Sunday, November 6, 2016
NGUYỄN THIÊN THỤ * BIẾN TƯ TƯỞNG TRONG THẾ GIỚI CỘNG SẢN
NHỮNG CHUYỂN
BIẾN TƯ TƯỞNG
TRONG THẾ GIỚI CỘNG SẢN
Cuộc đời luôn biến thiên ngay cả chế
độ cộng sản là một chế độ mà Marx tự hào là toàn vẹn nhất, là đỉnh cao của nhân
loại. Thế nhưng sau Marx, bao chủ thuyết trong thế giới cộng sản đã xuất hiện nhằm
phủ định Marx và chủ nghĩa cộng sản.
Trong bài này, trước tiên, chúng tôi trình bày sơ lược quan điểm của Marx, Engels sau đó sẽ viết về các chủ trương, quan điểm khác của các nhà tư tưởng và các lãnh đạo trong thế giới cộng sản nhằm chống lại các chủ trương cuả Marx, Engels, Stalin và Mao Trạch Đông.
Trong bài này, trước tiên, chúng tôi trình bày sơ lược quan điểm của Marx, Engels sau đó sẽ viết về các chủ trương, quan điểm khác của các nhà tư tưởng và các lãnh đạo trong thế giới cộng sản nhằm chống lại các chủ trương cuả Marx, Engels, Stalin và Mao Trạch Đông.
I. KARL MARX Và FREDERICH ENGELS
Karl Marx (1818-1883) và Frederich Engels (1820-1895) là hai nhà sáng lập đảng
cộng sản quốc tế. Theo định nghĩa của Engels, trong Những Nguyên Tắc Cộng Sản,
cộng sản là một chủ nghĩa có mục đích giải phóng dân vô sản. Theo Engels, vô sản
là một giai cấp trong xã hội sống bằng cách bán hoàn toàn sức lao động của mình
và không thu được lợi nhuận nào, mà trọn đời họ, sống chết, vui buồn cùng mọi
hiện hữU đều do nhu cầu lao động. Họ là giai cấp lao động của thế kỷ 19. Họ là
những thợ thuyền bị bọn tư bản bóc lột và suốt đời họ là cuộc đời nghèo khổ.
Giai cấp vô sản ra đời trong cuộc cách mạng kỹ nghệ mà quan trọng nhất là việc
phát minh máy hơi nước và các máy móc khác đã dẫn tới cuộc cách mạng kỹ nghệ đầu
tiên tại Anh quốc, sau lan tràn qua nhiều quốc gia. Chỉ có những tư bản lớn mới
đủ sức mua máy móc tối tân để trang bị cho cơ xưởng của họ. Máy tóc tối tân đã
làm cho sản xuất gia tăng và giá cả càng rẻ. Máy móc làm nhanh và tốt hơn con
người cho nên giai cấp tư bản nắm trọn vẹn công cụ sản xuất và càng ngày giai cấp
thợ thuyền mất giá trị. Giai cấp tư bản càng ngày càng giàu, có trong tay mọi
thứ còn giai cấp vô sản càng ngày càng nghèo, giá trị người thợ càng ngày càng
kém. Trước đây, thợ thuyền có thể làm từng vật một, nay thì chỉ làm được từng bộ
phận một. Trong giai đoạn cách mạng kỹ nghệ, cứ vài năm lại có một cuộc khủng
hoảng kinh tế, khiến cho giai cấp vô sản thêm khốn đốn. Engels cho rằng phải
bãi bỏ chế độ tư hữU thì kỹ nghệ mới thực sự phát triển, và đây là mục đích thiết
yếu của chủ nghĩa cộng sản. Trong
Tuyên Ngôn Cộng Sản, Marx và Engels cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử giai
cấp đấu tranh (The history of all hitherto existing society is the history of
class struggles).
Từ cơ sở lý luận này, hai
ông tìm mọi cách gây hận thù giai cấp, và đi đến kết luận rằng giai cấp vô sản
sẽ cướp chính quyền, sẽ chiến thắng, sẽ lật đổ giai cấp tư bản và trở thành
giai cấp thống trị. Marx và Engels nhấn mạnh rằng vô sản là người đào mồ chôn
giai cấp tư bản (What the bourgeoisie therefore produces, above all, are its
own grave-diggers. Its fall and the victory of the proletariat are equally
inevitable) . Và hai ông đã đề ra những chủ trương sắt máu và tàn bạo đối với
tư bản như là đánh thuế lũy tiến, tịch thu tài sản, hủy bỏ mọi quyền thừa kế...
Cách mạng tháng mười 1919 thành công tại Nga, Lênin đã lật đổ chính quyền của
Nga hoàng, và thành lập chính quyền vô sản. Đảng cộng sản ra đời từ đây. Lênin
đã thiết lập chính quyền chuyên chính, và chính quyền này được Stalin củng cố.
Stalin đã đày dân Nga lên Tây Bá Lợi Á , giết bao triệu người, và tịch thu tài
sản của những kẻ bị gọi là phong kiến, địa chủ, tư bản và phản động. Những đồng
chí của ông trước sau cũng bị giết hại vì tội phản động, bán nước hoặc liên lạc
với kẻ thù. .. Nói tóm lại, ba điểm quan trọng của chủ nghĩa cộng sản là:
- cực lực lên án tư bản bóc
lột, gậy căm thù trong lòng người vô sản, kêu gọi vô sản tiêu diệt tư bản, và
cướp chính quyền bắng võ lực.
- chủ trương công hữU hóa,
bãi bỏ quyền tư hữU .
- chủ trương chuyên chính vô sản nghĩa là độc tài tàn bạo.
- chủ trương chuyên chính vô sản nghĩa là độc tài tàn bạo.
a. Cộng sản chủ trương tiêu
diệt tư bản vì cho tư bản là nguồn gốc đau khổ của vô sản. Hơn nữa, họ cần tiêu
diệt tư bản để cướp tài sản và quyền lợi của tư bản.
b. Họ cấm tư hữU vì cho rằng
tư hữU gây bất công xã hội, gây ra việc người bóc lột người. Họ tin công hữU sẽ
đem lại công bình xã hội.
c. Họ chủ trương sắt máu vì
không dùng bạo lục thì khó tiêu diệt tư bản , và khó bắt mọi người tuân lệnh. Dụ
dỗ và khủng bố là phương sách tranh đãu của cộng sản.
II. LIÊN XÔ
1.
TROTSKY, LEV DAVIDOVITCH (1879-1940)
Ông
cũng dược gọi là Léon Trotsky là người thân tín của Lenin, là một trong những
lãnh tụ của cuộc cách mạng Nga, và là người thành lập hồng quân Liên Xộ Stalin
dùng thủ đoạn ám muội giành lấy chính quyền, ông lên tiếng phản đối, sau bị
Stalin trục xuất khỏi đảng cộng sản và lưu đày ông ra khỏi nước Nga. Năm 1938,
ông thành lập đệ tứ quốc tế cộng sản mà ở Việt Nam có nhiều người tham gia tổ
chức này như Phan Van Hùm, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Hồ HữU Tường, Nguyễn
Bách Khoa, Lê Văn Siêu. . .. Năm 1940, ông bị Stalin cho người ám sát tại Mexico. Ông chống
đối đường lối độc tài, gian ác của Stalin. Ông cho rằng cuộc cách mạng ngày
càng xấu đi. Ông chủ trương cách mạng thường xuyên ( permanent revolution). Ông
là con trai của một người Do Thái ít học, mua được một ít ruộng đất cho nên
trong cách mạng đã trở thành địa chủ và mất hết tài sản. Léon Trotsky bèn đưa
cha vào làm giám đốc tại một nhà máy gần Mạc Tư Khoa. Mẹ của ông là người đảm
đang, nuôi 8 con ăn học. Vì cuộc sống khó khăn, sau chỉ còn Léon , một trai và
hai gái sống sót. Nhưng tất cả lần lượt bị Stalin sát hại.
Trotsky là người có lòng nhân đạo hơn Léinin và Stalin. Ông đã gặp Lenin tại Anh và thành lập tờ báo Iskra (The Spark), năm 1903, ông thành lập nhóm Menshevik chống lại nhóm Bolshevik của Lenin mà ông cho rằng chủ thuyết của Lenin sẽ đi đến độc tài đảng trị...Cuộc cách mạng 1905 thành công, Trotsky được bầu làm chủ tịch hội đồng Sô Viết St. Peterburg. Lúc này ông xướng xuất thuyết Cách mạng thường xuyên, nghĩa là cuộc cách mạng ở quốc gia này phải được các quốc gia khác tiếp tục cho đến khi toàn thế giới đều hoàn tất cách mạng ( revolution in one country must be followed by revolutions in other countries, eventually throughout the world. )
Trotsky là người có lòng nhân đạo hơn Léinin và Stalin. Ông đã gặp Lenin tại Anh và thành lập tờ báo Iskra (The Spark), năm 1903, ông thành lập nhóm Menshevik chống lại nhóm Bolshevik của Lenin mà ông cho rằng chủ thuyết của Lenin sẽ đi đến độc tài đảng trị...Cuộc cách mạng 1905 thành công, Trotsky được bầu làm chủ tịch hội đồng Sô Viết St. Peterburg. Lúc này ông xướng xuất thuyết Cách mạng thường xuyên, nghĩa là cuộc cách mạng ở quốc gia này phải được các quốc gia khác tiếp tục cho đến khi toàn thế giới đều hoàn tất cách mạng ( revolution in one country must be followed by revolutions in other countries, eventually throughout the world. )
2. NIKITA KHRUSHEV (1894-1971) và CHỦ NGHĨA XÉT LẠI-
Tại Đại hội XX ngày 23
tháng hai năm 1956 của cộng đảng Liên Xô , Nikita Khrushchev bắn một loạt thần
công vào thần tượng Staline.
Đây là một cuộc nổi dậy của các tân lãnh tụ Sô Viết chống lại Stalin, và được gọi là phong trào xét lại của Liên Xô, có mục đích:
Đây là một cuộc nổi dậy của các tân lãnh tụ Sô Viết chống lại Stalin, và được gọi là phong trào xét lại của Liên Xô, có mục đích:
- hạ bệ thần tượng Stalin,
đả phá việc tôn sùng cá nhân.
- chỉ trích chủ trương tập thể hóa của Stalin. Chủ trương này làm cho nông dân chết đói rất nhiều dưới thời Stalin.
- chỉ trích chủ trương tập thể hóa của Stalin. Chủ trương này làm cho nông dân chết đói rất nhiều dưới thời Stalin.
- tố cáo tội ác của Stalin:
Nhờ văn kiện đại hội XX lọt ra ngoài, thế giới mới biết sự thật khủng khiếp về
thiên đường Xô Viết : Stalin đã đày dân Do Thái lên miền Sibir , Stalin hạ lệnh
thủ tiêu 30.000 binh lính, sĩ quan, và nhà chính trị Ba Lan tại khu rừng Katưn
tỉnh Solensk
- đòi phục hồi dân chủ
trong sinh hoạt xã hội và sinh hoạt đảng,
- bác bỏ mọi quan điểm dùng
bạo lực cướp chính quyền, coi mẩu thuẫn giữa hai hệ thống là không thể điều
hòa. Đại hội XX của cộng đảng Liên Xô là đại hội hòa bình, chủ trương tư bản và
cộng sản cùng tồn trại, cùng hợp tác trong hòa bình, giải quyết mọi tranh chấp
bằng thương lượng, chấm dứt chiến tranh lạnh cũng như chiến tranh nóng, giải trừ
quân bị. Nikita Khrushchev là người có tinh thần cách mạng, không những ông chống
Stalin mà còn chống cả Marx, chống đảng cộng sản khi tuyên bố bác bỏ dùng bạo lực
cứơp chính quyền và chủ trương sống chung hòa bình với tư bản. Nhận thấy Liên
Xô đã mềm dịu, các nước cộng sản Đông Âu liền nổi lên đòi độc lập, ly khai với
đế quốc Liên Xộ Trong đảng cộng sản Liên Xô, các đối thủ của Khrushchev bèn tấn
công ông. Khrushchev phải thay đổi chính sách. Ông xua quân chiếm các nước Đông
Âu,. Tháng 11 năm 1956, ông đem xe tăng đàn áp cách mạng ở Budapest, và đàn áp
khởi nghĩa của Imme Nagy ở Hung Gia Lợi, và giết 20.000 dân Hung.Ông đòi tổng
thống Dwight D. Eisenhower phải xin lỗi Nga về vụ thám thính cơ U2 của Mỹ đã vi
phạm không phận Liên Xộ Sau vụ này, ông cho xây dựng bức tường Bá Linh, và lên
tiếng chống Mỹ về vụ hỏa tiễn Cuba.Trong một hội nghị quốc tế, ông đòi chôn sống
tư bảnnhư Marx đã nói. Cùng lúc này, ông cũng lên tiếng chủ trương cùng tồn tại
với Tây phương và tài giảm binh bị, cùng giảm căng thẳng trong chiến tranh lạnh.
Khoảng 1960, ông mở rộng đế quốc Liên Xô, trong lúc này, Việt Nam được Liên
Xô giúp đ" để tấn công miền Nam. Mặt trận Giải Phóng Miền Nam ra đời lúc
này.
Năm 1964, công cuộc cải
cách của Khrushchev đã bị nhóm bảo thủ của Léonid Breznev lật đổ, ông lui về
thôn quê ẩn dật và mất năm 1971.
Chủ nghĩa xét lại của Nikita Khruschev đã là một khích lệ lớn lao cho nhân dân và các văn nghệ sĩ Việt Nam nhưng lại làm cho các lãnh đạo cộng sản Trung Hoa và Việt Nam hoảng sợ. Họ lo sợ dân chúng nổi lên chống Hồ Chí Minh, chống đảng. Nhất là trong khi Việt Nam đang chống Mỹ, Liên Xô lại chủ trương sống chung hòa bình với tư bản. Việc này đã làm cho hàng ngũ cộng sản Việt Nam chia rẽ. Lê Đức Thọ, Lê Duẩn đã bắt bớ hàng ngàn người và giết hại các đảng viên về tội thân Nga, đi theo chủ nghĩa xét lại. Dẫu sao, nay Việt Nam và Trung Quốc nay đang thực hiện chủ thuyết của Nikita Khrushchev mà sống chung hoà bình với tư bản.
Chủ nghĩa xét lại của Nikita Khruschev đã là một khích lệ lớn lao cho nhân dân và các văn nghệ sĩ Việt Nam nhưng lại làm cho các lãnh đạo cộng sản Trung Hoa và Việt Nam hoảng sợ. Họ lo sợ dân chúng nổi lên chống Hồ Chí Minh, chống đảng. Nhất là trong khi Việt Nam đang chống Mỹ, Liên Xô lại chủ trương sống chung hòa bình với tư bản. Việc này đã làm cho hàng ngũ cộng sản Việt Nam chia rẽ. Lê Đức Thọ, Lê Duẩn đã bắt bớ hàng ngàn người và giết hại các đảng viên về tội thân Nga, đi theo chủ nghĩa xét lại. Dẫu sao, nay Việt Nam và Trung Quốc nay đang thực hiện chủ thuyết của Nikita Khrushchev mà sống chung hoà bình với tư bản.
3. MIKHAIL GORBACHEV
Ông
sinh năm 1931, học luật tại trường đại học Moscow, tốt nghiệp viện Nông nghiệp
1966, và năm 1970 tham gia chính trị, trở thành lãnh tụ liên bang Sô VIết từ
1985 cho đến 1991. Ông đã trình bày trước đại hội đảng thứ 27 vào tháng 2-1986
chủ trương chính sách Glasnost ( cởi mở ) và perestroika ( tái kiến thiết). Năm
1998, ông tuyên bố bãi bỏ thuyết Brezhnev, cho phép Đông Âu theo đường lối dân
chủ. Năm 1990, Gorbachov dược giải thưởng Nobel Hoà bình. Chính năm này, ông
trúng cử tổng thống Liên Bang Sô Viết nhưng sau đó vào 1991, từ chức. Chính
sách dân chủ hóa khiến cho Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ly khai khỏi ảnh hưởng Cộng
sản để trở thành những quốc gia dân chủ.
III. TRUNG QUỐC:
1.
MAO TRẠCH ĐÔNG ( 1893-1976 )
Như
đã trình bày ở phần đầu, Marx và Engels đã đề cao giai cấp vô sản, cho rằng
giai cấp vô sản là tiên tiến, sẽ lãnh đạo cách mạng. Cách mạng vô sản sẽ làm
cho xã hội tốt gấp năm gấp mười chế độ tư bản. Nhưng giai cấp vô sản là gì ?
Giai cấp vô sản là những thợ thuyền làm việc trong những cơ xưởng của tư bản.
Những thợ nề, thợ mộc, thợ quét vôi, thợ tiện, thợ rèn, người thiến heo tại Việt
Nam
chỉ là những công nhân cá thể, không thuộc giai cấp vô sản theo tinh thần Marx
và Engels. Giai cấp vô sản thời Marx chỉ phát sinh tại các nước tư bản như là
Anh, Đức, còn ở Nga, Trung Quốc, Việt Nam, chưa có tư bản mà cũng không có vô sản.
Nếu có thì cũng rất íthông thể làm nên trò trống gì. Chỉ có nông dân đông đảo mới
là lực lượng cung cấp lương thực và lực lượng chiến đấu, không thể bỏ rơi nông
dân hoặc không đề cao nông dân. Nửa theo Marx, nửa theo thực tế Trung Quốc, Mao
tôn trọng cả công nhân và nông dân cho nên ông tuyên bố công nông là lực lượng
cách mạng
2. ĐẶNG TIỂU BÌNH (1904- 1997)
Công
cuộc tranh quyền của Trung cộng thành công chứng tỏ sự đóng góp lớn lao của
nông dân trong thời chiến. Nhưng sau khi lấy được Hoa Lục, đặt ách thống trị,
Trung cộng đi theo chính sách tàn sát và khắc nghiệt của Stalin, và càng ngày
càng thất bại trong lãnh vực kinh tế. Năm 1953, lúc 52 tuổi, ông trở thành tổng
bí thư đảng cộng sản Trung quốc, cùng Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai là những lãnh
tụ nổi tiếng của Trung quốc . Bước nhảy vọt của Mao Trạch Đông khiến 30 triệu
dân Trung quốc chết đói. Bước nhảy vọt cũng gây ra nhiều lời ta thán khiến Mao
căm tức. Mao dùng cách mạng văn hóa để giết hại và giam cầm những người chỉ
trích Mao trong đó có Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu, Đặng Tiểu Bình. Đặng bị bọn Vệ
Binh Đỏ của Mao kết tội là nhân vật số hai đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Đặng Tiểu Binh hai lần bị hoạn nạn. Lần thứ nhất là trong cách mạng văn hóa,
sau được gọi về Bắc Kinh năm 1973. Lần thứ hai vào tháng 5, năm 1976 bọn tứ
nhân bang do Giang Thanh cầm đầu đòi tống xuất ông ra khỏi Bắc kinh. Ông kín
đáo hoạt động, và cũng nhờ sự bảo vệ của Chu Ân Lai, ông đã khôi phục địa vị
sau khi Mao chết và bọn tứ nhân bang bị nhốt. Năm 1982, mặc dầu ông tuyên bố đi
theo xã hội chủ nghĩa, chống tư bản chủ nghĩa, theo tư tưởng Mao Trạch Đông,
ông chủ trương cải cách, mở cửa giao thương với tư bản. Tại đại hội đảng năm
này, ông tuyên bố phải xây dựng xã hội chủ nghĩa sát với hiện tình Trung Quốc.
Kết quả, tại thôn quê, chính sách tư hữU hóa đã làm cho sản lượng tăng cao, dân
chúng có đủ lương thực. Câu nói nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình là không phân biệt
mèo trắng mèo đen miễn là bắt được chuột. Câu này cho thấy Đặng Tiểu Bình theo
chủ thuyết thực dụng, không theo đường lối vô sản chuyên chính, lập trường giai
cấp, ông là người có óc cởi mở, đã làm cho dân Trung Quốc thoát ách độc tài của
Mao Trạch Đông và đưa Trung Quốc trở nên giàu mạnh.
3.
GIANG TRẠCH DÂN
Giang
Trạch Dân sinh năm 1926, tốt nghiệp đại học Jiaotong ở Thượng Hải, tham gia
sinh hoạt đảng tại đại học 1946 và tốt nghiệp ngành cơ khí, sau đi tu nghiệp ở
Liên Sộ Ông làm đại sứ lại Romany và Thị trưởng Thượng Hải. Sau ông trở thành Tổng
Bí thư đảng nối tiếp Đặng Tiểu Bình.
Tại đại hội khóa 16 quốc hội Trung Quốc năm 2002, ông trình bày thuyết ba đại diện. Ngày 14-3-2004, Quốc Hội Trung Quốc tu chính hiến pháp, và biểu quyết thuyết này. Đó là một minh xác chấm dứt chủ nghĩa Mác Lê mặc dầu lá cờ cộng sản vẫn phất phới bay trên Thiên An Môn.
Tại đại hội khóa 16 quốc hội Trung Quốc năm 2002, ông trình bày thuyết ba đại diện. Ngày 14-3-2004, Quốc Hội Trung Quốc tu chính hiến pháp, và biểu quyết thuyết này. Đó là một minh xác chấm dứt chủ nghĩa Mác Lê mặc dầu lá cờ cộng sản vẫn phất phới bay trên Thiên An Môn.
Trước đây Marx đề cao vô sản,
kêu gọi vô sản đứng lên tiêu diệt tư bản, còn Mao Trạch Đông thì lấy công nông
làm trụ cột cho chủ nghĩa cộng sản.Nay Giang Trạch Dân lấy công nhân, nông dân
và tư bản làm ba thành phần chính trong đảng cộng sản Trung Quốc. Giang Trạch
Dân đã gọi công nhân là đại diện sản xuất tiến bộ, nông dân là đại diện văn hóa
tiến bộ, còn tư sản là quyền lợi đa số nhân dân. Nay quốc hội tu chính hiến
pháp là để bảo vệ quyền tư hữU của nhân dân. Đây là một điều trái với Marx. Sau
một thời gian, Mao Trạch Đông đấu tố, giết hại và giam cầm các phú nông, địa chủ,
nay Giang Trạch Dân lại tôn trọng quyền tư hữU, coi tư hữU ngang công hữU. Bởi
vì không có tư hữU thì con người không có động cơ lao động. Bài học sơ đẳng đó
mà Marx không biết. Phải gần một thế kỷ đau khổ, con người mới nhận thấy sai lầm
của Marx.Trên lý luận, rõ ràng ông đã coi tư bản là đồng chí, coi tư bản là một
thành phần trong nhân dân Trung Quốc. Họ Giang đã xóa bỏ tinh thần giai cấp đấu
tranh, trở lại với chủ nghĩa quốc gia. Học thuyết tam đại diện ( The Three
Represents) do Giang Trạch Dân chủ trương là một bước quay lưng với cộng sản chủ
nghĩa. Đây là một cuộc đảo chánh bằng lá phiếu quốc hội, không đổ máu. Phe bảo
thủ của Mao im lặng hoặc phản ứng rất yếu ớt.
Nói tóm lại, ngay từ khi
Mao cầm quyền, các nhà lãnh đạo cũng như những nhà trí thức và văn nghệ sĩ đã
lên tiếng chống đối con đường xã hội chủ nghĩa của Mao, của Marx. Đặng Tiểu
BÌnh đã dần dần cải cách và nay thì Giang Trạch Dân đã chính thức khai tử tinh
thần Mác Lệ
IV. VIỆT NAM
1.TRẦN
DẦN VÀ C ÁC
VĂN NGHỆ
SĨ
Trong suốt bao năm kháng
chiến, lục lượng chủ đạo vẫn là trí thức. Nguyễn Ái Quốc, Võ Nguyên Giáp, Trường
Chinh, Phạm Văn Đồng là con cái giai cấp phong kiến và trưởng giả. Các văn nghệ
sĩ theo kháng chiến như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, HữU Loan, Trần Dần, Phan
Khôi... là trí thức. Các văn nghệ sĩ phải im lặng. Nay hòa bình đã trở lại năm
1954, các văn nghệ sĩ nhận thấy đã đến lúc đòi lại cho văn nghệ quyền tự do tư
tưởng, tự do ngôn luận và tự do sáng tác. Sau khi đi Trung Quốc về, một số nhà
văn trong đó có Trần Dần, nhận thấy chế độ cộng sản đã kìm kẹp văn nghệ sĩ, nhất
là chế độ công an trị, và chính ủy trị kìm hãm đà tiến hoá của văn nghệ. Nếu cứ
thế mãi, văn hóa sẽ bị phá hoại như ở Trung quốc. Cuối năm 1954, một nhóm văn
nghệ sĩ quân đội, phần nhiều là chiến sĩ ưu tú trong chiên tranh chống Pháp, đã
tham dự trận Điện Biên Phủ và là đảng viên cộng sản, đã họp nhau lại, đề nghị đảng
cải tiến chính sách trong văn nghệ quân đội. Trần Dần thay mặt cả nhóm trình
bày cùng Nguyễn Chí Thanh, ủy viên Bộ Chính trị, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
quân đội nguyện vọng đòi đảng trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ. Tiếp theo đó, tháng 3 năm 1955, Trần Dần, Tử
Phác tổ chức hội thảo về tập thơ Việt Bắc của Tố HữU xuất bản cuối 1954. Trần Dần
và Tử Phác bị bắt giam về tội chê thơ Tố HữU, chê thơ cách mạng của một nhà đại
cách mạng.
Khi về Hà Nội, cộng sản đã
phát động ngay chiến dịch ca tụng đảng bác. Nhưng đa số đồng bào thờ ơ. Vừa về
Hà Nội, cộng sản còn lo việc nhà cửa, xe cộ, chưa có thì giờ để lo việc kiểm
soát văn hóa. Hơn nữa, mới về Hà Nội, họ chưa muốn thi hành chánh sách tàn ác
ra vội, cho nên trong mấy năm đầu tư nhân vẫn có quyền ra báo và xuất bản sách.
Vì hòan cảnh tự do này, một số báo chí tư nhân đã ra đời. Các văn nghệ sĩ kháng
chiến trong bao năm sống dưới chế độ cộng sản đã bị đè nén bóc lột, đến khi gần
thành công, họ thấy rõ bộ mặt thật của cộng sản trong chính sách cải cách ruộng
đất và chỉnh đốn đảng, cùng sự tranh giành địa vị, nhà cửa, xe cộ khi cộng sản
về thành trong khi dân chúng và văn nghệ sĩ đói khổ, thiếu thốn nên họ đòi tự
do, dân chủ. Phong trào này do các văn nghệ sĩ kháng chiến nổi danh như Phan
Khôi, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao, Hoàng Cầm. . . khởi xướng trên các báo tư nhân
sau lan rộng ra các báo đảng. Trong số báo chí này chủ đạo là hai tờ Giai Phẩm
và Nhân Văn:
2.
Giai Phẩm :
Gồm
có các đặc san Giai Phẩm 1956 (Giai Phẩm Mùa Xuân), Giai Phẩm Mùa Thu, Giai Phẩm
Mùa Đông. Tháng 1-1956, nhà xuất bản Minh Đức từ chiến khu về, cho xuất bản tập
Giai Phẩm 1956 ( sau này gọi là Giai Phẩm Mùa Xuân ), trong cuốn này có nhiều
bài nêu lên sự thối nát của chế độ như bài "Chống công thức",
"Ông Bình Vôi" của Lê Đạt, "Cái chổi quét rác rưởi" của
Phùng Quán. Trần Dần bị bắt vì viết bài ữnhất Định Thắng" bôi đen chế độ,
và tờ Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu. Ít lâu sau, Moscow sai Mikoyan sang Hà Nội, buộc Việt Nam sửa sai. Và
lúc này, Mao tung ra chiến dịch Bách Hoa Tề Khai, Bách Gia Tranh Minh , Việt Nam bắt buộc phải
công bố chính sách mới của Khrushchev. Tiếp theo là Giai Phẩm Mùa Thu Tập I,
II, III. Giai Phẩm Mùa Thu tập I ra đời ngày 29-8-1956, Phan Khôi viết bài Phê
Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ là một quả bom tạ nổ giữa thủ đô Hà Nội. Giai Phẩm Mùa
Thu tập II xuất bản tháng 10-1956, Giai Phẩm Mùa Thu tập III ra đời tháng
11-1956, và Giai Phẩm Mùa Đông in tháng 12-1956.
3.Nhân
Văn
Tờ Nhân Văn ra đời ngày 15-9-1956 do Phan Khôi,
Nguyễn HữU Đang, Trần Dần chủ trương. Tờ Nhân Văn tấn công mạnh mẽ, lan rộng đến
Thời Mới và Cứu Quốc, Học Tập là hai tờ báo đảng. Lúc này, Hồ Viết Thắng, Võ
Nguyên Giáp đều đứng lên nhận khuyết điểm. Hồ Chí Minh im lặng, Tố HữU lẩn sang
Bắc Kinh, bọn cai thầu văn nghệ như Hoài Thanh, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư im hơi
lặng tiếng. Nguyễn Chương và Hoàng Xuân Nhị lên tiếng bênh vực đảng. Lời qua tiếng
lại ngày càng gay gắt, và uy thế đảng ngày càng xuống dốc thê thảm.
Giai Phẩm và tạp chí Nhân
Văn là có sức mạnh hơn cả cho nên người ta gọi tư trào này bằng một tên chung
là Nhân Văn Giai Phẩm.
Trong phong trào Nhân Văn -
Giai Phẩm có nhiều văn nghệ sĩ tham gia. Nhân Văn do Phan Khôi làm chủ nhiệm,
Trần Duy làm thư ký tòa soạn.
Nói chung, sau 1954, các
văn nghệ sĩ VIệt Nam
mà đa số là đảng viên đã lên tiêng đòi tự do tư tưởng, tự do sáng tạo, phá tan
chủ trương kìm kẹp của đảng. Sau này, Nhân Văn, Giai Phẩm còn lên tiếng chống
quan liêu, và tham ô lãng phí. Việc này đi trước cả phong trào xét lại Liên Xô
và Trăm Hoa Đua Nở ở Trung quốc, mặc dầu về sau hai phong trào này tác động
thêm vào Nhân Văn, Giai Phẩm. Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Tố HữU ra lệnh đóng cửa
Nhân Văn, Giai Phẩm , bỏ tù Trần Dần, Nguyễn HữU Đang, và trừng phạt các văn
nghệ sĩ coí liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến Nhân Văn Giai Phẩm.
Sau Nhân Văn, Giai Phẩm,
các đảng viên cộng sản đã giác ngộ mà từ bỏ đảng như Nguyễn Hộ, Nguyễn Thanh
Giang, Trần Độ và các trí thức và nhân dân trong nước như bác sĩ Nguyễn Đan Quế,
luật sư Lê Chí Quang, hoà thượng Thích Quảng Độ, hòa thượng Thích Huyền Quang,
linh mục Nguyễn Văn Lý , nhân dân Hậu giang, Thái Bình.,. đã tranh đãu cho tự
do dân chủ và tự do tôn giáo.
Nói tóm lại, từ cách mạng tháng mười Nga thành công, đảng cộng sản ra đời đã đem bao tai họa đến cho nhân loại. Tuy cộng sản hung tàn và mạnh mẽ, nhân dân các nước trên thế giới, ngay cả các nhà lãnh đạo cộng sản cùng trí thức và văn nghệ sĩ đã ra sức tấn công chủ nghĩa cộng sản và lý thuyết sai lầm của Marx, Engels, Lenin, Stalin và Mao. . .
Nói tóm lại, từ cách mạng tháng mười Nga thành công, đảng cộng sản ra đời đã đem bao tai họa đến cho nhân loại. Tuy cộng sản hung tàn và mạnh mẽ, nhân dân các nước trên thế giới, ngay cả các nhà lãnh đạo cộng sản cùng trí thức và văn nghệ sĩ đã ra sức tấn công chủ nghĩa cộng sản và lý thuyết sai lầm của Marx, Engels, Lenin, Stalin và Mao. . .
1.Chủ nghĩa cộng sản là một
chủ nghĩa độc tài, một chủ nghĩa dân chủ giả hiệu và xảo quyệt, chỉ đem lại áp
bức,chém giết và ngăn cấm mọi thứ tự do của con người.
2.Chủ nghĩa cộng sản chỉ
đem lại nghèo khổ, bất công vì chủ trương tập thể hóa chỉ làm suy giảm sức phấn
đãu cá nhân. Cổ nhân ta có câu: cha chung không ai khóc đã mang ý nghĩa chống đối
chủ nghĩa cộng sản và đường lối sinh hoạt tập thể. Chủ nghĩa cộng sản do những
người dốt nát lãnh đạo ( hồng hơn chuyên) chỉ phá hoại đất nuớc, và không đưọc
dân chúng nhất là giới trí thức ủng hộ. Sau cùng, chủ nghĩa cộng sản độc tài
thiếu dân chủ, khiến dân chúng bất mãn.
3. Tiêu diệt tư hữU nghĩa
là tiêu diệt lòng hăng hái làm việc. Do đó năng suất suy kém, sản lượng xuống
thấp và gây ra nạn tham nhũng, ăn cắp của công.
VÌ nhận thức rõ những sai lầm
trên, các nhà lãnh đạo, các nhà trí thức và văn nghệ sĩ cùng nhân dân các nước
đã vùng lên tranh đấu tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Gorbachev đã chôn đảng cộng
sản Liên Xô, và nay Đặng Tiểu Bình/Giang Trạch Dân đã công khai quay lưng lại với
Marx, và nhân dân VIệt Nam đang ra sức tranh đãu để thủ tiêu chủ nghĩa cộng sản
tàn dân hại nước. Ngày thành công sẽ đến với chúng ta không bao lâu nữa
(
2004, Ottawa, Canada) \
THƠ PHÙNG QUÁN
Lá Khổ Sâm
Ly rượu đời Thuợng đế ban cho tôi
Qúa bủn xỉn
Tôi chỉ mới nhấp môi đã cạn
Khi chén rượu đời đã cạn
Mà túi rỗng không
Phải đứng lên và bước ra khỏi quán
Nghĩa là
Phải nhắm thái dương mình nổ súng
Hay xiết giây thòng lọng quanh cổ mình
Và trổ lên cuộc đời những câu thơ tuyệt mệnh
Như những vết chàm xanh...
Các anh tôi đó
Mai-a và Ét-xê-nhin!
Nhưng tôi chưa sống cho tròn nợ sống
Tôi chưa yêu cho hết nợ tình yêu
Tôi phải lên rừng
Hái lá khổ sâm
Tự mình cất lấy ly rượu sống...
Ôi rượu khổ sâm đắng lắm!
Đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian...
Bạn hữu thân thiết ơi!
Xin đừng trách cứ tôi
Sao trong câu thơ tôi cứ lẫn nhiều vị đắng
Chỉ vì
Tôi vừa ngâm ngợi câu thơ
Vừa cạn chén rượu đời
Cất bằng lá khổ sâm...
Rượu là bậc thiên tài tạo nên ảo tưởng Qúa bủn xỉn
Tôi chỉ mới nhấp môi đã cạn
Khi chén rượu đời đã cạn
Mà túi rỗng không
Phải đứng lên và bước ra khỏi quán
Nghĩa là
Phải nhắm thái dương mình nổ súng
Hay xiết giây thòng lọng quanh cổ mình
Và trổ lên cuộc đời những câu thơ tuyệt mệnh
Như những vết chàm xanh...
Các anh tôi đó
Mai-a và Ét-xê-nhin!
Nhưng tôi chưa sống cho tròn nợ sống
Tôi chưa yêu cho hết nợ tình yêu
Tôi phải lên rừng
Hái lá khổ sâm
Tự mình cất lấy ly rượu sống...
Ôi rượu khổ sâm đắng lắm!
Đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian...
Bạn hữu thân thiết ơi!
Xin đừng trách cứ tôi
Sao trong câu thơ tôi cứ lẫn nhiều vị đắng
Chỉ vì
Tôi vừa ngâm ngợi câu thơ
Vừa cạn chén rượu đời
Cất bằng lá khổ sâm...
SAY
Tăm tăm tình bạn
Chếnh choáng tình đời
Líu lưỡi tình người
Nôn nao thân phận!...
Chiếu rách ta ngồi
Lắc lư thuyền sóng
Cái giường long mộng
Một giòng sông trăng...
Ta cũng Lý Bạch!
Vồ trăng đáy sông
Mạn thuyền vừa cúi
Râu tóc bỗng lừng
Mắm tôm, chanh, ớt...
Trăng ta vồ được
Một mảnh ni lông!
Ta hơn Lý Bạch
Ta vồ được trăng!
Trăng ta đem gói
Nào dồi nào lòng...
Bên ta mỹ nữ
Mặt hoa che đàn
Ta Bạch-Cư-Dị!
Khách bến Tầm Dương..
Tư mã Nghi Tàm
Lệ đầm áo rách
Câu thơ bị biếm
Mềm môi ngâm tràn
Giai nhân! Giai nhân!
Mặt hoa ửng đỏ
Vì cảm thơ ta
Hay vì men lửa
Nghiêng đàn tỳ bà
Trăng rọi mặt hoa...
Ta nhìn xuống mâm
Lòng dồi như vét...
Vừng trăng nhoe nhoét
Một đống tỳ bà!
Ta nhìn giai nhân
Té mụ nạ giòng
Ta quen biết cũ
Nghiêng đàn tỳ bà
Té ra bát đũa
Tay gắp miệng và...
Ha ha, ha ha!
Cười đâu ta khóc...
Ta cười Lý Bạch
Cười giòng sông trăng
Cười Bạch Cư Dị
Cười bến Tầm Dương
Ta cười giai nhân
Mặt hoa che đàn...
Ta cười thân ta
Thiên sinh ngã tài...(1)
Mà ta vô ích
Vô ích! vô ích!
Ta cười rượu xoàng
Uống hoài vẫn tỉnh!...
CÓ
Giấy trắng quá
Và
Mắt em trong quá
Liệu thơ tôi có xứng trắng trong này...
Đây đâu phải thơ
Chỉ là những tiếng tôi thì thầm lúc buồn khổ
Để nguôi đau, tôi chẳng muốn ai hay...
Nhưng em đã đến
Mắt trong và giấy trắng
Trưa Hồ Tây, mặt trời (*) nở đỏ vườn
Chỉ một lý do ấy
Tôi đã không từ chối được
Hát cho em nghe những tiếng tôi nấc thầm...
Nếu em cứ bảo đó là thơ
Thì hãy coi thơ này hát lên từ lá cỏ
Lá cỏ vệ đường
Lá cỏ không tên
Người này lặng im nghe cỏ hát
Người kia xéo giày, dẫm đạp lên...
Nhưng không sao cả em ơi
Cỏ sinh ra là để gót giầy dẫm đạp
Để vô danh
Để xanh
Và
Để hát
Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe
Ngoài trời trăng như tuyết
Trắng lạnh đến thấu xương
Trong nhà vách trống toang
Gió ra vào thoả thích...
Hồ khuya sương tĩnh mịch
Trộn nước lẫn cùng trời
Con dế chân bờ dậu
Nỉ non hoài không thôi...
Tựa lưng ghế cành ổi
Vai khoác áo bông sờn
Tôi ngồi đọc Đỗ Phủ
Vợ vừa nghe vừa đan...
Đỗ Phủ tự Tử Mỹ
Thường xưng già Thiếu Lăng
Sinh ở miền đất Củng
Cách ta hơn ngàn năm
Thơ viết chừng vạn trang
Chín nghìn trang thất lạc
Người đời sau thu nhặt
Còn được hơn ngàn bài
Chỉ hơn ngàn bài thôi
Nỗi đau đã Thái Sơn
Nếu còn đủ vạn trang
Trái đất này e chật!...
Thơ ai như thơ ông
Lặng im mà gầm thét
Trang trang đều xé lòng
Câu câu đều đẫm huyết...
Thơ ai như thơ ông
Mỗi chữ đều như róc
Từ xương thịt cuộc đời
Từ bi thương phẫn uất
Thơ ai như thơ ông
Kể chuyện mái nhà tốc
Vác củi làm chuồng gà...
Đọc lên trào nước mắt!
Giữa tuyết trong đò con
Đỗ Phủ nằm chết đói
Đắp mặt áo bông sờn
Kéo hoài không kín gối.
Ngàn năm nay sông Tương
Sóng còn nức nở mãi
Khóc chuyện áo bông sờn
Đắp mặt thơ chết đói!...
Giật mình trên tay vợ
Bỗng nẩy một hạt sương
Hạt nửa rồi hạt nửa
Tôi nghẹn dừng giữa trang.
Kéo áo bông che vai
Ngồi lặng nghe sương rơi
Con dế chân bờ dậu
Nỉ non hoài không thôi!...
Vụng về... tôi dỗ vợ:
Em ơi đừng buồn nữa
Qua rồi chuyện ngàn năm
Bao nhiêu nước sông Tương...
Miệng nói nhưng lòng nghĩ:
Ôi thân phận nhà thơ
Khác nào thép không rỉ
Ngàn năm cũng thế thôi!...
Đã đi với nhân dân
Thì thơ không thể khác
Dân máu lệ khốn cùng
Thơ chết áo đắp mặt!
Em ơi, nếu Đỗ Phủ
Vai khoác áo lông cừu
Bụng no đến muốn mửa
Viết sao nổi câu thơ
Ngàn năm cháy như lửa:
Cửa son rượu thịt ôi
Ngoài đường xương chết buốt
Em ơi, nếu Tử Mỹ
Nhà ở rộng mười gian
Rào sắt với cổng son
Thềm cao đá hoa lát
Chắc ông không thể làm
Mưa thu mái nhà tốc
Em ơi, nếu Thiếu Lăng
Cặp kè vợ béo nứt
Một bước là ngựa xe
Đứng đi quân hầu chật
Đời nào ông lắng nghe
Tiếng gào và tiếng nấc
Bà cụ xóm Thạch Hào
Gái quê tân hôn biệt...
Đã đi với nhân dân
Thì thơ không thể khác
Dân máu lệ khốn cùng
Thơ chết áo đắp mặt!
Chính vì thế em ơi
Nhân loại ngàn năm qua
Máu chảy như sông xiết
Cũng là để cho Thơ
Sẽ không còn phải viết
Những Hành qua Bành Nha
Vô gia Thuỳ Lão biệt...
Cũng là để cho Thơ
Sẽ không còn phải chết
Giữa tuyết, trong đò con...
Đắp mặt áo bông sờn.
Đừng buồn nữa em ơi
Chuyện ngàn năm... ngàn năm
Trắng lạnh đến thấu xương
Trong nhà vách trống toang
Gió ra vào thoả thích...
Hồ khuya sương tĩnh mịch
Trộn nước lẫn cùng trời
Con dế chân bờ dậu
Nỉ non hoài không thôi...
Tựa lưng ghế cành ổi
Vai khoác áo bông sờn
Tôi ngồi đọc Đỗ Phủ
Vợ vừa nghe vừa đan...
Đỗ Phủ tự Tử Mỹ
Thường xưng già Thiếu Lăng
Sinh ở miền đất Củng
Cách ta hơn ngàn năm
Thơ viết chừng vạn trang
Chín nghìn trang thất lạc
Người đời sau thu nhặt
Còn được hơn ngàn bài
Chỉ hơn ngàn bài thôi
Nỗi đau đã Thái Sơn
Nếu còn đủ vạn trang
Trái đất này e chật!...
Thơ ai như thơ ông
Lặng im mà gầm thét
Trang trang đều xé lòng
Câu câu đều đẫm huyết...
Thơ ai như thơ ông
Mỗi chữ đều như róc
Từ xương thịt cuộc đời
Từ bi thương phẫn uất
Thơ ai như thơ ông
Kể chuyện mái nhà tốc
Vác củi làm chuồng gà...
Đọc lên trào nước mắt!
Giữa tuyết trong đò con
Đỗ Phủ nằm chết đói
Đắp mặt áo bông sờn
Kéo hoài không kín gối.
Ngàn năm nay sông Tương
Sóng còn nức nở mãi
Khóc chuyện áo bông sờn
Đắp mặt thơ chết đói!...
Giật mình trên tay vợ
Bỗng nẩy một hạt sương
Hạt nửa rồi hạt nửa
Tôi nghẹn dừng giữa trang.
Kéo áo bông che vai
Ngồi lặng nghe sương rơi
Con dế chân bờ dậu
Nỉ non hoài không thôi!...
Vụng về... tôi dỗ vợ:
Em ơi đừng buồn nữa
Qua rồi chuyện ngàn năm
Bao nhiêu nước sông Tương...
Miệng nói nhưng lòng nghĩ:
Ôi thân phận nhà thơ
Khác nào thép không rỉ
Ngàn năm cũng thế thôi!...
Đã đi với nhân dân
Thì thơ không thể khác
Dân máu lệ khốn cùng
Thơ chết áo đắp mặt!
Em ơi, nếu Đỗ Phủ
Vai khoác áo lông cừu
Bụng no đến muốn mửa
Viết sao nổi câu thơ
Ngàn năm cháy như lửa:
Cửa son rượu thịt ôi
Ngoài đường xương chết buốt
Em ơi, nếu Tử Mỹ
Nhà ở rộng mười gian
Rào sắt với cổng son
Thềm cao đá hoa lát
Chắc ông không thể làm
Mưa thu mái nhà tốc
Em ơi, nếu Thiếu Lăng
Cặp kè vợ béo nứt
Một bước là ngựa xe
Đứng đi quân hầu chật
Đời nào ông lắng nghe
Tiếng gào và tiếng nấc
Bà cụ xóm Thạch Hào
Gái quê tân hôn biệt...
Đã đi với nhân dân
Thì thơ không thể khác
Dân máu lệ khốn cùng
Thơ chết áo đắp mặt!
Chính vì thế em ơi
Nhân loại ngàn năm qua
Máu chảy như sông xiết
Cũng là để cho Thơ
Sẽ không còn phải viết
Những Hành qua Bành Nha
Vô gia Thuỳ Lão biệt...
Cũng là để cho Thơ
Sẽ không còn phải chết
Giữa tuyết, trong đò con...
Đắp mặt áo bông sờn.
Đừng buồn nữa em ơi
Chuyện ngàn năm... ngàn năm
ĐẶNG TIẾN * THANH TÂM TUYỀN
Ðặng Tiến - Thanh Tâm Tuyền
Ðặng Tiến
Nhà thơ, nhà văn Thanh Tâm Tuyền qua đời trưa ngày 22 tháng 3-2006, tại thành phố Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ, thọ 70 tuổi.
Thanh Tâm Tuyền là
một tác gia chính yếu đã làm mới nền văn học Miền Nam, trước 1975, và
góp phần tạo nên một khúc quành cho văn học Việt Nam nói chung trong nửa
sau thế kỷ 20. Ông đã làm mới câu thơ, bài thơ, ý thơ và quan niệm thi
ca Việt Nam. Ông cũng làm mới câu văn xuôi, cách kể chuyện bắt đầu từ
truyện Bếp Lửa.
Ông du nhập nghệ
thuật phương Tây bằng cách đọc trực tiếp, không kinh qua trường học Pháp
thuộc như các nhà văn, nhà thơ lớp trước. Ảnh hưởng phương Tây do đó có
tính cách trực tiếp, tự do và sáng tạo. Ngược lại, ông có khả năng
thiết lập quan hệ hữu cơ và mật thiết giữa các bộ môn văn học và nghệ
thuật: Thơ, Văn, Nhạc, Họa, như ở các nước phương Tây.
Về nội dung chính
yếu, chất liệu trong thơ văn Thanh Tâm Tuyền là ý thức thất bại. Thất
bại của con người trước Ðịnh mệnh nói chung, cụ thể là sự bất lực của
giai cấp trí thức tiểu tư sản Việt Nam trước thời cuộc. Viết văn, làm
thơ, làm nghệ thuật nói chung, là cố gắng vượt qua sự thất bại đó, biến
nó thành nghệ thuật.
Thanh Tâm Tuyền là người sâu sắc, uyên bác, tài hoa, nghiêm túc, tư cách và tiết tháo.
Thanh Tâm Tuyền tên thật là Dzư văn Tâm, sinh ngày 13 (có nơi ghi 15) tháng 3 năm 1936, tại Vinh, Nghệ An. Trong bài Thơ Mừng Năm tuổi, làm năm Nhâm
Tý 1972, ông đã kể chi tiết tiểu sử 1. Từ 1952, ông đã đi dạy học,
trường Minh Tân, Hà Ðông và có truyện đăng báo Thanh Niên, Hà Nội.
Sau đó, 1954 vào Nam
hoạt động trong Tổng Hội Sinh Viên Hà Nội di cư , cùng với những người
sẽ trở thành bạn văn nghệ về sau: Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh
Hiệp, cùng chủ trương nguyệt san Lửa Việt.
Tại Sài Gòn, 1955, ông
viết cho các tuần báo Dân Chủ, Người Việt và nổi tiếng từ những tác
phẩm đầu tay, tập thơ Tôi Không còn Cô Ðộc, 1956, và truyện Bếp Lửa,
1957. Thời điểm này, ông tích cực tham gia biên tập báo Sáng Tạo
(1956-1960) do Mai Thảo đứng tên, và ông thường được xếp vào “nhóm” Sáng
Tạo, có ảnh hưởng lớn trên văn học Miền Nam suốt một thập niên.
1962, bÐ động viên vào
trường Sĩ quan Thủ Ðức, được giải ngũ, rồi tái ngũ trong Quân lực Việt
Nam Cộng Hòa, phụ trách chủ yếu việc huấn luyện văn hóa, và làm báo quân
đội, “tám năm quân ngũ chưa nổ một phát súng với địch” (1972), cấp bực cuối cùng là Ðại úy. Sau 1975, bÐ bắt đi học tập, trong 7 năm, tại trại Long Giao (Long Khánh) và nhiều trại cải tạo Miền Bắc. Cuối cùng sang định cư tại Hoa Kỳ từ 1990. Ông qua đời vì ung thư phổi, tại nơi cư ngụ.
Thanh Tâm Tuyền là tác
giả khoảng mười đầu sách; ba tập thơ: Tôi Không Còn Cô Ðộc (1956), Liên
- Ðêm - Mặt Trời Tìm Thấy (1964, Sài Gòn), Thơ ở Ðâu Xa (1990,
Mỹ). Ba truyện: Bếp Lửa (1957), Khuôn Mặt (1964), Dọc Ðường (1967). Bốn
tiểu thuyết: Cát Lầy (1966), Mù Khơi (1970), Tiếng Ðộng (1970) Một Chủ
Nhật Khác (tháng 2, 1975). Một vở kÐch ngắn: Ba ChÐ Em (1965). Một phiếm
luận Tạp Ghi (1970). Ông còn nhiều tác phẩm chưa xuất bản, như tiểu
thuyết Ung Thư đăng nhiều kỳ trên báo Văn, từ 1964, là một tác phẩm quan
trọng.
Miền Nam Việt Nam những năm 1955-1960
bừng lên một sinh khí văn hóa. Hằng triệu người từ Bắc di cư vào Nam,
những người từ nông thôn bước vào, hay trở về thành thÐ sau chiến tranh,
tình hình an ninh và giá cả ổn đÐnh, các trường trung và đại học phát
triển, sách báo, điã nhạc, nhập khẩu ào ạt với giá rẻ nhờ ngoại viện.
Thơ Thanh Tâm Tuyền xuất hiện trong bối cảnh đó. Ít người mua và cầm
trong tay tập thơ Tôi Không Còn Cô Ðộc, nhưng nhiều người, nhất là giới
thanh niên, đọc thơ ông trên tạp chí Sáng Tạo, bên cạnh thơ hiện đại
khác của Tô Thùy Yên, Quách Thoại, Nguyên Sa, Trần Thanh Hiệp, Người
Sông Thương.
Người đọc theo dõi, tìm hiểu, chứ thật sự yêu thích thì không nhiều; cũng có người, có bài báo chê trách là thơ lập dị, bí hiểm, hũ nút.
Mười lăm năm sau, tháng 11-1973, khi sự nghiệp thơ văn Thanh Tâm Tuyền đã an vị,
báo Văn đã ra một số đặc biệt về đề tài này, ngày nay là tư liệu hiếm
quý. Trên báo này, Lê Huy Oanh, nhà biên khảo chuyên về thơ, đã có hai
bài: một bài kể lại quá trình tiếp xúc thơ Thanh Tâm Tuyền, từ chỗ ghét
bỏ đến yêu thích; một bài giải thích “lối thơ Thanh Tâm Tuyền” qua bài
Phục Sinh nổi tiếng trong sự khen chê, với những câu: Tôi buồn khóc như
buồn nôn& Tôi buồn chết như buồn ngủ;
Tôi Không còn Cô Ðộc
có lẽ chỉ là lời tâm nguyện như khi nhà thơ nói tôi gọi tên tôi cho đỡ
nhớ, hay có người cầm súng bắn vào đầu / đạn nổ nhịp
ba / không chết. Người đọc bực mình vì những lời lạ lẫm như thế thì ít,
nhưng nhiều người phẫn nộ vì lời thách thức in ở đầu sách:
“Ở đây tôi là hoàng
đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào trong đất đai của tôi, người hoàn
toàn tự do. Ðể cai trÐ tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần
phục nếu người muốn nhập lãnh thổ. Người hoàn toàn tự do. Và có thể ném
cuốn sách ra cửa sổ”.
Lê Huy Oanh kể lại rằng: “trước
đó tôi đã quẳng tập thơ qua cửa sổ, rồi lại nhặt lên, trân trối nhìn nó
một hồi lâu trước khi từ từ, rất từ từ ấp nó vào ngực” (báo Văn đã dẫn, tr.8). Dĩ nhiên đây là cách nói tượng trưng.
Trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Tâm Tuyền nhất định phải biết câu thơ phá thể thời 1946, như Nhớ Máu của Trần Mai Ninh, Ðèo Cả của Hữu Loan, Sáng mát trong như sáng năm xưa
của Nguyễn Ðình Thi. Nhưng dù phá thể, câu thơ này vẫn còn giữ vần
điệu. Thanh Tâm Tuyền phá vỡ cái vỏ ngữ âm của câu, hay bài thơ: loại
trừ vần, không theo nhịp
của ngôn ngữ, xáo trộn thanh điệu bằng trắc; muốn như thế, ông phải sắp
xếp lại ý tưởng, hình ảnh, để làm mới ngôn ngữ. Thơ xưa đem tư tưởng ra
“diễn ca”, còn Thanh Tâm Tuyền tháo gỡ guồng máy ngôn ngữ ra từng bộ
phận rồi lắp ghép lại thành những chức năng mới, trong văn bản mới.
Dựa trên lời
Nietzsche, ông gọi đây là quan niệm nghệ thuật Dionysos đối lập với quan
niệm Apollon, “nghệ thuật phá vỡ những hình thức sẵn có hỗn loạn trong
những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một vẻ đẹp hãi hùng mọi
rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm”.
Câu này trong bài Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay, Thanh Tâm Tuyền viết năm 1955
- khi ông 19 tuổi - là một văn kiện cơ bản, trong lý luận về thơ. Trong
chừng mực nào đó, nó tiếp nối bài Mấy Ý Nghĩ về Thơ của Nguyễn Ðình Thi năm 1949, về nguyên tắc và lý thuyết. Về mặt nội dung và thực tiễn sáng tạo, Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn.
Chất hiện đại trong
thơ ông một phần do ảnh hưởng thơ thế giới, chủ yếu là thơ Pháp, từ
Rimbaud, Lautréamont đến Apollinaire, nhất là thơ Siêu Thực của nhóm
Breton, Eluard, mà ông tiếp thu trực tiếp, mà không kinh qua nhà trường
Pháp thuộc như thế hệ đi trước. Thanh Tâm Tuyền không học đúng bài bản
như Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, cho nên tự do hơn. Xuân Diệu, về già,
vẫn mơ ước làm một Ronsard. Thanh Tâm Tuyền thạo tiếng Pháp, ham đọc,
nên tiếp xúc được với nhiều tác giả trên thế giới từ Gorki, Plekhanov,
Marx, Trosky đến những tác giả mới hơn như Laưrence Durrell hay
Soljenitsyne qua tiếng Pháp. Từ đó, thơ ông có chất quốc tế, trong nền
Cộng Hòa Thế Giới:
Các anh Cộng Hòa đã chiến đấu cho Tây Ban Nha
Xứ sở Lope de Vega Garcia Lorca
Một Breton tình điên còn nức nở
Mà Hy vọng Malraux còn thổn thức
Và mãi Ernest còn tiếc thương
Andalousie đói quên khiêu vũ
Việt Nam ốm yếu quên ca dao
Câu quốc tế caỴ của
Thanh Tâm Tuyền nhiều người thuộc nhất có lẽ là hai câu đầu dùng làm tựa
đề cho bài thơ, đăng trên báo Sáng Tạo, số 4 tháng Giêng 1957 :
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Bài này làm vào tháng
12-1956, một tháng sau khi Hồng Quân Liên Xô, nhân danh khối liên minh
quân sự Vác-xô-vi tràn ngâp Hung-ga-ri và thủ đô Bu-đa-pet. Sau đó ông
còn làm tiếp Bản Anh Hùng Ca Budapest cũng đăng trên Sáng Tạo.
Thanh Tâm Tuyền chưa bao giờ ra khỏi Việt Nam cho đến ngày sang Hoa Kỳ định
cư vĩnh viễn. Nhưng thơ ông đầy những thành phố: Vác-xô-Vi, Béc-Lin,
Bình Nhưỡng, Bắc Kinh, Moscou, Praha, Paris, Madrid, Bruxel, Genève.
Nhưng không có lũy tre, con đò, bờ dâu, nương sắn. Thơ Thanh Tâm Tuyền
là thơ thành phố: thơ Pháp, đến Prevert là hoàn toàn đô thị
hóa; thơ Việt Nam, đến Thanh Tâm Tuyền cũng quành vào đô thị. Xưa kia,
Nguyễn Bính đã mơ Phường Chèo làng Ðặng; gần hơn, Ðinh Hùng còn nhớ
tháng giêng quê bạn hội đêm rằm; đến Thanh Tâm Tuyền Tôi Không Còn Cô
Ðộc là tên một bài thơ dưới dạng hợp xướng hiện đại, với nhiều giọng
hát, và có giọng thi sĩ:
Tôi đã chết nghẹn ngào
ôm tình yêu tự do chật ngực
tôi chết và chối từ
đừng ai gọi tôi là thi sĩ
(&)
Hôm nay tôi dự hội
hôm nay dùng mắt nhìn
hôm nay dùng lời dÐu
cô độc phút tan tành
tôi không còn cô độc
Ông già: tôi không còn cô độc
Hợp xướng: tôi không còn cô độc
Em gái: tôi không còn cô độc
Hợp xướng: không ai còn cô độc
không ai còn cô độc
Thơ Thanh Tâm Tuyền khi ngân vang hợp xướng, khi u uẩn tiếng kèn đồng:
Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những giòng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của máu của tủy của hờn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng không lối rừng mãi trống không
(&)
Vì blues không xanh, vì điệu blues đen
Trên màu da nức nở
(Ðen, Sáng Tạo, số 8, tháng 5-1957)
Thơ Thanh Tâm Tuyền,
tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không gian nhìn ra thế giới.
Ðây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác dù rất
hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thùy Yên,
chủ yếu ta thấy thảm kịch
Việt Nam; thơ Lê Ðạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người dân châu thổ Sông
Hồng; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh thót giọt
mưa dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới,
không phải là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người,
chủ yếu là người nhược tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh
Tâm Tuyền nhẹ tính cách dân tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến
diện: trong thế giới có Việt Nam và trong Việt Nam có thế giới. Trong
Guernica của Picasso có Bến Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam
có Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là
một bước ngoặt trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam là vậy.
Tuy nhiên cũng phải
ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người
thừa kế. Bản thân Thanh Tâm Tuyền về sau, trong tập Thơ ở đâu xa cũng
trở về với những thể thơ truyền thống. Nhưng đây là những bài thơ làm
trong lao lý, trong những hoàn cảnh đặc biệt, không cho phép chúng ta
suy diễn về lý thuyết. Dù sao ông đã mở ra những chân trời mới và cách
tân quan niệm thi ca.
*
Câu thơ, bài thơ mới,
đọc qua thấy ngay. Câu văn, cuốn truyện mới, khó nhận ra hơn. Người bình
luận phải phân biện: mới so với cái gì, và mới ra sao. Nhưng điều cụ
thể nhất lại là: người đọc đương thời có nhận ra nét mới ấy không?
Thưa rằng có. Nhà văn
Nguyễn quốc Trụ, 1973, trên báo Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền đã dẫn,
có một bài viết căn cơ trình bày giá trÐ, nghệ thuật và tính chất súc
tích của truyện Bếp Lửa, 1957. Ông trích dẫn cặn kẽ nhiều văn bản, nhiều
tham khảo, để lại một chứng từ chính xác 2.
Tôi còn một chứng từ
riêng: bạn tôi là Ðinh Ngọc Mô, nhiều người biết vì có thời hướng dẫn
mục Ðố Vui Ðể Học trên truyền hình Sài Gòn, quen nhau từ 1965 tại Ðà
Lạt, gặp lại nhau 1970 tại Paris. Lúc ấy, Mô sống vất vả, lang bang, đi
đàn hát trong các nhà hàng Việt Nam để mưu sinh. Một tối về khuya, dọc
Boulevard des Italiens, Mô đã đọc thuộc lòng cho tôi nghe những trích
đoạn dài của Bếp Lửa mà anh tâm đắc và cho là tân kỳ. Thuộc thơ Thanh
Tâm Tuyền đã là khó, thuộc văn xuôi lại không dễ. Vắng tin nhau khá lâu,
có người mách là Mô đã qua đời, đã tự tử bên Canada. Tôi không muốn
tin, nhưng mỗi lần mở truyện Bếp Lửa, là tôi tìm lại những đoạn Mô đã
đọc, cho đến bây giờ sách đã vàng ố, tả tơi, rách nát như cuộc đời của
chúng tôi. Trước khi kể lại chuyện này, tôi rà lại tin tức, thì bè bạn
bốn bể năm châu đều xác nhận chuyện buồn. Mà tôi vẫn chưa tin, và muốn hỏi Mô: Mô ơi, thật à? Cậu ấy vui tính, hay đùa.
Bạn đọc cho là tôi lạc đề. Thân tình thì biết tôi chỉ mới lạc dòng, lạc giọng, mà không lạc đề.
*
Tiềm năng độc giả thời
đó là học sinh trung học: sinh viên đại học chưa nhiều. Và chúng tôi
thiếu sách để đọc. Văn chương quốc ngữ thời đó, bỏ ra một kỳ nghỉ hè, có
thể đọc hết toàn bộ.
Sách Tự Lực, Vũ Trọng
Phụng thì đọc cả rồi& Các tác gia ở lại miền Bắc ít được tái bản. Và
chúng tôi khao khát cái mới, các truyện ngắn của Doãn Quốc Sỹ, Dương
Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Thao Trường. Những Chiếu hoa cạp điều, với Hương
gió lướt đi. Thậm chí, chúng tôi còn bất công với cái cũ: tạp chí Văn
Hóa Ngày Nay của Nhất Linh bán chạy được hai số, rồi thôi. Ðoán già đoán
non: các vị Ðinh Ngọc Mô, Nguyễn Quốc Trụ, cũng như tôi, đã đọc Bếp Lửa
trên ghế trường trung học, trước khi hư thân mất nết ở nơi khác.
Bếp Lửa là một truyện
vừa, vừa một trăm trang. Thanh Tâm Tuyền viết liền mạch, rất nhanh,
trong vài tháng, xong tháng 10-1956, đưa đi kiểm duyệt và xuất bản
ngay3. Không có độ lùi để sửa chữa. Sau này, khi tái bản, ông muốn sửa
chữa, nhưng không làm được và viện dẫn Malraux: người ta không viết lại
được một cuốn sách. Nhưng có một truyện ngắn Ðại Lộ, nội dung na ná, in
lại trong tập truyện Khuôn Mặt, 1964.
Truyện được viết từ
ngôi thứ nhất tôi. Người kể, tôiỴ tên Tâm, cùng tên với tác giả, đi
dạy học tại một trường công giáo tại Bắc Ninh, còn tác giả dạy tư thục ở
Hà Ðông, khoảng 1952.
Tuy nhiên Bếp Lửa
không phải là tự truyện, đại khái như tác phẩm Kẻ Dưng, Etranger, 1942
của Albert Camus, bắt đầu bằng câu nổi tiếng: hôm nay mẹ tôi mất, nhưng
chính bà mẹ Camus lại sống lâu hơn tác giả. Trong Bếp Lửa, Tâm mồ côi bố
từ nhỏ, sau đó mồ côi mẹ, trong khi bà cụ tên thật là Thạch thị Kim,
ngày nay còn sống, ở Long Khánh. Tính cách mồ côi ở đây là một ẩn dụ,
như ở Kẻ Dưng hay Cũng Ðành của Dương Nghiễm Mậu sau này.
Không phải là tự
truyện, nhưng Bếp Lửa phản ánh tâm trạng tác giả, và một số thanh niên
đồng lứa vào thời điểm trước hiệp định Genève, 1954, tại Hà Nội, và vùng
phụ cận dưới sự kiểm soát của Pháp. Chủ yếu là những nét chấm phá nhẹ
nhàng, nhưng rất sắc về tâm thức chính trị của con người lúc đó qua
những nhân vật: ông Chính, đảng viên Quốc Dân Ðảng, còn hoạt động; Bảo
có tham dự phong trào Ngũ Xã nhưng nay đã tuyệt vọng; Ðại say đắm chủ
nghĩa mác xít và chuẩn bị ra khu; Hòa nhân viên phòng nhì; Ngọc hoàn
toàn hư vô và chối từ tổ quốc; Giữa họ là những nhân vật nữ, hiền lành,
vô tội, như chị em Thanh và Minh, em họ Tâm; Hạnh; Thịnh vào ra giữa hai
vùng; Còn Tâm? anh xê dịch giữa đám người đó, không thân không sơ, và
nói như Meursault, nhân vật Kẻ Dưng: không biết rõ mình muốn gì, nhưng
biết rõ những điều mình không muốn. Khi Tâm bị ông hiệu trưởng cho thôi
việc, ngạc nhiên một chút rồi rửng rưng ngay. Tôi không hỏi vì cớ gì ông
muốn tôi nghỉ việc cũng như ông đã quên không nói cho tôi biết; Tôi
cũng chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhõm vô cùng và ngủ một giấc rất say
(tr.90).
Trong thế giới ấy,
quan hệ tình cảm cũng mong manh, sắc sắc không không, như giữa Tâm và
Thanh, một cô em họ, cũng mồ côi cha mẹ. Ðôi khi tôi nghĩ tôi có thể yêu
Thanh và che chở cho Thanh, giây thân thích giữa cúng tôi không đáng kể
(&) nhưng chưa bao giờ tôi nói ý nghĩ của tôi cả (tr.12).
Quan hệ tính dục cũng
nhẹ nhàng thôi. Tâm gặp lại Hạnh, một cô bạn học cũ, đi cùng một chuyến
xe chở hàng từ Bắc Ninh về Hà Nội. Ðến Hà nội, mưa lớn hơn, chúng tôi
cùng đi ăn cơm với nhau. Và đêm ấy tôi ngủ với Hạnh ở khách sạn (tr.72).
Chấm dứt chương 4. Bước sang chương 5:
Tôi có cùng về Hà Nội
với Hạnh một vài lần. Gần nhau, tôi nhận thấy chiến tranh - hay chỉ cần
sự de dọa của chiến tranh, tổng quát là sự khủng bố tinh thần - đã thổi
vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt tình trong yêu đương (&). Sau mỗi lần
như thế, khi lấy lại bình thường, Hạnh có vẻ ngượng ngùng. Có một lần
nằm cạnh tôi, Hạnh nắm tay tôi để lên ngực nàng nói:
Anh có khinh em không? (tr.76)
Dĩ nhiên là các vị Nam
Tào văn truyện kiêm Bắc Ðẩu lịch sử sẽ có người bắt bẻ, hạch hỏi: chiến
tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, hay bảo vệ tự do, chỉ có
kích thích tính dục người phụ nữ hay sao? Bếp Lửa là một trước tác nghệ
thuật, và Thanh Tâm Tuyền đã có lần nói: “người nghệ sĩ đưa sinh mệnh
mình để đảm bảo sự thành thật của tác phẩm”, thì ắt không buồn quan tâm
đến những vấn nạn ấy. Ðiều chúng ta ghi nhận là nét hững hờ, lãnh đạm
của Tâm đã thổi dạt Bếp Lửa trôi xa, không những với Giòng sông Thanh Thủy của Nhất Linh mà còn xa với Khu Rừng Lau của Doãn Quốc Sỹ hay Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan đồng hội đồng thuyền.
Một thắc mắc, nhỏ thôi: không khí Hà Nội khoảng 1950-1952 nhất đÐnh phải khác xa không khí Sài Gòn 1970-1972. Nhưng về cơ bản, tâm lý thanh niên trí thức có khác nhau nhiều không?
Ngày nay, ngọn lửa
chiến tranh vẫn còn tàn phá nhiều nơi trên thế giới; và giữa tiếng kêu
la thất thanh của trẻ con, vẫn có lời vinh danh Thượng Ðế. Trong Bếp
Lửa, Thanh Tâm Tuyền đã viết “theo tôi có những lúc người ta cần giải
quyết giữa người và người và Thượng Ðế không nên có mặt ở lúc ấy
(&) Thượng Ðế đã bÐ lôi kéo vào tấn thảm kÐch riêng tư của loài
người và chỉ có thể thoát ra với sự thất bại” (tr.67).
Tại Việt Nam, một giải đất còm cõi đau thương, năm 1956,
một thư sinh mặt trắng, 20 tuổi, đã viết dõng dạc được một câu như thế,
kể cũng là lời tiên tri lạ lùng và cao siêu đấy chứ?
*
Về phong cách, Bếp Lửa
là một tác phẩm làm mới văn chương chữ nghĩa theo nhận định của Nguyễn
Quốc Trụ trong bài đã dẫn. Vậy mới, là so với cái gì, và mới ra sao?
Trong một bài viết tưởng mộ Nguyễn Ðức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, Thanh Tâm Tuyền 1974 đã viết: “Cùng
với Những Ngày Thơ Ấu của Nguyên Hồng, Thằng Kình là quyển tiểu thuyết
quan trọng đối với tôi. Ðó là quyển sách đã vỡ lòng, đã mở mắt (&)
Tôi không phải là người của một vài quyển sách. Trước và sau khi đọc
Thằng Kình, Những Ngày Thơ Ấu, tôi đã đọc hầu hết tiểu thuyết Việt Nam,
tôi hiểu được giá trÐ, tôi cảm được cái hay của nhiều tác giả khác nhưng
chỉ có hai tác giả Nguyễn Ðức Quỳnh và Nguyên Hồng gây được ở tôi lòng
ngưỡng mộ. Văn chương phát sinh từ lòng ngưỡng mộ. Nên tôi không bao giờ
quên ơn người đã khơi dậy lòng ngưỡng mộ nơi tôi” 4.
Một lời tình tự như
vậy, ở một người ít tự sự như Thanh Tâm Tuyền là quý hóa, là một chìa
khóa đưa ta vào thế giới tiểu thuyết, mối hạnh phúc đau đớn, bắt đầu từ
Bếp Lửa, rồi đến Khuôn Mặt, Dọc Ðường, Cát Lầy, Ung Thư, Mù Khơi, Tiếng
Ðộng&
Ðối với Thằng Kình
(1942, nxbHàn Thuyên, Hà Nội), niềm ngưỡng mộ có lẽ dừng lại ở nội dung
mới lạ của tác phẩm, thêm chút tình riêng với tác giả. Chứ nhân vật
Kình, khỏe mạnh, tự tin, tích cực rất xa với nhân vật truyện Thanh Tâm Tuyền; hành văn rậm rạp của Nguyễn đức Quỳnh cũng xa với lối viết trần trụi trong Bếp Lửa.
Gần nhau hơn là Những Ngày Thơ Ấu, Nguyên Hồng viết năm 1938,
khi 20 tuổi, như trường hợp Bếp Lửa, dưới dạng tự truyện ở ngôi thứ
nhất. Bằng giọng văn đơn giản, Nguyên Hồng kể lại tuổi thơ cơ cực, một
cách thành thực, như chuyện người mẹ ngoại tình bÐ gia đình nhà chồng
hắt hủi mà đứa con một mực yêu thương. Nhưng cơ bản thì hai truyện khác
nhau: Những Ngày Thơ Ấu là tự truyện của một người, dĩ nhiên là mang nét
xã hội; Bếp Lửa là truyện một thế hệ thanh niên ưu thời mẫn thế, mang
nặng chất trí thức và chính trÐ. Nguyên Hồng viết đơn giản, nhưng thỉnh
thoảng vẫn có những đoạn văn chương, ví dụ ngay ở chương I (Tiếng Kèn):
Những buổi chiều vàng lặng lẽ& Buổi chiều nào cũng vậy&, không
hề có trong Bếp Lửa. Và trong một bài báo, Nhân Nghĩ về Hội Họa, 1956,
Thanh Tâm Tuyền khước từ lối “văn chương có thể đặt tên là văn chương
của bài tập đọc, luận mẫu cho học trò” (Văn 11/1973, tr. 78). Từ đó, đem
Bếp Lửa ra giảng dạy ở học đường là
việc khó, vì khó tìm ra một vài trích đoạn tiêu biểu gọi là “trích
diễm”. Kinh nghiệm của tôi: yêu cầu sinh viên phải đọc toàn bộ tác phẩm,
rồi đưa ra những chủ đề tổng hợp, về hình thức, nội dung. Ví dụ lối kể
chuyện đơn tuyến, một mạch theo dòng thời gian, không một lần quay lại
quá khứ Ợ cho dù có rơi rớt một vài kỷ niệm - về người mẹ và bà ngoại.
Lối dùng từ bình dÐ, ưu tiên cho từ đơn âm, ít từ kép, càng ít từ hán việt hay thành ngữ.
Lối đặt câu ngắn, có khi cụt ngủn, có khi lược từ. Câu văn cô đúc, có lúc khó hiểu, như là lời nói nén chặt nội tâm: Một bên đường cỏ
hoang và núi đóng đồn binh (tr.47). Ngọn núi bắt đầu thấy cứng mình vì
nghe nắng sắp về dữ dội (tr. 87). Câu được nhiều người nhắc: Buổi sáng
mùa đông ngây ngất vào lối 10 giờ (tr.11). Buổi chiều ngất ngư chưa muốn
ngã (tr.28).
Nhưng nét mới quan
trọng là không khí chung của toàn truyện Bếp Lửa, không phân biệt nội
dung, tư tưởng, hình thức, nghệ thuật và ngữ pháp. Thậm chí người đọc có
thể hỏi: Bếp Lửa, bếp lửa nghĩa là gì?
Với tôi, có lẽ thêm vài kẻ bạn, Bếp Lửa là một bài hát.
Bài hát ỡ”chỉ được
nghe một lần trong đời. Bài hát xưa lắm, những người thích nó kẻ đã
chết, người còn sống thì quên không nhắc lại. Riêng tôi, tôi thường thì
thầm với chính mình những phút cô đơn” 5.
Có ai đó đã viết đâu
đó về âm hưởng nhạc blues trong thơ Thanh Tâm Tuyền, tôi chỉ biết ông đã
thiết lập quan hệ mật thiết giữa các bộ môn nghệ thuật. Ðiều này, ngày
xưa, nhóm Tự Lực đã làm, nhưng còn hời hợt, dù rằng nhà văn Nhất Linh,
nhà thơ Thế Lữ, khởi đầu là những sinh viên trường Mỹ Thuật. Thời đó, họ
chỉ đặt những tác phẩm nghệ thuật bên cạnh nhau. Họa hoằn lắm mới có
bài Nguyễn Tuân về tranh Nguyễn Phan Chánh. Ở Việt Nam, không có nhà thơ
sành hội họa như Baudelaire, cũng không có tình bằng hữu giữa các nhà
thơ như Aragon, Eluard với họa sĩ Picasso hay Chagall ở Pháp. Thanh Tâm
Tuyền thật sự muốn bắc cầu giữa các bộ môn nghệ thuật, nhất là giữa thơ
và hội họa, và thân thiết với các họa sĩ Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy
Thanh, bài Nhân nghĩ về Hội họa viết năm 1956 - hai mươi tuổi - ông đề tặng ba người ấy.
Họa sĩ Thái Tuấn kể lại rằng trong một cuộc triển lãm năm 1958,
ông có bức sơn dầu vẽ một người đàn ông đội mũ đeo ống sáo trên vai,
chừng mực nào đó, là một chân dung tự họa; ông không biết đặt tên là gì.
Thanh Tâm Tuyền đề nghÐ gọi là Hóa Thân, Thái Tuấn rất tâm đắc. Ý nhà
thơ : anh vẽ cái gì thì cũng là hóa thân vào bức họa, tranh nào rồi cũng
thành chân dung họa sĩ. Nghe chuyện, tôi cứ nghĩ Thanh Tâm Tuyền mượn ý
từ một tựa đề tiểu thuyết của Kafka. Ðọc lại bài báo nói trên, tôi mới
vỡ lẽ ông tham chiếu vào một chuyên khảo về nghệ thuật của Malraux Những
hóa thân của Apollon Ợ les Métamorphoses dỴApollon, 1951, và ông thường
tâm đắc với Malraux.
Ông viết trong bài Nhân nghĩ về Hội họa :
“Tôi công nhận nghệ
thuật như một nghề như mọi nghề khác khi tôi hiểu rằng muốn làm được
nghệ thuật người ta cũng cần học hỏi, luyện tập như tập sự bất cứ nghề
gì. Ðến đó thôi. Khi những nhà nghệ sĩ chân chính, để bảo đảm sự thành
thực của tác phẩm, đã mang sinh mệnh chính mình ra thách đố, thì lúc ấy
nghệ thuật không còn là một nghề nữa, nó là hành động siêu việt của nhân
loại trong cuộc tìm kiếm đời sống chính đính” (Văn, số 11- 1973 đã dẫn, tr. 78).
Ðoạn trích văn này có thể tóm lược quan niệm và sự nghiệp văn thơ, nghệ thuật của Thanh Tâm Tuyền, và làm kết từ cho bài này.
Chúng tôi gửi thêm vào đó niềm kính trọng và thương tiếc khôn nguôi với một Lòng Suối Trong Xanh
đã lẫn sâu vào lòng đất, trở về cõi thủy chung. Một dòng thơ đời đời
thao thiết nuôi dưỡng Tình Yêu và Quê Hương trong mỗi chúng ta, cho mỗi
chúng ta, trong thân phận làm người, làm người trong hay ngoài đất nước,
luôn luôn trong nhân loại.
Trong truyện Bếp Lửa, sáng tác năm hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền đã hạ một câu kết, để đời, khi hiu hắt, khi ngời sáng, trong tâm thức thế hệ chúng tôi:
“Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng”.
Ðời người, vô cùng rồi cũng đến vậy thôi.
Vô cùng Thanh Tâm Tuyền.
Thanh. Tâm. Tuyền.
Thanh Tâm
Tuyền.
Ðặng Tiến
Ngày giỗ Trịnh Công Sơn
Orléans, 01-4-2006
1. Thanh Tâm Tuyền, Văn, số 199, tháng 4-1972, Sài Gòn.
2 Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền, tháng 11-1973, Sài Gòn.
Nhóm
Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư dự tính in lại nguyên văn số báo để tặng
bạn đọc, qua e-mail tranhoaithu@verizon.net. Hoan hô Trần Hoài Thư.
3 Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa, nxb Nguyễn đình Vượng, 1957, Sài Gòn, Chúng tôi trích đọan từ bản này.
4 Thanh Tâm Tuyền, Văn, Giai Phẩm, tháng 6-1974, tr.21-22, Sài Gòn.
5 Thanh Tâm Tuyền, Buổi sáng Ngoài Bãi Biển, trong Khuôn Mặt, tr.98, nxb Sáng Tạo, 1964, Sài Gòn.
Labels:
Bên Kia Bờ Đại Dương 043
DIÊN NGHỊ* CHUYỆN CỦA NÀNG
chuyện của nàng
nàng ở đâu ? xóm biển ? lưng đồi ?
cao nguyên, bình địa, cuối chân trời
hoặc lòng đô thị , khu thành ngoại
tôi đã tìm nàng khắp mọi nơi
tôi hỏi bình minh , gặp hoàng hôn
phương tây trời chết , hắt hiu buồn
rừng hoa tang chế không thèm tiếp,
ngoảnh mặt làm lơ , quá lạ lùng
tôi viếng phương đoài, lạc hướng đông .
sông cau mày giận, xót xa lòng
nhà ai khép kín song đài các
nét liễu tường hoa cũng ngại ngùng .
nàng áo xanh ? áo tím diễm kiều .
áo nâu , dù loang lổ mầu rêu
bàn tay lao động hay ngà ngọc
vẫn một linh hồn, tôi mến yêu .
đi tìm nàng trắng những đêm trăng
lắng nghe gió biển nhắn mây ngàn
ngoảnh nhìn bốn phía còn sa mạc ,
biết nói làm sao chuyện của nàng .
reo gọi điên cuồng, rừng vũ trụ
trăng sao che khuất lôi đi về
không gian mờ mịt vào vô thức
một bước nhấc lên nặng khối chì .
lảng đảng hồn trôi trong chiêm bao,
bơ vơ còn nhận biết phương nào ?
nàng là mộng ảnh hay chân thực ?
hay vẫn còn xa mặt địa cầu .
( CHUYỆN CỦA NÀNG )
một mình
thác đổ sau rừng gọi biển khơi ,
buổi chiều thoi thóp nắng tàn hơi
bước chân dẫm nhẹ trên đường lá ,
vọng hướng xưa về chưa đến nơi .
bóng quạ chập chờn thung lũng sâu ,
cỏ tranh xơ xác, nửa vàng nâu.
khói sương vương vấn, chòi xa lạ.
quạnh quẽ lòng người có luyến nhau ?
hồn cao hơn núi , tình khuất mây
lòng mãi hoang vu tựa tháng ngày
nghe nước thân nguồn, cây trách gió ,
sầu đeo nhân thế cũng buồn lây .
mộng bỗng hư vô, ruột xót cồn .
mắt mờ viễn ảnh, ngút hoàng hôn
ghềnh nghiêng thiếu lối đèo không ngõ
mặt đất cuồng say , thịt rã mòn .
thấp thoáng trời đen sao nhỏ lên,
tám phương hướng rộng nát say mềm.
bàn tay nhược tiểu, cành khô nỏ
biết víu vào đâu chỉ một mình !
muốn trả xác nghèo cho cát bụi,
làm viên đá lớn , dựng bên đồi
làm nhân chứng hộ cho sông núi ,
đã biết thương đau cũng ngậm cười .
THƠ NGUYỄN TẤT NHIÊN
-
Minh khúc 9
June2đong tình đong nghĩ cho nhauTừ khóa: Chia ly, Tình yêu
trái tim nhân loại dù sao cũng còn
đâu đây, đâu đó, bên đường…
có thêm một tấm lòng thương tấm lòng!
nợ đời, trả kiếp chưa xong
ai đem đổ biển đổ sông nợ tình…
cho nhau nhiều ít chân thành
cũng như hương lửa ba sinh hãy còn
sẻ chia khúc ruột đoạn trường
kẻo vua Lê trách chàng Trương phũ phàng![1].
nợ đời, trả chút văn chương
nợ tình, ừ, trả con đường em đi…
sông không trách nước không về
qua sao trách bậu lỗi nghì trúc mai
chỉ xin sợi vắn sợi dài
tóc mai nhắn gió thương hoài ngàn năm…
bữa qua qua bỗng đau lòng
nhớ hôm bậu hát bài đừng xa nhau…
Westminster, CA, 27.4.90
Chú thích
- Nhắc tới câu thơ “Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng” trong bài “Miếu vợ chàng Trương” của vua Lê Thánh Tông. Bài thơ được khắc vào bia đá trước miếu bà Trương, tức Vũ Thị Thiết tại bờ Hoàng Giang thuộc làng Vũ Điện, huyện Nam Xương (nay thuộc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) ^
-
Bởi yêu em sầu khổ dịu dàng
March8Bởi yêu em nên sầu khổ dịu dàngTừ khóa: kỷ niệm, thơ ngây, Tình yêu
Những kỉ niệm đời xin hãy còn xanh
Có một ngày mình bỏ trường bỏ lớp
Cùng ra đi như định luật Trời dành
Nắng bờ sông như màu trang vở cũ
Thuở học trò em làm khổ ai chưa?
Anh muốn khóc trong buổi đầu niên học
Bàn tay xương cầm hờ hững văn bằng
Em hãy đứng trước gương làm dáng
Tự khen minh: “đẹp quá!” đi em
Lỡ mai kia mốt nọ theo chồng
Còn đôi chút luyến lưu thời con gái
Em hãy ra bờ sông nhìn nắng trải
Nhớ cho mình dáng dấp người yêu
Lỡ dòng đời tóc điểm muối tiêu
Còn giây phút chạnh lòng như mới lớn.
Mình hãy trách đời nhau nhiều hư hỏng
Rồi giận hờn cho kỉ niệm đầy tay
Thu miền Nam không thấy lá vàng bay
Anh phải nói: buồn chúng ta màu trắng
Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng
Người thì không bắt bóng được bao giờ
Anh muốn khóc trong buổi đầu niên học
Bởi yêu em nên sầu khổ dịu dàng.
-
Minh khúc 12
August29Bây giờ em đã xa tôi
Hay là sông núi xa đời lãng du
Bây giờ đêm đã nghìn thu
Hay là nhật nguyệt thôi bù đắp nhau
Bây giờ tình đã chai đau
Hay là cây cỏ bạc đầu tuyết sương
Bây giờ ảnh đã lìa guơng
Hay hoa vạn thọ trong lòng thu đông ?
Bây giờ chín khúc cửu long
Hay sông vẫn một dòng trăng không là…Bây giờ mây của hôm qua
Tiếng con qụa khản kêu ca một mình
Sương hoàng hôn đẹp bình minh
Nắng ban mai mới tinh trên nấm mồ
Á à lệ vẫn chưa khô
A ha trời đất mơ hồ hay tôi…
-
Đôi mắt nào linh hiển
January19Mùa đông đã về rồi đó nhỏ.Từ khóa: Học trò, Mùa đông, Tình yêu
Đồng bằng miền Nam trở trời trái gió
Anh chợt nghe hồn thánh thót tiếng chuông
Vừa đủ hồi sinh miền giáo đường buồn
Mùa đông đã về rồi đó nhỏ.
Anh mặc áo len quấn khăn quàng cổ.
Bồng ẵm tim mình đi lễ tình yêu
Đồng bằng miền nam dù chẳng lạnh bao nhiêu
Nhưng cũng phải ra cái điều rét mướt
Làm chiên ngoan, cả đời, tôn vinh hạnh phúc
Cả đời tin sự thật có, thiên đàng
Đôi mắt nào của Chúa ở trần gian
Bóng tôi ngã hướng thâm cùng đời sống khó
Mùa đông đã về rồi đó nhỏ.
Phúc âm mừng ngân vọng được bao lâu?
Tôi cả tin, nên rất dễ nghi ngờ
Tôi vụng tính, nên vẫn thường do dự.
Tình chảy xiết qua đời như, thác lũ
Tội thân tôi bầm dập, mủn như bùn
Đôi mắt nào của Chúa ở trần gian
Có soi thấu tận cùng miền u uẩn ?
Đôi mắt nào sáng như trời quang đãng
Hay ân cần chuyên chở lụy phiền tôi
Chẳng bao giờ thần thánh chịu hở môi
Tôi cũng thế nên sầu say lúy túy
Tôi cũng thế nên hờn cao ngất núi
Chờ em qua, rồi, để qua luôn…
Đôi mắt nào của Chúa ở trần gian
Hãy phán đoán tâm hồn tôi, thánh thiện
Đôi mắt nào tuyệt vời linh hiển
Hãy tò mò thêm chút nữa, tình tôi !
Chẳng bao giờ thần thánh chịu lìa ngôi
Tôi cũng thế nên tượng hình rêu phủ.
Tôi cũng thế nên xương tàn cốt rũ
Nơi miếu đền hoang rợn cánh dơi bay
(Hãy một lần định bụng đến thăm tôi
Thần thánh cô đơn rất sẵn sàng đãi ngộ!)
Mùa đông đã về rồi đó nhỏ.
Anh lặng mình thấm thía tiếng chuông
Làm cây thông già đứng lặng hưởng mù sương
Còn bao nhiêu đèn và bao nhiêu nến
Hãy một lần mang ra thắp hết
Hãy một lần khôi phục lại, niềm vui
Đôi mắt nào của Chúa ở lòng tôi
Nhỏ ơi, ơi nhỏ, và nhỏ ơi…
THƠ HỮU LOAN
-
Tòng quân
July17Nếu anh ra điTừ khóa: Chiến tranh, Mẹ, Người lính
Mẹ già anh khóc
Trai thời loạn ly
Thương con khó nhọc
Nếu anh ra đi
Người vị hôn thê
Những giọt nước mắt
Đọng trên hàng mi
Nhưng
Nếu anh không đi
Mẹ già anh khóc
Trai thời loạn ly
Mà con không đi
Mẹ thà thương con tóc trắng
Ngày mai cờ về chiến thắng
Mà con không về
Mẹ thà như lá rụng chiều quê
Đến khi con về
Cỏ vàng nấm đất
Nhưng khi nước mất
Vì vị hôn thê
Mà con không đi
Nếu anh không đi
Người vị hôn thê
Mặt nghiêng tay che
Đêm thương lời thề
Thà đợi người đi
Già trên lời thề
Nhưng khi nước mất
Mà anh không đi…
(Nhà thơ Dương Tường nhớ và ghi lại)
-
Tình thủ đô
April13Trên những chuyến xe bò
Đi về đường Trèm Vẽ
Việt Bắc âm u
Đường dài Thanh Nghệ
Người Thủ đô tản cư
Đoàn xe đi
Chở nặng tâm tư
Một góc nhà
Một hè phố
Mắt em biếc
Một chiều xưa
Quan Thánh
Cổ Ngư
Bạch Mai
Bóng liễu Tháp Rùa
Một thằng bạn
Một thằng con
ở lại
Khấp khểnh xe đi
Vấp vào đêm tối
Thủ đô
Ngày mùa thu
Thủ đô
Cờ bốc lửa
phố dài
Cờ bốc lửa
công trường Nhà Hát lớn.
Thủ đô
Ngày Tổng Khởi Nghĩa
Ngày Thủ đô chờ đón
Đoàn Giải phóng quân về
Qua cầu Long Biên
Sông bóng người đi
Vai cao rộng
Mặc núi rừng Việt Bắc
Ai về Thủ đô
Khăn thầm nước mắt
Quốc ca mình
Đoàn lính Việt đầu tiên
- Có người làng đi
Trong đoàn lính trẻ.
Thủ đô
Tuần Lễ Vàng
Hà Nội dãy dọc toà ngang
Quên giai cấp
Trong căm thù dân tộc
Thủ đô
Ngày Tuyên Ngôn Độc Lập
Thủ đô
Ngày Tổng Tuyển Cử đầu tiên
Những ngày Thủ đô
Như ộc máu triền miên
Máu những người Tây giết
Chảy về từ lịch sử
Tiếng hát
Vùng lên
Xích xiềng rơi vỡ.
Thủ đô
Ngày Tàu trắng
Quốc dân đảng
Và thực dân
Nghênh ngang phố chật
Bắt cóc
Tống tiền
Khiêu khích
Bắn người
Đám ma đi
Cờ đỏ phủ quan tài
Phố Ôn Như Hầu
Những người bị giết
Xác quăng đầy hố
Đoàn Giải phóng quân đi
Như gại dao trên đường nhựa.
Thủ đô
Quân lệnh đêm
Lựu đạn đen ngòm trong nắm tay
Rình sau mái ngói
Nắng loé tường vôi
Chữ cào xương nhức nhối:
THANH NIÊN SỐNG CHẾT VỚI THỦ ĐÔ!
Mắt em thiếu nhi
Hồ trăng Trung Thu:
Các anh hãy giữ non sông
Cho chúng em!
Bàn tay lớn
Nhận lòng tin bé nhỏ.
Cụ Hồ hỏi anh em bộ đội:
- Các chú liệu giữ được Thủ đô
Bảy ngày?
Một rừng nắm tay
Thét tiếng:
- Thề với Bác!
*
Lửa cháy Thủ đô
Chân trời hấp hối
Xác thằng bạn
Xác thằng con
Trên hè phố Thủ đô
Giặc khởi hấn rồi!
Đường tản cư khuya
Lửa toé sắt bánh xe bò
Một Quyết tử quân hy sinh
Là một đoàn giặc chết
Một Quyết tử quân hy sinh
Và bắt đầu từ đó
Những ngày đêm Thủ đô
Tàn sát
Khu Đồng Xuân
Lính Trung đoàn Thủ Đô
Đâm giặc trên bàn thịt
Như chọc tiết bò
Đuổi giặc
Vật lăn trên nóc chợ
Hai tháng giết nhau
Một đêm thủ đô
Có đoàn Quyết tử
Cắt máu tay ăn thề
Ngõ vắng Thủ đô
Những đơn vị rút đi
Góc phố Thủ đô
Bóng những người ở lại
ánh hoàng hôn lên
Liệm tròn huyết thệ
Người Quyết tử quân
cuối cùng.
*
Những người dân Thủ đô
Về với giặc ở chung
Phải đốt cờ đỏ sao vàng
Thức đêm may cờ ba sắc
Và những sớm mai
Tay xót xa
Đem treo cờ giặc trước nhà
Ai về Hà Nội
Thấy Hà Nội xa hoa
Thấy hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng Hà Nội
Giặc xây thêm ngục tù
Xe Phòng Nhì
Chở từ ngoại ô
Từng đoàn người xiềng tay
Về qua phố tối.
Ai về Hà Nội
Thấy Hà Nội xa hoa
Thấy hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng Hà Nội Ngã-Tư-Sở
Hà Nội Khâm-Thiên
Đèn khuya chảy vàng
Những hộp đêm
Mọc theo tiếng giày đinh
Của đoàn Tây mũ đỏ
Tiếng xe tăng viễn chinh
Chiều đi bụi phố
Và giữa trưa Hà Nội yên lành
Hồi còi rú thất thanh
Kêu như người tắc họng
Một xác Việt gian
Ngã tư
nắng đọng
Lũ lượt kéo nhau về Hà Nội
Từng đoàn thiêu thân
Mang trong mình định mệnh
Mủ đờm nhớt lạnh
Và uế khí hôi tanh
Sợ ánh sáng và gió lành
Tôi thành thép
Cánh tay người Kháng Chiến
Từ vùng tự do
Có người vào nội thành
Ném chứng thư Việt Minh
Trên dòng sông
Chào thằng bạn chiến khu
Mà phục tấm lòng.
Đêm Thủ đô
Rét đến
Trong chăn bông
Nghe lạnh chiến khu Vũ
Cơm gia đình
Đũa bát nhớ người đi.
Và những sớm mai
Từng đoàn phi cơ giặc
Chở tóc tang đầy trong thân sắt
Ra những miền quê xanh
Tiếng bom dội về
Chuyển Hà Nội mênh mông
Tìm người Hà Nội
Rung lên như đất chuyển
- Những người Thủ đô tản cư
- Những đồng bào kháng chiến.
Những em mùa thu
Đi trong đoàn thiếu nhi
Lớn lên
Tìm đường chiến khu Việt Bắc.
Những người ngày xưa
Ghét Việt Minh
Bắt đầu chờ đợi
Bao giờ Việt Minh
Mới đánh vào Hà Nội
Cho ánh sáng xa hoa
Vỡ rơi thành bóng tối
Trên xác người máu me
Ngổn ngang gạch ngói?
Đến bao giờ Việt Minh
Mới đánh vào Hà Nội?
Những người bắt sống Le Page
và Charton
Những chiến sĩ Cao Bằng – Đông Khê
Những binh đoàn biên giới
Đang chuyển về Trung Du
Như đi từng dãy núi
Kẹp vòng quanh ngoại vi Thủ đô.
Mắt vời xa
Cô gái Hà Nội tản cư
Đẹp trong màu áo vải quê mùa
Sẽ còn những ai
Trong đoàn quân trở lại
Ngày thủ đô chiến thắng tưng bừng?
*
Em về Thủ đô
Chân phố cũ
Ngập ngừng
Khoảng cuối 1950 – đầu 1951
(Dương Tường & Mạc Lân ghi lại theo trí nhớ.)
BS. HỒ VĂN CHÂM * PHÁP & NHẬT
Hậu Quả Của Sự
Cấu Kết
Giữa Thực Dân Pháp
và Quân Phiệt
Nhật
tại Việt Nam hồi Thế Chiến II
Cuối thế kỷ 19, người Pháp dùng vũ lực
đánh chiếm nước Đại Nam, chia cắt thành 3 xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, để hợp
cùng với 2 xứ Cao Mên và Lào thành lập xứ Đông Dương thuộc Pháp.
Đầu thế kỷ 20, người Nhật đánh thắng
người Nga, xâm chiếm lục địa Trung Hoa, tiến quân vào Diến Điện và Đông Nam Á,
mưu tính việc trục xuất ngưòi Tây Dương để thành lập Khối Thịnh Vượng chung Đại
Đông Á.
Dù đi đường biển, từ Hoành Tân
(Yokohama) sang Ấn Độ Dương, hay đi đường bộ, từ Hoa Nam qua bán đảo Mã Lai để
xuống Indonesia và Úc Châu, đi đường nào chăng nữa thì quân đội Nhật Bản vẫn phải
qua ngã ba Đông Dương thuộc Pháp. Do đó, trong thế chiến II, thế tất đã phải xẩy
ra sự đụng đầu giữa một bên là thực dân Pháp quyết tâm bảo vệ thuộc địa, và một
bên là quân phiệt Nhật quyết tâm thực hiện giấc mộng bá chủ Đại Đông Á. Trong
thực tế, sự đụng đầu này đã xẩy ra dưới nhiều hình thức thỏa hiệp chính trị,
quân sự, hành chánh và kinh tế, do người Nhật chủ động xướng xuất và thực hiện
bằng biện pháp sức mạnh, để rút cục sự đụng đầu trở thành sự cấu kết giữa thực
dân và quân phiệt mà nạn nhân là nhân dân Việt Nam. Sự cấu kết này đã gây nên
những hậu quả trầm trọng đến mức bi thảm, điển hình là nạn đói năm Ất Dậu làm
thiệt hại đến hai triệu mạng người ở miền châu thổ sông Hồng và sông Mã.
Từ lâu, người Nhật đã lưu tâm đến vị
trí chiến lược xung yếu của Đông Dương thuộc Pháp. Thời Minh Trị Thiên Hoàng cải
cách theo Âu Tây, phái đoàn nhà vua cử đi tham quan Mỹ quốc và Âu châu, trên đường
về nước, được lệnh ghé qua Sài gòn lúc bấy giờ đã bị Pháp chiếm giữ. Thời chiến
tranh giữa Nga và Nhật, 1904-1905, chính phủ Nhật đã cực lực phản đối với nhà
chức trách Pháp về việc hạm đội Hắc Hải của Nga vào nghỉ ngơi tu bổ trong vịnh
Cam Ranh. Trong niềm kiêu hãnh về nền văn minh rực rỡ của mình từ thế kỷ 17 đến
nay, người Pháp rất xem thường khả năng của người Nhật. Đối với việc tham quan
cảng Sài gòn của phái đoàn duy tân Nhật, người Pháp nghĩ rằng người Nhật muốn
tìm hiểu để học hỏi phương thức tổ chức đô thị của người Pháp qua việc đối chiếu
những điều tai nghe mắt thấy với thực trạng của thương điếm Hội an mà thương
nhân Nhật đã quen thuộc từ non 200 năm nay. Đối với tham vọng Đại Đông Á của Nhật,
cho dù trước đây, với Hiệp ước Hạ quan (Simonoseki) ký ngày 17-4-1895 với Trung
quốc, Nhật được Đài loan, Bành hồ và Liêu đông, và bây giờ, sau chiến thắng lẫy
lừng ở eo biển Đối mã, với Hiệp ước Portsmouth ký ngày 5-9-1905 với Nga, Nhật
được toàn quyền hành động áp đặt nền bảo hộ tại Triều tiên, người Pháp vẫn xem
những dữ kiện đó như những tranh chấp trong nội bộ đám dân da vàng miền Đông Bắc
Á, hoặc cùng lắm là chuyện tương tranh quyền lợi giữa dân lùn Nhật và dân cu-lắc
Nga, chẳng chút mảy may động chạm đến quyền lợi và vị thế của người Pháp tại
Đông Dương. Ngay cả lúc chiến tranh Trung Nhật lần thứ hai bùng nổ vào tháng 7
năm 1937, người Pháp vẫn bàng quan giữ thái độ trung lập, tiếp tục buôn bán với
cả hai bên để thủ lợi. Không màng lưu tâm đến sự phản đối bằng các công hàm ngoại
giao của Nhật, cũng như không nao núng trước những cuộc dội bom thị uy ở Lạng
sơn và bắn phá cảnh cáo dọc tuyến xe lửa Hải phòng-Côn minh, người Pháp vẫn cho
hàng hóa Mỹ quá cảnh cảng Hải phòng để theo đường xe lửa lên Vân Nam, và cho
Hoa kiều ở Đông Nam Á sử dụng Đông Dương Ngân hàng để hà hơi tiếp sức cho chính quyền và quân đội
kháng chiến Trùng Khánh. Chỉ đến khi quân Nhật chiếm đảo Hải nam ngày
10-2-1939, quần đảo Trường sa (Spratleys) ngày 31-3-1939, và quần đảo Hoàng sa
(Paracels) ít ngày sau đó, nguời Pháp mới bắt đầu lo ngại, và vội vã tìm cách
liên minh với Anh, Mỹ và Hòa Lan để giảm thiểu áp lực của Nhật, tích cực tham
gia Hội nghị quân sự Singapore tổ chức vào tháng 6 năm đó, đồng thời cử tướng hồi
hưu Georges Catroux thay thế Jules Brévié làm Toàn quyền Đông Dương. Bộ trưởng
Thuộc địa Georges Mandel hi vọng rằng việc thay thế một Toàn quyền dân sự bằng
một tướng lãnh hồi hưu vừa không làm cho chính quyền Đông Dương mang tính chất
quân phiệt, vừa có khả năng gia tăng tiềm lực của Đông Dương thuộc Pháp trong
công cuộc tự phòng vệ, và làm hậu cứ tiếp vận cho mẫu quốc trong nỗ lực chiến
tranh chống phe Trục.
Nhưng chỉ ít lâu sau, tình hình
nhanh chóng trở nên vô cùng đen tối. Tại Âu châu, ngày 10-5-1940, quân Đức bắt đầu ào ạt tấn
công Hòa Lan, Bỉ, Luxembourg và Pháp. Ngày 14-6-1940,
quân Đức tiến vào Paris, chính phủ Pháp dời đô về Bordeaux, và 2 ngày sau, Thống
chế Pétain lên làm Thủ tướng. Ngày 22-6-1940, Hiệp ước đình chiến giữa Đức và Pháp được ký kết
tại Compiège. Thừa cơ hội này, người Nhật quyết định tiến quân vào Đông Dương.
Sau các chiến thắng lẫy lừng của Nhật
đánh bại Nga tại Lữ thuận và Đối mã, nhiều người Việt Nam làm cách mạng chống
Pháp hướng về Nhật Bản để tìm hậu thuẫn, gây nên phong trào Đông du sôi động một
thời. Phía người Nhật cũng lưu tâm đến việc chuẩn bị cho người Việt Nam tham
gia thực hiện mộng ước Đại Đông Á của người Đông Á. Người Nhật đã đưa Kỳ Ngoại
Hầu Cường Để là hậu duệ Đông cung Cảnh sang Nhật, và tổ chức tại Việt Nam cơ
quan tình báo chiến lược Dainan Koosi dưới danh nghĩa một hội buôn. Ngày
10-2-1939, người Nhật đưa Cường Để từ Tokyo sang Thượng hải, và giúp Cường Để
thành lập Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội ngày 12-2-1939, do Cường Để làm Ủy
viên trưởng, và các Ủy viên khác là Trần Hy Thánh (Trần Phước An), Vũ Hải Thu,
Trương Anh Mẫn, Hồ Học Lãm, Trần Hữu Công, Hoàng Nam Hùng và Đặng Nguyên Hùng.
Sau đó, song song với việc Cường Để qua Đài Loan phụ trách chương trình phát
thanh Việt ngữ về Đông Dương, Lộ quân Miền Nam của Nhật ở Quảng châu giúp Trần
Phước An (Shibata) và Trần Trung Lập tổ chức Việt Nam Kiến Quốc Quân.
Nhân lúc quân Pháp tại chính quốc bị
thảm bại trước quân Đức và sắp sửa phải ký Hiệp ước ngưng bắn Compiège, tại Viễn
Đông, người Nhật đột ngột thay đổi thái độ. Từ ngày 12-6-1940, đài phát thanh Lộ
quân Miền Nam ở Quảng châu, các báo Tokyo Nishi Nichi và Japan Times &
Mail, và Hội Meirinkai ở Tokyo, nhất loạt đả kích âm mưu liên minh quân sự của
Pháp và Anh, Mỹ tại Đông Dương, và yêu cầu chính phủ Nhật phải đưa ngay quân
vào chiếm đóng Dông Dương. Ngày 19-6-1940, Bộ Ngoại giao Nhật trao tối hậu thư
cho Đại sứ Pháp Charles Arsène-Henry, đòi người Pháp ngưng chuyên chở hàng hóa
cho Trùng khánh, và chấp nhận một phái đoàn kiểm tra quân sự Nhật hoạt động ở Bắc
kỳ. Đông Dương thuộc Pháp lúc bấy giờ đang ở thế yếu, tại miền bắc chỉ có 25
phi cơ chiến đấu (so với 200 của Nhật được bố trí áp sát biên giới), còn đạn dược
chỉ đủ dùng trong một tháng. Bởi vậy, Catroux đã nhượng bộ, ra lệnh đóng cửa
biên giới Việt Trung, đón tiếp phái đoàn kiểm tra quân sự Nhật do Tướng
Nishìhara Issaku cầm đầu, và trục xuất các Đại diện thương mãi Trung quốc tại Bắc
kỳ. Ngày 30-6-1940, Catroux và Nishihara nhanh chóng thỏa hiệp về các địa điểm
bố trí các toán kiểm soát Nhật tại Hà nội, Hải phòng, Lạng sơn, Lào kay, Móng
cáy, Cao bằng và Hà giang. Ngày 2-7-1940,
toàn bộ phái đoàn kiểm soát Nhật đã có mặt tại Hà nội, trong số này đáng lưu ý
là Đại tá Koike Ryoji con nuôi Cường Để, và Trung tá Sato Kenryo Phó Tham mưu
trưởng Lộ quân Miền Nam.
Mặc dù Catroux đã thỏa mãn tất cả các yêu sách của Nhật nêu trong tối hậu thư
ngày 19-6-1940,
người Nhật được đà cứ tiếp tục lấn tới. Nishihara đòi Pháp phải để cho quân đội
Nhật tự do di chuyển trên lãnh thổ Đông Dương, vận chuyển tiếp liệu cho Lộ quân
Miền Nam, đặt các điện đài vô tuyến và sử dụng không phận Đông Dương. Trong lúc
đó, ở Bắc kỳ, phi cơ Nhật lên xuống mỗi ngày một nhiều mà không thông báo cho
chính quyền Pháp biết. Trong tháng 7-1940, một diệt lôi hạm xuất hiện ở Hải
phòng, một tàu rà mìn hoạt động ở Quảng châu loan (Fort Bayard), và một tàu chở
hàng cặp bến Hải phòng chuyên chở lương thực cho Lộ quân Quảng châu, tất cả đều
không thông báo cho người Pháp biết. Vì thái độ hòa hoãn gần như chịu lép vế
này mà Georges Catroux bị chính phủ Vichy
cách chức để cho Phó Đô Đốc Jean Decoux thay thế làm Toàn quyền ngày 17-7-1940.
Decoux bác bỏ các yêu sách của
Nishihara, dự tính mở lại cửa biên giới Việt Trung và đề nghị đưa vấn đề ký kết
liên minh Pháp Nhật tại Đông Dương lên thảo luận ở cấp chính phủ. Nhưng gặp lúc
Nhật thay đổi Nội các (22-7-1940), Thủ tướng Cận Vệ (Konoye Fumimaro) và Ngoại
trưởng Tùng Cương (Matsuoka Yosuke) đều là những người tương đối ôn hòa, nhưng
Bộ trưởng Chiến tranh là Trung tướng Đông Điều (Tojo Hideki) vô cùng hiếu chiến,
phe phái quân phiệt nắm những bộ phận quan yếu trong chính phủ, nên Nhật
nghiêng về giải pháp chiếm đóng Bắc kỳ để cắt đứt đường tiếp vận và sử dụng làm
hậu cứ tấn công Trùng khánh. Sư đoàn 5 Ngự Lâm quân do Nakamura Aketo làm Tư lệnh
được đưa đến sát biên giới, cùng với lực
lượng Kiến Quốc quân Việt Nam của Trần Phước An, Trần Trung Lập và Hoàng Lương,
để chuẩn bị tiến vào Đông Dương. Tại Tokyo, ngày 1-8-1940, Ngoại trưởng
Matsuoka công bố việc thành lập Khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á, đồng thời
trao cho Đại sứ Pháp Arsènes-Henry một công hàm có tính chất tối hậu thư, đòi hỏi
Pháp để cho Nhật tự do di chuyển quân đội trên lãnh thổ Đông Dương, vận chuyển
quân nhu quân khí, sử dụng và phòng vệ một số phi trường, thủ đắc những quyền lợi
kinh tế tại Đông Dương giống y như Pháp. Trước tình hình đó, Arsènes ký với Matsuoka
Hiệp ước nguyên tắc ngày 30-8-1940 tại Tokyo, qui định 2 điều căn bản là Nhật
thừa nhận chủ quyền của Pháp tại Đông Dương và Pháp để cho Nhật sử dụng Bắc kỳ
làm hậu cứ tấn công Trùng khánh, chi tiết việc thi hành hiệp ước sẽ họp bàn tại
Hà nội. Nhưng việc họp bàn này giữa Maurice Martin và Nishihara Issaku không được
tiến triển êm ả, nên mờ sáng ngày 5-9-1940, một tiểu đoàn Nhật tràn qua biên giới
Lạng sơn để làm áp lực, và ngày 9-9-1940 Quân đoàn Viễn chinh Đông Dương
Indoshina Hakengun được thành lập do Thiếu tướng Nishimura Takuma làm Tư lệnh,
chuẩn bị tiến vào Đông Dương. Ngày 19-9-1940, Nhật trao cho Decoux một tối hậu
thư đòi hỏi phải đạt được thỏa hiệp trước nửa đêm ngày 22-9-1940, giờ Tokyo, tức
là 20 giờ, giờ Hà nội, do đó chiều ngày 22, Hiệp ước Martin-Nishihara được ký,
nhưng đã quá muộn. Khi đại diện 2 bên Pháp Nhật lên đến Lạng sơn để thông báo
thỏa hiệp, thì đúng 20 giờ, quân Nhật đã tấn công Đồng đăng và Lạng sơn, và Kiến
Quốc quân Việt Nam của Trần Phước An và Trần Trung Lập, có thêm sự phụ lực của
Nông Kính Du, Nông Quốc Long và Đoàn Kiểm Điểm, cũng tràn vào miền phụ cận Lạng
sơn. Trong vụ này, Pháp bị thiệt hại khá nặng: lực lượng chính qui chết 9 sĩ
quan, 4 hạ sĩ quan và 21 binh sĩ, bị thương 3 sĩ quan, 4 hạ sĩ quan và 21 binh
sĩ; mất tích 1 hạ sĩ quan và 22 binh sĩ; lực lượng bản xứ chết 1 hạ sĩ quan và
5 binh sĩ, bị thương 7 binh sĩ, mất tích 7 hạ sĩ quan và trên dưới 2 nghìn binh
sĩ. Phần lớn hạ sĩ quan và binh sĩ bản xứ được ghi nhận mất tích thực ra là những
thành phần đã chạy sang hàng ngũ Kiến Quốc quân, đáng lưu ý nhất là Thượng sĩ
Lương Văn Ý. Ngày 25-9-1940, Quân đoàn Viễn chinh Đông Dương đổ bộ ở Đồ sơn rồi
tiến lên Hải phòng. Ngày 26-9-1940,
phi cơ Nhật còn ném bom thị uy Hải phòng và bay thám sát trên vòm trời Hà nội.
Trước những biện pháp dùng sức mạnh của Nhật, Decoux thay đổi thái độ, hoàn
toàn thỏa mãn các đòi hỏi của Nhật. Đổi lại, Nhật triệt thoái Sư đoàn 5 xuống Hải
phòng để trở về Thượng hải, trả Lạng sơn lại cho Pháp. Kiến Quốc quân Việt Nam không rút
theo Sư đoàn 5, ở lại Lạng sơn tử thủ vùng đất mới được giải phóng. Giám binh Lạng
sơn Paul Chauvet được cử làm Công sứ, đã chiếm lại tỉnh lỵ Lạng sơn ngày
29-11-1940, rồi lần lượt đánh diệt lực lượng Kiến Quốc quân trong vùng phụ cận,
bắt được Trần Trung Lập và Đoàn Kiểm Điểm ngày 26-12-1940, và hai ngày sau đem
họ ra xử bắn tại Lạng sơn. Đó là một trong những hậu quả bi thương của sự cấu kết
giữa thực dân Pháp và quân phiệt Nhật vào những năm đầu của Thế chiến II. Những người Việt Nam yêu nước tin tuởng vào thiện
chí của người Nhật sẵn sàng giúp mình cởi bỏ ách nô lệ do người Pháp đặt lên đầu,
nay đã bị người Nhật trắng trợn bỏ rơi. Họ đã dùng xương máu của chính mình mua
một bài học kinh nghiệm đắt giá lưu lại cho đời sau.
Đương nhiên mục tiêu tối thượng của
quân phiệt Nhật không phải là giúp cho Việt Nam, Lào và Cao Mên thoát khỏi ách
đô hộ của thực dân Pháp. Mục tiêu tối thượng của quân phiệt Nhật cũng không phải
chỉ là việc chiếm đóng Bắc Đông Dương để cắt đứt đường tiếp vận và sử dụng làm
hậu cứ ngõ hầu giải quyết dứt khoát vấn đề chiến tranh với Trùng Khánh. Mục
tiêu tối thượng của quân phiệt Nhật là chiếm đóng toàn bộ Đông Dương, kể cả
Thái Lan, dùng Đông Dương làm bàn đạp tiến công và căn cứ hậu cần trên đường tiến
xuống Mã Lai và Indonesia, đánh bật người Anh và người Hòa Lan ra khỏi Đông Nam
Á. Trong tinh thần đó, người Nhật một mặt đứng ra làm trung gian dàn xếp việc
tranh chấp biên giới giữa Thái Lan và Đông Dương thuộc Pháp để lấy lòng Thái
Lan, một mặt tổ chức và tái phối trí các lực lượng của Lộ quân Miền Nam, chủ yếu
là tập trung ở Nam Đông Dương, để chuẩn bị chiếm đóng Đông Nam Á.
Thừa lúc Pháp bối rối đương đầu với
Nhật ở Bắc kỳ, Thủ tướng Thái Lan Phibun Songkhram ngày 20-10-1940 đơn phương
tuyên bố hủy bỏ hiệp ước bất tương xâm Pháp-Thái và đe dọa dùng vũ lực chiếm lại
467.500 dặm vuông lãnh thổ với 4 triệu dân mất vào cuối thế kỷ trước (Thực ra
đây là đất đai Thái Lan đã cướp đoạt của Cao Mên và Lào trước khi người Pháp đến
thiết lập nền bảo hộ). Ngày 21-11-1940, chính phủ Nhật quyết định làm trung
gian giúp Thái Lan đòi lại đất và dân đã mất nếu Thái Lan chịu hợp tác với Nhật
về chính trị và kinh tế để thiết lập một trật tự mới tại Đông Á.. Bị Pháp phản
đối, Nhật xúi Thái gây hấn và chuyển cho Thái 38 phi cơ chiến đấu và 25 phi cơ
oanh tạc. Ngày 16-1-1941, lục quân Pháp tấn công vào Thái Lan và bị đẩy lui,
nhưng hôm sau, hải quân Pháp lại thắng lớn ở đảo Ko Chung. Rút cục, dưới áp lực
của Nhật, ngày 9-5-1941,
Hiệp ước Hòa bình Thái-Pháp được ký kết tại Tokyo. Pháp phải nhượng cho Thái Lan 64.000 dân
cùng các tỉnh Battambang, Sisophon và Siem Reap của CaoMên, và hữu ngạn sông
Mekong từ vĩ tuyến 15 trở lên của Lào. Đổi lại, Thái Lan trở thành đồng minh vô
điều kiện của Nhật, cho Nhật hưởng nhiều đặc quyền về chính trị, quân sự và
kinh tế.
Ngày 16-10-1941, ở Nhật, Tojo lên làm Thủ tướng lại
kiêm nhiệm thêm cả 2 bộ Chiến tranh và Nội vụ. Nhật bắt đầu ào ạt đưa quân vào
Đông Dương. Chỉ trong vòng 2 tuần lễ, quân số Nhật tại Bắc kỳ đã gia tăng từ
4.000 người ngày 14-10-1941 lên 26.000 người ngày 27-10-1941, nâng quân số Nhật
tại Đông Dương lên đến 42.000 người. Trong những ngày cuối năm 1941, quân số Nhật
tiếp tục gia tăng, nhất là tại Nam Đông Dương. Ngày 5-11-1941, Tojo giao cho Thống
tướng Terauchi Juichi tổ chức và tái phối trí Lộ quân Miền Nam, tập trung chủ yếu
ở Nam Đông Dương, với thành phần và nhiệm vụ như sau: Quân đoàn 14, bản doanh ở
Đài Loan, sẽ tấn công Philippin; Quân đoàn 15, bản doanh ở Nam Đông Dương,sẽ tấn
công Thái Lan; Quân đoàn 16, bản doanh ở Hoa Nam, sẽ tấn công Java; và Quân
đoàn 23, bản doanh ở Nam Đông Dương, sẽ tấn công Mã Lai. Ngoài ra, Lộ quân Miền
Nam còn có Sư đoàn 21 và Quân đoàn 3 Không quân (430 phi cơ) ở Đông Dương, Quân
đoàn 5 Không quân (380 phi cơ) ở Đài Loan, 500 tàu của Hạm đội vận tải Nam Hải,
và một số đơn vị phụ thuộc khác. Ngày 18-11-1941, Phương Trạch (Yoshizawa
Kenkichi) đến Hà nội trình ủy nhiệm thư cho Decoux để chính thức nhậm chức Đại
sứ Đặc mệnh Toàn quyền tại Đông Dương. Trong thực tế, trên bậc thang quyền lực,
cương vị của Yoshizawa cao hơn của Decoux. Thế là Đông Dương thuộc Pháp từ nay bị Nhật
chiếm đóng về quân sự và kiểm soát về chính trị. Tệ hơn nữa, từ ngày 8-12-1941,
sau khi Đô Đốc Yamamoto tấn công Pearl Harbor và chính phủ Nhật tuyên chiến với
Mỹ, người Pháp tại Đông Dương chỉ còn được đảm nhiệm công việc hành chánh thường
nhật mà thôi. Người dân Việt Nam
lâm vào cảnh một cổ hai tròng.
Nhật đã dùng biện pháp sức mạnh để áp đặt một
qui chế liên minh quân sự và chánh trị, buộc Pháp ký Thỏa ước phòng thủ chung
Đông Dương ngày 29-7-1941
tại Vichy. Điểm
đáng lưu ý là trong thỏa ước này có điều khoản nói rằng Pháp cung cấp cho quân
đội Nhật số tiền 23 triệu đồng trong tài khóa 1941, số tiền này sẽ được chính
phủ Nhật bồi hoàn bằng tiền yen, mỹ kim hoặc vàng. Điều khoản này quả là một
gánh nặng cho nhân dân Đông Dương. Thực vậy. từ khi Thế chiến II bắt đầu, công
chức và quân đội tại Đông Dương không còn được Bộ Thuộc địa trả lương. Ngân
sách Đông Dương phải đài thọ ngân khoản này, ngoài ra còn phải đóng góp tiền bạc
chi viện cho chính quốc. Ngày 24-1-1941,
Decoux báo động ngân quĩ Đông Dương chỉ còn 2,8 triệu đồng. Vậy mà nay phải
cung ứng cho quân đội Nhật mỗi tháng 4,6 triệu đồng (tài khóa 1941 chỉ còn 5
tháng lúc ký thỏa ước phòng thủ chung). Decoux xoay xở ở đâu ra những số tiền
nói trên nếu không è cổ dân Đông Dương bắt phải gánh chịu. Trước hết, Decoux tước
đoạt tiền bạc của dân chúng bằng cách bắt họ mua công khố phiếu. Tháng 3-1941,
Decoux bán ra 10 triệu đồng công khố phiếu, tháng 5-1941, số tiền đó tăng lên
20 triệu đồng, tháng 7-1942 là 45 triệu, tháng 11-1942 là 60 triệu, tháng
4-1943 là 70 triệu, tháng 7-1943 là 85 triệu, tháng 5-1944 là 110 triệu. Thứ đến,
Decoux cho vơ vét gạo, than và cao su để bán qua Nhật, Hồng kông và Philippin,
để lấy ngoại tệ cho ngân sách, hoặc để nhập khẩu nhu yếu phẩm. Ngay trong năm
1941, Đông Dương xuất khẩu qua Nhật 700.000 tấn gạo và 15.000 tấn cao su. Từ đầu
năm 1942 trở đi, gạo, cao su và các sản phẩm công nông nghiệp khác hầu như chỉ
xuất khẩu qua Nhật. Gạo được thu góp để xuất khẩu, gạo còn được sử dụng làm
nguyên liệu sản xuất rượu ty bắt ép dân chúng tiêu thụ để gia tăng ngân sách,
và sản xuất rượu cồn để cung ứng cho quân đội Nhật. Trong lúc dân chúng thiếu gạo
ăn, nhất là ở vùng châu thổ Bắc Đông Dương, thì các công ty nấu rượu của Pháp
tha hồ hưởng lợi. Vào thời điểm này, tại Đông Dương, ngoài các công ty lớn như
Société francaise des distilleries de l’ Indochine, Société des distilleries
Mazet, và Société des Sucreries et Raffineries de l’Indochine, còn có 19 công
ty nhỏ hơn chuyên sản xuất rượu cồn, phân bố rải rác khắp nước, như Indochinese
Brewing Co tại Chợ lớn, Tran Trinh Trach Co tại Bạc liêu, Société industrielle
et commerciale d’Annam ở Quảng trị, Huế, Tourane và Quảng ngãi, Société des
distilleries des alcools indigènes de Van Van tại Bắc ninh và Distilleries Nam
Đồng Ích tại Thanh hóa.
Sự cấu kết giữa thực dân Pháp và
quân phiệt Nhật không chỉ thể hiện qua các thỏa hiệp chính trị và quân sự, mà
còn bao trùm tất cả các hoạt động quan yếu trong lãnh vực kinh tế, xuyên qua việc
ký kết giữa René Robin và Matsumiya Jun ngày 6-5-1941 tại Tokyo một loạt những
văn kiện liên minh kinh tế buộc chặt Đông Dương vào khối Đại Đông Á, như Hiệp ước
cư trú và hàng hải về Đông Dương, Hiệp ước về quan thuế, thương mại, và thanh
toán ngân khoản giữa Nhật và Đông Dương. Pháp và Nhật dành cho nhau qui chế tối
huệ quốc, kiều dân Nhật được đối xử gần như công dân Pháp. Điểm đáng lưu ý về hậu
quả của các thỏa ước kinh tế này là hai ngân hàng phụ trách thanh toán ngân khoản
giữa Nhật và Pháp là Yokohama Specie Bank và Ngân hàng Đông Dương đã thu được
những lợi nhuận khổng lồ trong dịch vụ này. Điểm đáng lưu ý nữa là hàng năm Nhật
sẽ xuất khẩu qua Đông Dương vải và chỉ sợi, đổi lại, Đông Dương sẽ cung cấp đay
cùng một số nguyên liệu khác cho kỷ nghệ Nhật. Về sau, không đủ đay cung cấp
cho Nhật, nhà cầm quyền Pháp đã ra lệnh cho quan lại bản xứ bắt nông dân miền bắc
nhổ mạ trồng đay. Trong một miền đất hẹp người đông, từ trung châu Bắc bộ đến đồng
bằng Bình Trị Thiên, gạo sản xuất tại chỗ không đủ cho dân ăn lại phải đem một
phần lớn đi nấu rượu ty nạp cho công quản rượu RA (régie d’alcool) của nhà nước,
và nấu rượu cồn để cung cấp cho quân đội Nhật, nay lại không được phép trồng
lúa, phải nhổ mạ trồng đay, người dân miền bắc thấy nguy cơ bị đói đã hiện ra
ràng ràng trước mắt. Lòng oán vọng, nỗi uất ức, ngun ngút tới trời xanh. Một số
ít quan lại bản xứ còn chút lương tri, thông cảm với sự thống hận và tuyệt vọng
của đám dân cùng khổ, đã không nỡ quá tay bắt nông dân triệt để thi hành lệnh
nhổ mạ trồng đay, nên đã bị kỷ luật nặng nề. Tổng đốc Thanh hóa Hồ Đắc Ứng cùng
tất cả Tri phủ Tri huyện tỉnh Thanh hóa, năm 1944 nhất loạt bị cách chức vì
không nộp đủ lượng đay qui định. Trong 2 năm cuối cùng của Thế chiến II, đường
giao thông nam bắc bị tê liệt vì bom đạn Đồng minh, gạo trong nam không chở được
ra bắc, quân đội Nhật lại gia tăng việc thu mua lúa gạo để dự trữ, nên từ cuối
năm 1944, dân đói miền quê bắt đầu đổ ra các thành thị, và lác đác đã có người
chết. Từ sau Tết Ất Dậu (1945), thảm họa người chết vì không có gì để ăn xuất
hiện khắp miền bắc. Người ta ăn cóc nhái, châu chấu chuồn chuồn, ăn cả lá cây,
vỏ cây, thậm chí ăn cả thịt người chết, rồi cuối cùng chẳng còn gì để ăn nên kiệt
sức gục chết. Tính ra, nạn đói năm Ất Dậu đã làm thiệt mạng đến 2 triệu người.
Sự cấu kết giữa thực dân Pháp và
quân phiệt Nhật hồi Thế chiến II tại Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam, được
chính thức bắt đầu từ Hiệp ước nguyên tắc ngày 30-8-1940, mở đường cho quân đội
Nhật vào chiếm đóng Đông Dương thuộc Pháp, và chấm dứt bởi chiến dịch Meigo tối
9-3-1945, lật đổ chính quyền và tước khí giới quân đội và lực lượng cảnh sát
Pháp tại Đông Dương. Sự cấu kết này, hay nói một cách nhẹ nhàng, văn vẻ hơn, sự
liên minh này, đối với người Nhật là một diễn biến tất yếu. Bằng mọi biện pháp,
người Nhật phải đưa quân qua ngã ba Đông Dương trên bước đường tiến xuống Đông
nam Á và Úc châu, đồng thời khai thác tài nguyên Đông Dương để cung ứng cho kỷ
nghệ. Nếu người Pháp lừng khừng, người Nhật sẽ dùng biện pháp sức mạnh để áp đặt.
Nếu người Pháp chống đối, người Nhật sẽ dùng chiến tranh để tiêu diệt chướng ngại.
Bởi vậy, dẫu đã có Hiệp ước nguyên tắc Arsènes-Matsuoka ngày 30-8-1940, mà vẫn
phải có trận tấn công Lạng sơn đêm 22-9-1940, nhiên hậu chi tiết thi hành hiệp
ước nguyên tắc mới được thỏa hiệp. Về phía người Pháp, sự liên minh này đã xãy
ra ở cái thế chẳng đặng đừng. Không được chính quốc chi viện, Catroux hiểu rằng
ở Bắc kỳ, với 25 phi cơ chiến đấu, Pháp không thể đương đầu với 200 phi cơ của
Nhật, nên buộc lòng phải nhượng bộ. Decoux cũng không làm được gì hơn. Trông
gương hạm đội Pháp của Đô đốc Gensoul bị người Anh đánh đắm ở ngoài khơi
Algeria ngày 3-7-1940, nay trước thái độ cao ngạo của Percy Noble, Tư lệnh Hải
quân Anh tại Thái bình dương, đe dọa đánh đắm soái hạm Lamotte-Picquet, Decoux ở
cái thế lưỡng đầu thọ địch đành chịu thỏa mãn các yêu sách của Nhật. Vì vậy mà
quan hệ Pháp Nhật ban sơ ở cái thế đương đầu đã nhanh chóng chuyển sang thế
liên minh liên kết, thực dân Pháp không mất thuộc địa mà quân phiệt Nhật vẫn có
đất đóng quân lại còn sử dụng được bộ máy hành chánh của Pháp làm trung gian để
cấu kết với nhau bóc lột dân Đông Dương tới tận xương tủy. Đành rằng một sự
liên minh mang tính chất gượng gạo như thế tất nhiên không tồn tại lâu dài,
nhưng sự cấu kết đó cũng đã gây nên những hậu quả trầm trọng đến mức độ bi thảm
cho dân chúng Đông Dương. Ngoài cảnh người chết nhà đổ vì bom đạn Đồng minh,
chuyện kinh tế kiệt quệ, tình trạng dân chúng nghèo khó vì tai ách một cổ hai
tròng, và nạn đói kém năm Ất Dậu, hậu quả tai hại nhất của sự cấu kết giữa thực
dân Pháp và quân phiệt Nhật ở Việt Nam hồi Thế chiến II là lổ hổng chính trị to
lớn trên chính trường khi chiến tranh chấm dứt. Thực vậy, một khi liên minh
Pháp Nhật đã hình thành, người Pháp ở Đông Dương được rảnh tay trong việc đối
ngoại, đã dốc toàn lực vào việc truy lùng và giết hại những người Việt Nam yêu
nước chống Pháp. Các cuộc nổi dậy bị đàn áp man rợ, các tổ chức chính trị và
tôn giáo bị khủng bố trắng, các thành viên bị bắt giữ, bị lưu đày, còn được mấy
người sống sót? Chính phủ Nhật lại thiếu nhất quán trong chính sách đối với Cường
Để. Có thể chính phủ Nhật có lý do riêng để lưu giữ Hoàng Đế Bảo Đại, nhưng tại
sao Tướng Tsuchihashi lại cản trở việc Bảo Đại mời Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng?
Với Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng thay vì Trần Trọng Kim vốn là học giả hơn là
chính khách, chắc gì chính quyền Bảo Đại đã dễ dàng buông xuôi mặc cho Việt
Minh áp đặt chính quyền chuyên chính vô sản lên đầu dân tộc Việt Nam.
Xem vậy, những việc làm của thực dân
Pháp và quân phiệt Nhật hồi Thế chiến II quả đã gây nên những hậu quả vô cùng
tai hại, có ảnh hưởng không nhỏ tới tình trạng bi thảm tại Việt Nam ngày nay.
Chính phủ và nhân dân yêu chuộng tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền và dân
quyền, của hai quốc gia đứng vào hàng tiến bộ bậc nhất thế giới nghĩ sao?
21 tháng 3 năm 2000
Minh Vũ Hồ Văn Châm
NGUYỄN THIÊN THỤ * ĐỌC LẠI TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
ĐỌC LẠI TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN (COMMUNIST MANIFESTO )
Trước 1975, tôi không phải là đảng viên để đuợc ban phát tài liệu và học tập về Tuyên Ngôn của Đảng. Tôi là một người di cư cho nên đã hiểu thấu cộng sản, chẳng cần phải thắc mắc mấy cái của nợ đó. Dù tôi muốn cũng chẳng thể đọc vì quốc gia cấm tàng trữ các tài liệu này. Sau 1975, tôi mệt mỏi vì suốt mấy tháng phải nghe những tên cán ngố nói dài, nói dai, nói dỡm. Một buổi đi phố thấy có tài liệu này bèn mua về liếc mắt sơ qua rồi bỏ xó. Nay qua đây, những lúc rảnh rang dò tìm trên Internet, thấy có Tuyên Ngôn của Đảng Cộng sản bằng Anh Ngữ, bèn đọc lại. Tôi xin trình bày cảm nghĩ của tôi với các bạn đọc.
Bản tuyên ngôn này là công trình của Karl Marx và F. Engels soạn thảo năm 1848. Tuyên ngôn có 4 phần:
-
Tư
bản và vô sản
-
Vô
sản và đảng cộng sản
-
Văn học cộng sản
-
Cộng sản và các đảng phái đối lập.
I. Tư bản
và vô sản.
Để
xúi vô sản đánh tư bản, người nghèo đánh người giàu, và khuyến khích dân chúng
nổi loạn, Marx nói rằng lịch sử nhân loại là lịch sử đãu tranh giai cấp mà hai
giai cấp mâu thuẫn nhau là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị (The history of all hitherto existing
society is the history of class struggles ) . Marx đơn giản quá đáng cho
nên quá sơ sài và thiếu sót. Lịch sử nhân loại rất đa dạng. Nó là lịch sử của sự
tiến hóa của con người. Lịch sử trong đa số trường hợp là lịch sử đãu tranh giữa
các dân tộc, giữa các thế lực, giữa các vua chúa và tướng lãnh. Nó không đơn
thuần là lịch sử đãu tranh giai cấp như Marx nghĩ. Và trong xã hôi, có đãu
tranh thì cũng có hòa hợp, chứ không phải là chỉ có đãu tranh. Cũng như trái đất
có sáng, có tối, Marx chỉ nói rằng địa cầu một màu đen, hoàn toàn tối tăm, là một
nhận định vô càng sai lầm và thiếu sót.
Ông nói rằng tư bản đã làm
nên cuộc cách mạng kỹ nghệ (The
bourgeoisie, historically, has played a most revolutionary part). Tư bản đã
xây dựng khoa học kỹ thuật, lập nên kỹ nghệ, hãng xưởng,sản xuất hàng hóa, tư bản
đã mở rộng thị trường khắp thế giới. Tư bản đã trở thành đế quốc xâm lược Mỹ
châu và châu Phi, châu Á. Marx nói đúng, dẫu sao, tư bản đã đem lại phồn vinh
cho thế giới, tạo nên khoa học, kỹ thuật tiến bộ, đem lại tiện lợi cho loài người.
Marx rất đúng khi viết giai cấp tư sản trong quá trình thống trị chưa đầy trăm
năm đã tạo ra những lực lượng sản xuấtnhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất
của tất cả thế hệ trước gộp lại (The bourgeoisie, during its rule of scarce
one hundred years, has created more massive and more colossal productive forces
than have all preceding generations together). Còn non trăm năm thống trị,
cộng sản thì chỉ gây chiến tranh, đem lại nghèo đói. Nơi nào theo cộng sản lâu
năm thì kinh tế càng lụn bại, thiếu hàng tiêu dùng khiến cho dân chúng phải
buôn bán chợ đen, xếp hàng cả ngày để mua, gạo thịt, nuớc mắm. Như vậy là tư bản
hơn cộng sản. Nếu tư bản sinh ra thực dân, đế quốc thì cộng sản cũng thế thôi.
Nga Xô chiếm Đông Âu, chiếm đất Trung quốc, Trung quốc chiếm Tây Tạng, Việt nam
chiếm Miên Lào. Tất cả chỉ là một tuồng thực dân xâm lược.
Thiết nghĩ nay tư bản đã
thay đổi nhiều. Chính quyền tư bản ở thế kỷ XX đã tiến tới việc đặt ra mức
lương tối thiểu, luật lao động, quỹ an sinh xã hội, bảo đảm quyền lợi cho dân
lao động, trong khi tại các nuớc cộng sản, người dân lao động bị bóc lột nặng nề
hơn, họ phải làm việc quần quật suốt ngày, suốt tháng với đồng lương chết đói,
mỗi tháng trung bình 20 hay 30 đô la, chỉ đủ sống trong một tuần hay mười ngày.
Marx tố cáo tư bản bóc lột nhân công, thì công nhân trong các nước cộng sản lại
càng bị bóc lột hơn. Đồng ý với Marx rằng người thợ trong chế độ tư bản bị bóc
lột nhưng còn đuợc trả tiền như Marx nói, dù là trả tiền ngay một cách lạnh
lùng(naked self-interest, than callous "cash payment), còn cộng sản thì
coi như bóc lột, coi như không trả tiền vì chúng trả lương quá ít, lại bắt làm
thêm (Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày nghỉ) để kỷ niệm sinh
nhật bác, để chào mừng chiến thắng Điện Biên, chiến thắng Ấp Bắc! Nói tóm lại,
tư bản và cộng sản đều bất nhân, nhưng một bên còn cho thợ ăn no để làm việc
cho nó, còn một nên bóc lột đến chết, bắt nhịn đói, nhịn khát mà còn đánh đập,
hành hạ. Lẽ dĩ nhiên, tư bản khá hơn cộng sản!
Marx
sai lầm khi so sánh quân chủ, tư bản và cộng sản. Tư bản thay thế phong kiến và
đạt được nhiều thành công về khoa học, kỹ thuật, kinh tế, giao thông.. . nhưng
không thể vì thế mà nói rằng cộng sản thay tư bản và cũng thành công như thế.
Đó chỉ là những giấc mơ ban ngày, những điều võ đoán, một lối tuyên truyền
huyênh hoang, khoác lác mà nay thực tế đã chứng minh rằng cộng sản là xấu xa, tồi
tệ, chỉ đem nhân lọai trở về thời đại đồ đá, với những người thú dã man, tàn bạo!
Marx lý luận rằng tư bản thắng phong kiến, cho nên cộng sản cũng sẽ thắng tư bản
vì xã hội và vũ trụ bao giờ cũng đi theo đường thẳng, cái mới phủ định cái cũ,
cái mới nhất định thắng cái cũ. Ông nói giai cấp tư bản sinh ra giai cấp vô sản
là kẻ đào mồ chôn mình, và phe vô sản sẽ thành công còn phe tư bản sẽ thất bại
là điều không tránh được(What the
bourgeoisie, therefore, produces, above all, is its own grave-diggers. Its fall
and the victory of the proletariat are equally inevitable).
Trong thực tế, khí hậu có
lúc tăng lúc giảm, xuân đi thu lại, kinh tế có lúc suy lúc thịnh, đời người có
lúc vinh lúc nhục, nho gia gọi là thịnh suy bĩ thái, làm sao mà đi lên mãi hỡi
ông Marx? Giả như ông nói là đúng, theo duy vật sử quan, mọi sự biến chuyển,
phong kiến suy tàn thì tư bản lên, tư bản suy tàn thì cộng sản lên, vậy cộng sản
suy tàn thì chế độ nào thay thế? Ông bảo tư bản dẫy chết nhưng nay nó lại bành
trướng qua Nga, qua Trung quốc, trong khi Liên Xô và Đông Âu tan tành và cộng sản
các nước Trung quốc, Việt Nam, Bắc Hàn ve vản giao thương với Mỹ! Ôi hạ tầng
xây bằng dô la và kinhtế tư bản thì thượng tầng kiến trúc có còn là cộng sản nữa
không khi Marx đã nói hạ tầng cơ sở( kinh tế ) quyết định thượng tầng kiến
trúc?
II. Vô sản
và đảng cộng sản
Marx
cho rằng giai cấp vô sản phải do đảng cộng sản lãnh đạo toàn bộ. Đảng cộng sản
đặt ra đuờng lối rất là khắt khe, nghiêm ngặt, cương quyết tiêu diệt giai câp
tư bản.
Điểm
quan trọng nhất hủy bỏ tư hữu ( the
theory of the Communists may he summed up in the single sentence: Abolition of
private property). Hai chữ cộng sản đã nói rõ chủ trương của họ. Cộng sản
là tước bỏ tư hữu, không có của riêng, mà chỉ có của chung. Những người nghèo
chạy theo cộng sản là bị lừa bằng chữ nghĩa. Họ tưởng chạy theo cộng sản là đuợc
chia của theo hình thức của Lương Sơn bạc, lấy của người giàu chia cho người
nghèo! Nếu chia của tức là đã theo chủ trương hữu sản rồi!
Trong
chế độ cộng sản, người nghèo trước sau vẫn nghèo, vẫn không có tư hữu. Tài sản
trong nước vào tay một số người. Hồ Chí Minh không phải nói đùa khi ông thí dụ
về dân chủ tập trung. Dân chủ tập trung là dân chúng góp tiền lại (tập trung) và
đưa cho ông Hồ bỏ túi!
Khi
nắm chính quyền,việc đầu tiên là cộng sản hủy bỏ quyền tư hữu về tư liệu sản xuất
của tư sản( cướp hãng xưởng, máy móc, vật dụng). Nhưng thực tế, đánh tư sản
nhưng tài sản tư bản lại vào tay đảng viên gộc, càng chủ trương chống tư hữu,
óc tư hữu càng bành trướng, khiến cho tệ nạn ăn cắp và tham nhũng lộng hành. Thời
Marx, các nhà tư tưởng đã phê bình viêc hủy bỏ tư hữu sẽ làm cho nẩy sinh biếng
nhác. Dân chúng Viêt Nam
đã có tục ngữ:
-
Cha chung không ai khóc.
Lắm sãi không ai đóng cửa chùa.
-
Xã hội chủ nghĩa, mười người khiêng một cọng rơm!
Điểm thứ hai là hủy bỏ gia đình. Cộng sản cho rằng gia đình cũng như vốn liếng của cải đều phải hủy bỏ vì gia đình, vợ con cũng là một hình thức tư hữu . Do đó, hôn nhân là không cần thiết. Cộng sản chủ trương vô gia đình, cộng sản kết tội tư bản coi vợ như một công cụ sản xuất (the bourgeois sees in his wife a mere instrument of production), và cho rằng tư bản chủ trương cộng thê, và chủ trương cộng thê đưa đến nạn mãi dâm bành trướng. Marx nói hơi quá. Nạn mãi dâm đã có từ lâu chớ đâu phải do tư bản ! Các ông cộng sản trong đó có Tố Hữu đã lên tiếng kết tội tư bản về tội mãi dâm. Họ mơ ước chủ nghĩa cộng sản cơm no, áo ấm, không còn bóc lột, không còn mãi dâm
(
Trời ơi biết đến khi mô?
Thân
em hết nhục dày vò năm canh?
Tình
ơi gian dối là tình,
Thuyền
em rách nát còn lành được không ?
-Răng
không , cô gái bên sông,
Ngày
mai cô sẽ từ trong tới ngoài.
Thơm
như hương nhụy hoa nhài,
Sạch
như nước suối ban mai giữa rừng.
Ngày
mai gió tới ngàn phương,
Tôi
đưa cô tới một vườn đầy xuân.
Ngày
mai trong giá trắng ngần,
Cô
thôi kếp sống dày thân giang hồ.
Ngày
mai bao lớp đời dơ,
Sẽ
tan nhu đám mây mờ đêm nay.
(Tiếng
hát sông Hương )
Nhưng thực tế cho thấy dưới chế độ cộng sản nạn mãi dâm càng bành trướng! Nói thì dễ, phê bình đả kích thì dễ, còn làm thì khó đấy ! Cộng sản đả phá chế độ gia đình, vậy thì Marx chủ trương thay thế bằng một chế độ gia đình như thế nào hay là bỏ luôn gia dình? Trong văn bản, Marx không nói rõ. Nhưng qua bản Tuyên ngôn này, chúng ta biết các nhà tư tưởng đương thời đã chỉ trích cộng sản hủy bỏ gia đình (Abolition of the family! Even the most radical flare up at this infamous proposal of the Communists ) , và chỉ trích cộng sản chủ trương cộng thê.( But you Communists would introduce community of women, screams the whole bourgeoisie in chorus). Cộng sản (chung của cải) rồi tất phải cộng thê ( chung vợ) ! Nghe nói bên Trung quốc, hồi đầu Mao trả lương mọi người giống nhau, ai chết nhà nước chôn nhưng sau thay đổi, ai chết thì đảng bỏ mặc, gia đình phải theo lối xưa, đứng ra chôn cất. Và buổi đầu, nam nữ sống mỗi trại riêng biệt, cuối tuần, nam công nhân nào công tác tốt thì được lĩnh phiếu sang trại nữ du hí. Tổ chức này giống như trại gái của quân đội Pháp! Không biết việc này đi đến đâu. Nhưng Lê Nin, Staline, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Chu Ân Lai , Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp vẫn có vợ con riêng. Lê Duẫn, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Thọ là những chúa dê... không biết về mặt này, họ theo cộng sản hay tư hữu? Riêng ông Hồ là theo đúng cộng sản nguyên thủy, tức là theo đúng thời đầu tiên của loài người, ăn chung ở chạ thành đàn, nam nữ bạ đâu vui đó, đẻ con không biết bố là ai!
Điều
thứ ba là huỷ bỏ biên giới các quốc gia. Sau khi xóa bỏ gia đình và hôn nhân, cộng
sản sẽ xóa bỏ biên giới quốc gia( The working men have no country). Đây là một
điều không tưởng. Ngay thuở đầu tiên, Trung hoa đã bất mãn Liên Xô vì Liên Xô
không chịu trả lại đất Trung quốc mà Nga đã chiếm thời bát quốc liên quân . Hơn
nữa, Trung quốc thù ghét Nga vì cố vấn Nga hách dịch hơn là cố vấn Mỹ! Chiến
tranh Nga Hoa đã xảy ra là vì đó. Sau này Liên Xô chiếm Đông Âu, Trung quốc chiếm
Tây Tạng, và Việt Nam
chiếm Miên Lào. Như vậy, làm sao mà nói xóa bỏ biên cương? Làm sao mà đề cao
tình yêu quốc tế vô sản, làm sao xây dựng thế giới đại đồng?
Cuối cùng, Marx đưa ra những
điểm chính yếu cho đường lối cộng sản quốc tế mà mỗi quốc gia phải theo đó mà
thi hành:
- Huỷ bỏ tư hữu ruộng đất.
Đánh
thuế lũy tiến thật nặng.
-
Hủy
bỏ mọi quyền thừa kế.
-
Tịch
thu tài sản bọn di dân và bọn phản loạn.
-
Sung công tài sản trong ngân hàng.
-
Tập trung các phương tiện giao thông và vận tải
trong tay nhà nước.
-
Đối xử công bằng với tất cả lao động. Thiết lập kỹ nghệ quân đội, đặc biệt chú
trọng về nông nghiệp.
-
Kết
hợp nông nghiệp với kỹ nghệ, dần dần tiến tới việc hủy bỏ sự phân biệt quê và tỉnh.
-
Giáo dục tự do cho các trẻ trong trường công.
Tất
cả những biện pháp ghê rợn này những ai sau 1975 đã sống tại Việt nam đều trải
qua kinh nghiệp này.Về giáo dục, nay thì người ta làm trái lời Marx hết rồi!
Ban đầu đảng giành độc quyền giáo dục, nay vẫn độc quyền giáo dục nhưng lại
chia ra công, tư và bán công.Và nay trường công cũng đóng học phí, học sinh phải
đóng tiền xây trường, tiền xây lớp, cha mẹ học sinh phải ký sổ vàng, học sinh
phải tặng quà thầy giáo , cô giáo trong ngày Hiến chương nhà giáo 20-11 hàng
năm.
Về kinh tế, nay cộng sản đã hữu sản
hóa cán bộ, đã tôn trọng tư hữu tuy rằng ruộng đất vẫn nằm trong tay đảng, đảng
có quyền chiếm đất làm nhà, bán đất cho ngoại quốc mà lấy tiền bỏ túi trong khi
dân chúng không có đất làm nhà, không có đất canh tác! Và nay các cơ sở quốc
doanh đã vào tay các đảng viên bự, vào tay các tư bản đỏ. Ông Marx có biết
không? Ngay nay họ vẫn treo búa liềm nhưng thực tế họ đã đem tuyên ngôn của ông
bỏ thùng rác rồi !
III. Văn học cộng sản
III. Văn học cộng sản
Marx
nói đến nhiều loại chủ nghĩa xã hội: chủ nghĩa xã hội phong kiến, chủ nghĩa xã
hội tư sản , chủ nghĩa xã hội Đức. Marx chỉ trích các chủ nghĩa xã hội không
thuộc cộng sản là phản động mà khen chủ nghĩa xã hội Đức. Quan trọng nhất là
ông đã chỉ trích chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán và chủ nghĩa cộng sản
không tưởng phê phán. Ông chê họ là không tham gia hoạt động chính trị, nhất là
tham gia cách mạng, họ muốn tranh đãu bằng con đường hòa bình. Ông chê họ không
tưởng nhưng thực tế họ cũng như ông là viễn vông, không tưởng. Tuy nhiên ông đã
khen họ là biết tranh đãu cho vô sản, đả kích mọi trật tự , khuôn mẫu cũ đang tồn
tại, ca tụng giai cấp vô sản, ca tụng việc bãi bỏ sự phân biệt thôn quê, thành
thị, ủng hộ việc hủy bỏ gia đình, chống đối việc duy trì làm ăn cá thể và tư
nhân. ( They attack every principle of
exisflng society. Hence they are full of the most valuable materials for the
enlightenment of the working class. The practical measures proposed in them -
such as the abolition of the distinction between town and country, of the
family, of the carrying on of industries for the account of private,
individuals).
Về
mục này, Marx nói rất mơ hồ, không đưa ra một phương châm , đường hướng nào cả,
mà chỉ là những lời chỉ trích vu vơ. Sau này, đám đệ tử của ông đặt ra đuờng lối
hiện thực xã hội chủ nghĩa. Họ bắt mọi nhà văn, nhà thơ phải ca tụng chế độ, ca
tụng giai cấp vô sản và ca tụng đảng Cộng Sản, họ đã coi văn học nghệ thuật như
là vũ khí của đảng, là tay sai của chính trị. Từ Liên Xô, Trung quốc cho đến Việt
Nam,
giới văn nghệ luôn bị kìm kẹp, khủng bố.
IV. Cộng sản
và các đảng phái đối lập
Marx cho biết đảng cộng sản cộng tác với các đảng của nhân dân lao động, như là nhóm Hiến chương ở Anh quốc và nhóm Cải cách ruộng đất ở Bắc Mỹ .Và đảng cộng sản tranh đãu cho quyền lợi giai cấp vô sản nên đã hợp tác với các đảng phái khác như ở Pháp Cộng đảng đã hợp tác với đảng Xã Hội Dân chủ để chống tư bản và Cấp Tiến. Ở Thụy Sĩ, đảng cộng sản ủng hộ đảng Cấp Tiến.
Đấy là lời ba hoa của Marx. Thực tế cho thấy đảng cộng sản muốn nắm độc quyền cho nên đã phá hoại các đảng phái khác trong khi họ còn hoạt động bí mật, hoặc khi còn yếu thế. Nhất là khi đã nắm chính quyền , cộng sản không bao giờ chia chác cho đảng khác, trái lại ra sức tận diệt các lực lượng chính trị, tôn giáo khác. Tại Việt nam, Hồ chí Minh đã bắt tay với thực dân Pháp để rảnh tay tiêu diệt Quốc dân đảng và Đại Việt. Họ không có tinh thần hòa hợp, đòan kết dân tộc bởi và từ căn bản họ là độc tài. *
Có
hai điểm quan trọng nhất trong Tuyên ngôn này, đó là vấn đề triệt để hủy bỏ tư
hũu và triệt để chống lại các tư tưởng cổ truyền.( The Communist revolution is
the most radical rupture with traditional property relations; no wonder that
its development involves the most radical rupture with traditional ideas). Hạng
bình dân có thể bị lừa đảo vì không biết gì về Marx, họ chạy theo cộng sản vì
nghĩ mình là dân nghèo, được cộng sản đem lại nhiều quyền lợi. Nhưng những bậc
trí thức như luật gia Nguyễn Mạnh Tường, triết gia Trần Đức Thảo lại không đọc
Marx, Engels sao? Chắc họ đọc Marx và Engels nên mới mê mà theo cộng sản cho
tàn một đời xuân. Họ đã nghe ít nhiều về việc tàn sát Thanh Nghệ Tĩnh 1931. Họ
đã đọc Tuyên Ngôn của đảng cộng sản, họ nghĩ gì về việc cộng sản triệt để hủy bỏ
tư hữu, và hủy bỏ mọi tư tưởng cổ truyền? Con người bị hủy bỏ tư hữu thì làm
sao mà sống? Họ có nghĩ học vấn của họ cũng là một thứ tư hữu mà cộng sản ghét
bỏ hay không ? Triết gia và luật gia phải suy nghĩ về việc này. Một người lượm
được trái táo, trái ổi, cất lại để chiều ăn. Họ có phạm tội tư hữu không, và có
đáng bị tội không? Một người làm việc siêng năng, tạo ra của cải, không trộm cắp,
giết người đoạt của, tại sao họ bị tước đoạt tài sản, bị tù, và bị giết ? Người
ta giết người, bắt bớ đồng loạt, không phân biệt ai có tội hay không có tội
chính là do quan điểm của Marx, một kẻ sát nhân ghê tởm, mà sau này Trường
Chinh cũng chủ trương giết lầm hơn bỏ sót, và Pol Pot giết hàng triệu người
cũng do Tuyên Ngôn này, chủ trương đãu tranh quyết liệt với kẻ thù!
Vô
lý nhất, điên cuồng nhất khi Marx chủ trương triệt để thủ tiêu mọi tư tưỏng cổ
truyền. Cộng sản giống như Tây Độc Âu Dương Phong mông chỗng lên trời, đầu đi
xuống đất, và coi đó là cách mạng! Khoa học thuần túy và khoa học xã hội đều là
kho tàng của nhân loại, được truyền lại từ lâu đời. Trong đó có những cái còn
giá trị, và những cái lỗi thời. Chúng ta phải kế thừa và phát huy cái tốt. Chiếc
xe ô tô ngày nay là kết quả của cái xe thời Chiến quốc, Xuân Thu. Y khoa ngày
nay khác xa y học cổ truyền nhưng phần lớn kiến thức là do thừa kế và phát huy
y học cổ truyền. Marx là một trí thức sao laị quá khích và nông nổi như vậy? Nếu
cộng sản chủ trương coi mọi giá trị tư tưởng đều vô giá trị thì kiến thức của
các ông trí thức theo cộng có đuợc cộng sản tôn trọng không, và các ông chạy
theo cộng sản để làm gì? Rất tiếc cho Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường đã theo
cộng sản, đã không dùng kiến thức mình mà áp dụng trong cuộc đời. Lẽ nào hai
ông không đọc tuyên ngôn này? Nếu đọc mà hai ông không thấy rùng rợn sao? Dẫu
sao, hai ông còn có chút khí tiết, còn hơn Tôn Thất Tùng , Nguyễn Khắc Viện và
đám sĩ phu gà phải cáo!
Marx có ảnh hưởng rất lớn ở
thế giới này. Đa số dân lao động và trí thức tin Marx. Nhưng sau một thời gian,
người ta đã thấy rõ bộ mặt thật của cộng sản cho nên nỗi thất vọng càng lớn
lao. Ngưòi ta lầm vì Marx đã tô vẽ một thiên đường hạ giới quá hay. Nào là tự
do, bình đảng, xã hội không giai cấp, không có vua quan, không ai cai trị ai( hủy
bỏ nhà nước), dân muốn làm gì thì làm, muốn hưởng gì thỉ hưỏng, cộng sản giàu mạnh
gấp năm gấp mười tư bản, tư bản sẽ chết, vô sản đại thắng, nước Đức là nước cộng
sản đầu tiên của nhân loại! Như tại Việt nam, cuộc nổi dậy của Xô Việt Nghệ
Tĩnh năm 1931 đã gây ra bao máu xương tang tóc nhưng cũng để lại những huyền
thoại về một thiên đường Liên Xô hạnh phúc, trong đó công nhân là chủ nhân ông
của đất nuớc:
Có
đâu như ở bên Nga,
Ngày
làm, ngày nghỉ đều là có lương.
(Văn
học Xô VIết Nghệ Tĩnh)
Nay
thì mọi người đã thấy thiên đường cộng sản tại Liên Xô, Trung quốc và Việt Nam. Đó là một
kinh nghiệm hãi hùng của thế kỷ XX. Tuyên ngôn của Marx là những tiếng cười man
rợ của người mộng du hòa với tiếng tru ghê rợn của loài sói trong đêm khuya.
Labels:
Bên Kia Bờ Đại Dương 043
PHAN LẠC PHÚC * KỶ NIỆM TAO ĐÀN
KỶ NIỆM TAO ĐÀN
Đầu năm 1956 tôi từ biệt nghề "chiến binh lội ruộng"về Phòng 5 bộ Tổng tham mưu làm sĩ quan thông tin báo chí. Lúc bấy giờ tôi chưa có vợ con gì, khoác cái ba lô lên lưng là có thể đi cùng trời cuối đất. Về Saì Gòn chưa biết ở đâu tôi sáp vô ở với bạn cũ Thanh Nam ở ngõ Nancy ( đường Phan Văn Trị). Tôi và Thanh Nam chơi với nhau từ khi tôi từ ngoài khu về Hà Nội ăn dầm nằm dề trên căn gác phố hàng Bông nhà Nguyễn thiệu Giang, tập tọng làm văn nghệ văn gừng dưới sự hướng dẫn của đàn anh Đinh Hùng. Trong nhóm chúng tôi ngày ấy ngoài Thanh Nam, Nguyễn Thiệu Giang còn có Nguyễn Minh Lang, Phan Nghị, Huy Quang Vũ Đức Vinh ,những người Thanh Nam nhắc đến trong bài hành tuổi 40 vài chục năm sau: ...Bạn cũ hãy nương theo rét lạnh
Đầu năm 1956 tôi từ biệt nghề "chiến binh lội ruộng"về Phòng 5 bộ Tổng tham mưu làm sĩ quan thông tin báo chí. Lúc bấy giờ tôi chưa có vợ con gì, khoác cái ba lô lên lưng là có thể đi cùng trời cuối đất. Về Saì Gòn chưa biết ở đâu tôi sáp vô ở với bạn cũ Thanh Nam ở ngõ Nancy ( đường Phan Văn Trị). Tôi và Thanh Nam chơi với nhau từ khi tôi từ ngoài khu về Hà Nội ăn dầm nằm dề trên căn gác phố hàng Bông nhà Nguyễn thiệu Giang, tập tọng làm văn nghệ văn gừng dưới sự hướng dẫn của đàn anh Đinh Hùng. Trong nhóm chúng tôi ngày ấy ngoài Thanh Nam, Nguyễn Thiệu Giang còn có Nguyễn Minh Lang, Phan Nghị, Huy Quang Vũ Đức Vinh ,những người Thanh Nam nhắc đến trong bài hành tuổi 40 vài chục năm sau: ...Bạn cũ hãy nương theo rét lạnh
Về đây cùng nhập một cơn say
Chí lớn chia nhau đầy gác
Bụi hồng chưa khiến tóc xanh phai
Dăm bảy lòng sông ôm biển cả
Coi đời dưới mắt nhẹ không ai
Cơn mê nhập cuộc sầu chưa bén
Chí lớn chia nhau đầy gác
Bụi hồng chưa khiến tóc xanh phai
Dăm bảy lòng sông ôm biển cả
Coi đời dưới mắt nhẹ không ai
Cơn mê nhập cuộc sầu chưa bén
Thân thế chưa đau cát bụi này...
Sau
hiệp định Genève 1954 nhóm chúng tôi tan tác kẻ đi người ở. Theo anh
Đinh Hùng vào Nam có Vũ Đức Vinh, Phan Nghị và tôi; Thanh Nam đã vào Saì
Gòn trước , 1953. Ở lại có Nguyễn Minh Lang, Nguyễn thiệu Giang . Bây
giờ (1956) tôi ở với Thanh Nam, gặp lại anh Đinh Hùng và có thêm những
người bạn mới. Ở cùng nhà ngõ Nancy lúc bấy giờ có nhà thơ Thái Thủy
(tác giả Lá thư gửi mẹ)kịch sĩ, kiêm "ngâm'sĩ và vũ sư (muá Trấn thủ lưu
đồn)Hoàng Thư ,nhà báo Vũ Quang Ninh,
quản đốc đài phát thanh Quân Đội. Một lũ "xê li bạt" ở với nhau,không
có đàn bà, không có trẻ con, ăn uống tùy tiện, tối đến sải chiếu ra,
chăng màn ngủ ,mỗi anh một góc, không phiền ai. Nhà này trước đây còn có
văn sĩ Tạ quang Khôi (xước danh Tạ ống khói) nhưng ít lâu nay ông "Ống
khói" tạm biệt nơi này vô Đại học sư phạm rồi. Nhà này phải để sàn rộng
rãi là nó có lý do của nó. Ông Hoàng Thư thỉnh thoảng tập múa Trấn thủ
lưu đồn nên phải có chỗ cho "vũ sư" tập dượt. Vũ sư mặc
quần đùi ,thân thể hom hem nhưng múa rất hăng vừa múa vừa hát "Trấn thủ
ấy mấy lưu đồn. Ngày thì canh điếm ấy tối dồn là việc quan, chém tre mà
đẵn gỗ trên ngàn..." Nhà một lũ độc thân nên anh em dễ dàng hội họp ,gặp
nhau "phùng trường tác hí'. Sải chiếu ra, ăn nhậu dài dài .Hay đến
đây là đàn anh Đinh Hùng có khả năng đặc biệt vừa nằm vừa viết văn
chương Tao Đàn mà chữ nghĩa vanã rồng bay phượng múa. Có ông Vũ khắc
Khoan gõ muỗng vào ly mà "Hồ trường, hồ trường ta biết rót về đâu". Có
ông Mai Thảo với ông Phạm đình Chương rượu uống tì tì ,càng uống mặt
càng tái đi. Có ông Anh Ngọc say ngất ngư mà vẫn hát "Anh đến thăm em
một chiều mưa'". Có ông Tạ Tỵ ngày Tết chạy sang ,sải chiếu ra, rút bất.
Văn
nghệ sĩ đến đây nhiều như thế nên người ta bảo ngõ này là ngõ "văn
nghệ";ø khu này cũng có khá đông anh em ta cư ngụ. Từ chợ Nancy quẹo vô
ngõ Phan Văn Trị là nhà của nhà văn, nhà thơ kiêm "sáo sĩ" Tô kiều Ngân.
Đi thêm dăm chục bước chân là nhà Thanh Nam. Trước cửa nhà Thanh Nam là
nhà Tạ Tỵ họa sĩ, văn ,thi sĩ. Ngay cạnh nhà Thanh Nam là nhà ban
Hợp ca Hạc Thành của anh em nhạc sĩ Nhật Bằng,Nhật Phượng, Thể Tần,
Hồng Hảo. Xế bên kia một chút là nhà của ký gỉa lão thành Thượng Sĩ, nhà
phê bình, điểm sách trên tờ Tin Mới của Hà Nội năm xưa, ( nhà văn nữ
Sài Gòn cô nương xuất hiện trên làng báo hải ngoại mấy năm gần đây là
con gái anh Thượng Sĩ).
Năm
ấy (1956) là thời kỳ cực thịnh của ban Tao Đàn phù hợp với giai đoạn
khởi đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa khi miền Nam VN vừa có một thể chế
mới, một tương lai mới. Pháp đã rút hết về nước . Trên phương diện
truyền thanh các đài của Pháp như Pháp Á, Con nhạn (Hirondelle) nhất
loạt đóng cửa ; đài quốc gia (lúc bấy giờ chưa có TV) cũng
như các chương trình phat thanh có bổn phận phải "lớn lên" cho kịp với
tình hình. Ban Tao Đàn ngoài trách nhiệm đã được minh thị "tiếng nói của
thơ, văn miền Tự Do"còn tiềm ẩn một nghĩa vụ "đem theo văn hóa của 1
triệu người miền Bắc vừa định cư ở miền Nam." Thơ, văn Tao
Đàn phần đông là văn hóa Bắc Hà, là những làn điệu của văn minh sông
Hồng, sông Mã giao duyên cùng văn minh Hương Giang và Cửu Long Giang.
Bao nhiêu năm đã trôi qua, bây giờ từ vĩ tuyến 17 trở vào trong, chúng
ta có một lối ngâm thơ đã trở thành phổ biến : ngâm thơ Tao Đàn .Nó xuất
hiện thường xuyên trong cải lương miền Nam hay bài chòi miền Trung. Nó
là cái còn lại, là dấu ấn của văn nghệ sĩ đã đưa Tao Đàn vào đời sống
văn hóa.
Người khai sinh và điều khiển chương trình Tao Đàn ,như cả nước đều biết là thi sĩ Đinh Hùng. Nam 1956 tôi ở
nhà Thanh Nam ,nơi anh Đinh Hùng thường tới viết bài ,các cộng sự thân
thiết nhất của anh đều ở quanh đây nên có thể nói nơi đây là "đại bản
doanh" của chương trình Tao Đàn. Chương trình Tao Đàn có thể chia ra làm
3 bộ phận. Bộ phận quan trọng nhất là ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh
Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm sau có Huy Quang Vũ đức Vinh từ Nha Trang
vào cộng tác. Bộ phận thứ 2 là ban ca ngâm gồm những tài tử nam, nữ
trình diễn thường xuyên hay tùy hứng. Người "đa năng' nhất trong ban Tao
Đàn là Tô kiều Ngân. Anh vừa là taì tử diễn ngâm, vừa biên tập, vừa
trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô kiều Ngân réo rắt thường được coi là
"indicatif" của Tao Đàn, hợp cùng tiếng đàn thập lục trầm bổng của Bửu
Lộc, tiếng piano trầm ấm trước của Ngọc Bích, sau của Phạm đình Chương.
Về giọng ngâm nam ngoài họ Tô, còn có Hoàng Thư; một thời giọng ngâm
Thanh Hùng cũng có góp tiếng trên đài.Tô kiều Ngân tuy giọng không khoẻ
nhưng anh là người ngâm "khéo" nhất, ngâm giọng Bắc, giọng Trung đều
nhuyễn. Hoàng Thư có chất giọng say sưa, mạnh mẽ được đời nhớ mãi trong
Bài ca ngư phủ của Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng thổ pha kim
,xuất sắc trong những tác phẩm bi hùng. Có những giọng ngâm không có mặt
lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời ghi nhớ như Quách Đàm trong những
bài lục bát hay Thiếu Lang trong Hồ Trường của Nguyễn bá Trác.
Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột đặc sắc của bà Đàm Mộng Hoàn , một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ bà Hành . Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong những bài thơ nức nở TTKH. Về sau, có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những vần ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử . Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh.
Sang
đến thập niên 60 (thế kỷ trươc) sức truyền lan của Tao Đàn cóø sút giảm
đi. Thi ca miền Nam Tự Do với một thẩm mỹ mới, một thẩm mỹ chênh vênh
(esthétique de choc) đã ngự trị thi đàn. Thơ có vần đang
chuyển sang không vần của thơ Tự Do. Người ta ưa đọc thơ hơn là ngâm
thơ. Nhưng đó lại là một vấn đề khác. Mỗi thời điểm có vấn đề riêng của
nó.
Ngày
xưa đàn anh Đinh Hùng có nói :"Mỗi một người bạn là một phần đời sống
của mình". Thoạt đầu, tôi nghĩ là đàn anh "bốc" đàn anh phán vậy thôi.
Nhưng càng già càng thấy đàn anh nói đúng. Bây giờ nói về thời gian sống
ở ngõ Nancy còn lại những ai?. Đinh Hùng, Thanh Nam, Thượng Sĩ, Hoàng
Thư, Phạm đình Chương, Vũ khắc Khoan, Mai Thảo, Nhật Bằng,
Tạ Tỵ ,Phan Nghị... đều bỏ chúng ta mà đi rồi. Người gần nhất "lên
đường" là Huy Quang Vũ đức Vinh. Khi nghe tin Vũ đức Vinh ngắc ngoải hai
ông còn lại ngày xưa nhà Thanh Nam là Vũ Quang Ninh
va Thái Thủy vội bay sang Seattle thăm bạn, Tới nơi thấy bạn mình đã
hôn mê nhưng khi nghe :"Vu Quang Ninh, Thaí Thuỷ sang thăm ông đây"người
hấp hối bỗng chảy hai hàng nước mắt. Vu đức Vinh người bạn thường gọi
tôi "bạn cũ trên 50 năm" đã từ biệt chúng ta như thế.
Bây giờ còn có người mà kể lại; mai đây không biết còn kể lại với ai?
PHAN LẠC PHÚC
TRẦN HOÀI THƯ * BẦY NGỰA HOANG
Ý Thức Và Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang
TRẦN HOÀI THƯ
1.
Tôi làm quen với Ý Thức khi tạp chí này được in ấn theo lối ronéo có tòa soạn ở đường Nguyễn Thái Học, Phan Rang. Có lẽ vào năm 1969 thì phải. Không ngờ, từ một người cọng tác, gởi bài, anh em chủ trương đã dành cho tôi nhiều cảm tình ưu ái. Anh em Ý Thức đã chọn tập truyện Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang của tôi như là tác phẩm đầu tiên do cơ sở Ý Thức xuất bản. Đó cũng là tác phẩm đầu tay của tôi.Tôi được may mắn, vì đứa con tinh thần của mình được trao đúng chỗ. Dù kỹ thuật in bằng roneo, nhưng khi nhìn vào không ai có thể nghĩ nó được khai sinh từ một căn phòng ở một thành phố nhỏ bé, với cái máy quay roneo, với một bàn máy đánh chữ!
Nó trả lại danh dự cho nền văn nghệ mà các chủ bút ở SG vẫn quen gọi là văn nghệ tỉnh lẻ.
2.
Kiểm điểm lại, trên giòng sinh hoạt văn học VN, có lẽ không có thời nào mà lưu lượng văn chương lại tràn trề phù sa chữ nghĩa như thời miền Nam trong giai đoạn cuối những năm 60 và đầu những năm 70. Những tạp chí, những đặc san, những tác phẩm, chẳng những có mặt ở Sàigon mà còn hiện diện ở khắp nơi, khắp chốn, từ một thành phố đông dân như Nha trang, đến một thị trấn ít người như An Nhơn, Bình Định. Những Khai Phá (Châu Đốc, 1970-1971), Biểu Tượng (Vĩnh Long, 1968), Tập Thể (Vĩnh Long, 1973), Hoài Vọng (Phan Rang, 1968- l969), Sóng (Tuy Hòa, l965), Dựng Đất (Nha Trang), Vỡ Đất (An Nhơn - Bình Định), Nhìn Mặt (Bình Định), Việt (Huế), Ngưỡng Cửa (Quảng Nam), Trước Mặt (Quảng Ngãi), Nguồn (Cần Thơ), Vượt Thoát (Cần Thơ) v.v. đã nói lên một nét đặc biệt trong nền văn học miền Nam thời chiến.
Không phải nhất thiết là Saigon, mà tỉnh lẽ đôi khi là cái phao để những người viết trẻ tìm đến cho qua "cơn bỉ nạn văn chương". Lấy ví dụ tập thơ Chiến Tranh Việt Nam và Tôi của Nguyễn Bắc Sơn do nhà xuất bản Đồng Dao phát hành vào năm 1972. Đây là tập thơ đầu tay của NBS. Tập thơ này bị Sở Kiểm duyệt ở Trung Ương SG làm khó dễ nhưng lại được Cần Thơ cho qua (giấy phép kiểm duyệt số 12/UBKD/V4CT ngày 6 tháng 4 năm 1971)!
Cám ơn ý Thức, để Nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang (1969) được nói lên giữa tiếng nổ bom đạn.
Nói như Võ Tấn Khanh, khi nhìn lại một tạp chí của miền Nam trước 1975:
"Ý Thức đã nói được tiếng nói anh em bạn bè, đáp ứng phần nào mơ ước của chúng tôi và nhất là thể hiện được thái độ của những người cầm bút trước vận mệnh của văn chương và đất nước."
Trần Hoài Thư
Nguồn: Thư Quán Bản Thảo tập 33 Tháng 10-2008”
(Chủ đề di sản văn học miền Nam: Một Thời Ý Thức)
| |||
| |||
© Hoc Xá 2002 (T.V. Phê - phevtran@hotmail.com)
|
VŨ HOÀNG CHƯƠNG * BÀI CA BÌNH BẮC
Bài Ca Bình Bắc
Kể từ đấy
Mặt trời mọc ở phương Ðông, ngùn ngụt lửa Mặt trời lặn ở phương Ðoài, máu chứa chan Đã sáu mươi ngàn lần … Và từ đấy cũng sáu mươi ngàn lần Trăng tỏ bóng nơi rừng cây đất Bắc Trăng mờ gương nơi đồng lúa miền Nam Ruộng dâu kia bao độ sóng dâng tràn Hãy dừng lại thời gian Trả lời ta - Có phải? Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải Dưới vầng dương thiêu đốt quan san Lớp hưng phế xô nghiêng từng triều đại Mà chí lớn dọc ngang Mà nghiệp lớn huy hoàng Vẫn ngàn thu còn mãi Vẫn ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn Ôi người xưa Bắc Bình Vương Ðống Ða một trận năm đường giáp công Ðạn vèo năm cửa Thăng Long Trắng gò xương chất, đỏ sông máu màng Chừ đây lại đã xuân sang Giữa cố quận một mùa xuân nghịch lữ Ai kia lòng có mang mang Ðầy vơi sầu xứ - Hãy cùng ta Ngẩng đầu lên, hướng về đây tâm sự Nghe từng trang lịch sử thét từng trang Một phút oai thần dậy sấm Tan vía cường bang Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng Cao chót vót năm mầu mây chiêm ngưỡng Dài mênh mông vượt khỏi lũy Nam Quan Và khoảng khắc Ðổ xuôi chiều vươn ngược hướng Bao trùm lên đầu cuối thời gian Bóng ấy đã ghi sâu vào tâm tưởng Khắc sâu vào trí nhớ dân gian Một bành voi che lấp mấy ngai vàng Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải Muôn chiến công, một chiến công dồn lại Một tấm lòng, muôn vạn tấm lòng mang Ngọn cờ vung, bao tính mệnh sẵn sàng Người cất bước, cả non sông một dải Vươn mình theo – dãy Hoành Sơn mê mải Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng Cùng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại Chín con rồng bơi ngược Cửu Long Giang Người ra Bắc, oai thanh mờ nhật nguyệt Khí thế kia làm rung động càn khôn Lệnh ban xuống, lời lời tâm huyết Nẻo trường chinh ai dám bước chân chồn Gươm thiêng cựa vỏ Giặc không mồ chôn Voi thiêng chuyển vó Nát lũy tan đồn Ôi một hành ca hề, gào mây thét gió Mà ý tướng, lòng quân hề, bền sắt tươi son Hưởng ứng sông hồ giục núi non “Thắt vòng vây lại” tiếng hô giòn Tơi bời máu giặc, trăng liềm múa Tan tác xương thù, ngựa đá bon Sim rừng, lúa ruộng, tre thôn Lòng say phá địch, khúc dồn tiến quân Vinh quang hẹn với phong trần Ðống Ða gò ấy mùa xuân năm nào Nhớ trận Ðống Ða hề thương mùa xuân tới Sầu xuân vời vợi Xuân tứ nao nao Nghe đêm trừ tịch hề, máu nở hoa đào Ngập giấc xuân tiêu hề, lửa trùm quan tái Trời đất vô cùng hề, một khúc hát ngao Chí khí cũ gầm trong da thịt mới Vẳng đáy sâu tiềm thức, tiếng mài dao Ðèo Tam Ðiệp hề, lệnh truyền vang dội Sóng sông Mã hề ngựa hí xôn xao Mặt nước Lô Giang hề, là trầm biếc khói Mây núi Tản Viên hề, lọng tía giương cao Rằng: “Ðây bóng kẻ anh hào Ðã về ngự trên ngã ba thời đại” Gấm vóc giang sơn hề, còn đây một dải Thì nghiệp lớn vẻ vang Thì mộng lớn huy hoàng Vẫn ngàn thu còn mãi Ôi ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn Nay cuộc thế sao nhòa, bụi vẩn Lũ chúng ta trên ngã ba đường Ghi ngày giỗ trận Mơ BẮC BÌNH VƯƠNG Lòng đấy thôn trang hề, lòng đây thị trấn Mười ngã tâm tư hề, một nén tâm hương Ðồng thanh rằng: “Quyết noi gương” Ðể một mai bông thắm cỏ xanh rờn Ca trống trận thôi lay bóng nguyệt Mừng trời đất gió bụi tan cơn Chúng ta sẽ không hổ với người xưa Một trận Ðống Ða nghìn thu oanh liệt Vì ta sau trước lòng kiên quyết Vàng chẳng hề phai, đá chẳng sờn. |
|
BS. HỒ VĂN CHÂM * PHÚ XUÂN
Thử Tìm Hiểu Tại SaoVua
Gia Long Đóng Đô Ở Phú Xuân
Minh
Vũ Hồ Văn Châm
Ngày 13-6-1801 (mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu), Nguyễn Ánh chiếm lại kinh thành Phú Xuân. Tháng 2 năm 1802, Nguyễn Ánh đánh tan đạo quân phản công của Nguyễn Quang Toản ở lũy Trấn Ninh, thu phục toàn cõi Nam Hà. Trong lúc đó, Nguyễn Quang Toản chạy ra Bắc Hà, cải niên hiệu Cảnh Thịnh thành Bảo Hưng, sửa sang điện Kính Thiên trong thành Đông Đô, đắp đàn tròn ở Ô Chợ Dừa và khơi đầm vuông ở Hồ Tây tế cáo Trời Đất, sai Nguyễn Huy Lượng làm bài phú Tụng Tây Hồ ca ngợi công nghiệp nhà Tây Sơn, mưu tính việc lấy lại sông Gianh làm biên giới phân tranh nam bắc. Đã có sẵn dự tính thống nhất sơn hà, từ năm 1796, tại Gia Định, Nguyễn Ánh cho đúc tiền Gia Hưng, nay trước ý đồ của triều đình Tây Sơn, tháng 5 năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua tại Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long, và cử đại binh ra đánh chiếm Bắc Hà. Chỉ trong vòng hai tháng, quân nhà Nguyễn đã bắt trọn vua quan nhà Tây Sơn. Ngày 20-7-1802, vua Gia Long vào thành Đông Đô, đổi tên đô cũ của nhà Lê làm Bắc Thành, và trở nên ông vua nhất thống thiên hạ.
Phú Xuân là đô cũ của các chúa
Nguyễn Nam Hà. Phú Xuân cũng là kinh đô của nhà Nguyễn Tây Sơn. Việc vua Gia
Long chọn Phú Xuân làm quốc đô của nước Việt Nam thống nhất đương nhiên có những
lý do chính đáng của nó. Gia Long là người trì trọng, làm việc gì cũng suy xét
kỹ càng, cân nhắc hơn thiệt, cho nên không thể có sự kiện Gia Long chọn Phú Xuân
làm quốc đô chỉ giản đơn vì Phú Xuân là đất khởi nghiệp của tổ tiên mình, hay vì
Phú Xuân là nơi chôn nhau cắt rốn của chính mình, mà là vì nhiều lý do quan hệ
đến sự hưng vong của triều đại nhà Nguyễn và sự sinh tồn và phát triển của dân
tộc Việt Nam.
Phú Xuân, tức là thành phố Huế ngày
nay, nằm ở phía nam một bình nguyên dài và hẹp của miền trung bộ Việt Nam, khí
hậu khắc nghiệt, đất cát khô cằn, đường bộ đường biển đi lại khó
khăn bất tiện, cho nên xưa nay Phú Xuân không phải là một trung tâm địa lý trù
phú. Bởi lý do đó, đời sau có nhiều người đã trách cứ Gia Long bỏ Đông Đô (Hà
Nội ngày nay) vốn là trung tâm văn hóa lâu đời, là chiếc nôi lịch sử của dân
tộc, mà thiên đô vào Phú Xuân là vùng đất mới, là nơi đá trọi cây cằn. Nhiều
người khác lại trách cứ Gia Long đã bỏ Gia Định (Sài Gòn ngày nay) vốn là căn cứ
địa trung hưng, kinh tế phồn thịnh, dân cư đông đảo, của cải phong túc, mà trở
lại Phú Xuân là nơi ruộng vườn cạn kiệt, là nơi chó ăn đá gà ăn muối, người dân
vất vả một nắng hai sương mà tay làm không nuôi nổi miệng ăn. Nhiều người khác
lại đưa ra nhận xét là nếu chọn Phú Xuân làm quốc đô vì lý do trung tâm địa lý
của đất nước thì phủ Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam mới là ở vị trí trung độ bắc nam chứ
đâu phải Phú Xuân vốn gần Hà Nội hơn Sài Gòn. Sau hết, nhiều người tỏ ý tiếc rẻ
là nếu Gia Long không đóng đô ở Phú Xuân mà đóng đô ở Bắc Thành thì vào hậu bán
thế kỷ 19, khi người Pháp xâm lấn Đại Nam, giải pháp Tăng Kỷ Trạch-Jules Ferry
lập một quốc gia trái độn từ biên giới Quảng Tây đến tỉnh Quảng Bình đã có cơ
hình thành, và Việt Nam sẽ chỉ mất có nửa nước phía nam, nửa nước phía bắc thoát
được nạn vong quốc nhờ vào vị thế trung lập giữa Pháp và Tàu.
Tìm hiểu tại sao Gia Long đóng đô ở
Phú Xuân là lý giải những luận cứ trên đây, xem thử những luận cứ đó có phù hợp
với thực trạng đất nước lúc bấy giờ, đồng thời tìm tòi những dữ kiện lịch sử
liên hệ đến vùng địa lý Phú Xuân, Thuận Hóa, Ô Lý, Nhật Nam, Việt Thường, để
chắt lọc những chất liệu cấu tạo nên đặc tính của đất nước và con người Phú
Xuân, là những yếu tố căn bản của lý do khiến Gia Long quyết định chọn Phú Xuân
làm kinh đô của nước Việt Nam thống nhất.
Hai trăm năm sau khi Gia Long lên
ngôi vua ở Phú Xuân, tình trạng Việt Nam về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội, v.v., tất nhiên đã thay đổi rất nhiều. Bởi vậy, lấy con mắt của người
đời nay mà nhận xét việc chọn lựa địa điểm thủ đô cho Việt Nam thì hầu hết mọi
người đều dễ dàng đồng ý rằng, hoặc là Hà Nội, hoặc là Sài Gòn, một trong hai
thành phố đó đương nhiên đứng đầu danh sách. Gạt bỏ qua một bên yếu tố tình cảm
chủ quan, ví dụ như người miền bắc thì thiên về việc chọn lựa Hà Nội, người miền
nam thì thiên về việc chọn lựa Sài Gòn, cứ lấy con mắt vô tư của người đời nay
và căn cứ vào các yếu tố khách quan của thực trạng Việt Nam hiện thời mà cân
nhắc sự khác biệt, đánh giá nét đặc thù, nhận định ưu khuyết điểm của hai trung
tâm địa lý nói trên, thì việc chọn lựa Hà Nội hay Sài Gòn làm thủ đô của Việt
Nam đều có những lý do chính đáng không thể phủ nhận. Cũng với tinh thần vô tư
phán xét đó, cũng trên cơ sở phân tích thực trạng Việt Nam hiện thời, không mấy
ai ngày nay lại nghĩ đến việc chọn lựa Huế làm thủ đô của nước Việt Nam thống
nhất. Nhưng lấy con mắt của người đời nay mà trách cứ Gia Long đã bỏ Đông Đô vốn
là nơi ngàn năm văn vật, là trung tâm văn hóa lâu đời, là cái nôi lịch sử của
dân tộc, hay trách cứ Gia Long đã bỏ Gia Định vốn là đất căn bản của sự nghiệp
hưng vương, là nơi kinh tế phát triển, cư dân đông đảo, tài nguyên dồi dào, để
đóng đô ở Phú Xuân là nơi của khôn người khó, ruộng vườn chật hẹp, đất cát khô
cằn, thì sự trách cứ đó không tránh khỏi mang tính chất chủ quan và thiển cận.
Thực vậy, trong các yếu tố làm cơ sở cho việc quyết định chọn lựa đất đóng đô
thì yếu tố chính trị là quan trọng bậc nhất. Gia Long thế tất đã phải giải quyết
một số vấn đề chính trị đặc thù của thời đại mà vị thế của Phú Xuân trở thành
giải pháp tối hảo. Trong tình huống như thế, các yếu tố lịch sử và văn hóa, cũng
như các yếu tố địa lý và kinh tế, đều trở nên thứ yếu. Cứ lấy ngay Trung Quốc ở
sát liền bên nước ta làm thí dụ thì thấy ngay là sau thời đại Hán Tùy Đường,
tình hình chính trị và xã hội Trung Quốc mỗi ngày một chuyển biến, do chịu nhiều
ảnh hưởng ngoại lai nên mang thêm những sắc thái mới, vì vậy mà trung tâm chính
trị của Trung Quốc không ngừng di chuyển về phía đông rồi lên phía bắc, cứ xa
dần cái nôi lịch sử và văn hóa Trường An. Vậy thì Gia Long đã vì những lý do
chính trị nhất định nên mới quyết định không đóng đô ở Đông Đô mà đóng đô ở Phú
Xuân. Trách cứ Gia Long bỏ nơi phát tích của dân tộc mà thiên đô vào vùng đất
mới Thuận Hóa thì có khác gì trách cứ Tống Thái Tổ bỏ Trường An mà định đô ở
Biện Kinh, Minh Thành Tổ bỏ Kim Lăng mà dời đô lên Yên Kinh, Mao Trạch Đông
không quay về nơi nguồn cội Tây An mà lại lên phía bắc đặt thủ đô ở Bắc Bình. Đó
là về phần các yếu tố lịch sử và văn hóa. Còn yếu tố kinh tế trên cán cân xét
đoán chọn lựa địa điểm đóng đô thì hầu như trong tất cả mọi trường hợp đều nằm ở
vị thế thứ yếu so với yếu tố chính trị. Trách cứ Gia Long bỏ đất Gia Định trù
phú mà trở về định đô ở Phú Xuân thì cũng chẳng khác gì thắc mắc tại sao người
Tàu không lấy Thượng Hải mà lại chọn Bắc Kinh làm thủ đô, hay trách cứ người Mỹ
chỉ đặt thủ đô ở New York một thời gian vô cùng ngắn ngủi rồi dời về Washington,
D.C. Nói tóm lại, trung tâm chính trị của một nước không nhất thiết phải đồng
thời là trung tâm kinh tế.
Luận cứ trung tâm địa lý nêu lên sự
kiện trung điểm thực sự của Việt Nam là thị trấn Tam Kỳ ở Quảng Nam chứ không
phải là thành phố Huế, vì Tam Kỳ nằm đúng vào vị trí trung độ bắc nam chứ không
phải Huế vốn gần Hà Nội hơn là Sài Gòn. Theo đường xe lửa xuyên Việt ngày nay
thì Huế chỉ cách Hà Nội 668 km, và cách Sài Gòn khoảng 1250 km. Luận cứ trung
tâm địa lý không phải là không có cơ sở. Gia Long muốn đóng đô ở miền trung để
tiện liên lạcvới cả hai miền nam bắc, vì lẽ vào thời Gia Long, phương tiện giao
thông còn thô sơ và chậm chạp, thông tin liên lạc chỉ trông vào tấm hỏa bài cầm
tay, ra bắc vào nam, dù bằng ghe bầu hay bằng ngựa trạm thì cũng mất mười mấy
ngày trời, chứ không phải chỉ mất mấy tiếng đồng hồ như ngày nay. Gia Long chắc
chắn cũng có tính toán cân nhắc đến yếu tố trung tâm địa lý, nhưng tại sao Gia
Long lại chọn Phú Xuân mà không chọn Tam Kỳ? Ngự trị ở Phú Xuân để kiểm soát và
canh chừng công việc các tòa Tổng Trấn hai miền tự trị nam bắc, Gia Long rất an
tâm về phía Gia Định thành, bởi lẽ Gia Định là đất kinh dinh của các chúa
Nguyễn, là căn cứ địa hưng quốc của đương triều, cho nên công thần, lương tướng
của nhà Nguyễn phần đông là người Gia Định. Trong lúc đó thì mói bận tâm thực sự
của Gia Long là Bắc thành. vốn là đất cũ của nhà Lê, lòng người còn tưởng nhớ
đến công nghiệp to lớn của các vua Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông, và ân sủng của các
chúa Trịnh. Bởi vậy, Gia Long đã để cho miền bắc từ Thanh Hoa ngoại trấn (Ninh
Bình ngày nay) trở ra đuợc tự trị, lục dụng con cháu các cựu thần nhà Lê, và lập
công chúa Ngọc Bình con vua Lê Hiển Tông làm Đệ Tam cung, để mua chuộc lòng
người Bắc Hà. Mặt khác, để canh chừng động tĩnh của miền bắc, Gia Long đóng đô ở
Phú Xuân cũng tạm gọi là nơi trung độ của đất nước, mà lại có ưu điểm là nằm
trên bình nguyên Bình Trị Thiên ăn liền với đồng bằng Thanh Nghệ và châu thổ Nhĩ
Hà, đường đi không cách đèo trở núi (1). Trong lúc đó thì từ Huế vào Đà Nẵng chỉ
có 107 km mà xe lữa ngày nay phải đi qua 6 đường hầm xuyên sơn, như vậy nếu Gia
Long lui về phía nam bên kia núi Hải Vân để đóng đô ở Tam Kỳ thì sự kiện này
đương nhiên mang lại hậu quả là Gia Long trong thực tế phải tách biệt với miền
bắc, mặc nhiên để cho miền bắc thoát ra ngoài phạm vi ảnh hưởng, và không chóng
thì chầy, miền bắc sẽ nổi dậy cát cứ, người dân nước ta lại thêm một lần nữa
ngậm ngùi ngâm ngợi ca khúc Hận Sông Gianh!
Cuối cùng là luận cứ của những
người nghĩ rằng nếu Gia Long đóng đô ở Bắc Thành thay vì ở Phú Xuân thì cuối thế
kỷ 19, giải pháp thành lập một quốc gia trái độn từ biên giới Quảng Tây đến tỉnh
Quảng Bình có cơ may thực hiện và Việt Nam sẽ chỉ mất nửa nước phía nam, nửa
nước phía bắc sẽ thoát được nạn vong quốc nhờ đứng trung lập giữa Pháp và Tàu.
Luận cứ này không hẳn là hoàn toàn giả dụ, mà đã căn cứ vào những nổ lực ngoại
giao của sứ thàn nhà Thanh tại Pháp là Tăng Kỷ Trạch với Thủ Tướng Pháp Jules
Ferry. Tăng Kỷ Trạch đề nghị với chính phủ Pháp chia cắt nước Đại Nam làm hai
phần, phần phía nam thuộc ảnh hưởng Pháp, phần phía bắc thuộc ảnh hưởng Tàu. Đề
nghị này không được chính phủ Pháp tán đồng. Những người trách cứ Gia Long nghĩ
rằng nếu trưóc kia Gia Long đóng đô ở Hà Nội thì vào thời điểm thương lượng lúc
bấy giờ nguời Pháp dễ dàng chấp nhận giải pháp chia cắt hơn, vì lẽ phần lãnh thổ
chia cho Pháp không có gì dính dấp, vướng mắc với triều đình nhà Nguyễn nếu quốc
đô ở Hà Nội. Luận cứ này mới nghe qua thì có tính thuyết phục cao, nhưng phân
tích kỹ lưỡng thì có nhiều điểm không phù hợp với thực tế. Trước hết, chính phủ
Pháp không tán đồng chia hai vùng ảnh hưởng không phải vì lý do trong vùng dự
tính chia cho Pháp có kinh đô Huế, mà vì lúc đầu Pháp đang gặp khó khăn với Phổ,
có lúc muốn nhường Nam Kỳ cho Phổ (2) để nghị hòa, và về sau, thì vì Pháp muốn
bành trướng thuộc địa Viễn Đông không những trên toàn cõi Đông Pháp mà còn dự
tính bao gồm cả mấy tỉnh Hoa Nam (3). Quyết tâm bành trưóng này được thể hiện về
sau qua quyết định dời thủ phủ của Đông Pháp từ Sài Gòn ra Hà Nội năm 1902, cùng
với việc mở đường xe lữa Hải Phòng-Côn Minh, và việc chiếm đóng Fort Bayard trên
bờ biển phía nam Quảng Đông. Vì vậy, cho dù trưóc đây Gia Long có đóng đô ở Bắc
Thành thì cũng chẳng mảy may ảnh hưởng đến quyết tâm chiếm lĩnh toàn bộ nước Đại
Nam của chính phủ Pháp, nghĩa là nỗ lực vận động ngoại giao của Tăng Kỷ Trạch
không bao giờ có cơ may mang lại kết quả thành tựu. Cứ xem sau này việc thỏa ước
Bourée-Lý Hồng Chương ký ngày 20-12-1882 tại Bắc Kinh về việc chia đôi Bắc Kỳ
dọc theo sông Nhĩ Hà bị chính phủ Pháp từ khước chấp nhận thì thấy rõ (4). Bàn
luận xa hơn chút nữa, giả dụ giải pháp thành lập quốc gia trái độn từ biên giới
Quảng Tây đến tỉnh Quảng Bình được thực hiện, thì điều này có mang lại lợi ích
thiết thực gì cho dân tộc Việt Nam hay không, hay lại là cái họa lớn cho dân
tộc, bởi lẽ chia hai đất nước để đặt dưới ảnh hưởng của hai cường quốc có nếp
sống văn hóa khác biệt nhau sẽ làm cho Việt Nam về lâu về dài vỡ vụn không
phương hàn gắn? Nửa phần đất nước phía bắc không lọt vào vòng ảnh hưởng chính
trị và văn hóa của Pháp sẽ vẫn tiếp tục tự nguyện đặt mình vào
vòng ảnh hưởng văn hóa Trung quốc, và dân Việt Nam sẽ tiếp tục dùng chữ Hán làm
văn tự chính thức, sẽ tiếp tục học Bắc sử để đi thi nên thông thạo chuyện vua
quan bên Tàu hơn chuyện Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, sẽ tiếp tục tin dùng
thuốc bắc để chửa bệnh vì nghĩ rằng thuốc bắc hợp với âm dương ngũ hành, với lục
phủ ngũ tạng người phương đông, và chắc chắn hơn hết là vào giờ phút này, bước
chân vào thiên niên kỷ thứ ba, tuổi trẻ Việt Nam sè ngồi sử dụng máy điện toán
mang nhãn hiệu Hán tự! Dân tộc Việt Nam sẽ ra sao? Nửa phần hướng về phương Tây
sử dụng chữ quốc ngữ, nửa phần hướng về phương Bắc sử dụng chữ Hán, dân tộc Việt
Nam lúc đó liệu có còn chung niềm khát vọng kết hợp trở lại “thành một khối
không thể chia lìa mãi mãi đến muôn vạn đời sau”?
Như vậy, vào thời điểm 1802, Gia
Long chủ yếu đã vì lý do chính trị mà quyết định đóng đô ở Phú Xuân. Nhu cầu cấp
thiết lúc bấy giờ là củng cố nền thông nhất đất nước vừa mới thực hiện. Sau 250
năm đằng đẵng phân chia nam bắc, dân tộc Việt Nam tuy trên danh nghĩa đều là
thần dân của vua Lê, nhưng trong thực tế, không những sống dưới hai hệ thống
chính quyền khác nhau, mà phong tục, tập quán, thậm chí áo quần (phụ nữ) cũng
khác nhau. Gia Long tuy thu gồm giang san từ bắc chí nam về một mối, nhưug biết
bao nhiêu dị biệt còn đó, chính quyền cần áp dụng những chính sách mềm dẽo, khôn
ngoan và tinh tế mới làm chủ được tình hình, mới củng cố được thành quả thống
nhất. Nếu Gia Long cứ tiếp tục đặt bản doanh ở căn cứ Gia Định thì làm sao kiểm
soát được Bắc Hà. Nếu Gia Long thiên đô ra Bắc Hà thì lại lâm vào tình trạng mạo
hiểm bỏ nơi căn bản mà đi vào đất lạ xứ người, bản thân chưa có ân nghĩa gì với
nhân dân. Trong tình huống đó, Gia Long tìm thấy ở Phú Xuân giải pháp tối hảo,
không đơn giản chỉ vì Phú Xuân là đất khởi nghiệp của tổ tiên, mà chủ yếu là vì
vị trí chiến lược của Phú Xuân về cả hai mặt chính trị và quân sự đã được minh
chứng qua tiến trình lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt
Nam.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử tranh
dành ảnh hưởng giữa phương bắc và phương tây về cả hai mặt chính trị và văn hóa.
Ảnh hưởng phương bắc đến từ nước Tàu, ảnh hưởng phương tây đến từ Ấn Độ và gần
đây là từ các nước Tây Dương. Nöi đối đàu lịch sử là miền Trung bộ, chủ yếu là
vùng Bình Trị Thiên. Lược bỏ thời sơ sử mù mịt mà Bình Trị Thiên được sử cũ gọi
là bộ Việt Thường nước Văn Lang, cứ xét thời Bắc thuộc trở về sau, nhất là từ
khi nước Lâm Ấp được thành lập khởi nguyên từ huyện Tượng Lâm quận Nhật Nam
(Quảng Nam ngày nay) vào năm 192, niên hiệu Sơ Bình thứ 3 đời vua Hiến Đế nhà
Hán, thì quả tình suốt một giải đất bắc bộ quận Nhật Nam (Bình Trị Thiên) đã là
chiến trường miên viễn giữa Giao Châu và Lâm Ấp, rồi về sau giữa Đại Việt và
Chiêm Thành. Trong cuộc chiến tranh giằng co kéo dài qua mười mấy thế kỷ đó đã
nổi bật một địa điểm chiến lược vô cùng quan trọng, đó là thành Khu Túc nằm trên
bờ nam sông Hương, từ xã Nguyệt Biều đến điểm hợp lưu với sông đào Phú Cam ngày
nay, thuộc địa phận thành phố Huế. Các nhà sử học nước ta thời trước ít khi đề
cập đến thành Khu Túc, hoặc giả có nhắc nhở đến thì cũng chỉ là nhân dịp nói lại
những điều ghi chép trong sử Trung Quốc có liên hệ đến thành Khu Túc mà thôi.
Ngay cả địa điểm thành Khu Túc chính xác tọa lạc ở đâu, sử cũ cũng lờ mờ, có
sách nói ở bờ nam sông Hương, có sách nói ở Cao Lao Hạ, Quảng Bình. Đại Nam Nhất
thống chí là cuốn địa chí đầy đủ và đáng tin cậy nhất trong các sách địa chí cũ
của ta trước đây, về tỉnh Quảng Bình, mục cổ tích, cũng tỏ ra trước sau bất nhất
khi đề cập đến các di tích Lâm Ấp phế thành và Hoành Sơn cổ lũy ở huyện Bình
Chính, khi thì nghi rằng đây là thành Khu Túc, khi thì cho rằng đây là lũy cũ do
vua Lâm Ấp Phạm Văn đắp để làm ranh giới Giao Châu-Lâm Ấp. Chỉ gần đây các nhà
sử học người Pháp mới đưa ra một vài kết luận cụ thể, như L. Aurousseau viết
trong Tập san Trường Viễn Đông Bác cổ (B.E.F.E.O., tome 23) rằng quận lỵ quận
Nhật Nam đời Hán đóng ở huyện Tây Quyển ở gần Huế, và G. Maspéreau trong cuốn Le
Royaume de Champa khẳng định rằng biên giới cực nam của Giao Châu đời Tấn là
huyện Thọ Lãnh ở chung quanh mũi Chân Mây (Choumay) tỉnh Thừa Thiên ngày nay.
Luận điểm của L. Aurousseau và G. Maspéreau phù hợp với sử liệu Trung Quốc. Tam
Quốc chí, Ngô chí chép ràng niên hiệu Xích Ô thứ 11 (năm 248), Lâm Ấp tiến chiếm
thành Khu Túc, rồi kéo ra đánh phá các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, san bằng hai
quận thành này. Ngô chủ Tôn Quyền sai Lục Dận làm Thứ Sử Giao Châu, An Nam Hiệu
Úy; Lục Dận đem đại binh ứng phó, Lâm Ấp mới lui quân, nhưng vẫn giữ Khu Túc, và
lấy huyện Thọ Lãnh làm cương giới. Tấn thư chép rằng đời Tấn Mục Đế, niên hiệu
Vĩnh Hòa thứ 3 (năm 347), vua Lâm Ấp là Phạm Văn cử binh đánh chiếm quận Nhật
Nam, bắt giết Thái Thú Hạ Hầu Lãm, san bằng huyện thành Tây Quyển, đắp lũy ở
huyện Bình Chánh để làm đường phân ranh Giao Châu-Lâm Ấp. Niên hiệu Vĩnh Hòa thứ
5 (năm 349), Chinh Tây Đốc Hộ Đằng Tuấn đem binh Giao Quảng tái chiếm Nhật Nam,
bị Phạm Văn đánh bại, phải lui về Cửu Chân, nhưng Phạm Văn cũng bị thương mà
chết, con là Phạm Phật lên thay. Tấn Mục Đế, niên hiệu Vĩnh Hòa thứ 7 (năm 351),
Chinh Tây Đốc Hộ Đằng Tuấn, Thứ Sử Giao Châu Dương Bình và Thái Thú Cửu Chân
Quán Súy hợp binh Giao Quảng tiến đánh vào quận lỵ cũ Nhật Nam; Phạm Phật thua
chạy, bọn Đằng Tuấn đuổi theo qua Thọ Lãnh đến Khu Túc, rồi hai bên giảng hòa.
Vẫn đời Tấn Mục Đế, niên hiệu Thăng Bình năm đầu (năm 359), Phạm Phật lại xâm
lấn Nhật Nam, Thứ Sử Giao Châu là Ôn Phóng Chi cử đại binh thủy lục vào đánh,
Phạm Phật giữ vững thành Khu Túc, hai bên lại nghị hòa, lấy bến Ôn Công (mũi
Chân Mây) làm ranh giới Giao Châu-Lâm Ấp, từ đó Nhật Nam mới tạm yên.
Các sử liệu trên đây cho thấy là
thành Khu Túc tọa lạc ở Thừa Thiên (bờ nam sông Hương), chứ không thể nào lại ở
Quảng Bình (Cao Lao Hạ). Buổi đầu mới lập quốc, vào cuối đời Đông Hán, Lâm Ấp lo
củng cố thực lực, chỉ hoạt động quanh quẩn trong địa bàn huyện Tượng Lâm. Qua
đời Tam Quốc, Lâm Ấp đủ mạnh để tính chuyện bành trướng thế lực lên phía bắc, do
đó mới có việc Lâm Ấp chiếm đóng thành Khu Túc của quận Nhật Nam và cuộc chiến
tranh với Lục Dận năm 248. Khu Túc trở thành căn cứ quân sự trọng yếu của Lâm Ấp
để xuất phát các cuộc tấn công xâm lấn Giao Châu. Từ Khu Túc, quân Lâm Ấp tiến
lên đánh chiếm Nhật Nam, cướp phá Cửu Chân và Giao Chỉ. Tiến công thất bại thì
quân Lâm Ấp lui về cố thủ Khu Túc, giữ vững cương giới Thọ Lãnh để bảo vệ Tượng
Lâm. Như vậy, thành Khu Túc nhất định phải nằm ở mạn nam quận Nhật Nam, trong
địa phận huyện Tây Quyển tiếp giáp với huyện Tượng Lâm. Cứ xem các trận chiến
giữa quân Lâm Ấp và quân Giao Quảng trong đời Tấn Mục Đế thì thấy rõ vị trí của
thành Khu Túc. Rõ ràng sử nhà Tấn đã chép là bọn Đốc Hộ Đằng Tuấn và Thứ Sử
Dương Bình đánh bại Phạm Phật ở Tây Quyển, đuổi theo Phạm Phật qua Thọ Lãnh đến
Khu Túc rồi hai bên nghị hòa. Nếu thành Khu Túc tọa lạc ở Quảng Bình thì chả lẽ
bọn quan binh nhà Tấn đã hành động trái lẽ thường là bỏ qua Khu Túc để đi vòng
ra phía biển xuôi xuống nam đánh chiếm Tây Quyển, đuổi theo Phạm Phật vào Thọ
Lãnh rồi quay ngược trở ra Khu Túc nghị hòa? Mà nếu quả thực bọn Đằng Tuấn thực
hiện thành công được một kế hoạch đánh vu hồi ngoạn mục như vậy thì Phạm Phật
một là chạy thẳng vào Tượng Lâm, hai là thúc thủ chịu trói, chứ còn có đường nào
trở lại phía bắc để cố thủ Khu Túc và thương thuyết giảng hòa! Như vậy, thành
Khu Túc thời trước nằm ở tây nam thành phố Huế ngày nay, di tích đến bây giờ vẫn
còn, được dân chúng địa phương gọi là thành Lồi (5), ở bờ nam sông Hương, thuộc
xã Nguyệt Biều, còn Lâm Ấp phế thành hay Hoành Sơn cổ lũy ở Cao Lao Hạ tỉnh
Quảng Bình là di tích của lũy cũ do Phạm Văn đắp năm 347 để mưu tính chuyện làm
ranh giới Giao Châu-Lâm Ấp, nhưng không thành, vì lẽ sau khi Phạm Văn chết, con
là Phạm Phật liên tiếp bị các Thứ Sử Giao Châu Dương Bình, Nguyễn Phu, Ôn Phóng
Chi đánh bại, nên lui về cố thủ Khu Túc, bằng lòng trả lại Nhật Nam (năm 359),
lấy bến Ôn Công làm ranh giới.
Thành Khu Túc là căn cứ quân sự
trọng yếu của Lâm Ấp. Nếu những dữ kiện vừa nói trên đây đã minh xác vai trò căn
cứ xuất phát tiến công về phía bắc của thành Khu Túc thì những dẫn chứng tiếp
sau đây sẽ nói lên vai trò căn cứ phòng ngự của thành Khu Túc, án ngữ các cuộc
tiến quân từ phương bắc xuống xâm lấn Lâm Ấp. Từ năm 248 là năm Lâm Ấp chiếm
thành Khu Túc trở đi, trải qua các đời Tam Quốc (Đông Ngô), Tấn, Nam Bắc triều
(Tống), trong khoảng 200 năm trời, các cuộc tấn công của Lâm Ấp vào Giao Châu
khi thành khi bại, nhưng Lâm Ấp bao giờ cũng giữ được thành Khu Túc. Lần chót
vào đời Tống Văn Đế, niên hiệu Nguyên Gia thứ 8 (năm 431), vua Lâm Ấp là Dương
Mại II đem hơn 100 chiến thuyền ra cướp quận Cửu Đức (Hà Tĩnh ngày nay), Thứ Sử
Giao Châu là Nguyễn Di Chi đem quân đánh dẹp, đánh đến thành Khu Túc nhưng không
hạ được thành, phải rút về. Dương Mại II đắc chí, năm 433 sai sứ sang Tống triều
đòi trao đất Giao Châu cho Lâm Ấp. Tống triều không cho, Dương Mại II tức giận,
và từ đó thường xuyên ra cướp phá Giao Châu. Niên hiệu Nguyên Gia thứ 23 (năm
446), Tống Văn Đế sai Thứ Sử Giao Châu Đàn Hòa Chi cùng Tư mã Tiêu Cảnh Hiến,
Chấn Võ Tướng quân Tông Xác, Thái Thú Nhật Nam Khương Trọng Cơ, Tham Mưu Kiều
Hoằng Dân đem đại binh đi đánh Dương Mại II, hạ được thành Khu Túc, thừa thắng
tiến chiếm kinh đô Trà Kiệu (Sinharpura), thu được nhiều vàng bạc châu báu. Mất
thành Khu Túc, từ đó các vua Lâm Ấp không xâm phạm Giao Châu nữa, chịu qui phục
Trung Quốc, và đời Tề Võ Đế, niên hiệu Vĩnh Ninh thứ 10 (năm 492), chịu thụ
phong làm An Nam Tướng quân Lâm Ấp vương. Nhưng đến đời Lương Võ Đế, niên hiệu
Đại Đồng thứ 7 (năm 541), nhân Lý Bôn nổi lên xưng đế ở Giao Châu, Lâm Ấp chiếm
lại Nhật Nam, củng cố thành Khu Túc và đoạn giao với Trung Quốc. Nhà Tùy diệt
nhà Trần, thống nhất Trung Quốc, đến đời Tùy Dượng Đế, niên hiệu Đại Nghiệp năm
đàu (năm 605), sai Lưu Phương làm Hoan Châu đạo Hành quân Tổng quản, kinh lược
Lâm Ấp. Lưu Phương tiến chiếm thành Khu Túc rồi kéo vào kinh đô Trà Kiệu thu vén
vàng bạc châu báu cùng kinh Phật đem về Trung Quốc, và chia đất mới bình định
thành 3 quận Tỵ Cảnh, Hải Âm và Lâm Ấp. Cương giới cực nam của đế quốc Tùy lại
tiến đến tận mũi Diều (Varella) như thời Tây Hán. Nhưng chỉ được 10 năm, Trung
Quốc lại loạn lạc, và người Lâm Ấp nổi lên thu phục đất cũ. Nhà Đường kế nghiệp
nhà Tùy, quan binh ở An Nam Đô Hộ phủ (Giao Châu) bận lo đối phó với Nam Chiếu,
nên đất cát quận Nhật Nam thời trước mất hẳn về Lâm Ấp, ranh giới An Nam-Lâm Ấp
lùi về núi Hoành Sơn. Từ đó không thấy sử cũ nhắc nhở đến thành Khu Túc, chỉ
thấy từ đời Đường Túc Tông, niên hiệu Càn Nguyên năm dầu (năm 758), Lâm Ấp được
sử Tàu gọi là nước Hoàn Vương, và từ đời Đường Hy Tông, niên hiệu Kiền Phù thứ 2
(năm 875) trở đi thì gọi là Chiêm thành (Champapura).
Từ khi Giao Châu giành lại độc lập
thì chiến cuộc giữa Đại Việt và Chiêm Thành bước sang một lối rẽ khác. Trước đây
quan binh nhà Đường và Ngũ Đại ở Giao Châu đa số là người Tàu không quen phong
thổ phương nam, nên thiên về thế phòng vệ, chịu lép mất đất Nhật Nam. Bây giờ
tướng sĩ Đại Cồ Việt là dân bản địa dạn dày sương gió, hăm hở nhìn về phương nam
tìm đất mới để mở rộng không gian sinh tồn, nên thiên về thế tiến công, bước đầu
là tái chiếm đất Nhật Nam. Sử chép vua Lê Đại Hành, niên hiệu Thiên Phúc thứ 3
(năm 982), thân hành đem quân đi đánh Chiêm Thành, chém vua Chiêm là Tỳ Mi Thuế
(Paramecvaravarman) tại trận, tiến vào chiếm đóng kinh đô Đồng Dương
(Indrapura), hủy tông miếu, phá thành trì, thu báu vật, và trước khi trở về Hoa
Lư đã để lại một đạo quân do Quản Giáp Lưu Kế Tông chỉ huy để quản trị vùng đất
mới. Vua mới lên ngôi của Chiêm Thành là Indravarman IV chạy vào Panduranga
(Phan Rang ngày nay). Thế là đất cũ Nhật Nam đời Hán được thu hồi, cương giới
cực nam của Đại Cồ Việt đầu đời Tiền Lê là ở mũi Diều. Nhưng chỉ 3 năm sau khi
vua Lê ban sư, niên hiệu Ung Hy thứ 3 (năm 986) đời Tống Thái Tông, Lưu Kế Tông
tự lập làm vua, sai sứ là Lý Triều Tiên sang triều cống vua Tống. Người Chiêm
Thành không tuân phục Lưu Kế Tông, một số chạy qua tỵ nạn ở Thanh Viễn, Nam Hải
(Quảng Châu), và ở Đạm Châu (Hải Nam), một số nổi lên chống đối và vào năm 988
tôn phù Băng Vương La Duệ (Harivarman II) lên làm vua ở thành Phật Thệ (Vijaya)
thuộc địa phận tỉnh Bình Định ngày nay (6). Năm sau, Lưu Kế Tông mất, người
Chiêm Thành thu phục đất cũ. Năm 990, Lê Đại Hành sai quân sang đánh châu Địa
Lý, nhưng Tống Thái Tông dàn xếp cho hai bên Việt Chiêm giảng hòa. Vua Lê chịu
giải binh, năm 992 chỉ sai Ngô Tử An đem 3 vạn người mở con đường xuyên Hoành
Sơn thông thương với châu Địa Lý (7). Việc Lưu Kế Tông nổi lên cát cứ và tự lập
làm vua chỉ thấy Tống sử ghi chép rành rẽ, chứ sử ta thì không đả động đến. Đại
Việt Sử ký Toàn thư chỉ thuật vắn tắt rằng Lưu Kế Tông vốn là một viên quản giáp
trong đạo quân viễn chinh của vua Lê Đại Hành bỏ ngũ trốn ở lại, đến năm Thiên
Phúc thứ 4 (năm 983), vua Lê sai người đi bắt được, đem chém. Quản giáp đời Tiền
Lê là chức quan võ giữ việc binh của một châu, chứ không phải là người chỉ huy
15 binh sĩ như đầu đời Lý. Nếu quả thực Lưu Kế Tông đơn thương độc mã trốn ở
lại, nghĩa là không có trong tay đội quân trú phòng vua Lê lưu lại chiếm đóng
Nhật Nam, thì làm thế nào Lưu Kế Tông khuất phục được người Chiêm Thành để tự
lập làm vua? Nếu quả thực Lưu Kế Tông bị vua Lê bắt chém năm 983 thì hà cớ gì
Tống sử lại chép việc Lưu Kế Tông năm 986 gửi sứ giả là Lý Triều Tiên sang triều
cống, cũng như chép biểu tấu các năm 986, 987, 988 của các biên thần Quảng Châu
và Đạm Châu về việc người Chiêm Thành vì chống Lưu Kế Tông nên vượt biển đến xin
qui phụ. Sở dĩ chuyện Lưu Kế Tông tự lập làm vua bị sử cũ nước ta lược bỏ là vì
triều đại Tiền Lê quá ngắn ngủi, Lê Đại Hành lại không có sử thần riêng để tán
tụng công đức, mà trong thực tế, công nghiệp của Lê Đại Hành lại quá to lớn,
chiến công của Lê Đại Hành lại quá oanh liệt, đã thu hồi toàn bộ đất Nhật Nam và
lưu quân trú phòng ở lại chiếm giữ, lại liên tiếp chiến thắng quân Tống hai trận
lớn ở sông Bạch Đằng và ở ải Chi Lăng, chém chết tướng Tống Hầu Nhân Bảo và vua
Chiêm Tỳ Mi Thuế đều ở ngay trận tiền, đánh tiến công giáp mặt chứ không đánh
phòng ngự giằng co, sự nghiệp hiển hách như vậy các triều Lý Trần cũng không hơn
được, nên sử quan các đời sau đã vì chúa mình mà lược bớt. Mặt khác, Lưu Kế Tông
phản phúc tự lập làm vua, mưu chuyện cát cứ, nhưng lòng người Chiêm không qui
phục, đã không giữ được ngôi vị của mình mà còn làm hỏng công việc bình định mở
đất của Lê Đại Hành, là tấm gương biên thần phân cát xấu xa nên sử cũ nưóc ta
xét không đáng để hậu thế biết tới. Rút cục, sự nghiệp nam tiến của Lê Đại Hành
đã vì việc Lưu Kế Tông phản phúc mà chỉ còn thu gọn trong việc lấy lại châu Bố
Chính và mở đường xuyên sơn vào châu Địa Lý, nhưng thành quả này cũng đã góp
phần không nhỏ vào việc các triều đại về sau chiếm trọn cánh đồng Bình Trị
Thiên, mở đường cho quân lính nhà Hậu Lê tiến vào thành Chà Bàn (Vijaya) năm
1471, đưa cương giới cực nam của Đại Việt trở lại mũi Diều.
Những dữ kiện lịch sử trên đây đã
minh chứng vai trò chiến lược quan trọng của thành Khu Túc trên cả hai bình diện
tiến công và phòng ngự trong các chiến dịch quân sự trên địa bàn quận Nhật Nam.
Chiếm được thành Khu Túc, quân Lâm Ấp chiếm luôn huyện Tây Quyển, uy hiếp quận
Cửu Chân. Giữ được thành Khu Túc, quân Lâm Ấp bảo vệ được huyện Tượng Lâm và
quốc đô Trà Kiệu. Mất thành Khu Túc, Lâm Ấp mất luôn Trà Kiệu, phải dời đô lùi
xuống Đồng Dương. Không còn thành Khu Túc, quân Tiền Lê đánh thẳng vào Tượng
Lâm, phá hủy Đồng Dương, quân Lý, Trần cướp phá Phật Thệ, quân Hậu Lê chiếm đóng
Chà bàn. Thành Khu Túc biến khỏi vũ đài lịch sử thì thành Hóa Châu xuất hiện
theo với chiến lược đưa má phấn đổi lấy trường thành của nhà Trần. Từ đó, thành
Hóa Châu trở thành tièn đồn xung kích của căn cứ địa Thăng Long trong sự nghiệp
nam tiến của dân tộc Đại Việt. Các đạo vương sư nam phạt đời Lý,
Trần, Hậu Lê đều dừng lại nghỉ ngơi ở cửa biển Tư Dung trước khi tiến vào lãnh
thổ Chiêm Thành. Thành Hóa Châu cũng trở thành hậu cứ kháng chiến ngoại xâm để
quang phục Thăng Long của các vua Giản Định và Trùng Quang nhà Hậu Trần, khiến
tướng nhà Minh là Trương Phụ phải thốt lên lời thề độc địa: “Ta sống phen này là
ở Hóa Châu, ta chết phen này cũng ở Hóa Châu!”.
Huyện thành Tây Quyển, chiến lũy
Khu Túc thời Bắc thuộc, lộ thành Hóa Châu, cửa biển Tư Dung thời Trần Lê, vị trí
của các địa danh này nằm trong vùng phụ cận kinh thành Phú Xuân thời Gia Long.
Tìm hiểu tại sao vua Gia Long đóng đô ở Phú Xuân, ta có thể tóm lược vấn
đề này như sau: Trước khi làm vua, Gia Long đã làm tướng, làm Đại
Nguyên soái Tổng Quốc chính, ròng rã 24 năm trời. Chắc chắn Gia Long đã dùng con
mắt nhà chiến lược chính trị và quân sự từng trải để quyết định việc đóng đô ở
Phú Xuân.
Tháng 12, năm 2000
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Chú thích:
(1). Từ Đồng Hới đi Vinh, quốc lộ 1 men theo bờ biển phải vượt đèo
Ngang, nhưng đường xe lửa đi trong nội địa ngược lên nguồn sông Gianh rồi xuôi
theo thung lũng các sông Ngàn Phố và Ngàn Sâu không phải chui qua hầm.
(2). Pháp bại trận trong cuộc chiến tranh ngắn ngủi với Phổ năm 1870.
Hoàng Hậu Eugénie de Montijo, vợ Napoléon III, giữ quyền Nhiếp chính, muốn
nhường Nam Kỳ cho Phổ, thay vì Alsace-Lorraine, để nghị hòa. Thương lượng này
thất bại, vì liền sau đó, ngày 23-10-1870, nền Cộng Hòa Pháp được thành lập,
Hoàng Hậu Eugénie bị truất phế, phải trốn sang Anh tỵ nạn.
(3). Công luận nước Pháp đương thời chịu ảnh hưởng mạnh mẻ của chủ
thuyết bành trướng thuộc địa Leroy-Beaulieu trình bày trong tác phẩm ‘De la
colonisation chez les peuples modernes’ xuất bản ở Paris năm 1882. Các chính
khách Pháp Gambetta và Jules Ferry tin tưởng rằng chính sách thực dân và bành
trướng lãnh thổ hải ngoại sẽ đưa nước Pháp lên địa vị hùng
cường.
(4). Ngày 25-4-1882, Henri Rivière chiếm thành Hà Nội. Cuối năm đó,
nhà Thanh phái Tạ Kính Bưu và Đường Cảnh Tùng đem quân chiếm Bắc Ninh và Sơn
Tây, lấy danh nghĩa cứu viện Việt Nam, nhưng thực tâm là âm mưu phân chia Bắc Kỳ
với Pháp. Ngày 20-12-1882, Đại Sứ Pháp tại Bắc Kinh là Bourée ký với Tổng Đốc
Trực Lệ Lý Hồng Chương một tạm ước qui định những căn bản về việc chia hai Bắc
Kỳ dọc theo sông Nhĩ Hà, phía tả ngạn dành cho Trung Quốc, phía hữu ngạn dành
cho Pháp. Vì đã có quyết tâm bành trướng thuộc địa nên chính phủ Pháp không
chuẩn phê thỏa ước này.
(5). Theo lời truyền tụng của dân chúng địa phương, Thành Lồi do quân
Chiêm Thành đắp xong trong một đêm ở bờ nam sông Hương để chống nhau với quân
Đại Việt đóng ở bên kia sông. Thay vì giao chiến ngay, tướng chỉ huy hai bên thi
đua nhau đắp thành, ước hẹn sau một đêm, bên nào đắp thành dài lớn hơn thì bên
ấy thắng. Trong lúc quân Chiêm Thành hì hục đào đất đắp thành “thật” thì quân
Đại Việt dùng tre và cót dựng thành “giả”, kết quả đương nhiên là thành bên Đại
Việt dài lớn hơn thành bên Chiêm Thành. Tướng Chiêm Thành tưởng rằng quân Đại
Việt đông lắm nên sợ hãi rút quân. Lời truyền tụng này chỉ là biểu hiện của tâm
trạng khinh thị người Chiêm Thành ngây ngô, hoàn toàn không phù hợp với thực tế
lịch sử. Thành Lồi là di tích của thành Khu Túc được xây dựng và tu bổ nhiều lần
từ thời Bắc thuộc.
(6). Khâm Định Việt sử và một vài tác giả sau này (Đào Duy Anh, Trần
Văn Tích) cho rằng thành Phật Thệ là thành Lồi ở xã Nguyệt Biều gần Huế. Phạm
Văn Sơn thì bất nhất, đoạn trước nói về đời Lý Thái Tông thì viết vua Lý đánh
thành Phật Thệ ở gần Huế, chém Sạ Đẩu, bắt Mỵ Ê, v.v., đoạn sau nói về đời vua
Lý Thánh Tông thì lại viết vua Lý đi đánh Chiêm Thành, dừng quân ở Tư Dung, vào
cửa Thi Nại, tiến lên chiếm thành Phật Thệ ở Bình Định ngày nay. Sự thực thì
dưới thời Bắc thuộc cho đến nhà Tùy, vùng Huế thuộc quận Nhật Nam, và kinh đô
của Lâm Ấp là ở Trà Kiệu (Quảng Nam). Từ trung diệp nhà Đường trở đi, Nhật Nam
mất về Chiêm Thành, nhưng kinh đô của Chiêm Thành là Đồng Dương, vẫn trong địa
hạt Quảng Nam. Khi Lê Đại Hành triệt hạ thành Đồng Dương thì vua Chiêm chạy vào
Phan Rang, và Lê Đại Hành lưu quân chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành. Năm 988,
người Chiêm Thành nổi dậy, tôn Harivarman II lên ngô
HOÀNG THỊ CHIẾN THẮNG * NGUYỄN VĂN LÝ
Tinh thÀn cha Lš rÃt cao,
Rång ng©i chính nghïa nhÜ sao trên tr©i
Dù cho lºa bÕng, dÀu sôi,
VÅn không s® hãi, vÅn Çòi t¿ do.
ñòi dân chû ,Çòi Ãm no,
Quét såch h‰t lÛ c¶ng nô tham tàn..
Dù chúng khûng bÓ træm ÇÜ©ng,
Xä thân vì Çåo ch£ng màng hi‹m nguy.
Núi cao, sông r¶ng cÙ Çi,
CÜÖng quy‰t tranh ÇÃu ch£ng hŠ thÓi lui.
TriŒu ngÜ©i xúc Ƕng lŒ rÖi,
Kháng thÜ can thiŒp kh¡p nÖi gºi vŠ.
C¶ng sän lúng túng træm bŠ,
Thä thì mÃt m¥t, b¡t thì dân cæm.
Toàn th‹ giáo dân ViŒt Nam,
Cùng toàn dân chúng nhÃt tâm k‰t Çoàn.
Công lš së th¡ng båo tàn,
T¿ do , dân chû huy hoàng kh¡p nÖi.
NGÔ MINH HẰNG * TÌNH CA
Ngô Minh H¢ng
Thân ta không nhà tâm tÜ Çau thÜÖng.
Ôi vÀng træng buÒn Çêm thâu cô ÇÖn,
Træng khuya và ta lòng ai sÀu hÖn???
Ta thÜÖng quê ta Çang trong gông
tù,
Dân ta Çau thÜÖng ÇÜ©ng ÇÀy âm u.
Em thÖ tÜÖng lai xây trong mây mù
NgÜ©i yêu không còn mong ch© tÜÖng tÜ.
Dân ta Çau thÜÖng ÇÜ©ng ÇÀy âm u.
Em thÖ tÜÖng lai xây trong mây mù
NgÜ©i yêu không còn mong ch© tÜÖng tÜ.
Này ngÜ©i yêu hai mÜÖi næm dài,
Lòng tq chÜa hŠ nghe sÀu nguôi ngoai.
Em thay tình hÒng cho Ç©i ta buÒn,
Non sông Çiêu tàn hÒn ta tang thÜÖng.
Lòng tq chÜa hŠ nghe sÀu nguôi ngoai.
Em thay tình hÒng cho Ç©i ta buÒn,
Non sông Çiêu tàn hÒn ta tang thÜÖng.
Thoa son lên môi em quên sÀu Ç©i,
Cùng ai thâu Çêm em chia niŠm vui.
Em hay chæng em hai mÜÖi næm rÒi
Tình ca quê hÜÖng h¢n Çau trên môi!?
Ngô Minh H¢ng
Nh§
MË
Ngô Minh H¢ng
(Viết để nhớ mẹ ngày Vu Lan.
Thân tặng các bạn đồng tâm cảnh )
Hôm nay , nhớ Mẹ ôi nhiều qúa,
Ba chục năm dư vắng Mẹ rồi.
Nỗi nhớ se lòng day dứt lạ,
Trong mùa lễ nhớ. Mẹ hiền ơi.
Cuối hè, thiên hạ vui như nắng,
Con lại buồn như tiếng lệ rơi.
Con nhớ mùa xuân đau đớn ấy,
Mùa xuân con Mẹ khóc chia phôi.
Mùa xuân, Mẹ bỏ con đi mãi,
Biền biệt bao năm ,chẳng trở về.
Hai chục tuổi đời, con trẻ dại,
Lần đầu nhỏ lệ khóc phân ly.
Lần đầu con khóc ai ngờ lại,
Khóc Mẹ! Trời ơi thật não lòng.
Con lớn vội vàng như Mẹ vội,
Trở về với đất ,với hư không!
Cút côi lại gặp thời tao loạn,
Thì trách đời chi chuyện bạc lòng.
Cơm áo từ đồng bằng nước mắt,
Con càng thưong Mẹ . Nhớ vô song!
Mỗi lần nhớ Mẹ, con thường mơ,
Tủ Mẹ, con tìm áo Mẹ xưa.
Lặng ngắm hàng giờ từng mũi chỉ,
Rồi ôm chặt áo khóc như mưa!!!
Vùi đầu trong áo, hôn lên áo,
Cố gắng con tìm một chút hương.
Để dỗ lòng mình là Mẹ vẫn,
Bên đời, an ủi lúc đau thương.
Thế rồi, một buổi, con đành phải,
Từ giã trường xưa, bỏ phố xưa.
Để đến một trời xa xăm lắm,
Mà bao bất trắc biết đâu ngờ !
Hành trang: Bốn đứa con thơ dại,,
Áo Mẹ. Hờn vong quốc. Tập thơ.
Cuối chuyến hải hành còn sót lại,
Xác tàu tan và đám con khờ !
Quê người, đất khách buồn ghê lắm,
Tất tả xoay che gió bốn mùa.
Nhớ Mẹ, bây giờ không có áo,
Để mà úp mặt khóc như xưa !
Để mà tìm ít mùi hương Mẹ,
Con dỗ con cho bớt tủi lòng.
Ba chục năm trời xa cách thế,
Suối vàng, Mẹ hỡi nhớ con không ?
Chiều nay nhớ Mẹ, con ngồi viết,
Một khúc thơ buồn, chín khúc đau.
Xin Mẹ linh thiêng, về chứng giám,
Ba mươi năm, một ý thơ sầu!
Ngô Minh Hằng
Cùng ai thâu Çêm em chia niŠm vui.
Em hay chæng em hai mÜÖi næm rÒi
Tình ca quê hÜÖng h¢n Çau trên môi!?
Ngô Minh H¢ng
Ngô Minh H¢ng
Thân tặng các bạn đồng tâm cảnh )
Hôm nay , nhớ Mẹ ôi nhiều qúa,
Ba chục năm dư vắng Mẹ rồi.
Nỗi nhớ se lòng day dứt lạ,
Trong mùa lễ nhớ. Mẹ hiền ơi.
Cuối hè, thiên hạ vui như nắng,
Con lại buồn như tiếng lệ rơi.
Con nhớ mùa xuân đau đớn ấy,
Mùa xuân con Mẹ khóc chia phôi.
Mùa xuân, Mẹ bỏ con đi mãi,
Biền biệt bao năm ,chẳng trở về.
Hai chục tuổi đời, con trẻ dại,
Lần đầu nhỏ lệ khóc phân ly.
Lần đầu con khóc ai ngờ lại,
Khóc Mẹ! Trời ơi thật não lòng.
Con lớn vội vàng như Mẹ vội,
Trở về với đất ,với hư không!
Cút côi lại gặp thời tao loạn,
Thì trách đời chi chuyện bạc lòng.
Cơm áo từ đồng bằng nước mắt,
Con càng thưong Mẹ . Nhớ vô song!
Mỗi lần nhớ Mẹ, con thường mơ,
Tủ Mẹ, con tìm áo Mẹ xưa.
Lặng ngắm hàng giờ từng mũi chỉ,
Rồi ôm chặt áo khóc như mưa!!!
Vùi đầu trong áo, hôn lên áo,
Cố gắng con tìm một chút hương.
Để dỗ lòng mình là Mẹ vẫn,
Bên đời, an ủi lúc đau thương.
Thế rồi, một buổi, con đành phải,
Từ giã trường xưa, bỏ phố xưa.
Để đến một trời xa xăm lắm,
Mà bao bất trắc biết đâu ngờ !
Hành trang: Bốn đứa con thơ dại,,
Áo Mẹ. Hờn vong quốc. Tập thơ.
Cuối chuyến hải hành còn sót lại,
Xác tàu tan và đám con khờ !
Quê người, đất khách buồn ghê lắm,
Tất tả xoay che gió bốn mùa.
Nhớ Mẹ, bây giờ không có áo,
Để mà úp mặt khóc như xưa !
Để mà tìm ít mùi hương Mẹ,
Con dỗ con cho bớt tủi lòng.
Ba chục năm trời xa cách thế,
Suối vàng, Mẹ hỡi nhớ con không ?
Chiều nay nhớ Mẹ, con ngồi viết,
Một khúc thơ buồn, chín khúc đau.
Xin Mẹ linh thiêng, về chứng giám,
Ba mươi năm, một ý thơ sầu!
Ngô Minh Hằng
TRẦN HỒNG CHÂU * EM VẪN NGỒI ĐÂY ..
EM VẪN NGỒI ĐÂY VẦNG TRĂNG KHUYẾT
Từ biên cương ruổi ngựa về bắc khuyết
Ta tìm em đâu phải mộng vương hầu
Ta tìm em lạc phách Tây hồ xưa
Những vương tôn ngõ liễu màu hồng phấn
Cung đàn say dàn trải mộng thanh xuân
Gió bụi kinh thành đường vạn dặm
Vàng son cửa võng ngói lưu ly
Em vẫn ngồi đây vầng trăng cũ
Nửa mùa ly loạn nét đan thanh?
Hoa cỏ ngàn năm cỏ hoa xuân
Mây trắng rưng rưng bước lữ hành
Mây trắng về đâu hồn bỏ ngỏ
Nhớ nhung đất Hứa có về chăng
Sông vẫn đò đưa chèo mái cũ
Núi vẫn giăng màn bóng mi xưa?
Em vẫn ngồi đây vừng trăng khuyết
Nửa mùa ly loạn nét điêu tàn
Phấn son lợt lạt buồn năm tháng
Thành quách đau lòng lớp phế hưng
Đá cũng pha phôi màu sương gió
Nhung lụa còn đâu dáng Ngọc Kiều
Đàn kêu như khóc lệ Tầm dương
Nhỏ máu năm dây khúc đoạn trường!
Bốn vách vơi đầy như xa cách
Người đi người ở mấy phương trời. . . .
Ngày mai đây xuất phát lại hoàng hoa
Bóng thời gian bạc ố những phím đàn
Đường Yên kinh vó ngựa chập chờn say
Ai khóc ta như ta đã khóc người
Thôi bút nghiên đàn phách cũng đều sai!
( Nhớ Đất Thương Trời)
Từ biên cương ruổi ngựa về bắc khuyết
Ta tìm em đâu phải mộng vương hầu
Ta tìm em lạc phách Tây hồ xưa
Những vương tôn ngõ liễu màu hồng phấn
Cung đàn say dàn trải mộng thanh xuân
Gió bụi kinh thành đường vạn dặm
Vàng son cửa võng ngói lưu ly
Em vẫn ngồi đây vầng trăng cũ
Nửa mùa ly loạn nét đan thanh?
Hoa cỏ ngàn năm cỏ hoa xuân
Mây trắng rưng rưng bước lữ hành
Mây trắng về đâu hồn bỏ ngỏ
Nhớ nhung đất Hứa có về chăng
Sông vẫn đò đưa chèo mái cũ
Núi vẫn giăng màn bóng mi xưa?
Em vẫn ngồi đây vừng trăng khuyết
Nửa mùa ly loạn nét điêu tàn
Phấn son lợt lạt buồn năm tháng
Thành quách đau lòng lớp phế hưng
Đá cũng pha phôi màu sương gió
Nhung lụa còn đâu dáng Ngọc Kiều
Đàn kêu như khóc lệ Tầm dương
Nhỏ máu năm dây khúc đoạn trường!
Bốn vách vơi đầy như xa cách
Người đi người ở mấy phương trời. . . .
Ngày mai đây xuất phát lại hoàng hoa
Bóng thời gian bạc ố những phím đàn
Đường Yên kinh vó ngựa chập chờn say
Ai khóc ta như ta đã khóc người
Thôi bút nghiên đàn phách cũng đều sai!
( Nhớ Đất Thương Trời)
NGUYỄN TÚ * PHAN HUY QUÁT
Cái chết trong tù CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Nguyễn Tú
Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng Trưởng Quốc Phòng, lần cuối cùng giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa, vào năm 1965. Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng, phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo Diễn Ðàn, Sài gòn, 1972. Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản bắt do nội phản trên đường vượt biên; và chưa đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù Chí Hòa. Bài dưới đây do ký giả kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng là bạn tù (người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa), kể lại "như một nén hương chiêu niệm chung."
Trong thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bệnh gan rất nặng song Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do gia đình tiếp tế không được nhận. Người con trai út bị giam ở phòng bên, có thuốc cho bố, cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi, chúng mới đem ông lên bệnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư 1979.
Tang gia đã được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và phát tang ở đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lệnh phải an táng ngay, vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tới Sài Gòn; Việt Cộng sợ dư luận quốc tế - nếu biết đến cái chết bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền Nam - có thể ngó tới tình trạng giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất ít người nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái chết trong tù của ông - bên cạnh các trường hợp tương tự của các trí thức văn nghệ sĩ khác - của nhà cầm quyền Hà Nội.
Chí Hòa, Sài Gòn
Một ngày cuối Tháng Tư 1979
Hôm nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm, giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày rưỡi mới được sối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội quần áo đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất ghét, thì trước cái hạnh phúc nhỏ nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà không "vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi" dù, trên lý thuyết, thời gian tắm được quy định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn 15 phút.
Cả bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ gác đến điểm số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong buồng. Tôi có mục đích riêng.
Kiểm tra xong số người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên cầu thang, tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ dưới sân đã bắt đầu vọng lên tiếng sối nước ào ào, tiếng nói oang oang, tiếng cười khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân mật, tiếng sặc nước, tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước mát như nước lũ chẩy dồn dập trên da. Hạnh phúc thật!
Buồng 5 chúng tôi ở đầu dãy, sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một cái bàn và một cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi đứng dậy, nhìn về phía đầu cầu thang chỉ cách chừng ba thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán bộ. Căn phòng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù tích tụ từ suốt ngày và đêm trước tự giải phóng dần dần đem lại một cảm giác thoáng khí hơn.
Căn phòng chỉ còn lại hai người không đi tắm là tôi và một người nữa đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn vẹn có 60 phân tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không gian đã được chia rất đều cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh từ mỹ miều là "trại viên" Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng, hai cánh tay gập lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt nhắm, vẻ mặt bình thản. Ông bị bệnh đã hơn một tuần, không thuốc men. Nước da mặt đã chuyển sang màu tai tái càng nổi bật với màu trắng của chòm râu và mái tóc. Bệnh nhân nằm im, không cựa quậy, thân hình như đã quen đóng khung trong không gian 60 phân của chiếc chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng là Tổng trưởng nhiều lần, chức vụ cuối cùng và cao nhất trong hoạt động chính quyền của ông là chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đã trên 70 tuổi.
Tôi đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn không một bóng người, không một tiếng động khả nghi nào trên tầng gác vắng lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát bên. Bệnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào chứng tỏ ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông bận có cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Ðôi ống quần được kéo thẳng tới cổ chân. Ðôi tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo trùm tới tận cổ tay. Chẳng phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng thêm lâm bệnh nặng đã hơn một tuần - một trường hợp bất cứ ai cũng có thể buông thả, mặc cho thân phận nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít cảnh giác về cách phục sức và tư thế - mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ cái chững chạc này như toát lên một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ vừa đau đớn vừa dũng mãnh giữa thân phận con người và hoàn cảnh.
Tôi khẽ lên tiếng:
- "Anh Quát! Anh Quát!"
Không một phản ứng của bệnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bệnh nhân, hơi cao giọng:
-
"Anh Quát! Anh Quát!"
Vẫn không một phản ứng,
tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng sối
nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn mục đích khai
bệnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích thân nói ít điều cho là cần
thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.
Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng "phản động" nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự "đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy." Một buồng "ngụy nặng" nên được Việt Cộng tận tình "chiếu cố" trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên "ăng ten" tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao giọng thêm:
Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng "phản động" nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự "đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy." Một buồng "ngụy nặng" nên được Việt Cộng tận tình "chiếu cố" trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên "ăng ten" tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao giọng thêm:
-
"Anh Quát! Anh Quát!"
Bệnh nhân vẫn lặng im. Phải làm thật gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ:
Bệnh nhân vẫn lặng im. Phải làm thật gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ:
-
"Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi không?"
Lần này đôi mi bệnh nhân
hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi thoáng thấy lòng trắng mắt vàng khè.
Chẳng cần phải học ngành y mới biết bệnh gan của Bác Sĩ Quát coi mới nặng. Bệnh
nhân vắn tắt thều thào:
-
"Anh Tú!"
Tôi hơi yên tâm. Miệng
lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói:
- "Anh mệt lắm phải không?"
Ðầu bệnh nhân hơi gật
gật. Không hiểu lúc đó linh cảm nào xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát,
giọng hơi nghẹn:
- "Anh có nhắn gì về gia đình không?"
Bệnh nhân cố gắng lắc
đầu, mắt vẫn nhắm. Dưới sân không còn tiếng sối nước nữa. Có tiếng các buồng
trưởng dục anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng. Chỉ còn độ hơn một
phút. May lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát:
-
"Ai đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản anh?
Thằng Liên phải không? Nói đi! Nói đi!"
Ðôi môi bệnh nhân như mấp
máy.
Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười:
Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười:
- "Thôi! Anh Tú ạ."
Tiếng guốc, dép, tiếng
cười, nói ồn ào đã bắt đầu từ chân cầu thang. Tôi chưa chịu buông:
- "Nói đi! Anh Quát! Nói đi!"
Một hơi thở một chút gấp
hơn, như làn hơi hắt vội ra lần chót!
- "Thôi! Thôi! Bỏ đi!"
Tiếng guốc, dép, tiếng
cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang. Tôi vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu
mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên trán.
Ngoài hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc được phòng tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu tỏa. Ðây đó tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây giờ thì mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu. Cả phòng lặng tiếng.
Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường:
Ngoài hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc được phòng tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu tỏa. Ðây đó tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây giờ thì mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu. Cả phòng lặng tiếng.
Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường:
- "Anh Châm! Anh coi lại xem anh Quát bệnh tình hôm nay ra
sao?"
Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa - trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.
Bác Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng:
Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa - trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.
Bác Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng:
-
"Anh Phương! Báo cáo cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá chứ!"
Phương là hạ sĩ quan binh
chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy còn trẻ, tóc Phương đã trắng xóa, có lẽ vì
"xấu máu." Anh em bèn dán cho cái nhãn hiệu "Phương đầu bạc." Phương lặng thinh,
coi bộ ngần ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương
đã mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ chối. Tôi
quay về phía Bác Sĩ Châm:
- "Anh Châm! Nói cho Phương biết bệnh trạng của Bác Sĩ Quát
đi!"
Ông Châm bèn bảo:
-
"Anh Phương! Báo cáo cán bộ ngay đi!"
Phương không đáp, lộ rõ
vẻ ngần ngại. Trong phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc giục, gay gắt:
-
"Báo cáo đi! Chờ gì nữa? Bệnh như vậy mà không đi báo cáo, còn chờ gì nữa? Chờ
người ta chết à?"
Căn phòng đang im ắng,
sống động hẳn lên.
Nhiều bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần, Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi vọng:
Nhiều bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần, Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi vọng:
-
"Ðâu?"
Bác Sĩ Châm nhích người
qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ Quát:
- "Ðây, cán bộ!"
Nhìn một lát, cán bộ quay
lưng, Phương lẳng lặng về chiếu mình. Những anh em khác lại đặt mình nằm. Căn
phòng chìm trong im lặng hoàn toàn như thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết sinh
tử của trại.
Chừng 20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được làm ở bệnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ khác, chắc là ở bệnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của mình.
Phương "đầu bạc" dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bệnh nhân như mê man, tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh trong phòng xúm nhau nâng bệnh nhân đặt trên băng ca. Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng, chén... Băng ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! "Lấy cơm!" Căn phòng trở lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ rưỡi.
Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau:
Chừng 20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được làm ở bệnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ khác, chắc là ở bệnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của mình.
Phương "đầu bạc" dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bệnh nhân như mê man, tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh trong phòng xúm nhau nâng bệnh nhân đặt trên băng ca. Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng, chén... Băng ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! "Lấy cơm!" Căn phòng trở lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ rưỡi.
Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau:
-
"Bác Sĩ Quát chết rồi!"
Cả phòng nhao nhao:
-
"Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá vậy?"
Một anh đáp:
-
"Nghe nói, hồi trưa hôm qua thì
phải."
Chỉ một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong phòng thốt một câu: "Bệnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bệnh xá, không cho. Ðợi gần chết mới cho thì còn gì!" Một điếu văn ngắn, gọn, hàm súc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên án chế độ bất nhân, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng đi. Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: "Nhớ làm bản kê khai, nghe không!" Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết của bất cứ "trại viên" nào.
Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.
Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chính trị mà ông đã là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ "nghi vấn." Nhiều người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.
Năm 1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là "rất căng." Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu xuôi xẻ về mặt quân sự, thì về mặt dân tình và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều nơi đã nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy một năm sau "đại thắng Mùa Xuân" của Việt Cộng đã làm chúng thất điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh Sơn cùng với một số chiến hữu đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chính trị. Tuy không có bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có cảm giác "ăng ten," tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.
Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt. Việt Cộng "dư" lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ Quát đã lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám 1975 không được ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm, tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc vặt vãnh cũng không bao giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình cũng tách rời, riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với nhau chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới phiên đi lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song sắt tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi bệnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường trị bệnh gan. Lần "nhìn thăm" thầm lặng được phép công khai đó dài không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám sát.
Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đã trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu "thật tâm cải tạo tốt." Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất "siêu" về thủ đoạn dọa nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chính trị đối với Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.
Trong thập niên 1940, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà Nội biết tiếng là một lương y. Bệnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia đình của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời ấy. Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bệnh đau mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó đã được tặng giải thưởng đặc biệt của Hoàng Ðế. Cuộc đời chính trị của ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở đi, tình hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ. Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn cho Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh ngày 20 Tháng Bảy 1954.
Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc Phòng.
Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.
Cuộc đời chính trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao quyền lại cho Hội Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều khiển phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt động chính trị của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư 1975.
Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối "chính quy," trong "đường lối chính quy." Và con người thận trọng trong ông đã lao vào một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định dễ dàng.
Sau ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp "lời mời" ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên đài phát thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả "ngụy quân, ngụy quyền". Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc đời "du mục" trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn "trụ" hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm khuất ở quận Phú Nhuận.
Những ai đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối hả tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào tốt nhất để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn? Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người thì chọn lối âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra, cứ sống "tự nhiên cái đã". Nhưng đại đa số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một số khác thì tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha những sự thăm dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu: thứ nhất vượt biên, thứ nhì chống Cộng.
Hai lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn đến mối chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14 người, mặc nhiên là một áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt biên. Ngoài tình quê hương ông cũng nặng tình gia đình không kém.
Chỉ một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong phòng thốt một câu: "Bệnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bệnh xá, không cho. Ðợi gần chết mới cho thì còn gì!" Một điếu văn ngắn, gọn, hàm súc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên án chế độ bất nhân, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng đi. Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: "Nhớ làm bản kê khai, nghe không!" Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết của bất cứ "trại viên" nào.
Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.
Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chính trị mà ông đã là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ "nghi vấn." Nhiều người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.
Năm 1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là "rất căng." Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu xuôi xẻ về mặt quân sự, thì về mặt dân tình và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều nơi đã nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy một năm sau "đại thắng Mùa Xuân" của Việt Cộng đã làm chúng thất điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh Sơn cùng với một số chiến hữu đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chính trị. Tuy không có bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có cảm giác "ăng ten," tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.
Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt. Việt Cộng "dư" lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ Quát đã lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám 1975 không được ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm, tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc vặt vãnh cũng không bao giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình cũng tách rời, riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với nhau chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới phiên đi lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song sắt tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi bệnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường trị bệnh gan. Lần "nhìn thăm" thầm lặng được phép công khai đó dài không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám sát.
Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đã trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu "thật tâm cải tạo tốt." Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất "siêu" về thủ đoạn dọa nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chính trị đối với Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.
Trong thập niên 1940, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà Nội biết tiếng là một lương y. Bệnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia đình của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời ấy. Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bệnh đau mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó đã được tặng giải thưởng đặc biệt của Hoàng Ðế. Cuộc đời chính trị của ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở đi, tình hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ. Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn cho Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh ngày 20 Tháng Bảy 1954.
Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc Phòng.
Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.
Cuộc đời chính trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao quyền lại cho Hội Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều khiển phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt động chính trị của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư 1975.
Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối "chính quy," trong "đường lối chính quy." Và con người thận trọng trong ông đã lao vào một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định dễ dàng.
Sau ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp "lời mời" ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên đài phát thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả "ngụy quân, ngụy quyền". Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc đời "du mục" trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn "trụ" hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm khuất ở quận Phú Nhuận.
Những ai đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối hả tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào tốt nhất để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn? Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người thì chọn lối âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra, cứ sống "tự nhiên cái đã". Nhưng đại đa số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một số khác thì tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha những sự thăm dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu: thứ nhất vượt biên, thứ nhì chống Cộng.
Hai lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn đến mối chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14 người, mặc nhiên là một áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt biên. Ngoài tình quê hương ông cũng nặng tình gia đình không kém.
Thực ra, khoảng một tuần trước ngày 30 Tháng Tư 1975 lịch sử, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông Ðại sứ của mình ở Saigon nhân danh chính phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc trú ngụ nếu như phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và nói sẽ liên lạc sau. Về phía Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời không thể nhận sự giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất cả gia đình ông gồm 14 người không được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ý muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn. Ðiểm hẹn này sau bị lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng Tư 1975, tình hình căng thẳng tột độ, chính phủ Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Phòng của Mỹ trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở người Việt tị nạn không có Bác Sĩ Quát và gia đình.
Như đã nói, ông nặng tình gia đình, không muốn gia đình bị khổ trong vòng kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn. Ðồng thời ông cũng không muốn làm "kẻ bỏ chạy" vì ông cũng rất nặng tình quê hương, đất nước. Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu ở lại thì cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đình, Bác Sĩ Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành kia, tình gia đình và tình quê hương, đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có thể chọn một. Và ông đã chọn.
Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên. Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận. Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm sau mới được thả.
Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi tới, vây quanh xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa. Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh, Saigon. Hôm đó là ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi đầu cuộc thử thách chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc thử thách không giống bất cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước kia. Một cuộc thử thách mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm dứt sau khi vị cựu Thủ tướng đã vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần ném hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới thực là mặt đối mặt với quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng, gay go về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ý niệm và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đã kết thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm Saigon thất thủ.
Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng.
Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)
Gần một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1, khu BC. Ba phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng phòng 1 có "khách hàng". Bác Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật nới lỏng, mọi người được đi lại thăm bạn bè ở các phòng khác, gác khác trong cùng một khu. Bác Sĩ Quát và tôi không ra khỏi gác 1. Chúng tôi thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt nhịp đi theo tiếng chống nạng của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy ngày Tết quả là một dịp hiếm có để có thể nói với nhau nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ý hay soi mói quá đáng. "Ăng ten" cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe cuộc "phiêu lưu" của ông và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát, đường Võ Tánh. Ông kể:
- "Chúng bắt tôi viết bản tự khai tất cả những gì tôi làm khi tôi giữ chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết vắn tắt là trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lãnh đạo việc nước, tôi chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp thấp nhất, đến cao nhất gần gũi với Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân, chính đều làm việc theo chỉ thị và mệnh lệnh của tôi. Một mình tôi trách nhiệm. Chúng không bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết y như trước. Cù cưa như vậy đến hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách nhiệm. Chúng đủ trò áp lực như anh biết đấy. Sau đó, để bớt căng thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực lúc đó nhịp tim đập của tôi loạn xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ tim. Tôi cảm thấy chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu một số nhận định về thời cuộc, đưa ra một số đề nghị kiến thiết quốc gia. Trên trang nhất, tôi đề tên người nhận văn bản của tôi là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt tôi xóa, chỉ được viết là bản tự khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng cũng nhận tập viết của tôi."
Tôi hỏi Bác Sĩ Quát:
-"Anh
có tin là chúng chuyển tập viết của anh tới Nguyễn Hữu Thọ không? - Tôi ngờ lắm.
Ông đáp. Nhưng không sao. Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng
rằng tôi không biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu
Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội thừa
biết điều đó hơn ai hết."
Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông thật tâm tác thành cho:
Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông thật tâm tác thành cho:
-
"Có thật hay không, tiếng đồn có người
đá ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?"
Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả
lời, giọng bình thản:
-
"Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời
cụ dậy: sống ở đời phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong
nhà nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng."
Câu nói của Bác Sĩ Quát
không trả lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết thưởng
thức câu trả lời đó vì họ cười ha hả.
Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài hôm, phòng nhận thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng nẩy. Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.
Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát tài sản mà Việt Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố ý công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu kỳ, của một người đã từng giữ những chức vụ cao sang trong chính quyền cũ.
Ông biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn hiệu "tên phản bội, tên lừa bịp", ông vẫn giữ được cách lịch sự bao dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: "Thôi! Bỏ đi!" để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết vì ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái đầu lòng của Huy Anh, mới ba tháng đã "được" Việt cộng bỏ tù vì bố mẹ và đang thiếu sữa.
Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm lặng của ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông, buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng được đầu gió.
Vì ông đã cứng.
Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài hôm, phòng nhận thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng nẩy. Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.
Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát tài sản mà Việt Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố ý công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu kỳ, của một người đã từng giữ những chức vụ cao sang trong chính quyền cũ.
Ông biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn hiệu "tên phản bội, tên lừa bịp", ông vẫn giữ được cách lịch sự bao dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: "Thôi! Bỏ đi!" để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết vì ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái đầu lòng của Huy Anh, mới ba tháng đã "được" Việt cộng bỏ tù vì bố mẹ và đang thiếu sữa.
Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm lặng của ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông, buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng được đầu gió.
Vì ông đã cứng.
***
Tôi thường nghĩ, trong
suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao
nhất, có ích cho quốc dân nhất, do đó quan trọng vào bậc nhất vì trực tiếp liên
quan sâu sắc nhất đến tiền đồ tổ quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành
giáo dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông làm Tổng
Trưởng Bộ Giáo Dục trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam mới được Pháp
thừa nhận nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái độ khéo léo, mềm dẻo nhưng
không thiếu cương quyết trong thương thảo rất khó khăn, nhiều khi đến độ rất
căng thẳng với phái đoàn Pháp mà một số thành viên lại là thầy học cũ của ông ở
Ðại học Y khoa Hà Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn
quyền của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt ngữ
là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên cải cách giáo dục toàn
diện từ tiểu học, qua trung học, lên tới đại học và trên đại học mang tính chất
hoàn toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có
thể thay đổi được. Pháp ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác
được giảng dậy trong mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu gay go trong thầm
lặng nhưng thật rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến hành cải
cách giáo dục của ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và mệnh danh một cách
rất xứng đáng là "Kế hoạch giáo dục Phan Huy Quát." Tên tuổi ông đã gắn liền với
tương lai của biết bao thế hệ nam, nữ, thanh, thiếu niên trong lãnh vực giáo dục
nó là chìa khóa của tiến bộ văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân
tộc.
Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?
Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?
***
Một phòng lẻ loi dành cho
lính gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí Hòa đã được quét dọn khá tươm tất. Giữa
phòng, một tấm ván gỗ khổ hẹp đặt trên đôi mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm
ngửa, chân duỗi thẳng, hằn rõ dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống
chân.
Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.
Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây "Anh hùng nhất mực" và "ra ngõ là gặp anh hùng" lại sợ đủ thứ!
Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho chắc!
Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết "thần giao cách cảm" với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to. Ðám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng, quyến thuộc.
Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là "nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng".
Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.
Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.
Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây "Anh hùng nhất mực" và "ra ngõ là gặp anh hùng" lại sợ đủ thứ!
Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho chắc!
Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết "thần giao cách cảm" với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to. Ðám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng, quyến thuộc.
Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là "nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng".
Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.
***
Nếu tôi biết hát, tôi sẽ
cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:
"Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây..."
Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.
Nguyễn Tú
Ký giả Nguyễn Tú, nguyên đặc phái viên chiến trường Nhật báo Chính Luận tại Việt Nam trước 1975, cũng như của nhiều báo ngoại quốc, đã bị giam hơn mười năm trong lao tù Cộng Sản. Ông vượt biên tới Hong Kong năm 1990 và sau đó tới Hoa Kỳ. Hiện ông cư ngụ tại vùng Hoa Thịnh Ðốn.
"Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây..."
Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.
Nguyễn Tú
Ký giả Nguyễn Tú, nguyên đặc phái viên chiến trường Nhật báo Chính Luận tại Việt Nam trước 1975, cũng như của nhiều báo ngoại quốc, đã bị giam hơn mười năm trong lao tù Cộng Sản. Ông vượt biên tới Hong Kong năm 1990 và sau đó tới Hoa Kỳ. Hiện ông cư ngụ tại vùng Hoa Thịnh Ðốn.
Cố thủ tướng Phan Huy Quát. Hình chụp khoảng năm 1954.
No comments:
Post a Comment