Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Saturday 17 December 2016

VÕ PHIẾN =HÀN SONG TƯỜNG=TÔ KIỀU NGÂN=PHAN VĂN DẬT

 

VÕ PHIẾN * MAI SAU

MAI SAU

Võ Phiến

Quê tôi có cái hát bộ là nổi tiếng. Cụ Tản Ðà từng bảo: “Tuồng Bình Ðịnh, rạp Phú Phong.” Tuồng là tác phẩm viết ra, rạp là chỗ diễn tuồng. Viết tuồng hay, diễn tuồng cũng giỏi nữa; thế là xuất sắc mọi bề? Tôi nghe vậy, biết vậy.
Rồi có lần gặp bài Lỗ Tấn về chuyện xem hát ở xứ ông. Chuyện thật ngộ. Xem qua nhớ hoài.(1) Lỗ tiên sinh viết bài ấy năm 1922, tức năm ông vào khoảng tứ tuần. Bảo rằng trong vòng hai mươi năm qua ông chỉ xem hát Tàu ở Bắc Kinh có hai lần. Lần đầu vào năm 1912, tức năm ông 31 tuổi. Ông nghe bạn nói hát tuồng ở Bắc Kinh là nhất, thế nào cũng phải xem cho biết.

Thì xem. Ðêm ấy, ông hớn hở vào một rạp hát. Tuồng đang diễn, kèn trống inh ỏi, sắc màu rực rỡ, khách xem đông đảo… Ông len lách vào chỗ có mấy chiếc ghế trống, toan ngồi, thì nghe có tiếng la: “Ấy! Ghế đã có người giữ trước cả rồi đấy.” Loanh quanh tìm mãi không có chỗ ngồi, ông tháo lui, bỏ cuộc.
Lần thứ hai – ông không nhớ năm nào – có đêm hát gây quĩ cứu trợ nạn nhân bão lụt ở Hồ Bắc. Ông mua tấm vé hai đồng bạc để được vào Ðệ Nhất Hí Viện xem một bổn tuồng do nhiều đào kép ưu tú và có cả diễn viên thượng thặng là Tan Xinpei (2) đích thân trình diễn. Ai nấy nhấn mạnh vào chỗ đặc biệt quan trọng ấy. Ðến giờ, ông vào thì rạp đã chật cứng, không chỗ chen chân. Trên sân khấu đang có anh kép đóng vai một bà lão hát ê a. Kép nào vậy? Ông lên tiếng hỏi, bị người khán giả bên cạnh đáp vắn tắt, tỏ vẻ khó chịu. Từ đó ông không dám hỏi han quấy rầy ai nữa. Ông lặng lẽ xem một nữ nhân vật cùng hát với con nữ tì bên cạnh một cụ già, rồi một đám đánh nhau toán loạn, rồi hai người đánh nhau, rồi ba kẻ đánh nhau v.v… Ông không biết ai là ai. Ông cứ thế xem miết giờ này qua giờ khác. Tới mười hai giờ khuya vẫn chưa thấy bóng dáng kép thượng thặng Tan Xinpei đâu. Cuối cùng ông đành len lách thoát ra khỏi Ðệ Nhất Hí Viện. Bên ngoài vắng vẻ: lơ thơ mấy chiếc xe kéo chờ khách, lơ thơ mấy người có lẽ chờ đón đám đàn bà ra về khi vãn hát. Tuyệt không thấy tăm hơi Tan Xinpei.
Sau lần ấy, Lỗ Tấn nghĩ rằng giữa ông với tuồng hát Trung quốc thế là dứt tình.
Bỗng nhiên một hôm ông đọc được một cuốn sách Nhật viết về tuồng hát Trung quốc. Sách có chỗ cho rằng tuồng Tàu nhiều chiêng trống ồn ào nhảy nhót rộn rịp náo nhiệt quá cỡ, không tiện đem diễn bên trong hí viện; nhưng nếu đem diễn tuồng ngoài trời và ta ở cách khoảng xa xa mà thưởng thức thì có chỗ thích thú. Lỗ Tấn tiên sinh lấy làm đắc ý ngay. Ông nhớ ra hồi nhỏ từng có lần được một bữa xem hát rất thích.
Bấy giờ ông mới độ mười một muời hai tuổi, sống ở Luzhen, theo mẹ về quê ngoại vào mùa hè. Nhà ngoại ở thôn Pinqiao, gần biển. Thôn nhỏ thôi, dưới ba chục gia đình. Chú bé từ xa về đó được cưng chiều trọng đãi như khách quí, chú khoái quá trời. Trẻ đồng lứa xúm nhau kéo tới, cùng chơi, vui vẻ hết cỡ. Ðám trẻ, chín mươi chín phần trăm không biết chữ. Bé ở Luzhen về thì đọc sách vanh vách! Cả bọn đào trùn, câu cá, theo trâu ra bãi cỏ chơi đùa. Nhưng điều bé Luzhen ao ước nhất là được xem hát ở Zhaozhuang, xa chừng năm dặm. Thôn Pingqiao thì bé quá, không có nổi một rạp hát; hàng năm, đến kỳ, dân làng phải đi Zhaozhuang xem hát. Ði đường thủy; một con thuyền sáng đi chiều về.
Khi đám trẻ đưa ra chuyện đi xem hát, bà ngoại nhiệt liệt tán thành. Nhưng lúc ấy thuyền đã đi mất rồi. Ngoại đốc thúc, vẫn không ai xoay được phương tiện nào khác. Xế chiều, cậu bé Luzhen tưởng tượng ra cảnh buổi hát khai diễn, tưởng tượng tai mình nghe tiếng trống tiếng kèn, và nghĩ mấy thằng bạn ở rạp hát đang uống sữa đậu nành mua ngay bên sân khấu. Cậu đang rầu rĩ thì thằng Shuangxi chợt nẩy ra ý kiến: Thuyền của ông Tám vừa về. Tại sao không…? Hơn chục đứa bạn cùng bé Luzhen nhào lên thuyền, rối rít. Lũ trẻ con nhà thuyền chài đều biết bơi cả, không có gì đáng lo. Bà ngoại hài lòng.
Trăng sáng đầy sông, đám trẻ líu lo nói cười rôm rả; nước vỗ mạn thuyền, lúa và đậu xanh mướt trên đồng ruộng hai bên sông. Lát sau bắt đầu nghe tiếng trống kèn, tiếng hát. Rồi Zhaozhuang xuất hiện. Thuyền ông Tám tiến tới, nhưng không thể chen vào gần sân khấu. Vả lại cái diễn xuất xem ra có vẻ uể oải: Dân làng sáng phải ra đồng làm việc, nên đã lo kéo nhau về nhà ngủ; các gia đình khá giả thì rút vào khoan thuyền ăn bánh, ăn trái cây, cắn hột dưa v.v… Rạp trống khách, đào kép hát xướng múa men không mấy hào hứng.
Cậu bé Luzhen thấm mệt, nhờ thằng bạn mua nước đậu nành uống chơi. Nó bảo: Ngày hôm nay nó có uống được hai bát, nhưng giờ này lão điếc bán nước đậu đã về mất rồi. Cậu Luzhen thất vọng. Xung quanh, trên sân khấu cũng như dưới đám khán giả đều uể oải. Mãi tới lúc một tên hề mặc áo đỏ được dắt ra buộc vào cây trụ rồi một lão già nhảy lên lưng cưỡi làm ngựa, bấy giờ ai nấy thích chí cười ầm ĩ. Cậu bé Luzhen cho đó là màn hay nhất của đêm hát.
Lát sau một vai lão bà ra, ngồi trên chiếc ghế giữa sân khấu, hát hoài hát hoài. Ðám trẻ lo không chừng bà ta sẽ hát mãi tới sáng, bèn rủ nhau rút êm, xuống thuyền, dông về. Xem vị trí vầng trăng trên bầu trời, đoán chừng cả bọn vào rạp cũng chẳng được bao lâu. Kèn quyển vẫn nổi lên réo rắt, đèn vẫn sáng trên sân khấu, nhưng không còn sức thu hút đám bạn trẻ nữa.
Thuyền về còn cách Pinqiao chừng một dặm thì mấy tay chèo kêu mệt kêu đói. Dừng thuyền, xúm nhau nhảy lên bờ, vào các đám đậu của mẹ thằng Afa và của cụ Liu Yi mà hái lia lịa. Rồi nhóm lửa lên, nấu đậu, xơi thật ngon lành. Ăn xong, rửa nồi, đổ vỏ đậu xuống sông, không để lại dấu tích gì. Chỉ còn lại cái đáng lo là thằng Shuangxi đã tự tiện lấy củi và lấy muối ngay trong thuyền của ông cụ Tám ra dùng. Thuyền về tới bến, cậu bé Luzhen đã có mẹ chờ đón sẵn. Cả bọn giải tán, cậu Luzhen ngủ vùi một giấc tới trưa hôm sau.
Cụ Liu Yi tới, rầy quở đám nhóc về chuyện hái trộm đậu và phá phách, thì thằng Shuangxi đáp ngay là bọn chúng đã tiếp đãi một khách từ phương xa về mà: “Nè, khách nè, cụ xem!” Cụ Liu trông thấy bé Luzhen, niềm nỡ ngay:
– Cậu Xun! hát tuồng đêm qua cậu thấy hay không?
– Thưa hay.
– Thế cái đậu ăn đêm qua, ăn có thích không?
– Cháu thấy ngon lắm.
Cụ Liu Yi hân hoan tuyên bố: Người ở đô thị lớn, có học, quả là biết ra ngay cái xấu cái tốt. Tôi đã chọn lựa đậu giống từng hạt một, mà dân nhà quê không nhận thấy đậu tôi hơn hẳn đậu thiên hạ! Tôi sẽ bảo đem tặng mẹ cậu một mớ đậu ngay hôm nay, ăn thử xem…
Nghe nói rồi khi gặp bà mẹ, cụ Liu có lời khen cậu nồng nhiệt: Cậu ấy còn bé mà đã biết rành rẽ đâu ra đấy. Rồi về sau thế nào cũng đậu đạt cao. Thật là phúc nhà…
Từ đó tới giờ chưa bao giờ cậu được ăn thứ đậu nào ngon bằng và được xem đêm hát nào hay bằng đêm hát hôm ấy.
Lỗ Tấn viết vậy, tôi cũng biết vậy thôi.
Cụ Tản Ðà bảo xem tuồng này ở rạp nọ, cụ không có lời chê khen rõ ràng, tôi bất quá có thể đoán cụ vừa ý, chứ đâu dám đi xa hơn.
Cụ Lỗ Tấn hư hư thực thực. Trong bài văn, nhân vật là “tôi”; nhưng bài viết được xếp vào thể loại truyện, không phải là ký. Mình đâu dám tự tiện gán mọi cái làm cái nghĩ của “tôi” cho tác giả! Thí dụ cái mà “tôi” tán thưởng nhiệt liệt nhất trong đêm ấy là cảnh người nhảy thót lên cưỡi lưng ngựa hề và bữa ăn đậu hái trộm. Cho vàng mình cũng không dám bảo đó là quan niệm của Lỗ tiên sinh về tinh túy của tuồng hát Trung quốc.
Dù sao tôi vẫn cứ lưu luyến với câu chuyện của Lỗ Tấn. Chuyện tiên sinh kể về đám trẻ con xem hát bên Tàu làm tôi liên tưởng tới một kỷ niệm ấu thời về chuyện trẻ con xem hát bên ta. Xem “tuồng Bình Ðịnh”, như cụ Tản Ðà đã xem. Nhưng xem ngay tại làng tôi, không phải ở “rạp Phú Phong”.
Bấy giờ – độ chừng năm 1935 hay 1936 – tôi cũng vào khoảng tuổi như nhân vật của Lỗ Tấn. Ðám hát do ông lý trưởng tổ chức nhân dịp mừng nhà mới xây cất.
Ông lý có đứa con gái cỡ tuổi tôi, hàng ngày vẫn chơi với đám trẻ con trong xóm; nhờ đó chúng tôi có thể theo dõi diễn tiến trong gia đình tổ chức đám: Dựng rạp hát giữa đồng; dựng rạp tiếp khách trước sân nhà, lợp bằng lá đùng đình; mượn ván gỗ, mượn bàn ghế khắp xóm; mua heo, mổ bò… Lại có cuộc đi Qui Nhơn mua bún song thần, mua bắp sú, mua cả mấy cân củ hành tây, bún tàu, tương xại… Thím Tư Qua tự mang con dao riêng từ nhà thím đến xắt rau chuối: con dao cán dài cả thước tây, cán mài mặt đất lâu ngày mòn đi như bị vạt đứt một nhát. Chuối cây, đã chọn sẵn những cây non, nhỏ. Thím Tư xắt rau chuối khéo nổi tiếng; thím ngồi xắt suốt ngày, giúp bà lý. Rồi thợ thịt đến…
Con Vân, đứa con gái vừa nói của ông lý, điểm mặt từng đứa trong đám bạn chúng tôi, tuyên bố: “Thằng Cang: Ðược! Thằng Kiểu: Ðược. Lát nữa được cho vô coi hát. Con Phi sẽ ngồi với tao. Thằng Chiếu: Ðược! Thằng Ðiểm: Không cho coi hát, nghe chưa v.v…” Thằng Ðiểm cười to, nham nhở… Con Vân trừng mắt, nhắc lại: “Thằng Ðiểm không được vô coi hát.”
Xế chiều, ban hát gồng gánh kéo tới thì nhà ông lý đã tràn ngập khách khứa. Cánh nhỏ chúng tôi lạc nhau.
Chiều, cử hành lễ gia tiên. Bàn thờ được trần thiết huy hoàng như chưa từng thấy bao giờ trong khắp làng. Ông lý, bố của bé Vân, mặc áo thụng xanh, đội chiếc khăn mới tinh. Lễ cử hành. Ban nhạc của gánh hát với bao nhiêu thứ kèn trống cùng nổi lên. Trước đôi mắt ngơ ngác của bé Vân, bố nó đứng lên, quì xuống, lạy, vái, theo tiếng xướng ngân nga đĩnh đạc.
Suốt hai ngày ba đêm, con Vân không có dịp kiểm điểm đám bạn. Cả bọn khi tụ khi tán, tản mác, tung tăng, khi đến rạp, khi về nhà, chăn bò, cắt cỏ, khi ngồi ăn những món hàng bày bán xung quanh rạp. Hai gánh xu xoa, ba gánh bánh tráng thịt lụi, bày bán suốt ngày đêm. Xu xoa là quà ngọt, nấu bằng rau câu vớt dưới biển, nấu tan ra nước, để nguội đọng cứng lại. Múc vào chén, dùng muổng xắn nhỏ, chan nước đường vào. Còn thịt bò ướp sả, tiêu, tỏi, ớt…, nướng than, thơm điếc mũi, cuốn vào bánh tráng với rau thơm, chuối chát non, khế, chấm tương đậu phộng… Ăn tại chỗ, ngồi trên những chiếc chiếu trải ngay giữa ruộng khô, hay mang đi chọn chỗ thích ý, ngồi trên các bờ ruộng, hưởng gió mát trăng thanh, nhẩn nha thưởng thức món ngon. Với bạn, với bồ. Vừa ăn, vừa chuyện trò, vừa nghe hát, nghe nhạc…
Những dịp ấy, đám bạn chúng tôi gặp nhau, trao đổi ý kiến inh ỏi. Thích nhất các trận đấu ác liệt trên sân khấu, rồi các màn hề nói xạo. Không đứa nào trong bọn có chỗ ngồi trong rạp. Cứ len lách chui ra chui vào, thoắt biến thoắt hiện. Tôi có cảm tưởng đứa được xem hát nhiều nhất là thằng Ðiểm. Ðứa xem ít nhất là con Vân.
Ra vào rạp hát không phải chuyện dễ dàng. Rạp trống bốn bề. Không có chiếc ghế nào. Không có thứ chân ghế vững chắc có thể chịu đựng nổi sự xô đẩy ác liệt trong một rạp hát; chỉ có những tấm ván lát trên những cây cọc đóng sâu xuống đất, trói kết vào nhau chặt chẽ bằng dây cật tre tươi. Khán giả chiếm được chỗ gần sân khấu nhất thì ngồi. Lớp sau nhướng mắt xem qua khe cổ của những người ngồi trước.
Lớp sau nữa: phải quì gối, phải nhấp nhổm. Lại sau nữa thì đứng trên phản, vịn vai nhau, ôm cổ nhau cho vững. Lớp khán giả muộn màng, ở vòng ngoài cùng thì chân đứng trên ván, tay giơ cao bấu vào mái rạp.
Trong hoàn cảnh như thế, mỗi khi có người – hoặc lớn hoặc bé – từ trong lách ra hay từ ngoài chui vào, vẹt một lối đi, là cả một nhốn nháo chí chóe, rất bực mình. Cánh phụ nữ khoái xem đào hát than thở: đang theo dõi một cô đào đẹp đẽ lâm ly cảm động muốn chết, mà bị xô đẩy xiêu vẹo cả hàng ngũ thì…
Xế chiều ngày thứ hai, thằng Ðiểm gặp tôi trong lúc nó đang ngồi trên một bờ ruộng, bên ngoài rạp hát, vừa ăn vừa nói huyên thiên. Do nó, tôi biết mấy chuyện động trời:
– Ngay đêm đầu tiên, có một bà từ làng bên đến xem hát, bị mấy đứa ngỗ nghịch khiêng chạy. Bà nọ kêu la inh ỏi náo động: Trai làng xông ra đuổi theo, giải thoát. Nạn nhân khóc sướt mướt, được hộ tống đưa vào chỗ ngồi gần sân khấu.
– Ðêm thứ hai, một cô gái đứng ở tấm phản gỗ mép rạp, tay bám vào mái rạp, bị thanh niên ngồi sát đất, ngửa mặt thổi bông bồn bồn vào ống quần, thổi ngược lên. Cô gái ngứa gãi như điên; không chịu nổi, cả bọn kéo nhau về…
– Một đứa bạn của nó (tức thằng Ðiểm) mang quả thị chín, lẻn vào hậu trường, bị bắt gặp, bỏ chạy. Suýt bị đòn v. v…
Thằng Ðiểm cao hứng mời tôi một cuốn bánh tráng thịt lụi. Nước mắm rắc sẵn đủ độ mặn. Ngồi ăn ngay tại bờ ruộng. Tôi chưa từng được ăn cuốn bánh nào ngon thơm như cuốn bánh hôm ấy.
Sau đám hát, lũ bạn trong xóm chúng tôi lần hồi tụ tập sinh hoạt, bàn tán, cãi cọ. Tôi không thấy bé Vân cho biết đã thích tuồng tích nào nhất. Chỉ thấy nó tỏ vẻ quyến luyến cô đào chính, và đôi lần khoe với chúng tôi những chuyện đã biết về cái son cái phấn của cô ta; nó rất “thương” cô ta khi cô nức nở khóc trên sân khấu.
Thằng Cang bảo bố nó bận công việc, chỉ vào rạp được một buổi; nhưng đêm nào ông nằm nhà cũng theo dõi tiếng hát từng vai tuồng, tiếng trống chầu của quan khách. Tiếng hát, gió đưa về, có lúc nghe rõ mồn một. Bố nó nhiều lần lên tiếng hát theo – í a í á – từng đoạn dài. Gặp bạn hoặc đến nhà hoặc ngoài đồng, ông chê ông khen…; ông bảo “thằng” (kép) này giọng còn tốt hơi còn mạnh lắm, “thằng” kia – tội nghiệp – không bám sân khấu được bao nhiêu năm nữa đâu v.v…
Ðám hát kết thúc, bà mẹ con Vân vùi đầu ngủ li bì luôn một mạch hai ngày một đêm, bỏ ăn bỏ uống.
Ngót năm mươi năm sau, tôi gặp lại “con bạn” ở Mỹ. Nó rời Việt Nam theo diện O.D.P., “nó” đã thành bà, cháu nội cháu ngoại đủ thứ. Có cả chắt. Nó không còn nhớ được bao nhiêu về đám hát. Mối cảm tình, lòng hâm mộ đối với cô đào hát đã phai lạt nhiều. Hình ảnh nổi bật còn giữ lại là ông cụ mặc áo rộng xanh trong buổi lễ gia tiên: Chiêng trống, đàn địch…, ông cụ của “bé Vân” uy nghi, đứng trên mọi nhân vật khác. Tôi nhận xét: “Nhân vật ấy vượt thời gian!” Bà bạn già cười: “Vượt tuốt hết.” Và thêm: “Mẹ tôi không ra tới rạp, không trông thấy sân khấu. Nhắc lại đám hát, cụ vừa lòng nhất là mớ củ hành tây mua tận Qui Nhơn. Ðược bà con xóm làng chú ý đến nhất. Trầm trồ: “Hành ta nhỏ mà thơm; hành tây to tướng mà chẳng có chút mùi vị gì. Tây, cái gì cũng buồn cười.”
Vân hỏi tôi. Tôi nghĩ ngợi: “Cảm tưởng có đổi thay theo thời gian. Các vai hề phai lạt dần, vì những điều họ đã nói hồi ấy, mình quên mất nhiều. Cái còn lại đậm đà ở tôi là những trận giáp chiến náo nhiệt trên sân khấu. Ðặc biệt, những trận đánh nhau có kép đeo cả lục lạc bầu, mỗi múa nhảy mỗi kêu lên rôn rổn.”…
Bà Vân xen lời: “Ðeo lục lạc bầu ở chân, mặt vẽ đen đỏ dữ dằn: đánh lớn đấy, có tướng cưỡi ngựa xông pha. Rổn rổn là ngựa đấy…” Tôi ngạc nhiên: “A! Chị thạo há!” Bà Vân bảo: “Anh Ðiểm nhà ta giải thích cả. Tướng đánh trận, thắng trận rồi, đứng nghênh ngang vuốt râu rung chân rổn rổn, hát ông ổng một hồi như trong cuộc đá dế con thắng đứng vểnh râu, kêu inh ỏi…”
Tôi cười, bà Vân cười. Hướng về đêm hát những tình cảm giễu cợt âu yếm.
Tôi hỏi thêm: “Anh ta bây giờ ở đâu?
– Ai?
– Ðiểm.
– Thì ở làng chớ ở đâu? Ở nguyên tại làng chúng ta từ ngày ấy, có nhích đi đâu bước nào!
Một lát, bà bạn lại nói:
– Ngày xưa cứ loi choi như bắt cóc bỏ dĩa, bây giờ bám riết xóm làng. Sợ buông ra, người ta ăn cắp mất xóm Cây Cầy không bằng…
Tôi bật cười: “Tới bây giờ chị vẫn còn cay cú về anh chàng ấy. Ðiểm láu cá như thế ở đâu chẳng được, gặp hoàn cảnh nào chẳng thích nghi được, việc gì chạy đi đâu cho… mệt?
– À há!
Tản Ðà, và Lỗ Tấn, và sách Nhật v.v.. như thể cùng nhau toa rập trong thái độ đối xử với món hát tuồng. Chuyện kép trẻ đóng vai bà già, cảnh chờ đợi ngất ngư, cảnh chen chúc lộn xộn trong rạp, việc ăn đậu hái trộm giữa đồng, trò đánh đá rùm beng, giễu cợt rẻ tiền v.v… là những tinh hoa của nghệ thuật sân khấu cổ đại sao? Tuồng Trung Quốc, tuồng Bình Ðịnh, rạp Bình Ðịnh, rạp Phú Phong… đều buồn cười! Vậy cái gì thu hút được số khán giả luôn luôn chật ních ở các rạp đô thị Trung Quốc, ở cả các đám hát làng Bình Ðịnh?
Các cụ không nói đến, không giải ra, sức mấy mình dám mạnh miệng liến thoắng? Các cụ không giải mà các cụ cũng không kết (tội). Thời này nhìn lại thời kia, ánh mắt không giấu được chút ngỡ ngàng, giễu cợt; nhưng cái nhìn rõ ràng là một cái nhìn tò mò, chăm sóc, đầy thiện cảm. Noi gương các cụ, tốt nhất.
Ðời sống tiến tới, biến cải. Sự đào thải cái cũ, xưa chậm nay nhanh. Kỹ thuật truyền thông tiến mạnh, cách viết cách xem văn thơ, cách thưởng thức mọi thể loại nghệ thuật đổi khác vùn vụt, quan niệm thẩm mỹ nhảy từng bước dài. Những cái mình đang hè hụi thực hiện lúc này, chúng nó sẽ chịu sự đối xử kiểu nào mai sau? “Mai sau” không phải là vài ba thế kỷ tới, e cũng không phải một thế kỷ tới đâu. Ngắn ngủi hơn thế nhiều:
“Bất tri tam thập dư niên hậu…”
Quận Cam, 11-2004
Chuyện Village Opera, trong cuốn Lu Xun Selected Works, tập một, do Foreign Languages Press ấn hành tại Bắc Kinh, lần thứ hai, năm 1980.
Tôi tiếc không phiên âm được ra Việt ngữ hầu hết các nhân danh địa danh trong bài này.

LINH SƠN * TRƯƠNG CHI

Linh Sơn, CTV Phía Trước
Trương chi là một trong những truyện ngắn được coi là “bốt chát” và gây sốc nhất của Nguyễn Huy Thiệp trong mấy chục năm ông xuất hiện trên văn đàn. Nhiều người sẽ không khỏi thấy phản cảm và “dội ngược” khi liên tục bắt gặp trong truyện của ông toàn phân với cứt. Đến nỗi, sau truyện ngắn này và một số truyện khác (kiểu như chuyện ông Móng) người ta đặt cho Thiệp cái biệt danh xấu xí: Thiệp cứt (đó là lời của Thiệp trong một bài trò chuyện với phóng viên trong nước). Đúng là thoạt nhìn ở góc độ thẩm mĩ, nhân văn, truyện ngắn này khó có thể được chấp nhận thậm chí bị liệt vào hàng “vô văn hóa”, “bẩn thỉu”… Đúng là văn của Thiệp khó ngửi thật, nó như một thứ quả lạ, vỏ ngoài xù xì, gai góc, phút ban đầu tiếp xúc ta nghe nó bốc mùi tanh tưởi. Nhưng nếu chúng ta bình tâm, kiên nhẫn, vượt qua lớp vỏ ngôn từ có vẻ “thô thiển”, “đĩ thỏa” như nhiều người từng xổ toẹt, nhiều khi ta lại chợt nhận ra, Thiệp chửi như vậy là nhẹ lắm rồi. Trương Chi là một trong những truyện ngắn kì lạ nhất của Nguyễn Huy Thiệp chứa đầy chất ám thị, với những thông điệp giễu nhại vô cùng thú vị.
Tác phẩm dựa vào câu truyện cổ tích Trương Chi – Mị Nương trong dân gian và tái sinh lại các nhân vật theo tinh thần hiện đại. Trương Chi trong tâm thức của người Việt xưa nay là hình ảnh đầy bi kịch của một người nghệ sĩ tài hoa phải chịu bất hạnh trong tình yêu chỉ vì diện mạo xấu xí. Cái đẹp của tâm hồn, của tài năng phải bị hủy diệt vì quy luật khắt khe của cuộc sống khiến người ta hoài nghi về tình yêu của con người… Trương Chi là hình ảnh của những người nghệ sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh… Thậm chí người đời sau còn dùng lí luận Marxism để cấp cho nó cái ý nghĩa sặc mùi triết học chính trị rằng Trương Chi là hình ảnh đại diện cho khát vọng tình yêu chính đáng và bi kịch thương tâm của người lao động trong xã hội xưa trước sự chà đạp của tầng lớp thống trị phong kiến… Tùy vào cách hiểu của mỗi người, song nhìn chung đây là hình mẫu nhân vật cam chịu, đầy tội nghiệp và phải chờ đợi ánh sáng tư tưởng nhân đạo của nhân dân soi rọi, ban cho cái kết cục tạm gọi là có hậu ở phần cuối tác phẩm: một sự đền đáp, xoa dịu đầy thương hại.
Đến Nguyễn Huy Thiệp, câu truyện cổ tích này được tái sinh với một cảm hứng thẩm mĩ và ý nghĩa ám thị hoàn toàn khác với truyền thống. Trong truyện cố, người ta kể rằng, sau khi hát xong câu hát cuối cùng:
Kiếp này đã dở dang nhau
Thì xin kiếp khác duyên sau lại lành
Trương Chi đã nhảy xuống sông tự trầm. Hồn chàng nhập vào thân cây bạch đàn. Người ta lấy gỗ bạch đàn tiện thành bố chén tiến vua. Mỵ Nương rót nước, nhìn thấy hình ảnh Trương Chi trong chén. Giọt nước mắt nàng lăn xuống, cái chén bạch đàn vỡ tan. Bao nhiêu oan khuất tủi hờn đến nỗi tự trầm, chỉ một giọt nước mắt thương hại đã có thể làm tan đi khối tình chốn tuyền đài lạnh lẽo. Người nghệ sĩ Trương Chi có tiếng hát tuyệt hay khiến công chúa phải tương tư, ngày đêm hao mòn vì thương nhớ. Nhưng sự phũ phàng cay nghiệt của thế thái nhân tình đã không thể chấp nhận một tâm hồn đẹp, một tài năng xuất sắc trú ngụ trong lớp vỏ xù xì. Trương Chi vô tình bị tổn thương, bị chà đạp tới mức tuyệt vọng tự kết liễu đời mình. Người nghệ sĩ ấy quá yếu đuối, tội nghiệp. Và cuộc sống chỉ dành tặng cho nhà nghệ sĩ ấy điều ưu ái duy nhất, thứ mà Nguyễn Huy Thiệp căm thù cay đắng – sự thương hại bố thí. Những dòng văn cuối truyện ngắn đã bộc lộ rõ cảm quan nhân sinh và thái độ mạnh mẽ, dứt khoát của Thiệp:
Tôi – người viết truyện ngắn này – căm ghét sâu sắc cái kết thúc truyền thống… Còn tôi, tôi có cách kết thúc khác. Đấy là bí mật của riêng tôi. Tôi biết giây phút rốt đời Trương Chi cũng sẽ văng tục.
Bởi lẽ, hình ảnh nhân vật Trương Chi đã được Nguyễn Huy Thiệp cấu trúc lại và cấp cho nó một ý nghĩa ám thị hoàn toàn hiện đại. Trương Chi ấy chính là hình ảnh khái quát cho giới văn nghệ sĩ nước ta trong gọng kiềm của cơ chế, đường lối văn nghệ hà khắc, cực đoan một thời… Thời mà Thiệp đã kinh qua – thời bao cấp. (Dĩ nhiên di chứng của nó còn kéo dài tới hôm nay). Khi mà văn chương nghệ thuật chỉ bị coi như một thứ công cụ chức năng chuyên làm cờ xí, gióng trống thổi kèn thì nghệ thuật đã đi vào cõi chết. Trong quy luật sinh diệt của vũ trụ, trời đất, văn chương nghệ thuật là dạng ý thức thượng thừa được chắt lọc từ cái tôi chủ quan, tiếng nói tự do của người nghệ sĩ. Tuy nhiên, ở các nước phong kiến Á Đông và đặc biệt là thời Liên Xô, hay thời bao cấp ở Việt Nam…văn chương nghệ thuật bị “cưỡng bức” ghê gớm, giới văn nghệ sĩ rơi vào tình trạng ức chế. Văn chương trở thành một dạng đồng ca, vạn người cùng nhép chung một lời một điệu để ca ngợi công ơn của ông X, bà Y, tổ chức Z, để mua vui và lấy lòng giới quan chức chóp bu.
Từ câu chuyện bi thương về bi kịch tình yêu của Trương Chi, Nguyễn Huy Thiệp đã tái sinh cuộc đời ấy theo dụng ý nghệ thuật riêng. Trương Chi ấy có ý nghĩa bao quát, bao trùm cả cuộc đời Nguyễn Huy Thiệp. Và thế là Thiệp đã không để cho nhân vật của mình trở nên cam chịu, tội nghiệp và yếu đuối như trong truyền thống. Trương Chi có những hành động đầy khiêu khích và lời lẽ đầy phẫn uất, căm hận: Trương Chi đứng ở đầu mũi thuyền. Chàng trật quần đái vọt xuống dòng sông. Chàng hát nghêu ngao trong nỗi buồn vinh cửu và sự bất bình, tiếng hát của chàng bay vút cao rồi chàng úp mặt vào hai bàn tay chai sạn. Chàng khóc. Không có nước mắt. Chàng cắn vào ngón tay. Một đốt ngón tay đứt trong miệng chàng. Chàng nhổ mẫu ngón tay xuống sông. Chàng nói: Cứt !…Trương Chi ấy qua cách gợi tả đầy ma mị và kinh dị của Nguyễn Huy Thiệp dường như không phải là con người cam chịu trong tâm thức truyền thống (dĩ nhiên), cũng không phải là một con người cụ thể trong một khoảnh khắc tồn tại cụ thể. Chàng Trương ấy đã hóa thân vào dòng thác lịch sử và những giá trị văn hóa cũ kĩ. Thiệp viết tiếp: Bốn ngàn năm trước chàng đã mất ngủ thế này. Bốn ngàn năm trước chàng đã đau khổ thế này, đã căm giận thế này. Con số 4000 năm nó phảng phất gợi cho ta điều gì? Đó là con số ngẫu nhiên hay là tín hiệu gợi ta liên tưởng đến sức ì của nền văn hóa già cỗi (lấp lánh tinh hoa đáng lưu giữ và cả cặn bã phải loại trừ). Những chi tiết này có tính ám thị gợi sự liên tưởng đầy cảm tính. Nhưng chắc rằng không ai hiểu theo cách thứ nhất. “Mô – típ” dạng này cũng xuất hiện trong chiếc bình bốn ngàn năm (truyện ngắn Sang sông) hay bàn chân giao chỉ trong truyện Con gái thủy thần. Trương Chi là sự hóa thân của những kiếp đời, những kiếp nghệ sĩ muôn thuở trên đất nước này. Tài giỏi nhưng yếu đuối, cam chịu. Nên cuối cùng tài hoa chỉ như một thứ đồ chơi mua vui cho những kẻ có quyền. Để phút chót nhận lấy chút lòng thương hại, ban phát tình ưu ái xem như là sự đền đáp.
Những dòng hồi tưởng của Trương Chi cho ta thấy rõ bức tranh đầy biếm họa về cái nghiệp văn chương nghệ thuật: Trương Chi mơ thấy mình bị gọi vào hát cho công chúa nghe. Hình ảnh Mỵ Nương hiện ra. Trương Chi thở dài. Nàng ngả người trên nệm. Nàng lấy những ngón tay thon thả gỡ tóc. Nàng bảo chàng:
- Hát đi!
Đám hoạn quan yêu cầu chàng: Hát ca ngợi công danh đi!
Và chàng hát. Mỵ Nương khen hay. Lũ hoạn quan cười ré lên: Hát như cứt! Rồi cả bọn thay nhau đòi chàng hát về sự nhẫn nhục, về tình yêu, ca ngợi tiền bạc…chen lẫn vào những tiếng ca hát, cười nói ồn ào ấy lời nói tục tằn của đám hoạn quan, chúng ré lên cười, mỗi lần Trương Chi hát xong lại nói: Hát như cứt!
Hiện thực bi ai của những người văn nghệ sĩ giới sự áp chế của đám ôn thần tai sai trong văn nghệ, trong “hậu cung” chính trị tất cả đã được dàn dựng bằng cảm hứng hoạt kê, được ướt lệ và đưa lên sân khấu để tạo nên tấn hài kịch quái đãng như thế. Lũ hoạn quan ấy chính là hình ảnh ám thị cho đám văn nô, bồi bút chuyên nịnh hót bề trên và dùng búa rìu giáo mác của mình hạ nhục, chà đạp những người nghệ sĩ đích thực không làm đúng theo quan điểm, chỉ thị, thông tư. Những cái tên Trương Chi, Mỵ Nương mới đầu tưởng đâu dẫn dắt người đọc vào thế giới truyện cổ tích nhưng thật ra nó chỉ là một phần của cái sân khấu mô phỏng hiện thực (đã và đang diễn ra trong đời sống văn nghệ của nước ta). Nhưng người nghệ sĩ tài hoa bị làm sứt mẻ, thui chột, biếng chất, điếm nhục chính vì lũ thái giám văn nghệ, bọn tay sai thô bỉ ấy. Thế nên, Nguyễn Huy Thiệp như nhập hồn, như hóa thân vào Trương Chi để cất lên tiếng chửi, sự căm phẫn tột cùng đối với những vị quan trong ngành văn hóa nghệ thuật, mà bằng ngòi bút giễu nhại thâm nho, ông biến chúng thành đám thái giám thô tục, chốc chốc lại ré lên cười. Nguyễn Huy Thiệp không chấp nhận sự thương hại. Không muốn là kẻ ngoan ngoãn hèn nhát. Thế nên Trương Chi của ông văng tục, phản kháng dữ dội vào cái cơ chế tàn nhẫn ấy một thời. Những tiếng văng tục đầy phân với cứt là để bộc lộ bản chất thô bỉ, dốt nát của bọn bồi bút (rất giống với bè lũ thập thường thị cuối đời Hán).
Sau một hồi giật mình, “lên máu”, “trợn ngược” với những hình ảnh, từ ngữ kì khôi, sất láo ta nhận ra nhịp đập trái tim rỏ máu đầy thổn thức của người nghệ sĩ truy cầu sự tự do tuyệt cùng cho văn chương nghệ thuật. Nghệ thuật, nhà nghệ sĩ cần được tự do. Nghệ thuật căm hận sự áp chế và lợi dụng coi nó như công cụ mua vui. Và rồi sẽ có nhiều người, đâu đó trong một phút trầm mặc về cuộc đời mình, lại sực nhận ra mình là Trương Chi hay mình chính là một trong những tên hoạn quan đó. Đừng tự biến mình thành một loại Trương Chi thời đại mới! Và chúng ta sẽ còn gặp lại dáng dấp của chàng Trương Chi tội nghiệp trong một truyện ngắn khác của Thiệp: truyện Chú Hoạt tôi.
© TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC 2012

HÀN SONG TƯỜNG * NGÀY HOÀNG HÔN CHẾT

Ngày Hoàng Hôn Chết

Hàn Song Tường

Lúc mở tủ kiếm quần áo thì một anh nhện vô cớ sa ngay vào mặt tôi rồi cong đuôi chạy mất. Bực mình tôi lẩm bẩm chửi thề. Tôi nhìn ra ngoài, trông quang đãng sau một trận mưa lớn, vậy tội gì không ra ngắm phố, ngắm đường. Tôi huýt gió rồi thay quần áo, hôm nay tôi mặc áo bỏ trong quần, sơ mi mầu nâu nhạt, đi đôi giày của tụi Versace, thằng sư tổ Versace này đã lăn quay ra chết bởi phát súng của tên tình cũ, chết thế cũng sướng, khỏi lo lắng gì cả. Rồi tôi ước cô ta, con Lý bắn tôi một viên vào tim chết tốt, tôi bỗng phá ra cười khi nghĩ Lý sẽ tức chết nếu cô biết cái bảo hiểm nhân thọ tôi đã gạch bỏ tên cô, chắc chắn Lý sẽ vừa khóc vừa chửi tôi mười năm là ít, làm sao hơn khi cô đã ngoại tình. Tôi có nói rõ với lão bác sĩ gà chết David Lillard cả tháng nay là Lý đã ngoại tình, người yêu của tôi đã ngoại tình, nhưng lão không tin, lão bảo phải có bằng chứng, cái gì thì khó chứ bằng chứng thì dễ ợt, hai ngày trước tôi đã lục ví của cô ta, một vỉ thuốc ngừa thai, lát nữa đây tôi sẽ mang vất vào mặt lão. Từ tiệm cà phê tôi đi thả bộ đến phòng mạch của bác sĩ Lillard, hoa blue bonnet đã nở tím ngập đường, gió hiu hiu, mặt trời và đất như mang một màu quạnh quẽ như nhau, xe cộ vắng vẻ lạ lùng.

Lòng tôi bỗng dưng thấy buồn rồi nhớ đến con nhện có cái bụng đốm hoa rơi vào mặt buổi sáng. Nhện ơi, nhện hỡi, hình như có ai đó đọc cho tôi nghe bài ca con nhện nhưng tôi không nhớ rõ nữa. Khi đi qua khu chợ, tôi sờ vào túi quần, vỉ thuốc ngừa thai của Lý nổi dầy cộm, lần này thì lão David thuạ Lão thua là cái chắc. Bước vào văn phòng bác sĩ sao mà vắng lặng, một vài con bệnh ngồi lặng lẽ, im lìm thấy chán nản. Tôi chờ mãi cho đến khi cô y tá có cặp vú to bằng quả dừa ra gọi tên tôi sẵng giọng Danny Hung Pham, mẹ tổ con quỷ này vô duyên gớm, nó vẫn hay cười khi gặp tôi, nụ cười như muốn chọc giận. Bác sĩ hỏi, hôm nay anh có khỏe không. Anh còn thuốc uống mà, tôi cười mỉm, bữa nay tôi mang đến cho ông xem bằng chứng, vợ tôi nó đã ngoại tình. Rồi tôi vất vỉ thuốc ngừa thai lên bàn. Bác sĩ, ông xem, một thằng không có con, tinh trùng loãng, cả đời chẳng làm cho mụ nào thụ thai được, vậy vợ tôi nó giữ cái vỉ này làm cái trò gì. Lão Lillard cầm vỉ thuốc xem kỹ lưỡng rồi đứng dậy, bật cười ầm ỹ. Chỉ có vậy thôi sao, anh bạn ơi, cô vợ anh cô ấy khôn lắm, cô ấy dùng thuốc này để tưới cây. Tưới cây, tôi hỏi lại. Lão gật gù, ừ, cứ pha một ly nước với một viên thuốc, rồi đổ xuống mỗi gốc cây một chút thì cây cối sẽ ra quả ra hoa xanh ngát cả mùa. Vậy sao. Sao cô ta không kể với tôi. Kể với anh làm gì, chuyện nhỏ mà, rồi lão gọi cô y tá mang cho lão một ly nước và bỏ viên thuốc ngừa thai vào, xong lão đổ lên mấy cây kiểng trong phòng rồi dặn dò, tuần sau bạn đến mà xem, mấy cây này lá nó xanh um lên hết, chẳng có phân bón nào tốt bằng, tin tôi đi, bà vợ anh đúng là người biết trồng cây. Tôi gật gù. Cô y tá nói ậm ừ như bị bóp cổ, con quỷ cái này xấu gái làm sao. Tôi nhún vai, bỏ vỉ thuốc vào túi áo... Lý đang dọn dẹp sách, cái tủ sách quá cao và chồng chất của tôi. Lý bảo tôi nên vất bớt những sách báo cũ, để nhìn chỉ chật và bẩn nhà. Tôi nói không. Sách vở là gia tài của tôi. Tôi còn gì ngoài chồng sách mua ở các tiệm sách cũ bán nửa giá tiền. Lý gắt nhưng anh không bao giờ đọc nữa. Đọc rồi coi lại làm gì, vậy thì phải vất đi. Không. Nó là vật bất ly thân. Nàng nhún vai rồi vất tuốt một số sách vào bao rác. Có quyển truyện in hình bìa tranh của Luciant Freud vẽ một người đàn bà nằm vạch hết ra tàn bạo thật. Tôi giật vội cuốn sách trên tay Lý, cái bìa xé toạc thảm thương, mình mẩy cô ta chia làm hai, phía dưới trên tay tôi, nửa trên của Lý. Tôi bỗng dưng muốn khóc. Có ai nỡ xé em đâu, sao em nỡ xé người tạ Tôi mắng Lý. Lý đẩy tôi ngã xuống sàn nhà, bê chồng sách ném xuống thùng rác phía dưới lầu. Tiếng kêu như đập một bên thái dương. Lý làm tôi bực bội vô cùng. Tủ sách Lý dọn dẹp vài ngày đã vơi đi một nửa. Có tiếng Lý nói, trời ạ, làm sao anh có thể giữ những quyển sách vô loài này. Tôi không trả lời, tôi nhượng bộ cô ta, cho dù cô có bảo con chim phượng là loài ác điểu, có cái mỏ to như mõ diều hâu, và giấc mộng Nam Kha là sự thật, thì thế giới này cũng chẳng tận thế hôm nay, và cho dù Lý cam chắc với tôi rằng hai vú của nàng vẫn còn trinh tiết, nàng chưa cho ai ngậm lên vú thì tôi vẫn là người chồng thứ thật của Lý, một người chồng không được ngậm lên vú vợ, đó là sự cam kết, tôi đã bằng lòng khi lấy cô... Lý nấu ăn, dọn dẹp, tóc nàng cột cao, để lộ cổ trắng đẹp, trông Lý cao quá. Tôi muốn Lý làm hòa với tôi, ngọt ngào với tôi sau khi cô vất một số sách của tôi đi, nhưng cô không nói một lời, tôi nhìn xung quanh nhà những cây kiểng xanh tốt, lão bác sĩ nói đúng, Lý đã dùng thuốc ngừa thai tưới cây. Tôi khen, em đúng là người biết trồng cây, nhưng Lý bất thần hét lên. Ông Hưng ơi. Tôi không phải bà Lý. Tôi là Karen ông nghe chưa. Bà Lý không còn ở đây nữa. Bác sĩ của ông là thằng ngụ Chữa bệnh kiểu này mười đời ông vẫn điên. Ông ấy phải cho ông nhớ là bà Lý đã chết. Chết là hết. Chết là không còn hiện diện là không có quyền gì trên quả đất này ông có hiểu không. Hôm nay ông phải đọc mười lần tên tôi. Karen, ông đọc đi. Mười lần. Nàng nói cho đã, rồi đẩy tôi vào phòng ngủ.

... Một ngày sau khi Karen mắng chửi tôi, nàng đi biệt dạng. Chị gái tôi bảo Lý hay Karen cũng là đàn bà, tìm hiểu mà chị Cô ấy đi rồi sẽ về. Lý chết hay sống cũng thế thôi. Tôi bực. Nhưng Karen đi đâu. Tôi muốn biết cô ấy đi đâu. Mấy người cứ lừa dối tôi. Tôi không muốn là kẻ điên. Nói xong tôi đập vỡ một ly nước, rồi đi ra cửa, thằng em út chạy ra cản, tôi hất nó ngã chúi, nó chạy theo năn nỉ. Về đi anh, mai tôi đưa anh đi chơi. Tôi không nói mở cửa xe, chạy ào vào phố chính... Tôi đi lăng quăng một mình. Hai bên đường người ta đi lại ồn ào. Một người đàn bà mặc áo tắm hai mảnh, giơ cao cái bảng Men will be girls. Cô gái rủ tôi vào quán rượu, không mất tiền vào cửa hôm naỵ Tôi đứng lại vuốt ve cánh tay cô tạ Cô nói, sờ thì phải trả tiền. Bỏ vào đâu. Cô chỉ vào nịt vú, tôi vạch nịt ngực cô rồi bỏ tiền vào. Rẻ chán. Cô cười môi đỏ chót, phía dưới phồng quá, đúng là đàn ông, tôi cười rồi bước vào bar rượu, bọn đàn ông, son phấn tấp nập. Lâu lâu họ tốc váy lên cho nhìn, cửa mình trắng bóc. Mẹ chúng nó cạo lông hết, người đàn ông ngồi bên cạnh nói khá lớn, đàn ông hết đó, nó kéo ra đàng sau giả đàn bà, vậy sao, hồi bước vô ông không thấy cái bảng Men will be girls. Vậy tất cả là đàn ông, ừ , ở đây không có đàn bà tốc váy, chỉ có đàn bà nhìn đàn ông tốc váy vui ghê, tôi gật gù thích thú, ngắm nhìn bọn họ đi qua đi lại, quả thật mỹ miều. Khuya lắm, thôi tôi về. Tôi nghiêng ngửa, rượu thấm say, tiếng chửi thề ào ào sau lưng, nghe quen quen chứ không tức giận, vui thật... Lý đã trở về. Cô dạy tôi hát một bài ca lạc hậu buồn cười. Tôi chê lời không hay, nghe ngô nghệ Lý vỗ tay, vậy là anh đã tỉnh rồi, hôm nay tôi muốn anh phải rõ, anh không có lỗi gì với Lý, Lý chết không phải vì anh, anh phải hiểu anh không thể không tỉnh, anh phải nhớ tôi tên Karen, một người nhận tiền của hãng bảo hiểm để trông nom anh, một nữ y tá 30 tuổi và có bồ, có thuốc ngừa thai để trong xách tay, tại sao anh dám lấy của tôi, tôi không muốn nghe lời bác sĩ của anh nữa, hắn bắt tôi lặng thinh, tôi cứ là Lý thì anh sẽ không là anh. Tôi là Karen, nàng hét vào tai tôi, tôi che mặt. Nàng thẩy cho tôi ổ bánh mì, miệng vẫn lải nhải, Lillard là tên ngu, một bác sĩ ngu, hắn không nhận ra anh chỉ là một người mất trí giả. Một người sống giả, giả mãi rồi thấy hay quá không muốn tỉnh nữa. Từ nay nếu anh không gọi tôi là Karen, tôi sẽ nghĩ việc, không đến đây nữa. Tôi gật đầu, đưa tay thề. Cô hỏi, hôm qua anh đi đâu.

"Đi xem bọn giả gái"

"Họ đẹp không."

"Đẹp đến sợ."

"Họ giống ai."

"Giống Lý." Tôi chỉ cô.

Cô nghe nhẩy xổ, tát bốc vào mặt tôi.

"Nói lại ngaỵ"

"Giống Karen."

Tôi nói rồi xoa má, cô suýt xoa.

"Sao anh không đánh trả tôi."

"Đánh trả cô chết thì sao."

"Tôi không chết, lần sau anh phải đánh lại tôi nhớ không."

Tôi vẫn nói, tôi sợ em chết mất, em không đến đây nữa. Cô cúi mặt, bắt tôi nói lại. Tôi sợ Karen không đến làm việc nữa, tôi phải nói bốn lần, cô khen ngoan rồi ôm lấy tôi... Tháng mười trời lạnh Karen dẫn tôi đi ăn sáng, bây giờ tôi phải gọi cô là Karen, không cô lại đánh tôi, mấy tuần qua tôi cứ bị đòn luôn vì gọi cô tên Lý. Hình như Lý đổi tên rồi, tên Lý không hay sao em, tên Lý là hoa Lý, hoa Lý đẹp và thơm, em đã nói với tôi như thế, sao em lại đổi tên đi, cả cái nốt ruồi trên môi em cũng cắt vất đi đâu. Lý ôi, Lý ơi... Karen chở tôi đi phía nam thành phố, Karen bảo nhà ở đây sờ cháy tay, mắc kinh khủng, mỗi ngày mỗi tăng giá, tôi nghe nói gật gù, hình như đã lâu tôi không để ý chuyện gì cả. Khi vào tiệm ăn trưa, cô lại kể chuyện đụng xe, một tai nạn của ai đó, họ có cái tên giống hệt tôi và Lý. Người đàn bà tên Lý đã chết. Sao tôi không biết. Nàng nhún vai, vì anh không muốn nhớ. Tôi nói, thôi bỏ chuyện đụng xe, nghe không vui. Ừ, cô gật, tôi hỏi cô, cô có thể cho tôi nghe nhạc, cô bảo chờ đi đến đầu tháng tới bà Tina Turner về đây tôi sẽ dẫn anh đi xem, chắc anh cũng thích bà này, một bà 60 tuổi nhảy tưng tưng hát thống thiết. Tôi mê bà này vô cùng. Tôi cãi, tôi chỉ thích ca sĩ Việt. Ai, cô hỏi.

"Tôi không nói ra đâu, một bà cũng già rồi."

"Không sao, nghệ sĩ làm gì có tuổi. Tôi không chú ý đến tuổi tác."

Tôi cười.

"Sao ngày xưa cô bảo ca sĩ già hát hết hay không còn hơi."

"Không phải tôi nói."

"A, Lý nói thế."

"Sao anh cứ nhớ Lý mãi vậy, tôi thì sao. Thôi

anh cứ kể chuyện cô Lý cho tôi nghe đi. Miễn là

anh phải hiểu tôi không phải là Lý, anh nhớ nghẹ"

Tôi nhắm mắt, làm sao để tôi có thể nói với Karen con khùng điên này, Lý chính là Karen, tôi hiểu cái trò giả dạng của cô, để tránh cái chuyện chung giường với tôi, vì tôi nhớ sau một vụ gì đó, xẩy ra đến bất ngờ, tôi bị liệt mẹ nó cánh tay trái, liệt cha dương vật, nên cô chỉ muốn bỏ tôi đi. Tôi nói với cộ Em chỉ muốn đổi đời và xa lánh tôi...

Cô im lặng, có tiếng cô thở dài. Tôi lại nhắc, thôi cô hãy bỏ tôi đi, tôi đã thấy những thay đổi, lòng nào tôi giữ được, Lý hay Karen chẳng còn yêu tôi, tôi sẽ quen một mình bên cạnh bà chị ế chồng. Gió có gào ngoài phên cửa, bão có đổ một cây cầu chắc chị ấy cũng không xúc động. Rồi tôi cũng như chị, tôi bỗng khóc ấm ức. Cô dẫn tôi ra xe vỗ về. Anh Hưng anh không được đuổi tôi. Cô nói rồi lau nước mắt cho tôi. Trời đã bắt đầu tối. Mặt trời đã đi ngủ. Khi vào nhà, chị tôi vẫn còn ngồi xem phim bộ. Cô đưa tôi vào phòng, nằm bên cạnh tôi. Gió mùa thu thổi lành lạnh từng nơi, rít khẽ trên nóc nhà như muốn ẩn sống nơi căn phòng tôi ở. Tôi nghe tiếng gió, tiếng thở đều đều của cô, tiếng chân chị tôi vào phòng hỏi cô về một người nào đó. Cô ngồi dậy nói, em không muốn gặp hắn nữa, chị tôi suýt xoa, tôi nghiệp em tôi, chị an ủi cô, tôi thấy cô lặng thinh, buồn buồn... Lý ơi, sao em làm mù mắt chị em tôi... Tôi choàng dậy nửa đêm, tiếng côn trùng réo vang ngoài vườn sau, dội vào tôi nỗi cô quạnh khó tả. Tôi thấy tôi không là tôi nữa, tôi như không còn hiện hữu trên đời sống này, sao họ cứ mãi gạt gẫm tôi, bác sĩ bảo cô ấy đúng là Lý, còn cô nói cô là Karen. Tôi biết tin ai. Tôi ngồi co vào góc giường, đếm từng ngón tay, ngón chân. Một lần Lý khen, tay tôi đẹp. Các ngón tay anh đẹp quá, không đẹp làm sao họa sĩ được, tôi kiêu hãnh nói vậy. Tôi ra ngoài phòng khách ngắm bức tranh tôi vẽ Lý, tôi gọi Lý thống thiết. Người trong tranh đẹp não nùng, đẹp đến sợ, hai vú trinh nguyên của cô xinh xắn làm sao, hai vú quay vòng trong đầu tôi muốn nổ, vùng ngực bỗng lạnh toát, chút âm thanh kêu cứu thoát ra từ một nơi xa thẳm nào đó dồn tôi muốn ngã quy... Tôi cắn chặt môi, máu chảy ra tươi thắm. Tôi hiểu tôi đã mất Lý hoàn toàn. Vệt máu chảy trong miệng, mặn chát. Tôi nói, Lý em đã bỏ tôi, tôi còn ai để yêu thương.

... Một tháng sau Karen dẫn tôi đến bác sĩ Lillard. Cô y tá vẫn gọi tên tôi ấm ớ. Lý kể với bác sĩ vài chuyện. Ông xoa tay cười. Ông hỏi tôi, anh thuộc tên Karen chưa. Karen giỏi thật, ông khen. Tôi nhìn ông không chớp mắt, điệu bộ của ông ta giống hệt tên tình nhân của Lý, với cái cổ dài, đôi mắt màu hạt dẻ. Chính hắn đã đoạt chiếm Lý của tôi, giết chết Lý của tôi, tôi nhớ chính hắn đã giết Lý vì ghen, hắn đúng là tên lái chiếc xe truck màu xanh tím đã đâm vào xe Lý, đúng hắn đang đóng vai tên bác sĩ Lillatrd này. Còn ai vào đây. Tôi xông lại, nắm lấy cổ hắn vật xuống nhà, tôi phải giết ông. Tiếng nói thoát ra như ma lực khiến Lillard vùng chạy, đồ vật rơi tứ tung, tôi cầm chiếc kéo trên bàn đâm vào người mình. Máu tôi đổ xuống sàn nhà, Lý ơi, em thấy không, mất em anh đau đến chừng nào...

Hơn một năm sau tôi rời khỏi nhà thương tâm trí, Karen lại trở về, nàng chọn cho tôi một nơi ở khác, nàng đã có một đứa con gái được gần một tuổi, nó nhỏ xíu, Karen bảo, nó là gia tài của cộ Tôi hỏi xin cô được bế nó. Cô gật, con bé đẹp như búp bê, cái miệng lúc nào cũng cười. Tôi ôm nó cho sát, con ai mà đẹp thế này hả Karen.

... Cơn chấn động nào làm cả nhà tôi khóc, gió mùa nào thổi tan cả một dãy hàng rào. Tôi về mang tâm trạng bằng an không thể kể. Chị tôi khóc nức khi hai tòa nhà ở New York sụp đổ. Chị nói, chị không ngờ chị yêu quê hương này đến thế, em ơi, em có hiểu không. Nỗi đau nào rồi cũng qua, ai cũng phải sống bình thường, em đã bình an chưa. Tôi gật, tôi nhắm mắt, rồi mở mắt, Karen đang múa cho tôi xem một vũ khúc người đàn bà đi tìm người yêu dưới nước, nàng múa với vũ điệu thiên nga, thân hình uốn éo, cánh tay hất cao ngang đầu, đủ cho tôi thấy nụ hoa mai đỏ xâm bên vú trái, tôi nhìn sau lưng nàng. Ngoài cửa sổ gió thổi tơi bời, Lý đang nhìn tôi cười lặng lẽ, tôi bật dậy chạy theo Lý, gọi cô, với chụp cô, cho đến khi tôi nhìn tôi nằm vật trên nền gạch, mắt hé mở nhìn lên bầu trời cao và thăm thẳm màu hoàng hôn. Trời New Orleans thấy đẹp vô cùng. Ai đó lật tôi sang một bên, có bàn tay của Karen vuốt lên mắt tôi, nước mắt nàng rơi tơi tả như mưa, nước mắt thắm vào môi tôi da mặt tôi. Chị tôi đã rẽ đám đông, ôm chặt tôi vào lòng. Tôi thấy máu trong miệng tôi bắt đầu ứa ra chảy xuống đùi chị. Chị tôi ấm quá, truyền hơi ấm sang tôi, đó là lần cuối tôi ở cõi đời này. Một ngày rất đẹp, tôi đã nắm được tay Lý rồi, Lý sẽ không bỏ tôi đi nữa. Nàng âu yếm, em sẽ mãi bên anh. Chân chúng tôi đạp lên ánh hoàng hôn mà bước, tương lai rộng như bầu trời này. Tôi sẽ chẳng bao giờ cần Lý trả lời. Tại sao nàng ngoại tình. Trả lời chỉ là dư thừa. Tôi cần gì đoái hoài đến sự yếu đuối của nàng ngày ấy. Chúng tôi như đi lạc vào rừng mây kia. Mây đưa chúng tôi đi thật xạ Hoàng hôn đỏ thắm trên người nàng. Đôi vú thanh tân cũng nhuốm đỏ, nàng mỉm cười, nụ cười hoàng hôn đẹp vô cùng. Tôi khen Lý. Tôi kéo Lý sát vào người cho đến khi ánh sáng đã tàn và hoàng hôn liệm chết dưới chân đồi. Chúng tôi cùng tan biến mất.



Hết

NNS* TÔ KIỀU NGÂN

Kiều Ngân


Kiều Ngân tên thật là Lê Mộng Ngân, người Huế . Ông đa tài lắm: ca hát, làm thơ, ngâm thơ, thổi sáo . Một số bài thơ về Huế của ông được phổ nhạc như “Những Con Đường Trắng” . Ông ngâm bài “Đây Thôn Vỹ Dạ” (Hàn Mặc Tử) thì phải nói là tuyệt . Đa số nghệ sĩ ngâm thơ bài này đều bắt chước lối ngâm của ông . Ông thổi sáo đệm cho nhiều nghệ sĩ ngâm thơ nổi tiếng như Hồ Điệp, Hoàng Oanh, Hoàng Thư, Quang Minh, Quách Đàm . Trước 1975, ông cộng tác với ban Tao Đàn và Thi Nhạc Giao Duyên của thi sĩ Dinh Hùng . Khi Đinh Hùng qua đời năm 1967, ông phụ trách ban Tao Đàn .

Hồi còn bé ở Dalat, NNS được Ông Anh họ dẫn vào trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị, đối diện trường Trung học Bùi Thị Xuân, dự ké ngày bãi trường của Khóa 30 (?) Căn Bản CTCT năm 1974. NNS lúc đó còn bé lắm, nhưng vẫn nhớ đến hình ảnh một Sĩ quan mang cấp bậc Thiếu tá, mặc đồng phục trận xanh ô liêu, cổ quấn khăn màu xanh da trời, thật phong độ, mà Ông Anh bảo Thiếu táKiều Ngân đấy: "có tiếng sáo tuyệt diệu, chả thua gì Nguyễn Đình Nghĩa đâu"... NNS thán phục lắm, về đòi học thổi sáo cho được . Nhờ thế mà hôm nay NNS thêm một món ăn chơi khác: Sáo cũng kha khá, ngoài violin học chính quy từ trường Âm Nhạc Thụy Điển.

Ông Anh còn kể lại câu chuyện T/táKiều Ngân từng viết bài Thơ in trong truyền đơn rải xuống chiến khu của Bộ đội miền Bắc, gọi Chiêu hồi, giò NNS vẫn nhớ:

"Từ buổi con lên đường xa Mẹ

Theo anh em sang Lào rồi dấn bước vào Trung

Non xanh núi biếc chập chùng

Sớm nắng biển, chiều mưa rừng gian khổ

Tuổi thanh niên cuộc đời như hoa nở

Vì hòa bình đâu ngại bước gian nguy

Sáu tháng trời, ngày nghỉ đêm đi

Giày vẹt gót áo sờn vai thấm lạnh

Có những chiều Trường Sơn núi rừng cô quạnh

Mẹ hiền ơi con nhợt nhớ Quê mình..."

Mục đích để lung lạc lòng các anh Bộ đội: Sinh Bắc tử Nam, trên đường đi B... Đúng là một Sĩ quan CTCT.. Giờ nhìn Ông đã già lắm rồi (SN 1926, cùng tuổi với Nhạc sĩ tài danh Anh Bằng), NNS thấy bùi ngùi cho một thời Oanh liệt của lớp đàn anh.

Mời Thân hữu đọc ThơKiều Ngân :
....................................................................................................



NHỚ HUẾ


Anh nhìn em như nhìn thấy quê mình

Ôi xứ Huế thân yêu chừ xa khuất

Nghe em ngâm những âm thanh trong vắt

Anh hình dung thấy bóng

Một con thuyền

Một giải sương mờ

Một khóm trúc nghiêng nghiêng…

Những kỷ niệm ngày xa xưa bừng dậy

Âm thanh ấy thoát từ câu mái đẩy

Tiếng "hò….ơ.." nghe đứt ruột, buồn sao

Biết mấy đau thương, cũng biết mấy ngọt ngào

Lưu luyến ngàn đời

Như không muốn dứt

Giàn mướp vàng con ong bay hút mật

Trưa thiu thiu chày giã gạo buồn tênh

Giọng hò ru em rười rượi cất lên

Em đã ngủ sao chị còn ru mãi

"À…a…ời..

Hai tay cầm bốn tao nôi

Tao thẳng,tao dùi, tao nhớ, tao thương"

Có phải trưa nay chị nhớ người thương

Nên mượn cớ ru em để ru lòng mình thương nhớ

Có phải ngàn năm thương thương, nhớ nhớ

Khiến tiếng đàn bầu thêm xé ruột bào gan

Tiếng Nam Ai rung tận đáy tâm hồn

Tiếng sáo Huế dài thêm thổn thức

Và tiếng em ngâm lơi lơi, dìu dặt

Chở buồn về vây phủ kín hồn anh

Bọn chúng mình bỏ Huế tha phương

Những thổ ngữ lâu ngày quên lững mất

Bỗng hôm nay em ngâm lên như nhắc

Ôi vui sao giọng Huế của quê mình

Tưởng như mình đang đừng ở Bao Vinh

Đang thơ thẩn bên bờ sông Gia Hội

Vỹ dạ , Kim Luông, Nam Giao , Đất mới…

Nghe thân yêu biết mấy tiếng quê ta

Nhớ giọng hò, điệu hát lời ca

Nhớ hường thầu đâu ngát đường Giao Thủy

Nhớ mái chèo khua bên bờ thôn Vỹ

Nhớ bánh bèo, cơm hến, nhớ chè sen

Nhớ phấn thông vàng rụng lối đi quen

Hột móc , hột muồng, trái sim, trái vả

Nhớ hồ Tịnh tâm thơm sen chiều hạ

Nhớ quít Hương Cần, nhớ cốm Hai lu

Nhớ bờ tre vọng mãi tiếng chim cu…

Ngâm nữa đi em bài thơ giọng Huế

Chúng ta sẽ đưa nhau về thăm quê mẹ

Bằng con thuyền êm ái của thanh âm

Ngâm nữa đi em, ngâm nữa đi em.

Cho vợi nhớ thương thầm….



Giọng Huế


Ngắt một chút mây trên lăng Tự Đức

Thả vào mắt em thêm một dáng u hoài

Đôi mắt ấy vốn đã buồn thăm thẳm

Thêm mây vào e tan nát lòng ai

Anh quì xuống hôn lên đôi mắt đó

Bỗng dưng sao thương nhớ Huế lạ lùng

Chắc tại em ngồi bên anh thỏ thẻ

Tiếng quê hương xao động đến vô cùng

" Hèn chi rứa? răng chừ? em sợ lắm"

Mạ ngày xưa cũng từng nói như em

Anh mất mạ càng thương em tha thiết

Như từng thương câu hát Huế êm đềm….

Cám ơn em đã cho anh nhìn lại

Giòng sông Hương trên bến cảng Sài Gòn

Nước như ngọc in bóng thuyền lấp lánh

Mái chèo khua vương nhẹ nhánh rong non


Nếu lại được em ru bằng giọng Huế

Được vỗ về như mạ hát ngày xưa

Câu mái đẩy chứa chan lời dịu ngọt

Chết cũng đành không nuối tiếc chi mô..


Vườn Huế



Xanh mấy từng xanh vườn của Huế

Trúc, cam, chanh, khế, lựu, thanh trà…

Áo cổ y phơi ngoài giậu nắng

Mùi thơm bông mộc thoảng bay xa


Khuôn mặt em đâu phải chữ điền

Trúc không che ngang mà che nghiêng

Để anh mượn cớ đi qua đó

Liếc trộm ra về dạ mới yên


Em vẫn ra vào như bó mơ

Sớm mai vườn ướt đẫm sương mờ

Đến trưa hoa nắng thêu ngoài ngõ

Và tối trăng về đậm ý thơ.


Anh đi qua đó mấy trăm lần

Chỉ dám đi qua không dừng chân

Nghe tiếng đàn em vang thánh thót

Đủ cho lòng một thoáng bâng khuâng


Cho đến ngày em đi lấy chồng

Anh qua vườn chỉ thấy vườn không

Vườn xưa giờ vẫn xanh ngăn ngắt

Có thấu lòng ai buồn mênh mông.





Đưa em về thăm Huế



Rất tiếc chưa đưa em về thăm Huế

Bằng con tàu chạy suốt mấy ngày đêm

Để em ngắm những rừng dừa xoả tóc

Bãi cát vàng sáng mát dưới trăng êm.



Tàu vẫn chạy trong đêm khuya vằng vặc

Bóng Trường sơn lồng bóng biển chập chùng

Ngọn tháp Hời chơ vơ trên đỉnh núi

In một chấm buồn vào xanh thẳm mênh mông.



Em sẽ đi qua sông Trà, sông Vệ

Qua Ngũ Hành sơn, trèo núi Hải vân

Đi hết bãi Lăng cô, Thừa lưu, Nướt ngọt

Huế thân yêu mỗi phút một thêm gần.



Đã đến nơi rồi, quê hương anh đó

Xanh xanh xanh, xanh núi, xanh sông

Trắng nón bài thơ, vàng mơ nắng lụa

Gốc phố khoe tươi đóa phượng hồng.



Em hãy đứng lặng yên một phút

Soi bóng mình dưới mặt nước Hương giang

Em sẽ hiểu, câu trả lời đã rõ

Sao giọng ngâm anh êm ái dịu dàng



Chuyến đò Thừa phủ không còn nữa

Cây đa xưa cũng khuất dấu bên bờ

Mấy o áo trắng đi đường khác

Thiếu tiếng cười, sông nước cũng tương tư



Chuông Thiên Mụ vẫn sớm hôm dìu dặt

Ngọn trúc mềm vẫn ngày tháng đong đưa

Anh muốn thu tiếng chuông chùa huyền diệu

Mở cho em nghe, hoà với tiếng “Hò….ơ”



Để em thấy trong phút giây nào đó

Mình muốn tan ra cùng với tiếng chuông tan

Để nhập điệu vào tận cùng cái đẹp

Của Huế thân yêu, của Huế mơ màng.



Bà con mình bỏ Huế đi cũng lắm

Nhưng người về mỗi lúc một thêm đông

Đi hay ở vẫn thiết tha với Huế

Vẫn bao lần nghe Huế nhói trong tim



Người ta có rất nhiều nơi để đến

Chỉ một nơi thân thiết để quay về

Thắp một nén hương thăm người xưa cảnh cũ,

Đủ nghe lòng ấm lại mới tình quê.

.......................................................................................
N.N.S .
 
 


Link cố định 25/04/2009@21h41, 9467 lượt xem, viết bởi: truongchi
Chuyên mục: NGÂM THƠ
1. Mười hai tháng sáu
2. Màu tím hoa sim

3. Nguyệt cầm

4. Tống biệt hành



TÔ KIỀU NGÂN * CHUYỆN HUẾ

Chuyện Huế ít người biết

Tô Kiều Ngân




Tại sao lại gọi là Ngựa Thượng Tứ ?


Ở Huế, khi nói về một người đàn bà hung dữ, có lời ăn tiếng nói thô lỗ, cử chỉ vùng vằng, người ta thường ví kẻ đó như Con ngựa Thượng Tứ . Thượng là thuộc về của Vua . Tứ là xe bốn bánh do ngựa kéo . Gần cửa Đông Nam, một trong tám cửa của kinh thành Huế, xưa có khu vườn nuôi ngựa để kéo xe cho vua . Những con ngựa này thường là dữ dằn phải do đội phi kỵ vệ và khinh kỵ vệ nuôi dạy, huấn luyện cho ngựa trở nên thuần . Người đàn bà dữ dằn lúc nào cũng lồng lên như ngựa chứng thì có gọi là “ngựa Thượng Tứ” cũng đúng thôi . Cửa Đông Nam vì ở gần khu Thượng Tứ nên cũng được dân Huế gọi luôn là cửa Thượng Tứ, không ai còn để ý đến hai chữ Đông Nam ghi trên vọng lâu nữa .

Chợ Đông Ba hay chợ Đông Hoa ?


Chợ Đông Ba, ngôi chợ lớn nhất trong các chợ ở Huế, vốn có tên thật là chợ Đông Hoa – cửa Đông Ba xưa cũng gọi là cửa Đông Hoa . Đây là một cái tên do ta bắt chước Trung Quốc . Thời Tần Thủy Hoàng bên Tàu cũng có một cái cửa gọi là cửa Đông Hoa . Chỉ vì tránh phạm húy mà người Huế phải gọi trệch ra là Đông Ba vì tên Hoa là tên của bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng, được phong Tá Thiên Nhân hoàng hậu, gốc người Biên Hòa (Nam Bộ) .

Nếu ta nghe người Huế xưa gọi “Ánh sáng”“Yến sáng'” thì cũng đừng ngạc nhiên vì họ sợ phạm húy bởi “Ánh” là tên vua Gia Long nên phải đổi ra thành Yến .

Lão thi ông Ưng Bình Thúc Giạ khi làm thơ cũng đổi chữ “cánh phồn hoa” ra “cánh phiền ba” bởi hơn ai hết, ông phải kỵ húy vì ông là người trong Hoàng tộc .

(còn tiếp)

Tập San “Áo Dài Huế” (Nhớ Huế – tập 3)
Nhà Xuất Bản Trẻ 1999


(*) Chú thích của BN : Tô Kiều Ngân tên thật là Lê Mộng Ngân, người Huế . Ông đa tài lắm: ca hát, làm thơ, ngâm thơ, thổi sáo . Một số bài thơ về Huế của ông được phổ nhạc như “Những Con Đường Trắng” . Ông ngâm bài “Đây Thôn Vỹ Dạ” (Hàn Mặc Tử) thì phải nói là tuyệt . Đa số nghệ sĩ ngâm thơ bài này đều bắt chước lối ngâm của ông . Ông thổi sáo đệm cho nhiều nghệ sĩ ngâm thơ nổi tiếng như Hồ Điệp, Hoàng Oanh, Hoàng Thư, Quang Minh, Quách Đàm . Trước 1975, ông cộng tác với ban Tao Đàn và Thi Nhạc Giao Duyên của thi sĩ Dinh Hùng . Khi Đinh Hùng qua đời năm 1967, ông phụ trách ban Tao Đàn .

Bắt trẻ con làm cá, lấy trấu làm tép!


Nhân vùng biển Thuận An sắp trở thành thị xã, xin kể vài tục lạ của người dân vùng biển này có từ thời xa xưa .

Dân chài lưới ở Thuận An rất sùng bái nữ thần Thái Dương vì vị thần này đã nhiều phen giúp họ làm ăn phát đạt . Họ lập miếu thờ và mỗi năm, cứ đến ngày 23 tháng chạp âm lịch lại tổ chức lễ hội, trang điểm cho tượng thần, bày ra các trò vui chơi và cúng tế để cầu yên . Họ thường nhắc câu: ”20 làm tốt, 21 xâu tai, 22 đeo hoa, 23 tế Nhân” . Xâu tai, đeo hoa là làm đẹp cho tượng thần và Nhân là tên của nữ thần Thái Dương .

Ngư dân ở đây đã lấy lưới vây trên bến cạn, bắt một số trẻ em trần truồng cho vào trong lưới giả làm cá vừa lưới được, xong nhiều người đem rổ rá đến mua . Cũng diễn ra cảnh chọn cá và kỳ kèo, trả giá, xong thì đem bọn trẻ sang bờ bên kia thả cho chúng chạy .

Họ cũng dùng trấu giả làm tép biển và lấy vợt xúc lên, giả như đang thu hoạch . Tiếp sau đó, có những trò vui như đua trải, nhậu nhẹt và hát bội cho dân làng xem .

Người Huế mà không được nói . . . tiếng Huế !



Đó là lệnh cấm đối với các thiếu nữ được tuyển vào làm cung phi trong Nội, dưới triều Nguyễn . Họ không được nói rặt giọng Huế mà phải nói y như giọng dân Phường Đúc . Phường Đúc là khu quần cư tập trung các người thợ đúc đồng tài giỏi do triều dình tuyển từ Bắc vào hoặc trong Nam ra . Họ là tác giả của chuông chùa Linh Mụ, Cửu vị Thần Công và Cửu Đỉnh ở Huế . Những sản phẩm của họ dãi nắng, dầm mưa, trải bao tuế nguyệt đến nay vẫn chẳng chút nứt rạn hay có tì vết gì . Họ mang theo gia đình ra làm ăn sinh sống lâu ngày ở Huế nên hòa đồng ngôn ngữ với dân địa phương . Dân Phường Đúc không nói rặt một giọng nào mà pha trộn nửa nọ, nửa kia . Các cung phi trong Nội phải bắt chước giọng Phường Đúc, nghĩa là vừa nói nửa Trung, nửa Nam, ai không tuân thì bị tội . Tại sao lại có hiện tượng này ? Kể cũng khó hiểu . Và lệnh này có từ đời nào ? Có người đưa ra giả thuyết: có lẽ chuyện này xuất phát từ thời bà Từ Dũ vốn là một phụ nữ Nam Bộ, con gái của Đại thần Phạm Đăng Hưng, người Gia Định . Bà được phong Nghi Thiên Chương Hoàng hậu, lấy vua Thiệu Trị, đứng đầu bộ phận “hậu cần” của Hoàng đế, có nhiều quyền uy đối với các cung phi khắp ba cung, sáu viện . Có lẽ bà muốn những người dưới tay mình phải dùng giọng nói pha âm sắc Nam Bộ để trao đổi cho dể hiểu chăng, bởi vì người Tân Hòa – Gia Định nghe giọng Huế “đặc sệt” có thể không hiểu mô tê chi cả .

Cũng có thể lệ này xuất hiện sớm hơn, từ thời Minh Mạng vì ông này nổi tiếng là ông vua có nhiều vợ và phần lớn là người miền Nam .

Về giọng nói Phường Đúc thì cho đến nay, thời gian qua quá lâu, trải nhiều thế hệ, giọng nửa Nam nửa Trung đã trở thành Huế rặt .

Ngoài ra còn có một hiện tượng buồn cười khác là các người làm việc trong nội dù là cung phi, lão tỳ, thị tỳ, nô nhân hay nê nhân, lúc mới vào đều phải tự nguyện “câm” đi trong thời gian sáu tháng . Suốt thời gian này, họ không nói gì cả hoặc nói rất ít . Không nói vì sợ phạm húy, lỡ mồm lỡ miệng thì mang họa vào thân . Chờ khi nào thuộc lòng những chữ “nên tránh” gồm trọng húy và khinh húy, hoặc những chữ cấm nói như: chết chóc, đui què, máu me, phong hủi . . . vì những từ này mang điềm gỡ hoặc thô tục, lúc đó họ mới được phép . . . hết câm .


Tập San “Áo Dài Huế” (Nhớ Huế – tập 3)
Nhà Xuất Bản Trẻ 1999


Trước đây, BN có nhắc đến một số nghệ sĩ ngâm thơ đã từng cộng tác với thi nhạc sĩ Tô Kiều Ngân trước 1975 trong ban Tao Đàn và Thi Nhạc Giao Duyên như Hồ Điệp, Hoàng Oanh, Hoàng Thư, Quang Minh, Quách Đàm . BN quên kể Hoàng Thư đã qua đời đầu năm 2000, còn Hồ Điệp thì đã bị mất tích trên đường vượt biên bằng đường bộ

TRẦN XUÂN AN * PHAN VĂN DẬT

Đọc tiểu thuyết DIỄM DƯƠNG TRANG của Phan Văn Dật

Được giới cầm bút và người đọc yêu thơ biết đến từ thời niên thiếu (1924), và từ đó, suốt mười mấy năm dài, Phan Văn Dật(1907 - 1987)có thơ đăng trên báo chí. Khi ông bước vào tuổi 28 (1935), “Bâng khuâng”, tập thơ đầu tay của ông, được xuất bản. Hoài Thanh viết bài thẩm định, ngợi khen trên báo (và dăm bảy năm về sau, đưa vào “Thi nhân Việt Nam”, cuốn sách tôn vinh chỉ khoảng bốn mươi nhà thơ thuộc trào lưu “Thơ mới”). Nhưng không chỉ thơ, ông còn viết tiểu thuyết. Tiểu thuyết đầu tay của Phan Văn Dật, “Diễm Dương Trang”, cũng vào năm 1935, lại được khẳng định ngay bởi một giải thưởng danh giá lúc bấy giờ: giải thưởng Tự Lực văn đoàn.
 
Những thông tin ấy, tôi và bạn bè thuở học trò đều biết, nhưng thú thật, rất đáng trách, hầu như không ai tìm tập thơ “Bâng khuâng” và tiểu thuyết “Diễm Dương Trang” để đọc, mặc dù biết rằng chúng nằm đâu đó trong thư viện. Thời chúng tôi còn là sinh viên, thi sĩ Phan Văn Dật chỉ tồn tại trong “Thi nhân Việt Nam” với ba bài thơ trích từ tập “Bâng khuâng”; ông thường được gọi là nhà giáo, giảng viên đại học, nhà nghiên cứu Hán văn và lịch sử. Ông là một vì sao thơ văn sớm tắt, một vì sao đổi ngôi, sáng lên ở góc trời nghiên cứu, giảng dạy. Còn “Diễm Dương Trang” hoàn toàn bị lãng quên!
 
Mãi cho đến những ngày gần đây, tôi quá đỗi vui mừng khi tìm gặp “Diễm Dương Trang”, với dòng ghi chú, “theo bản in trên báo Trung Bắc tân văn, Hà Nội, 1935”. Cuốn tiểu thuyết gần hai trăm trang ấy đã chiếm hết tâm trí tôi... Trước hết, tôi phải tự tìm cách giải đáp cho chính mình về sự quên lãng của người đọc, trong Nam cũng như ngoài Bắc, đối với “Diễm Dương Trang”.
 
1. Một tiểu thuyết có cốt truyện
 
Phan Văn Dật theo lối viết tiểu thuyết khá hiện đại của thời bấy giờ, nên chúng ta có thể thấy câu chuyện được diễn biến chủ yếu theo trình tự thời gian nhưng vẫn xen vào những chương đoạn hồi ức, nhằm làm sáng tỏ những góc khuất trong tâm trạng, bước ngoặt cuộc đời của nhân vật.
 
Câu chuyện bắt đầu ở bãi biển Mỹ Khê, Đà Nẵng. Trần Hoài Trang, một thanh niên khoảng chừng 25, 26 tuổi, đang trong những ngày phục hồi, bồi dưỡng sức khoẻ, sau những trận ốm sốt rét và bởi vết thương trong tâm hồn. Đi cùng với Trang là cậu bé giúp việc tên Cồ, trước kia người ta hay gọi là tiểu đồng. Trên bãi biển Mỹ Khê này, anh ta tình cờ gặp hai mẹ con, người con là cô gái còn trẻ nhưng đang mang tâm bệnh. Tình cờ anh cũng gặp được Oánh, bạn cũ. Oánh chính là con trai của người mẹ kia, anh trai của cô gái nọ: bà Nghè Thuyên và cô Tư Nga. Câu chuyện lại quay về quá khứ, cho người đọc biết: Trang vốn là một lưu học sinh trường trung đẳng ở Hà Nội, vì cha đột ngột mất, nên phải về Huế, đành đoạn bỏ học dở dang, nộp đơn xin đi làm, để có đồng lương giúp mẹ và hai em. Trang được bổ đến Toà Công sứ tại một tỉnh cao nguyên, với vai trò nhân viên thư kí. Nhưng khi gia đình đã tạm ổn với cửa hàng buôn bán nhỏ, Trang muốn thôi việc, để sống cuộc đời một người hành nghề tự do. Chắc hẳn anh ta không muốn bị ràng buộc vào guồng máy nhà nước thực dân. Và còn bởi một lẽ khác, Trang đang nuôi mộng trở thành thi sĩ. Nhưng phải đến khi Trang nhận được thư phụ tình của Dinh, cô bạn từ thuở bé và hiện là người yêu của Trang, Trang đau đớn tột cùng, quyết tâm bỏ việc ở Toà Công sứ để đi chung vốn làm lãnh hành (thầu khoán). Anh bị sốt rét ngã nước trong những tháng ngày lãnh hành này. Và hiện tại, ở bãi biển Mỹ Khê, anh đang tự chữa cả hai căn bệnh cùng một lúc: tâm bệnh và thể bệnh. Qua những lần gặp gỡ trên bãi biển, Trang thầm yêu Nga. Qua cậu bé Cồ, Trang biết Nga cũng đang đau khổ đến mức trở thành tâm bệnh, vì người yêu là Thạch, sinh viên trường thuốc, vừa mới chết vì bệnh. Trong những ngày Oánh ở đó, lại có thêm hai nhân vật xuất hiện: ông Cửu Bạch cùng viên tham tá trẻ tên Hồng. Tham Hồng cũng bị goá vợ cách đây mấy năm. Tham Hồng chừng như cũng muốn tục huyền với Nga. Trong tình huống đó, Trang xem ra lép vế nhất, nhưng chính Nga lại tỏ ra có cảm tình với Trang nhiều hơn. Tuy vậy, Nga vẫn đang ở trong giai đoạn khổ đau vì mất Thạch, lòng lạnh giá. Lại một tình huống nữa: Oánh mời cả nhà và Trang đi chợ đêm Đà Nẵng. Nhưng Nga đang ngụp lặn trong trạng thái chợt vui chợt buồn của một người sầu khổ, Nga không muốn đến những chỗ đông người. Ngờ đâu, khi Trang vào chợ đêm ấy, lại gặp viên tham tá Hồng đang đi cùng gia đình Nga, gia đình người tư sản Cửu Bạch, Hồng lại đi kề Nga nữa! Trang thật sự rơi vào tuyệt vọng. Hoá ra, về sau, Trang mới biết, chính vì cô con gái của Cửu Bạch, nữ sinh Đồng Khánh tên Trà, mời ép, đến mức Nga không thể từ chối! Và chỉ vậy mà thôi. Thế rồi, gia đình Nga trở về Huế. Trang cũng về nhà ở ngoài đó. Gia đình Trang lại muốn Trang lập gia đình, quên hẳn Dinh đi. Trang tìm cách lên trang trại của gia đình Nga để thăm viếng... Lên đến nơi, Trang càng biết rõ đó là cơ ngơi của ông Nghè Thuyên, một người đã đỗ tiến sĩ, nhưng tính tình, theo nguyên văn trong tiểu thuyết, là “phóng khoáng, quả hợp” (thích tự do, ít hợp ý với những kẻ tầm thường khác), vì “thời buổi khó khăn” (dưới ách thực dân) nên không ra làm quan, mà tìm về một miền đất dưới chân rừng núi để lập trang trại, có tên là Diễm Dương Trang. Trong gần một tháng, Trang có nhiều lần từ quê nhà, ngoại ô phía đông kinh đô Huế, đạp xe lên ngoại ô phía tây, thăm Diễm Dương Trang. Trái tim của Nga hình như đã hồi sinh, ấm lại. Giữa Nga và Trang hình như đã nẩy sinh tình cảm, nhưng cả hai đều im lặng. Trang chưa một lần dám ngỏ lời. Trang rụt rè sợ thất bại, bởi vết thương phụ tình do Dinh gieo vào lòng anh ta. Nga lại đang phân vân, giằng xé giữa sự chung tình với Thạch, người đã khuất, và chút tình với Trang. Đó là chút tình mới âm thầm chớm nở trong kìm nén, Nga giấu tận đáy sâu lòng mình. Thế rồi, ông Cửu Bạch cùng vợ từ Đà Nẵng ra, có cả cô con gái tên Trà, nữ sinh Đồng Khánh, từ Huế lên. Thì ra, ông Cửu Bạch ra thăm để ngỏ lời dạm hỏi Nga cho viên tham tá Hồng, bạn nhờ vả vong niên của ông ta. Cũng do sự hiểu lầm của Nga trước sự ngẫu nhiên xảy ra – bởi cành lá dâu bật lên, rơi bụi dằm vào mắt Trà, lúc cô rủ Trang hái dâu –, và cách cư xử rất tân thời của Trà trong tình huống ấy, Nga trốn, tránh mặt Trang. Trang không thể tìm gặp Nga. Và Trang đinh ninh anh hoàn toàn thất thế, mất hẳn Nga. Anh về nhà, quyết định trở vào tiếp tục làm thầu khoán như cũ, lao vào công việc để quên đi nỗi đắng cay. Trước khi lên đường, anh vẫn còn đạp xe lên lại Diễm Dương Trang để chào gia đình bà Nghè Thuyên, đặc biệt là Nga. Anh bất ngờ khi biết Nga đã từ chối lời cầu hôn của Hồng, trước mặt gia đình mình và gia đình ông Cửu Bạch. Và bấy giờ, ở tình huống anh lên để chào từ giã, Oánh và bà Nghè Thuyên thì đã quá hiểu Trang, lại thương anh rụt rè, nhút nhát, nên họ mớm lời cho Trang, để Trang đủ mạnh dạn tìm gặp Nga, ngỏ lời. Trước sân nhà, dưới bóng trăng, thay vì với ý nghĩa mừng đám cưới Nga – Hồng, là ý nghĩa giao ước giữa Nga – Trang, Trang trao chiếc nhẫn vàng cho Nga. Trang nâng tay Nga, đeo hẳn chiếc nhẫn ấy vào ngón tay Nga. Ngay lúc đó, Trang nói: Nga đau khổ, Trang cũng đau khổ; hai người đau khổ có thể giúp nhau làm lành lại vết thương trong tâm hồn nhau. Nga, bấy giờ, theo nguyên văn trong tiểu thuyết, “run rẩy, ái ngại: Ta liệu có gây nổi hạnh phúc cho nhau không?”. Và “dưới bóng trăng vằng vặc”, họ đã “tay cầm tay, nhìn nhau, yên lặng...”. Tiểu thuyết kết thúc với ba dấu chấm lửng.
 
2. Tiểu thuyết tâm lí: Quá trình sống lại của hai tâm hồn
 
Đây là cuốn tiểu thuyết thuộc trào lưu lãng mạn, xuất hiện vào những năm đầu giai đoạn cực thịnh của văn chương quốc ngữ theo hệ abc, 1930-1945. Phải một năm sau, 1936, mới bắt đầu cao trào dân chủ ở nước ta, bấy giờ còn là thuộc địa, do sự cầm quyền của Mặt trận Bình dân ở Pháp. Chính trong thời đoạn 1936-1939 ấy, mới có thể nở rộ trào lưu hiện thực phê phán, trên văn đàn công khai (tuy công khai trong cao trào dân chủ, nhưng chiếc kéo kiểm duyệt sắc nhọn, khổng lồ thường xuyên treo lơ lửng trên đầu mỗi nhà văn chương).
 
“Diễm Dương Trang”, vì thế, qua cốt truyện, chúng ta có thể nói, chủ yếu chỉ là một chuyện tình yêu đương. Tuy nhiên, so với tác phẩm văn xuôi của các nhà văn cùng thời đoạn, như Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam..., “Diễm Dương Trang” vẫn có nét độc đáo ở khía cạnh chủ đề, bên cạnh bối cảnh là bãi biển Mỹ Khê, Đà Nẵng và ngoại ô kinh đô Huế. Mặc dù Nhất Linh, Thạch Lam đều là người gốc Quảng Nam, nhưng bối cảnh tiểu thuyết, truyện ngắn của hai tác giả nổi bật này vẫn là Bắc Bộ. Khái Hưng thì đã đành là rặt Bắc Bộ rồi! Mặt khác, tình yêu đương nam nữ trong văn xuôi của các tác giả ấy được đào sâu, thể hiện ở khía cạnh khác với Phan Văn Dật. Nói cách khác, “Diễm Dương Trang” có cùng đề tài là tình yêu đương nhưng lại khác hẳn về khía cạnh chủ đề, so với “Hồn bướm mơ tiên”, “Đoạn tuyệt”...
 
Thi sĩ đồng thời là nhà tiểu thuyết Phan Văn Dật đã khai thác đề tài yêu đương ở tình huống đặc biệt, để tác phẩm thật sự có nét độc đáo. Hai nhân vật chính đều đang ở trong trạng thái trầm kha về bệnh tâm lí, cần đi an dưỡng, và họ đã gặp nhau ở bãi biển Mỹ Khê. Tuy thế, căn bệnh tâm lí của hai người vẫn khác nhau. Ở Trang, đó là nỗi đau cùng cực của một kẻ bị phụ tình. Dinh, người yêu của Trang, đã phũ phàng dứt tình với anh ta để đi đến hôn nhân với một người danh giá hơn Trang về bằng cấp học vấn và địa vị xã hội. Trong sự tổn thương vì bị phụ tình của tâm hồn Trang, còn có nỗi tự ái bị xúc phạm. Ở Nga, cô gái ấy không khổ đau vì bị phụ tình, mà khổ đau vì người yêu sớm qua đời. Người nữ Việt Nam ngày xa xưa và ngay thuở bấy giờ, trong trường hợp đó, thường là họ tự chít khăn tang lên trái tim mình, tự biến trái tim mình mãi mãi thành bàn thờ với hình ảnh người đã khuất. Nhưng, dẫu chỉ xét trên mẫu số chung của con người, không phân biệt bản sắc văn hoá dân tộc, thì cũng có ai lại không khổ đau trong tình cảnh đó!
 
Nếu cho rằng di chứng bệnh sốt rét ở Trang không đáng kể, thì Trang và Nga đều chỉ là hai bệnh nhân tâm lí. Họ không hẹn nhau, nhưng cùng tìm cách chữa bệnh cho chính mình, theo kiến thức y học phổ thông thuở bấy giờ, bằng cách thoát ra khỏi khung cảnh cũ, không gian sống thường ngày, để tìm đến với thiên nhiên, sóng biển và không khí trong lành. Với tâm cảnh của mỗi người, hẳn mọi cảm xúc đều héo úa. Ở họ, tình yêu khó đâm chồi, nẩy lộc. Trong trường hợp như Trang, có người vĩnh viễn căm thù phụ nữ. Đối với Trang, bệnh trạng nhẹ hơn, anh ta chỉ sợ hãi tình yêu đương, sợ hãi thất bại, cự tuyệt. Trang lâm bệnh mặc cảm tự ti, không những tự ti khi nghĩ đến địa vị người chồng của Dinh, mà tự ti với cả Thạch, người sắp là ông “đốc-tờ”, nhưng sớm mất. Thạch của Nga đã chết, nhưng chừng như vẫn còn đó. Trang đến sau Thạch, lại kém sút Thạch quá nhiều! Trang chỉ là viên thư kí quèn, là viên thầu khoán tập tành, phải chung vốn với người nhiều vốn hơn. Còn giấc mộng thi sĩ của Trang cũng bị cả viên tham tá Hồng chế giễu!... Tác giả không gọi hẳn ra căn bệnh của Trang còn là mặc cảm tự ti, nhưng sự rụt rè, nhút nhát thái quá ở Trang, đến mức ta thấy Trang thật tội nghiệp, mặc dù vẫn trân trọng anh... Và cảm thấy thương Trang nữa, như Oánh cùng bà Nghè Thuyên đã phải mớm lời cho Trang, để Trang đủ mạnh dạn ngỏ lời với Nga!... Nhưng dẫu sao, Trang không bị chút áp lực xã hội nào khi anh ta dấn bước vào cuộc tình mới. Trang đâu phải là người phụ tình, ruồng rẫy Dinh! Trang có quyền tìm kiếm tình duyên mới. Còn ở Nga? Dĩ nhiên Nga cũng chẳng tội tình gì. Nhưng văn hoá Việt Nam thuở bấy giờ vẫn rất ngưỡng mộ những người con gái, trong trường hợp như Nga, biết để tang người yêu mới khuất. Như đã nói, con người dân tộc nào cũng thế, thời nào cũng thế, nhưng trong không gian văn hoá Việt thuở đó, lòng thuỷ chung vốn rất được đề cao. Chính sự đề cao ấy mặc nhiên đã trở thành một ràng buộc, áp lực có tính chất đạo đức, và người ta cảm thấy vinh dự khi giữ được lòng thuỷ chung cao quý như vậy.
 
Có thể nói, ở cả Trang lẫn Nga, tâm hồn họ đều đã héo hon, đều đã chết, bởi hai vết thương tình duyên khác nhau. Và suốt cả cuốn tiểu thuyết là cả một quá trình sống lại của tâm hồn hai người. Người đọc nếu đặt mình vào không gian và thời gian văn hoá thuở bấy giờ, mới có thể thấu hiểu được họ.
 
Tiểu thuyết “Diễm Dương Trang”, với sự triển khai dần cốt truyện của tác giả, đã cho người đọc thấy rõ quá trình ấy, với những ngộ nhận ngẫu nhiên gây ra không ít khổ đau, có lúc tưởng chừng hoàn toàn tan vỡ, nhất là sự xuất hiện của người thứ ba – viên tham tá Hồng –, kẻ có thể một lần nữa giết chết tâm hồn của cả hai người. Thi sĩ Phan Văn Dật, ở lĩnh vực tiểu thuyết, tỏ ra ông còn là một nhà văn tinh tế, sâu sắc về tâm lí, cụ thể là các diễn biến tâm lí, và ông để cho nhân vật thể hiện các trạng thái tâm lí của mỗi người trong những cử chỉ, dáng vẻ, lời nói ở nhiều tình huống khác nhau.
 
Cùng với dấu chấm lửng cuối cùng, câu áp cuối của tiểu thuyết “Ta liệu có gây nổi hạnh phúc cho nhau không?” là một câu kết nhưng lại mở ra các hướng khác nhau: một gia đình đầm ấm, sáng tươi hay lạnh băng, tăm tối?
 
Tôi nghĩ rằng, chính nhờ biết khám phá, khai thác khía cạnh này trong đề tài lớn là tình yêu đương, nên giải thưởng danh giá Tự Lực văn đoàn đã được trao cho Phan Văn Dật.
 
2. Bối cảnh tiểu thuyết: Nền nếp xưa và sự hãnh tiến của lối sống tân thời
 
Phan Văn Dật là thi sĩ, nhà văn xuôi thuộc khuynh hướng lãng mạn, tuy có ý thức vươn tới những giá trị mới, đương thời, nhưng ông cũng đồng thời thể hiện sự luyến tiếc, giữ gìn, trân trọng những nền nếp văn hoá nghìn đời của dân tộc. Ở bà Thị Tốn, mẹ của Trang, cũng như ở bà Nghè Thuyên, mẹ của Oánh và Nga, hình ảnh người mẹ Việt Nam được thể hiện rõ. Họ là tiêu biểu cho bản sắc nghìn xưa, nhưng không hề cổ hũ. Bà Thị Tốn cũng chỉ thuộc tầng lớp trung lưu, từng suýt lao đao ở bờ vực của nghèo khổ, đã bản lĩnh vượt lên. Bà Nghè Thuyên dù có trang trại, nhưng cũng chưa được gọi là điền chủ. Sự sung túc hiện tại là nhờ Oánh làm nghề thầu khoán. Ở Nga cũng thể hiện nền nếp gia phong đáng quý, đặc biệt trong quan hệ với Trang. Và hầu như Phan Văn Dật, về phương diện này, không gần gũi với những tác giả hiện thực phê phán cùng thời, đặc biệt là trong thời đoạn 1936-1939... (nói như vậy, cũng cần thấy Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao phê phán những địa chủ đáng phê phán, chứ không phải như bà Nghè Thuyên). Tuy thế, mặt khác, Phạm Văn Dật lại gần gũi với khuynh hướng văn học hiện thực phê phán ấy, khi hướng ngòi bút của mình vào đối tượng viên chức hãnh tiến của guồng máy thực dân hay người tư sản hãnh tiến. Tác giả không phê phán cả thành phần, mà chỉ khu biệt những cá nhân hãnh tiến mà thôi.
 
Phan Văn Dật khắc hoạ nhân vật bằng đối thoại, nét mặt:

“... - Kìa anh Trang, hồn thơ gởi đâu mà ăn lơ lửng thế?
Oánh làm bộ rầy chàng, rồi lại muốn khoe bạn cùng quý khách:
- Anh Trang tôi đây ngoài các công việc kinh dinh ra lại còn là một nhà thi sĩ.
Hồng, ông khách tuổi trẻ, trừng mắt một cái rất nhanh, ra dáng hoài nghi, nhưng chẳng để ý gì đến Trang, sẽ đạo mạo nói:
- Nếu thật xứng với cái danh hiệu ấy thì còn gì hay bằng!
Lại sợ chưa bày tỏ đủ ý kiến mình, liền nói tiếp, giọng mỉa mai, dằn từng đoạn một:
- Phải, cũng có thi sĩ và thi sĩ... Nếu chỉ thuộc đôi chút lề lối, biết qua một mớ niêm luật, xin chớ vội tưởng mình là thi sĩ. Phải có thiên tài, cái đó là lẽ cố nhiên; tình cảm phải cho dồi dào, nhưng cũng chưa đủ; còn cần phải học, học cho có hàm súc, cho có nhiều công phu mới mong viết một lời nghe được. ‘Muốn thì được’, chỉ là một câu nói để khuyến miễn người đời, không thể dùng về trường hợp nầy...”.
 
Khi Oánh chân tình giới thiệu về bạn mình là Trang với niềm tự hào, viên tham tá Hồng ngay lập tức phơi bày bản chất kém lịch sự, thiếu văn hoá của y. Y không những bộc lộ sự ganh ghét nhỏ mọn bằng “đòn đánh phủ đầu”, ngạo mạn “lên lớp, dạy dỗ” Trang, một người mới gặp lần đầu, mà còn cả sự thiếu tôn trọng Oánh. Tham tá Hồng quả thực là một tên hãnh tiến, quên bẵng mình là nô lệ của thực dân!
 
Còn đây là một đoạn hoạt hình biếm hoạ về nhân vật Cửu Bạch:
 
“... Ông Cửu Đùm nãy giờ nghe bạn tri kỉ của mình nói, vừa hiểu được mấy câu sau, liền vội ngắt lời Hồng:
- Ngài Tham nói quả là chí lí! Tôi tuy quê mùa, học vấn còn kém cỏi lắm, nhưng cũng phải biểu đồng tình về sự đó. Hồi tôi mới ra đời, lăn lộn mười năm, đủ từ Nam chí Bắc, từ Lào sang Mên, chẳng nơi nào là không đến, chẳng nghề gì là không làm, mà trắng tay vẫn hoàn tay trắng. Mãi sau về đây buôn bán vụn vặt, cho thuê xe, cho vay tiền góp sơ sài mà mới gây dựng ra cái gia thế ngày nay. Ai dè bôn tẩu không nhằm chi, về nằm co lại tự dưng có của cải, mới biết lời tục không nhầm, có an cư mới lạc nghiệp!
Ông Cửu nói đến đó, liền buông một chuỗi cười dài, xoè cả cây quạt rộng bằng nửa cái nia, vung phành phạch. Ông cất cốc rượu, ngả người ra, nốc một hơi rồi mới ngó tất cả mọi người thử có chịu mình là một bậc lão thành lịch lãm.
Thấy Hồng cứ gật đầu, ông Cửu Đùm thích chí vểnh bộ râu tôm, ngất ngưởng kết luận rằng:
- Phải, trong mười mấy năm trời tôi phong trần đã lắm. Những mùi đắng cay mặn lạt ở đời tôi đều nếm qua, nên phàm việc gì cũng gọi là lịch thiệp. Bây giờ nhờ ơn trên đã được dư ăn dư để, nhưng vâng lời ngài Tham tôi còn muốn đem những chỗ biết hẹp hòi của mình ra gánh vác việc đời cho khỏi phụ lòng anh em mong đợi.
Nói dứt lời, ông Cửu đưa tay nắn lại cái vành khăn, chỉnh nét mặt, có ý làm ra vẻ nghiêm trang cho xứng với cái trọng trách mình sắp ra đảm nhận...”.
 
Phan Văn Dật tiếp tục phê phán người tư sản hãnh tiến này:
 
“... Nên mỗi khi ông xét đoán, phê bình về một người nào, tất ông lại lấy tư bản ông làm mực thước. Ai giàu hơn ông là người ấy giỏi mà ai kém ông là người ấy còn vừa, chí như những hạng nghèo kiết, thì dẫu ông không dám nói ra, trong bụng chỉ coi là đồ ương gàn, không đủ mà đếm xỉa. Nhưng người hơn ông đâu có nhiều, ra đường chỉ rặt là kẻ ăn làm đầu tắt mặt tối, thành thử ông hay có cái bộ khinh khỉnh, coi người bằng nửa con mắt. Tuy vậy ông Cửu không phải chỉ giao du với các nhà tư bản thôi, vì ông đã giàu rồi lại muốn sang, nên hễ gặp ông tai to mặt lớn nào là ông bắt quàng làm thân ngay. Sau hai bận đi Huế, người ta đã thấy trước ngực ông lủng lẳng chiếc bài ngà hàn lâm viện đãi chiếu. Về việc đó ông cứ phàn nàn mãi: "Nhà nước quá yêu mà ân tứ cho thế nầy, chớ thật tôi nhờ trời đủ bát ăn, có dám màng đâu danh vọng ". Ông dẫu nói vậy, vả lại vừa làm lễ tam sanh ăn ngũ tuần, nhưng vạn bất đắc dĩ phải chìu lòng anh em trong xóm mạc, ăn khao hết ba bò tám heo, rước đám hát đằng đẵng nửa tháng trời. Lắm người đã khen là ông tính việc gì cũng chu đáo lắm. Nhưng ông Cửu lại tiếc mình có tài năng nên ông còn muốn ra làm hội đồng thành phố. Muốn cho có vây cánh, ông bèn chơi thân với ông tham Hồng là người có thể giúp cho ông nhiều về việc ấy. Sắp đặt đã xong đâu đấy, ông chỉ còn phiền cái tên ông nó không có giọng quý phái chút nào, ông bèn nghĩ đổi ngay nó ra là Bạch. Nhưng dẫu danh thiếp ông gởi đi khắp thành phố, nhan nhản đề cái tên Cửu Bạch, thiên hạ cũng cứ quen mồm gọi ông là ông Cửu Đùm vậy. Ông biết thế, không vui lòng chút nào...”.
 
Bên cạnh một Nga thuỳ mị, dịu dàng, chung tình nhưng cũng biết vượt lên sự bất hạnh trong mối tình đầu để sống, xây dựng hạnh phúc một cách chính đáng, là hình tượng cô gái tân thời, nữ sinh Đồng Khánh tên Trà, con gái ông Cửu Bạch. Thật ra, Trà cũng không có gì đáng ghét. Cử chỉ giao thiệp của cô khá bình đẳng, tự nhiên, nhưng chưa đến mức lố lăng. Cách ăn mặc, trang sức ở Trà cũng kín đáo, trang nhã.
 
3. Sự phản đối khéo léo chế độ thực dân: Chút lầm lạc hiển ngôn và sự phản biện ẩn ngôn xuyên suốt
 
“Diễm Dương Trang” rõ ràng là tiểu thuyết về tình yêu đương và hôn nhân. Tuy nhiên, nếu chưa kịp hiểu ẩn ý của tác giả, người đọc hẳn sẽ cảm thấy bất bình thật sự, thậm chí muốn ném cả cuốn sách gần hai trăm trang này vào lửa, thiêu huỷ nó đi, khi đọc phải một đoạn ngắn khoảng dăm bảy câu văn:
 
Trang còn đương loay hoay nghĩ thế thì đã đến nơi nghĩa địa của mấy người lính thủy Tây Ban Nha. Đứng trước các ngôi mộ ấy, chàng bỗng hồi tưởng lại cái khí tượng hào hùng của những kẻ xông pha trên mặt bể hiểm nghèo, những kẻ đó có lẽ coi nhẹ cảnh gia đình êm ấm. Cách sinh hoạt éo le của hạng người ấy, trên sóng, đầu gió, có một cái khí vị ngây ngất, phi thường... Trang bấy giờ nhận thấy cái ái tình nó nhỏ nhen quá. Ở đời còn thiếu chi sự nghiệp lừng lẫy đủ kích thích chàng? Hồi nhỏ đi học, chàng có nghĩ rằng đến lúc trưởng thành sẽ để tiêu trầm nghị lực trong chốn tình trường chăng?”.
 
Trang tỏ ra lầm lạc, trong khi anh ta thừa vốn liếng tiếng Pháp để có thể đọc, hiểu được đó chính là nghĩa trang của những tên thực dân Tây Ban Nha và Pháp, trong cuộc đánh chiếm mở đầu quá trình xâm lược thực sự của chúng trên đất nước ta, vào các năm 1858-1860, tại Đà Nẵng. Tại sao Trang lại ca ngợi chúng với những tính từ kêu vang đến thế? Thậm chí, chúng ta có thể kinh ngạc tự hỏi, tại sao thi sĩ Phan Văn Dật lại đặt ý nghĩ lầm lạc đến mức như thế vào chuỗi suy tư, tâm trạng trăn trở chân thành, thầm kín của nhân vật mà ông không giấu lòng yêu mến?
 
Tôi đã đọc, với sự sửng sốt, khi gặp phải những dòng chữ ấy, và cũng toan ném hoặc xé cuốn sách đi. Thế rồi, tự nhủ phải nhẫn nại, xem sao. Cuối cùng, tôi bình tĩnh đọc tiếp, và thấy rằng, đoạn văn trên quả là quá lạc lõng trong toàn bộ cuốn tiểu thuyết, như thể ai đó ác ý thêm thắt vào.
 
Ai cũng biết, tuy dưới ách thực dân Pháp cai trị và thế lực giáo quyền của các cố đạo Tây Ban Nha còn bao trùm, nhất là ở thời điểm tiểu thuyết “Diễm Dương Trang” ra đời, các thông tin về lịch sử xâm lược, thống trị nước ta đã dần dà hé mở. Ai cũng biết, từ năm 1921, cuốn “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim đã được ấn hành. Thế nhưng, nhân vật Trang của thi sĩ, nhà văn Phan Văn Dật lại lầm lạc đến mức không thể nào chấp nhận được!
 
Và, thật ra, ai cũng biết tác giả có quyền để cho nhân vật của mình ngu ngơ, mù mờ về kiến thức lịch sử, trong một thoáng ý nghĩ thôi, để rồi tác giả phản biện lại chút lầm lạc ấy bằng cả cuốn tiểu thuyết. Sự phản biện ấy lại nằm ở tầm sâu của bản chất nhân vật. Trang không thích, không muốn ở trong guồng máy nhà nước thực dân Pháp. Anh ta cực chẳng đã phải chịu làm việc tại Toà Công sứ Pháp ở một tỉnh trên cao nguyên để cứu lấy gia đình trước bờ vực nghèo đói, thất học, và nhanh chóng xin thôi việc, lao vào công việc lãnh hành (thầu khoán), một nghề tự do bên ngoài guồng máy của Pháp. Trong thâm sâu của bản chất Trang, đâu phải chỉ vì bị phụ tình hay chút tự do của người ôm mộng làm thi sĩ, mà anh đi đến quyết định ấy. Và chúng ta còn thấy, Trang rất mực yêu quý, kính trọng gia đình của cụ Nghè Thuyên, một nhà nho đỗ đại khoa, không muốn bị vấy bẩn cốt cách mình, tuy cũng chỉ là một người yêu nước thầm kín, bất khả kháng, ngậm ngùi xuôi tay, lánh đục về trong, trước thời cuộc: Trang bấy giờ mới biết rằng ông Nghè Thuyên xưa, dù là một nhà tấn sĩ xuất thân, nhưng vì tánh tình phóng khoáng, quả hợp, lại gặp thời buổi khó khăn, sợ liên lụy đến mình, nên chẳng chịu ra làm quan; lại nhờ nhà có tiền của nên mới trưng sở đất ấy mà lập nghiệp. Trước, chỗ ở còn là cái nhà rường, ông Nghè đặt tên cho nó là "Diễm Dương Trang". Đến sau ông qua đời rồi, Oánh làm ăn mỗi ngày mỗi phát đạt thêm lên, mới bỏ cái nhà ấy đi mà cất lại sở lầu mới bây giờ, nhưng cũng vẫn dùng cái tên cũ”. Con trai ông, Oánh, cũng thế: “Oánh tuy là dòng dõi nhà nho, nhưng chẳng chịu dấn thân vào đường sĩ hoạn”.
 
Nếu chúng ta đồng ý với nhau rằng, chính tính khuynh hướng của toàn bộ cuốn tiểu thuyết mới thể hiện đúng tư tưởng của tác giả, như F. Engels đã nói, thì rõ ràng cả cuốn sách gần hai trăm trang có tên là “Diễm Dương Trang” này có sứ mệnh chính là mang chứa thông điệp bất hợp tác với chế độ thực dân Pháp, thể hiện thái độ, khát vọng lánh đục về trong của chính thi sĩ, nhà văn Phan Văn Dật.
 
Nói cho rốt ráo, riêng ở nhân vật Trang, có thể anh ta thực sự sai sót về nhận thức lịch sử, cụ thể về nghĩa trang Tây Ban Nha – Pháp ở Sơn Trà, nhưng bản chất anh ta lại đúng đắn đến mức đáng quý trọng. Nhân vật Trang, thậm chí, nếu quá khắt khe, ta cũng có thể quy anh ta vào loại người mang tâm lí, nhận thức lưỡng phân. Đó là loại tâm lí, nhận thức của những người sống dưới chế độ thực dân Pháp cai trị, mặc dù nhận thức có lệch lạc, mù mờ ở điểm nào đó, nhưng trên bình diện tổng thể, vẫn nhận thức được thực trạng mất nước của dân tộc mình, và trong thâm tâm, tận chiều sâu bản chất vẫn không bao giờ chấp nhận làm tay sai, nô lệ cho chúng.
 
Đó cũng chính là sự khôn khéo kín đáo của Phan Văn Dật trên văn đàn công khai.
 
Tôi cũng muốn nhấn mạnh một lần nữa: Đó là chút lầm lạc hiển ngôn (trên văn bản tiểu thuyết, đặt trong chuỗi suy nghĩ của nhân vật), nhưng cả cuốn tiểu thuyết là sự phản biện ẩn ngôn xuyên suốt (tính khuynh hướng của trọn vẹn tác phẩm), thể hiện thái độ, khát vọng bất hợp tác, lánh đục về trong của nhân vật và cũng của tác giả, cho dù ở dưới guồng máy cai trị của thực dân Pháp.
 
Và có lẽ để hiểu thêm, cảm thông thêm với nhân vật như Oánh, Trang và cả tác giả Phan Văn Dật, thiết tưởng cũng cần bàn thêm: Nếu đất nước độc lập, ý muốn tiến thủ trên quan trường, để tích cực góp phần xây dựng, bảo vệ đất nước, không phải là không chính đáng. Vấn đề ở tiểu thuyết này là thực trạng đất nước còn trong vòng nô lệ, dưới ách thực dân. Trong bối cảnh bất khả kháng, thái độ, khát vọng bất hợp tác, lánh đục về trong mà “Diễm Dương Trang” chuyển tải, vẫn rất đáng trân trọng.
 
Nhìn chung, “Diễm Dương Trang” tuy là cuốn tiểu thuyết đầu tay và cũng là duy nhất của nhà thơ Phan Văn Dật, nhưng về kết cấu, cốt truyện và các chi tiết được sử dụng đã khá già dặn. Những tình huống được xếp đặt khéo léo, tự nhiên như thể tất yếu phải xảy ra như thế. Qua đó, nội tâm nhân vật, đặc biệt là các diễn biến tâm lí, được bộc lộ rõ nét. Về tính cách nhân vật, ông đã chú trọng khắc hoạ để các nhân vật nổi rõ như những con người thật, có cá tính, không chung chung, mờ nhạt.
 
Trong tiểu thuyết “Diễm Dương Trang”,tác giả có chủ ý sử dụng một số phương ngữ Huế - Quảng Trị (chưa kể một ít từ cổ, bấy giờ còn thông dụng...). Điều đó khiến cho tác phẩm có thể hơi vướng chỗ này, chỗ nọ, đối với một số người đọc chưa quen với những từ địa phương vùng đất này. Tuy vậy, chính những từ ngữ mang màu sắc địa phương khiến tiểu thuyết “Diễm Dương Trang” tạo được ấn tượng nhất thể giữa bối cảnh địa lí, khung cảnh xã hội địa phương và ngôn từ mang bản sắc địa phương ấy. Đó không phải là tiểu thuyết viết về những người Bắc Bộ hay Nam Bộ sống ở Huế, mặc dù Huế vốn là kinh đô (vẫn còn là kinh đô ở thời điểm đó), nên đất Huế không thiếu người từ khắp toàn quốc đến sống, làm việc và chọn Huế làm quê hương! Dĩ nhiên, như bất kì tác giả sinh trưởng ở bất cứ vùng đất nào trên đất nước, Phan Văn Dật cũng đã tiết chế, giảm đến mức vừa đủ liều lượng từ ngữ địa phương, để vừa giữ màu sắc địa phương, vừa hoà nhập vào ngôn ngữ phổ thông với tính nhất thống toàn quốc.
 
Vượt lên kĩ thuật, nghệ thuật vẫn là sự độc đáo, khá sâu sắc khi khai thác một khía cạnh đặc biệt trong tình cảm yêu đương và thông điệp của tiểu thuyết “Diễm Dương Trang”.
 
Với bài viết này, tôi đã mạnh dạn đề xuất một cách cảm thụ tiểu thuyết “Diễm Dương Trang”, với hi vọng nó sẽ được tái bản, không tiếp tục bị chìm vào quên lãng. Ít ra, trong những tiết học về văn học địa phương, các buổi sinh hoạt ngoại khoá tại quê nhà Quảng Trị, tiểu thuyết của thi sĩ Phan Văn Dật, từng chói sáng trên văn đàn cả nước cách đây 76 năm (1935), sẽ được các nhà giáo bình giảng, học sinh thuyết trình, thảo luận (*). Trong những lúc đó, xin đừng quên rằng Phan Văn Dật đã dành một quãng đời khá dài để nghiên cứu Hán văn và lịch sử, đạt được một mức độ uy tín nhất định trong giới học giả...  
 
_________________________
 
(*) Cụ thể hơn, ở tiểu thuyết “Diễm Dương Trang”, có thể đoạn lầm lạc trong suy nghĩ của nhân vật Trang sẽ phải được ghi chú cải chính, theo yêu cầu khoa học, để bảo đảm thông tin đã được cải chính, đồng thời bảo đảm tính toàn vẹn của văn bản – tư liệu.
 
Thông tin về bản gốc và sách tham khảo:
1) Phan Văn Dật, “Diễm Dương Trang”, Trung Bắc tân văn, Hà Nội – 1935. Bản gốc có ở Thư viện quốc gia tại Hà Nội (xem trang thông tin điện tử).
2) Nhiều tác giả, “Từ điển văn học”, bộ mới, Nxb. Thế Giới, 2004, tr. 1399-1401 (mục từ “Phan Văn Dật” do Phạm Phú Phong viết).
 
 

No comments:

Post a Comment