THƠ NGUYỄN TẤT NHIÊN
-
Hồng trần
January19Em mùa thi diện cũng xênh xangTừ khóa: Học trò, Tình yêu
Áo mới còn bay mùi tơ hàng
Ta tiếc dùm ai từng sợi tóc
Rụng lẻ loi sầu trên vai ngang
Em mùa thi khua đôi guốc cao
Bàn chân Nam Định rất chiêm bao
Ta sợ bùn đen vây nếp chỉ
Bởi vì tháng bảy có mưa mau
Em mùa thi mơn như trái cam
Con mắt kiêu kỳ rất Việt Nam
Ta đợi hôm nào em chợt khóc
Dù đượm u hoài hay hân hoan
Em mùa thi ưng ửng phấn hồng
Đôi má làm duyên cùng bướm ong
Ta lo ngàn cánh môi tàn nhẫn
Chờ gió giông nào rớt nụ hôn
Em mùa thi xanh màu lá non
Ve vẩy cười trên cành lộc thơm
Toan ghé tay phàm ai trộm ngắt
Đau đớn trong ta mấy trận đòn -
Cho đáng đời ai
January19Ờ bạn nào đâu có nghịch ngầmTừ khóa: Học trò, Tình yêu
Cười duyên lần lữa chẳng hồi âm
Ừ, tôi cũng thấy cô… ngoan lắm
Dài cổ tại người – bộ tại em?
Ờ bạn nào đâu có khó thương
Cười ngây thơ kéo hẹn nhì nhằng
Ừ, tôi cũng thấy cô… khờ lắm
Ai chết tại người – cho chết luôn!
Ờ cá vàng đâu có lửng lơ
Yểu điệu trời cho đẹp nhởn nhơ
Người ta cáu kỉnh vì nôn nóng
Ai nhận bà con phải ráng chờ!
Ờ tiểu thơ nhu nhã dạ thưa
Người nghe như gió động hoa đưa
Ừ, tôi cũng thấy cô… hiền lắm
Thưa dạ rồi ai chết biết chưa?
Ừ bạn từ tâm dễ mủi lòng
Cho tôi thấy được đứa lành hơn
Nhờ cô, tôi biết tôi lành lắm
Chẳng thế sao nhầm em dễ thương!
Ừ, tôi đổ quạu đến… trời ơi !
Nhiếc móc cho ai tức đáng đời
Ngày mai em cũng chưa thư nữa
Đáng đời ai vậy? Chắc đời tôi! -
Cho nhỏ ngày thi
January19Ngày thi sắp gần kề rồi đó nhỏTừ khóa: Học trò, Tình yêu
Nhỏ lo năm mà ta ngại tới mười
Sợ bài thi làm nhỏ biếng môi cười
Ta thật sự nghe lòng đau khôn xiết
Ta tưởng tượng nếu nhỏ mà thi rớt
Nhỏ sẽ buồn như những lá thu bay
Lệ thắm nồng ướt đẫm chiếc khăn tay
Như có dạo nhỏ buồn ta phải đỗ
Ta tưởng tượng nếu nhỏ mà thi đỗ
Nhỏ có mừng chưa chắc đã hơn ta
Nụ nhỏ cười sẽ rực rở như hoa
Nỗi sung sướng ửng hồng đôi má đỏ
Ngày thi đã gần kề rồi đó nhỏ
Ta không thi nhưng hồi hộp lạ thường
Đêm ta nằm cầu mong Chúa xót thương
Cho nhỏ đỗ dẫu ta… người ngoại đạo -
Hai hàng me ở đường Gia Long
January19Hôn rách mặt mà sao còn nghi ngại?Từ khóa: Học trò, Tình yêu
Nhớ điên đầu sao cứ sợ chia tan?
Mỗi lòng người một lý lẽ bất an
Mỗi cuộc chết, có một hình thức, khác
Mỗi đắm đuối có một mầm gian ác
Mỗi đời tình, có một thú, chia ly
Chiều nắng âm thầm chào biệt lũ lá me
Lá me nhỏ, như nụ cười hai đứa, nhỏ
Tình cũng khó theo thời cơm áo, khó
Ta dìu nhau đi dưới bóng nợ nần
Em bắt đầu thấy ân hận, chưa em?
Vì lỡ nói thương anh, cái thằng quanh năm túng thiếu
Ân hận, có, thì hãy nên, ráng chịu
Hãy xem như cảnh ngộ đã an bài
Như địa cầu không thể ngược vòng quay
Như Chúa, Phật phải cam go trước giờ lên ngôi Phật, Chúa
Tình cũng khó theo thời cơm áo, khó
Nên mới yêu, mà cư xử rất vợ chồng
Rất thiệt tình khi lựa quán bình dân
Khi nói thẳng: “Anh gọi cà phê đen bởi hụt tiền uống cà phê đá”
Mỗi cuộc sống thăng trầm, phải mua bằng nhục nhã
Mỗi mặt trời, phải trả giá một hoàng hôn
Đêm, chẳng còn cách khác tối tăm hơn
Nên mặt mũi ta đây, bùn cứ tạt
Môi thâm tím bận nào tươi tắn, hát
Em nhớ vờ hoan hỉ vỗ tay, khen
Để anh còn cao hứng cười duyên
Còn tin tưởng nụ hôn mình, vẫn ngọt
Khăn tăm tối hãy ngang đầu quấn nốt
Quấn cho nhau, quấn bạo, quấn cuồng điên
Vòng sau cùng sẽ gặp quỷ Sa Tăng
Bởi hạnh phúc mơ hồ như Thượng Đế
Đời, vốn không nương người thất thế
Thì thôi, ô nhục cũng là danh
Mình nếu chọn đời nhau làm dấu chấm
Mỗi câu văn đâu được chấm hai lần.
NGUYỄN HỮU HÙNG * HIỆN SINH
HIỆN SINH, CON ĐƯỜNG THƠ MỘNG
Nguyễn Hữu Hùng-Toronto
(Viết lại theo bài giảng của vị đạo sư trong lúc thiền quán)
Tôi phải dùng chữ hiện sinh mới có thể diễn tả bằng ngôn từ một cách trọn vẹn về ý nghĩa của một trạng thái tỉnh thức và trong sáng nhất của tâm thức trải qua từng giây phút theo đúng tinh thần của đạo Phật. Từ mỗi một sát na tỉnh thức này,tâm thức sẽ bùng nổ trong siêu thức mới cộng hưởng được với tất cả quang năng,điện năng, từ năng trong vũ trụ,hành giả thực sự chứng đạt được cảnh giới an lạc và phát hiện sự vật y như thật.
Ở đây tôi cũng không muốn dùng danh từ hiện sinh theo quan niệm của triết gia K.Jaspers( 1883 – 1869 ) là đại diện cho chủ nghĩa hiện sinh Đức, một người tôn sùng những tư tưởng của Nietzsche thể hiện trong tác phẩm Lý tính và hiện sinh bàn về hiện sinh tức là nhân vị tự do và tự chủ và cuối cùng là đạt tới siêu việt, đỉnh cuối cùng của hiện sinh.Đây chưa thể hiện đúng mức tinh thần hiện sinh vì còn nằm trong lý tính của một trạng thái tâm thức.
Tôi cũng không muốn nói theo hiện sinh của Jean Paul Satre, thoái trào của một tâm hồn bi quan, xô đẩy con người vào sự hưởng thu, nô lệ thân xác một cách trọn vẹn và sa đọa nhất trong các thập niên 50,60 ở Pháp và Âu châu .Tác phẩm Buồn Nôn đã đưa ông lên địa vị vinh quang với giải văn học thế giới Nobel. Hơn nữa, chủ nghĩa hiện sinh của Pháp không dừng lại ở lý luận mà còn hòa nhập vào cuộc sống mới của thanh thiếu niên thời đại lúc bấy giờ.Chính tư tưởng mà Sarte đã truyền đạt “ con người tự làm nên mình” đã xô đẩy thanh niên vào con đường trác tán và xa đọa.
Con đường hiện sinh của đạo Phật đã được thể nghiệm và thực chứng sau 49 ngày ngồi thiền định của đức Phật đã làm sáng tỏ hiện sinh trở thành hiện sinh,triết lý trở thành triết lý và con người trở thành con người một cách trọn vẹn. Đức Phật đã nói :” Đừng tưởng về quá khứ vì nó đã qua cũng đừng mơ về tương lai vì nó chưa đến mà hãy sống với hiện tại, với chính mình trong sự tỉnh thức từng sát na,đó la øan lạc,là giải thoát”.Đây chính la øý nghĩa tuyệt vời mà tôi muốn nói lên một cách trung thực nhất để làm sống lại cái thế giới tâm thức đang bị chìm đắm trong vô biên phiền não khiến cho thế giới càng ngày càng điên đảo,chiến tranh tàn phá,tranh chấp vì chủ nghĩa, chủ quyền,giáo điều, giáo chủ v.v..một cách bi đát và đau thương nhất, đã làm cho con người mất đi tính hiện sinh, sống không biết mình sống thì làm sao nói đến chuyện giải thoát. Thiền định chính là hiện sinh .Hiện sinh chính là cái sống biết mình sống,tỉnh thức và trong sáng,an lạc trong từng sát na và tất cả những phiền não sẽ tự nhiên tan biến.
Muốn thực hiện hiện sinh, hành giả phải bắt đầu bằng tâm từ bi và hỉ xả.Từ bi để đoán nhận tất cả những cảm nhận tươi mát và hỉ xả để xóa bỏ tất cả những ràng buộc tâm thức trở về với tâm không.Thực hiện được tâm không thì hiện sinh mới thực sự xuất hiện ví như bầu trời trong vắt thì ánh sáng mặt trời mới chiếu rọi một cách trong sáng nhất tên mặt đất này.Ứng dụng sổ tức quán và biết mình đang thở ra, hít vào biết mình đang hít vào trong sự tỉnh thức từng giây phút, tâm thức sẽ không còn vọng động, một sức mạnh phi thường sẽ phát hiện phá tan bức màng vô minh để nhận chân được sự thật như thật.Đó là sự phát hiện của trí huệ.
Thể giới hiện nay càng chìm đắm trong biển thù hận, con người càng ngày rơi vào hố thẩm diệt vong.Hố thẩm tư tưởng đang bị che lấp bởi thành kiến, con người chưa thực sự tìm đúng vũ trụ quan và nhân sinh quan nên phải trãi qua bế tắc này lại đến những bế tắc khác.Các hiện tượng tự sát và giết người do vì tâm thần khủng khoảng hay bệnh hoạn liên tục xảy ra trong cuộc sống ở vùng Bắc Mỹ này đã chứng tỏ con người càng ngày càng bị bế tắc ,tuyệt vọng nhất. Hiện sinh là con đường sống thực mới giải quyết được những bế tắc nói trên và đem lại sự an lạc cho con người và xả hội cũng như là con đường thơ mộng cho những ai muốn tìm con đường giải thoát.Hãy sống với chính mình và biết mình sống trong sự tỉnh thức trọn vẹn ngày và đêm, đó chính là hiện sinh, tinh thần cao tột của thiền định.
Nguyễn Hữu Hùng-Toronto
Nguyễn Hữu Hùng-Toronto
(Viết lại theo bài giảng của vị đạo sư trong lúc thiền quán)
Tôi phải dùng chữ hiện sinh mới có thể diễn tả bằng ngôn từ một cách trọn vẹn về ý nghĩa của một trạng thái tỉnh thức và trong sáng nhất của tâm thức trải qua từng giây phút theo đúng tinh thần của đạo Phật. Từ mỗi một sát na tỉnh thức này,tâm thức sẽ bùng nổ trong siêu thức mới cộng hưởng được với tất cả quang năng,điện năng, từ năng trong vũ trụ,hành giả thực sự chứng đạt được cảnh giới an lạc và phát hiện sự vật y như thật.
Ở đây tôi cũng không muốn dùng danh từ hiện sinh theo quan niệm của triết gia K.Jaspers( 1883 – 1869 ) là đại diện cho chủ nghĩa hiện sinh Đức, một người tôn sùng những tư tưởng của Nietzsche thể hiện trong tác phẩm Lý tính và hiện sinh bàn về hiện sinh tức là nhân vị tự do và tự chủ và cuối cùng là đạt tới siêu việt, đỉnh cuối cùng của hiện sinh.Đây chưa thể hiện đúng mức tinh thần hiện sinh vì còn nằm trong lý tính của một trạng thái tâm thức.
Tôi cũng không muốn nói theo hiện sinh của Jean Paul Satre, thoái trào của một tâm hồn bi quan, xô đẩy con người vào sự hưởng thu, nô lệ thân xác một cách trọn vẹn và sa đọa nhất trong các thập niên 50,60 ở Pháp và Âu châu .Tác phẩm Buồn Nôn đã đưa ông lên địa vị vinh quang với giải văn học thế giới Nobel. Hơn nữa, chủ nghĩa hiện sinh của Pháp không dừng lại ở lý luận mà còn hòa nhập vào cuộc sống mới của thanh thiếu niên thời đại lúc bấy giờ.Chính tư tưởng mà Sarte đã truyền đạt “ con người tự làm nên mình” đã xô đẩy thanh niên vào con đường trác tán và xa đọa.
Con đường hiện sinh của đạo Phật đã được thể nghiệm và thực chứng sau 49 ngày ngồi thiền định của đức Phật đã làm sáng tỏ hiện sinh trở thành hiện sinh,triết lý trở thành triết lý và con người trở thành con người một cách trọn vẹn. Đức Phật đã nói :” Đừng tưởng về quá khứ vì nó đã qua cũng đừng mơ về tương lai vì nó chưa đến mà hãy sống với hiện tại, với chính mình trong sự tỉnh thức từng sát na,đó la øan lạc,là giải thoát”.Đây chính la øý nghĩa tuyệt vời mà tôi muốn nói lên một cách trung thực nhất để làm sống lại cái thế giới tâm thức đang bị chìm đắm trong vô biên phiền não khiến cho thế giới càng ngày càng điên đảo,chiến tranh tàn phá,tranh chấp vì chủ nghĩa, chủ quyền,giáo điều, giáo chủ v.v..một cách bi đát và đau thương nhất, đã làm cho con người mất đi tính hiện sinh, sống không biết mình sống thì làm sao nói đến chuyện giải thoát. Thiền định chính là hiện sinh .Hiện sinh chính là cái sống biết mình sống,tỉnh thức và trong sáng,an lạc trong từng sát na và tất cả những phiền não sẽ tự nhiên tan biến.
Muốn thực hiện hiện sinh, hành giả phải bắt đầu bằng tâm từ bi và hỉ xả.Từ bi để đoán nhận tất cả những cảm nhận tươi mát và hỉ xả để xóa bỏ tất cả những ràng buộc tâm thức trở về với tâm không.Thực hiện được tâm không thì hiện sinh mới thực sự xuất hiện ví như bầu trời trong vắt thì ánh sáng mặt trời mới chiếu rọi một cách trong sáng nhất tên mặt đất này.Ứng dụng sổ tức quán và biết mình đang thở ra, hít vào biết mình đang hít vào trong sự tỉnh thức từng giây phút, tâm thức sẽ không còn vọng động, một sức mạnh phi thường sẽ phát hiện phá tan bức màng vô minh để nhận chân được sự thật như thật.Đó là sự phát hiện của trí huệ.
Thể giới hiện nay càng chìm đắm trong biển thù hận, con người càng ngày rơi vào hố thẩm diệt vong.Hố thẩm tư tưởng đang bị che lấp bởi thành kiến, con người chưa thực sự tìm đúng vũ trụ quan và nhân sinh quan nên phải trãi qua bế tắc này lại đến những bế tắc khác.Các hiện tượng tự sát và giết người do vì tâm thần khủng khoảng hay bệnh hoạn liên tục xảy ra trong cuộc sống ở vùng Bắc Mỹ này đã chứng tỏ con người càng ngày càng bị bế tắc ,tuyệt vọng nhất. Hiện sinh là con đường sống thực mới giải quyết được những bế tắc nói trên và đem lại sự an lạc cho con người và xả hội cũng như là con đường thơ mộng cho những ai muốn tìm con đường giải thoát.Hãy sống với chính mình và biết mình sống trong sự tỉnh thức trọn vẹn ngày và đêm, đó chính là hiện sinh, tinh thần cao tột của thiền định.
Nguyễn Hữu Hùng-Toronto
ĐỖ THÁI NHIÊN * HOA YÊN BÁI
HOA YÊN BÁI
Đỗ Thái Nhiên
Ghi chú của Tòa Soạn: Nhân Tưởng Niệm Ngày Tang Yên Bái,
17-6, Đối Lực xin trình bày dưới đây phần chủ yếu bài viết
về "HOA YÊN BÁI" của Đỗ Thái Nhiên.
Việt Nam Quốc Dân Đảng là một bộ phận của Trung Hoa Quốc Dân
Đảng, với tính lệ thuộc này, liệu chừng VNQĐD có khả năng bảo vệ
độc lập của Dân Tộc trong quan hệ ngoại giao giữa hai Dân Tộc Việt Hoa
hay không ?
Dư luận trên không phải là dư luận vô căn cứ : hai đảng Việt Nam QĐD và Trung Hoa QĐD có lối đặt tên Đảng đồng dạng với nhau về thuật ngữ cũng như về văn phạm. Hai Đảng có trao đổi nhau về ngoại giao cũng như về tư tưởng. Hai Đảng đều thường đề cao Tam Dân... Thế nhưng, nếu bằng ngần ấy yếu tố mà người ta vội kết luận Việt Nam Quốc Dân Đảng là một bộ phận của Trung Hoa QĐD thì e rằng kết luận đó có thể lệch lạc. Muốn thấy rõ mối tương quan chính trị giữa VNQĐD và THQĐD, không gì hữu lý hơn là chúng ta hãy tìm về cội nguồn và toàn bộ hệ thống tư tưởng chỉ đạo trong hoạt động của Việt Quốc. Tư tưởng chỉ đạo đó hẳn nhiên là đã bắt nguồn từ nền tảng tư tưởng của hai nhân vật lãnh đạo nồng cốt của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
- Nhân vật thứ nhất là ông Nguyễn Thái Học. Nhà cách mạng này là Chủ Tịch và là sáng lập viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1927. - Nhân vật thứ hai là cụ Phan Bội Châu. Nhà chí sĩ này đã có ý thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng từ trước năm 1927, thời bấy giờ cụ Phan còn sống lưu vong ở Trung Quốc. Ngày 2 tháng 10 năm 1928 cụ nhận lời vừa là Chủ Tịch Danh Dựï của Việt Nam Quốc Dân Đảng vừa là Đảng Viên hoạt động của Đảng : Cụ xác nhận với ông Đặng Đình Diêu, đại diện của VNQĐD khi ông này được cụ tiếp kiến : "Tôi già yếu thật, nhưng nếu còn giúp ích được gì cho Tổ Quốc thì tôi xin hết sức phục tòng mệnh lệnh của anh em". Sau khi được cụ Phan nhận lời cộng tác, VNQĐD đã nhờ cụ thựïc hiện hai việc như sau :
- Một là nhờ cụ đứng ra đem oai quyền đạo đức mà thống nhất các đảng lại.
- Hai là nhờ cụ dùng uy tín ngoại giao của cụ để giúp đỡ cho VNQĐD. Cụ quen thân với các yếu nhân ngoại quốc như Khuyển Dưỡng Nghị, Cung Kỳ Di Tòn ở Nhật, và Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ ở Tàụ (xin xem sách Nguyễn Thái Học của Nhượng Tống tr. 35, 36 và sách Việt Nam Quốc Dân Đảng của Hoàng Văn Đào tr. 47, 48).
Bây giờ chúng ta hãy trở lại câu hỏi trọng yếu : Tư tưởng của hai nhà cách mạng Phan Bội Châu và Nguyễn Thái Học là gì? Như mọi người đã biết : CụPhan đã cống hiến trọn vẹn đời sống của cụ cho độc lập Dân Tộc và cho đoàn kết toàn Dân. Câu nói "Bởi Dân, do Dân và vì Dân" đã bị người đời lạm dụng biến nó thành một sáo ngữ rỗng tuếch. Riêng cụ Phan đã diễn tả ý nghĩa của "Bởi Dân, do Dân và vì Dân" bằng chính đời sống của cụ, bằng mồ hôi trong lao tù và bằng nước mắt trước cảnh lầm than nhưng chia rẽ của đồng bào. Tâm tình cô nhiệt vừa kể của cụ đã biến thành câu nói mà hậu thế sẽ chẳng bao giờ quên : "Dân chẳng Duy Tâm, Dân chẳng Duy Vật, Dân chỉ Duy Dân". Một cách ngắn gọn, người ta có thể kết luận : Tư tưởng của cụ Phan Bội Châu là tư tưởng Duy Dân. Tư tưởng căn bản của Nguyễn Thái Học là tư tưởng thành nhân. Mặt khác, Nhân là Người mà Dân cũng là Người. Do đó, tư tưởng của VNQĐD là tư tưởng lấy con Người làm gốc cho đời Người, lấy Người làm chuẩn cho mọi công cuộc xây dựïng đời Người, và lấy Người làm đối tượng tối cao mà đời người phải phục vu.. Nói cách khác, Người là điểm giao thoa giữa nhân và dân, Người là tiền đề triết học trong tư tưởng Việt Quốc. Tiền đề triết học của một hệ thống tư tưởng vừa kể là điểm xuất phát trọng yếu, vừa là kim chỉ nam cho toàn bộ hệ thống tư tưởng đó. Một hệ thống triết học toàn vẹn bao giờ cũng gồm ba phần chủ yếu : bản thể luận, nhận thức luận và phương pháp luận. Hẳn nhiên cả ba phần này thường hằng bám sát thựïc tại, lấy điểm thựïc tại làm điểm chuẩn duy nhất cho chân lý. Đặc biệt bản thể luận, còn gọi là tiền đề triết học, là tim óc của hệ thống tư tưởng. Bản thể luận là phép lý luận có chủ đích mô tả và xác định bản chất đích thựïc của một tư duy. Khởi hành từ bản thể luận, người ta sẽ lần lượt khám phá ra mọi mối liên hệ xoay chiều và đa phương giữa bản thể và những khách thể chung quanh, đó là nội dung cốt lõi của nhận thức luận. Nhận thức luận của một hệ tư tưởng mang tính khoa học bao giờ cũng được diễn đạt bằng một số qui luật triết học, những qui luật này vừa chặt chẽ vừa uyển chuyển. Chặt chẽ để tránh tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược, làm giảm sức mạnh cách mạng xã hội. Uyển chuyển để tránh xa rời thựïc tại. Xa rời thựïc tại là hố đào thải của mọi loại tư tưởng. Có được bản thể luận, có được nhận thức luận, mạch tư
tưởng sẽ đẩy người ta đến câu hỏi : Làm thế nào để mang bản thể đó, nhận thức đó vào thựïc tiễn Xã Hội ? Trả lời câu hỏi này, người ta sẽ có được phương pháp luận. Những điều trình bày cho thấy : bản thể luận, nhận thức luận và phương pháp luận là ba mặt không tách rời của khoa lý luận. Chính tính thống nhất vừa nói của khoa lý luận đã giúp cho chúng ta chỉ cần căn cứ vào tiền đề triết học (bản thể luận) của một hệ thống tư tưởng để có thể phân định sựï khác biệt của hệ thống này và hệ thống khác. Dựïa vào luận cứ đó, so sánh tư tưởng của Trung Hoa QĐD và Việt Nam QĐD người ta thấy : Tôn Dật Tiên chọn DUY SINH làm tiền đề cho triết học của ông ta. Phan Bội Châu và Nguyễn Thái Học lại chọn CON NGƯỜI làm tiền đề : Con người Duy Dân và con người Thành Nhân. Tiền đề khác nhau kéo theo nhận thức luận và phương pháp luận khác nhau.ï Điều này đã chứng minh một cách cụ thể nhất, chính xác nhất tính độc lập về mặt tư tưởng giữa Việt Nam QĐD và Trung Hoa QĐD. Điều này cũng đương nhiên phủ nhận một cách dứt khoát ý kiến cho rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng là một bộ phận của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Trên chủ đề bình luận chung về những suy nghĩ đối với 71 năm sinh hoạt của VNQĐD, bài viết này không thể viết chi tiết tư tưởng Việt Quốc. Đề tài này sẽ được trình bày trong một bài viết khác.
Qua những phần trình bày ở trên, bài viết này đã nêu ra và đã lý giải các dư luận chủ yếu nhìn về Việt Quốc trong 71 năm qua. Mặc dầu đa số phần luận cứ của bài viết có tính biện minh cho Việt Quốc, tuy nhiên đàng sau những lời lẽ biện minh đó hiển nhiên độc giả đã có được những nhận thức đối với hai sựï thựïc :
- Sựï thựïc một : Việt Nam Quốc Dân Đảng vốn là một Đảng lấy quyền lợi Dân Tộc làm tư tưởng dẫn đạo, lấy sinh mạng của mỗi Đảng Viên trong đấu tranh cách mạng làm bảo đảm cho tôn chỉ hành động. Vì vậy cho tới ngày nay VNQĐD vẫn là một đảng cách mạng được đông đảo quần chúng tham dựï với tư cách Đảng Viên hoặc Cảm Tình Viên. Điều này đã mạnh mẽ minh chứng lòng nhiệt thành yêu nước là một trong những đức tính căn bản và truyền thống của người Việt. - Sựï thựïc hai : phần vì những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của lịch sử, phần vì thiếu Cán Bộ Lãnh Đạo có tài năng, trong các thập niên qua VNQĐD đã chưa khắc phục được hai khó khăn :
a) Khó khăn về tư tưởng chỉ đạo : Mặc dầu Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học và Chủ Tịch Phan Bội Châu đã đề ra tư tưởng chỉ đạo lấy CON NGƯỜI làm tiền đề. Tuy nhiên, tiền đề Người cần phải được chi tiết hóa và thích nghi hóa trong các hoàn cảnh đặc thù của lịch sử. Cách mạng chống Thựïc Dân, cách mạng chống Cộng, cách mạng chống các loại Việt gian và nhất là cách mạng chống chiêu bài Dân Tộc hiện nay của Cộng Sản khác nhau như thế nào về bản thể, về nhận thức và về phương pháp ? Câu hỏi này chưa được giới lãnh đạo VNQĐD giải đáp thỏa đáng, từ đó tư tưởng chỉ đạo là những lời nói chung chung, rất mơ hồ.
b- Khó khăn về tổ chức : tư duy là kim chỉ nam của hành động và ngược lại hành động giúp cho tư duy phong phú hơn, gắn bó với hiện tại hơn. Thế nên khi tư tưởng chỉ đạo (tư duy) bị ngưng trệ, vận hành của tổ chức Việt Quốc cũng trở nên ngưng trệ và phân tán, hành động cách mạng giảm hẳn hiệu lựïc, mặc dầu Việt Quốc có đông đủ Đảng Viên và trong lòng mỗi Đảng Viên bao giờ cũng hừng hựïc lửa ái quốc. Trên bình diện phân công phân nhiệm, giới Lãnh Đạo Đảng là thành phần chịu trách nhiệm chủ yếu đối với mọi công tác khó khăn mà Đảng gặp phải trên diễn trình cách mạng. Thế nhưng khó khăn càng lớn, nhu cầu hiệp lựïc để giải quyết khó khăn càng cao. Khó khăn về tư tưởng và về tổ chức hiện nay của Việt Quốc chỉ có thể được giải quyết hữu hiệu và nhanh chóng bởi thái độ góp ý, góp việc của toàn khối Đảng Viên : từ cấp Lãnh Đạo đến tân Đảng Viên.
Viết về Hoa Yên Bái, bình luận về những dư luận chung quanh sinh hoạt của VNQĐD, phân tích và xác định những khó khăn hiện nay của Việt Quốc, bài viết có hàm ý chia sẻ với bạn đọc một số ước mong :
- Ước mong rằng : Chiến sĩ cách mạng Việt Quốc, trong tương lai gần đây, sẽ hoàn tất một cách ngoạn mục công tác tinh vi hóa, thựïc tại hóa và toàn diện hóa tư tưởng chỉ đạo của Đảng theo đúng chí hướng của Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học và Chủ Tịch Phan Bội Châu. Trên căn bản tư tưởng chỉ đạo vừa nói, toàn bộ Đảng Viên Việt Quốc sẽ trở thành một khối nhân lựïc bất khả phân hóa, sựï nghiệp cách mạng của Việt Quốc sẽ được thăng hoa với rất nhiều thành quả mới.
- Ước mong rằng : Trên thế giới của hồn sử, liệt sĩ Yên Bái cũng như quý vị liệt sĩ Việt Quốc trước và sau Yên Bái sẽ sớm có cơ hội chứng giám cuộc cách mạng do quý vị mở đường trước đây nay sẽ được những Đồng Chí thế hệ hiện tại đẩy mạnh bằng những việc làm cụ thể và dũng cảm dưới ánh sáng dẫn đường của tư tưởng chỉ đạo thống nhất.
- Ước mong rằng : Đồng bào trong và ngoài nước sẽ càng thấu hiểu con đường cách mạng của Việt Quốc, con đường này là sựï kết hợp tuyệt vời giữa lý luận khoa học và lòng yêu nước sắt son. Từ thông cảm, đồng bào sẽ chia gánh nặng với Việt Quốc trong nỗ lựïc loại bỏ chế độ Cộng Sản độc tài, xây dựïng một Việt Nam Tựï Do Dân Chủ đích thựïc. Đích thựïc có nghĩa là Tựï Do Dân Chủ phải được điều hướng bằng một hệ thống lý luận vừa chặt chẽ, vừa uyển chuyển, vừa bám sát thựïc tại, vừa không bối rối trước tương lai.
Chữ "ước mong" ở đây là chữ dùng theo quan điểm của bài viết. Tuy nhiên trên vị trí của những Đảng Viên Việt Quốc, các ước mong nói trên hiển nhiên là nghĩa vụ của VNQĐD. Nghĩa vụ càng gian khổ, hoa thắng lợi càng thắm tươi. Như vậy dòng tư tưởng của chúng ta đã đi từ ước mơ đến nghĩa vụ, và rồi chẳng bao lâu nữa Chiến Sĩ Việt Quốc biến nghĩa vụ thành hiện thựïc lịch sử.
Sau cùng, ước mơ của bài viết, nghĩa vụ của Việt Quốc, hiện thựïc của lịch sử là ba nén hương vô cùng nồng ấm mà VNQĐD xin được cùng Đồng Bào trang trọng cắm lên bàn thờ Yên Bái nhân kỷ niệm ngày tang 17 tháng 6, ngày HOA MÁU nở rộ trên sử Việt. Kính xin quý Đồng Chí Liệt Sĩ chuẩn nhận nơi đây lòng tôn kính tuyệt đối của VNQĐD thế he hiện tại.
NGUYỄN XUÂN TIẾN * TRUNG CỘNG
Cảm nghĩ của một Sinh viên về việc đảng CSVN ký 2 Hiệp định biên giới bất bình đẳng với đảng CSTQ
Nguyễn Xuân Tiến (Đông Âu)
Tôi sinh ra ở miền Bắc XHCN. Khi lớn lên, đi học, trong sách giao khoa viết, thầy gíao dậy rằng : Đất nước ta tươi đẹp. Rừng vàng biển bạc, gỗ qúy, tôm cá nhiều lòng đất đầy khoáng sản. Đồng bằng châu thổ sông Hồng và Nam Bô ruộng thẳng cánh cò bay, vựa lúa của cả nước. Biển Đông ngoài hải sản, đặc biệt còn có rất nhiều dầu lửa... nhiều đến nỗi theo, có thể so sánh vỉa dầu của ta như lưng con voi, còn những nơi khác vỉa dầu của họ chỉ như con tem thư.
Khi vào đại học, tôi được nhà trường cho đi thực tập, tham quan Mục Nam Quan, cột mốc cây số O (số không), và nhất là xem bức ảnh thác Bản Giốc - Cao Bằng dệt trên lụa... tôi nhận ra Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta qủa thật giầu và đẹp. Mỗi ngọn núi, cánh rừng, ngọn thác... thât thiêng liêng mà bao đời, từ khi dụng nước tới nay đã thấm mắu thịt của các thế hệ đã hy sinh gìn giữ bảo vệ nó. Đặc biệt khi nhớ tới câu nói của Hồ Chí Minh": Các vua Hùng có công dựng nước. Bác chắu ta phải cùng nhau giữ nươc" (có thật không?) - lại càng thấm thía...
Thế mà mới đây, trên các phương tiện truyền thông loan tải: Đảng CSVN đã ký hai hiệp định biên giới nhượng cho Trung Quốc hơn 700 Km đất liền và gần 10% diện tích biển Đông, so với sự phân chia giữa chính phủ nhà Thanh của Trung Quốc và chính phủ bảo hộ Pháp ký cách đây hơn trăm năm. Những địa danh nổi tiếng như Mục Nam Quan, Thác Bản Giốc đã di vào sử sách của dân tộc giờ đây đã thuộc về Trung Quốc.
Dù biện minh thế nào, với bất cứ lý do gì, những người lãnh đạo Đảng CSVN đem đất đai của tổ tiên, của dân tộc hiến cho ngoại bang đều phải quy vào tôi Bán nước ''trời không dung, đất không tha''. Hành động này của những người lãnh đạo đảng CSVN còn tệ hại hơn gấp trăm ngàn lần Mạc Đăng Dung khi xưa - bị đuổi bắt vì tôi thoán nghịch - đã dâng hiến cho nhà Thanh một phần rất nhỏ đất đai của tổ tiên để làm chỗ dung thân.
Những người lãnh đạo đảng CSVN ngang nhiên dâng đất cho nước ngoài nhằm mục đich gì ? Phải chăng họ cầu lợi cho cá nhân , giòng họ... như Mạc Đăng Dung khi xưa đã làm? Liệu còn có lý do nào khác không ? Người dân Việt đặt câu hỏi:
Khi ông Lê Khả Phiêu thay mặt Đảng CSVN ký kết hai bản hiệp định này nhằm mục
đích gì ? Tai sao cho đến nay những người lãnh dạo mới không dám công khai
trước nhân dân về nội dung các bản hiệp định đó.
Tệ hại hơn nữa, ông Phiêu và những người lãnh đạo đảng CSVN đã không đếm xỉa tới cái gọi là Quốc Hội - được bộ máy tuyên truyền luôn rêu rao là cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước để họ - dù chỉ là hình thức - bàn, quyết định.
Trong lịch sử hào hùng dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã lập nên bao chiến công hiển hách. Biết bao người đã ngã xuống để bảo vệ Tổ quốc . Mỗi tấc đất , con suối , dòng sông đều thấm máu những người con anh dũng của dân tộc .Giờ đây đảng CSVN đã mang một phần mắu thịt của nhân dân ta cống nạp cho ngoại bang.
Những người con của dân tộc Việt Nam dù ở trong nước hay đang sinh sống ở nước ngoài, không kể gìa trẻ, trai gái, không phân biệt xu hướng chính trị... hãy cùng nhau xiết chặt hàng ngũ, đứng lên tranhđấu đòi đảng CSVN phải xóa bỏ các bản hiệp định biên giới bất bình đẳng đã ký với Trung Quốc. Thu hồi ngay những mét đất, những đîa danh đã nhượng bất hợp pháp cho ngoại bang. đồng thời đòi đảng CSVN châm dứt độc tài, độc đảng, thực hiện, tự do dân chủ - dân chủ phổ quat trên mọi lĩnh vực đời sống, để đưa đất nước tới phồn vinh thịnh vượng. Nhân dân ấm no, hạnh phúc.
Berlin tháng 5 năm 2002
Nguyễn Xuân Tiến (Đông Âu)
Tôi sinh ra ở miền Bắc XHCN. Khi lớn lên, đi học, trong sách giao khoa viết, thầy gíao dậy rằng : Đất nước ta tươi đẹp. Rừng vàng biển bạc, gỗ qúy, tôm cá nhiều lòng đất đầy khoáng sản. Đồng bằng châu thổ sông Hồng và Nam Bô ruộng thẳng cánh cò bay, vựa lúa của cả nước. Biển Đông ngoài hải sản, đặc biệt còn có rất nhiều dầu lửa... nhiều đến nỗi theo, có thể so sánh vỉa dầu của ta như lưng con voi, còn những nơi khác vỉa dầu của họ chỉ như con tem thư.
Khi vào đại học, tôi được nhà trường cho đi thực tập, tham quan Mục Nam Quan, cột mốc cây số O (số không), và nhất là xem bức ảnh thác Bản Giốc - Cao Bằng dệt trên lụa... tôi nhận ra Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta qủa thật giầu và đẹp. Mỗi ngọn núi, cánh rừng, ngọn thác... thât thiêng liêng mà bao đời, từ khi dụng nước tới nay đã thấm mắu thịt của các thế hệ đã hy sinh gìn giữ bảo vệ nó. Đặc biệt khi nhớ tới câu nói của Hồ Chí Minh": Các vua Hùng có công dựng nước. Bác chắu ta phải cùng nhau giữ nươc" (có thật không?) - lại càng thấm thía...
Thế mà mới đây, trên các phương tiện truyền thông loan tải: Đảng CSVN đã ký hai hiệp định biên giới nhượng cho Trung Quốc hơn 700 Km đất liền và gần 10% diện tích biển Đông, so với sự phân chia giữa chính phủ nhà Thanh của Trung Quốc và chính phủ bảo hộ Pháp ký cách đây hơn trăm năm. Những địa danh nổi tiếng như Mục Nam Quan, Thác Bản Giốc đã di vào sử sách của dân tộc giờ đây đã thuộc về Trung Quốc.
Dù biện minh thế nào, với bất cứ lý do gì, những người lãnh đạo Đảng CSVN đem đất đai của tổ tiên, của dân tộc hiến cho ngoại bang đều phải quy vào tôi Bán nước ''trời không dung, đất không tha''. Hành động này của những người lãnh đạo đảng CSVN còn tệ hại hơn gấp trăm ngàn lần Mạc Đăng Dung khi xưa - bị đuổi bắt vì tôi thoán nghịch - đã dâng hiến cho nhà Thanh một phần rất nhỏ đất đai của tổ tiên để làm chỗ dung thân.
Những người lãnh đạo đảng CSVN ngang nhiên dâng đất cho nước ngoài nhằm mục đich gì ? Phải chăng họ cầu lợi cho cá nhân , giòng họ... như Mạc Đăng Dung khi xưa đã làm? Liệu còn có lý do nào khác không ? Người dân Việt đặt câu hỏi:
Khi ông Lê Khả Phiêu thay mặt Đảng CSVN ký kết hai bản hiệp định này nhằm mục
đích gì ? Tai sao cho đến nay những người lãnh dạo mới không dám công khai
trước nhân dân về nội dung các bản hiệp định đó.
Tệ hại hơn nữa, ông Phiêu và những người lãnh đạo đảng CSVN đã không đếm xỉa tới cái gọi là Quốc Hội - được bộ máy tuyên truyền luôn rêu rao là cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước để họ - dù chỉ là hình thức - bàn, quyết định.
Trong lịch sử hào hùng dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã lập nên bao chiến công hiển hách. Biết bao người đã ngã xuống để bảo vệ Tổ quốc . Mỗi tấc đất , con suối , dòng sông đều thấm máu những người con anh dũng của dân tộc .Giờ đây đảng CSVN đã mang một phần mắu thịt của nhân dân ta cống nạp cho ngoại bang.
Những người con của dân tộc Việt Nam dù ở trong nước hay đang sinh sống ở nước ngoài, không kể gìa trẻ, trai gái, không phân biệt xu hướng chính trị... hãy cùng nhau xiết chặt hàng ngũ, đứng lên tranhđấu đòi đảng CSVN phải xóa bỏ các bản hiệp định biên giới bất bình đẳng đã ký với Trung Quốc. Thu hồi ngay những mét đất, những đîa danh đã nhượng bất hợp pháp cho ngoại bang. đồng thời đòi đảng CSVN châm dứt độc tài, độc đảng, thực hiện, tự do dân chủ - dân chủ phổ quat trên mọi lĩnh vực đời sống, để đưa đất nước tới phồn vinh thịnh vượng. Nhân dân ấm no, hạnh phúc.
Berlin tháng 5 năm 2002
PHẠM HOÀI VIỆT * ẢI NAM QUAN
Phaïm Hoaøi Vieät (- Kính taëng ñoàng baøo trong vaø ngoaøi nöôùc
- gôûi Taäp Ñoaøn Trung Öông ñaûng CSVN).
Ñôøi xöa cho ñeán ñôøi sau
Phöông Nam vaãn choáng giaëc Taøu xaâm laêng.
Ba laàn ñaïi phaù quaân Nguyeân
Ba laàn thaéng Toáng, bình Chieâm, Baïch Ñaèng
Göông xöa söû cheùp coøn vang:
"Cheùm ñaàu thaàn tröôùc roài haøng giaëc sau".
Ñaây AÛi Nam Quan moät thôøi oanh lieät
Töø Vua Huøng ñeán Tröng Trieäu löøng danh
Thaùc Baûn Gioác ghi ñeïp neùt söû xanh
Nguyeãn Hueä, Phi Khanh laãy löøng khí theá.
Toå Tieân deïp boïn xaâm laêng aùp cheá
Ñaùnh ñuoåi giaëc Taøu baûo veä non soâng
Maùu ñaøo naêm xöa thaám caû ruoäng ñoàng
Söû maùu xöông ngaøn naêm ñaø ñoå thaém.
Ñòa linh Vieät - deät muoân ngaøn hoa gaám
Khí haøo huøng baát khuaát raïng OÂng Cha
Baïn ôi! Taëc töû trieàu coáng sôn haø
Nhuïc! Nhuïc laém! Ta vuøng leân röûa haän.
Nay ñaûng Coäng ñeán vöïc saâu cuøng taän
Taám tình trung vöôït thaân phaän nöõ nhi
Ñôøi ngöôøi moät laàn seõ phaûi ra ñi
Ta vuøng daäy mau ñaùp lôøi soâng nuùi.
Trô treõn laém, kìa nhöõng teân luoàn cuùi
Coõng raén veà nhaø, daâng ñaát Cha OÂng
Löông, Khaûi, Kieät, Maïnh maõi quoác voâ toâng
Queân caû coäi nguoàn Roàng Tieân nöôùc Vieät.
Lôøi keâu goïi vôùi taâm tình tha thieát
Mong toaøn daân vuøng daäy laät baïo quyeàn
Nöôùc khoán cuøng vì moät luõ quyû ñieân
Ñöa daân toäc soáng ñieâu linh, tuûi nhuïc !
Thôøi nay Trung Coäng gian tham
Tröôøng Sa haûi ñaûo Vieät Nam ñaâu coøn !
Bieân giôùi Baéc Vieät hao moøn
Ai ngöôøi phuïc quoác, neân troøn thanh danh !
Phaïm Hoaøi Vieät
Harlingen, Texas
TRẦN KIM KHÔI * LÊ CHÍ QUANG
LÊÂ CHÍ QUANG ĐÃ ĐI VÀO LÒNG DÂN TỘC!
TRẦN KIM KHÔI
Charlotte - North Carolina
Cầm chính đạo để tịch tà cự bí
Hồi cuồng lan như chướng bách xuyên...
Làm sao cho bách thế lưu phương
Nguyễn Công Trứ
Anh đã sinh ra và lớn lên
Trong một xã hội khốn kiếp
Ở đó: người ta tôn sùng sự bịp:
Con dối cha, vợ dối lừa chồng,
Bè bạn lừa gạt nhau đâu kể tình tri kỷ,
Đồng nghiệp hại nhau nhân danh hai từ đồng chí,
Trên dưới gầm ghè hất nhau do vận dụngchủ thuyết MácLê.
Đạo đức, lương tâm, công lý... đi vắng trường kỳ!
Nên trí thức bị gán cho mang trái tim loài chó! (1)
Ở đó: Tự Do là món hàng quốc cấm:
Ai nhắc đến Tự do sẽ bị bóp miệng, bịt mồm!
Truyền bá Tự do sẽ bị cắt điện thoại, lấy mất computer!
Ai đòi hỏi Tự do sẽ phải vào tù ra khám,
Hình sinh viên Lê Chí Quang
Những người yêu Tự do biến thành những tên tội phạm.
Chẳng những "tàn đời" mà còn tác hại đến thân nhân
Nên mọi người thờ chủ nghĩa an thân
Chịu sống cúi đầu rụt cổ!
Tránh hai chữ Tự do như tránh loài ôn dịch!
Còn Dân chủ? - Chỉ là những màn bi hài kịch:
Dân bị lôi ra làm bình phong bằng thích
Quân đội, Tòa án, Công an... tất cả các tổ chức
của chính quyền
Đều được gắn thêm cái đuôi "nhân dân" trơ trẽn,
vô duyên
Làm như dân được tận tình phục vụ!
Lại thêm thuật ngữ " Nhân dân làm chủ"
(Một trong ba định chế điều khiển Quốc gia)
Nghe bùi tai, mát ruột như là
Nhân dân có toàn quyền quyết định...
Sự thực dân chỉ được phép làm theo lệnh
Như đoàn người nô lệ đáng thương nhất trần gian!
Sống trong một môi trường nhầy nhụa bùn đen
Anh vẫn vương lên như một đóa Sen tinh khiết!
Noi gương tiền nhân: Những vị anh hùng, hào kiệt
Anh trải lòng với nước với dân
Xem nhẹ sự an nguy, anh chấp nhận dấn thân
Gánh vác trách nhiệm của một sĩ phu yêu nước
Thấm nhuần đạo lý " Uy vũ bất năng khuất"
Anh công khai chất vấn chính quyền
Vạch mặt lũ văn nô, bồi bút hèn hạ, đảo điên
Đã bôi nhọ những người công chính.
Dù biết hiểm nguy vẫn hiên ngang xác định
Thế đứng đối đầu với lũ sói lang,
Dùng sở tri làm vũ khí tinh thần
Tán trợ những người đấu tranh cho dân chủ.
Đấu lý với bọn công an hình người dạ thú
Khiến chúng sượng sùng lấp liếm dối quanh.
Gióng lớn tiếng chuông thức tỉnh quốc dân
"Hãy cảnh giác với Bắc triều" đầy tham vọng,
Cảnh cáo lũ chóp bu Việt cộng
"Hiến đất, dâng biển" cho Tàu hòng bảo vệ chỗ ngồi!
Phản bội Tổ Tiên, làm điếm nhục Giống Nòi
Cam phận làm chư hầu cho kẻ thù truyền kiếp.
Lời cảnh cáo nổ bùng như trái phá
Uy lực còn hơn vạn tấn đạn bom!
Khiến lũ "chó săn" tại Ba Đình lo lắng, kinh hoàng
Sợ đồng bào phẩn nộ,
Lại sợ chạm đến Thiên tử họ Giang sắp tuần du
đất Việt
Nên chúng cuống cuồng ra tay đàn áp
Mong bịt miệng anh - Một kẻ thế cô
Nhưng vô ích!
Dù thân anh lâm vào cảnh lao tù
Nhưng ý chí vẫn sáng ngời sắt thép!
Không khuất phục, không đầu hàng, không hợp tác
Anh hiên ngang đối mặt với bạo quyền!
Dù khó khăn, nguy hiểm, gian nan...
Vẫn bình tĩnh đi tiếp con đường anh đã chọn!
Là kẻ sĩ anh bảo toàn khí tiết,
Là dân lành anh xem trọng lương tâm,
Là thanh niên anh không ngại dấn thân
Khi đất nước gặp cơn nguy biến!
Đường anh đi dù chông gai, nguy hiểm
Nhưng sáng ngời chính nghĩa, rạng tương lai
Anh là người khơi dậy niềm tin
Cho những ai thật lòng yêu nước!
Đường anh đi sẽ có lắm người nối bước,
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn đã mạnh dạn dẫn đầu
Và hẳn còn nhiều bạn trẻ dấn bước theo sau
Đáp tiếng gọi thiết tha của Tổ Quốc!
Sự hy sinh của anh sẽ không bao giờ vô ích
Tuy hôm nay chưa thấy kết quả nhãn tiền!
Nhưng đây là một trong những đốm lửa đầu tiên
Sẽõ bùng cháy đốt thiêu chế độ độc tài lạc hậu!
LÊ CHÍ QUANG, anh đã đi vào lòng dân tộc
Như những vị anh hùng vì nước xả thân.
Tám chục triệu người dân đang ghi khắc tên anh
Vào trang sử đấu tranh hào hùng Đất Việt!
Kỷ niệm Ngày Nhân Quyền cho Việt Nam 11/5/02
(1) Phỏng vấn của Dương Thu Hương
Ghi chú của Tòa Soạn: TRẦN KIM KHÔI là chiến sĩ hàng
đầu của phong trào LIÊN TÔN KHỞI NGHIÃ và phong trào
CHỐNG CS BÁN NƯỚC. Hiện sống tại Charlotte, NC. øÔng
cùng với các nhà thơ ái quốc VŨ THỊ SÀI GÒN, ĐỖ
VĂN THÔNG v.v. đã viết nên những vần thơ trác tuyệt về
các anh hùng Dân Tộc VN như Lý Tống, LM Nguyễn Văn Lý,
Nguyễn Thị Thu, Hồ Tấn Anh, Lê Chí Quang v.v.
TRẦN KIM KHÔI
Charlotte - North Carolina
Cầm chính đạo để tịch tà cự bí
Hồi cuồng lan như chướng bách xuyên...
Làm sao cho bách thế lưu phương
Nguyễn Công Trứ
Anh đã sinh ra và lớn lên
Trong một xã hội khốn kiếp
Ở đó: người ta tôn sùng sự bịp:
Con dối cha, vợ dối lừa chồng,
Bè bạn lừa gạt nhau đâu kể tình tri kỷ,
Đồng nghiệp hại nhau nhân danh hai từ đồng chí,
Trên dưới gầm ghè hất nhau do vận dụngchủ thuyết MácLê.
Đạo đức, lương tâm, công lý... đi vắng trường kỳ!
Nên trí thức bị gán cho mang trái tim loài chó! (1)
Ở đó: Tự Do là món hàng quốc cấm:
Ai nhắc đến Tự do sẽ bị bóp miệng, bịt mồm!
Truyền bá Tự do sẽ bị cắt điện thoại, lấy mất computer!
Ai đòi hỏi Tự do sẽ phải vào tù ra khám,
Hình sinh viên Lê Chí Quang
Những người yêu Tự do biến thành những tên tội phạm.
Chẳng những "tàn đời" mà còn tác hại đến thân nhân
Nên mọi người thờ chủ nghĩa an thân
Chịu sống cúi đầu rụt cổ!
Tránh hai chữ Tự do như tránh loài ôn dịch!
Còn Dân chủ? - Chỉ là những màn bi hài kịch:
Dân bị lôi ra làm bình phong bằng thích
Quân đội, Tòa án, Công an... tất cả các tổ chức
của chính quyền
Đều được gắn thêm cái đuôi "nhân dân" trơ trẽn,
vô duyên
Làm như dân được tận tình phục vụ!
Lại thêm thuật ngữ " Nhân dân làm chủ"
(Một trong ba định chế điều khiển Quốc gia)
Nghe bùi tai, mát ruột như là
Nhân dân có toàn quyền quyết định...
Sự thực dân chỉ được phép làm theo lệnh
Như đoàn người nô lệ đáng thương nhất trần gian!
Sống trong một môi trường nhầy nhụa bùn đen
Anh vẫn vương lên như một đóa Sen tinh khiết!
Noi gương tiền nhân: Những vị anh hùng, hào kiệt
Anh trải lòng với nước với dân
Xem nhẹ sự an nguy, anh chấp nhận dấn thân
Gánh vác trách nhiệm của một sĩ phu yêu nước
Thấm nhuần đạo lý " Uy vũ bất năng khuất"
Anh công khai chất vấn chính quyền
Vạch mặt lũ văn nô, bồi bút hèn hạ, đảo điên
Đã bôi nhọ những người công chính.
Dù biết hiểm nguy vẫn hiên ngang xác định
Thế đứng đối đầu với lũ sói lang,
Dùng sở tri làm vũ khí tinh thần
Tán trợ những người đấu tranh cho dân chủ.
Đấu lý với bọn công an hình người dạ thú
Khiến chúng sượng sùng lấp liếm dối quanh.
Gióng lớn tiếng chuông thức tỉnh quốc dân
"Hãy cảnh giác với Bắc triều" đầy tham vọng,
Cảnh cáo lũ chóp bu Việt cộng
"Hiến đất, dâng biển" cho Tàu hòng bảo vệ chỗ ngồi!
Phản bội Tổ Tiên, làm điếm nhục Giống Nòi
Cam phận làm chư hầu cho kẻ thù truyền kiếp.
Lời cảnh cáo nổ bùng như trái phá
Uy lực còn hơn vạn tấn đạn bom!
Khiến lũ "chó săn" tại Ba Đình lo lắng, kinh hoàng
Sợ đồng bào phẩn nộ,
Lại sợ chạm đến Thiên tử họ Giang sắp tuần du
đất Việt
Nên chúng cuống cuồng ra tay đàn áp
Mong bịt miệng anh - Một kẻ thế cô
Nhưng vô ích!
Dù thân anh lâm vào cảnh lao tù
Nhưng ý chí vẫn sáng ngời sắt thép!
Không khuất phục, không đầu hàng, không hợp tác
Anh hiên ngang đối mặt với bạo quyền!
Dù khó khăn, nguy hiểm, gian nan...
Vẫn bình tĩnh đi tiếp con đường anh đã chọn!
Là kẻ sĩ anh bảo toàn khí tiết,
Là dân lành anh xem trọng lương tâm,
Là thanh niên anh không ngại dấn thân
Khi đất nước gặp cơn nguy biến!
Đường anh đi dù chông gai, nguy hiểm
Nhưng sáng ngời chính nghĩa, rạng tương lai
Anh là người khơi dậy niềm tin
Cho những ai thật lòng yêu nước!
Đường anh đi sẽ có lắm người nối bước,
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn đã mạnh dạn dẫn đầu
Và hẳn còn nhiều bạn trẻ dấn bước theo sau
Đáp tiếng gọi thiết tha của Tổ Quốc!
Sự hy sinh của anh sẽ không bao giờ vô ích
Tuy hôm nay chưa thấy kết quả nhãn tiền!
Nhưng đây là một trong những đốm lửa đầu tiên
Sẽõ bùng cháy đốt thiêu chế độ độc tài lạc hậu!
LÊ CHÍ QUANG, anh đã đi vào lòng dân tộc
Như những vị anh hùng vì nước xả thân.
Tám chục triệu người dân đang ghi khắc tên anh
Vào trang sử đấu tranh hào hùng Đất Việt!
Kỷ niệm Ngày Nhân Quyền cho Việt Nam 11/5/02
(1) Phỏng vấn của Dương Thu Hương
Ghi chú của Tòa Soạn: TRẦN KIM KHÔI là chiến sĩ hàng
đầu của phong trào LIÊN TÔN KHỞI NGHIÃ và phong trào
CHỐNG CS BÁN NƯỚC. Hiện sống tại Charlotte, NC. øÔng
cùng với các nhà thơ ái quốc VŨ THỊ SÀI GÒN, ĐỖ
VĂN THÔNG v.v. đã viết nên những vần thơ trác tuyệt về
các anh hùng Dân Tộc VN như Lý Tống, LM Nguyễn Văn Lý,
Nguyễn Thị Thu, Hồ Tấn Anh, Lê Chí Quang v.v.
SƠN TRUNG * NGÔI NHÀ VÀNG
NGÔI NHÀ VÀNG
Ở
Việt Trì, tại Ngã Ba Hạc có một cây đa rất lớn, mà bên dưới là hang hốc chồn
cáo. Nhiều đêm, bọn ma quỷ, bọn hồ tinh thường hội họp bàn tán. Chúng bàn mọi
việc trên trời dưới đất, trong xóm ngoài làng. Một con Ma chê bọn Cáo:
-Bọn bây nghe nói pháp thuật tinh thông mà ở chỗ hang hốc thấp kém, hôi thối.
-Bọn bây nghe nói pháp thuật tinh thông mà ở chỗ hang hốc thấp kém, hôi thối.
Hồ
ly nói:- Đó là nét văn hóa đặc thù của loài Cáo chúng tôi. Dù có tài thiên biến
vạn hóa, chúng tôi vẫn giữ truyền thống cũ:
Ta về ta ở hang ta,
Dù to, dù nhỏ, hang nhà vẫn hơn!
Có một độ chúng ma nói chuyện với nhau về ngọc vàng. Một con nói:
-Tôi đã xuống Long vương thấy trong phòng Long vương chưng vô số ngọc, viên nào cũng to bằng quả trứng gà, đủ màu sắc.
Một Hồ Ly nói:
-Tôi thấy ở trong cung, hoàng hậu đội một cái vương miện bằng vàng to bằng cái rổ, xung quang đính những viên ngọc to bằng trái nhãn lồng!
Con ma khác nói:
-Ăn thua gì, bên Thái Lan có những ngôi chùa và tượng Phật bằng vàng thật.
Một con quỷ lên tiếng:
- Bên Thái Lan thì nói làm gì. Ở tại thôn Đoài, xứ Đoài có một cái nhà vàng .
Các ma tranh nhau hỏi:-Thật không?
-Thật chứ. Cái nhà toàn bằng vàng, ở trong có đủ thứ bửu vật. Ma thuật chuyện ấy cho nhau nghe, và bảo rằng cái nhà quý báu hiện có trên thế gian, ngay gần đây không xa.
Ta về ta ở hang ta,
Dù to, dù nhỏ, hang nhà vẫn hơn!
Có một độ chúng ma nói chuyện với nhau về ngọc vàng. Một con nói:
-Tôi đã xuống Long vương thấy trong phòng Long vương chưng vô số ngọc, viên nào cũng to bằng quả trứng gà, đủ màu sắc.
Một Hồ Ly nói:
-Tôi thấy ở trong cung, hoàng hậu đội một cái vương miện bằng vàng to bằng cái rổ, xung quang đính những viên ngọc to bằng trái nhãn lồng!
Con ma khác nói:
-Ăn thua gì, bên Thái Lan có những ngôi chùa và tượng Phật bằng vàng thật.
Một con quỷ lên tiếng:
- Bên Thái Lan thì nói làm gì. Ở tại thôn Đoài, xứ Đoài có một cái nhà vàng .
Các ma tranh nhau hỏi:-Thật không?
-Thật chứ. Cái nhà toàn bằng vàng, ở trong có đủ thứ bửu vật. Ma thuật chuyện ấy cho nhau nghe, và bảo rằng cái nhà quý báu hiện có trên thế gian, ngay gần đây không xa.
Câu chuyện lọt vào tai Thổ công. Ông nghĩ rằng ông là thổ công xứ này, đưọc thiên đình giao cho việc theo dõi tình hình địa phương. Dưới ông là các đội trưởng, toán trưởng , tổ trưởng và hàng trăm quan lại thượng thừa đủ chủng loại và cấp bậc gồm những thằng tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư, trung tướng, thiếu tướng, và hàng chục vạn nhân viên , cứ mỗi nhân viên coi mười nhà. Nhân dân chúng nó ăn gì, vợ chồng chúng nó chửi nhau ra sao, yêu nhau ra sao đều báo cáo đầy đủ về bộ An Ninh Thiên Đình. Thế mà một cái nhà vàng nằm chình ình trong khu vực của ông lại không ai báo cáo việc này. Nhân viên ông, thủ hạ ông toàn là những tay cốt cán, đã có thành tích phá tan hàng vạn cuộc nổi dậy và biểu tình chống đối. Chúng rất tích cực đến độ trước mắt quốc tế, chúng đánh đập nhân dân công khai, và trước tòa án, trước các phóng viên báo chí trong ngoài, chúng lấy tay bịt miệng người ta không cho nói. Danh từ " bịt miệng" không còn là nghĩa bóng mà là nghĩa đen rùng rợn, rõ rệt và man rợ! Chúng luôn trung thành với ông, với Thiên Đình, không lẽ chúng lo làm giàu mà quên nhiệm vụ? Không lẽ tất cả chúng nó đã chạy theo "diễn biến hòa bình" mà bỏ ngũ? Không lẽ kẻ thù tài ba ghê gớm có thể che thần nhãn của ông?
Việc to lớn như thế mà ông không biết, chứng tỏ ông và thủ hạ bất lực, sớm muộn sẽ bị thiên đình phát giác và trừng phạt. Lúc đó thì ông ăn cám, và về đuổi gà cho vợ cũng không xong!
Theo thói quen nghề nghiệp, ngay đêm ấy ông đến chơi đức Thành hoàng bổn cảnh để hỏi xem có tin tức về câu chuyện của ma nói xem thử hư thực như thế nào. Thành hoàng rất ngạc nhiên khi nghe ông bạn An Ninh kể chuyện. Ngài bảo:
- Ông còn không rõ, tôi thì đi đâu mà biết được. Tôi quanh năm nằm trong đình làng thôi thì làm sao biết việc ở làng khác, tỉnh khác!
Hai ông ngẩn người, bèn bảo nhau qua nhà Đông Trù Tư mạnh Táo quân, rồi cùng nhau đem việc lạ ấy hỏi Đông trù tư mệnh Táo quân. Đông trù nghe hai ông khách, lại tưởng chuyện Phong thần, cười và nói:
- Tôi chỉ công tác trong nhà chứ đâu công tác ngoài xã hội. Nếu có nhà vàng thì phải do cấp trên cao hơn theo dõi, chứ tôi chỉ công tác trong xó bếp nhân dân thôi! Nước ta nghèo, theo XHCN, làm gì có kiểu sang giàu như vua chúa đời xưa! Lạ quá. Xin các ông hãy kể nốt câu chuyện cho tôi nghe.
Thấy hai ông kia ngơ ngác, bấy giờ mới suy ra là chuyện thực. Đông trù thú thật rằng, chưa biết việc ấy bao giờ.
- Tôi tra xét việc thế gian, năm năm tâu lên Thượng đế, và nghe các đồng nghiệp trình tâu tình hình các nơi mà không thấy một việc lạ như thế. Vả lại ở thế gian, nếu có lâu đài vĩ đại, bất quá chỉ làm bằng đá bằng cây, chạm trổ đủ hình, đủ kiểu, hoặc vài nơi mạ vàng như bàn thờ hoặc câu đối chớ có nghe đâu nhà toàn bằng vàng như các ông bảo.
Thành hoàng nói:
-Vùng Sơn Tây thuộc Tản Viên linh thần. Ta nên lên Tản Viên hỏi thử.
Cả ba lên Tản Viên nhưng không được gặp vì Tản Viên sơn thần đi đự hội nghị ngoài biển đông với Long vương.
Táo quân nói:-Âu chúng ta nên hỏi Nam tào giữ sổ nhân gian xem sao.
Cùng nhau lên xe mây, để thiên ngưu kéo về thiên đình, thì bỗng gặp một nhà tu hành kỳ quái, không biết ở đâu lại hiện ra giữa không trung chặn đường.
Các thần đều hỏi:
- Ông là ai? Xin cho biết quý danh?
Người lạ đáp:
- Tôi là nhà tu Thích Đủ Thứ, sống trong một thế giới khác, nên các ngài không biết được. Nhưng về sau rồi các ngài có thể biết.
Các thần hỏi:
- Vậy ông chận đường chúng tôi có việc gì?
Nhà sư kỳ dị đáp:
- Tôi cũng vừa nghe các ngài bàn việc lên trên kia hỏi một vị thần khác giữ sổ thế gian, xem cái nhà vàng ở đâu. Tôi sợ các ngài đi xa nhọc nhằn mà sẽ không kết quả gì, vì chắc chắn trên kia, vị thần mà các ngài đến hỏi chuyện cũng không thấu rõ cái kỳ quan đó. Bọn họ chỉ lo kiếm vàng chứ không biết chuyện nhà vàng đâu. Các ông một là phải theo thủ tục đầu tiên, hai là phải có quyền thế, vây cánh và phải có giấy giới thiệu của cơ quan và của lệnh bài của Thiên Đình. Nếu không, chúng chỉ sang Nam Tào, Nam Tào lại chỉ về Bắc Đẩu, Bắc Đẩu lại chỉ sang Thái Thượng Lão Quân, Thái Thượng lão quân lại chỉ sang Vương Mẫu, Vương mẫu lại chỉ sang Đông Hải Long vương. Các ông chạy trăm năm cũng không có ai giải quyết vấn đề cho đâu!
Các thần nhìn nhau, rồi hỏi:
- Thế ông có cách gì cho chúng tôi biết không?
Nhà sư kỳ lạ gật đầu rồi dẫn các thần trở lại thế gian, về thôn Đoài, tỉnh Đoài. Đến đây thì trời rạng đông, các ma đã tản lạc theo đêm tối về phương khác. Người lạ rút trong tay áo ra một hạt ngọc trong như thuỷ tinh, hạt ngọc chiếu những tia sáng tinh anh. Rồi cho những tia sáng ấy rọi về phía xa, trỏ cho các thần xem. Các thần chăm chú
nhìn tức thì thấy cách đó ba dặm, trong một cảnh thật huyền ảo, cái nhà vàng rực rỡ xuất hiện giữa một vườn cây kỳ dị.
Các thần rú lên:
- Đích rồi! Hoàng kim ốc!
Vừa nói xong, hạt ngọc và người lạ bỗng dưng biến mất. Các thần nhìn nhau, rồi nhìn về chốn huyền ảo khi nãy, thì chỉ thấy ánh sáng ban mai nhuộm hồng rừng núi và đồng ruộng. Ở đấy rải rác một vài nóc nhà, và chính nơi cái nhà vàng vừa thấy, thì lại là một túp lều tranh nhỏ.
Lúc bấy giờ trong ngôi nhà tranh, một chàng thư sinh vừa buông sách xuống, định ngả lưng nằm nghỉ. Bỗng nhiên ngó lên mái nhà, thầy ba bóng người đang vạch mái tranh nhìn xuống. Một ông mặt đen như nhọ chão, một ông đội mũ vàng, một ông bịt khăn rằn che mặt. Cả ba ông bàn cãi nhau và trong giấc mộng, chàng nghe ba ông bảo:
-Sao lại thế nhĩ?
Chàng thở ra, thở vào đều đều, rồi an giấc.
Đông trù cằn nhằn Thổ công:
- Hắn ta chỉ là một anh học trò khó, nghèo xơ xác, mà lại bảo ở nhà vàng. Hoang đường quá! Mộng mị quá ! Các ông là nhà cách mạng lại đi tin những điều yêu hồ nhảm nhí! Nếu dân chúng và thiên đình biết được thì uy tín các ông không còn, mà lại có thể bị rút thẻ "Ưu tiên" và đuổi xuống hạ giới!
Thành hoàng cũng bực mình:
- Tôi bỏ qua hết ba cuộc lễ kỳ yên rồi còn gì. Mấy ông thần hoàng bạn tôi ở Hà Nội, Hà Đông, Nam Định mời tôi về ăn nhậu, chơi bời, có em út và ca sĩ khắp bốn bể năm châu về, có sòng bài, đủ thứ vui. Khi về còn được hàng chục phong bao dày cộm. Thế mà vì việc chẳng ra chi mà đành lỡ hẹn với các ông trên ấy. Thật đáng tiếc, mất cả chỉ lẫn chài! Chẳng cái dại nào bằng cái dại nào!
Thổ công vuốt râu cười hắt:
- Thôi các ông đừng trách móc nhau nặng lời. Ta thử xem trên đường có gặp thằng nhà sư quỷ quái kia không mà cho nó một trận nên thân!
Ba ông vừa đi vừa nhìn kỹ, quả nhiên thấy bên gốc cây vệ đường, nhà sư kỳ dị đang nằm ngủ.
Cả ba thần đánh thức nhà sư và quát lón:
-Ông là nhà sư sao lại nói dối hả?
Nhà sư cười:
-Các ông quyền cao chức trọng nhưng sức học lớp ba, lớp năm trường làng cho nên chẳng biết chữ nghĩa của thánh hiền. Tôi xin mời ông trở lại ngôi nhà vàng.
Ba vị thần linh theo nhà sư bước vào ngôi nhà tranh. Người học trò đang nằm ngủ. Nhà sư mở cửa cùng ba thần linh đi vào nhà . Vị sư chỉ hai câu đối treo trên tường nhà người học trò:
Ngã độc thư, ngô mao lư thị hoàng kim ốc,
Quân hành thiện, quân Phật tâm tức bích ngọc thành.
(Ta đọc sách, nhà tranh ta là nhà vàng,
Ông làm thiện, tâm Phật của ông ấy thành ngọc)
Ông sư lại mở bồ sách, lấy ra một quyển nhan đề là "Trạng Nguyên Thi" và chỉ cho ba thần xem thì thấy hàng chữ:
"An cư bất dụng giá cao đường. Thư trung tự hữu hoàng kim ốc.Thiện tâm mao ốc hóa lâu đài."
( Ở yên là đưọc, không cần làm nhà cao. Trong sách có nhà vàng. Có lòng thiện thì nhà tranh thành lâu đài.)
Sau cả ba lên thiên đình, trình tấu sự việc. Thượng Đế cười:
-"Chúng nó lý tưởng quá, lý tưởng quá thì khổ. Nhà tranh sao là nhà vàng, sách nói hoang đường. Ta đây sống trên trời nhưng rất thực tế. Ta tranh đấu là tranh đấu cho ta, cho chúng ta, cho địa vị, tiền bạc cho vật chất vì chúng ta theo Duy Vật chủ nghĩa mà! Nhà của ta đây mới là nhà vàng, cung điện của ta giá hàng tỷ mỹ kim, nơi nghỉ mát của ta giá hàng triệu mỹ kim, tối tân hơn vạn lần cái nhà vàng trong mộng của chúng nó! Nhưng thằng đó nghèo mà dám nói nhà nó là nhà vàng. Đó là tư tưởng duy tâm thần bí! Nói như thế là nó bảo nó giàu sang hơn ta, đó là hành động chống phá triều đình! Các khanh nên đem nó đi học tập Đại Học Trường Kỳ."
Các thần bèn lạy tạ mà lui ra!
SƠN TRUNG * KINH TẾ CÁ THỂ
Ba giai đoạn kinh tế cá thể
của ngườI CỘNG sản
Sơn Trung
Bài này nhắm vào đối tượng là cán bộ trung cấp và hạ cấp, còn cán bộ cao cấp thì không dám đụng đến, vì họ có sẵn kho tàng quốc gia, và của cải nhân dân, xài hoài không hết, cần gì phải làm kinh tế cá thể cho mệt!
Đừng tưởng rằng cán bộ đảng là không có óc tư hữu. Họ ra sức đánh tư sản, đánh địa chủ không phải là diệt tư hữu mà là vì muốn lấy tài sản cuả người làm của mình.
Chính sách quốc doanh, hợp tác xã là bắt mọi người trong nước làm nô lệ cho cộng sản. Đồng thời họ cũng bắt cán bộ từ trung cấp trở xuống làm tay sai cho họ. Do đó mà bọn cán bộ này ngoài đồng lương chết đói, chỉ có ba đường, một là trộm cắp của công, hai là tham nhũng, hối lộ, và ba là ra sức lao động để kiếm sống.
Lao động kiếm sống này không thuộc lãnh đạo của đảng, không thuôc quốc doanh hay HTX, cho nên gọi là kinh tế cá thể. Có nhiều cách làm cá thể, nhưng phổ biến là nuôi heo. Cho nên ba giai đoạn trong lịch sử đảng cộng sản làm kinh tế cá thể là nuôi heo, nuôi heo che mắt và không cần nuôi heo.
I. Nuôi heo kiếm lời ( 1954-1980):
Nuôi heo gia đình là truyền thống của nhân dân ta. Trung Nam Bắc đều nuôi heo. Đây là một phương tiện làm kinh tế. Một nhà it nhất là nuôi một con heo. Chỉ có nhà bần nông mới không nuôi heo vì nuôi heo cũng tốn kém, phải làm chuồng trại, phải có tấm cám cho heo ăn. Nuôi heo để bán lấy lời, cũng như nuôi gà, nuôi vịt. Nhà giàu thì nuôi gà vịt để cúng giỗ và thết khách. Nhà giàu cũng nuôi heo để thết họ hàng làng xóm trong đám giỗ, đám khao. Nhà nông Viêt Nam tại miền Trung cho rằng nuôi không lời nhưng họ phải nuôi heo để lấy phân bón ruộng. Nhưng tại miền Nam nuôi heo chính là làm kinh tế.
Miền Nam nuôi heo khác hơn miền Trung và miền Bắc. Trung Bắc nuôi heo bằng cám, rau, bèo. Heo ngoài Trung Bắc giống nhỏ, chỉ được vài chục ký nhưng dễ nuôi, ít bị bệnh tật. Trong Nam nuôi heo giống tốt, con heo rất to khoảng trên một tạ thịt,, có nơi thả rong, và nuôi rất công phu như là cho heo ăn cơm, thêm vài ít thuốc bổ. Họ không lấy phân, cho nên chuồng rất sạch, chủ nhân lại luôn luôn tắm rửa cho heo. Có nhà sợ heo bị muỗI cắn, đêm giăng mùng cho heo ngủ. Heo trong Nam sướng hơn người miền Trung và miền rừng núi , nhất là dân miền bắc xã hội chủ nghĩa trước 1975, vì dân nơi này quanh năm ăn độn cơm với khoai, hay bắp, đôi khi không có cơm, mà chỉ toàn là khoai , bắp, hay sắn như là mấy người đi cải tạo.
Trước 1975, cuôc sống thành thị rất hạnh phúc. Thức ăn thừa thải cho nên người nuôi heo cứ đến tiệm ăn lấy đồ dư là đủ nuôi đàn heo. Sau 1975, tình hình kinh tế và chính trị khác đi, người nuôi heo muời người hết tám bỏ nghề vì không đủ tiền mua cám cho heo. Lúc này người không có gạo mà ăn thì tiền đâu nuôi heo! Con ngườI XHCN một ngày một gầy quắt đi là vì cái vòng luẩn quẩn đó. Gạo và thịt hay bánh mì và thịt đi chung với nhau như cặp tình nhân tha thiết. Có gạo thì có thịt, không gạo thì không thịt. Thành thử con người tư bản ngày càng béo, còn ngườI XHCN (trừ mấy vị lãnh đạo), ngày một teo! Lại nữa có gạo thì có cám, không gạo lấy gì có cám mà nuôi heo, cho nên dưới chế đ XHCN, nghề nuôi heo càng ngày càng đi xuống.
Không nuôi heo thì thịt heo ngày càng đắt, cho nên ai nuôi được heo thì lại càng lời! Do đó, đa số cán bộ đảng đã nuôi heo. Dẫu sao, họ là cán bộ cho nên cũng dễ xoay xở hơn là dân, cho nên việc nuôi heo không khó. Ngày đi làm, chiều về mua bó rau muống, phần ngon tươi thì người ăn, phần già xấu thì cho heo ăn. Nuôi heo là một hình thức bỏ ống. Cán bộ cấp dưỡng ( anh nuôi, chị nuôi) trong cơ quan, trong trại tù, trong bệnh viện hay trong các trường đại học, trường mẫu giáo thì nuôi heo đại lợi vì họ cố ý nấu cơm hoặc cháy hoặc sống, không ai ăn được, thế là họ mang cơm và thức ăn về nuôi heo! Nhân dân cũng có thể nuôi heo tốt nếu biết móc ngoặc với các anh nuôi chị nuôi của chế độ ! Có nhiều sáng kiến trong việc nuôi heo. Một cán bộ khoa học của đảng được trở thành anh hùng lao động vì có công nghiên cứu mới, lấy phân heo, phân bò nuôi trâu bò và nuôi heo! Nghiên cứu của anh được đăng lên báo và đảng hết lời ca tụng ! ( Không biết anh này là ai, chắc là con cháu Phạm Văn Đồng hay Lê Duẩn, Trường Chinh? ) Công cuộc nghiên cứu bèo hoa dâu của ủy ban khoa học đảng đã công nhận bèo hoa dâu nuôi heo rất tốt, bón phân cũng tốt. Chỉ có cái anh chàng Ngô Gia Định, ( hồi 75 còn trẻ, nay đã già rồi), tiến sĩ thực vật, học trò của giáo sư Phạm Hoàng Hộ, dạy học tại đại học Cần Thơ dám nói bèo hoa dâu là cỏ dại! Anh bị cán bộ đảng cự lại: ‘Có người dại chứ không có cỏ dại’! Trong khi các vị giáo sư ‘ngụy’ và giáo sư nằm vùng như Trần Kim Thạch khom lưng tán tụng thì đuợc ở lại, riêng anh bị cho ra khỏi đại học vì dám nói trái với lời của đảng . Cũng có sáng kiến lấy thai nhi và nhau đem về nuôi heo vì trong bệnh viện lúc nào cũng có nhiều phụ nữ nạo thai, phá thai theo chủ trương của đảng. Chính các lãnh tụ đảng cũng đã dùng thai nhi, hoặc nhau để bồi dưỡng cho nên tên nào cũng sống lâu và hiện hình ác quỷ! Có truyện kể rằng chị kia làm ở bệnh viện, thường đem thai nhi về cho heo ăn. Mt hôm nấu cám heo, chị nghe tiếng trẻ con kêu:’nóng quá! nóng quá’. Chị sợ quá, từ đó không dám đem thai nhi về nữa!
Tại Hà Nội, cán bộ cũng nuôi heo. Sau 1954. dân Hà Nội đa số bỏ vào Nam. Nhà cửa của họ , của tư sản và ‘ ngụy quân ngụy quyền’ đều bị tịch thâu, làm nhà cho cán bộ và cơ quan. Những người không thuộc diện tư sản, và ‘ngụy quân, ngụy quyền’ nhưng có nhà cao cửa rộng thì bị đảng mượn, hoặc đổi cho nhà nhỏ hơn, hoặc phải hiến. Tiến lên một bước nữa, đảng bắt dân đóng thuế nhà. Nhà rộng không đủ tiền nộp thuế thì đảng lấy nhà. Một căn nhà chia năm, sẻ bảy cho cán bộ ở. Một cán bộ có diện tích khoảng ba hay bốn mét vuông, đủ kê một cái giường và một cái bàn. Hộ này cách hộ kia một bức màn. Trong tình trạng này người ta cũng nuôi heo! Họ thả heo dưới gậm giuờng! Dẫu sao, heo cũng đã nuôi họ một thời gian. Nguyễn Văn Trấn cũng đã ca tụng nghề nuôi heo khi ông nói:
‘ Một hũ vàng chôn, không bằng cái lồn heo nái’ (1)
Trong giai đoạn này, đời sống những cán bộ thấp cổ bé miệng và loại cán bộ thật thà chơn chất rất khổ. Con của dân buôn thúng bán bưng buổi sáng đi học còn có gói xôi, con cán bộ đói meo. Đời sống của dân buôn bán phe phẩy cao hơn cán bộ, tự do hơn cán bộ. Trong Thiên Đường Mù của Dương Thu Hương, gia đình cậu Chính là một điển hình cho hạng cán bộ ngu xuẫn tin vào đảng. Cậu tin rằng làm cán bộ là vinh quang, còn làm ăn cá thể, buôn thúng bán bưng là cổ hủ , là ô nhục, là lạc hậu mặc dù cái gia đình buôn thúng bán bưng đã đem lại rất nhiều thương yêu và tài lộc cho cậu. Cậu bảo bà chị:
Chị nghe đây này:Cái nghề buôn thúng bán bưng của chị, dù bây giờ kiếm
đủ ngày hai bữa cơm, nhưng mai sau sẽ bị tiêu diệt. Còn đứng vào đi ngũ giai
cấp, dù làm tạp vụ chăng nữa, cũng sẽ nắm chắc tương lai trong tay!(2)
Cậu đã xin cho bà chị làm tạp vụ ở một nhà máy, nhưng bà chị làm ăn cá thể này rất sáng suốt, từ chối vinh dự làm cán bộ đảng. Bà nói:
Ngần này tuổi tôi còn làm loong toong cho người sai vặt.biết bao giờ mới
thành nghề, thành nghiệp?.. .Mà trước mắt, lương bổng như thế, tôi làm sao
nuôi nổi cháu Hằng?(3)
Một nhà nghiên cứu xã hội nói: Nhìn thùng rác là biết thực tế xã hội.
Thât vậy, khi mới vào Nam, người cán bộ cộng sản cũng có nhiều suy nghĩ. Họ xem cái thùng rác và đống rác ngoài đường là thấy một miền nam sung sướng, thừa mứa.Và họ thấy rằng những lời tuyên truyền của đảng rằng miền nam cực khổ, bị bóc lột là giả dối. Đống rác miền Nam nhiều cá thịt hơn kho lương thực của đảng ở miền Bắc! Thứ hai là họ quan sát các cô thứ ký miền Nam còn sót lại. Tiền quà sáng, quà trưa, quà chiều của các cô này trong một tuần bằng lương cả tháng của họ. Lương trả rẻ mạt, không đủ cho họ ăn quà song họ phải làm việc vì nhiều lý do. Một là có việc làm. Triết lý thực dụng của dân Sàigòn lúc nằy là làm được mười đồng thì đỡ mất mười đồng, còn hơn là ngồi không ( Có hơn không , lấy chồng hơn ở ở góa) . Hai là làm việc để đuợc sống tại Sài gòn, nếu không thì phải đi kinh tế mới! Đi kinh tế mới hay đi lao động xã hội chủ nghĩa là đi vào nơi tàn phá nhan săc, nơi đày ải con người chứ không phải sung sướng như Trịnh Công Sơn đã ca tụng! Nhiều ông nghe nói trong nam khổ quá, nên đã mang vào bát sành, chiếu cói vào cho thân nhân, nhưng khi vào đến nơi, thấy dân đây xài bát kiểu Trung quốc, dĩa sứ Nhật bổn và aó quần lượt là, chăn len gối bông, là họ đã hiểu! Khi họ mới vào, họ cứ tưởng nhà của ta là nhà cán bộ cao cấp của Mỹ Ngụy, vì ngoài bắc chỉ cán bộ cao cấp mới có nhà riêng, có xa lông, tủ bàn...!
Nói chung, dù có khoe khoang khoác lác, họ cũng đã công nhận ngoằi bắc nghèo khổ hơn! Khi phát hàng tiêu chuẩn, có cơ quan đã kêu gọi viên chức người Nam bấy lâu đã sung sướng nên nhường hàng lại cho cán bộ Bắc kỳ ! Có nơi kêu gọi viên chức trong Nam ủng hộ cán bộ A ! Thật vậy, trong giai đoạn đầu, nhiều nịnh thần đã cung phụng quần áo, xe cộ, đồ đạc, thuốc men cho Việt Cộng trong đó có rất nhiều nhà giáo của chúng ta!
II. NUÔI HEO CHE MẮT (1980-1990)
Có thực mới vực được đạo. Cổ nhân dạy thế. Khi vào Nam, các cán bộ tinh khôn đã thấy đuợc những ngu muội quá khứ. Họ thấy họ bị lường gạt, và bấy giờ họ phải lấy lại những gì đã mất. Một là họ trả thù, và hai là họ phải làm giàu bằng mọi phương tiện để bù lại một cuộc đời đã mất đi cho ngu dại! Miền Trung nghèo , cán bộ khó làm ăn cho nên họ làm cho dân miền Trung khổ gấp mười! Còn miền Nam nhiều lợi nhuận cho nên họ làm cho họ sướng gấp mười!
Võ Nguyên Giáp chủ trương kìm hãm miền Nam:’Xây dựng kinh tế không để cho miền nam lên mạnh, miền bắc, miền Trung tụt lại sau!(4)
Nguyễn Văn Trấn viết:
Chính sách này đã dùng nhiều biện pháp làm rối loạn nền kinh tế,
và khiến cho nó trì trệ và làm được việc mà đàng ngoài mong ước,
miền nam ngheò để đuổi kịp miền bắc!(5)
Dù chúng kìm kẹp, kinh tế miền nam tuy không phát triển bằng trước, vẫn đủ tiền cung phụng cho lũ trung ương tiêu xài, vì riêng Sài gon đã góp một nữa ngân quỹ so với cả nước.
Lúc đầu dân trong Nam ai cũng lo sợ, nhất là mấy ông Ba Tàu Chợ Lớn. Họ nói chỉ sợ Cộng sản không chịu ăn, nếu cộng sản ăn là mọi sự xong ngay! Thế là tham nhũng bộc phát. Sự thực tham nhũng có ngay đời ông Bành Tổ. Và chỗ nào có Việt Nam, Trung quốc là có ngay tham nhũng, lạm quyền, chiếm công vi tư, ngồi lỳ, hám danh hám lợi cho dù là danh hão! Và tham nhũng đã có ngay từ thời ông Hồ. Dân quân tự vệ canh gác, xét người, xét hàng nhất là vùng xôi đậu đã ăn hối lộ,hoặc tịch thu và cướp bóc của dân. Trong vụ tịch thu nhà cửa, vàng bạc của tư sản và điạ chủ ở hai miền nam bắc là cơ hội làm giàu cho cán bộ. Cho nên ai nói người cộng sản biến chất là sai bởi vì chất tham nhũng, gian ác, xão trá đã nằm trong bản chất từ lâu, không phải bây giờ mói có. Trong chiến tranh, họ cũng đã lấy hàng nhà nước đem bán. Nhiều nơi cán bộ ăn bớt phân bón thuốc trừ sâu của nông dân.. Và hầu hết HTX mua bán đã ăn bớt đường, bột ngọt và gạo của dân. Cho nên họ giàu có lắm, tiền không biết để đâu cho hết, mỗi kỳ đổi tiền, là tiền vứt hàng đống ngoài đường vì cán bộ không dám ra mặt đổi tiền, sợ đảng hỏi tiền đâu mà lắm thế và bỏ tù họ ! Vì vậy, họ không nhận hối lộ tiền mà đòi vàng và đô la. Một cách biện minh cho sự làm giàu của mình là nói tiền do tôi nuôi heo. Và nuôi heo chính là một biện minh cho sự giàu sang của họ. Ở Sài gòn cũng có tay giàu sụ, đám cưới con gái mời hàng ngàn cán bộ, báo chí thắc mắc và biêu riếu ông tham nhũng, ông thanh minh: Ông có tiền là do nuôi chó berger!
III. KHÔNG CẦN NUÔI HEO (1990 cho đến nay)
Bây giờ đảng bắt đầu tư sản hóa cho cán bộ. Nhà ‘ngụy quân ngụy quyền’, nhà tư sản mại bản, nhà của người bỏ đi ra nước ngoài rất nhiều, tha hồ cho cán bô đảng ở, không phải cực khổ như ngoài bắc. Cán bô chồng một hai nhà, cán bộ vợ một hai nhà, dồng chí con một hai nhà. Nhận nhà xong là bán ngay sợ đảng đổi ý. Cán bộ trung cấp và cao cấp dược cấp những biệt thự ở Tú Xương, Đồng Khởi, tha hồ cho ngoại quốc thuê. Nhờ đảng và nhà nuớc, họ ngồi không, tháng tháng thu về hàng ngàn đô la như chơi! Như vậy là họ đâu cần phải nuôi heo cho thúi, cho dơ nữa! Còn nhiều lợi tức khác nữa. Chính sách đổi mới khiến cho cha con họ được lợi. Vợ chồng họ ở trong đảng, trong chính quyền, con cái họ cho ra lập công ty, như vậy là công tư lưỡng lợi. Lúc này tư bản vào đầu tư, tư bản đã làm giàu cho túi tiền của họ. Và lúc này đi đâu người cộng sản cũng khoe đô la và xài đô la! Thiệt là ‘ Việt kiều nghèo hơn Việt cộng!’
Một nguồn lợi vô cùng to lớn vẫn là tài sản quốc gia. Chiếm miền nam là họ có thêm một kho tàng vĩ đại sau khi đã phá tán kho tàng miền bắc. Chúng ta hãy nghe Bùi Công Trừng nói với Nguyễn Văn Trấn từ cái ngày tháng 1975:
Chúng nó cũng mấy thằng ấy, cũng những chính sách ấy, cai trị 17 triệu
dân thì dân đã nghèo sát đất, không đầy 15 năm, hai cái rừng Việt Bắc
và Tây bắc bị cạo trọc lóc. Bây giờ ở miền Nam cũng đào kép ấy (mêmes
acteurs), hài kịch ấy( même commédie), chưa chi chúng nó đã gìành đất Ban
Mê Thuột, của Đà Lạt và Sông Bé thì chúng sẽ đua với miền bắc 15 năm, miền
nam chỉ cần ba năm thì cũng sẽ ‘trơn lu như mu bà bóng’ cho mầy coi! (6)
Ngày nay cộng sản đã trở thành tư sản đỏ. Mở cửa, đầu tư, thị trường chứng khoán, tư nhân hóa quốc doanh , buôn bán với Mỹ đều là những chính sách lợi cho cộng sản. Nay họ không còn Liên Xô, họ còn Trung quốc, nhưng họ không cho con cái học Trung quốc mà sang Mỹ, Canada. Tiền của họ nay gửi tại Thủy sĩ, Mỹ, Canada. May mai của thiên trả địa, chỉ có dân tộc Việt Nam là thiệt thòi, mất mát mà thôi !
CHÚ THÍCH
1. Nguyễn Văn Trấn, Viết Cho Mẹ Và Quốc HôI.Văn Nghệ, Cali,1995,tr.228.
2. Dương Thu Hương, Thiên Đường Mù, Phu Nữ, Hà NộI, 1988,tr.90.
3. ( như trên)
4. Nguyễn Văn Trấn, sđd,tr.234.
5. như trên,tr.235.
6. như trên,tr.231.
của ngườI CỘNG sản
Sơn Trung
Bài này nhắm vào đối tượng là cán bộ trung cấp và hạ cấp, còn cán bộ cao cấp thì không dám đụng đến, vì họ có sẵn kho tàng quốc gia, và của cải nhân dân, xài hoài không hết, cần gì phải làm kinh tế cá thể cho mệt!
Đừng tưởng rằng cán bộ đảng là không có óc tư hữu. Họ ra sức đánh tư sản, đánh địa chủ không phải là diệt tư hữu mà là vì muốn lấy tài sản cuả người làm của mình.
Chính sách quốc doanh, hợp tác xã là bắt mọi người trong nước làm nô lệ cho cộng sản. Đồng thời họ cũng bắt cán bộ từ trung cấp trở xuống làm tay sai cho họ. Do đó mà bọn cán bộ này ngoài đồng lương chết đói, chỉ có ba đường, một là trộm cắp của công, hai là tham nhũng, hối lộ, và ba là ra sức lao động để kiếm sống.
Lao động kiếm sống này không thuộc lãnh đạo của đảng, không thuôc quốc doanh hay HTX, cho nên gọi là kinh tế cá thể. Có nhiều cách làm cá thể, nhưng phổ biến là nuôi heo. Cho nên ba giai đoạn trong lịch sử đảng cộng sản làm kinh tế cá thể là nuôi heo, nuôi heo che mắt và không cần nuôi heo.
I. Nuôi heo kiếm lời ( 1954-1980):
Nuôi heo gia đình là truyền thống của nhân dân ta. Trung Nam Bắc đều nuôi heo. Đây là một phương tiện làm kinh tế. Một nhà it nhất là nuôi một con heo. Chỉ có nhà bần nông mới không nuôi heo vì nuôi heo cũng tốn kém, phải làm chuồng trại, phải có tấm cám cho heo ăn. Nuôi heo để bán lấy lời, cũng như nuôi gà, nuôi vịt. Nhà giàu thì nuôi gà vịt để cúng giỗ và thết khách. Nhà giàu cũng nuôi heo để thết họ hàng làng xóm trong đám giỗ, đám khao. Nhà nông Viêt Nam tại miền Trung cho rằng nuôi không lời nhưng họ phải nuôi heo để lấy phân bón ruộng. Nhưng tại miền Nam nuôi heo chính là làm kinh tế.
Miền Nam nuôi heo khác hơn miền Trung và miền Bắc. Trung Bắc nuôi heo bằng cám, rau, bèo. Heo ngoài Trung Bắc giống nhỏ, chỉ được vài chục ký nhưng dễ nuôi, ít bị bệnh tật. Trong Nam nuôi heo giống tốt, con heo rất to khoảng trên một tạ thịt,, có nơi thả rong, và nuôi rất công phu như là cho heo ăn cơm, thêm vài ít thuốc bổ. Họ không lấy phân, cho nên chuồng rất sạch, chủ nhân lại luôn luôn tắm rửa cho heo. Có nhà sợ heo bị muỗI cắn, đêm giăng mùng cho heo ngủ. Heo trong Nam sướng hơn người miền Trung và miền rừng núi , nhất là dân miền bắc xã hội chủ nghĩa trước 1975, vì dân nơi này quanh năm ăn độn cơm với khoai, hay bắp, đôi khi không có cơm, mà chỉ toàn là khoai , bắp, hay sắn như là mấy người đi cải tạo.
Trước 1975, cuôc sống thành thị rất hạnh phúc. Thức ăn thừa thải cho nên người nuôi heo cứ đến tiệm ăn lấy đồ dư là đủ nuôi đàn heo. Sau 1975, tình hình kinh tế và chính trị khác đi, người nuôi heo muời người hết tám bỏ nghề vì không đủ tiền mua cám cho heo. Lúc này người không có gạo mà ăn thì tiền đâu nuôi heo! Con ngườI XHCN một ngày một gầy quắt đi là vì cái vòng luẩn quẩn đó. Gạo và thịt hay bánh mì và thịt đi chung với nhau như cặp tình nhân tha thiết. Có gạo thì có thịt, không gạo thì không thịt. Thành thử con người tư bản ngày càng béo, còn ngườI XHCN (trừ mấy vị lãnh đạo), ngày một teo! Lại nữa có gạo thì có cám, không gạo lấy gì có cám mà nuôi heo, cho nên dưới chế đ XHCN, nghề nuôi heo càng ngày càng đi xuống.
Không nuôi heo thì thịt heo ngày càng đắt, cho nên ai nuôi được heo thì lại càng lời! Do đó, đa số cán bộ đảng đã nuôi heo. Dẫu sao, họ là cán bộ cho nên cũng dễ xoay xở hơn là dân, cho nên việc nuôi heo không khó. Ngày đi làm, chiều về mua bó rau muống, phần ngon tươi thì người ăn, phần già xấu thì cho heo ăn. Nuôi heo là một hình thức bỏ ống. Cán bộ cấp dưỡng ( anh nuôi, chị nuôi) trong cơ quan, trong trại tù, trong bệnh viện hay trong các trường đại học, trường mẫu giáo thì nuôi heo đại lợi vì họ cố ý nấu cơm hoặc cháy hoặc sống, không ai ăn được, thế là họ mang cơm và thức ăn về nuôi heo! Nhân dân cũng có thể nuôi heo tốt nếu biết móc ngoặc với các anh nuôi chị nuôi của chế độ ! Có nhiều sáng kiến trong việc nuôi heo. Một cán bộ khoa học của đảng được trở thành anh hùng lao động vì có công nghiên cứu mới, lấy phân heo, phân bò nuôi trâu bò và nuôi heo! Nghiên cứu của anh được đăng lên báo và đảng hết lời ca tụng ! ( Không biết anh này là ai, chắc là con cháu Phạm Văn Đồng hay Lê Duẩn, Trường Chinh? ) Công cuộc nghiên cứu bèo hoa dâu của ủy ban khoa học đảng đã công nhận bèo hoa dâu nuôi heo rất tốt, bón phân cũng tốt. Chỉ có cái anh chàng Ngô Gia Định, ( hồi 75 còn trẻ, nay đã già rồi), tiến sĩ thực vật, học trò của giáo sư Phạm Hoàng Hộ, dạy học tại đại học Cần Thơ dám nói bèo hoa dâu là cỏ dại! Anh bị cán bộ đảng cự lại: ‘Có người dại chứ không có cỏ dại’! Trong khi các vị giáo sư ‘ngụy’ và giáo sư nằm vùng như Trần Kim Thạch khom lưng tán tụng thì đuợc ở lại, riêng anh bị cho ra khỏi đại học vì dám nói trái với lời của đảng . Cũng có sáng kiến lấy thai nhi và nhau đem về nuôi heo vì trong bệnh viện lúc nào cũng có nhiều phụ nữ nạo thai, phá thai theo chủ trương của đảng. Chính các lãnh tụ đảng cũng đã dùng thai nhi, hoặc nhau để bồi dưỡng cho nên tên nào cũng sống lâu và hiện hình ác quỷ! Có truyện kể rằng chị kia làm ở bệnh viện, thường đem thai nhi về cho heo ăn. Mt hôm nấu cám heo, chị nghe tiếng trẻ con kêu:’nóng quá! nóng quá’. Chị sợ quá, từ đó không dám đem thai nhi về nữa!
Tại Hà Nội, cán bộ cũng nuôi heo. Sau 1954. dân Hà Nội đa số bỏ vào Nam. Nhà cửa của họ , của tư sản và ‘ ngụy quân ngụy quyền’ đều bị tịch thâu, làm nhà cho cán bộ và cơ quan. Những người không thuộc diện tư sản, và ‘ngụy quân, ngụy quyền’ nhưng có nhà cao cửa rộng thì bị đảng mượn, hoặc đổi cho nhà nhỏ hơn, hoặc phải hiến. Tiến lên một bước nữa, đảng bắt dân đóng thuế nhà. Nhà rộng không đủ tiền nộp thuế thì đảng lấy nhà. Một căn nhà chia năm, sẻ bảy cho cán bộ ở. Một cán bộ có diện tích khoảng ba hay bốn mét vuông, đủ kê một cái giường và một cái bàn. Hộ này cách hộ kia một bức màn. Trong tình trạng này người ta cũng nuôi heo! Họ thả heo dưới gậm giuờng! Dẫu sao, heo cũng đã nuôi họ một thời gian. Nguyễn Văn Trấn cũng đã ca tụng nghề nuôi heo khi ông nói:
‘ Một hũ vàng chôn, không bằng cái lồn heo nái’ (1)
Trong giai đoạn này, đời sống những cán bộ thấp cổ bé miệng và loại cán bộ thật thà chơn chất rất khổ. Con của dân buôn thúng bán bưng buổi sáng đi học còn có gói xôi, con cán bộ đói meo. Đời sống của dân buôn bán phe phẩy cao hơn cán bộ, tự do hơn cán bộ. Trong Thiên Đường Mù của Dương Thu Hương, gia đình cậu Chính là một điển hình cho hạng cán bộ ngu xuẫn tin vào đảng. Cậu tin rằng làm cán bộ là vinh quang, còn làm ăn cá thể, buôn thúng bán bưng là cổ hủ , là ô nhục, là lạc hậu mặc dù cái gia đình buôn thúng bán bưng đã đem lại rất nhiều thương yêu và tài lộc cho cậu. Cậu bảo bà chị:
Chị nghe đây này:Cái nghề buôn thúng bán bưng của chị, dù bây giờ kiếm
đủ ngày hai bữa cơm, nhưng mai sau sẽ bị tiêu diệt. Còn đứng vào đi ngũ giai
cấp, dù làm tạp vụ chăng nữa, cũng sẽ nắm chắc tương lai trong tay!(2)
Cậu đã xin cho bà chị làm tạp vụ ở một nhà máy, nhưng bà chị làm ăn cá thể này rất sáng suốt, từ chối vinh dự làm cán bộ đảng. Bà nói:
Ngần này tuổi tôi còn làm loong toong cho người sai vặt.biết bao giờ mới
thành nghề, thành nghiệp?.. .Mà trước mắt, lương bổng như thế, tôi làm sao
nuôi nổi cháu Hằng?(3)
Một nhà nghiên cứu xã hội nói: Nhìn thùng rác là biết thực tế xã hội.
Thât vậy, khi mới vào Nam, người cán bộ cộng sản cũng có nhiều suy nghĩ. Họ xem cái thùng rác và đống rác ngoài đường là thấy một miền nam sung sướng, thừa mứa.Và họ thấy rằng những lời tuyên truyền của đảng rằng miền nam cực khổ, bị bóc lột là giả dối. Đống rác miền Nam nhiều cá thịt hơn kho lương thực của đảng ở miền Bắc! Thứ hai là họ quan sát các cô thứ ký miền Nam còn sót lại. Tiền quà sáng, quà trưa, quà chiều của các cô này trong một tuần bằng lương cả tháng của họ. Lương trả rẻ mạt, không đủ cho họ ăn quà song họ phải làm việc vì nhiều lý do. Một là có việc làm. Triết lý thực dụng của dân Sàigòn lúc nằy là làm được mười đồng thì đỡ mất mười đồng, còn hơn là ngồi không ( Có hơn không , lấy chồng hơn ở ở góa) . Hai là làm việc để đuợc sống tại Sài gòn, nếu không thì phải đi kinh tế mới! Đi kinh tế mới hay đi lao động xã hội chủ nghĩa là đi vào nơi tàn phá nhan săc, nơi đày ải con người chứ không phải sung sướng như Trịnh Công Sơn đã ca tụng! Nhiều ông nghe nói trong nam khổ quá, nên đã mang vào bát sành, chiếu cói vào cho thân nhân, nhưng khi vào đến nơi, thấy dân đây xài bát kiểu Trung quốc, dĩa sứ Nhật bổn và aó quần lượt là, chăn len gối bông, là họ đã hiểu! Khi họ mới vào, họ cứ tưởng nhà của ta là nhà cán bộ cao cấp của Mỹ Ngụy, vì ngoài bắc chỉ cán bộ cao cấp mới có nhà riêng, có xa lông, tủ bàn...!
Nói chung, dù có khoe khoang khoác lác, họ cũng đã công nhận ngoằi bắc nghèo khổ hơn! Khi phát hàng tiêu chuẩn, có cơ quan đã kêu gọi viên chức người Nam bấy lâu đã sung sướng nên nhường hàng lại cho cán bộ Bắc kỳ ! Có nơi kêu gọi viên chức trong Nam ủng hộ cán bộ A ! Thật vậy, trong giai đoạn đầu, nhiều nịnh thần đã cung phụng quần áo, xe cộ, đồ đạc, thuốc men cho Việt Cộng trong đó có rất nhiều nhà giáo của chúng ta!
II. NUÔI HEO CHE MẮT (1980-1990)
Có thực mới vực được đạo. Cổ nhân dạy thế. Khi vào Nam, các cán bộ tinh khôn đã thấy đuợc những ngu muội quá khứ. Họ thấy họ bị lường gạt, và bấy giờ họ phải lấy lại những gì đã mất. Một là họ trả thù, và hai là họ phải làm giàu bằng mọi phương tiện để bù lại một cuộc đời đã mất đi cho ngu dại! Miền Trung nghèo , cán bộ khó làm ăn cho nên họ làm cho dân miền Trung khổ gấp mười! Còn miền Nam nhiều lợi nhuận cho nên họ làm cho họ sướng gấp mười!
Võ Nguyên Giáp chủ trương kìm hãm miền Nam:’Xây dựng kinh tế không để cho miền nam lên mạnh, miền bắc, miền Trung tụt lại sau!(4)
Nguyễn Văn Trấn viết:
Chính sách này đã dùng nhiều biện pháp làm rối loạn nền kinh tế,
và khiến cho nó trì trệ và làm được việc mà đàng ngoài mong ước,
miền nam ngheò để đuổi kịp miền bắc!(5)
Dù chúng kìm kẹp, kinh tế miền nam tuy không phát triển bằng trước, vẫn đủ tiền cung phụng cho lũ trung ương tiêu xài, vì riêng Sài gon đã góp một nữa ngân quỹ so với cả nước.
Lúc đầu dân trong Nam ai cũng lo sợ, nhất là mấy ông Ba Tàu Chợ Lớn. Họ nói chỉ sợ Cộng sản không chịu ăn, nếu cộng sản ăn là mọi sự xong ngay! Thế là tham nhũng bộc phát. Sự thực tham nhũng có ngay đời ông Bành Tổ. Và chỗ nào có Việt Nam, Trung quốc là có ngay tham nhũng, lạm quyền, chiếm công vi tư, ngồi lỳ, hám danh hám lợi cho dù là danh hão! Và tham nhũng đã có ngay từ thời ông Hồ. Dân quân tự vệ canh gác, xét người, xét hàng nhất là vùng xôi đậu đã ăn hối lộ,hoặc tịch thu và cướp bóc của dân. Trong vụ tịch thu nhà cửa, vàng bạc của tư sản và điạ chủ ở hai miền nam bắc là cơ hội làm giàu cho cán bộ. Cho nên ai nói người cộng sản biến chất là sai bởi vì chất tham nhũng, gian ác, xão trá đã nằm trong bản chất từ lâu, không phải bây giờ mói có. Trong chiến tranh, họ cũng đã lấy hàng nhà nước đem bán. Nhiều nơi cán bộ ăn bớt phân bón thuốc trừ sâu của nông dân.. Và hầu hết HTX mua bán đã ăn bớt đường, bột ngọt và gạo của dân. Cho nên họ giàu có lắm, tiền không biết để đâu cho hết, mỗi kỳ đổi tiền, là tiền vứt hàng đống ngoài đường vì cán bộ không dám ra mặt đổi tiền, sợ đảng hỏi tiền đâu mà lắm thế và bỏ tù họ ! Vì vậy, họ không nhận hối lộ tiền mà đòi vàng và đô la. Một cách biện minh cho sự làm giàu của mình là nói tiền do tôi nuôi heo. Và nuôi heo chính là một biện minh cho sự giàu sang của họ. Ở Sài gòn cũng có tay giàu sụ, đám cưới con gái mời hàng ngàn cán bộ, báo chí thắc mắc và biêu riếu ông tham nhũng, ông thanh minh: Ông có tiền là do nuôi chó berger!
III. KHÔNG CẦN NUÔI HEO (1990 cho đến nay)
Bây giờ đảng bắt đầu tư sản hóa cho cán bộ. Nhà ‘ngụy quân ngụy quyền’, nhà tư sản mại bản, nhà của người bỏ đi ra nước ngoài rất nhiều, tha hồ cho cán bô đảng ở, không phải cực khổ như ngoài bắc. Cán bô chồng một hai nhà, cán bộ vợ một hai nhà, dồng chí con một hai nhà. Nhận nhà xong là bán ngay sợ đảng đổi ý. Cán bộ trung cấp và cao cấp dược cấp những biệt thự ở Tú Xương, Đồng Khởi, tha hồ cho ngoại quốc thuê. Nhờ đảng và nhà nuớc, họ ngồi không, tháng tháng thu về hàng ngàn đô la như chơi! Như vậy là họ đâu cần phải nuôi heo cho thúi, cho dơ nữa! Còn nhiều lợi tức khác nữa. Chính sách đổi mới khiến cho cha con họ được lợi. Vợ chồng họ ở trong đảng, trong chính quyền, con cái họ cho ra lập công ty, như vậy là công tư lưỡng lợi. Lúc này tư bản vào đầu tư, tư bản đã làm giàu cho túi tiền của họ. Và lúc này đi đâu người cộng sản cũng khoe đô la và xài đô la! Thiệt là ‘ Việt kiều nghèo hơn Việt cộng!’
Một nguồn lợi vô cùng to lớn vẫn là tài sản quốc gia. Chiếm miền nam là họ có thêm một kho tàng vĩ đại sau khi đã phá tán kho tàng miền bắc. Chúng ta hãy nghe Bùi Công Trừng nói với Nguyễn Văn Trấn từ cái ngày tháng 1975:
Chúng nó cũng mấy thằng ấy, cũng những chính sách ấy, cai trị 17 triệu
dân thì dân đã nghèo sát đất, không đầy 15 năm, hai cái rừng Việt Bắc
và Tây bắc bị cạo trọc lóc. Bây giờ ở miền Nam cũng đào kép ấy (mêmes
acteurs), hài kịch ấy( même commédie), chưa chi chúng nó đã gìành đất Ban
Mê Thuột, của Đà Lạt và Sông Bé thì chúng sẽ đua với miền bắc 15 năm, miền
nam chỉ cần ba năm thì cũng sẽ ‘trơn lu như mu bà bóng’ cho mầy coi! (6)
Ngày nay cộng sản đã trở thành tư sản đỏ. Mở cửa, đầu tư, thị trường chứng khoán, tư nhân hóa quốc doanh , buôn bán với Mỹ đều là những chính sách lợi cho cộng sản. Nay họ không còn Liên Xô, họ còn Trung quốc, nhưng họ không cho con cái học Trung quốc mà sang Mỹ, Canada. Tiền của họ nay gửi tại Thủy sĩ, Mỹ, Canada. May mai của thiên trả địa, chỉ có dân tộc Việt Nam là thiệt thòi, mất mát mà thôi !
CHÚ THÍCH
1. Nguyễn Văn Trấn, Viết Cho Mẹ Và Quốc HôI.Văn Nghệ, Cali,1995,tr.228.
2. Dương Thu Hương, Thiên Đường Mù, Phu Nữ, Hà NộI, 1988,tr.90.
3. ( như trên)
4. Nguyễn Văn Trấn, sđd,tr.234.
5. như trên,tr.235.
6. như trên,tr.231.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 047
PHAN LẠC TIẾP * MỘT GIỌT MÁU ĐÀO
Một Giọt Máu Đào
Phan Lạc Tiếp
Năm tản cư, đâu như năm bốn bảy, bốn tám, tôi mới có năm, sáu tuổi. Đánh nhau ở đâu tôi không biết, nhưng mấy năm tản cư về nhà quê, vơí tôi, là thời gian tuyệt vời, khó quên. Sau đó gia đình chúng tôi hồi cư về Hà Nội. Cậu tôi đi làm. Lương công chức đủ sống, nhưng không dư giả, vì anh em chúng tôi đông quá. Trên tôi có hai anh. Tôi thứ ba và là đứa con gái lớn nhất, nên tôi rất gần gũi mẹ tôi mà chúng tôi kêu là mợ. Ngoài giờ đi học, tôi phải giúp mợï tôi thu dọn bếp núc, rồi dạy kèm các em học. Tối đi ngủ, tôi còn phải nằm ngủ vơí hai đứa em bé và quạt cho em, gãi lưng cho em nữa. Có lúc vì cực nhọc quá, anh tôi và tôi có phàn nàn rằng “ sao mợ đẻ nhiều thế...”. Mợ tôi liền mắng rằng “ trời cho chứ tao muốn à...”. Các em tôi lớn dần và dễ thương lắm, khiến tôi rất mừng là chúng tôi có đông anh em. Cậu tôi thì khó tính, rất hay gắt gỏng khó chịu. Vì thế những buổi tối, một mình cậu tôi ở dưới nhà, còn tất cả năm sáu anh em chúng tôi thì rút cả lên trên gác. Dưới ánh đèn điện tỏa trên mặt bàn rộng, mấy anh em chúng tôi ngồi xung quanh và học bài inh ỏi. Chỉ hôm nào cậu tôi đi vắng chúng tôi mới dám xuống nhà nô đùa. Những lúc như thế mợ tôi thường “ kể tội “ cậu tôi. Nhiều chuyện mợ tôi kể đi, kể lại khiến chúng tôi thuộc lòng. Nhưng có một chuyện mà suốt bao nhiêu năm, dù mợ tôi có kể lại, vẫn khiến chúng tôi băn khoăn, nghĩ ngợi. Đó là sự xung khắc lạ lùng giữa cậu tôi và chú tôi.
Mợ tôi kể :” Lúc bé tao chả biết thế nào, nhưng từ lúc tao về làm bạn vơí cậu chúng mày thì cậu chúng mày vơí chú chúng mày cứ như mặt trăng, mặt trời. Ngay cả ngày tư ngày tết, chú chúng mày cũng chỉ dình khi nào cậu chúng mày đi vắng mơí dám đến chúc tết. Rôì thấp thoáng chú ấy lại đi, sợ cậu chúng mày về bất chợt. Rồi chú ấy đi đâu mất tăm. Có dễ đến mấy năm sau, tối ba mươi tết, đang sửa soạn cúng thì ở đâu không biết, chú ấy về. Câu đầu tiên chú ấy hỏi là anh có nhà không chị. Tao bảo ông ấy đi biếu quà tết mấy người bạn cũng sắp về. Tưởng chú ấy ngại gặp cậu chúng mày như các lần khác, chú âý sẽ đi. Nhưng không, chú ấy bảo để em đợi anh ấy về. Tao cũng lấy làm lạ, nên hỏi chú âý có việc gì thế. Chú ấy chỉ cười và nói để lát nữa em thưa chuyện với cả hai anh chị luôn. Lúc bấy giờ tao mới để ý, thấy chú ấy tủm tỉm cười. Chú ấy ăn mặc tươm tất, quần áo tây, mũ phớt, chả thua cậu chúng mày bao nhiêu. Chú ấy đi quanh nhà, hỏi han chuyện này, chuyện khác, vui vẻ lắm. Lúc hai chị em đang ở trong bếp xem nồi bánh chưng thì có tiếng cậu chúng mày về, hỏi lớn : Xe đạp của ai mà đẹp thế. Chú ấy chạy ra chào cậu chúng mày và nói : xe đạp của em. Cậu chúng mày đang vui bỗng sầm nét mặt lại và lên thẳng nhà trên. Chú chúng mày và tao đứng trong bếp nhìn nhau. Hồi lâu nhớ tới lời chú ấy nói ban nãy, tao mới nhắc :thì chú muốn nói gì với anh chị thì lên nhà mà nói đi. Ngần ngừ một lúc chú ấy mới bảo thì chị lên nhà cùng với em. Hai chị em lên nhà, cậu mày biết chứ, mà ông ấy cứ làm như không, cứ loáy hoáy sửa đi sửa lại cành đào. Tao mới nhắc : này cậu nó, chú Tấn chú ấy muốn nói gì với cậu đây này. Một lúc cậu chúng mày mới ngửng lên và trách : bâý lâu nay chú đi đâu không thấy mặt. Chú ấy bảo em lên mạn ngược làm ăn... Cậu chúng mày ngưng tay và nhìn thẳng vào mặt chú chúng mày đầy sửng sốt : mạn ngược...Ấy là lần đầu và cũng là lần chót tao thấy cậu chúng mày nói chuyện với nhau.
Chú ấy nói là chú ấy đang làm thư ký cho một tiệm bán thuốc Tây trên Tuyên Quang và ông bà chủ nhà thương mến muốn gả con gái cho, với điều kiện phải có ông anh bà chị từ Hà Nội lên xin cưói cho nó trịnh trọng, có đầu có đuôi. Mọi việc nhà gái cáng đáng hết. Cô con gái cũng là người có đi học, biết chữ Tây, khó kiếm đưọc người xứng đáng ở đấy. Nay bề gì chú ấy cũng là người Hà Nội, có anh làm thông phán, nên nhà gái mừng lắm...”
Ngày cưới của chú Tấn cậu mợ tôi có lên Tuyên Quang, thuê bao mộ chiếc xe nhà. Vẫn theo lời kể của mợ tôi thì “ cậu mày cứ đủng đỉnh mãi, lúc thì mặc quần áo Tây, rôì lại thay ra, mặc áo gấm, đến sốt cả ruột, nên mãi trên 10 giờ mới ra xe. Tao và cậu mày ngồi ở ghế sau. Ghế trước để hai cái quả bánh cốm, bánh xu-xê.Thùng xe sau thì là các mâm trầu, mâm cau. Vừa đi cậu mày vưà dục chaỵ mau mau lên mới được. Ra khỏi Hà Nội một chút chỉ thấy đồng lúa rồi núi rừng, chóng cả mặt. Gần vào thành phố mới biết là bánh pháo Điện Quang cậu mày đã bỏ quên tại nhà. Lỗi cậu mày rành rành mà ông ấy lại gắt nhặng lên là sao tao không nhắc ông ấy. Tới nơi xe đỗ ở đầu phố, trẻ con đứng đông nghẹt. Nhà gái đứng đón trước nhà mà ông ấy cứ loay hoay, lúc thì sửa lại aó, lúc thì mở thùng xe ra xem. Nhà gái thấy thế mới cho người nhà ra chào hỏi. Mấy người gia nhân nhà gái bưng đồ lễ đi trước, tao và cậu chúng mày đi sau. Chú Tấn chúng mày mặc áo đoạn trơn, quần chúc bâu, từ trong nhà bước ra, nhập vào làm thành họ nhà trai. Có nguời đưa tận tay cậu mày bánh pháo. Lúc ấy ông âý mới vui. Bánh pháo buộc vào một cái sào dài. Cậu mày mặc aó gấm, trông cứ như ông huyện, tao thì mặc áo dài nhung. Cậu mày châm ngọn lửa vào ngòi pháo. Bánh pháo nổ tung, tưng bừng, khói bay mù mịt, điếc cả tai. Gia đình nhà gái đón nhà trai vào nhà, cười nói hể hả lắm... “.
Câu chuyện cưới xin này mợ tôi kể đi kể lại khiến tôi thuộc lòng nhưng những lúc nhàn dỗi, không có cậu tôi ở nhà, anh em tôi lại bảo mợ tôi kể cho nghe. Và bao giờ mợ tôi cũng kết cục bằng câu “ Cậu chúng mày thật là cơ cầu, đối với chú ấy thật tệ...” Rồi chiến tranh bùng nổ. Gia đình chúng tôi đi tản cư ít tháng rồi lại hồi cư về Hà Nội, cậu tôi lại đi làm. Kỷ niệm với người chú cũng mờ nhạt dần. Mỗi khi Tết đến, cậu tôi có tật là mua rất nhiều quà, đi biếu người này, người nọ. Những lúc như thế chúng tôi rất muốn có chú, bác, cô, dì để tới thăm mà không có. Chúng tôi nhớ đến chú Tấn rất nhiều. Nếu gia đình chú ấy ở đây, thế nào chúng tôi cũng đi thăm.
Rồi không biết làm cách nào mà mợ tôi lại có một vài tấm hình của chú ấy. Trong hình, chú mặc áo veston, cuốn phu-la, tay cầm điếu thuốc ládài có ngọn khói bay ngoằn ngoèo. Nét mặt đăm chiêu. Đằng sau tấm hình có hàng chữ “ thương nhớ về cố đô...”. Đôi khi gia đình tôi còn nhận đưọc thư của chú ấy từ “ hậu phương “ gưỉ vào. Thư viết :” Nay em có mấy nhời gửi về thăm anh chị và các cháu, được mạnh khoẻ thì em mừng lắm. Chúng em ở ngoài này cũng bình thường...”.
Bỗng một hôm chúng tôi đi học về thấy có một đứa nhỏ đen đủi ngồi trong bếp bên cạnh mợ tôi. Thấy chúng tôi về, đưá mhỏ cười toe và nói :” Em chào các anh, các chị...”. Sau phút bỡ ngỡ ấy, chúng tôi hiểu ngay, đây là đứa con trai của chú Tấn chúng tôi. Chúng tôi thương nó tức thì. Mợ tôi và tôi đưa nó đi sắm quần áo, giày dép,sách vở. Và chỉ có mấy hôm, cậu tôi mang về tờ thế vì khai sinh cho nó. Nguyễn minh Cung. Và chưa đầy một tuần sau, Cung đã được nhận vào lớp ba, học cùng lớp với thằng em thứ tư của tôi. Cung ở “ hậu phương “ về học kém lắm, nên cậu tôi bảo tôi “ phải hàng ngày kèm cho nó”. Cung học kém, nhưng lại hoạt bát và biết nhiều thứ mà chúng tôi mù tịt. Cung biết làm nhiều thứ và sẵn sàng giúp tôi, giúp mợ tôi trong công việc hàng ngày. Các em tôi đông, ngoại trừ quần áo của cậu tôi phải đưa hiệu giặt, còn tất cả quần áo của chúng tôi, tôi phải phụ vơí mợ tôi để giặt giũ, nhất là khi u già về quê, vắng nhà. Những khi ấy Cung càng tỏ ra tháo vát và giúp tôi và mợ tôi thật là đắc lực. Tôi còn nhớ Cung rất khéo tay. Cái giá vo gạo đã sứt cạp, mợ tôi muốn vứt đi để mua cái khác, Cung bảo đừng, rôì loay hoay Cung cạp lại được, bền chắc như mới. Mợ tôi khen lắm và nói đùa “ dễ thằng này làm thợ đóng cối được đấy”. Đến khi phải làm bài thì Cung khác hẳn. Cung dốt và rất hay buồn ngủ. Bản cửu trương Cung không thuộc hết nên làm toán rất chậm. Tôi mất rất nhiều thì giờ để kèm cho Cung. Nhiều lúc giảng cho Cung, tưởng Cung hiểu, nhưng khi hỏi trẹo đi một chút Cung trả lời sai hết. Tôi vừa bực mình vừa thương Cung hơn. Làm sao Cung lên lớp đây. Tôi khóc thì Cung lại thương tôi và nói :” Chị đừng lo cho em quá. Em không học được thì lớn lên em làm việc khác. Thiếu gì người không học mà vẫn giầu có. Em không lười biếng mà chị...”
Có buổi cậu tôi đi vắng, mợ tôi đi chợ, nhà chỉ còn tôi và mấy đứa em, Cung bảo ở đây với hai bác và các anh các chị, em thật là đầy đủ, nhưng mà sao nhiều lúc em buồn quá... Tôi biết là Cung nhớ nhà, tôi phải nhắc, trên mạn ngược đánh nhau to lắm. Báo mới đăng là Pháp nhảy dù xuống Tuyên Quang. Ở đó suốt ngày lo chạy giặc, học hành không được nên Thày U em mới gửi em về đây. Em cố học đi rồi có lúc em lại về vơí gia đình em chứ. Nghe nói thế Cung buồn lắm, nước mắt lưng tròng. Tôi biết tôi đã lỡ lời, đã khơi động đến hoàn cảnh của gia đình em. Tôi ngồi im. Chiều xuống dần, tự dưng Cung huýt sáo những bài ca rất lạ. Những điệu nhạc rộn rã, hùng mạnh. Cung bảo em thuộc nhiều bài hát lắm, nhưng Thầy em bảo con vào trong thành đi học, Tây nó ở xung quanh, mật thám như rươi, không được hát những bài hát ở hậu phương. Tây mà nó biết, nó bắt nhốt vào hỏa lò, nó đánh cho nhừ tử, mất xác như không...Những lúc như thế, mặc dù chúng tôi còn nhỏ, tôi thấy trong mắt em như phảng phất nỗi u uất, mơ hồ. Tâm hồn em như đang chìm vào một vùng núi non nào mênh mông, xa vắng. Cung khác anh em tôi quá.Mặc dù tôi thương yêu Cung như em ruột tôi, còn săn sóc hơn thế nữa, nhưng tôi biết Cung sẽ không ở với chúng tôi lâu.
Sau mâý năm ở thành phố, Cung đã khác, cao lên rất nhanh, trắng ra và học hành cũng không lẹt đẹt như lúc mới từ rừng núi trở về. Nhưng bây giờ lại là lúc Hà Nội nghe thấy tiếng đại bác từ đâu đó vọng về. Điện Biên Phủ, một địa danh nào xa lắc ở miền thượng du được nhắc đến hàng ngày. Chiến tranh tạm thời chấm dứt. Việt Nam chia đôi. Ai đi ai ở. Cậu tôi nhất định đem gia đình đi Nam. Anh lớn tôi học trương Albert Sarraut, phải bỏ ngang để đi trước vào Nam, sửa soạn đón gia đình vào. Giưã lúc âý thì có thư của chú tôi từ hậu phương gửi về. Mợ tôi đưa thư cho tôi đọc như sau :
“ Kính thưa anh chị,
Trứơc hết vợ chồng em kính thăm sức khoẻ của anh chị. Sau chúng em xin đa tạ sự cưu mang của anh chị đối với cháu Cung. Mấy năm trời ròng rã, anh chị đã không quản khó khăn, tốn kém nuôi cháu ăn học. Anh chị đã săn sóc cháu không khác gì cacù con của anh chị. Từ manh quần, tấm aó, cho đến miếng ăn thức uống, các cháu con của anh chị thế nào, thì cháu Cung cũng được y như thế. Công ơn ấy vợ chồng em xin khắc dạ ghi tâm.
Nay đất nước đã hoà bình, nhưng anh em ta lại không được cơ hội đoàn tụ, chúng em rất lấy làm tiếc. Chúng em biết gia đình anh chị sắp đi Nam, đó là quyết định của anh chị, em không giám cản. Duy có một điều, xin anh chị cho cháu Cung ở lại. Máu chảy ruột mềm, chúng em muốn cho cháu về đoàn tụ với gia đình, có rau ăn rău, có cháo ăn cháo. Xin Thầy U phù hộ cho gia đình anh chị gặp được mọi điều may trên xứ lạ quê người...”.
Sau lá thư này, Cung vừa quấn quýt , bùi ngùi giữa anh em chúng tôi, vừa có những vui thầm mong chóng đến ngày đoàn tụ với cha mẹ và mấy em nhỏ của Cung. Cung thu nhặt tất cả những tấm hình của Cung, của gia đình tôi. Cả tấm hình em bé của tôi chưa biết ngồi, lúc chụp phải độn gối hai bên, miệng thì chảy rãi, Cung cũng xin cho “ đủ hình các anh, các chị”. Riêng tôi, tôi xếp cho Cung những thứ cần dùng như áo len, sách vở và dặn Cung phải tiếp tục học cho đến nơi đến chốn. Mợ tôi còn mua thêm những món quà “ để tặng cho chú thím ấy...”.
Như đã sắp đặt sẵn, Mợ tôi và tôi đưa Cung sang bên kia Gia Lâm, hẹn gặp nhau tại một quán tranh ở giưã cánh đồng. Trước khi đi cậu tôi nhắc là đừng có ở lâu. Liệu mà về cho sớm. Chúng tôi xuống xe ở ngoại ô Gia Lâm, trên đường đi Phòng ( Hải Phòng ). Người dẫn đường đi trưóc, chúng tôi đi sau. Bước những bước chân trên con đường mòn, hai bên có những thưả ruộng mới gặt. Nhưng gốc dạ buộc chụm từng bó xếp đều như bất tận. Mùi lúa mới thơm nồng. Những đàn chim sẻ bay từng đàn, chao lượn thật khéo, từ trời cao sà xuống kiếm môì. Ở đây nhìn về Hà Nội mờ xa, im ắng lạ lùng khiến tôi muốn ngợp trong cái mênh mông cao rộng của đất trời. Hồn tôi như bị cuốn đi theo từng cơn gió thổi. Tôi bỗng nhớ quá những ngày tản cư năm nào... Đi đã khá xa, tôi và Cung khiêng cái va-li quần áo cuả Cung, rất nặng, đôi chân tôi đã bắt đầu mỏi. Người dẫn đường bảo “ nếu cô mỏi chân thì bỏ guốc ra mà đi chân không. Chả bao đỗi nữa đâu. Ăn dập bã trầu thì tới...”.
Qua khúc quanh, cái quán tranh nằm ẩn dưới bóng mát cuả một cây đa hiện ra. Rẽ vào con đường nhỏ. Dưới gốc đa có cái miếu nhỏ, xây gạch. Một bát hương đầy ứ những chân hương đỏ quạnh. Chúng tôi bước tơí. Từ trong lều tranh, một người đàn ông mặc quần áo nâu bước ra, không phải giới thiệu tôi cũng biết đây là chú Tấn. Chú giống cậu tôi như hai giọt nước, chỉ khác là chú cao hơn cậu tôi, đen và nét mặt thì buồn bã.Tôi còn đang bỡ ngỡ thì mợ tôi đã lên tiếng : “ Kìa chú...”. Chú Tấn mỉm cười. Cung thì lí nhí kêu “ bố “. Mợ tôi trao những món quà cho chú Tấn. Chú nhìn tôi rất âu yếm. Tôi thấy chú vừa rất thân lại vừa thật là xa lạ. Chú nhìn tôi và bảo :” Chị Kim lớn rồi đấy, Xinh lắm. Chị hơn thằng Cung hai tuổi, năm bay đã mười bốn, tuôỉ ta. Chú cũng xin cám ơn cháu đã mất công kèm thằng Cung hộ chú...” Mợ tôi rất là chu tất, ngoài nhưng món quà như aó quần, trong một bao thư còn có ít tiền và cái đồng hồ đeo tay của cậu tôi gưỉ cho chú ấy. Một bữa ăn đơn giản cũng được bày ra trên mấy tờ giấy báo, gồm bánh mì, giò lụa, bánh dầy và chuối. Cung tỏ ra sành sỏi trong việc bày bữa tiệc này. Mọi người lấy những mớ rạ khô làm ghế ngồi. Chú Tấn vui cười, nhưng ăn rất ít. Trong câu chuyện, tôi thấy mấy lần chú nhắc đến Cô Kim Chung, đào cải lương. Chú bảo :” Ở trên rừng nhớ về Thủ Đô, chỉ mong có lúc thành công để lại được về Hà Nội nghe cô Kim Chung hát.”. Mợ tôi bảo rạp Quảng Lạc đã đóng cửa, thu dọn vào Nam rồi. Cả kép Huỳnh Thái cũng đã vào Nam...”. Nghe thế, nét mặt chú bỗng đăm chiêu, buồn bã thêm. Tôi thấy như Hà Nội với chú chỉ là Kim Chung. Kim Chung ra đi Hà Nội trở nên trống vắng, không còn là Hà Nội nữa.
Lúc sắp chia tay ra về, tôi đưa tặng Cung cái hộp đựng bút. Đó là cái hộp đựng thuốc lá Craven A, cậu tôi cho hồi Tết. Tôi rất quý hộp bút này và Cung thèm lắm. Tôi gói hộp bút này trong một cái hộp giấy và đưa cho Cung. Cung trân trọng cầm lấy cái hộp, nét mặt hân hoan. Cung mở ra. Trong đó có ba cái bút chì vàng có đầu tẩy, một cái bút chì xanh-đỏ, một cái tẩy chì, một cái tẩy mực, cái bút máy mới tinh, quà của anh lớn tôi thưởng cho tôi khi tôi trúng tuyển vào Đệ Thất trường Trưng Vương. Và dán dính trong nắp hộp là bản cửu chương với những nét bút chì đỏ gạch dưới những hàng mà Cung thường không thuộc. Cung khẽ đóng cái hộp lại, nhìn tôi và nói nhỏ :” em xin cố gắng để chị được vui lòng “. Tôi nắm tay em, bóp nhẹ và bỗng dưng tôi muốn khóc. Nước mắt không dưng cứ ứa ra. Tôi nhìn Cung, em cũng tự nhiên nức nở.
Trời đã chiều, mợ tôi đon đả đứng lên :” Thôi chú ở lại vui vẻ. Vào tơí trong ấy chúng tôi sẽ bảo các cháu viết thư ra cho chú thím biết...”Người dẫn đường tiễn chúng tôi đi.
Tôi không dám ngoảnh lại, cứ cắm cúi mà đi. Nắng đã nhạt.Trong gió đồng như đã có thoảng lạnh chút hơi may. Những con nhái bắt đầu kêu lên đâu đó râm ran. Tới đường cái chính, trước khi lên xe trở về Hà Nội, tôi dừng lại nhìn về cái quán giữa đồng xa tít, lẫn vào vơí bóng cây đa đen thẫm. Không biết chú Tấn và thằng Cung đã biến đi đâu mất từ hồi nào. Trong tôi bỗng bàng hoàng, tê tái. Thế là tôi xa cách em tôi ư. Sài Gòn và Hà Nội mấy ngàn cây số, biết có khi nào chúng tôi gặp lại được nhau. Cầu Long Biên trập trùng đen sẫm hiện ra trước mặt. Xe chui vào lòng cầu. Những thanh gỗ kêu rập rình dưới bánh xe. Con sông Hồng Hà cuồn cuộn tối om ở dưới xa làm tôi kinh sợ. Thành phố nhộn nhịp, ồn ào xe cộ, nhưng trong lòng tôi vẫn là hình ảnh cái quán rơm xiêu xiêu đơn độc giữa đồng...
Cuộc sống mới ở trong Nam với biết bao bận rộn. Anh em tôi tám người, đã quá đông, mợ tôi lại đẻ thêm thằng Cu nữa. Chín anh em, Thằng Cu kém ông anh lớn của tôi vừa đúng 20 tuổi. Lương công chức một mình cậu tôi không thể nào đủ. Ông anh lớn của tôi phải vừa đi học, vừa đi làm. Tôi mới đậu xong Trung Học cũng thi vào Sư Phạm để có thêm phương tiện chi tiêu cho cả gia đình. Cuộc sống như thế cứ tất bật cuốn hút đi một cách rất vội vàng, nên chúng tôi ít có thì giờ mà nghĩ ngợi, nhớ nhung gì nữa. Thỉnh thoảng, tình cờ câu hát của Hoàng Dương “ Hà nội ơi, nhớ về thành phố xa sôi...” làm lòng tôi chùng xuống, và chỉ khi ấy tôi lại thoáng nhớ đến Cung. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng không có gì phải lo lắng cho nó nữa. Nó sống với cha mẹ chứ có bơ vơ đâu.
Cho đến ngày 30 tháng Tư năm 75 thì cậu tôi đã về hưu. Anh em chúng tôi đa số đã có gia đình, con cái. Trong nỗi cực nhọc vật lộn với cuộc sống, may mắn là anh em chúng tôi học hành cũng không tệ lắm. Thằng Cu vừa 18 tuổi, thi vội vàng nhưng cũng đã vừa xong tú tài hai. Còn những người trên nó, người thì kỹ sư, người thì nha sĩ, nhưng mới ra nghề, còn bận bịu với quân vụ, còn nghèo. Và cuộc đổi đời ập tới. Miền Nam sụp đổ. Phút cuối cùng, anh em tôi, hầu như tất cả đều thoát đi được bằng đường biển trên con tàu chiến do người bạn của chồng tôi làm Hạm Trưỏng. Lại một lần nữa đối diện với những khó khăn, bỡ ngỡ để mưu cầu sinh tồn trên đất lạ.Đến khi chúng tôi ổn định đưọc cuộc sống, các con tương đối đã trưởng thành, thì nhìn lên mái tóc mình đã thấy bao nhiêu là sợi bạc. Chẳng ai có thể nghĩ đưọc rằng những khó khăn trùng điệp như thế mà chúng tôi đã may mắn vượt qua. Có bao giờ chúng tôi dám nghĩ là có lúc mình, cả gia đình mình lại sinh sống trên đất Mỹ, lại là công dân Mỹ nữa. Thời cuộc quả là một cơn lốc cuồng bạo, nhưng cũng là một cơn lốc vạn năng. kỳ diệu, lạ lùng.
Dần dần cơn cuồng nộ đảo điên cũng từ từ nguội lại.Những người một thời không có đất sống tại quê nhà, phải liều chết ra đi thì nay đã ào ạt trở về thăm lại quê xưa. Nhưng với tôi, Saì gòn hơn hai mươi năm sinh sống cưu mang, giờ chỉ lưu lại trong lòng những khuôn mặt bạn bè. Vui thì vui đấy nhưng không có nhưng xót xa nhung nhớ. Phải chăng Saì Gòn, cũng như tất cả Miền Nam, người dân Miền Nam sung túc quá, dễ dàng quá, ngày tháng trôi đi êm ả, nên không có những khúc mắc băn khoăn sâu đậm in lại trong lòng. Hay tại Miền Nam hai mùa mưa nắng cách biệt như trắng với đen, không có những buổi giao mùa mêng mang nhung nhớ. Hay chính tại tôi, anh em tôi, chúng tôi chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn, không có những bà con thân thuộc ở những vùng quê để về chơi, để nhớ lại. Và, như tôi đã đọc đâu đó rằng bản chất của một người đưọc hình thành trong khung cảnh sống từ khi sinh ra cho đến trên mười tuổi. Qua tuổi đó, người ấy có bị đem đi đâu, xa bao nhiêu đi nũa, người ấy vẫn là con người với những suy tư, cảm xúc có từ những năm bé dại. Điều ấy có lẽ đã khá đúng vơí tôi. Tôi sinh ra tại Hà Nội. Tôi đã lớn dần với tháng năm, những mùa xuân thơm, tưng bừng hoa cỏ. Những trưa dài nắng hạ chói chang, nhạt dần trong tiếng ve kêu oi ả. Những sáng sương pha thật mỏng,se sắt heo may lúc tàn hạ, vào thu. Và những ngày đông , nhìn qua cửa sổ để thấy cái rét mướt đã về, đãphủ khắp thành đô. Mưa nghiêng nghiêng bụi trắng.Những bước chân son dón dén bên kia đường, những bàn tay xinh cuốn ủ trong tà áo dài len Mông Tự . Và dù chẳng ngóai cổ nhìn ra, tôi cũng biết qua những hàng liễu rủ, Hồ Gươm mêng mang nước trắng ngập đầy. Tháp Rùa và đền Ngọc Sơn lung linh như muốn tan đi trong khói sóng, lẫn với tiếng mõ, tiếng chuông mờ tỏ gần xa.Và với tôi, giữa khung trời ấy, tôi còn thấy đầy ắp những ngày thơ dại bên mợ tôi. Những buổi cậu tôi đi đánh bài cả ngày, mấy mẹ con ngồi trên gác ăn ngô nướng, nghe mợ tôi kể chuyện ngày xưa. Tôi không thể không nhớ đến Cung, đứa em con chú rất chịu khó, rất dễ thương, nhưng cũng làm tôi buồn phiền không ít vì sự lơ là lười học của nó. Bao nhiêu kỷ niệm lại hiện về. Tôi còn như thấy rất rõ hình ảnh cái lều tranh xa tít, ở giữa cánh đồng mêng mang, gió chiều thổi lạnh. Tiếng ếch nhái kêu râm ran như vang động cả bầu trơì hôm tôi tiễn em lần cuối.Tôi nhớ nó quá, chắc tôi phải trở về thăm lại nơi tôi đã sinh ra. Hà Nội, hai âm thanh ấy, từ bao lâu chìm khuất, nay đang hiện lên như những nốt nhạc vui, và cũng chất chứa những bùi ngùi, mời gọi. Tôi phải về. Tôi sẽ cố gắng thu xếp, tằn tiện để về thăm lại Hà Nội, ít nhất là một lần, như một giải tỏa niềm ẩn ức bấy lâu chất chứa ở trong lòng. Thếù nào tôi cũng về.
Hà Nội ngày trở lại.
Bữa tiệc đoàn tụ đã tan. Mọi người lần lượt ra về. Trong phòng khách sạn chỉ còn có vợ chồng tôi và Cung. Cung ngồi gần cửa sổ, ánh sáng ở ngòai chiếu vào làm khuôn mặt Cung tối lại. Bên ngoài là bầu trời đục, thỉnh thoảng có những làn gió thổi vào, mang cái hơi hướng của Hồ Gươm thóang đãng, gợi nhớ những nỗi bâng khuâng. Cầm ly nước xoay xoay, nghiêng mái tóc đã gần như trắng hết một bên đầu, Cung nói :” Chị Kim biết em mà. Em vụng lắm. Vụng làm, vụng tính. Giá em cứ ở lại với hai bác, cùng các anh, các chị vào Nam thì mọi sự đã khác. Đời em nếu không được như các anh, các chị, nhưng không khốn khổ như thế.” Giọng Cung nhỏ nhẹ, êm đềm. Tôi ngồi tựa lưng vào thành giường. Chồng tôi nằm nhắm mắt, nhưng tôi biết là anh rất chú ý theo dõiù lời nói của Cung. Cung tiếp :” ...thì hôm gặp lại Thầy U em, các em của em, em mừng lắm chứ, nhất là khi chia những món quà mà hai bác đã mua cho. Nhưng không bao lâu, em lớn bùng lên hồi nào không biết nữa. Nghe lời chị dặn, em cố học và em cũng trở thành ông thầy giáo. Nhưng chẳng đưọc bao lâu, cuộc chiến vét hết mọi người, em cũng phải vào lính. Nhờ có chút văn hoá em được theo ngành kỹ thuật đặc biệt, do chuyên viên Nga Sô huấn luyện. Trong lúc mọi người đi B, tức vào Nam chiến đấu, thì đơn vị em vẫn quanh quẩn ở ngoại ô Hà Nội. Không dám hở môi, chứ Thầy U em, cũng như em, (lúc ấy em chưa lấy vợ)ï, mừng là không phải đi chết ở trong Nam. Nhưng cuộc chiến mổi lúc mỗi thêm ác liệt. Có lúc như dịp lễ Giáng Sinh, hầu như cả đất Bắc ăn bom Mỹ. Bom dội xuống Đấu Xảo, Khâm Thiên, Bạch Mai. Chỗ nào cũng ngập tràn khói lửa, chết chóc, tang thương. Hà Nội cắn răng và run lên trong khốn khổ. Còn những người đi Nam, chỉ có đi mà không có ai về. Kinh khiếp quá. Dân Bắc kinh sợ Mỹ và oán Đảng. Xâm lăng Miền Nam làm chi. Đụng vào Mỹ làm chi, thắng đâu không thấy, chỉ thấy những lửa đạn ụp lên đầu mình. Ở ngoài này như thế, trong Nam chắc cũng bao tang thương. Em nghĩ đến các anh, sao tránh được con đường lính tráng. Nhưng cuộc chiến đã xoay chiều. Muà xuân năm bảy lăm, quân Miền Bắc aò ạt tấn công Miền Nam. Và Miền Nam sụp đổ nhanh quá. Đầu tháng Tư, đơn vị em được lệnh cấp tốc vào B. Xe đi suốt ngày đêm trên lãnh thổ Miền Nam như chỗ không người. Tuị em dừng quân cách Sài Gòn chưa quá 20 cây số. Đêm đêm nhìn ánh đèn từ Sai Gòn bừng lên sáng rực, em nhớ đến hai bác và các anh các chị vô ngần. Rồi những cánh quân khác kéo về, sửa soạn tiến vào Sài Gòn. Hôm ấy đâu như 27 hay 28 tháng Tư, đơn vị cửa em được lệnh khai hoả. Bắn một loạt rồi rút chạy ngay, sợ máy bay từ Miền Nam lên oanh tạc...” Cung không nói rõ đơn vị của Cung là đơn vị gì.Nhưng nghe đến đây chúng tôi bỗng nhớ đến loạt hoả tiễn của Cộng quân phóng vào Sài Gòn. Một quả rơi trong khu trại Cửu Long, chỉ cánh nhà chúng tôi có một mặt đường. Thật là kinh khiếp. Chúng tôi muốn tiếp lời của Cung.Vợ chồng tôi nhìn nhau, rồi tôi bảo :” Thì anh nói đi...”. Ông xã tôi ngồi dậy, bật thêm một ngọn đèn, căn phòng trở nên sáng hơn, như vừa qua một cơn mê kinh dị. Anh nói :ï”Anh không thể nào quên đuợc, đó là đêm 28 tháng Tư, không phải phiên trực, nên anh ngủ ở nhà. Nhà anh trong cư xá Hải Quân, ở ven sông Sài Gòn. Lúc ấy, theo dõi tình hình chiến sự, anh biết là Sài Gòn đang bị bao vây. Giờ Sài Gòn tan nát sắp đến. Cộng quân đã ở bên kia cầu Sài Gòn. Vào lúc giưã đêm, những lọat hỏa tiễn từ ngoại ô phóng tới. Giữa tiếng còi báo động rú lên, anh nghe tiếng rít như xé nát bâù trời, và tiếng nổ kinh hoàng bùng vỡ. Tiếng đất đá rơi ào ào trên mái tôn. Mấy đứa con anh chui cả xuống gậm giường... Không hiểu sao anh lại rất bình tĩnh như sẵn sàng đón nhận số phận sẽ đến với mình, với gia đình mình...”. Nghe đến đó thì mặt Cung bỗng xanh nhợt. Cung kéo hai mảnh áo ấm và ngồi thu mình lại. Thấy vậy ông xã tôi ngưng nói và nhìn chăm chú vào mặt Cung. Mặt Cung càng xanh hơn và toàn người Cung run lên như vừa lên cơn sốt. Một lúc sau, như định thần trở lại, Cung hỏi như một phản xạ tự nhiên :” Thế lúc ấy hai bác ở đâu..”. Vợ chồng tôi cùng cười và tôi nói ngay:” Cậu mợ chị và cả nhà ở ngoaì phố. Sài Gòn thiệt hại nhiều, nhưng nhà mình thì không sao...”
Câu chuyện giữa chúng tôi lắng lại. Chúng tôi cũng không gặng hỏi xem đơn vị của Cung là đơn vị gì, pháo binh hay tên lửa. Ngoài trời đã tối. Cung nhớ lại những ngày xưa cũ và tiếp tục nói :” Như anh chị thấy mấy đứa em của em nó không giống em. Tụi nó khổ hơn em nhiều. Tụi nókhông có những kỷ niệm êm đềm, đầy đủ như chị em mình đã có. Em còn nhớ những buổi sáng u già bưng một khay sôi lúa từ ngoài cưả vào. Bát nào cũng đều nhau như đong. Mỗi người một bát, trong đó có một bát của em. Ăn bát sôi như thế, người ấm hẳn lên, em nhảy chân sáo đến trường, xếp hàng nghiêm chỉnh rồi hát quốc ca. Thầy hiệu trưởng đứng trên bục, thẳng như tượng, mắt hướng lên lá quốc kỳ. Quốc ca dứt, cả truờng im ắng không một tiếng động...Bây giờ em là thầy giáo, em càng thấy nhớ không khí ngày xưa ấy. Không có nữa đâu chị ơi. Em nghĩ chị chẳng nên đến thăm trường cũ làm gì. Buồn chết... Còn Thầy em ư. Từ hậu phương về Hà Nội, ông càng trở nên buồn bã. Có những hôm một mình trên cái sân gác sau nhà, ông đem cây đàn mandoline cũ ra gảy. Tiếng đàn lúng búng, quấn quýt, hòa trong tiếng hát khàn đục của ông, một bài hát thật xưa cũ :” Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm. Chạy dài trên khóm cây đàn chim ríu rít ca...” Ông càng ngày càng ít nói hơn. Ông rất quý cái đồng hồ cuả bác trai gửi cho. Sau này cái đồng hồ ấy hư không chạy được nữa, ông vẩn cất rất cẩn thận. Khi thầy em mất, chúng em đeo cái đồng hồ ấy vào cổ tay cho thầy em...”
Trong mấy ngày lưu lại Hà Nội, chúng tôi có nhiều lúc ngồi cùng Cung ôn lại những tháng ngày qua, lòng tôi như lần giở những trang sách cũ. Nỗi bồi hồi chen lẫn những buồn chán, bâng khuâng. Trong tôi như vừa đánh mất một cái gì quý lắm, nhưng tôi lại không hề tiếc nuối. Lòng tôi nhẹ tênh. Buổi tối trước khi trở lại Hoa Kỳ, chúng tôi ra ngồi uống nước ở bờ Hồ Gươm. Trong bóng tối của một tàn cây, gió hồ thổi mát, hồn tôi lãng đi và bỗng thấy mình sống lại những ngày mới lớn. Lúc âý và chỉ lúc ấy mà thôi, tôi mới thấy tôi còn liên hệ tới chốn này.
Phan lạc Tiếp
Viết thay cho bà xã.
25/2/2002
Phan Lạc Tiếp
Năm tản cư, đâu như năm bốn bảy, bốn tám, tôi mới có năm, sáu tuổi. Đánh nhau ở đâu tôi không biết, nhưng mấy năm tản cư về nhà quê, vơí tôi, là thời gian tuyệt vời, khó quên. Sau đó gia đình chúng tôi hồi cư về Hà Nội. Cậu tôi đi làm. Lương công chức đủ sống, nhưng không dư giả, vì anh em chúng tôi đông quá. Trên tôi có hai anh. Tôi thứ ba và là đứa con gái lớn nhất, nên tôi rất gần gũi mẹ tôi mà chúng tôi kêu là mợ. Ngoài giờ đi học, tôi phải giúp mợï tôi thu dọn bếp núc, rồi dạy kèm các em học. Tối đi ngủ, tôi còn phải nằm ngủ vơí hai đứa em bé và quạt cho em, gãi lưng cho em nữa. Có lúc vì cực nhọc quá, anh tôi và tôi có phàn nàn rằng “ sao mợ đẻ nhiều thế...”. Mợ tôi liền mắng rằng “ trời cho chứ tao muốn à...”. Các em tôi lớn dần và dễ thương lắm, khiến tôi rất mừng là chúng tôi có đông anh em. Cậu tôi thì khó tính, rất hay gắt gỏng khó chịu. Vì thế những buổi tối, một mình cậu tôi ở dưới nhà, còn tất cả năm sáu anh em chúng tôi thì rút cả lên trên gác. Dưới ánh đèn điện tỏa trên mặt bàn rộng, mấy anh em chúng tôi ngồi xung quanh và học bài inh ỏi. Chỉ hôm nào cậu tôi đi vắng chúng tôi mới dám xuống nhà nô đùa. Những lúc như thế mợ tôi thường “ kể tội “ cậu tôi. Nhiều chuyện mợ tôi kể đi, kể lại khiến chúng tôi thuộc lòng. Nhưng có một chuyện mà suốt bao nhiêu năm, dù mợ tôi có kể lại, vẫn khiến chúng tôi băn khoăn, nghĩ ngợi. Đó là sự xung khắc lạ lùng giữa cậu tôi và chú tôi.
Mợ tôi kể :” Lúc bé tao chả biết thế nào, nhưng từ lúc tao về làm bạn vơí cậu chúng mày thì cậu chúng mày vơí chú chúng mày cứ như mặt trăng, mặt trời. Ngay cả ngày tư ngày tết, chú chúng mày cũng chỉ dình khi nào cậu chúng mày đi vắng mơí dám đến chúc tết. Rôì thấp thoáng chú ấy lại đi, sợ cậu chúng mày về bất chợt. Rồi chú ấy đi đâu mất tăm. Có dễ đến mấy năm sau, tối ba mươi tết, đang sửa soạn cúng thì ở đâu không biết, chú ấy về. Câu đầu tiên chú ấy hỏi là anh có nhà không chị. Tao bảo ông ấy đi biếu quà tết mấy người bạn cũng sắp về. Tưởng chú ấy ngại gặp cậu chúng mày như các lần khác, chú âý sẽ đi. Nhưng không, chú ấy bảo để em đợi anh ấy về. Tao cũng lấy làm lạ, nên hỏi chú âý có việc gì thế. Chú ấy chỉ cười và nói để lát nữa em thưa chuyện với cả hai anh chị luôn. Lúc bấy giờ tao mới để ý, thấy chú ấy tủm tỉm cười. Chú ấy ăn mặc tươm tất, quần áo tây, mũ phớt, chả thua cậu chúng mày bao nhiêu. Chú ấy đi quanh nhà, hỏi han chuyện này, chuyện khác, vui vẻ lắm. Lúc hai chị em đang ở trong bếp xem nồi bánh chưng thì có tiếng cậu chúng mày về, hỏi lớn : Xe đạp của ai mà đẹp thế. Chú ấy chạy ra chào cậu chúng mày và nói : xe đạp của em. Cậu chúng mày đang vui bỗng sầm nét mặt lại và lên thẳng nhà trên. Chú chúng mày và tao đứng trong bếp nhìn nhau. Hồi lâu nhớ tới lời chú ấy nói ban nãy, tao mới nhắc :thì chú muốn nói gì với anh chị thì lên nhà mà nói đi. Ngần ngừ một lúc chú ấy mới bảo thì chị lên nhà cùng với em. Hai chị em lên nhà, cậu mày biết chứ, mà ông ấy cứ làm như không, cứ loáy hoáy sửa đi sửa lại cành đào. Tao mới nhắc : này cậu nó, chú Tấn chú ấy muốn nói gì với cậu đây này. Một lúc cậu chúng mày mới ngửng lên và trách : bâý lâu nay chú đi đâu không thấy mặt. Chú ấy bảo em lên mạn ngược làm ăn... Cậu chúng mày ngưng tay và nhìn thẳng vào mặt chú chúng mày đầy sửng sốt : mạn ngược...Ấy là lần đầu và cũng là lần chót tao thấy cậu chúng mày nói chuyện với nhau.
Chú ấy nói là chú ấy đang làm thư ký cho một tiệm bán thuốc Tây trên Tuyên Quang và ông bà chủ nhà thương mến muốn gả con gái cho, với điều kiện phải có ông anh bà chị từ Hà Nội lên xin cưói cho nó trịnh trọng, có đầu có đuôi. Mọi việc nhà gái cáng đáng hết. Cô con gái cũng là người có đi học, biết chữ Tây, khó kiếm đưọc người xứng đáng ở đấy. Nay bề gì chú ấy cũng là người Hà Nội, có anh làm thông phán, nên nhà gái mừng lắm...”
Ngày cưới của chú Tấn cậu mợ tôi có lên Tuyên Quang, thuê bao mộ chiếc xe nhà. Vẫn theo lời kể của mợ tôi thì “ cậu mày cứ đủng đỉnh mãi, lúc thì mặc quần áo Tây, rôì lại thay ra, mặc áo gấm, đến sốt cả ruột, nên mãi trên 10 giờ mới ra xe. Tao và cậu mày ngồi ở ghế sau. Ghế trước để hai cái quả bánh cốm, bánh xu-xê.Thùng xe sau thì là các mâm trầu, mâm cau. Vừa đi cậu mày vưà dục chaỵ mau mau lên mới được. Ra khỏi Hà Nội một chút chỉ thấy đồng lúa rồi núi rừng, chóng cả mặt. Gần vào thành phố mới biết là bánh pháo Điện Quang cậu mày đã bỏ quên tại nhà. Lỗi cậu mày rành rành mà ông ấy lại gắt nhặng lên là sao tao không nhắc ông ấy. Tới nơi xe đỗ ở đầu phố, trẻ con đứng đông nghẹt. Nhà gái đứng đón trước nhà mà ông ấy cứ loay hoay, lúc thì sửa lại aó, lúc thì mở thùng xe ra xem. Nhà gái thấy thế mới cho người nhà ra chào hỏi. Mấy người gia nhân nhà gái bưng đồ lễ đi trước, tao và cậu chúng mày đi sau. Chú Tấn chúng mày mặc áo đoạn trơn, quần chúc bâu, từ trong nhà bước ra, nhập vào làm thành họ nhà trai. Có nguời đưa tận tay cậu mày bánh pháo. Lúc ấy ông âý mới vui. Bánh pháo buộc vào một cái sào dài. Cậu mày mặc aó gấm, trông cứ như ông huyện, tao thì mặc áo dài nhung. Cậu mày châm ngọn lửa vào ngòi pháo. Bánh pháo nổ tung, tưng bừng, khói bay mù mịt, điếc cả tai. Gia đình nhà gái đón nhà trai vào nhà, cười nói hể hả lắm... “.
Câu chuyện cưới xin này mợ tôi kể đi kể lại khiến tôi thuộc lòng nhưng những lúc nhàn dỗi, không có cậu tôi ở nhà, anh em tôi lại bảo mợ tôi kể cho nghe. Và bao giờ mợ tôi cũng kết cục bằng câu “ Cậu chúng mày thật là cơ cầu, đối với chú ấy thật tệ...” Rồi chiến tranh bùng nổ. Gia đình chúng tôi đi tản cư ít tháng rồi lại hồi cư về Hà Nội, cậu tôi lại đi làm. Kỷ niệm với người chú cũng mờ nhạt dần. Mỗi khi Tết đến, cậu tôi có tật là mua rất nhiều quà, đi biếu người này, người nọ. Những lúc như thế chúng tôi rất muốn có chú, bác, cô, dì để tới thăm mà không có. Chúng tôi nhớ đến chú Tấn rất nhiều. Nếu gia đình chú ấy ở đây, thế nào chúng tôi cũng đi thăm.
Rồi không biết làm cách nào mà mợ tôi lại có một vài tấm hình của chú ấy. Trong hình, chú mặc áo veston, cuốn phu-la, tay cầm điếu thuốc ládài có ngọn khói bay ngoằn ngoèo. Nét mặt đăm chiêu. Đằng sau tấm hình có hàng chữ “ thương nhớ về cố đô...”. Đôi khi gia đình tôi còn nhận đưọc thư của chú ấy từ “ hậu phương “ gưỉ vào. Thư viết :” Nay em có mấy nhời gửi về thăm anh chị và các cháu, được mạnh khoẻ thì em mừng lắm. Chúng em ở ngoài này cũng bình thường...”.
Bỗng một hôm chúng tôi đi học về thấy có một đứa nhỏ đen đủi ngồi trong bếp bên cạnh mợ tôi. Thấy chúng tôi về, đưá mhỏ cười toe và nói :” Em chào các anh, các chị...”. Sau phút bỡ ngỡ ấy, chúng tôi hiểu ngay, đây là đứa con trai của chú Tấn chúng tôi. Chúng tôi thương nó tức thì. Mợ tôi và tôi đưa nó đi sắm quần áo, giày dép,sách vở. Và chỉ có mấy hôm, cậu tôi mang về tờ thế vì khai sinh cho nó. Nguyễn minh Cung. Và chưa đầy một tuần sau, Cung đã được nhận vào lớp ba, học cùng lớp với thằng em thứ tư của tôi. Cung ở “ hậu phương “ về học kém lắm, nên cậu tôi bảo tôi “ phải hàng ngày kèm cho nó”. Cung học kém, nhưng lại hoạt bát và biết nhiều thứ mà chúng tôi mù tịt. Cung biết làm nhiều thứ và sẵn sàng giúp tôi, giúp mợ tôi trong công việc hàng ngày. Các em tôi đông, ngoại trừ quần áo của cậu tôi phải đưa hiệu giặt, còn tất cả quần áo của chúng tôi, tôi phải phụ vơí mợ tôi để giặt giũ, nhất là khi u già về quê, vắng nhà. Những khi ấy Cung càng tỏ ra tháo vát và giúp tôi và mợ tôi thật là đắc lực. Tôi còn nhớ Cung rất khéo tay. Cái giá vo gạo đã sứt cạp, mợ tôi muốn vứt đi để mua cái khác, Cung bảo đừng, rôì loay hoay Cung cạp lại được, bền chắc như mới. Mợ tôi khen lắm và nói đùa “ dễ thằng này làm thợ đóng cối được đấy”. Đến khi phải làm bài thì Cung khác hẳn. Cung dốt và rất hay buồn ngủ. Bản cửu trương Cung không thuộc hết nên làm toán rất chậm. Tôi mất rất nhiều thì giờ để kèm cho Cung. Nhiều lúc giảng cho Cung, tưởng Cung hiểu, nhưng khi hỏi trẹo đi một chút Cung trả lời sai hết. Tôi vừa bực mình vừa thương Cung hơn. Làm sao Cung lên lớp đây. Tôi khóc thì Cung lại thương tôi và nói :” Chị đừng lo cho em quá. Em không học được thì lớn lên em làm việc khác. Thiếu gì người không học mà vẫn giầu có. Em không lười biếng mà chị...”
Có buổi cậu tôi đi vắng, mợ tôi đi chợ, nhà chỉ còn tôi và mấy đứa em, Cung bảo ở đây với hai bác và các anh các chị, em thật là đầy đủ, nhưng mà sao nhiều lúc em buồn quá... Tôi biết là Cung nhớ nhà, tôi phải nhắc, trên mạn ngược đánh nhau to lắm. Báo mới đăng là Pháp nhảy dù xuống Tuyên Quang. Ở đó suốt ngày lo chạy giặc, học hành không được nên Thày U em mới gửi em về đây. Em cố học đi rồi có lúc em lại về vơí gia đình em chứ. Nghe nói thế Cung buồn lắm, nước mắt lưng tròng. Tôi biết tôi đã lỡ lời, đã khơi động đến hoàn cảnh của gia đình em. Tôi ngồi im. Chiều xuống dần, tự dưng Cung huýt sáo những bài ca rất lạ. Những điệu nhạc rộn rã, hùng mạnh. Cung bảo em thuộc nhiều bài hát lắm, nhưng Thầy em bảo con vào trong thành đi học, Tây nó ở xung quanh, mật thám như rươi, không được hát những bài hát ở hậu phương. Tây mà nó biết, nó bắt nhốt vào hỏa lò, nó đánh cho nhừ tử, mất xác như không...Những lúc như thế, mặc dù chúng tôi còn nhỏ, tôi thấy trong mắt em như phảng phất nỗi u uất, mơ hồ. Tâm hồn em như đang chìm vào một vùng núi non nào mênh mông, xa vắng. Cung khác anh em tôi quá.Mặc dù tôi thương yêu Cung như em ruột tôi, còn săn sóc hơn thế nữa, nhưng tôi biết Cung sẽ không ở với chúng tôi lâu.
Sau mâý năm ở thành phố, Cung đã khác, cao lên rất nhanh, trắng ra và học hành cũng không lẹt đẹt như lúc mới từ rừng núi trở về. Nhưng bây giờ lại là lúc Hà Nội nghe thấy tiếng đại bác từ đâu đó vọng về. Điện Biên Phủ, một địa danh nào xa lắc ở miền thượng du được nhắc đến hàng ngày. Chiến tranh tạm thời chấm dứt. Việt Nam chia đôi. Ai đi ai ở. Cậu tôi nhất định đem gia đình đi Nam. Anh lớn tôi học trương Albert Sarraut, phải bỏ ngang để đi trước vào Nam, sửa soạn đón gia đình vào. Giưã lúc âý thì có thư của chú tôi từ hậu phương gửi về. Mợ tôi đưa thư cho tôi đọc như sau :
“ Kính thưa anh chị,
Trứơc hết vợ chồng em kính thăm sức khoẻ của anh chị. Sau chúng em xin đa tạ sự cưu mang của anh chị đối với cháu Cung. Mấy năm trời ròng rã, anh chị đã không quản khó khăn, tốn kém nuôi cháu ăn học. Anh chị đã săn sóc cháu không khác gì cacù con của anh chị. Từ manh quần, tấm aó, cho đến miếng ăn thức uống, các cháu con của anh chị thế nào, thì cháu Cung cũng được y như thế. Công ơn ấy vợ chồng em xin khắc dạ ghi tâm.
Nay đất nước đã hoà bình, nhưng anh em ta lại không được cơ hội đoàn tụ, chúng em rất lấy làm tiếc. Chúng em biết gia đình anh chị sắp đi Nam, đó là quyết định của anh chị, em không giám cản. Duy có một điều, xin anh chị cho cháu Cung ở lại. Máu chảy ruột mềm, chúng em muốn cho cháu về đoàn tụ với gia đình, có rau ăn rău, có cháo ăn cháo. Xin Thầy U phù hộ cho gia đình anh chị gặp được mọi điều may trên xứ lạ quê người...”.
Sau lá thư này, Cung vừa quấn quýt , bùi ngùi giữa anh em chúng tôi, vừa có những vui thầm mong chóng đến ngày đoàn tụ với cha mẹ và mấy em nhỏ của Cung. Cung thu nhặt tất cả những tấm hình của Cung, của gia đình tôi. Cả tấm hình em bé của tôi chưa biết ngồi, lúc chụp phải độn gối hai bên, miệng thì chảy rãi, Cung cũng xin cho “ đủ hình các anh, các chị”. Riêng tôi, tôi xếp cho Cung những thứ cần dùng như áo len, sách vở và dặn Cung phải tiếp tục học cho đến nơi đến chốn. Mợ tôi còn mua thêm những món quà “ để tặng cho chú thím ấy...”.
Như đã sắp đặt sẵn, Mợ tôi và tôi đưa Cung sang bên kia Gia Lâm, hẹn gặp nhau tại một quán tranh ở giưã cánh đồng. Trước khi đi cậu tôi nhắc là đừng có ở lâu. Liệu mà về cho sớm. Chúng tôi xuống xe ở ngoại ô Gia Lâm, trên đường đi Phòng ( Hải Phòng ). Người dẫn đường đi trưóc, chúng tôi đi sau. Bước những bước chân trên con đường mòn, hai bên có những thưả ruộng mới gặt. Nhưng gốc dạ buộc chụm từng bó xếp đều như bất tận. Mùi lúa mới thơm nồng. Những đàn chim sẻ bay từng đàn, chao lượn thật khéo, từ trời cao sà xuống kiếm môì. Ở đây nhìn về Hà Nội mờ xa, im ắng lạ lùng khiến tôi muốn ngợp trong cái mênh mông cao rộng của đất trời. Hồn tôi như bị cuốn đi theo từng cơn gió thổi. Tôi bỗng nhớ quá những ngày tản cư năm nào... Đi đã khá xa, tôi và Cung khiêng cái va-li quần áo cuả Cung, rất nặng, đôi chân tôi đã bắt đầu mỏi. Người dẫn đường bảo “ nếu cô mỏi chân thì bỏ guốc ra mà đi chân không. Chả bao đỗi nữa đâu. Ăn dập bã trầu thì tới...”.
Qua khúc quanh, cái quán tranh nằm ẩn dưới bóng mát cuả một cây đa hiện ra. Rẽ vào con đường nhỏ. Dưới gốc đa có cái miếu nhỏ, xây gạch. Một bát hương đầy ứ những chân hương đỏ quạnh. Chúng tôi bước tơí. Từ trong lều tranh, một người đàn ông mặc quần áo nâu bước ra, không phải giới thiệu tôi cũng biết đây là chú Tấn. Chú giống cậu tôi như hai giọt nước, chỉ khác là chú cao hơn cậu tôi, đen và nét mặt thì buồn bã.Tôi còn đang bỡ ngỡ thì mợ tôi đã lên tiếng : “ Kìa chú...”. Chú Tấn mỉm cười. Cung thì lí nhí kêu “ bố “. Mợ tôi trao những món quà cho chú Tấn. Chú nhìn tôi rất âu yếm. Tôi thấy chú vừa rất thân lại vừa thật là xa lạ. Chú nhìn tôi và bảo :” Chị Kim lớn rồi đấy, Xinh lắm. Chị hơn thằng Cung hai tuổi, năm bay đã mười bốn, tuôỉ ta. Chú cũng xin cám ơn cháu đã mất công kèm thằng Cung hộ chú...” Mợ tôi rất là chu tất, ngoài nhưng món quà như aó quần, trong một bao thư còn có ít tiền và cái đồng hồ đeo tay của cậu tôi gưỉ cho chú ấy. Một bữa ăn đơn giản cũng được bày ra trên mấy tờ giấy báo, gồm bánh mì, giò lụa, bánh dầy và chuối. Cung tỏ ra sành sỏi trong việc bày bữa tiệc này. Mọi người lấy những mớ rạ khô làm ghế ngồi. Chú Tấn vui cười, nhưng ăn rất ít. Trong câu chuyện, tôi thấy mấy lần chú nhắc đến Cô Kim Chung, đào cải lương. Chú bảo :” Ở trên rừng nhớ về Thủ Đô, chỉ mong có lúc thành công để lại được về Hà Nội nghe cô Kim Chung hát.”. Mợ tôi bảo rạp Quảng Lạc đã đóng cửa, thu dọn vào Nam rồi. Cả kép Huỳnh Thái cũng đã vào Nam...”. Nghe thế, nét mặt chú bỗng đăm chiêu, buồn bã thêm. Tôi thấy như Hà Nội với chú chỉ là Kim Chung. Kim Chung ra đi Hà Nội trở nên trống vắng, không còn là Hà Nội nữa.
Lúc sắp chia tay ra về, tôi đưa tặng Cung cái hộp đựng bút. Đó là cái hộp đựng thuốc lá Craven A, cậu tôi cho hồi Tết. Tôi rất quý hộp bút này và Cung thèm lắm. Tôi gói hộp bút này trong một cái hộp giấy và đưa cho Cung. Cung trân trọng cầm lấy cái hộp, nét mặt hân hoan. Cung mở ra. Trong đó có ba cái bút chì vàng có đầu tẩy, một cái bút chì xanh-đỏ, một cái tẩy chì, một cái tẩy mực, cái bút máy mới tinh, quà của anh lớn tôi thưởng cho tôi khi tôi trúng tuyển vào Đệ Thất trường Trưng Vương. Và dán dính trong nắp hộp là bản cửu chương với những nét bút chì đỏ gạch dưới những hàng mà Cung thường không thuộc. Cung khẽ đóng cái hộp lại, nhìn tôi và nói nhỏ :” em xin cố gắng để chị được vui lòng “. Tôi nắm tay em, bóp nhẹ và bỗng dưng tôi muốn khóc. Nước mắt không dưng cứ ứa ra. Tôi nhìn Cung, em cũng tự nhiên nức nở.
Trời đã chiều, mợ tôi đon đả đứng lên :” Thôi chú ở lại vui vẻ. Vào tơí trong ấy chúng tôi sẽ bảo các cháu viết thư ra cho chú thím biết...”Người dẫn đường tiễn chúng tôi đi.
Tôi không dám ngoảnh lại, cứ cắm cúi mà đi. Nắng đã nhạt.Trong gió đồng như đã có thoảng lạnh chút hơi may. Những con nhái bắt đầu kêu lên đâu đó râm ran. Tới đường cái chính, trước khi lên xe trở về Hà Nội, tôi dừng lại nhìn về cái quán giữa đồng xa tít, lẫn vào vơí bóng cây đa đen thẫm. Không biết chú Tấn và thằng Cung đã biến đi đâu mất từ hồi nào. Trong tôi bỗng bàng hoàng, tê tái. Thế là tôi xa cách em tôi ư. Sài Gòn và Hà Nội mấy ngàn cây số, biết có khi nào chúng tôi gặp lại được nhau. Cầu Long Biên trập trùng đen sẫm hiện ra trước mặt. Xe chui vào lòng cầu. Những thanh gỗ kêu rập rình dưới bánh xe. Con sông Hồng Hà cuồn cuộn tối om ở dưới xa làm tôi kinh sợ. Thành phố nhộn nhịp, ồn ào xe cộ, nhưng trong lòng tôi vẫn là hình ảnh cái quán rơm xiêu xiêu đơn độc giữa đồng...
Cuộc sống mới ở trong Nam với biết bao bận rộn. Anh em tôi tám người, đã quá đông, mợ tôi lại đẻ thêm thằng Cu nữa. Chín anh em, Thằng Cu kém ông anh lớn của tôi vừa đúng 20 tuổi. Lương công chức một mình cậu tôi không thể nào đủ. Ông anh lớn của tôi phải vừa đi học, vừa đi làm. Tôi mới đậu xong Trung Học cũng thi vào Sư Phạm để có thêm phương tiện chi tiêu cho cả gia đình. Cuộc sống như thế cứ tất bật cuốn hút đi một cách rất vội vàng, nên chúng tôi ít có thì giờ mà nghĩ ngợi, nhớ nhung gì nữa. Thỉnh thoảng, tình cờ câu hát của Hoàng Dương “ Hà nội ơi, nhớ về thành phố xa sôi...” làm lòng tôi chùng xuống, và chỉ khi ấy tôi lại thoáng nhớ đến Cung. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng không có gì phải lo lắng cho nó nữa. Nó sống với cha mẹ chứ có bơ vơ đâu.
Cho đến ngày 30 tháng Tư năm 75 thì cậu tôi đã về hưu. Anh em chúng tôi đa số đã có gia đình, con cái. Trong nỗi cực nhọc vật lộn với cuộc sống, may mắn là anh em chúng tôi học hành cũng không tệ lắm. Thằng Cu vừa 18 tuổi, thi vội vàng nhưng cũng đã vừa xong tú tài hai. Còn những người trên nó, người thì kỹ sư, người thì nha sĩ, nhưng mới ra nghề, còn bận bịu với quân vụ, còn nghèo. Và cuộc đổi đời ập tới. Miền Nam sụp đổ. Phút cuối cùng, anh em tôi, hầu như tất cả đều thoát đi được bằng đường biển trên con tàu chiến do người bạn của chồng tôi làm Hạm Trưỏng. Lại một lần nữa đối diện với những khó khăn, bỡ ngỡ để mưu cầu sinh tồn trên đất lạ.Đến khi chúng tôi ổn định đưọc cuộc sống, các con tương đối đã trưởng thành, thì nhìn lên mái tóc mình đã thấy bao nhiêu là sợi bạc. Chẳng ai có thể nghĩ đưọc rằng những khó khăn trùng điệp như thế mà chúng tôi đã may mắn vượt qua. Có bao giờ chúng tôi dám nghĩ là có lúc mình, cả gia đình mình lại sinh sống trên đất Mỹ, lại là công dân Mỹ nữa. Thời cuộc quả là một cơn lốc cuồng bạo, nhưng cũng là một cơn lốc vạn năng. kỳ diệu, lạ lùng.
Dần dần cơn cuồng nộ đảo điên cũng từ từ nguội lại.Những người một thời không có đất sống tại quê nhà, phải liều chết ra đi thì nay đã ào ạt trở về thăm lại quê xưa. Nhưng với tôi, Saì gòn hơn hai mươi năm sinh sống cưu mang, giờ chỉ lưu lại trong lòng những khuôn mặt bạn bè. Vui thì vui đấy nhưng không có nhưng xót xa nhung nhớ. Phải chăng Saì Gòn, cũng như tất cả Miền Nam, người dân Miền Nam sung túc quá, dễ dàng quá, ngày tháng trôi đi êm ả, nên không có những khúc mắc băn khoăn sâu đậm in lại trong lòng. Hay tại Miền Nam hai mùa mưa nắng cách biệt như trắng với đen, không có những buổi giao mùa mêng mang nhung nhớ. Hay chính tại tôi, anh em tôi, chúng tôi chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn, không có những bà con thân thuộc ở những vùng quê để về chơi, để nhớ lại. Và, như tôi đã đọc đâu đó rằng bản chất của một người đưọc hình thành trong khung cảnh sống từ khi sinh ra cho đến trên mười tuổi. Qua tuổi đó, người ấy có bị đem đi đâu, xa bao nhiêu đi nũa, người ấy vẫn là con người với những suy tư, cảm xúc có từ những năm bé dại. Điều ấy có lẽ đã khá đúng vơí tôi. Tôi sinh ra tại Hà Nội. Tôi đã lớn dần với tháng năm, những mùa xuân thơm, tưng bừng hoa cỏ. Những trưa dài nắng hạ chói chang, nhạt dần trong tiếng ve kêu oi ả. Những sáng sương pha thật mỏng,se sắt heo may lúc tàn hạ, vào thu. Và những ngày đông , nhìn qua cửa sổ để thấy cái rét mướt đã về, đãphủ khắp thành đô. Mưa nghiêng nghiêng bụi trắng.Những bước chân son dón dén bên kia đường, những bàn tay xinh cuốn ủ trong tà áo dài len Mông Tự . Và dù chẳng ngóai cổ nhìn ra, tôi cũng biết qua những hàng liễu rủ, Hồ Gươm mêng mang nước trắng ngập đầy. Tháp Rùa và đền Ngọc Sơn lung linh như muốn tan đi trong khói sóng, lẫn với tiếng mõ, tiếng chuông mờ tỏ gần xa.Và với tôi, giữa khung trời ấy, tôi còn thấy đầy ắp những ngày thơ dại bên mợ tôi. Những buổi cậu tôi đi đánh bài cả ngày, mấy mẹ con ngồi trên gác ăn ngô nướng, nghe mợ tôi kể chuyện ngày xưa. Tôi không thể không nhớ đến Cung, đứa em con chú rất chịu khó, rất dễ thương, nhưng cũng làm tôi buồn phiền không ít vì sự lơ là lười học của nó. Bao nhiêu kỷ niệm lại hiện về. Tôi còn như thấy rất rõ hình ảnh cái lều tranh xa tít, ở giữa cánh đồng mêng mang, gió chiều thổi lạnh. Tiếng ếch nhái kêu râm ran như vang động cả bầu trơì hôm tôi tiễn em lần cuối.Tôi nhớ nó quá, chắc tôi phải trở về thăm lại nơi tôi đã sinh ra. Hà Nội, hai âm thanh ấy, từ bao lâu chìm khuất, nay đang hiện lên như những nốt nhạc vui, và cũng chất chứa những bùi ngùi, mời gọi. Tôi phải về. Tôi sẽ cố gắng thu xếp, tằn tiện để về thăm lại Hà Nội, ít nhất là một lần, như một giải tỏa niềm ẩn ức bấy lâu chất chứa ở trong lòng. Thếù nào tôi cũng về.
Hà Nội ngày trở lại.
Bữa tiệc đoàn tụ đã tan. Mọi người lần lượt ra về. Trong phòng khách sạn chỉ còn có vợ chồng tôi và Cung. Cung ngồi gần cửa sổ, ánh sáng ở ngòai chiếu vào làm khuôn mặt Cung tối lại. Bên ngoài là bầu trời đục, thỉnh thoảng có những làn gió thổi vào, mang cái hơi hướng của Hồ Gươm thóang đãng, gợi nhớ những nỗi bâng khuâng. Cầm ly nước xoay xoay, nghiêng mái tóc đã gần như trắng hết một bên đầu, Cung nói :” Chị Kim biết em mà. Em vụng lắm. Vụng làm, vụng tính. Giá em cứ ở lại với hai bác, cùng các anh, các chị vào Nam thì mọi sự đã khác. Đời em nếu không được như các anh, các chị, nhưng không khốn khổ như thế.” Giọng Cung nhỏ nhẹ, êm đềm. Tôi ngồi tựa lưng vào thành giường. Chồng tôi nằm nhắm mắt, nhưng tôi biết là anh rất chú ý theo dõiù lời nói của Cung. Cung tiếp :” ...thì hôm gặp lại Thầy U em, các em của em, em mừng lắm chứ, nhất là khi chia những món quà mà hai bác đã mua cho. Nhưng không bao lâu, em lớn bùng lên hồi nào không biết nữa. Nghe lời chị dặn, em cố học và em cũng trở thành ông thầy giáo. Nhưng chẳng đưọc bao lâu, cuộc chiến vét hết mọi người, em cũng phải vào lính. Nhờ có chút văn hoá em được theo ngành kỹ thuật đặc biệt, do chuyên viên Nga Sô huấn luyện. Trong lúc mọi người đi B, tức vào Nam chiến đấu, thì đơn vị em vẫn quanh quẩn ở ngoại ô Hà Nội. Không dám hở môi, chứ Thầy U em, cũng như em, (lúc ấy em chưa lấy vợ)ï, mừng là không phải đi chết ở trong Nam. Nhưng cuộc chiến mổi lúc mỗi thêm ác liệt. Có lúc như dịp lễ Giáng Sinh, hầu như cả đất Bắc ăn bom Mỹ. Bom dội xuống Đấu Xảo, Khâm Thiên, Bạch Mai. Chỗ nào cũng ngập tràn khói lửa, chết chóc, tang thương. Hà Nội cắn răng và run lên trong khốn khổ. Còn những người đi Nam, chỉ có đi mà không có ai về. Kinh khiếp quá. Dân Bắc kinh sợ Mỹ và oán Đảng. Xâm lăng Miền Nam làm chi. Đụng vào Mỹ làm chi, thắng đâu không thấy, chỉ thấy những lửa đạn ụp lên đầu mình. Ở ngoài này như thế, trong Nam chắc cũng bao tang thương. Em nghĩ đến các anh, sao tránh được con đường lính tráng. Nhưng cuộc chiến đã xoay chiều. Muà xuân năm bảy lăm, quân Miền Bắc aò ạt tấn công Miền Nam. Và Miền Nam sụp đổ nhanh quá. Đầu tháng Tư, đơn vị em được lệnh cấp tốc vào B. Xe đi suốt ngày đêm trên lãnh thổ Miền Nam như chỗ không người. Tuị em dừng quân cách Sài Gòn chưa quá 20 cây số. Đêm đêm nhìn ánh đèn từ Sai Gòn bừng lên sáng rực, em nhớ đến hai bác và các anh các chị vô ngần. Rồi những cánh quân khác kéo về, sửa soạn tiến vào Sài Gòn. Hôm ấy đâu như 27 hay 28 tháng Tư, đơn vị cửa em được lệnh khai hoả. Bắn một loạt rồi rút chạy ngay, sợ máy bay từ Miền Nam lên oanh tạc...” Cung không nói rõ đơn vị của Cung là đơn vị gì.Nhưng nghe đến đây chúng tôi bỗng nhớ đến loạt hoả tiễn của Cộng quân phóng vào Sài Gòn. Một quả rơi trong khu trại Cửu Long, chỉ cánh nhà chúng tôi có một mặt đường. Thật là kinh khiếp. Chúng tôi muốn tiếp lời của Cung.Vợ chồng tôi nhìn nhau, rồi tôi bảo :” Thì anh nói đi...”. Ông xã tôi ngồi dậy, bật thêm một ngọn đèn, căn phòng trở nên sáng hơn, như vừa qua một cơn mê kinh dị. Anh nói :ï”Anh không thể nào quên đuợc, đó là đêm 28 tháng Tư, không phải phiên trực, nên anh ngủ ở nhà. Nhà anh trong cư xá Hải Quân, ở ven sông Sài Gòn. Lúc ấy, theo dõi tình hình chiến sự, anh biết là Sài Gòn đang bị bao vây. Giờ Sài Gòn tan nát sắp đến. Cộng quân đã ở bên kia cầu Sài Gòn. Vào lúc giưã đêm, những lọat hỏa tiễn từ ngoại ô phóng tới. Giữa tiếng còi báo động rú lên, anh nghe tiếng rít như xé nát bâù trời, và tiếng nổ kinh hoàng bùng vỡ. Tiếng đất đá rơi ào ào trên mái tôn. Mấy đứa con anh chui cả xuống gậm giường... Không hiểu sao anh lại rất bình tĩnh như sẵn sàng đón nhận số phận sẽ đến với mình, với gia đình mình...”. Nghe đến đó thì mặt Cung bỗng xanh nhợt. Cung kéo hai mảnh áo ấm và ngồi thu mình lại. Thấy vậy ông xã tôi ngưng nói và nhìn chăm chú vào mặt Cung. Mặt Cung càng xanh hơn và toàn người Cung run lên như vừa lên cơn sốt. Một lúc sau, như định thần trở lại, Cung hỏi như một phản xạ tự nhiên :” Thế lúc ấy hai bác ở đâu..”. Vợ chồng tôi cùng cười và tôi nói ngay:” Cậu mợ chị và cả nhà ở ngoaì phố. Sài Gòn thiệt hại nhiều, nhưng nhà mình thì không sao...”
Câu chuyện giữa chúng tôi lắng lại. Chúng tôi cũng không gặng hỏi xem đơn vị của Cung là đơn vị gì, pháo binh hay tên lửa. Ngoài trời đã tối. Cung nhớ lại những ngày xưa cũ và tiếp tục nói :” Như anh chị thấy mấy đứa em của em nó không giống em. Tụi nó khổ hơn em nhiều. Tụi nókhông có những kỷ niệm êm đềm, đầy đủ như chị em mình đã có. Em còn nhớ những buổi sáng u già bưng một khay sôi lúa từ ngoài cưả vào. Bát nào cũng đều nhau như đong. Mỗi người một bát, trong đó có một bát của em. Ăn bát sôi như thế, người ấm hẳn lên, em nhảy chân sáo đến trường, xếp hàng nghiêm chỉnh rồi hát quốc ca. Thầy hiệu trưởng đứng trên bục, thẳng như tượng, mắt hướng lên lá quốc kỳ. Quốc ca dứt, cả truờng im ắng không một tiếng động...Bây giờ em là thầy giáo, em càng thấy nhớ không khí ngày xưa ấy. Không có nữa đâu chị ơi. Em nghĩ chị chẳng nên đến thăm trường cũ làm gì. Buồn chết... Còn Thầy em ư. Từ hậu phương về Hà Nội, ông càng trở nên buồn bã. Có những hôm một mình trên cái sân gác sau nhà, ông đem cây đàn mandoline cũ ra gảy. Tiếng đàn lúng búng, quấn quýt, hòa trong tiếng hát khàn đục của ông, một bài hát thật xưa cũ :” Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm. Chạy dài trên khóm cây đàn chim ríu rít ca...” Ông càng ngày càng ít nói hơn. Ông rất quý cái đồng hồ cuả bác trai gửi cho. Sau này cái đồng hồ ấy hư không chạy được nữa, ông vẩn cất rất cẩn thận. Khi thầy em mất, chúng em đeo cái đồng hồ ấy vào cổ tay cho thầy em...”
Trong mấy ngày lưu lại Hà Nội, chúng tôi có nhiều lúc ngồi cùng Cung ôn lại những tháng ngày qua, lòng tôi như lần giở những trang sách cũ. Nỗi bồi hồi chen lẫn những buồn chán, bâng khuâng. Trong tôi như vừa đánh mất một cái gì quý lắm, nhưng tôi lại không hề tiếc nuối. Lòng tôi nhẹ tênh. Buổi tối trước khi trở lại Hoa Kỳ, chúng tôi ra ngồi uống nước ở bờ Hồ Gươm. Trong bóng tối của một tàn cây, gió hồ thổi mát, hồn tôi lãng đi và bỗng thấy mình sống lại những ngày mới lớn. Lúc âý và chỉ lúc ấy mà thôi, tôi mới thấy tôi còn liên hệ tới chốn này.
Phan lạc Tiếp
Viết thay cho bà xã.
25/2/2002
PHẠM TRƯỜNG LONG * PHẠM HỒNG SƠN
Germany Ghi chú cûa tòa soån: PHAM TRОNG LONG, ngÜ©i bån thân thi‰t
cûa Khai Thác ThÎ TrÜ©ng và ñÓi L¿c, chi‰n sï hàng ÇÀu cûa phong
trào chÓng CS bán nܧc. HiŒn Çang sÓng tåi ñÙc.
Tôi cÛng nhÜ nhiŠu ngÜ©i chÌ m§i bi‰t Phåm HÒng SÖn khoäng th©i
gian gÀn Çây, qua bài vi‰t "Nh»ng Tín HiŒu Çáng mØng cho Dân Chû tåi VN" cûa anh trên mång internet. Tôi có trao Ç°i ÇiŒn thÜ v§i anh v§i tÜ cách m¶t ngÜ©i ViŒt häi ngoåi lÜu tâm ljn vÃn ÇŠ dân chû tåi VN. Trong th©i gian ti‰p xúc ng¡n ngûi nhÜng khá xúc tích Çó tôi Çã có nhiŠu thiŒn cäm v§i anh. Phän hÒi cûa anh ÇÀy chân tình, Çúng là cûa m¶t ngÜ©i có suy nghï Ƕc lÆp. ñ‰n khi džc bän dÎch:
"Th‰ Nào là Dân Chû" anh gºi t¥ng thì không nghi ng© gì n»a, Çây là m¶t ngÜ©i thÆt s¿ suy tÜ træn trª vŠ ÇÃt nܧc. ChÜa kÎp góp š vŠ bän dÎch thì ÇÜ®c tin anh bÎ công an m©i làm viŒc hôm 25/26 tháng 3, 2002. Tôi bàng hoàng nhÜ ÇÜ®c tin m¶t ngÜ©i thân m¡c nån. Tôi g†i ÇiŒn thoåi. Cä 2 sÓ thÜ©ng lÅn di Ƕng ÇŠu bÎ cúp (28/03/2002).
Sau Çó ÇÜ®c thêm tin anh bÎ b¡t và gia Çình bÎ mÃt tin tÙc. Tôi hãi hùng tܪng nhÜ mình Çi ngÜ®c th©i gian hÖn 50 næm và Çang sÓng trong th‰ gi§i ñêm Gi»a Ban Ngày cûa Arthur Koestler. M¶t l¿c lÜ®ng công an 8 ngÜ©i, có cä cÃp tá, løc xét nhà anh, tÎch thu tài liŒu, máy ÇiŒn toán. Tôi nghï ljn nh»ng màn truy bÙc quen thu¶c xäy ra th©i gian qua ÇÓi v§i Hòa ThÜ®ng Thích Quäng ñ¶, LM NguyÍn Væn Lš và ngÜ©i bån trÈ Lê Chí Quang ... QuyŠn t¿ do hi‹n nhiên v§i chúng ta ª häi ngoåi xem ra ngÜ©i dân trong nܧc không hŠ ÇÜ®c bi‰t ljn. Ÿ ViŒt Nam n¶i chÌ nói ljn dân chû cÛng Çû bÎ Çi tù rÒi.
M¶t lÀn n»a, ch‰ Ƕ CSVN cho thÃy nó không hŠ thay Ç°i bän chÃt sta-li-nít và luôn Çi ngÜ®c trào lÜu ti‰n hóa cûa loài ngÜ©i. Trong khi toàn th‰ gi§i tØ Âu sang Á ljn Châu MÏ La-tinh chuy‹n hóa theo xu th‰ th©i Çåi là dân chû, nhà nܧc pháp quyŠn, không dùng båo l¿c v§i công dân, CSVN trái låi vÅn duy trì ch‰ Ƕ nhà nܧc công an trÎ hoàn toàn l‡i th©i, Çi ngÜ®c l®i ích dân t¶c. Khi m¶t ch‰ Ƕ chÌ bi‰t dùng båo l¿c Ç‹ t¿ cÙu lÃy nó thì rõ ràng nó không có chính nghïa và không còn khä næng nào khác Ç‹ tÒn tåi. Sau 27 næm cai trÎ toàn quÓc, cÛng nhÜ Trung C¶ng sau Thiên An Môn, ch‰ Ƕ c¶ng sän cho thÃy nó chÌ tÒn tåi ÇÜ®c b¢ng Çàn áp, qua h†ng súng và guÒng máy công an Çi Çôi v§i m¶t chính sách ngu dân triŒt Ç‹.
Phåm HÒng SÖn Çã làm gì Ç‹ phäi bÎ ch‰ Ƕ Çàn áp? Câu ÇŠ t¥ng chung trong bän dÎch "Th‰ nào là Dân chû" cûa anh vi‰t nhÜ sau:
"Xin kính t¥ng tÃt cä nh»ng ngÜ©i khao khát T¿ Do, Hòa bình và mÜu
cÀu m¶t cu¶c sÓng ÇÀy Çû trên ÇÃt nܧc ViŒt Nam."
Anh nói lên tâm trång š hܧng cûa mình nhÜng cÛng là m¶t s¿ thÆt: trên ÇÃt nܧc ViŒt Nam có nh»ng ngÜ©i khao khát T¿ Do. S¿ thÆt này chính là vÃn nån l§n nhÃt cûa dân t¶c.
Anh quäng bá dân chû trong nܧc, ngay trong lòng m¶t ch‰ Ƕ c¿c kÿ
phän dân chû. Anh låi nói ljn Hòa bình, m¶t bóng ma Çang ngày Çêm
ám änh ch‰ Ƕ v§i gÜÖng diÍn bi‰n hòa bình § Liên xô và ñông Âu.
Anh låi dùng internet, phÜÖng tiŒn nhanh chóng h»u hiŒu nhÃt Ç‹ quäng bá ÇÜa tin ljn nhiŠu ngÜ©i nhÃt, k‹ cä häi ngoåi.
Dân chû, Hòa bình và Internet là các thÙ CSVN hiŒn s® nhÃt. Chính nh»ng thÙ này Çang Çe d†a tr¿c ti‰p s¿ tÒn tåi cûa ch‰ Ƕ. Và Çó là lš do chính khi‰n h† muÓn dÆp t¡t ti‰ng nói cûa anh nhÜ dÆp t¡t m¶t Çám cháy rØng. Nh»ng cáo bu¶c cûa công an nhÜ anh có liên låc ti‰p xúc v§i nh»ng ngÜ©i tranh ÇÃu cho dân chû trong nܧc cÛng nhÜ m¶t sÓ ngÜ©i ViŒt ª häi ngoåi chÌ là lš c§ v¥t vãnh.
Cái gì Çã thôi thúc anh làm? Tôi nghï là tâm thÙc. NgÜ©i không có tâm
thÙc thôi thúc không làm chuyŒn nhÜ anh. V§i khä næng dÎch thuÆt cûa anh (và sau thÃy theo tin tÙc cho bi‰t anh là bác sï, ª lÙa tu°i 30), theo tôi nghï, muÓn sÓng yên thân ÇÀy Çû vÆt chÃt không phäi là chuyŒn khó. NhÜng anh không ch†n con ÇÜ©ng yên thân. Nh»ng bài vi‰t cûa anh tôi ÇÜ®c džc sau này cho thÃy anh hi‹u bi‰t r¶ng cÛng nhÜ suy tÜ có chiŠu sâu. Anh có suy nghï Ƕc lÆp, hành xº theo lÜÖng tri, và Çó là giá trÎ cûa con ngÜ©i Phåm HÒng SÖn.
Hi‹u ÇÜ®c th‰ nào là dân chû tÃt phäi thÃy cái giá quš cûa T¿ Do. T¿
Do Çi Çôi v§i Dân chû. Không có dân chû không th‹ có t¿ do th¿c s¿. Dân t¶c ViŒt Nam suÓt hÖn cä træm næm qua không có ÇÜ®c cái cÖ may theo kÎp trào lÜu ti‰n hóa cûa th‰ gi§i vì không hŠ ÇÜ®c bi‰t ljn t¿ do theo Çúng nghïa cûa nó. H‰t bÎ th¿c dân ljn c¶ng sän Çè ÇÀu cÜ«i c°, ngÜ©i dân bÎ tܧc Çoåt t¿ do. Cái h† bi‰t ljn chÌ là thÙ t¿ do ban phát tØ trên. Phåm HÒng SÖn tÃt phäi cäm nhÆn s¿ mÃt mát to l§n này cûa dân t¶c, không nh»ng trong quá khÙ mà còn cho
nhiŠu th‰ hŒ tÜÖng lai. Có lë Çó là lš do thôi thúc anh quäng bá dân
chû.
Anh nói nh»ng gì anh cÀn nói, không lách quanh co. ñÎa chÌ, ÇiŒn thoåi, ÇÎa chÌ e-mail anh Ç‹ công khai. Anh báo th£ng cho lãnh Çåo c¶ng sän vŠ viŒc làm cûa anh. Tôi không nghï Phåm HÒng SÖn ngây thÖ tin r¢ng anh có th‹ cäi hóa nh»ng ÇÀu óc hû hóa trong Çám lãnh Çåo c¶ng sän, ho¥c không thÃy trܧc nh»ng khó khæn nguy hi‹m ch© ch¿c anh.
Tai h†a Çã ljn v§i anh vì nh»ng ngÜ©i cÀm quyŠn không muÓn nghe s¿ thÆt anh nói ljn. Nh»ng ch‰ Ƕ Ƕc tài ÇŠu s® s¿ thÆt. Phän Ùng uy hi‰p nhanh chóng cho thÃy s¿ s® hãi cûa h†. Dܧi m¡t CSVN, T¿ Do có nghïa là trä quyŠn låi cho ngÜ©i dân, ÇiŠu Çi ngÜ®c v§i lš do tÒn tåi cûa ch‰ Ƕ. Vì ÇÀu óc xÖ cÙng, không có khä næng suy nghï Ƕc lÆp nhÜ anh, h† cäm thÃy quyŠn l¿c bΠǶng chåm trܧc h‰t. H† cho thÃy thêm l®i ích dân t¶c không phäi là mÓi quan tâm cûa ch‰ Ƕ và viŒc h† làm thành thu¶c nhÃt là dùng båo l¿c.
Nói vŠ dân chû v§i ngÜ©i c¶ng sän không nh»ng chÌ t° phí công vô ích,
låi mang h†a vào thân, nhÜ gÜÖng Hà Sï Phu ho¥c BS NguyÍn ñan Qu‰ trong nܧc. Phåm HÒng SÖn låi thêm nói vŠ dân chû theo ki‹u MÏ, m¶t mô hình ngÜ©i c¶ng sän không ng§t vu vå nói xÃu Ç‹ biŒn minh cho giáo ÇiŠu Mác-xít Lê-nin-nít và s¿ tÒn tåi cûa h†. Có lë anh cÛng bi‰t nh»ng ÇiŠu Çó. NhÜng anh vÅn làm.
Phäi nói Çây là m¶t viŒc làm ÇÀy can Çäm và š nghïa. M¶t ngÜ©i trong
nܧc vì tÃm lòng dám làm chuyŒn nhÜ anh rÃt Çáng Ç‹ chúng ta quš tr†ng. ViŒc dÎch thuÆt và quäng bá dân chû nhÜ Phåm HÒng SÖn làm Çáp Ùng m¶t nhu cÀu thi‰t th¿c, có ích và cÃp bách hàng ÇÀu ÇÓi v§i xã h¶i VN. Nó låi thu¶c phåm trù tÜ duy, h†c thuÆt, không ai có th‹ vì bÃt cÙ m¶t danh nghïa nào có quyŠn ngæn chÆn viŒc làm này. Nh»ng ngÜ©i quäng bá dân chû, Ç¥c biŒt là ª trong nܧc, th¿c ra Çáng ÇÜ®c bi‹u dÜÖng là nh»ng ngÜ©i tiên phong can Çäm ÇÃt nܧc rÃt cÀn.
ViŒc truy bÙc Phåm HÒng SÖn là m¶t viŒc làm xuÅn Ƕng Ç‹ l¶ s¿ hèn nhát cûa ch‰ Ƕ. Nó không chÌ là m¶t s¿ vi phåm tr¡ng tr®n quyŠn t¿ do cûa cá nhân anh trong lãnh v¿c tÜ duy. Nó còn ngæn chÆn ngÜ©i dân nói chung không ÇÜ®c ti‰p cÆn v§i nh»ng ki‰n thÙc tÜ tܪng ti‰n b¶ cûa loài ngÜ©i Ç‹ xã h¶i có th‹ phát tri‹n và theo kÎp Çà væn minh cûa th‰ gi§i. KhÓng ch‰ suy nghï Ƕc lÆp cûa m¶t cá nhân ho¥c tØ khܧc tܧc Çoåt con ngÜ©i quyŠn cæn bän vŠ mª mang ki‰n
thÙc là hành Ƕng ngu tÓi ÇÓi v§i xã h¶i væn minh loài ngÜ©i.
M¶t ch‰ Ƕ không mª mang dân trí cho ngÜ©i dân låi còn ngæn cän viŒc này nhÜ CSVN Çang làm là mang m¶t tr†ng t¶i ÇÓi v§i ÇÃt nܧc. CSVN Çã theo Çu°i chính sách ngu dân trong suÓt hÖn 50 næm qua. K‰t quä tai håi cho ÇÃt nܧc là Çåi b¶ phÆn con ngܧi sÓng dܧi ch‰ Ƕ c¶ng sän mÃt h‰t khä næng tÜ duy Ƕc lÆp, tØ ngÜ©i dân bình thÜ©ng ljn giai cÃp lãnh Çåo, trí thÙc, Çåi diŒn các tôn giáo v.v. Não trång chÌ bi‰t phøc tùng này càng th‹ hiŒn rõ theo nÃc thang xã h¶i: càng lên cao càng u tÓi, hèn nhát. ChÌ cÀn nhìn vào ki‰n trúc
thÜ®ng tÀng cûa xã h¶i ViŒt Nam hiŒn nay Ç‹ thÃy ÇiŠu này. TØ cÃplãnh Çåo bám víu loanh quanh ÇÎnh hܧng xã h¶i chû nghïa, tÜ tܪng HCM, ljn hiŒn trång các nhà tu hành quÓc doanh làm công cø cho Çäng và Nhà Nܧc, ljn trí thÙc "mang trái tim chó" (DÜÖng Thu HÜÖng) ... tÃt cä ÇŠu là sän phÄm cûa chính sách ngu dân lâu ngày cûa ñäng C¶ng Sän VN.
Chính sách ngu dân ngoài ra còn là cä m¶t s¿ Çi‰m nhøc cho dân t¶c, nhÃt là trong th©i Çåi ngày hôm nay. NgÜ©i dân ViŒt Nam phäi chÎu tûi nhøc hai cÃp: m¶t m¥t thua kém các quÓc gia t¿ do dân chû trong vùng nhÜ Nam Hàn, ñài Loan, Nam DÜÖng ..., m¥t khác låi bÎ tøt xuÓng ngang hàng các dân t¶c không có t¿ do, sÓng tæm tÓi, do b†n ngu dân cai trÎ nhÜ B¡c TriŠu Tiên, Cuba, Irak, Afghanistan dܧi ch‰ Ƕ Taliban ... CÛng là con ngÜ©i, nhÜng có dân t¶c ÇÜ®c hܪng t¿ do, dân t¶c ViŒt Nam låi bÎ dìm vào ngu tÓi, bÎ tܧc Çoåt quyŠn quy‰t
ÇÎnh vÆn mŒnh cûa mình. NgÜ©i ViŒt có š thÙc không ai không cäm nhÆn thÃm thía n‡i nhøc này cûa dân t¶c.
SuÃt diÍn hãi hùng quen thu¶c Çã xäy ra v§i Phåm HÒng SÖn
ViŒc Phåm HÒng SÖn bÎ lao lš Ç¥t anh vào hàng ngÛ nh»ng ngÜ©i can Çäm trong nܧc Çi trܧc Çã trª thành nh»ng bi‹u tÜ®ng cho công cu¶c tranh ÇÃu cho t¿ do dân quyŠn tåi ViŒt Nam nhÜ LM NguyÍn væn Lš, anh Lê Chí Quang. Anh cÛng nhÜ h† là nh»ng cánh én báo hiŒu mùa xuân cho ÇÃt nܧc. Ho¥c nh»ng Ç®t sóng b¡t ÇÀu dÆy Ç‹ quét såch nh»ng rác rܪi tích lÛy hÖn 50 næm qua do ch‰ Ƕ c¶ng sän Ç‹ låi trên ÇÃt nܧc chúng ta. Dân chû là xu th‰ lÎch sº th©i Çåi, không
m¶t th‰ l¿c phän Ƕng nào Çäo ngÜ®c ÇÜ®c.
Dân t¶c ViŒt Nam, dÅu bÎ c¶ng sän làm båc nhÜ®c š chí và dìm vào ngu tÓi nhÜ NguyÍn Chí ThiŒn và Hà Sï Phu tØng nhÆn xét, vÅn ti‰p tøc sän sinh ra nh»ng ngÜ©i con có tâm thÙc, không u tÓi hèn nhát, và viŒc gì ljn cho ch‰ Ƕ u hèn bán nܧc së phäi ljn không xa.
TS. NGUYỄN HỌC TẬP *THẢ CHA LÝ HAY KHÔNG? TS NGUYỄN HOC TÄP * CHA LÝ
Gaàn ñaây coù moät soá tin ñoàn raèng Chính Quyeàn CSVN muoán thaû Cha Lyù. Vaø döôøng nhö CS ñang tieáp xuùc vôùi caùc Ñaáng Baûn Quyeàn cuûa Cha Lyù ñeå thaû Ngaøi vôùi ñieàu kieän laø Ngaøi khoâng coøn ñöôïc veà laøm cha sôû Nguyeät Bieàu vaø An Truyeàn nöõa, phaûi veà ôû noäi truù trong Toaø Giaùm Muïc, chæ ñöôïc laøm leã , giaûng veà ñaïo thoâi, chôù khoâng ñöôïc ñaù ñoäng gì ñeán
chính trò.
Chuùng toâi khoâng coù ñöôïc nguoàn tin chính thöùc, chæ nghe ñoàn. Chuùng toâi chæ muoán ghi laïi ñaây moät ít suy nghó döïa treân " tin ñoàn" vöøa keå.
Tröôùc heát vieäc cha Lyù coù coøn laø cha sôû cuûa Nguyeät Bieàu vaø An Truyeàn hay khoâng laø thaåm quyeàn cuûa Ñöùc Giaùm Muïc cuûa Cha, khoâng can döï gì ñeán Chính Quyeàn CSVN. Ñieàu kieän aùp ñaët vöøa keå cho thaáy vieäc CSVN ñoät nhaäp vaøo noäi boä cuûa Coâng Giaùo noùi rieâng vaø cuûa caùc toân giaùo noùi chung. Ñieàu maø ÑTC ñaõ neâu leân trong ÑAÙP TÖØ CHO HOÄI ÑOÀNG GIAÙM MUÏC VIEÄT NAM, nhö laøø moät trong nhöõng quyeàn caên baûn ( droits fondamentaux) baát khaû xaâm phaïm cuûa con ngöôøi:
" Caùc coäng ñoàng toân giaùo phaûi ñöôïc töï do vaø ñieàu haønh laáy mình moät caùch töï quyeát..." (Ñaùp Töø , ñoaïn 5).
Ñieàu ñoù cho thaáy moät laàn nöõa yù muoán phuïc thieän cuûa nhöõng ai ñang caàm quyeàn ôû Vieät Nam.
Chuùng toâi seõ tìm hieåu xaùc thöïc hôn " tin ñoàn " vaø neáu tin töùc treân coù lyù chöùng, chuùng toâi seõ vieát moät Thænh Nguyeän Thö khaùc trao cho ÑTC, cho Ngaøi bieát nhöõng ñoøi hoûi chính ñaùng cuûa Ngaøi cho daân toäc Vieät Nam, nhöõng quyeàn " caên baûn" baát khaû xaâm phaïm vaø baát khaû nhöôïng cuûa con ngöôøi maø Ngaøi ñaõ ñoøi hoûi trong ÑAÙP TÖØ ñang bò caùc nguôøi caàm
quyeàn ôû Vieät Nam boû ngoaøi tai.
Keá ñeán vieäc Chính Quyeàn ( hay Nhaø Nöôùc) CSVN baét buoäc Cha Lyù chæ ñöôïc laøm leã vaø khoâng ñöôïc giaûng gì veà chính trò laø giaác mô khoâng töôûng cuûa hoï.
Giaác mô treân cuûa nhöõng ngöôøi CSVN laøm cho ngöôøi vieát nhôù laïi caâu traû lôøi cuûa ÑTC cho hai kyù giaû YÙ caùch ñaây treân 10 naêm. Luùc ñoù, naêm 1991, sau khi theå cheá CS ôû Lieân Bang Soâ Vieát vaø caùc nöôùc Ñoâng AÂu suïp ñoå naêm 1989, coù tin ñoàn raèng hai ngöôøi coù coâng lôùn trong tieán trình treân laø Toång Thoáng Michael Gorbachiov vôùi chuû tröông Glassnost vaø Perestroika vaø Ñöùc Gioan Phaoloà II. Ñeå bieát roõ thöïc hö nguoàn dö luaän, Ezio Mauro vaø Paolo Mieli, hai ñaëc phaùi vieân cuûa tôø La Stampa, moät trong nhöõng tôø baùo lôùn nhöùt oû YÙ xin ñöôïc phoûng vaán Ñöùc Giaùo Hoaøng:
- " Kính thöa ÑTC, ngöôøi ta ñoàn raèng ÑTC laøm chính trò, ÑTC nghó theá naøo?".
- " Toâi nghó raèng khoâng theå hieåu chính trò theo nghóa heïp. Nhieäm vuï cuûa Ñöùc Giaùo Hoaøng laø rao giaûng Phuùc AÂm, nhöng trong Phuùc AÂm coù con ngöôøi. Söï toân troïng ñoái vôùi con ngöôøi, töùc laø nhaân quyeàn, söï töï do löông taâm vaø taát caû nhöõng gì thuoäc veà con ngöôøi. Neáu taát caû nhöõng ñieàu ñoù coù moät giaù trò chính trò, thì ñuùng Ñöùc Giaùo Hoaøng coù laøm chính trò. Nhöng
Ngaøi luoân ñeà caäp ñeán con ngöôøi, Ñöùc Giaùo Hoaøng beânh vöïc con ngöôøi".( Ezio Mauro e Paolo Mieli, " Giovanni Paolo II ", La Stampa 04.03.91,2).
Taïi sao " Ñöùc Giaùo Hoaøng luoân ñeà caäp ñeán con ngöoøi , Ñöùc Giaùo Hoaøng beânh vöïc con ngöôøi" ?
Bôûi vì Thieân Chuùa Giaùo khoâng phaûi laø moät toân giaùo " sieâu hình hoïc " ( metaphysica), moät toân giaùo lô löõng treân maây treân gioù, maø laø moät toân giaùo " nhaäp theå " ( incarnation):
" Ngoâi Lôøi ñaõ trôû neân ngöôøi phaøm vaø cö nguï giöõa chuùng ta" ( Jn 1,14).
Vaø caû cuoäc ñôøi Chuùa Gieâsu laø cuoäc ñôøi rao giaûng Nuôùc Trôøi vaø rao giaûng Nuôùc trôøi cho con ngöôøi hay noùi nhö Ñöùc Gioan Phaoloà II, " rao giaûng Phuùc AÂm, nhöng trong Phuùc AÂm coù con ngöôøi", bôûi ñoù caû cuoäc ñôøi Chuùa Gieâsu laø cuoäc ñôøi " bieán nöôùc thaønh röôïu, hoaù caù vaø baùnh ra nhieàu, laøm cho ngöôøi muø ñöôïc thaáy, keû queø ñöôïc ñi, ngöôøi cuøi ñöôïc saïch, keû ñieác ñöôïc nghe, ngöôøi cheát soáng laïi, keû ngheøo ñuôïc nghe giaûng Tin Möøng"( Mt 11,5) .
Noùi caùch khaùc " trong Nöôùc Trôøi coù con ngöôøi, Ñöùc Gieâsu beânh vöïc con ngöôøi".
Cha Lyù laø moät Linh Muïc Coâng Giaùo, moät Ngoân Söù cuûa Phuùc AÂm hay
khoâng?
Neáu Cha laø moät Linh Muïc Coâng Giaùo, moät Ngoân Söù cuûa Phuùc AÂm, Cha khoâng theå haønh xöû khaùc vôùi caùch haønh xöû cuûa Chuùa Gieâsu, cuûa Ñöùc Giaùo Hoaøng. Baét eùp Linh Muïc chæ ñöôïc teá leã phuïng töï laø moät mô öôùc khoâng töôûng, nhö hoï ñaõ mô öôùc thieát laäp thieân ñaøng Coäng Saûn Chuû Nghóa ôû traàn gian.
Veà phöông dieän phaùp lyù, Cha Lyù laø con ngöôøi chôù khoâng phaûi laø moät con gaø ai muoán baét nhoát voâ chuoàng vaø thaû ra luùc naøo tuyø hyõ. Haønh ñoäng treân cuûa nhöõng ngöoøi caàm quyeàn ôû Vieät Nam cho thaáy trình ñoä hieåu bieát veà nhaân quyeàn vaø phöông caùch haønh xöû quyeàn bính quoác gia cuûa hoï.
Neáu Cha Lyù ñaõ phaïm phaùp, bò treân 600 coâng an aäp vaøo baét khi Cha chuaån bò cöû haønh Thaùnh Leã buoåi saùng vaø bò keát aùn 15 naêm tuø vôùi baûn khoâng coù luaät sö bieän hoä, khoâng coù thaân nhaân chöùng kieán vaø an uûi trong luùc gaëp khoù khaên trong cuoäc ñôøi, thì Cha ñaõ bò keát aùn. Cha môùi ôû tuø chöa ñeán moät naêm, giôø ñaây ngöôøi ta muoán thaû Cha ra. Cha cuõng phaûi
ñöôïc thaû ra vôùi moät baûn traéng aùn, ñeå chöùng minh raèng Cha voâ toäi. Bôûi leõ khoâng voâ toäi taïi sao ñöôïc thaû? Cha ñaõ ñöôïïc aân xaù vì coù caùch cö xöû tuyeät vôøi ñaõ laøm cho baûn aùn töø 15 naêm ruùt xuoáng thaønh maáy thaùng chaêng? Thieân haï ñang chôø ñeå ñöôïc bieát pheùp laï cha Lyù ñaõ thöïc hieän luùc ôû tuø.
Ngöôïc laïi, neáu Cha voâ toäi, thì nhöõng ngöôøi toá caùo Cha, nhöõng ngöôøi ra aùn traùc baét Cha, nhöõng ngöôøøi xöû vaø leân aùn Cha laø nhöõng ngöôøi vu vaï, thöa caùo khoâng lyù chöùng vaø xöû aùn baát coâng sai loãi vaø baát chaáp luaät leä, hay ít ra laø baát chaáp luaät leä cuûa caùc xöù coù möùc soáng vaên minh. Cha Lyù voâ toäi, chuùng toâi laäp laïi, Cha phaûi ñöôïc tha vôùi moät baûn traéng aùn .
Nhöõng ngöôøi lieân heä coù traùch nhieäm boài thöôøng danh döï vaø boài thöôøng nhöõng thöông toån vaät chaát. Vaø lieân quan ñeán Cha laø anh chò em Nguyeät Bieàu vaø An Truyeàn cuõng bò thieät haïi laây, bò chöôûi bôùi, beâu xaáu, ñaùnh ñaäp, bao vaây kinh teá laøm cho cuoäc soáng anh chò em laàm than cuõng phaûi ñöôïc boài thöôøng.
ÔÛ moät nöôùc daân chuû vaên minh, ngöôøi phu queùt ñöôøng cuõng coù traùch nhieäm cuûa mình ñoái vôùi ngöôøi khaùc, ñöøng noùi gì ñeán nhöõng ngöôøi laõnh ñaïo quoác gia, nhaân vieân coâng löïc vaø quan toøa. Ai sai loãi phaûi boài thöôøng.
Chuùng toâi bieát vieäc vaây baét, leân aùn, boû tuø cha Lyù laø moät sai laàm. Giôø ñaây Nhaø Caàm Quyeàn CSVN thaáy caàm giöõ Cha trong tay laø moät chöôùng ngaïi vaät coàng keành ñeå lieân heä vôùi Toaø Thaùnh vaø lieân heä vôùi caùc quoác gia taân tieán treân theá giôùi , maø CSVN caàn giao tieáp trao ñoåi kinh teá.
Theo choå chuùng toâi ñöôïc bieát thì sau khi ÑTC bieát ñöôïc nhöõng gì Ngaøi caàn phaûi bieát vaø Ngaøi ñaõ leân tieáng ñoøi hoûi cuõng nhö phaûn ñoái trong ÑAÙP TÖØ cuûa Ngaøi, naêm nay Toaø Thaùnh Vatican ñaõ khoâng gôûi Phaùi Ñoaøn Ngoaïi Giao cuûa mình deán Vieät Nam nöõa, vieäc maø Toaø Thaùnh vaãn laøm lieân tieáp treân 9-10 naêm nay. Maëc cho nhöõng laàn tröôùc, moãi laàn Phaùi Ñoaøn ñeán ñeàu ñöôïc CSVN tieáp ñoùn heát söùc noàng haäu vaø phoâ tröông Töï Do Toân
Giaùo baèng nhöõng cuoäc röôùc kieäu troïng theå vôùi côø quaït vaø haøng maáy chuïc ngaøn ngöôøi tham döï, nhaø thôø ñöôïc söûa chöûa, taân trang hoaëc xaây caát môùi. Maû toâ voâi beân ngoaøi cuûa boïn Phariseâu.
Ñoái vôùi caùc nöôùc taân tieán Taây AÂu, nhöõng nöôùùc maø CSVN caàn giao haûo, laø nhöõng nöôùc ñaët con ngöôøi ôû ñòa vò toái thöôïng vaø trung taâm ñieåm toà chöùc quoác gia, ñeå kính troïng vaø baûo veä:
" Nhaân phaåm con ngöôøi baát khaû xaâm phaïm ..." ( Ñieàu 1, Hieán Phaùp 1949 Coäng Hoaø Lieân Bang Ñöùc). Vaø nhaân phaåm con ngöôøi laø neàn taûng cuûa moïi cuoäc chung soáng vaên minh
cuûa nhaân loaïi:
" Nhö vaäy daân toäc Ñöùc nhìn nhaän caùc quyeàn baát khaû xaâm phaïm vaø baát khaû nhöôïng cuûa con ngöôøi nhö laø neàn taûng cuûa moïi coäng ñoàng nhaân loaïi, cuûa hoøa bình vaø coâng chính treân theá giôùi" ( Ñieàu 2, id.)
Bôûi ñoù hoï muoán thaû Cha Lyù ñeå thaùo gôû moät chöôùng ngaïi vaät coàng keành khoù xöû, chôù hoï khoâng coù thieän chí gì ñeå côûi môû cho Töï Do Toân Giaùo vaø Nhaân Quyeàn.
Neáu hoï coù thieän chí taïi sao hoï khoâng ñem ra thöïc haønh nhöõng ñoøi hoûi cuûa ÑTC , treân 20 "quyeàn caên baûn " maø ÑTC ñaõ lieät keâ trong ÑAÙP TÖØ cuûa Ngaøi.
Thaû Cha Lyù thoâi, chöa ñuû! Haõy toû thieän chí baèng caùch ñaùp öùng laïi 20 quyeàn caên baûn vaø chính ñaùng cho daân toäc Vieät Nam ñaõ ñöôïc ÑTC ñeà caäp ñeán.
Chuùng toâi ñang theo doõi vaø baùo cho ÑTC bieát veà nhöõng ñoøi hoûi chính ñaùng cuûa Ngaøi, cuõng nhö cho caùc quoác gia Taâây AÂu bieát veà caùch haønh xöû cuûa CSVN ñoái vôùi Töï Do Toân Giaùo vaø Nhaân Quyeàn cuûa daân toäc Vieät Nam. Thaû Cha Lyù hay khoâng thaû Cha Lyù cuõng vaäy!
Baét Cha Lyù vaø boû tuø Ngaøi laø moät sai laàm, nhö treân ñaõ noùi. Nhöng khoâng thaû Cha Lyù laø moät haønh ñoäng heøn haï. Bôûi leõ bieát mình sai loãi maø vaãn coá chaáp trong sai loãi cuûa mình, laø moät haønh ñoäng khoâng xöùng ñaùng con ngöôøi, khoâng phaûi laø ngöôøi. Ngöôøi La Tinh coù caâu:
Errare humanum est,
Perseverare in errore et miser et diabolicum est !
( Con ngöoøi ai cuõng sai loãi, nhöng ngoan coá trong sai loãi laø haønh ñoäng khoán naïn, laø loaøi quyû döõ).
Thaû Cha Lyù haøm chöùa nhöõng toán keùm veà vinh döï vaø veà vaät chaát nhö vöøa keå. Nhöng laø nhöõng toån thaát noùi leân lyù trí vaø leõ phaûi cuûa con ngöôøi. Con ngöôøi hôn con vaät ôû choå bieát hy sinh cho leõ phaûi, chaáp nhaän thieät thoøi, cho duø coù thieät thoøi ñeán caû tính meänh. Nguôøi chieán só ngaû guïc treân chieán tröôøng ñeå baûo veä queâ höông laø moät hình aûnh haøo huøng
cho caùch cö xöû cuûa moät con ngöôøi. Chuùng toâi hy voïng raèng nhöõng ai ñang caàm quyeàn ôû Vieät Nam coù löông taâm mình laø con ngöôøi.
Thaùng 5-2002
Nguyeãn Hoïc Taäp
Padova - Italia
NGUYỄN VĂN SÂM * PHÙNG NHÂN
Tôi
cäm thÃy mình u‹ oäi và buÒn buÒn
cä ngày sau khi džc h‰t nºa ÇÀu tác
phÄm LÀn Theo Khói Súng cûa Phùng
Nhân. Và tôi Çã mÃt gÀn
cä tháng m§i džc h‰t m¶t quy‹n sách
vÓn dÍ Ç†c này. Không có nh»ng
tràng liên tܪng và dòng suÓi
n¶i tâm v§i s¿ Ç¡m chìm cûa
nhân vÆt vào nh»ng suy nghï bÃt tÆn
vŠ tâm thÙc nhÜ tác phÄm cûa James
Joyce, cûa Joseph Conrad vÆy tåi sao nó làm
mình džc chÆm và buÒn buÒn? Không
có nh»ng chuyŒn hoá thân, khó hi‹u và
bi‹u tÜ®ng nhÜ nh»ng tác giä ñÙc
quÓc, Franz Kafka ch£ng hån, vÆy tåi sao
quy‹n sách låi có ma l¿c bi‹u mình cÀm
lên, bi‹u mình Ç‹ xuÓng và chìm
Ç¡m trong suy nghï vÄn vÖ? ñó
là m¶t s¿ thÜÖng cäm vŠ m¶t k‰t
thúc bi Çát mà quy‹n truyŒn g®i cho ta.
Bi Çát vŠ lúc chung cuc cûa Ç©i
m¶t ngÜ©i tœ nån sang ÇÃt tåm
dung muÓn bܧc chân vào chính trÜ©ng.
ñó cÛng là n‡i lo s® cho chính chúng
ta, bÃt cÙ ai sang vùng ÇÃt m§i
khi phäi ÇÓi ÇÀu v§i nh»ng
khó khæn liên quan ljn quyŠn l®i cûa
cÜ dân ÇÎa phÜÖng, ljn nh»ng
cÖ quan có quyŠn l¿c månh ª bän ÇÎa.
S¿ khó khæn còn tåo nên do ngÜ©i
ÇÒng chûng v§i ta, cÛng tœ nan, cÛng
di dân nhÜng s¤n sàng làm phiŠn ta b¢ng
nh»ng ganh ghét, nh»ng tranh æn hay tranh
danh ti‰ng. Và rÒi con ngÜ©i ta bÎ quay qu¡t
trong vܧng bÆn không thoát ra ÇÜ®c.
K‰t thúc ít bi Çát nhÙt có th‹
là m¶t cu¶c sÓng quay cuÒng không
lÓi thoát khi‰n ta vong thân b¢ng cách
læn theo nh»ng tranh cãi, bon chen, chÙc vø,
nhÜng cÛng có khi k‰t thúc nhÜ nhân
vÆt Lê TuÃn trong truyŒn, giam phÀn còn
låi cûa Ç©i mình sau nh»ng chÃn
song v§i lòng hÓi ti‰c vô b© than giá
mà mình ÇÜ®c làm låi tØ
ÇÀu thì bÕ h‰t Ç‹ thênh thang
sÓng m¶t cu¶c Ç©i bình dÎ thanh
thän, cܧi v® nuôi con nhÜ bao nhiêu
ngÜ©i trung bình khác. Than thì Çã
chÆm!Có th‹ Phùng Nhân không Çi
tØ nhÆn ÇÎnh Çó Ç‹ vi‰t
LÀn Theo Khói Súng. Anh vi‰t chÌ Ç‹
ghi låi m¶t câu chuyŒn vÓn là bi‰n cÓ
quan tr†ng trong th©i s¿ gÀn Çây cûa
xÙ Úc Châu, m¶t th©i s¿ liên
quan ljn nhiŠu c¶ng ÇÒng dân cÜ không
phäi cûa riêng xÙ häi Çäo løc
ÇÎa mà còn vang d¶i trong các nÖi
có cÜ dân ViŒt. Phùng Nhân không muÓn
hay không cÀn ngø š, anh chÌ chú š ghi
chép càng nhiŠu trung th¿c càng tÓt
b¢ng cách quan sát, nghe ÇÜ®c ljn
Çâu nói ljn Çó. M¶t cây
bút khách quan. M¶t lÜÖng tâm cûa
ngÜ©i vi‰t non-fiction. Anh Çã theo dõi
kÏ lu«ng vø án, Çã ghi chú
và sÜu tÀm tài liŒu h¢ng ngày. Anh
theo Çu°i tØng lš chÙng tranh cãi, tØng
diÍn bi‰n cûa vø án. Anh làm m¶t
Kitchener cûa nhà væn ViŒt ª Úc, xây
d¿ng m¶t quy‹n ti‹u thuy‰t b¢ng thÆt nhiŠu tài
liŒu chính xác liên quan ljn câu chuyŒn
mình muÓn xây d¿ng. NhÜng chính
công viŒc anh làm Çã khi‰n cho ngÜ©i
džc có nh»ng suy nghï liên tܪng
nhÜ Çã nói ª trên. Tác phÄm
cûa anh không ngØng ª th‹ non-fiction, nó
là m¶t ti‹u thuy‰t tܪng tÜ®ng, fiction,
nhÜng d¿a thÆt nhiŠu trên s¿ thÆt.
Cái tài cûa nhà væn là dÅn
ngÜ©i džc Çi ra ngoài tác phÄm
Ç‹ tØ Çó suy nghï thêm vŠ nh»ng
ÇiŠu tác phÄm chÌ m§i g®i š, khÖi
nguÒn. ñó là s¿ thành công
cûa NguyÍn Du, cûa Ngô TÃt TÓ, cûa
VÛ Trøng Phøng cûa NhÃt Linh... nh»ng
tác giä Çã tåo ÇÜ®c s¿
sÓng thêm cûa nhân vÆt, Çeo Ç£ng
ngÜ©i džc b¢ng nhiŠu vÃn ÇŠ dÀu
quy‹n sách Çã ÇÜ®c x‰p xuÓng.
Phùng Nhân cÛng Çã thành công
nhÜ vÆy. NgÜ©i džc nhÜ t¿
mình chÙng ki‰n tØ ÇÀu ljn cuÓi
nh»ng phiên tòa, ngÜ©i džc cÛng
thÃy ÇÜ®c cuc Ç©i cûa nhân
vÆt Lê TuÃn, vÓn là m¶t nhân
vÆt thÆt LCP ª ngoài Ç©i. Và
rÒi nh»ng buÒn buÒn vŠ thân phÆn
cûa anh, cûa mình Çeo Çu°i ngÜ©i
džc sau khi sách Çã ÇÜ®c džc
xong.Khoän cách s¿ thÆt gi»a tác
phÄm ti‹u thuy‰t xây d¿ng trên câu chuyŒn
vŠ m¶t nhân vÆt ngoài Ç©i và
chính nhân vÆt có thÆt Çó,
là sän phÄm cûa trí tܪng tÜ®ng,
khoän cách s¿ thÆt còn là nh»ng
Än sÓ mà không ai có th‹ lš giäi ÇÜ®c,
n¡m b¡t h‰t ÇÜ®c. Ta thÜÖng, ghét,
t¶i nghiŒp, chê bai hay thán phøc là nhÛng
phän Ùng ÇÜ®c ÇiŠu kiŒn hóa bªi
ngÜ©i vi‰t truyŒn. Bi‰t bao nhiêu truyŒn thÆt ÇÜa
lên màn änh, nhân vÆt thÆt Çã
trª thành huyŠn thoåi. Døng công và
thành công cûa ngÜ©i vi‰t là Çó.
TØ Çó ta ‘thÃy’, dÀu tác giä
không nói ra, lÆp trÜ©ng cûa tác
giä vŠ vÀn ÇŠ. quan tr†ng cûa nhân vÆt
chánh: có t¶i hay không, anh ta làm nhÜ
th‰ nhÜ th‰ Ç‹ làm gì, tåi sao anh ta làm
nhÜng ÇiŠu Çó....Phùng Nhân cÓ
g¡ng làm viŒc thÆt khách quan nhÜng tôi
bi‰t trong thâm tâm ông thiên vŠ s¿ vô
t¶i cûa Lê TuÃn, ông Çau kh° vì
Çåi nån cûa Lê TuÃn. Có th‹
PhùngNhân Çúng, có th‹ ông sai.
DÀu sao Çó cÛng là š riêng cûa
tác giä, không ai có th‹ trành tròn
gì ÇÜ®c, và cÛng không nhÃt
thi‰t nh»ng gì Phùng Nhân nói, nhÆn
ÇÎnh, mô tä phäi là s¿ thÆt,
dÀu ông Çã phát Çi tØ s¿
thÆt Ç‹ xây d¿ng nhân vÆt và
tác phÄm cûa mình. ñâu Çây
m¶t nhà væn cûa th©i Çåi Sa Hoàng
Çã nói, nhà væn là thÜ®ng
lj ÇÓi v§i nhân vÆt cûa mình.
VÆy thì nhân vÆt Çó múa may
quay cuÒng nhÜ th‰ nào cÛng là trách
nhiŒm cûa nhà væn ÇÓi v§i tác
phÄm cûa mình, không có trách nhiŒm
gì ÇÓi v§i s¿ thÆt ngoài
Ç©i. Lê TuÃn bÎ nhà báo, ngÜ©i
anh k‰t nghïa, ÇÜa ÇÄy vào cu¶c
chÖi m§i mÈ mà anh có nhiŠu ÇiŠu
kiŒn nhÆp cu¶c nhÜng thÆt là m¶t tay
mÖ khi vào cu¶c. Tay mÖ m©-§ nên
khi hoåch ÇÎnh nh»ng k‰ sách, khi ÇÓi
ÇÀu v§i nh»ng khó khæn ÇŠu
phäi ljn vÃn k‰ ngÜ©i anh k‰t nghïa này.
Bi Çát b¡t ÇÀu tØ ÇÃy.
D¿a hoàn toàn lên ngÜ©i, có
th‹ nhÆn ÇÜ®c nh»ng chÌ vÈ sai
lÀm cho mình nhÜng có l®i cho ngÜ©i.
D¿a trên ngÜ©i, khi ngÜ©i ta buông
thì mình së høt hÅn, không bi‰t phäi
ÇÓi phó v§i hoàn cänh nhÜ th‰
nào. Lê TuÃn, buÒn buÒn, chán
nãn, cam chÎu là vì mang tâm trång
Çó, nhÆn chân ÇÜ®c tài
mình không nhiŠu nhÜng bÎ ÇÄy lên
quá cao, nhÜ con diŠu giÃy mÕng, dây y‰u,
bay vút lên ljn khi g¥p gió l§n thì
chuyŒn phäi ljn së ljn. Nh»ng nhân
vÆt khác phän cung khi ra tòa, nh»ng ngÜ©i
bån Çã buông tay khi Lê TuÃn lâm
nån, không Çáng trách. ñó
là tình Ç©i Ãm lånh. ñ‰n
chÓn lao xao thì phäi vÆy. Xe ng¿a bao
nhiêu së nhÆn hÆu quä bÃy nhiêu.
Tôi thÜÖng và thông cäm v§i ngÜ©i
tình cô ÇÖn cûa Lê TuÃn, ngÜ©i
tình trong truyŒn, cô có th‹ së phäi quên
Ç‹ Çi cho h‰t cu¶c Ç©i mình, cô
có th‹ ch© trong vô v†ng. Giäi pháp nào
cÛng n¥ng nŠ ÇÓi v§i m¶t ngÜ©i
phø n» trÈ ª häi ngoåi này.
Ch» Phùng Nhân thÜ©ng dùng: khi chìm
xuÒng månh ai nÃy l¶i Ç‹ sÓng, tÃt
cä m†i ngÜ©i Çi chung xuÒng v§i Lê
TuÃn Çã l¶i ÇÜ®c, chÌ
có mình anh, ngÜ©i chû xuÒng, ngÜ©i
t° chÙc cu¶c Çi xuÒng, Çã không
l¶i ÇÜ®c và chìm lÃp trong sóng
nܧc. M¶t vài ngÜ©i bån thân
tình ti‰c thÜÖng, nhÜng thÆt là quá
ít. RÒi thiên hå së quên Lê
TuÃn nhÜ Çã quên bi‰t bao nhiêu nån
nhân khác cûa Ç©i.Có th‹ tôi
cäm thán nhiŠu nhân džc tác phÄm LÀn
Theo Khói Súng. Có th‹ tôi tôi g®i
ra nh»ng ÇiŠu có tính cách tình
cäm mà ít tính cách væn chÜÖng,
nhÜng nghï cho cùng m¶t quy‹n sách hay là
m¶t quy‹n sách g®i ÇÜ®c nh»ng tình
cäm cûa ngÜ©i džc.PhÀn væn chÜÖng
cûa quy‹n sách ít, s¿ lÃn lܧt
cûa Ça phÀn tính cách non-fiction khi
tác giä ch†n cách vi‰t Çã phÀn
nào hi sinh tính cách væn chÜÖng.
Giá mà tác giä dùng ngôi thÙ
nhÃt Ç‹ vi‰t thì hay bi‰t mÃy! (nhÜng
låi mÃt Çi tính chÃt khách quan!)Quy‹n
LÀn Theo Khói Súng có th‹ së ÇÜ®c
bán rÃt chåy nh© nh»ng y‰u tÓ th©i
s¿, trung th¿c, nhÜng ch¡c ch¡n không
ai mua nó Ç‹ thܪng thÙc væn chÜÖng
nhÜ nh»ng quy‹n khác cûa cùng tác
già, nh»ng quy‹n mà tôi rÃt thích
nhÜ Vàm ñÃt Cä Cao hay Xóm
NhÎ Tÿ.Phùng Nhân së Çi xa hÖn
trên ÇÜ©ng væn nghiŒp n‰u anh giäi quy‰t
ÇÜ®c s¿ khinh tr†ng cûa væn chÜÖng
ÇÓi v§i nh»ng gì anh muÓn tác
phÄm mình chuyên chª.
Texas, ngày 27 tháng 4 næm 2002
NguyÍn Væn Sâm
Texas, ngày 27 tháng 4 næm 2002
NguyÍn Væn Sâm
LÊ ĐÌNH CAI * NGÔ QUANG TRƯỞNG
G¥p
tܧng Ngô Quang Trܪng LÀn CuÓi
cùng Tåi BTL Qñ I (ñà N¤ng)
Le Dinh Cai ghi låi
TÓi ngày 15-3-75, tôi hËn g¥p HÒ Væn CÜ©ng, Phó tÌnh trܪng ThØa Thiên tåi Câu låc b¶ Th‹ Thao trên b© cûa Tä ngån sông HÜÖng, Hu‰. CÜ©ng và tôi là bån h†c ÇÒng l§p, nên chÖi thân v§i nhau khi chúng tôi cùng làm viŒc tåi Hu‰. Tôi muÓn g¥p CÜ©ng Ç‹ xem có tin gì m§i vŠ tình hình chi‰n s¿ và chính trÎ hay không. DÎp này tôi may m¡n g¥p ÇÜ®c tܧng Lâm Quang Thi, TÜ lŒnh tiŠn phÜÖng Quân Çoàn I tåi Hu‰, Çang ngÒi cùng bàn v§i CÜ©ng. Tôi cÛng bi‰t tܧng Thi khi tôi Çang dåy tåi trÜ©ng Võ BÎ QuÓc Gia VN tåi ñà Låt (68-70).
Khi tôi nêu câu hÕi vŠ tình hình, "liŒu chúng ta có Çû l¿c lÜ®ng Ç‹ ÇÜÖng ÇÀu v§i s¿ tÃn công cûa ÇÎch quân tØ hܧng b¡c không?". Tܧng Thi tÕ vÈ tin tܪng là chúng ta có th‹ cÀm c¿ ÇÜ®c vì hiŒn tình hình chÜa có gì Çáng ngåi.
Chúng tôi ngÒi không lâu thì vi vã cáo tØ ra vŠ vì trong lòng tôi n‡i lo âu tràn ngÆp khi làn sóng ngÜ©i chåy loån tØ Quäng TrÎ Ç° dÒn vŠ Hu‰ ngày càng Çông trong Çó có cä gia Çình ba má và các em tôi. Khi tØ giã CÜ©ng tôi hÕi liŒu có nên Çem gia Çình vào ñà N¤ng hay không? CÜ©ng nói là nên. ñêm Çó tôi thuê xe Ç‹ sáng mai (16.3) ÇÜa ba má, các em và v® con tôi vào ñà N¤ng.
Trên con ÇÜ©ng tØ Hu‰ vào ñà N¤ng là cä m¶t Çoàn ngÜ©i di tän dài d¢ng d¥c, xe c¶
chÌ nhích tØng ch¥ng m¶t nhÜng rÒi cuÓi cùng chúng tôi cÛng ljn ÇÜ®c ñà N¤ng vào lúc tr©i nhá nhem tÓi. Thành phÓ này gi© trông thÆt h°n Çn, Çoàn ngÜ©i tÙ phÜÖng tØ Quäng TrÎ, Hu‰ Ç° vào, tØ Quäng Nam, Quäng Ngãi Ç° ra tràn ngÆp trên các ngã ÇÜ©ng và các trÜ©ng h†c bây gi© là nÖi tåm trú cho dân cÜ tÙ xÙ tÆp trung vŠ Çây. Chính quyŠn ÇÎa phÜÖng cÛng Çã làm h‰t sÙc Ç‹ °n ÇÎnh trÆt t¿ và chú tâm vào viŒc cÙu tr® ÇÒng bào tÎ nån.
Qua sáng ngày 18-3-75 (?), sau khi °n ÇÎnh tåm th©i cho toàn Çåi gia Çình ª tråi tåmcÜ, tôi ghé låi trÜ©ng ñåi h†c Quäng ñà thæm giáo sÜ Ngô ñÒng, viŒn trܪng trÜ©ng ñåi H†c này. Anh ñÒng và tôi bàn ÇÎnh cùng nhau là nên ti‰p tay chính quyŠn ÇÎa phÜÖng °n ÇÎnh tình hình cÙu tr® và ÇÒng th©i tìm cách Ƕng viên anh em binh sï Çang cÀm súng ª tiŠn tuy‰n. Chúng tôi Çi ljn quy‰t ÇÎnh thành lÆp "Ñy ban Nhân dân hÆu phÜÖng y‹m tr® tiŠn tuy‰n", liên låc v§i các t° chÙc chính trÎ ÇÎa phÜÖng Ç‹ m©i tham gia và y‹m tr® phÜÖng tiŒn. Chúng tôi d¿ ÇÎnh xin gi© phát thanh Ç‹ phát Çi l©i kêu g†i cûa Ñy ban hÀu Ƕng viên tinh thÀn chi‰n sï và trÃn an tâm lš ÇÒng bào Çang hoäng loån. Chúng tôi d¿ ÇÎnh ÇŠ cº giáo sÜ Ngô ñÒng n¡m gi» chÙc vÎ chû tÎch u› ban này.
ChiŠu ngày 18-3-75 (?), khoäng 4 gi© anh Ngô ñÒng và tôi cùng vào B¶ tÜ lŒnh Quân ñoàn I, Ç‹ thæm tܧng Ngô Quang Trܪng, và nhân dÎp trình bày cùng tܧng Trܪng vŠ š ÇÎnh thành lÆp Ñy ban Y‹m tr® TiŠn tuy‰n cûa chúng tôi. Tôi Çã g†i ÇiŒn thoåi cho trung tá ñÙc, chánh væn phòng cûa tܧngTrܪng Ç‹ nh© s¡p x‰p cu¶c g¥p g«. Dù bÆn rn v§i bao viŒc, tܧng Ngô Quang Trܪng vÅn dành thì gi© ti‰p giáo sÜ Ngô ñÒng và tôi.
Ÿ Çây tôi xin mª dÃu ngo¥c Ç‹ nói ljn mÓi giao tình thân quš mà tܧng Trܪng Çã
dành cho chúng tôi tØ trܧc. Giáo sÜ Ngô ñÒng vì làm viŒn trܪng Çåi h†c Quäng ñà nên thÜ©ng gÀn gÛi hàng ngày công viŒc giao ti‰p v§i tܧng Trܪng khi ông còn n¡m gi» chÙc TÜ LŒnh quân khu I kiêm Çåi bi‹u chính phû tåi vùng I Çóng ª ñà N¤ng. Rìêng cá nhân tôi khi Ç°i vŠ giäng dåy tåi Çåi h†c Hu‰ (70-75) có dÎp tr¿c ti‰p g¥p g« m¶t sÓ sï quan cao cÃp ª vùng ÇÎa ÇÀu gi§i tuy‰n và qua báo chí ÇÜ®c bi‰t vŠ tܧng Trܪng v§i rÃt nhiŠu huyŠn thoåi, nhÃt là tØ lúc tܧng Trܪng chÌ huy l¿c lÜ®ng tái chi‰m thành c° Quäng TrÎ vào mùa hè ÇÕ lºa 1972. Chì‰n th¡ng vang d¶i này Çã ÇÜa tên tu°i tܧng Trܪng lên cao và tܧng Trܪng Çã trª thành thÀn tÜ®ng trong lòng các chàng trai th‰ hŒ trên dܧi 30 tu°i nhÜ chúng tôi hÒi Çó.
Khi xuÃt bän quy‹n sách "34 næm cÀm quyŠn cûa chúa NguyÍn Phúc Chu- (1691-1725)" vào næm 1971, tôi Çã gºi ljn tܧng Ngô Quang Trܪng bän Ç¥c biŒt in trên giÃy tr¡ng tinh v§i l©i ÇŠ t¥ng trân tr†ng. M‡i lÀn có dÎp Çi công tác vào ñåi h†c Quäng ñà, tôi ÇŠu dành thì gi© ghé qua b¶ tÜ lŒnh thæm tܧng Trܪng. Có lÀn tôi nh© trung tá ñÙc báo låi v§i trung tܧng là tôi trên ÇÜ©ng Çi Saigon chÌ ghé låi ñà N¤ng ÇÜ®c 2 ti‰ng rÒi phäi ra sân bay cho kÎp gi© phi cÖ cÃt cánh. Th‰ mà trung tܧng vÅn dành cho tôi bu°i g¥p g« h‰t sÙc thân tình dù tinh hình quân s¿ vào dåo Çó rÃt là cæng th£ng.
Trong th©i gian phong trào chÓng tham nhÛng cûa L.m. TrÀn H»u Thanh lên cao mà
anh em chúng tôi hÒi Çó ÇÜ®c chÌ thÎ cûa trung ÜÖng (cûa m¶t Çäng chính trÎ) phäi tích c¿c tham gia (khoäng 74-75), tôi ÇÜ®c cÃp trên ûy thác dò š xem liŒu tܧng Trܪng có th‹ ÇÙng ÇÀu m¶t h¶i ÇÒng tܧng lãnh Çäo chánh ông ThiŒu không? Và lÀn Çó tôi Çã ngÒi nói chuyŒn v§i tܧng Trܪng khá lâu. Trong câu chuyŒn, tôi xin trung tܧng cho bi‰t nhÆn xét cûa trung tܧng vŠ tình hình quân s¿ tåi vùng ÇÎa ÇÀu gi§i tuy‰n, rÒi nhân Çó xin ÇÜ®c bi‰t š nghï cûa ông vŠ tình hình chính trÎ tåi Sàigon khi phong trào chÓng T°ng thÓng ThiŒu ngày càng lên cao. Tܧng Trܪng tÕ ra h‰t sÙc kín Çáo, không b¶c l¶ thái Ƕ gì rõ rŒt ÇÓi v§i gi§i cÀm quyŠn trung ÜÖng, chÌ nói là ông ngày Çêm lo bäo vŒ an ninh vùng ÇÎa ÇÀu nên ít quan tâm
ljn các bi‰n chuy‹n chính trÎ. Khi tôi nhin th£ng vào m¡t trung tܧng và nói:
"ThÜa trung tܧng, trong chính gì§i và nhÃt là trong l§p thanh niên sinh viên trÈ tu°i mà tôi ÇÜ®c nhiŠu dÎp ti‰p xúc, m†i ngÜ©i ÇŠu kÿ v†ng trung tܧng là ngÜ©i có th‹ làm chuy‹n Ç°i tình hình ngày càng xÃu Çi rõ rŒt cûa miŠn Nam cä vŠ quân s¿ lÅn chính trÎ."
Tܧng Ngô Quang Trܪng không nói gì. Ông ÇÜa Çi‰u thuÓc lên môi rÒi châm lºa ÇÓt. ñôi m¡t ông mÖ màng nhìn theo khói thuÓc tan loãng vào không trung... ThÃy cu¶c g¥p g« cÛng Çã lâu và nhân dÎp trung tá ñÙc, chánh væn phòng cûa ông vào trình công viŒc, tôi xin phép ki‰u tØ. Khi b¡t tay, trung tܧng nhìn tôi và nói: "Tình hình khó khæn và phÙc tåp l¡m giáo sÜ å. Có nh»ng ÇiŠu mà mình tܪng là có th‹ th¿c hiŒn ÇÜ®c trên chi‰n trÜ©ng mà cûng Çành bó tay, huÓng hÒ gì..." Trung tܧng ngØng ª Çây không nói ti‰p... chúng tôi xi‰t tay tØ giã.
Bây gi© xin trª låi bu°i g¥p g« gi»a trung tܧng, giáo sÜ Ngô ñÒng và tôi vào nh»ng
ngày mà ñà N¤ng hÃp hÓi và quân Çoàn I coi nhÜ s¡p sºa tan hàng. Khi chúng tôi ljn b¶ tÜ lŒnh quân Çoàn khoäng 4 gi© chiŠu ngày 18-3-75 (?) thi trung tܧng Çã có m¥t Ç‹ ti‰p chúng tôi. G.S. Ngô ñÒng liŠn trình bày ngay d¿ ÇÎnh cûa chúng tôi muÓn kêu g†i m†i thành phÀn dân chúng ÇÎa phÜÖng thành lÆp "Ñy ban nhân dân hÆu phÜÖng y‹m tr® tiŠn tuy‰n" Ç‹ tÕ rõ s¿ Çoàn k‰t quân dân m¶t lòng trong viŒc bäo vŒ quê hÜÖng. Tܧng Trܪng tÕ ra h‰t sÙc xúc Ƕng. Tuy nhiên gi†ng ông buÒn buÒn: "Tình hình quân s¿ bây gì© Çang ngày càng trÀm tr†ng. ViŒc gi» an ninh cho vòng Çai chung quanh ñà N¤ng bây gì© chÌ còn ÇÜ®c tính tØng ngày tØng gì©". Trung tܧng bày tÕ lòng cäm Ön vŠ š ki‰n cûa G.S. Ngô ñÒng nhÜng ông không có ÇŠ nghÎ gì hay thái Ƕ h° tr® tích c¿c cho d¿ ÇÎnh này.
Bây gi© sau hÖn 1/4 th‰ k›, džc låi l©i trÀn tình cûa Trung tܧng trên báo chi m§i hay r¢ng viŒc mÃt Hu‰ và Quân Çoàn I cÛng nhÜ mÃt Cao nguyên (vùng II) Çã ÇÜ®c t°ng thÓng ThiŒu quy‰t ÇÎnh và thông báo cho tܧng Trܪng ngày 13-3-75 khi ông ÇÜ®c TT ThiŒu triŒu tÆp vŠ Dinh ñ¶c LÆp.
Xin hãy nghe tܧng Trܪng k‹ låi:
"Ngày 13-03-1975, tôi ÇÜ®c lŒnh vào Sàigòn h†p, tôi vào ljn Sài Gòn nhÜng v§i s¿ ngåc nhiên là chÌ có mình tôi vào g¥p T°ng thÓng và thû tܧng (TrÀn ThiŒn Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. ThÜ©ng lŒ, khi ÇÜ®c lŒnh vŠ Saigon h†p thì ÇŠu có ÇÀy Çû m¥t các vÎ tÜ lŒnh quân Çoàn và tÜ lŒnh các quân binh chûng khác. LÀn này, thì chÌ có m¶t minh tôi thôi. Tôi th¡c m¡c lo l¡ng. NhÜng khi TT ThiŒu cho bi‰t š ÇÎnh cûa ông là phäi rút bÕ quân Çoàn I ngay hôm nay thì tôi m§i v« lë, cay Ç¡ng và uÃt Ùc vì lŒnh ra quá Ƕt ng¶t ngoài sÙc tܪng tÜ®ng và ngoài ܧc muÓn cûa tôi. ThÆt ra, lúc Çó tình hình tåi Hu‰, Quäng Ngãi và ñà N¤ng tuy có hÖi n¥ng nŠ vì ÇÎch tÃn công liên ti‰p, tuy nhiên tôi Çû sÙc chÓng gi» và së tæng cÜ©ng sÜ Çoàn Dù cùng v§i Thûy quân Løc Chi‰n ra nh»ng vùng Çó Ç‹ lÃy låi Üu th‰. Tôi
trình bày c¥n kë nh»ng š ki‰n cÛng nhÜ nh»ng d¿ ÇÎnh cûa tôi lên t°ng thÓng và thû tܧng nhÜng không ÇÜ®c chÃp nhÆn. LŒnh bÃt di bÃt dÎch là: "Phäi rút quân Çoàn I càng s§m càng hay."
"...Sau Çó tôi suy nghï kÏ hÖn và quy‰t ÇÎnh g†i Çåi tܧng Cao Væn Viên nh© xin TT ThiŒu cho tôi ÇÜ®c dùng m†i cách Ç‹ gi» Hu‰ và vùng I. Làm sao tôi có th‹ bÕ Hu‰ và vùng I? Làm sao tôi bÕ ÇÜ®c vùng ÇÃt sÕi Çá này khi bao nhiêu chi‰n h»u cûa tôi Çã Ç° máu Ç‹ gìn gi»? NhÃt là trong vø MÆu Thân, máu anh em Çã Ç° nhiŠu.
T°ng thÓng ThiŒu rung Ƕng chÃp thuÆn cho tôi gi» Hu‰. Sáng 18-3-75, tôi ra Hu‰ g¥p tܧng Lâm Quang Thi (tÜ lŒnh phó quân Çoàn I) vÓn là ngÜ©i Çang chÌ huy tåi Hu‰. Tôi chÌ thÎ : Gi» Hu‰ cho thÆt v»ng. ChiŠu hôm Çó vŠ ljn ñà N¤ng, tôi nhÆn ÇÜ®c m¶t lŒnh do ñåi tܧng Cao Væn Viên thØa lŒnh TT yêu cÀu tôi "bÕ Hu‰". LŒnh Çó làm cho tôi ch‰t l¥ng ngÜ©i. Vì m§i bu°i sáng nay ª Hu‰, tôi Çã ra lŒnh cho tܧng Thi gi» Hu‰. Bây gi© Ƕt nhiên ÇÜ®c lŒnh bÕ thì tôi bi‰t æn nói làm sao v§i tܧng Thi và anh em binh sï Çây. NhÜng tôi vÅn phäi Çành thi hành theo lŒnh trên. Tôi g†i ÇiŒn thoåi thông báo lŒnh bÕ Hu‰ cho tܧngThi. Tܧng Thi trä l©i ngay: "Ÿ Hu‰ bây gi© xã Ãp phÜ©ng khóm tÓt quá, Çâu Çâu tình hình cÛng
tÓt cä, mà tåi sao anh bäo tôi bÕ là bÕ làm sao? Tôi buÒn bã trä l©i," Tôi bi‰t rÒi, nhÜng xin anh bÕ Hu‰ dùm tôi, Çó là lŒnh trên, không bÕ là không ÇÜ®c." K‰t quä là tܧng Thi thi hành lŒnh bÕ Hu‰, và dÒn quân ljn cºa ThuÆn An Ç‹ tàu Häi quân chª lính vŠ ñà N¤ng."
Xin xem thêm ª báo Chính LuÆn ª Seattle sÓ 139 ra ngày 6-8-99 dܧi t¿a ÇŠ "Tåi Sao
Tôi BÕ Quân ñoàn I? " cûa tܧng Ngô Quang Trܪng).
Xin trª låi bu°i g¥p g« cuÓi cùng tåi B¶ tÜ lŒnh Quân Çoàn I ngày 18-3-75 (?).. b¡t tay
tiÍn chúng tôi ra khÕi b¶ tÜ lŒnh lúc Çó khoäng 4 gi© 30, tôi nhìn kÏ tܧng Trܪng thÃy ông gÀy hÖn trܧc rÃt nhiŠu, Çôi m¡t sâu hÖn dù vÅn còn linh Çng. Khi ra t§i cºa, trung tܧng n¡m tay tôi và nói nhÕ "Giáo sÜ nên Çem gia Çình vào Sài gòn càng s§m càng tÓt". Tôi nhìn th£ng vào ông và có cäm tܪng khó g¥p låi vÎ tܧng mà mình Çã tØng coi nhÜ là thÀn tÜ®ng. Và quä thÆt, tØ lÀn g¥p g« Çó, cho ljn mãi 20 næm sau (tháng 4/95) trong chuy‰n vŠ thæm Hoa ThÎnh ñÓn, sau khi vØa ljn Hoa Kÿ tôi m§i g¥p låi tܧng Trܪng tåi tÜ gia ª thành phÓ Springfield, Virginia.
Sau khi liên låc ÇÜ®c v§i Çåi tá ñào M¶ng Xuân (ngÜ©i rÃt gÀn gÛi v§i tܧngTrܪng ª häi ngoåi), tôi xin Çåi tá thu x‰p Ç‹ tôi có dÎp hånh ng¶ v§i tܧngTrܪng sau 20 næm tr©i cách biŒt. Tܧng Trܪng hËn g¥p tåi m¶t quán phª (tôi không nh§ tên) ª Hoa ThÎnh ñÓn vào bu°i trÜa. Cùng Çi v§i tôi lúc Çó có giáo sÜ NguyÍn Lš Tܪng và anh Lê QuyŠn (chû tÎch ban ñåi diŒn C¶ng ÇÒng Hoa ThÎnh ñÓn lúc Ãy). Chúng tôi g¥p låi nhau trong m¶t hoàn cänh thÆt bÃt ng©. Tôi n¡m ch¥t tay tܧng Trܪng vÅn khuôn m¥t kh¡c kh° Çó vÅn dáng dÃp cao và Óm Çó, vÅn v§i Çôi m¡t sâu và sáng Çó, 20 næm sau vÅn không có gì thay Ç°i, chÌ có mái tóc Çã ngã màu muÓi tiêu. Sau khi dùng b»a æn trÜa nhË, anh Tܪng và anh QuyŠn chào tØ giä,
còn tôi lên xe vŠ nhà tܧng Trܪng ª Springfield và ª låi cho ljn tÓi mÎt m§i tØ giã ra
vŠ.
Có nh»ng chuyŒn gì Ç‹ nh¡c låi, Ç‹ nói ra sau 2 thÆp niên xa cách?
VØa bܧc vào c°ng, chúng tôi g¥p ngay bà Ngô Quang Trܪng. Bà vÅn còn gi» låi nét ÇËp quš phái cûa ngày nào. Tôi cúi ÇÀu chào khi tܧng Trܪng gi§i thiŒu. Bà Trܪng Çi vào trong m¶t chÓc rÒi trª ra v§i hai tách cà phê s»a Ç‹ trên bàn và m¶t dïa bánh bích qui. Bây gi© tôi m§i có thì gi© nói chuyŒn v§i tܧng Trܪng nhiŠu hÖn. Không có gì thú vÎ và quš b¢ng g¥p låi cÓ nhân, nhÃt là khi ngÒi trܧc m¥t mình là con ngÜ©i mà 20 næm vŠ trܧc là m¶t vÎ tܧng v§i hào quang sáng chói và n‰u miŠn Nam không mÃt, bi‰t Çâu chØng tܧng Trܪng së Çóng vai trò quan tr†ng trên giòng sº ViŒt. Quä thÆt, bi‰t Çâu chØng khi th‰ hŒ trÈ nhÜ chúng tôi và bao l§p thanh niên sinh viên khác ª miŠn Nam ÇŠu coi tܧng Trܪng là vÎ tܧng không nh»ng h‰t sÙc tài ba mà låi còn rÃt trong såch n»a. Tôi khÕi cÀn nh¡c låi ª Çây nhÆn xét
cûa ñåi tܧng MÏ Norman Schwazkopf trong cuÓn sách hÒi kš mang tên: "It does not
take a hero", trong Çó có Çoån khá dài dành Ç‹ ca ng®i thiên tài quân s¿ cûa tܧng
Trܪng khi ông này còn là Çåi tá và tܧng Norman là thi‰u tá cÓ vÃn.
Tܧng Trܪng vÅn gi» thói quen hút thuÓc lá liên miên nhÜ 20 næm trܧc, khi‰n tôi trong câu chuyŒn hàn huyên và bên cÓc cà phê bÓc khói mà bên ngoài thì mÜa lâm râm nhÜ bÀu tr©i ª quê nhà, cÛng Çã phì phà Çi‰u thuÓc phä khói mông lung. Có ÇiŠu tôi không thÃy bà Trܪng tÕ dÃu phiŠn hà gì cä khi khói thuÓc tràn ngÆp cä phòng khách.
Sau nh»ng han hÕi vŠ gia Çình, con cái, tôi nói v§i tܧng Trܪng là tôi ÇÎnh vi‰t cuÓn sách vŠ chi‰n tranh VN và hy v†ng tܧng Trܪng së là m¶t trong nh»ng nhân chÙng sÓng vào giai Çoån søp Ç° cûa nŠn ñŒ II C¶ng Hòa. Trong câu chuyŒn, tôi ÇŠ nghÎ tܧng Trܪng nên vi‰t låi hÒi kš Ç‹ giúp cho các nhà sº h†c sau này có nhiŠu tÜ liŒu. Tܧng Trܪng cho bi‰t là bè bån Çã thúc ÇÄy ông làm viŒc này nhÜng ông vÅn cÙ Ç¡n Ço mãi vì s¿ thÆt khi phäi nói ra së mÃt lòng nhiŠu ngÜ©i. Và gi†ng ông trÀm xuÓng buÒn buÒn: "Trong tâm tÜ sâu th£m, tôi vÅn cäm thÃy mình có t¶i v§i T° quÓc, v§i ngÜ©i dân khi không bäo vŒ ÇÜ®c vùng ÇÃt mà mình trách nhiŒm. N‡i buÒn càng l§n hÖn khi mình vÜ®t thoát ra ÇÜ®c nܧc ngoài
trong khi bi‰t bao chi‰n h»u cûa mình phäi vào các nhà tù kh° sai, sÓ khác phäi bÕ mình trên ÇÜ©ng vÜ®t thoát..." Tôi kính tr†ng š nghï ÇÀy tinh thÀn trách nhiŒm này cûa Trung tܧng. Tôi tin r¢ng lÎch sº rÃt công minh khi luÆn xét công t¶i cûa nh»ng ai th¿c s¿ chÎu trách nhiŒm trong viŒc søp Ç° cûa ch‰ Ƕ C¶ng Hòa tåi MiŠn Nam.
G¥p tܧng Trܪng lÀn cuÓi cùng
tåi B¶ TÜ LŒnh Quân ñoàn I Çóng
ª ñà N¤ng vào tháng 3-75 rÒi
ljn 20 næm sau vào tháng 4-95, tôi m§i
có dÎp g¥p låi vÎ tܧng mà
mình h‰t lòng quš tr†ng trong chuy‰n vŠ thæm Hoa ThÎnh
ñÓn khi tôi vØa m§i ljn Hoa Kÿ
theo diŒn HO. 28 (tháng 11-94). Hai thÆp niên không
là bao so v§i chiŠu dài cûa lÎch sº
dân t¶c, nhÜng 20 næm so v§i Ç©i
ngÜ©i thì Çâu phäi là ng¡n
ngûi, nhÃt là 20 næm ÇÀy thæng
trÀm dâu bi‹n cûa m¶t thân phÆn tù
ÇÀy trên quê nhà tæm tÓi.
G¥p nhau trên m¶t ÇÃt nܧc xa quê
nhà cä m¶t Çåi dÜÖng mênh
mông quä là ÇiŠu vÜ®t quá mong
ܧc cûa con ngÜ©i. Th‰ mà ÇiŠu
này trong th¿c t‰, Çã trª thành
hiŒn th¿c./
San Jose, nh»ng ngày hÒi tܪng låi tháng TÜ Çen 1975...
Lê ñình Cai
cùng Tåi BTL Qñ I (ñà N¤ng)
Le Dinh Cai ghi låi
TÓi ngày 15-3-75, tôi hËn g¥p HÒ Væn CÜ©ng, Phó tÌnh trܪng ThØa Thiên tåi Câu låc b¶ Th‹ Thao trên b© cûa Tä ngån sông HÜÖng, Hu‰. CÜ©ng và tôi là bån h†c ÇÒng l§p, nên chÖi thân v§i nhau khi chúng tôi cùng làm viŒc tåi Hu‰. Tôi muÓn g¥p CÜ©ng Ç‹ xem có tin gì m§i vŠ tình hình chi‰n s¿ và chính trÎ hay không. DÎp này tôi may m¡n g¥p ÇÜ®c tܧng Lâm Quang Thi, TÜ lŒnh tiŠn phÜÖng Quân Çoàn I tåi Hu‰, Çang ngÒi cùng bàn v§i CÜ©ng. Tôi cÛng bi‰t tܧng Thi khi tôi Çang dåy tåi trÜ©ng Võ BÎ QuÓc Gia VN tåi ñà Låt (68-70).
Khi tôi nêu câu hÕi vŠ tình hình, "liŒu chúng ta có Çû l¿c lÜ®ng Ç‹ ÇÜÖng ÇÀu v§i s¿ tÃn công cûa ÇÎch quân tØ hܧng b¡c không?". Tܧng Thi tÕ vÈ tin tܪng là chúng ta có th‹ cÀm c¿ ÇÜ®c vì hiŒn tình hình chÜa có gì Çáng ngåi.
Chúng tôi ngÒi không lâu thì vi vã cáo tØ ra vŠ vì trong lòng tôi n‡i lo âu tràn ngÆp khi làn sóng ngÜ©i chåy loån tØ Quäng TrÎ Ç° dÒn vŠ Hu‰ ngày càng Çông trong Çó có cä gia Çình ba má và các em tôi. Khi tØ giã CÜ©ng tôi hÕi liŒu có nên Çem gia Çình vào ñà N¤ng hay không? CÜ©ng nói là nên. ñêm Çó tôi thuê xe Ç‹ sáng mai (16.3) ÇÜa ba má, các em và v® con tôi vào ñà N¤ng.
Trên con ÇÜ©ng tØ Hu‰ vào ñà N¤ng là cä m¶t Çoàn ngÜ©i di tän dài d¢ng d¥c, xe c¶
chÌ nhích tØng ch¥ng m¶t nhÜng rÒi cuÓi cùng chúng tôi cÛng ljn ÇÜ®c ñà N¤ng vào lúc tr©i nhá nhem tÓi. Thành phÓ này gi© trông thÆt h°n Çn, Çoàn ngÜ©i tÙ phÜÖng tØ Quäng TrÎ, Hu‰ Ç° vào, tØ Quäng Nam, Quäng Ngãi Ç° ra tràn ngÆp trên các ngã ÇÜ©ng và các trÜ©ng h†c bây gi© là nÖi tåm trú cho dân cÜ tÙ xÙ tÆp trung vŠ Çây. Chính quyŠn ÇÎa phÜÖng cÛng Çã làm h‰t sÙc Ç‹ °n ÇÎnh trÆt t¿ và chú tâm vào viŒc cÙu tr® ÇÒng bào tÎ nån.
Qua sáng ngày 18-3-75 (?), sau khi °n ÇÎnh tåm th©i cho toàn Çåi gia Çình ª tråi tåmcÜ, tôi ghé låi trÜ©ng ñåi h†c Quäng ñà thæm giáo sÜ Ngô ñÒng, viŒn trܪng trÜ©ng ñåi H†c này. Anh ñÒng và tôi bàn ÇÎnh cùng nhau là nên ti‰p tay chính quyŠn ÇÎa phÜÖng °n ÇÎnh tình hình cÙu tr® và ÇÒng th©i tìm cách Ƕng viên anh em binh sï Çang cÀm súng ª tiŠn tuy‰n. Chúng tôi Çi ljn quy‰t ÇÎnh thành lÆp "Ñy ban Nhân dân hÆu phÜÖng y‹m tr® tiŠn tuy‰n", liên låc v§i các t° chÙc chính trÎ ÇÎa phÜÖng Ç‹ m©i tham gia và y‹m tr® phÜÖng tiŒn. Chúng tôi d¿ ÇÎnh xin gi© phát thanh Ç‹ phát Çi l©i kêu g†i cûa Ñy ban hÀu Ƕng viên tinh thÀn chi‰n sï và trÃn an tâm lš ÇÒng bào Çang hoäng loån. Chúng tôi d¿ ÇÎnh ÇŠ cº giáo sÜ Ngô ñÒng n¡m gi» chÙc vÎ chû tÎch u› ban này.
ChiŠu ngày 18-3-75 (?), khoäng 4 gi© anh Ngô ñÒng và tôi cùng vào B¶ tÜ lŒnh Quân ñoàn I, Ç‹ thæm tܧng Ngô Quang Trܪng, và nhân dÎp trình bày cùng tܧng Trܪng vŠ š ÇÎnh thành lÆp Ñy ban Y‹m tr® TiŠn tuy‰n cûa chúng tôi. Tôi Çã g†i ÇiŒn thoåi cho trung tá ñÙc, chánh væn phòng cûa tܧngTrܪng Ç‹ nh© s¡p x‰p cu¶c g¥p g«. Dù bÆn rn v§i bao viŒc, tܧng Ngô Quang Trܪng vÅn dành thì gi© ti‰p giáo sÜ Ngô ñÒng và tôi.
Ÿ Çây tôi xin mª dÃu ngo¥c Ç‹ nói ljn mÓi giao tình thân quš mà tܧng Trܪng Çã
dành cho chúng tôi tØ trܧc. Giáo sÜ Ngô ñÒng vì làm viŒn trܪng Çåi h†c Quäng ñà nên thÜ©ng gÀn gÛi hàng ngày công viŒc giao ti‰p v§i tܧng Trܪng khi ông còn n¡m gi» chÙc TÜ LŒnh quân khu I kiêm Çåi bi‹u chính phû tåi vùng I Çóng ª ñà N¤ng. Rìêng cá nhân tôi khi Ç°i vŠ giäng dåy tåi Çåi h†c Hu‰ (70-75) có dÎp tr¿c ti‰p g¥p g« m¶t sÓ sï quan cao cÃp ª vùng ÇÎa ÇÀu gi§i tuy‰n và qua báo chí ÇÜ®c bi‰t vŠ tܧng Trܪng v§i rÃt nhiŠu huyŠn thoåi, nhÃt là tØ lúc tܧng Trܪng chÌ huy l¿c lÜ®ng tái chi‰m thành c° Quäng TrÎ vào mùa hè ÇÕ lºa 1972. Chì‰n th¡ng vang d¶i này Çã ÇÜa tên tu°i tܧng Trܪng lên cao và tܧng Trܪng Çã trª thành thÀn tÜ®ng trong lòng các chàng trai th‰ hŒ trên dܧi 30 tu°i nhÜ chúng tôi hÒi Çó.
Khi xuÃt bän quy‹n sách "34 næm cÀm quyŠn cûa chúa NguyÍn Phúc Chu- (1691-1725)" vào næm 1971, tôi Çã gºi ljn tܧng Ngô Quang Trܪng bän Ç¥c biŒt in trên giÃy tr¡ng tinh v§i l©i ÇŠ t¥ng trân tr†ng. M‡i lÀn có dÎp Çi công tác vào ñåi h†c Quäng ñà, tôi ÇŠu dành thì gi© ghé qua b¶ tÜ lŒnh thæm tܧng Trܪng. Có lÀn tôi nh© trung tá ñÙc báo låi v§i trung tܧng là tôi trên ÇÜ©ng Çi Saigon chÌ ghé låi ñà N¤ng ÇÜ®c 2 ti‰ng rÒi phäi ra sân bay cho kÎp gi© phi cÖ cÃt cánh. Th‰ mà trung tܧng vÅn dành cho tôi bu°i g¥p g« h‰t sÙc thân tình dù tinh hình quân s¿ vào dåo Çó rÃt là cæng th£ng.
Trong th©i gian phong trào chÓng tham nhÛng cûa L.m. TrÀn H»u Thanh lên cao mà
anh em chúng tôi hÒi Çó ÇÜ®c chÌ thÎ cûa trung ÜÖng (cûa m¶t Çäng chính trÎ) phäi tích c¿c tham gia (khoäng 74-75), tôi ÇÜ®c cÃp trên ûy thác dò š xem liŒu tܧng Trܪng có th‹ ÇÙng ÇÀu m¶t h¶i ÇÒng tܧng lãnh Çäo chánh ông ThiŒu không? Và lÀn Çó tôi Çã ngÒi nói chuyŒn v§i tܧng Trܪng khá lâu. Trong câu chuyŒn, tôi xin trung tܧng cho bi‰t nhÆn xét cûa trung tܧng vŠ tình hình quân s¿ tåi vùng ÇÎa ÇÀu gi§i tuy‰n, rÒi nhân Çó xin ÇÜ®c bi‰t š nghï cûa ông vŠ tình hình chính trÎ tåi Sàigon khi phong trào chÓng T°ng thÓng ThiŒu ngày càng lên cao. Tܧng Trܪng tÕ ra h‰t sÙc kín Çáo, không b¶c l¶ thái Ƕ gì rõ rŒt ÇÓi v§i gi§i cÀm quyŠn trung ÜÖng, chÌ nói là ông ngày Çêm lo bäo vŒ an ninh vùng ÇÎa ÇÀu nên ít quan tâm
ljn các bi‰n chuy‹n chính trÎ. Khi tôi nhin th£ng vào m¡t trung tܧng và nói:
"ThÜa trung tܧng, trong chính gì§i và nhÃt là trong l§p thanh niên sinh viên trÈ tu°i mà tôi ÇÜ®c nhiŠu dÎp ti‰p xúc, m†i ngÜ©i ÇŠu kÿ v†ng trung tܧng là ngÜ©i có th‹ làm chuy‹n Ç°i tình hình ngày càng xÃu Çi rõ rŒt cûa miŠn Nam cä vŠ quân s¿ lÅn chính trÎ."
Tܧng Ngô Quang Trܪng không nói gì. Ông ÇÜa Çi‰u thuÓc lên môi rÒi châm lºa ÇÓt. ñôi m¡t ông mÖ màng nhìn theo khói thuÓc tan loãng vào không trung... ThÃy cu¶c g¥p g« cÛng Çã lâu và nhân dÎp trung tá ñÙc, chánh væn phòng cûa ông vào trình công viŒc, tôi xin phép ki‰u tØ. Khi b¡t tay, trung tܧng nhìn tôi và nói: "Tình hình khó khæn và phÙc tåp l¡m giáo sÜ å. Có nh»ng ÇiŠu mà mình tܪng là có th‹ th¿c hiŒn ÇÜ®c trên chi‰n trÜ©ng mà cûng Çành bó tay, huÓng hÒ gì..." Trung tܧng ngØng ª Çây không nói ti‰p... chúng tôi xi‰t tay tØ giã.
Bây gi© xin trª låi bu°i g¥p g« gi»a trung tܧng, giáo sÜ Ngô ñÒng và tôi vào nh»ng
ngày mà ñà N¤ng hÃp hÓi và quân Çoàn I coi nhÜ s¡p sºa tan hàng. Khi chúng tôi ljn b¶ tÜ lŒnh quân Çoàn khoäng 4 gi© chiŠu ngày 18-3-75 (?) thi trung tܧng Çã có m¥t Ç‹ ti‰p chúng tôi. G.S. Ngô ñÒng liŠn trình bày ngay d¿ ÇÎnh cûa chúng tôi muÓn kêu g†i m†i thành phÀn dân chúng ÇÎa phÜÖng thành lÆp "Ñy ban nhân dân hÆu phÜÖng y‹m tr® tiŠn tuy‰n" Ç‹ tÕ rõ s¿ Çoàn k‰t quân dân m¶t lòng trong viŒc bäo vŒ quê hÜÖng. Tܧng Trܪng tÕ ra h‰t sÙc xúc Ƕng. Tuy nhiên gi†ng ông buÒn buÒn: "Tình hình quân s¿ bây gì© Çang ngày càng trÀm tr†ng. ViŒc gi» an ninh cho vòng Çai chung quanh ñà N¤ng bây gì© chÌ còn ÇÜ®c tính tØng ngày tØng gì©". Trung tܧng bày tÕ lòng cäm Ön vŠ š ki‰n cûa G.S. Ngô ñÒng nhÜng ông không có ÇŠ nghÎ gì hay thái Ƕ h° tr® tích c¿c cho d¿ ÇÎnh này.
Bây gi© sau hÖn 1/4 th‰ k›, džc låi l©i trÀn tình cûa Trung tܧng trên báo chi m§i hay r¢ng viŒc mÃt Hu‰ và Quân Çoàn I cÛng nhÜ mÃt Cao nguyên (vùng II) Çã ÇÜ®c t°ng thÓng ThiŒu quy‰t ÇÎnh và thông báo cho tܧng Trܪng ngày 13-3-75 khi ông ÇÜ®c TT ThiŒu triŒu tÆp vŠ Dinh ñ¶c LÆp.
Xin hãy nghe tܧng Trܪng k‹ låi:
"Ngày 13-03-1975, tôi ÇÜ®c lŒnh vào Sàigòn h†p, tôi vào ljn Sài Gòn nhÜng v§i s¿ ngåc nhiên là chÌ có mình tôi vào g¥p T°ng thÓng và thû tܧng (TrÀn ThiŒn Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. ThÜ©ng lŒ, khi ÇÜ®c lŒnh vŠ Saigon h†p thì ÇŠu có ÇÀy Çû m¥t các vÎ tÜ lŒnh quân Çoàn và tÜ lŒnh các quân binh chûng khác. LÀn này, thì chÌ có m¶t minh tôi thôi. Tôi th¡c m¡c lo l¡ng. NhÜng khi TT ThiŒu cho bi‰t š ÇÎnh cûa ông là phäi rút bÕ quân Çoàn I ngay hôm nay thì tôi m§i v« lë, cay Ç¡ng và uÃt Ùc vì lŒnh ra quá Ƕt ng¶t ngoài sÙc tܪng tÜ®ng và ngoài ܧc muÓn cûa tôi. ThÆt ra, lúc Çó tình hình tåi Hu‰, Quäng Ngãi và ñà N¤ng tuy có hÖi n¥ng nŠ vì ÇÎch tÃn công liên ti‰p, tuy nhiên tôi Çû sÙc chÓng gi» và së tæng cÜ©ng sÜ Çoàn Dù cùng v§i Thûy quân Løc Chi‰n ra nh»ng vùng Çó Ç‹ lÃy låi Üu th‰. Tôi
trình bày c¥n kë nh»ng š ki‰n cÛng nhÜ nh»ng d¿ ÇÎnh cûa tôi lên t°ng thÓng và thû tܧng nhÜng không ÇÜ®c chÃp nhÆn. LŒnh bÃt di bÃt dÎch là: "Phäi rút quân Çoàn I càng s§m càng hay."
"...Sau Çó tôi suy nghï kÏ hÖn và quy‰t ÇÎnh g†i Çåi tܧng Cao Væn Viên nh© xin TT ThiŒu cho tôi ÇÜ®c dùng m†i cách Ç‹ gi» Hu‰ và vùng I. Làm sao tôi có th‹ bÕ Hu‰ và vùng I? Làm sao tôi bÕ ÇÜ®c vùng ÇÃt sÕi Çá này khi bao nhiêu chi‰n h»u cûa tôi Çã Ç° máu Ç‹ gìn gi»? NhÃt là trong vø MÆu Thân, máu anh em Çã Ç° nhiŠu.
T°ng thÓng ThiŒu rung Ƕng chÃp thuÆn cho tôi gi» Hu‰. Sáng 18-3-75, tôi ra Hu‰ g¥p tܧng Lâm Quang Thi (tÜ lŒnh phó quân Çoàn I) vÓn là ngÜ©i Çang chÌ huy tåi Hu‰. Tôi chÌ thÎ : Gi» Hu‰ cho thÆt v»ng. ChiŠu hôm Çó vŠ ljn ñà N¤ng, tôi nhÆn ÇÜ®c m¶t lŒnh do ñåi tܧng Cao Væn Viên thØa lŒnh TT yêu cÀu tôi "bÕ Hu‰". LŒnh Çó làm cho tôi ch‰t l¥ng ngÜ©i. Vì m§i bu°i sáng nay ª Hu‰, tôi Çã ra lŒnh cho tܧng Thi gi» Hu‰. Bây gi© Ƕt nhiên ÇÜ®c lŒnh bÕ thì tôi bi‰t æn nói làm sao v§i tܧng Thi và anh em binh sï Çây. NhÜng tôi vÅn phäi Çành thi hành theo lŒnh trên. Tôi g†i ÇiŒn thoåi thông báo lŒnh bÕ Hu‰ cho tܧngThi. Tܧng Thi trä l©i ngay: "Ÿ Hu‰ bây gi© xã Ãp phÜ©ng khóm tÓt quá, Çâu Çâu tình hình cÛng
tÓt cä, mà tåi sao anh bäo tôi bÕ là bÕ làm sao? Tôi buÒn bã trä l©i," Tôi bi‰t rÒi, nhÜng xin anh bÕ Hu‰ dùm tôi, Çó là lŒnh trên, không bÕ là không ÇÜ®c." K‰t quä là tܧng Thi thi hành lŒnh bÕ Hu‰, và dÒn quân ljn cºa ThuÆn An Ç‹ tàu Häi quân chª lính vŠ ñà N¤ng."
Xin xem thêm ª báo Chính LuÆn ª Seattle sÓ 139 ra ngày 6-8-99 dܧi t¿a ÇŠ "Tåi Sao
Tôi BÕ Quân ñoàn I? " cûa tܧng Ngô Quang Trܪng).
Xin trª låi bu°i g¥p g« cuÓi cùng tåi B¶ tÜ lŒnh Quân Çoàn I ngày 18-3-75 (?).. b¡t tay
tiÍn chúng tôi ra khÕi b¶ tÜ lŒnh lúc Çó khoäng 4 gi© 30, tôi nhìn kÏ tܧng Trܪng thÃy ông gÀy hÖn trܧc rÃt nhiŠu, Çôi m¡t sâu hÖn dù vÅn còn linh Çng. Khi ra t§i cºa, trung tܧng n¡m tay tôi và nói nhÕ "Giáo sÜ nên Çem gia Çình vào Sài gòn càng s§m càng tÓt". Tôi nhìn th£ng vào ông và có cäm tܪng khó g¥p låi vÎ tܧng mà mình Çã tØng coi nhÜ là thÀn tÜ®ng. Và quä thÆt, tØ lÀn g¥p g« Çó, cho ljn mãi 20 næm sau (tháng 4/95) trong chuy‰n vŠ thæm Hoa ThÎnh ñÓn, sau khi vØa ljn Hoa Kÿ tôi m§i g¥p låi tܧng Trܪng tåi tÜ gia ª thành phÓ Springfield, Virginia.
Sau khi liên låc ÇÜ®c v§i Çåi tá ñào M¶ng Xuân (ngÜ©i rÃt gÀn gÛi v§i tܧngTrܪng ª häi ngoåi), tôi xin Çåi tá thu x‰p Ç‹ tôi có dÎp hånh ng¶ v§i tܧngTrܪng sau 20 næm tr©i cách biŒt. Tܧng Trܪng hËn g¥p tåi m¶t quán phª (tôi không nh§ tên) ª Hoa ThÎnh ñÓn vào bu°i trÜa. Cùng Çi v§i tôi lúc Çó có giáo sÜ NguyÍn Lš Tܪng và anh Lê QuyŠn (chû tÎch ban ñåi diŒn C¶ng ÇÒng Hoa ThÎnh ñÓn lúc Ãy). Chúng tôi g¥p låi nhau trong m¶t hoàn cänh thÆt bÃt ng©. Tôi n¡m ch¥t tay tܧng Trܪng vÅn khuôn m¥t kh¡c kh° Çó vÅn dáng dÃp cao và Óm Çó, vÅn v§i Çôi m¡t sâu và sáng Çó, 20 næm sau vÅn không có gì thay Ç°i, chÌ có mái tóc Çã ngã màu muÓi tiêu. Sau khi dùng b»a æn trÜa nhË, anh Tܪng và anh QuyŠn chào tØ giä,
còn tôi lên xe vŠ nhà tܧng Trܪng ª Springfield và ª låi cho ljn tÓi mÎt m§i tØ giã ra
vŠ.
Có nh»ng chuyŒn gì Ç‹ nh¡c låi, Ç‹ nói ra sau 2 thÆp niên xa cách?
VØa bܧc vào c°ng, chúng tôi g¥p ngay bà Ngô Quang Trܪng. Bà vÅn còn gi» låi nét ÇËp quš phái cûa ngày nào. Tôi cúi ÇÀu chào khi tܧng Trܪng gi§i thiŒu. Bà Trܪng Çi vào trong m¶t chÓc rÒi trª ra v§i hai tách cà phê s»a Ç‹ trên bàn và m¶t dïa bánh bích qui. Bây gi© tôi m§i có thì gi© nói chuyŒn v§i tܧng Trܪng nhiŠu hÖn. Không có gì thú vÎ và quš b¢ng g¥p låi cÓ nhân, nhÃt là khi ngÒi trܧc m¥t mình là con ngÜ©i mà 20 næm vŠ trܧc là m¶t vÎ tܧng v§i hào quang sáng chói và n‰u miŠn Nam không mÃt, bi‰t Çâu chØng tܧng Trܪng së Çóng vai trò quan tr†ng trên giòng sº ViŒt. Quä thÆt, bi‰t Çâu chØng khi th‰ hŒ trÈ nhÜ chúng tôi và bao l§p thanh niên sinh viên khác ª miŠn Nam ÇŠu coi tܧng Trܪng là vÎ tܧng không nh»ng h‰t sÙc tài ba mà låi còn rÃt trong såch n»a. Tôi khÕi cÀn nh¡c låi ª Çây nhÆn xét
cûa ñåi tܧng MÏ Norman Schwazkopf trong cuÓn sách hÒi kš mang tên: "It does not
take a hero", trong Çó có Çoån khá dài dành Ç‹ ca ng®i thiên tài quân s¿ cûa tܧng
Trܪng khi ông này còn là Çåi tá và tܧng Norman là thi‰u tá cÓ vÃn.
Tܧng Trܪng vÅn gi» thói quen hút thuÓc lá liên miên nhÜ 20 næm trܧc, khi‰n tôi trong câu chuyŒn hàn huyên và bên cÓc cà phê bÓc khói mà bên ngoài thì mÜa lâm râm nhÜ bÀu tr©i ª quê nhà, cÛng Çã phì phà Çi‰u thuÓc phä khói mông lung. Có ÇiŠu tôi không thÃy bà Trܪng tÕ dÃu phiŠn hà gì cä khi khói thuÓc tràn ngÆp cä phòng khách.
Sau nh»ng han hÕi vŠ gia Çình, con cái, tôi nói v§i tܧng Trܪng là tôi ÇÎnh vi‰t cuÓn sách vŠ chi‰n tranh VN và hy v†ng tܧng Trܪng së là m¶t trong nh»ng nhân chÙng sÓng vào giai Çoån søp Ç° cûa nŠn ñŒ II C¶ng Hòa. Trong câu chuyŒn, tôi ÇŠ nghÎ tܧng Trܪng nên vi‰t låi hÒi kš Ç‹ giúp cho các nhà sº h†c sau này có nhiŠu tÜ liŒu. Tܧng Trܪng cho bi‰t là bè bån Çã thúc ÇÄy ông làm viŒc này nhÜng ông vÅn cÙ Ç¡n Ço mãi vì s¿ thÆt khi phäi nói ra së mÃt lòng nhiŠu ngÜ©i. Và gi†ng ông trÀm xuÓng buÒn buÒn: "Trong tâm tÜ sâu th£m, tôi vÅn cäm thÃy mình có t¶i v§i T° quÓc, v§i ngÜ©i dân khi không bäo vŒ ÇÜ®c vùng ÇÃt mà mình trách nhiŒm. N‡i buÒn càng l§n hÖn khi mình vÜ®t thoát ra ÇÜ®c nܧc ngoài
trong khi bi‰t bao chi‰n h»u cûa mình phäi vào các nhà tù kh° sai, sÓ khác phäi bÕ mình trên ÇÜ©ng vÜ®t thoát..." Tôi kính tr†ng š nghï ÇÀy tinh thÀn trách nhiŒm này cûa Trung tܧng. Tôi tin r¢ng lÎch sº rÃt công minh khi luÆn xét công t¶i cûa nh»ng ai th¿c s¿ chÎu trách nhiŒm trong viŒc søp Ç° cûa ch‰ Ƕ C¶ng Hòa tåi MiŠn Nam.
San Jose, nh»ng ngày hÒi tܪng låi tháng TÜ Çen 1975...
Lê ñình Cai
TS. LÂM LỄ TRINH * ĐẢNG Ô NHỤC
Hoạt cảnh Hànội triều cống Bắc kinh
KHI ĐẢNG SỈ NHỤC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
LS. Lâm Lễ Trinh
LTS: Ls Lâm Lễ Trinh, nguyên Bộ trưởng Nội vụ thời Đệ nhứt Cọng hòa, là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút tạp chí Anh Pháp Human Rights / Droits de l'homme.
Hành động của Đảng Cộng sản Việt nam lén lút hiến đất và lãnh hải cho kẻ thù truyền kiếp Trung quốc là một sự bội phản trắng trợn dân tộc và đồng thời, một việc sỉ nhục nghiêm trọng đối với Quân đội Nhân Dân (QĐND). Qua ba cuộc chiến gian khổ, QĐND thu phục được sự kiêng nể của thế giới. Công luận đến nay vẫn thắc mắc: Lý do nào giúp CS phi nhân thành công hướng dẫn quân đội này đến chiến thắng chống Pháp (1954), Mỹ (1975) và Trung cộng (1979)? Một câu hỏi, nghìn cách đáp. Tuy nhiên, có một điều không thể trật là CS đã biết khai thác tận cùng lòng yêu nước sôi sục và mối hận nóng bỏng của người dân Việt đối với Đế quốc Thực dân. và kẻ láng giềng xâm lăng.
Trò phỉnh gạt của Hồ Chí Minh và Công ty lộ tẩy sau trên 50 năm đưa Việt nam vào quỷ đạo xã hội chủ nghĩa. Bị bịp đau nhất là lớp người mù quáng tin nơi chủ thuyết Các Mác. Tượng trưng cho thế hệ này, nhà văn Dương Thu Hương xác nhận: "Kẻ thù lớn nhất của dân hiện nay là cấp lãnh đạo Cộng sản." Thi sĩ Bùi Minh Quốc tố nặng hơn, bằng hai câu thơ: " Chúng đang nhậu từng cánh đồng dải núi, Từng mảng trời, ruột đất lòng khơi."
Miền Nam thất thủ đã trên một phần tư thế kỷ. Một câu hỏi khác - khoắùc khoải, trong tình thế hiện tại - được đặt ra là đảng CSVN - càng ngày thêm suy thoái - còn nắm QĐND được bao lâu? QĐ sẽ phản ứng ra sao những ngày sắp đến khi quần chúng nổi dậy vì những sai lầm chồng chất, đối nội và đối
ngoại, của Chính trị bộ? Để trả lời, tưởng nên nhận thức về mối liên hệ Đảng và Quân đội, trước và sau năm 1986, đánh dấu giai đoạn "Đổi Mới".
A - Liên hệ Đảng-Quân đội trước 1986
Hồ Chí Minh thành lập đảng CS ngày 3.2.1930 để đưa Việt Nam vào tròng của Đệ tam Quốc tế . Chủ nghĩa Mác Lê, pha trộn với duy ý chí giáo điều của trùm Staline và phong kiến quan lại của Mao Trạch Đông, đã mau chóng thành lẽ sống của con người cộng sản Việt. Thời kỳ này, chủ trương chống ngoại xâm mê hoặc dân Miền Bắc. Từ 1965 cho đến ngày Hồ qua đời vào tháng chín 1969, cặp bài trùng Lê Duẫn (Tổng bí thơ đảng) và Lê Đức Thọ (Trưởng ban tổ chức trung ương) lấn át ra mặït Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, người hùng Điện Biên Phủ. Chẳng những thế, sau 1975, Lê Duẫn còn công khai đã kích đường lối lãnh đạo của Hồ và chê bai Giáp "nhát như thỏ đế, vừa đánh, vừa run." Lời này được Bùi Tín ghi trong hồi ký "Hoa Xuyên Tuyết."
Tùy nhu cầu giai đoạn, CSVN thay đổi sự lệ thuộc của Đất Nước đối với Nga sô và Tàu cộng về chính trị, kinh tế và quân sự. Năm 1954-1956, Tổng bí thơ Trường Chinh nhắm mắt tuân lệnh Bắc kinh thi hành Cải cách Ruộng đất. Qua năm 1985, trong nhiệm kỳ hai, Trường Chinh ngoan ngoản thực hiện "Đổi Mớùi" theo chỉ thị của Gorbatchev. Sau Chinh, Tổng bí thơ Lê Duẫn ủng hộ Bắc kinh năm 1960 để rồi từ 1977 đến 1983, y khẳng định không ngượng mồm: "Trung cộng là địch thủ của ta hằng trăm năm nửa!". Năm 1987, Tổng bí thơ Nguyễn Văn Linh cổ xúy Đổi Mới và hô hào văn nghệ sĩ "nói thẳng, nói thực, nói hết." Giữa năm 1994, Linh thản nhiên truy nả Nguyễn Hộ và các đồng chí trong Câu lạc bộ Kháng chiến.
Trong hàng ngũ QĐND, đã xãy ra nhiều vụ khai trừ bè phái. Chỉ cần kể qua ở nơi đây bốn vụ lớn: 1) Vụ án xét lại, từ 1964 đến 1966, để hạ uy tín của Võ Nguyên Giáp bị nghi theo khuynh hướng Krutchev. 2) Vụ giải tán Mặt trận Giải phóng Miền Nam bù nhìn của Trần Văn Trà, Huỳnh Tấn Phát và nội bọn, sau tháng 4.1975. 3) Vụ đàn áp nhóm Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng và Hồ Hiếu là những người sáng lập Câu lạc bộ Kháng chiến năm 1987 và 4) Vụ Mini nổi loạn trong QĐND năm 1986 âm mưu đưa Giáp vào chức Thủ tướng. Sau vụ này, Giáp bị loại ra khỏi Ban Chấùp hành Trung ương Đảng. Một số tướùng em út của Giáp cùng với lối 1000 sĩ quan hoặc bị bức tử, hoặc về hưu non.
B - Liên hệ Đảng-Quân đội sau 1986.
Năm 1985, Việt Nam có 1.600.000 quân tại ngũ và 600.000 cán bộ an ninh. Vì ngân quỷ kiệt quệ, Chính phủ giải ngũ 700.000. Sau khi Cộng sản Đông Âu sụp đổ năm 1989, vì các nguồn viện trợ giãm sút nguy kịch, chính quyền Hànội xoay qua kế hoạch trao cho 70.000 lính chính quy - tức 12% tổng quân số hiện dịch - khai thác trên 300 xí nghiệp. từ ngành xây cất khách sạn đến may cắt quần áo, ngân hàng, du lịch, vũ trường, xuất cảng..v..v..với độc quyền kinh doanh. Phần lớn bất động sản trong nước do Quân đội làm chủ. Hằng năm, Bộ Quốc phòng thu vào 150 tỷ đồng bạc thuế.
Ngoại xâm không còn nửa. Chủ thuyết Mác Lê trên đà khánh tận vì không kiến thiết nổi hòa bình và đã mất hết hấp lực, mặc dù được gắn thêm cái đuôi "tư tưởng Hồ Chí Minh". Thiếu tay lãnh đạo, Trung ương Đảng trở thành một mafia liên kết bởi quyền lợi phe nhóm, với chủ trương vơ vét để chuẩn bị thoát thân. Tham nhũng, buôn lậu, chuyển ngân, xuất ngoại làm áp phe, tạo mãi nhà đất ở nước ngoài ……..
Nhiều nhân vật như Thủ tướng Phạm Văn Đồng (khi còn sống), Ủy viên Bộ Chính trị Vũ Oánh, Chủ tịch Ủy ban Bài trừ tham nhũng Nguyễn Trọng Xuyến, (cố) Nguyễn Văn Linh và ngay cả Lê Khả Phiêu (lúc còn tại chức), đã dóng tiếng báo động. Tuy nhiên, tình trạng không cải thiện. Từ Đại hội 6 đến Đại hội 7, một lô tướng mệnh danh " Tướng thông suốt", bảo thủ và kém khã năng, được chuyển từ địa phương về trung ương để kết bè cai trị như Lê Đức Anh, Bùi Thiện Ngộ, Nguyễn Quyết, Đào Đình Luyện, Lê Khả Phiêu……….. ..
Thực tế cho thấy căn bệnh của VN phát sinh từ sự bất lực của CS thực thi dân chủ và thích nghi với đường lối kinh tế tự do. Quyết định khai trừ tướng Trần Độ, 58 tuổi đảng, cựu Phó Chủ tịch Quốc hội, từng giữ những chức vụ chính trị và văn hóa hệ trọng, gây bất mãn cho một số sĩ quan và trí thức trong nước. Tiếp theo việc hạ bệ Võ Nguyên Giáp, sự về vườn của Lê Đức Anh, tình trạng "biệt tích" của Văn Tiến Dũng và cái chết vì bệnh của Đoàn Khuê, các chức then chốt trong Quân đội lọt vào tay lớp tướng trẻ, non tuổi đảng, thiếu viễn kiến và kém khả năng như Phạm Văn Trà, Phạm Thanh Ngân, Lê Văn Dũng……….. Riêng về Lê Khả Phiêu, Tổng bí thơ năm 1997 và văng chức sau một nhiệm kỳ, y chính thức gia nhập Đảng chỉ từ 1986.
Bên cạnh tân giai cấp "tư bản đỏ", hủ hóa và hưởng thụ phè phởn, trên một triệu lính giải ngũ, thương phế binh và cô nhi. quả phụ sống đói rách. Chính phủ cũng không hề nhắc tới số mạng của trên 300.000 quân biệt tích và đến nay, dân chúng vẫn xầm xì về số phận chiến lợi phẩm trị giá trên 6 tỷ mỹ kim tịch thu tại Miền Nam sau 1975.
Kỷ luật trong Quân đội suy yếu trầm trọng. tỷ lệ đào ngũ không ngớt gia tăng. Tình trạng ganh ăn giữa Công an và Quân đội gây nhiều pha đổ máu. Lý thuyết Mác Lê và tư tưởng của Hồ không còn là chất keo gắn liền Đảng, Quân đội và Nhân Dân.
Sự im lặng trong QĐND báo hiệu cơn giông tố sắp đến ?
Đến nay, các tướng già (như Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng - ít nữa cho dến lúc Dũng qua đời ngày 10 tháng 3 vừa qua, sau khi xì-căn-đan biên giới bùng nổ) cũng như lớp sĩ quan trẻ trong QĐND vẫn câm miệng hến trước sự phẫn nộ của quần chúng, trong và ngoài xứ, đối với hai Hiệp ước ngày 30.12.1999 và 25.12.2000 thầm lặng hiến dâng đất đai và vùng biển cho Trung quốc. Thái độ thụ động này gây ngạc nhiên (và thất vọng) không ít vì trong cuộc đấu tranh dành độc lập và thống nhất cho xứ sở, QĐND vẫn luôn luôn tự hào là những "hậu duệ" không hổ thẹn của các tiền nhân anh dũng từng xả thân dành từng tấc đất cho tổ quốc, những Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo và Quang Trung.
Mọi người, dù sao, nghĩ rằng những thành phần thành thực yêu nước, có lý tưởng, trong sạch và cấp tiến trong QĐND không thể dửng dưng trước nguy cơ Đất nước càng ngày thêm lệ thuộc Trung quốc, một quốc gia luôn luôn lăm le nuốt trửng chúng ta như lịch sử nhiều nghìn năm đã chứng minh quá rỏ. Bên cạnh mối đe dọa thường xuyên sát nách đó, họ không thể không nhận thấy - bất luận kẻ đui hay điếc nào ở Việt Nam ngày nay cũng có thể làm nhân chứng! - sự bất lực của nhóm chóp bu lãnh đạo Cộng sản. Từ trên nửa thế kỷ, giai cấp lãnh tụ thoái hóa này cản trở sự phát triển dân tộc vì "chính sách tự kiểm, sửa sai" của họ - thường được bộ máy tuyên truyền Nhà nướcï huênh hoang đề cao - càng sửa lại càng sai. Chế độ CSVN là một chế dộ vô thần, vô pháp, chà đạp nhân quyền và dân quyền, một chế độ cai trị bằng khủng bố: khủng bố tôn giáo, khủng bố dân thiểu số, khủng bố đối lập. Ngày nào điều 4 của Hiến pháp 1992 còn giữ nguyên thì CS vẫn nắm độc quyền. Độc quyền yêu nước, độc quyền kháng chiến, độc quyền buôn quan bán tước, kể luôn độc quyền bán nước. Hồ sơ thành quả vấy máu của Đảng đã khá dầy: Cải cách Ruộng đất, Nhân Văn Giai phẩm, Tết Mậu thân, Quốc hữu hóa Kinh tế. Biết bao dân lành bị hy sinh oan uổng.
Giọt nước cuối cùng làm tràn ly thuốc đắng là gần đây, CSVN bội phản tiền nhân, dân tộc và lịch sử bằng hai Hiệp ước nói trên, ký với Trung quốc để cũng cố dịa vị. Vì mất cái thế nhân dân trong nước, mất nội lực, nên CSVN phải thầm lén cầu cạnh sự hổ trợ từ bên ngoài. Vì lương tâm không ổn nên CSVN mới dấu nhẹm đến nay nội dung của Hiệp ước. Vì biết trước sẽ bị quần chúng chống đối, họ không dám tổ chức trưng cầu dân ý. Vì sợ bị chỉ trích trong nội bộ nên họ mới sắp xếp để một thiểu số thân tín, trong Chính trị bộ và trong Quốc hội, thương thuyết và phê chuẩn Hiệp ước ngày 30.12.1999.
Mất đất vì chiến tranh là chuyện thường xãy ra trên thế giới. Ngay trong nhiều trường hợp, (thí dụ đảo Kouriles của Nhựt bị Nga chiếm sau Đệ nhị thế chiến), sự tranh chấp vẫn kéo dài theo đường lối thương thảo ngoại giao. Nhường đất cho địch trong thời bình, không có sự đền bù tương xứng, là trường hợp hi hữu, chưa từng thấy. VN cộng sản đang hiến cho thế giới một tiền lệ bỉ ổi, đáng hổ thẹn!
Vai trò quyết định của QĐND trong tương lai
QĐND không thể mãi tránh lên tiếng trong vụ Chính trị bộ cắt đất và biển dâng cho Bắc kinh. Im lặng là đồng lỏa với chính phạm bội phản, là trái với truyền thống hào hùng của Quân đội luôn luôn hảnh diện với danh xưng ø "thành đồng bảo vệ Tổ quốc". Quân đội không thể để cho Đảng bôi bẩn danh dự. QĐND cần chứng minh dứt khoát rằng Quân đội là của Dân, của Nước chớ không phải của Đảng.
Cấp thời, Quân đội có trách vụ thúc dục Đảng phải gấp công bố nội dung của mọi văn kiện về việc thương thuyết chủ quyền lãnh thổ, điều tra và nghiêm trị trước pháp luật những kẻ chủ mưu ký các Hiệp ước bất bình đẳng, ngưng tức khắc việc cấm mốc biên giới Hoa-Việt, ngăn Quốc hội phê chuẩn tất cả các Hiệp ước chưa trưng cầu ý dân và đặc biệt, tìm biện pháp chấm dứt độc quyền lãnh đạo của CSVN.
Tiếp theo cuộc biểu dương Thiên An Môn ở Bắc kinh, là những vụ xuống đường của nông dân tại Thái Bình, Đồng Nai, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thanh hóa và Bắc Ninh. Chính quyền Hànội hoảng hốt. Tại Việt Nam, dân đã bớt sợ. Hay đúng hơn, nổi sợ hải đang chuyển phía: Từ Dân qua giới cầm quyền. Nhà nước đàn áp liên miên tôn giáo, đối kháng, báo chí và đồng thời, kêu gọi khẩn thiết các cấp cán bộ đề phòng "diển biến hòa bình" và "văn hóa đồi trụy".
Chính trị bộ ngày đêm theo dõi những đợt sóng ngầm trong Quân đội. Tháng 11. 1995, tạp chí Quốc Phòng đăng bài "Cuộc chiến hòa bình" của Trần Mô. Tác giả viết, không úp mở: "Chúng tôi kết luận rằng không có một nước nào có thể trực tiếp lật đổ chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam. Chỉ có người cộng sản mới có thể lật đổ người cộng sản". Trần Mô có lý nếu y muốn nói CS phản tỉnh, giác ngộ và sám hối, sẽ lật đổ CS ngoan cố vì họ bị phản bội trắng trợn.
Khẩu hiệu "Yêu Nước là yêu Xã hội chủ nghĩa" nay đã trở thành vô nghĩa. CS hiện bí lối. Tiến hay lùi thì vẫn chết! Thảm trạng là đất nước - vì chúng - cũng rơi vào bế tắc. Đất nước không thể ngóc đầu ngày nào còn Xã hội chủ nghĩa. Sở dỉ CS còn sống cầm hơi là vì cánh cổ võ cho dân chủ chưa đấu tranh đúng mức, quá rời rạc , thiếu lãnh đạo và quá vọng ngoại. Mặt khác, cũng vì QĐND chưa ý thức được chân sứ mạng của mình.
Sớm muộïn gì chính sách của Hànội cũng sẽ làm cho tức nước vỡ bờ. Phong trào đòi dân chủ, tự do sẽ kết hợp. Hình thức đấu tranh ôn hòa chuyển dần qua bạo động. QĐND sẽ phản ứng ra sao nếu được Đảng triệu tâp để tái lập trật tự? Bắt tay với Đảng ư - trong tư thế đồng lỏa - để tàn sát nhân dân? Hay noi gương Roumanie thời Ceaucescu và Liên Sô thời Gorbatchev- Yeltsin, để ngã về phía đại chúng tượng trưng cho chính nghĩa? Các tướng CS bảo thủ không chắc điều khiển nổi Quân đội trong giờ phút của sự thật. Khí thế vũ bảo của quần chúng sẽ lôi cuốn Quân đội vào cách mạng. Không còn ai u mê sống chết cho một nhóm mafia ăn hại.
Hoàn cảnh diễn biến có thể đẩy Quân đội vào vai trò trọng tài giữa Dân và Đảng để tránh nội chiến. Lúc đó, dưới áp lực của cơn sốt đấu tranh, cấp chỉ huy giác ngộ sẽ cố gắng hòa giải, theo đường hướng cải cách. Trách vụ của Quân đội trong một nước không phải chỉ bảo vệ lãnh thổ quốc gia mà còn che chở đất nước chống độc tài. Lật đổ chuyên chế là trách vụ ưu tiên vì đó là điều kiện tất yếu để phát triển. Sức mạnh của dân tộc không dựa vào nhân số mà vào ý chí quật khởi để tiến tới.
Quân đội là tinh hoa và hy vọng của đất nước. Quân đội không thể vì Đảng mà phản Dân. Vì có Dân mới có Đảng. Phải đặt Đảng sau Dân. Dân tộc trường cửu trong khi đảng phái và chế độ chỉ lót đường cho Lịch sử.
Bởi thế, để cứu nước, QĐND không có quyền bỏ qua cơ hôi này. Muốn xứng đáng với danh xưng "Quân đội Nhân dân", Quân đội phải là một quân đội bởi dân, của dân và vì dân. Dân Việt nam. Không Cộng sản. Không ngoại lai.
Quân Đội Nhân Dân không còn một sự chọn lựa nào khác.
LÂM LỄ TRINH
Ngày 5. 3.2002
Thủy Hoa Trang lamletrinh
Californie
* Đọc những bài khác của tác giả bằng tiếng Việt, Anh
và Pháp trên trang nhà http://www.centralstatio.net/
KHI ĐẢNG SỈ NHỤC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
LS. Lâm Lễ Trinh
LTS: Ls Lâm Lễ Trinh, nguyên Bộ trưởng Nội vụ thời Đệ nhứt Cọng hòa, là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút tạp chí Anh Pháp Human Rights / Droits de l'homme.
Hành động của Đảng Cộng sản Việt nam lén lút hiến đất và lãnh hải cho kẻ thù truyền kiếp Trung quốc là một sự bội phản trắng trợn dân tộc và đồng thời, một việc sỉ nhục nghiêm trọng đối với Quân đội Nhân Dân (QĐND). Qua ba cuộc chiến gian khổ, QĐND thu phục được sự kiêng nể của thế giới. Công luận đến nay vẫn thắc mắc: Lý do nào giúp CS phi nhân thành công hướng dẫn quân đội này đến chiến thắng chống Pháp (1954), Mỹ (1975) và Trung cộng (1979)? Một câu hỏi, nghìn cách đáp. Tuy nhiên, có một điều không thể trật là CS đã biết khai thác tận cùng lòng yêu nước sôi sục và mối hận nóng bỏng của người dân Việt đối với Đế quốc Thực dân. và kẻ láng giềng xâm lăng.
Trò phỉnh gạt của Hồ Chí Minh và Công ty lộ tẩy sau trên 50 năm đưa Việt nam vào quỷ đạo xã hội chủ nghĩa. Bị bịp đau nhất là lớp người mù quáng tin nơi chủ thuyết Các Mác. Tượng trưng cho thế hệ này, nhà văn Dương Thu Hương xác nhận: "Kẻ thù lớn nhất của dân hiện nay là cấp lãnh đạo Cộng sản." Thi sĩ Bùi Minh Quốc tố nặng hơn, bằng hai câu thơ: " Chúng đang nhậu từng cánh đồng dải núi, Từng mảng trời, ruột đất lòng khơi."
Miền Nam thất thủ đã trên một phần tư thế kỷ. Một câu hỏi khác - khoắùc khoải, trong tình thế hiện tại - được đặt ra là đảng CSVN - càng ngày thêm suy thoái - còn nắm QĐND được bao lâu? QĐ sẽ phản ứng ra sao những ngày sắp đến khi quần chúng nổi dậy vì những sai lầm chồng chất, đối nội và đối
ngoại, của Chính trị bộ? Để trả lời, tưởng nên nhận thức về mối liên hệ Đảng và Quân đội, trước và sau năm 1986, đánh dấu giai đoạn "Đổi Mới".
A - Liên hệ Đảng-Quân đội trước 1986
Hồ Chí Minh thành lập đảng CS ngày 3.2.1930 để đưa Việt Nam vào tròng của Đệ tam Quốc tế . Chủ nghĩa Mác Lê, pha trộn với duy ý chí giáo điều của trùm Staline và phong kiến quan lại của Mao Trạch Đông, đã mau chóng thành lẽ sống của con người cộng sản Việt. Thời kỳ này, chủ trương chống ngoại xâm mê hoặc dân Miền Bắc. Từ 1965 cho đến ngày Hồ qua đời vào tháng chín 1969, cặp bài trùng Lê Duẫn (Tổng bí thơ đảng) và Lê Đức Thọ (Trưởng ban tổ chức trung ương) lấn át ra mặït Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, người hùng Điện Biên Phủ. Chẳng những thế, sau 1975, Lê Duẫn còn công khai đã kích đường lối lãnh đạo của Hồ và chê bai Giáp "nhát như thỏ đế, vừa đánh, vừa run." Lời này được Bùi Tín ghi trong hồi ký "Hoa Xuyên Tuyết."
Tùy nhu cầu giai đoạn, CSVN thay đổi sự lệ thuộc của Đất Nước đối với Nga sô và Tàu cộng về chính trị, kinh tế và quân sự. Năm 1954-1956, Tổng bí thơ Trường Chinh nhắm mắt tuân lệnh Bắc kinh thi hành Cải cách Ruộng đất. Qua năm 1985, trong nhiệm kỳ hai, Trường Chinh ngoan ngoản thực hiện "Đổi Mớùi" theo chỉ thị của Gorbatchev. Sau Chinh, Tổng bí thơ Lê Duẫn ủng hộ Bắc kinh năm 1960 để rồi từ 1977 đến 1983, y khẳng định không ngượng mồm: "Trung cộng là địch thủ của ta hằng trăm năm nửa!". Năm 1987, Tổng bí thơ Nguyễn Văn Linh cổ xúy Đổi Mới và hô hào văn nghệ sĩ "nói thẳng, nói thực, nói hết." Giữa năm 1994, Linh thản nhiên truy nả Nguyễn Hộ và các đồng chí trong Câu lạc bộ Kháng chiến.
Trong hàng ngũ QĐND, đã xãy ra nhiều vụ khai trừ bè phái. Chỉ cần kể qua ở nơi đây bốn vụ lớn: 1) Vụ án xét lại, từ 1964 đến 1966, để hạ uy tín của Võ Nguyên Giáp bị nghi theo khuynh hướng Krutchev. 2) Vụ giải tán Mặt trận Giải phóng Miền Nam bù nhìn của Trần Văn Trà, Huỳnh Tấn Phát và nội bọn, sau tháng 4.1975. 3) Vụ đàn áp nhóm Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng và Hồ Hiếu là những người sáng lập Câu lạc bộ Kháng chiến năm 1987 và 4) Vụ Mini nổi loạn trong QĐND năm 1986 âm mưu đưa Giáp vào chức Thủ tướng. Sau vụ này, Giáp bị loại ra khỏi Ban Chấùp hành Trung ương Đảng. Một số tướùng em út của Giáp cùng với lối 1000 sĩ quan hoặc bị bức tử, hoặc về hưu non.
B - Liên hệ Đảng-Quân đội sau 1986.
Năm 1985, Việt Nam có 1.600.000 quân tại ngũ và 600.000 cán bộ an ninh. Vì ngân quỷ kiệt quệ, Chính phủ giải ngũ 700.000. Sau khi Cộng sản Đông Âu sụp đổ năm 1989, vì các nguồn viện trợ giãm sút nguy kịch, chính quyền Hànội xoay qua kế hoạch trao cho 70.000 lính chính quy - tức 12% tổng quân số hiện dịch - khai thác trên 300 xí nghiệp. từ ngành xây cất khách sạn đến may cắt quần áo, ngân hàng, du lịch, vũ trường, xuất cảng..v..v..với độc quyền kinh doanh. Phần lớn bất động sản trong nước do Quân đội làm chủ. Hằng năm, Bộ Quốc phòng thu vào 150 tỷ đồng bạc thuế.
Ngoại xâm không còn nửa. Chủ thuyết Mác Lê trên đà khánh tận vì không kiến thiết nổi hòa bình và đã mất hết hấp lực, mặc dù được gắn thêm cái đuôi "tư tưởng Hồ Chí Minh". Thiếu tay lãnh đạo, Trung ương Đảng trở thành một mafia liên kết bởi quyền lợi phe nhóm, với chủ trương vơ vét để chuẩn bị thoát thân. Tham nhũng, buôn lậu, chuyển ngân, xuất ngoại làm áp phe, tạo mãi nhà đất ở nước ngoài ……..
Nhiều nhân vật như Thủ tướng Phạm Văn Đồng (khi còn sống), Ủy viên Bộ Chính trị Vũ Oánh, Chủ tịch Ủy ban Bài trừ tham nhũng Nguyễn Trọng Xuyến, (cố) Nguyễn Văn Linh và ngay cả Lê Khả Phiêu (lúc còn tại chức), đã dóng tiếng báo động. Tuy nhiên, tình trạng không cải thiện. Từ Đại hội 6 đến Đại hội 7, một lô tướng mệnh danh " Tướng thông suốt", bảo thủ và kém khã năng, được chuyển từ địa phương về trung ương để kết bè cai trị như Lê Đức Anh, Bùi Thiện Ngộ, Nguyễn Quyết, Đào Đình Luyện, Lê Khả Phiêu……….. ..
Thực tế cho thấy căn bệnh của VN phát sinh từ sự bất lực của CS thực thi dân chủ và thích nghi với đường lối kinh tế tự do. Quyết định khai trừ tướng Trần Độ, 58 tuổi đảng, cựu Phó Chủ tịch Quốc hội, từng giữ những chức vụ chính trị và văn hóa hệ trọng, gây bất mãn cho một số sĩ quan và trí thức trong nước. Tiếp theo việc hạ bệ Võ Nguyên Giáp, sự về vườn của Lê Đức Anh, tình trạng "biệt tích" của Văn Tiến Dũng và cái chết vì bệnh của Đoàn Khuê, các chức then chốt trong Quân đội lọt vào tay lớp tướng trẻ, non tuổi đảng, thiếu viễn kiến và kém khả năng như Phạm Văn Trà, Phạm Thanh Ngân, Lê Văn Dũng……….. Riêng về Lê Khả Phiêu, Tổng bí thơ năm 1997 và văng chức sau một nhiệm kỳ, y chính thức gia nhập Đảng chỉ từ 1986.
Bên cạnh tân giai cấp "tư bản đỏ", hủ hóa và hưởng thụ phè phởn, trên một triệu lính giải ngũ, thương phế binh và cô nhi. quả phụ sống đói rách. Chính phủ cũng không hề nhắc tới số mạng của trên 300.000 quân biệt tích và đến nay, dân chúng vẫn xầm xì về số phận chiến lợi phẩm trị giá trên 6 tỷ mỹ kim tịch thu tại Miền Nam sau 1975.
Kỷ luật trong Quân đội suy yếu trầm trọng. tỷ lệ đào ngũ không ngớt gia tăng. Tình trạng ganh ăn giữa Công an và Quân đội gây nhiều pha đổ máu. Lý thuyết Mác Lê và tư tưởng của Hồ không còn là chất keo gắn liền Đảng, Quân đội và Nhân Dân.
Sự im lặng trong QĐND báo hiệu cơn giông tố sắp đến ?
Đến nay, các tướng già (như Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng - ít nữa cho dến lúc Dũng qua đời ngày 10 tháng 3 vừa qua, sau khi xì-căn-đan biên giới bùng nổ) cũng như lớp sĩ quan trẻ trong QĐND vẫn câm miệng hến trước sự phẫn nộ của quần chúng, trong và ngoài xứ, đối với hai Hiệp ước ngày 30.12.1999 và 25.12.2000 thầm lặng hiến dâng đất đai và vùng biển cho Trung quốc. Thái độ thụ động này gây ngạc nhiên (và thất vọng) không ít vì trong cuộc đấu tranh dành độc lập và thống nhất cho xứ sở, QĐND vẫn luôn luôn tự hào là những "hậu duệ" không hổ thẹn của các tiền nhân anh dũng từng xả thân dành từng tấc đất cho tổ quốc, những Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo và Quang Trung.
Mọi người, dù sao, nghĩ rằng những thành phần thành thực yêu nước, có lý tưởng, trong sạch và cấp tiến trong QĐND không thể dửng dưng trước nguy cơ Đất nước càng ngày thêm lệ thuộc Trung quốc, một quốc gia luôn luôn lăm le nuốt trửng chúng ta như lịch sử nhiều nghìn năm đã chứng minh quá rỏ. Bên cạnh mối đe dọa thường xuyên sát nách đó, họ không thể không nhận thấy - bất luận kẻ đui hay điếc nào ở Việt Nam ngày nay cũng có thể làm nhân chứng! - sự bất lực của nhóm chóp bu lãnh đạo Cộng sản. Từ trên nửa thế kỷ, giai cấp lãnh tụ thoái hóa này cản trở sự phát triển dân tộc vì "chính sách tự kiểm, sửa sai" của họ - thường được bộ máy tuyên truyền Nhà nướcï huênh hoang đề cao - càng sửa lại càng sai. Chế độ CSVN là một chế dộ vô thần, vô pháp, chà đạp nhân quyền và dân quyền, một chế độ cai trị bằng khủng bố: khủng bố tôn giáo, khủng bố dân thiểu số, khủng bố đối lập. Ngày nào điều 4 của Hiến pháp 1992 còn giữ nguyên thì CS vẫn nắm độc quyền. Độc quyền yêu nước, độc quyền kháng chiến, độc quyền buôn quan bán tước, kể luôn độc quyền bán nước. Hồ sơ thành quả vấy máu của Đảng đã khá dầy: Cải cách Ruộng đất, Nhân Văn Giai phẩm, Tết Mậu thân, Quốc hữu hóa Kinh tế. Biết bao dân lành bị hy sinh oan uổng.
Giọt nước cuối cùng làm tràn ly thuốc đắng là gần đây, CSVN bội phản tiền nhân, dân tộc và lịch sử bằng hai Hiệp ước nói trên, ký với Trung quốc để cũng cố dịa vị. Vì mất cái thế nhân dân trong nước, mất nội lực, nên CSVN phải thầm lén cầu cạnh sự hổ trợ từ bên ngoài. Vì lương tâm không ổn nên CSVN mới dấu nhẹm đến nay nội dung của Hiệp ước. Vì biết trước sẽ bị quần chúng chống đối, họ không dám tổ chức trưng cầu dân ý. Vì sợ bị chỉ trích trong nội bộ nên họ mới sắp xếp để một thiểu số thân tín, trong Chính trị bộ và trong Quốc hội, thương thuyết và phê chuẩn Hiệp ước ngày 30.12.1999.
Mất đất vì chiến tranh là chuyện thường xãy ra trên thế giới. Ngay trong nhiều trường hợp, (thí dụ đảo Kouriles của Nhựt bị Nga chiếm sau Đệ nhị thế chiến), sự tranh chấp vẫn kéo dài theo đường lối thương thảo ngoại giao. Nhường đất cho địch trong thời bình, không có sự đền bù tương xứng, là trường hợp hi hữu, chưa từng thấy. VN cộng sản đang hiến cho thế giới một tiền lệ bỉ ổi, đáng hổ thẹn!
Vai trò quyết định của QĐND trong tương lai
QĐND không thể mãi tránh lên tiếng trong vụ Chính trị bộ cắt đất và biển dâng cho Bắc kinh. Im lặng là đồng lỏa với chính phạm bội phản, là trái với truyền thống hào hùng của Quân đội luôn luôn hảnh diện với danh xưng ø "thành đồng bảo vệ Tổ quốc". Quân đội không thể để cho Đảng bôi bẩn danh dự. QĐND cần chứng minh dứt khoát rằng Quân đội là của Dân, của Nước chớ không phải của Đảng.
Cấp thời, Quân đội có trách vụ thúc dục Đảng phải gấp công bố nội dung của mọi văn kiện về việc thương thuyết chủ quyền lãnh thổ, điều tra và nghiêm trị trước pháp luật những kẻ chủ mưu ký các Hiệp ước bất bình đẳng, ngưng tức khắc việc cấm mốc biên giới Hoa-Việt, ngăn Quốc hội phê chuẩn tất cả các Hiệp ước chưa trưng cầu ý dân và đặc biệt, tìm biện pháp chấm dứt độc quyền lãnh đạo của CSVN.
Tiếp theo cuộc biểu dương Thiên An Môn ở Bắc kinh, là những vụ xuống đường của nông dân tại Thái Bình, Đồng Nai, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thanh hóa và Bắc Ninh. Chính quyền Hànội hoảng hốt. Tại Việt Nam, dân đã bớt sợ. Hay đúng hơn, nổi sợ hải đang chuyển phía: Từ Dân qua giới cầm quyền. Nhà nước đàn áp liên miên tôn giáo, đối kháng, báo chí và đồng thời, kêu gọi khẩn thiết các cấp cán bộ đề phòng "diển biến hòa bình" và "văn hóa đồi trụy".
Chính trị bộ ngày đêm theo dõi những đợt sóng ngầm trong Quân đội. Tháng 11. 1995, tạp chí Quốc Phòng đăng bài "Cuộc chiến hòa bình" của Trần Mô. Tác giả viết, không úp mở: "Chúng tôi kết luận rằng không có một nước nào có thể trực tiếp lật đổ chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam. Chỉ có người cộng sản mới có thể lật đổ người cộng sản". Trần Mô có lý nếu y muốn nói CS phản tỉnh, giác ngộ và sám hối, sẽ lật đổ CS ngoan cố vì họ bị phản bội trắng trợn.
Khẩu hiệu "Yêu Nước là yêu Xã hội chủ nghĩa" nay đã trở thành vô nghĩa. CS hiện bí lối. Tiến hay lùi thì vẫn chết! Thảm trạng là đất nước - vì chúng - cũng rơi vào bế tắc. Đất nước không thể ngóc đầu ngày nào còn Xã hội chủ nghĩa. Sở dỉ CS còn sống cầm hơi là vì cánh cổ võ cho dân chủ chưa đấu tranh đúng mức, quá rời rạc , thiếu lãnh đạo và quá vọng ngoại. Mặt khác, cũng vì QĐND chưa ý thức được chân sứ mạng của mình.
Sớm muộïn gì chính sách của Hànội cũng sẽ làm cho tức nước vỡ bờ. Phong trào đòi dân chủ, tự do sẽ kết hợp. Hình thức đấu tranh ôn hòa chuyển dần qua bạo động. QĐND sẽ phản ứng ra sao nếu được Đảng triệu tâp để tái lập trật tự? Bắt tay với Đảng ư - trong tư thế đồng lỏa - để tàn sát nhân dân? Hay noi gương Roumanie thời Ceaucescu và Liên Sô thời Gorbatchev- Yeltsin, để ngã về phía đại chúng tượng trưng cho chính nghĩa? Các tướng CS bảo thủ không chắc điều khiển nổi Quân đội trong giờ phút của sự thật. Khí thế vũ bảo của quần chúng sẽ lôi cuốn Quân đội vào cách mạng. Không còn ai u mê sống chết cho một nhóm mafia ăn hại.
Hoàn cảnh diễn biến có thể đẩy Quân đội vào vai trò trọng tài giữa Dân và Đảng để tránh nội chiến. Lúc đó, dưới áp lực của cơn sốt đấu tranh, cấp chỉ huy giác ngộ sẽ cố gắng hòa giải, theo đường hướng cải cách. Trách vụ của Quân đội trong một nước không phải chỉ bảo vệ lãnh thổ quốc gia mà còn che chở đất nước chống độc tài. Lật đổ chuyên chế là trách vụ ưu tiên vì đó là điều kiện tất yếu để phát triển. Sức mạnh của dân tộc không dựa vào nhân số mà vào ý chí quật khởi để tiến tới.
Quân đội là tinh hoa và hy vọng của đất nước. Quân đội không thể vì Đảng mà phản Dân. Vì có Dân mới có Đảng. Phải đặt Đảng sau Dân. Dân tộc trường cửu trong khi đảng phái và chế độ chỉ lót đường cho Lịch sử.
Bởi thế, để cứu nước, QĐND không có quyền bỏ qua cơ hôi này. Muốn xứng đáng với danh xưng "Quân đội Nhân dân", Quân đội phải là một quân đội bởi dân, của dân và vì dân. Dân Việt nam. Không Cộng sản. Không ngoại lai.
Quân Đội Nhân Dân không còn một sự chọn lựa nào khác.
LÂM LỄ TRINH
Ngày 5. 3.2002
Thủy Hoa Trang lamletrinh
Californie
* Đọc những bài khác của tác giả bằng tiếng Việt, Anh
và Pháp trên trang nhà http://www.centralstatio.net/
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 047
No comments:
Post a Comment