LEO TOLSTOY * ĐẤT VÀ NGƯỜI
DÎch giä: NguyÍn Væn Sâm
NgÜ©i chΠljn thæm cô em gái ª vùng quê. ChÒng cô chÎ bán tiŒm ª
thành phÓ, chÒng cô em là m¶t nông phu trong làng. Khi hai chÎ em
chuyŒn trò bên tách trà, cô chÎ b¡t ÇÀu khoe khoang vŠ tiŒn l®i
cûa Ç©i sÓng thÎ thành, vŠ quÀn áo ÇËp cûa h† và con cái, chuyŒn
æn ngon uÓng sܧng, chuyŒn Çi coi hát hò, dåo chÖi, giäi trí...
NgÜ©i em bÎ ch†c tÙc nên phÌ báng låi Ç©i bán tiŒm và biŒn h¶ cho
Ç©i sÓng cûa ngÜ©i ª thôn quê:
- Em không Ç°i cách sÓng cûa em lÃy cách sÓng cûa chÎ Çâu. Có th‹
em sÓng kham kh° Çó, nhÜng ít ra em không vܧng bÆn lo âu. ChÎ có
cu¶c sÓng khá hÖn nhÜng phäi bon chen, nên thÜ©ng Ç‹ mÃt nh»ng gì
Çã có. ChÎ bi‰t mà, tøc ng» nói "vào l‡ hà ra l‡ h°ng" cho nên kÈ
giàu "nÙt ÇÓ Ç° vách" hôm nay æn mày tØng håt cÖm ngày mai xäy ra
hà rÀm. ñ©i chúng em an toàn hÖn. Làm nghŠ nông thì không giàu
chÌ Çû Çút l° miŒng, nhÜng th†. Tøi em không th‹ giàu xø, giàu hú
ÇÜ®c, nhÜng bao gi© cÛng ÇÀy Çû, có æn có Ç‹.
NgÜ©i chÎ khinh khÌnh:
-ñÀy Çû à? ! Tøi bây ª chung ª ln v§i heo v§i bò thì có. MÀy
Çâu có bi‰t lÎch s¿ sang tr†ng là cái giÓng gì Çâu? M¥c dÀu th¢ng
chÒng mày làm quÀn quÆt cách mÃy Çi n»a, tøi bây cÛng së ch‰t
theo cách tøi bây sÓng, trong s¿ dÖ dáy bÅn thÌu, và lÛ con cûa
tøi bây sau này cÛng vÆy mà thôi.
-¯! VÆy thì có sao? Cô em trä l©i. Dï nhiên công chuyŒn ª Çây c¿c
nh†c khó khæn Çó, nhÜng mà bù låi nó ch¡c ch¡c. ChÒng em không
phäi quy løy ai h‰t. Trong khi Çó anh chÎ ª thành phÓ bi‰t bao
nhiêu là cám d‡, bây gi© thì có th‹ m†i chuyŒn ÇŠu tÓt ÇËp Çó,
nhÜng mà bi‰t Çâu ngày mai ma ÇÜa lÓi qu› dÅn ÇÜ©ng anh sa vô tÙ
Ç° tÜ©ng thì tÃt cä së tan tành h‰t.
ChÎ bi‰t mà, mÃy chuyŒn Çó xäy ra nhÜ cÖm b»a.
Pahom ngÜ©i chÒng, n¢m trên nóc lò, l¡ng tai nghe mÃy ngÜ©i Çàn
bà nói tÀm xàm tÀm lj, nghï thÀm:
- Phäi. TØ nhÕ t§i l§n ÇÀu t¡t m¥t tÓi cày sâu cuÓc bÄm tøi tui
Çâu có thì gi© nghï t§i mÃy chuyŒn tr©i Öi ÇÃt hªi Çó. ChÌ lo là
không có Çû ÇÃt Çai Ç‹ trÒng tr†t thôi. N‰u mà có nhiŠu hä, chÃp
luôn QuÌ SÙ - BiŒt cºa s®!
MÃy ngÜ©i Çàn bà uÓng xong tuÀn trà, nói thêm ba ÇiŠu bÓn chuyŒn
vŠ quÀn áo, giày dép rÒi d†n dËp Çi ngû.
NhÜng có m¶t con Qu› SÙ Çang núp ª ngoài sau cái lò sܪi nghe tÃt cä
nh»ng ÇiŠu Pahom vØa nói. Nó khoái chí khi thÃy bà v® cûa Pahom
Çã dÅn d¡t ông chÒng vào câu nói phách lÓi r¢ng là n‰u h¡n có
thÆt nhiŠu ÇÃt Çai h¡n së không s® chính ngay cä qu› sÙ. "ñÜ®c
rÒi" con qu› sÙ nói thÀm, chúng ta làm m¶t cu¶c thách ÇÃu. Ta së
cho nhà ngÜÖi ÇÃt Çai ÇÀy Çû và b¢ng sÓ ÇÃt Çai này, ta së Ç¥t mi
dܧi quyŠn l¿c cûa ta.
2.
Cånh làng có m¶t ngÜ©i Çàn bà, chû m¶t mänh ÇÃt trung trung
khoäng 300 mÅu. Bà sÓng hòa thuÆn v§i nông dân trong vùng cho t§i
khi bà Ç¥t m¶t ngÜ©i lính giäi ngÛ vào vai trò quän lš cÖ sª cûa
mình. Lão này phåt vå dân chúng luôn. M¥t dÀu Pahom cÓ g¡ng cÄn
tr†ng nhÜng mà khi thì con ng¿a cûa anh dÅm vào Çám lúa kiŠu måch
cûa bà ta, khi thì m¶t con bò låc chân vào vÜ©n, khi thì cä Çàn bò
bæng ngang ÇÒng cÕ khi‰n anh ta luôn bÎ phåt vå.
Pahom Çóng tiŠn phåt, nhÜng anh ta càu nhàu rÒi vŠ nhà v§i b¶ m¥t
cáu kÌnh g¡t gÕng v® con. SuÓt trong mùa hè, Pahom g¥p r¡c rÓi vô
cùng v§i lão quän lš này cho nên khi mùa Çông ljn thì anh vui vÈ
v§i viŒc bÀy súc vÆt Çã có chuÒng Çàng hoàng. M¥c dÀu anh phäi
thêm công viŒc cho súc vÆt æn khi chúng không th‹ thänh thÖi g¥m
cÕ trên ÇÒng nhÜng ít ra anh cÛng Çã thoát khÕi nh»ng lo âu bÆn
bÎu.
Mùa Çông có tin ÇÒn vŠ bà chû ÇÃt s¡p bán mi‰ng ÇÃt và m¶t
ngÜ©i chû quán tr† miŠn trên Çang trä giá. Khi các nông dân trong
vùng nghe chuyŒn, h† Çã vô cùng lo l¡ng.
H† nghï. N‰u mà anh chàng chû quán tÆu ÇÜ®c mi‰ng ÇÃt, chúng mình
së bÎ phåt vå còn n¥ng hÖn cái lão quän lš cûa bà chû cÛ n»a.
Chúng ta tùy thu¶c mi‰ng ÇÃt này mà.
Vì vÆy, tÃt cä nông dân, nhân danh H¶i ñÒng Làng yêu cÀu bà chû
ÇÃt ÇØng bán cho lão chû quán, h† ÇŠ nghÎ mua ÇÃt v§i m¶t giá cao
hÖn. Bà ta ÇÒng š chuyŒn này. H†, k‰ Çó cÓ g¡ng dàn x‰p H¶i ñÒng
Làng mua cä mi‰ng ÇÃt Ç‹ toàn th‹ nông dân cùng làm chû. H† hi
h†p hai lÀn Ç‹ thäo luÆn ÇiŠu Çó, nhÜng vÅn không giäi quy‰t ÇÜ®c
vÃn ÇŠ. Con qu› sÙ gieo r¡c mÓi bÃt hòa gi»a m†i ngÜ©i nên dân
làng không Çi ljn ÇÜ®c m¶t thÕa thuÆn nào. CuÓi cùng h† quy‰t ÇÎnh månh ai nÃy mua phÀn mình tùy theo túi tiŠn. Bà chû ÇÃt cÛng ÇÒng š v§i
chÜÖng trình này.
M§i Çây Pahom nghe r¢ng lão láng giŠng Çang mua næm mÜÖi mÅu, bà
chû ÇÃt Çã ÇÒng š nhÆn m¶t nºa tiŠn m¥t, cho chÎu phÀn còn låi
ljn sang næm.
Pahom cäm thÃy tÙc tÙc.
H¡n nghï thÀm: BÕ mË, ÇÃt bÎ lÃn lÀn mòn, rÒi ta không có mi‰ng
nào cho coi! H¡n bàn v§i v®:
H† mua ÇÃt, mình cÛng phäi mua Ƕ 20 mÅu ch§! Cu¶c sÓng trª nên
khó khæn rÒi. Lão quän lš Çang làm bÀm làm giÆp mình v§i mÃy cái
vø phåt vå.
V® chÒng vùng nhau bàn thäo cách mua. H† Çã Ç‹ dành ÇÜ®c m¶t træm
rub. H† bán m¶t con ng¿a con, nºa sÓ ong mÆt, Ç® m¶t th¢ng con
lÃy tiŠn trܧc, mÜ®n phÀn còn låi tØ ngÜ©i anh em c¶t chèo, tÃt
cä góp låi ÇÜ®c nºa sÓ tiŠn mua ÇÃt.
Xong, Pahom l¿a m¶t mi‰ng ÇÃt Ƕ 40 mÅu, m¶t phÀn có nhiŠu cây
cÓi, rÒi ljn bà chû ÇÃt thäo luÆn. Hai Çàng cuÓi cùng ÇÒng š
nhau, h¡n b¡t tay bà ta Ç‹ giao k‰t, Ç¥t m¶t sÓ tiŠn c†c rÒi cùng
nhau ra tÌnh kš b¢ng khoán. Theo kh‰ ܧc, anh trä phân nºa tiŠn
trܧc, phÀn còn låi trä trong vòng hai næm.
Bây gi© Pahom có ÇÃt Çai cûa riêng mình, anh vay håt giÓng, gieo
trÒng trên mãnh ÇÃt Çã mua. Mùa màng thu hoåch khá, trong vòng
m¶t næm thì Pahom Çã trä ÇÜ®c tÃt cä n® nÀn cä cho chû ÇÃt lÅn
ngÜ©i anh c¶t chèo... Gi© Çây Pahom nghiÍm nhiên thành chû ÇÃt,
cÀy x§i, gieo trÒng trên ÇÃt mình, c¡t rÖm trên ru¶ng mình, ch¥t
cây trên ÇÒng cÕ mình. Khi ra ÇÒng v« ÇÃt hay nhìn luÓng b¡p Çang lên
ho¥c ngó thäm cÕ xanh trên ÇÒng, lòng h¡n r¶n rã. CÕ m†c, hoa nª nÖi
Çây ÇÓi v§i h¡n có vë gì khác v§i cÕ hoa nÖi khác. Trܧc Çây khi Çi
ngang qua cÛng mãnh ÇÃt này, tâm trång h¡n dºng dÜng nhÜ khi Çi
qua bÃt cÙ mãnh ÇÃt nào khác, nhÜng nay lòng h¡n khác h¤n.
3. Cho nên Pahom rÃt b¢ng lòng, và m†i chuyŒn së ti‰p tøc tÓt ÇËp
n‰u ngÜ©i ta chÌ viŒc ÇØng Çi bæng qua ru¶ng lúa hay ÇÒng cÕ cûa
h¡n. PhÀn l§n h¡n phän ÇÓi h† lÍ phép, nhÜng mà h† chÙng nào tÆt
nÃy: b»a thì tøi chæn bò Ç‹ bò cûa làng Çi thÖ thÄn trong ÇÒng
cÕ, b»a thì ng¿a dÅm nát rÅy b¡p, Pahom lÀn nào cÛng Çu°i súc vÆt
Çi và bÕ qua, trong m¶t khoäng th©i gian thÆt dài h¡n nhÅn nhÎn
không truy tÓ ai. NhÜng sau cùng h¡n mÃt kiên nhÅn và kiŒn ª Tòa
Án ÇÎa phÜÖng. H¡n bi‰t r¢ng chuyŒn này xäy ra vì mÃy ngÜ©i nông
dân Çó cÀn ÇÃt, và không có š xÃu xa trong vø này, nhÜng rÒi h¡n
nghï: "Không th‹ bÕ qua vø này ÇÜ®c, n‰u không h† së phá nát h‰t
cÖ nghiŒp cûa mình. H† phäi ÇÜ®c dåy cho ‡t bài h†c". Vì vÆy h¡n
m©i h† ljn, giäi thích cho h†, m¶t lÀn, hai lÀn, rÒi thì vài
ngÜ©i bÎ phåt vå. Sau m¶t th©i gian, nh»ng ngÜ©i láng giŠng cûa
Pahom ác cäm v§i h¡n vŠ chuyŒn Çó, thÌnh thoäng h† cÓ š Ç‹ cho
súc vÆt dÅm vào ÇÃt cûa h¡n. Ngay cä m¶t ngÜ©i nào Çó Çêm ljn
xông vào rØng cûa h¡n ÇÓn ngã næm cây chanh còn non. M¶t hôm
Pahom Çi qua rØng, nhÆn thÃy có khoäng trÓng. H¡n ljn gÀn hÖn và
thÃy mÃy thân cây Çã tróc vÕ n¢m læn lóc dܧi ÇÃt cånh Çó trÖ trÖ
mÃy gÓc còn sót låi. Pahom n°i cÖn tam bành:
"N‰u chÌ ÇÓn räi rác thì cÛng ÇÜ®c Çi, Ç¢ng này th¢ng Ç‹u Çó ÇÓn
cä m¶t lùm. Tao mà bi‰t ÇÜ®c th¢ng nào hã, tao trä ÇÛa liŠn,
không nhÎn Çâu".
H¡n n¥n óc nghï coi ngÜ©i nào. Sau cùng h¡n quy‰t ÇÎnh, chÌ có
cái th¢ng Simon thôi, hÕng ai vô Çó ÇÜ®c. RÒi h¡n ljn tråi cûa Si
mon Ç‹ quan sát, nhÜng không thÃy gì, låi thêm gây ra cãi vã Çôi
co. Tuy nhiên bây gi© thì h¡n ch¡c nhÜ m¶t v§i m¶t là hai là
Simon Çã làm chuyŒn này và h¡n ÇÜa ÇÖn khªi tÓ. Simon bÎ m©i ra
hÀu tòa. Vø kiŒn xº t§i lui nhÜng rÓt cuc Simon cÛng ÇÜ®c tr¡ng
án vì không có Çû y‰u tÓ bu¶c t¶i. Pahom còn cäm thÃy bÃt bình
hÖn, h¡n trút n°i giÆn h©n cûa mình lên ÇÀu mÃy vÎ bô lão và các
quan tòa. "Tøi bây æn xôi chùa nên ngÆm miŒng, h¡n c¢n nh¢n, n‰u
tøi bây thanh khi‰t thì Çâu có Ç‹ cho th¢ng æn tr¶m ÇÜ®c t¿ do
Çâu".
Và Pahom cãi vã cä mÃy ông quan tòa lÅn mÃy ngÜ©i hàng xóm. Có
l©i hæm d†a nhà h¡n së bÎ ÇÓt. Cho nên m¥c dÀu Pahom có nhiŠu ÇÃt
Çai hÖn nhÜng mà ÇÎa vÎ cûa h¡n trong c¶ng ÇÒng còn tŒ hÖn trܧc
nhiŠu.
Khoäng th©i gian này có tin ÇÒn vŠ nhiŠu ngÜ©i sºa soån di chuy‹n
ljn vùng khác.
Pahom nghï: "Tao không cÀn Çi Çâu h‰t. Th¢ng nào Çi Ǫ th¢ng nÃy,
rng ch‡, tao mua låi ÇÃt, n§i rnang trang tråi ra. SÓng dÍ thª
hÖn. Bây gi© còn tù túng quá, chÜa ÇÜ®c thoäi mái".
M¶t hôm Pahom Çang ngÒi ª nhà m¶t ngÜ©i nông dân Çi qua làng tình
c© ghé låi nhà h¡n. Anh ta ÇÜ®c cho ngû qua Çêm và Çäi cÖm tÓi.
Pahom ti‰p chuyŒn anh ta, hÕi tØ Çâu t§i. NgÜ©i lå cho bi‰t ljn
tØ bên kia b© sông Volva. ChuyŒn này dÅn qua chuyŒn kia, ngÜ©i lå
ti‰t l¶ có rÃt nhiŠu ngÜ©i sÓng ª Çó. Anh cho bi‰t lš do tåi sao
ngÜ©i làng anh ljn Çó. Ÿ Çây h† gia nhÆp c¶ng ÇÒng m§i, m‡i ÇÀu
ngÜ©i ÇÜ®c t¥ng 25 mÅu ÇÃt. ñÃt Çai rÃt trù phú tÓt ljn n‡i lúa
måch cao khÕi ÇÀu ngÜ©i, dÀy Ç¥c quÖ chØng vài liŠm là ÇÀy m¶t
bó. Có m¶t ngÜ©i nghèo r§t mÒng tÖi ljn Çó, tay không chÜn ÇÃt mà
bây gi© có t§i sáu con ng¿a, hai con bò.
Lòng ham muÓn cûa Pahom ÇÜ®c khêu g®i.
"Tåi sao mình låi chÎu kh° sª ª cái xó xÌnh này trong khi có th‹
sÓng khá hÖn ª ch‡ khác? Mình së bán ÇÃt Çai và trang tråi ª Çây.
V§i sÓ tiŠn Çó mình låi b¡t ÇÀu m¶t lÀn n»a ª ch‡ m§i, mua m†i thÙ
låi. Ÿ cái ch‡ Çng tiên phäi t§i tÆn m¡t coi xem sao cái Çã".
Khoäng hè thì h¡n ta Çã s¤ng sàng ra Çi. H¡n Çi vŠ phía hå lÜu
sông Volva trên m¶t chi‰c tàu, t§i Samara rÒi l¶i b¶ 300
d¥m n»a m§i t§i ch‡. ñúng nhÜ l©i ngÜ©i lå cho bi‰t, nông dân ª
Çây có rÃt nhiŠu ÇÃt: 25 mÅu công ÇiŠn cÃp cho m‡i ngÜ©i Ç‹ cày
cÃy, ngoài ra có tiŠn cÛng có th‹ mua thêm ÇÃt ngoài v§i giá m¶t
rub rÜ«i m¶t mÅu, mua bao nhiêu cÛng có.
Bi‰t ÇÜ®c tÃt cä nh»ng ÇiŠu cÀn thi‰t, Pahom trª vŠ nhà khi mùa
thu t§i, b¡t ÇÀu bán Çi nh»ng gì h¡n sª h»u. H¡n bán ÇÃt có l©i,
bán tråi Ãp, bán trâu bò, rút chân h¶i viên làng, chÌ còn ch© ljn
mùa xuân Ç‹ cùng gia Çình lên ÇÜ©ng th¿c hiŒn m¶t cu¶c ÇÎnh cÜ
m§i.
4. Sau khi Pahom và gia Çình ljn ch‡ cÜ ngø m§i h¡n liŠn xin gia
nhÆp h¶i ÇÒng cûa m¶t ngôi làng to l§n. H¡n ta b® Ǫ các vÎ Bô
Lão và ÇÜ®c cÃp nh»ng giÃy t© cÀn thi‰t. Næm phÀn ÇÃt công cûa
làng ÇÜ®c c¡t cho các con h¡n sº døng: nghïa là 125 mÅu (không
phäi m¶t mi‰ng l§n mà là nh»ng mãnh nhÕ tách r©i nhau) ngoài cánh
ÇÒng cÕ cûa làng ÇÜ®c sº døng chung cho m†i ngÜ©i.
Pahom d¿ng nhà cºa, mua trâu bò. ChÌ riêng ÇÃt thôi, h¡n Çã có
gÃp 3 lÀn ª ch‡ cÛ mà ÇÃt låi rÃt thích h®p v§i lúa mì. H¡n Çã
thâu huê l®i mÜ©i lÀn nhiŠu hÖn trܧc. H¡n có rÃt nhiŠu ÇÃt trÒng
tr†t cÛng nhÜ ÇÒng cÕ nên có th‹ nuôi bao nhiêu trâu bò tùy š.
Ban ÇÀu, trong tình trång l¶n x¶n cûa viŒc xây d¿ng trang tråi
m§i và °n ÇÎnh ch‡ æn ª, Pahom vØa lòng v§i tÃt cä m†i chuyŒn,
nhÜng sau khi Çã quen nܧc quen cái, h¡n b¡t ÇÀu nghï r¢ng ch‡
này cÛng không Çû ÇÃt cho h¡n. Næm ÇÀu h¡n trÒng lúa mì trên ÇÃt
công ÇÜ®c chia, mùa màng thu hoåch rÃt khä quan. H¡n muÓn ti‰p
tøc trÒng lúa mì n»a, nhÜng låi không Çû ÇÃt công, ÇÃt næm ngoái
không th‹ sº døng låi ÇÜ®c liŠn vì lúa mì phäi gieo trÒng trên
ÇÃt m§i hay ÇÃt hÜu canh. Trong m¶t hay hai næm thì phäi cho ÇÃt
nghÌ cho ljn khi cÕ hoang m†c phû tràn rÒi m§i trÒng ÇÜ®c. Ai
cÛng thích ÇÃt m§i nên không Çû cho m†i ngÜ©i, ngÜ©i ta cãi nhau
loån xå. Nh»ng ngÜ©i ÇÜ®c mùa Çòi ÇÜ®c ÇÃt Ç‹ låi trÒng lúa mì,
kÈ thÃt mùa Çòi giao ÇÃt cho ngÜ©i trung gian Ç‹ có th‹ lÃy tiŠn
trä thu‰. Pahom muÓn trÒng lúa mì thiŒt nhiŠu và mùa màng thiŒt
là tÓt tÜÖi. NhÜng ÇÃt låi ª quá xa làng, lúa mì phäi chª vŠ xa cä
chøc d¥m. Sau m¶t th©i gian, Pahom nhÆn chân r¢ng mÃy ngÜ©i nông
dân trung gian sÓng ª các trang tråi räi rác dÀn dÀn trª nên giàu
có.
H¡n nghï bøng:
"N‰u ta mua vài mi‰ng ÇÃt ngoài và cÃt trang tråi trên Çó, chuyŒn
Ç©i së khác h¤n. Không cÀn phäi chª t§i chª lui xa xôi". ChuyŒn
mua ÇÃt ám änh h¡n ta thÜ©ng tr¿c.
H¡n ti‰p tøc cách làm æn cÛ trong 3 næm, mܧn ÇÃt và trÒng lúa
mì. Mùa màng tÓt tÜÖi, huê l®i dÒi dào cho nên h¡n b¡t ÇÀu Ç‹
dành tiŠn. H¡n có th‹ sÓng m¶t Ç©i thoäi mái nhÜng h¡n låi chán
chuyŒn phäi mܧn ÇÃt cûa thiên hå h¢ng næm, chán luôn chuyŒn
tranh giành Ç‹ ÇÜ®c mܧn. Ÿ Çâu mà có ÇÃt tÓt thì nông dân Ç° xô
vŠ chp lÃy ngay, cho nên phäi Çánh hÖi thiŒt giÕi, n‰u không thì
không ÇÜ®c mi‰ng nào. Næm thÙ ba h¡n và m¶t ngÜ©i trung gian
chung nhau mܧn m¶t cánh ÇÒng cÕ cûa vài ngÜ©i nông dân, xong vø
cÀy x§i ÇÃt thì chuyŒn cãi vã xãy ra và mÃy ngÜ©i nông dân Çem
t§i tøng Çình. TÃt cä chuyŒn làm æn Çó dËp bÕ luôn, bao nhiêu
công sÙc bÕ ra trª thành công cóc. Pahom nghï, n‰u ÇÜ®c ÇÃt cûa
mình, thì Çâu có bÎ lŒ thu¶c ai, Çâu có mÃy chuyŒn b¿c mình b¿c
mÅy này. RÒi Pahom b¡t ÇÀu ki‰m mua ÇÃt. H¡n ta ljn m¶t ngÜ©i Çã
có 1300 mÅu, gi© Çang g¥p khó khæn nên muÓn bán rÈ. Pahom trä giá
lên xuÓng v§i ông ta, sau cùng hai bên ngã giá 1500 rub, trä
trܧc b¢ng tiŠn m¥t m¶t phÀn, phÀn còn låi trä sau. TÃt cä m†i
chuyŒn thu x‰p xong, chÌ còn ch© k‰t thúc b¢ng giÃy t© thì m¶t
ngÜ©i con buôn mÍ cÓc Çi ngang qua làng tình c© ghé låi nhà Pahom
m¶t ngày Ç‹ cho ng¿a æn. Anh ta dùng trà v§i Pahom và hai bên
chuyŒn vãn v§i nhau. NgÜ©i thÜÖng nhân cho bi‰t anh ta vØa m§i
trª vŠ tØ vùng ÇÃt cûa ngÜ©i Bashkirs, rÃt xa, ª Çó anh ta mua 13
ngàn mÅu ÇÃt chÌ v§i giá m¶t ngàn rub. Pahom hÕi t§i thì thÜÖng
nhân Çáp: "ChÌ cÀn làm bån v§i thû lãnh cûa h†. Tôi bÕ ra vài món
hàng nhÜ quÀn áo b¢ng tÖ, thäm, trÎ giá khoäng 100 rub, ki‰m thêm
m¶t thùng trà, m¶t sÓ rÜ®u cho mÃy tay ham uÓng, và tôi mua ÇÜ®c
mi‰ng ÇÃt, tính ra không t§i 3 kopeck m‡i mÅu. Anh ta ÇÜa tÃm
b¢ng khoán cho Pahom xem, nói:m¶t thäo nguyên chÜa hŠ ÇÜ®c khai
thác trÒng tr†t gì".
Pahom hÕi Çi hÕi låi nhiŠu câu, thÜÖng nhân nói:
-"ñÃt ª Çó h¢ng hà sa sÓ, anh Çi m¶t næm cÛng không h‰t, tÃt cä
ÇŠu thu¶c vŠ ngÜ©i Bashkirs. H† hiŠn nhÜ ÇÃt cøc, ta có th‹ mua
ÇÃt v§i giá rÈ måt".
Pahom nghï thÀm. Hùm! V§i m¶t ngàn rub tåi sao mình chÌ tÆu ÇÜ®c
có 1300 mÅu mà låi còn gánh n®. N‰u t§i Çó mua ÇÃt, mình có th‹
có hÖn mÜ©i lÀn, cÛng v§i sÓ tiŠn Çó...
5.
Pahom hÕi kÏ lÜ«ng vŠ cách t§i ch‡ Çó. LiŠn sau khi thÜÖng nhân
mÍ cÓc tØ giä, h¡n ta sºa soån ra Çi. H¡n Ç‹ v® ª nhà lo chuyŒn
nông tråi lên ÇÜ©ng v§i m¶t ngÜ©i giúp viŒc. Trên ÇÜ©ng Çi, h†
ngØng låi mt thành phÓ mua thùng trà, m§ rÜ®u, thêm vài món quà
theo l©i chÌ dÅn cûa gã buôn bán mÍ cÓc.
H† Çi, Çi mãi, hÖn 300 d¥m, ljn ngày thÙ bäy cûa cu¶c hành trình
h† ljn ch‡ ngÜ©i Bashkirs d¿ng lŠu. ñúng nhu ngÜ©i kia nói, dân
ª Çây sÓng trên m¶t thäo nguyên, cånh sông, trong nh»ng túp lŠu
phû nÌ. H† không trÒng tr†t cÛng không æn nh»ng thÙ làm b¢ng b¶t
mì. Møc súc và ng¿a cûa h† æn cÕ trên ÇÒng hoang. Ng¿a con ÇÜ®c
c¶t sau lŠu, ng¿a cái ÇÜ®c dÅn ljn cho bú m¶t ngày hai lÀn. H†
v¡t s»a ng¿a cái làm kumiss. ñàn bà làm kumiss, h† cÛng làm
phó-mát n»a. ñàn ông chÌ viŒc uÓng kumiss, uÓng trà, æn thÎt cØu,
hút thuÓc. H† rÃt cÜ©ng tráng và vui vÈ. Trong suÓt mùa hè h†
không bao gi© bÆn tâm làm bÃt cÙ chuyŒn gì. H† thÃt h†c, không
bi‰t ch» nghïa nhÜng vÓn là nh»ng kÈ tÓt bøng.
Khi thÃy Pahom, tØ trong lŠu h† chåy túa ra vây quanh. M¶t ngÜ©i
thông ngôn ÇÜ®c m©i t§i. Pahom cho bi‰t h¡n ljn Çây vì chuyŒn ÇÃt
Çai. NgÜ©i Bashkirs tÕ vÈ vui thích, dÅn h¡n ta vào cái lŠu ÇËp
nhÃt, m©i ngÒi xuÓng m¶t cái gÓi Ç¥t trên thäm, h† ngÒi vây
quanh. Pahom ÇÜ®c Çãi kumiss và trà. H† cÛng gi‰t cØu m©i h¡n
n»a. Pahom lÃy quà và trà ra chia cho m†i ngÜ©i. H† vô cùng hÙng
khªi, nói chuyŒn v§i nhau liŠn miŒng, sau cùng bi‹u ngÜ©i thông
ngôn dÎch låi phÀn cÀn thi‰t.
- H† muÓn nói v§i ông h† thích ông, phong tøc cûa chúng tôi là
làm tÃt cä nh»ng gì có th‹ làm ÇÜ®c Ç‹ vui lòng khách và Çáp låi
nh»ng món quà Çã nhÆn. Ông Çã cho chúng tôi, bây gi© ông nói Çi,
ông thích nhÃt nh»ng gì cûa chúng tôi, nói Çi, có th‹ chúng tôi
së t¥ng cho ông.
Pahom trä l©i:"Món làm tôi thích nhÃt ª Çây là ÇÃt Çai cûa các
ông. ñÃt Çai ª vùng tôi Çông Çúc quá và Çã c¢n c‡i, ÇÃt cûa các
ông thì cò bay th£ng cánh, dòm mút m¡t thêm n»a låi phì nhiêu.
Tôi chÜa tØng thÃy ÇÃt nào nhÜ vÆy".
NgÜ©i thông ngôn nói låi v§i ngÜ©i Bashkirs nh»ng gì Pahom Çã
nói. H† bàn cãi v§i nhau m¶t chÆp. Pahom không th‹ hi‹u h† nói
gì, chÌ thÃy h† quá vui và nghe h† reo hò, cÜ©i giªn. RÒi thì h†
yên l¥ng ngó chæm chæm Pahom khi ngÜ©i thông ngôn nói:
-"H† bäo tôi nói v§i ông, Ç‹ Çáp låi quà cáp cûa ông, h† rÃt vui
lòng t¥ng ông ÇÃt, ông muÓn bao nhiêu cÛng ÇÜ®c. Ông cÙ viŒc chÌ
ra, ÇÃt Çó së thu¶c vŠ ông".
Dân chúng Bashkirs låi nói chuyŒn v§i nhau m¶t lúc thì b¡t ÇÀu
bàn cãi. Pahom hÕi xem h† bàn cãi chuyŒn gì, ngÜ©i thông ngôn cho
bi‰t có ngÜ©i muÓn hÕi š ông x‰p, không nên quy‰t ÇÎnh trong lúc
ông ta v¡ng m¥t trong khi m¶t sÓ khác cho r¢ng không cÀn thi‰t
phäi Ç®i ông ta trª vŠ.
6.
Trong khi ngÜ©i Bashkirs bàn luÆn, m¶t ngÜ©i Ƕi m¶t cái nón da
chÒn rÃt l§n xuÃt hiŒn. M†i ngÜ©i yên l¥ng ÇÙng dÆy. NgÜ©i thông
ngôn nói:" ñây chính là ông x‰p cûa chúng tôi Çó".
Pahom liŠn løc ra b¶ quÀn áo ÇËp nhÃt và 5 cân trà dâng t¥ng cho
ông ta. Ông x‰p nhÆn t¥ng phÄm và ngÒi xuÓng ª ch‡ danh d¿. NgÜ©i
Bashkirs tÙc thì b¡t ÇÀu k‹ cho ông ta ÇiŠu gì Çó. Ông x‰p l¡ng
nghe m¶t lúc, b¡t ÇÀu ra hiŒu bäo h† im rÒi nói v§i Pahom b¢ng
ti‰ng Nga:
-"ChuyŒn Çó ÇÜ®c mà. Ch†n bÃt cÙ mi‰ng ÇÃt nào anh muÓn, chúng
tôi có h¢ng-hà-sa-sÓ".
"Sao mình låi có th‹ lÃy bao nhiêu cÛng ÇÜ®c cà?" Pahom nghï
thÀm, "mình phäi Çòi cho ÇÜ®c m¶t b¢ng khoán Ç‹ ch¡c æn, n‰u
không bây gi© h† nói cûa anh Çó sau này h† låi lÃy låi thì cÛng
nhÜ không."
Pahom nói l§n: "RÃt cám Ön vŠ lòng tº t‰ cûa ngài. Ngài có nhiŠu
ÇÃt, tôi chÌ muÓn ít thôi, nhÜng tôi muÓn ch¡n ch¡n mi‰ng nào là
cûa tôi. Ngài có th‹ cho Ço và Ç¥t dܧi quyŠn sº døng cûa tôi
không? Con ngÜ©i sÓng nay ch‰t mai. Quí vÎ tº t‰ cho tôi, nhÜng
con cái cûa quí vÎ bi‰t Çâu låi muÓn Çòi låi sau này?".
NgÜ©i x‰p nói: "Anh nói rÃt chí lš. Chúng tôi së Ç¥t ÇÃt Çai dܧi
quyŠn sº døng cûa anh".
Pahom ti‰p tøc: "Tôi nghe trܧc Çây Ngài Çã cho m¶t ngÜ©i bán
buôn mÍ cÓc m¶t sÓ, và Çã kš b¢ng khoán Çàng hoàng. Tôi xin ÇÜ®c
Ngài làm giÓng nhÜ vÆy".
NgÜ©i x‰p Çã hi‹u.
-"ñÜ®c", ông ta Çáp: ChuyŒn Çó thì ÇÜ®c thôi, dÍ dàng. Chúng tôi
có m¶t bän mÅu, chúng tôi së Çi ra thành phÓ v§i anh và làm b¢ng
khoán theo Çúng thû tøc".
Pahom hÕi: "NhÜng mà giá cä ra sao?".
-Giá cä cûa chúng tôi thì trܧc sao sau vÆy: M¶t ngàn rub m¶t
ngày."
Pahom không hi‹u.
-"M¶t ngày? ño Çåc theo ki‹u gì vÆy? M¶t ngày là bao nhiêu mÅu?".
-"Chúng tôi không bi‰t tính ra là bao nhiêu, ngÜ©i x‰p Çáp, "chúng tôi
bán theo ngày. Anh Çi b¶ vòng quanh trong m¶t ngày. Bao nhiêu ÇÃt
trong Çó së thu¶c vŠ anh, và giá là 1000 rub m¶t ngày."
Pahom ngåc nhiên h‰t sÙc.
"NhÜng mà m¶t ngày Çi vòng quanh nhiŠu l¡m".
NgÜ©i x‰p cÜ©i: "TÃt cä së thu¶c vŠ anh. NhÜng v§i m¶t ÇiŠu kiŒn.
N‰u anh không trª vŠ trong ngày nÖi ch‡ anh khªi hành, anh së mÃt
tiŠn."
-NhÜng mà làm sao ghi Çoån ÇÜ©ng tôi Çi qua?"
-"Này nhé! Chúng tôi së ljn ch‡ anh chÌ ÇÎnh, ÇÙng ª Çó, anh phäi
b¡t ÇÀu tØ Çó và Çi m¶t vòng, mang theo m¶t cái xu°ng. Ch‡ nào
anh thÃy cÀn, thì Çánh dÃu. M‡i ch‡ quËo Çào m¶t cái l‡ và chÃt
m¶t ÇÓng cÕ làm dÃu. Sau Çó chúng ta së Çi m¶t vòng v§i cái cày
våch l¢n nÓi tØ l‡ m¶t. Anh våch cái vòng l§n bao nhiêu kŒ anh,
nhÜng mà trܧc khi m¥t tr©i l¥n anh phäi trª vŠ Çi‹m khªi hành.
Vùng ÇÃt trong vòng anh Çã Çi qua së thu¶cc vŠ anh".
Pahom thích thú không cùng. Cu¶c Çi ÇÜ®c ܧc ÇÎnh vào sáng s§m
ngày mai. H† nói chuyŒn m¶t chÆp, và sau khi uÓng xong m¶t chút
kumiss æn thêm vài mi‰ng thÎt trØu, h† låi dùng trà. Tr©i tÓi. H†
ÇÜa cho Pahom m¶t tÃm nŒm lót lông Ç‹ ngû.
NgÜ©i Bashkirs giäi tán hÙa së h¶i låi sáng hôm sau ngay khi tr©i
m© sáng Ç‹ ljn ch‡ ÇÜ®c ch†n trܧc khi m¥t tr©i m†c.
7.
Pahom êm Ãm trên nŒm lông nhÜng không th‹ d‡ giÃc. H¡n miên man
nghï vŠ ÇÃt Çai.
"RÒi Çây mình së Çánh dÃu m¶t mi‰ng ÇÃt thÆt là b¿. Mình Çi b¶
m¶t ngày 35 d¥m dÍ dàng. Mùa này ngày låi dài n»a. Trong m¶t cái
vòng 35 d¥m thiŒt là khÓi ÇÃt.
NhÜ®ng låi hay là cho tøi nông dân khoäng nào xÃu, gi» mi‰ng ÇÃt
tÓt Ç‹ khai thác. Mua c¥p bò Ç¿c, mܧn thêm vài ngÜ©i phø. BÕ ra
khoäng 150 mÅu làm ÇÃt ru¶ng, phÀn còn låi làm ÇÒng cÕ nuôi møc
súc."
Pahom n¢m trao tráo cä Çêm, chÌ ch®p m¡t chút ÇÌnh trܧc bình
minh. Khó ngû ngon khi n¢m mÖ. H¡n mÖ thÃy mình n¢m trong cái lŠu
này, nghe ti‰ng ai Çó cÜ©i vui ª ngoài. H¡n không bi‰t là ai nên
ngÒi dÆy Çi ra, thÃy ông x‰p cûa dân Bashkirs Çang ngÒi trܧc lŠu
ôm bøng cÜ©i ng¥t nghËo. ñ‰n gÀn ông ta. Pahom hÕi:
"Ông cÜ©i gì vui vÆy?. NhÜng h¡n thÃy ngay Çó không còn là ông
x‰p n»a mà là ngÜ©i buôn mÍ cÓc m§i Çây Çã tØng ª nhà h¡n, Çã
mách cho h¡n vŠ chuyŒn ÇÃt Çai. Trܧc khi Pahom kÎp hÕi ông ta
ljn Çây lâu chÜa thì Çã không còn là ông ta n»a mà là ngÜ©i nông
dân ljn tØ sông Volga tØ lâu l¡m, ª nhà cÛ cûa h¡n. RÒi thì h¡n
thÃy Çó cÛng không phäi là ngÜ©i nông dân Çó n»a, bây gi© låi là
con qu› sÙ v§i Çû cä móng chân và sØng, ngÒi cÜ©i vui, và trܧc
m¥t nó, n¢m phû phøc trên m¥t ÇÃt m¶t ngÜ©i chân không, chÌ m¥c
m‡i cái quÀn và cái áo thung lá. Vía cûa Pahom nhìn kÏ hÖn Ç‹ xem
coi ai n¢m Çó, h¡n thÃy ngÜ©i này ch‰t, mà chính låi là h¡n.
Gi¿t mình kinh hãi, h¡n thÙc dÆy.
"Chiêm bao kÿ cøc thiŒt!". H¡n càu nhàu trong bøng.
Nhìn quanh quÃt, qua cánh cºa mª h¡n thÃy bình minh Çang ló dång.
H¡n nghï thÀm: "T§i gi© Çánh thÙc tøi nó dÆy rÒi. Phäi b¡t tay
vào viŒc". H¡n ÇÙng dÆy, Çánh thÙc ngÜ©i làm (Çang ngû trong xe)
bi‹u h† th¡ng yên cÜÖng và g†i ngÜ©i dân Bashkirs dÆy:
-"ñã t§i gi© ljn ch‡ Ço ÇÃt".
NgÜ©i Bashkirs thÙc dÆy, tø tÆp. Cä ông x‰p cÛng ljn. H† b¡t ÇÀu
uÓng kumiss, m©i Pahom dùng trà, nhÜng Pahom không th‹ Ç®i ÇÜ®c,
h¡n nói: "ñi! T§i gi© rÒi. TrÍ quá!".
8.
Nh»ng ngÜ©i Bashkirs Çã s¤n sàng, tÃt cä cùng lên ÇÜ©ng: ngÜ©i Çi
ng¿a, kÈ lên xe. Pahom lái chi‰c xe nhÕ v§i ngÜ©i giúp viŒc, Çem
theo m¶t cái xu°ng. Khi h† ljn khu ÇÃt, m¥t tr©i ÇÕ bình minh
chi‰u r†i nh»ng tia n¡ng ÇÀu tiên. H† leo lên cái ÇÒi nhÕ (ngÜ©i
dân Bashkirs g†i là Shikkan), xuÓng xe, xuÓng ng¿a tø låi m¶t ÇÎa
Çi‹m.
NgÜ©i x‰p ljn gÀn Pahom dang tay vŠ phía cánh ÇÒng th£ng t¡p nói:
-"Coi nè, tÃt cä ª Çây, xa t§i mút m¡t anh, ÇŠu thu¶c vŠ anh. Anh
có th‹ ch†n phÀn nào anh muÓn".
M¡t Pahom ng©i sáng, tÃt cä thäo nguyên, b¢ng ph¤ng nhÜ lòng bàn
tay, Çen nhÜ håt dÈ, trong nh»ng ch‡ ÇÃt lòng chäo nhiŠu loåi cÕ
m†c cao ngang t§i ng¿c.
NgÜ©i x‰p l¶t cái nón b¢ng da chÒn xuÓng, Ç¥t trên m¥t ÇÃt nói:
-ñây làm dÃu ch‡ này. B¡t ÇÀu tØ Çây và trª låi Çây. TÃt cä vùng
ÇÃt bao gÒm ª trong ÇÜ©ng anh Çi qua së thu¶c vŠ anh".
Pahom lÃy tiŠn bÕ vô nón. H¡n cªi áo khoác, chÌ Ç‹ låi cái áo
thung lá không tay. H¡n mª dây nÎch c¶t ch¥t phía dܧi bøng, bÕ
vô trong áo m¶t gói nhÕ bánh mì, c¶t m¶t chai nܧc vô dây nÎch,
kéo Çôi lûng lên cao, gi¿t lÃy cái xu°ng tØ tay ngÜ©i làm, ÇÙng
trong tÜ th‰ s¤n sàng khªi hành. H¡n dòm quanh quÃt m¶t lúc Ç‹
coi Çi vŠ phía nào cho có l®i - bÓn phía ÇŠu có vë hÃp dÅn, m©i
g†i.
-"Không cÀn", h¡n quy‰t ÇÎnh, mình Çi vŠ phía m¥t tr©i m†c'.
H¡n quay m¥t vŠ hܧng Çông, làm vài Ƕng tác dän gân cÓt trong
khi ch© m¥t tr©i nhú lên khÕi chân tr©i.
"ñØng mÃt thì gi©" h¡n nghï. "Khi tr©i còn mát, Çi là tÓt nhÃt".
Nh»ng tia n¡ng lóa lên khÕi chân tr©i lúc Pahom vác xu°ng
trên vai Çi xuÓng ÇÒi vŠ phía thäo nguyên.
Pahom b¡t ÇÀu Çi thong thä. Sau khi Çi ÇÜ®c khoäng 1000 yard, h¡n
ngØng låi Çào m¶t cái l‡, chÃt cÕ lên thành ÇÓng cho dÍ thÃy, rÒi
låi ti‰p. Bây gi© thì h¡n Çã quen, nên Çi mau hÖn. Sau m¶t chÆp
h¡n låi Çào m¶t cái l‡ khác. H¡n dòm vŠ phía sau, ng†n ÇÒi thÃy
rõ ràng trong ánh n¡ng, ngÜ©i lÓ nhÓ lÃp lánh nh»ng vành s¡t bánh
xe. H¡n ܧc lÜ®ng mình Çã Çi ÇÜ®c 3 d¥m. Tr©i Ãp áp hÖn. H¡n l¶t
áo thung ra, v¡t ngang vai ti‰p tøc Çi n»a. Tr©i Ãm. H¡n ngó m¥t
tr©i - ljn lúc phäi æn sáng.
PhÀn thÙ nhÃt th¿c hiŒn suôn sÈ, nhÜng mà còn 3 phÀn n»a. Còn quá
s§m. Pahom ngÒi xuÓng, lt giày, móc vô giây nÎt, ti‰p tøc Çi.
Bây gi© thì Çi dÍ dàng. Mình phäi Çi thêm 3 d¥m n»a, h¡n nghï
thÀm rÒi quËo trái, ch‡ này ÇÃt tÓt quá, bÕ u°ng. Càng Çi sâu vào
ÇÃt dÜ©ng nhÜ càng tÓt hÖn. H¡n Çi th£ng m¶t chÆp và khi h¡n nhìn
quanh, ng†n ÇÒi Çã khó thÃy, ngÜ©i trên Çó ch£ng khác nào nhÜ Çàn
ki‰n Çen, h¡n chÌ thÃy mÃy cái cây gì Çó lÃp lánh dܧi m¥t tr©i.
A há! Pahom nghï: Phía này nhÜ vÆy là Çû rÒi. QuËo ÇÜ®c rÒi. HÖn n»a, mÒ hôi ranhiŠu quá. Khát nܧc rát c° h†ng.
H¡n ngØng låi Çào m¶t cái l‡ l§n. ChÃt cÕ lên thành ÇÓng. Mª cái
chai, uÓng mi‰ng nܧc, quËo g¡t vŠ phía trái. H¡n Çi mãi, trong
cÕ cao dܧi tr©i nóng cháy da.
Pahom b¡t ÇÀu thÃm mŒt, h¡n ngó tr©i. M¥t tr©i Çúng ng†. Nghï cái
Çã.
H¡n ngÒi xuÓng, æn vài mi‰ng bánh mì, uÓng mÃy h§p nܧc, nhÜng
không dám n¢m s® ngû quên. NgÒi ÇÜ®c m¶t chÆp, h¡n ti‰p tøc Çi
n»a. Ban ÇÀu h¡n Çi dÍ dàng, th¿c phÄm tæng thêm sÙc månh, nhÜng
tr©i n¡ng kinh khûng khi‰n h¡n buÒn ngû. H¡n vÅn ti‰p tøc lê
bܧc, nghï bøng ngày nay nܧc båc, ngày sau cÖm vàng.
VŠ hܧng này h¡n cÛng Çi m¶t Çoån ÇÜ©ng dài, khi ÇÎnh quËo trái
n»a thì h¡n thÃy m¶t vùng ÇÃt trûng Äm thÃp. BÕ khu này cÛng
u°ng, trÒng cây Çai ª Çây h‰t sÄy. H¡n Çi qua luôn ch‡ ÇÃt Çó và
Çào mt cái l‡ ª b© bên kia trܧc khi quËo g¡t phía trái. VŠ phía
ÇÒi, hÖi nóng làm cho không gian mÆp m© nhÜ giao Ƕng; qua cái l©
m© Çó, h¡n thÃy ngÜ©i trên Çó m© nhåt, hÜ äo.
Cha! Mình Çi mÃy cái chiŠu trܧc có b¶ hÖi dài, chiŠu này phäi
cho ng¡n låi b§t. H¡n Ço theo chiŠu thÙ ba, bܧc nhanh hÖn. H¡n
ngó m¥t tr©i: Çang xeo xéo vŠ phía chân tr©i mà h¡n thì chÜa Çi
ÇÜ®c 2 d¥m cûa chiŠu thÙ ba này cûa cái hình ch» nhÆt. Còn 10
d¥m n»a m§i t§i Çích. Không ÇÜ®c, ki‹u này mi‰ng ÇÃt cûa mình méo.
Óm mÃt, phäi Çi th£ng ÇÜ©ng m§i ÇÜ®c. Mình có th‹ Çã Çi quá xa
Çó, nhÜng mà ÇÜ®c nhiŠu ÇÃt cÛng Ǫ.
Vì vÆy Pahom Çào m¶t cái l‡ và quËo th£ng vŠ phía ng†n ÇÒi.
Pahom th£ng vŠ phía ng†n ÇÒi nhÜng mà bây gi© h¡n Çi m¶t cách khó
khæn. N¡ng vÆt h¡n mŒt lã, hai bàn chân không giày bÎ c¡t nát,
Çùi c£ng rã r©i. Mong muÓn ÇÜ®c nghÌ ngÖi, nhÜng h¡n s® trª vŠ
không kÎp trܧc khi m¥t tr©i l¥n. M¥t tr©i không Ç®i ch© ai, Çang
càng lúc chìm xuÓng thÃp dÀn.
BÆy, mình Çã ham Çi quá. N‰u trÍ thì hÜ b¶t hÜ ÇÜ©ng h‰t.
H¡n ngó vŠ phía ng†n ÇÒi rÒi ngó m¥t tr©i. VÅn còn xa Çích quá và
m¥t tr©i thì Çã gÀn chân tr©i rÒi.
Pahom ti‰p tøc Çi, Çi khó nh†c nhÜng h¡n Çi càng lúc càng mau.
Tuy v¶i vã, nhÜng h¡n còn xa ch‡ phäi ljn. H¡n b¡t ÇÀu chåy,
liŒng cái áo, vÃt Çôi ûng, quæng chai nܧc, bÕ cái nón, chÌ gi»
låi chi‰c xu°ng làm nån Ç‹ chÓng.
Làm sao bây gi©? Mình chøp quá nhiŠu cho nên hÜ chuyŒn. Không th‹
nào vŠ kÎp trܧc khi m¥t tr©i l¥n ÇÜ®c.
ñiŠu lo ngåi làm cho h¡n càng høt hÖi hÖn. Pahom ti‰p tøc chåy,
Áo quÀn ܧt ÇÄm mÒ hôi dính Çeo vô ngÜ©i h¡n. MiŒng h¡n khô khÓc
khô rang. Ng¿c h¡n phÒng lên xËp xuÓng nhÜ Óng thøt lò rèn, tim
h¡n ÇÆp månh nhÜ búa nŒn, chân h¡n xiêng xËo, nhÜ không thu¶c vŠ
h¡n n»a. Pahom kinh hãi e r¢ng mình së bÎ ch‰t vì cÓ g¡ng quá
sÙc.
M¥c dÀu s® ch‰t, h¡n vÅn không th‹ ngØng låi.
MŒt lÙ ÇØ tØ sáng t§i gi©, bây gi© bÕ cu¶c thì có là ngu.
H¡n ti‰p tøc chåy mãi, ljn gÀn ng†n ÇÒi, h¡n Çã có th‹ nghe ngÜ©i
Bashkirs reo hò c° võ; nh»ng ti‰ng Òn ào này kích thích h¡n hÖn.
H¡n gom tàn hÖi chåy ti‰p.
M¥t tr©i xuÓng gÃp gÀn chân tr©i, Än dܧi l§p sÜÖng mù, trông to
l§n và ÇÕ nhÜ máu. Bây gi©, vâng bây gi©, m¥t tr©i gÀn l¥n rÒi.
M¥t tr©i thÃp thÆt Çó, nhÜng h¡n cÛng Çã gÀn t§i Çích rÒi. Pahom
có th‹ ngó thÃy ngÜ©i ª trên ÇÒi vÅy hÓi h¡n. Có th‹ thÃy rõ ràng
cái nón da chÒn cûa ngÜ©i x‰p trên m¥t ÇÃt, ôm bøng cÜ©i. Và
Pahom nh§ låi giÃc mÖ. Quá nhiŠu ÇÃt, nhÜng mà tr©i có Ç‹ cho
hܪng không? Mình ch‰t mÃt! Mình ch‰t mÃt! Mình không bao gi© t§i
Çó ÇÜ®c.
Pahom ngó m¥t tr©i Çã chåm m¥t ÇÃt, m¶t phÀn Çã bÎ che. V§i tÃt
cä sÙc l¿c còn låi h¡n rÃn t§i, chÒm ngÜ©i t§i trܧc Ç‹ cho khÕi
ngã. Khi h¡n vØa t§i chân ÇÒi thì thình lình tr©i søp tÓi. H¡n
ngó lên, m¥t tr©i Çã l¥n.
H¡n kêu lên công cÓc cä và ÇÎnh dØng låi, nhÜng h¡n nghe ngÜ©i
Bashkirs vÅn còn reo hò nên nh§ låi là h¡n Çang ª dܧi thÃp cho
nên tܪng m¥t tr©i Çã l¥n trong khi h† ª trên ÇÒi nên vÅn còn
thÃy ÇÜ®c. H¡n hít m¶t hÖi dài và chåy lên ÇÒi. VÅn còn ánh sáng
ª Çó. H¡n ljn ÇÌnh ÇÒi và thÃy cái nón. Trܧc nón ngÜ©i x‰p ngÒi
ôm bøng cÜ©i. M¶t lÀn n»a Pahom nh§ t§i giÃc m¶ng, h¡n kêu lên,
chân h¡n høt hÅng, h¡n ngã vŠ Çàng trܧc, hai tay v§i chøp cái
nón. NgÜ©i x‰p kêu lên thÆt to:
-Th¢ng cha này giÕi thiŒt, ÇÜ®c thiŒt là nhiŠu ÇÃt ha!!
NgÜ©i giúp viŒc cûa Pahom chåy lên cÓ Ç« h¡n dÆy, nhÜng miŒng h¡n
Çã trào máu. H¡n Çã trút linh hÒn.
Dân chúng Bashkirs thÜÖng håi ch¡c lÜ«i.
NgÜ©i giúp viŒc lÜ®m cái xu°ng lên Çào m¶t l‡ huyŒt dài vØa Çû
chÙa Pahom, chôn h¡n trong Çó.
Thܧc mÃy, tØ ÇÀu t§i gót là tÃt cä sÓ ÇÃt h¡n cÀn.
Leo Tolstoy
PHONG VŨ * KẺ LY HƯƠNG TÂM SỰ
KẺ LY HƯƠNG TÂM SỰ
Tặng Phạm Hoài Việt
Năm chục ở tù ra (1)
Con út tuổi mười ba,
Con đầu đi bên nớ,
Ba nó không về nhà!...
Hai mấy năm trôi qua,
Đau khổ thấu tận da!
Tinh thần không nao núng
Lập trường vẫn Quốc Gia...
PHONG VŨ
Tặng Phạm Hoài Việt
Năm chục ở tù ra (1)
Con út tuổi mười ba,
Con đầu đi bên nớ,
Ba nó không về nhà!...
Hai mấy năm trôi qua,
Đau khổ thấu tận da!
Tinh thần không nao núng
Lập trường vẫn Quốc Gia...
PHONG VŨ
PHẠM HOÀI VIỆT * DẤN BƯỚC
DẤN BƯỚC
Hừng đông vạn vật chuyển mình
Cầu xin dân Việt nặng tình quê hương
Vần xoay vũ trụ nhiễu nhương
Trong sâu sâu thẳm - vấn vương ba miền
Bắc Trung Nam - dân đảo điên
Cũng vì lũ vượn bạo quyền bất lương !
Bao năm lệ đổ tang thương
Gìn vàng giữ ngọc khói sương bời bời
Nát lòng vận nước nổi trôi
Dân nghèo đói khổ đổi đời... làm phu !
Trăm điều bị đảng "tiếp thu"
Rời làng, bỏ chợ, nhà tù khắp nơi !
Thương dân đói rách tả tơi
Trẻ em thất học cả đời loay hoay
Cơm nghèo ăn độn sắn khoai
Cứ nghe cộng sản ra tài mị dân
Ai người rủ áo từ quan
Hãy mau tỉnh thức về làng cứu dân
Bây giờ quê Mẹ điêu tàn
Anh, tôi dấn bước dù gian nan kề ./.
Phạm Hoài Việt
July 2003
PHAN NHẬT NAM * KHU KIÊN GIAM
Khu Kiên Giam nầy vốn được lập nên từ 1995, lúc Út tui mới tới Mỹ chưa đầy hai năm, mùi vi-xi còn vướng vất sau hai mươi năm di họa cộng sản. Lúc ấy, tui có ý nghĩ, chắc vì "huyết hải thâm thù" quá độ với mấy giả nên văn phong, văn ý mới nức lên mùi "đường vinh quang xây xác quân thù"- theo như "tinh thần và lời văn" kêu gào máu chảy, thịt rơi của bài chào cờ vi-xi bắc kỳ, vốn là bài hát "tiến quân ca" của văn cao – cần mở cái ngoặt đơn ở đây - tài năng không biết bao nhiêu nhưng ngôn ngữ "sa-đích" gớm guốc như kia thì Út tui mười mươi cũng vất. Nhưng phe ta (trong đó có Uùùt) đã lầm to… Hóa ra, người quốc gia ta không hề biết thù hận gì ráo, và mấy giả mới là thật sự hung hiểm, quá quắt gấp gấp vạn nghìn lần. Nói có sách, mách có chứng, hãy điểm qua "cái gọi là cơ quan trung ương của đảng cộng sản việt nam - báo nhân dân" mà dân chúng bên nhà không thể dùng vào việc gì khác ngoài thay giấy…vệ sinh. (Những chữ đáng viết hoa mà Uùt tui đánh ra chữ thường là do cố ý, sẽ giải thích sự cố ý nầy sau). Tui không hề dựng chuyện. Ông "phản chiến" một thời, Nguyễn Ngọc Lan đã trả lời với đài RFI của Pháp như thế, và ký giả Robert Templer thuật lại trong "Shadows And Wind", NXB Penguin, Newyork, 1988 sau ba năm nghiên cứu tại hiện trường… Cùng ăn, ở, ị… với vi-xi, mới viết ra một câu, mà nghe xong thì phải bịt mũi ngay: "Vietnameses may have found Nhan Dan useful in bathroom… Trang 165, sách vừa dẫn ra". Ông bạn Tưởng Năng Tiến với "tầm nhình hạn hẹp, và phãn động của tụi viết văn ngụy" không mấy tin tưởng câu chuyện dơ dáy kia, và ngạc nhiên một cách ngây thơ: "Làm gì có thứ báo nào mà quá độ tồi tệ như thế. Hơn nữa, báo nầy lại vừa được cho mề-đay, "đơn vị anh hùng lao động". Không lẽ chỉ có mỗi "công tác ở nhà vệ sinh" mà thành anh hùng lao động sao?!" Tưởng Năng Tiến sau đó đọc kỹ hơn để biết thêm giá trị "báo đảng ta", thì lại khám phá ra rằng, báo nầy còn có nhiệm vụ… công an phường nữa, bằng cách đi làm survey ba láp để buộc nên tội: "cái gọi là linh mục nguyễn văn lý âm mưu với các thế lực thù địch nước ngoài phá hoại giáo hội công giáo, cõng rắn cắn gà nhà, phản bội dân tộc!!". Ðể làm sáng tỏ thắc mắc của Tưởng Năng Tiến, bài viết nầy được "nhuận sắc" lại. Ðây là lý do thứ nhất. Thứ hai, các Bạn Trẻ trong nước qua tạp chí ÐẤT ÐỨNG, đặt vấn đề với "cái gọi là giáo sư trần bạch đằng". Các bạn ấy cho rằng, "giáo đằng ba xạo", vì tay nầy nói chắc như bắp: "chủ nghĩa xã hội nhất định toàn thắng như ta đã từng đánh cho mỹ cút, đánh cho ngụy nhào!!".
Nhận thấy hai chủ đề với người, và việc như kể trên đã được Uùt một lần "tiên tri" trong Khu Kiên Giam, nên hôm nay tui viết lại để bà con, bạn bè xa gần đọc chơi, xong sẽ cùng nhau đồng ý về chân lý: "KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ÐỘC LẬP TỰ DO- BỞI VÌ QUÁ QUÝ NÊN KHÔNG…CÓ". Và, "cái gọi là bác" kia là hay cậu ba bồi tàu là tên xạo ke, điếm chẩy" nhất Bắc Kỳ, không có nhì ở Ðông Dương". Và chỉ có mấy giả, và "thằng bần" mới là những "đối tượng" không cha, không mẹ mà chỉ có - bác- vốn làm nghề chứa thổ, đổ hồ, cờ gian, bạc lậu, cách mạng hôi của mà thôi! Thế nên, chúng ta có thể thêm vào câu ca dao sẵn có như sau:
Cờ bạc là "bác" thằng bần
Cụ hồ là "bác" mấy "ông vi-xi"…
Nghe hơi ngang ngang nhưng cũng chẳng sao, miễn "đạt mục đích yêu cầu công tác" là "tốt thôi".
Út lu,
người miệt vườn Lái Thiêu.
Viết đúng dịp Tháng Tư.
I- KỲ TẬP TRUNG CẢI TẠO THỨ NHẤT- "BÁO ÐẢNG TA"
Trong quá trình bị giam giữ ngoài Bắc (1976-1989), ngồi miết trong bóng tối, dần dà tui phải tự bật cười vì tìm ra lẽ: "...Sợ cái gì thì càng dính cái ấy". Ví thử như "sợ ở tù" – Uùt đã viết hẳn ra như thế (Dọc Ðường Số I, Ðại Ngã, Sài Gòn 1969), thì lại bị ở tù kỹ hơn ai hết. Trong tổng số trăm ngàn, triệu người bị chế độ vi-xi bắc kỳ bỏ tù, bức hại từ trước tới nay (kể từ 1945, khi hệ thống bạo lực cộng sản mới nắm được quyền trên một vài địa phương vùng quê phía Bắc nước ta); nếu lấy ra khoảng năm, mười người điển hình, chắc thế nào cũng có tên Út trong đám người tối thậm bất hạnh này. Nếu thua kém phần khốn khổ, đau thương chăng là so với Nguyễn Công Thành, Lính Biệt Kích của Ðại Úùy Nguyễn Hữu Luyện - Người Tù Kiệt Xuất- Chữ của Huynh Trưởng, Ký Giả Lô-răng, Trung Tá Phan Lạc Phúc nói về những Biệt Kích Quân VNCH bị kiên giam từ những năm đầu thập niên 60, mà tui nghe ra tiếng trong hầm tối trại Lam Sơn, Thanh Hoá, Bắc Việt Nam, tháng 2, năm 1979... Chẳng biết giờ nầy những hào kiệt vô danh ấy sống nơi đâu? Chết khi nào? Những Biệt Kích Quân giữ nguyên vẹn bản lãnh, ý chí của Người Lính - Dẫu sau năm 1975, Miền Nam đã hoàn toàn bị bức tử, thất trận, bẽ súng, gẫy cờ - Sức chiến đấu không khoan nhượng của những người lính không đơn vị, không số quân nầy vượt lên mọi ý niệm về tính kiên cường, bất khuất, mà ý chí con người có thể thực hiện đượïc trong những điều kiện khắc nghiệt, khốn cùng nhất ở cảnh sống nhân sinh. Kể cả sự chết. Trong số 78 Biệt Kích Quân dưới cảnh huống chỉ huy của Ðại Uùy Nguyễn Hữu Luyện, đã có người bị chôn sống ở trại Quyết Tiến, Hà Giang. Sợ rằng những chữ nghĩa không đủ để nói lên.
Sợ thứ hai là "sợ đọc báo đảng", thì hằng đêm, lúc còn ở trại ngoài với anh em, trước ngày phải vào hầm kiên giam (7 tháng 9, 1979), cứ đến tối là tui phải choong cây đèn hạt đậu, ngồi đọc ra rã một hơi đến hai, ba tờ báo cho cả toàn buồng tù ngồi nghe – giờ nghe báo đảng, "báo nhân dân, cơ quan trung ương đảng cộng sản Việt Nam" - thứ báo đặc nghịt chữ in nhem nhuốc, đầy những nội dung, mà dù ngón tay đang lần dở qua trang, mắt ngủ gật, mồm vẫn có thể ong óng:"..đồng chí x, y...ủy viên bộ chính trị cùng các đồng chí lãnh đạo thuộc ban bí thư, thành ủy hà nội, ban nghiên cứu lịch sử đảng, đoàn báo cáo viên... ra sân bay đón đoàn, ôm hôn thắm thiết các đồng chí v, z, w… thể hiện tình đoàn kết chiến đấu...v..v. Ðống báo đảng do bị đọc đến mờ người nên những "bài viết" của Lê Nin, Lê Duẫn riết đâm... quen, và tui có thể viết, nói lại, chỉ sai vài chữ, dấu chấm, phết!
Năm 1995, từ yêu cầu của tờ báo đang cộng tác, Báo Quốc Dân, Houston, Texas của Nguyên Vũ, tui lại phải đọc một hơi bốn, năm tờ báo Xuân của "đảng ta". Hỏi thử gánh nặng cực hình lớn đến bao nhiêu? Nhưng chuyển họa thành phúc, tui tìm thấy ở trong những giòng chữ "sự thật" kia đủ điều hay ho. "Sự Thật", tên nhà xuất bản, và báo bình luận chính trị ở Hà Nội, và bên... Liên Xô! Nên tiện thể tui hành luôn nghề "giáo dục" để "bước đầu có tiến bộ nhất định.", lại một chữ của vi-xi. Chỉ khác, đối tượng bị cải tạo kỳ này là các "đồng chí" và cái tờ báo của "đảng ta".
Thứ nhất, chúng ta điểm về chính trị, giềng mối của tất cả sự việc - Sức mạnh của "đảng ta". Và từ, với sức mạnh này, "ta" sẽ thực hiện mục tiêu chung cuộc: "Dân giàu, Nước mạnh, Xã hội công bằng, văn minh". Ðúc kết trong lời phát biểu của võ văn kiệt tại kỳ họp thứ 6, quốc hội khóa IX. Vâng, cái mục tiêu đó, không những đẹp mà lại "thơm" (chữ của phạm văn đồng, trong đại hội văn hoá toàn quốc 1948) như thế kia thì ai có thể cãi vào đâu nữa. Vậy chúng ta hãy xem thử đám cầm quyền tại hà nội đã làm những gì để "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh." Nói như thế tức đã chấp thuận tiền đề: "Mục tiêu của đảng và nhà nước là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh…" Vậy ai phê phán, chống đối đảng, nhà nước tức là "không muốn dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh." Ðấy, bạn đã thấy người cộng sản khôn ra gì chưa (mấy trự ở bộ chính trị lại càng văn minh tiên tiến, lên tới mé đỉnh cao trí tuệ gấp vạn lần hơn), phe ta đừng suy diễn chủ quan có ngày vỡ mặt như đã từng bị rất nhiều lần. Ðể xác nhận, và giải thích nguyên nhân đưa đến thành quả mạnh (về chính trị) này, trần văn giàu, lý thuyết gia của đảng "giáo dục" theo đường vòng từ xa, với bài viết đầy tính "trí tuệ". Lại "trí tuệ" nữa?! Xin bạn đọc chịu khó thông cảm, chữ nào người viết đặt trong dấu ngoặt, in nghiêng, hoặc in đậm, và lập đi lập lại nhiều lần là "sản phẩm đỉnh cao trí tuệ" của mấy giả, cháu của bác ởø hà nội, chứ không phải từ tư tâm, tư ý. Và cách viết chữ thường những danh từ riêng chỉ tên người là do thói "hạ mục vô nhân" được đảng giáo dục cho "nhân dân tiên tiến" (tiên tiến mới được dạy thêm trò vô lại, chứ nhân dân "không tiến bộ" thì đừng có hòng) từ hơn nửa thế kỷ nay, để đến bây chừ thành quen thói… mất dạy, nên tràn lan khắp nơi, trên miệng lưỡi, trong sử, sách, kể cả sách gọi là "giáo khoa", dạy con nít mần cách mạng, đâu đâu cũng thấy lối gọi người xách mé, láu cá vặt.. "tổng tài phan thanh giản, đời vua tự đức; tổng thống mỹ ry-gân; giáo hoàng giăng-bôn II" v…v.. Hôm nay tui đem xài, chỉ là cách trả lại chén đắng cho mấy giả. Ðứa nào chơi gươm sẽ chết bởi cái liềm cắt cỏ. Xong, "bây giờ ta bắt đầu làm việc".
Qua bài "Những yếu tố nào trong Văn Hóa Văn Lang để nước này khỏi bị đồng hóa sau 1,000 năm Bắc thuộc", giáo giàu phân giải: Nước Văn Lang là một thực tế lịch sử, một nước bền vững lâu dài, có bờ cõi, chế độ xã hội, phong tục tập quán riêng của mình". Nước này sở dĩ tồn tại được, thoát khỏi áp lực đồng hóa mạnh mẽ của văn minh, văn hóa Hoa Hạ đã tác động toàn cõi Ngũ Lĩnh, mạn nam sông Dương Tử, bởi đã hội đủ, thực hiện các điều kiện:
- Ðã có một "thực thể nội tại" liên kết bền bỉ - Nghĩa đồng bào - Thể hiện qua câu thơ "Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng.
- Từ đầu nguồn, "Nhân Dân ta" (viết hoa) đã có tính đoàn kết, hiện thực qua việc tổ chức 15 Bộ nên thành một khối thống nhất, chứ không chia năm, xẻ bảy như những dân tộc (viết thường) khác ở sơ kỳ dựng nước; kiểu chiến tranh giữa người Troy, và Hy Lạp, có thêm sự tham dự của các vị thần theo hai phe. Sự kiện thần linh giúp người thành Troy và Hy Lạp đánh nhau là "phản ảnh phân hóa xã hội phong kiến đồi trụy của văn minh Ðịa Trung Hải", chứ "Tổ Quốc ta", với nền văn minh khai phóng, nhuần nhuyễn, yêu hòa bình, yêu công lý, tiên tiến, tiên phong thì không hề có! Không bao giờ.
- Thứ ba, trong quá trình dựng nước và giữ nước, xuất hiện liên tục "những Anh Hùng Dân Tộc vì nước quên mình." Ví dụ, đánh xong giặc Ân, Thánh Gióng bay ngựa về trời chứ không ở lại trần gian làm vua như bọn phong kiến đồi trụy, phản động(!) Ðây là một sức mạnh văn hóa tinh thần tinh tế, cao đẹp "kết hợp trong huyền sử và sử thi", chứ không là sức mạnh bắp thịt thô tục kiểu Hercule, Samson. Sức mạnh này cao quý, và sâu sắc hơn nhiều so với cung cách gồng bắp thịt, giương cung bắn ó, diều tầm phào của bên Tây. Ðể tăng thêm "sử tính" cho Gióng (gọi Gióng là để "nhân gian hóa, quần chúng hóa" chứ không phải vì trịnh thượng, hỗn hào, thấy Gióng quá anh hùng mà lôi vào với nhân dân ta), giáo giàu thay vì cho "kẻ thù" của Gióng là giặc Ân (như trong cổ tích, truyền thuyết), nay trở thành quân Nam Hạ của Tần Thủy Hoàng. Chuyện Gióng thuộc "thời đại Hùng Vương", cách chúng ta 4,000 năm (Nên mới có cụm từ "4,000 năm văn hóa").
- Thứ tư, qua truyền thuyết (vẫn chỉ là truyền thuyết), Lạc Long Quân diệt Hồ Tinh, Mộc Tinh, Ngư Tinh, "Lịch Sử Việt Nam xác minh luôn có mặt hàng loạt Anh Hùng Dân Tộc sẵn sàng Trừ bạo An Dân."
- Thứ năm, cuối cùng. Nước Văn Lang thay vì thờ các vị thần vớ vẩn (kiểu thần Zeus ở Hy Lạp; Jupiter của La Mã, hoặc các ông trời như Jehovah, Allah... Lưu ý, "thần, trời "bên tây là sản phẩm của bọn phản động phong kiến, chủ nô, nên không xứng đáng cho được viết chữ hoa! Ðáng kiếp!), thì chỉ thờ chính tổ tiên mình, và các "Anh Hùng Dân Tộc" của mình. (Nghe nói đi nói lại cứ sốt cả ruột vì dân tộc ta quá lạm "anh hùng").
Vâng, bài viết phân tích sâu sắc trên vì quá nồng nhiệt nên bị hai điểm quá đỗi "tích cực," thay vì "tiêu cực" như người cộng sản thường phê bình và tự phê. Ðấy là:
- Vì e ngại khi gọi kẻ thù của "Gióng" (nghĩa là của dân tộc ta) là giặc Ân thì có vẻ không được oai, vì "giặc Ân" là thằng cha ba Tầu nào, quả thật không ai biết?! Nên giáo giàu phải thay màu da chết - Ðổi quân bạ lũ giặc vô danh kia thành "quân Nam Hạ của Tần Thủy Hoàng", tức là thằng cha giết người, chôn sống học trò, tịch thu "văn hoá phẩm phản động," lùa dân đi "cưỡng bách lao động", xây Vạn Lý Trường Thành mà "nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới" đã lên án và phỉ nhổ..." Lính của "hoàng" (gọi như thế là cố ý xỏ xiên luôn Tiên Ðế nhà Nguyễn- Nguyễn Hoàng) chắc chắn phải là tụi "ác ôn, có nợ máu với nhân dân", nên cho "chiến sĩ Gióng" đánh bọn "xâm lược Nam Hạ" thì đạt thành tích "cách mạng giai cấp vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc" lẫy lừng hơn. Nhưng khổ thay, đời Hùng Vương (Theo Ủy Ban Nghiên Cứu Thời Ðại Hùng Vương của Uỷ Ban Khoa Học Xã Hội Hà Nội) cách chúng ta 4,000 năm, mà đời anh vua phản động Tần Thủy Hoàng chỉ ở Thế Kỷ thứ Hai trước Công Nguyên. Lính của anh vua này làm sao đánh được với "chiến sĩ cách mạng Gióng" hở trời? Vậy, tui đề nghị kiếm ngay một đám "Trung Quốc bành trướng xâm lược" khác cho Gióng. Nhưng, muốn cho Gióng có một kẻ thù thích hợp, đúng tầm cỡ như thế, thì khổ thay, Giang Trạch Dân vừa thăm Hà Nội tháng 11/1994, và ông này có thể đã "đồng ý với quan điểm" của Tần Thủy Hoàng trong chính sách đối với sinh viên, học sinh qua vụ Thiên An Môn, tháng 5/1989! Thế nên, biết đâu đây cũng là một cách chơi xỏ, vừa chửi được Tần Thủy Hoàng, vừa xách mé tổng bí thư Giang. Vị "giáo sư nhân dân" nầy giàu "đảng- điếm- tính" thật.
- Ðiểm tích cực thứ hai: Nói điều này ra thì e bị... chửi. Nhưng thấy phải thì cứ nói thôi. Ấy là hai câu thơ:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Dù gan liều cách mấy cũng không thể bảo đã có từ đời... Hùng Vương!! Bởi một lẽ giản dị: "Văn Lang không biết xuất hiện từ đâu? Chỗ nào? Và cũng không ai ghi lại vì... chưa có chữ". Vẫn là lời dẫn nhập của quý giáo sư. Tuy nhiên, bài viết vẫn "đạt mục đích yêu cầu" vì đã nêu bật chủ điểm "Thời Ðại Hùng Vương ấy có Thật - Hiện thực hôm nay với thời đại Hồ Chí Minh". Bởi bác (lại "bác ta", chứ không ai khác) đã nói:
Các Vua Hùng có công dựng nước
Bác, cháu ta có công giữ nước.
Bác nói thì còn sai vào đâu, giáo giàu vì khiêm tốn không viết rõ ra mà thôi. Vì những lẽ trình bày trên, cuối cùng Uùt tui phải kết luận ngợi ca như thế này:
Từ Hùng Vương vào thời đại chúng ta
Cứ như Hà Nội thẳng Mát-cơ-va
Muốn được dân giàu, nên nước mạnh
Vượt biên đi Mỹ, chớ qua Nga.
Từ chuyện chính trị, tất nhiên ta tiếp qua hoạt động ngoại giao là mặt sống động sôi nổi của nó. Từ đầu năm (1995), Thủ Tướng Singapore đến thăm Hà Nội (Tháng Ba); một ngày sau, ông Tổng Thống Mông Cổ đến, 3/3; cô công chúa Anne nước Anh ý hẳn buồn chuyện chồng con lại không coi lịch (hoặc không xem phim 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới) nên đi trùng ngày với Ông Thủ Tướng Singapore, hay là cô này và ông kia có ý gì với nhau hẹn gặp ở Hà Nội chăng? Ðức Ông Claudio Celli của Vatican theo tiếp sau mấy ngày, 13 tháng 3. Và được đà làm tới, các ông Thủ Tướng Thái Lan, Tổng Thốùng Phi Luật Tân, Thủ Tướng Slovakia, Chủ Tịch Lào, Thủ Tướng Mali ...Và cuối cùng, Hoàng tử Phillipe, Vương Quốc Bỉ đến Hà Nội ngày 6/12/1995.
Bạn đến ta, thì ta đi thăm bạn. Ðỗ mười đi Malaysia; lê đức anh đi Indonésia; nguyễn thị bình đi năm nước Châu Phi và Pháp; nông đức mạnh đi Tầu, Ấn Ðộ; võ văn kiệt đi Campuchia, Singapore và Myanmar; phan văn khải, trần đức lương, và nguyễn khánh đi Ba Lan, Brazil, Canada, Hung, Roumanie, Singapore, Tầu, và cuối cùng nguyễn mạnh cầm luôn "trên đường đi"!!
Xin bạn đọc đừng sốt ruột, tui đã bỏ, lược đi rất nhiều, bởi cũng như các bạn, Uùt đã nhiều lần tui tự hỏi, "quái, đi, và đến để tế cái mả cha nó hay sao mà cứ hà rầm như rứa?"Bởi ngày xưa, lúc còn ở Bắc Kỳ với vi-xi, tui đã phải hành nghề "đọc báo"- Tức là ngồi đọc ra rã cho một đám tù đói, khổ, ngồi ngủ gật, nghe suốt hai giờ vào mỗi đêm (gọi là giờ học tập, đọc báo "đảng ta" như đã nói ở phần dẫn nhập), nên đâm quen với những lời văn được "formated" như sau: Nhận lời mời của Trung Ương Ðảng ta, Ðồng Chí Phó Chủ Tịch Hội Nghiên Cứu và Báo Cáo của Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng Nhân Dân Cách Mạng Mông Cổ... đã đến thăm nước ta. Cùng đi với đoàn có các đồng chí... Ủy Viên Trung Ương Ðảng, Bí Thư Thứ Nhất Ban Nghiên Cứu lịch sử Ðảng Nhân Dân Cách Mạng... Với chữ viết hoa liền tù tì thoải mái, và cứ thế kể đến người cuối cùng của đoàn. Xong qua phần thứ hai của bài viết thế nào cũng có đoạn… "Ra sân bay đón đoàn có Ðồng Chí Nguyễn..., Ủy Viên Trung Ương Ðảng, Bí Thư Thứ Nhì Ban Nghiên Cứu, và Báo Cáo, Thứ Trưởng Bộ..." Biết rồi khổ lắm, và kể đến người cuối cùng với đầy đủ tên, đảng cấp, chức vụ. Xong "ta" có kết luận: "Các em bé thủ đô đã dâng lên (chủ tịch, bí thư v.v...) bó hoa tươi thắm."
Mô tả lượt ngày về, cũng nội dung trên với kết luận:… các đồng chí Lãnh Ðạo Ðảng, và Nhà nước đã ôm hôn các đồng chí trong đoàn thắm thiết, biểu hiện tình đoàn kết chiến đấu (có thể thay đổi vài chữ tùy theo đối tượng đực, cái, đón, và đưa).
Sau quá trình đọc báo kia Út tui có ý nghĩ: "Ở hà nội ắt hẳn phải có những người chuyên hành nghề "đón và tiễn đoàn", và không biết cái gọi là "ban lễ tân nhà nước" kia làm thế nào để luôn "điểm hẹn lại lên sân bay đón đoàn" dai nhách kiên cường như thế (Ðiểm Hẹn Lại Lên - Tên cuốn phim do nhà nước vi-xi làm, chiếu cho cả nước xem sau 1975).
Tưởng là ý nghĩ tầm phào quấy quá, nào ngờ hôm nay trên tờ "Xuân Công An", (tờ báo có kể các cuộc đi, đến vừa nêu trên) có lời "khen" của Thủ Tướng Indonesia "Việt Nam như cô gái đẹp đang tuổi xuân, mọi người cứ dành mà đến?!" Không biết lời khen này thật hay xỏ lá, chỉ biết qua tờ báo có sự kiện:"Ở Hà Nội chưa kịp gỡ tấm bảng khẩu hiệu (banderole) đón đoàn này thì đoàn kia đã đến". Nghĩa là, đoàn trước vừa vào nhà khách thì đoàn sau đã qua cầu Sông Hồng lên Bến Nứa. Thế nên, cô công chúa Anne được đọc băng chào mừng bằng chữ Mông Cổ:"Hân hoan chào đón Ngài Tổng Thốùng và Phu Nhân". Nhưng cũng là chuyện "tốt thôi", lãnh đạo đảng ta bao giờ cũng "vận độïng sáng tạo mọi tình huống, khắc phục mọi khó khăn, tận dụng mọi khả năng" để "ôm hôn thắm thiết, sâu, sát" cô công chúa nước Anh không chút bối rối dưới banderole bằng tiếng Mông Cổ. Mà cũng thật, các trự lãnh đạo như đỗ mười, lê đức anh có phân biệt tiếng Mông Cổ khác với tiếng Anh như thế nào đâu. Vẽ.
Nhưng thực hiện "đón và công tác tiễn đoàn" để sau đó mô tả trong những bài phóng sự thổ tả như trên hẳn chưa đạt tiêu chuẩn tiến bộ, công tác tốt, khó có thể được cấp huy chương "anh hùng lao động", nên năm nay, 2001, nhân việc các nhà lãnh đạo tôn giáo ở Việt Nam dậy lên phong trào đòi Tự Do, Dân Chủ cho người dân, cho giáo hội, báo đảng "triển khai công tác công an phường", đi tìm đối tượng "tiên tiến" phản công lại các vị lãnh đạo tôn giáo. Chúng ta hãy xem một đoạn survey của "anh hùng lao động – báo (hại) nhân dân": Ông Ca-nát, dân tộc châu Mạ, ấp Hiệp Nghĩa, huyện Ðịnh Quán, tỉnh Ðồng Nai đã phát biểu: "Hôm rồi, xem truyền hình, nghe đài truyền thanh, tôi biết ở xã Nguyệt Biều, thành phố Huế có ông linh mục gọi là nguyễn văn lý gởi một lá thư gọi là "lời chứng", dài mấynghìn từ cho ủy ban quốc tế tôn giáo của quốc hội hoa kỳ nói chính sách tôn giáo của Ðảng, và Nhà Nước ta" cực kỳ tàn bạo mang chủ đích bóp chết tôn giáo"... Ấp tôi có 210 hộ, 1,015 khẩu, mỗi hộ một cách thờ, người thờ chúa, hộ thờ phật, thờ ông bổn, cũng có hội chỉ thờ Bác Hồ. Nhà nước đâu có cấm đoán gì đâu. Người theo đạo thiên chúa vừa lễ ở nhà, vừa lễ ở nhà thờ, ít nhất là một tuần một lần. Vào dịp lễ giáng sinh, chính quyền địa phương cùng với ban hành giáo tổ chức cho giáo dân đón lễ vui tươi, an toàn, tiết kiệm. Riêng tôi theo đạo tin lành, nhàcó bàn thờ chúa ở chỗ trang trọng nhất, gắn bóng điện nhấp nháy suốt ngày đêm..." Bài báo còn dài, nhưng đánh máy đến đây thì Uùt tui quá bực mình nên phải đi vào rest room (không xài báo nhân dân)... Vừa đi "cụ hồ" (nói theo cách lính tráng của Uùt từ mươi năm trước), vừa lẫm bẩm... Các anh đểu cáng cũng phải có chừng miực thôi – chẳng những Linh Mục Nguyễn Văn Lý, mà ngay cả Chúa Trời cũng không được viết nên một chữ hoa, và nhà anh người Thượng nào theo Ðạo Tin Lành lại có đèn nhấp nháy suốt ngày đêm, chỉ thiếu dàn Karaoké, và vài bộ phim vidéo loại XXX là chưa được kể ra để hoàn toàn cảnh tượng mẫu mực:"dân giàu, nước mạnh, giáo hội vui tươi". Hai mươi năm trước, Ðức Hồng Y Trịnh Như Khuê cũng bị gán cho từ ngữ, "Giáo Hội Việt Nam là một giáo hội vui tươi" ở lời tuyên bố của Ngài khi nhận chức Thánh.
Hóa ra, năm mươi năm "công tác lao động tiên tiến" mà chỉ sản xuất ra đặng dăm ba từ ngữ thổ tả, nhà quê như... "chấp hành nghiêm chỉnh, tranh thủ mọi điều kiện, khắc phục mọi khó khăn, vận động mọi khả năng; lên sân bay đón đoàn, lên sân bay tiễn đoàn; hoàn thành công tác tốt, đạt chỉ tiêu yêu cầu... giáo hội vui tươi, lành mạnh, tiết kiệm, an toàn làm lễ giáng sinh... Với quyết tâm giữ vững lập trường vô sản bằng cách không viết hoa chữ, tên của bọn phản động, diễn tiến hòa bình, tay sai các lực lượng thù địch xã hội chủ nghĩa....)
Người, Việc, và Viết như trên thì còn chỗ nào xứng đáng hơn là nhà vệ sinh, chỗ phóng uế để dành riêng lưu dụng cái gọi là "báo đảng ta".
TRẦN BÌNH NAM * BẦU CỬ Ở MỸ
TỪ CALIFORNIA ĐẾN HOA THỊNH ĐỐN
Trần Bình Nam
Trần Bình Nam
Hôm Thứ Tư 23 tháng 7, ông Kevin Shelly, bộ trưởng ngoại giao của bang California, một bộ có chức năng điều hành việc ứng cử, bầu cử, hồi phiếu (recall) của tiểu bang sau khi nhận được báo cáo kết quả kiểm chứng các chữ ký trên bản kiến nghị đòi hồi phiếu thống đốc Gray Davis (thuộc đảng Dân Chủ) từ 58 quận (county) của bang California tuyên bố các điều kiện hồi phiếu đã hội đủ và một cuộc bỏ phiếu để hỏi cử tri có cách chức thống đốc của ông Gray Davis không sẽ được tổ chức trong thời hạn từ 60 đến 80 ngày.
Đảng Cộng Hòa, đứng sau lưng những người đòi hồi phiếu ông Gray Davis, kết ông vào tội quản trị tiểu bang cẩu thả làm cho ngân sách thâm thủng quá đà trong nhiệm kỳ thứ nhất (1998 đến 2002) và tội thứ hai là che dấu tình trạng ngân sách để đắc cử trong cuộc bầu cử tháng 11 năm 2002. Ông đã thắng ứng cử viên Bill Simon Jr. của đảng Cộng Hòa một cách khít khao (47% chống 42%).
Sáng ngày 24 tháng 7 phó thống đốc Cruz Bustamante (cũng thuộc đảng Dân Chủ) tuyên bố cuộc hồi phiếu và bầu chọn tân thống đốc sẽ được tổ chức vào ngày 7 tháng 10 năm 2003. Ai muốn ra ứng cử thống đốc phải nộp hồ sơ tranh cử trước ngày 9 tháng 8, tức 59 ngày trước ngày bầu cử.
Diễn biến chính trị này làm nhiều người sửng sốt. Trước hết thủ tục hồi phiếu để cách chức một viên chức cấp tiểu bang được ghi vào Hiến pháp California năm 1911 chưa được áp dụng lần nào. Thứ hai người ta nghĩ rằng bộ máy chính trị của California ở trong tay của đảng Dân Chủ nên đảng này sẽ dùng mọi thủ thuật chính trị để chận sự hồi phiếu, hoặc nếu không chận được cũng trì hoãn việc hồi phiếu cho đến tháng Ba năm 2004 cùng lúc cử tri đi bầu vòng đầu chọn ứng cử viên tổng thống của hai đảng. Vào dịp này cử tri Dân Chủ đi bầu đông đảo may ra cứu được ông thống đốc Gray Davis khỏi bị cách chức. Cá nhân ông thống đốc Gray Davis đã vận động cựu bộ trưởng ngoại giao Warren Christopher, một người được dân chúng California kính nể lên tiếng cảnh cáo rằng một cuộc hồi phiếu sẽ đem đến hỗn loạn cho tiểu bang. Đồng thời những người ủng hộ thống đốc Gray Davis nộp đơn tại tòa án kiện thủ tục thu góp chữ ký bất hợp lệ vì dùng người ở ngoài tiểu bang. Ngoài ra ông bộ trưởng ngoại giao Kevin Shelly, thuộc đảng Dân Chủ có thể giúp ông Gray Davis bằng cách lấy lý do cần thời gian kiểm chứng giá trị của các chữ ký để trì hoãn.
Nhưng mọi cố gắng của đảng Dân Chủ thất bại vì số chữ ký kiến nghị hồi phiếu được kiểm chứng là có giá trị tại các quận đã nhanh chóng vượt quá số 10% cử tri luật định. Các tòa án tiểu bang hình như cũng không muốn can thiệp.
Sau khi Gray Davis tái đắc cử thống đốc ngày 5 tháng 11 năm 2002, tình trạng ngân sách thật sự được trưng bày ra ánh sáng. Ngày 14 tháng 11 năm 2003 quốc hội California tiết lộ ngân sách tiểu bang thâm thủng 21,1 tỉ mỹ kim. Hơn một tháng sau (18/12/2003) con số thâm thủng ngân sách được tính lại lên đến 34,8 tỉ, và hiện nay con số chính thức là 38 tỉ mỹ kim. Tiểu bang California đang bị phá sản.
Ngày 26/3/2003 đảng Cộng Hòa mở đầu cuộc vận động thu góp chữ ký hồi phiếu ông Gray Davis. Trong vòng bốn tháng đạt được hơn 1.600.000 chữ ký trong đó giới chức bầu cử tại các địa phương cho biết có ít nhất 1.100.000 chữ ký có giá trị. Theo luật chỉ cần 897,158 chữ ký.
Sự hồ hởi ký kiến nghị hồi phiếu cho thấy dân California đã chán ông Gray Davis và tin rằng ông đã che dấu sự thật về ngân sách để tái đắc cử . Trong bối cảnh đó ông Gray Davis có phần chắc sẽ bị mất chức vào ngày 7/10/03. Và đảng Cộng Hòa sẽ là người toàn thắng trong cuộc hồi phiếu này.
Nhưng hệ lụy của cuộc hồi phiếu không giới hạn tại California, và người bị thiệt thòi không phải chỉ là đảng Dân Chủ. Ảnh hưởng của nó sẽ băng qua lục địa Hoa Kỳ và tạo chấn động tại Hoa Thịnh Đốn.
Từ đây cho đến ngày hồi phiếu, cử tri toàn quốc sẽ được cuộc vận động tại California nhắc nhở đến con số thâm thủng khổng lồ của ngân sách quốc gia, và điều này không có lợi cho tổng thống Bush.
Đầu năm 2001 khi George W. Bush vừa đắc cử, ngân sách quốc gia dư thừa 127 tỉ mỹ kim, và Sở Ngân Sách Quốc Hội Hoa Kỳ (Congressional Budget Office) dự báo thặng dư thêm 2.900 tỉ mỹ kim từ năm 2003 cho đến năm 2008. Báo chí hỏi ông định dùng tiền dư làm gì ông nói, ông sẽ dùng một nửa để cứu quỹ An Sinh Xã Hội sẽ thiếu hụt khi thế hệ baby boomers bắt đầu lãnh tiền hưu, một phần tư dùng cho những chương trình quan trọng khác và một phần tư dùng bù vào tiền giảm thuế. Nhưng không may cho ông Bush, ông vừa đắc cử thì kinh tế đi vào chu kỳ thoái trào, tiếp theo đó là cuộc khủng bố ngày 11/9/2001 làm cho ngân sách quốc gia trở nên thiếu hụt. Ngày 15/7/2003 Sở Ngân Sách Quốc Hội Hoa Kỳ cho biết ngân sách năm 2003-2004 thiếu hụt 455 tỉ mỹ kim. Số thiếu hụt này do ba nguyên nhân: thứ nhất, thất thu thuế do kinh tế thoái trào; thứ hai, chi phí chiến tranh, quốc phòng, an ninh nội địa, phòng chống khủng bố tăng; và sau cùng, giảm thuế lợi tức.
Hiện nay điều quan tâm chính của tổng thống Bush là đắc cửû nhiệm kỳ hai. Trước hết là quyền lợi chính trị cá nhân và quan trọng hơn là tự ái của dòng họ Bush. Thân phụ ông đã thất cử nhiệm kỳ hai năm 1992 sau khi chiến thắng huy hoàng tại Trung Đông và chủ tọa sự sụp đổ của Liên bang Xô viết chỉ vì không quan tâm đến tình trạng kinh tế quốc gia. Cho nên sách lược tranh cử của tổng thống Bush là bằng mọi giá phải vực nền kinh tế quốc gia dậy. Giảm thuế là phương thuốc của tổng thống. Giảm thuế ngàn đời vẫn là một chính sách được lòng dân. Mặt khác, theo lý thuyết, giảm thuế sẽ giúp cho giới doanh nhân có thêm tiền đầu tư sinh ra công ăn việc làm, kích thích sinh hoạt kinh tế và tăng thu cho ngân sách. Ngoài ra tổng thống Bush còn dự trù thực hiện một số chương trình làm vui lòng cử tri cao niên như đề nghị luật trả tiền thuốc cho người cao niên đã nghỉ hưu. Cả hai chương trình này đều làm cho ngân sách thêm thâm thủng.
Dưới nhãn quan của tổng thống Bush ngân sách thâm thủng chính yếu do chu trình thoái trào kinh tế và do những chi tiêu bất khả kháng (quốc phòng, chống khủng bố ...), chứ không nhất thiết do quyết định cắt giảm thuế lợi tức và tăng chi cần thiết của ông. Hơn nữa sự dư thừa hay thâm thủng của ngân sách chỉ là một hiện tượng nhất thời.
Nhưng cử tri toàn quốc có thể sẽ không nhìn vấn đề như vậy. Họ có thể cho rằng sự thiếu hụt ngân sách nặng nề là do tổng thống đã quá lo bảo vệ chiếc ghế của tổng thống mà không quan tâm đúng mức ảnh hưởng lâu dài của nó đối với thế hệ tiếp nối.
Nếu cử tri toàn quốc cảm nhận như vậy, và nhất là nếu kinh tế quốc gia không ra khỏi sự trì trệ vào cuối năm 2004 thì chấn động tại California đưa Cộng Hòa lên, kéo Gray Davis xuống cũng có thể dội tới Hoa Thịnh Đốn và làm lung lay chiếc ghế tổng thống của Bush.
July 24, 2003
Trần Bình Nam
BinhNam@earthlink.net
http://www.vnet.org/tbn
GS.NGUYỄN CAO HÁCH * KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TỰ DO
In search of a path for the advance of our nation
The writer starts with certain famous sentences of Friedrich List:
"In the science of economics, theory and practice are virtually divorced from one another -- to the detriment of both. Economists condemn practical men as mere followers of routine who fail to appreciate either the truth or the grandeur of the doctrines enunciated by economists. Practical men, on the other hand, regard economists as mere doctrinaires who ignore the facts of life and inhabit a dream world of economic theories that exists only in their imagination".
(Friedrich List: The Natural System of Political Economy, 1837).
And another famous paragraph by John Maynard Keynes:
"It is not a correct deduction from the Principles of Economics that enlightened self-interest always operates in the public interest... Many of the greatest economic evils of our time are the fruits of risk, uncertainty, and ignorance. It is because peculiar individuals fortunate in situation or abilities, are able to take advantage of uncertainty or ignorance, and also because for the same reason, big business is often a lottery, that great inequalities of wealth come about; and these same factors are also the cause of the unemployment of labor, or the disappointment of reasonable business expectations, and
the impairment of efficiency and production. Yet the cure lies outside the operation of individuals. It may even be to the interests of individuals to aggrevate the disease".
(John Maynard Keynes: The End of Laissez-Faire, 1926)
Karl Polanyi, a great writer, has another point of view:
"The idea of a self-adjusting market implied a stark utopia. Such an institution could not exist for any length of time without annihilating the human and material substance of society... To allow the market mechanism to be the sole director of the fate of human beings and their natural environment, indeed, even of the amount and use of purchasing power, would result in the demolition of society"
(Karl Polanya, the Great Transformation, 1944)
What destination is the world aiming to? What progressive trend has humankind adopted in today's world?
Should Vietnam move to the world's main stream or should it find a separate path?
Why were the French colonists driven away a half century ago, the Americans and the Saigon government out almost 30 years, most Vietnamese are still very poor today?
Why are the group of rulers so rich, in the meantime the masses so poor ?
To find the answers to these questions, the writer will study the moving path of humankind that has taken place in the new era.
The quoted paragraphs above are only some introductory notes to an extremely difficult task of development...
Hach Cao Nguyen
VNI
Soaïn giaû môû ñaàu baèng maáy caâu noåi tieáng cuûa Friedrich List:
"Trong khoa kinh teá hoïc, lyù thuyeát vaø thöïc haønh gaàn nhö hoaøn toaøn caùch bieät -
khieán cho caû lyù thuyeát vaø thöïc haønh ñeàu bò thieät. Lyù thuyeát gia chæ trích ngöôøi
thöïc haønh laø chæ bieát theo thoùi quen cuûa veát xe cuõ neân khoâng thöôûng thöùc ñöôïc
söï thaät hay laø khiaù caïnh cao caû cuûa caùc lyù thuyeát do kinh teá gia dieãn giaûng. Nhöng
ngöôøi thöïc thi kinh teá laïi nghó raèng caùc kinh teá gia chæ chuyeân moân veà lyù thuyeát
neân khoâng bieát gì veà söï thaät cuûa cuoäc soáng; hoï vuøng vaãy trong söï mô töôûng cuûa
caùc lyù thuyeát kinh teá maø trí töôûng töôïng cuûa hoï ñaõ taïo ra."
Nguyeân vaên nhö sau:
"In the science of economics, theory and practice are virtually divorced from one another -- to the detriment of both. Economists condemn practical men as mere followers of routine who fail to appreciate either the truth or the grandeur of the doctrines enunciated by economists. Practical men, on the other hand, regard economists as mere doctrinaires who ignore the facts of life and inhabit a dream world of economic theories that exists only in their imagination". (Friedrich List: The Natural System of Political Economy, 1837).
Vaø sau ñaây laø moät ñoaïn vaên noåi tieáng khaùc cuûa John Maynard Keynes:
"Töø cuoán saùch coå ñieån Principles of Economics, nhieàu ngöôøi ñaõ suy luaän sai laàm laø
khi quyeàn lôïi tö kyû ñöôïc suy ñoaùn moät caùch saùng suoát thì bao giôø noù cuõng phuø
hôïp vôùi quyeàn lôïi chung. Nhieàu cuoäc suy traàm kinh teá khuûng khieáp cuûa thôøi ñaïi
hoaøng kim laø keát quaû cuûa ruûi may, baát traéc vaø baát tri. Chính vì coù moät soá caù
nhaân ñaëc bieät, gaëp tình theá may maén hoaëc coù khaû naêng vöôït chuùng, ñuû söùc suy
ñoaùn ñeå xeùt roõ trong nhöõng tröôøng hôïp baát traéc hoaëc toái taêm, vaø cuõng vì caùc
cuoäc ñaïi kinh doanh nhieàu khi chaúng khaùc gì moät cuoäc xoå soá, neân môùi coù nhöõng
keû giaøu ngöôøi ngheøo caùch bieät nhau quùa xa. Vaø caùc yeáu toá ñoù cuõng laø nguyeân
do ñöa tôùi nhaân coâng thieåu duïng, vaø noù cuõng gaây thaát baïi cho nhieàu cuoäc kinh
doanh ñaõ ñöôïc khaûo cöùu kyõ löôõng, noù khieán cho khaû naêng saûn xuaát hôïp lyù vaø
keát quaû thöïc teá nhieàu khi khoâng ñi ñoâi. Nhöng khoâng caù nhaân naøo ñuû khaû naêng
giaûi quyeát caùc vaán ñeà ñoù; nhieàu khi quyeàn lôïi caù nhaân xuùi duïc ngöôøi ta coá laøm
taêng caên beänh"
("It is not a correct deduction from the Principles of Economics that enlightened self-interest always operates in the public interest... Many of the greatest economic evils of our time are the fruits of risk, uncertainty, and ignorance. It is because peculiar individuals fortunate in situation or abilities, are able to take advantage of uncertainty or ignorance, and also because for the same reason, big business is often a lottery, that great inequalities of wealth come about; and these same factors are also the cause of the unemployment of labor, or the disappointment of reasonable business expectations, and the impairment of efficiency and production. Yet the cure lies outside the operation of individuals. It may even be to the interests of individuals to aggrevate the disease")
(John Maynard Keynes: The End of Laissez-Faire, 1926)
Vaên haøo Karl Polanyi ñaõ coù moät nhaän xeùt khaùc:
"Quan nieäm raèng thò tröôøng töï ñoäng thích nghi laø moät aûo töôûng thoâ keäch. Moät
ñònh cheá nhö theá khoâng theå toàn taïi laâu daøi maø laïi khoâng huõy dieät tinh tuùy cuûa
xaõ hoäi caû veà nhaân phaåm laãn vaät chaát... Ñeå maëc cho guoàng maùy thò tröôøng ñoäc
chuyeân ñieàu khieån soá phaän cuûa nhaân loaïi vaø caû hoaøn caûnh chung quanh, ñieàu
khieån caû soá löôïng vaø caùch xöû duïng maõi löïc, taát ñi tôùi söï huõy hoaïi caû xaõ hoäi"
("The idea of a self-adjusting market implied a stark utopia. Such an institution could not
exist for any length of time without annihilating the human and material substance of
society... To allow the market mechanism to be the sole director of the fate of human
beings and their natural environment, indeed, even of the amount and use of purchasing
power, would result in the demolition of society")
(Karl Polanya, the Great Transformation, 1944)
Theá giôùi ñang ñi veà ñaâu? Traøo löu tieán hoùa cuûa nhaân loaïi ñang theo chieàu
höôùng naøo?
Vieät Nam theo chieàu höôùng chung hay laø tìm moät ñöôøng ñi rieâng reõ?
Taïi sao ñuoåi heát thöïc daân Phaùp ñaõ nöûa theá kyû roài, "Myõ cuùt, nguïy nhaøo" ñaõ
gaàn 30 naêm, maø ñaïi chuùng Vieät Nam vaãn ngheøo maït reäp?
Taïi sao nhoùm caàm quyeàn quaù giaøu coù, maø ñaïi chuùng laïi cöïc kyø ngheøo khoå?
Ñeå thöû tìm moät caâu traû lôøi, soaïn giaû seõ nghieân cöùu höôùng tieán hieän nay
cuûa nhaân loaïi.
Maáy ñoaïn vaên trích daãn treân ñaây chæ laø vaøi caâu daãn nhaäp cho moät baøi toaùn
quaù khoù khaên...
GS Nguyeãn Cao Haùch
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 060
NGUYỄN CAO QUYỀN * CHIẾN TRANH IRAQ
Before the 1990s, there were observers who thought that the U.S. was on the fall, but for now, the feeling is that the U.S. will be in the position of sole superpower for a long time.
As a sole superpower, some voices of the American politicians mentioned that the U.S. may disregard or end the nurture of such international institutions as the U.N. and NATO, with their arguments that these institutions are now no longer appropriate in the new situation of world powers.
President George W. Bush put forward his new strategy toward China which is called a "strategic competitor", no longer a "strategic partner" like under the Clinton Administration. Toward Russia, Bush also has a harder line. Following the 9-11 events of terrorist attacks on the U.S., Bush launched the war to liquidate the Taliban and the Al-Qeada organisations, to liberate Afghanistan. The global anti-terrorist strategy was announced which aims to prevent mass destruction weapons from falling into the hands of the international terrorist organisations and the nations which support them. The "Axis of Evil" was announced by Bush which includes Iraq, North Korea and Iran. The first test of the new global anti-terrorist strategy was Iraq with the end results being the dismantlement of the Saddam Hussein regime on April 9, 2003, and the later deaths of Saddam's two sons: Uday and Qusay on July 22, 2003 in Mosul. The "privatization of war" is a new phenomenon which affects the U.S. political spectrum and civilization as well as the new U.S. foreign policies.
The notion of U.S. sole superpower may be misleading because except for the military that the U.S. may have no competitors; in economics, the correlations are still multilateral that the U.S. cannot dominate the playing field without the cooperation of the E.U., Japan and a few more countries. The bottom layer is even more complicated as the regional states conflict to one another and the U.S. cannot settle them without a lot of countries' cooperations.
The "soft power" (based on policies, ideas/thoughts and culture) is essential to the "hard power" too, as the human rights abused regime of Saddam Hussein gave the U.S. its legitimacy to attack on Iraq. The other thing is that the U.S. has no intention to be a new empire. Its troops have been trained to battle but not for long occupations.
VNI
Thaùng 7 naêm 2003
Theá giôùi hieän taïi ñang ôû trong tình traïng maát quaân bình. Chieán tranh Iraq ñaõ chöùng minh ñieàu ñoù. Hoa kyø vôùi moät ngaân saùch quoác phoøng töông ñöông vôùi phaân nöûa ngaân saùch quoác phoøng cuûa toaøn theá giôùi cuõng chöùng minh ñieàu ñoù.
Neáu caùch ñaây hôn moät thaäp kyû nhieàu dö luaän cho raèng Hoa Kyø ñang treân ñaø xuoáng doác thì ngaøy nay nhaän xeùt chung tieân ñoaùn laø theá giôùi ñôn cöïc seõ coøn keùo daøi, Hoa Kyø seõ coøn tieáp tuïc "laøm möa laøm gioù" treân vuõ ñaøi quoác teá vaø thieân haï seõ chæ coøn bieát cuùi ñaàu tuaân phuïc.
Say meâ vì chieán thaéng Iraq vaø thöøa thaéng xoâng leân, nhieàu tieáng noùi trong chính truôøng Myõ ñaõ ñeà caäp caû ñeán vieäc caûi toå hoaëc huûy boû moät vaøi ñònh cheá quoác teá nhö NATO vaø Lieân Hieäp Quoác, cho raèng nhöõng ñònh cheá naøy, vôùi caáu truùc hieän taïi, ngaøy nay khoâng coøn caàn thieát nöõa. Thaùi ñoä chuû quan naøy ñaõ khieán nhieàu ngöôøi gaùn cho Hoa Kyø nhaõn hieäu " ñeá quoác ", töôûng cuõng coù phaàn naøo ñuùng.
Baøi vieát naøy khoâng phaûn baùc hoaøn toaøn laêng kính chuû quan vöøa noùi nhöng ñöa ra moät caùch nhìn thaän troïng hôn, vôùi tham voïng goùp phaàn vaøo vieäc hoaøn chænh böùc tranh chính trò phöùc taïp cuûa theá giôùi hieän taïi chuùng ta ñang soáng .
I- Chính quyeàn Bush ñoái dieän vôùi thöïc teá :
Khi môùi böôùc chaân vaøo toøa Baïch OÁc, toång thoáng George .W. Bush chæ taäp trung chính saùch ñoái ngoaïi höôùng vaøo phía Trung Quoác vaø Lieân Soâ. Trung Quoác ñöôïc xem nhö moät "ñoái thuû chieán löôïc" ( strategic competitor ) chöù khoâng phaûi moät "ñoàng minh chieán löôïc" ( strategic partner ) nhö döôùi thôøi toång thoáng Clinton. Ñoái vôùi Lieân Soâ, chính quyeàn Bush cuõng coù moät thaùi ñoä cöùng raén hôn.
Theá roài, ñeán thaùng 9 naêm 2002, ngöôøi ta thaáy boä tham möu cuûa TT Bush ñöa ra moät quan nieäm môùi veà chieán löôïc an ninh quoác gia vaø toång thoáng tuyeân boá raèng : " chuùng ta khoâng bò ñe doïa nhieàu bôûi caùc ham ñoäi hay chieán ñoaøn quaân söï cuûa nöôùc ngoaiø baèng caùc kyõ thuaät saùt haïi nguy hieåm rôi vaøo tay moât thieåu soá cay cuù vaø thuø haän...ngaøy nay, taát caû caùc cöôøng quoác cuûa theá giôùi töï thaáy phaûi ñöùng chung moät chieán tuyeán ñeå choáng laïi boïn khuûng boá toaøn caàu...khoâng moät quoác gia naøo coù theå "ñôn thöông ñoäc maõ" mang laïi cho theá giôùi moät tình traïng toát hôn vaø moät neàn an ninh baûo ñaûm hôn".
Nhaän ñònh cuûa TT Bush veà " truïc aùc quûy " (axis of evil ) ñoàng thôøi ñöôïc phoå bieán vaø Iraq ñöôïc choïn laøm thí ñieåm ñaàu tieân cho chieán löôïc toaøn caàu môùi cuûa Hoa Kyø.
Haønh ñoäng taán coâng Iraq bò chæ trích naëng neà bôûi khoâng ít ngöôøi xöa nay vaãn töï haøo veà truyeàn thoáng daân chuû cao ñeïp cuûa nuôùc Myõ. Tuy nhieân, neáu ñöùng veà phöông dieän quyeàn lôïi cuûa Hieäp Chuûng Quoác thì phaûi nhìn nhaän chieán löôïc an ninh quoác gia môùi cuûa Hoa Kyø laø moät quan nieäm hoaøn toaøn ñuùng ñaén.
Ngaøy nay, söï ñe doïa ñoái vôùi neàn an ninh cuûa Hoa Kyø khoâng phaûi chæ ñeán töø caùc cöôøng quoác khaùc maø coøn coù theå ñeán töø caùc taäp theå khoâng phaûi laø quoác gia nhö bieán coá ngaøy 11-9-2001 ñaõ chöùng minh. Cuoäc caùch maïng thoâng tin vaø kyõ thuaät ñaõ giuùp cho nhöõng taäp theå ñoù coù phöông tieän ñaït nhöõng muïc tieâu quoác teá cuûa hoï. Khuûng boá khoâng coù gì laø môùi meû nhöng söï "daân chuû hoùa kyõ thuaät" ( democratization of technology ) trong maáy thaäp nieân qua ñaõ khieán naïn khuûng boá trôû neân nguy hieåm hôn vaø lôïi haïi hôn. Ngaøy 11-9-2001, chæ moät haønh ñoäng khuûng boá chôùp nhoaùng ñaùnh vaøo Trung Taâm Thöông Maïi Theá Giôùi taïi New York ñaõ laøm cho nöôùc Myõ thieät haïi veà nhaân maïng nhieàu hôn caû naêm 1941, laø naêm chieán tranh khoác lieät nhaát vôùi Nhaät Baûn trong Theá Chieán II.
Hieän töôïng " tö nhaân hoùa chieán tranh " ( privatization of war ) khoâng chæ laø moät chuyeån bieán lôùn trong lòch söû chính trò cuûa theá giôùi maø coøn laø moät khaû naêng tieàm aån coù theå laøm thay ñoåi caû neàn vaên minh Hieäp Chuûng Quoác. Nhaän xeùt naøy bieän minh cho chính saùch ñoái ngoaïi môùi cuûa Hoa Kyø.
II- Neàn chính trò ba chieàu
Cuoäc chieán thaéng chôùp nhoaùng ( 21 ngaøy ) taïi Iraq ñaõ laøm cho nhieàu chính khaùch Myõ nghó raèng luùc naøy chính laø luùc Hoa kyø neân töï thoaùt ra khoûi caùi khung raøng buoäc ( aùm chæ Lieân Hieäp Quoác vaø NATO ) maø Hoa kyø ñaõ döïng neân sau theá chieán II. Tuy nhieân, moät soá ngöôøi khaùc, vôùi thaùi ñoä thaän troïng hôn, ñaõ nghó ngöôïc laïi vaø cho raèng chöa phaûi luùc.
Giöõahai khuynh höôùng noùi treân , phe dieàu haâu ñang treân ñaø thaéng theá. Dick Cheney vaø Donald Rumsfeld khoâng coøn muoán Hoa Kyø bò boù tay bôûi LHQ vaø NATO trong khung caûnh moät theá giôùi ñôn cöïc nhö ngaøy nay. Tröôùc lôøi buoäc toäi Hoa Kyø laø moät taân ñeá quoác, William Kristol cuûa tôø baùo Weekly Standard traâng traùo traû lôøi : " ÖØ thì chuùng toâi laø ñeá quoác, nhö vaäy ñaõ sao chöa ? ".
Nhöõng ngöôøi, coù thaùi ñoä thaän troïng, khoâng tranh caõi veà quan ñieåm cho raèng Hoa Kyø phaûi duy trì vò theá ñoäc toân cuûa mình, raèng söùc maïnh quaân söï phaûi ñöôïc coi laø chuû yeáu vaø theá giôùi ña nguyeân chæ laø moät giaác mô khoâng thöïc teá. Tuy nhieân, hoï chæ trích nhoùm dieàu haâu laø ñaõ phaïm nhieàu laàm loãi laøm phöông haïi ñeán vieäc thi haønh chieán löôïc an ninh môùi. Laàm laãn naëng neà nhaát laø ñaõ quaù yû vaøo söùc maïnh quaân söï cuûa Hoa Kyø. Ñaønh raèng söùc maïnh quaân söï raát caàn thieát vì laø löïc ñoái troïng vôùi naïn khuûng boá toaøn caàu nhöng ngöôøi Myõ khoâng neân queân raèng chieán tranh choáng khuûng boá laø moät cuoäc chieán tröôøng kyø, caàn ñeán söï hôïp taùc cuûa nhieàu quoác gia khaùc veà caùc laõnh vöïc tình baùo, caûnh saùt, taøi chính ngaân haøng vaø kieåm soaùt bieân giôùi. Khoâng coù söï hôïp taùc naøy, chieán thaéng quaân söï khoâng theå naøo troïn veïn. Baèng chöùng : chính quyeàn Iraq coù theå bò laät ñoå deã daøng trong 21 ngaøy baèng caùc cuoäc taán coâng quaân söï nhöng nhoùm al-Qaeda ñaõ khoâng bò tieâu dieät taän goác bôûi nhöõng traän möa bom vaø nhöõng cuoäc haønh quaân truy naõ töø maáy naêm nay.
Baøn côø chính trò theá giôùi giôø ñaây ñaõ trôû thaønh phöùc taïp hôn nhieàu so vôùi theá kyû vöøa qua vaø coù theå ví nhö moät troø chôi ñieän töû 3 chieàu. ÔÛ maët baèng quaân söï thöôïng taàng Hoa Kyø coù theå töï coi nhö moät cöôøng quoác ñoäc toân. ÔÛ taàng giöõa, neáu nhìn vaøo caùc moái lieân heä kinh teá chaèng chòt cuûa theá giôùi ngaøy nay thì khoâng theå choái caõi ñöôïc raèng ñaây laø moät thöïc theå ña nguyeân vaø Hoa Kyø khoâng phaûi muoán gì cuõng ñöôïc neáu khoâng coù söï thoûa thuaän cuûa coäng ñoàng AÂu Chaâu, cuûa Nhaät Baûn vaø cuûa moät vaøi quoác gia khaùc . Coøn ôû döôùi ñaùy taàng thì laø moät môù loän xoän nhöõng lieân heä phöùc taïp giöõa caùc chính quyeàn ñòa phöông vôùi nhau vaø vôùi nhöõng toå chöùc khoâng coù tö caùch quoác gia.
Thöïc teá naøy cho thaáy theá giôùi hieän taïi khoâng phaûi " ñôn cöïc " nhö nhieàu ngöôøi laàm töôûng. Nhöõng ngöôøi coå voõ chuû nghóa " ñoäc toân " chæ nhìn thaáy thöôïng taàng. Hoï baèng loøng vôùi caùi " taïm ñuû " ( the sufficient ) maø khoâng maøng tôùi caùi " caàn thieát " ( the necessary ). Trong moät cuoäc chôi 3 chieàu hoï chæ chuù troïng vaøo 2 chieàu, cho neân trong tröôøng haïn nhaát ñònh hoï seõ thaát baïi vì khoâng troâng thaáy toaøn boä vaán ñeà.
III- Quyeàn löïc " meàm " ( soft power )
Söï hôïp taùc cuûa caùc quoác gia khaùc trong caùc vaán ñeà mang tính toaøn caàu ( chaúng haïn nhö vaán ñeà khuûng boá ) tuøy thuoäc vaøo söï tính toaùn rieâng tö cuûa hoï laø chuû yeáu nhöng phaàn khaùc cuõng tuøy thuoäc vaøo söùc loâi cuoán cuûa Hoa Kyø trong caùch giaûi quyeát vaàn ñeà. Loaïi quyeàn löïc "meàm " naøy naèm trong khaû naêng thuyeát phuïc hôn laø naèm trong khaû naêng cöôõng baùch. Quyeàn löïc meàm phaùt xuaát töø caùc laõnh vöïc vaên hoùa, tö töôûng hoaëc chính saùch. Neáu nhöõng laõnh vöïc naøy khoâng toûa ra söùc loâi cuoán thì quyeàn löïc meàm keå nhö khoâng coù. Traùi laïi, quyeàn löïc " cöùng ", chuû yeáu döïa treân söùc maïnh quaân söï, laø loaïi quyeàn löïc cô höõu cuûa moåi quoác gia.
Thí duï sau ñaây cho thaáy tính caàn thieát cuûa loaïi quyeàn löïc meàm vöøa noùi. Trong chieán tranh Iraq, ta thaáy, khi khoâng laøm gì noåi ñeå cöôõng laïi söùc maïnh quaân söï cuûa Hoa Kyø, Phaùp, Ñöùc, Nga vaø Trung Quoác ñaõ keùo beø ñeå laøm cho chieán tranh Iraq maát tính hôïp phaùp cuûa noù. Chính vì thieáu tính hôïp phaùp naøy maø Thoå Nhó Kyø ñaõ khoâng cho pheùp Sö Ñoaøn 4 Boä Binh cuûa Hoa Kyø möôïn ñaát ñeå haønh quaân vaøo phía Baéc Iraq. Thí duï naøy chöùng minh tính caàn thieát cuûa moät söï phoái hôïp nhòp nhaøng giöõa hai loaïi quyeàn löïc " cöùng " vaø " meàm ".
Ñoâi khi quyeàn löïc " meàm " coøn toû ra thieát yeáu. Ñieån hình cho loaïi quyeàn löïc meàm laø caùc giaù trò veà daân chuû vaø nhaân quyeàn maø Hoa Kyø luoân luoân ñeà cao vaø coå voõ. Söï laïm duïng nhaân quyeàn cuûa Saddam Hussein ñaõ cho Hoa Kyø chính danh ñeå haønh quaân vaøo Iraq maø khoâng coù söï chaáp thuaän cuûa Hoäi Ñoàng Baûo An Lieân Hieäp Quoác. Moät nöôùc khaùc khoâng coù truyeàn thoáng daân chuû vaø toân troïng nhaân quyeàn chaéc chaén seõ gaëp raát nhieàu khoù khaên neáu phaûi haønh ñoäng töông töï.
Nhö vaäy ta thaáy baøi hoïc neâu treân quaû laø caàn thieát. Muoán trieàn khai thaéng lôïi chieán löôïc toaøn caàu môùi, Hoa kyø caàn phaûi boå tuùc quyeàn löïc cöùng döïa treân söùc maïnh quaân söï baèng loaïi quyeàn löïc meàm nhö vöøa moâ taû.
IV- Khoâng theå laø moät ñeá quoác
Laï thay, vaøo thôøi buoåi naøy maø khi Hoa Kyø bò gaùn cho danh hieäu " ñeá quoác " nhieàu ngöôøi laïi caûm thaáy haõnh dieän vaø töï haøo. Nhöõng ngöôøi naøy quaû thaät ñaõ khoâng nhìn thaáy söï khaùc bieät giöõa Hoa Kyø ngaøy nay vaø Anh quoác cuûa theá kyû 19.
Tuy Hoa kyø ngaøy nay huøng maïnh hôn Anh quoác cuûa theá kyû 19 nhieàu nhöng ngöôøi daân Hoa Kyø seõ khoâng thaáy thoaûi maùi neáu quoác gia hoï thöïc söï bieán thaønh ñeá quoác. Ñaây laø söï khaùc bieät chính yeáu maø chuùng ta caàn ghi nhaän. Chính vì söï khaùc bieät naøy maø quaân ñoäi Hoa Kyø chæ ñöôïc huaán luyeän ñeå chieán ñaáu nhö nhöõng ngöôøi lính traän chöù khoâng ñöôïc huaán luyeän ñeå laøm nhieäm vuï caûnh saùt vaø ñoùng quaân voâ thôøi haïn taïi quoác gia maø Hoa Kyø muoán daân chuû hoùa vì muïc tieâu chieán löôïc .
Veà töông lai chính trò cuûa Iraq, 3 vieãn caûnh ñang xuaát hieän.
Vieãn caûnh thöù nhaát gioáng nhö nhöõng gì ñaõ xaûy ra cho Nhaät Baûn vaø Ñöùc quoác sau Theá Chieán 2. Hoa Kyø ñaõ ôû laïi hai nöôùc naøy trong moät thôøi gian laø 7 naêm roài ruùt quaân vaø ñeå laïi ñaèng sau hai quoác gia daân chuû. Neáu vieãn caûnh naøy trôû thaønh söï thöïc thì seõ ñöôïc raát nhieàu ngöôøi taùn thöôûng, nhöng ngöôøi ta cuõng löu yù raèng Nhaät vaø Ñöùc laø hai quoác gia ñoàng chuûng vôùi hai khoái daân toäc ñaõ haáp thuï ít nhieàu aùnh saùng vaên minh daân chuû trong khi Iraq khoâng coù nhöõng ñieàu kieän töông töï.
Vieãn caûnh thöù hai gioáng nhö nhöõng gì ñaõ xaûy ra cho Lebanon döôùi thôøi TT Reagan vaø Somalia döôùi thôøi TT Clinton. Sau khi hoan hoâ söï hieän dieän cuûa quaân ñoäi Hoa Kyø taïi quoác gia hoï, ngöôøi daân caùc xöù naøy ñaõ trôû maët choáng ñoái khoâng ñaày 6 thaùng sau. Hoï tieán haønh khuûng boá laøm thieät maïng nhieàu binh só Hoa Kyø neân daân chuùng Myõ ñoøi ruùt lính Myõ veà. Cuoái cuøng söï can thieäp vaøo Lebanon vaø Somalia ñaõ laøm maát chính danh cuûa Hieäp Chuûng Quoác.
Vieãn caûnh thöù ba coù theå gioáng nhö tröôøng hôïp cuûa Bosnia hay Kosovo. Hoa kyø seõ khuyeán khích caùc ñoàng minh thuoäc khoái NATO vaø moät soá nöôùc khaùc tieáp tay taùi thieát Iraq. Moät quyeát ñònh cuûa Lieân Hieäp Quoác seõ xaùc ñònh chöông trình taùi thieát naøy vaø moät quaûn trò vieân quoác teá seõ ñöôïc boå nhieäm ñeå ñieàu khieån chöông trình.
Neáu vieãn caûnh thöù ba trôû thaønh söï thöïc thì chöông trình taùi thieát chaéc chaén seõ khoâng theå laø moät chöông trình ngaén haïn. Quaân löïc vieãn chinh Hoa Kyø seõ ôû laïi Iraq laâu daøi vì khoâng coøn sôï bò mang tieáng " ñeá quoác ".
V- Lòch söû coù theå taùi dieãn
Ñoùng quaân laâu daøi taïi Iraq laø moät côm aùc moäng ñoái vôùi nhöõng gia ñình coù con em ñang chieán ñaáu taïi xöù naøy. Ngay töø nhöõng ngaøy ñaàu cuûa chieán tranh Iraq, khi thaáy quaân ñoäi Hoa Kyø tieán quaân nhö vaøo choã khoâng ngöôøi ñeå coâng haõm thuû ñoâ Baghdad ngöôøi ta ñaõ nghó ñeán giaû thuyeát caïm baãy cuûa Saddam Hussein : nhöû cho binh só Hoa Kyø vaøo saâu trong noäi ñòa ñeå tieâu dieät baèng chieán tranh du kích.
Chieán tranh du kích taïi Iraq, giôø ñaây, khoâng coøn laø giaû thuyeát nöõa maø, traùi laïi, ñaõ trôû thaønh söï thöïc. Ngaøy 16 thaùng 7 naêm 2003, töôùng John. P. Abizaid. ngöôøi keá nhieäm töôùng Tommy Frank ñaõ chính thöùc nhìn nhaän raèng binh só Hoa Kyø hieän ñang phaûi ñöông ñaàu vôùi kieåu chieán tranh du kích coå ñieån ( classical guerilla type ) ñöôïc phaùt ñoäng bôûi nhoùm taøn quaân vaø nhöõng phaàn töû trung thaønh vôùi Saddam Hussein.
Phaûi ñoái maët vôùi loaïi chieán tranh naøy tinh thaàn binh só cuûa Sö Ñoaøn 3 Boä Binh Hoa Kyø baét ñaàu xuoáng thaáp.Vì khoâng ñöôïc bieát ngaøy hoài höông chính xaùc nhieàu neân binh só ñaõ ñoøi boä tröôûng quoác phoøng Rumsfeld töø chöùc. Töôùng Abizaid phaûi höùa laø seõ ñem 2 trung ñoaøn coøn laïi cuûa Sö ñoaøn 3 BB veà Myõ vaøo thaùng 9 naêm nay.
Con ñöôøng daãn ñeán saân bay quoác teá Baghdad ñang trôû thaønh " ñaïi loä töû thaàn ". Töø sau ngaøy saân bay bò quaân ñoäi Myû kieåm soaùt 34 lính Myõ ñaû bò gieát trong nhöõng cuoäc phuïc kích. Uy tín cuûa TT Bush vì theá maø suy giaûm. Mohamed Nayil Jurayfi, thò tröôûng thaønh phoá Hadithah gaàn saân bay Baghdad, ngöôøi ñaõ coäng taùc vôùi Hoa Kyø, vöøa bò gieát trong moät cuoäc taán coâng cuûa du kích quaân. Boïn baén seû duøng suùng AK 47 baén töø nhöõng maùi nhaø laân caän roài bieán daïng trong ñaùm ñoâng. Chuùng cuõng duøng nhöõng duïng cuï ñieàu khieån töø xa ñeå laøm noå nhöõng traùi mìn gieát ngöôøi. Quaân nhaân Myõ tuaàn tieãu trong vuøng phaûi soáng nhöõng giaây phuùt phaäp phoàng lo sôï. Ñaây laø moät baèng chöùng mang tính thuyeát phuïc cao lieân quan ñeán söï thieáu soùt cuûa Hoa Kyø trong vieäc söû duïng loaïi quyeàn löïc meàm coù trong tay.
Chieán löôïc an ninh quoác gia môùi cuûa Hoa Kyø ñaõ naém baét ñöôïc nhöõng thöû thaùch môùi trong neàn chính trò toaøn caàu sau bieán coá 11 thaùng 9 naêm 2001 nhöng chính quyeàn Bush vaãn khoâng coù khaû naêng ñaït tôùi nhöõng muïc tieâu quoác teá moät caùch ñôn phöông. Taïi sao ? Taïi vì nhöõng vaán ñeà chính cuûa theá giôùi ngaøy nay, chaúng haïn nhö nhu caàu oån ñònh heä thoáng taøi chính theá giôùi, nhu caàu trieät tieâu naïn buoân baùn ma tuùy, nhu caàu ngaên chaën söï laây lan cuûa nhöõng beänh truyeàn nhieãm nguy hieåm, nhu caàu phaûn kích vaø trieät tieâu naïn khuûng boá, taát caû nhöõng vaán ñeà ñoù, quaân ñoäi duø huøng maïnh ñeán ñaâu cuõng khoâng theå naøo giaûi quyeát. Muoán giaûi quyeát phaûi caàn tôùi söï hôïp taùc quoác teá. Cho neân neáu gôõ boû nhöõng ñònh cheá quoác teá ñang hoaït ñoäng thì vieäc ñoù coù nghóa laø Hoa Kyø töï yù gôõ boû nhöõng phöông tieän toái caàn thieát cho söï thaønh coâng cuûa chieán löôïc an ninh quoác gia môùi ñeà ra.
Thöïc teá caàn ghi nhaän laø Hoa Kyø duø huøng maïnh ñeán ñaâu cuõng vaãn baát löïc tröôùc söï chuyeån bieán cuûa neàn chính trò theá giôùi hieän nay, moät söï chuyeån bieán ñöôïc coi nhö ø haäu quaû cuûa " hieän töôïng toaøn caàu hoùa vaø daân chuû hoùa khoa hoïc kyõ thuaät " ñang treân ñaø phaùt trieån. / .
TS. BỬU SAO * VĂN HỌC VIỆT NAM HẢI NGOẠI
contributed an essay regarding three kinds of Viet intellectuals over three periods of
Vietnam history. Besides, Ms. Pham Thi Hoai also criticized Vietnam's literature during
the 15th and 16th centuries as lacking in liveliness, only Nguyen Trai was outstanding.
The other criticism is that the Vietnamese literature overseas, without any domination
and control by the communist system, is still stagnant, as quoted by Pham Thi Hoai citing
Nguyen Hung Quoc - a Vietnamese overseas literature critic. This article investigates the
criticisms by Nguyen Hung Quoc, as many writers have studied the case of Vietnam's
15th and 16th centuries literature. The main point of Dr. Buu Sao's reply to Nguyen Hung Quoc's
criticisms can be translated as follows:
To reply to the question: Where is the answer (for the Vietnamese overseas literature
being stagnant)?, Dr. Buu Sao wrote:
"Yes, the answer lies in the years from 1945 to today in Vietnam! Really, in 1945, as the
Marxist - Leninist Revolution went through, there happened such events as "Hundreds of
Flowers free to blossom" to the detriment of writers and intellectuals; such things as
burning books, destroying intellectuals (1956-1958) took place; and an inhumanist
literature was placed all over North Vietnam. Then since 1975, another literature
disaster occurred in South Vietnam which struck a death blow to what remained in the
Viet traditional cultural assets: The cultural and literary documents in public and private
libraries in South Vietnam all have been destroyed by the hands of the foolish cultural
police - those being comparable to the henchmen (who burnt cultural books and
documents and killed scholars) under the Qin Shi Huang Dynasty in China. Since then, the
inhuman and exogenous Marxist literature has dominated all over the territories of
Vietnam. Even such famous writers as Xuan Dieu, Huy Can were brainwashed to the final
touch to erase their humanist soul to write in such a manner suitable to the communist
party's instructions, under the heavily forced and severe governance of the party...Viet
generations from 1945 have been brainwashed and trained with the two shields
covering their eyes to read only Marxist-Leninist and Ho Chi Minh's writings, without
other worlds. Those were what created the stagnation, conservativeness and
backwardness in the homeland literature".
To Vietnamese literature overseas, Dr. Buu Sao wrote:
"In the past 28 years, the Vietnamese communities overseas have done a beautiful task
for the country: an overseas Vietnamese literature has been formed and gradually
become resourceful, to the extent that it may rescue some part of the losses and
damages in the communist literature and culture in the homeland...
"Different from the case of the homeland literature, the overseas literature is free from
all restraints: its liberty with all the good as well as the bad of the term. But to say that
it is stagnant, conservative, and unresourceful is hard to understand. The two
communist cultural cadres (Hoang Ngoc Hien and Nguyen Hue Chi) hired and financed by
the WJC to write such conclusions are nothing to surprise: They don't have any
knowledge in humanist culture to serve as background for a serious recognition of a
literature developed in a free society. They just went to the WJC to perform a communist
task against the overseas Vietnamese; using their brainwashed mind of communist
stubborness; what they say are what they say (who believe in it?). But for an overseas
Vietnamese professor like Nguyen Hung Quoc, the matter is different. I would like to
invite him to have more explanations on his criticisms..."
Bºu Sao
thÙc ViŒt Nam’’, tôi có Çóng góp m¶t bài bình luÆn liên hŒ ljn ba loåi trí thÙc ViŒt Nam qua ba
giai Çoån quÓc sº cûa dân t¶c. Ngoài ra bà Phåm ThÎ Hoài(PTH) còn phê phán væn h†c ViŒt Nam
qua hai th‰ k› 15, 16, rÒi ‘’tän mån’’ vŠ ‘’væn chÜÖng hå gi§i’’ cûa ngÜ©i ViŒt häi ngoåi, bà nói:
‘’ Ch£ng lë væn
chÜÖng ViŒt Nam cä m¶t th‰ k› 15 chÌ ÇÜ®c m¶t ông NguyÍn Trãi, cä m¶t
th‰
k› 16 hÀu nhÜ cÛng toàn nhåt nhëo và trung bình cä thì cÛng tåi c¶ng sän hay sao? M¶t trong nh»ng
nhà phê bình væn h†c s¡c säo nhÃt cûa ViŒt Nam tåi häi ngoåi, anh NguyÍn HÜng QuÓc có m¶t
nhÆn xét rÃt kh° tâm là væn h†c ViŒt Nam ª häi ngoåi tÒn tåi ª các ch‰ Ƕ dân chû, t¿ do, hoàn
toàn không phäi dính líu ljn hŒ lš luÆn mác xít, hŒ ki‹m duyŒt c¶ng sän, hoàn toàn không liên
quan ljn b¶ máy tuyên truyŠn chính trÎ chính thÓng, nhÜng cái væn h†c Ãy cÛng không khá gì
hÖn, cÛng trì trŒ, låc hÆu, bäo thû và tÈ nhåt. TÃt nhiên là tÈ nhåt theo m¶t ki‹u khác. VÆy l©i Çáp
n¢m ª Çâu?’’
k› 16 hÀu nhÜ cÛng toàn nhåt nhëo và trung bình cä thì cÛng tåi c¶ng sän hay sao? M¶t trong nh»ng
nhà phê bình væn h†c s¡c säo nhÃt cûa ViŒt Nam tåi häi ngoåi, anh NguyÍn HÜng QuÓc có m¶t
nhÆn xét rÃt kh° tâm là væn h†c ViŒt Nam ª häi ngoåi tÒn tåi ª các ch‰ Ƕ dân chû, t¿ do, hoàn
toàn không phäi dính líu ljn hŒ lš luÆn mác xít, hŒ ki‹m duyŒt c¶ng sän, hoàn toàn không liên
quan ljn b¶ máy tuyên truyŠn chính trÎ chính thÓng, nhÜng cái væn h†c Ãy cÛng không khá gì
hÖn, cÛng trì trŒ, låc hÆu, bäo thû và tÈ nhåt. TÃt nhiên là tÈ nhåt theo m¶t ki‹u khác. VÆy l©i Çáp
n¢m ª Çâu?’’
VŠ l©i xác
quy‰t cûa bà PTH liên hŒ ljn væn chÜÖng ViŒt Nam qua hai th‰ k› 15, 16, tôi
chÌ
xin bàn sÖ lÜ®c vì Çã có nhiŠu nhà væn tØ trܧc ljn gi© Çã chÎu khó nhìn xa, nhìn sâu, và nhìn
r¶ng hÖn tôi Ç‹ bäo vŒ và thuy‰t minh cho hai th‰ k› Çó. Møc Çích chính y‰u bài vi‰t này là
nh¢m nhÆn ÇÎnh vŠ l©i phê phán cûa G.S. NguyÍn HÜng QuÓc (NHQ) qua l©i trích dÅn cûa bà
PTH.Tuy trót 35 næm chu du nܧc ngoài, Çã tØng Çóng vai ‘’con chu¶t nh¡t thÜ viŒn’’, th‰ mà
ljn bây gi© tôi m§i nghe nói t§i nhà phê bình væn h†c s¡c säo nhÃt cûa ViŒt Nam tåi häi ngoåi,
ông NguyÍn HÜng QuÓc. ñÃy là m¶t thi‰u sót rÃt Çáng trách.
xin bàn sÖ lÜ®c vì Çã có nhiŠu nhà væn tØ trܧc ljn gi© Çã chÎu khó nhìn xa, nhìn sâu, và nhìn
r¶ng hÖn tôi Ç‹ bäo vŒ và thuy‰t minh cho hai th‰ k› Çó. Møc Çích chính y‰u bài vi‰t này là
nh¢m nhÆn ÇÎnh vŠ l©i phê phán cûa G.S. NguyÍn HÜng QuÓc (NHQ) qua l©i trích dÅn cûa bà
PTH.Tuy trót 35 næm chu du nܧc ngoài, Çã tØng Çóng vai ‘’con chu¶t nh¡t thÜ viŒn’’, th‰ mà
ljn bây gi© tôi m§i nghe nói t§i nhà phê bình væn h†c s¡c säo nhÃt cûa ViŒt Nam tåi häi ngoåi,
ông NguyÍn HÜng QuÓc. ñÃy là m¶t thi‰u sót rÃt Çáng trách.
ñ‹ bình luÆn vŠ
hai l©i phê bình trên Çây tôi thi‰t tܪng chÌ cÀn trä l©i ba câu hÕi: Th‰ nào
là
phê bình væn h†c? Ai là ngÜ©i phê bình væn h†c s¡c säo nhÃt? Ai có Çû tÀm hi‹u bi‰t sâu r¶ng Ç‹
lÜ®ng giá m¶t nhà phê bình væn h†c, luôn cä nŠn væn h†c ViŒt Nam häi ngoåi? Bàn vŠ væn h†c
ViŒt Nam häi ngoåi tÙc cÛng ÇÒng th©i chÌ ‘ch‡’’ n¢m cûa l©i Çáp’’ cho bà PTH . ñúng hay sai là
quyŠn thÄm ÇÎnh cûa Ƕc giä.
phê bình væn h†c? Ai là ngÜ©i phê bình væn h†c s¡c säo nhÃt? Ai có Çû tÀm hi‹u bi‰t sâu r¶ng Ç‹
lÜ®ng giá m¶t nhà phê bình væn h†c, luôn cä nŠn væn h†c ViŒt Nam häi ngoåi? Bàn vŠ væn h†c
ViŒt Nam häi ngoåi tÙc cÛng ÇÒng th©i chÌ ‘ch‡’’ n¢m cûa l©i Çáp’’ cho bà PTH . ñúng hay sai là
quyŠn thÄm ÇÎnh cûa Ƕc giä.
ThÆt ra, khi
Ç¥t bút phê bình m¶t bài vi‰t liên hŒ ljn vÃn ÇŠ væn h†c thì dù muÓn dù
không
tôi cÛng Çã làm công tác phê bình væn h†c. Phê bình væn h†c t¿u trung là džc m¶t cuÓn sách, m¶t
bài báo, lÃy bút gåch dܧi nh»ng dÎ Çi‹m cÀn phän bác hay sºa sai, ghi chép bên lŠ, tØ ÇÃy vi‰t
m¶t bài nhÆn ÇÎnh vŠ tác phÄm Ãy. ñÓi tÜ®ng chính y‰u cûa phê bình væn h†c không phäi là tác
giä, nhÜng là n¶i dung cûa bài vi‰t liên hŒ ljn nhân væn mà mình muÓn góp š.
tôi cÛng Çã làm công tác phê bình væn h†c. Phê bình væn h†c t¿u trung là džc m¶t cuÓn sách, m¶t
bài báo, lÃy bút gåch dܧi nh»ng dÎ Çi‹m cÀn phän bác hay sºa sai, ghi chép bên lŠ, tØ ÇÃy vi‰t
m¶t bài nhÆn ÇÎnh vŠ tác phÄm Ãy. ñÓi tÜ®ng chính y‰u cûa phê bình væn h†c không phäi là tác
giä, nhÜng là n¶i dung cûa bài vi‰t liên hŒ ljn nhân væn mà mình muÓn góp š.
Khái niŒm vŠ
nhân væn bao gÒm m†i sáng tåo cûa trí tuŒ liên hŒ ljn cu¶c sinh hoåt væn
hóa
qua các th©i Çåi lÎch sº. Chû Çích cûa nhân væn là th¿c hiŒn m¶t tác døng væn hóa trên vån vÆt,
h¢n vào vån vÆt m¶t dÃu Ãn ÇÜ®m màu s¡c nhân bän mà thành quä là thi‰t lÆp m¶t mÓi liên hŒ
mÆt thi‰t tØ gi»a con ngÜ©i và con ngÜ©i ljn gi»a con ngÜ©i và vån vÆt, tác thành m¶t vÛ
trø n¶i tâm hòa h®p v§i ngoåi cänh qua m†i trång huÓng cûa cu¶c sÓng. Theo ÇÎnh nghïa này,
nh»ng bài vÎnh cûa h¶i Tao ñàn dܧi th©i HÒng ñÙc thu¶c th‰ k› 15 nhÜ các bài vÎnh mÜ©i hai
tháng, vÎnh ngÛ canh, vÎnh cúc hoa, vÎnh tiŠu phu, vÎnh ông Táo, vÎnh ngÜ©i nghèo, vÎnh con rÆn,
con chÃy v.v. tÃt thäy ÇŠu có tác døng truyŠn Çåt m¶t š niŒm væn hóa vào m‡i næm, m‡i tháng,
m‡i mùa, m‡i cänh, m‡i s¿ viŒc, m‡i s¿ vÆt, khi‰n m†i cänh m†i vÆt trong thiên nhiên, tØ cành
hoa, tiên cänh ljn cøc Çá, con rÆn, ÇŠu chuyên chª m¶t giá trÎ nhân bän, cung cÃp m¶t š nghïa
thanh cao, sâu r¶ng. Nhìn dܧi góc Ƕ này Ç‹ džc các áng væn thu¶c th‰ k› 15, 16, có ai còn g†i
chúng là nhåt nhëo là trung bình không, trØ phi là nh»ng ngÜ©i vô tri bÃt m¶, chÜa bao gi© bi‰t
ljn, džc ljn, hi‹u ljn væn h†c ViŒt Nam? Ti‰n sï G. Zuchelli, ngÜ©i gÓc Ý, Ç¥t nh»ng áng
væn ViŒt Nam thu¶c th‰ k› 15 ngang hàng v§i các tác phÄm Fabliaux bên Pháp cùng th©i. Ông Çã
giành m¶t luÆn án ti‰n sï dày 479 trang Ç‹ so sánh Fabliaux trong væn chÜÖng Pháp v§i thi phú
ViŒt Nam cùng th©i, nh¢m chÙng minh giá trÎ trÜ©ng cºu cûa chúng và våch m¶t l¶ trình ÇÜa
ljn tø Çi‹m cûa hai nŠn væn h†c Á -Âu . Sang th‰ k› 16, Ç‹ mô tä tình trång nhiÍu nhÜÖng ÇÃt
nܧc nhà væn NguyÍn BÌnh Khiêm vi‰t:
qua các th©i Çåi lÎch sº. Chû Çích cûa nhân væn là th¿c hiŒn m¶t tác døng væn hóa trên vån vÆt,
h¢n vào vån vÆt m¶t dÃu Ãn ÇÜ®m màu s¡c nhân bän mà thành quä là thi‰t lÆp m¶t mÓi liên hŒ
mÆt thi‰t tØ gi»a con ngÜ©i và con ngÜ©i ljn gi»a con ngÜ©i và vån vÆt, tác thành m¶t vÛ
trø n¶i tâm hòa h®p v§i ngoåi cänh qua m†i trång huÓng cûa cu¶c sÓng. Theo ÇÎnh nghïa này,
nh»ng bài vÎnh cûa h¶i Tao ñàn dܧi th©i HÒng ñÙc thu¶c th‰ k› 15 nhÜ các bài vÎnh mÜ©i hai
tháng, vÎnh ngÛ canh, vÎnh cúc hoa, vÎnh tiŠu phu, vÎnh ông Táo, vÎnh ngÜ©i nghèo, vÎnh con rÆn,
con chÃy v.v. tÃt thäy ÇŠu có tác døng truyŠn Çåt m¶t š niŒm væn hóa vào m‡i næm, m‡i tháng,
m‡i mùa, m‡i cänh, m‡i s¿ viŒc, m‡i s¿ vÆt, khi‰n m†i cänh m†i vÆt trong thiên nhiên, tØ cành
hoa, tiên cänh ljn cøc Çá, con rÆn, ÇŠu chuyên chª m¶t giá trÎ nhân bän, cung cÃp m¶t š nghïa
thanh cao, sâu r¶ng. Nhìn dܧi góc Ƕ này Ç‹ džc các áng væn thu¶c th‰ k› 15, 16, có ai còn g†i
chúng là nhåt nhëo là trung bình không, trØ phi là nh»ng ngÜ©i vô tri bÃt m¶, chÜa bao gi© bi‰t
ljn, džc ljn, hi‹u ljn væn h†c ViŒt Nam? Ti‰n sï G. Zuchelli, ngÜ©i gÓc Ý, Ç¥t nh»ng áng
væn ViŒt Nam thu¶c th‰ k› 15 ngang hàng v§i các tác phÄm Fabliaux bên Pháp cùng th©i. Ông Çã
giành m¶t luÆn án ti‰n sï dày 479 trang Ç‹ so sánh Fabliaux trong væn chÜÖng Pháp v§i thi phú
ViŒt Nam cùng th©i, nh¢m chÙng minh giá trÎ trÜ©ng cºu cûa chúng và våch m¶t l¶ trình ÇÜa
ljn tø Çi‹m cûa hai nŠn væn h†c Á -Âu . Sang th‰ k› 16, Ç‹ mô tä tình trång nhiÍu nhÜÖng ÇÃt
nܧc nhà væn NguyÍn BÌnh Khiêm vi‰t:
‘’ Th‰ gian
bi‰n cäi vÛng nên ÇÒi,
M¥n nhåt, chua cay lÅn ng†t bùi.
Còn båc còn tiŠn còn ÇŒ tº,
H‰t cÖm h‰t rÜ®u h‰t ông tôi’’. Båch Vân Am thi tÆp.(1587)
M¥n nhåt, chua cay lÅn ng†t bùi.
Còn båc còn tiŠn còn ÇŒ tº,
H‰t cÖm h‰t rÜ®u h‰t ông tôi’’. Båch Vân Am thi tÆp.(1587)
Ai còn g†i là
nhåt nhëo m¶t áng væn mô tä ÇÜ®c s¿ Ç©i nhÜ th‰? ñ‰n tác phÄm Trê Cóc
phác
h†a m¶t bÙc tranh hiŒn th¿c cûa xã h¶i ViŒt Nam dܧi th©i Lê Måc cÛng Çã bi‹u tÜ®ng s¿ ch§m nª
m¶t nguÒn væn hóa Ç¥c thù cûa dân t¶c Låc ViŒt. Nhìn dܧi khía cånh væn h†c ÇÓi chi‰u, giòng
tÜ tܪng ViŒt Nam qua các th‰ k› 15, 16, cùng th©i v§i giòng tÜ tܪng cûa các væn hào Pháp Çã
khÖi mào m¶t luÒng tÜ tܪng ÇÜ®m mÀu s¡c nhân bän cho các th‰ hŒ k‰ ti‰p và së phát tri‹n
không ngØng cho ljn næm 1945 thì bÎ kh¿ng låi vì Çã phäi ÇÓi ÇÀu æn thua mÃt còn v§i h†c
thuy‰t duy vÆt Mác - Lê. VÆy ‘’ væn chÜÖng ViŒt Nam cä m¶t th‰ k› 15 chÌ ÇÜ®c m¶t ông
NguyÍn Trãi, cä m¶t th‰ k› 16 hÀu nhÜ cÛng toàn nhåt nhëo và trung bình cä’’ thì ‘’l©i Çáp n¢m ª
Çâu?’’
h†a m¶t bÙc tranh hiŒn th¿c cûa xã h¶i ViŒt Nam dܧi th©i Lê Måc cÛng Çã bi‹u tÜ®ng s¿ ch§m nª
m¶t nguÒn væn hóa Ç¥c thù cûa dân t¶c Låc ViŒt. Nhìn dܧi khía cånh væn h†c ÇÓi chi‰u, giòng
tÜ tܪng ViŒt Nam qua các th‰ k› 15, 16, cùng th©i v§i giòng tÜ tܪng cûa các væn hào Pháp Çã
khÖi mào m¶t luÒng tÜ tܪng ÇÜ®m mÀu s¡c nhân bän cho các th‰ hŒ k‰ ti‰p và së phát tri‹n
không ngØng cho ljn næm 1945 thì bÎ kh¿ng låi vì Çã phäi ÇÓi ÇÀu æn thua mÃt còn v§i h†c
thuy‰t duy vÆt Mác - Lê. VÆy ‘’ væn chÜÖng ViŒt Nam cä m¶t th‰ k› 15 chÌ ÇÜ®c m¶t ông
NguyÍn Trãi, cä m¶t th‰ k› 16 hÀu nhÜ cÛng toàn nhåt nhëo và trung bình cä’’ thì ‘’l©i Çáp n¢m ª
Çâu?’’
ThÜa l©i Çáp
n¢m ª các næm tØ 1945 ljn bây gi© tåi ViŒt Nam! Quä vÆy, vào næm 1945,
v§i
cu¶c cách mång Mác - Lê, Çã xäy ra các vø Træm Hoa ñua Nª, ÇÓt sách, tru diŒt trí thÙc(1956-58):
m¶t nŠn væn h†c phi nhân bän Çã ÇÜ®c áp Ç¥t trên miŠn B¡c ViŒt Nam. RÒi tØ næm 1975, m¶t
tai bi‰n væn h†c khác tåi miŠn Nam Çã giáng m¶t Çòn trí mång vào nh»ng gì còn låi trong gia tài
væn hóa c° truyŠn: nh»ng tài liŒu væn hóa và væn h†c tåi các thÜ viŒn công lÆp và tÜ nhân miŠn
Nam ÇŠu bÎ tru diŒt dܧi bàn tay cûa Çám công an væn hóa ÇÀn Ƕn - ch£ng khác gì b†n ÇÒ t‹
th©i TÀn Thûy Hoàng. TØ ÇÃy nguÒn væn h†c phi nhân bän ngoåi lai Ãy Çã bao sân trên toàn vËn
lãnh th°. Ngay các nhà væn ti‰ng tæm nhÜ Xuân DiŒu, Huy CÆn, cÛng Çã bÎ l¶t h‰t bän chÃt
nhân bän cûa mình Ç‹ sáng tác theo chÌ thÎ, chÎu s¿ khiên cÜ«ng, chi phÓi hà kh¡c cûa ñäng. TÜ
tܪng duy vÆt phi nhân bän toàn trÎ ÇÜ®c hŒ thÓng hóa, chính trÎ hóa, rÒi ÇÜ®c ‘’nhân bän’’ lên
hàng triŒu tÆp, phân phát ljn tÆn hang cùng ngõ hÈm. Các th‰ hŒ tØ 1945 k‰ ti‰p Çã bÎ
‘’i-t© hóa’’ v§i hai lá ch¡n trܧc m¡t Ç‹ chÌ nhìn ÇÜ®c vào phía các bài vi‰t cûa cø Mác, bác HÒ và
ÇÒ ÇŒ, ngoài ra không còn bi‰t ÇÜ®c m¶t cái gì khác n»a. ñÃy là ch‡ n¢m cûa s¿ trì trŒ, låc
hÆu, bäo thû và tÈ nhåt cûa nŠn væn h†c trong nܧc.
cu¶c cách mång Mác - Lê, Çã xäy ra các vø Træm Hoa ñua Nª, ÇÓt sách, tru diŒt trí thÙc(1956-58):
m¶t nŠn væn h†c phi nhân bän Çã ÇÜ®c áp Ç¥t trên miŠn B¡c ViŒt Nam. RÒi tØ næm 1975, m¶t
tai bi‰n væn h†c khác tåi miŠn Nam Çã giáng m¶t Çòn trí mång vào nh»ng gì còn låi trong gia tài
væn hóa c° truyŠn: nh»ng tài liŒu væn hóa và væn h†c tåi các thÜ viŒn công lÆp và tÜ nhân miŠn
Nam ÇŠu bÎ tru diŒt dܧi bàn tay cûa Çám công an væn hóa ÇÀn Ƕn - ch£ng khác gì b†n ÇÒ t‹
th©i TÀn Thûy Hoàng. TØ ÇÃy nguÒn væn h†c phi nhân bän ngoåi lai Ãy Çã bao sân trên toàn vËn
lãnh th°. Ngay các nhà væn ti‰ng tæm nhÜ Xuân DiŒu, Huy CÆn, cÛng Çã bÎ l¶t h‰t bän chÃt
nhân bän cûa mình Ç‹ sáng tác theo chÌ thÎ, chÎu s¿ khiên cÜ«ng, chi phÓi hà kh¡c cûa ñäng. TÜ
tܪng duy vÆt phi nhân bän toàn trÎ ÇÜ®c hŒ thÓng hóa, chính trÎ hóa, rÒi ÇÜ®c ‘’nhân bän’’ lên
hàng triŒu tÆp, phân phát ljn tÆn hang cùng ngõ hÈm. Các th‰ hŒ tØ 1945 k‰ ti‰p Çã bÎ
‘’i-t© hóa’’ v§i hai lá ch¡n trܧc m¡t Ç‹ chÌ nhìn ÇÜ®c vào phía các bài vi‰t cûa cø Mác, bác HÒ và
ÇÒ ÇŒ, ngoài ra không còn bi‰t ÇÜ®c m¶t cái gì khác n»a. ñÃy là ch‡ n¢m cûa s¿ trì trŒ, låc
hÆu, bäo thû và tÈ nhåt cûa nŠn væn h†c trong nܧc.
ViŒc suy tôn
Bác và ñäng qua bao th‰ hŒ Çã gây tác døng nhào n¥n não trång ngÜ©i ViŒt
Nam,
cái não trång ‘’nhÃt - không’’, 1 - 0 theo thuÆt ng» ÇiŒn toán(mentalité binaire). Bác và ñäng là
Ƕc nhÃt vô nhÎ. Tuy nay Çã trª thành con sÓ không trong niŠm tin cûa quÀn chúng nhÜng khÓi óc
cûa m¶t sÓ Çông ngÜ©i ViŒt Nam, cho dù Çã thoát ra ÇÜ®c nܧc ngoài, vÅn còn bÎ h¢n cái quán
tính 1 - 0 Çó, không tài nào tÄy g†t n°i. Não trång này Çã làm tê liŒt, b‰ t¡c m†i ti‰n hóa trong
luÒng tÜ tܪng, khi‰n lš luÆn trª nên quá dÍ dàng v§i nh»ng mô hình quá ÇÖn giän. Không lå gì ‘’
væn chÜÖng ViŒt Nam cä m¶t th‰ k› 15 chÌ có ÇÜ®c m¶t ông NguyÍn Trãi! KhÓn kh° thay cho
nŠn væn h†c ViŒt Nam! Tåi trong nܧc chÌ có ông TÓ H»u cùng cÖ quan ki‹m soát tÜ tܪng gi» Ƕc
quyŠn chê khen, và ch†n l†c m†i sáng tác!
cái não trång ‘’nhÃt - không’’, 1 - 0 theo thuÆt ng» ÇiŒn toán(mentalité binaire). Bác và ñäng là
Ƕc nhÃt vô nhÎ. Tuy nay Çã trª thành con sÓ không trong niŠm tin cûa quÀn chúng nhÜng khÓi óc
cûa m¶t sÓ Çông ngÜ©i ViŒt Nam, cho dù Çã thoát ra ÇÜ®c nܧc ngoài, vÅn còn bÎ h¢n cái quán
tính 1 - 0 Çó, không tài nào tÄy g†t n°i. Não trång này Çã làm tê liŒt, b‰ t¡c m†i ti‰n hóa trong
luÒng tÜ tܪng, khi‰n lš luÆn trª nên quá dÍ dàng v§i nh»ng mô hình quá ÇÖn giän. Không lå gì ‘’
væn chÜÖng ViŒt Nam cä m¶t th‰ k› 15 chÌ có ÇÜ®c m¶t ông NguyÍn Trãi! KhÓn kh° thay cho
nŠn væn h†c ViŒt Nam! Tåi trong nܧc chÌ có ông TÓ H»u cùng cÖ quan ki‹m soát tÜ tܪng gi» Ƕc
quyŠn chê khen, và ch†n l†c m†i sáng tác!
Th‰ còn tåi häi
ngoåi thì sao? Trên ÇÎa bàn t¿ do tÜ tܪng này có bao nhiêu cách, có bao
nhiêu
khía cånh Ç‹ phê bình m¶t nhà væn? LÃy tiêu chuÄn nào Ç‹ ch†n l¿a nh»ng nhà phê bình væn h†c
s¡c säo nhÃt? Có bao nhiêu nhà phê bình væn h†c chÎu ÇÙng dܧi m¶t quan Çi‹m v§i nhà væn ÇÓi
tÜ®ng cûa phê bình? TØng Ãy câu hÕi cÛng Çã cho thÃy r¢ng vÃn ÇŠ phê bình væn h†c tåi häi
ngoåi thÆt không ÇÖn giän: nhà phê bình s¡c säo nhÃt ÇÓi v§i nhà væn này låi có th‹ là tÒi tŒ nhÃt
ÇÓi v§i nhà væn n†. Ông A ÇÓi v§i tôi là nhà phê bình s¡c säo nhÃt vì °ng tán thành quan Çi‹m cûa
tôi, vì Çã khen l©i væn tôi vi‰t; còn ông B là ngÜ©i phê bình tÒi tŒ nhÃt vì ch£ng bi‰t gì mà
dám phê bình tôi. RÒi cu¶c sinh hoåt væn chÜÖng tåi häi ngoåi cÙ viŒc xoay vÀn nhÜ th‰. Chung
quy, tåi các quÓc gia væn minh, ngay trên bình diŒn chuyên nghiŒp, không ai là nhà phê bình s¡c
säo nhÃt cä. Theo tiêu chuÄn væn h†c tåi Çây, nhà phê bình væn h†c ti‰ng tæm là nh© vô sÓ các
nhà væn gªi tác phÄm ljn xin phê bình trên báo chí, trên màn änh, trên Ti Vi, nhÜng ÇÃy chÌ là
s¿ s¡c säo trong nghŠ làm æn, buôn bán, không liên hŒ mäy may gì ljn væn h†c cä. TØ các
næm 1993 ljn 1996 tôi cÛng Çã thû vai ‘’nhà phê bình væn h†c’’ nhân viŒc Trung tâm thÜ viŒn
Hoa Kÿ Ç¥t tåi New York nh© tôi gi§i thiŒu các sách ViŒt ng» Ç‹ ghi vào ThÜ Møc cûa các thÜ viŒn
Hoa Kÿ. Trong m‡i tháng tôi Çã nhÆn bi‰t bao nhiêu là sách các tác giä gªi ljn, rÒi cÛng Çã
mÃt bao nhiêu th©i gi© Ç‹ phê bình và ch†n l¿a, do Çó Çã có ngÜ©i g†i tôi là ‘’nhà phê bình væn
h†c!’’. Bên Pháp, ÇÀu th‰ k› 20 ông Emile Faguet ÇÜ®c k‹ là nhà phê bình væn h†c chuyên
nghiŒp, nhÜng có ai cho °ng là nhà phê bình s¡c säo nhÃt Çâu? Tåi các xÙ væn minh này không có
lÓi lš luÆn 1 hay 0 Çâu! ngoåi trØ trong lïnh v¿c quäng cáo, chiêu hàng thì Çâu Çâu cÛng chÌ thÃy
toàn là ‘’number one’’ cä! Bây gi© trong gi§i nhà væn Pháp ngÜ©i ta chÌ còn bi‰t ljn ông
Bernard Pivot, ngÜ©i chuyên môn mª các dÎp ra m¡t sách trên Çài truyŠn hình quÓc gia. Nhà væn
nào cÛng muÓn ÇÜ®c ông Bernard Pivot chi‰u cÓ, vì m¶t khi tác giä ÇÜ®c ÇÜa lên chÜÖng trình
Bouillon de Culture(Nܧc cÃy vi khuÄn) cûa °ng thì sÓ sách cûa tác giä ÇÜ®c bán rÃt chåy. NhÜng
có ai bäo r¢ng Bernard Pivot là nhà phê bình væn h†c s¡c säo nhÃt Çâu? Ông Bernard Pivot có th‹ là
ngÜ©i chuyên nghiŒp trong vø trình bày các tác phÄm væn h†c, nhÜng chuyŒn phê bình væn h†c
låi do các nhà væn ÇÜ®c ông Pivot m©i ljn; nhà væn này ÇÒng š Çi‹m này, nhà væn kia phän
bác Çi‹m n†, rÓt cu¶c, huŠ cä làng, và tác phÄm ÇÜ®c bán chåy nhÜ tôm tÜÖi: bán chåy không
phäi vì ÇÒng m¶t quan Çi‹m v§i cø Mác, cø Ghen, bác HÒ, nhÜng chÌ vì trên ch® tr©i væn hóa t¿
do có nhiŠu quan Çi‹m ÇÜ®c bày biŒn Ç‹ thiên hå tùy thích l¿a ch†n mua bán. Các vø ra m¡t sách
cûa ngÜ©i ViŒt tåi häi ngoåi cÛng tÜÖng t¿ nhÜ th‰ thôi. Nh»ng nhà væn tôi m©i ljn trong dÎp
ra m¡t sách cûa tôi, ho¥c các bån nhà væn nh© tôi chiêu hàng tác phÄm m§i cûa h† ÇŠu không
ti‰c l©i khen ng®i tôi. L©i nói không mÃt tiŠn mua mà! Song Çâu vì th‰ mà các ÇÃng Ãy g†i tôi
là nhà phê bình s¡c säo nhÃt! VÆy xin hÕi: Ai là ngÜ©i có tÀm hi‹u bi‰t sâu r¶ng Çû Ç‹ lÜ®ng giá
m¶t nhà phê bình væn h†c, ho¥c Ç‹ lÜ®ng giá cä m¶t nŠn væn h†c, nhÜ nŠn væn h†c häi ngoåi?
khía cånh Ç‹ phê bình m¶t nhà væn? LÃy tiêu chuÄn nào Ç‹ ch†n l¿a nh»ng nhà phê bình væn h†c
s¡c säo nhÃt? Có bao nhiêu nhà phê bình væn h†c chÎu ÇÙng dܧi m¶t quan Çi‹m v§i nhà væn ÇÓi
tÜ®ng cûa phê bình? TØng Ãy câu hÕi cÛng Çã cho thÃy r¢ng vÃn ÇŠ phê bình væn h†c tåi häi
ngoåi thÆt không ÇÖn giän: nhà phê bình s¡c säo nhÃt ÇÓi v§i nhà væn này låi có th‹ là tÒi tŒ nhÃt
ÇÓi v§i nhà væn n†. Ông A ÇÓi v§i tôi là nhà phê bình s¡c säo nhÃt vì °ng tán thành quan Çi‹m cûa
tôi, vì Çã khen l©i væn tôi vi‰t; còn ông B là ngÜ©i phê bình tÒi tŒ nhÃt vì ch£ng bi‰t gì mà
dám phê bình tôi. RÒi cu¶c sinh hoåt væn chÜÖng tåi häi ngoåi cÙ viŒc xoay vÀn nhÜ th‰. Chung
quy, tåi các quÓc gia væn minh, ngay trên bình diŒn chuyên nghiŒp, không ai là nhà phê bình s¡c
säo nhÃt cä. Theo tiêu chuÄn væn h†c tåi Çây, nhà phê bình væn h†c ti‰ng tæm là nh© vô sÓ các
nhà væn gªi tác phÄm ljn xin phê bình trên báo chí, trên màn änh, trên Ti Vi, nhÜng ÇÃy chÌ là
s¿ s¡c säo trong nghŠ làm æn, buôn bán, không liên hŒ mäy may gì ljn væn h†c cä. TØ các
næm 1993 ljn 1996 tôi cÛng Çã thû vai ‘’nhà phê bình væn h†c’’ nhân viŒc Trung tâm thÜ viŒn
Hoa Kÿ Ç¥t tåi New York nh© tôi gi§i thiŒu các sách ViŒt ng» Ç‹ ghi vào ThÜ Møc cûa các thÜ viŒn
Hoa Kÿ. Trong m‡i tháng tôi Çã nhÆn bi‰t bao nhiêu là sách các tác giä gªi ljn, rÒi cÛng Çã
mÃt bao nhiêu th©i gi© Ç‹ phê bình và ch†n l¿a, do Çó Çã có ngÜ©i g†i tôi là ‘’nhà phê bình væn
h†c!’’. Bên Pháp, ÇÀu th‰ k› 20 ông Emile Faguet ÇÜ®c k‹ là nhà phê bình væn h†c chuyên
nghiŒp, nhÜng có ai cho °ng là nhà phê bình s¡c säo nhÃt Çâu? Tåi các xÙ væn minh này không có
lÓi lš luÆn 1 hay 0 Çâu! ngoåi trØ trong lïnh v¿c quäng cáo, chiêu hàng thì Çâu Çâu cÛng chÌ thÃy
toàn là ‘’number one’’ cä! Bây gi© trong gi§i nhà væn Pháp ngÜ©i ta chÌ còn bi‰t ljn ông
Bernard Pivot, ngÜ©i chuyên môn mª các dÎp ra m¡t sách trên Çài truyŠn hình quÓc gia. Nhà væn
nào cÛng muÓn ÇÜ®c ông Bernard Pivot chi‰u cÓ, vì m¶t khi tác giä ÇÜ®c ÇÜa lên chÜÖng trình
Bouillon de Culture(Nܧc cÃy vi khuÄn) cûa °ng thì sÓ sách cûa tác giä ÇÜ®c bán rÃt chåy. NhÜng
có ai bäo r¢ng Bernard Pivot là nhà phê bình væn h†c s¡c säo nhÃt Çâu? Ông Bernard Pivot có th‹ là
ngÜ©i chuyên nghiŒp trong vø trình bày các tác phÄm væn h†c, nhÜng chuyŒn phê bình væn h†c
låi do các nhà væn ÇÜ®c ông Pivot m©i ljn; nhà væn này ÇÒng š Çi‹m này, nhà væn kia phän
bác Çi‹m n†, rÓt cu¶c, huŠ cä làng, và tác phÄm ÇÜ®c bán chåy nhÜ tôm tÜÖi: bán chåy không
phäi vì ÇÒng m¶t quan Çi‹m v§i cø Mác, cø Ghen, bác HÒ, nhÜng chÌ vì trên ch® tr©i væn hóa t¿
do có nhiŠu quan Çi‹m ÇÜ®c bày biŒn Ç‹ thiên hå tùy thích l¿a ch†n mua bán. Các vø ra m¡t sách
cûa ngÜ©i ViŒt tåi häi ngoåi cÛng tÜÖng t¿ nhÜ th‰ thôi. Nh»ng nhà væn tôi m©i ljn trong dÎp
ra m¡t sách cûa tôi, ho¥c các bån nhà væn nh© tôi chiêu hàng tác phÄm m§i cûa h† ÇŠu không
ti‰c l©i khen ng®i tôi. L©i nói không mÃt tiŠn mua mà! Song Çâu vì th‰ mà các ÇÃng Ãy g†i tôi
là nhà phê bình s¡c säo nhÃt! VÆy xin hÕi: Ai là ngÜ©i có tÀm hi‹u bi‰t sâu r¶ng Çû Ç‹ lÜ®ng giá
m¶t nhà phê bình væn h†c, ho¥c Ç‹ lÜ®ng giá cä m¶t nŠn væn h†c, nhÜ nŠn væn h†c häi ngoåi?
Trong 28 næm
qua, c¶ng ÇÒng ngÜ©i ViŒt häi ngoåi Çã th¿c hiŒn m¶t công trình tÓt ÇËp cho
quê
hÜÖng: m¶t nŠn væn h†c ViŒt Nam häi ngoåi Çã thành hình và khªi s¡c, khä dï cÙu vãn ÇÜ®c m¶t
phÀn nào nh»ng mÃt mát vŠ væn hóa,væn h†c, væn chÜÖng ª trong nܧc. Vào cuÓi thÆp niên 80,
vØa bܧc chân ljn Hoa Kÿ, tÆp Bút kš væn nghŒ cûa nhà væn NguyÍn Ng†c Ngån dܧi nhan ÇŠ
Nhìn Låi M¶t ThÆp Niên Çã cho tôi m¶t thoáng nhìn vŠ cu¶c sinh hoåt trong gi§i nhà væn ViŒt Nam
häi ngoåi, nh»ng nhà væn khä kính, sáng giá hay chê bÕ theo quan Çi‹m cûa NguyÍn Ng†c Ngån.
RÒi nhân viŒc lãnh công tác th¿c hiŒn ThÜ møc ViŒt ng» cho các thÜ viŒn Hoa Kÿ do ThÜ ViŒn
Trung ÐÖng NewYork giao phó, tôi Çã có dÎp truy tích m¶t khÓi lÜ®ng l§n tác phÄm væn h†c ViŒt
Nam, và riêng væn h†c ViŒt Nam häi ngoåi. Công viŒc này Çã giúp tôi gom góp khá nhiŠu d» kiŒn
Ç‹ Çåt m¶t nhÆn xét g†i là tåm °n vŠ nŠn væn h†c ViŒt Nam häi ngoåi.
hÜÖng: m¶t nŠn væn h†c ViŒt Nam häi ngoåi Çã thành hình và khªi s¡c, khä dï cÙu vãn ÇÜ®c m¶t
phÀn nào nh»ng mÃt mát vŠ væn hóa,væn h†c, væn chÜÖng ª trong nܧc. Vào cuÓi thÆp niên 80,
vØa bܧc chân ljn Hoa Kÿ, tÆp Bút kš væn nghŒ cûa nhà væn NguyÍn Ng†c Ngån dܧi nhan ÇŠ
Nhìn Låi M¶t ThÆp Niên Çã cho tôi m¶t thoáng nhìn vŠ cu¶c sinh hoåt trong gi§i nhà væn ViŒt Nam
häi ngoåi, nh»ng nhà væn khä kính, sáng giá hay chê bÕ theo quan Çi‹m cûa NguyÍn Ng†c Ngån.
RÒi nhân viŒc lãnh công tác th¿c hiŒn ThÜ møc ViŒt ng» cho các thÜ viŒn Hoa Kÿ do ThÜ ViŒn
Trung ÐÖng NewYork giao phó, tôi Çã có dÎp truy tích m¶t khÓi lÜ®ng l§n tác phÄm væn h†c ViŒt
Nam, và riêng væn h†c ViŒt Nam häi ngoåi. Công viŒc này Çã giúp tôi gom góp khá nhiŠu d» kiŒn
Ç‹ Çåt m¶t nhÆn xét g†i là tåm °n vŠ nŠn væn h†c ViŒt Nam häi ngoåi.
Khác v§i tình
trång trong nܧc, væn chÜÖng häi ngoåi thÆt Çúng là væn chÜÖng t¿ do: t¿ do v§i
tÃt
cä nh»ng cái tÓt ÇËp cÛng nhÜ nh»ng cái xÃu xa, cái tÒi tŒ cûa nó. NhÜng bäo là trì trŒ, låc hÆu,
bäo thû và tÈ nhåt thì thÆt là khó hi‹u. Hai cán b¶ Hoàng Ng†c Hi‰n, và NguyÍn HuŒ Chi do trung
tâm William Joiner Çài th† Ç‹ mà vi‰t nhÜ vÆy thì cÛng không có gì lå: h† Çâu có ÇÜ®c m¶t vÓn
ki‰n thÙc và væn hóa nhân bän nào làm cÖ sª cho m¶t nhÆn thÙc Çúng Ç¡n vŠ nŠn væn h†c t¿
do? H† ra häi ngoåi thØa hành m¶t công tác kiŠu vÆn; thêm vào Çó m¶t khuynh hܧng cÓ chÃp thì
muÓn phán gì chä ÇÜ®c? NhÜng m¶t giáo sÜ Çåi h†c taÎ häi ngoåi thì ch¡c °ng Çã tÓn công Ç¡n Ço
nhiŠu l¡m trܧc khi giáng m¶t l©i phán quy‰t n¥ng nŠ nhÜ th‰, và ch¡c cÛng Çã thuy‰t minh
ÇÀy Çû trong m¶t tác phÄm l§n mà tôi chÜa ÇÜ®c džc, n‰u Çã ÇÜ®c xuÃt bän; b¢ng chÜa xuÃt
bän thì Çây, xin Giáo sÜ NguyÍn HÜng QuÓc vui lòng giäi thích trên dÜ luÆn vŠ l©i phê phán ÇÜ®c
viŒn dÅn trên Çây. ñÃy là m¶t l©i m©i g†i cûa tôi, Bºu Sao, xin chuy‹n ljn Giáo SÜ.
cä nh»ng cái tÓt ÇËp cÛng nhÜ nh»ng cái xÃu xa, cái tÒi tŒ cûa nó. NhÜng bäo là trì trŒ, låc hÆu,
bäo thû và tÈ nhåt thì thÆt là khó hi‹u. Hai cán b¶ Hoàng Ng†c Hi‰n, và NguyÍn HuŒ Chi do trung
tâm William Joiner Çài th† Ç‹ mà vi‰t nhÜ vÆy thì cÛng không có gì lå: h† Çâu có ÇÜ®c m¶t vÓn
ki‰n thÙc và væn hóa nhân bän nào làm cÖ sª cho m¶t nhÆn thÙc Çúng Ç¡n vŠ nŠn væn h†c t¿
do? H† ra häi ngoåi thØa hành m¶t công tác kiŠu vÆn; thêm vào Çó m¶t khuynh hܧng cÓ chÃp thì
muÓn phán gì chä ÇÜ®c? NhÜng m¶t giáo sÜ Çåi h†c taÎ häi ngoåi thì ch¡c °ng Çã tÓn công Ç¡n Ço
nhiŠu l¡m trܧc khi giáng m¶t l©i phán quy‰t n¥ng nŠ nhÜ th‰, và ch¡c cÛng Çã thuy‰t minh
ÇÀy Çû trong m¶t tác phÄm l§n mà tôi chÜa ÇÜ®c džc, n‰u Çã ÇÜ®c xuÃt bän; b¢ng chÜa xuÃt
bän thì Çây, xin Giáo sÜ NguyÍn HÜng QuÓc vui lòng giäi thích trên dÜ luÆn vŠ l©i phê phán ÇÜ®c
viŒn dÅn trên Çây. ñÃy là m¶t l©i m©i g†i cûa tôi, Bºu Sao, xin chuy‹n ljn Giáo SÜ.
ñã nói ljn nŠn
væn h†c ViŒt Nam häi ngoåi thì cÛng nên phác h†a m¶t vài nét chÃm phá, tåm
Çû
Ç‹ chÙng minh m¶t nŠn væn h†c khä tr†ng. Trong công tác ch†n l¿a sách báo cho các thÜ viŒn Hoa
Kÿ, tôi s¡p các tác phÄm væn h†c ViŒt Nam vào ba chûng loåi: nhân væn, væn hóa, và væn
chÜÖng, v§i chû tâm xác ÇÎnh tÀm mÙc nhu cÀu h†c hÕi cûa Ƕc giä. Nh»ng tác phÄm liên hŒ
ljn nhân væn nhÜ các tác phÄm t¿ thuÆt, t¿ truyŒn, hÒi kš, nhÃt là liên hŒ ljn nhân chÙng
vÜ®t biên, tråi tù CS, cu¶c sÓng tœ nånv.v. rÒi ljn niên giám, sº h†c, væn h†c sº v.v ÇÃy là
nh»ng tài liŒu mà các th‰ hŒ con em chúng ta së d¿a vào Ç‹ truy cÙu vŠ lÎch sº væn hóa cûa
m¶t dân t¶c. Chûng loåi thu¶c vŠ nhân væn có th‹ chi‰m ljn tØ 55% ljn 60% khÓi lÜ®ng
væn h†c ViŒt Nam häi ngoåi mà tôi bi‰t. VŠ khía cånh væn hóa thì phÀn biên khäo(essais, traités)
liên hŒ ljn chính trÎ, kinh t‰, kÏ thuÆt, kÏ nghŒ, nghŒ thuÆt, âm nhåc, giáo døc, và truyŠn
thÓng væn hóa xã h¶i ViŒt Nam, chung quy là m†i tác phÄm thu¶c khoa væn minh h†c t°ng quát.
Chûng loåi này cÛng chi‰m ljn tØ 25% ljn 30% cûa t°ng sÓ. PhÀn còn låi là 1Ø 10% ljn
15% liên hŒ ljn m†i tác phÄm væn chÜÖng thuÀn túy: thÖ væn, ti‹u thuy‰t, giä sº, và m†i tác
phÄm thu¶c loåi hÜ cÃu. Chûng loåi này các thÜ viŒn Hoa Kÿ không nhÆn, vì không mÃy Ƕc giä
tìm ljn.
Ç‹ chÙng minh m¶t nŠn væn h†c khä tr†ng. Trong công tác ch†n l¿a sách báo cho các thÜ viŒn Hoa
Kÿ, tôi s¡p các tác phÄm væn h†c ViŒt Nam vào ba chûng loåi: nhân væn, væn hóa, và væn
chÜÖng, v§i chû tâm xác ÇÎnh tÀm mÙc nhu cÀu h†c hÕi cûa Ƕc giä. Nh»ng tác phÄm liên hŒ
ljn nhân væn nhÜ các tác phÄm t¿ thuÆt, t¿ truyŒn, hÒi kš, nhÃt là liên hŒ ljn nhân chÙng
vÜ®t biên, tråi tù CS, cu¶c sÓng tœ nånv.v. rÒi ljn niên giám, sº h†c, væn h†c sº v.v ÇÃy là
nh»ng tài liŒu mà các th‰ hŒ con em chúng ta së d¿a vào Ç‹ truy cÙu vŠ lÎch sº væn hóa cûa
m¶t dân t¶c. Chûng loåi thu¶c vŠ nhân væn có th‹ chi‰m ljn tØ 55% ljn 60% khÓi lÜ®ng
væn h†c ViŒt Nam häi ngoåi mà tôi bi‰t. VŠ khía cånh væn hóa thì phÀn biên khäo(essais, traités)
liên hŒ ljn chính trÎ, kinh t‰, kÏ thuÆt, kÏ nghŒ, nghŒ thuÆt, âm nhåc, giáo døc, và truyŠn
thÓng væn hóa xã h¶i ViŒt Nam, chung quy là m†i tác phÄm thu¶c khoa væn minh h†c t°ng quát.
Chûng loåi này cÛng chi‰m ljn tØ 25% ljn 30% cûa t°ng sÓ. PhÀn còn låi là 1Ø 10% ljn
15% liên hŒ ljn m†i tác phÄm væn chÜÖng thuÀn túy: thÖ væn, ti‹u thuy‰t, giä sº, và m†i tác
phÄm thu¶c loåi hÜ cÃu. Chûng loåi này các thÜ viŒn Hoa Kÿ không nhÆn, vì không mÃy Ƕc giä
tìm ljn.
ñÜa ra m¶t l©i
phê phán vŠ phÄm chÃt cûa nŠn væn h†c ViŒt Nam häi ngoåi thì ch¡c phäi
vi‰t
m¶t cuÓn sách biên khäo tØ 500 ljn 700 trang, m¶t công tác mà tôi ܧc mong có ngày së th¿c
hiŒn; nay chÌ trông vào tác phÄm cûa giáo sÜ NguyÍn HÜng QuÓc.
m¶t cuÓn sách biên khäo tØ 500 ljn 700 trang, m¶t công tác mà tôi ܧc mong có ngày së th¿c
hiŒn; nay chÌ trông vào tác phÄm cûa giáo sÜ NguyÍn HÜng QuÓc.
ñ‹ phê bình m¶t
công trình cûa trí tuŒ chúng ta nên d¿a vào nguyên t¡c mà tri‰t gia kiêm bác
h†c
Descartes Çã ÇŠ ra: ‘’LÜÖng thÙc là cái vÓn ÇÜ®c chia ÇÒng ÇŠu nhÃt trong thiên hå’’, Le bon sens
est la chose du monde la mieux partagée. Tuy nhiên, vÓn lÜÖng thÙc cÀn phäi ÇÜ®c bÒi dÜ«ng,
khai phóng Ç‹ Çåt ÇÜ®c m¶t mÙc Ƕ hoàn häo khi‰n có s¿ sai biŒt gi»a nh»ng ngÜ©i muÓn th¿c
hiŒn m¶t công trình væn h†c. Mà Çã phê bình thì phäi thuy‰t minh b¢ng nh»ng thí dø, nhÜ th‰
không th‹ vÖ Çûa cä n¡m ÇÜ®c. Có ngÜ©i nói: giá trÎ væn h†c ª chÓn này chÓn n† thì ‘’thÜ®ng
vàng hå cám’’, hay ‘’cá mè m¶t lÙa cä’’, ho¥c ‘’væn chÜÖng hå gi§i rÈ nhÜ bèo’’ v.v. nh»ng ngÜ©i
quen nói nhÜ th‰ thÜ©ng Ç¥t mình ra bên ngoài và bên trên tÃt cä. S¿ Ç©i là th‰. ñiŠu kiŒn
phê bình væn h†c, phÀn n¶i dung lŒ thu¶c vÓn h†c hÕi cûa m‡i ngÜ©i, không mÃy liên hŒ ljn
b¢ng cÃp. N‰u vÓn h†c hÕi Çã hån hËp, thêm låi vܧng vào cái não trång cøc b¶, cÓ chÃp, thì,
kh¡p nÖi, ÇÜÖng s¿ chÌ nhìn thÃy có m¶t tình trång trì trŒ, låc hÆu, bäo thû và tÈ nhåt mà thôi!
Descartes Çã ÇŠ ra: ‘’LÜÖng thÙc là cái vÓn ÇÜ®c chia ÇÒng ÇŠu nhÃt trong thiên hå’’, Le bon sens
est la chose du monde la mieux partagée. Tuy nhiên, vÓn lÜÖng thÙc cÀn phäi ÇÜ®c bÒi dÜ«ng,
khai phóng Ç‹ Çåt ÇÜ®c m¶t mÙc Ƕ hoàn häo khi‰n có s¿ sai biŒt gi»a nh»ng ngÜ©i muÓn th¿c
hiŒn m¶t công trình væn h†c. Mà Çã phê bình thì phäi thuy‰t minh b¢ng nh»ng thí dø, nhÜ th‰
không th‹ vÖ Çûa cä n¡m ÇÜ®c. Có ngÜ©i nói: giá trÎ væn h†c ª chÓn này chÓn n† thì ‘’thÜ®ng
vàng hå cám’’, hay ‘’cá mè m¶t lÙa cä’’, ho¥c ‘’væn chÜÖng hå gi§i rÈ nhÜ bèo’’ v.v. nh»ng ngÜ©i
quen nói nhÜ th‰ thÜ©ng Ç¥t mình ra bên ngoài và bên trên tÃt cä. S¿ Ç©i là th‰. ñiŠu kiŒn
phê bình væn h†c, phÀn n¶i dung lŒ thu¶c vÓn h†c hÕi cûa m‡i ngÜ©i, không mÃy liên hŒ ljn
b¢ng cÃp. N‰u vÓn h†c hÕi Çã hån hËp, thêm låi vܧng vào cái não trång cøc b¶, cÓ chÃp, thì,
kh¡p nÖi, ÇÜÖng s¿ chÌ nhìn thÃy có m¶t tình trång trì trŒ, låc hÆu, bäo thû và tÈ nhåt mà thôi!
Tuy nhiên, s¿
tÈ nhåt có th‹ lŒ thu¶c vào ÇiŠu kiŒn quäng bá tÜ tܪng, nói nôm na là vÃn ÇŠ
‘’ÇÀu
tÜ væn hóa’’, liên hŒ ljn tiŠn tŒ, mà ª Çây tiŠn là tŒ. M¶t sÓ không ít nhà væn Çang phäi
sÓng v§i ‘’tiŠn già’’ hay v§i ÇÒng lÜÖng nhÕ bé sau không quá 20 næm làm låi cu¶c Ç©i tØ con sÓ
không nÖi chÓn tha phÜÖng cÀu th¿c. Không mÃy ai sÓng b¢ng ngòi bút: vi‰t væn l¡m lúc là m¶t
s¿ hy sinh cûa bän thân trong công cu¶c ÇÃu tranh cho m¶t chính nghïa, hay nh¢m bäo vŒ ho¥c ph°
cÆp niŠm tin cûa mình. NhÜng cÛng có trÜ©ng h®p vi‰t væn Ç‹ châm ch†c thiên hå, ÇÜa chén
Ç¡ng cho ngÜ©i uÓng nh¢m giäi tÕa n‡i Ãm Ùc trong lòng. Nh»ng ÇiŠu kiŒn kinh t‰ ho¥c tâm lš
này có th‹ chi phÓi chÃt lÜ®ng cûa m¶t tác phÄm. M¶t TuÀn báo hay NguyŒt san ÇÙng Ç¡n không
nhÆn quäng cáo và chú tr†ng ljn chÃt lÜ®ng cûa bài vi‰t. Nh»ng tÆp san này sÓng nh© s¿
Çóng góp cûa Ƕc giä. Các tác giä thÜ©ng không nhÆn thù lao vì có Çáng là bao nhiêu! rÒi låi còn
phäi Çóng góp Ç‹ nuôi sÓng t© báo n»a. Ngoài ra, muÓn bài vi‰t ÇÜ®c ‘’cho Çi’’ trong m¶t tÆp
san thì ch§ gªi ljn các tÆp san khác: ÇÃy vÓn là s¿ Çòi hÕi cûa m¶t sÓ l§n các cÖ sª báo chí
ngÜ©i ViŒt häi ngoåi. N‰u tác giä nhÆn thù lao thì cÓ nhiên ÇÃy là m¶t ÇiŠu kiŒn h®p lš, b¢ng
không thì ÇÃy là m¶t chuyŒn hàm hÒ, bÃt công. MÃy næm trܧc Çây tôi có nhÆn thù lao $30 m¶t
trang Çánh máy do m¶t vài tÆp san Çài th† Ç‹ vi‰t bài, nhÜng vŠ sau, nhÆn thÃy r¢ng thu không
bù chi nên Çã xé rào gªi bài ljn tÃt cä các báo, ai muÓn Çæng thì cÙ viŒc tùy nghi.
tÜ væn hóa’’, liên hŒ ljn tiŠn tŒ, mà ª Çây tiŠn là tŒ. M¶t sÓ không ít nhà væn Çang phäi
sÓng v§i ‘’tiŠn già’’ hay v§i ÇÒng lÜÖng nhÕ bé sau không quá 20 næm làm låi cu¶c Ç©i tØ con sÓ
không nÖi chÓn tha phÜÖng cÀu th¿c. Không mÃy ai sÓng b¢ng ngòi bút: vi‰t væn l¡m lúc là m¶t
s¿ hy sinh cûa bän thân trong công cu¶c ÇÃu tranh cho m¶t chính nghïa, hay nh¢m bäo vŒ ho¥c ph°
cÆp niŠm tin cûa mình. NhÜng cÛng có trÜ©ng h®p vi‰t væn Ç‹ châm ch†c thiên hå, ÇÜa chén
Ç¡ng cho ngÜ©i uÓng nh¢m giäi tÕa n‡i Ãm Ùc trong lòng. Nh»ng ÇiŠu kiŒn kinh t‰ ho¥c tâm lš
này có th‹ chi phÓi chÃt lÜ®ng cûa m¶t tác phÄm. M¶t TuÀn báo hay NguyŒt san ÇÙng Ç¡n không
nhÆn quäng cáo và chú tr†ng ljn chÃt lÜ®ng cûa bài vi‰t. Nh»ng tÆp san này sÓng nh© s¿
Çóng góp cûa Ƕc giä. Các tác giä thÜ©ng không nhÆn thù lao vì có Çáng là bao nhiêu! rÒi låi còn
phäi Çóng góp Ç‹ nuôi sÓng t© báo n»a. Ngoài ra, muÓn bài vi‰t ÇÜ®c ‘’cho Çi’’ trong m¶t tÆp
san thì ch§ gªi ljn các tÆp san khác: ÇÃy vÓn là s¿ Çòi hÕi cûa m¶t sÓ l§n các cÖ sª báo chí
ngÜ©i ViŒt häi ngoåi. N‰u tác giä nhÆn thù lao thì cÓ nhiên ÇÃy là m¶t ÇiŠu kiŒn h®p lš, b¢ng
không thì ÇÃy là m¶t chuyŒn hàm hÒ, bÃt công. MÃy næm trܧc Çây tôi có nhÆn thù lao $30 m¶t
trang Çánh máy do m¶t vài tÆp san Çài th† Ç‹ vi‰t bài, nhÜng vŠ sau, nhÆn thÃy r¢ng thu không
bù chi nên Çã xé rào gªi bài ljn tÃt cä các báo, ai muÓn Çæng thì cÙ viŒc tùy nghi.
N‰u phäi tìm
cho ra m¶t ‘’con dê t‰ thÀn’’ thì ch¡c phäi ÇŠ cÆp ljn m¶t hiŒn tÜ®ng
Çang
ÇÜ®c ph° bi‰n r¶ng rãi: hiŒn tÜ®ng ‘’siêu thÎ væn h†c’’ häi ngoåi. Riêng trên nܧc MÏ, væn h†c
là m¶t thÎ trÜ©ng béo bª. ñÃy là m¶t chܧng ngåi trong công cu¶c phát tri‹n nŠn væn h†c häi ngoåi.
Nói ljn ‘’siêu thÎ væn h†c’’ tôi muÓn ám chÌ thÎ trÜ©ng báo bi‰u. Báo bi‰u là m¶t hiŒn tÜ®ng
xuÃt phát tåi nhiŠu nÖi trên thÎ trÜ©ng kinh t‰ t¿ do. Tåi San Francisco, t© Examiner Çã trª thành
t© báo bi‰u ÇÀu tiên ti‰ng MÏ trên ÇÃt MÏ. Bên Pháp có t© ‘’20 Minutes’’. T© Examiner kš h®p
ÇÒng v§i t° h®p San Francisco Chronicle, t© 20 Minutes lŒ thu¶c quyŠn quän lš cûa Ouest France.
Các cÖ sª báo bi‰u này ÇÜ®c quyŠn Çæng låi nh»ng bài thu¶c bän quyŠn cûa các t° h®p l§n mà
h† có liên hŒ h®p ÇÒng. Trái låi, theo ch° tôi bi‰t, các tÆp báo bi‰u ngÜ©i ViŒt häi ngoåi thì
hoàn toàn t¿ do, hay Çúng ra, lŒ thu¶c khách hàng quäng cáo, do Çó Çang dÀn dÀn bi‰n thành
nh»ng tÆp quäng cáo cho các xí nghiŒp, các tiŒm æn, các phòng khám bŒnh, phòng luÆt sÜ,
tiŒm Nails, tiŒm chåp phô v.v. rÒi các bài vi‰t chÌ là m¶t ‘’c§’’ Ç‹ ÇÜ®c g†i là tÆp san thôi. TÆp
báo bi‰u A, ljm 164 trang mà chÌ có 45% quäng cáo, và các bài vi‰t không bÎ phân thành ba,
bÓn c¶t: ÇÃy là m¶t t© báo bi‰u còn thu¶c hång ÇÙng Ç¡n, còn có chÃt lÜ®ng væn h†c. Ngoài ra,
sÓ Çông: t© B, 256 trang chi‰m 68% quäng cáo, t© C 248 trang, 72% quäng cáo, trong Ãy các
bài vi‰t bÎ phân thành ba, bÓn c¶t, không phân biŒt v§i tin tÙc, quäng cáo. ñÃy là nh»ng ‘’siêu thÎ
væn h†c’’ trong Ãy væn chÜÖng và m¡m muÓi, vàng thau lÄn l¶n, không mÃy ai còn nhìn ra ÇÜ®c
các bài vi‰t n»a. LiŒu có phäi tình trång này Çã gây nên Ãn tÜ®ng tÈ nhåt ÇÓi v§i nh»ng ngÜ©i
chÌ thích våch lá tìm sâu nh¢m chÌ trích, bôi bác môi trÜ©ng t¿ do tÜ tܪng mà h† Çã tØng m¶t th©i
bÎ thi‰u v¡ng chæng?
ÇÜ®c ph° bi‰n r¶ng rãi: hiŒn tÜ®ng ‘’siêu thÎ væn h†c’’ häi ngoåi. Riêng trên nܧc MÏ, væn h†c
là m¶t thÎ trÜ©ng béo bª. ñÃy là m¶t chܧng ngåi trong công cu¶c phát tri‹n nŠn væn h†c häi ngoåi.
Nói ljn ‘’siêu thÎ væn h†c’’ tôi muÓn ám chÌ thÎ trÜ©ng báo bi‰u. Báo bi‰u là m¶t hiŒn tÜ®ng
xuÃt phát tåi nhiŠu nÖi trên thÎ trÜ©ng kinh t‰ t¿ do. Tåi San Francisco, t© Examiner Çã trª thành
t© báo bi‰u ÇÀu tiên ti‰ng MÏ trên ÇÃt MÏ. Bên Pháp có t© ‘’20 Minutes’’. T© Examiner kš h®p
ÇÒng v§i t° h®p San Francisco Chronicle, t© 20 Minutes lŒ thu¶c quyŠn quän lš cûa Ouest France.
Các cÖ sª báo bi‰u này ÇÜ®c quyŠn Çæng låi nh»ng bài thu¶c bän quyŠn cûa các t° h®p l§n mà
h† có liên hŒ h®p ÇÒng. Trái låi, theo ch° tôi bi‰t, các tÆp báo bi‰u ngÜ©i ViŒt häi ngoåi thì
hoàn toàn t¿ do, hay Çúng ra, lŒ thu¶c khách hàng quäng cáo, do Çó Çang dÀn dÀn bi‰n thành
nh»ng tÆp quäng cáo cho các xí nghiŒp, các tiŒm æn, các phòng khám bŒnh, phòng luÆt sÜ,
tiŒm Nails, tiŒm chåp phô v.v. rÒi các bài vi‰t chÌ là m¶t ‘’c§’’ Ç‹ ÇÜ®c g†i là tÆp san thôi. TÆp
báo bi‰u A, ljm 164 trang mà chÌ có 45% quäng cáo, và các bài vi‰t không bÎ phân thành ba,
bÓn c¶t: ÇÃy là m¶t t© báo bi‰u còn thu¶c hång ÇÙng Ç¡n, còn có chÃt lÜ®ng væn h†c. Ngoài ra,
sÓ Çông: t© B, 256 trang chi‰m 68% quäng cáo, t© C 248 trang, 72% quäng cáo, trong Ãy các
bài vi‰t bÎ phân thành ba, bÓn c¶t, không phân biŒt v§i tin tÙc, quäng cáo. ñÃy là nh»ng ‘’siêu thÎ
væn h†c’’ trong Ãy væn chÜÖng và m¡m muÓi, vàng thau lÄn l¶n, không mÃy ai còn nhìn ra ÇÜ®c
các bài vi‰t n»a. LiŒu có phäi tình trång này Çã gây nên Ãn tÜ®ng tÈ nhåt ÇÓi v§i nh»ng ngÜ©i
chÌ thích våch lá tìm sâu nh¢m chÌ trích, bôi bác môi trÜ©ng t¿ do tÜ tܪng mà h† Çã tØng m¶t th©i
bÎ thi‰u v¡ng chæng?
Bºu Sao
VŨ THỊ DẠ THẢO * TRƯỜNG HOANG PHẾ
Loøng boài hoài thaêm laïi maùi tröôøng xöa
Töôøng reâu phong, baøn gheá phuû buïi môø
Taám baûng goã troùc sôn, khoâng chöõ vieát
Tieáng ñoïc baøi eâ, a, hoâm nao ñaõ cheát
Lôùp hoïc im lìm, buïc giaûng vaéng tanh
Thaày ñaâu? Baïn ñaâu? Con ñöùng laëng moät mình
Hoàn chua xoùt leä laên daøi treân maù
Con bieát giôø ñaây nhöõng neûo ñöôøng nôi phoá xaù
Thaày goø löng, coá ñaïp chieác xích loâ
Nheã nhaïi moà hoâi, toùc baïc, maét môø
Ñoåi khoai saén, nuoâi quaõng ñôøi coøn laïi
Con cuõng bieát nôi phoàn hoa ñoâ hoäi
ÔÛ væa heø, ñaàu chôï, hoaëc coâng vieân
Coâ cuûa con coá göôïng nuoát tuûi phieàn
Treân chieáu raùch, baày daêm ba quaû coùc
Coù leõ giôø naøy, nôi noâng tröôøng gai goùc
Baïn cuûa con ñang laøm vieäc thay traâu
Töông lai toái ñen phuû kín maùi ñaàu
Soáng cô cöïc treân queâ höông tang toùc
Thaày, Coâ ôi! Bieát chaêng con ñang khoùc
Xoùt xa ñôøi bieán ñoåi quaù thöông ñau
Nöôùc maét röng röng, con thoån thöùc ngheïn ngaøo
Tröôøng yeâu hôõi, töø nay xin vónh bieät!
Vuõ Thò Daï Thaûo
ĐỖ VŨ KỶ HÀ * VỀ KỶ NIỆM VIỆT NAM,
VỀ KỶ NIỆM
Viet Nam
DO VU KY HA
Viet Nam
DO VU KY HA
Em bỗng thấy con đường xa tít tắp
Khi dõi nhìn trong đáy mắt ưu tư
Ở nơi ấy trăng sao chưa kịp mọc
Và quanh em là khoảng trống hư vô
Anh bỗng đến, traí tim bừng thắp lửa
Đem tin yêu - tưởng đã chếât bao giờ
Anh bỗng đến, dắt em về qúa khứ
Của một thời còn sót tuổi ngây thơ
Em thuở ấy tóc buông vai, nghiêng nón
Bờ biển xanh, xanh ngắt buổi đầu thu
Và sóng vỗ theo nhịp tim nối nhịp
Mình trao nhau trọn vẹn tuổi ngây thơ
Và từ đó cửa lòng em khép kín
Với bao nhiêu hy vọng trông chờ
Có ngờ đâu giòng sông chia đôi ngả
Để mình em đứng lại - trơ vơ-
Em trở lại bên giòng sông cạn nước
Tìm bóng anh lần cuối trước khi đi
Lỡ để mất đâu tình yêu thuở trước
Khi qua cầu thức tỉnh những cơn mê
Mình xa nhau đâu chỉ bằng sông núi
Bằng không gian, biển rộng, năm dài
Mà bằng cả muôn trùng cách biệt
Của cuộc đời đã lỡ ngăn đôi
Em đã bước bằng con tim chói sáng
Bằng tin yêu, bằng lời hứa anh trao
Và em hiểu: mình hái nhầm trái cấm
Vườn địa dàng thời dĩ vãng năm nao
Mùa xuân nào sớm nồng trong hơi thở
Thơì gian nào chìm trong đáy mắt trong
Từ quen biết bao nhiêu là trắc trở
Anh có mong thời gian chảy ngược dòng?
Ta tìm nhau - một đời - lận đận
Để xa nhau bằng tiếng khóc ngậm ngùi
Vì đâu thể, thời gian xoay lùi bước
Nên quay về, em, chiếc bóng lẻ loi
Để từng đêm em nằm nghe tiếng sóng
Nhớ lời anh: tiếng sóng, nhịp đôi tim
Nhớ vô cùng, lời thề nguyền, hẹn ước
Giờ đi về thăm thẳm một mình em
Em chợt hiểu: Tất cả đều qúa muộn
Mùa xuân nào vừa vuột khỏi tầm tay
Anh sánh bước bên cuộc đời kẻ khác
Em mãi hoài theo dõi đất chim bay...
DO VU KY HA (7.8.2002)
BS. HỒ VĂN CHÂM * THÀNH KHU TÚC
The pieces of a chain need to connect
to have a full chain: A Vietnamese ancient story MINH VŨ HỒ VĂN CHÂM
Khu Tuc Citadel, Trieu Nuong Shrine, and the story of "banh chung", "banh tet" (two kinds of glutinous rice cakes) in Viet history of ancient time had some relationships that we need to put them together to have a full picture of the vestiges.
* In the South side of Huong river, opposite to Kim Long, Huong Thuy District, Thua Thien; there is a citadel called "Thanh Loi Nguyet Bieu" which belonged to the Cham people under the Tran Dynasty. Thanh Loi Nguyet Bieu (citadel) today is the trace of what called "Khu Tuc Military Post" originally. Khu Tuc connected two districts Tay Quyen and Tuong Lam (North side of Central VN now) under the Han Dynasty in China. Since Tuong Lam became independent, Khu Tuc turned to an outpost to protect Tay Quyen which was the capital town of Nhat Nam District. In 248 A.C., Khu Tuc Post was overrun by the Cham (Lam Ap) army, the same situation as Cu Phong and Luy Lau Citadels in Cuu Chan and Giao Chi Districts (Viet). Also in 248, Trieu Quoc Dat revolted in Trung Son, Cuu Chan (now is Nong Cong, Thanh Hoa). After only a few months, he got a severe illness and died; his younger sister named Trieu Thi Trinh was enthroned to replace his brother to lead the resistance. She drove an elephan to defeat the Chinese troops many times. The enemies were fearful to call her "Le Hai Ba Vuong" (a female King) and our soldiers called her "Nhuy Kieu Tuong Quan" (a female General). After the Cham troops withdrew from Cuu Chan, her troops disintegrated and she committed suicide...
(For a full story, please refer to the original in Vietnamese).
VPS
Những mắt xích cần nối lại
(Thành Khu Túc, miếu Triệu nương, và câu chuyện bánh chưng, bánh tét)
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Có những lúc tình cờ bắt gặp một số mắt xích han rỉ, lẻ loi, rời rạc, trong kho phế liệu bỏ quên lâu ngày, chúng ta có thể vô tình lướt nhìn một cách thờ ơ, không mảy may lưu tâm, không mảy may băn khoăn, thắc mắc, rằng những mắt xích đó xuất xứ từ đâu ra, nguyên là những vật dụng gì, có liên quan với nhau như thế nào, và nhất là có chứa đựng chút ý nghĩa hoặc chút giá trị thực tiển nào không. Nếu những mắt xích đó lại được phủ những lớp sơn khác nhau, hoặc bị méo mó, bị đổi dạng thay hình, thì chúng ta lại càng không tài nào tưởng tượng được mối liên hệ trước đây giữa chúng với nhau, và chúng ta cứ điềm nhiên bỏ mặc chúng chìm vào quên lãng.
Nhưng nếu chúng ta tinh tế một chút, nhẫn nại một chút, và nhất là có lòng tìm hiểu cội nguồn một chút, chúng ta cạo sạch các rét xỉ, tẩy xóa các sơn phết, uốn nắn lại hình dạng, chúng ta sẽ nhận ra sự thuần nhất của chất liệu cấu thành, sự tương đồng của mục tiêu sử dụng. Đem nối các mắt xích lại với nhau, chúng ta có được một sợi xích hoàn chỉnh, vốn là một bộ phận thiết yếu của một cỗ máy chúng ta đã từng biết qua.
Hôm nay, chúng ta nhặt được 3 mắt xích như vậy: thành Khu Túc, miếu Triệu nương, và câu chuyện bánh chưng bánh tét. Đó là những mắt xích cần nối lại.
Trên bờ nam sông Hương, trong địa phận thôn Nguyệt Biều, xã Thủy Biều, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế, đối diện với Kim Long huyện Hương Trà bên bờ bắc, ngày nay còn di tích một toà thành cổ gọi là Thành Lồi. Lồi là danh từ dùng để chỉ người Chàm. Dân chúng địa phương truyền tụng rằng vào cuối đời Trần, quân Chiêm Thành xâm phạm Hóa Châu, đóng quân tại đó, sửa soạn giao chiến với quân Đại Việt án ngữ bên bờ bắc. Thay vì xua quân đánh nhau, tướng chỉ huy hai bên giao ước thi nhau đắp thành. Trong một đêm, bên nào đắp thánh cao và dài hơn thì thắng, bên kia phải rút quân lui. Trong lúc quân Chiêm Thành đắp thành thật bằng đất và gạch đá thì quân Đại Việt đắp thành giả bằng tre và cót. Đương nhiên là thành bên Đại Việt cao dài hơn, và quân Chiêm Thành tưởng rằng quân Đại Việt đông lắm nên sợ hãi y ước rút về. Lời truyền tụng này không đúng với thực tế lịch sử, chẳng qua phản ánh tâm lý của dân ta khinh thị người Chiêm Thành ngây ngô mà thôi. Thật vậy, vào đời Trần, Đoàn Nhữ Hài phải vất vã lắm mới đuổi được quân Chiêm Thành ra khỏi Hóa Châu, và thành Lồi Nguyệt Biều ngày nay là di tích của thành Khu Túc thời Bắc thuộc.
Vào đời Hán, Khu Túc là một đồn nhỏ trên đường nối liền hai huyện Tây Quyển và Tượng Lâm. Từ khi Tượng Lâm độc lập, Khu Túc trở thành tiền đồn bảo vệ thành Tây Quyển (ở phía bắc Huế) là quận lỵ của quận Nhật Nam. Đến thời Tam Quốc, Trung Hoa loạn lạc, Giao Châu hết thuộc Lưu Biểu lại về tay Tôn Quyền. Quân Lâm Ấp thừa cơ, năm 248 sau Công nguyên, tiến đánh đồn Khu Túc rồi vượt sông chiếm thành Tây Quyển, và thừa thắng kéo ra cướp phá Cửu Chân và Giao Chỉ, san bằng hai quận thành Cư Phong và Luy Lâu. Cũng trong năm 248, ở vùng Trung Sơn, quận Cửu Chân, nay là huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, Triệu Quốc Đạt cùng bọn Vương Thiện, Lãnh Long, Bao Thúc, Tốn Thận, dựng cờ khởi nghĩa, chống lại Đông Ngô. Nhưng được mấy tháng thì Triệu Quốc Đạt bị bạo bệnh chết. Nghĩa quân bèn tôn em gái Triệu Quốc Đạt là Triệu Thị Trinh lên thay anh. Triệu Thị Trinh thường cưỡi voi đánh thắng quân Ngô nhiều trận. Quân giặc sợ hãi, gọi bà là Lệ Hải Bà vương. Bà là người tuổi trẻ lại có nhan sắc, cầm quân xung trận, dũng lược hơn người, nên quân sĩ tôn vinh danh hiệu bà là Nhụy Kiều tướng quân:
Kiều kiều nữ tướng quân
Anh danh động phong trần.
Năng hàn Ngô tử đảm
Phiêu dục động nhân tâm.
(Bà nữ tướng xinh đẹp, Tiếng tăm chấn động phong trần. Có thể làm mất vía quân Ngô, Sắc đẹp lại xúc động lòng người).
Biến loạn ở Giao Châu làm chấn động triều đình Đông Ngô. Tôn Quyền bèn phong Lục Dận làm Giao Châu Thứ sử, An Nam Hiệu úy, đem đại quân từ Kiến Nghiệp sang ứng phó. Lâm Ấp phải lui binh, nhưng vẫn giữ thành Khu Túc. Từ năm 248, Lâm Ấp sửa sang Khu Túc thành căn cứ quân sự hùng hậu, và đến triều vua Phạm Văn thì xây lại bằng gạch với qui mô to lớn như ngày nay còn thấy ở di tích Nguyệt Biều. Cũng trong năm 248, sau khi Lâm Ấp lui binh, nghĩa quân của Triệu Thị Trinh cô thế phải tan rã. Triệu Thị Trinh cắt cổ tự tử. Dân chúng Cửu Chân thương cảm lập đền thờ bà. Thuở bấy giờ, dân chúng Cửu Chân còn giữ nhiều tập tục của người Việt cổ nên trong miếu thờ Triệu nương có bày nhiều đồ thờ có hình dạng dương vật, liên hệ đến tục thờ linga. Những đồ tự khí này mãi đến đời Trần vẫn còn được nhắc nhở tới (Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên).
Tuy nhiên, vì càng ngày càng Hán hóa đậm dà nên người Việt về sau lại theo đuôi người Tàu truyền tụng những điều người Tàu đã bịa đặt có tinh cách thóa mạ vị anh thư đáng kính đó của dân ta. Chuyện kể rằng Lục Dận biết được Triệu Thị Trinh tuy anh dũng nhưng là con gái trẻ tuổi chưa chồng, có tính cả thẹn, nên cho tướng sĩ để trần truồng mà ra trận, Triệu Thị Trinh thấy vậy mắc cỡ, chưa đánh đã thua. Chuyện lại kể rằng chết đi Triệu nương được Thượng đế cho làm thần ôn dịch, vì thế quân lính Đông Ngô nhiều người mắc bệnh, Lục Dận cho thợ đẽo nhiều ngọc hành bằng gỗ đem treo tại doanh trại để trấn áp, nhờ vậy mà bệnh dịch chấm dứt. Mãi đến đời Lê Cảnh Hưng, năm Giáp ngọ (1774), Chủ bạ bộ Lễ là Hồng Đô Chư Cát Thi, khi hiệu đính Việt Điện U Linh Tập, còn phê phán việc thờ linga ở miếu Triệu nuơng là việc làm sai trái, là thói tục xấu xa của dân chúng Cửu Chân. Sử cũ nước ta sau ngày Đinh Bộ Lĩnh dựng cờ độc lập năm 968 vẫn theo đuôi người Tàu gọi Triệu nương là con mụ Triệu (Triệu Ẩu), gọi đạo quân Lâm Ấp tràn vào Giao Châu năm 248 là quân giặc cướp.
Sự thực thì binh lính bộ hạ của anh em họ Triệu là nghĩa quân Cửu Chân nổi dậy chống ách đô hộ của người Tàu, binh lính Lâm Ấp là quân lính Tượng Lâm kéo ra giải phóng dân Giao Châu thoát khỏi sự thống trị của dân Hán. Hai đạo quân đó hoạt động cùng thời điểm (năm 248), theo đuổi cùng mục đích (chống Đông Ngô). Hai đạo quân đó là đồng minh với nhau, và đều là kẻ thù của người Tàu, y hệt 200 năm trưóc (năm 40 sau Công nguyên) Hai Bà Trưng khởi binh ở Giao Chỉ thì dân Cửu Chân tham gia và dân Nhật Nam, Hợp Phố hưởng ứng. Hơn nữa, vào thời bấy giờ, cư dân Tượng Lâm nào có gì khác biệt với cư dân Cửu Chân, Giao Chỉ. Họ đều là hậu duệ đám di dân đợt II người Môn Nam Á (Bách Việt) tiến vào bờ biển bắc bộ Đông Dương vài nghìn năm trước. Có khác biệt chăng là cư dân Tượng Lâm sau khi độc lập đã trở lại với văn hóa Ấn Độ, còn cư dân Giao Châu đang bị người Tàu đô hộ thì bắt đầu thấm nhuần văn hóa Trung Hoa, và dần dà xa rời bản chất Tiền Việt vốn chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn độ. Như vậy, quân Lâm Ấp có là quân giặc cướp thì là giặc cướp đối với người Tàu. Đối với cư dân bản địa các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, vạn nhất quân Lâm Ấp đuổi được người Tàu ra khỏi bờ cõi, thì cuộc tiến quân của Lâm Ấp năm 248, hay các cuộc tiến công về sau này của Chiêm Thành, là những nổ lực chống đối ngoại xâm, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, để tiến tới mục tiêu hình thành một quốc gia càng ngày càng rộng lớn và hùng mạnh hơn.
Cùng một góc nhìn như vậy, các đồ vật thờ tự có hình dạng sinh thực khí trong miếu thờ Triệu nương phải được xem là biểu trưng của hiện tượng bảo lưu văn hóa của người Việt cổ còn rơi rớt trong các vùng chưa Hán hóa đậm đà. Điều này làm chúng ta liên tưởng tới bánh chưng bánh tét trong các ngày tư ngày Tết. Chuyện dân gian kể rằng ngày xửa ngày xưa, vào đời Hùng vương thứ 6, ông con vua Lang Liệu dùng gạo nếp chế ra bánh chưng bánh giầy đem dâng lên vua cha, vua cha nếm thử thấy ngon hơn tất cả mọi thứ sơn hào hải vị do các ông con vua khác dâng lên nên quyết định truyền ngôi cho Lang Liệu. Có điều là ngày nay bánh chưng chỉ có ở miền Bắc, còn tại miền Trung và miền Nam chỉ có bánh tét chứ không có bánh chưng, ngoại trừ ở các nơi thị tứ lớn như Huế và Sài Gòn thì có cả hai thứ bánh chưng và bánh tét. Nếu danh từ Mệ nàng vẫn còn được sử dụng trong địa bàn sinh hoạt của người Mường để chỉ con gái quí tộc, thì ở vùng người Kinh sinh sống, Mệ nàng thời Hùng vương đã theo trào lưu Hán hóa mà biến thành Mỵ nương như đang thấy trong câu chuyện cổ về mối tình Trương Chi với Mỵ Nương, con vua Hùng vương thứ 18. Cũng cùng chung một quy luật diễn biến, cái bánh tét có hình dạng sinh thực khí liên hệ với tục thờ linga của người Việt cổ mới đúng là cái bánh do Lang Liệu sáng chế dâng lên vua Hùng vương thứ 6. Cái bánh tét cổ truyền đó ngày nay còn tồn tại ở miền Trung, nơi còn bảo lưu được ít nhiều bản sắc văn hóa cũ, rồi từ đó tràn vào miền Nam theo chân các đoàn người Việt thiên di vào nam tìm đất sống. Tại các vùng chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa phương bắc, bánh tét có hình dạng sinh thực khí thuở ban sơ đã biến đổi thành bánh chưng hình vuông theo quan niệm trời tròn đất vuông của người Tàu.
Một số mắt xích đã đuợc nối lại. Điều này quả tình đã giúp chúng ta nhiều nhận thức mới mẻ để soi sáng quá khứ của dân tộc, theo góc nhìn và thế đứng của chính chúng ta, chứ không phải cứ lẽo đẽo theo đuôi người ngoài.
to have a full chain: A Vietnamese ancient story MINH VŨ HỒ VĂN CHÂM
Khu Tuc Citadel, Trieu Nuong Shrine, and the story of "banh chung", "banh tet" (two kinds of glutinous rice cakes) in Viet history of ancient time had some relationships that we need to put them together to have a full picture of the vestiges.
* In the South side of Huong river, opposite to Kim Long, Huong Thuy District, Thua Thien; there is a citadel called "Thanh Loi Nguyet Bieu" which belonged to the Cham people under the Tran Dynasty. Thanh Loi Nguyet Bieu (citadel) today is the trace of what called "Khu Tuc Military Post" originally. Khu Tuc connected two districts Tay Quyen and Tuong Lam (North side of Central VN now) under the Han Dynasty in China. Since Tuong Lam became independent, Khu Tuc turned to an outpost to protect Tay Quyen which was the capital town of Nhat Nam District. In 248 A.C., Khu Tuc Post was overrun by the Cham (Lam Ap) army, the same situation as Cu Phong and Luy Lau Citadels in Cuu Chan and Giao Chi Districts (Viet). Also in 248, Trieu Quoc Dat revolted in Trung Son, Cuu Chan (now is Nong Cong, Thanh Hoa). After only a few months, he got a severe illness and died; his younger sister named Trieu Thi Trinh was enthroned to replace his brother to lead the resistance. She drove an elephan to defeat the Chinese troops many times. The enemies were fearful to call her "Le Hai Ba Vuong" (a female King) and our soldiers called her "Nhuy Kieu Tuong Quan" (a female General). After the Cham troops withdrew from Cuu Chan, her troops disintegrated and she committed suicide...
(For a full story, please refer to the original in Vietnamese).
VPS
Những mắt xích cần nối lại
(Thành Khu Túc, miếu Triệu nương, và câu chuyện bánh chưng, bánh tét)
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Có những lúc tình cờ bắt gặp một số mắt xích han rỉ, lẻ loi, rời rạc, trong kho phế liệu bỏ quên lâu ngày, chúng ta có thể vô tình lướt nhìn một cách thờ ơ, không mảy may lưu tâm, không mảy may băn khoăn, thắc mắc, rằng những mắt xích đó xuất xứ từ đâu ra, nguyên là những vật dụng gì, có liên quan với nhau như thế nào, và nhất là có chứa đựng chút ý nghĩa hoặc chút giá trị thực tiển nào không. Nếu những mắt xích đó lại được phủ những lớp sơn khác nhau, hoặc bị méo mó, bị đổi dạng thay hình, thì chúng ta lại càng không tài nào tưởng tượng được mối liên hệ trước đây giữa chúng với nhau, và chúng ta cứ điềm nhiên bỏ mặc chúng chìm vào quên lãng.
Nhưng nếu chúng ta tinh tế một chút, nhẫn nại một chút, và nhất là có lòng tìm hiểu cội nguồn một chút, chúng ta cạo sạch các rét xỉ, tẩy xóa các sơn phết, uốn nắn lại hình dạng, chúng ta sẽ nhận ra sự thuần nhất của chất liệu cấu thành, sự tương đồng của mục tiêu sử dụng. Đem nối các mắt xích lại với nhau, chúng ta có được một sợi xích hoàn chỉnh, vốn là một bộ phận thiết yếu của một cỗ máy chúng ta đã từng biết qua.
Hôm nay, chúng ta nhặt được 3 mắt xích như vậy: thành Khu Túc, miếu Triệu nương, và câu chuyện bánh chưng bánh tét. Đó là những mắt xích cần nối lại.
Trên bờ nam sông Hương, trong địa phận thôn Nguyệt Biều, xã Thủy Biều, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế, đối diện với Kim Long huyện Hương Trà bên bờ bắc, ngày nay còn di tích một toà thành cổ gọi là Thành Lồi. Lồi là danh từ dùng để chỉ người Chàm. Dân chúng địa phương truyền tụng rằng vào cuối đời Trần, quân Chiêm Thành xâm phạm Hóa Châu, đóng quân tại đó, sửa soạn giao chiến với quân Đại Việt án ngữ bên bờ bắc. Thay vì xua quân đánh nhau, tướng chỉ huy hai bên giao ước thi nhau đắp thành. Trong một đêm, bên nào đắp thánh cao và dài hơn thì thắng, bên kia phải rút quân lui. Trong lúc quân Chiêm Thành đắp thành thật bằng đất và gạch đá thì quân Đại Việt đắp thành giả bằng tre và cót. Đương nhiên là thành bên Đại Việt cao dài hơn, và quân Chiêm Thành tưởng rằng quân Đại Việt đông lắm nên sợ hãi y ước rút về. Lời truyền tụng này không đúng với thực tế lịch sử, chẳng qua phản ánh tâm lý của dân ta khinh thị người Chiêm Thành ngây ngô mà thôi. Thật vậy, vào đời Trần, Đoàn Nhữ Hài phải vất vã lắm mới đuổi được quân Chiêm Thành ra khỏi Hóa Châu, và thành Lồi Nguyệt Biều ngày nay là di tích của thành Khu Túc thời Bắc thuộc.
Vào đời Hán, Khu Túc là một đồn nhỏ trên đường nối liền hai huyện Tây Quyển và Tượng Lâm. Từ khi Tượng Lâm độc lập, Khu Túc trở thành tiền đồn bảo vệ thành Tây Quyển (ở phía bắc Huế) là quận lỵ của quận Nhật Nam. Đến thời Tam Quốc, Trung Hoa loạn lạc, Giao Châu hết thuộc Lưu Biểu lại về tay Tôn Quyền. Quân Lâm Ấp thừa cơ, năm 248 sau Công nguyên, tiến đánh đồn Khu Túc rồi vượt sông chiếm thành Tây Quyển, và thừa thắng kéo ra cướp phá Cửu Chân và Giao Chỉ, san bằng hai quận thành Cư Phong và Luy Lâu. Cũng trong năm 248, ở vùng Trung Sơn, quận Cửu Chân, nay là huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, Triệu Quốc Đạt cùng bọn Vương Thiện, Lãnh Long, Bao Thúc, Tốn Thận, dựng cờ khởi nghĩa, chống lại Đông Ngô. Nhưng được mấy tháng thì Triệu Quốc Đạt bị bạo bệnh chết. Nghĩa quân bèn tôn em gái Triệu Quốc Đạt là Triệu Thị Trinh lên thay anh. Triệu Thị Trinh thường cưỡi voi đánh thắng quân Ngô nhiều trận. Quân giặc sợ hãi, gọi bà là Lệ Hải Bà vương. Bà là người tuổi trẻ lại có nhan sắc, cầm quân xung trận, dũng lược hơn người, nên quân sĩ tôn vinh danh hiệu bà là Nhụy Kiều tướng quân:
Kiều kiều nữ tướng quân
Anh danh động phong trần.
Năng hàn Ngô tử đảm
Phiêu dục động nhân tâm.
(Bà nữ tướng xinh đẹp, Tiếng tăm chấn động phong trần. Có thể làm mất vía quân Ngô, Sắc đẹp lại xúc động lòng người).
Biến loạn ở Giao Châu làm chấn động triều đình Đông Ngô. Tôn Quyền bèn phong Lục Dận làm Giao Châu Thứ sử, An Nam Hiệu úy, đem đại quân từ Kiến Nghiệp sang ứng phó. Lâm Ấp phải lui binh, nhưng vẫn giữ thành Khu Túc. Từ năm 248, Lâm Ấp sửa sang Khu Túc thành căn cứ quân sự hùng hậu, và đến triều vua Phạm Văn thì xây lại bằng gạch với qui mô to lớn như ngày nay còn thấy ở di tích Nguyệt Biều. Cũng trong năm 248, sau khi Lâm Ấp lui binh, nghĩa quân của Triệu Thị Trinh cô thế phải tan rã. Triệu Thị Trinh cắt cổ tự tử. Dân chúng Cửu Chân thương cảm lập đền thờ bà. Thuở bấy giờ, dân chúng Cửu Chân còn giữ nhiều tập tục của người Việt cổ nên trong miếu thờ Triệu nương có bày nhiều đồ thờ có hình dạng dương vật, liên hệ đến tục thờ linga. Những đồ tự khí này mãi đến đời Trần vẫn còn được nhắc nhở tới (Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên).
Tuy nhiên, vì càng ngày càng Hán hóa đậm dà nên người Việt về sau lại theo đuôi người Tàu truyền tụng những điều người Tàu đã bịa đặt có tinh cách thóa mạ vị anh thư đáng kính đó của dân ta. Chuyện kể rằng Lục Dận biết được Triệu Thị Trinh tuy anh dũng nhưng là con gái trẻ tuổi chưa chồng, có tính cả thẹn, nên cho tướng sĩ để trần truồng mà ra trận, Triệu Thị Trinh thấy vậy mắc cỡ, chưa đánh đã thua. Chuyện lại kể rằng chết đi Triệu nương được Thượng đế cho làm thần ôn dịch, vì thế quân lính Đông Ngô nhiều người mắc bệnh, Lục Dận cho thợ đẽo nhiều ngọc hành bằng gỗ đem treo tại doanh trại để trấn áp, nhờ vậy mà bệnh dịch chấm dứt. Mãi đến đời Lê Cảnh Hưng, năm Giáp ngọ (1774), Chủ bạ bộ Lễ là Hồng Đô Chư Cát Thi, khi hiệu đính Việt Điện U Linh Tập, còn phê phán việc thờ linga ở miếu Triệu nuơng là việc làm sai trái, là thói tục xấu xa của dân chúng Cửu Chân. Sử cũ nước ta sau ngày Đinh Bộ Lĩnh dựng cờ độc lập năm 968 vẫn theo đuôi người Tàu gọi Triệu nương là con mụ Triệu (Triệu Ẩu), gọi đạo quân Lâm Ấp tràn vào Giao Châu năm 248 là quân giặc cướp.
Sự thực thì binh lính bộ hạ của anh em họ Triệu là nghĩa quân Cửu Chân nổi dậy chống ách đô hộ của người Tàu, binh lính Lâm Ấp là quân lính Tượng Lâm kéo ra giải phóng dân Giao Châu thoát khỏi sự thống trị của dân Hán. Hai đạo quân đó hoạt động cùng thời điểm (năm 248), theo đuổi cùng mục đích (chống Đông Ngô). Hai đạo quân đó là đồng minh với nhau, và đều là kẻ thù của người Tàu, y hệt 200 năm trưóc (năm 40 sau Công nguyên) Hai Bà Trưng khởi binh ở Giao Chỉ thì dân Cửu Chân tham gia và dân Nhật Nam, Hợp Phố hưởng ứng. Hơn nữa, vào thời bấy giờ, cư dân Tượng Lâm nào có gì khác biệt với cư dân Cửu Chân, Giao Chỉ. Họ đều là hậu duệ đám di dân đợt II người Môn Nam Á (Bách Việt) tiến vào bờ biển bắc bộ Đông Dương vài nghìn năm trước. Có khác biệt chăng là cư dân Tượng Lâm sau khi độc lập đã trở lại với văn hóa Ấn Độ, còn cư dân Giao Châu đang bị người Tàu đô hộ thì bắt đầu thấm nhuần văn hóa Trung Hoa, và dần dà xa rời bản chất Tiền Việt vốn chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn độ. Như vậy, quân Lâm Ấp có là quân giặc cướp thì là giặc cướp đối với người Tàu. Đối với cư dân bản địa các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, vạn nhất quân Lâm Ấp đuổi được người Tàu ra khỏi bờ cõi, thì cuộc tiến quân của Lâm Ấp năm 248, hay các cuộc tiến công về sau này của Chiêm Thành, là những nổ lực chống đối ngoại xâm, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, để tiến tới mục tiêu hình thành một quốc gia càng ngày càng rộng lớn và hùng mạnh hơn.
Cùng một góc nhìn như vậy, các đồ vật thờ tự có hình dạng sinh thực khí trong miếu thờ Triệu nương phải được xem là biểu trưng của hiện tượng bảo lưu văn hóa của người Việt cổ còn rơi rớt trong các vùng chưa Hán hóa đậm đà. Điều này làm chúng ta liên tưởng tới bánh chưng bánh tét trong các ngày tư ngày Tết. Chuyện dân gian kể rằng ngày xửa ngày xưa, vào đời Hùng vương thứ 6, ông con vua Lang Liệu dùng gạo nếp chế ra bánh chưng bánh giầy đem dâng lên vua cha, vua cha nếm thử thấy ngon hơn tất cả mọi thứ sơn hào hải vị do các ông con vua khác dâng lên nên quyết định truyền ngôi cho Lang Liệu. Có điều là ngày nay bánh chưng chỉ có ở miền Bắc, còn tại miền Trung và miền Nam chỉ có bánh tét chứ không có bánh chưng, ngoại trừ ở các nơi thị tứ lớn như Huế và Sài Gòn thì có cả hai thứ bánh chưng và bánh tét. Nếu danh từ Mệ nàng vẫn còn được sử dụng trong địa bàn sinh hoạt của người Mường để chỉ con gái quí tộc, thì ở vùng người Kinh sinh sống, Mệ nàng thời Hùng vương đã theo trào lưu Hán hóa mà biến thành Mỵ nương như đang thấy trong câu chuyện cổ về mối tình Trương Chi với Mỵ Nương, con vua Hùng vương thứ 18. Cũng cùng chung một quy luật diễn biến, cái bánh tét có hình dạng sinh thực khí liên hệ với tục thờ linga của người Việt cổ mới đúng là cái bánh do Lang Liệu sáng chế dâng lên vua Hùng vương thứ 6. Cái bánh tét cổ truyền đó ngày nay còn tồn tại ở miền Trung, nơi còn bảo lưu được ít nhiều bản sắc văn hóa cũ, rồi từ đó tràn vào miền Nam theo chân các đoàn người Việt thiên di vào nam tìm đất sống. Tại các vùng chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa phương bắc, bánh tét có hình dạng sinh thực khí thuở ban sơ đã biến đổi thành bánh chưng hình vuông theo quan niệm trời tròn đất vuông của người Tàu.
Một số mắt xích đã đuợc nối lại. Điều này quả tình đã giúp chúng ta nhiều nhận thức mới mẻ để soi sáng quá khứ của dân tộc, theo góc nhìn và thế đứng của chính chúng ta, chứ không phải cứ lẽo đẽo theo đuôi người ngoài.
NGƯỜI GỌI GIÓ * MƯA KHUYA
MƯA KHUYA
Người Gọi Gió
(1) Đây là lần đầu tiên con bé nhận làm phù dâu. Con bé vốn nhát. Ngồi
trong "khu nhà lá" trong lớp thì phá phách không thua ai, nhưng bị đẩy ra trước
đám đông là con bé run như cầy sấy, nước mắt chạy quanh, chỉ chực khóc.
Mà đi làm phù dâu thì làm sao tránh khỏi chuyện chường mặt ra. Nhà Hạnh
Diệp lại ở trong cái khu Bàn Cờ, ở cái khu mà chỗ nào cũng thấy con nít. Cứ
nghĩ đến chuyện phải đi giầy cao gót, cúi mặt "biểu diễn" qua cái đám cả
trăm đứa con nít mắt mở thao láo, miệng đồng ca :" cô dâu chú rể đội rế
lên đầụ.."là con bé muốn xỉu.
Cũng tại gã. Cũng tại gã nên mới ra cớ sự. Chả là gã cứ đi biền biệt. Con
bé vẫn tưởng là tại cái việc của gã phải như vậy, tại cái số của gã phải
như vậy. Con bé chỉ buồn. Cho đến tháng trước, con bé nghe lén từ "tai mắt"
của con bé trong sở gã là có trống một chỗ làm việc với mấy ông nhà
thầu. Việc không phải đi xa. Việc cũng "chấm mút" được, vì ba ông thầu nổi
tiếng là "biết điều". Cái "ông" phó giám đốc chỗ này lại là bạn "nối khố"
với gã. Con bé đã mừng trong bụng, chắc mẩm ngôi sao Thiên Mã đã ..tắt
trong cung Thân ở lá số tử vi của gã. Gã được gọi khẩn cấp về. Nhưng chỉ
một tuần sau là gã dấu con bé, dấu tên bạn "nối khố" của gã, nộp đơn
tình nguyên "ra biên cương" trở lại. Con bé tức đến phát khóc. Con bé nhận
lời HD đi làm phù dâu ngay lập tức để ...trả thù gã.
(2) Đám rước dâu dời nhà HD vào lúc 2 giờ trưa vì chỉ có giờ đó là giờ tốt.
Mấy tuần nay không mưa, trời nóng hầm hập. Chú rể bị nhét vào băng sau
với cô dâu và hai cô phù dâu coi bộ hơi bực. Đoàn xe đi một quãng thì bị lạc
mất cái xe có mấy ông già đi đầu. HD bắt đầu ...bực. Cái bực lây qua chú
rể ngay vì hai vợ chồng...y ùhợp tâm đầu. Thế là không khí trong xe ... nóng hơn. Con bé phải khều nhẹ vào khủyu tay HD nhắc khéo. Phía băng trước, 2 ông
phù rể cũng quay lại "lái" chú rể qua câu chuyện khác. Con bé thấy giận
mình hết sức. Con bé vẫn ghét ba cái lễ lạc vô duyên này. Rồi còn vụ "bị
mất duyên" vì đi phù dâu như chi Y dọa. Cũng tại gã. Cũng tại gã nên mới ra
cái nông nỗi này.
Suốt từ hôm gã đi trở lại đến nay con bé không thèm trả lời thư gã. Gã
gửi về nhà cho con bé mà không thấy tăm hơi gì nên gửi tới Vân Khanh
"nhờ chuyển". Con bé chỉ coi xong rồi xếp vào chiếc hộp biscuit. Cho đáng đời
gã. Cho gã biết là con bé cũng dữ như ...lời đồn.
(3) Thực ra cũng ít có người mời con bé đi làm phù dâu. Lý do giản dị là
người phù dâu phải "xí" hớn cô dâu. Người phù dâu chỉ đóng vai "câm"
múa may làm cảnh cho cô dâu hát. Người phù dâu chỉ cúi đầu làm cái
"nền" tối cho cô dâu lộng lẫy sáng rực lên. Mà "kiếm cô dâu nào đẹp hơn
bé thì là ...mission impossible", gã vẫn "nịnh" con bé như vậy. "Bé mà làm phù
dâu thì không ai "nghía" cô dâu mà chỉ "nghía" bé", gã còn "đá" thêm
thê'nữa.
HD mời con bé làm phù dâu cho đám cưới là có nhiều lý do. Chả là cả nhà
HD ai cũng "chấm" con bé cho anh Bảo, anh ruột của HD. Anh Bảo coi bộ cũng chiếm được lòng tin của bố. Chỉ có anh Bảo và tiểu đội em gái của anh là
được bố cho phép dẫn con bé đi chơi tối. HD muốn nhân dịp này "tạo cơ hội"
cho anh Bảo...thân hơn với con bé. HD cũng khôn ngoan mượn dịp này, "nửa
nạc nửa mỡ" báo cho các hào kiệt trong "cái đuôi" dài thậm thượt lẽo đẽo đi
theo con bé biết là "hoa đã có chủ", là ..."muốn sống thì đi chỗ khác chơi".
(4) Trong thư cuối tuần trước, gã kể chuyện trồng trụ điện cho đường dây cao
thế dẫn vào cái nhà máy gã đang xây. Gã phải mướn những toán người
Thượng làm việc, vì chỉ có người Thượng mới leo núi mang đồ lên được chân
tru. Người Thượng đòi tiền mỗi ngày. Người Thượng lại không chịu chia chác.
Nói nôm na là ngày nào mấy người trưởng toán của gã cũng phải lo đổi
tiền lẻ, rồi vác cái bao tải tiền trên vai.
Trong thư trước, gã còn kể chuyện người Nhật mời pháp sư từ Nhật qua cúng
ban phép cho cái "turbine". Gã còn kể chuyện "ngôn ngữ quốc tế" tại nơi gã
ở. Chả là hãng thầu Nhật ráp máy, theo giao kèo, phải "truyền nghề",
huấn luyện thợ người mình. Cả nhà máy chỗ nào cũng cặp kè từng cặp
Nhật-Việt. Người Nhật lại không"hợp" tiếng Anh, nên trong túi chú lùn nào
cũng có cuốn tự điển Nhật-Anh bỏ túi. Hở ra là móc tự điển chỉ. Gã cũng
nói nhà máy sắp "nghiệm thu", gã làm việc như trâu, làm việc túi bụi, làm
việc không kịp thở. Gã lại làm con bé bực. Tật của gã đúng là "thân lừa ưa
...nặng". Ưa nặng thì "thư kệ" gã. Nhưng ưa nặng quá đến nỗi ít ...nhớ đến con
bé thì không thể tha thứ được.
(5) Trong bữa tiệc buổi tối con bé bị xếp giữa hai anh chàng phù rể. Thực ra
thì cô dâu chú rể đã khéo léo xếp chỗ ngồi theo cặp, một phù dâu bên
một phù rể. Nhưng cái anh chàng D quên phứt cái cô phù dâu ngồi phía trái
anh, mà chỉ quay qua phải hỏi chuyện "ké" với con bé. Kết quả là con bé
chỉ lo trả lời, chẳng ăn được gì. Con bé lại bị mỏi cổ. Con bé bực. Cũng tại
gã. Trăm sự cũng tại gã.
Tiệc nửa chừng thì anh Bảo thay mặt họ nhà gái, chạy tới chạy lui mời khách,
xong đứng lỳ đằng sau con bé. Con bé lại càng mỏi cổ hơn. Mà nói chuyện
với anh Bảo còn tự nhiên hơn nói chuyện với hai chàng phù rể gầm gừ nhau
nay. Anh Bảo tính kéo con bé qua bàn anh thì cả bàn phản đối um sùm. Các
bàn bên quay qua nhìn. Con bé đỏ mặt rồi ...bực. Cũng tại gã. Đầu đuôi là
tại gã.
(6) Gã viết hồi này gã ngủ đêm ở Dalat thường. Gã cũng viết gã chỉ ở
khách sạn Duy Tân, ngay cái phòng có kỳ con bé đã ở. Gã còn nhớ từng chi
tiết nhỏ kỳ gia đình con bé lên. Gã nhớ con bé co ro bên bát phở xe bốc
khói trên đầu dốc. Gã nhớ mùi thơm những trái chuối Nàng Hương trong tay
con bé cái buổi chiều đi chợ. Gã nhớ cà phê Tùng đen và sánh hơn khi đi với
con bé. Gã nhớ những cơn mưa nhẹ. Gã nhớ những chiều đút tay trong áo
khoác leo dốc với con bé trong mưa, vừa leo vừa khúc khích cười.
Gã viết hồi này gã nhớ những cơn mưa Saigon. Gã nhớ những đêm mưa ngồi
chờ con bé trước hội Việt Mỹ. Gã nhớ những đêm mưa đi ăn vội bánh cuốn
Tây Hồ với con bé trước khi đưa con bé về trước 10 giờ. Gã nhớ những cơn
mưa khuya. Gã nhớ mái tóc của con bé trong cơn mưa khuya. Gã nhớ chiếc bàn tay nhỏ và ấm của con bé trong cơn mưa khuya. Gã nhớ hơi thở thơm và ấm
của con bé trong cơn mưa khuya.
(7) Khi món tráng miệng vừa dọn ra thì cô hầu bàn cầm mảnh giấy tới hỏi
nhỏ chú rể, xong chạy lại đưa cho con bé. Mảnh giấy có chữ viết của gã.
Mảnh giấy còn ấm mùi thuốc Camel gã vẫn hút. Con bé nhìn ra cửa sổ. Cơn
mưa đã đến từ lúc nào. Ô thì ra cơn mưa đã đến từ lúc nào.
Khi người khách đầu tiên đứng lên thì con bé đã ra tới cầu thang. Con bé
vừa chạy xuống thang vừa tháo tung mái tóc cho xõa xuống sau lưng. Con bé
vẫn nắm chặt mảnh giấy của gã trong tay. Mảnh giấy viết: "Đi ăn bánh
cuốn Tây Hồ không bé ?".
Người Gọi Gió
(Trích Serie Cầu Gió)
Người Gọi Gió
(1) Đây là lần đầu tiên con bé nhận làm phù dâu. Con bé vốn nhát. Ngồi
trong "khu nhà lá" trong lớp thì phá phách không thua ai, nhưng bị đẩy ra trước
đám đông là con bé run như cầy sấy, nước mắt chạy quanh, chỉ chực khóc.
Mà đi làm phù dâu thì làm sao tránh khỏi chuyện chường mặt ra. Nhà Hạnh
Diệp lại ở trong cái khu Bàn Cờ, ở cái khu mà chỗ nào cũng thấy con nít. Cứ
nghĩ đến chuyện phải đi giầy cao gót, cúi mặt "biểu diễn" qua cái đám cả
trăm đứa con nít mắt mở thao láo, miệng đồng ca :" cô dâu chú rể đội rế
lên đầụ.."là con bé muốn xỉu.
Cũng tại gã. Cũng tại gã nên mới ra cớ sự. Chả là gã cứ đi biền biệt. Con
bé vẫn tưởng là tại cái việc của gã phải như vậy, tại cái số của gã phải
như vậy. Con bé chỉ buồn. Cho đến tháng trước, con bé nghe lén từ "tai mắt"
của con bé trong sở gã là có trống một chỗ làm việc với mấy ông nhà
thầu. Việc không phải đi xa. Việc cũng "chấm mút" được, vì ba ông thầu nổi
tiếng là "biết điều". Cái "ông" phó giám đốc chỗ này lại là bạn "nối khố"
với gã. Con bé đã mừng trong bụng, chắc mẩm ngôi sao Thiên Mã đã ..tắt
trong cung Thân ở lá số tử vi của gã. Gã được gọi khẩn cấp về. Nhưng chỉ
một tuần sau là gã dấu con bé, dấu tên bạn "nối khố" của gã, nộp đơn
tình nguyên "ra biên cương" trở lại. Con bé tức đến phát khóc. Con bé nhận
lời HD đi làm phù dâu ngay lập tức để ...trả thù gã.
(2) Đám rước dâu dời nhà HD vào lúc 2 giờ trưa vì chỉ có giờ đó là giờ tốt.
Mấy tuần nay không mưa, trời nóng hầm hập. Chú rể bị nhét vào băng sau
với cô dâu và hai cô phù dâu coi bộ hơi bực. Đoàn xe đi một quãng thì bị lạc
mất cái xe có mấy ông già đi đầu. HD bắt đầu ...bực. Cái bực lây qua chú
rể ngay vì hai vợ chồng...y ùhợp tâm đầu. Thế là không khí trong xe ... nóng hơn. Con bé phải khều nhẹ vào khủyu tay HD nhắc khéo. Phía băng trước, 2 ông
phù rể cũng quay lại "lái" chú rể qua câu chuyện khác. Con bé thấy giận
mình hết sức. Con bé vẫn ghét ba cái lễ lạc vô duyên này. Rồi còn vụ "bị
mất duyên" vì đi phù dâu như chi Y dọa. Cũng tại gã. Cũng tại gã nên mới ra
cái nông nỗi này.
Suốt từ hôm gã đi trở lại đến nay con bé không thèm trả lời thư gã. Gã
gửi về nhà cho con bé mà không thấy tăm hơi gì nên gửi tới Vân Khanh
"nhờ chuyển". Con bé chỉ coi xong rồi xếp vào chiếc hộp biscuit. Cho đáng đời
gã. Cho gã biết là con bé cũng dữ như ...lời đồn.
(3) Thực ra cũng ít có người mời con bé đi làm phù dâu. Lý do giản dị là
người phù dâu phải "xí" hớn cô dâu. Người phù dâu chỉ đóng vai "câm"
múa may làm cảnh cho cô dâu hát. Người phù dâu chỉ cúi đầu làm cái
"nền" tối cho cô dâu lộng lẫy sáng rực lên. Mà "kiếm cô dâu nào đẹp hơn
bé thì là ...mission impossible", gã vẫn "nịnh" con bé như vậy. "Bé mà làm phù
dâu thì không ai "nghía" cô dâu mà chỉ "nghía" bé", gã còn "đá" thêm
thê'nữa.
HD mời con bé làm phù dâu cho đám cưới là có nhiều lý do. Chả là cả nhà
HD ai cũng "chấm" con bé cho anh Bảo, anh ruột của HD. Anh Bảo coi bộ cũng chiếm được lòng tin của bố. Chỉ có anh Bảo và tiểu đội em gái của anh là
được bố cho phép dẫn con bé đi chơi tối. HD muốn nhân dịp này "tạo cơ hội"
cho anh Bảo...thân hơn với con bé. HD cũng khôn ngoan mượn dịp này, "nửa
nạc nửa mỡ" báo cho các hào kiệt trong "cái đuôi" dài thậm thượt lẽo đẽo đi
theo con bé biết là "hoa đã có chủ", là ..."muốn sống thì đi chỗ khác chơi".
(4) Trong thư cuối tuần trước, gã kể chuyện trồng trụ điện cho đường dây cao
thế dẫn vào cái nhà máy gã đang xây. Gã phải mướn những toán người
Thượng làm việc, vì chỉ có người Thượng mới leo núi mang đồ lên được chân
tru. Người Thượng đòi tiền mỗi ngày. Người Thượng lại không chịu chia chác.
Nói nôm na là ngày nào mấy người trưởng toán của gã cũng phải lo đổi
tiền lẻ, rồi vác cái bao tải tiền trên vai.
Trong thư trước, gã còn kể chuyện người Nhật mời pháp sư từ Nhật qua cúng
ban phép cho cái "turbine". Gã còn kể chuyện "ngôn ngữ quốc tế" tại nơi gã
ở. Chả là hãng thầu Nhật ráp máy, theo giao kèo, phải "truyền nghề",
huấn luyện thợ người mình. Cả nhà máy chỗ nào cũng cặp kè từng cặp
Nhật-Việt. Người Nhật lại không"hợp" tiếng Anh, nên trong túi chú lùn nào
cũng có cuốn tự điển Nhật-Anh bỏ túi. Hở ra là móc tự điển chỉ. Gã cũng
nói nhà máy sắp "nghiệm thu", gã làm việc như trâu, làm việc túi bụi, làm
việc không kịp thở. Gã lại làm con bé bực. Tật của gã đúng là "thân lừa ưa
...nặng". Ưa nặng thì "thư kệ" gã. Nhưng ưa nặng quá đến nỗi ít ...nhớ đến con
bé thì không thể tha thứ được.
(5) Trong bữa tiệc buổi tối con bé bị xếp giữa hai anh chàng phù rể. Thực ra
thì cô dâu chú rể đã khéo léo xếp chỗ ngồi theo cặp, một phù dâu bên
một phù rể. Nhưng cái anh chàng D quên phứt cái cô phù dâu ngồi phía trái
anh, mà chỉ quay qua phải hỏi chuyện "ké" với con bé. Kết quả là con bé
chỉ lo trả lời, chẳng ăn được gì. Con bé lại bị mỏi cổ. Con bé bực. Cũng tại
gã. Trăm sự cũng tại gã.
Tiệc nửa chừng thì anh Bảo thay mặt họ nhà gái, chạy tới chạy lui mời khách,
xong đứng lỳ đằng sau con bé. Con bé lại càng mỏi cổ hơn. Mà nói chuyện
với anh Bảo còn tự nhiên hơn nói chuyện với hai chàng phù rể gầm gừ nhau
nay. Anh Bảo tính kéo con bé qua bàn anh thì cả bàn phản đối um sùm. Các
bàn bên quay qua nhìn. Con bé đỏ mặt rồi ...bực. Cũng tại gã. Đầu đuôi là
tại gã.
(6) Gã viết hồi này gã ngủ đêm ở Dalat thường. Gã cũng viết gã chỉ ở
khách sạn Duy Tân, ngay cái phòng có kỳ con bé đã ở. Gã còn nhớ từng chi
tiết nhỏ kỳ gia đình con bé lên. Gã nhớ con bé co ro bên bát phở xe bốc
khói trên đầu dốc. Gã nhớ mùi thơm những trái chuối Nàng Hương trong tay
con bé cái buổi chiều đi chợ. Gã nhớ cà phê Tùng đen và sánh hơn khi đi với
con bé. Gã nhớ những cơn mưa nhẹ. Gã nhớ những chiều đút tay trong áo
khoác leo dốc với con bé trong mưa, vừa leo vừa khúc khích cười.
Gã viết hồi này gã nhớ những cơn mưa Saigon. Gã nhớ những đêm mưa ngồi
chờ con bé trước hội Việt Mỹ. Gã nhớ những đêm mưa đi ăn vội bánh cuốn
Tây Hồ với con bé trước khi đưa con bé về trước 10 giờ. Gã nhớ những cơn
mưa khuya. Gã nhớ mái tóc của con bé trong cơn mưa khuya. Gã nhớ chiếc bàn tay nhỏ và ấm của con bé trong cơn mưa khuya. Gã nhớ hơi thở thơm và ấm
của con bé trong cơn mưa khuya.
(7) Khi món tráng miệng vừa dọn ra thì cô hầu bàn cầm mảnh giấy tới hỏi
nhỏ chú rể, xong chạy lại đưa cho con bé. Mảnh giấy có chữ viết của gã.
Mảnh giấy còn ấm mùi thuốc Camel gã vẫn hút. Con bé nhìn ra cửa sổ. Cơn
mưa đã đến từ lúc nào. Ô thì ra cơn mưa đã đến từ lúc nào.
Khi người khách đầu tiên đứng lên thì con bé đã ra tới cầu thang. Con bé
vừa chạy xuống thang vừa tháo tung mái tóc cho xõa xuống sau lưng. Con bé
vẫn nắm chặt mảnh giấy của gã trong tay. Mảnh giấy viết: "Đi ăn bánh
cuốn Tây Hồ không bé ?".
Người Gọi Gió
(Trích Serie Cầu Gió)
LÂM CHƯƠNG * KHẮC KHẨU
Khắc Khẩu Y2K
Lâm Chương
--------------------------------------------------------------------------------
Thời gian cấp bách lắm rồi. Vấn nạn Y2K gần kề bên đít. Trước kia, có thể nhẩn nha chờ thời gian giải quyết. Bây giờ, nước sắp đến trôn, không lo sao được? Chính quyền địa phương lập lờ trấn an, nhưng không có một tuyên bố nào chính thức. Một số người am hiểu tình hình, thì khuyên nên đề phòng những bất trắc vào đầu năm hai ngàn.
Gia đình ông Lâm trú ngụ nơi miền Đông Bắc Hoa Kỳ. Mùa đông ở đây, nói theo nghĩa đen lẫn bóng, thật là tái tê rùng rợn. Nếu chưa điều chỉnh xong hai con số không cuốI cùng của năm hai ngàn trong máy điện toán, thì tai họa lớn không biết chừng nào mà kể. Mất điện, nhà không có sưởi, con người sẽ trở thành một khối thịt đông lạnh. Không phảI chết một cái rụp, mà chết từ từ mới đáng sợ. Hàng tháng, công ty điện lực gởi hóa đơn về, có kèm theo cái thông báo, rằng ngành điện đã giải quyết xong vấn nạn Y2K. Ngoài thông báo ấy, lại có thêm một tờ quảng cáo máy phát điện loại nhỏ, dùng cho gia đình. Sao lạ thế? Đã giải quyết xong Y2K, nghĩa là sự cung cấp điện không bị trục trặc. Ai cần mua máy phát điện làm chi? Có chuyện mờ ám gì đây? Ông Lâm cứ lẩn thẩn suy nghĩ, rồi nghi ngờ cái thông báo của công ty điện lực, và nghi ngờ luôn cả chính quyền địa phương cố tình ém nhẹm những bất trắc có thể xảy ra, để tránh tình trạng xao động xã hội trước năm hai ngàn. Nguy tới nơi rồi! Nếu không, tại sao có lệnh cho các chuyên viên điện toán toàn quốc phải túc trực tại nhiệm sở trong cái đêm giao thừa trọng đại, bắt đầu một thiên niên kỷ mới? Chuyện này không tin ai được hết. Ông cần phải bàn lại với vợ một phương cách cứu nguy gia đình. Và ông nóng lòng đi ra đi vào, chờ vợ đi làm về, để nói với bà những suy nghĩ của ông, cùng nhau lo liệu.
Lúc vợ vừa bước chân vô cửa, ông Lâm nói ngay: “Bà ngồi xuống đây, có chuyện này quan trọng lắm.”
Ông níu bà ngồi lại phòng khách.
Nhưng bà phủi tay ông, đi thẳng xuống bếp: “Chuyện gì thì chuyện. Cũng phải để tôi cất mấy thứ lỉnh kỉnh này đã.”
Ông Lâm ngồi chờ. Nghe tiếng bà la: “Trời ơi, một chậu chén dĩa chưa rửa. Thấy mà
khiếp. Cha con ông cứ bày ra đó. Tôi đi làm về mệt, còn phải rửa ráy dọn dẹp nữa sao?”
Ông nói vọng xuống bếp: “Thì để đó.”
“Rồi ai rửa?”
“Lúc nào rảnh... bà rửa cũng được. Đâu cần phải gấp. Bà lên đây ngay, tôi có chuyện này.”
“Sao cái nồi cơm trống không vậy? Chỉ vo gạo, cắm điện vào, là có ăn. Ông cũng không làm. Chắc chờ tôi nấu xong, dâng lên tới miệng?”
Đúng là đàn bà không biết lo xa. Chỉ nghĩ đến cái ăn cái uống. Ông Lâm cằn nhằn, đi xuống bếp. Ông ngồi, kéo thêm chiếc ghế cho bà.
“Lại đây.” Ông nói.
Bà đang rửa chén dĩa, khua rổn rảng: “Tôi vừa làm vừa nghe. Có gì nói đi.”
“Sắp có vấn đề lớn.”
“Trời sập hả?”
“Cũng gần như vậy.”
“Tôi chỉ sợ trời sập. Ngoài ra không có chuyện gì đáng sợ.”
“Sợ chết không?”
"Tôi đang mạnh khỏe. Mắc mớ chi mà sợ chết!”
“Già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà. Ai không biết lo xa, đều phải chết kỳ này.”
Bà mỉa: “Tiếc quá! Ở Mỹ không có Sơn Đông mãi võ, bán thuốc cao đơn hoàn tán phòng bệnh cho nam phụ lão ấu.”
Ông Lâm nổi nóng: “Bà đừng đi lạc đề. Chết thật đấy. Không đùa đâu. Bà biết vấn đề nan giải Y2K sắp tới không?”
“Y2K là cái quỷ quái gì?” Bà ngoảnh lại, ngó ông.
“Tiếng Mỹ là Year 2000.”
“Thì sao?”
“Người ta chưa giải quyết xong hai con số không cuối cùng của con số hai ngàn, trong máy điện toán.”
Bà đi lại, đặt bàn tay ướt lên trán ông, thăm dò.
Ông hất tay bà ra: “Làm cái gì kỳ vậy?”
“Nhiệt độ bình thường. Ông đâu mê sảng mà lo chuyện bao đồng thiên hạ. Người ta chưa giải quyết xong, thì có liên quan chi đến ông?”
Ông trừng mắt: “Sao không? Rắc rối lớn đấy. Cái đầu của bà quá đơn giản, không có tầm nhìn xa, nên không thấy trước được vấn đề nguy hiểm. Thời buổi văn minh hiện đại, bất cứ kỹ thuật gì, người ta cũng sử dụng điện toán, nếu chưa điều chỉnh xong, điều gì sẽ xảy ra? Này nhé, vào đúng cái giây phút giao thừa đầu tiên của năm hai ngàn, hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử của các nước tân tiến sẽ phóng ào ào lên không gian. Tất cả các loại vũ khí giết người hàng loạt, nổ bùng một lượt, thì quả đất này sẽ biến thành trái cầu lửa...”
“Thiên hạ chết hết phải không?”
“Đúng vậy.”
“Chết đông. Vui!” Bà cười.
Ông nạt: “Tôi đang nói chuyện đàng hoàng. Đừng giỡn mặt nghen!”
“Nguyên tử nổ, dù ông có đào lỗ mà chui, cũng chẳng thoát chết. Hãy bình tâm, sống tới đâu hay đó.”
“Còn nữa. Nếu bom nguyên tử không nổ, cũng chưa yên đâu.”
Bà nổi cáu: “Ông lẩm cẩm vừa thôi! Tôi đi làm, về nhà còn phải dọn dẹp, rửa ráy, nấu cơm, làm đồ ăn. Ông ở nhà chỉ việc đưa đón mấy đứa nhỏ đến trường. Thì giờ còn lại, ông ngồi hút thuốc phun khói đầy nhà, rồi tưởng tượng ra đủ điều chết chóc, bắt tôi phải nghe. Muốn hù tôi hả?”
“Hù? Tôi lo cho bà và mấy đứa nhỏ. Chứ cái thân già của tôi, kể chi?”
“Ông khỏi lo cho tôi. Còn mấy đứa nhỏ, để đó tôi lo.”
Ông Lâm đứng dậy, bỏ lên nhà trên, ném lại sự hằn học: “Tức chết! Chẳng khi nào bàn luận êm thắm được điều gì với bà. Có đầu thai lại kiếp sau, cũng đừng nhìn mặt nhau nữa nhé.”
Bà nói vói theo: “Sống chung một kiếp này, cũng ê chề quá rồi. Kiếp sau, vừa thoáng thấy mặt ông, tôi bỏ chạy.”
Ông ngồi tại phòng khách, gát chân lên bàn, hút thuốc. Nỗi bực mình chưa kịp lắng, tiếng bà vọng lên.
“Tôi nghe mùi khói rồi đấy. Làm ơn mở cửa sổ, vặn máy hút giùm. Một mình ông hút thuốc, cả nhà bị ung thư phổi.”
Ông la lớn: “Tất cả sẽ chết hết, trước khi phát bệnh ung thư.”
Lúc lâu sau. Bà đi lên phòng khách, nói:
“Mấy đứa nhỏ đang học bài. Ông với tôi, ăn cơm trước.”
Ông ngoảnh mặt làm ngơ, không ngó bà.
“Đàn ông gì mà hay hờn mát còn hơn đàn bà. Xuống ăn cơm đi.” Bà cười giả lả.
“Địa ngục!” Ông xẵng giọng.
Bà hỏi: “Tự nhiên nói địa ngục, là sao?”
“Bà biến gia đình này thành địa ngục.”
Bà cười hắc hắc: “Ở đâu có địa ngục, là ở đó có những mặt mày nhăn nhó, cằn nhằn.Tôi đang đem tiếng cười vào địa ngục của ông, nhưng ông khó quá. Ai chịu nổi? Bây giờ ăn cơm không?”
“Không! Tức gần trào máu họng. Ăn sao vô?”
Thế là bà ăn cơm một mình.
Cái kiểu trống đánh xuôi, kèn thổi ngược trong gia đình ông Lâm, thường xảy ra như cơm bữa. Hai vợ chồng nói chuyện với nhau một lúc, là có hục hặc. Sóng gió lại nổi lên. Ông Trời thật quái ác! Máng chi một con trâu, một con bò kéo chung chiếc xe đời nặng nhọc. Không lúc nào ông cảm thấy thoải mái. Lòng ông, hình như có một nỗi gì gút mắc chông gai, một bất toàn trong tình chồng vợ. Có lúc ông nghĩ đến giải pháp tách riêng ra, mỗi người đi một hướng, làm lại cuộc đời. Nhưng chuyện này đâu dễ. Chẳng phải bà và ông trì kéo chi nhau. Chính mấy đứa con ràng buộc hai người ở lại. Cứ nghĩ tới hoàn cảnh con ông phải sống trong sự lạnh nhạt, nhiều khi đến khắc nghiệt của cha ghẻ hoặc mẹ ghẻ, làm ông chùng lòng. Trên đời, đâu có ai rộng lượng tới mức thương con ghẻ như con ruột của mình? Thôi thì vì con, ông hy sinh một kiếp đời khốn nạn này. Nhiều khi ông tự hỏi, có phải ông mắc cái quả báo nào đó, từ kiếp trước? Chứ kiếp này, ông đâu phải thằng đâm cha chém chú. Cũng chưa từng chặt đầu lột da ai. Thế sao ông vẫn khổ? Ông tin vào thuyết luân hồi. Nghe đồn ở California, có cái HộI Huyền Bí. Một số hội viên có khả năng huệ nhãn, thấy được tiền kiếp. Ông tìm đến, nhờ họ giúp ông, soi rọi lại cái quá khứ tội lỗi của mình. Pháp môn nhìn ngược về quá khứ, được đặt tên là Soi kiếp. Sau khi Soi Kiếp, họ cho biết, kiếp xưa vợ chồng ông là hai kẻ thù. Mối thù chưa thanh toán xong, thì mãn phần vì tuổi già. Đầu thai lại kiếp này, cả hai cũng quyết tìm đến nhau, tiếp tục ăn thua đủ. Họ khuyên, ông nên xóa bỏ mối thù truyền kiếp ấy đi, để mà hòa hoãn sống với nhau.
Về nhà, ông Lâm thuật cho vợ nghe. Rồi nói: “Thôi. Tôi mệt mỏi lắm rồi. Tôi chịu thua bà. Tôi xin đầu hàng vô điều kiện.”
Bà bảo: “Từ lâu, tôi đã treo miễn chiến bài. Nhưng ông cứ khiêu chiến mãi.”
“Tôi khiêu chiến thế nào?”
“Ông nói những lời mắng nhiếc. Trút lên đầu tôi bao nhiêu oan khiên tiền kiếp.”
“Tính tình bà ngang bướng. Tôi muốn tu theo lục hạnh Bồ Tát, cắn chữ nhẫn giữa hai hàm răng mà sống với bà. Nhưng có lúc dằn lòng không được, cũng phải chắp tay xin phép Phật, cho con nghỉ tu năm phút. Kiếp này, tôi không thành chánh quả, cũng tại bà cản trở.”
Bà xách mé: “Trời ơi! Ông mà tu? Không khéo thiên hạ thành Phật cả rồi, ông còn làm ác tăng.”
“Tôi lạy bà!”
“Tôi cũng đã lạy ông, từ ngày mới kết hôn.”
“Hồi trẻ bà hiền lành, chứ đâu chằn ăn trăn quấn như bây giờ. Bao nhiêu năm sống chung, tôi khám phá ra mình bị lừa. Mắc mưu một lần, là đi tàu suốt cả cuộc đời.” Ông thở dài.
Bà hỏi: “Ai lừa ai? Ông còn nhớ không, hồi mới đám cưới xong, ông kể cho tôi nghe
chuyện nhà hiền triết Hy Lạp gì đó?”
“Hiền triết nào? Trên đời này, thằng đàn ông nào có vợ, cũng đều trở thành nhà hiền triết cả.”
“À, tôi nhớ ra rồi. Ông lập lại lời của Socrate. Dù sao, thì bạn cũng lấy vợ. Nếu may mắn gặp vợ hiền, bạn là người hạnh phúc. Nếu gặp vợ dữ, bạn trở thành nhà hiền triết. Tôi hỏi, còn anh thì sao? Lúc đó, mình còn gọi nhau bằng anh em, chứ không phải ông tôi như bây giờ. Ông bảo, nếu gặp vợ dữ, anh sẽ trở thành võ sĩ. Mới về nhà chồng, ông dằn mặt tôi bằng câu nói xanh dờn. Tôi biết mình đã trao duyên lầm tướng cướp.”
Ông la: “Đấy! Tôi lạy bà rồi, nhưng bà cũng xỏ xiên. Người Mỹ gọi thế là bạo hành bằng tinh thần. Trong gia đình, thường xuyên tôi bị bà bạo hành.”
Nói xong, ông Lâm mang mền ra phòng khách. Đêm đó, ông ngủ trên salon.
Dù giận vợ, nhưng vấn đề Y2K có liên quan đến sự an nguy của mọi người trong gia đình, buộc ông Lâm phải làm lành với bà. Ông định một lúc thuận tiện, giải thích cho bà hiểu cái tầm quan trọng của Y2K. Bà ít chịu đọc báo, làm sao hiểu được vấn đề trọng đại? Nếu chữ nghĩa không phải là kẻ thù của bà, thì cũng là người dưng. Cầm tờ báo, hoặc quyển sách lên chừng vài phút, bà bắt đầu ngáp. Chẳng bao giờ nghe bà than mất ngủ. Sách báo là liều thuốc an thần cực mạnh đối với bà. Đêm nào trằn trọc khó ngủ, bà quơ vội tờ báo nào đó, dán mắt vào. Vài phút sau đã nghe tiếng ngáy rồ rồ rồ... o... rồ rồ rồ... o... Ông Lâm vốn khó ngủ, lại nghe tiếng thở nghèn nghẹt của bà, ông càng không ngủ được. Ông lay bà. Bà ú ớ, nằm nghiêng qua phía khác. Tiếng thở nghèn nghẹt tạm lắng một lúc, rồi lại rồ rồ o o nữa. Ông thúc cùi chỏ vào hông bà. Bà tỉnh ngủ.
“Cái gì vậy?”
“Ngáy.”
“Làm gì có.”
“Chẳng lẽ tôi nghe tiếng bò rống?”
“Tôi van ông. Xin cho tôi yên. Tôi cần giấc ngủ, để mai đi làm.”
“Nhưng bà phải tội nghiệp tôi chứ?”
“Tội nghiệp thế nào?”
“Đừng ngáy nữa.”
“Trong giấc ngủ làm sao kiểm soát?”
“Thế thì ngày mai đi bác sĩ, cắt cục thịt dư hay cái lưỡi gà gì đó trong cuống họng, vất đi.”
“Cắt cái lười gà, như cắt lưỡi người ta. Làm sao nói được?”
“Không nói được, đỡ xốn lỗ tai. Người đàn bà câm, là người vợ lý tưởng.”
Bà rên thống thiết: “Trời ơi là trời! Tôi đang ngủ. Ông đánh thức dậy, để gây sự. Không biết kiếp trước, tôi làm nên tội gì?”
“Phải để tôi hỏi ông Trời câu đó. Không biết kiếp trước tôi làm nên tội gì, mà bị bà quấy rối triền miên, kể cả khi vào giường ngủ? Hồi trẻ, hơi thở bà êm ái. Về già sinh tật.”
“Tôi thế đấy. Ai không chịu, thì tối mai vào phòng thằng Cu Đen mà ngủ.”
“Sao bà không đi?”
“Phòng này của tôi.”
Cu Đen là thằng con Út của ông Lâm. Nó mười tuổi, đã có phòng riêng. Người trong nhà, ai cũng có phòng riêng. Nhưng ông Lâm, không có một giang sơn nào riêng biệt. Trước kia, ông thường ngủ với Cu Đen. Tối, nó dần lưng đấm bóp cho ông. Xong, hai cha con nằm ôm nhau, nói chuyện.
Nó nói: “Hai người đàn ông ngủ chung là bệnh đó, ba ơi.”
Ông Lâm ngạc nhiên: “Sao lại bệnh?”
“Người Mỹ sợ homosexual.”
“Nói bậy. Mày là con ba. Cha con ôm nhau là chuyện thường.”
“Không. Ba ôm mẹ. Còn con ôm con gái.”
“Trời đất! Mày muốn ôm con gái hả?”
“Con nói khi nào con lớn, con ôm con gái. Bây giờ, con còn nhỏ, cha con mình được ôm nhau. Nhưng ra đường, ba đừng ôm con. Bạn con nó cười.”
“Cười gì? Mấy thằng Mỹ bệnh hoạn. Nó tưởng ai cũng bệnh như nó.”
“Mai mốt con lớn, không ngủ chung với ba nữa đâu.”
“Tại sao?”
“Con mọc lông nách, con trở thành đàn ông. Hai người đàn ông không ngủ chung.”
Nghe thằng nhỏ nói, ông Lâm cười nôn ruột. Nhưng điều đó cũng làm ông suy nghĩ. Mới có mười tuổi đầu, nó đã ảnh hưởng theo lối sống của Mỹ rồi. Ông cảm thấy những đứa con trong gia đình, dần dần xa lạ. Tình người khốn nạn, sinh biết bao điều tệ hại. Cha mẹ già, chúng đẩy vô nhà dưỡng lão. Cũng tại những người già đó, ngày xưa họ đẩy cha mẹ của họ vô nhà dưỡng lão. Ngày nay, con cháu của họ noi gương mà thôi. Quả báo nhãn tiền là thế! Còn ông Lâm, đến với xứ sở này, như người ăn nhờ ở đậu. Không lẽ lạI chịu chung cái di họa của người Mỹ? Con cái của ông, ông nuôi nấng thương yêu. Nó có lỗi, ông đét cán chổi lông gà vào đít, theo kiểu “thương cho roi cho vọt”. Ông nói, đứa nào phản đối, cho thế là ác độc dã man, thì hãy mau mau cuốn gói ra khỏi nhà tao. Vuột khỏi tầm tay tao rồi, cấm xưng là con của ông Lâm. Có lần, đứa con gái lớn bị đòn. Nó vô trường, kể cho bà giáo của nó nghe. Bà kêu lên, ba mày hành sử như người trung cổ. Rất tiếc, ông Lâm không gặp bà ấy. Nếu gặp, ông sẽ hỏi, bà chê tôi như người trung cổ. Cái nền giáo dục của bà tốt đẹp, sao bọn trẻ gặp ngườI già không biết cúi đầu lễ phép? Chúng chỉ đưa tay vẫy vẫy, miệng nói “hi hi” một cách rất ư là mất dạy? Cái xứ gì mà con cái hỗn hào hư đốn, cha mẹ không dám động tới sợi lông chân của nó. Lơ mơ, nó bấm 911, kêu lên bị bạo hành thể xác. Cha mẹ có thể vào tù như chơi.
Ông Lâm cưng thằng Cu Đen hết sức. Hiện nay, nó chưa mọc lông nách. Chẳng biết mai kia, được năm ba sợi le hoe, nó có manh nha trong đầu ý tưởng, sẽ tống ông vào nhà dưỡng lão hay không? Ông không nghĩ thằng con ông nhẫn tâm tới cỡ đó. Khi vợ ông bảo vào phòng ngủ với Cu Đen, ông kể cho bà nghe những lời cha con ông nói chuyện. Đến giai đoạn mọc lông nách, bà không thể nín cười.
Thấy tình trạng vợ chồng bớt căng thẳng, ông Lâm chụp ngay cơ hội, nói về sự nguy hại
của Y2K. Rồi kết luận, mất điện đưa đến thiếu khí đốt, thiếu nước, thiếu sưởi. Nhà mướn ở lầu cao, không có lò sưởi bằng củi, sẽ bị chết cóng.
Bà nói: “Gọi cấp cứu.”
“Điện thoại cũng ngưng luôn.”
“Xách xe chạy về các tiểu bang phía nam?”
“Mọi người cũng nghĩ như bà, thì bao nhiêu xe cộ đều tuôn ra đường cùng một lúc.
Đường sá sẽ kẹt cứng.”
“Cảnh sát sẽ điều động xe cộ lưu thông.”
“Chả có thằng cảnh sát nào ngoài đường hết. Nó cũng phải lo cho vợ con của nó. Hơn nữa, mất điện, đèn xanh đèn đỏ cũng tắt luôn. Các trạm xăng đều đóng cửa.”
Bà hỏi: “Vậy ông tính thế nào?”
Ông nói: “Đã có một số lời khuyên nên dự trữ đồ ăn nước uống, và sưởi ấm, từ vài ngày đến vài tháng. Dự trữ đồ ăn thì dễ, nhưng lấy gì sưởi ấm? Mình có thể chịu lạnh ngày một ngày hai, nhưng không thể chịu đựng lâu hơn dưới cái lạnh năm, mười độ âm. Đó là chưa kể bọn bất lương sẽ lợi dụng cơ hội khó khăn, hoành hành tội ác. Chuyện này phải tính trước. Đúng như bà nói, là xách xe chạy về các tiểu bang phía nam, nhưng phải đi trước mươi bữa, tránh cái nạn kẹt xe.”
Bà nằm ngẫm nghĩ một lúc, bỗng nói: “Bất cứ vấn đề gì, xuyên qua suy luận của ông,
cũng đều trở thành bi quan chết chóc.”
Đang bàn phương cách cứu nguy. Câu nói của bà như cái mồi lửa làm ông Lâm nổi nóng, nhưng cố dằn lòng.
Ông hỏi: “Bà tính sao?”
Giọng bà bất cần: “Ai sợ chết thì chạy đi. Tôi chẳng đi đâu hết.”
Không thuyết phục được vợ, ông tức. Muốn nhổm dậy, xáng cho bà một tát tai. Lại nghĩ, bà sẽ tru tréo ầm lên. Cảnh sát sẽ kéo đến. Xứ này không đùa với cảnh sát được. Ông đã bị rắc rối với mấy thằng này, một lần rồi. Hồi đó, ông vừa mới nắm cổ áo của bà, thì đứa con vội bấm 911. Ông dằn cái điện thoại xuống ngay. Nó chưa kịp nói câu nào. Thế mà năm phút sau, cảnh sát có mặt. Nó mời ông ra xe về bót. Nói mời cho có vẻ lịch sự. Chứ thật ra, nó còng tay, điệu ông về bót.
Trên đường đi, cảnh sát hỏi: “Mày có biết, đàn bà ở Mỹ được luật pháp bảo vệ tối đa không?”
Ông Lâm nói: “Bảo vệ tới mức bất công. Đàn bà sẽ lợi dụng sự bất công này, và lấn áp đàn ông. Tao từng thấy trên TV, đàn bà tát tai đàn ông. Nhưng đàn ông chỉ ôm mặt chịu trận, không dám phản ứng.”
“Nếu mày bị đàn bà tát tai thì sao?”
“Tao sẽ tát lại mười lần mạnh hơn, cho bỏ cái tính hỗn láo.”
Cảnh sát giương mắt: “Mày có điên không?”
Ông Lâm hỏi lại: “Tại sao mày nghĩ tao điên?”
“Lúc mày ra xe với thằng Jack, tao ở lại lập biên bản. Vợ mày cho biết, mày không bình thường. Mày bị Cộng Sản bắt tù nhiều năm, trước khi sang đây. Những người tù của Cộng Sản, ít nhiều đều bị bệnh tâm thần. Mày đi bác sĩ tâm thần lần nào chưa?”
“Tao không bệnh hoạn gì. Không cần đến bác sĩ.”
Ngừng một lúc, cảnh sát nói: "Mai mày ra tòa."
Ông Lâm ngạc nhiên: “Cái gì? Tao đâu có đánh vợ mà ra tòa?"
"Tao cũng sẽ ra tòa làm chứng cho mày. Mày không bị tù. Nhưng, nếu vợ mày khai rằng, tâm tính mày không bình thường, nó sợ mày hành hung, thì mày không được bước chân vào nhà.”
“Nếu tao khai rằng, tao sợ bị vợ hành hung, thì sao?”
“Trường hợp này, mày cũng không được vào nhà.”
“Trường hợp nào, tao cũng thất thế. Sao lạ vậy?”
“Trường hợp thứ hai, là để bảo vệ cho mày.”
“Bất công, chứ bảo vệ gì tao?”
"Khi ra tòa, mày đừng ăn nói theo kiểu này. Dễ bị khép thêm tội phỉ báng pháp luật.”
Lần đó ra tòa. May mà bà bãi nại. Nếu không, chắc xảy ra lớn chuyện.
* * *
Thấy chồng nằm ấm ức, suy nghĩ mông lung, bà biết ông đang bực mình.
Bà hỏi: “Giận hả?”
Ông lẫy: “Bà vẫn tính nào tật ấy. Giận làm đếch gì!”
“Tôi chỉ muốn ông đừng tin lời đồn nhảm thôi.”
“Nhảm? Thiên hạ đang xôn xao bối rối. Bà chỉ lo kiếm tiền. Chết có mang theo được không?”
“Đừng nóng. Hãy nghe tôi nói đã. Trước đây, ông cũng đã hốt hoảng về tin đồn tận thế. Nào là do ảnh hưởng sao chổi, nên ngày nguyệt thực, địa cầu và mặt trăng không xê dịch được. Và như thế, nhiệt độ mặt trời sẽ nung mặt trăng nóng đỏ lên, tỏa xuống địa cầu một sức nóng trên trăm độ. Nước sẽ bốc thành hơi, bao quanh địa cầu một lớp mây dày mười cây số. Lớp mây che khuất mặt trời, làm nhiệt độ địa cầu nhanh chóng tuột xuống cả mấy chục độ âm. Nhân loại sẽ không còn một ai sống sót. Ông nói, điều này trùng hợp với lời Chúa phán trong Kinh Thánh. Mặt trời tối đen, và mặt trăng đỏ như máu. Đó là ngày Đại Trừng Phạt của Thượng Đế. Vì nhân loại quá xấu xa, tội ác ngập trời, phải tận diệt...”
Ông Lâm cắt ngang lời bà: “Sau đó, tôi đã đính chính.”
“Vâng. Có đính chính, nhưng ông lý luận không thể nào tin được.”
“Dù bà không tin, nhưng không thể phủ nhận sự thật. Thượng Đế vì thương yêu các con của Ngài, nên chưa ra tay hủy diệt. Ngài dành cho nhân loại một cơ hội chót, để ăn năn sám hối.”
Nghe ông nói, bà cười khỉnh. Tiếng cười thoát ra từ mũi. Tiếng cười châm biếm mỉa mai,
làm ông khích động. Lần nào nói chuyện với bà, cũng kết thúc bằng sự bực tức của ông. Ông cố nén. Lâu ngày, thành nỗi ẩn ức. Hễ thấy mặt bà, ông cảm thấy có điều vướng mắc. Thế nhưng hai người vẫn sống với nhau mấy chục năm trời, trong hục hặc đắng cay. Ông muốn đi tu, cho cõi lòng thanh thản. Bà bảo, thà làm kẻ dữ trên thế gian, còn hơn làm ác tăng trong cửa thiền. Ông muốn tịnh khẩu, cho miệng đời bớt âm thanh cú diều xỉa xói. Bà bảo, thà lớn tiếng chửi bới thiên hạ, còn hơn âm thầm làm tên sát thủ đâm lén sau lưng người đời. Ông muốn lập bàn thờ, đốt nhang niệm Phật. Bà bảo, dao thớt trong nhà còn tanh mùi thịt, đồ tể chưa thể nào rửa tay hóa kiếp.
Ông nói gà, bà nói vịt. Cứ thế mà đôi bên dằn co nhau mãi. Ông có cảm trưởng, ông và bà là hai đối thủ đô vật, gài thế quyện lấy nhau, vô phương tháo gỡ. Ông mệt nhoài tâm lực. Bà vẫn khỏe re cười cười, gần như không biết nỗi khổ của ông.
Ông nói: “Người Mỹ đưa quân vào cuộc chiến Việt Nam. Sa lầy trong chiến tranh du
kích. Liệu bề thắng không được, họ chọn giải pháp điều đình, rút quân trong danh dự. Tôi cũng muốn hòa giải với bà, chịu thua trong danh dự."
Bà hỏi: “Ông muốn ám chỉ tôi là bọn du kích chứ gì?”
“Vâng. Bà là du kích chiến thắng.”
“Thấy chưa? Ông lại nói xóc hông tôi rồi.” Bà giẫy nẫy.
Ông hỏi: “Xóc hông thế nào?”
“Ông thường bảo, du kích là bọn tiểu nhân. Không dám chường mặt ra ánh sáng. Chuyên môn chơi trò đánh lén. Rồi ông lại bảo tôi là quân du kích, có khác gì ông chửi cha tôi?”
“Nhưng tôi chịu làm người bại trận.”
“Bại trận mà chửi phủ đầu người ta. Ai chịu nổi?”
“Tôi nói thế nào, bà cũng bắt bẻ. Thôi, tôi thua bà. Tôi sợ bà.”
“Ông nói sợ tôi, mà còn hung dữ đến thế. Nếu không sợ, chắc ông đã nhai nuốt tôi vào bụng mất rồi.”
“Sợ vợ cũng ở mức độ nào thôi chứ. Chẳng lẽ tôi để bà thừa thắng xông lên ngồi trên đầu tôi?”
“Tôi chỉ mong được bình đẳng. Hơn thua với ông làm gì?”
Ông hòa hoãn: "Bà nói thế là tôi yên tâm. Mỗi người nhường nhịn nhau một chút, cho yên nhà yên cửa. Bây giờ, bà chịu nghe tôi nói không?”
Bà dịu giọng: “Ông nói đi. Tôi nghe.”
Ông ngồi im, ra chiều suy nghĩ.
Bà giục: “Nói đi.”
Ông hắng giọng: “Vấn đề Y2K.”
“Lại cũng vấn đề mắc dịch này nữa.” Bà nhỏm lên, sừng sộ.
Ông đưa tay ngăn: “Đừng ngứa miệng. Hãy nghe tôi nói đã.”
“Nhưng tôi không muốn nghe chuyện Y2K gì đó của ông.”
“Sao lại của tôi? Phải nói là của mấy thằng chuyên viên điện toán.”
“Của thiên hạ, dính mắc chi tới ông?”
“Thôi được. Không nói Y2K. Tôi muốn đưa gia đình đi du lịch, cho bà nghỉ xả hơi vài bữa.”
“Chừng nào?”
“Trước năm hai ngàn, một tuần.”
“Đó là thời điểm hái ra tiền. Sao không chọn dịp khác?”
Ông Lâm nhăn mặt: “Khổ qua! Nói khô cuống họng, mà bà không hiểu. Tôi muốn làm
một công hai chuyện. Du lịch là lý do để tránh cái lạnh miền Đông Bắc, nếu bị mất điện cũng khỏi bị chết cóng.”
Bà muốn phản đối, nhưng thấy ông xuống nước, bà phân vân: “Những ngày gần tết,
đắt khách lắm. Làm một ngày bằng mấy ngày thường. Bỏ đi cũng uổng.”
Bà phân vân cũng phải. Cái nghề o bế cắt dũa sơn phết móng tay của bà, làm ăn khấm
khá vào những ngày lễ tết. Bỏ đi là mất một món lợi to.
Từ mấy năm nay, bà làm nghề móng tay. Nhưng nói thế, nghe tầm thường quá. Nếu ai
hỏi, chị làm nghề gì? Bà uốn lưỡi trả lời rất dịu dàng, em làm nghề nail. Bà cho rằng, cái
tiếng “nail” nghe có vẻ sang trọng, văn minh hiện đại hơn hai tiếng “móng tay”.
Ngày mới qua Mỹ, vợ chồng ông Lâm đi làm cu li. Tiếng Anh nói đớ lưỡi, thì làm cu
là phải rồi. Nhưng kiếm được đồng tiền quá chật vật. Bà rên. Ông bảo, vẫn còn dễ thở hơn ở xứ mình. Thời đó, ông còn là nhân vật quyền hành số một trong gia đình.
Vài năm sau, có người rủ bà học nghề làm móng tay. Cái nghề tằn mằn tỉ mỉ, nhẹ
nhàng khỏe thân, lại dễ kiếm tiền, thích hợp với bà. Và bà cũng muốn lôi ông vào nghề
cho đỡ khổ tấm thân. Ông lắc đầu, nói tôi già rồi, da nhăn má hóp, chân tay vụng về. Có vào nghề, tôi cũng chỉ ngồi ngáp từ sáng đến chiều. Bởi một người đàn bà dễ tính, cũng không chịu đưa bàn tay cho một người cục mịch, hom hem như tôi mài dũa. Thế là ông tiếp tục làm cu li. Bà làm móng tay.
Nếu so sánh lợi tức thu nhập, thì bà cao hơn ông. Tiếng nói của bà bắt đầu bình đẳng
với ông. Mọi chuyện trong gia đình, ông không còn tự quyết định một mình nữa. Phải có bà góp phần bàn thảo. Đã có bàn thảo là có ý kiến ngược nhau. Vợ chồng lại cãi vã. Bà manh nha tiếm quyền làm chủ gia đình. Các đứa con có khuynh hướng theo bà, vì bà hay nuông chìu con cái, nên chinh phục được cảm tình. Phe của bà, đồng minh đông hơn. Chế độ độc tài quân phiệt của ông bị cô lập, yếu thế, lỗi thời.
Dù thường cãi vã, nhưng có lúc bà nói một câu nghe được. Rằng, ông đi làm cực nhọc,
lại chẳng kiếm bao nhiêu. Thôi, ở nhà lo việc gia đình, và trông nom mấy đứa nhỏ. Để một mình bà làm cũng đủ. Hơn nữa, tuổi của ông lớn rồi, nên nghỉ hưu sớm mà hưởng nhàn. Ông đồng ý ngay ý kiến của bà. Từ đó, ông biến thành nội trợ. Ai nắm kinh tế gia đình, thì người ấy làm chủ. Khi phát giác ra chân lý này, thì ông đã bị tụt xuống hàng thứ yếu. Muốn điều gì, ông phải đưa ra đề nghị. Nhiều lần ông cay đắng nói nửa đùa nửa thật, là dâng kiến nghị lên bà.
Với tính lơ đãng, lại thêm vụng về, việc nhà ông không vén khéo. Bà chê, ông làm người
nội trợ bất tài. Ông giận, hất đổ mâm cơm. Bà im lặng hốt dọn. Mấy mươi năm chung sống, bà biết ông hơn ai hết. Khi ông đổ quạu, bà không nên hó hé nói năng. Sau đó, bà than phiền rằng, ông còn giữ nguyên bản chất của người đàn ông Việt Nam, với cái quan niệm chồng chúa vợ tôi. Và ông cũng chỉ trích lại rằng, mới qua Mỹ không bao lâu, bà đã bắt chước cái thói hỗn láo với chồng của đàn bà Mỹ. Vừa nói ông vừa đưa ngón tay điểm mặt bà, theo kiểu cảnh cáo đối phương. Bà nhịn. Không là nhà quân sự, nhưng bà biết tiến thoái đúng lúc. Khi đang giận, mà gặp phải sự khiêu khích, ông sẽ dốc toàn lực ra tấn công, bất kể hậu quả. Chuyện đâu còn có đó. Từ từ rồi bà sẽ dùng đường lối chính trị, lấy kinh tế làm biện pháp, buộc ông phải nhượng bộ yêu sách của bà.
Nhiều lần ông Lâm đã nhượng bộ. Nhưng lần này, bà thấy ông có vẻ quyết liệt giữ vững
ý kiến của mình. Bà đề nghị một phương cách giải quyết. Trước năm hai ngàn, ông đưa các con du lịch về phương nam. Bà ở lại trông coi nhà cửa, đồng thời đi làm kiếm thêm tiền vào những ngày lễ tết đắt khách.
Ông ái ngại: “Nếu vấn nạn Y2K xảy ra, bà sẽ không sống nổi.”
Bà nói: “Cùng lắm là tôi chết. Ông tục huyền với người đàn bà khác.”
“Trên đời này, không dễ kiếm được người nào như bà.”
Lâu lâu, nghe ông nói một câu chí tình, bà cảm động, cầm tay ông: “Ông cũng biết thương tôi hả?”
Ông choàng tay ôm bà: “Thương thì chưa chắc. Nhưng biết tìm đâu ra một người bạn đời
chịu khó cãi vã với tôi, suốt mấy mươi năm không hề mệt mỏi?”
Lâm Chương
--------------------------------------------------------------------------------
Thời gian cấp bách lắm rồi. Vấn nạn Y2K gần kề bên đít. Trước kia, có thể nhẩn nha chờ thời gian giải quyết. Bây giờ, nước sắp đến trôn, không lo sao được? Chính quyền địa phương lập lờ trấn an, nhưng không có một tuyên bố nào chính thức. Một số người am hiểu tình hình, thì khuyên nên đề phòng những bất trắc vào đầu năm hai ngàn.
Gia đình ông Lâm trú ngụ nơi miền Đông Bắc Hoa Kỳ. Mùa đông ở đây, nói theo nghĩa đen lẫn bóng, thật là tái tê rùng rợn. Nếu chưa điều chỉnh xong hai con số không cuốI cùng của năm hai ngàn trong máy điện toán, thì tai họa lớn không biết chừng nào mà kể. Mất điện, nhà không có sưởi, con người sẽ trở thành một khối thịt đông lạnh. Không phảI chết một cái rụp, mà chết từ từ mới đáng sợ. Hàng tháng, công ty điện lực gởi hóa đơn về, có kèm theo cái thông báo, rằng ngành điện đã giải quyết xong vấn nạn Y2K. Ngoài thông báo ấy, lại có thêm một tờ quảng cáo máy phát điện loại nhỏ, dùng cho gia đình. Sao lạ thế? Đã giải quyết xong Y2K, nghĩa là sự cung cấp điện không bị trục trặc. Ai cần mua máy phát điện làm chi? Có chuyện mờ ám gì đây? Ông Lâm cứ lẩn thẩn suy nghĩ, rồi nghi ngờ cái thông báo của công ty điện lực, và nghi ngờ luôn cả chính quyền địa phương cố tình ém nhẹm những bất trắc có thể xảy ra, để tránh tình trạng xao động xã hội trước năm hai ngàn. Nguy tới nơi rồi! Nếu không, tại sao có lệnh cho các chuyên viên điện toán toàn quốc phải túc trực tại nhiệm sở trong cái đêm giao thừa trọng đại, bắt đầu một thiên niên kỷ mới? Chuyện này không tin ai được hết. Ông cần phải bàn lại với vợ một phương cách cứu nguy gia đình. Và ông nóng lòng đi ra đi vào, chờ vợ đi làm về, để nói với bà những suy nghĩ của ông, cùng nhau lo liệu.
Lúc vợ vừa bước chân vô cửa, ông Lâm nói ngay: “Bà ngồi xuống đây, có chuyện này quan trọng lắm.”
Ông níu bà ngồi lại phòng khách.
Nhưng bà phủi tay ông, đi thẳng xuống bếp: “Chuyện gì thì chuyện. Cũng phải để tôi cất mấy thứ lỉnh kỉnh này đã.”
Ông Lâm ngồi chờ. Nghe tiếng bà la: “Trời ơi, một chậu chén dĩa chưa rửa. Thấy mà
khiếp. Cha con ông cứ bày ra đó. Tôi đi làm về mệt, còn phải rửa ráy dọn dẹp nữa sao?”
Ông nói vọng xuống bếp: “Thì để đó.”
“Rồi ai rửa?”
“Lúc nào rảnh... bà rửa cũng được. Đâu cần phải gấp. Bà lên đây ngay, tôi có chuyện này.”
“Sao cái nồi cơm trống không vậy? Chỉ vo gạo, cắm điện vào, là có ăn. Ông cũng không làm. Chắc chờ tôi nấu xong, dâng lên tới miệng?”
Đúng là đàn bà không biết lo xa. Chỉ nghĩ đến cái ăn cái uống. Ông Lâm cằn nhằn, đi xuống bếp. Ông ngồi, kéo thêm chiếc ghế cho bà.
“Lại đây.” Ông nói.
Bà đang rửa chén dĩa, khua rổn rảng: “Tôi vừa làm vừa nghe. Có gì nói đi.”
“Sắp có vấn đề lớn.”
“Trời sập hả?”
“Cũng gần như vậy.”
“Tôi chỉ sợ trời sập. Ngoài ra không có chuyện gì đáng sợ.”
“Sợ chết không?”
"Tôi đang mạnh khỏe. Mắc mớ chi mà sợ chết!”
“Già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà. Ai không biết lo xa, đều phải chết kỳ này.”
Bà mỉa: “Tiếc quá! Ở Mỹ không có Sơn Đông mãi võ, bán thuốc cao đơn hoàn tán phòng bệnh cho nam phụ lão ấu.”
Ông Lâm nổi nóng: “Bà đừng đi lạc đề. Chết thật đấy. Không đùa đâu. Bà biết vấn đề nan giải Y2K sắp tới không?”
“Y2K là cái quỷ quái gì?” Bà ngoảnh lại, ngó ông.
“Tiếng Mỹ là Year 2000.”
“Thì sao?”
“Người ta chưa giải quyết xong hai con số không cuối cùng của con số hai ngàn, trong máy điện toán.”
Bà đi lại, đặt bàn tay ướt lên trán ông, thăm dò.
Ông hất tay bà ra: “Làm cái gì kỳ vậy?”
“Nhiệt độ bình thường. Ông đâu mê sảng mà lo chuyện bao đồng thiên hạ. Người ta chưa giải quyết xong, thì có liên quan chi đến ông?”
Ông trừng mắt: “Sao không? Rắc rối lớn đấy. Cái đầu của bà quá đơn giản, không có tầm nhìn xa, nên không thấy trước được vấn đề nguy hiểm. Thời buổi văn minh hiện đại, bất cứ kỹ thuật gì, người ta cũng sử dụng điện toán, nếu chưa điều chỉnh xong, điều gì sẽ xảy ra? Này nhé, vào đúng cái giây phút giao thừa đầu tiên của năm hai ngàn, hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử của các nước tân tiến sẽ phóng ào ào lên không gian. Tất cả các loại vũ khí giết người hàng loạt, nổ bùng một lượt, thì quả đất này sẽ biến thành trái cầu lửa...”
“Thiên hạ chết hết phải không?”
“Đúng vậy.”
“Chết đông. Vui!” Bà cười.
Ông nạt: “Tôi đang nói chuyện đàng hoàng. Đừng giỡn mặt nghen!”
“Nguyên tử nổ, dù ông có đào lỗ mà chui, cũng chẳng thoát chết. Hãy bình tâm, sống tới đâu hay đó.”
“Còn nữa. Nếu bom nguyên tử không nổ, cũng chưa yên đâu.”
Bà nổi cáu: “Ông lẩm cẩm vừa thôi! Tôi đi làm, về nhà còn phải dọn dẹp, rửa ráy, nấu cơm, làm đồ ăn. Ông ở nhà chỉ việc đưa đón mấy đứa nhỏ đến trường. Thì giờ còn lại, ông ngồi hút thuốc phun khói đầy nhà, rồi tưởng tượng ra đủ điều chết chóc, bắt tôi phải nghe. Muốn hù tôi hả?”
“Hù? Tôi lo cho bà và mấy đứa nhỏ. Chứ cái thân già của tôi, kể chi?”
“Ông khỏi lo cho tôi. Còn mấy đứa nhỏ, để đó tôi lo.”
Ông Lâm đứng dậy, bỏ lên nhà trên, ném lại sự hằn học: “Tức chết! Chẳng khi nào bàn luận êm thắm được điều gì với bà. Có đầu thai lại kiếp sau, cũng đừng nhìn mặt nhau nữa nhé.”
Bà nói vói theo: “Sống chung một kiếp này, cũng ê chề quá rồi. Kiếp sau, vừa thoáng thấy mặt ông, tôi bỏ chạy.”
Ông ngồi tại phòng khách, gát chân lên bàn, hút thuốc. Nỗi bực mình chưa kịp lắng, tiếng bà vọng lên.
“Tôi nghe mùi khói rồi đấy. Làm ơn mở cửa sổ, vặn máy hút giùm. Một mình ông hút thuốc, cả nhà bị ung thư phổi.”
Ông la lớn: “Tất cả sẽ chết hết, trước khi phát bệnh ung thư.”
Lúc lâu sau. Bà đi lên phòng khách, nói:
“Mấy đứa nhỏ đang học bài. Ông với tôi, ăn cơm trước.”
Ông ngoảnh mặt làm ngơ, không ngó bà.
“Đàn ông gì mà hay hờn mát còn hơn đàn bà. Xuống ăn cơm đi.” Bà cười giả lả.
“Địa ngục!” Ông xẵng giọng.
Bà hỏi: “Tự nhiên nói địa ngục, là sao?”
“Bà biến gia đình này thành địa ngục.”
Bà cười hắc hắc: “Ở đâu có địa ngục, là ở đó có những mặt mày nhăn nhó, cằn nhằn.Tôi đang đem tiếng cười vào địa ngục của ông, nhưng ông khó quá. Ai chịu nổi? Bây giờ ăn cơm không?”
“Không! Tức gần trào máu họng. Ăn sao vô?”
Thế là bà ăn cơm một mình.
Cái kiểu trống đánh xuôi, kèn thổi ngược trong gia đình ông Lâm, thường xảy ra như cơm bữa. Hai vợ chồng nói chuyện với nhau một lúc, là có hục hặc. Sóng gió lại nổi lên. Ông Trời thật quái ác! Máng chi một con trâu, một con bò kéo chung chiếc xe đời nặng nhọc. Không lúc nào ông cảm thấy thoải mái. Lòng ông, hình như có một nỗi gì gút mắc chông gai, một bất toàn trong tình chồng vợ. Có lúc ông nghĩ đến giải pháp tách riêng ra, mỗi người đi một hướng, làm lại cuộc đời. Nhưng chuyện này đâu dễ. Chẳng phải bà và ông trì kéo chi nhau. Chính mấy đứa con ràng buộc hai người ở lại. Cứ nghĩ tới hoàn cảnh con ông phải sống trong sự lạnh nhạt, nhiều khi đến khắc nghiệt của cha ghẻ hoặc mẹ ghẻ, làm ông chùng lòng. Trên đời, đâu có ai rộng lượng tới mức thương con ghẻ như con ruột của mình? Thôi thì vì con, ông hy sinh một kiếp đời khốn nạn này. Nhiều khi ông tự hỏi, có phải ông mắc cái quả báo nào đó, từ kiếp trước? Chứ kiếp này, ông đâu phải thằng đâm cha chém chú. Cũng chưa từng chặt đầu lột da ai. Thế sao ông vẫn khổ? Ông tin vào thuyết luân hồi. Nghe đồn ở California, có cái HộI Huyền Bí. Một số hội viên có khả năng huệ nhãn, thấy được tiền kiếp. Ông tìm đến, nhờ họ giúp ông, soi rọi lại cái quá khứ tội lỗi của mình. Pháp môn nhìn ngược về quá khứ, được đặt tên là Soi kiếp. Sau khi Soi Kiếp, họ cho biết, kiếp xưa vợ chồng ông là hai kẻ thù. Mối thù chưa thanh toán xong, thì mãn phần vì tuổi già. Đầu thai lại kiếp này, cả hai cũng quyết tìm đến nhau, tiếp tục ăn thua đủ. Họ khuyên, ông nên xóa bỏ mối thù truyền kiếp ấy đi, để mà hòa hoãn sống với nhau.
Về nhà, ông Lâm thuật cho vợ nghe. Rồi nói: “Thôi. Tôi mệt mỏi lắm rồi. Tôi chịu thua bà. Tôi xin đầu hàng vô điều kiện.”
Bà bảo: “Từ lâu, tôi đã treo miễn chiến bài. Nhưng ông cứ khiêu chiến mãi.”
“Tôi khiêu chiến thế nào?”
“Ông nói những lời mắng nhiếc. Trút lên đầu tôi bao nhiêu oan khiên tiền kiếp.”
“Tính tình bà ngang bướng. Tôi muốn tu theo lục hạnh Bồ Tát, cắn chữ nhẫn giữa hai hàm răng mà sống với bà. Nhưng có lúc dằn lòng không được, cũng phải chắp tay xin phép Phật, cho con nghỉ tu năm phút. Kiếp này, tôi không thành chánh quả, cũng tại bà cản trở.”
Bà xách mé: “Trời ơi! Ông mà tu? Không khéo thiên hạ thành Phật cả rồi, ông còn làm ác tăng.”
“Tôi lạy bà!”
“Tôi cũng đã lạy ông, từ ngày mới kết hôn.”
“Hồi trẻ bà hiền lành, chứ đâu chằn ăn trăn quấn như bây giờ. Bao nhiêu năm sống chung, tôi khám phá ra mình bị lừa. Mắc mưu một lần, là đi tàu suốt cả cuộc đời.” Ông thở dài.
Bà hỏi: “Ai lừa ai? Ông còn nhớ không, hồi mới đám cưới xong, ông kể cho tôi nghe
chuyện nhà hiền triết Hy Lạp gì đó?”
“Hiền triết nào? Trên đời này, thằng đàn ông nào có vợ, cũng đều trở thành nhà hiền triết cả.”
“À, tôi nhớ ra rồi. Ông lập lại lời của Socrate. Dù sao, thì bạn cũng lấy vợ. Nếu may mắn gặp vợ hiền, bạn là người hạnh phúc. Nếu gặp vợ dữ, bạn trở thành nhà hiền triết. Tôi hỏi, còn anh thì sao? Lúc đó, mình còn gọi nhau bằng anh em, chứ không phải ông tôi như bây giờ. Ông bảo, nếu gặp vợ dữ, anh sẽ trở thành võ sĩ. Mới về nhà chồng, ông dằn mặt tôi bằng câu nói xanh dờn. Tôi biết mình đã trao duyên lầm tướng cướp.”
Ông la: “Đấy! Tôi lạy bà rồi, nhưng bà cũng xỏ xiên. Người Mỹ gọi thế là bạo hành bằng tinh thần. Trong gia đình, thường xuyên tôi bị bà bạo hành.”
Nói xong, ông Lâm mang mền ra phòng khách. Đêm đó, ông ngủ trên salon.
Dù giận vợ, nhưng vấn đề Y2K có liên quan đến sự an nguy của mọi người trong gia đình, buộc ông Lâm phải làm lành với bà. Ông định một lúc thuận tiện, giải thích cho bà hiểu cái tầm quan trọng của Y2K. Bà ít chịu đọc báo, làm sao hiểu được vấn đề trọng đại? Nếu chữ nghĩa không phải là kẻ thù của bà, thì cũng là người dưng. Cầm tờ báo, hoặc quyển sách lên chừng vài phút, bà bắt đầu ngáp. Chẳng bao giờ nghe bà than mất ngủ. Sách báo là liều thuốc an thần cực mạnh đối với bà. Đêm nào trằn trọc khó ngủ, bà quơ vội tờ báo nào đó, dán mắt vào. Vài phút sau đã nghe tiếng ngáy rồ rồ rồ... o... rồ rồ rồ... o... Ông Lâm vốn khó ngủ, lại nghe tiếng thở nghèn nghẹt của bà, ông càng không ngủ được. Ông lay bà. Bà ú ớ, nằm nghiêng qua phía khác. Tiếng thở nghèn nghẹt tạm lắng một lúc, rồi lại rồ rồ o o nữa. Ông thúc cùi chỏ vào hông bà. Bà tỉnh ngủ.
“Cái gì vậy?”
“Ngáy.”
“Làm gì có.”
“Chẳng lẽ tôi nghe tiếng bò rống?”
“Tôi van ông. Xin cho tôi yên. Tôi cần giấc ngủ, để mai đi làm.”
“Nhưng bà phải tội nghiệp tôi chứ?”
“Tội nghiệp thế nào?”
“Đừng ngáy nữa.”
“Trong giấc ngủ làm sao kiểm soát?”
“Thế thì ngày mai đi bác sĩ, cắt cục thịt dư hay cái lưỡi gà gì đó trong cuống họng, vất đi.”
“Cắt cái lười gà, như cắt lưỡi người ta. Làm sao nói được?”
“Không nói được, đỡ xốn lỗ tai. Người đàn bà câm, là người vợ lý tưởng.”
Bà rên thống thiết: “Trời ơi là trời! Tôi đang ngủ. Ông đánh thức dậy, để gây sự. Không biết kiếp trước, tôi làm nên tội gì?”
“Phải để tôi hỏi ông Trời câu đó. Không biết kiếp trước tôi làm nên tội gì, mà bị bà quấy rối triền miên, kể cả khi vào giường ngủ? Hồi trẻ, hơi thở bà êm ái. Về già sinh tật.”
“Tôi thế đấy. Ai không chịu, thì tối mai vào phòng thằng Cu Đen mà ngủ.”
“Sao bà không đi?”
“Phòng này của tôi.”
Cu Đen là thằng con Út của ông Lâm. Nó mười tuổi, đã có phòng riêng. Người trong nhà, ai cũng có phòng riêng. Nhưng ông Lâm, không có một giang sơn nào riêng biệt. Trước kia, ông thường ngủ với Cu Đen. Tối, nó dần lưng đấm bóp cho ông. Xong, hai cha con nằm ôm nhau, nói chuyện.
Nó nói: “Hai người đàn ông ngủ chung là bệnh đó, ba ơi.”
Ông Lâm ngạc nhiên: “Sao lại bệnh?”
“Người Mỹ sợ homosexual.”
“Nói bậy. Mày là con ba. Cha con ôm nhau là chuyện thường.”
“Không. Ba ôm mẹ. Còn con ôm con gái.”
“Trời đất! Mày muốn ôm con gái hả?”
“Con nói khi nào con lớn, con ôm con gái. Bây giờ, con còn nhỏ, cha con mình được ôm nhau. Nhưng ra đường, ba đừng ôm con. Bạn con nó cười.”
“Cười gì? Mấy thằng Mỹ bệnh hoạn. Nó tưởng ai cũng bệnh như nó.”
“Mai mốt con lớn, không ngủ chung với ba nữa đâu.”
“Tại sao?”
“Con mọc lông nách, con trở thành đàn ông. Hai người đàn ông không ngủ chung.”
Nghe thằng nhỏ nói, ông Lâm cười nôn ruột. Nhưng điều đó cũng làm ông suy nghĩ. Mới có mười tuổi đầu, nó đã ảnh hưởng theo lối sống của Mỹ rồi. Ông cảm thấy những đứa con trong gia đình, dần dần xa lạ. Tình người khốn nạn, sinh biết bao điều tệ hại. Cha mẹ già, chúng đẩy vô nhà dưỡng lão. Cũng tại những người già đó, ngày xưa họ đẩy cha mẹ của họ vô nhà dưỡng lão. Ngày nay, con cháu của họ noi gương mà thôi. Quả báo nhãn tiền là thế! Còn ông Lâm, đến với xứ sở này, như người ăn nhờ ở đậu. Không lẽ lạI chịu chung cái di họa của người Mỹ? Con cái của ông, ông nuôi nấng thương yêu. Nó có lỗi, ông đét cán chổi lông gà vào đít, theo kiểu “thương cho roi cho vọt”. Ông nói, đứa nào phản đối, cho thế là ác độc dã man, thì hãy mau mau cuốn gói ra khỏi nhà tao. Vuột khỏi tầm tay tao rồi, cấm xưng là con của ông Lâm. Có lần, đứa con gái lớn bị đòn. Nó vô trường, kể cho bà giáo của nó nghe. Bà kêu lên, ba mày hành sử như người trung cổ. Rất tiếc, ông Lâm không gặp bà ấy. Nếu gặp, ông sẽ hỏi, bà chê tôi như người trung cổ. Cái nền giáo dục của bà tốt đẹp, sao bọn trẻ gặp ngườI già không biết cúi đầu lễ phép? Chúng chỉ đưa tay vẫy vẫy, miệng nói “hi hi” một cách rất ư là mất dạy? Cái xứ gì mà con cái hỗn hào hư đốn, cha mẹ không dám động tới sợi lông chân của nó. Lơ mơ, nó bấm 911, kêu lên bị bạo hành thể xác. Cha mẹ có thể vào tù như chơi.
Ông Lâm cưng thằng Cu Đen hết sức. Hiện nay, nó chưa mọc lông nách. Chẳng biết mai kia, được năm ba sợi le hoe, nó có manh nha trong đầu ý tưởng, sẽ tống ông vào nhà dưỡng lão hay không? Ông không nghĩ thằng con ông nhẫn tâm tới cỡ đó. Khi vợ ông bảo vào phòng ngủ với Cu Đen, ông kể cho bà nghe những lời cha con ông nói chuyện. Đến giai đoạn mọc lông nách, bà không thể nín cười.
Thấy tình trạng vợ chồng bớt căng thẳng, ông Lâm chụp ngay cơ hội, nói về sự nguy hại
của Y2K. Rồi kết luận, mất điện đưa đến thiếu khí đốt, thiếu nước, thiếu sưởi. Nhà mướn ở lầu cao, không có lò sưởi bằng củi, sẽ bị chết cóng.
Bà nói: “Gọi cấp cứu.”
“Điện thoại cũng ngưng luôn.”
“Xách xe chạy về các tiểu bang phía nam?”
“Mọi người cũng nghĩ như bà, thì bao nhiêu xe cộ đều tuôn ra đường cùng một lúc.
Đường sá sẽ kẹt cứng.”
“Cảnh sát sẽ điều động xe cộ lưu thông.”
“Chả có thằng cảnh sát nào ngoài đường hết. Nó cũng phải lo cho vợ con của nó. Hơn nữa, mất điện, đèn xanh đèn đỏ cũng tắt luôn. Các trạm xăng đều đóng cửa.”
Bà hỏi: “Vậy ông tính thế nào?”
Ông nói: “Đã có một số lời khuyên nên dự trữ đồ ăn nước uống, và sưởi ấm, từ vài ngày đến vài tháng. Dự trữ đồ ăn thì dễ, nhưng lấy gì sưởi ấm? Mình có thể chịu lạnh ngày một ngày hai, nhưng không thể chịu đựng lâu hơn dưới cái lạnh năm, mười độ âm. Đó là chưa kể bọn bất lương sẽ lợi dụng cơ hội khó khăn, hoành hành tội ác. Chuyện này phải tính trước. Đúng như bà nói, là xách xe chạy về các tiểu bang phía nam, nhưng phải đi trước mươi bữa, tránh cái nạn kẹt xe.”
Bà nằm ngẫm nghĩ một lúc, bỗng nói: “Bất cứ vấn đề gì, xuyên qua suy luận của ông,
cũng đều trở thành bi quan chết chóc.”
Đang bàn phương cách cứu nguy. Câu nói của bà như cái mồi lửa làm ông Lâm nổi nóng, nhưng cố dằn lòng.
Ông hỏi: “Bà tính sao?”
Giọng bà bất cần: “Ai sợ chết thì chạy đi. Tôi chẳng đi đâu hết.”
Không thuyết phục được vợ, ông tức. Muốn nhổm dậy, xáng cho bà một tát tai. Lại nghĩ, bà sẽ tru tréo ầm lên. Cảnh sát sẽ kéo đến. Xứ này không đùa với cảnh sát được. Ông đã bị rắc rối với mấy thằng này, một lần rồi. Hồi đó, ông vừa mới nắm cổ áo của bà, thì đứa con vội bấm 911. Ông dằn cái điện thoại xuống ngay. Nó chưa kịp nói câu nào. Thế mà năm phút sau, cảnh sát có mặt. Nó mời ông ra xe về bót. Nói mời cho có vẻ lịch sự. Chứ thật ra, nó còng tay, điệu ông về bót.
Trên đường đi, cảnh sát hỏi: “Mày có biết, đàn bà ở Mỹ được luật pháp bảo vệ tối đa không?”
Ông Lâm nói: “Bảo vệ tới mức bất công. Đàn bà sẽ lợi dụng sự bất công này, và lấn áp đàn ông. Tao từng thấy trên TV, đàn bà tát tai đàn ông. Nhưng đàn ông chỉ ôm mặt chịu trận, không dám phản ứng.”
“Nếu mày bị đàn bà tát tai thì sao?”
“Tao sẽ tát lại mười lần mạnh hơn, cho bỏ cái tính hỗn láo.”
Cảnh sát giương mắt: “Mày có điên không?”
Ông Lâm hỏi lại: “Tại sao mày nghĩ tao điên?”
“Lúc mày ra xe với thằng Jack, tao ở lại lập biên bản. Vợ mày cho biết, mày không bình thường. Mày bị Cộng Sản bắt tù nhiều năm, trước khi sang đây. Những người tù của Cộng Sản, ít nhiều đều bị bệnh tâm thần. Mày đi bác sĩ tâm thần lần nào chưa?”
“Tao không bệnh hoạn gì. Không cần đến bác sĩ.”
Ngừng một lúc, cảnh sát nói: "Mai mày ra tòa."
Ông Lâm ngạc nhiên: “Cái gì? Tao đâu có đánh vợ mà ra tòa?"
"Tao cũng sẽ ra tòa làm chứng cho mày. Mày không bị tù. Nhưng, nếu vợ mày khai rằng, tâm tính mày không bình thường, nó sợ mày hành hung, thì mày không được bước chân vào nhà.”
“Nếu tao khai rằng, tao sợ bị vợ hành hung, thì sao?”
“Trường hợp này, mày cũng không được vào nhà.”
“Trường hợp nào, tao cũng thất thế. Sao lạ vậy?”
“Trường hợp thứ hai, là để bảo vệ cho mày.”
“Bất công, chứ bảo vệ gì tao?”
"Khi ra tòa, mày đừng ăn nói theo kiểu này. Dễ bị khép thêm tội phỉ báng pháp luật.”
Lần đó ra tòa. May mà bà bãi nại. Nếu không, chắc xảy ra lớn chuyện.
* * *
Thấy chồng nằm ấm ức, suy nghĩ mông lung, bà biết ông đang bực mình.
Bà hỏi: “Giận hả?”
Ông lẫy: “Bà vẫn tính nào tật ấy. Giận làm đếch gì!”
“Tôi chỉ muốn ông đừng tin lời đồn nhảm thôi.”
“Nhảm? Thiên hạ đang xôn xao bối rối. Bà chỉ lo kiếm tiền. Chết có mang theo được không?”
“Đừng nóng. Hãy nghe tôi nói đã. Trước đây, ông cũng đã hốt hoảng về tin đồn tận thế. Nào là do ảnh hưởng sao chổi, nên ngày nguyệt thực, địa cầu và mặt trăng không xê dịch được. Và như thế, nhiệt độ mặt trời sẽ nung mặt trăng nóng đỏ lên, tỏa xuống địa cầu một sức nóng trên trăm độ. Nước sẽ bốc thành hơi, bao quanh địa cầu một lớp mây dày mười cây số. Lớp mây che khuất mặt trời, làm nhiệt độ địa cầu nhanh chóng tuột xuống cả mấy chục độ âm. Nhân loại sẽ không còn một ai sống sót. Ông nói, điều này trùng hợp với lời Chúa phán trong Kinh Thánh. Mặt trời tối đen, và mặt trăng đỏ như máu. Đó là ngày Đại Trừng Phạt của Thượng Đế. Vì nhân loại quá xấu xa, tội ác ngập trời, phải tận diệt...”
Ông Lâm cắt ngang lời bà: “Sau đó, tôi đã đính chính.”
“Vâng. Có đính chính, nhưng ông lý luận không thể nào tin được.”
“Dù bà không tin, nhưng không thể phủ nhận sự thật. Thượng Đế vì thương yêu các con của Ngài, nên chưa ra tay hủy diệt. Ngài dành cho nhân loại một cơ hội chót, để ăn năn sám hối.”
Nghe ông nói, bà cười khỉnh. Tiếng cười thoát ra từ mũi. Tiếng cười châm biếm mỉa mai,
làm ông khích động. Lần nào nói chuyện với bà, cũng kết thúc bằng sự bực tức của ông. Ông cố nén. Lâu ngày, thành nỗi ẩn ức. Hễ thấy mặt bà, ông cảm thấy có điều vướng mắc. Thế nhưng hai người vẫn sống với nhau mấy chục năm trời, trong hục hặc đắng cay. Ông muốn đi tu, cho cõi lòng thanh thản. Bà bảo, thà làm kẻ dữ trên thế gian, còn hơn làm ác tăng trong cửa thiền. Ông muốn tịnh khẩu, cho miệng đời bớt âm thanh cú diều xỉa xói. Bà bảo, thà lớn tiếng chửi bới thiên hạ, còn hơn âm thầm làm tên sát thủ đâm lén sau lưng người đời. Ông muốn lập bàn thờ, đốt nhang niệm Phật. Bà bảo, dao thớt trong nhà còn tanh mùi thịt, đồ tể chưa thể nào rửa tay hóa kiếp.
Ông nói gà, bà nói vịt. Cứ thế mà đôi bên dằn co nhau mãi. Ông có cảm trưởng, ông và bà là hai đối thủ đô vật, gài thế quyện lấy nhau, vô phương tháo gỡ. Ông mệt nhoài tâm lực. Bà vẫn khỏe re cười cười, gần như không biết nỗi khổ của ông.
Ông nói: “Người Mỹ đưa quân vào cuộc chiến Việt Nam. Sa lầy trong chiến tranh du
kích. Liệu bề thắng không được, họ chọn giải pháp điều đình, rút quân trong danh dự. Tôi cũng muốn hòa giải với bà, chịu thua trong danh dự."
Bà hỏi: “Ông muốn ám chỉ tôi là bọn du kích chứ gì?”
“Vâng. Bà là du kích chiến thắng.”
“Thấy chưa? Ông lại nói xóc hông tôi rồi.” Bà giẫy nẫy.
Ông hỏi: “Xóc hông thế nào?”
“Ông thường bảo, du kích là bọn tiểu nhân. Không dám chường mặt ra ánh sáng. Chuyên môn chơi trò đánh lén. Rồi ông lại bảo tôi là quân du kích, có khác gì ông chửi cha tôi?”
“Nhưng tôi chịu làm người bại trận.”
“Bại trận mà chửi phủ đầu người ta. Ai chịu nổi?”
“Tôi nói thế nào, bà cũng bắt bẻ. Thôi, tôi thua bà. Tôi sợ bà.”
“Ông nói sợ tôi, mà còn hung dữ đến thế. Nếu không sợ, chắc ông đã nhai nuốt tôi vào bụng mất rồi.”
“Sợ vợ cũng ở mức độ nào thôi chứ. Chẳng lẽ tôi để bà thừa thắng xông lên ngồi trên đầu tôi?”
“Tôi chỉ mong được bình đẳng. Hơn thua với ông làm gì?”
Ông hòa hoãn: "Bà nói thế là tôi yên tâm. Mỗi người nhường nhịn nhau một chút, cho yên nhà yên cửa. Bây giờ, bà chịu nghe tôi nói không?”
Bà dịu giọng: “Ông nói đi. Tôi nghe.”
Ông ngồi im, ra chiều suy nghĩ.
Bà giục: “Nói đi.”
Ông hắng giọng: “Vấn đề Y2K.”
“Lại cũng vấn đề mắc dịch này nữa.” Bà nhỏm lên, sừng sộ.
Ông đưa tay ngăn: “Đừng ngứa miệng. Hãy nghe tôi nói đã.”
“Nhưng tôi không muốn nghe chuyện Y2K gì đó của ông.”
“Sao lại của tôi? Phải nói là của mấy thằng chuyên viên điện toán.”
“Của thiên hạ, dính mắc chi tới ông?”
“Thôi được. Không nói Y2K. Tôi muốn đưa gia đình đi du lịch, cho bà nghỉ xả hơi vài bữa.”
“Chừng nào?”
“Trước năm hai ngàn, một tuần.”
“Đó là thời điểm hái ra tiền. Sao không chọn dịp khác?”
Ông Lâm nhăn mặt: “Khổ qua! Nói khô cuống họng, mà bà không hiểu. Tôi muốn làm
một công hai chuyện. Du lịch là lý do để tránh cái lạnh miền Đông Bắc, nếu bị mất điện cũng khỏi bị chết cóng.”
Bà muốn phản đối, nhưng thấy ông xuống nước, bà phân vân: “Những ngày gần tết,
đắt khách lắm. Làm một ngày bằng mấy ngày thường. Bỏ đi cũng uổng.”
Bà phân vân cũng phải. Cái nghề o bế cắt dũa sơn phết móng tay của bà, làm ăn khấm
khá vào những ngày lễ tết. Bỏ đi là mất một món lợi to.
Từ mấy năm nay, bà làm nghề móng tay. Nhưng nói thế, nghe tầm thường quá. Nếu ai
hỏi, chị làm nghề gì? Bà uốn lưỡi trả lời rất dịu dàng, em làm nghề nail. Bà cho rằng, cái
tiếng “nail” nghe có vẻ sang trọng, văn minh hiện đại hơn hai tiếng “móng tay”.
Ngày mới qua Mỹ, vợ chồng ông Lâm đi làm cu li. Tiếng Anh nói đớ lưỡi, thì làm cu
là phải rồi. Nhưng kiếm được đồng tiền quá chật vật. Bà rên. Ông bảo, vẫn còn dễ thở hơn ở xứ mình. Thời đó, ông còn là nhân vật quyền hành số một trong gia đình.
Vài năm sau, có người rủ bà học nghề làm móng tay. Cái nghề tằn mằn tỉ mỉ, nhẹ
nhàng khỏe thân, lại dễ kiếm tiền, thích hợp với bà. Và bà cũng muốn lôi ông vào nghề
cho đỡ khổ tấm thân. Ông lắc đầu, nói tôi già rồi, da nhăn má hóp, chân tay vụng về. Có vào nghề, tôi cũng chỉ ngồi ngáp từ sáng đến chiều. Bởi một người đàn bà dễ tính, cũng không chịu đưa bàn tay cho một người cục mịch, hom hem như tôi mài dũa. Thế là ông tiếp tục làm cu li. Bà làm móng tay.
Nếu so sánh lợi tức thu nhập, thì bà cao hơn ông. Tiếng nói của bà bắt đầu bình đẳng
với ông. Mọi chuyện trong gia đình, ông không còn tự quyết định một mình nữa. Phải có bà góp phần bàn thảo. Đã có bàn thảo là có ý kiến ngược nhau. Vợ chồng lại cãi vã. Bà manh nha tiếm quyền làm chủ gia đình. Các đứa con có khuynh hướng theo bà, vì bà hay nuông chìu con cái, nên chinh phục được cảm tình. Phe của bà, đồng minh đông hơn. Chế độ độc tài quân phiệt của ông bị cô lập, yếu thế, lỗi thời.
Dù thường cãi vã, nhưng có lúc bà nói một câu nghe được. Rằng, ông đi làm cực nhọc,
lại chẳng kiếm bao nhiêu. Thôi, ở nhà lo việc gia đình, và trông nom mấy đứa nhỏ. Để một mình bà làm cũng đủ. Hơn nữa, tuổi của ông lớn rồi, nên nghỉ hưu sớm mà hưởng nhàn. Ông đồng ý ngay ý kiến của bà. Từ đó, ông biến thành nội trợ. Ai nắm kinh tế gia đình, thì người ấy làm chủ. Khi phát giác ra chân lý này, thì ông đã bị tụt xuống hàng thứ yếu. Muốn điều gì, ông phải đưa ra đề nghị. Nhiều lần ông cay đắng nói nửa đùa nửa thật, là dâng kiến nghị lên bà.
Với tính lơ đãng, lại thêm vụng về, việc nhà ông không vén khéo. Bà chê, ông làm người
nội trợ bất tài. Ông giận, hất đổ mâm cơm. Bà im lặng hốt dọn. Mấy mươi năm chung sống, bà biết ông hơn ai hết. Khi ông đổ quạu, bà không nên hó hé nói năng. Sau đó, bà than phiền rằng, ông còn giữ nguyên bản chất của người đàn ông Việt Nam, với cái quan niệm chồng chúa vợ tôi. Và ông cũng chỉ trích lại rằng, mới qua Mỹ không bao lâu, bà đã bắt chước cái thói hỗn láo với chồng của đàn bà Mỹ. Vừa nói ông vừa đưa ngón tay điểm mặt bà, theo kiểu cảnh cáo đối phương. Bà nhịn. Không là nhà quân sự, nhưng bà biết tiến thoái đúng lúc. Khi đang giận, mà gặp phải sự khiêu khích, ông sẽ dốc toàn lực ra tấn công, bất kể hậu quả. Chuyện đâu còn có đó. Từ từ rồi bà sẽ dùng đường lối chính trị, lấy kinh tế làm biện pháp, buộc ông phải nhượng bộ yêu sách của bà.
Nhiều lần ông Lâm đã nhượng bộ. Nhưng lần này, bà thấy ông có vẻ quyết liệt giữ vững
ý kiến của mình. Bà đề nghị một phương cách giải quyết. Trước năm hai ngàn, ông đưa các con du lịch về phương nam. Bà ở lại trông coi nhà cửa, đồng thời đi làm kiếm thêm tiền vào những ngày lễ tết đắt khách.
Ông ái ngại: “Nếu vấn nạn Y2K xảy ra, bà sẽ không sống nổi.”
Bà nói: “Cùng lắm là tôi chết. Ông tục huyền với người đàn bà khác.”
“Trên đời này, không dễ kiếm được người nào như bà.”
Lâu lâu, nghe ông nói một câu chí tình, bà cảm động, cầm tay ông: “Ông cũng biết thương tôi hả?”
Ông choàng tay ôm bà: “Thương thì chưa chắc. Nhưng biết tìm đâu ra một người bạn đời
chịu khó cãi vã với tôi, suốt mấy mươi năm không hề mệt mỏi?”
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 060
NGUYỄN THIÊN THỤ * QUAN ĐIỂM VĂN HỌC
TÂm Tư của các thi văn sĩ &
Vài Quan Điểm hôm nay về văn học
Nguyễn Thiên Thụ
Chương này có mục đích trình bày những suy nghĩ và tâm tư của các nhà văn, nhà thơ tại Việt Nam hiện nay về văn học và cuộc sống.
Năm 1995, nhà xuất bản Văn Học Hà Nội xuất bản quyển Nhà Văn Việt Nam Chân Dung Tự Họa của Ngô Thảo và Lại Nguyên Ân. Quyển này là tập hợp các ý kiến của 108 thi văn sĩ về năm câu hỏi:
1. Anh, chị có bằng lòng với con dường nghề nghiệp đã chọn?
2. Những đức tính anh, chị coi là cần thiết với người sáng tác?
3.Theo kinh nghiệm của anh, chị trong các yếu tố làm nên hoàn cảnh và điều kiện sống, yếu tố nào đóng vai trò quan trọng đối với việc sáng tác?
4.Những đồng nghiệp mà anh chị coi là chí hướng và thường trao đổi với anh, chị về các vấn đề trong đời sống và trong văn chương?
9. Tác giả và tác phẩm mà anh chị yêu thích hơn cả và thường đọc đi đọc lại ( cả trong và ngoài nước).
Một số trả lời đầy đủ năm câu hỏi trên, một số chỉ trả lời các câu quan trọng, và một số không trả lời, họ chỉ trình bày tiểu sử, quá trình sáng tác và một vài ý kiến của họ. Những nhà văn này già có trẻ có, nhưng đa số là những nhà văn xuất hiện sau 1945, đã từng phục vụ trong quân dội, đã tham dự những trận đánh thời kháng Pháp, thời chống Mỹ.
Và đây là kết quả của cuộc thăm dò ý kiến:
1.Nghiệp thi văn:
Hầu hết đều bằng lòng với nghề cầm bút của mình. Có người phấn khởi,tự hào. Có người lo lắng không biết mình có làm tròn nhiệm vụ này không. Có người miễn cưỡng bằng lòng với sự an bài của số phận.
2.Đức tính của nghề cầm bút:
Nhiều ý kiến khác nhau.
Đức Ban cho rằng kiên nhẫn và khiêm tốn (9).
Đỗ Vĩnh Bao thì cho là trung thực và giàu tưởng tượng(16).
Vũ Ngọc Bình là trung thực ngay cả trong đời sống (17).
Thu Bồn: kiên nhẫn (21).
Nguyễn Đăng Mạnh: chân thật, dũng cảm, có yêu ghét riêng (162).
Ngô thế Oanh: trung thực, chân thành (210).
Lê Huy Quang : trung thực và đức tin (229).
Võ Văn Trực: chân thật (288).
Đa số cho trung thành, chân thật là đức tính cần thiết cho văn, thi sĩ.
3.Yếu tố đóng vai trò quan trọng đối với việc sáng tác:
Nhiều người trả lời khác nhau.
Lưu Trùng Dương: Bạn bè và vợ (63)
Đỗ Kim Cuông : hoàn cảnh sống ( 50)
Lê Đoàn: đủ diều kiện vật chất (68)
Thanh Giang: giữ tâm hồn, phẩm giá, dũng cảm vượt mọi hoàn cảnh (80) Nguyễn Phan Hách: không khí cởi mở (98)
Xuân Hoài: làm theo ý thích mình (118)
Trần Huy Quang: điều kiện cần: cơm áo, điều kiện đủ:không có khủng bố
(232)
Khuất Quang Thụy : được tự do trong lao đng nghệ thuật (283).
Kết luận: Đa số cho rằng nhà văn cần hai điều kiện: vật chất (cơm áo, nhà cửa) và tinh thần: được tự do, không bị khủng bố.
4.Câu thứ tư : không cần thiết.
5.Câu thứ 5 rất quan trọng. Tác giả, tác phẩm nào( trong nước và ngoại quốc) anh, chị ưa thích nhất ? Và đây là những kết quả thích thú:
- Đỗ Vĩnh Bảo: Nguyễn Khải, Chế Lan Viên (16)
- Vũ Ngọc Bình: Nguyễn Tuân , Dostoevsky, Maxime Gorki (18)
- Hoàng Văn Bổ: Lỗ Tấn,Nam Cao, Solokhov, Aimatov (22)
- Trần Độ: Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài (70).
- Xuân Hoài: Nguyễn Bính, Huy Cận, Nguyễn Duy, Dư Thị Hoàn (118)
- Xuân Hoàng: Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Phạm Huy Thông, Tố Hữu, Nguyễn Minh Châu, Xuân Quỳnh (120).
- Nguyễn Kiên: Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, A, Tchekov, Lỗ Tấn, Nam Cao (137)
- Lê Minh Khuê: Hemingway, Lỗ Tấn, Tchékhov( 141).
- Vân Long: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Lorca, Apollinaire (152)
- Nguyễn Đăng Mạnh: Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Thiệp (162).
Nhận xét chung: đa số yêu thích văn chương thời tiền chiến hơn văn chưong hiện đại. Đa số thích Nguyễn Tuân,Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên. Các nhà văn nhà thơ lớp sau như Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Duy, Nguyễn Minh Châu. Về các tác giả ngoại quốc có Lỗ Tấn, Tchékhov, Solokhov, Hemingway.
Trước đây các nhà phê bình văn học đảng mạt sát văn học lãng mạn, và trong các cuộc học tập chính trị, cải tạo tư tưởng, người ta kết tội văn hóa đồi trụy nhưng bây giờ mọi người lại yêu thi ca tiền chiến . Sự kiện này cho thấy thi văn tuyên truyền và việc giáo dục của đảng là vô ích. Quần chúng thích những tác phẩm tài hoa, xuất phát từ trái tim chân thực chứ không phải những tác phẩm giả tạo, ca tụng những việc không thực và những người không tốt.
Một điều nữa rất đáng chú ý là những văn nghệ sĩ đều muốn có một cuộc sống vật chất tối thiểu và một đời sống tinh thần thoải mái: được tự do viết những gì mình thích, những gì mình suy nghĩ, không kiểm soát, không bắt bớ, tù đầy.
Nhà văn, nhà thơ đời nào cũng túng thiếu, nghèo khổ. Nhà văn xã hội chủ nghĩa càng nghèo khổ hơn:
Nhà văn, nhà giáo, nhà báo, nhà đài,
Bốn nhà cộng lại bằng hai nhà nghèo!
Nhiều nhà thơ đã phải xin tiền, mưọn tiền bè bạn để in thơ như Hải Bằng. Nhiều nhà thơ, nhà văn không có gì để sống. Nguyễn Dậu viết:
Có lẽ vì tôi là một nhà văn thiếu mềm dẻo, vì thế suốt 38 năm cầm bút, tôi chưa bao giờ có điều kiện tối thiểu để sống cho nghiệp văn như các đồng nghiệp khác. Nó ở dưới mức nghèo khổ, nghĩa là không nhà, không lương (52).
Bùi Chí Vinh cũng là một nhà thơ đã sống hiện thực trong thiên đường xã hội chủ nghĩa. Ông viết:
Hộ khẩu thì điêu đứng, cơm áo thì quay cuồng, danh vọng có đờm, chữ viết ra có máu. Cũng may, cũng may là ta đã được xô đảy về phía như vậy, phía những người bị áp bức không phân biệt tuổi tác, phía của đám đông không có văn bằng, bất cần khoa bảng, ta sung sướng đến ứa nước mắt mà đại biểu cho đám đông thần thánh đó, ít ra là về thơ (300)
Mối tương quan giữa người với người rất khó khăn. Trước 1945, người ta phê bình mỗi nhà văn, nhà thơ là một ốc đảo. Ốc đảo thì xa xôi, rời rạc, hoang vắng nhưng nó thanh bình, không hận thù, nghi kị. Chế độ cộng sản làm cho người ta nghi kị lẫn nhau. Lãnh tụ thì nghi ngờ các đồng chí cấp dưới cướp quyền. Bạn bè, xóm giềng sợ người ta vu khống tố cáo mình. Những vụ chỉnh huấn ,phê bình, kiểm thảo chỉ làm cho con người thù hận, chia rẽ nhau. Có lẽ người ta đoàn kết trong gian nguy còn trong thanh bình thì chèn ép, cướp giật nhau. Lê Chí trả lời câu 4 như sau:
Rất khó nói. Chưa gặp những người thật ổn định về tâm huyết (43).
Vụ Nhân Văn, Giai Phẩm để để lại trong tâm trí văn nhân, thi sĩ mt ấn tượng kinh hoàng. Người viết cho Nhân Văn bị tố đã đành, người không viết, chỉ có liên hệ bạn bè hay không liên hệ gì cả cũng bị tố cáo rồi bị kiểm thảo, bị đày đọa và bị tù ti hoặc trừng phạt. Ảnh hưởng của cuộc khủng bố Nhân Văn, Giai Phẩm còn mạnh mẽ trong tâm trí Xuân Cang gần 40 năm sau. Ông viết :
Trước khi vào nghề văn đã chứng kiến cảnh Nhân Văn, nên suốt đời phải lánh xa đồng nghiệp (29).
Nhiều nhà văn thích sống với quá khứ. Và họ thích đường lối chủ trương văn nghệ của đảng lúc đó: đánh Pháp, Mỹ, ca tụng các anh hùng. Họ đã già, cuộc sống tập nập, chen chúc của cơ chế thị trường làm họ khó thở. Trong khi đa số quần chúng và văn nghệ sĩ phấn khởi vì đổi mới, những văn thi sĩ này chống đổi mới, đổi mới làm cho họ buồn. Họ không thích nhạc giật, nhạc xập xình, họ không ưa những đề tài mới như là về tình yêu, về cuộc sống hôm nay.Thu Bồn viết:
Không phấn khởi, không bất mãn với đồng lương còm. Lộc của nhân dân, bạn bè cho ăn uống không hết. Cái lộc đó đòi hỏi tôi phải viết. . Nhưng viết thì phải viết cái gì?
Chạy theo thời trang ư? Để vừa có tiền lại vừa hợp với cái gu trẻ hóa văn chương. Tiểu thuyết’ hu la húp’, thơ ‘Rốc’ chạy sô với thời cuộc và thị hiếu tầm thường.
Hồi còn đánh nhau với giặc, nhà văn ca ngợi những anh hùng dũng sĩ, ca ngợi cây chông, ca ngợi những người tự đốt nhà mình để không cho giặc ở. . . Bây giờ ca ngợi cái gì? Các nhà doanh nghiệp trẻ, tay không trở thành trirệu phú. Các nhà buôn. . .Đất đai xưa giữ từng tấc bằng máu, nay bán hàng ngàn hàng vạn thườc để lấy vàng , để giữ đc lập bằng kinh tế, vân vân và vân vân ư? (20).
Thanh Giang chuyên viết về đề tài chiến tranh, ca tụng đảng, ca tụng Việt Nam anh hùng, cũng phải đành dẹp bản thảo dang dở đi viết theo yêu cầu; có người gọi là ‘chạy sô’, có người khuyên nên chuyển đề tài đương đại. Tôi đáp để ổn định cho mình : những nguyên mẫu trong tôi giờ đang thành ‘hồn thiêng’, luôn cựa quậy đòi tái hiện, đeo đẳng văn như món nợ xương máu đồng đi (80).
Một số thi văn gia đầy bầu nhiệt huyết, muốn dùng văn chương để cải tạo xã hội mục nát. Người ta thấy nhu cầu phải làm một cuộc cách mạng nữa vì cuộc cách mạng trước đây không đạt hay chưa đạt yêu cầu. Thu Bồn viết:
Nhà văn cần phải là một thầy thuốc mổ xẻ những ung nhọt của xã hi.- đó chính là những ung nhọt của con người., Chúng ta đã xóa bỏ được chế đ nông nô nhưng nô lệ vẫn còn. Nô lệ đó là những tên nịnh bợ và cả những người ưa nịnh bợ- nguồn gốc của tham những và hối lộ- chứng bệnh nan y ( 21).
Nói tóm lại, những ý kiến trên hầu hết khác biệt với quan niệm xã hội chủ nghĩa, khác với những quan niệm đã được Trường Chinh, Tố Hữu truyền bá trên báo chí, khác với những chủ trương, đường lối của đảng cộng sản. Người văn nghệ sĩ ngày nay nói rõ lòng mình, không còn lo sợ, e ngại như trước 1975. Họ yêu thích những gì mà trước đây bị cấm đoán , sự kiện này cho thấy công trình xích hóa, nào là giáo dục, học tập, tẩy não của đảng cộng sản đều vô ích. Các văn thi sĩ bây giờ yêu thi văn lãng mạn, yêu văn thi sĩ tiền chiến, và các nhà thơ nhà văn quốc tế. Quan trọng nhất là họ muốn được tự do sáng tạo, muốn thoát khỏi sự gò bó, nô lệ, giả dối của một thời văn nghệ bị trói buộc.
Vài Quan Điểm hôm nay về văn học
Nguyễn Thiên Thụ
Chương này có mục đích trình bày những suy nghĩ và tâm tư của các nhà văn, nhà thơ tại Việt Nam hiện nay về văn học và cuộc sống.
Năm 1995, nhà xuất bản Văn Học Hà Nội xuất bản quyển Nhà Văn Việt Nam Chân Dung Tự Họa của Ngô Thảo và Lại Nguyên Ân. Quyển này là tập hợp các ý kiến của 108 thi văn sĩ về năm câu hỏi:
1. Anh, chị có bằng lòng với con dường nghề nghiệp đã chọn?
2. Những đức tính anh, chị coi là cần thiết với người sáng tác?
3.Theo kinh nghiệm của anh, chị trong các yếu tố làm nên hoàn cảnh và điều kiện sống, yếu tố nào đóng vai trò quan trọng đối với việc sáng tác?
4.Những đồng nghiệp mà anh chị coi là chí hướng và thường trao đổi với anh, chị về các vấn đề trong đời sống và trong văn chương?
9. Tác giả và tác phẩm mà anh chị yêu thích hơn cả và thường đọc đi đọc lại ( cả trong và ngoài nước).
Một số trả lời đầy đủ năm câu hỏi trên, một số chỉ trả lời các câu quan trọng, và một số không trả lời, họ chỉ trình bày tiểu sử, quá trình sáng tác và một vài ý kiến của họ. Những nhà văn này già có trẻ có, nhưng đa số là những nhà văn xuất hiện sau 1945, đã từng phục vụ trong quân dội, đã tham dự những trận đánh thời kháng Pháp, thời chống Mỹ.
Và đây là kết quả của cuộc thăm dò ý kiến:
1.Nghiệp thi văn:
Hầu hết đều bằng lòng với nghề cầm bút của mình. Có người phấn khởi,tự hào. Có người lo lắng không biết mình có làm tròn nhiệm vụ này không. Có người miễn cưỡng bằng lòng với sự an bài của số phận.
2.Đức tính của nghề cầm bút:
Nhiều ý kiến khác nhau.
Đức Ban cho rằng kiên nhẫn và khiêm tốn (9).
Đỗ Vĩnh Bao thì cho là trung thực và giàu tưởng tượng(16).
Vũ Ngọc Bình là trung thực ngay cả trong đời sống (17).
Thu Bồn: kiên nhẫn (21).
Nguyễn Đăng Mạnh: chân thật, dũng cảm, có yêu ghét riêng (162).
Ngô thế Oanh: trung thực, chân thành (210).
Lê Huy Quang : trung thực và đức tin (229).
Võ Văn Trực: chân thật (288).
Đa số cho trung thành, chân thật là đức tính cần thiết cho văn, thi sĩ.
3.Yếu tố đóng vai trò quan trọng đối với việc sáng tác:
Nhiều người trả lời khác nhau.
Lưu Trùng Dương: Bạn bè và vợ (63)
Đỗ Kim Cuông : hoàn cảnh sống ( 50)
Lê Đoàn: đủ diều kiện vật chất (68)
Thanh Giang: giữ tâm hồn, phẩm giá, dũng cảm vượt mọi hoàn cảnh (80) Nguyễn Phan Hách: không khí cởi mở (98)
Xuân Hoài: làm theo ý thích mình (118)
Trần Huy Quang: điều kiện cần: cơm áo, điều kiện đủ:không có khủng bố
(232)
Khuất Quang Thụy : được tự do trong lao đng nghệ thuật (283).
Kết luận: Đa số cho rằng nhà văn cần hai điều kiện: vật chất (cơm áo, nhà cửa) và tinh thần: được tự do, không bị khủng bố.
4.Câu thứ tư : không cần thiết.
5.Câu thứ 5 rất quan trọng. Tác giả, tác phẩm nào( trong nước và ngoại quốc) anh, chị ưa thích nhất ? Và đây là những kết quả thích thú:
- Đỗ Vĩnh Bảo: Nguyễn Khải, Chế Lan Viên (16)
- Vũ Ngọc Bình: Nguyễn Tuân , Dostoevsky, Maxime Gorki (18)
- Hoàng Văn Bổ: Lỗ Tấn,Nam Cao, Solokhov, Aimatov (22)
- Trần Độ: Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài (70).
- Xuân Hoài: Nguyễn Bính, Huy Cận, Nguyễn Duy, Dư Thị Hoàn (118)
- Xuân Hoàng: Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Phạm Huy Thông, Tố Hữu, Nguyễn Minh Châu, Xuân Quỳnh (120).
- Nguyễn Kiên: Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, A, Tchekov, Lỗ Tấn, Nam Cao (137)
- Lê Minh Khuê: Hemingway, Lỗ Tấn, Tchékhov( 141).
- Vân Long: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Lorca, Apollinaire (152)
- Nguyễn Đăng Mạnh: Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Thiệp (162).
Nhận xét chung: đa số yêu thích văn chương thời tiền chiến hơn văn chưong hiện đại. Đa số thích Nguyễn Tuân,Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên. Các nhà văn nhà thơ lớp sau như Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Duy, Nguyễn Minh Châu. Về các tác giả ngoại quốc có Lỗ Tấn, Tchékhov, Solokhov, Hemingway.
Trước đây các nhà phê bình văn học đảng mạt sát văn học lãng mạn, và trong các cuộc học tập chính trị, cải tạo tư tưởng, người ta kết tội văn hóa đồi trụy nhưng bây giờ mọi người lại yêu thi ca tiền chiến . Sự kiện này cho thấy thi văn tuyên truyền và việc giáo dục của đảng là vô ích. Quần chúng thích những tác phẩm tài hoa, xuất phát từ trái tim chân thực chứ không phải những tác phẩm giả tạo, ca tụng những việc không thực và những người không tốt.
Một điều nữa rất đáng chú ý là những văn nghệ sĩ đều muốn có một cuộc sống vật chất tối thiểu và một đời sống tinh thần thoải mái: được tự do viết những gì mình thích, những gì mình suy nghĩ, không kiểm soát, không bắt bớ, tù đầy.
Nhà văn, nhà thơ đời nào cũng túng thiếu, nghèo khổ. Nhà văn xã hội chủ nghĩa càng nghèo khổ hơn:
Nhà văn, nhà giáo, nhà báo, nhà đài,
Bốn nhà cộng lại bằng hai nhà nghèo!
Nhiều nhà thơ đã phải xin tiền, mưọn tiền bè bạn để in thơ như Hải Bằng. Nhiều nhà thơ, nhà văn không có gì để sống. Nguyễn Dậu viết:
Có lẽ vì tôi là một nhà văn thiếu mềm dẻo, vì thế suốt 38 năm cầm bút, tôi chưa bao giờ có điều kiện tối thiểu để sống cho nghiệp văn như các đồng nghiệp khác. Nó ở dưới mức nghèo khổ, nghĩa là không nhà, không lương (52).
Bùi Chí Vinh cũng là một nhà thơ đã sống hiện thực trong thiên đường xã hội chủ nghĩa. Ông viết:
Hộ khẩu thì điêu đứng, cơm áo thì quay cuồng, danh vọng có đờm, chữ viết ra có máu. Cũng may, cũng may là ta đã được xô đảy về phía như vậy, phía những người bị áp bức không phân biệt tuổi tác, phía của đám đông không có văn bằng, bất cần khoa bảng, ta sung sướng đến ứa nước mắt mà đại biểu cho đám đông thần thánh đó, ít ra là về thơ (300)
Mối tương quan giữa người với người rất khó khăn. Trước 1945, người ta phê bình mỗi nhà văn, nhà thơ là một ốc đảo. Ốc đảo thì xa xôi, rời rạc, hoang vắng nhưng nó thanh bình, không hận thù, nghi kị. Chế độ cộng sản làm cho người ta nghi kị lẫn nhau. Lãnh tụ thì nghi ngờ các đồng chí cấp dưới cướp quyền. Bạn bè, xóm giềng sợ người ta vu khống tố cáo mình. Những vụ chỉnh huấn ,phê bình, kiểm thảo chỉ làm cho con người thù hận, chia rẽ nhau. Có lẽ người ta đoàn kết trong gian nguy còn trong thanh bình thì chèn ép, cướp giật nhau. Lê Chí trả lời câu 4 như sau:
Rất khó nói. Chưa gặp những người thật ổn định về tâm huyết (43).
Vụ Nhân Văn, Giai Phẩm để để lại trong tâm trí văn nhân, thi sĩ mt ấn tượng kinh hoàng. Người viết cho Nhân Văn bị tố đã đành, người không viết, chỉ có liên hệ bạn bè hay không liên hệ gì cả cũng bị tố cáo rồi bị kiểm thảo, bị đày đọa và bị tù ti hoặc trừng phạt. Ảnh hưởng của cuộc khủng bố Nhân Văn, Giai Phẩm còn mạnh mẽ trong tâm trí Xuân Cang gần 40 năm sau. Ông viết :
Trước khi vào nghề văn đã chứng kiến cảnh Nhân Văn, nên suốt đời phải lánh xa đồng nghiệp (29).
Nhiều nhà văn thích sống với quá khứ. Và họ thích đường lối chủ trương văn nghệ của đảng lúc đó: đánh Pháp, Mỹ, ca tụng các anh hùng. Họ đã già, cuộc sống tập nập, chen chúc của cơ chế thị trường làm họ khó thở. Trong khi đa số quần chúng và văn nghệ sĩ phấn khởi vì đổi mới, những văn thi sĩ này chống đổi mới, đổi mới làm cho họ buồn. Họ không thích nhạc giật, nhạc xập xình, họ không ưa những đề tài mới như là về tình yêu, về cuộc sống hôm nay.Thu Bồn viết:
Không phấn khởi, không bất mãn với đồng lương còm. Lộc của nhân dân, bạn bè cho ăn uống không hết. Cái lộc đó đòi hỏi tôi phải viết. . Nhưng viết thì phải viết cái gì?
Chạy theo thời trang ư? Để vừa có tiền lại vừa hợp với cái gu trẻ hóa văn chương. Tiểu thuyết’ hu la húp’, thơ ‘Rốc’ chạy sô với thời cuộc và thị hiếu tầm thường.
Hồi còn đánh nhau với giặc, nhà văn ca ngợi những anh hùng dũng sĩ, ca ngợi cây chông, ca ngợi những người tự đốt nhà mình để không cho giặc ở. . . Bây giờ ca ngợi cái gì? Các nhà doanh nghiệp trẻ, tay không trở thành trirệu phú. Các nhà buôn. . .Đất đai xưa giữ từng tấc bằng máu, nay bán hàng ngàn hàng vạn thườc để lấy vàng , để giữ đc lập bằng kinh tế, vân vân và vân vân ư? (20).
Thanh Giang chuyên viết về đề tài chiến tranh, ca tụng đảng, ca tụng Việt Nam anh hùng, cũng phải đành dẹp bản thảo dang dở đi viết theo yêu cầu; có người gọi là ‘chạy sô’, có người khuyên nên chuyển đề tài đương đại. Tôi đáp để ổn định cho mình : những nguyên mẫu trong tôi giờ đang thành ‘hồn thiêng’, luôn cựa quậy đòi tái hiện, đeo đẳng văn như món nợ xương máu đồng đi (80).
Một số thi văn gia đầy bầu nhiệt huyết, muốn dùng văn chương để cải tạo xã hội mục nát. Người ta thấy nhu cầu phải làm một cuộc cách mạng nữa vì cuộc cách mạng trước đây không đạt hay chưa đạt yêu cầu. Thu Bồn viết:
Nhà văn cần phải là một thầy thuốc mổ xẻ những ung nhọt của xã hi.- đó chính là những ung nhọt của con người., Chúng ta đã xóa bỏ được chế đ nông nô nhưng nô lệ vẫn còn. Nô lệ đó là những tên nịnh bợ và cả những người ưa nịnh bợ- nguồn gốc của tham những và hối lộ- chứng bệnh nan y ( 21).
Nói tóm lại, những ý kiến trên hầu hết khác biệt với quan niệm xã hội chủ nghĩa, khác với những quan niệm đã được Trường Chinh, Tố Hữu truyền bá trên báo chí, khác với những chủ trương, đường lối của đảng cộng sản. Người văn nghệ sĩ ngày nay nói rõ lòng mình, không còn lo sợ, e ngại như trước 1975. Họ yêu thích những gì mà trước đây bị cấm đoán , sự kiện này cho thấy công trình xích hóa, nào là giáo dục, học tập, tẩy não của đảng cộng sản đều vô ích. Các văn thi sĩ bây giờ yêu thi văn lãng mạn, yêu văn thi sĩ tiền chiến, và các nhà thơ nhà văn quốc tế. Quan trọng nhất là họ muốn được tự do sáng tạo, muốn thoát khỏi sự gò bó, nô lệ, giả dối của một thời văn nghệ bị trói buộc.
No comments:
Post a Comment