tên Chín Tý đã gắn liền với lò bún quê hương tôi từ bao thập
niên nay. Và cái tên Chín Tý cũng đã đảm bảo phẩm chất bún Rạch Rít,
không cần phải dựng bảng hiệu để giới thiệu hay quảng cáo lăng nhăng
phiền hà.
Chỉ cần cái tên Chín Tý là có sự tín nhiệm của bà con tôi rồi.
Họ lấy cái tên cúng cơm cha mẹ đặt hay tục danh làng xóm gán cho để đảm
bảo uy tín mình. Bún thím Chín Tý cũng như ba xi đế ông Bảy Sô, cối xay
lúa của chú Bảy Cối... đã đi vào huyền thoại trong sinh hoạt và sự phát
triển làm nên một thời của xóm tôi.
Bà Bảy Nở cất bún xong, têm miếng trầu bỏ vào miệng nhai rào rạo
ngon lành. Bà đến giá áo, kéo cái khăn rằn choàng vai, đoạn bước chéo
ra hiên vói lấy nón lá cũ bạt màu, bươn bả phóng nhanh ra hướng đầu ngõ.
Ông Bảy trước khi đi thăm ruộng đã căn dặn bà đôi ba lần:
- Bà nhớ đánh một vòng xóm trên xóm dưới, báo cho bà con biết
rằm tới mình làm heo chia thịt. Bà con nào muốn chia, đến chia.
Ông Bảy lại nhắc thêm:
- Bà nhớ đừng bỏ sót một ai. Bà con đều là bà con cả. Không có
ai trọng ai khinh. Kỳ rồi mình sơ ý bỏ sót thằng Mười Tống. Nó là em út
dễ thương lại biết điều nhưng để sót nó, tôi buồn và ngại quá. Gặp nó
tôi ngường ngượng làm sao! Nó nghèo thật đó. Nghèo tiền, nghèo bạc nhưng
không nghèo nhân nghĩa. Xóm mình mấy ai lạ gì nó. Tôi chỉ sợ nó hiểu
lầm mình khinh dễ nó, bộ mình sợ nó không tiền chia thịt sao mà không
báo nó biết.
Từ dạo xóm Rạch Rít của tôi phát triển sung túc, bà con an cư
lạc nghiệp, phất lên mau vùng vụt. Họ thoải mái thảnh thơi trong cuộc
sống hằng ngày. Nhà ba gian hai chái lợp ngói âm dương đỏ au, chen lẫn
với những nhà lá vách bổ kho, nền cao cửa rộng, cùng lẫm trại thênh
thang dọc ngang ngang dọc.
Ngoài cháo rau cá tép, mắm muối ngày xưa, thuở những năm đầu
khẩn rừng lấn vũng quần quật đêm ngày, bây giờ đã là quá khứ. Nay trong
mỗi bữa cơm thường nhựt hầu như bà con đều có thêm thịt thà và cả niềm
vui nữa. Thường nhất là thịt heo nhưng thỉnh thoảng ông Bảy Nở cũng mổ
bò giết trâu.
Những lần chia thịt này rậm đám lắm. Kẻ nấu nước. Người cạo
lông, ra thịt. Nói cười inh ỏi, vui nhộn cả góc vườn.
Họ lẩn quẩn ở mé mương, được lót bằng tàu dừa tươi xanh với
những tàu lá chuối hột to lớn. Con heo khá to vừa cạo lông xong, sạch sẻ
trắng phao, được treo tòn ten thòng đầu ở nhánh ổi xá lị.
Ông Bảy Nở chìa cái nia có lót lá chuối cẩn thận rồi ra lịnh cho
Tư Ty chịu trách nhiệm ra thịt kỳ này:
- Thằng Tư! Mầy nhớ cắt cái thủ vĩ rồi bảo bầy trẻ làm lông cho
thật sạch. Thêm bộ đồ lòng nữa. Đừng để thiếu coi không được à. Tao đã
hứa từ mấy tuần trước dành cho anh Hương thân Bưởi để ảnh làm lễ cúng
căn cho thằng cháu nội đích tôn của ảnh. Cái nia của ảnh đây nè. Xong,
nhớ bảo bầy trẻ quảy qua cho ảnh.
Tư Ty chọn con dao bén ngót nó ưng ý nhứt, te te đi thẳng một
mạch đến miệng lu vú kê sát hè nhà. Anh lanh tay liếc qua liếc lại nhiều
lần cho dao bén thêm. Trông cử chỉ cũng điêu luyện lắm.
Anh day qua nói với giọng khẳng định:
- Chú Bảy đừng lo. Tôi nhớ mà. Quên làm sao được. Tôi còn trẻ mà
chú.
Lần xẻ thịt này vắng mặt chú Bảy Cối, chuyên viên sành sõi của
xóm tôi nên thằng Tư Ty mới có dịp được chọn thay thế. Dù đã chuẩn bị kỹ
nhưng nó loay hoay xoay trở vụng về thế nào khiến ông Bảy Nở bực mình
xăng tay áo, chê nó rậm rề:
- Tư ơi là Tư! Mầy ra thịt kiểu này, đã mất thịt mà trông chẳng
thấy thèm ăn chút nào cả. Thôi đưa con dao cho tao. Cái thằng chẳng phải
hạng làm biếng làm nhác chảy thây. Nhưng nảy giờ tao thấy mầy làm bằng
tay trái, tao ngứa con mắt quá! Quả thực thiên hạ nói không sai: “tay
trái bóp dái không đau” mà. Tao nói mầy đừng buồn nghe Tư. “Không có chó
bắt mèo ăn cứt” làm sao vừa ý được?!
- Chị Hai đưa rổ chị đây. Hai kí ba chỉ phải không?
- Phải đó anh Bảy. Thêm cho tôi cái giò sau, một khúc xương mông
với cái đuôi về hầm măng Mạnh Tông.
- Cảm phiền nhe chị Hai. Cái đuôi không thể được. Anh Hương thân
đã dặn rồi cho đủ bộ để cúng căn thằng cháu nội ảnh. Cái nia của ảnh
kia kìa. Chị thấy đó, bầy trẻ làm lông chắc cũng gần xong. Chị lấy đỡ
mấy cái khu lẳng được không? Nói khu lẳng nhưng tôi ra nới tay lắm, thịt
thà còn hiếm. Chị thử lần này đi. Lần sau chưa chắc có.
- Tất cả bao nhiêu tiền vậy anh Bảy?
Ông Bảy Nở đưa tay vuốt mồ hôi trán, chép miệng:
- Thì chị Hai đem về nhà trước đi. Đăng đăng đê đê quá, tính
toán gì kham. Cứ lấy đi, thủng thẳng vài ngày tôi quởn quởn sẽ qua tính
sau. Bà con mà, mất mát ở đâu?! Bộ nhiều nhỏi lắm sao chị?
Bà Hai Khánh quày quả bưng rổ thịt, miệng rổ như dính khắc bên
hông, thong dong đi ra ngõ trong khi ông Bảy Nở lấy ra tấm giấy lịch, có
ghi bút chì ngoằn ngoèo:
- Tư à! Mầy nhớ nhắc tao kẻo tao lu bu để sót mếch lòng. Coi
chừng đừng quên cái nồi gọ, 3 kí 4 kí thêm bớt chút ít cũng được. Phần
của bác Sáu Ngởi đặt cọc trước, căn dặn đôi lần ba lượt, tao sợ quên nên
ghi làm tin đây. Đám giỗ đó, bây biết không? Quên là đến ngày đó mình
tren quẻn. Chắc tao phải bỏ xứ này trốn đi tìm nơi khác làm ăn. Mặt mũi
nào dám nhìn ảnh.
Một đỗi sau, ông Bảy Nở bấm từng đốt tay, chú ý kiểm tra từng
người một trong xóm rồi thở phào ra chiều đắc ý:
- Tao duyệt kỹ rồi. Hầu như đầy đủ cả. Thằng Mười Tống cũng có
chén huyết với non một kí thịt nọng. Tội nghiệp! Nó nghèo bẩn chật.
Dường như bây có cắt thêm cho nó một chéo hông xôi thì phải. Bây làm tao
coi được đến. Thây nó! Mình rộng rãi cho nó vui. Mà thật tình nó đâu có
đòi hỏi gì mình!
Ông tiếp:
- Kỳ rồi mình quên phức nó. Nó cũng chẳng nói gì. Nhưng khi gặp
lại nó, tao ái nái quá trời. Mình sống với nhau vì tình vì nghĩa chớ có
trọng khinh ai đâu. Hôm nay kể như xí xóa với nhau và tao mới nhẹ nhỏm,
thơi thới trong lòng, xem như vơi phần nào bầu tâm sự.
Cái nồi cháo lòng bắt trên ba thỏi đá xanh giữa sân phơi lúa
trước nhà đang sôi bùm bụp bùm bụp... Mỡ heo óng ánh trên mặt làm thành
một lớp dầy cui lềnh bềnh. Mấy miếng thịt vụng được Tư Ty thả vào nồi từ
lúc bắt đầu ra thịt, lặn hụp trôi lêu bêu.
Ba mớ thịt xà bần, loại thịt và mỡ thập cẩm lớn bằng nắm tay trở
xuống, loại thịt tạp nhạp không thể chia cho ai, được Năm Lịch xắt nhỏ.
Xong anh ướp xả ớt, củ hành hương, tiêu hột, đường muối, thêm ít lá
chanh non thái nhuyễn, hòa với ruột non thố linh bầm, dồn thành mấy xâu
dồi no phồng cả thước tây cũng được thả gọn vào nồi cháo. Cả ban tổ chức
sẽ say sưa la liệt đêm nay.
Thím Bảy Nở đẩy củi vào lò xong, gánh hai thúng thịt được buộc
thành xâu đem giao tận nhà bà con bận bịu đồng áng hay đơn chiếc không
đến được. Lúc đi ngang nhà Tám Thôi, anh đang vỡ vồng khoai mỡ, thím
đánh tiếng:
- Chú Tám vẫn chưa qua lấy thịt. Sao còn ở đó? Bà con ở bển sắp
xong hết rồi.
- Cám ơn chị Bảy có lòng tưởng nhớ nhắc nhở thằng em. Mấy hôm
nay tôi bận quá trời nhưng chị an tâm. Tôi đã nhờ thằng Tư Ty mang về
giùm phần thịt của tôi chiều nay. Mà cũng chẳng có gì nhiều.
Lấy tay vuốt mồ hôi trán, anh tiếp:
- À lượt về, chị nhớ ghé lấy vài củ khoai mỡ về ăn. Năm nay tôi
thả mấy vồng trúng mưa trúng nắng. Củ nào củ nấy to bằng đầu gối người
lớn. Đã chắc thịt, dầy cơm mà chẳng có sâu sùng chi cả.
Anh còn nói vói theo:
- Chị nhớ nhé chị Bảy.
* * *
Bà tôi cầm cái đèn dầu trứng vịt để ở đầu giường, vén mùng chun
vào, cẩn thận ém đi ém lại rất kỹ. Muỗi mòng ở xóm Rạch Rít của tôi cũng
như những nơi khẩn hoang lập ấp khác nhun nhúc, vo ve ngày đêm như trẩy
hội.
Bà nhè nhẹ thò tay ra ngoài, phất tay liên tiếp mấy cái mạnh để
tắt đèn. Tim đèn hãy còn đỏ ửng, từ từ uốn thành vòng cung rồi lịm dần
trong u tối.
Cử chỉ quen thuộc đó, bà tôi đã làm từ hơn nửa thế kỷ nay. Một
cử chỉ sản khoái toại nguyện vì bà tỏ ra sung sướng đã kết thúc một ngày
làm lụng không ngừng tay, đón đợi giấc ngủ an tịnh trong lành.
Bên ngoài vắng vẻ tĩnh mịch như thường lệ. Nhạc bản ngàn đời của
côn trùng ếch nhái bắt đầu trổi lên dai dẳng buồn tênh, ru giấc ngủ ông
bà tôi thêm nồng nàn say đắm. Vài tiếng chim ăn đêm quá quen tai chập
chập vút lên đâu đó bên liếp mía, vồng khoai, ngoài vườn cau vườn dừa,
cũng không thể phá giấc ngủ vùi đó, chuẩn bị sức lực cho ngày mai đón
đợi.
Bỗng cặp chó Mực, chó Mốc của ông bà tôi cất tiếng sủa thúc bách
lắm. Chúng nó hùa nhau sủa càng lúc càng thêm hậm hực. Khi nhảy ào tới
ngừ ngừ to tiếng như ở tư thế đối đầu tấn công, khi khịt khịt sợ hãi như
muốn thối lui cầu cứu bên trong.
Ông tôi khẽ thức. Tuổi già đêm đêm khó ngủ. Đêm nào ngủ đuợc
khoảng bốn năm tiếng đồng hồ, ông cho là ngon giấc. Ông biết ngay có
động tịnh. Nhanh như chớp, ông choàng phóc dậy xem xét tình hình.
Bà tôi cũng vừa giựt mình, vói tay lấy ống quẹt để ở đầu giường.
Bà định đốt đèn để dễ quan sát. Ông tôi suỵt nhỏ vừa đủ nghe, ra dấu
cản ngăn.
Thình lình con chó Mực bị một đòn độc hiểm kêu ăng ẳng thiểu não
vang trong đêm vắng. Dù đau đớn, nó vẫn hùa với con Mốc tiếp tục sủa về
hướng sát hàng ba nhà.
Có tiếng chân người đi thình thịch vội vã bên ngoài. Ông tôi
đoan quyết có tai biến. Ông lanh chân đến sát cửa sổ, nhìn xuyên qua mấy
lá sách. Trăng non còn lu lúc đầu hôm, nhưng ông tôi cũng dễ dàng nhận
định:
- Cướp! Cướp! Tôi đếm kỹ chúng nó ít lắm cũng năm sáu đứa với
dao mác, gậy gộc. Bà vào buồng tìm nơi ẩn trốn với đám nhỏ. Để mình tôi
ngoài nầy ứng phó.
Bà tôi chưa kịp quay gót, ông tôi đã phi thân nhanh như gió,
giống như những nhân vật huyền sử huyền thoại trong bộ truyện chương hồi
Phong Thần của Tàu. Ông âm thầm biến dạng trong u tối đêm đen khiến cho
bà tôi thêm âu lo sợ hãi.
Ở ngoài hàng ba và chái hiên, cửa cái cửa hông bắt đầu bị bọn
cướp chia nhau đập phá ầm ầm, dồn dập khẩn trương lắm. Mấy khuôn ảnh,
ông bà tôi chụp chung nhau lúc còn thanh xuân cùng hình ông bà cố tôi
treo trên vách trang trí lâu ngày, bị động mạnh sút đinh đứt giây, rớt
xuống nền gạch, kiếng bể rổn rảng. Bà tôi càng thêm hồn phi phách tán.
Bà bắt đầu chắp tay lâm râm cần nguyện.
Tiếng lao xao giục giã thúc hối nhau bên ngoài, nghe tiếng được
tiếng không, chen lẫn tiếng sủa của hai con chó Mực và Mốc vẫn tiếp tục
làm phận sự. Mấy cái song hồng gài cửa bị nện mạnh liên hồi cọ vào cột
nghe lập cập lập cập… như run rẩy trước bạo lực. Cửa trước bị đập, bị
dọng nhưng chưa hề hấn.
Nhà ông tôi rất chắc chắn. Nơi khỉ ho cò gáy xa xôi cách trở,
quyền lực cách ngăn vời vợi nên ông tôi chuẩn bị phòng vệ kỹ càng từ
lâu. Ông lo xa đối phó tai biến do bọn lưu manh đàng điếm, lòng tham
không đáy, chực chờ chém giết, khủng bố người dân lương thiện, khảo tra
cướp của. Song hồng dọc. Song hồng ngang. Tầng trên, tầng dưới dầy cui.
Cửa nẻo bằng ván gỗ chắc nịch.
Thuở nhỏ, cứ chiều chiều, tôi hay lẻo đẻo theo ông tôi đóng cửa.
Hết cái nầy đến cái kia. Mỗi lần gài song hồng xong, ông còn rà tới rà
lui xem nó ngám chưa?
Nhà ngói ba gian hai chái, cửa trước cửa sau, cửa cái cửa sổ
khoản khoát nên đóng cửa xong, đốt nhang cắm lên dãy bàn thờ ba bốn cái,
trèo lên trang gióng chuông, thắp hương trong thế giới tĩnh lặng như
đong quánh lại, cũng phải mất một thời gian dài. Thường cứ chạng vạng
tối, ông tôi đã làm xong an toàn cả. Ông có ý thức cảnh giác và thận
trọng lắm.
Cướp càng hung hãn.
Bên trong bà tôi đâm lo, hiệp cùng người ăn kẻ ở trong nhà bắt
đầu la ó kêu cứu inh ỏi, đập thùng thiếc ầm ầm, vang vọng chát chúa
trong đêm. Dọng cửa trước không xong, cướp chuyển ra phía sau. Chúng
dùng búa bửa cửa, cũng ì đùng, cũng bóp chát rờn rợn. Lại thêm tiếng
quát tháo hăm dọa vọng ngược vào nhà. Bên trong vẫn ở tư thế ứng phó, sợ
hãi.
Chập chập, bà tôi ngồi bệt nơi kẹt vách, lần chuỗi hột, miệng
tiếp tục lâm râm khấn vái Phật Trời, các đấng khuất mày khuất mặt hộ trì
cho sớm tai qua nạn khỏi. Bà lắng tai nghe phía trước đã im tiếng hẳn
và phía sau đang bị tấn công dồn dập nhưng bà tỏ ra an tâm hơn. Dù cửa
sau có bị phá vỡ, cướp còn phải vượt qua một giàn cửa ăn thông lên nhà
trên nữa.
Bên ngoài đã có tiếng mõ hồi một vang vang. Lúc đầu rời rạc ở
đầu xóm. Dần dần có tiếng cốc cốc, cốc cốc… sát bên nhà. Chừng một đỗi
sau, mõ rợp trời. Đầu trên xóm dưới không ngưng, rền tai. Có tiếng kêu
gọi nhau dồn dập xa xa.
Loại mõ này làm bằng rễ tre già, được đục đẽo khéo léo láng
nhẵn, to bằng bắp chân, cong cong ở hai đầu. Ruột được khoét rỗng. Tiếng
thanh tre đánh vào mõ, dội khoảng trống nghe vừa to vừa thanh.
Nhưng cái mõ to tiếng nhất là cái mõ ở đình làng. Nó lớn cả hai
tay thanh niên lực lưỡng ôm chặp lại, dài hơn thước tây. Thường xuyên nó
được đặt trên cái giá cây với cặp dùi bằng cườm tay người lớn. Bà tôi
tỏ ra an tâm hơn với tiếng mõ hồi một đó.
Bọn cướp dường như nao núng nên việc đập cửa, dọng vách có mòi
lơi hơn trước nhiều. Chúng nó cãi cọ nhau, chỉ trích chê trách nhau,
chưởi thề với những ngôn từ tục tằn, bẩn thỉu xa lạ vang rân ngoài sân,
mà bà con tôi vốn mộc mạc chất phác, chí thú làm ăn với mồ hôi nước mắt
ít khi nghe lọt tai.
Một tiếng súng nổ đoành, xé tan màn đêm làm cho lũ chim chóc
giật mình thức giấc, kêu lên vài tiếng ngơ ngác hoảng hốt. Bị động quá
sớm do sự đoàn kết nhất trí của bà con trong xóm quyết tâm chống bọn bất
lương cướp của giết người và chán nãn trước viễn ảnh thất bại chua cay
không tránh khỏi, bọn cướp giục nhau thu dọn đồ nghề, chém vè chuồn
nhanh.
Bà tôi nghe rõ ràng giọng thúc hối của chúng và tiếng chân người
hấp tấp ngoài vách nhỏ dần, nhỏ dần… Trong khi hai con Mực và Mốc bị
chúng đập mấy hèo chí tử, thấm đòn chui trốn nơi nào không biết, im hơi
lặng tiếng.
Số là ông tôi rất nhanh trí. Thêm bản tính tự vệ bao phen trước
đây đã giúp ông tôi vượt hiểm thêm lần này nữa. Khi nhận định có cướp,
ông trổ lên nóc, tuột gọn theo máng xối hiên nhà sau, thòng chân nhảy
nhẹ nhàng gọn gàng trên nắp hàng lu vú, vừa cao vừa chắc chắn. Ông thoát
thân ra ngoài báo động bà con chòm xóm nên mới có phản ứng đồng loạt mõ
hồi một làm cho bọn cướp núng thế. Đến khi Hương quản Quan bắn một phát
súng hai nòng kể như dứt điểm. Cướp đành bườm ấm ức.
Ông tôi, con người từng trải, lưu lạc nhiều nơi, lăn lóc chốn
phiêu lưu giang hồ trước khi trụ hình trụ bộ đến xóm Rạch Rít khẩn đất
hoang. Ông thành công lên vồng lên liếp thành khoảnh với đìa rộng mương
sâu, nuôi cá nuôi tôm ngoài việc đồng áng lúa nếp.
Ông biết và thuộc nằm lòng địa thế cuộc đất nên khi báo động bà
con xong, ông trú mình ẩn núp ở mấy đống rơm cao nghều nghệu cạnh con
đường mòn ăn thông xuống lạch ô rô. Ông đoán chắc thế nào bọn cướp cũng
bườm qua con đường độc đạo này.
Ông đoán trúng phong phóc.
Chúng nó sáu đứa khuân vác hèo gậy và quơ quào vật dụng làm mùa
của ông tôi chứa nơi lẫm trại bên ngoài. Ông ẩn nhẫn đếm từng tên một
khi tạt qua trước mặt ông. Chờ đến tên đi chót, ông phóng ra khất nhượng
bằng rựa đốn củi thủ trong tay lúc thoát thân.
Thằng cướp đau đớn ngã quỵ, kêu la cầu cứu. Đồng bọn khựng lại,
lôi nó khiêng đi trong lúc nó vẫn kêu la đau đớn. Nó bị đồng bọn lấy
khăn bịt mồm bịt miệng, sợ bà con nương dấu rượt theo.
Xóm Rạch Rít của tôi phát đạt, trù phú. Ruộng lúa bát ngát, óng
ánh vàng hực mùa gặt. Cây trái oằn cành. Kinh đào tăm tắp ngút mắt. Nhà
ngói kinh dinh đỏ au. Đêm đêm, đèn «măng-soong» rực trời ngày lễ lộc.
Ghe máy xình xịch, sông rạch dậy sóng, tung bọt trắng xóa làm
cho mấy chiếc xuồng ba lá và ghe tam bản nhảy sóng liên hồi, chồm lên
sụp xuống dịu dàng. Hội hè đình đám tấp nập người xem. Hát cải lương,
hát bội dù là những đoàn hát bầu tèo nghèo xơ xác chỉ lưu diễn ở làng ở
tổng, thỉnh thoảng tạt ngang trụ lại trình diễn năm bảy đêm liền.
Nhưng cảnh giàu sang, thoải mái thạnh mậu đó quến bọn trộm cướp
kiêu căng bất lương. Nhiều băng đảng nổi tiếng lưu manh đàng điếm, giết
người không gớm tay, từ những vùng xa xôi tận đâu đâu, vượt vạn dậm
đường dài thường kéo tới ăn hàng. Chúng manh tâm khảo tra đánh đập, đả
thương ngay cả chém giết người dân lương thiện để vơ vét của. Chúng là
một lũ ăn không ngồi rồi, bản tánh gian trá, chuyên dòm ngó theo dõi
những người giàu có để thỏa mãn lòng tham không đáy cố hữu của chúng.
Bà con tôi đã từng chung lưng đâu cật biến rừng thiêng nước độc,
đất đai hoang vu, không ai quan tâm để ý tới trước đây, thành nơi phì
nhiêu màu mỡ, huê lợi đảm bảo trong cảnh an sinh hạnh phúc tập đoàn. Bao
nhiêu thế hệ đi qua, vất vả khổ cực trăm bề mới có ngày sung túc hôm
nay. Bây giờ bà con tôi còn phải đối đầu với bọn bất lương đầy tham
vọng.
Sự chung lưng đâu cật, nương tựa nhau trong tang khó, hoạn nạn
được củng cố thêm mãi. Họ đoàn kết vì sự sinh tồn, bảo vệ cơ ngơi sự sản
dày công tạo dựng bằng mồ hôi nước mắt của chính mình.
Ngoài gậy gộc, song hồng, chỉa đôi, chỉa ba, mõ tre, thùng
thiếc, trong xóm còn có cây súng hai nòng của ông Hương quản Quan. Sự
bảo vệ xóm làng nhờ đó có phần hữu hiệu hơn xưa. Bà con rất mực an tâm
vững bụng.
Nhiều lần, xóm Rạch Rít của tôi bị cướp nhưng chúng đều gánh lấy
thất bại chua cay. Nhưng mỗi lần chúng đáo lại, chúng tỏ ra hung hãn
hơn, võ trang đầy đủ hơn với mưu thần chước quỷ hiểm độc.
Tuy thất bại nhiều lần, chúng chẳng bao giờ buông tha cái xóm
mới đang trên đà phát triển thịnh vượng này. Và bà con tôi vốn nhẫn
nhục, chịu đựng, trông cậy ở tình đoàn kết keo sơn gắn bó, ở sự hy sinh
bất kể đến sinh mạng mình để bảo vệ xóm làng.
Cái triết lý tự vệ để sinh tồn, duy trì sự sống đáng sống ấy là
niềm hãnh diện lớn lao của bà con tôi. Niềm hãnh diện ấy cùng với khí
thế tự hào chung được thể hiện tròn đầy qua tiếng cười vui bất chợt
trong những câu chuyện dong dài nhắc nhớ nhau sau mỗi đêm thức trắng. Họ
ríu rít không ngưng ở những buổi sáng uể oải chống cướp quấy nhiễu dân
tình.
* * *
Những ngày cuối năm, ở xóm Rạch Rít quê mùa của tôi cũng rộn rịp
đáo để. Tết sắp đến trong vài ngày. Mấy ai không nôn?
Ghe lúa của khách trú vừa ăn hàng xong ở nhà ông tôi, vội vàng
chèo chống neo ở bến sông nhà ông Xã Kề cho kịp con nước. Người người
bận rộn, nói cười vui nhộn. Lực lưỡng, vai u thịt bắp, họ vác lúa, mỗi
lần hai bao chỉ xanh chồng lên nhau, chạy nhanh như gió, không biết mệt.
Cái cầu ván bắt xuôi từ mé sông lên thành ghe chài nhún lên nhún xuống
nhịp nhàng như muốn gãy làm đôi.
Bà Hai Khánh bán một lượt tám, chín con heo ú na ú nú, mập lút
chỉ, ăn rồi nằm ụ một chỗ, không còn sức di chuyển dù trong chuồng chật
hẹp. Cái vòng bắt chân heo được giựt mạnh. Hai ba nhân công xáp lại, lần
lượt đè từng con xuống. Họ trói giò chụm vào nhau, cạy miệng kéo lưỡi
ra khám xem heo có gạo hay không, khiến heo la té đái té cứt, ầm cả xóm.
Mái nhà của thím Chín Tý ngun ngút khói từ tang tảng sáng đến
tối thui tối thủi vẫn chưa dứt. Thím đổ bún gấp ba bốn lần ngày thường.
Thím bảo mệt đừ, làm không nỗi nữa trong khi bà con đặt mua tới tấp.
Đành phải ráng vậy. Vui vẻ phục vụ bà con, một năm chỉ có một lần. Đỡ
một phần là thím khỏi phải bơi ghe đi đổi hay giao bún.
Nhưng nôn ruột hơn cả là việc ông Bảy Nở kéo về hai con bò tơ,
vàng hực, non chèo. Đại kỵ loại bò vá mà bà con tôi có thói quen, không
biết căn cứ vào đâu, bảo ăn thịt bò vá nổi phong, ngứa ngáy khó chịu.
Trông chúng nó hồn nhiên vô tư lự ngoạm cỏ ở ngôi vườn sau nhà
ông, thật là dễ thương làm sao! Chúng nó không ngờ cuộc đời của chúng
vắn số quá, chỉ thọ vài giờ nữa, đến sáng hôm sau thôi.
Trời còn tờ mờ. Mặt trời ưng ửng ở chòm tre.
Ông Bảy Nở dắt một con, cột ở gốc trâm bầu, nhanh tay buộc
choàng một tấm vải đen che hai mắt nó. Linh tính báo cho biết nó sắp về
bên kia thế giới nên bỗng dưng hai hàng nước mắt nó chảy dài thảm
thương. Con bò còn lại chờ đến lượt mình, dâm ra bơ phờ, lẻ bạn buồn
hiu, không màng ăn cỏ nữa.
Một phát búa tài xồi được Út Quyên phóng mạnh vào tam tinh. Con
bò thét lên một tiếng trầm thống rồi ngã quỵ xuống đất ngay. Nó tiếp tục
giãy dụa lạch đạch. Bốn chưn nó vẫy vùng rung rẩy yếu dần. Vì nó không
còn sinh lực như những cánh tay con người sắp chết đuối, vận dụng sức
tàn còn lại cố giơ cao lên không trung diệu vợi bao la, cầu cứu Thượng
Đế một cách tuyệt vọng.
Nó thở hào hển trước khi nhắm mắt xuôi chưn trong khi tôi ngoảnh
mặt nơi khác, không còn dám tò mò chứng kiến những gì xảy ra sau đó.
Cảnh chia thịt bò Tết năm ấy đã để trong tôi một hình ảnh khó phai.
Chiều ba mươi Tết rước ông bà. Mâm cỗ, thịt cá ê hề. Xóm Rạch
Rít tôi tưng bừng nhậu nhẹt. Pháo nổ đì đùng.
Đầu trên chưa dứt tràng pháo điển dài từ ngọn cây mãn cầu xiêm
sát thềm nhà, lốp bốp, lốp bốp… inh tai chen lẫn tiếng pháo tre nấc cục
nặng nề bưng óc. Đầu dưới xóm không chịu thua, cho nổ ống tre với hơi
khí đá nghe nhức óc điên đầu. Tiếp theo là trận la ó, cười vui, vỗ tay
rầm rập như thể thách thức nhau.
Đèn đuốc sáng rực. Trong nhà lư đồng và hai chân đèn óng ánh.
Hoa quả thơm ngào ngạt, sắc màu đẹp mắt.
Ông tôi chuẩn bị sẵn sàng, chờ đúng mười hai giờ khuya rước
Xuân. Bánh in Bổn Lập hảo hạng bày biện trên bàn với mấy dĩa thèo lèo,
cứt chuột mà mấy tay buôn bán chuyên nghiệp con cháu Thiên Triều ở Chợ
Lớn sản xuất lục cục lòn hòn pha trộn lẫn lộn. Có cái hình thù bầu dục,
cái vuông vức, cái thon thon hình chữ nhựt, bọc đường quện mè chung
quanh, màu sắc vàng có, đen có, xám có.
Nhang đèn bày biện xong. Ông tôi tới lui kiểm tra đầy đủ, tỏ vẻ
bằng lòng. Bộ tách với bình trà xưa đã được lau chùi kỹ lưỡng để trên
khai chờ pha trà Thiết Quan Âm mà ông tôi còn ướp thêm bông lài cho trà
thêm thơm tho mùi vị vườn tược quê nhà.
Mọi việc được chuẩn bị chu đáo, chỉ chờ đúng giờ ông tôi rước
Xuân. Giờ phút thiêng liêng truyền thống duy nhứt đầu năm từ bao nhiêu
đời nay. Một dịp huyền bí để mọi người lớn nhỏ trong gia tộc hội nhập
Đất Trời, hồi hướng Tổ Tiên dòng tộc. Ông cũng cầu nguyện năm mới mưa
thuận gió hòa, xóm làng được mùa, bà con an cư lạc nghiệp.
Bỗng có nhiều loạt súng nổ chát chúa, rải rác khắp nơi. Ông tôi
đâm nghi, nhíu mày lắng tai nghe tiếng nổ là lạ như để phân biệt tiếng
pháo, tiếng nổ của hơi khí đá.
Linh tính báo cho ông tôi biết lại có tai biến. Ông ngạc nhiên
tự hỏi thầm, chẳng lẽ bọn cướp lại ăn hàng nhân ngày Tết thiêng liêng
sao? Ông hỏi thầm nhưng sự thực phũ phàng là thế! Bọn cướp đồng tình kết
hợp với vài ba băng đảng khét tiếng hung bạo từ phương xa kéo đến đánh
phá, ăn hàng xóm tôi trong lúc mọi người trong xóm đang chung vui nên
quá bất cập, thiếu đề phòng, không kịp trở tay.
Nhà bà Hai Khánh mới bán hôm trong năm mấy bồ lúa nàng quớt
trúng mùa, bị chúng xông vào ăn hàng trước tiên. Mấy phát súng chát chúa
chúng dằn mặt thị oai trước hành lang nhà bà đã có hiệu quả.
Chúng ập vào, hùm hổ như cọp đói vồ mồi, bừa bãi lùa mấy bó rơm
khô lớn đại giữa nhà trên rồi phóng lửa đốt phừng phừng, khói lên nghi
ngút. Bà Hai Khánh run rẩy, lập cập, ú a ú ớ không nên tiếng nên lời.
Chúng bắt trói cả gia đình, hành hung khảo của.
Cận bên, nhà ông Xã Kề cũng cùng chung một cảnh tượng hồn phi
phách tán đó. Ông Xã Kề bị chúng trói thúc ké, xô té nằm ngửa bất động
trên nền gạch tàu. Chúng đổ dầu lên rún, hươi hươi ngọn đèn chong, bảo
phải chỉ chỗ dấu vàng vòng, nữ trang, của tiền. Chúng hăm dọa đốt rún
cháy lở tầy hoầy nếu không nộp của.
Xa xa văng vẳng tiếng kêu la đau đớn vì bị cướp đánh đập dã man.
Mấy con chó trong xóm im hơi thin thít. Chúng đã hoảng sợ chui rúc tìm
chỗ trốn từ khi có mấy tràng pháo đầu tiên rước ông bà.
Lần này bọn cướp đông lắm. Chúng võ trang tận răng với dao găm
mã tấu và súng ống lớn nhỏ. Chúng huy động bọn giết người không gớm tay,
đám đàng điếm khắp nơi, có tổ chức hẳn hoi, phối hợp phân công đàng
hoàng dưới sự chỉ đạo của tên đầu đảng tuy trọng tuổi với râu dài bạc
trắng nhưng uy quyền.
Chúng đánh cùng một lúc nhiều nơi, nhiều nhà. Dương đông kích
tây. Những nhà kiên cố, chúng uy hiếp cầm chân. Thỉnh thoảng chúng bắn
cầm chừng vài loạt trấn áp tinh thần, ngăn ngừa tiếp ứng.
Kỳ ăn hàng này, chúng áp dụng hỏa công, tiêu thổ áp đảo bà con
tôi, khảo người giựt của. Tiếng kêu la thảm thiết vang vọng cả một góc
trời. Lửa phựt cháy phừng phừng nhà bà Hai Khánh vô phương cứu chữa. Nhà
nào nhà nấy hầu như bị kềm chân, thúc thủ tự đối phó với bọn cướp dùng
chiến thuật phân tán mỏng.
Khổ nỗi, lần đánh cướp này, bọn cướp lạ mặt lại được mấy thằng
mất dạy khù khờ trong xóm, nghe lời khuyến dụ đường mật của chúng để
tiếp tay chỉ lối dẫn đường. Bọn mặt trơ mày trẻn này bôi mặt với lọ chảo
đen xì, giọng nói ú ớ để đánh lạch hướng bà con. Nhưng chúng tỏ ra tận
tình tận lực lắm để lập công. Do đó, bà con tôi phải một phen trầy vi
tróc vãy đối đầu, ứng phó trối chết.
Bọn này là những con dòi trong xương, ngày ngày ăn cơm bà con
tôi mòn răng nhưng lại đan tâm muối mặt thờ ma bọn cướp bất kể hậu quả
về sau. Nhưng chúng có biết đâu một khi đã vơ vét đầy hồ bao, bọn cướp
nào có đối hoài công lao của chúng bao giờ đâu. Một khi thức tỉnh vỡ
mộng thì mọi việc đã rồi, chỉ còn chuốt lấy chữ nhơ nhuốt đến chết và
tiếng nguyền rủa muôn đời cả họ hàng nữa.
Chẳng mấy chốc, lửa cháy lan rộng thiêu rụi mấy nhà lân cận, tạo
thành một cảnh tượng não nề, tang khó chưa từng thấy trong chuỗi ngày
dài khẩn hoang lập ấp ở đây. Lúc trăng vừa lặn, chúng vơ vét xong tiền
của, vật dụng quý giá, chất đầy mấy ghe lườn khẳm sát be rồi bắn nhiều
loạt súng thị oai dằn mặt trước khi bườm theo hướng kinh rạch um tùm
chằng chịt.
Bà con tuông ra chữa cháy tận lực. Nhưng đã muộn, chỉ cứu được
một phần xóm, những nhà rải rác xa xa tàn lửa phun phún bay theo gió chỉ
bám phớt sương.
Sáng hôm sau, một cảnh đổ vỡ điêu tàn trong xóm. Mọi gương mặt
đều mệt mỏi, thiểu não, buồn xo qua một đêm kinh hãi, lưng tim vỡ mật.
Nhà ông bà Bảy Nở chỉ còn trơ vơ mấy cây cột gỗ nám đen, chĩa
thẳng lên không trung.
Cây cầu vó nên thơ nơi thím Chín Tý cột ghịt xuồng đổi bún ngày
nào cũng bị thần lửa viếng, nằm chúi nhủi dưới bến sông.
Cây ổi xá lị thường được ông Bảy treo lủng lẳng con heo cạo lông
sạch sẽ trắng bông mỗi lần chia thịt, lá nám vàng, đứng cú rũ buồn
tênh.
Cây trâm bầu nơi buộc con bò tơ cách đây mấy ngày để xẻ thịt ăn
Tết, cháy đen, gãy ngang, chỉ cần một luồng gió nhẹ cũng đủ ngã lăn trên
mặt đất ngổn ngang.
Nhà thím Chín Tý còn non non nửa mái, nhờ đám cháu chồng phụ
giúp đổ bún xả thân cứu chữa trong lửa đạn hiểm nguy. Riêng chiếc xuồng
ba lá dùng làm phương tiện di chuyển đổi bún, thím vừa kéo lên bờ trét
chai hôm cuối năm, nhạy lửa bắt cháy chỉ còn lại một đống than vụn.
Tội nghiệp Mười Tống. Vốn nghèo lại mắc cái eo. Cướp chê nghèo
rớt mồng tơi đâu thèm đến viếng. Khốn nỗi, nhà Mười Tống là nhà tranh,
vách lá phênh tre, bắt lửa dễ dàng. Mười Tống tiêu tan sự nghiệp chắt
chiu ký cóp từ hai ba đời chưa kịp ngóc đầu. Nay anh đành tuột xuống hố,
nghèo khổ thêm, trắng tay chỉ trong một phút chốc phù du.
Nhà ông bà tôi bị cháy lốm đốm. Rất may. Lu hũ chứa nước mưa để
uống quanh năm liền được dùng để chữa cháy, cái ngã lăn, cái hư bể la
liệt ngoài sân.
Ông tôi đánh một vòng thăm hỏi bà con, an ủi ủy lạo trong khi
mọi người thu dọn những gì có thể dùng được trên bãi đổ vỡ còn nóng hổi.
Vài nơi im ỉm hừng hực. Có chỗ khói uể oải vẫn tỏa lên từng không để
sau đó tan loãng trong không khí chán chường, uất hận.
Đi đến đâu, ông tôi cũng vỗ về, nâng đỡ tinh thần bà con:
- Bọn cướp lần này quá quắt thật. Không còn xem luật pháp là gì.
Bây giờ xóm mình mất mát hết. Bà con coi như trắng tay. Có xây dựng lại
được như xưa cũng phải năm ba thập niên hơn. Tai ách cơ Trời! Dù sao
mình vẫn còn có nhau. Mình sẽ gầy dựng lại. May là bà con mình ai ai
cũng còn quyết tâm. Còn người là còn của. Còn sống là còn hy vọng. Còn
sức lực, còn tiềm năng là còn tin tưởng ở tương lai mai hậu.
Bà con lặng tinh, tiếp tục dọn dẹp trong âm thầm ấm ức như hàm ý
tán thành ý kiến của ông tôi. Và cái Tết năm đó không được tổ chức
riêng rẽ ở mỗi gia đình theo truyền thống dân tộc mà được tổ chức tập
thể tại đình làng. Tuy không linh đình rình rang nhưng vẫn ấm áp trong
cảm thông, chịu đựng và hy vọng.
* * *
Mấy mươi năm lăn xả vào đời, vui ít buồn nhiều trên đất nước quê
hương triền miên khói lửa theo với dòng lịch sử đa đoan với bao kiếp
nạn oái oăm bi đát, cảnh thổ xa xưa nơi cắt rốn chôn nhau, nơi xóm Rạch
Rít buồn teo hẻo lánh của tôi không lúc nào phai mờ trong ký ức và tâm
thức tôi. Nào ngờ, nghịch cảnh của dòng sử mệnh đó đã đưa đẩy tôi bồng
bềnh trong kiếp đời lưu đày sống tạm.
Hơn hai mươi mấy năm lần lửa trôi qua như chớp mắt. Đông đi Xuân
lại, Hè đến Thu tàn, phũ phàng như giấc mộng vội bay. Nỗi buồn lưu đày
ray rứt, nỗi tủi nhục về thân phận lạc lõng bơ vơ nơi xứ lạ quê người,
nỗi chán chường đeo đẳng hiện tại với niềm uất hận tràn dâng ngút
ngàn... tất cả nỗi niềm thầm kín đó gặm nhấm tim tôi khiến tôi càng thêm
vọng nhớ quê hương xa xôi ngăn cách.
Tôi nhớ, tôi yêu dậm đà tha thiết cái xóm hẻo lánh, nghèo nàn,
nơi tôi sinh trưởng, cất tiếng đầu đời. Cái quê mẹ, quê cha, quê ông bà
thân thương đó với những kỷ niệm chia thịt thà ngày tư ngày Tết thuở quê
hương tôi thanh bình sung túc, những cảnh trao đổi thổ sản, thóc lúa,
biếu xén không vụ lợi, không mảy may hậu ý... đương nhiên đã trở thành
một cái gì thiêng liêng, quý giá nhất trong cuộc sống của tôi.
Quê nhà đó cứ vấn vương réo gọi, thôi thúc không thôi, nhắc nhớ
gọi hồn, giục giã hướng đến mùa Xuân ước mơ, thanh bình thực sự, hạnh
phúc ấm no tràn đầy, vĩnh cửu.
Bỗng nhiên nước mắt tôi nghèn nghẹn tuôn trào.
Tôi nhớ đến những lần liên miên bị cướp, đến đám cháy lớn vào
dịp Tết thuở xa xưa với những ngọn lửa màu đỏ máu, một màu đỏ nguyền rủa
ghê tởm đã để lại bao nhiêu hoang tàn đổ vỡ. Tôi liên tưởng giờ đây đến
hố thẳm sâu hun húc của nghèo đói, sa đọa và phá sản nơi quê nhà do bọn
lưu manh, cướp của, cuồng tính bất lương, mù quáng gây ra. Bao nhiêu
cảnh tượng và ý nghĩ xô bồ lần lượt diễn ra trong tâm trí tôi.
Bất giác trong sự hổn độn đó, lời nói an ủi, vỗ về của ông tôi
thuở nào văng vẳng bên tai tôi, xoáy quyện vào lòng:
- Thôi không sao! Tai ách cơ Trời rồi cũng sẽ qua. Còn người là
còn của. Còn sống là còn hy vọng. Còn quyết tâm là còn cơ gầy dựng lại
và còn tin tưởng ở tương lai con cháu sau này. «Mấy ai giàu ba họ, mấy
ai khó ba đời». «Hết cơn bĩ cực tới hồi thới lai».
Nắng đã lên.
Trời Xuân sáng trong, cao vời vợi. Niềm tin nơi tôi hừng hực,
rạng ngời như ánh bình minh.
Võ Phước Hiếu
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM * LÂM HÁO DŨNG
Lâm Hảo Dũng, Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà
Posted: 29/08/2012 in Ngô Nguyên Nghiễm, Tùy Bút / Tản mạnThẻ:Lâm Hảo Dũng
Ngô Nguyên Nghiễm
Chân dung Lâm Hảo Dũng (Nhiếp ảnh Thái Văn Sơn)
Chư Pao ai oán hờn trong gió / Mỗi chiếc khăn tang một tấc đường. Không hiểu sao, mỗi lần liên tưởng về Lâm Hảo Dũng, nỗi buồn rười rượi phủ trùm lên trái tim tôi, là mỗi lần hiện về hai câu thơ oan nghiệt đó. Không phải ở đây chỉ là một sự rung động chân phương, nghiệt ngã thẩm thấu trong một không gian vàng bay ngơ ngác, phủ trùm tang tóc suốt ấn tượng chiêu hồn, đang mọc nấm hoang dại trên con đường sử của quê hương . Mà còn đậm nét nhân bản, tàn bạo phủ chụp xuống kiếp người, kéo dài dằng dặc định kiếp của hơn mấy ngàn năm qua. Bản chất tôi, thường vô tình quá đổi với cuộc sống đời thường, suốt đời lặng lẽ đi vào ngõ vắng văn nghệ. Tôi chưa hề thuộc bất cứ một bài thơ nào, dù thơ tôi hay của thế nhân. Có lẽ ngoài điểm yếu đó, phải chăng cũng có cái hay không trùng lấp ngoại lai khi sáng tác? Nhưng với thơ Lâm Hảo Dũng, không hiểu sao vẫn thường nhỏ giọt quanh trí não tôi, từng câu thơ loáng thoáng bay nhảy khảm chặt vào từng tế bào. Nhiều lúc, bật tung lên như có một sự đồng cảm phù thủy, khiến tôi khổ sở có lúc gắng sức đè nén những câu thơ anh không trôi nổi quanh nỗi nhớ. Tôi vẫn thường xuyên du hành trong cái tâm không, quầy quả chấp tay sau lưng, tĩnh du cho đầy ngõ trống. Thơ Lâm Hảo Dũng như một bức tường pha lê dựng lên trước mặt, mặc khí hậu ra sao, vẫn hóa thân vào nhãn giới tôi và lặng lẽ bước đến…
Từ sơ giao đến ngày nầy, có lẽ cũng hơn 45 năm, bắt đầu từ thời gian 1966 dưới tàng cây phượng vĩ xum xuê lung linh sắc hè của trường Nông Lâm Súc Cần Thơ. Đó là ngày đầu tiên tôi diện kiến nhà thơ. Lâm Hào Dũng đã chính thức từ bỏ bút hiệu Mây Viễn Xứ trở lại nguyên hình bản lai. Tên thì có thể thay đổi, nhưng thơ Lâm Hảo Dũng vẫn trung trinh một hướng thơ chuyên biệt. Những năm Mây Viễn Xứ và tôi thường đăng chung ở nhiều tờ báo đương thời, mà bút hiệu Mây Viễn Xứ lãng bạt không định hướng của chòm mây lang thang, dù sao khắc ghi nhiều đồng cảm tin yêu của những kẻ làm thơ cô quạnh chung quanh.
Hướng đi cho thơ, một phần được thể hiện trong bút hiệu ban đầu, sự diệu vợi lãng du như cánh mây trời lang thang trôi dạt nửa trong hồn người làm thơ, nửa ký gởi quanh cuộc đời đầy sương gió. Có thể nói, sự tin yêu Mây Viễn Xứ, ngoài tài hoa từ những vầng thơ man mác, riêng lẻ của riêng nhà thơ, thì bút hiệu cũng gây nhiều thiện cảm cho những người đa cảm đồng điệu đương thời. Với một nhân dáng thư sinh thanh tú, Lâm Hảo Dũng bước vào đời bằng hồn thơ lưu xứ, lang bạt phiêu bồng như đám phù vân. Thanh thoát và mang nặng một hoài niệm vời vợi giữa bản thể và cuộc sống trôi dạt đời thường. Có lẽ chính vậy, sự đột khởi của tâm và ý giữa sự phù ảo hư không phiêu bạt, nên bút hiệu Mây Viễn Xứ là bước đầu định vị tâm thức của người làm thơ.
Thơ Lâm Hảo Dũng phiêu bạt nhiều trong thi ca, trên các vườn thơ các nhật báo, tạp chí đương thời thập niên 60-70 thế kỷ trước. Định vị thật sang trọng và bát ngát, nhất là khuôn mẫu của dòng thơ lục bát. Nên cái hay của Lâm Hảo Dũng là áp dụng tinh hoa văn hóa sáu tám đặc thù quê hương, sự trầm bổng điêu linh hóa hiện lung linh trong một hồn thơ dân tộc, đưa khí lực thơ đạt đến cảnh giới tinh túy phiêu bồng với quan điểm thi ca riêng cõi. Sự rung động trong dòng thơ trong thời khắc ban đầu đã bước được vào định nghiệp riêng, chẳng phải là một lối đi xuyên sơn, tâm huyết và độc đạo? Lâm Hào Dũng phiêu bạt trên hồn thơ mình, luân chuyển kỳ khu ngày càng tinh tế và siêu tuyệt. Chính vậy, trong giai đoạn chín mùi hỏa hầu được trui luyện thật can trường, bi thống nhất của những năm đầu thập niên 70. Sự trôi dạt tận cùng đất nước trong giai đoạn khốc liệt cuộc chiến trên quê hương. Nỗi nhà canh cánh mẹ già và đàn em dại, sự ngăn cách giữa tư thân trong bối cảnh tiêu điều trên bước đường nhà thơ đi qua, khiến dòng thơ Lâm Hảo Dũng chìm ngấm trong sự rung động tận cùng của trái tim. Ngôn ngữ chỉ là cầu nối của tâm thức và nhân gian, nên dù sao cũng có một sự hạn hẹp, nhưng dòng thơ bi thống của Lâm Hảo Dũng lại như tiếng chim chiều vội vã thu không tìm đường xuôi ngược về tổ ấm, rơi rớt trên những chiếc ráng chiều, những tâm khúc u hoài, mà nhà thơ cõng trên lưng đi khắp đoạn đường thống thiết băng ngang ….
Chư Pao ai oán hờn trong gió / Mỗi chiếc khăn tang một tấc đường. Không hiểu sao, mỗi lần liên tưởng về Lâm Hảo Dũng, nỗi buồn rười rượi phủ trùm lên trái tim tôi, là mỗi lần hiện về hai câu thơ oan nghiệt đó. Không phải ở đây chỉ là một sự rung động chân phương, nghiệt ngã thẩm thấu trong một không gian vàng bay ngơ ngác, phủ trùm tang tóc suốt ấn tượng chiêu hồn, đang mọc nấm hoang dại trên con đường sử của quê hương . Mà còn đậm nét nhân bản, tàn bạo phủ chụp xuống kiếp người, kéo dài dằng dặc định kiếp của hơn mấy ngàn năm qua. Bản chất tôi, thường vô tình quá đổi với cuộc sống đời thường, suốt đời lặng lẽ đi vào ngõ vắng văn nghệ. Tôi chưa hề thuộc bất cứ một bài thơ nào, dù thơ tôi hay của thế nhân. Có lẽ ngoài điểm yếu đó, phải chăng cũng có cái hay không trùng lấp ngoại lai khi sáng tác? Nhưng với thơ Lâm Hảo Dũng, không hiểu sao vẫn thường nhỏ giọt quanh trí não tôi, từng câu thơ loáng thoáng bay nhảy khảm chặt vào từng tế bào. Nhiều lúc, bật tung lên như có một sự đồng cảm phù thủy, khiến tôi khổ sở có lúc gắng sức đè nén những câu thơ anh không trôi nổi quanh nỗi nhớ. Tôi vẫn thường xuyên du hành trong cái tâm không, quầy quả chấp tay sau lưng, tĩnh du cho đầy ngõ trống. Thơ Lâm Hảo Dũng như một bức tường pha lê dựng lên trước mặt, mặc khí hậu ra sao, vẫn hóa thân vào nhãn giới tôi và lặng lẽ bước đến…
Từ sơ giao đến ngày nầy, có lẽ cũng hơn 45 năm, bắt đầu từ thời gian 1966 dưới tàng cây phượng vĩ xum xuê lung linh sắc hè của trường Nông Lâm Súc Cần Thơ. Đó là ngày đầu tiên tôi diện kiến nhà thơ. Lâm Hào Dũng đã chính thức từ bỏ bút hiệu Mây Viễn Xứ trở lại nguyên hình bản lai. Tên thì có thể thay đổi, nhưng thơ Lâm Hảo Dũng vẫn trung trinh một hướng thơ chuyên biệt. Những năm Mây Viễn Xứ và tôi thường đăng chung ở nhiều tờ báo đương thời, mà bút hiệu Mây Viễn Xứ lãng bạt không định hướng của chòm mây lang thang, dù sao khắc ghi nhiều đồng cảm tin yêu của những kẻ làm thơ cô quạnh chung quanh.
Hướng đi cho thơ, một phần được thể hiện trong bút hiệu ban đầu, sự diệu vợi lãng du như cánh mây trời lang thang trôi dạt nửa trong hồn người làm thơ, nửa ký gởi quanh cuộc đời đầy sương gió. Có thể nói, sự tin yêu Mây Viễn Xứ, ngoài tài hoa từ những vầng thơ man mác, riêng lẻ của riêng nhà thơ, thì bút hiệu cũng gây nhiều thiện cảm cho những người đa cảm đồng điệu đương thời. Với một nhân dáng thư sinh thanh tú, Lâm Hảo Dũng bước vào đời bằng hồn thơ lưu xứ, lang bạt phiêu bồng như đám phù vân. Thanh thoát và mang nặng một hoài niệm vời vợi giữa bản thể và cuộc sống trôi dạt đời thường. Có lẽ chính vậy, sự đột khởi của tâm và ý giữa sự phù ảo hư không phiêu bạt, nên bút hiệu Mây Viễn Xứ là bước đầu định vị tâm thức của người làm thơ.
Thơ Lâm Hảo Dũng phiêu bạt nhiều trong thi ca, trên các vườn thơ các nhật báo, tạp chí đương thời thập niên 60-70 thế kỷ trước. Định vị thật sang trọng và bát ngát, nhất là khuôn mẫu của dòng thơ lục bát. Nên cái hay của Lâm Hảo Dũng là áp dụng tinh hoa văn hóa sáu tám đặc thù quê hương, sự trầm bổng điêu linh hóa hiện lung linh trong một hồn thơ dân tộc, đưa khí lực thơ đạt đến cảnh giới tinh túy phiêu bồng với quan điểm thi ca riêng cõi. Sự rung động trong dòng thơ trong thời khắc ban đầu đã bước được vào định nghiệp riêng, chẳng phải là một lối đi xuyên sơn, tâm huyết và độc đạo? Lâm Hào Dũng phiêu bạt trên hồn thơ mình, luân chuyển kỳ khu ngày càng tinh tế và siêu tuyệt. Chính vậy, trong giai đoạn chín mùi hỏa hầu được trui luyện thật can trường, bi thống nhất của những năm đầu thập niên 70. Sự trôi dạt tận cùng đất nước trong giai đoạn khốc liệt cuộc chiến trên quê hương. Nỗi nhà canh cánh mẹ già và đàn em dại, sự ngăn cách giữa tư thân trong bối cảnh tiêu điều trên bước đường nhà thơ đi qua, khiến dòng thơ Lâm Hảo Dũng chìm ngấm trong sự rung động tận cùng của trái tim. Ngôn ngữ chỉ là cầu nối của tâm thức và nhân gian, nên dù sao cũng có một sự hạn hẹp, nhưng dòng thơ bi thống của Lâm Hảo Dũng lại như tiếng chim chiều vội vã thu không tìm đường xuôi ngược về tổ ấm, rơi rớt trên những chiếc ráng chiều, những tâm khúc u hoài, mà nhà thơ cõng trên lưng đi khắp đoạn đường thống thiết băng ngang ….
Năm 1972, khi tuần báo Khởi Hành mở chuyên mục trao đổi với độc giả,
chọn 100 nhà thơ đương thời được công chúng tin yêu, thì Lâm Hảo Dũng
cũng thường xuyên được chọn trong nhiều bản nhận định đăng tải hàng
tuần. Chỉ có điều sự nhận xét thơ Lâm Hảo Dũng trong dòng thơ hiện hữu,
tương đồng với thơ Quang Dũng. Đó là điều góp củi thành bó, vô cùng dễ
dãi trong thưởng ngoạn. Đi vào một chiều hướng văn hóa và định vị một
khuynh hướng, ngoài sự thông thấu công tâm của người nhận định, còn phải
thận trọng và thông thái trên quan điểm phán xét. Thơ Quang Dũng mang
hình thức trưởnggiả trong sự khuynh khoái, kiêu hùng,
câu thơ sang trọng cách tân trong giai đoạn tiền chiến, dung hòa giữa
trào lưu mới và cũ. Nên sự làm mới ngôn ngữ và tư tưởng, là điều cần
thiết của trí tuệ, chính vậy thơ Quang Dũng đậm nét trao chuốt
bi hùng và trưởng giả. Thơ Lâm Hảo Dũng hoàn toàn không giống như vậy,
không có một sự dung nạp đỗ đồng, vì dòng thơ Lâm Hảo Dũng chuyển biến
từ thái cực của một sự trôi dạt đa cảm, phiêu bạt của vầng mây lưu
phương trong tâm thức, thai nghén từ bọc điều được xé toang ngay từ buổi
thiên khai bắt đầu bước vào ngưỡng cửa thi ca, không có một xấp đặt hậu
thiên. Dĩ nhiên, bước đầu của một tài hoa chân đất khác biệt
cực kỳ với những tâm hồn làm thơ trong tâm sinh lý trưởng giả, hoạch
định hướng tới cho dòng thơ. Thơ Lâm Hảo Dũng quả thật định hình không
từ rung động của trí tuệ mà từ rung động của trái tim, quầy quả
lưu lạc từ hồn mây phiêu bạt đến sự trưởng thành vững chải của một thi
nhân. Một quá trình hóa đá thành vàng, luyện kim trong một hỏa hầu tiệm
tiến và đạt ngộ sau nhiều cuộc hóa thân. Thơ Lâm Hảo Dũng sở dĩ lưu lại
lòng người một cách chân tình, bởi sự chân thật và ngôn ngữ thơ anh,
không còn những sáo ngữ sang trọng, mà là những dòng nước mắt, là máu
trái tim, mộc mạc giản dị đầy nhân bản. Tiếng thống thiết gọi đò của
Trần Tế Xương, giữa thương hải biến vi tang điền, cũng ngơ ngác bi thống
như vậy.
Sự bộc phát thơ Lâm Hảo Dũng từ thập niên 70, trước biến động của đất nước, đất nước của một dân tộc đã chịu nhiểu nỗi thống khổ ba lần hơn ngàn năm Bắc thuộc, hơn trăm năm thuộc địa thực dân Tây, mỗi người dân đều triều dâng tâm thức quyết liệt với ngoại xăm trên mọi hình thức. Văn nghệ sĩ có một hồn người nhạy cảm, sống nhiều nội tâm, nên thấu rõ bằng trái tim tâm huyết… Từ bởi chiến tranh hoài sao biết được / nên đời traigởi gió sương nuôi hoặc em khóc dòng sông ta khóc ta/ ngay đi thương sợi khói bên nhà/ ngày đi như thể không về nữa/ nghe gió rừng xa vọng tiếng ca…Thơ Lâm Hảo Dũng đầy bi thống, như ký gởi tất cả những hoài niệm của ngày tháng vô định, khi đi cố nhớ hàng cau nhỏ/ một liếp dừa xanh ngọn táo vàng / ta cũng hát bài chinh chiến tận…Hình như trong sương gió, ta thấy trùng trùng hình bóng chinh nhân khoát vội phong sương trên nếp áo, mang theo hồn đất, gió trăng, vườn xanh ổi chín, làn khói sau hè, tiếng ru buồn của mẹ với hình bóng còm cõi của mẹ già như khói bên thềm cũ …đã được nhà thơ nhốt vội vào hồn, cùng với gió trăng làm tàn cuộc tiễn đưa:
Mẹ có mắt sầu riêng cao chất ngất
Nên hồn con lạnh lẽo đến bao giờ
Nhà chắc dột bởi từ khi vắng mặt
Những thằng con đủ cánh để bay xa
Và dòng sông thương những hàng rơm mục
Những hàng cau buồn chết được lòng con
Thuở mẹ già biết cau còn kết trái
Biết con còn thấy mẹ lúc hoàng hôn
Như lũ sáo vu vơ ngoài dậu cũ
Mắt đăm chiêu ngày nắng mới chang chang
Mẹ vẫn cứ mồ hôi trên áo vá
Đắp vồng khoai liếp cải nghĩ mênh mang
Bom đạn chắc không còn ru mẹ ngủ
Và đàn em dăm đứa nhởn nhơ cười
Mắt có xa cho một lần thương nhớ
Hình bóng con vời vợi cuối chân trời
(Còn không ngày về)
Nhiều khi, sự vận dụng chân phương những rung động của con tim hóa thân vào hình từ bóng chữ, chính sự chân thật như vậy bật tận đáy lòng, nên chất chứa đầy tâm huyết sâu lắng. Trong vầng thơ Lâm Hào Dũng, người đọc bỗng chợt được đánh động rung chuyển cả tâm cang. Từ ngàn xưa, những giọt nước mắt đầy cảm thông thường được trích lệ giữa quan hoài bi thiết của cuộc sống. Thơ Lâm Hảo Dũng tuyệt diệu như bắt chộp được hỏa hầu của chân tâm, khiến thơ thấm nhập được cảnh giới đầy phong vị của cái chân, trên đoạn đường tử sinh dàn trải lối đi. Phải chăng đó cũng là chuyện thường tình, bởi hạnh phúc và khổ đau vẫn là cặp bài trùng thường xuyên va chạm vào nhau, để ngọn lửa nội sinh bừng cháy:
Mai đi nghe khóc trong hồn đất
Bởi vì:
Đời ta chinh chiến lãng du rồi
Ngoãnh lại:
Thuở mẹ già biết cau còn kết trái
Biết con còn thấy mẹ lúc hoàng hôn
Đạo nghĩa Đông phương gói trọn trong tiếng kêu bi thiết , chất ngất nhân bản khảm vào tâm huyết sâu lắng giữa cuộc đời nầy .
Ngô Nguyên Nghiễm
Viết tại Thư trang Quang Hạnh
Tháng 7 / 2009
Nhuận sắc tháng 5/2012
Nguồn: Tác giả gửi bài và ảnh
Sự bộc phát thơ Lâm Hảo Dũng từ thập niên 70, trước biến động của đất nước, đất nước của một dân tộc đã chịu nhiểu nỗi thống khổ ba lần hơn ngàn năm Bắc thuộc, hơn trăm năm thuộc địa thực dân Tây, mỗi người dân đều triều dâng tâm thức quyết liệt với ngoại xăm trên mọi hình thức. Văn nghệ sĩ có một hồn người nhạy cảm, sống nhiều nội tâm, nên thấu rõ bằng trái tim tâm huyết… Từ bởi chiến tranh hoài sao biết được / nên đời traigởi gió sương nuôi hoặc em khóc dòng sông ta khóc ta/ ngay đi thương sợi khói bên nhà/ ngày đi như thể không về nữa/ nghe gió rừng xa vọng tiếng ca…Thơ Lâm Hảo Dũng đầy bi thống, như ký gởi tất cả những hoài niệm của ngày tháng vô định, khi đi cố nhớ hàng cau nhỏ/ một liếp dừa xanh ngọn táo vàng / ta cũng hát bài chinh chiến tận…Hình như trong sương gió, ta thấy trùng trùng hình bóng chinh nhân khoát vội phong sương trên nếp áo, mang theo hồn đất, gió trăng, vườn xanh ổi chín, làn khói sau hè, tiếng ru buồn của mẹ với hình bóng còm cõi của mẹ già như khói bên thềm cũ …đã được nhà thơ nhốt vội vào hồn, cùng với gió trăng làm tàn cuộc tiễn đưa:
Mẹ có mắt sầu riêng cao chất ngất
Nên hồn con lạnh lẽo đến bao giờ
Nhà chắc dột bởi từ khi vắng mặt
Những thằng con đủ cánh để bay xa
Và dòng sông thương những hàng rơm mục
Những hàng cau buồn chết được lòng con
Thuở mẹ già biết cau còn kết trái
Biết con còn thấy mẹ lúc hoàng hôn
Như lũ sáo vu vơ ngoài dậu cũ
Mắt đăm chiêu ngày nắng mới chang chang
Mẹ vẫn cứ mồ hôi trên áo vá
Đắp vồng khoai liếp cải nghĩ mênh mang
Bom đạn chắc không còn ru mẹ ngủ
Và đàn em dăm đứa nhởn nhơ cười
Mắt có xa cho một lần thương nhớ
Hình bóng con vời vợi cuối chân trời
(Còn không ngày về)
Nhiều khi, sự vận dụng chân phương những rung động của con tim hóa thân vào hình từ bóng chữ, chính sự chân thật như vậy bật tận đáy lòng, nên chất chứa đầy tâm huyết sâu lắng. Trong vầng thơ Lâm Hào Dũng, người đọc bỗng chợt được đánh động rung chuyển cả tâm cang. Từ ngàn xưa, những giọt nước mắt đầy cảm thông thường được trích lệ giữa quan hoài bi thiết của cuộc sống. Thơ Lâm Hảo Dũng tuyệt diệu như bắt chộp được hỏa hầu của chân tâm, khiến thơ thấm nhập được cảnh giới đầy phong vị của cái chân, trên đoạn đường tử sinh dàn trải lối đi. Phải chăng đó cũng là chuyện thường tình, bởi hạnh phúc và khổ đau vẫn là cặp bài trùng thường xuyên va chạm vào nhau, để ngọn lửa nội sinh bừng cháy:
Mai đi nghe khóc trong hồn đất
Bởi vì:
Đời ta chinh chiến lãng du rồi
Ngoãnh lại:
Thuở mẹ già biết cau còn kết trái
Biết con còn thấy mẹ lúc hoàng hôn
Đạo nghĩa Đông phương gói trọn trong tiếng kêu bi thiết , chất ngất nhân bản khảm vào tâm huyết sâu lắng giữa cuộc đời nầy .
Ngô Nguyên Nghiễm
Viết tại Thư trang Quang Hạnh
Tháng 7 / 2009
Nhuận sắc tháng 5/2012
Nguồn: Tác giả gửi bài và ảnh
VÕ ĐỨC HIẾU * TRẦU TÊM CÁNH PHƯỢNG
Trầu têm cánh phượng (truyện ngắn)
12:05 PM Chủ nhật, ngày 04 tháng mười năm 2009- Chuyên mụcGiải trí|Sách báo - Văn thơ|
Cô
gái mù Kỳ Duyên cắp chiếc rổ đựng đầy trầu cau bước nhanh xuống bến.
Mân mê từng miếng trầu, tay thoăn thoắt như người sáng mắt. Miệng vẫn
cất tiếng hát. Cô thả từng đôi trầu cau xuống nước. Tay thả trầu cau,
miệng hát và mắt vẫn hướng ra giữa mặt sông chờ người.
Chiếc
thuyền đồng sáng rực một khúc sông. Hai người ngồi hai đầu. Một người
chèo thuyền, một cô gái thổi sáo. Tiếng sáo vi vút trong đêm, lan toả
khắp mặt sông. Đêm thanh vắng. Chiếc thuyền đồng lướt ra giữa mặt sông,
chạm những cánh trầu. Cô gái thổi sáo trúc hạ tay xuống nhặt từng đôi
một xếp lên thuyền. Thuyền lướt nhanh theo bàn tay cô gái, đánh sóng nhẹ
vào mạn. Tiếng sáo lặng đi giây lâu. Kỳ Duyên thả hết trầu cau, toan
đứng dậy về.
Trầu têm cánh phượng. |
Cô
gái cho thuyền vào sát mép nước, gật đầu chào Kỳ Duyên. Duyên cúi đầu
chào cô gái lạ. Không hiểu sao Duyên thấy rõ khuôn mặt ấy, sáng như ánh
trăng. Trong đêm khuya, ánh trăng phủ đầy soi kỹ hơn mỗi đường nét, đẹp
lạ lùng. Cô gái bước lên bờ, hỏi:
- Trầu này em têm phải không?
- Ngày bé theo bà lên chùa, sờ thấy lạ và làm theo, mẹ bảo đấy là trầu cánh phượng. Em không biết.
Cô gái hạ cây sáo trúc xuống, đưa cho Kỳ Duyên, bảo giữ làm kỷ niệm.
Kỳ
Duyên lom khom bước lên giường. Chị Ban thấy động, quay lại tát một
cái. Kỳ Duyên đang mơ màng chợt tỉnh hẳn và sờ tay lên má. Những lời nói
ngập ngừng. Gió thu thổi mạnh đập vào cửa sổ. Trăng nhạt dần rồi lặn
sau mây. Cửa sổ mở toang, lóng lánh những tia sáng cuối cùng.
Chị
Ban đẹp, một vẻ đẹp kiêu kỳ và dường như được sinh ra để người ta ngắm.
Chị luôn là niềm tự hào của họ hàng, của bố và của cả ngôi làng nằm
chênh vênh bên triền sông này. Chị Ban kề Duyên, hát hay, múa giỏi và
xinh đẹp. Chị yêu anh Dân chèo đò và anh Dân cũng yêu chị. Duyên ngưỡng
mộ mối tình của họ. Mỗi lần anh Dân đến, cô đều trốn vào trong. Chị Ban
không thích Kỳ Duyên.
Kỳ Duyên không biết vì sao
mình thích ra sông lúc nửa đêm. Nhìn trong tưởng tượng, đi trong mơ hồ.
Như chiếc thuyền đồng, như cô gái thổi sáo có vẻ đẹp huyễn hoặc kia, như
từng đôi trầu cau thả trôi trên mặt nước, lấp loáng trăng đêm.
Dân hay đến nhà Ban chơi, thi thoảng lại hỏi về Kỳ Duyên, nhưng Ban lắc đầu. Yêu chị mấy năm mà chưa gặp em. Lạ quá.
Bà
Hai Hồ sinh đứa con gái út vào một ngày rất lạ. Năm Tuất, ngày Tuất,
tháng Tuất và giờ Tuất, thuần âm nên phải mang đi bán cho chùa. Bố không
thích Kỳ Duyên. Ông bảo cô giống ma hơn người. Mẹ thương cô, nhưng tình
thương đó không đủ lớn để bênh vực trước người khác.
Kỳ
Duyên nhè nhẹ bước ra khỏi giường. Chị Ban thấy động bước theo. Kỳ
Duyên cắp rổ đựng đầy trầu cau, đi nhanh ra bến sông. Ban đi theo một
đoạn, Kỳ Duyên mất hút. Ban đứng giữa đường, không biết đang đứng đâu.
Cô òa khóc.
Kỳ Duyên ngồi bên bờ sông, nhìn lên
cửa hang Nhà Trò, vòm kín bưng không một màu sắc khác. Những miếng trầu
cô thả kết lại thành một tấm thảm xanh lấp lánh dưới làn nước. Kỳ Duyên
đứng dậy, bước nhẹ lên tấm thảm ấy, thấy nó vẫn nổi và có thể nâng được
mình. Cô nằm xuống, tấm thảm trôi nhẹ ngược về ghềnh Đan, nhẹ nhàng đến
trước cửa hang Nhà Trò. Kỳ Duyên lại cất tiếng hát.
Dân
đang mơ màng, lại nghe tiếng hát lần trước. Của ma hay người? Nghĩ thế
nào bật dậy chạy nhanh xuống sông. Không cần đèn, anh đã quen với khúc
sông này.
Dân đứng bên này sông thấy bên kia một
màu kỳ lạ. Một dáng người uyển chuyển tự dưng đứng thẳng dậy rồi bước
lên bờ. Anh nhảy tót lên thuyền, tay chống rất nhanh. Thuyền sang đến
bờ, không một bóng người cũng chẳng thấy con thuyền nào.
Mọi
người ồn ào chuyện Ban bị ma nhập phải đưa vào viện. Cô mê sảng mấy hôm
liền. Dân vào thăm người yêu. Một đôi trầu cánh phượng để trên đầu
giường. Chẳng lẽ đêm đó, người hát bài hát kỳ lạ đó là Ban? Có lẽ ngồi
chờ Dân mãi không thấy sang, Ban về trúng gió. Mấy ông già rỗi việc,
động đến cái gì cũng cho là ma nhập.
Dân gặp người
già nhất làng, kể câu chuyện nghe hát mỗi đêm cho cụ nghe. Cụ hỏi Dân
nghe phía nào. Anh chỉ về ghềnh Đan. Cụ vuốt chòm râu bạc. Đấy chẳng
phải cửa hang Nhà Trò sao? Cụ bảo ngày trước có cái hang thật. Mỗi bận
trăng sáng, có ba thầy trò chèo thuyền đồng ra chơi. Trăng lấp loáng
trên sông, người chèo, người hát, người thổi sáo, nôn nao cả khúc sông
dài. Qua năm tháng lụt lội, cửa hang chìm dần vào làn nước. Người ta vẫn
quen gọi đấy là hang Nhà Trò. Vào mỗi dịp giữa thu, thi thoảng có người
nghe tiếng sáo trúc réo rắt gọi người.
- Nếu
cháu nghe được tiếng hát, có khi cháu sẽ khám phá ra một bí mật mới ở
cái hang này. Chỉ có điều, đến bao giờ ông cũng không biết.
***
Kỳ
Duyên đang hát thì nghe tiếng bước chân rất nhẹ. Duyên quẳng mọi thứ,
chạy ngược lên dốc. Nghĩa địa về đêm tắm trăng sáng loáng. Cô chạy nhanh
đến mức người kia đuổi không kịp.
Dân đứng im
giữa ngã ba về làng và xuống nghĩa địa. Một cô gái. Cô hát bài anh vẫn
hay nghe. Cô ấy vừa đứng đây đã mất hút trong một ngôi mộ nào. Dân thấy
run run, cô ấy là ma. Nhưng sao mình lại có thể nghe được tiếng cô ấy
hát. Phải chăng mình sắp chết? Dân chầm chậm bước xuống sông. Cái rổ vẫn
còn đó, bên trong đựng đầy trầu cau. Dưới ánh trăng là những miếng trầu
têm cánh phượng rất đẹp, giống hệt hai miếng trầu để trên đầu giường
Ban hôm nào.
Khoảng nửa
đêm, Dân nghe tiếng sáo trúc vi vu. Tiếng hát lúc nãy hòa vào, rồi anh
nhìn rõ chiếc thuyền đồng lướt trên mặt sông. Thấp thoáng dáng kiều nữ
cúi xuống sông, quay ngược quay xuôi tìm cái gì đó. Dân nhìn xuống bến,
một nam một nữ đẹp lộng lẫy. Nét đẹp kỳ ảo và lạ lẫm. Anh lao nhanh
xuống bến. Không thấy thuyền đâu nữa. Tĩnh lặng như chưa xảy ra chuyện
gì. Người con gái xõa tóc đứng ở cửa lán xin lại cái rổ đựng trầu cau.
Dân tỉnh dậy, cái rổ vẫn nằm nguyên chỗ cũ và bên trong có cây sáo trúc.
Bà Hai Hồ mời ông thầy cúng về. Ông lải nhải căn
nhà đầy âm khí. Khi ông đến bên giường Duyên, ông bật trở ra lạy rối
rít.
****
Dân quyết định lặn xuống hang Nhà Trò.
Dân quyết định lặn xuống hang Nhà Trò.
Sau
vài chục sải tay, anh nhìn thấy cửa hang rộng mở. Anh lách qua cửa đá.
Bên trong không nhiều nước. Không gian u ám, lạnh thấu tâm can. Anh bước
vào sâu hơn. Mùi trầu cau hòa quyện, xộc lên mũi. Dưới chân là một bãi
cát. Anh sờ phải một vật cứng, gõ kêu leng keng. Anh đi dọc theo vật
cứng. Nó là một con thuyền, một con thuyền lớn. Có mái chèo. Liệu đây có
phải là con thuyền trong truyền thuyết về hang Nhà Trò không? Có cái gì
đó rơi xuống chân anh, anh nhặt lên, nhét vào túi áo, đi một vòng rồi
ra cửa hang và bơi lên mặt nước.
Trên bờ mọi người
tập trung rất đông. Bố mẹ anh đang khóc nức nở. Anh đã lặn gần hai
tiếng đồng hồ. Mọi người không tin anh còn sống.
Dân
lấy trong túi áo những thứ mình lượm được trong hang. Những miếng trầu
cánh phượng. Mọi người chuyền tay nhau rồi nhìn Dân. Làm gì có ai vào đó
mà trầu tươi xanh như vừa được têm cách đây một lúc. Ban tiến vào xem
rồi bảo:
- Những thứ này chính tay Kỳ Duyên têm.
Mọi người ngạc nhiên nhìn nhau, nhìn Dân, nhìn lên cửa hang rồi quay sang nhìn Ban nghi hoặc. Dân lắc đầu, ý chừng không hiểu.
Buổi
tối Dân qua nhà Ban chơi. Ban không ra tiếp anh như mọi khi. Tự nhiên
Ban thấy sợ chàng trai này. Anh ta cũng có một cái gì đó rất lạ mà bây
giờ Ban mới nhận ra. Ban sợ anh ta cũng như sợ đứa em của mình, nhưng
dẫu sao em cô cũng là máu mủ ruột thịt.
Kỳ Duyên
không ngồi trên giường têm trầu như mọi hôm. Cô đang khóc. Dân đến bên
cô. Lần đầu tiên anh nhìn thấy cô. Tay anh cầm mấy miếng trầu và cây sáo
trúc. Anh đưa cây sáo tận tay Duyên. Cô ngửng lên, vồ lấy tay Dân,
miệng nói rất nhanh:
- Đúng là nó rồi. Cây sáo của em.
- Cả cái này nữa - vừa nói Dân vừa giơ mấy miếng trầu rồi bỏ vào tay cô.
Kỳ
Duyên ngạc nhiên. Duyên cảm thấy đôi mắt mình cứ sáng dần và nhìn rất
rõ khuôn mặt Dân. Bây giờ cô hiểu vì sao chị Ban yêu anh đến vậy. Cô đưa
tay sờ mặt mình, sờ vào hai con mắt. Cô không tin chỉ thoáng chốc, mọi
sự vật trước mắt hiện ra, rõ mồn một.
- Buổi tối
hôm đó là em phải không? Em chạy vào nghĩa địa để trốn anh. Thực ra em
không như mọi người nói. Em vẫn bình thường, chỉ thi thoảng bị mộng du
thôi, đúng không?
Kỳ Duyên không trả lời. Cô với tay cầm cây sáo trúc bước vào màn.
- Cây sáo này không phải của em?
- Là người ta cho em.
Dân
thấy một cảm xúc lạ qua nhanh. Cô gái này có một cái gì đó rất khó nói
thành lời. Anh theo Kỳ Duyên vào trong, nhìn kỹ trong chiếc màn phủ kín.
Còn rất nhiều trầu nữa, tất cả được xếp thành đôi, bỏ gọn trong rổ. Kỳ
Duyên mù, sao têm trầu đẹp thế!
- Em chuẩn bị cho
ngày vui của chị Ban. Nhưng chị bảo chẳng có đám cưới nào cả, không dùng
đến. Em bảo chị mang cho mọi người ăn, chị bảo đồ em làm người ta không
dám dùng. Em sẽ vứt nó - Duyên toan hất xuống nền nhà.
- Anh sẽ ăn hết mớ trầu cau này. Nó là của em têm, đúng không? Chưa có ai ở làng này têm trầu đẹp như em.
Nói rồi Dân nhặt từng đôi bỏ vào túi áo.
Theo www.baodatviet.vn
Posted by
vanhoa
at
7:22 PM
No comments:
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 048
NHỊ LINH * LÊ HUY OANH-THANH TÂM TUYỀN
Lê Huy Oanh vs Thanh Tâm Tuyền
Trong lịch sử bình luận thơ Thanh Tâm Tuyền, nhà phê bình Lê Huy Oanh
tạo ra mấy điểm mốc đáng nhớ. Trên số Văn đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền
(năm 1973), Lê Huy Oanh nhắc lại mình từng chê bôi, thậm chí mạt sát tập
Tôi không còn cô độc đến như thế nào. Bài viết ấy giờ không dễ tìm, nó
nằm trên tạp chí Sinh Lực, ấn phẩm nằm dưới sự điều hành của Võ Văn
Trưng (chủ nhiệm) và Tôn Nhật Huy (chủ bút). Nên nhớ bài viết dưới đây
(toàn văn) đăng không lâu sau khi Tôi không còn cô độc được ấn hành.
Đọc “TÔI KHÔNG CÒN CÔ-ĐỘC” của Thanh-tâm-Tuyền
Lê-Huy-Oanh
Giữa lúc này, người ta khao khát một tập thơ hay, như những kẻ lạc lõng trên sa-mạc thèm muốn một gốc dừa xanh bên hồ nước. ThơThanh-Tâm-Tuyền ra đời trong khi bao người đang chờ đợi một thi nhân có tài. Chúng ta vui-vẻ đón con người đó, hy-vọng sẽ thấy trong thơ chàng một nguồn rung cảm mới, một nghệ-thuật cao đẹp.
Tôi không muốn đọc cuốn “Tôi không còn cô độc” quá trơ trẽn. Tôi thắp lên hai cây nến trắng. Chuông đồng-hồ thong thả điểm 2 tiếng. Ngoài cửa sổ, con đường vắng trải nhựađen im lìm dưới ánh đèn đêm thấp-thoáng. Trời hơi lành lạnh.
Tôi ưa chọn giờ để đọc thơ - nhất là đọc một tác phẩm mà tôi trót gửi vào đấy biết bao nhiêu hy vọng. - Kể ra như thế cũng hơi cầu kỳ, cái cầu kỳ của những người yêu thơ.
Tôi bắt đầu lần giở những trang giấy thơm tho một cách thành kính. Một trang, hai trang, rồi chín, mười trang… Tội nghiệp chưa, đầu tôi nóng bừng; có lúc tôi bàng hoàng như vừa ngã từ mấy từng lầu cao xuống hố bùn đen: thật khó mà tìm thấy cái hay của thơ Tự-do - một thứ tự-do kiểu ThanhTâm-Tuyền!
Lật về trang giấy sau bức chân dung tác giả, tôi đọc đi đọc lại mấy hàng chữ đầu tiên mà tôi bắt đầu e ngại rằng đây chỉ là những lời ngạo mạn:
Để cai trị tôi có những luật lệ tinh-thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ
Người hoàn toàn tự do và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ
định ném cuốn sách ra cửa sổ thật, vì lúc đó, tôi có cảm-tưởng đã gặp phải một người khùng. Kể cũng lạ. Độc giả, yêu thơ đi tìm thơ,nghệ-thuật không thấy, thấy một chiếc ngai lạ kiểu, trên đó sừng sững một quái thai: Ông Hoàng Thanh-Tâm-Tuyền. Ông kêu lên những câu nghe rất chối tai, có lúc lại hoàn toàn vô nghĩa và ông bảođó là thơ: một thứ thơ không cần vần, không cần âm điệu và cũng chẳng cần để ai hiểu!
Có một lúc tôi không dám phán đoán thêm nữa. Tôi lặng-lẽnhìn ngọn lửa nến đang leo lét cháy không sao thoát khỏi cái lưới thắc-mắc, tôi cho rằng chỉ đọc một lần thì chưa thể nhận thức nổi những tinh-hoa của lối thơnày. Tôi hơi hối-hận vì đã không kìm nổi giận-dữ. Lòng dịu lại đôi chút, tôi ép má vào song cửa sổ, mặc cho gió lạnh ùa vào mặt. Cuốn thơ mầu trắng oái oăm kia nằm lệch trên bàn. Tôi trân-trối nhìn nó và tự hỏi: “nó đã lừa cảm giác tôi hay chính tôi đã lừa cảm giác tôi?”
*
SUốt một tuần lễ sau tôi đọc lại cuốn thơ này. Một tuần lễcó bẩy ngày, tôi đọc lại nó tới hơn ba lần. Nghĩ mà thương cho tôi, có nhữngđêm quá khuya, tôi vẫn còn cặm cụi trước những dòng chữ quái đản:
Tại sao em thích gọi tên hoa
Nào ngày mai của chúng ta buông từng cánh
Xuống vai trần
Viền cỏ
Bông tóc nâu
Em sẽ gọi tên anh
Mùa hoa hôm nay
Nhưng thời gian đã ngảvào lòng vô định
Chút sữa huệ ấm đời thiếu tiếng chim
Cánh hồng ngọt không gian tàn phá
Những thời gtan [sic] không rời nhau mang đến bao nhiêu mùa
Dạy em yêu phía sau cửa sổ
Thiếp điên trong chuỗi dài giấc ngủ
Rất vui
……
(Trang 32, HOA)
Tôi lật xuống những trang dưới, đọc tiếp.
………
Tôi ru chim ngủ trong cổ họng
Mặt trời kêu xuống thái dương những màu ánh sáng thơm
Tim kinh ngạc
Đời tạo câu cười thiên nhiên mãi
Hy vọng đứng ra ngoài ô ngục, ngực bâng khuâng
Lần gặp gỡ thứ nhất
Rồi kỷ niệm kim khí thủy tinh hành hạ
Đau xé trời đêm không sao bánh máy quay vũ khí
Tôi chối từ giam cầm chim đẹp trong rừng tóc
Dù tiếng hót đã chạm mấy hàm răng
Người bộ hành cô đơn chờ đêm để lên đường
Về quá khứ
Chim bay vào trận mưa sao
(Trang 46 - CHIM)
Trời ơi! đã trót yêu thơ thì tôi đành gian-díu [sic] với thơ chứ cứ đọc mãi cái điệu thơnày rồi cũng đến loạn óc mất thôi. Thi ca lập dĩ đến thế là cùng. Người ta bỏhết dấu, người ta vứt vần xuống gót chân thô bạo, người ta cố tình ép uổng cho ý tứ thành bí hiểm: không phải người ta làm thơ mà định giết chết thơ. Hành hạ Nàng thơ đến như vậy thật dã man hết chỗ nói. Ấy thế mà Thanh Tâm Tuyền còn kêu là thơ anh bắt nguồn từ ca dao; ở trang 42 anh viết:
Không đa đa siêu thực
Thẳng thắn
Khởi từ ca dao sang tựdo
Tôi ngờ rằng Thanh-Tâm-Tuyền nói dối. Âu cũng là một mánh-khóe lòe đời của những người cuồng chữ. Bảo rằng thơ anh chuyển từ ca-dao sang thì quả là định làm hại cái hay mộc mạc nhưng đầy vẻ quyến dũ [sic] của ca-dao. Ca-dao là một thứ văn chương bình-dân, đơn giản, phóng khoáng, sáng-sủa biết bao nhiêu, sao lại có thể chuyển nó sang một lối thơ “hũ nút”như vậy được.
*
Thật ra, tôi vẫn mến Thanh-Tâm-Tuyền vì anh là một thanh-niên tha-thiết với cách-mạng và anh đã muốn dùng thơ để ca-ngợi cách-mạng.
Nhưng nếu định dùng một lối thơ lập-dị để phát huy và truyền-bá tinh-thần cách-mạng, tôi e rằng khó mà thành-công. Tinh-thần cách-mạng cần được phát huy bằng những lời thơ sáng-sủa, nhịp-nhàng, giầu âm-điệu hơn.
Hình-thức của thơ càng linh-động, càng hấp dẫn, càng có năng lực làm người ta rung động; hình thức bí hiểm, tư tưởng cũng thành tối om, làm sao nó gây được ảnh-hưởng trong lòng người đọc.
Tôi không phủ nhận vai trò cần thiết của sự tự-do trong thơ,nhưng tôi chủ trương sự tự-do đó không tuyệt đối, nó phải được giới hạn trúng mức truyền cảm. Giới hạn đó không bắt buộc đứng yên một chỗ; nó có thể biếnđổi, di-động tùy theo không gian và thời gian, tùy theo vài sáng-tạo của mỗi thi sĩ. Sự thực, chúng ta chẳng cần bàn nhiều về nó, ở đây, ta chỉ cần nêu ra một kết luận hết sức đơn giản:
“Thi sĩ có toàn quyềnđịnh giới hạn cho sự tự do trong thơ ca của mình miễn làm sao thơ của họ phảiđạt được mục đích chính yếu là truyền cảm. Thiếu tính chất truyền cảm nó hết làthơ”.
Buồn thay, đọc thơ Thanh-tâm-Tuyền ta hầu như không thấy tính-chất truyền cảm có nghĩa là ít khi ta thấy rung động mà phần nhiều chỉthấy bực mình vì thơ.
*
nhiên, nếu cố giữ bình thản để đọc thơ anh, ta cũng tìm thấy đôi chỗ tạm gọi là nghe được. Những giòng hiếm hoi đó nằm trong vài bàithơ tương đối đỡ kỳ-quặc hơn. Bài TRƯỜNG-THÀNH(trang 18) đã khiến ta súc cảm [sic] nhờ ý tưởng nồng nàn của tác giả:
Anh biết vì sao Cộng-Sản thủ tiêu Khái-Hưng.
Mỗi lần hoàng hôn tôi bước cùng đám đông
Lòng khẫn cầu [sic] cách mạng
Anh biết vì sao Cộng-Sản thủ tiêu Phan-văn-Hùm
Mỗi lần hoàng hôn chạm mặt từng người
Có phải chúng ta đang sửa soạn
Anh biết vì sao Cộng-Sản thủ tiêu Tạ-thu-Thâu
Mỗi lần hoàng hôn tôi cố thở cho nhiều
Các anh nhớ tôi còn sống
Quờ quạng tay dan díu
Cách-mạng nổi trong sựnín thinh.
……
Mỗi lần hoàng hôn tôi chỉ là người văn-nghệ bé nhỏ.
Hoặc tôi câm mồm hoặc tôi thét la.
Mặc chúng dụ-dỗ mặc chúng dọa-nạt
Chúng sợ cách mạng vô cùng.
……
Bài “MƯA NGỦ”(trang 48) gợi cho ta tính chất quyến dũ [sic]của một thứ “poème en prose” củaBaudelaire (1).
Mấy bài thơ này khiến tôi nghĩ hoài về Thanh-tâm-Tuyền tuy tôi đã cất cuốn “TÔI KHÔNG CÒN CÔ ĐỘC”vào ngăn tủ. Tôi tin rằng, nếu anh chịu rời bỏ lối thơ kỳ-quái hiện nay của anhđể nhận lấy một lối thơ hợp lý hơn, thơ anh sẽ có nhiều triển vọng. Anh là người giầu tình cảm, giầu lòng yêu nước, thèm khát TỰ-DO và có óc tưởng-tượng thật phong-phú. Tiếc thay, cái tính ưa lập-dị của anh đã phản anh đã bóp nghẹt mất cả một hồn thơ rộng mở trong anh.
Tháng giêng 1957
(1) Ngoài ra, trong tờ sáng tạo số 4 [sic], ra hồi đầu tháng giêng 1957, ta còn được thưởng thức một bài nhan đề:
HÃY CHO TA KHÓC BẰNG MẮT EM,
NHỮNG CUỘC TÌNH DUYÊN BUDAPEST.
Với ý tưởng tân kỳ, bài này cũng được một số người thích,
(trích nguyệt san Sinh Lực, số 9, 1/3/1957, tr. 78-82)
-----------
Sau này, năm 1973, trên số Văn đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền, Lê Huy Oanh đã viết khác hẳn, chẳng hạn: “Thanh Tâm Tuyền đã tuyên bố như vậy [tức đoạn đề từ] ở đầu tập Tôi không còn cô độc. Trong cơn giận dữ rất chân thật, tôi đã mạt sát đả kích anh ta thậm tệ để rồi chỉ ít ngày sau tôi dần dần thấy tất cả sự nông nổi bất công của những lời mạt sát đó, những cử chỉ đả kích đó. Tôi đã không ngần ngại “ném cuốn sách ra cửa sổ” để rồi tôi lại len lén bước ra nhặt nó lên, ấp nó vào ngực, mang nó vào nhà. Vậy thì, vậy thì tôi chỉ còn có cách phải chịu thần phục những luật lệ tinh thần của “vị hoàng đế” ấy bởi tôi rất muốn tiếp tục chuyếnđi vào lãnh thổ của ông ta” (bài “Ký sự về một chuyến đi kỳ thú vào vùng rung cảm”, tr. 11).
Tập thơ Tôi không còn cô độc:
Đọc “TÔI KHÔNG CÒN CÔ-ĐỘC” của Thanh-tâm-Tuyền
Lê-Huy-Oanh
Giữa lúc này, người ta khao khát một tập thơ hay, như những kẻ lạc lõng trên sa-mạc thèm muốn một gốc dừa xanh bên hồ nước. ThơThanh-Tâm-Tuyền ra đời trong khi bao người đang chờ đợi một thi nhân có tài. Chúng ta vui-vẻ đón con người đó, hy-vọng sẽ thấy trong thơ chàng một nguồn rung cảm mới, một nghệ-thuật cao đẹp.
Tôi không muốn đọc cuốn “Tôi không còn cô độc” quá trơ trẽn. Tôi thắp lên hai cây nến trắng. Chuông đồng-hồ thong thả điểm 2 tiếng. Ngoài cửa sổ, con đường vắng trải nhựađen im lìm dưới ánh đèn đêm thấp-thoáng. Trời hơi lành lạnh.
Tôi ưa chọn giờ để đọc thơ - nhất là đọc một tác phẩm mà tôi trót gửi vào đấy biết bao nhiêu hy vọng. - Kể ra như thế cũng hơi cầu kỳ, cái cầu kỳ của những người yêu thơ.
Tôi bắt đầu lần giở những trang giấy thơm tho một cách thành kính. Một trang, hai trang, rồi chín, mười trang… Tội nghiệp chưa, đầu tôi nóng bừng; có lúc tôi bàng hoàng như vừa ngã từ mấy từng lầu cao xuống hố bùn đen: thật khó mà tìm thấy cái hay của thơ Tự-do - một thứ tự-do kiểu ThanhTâm-Tuyền!
Lật về trang giấy sau bức chân dung tác giả, tôi đọc đi đọc lại mấy hàng chữ đầu tiên mà tôi bắt đầu e ngại rằng đây chỉ là những lời ngạo mạn:
Để cai trị tôi có những luật lệ tinh-thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ
Người hoàn toàn tự do và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ
định ném cuốn sách ra cửa sổ thật, vì lúc đó, tôi có cảm-tưởng đã gặp phải một người khùng. Kể cũng lạ. Độc giả, yêu thơ đi tìm thơ,nghệ-thuật không thấy, thấy một chiếc ngai lạ kiểu, trên đó sừng sững một quái thai: Ông Hoàng Thanh-Tâm-Tuyền. Ông kêu lên những câu nghe rất chối tai, có lúc lại hoàn toàn vô nghĩa và ông bảođó là thơ: một thứ thơ không cần vần, không cần âm điệu và cũng chẳng cần để ai hiểu!
Có một lúc tôi không dám phán đoán thêm nữa. Tôi lặng-lẽnhìn ngọn lửa nến đang leo lét cháy không sao thoát khỏi cái lưới thắc-mắc, tôi cho rằng chỉ đọc một lần thì chưa thể nhận thức nổi những tinh-hoa của lối thơnày. Tôi hơi hối-hận vì đã không kìm nổi giận-dữ. Lòng dịu lại đôi chút, tôi ép má vào song cửa sổ, mặc cho gió lạnh ùa vào mặt. Cuốn thơ mầu trắng oái oăm kia nằm lệch trên bàn. Tôi trân-trối nhìn nó và tự hỏi: “nó đã lừa cảm giác tôi hay chính tôi đã lừa cảm giác tôi?”
*
SUốt một tuần lễ sau tôi đọc lại cuốn thơ này. Một tuần lễcó bẩy ngày, tôi đọc lại nó tới hơn ba lần. Nghĩ mà thương cho tôi, có nhữngđêm quá khuya, tôi vẫn còn cặm cụi trước những dòng chữ quái đản:
Tại sao em thích gọi tên hoa
Nào ngày mai của chúng ta buông từng cánh
Xuống vai trần
Viền cỏ
Bông tóc nâu
Em sẽ gọi tên anh
Mùa hoa hôm nay
Nhưng thời gian đã ngảvào lòng vô định
Chút sữa huệ ấm đời thiếu tiếng chim
Cánh hồng ngọt không gian tàn phá
Những thời gtan [sic] không rời nhau mang đến bao nhiêu mùa
Dạy em yêu phía sau cửa sổ
Thiếp điên trong chuỗi dài giấc ngủ
Rất vui
……
(Trang 32, HOA)
Tôi lật xuống những trang dưới, đọc tiếp.
………
Tôi ru chim ngủ trong cổ họng
Mặt trời kêu xuống thái dương những màu ánh sáng thơm
Tim kinh ngạc
Đời tạo câu cười thiên nhiên mãi
Hy vọng đứng ra ngoài ô ngục, ngực bâng khuâng
Lần gặp gỡ thứ nhất
Rồi kỷ niệm kim khí thủy tinh hành hạ
Đau xé trời đêm không sao bánh máy quay vũ khí
Tôi chối từ giam cầm chim đẹp trong rừng tóc
Dù tiếng hót đã chạm mấy hàm răng
Người bộ hành cô đơn chờ đêm để lên đường
Về quá khứ
Chim bay vào trận mưa sao
(Trang 46 - CHIM)
Trời ơi! đã trót yêu thơ thì tôi đành gian-díu [sic] với thơ chứ cứ đọc mãi cái điệu thơnày rồi cũng đến loạn óc mất thôi. Thi ca lập dĩ đến thế là cùng. Người ta bỏhết dấu, người ta vứt vần xuống gót chân thô bạo, người ta cố tình ép uổng cho ý tứ thành bí hiểm: không phải người ta làm thơ mà định giết chết thơ. Hành hạ Nàng thơ đến như vậy thật dã man hết chỗ nói. Ấy thế mà Thanh Tâm Tuyền còn kêu là thơ anh bắt nguồn từ ca dao; ở trang 42 anh viết:
Không đa đa siêu thực
Thẳng thắn
Khởi từ ca dao sang tựdo
Tôi ngờ rằng Thanh-Tâm-Tuyền nói dối. Âu cũng là một mánh-khóe lòe đời của những người cuồng chữ. Bảo rằng thơ anh chuyển từ ca-dao sang thì quả là định làm hại cái hay mộc mạc nhưng đầy vẻ quyến dũ [sic] của ca-dao. Ca-dao là một thứ văn chương bình-dân, đơn giản, phóng khoáng, sáng-sủa biết bao nhiêu, sao lại có thể chuyển nó sang một lối thơ “hũ nút”như vậy được.
*
Thật ra, tôi vẫn mến Thanh-Tâm-Tuyền vì anh là một thanh-niên tha-thiết với cách-mạng và anh đã muốn dùng thơ để ca-ngợi cách-mạng.
Nhưng nếu định dùng một lối thơ lập-dị để phát huy và truyền-bá tinh-thần cách-mạng, tôi e rằng khó mà thành-công. Tinh-thần cách-mạng cần được phát huy bằng những lời thơ sáng-sủa, nhịp-nhàng, giầu âm-điệu hơn.
Hình-thức của thơ càng linh-động, càng hấp dẫn, càng có năng lực làm người ta rung động; hình thức bí hiểm, tư tưởng cũng thành tối om, làm sao nó gây được ảnh-hưởng trong lòng người đọc.
Tôi không phủ nhận vai trò cần thiết của sự tự-do trong thơ,nhưng tôi chủ trương sự tự-do đó không tuyệt đối, nó phải được giới hạn trúng mức truyền cảm. Giới hạn đó không bắt buộc đứng yên một chỗ; nó có thể biếnđổi, di-động tùy theo không gian và thời gian, tùy theo vài sáng-tạo của mỗi thi sĩ. Sự thực, chúng ta chẳng cần bàn nhiều về nó, ở đây, ta chỉ cần nêu ra một kết luận hết sức đơn giản:
“Thi sĩ có toàn quyềnđịnh giới hạn cho sự tự do trong thơ ca của mình miễn làm sao thơ của họ phảiđạt được mục đích chính yếu là truyền cảm. Thiếu tính chất truyền cảm nó hết làthơ”.
Buồn thay, đọc thơ Thanh-tâm-Tuyền ta hầu như không thấy tính-chất truyền cảm có nghĩa là ít khi ta thấy rung động mà phần nhiều chỉthấy bực mình vì thơ.
*
nhiên, nếu cố giữ bình thản để đọc thơ anh, ta cũng tìm thấy đôi chỗ tạm gọi là nghe được. Những giòng hiếm hoi đó nằm trong vài bàithơ tương đối đỡ kỳ-quặc hơn. Bài TRƯỜNG-THÀNH(trang 18) đã khiến ta súc cảm [sic] nhờ ý tưởng nồng nàn của tác giả:
Anh biết vì sao Cộng-Sản thủ tiêu Khái-Hưng.
Mỗi lần hoàng hôn tôi bước cùng đám đông
Lòng khẫn cầu [sic] cách mạng
Anh biết vì sao Cộng-Sản thủ tiêu Phan-văn-Hùm
Mỗi lần hoàng hôn chạm mặt từng người
Có phải chúng ta đang sửa soạn
Anh biết vì sao Cộng-Sản thủ tiêu Tạ-thu-Thâu
Mỗi lần hoàng hôn tôi cố thở cho nhiều
Các anh nhớ tôi còn sống
Quờ quạng tay dan díu
Cách-mạng nổi trong sựnín thinh.
……
Mỗi lần hoàng hôn tôi chỉ là người văn-nghệ bé nhỏ.
Hoặc tôi câm mồm hoặc tôi thét la.
Mặc chúng dụ-dỗ mặc chúng dọa-nạt
Chúng sợ cách mạng vô cùng.
……
Bài “MƯA NGỦ”(trang 48) gợi cho ta tính chất quyến dũ [sic]của một thứ “poème en prose” củaBaudelaire (1).
Mấy bài thơ này khiến tôi nghĩ hoài về Thanh-tâm-Tuyền tuy tôi đã cất cuốn “TÔI KHÔNG CÒN CÔ ĐỘC”vào ngăn tủ. Tôi tin rằng, nếu anh chịu rời bỏ lối thơ kỳ-quái hiện nay của anhđể nhận lấy một lối thơ hợp lý hơn, thơ anh sẽ có nhiều triển vọng. Anh là người giầu tình cảm, giầu lòng yêu nước, thèm khát TỰ-DO và có óc tưởng-tượng thật phong-phú. Tiếc thay, cái tính ưa lập-dị của anh đã phản anh đã bóp nghẹt mất cả một hồn thơ rộng mở trong anh.
Tháng giêng 1957
(1) Ngoài ra, trong tờ sáng tạo số 4 [sic], ra hồi đầu tháng giêng 1957, ta còn được thưởng thức một bài nhan đề:
HÃY CHO TA KHÓC BẰNG MẮT EM,
NHỮNG CUỘC TÌNH DUYÊN BUDAPEST.
Với ý tưởng tân kỳ, bài này cũng được một số người thích,
(trích nguyệt san Sinh Lực, số 9, 1/3/1957, tr. 78-82)
-----------
Sau này, năm 1973, trên số Văn đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền, Lê Huy Oanh đã viết khác hẳn, chẳng hạn: “Thanh Tâm Tuyền đã tuyên bố như vậy [tức đoạn đề từ] ở đầu tập Tôi không còn cô độc. Trong cơn giận dữ rất chân thật, tôi đã mạt sát đả kích anh ta thậm tệ để rồi chỉ ít ngày sau tôi dần dần thấy tất cả sự nông nổi bất công của những lời mạt sát đó, những cử chỉ đả kích đó. Tôi đã không ngần ngại “ném cuốn sách ra cửa sổ” để rồi tôi lại len lén bước ra nhặt nó lên, ấp nó vào ngực, mang nó vào nhà. Vậy thì, vậy thì tôi chỉ còn có cách phải chịu thần phục những luật lệ tinh thần của “vị hoàng đế” ấy bởi tôi rất muốn tiếp tục chuyếnđi vào lãnh thổ của ông ta” (bài “Ký sự về một chuyến đi kỳ thú vào vùng rung cảm”, tr. 11).
Tập thơ Tôi không còn cô độc:
TÔ THÙY YÊN * TÂM THỨC KHUÂT DẠNG
ĐẶNG TIẾN * TÔ THÙY YÊN
| |||||||||||||||
|
THƠ VŨ THỊ DẠ THẢO
Nguyền rủa
Vũ Thị Dạ Thảo
Thấp thoáng đâu đây một nhà mồ
Bên trong chứa một cái xác khô
Ngày, đêm nghe tiếng dân nguyền rủa
Tàn ác, lưu manh, lão họ Hồ!"
VŨ THỊ DẠ THẢO
Khóc Bác!
Bác Hồ ơi hỡi! Bác Hồ! Lúc Bác nằm xuống xác chờ đem chôn
Nhưng đám thủ hạ ác ôn
Đem phơi xác bác giữa cơn mưa gào
Nhân dân phẫn nộ xì xào
Đảng thờ ác quỷ, Nước sao không tàn
VŨ THỊ DẠ THẢO
PHAN LẠC TIẾP * QUÊ NGOẠI
Quê Ngoại
Phan Lạc Tiếp
Mẹ tôi người bên Chàng. Làng Chàng cách làng tôi một cánh đồng nhỏ, Đồng Mát và làng Thạch, được gọi là Thạch Thôn, làng của anh Trần lê Nguyễn. Làng này liền với làng Chàng. Giữa hai làng ngăn cách bằng một cánh cổng tre đơn sơ, vì cổng không có cánh. “ Biên giới” hai làng, một cách cụ thể là hai con chó đá để ở hai bên cổng của hai làng. Hai con chó này cũng là nơi trẻ con hai làng tụ họp, cỡi lên mình chó để chơi đùa và đánh nhau. Có cái lạ là hai làng liền nhau như thế nhưng giọng nói mỗi làng mỗi khác, cách nói cũng khác. Làng Chàng, quê Mẹ tôi, giọng mói trong hơn, êm hơn và nhất là thong thả hơn. Đặc biệt ởø cuối mỗi câu nói thường được vuốt bằng chữ “ c h ư õn g ...“ kéo dài, khiến lời nói của làng Chàng trở nên êm ả. Đàn bà làng Thạch thì nhiều lời và rất chua ngoa. Làng Thạch dính liền với làng tôi bằng cánh Đồng Mát và cái Đầm Bùi. Mùa chiêm, nước nổi, Đầm Bùi mênh mông như biển. Nước từ cánh đồng Hiệp đổ xuống, từ Hương Ngải tràn vào và từ trên cánh đồng Cầu Rô, cầu Chợ làng tôi chút xuống. Hôm trước vụ chiêm mới gặt, cả cánh đồng đi lại không lấm chân, sau một trận mưa, hôm sau ra đồng, Đàm Bùi đã mênh mông trắng xóanhững nước. Những dãy tre làng Núc bỗng nhòa nhạt xa tít tắp như một thế giới nào trong giấc chiêm bao. Trên matë nước mênh mông ấy, những chiếc thuyền nan đen xì, những chiếc thuyền thúng lao chao của làng Thạch đã lững lờ qua lại. Những cây tre khô trắng làm cánh cho các vó bè đã như được mặc áo mới. Khung tre đã được bung ra, và mạng vó khổng lồ mầu nâu sẫm đã được gắn vào đầu những cây tre ấy. Cùng lúc, dọc theo bờ những thửa ruộng bên mép Đồng Bùi, làng Thạch đã cắm sẵn những cái đó để đơm cá. Lạ là cá ở đâu sẵn thế. Cá như từ trên trời theo nước mưa đổ xuống. Trong những cái đó dựng đứng ở ven ruộng ấy, sau cơn mưa, thường có những con cá rô đen, to như chiếc lá mít, hoặc những con cá trê to trùng trục nằm trong lòng đó. Đôi khiù lại là chú rắn nước oằn mình trong lòng đó. Đàn bà làng Thạch, trời chưa sáng rõ mặt người, túa ra đồng xem đó và cất tiếng chửi “ cha tiên nhân bố đứa nào đổ đó của bà...”. Họ cứ chửi sẵn như thế, trước khi xem đó. Nếu trong đó có con cá, con cua thì biết là chưa có “ đứa nào đổ đó của bà”. Những tiếng chửi như thế rộn lên cùng với ánh bình minh và chỉ ồn ào một lúc rồi im.
Vào những tháng mùa chiêm như thế cũng là lúc mà Thầy Mẹ tôi, gia đình của nhà dì tôi phải sang Chàng để ăn giỗ. Tôi không còn nhớ là giỗ ai, nhưng tôi chắc là giỗ ông hoặc bà ngoại tôi, nên không năm nào chúng tôi vắng mặt. Thay vì phải đi qua làng Thạch bằng đường bộ, hai gia đình chúng tôi đi ăn giỗ bằng thuyền. Chiếc thuyền nan to của nhà dì tôi từ mấy tháng trước đã được đem từ trên sà nhà ngang xuống, lấy dầu chai chét vào các chỗ nan vênh, rỉ nước. Bây giờ Đầm Bùi nước đã mênh mông, phải sáu người khiêng cái thuyền nan ấy từ nhà ra đồng. Bác Bòi Kế, một gia nhân của nhà dì tôi, quần áo nâu mới chỉnh tề, quấn ngang bụng bằng một cái thắt lưng to bản, đứng ở cuối thuyền, cầm một cái sào dài, giữ cho mũi thuyền găm vào bờ đất. Chú Cửu tôi xuống trước, đứng ở mũi thuyền, chân trước, chân sau, lấy thế cho vững, đễ từ trên bờ Thầy tôi bế chúng tôi chuyển xuống sau. Chúng tôi được xếp ngồi trên hai thanh ngang ở giũa lòng thuyền. Mẹ tôi và dì tôi xuống sau cùng và đem theo những thúng gạo, những con gà, bó hương và cả những tập vàng hồ có gắn trang kim, những mặt kính óng ả. Cả hai người mặc áo tứ thân, thắt lưng hoa lý, hoa đào,đội nón lá rộng vành, quai thao, ngồi ở cuối thuyền, gần nơi Bác Bòi Kế cầm sào. Chú tôi đứng ở mũi thuyền, vẫn chân co chân duỗi như lấy tấn. Khi tất cả đã đâu vào đấy, chú tôi vớ lấy một cây trèo ngắn, chống vào bờ, đẩy mũi thuyền ra. Thuyền quay mũi, và một tay Bác Bòi Kế, với cái sào dài đầy thuyền lướt đi. Thuyền rẽ sóng, gió lên ào ạt ở bên tai. Có lúc thuyền đi gần những ngọn cây mọc nhô lên mặt nước. Trên đó có những con cò ướt cánh đứng co ro trú mưa. Nếu tinh ý còn thấy có cả những con rắn nước cuốn lòng thòng ở những cành cây thấp. Tôi rùng mình, nhìn quanh, dãy tre làng tôi mỗi lúc mỗi xa. Gió như mỗi lúc mỗi mạnh và lạnh hơn. Nhìn về mũi thuyền, chú tôi vẫn đứng uy nghiêm như cũ. Tay ông chống cái gậy xuống đầu thuyền. Tà áo dài và cái khăn quàng nơi cổ ông bay lòa xòa về phía sau lật phật. Mắt ông vẫn hướng về phía trước. Đôi lúc ông lấy cái gậy chỉ về bên trái hay bên phải để mũi thuyền theo đó mà đi. Mấy anh em tôi, và các em nhỏ con nhà dì tôi ngồi co ro, xúm lại với nhau. Thầy tôi đứng ngay đó, như sẵn sàng để bảo vệ chúng tôi lỡ có đứa nào dại dột nghịch nước, rơi ra ngoài thuyền. Thuyền không đi ra giữa cánh đồng mà đi men men quanh làng Thạch. Đôi khi thuyền chui dưới những bụi tre to khum mình ra đồng, mát dượi. Từ trên thuyền chúng tôi nhìn rõ những ngôi nhà tranh, những đống rơm, đống rạ, những mảnh sân, ở đó giũa những đàn gà, có những đứa nhỏ đang chơi đùa, bỗng ngừng lại nhìn con thuyền của chúng tôi đi qua. Người lớn thì không chú ý, nhưng những đứa trẻ ấy nhìn tụi tôi, rồi nắm tay dứ dứ, mồm nói điều gì tụi tôi không nghe rõ.
Qua một khúc quanh, làng Chàng, quê Mẹ tôi đã hiện ra rõ dần. Từ trong làng hình như có những tiếng trống, tiếng chiêng lúc mờ, lúc rõ. Thuyền có lúc trôi trên những ngọn lúa lơ thơ trồi lên mặt nước. Dì tôi chép miệng “ ruộng nhà ai gặt trễ thế này đây...”. Khi thuyền chuyển hướng, đâm thẳng vào lũy tre thì tôi biết là đã đến. Giữa lũy tre đen đặc ấy, có một lỗ trống mở ra, con thuyền của chúng tôi từ từ xuôi mái chui vào. Thầy tôi, chú tôi đều ngồi cả xuống. Chú tôi lấy cây gậy nhỏ sẵn sàng chống lên bờ. Con thuyền ngoan ngoãn ép mình vào bờ đất. Từ trên bờ đã lao xao những tiếng chào “ các cô các chú đã về này...” Các anh lớn của tôi đi học ở trường huyện tan học về trước, đang vắt vẻo trên cây sung nô đùa, hái quả, sợ hãi phải đòn vì leo trèo dại dột, vội vàng leo xuống. Anh Giáo Cả, bụng tròn như quả mít, đã đứng đó, tươi cười chào đón mọi người.Chú tôi lên trước, đứng ở trên bờ. Từ dưới thuyền thầy tôi bế từng đứa đưa cho chú tôi. Đến lượt em bé trai út của nhà dì tôi mới ba, bốn tuổi, nó bỗng chùn người lại, không chịu cho thầy tôi bế lên. Dì tôi phải dơ tay ãm em. mới khám phá ra rằng em bé đã bĩnh ra quần, thối hoăng, làm bẩn cả cái quần trắng trúc bâu mới mặc. Ai nấy vừa mắng yêu em vừa cười.
Dưới thuyền Bác Bòi Kế chống con sào, buộc ghì cột chèo vào một gốc tre, rồi ngồi xuống mạn thuyền, lấy cái điếu cày, thong thả châm một điếu thuốc, hít một hơi dài, thở khói mù mịt.
Trên mảnh sân đất mịn trẻ con nô đùa. Ở một góc sân nồi nước sôi bốc khói. Mấy chị, mấy cô đang xúm nhau vặt lông gà, lông vịt. Khói bếp và mùi đun nấu bay tỏa, bao chùm. Chúng tôi những đứa trẻ năm, bảy tuổi tha thẩn ra mảnh vườn trước nhà, đi dưới bóng những cây na, cây chanh. Cành cây la đà ngang mặt. Chúng tôi tiện tay hái những quả chanh vàng mịn óng. Mùi hương thơm của lá, của hoa lan tỏa ngây ngất. Ở cuối vườn có một cái cầu tre lắt lẻo, bắc từ vườn bên này qua vườn bên kia. Bên kia là dương cơ của nhà mợ hai tôi. Qua những hàng cây xanh lá là một dãy cau trồng trước hiên nhà. Những cây cau cao đong đưa trong gió như lúc nào cũng đứng đó để bảo vệ căn nhà tranh êm ả của nhà mợ hai tôi. Tôi đứng đó rất lâu, lấy những cục đất ném vu vơ sang bờ bên đó, khiến con chó vàng to xù từ trong nhà chạy ra nhe răng trắng ởn, sủa vang. Chúng tôi vẫn đứng đó, khiến con chó ra tận mép ao gầm gừ sủa tiếp. Thấy chẳng làm gì được chúng tôi, con chó sủa thêm vài tiếng nữa rồi quay đít vào nhà. Chúng tôi lấy đá ném qua, con chó quay lại sủa thêm vài tiếng vu vơ nữa rồi đi khuất vào trong lớp cánh dại trước hiên nhà.
Dọc theo mép ao, theo lối mòn, chúng tôi đi tiếp. Tay cầm cành tre nhỏ cời bới như đi thám hiểm một vùng đất hoang vu. Dưới bóng mát của những cành tre khum mình xuống mặt ao, thế giới nhỏ bé của chúng tôi như thu kín lại. Những tiếng động ồn ào của ngày giỗ như mờ nhạt hẳn đi. Chúng tôi nhặt những cái mo nang lớn thả xuống mặt ao. Mo nang lững lờ như những cái thuyền trống trôi qua trôi lại theo chiều gió thổi. Một vài chiếc “ thuyền” mắc vào những cụm tre khô nhoi lên từ mặt nước. Ở đó thấp thoáng có những tăm cá to như những hột nhãnù thỉnh thoảng nổi lên. Tôi biết đó là tăm của những con cá chắm, chúng làm tổ trong các nhánh tre. Chắc chúng đang cựa mình ve vẩy cái đuôi to mầu hồng nhạt. Chúng đang cạ mình, chà những hàng vảy xanh đen vào những cành tre khô ở dưới đáy ao. Hay chúng nhởn nhơ bơi qua, bơi lại phô nghiêng cái bụng trắng hồng. Đôi khi có những hàng tăm cá nhỏ nổi lên từng chụm. Đấy là tăm của những chị cá diếc. Như những cô con gái đang độ xuân thì, cá diếc thường đi từng đàn, bơi lội tung tăng, lộn qua, lộn lại. Có khi con cá này cắn vào đuôi con cá kia, tinh nghịch đùa rỡn khoe làn vảy trắng óng ánh như bạc, trước vẻ ưu tư trầm mặc của các anh cá chắm. Những chú tôm thì khác. Chúng phóng vun vút, thoáng ở chỗ này, thoáng ở chỗ kia như những anh hề của một tuồng múa dối... Một làn gió thổi, hàng tre oằn mình, đong đưa, thả thêm những chiếc lá khô rơi la đà trên mặt ao vắng. Chúng tôi đã trở lại “ bến thuyền” khi chúng tôi mới đến. Bến đã trống không. Từ khoảng trống này chúng tôi nhìn ra, một vùng đồng trống mênh mông những nước. Từ ngoài xa ấy chúng tôi còn bắt gặp chiếc thuyền nan, trên đó Bác Bòi Kế đang cúi mình đẩy thuyền đi, trở về. Thuyền không, đi rất lẹ. Chỉ một tháng chiếc thuyền đã rẽ, mất hút ở một góc làng xa.
Bây giờ nhà trên đã đông khách. Những họ hàng gần gũi lần lượt vào lễ. Thấy tụi trẻ con chúng tôi xuất hiện, anh Cả, con trai lớn của Mợ Cả tôi nói lớn “ các chú vào lễ ông bà đi...”. Chúng tôi bắt chước người lớn vào lễ trước bàn thờ, cũng lên gối xuống gối lần lượt bốn lần. Người lớn chú ý theo dõi, nên khi chúng tôi lễ xong, có nhiều tiếng nói “ giỏ..i”. Bước ra sân, thấy mẹ tôi đã đứng đó mỉm cười sung sướng. Mẹ tôi thưởng cho chúng tôi mỗi đứa một cái chân cọ gà. Giữa lúc ấy thì gia đình nhà Già tôi đến. Già tôi da mặt có nhiều chỗ loang trắng vì bịnh bạch tạng, tóc bạc ở hai bên vành tai, bước đi ngắn, rất chậm, ít nói, nhưng miệng lúc nào cũng ngậm cái tăm và mỉm cười. Mọi người tíu tít chào đón Già tôi. Giữa lúc ấy thì anh Tân, con trai trưởng của Già tôi vừa từ dưới cầu ao lên, mới rửa chân xong, đang lấy đôi giày ta, giày Gia Định, xỏ vào, lẹp kẹp đi trên nền sân đất mịn. Anh tươi cười, ăn trầu bỏm bẻm, chào hỏi mọi người rất là rôm rả. Anh đứng trước bàn thờ, chấp hai tay trước bụng nói lớn :” Thưa trên có các cụ, các ông bà, dưới có tất cả anh em nội ngoại. Hôm nay là ngày kỵ của ông ngoại chúng tôi. Lẽ ra Thầy chúng tôi phải có mặt, trước là để lễ Ông Ngoại chúng tôi, sau cũng là để có dịp gặp gỡ, thăm hỏi, hàn huyên cùng bà con thân quyến. Song vì Ông thân chúng tôi hôm nay không được khỏe, nên chúng tôi là con trướng, chúng tôi đem đầu đến đây để thay mặt cho Thầy chúng tôi...”. Dứt lời anh Cả Tân cúi xuống lễ bốn lễ rất nghiêm trang. Nét mặt anh chùng lại, hai mắt khép hờ. Hình như anh còn khấn những lời rất nhỏ. Xong lễ, nét mặt anh như bừng tỉnh sau một cơn mê. Anh tươi cười nhìn sang hai bên tả hữu, chào hỏi khắp lượt. Có tiếng ai nói đâu đó :” Anh cả Tân chững chạc thế, kỳ tới nên chạy cho anh chân phó lý...”.
Mọi người lần lượt ra về. Mặt người nào cũng đỏ gay, hơi men tỏa nồng. Chẳng mấy chốc khung cảnh buổi giỗ ở nhà Mợ Cả tôi đã vãn. Mấy anh lớn của chúng tôi được phép :” Thôi cho chúng bay về nhà trước, để có thì giờ học bài. Nhớ về thẳng nhà, không được la cà,đánh đáo, đánh nhau trên đường đi...”. Mấy anh lớn như mở cờ trong bụng, vội vàng cởi bỏ áo dài đen, cho vào cặp, nhảy chân sáo ra về. Tôi nhìn theo các anh mà ao ước mình lớn như các anh. Đi về qua làng Thạch không sợ trẻ con làng này bắt nạt. Vì các anh hình như còn biết nhiều miếng võ nữa. Tụi làng Thạch mà lại gần các anh ấy phi thân đá chết. Chiều đã ngả. Anh Cả tôi nhờ một người mang cái vó ra ao, thả xuống. Để một lúc, rồi lấy mấy hòn đất lớn ném vào giữa đám rong tre ở giũa ao. Đợi một chút như có ý chờ những con cá lớn bơi vào lòng vó, vó mới được kéo lên, thật thong thả. Bốn góc vó lên trước, miệng vó hiện lên sau. Lòng vó hẹp dần, mọi người nhìn cả vào lòng vó. Có những cái quẫy xôn xao trong đáy vó còn lưng chừng nước. Khi đáy vó vừa lên khỏi mặt nước, mọi người cười nói ồn ào:” Mấy con cá chắm để dành cho các cô mới vó được có một con...” Người kéo vó quay vó vào sân, thả xuống, những con cá to nhỏ đủ loại đang cong mình dãy trong lòng vó. Một người nhặt những con cá trôi nhỏ, mình trắng, mắt đỏ, thả lại xuống ao. Con cá chắm lớn thì đước lấy lạt giang sâu vào mang, đặt vào giữa hai mảnh thân cây chuối, giữ cho cá được mát. Miệng cá được nhét mấy cánh bèo tây sũng nước, cho cá khỏi khát. Con cá ấy đưọc đưa chi Dì tôi :” Con này là phần của Cô...”. Như thế, đến lúc chúng tôi ra về, phần quà từ Bên Ngoại gồm những con cá lớn, những quả bưởi, quả mít và cả những nửa rổ vừa tranh, vùa ổi. Riêng tụi trẻ con chúng tôi thì còn có một vòng quả sung đeo ở cổ. Những quả sung chín mầu tím thẫm, bửa ra, từ giũa lòng quả sung có những con muỗi bay ra. Không biết muỗi từ đâu lại có sẵn trong lòng quả sung như thế. Những quả sung ấy ăn ngọt lịm. Mẹ tôi và Dì tôi quảy những món quà ấy về, đi theo đường bộ về trước, tất nhiên phải đi qua làng Thạch. Thày tôi, Chú tôi và tôi về sau, vì chúng tôi còn phải tạt vào thăm gia đình Cậu Giáo.
Phan lạc Tiếp.
Phan Lạc Tiếp
Mẹ tôi người bên Chàng. Làng Chàng cách làng tôi một cánh đồng nhỏ, Đồng Mát và làng Thạch, được gọi là Thạch Thôn, làng của anh Trần lê Nguyễn. Làng này liền với làng Chàng. Giữa hai làng ngăn cách bằng một cánh cổng tre đơn sơ, vì cổng không có cánh. “ Biên giới” hai làng, một cách cụ thể là hai con chó đá để ở hai bên cổng của hai làng. Hai con chó này cũng là nơi trẻ con hai làng tụ họp, cỡi lên mình chó để chơi đùa và đánh nhau. Có cái lạ là hai làng liền nhau như thế nhưng giọng nói mỗi làng mỗi khác, cách nói cũng khác. Làng Chàng, quê Mẹ tôi, giọng mói trong hơn, êm hơn và nhất là thong thả hơn. Đặc biệt ởø cuối mỗi câu nói thường được vuốt bằng chữ “ c h ư õn g ...“ kéo dài, khiến lời nói của làng Chàng trở nên êm ả. Đàn bà làng Thạch thì nhiều lời và rất chua ngoa. Làng Thạch dính liền với làng tôi bằng cánh Đồng Mát và cái Đầm Bùi. Mùa chiêm, nước nổi, Đầm Bùi mênh mông như biển. Nước từ cánh đồng Hiệp đổ xuống, từ Hương Ngải tràn vào và từ trên cánh đồng Cầu Rô, cầu Chợ làng tôi chút xuống. Hôm trước vụ chiêm mới gặt, cả cánh đồng đi lại không lấm chân, sau một trận mưa, hôm sau ra đồng, Đàm Bùi đã mênh mông trắng xóanhững nước. Những dãy tre làng Núc bỗng nhòa nhạt xa tít tắp như một thế giới nào trong giấc chiêm bao. Trên matë nước mênh mông ấy, những chiếc thuyền nan đen xì, những chiếc thuyền thúng lao chao của làng Thạch đã lững lờ qua lại. Những cây tre khô trắng làm cánh cho các vó bè đã như được mặc áo mới. Khung tre đã được bung ra, và mạng vó khổng lồ mầu nâu sẫm đã được gắn vào đầu những cây tre ấy. Cùng lúc, dọc theo bờ những thửa ruộng bên mép Đồng Bùi, làng Thạch đã cắm sẵn những cái đó để đơm cá. Lạ là cá ở đâu sẵn thế. Cá như từ trên trời theo nước mưa đổ xuống. Trong những cái đó dựng đứng ở ven ruộng ấy, sau cơn mưa, thường có những con cá rô đen, to như chiếc lá mít, hoặc những con cá trê to trùng trục nằm trong lòng đó. Đôi khiù lại là chú rắn nước oằn mình trong lòng đó. Đàn bà làng Thạch, trời chưa sáng rõ mặt người, túa ra đồng xem đó và cất tiếng chửi “ cha tiên nhân bố đứa nào đổ đó của bà...”. Họ cứ chửi sẵn như thế, trước khi xem đó. Nếu trong đó có con cá, con cua thì biết là chưa có “ đứa nào đổ đó của bà”. Những tiếng chửi như thế rộn lên cùng với ánh bình minh và chỉ ồn ào một lúc rồi im.
Vào những tháng mùa chiêm như thế cũng là lúc mà Thầy Mẹ tôi, gia đình của nhà dì tôi phải sang Chàng để ăn giỗ. Tôi không còn nhớ là giỗ ai, nhưng tôi chắc là giỗ ông hoặc bà ngoại tôi, nên không năm nào chúng tôi vắng mặt. Thay vì phải đi qua làng Thạch bằng đường bộ, hai gia đình chúng tôi đi ăn giỗ bằng thuyền. Chiếc thuyền nan to của nhà dì tôi từ mấy tháng trước đã được đem từ trên sà nhà ngang xuống, lấy dầu chai chét vào các chỗ nan vênh, rỉ nước. Bây giờ Đầm Bùi nước đã mênh mông, phải sáu người khiêng cái thuyền nan ấy từ nhà ra đồng. Bác Bòi Kế, một gia nhân của nhà dì tôi, quần áo nâu mới chỉnh tề, quấn ngang bụng bằng một cái thắt lưng to bản, đứng ở cuối thuyền, cầm một cái sào dài, giữ cho mũi thuyền găm vào bờ đất. Chú Cửu tôi xuống trước, đứng ở mũi thuyền, chân trước, chân sau, lấy thế cho vững, đễ từ trên bờ Thầy tôi bế chúng tôi chuyển xuống sau. Chúng tôi được xếp ngồi trên hai thanh ngang ở giũa lòng thuyền. Mẹ tôi và dì tôi xuống sau cùng và đem theo những thúng gạo, những con gà, bó hương và cả những tập vàng hồ có gắn trang kim, những mặt kính óng ả. Cả hai người mặc áo tứ thân, thắt lưng hoa lý, hoa đào,đội nón lá rộng vành, quai thao, ngồi ở cuối thuyền, gần nơi Bác Bòi Kế cầm sào. Chú tôi đứng ở mũi thuyền, vẫn chân co chân duỗi như lấy tấn. Khi tất cả đã đâu vào đấy, chú tôi vớ lấy một cây trèo ngắn, chống vào bờ, đẩy mũi thuyền ra. Thuyền quay mũi, và một tay Bác Bòi Kế, với cái sào dài đầy thuyền lướt đi. Thuyền rẽ sóng, gió lên ào ạt ở bên tai. Có lúc thuyền đi gần những ngọn cây mọc nhô lên mặt nước. Trên đó có những con cò ướt cánh đứng co ro trú mưa. Nếu tinh ý còn thấy có cả những con rắn nước cuốn lòng thòng ở những cành cây thấp. Tôi rùng mình, nhìn quanh, dãy tre làng tôi mỗi lúc mỗi xa. Gió như mỗi lúc mỗi mạnh và lạnh hơn. Nhìn về mũi thuyền, chú tôi vẫn đứng uy nghiêm như cũ. Tay ông chống cái gậy xuống đầu thuyền. Tà áo dài và cái khăn quàng nơi cổ ông bay lòa xòa về phía sau lật phật. Mắt ông vẫn hướng về phía trước. Đôi lúc ông lấy cái gậy chỉ về bên trái hay bên phải để mũi thuyền theo đó mà đi. Mấy anh em tôi, và các em nhỏ con nhà dì tôi ngồi co ro, xúm lại với nhau. Thầy tôi đứng ngay đó, như sẵn sàng để bảo vệ chúng tôi lỡ có đứa nào dại dột nghịch nước, rơi ra ngoài thuyền. Thuyền không đi ra giữa cánh đồng mà đi men men quanh làng Thạch. Đôi khi thuyền chui dưới những bụi tre to khum mình ra đồng, mát dượi. Từ trên thuyền chúng tôi nhìn rõ những ngôi nhà tranh, những đống rơm, đống rạ, những mảnh sân, ở đó giũa những đàn gà, có những đứa nhỏ đang chơi đùa, bỗng ngừng lại nhìn con thuyền của chúng tôi đi qua. Người lớn thì không chú ý, nhưng những đứa trẻ ấy nhìn tụi tôi, rồi nắm tay dứ dứ, mồm nói điều gì tụi tôi không nghe rõ.
Qua một khúc quanh, làng Chàng, quê Mẹ tôi đã hiện ra rõ dần. Từ trong làng hình như có những tiếng trống, tiếng chiêng lúc mờ, lúc rõ. Thuyền có lúc trôi trên những ngọn lúa lơ thơ trồi lên mặt nước. Dì tôi chép miệng “ ruộng nhà ai gặt trễ thế này đây...”. Khi thuyền chuyển hướng, đâm thẳng vào lũy tre thì tôi biết là đã đến. Giữa lũy tre đen đặc ấy, có một lỗ trống mở ra, con thuyền của chúng tôi từ từ xuôi mái chui vào. Thầy tôi, chú tôi đều ngồi cả xuống. Chú tôi lấy cây gậy nhỏ sẵn sàng chống lên bờ. Con thuyền ngoan ngoãn ép mình vào bờ đất. Từ trên bờ đã lao xao những tiếng chào “ các cô các chú đã về này...” Các anh lớn của tôi đi học ở trường huyện tan học về trước, đang vắt vẻo trên cây sung nô đùa, hái quả, sợ hãi phải đòn vì leo trèo dại dột, vội vàng leo xuống. Anh Giáo Cả, bụng tròn như quả mít, đã đứng đó, tươi cười chào đón mọi người.Chú tôi lên trước, đứng ở trên bờ. Từ dưới thuyền thầy tôi bế từng đứa đưa cho chú tôi. Đến lượt em bé trai út của nhà dì tôi mới ba, bốn tuổi, nó bỗng chùn người lại, không chịu cho thầy tôi bế lên. Dì tôi phải dơ tay ãm em. mới khám phá ra rằng em bé đã bĩnh ra quần, thối hoăng, làm bẩn cả cái quần trắng trúc bâu mới mặc. Ai nấy vừa mắng yêu em vừa cười.
Dưới thuyền Bác Bòi Kế chống con sào, buộc ghì cột chèo vào một gốc tre, rồi ngồi xuống mạn thuyền, lấy cái điếu cày, thong thả châm một điếu thuốc, hít một hơi dài, thở khói mù mịt.
Trên mảnh sân đất mịn trẻ con nô đùa. Ở một góc sân nồi nước sôi bốc khói. Mấy chị, mấy cô đang xúm nhau vặt lông gà, lông vịt. Khói bếp và mùi đun nấu bay tỏa, bao chùm. Chúng tôi những đứa trẻ năm, bảy tuổi tha thẩn ra mảnh vườn trước nhà, đi dưới bóng những cây na, cây chanh. Cành cây la đà ngang mặt. Chúng tôi tiện tay hái những quả chanh vàng mịn óng. Mùi hương thơm của lá, của hoa lan tỏa ngây ngất. Ở cuối vườn có một cái cầu tre lắt lẻo, bắc từ vườn bên này qua vườn bên kia. Bên kia là dương cơ của nhà mợ hai tôi. Qua những hàng cây xanh lá là một dãy cau trồng trước hiên nhà. Những cây cau cao đong đưa trong gió như lúc nào cũng đứng đó để bảo vệ căn nhà tranh êm ả của nhà mợ hai tôi. Tôi đứng đó rất lâu, lấy những cục đất ném vu vơ sang bờ bên đó, khiến con chó vàng to xù từ trong nhà chạy ra nhe răng trắng ởn, sủa vang. Chúng tôi vẫn đứng đó, khiến con chó ra tận mép ao gầm gừ sủa tiếp. Thấy chẳng làm gì được chúng tôi, con chó sủa thêm vài tiếng nữa rồi quay đít vào nhà. Chúng tôi lấy đá ném qua, con chó quay lại sủa thêm vài tiếng vu vơ nữa rồi đi khuất vào trong lớp cánh dại trước hiên nhà.
Dọc theo mép ao, theo lối mòn, chúng tôi đi tiếp. Tay cầm cành tre nhỏ cời bới như đi thám hiểm một vùng đất hoang vu. Dưới bóng mát của những cành tre khum mình xuống mặt ao, thế giới nhỏ bé của chúng tôi như thu kín lại. Những tiếng động ồn ào của ngày giỗ như mờ nhạt hẳn đi. Chúng tôi nhặt những cái mo nang lớn thả xuống mặt ao. Mo nang lững lờ như những cái thuyền trống trôi qua trôi lại theo chiều gió thổi. Một vài chiếc “ thuyền” mắc vào những cụm tre khô nhoi lên từ mặt nước. Ở đó thấp thoáng có những tăm cá to như những hột nhãnù thỉnh thoảng nổi lên. Tôi biết đó là tăm của những con cá chắm, chúng làm tổ trong các nhánh tre. Chắc chúng đang cựa mình ve vẩy cái đuôi to mầu hồng nhạt. Chúng đang cạ mình, chà những hàng vảy xanh đen vào những cành tre khô ở dưới đáy ao. Hay chúng nhởn nhơ bơi qua, bơi lại phô nghiêng cái bụng trắng hồng. Đôi khi có những hàng tăm cá nhỏ nổi lên từng chụm. Đấy là tăm của những chị cá diếc. Như những cô con gái đang độ xuân thì, cá diếc thường đi từng đàn, bơi lội tung tăng, lộn qua, lộn lại. Có khi con cá này cắn vào đuôi con cá kia, tinh nghịch đùa rỡn khoe làn vảy trắng óng ánh như bạc, trước vẻ ưu tư trầm mặc của các anh cá chắm. Những chú tôm thì khác. Chúng phóng vun vút, thoáng ở chỗ này, thoáng ở chỗ kia như những anh hề của một tuồng múa dối... Một làn gió thổi, hàng tre oằn mình, đong đưa, thả thêm những chiếc lá khô rơi la đà trên mặt ao vắng. Chúng tôi đã trở lại “ bến thuyền” khi chúng tôi mới đến. Bến đã trống không. Từ khoảng trống này chúng tôi nhìn ra, một vùng đồng trống mênh mông những nước. Từ ngoài xa ấy chúng tôi còn bắt gặp chiếc thuyền nan, trên đó Bác Bòi Kế đang cúi mình đẩy thuyền đi, trở về. Thuyền không, đi rất lẹ. Chỉ một tháng chiếc thuyền đã rẽ, mất hút ở một góc làng xa.
Bây giờ nhà trên đã đông khách. Những họ hàng gần gũi lần lượt vào lễ. Thấy tụi trẻ con chúng tôi xuất hiện, anh Cả, con trai lớn của Mợ Cả tôi nói lớn “ các chú vào lễ ông bà đi...”. Chúng tôi bắt chước người lớn vào lễ trước bàn thờ, cũng lên gối xuống gối lần lượt bốn lần. Người lớn chú ý theo dõi, nên khi chúng tôi lễ xong, có nhiều tiếng nói “ giỏ..i”. Bước ra sân, thấy mẹ tôi đã đứng đó mỉm cười sung sướng. Mẹ tôi thưởng cho chúng tôi mỗi đứa một cái chân cọ gà. Giữa lúc ấy thì gia đình nhà Già tôi đến. Già tôi da mặt có nhiều chỗ loang trắng vì bịnh bạch tạng, tóc bạc ở hai bên vành tai, bước đi ngắn, rất chậm, ít nói, nhưng miệng lúc nào cũng ngậm cái tăm và mỉm cười. Mọi người tíu tít chào đón Già tôi. Giữa lúc ấy thì anh Tân, con trai trưởng của Già tôi vừa từ dưới cầu ao lên, mới rửa chân xong, đang lấy đôi giày ta, giày Gia Định, xỏ vào, lẹp kẹp đi trên nền sân đất mịn. Anh tươi cười, ăn trầu bỏm bẻm, chào hỏi mọi người rất là rôm rả. Anh đứng trước bàn thờ, chấp hai tay trước bụng nói lớn :” Thưa trên có các cụ, các ông bà, dưới có tất cả anh em nội ngoại. Hôm nay là ngày kỵ của ông ngoại chúng tôi. Lẽ ra Thầy chúng tôi phải có mặt, trước là để lễ Ông Ngoại chúng tôi, sau cũng là để có dịp gặp gỡ, thăm hỏi, hàn huyên cùng bà con thân quyến. Song vì Ông thân chúng tôi hôm nay không được khỏe, nên chúng tôi là con trướng, chúng tôi đem đầu đến đây để thay mặt cho Thầy chúng tôi...”. Dứt lời anh Cả Tân cúi xuống lễ bốn lễ rất nghiêm trang. Nét mặt anh chùng lại, hai mắt khép hờ. Hình như anh còn khấn những lời rất nhỏ. Xong lễ, nét mặt anh như bừng tỉnh sau một cơn mê. Anh tươi cười nhìn sang hai bên tả hữu, chào hỏi khắp lượt. Có tiếng ai nói đâu đó :” Anh cả Tân chững chạc thế, kỳ tới nên chạy cho anh chân phó lý...”.
Mọi người lần lượt ra về. Mặt người nào cũng đỏ gay, hơi men tỏa nồng. Chẳng mấy chốc khung cảnh buổi giỗ ở nhà Mợ Cả tôi đã vãn. Mấy anh lớn của chúng tôi được phép :” Thôi cho chúng bay về nhà trước, để có thì giờ học bài. Nhớ về thẳng nhà, không được la cà,đánh đáo, đánh nhau trên đường đi...”. Mấy anh lớn như mở cờ trong bụng, vội vàng cởi bỏ áo dài đen, cho vào cặp, nhảy chân sáo ra về. Tôi nhìn theo các anh mà ao ước mình lớn như các anh. Đi về qua làng Thạch không sợ trẻ con làng này bắt nạt. Vì các anh hình như còn biết nhiều miếng võ nữa. Tụi làng Thạch mà lại gần các anh ấy phi thân đá chết. Chiều đã ngả. Anh Cả tôi nhờ một người mang cái vó ra ao, thả xuống. Để một lúc, rồi lấy mấy hòn đất lớn ném vào giữa đám rong tre ở giũa ao. Đợi một chút như có ý chờ những con cá lớn bơi vào lòng vó, vó mới được kéo lên, thật thong thả. Bốn góc vó lên trước, miệng vó hiện lên sau. Lòng vó hẹp dần, mọi người nhìn cả vào lòng vó. Có những cái quẫy xôn xao trong đáy vó còn lưng chừng nước. Khi đáy vó vừa lên khỏi mặt nước, mọi người cười nói ồn ào:” Mấy con cá chắm để dành cho các cô mới vó được có một con...” Người kéo vó quay vó vào sân, thả xuống, những con cá to nhỏ đủ loại đang cong mình dãy trong lòng vó. Một người nhặt những con cá trôi nhỏ, mình trắng, mắt đỏ, thả lại xuống ao. Con cá chắm lớn thì đước lấy lạt giang sâu vào mang, đặt vào giữa hai mảnh thân cây chuối, giữ cho cá được mát. Miệng cá được nhét mấy cánh bèo tây sũng nước, cho cá khỏi khát. Con cá ấy đưọc đưa chi Dì tôi :” Con này là phần của Cô...”. Như thế, đến lúc chúng tôi ra về, phần quà từ Bên Ngoại gồm những con cá lớn, những quả bưởi, quả mít và cả những nửa rổ vừa tranh, vùa ổi. Riêng tụi trẻ con chúng tôi thì còn có một vòng quả sung đeo ở cổ. Những quả sung chín mầu tím thẫm, bửa ra, từ giũa lòng quả sung có những con muỗi bay ra. Không biết muỗi từ đâu lại có sẵn trong lòng quả sung như thế. Những quả sung ấy ăn ngọt lịm. Mẹ tôi và Dì tôi quảy những món quà ấy về, đi theo đường bộ về trước, tất nhiên phải đi qua làng Thạch. Thày tôi, Chú tôi và tôi về sau, vì chúng tôi còn phải tạt vào thăm gia đình Cậu Giáo.
Phan lạc Tiếp.
No comments:
Post a Comment