Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 15 December 2016

NGUYỄN THIÊN THỤ=PHÙNG QUÁN =THANH TÂM TUYỀN =NGUYỄN TẤT NHIÊN=

Sunday, November 6, 2016

NGUYỄN THIÊN THỤ * BIẾN TƯ TƯỞNG TRONG THẾ GIỚI CỘNG SẢN


NHỮNG CHUYỂN BIẾN TƯ TƯỞNG TRONG THẾ GIỚI CỘNG SẢN
          Cuộc đời luôn biến thiên ngay cả chế độ cộng sản là một chế độ mà Marx tự hào là toàn vẹn nhất, là đỉnh cao của nhân loại. Thế nhưng sau Marx, bao chủ thuyết trong thế giới cộng sản đã xuất hiện nhằm phủ định Marx và chủ nghĩa cộng sản.
Trong bài này, trước tiên, chúng tôi trình bày sơ lược quan điểm của Marx, Engels sau đó sẽ viết về các chủ trương, quan điểm khác của các nhà tư tưởng và các lãnh đạo trong thế giới cộng sản nhằm chống lại các chủ trương cuả Marx, Engels, Stalin và Mao Trạch Đông.

I. KARL MARX Và FREDERICH ENGELS
Karl Marx (1818-1883) và Frederich Engels (1820-1895) là hai nhà sáng lập đảng cộng sản quốc tế. Theo định nghĩa của Engels, trong Những Nguyên Tắc Cộng Sản, cộng sản là một chủ nghĩa có mục đích giải phóng dân vô sản. Theo Engels, vô sản là một giai cấp trong xã hội sống bằng cách bán hoàn toàn sức lao động của mình và không thu được lợi nhuận nào, mà trọn đời họ, sống chết, vui buồn cùng mọi hiện hữU đều do nhu cầu lao động. Họ là giai cấp lao động của thế kỷ 19. Họ là những thợ thuyền bị bọn tư bản bóc lột và suốt đời họ là cuộc đời nghèo khổ. Giai cấp vô sản ra đời trong cuộc cách mạng kỹ nghệ mà quan trọng nhất là việc phát minh máy hơi nước và các máy móc khác đã dẫn tới cuộc cách mạng kỹ nghệ đầu tiên tại Anh quốc, sau lan tràn qua nhiều quốc gia. Chỉ có những tư bản lớn mới đủ sức mua máy móc tối tân để trang bị cho cơ xưởng của họ. Máy tóc tối tân đã làm cho sản xuất gia tăng và giá cả càng rẻ. Máy móc làm nhanh và tốt hơn con người cho nên giai cấp tư bản nắm trọn vẹn công cụ sản xuất và càng ngày giai cấp thợ thuyền mất giá trị. Giai cấp tư bản càng ngày càng giàu, có trong tay mọi thứ còn giai cấp vô sản càng ngày càng nghèo, giá trị người thợ càng ngày càng kém. Trước đây, thợ thuyền có thể làm từng vật một, nay thì chỉ làm được từng bộ phận một. Trong giai đoạn cách mạng kỹ nghệ, cứ vài năm lại có một cuộc khủng hoảng kinh tế, khiến cho giai cấp vô sản thêm khốn đốn. Engels cho rằng phải bãi bỏ chế độ tư hữU thì kỹ nghệ mới thực sự phát triển, và đây là mục đích thiết yếu của chủ nghĩa cộng sản. Trong Tuyên Ngôn Cộng Sản, Marx và Engels cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử giai cấp đấu tranh (The history of all hitherto existing society is the history of class struggles).
Từ cơ sở lý luận này, hai ông tìm mọi cách gây hận thù giai cấp, và đi đến kết luận rằng giai cấp vô sản sẽ cướp chính quyền, sẽ chiến thắng, sẽ lật đổ giai cấp tư bản và trở thành giai cấp thống trị. Marx và Engels nhấn mạnh rằng vô sản là người đào mồ chôn giai cấp tư bản (What the bourgeoisie therefore produces, above all, are its own grave-diggers. Its fall and the victory of the proletariat are equally inevitable) . Và hai ông đã đề ra những chủ trương sắt máu và tàn bạo đối với tư bản như là đánh thuế lũy tiến, tịch thu tài sản, hủy bỏ mọi quyền thừa kế... Cách mạng tháng mười 1919 thành công tại Nga, Lênin đã lật đổ chính quyền của Nga hoàng, và thành lập chính quyền vô sản. Đảng cộng sản ra đời từ đây. Lênin đã thiết lập chính quyền chuyên chính, và chính quyền này được Stalin củng cố. Stalin đã đày dân Nga lên Tây Bá Lợi Á , giết bao triệu người, và tịch thu tài sản của những kẻ bị gọi là phong kiến, địa chủ, tư bản và phản động. Những đồng chí của ông trước sau cũng bị giết hại vì tội phản động, bán nước hoặc liên lạc với kẻ thù. .. Nói tóm lại, ba điểm quan trọng của chủ nghĩa cộng sản là:
- cực lực lên án tư bản bóc lột, gậy căm thù trong lòng người vô sản, kêu gọi vô sản tiêu diệt tư bản, và cướp chính quyền bắng võ lực.
- chủ trương công hữU hóa, bãi bỏ quyền tư hữU .
- chủ trương chuyên chính vô sản nghĩa là độc tài tàn bạo.
a. Cộng sản chủ trương tiêu diệt tư bản vì cho tư bản là nguồn gốc đau khổ của vô sản. Hơn nữa, họ cần tiêu diệt tư bản để cướp tài sản và quyền lợi của tư bản.
b. Họ cấm tư hữU vì cho rằng tư hữU gây bất công xã hội, gây ra việc người bóc lột người. Họ tin công hữU sẽ đem lại công bình xã hội.
c. Họ chủ trương sắt máu vì không dùng bạo lục thì khó tiêu diệt tư bản , và khó bắt mọi người tuân lệnh. Dụ dỗ và khủng bố là phương sách tranh đãu của cộng sản.

II. LIÊN XÔ
1. TROTSKY, LEV DAVIDOVITCH (1879-1940)
Ông cũng dược gọi là Léon Trotsky là người thân tín của Lenin, là một trong những lãnh tụ của cuộc cách mạng Nga, và là người thành lập hồng quân Liên Xộ Stalin dùng thủ đoạn ám muội giành lấy chính quyền, ông lên tiếng phản đối, sau bị Stalin trục xuất khỏi đảng cộng sản và lưu đày ông ra khỏi nước Nga. Năm 1938, ông thành lập đệ tứ quốc tế cộng sản mà ở Việt Nam có nhiều người tham gia tổ chức này như Phan Van Hùm, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Hồ HữU Tường, Nguyễn Bách Khoa, Lê Văn Siêu. . .. Năm 1940, ông bị Stalin cho người ám sát tại Mexico. Ông chống đối đường lối độc tài, gian ác của Stalin. Ông cho rằng cuộc cách mạng ngày càng xấu đi. Ông chủ trương cách mạng thường xuyên ( permanent revolution). Ông là con trai của một người Do Thái ít học, mua được một ít ruộng đất cho nên trong cách mạng đã trở thành địa chủ và mất hết tài sản. Léon Trotsky bèn đưa cha vào làm giám đốc tại một nhà máy gần Mạc Tư Khoa. Mẹ của ông là người đảm đang, nuôi 8 con ăn học. Vì cuộc sống khó khăn, sau chỉ còn Léon , một trai và hai gái sống sót. Nhưng tất cả lần lượt bị Stalin sát hại.
Trotsky là người có lòng nhân đạo hơn Léinin và Stalin. Ông đã gặp Lenin tại Anh và thành lập tờ báo Iskra (The Spark), năm 1903, ông thành lập nhóm Menshevik chống lại nhóm Bolshevik của Lenin mà ông cho rằng chủ thuyết của Lenin sẽ đi đến độc tài đảng trị...Cuộc cách mạng 1905 thành công, Trotsky được bầu làm chủ tịch hội đồng Sô Viết St. Peterburg. Lúc này ông xướng xuất thuyết Cách mạng thường xuyên, nghĩa là cuộc cách mạng ở quốc gia này phải được các quốc gia khác tiếp tục cho đến khi toàn thế giới đều hoàn tất cách mạng ( revolution in one country must be followed by revolutions in other countries, eventually throughout the world. )
2. NIKITA  KHRUSHEV (1894-1971) và CHỦ NGHĨA XÉT LẠI-
Tại Đại hội XX ngày 23 tháng hai năm 1956 của cộng đảng Liên Xô , Nikita Khrushchev bắn một loạt thần công vào thần tượng Staline.
Đây là một cuộc nổi dậy của các tân lãnh tụ Sô Viết chống lại Stalin, và được gọi là phong trào xét lại của Liên Xô, có mục đích:
- hạ bệ thần tượng Stalin, đả phá việc tôn sùng cá nhân.
- chỉ trích chủ trương tập thể hóa của Stalin. Chủ trương này làm cho nông dân chết đói rất nhiều dưới thời Stalin.
- tố cáo tội ác của Stalin: Nhờ văn kiện đại hội XX lọt ra ngoài, thế giới mới biết sự thật khủng khiếp về thiên đường Xô Viết : Stalin đã đày dân Do Thái lên miền Sibir , Stalin hạ lệnh thủ tiêu 30.000 binh lính, sĩ quan, và nhà chính trị Ba Lan tại khu rừng Katưn tỉnh Solensk
- đòi phục hồi dân chủ trong sinh hoạt xã hội và sinh hoạt đảng,
- bác bỏ mọi quan điểm dùng bạo lực cướp chính quyền, coi mẩu thuẫn giữa hai hệ thống là không thể điều hòa. Đại hội XX của cộng đảng Liên Xô là đại hội hòa bình, chủ trương tư bản và cộng sản cùng tồn trại, cùng hợp tác trong hòa bình, giải quyết mọi tranh chấp bằng thương lượng, chấm dứt chiến tranh lạnh cũng như chiến tranh nóng, giải trừ quân bị. Nikita Khrushchev là người có tinh thần cách mạng, không những ông chống Stalin mà còn chống cả Marx, chống đảng cộng sản khi tuyên bố bác bỏ dùng bạo lực cứơp chính quyền và chủ trương sống chung hòa bình với tư bản. Nhận thấy Liên Xô đã mềm dịu, các nước cộng sản Đông Âu liền nổi lên đòi độc lập, ly khai với đế quốc Liên Xộ Trong đảng cộng sản Liên Xô, các đối thủ của Khrushchev bèn tấn công ông. Khrushchev phải thay đổi chính sách. Ông xua quân chiếm các nước Đông Âu,. Tháng 11 năm 1956, ông đem xe tăng đàn áp cách mạng ở Budapest, và đàn áp khởi nghĩa của Imme Nagy ở Hung Gia Lợi, và giết 20.000 dân Hung.Ông đòi tổng thống Dwight D. Eisenhower phải xin lỗi Nga về vụ thám thính cơ U2 của Mỹ đã vi phạm không phận Liên Xộ Sau vụ này, ông cho xây dựng bức tường Bá Linh, và lên tiếng chống Mỹ về vụ hỏa tiễn Cuba.Trong một hội nghị quốc tế, ông đòi chôn sống tư bảnnhư Marx đã nói. Cùng lúc này, ông cũng lên tiếng chủ trương cùng tồn tại với Tây phương và tài giảm binh bị, cùng giảm căng thẳng trong chiến tranh lạnh. Khoảng 1960, ông mở rộng đế quốc Liên Xô, trong lúc này, Việt Nam được Liên Xô giúp đ" để tấn công miền Nam. Mặt trận Giải Phóng Miền Nam ra đời lúc này.
Năm 1964, công cuộc cải cách của Khrushchev đã bị nhóm bảo thủ của Léonid Breznev lật đổ, ông lui về thôn quê ẩn dật và mất năm 1971.
Chủ nghĩa xét lại của Nikita Khruschev đã là một khích lệ lớn lao cho nhân dân và các văn nghệ sĩ Việt Nam nhưng lại làm cho các lãnh đạo cộng sản Trung Hoa và Việt Nam hoảng sợ. Họ lo sợ dân chúng nổi lên chống Hồ Chí Minh, chống đảng. Nhất là trong khi Việt Nam đang chống Mỹ, Liên Xô lại chủ trương sống chung hòa bình với tư bản. Việc này đã làm cho hàng ngũ cộng sản Việt Nam chia rẽ. Lê Đức Thọ, Lê Duẩn đã bắt bớ hàng ngàn người và giết hại các đảng viên về tội thân Nga, đi theo chủ nghĩa xét lại. Dẫu sao, nay Việt Nam và Trung Quốc nay đang thực hiện chủ thuyết của Nikita Khrushchev mà sống chung hoà bình với tư bản.
3. MIKHAIL GORBACHEV
Ông sinh năm 1931, học luật tại trường đại học Moscow, tốt nghiệp viện Nông nghiệp 1966, và năm 1970 tham gia chính trị, trở thành lãnh tụ liên bang Sô VIết từ 1985 cho đến 1991. Ông đã trình bày trước đại hội đảng thứ 27 vào tháng 2-1986 chủ trương chính sách Glasnost ( cởi mở ) và perestroika ( tái kiến thiết). Năm 1998, ông tuyên bố bãi bỏ thuyết Brezhnev, cho phép Đông Âu theo đường lối dân chủ. Năm 1990, Gorbachov dược giải thưởng Nobel Hoà bình. Chính năm này, ông trúng cử tổng thống Liên Bang Sô Viết nhưng sau đó vào 1991, từ chức. Chính sách dân chủ hóa khiến cho Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ly khai khỏi ảnh hưởng Cộng sản để trở thành những quốc gia dân chủ.
III.  TRUNG QUỐC:
1. MAO TRẠCH ĐÔNG ( 1893-1976 )
Như đã trình bày ở phần đầu, Marx và Engels đã đề cao giai cấp vô sản, cho rằng giai cấp vô sản là tiên tiến, sẽ lãnh đạo cách mạng. Cách mạng vô sản sẽ làm cho xã hội tốt gấp năm gấp mười chế độ tư bản. Nhưng giai cấp vô sản là gì ? Giai cấp vô sản là những thợ thuyền làm việc trong những cơ xưởng của tư bản. Những thợ nề, thợ mộc, thợ quét vôi, thợ tiện, thợ rèn, người thiến heo tại Việt Nam chỉ là những công nhân cá thể, không thuộc giai cấp vô sản theo tinh thần Marx và Engels. Giai cấp vô sản thời Marx chỉ phát sinh tại các nước tư bản như là Anh, Đức, còn ở Nga, Trung Quốc, Việt Nam, chưa có tư bản mà cũng không có vô sản. Nếu có thì cũng rất íthông thể làm nên trò trống gì. Chỉ có nông dân đông đảo mới là lực lượng cung cấp lương thực và lực lượng chiến đấu, không thể bỏ rơi nông dân hoặc không đề cao nông dân. Nửa theo Marx, nửa theo thực tế Trung Quốc, Mao tôn trọng cả công nhân và nông dân cho nên ông tuyên bố công nông là lực lượng cách mạng
 2. ĐẶNG TIỂU  BÌNH (1904- 1997)
Công cuộc tranh quyền của Trung cộng thành công chứng tỏ sự đóng góp lớn lao của nông dân trong thời chiến. Nhưng sau khi lấy được Hoa Lục, đặt ách thống trị, Trung cộng đi theo chính sách tàn sát và khắc nghiệt của Stalin, và càng ngày càng thất bại trong lãnh vực kinh tế. Năm 1953, lúc 52 tuổi, ông trở thành tổng bí thư đảng cộng sản Trung quốc, cùng Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai là những lãnh tụ nổi tiếng của Trung quốc . Bước nhảy vọt của Mao Trạch Đông khiến 30 triệu dân Trung quốc chết đói. Bước nhảy vọt cũng gây ra nhiều lời ta thán khiến Mao căm tức. Mao dùng cách mạng văn hóa để giết hại và giam cầm những người chỉ trích Mao trong đó có Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu, Đặng Tiểu Bình. Đặng bị bọn Vệ Binh Đỏ của Mao kết tội là nhân vật số hai đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đặng Tiểu Binh hai lần bị hoạn nạn. Lần thứ nhất là trong cách mạng văn hóa, sau được gọi về Bắc Kinh năm 1973. Lần thứ hai vào tháng 5, năm 1976 bọn tứ nhân bang do Giang Thanh cầm đầu đòi tống xuất ông ra khỏi Bắc kinh. Ông kín đáo hoạt động, và cũng nhờ sự bảo vệ của Chu Ân Lai, ông đã khôi phục địa vị sau khi Mao chết và bọn tứ nhân bang bị nhốt. Năm 1982, mặc dầu ông tuyên bố đi theo xã hội chủ nghĩa, chống tư bản chủ nghĩa, theo tư tưởng Mao Trạch Đông, ông chủ trương cải cách, mở cửa giao thương với tư bản. Tại đại hội đảng năm này, ông tuyên bố phải xây dựng xã hội chủ nghĩa sát với hiện tình Trung Quốc. Kết quả, tại thôn quê, chính sách tư hữU hóa đã làm cho sản lượng tăng cao, dân chúng có đủ lương thực. Câu nói nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình là không phân biệt mèo trắng mèo đen miễn là bắt được chuột. Câu này cho thấy Đặng Tiểu Bình theo chủ thuyết thực dụng, không theo đường lối vô sản chuyên chính, lập trường giai cấp, ông là người có óc cởi mở, đã làm cho dân Trung Quốc thoát ách độc tài của Mao Trạch Đông và đưa Trung Quốc trở nên giàu mạnh.
3. GIANG TRẠCH DÂN
Giang Trạch Dân sinh năm 1926, tốt nghiệp đại học Jiaotong ở Thượng Hải, tham gia sinh hoạt đảng tại đại học 1946 và tốt nghiệp ngành cơ khí, sau đi tu nghiệp ở Liên Sộ Ông làm đại sứ lại Romany và Thị trưởng Thượng Hải. Sau ông trở thành Tổng Bí thư đảng nối tiếp Đặng Tiểu Bình.
Tại đại hội khóa 16 quốc hội Trung Quốc năm 2002, ông trình bày thuyết ba đại diện. Ngày 14-3-2004, Quốc Hội Trung Quốc tu chính hiến pháp, và biểu quyết thuyết này. Đó là một minh xác chấm dứt chủ nghĩa Mác Lê mặc dầu lá cờ cộng sản vẫn phất phới bay trên Thiên An Môn.
Trước đây Marx đề cao vô sản, kêu gọi vô sản đứng lên tiêu diệt tư bản, còn Mao Trạch Đông thì lấy công nông làm trụ cột cho chủ nghĩa cộng sản.Nay Giang Trạch Dân lấy công nhân, nông dân và tư bản làm ba thành phần chính trong đảng cộng sản Trung Quốc. Giang Trạch Dân đã gọi công nhân là đại diện sản xuất tiến bộ, nông dân là đại diện văn hóa tiến bộ, còn tư sản là quyền lợi đa số nhân dân. Nay quốc hội tu chính hiến pháp là để bảo vệ quyền tư hữU của nhân dân. Đây là một điều trái với Marx. Sau một thời gian, Mao Trạch Đông đấu tố, giết hại và giam cầm các phú nông, địa chủ, nay Giang Trạch Dân lại tôn trọng quyền tư hữU, coi tư hữU ngang công hữU. Bởi vì không có tư hữU thì con người không có động cơ lao động. Bài học sơ đẳng đó mà Marx không biết. Phải gần một thế kỷ đau khổ, con người mới nhận thấy sai lầm của Marx.Trên lý luận, rõ ràng ông đã coi tư bản là đồng chí, coi tư bản là một thành phần trong nhân dân Trung Quốc. Họ Giang đã xóa bỏ tinh thần giai cấp đấu tranh, trở lại với chủ nghĩa quốc gia. Học thuyết tam đại diện ( The Three Represents) do Giang Trạch Dân chủ trương là một bước quay lưng với cộng sản chủ nghĩa. Đây là một cuộc đảo chánh bằng lá phiếu quốc hội, không đổ máu. Phe bảo thủ của Mao im lặng hoặc phản ứng rất yếu ớt.
Nói tóm lại, ngay từ khi Mao cầm quyền, các nhà lãnh đạo cũng như những nhà trí thức và văn nghệ sĩ đã lên tiếng chống đối con đường xã hội chủ nghĩa của Mao, của Marx. Đặng Tiểu BÌnh đã dần dần cải cách và nay thì Giang Trạch Dân đã chính thức khai tử tinh thần Mác Lệ
IV.  VIỆT NAM
1.TRẦN DẦN VÀ  C ÁC VĂN NGHỆ SĨ
Trong suốt bao năm kháng chiến, lục lượng chủ đạo vẫn là trí thức. Nguyễn Ái Quốc, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng là con cái giai cấp phong kiến và trưởng giả. Các văn nghệ sĩ theo kháng chiến như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, HữU Loan, Trần Dần, Phan Khôi... là trí thức. Các văn nghệ sĩ phải im lặng. Nay hòa bình đã trở lại năm 1954, các văn nghệ sĩ nhận thấy đã đến lúc đòi lại cho văn nghệ quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do sáng tác. Sau khi đi Trung Quốc về, một số nhà văn trong đó có Trần Dần, nhận thấy chế độ cộng sản đã kìm kẹp văn nghệ sĩ, nhất là chế độ công an trị, và chính ủy trị kìm hãm đà tiến hoá của văn nghệ. Nếu cứ thế mãi, văn hóa sẽ bị phá hoại như ở Trung quốc. Cuối năm 1954, một nhóm văn nghệ sĩ quân đội, phần nhiều là chiến sĩ ưu tú trong chiên tranh chống Pháp, đã tham dự trận Điện Biên Phủ và là đảng viên cộng sản, đã họp nhau lại, đề nghị đảng cải tiến chính sách trong văn nghệ quân đội. Trần Dần thay mặt cả nhóm trình bày cùng Nguyễn Chí Thanh, ủy viên Bộ Chính trị, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội nguyện vọng đòi đảng trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ.  Tiếp theo đó, tháng 3 năm 1955, Trần Dần, Tử Phác tổ chức hội thảo về tập thơ Việt Bắc của Tố HữU xuất bản cuối 1954. Trần Dần và Tử Phác bị bắt giam về tội chê thơ Tố HữU, chê thơ cách mạng của một nhà đại cách mạng.
Khi về Hà Nội, cộng sản đã phát động ngay chiến dịch ca tụng đảng bác. Nhưng đa số đồng bào thờ ơ. Vừa về Hà Nội, cộng sản còn lo việc nhà cửa, xe cộ, chưa có thì giờ để lo việc kiểm soát văn hóa. Hơn nữa, mới về Hà Nội, họ chưa muốn thi hành chánh sách tàn ác ra vội, cho nên trong mấy năm đầu tư nhân vẫn có quyền ra báo và xuất bản sách. Vì hòan cảnh tự do này, một số báo chí tư nhân đã ra đời. Các văn nghệ sĩ kháng chiến trong bao năm sống dưới chế độ cộng sản đã bị đè nén bóc lột, đến khi gần thành công, họ thấy rõ bộ mặt thật của cộng sản trong chính sách cải cách ruộng đất và chỉnh đốn đảng, cùng sự tranh giành địa vị, nhà cửa, xe cộ khi cộng sản về thành trong khi dân chúng và văn nghệ sĩ đói khổ, thiếu thốn nên họ đòi tự do, dân chủ. Phong trào này do các văn nghệ sĩ kháng chiến nổi danh như Phan Khôi, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao, Hoàng Cầm. . . khởi xướng trên các báo tư nhân sau lan rộng ra các báo đảng. Trong số báo chí này chủ đạo là hai tờ Giai Phẩm và Nhân Văn:
2. Giai Phẩm :
Gồm có các đặc san Giai Phẩm 1956 (Giai Phẩm Mùa Xuân), Giai Phẩm Mùa Thu, Giai Phẩm Mùa Đông. Tháng 1-1956, nhà xuất bản Minh Đức từ chiến khu về, cho xuất bản tập Giai Phẩm 1956 ( sau này gọi là Giai Phẩm Mùa Xuân ), trong cuốn này có nhiều bài nêu lên sự thối nát của chế độ như bài "Chống công thức", "Ông Bình Vôi" của Lê Đạt, "Cái chổi quét rác rưởi" của Phùng Quán. Trần Dần bị bắt vì viết bài ữnhất Định Thắng" bôi đen chế độ, và tờ Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu. Ít lâu sau, Moscow sai Mikoyan sang Hà Nội, buộc Việt Nam sửa sai. Và lúc này, Mao tung ra chiến dịch Bách Hoa Tề Khai, Bách Gia Tranh Minh , Việt Nam bắt buộc phải công bố chính sách mới của Khrushchev. Tiếp theo là Giai Phẩm Mùa Thu Tập I, II, III. Giai Phẩm Mùa Thu tập I ra đời ngày 29-8-1956, Phan Khôi viết bài Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ là một quả bom tạ nổ giữa thủ đô Hà Nội. Giai Phẩm Mùa Thu tập II xuất bản tháng 10-1956, Giai Phẩm Mùa Thu tập III ra đời tháng 11-1956, và Giai Phẩm Mùa Đông in tháng 12-1956.
3.Nhân Văn
Tờ Nhân Văn ra đời ngày 15-9-1956 do Phan Khôi, Nguyễn HữU Đang, Trần Dần chủ trương. Tờ Nhân Văn tấn công mạnh mẽ, lan rộng đến Thời Mới và Cứu Quốc, Học Tập là hai tờ báo đảng. Lúc này, Hồ Viết Thắng, Võ Nguyên Giáp đều đứng lên nhận khuyết điểm. Hồ Chí Minh im lặng, Tố HữU lẩn sang Bắc Kinh, bọn cai thầu văn nghệ như Hoài Thanh, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư im hơi lặng tiếng. Nguyễn Chương và Hoàng Xuân Nhị lên tiếng bênh vực đảng. Lời qua tiếng lại ngày càng gay gắt, và uy thế đảng ngày càng xuống dốc thê thảm.
Giai Phẩm và tạp chí Nhân Văn là có sức mạnh hơn cả cho nên người ta gọi tư trào này bằng một tên chung là Nhân Văn Giai Phẩm.
Trong phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm có nhiều văn nghệ sĩ tham gia. Nhân Văn do Phan Khôi làm chủ nhiệm, Trần Duy làm thư ký tòa soạn.
Nói chung, sau 1954, các văn nghệ sĩ VIệt Nam mà đa số là đảng viên đã lên tiêng đòi tự do tư tưởng, tự do sáng tạo, phá tan chủ trương kìm kẹp của đảng. Sau này, Nhân Văn, Giai Phẩm còn lên tiếng chống quan liêu, và tham ô lãng phí. Việc này đi trước cả phong trào xét lại Liên Xô và Trăm Hoa Đua Nở ở Trung quốc, mặc dầu về sau hai phong trào này tác động thêm vào Nhân Văn, Giai Phẩm. Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Tố HữU ra lệnh đóng cửa Nhân Văn, Giai Phẩm , bỏ tù Trần Dần, Nguyễn HữU Đang, và trừng phạt các văn nghệ sĩ coí liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến Nhân Văn Giai Phẩm.
Sau Nhân Văn, Giai Phẩm, các đảng viên cộng sản đã giác ngộ mà từ bỏ đảng như Nguyễn Hộ, Nguyễn Thanh Giang, Trần Độ và các trí thức và nhân dân trong nước như bác sĩ Nguyễn Đan Quế, luật sư Lê Chí Quang, hoà thượng Thích Quảng Độ, hòa thượng Thích Huyền Quang, linh mục Nguyễn Văn Lý , nhân dân Hậu giang, Thái Bình.,. đã tranh đãu cho tự do dân chủ và tự do tôn giáo.
Nói tóm lại, từ cách mạng tháng mười Nga thành công, đảng cộng sản ra đời đã đem bao tai họa đến cho nhân loại. Tuy cộng sản hung tàn và mạnh mẽ, nhân dân các nước trên thế giới, ngay cả các nhà lãnh đạo cộng sản cùng trí thức và văn nghệ sĩ đã ra sức tấn công chủ nghĩa cộng sản và lý thuyết sai lầm của Marx, Engels, Lenin, Stalin và Mao. . .
1.Chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa độc tài, một chủ nghĩa dân chủ giả hiệu và xảo quyệt, chỉ đem lại áp bức,chém giết và ngăn cấm mọi thứ tự do của con người.
2.Chủ nghĩa cộng sản chỉ đem lại nghèo khổ, bất công vì chủ trương tập thể hóa chỉ làm suy giảm sức phấn đãu cá nhân. Cổ nhân ta có câu: cha chung không ai khóc đã mang ý nghĩa chống đối chủ nghĩa cộng sản và đường lối sinh hoạt tập thể. Chủ nghĩa cộng sản do những người dốt nát lãnh đạo ( hồng hơn chuyên) chỉ phá hoại đất nuớc, và không đưọc dân chúng nhất là giới trí thức ủng hộ. Sau cùng, chủ nghĩa cộng sản độc tài thiếu dân chủ, khiến dân chúng bất mãn.
3. Tiêu diệt tư hữU nghĩa là tiêu diệt lòng hăng hái làm việc. Do đó năng suất suy kém, sản lượng xuống thấp và gây ra nạn tham nhũng, ăn cắp của công.
VÌ nhận thức rõ những sai lầm trên, các nhà lãnh đạo, các nhà trí thức và văn nghệ sĩ cùng nhân dân các nước đã vùng lên tranh đấu tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Gorbachev đã chôn đảng cộng sản Liên Xô, và nay Đặng Tiểu Bình/Giang Trạch Dân đã công khai quay lưng lại với Marx, và nhân dân VIệt Nam đang ra sức tranh đãu để thủ tiêu chủ nghĩa cộng sản tàn dân hại nước. Ngày thành công sẽ đến với chúng ta không bao lâu nữa
( 2004, Ottawa, Canada) \

THƠ PHÙNG QUÁN

Lá Khổ Sâm


Ly rượu đời Thuợng đế ban cho tôi
Qúa bủn xỉn
Tôi chỉ mới nhấp môi đã cạn
Khi chén rượu đời đã cạn
Mà túi rỗng không
Phải đứng lên và bước ra khỏi quán
Nghĩa là

Phải nhắm thái dương mình nổ súng
Hay xiết giây thòng lọng quanh cổ mình
Và trổ lên cuộc đời những câu thơ tuyệt mệnh
Như những vết chàm xanh...
Các anh tôi đó
Mai-a và Ét-xê-nhin!

Nhưng tôi chưa sống cho tròn nợ sống
Tôi chưa yêu cho hết nợ tình yêu
Tôi phải lên rừng
Hái lá khổ sâm
Tự mình cất lấy ly rượu sống...

Ôi rượu khổ sâm đắng lắm!
Đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian...

Bạn hữu thân thiết ơi!
Xin đừng trách cứ tôi
Sao trong câu thơ tôi cứ lẫn nhiều vị đắng
Chỉ vì
Tôi vừa ngâm ngợi câu thơ
Vừa cạn chén rượu đời
Cất bằng lá khổ sâm...
Rượu là bậc thiên tài tạo nên ảo tưởng



SAY

Tăm tăm tình bạn
Chếnh choáng tình đời
Líu lưỡi tình người
Nôn nao thân phận!...
Chiếu rách ta ngồi
Lắc lư thuyền sóng
Cái giường long mộng
Một giòng sông trăng...
Ta cũng Lý Bạch!
Vồ trăng đáy sông
Mạn thuyền vừa cúi
Râu tóc bỗng lừng
Mắm tôm, chanh, ớt...
Trăng ta vồ được
Một mảnh ni lông!
Ta hơn Lý Bạch
Ta vồ được trăng!
Trăng ta đem gói
Nào dồi nào lòng...
Bên ta mỹ nữ
Mặt hoa che đàn
Ta Bạch-Cư-Dị!
Khách bến Tầm Dương..
Tư mã Nghi Tàm
Lệ đầm áo rách
Câu thơ bị biếm
Mềm môi ngâm tràn
Giai nhân! Giai nhân!
Mặt hoa ửng đỏ
Vì cảm thơ ta
Hay vì men lửa
Nghiêng đàn tỳ bà
Trăng rọi mặt hoa...
Ta nhìn xuống mâm
Lòng dồi như vét...
Vừng trăng nhoe nhoét
Một đống tỳ bà!
Ta nhìn giai nhân
Té mụ nạ giòng
Ta quen biết cũ
Nghiêng đàn tỳ bà
Té ra bát đũa
Tay gắp miệng và...
Ha ha, ha ha!
Cười đâu ta khóc...
Ta cười Lý Bạch
Cười giòng sông trăng
Cười Bạch Cư Dị
Cười bến Tầm Dương
Ta cười giai nhân
Mặt hoa che đàn...
Ta cười thân ta
Thiên sinh ngã tài...(1)
Mà ta vô ích
Vô ích! vô ích!
Ta cười rượu xoàng
Uống hoài vẫn tỉnh!...


 CÓ

Giấy trắng quá

Mắt em trong quá
Liệu thơ tôi có xứng trắng trong này...
Đây đâu phải thơ
Chỉ là những tiếng tôi thì thầm lúc buồn khổ
Để nguôi đau, tôi chẳng muốn ai hay...
Nhưng em đã đến
Mắt trong và giấy trắng
Trưa Hồ Tây, mặt trời (*) nở đỏ vườn
Chỉ một lý do ấy
Tôi đã không từ chối được
Hát cho em nghe những tiếng tôi nấc thầm...
Nếu em cứ bảo đó là thơ
Thì hãy coi thơ này hát lên từ lá cỏ
Lá cỏ vệ đường
Lá cỏ không tên
Người này lặng im nghe cỏ hát
Người kia xéo giày, dẫm đạp lên...
Nhưng không sao cả em ơi
Cỏ sinh ra là để gót giầy dẫm đạp
Để vô danh
Để xanh

Để hát


Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe


Ngoài trời trăng như tuyết
Trắng lạnh đến thấu xương
Trong nhà vách trống toang
Gió ra vào thoả thích...
Hồ khuya sương tĩnh mịch
Trộn nước lẫn cùng trời
Con dế chân bờ dậu
Nỉ non hoài không thôi...
Tựa lưng ghế cành ổi
Vai khoác áo bông sờn
Tôi ngồi đọc Đỗ Phủ
Vợ vừa nghe vừa đan...
Đỗ Phủ tự Tử Mỹ
Thường xưng già Thiếu Lăng
Sinh ở miền đất Củng
Cách ta hơn ngàn năm
Thơ viết chừng vạn trang
Chín nghìn trang thất lạc
Người đời sau thu nhặt
Còn được hơn ngàn bài
Chỉ hơn ngàn bài thôi
Nỗi đau đã Thái Sơn
Nếu còn đủ vạn trang
Trái đất này e chật!...
Thơ ai như thơ ông
Lặng im mà gầm thét
Trang trang đều xé lòng
Câu câu đều đẫm huyết...
Thơ ai như thơ ông
Mỗi chữ đều như róc
Từ xương thịt cuộc đời
Từ bi thương phẫn uất
Thơ ai như thơ ông
Kể chuyện mái nhà tốc
Vác củi làm chuồng gà...
Đọc lên trào nước mắt!
Giữa tuyết trong đò con
Đỗ Phủ nằm chết đói
Đắp mặt áo bông sờn
Kéo hoài không kín gối.
Ngàn năm nay sông Tương
Sóng còn nức nở mãi
Khóc chuyện áo bông sờn
Đắp mặt thơ chết đói!...
Giật mình trên tay vợ
Bỗng nẩy một hạt sương
Hạt nửa rồi hạt nửa
Tôi nghẹn dừng giữa trang.
Kéo áo bông che vai
Ngồi lặng nghe sương rơi
Con dế chân bờ dậu
Nỉ non hoài không thôi!...
Vụng về... tôi dỗ vợ:
Em ơi đừng buồn nữa
Qua rồi chuyện ngàn năm
Bao nhiêu nước sông Tương...
Miệng nói nhưng lòng nghĩ:
Ôi thân phận nhà thơ
Khác nào thép không rỉ
Ngàn năm cũng thế thôi!...
Đã đi với nhân dân
Thì thơ không thể khác
Dân máu lệ khốn cùng
Thơ chết áo đắp mặt!
Em ơi, nếu Đỗ Phủ
Vai khoác áo lông cừu
Bụng no đến muốn mửa
Viết sao nổi câu thơ
Ngàn năm cháy như lửa:
Cửa son rượu thịt ôi
Ngoài đường xương chết buốt
Em ơi, nếu Tử Mỹ
Nhà ở rộng mười gian
Rào sắt với cổng son
Thềm cao đá hoa lát
Chắc ông không thể làm
Mưa thu mái nhà tốc
Em ơi, nếu Thiếu Lăng
Cặp kè vợ béo nứt
Một bước là ngựa xe
Đứng đi quân hầu chật
Đời nào ông lắng nghe
Tiếng gào và tiếng nấc
Bà cụ xóm Thạch Hào
Gái quê tân hôn biệt...
Đã đi với nhân dân
Thì thơ không thể khác
Dân máu lệ khốn cùng
Thơ chết áo đắp mặt!
Chính vì thế em ơi
Nhân loại ngàn năm qua
Máu chảy như sông xiết
Cũng là để cho Thơ
Sẽ không còn phải viết
Những Hành qua Bành Nha
Vô gia Thuỳ Lão biệt...
Cũng là để cho Thơ
Sẽ không còn phải chết
Giữa tuyết, trong đò con...
Đắp mặt áo bông sờn.
Đừng buồn nữa em ơi
Chuyện ngàn năm... ngàn năm

ĐẶNG TIẾN * THANH TÂM TUYỀN

Ðặng Tiến - Thanh Tâm Tuyền

Ðặng Tiến

Nhà thơ, nhà văn Thanh Tâm Tuyền qua đời trưa ngày 22 tháng 3-2006, tại thành phố Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ, thọ 70 tuổi.

Thanh Tâm Tuyền là một tác gia chính yếu đã làm mới nền văn học Miền Nam, trước 1975, và góp phần tạo nên một khúc quành cho văn học Việt Nam nói chung trong nửa sau thế kỷ 20. Ông đã làm mới câu thơ, bài thơ, ý thơ và quan niệm thi ca Việt Nam. Ông cũng làm mới câu văn xuôi, cách kể chuyện bắt đầu từ truyện Bếp Lửa.

Ông du nhập nghệ thuật phương Tây bằng cách đọc trực tiếp, không kinh qua trường học Pháp thuộc như các nhà văn, nhà thơ lớp trước. Ảnh hưởng phương Tây do đó có tính cách trực tiếp, tự do và sáng tạo. Ngược lại, ông có khả năng thiết lập quan hệ hữu cơ và mật thiết giữa các bộ môn văn học và nghệ thuật: Thơ, Văn, Nhạc, Họa, như ở các nước phương Tây.

Về nội dung chính yếu, chất liệu trong thơ văn Thanh Tâm Tuyền là ý thức thất bại. Thất bại của con người trước Ðịnh mệnh nói chung, cụ thể là sự bất lực của giai cấp trí thức tiểu tư sản Việt Nam trước thời cuộc. Viết văn, làm thơ, làm nghệ thuật nói chung, là cố gắng vượt qua sự thất bại đó, biến nó thành nghệ thuật.

Thanh Tâm Tuyền là người sâu sắc, uyên bác, tài hoa, nghiêm túc, tư cách và tiết tháo.


Thanh Tâm Tuyền tên thật là Dzư văn Tâm, sinh ngày 13 (có nơi ghi 15) tháng 3 năm 1936, tại Vinh, Nghệ An. Trong bài Thơ Mừng Năm tuổi, làm năm Nhâm Tý 1972, ông đã kể chi tiết tiểu sử 1. Từ 1952, ông đã đi dạy học, trường Minh Tân, Hà Ðông và có truyện đăng báo Thanh Niên, Hà Nội.

Sau đó, 1954 vào Nam hoạt động trong Tổng Hội Sinh Viên Hà Nội di cư , cùng với những người sẽ trở thành bạn văn nghệ về sau: Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, cùng chủ trương nguyệt san Lửa Việt.

Tại Sài Gòn, 1955, ông viết cho các tuần báo Dân Chủ, Người Việt và nổi tiếng từ những tác phẩm đầu tay, tập thơ Tôi Không còn Cô Ðộc, 1956, và truyện Bếp Lửa, 1957. Thời điểm này, ông tích cực tham gia biên tập báo Sáng Tạo (1956-1960) do Mai Thảo đứng tên, và ông thường được xếp vào “nhóm” Sáng Tạo, có ảnh hưởng lớn trên văn học Miền Nam suốt một thập niên.

1962, bÐ động viên vào trường Sĩ quan Thủ Ðức, được giải ngũ, rồi tái ngũ trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, phụ trách chủ yếu việc huấn luyện văn hóa, và làm báo quân đội, “tám năm quân ngũ chưa nổ một phát súng với đch” (1972), cấp bực cuối cùng là Ðại úy. Sau 1975, bÐ bắt đi học tập, trong 7 năm, tại trại Long Giao (Long Khánh) và nhiều trại cải tạo Miền Bắc. Cuối cùng sang đnh cư tại Hoa Kỳ từ 1990. Ông qua đời vì ung thư phổi, tại nơi cư ngụ.

Thanh Tâm Tuyền là tác giả khoảng mười đầu sách; ba tập thơ: Tôi Không Còn Cô Ðộc (1956), Liên - Ðêm - Mặt Trời Tìm Thấy (1964, Sài Gòn), Thơ ở Ðâu Xa (1990, Mỹ). Ba truyện: Bếp Lửa (1957), Khuôn Mặt (1964), Dọc Ðường (1967). Bốn tiểu thuyết: Cát Lầy (1966), Mù Khơi (1970), Tiếng Ðộng (1970) Một Chủ Nhật Khác (tháng 2, 1975). Một vở kÐch ngắn: Ba ChÐ Em (1965). Một phiếm luận Tạp Ghi (1970). Ông còn nhiều tác phẩm chưa xuất bản, như tiểu thuyết Ung Thư đăng nhiều kỳ trên báo Văn, từ 1964, là một tác phẩm quan trọng.

Miền Nam Việt Nam những năm 1955-1960 bừng lên một sinh khí văn hóa. Hằng triệu người từ Bắc di cư vào Nam, những người từ nông thôn bước vào, hay trở về thành thÐ sau chiến tranh, tình hình an ninh và giá cả ổn đÐnh, các trường trung và đại học phát triển, sách báo, điã nhạc, nhập khẩu ào ạt với giá rẻ nhờ ngoại viện. Thơ Thanh Tâm Tuyền xuất hiện trong bối cảnh đó. Ít người mua và cầm trong tay tập thơ Tôi Không Còn Cô Ðộc, nhưng nhiều người, nhất là giới thanh niên, đọc thơ ông trên tạp chí Sáng Tạo, bên cạnh thơ hiện đại khác của Tô Thùy Yên, Quách Thoại, Nguyên Sa, Trần Thanh Hiệp, Người Sông Thương.

Người đọc theo dõi, tìm hiểu, chứ thật sự yêu thích thì không nhiều; cũng có người, có bài báo chê trách là thơ lập d, bí hiểm, hũ nút.

Mười lăm năm sau, tháng 11-1973, khi sự nghiệp thơ văn Thanh Tâm Tuyền đã an v, báo Văn đã ra một số đặc biệt về đề tài này, ngày nay là tư liệu hiếm quý. Trên báo này, Lê Huy Oanh, nhà biên khảo chuyên về thơ, đã có hai bài: một bài kể lại quá trình tiếp xúc thơ Thanh Tâm Tuyền, từ chỗ ghét bỏ đến yêu thích; một bài giải thích “lối thơ Thanh Tâm Tuyền” qua bài Phục Sinh nổi tiếng trong sự khen chê, với những câu: Tôi buồn khóc như buồn nôn& Tôi buồn chết như buồn ngủ;

Tôi Không còn Cô Ðộc có lẽ chỉ là lời tâm nguyện như khi nhà thơ nói tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ, hay có người cầm súng bắn vào đầu / đạn nổ nhp ba / không chết. Người đọc bực mình vì những lời lạ lẫm như thế thì ít, nhưng nhiều người phẫn nộ vì lời thách thức in ở đầu sách:

“Ở đây tôi là hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào trong đất đai của tôi, người hoàn toàn tự do. Ðể cai trÐ tôi có những luật lệ tinh thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhập lãnh thổ. Người hoàn toàn tự do. Và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ”.

Lê Huy Oanh kể lại rằng: “trước đó tôi đã quẳng tập thơ qua cửa sổ, rồi lại nhặt lên, trân trối nhìn nó một hồi lâu trước khi từ từ, rất từ từ ấp nó vào ngực” (báo Văn đã dẫn, tr.8). Dĩ nhiên đây là cách nói tượng trưng.

Trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Tâm Tuyền nhất đnh phải biết câu thơ phá thể thời 1946, như Nhớ Máu của Trần Mai Ninh, Ðèo Cả của Hữu Loan, Sáng mát trong như sáng năm xưa của Nguyễn Ðình Thi. Nhưng dù phá thể, câu thơ này vẫn còn giữ vần điệu. Thanh Tâm Tuyền phá vỡ cái vỏ ngữ âm của câu, hay bài thơ: loại trừ vần, không theo nhp của ngôn ngữ, xáo trộn thanh điệu bằng trắc; muốn như thế, ông phải sắp xếp lại ý tưởng, hình ảnh, để làm mới ngôn ngữ. Thơ xưa đem tư tưởng ra “diễn ca”, còn Thanh Tâm Tuyền tháo gỡ guồng máy ngôn ngữ ra từng bộ phận rồi lắp ghép lại thành những chức năng mới, trong văn bản mới.

Dựa trên lời Nietzsche, ông gọi đây là quan niệm nghệ thuật Dionysos đối lập với quan niệm Apollon, “nghệ thuật phá vỡ những hình thức sẵn có hỗn loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một vẻ đẹp hãi hùng mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm”.

Câu này trong bài Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay, Thanh Tâm Tuyền viết năm 1955 - khi ông 19 tuổi - là một văn kiện cơ bản, trong lý luận về thơ. Trong chừng mực nào đó, nó tiếp nối bài Mấy Ý Nghĩ về Thơ của Nguyễn Ðình Thi năm 1949, về nguyên tắc và lý thuyết. Về mặt nội dung và thực tiễn sáng tạo, Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn.

Chất hiện đại trong thơ ông một phần do ảnh hưởng thơ thế giới, chủ yếu là thơ Pháp, từ Rimbaud, Lautréamont đến Apollinaire, nhất là thơ Siêu Thực của nhóm Breton, Eluard, mà ông tiếp thu trực tiếp, mà không kinh qua nhà trường Pháp thuộc như thế hệ đi trước. Thanh Tâm Tuyền không học đúng bài bản như Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, cho nên tự do hơn. Xuân Diệu, về già, vẫn mơ ước làm một Ronsard. Thanh Tâm Tuyền thạo tiếng Pháp, ham đọc, nên tiếp xúc được với nhiều tác giả trên thế giới từ Gorki, Plekhanov, Marx, Trosky đến những tác giả mới hơn như Laưrence Durrell hay Soljenitsyne qua tiếng Pháp. Từ đó, thơ ông có chất quốc tế, trong nền Cộng Hòa Thế Giới:
Các anh Cộng Hòa đã chiến đấu cho Tây Ban Nha
Xứ sở Lope de Vega Garcia Lorca
Một Breton tình điên còn nức nở
Mà Hy vọng Malraux còn thổn thức
Và mãi Ernest còn tiếc thương
Andalousie đói quên khiêu vũ
Việt Nam ốm yếu quên ca dao

Câu quốc tế caỴ của Thanh Tâm Tuyền nhiều người thuộc nhất có lẽ là hai câu đầu dùng làm tựa đề cho bài thơ, đăng trên báo Sáng Tạo, số 4 tháng Giêng 1957 :
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest

Bài này làm vào tháng 12-1956, một tháng sau khi Hồng Quân Liên Xô, nhân danh khối liên minh quân sự Vác-xô-vi tràn ngâp Hung-ga-ri và thủ đô Bu-đa-pet. Sau đó ông còn làm tiếp Bản Anh Hùng Ca Budapest cũng đăng trên Sáng Tạo.

Thanh Tâm Tuyền chưa bao giờ ra khỏi Việt Nam cho đến ngày sang Hoa Kỳ đnh cư vĩnh viễn. Nhưng thơ ông đầy những thành phố: Vác-xô-Vi, Béc-Lin, Bình Nhưỡng, Bắc Kinh, Moscou, Praha, Paris, Madrid, Bruxel, Genève. Nhưng không có lũy tre, con đò, bờ dâu, nương sắn. Thơ Thanh Tâm Tuyền là thơ thành phố: thơ Pháp, đến Prevert là hoàn toàn đô th hóa; thơ Việt Nam, đến Thanh Tâm Tuyền cũng quành vào đô thị. Xưa kia, Nguyễn Bính đã mơ Phường Chèo làng Ðặng; gần hơn, Ðinh Hùng còn nhớ tháng giêng quê bạn hội đêm rằm; đến Thanh Tâm Tuyền Tôi Không Còn Cô Ðộc là tên một bài thơ dưới dạng hợp xướng hiện đại, với nhiều giọng hát, và có giọng thi sĩ:
Tôi đã chết nghẹn ngào
ôm tình yêu tự do chật ngực
tôi chết và chối từ
đừng ai gọi tôi là thi sĩ
(&)
Hôm nay tôi dự hội
hôm nay dùng mắt nhìn
hôm nay dùng lời dÐu
cô độc phút tan tành
tôi không còn cô độc

Ông già: tôi không còn cô độc
Hợp xướng: tôi không còn cô độc
Em gái: tôi không còn cô độc
Hợp xướng: không ai còn cô độc
không ai còn cô độc

Thơ Thanh Tâm Tuyền khi ngân vang hợp xướng, khi u uẩn tiếng kèn đồng:
Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những giòng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của máu của tủy của hờn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng không lối rừng mãi trống không
(&)
Vì blues không xanh, vì điệu blues đen
Trên màu da nức nở
(Ðen, Sáng Tạo, số 8, tháng 5-1957)

Thơ Thanh Tâm Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không gian nhìn ra thế giới. Ðây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác dù rất hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thùy Yên, chủ yếu ta thấy thảm kch Việt Nam; thơ Lê Ðạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người dân châu thổ Sông Hồng; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh thót giọt mưa dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới, không phải là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người, chủ yếu là người nhược tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ tính cách dân tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện: trong thế giới có Việt Nam và trong Việt Nam có thế giới. Trong Guernica của Picasso có Bến Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam có Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là một bước ngoặt trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam là vậy.

Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế. Bản thân Thanh Tâm Tuyền về sau, trong tập Thơ ở đâu xa cũng trở về với những thể thơ truyền thống. Nhưng đây là những bài thơ làm trong lao lý, trong những hoàn cảnh đặc biệt, không cho phép chúng ta suy diễn về lý thuyết. Dù sao ông đã mở ra những chân trời mới và cách tân quan niệm thi ca.

*

Câu thơ, bài thơ mới, đọc qua thấy ngay. Câu văn, cuốn truyện mới, khó nhận ra hơn. Người bình luận phải phân biện: mới so với cái gì, và mới ra sao. Nhưng điều cụ thể nhất lại là: người đọc đương thời có nhận ra nét mới ấy không?

Thưa rằng có. Nhà văn Nguyễn quốc Trụ, 1973, trên báo Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền đã dẫn, có một bài viết căn cơ trình bày giá trÐ, nghệ thuật và tính chất súc tích của truyện Bếp Lửa, 1957. Ông trích dẫn cặn kẽ nhiều văn bản, nhiều tham khảo, để lại một chứng từ chính xác 2.

Tôi còn một chứng từ riêng: bạn tôi là Ðinh Ngọc Mô, nhiều người biết vì có thời hướng dẫn mục Ðố Vui Ðể Học trên truyền hình Sài Gòn, quen nhau từ 1965 tại Ðà Lạt, gặp lại nhau 1970 tại Paris. Lúc ấy, Mô sống vất vả, lang bang, đi đàn hát trong các nhà hàng Việt Nam để mưu sinh. Một tối về khuya, dọc Boulevard des Italiens, Mô đã đọc thuộc lòng cho tôi nghe những trích đoạn dài của Bếp Lửa mà anh tâm đắc và cho là tân kỳ. Thuộc thơ Thanh Tâm Tuyền đã là khó, thuộc văn xuôi lại không dễ. Vắng tin nhau khá lâu, có người mách là Mô đã qua đời, đã tự tử bên Canada. Tôi không muốn tin, nhưng mỗi lần mở truyện Bếp Lửa, là tôi tìm lại những đoạn Mô đã đọc, cho đến bây giờ sách đã vàng ố, tả tơi, rách nát như cuộc đời của chúng tôi. Trước khi kể lại chuyện này, tôi rà lại tin tức, thì bè bạn bốn bể năm châu đều xác nhận chuyện buồn. Mà tôi vẫn chưa tin, và muốn hỏi Mô: Mô ơi, thật à? Cậu ấy vui tính, hay đùa.

Bạn đọc cho là tôi lạc đề. Thân tình thì biết tôi chỉ mới lạc dòng, lạc giọng, mà không lạc đề.

*

Tiềm năng độc giả thời đó là học sinh trung học: sinh viên đại học chưa nhiều. Và chúng tôi thiếu sách để đọc. Văn chương quốc ngữ thời đó, bỏ ra một kỳ nghỉ hè, có thể đọc hết toàn bộ.

Sách Tự Lực, Vũ Trọng Phụng thì đọc cả rồi& Các tác gia ở lại miền Bắc ít được tái bản. Và chúng tôi khao khát cái mới, các truyện ngắn của Doãn Quốc Sỹ, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Thao Trường. Những Chiếu hoa cạp điều, với Hương gió lướt đi. Thậm chí, chúng tôi còn bất công với cái cũ: tạp chí Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh bán chạy được hai số, rồi thôi. Ðoán già đoán non: các vị Ðinh Ngọc Mô, Nguyễn Quốc Trụ, cũng như tôi, đã đọc Bếp Lửa trên ghế trường trung học, trước khi hư thân mất nết ở nơi khác.

Bếp Lửa là một truyện vừa, vừa một trăm trang. Thanh Tâm Tuyền viết liền mạch, rất nhanh, trong vài tháng, xong tháng 10-1956, đưa đi kiểm duyệt và xuất bản ngay3. Không có độ lùi để sửa chữa. Sau này, khi tái bản, ông muốn sửa chữa, nhưng không làm được và viện dẫn Malraux: người ta không viết lại được một cuốn sách. Nhưng có một truyện ngắn Ðại Lộ, nội dung na ná, in lại trong tập truyện Khuôn Mặt, 1964.

Truyện được viết từ ngôi thứ nhất tôi. Người kể, tôiỴ tên Tâm, cùng tên với tác giả, đi dạy học tại một trường công giáo tại Bắc Ninh, còn tác giả dạy tư thục ở Hà Ðông, khoảng 1952.

Tuy nhiên Bếp Lửa không phải là tự truyện, đại khái như tác phẩm Kẻ Dưng, Etranger, 1942 của Albert Camus, bắt đầu bằng câu nổi tiếng: hôm nay mẹ tôi mất, nhưng chính bà mẹ Camus lại sống lâu hơn tác giả. Trong Bếp Lửa, Tâm mồ côi bố từ nhỏ, sau đó mồ côi mẹ, trong khi bà cụ tên thật là Thạch thị Kim, ngày nay còn sống, ở Long Khánh. Tính cách mồ côi ở đây là một ẩn dụ, như ở Kẻ Dưng hay Cũng Ðành của Dương Nghiễm Mậu sau này.

Không phải là tự truyện, nhưng Bếp Lửa phản ánh tâm trạng tác giả, và một số thanh niên đồng lứa vào thời điểm trước hiệp định Genève, 1954, tại Hà Nội, và vùng phụ cận dưới sự kiểm soát của Pháp. Chủ yếu là những nét chấm phá nhẹ nhàng, nhưng rất sắc về tâm thức chính trị của con người lúc đó qua những nhân vật: ông Chính, đảng viên Quốc Dân Ðảng, còn hoạt động; Bảo có tham dự phong trào Ngũ Xã nhưng nay đã tuyệt vọng; Ðại say đắm chủ nghĩa mác xít và chuẩn bị ra khu; Hòa nhân viên phòng nhì; Ngọc hoàn toàn hư vô và chối từ tổ quốc; Giữa họ là những nhân vật nữ, hiền lành, vô tội, như chị em Thanh và Minh, em họ Tâm; Hạnh; Thịnh vào ra giữa hai vùng; Còn Tâm? anh xê dịch giữa đám người đó, không thân không sơ, và nói như Meursault, nhân vật Kẻ Dưng: không biết rõ mình muốn gì, nhưng biết rõ những điều mình không muốn. Khi Tâm bị ông hiệu trưởng cho thôi việc, ngạc nhiên một chút rồi rửng rưng ngay. Tôi không hỏi vì cớ gì ông muốn tôi nghỉ việc cũng như ông đã quên không nói cho tôi biết; Tôi cũng chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhõm vô cùng và ngủ một giấc rất say (tr.90).

Trong thế giới ấy, quan hệ tình cảm cũng mong manh, sắc sắc không không, như giữa Tâm và Thanh, một cô em họ, cũng mồ côi cha mẹ. Ðôi khi tôi nghĩ tôi có thể yêu Thanh và che chở cho Thanh, giây thân thích giữa cúng tôi không đáng kể (&) nhưng chưa bao giờ tôi nói ý nghĩ của tôi cả (tr.12).

Quan hệ tính dục cũng nhẹ nhàng thôi. Tâm gặp lại Hạnh, một cô bạn học cũ, đi cùng một chuyến xe chở hàng từ Bắc Ninh về Hà Nội. Ðến Hà nội, mưa lớn hơn, chúng tôi cùng đi ăn cơm với nhau. Và đêm ấy tôi ngủ với Hạnh ở khách sạn (tr.72). Chấm dứt chương 4. Bước sang chương 5:
Tôi có cùng về Hà Nội với Hạnh một vài lần. Gần nhau, tôi nhận thấy chiến tranh - hay chỉ cần sự de dọa của chiến tranh, tổng quát là sự khủng bố tinh thần - đã thổi vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt tình trong yêu đương (&). Sau mỗi lần như thế, khi lấy lại bình thường, Hạnh có vẻ ngượng ngùng. Có một lần nằm cạnh tôi, Hạnh nắm tay tôi để lên ngực nàng nói:
Anh có khinh em không? (tr.76)

Dĩ nhiên là các vị Nam Tào văn truyện kiêm Bắc Ðẩu lịch sử sẽ có người bắt bẻ, hạch hỏi: chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, hay bảo vệ tự do, chỉ có kích thích tính dục người phụ nữ hay sao? Bếp Lửa là một trước tác nghệ thuật, và Thanh Tâm Tuyền đã có lần nói: “người nghệ sĩ đưa sinh mệnh mình để đảm bảo sự thành thật của tác phẩm”, thì ắt không buồn quan tâm đến những vấn nạn ấy. Ðiều chúng ta ghi nhận là nét hững hờ, lãnh đạm của Tâm đã thổi dạt Bếp Lửa trôi xa, không những với Giòng sông Thanh Thủy của Nhất Linh mà còn xa với Khu Rừng Lau của Doãn Quốc Sỹ hay Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan đồng hội đồng thuyền.

Một thắc mắc, nhỏ thôi: không khí Hà Nội khoảng 1950-1952 nhất đÐnh phải khác xa không khí Sài Gòn 1970-1972. Nhưng về cơ bản, tâm lý thanh niên trí thức có khác nhau nhiều không?

Ngày nay, ngọn lửa chiến tranh vẫn còn tàn phá nhiều nơi trên thế giới; và giữa tiếng kêu la thất thanh của trẻ con, vẫn có lời vinh danh Thượng Ðế. Trong Bếp Lửa, Thanh Tâm Tuyền đã viết “theo tôi có những lúc người ta cần giải quyết giữa người và người và Thượng Ðế không nên có mặt ở lúc ấy (&) Thượng Ðế đã bÐ lôi kéo vào tấn thảm kÐch riêng tư của loài người và chỉ có thể thoát ra với sự thất bại” (tr.67).

Tại Việt Nam, một giải đất còm cõi đau thương, năm 1956, một thư sinh mặt trắng, 20 tuổi, đã viết dõng dạc được một câu như thế, kể cũng là lời tiên tri lạ lùng và cao siêu đấy chứ?

*

Về phong cách, Bếp Lửa là một tác phẩm làm mới văn chương chữ nghĩa theo nhận định của Nguyễn Quốc Trụ trong bài đã dẫn. Vậy mới, là so với cái gì, và mới ra sao?

Trong một bài viết tưởng mộ Nguyễn Ðức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, Thanh Tâm Tuyền 1974 đã viết: “Cùng với Những Ngày Thơ Ấu của Nguyên Hồng, Thằng Kình là quyển tiểu thuyết quan trọng đối với tôi. Ðó là quyển sách đã vỡ lòng, đã mở mắt (&) Tôi không phải là người của một vài quyển sách. Trước và sau khi đọc Thằng Kình, Những Ngày Thơ Ấu, tôi đã đọc hầu hết tiểu thuyết Việt Nam, tôi hiểu được giá trÐ, tôi cảm được cái hay của nhiều tác giả khác nhưng chỉ có hai tác giả Nguyễn Ðức Quỳnh và Nguyên Hồng gây được ở tôi lòng ngưỡng mộ. Văn chương phát sinh từ lòng ngưỡng mộ. Nên tôi không bao giờ quên ơn người đã khơi dậy lòng ngưỡng mộ nơi tôi” 4.

Một lời tình tự như vậy, ở một người ít tự sự như Thanh Tâm Tuyền là quý hóa, là một chìa khóa đưa ta vào thế giới tiểu thuyết, mối hạnh phúc đau đớn, bắt đầu từ Bếp Lửa, rồi đến Khuôn Mặt, Dọc Ðường, Cát Lầy, Ung Thư, Mù Khơi, Tiếng Ðộng&

Ðối với Thằng Kình (1942, nxbHàn Thuyên, Hà Nội), niềm ngưỡng mộ có lẽ dừng lại ở nội dung mới lạ của tác phẩm, thêm chút tình riêng với tác giả. Chứ nhân vật Kình, khỏe mạnh, tự tin, tích cực rất xa với nhân vật truyện Thanh Tâm Tuyền; hành văn rậm rạp của Nguyễn đức Quỳnh cũng xa với lối viết trần trụi trong Bếp Lửa.

Gần nhau hơn là Những Ngày Thơ Ấu, Nguyên Hồng viết năm 1938, khi 20 tuổi, như trường hợp Bếp Lửa, dưới dạng tự truyện ở ngôi thứ nhất. Bằng giọng văn đơn giản, Nguyên Hồng kể lại tuổi thơ cơ cực, một cách thành thực, như chuyện người mẹ ngoại tình bÐ gia đình nhà chồng hắt hủi mà đứa con một mực yêu thương. Nhưng cơ bản thì hai truyện khác nhau: Những Ngày Thơ Ấu là tự truyện của một người, dĩ nhiên là mang nét xã hội; Bếp Lửa là truyện một thế hệ thanh niên ưu thời mẫn thế, mang nặng chất trí thức và chính trÐ. Nguyên Hồng viết đơn giản, nhưng thỉnh thoảng vẫn có những đoạn văn chương, ví dụ ngay ở chương I (Tiếng Kèn): Những buổi chiều vàng lặng lẽ& Buổi chiều nào cũng vậy&, không hề có trong Bếp Lửa. Và trong một bài báo, Nhân Nghĩ về Hội Họa, 1956, Thanh Tâm Tuyền khước từ lối “văn chương có thể đặt tên là văn chương của bài tập đọc, luận mẫu cho học trò” (Văn 11/1973, tr. 78). Từ đó, đem Bếp Lửa ra giảng dạy ở học đường là việc khó, vì khó tìm ra một vài trích đoạn tiêu biểu gọi là “trích diễm”. Kinh nghiệm của tôi: yêu cầu sinh viên phải đọc toàn bộ tác phẩm, rồi đưa ra những chủ đề tổng hợp, về hình thức, nội dung. Ví dụ lối kể chuyện đơn tuyến, một mạch theo dòng thời gian, không một lần quay lại quá khứ Ợ cho dù có rơi rớt một vài kỷ niệm - về người mẹ và bà ngoại.

Lối dùng từ bình dÐ, ưu tiên cho từ đơn âm, ít từ kép, càng ít từ hán việt hay thành ngữ.

Lối đặt câu ngắn, có khi cụt ngủn, có khi lược từ. Câu văn cô đúc, có lúc khó hiểu, như là lời nói nén chặt nội tâm: Một bên đường cỏ hoang và núi đóng đồn binh (tr.47). Ngọn núi bắt đầu thấy cứng mình vì nghe nắng sắp về dữ dội (tr. 87). Câu được nhiều người nhắc: Buổi sáng mùa đông ngây ngất vào lối 10 giờ (tr.11). Buổi chiều ngất ngư chưa muốn ngã (tr.28).

Nhưng nét mới quan trọng là không khí chung của toàn truyện Bếp Lửa, không phân biệt nội dung, tư tưởng, hình thức, nghệ thuật và ngữ pháp. Thậm chí người đọc có thể hỏi: Bếp Lửa, bếp lửa nghĩa là gì?

Với tôi, có lẽ thêm vài kẻ bạn, Bếp Lửa là một bài hát.

Bài hát ỡ”chỉ được nghe một lần trong đời. Bài hát xưa lắm, những người thích nó kẻ đã chết, người còn sống thì quên không nhắc lại. Riêng tôi, tôi thường thì thầm với chính mình những phút cô đơn” 5.

Có ai đó đã viết đâu đó về âm hưởng nhạc blues trong thơ Thanh Tâm Tuyền, tôi chỉ biết ông đã thiết lập quan hệ mật thiết giữa các bộ môn nghệ thuật. Ðiều này, ngày xưa, nhóm Tự Lực đã làm, nhưng còn hời hợt, dù rằng nhà văn Nhất Linh, nhà thơ Thế Lữ, khởi đầu là những sinh viên trường Mỹ Thuật. Thời đó, họ chỉ đặt những tác phẩm nghệ thuật bên cạnh nhau. Họa hoằn lắm mới có bài Nguyễn Tuân về tranh Nguyễn Phan Chánh. Ở Việt Nam, không có nhà thơ sành hội họa như Baudelaire, cũng không có tình bằng hữu giữa các nhà thơ như Aragon, Eluard với họa sĩ Picasso hay Chagall ở Pháp. Thanh Tâm Tuyền thật sự muốn bắc cầu giữa các bộ môn nghệ thuật, nhất là giữa thơ và hội họa, và thân thiết với các họa sĩ Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh, bài Nhân nghĩ về Hội họa viết năm 1956 - hai mươi tuổi - ông đề tặng ba người ấy.

Họa sĩ Thái Tuấn kể lại rằng trong một cuộc triển lãm năm 1958, ông có bức sơn dầu vẽ một người đàn ông đội mũ đeo ống sáo trên vai, chừng mực nào đó, là một chân dung tự họa; ông không biết đặt tên là gì. Thanh Tâm Tuyền đề nghÐ gọi là Hóa Thân, Thái Tuấn rất tâm đắc. Ý nhà thơ : anh vẽ cái gì thì cũng là hóa thân vào bức họa, tranh nào rồi cũng thành chân dung họa sĩ. Nghe chuyện, tôi cứ nghĩ Thanh Tâm Tuyền mượn ý từ một tựa đề tiểu thuyết của Kafka. Ðọc lại bài báo nói trên, tôi mới vỡ lẽ ông tham chiếu vào một chuyên khảo về nghệ thuật của Malraux Những hóa thân của Apollon Ợ les Métamorphoses dỴApollon, 1951, và ông thường tâm đắc với Malraux.
Ông viết trong bài Nhân nghĩ về Hội họa :
Tôi công nhận nghệ thuật như một nghề như mọi nghề khác khi tôi hiểu rằng muốn làm được nghệ thuật người ta cũng cần học hỏi, luyện tập như tập sự bất cứ nghề gì. Ðến đó thôi. Khi những nhà nghệ sĩ chân chính, để bảo đảm sự thành thực của tác phẩm, đã mang sinh mệnh chính mình ra thách đố, thì lúc ấy nghệ thuật không còn là một nghề nữa, nó là hành động siêu việt của nhân loại trong cuộc tìm kiếm đời sống chính đính” (Văn, số 11- 1973 đã dẫn, tr. 78).

Ðoạn trích văn này có thể tóm lược quan niệm và sự nghiệp văn thơ, nghệ thuật của Thanh Tâm Tuyền, và làm kết từ cho bài này.

Chúng tôi gửi thêm vào đó niềm kính trọng và thương tiếc khôn nguôi với một Lòng Suối Trong Xanh đã lẫn sâu vào lòng đất, trở về cõi thủy chung. Một dòng thơ đời đời thao thiết nuôi dưỡng Tình Yêu và Quê Hương trong mỗi chúng ta, cho mỗi chúng ta, trong thân phận làm người, làm người trong hay ngoài đất nước, luôn luôn trong nhân loại.

Trong truyện Bếp Lửa, sáng tác năm hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền đã hạ một câu kết, để đời, khi hiu hắt, khi ngời sáng, trong tâm thức thế hệ chúng tôi:
Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng”.

Ðời người, vô cùng rồi cũng đến vậy thôi.
Vô cùng Thanh Tâm Tuyền.
Thanh. Tâm. Tuyền.
Thanh Tâm
Tuyền.


Ðặng Tiến
Ngày giỗ Trịnh Công Sơn
Orléans, 01-4-2006

1. Thanh Tâm Tuyền, Văn, số 199, tháng 4-1972, Sài Gòn.
2 Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền, tháng 11-1973, Sài Gòn.
Nhóm Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư dự tính in lại nguyên văn số báo để tặng bạn đọc, qua e-mail tranhoaithu@verizon.net. Hoan hô Trần Hoài Thư.
3 Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa, nxb Nguyễn đình Vượng, 1957, Sài Gòn, Chúng tôi trích đọan từ bản này.
4 Thanh Tâm Tuyền, Văn, Giai Phẩm, tháng 6-1974, tr.21-22, Sài Gòn.
5 Thanh Tâm Tuyền, Buổi sáng Ngoài Bãi Biển, trong Khuôn Mặt, tr.98, nxb Sáng Tạo, 1964, Sài Gòn.

No comments:

Post a Comment