TẠ TỴ * NGUYỄN TUÂN
Nguyễn Tuân
Nội dung thủ bút:
Tôi đang bận chữa épreuve cho cuốn Chiếc lư đồng mắt cua. Cuối tháng mới xong. Sẽ dành cho anh một bản giấy tốt. (Nhưng đừng nói ồn lên, sợ anh em chỗ khác, không có, lại trách móc. Căn dặn anh như vậy.) Chữa xong, tôi vô Nam một chuyến nữa rồi trở về Bắc sống với cái tiểu gia đình sắp đưa hết từ Thanh ra Cầu Mới – làng mọc “bản quán”.
Những điều anh trách tôi trong thư vừa rồi, xin nhận lỗi hết. Và mong chuyến sau, không dám cẩu thả nữa.
Anh mạnh.
Nguyễn Tuân (Tài liệu của bạn Nguyễn Như Cảnh)
Nguyễn Tuân: Làm báo, viết văn, đóng phim. Sinh năm 1910 tại Thanh Hóa
Tác phẩm: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Một chuyến đi, Tàn ngọn đèn dầu lạc, Tuỳ bút I, Tuỳ bút II, Tóc chị Hoài, Quê hương, Nguyễn, Chùa Đàn, Ngược dòng sông Đà
Tác phẩm chưa in: Cỏ độc lập (Kịch), Tuỳ bút III
Nguyễn Tuân
Và thái độ kẻ sĩ trước cách mạng qua tác phẩm Chùa Đàn
Nguyễn Tuân là một trong những khuôn mặt lớn của nền văn học nghệ thuật Việt Nam ở trước và trong cuộc chiến. Nói đến Nguyễn Tuân là nói một giá trị hồn nhiên, là khơi sáng lại dòng sông thời gian chìm khuất, là nhắc nhở đến một vùng trời xôn xao của thanh âm ngôn ngữ. Nguyễn Tuân đứng sững trước mặt chúng ta với vóc dáng kiêu kỳ, với từng ngón tài hoa, với đôi cánh chập chờn bay lượn trên đỉnh cao nghệ thuật. Hành trình vào tác phẩm Nguyễn Tuân như hành trình đi vào một cung điện tráng lệ đầy màu sắc diễm ảo. Từng nguồn ánh sáng lung linh chiếu rọi vào mỗi dòng, mỗi chữ, thứ ánh sáng lạ kỳ làm mê hoặc cả gỗ đá vô tri làm nhũn từng ý nghĩ bứt đi tự niềm cô đơn nhất. Nghệ thuật khi đã vươn tới đỉnh cao có thể toả ra xung quanh những tia lửa làm cháy cả rừng cây, làm khô dòng suối, nếu rừng cây dòng suối chỉ mang trong bản chất những ước lệ tầm thường, nhàm chán.
Toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Tuân không nhiều, nhưng ở mỗi tác phẩm đều súc tích và chứa đựng sự bắt buông, vượt thoát của ngôn ngữ đi vào thế giới riêng biệt mà chỉ có Nguyễn mới đủ sức phung phí và sử dụng để hình thành một kiến trúc vĩ đại như thế. Mỗi chữ được Nguyễn dùng trở nên quý giá. Nguyễn Tuân viết mà giống như nhà điêu khắc cần cù chạm trổ vào mặt đá quý những hình nét trác tuyệt.
Từ Vang bóng một thời qua Chiếc lư đồng mắt cua, Một chuyến đi, Tàn ngọn đèn dầu lạc, Tuỳ bút I, Tuỳ bút II, Tóc chị Hoài, Quê hương đến Nguyễn rồi Chùa Đàn, tác phẩm sau chót của Nguyễn Tuân trước khói lửa, đã do Nhà xuất bản Quốc văn ấn hành ngày 5-8-1946 tại Nhà in Trung Bắc, 36 phố Phùng Hưng, Hà Nội. Tác phẩm Chùa Đàn ra đời được già 4 tháng thì cuộc chiến tranh Việt - Pháp bùng nổ trên toàn quốc (19-12-1946). Từ đó toàn quốc kháng chiến và cũng từ đó, mọi sinh hoạt của con người Việt Nam bắt buộc phải đổi thay, nhất là sinh hoạt văn học nghệ thuật.
Trong hơn một năm trời, từ ngày 19-8-1945 đoàn quân khởi nghĩa rời núi rừng Cao-Bắc-Lạng tràn về Hà Nội rồi lần lượt qua các tỉnh cho đến ngày 19-12-1946, Nguyễn Tuân mới chào mừng cách mạng được 2 tác phẩm: Nguyễn và Chùa Đàn. Nội dung tác phẩm Nguyễn được coi như tác phẩm tự thuật. Nguyễn Tuân đã nhân danh nhân vật Nguyễn để trình bày quan niệm sống của riêng mình đối với cách mạng bằng cách chối bỏ quá khứ và tình nguyện dấn thân vào ánh sáng chỉ đạo của lý tưởng mới. Nguyễn Tuân đã tự lột xác. Thái độ này làm bỡ ngỡ nhiều người, nhất là trong nhóm bạn bè thân thiết.
Nguyễn Tuân, một nghệ sĩ đã ném cuộc đời vào đam mê, đã mơ ước sau khi chết, như văn sĩ Pháp Paul Morand, người đời thuộc da mình làm “va-li” để được tiếp nối giấc mộng phiêu đãng nửa chừng dang dở. Nguyễn Tuân đã phung phí tuổi hoa niên với tiếng đàn, câu hát, đã dìm phương tiện vào những thích thú cầu kỳ trong đời sống, từ miếng ăn, ly rượu, tách trà, hơi thuốc, nhất nhất cái gì cũng trở thành kiểu cách, cũng được xưng tụng như một thiêng liêng. Những cái đó, Nguyễn Tuân đã treo lơ lửng từng thứ một chẳng phải chỉ trong văn chương mà còn ở phần sâu kín nhất của tâm tư và luôn luôn điều hợp cho cái thích của riêng mình thành một đạo giáo có tín đồ quỳ gối.
Khởi hành từ nhận định trên, sự lột xác của Nguyễn Tuân trong tác phẩm Nguyễn là một đột khởi, một ngỡ ngàng gần như thất vọng. Nhưng, tâm trạng Nguyễn Tuân, một tâm trạng phức tạp, không hẳn đã do thời cuộc tạo nên mà chính thực kết đọng trong máu, trong hồn Nguyễn Tuân từng năm, từng tháng.
Cái tâm trạng đó được bộc lộ rõ trong tác phẩm Chùa Đàn, một tác phẩm được dựng lên theo đúng cung cách của khúc hát ả đào về hình thức, còn nội dung nói lên sự quyết tâm phục tùng cách mạng và chính ở tác phẩm này, những “mảnh da thú” cuối cùng được gỡ bỏ để biến Nguyễn Tuân thành con người khác, vĩnh viễn thành con người khác.
Mở đầu cho tác phẩm Chùa Đàn Nguyễn Tuân đã trích một đoạn trong tập Nguyễn:
“Mày hãy diệt hết những con người cũ ở trong mày đi… Mày phải tự hoại nội tâm mày đi đã. Mày hãy lấy mày ra làm lửa mà đốt cháy hết những phong cảnh cũ của tâm tưởng mày.” (Nguyễn)
Để tới được những vụ án mạng rất cần ấy, lại chỉ có viết ra! (Nguyễn Tuân)
Đoạn trên cho người đọc nhìn rõ lập trường và chiều hướng của tác phẩm Chùa Đàn, Nguyễn Tuân muốn mọi người phải thừa nhận ý muốn cuối cùng và quyết liệt của tác giả, để tiến tới sự dứt khoát với quá khứ, với chính bản thân mình. Nguyễn Tuân muốn tạo một giá trị mới, một suy cảm mới, ở đó, con người nghệ sĩ phóng đãng phải chết, phải huỷ diệt cái con người vị kỷ lỗi thời dù con người đó là thiên tài văn học, hay là gì gì đi nữa.
Tác phẩm Chùa Đàn gồm 3 phần: Dựng, Tâm sự của Nước độc và Mưỡu cuối.
Ở phần Dựng, Nguyễn Tuân cho độc giả gặp người tù 2910 trong một trại an trí, tại Cao Nguyên. Người tù 2910 là Lịnh, nhà cách mạng luôn luôn có mặt ở khắp các nhà tù vì đã coi cách mạng như một tôn giáo. Lịnh – 2910 – đã trở thành đối tượng phức tạp để Nguyễn Tuân phải gửi vào đây một dấu hỏi, và một dấu chấm rất đậm. Người tù chính trị 2910 dưới ngòi bút Nguyễn Tuân trở thành một thần tượng chẳng những cho tác giả mà còn cho tất cả các tù nhân khác và ảnh hưởng đến những tên cai, đội khố xanh coi tù nữa. Lịnh – 2910 – biết nhiều thứ quá, ngoài việc làm cách mạng, ngồi tù. Lịnh – 2910 – dạy Ăng-lê, viết thơ, làm câu đối chữ Nho, sinh hoạt với anh em trong “căng” bằng cách “ngồi chót vót trên thang đu tập thể thao, đọc tin tức và tình hình chính trị ngoại giao các nước và những biến cố xã hội trên khắp thế giới, rồi mổ xẻ chương trình Đại Đông Á của Đại Nhật Bản”! Người tù 2910, không uống rượu, không nghe hát cô đầu dù, ông “đội” khố xanh vì lòng “cảm phục” có nhã ý tổ chức buổi hát lậu trong rừng cho vui, mà Lịnh – 2910 – không chịu.
Để giải thích thái độ đó, Lịnh – 2910 – đưa cho tác giả một vở viết. Vở mở đầu bằng một tựa đề “Tâm sự của nước độc” dưới chua một dòng nhỏ:
Ai hát hay mà ai hay nghe hát
Phần II, ghi “Tâm sự của nước độc”. Phần hay nhất của Chùa Đàn, mà Nguyễn Tuân đã cố gắng lần chót trước khi chia tay vĩnh viễn với cái thú phong lưu, trước khi lìa bỏ “mảnh da thú” cuối cùng.
Cậu Lãnh Út, một trang điền chủ hào hoa, phong nhã. Từ ngày người vợ trẻ đẹp chết vì tai nạn hoả xa, cậu trở thành kẻ thù của nền văn minh cơ khí. Cậu đâm mê cuồng, chỉ uống rượu suốt ngày đêm để giải buồn. Rượu, rượu nhiều vô kể, cả một “tửu phần” có ghi tên cùng ngày tháng từng lứa cất. Tửu phần do Bá Nhỡ – quản gia – một tử tội trốn tránh, được gia đình Lãnh Út che chở. Để tạ ơn cứu tử, Bá Nhỡ, một tay tổ chức, một tay nghệ sĩ siêu phàm, một đệ tử trung kiên, đã tự hy sinh để mang lại nguồn vui cho ân nhân và người thương nữ, cô Tơ, một ca kỹ nổi danh từ ngày ông Chánh Thú – chồng cô – chết, thề không hành trình cho ai đàn nữa. Lời thề đã làm một kẻ mê hát chết mất nửa người. Cô Tơ, vì nhân đạo, không nỡ để Bá Nhỡ – người đã khổ công vì mình – phải chết, khi hồn ông Chánh Thú đã nhất quyết để Bá Nhỡ chết cho mình được đầu thai kiếp khác. Nhưng định mệnh đã ràng buộc mỗi số phận vào nhau, và kết quả đưa tới: một kẻ chết trên vũng máu của chính huyết quản mình rỏ xuống, một kẻ đi tu, một kẻ phản tỉnh đi làm cách mạng, và Chùa Đàn được dựng lên trong Ấp Mê Thảo, do cô Tơ phụ trách nhang đèn.
Phần “Mưỡu cuối” gồm 2 đoạn: một, nói với Lịnh, người tù 2910 và lá thư gửi sư thầy Tuệ Không, tức cô Tơ để yêu cầu “nhà chùa” minh xác thái độ trước cuộc sống.
I. Nhân vật Lịnh – 2910 và Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân bản chất là con người thích hành lạc và thích một mình bay bổng trên những thú đam mê có tính cách phóng túng hình hài mà bỗng nhiên tự giam cầm mình vào một kích thước – kích thước của nhà tù – để say đắm, mải mê với một hình thức cứng rắn và gò bó, chẳng phải do kỹ thuật trại giam mà đích thực do sự bủa vây của cách mạng, Nguyễn Tuân bắt gặp cách mạng như kẻ sắp “về quê” vì bệnh hoạn gặp được danh y, như kẻ lưu vong tìm về được đất mẹ.
Nguyễn Tuân đã thần thánh hóa vai trò của Lịnh – 2910 – ở bất cứ đâu, bất cứ hoàn cảnh, trường hợp nào có thể nói được, viết được. Với những quấn quít, vội vã với sự bấn loạn của suy tưởng trước cách mạng, Nguyễn Tuân hành động như một người không trang bị khí giới phòng thân, đột nhiên bị quẳng vào đấu trường để tỉ thí với một lực sĩ khổng lồ có sức mạnh vô địch.
“Ngoài những lúc phải theo lính canh vào rừng ngả cây cổ thụ, phát quang rừng lau, phá đồi, đánh gianh lợp nhà, cắt cỏ cho trâu dê bên đồn, lấy nước suối ngọt cho bên trại anh em, những lúc được về ăn nghỉ trong trại, tôi ngắm Lịnh (người tù 2910). Những cử chỉ vụn vặt của Lịnh đã đi vào con người tôi không sót một nét. Tôi ngắm Lịnh lặng lẽ và kính cẩn.” (Chùa Đàn, trang 13)
Người đọc cần phải hiểu Nguyễn Tuân trong đoạn văn trên với ý nghĩa Lịnh – 2910 – tượng trưng cho cách mạng, tượng trưng cho uy quyền tối cao của Đảng. Lịnh nói với Nguyễn Tuân mà như ra lệnh, Tuân vâng lời như đứa nhỏ hiền ngoan.
“Càng ở vào hoàn cảnh tù tội, chúng ta chúng phải giữ mình làm trọng. Để lúc về trung châu, còn có mặt trong hàng ngũ của đoàn thể… Thiếu đi – dù là một người – công cuộc sẽ chậm ít ra là một bước trong thời gian.” Tôi yêu kính câu nói của Lịnh chứa đầy một niềm sốt sắng giống như lời nói của nhà lãnh đạo ký chú với những đồng chí chưa hoàn toàn nhập điệu…” (Chùa Đàn, trang 14)
Ấy đó, cái sự thực mà nhiều người còn e ấp không dám nói trắng ra, Nguyễn Tuân đã nói và nói rất thành khẩn với lòng mình và cả kẻ khác. Phía trước mặt Tuân lúc đó, thật quả không có gì lớn hơn, vĩ đại hơn hình ảnh Lịnh – 2910. Cái vóc dáng cách mạng đã trùm lấp mọi suy nghĩ và huỷ diệt đến tận cội rễ từng phân vuông hư hỏng bởi nếp sống phong kiến hưởng thụ trong con người nghệ sĩ có mặt. Lịnh – 2910 – là một nhà thông thái, một “siêu nhân” trước những bê bối, lạc lõng, bẩn thỉu, ích kỷ, đớn hèn của quá khứ. Lịnh – 2910 – là nhân vật quá hoàn hảo, quá lý tưởng đến nỗi không còn phê bình vào đâu được. Lịnh – 2910 – giỏi văn hóa, giỏi chính trị, có tài lãnh đạo, thông suốt một vấn đề, mọi liên quan giữa con người và sự vật. Nguyễn Tuân đinh ninh rằng một người như Lịnh – 2910 – làm gì Tây nó chả bắt “vì ai cho anh xây dựng Thị trấn Ngày mai trên phá hoại”, “Ai cho đi làm cách mạng để đạp đổ chế độ thống trị này?” vì thế Nguyễn Tuân yêu Lịnh – 2910 – như một người anh cả trong cõi học và cõi đức.
Ở tù rượu ngang là quý lắm, Lịnh – 2910 – không uống mà chỉ có 790 tức Nguyễn Tuân uống thôi. Nguyễn uống say khướt trong một buổi chiều cuối xuân đất trích nhớ nhà, Lịnh 2910 chỉ ngồi cạnh “lập là” xem Nguyễn say. Nhưng rồi Nguyễn bỗng sực tỉnh trong một đoạn văn tuyệt mỹ:
“Thời tiết cuối xuân sang hè, rừng lim trổ hoa xám bỗng nổi cơn giông. Gió ngàn bị quấn trong kẹt thung lũng đâm ra cuồng cứ vật mãi vào hàng rào nứa tép của đất tập trung. Gió xoay quanh ‘căng’ chúng tôi đủ bốn hướng tám mặt. Mỗi lần gió đổi chiều, lướt qua những đầu nứa vát chéo nhọn, cái hàng rào lại rung lên như một cây phong cầm đồ sộ bị hiếp bởi một tay nhạc công tàn bạo. Có những thanh âm gùn ghè gầm thét, có rất nhiều cung bậc của than thở. Tôi không tách được tiếng ri rền nào là riêng của hàng rào nứa và tiếng oán tiếc thở dài nào là riêng của gió rừng biến động. Tôi chỉ biết tai tôi đang nghe một thứ nhạc đàn đầy âm thanh tấm tức. Gió giông không tìm được lối thoát lại càng nghẹn ngào vật mình vật mấy với mấy tường nứa rừng nhọn hoắt. Bỗng Lịnh để nhẹ tay vào vai tôi, ‘Này, nghe nó như các khổ dựng của cây đàn đáy ấy 790 ạ.’ Tôi vội đặt chén xuống." (Chùa Đàn, trang 20)
Uống xong, Nguyễn cứ “ngồi bệt đấy với chén rượu tàn” với dĩ vãng trôi bồng bềnh trong tâm tưởng. Nguyễn Tuân vốn say mê đàn hát, từ hát bộ, hát chèo, hát gõ, ca Huế đến cải lương Nam Kỳ. Nguyễn luôn luôn đam mê mà lời lãi chỉ thu về rung động. Nhưng từ ngày tự trói buộc mình vào lý tưởng, vào sự giam cầm của khuôn thức cách mạng mà Lịnh – 2910 – là ngọn đuốc soi đường, đôi lúc tâm hồn Nguyễn vẫn bị day dứt, vò xé bởi tiếng đàn, câu hát trôi về từ cõi vô thức làm cho hoang dại bất ngờ, làm tê liệt cả công tác “cỏ-vê” chém tre, ngả gỗ trên ngàn!
Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ văn chương để thi vị hóa những tên cai, đội khố xanh làm cho những nhân vật “răng đen mã tấu” này trở thành cao sang, có “tấm lòng” đối với anh em cách mạng mà trên thực tế, sự kiện không thể xảy ra, không-bao-giờ-xảy-ra-được.
Ông đội khố xanh qua ngòi bút Nguyễn Tuân trở nên hào hoa, đã dám “qua mặt” Tây, tổ chức buổi hát ả đào trong rừng chỉ để riêng cho người tù 2910 thưởng thức. Nhưng người tù đó – Lịnh – vẫn từ chối như đã từ chối dĩ vãng và buổi hát giữa rừng cũng không bao giờ có nữa.
“Mùa nước độc đã đến – lá lim, quả ngái rụng xuống suối kể đã nhiều – ai cũng chỉ lo ốm thôi!”
II. "Tâm sự của nước độc" hay nỗi ám-ảnh-đến-chết-không-rời trong tâm sự Nguyễn Tuân
Trong “Tâm sự của nước độc”, Nguyễn Tuân đã gửi gắm rất nhiều hình ảnh mình, hình ảnh cuộc đời qua tác phong và ngôn ngữ của Lãnh Út.
Lãnh Út, một nghệ sĩ trên nghệ sĩ, căm thù thời đại cơ khí vì cô vợ đã chết dưới bánh xe hoả. Người vợ đây, là biểu tượng ngàn đời trong nghệ thuật. Sự căm thù này được cụ thể bằng hành động. Lãnh Út dằn dỗi cả với những vật dụng cần thiết hằng ngày như ô-tô, xe đạp, máy bơm nước, ống chì dẫn nước, kèn hát, máy chữ, bút máy, lò cồn, đèn măng-sông, ống hàn thử biểu, lịch in bằng máy và vứt luôn cả khẩu súng bắn chim hai nòng xuống sông Tâm.
Lãnh Út dìm thân phận mình, dìm những ngày, những tháng, những năm trống trải bơ vơ trong hũ rượu, trong vòng đai ấp Mê Thảo, trong nỗi nhớ thương dằng dặc không thời gian. Lãnh Út tự khép mình giữa cơn mê dĩ vãng để tìm về sự hưởng lạc cá nhân do mình quyết định và an bài. Cái con người kỳ lạ ấy, mỗi năm đến ngày giỗ vợ lại bắt nhân công đi chặt một cây gạo to đem trồng ở trước nhà để làm gì chẳng ai đoán biết. Một số phận nữa, Bá Nhỡ – tên tử tội, đeo cứng vào gã nô bộc trung thành nhất, hy sinh nhất, chịu đựng nhất để làm vui lòng một người, một người khó tính đến độ cuồng dại đã quay màn giữa ngã Sáu quán Chuột để giải quyết sinh lý với đàn bà đi chợ. Tất cả vì rượu. Rượu tràn ngập vây lút toàn diện khung trời Mê Thảo. Cậu Lãnh Út tối nào cũng uống suốt sáng còn Bá Nhỡ ngồi bồi rượu, bình cổ văn, ngâm thơ Đường và trình diễn nhiều đoạn Kim Cổ Kỳ Quan, Đông Hán và Đông Chu. Một mình Bá Nhỡ diễn vở Lưu Bình, Dương Lễ, lần lượt sắm đủ mọi vai. Bá Nhỡ là bậc kỳ tài dưới nét mực Nguyễn Tuân.
Nhưng Bá Nhỡ không phải tên bồi rượu tầm thường, mà trong con người đó, còn có một lý luận, một hướng đi lên.
“Sống, đâu có phải là ngồi ỳ ra đây để chuyên tâm nhớ một người vợ chết. Nhớ thương tiêu cực. Phải cho cậu Lãnh tục huyền với đời sống mới được.”
Từ ý nghĩ đi đến thực hành còn phải qua nhiều khoảng trống, do đó, Bá Nhỡ vẫn phải nghe tiếng mõ gọi rượu, vẫn phải săn sóc “mả rượu” vì ngoài Bá Nhỡ ra không ai được quyền lai vãng gần tửu phần. Tửu phần được phân ra từng khu Đông, Tây, Nam, Bắc như một nghĩa trang sơn thôn. Ở đó có chôn từng lứa rượu và đặt tên từng mẻ rượu mang những tựa đề rất thơ: “Vô cố nhân”, “Mê Thảo Hầu”, “Thuần Hoành Quận chúa”, “Ức Sấu Viên”. Tên rượu do Bá Nhỡ đặt và Sấu Viên là tên hiệu của mợ Lãnh – người đã chết. Đêm đêm cậu Lãnh nhớ con Vượn Gầy đã uống cả vò để khi say ngồi nhìn trăng mà khóc một mình đến nỗi bóng in đậm cả khoảng tường.
Cảnh đào rượu ban đêm, đã được Nguyễn Tuân mô tả với kỹ thuật trác tuyệt.
"Cỏ gò chôn rượu bừng dậy chất xanh bóng thạch bồ, bên cái sáng bốc khói của đuốc lớn. Người phụ việc cầm đuốc, Bá Nhỡ cầm mai, hì hục đào. Những tiếng chìm chìm sương rừng reo xuống, những tiếng đục đục loài kim thảo ruột loài thố.
… Một hũ Vô Cố Nhân đã lấy lên khỏi sườn gò… Bó đuốc của người phụ việc lấp lại huyệt rượu giờ đang lụn dần tàn đóm, sèo sèo trên cỏ dầm. Vài con rắn cạp nong trườn từ hang ra, nuốt những tàn lửa đã nguội…
Cú rừng giờ mới rủ nhau đổ một hồi tan canh."
Sau bữa rượu giỗ đoạn tan Mợ Lãnh, cậu Lãnh giở chứng không khóc, không nghe đàn hát mà cũng không thèm rượu. Cậu chỉ đốt pháo. Tiếng pháo lệnh nổ to làm lứa tầm đang chín mà chết cả vì hành động của người cuồng. Trong kh đó Bá Nhỡ ngồi chờ cái ngày tận thế của Mê Thảo.
Nhưng rồi sau một năm, cái “Nghiệp” nó buộc Lãnh Út phải uống lại, vì không uống, cậu không còn là người nữa. Một đêm mưa gió tiếng mõ lại hằn lên trong không gian lạnh lẽo và rượu bỏ quên dưới mộ lại được khai quật để làm vui nhân thế. Bá Nhỡ lại giữ vai bồi rượu như những đêm nào. Cái tâm trạng Lãnh Út, cái bản chất đích danh của nhân vật quay trở lại để giày vò một thân xác đã chết chìm trong tưởng nhớ.
Rượu vào, cậu Lãnh bỗng nhớ đàn hát và tiếng ca của người thương nữ – cô Tơ – năm nào, lướt về ám ảnh trong trí não, khuấy động lại khoảng thời gian đã tắt. Bá Nhỡ – con-người-phương-tiện – coi như cái lệnh thiêng liêng, một nhiệm vụ cao cả, đến nỗi quên hẳn mình là tên tử tội tại đào, có thể bị lộ tung tích mà mất đời sống trước bản án tử hình.
Nguyễn Tuân trong lúc mê mải làm văn chương đã quên mất lương tri, đã hành động với lòng tàn nhẫn trong lúc sử dụng nhân vật dưới quyền uy tuyệt đối của mình. Nguyễn khao khát và ước mơ những cái gì tuyệt đỉnh, chẳng cứ trong nghệ thuật mà cả trong đời sống thực. Do đó, người đọc đừng ngạc nhiên khi cậu Lãnh Út đòi hỏi ở Bá Nhỡ quá nhiều mà chẳng bao giờ Lãnh Út trả về cho Bá Nhỡ mảy may ân huệ trừ sự nguỵ trang lý lịch.
Người thương nữ – cô Tơ, tuy là một đào hát nhưng cũng thuỷ chung đối với vong hồn ông Chánh Thú – chồng cô. Đã tưởng rằng lời thề trước linh sàng kẻ khuất, cô mong giữ trọn để yên phận một đời cây cỏ, ai ngờ tiếng hát ấy, nhịp phách kia vẫn quấn riết lấy số kiếp để dựng nên oan nghiệt.
“Chẳng nói giấu gì ông, từ khi ông Chánh nhà chúng tôi mất đi, chúng tôi không cầm đến lá phách nữa. Bất nhẫn lắm ông ạ! Bởi vì hát lên lại động đến vong hồn người đàn ngày xưa.” (Chùa Đàn, trang 46)
Cô Tơ không nhận lời lên Ấp Mê Thảo để hát, biết rằng phụ tri âm, nhưng chẳng làm sao hơn vì tiếng đàn cũ của chồng giờ này không ai còn có thể lựa phím, so dây!
Bá Nhỡ một lòng vì chủ, không chịu thua, nhất định học nghề để đờn cho cô Tơ hát một lần, một lần thôi rồi sao cũng được. Bá Nhỡ đón người kép nghiện về Ấp để luyện và chỉ một tháng, Bá Nhỡ đã cướp nghề của ông thầy.
“Tập đàn đáy như Bá Nhỡ thì tức là cướp nghề của kép nghiện đấy. Bá Nhỡ không thèm buông một tiếng nào. Đã bấm đến tiếng đàn nào thì tiếng đàn ấy chín nục đi. Không một chỗ nào sượng. Tưởng có đi đàn thờ ở một cửa đình nào thì ông thân làng lấy giải cũng không bắt được Bá Nhỡ đàn lỗi bất cứ ở khổ nào… Những ngón đàn như vê, lấy, chụp, vuốt, nhằn, những tiếng thoảng, những chỗ xòe. Bá Nhỡ đều nhập tâm cả…” (Chùa Đàn, trang 47)
Bá Nhỡ học xong nghề, còn cô đi mua lại cây đàn đáy cũ, thành bằng gỗ trắc đã lên nước, tang bằng gỗ ngô đồng Chiêm Thành, rồi đi xuống làng cô Tơ để vặn trục, thử dây cho người thương nữ tin vào tài nghệ mà thuận theo mình lên Mê Thảo.
"Tùng tung dếnh, dênh dênh a dênh
Tùng tung tùng tung tùng tếnh tung tụng.
Tung tùng ếnh tùng ên tùng tung (xòe)…
…Nghe đàn Bá Nhỡ mà miệng cô Tơ mấp máy, cổ họng muốn đằng hắng, cô muốn hít hơi cho đầy hai lá phổi. Cánh mũi cô phập phồng nhẹ. Cô muốn hát vo theo những khổ đàn của Bá Nhỡ cứ như thấm mãi vào người. Cô muốn quỳ xuống mà lạy tổ muôn lạy và hối vì đã muốn giải nghệ.” (Chùa Đàn, trang 48-49)
Sau những lời năn nỉ của Bá Nhỡ, cô Tơ đành thú thực sự lo sợ của riêng mình và nói về bí mật cây đàn đáy của ông Chánh Thú dang dựng cạnh bàn thờ.
“Nguyên cây đàn đó hình như có phù chú yếm bùa biếc gì ấy. Tang đàn làm bằng nắp ván thôi cỗ quan tài một người con gái đồng trinh… Cứ vào những đêm tối giời không có gà gáy, chó kêu và thứ nhất là vào những đêm áp ngày giỗ nhà tôi, thường cây đàn vẫn giở giời, thành đàn đổ mồ hôi cứ vã ra như tắm và thùng đàn phát lên những tiếng thở dài và vật mình vật mẩy với bức vách, cứ lủng củng suốt đêm.” (Chùa Đàn, trang 51)
Tưởng nghe thấy thế, Bá Nhỡ sẽ bỏ ý định mời hát, nào ngờ Bá Nhỡ, con người kiên trì và cương quyết, chỉ cần tới đích chứ không sợ trở ngại. Nhân vật Bá Nhỡ được Nguyễn Tuân sử dụng như phương tiện để chuyên chở từng sự kiện đã được ấn định rõ ràng trong tâm thức nhà văn.
Cây đàn của ông Chánh Thú, một kẻ mê hát sờ vào mà bị hành, trở thành phế nhân, nay đến lượt Bá Nhỡ quyết tâm đem một đời, đem hơi thở của mình để đánh đổi lấy những phút rung động cho kẻ khác nên chỉ sau một ngày đêm tóc đã trắng như cước, giống như trường hợp Ngũ Tử Tư thời Chiến Quốc.
Cô Tơ không lên Ấp Thảo thì cậu Lãnh Út xuống vậy. Lãnh Út xuống núi vì mê tiếng đàn, câu hát để khoả lấp nỗi cô đơn dù rằng phải trả bằng sinh mệnh một con người, vì đã “trên dưới nghìn đêm rừng rồi, gà ở Ấp Thảo chỉ có gáy chõ vào một chén rượu của một con người này”.
Bá Nhỡ tay không, lần thứ ba, đến nhà cô Tơ. Người thương nữ gặp lại kẻ-mê-mình,“Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê”. Lần này người nghệ sĩ, Bá Nhỡ quyết cầm vào cây đàn đựng trong buồng thờ. Hắn đã nghĩ kỹ và an tâm chịu mọi hậu quả. Cô Tơ không muốn, thành thực không muốn để người nghệ sĩ “có lòng” kia phải chết bi thảm, dù rằng cái chết đó rất nghệ thuật và để cho ông Chánh Thú được sớm đầu thai kiếp khác. Nói tình tứ cổ xưa vẫn vậy, đã không biết thì thôi, một khi biết, đố ai gỡ nổi, huống hồ “cuộc vui” này để “chi phí” cho vụ “ân oán giang hồ”. Cô Tơ đã xin với linh hồn ông Chánh Thú tha cho Bá Nhỡ, nhưng xin đã ba lần mà hồn ma vẫn chẳng chịu. “Cô Tơ hoa mắt, nghẹn nơi họng và trong người như có ai đặt hoả lò”.
Thế rồi cái gì phải đến, đã đến. Cậu Lãnh cầm chầu, cô Tơ hát và Bá Nhỡ cầm đàn. Định mệnh nào đó thật phũ phàng, nó dìm chết từng số phận dần dần như thuốc độc ngấm sâu vào cơ thể.
“Chiếc cáng điều ấp Mê Thảo đã dựng giữa sân nhà cô Tơ, hai đầu gác lên hai cái trấu gỗ ối già. Cậu Lãnh vẫn chưa tỉnh rượu…”
Thế là từ đây, từ giây phút này, nguồn đam mê bắt đầu rót xuống nhịp phách, tiếng đàn, câu hát, khổ trống những tiếng bi thảm như chiếc búa đóng vào cá “săng”. Ở đây, Nguyễn Tuân đã dùng những “ngón” mầu nhiệm của văn chương để diễn tả một kỹ thuật tuyệt luân của nghề đàn hát. Người đọc bị Nguyễn xô đẩy vào thế giới âm thanh, quyện vào màu tang tóc rồi vã xuống vũng máu tanh ngòm nhuộm hồng vóc dáng kẻ chơi đàn, cây đàn tử thần, với niềm say mê vô độ.
“Chưa bao giờ cô Tơ thấy rõ cái đau khổ ngậm ngùi của tiếng đàn đáy buối này. Tiếng đàn hậm hực hình như không thoát hết được vào không gian. Nó nghẹn ngào liễm kết cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết được ra. Nó là một nỗi u kín bực dọc, bưng bít. Nó giống như cái trạng huống than thở của một cảnh ngộ vô tri âm. Nó là cái tấm tức sinh lý của một sự giao hoan lưng chừng. Nó là niềm vang dội quằn quại của những tiếng chung tình. Nó là cái dư ba của bể chiều dứt chân sóng. Nó là cơn gió lọt kẽ mành thưa. Nó là sự tái phát chứng tật phong thấp vào cữ cuối thu dầm dề mưa ầm và nhức nhối xương tuỷ. Nó là cái lả lay nhào lìa của lá bỏ cành. Nó là cái lê thê của nấm mộ vô danh hiu hiu ngọn gió vàng so le. Nó là cái oan uổng ngàn đời của cuộc sống thanh âm. Nó là sự khốn nạn, khốn đốn của chỉ tơ, con phím. Nó là một chuyện vương vít nửa vời.” (Chùa Đàn, trang 62)
Người đọc vừa nghe một khúc nhạc làm toàn bằng ngôn ngữ. Nó tha thiết, giày vò. Nó nghẹn ngào, uất ức. Nó rung lên từng thân phận bi thảm. Nó là máu, là lệ. Nó là con tim, khối óc. Nó là tài hoa phát xuất. Nó vang động trong tâm hồn. Nó luồn qua từng tế bào thoi thóp. Nó bay vút lên không gian cao thẳm. Nó là ánh sáng, là bóng tối. Nó là cõi sống và cõi chết giao thoa. Nó là Nguyễn Tuân. Nó là Nghệ thuật.
Trong khi đó, “cỗ phách của cô Tơ dồn như tiếng chim kêu thương trên dặm cát nổi bão lốc. Nhiều tiếng tay ba ngừng gục xuống bàn phách, nghe tàn rợn như tiếng con cắt lao mạnh xuống thềm đá sau một phát tên”.
Còn cậu Lãnh Út thì “mềm tay roi, càng mê tơi đi vì tơ trúc ríu ran”. “… Ai… Đàn ai… một tiếng...”
Chao ôi! Chỉ một tiếng thôi, tiếng đàn khốn khổ bao nhiêu và cay đắng bao nhiêu cho một thân phận, cho hai thân phận, cho ba thân phận và cho cả một thế hệ lạc loài.
Cuộc vui nào rồi cũng phải tàn, huống hồ cuộc vui lần chót. Tiếng phách đã lảo đảo, tiếng đàn lả về cõi chết, tiếng hát méo lần đi vào cơn mê thiếp như ăn phải bát cháo lú bên sông Hắc Thuỷ. Tiếng trống sắc sảo, sát phạt bỗng ngừng trên mặt da thú vì trong buồng thờ ông Chánh có tiếng cười sằng sặc ở sau bài vị. Cái bát hương bằng sứ chẻ dọc làm hai mảnh để báo tin cuộc vui đến giờ tắt lửa. Số phận mỗi người và sự vật được định đoạt minh bạch. Bá Nhỡ tự hành quyết trong vũng máu âm thanh. Tinh hồn đã xuất thoát với hình ảnh con châu chấu ma nổ ruột trên tim nến lả lay. Cây đàn biến thành những mảnh gỗ vụn. Cô Tơ hát chưa hết một phần ba điệu Hóa Mã mà nhịp phách đã lảo đảo, rã rời. Và Lãnh Út, nước mắt vận chuyển hết vào nội tâm thành một niềm tư lường im vắng ghê lạnh!...
“… Một năm sau, ấp Mê Thảo mọc lên một gò Chùa – Chùa Đàn.”
III. Thái độ kẻ sĩ và niềm-ăn-năn-trước-cuộc-sống
Phần “Mưỡu cuối”, phần chót của Chùa Đàn, Nguyễn Tuân đã sử dụng kỹ thuật hành văn theo thể viết thư để dễ dàng bày tỏ ý niệm và lập trường của mình. Bức thư đó coi như lời trăn trối cuối cùng của kẻ tự lột xác, vĩnh viễn đi vào một phương hướng khác, một môi trường khác – ở đó cái sự bận bịu, kiểu cách, lập dị không chỗ dung thân.
Nha Trang khẳng định thái độ trước cuộc sống mới bằng một đoạn với Lịnh – người tù 2910 – hiện thân của “Lãnh Út hôm qua” với một niềm tin tưởng và sự khuất phục của riêng mình đối với cách mạng.
Bức thư gửi cho sư thầy Tuệ Không, đích thực là niềm ăn-năn-vô-hạn của một kẻ phạm pháp được ân xá quay lại kết tội người đã ký giấy tha mình.
Nguyễn yêu cầu: Nhà chùa cứ thỉnh xong hồi chuông chiều một trăm linh tám tiếng ấy đi, thì “chúng tôi” (Nguyễn và cách mạng) sẽ trở lại với nhà chùa đấy.
Cái giọng nói sát phạt mới dễ làm sao!
Khi đọc hết “Tâm sự của nước độc”, người ta thấy Nguyễn càng lún sâu vào ảo giác do cách mạng hình thành. Lịnh – 2910 – cậu Lãnh Út – càng lúc càng trở nên vĩ đại để biến thành chiếc lưới khổng lồ chụp gọn cả thể xác lẫn linh hồn Nguyễn vào nguồn đam mê mới, sự thực, chưa hẳn như vậy. Nguyễn Tuân, tượng hình của sự hưởng lạc mà nay phải đối diện với một nhân vật làm cách mạng thường trực giữa cuộc đời chênh vênh lạc nền tảng này thì ai là người có thể đoan chắc “một câu chót?” Câu chót đó, lúc này đã ngoài 60, Nguyễn Tuân có thể nói được, nói thành khẩn với lòng mình, với cuộc sống có đó, cũng như năm 1946, Nguyễn đã đặt vấn đề với sư thầy Tuệ Không – cô Tơ – trong Mưỡu cuối.
Nguyễn Tuân, tự nhận mình là Kẻ Vô Đạo, đứng trước sự trào dâng trùng trùng lớp lớp của cách mạng, yêu cầu “nhà chùa” – cô Tơ – phải theo gương mình phục vụ cho đời sống mới, phục vụ cho uy quyền tối cao của cách mạng. Nguyễn quả tình đã nặng lời với người tu hành và cho rằng sự “đi tu” của cô Tơ chỉ là một hình thức ăn cướp của đời, “là đánh bạc gian, và thời khắc biểu của nhà chùa chỉ là những ngày tháng của bệnh nhân trầm trệ. Sự hô hấp của tăng già chỉ toàn có thán khí thôi, lúc hít vào cũng như khi thở ra”.
Thái độ Nguyễn Tuân lúc đó có thể rất thành thực, nhưng nó chỉ có thể đại diện cho riêng Nguyễn. Trên thực tế, lúc đó Nguyễn cũng là một kẻ bắt “nhân tình” với cách mạng, chứ chưa “già nhân ngãi”. Dù sao nữa, thái độ ấy cũng không thể chấp nhận đối với con người Nguyễn Tuân, vì bản chất của lời kêu gọi không nhân danh “kẻ trong cuộc” mà chỉ là lời nói hộ của “kẻ đứng bên lề”.
Thời gian chắc đã làm cho Nguyễn Tuân cảnh giác. Nhưng hòn đá đã ném rồi. Nó rơi vào tâm hồn những con người quý văn tài Nguyễn Tuân. Nó nằm gọn trong đó với nhức nhối vô vàn.
*
Đối với tôi, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tầm vóc quá khổ. Tôi đã đọc nhiều lần và do đó ngôn ngữ Nguyễn Tuân đã vào sâu và nằm lì trong tiềm thức tôi từ mấy chục năm qua. Vì yêu và phục tài Nguyễn, nên tôi tìm hiểu Nguyễn ở cả đời sống. Nguyễn Tuân sinh ra đã có máu giang hồ. Lúc tuổi nhỏ có lần đã bị bắt ở biên giới Cao Miên – Thái Lan vì định vượt biên. Cơ quan an ninh Pháp giữ rồi bị quản thúc tại gia do lời xin của cụ Tú – thân phụ Nguyễn – lúc đó làm việc tại Thanh Hóa.
Chính tại địa điểm này Nguyễn Doãn Vượng chủ nhiệm báo Trung Bắc tân văn đã tìm ra Nguyễn Tuân, mời giữ nhiệm vụ thông tín viên đặc biệt của tờ Trung Bắc. Bước vào chân thứ hai của Nguyễn đi vào sự nghiệp văn chương. Bước chân thứ nhất là làm phóng viên cho báo Đông Tây từ năm 1931. Sau đó, Nguyễn đi Hồng Kông cùng Đàm Quang Thiện và Nguyễn Doãn Vượng đóng phim Cánh đồng ma là phim nói đầu tiên của Việt Nam (1937). Nguyễn đóng vai y tá. Lúc về Nguyễn viết Một chuyến đi đăng tải ít bài trong Tiểu thuyết thứ bảy sau in thành sách. Tác phẩm này đưa Nguyễn vào vị trí đúng của văn học.
Nguyễn Tuân là con người kiêu bạc, chẳng phải chỉ ở văn chương mà còn ở cuộc sống thường nhật. Tính ưa lập dị, danh từ lúc đó gọi là “chơi trội”. Ăn chim quay chỉ gặm hai cẳng chân. Tách cà-phê chỉ bỏ đúng một miếng rưỡi đường cục. Uống rượu say, ngồi lì một chỗ, chẳng nói chẳng rằng, độ tiếng đồng hồ sau mới bắt đầu phá phách. Uống trà phải tự tay đun nước bằng siêu đồng, than Tàu và pha trong ấm Mạnh Thần bằng trà quý hái từ núi Vũ Di Trung Quốc. Nguyễn cầu kỳ, kiểu cách từng cử chỉ nhỏ nhặt.
Trong thời gian kháng chiến, tôi có gặp Nguyễn một lần tại cánh rừng thuộc Thái Nguyên, Liên khu 1. Vẫn mái tóc bồng bềnh, vẫn cái mũi nổi gồ khoằm đặc biệt, vẫn cái môi chum chúm, vẫn nụ cười khó hiểu, chỉ có điều khác, đó là bộ bà ba nâu với đôi dép Bình Trị Thiên làm Nguyễn trở thành một “nông dân trí thức”. Cũng như Nguyễn Đình Thi, một cán bộ văn hóa cao cấp, mặc áo the đen chít khăn như ông xã, nhà văn Như Phong của Tiểu thuyết thứ bảy ngày xưa, vẫn nửa đùa nửa thật gọi tôi là “hoạ sĩ tiểu tư sản” vì tôi chưa hoà mình tích cực vào đời sống tập thể, ăn mặc giống hệt người lái buôn. Đồ Phồn nhà văn thơ trào phúng nghi trang như ông lão quê mùa, Xuân Diệu xúng xính trong bộ đồ nâu bạc phếch khoác blouson, cỡi xe đạp đi tung tăng đó đây nhưng mái tóc vẫn cuốn “bồng trên đài trán thơ ngây” và còn nhiều nữa, những khuôn mặt anh em trong tháng năm dài kháng chiến.
Qua hai tác phẩm Nguyễn và Chùa Đàn, Nguyễn Tuân cho rằng mình chưa đủ nhiệt thành đối với cách mạng nên trong một lớp chỉnh huấn vào năm 1950, một lần nữa, Nguyễn Tuân lại tự lột xác cùng với Thế Lữ, Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Khoát, Tô Ngọc Vân, Tú Mỡ, Nguyễn Cao Luyện v.v… theo tài liệu của Nghiêm Kế Tổ trong Việt Nam máu lửa, xuất bản năm 1954.
Nguyễn Tuân thời chiến đã lên án Nguyễn Tuân của Vang bóng một thời:
“Trong Vang bóng một thời, tôi đã đứng về phía bọn phong kiến ăn bám, bóc lột, thống trị nông dân lao động mà đưa ra một cái nhân sinh quan phản tiến bộ của bọn quan lại, địa chủ tiêu dao hưởng lạc, bất lực trước nhiệm vụ lịch sử… Nhân vật Vang bóng một thời của tôi tiêu biểu đầy đủ cho tư tưởng phong kiến, địa chủ, quan liêu…
Sau cùng Nguyễn hứa hẹn:
“Tôi quan tâm từ nay sáng tác vì quyền lợi dân cày… Tôi phấn khởi đứng về phía bần cố nông mà thận trọng và cố gắng thể hiện cái tâm hồn sáng lên của dân cày có Đảng lãnh đạo.” (Việt Nam máu lửa, Nghiêm Kế Tổ)
Đó, đó. Nguyễn Tuân một văn tài lỗi lạc của nền văn học Việt Nam đã quyết liệt với chính mình bởi lý do rất đơn giản rằng, Nguyễn Tuân chỉ là một nghệ sĩ theo đúng nghĩa chữ, là cánh chim giang hồ, nơi nào đẹp, vừa ý vội hạ cánh hót chơi vì vậy, người đọc mới có dịp đọc lại văn phong của Nguyễn trong bài tuỳ bút "Phở" đăng ở tạp chí Văn nghệ xuất bản tại Hà Nội 13 năm trước. Và vì tình cờ, kẻ viết được đọc một bút ký của Nguyễn viết về Quốc lộ 1 trên đường thăm Bến Hải. Lẽ dĩ nhiên, “đoàn thể đã sửa chữa” cho Nguyễn nhiều, rất nhiều, nên đọc Nguyễn mà tôi tưởng như đọc văn của người khác. Nhận định về Nguyễn Tuân, một bạn văn cho rằng, Nguyễn quả có văn tài, văn phong, nhưng Nguyễn không phải là nhà văn tư tưởng. Điều này có lẽ đúng chăng?
Sau khi viết xong bài về Nguyễn Tuân, tôi được tin Nguyễn đã mất tại Hà Nội năm 1969 [1] . Cái chết của Nguyễn Tuân thực đẹp, nếu câu chuyện sau đây được coi là đúng sự thực: Nguyễn đang nằm điều trị tại Bệnh viện Phú Doãn về bệnh chai gan do rượu mà ra. Một buổi có người bạn lại thăm, Nguyễn kêu thèm rượu quá. Vì thương mến Nguyễn, người bạn tìm mua được một chai Whisky đem lại ngay chiều hôm đó. Chờ đến tối, Nguyễn ôm chai rượu trèo tường trốn ra khỏi Bệnh viện đi thẳng tới Hồ Gươm, vào giữa Trấn Ba Đình ngồi gật gù độc ẩm, cho đến cạn cả chai rồi nằm lăn ra đất. Sáng hôm sau có người tới mới hay Nguyễn đã chết, không biết từ lúc nào.
Trích văn Nguyễn Tuân
Tâm sự của nước độc
Gần tàn tiệc đêm, cậu Lãnh vụt nhớ đến cái thèm ước cũ: “À, hôm nào em cho tìm cô Tơ về ấp hát một buổi. Đàn của em nghe chín lắm. Sao mọi khi không thấy em chơi đàn đáy! Ừ, chưa có lần nào em đánh đàn đáy. Cô Tơ hát thêm vào nữa, thì cuộc đời không đến nỗi toàn là những chén ‘Vô Cố Nhân’ đó em ạ”.
Chủ ấp lại đòi vợi thêm nửa bì “Vô Cố Nhân” nữa để cho mặt giời rọi lệch ánh buổi mai rừng vào miệng chén trào sóng còn sủi tăm. Đã trên dưới nghìn đêm rừng rồi, gà ở ấp Thảo chỉ có gáy chõ vào một chén rượu của một con người này.
Bá Nhỡ lại xuống núi, tâm hồn không mà xuống núi chứ không có đem đàn theo như lần trước. Lần này là lần thứ ba mà một người đánh đàn tìm đến một nếp nhà gianh để cầu một tiếng hát.
Trông thấy Bá Nhỡ bước vào nhà, cô Tơ càng lo sợ nghĩ đến cái mộng đêm trước không khéo mà ứng vào ông khách trên ấp này đây. Đêm nọ gần về sáng, cô Tơ nửa thức nửa ngủ, chờn chợn nghe thấy tiếng người rón rén đi từ buồng thờ ra. Cô quay mặt lại phía cửa màn thì đã thấy ông Chánh Thú đứng sững ở đấy, áo xô gai rộng tay và hoen ố. Cô định vùng chạy đi thì hồn chồng ra hiệu là không việc gì mà sợ. Ngồi men vào thành giường, cái hồn mặc đồ vải trắng bệch ấy phào với vợ: “Một ngày rất gần đây sẽ có một người tìm đến để nghe mình hát. Cứ để cho người ấy đàn vào cái đàn dựng ở bàn thờ tôi. Mình đừng có ngăn giữ người ta. Mình phải hát cho người ấy đàn. Đàn xong thì người ấy lăn ra chết. Thế nghĩa là người ấy sẽ thế mạng cho tôi ở dưới cung Thuỷ Tinh này, thì tôi mới được trở lên làm người dương gian. Đàn dưới này cho Diêm Vương trong mười Vương Phủ, tối tăm khổ sở lắm. Những thanh âm của ngục tối, mình ôi! Mình nhớ kỹ lấy để tôi được đầu thai về cái thế giới tơ trúc trên dương gian. Lần trước đã hụt mất một dịp đầu thai rồi vì mạng cái người bên Kinh Bắc ấy còn vững lắm, tôi bắt chưa được. Thôi, tôi về đây”. Một luồng gió lạnh lay động lá màn. Cô Tơ ngồi hẳn dậy thì không thấy gì nữa. Và một điều lạ là trong buồng thờ lại có ánh đèn. Ai thắp? Bao giờ cô cũng tắt đèn thờ trước khi đi nằm. Cô vào đến nơi thì có ba tiếng nứt tách rất dứt khoát. Ấy là ba sợi dây tiểu, dây trung, dây đại ở đàn đáy kế tiếp nhau mà cùng đứt. Một con đom đóm vờn bay trên cây đàn nhễ nhại mồ hôi. Trên nền tang đàn gỗ ngô đồng, có những đóm lân tinh lập lòe. Cô Tơ lại gần nhìn thì mới biết đấy là máu của dây đàn đứt. Đầu các dây còn rung lên, ruột sợi tơ rỉ tuôn ra một thứ nước đặc sệt như máu con giời leo và xanh đục như ruột bọ nẹt. Chất ấy đọng thành giọt ở các đầu dây và lóe tia xanh lạnh lên dưới cái sáng chờn vờn của lửa đom đóm. Cô Tơ thắp một tuần nhang bất thường và, đồ cỗ phách ra khỏi túi vóc, cô gõ mấy câu hát thờ.
Công việc đồng áng của cô Tơ vào sau giấc chiêm bao ấy có điều trễ nải hơn mọi khi. Rồi là thấy Bá Nhỡ vào nhà cô.
Sực nhớ lại mấy lời trong mộng, cô Tơ chỉ vội mời Bá Nhỡ uống nước, và bỏ mặc khách đấy, cô lùi ngay vào buồng thờ châm đèn hương, thỉnh chuông và cầm hai đồng tiền gieo xuống đĩa xin âm dương, khấn “Nếu mộng triệu ứng vào người khách chơi đàn trên ấp Mê Thảo đang ngồi ngoài kia, thì tôi muốn xin mình tha cho người ấy. Mình chờ đến người sau rồi hãy đầu thai lên lại với cuộc đời bằng thịt bằng xương thật này. Cũng không lâu gì đâu. Mình muốn lúc nào thì cứ báo mộng cho tôi là tôi tìm ngay được một người cầm vào đàn của mình mà đánh để rồi chết. Thiên hạ nào thiếu gì những cầm đàn chạy theo vợ mình. Có trôi sông cũng không hết. Nhưng đến cái người ngồi ngoài kia thì tôi thấy không đang tâm. Tôi xin mình, mình chứng giám cho lòng ngay thẳng và thương người của vợ mình. Tôi gieo tiền, mình bằng lòng thì một đồng sấp một đồng ngửa.”
Tiền khất đài một mặt bôi vôi, ba lần gieo xuống đĩa thì ba lần chỉ quay tít mà cười rồi lăn ngửa ra cả đĩa, chứ không keo nào được cả. Cô Tơ hoa mắt, nghẹn nơi họng và trong người như có ai đặt hoả lò. Rồi cô lặng cúi trở ra phòng khách, không dám nhìn thẳng vào Bá Nhỡ.
"Thưa cô, tôi về ấp đã nghĩ kỹ rồi. Tôi sẽ đánh đúng vào cây đàn thờ dựng trong buồng. Sự gì sẽ phải xảy ra cho tôi, tôi vui lòng chịu lấy. Cô không nên lo sợ ái ngại gì cho tôi cả."
"Thưa ông… Thưa ông…"
"Thưa cô, tôi đã nhất định. Nếu tôi có tránh được cái việc đánh vào cây đàn ông Chánh, tôi thấy đời tôi nó cũng chẳng thêm hơn lên lấy được một điều gì. Có lẽ lại còn nhạt là khác nữa."
"Thưa ông…"
"Thưa cô… mà lần này chắc không còn cách gì để cô từ chối nữa. Vì cô không phải lên hát tận trên ấp. Cô ngồi hát hay ở bục kia. Tiện lắm."
"Thưa, không có trống?"
"Điều đó, tôi đã tính rồi. Chừng vàng mặt trời thì võng cậu Lãnh tôi sẽ có người cáng tới đây. Cậu Lãnh sẽ cầm chầu. Cô sẽ hát, tôi sẽ đàn – đàn ngay vào cái đàn ông Chánh. Thôi, cô bảo dọn qua loa cái gì cho tôi uống mấy chén cho nó ấm bụng."
Trông người quản gia ấy nâng chén độc ẩm, người ta phải liên tưởng tới cốc rượu mạnh của tội nhân sắp lên đoạn đầu đài. Bởi vì, chốc nữa – chỉ vì một chốc nữa thôi – khi mà Bá Nhỡ cầm đúng cây đàn thờ ấy lên, hễ bắt đầu sòng lên ba tiếng tức là ký vào một bản án tử hình đấy.
Cả người cô Tơ là một cõi bồn chồn không có biên giới. Cô ở nhà ngang chạy lên nhà trên, nhìn vào mâm rượu rồi lại nhìn trộm Bá Nhỡ rồi lại chạy xuống. Cứ thế mãi. Cô muốn được trốn tránh đi đâu chứ không muốn là một niềm xúc cảm gì ở cái nhà này nữa. Cái sinh mệnh người ngồi tự tống tửu cho mình kia chỉ đang treo vào một sợi… tơ! Và cô sắp hát cho người ấy nghe để cho sợi tơ kia đứt phựt.
Chiếc cáng điều ấp Mê Thảo đã dựng giữa sân nhà cô Tơ, hai đầu gác lên hai cái trấu gỗ ổi già. Cậu Lãnh vẫn chưa tỉnh rượu. Hai lực điền dân ấp vực cậu Lãnh vào, đặt cậu ngả lưng bên gối xếp. Bá Nhỡ ra hiệu cho chủ nhân triệt soạn và mời cô Tơ đổ phách ra mà gõ ngay đi thôi. Sau khi châm mấy nén hương vĩnh quyết vào bát hương thờ Chánh Thú, Bá Nhỡ đã khệ nệ ôm cây đàn thờ từ trong buồng ra. Cô Tơ cầm phách gõ.
Bá Nhỡ thử dây, vặn trục đàn. Trục nghiền gắt và nấc dân mãi lên. Cần đàn ôm sát vào mặt, Bá Nhỡ ngửi thấy một mùi tanh tanh và gỗ đàn đã truyền sang lòng tay một chất nhờn sánh. Buông đầu gảy xuống dây đàn vẳng ngân một tiếng cuồng loạn. Và những đầu ngón tay phải – Bá Nhỡ đàn tay trái cũng như cầm đũa, cầm bút – nhấn xuống dây đã run lên những cảm giác buốc nhức. Bá Nhỡ chững chạc buông ba tiếng sòng.
Cậu Lãnh còn đang li bì vội choàng dậy, cầm roi chầu đánh luôn mấy tiếng. Người cậu Lãnh chỉ còn hai cánh tay và hai cái tai, chứ cật và chân cứng đờ và mắt thì nhắm nghiền, cằm vểnh lên trời. Cô Tơ như mất hẳn hồn, cái tâm chỉ còn lên xuống theo với bực đàn. Gỗ bục dưới thân tan loãng đi đâu để cả người cô Tơ phiêu phiêu lững lờ trôi mãi giữa không.
Chưa bao giờ cô Tơ thấy rõ cái đau khổ ngậm ngùi của tiếng đàn đáy buổi này. Tiếng đàn đáy hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian. Nó nghẹn ngào liễm kết cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm. Nó là một cái tâm sự không tiết được ra. Nó là nỗi u kín bực dọc bưng bít. Nó giống như cái trạng huống than thở của một cảnh ngộ vô tri âm. Nó là cái tấm tức sinh lý của một sự giao hoan lưng chừng. Nó là niềm vang dội quằn quại của những tiếng chung tình. Nó là cái dư ba của bể chiều đứt chân sóng. Nó là cơn gió chẳng lọt kẽ mành thưa. Nó là sự tái phát chứng tật phong thấp vào cữ cuối thu dầm dề mưa ẩm và nhức nhối xương tuỷ. Nó là cái lả lay nhào lìa của lá bỏ cành. Nó là cái lê thê của nấm mộ vô danh hưu hưu ngọn vàng so le. Nó là cái oan uổng nghìn đời của cuộc sống thanh âm. Nó là sự khốn nạn khốn đốn của chỉ tơ con phím. Nó là một chuyện vướng vít nửa vời.
Tiếng đôi lá con cỗ phách cô Tơ dồn như tiếng chim kêu thương trên dậm cát nổi bão lốc. Nhiều tiếng tay ba ngừng gục xuống bàn phách, nghe tàn rợn như tiếng con cắt lao mạnh xuống thềm đá sau một phát tên. Tay phách không một tiếng nào là nhụt. Mỗi tiếng phách sắc như một nét dao thuận chiều. Và gõ đến như thế thì thật là đem cái vinh quang đến cho tre cho trúc và tạo cho thảo mộc một tấm linh hồn. Dưới mười ngón tay hoa múa dẻo quanh, tre trúc bật nảy lên vì thoả thích. Đàn và hát dắt nhau mà lướt bổng. Cậu Lãnh Út mềm tay roi, càng mê tơi đi vì tơ trúc ríu ran. Chưa hồi tỉnh cuộc rượu của ấp, cậu lại tự bồi thêm trận rượu của đêm nhạc. “Đàn ai đàn...”.
Nắn những đường gân ngang, gò cong mình xuống đàn, day thịt da tê cóng trên dây sắc buốt như cật nứa, mấy đầu ngón tay Bá Nhỡ sưng vù và bật máu. Bá Nhỡ đang chịu một nhục hình bá đao tùng xẻo. Nghe phách cô Tơ, ở những khổ rung thưa rồi mau Bá Nhỡ say sưa trong cái nhận thức là mình đang chết dần giữa đàn hát và mỗi một tiếng trúc tiếng tơ đánh thêm lên là mình lại càng lả dần về cõi chết. Có người tự tử bằng mùi hoa ngát, có người tự tử bằng hơi nhạc. Người đang luyện phím khảo dây bỗng nở một nụ cười héo sửng trên hai môi tái.
Máu chảy ra nhiều quá. Toàn thân Bá Nhỡ đỏ ngòm. Áo quần màu trắng của Bá Nhỡ vụt trở nên vóc đại hồng, trông hệt một người phục sức để ăn thượng thọ. Người Bá Nhỡ đã là một cái vại đựng chất lỏng có nhiều chỗ rò rỉ. Máu trong cơ thể Bá Nhỡ cứ đều một dòng tuôn mà thẩm lậu ra ngoài. Bá Nhỡ đã thấy khát nước. Và khắp mình mẩy xót nhức không biết đến đâu là chừng hạn nữa. Mỗi tiếng đàn là một miếng thịt lấy ra. Tí một, tiếng đàn đưa nhau về nơi vĩnh quyết. Tùng. Tang. Tùng tùng! Tụng. Bá Nhỡ vấp vào một chỗ nhấn, đầu ngón tay ngừng đổi dây lát trên mõ phím cao quyện huyết. “Đàn ai… đàn… một tiếng…”.
Vừa có một mũi kim nào châm vào cái đốt cuối xương sống Bá Nhỡ, làm cho cây đàn đột ngột bật hẳn cân dọc lên. Rồi không rõ từ đâu vào, vẫn ở đoạn xương sống, có rất nhiều hạt muối lạo xao đánh loãng chất tuỷ người đang gò đàn. Ruột nhũn hẳn ra, óc se thắt lại, chỉ còn có cái tâm Bá Nhỡ là điều động với lớp lớp tơ trúc dật dờ.
Gân tay cô Tơ xuống phách đã có chiều lảo đảo vì chuột rút. Hạt châu lẩy bẩy đọng trên môi người hát, sáng đục như mắt chuồn chuồn. Phải nuốt nước mắt mặn chát tuôn đều với máu người đàn đối diện, tiếng hát cô Tơ có nhiều chữ buông bắt đã hết vuông hết tròn. Tiếng hát đã sa làn rồi khê và mực hát đã có chỗ bửng. Cả hát cả đàn đang dắt tay nhau sa lầy trên cái mênh mông bùn sũng ngào vỏ ốc, mờ rộng xanh lơ ngút chân trời. Cô Tơ rùng mình. Hình như đây là pháp trường đang có những tiếng mớm chiêng đồng. Như ăn phải bát cháo lú bên sông Hắc Thuỷ, cô mê thiếp đi. Tiếng hát méo dần.
Thoáng một tiếng dây đàn đứt. Cô choàng tỉnh để nhận cúi đầu tơ ấy bắn vào mặt. Thái dương cô tê dại trong khoảnh khắc. Rồi vững lại tay phách, chỉnh lại hơi cổ hơi mũi, cô Tơ hát bây giờ mới vượt qua những đỉnh nhọn của thế giới âm thanh. Tiếng hát mọc cánh, thăm thẳm trong trắng tinh khiết quá pha lê gọt. Cô đang gọi nước suối đá ngọt trào dâng lên. Tiếng phách trục ríu ran như cô đọng lại được muôn điệu của muôn giống chim. Có những tiếng tre đanh thép, sắc bén đến cái mực cắt đứt được sợi tóc nào vô tình bay qua khoảng nơi phách đang bốc cao vươn mình đứng dậy như vách thành. Đôi tai cậu Lãnh Út chỉ là hai cái phễu để cô Tơ rót vào đấy cả một rừng chim và cả một suối thuỷ tinh.
Cô Tơ giờ mới để ý đến những tiếng trống điểm. Trống người chủ ấp trẻ ấy sát phạt thật. Thật là một thứ trống lợi hại. Trong tiếng trống, có tiếng đổ nhào của ngói gạch vụn rời. Hình như tất cả những lâu đài cung điện của cuộc đời nhãn tiền đều tan rã theo một cái roi quật xuống mặt da loài thú. Hình như phải có được vô vàn vàng lụa luỹ thế mà phí đi thì mới đổi được ra thành cái tiếng âm âm đục đục ấy. Châu, điểm đến như thế thì khỏi nào mà tránh được chuyện oan trái cùng người gõ trục.
Lúc này, cậu Lãnh chỉ biết có sự thẩm âm. Âm trúc, âm tơ. Còn ngoài ra, cậu không biết gì hết. Chén tống rượu cứ liên tiếp mà vơi mà đầy, gia nhân đi theo rót đưa đến đâu thì cậu uống đến đấy. Tưởng lúc bấy giờ, cả quê Nhộn này có phát hỏi, cả chính quyền cậu đất có sụt nứt hết, cậu cũng mặc. Cậu đang ngủ cái giấc ngủ thôi miên của âm nhạc. Không một tiếng nào lép, roi cứ như ôm lấy tang mít, rồi cứ như dán vào mặt da.
“… nguyệt dãi tàn nhang… ư… Con sông hồ nước biếc…”. Nhưng thật ra, cô Tơ chuyển hướng tiếng hát vào lòng người chơi đàn chứ không bận gì mấy đến người điềm châu. Bá Nhỡ ngồi trước mặt kia, sinh mệnh chỉ còn dính vào cuộc đời bằng một vài khổ đàn nữa thôi. Tắt bản đàn, là cuộc đời người đang cúi xuống cái đầu bầy bằng sừng bò tót kia cũng hết luôn. Hơi tơ thiểu não như lời gửi gấm giối giăng. Nó buồn rộng xa nhòe quá một tiếng lên đường. Thôi thì đây cũng là những tiếng cuối cùng của đời. Cô Tơ cố bắt buông từng chữ cho thật chín nục để cho kẻ sắp hết làm người kia đem đi cho thật đầy đủ cái dư âm của cõi sống. Làn hát chênh đi như lời giã từ ngượng nghịu.
Trong buồng thờ Chánh Thú, có tiếng cười sằng sặc ở sau cái bài vị. Bát hương thờ sứ chẻ dọc làm hai mảnh, tiếng nẻ toác to gọn như mắt tre nổ trong lửa. Hai mảnh sứ nhào lăn xuống nền đất, kêu đánh xoảng. Riêng cô Tơ nhận thấy tiếng đổ vỡ này và hiểu nó là điềm báo hiệu của một điều linh thiêng gì. Qua cái màn mỏng nước mắt, người hát nhìn trừng trừng vào người đàn. Bá Nhỡ vốn đã còm, giờ lại càng khô sút hẳn đi. Máu tuôn ra nhiều quá, đánh đồng quanh chỗ Bá Nhỡ như một khối hồng hoa. Bắt tay đàn để xuống mạnh một cái đầu gầy thứ nhất ấy là máu trong người Bá Nhỡ vợi đi từ đấy. Và thân hình ngót dần đi và teo tóp mãi lại chẳng khác gì cái xác khô người tăng già khổ hạnh. Hình như tới một chừng mực siêu thanh nào đó, âm nhạc có cái vật tính là làm quắt lại da thịt và chuốt dài thân người ra.
Bá Nhỡ chỉ còn là một cái bóng. Bóng loãng dần và không động. Bóng cứ nhạt mờ thêm mãi qua cái hôn mê của nỗi thảm tình thương và cô Tơ chỉ còn nhận thấy có mỗi một cái chấm sáng trên thân người ôm đàn là còn linh động. Ấy là mặt ngọc chiếc nhẫn ở ngón tay nắn dây. Tất cả sinh khí một kiếp người chỉ còn gởi vào có một cái mặt nhẫn linh động theo ôm đàn. Rồi bẵng hẳn đi, trong phòng không có một tiếng đàn nào nữa. Như một thứ kẹo, máu cũ khô quánh gắn chặt mười đầu ngón tay Bá Nhỡ vào mấy sợi tơ đỏ sẫm và mặt tang ngô đồng hoen ố. Mười ngón như một đã bị đóng đinh liền vào phím cây đàn.
Máu tuôn đã hết chất nồng và chỉ còn toả ra một mùi tanh nhạt.
Bá Nhỡ gục vào đàn, nách cắp lấy thành đàn mà nhoài ra giường. Gỗ bục đêm và thân người nhoài ra kia lạnh bằng nhau.
Phía sau cây Bá Nhỡ, vụt bay lên một con bướm đen loang lổ những chấm tròn hồng hoàng.
Linh hồn Bá Nhỡ đã xuất thoát ra kia đang díu đôi cánh ốm rồi biến dần vào bóng khuya. Một con châu chấu nổ ruột trên tim nến lả lay.
Thế là hết hẳn ngân rung của chỉ đàn.
Điệu hát Hóa Mã, chưa quá một phần ba.
Như một hành khách hoả xa tỉnh giấc lúc tàu đổ vào ga, Lãnh Út choàng dậy, hất hàm hỏi: “Kìa, sao lại nghỉ lâu thế! Nối lại dây chóng vào.”
Cô Tơ bỗng oà lên. Tiếng khóc nức nở thê thảm. Cô chạy lại đỡ xác Bá Nhỡ, đấy chiếc gối mây vào gáy một tấm thi hài co quắp. Cúi mình xuống cái xác dâm dê đỏ, cô Tơ đang vuốt mắt cho Bá Nhỡ, bỗng lại giật bắn mình lên vì một tiếng tách nữa nổ ngay cạnh đó. Cây đàn vừa bị tay người lạnh thả dần xuống mặt bục, đang tự tan vụn ra từng miếng con. Phím long rồi, cần, thành, tang đều tung bật hết mộng chốt, và cùng một lúc nhả hết những đường sơn gắn. Đàn chỉ còn là một đống gỗ vụn gỗ linh tinh những bừa bộn bên một cuộc đời đánh đàn đang khô dần lớp máu cuối cùng.
Lãnh Út – nước mắt vận chuyển hết vào nội tâm thành một niềm tư tưởng im vắng ghê lạnh – chống tay vào cằm, ngây sững như đất tượng nung, ngủ ngồi ngay dưới chân xác chết mất một nửa phần đêm và lân sang nửa ngày sau, mắt mở to, mí không chớp lấy một lần.
Tỉnh giấc ngủ ngồi, Lãnh Út nhẹ đặt thi thể Bá Nhỡ vào cáng đưa về Mê Thảo. Chiếc cáng đi theo cái đà của gió mưa thuận mùa. Lãnh Út bám vào đòn cáng mà lần về ấp. Lẽo đẽo chạy theo sau xa là cô Tơ, mặt chùm kín vuông khăn lượt trắng mỏng.
Bá Nhỡ được hạ thổ vào lúc xế chiều. Và ngay buổi tối ấy, tửu phần cũng bị khai quật luôn lên. Mặt đất gò rượu ngổn ngang đất đào và vô vàn là chum là hũ bị tháo nút ngả nghiêng ở miệng huyệt rượu. Nhiều vò rượu, nước sánh đặc chảy ra lênh láng. Nhiều hũ cơm ủ đang kết men, - lắm cái hình bó và sắc cốt hiện lên đẹp như phát khanh tướng đến nơi.
Sẵn bó đuốc cháy, Lãnh Út vứt luôn vào tửu phần khai quật. Gò rượu phát hoả. Lửa men khê nồng bốc lên liên tiếp. Cho đến hết canh ba mà ngọn lửa men rượu xanh lè cũng chưa dịu ngọn. Đêm phóng hoả tửu phần, thảo mộc chim muông vùng Mê Thảo bị một trận say lây. Cây cành cỏ lá đều miên man rũ rượi rầu nhũn. Thú ngàn rống to lên như cảnh động rừng. Chim bị say, cánh cụp cứng lại mà lìa khỏi tổ, rụng xuống đất như quả chín rời cành mẹ.
Lảo đảo, Lãnh Út lắp bắp ấm ớ nói mê giữa một giấc chiêm bao không ngày tháng: “Sau một cái tử biệt, giờ ta phải tính đến nỗi sinh ly khác. Đối với đàn, hát, từ bây giờ ta nguyện làm một người điếc, một người cô đơn, một người phản bội. Và trên vong linh Bá Nhỡ, ta thề độc là không bao giờ cầm đến một cái chén nào của cuộc đời này”.
(Chùa Đàn)
Chú thích[1]Tác giả nghe tin nhầm. Nguyễn Tuân mất ngày 28.7.1987 tại Hà Nội. (talawas)
Phần trước | Phần sau | Xem nhanh: |
Nguồn: http://vnthuquan.org/ |
Có liên quan
Bốn mươi năm nói láo - Vũ Bằng
Hồi ký Phạm Duy (Tập 1) - Phạm Duy
Hồi ký Phạm Duy (Tập 2) - Phạm Duy
Hồi ký Phạm Duy (Tập 3) - Phạm Duy
100 bài thơ hay nhất VN thế kỷ 20 - Hà Linh
Bè Trầm - Chưa rõ Tác Giả
Như Lục Bình Trôi - Khúc Thụy Du
Thời áo trắng - Hoàng Mai Quyên
Trên dốc tình si - Hồ Chí Bửu
Tác phẩm mới cập nhật
Mười câu chuyện văn chương - Nguyễn Hiến Lê
Bên Đời Hiu Quạnh - khánh Ly
Al Capone - Khuyết Danh
Những lá thư người cha gửi cho con gái - JAWAHARLAL NEHRU
Mẹ Điên - Vương Hằng Tích
Lời Dâng - Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
Âm thanh của gió - Bùi Minh Vũ
Ngủ giữa trùng sơn - LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Giọt Úa Đại Ngàn - LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Huyền thoại x.D - LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Cùng thể loại
Khảo Luận Về Ông Phan Thanh Giản - NQS
Mười khuôn mặt văn nghệ - Tạ Tỵ
Phan Đình Phùng - Đào Trinh Nhất
Các ông trạng ở Việt Nam - Vũ Ngọc Khánh
Xuân Quỳnh - nhiều tác giả
Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhiều tác giả
Những câu chuyện kể về Bác Hồ - Nhiều tác giả
Những Tình Khúc Trịnh Công Sơn - Trịnh Công Sơn
Đinh Bộ Lĩnh - nhiều tác giả
Uống rượu với Tản Đà - Trương Tửu
LÊ ĐẠT * BỨC TRANH
Bức Tranh Có Ma
Lê Đạt
Những quệt màu bừng bừng chạy trên mặt toan như những tia nham thạch miệng một hỏa diệm sơn phun lửa.
Liệu mầu sắc có dẫn ông tới thế giới mong đợi, nơi không còn Gauguin, người bạn tri kỷ đã phản bội ông.
"Ngày mai tôi sẽ trở về Paris..?" Gauguin hạ những chữ tàn nhẫn như lưỡi dao một đao phủ.
"Sao cậu hứa ở với mình đến hết mùa xuân. Mình van cậu, đừng đi. Cậu đi, mình ở đây với ai? Đừng đi, Gauguin... ở lại. Ở lại. Dù một tháng, dù một tuần... cậu không biết mình cô đơn thế nào? Mình cần cậu thế nào?"
Gauguin gạt tay bạn dứt khoát bước ra cửa.
"Thằng phản bội, tao sẽ giết mày."
Ánh nắng Provence lấp lóa trên lưỡi dao cạo dài. Van Gogh vừa chạy vừa thét. Gauguin từ từ quay lại, lừng lững dọa nạt như một pho tượng ăn thịt người trong những tà giáo phương Đông. Hai mắt hắn cháy đỏ như lửa địa ngục... Lạy Chúa! Nó trở thành ma quỷ rồi. Van Gogh đứng sững. Bóng Gauguin xa dần trên con đường chói nắng...
Gauguin! Quay trở lại? Đừng đi, đừng đi... Trong một cơn tuyệt vọng, Van Gogh lấy dao cạo cắt luôn tai mình... Vẽ, vẽ đi chỉ ngừng lại một giây là những hình ảnh ma quái lại ùa về dồn dập dọa nạt. Van Gogh bóp mạnh những tuýp mầu chẩy tràn cả xuống đất... Vẽ... vẽ... Không thì điên, không thì chết. Chỉ mầu sắc may ra có thể cứu được Van Gogh giây phút hoạn nạn này.
Quệt màu da cam hơn hớn chạy trên toan vẽ, thách thức ánh nắng đang chứa chan vào xuân... Những bông hoa mào gà chói đỏ. Đâu như có lần một người bạn nào đó cho Van Gogh biết các nhà thơ Đường bên Trung Quốc từng gọi loại hoa này là mỹ nhân thảo... Óc tưởng tượng các nhà thơ Tầu thật tuyệt vời!
Những thân cây mào gà mảnh mai mới quyến rũ mới đàn bà làm sao? Ước gì Van Gogh được ngụp lặn trong đó, vĩnh viễn ở đó, không bao giờ trở về nữa.
Ông cầu xin mầu sắc dẫn đường. Liệu chúng có dẫn ông như một người bạn đồng hành trung thành tới một ga hẻo lánh của rực rỡ, của thơ nhỏ, nơi có một người yêu ông thật lòng. (Ôi, người đó cũng chẳng cần đẹp lắm). Người đó đừng phản bội ông như Gauguin, đừng xua đuổi ông như cô gái nước Anh kiêu kỳ...
Nhưng mầu sắc vẫn chưa đến... Van Gogh hành hạ những tuýp vẽ. Mầu ộc trên palét đỏ như vũng máu tươi. Ông đằm bút trong vũng mầu, quệt máu lên mặt toan. Ông hối hả, cuống quít, tưởng như không còn chủ động được nữa. Mầu sắc kéo tay ông vào cuộc mầu hoang dại cuồng nhiệt. Van Gogh chạy theo hổn hển muốn đứt hơi.
Cánh đồng hoa mỹ nhân hiện dần trên mặt toan day dứt kỳ lạ, tưởng chừng như Van Gogh không vẽ phong cảnh bên ngoài mà mải mê phong cảnh tâm hồn mình, những mầu sắc tự sự cả một tuổi hoa niên đã qua, chồng chất những vệt đời, những khao khát, những ấp ủ chết yểu. Những tầng mầu bồi lên nhau những tầng kỷ niệm.
Van Gogh bỗng nghe có tiếng hát. Cánh đồng vắng tuyệt không bóng người.
Thì ra những hòa sắc màu da cam, các manh, xanh cô ban ( cobalt) đang hát. Một bài hát xa vời và an lành như một bài thánh ca.
Van Gogh mỉm cười. Một cơn gió nhẹ thổi. Mặt ông bỗng thư dãn, bình yên lạ lùng. Cơn điên đã đi qua. Ave
Maria!
Van Gogh thanh thản bước vào tiệm cà phê quen. Một người cao lớn bỗng xô ra giang tay chặn cửa. Sao Gauguin lại ở đây? Sao đi đâu ông cũng không thoát nổi hắn?
- Ông đi ra ngay, không tôi gọi đội xếp.
Một giọng phụ nữ từ phía sau:
- Ô hay Jean! Sao con lại làm thế?
Một bà đứng tuổi trong quầy hàng chạy ra đon đả:
- Mời ông vào.
Thì ra đó không phải Gauguin là là Jean, con bà chủ tiệm cà phê, Célestine. Bà đẩy người con trai lực lưỡng và càu nhàu sang một bên lấy lối cho Van Gogh.
Đã hơn một năm nay từ ngày tới thị trấn Ariles hầu như ngày nào Van Gogh cũng có mặt ở tiệm cà phê này.
Ông chọn một bàn vắng trong góc tối, nơi ông có thể buồn một mình, không sợ ai quấy rối. Chao ôi ! Buồn chỗ đông người dẫu sao cũng vui hơn buồn gác trọ hiu quạnh. Ông ngồi hàng giờ trước ly rượu ngải... Nghĩ đến cuộc đời bị hắt hủi. Ngay từ khi lọt lòng... Tên Vincent Van Gogh bố mẹ đặt cho là tên người anh bất hạnh vừa mở mắt nhìn ánh sáng đã vĩnh viễn nhắm lại vào cõi đêm bất tận... Nhiều buổi trưa Vincent quanh quẩn bên mộ anh, cúi đầu trên tấm bia chữ khắc đậm nét. "Ở đây yên nghỉ Vincent Van Gogh." Và bỗng tự hỏi "Vincent dưới mồ và Vincent bên mồ, ai là Vincent thật?"
Cỏ xanh lay động dưới cây trắc bá lá khẽ reo hát. Vìncent sống bỗng thèm Vincent chết. "Ở dưới đó chắc bình yên."
Người ta thường chê Van Gogh hay lui tới đám gái chơi rẻ tiền, và buộc tội ông có những thích thú bệnh tật. Ngay Théo, người em ruột thương anh hết lòng cũng hơn một lần thắc mắc "Thiếu gì người mà anh cứ phải lui tới những nơi đó?"
Vincent cười một mình chua chát. Đúng, thiếu gì người... Nhưng vấn đề là người ta có thương mình không? Những Ursula, những Kett những cô gái dịu dàng con nhà tử tế đều khước từ một cách quyết hệt tình yêu chân thật của chàng trai rụt rè.
"Không... Không đời nào tôi thèm yêu anh!"
Chỉ có những cô gái chơi bất hạnh, xấu xí (Vincent cũng không dám mon men những cô gái chơi ít nhiều có nhan sắc) là không xua đuổi ông. Không ai hiểu rằng Vincent thèm yêu và thấp thỏm bị hắt hủi đến mức nào!
Người thiếu phụ đầu tiên chấp nhận tình yêu của ông là Clasina, một cô gái điếm mặt rỗ, cao lớn, tàn tạ. Nhưng vào lúc tàn canh chợt tỉnh trong bóng tranh tối tranh sáng thấy một thân thể đàn bà, dù người đó có đui què, nằm bên còn hơn là thức giấc cô đơn giữa cái trống lạnh mênh mông của chiếc nệm giường trắng như tấm vải liệm.
Ông bỗng nhớ cảng La Haye, một thành phố ẩm ướt, một vòm trời ám khói thấp tè trên những quán bia ồn ào. Đường phố ngổn ngang những thủy thủ say rượu vừa chệnh choạng đi vừa hát. Ôi! Cái tiếng hát người say nghe buồn đến đứt ruột. Và những bóng người dạng chân đứng đái gốc cột đèn vắng để giải thoát những vại bia nốc vô tội vạ và những khối sầu mãn tính. Xa xa là biển
và những hồi còi ú ớ thảm thiết với tiếng xích tàu sóng vỗ loảng xoảng một đoàn năm tháng khổ sai.
Nhưng đây cũng là nơi đầu tiên Van Gogh được yêu. Clasina là một gái điếm nghèo. Căn nhà nhỏ bé, trống trơn. Nàng có hai đứa con nhỏ. Lúc mẹ tiếp khách, đứa chị dắt đứa em ra bãi rác nhặt những chai bia, những đồ hộp, những con búp bê cụt đầu hay què chân xây dựng những thiên đường tưởng tượng dỗ em. Những hôm trời mưa, hai chị em tha thẩn chơi dưới bức tranh Đức Mẹ
Đồng Trinh ố bụi, bức tranh độc nhất trong ngôi nhà. Cạnh những tiếng chửi thề ầm ĩ. những âm thanh tục tĩu từ phía sau tấm rèm.
Clasina là một thiếu phụ kỳ lạ. Hình như người nào dám sống thành thật đều kỳ lạ. Cô uống rượu như một chiếc thùng không đáy... Hay nói theo kiểu cô: Uống rượu như một chiếc váy. Cô đã từng đọ cốc với những tay nhậu lì lợm nhất. Và hát những bài có thể đỏ tai các bà xơ. Đã có lần Van Gogh chứng kiến tận mắt cảnh Clasina trừng phạt một thủy thủ quịt tiền. Tên thủy thủ cao lớn đã bị Clasina đấm ngã và lột trần, chỉ còn thiếu chiếc xi líp, lảo đảo chạy trên đường tuyết.
- Cái đồ đàn ông đ... quịt lẽ ra phải thiến cho tiệt giống!
Cũng chính cái người thiếu phụ ghê gớm ấy...
Van Gogh vẫn còn nhớ... ông đang lang thang trên bờ biển bẩn thỉu, bơ vơ như một cái vỏ ốc luân lạc. Không biết nghĩ thế nào ông bước xuống biển lẳng lặng lội về phía ngọn hải đăng chói sáng như một vùng đất hẹn, một quyến rũ... Bỗng nghe có tiếng chân lội bì bõm phía sau và tiếng gọi thất thanh:
- Anh Vincent... Anh Vincent...
Van Gogh chưa kịp quay đầu lại thì đã thấy Clasina nắm chặt lấy tay:
- Anh điên à, đi đâu ra đây?... Khổ... em tìm anh suốt, sao đến một tuần rồi anh không tới.
Van Gogh lắp bắp:
- Tôi không có tiền.
Ông bỗng thấy Clasina lùi lại, hai mắt trợn đỏ, tay nắm chặt như muốn đấm cho ông một quả. Van Gogh bất giác lấy tay che mặt. Chỉ thấy Clasina thở dài rồi lầm lì nắm tay ông xềnh xệch lôi đi như người mẹ lôi đứa con hư về nhà đánh đòn.
- Khổ, chân anh lạnh thế này thì đến ốm mất. Clasina quỳ xuống, hai tay ôm lấy chân ông ủ ấm, áp má vào đó, giọng bé bỏng như muốn khóc:
- Anh có biết em cần anh đến thế nào không?
Rồi nàng bế Van Gogh lên lòng. Người thanh niên rét lạnh như một hài đồng bị cai sữa quá sớm rúc đầu vào bộ ngực đồ sộ, nhàu nát của người gái chơi, ngủ lúc nào không biết...
Ru hời hỡi ru... Trong giấc ngủ đung đưa, hình như ông nghe thấy tiếng ru của mẹ.
Sau buổi đó Van Gogh vẽ chân dung Clasina trong bức ký họa được đời sau biết tới dưới tiêu đề "Sầu." Clasina đã ôm lấy bức tranh nức nở. Lần đầu tiên Van Gogh thấy nàng khóc xối xả như vậy. Và cứ để nước mất ràn rụa. Clasina nghẹn ngào úp mặt vào tay Van Gogh.
"Sao anh lại biết em thời con gái?"
Nước mắt Van Gogh ứa ra lúc nào không biết, lặng lẽ rơi vào ly rượu ngải đắng. Van Gogh lén lút lau nước mắt, như một kẻ gian. Nhìn dòng nước mắt lăn trên gò má gầy người trẻ tuổi, bà chủ quán khẽ chép miệng. "Hẳn là con người này phải đau khổ lắm mới đến tiệm cà phê khóc một mình."
Từ ngày Van Gogh giết hụt Gauguin, cả cái thị trấn bé nhỏ này không còn dung được ông nữa. Một thằng điên như vậy không nhốt nó lại còn đợi đến bao giờ?" Và hai vợ chồng Jean, con trai bà cà phê đã hơn một lần định cấm cửa "thằng điên."
- Nó chỉ đem xúi quẩy vào nhà mình chứ béo bở gì? Lại còn uống chịu nữa!
Nhưng bà Célestine đã có một thái độ kiên quyết không ngờ:
- Ngày nào tôi còn làm chủ tiệm cà phê này thì không một người khách nào bước chân vào đây bị xua đuổi.
Nhìn mặt tường lâu ngày bẩn bụi, ám khói, bà lẩm bẩm:
- Nghe nói anh ta làm thợ vẽ, không biết có quét vôi được không?
Thị trấn ngày càng khó sống đối với Van Gogh. Ông nhận được nhiều thư đe dọa và đã mấy lần bị đám trẻ con ném đá. Nhà hội họa quyết định rời bỏ Arles.
Không một sợi dây tình cảm nào níu chân Van Gogh lại đây. Cô gái điếm Rachel, khi Van Gogh trân trọng đem đến tặng vành tai bê bết máu phong bao trong một mảnh giấy điều đã thét lên ù té chạy và từ ngày đó đã vĩnh viễn xa lánh ông.
À còn bà Célestine. Bà đã cư xử nhân đạo với ông, hơn nữa ông còn nợ tiền rượu của quán. Van Gogh không muốn bỏ đi như một thằng ăn quịt. Nhưng trả nợ thì phải có tiền mà Van Gogh lần cả túi trong túi ngoài chỉ còn đúng có năm mươi xu. Ông đành đem bức tranh Cánh đồng hoa mào gà đến gán nợ.
Nhìn bức tranh sù sì gớm ghiếc. bà Célestine không muốn nhận nhưng bà không đành phật lòng người bất hạnh. Người đàn bà tốt bụng đưa cho Van Gogh mười quan và chúc ông lên đường may mắn.
Bức tranh của Van Gogh được treo ở một chỗ khuất che một khoảng tường lở vôi. Và bức tranh sẽ yên sống cuộc đời bụi bậm của nó nếu một bữa kia, một cơn gió chướng không bất thình lình thổi rơi chiếc đèn dìm cả tiệm cà phê trong bóng tối.
Bỗng một tiếng kêu thất thanh "Ma!..." khiến mọi người dựng đứng tóc gáy. Cũng may đều là cánh đàn ông cả. Khi chủ quán thay đèn và không khí đã trở lại yên ổn cùng với ánh sáng, mọi người xúm quanh ông chủ hàng xén, người đã kêu thấy ma. Mặt ông vẫn còn tái xanh. ông trỏ về phía bức tranh:
- Tôi thấy nó bay lập loè ở đây... Một con, hai con rồi hàng chục con nhẩy múa.
Ông rùng mình tợp một hơi rượu mạnh và yêu cầu thêm một ly nữa. Một khách đùa dai. "Hay bố mày say rượu, thần hồn nát thần tính." Một ngọn gió chướng lại nổi lên làm chiếc đèn chao đảo, chao đảo rồi phụt tắt. Lần này đến lượt ông khách đùa dai hét lên:
- Cứu tôi với, cứu tôi với! Ma! Ma!
Đèn lại được thắp sáng. Mọi người đến gần bức tranh. Trên mặt toan bám bụi, những chấm mầu sù sì lung linh đỏ dưới ngọn đèn bị gió thổi lắc lư nom càng ma quái.
Hôm sau người ta được tin Van Gogh nằm tại một nhà thương điên gần đó đã bắn vào ngực tự sát và qua đời đúng lúc trận gió chướng ùa vào quán cà phê.
Jean lúc này đã là chủ tiệm cà phê, bàn với vợ cho bức tranh ma quỷ kia vào lò đốt. Nhưng vợ Jean không nghe:
- Vải còn tốt lạ i được phủ một lớp sơn dày không thấm nước, để che chuồng gà cũng được, tội gì lại đem đốt.
Sau một hồi bàn bạc, hai vợ chồng thấy tiện nhất là đem cất tạm bức tranh vào phòng bà Célestine.
Vợ Jean nhún vai:
- Bà cụ cũng sắp ra ma rồi, nó có về rước đi cũng chẳng sao!
Sau khi Van Gogh bỏ thị trấn đi được mấy ngày thì bà Célestine bị một cơn tai biến não và nằm liệt giường đã hơn nửa năm.
Tuổi già là một gánh nặng. Lại còn nằm đấy thì đúng là một tội nợ cho con cháu, thử thách lòng kiên nhẫn và hiếu thảo của chúng. Giá như sau khi liệt độ một tháng mà bà vui lòng qua đời thì có thể là vợ chồng Jean cũng rỏ những giọt nước mắt thương mẹ một cách thành thật. Nhưng bà Célestine không biết điều. Bà sống quá hạn cho phép của lòng biết ơn. Liệt nhưng bà "có liệt ăn liệt đái ỉa đâu, ai mà dọn mãi được?"
Bà Célestine vô tình đã trở thành một đứa trẻ sơ sinh trong tay một mụ dì ghẻ ác nghiệt.
"Người ta còn bận tâm hàng trăm thứ ai có thì giờ đâu mà chăm sóc bà mãi được."
Không có gì ái ngại bằng cảnh một đứa con trai râu ria tắm cho một bà mẹ già. Nó lóng ngóng, nó vụng về, nó làm sao ấy. Có lẽ chính vì thế mà sau một hai lần cố gắng làm việc báo hiếu đó, Jean đã "quên" nó đi. Bà Célestine muốn chết. Nhưng chết nhiều khi cũng khó lắm, khó lắm.
Lấy lý do bà "ăn nhiều lại ỉa nhiều," vợ chồng Jean rút khẩu phần ăn của bà xuống một bữa. Mà một bữa cũng hạn chế. Bà tuy liệt và không nói được nhưng óc bà chưa liệt hẳn. Bà vẫn hiểu và chứng kiến một cách bất lực sự tàn tạ của mình. Mắt bà suốt ngày cầu khẩn van xin. Nhưng trong cuộc sống ồn ào này, quát tháo, nguyền rủa ầm ĩ hay vật nài đến mỏi miệng còn chẳng ăn ai, huống hồ là nói một cách thầm lặng bằng mắt.
Đêm lạnh và cô đơn. Gió xì xồ một ngoại ngữ quái dị. Chúa thì ở xa và có lẽ cũng cô đơn như bà. Hai người gần bà nhất là vợ chồng Jean thì sau khi hoàn thành bổn phận duy trì nòi giống đã ôm nhau ngủ say. Bà kêu ú ớ không thành tiếng.
Bà bỗng thấy những đốm lửa lập lòe từ bức tranh phía tường đối diện.
Có phải người họa sĩ điên đã nghe tiếng kêu cứu câm của bà. Cả một cánh đồng hoa mào gà rực lên dưới ánh nắng... không phải, có lẽ đó là ánh trăng thì đúng hơn. Bà mặc một chiếc váy mới chấm đỏ, tóc bà tết một con bướm đỏ. Bà vừa tung tăng vừa hát. Bà đang tràn trề dậy thì và biết mình đẹp. Tiếng sáo, tiếng trống rộn ràng. Đám con gái làng váy đỏ trong hoa đỏ. Điệu Pharăngđon
nhộn nhịp quá. Bà nhúc nhắc chân, cả người rạo rực, bà phải đi nhanh đến đồng hoa đỏ cho kịp. Người ấy đã hẹn bà.
Ôi! Cái chập môi đầu tiên. Hai người ôm lấy nhau, quấn lấy nhau giữa một đồng hoa lửa. Bà bỗng kêu thét lên. Cả trời hoa, cả đồng sao chao đảo bồng bềnh như sắp bước vào một ngày sáng thế. Bà rướn người, nhắm mắt lại trong một hạnh phúc tuyệt vời.
Hôm sau, khi nghe tiếng chồng gọi thất thanh trong phòng bà Célestine, vợ Jean te tái chạy tới. Hai ngườ trố mắt nhìn bà cụ gục đầu vào bức tranh lìa đời, miệng còn chưa tắt một nụ cười.
Vợ chồng Jean run run:
- Làm thế nào bà cụ liệt còn bò được đến chỗ bức tranh.
Jean làm dấu chữ thập
- Đúng là bức tranh có ma.
HỒ TRƯỜNG AN * BẢ NĂM
Bà Năm Tơ Hồng
.
Tôi
còn nhớ trong xóm tôi có bà Năm Tơ Hồng. Tên thật là bà Năm Lương nhưng
vì bà thích làm mai làm mối nên chòm xóm kêu bà là bà Năm Tơ Hồng. Thuở
đó, bà Năm Tơ Hồng đã năm mươi tuổi, nhưng bà trẻ dai, coi như khoảng
ba mươi ngoài. Bà ăn mặc tươm tất, áo lụa quần lãnh hoặc áo xuyến trắng
quần xá xị, quần sa-teng, quần lục soạn, coi khác hẳn mấy bà lam lũ
trong xóm. Bà Năm Tơ Hồng ưa đi chùa và có mặt thường xuyên ở các đám
tiệc, đám giổ, cúng thôi nôi...trong xóm hoặc các làng lân cận. Bà Năm sống bằng nghề cho vay ăn lời rẻ và làm đầu thảo mấy chơn hụi. Bà có biệt tài lựa kẻ chơi hụi nên không bị úp hụi bao giờ. Nhờ lui tới giao thiệp chỗ nầy chỗ nọ, từ nơi giàu sang tới chốn hạ tiện trong tỉnh nên bà buôn bán cẩm thạch, hột xoàn chút chút, gọi là để cầu vui. Qua câu chuyện, người mới đến xóm tưởng đâu bà chỉ thuộc hạng trung lưu, đủ ăn đủ tiêu vậy thôi. Ai dè có đến nhà bà mới thấy cảnh bài trí xuê xoang hực hỡ: tủ cẩn, đi-văng chân qùy, choé độc bình bằng sứ lâu đời, lư hương, chân đèn bằng đồng, liễn son, liễn mun nổi chữ thếp vàng...Bà Năm cười khiêm nhượng:
- Tui có cái vỏ bề ngoài chớ cái ruột trống lốc hè. Bà con coi thấy bàn ghế tủ thờ toàn bằng gổ nu, cẩm lai là bởi của ông bà để lại, "hù" láng giềng lối xóm vậy mà!
Lâu lâu bà đeo nữ trang. Gặp kẻ chắc lưỡi hít hà, bà làm bộ nhũn nhặn:
- Ối, có gì đâu, của thiên hạ nhờ tui bán giùm kiếm chút huê hồng đó đa! Nè, thím coi cái hột xoàn nầy đi. Năm ly hai, nước trắng tím, lại tra chiếc vỏ bạch kim nên nó chiếu còn hơn sao Nam Tào Bắc Ðẩu nữa. Thím mua chiếc cà rá nầy đeo vô là chú sắp nhỏ có mấy con vợ bé cũng bỏ tuốt để ở nhà hủ hỉ với thím. Ừa, hay là thím để dành cưới vợ cho thằng con trai đầu lòng của thím, có bảnh hơn không?
Thiệt tình, chẳng ai biết việc làm của bà có xuôi chèo mát mái hay không, nhưng về chuyện làm mai thì hễ bà nhúng tay vào chỗ nào là chém chết ít lâu có chuyện gả cưới ở chỗ đó.
Bà Năm Tơ Hồng thường tuyên bố:
- Tui mát tay làm mai lắm. Tui mà xe duyên cho đám nào thì họ ăn đời ở kiếp với nhau, phu xướng phụ tùy. Gặp mấy thằng con trai thuộc hạng "đâm cha chém chú, lắc vú chị dâu, cạo đầu bà thím" tui cũng ghép được với mấy con "cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai". Tuy hai đàng thuộc hạng trời ơi đất hỡi vậy mà khi họ ăn ở với nhau rồi thì sắt cầm hảo hiệp, chí thú làm ăn, nên cửa nên nhà.
Bà Năm quả có biệt tài làm mai lắm. Làng xóm ai cũng tin miệng lưỡi của bà. Bà có óc quan sát, có cặp mắt nhắm tướng người. Một hôm bà gặp cô Sáu Ngọc Huệ cặp rổ đi vào rẫy mua rau. Cô gái hơi mảnh khảnh nhưng da trắng mịn như cánh hoa ngọc lan, đôi mắt đen láy nổi bật trên khuôn mặt trái soan.
- Nè Sáu, con được mấy tuổi?
Cô Sáu Ngọc Huệ nghiêng cây dù màu đỏ, sắc đỏ dưới nắng trải lên gò má mịn màng của cô một màu hồng tươi đẹp. Cô nhỏ nhẹ:
- Thưa má Năm, năm nay con được mười bảy tuổi.
- Chèng ơi! Con nhỏ nầy trổ mã coi được đến! Sáu à, con chịu lấy chồng không con? Ðể má Năm làm mai cho con nghen con?
Cô Sáu Ngọc Huệ mắc cỡ kiếu từ, đi một nước vô rẫy. Hôm sau, bà Năm Tơ Hồng tìm cách lân la tới nhà ông bà giáo Hạt, song thân cô Sáu Ngọc Huệ. Nhà ông giáo Hạt ở gần khúc quanh Long Hồ, giữa khu vườn trồng ổi xá-lỵ sum sê. Ông bà có cậu trưởng nam tên Hai Hiếu, ăn học thành tài, hiện làm giáo sư toán. Nhưng năm cô con gái kế trước kia làm ông bà lo lắm. May nhờ có bà Năm Tơ Hồng mà ông bà gả trôi cô Ba Ngọc Lan cho một thương gia Minh hương, gả cô Tư Ngọc mai cho một thầy giáo dạy lớp tiếp liên, gả phăng cô Năm Ngọc Cúc cho thầy giám thị trường công lập tỉnh. Vừa khi cô Năm đi lấy chồng thì cô Sáu Ngọc Huệ cũng bắt đầu trổ mã.
Hôm đó cô Sáu Ngọc Huệ đi vào xóm thâu tiền hụi và mua bún, bánh hỏi để dọn bữa trưa cho khách. Mỗi khi có bà Năm Tơ Hồng tới chơi, ông bà giáo Hạt mừng lắm, nhứt là từ khi cô Sáu Ngọc Huệ và cô Bảy Ngọc Lựu ra vẻ thiếu nữ trong chiếc áo dài màu xanh da trời. Hai cô mà luộc đầu heo, lỗ tai heo để ăn với bún, bánh hỏi, rau sống, mắm nêm thì khỏi chê. Miếng thịt luộc vừa mềm vừa giòn, lại trắng phau phau. Dĩ nhiên cái bí quyết luộc thịt đó do bà giáo Hạt truyền cho con gái được giữ kín. Mỗi khi chị em cô luộc thịt thì cả hai lo đóng cửa trước, ngõ sau cẩn thận, sợ có kẻ ăn cắp nghệ thuật luộc thịt gia truyền.
Bà Năm Tơ Hồng súc miệng bằng chén nước trà huế pha lợt, rồi cất giọng:
- Thầy giáo Cảnh năm nay được hai mươi bốn tuổi, người thiệt thà. Thẩy có được rảnh rang là chúi đầu vô sách luyện thi tú tài toán chớ không sanh sứa cờ bạc, rượu chè. Nếu chị với anh giáo bằng lòng thì tui dắt má thẩy lại. Má thẩy có một sở vườn bốn mẫu trồng cây trái, huê lợi mỗi năm cũng khá, lại thêm mười mẫu ruộng tốt ở miệt Lộc Hoà, cách chợ Vãng mười bảy cây số.
Bà giáo Hạt têm một miếng trầu đưa cho bà Năm Tơ Hồng:
- Ờ, con Huệ tui cũng như con của chị. Chị liệu coi chỗ nào tử tế gả nó dùm. Nhưng mà....- Bà giáo Hạt thấp giọng- thầy giáo Cảnh vóc vạc cao lớn, cười có lúm đồng tiền coi cũng có duyên. Có điều thiên hạ đồn rằng tía thẩy vốn lai Chà Và Châu Giang. Bà nội củ thẩy trước kia xinh tốt như tiên nga, kén chồng dữ lắm. Có thằng Chà Và Châu Giang giàu có muốn cưới bả, chẳng những bả không ưng mà còn nhiếc mắng người ta. Thằng Chà Và bèn dùng bùa ngải mê hoặc, rù quến bả tới nước bả có chửa, rồi đẻ ra ông già tía của thầy Cảnh. Chị Năm không thấy sao, nước da thầy Cảnh đen hù, giống như da ông nội thẩy vậy.
Bà Năm Tơ Hồng nói:
- Ối, hơi nào nhắc gốc tích người nầy người nọ, chị giáo! Tía của thầy Cảnh tuy lai Chà Và nhưng là người đàng hoàng, làm công chức ở Kho Bạc, chớ có thua sút ai đâu!
Bà giáo Hạt nói xuôi:
- Ờ, chị nói cũng phải. Song tui cũng cần hỏi lại con Sáu coi nó có ưng không. Thời buổi nầy tụi trẻ khó tánh lắm chị ơi. Lai nữa ông nhà tui thường nói "ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên" đó chị Năm.
Bà Năm cười chúm chím:
- Ai mà thèm ép! Cứ nói phải quấy cho tụi nó nghe cũng đủ rồi. Chị để đó tui. Lưỡi của tui đây nè, ngọt như mật, trơn như mỡ. Tui chỉ nói vài tiếng là đá cũng phải mềm nữa là.
Mâm cơm dọn lên. Ông giáo Hạt cũng vừa ở ngoài vườn bước vào. Vừa thấy bà Năm, ông vui vẻ:
- Ðêm qua có đom đóm vô nhà, tui biết thế nào cũng có điềm lành. Té ra bữa nay chị Năm tới chơi.
Bà Năm Tơ Hồng cười hắc hắc:
- Chớ sao, tui tới đâu là đem chuyện vui tới đó. "Thứ nhứt đom đóm vô nhà, thứ nhì chuột rúc, thứ ba hoa đèn" tức là ba điềm hên đó đa anh.
Hai vợ chồng ân cần mời bà Năm ngồi vào mâm. Bà giáo Hạt hỏi cô Sáu Ngọc Huệ:
- Con Bảy làm giống gì mà cứ lúc thúc trong buồng hoài vậy? Biểu nó ra đây chào hỏi má Năm đi chớ.
Cô Sáu Ngọc Huệ trở vào buồng. Một lát, hai chị em cô bước ra. Cô Bảy Ngọc Lựu tròn trịa, xinh xắn. Môi cô tươi, răng cô trắng, cườm tay cô no nưỡng, trắng phau phau, đeo đôi vòng cẩm thạch màu xanh hoa lý.
Bà Năm Tơ Hồng hỏi:
- Con Bảy đây hả chị giáo? Năm nay nó được bao nhiêu tuổi vậy chị?
- Ờ, con Bảy Ngọc Lựu đó đa! Nó mười sáu tuổi rồi đó. Tui sanh năm một mà chị.
Bà Năm Tơ Hồng ngắm nghía cô gái, tấm tắc:
- Da trắng, tóc mịn, tay chân suông đuột, môi đỏ au...Chèng đéc ơi, con nhỏ nầy có thua sút chị nó chỗ nào đâu! Mắt lại lá răm nữa. "Con mắt lá răm, chơn mày lá liễu đáng trăm quan tiền". Ðể tui làm mai giùm chị, chị chịu không chị giáo?
Bà giáo Hạt nói:
- Thì mình lo cho con Sáu xong rồi sẽ tính việc chung thân cho con Bảy.
Bà Năm Tơ Hồng ngon lành:
- Tui có thể làm mai một lượt một trăm đám. Nè, có thầy y tá tên Quỳnh, làm việc ở nhà thương chợ tỉnh, mới có hai mươi lăm tuổi, mặt mày sáng sủa, tánh tình dễ chịu, lại bặt thiệp nữa...Chị biết thẩy không? Thẩy ở dãy phố bà Thông Vịnh đó...
Bà giáo Hạt cười nửa miệng, môi chỉ hé một nửa hàm răng hô:
- Tui cứ lúc thúc trong nhà lo việc bếp núc, đâu có đi ta bà mà biết hết dân tứ xứ mới tới.
Cô Bảy Ngọc Lựu ngứa miệng:
- Con biết thẩy mà. Thẩy mập mạp, trắng như bạch chảng, coi ghê quá!
Bà Năm Tơ Hồng quở:
- Ê, đừng nói tầm bậy nà. Thời buổi nầy khó kiếm ông chồng trắng trẻo, bảnh trai lắm nghe con. Mà từ da trắng muốn làm cho da đen dễ ợt hè. Con cứ bắt thẩy trồng bông kiểng, trồng rau, phơi mình ngoài nắng chừng vài cữ là da thẩy sậm sòi chớ gì.
Mặt cô Bảy vẫn phụng phịu:
- Trắng gì mà trắng như heo cạo. Dẫu thẩy có phơi một trăm cữ nắng thì da thẩy bất quá đỏ thén như mồng gà lôi chớ làm sao mà sậm được!
Bà Năm Tơ Hồng:
- Má Năm cam đoan với con đó. Kỳ hè vừa rồi thẩy đi Vũng Tàu nghỉ mát, da thẩy bắt nắng, coi cũng mặn mòi như ai....
Cô Bảy Ngọc Lựu chỉ cười tủm tỉm không cải nữa. Bà Năm Tơ Hồng hỏi cô Sáu Ngọc Huệ:
- Nè Sáu, má Năm định làm mai con cho thầy giáo Cảnh. Con nghĩ sao đây?
Cô Sáu ngập ngừng:
- Thưa má Năm, thầy giáo Cảnh nào?
- Thầy Cảnh con ông Hát, trưởng kho bạc đó con.
- Có phải cái thầy đen như cột nhà cháy đó không?
- Thẩy đó đa. Thẩy tuy đen đúa nhưng tướng tá mạnh dạn, mặt mày khôi ngô.
Cô Sáu Ngọc Huệ vặn vẹo cái khăn mù-soa trong tay:
- Ý cha, lấy thẩy làm chồng, đố con khỏi bị tụi bạn nó chế nhạo là lấy nhằm ông thần lọ nghẹ hoặc Uất Trì Cung, Hà Ô Lôi...
Bà Năm Tơ Hồng dễ gì chịu thụt lùi trước sụ vùng vằng của cô gái. Bà dỗ ngọt:
- Con nhỏ nầy sao mà dại! Trai đen đúa mới có duyên chớ bộ. Mầy khéo kén cá chọn canh hoài đi, rủi hụt con cá lớn, sẩy con tôm bự thì chừng đó đừng có chắc lưỡi mà tiếc nghe con! Chưa chi mà con chê người ta thiếu điều....muốn ngộp hơi tắt thở vậy đó.
Dù có chê bai kẻ bà Năm Tơ Hồng định làm mai, nhưng đêm đó cả hai cô gái cứ rạo rực, khó ngủ. Cô Sáu Ngọc Huệ từ chiều đã tắm rửa bằng xà-bông cô Ba thơm ngát. Cô bận quần áo trắng lên trung đường đốt đèn, thắp nhang, thay nước trong mấy bình bông sen, bông huệ. Cô lầm thầm khấn vái rất lâu trước bức tranh đức Quán Thế Âm bồ tát. Vừa khi cô vào buồng thay quần áo ngủ thì cô Bảy Ngọc Lựu bận áo tràng màu khói nhang đến bàn thờ Phật Bà. Cô triệt hạ dĩa quít, xuống bếp lấy mận và ổi đơm vô dĩa khác để cúng Phật. Dù cây nhang bạch đàn mà chị cô vừa thắp chưa lụn, cô vẫn đốt thêm cây nhang trầm hương. Cô khấn vái lâu hơn cô Sáu Ngọc Huệ và lạy như tế sao.
Vừa về tới buồng, cô Bảy bắt gặp cô Sáu đang rọi kiếng. Cô Sáu Ngọc Huệ hết nặn mụn tới xỉa răng, rồi chải đầu. Chải đầu xong, không biết làm gì hơn, cô Sáu kéo hộc tủ lấy củ nghệ chấm lên mấy vết mụn vừa mới nặn.
Cô Bảy Ngọc Lựu đương thèm săn sóc tóc da. Da của cô thuộc loại mịn màng. Tóc cô nhỏ sợi, thuộc loại tóc mật, bỏ xoã ngang lưng coi thiệt là thơ mộng.
Dù sao hai chị em cũng phải tính chuyện đi ngủ, vì khóm dạ lý bên hè bắt đầu toả hương thơm ngát tức là gần nửa đêm rồi.
Cô Bảy Ngọc Lựu cứ than dài thở vắn. Cô Sáu Ngọc Huệ cứ ngó mông ngọn đèn. Rốt cuộc cô chị lên tiếng trước:
- Con hà bá, bộ mầy ăn không tiêu hay sao mà cứ thở nghe bắt mệt vậy?
Cô em cười:
- Còn chị, bộ đau bụng máu hay sao mà cứ xăng văng hoài, không chịu đi ngủ cho khoẻ?
Cô Sáu thu dọn gương lược vô cái hộp tròn:
- Nè Bảy, mầy thấy ...thầy Cảnh ra sao?
Cô Bảy Ngọc Lựu lúc nào cũng muốn chị mình lấy ai thì lấy phứt cho rồi, để ba má cô tính tới phần cô. Cô nói:
- Ðờn ông đâu cần đẹp trai. Thầy Cảnh có sống mũi cao, lưng dài, vai rộng, vóc vạc cân đối.. Thẩy có tương lai trước mặt, có quá khứ tốt lành sau lưng, ở đó mà chê bai thẩy rồi đèo bòng nọ kia. Chị sao ưa thói thả mồi bắt bóng!
Sáu Ngọc Huệ vốn thích lấy chồng trắng trẻo, nho nhã. Nhưng mà cái thầy Quỳnh trắng gì mà trắng lạnh trắng lùng, coi nhột mắt làm sao! Nghe giọng chua lè của em, cô hăm he:
- Coi bộ ba má chíp cái thầy Quỳnh đó rồi đa! Thây kệ, Bảy à! Mặt mày thẩy dù không có mặn mòi nhưng cũng hiền hậu. Duyên phận đã định rồi, mầy có chạy đàng trời cũng không tránh khỏi. Chạy trời không khỏi nắng, Bảy ôi!
Cô Bảy Ngọc Lựu bứt rứt:
- Thầy Quỳnh đâu có tóc đen như người Việt mình. Tóc thẩy hoe hoe đỏ, chắc là giống bạch chảng chứ gì!
Cô Sáu mở hộp thuốc tể, lấy một viên cỡ viên bi đen óng và bát ngát mùi mật ong, nhai nhỏ rồi chiêu một ngụm nước trà. Thấy cô gầy gầy nên cô Ba Ngọc Lan bổ cho cô một tể thuốc có tác dụng làm kinh nguyệt điều hoà. Kinh nguyệt của cô Sáu khi trồi khi sụt như nước thủy triều nên thỉnh thoảng bà giáo Hạt làm món gà ác tiềm sanh địa hay trái tim heo chưng với châu sa, thần sa cho cô ăn. Vậy mà cô chẳng lên được kí-lô nào. Còn cô Bảy dẫu chỉ ăn một hột cơm vẫn không ốm bớt một gờ-ram.
Cô Bảy Ngọc Lựu nhìn bóng trăng lồng ngoài khung cửa sổ, thở dài một cái sượt. Cô Sáu Ngọc Huệ háy:
- Con nầy kỳ cục chưa? Lấy chồng mà nó làm như bị....xử bắn vậy!
Cô Bảy tức mình:
- Chồng con nỗi gì nà. Em chưa kịp lớn để lấy chồng, nay có má Năm a thần phù tới bày chuyện mai mối! Bộ chị tưởng lấy chồng rồi mình nhắm mắt về nhà chồng hay sao? Còn phải chuẩn bị tinh thần nữa chớ. Bô chị hổng lo hay sao, chị Sáu?
Cô Sáu trề môi:
- Ối, lo làm gì cho hao hơi tổn sức, Bảy! Tới đâu hay đó. Có khi mầy tính một đàng, kết quả một nẻo.
Cô Bảy nhìn ngọn đèn lom lom:
- Cha chả, còn cái đêm tân hôn nữa! Chừng đó mình sẽ....tính cách nào đây?
Cô Sáu mắng:
- Ðồ khùng nà! Mầy khỏi cần tính, lúc đó thầy Quỳnh sẽ....tính cho mầy.
Cô Bảy "hứ" một tiếng ghét bỏ:
- Rủi thẩy...không chịu tính thì sao?
Cô Sáu cười ngất:
- Thì ...tới phiên mầy tính.
Cô Bảy cùn quằn:
- Thôi, em không thèm lấy chồng đâu. Hổng có tính toán gì ráo trọi á.
Cô Bảy thay một đồ mát bằng sa-teng xanh dịu rồi chui vô mùng. Cô xoay mặt về khung cửa sổ, hỏi chị:
- Còn chị, trong đêm tân hôn, chị tính sao?
Cô Sáu cười:
- Tao hả? Tao sẽ....nhắm mắt.
- Nhắm mắt hả họng phải không?
- Ừa, tao sẽ nhắm mắt đưa chân, thử xem con Tạo xoay vần đến đâu.
- Rủi con Tạo không chịu xoay vần thì mới làm sao?
- Chừng đó sẽ hay. Mầy quên một điều là ở đời nầy đâu phải ai cũng nhút nhát như mầy.
Cô Bảy hỏi gặng:
- Nếu...con Tạo không xoay vần thì chị phải tính chớ?
Cô Sáu Ngọc Huệ mắng:
- Cái con ôn dịch nầy sao mà ăn nói trặc trẹo quá! Ừa, chừng đó tao sẽ tính một cái rụp.
Vốn có óc tò mò thiệt bự, nghe tới đây cô Bảy Ngọc Lựu lồm cồm ngồi dậy, hỏi dồn:
- Ðâu? Chị tính cách nào, nói em nghe chơi.
Cô Sáu Ngọc Huệ ngon lành:
- Chừng đó tao sẽ xách va-ly về nhà nầy.
Cô Bảy rít lên hai tiếng "Tưởng gì!" rồi nằm xuống. Chưa giập bả trầu mà cô Bảy đã ngáy pho pho. Cô Sáu ngớ đăm đăm về phía em, lắc đầu nghĩ thầm: "May mà nó lo mà nó còn ham ăn ham ngủ như vậy đó! Hèn chi ông bà mình nói tụi nhỏ ăn chưa no lo chưa tới..."
° ° °
Ðời làm mai hễ càng gặp khó khăn là càng thích chí, vì có dịp đem miệng lưỡi ra thuyết phục đôi bên trai gái. Bà Năm Tơ Hồng thường tuyên bố như vậy. Bởi đó, bà cứ trau giồi miệng lưỡi của mình cho càng ngày càng tinh vi, điêu luyện hơn.
Về phía thầy giáo Cảnh, thầy cho rằng cô Sáu Ngọc Huệ hơi gầy, hơi khô. Nhận xét của thầy vừa thoát ra cửa miệng bị bà Năm Tơ Hồng chận liền:
- Con gái lúc chưa chồng thì nó ốm gầy. Chừng đẻ xong vài lượt, máu huyết thay đổi, mình mẩy nó sẽ phốp pháp chớ gì. Cháu có thấy vợ thằng Tám Kéo không? Hồi chưa chồng, nó ốm như cây tre miểu, mình mẩy chỉ có da bọc xương. Vậy mà khi đẻ xong đứa con so, nó mập mạp tròn trịa, da trắng tóc dài, ai thấy cũng lấy làm lạ, cũng khen om sòm.
Ba má thầy y tá Quỳnh sẵn sàng làm suôi với ông bà giáo Hạt vì hai bên đều môn đăng hộ đối. Thầy Quỳnh thì chê cô Bảy Ngọc Lựu hơi mập. Bà Năm Tơ Hồng thuyết phục:
- Ối, con gái mập mạp là tướng vượng phu ích tử đó đa cháu. Như con Bảy Ngọc Lựu, vì là con út được tía má nó cưng chiều, chỉ ăn rồi lo việc thêu đan, sung sướng lắm. Chừng nào nó về với cháu, nó phải lo bếp núc cùng trăm thứ việc nhà, có cực khổ lo lắng là nó ốm bớt đi liền, cháu khéo lo!
Dầu đôi bên chê khen lẫn nhau, dẫu đàng trai và đàng gái không mấy hài lòng về phương diện sắc vóc, bà Năm Tơ Hồng vẫn trổ tài thuyết phục để hai cái đám cưới được cử hành vào tháng giêng năm sau. Thầy giáo Cảnh muôn đời giữ màu da đen, cô Sáu Ngọc Huệ thì không mập thêm chút nào. Vậy mà họ yêu nhau rất mực. Cô Sáu Ngọc Huệ thường nhìn chồng nói giỡn:
- Chắc hồi có chửa anh trong bụng, má anh uống thuốc bắc, ăn chè đậu đen hơi nhiều nên da anh đen quá là đen.
Thầy giáo Cảnh vuốt ve vợ:
- Chắc lúc má em mang em trong bụng, bà ăn cá lòng tong nên em ốm nhom ốm nhách. Phải chi bả ăn cá rô mề, ăn thịt gà thiến thì em sẽ mập mạp dễ thương hơn.
Màu da thầy Cảnh đối với cô Sáu Ngọc Huệ không thành vấn đề từ sau tuần trăng mật. Nó như đứng ngoài bờ rào nhân dạng đầy nam tính của chồng cô. Khi thầy bị sốt rét, thiếu máu, nó trở thành màu mắm. Khi thầy phục sức, hồng hào nó trở nên màu tương tàu. Cô không cần nhìn nó nữa. Cô chỉ thấy ở chồng mình một thân thể dẻo dai, ngập tràn sức sống, óc khôi hài tế nhị, nụ cười cởi mở, bao dung.
Về phía thầy Cảnh, thầy chỉ thấy vợ mình tuy mảnh mai nhưng thân thể mềm mại. Cái yếu ớt của cô đã gợi nơi thầy một sư che chở đầy âu yếm của đấng trượng phu.
Bà Năm Tơ Hồng hài lòng lắm khi thấy cặp vợ chồng nầy yêu thương, hoà thuận. Hễ mua được món quà nào đặc biệt, họ cũng kính biếu bà. Mùa xoài, mùa mận, mùa quít, mùa vú sữa, mùa ốc gạo, mùa chim...Mùa nào thức đó, họ tặng bà đủ các món quà quê hương.
Còn thầy Quỳnh và cô Bảy Ngọc Lựu thì sao? Mỗi xế chiều, thầy Quỳnh thích ra sân vận động để dợt đá banh. Thầy chỉ mặc cái quần cụt nên nước da thầy tiếp xúc với nắng nhiều, trở nên nâu hồng. Ðường banh của thầy khá điêu luyện, nhờ đó hội banh của thầy đã từng thắng hội banh tỉnh Sa Ðéc một cách vẻ vang trong kỳ so tài năm ngoái. Còn cô Bảy Ngọc Lựu vì sợ chồng chê nên không dám ăn uống xô bồ xô bộn. Thân thể cô bớt mập, trở nên tròn lẵn.
Vợ chồng Quỳnh dọn về xóm Cầu Ðào, gần miểu Quan Thánh Ðế Quân. Cô Bảy Ngọc Lựu tỏ ra một người nội trợ xuất sắc. Thầy Quỳnh có nhiều dịp thưởng thức món đầu heo, lỗ tai heo luộc ăn với bánh hỏi rau sống mắm nêm do vợ làm. Nhiều lúc trong cơn chăn gối mặn nồng, cô Bảy Ngọc Lựu nhìn màu da nâu hồng nắng táp của chồng, thỏ thẻ:
- Hồi xưa, khi má Năm tính làm mai anh cho em, em lỡ dại chê anh trắng như con heo cạo.
Thầy Quỳnh ve vuốt đôi vai tròn của vợ, nhìn tấm lưng thon của vợ, thú thiệt:
- Anh cũng vậy. Hồi đó anh chê em mập tròn như con cá bống mú.
Bà Năm Tơ Hồng vui lắm. Gặp chòm xóm láng giềng bà khoe inh ỏi:
- Bà con thấy chưa? Tui nói đâu là trúng đó. Cứ coi thầy Quỳnh và con Bảy Ngọc Lựu... Thiệt xứng đôi vừa lứa. Hồi chưa lấy con Bảy, thẩy trắng ngó mà phát ớn, còn con Bảy thì mập như trái xoài tượng. Bây giờ chồng thì mặn mòi, coi bảnh trai hết sức. Còn vợ thì liễu yếu đào tơ, thiệt đúng là một cặp tiên đồng ngọc nữ. Họ nồng nàn với nhau quá xá cỡ. Tui làm mai mát tay thiệt mà. Chắc kiếp trước tui là đồ đệ của ông Tơ bà Nguyệt đó đa.
Và để chấm dứt sự khoe khoang rất chi là dễ thương của mình, bà chìa tấm ảnh cô Hai Kim Tuyến con của ông bà Bang biện Thuận ra khoe:
- Cô nầy đang kén chồng đây. Cổ học trường Sư phạm ở Thầy gòn. Tui nhứt định làm mai cổ cho thầy đốc công sở Trường tiền tên là Trương Anh Tuấn. Bà con coi họ có xứng cặp với nhau hay không?
Trong ảnh, cô Hai Kim Tuyến đứng bên chậu thược dược, mặt nghiêng nghiêng, miệng cười, mắt liếc có vẻ hớn hở lắm.. Bà Năm Tơ Hồng chắc lưỡi hít hà:
- Thiệt là dễ thương! Hèn chi hồi xưa có một ông thi sĩ nào đó vịnh một mỹ nhơn khi cổ đi dạo vườn huê, xem bông kiểng: "Người ngọc bên hoa, hoa ửng sáng. Hoa cười bên ngọc, ngọc thêm trong". Hai câu thơ nầy vịnh cô Hai Kim Tuyến thiệt là không uổng cái hay, cái đẹp của thơ và nhứt là không phụ cái nhan sắc mặn mòi của cổ.
° ° °
Thưa bà con độc giả xa gần. Trải qua bao lớp sóng phế hưng của lịch sử, trải qua bao cuộc thăng trầm của tổ quốc, không ngờ mùa xuân năm ngoái tôi có dịp gặp lại bà Năm Tơ Hồng tại chùa Khánh Anh trên đất Pháp. Năm nay bà trên bảy chục tuổi, răng cỏ sệu sạo, tóc bạc như phết vôi, ấy vậy mà sắc mặt bà sáng hồng, mắt đưa đẩy theo câu chuyện dù da mặt bà đã nhăn, vai bà co rút. Tôi hỏi:
- Sao bà qua bên đây được? Ði chánh thức theo quốc tịch Pháp hay đi vượt biên?
Bà Năm Tơ Hồng cười hắc hắc:
- Tui đâu có phải là dân Tây. Tốn mười hai lượng vàng mới được ông chủ tàu đánh cá ở Rạch Giá cho đi hùn đó. Tui đi với vợ chồng thằng Hứa. Cậu còn nhớ nó chớ?
Hứa là con trai độc nhứt của bà. Anh ta làm thợ bạc nổi tiếng về việc tra kim cương vô vỏ bạch kim, mãi tới bốn mươi ngoài mới lấy vợ. Chòm xóm đồn rằng Hứa đi hỏi đám nào là đàng gái chạy tét vì Hứa ăn nói vô duyên. Mẹ làm mai nên con trai mất duyên! Sau cùng Hứa đi cưới cô Sâm vốn gái lỡ thời, ốm tong teo như cây sậy, trái với thân hình mập núc của Hứa. Khi ăn ở với nhau, cô Sâm béo đẹp ra, còn Hứa thì rắn chắc lại.. Cả hai cùng yêu đương, thuận thảo lắm. Bà Năm Tơ Hồng làm mai đám nào cũng suôn sẻ, trơn tru, nhưng tới khi đi hỏi vợ cho con lại phải trầy vi tróc vảy mới cưới được cô gái ế chồng, lạt nhách như cơm nguội cho con.
Bà Năm Tơ Hồng khoe:
- Bây giờ tui mộ đạo lắm cậu à. Chúa nhựt nào tui cũng lên mấy chùa làm công quả. Tui cũng làm áp phe chút chút. Cậu coi ai muốn mua cẩm thạch thì nhớ liên lạc với tui nghe không?
Bà cho tôi số điện thoại rồi dặn:
- Thằng Hứa làm thợ bạc chắc cậu chưa quên. Ai có san hô, mã não, hổ phách, ngọc lựu, ngọc miêu nhỡn, ngọc huyền...muốn tra vỏ bạc, vỏ vàng thì cũng cứ phone theo số điện thoại đó.
Tôi hỏi bà còn tiếp tục làm mai nữa không, bà vỗ vai tôi, cười tít mắt, nói ngon lành:
- Vẫn tiếp tục chớ cậu. Tui thương cho mấy cậu thanh niên, mấy cô gái bơ vơ xứ người mà chưa có đôi bạn. Phải tìm cách "xe duyên chỉ thắm" cho họ để họ đẻ con cho đông, một khi kéo về nước là tấn công tụi cộng sãn một cái rụp để kéo tụi nó xuống địa ngục chầu thằng cha Bác Hồ của tụi nó.
Tràng cười dòn khấm khướu của bà chấm dứt câu nói. Trước khi chia tay bà còn dặn tôi:
- Có rảnh lại tui chơi nghen cậu. Con cháu vợ của thằng Hứa đẹp như đào Thanh Nga hiện cũng đang kén chồng. Cậu lại đàng tui chơi đi. Nó mà nấu canh chua cá "đô-rát" cho cậu ăn là cậu mê liền...
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 091
BÌNH NGUYÊN LỘC * GỐC MAI GIÀ
post by bongtram @ 10 February, 2012 04:47
Ông
Tư Nứa nghe mình khổ quá. Ông làm việc đầu tắt mặt tối từ bốn mươi năm
nay, giờ dành-dụm được chút ít, ông mua một miếng vườn nhỏ để hưởng
huê-lợi dưỡng già, những ngỡ đã toại chí bình-sanh rồi, nào dè …
Vườn
xoài, mít, mãng-cầu của ông đã cho trái vài mùa rồi, công săn-sóc không
nặng như là nếu ông tạo-lập ra. Thành-thử mỗi ngày ông Tư có dư thì-giờ
nhiều quá. Ông buồn, mà tuổi của ông đâu còn món giải-trí nữa,
thành-thử ngồi nhơi nỗi buồn của mình, một hôm ông bỗng chợt nhớ ra là
các ông già chỉ còn một thú tiêu-khiển thôi, là chơi non bộ, và chơi
kiểng.
Nhưng
mà đã quá muộn. Ông không dư tiền để mua kiểng đã thành hình, còn sửa
cây tơ cho thành kiểng, phải mất ít lắm là mươi năm. Ông không biết ông sẽ sống tới bảy mươi hay không để thưởng-thức những cây kiểng mà ông bắt đầu uốn-nắn từ bây giờ ?
Tháng Chạp năm ấy, ông vào rừng để chặt vài nhánh mai về thui hầu cặm độc-bình ngày Tết.
Ông
Tư đi tìm mai vào đầu tháng cuối năm, vì lối chơi nầy đòi hỏi nhiều
thì-giờ. Nhành mai chặt rồi, lặt lá, thui nơi dấu chặt xong, để nó đó
tới ba mươi Tết nó mới chịu trổ hoa. Công việc thì lâu-lắt, nhưng thật
đáng công chờ đợi, vì bông mai của các nhánh mai thui, sống mạnh-mẽ,
tươi bền y như bông của cây mai sống trồng dưới đất, chớ không phải mới
trưa mùng hai là rụng hết như bông của nhánh mai tươi chặt về, vào ngày
hăm lăm Tết đâu.
Loại
cây mai thật là huyền-diệu. Nó có khả-năng tích-trữ sanh-lực trong một
cái nhánh, đủ sanh-lực để mà trổ bông, trong vài điều-kiện nào đó, chẳng
hạn như sự thui dấu chặt nói trên.
Ông
Tư chặt được hai nhánh mai thật tốt, tốt theo quan-niệm chơi kiểng của
ông, nghĩa là nhánh mai không ngay chò, mà cong-cong ở dưới chơn, với
những nhánh phụ mang hình chữ chi, hai nhánh mai đó, cặm vào độc-bình
thì trông như là mai vẽ trong tranh Tàu.
*
* *
Thình-lình trên đường về, ông bắt chợt một gốc mai già mà bận vô rừng, không thấy.
Ông
Tư tần-ngần đứng trước cội mai đồng-niên với ông rất lâu, cố đoán
tuổi-tác thật đúng của nó. Chắc-chắn là nó cùng thế-hệ với ông bằng vào
sức lớn của nó, nhưng khó lòng mà biết được nó có phải tuổi Sửu như ông
chăng ?
Gốc mai lớn bằng hai bắp vế người lớn, bắp vế của những người khá mập ấy, mốc-meo và rêu khô đóng đầy lớp vỏ xù-xì của nó.
Hình-thù gốc mai rất là cổ-quái, càng nhìn càng thấy nó giống hai trái núi, một lớn một nhỏ, nằm cạnh nhau.
Trong
đời ông Tư, chưa bao giờ ông vui sướng bằng hôm ấy. Ông khổ-sở từ hai
năm nay vì không toại-nguyện được trong mơ-ước khiêm-tốn là chơi kiểng
và non bộ, mà bỗng dưng, ông được cả hai thứ một lượt.
Gốc
mai già nầy bứng về nhà, trồng trong chậu lớn, thì ông sẽ có một cây
kiểng đẹp nhứt nước, dân sành-điệu mà có tiền, dám bỏ ra bạc muôn để
nài-nỉ ông mà mua. Ông có đi Sàigòn vài lần vào dịp Tết, thấy ở đó nhà
giàu họ mua những cây mai lớn bảy tám trăm bạc - những nhánh mai mà ở
đây bán hai đồng không ai thèm - họ mua những cây mai sống trong chậu,
xấu-xa quá chừng mà tới ba bốn ngàn một cây, thì nhánh mai của ông, một
muôn bạc vẫn còn rẻ.
Nhưng ông đâu có bán. Ông để ông ngắm mà thôi.
Ông
sẽ có một cây kiểng quí báu vô-song và đồng-thời, ông cũng sẽ có một bộ
núi giả một cách cấp-tốc. Ừ, chơi non-bộ cũng tốn thì-giờ y như là chơi
kiểng, nếu mình quyết chơi cho đúng điệu, bởi đá xây non-bộ phải dạn
gió dày sương ít lắm là mươi năm, nó mới được rêu bám vào, và trông mới
giống núi thật. Mốc meo và rêu khô phủ gốc mai già nầy, chỉ khô vì chết
tạm trong mùa nắng thôi. Mưa xuống vài đám là nó xanh tươi lại, nõn-nà,
ông mặc sức mà ảo-tưởng rằng ông dạo non tiên, nếu ông gắn lên đó vài
ngôi chùa tráng men nhiều màu, vài chiếc cầu đá, một lão tiều-phu, một
ngư-ông, hai vị tiên ngồi trên bàn-thạch đánh cờ.
Ông
Tư sung-sướng như ngày ông cưới vợ, cách đây bốn mươi năm, và ông xoa
tay, ngồi xuống để thưởng-thức trước gốc mai chung của mọi người song
may mắn bắt gặp nó mà sẽ là của riêng ông.
Nhưng
giây lát sau, ông bối-rối quá. Làm thế nào đễ bứng một cái cây già sáu
mươi năm? Nó đã thâm-căn cố-đế ở đây rồi, rễ mẹ của nó có lẽ ăn sâu
xuống hằng mươi thước, còn rễ con thì bò ra khắp một vùng đất rộng bằng
hai ba cái nền nhà.
Đào lên, thì không nhọc công bao nhiêu, nhưng mang nó về nhà, nửa tháng sau, ông chỉ còn trong chậu một gốc mai chết khô.
Cũng
không sao vì nó sẽ là một bộ giả-sơn thì chết hay sống không
quan-trọng. Nhưng gốc cây khô ấy sẽ bị mọt ăn, mục nát sau ba, bốn năm
làm cảnh tại sân nhà ông, thì ông còn gì mà chơi nữa?
Ông Tư ngồi đó tư-lự, ao-ước có một phép mầu của tiên, giúp ông di sơn đảo hải, dời cây cổ-thụ nầy về nhà ông.
Bỗng
đôi mắt già, gần hết sinh-lực của ông sáng lên. Ông vừa nhớ ra rằng
thuở ông còn trai trẻ, ông đã thấy các cụ già dời những gốc mai long-tuế
như thế nầy về nhà.
Và
ông bắt đầu làm việc liền. Công việc chánh của ông hôm nay không đòi
hỏi nhiều thì-giờ, nên ông không có dở cơm mo theo, vì ông tính-toán sẽ
về tới nhà đúng bữa ăn trưa, vào giờ ngọ.
Tuy
nhiên, ông không bận-tâm lắm về chỗ ấy. Bỏ một bữa ăn cũng chẳng sao.
Ông Tư, ngoài chiếc rựa bén, còn được võ-trang thêm một cái mác nhọn.
Ông đào đất trên một diện-tích hình bán-nguyệt mà trung-tâm-điểm là ruột
của cội mai. Diện-tích đất nầy chỉ rộng bằng một cái thúng giạ mà thôi,
tức chỉ quanh phân nữa gốc mai già nầy trong một đường bán-kính lối bốn
tấc.
Ông
đào sâu xuống, gặp bao nhiêu rễ mai, ông dùng rựa mà chặt đứt hết. Nếu
có kẻ không sành-điệu thấy ông làm việc, họ sẽ cho là ông điên. Ông
không cần giữ rễ mai cho cây mai sống, thì cứ vác cuốc lên mà đào cận
gốc, lưỡi cuốc tự-nhiên xắn đứt rễ chớ tội gì phải đào rộng ra, rồi còn
phải nhọc sức chặt rễ?
Ông
Tư đào, đào, và đào. Chặt, chặt, và chặt. Ông đào sâu xuống gần hai
thước và vì miệng lỗ quá hẹp, nên tuy có hai thước mà trông nó sâu hóm
như là cái giếng. Mà nếu tính là giếng thì giếng lại quá hẹp. Giếng
trực-kính một thước đã quá hẹp rồi, mà trong trường-hợp nầy, nó có non
nửa thước mà thôi, vì thật ra thì ông già điên nầy chỉ đào có phân nửa
cái giếng thôi.
Vì
vậy mà người đào giếng, xuống tận đáy giếng để đào đất, để mang đất,
mang rễ mai ra thật là khó-khăn không thể tưởng-tượng được.
Ai
thấy đầu ông nhô lên khỏi miệng giếng không thế nào họ không nghĩ đến
một con dế cơm ở hang, cái hang nhỏ vừa khít thân mình nó.
Ông
Tư nổ-lực, đổ mồ-hôi như vậy cho tới lúc mặt trời gần lặn mới gần xong
công việc. Ông ngồi trên miệng giếng, nghỉ xả hơi, rút khăn bịt đầu
xuống lau mồ-hôi, lấy thuốc ra hút. Ông khát đến môi nứt ra vì từ hồi
tám giờ sáng đến giờ, ông chưa được uống nước lần nào hết ngoài tô trà
Huế uống sau bữa cơm lót dạ.
Hút
xong điếu thuốc, ông nổi cơn điên trở lại và bắt đầu làm một công-việc
còn vô-lý và buồn cười hơn nữa: ông cào đất xuống để lấp cái giếng mà
ông đã khổ-công đào từ sáng đến giờ.
Rễ
đuôi chuột to tướng với lại rễ con tương-đối nhỏ hơn của cây mai, lẫn
lộn trong đống đất đào lên ấy, ông Tư cũng trối-kệ, lại còn lẩm-bẩm: „Có
rễ trong đó thì nó xốp đất“.
Đào thì lâu, chớ lấp không mấy hồi. Đất đào không giẻ nữa, nên nó dư, ông Tư vun lên thành đống cao trên miệng giếng.
Cội mai già bấy giờ thành một người bán-thân bất-toại vì tất cả rễ của một bên thân cây đều lìa khỏi mình mẹ rồi.
Vậy
mà ông Tư còn chưa vừa lòng đã hành-hạ nó. Ông dùng rựa mà chặt bỏ gần
hết các nhánh lớn của nó đi. Ông lẩm-bẩm: „Làm như vậy, có thằng nào tới
đây, sẽ biết gốc mai nầy có chủ. Nhưng chắc cũng không mấy thằng biết
cái đẹp của gốc mai nầy đâu“.
Ông
Tư rất hài-lòng vác rựa và mác để về làng. Ông biết rằng từ đây cho tới
giữa mùa mưa tới, cây mai lão ấy sẽ nỗ-lực đâm rễ mới ở chỗ bị đào.
Bản-năng tự-tồn của thực-vật là như vậy.
Giữa
mùa mưa tới, ông sẽ làm y như hôm nay, nhưng ở phía bên kia. Và Tết năm
sau, ông sẽ bứng được gốc mai nầy dễ-dàng lắm. Bấy giờ, quanh gốc mai
chỉ có toàn rễ con, rất ngắn, không có vấn-đề đứt rễ mà phải lo nữa.
Đám
đất mà ông phải khiêng về nhà, chỉ sẽ lớn bằng cái thúng giạ thôi, thân
cây mai cũng chẳng còn gì, ngoài mấy nhánh non nhẹ hểu, như vậy hai
người khiêng là vừa sức.
*
* *
Kể
từ chiều hôm ấy, ông Tư sống với hy-vọng về tương-lai. Thì ra hy-vọng
và tương-lai không phải là độc-quyền sở-hữu của thanh-niên đâu. Bảy
mươi, con người vẫn bám víu được vào một viễn-ảnh rực-rỡ nào, miễn họ có
cái gì để chờ mong.
Ông
Tư chờ mong mùa mưa. Và giữa mùa mưa tới đó, ông lên rừng để thiến một
gốc mai già, ở cái diện-tích bán-nguyệt mà ông chưa rớ tới.
Cây
mai đã đâm nhành tơ, trổ lá non mỡn. Nó đã được một liều thuốc cải-lão
hoàn-đồng, thật sung-sướng hơn con người không biết bao nhiêu. Con
người, hễ già như ông thì chỉ còn biết mong ngày đi chầu trời, và để tạm
quên ngày buồn ấy, họ quyết lẩn trốn trong một say-mê nào, chẳng hạn
như say-mê cây cảnh và non-bộ.
Ông
Tư nhìn mãi đất đã bằng-phẳng vì mùa mưa đã làm giẻ ngọn đất vun, nhìn
sâu, qua lớp đất không trong suốt ấy, mà cũng hình-dung ra được mớ rễ
non chằn-chịt như mạng-nhện quanh gốc mai, ngắn chẳng đầy gang mà tràn ứ
sinh-lực, y như câu chuyện người ta tháp thận khỉ đột cho một ông lão,
mà ông Tư nghe thầy giáo hưu-trí cạnh nhà ông kể lại, sau khi thầy ấy
đọc nhựt-trình.
Công-việc
lần nầy chỉ nhọc bằng phân nửa hôm trước thôi, vì đang giữa mùa mưa,
đất mềm lắm. Ông Tư lại có dở cơm mo, có mang theo bầu nước, nên chỉ tới
đứng bóng là đâu đó xong-xuôi cả.
Và ông Tư về nhà để đợi Tết.
Ông đợi Tết như trẻ con đợi ngày ấy để được mặc áo mới, ăn bánh ngon, đốt pháo và khỏi làm gì hết lại có tiền lì-xì đầy túi.
Ông
sung-sướng lắm khi săm-soi những ngôi chùa bát-giác tám từng, những cầu
đá có nóc, những lão tiều-phu còng lưng dưới bó cũi, bao nhiêu vật ấy,
cái nào cũng nhỏ li-ti bằng đầu chiếc đũa, đầu ngón tay út, nhưng sẽ gợi
hình-ảnh rất mạnh một khi được gắn phải chỗ trên gốc mai già.
Ông
Tư đã ngắm-nghía gốc mai ấy không biết bao nhiêu lâu rồi, để chọn những
man-khe mà bắc cầu, chọn những cái bệ cheo-leo sườn núi mà cất chùa,
chọn những thạch-bàn cho các đại-tiên đánh cờ.
Ông
đã chuẩn-bị một cây bình-linh, loại cây giống hệt cây tùng mà lá là lá
me, trồng mười năm trong một chung đất nhỏ, giấu trong hóc nào đó của
gốc mai, cây bình-linh của ông cũng chỉ cao có một gang tay thôi, giống
hệt cội tùng già trong rừng sâu.
Sướng
nhé! Niềm vui của ông già nầy rất trẻ, và hẳn ông phải trẻ ra, ít lắm
cũng vài tháng, trong suốt thời-gian ông mơn-trớn, vuốt-ve trong trí
tưởng món đồ chơi sắp có.
Các
ông già, mà cả những người trẻ tuổi có tâm-hồn ở vùng nầy sẽ tề-tựu tại
nhà ông để trầm-trồ gốc kiểng lạ, và nhứt là bộ giả-sơn có một không
hai trong vùng.
Ông
không tiền để sắm chậu sứ lớn thì ông sẽ mua một cái ảng, vài chục bạc.
Dùng ảng lại được cái lơi nầy là mươi năm sau, khi cây mai ăn hết đất
trong ảng và sắp chết, cần dời nó sang một món đồ đựng to hơn, với nhiều
đất hơn, thì đập bể ảng mà khỏi tiếc tiền.
Sướng ôi! Cha-chả là sướng!
Gió
Bấc về, rồi mùa gặt qua, rồi mùa cưới, rồi kỳ-yên, chạy miễu, xong đâu
đó thiên-hạ chuẩn-bị ăn Tết. Tết năm nay, ông Tư chỉ ăn bằng gốc mai nầy
là đủ rồi, không cần thịt kho, dưa giá, bánh mứt gì hết ráo!
Ông
phải cậy thằng Trợ mới được. Ngày hăm ba, sau khi đưa ông Táo rồi, ông
dẫn nó lên rừng với một cây đòn, một chiếc gióng mây lớn, có đáy, với
lại một cái xuỗng.
Ông đào gốc mai lên, nó với ông khiêng cái vật lạ ấy về xóm.
Công-việc xảy ra đúng từng li, từng tí, cho đến cái phút mà ông Tư với thằng Trợ lên tới ngọn gò quê-hương của gốc mai già.
Nhưng
vừa đến nơi là ông Tư suýt ngã ra bất-tỉnh. Gốc mai đã vắng bóng, chỉ
còn trơ lại một miệng lỗ rộng bằng cái thúng giạ và sâu độ ba gang tay.
Có kẻ đã qua đây rồi!
Mà kẻ ấy hẳn là thằng Lợi.
Thấy
là không thể giữ mãi được, nhứt là không thể giành độc-quyền được về
một vật ở ngoài trời, do trời sanh ra, ông Tư đã làm quảng-cáo dữ cho
gốc cây mai của ông. Đó là một lối trước-bạ trong vùng vậy, bởi thằng
nào ăn cắp, ông sẽ tranh-giành và dư-luận sẽ binh-vực ông vì ai cũng
biết ông có công với gốc mai.
Như
vậy, không thể có kẻ dám ăn cắp đồ cấm. Kẻ cắp chỉ có thể bán đi Sàigòn
thôi. Mà ở đây, thằng Lợi là người độc-nhứt chuyên bán thổ-sản đi
Sàigòn
B.N.L
(Minh họa: Bình Nguyên Lộc qua nét vẽ Vũ Nguyên Giang)
VŨ KHẮC KHOAN * THẦN THÁP RÙA
Vũ Khắc Khoan
THẦN THÁP RÙA
truyện ngắn
Năm loạn đầu hậu bán thế
kỷ thứ hai mươi dương lịch, có người
trẻ tuổi họ Đỗ bán ruộng bỏ vùng quê lên
Kẻ Chợ trọ học.
Đỗ vốn thuộc lớp trung nông,
thường sống bằng lợi tức ít mẫu hương
hỏa cha mẹ mất sớm để lại.
Vì quen nếp sống thanh đạm, gia dĩ
lại sống một mình nên ít lo sinh kế, hằng ngày thường
hay đọc sách, da dẻ trắng trẻo xanh xao, mình gầy
vóc hạc. Lại luôn luôn mục kích sự tàn bạo của
đám phú nông mà tâm sự ù ê lộ ra ở đôi mày hay nhíu,
miệng có cười, cũng héo hắt không vui. Tính vốn
ít nói, trong chốn giao du lại cố tình giữ trọn cái
nghĩa nước nhạt của người nước
Lỗ, cho nên lắm khi cả ngày không lên tiếng một câu,
hàng tháng biếng bước chân ra khỏi cổng. Họa
hoằn thao thao bất tuyệt, là lúc đối diện một
người hiểu biết. Những lúc đó, Đỗ
thường ngửa mặt lên trời mà than thời thế
hoặc tác sắc đập bàn luận đàm quốc sự
đến bỏ cả cơm. Tuổi đã lớn nhưng
Đỗ vẫn sống một mình, không nghĩ tới việc
vợ con. Con gái trong vùng có trêu ghẹo ngỏ tình thì đỏ
mặt ngoảnh đi. Người trong họ đôi khi gợi
việc trăm năm mối lái mà không tiếp chuyện.
Lên đến Kẻ Chợ, Đỗ ngồi
dạy học ở phường hang Bạc, tạm yên
sinh kế để có thể tiếp tục học hành. Đất
Kẻ Chợ, nhà cửa như bát úp, người đi lại
ngoài đường đông hơn mắc cửi, mà Đỗ
vẫn giữ nguyên tính cũ, ngày một buổi đến
trường nghe giảng văn rồi về thẳng nhà,
đóng cửa đọc sách lạ. Bạn cùng trường
thấy lẻ loi, thỉnh thoảng rủ đi đánh cầu
nhẩy múa, Đỗ đều một mực từ chối.
Nhưng trong câu chuyện, nếu có ai đả động
đến thời cuộc, so sánh lý thuyết nọ với
lý thuyết kia, là lập tức sắm sắm bước
vào vòng thảo luận, nói hằng giờ không biết mỏi.
Hoặc nêu thuyết nhà Phật mà bác bỏ định đề
Cơ Đốc. Hoặc đề cao tư tưởng của
Văn sĩ Pascal mà đánh đổ lý luận vô thần.
Hoặc chủ trương giai cấp đấu tranh những
mưu mô tư bản, Hoặc lập luận tự do cá
nhân để chống với độc tài đoàn thể.
Có ai rụt rè nói đến giá trị nội tại của
nghệ thuật ắt Đỗ phải lớn tiếng
thích nghĩa nhân sinh. Nhưng nếu có người muốn
hạ văn chương xuống ngang hàng một “đồ
thực dụng” thời Đỗ lại chép miệng thở
dài nhắc đến quan niệm nghệ thuật của
Kant.
Giọng Đỗ trầm bổng như
tiếng trúc tiếng tơ, khi mau khi chậm, khi thoảng
nhẹ tựa cơn gió mùa hạ, khi thiết tha như tiếng
đục trạm của người rũa ngọc. Bạn
bè ai nghe cũng thấy thích tai, cho là lạ, phục Đỗ
học rộng, biết nhiều.
Tựu trung cũng chẳng hiểu Đỗ
ra sao.
Một hôm, có người hiếu kỳ gần
nửa đêm, đập cửa nhà Đỗ, đòi chất
vấn.
-
Hiện nay thiên hạ chia đôi,
không trắng thời đen, mà nghe ông nói thì thật không biết
là đen hay trắng .
Đỗ ngẫm nghĩ hồi lâu, thủng
thằng trả lời :
-
Tại sao anh cứ bắt
buộc là đen hay trắng ? Mặt trăng vòm trời
khi khuyết, khi tròn. Áng sáng mùa thu trong như ngọc mà thật
ra lại hợp bảy màu. Lá cây phong bên bãi lúc xanh, lúc đỏ.
Chân lý ở đời không đơn giản như bụng
dạ trẻ con. Tai sao lại cứ bắt buộc là đen
hay trắng ?
-
Mùa xuân, mùa hạ thì lá xanh, mùa
thu, mùa đông thì lá úa đỏ. Áng sáng tuy hợp bảy màu
nhưng chính mắt chỉ nhìn thấy một. Trăng có
tuần trăng khuyết, trăng tròn. Chân lý tuy phức tạp
nhưng không hẳn là nhờ nhờ, không màu sắc. Nay đang
đêm đến đập cửa nhà ông, là có ý thành. Xin
cho nghe những lời tâm sự.
Đỗ lặng thinh không trả lời.
Người kia bèn xích lại gần Đỗ
:
-
Mã Khắc Tư cầm bút mà
thiên hạ phân đôi. Một đàng tư bản đè xuống.
Một đàng vô sản vùng lên. Tấn tuồng Hán Sở
tranh hùng thuở xưa lại diễn. Chúng ta thật đã
sa vào cái thế trên đe dưới búa, ý ông thế nào ?
Đỗ bỗng hỏi :
-
Biết để làm gì?
-
Khôn cũng chết, dại cũng
chết. Vậy biết để sống.
-
Cầu an ư?
-
Ai mà không thích sống? Quan Công
chịu đau đưa tay cho Hoa-Đà cắt thịt cũng
là thích sống. Tần Thủy Hoàng dựng Vạn lý Trường
thành mà lúc gần chết cũng còn tìm thuốc trường
sinh. Tìm mà bỏ chết, đó là thường tình của
con người.
-
Vậy đầu hàng đi.
-
Hán hay Sở ?
-
Tư bản đè xuống
mà hùa theo là tư cách tiểu nhân. Vô sản vùng lên, nếu
nhập vào, ắt mất tự do.
-
Vậy cứ khoanh tay hay sao
?
Đỗ chưa kịp trả lời, người
kia đã nói tiếp :
-
Tôi thường nghe mỗi
khi thời thế chuyển xoay là có thuết lạ ra đời.
Xưa thì Tô Tần bàn kế Hợp tung, Mạnh Tử luận
“Dân vi quý”. Gần đây có người Đăng Thục
mưu việc duy nhất tư tưởng Đông Tây, Hồ
Hữu Tường băn khoăn muốn vượt Mác xít.
Ông vẫn được tiếng là người nói giỏi,
tất phải có ý định. Xin cho nghe.
Đỗ cúi đầu, người kia không
chịu mà rằng :
-
Hay định học lối
vô vi của Lão Tử, không làm để khỏi thất bại,
không tụ, để khỏi phân ly?
Đỗ bèn thở dài mà rằng:
-
Vô vi làm sao được? Ở
cái bình diện nhân sinh tương đối này thì làm sao mà
thể hiện được cái nghĩa tuyệt đối
của một chữ Vô? Vô đấy mà cũng là Hữu đấy.
Hữu đấy mà lại là Vô. Khó lắm thay!
-
Không vô vi tất phải làm,
vậy làm gì?
Đỗ bỗng đổi giọng :
-
Ông đã đọc sách Luận
ngữ chưa?
-
Đọc rồi.
-
Tất biết chuyện Tăng-
Điểm!
-
Xin nghe!
-
Nhân Tử Lộ, Tăng Điểm,
Nhiễm Cầu, Công Tôn Hoa ngồi hầu, Phu Tử hỏi
rằng Khi các ngươi bình cư thường nói : “Chẳng
ai biết đến ta mà dùng ta”. Nếu như có người
biết mà dùng thì các ngươi định làm sao? Tử Lộ
ước có nghìn cỗ xe lớn, ở vào thế yếu
mà chống thyết mạnh, Nhiễm Cầu bàn đấn
một chương trình kinh tế ba năm cho dân no đủ.
Công Tôn Hoa thì nghĩ đến việc “mặc áo huyền đoan,
đội mũ chương phủ” vào nhà Tôn Miếu mà giúp
việc Lễ.
-
Còn Điểm thì sao?
-
Tăng Điểm lúc ấy
đang gảy cái đàn sắt, tiếng đàn thong thả
và hòa nhã, bỏ đàn xuống, đứng dậy mà thưa
rằng: Chí tôi khác hẳn ba anh kia. Đến cuối mùa xuân,
áo mùa xuân đã may xong, năm sáu người trạc độ
hai mươi tuổi, sáu bảy đứa trẻ con rủ
nhau đi tắm sông Nghi, hóng gió nền Vũ vu, rồi hát
mà về. Phu Tử thở dài mà than rằng :”Ta cũng thích
như Điểm vậy !”
Người kia tròn mắt nhìn Đỗ:
-
Tôi vẫn chưa hiểu.
-
Có gì mà không hiểu?
-
Vậy ý ông có thế thôi ư?
-
Hãy tạm hiểu là như vậy.
Rồi Đỗ lẳng lặng sắp đồ
pha trà, căn vặn thế nào cũng không nói. Một lúc
sau nhớ tới lệnh giới nghiêm, người kia bỏ
ra về. Hôm sau kể lại chuyện, cũng chẳng ai
hiểu Đỗ dụng ý nói gì.
Cuộc sống nơi Kẻ Chợ vốn
đắt đỏ, số người tị - loạn càng
ngày càng đông, việc mưu sinh trở nên chật vật.
Thiên hạ mải kiếm gạo, dần dà không còn ai bàn tán
tới Đỗ. Thản - hoặc, có nhắc đến,
cũng cho là viển vông, vu khoát.
Nhưng từ cái đêm nhắc tới lời
Phu Tử, Đỗ lại thêm phần thắc mắc. Đỗ
nghĩ rằng cả bốn môn đồ Phu Tử đều
có lý. Vì sở thích Tăng Điểm chính là cái đích chung
của thiên hạ. Nhưng muôn tới được đó,
tất phải hoàn thành cái cách Nhiễm Cầu, mưu việc
Tử Lộ và tề chỉnh cho thiên hạ một thứ
lễ nghi như ý Công Tôn Hoa. Bốn ước vọng tựu
trung là cả một quốc sách có trình tự rõ ràng. Đỗ
thán phục cổ nhân nhưng cũng thầm trách cổ nhân
chỉ bày cái đích mà chẳng vẽ ra phương tiện.
Thật tình ai mà thích mặc áo mùa xuân và tắm
mát sông Nghi ? Nhưng trong cơn đại loạn này, tìm đâu
ra được một Tử Lộ, một Nhiễm Cầu
và nhất là một Công Tôn Hoa?...
Tiếng guốc ngoại ô lần tới họp
chợ sáng Bắc Qua, đã nhiều lần làm Đỗ
giật mình thấy mình bó gối thâu đêm bên ấm trà tàn
bã.
Càng suy nghĩ, càng thấy tối. Đỗ
ngày một héo mòn. Người chủ trọ ái ngại, muốn
lựa lời khuyên giải mà cũng chẳng biết nói gì.
Ngày nguyên tiêu năm mão, có mở chợ hoa.
Thiên hạ tạm quên lo nghĩ, mặc áo mới, đổ
ra đường, nam, phụ, lão, ấu, lũ lượt
kéo tới ven hồ Hoàn Kiếm.
Muốn thêm vui, viên thị trưởng họ
Thẩm ra lệnh kéo lưới bắt Rùa ở hồ lên
để người Kẻ Chợ có dịp nhìn tận mặt
con vật tương truyền giật kiếm cứu quốc
của vua Lê. Người hiếu kỳ xem Rùa có tới hàng
vạn. Không khí tưng bừng, đây đó đèn treo hoa kết.
Người chủ trọ thấy Đỗ
vẫn âm thầm một mình trên gác trọ, bèn thúc dục
ra phố. Bắt đầu còn từ chối, sau nể lời,
Đỗ miễn cưỡng vuốt tóc, khoác áo ra đường.
Khi tới nơi, ttrời đã ngả chiều,
người chơi hội chỉ còn lác đác. Vì lâu không
ra chỗ thoáng, Đỗ tinh thần sảng khoái, bèn bước
vào một tửu quán, chọn chỗ khuất gọi rượu
ngắm hồ.
Lúc bấy giờ, gió đông thổi lộng,
sóng hồ bệp bềnh, trăng rằm lên ngôi, sương
mỏng buông xuống ướt cả cỏ non. Đối
cảnh mà cảm khái, mềm môi, uống mãi, lúc đứng
lên mới biết đã say. Đỗ chập chững ven
hồ mà bước. Một lát sau thấy mình dừng lại
trước Rùa, bèn dương mắt mà ngắm. Rùa to bằng
cái nia, đầu cổ sần sùi, bốn chân bị trói.
Đỗ đứng lặng nhìn Rùa. Rùa cũng
vương cổ nhìn Đỗ. Dưới ánh trăng
nguyên tiêu, Đỗ chợt thấy mắt Rùa như mờ
lệ.
Nhân còn say, Đỗ hỏi :
-
Cũng biết thùy lệ ư
?
Rùa gật đầu, vươn cổ ra
nhìn hồ. Nước hồ trong xanh dưới ánh trăng
xanh. Đáy hồ rêu cũng xanh. Đỗ nhìn quanh không thấy
có ai, bèn sắn tay áo cởi trói cho Rùa. Rùa dụi đầu
vào tay Đỗ, Đỗ thấy mát dợi lòng tay. Bèn vỗ
vào mai Rùa mà rằng :
-
Thôi đi đi, từ nay nên
cẩn thận.
Rùa choài mình xuống nước. Mai Rùa
lấp loáng phút chốc biến mất.
Đỗ nhìn theo hồi lâu rồi cũng
trở về.
Đêm hôm đó, Đỗ chằn chọc,
không nhắm mắt. Định đọc sách, thì tâm thần
phiêu diêu bất định, chữ múa trước mắt,
nghĩa sách thoảng xuôi như cơn gió mùa xuân.
Đỗ bèn vùng dậy, mở toang cửa
sổ. Trăng tỏa đầy gác học. Trăng soi sáng
bốn bề ngập sách. Sách ở bàn, ở tủ, từng
chồng, từng tập, ở cả đầu giường.
Quyển mở xem vội vài trang, quyển khép kín im lìm một
xó tường. Mã Khắc Tư ôm ấp Lão Tử. Sartre nằm
cạnh tập kinh Tân Ước. Bao nhiêu suy nghĩ, bao nhiêu
cố gắng, bấy nhiêu cây mốc cắm dọc con đường
tư tưởng tự nẻo xa xôi, rắn vườn
Eden chưa từng bò sát cho đến bây giờ... Tựu
trung, Chân Lý vẫn chập chờn như đom đóm lập
lòe giữ bãi tha ma. Sách lặng lẽ lên bụi. Bụi sách
lung lay ánh trăng nguyên tiêu. Đỗ bỗng thấy ngộp
thở mà quay đi. Và dụt dè hỏi rằng :
-
Thế ra mỗi
người là một thế sống tùy thời mà biến
hóa khôn lường.m Thế Chiến Quốc, Thế Xuân
Thu... Thế sống mạnh Tử và thế sống Khổng
Khưu. Mà nào ai đã khuyên nhủ được ai ? Hỡi
ơi ! Ta vỡ lòng trong mốc bụi dĩ vãng, nhớn lên
cùng tập giấy mủn, nhìn thế cục xoay vần bằng
con mắt cố nhân. Nay lại định giải quyết
hiện tại bằng phương quá khứ ! Còn vỗ
ngực trách ai nữa ?
Đỗ thở dài nhìn xuống đường.
“ Đường xanh bóng trăng. . . .”
Đường rộng rãi, thênh thang mà vắng
ngắt.
Đỗ cảm thấy hoang mang như người
lên đường mất bạn đồng hành. Tự cởi,
tự do nhưng lại thầm nghĩ :
-
Thế ra ta chỉ
một mình ?
-
Tại sao ta lại một
mình, còn em ?
Đỗ bàng hoàng quay lại, nheo mắt không
tin. Vì đúng là có một người đứng trước
mặt Đỗ: một người thiếu phụ, thướt
tha, mặt trắng, mắt trong, da mịn, tóc mun chảy
như suối xuống vai, áo màu rêu mát lạnh.
-
Nàng là ai ?
Câu hỏi tắt ngấm trong hơi
thở ấm dan. Hai vòng tay thơm ngát đã vòng quanh cổ
Đỗ. Trăng sáng, môi ướt mọng chín mùi, gió xuân
lọt căn gác. Đỗ dợn ngùi mà mê đi.
Cuối canh tư, Đỗ bừng tỉnh.
Hàng xóm gọi nhau ơi ới thổi cơm. Gà gáy cuối
phố. Cửa sổ vẫn rộng mở. Trăng sế
vàng khè. Nhìn quanh vắng ngắt, duy hương vương
lại, giường chiếu xô lệch, sách vở đạp
xuống đất, Đỗ mới tin là chuyện thực.
Bèn đóng kín cửa để ủ hương thừa,
ngẩn ngơ, ủ rũ suốt cả ngày, không biết
làm gì.
Đêm nàng lại đến. Hỏi tung tích,
chỉ mỉm cười mà không nói. Gạn dò thì nhẹ đáp :
-
Đêm xuân ngắn ngủi,
hỏi làm gì ? Đến với chàng thế này chưa đủ
sao ?
Đỗ không chịu, định căn vặn
đến điều thì hai vòng tay mát dịu đã quàng nơi
cổ. Đỗ không cưỡng được mà mê đi.
Lại cũng như đêm trước, gà
hàng xóm bắt đầu gáy, Đỗ lại sực tỉnh
một mình.
Từ đó, đêm nào cũng tới. Đỗ
bỏ cả sách, ăn uống thất thường, suốt
ngày phờ phạc, sắm nắm đợi náng từ lúc
lên đèn. Có lúc nhớ tới cái không khí « giàn dưa lất
phất » của Bồ Tùng Linh, Đỗ rùng mình nghi là
ma quái, nhưng lần đầu gần đàn bà, gia dĩ
môi nàng ấm quá, da nàng mịn màng, cho nên định hỏi
lại thôi, có ngờ cũng không cự tuyệt. Trăm
nghìn câu hỏi, áp má người ngọc, Đỗ lại
mê đi mà quên bẵng.
Người chủ trọ quen tính, cũng
không lấy làm lạ, cho Đỗ bơ phờ bởi, quá
chăm học, chỉ biết ái ngại lắc đầu.
Cứ như thế, thoắt đã nở
mùa hoa phượng. Cuộc tình duyên lặng lẻ giữa
hai người kéo dài cả một vụ xuân. Một đêm,
nàng đến mà ngồi yên, nét buồn in trên vẻ mặt.
Đỗ có nắm tay, cũng gượng gạo mỉm
cười nhưng không dấu nỗi ưu tư. Định
hỏi, nàng đã thỏ thẻ bên tai :
-
Đã đến lúc xa
nhau rồi đấy !
Đỗ không tin mà cãi :
-
Xa làm sao được ?
Mà ai bắt xa nhau ?
Nàng ngồi yên một lát rồi mới nói,
giọng như đượm lệ :
-
Chàng với em vốn có
tiền duyên, chàng còn nhớ ngày hội nguyên tiêu ?
Đỗ gật, Nàng nói tiếp :
-
Em vì mải vui hôm đó
nên sa cơ mắc lưới. Chàng vì lòng hào hiệp mà cởi
trói cho em. Thụ ơn nặng cùng chàng nên mới có ngày
nay.
Đỗ thốt nhiên nhớ lại, giật
mình :
-
Vậy ra nàng là. . . .
-
Em vốn là loài Rùa, tu đã
trọn kiếp, nhất là có công với Đất Nước
này nên được Thiên đình giao cho cai quản ngôi tháp
giữa hồ Hoàn Kiếm.
-
Nàng nói sao ? Nàng có công
với Đất Nước này ?
-
Chàng đọc sách nhiều,
quên việc xây thành Cổ Loa rồi sao ?
-
Trời ơi Thần
Kim Quy !
-
Là em đó . . .
-
Còn chuyện thanh gươm
Lê Lợi ?
-
Cũng là tại
em !
Đỗ cúi đầu suy nghĩ, giây lâu mới
nói lên lời :
-
Nhưng tại sao lại
phải xa nhau ?
Nàng thổn thức trả lời :
-
Em đi lại với
chàng, không dấu nổi tai mắt Thiên Đình mà mang tội
phải đầy sang Động Đình Hồ. Em lén đi
giây lát để chàng biết chuyện, mai sớm đã phải
lên đường.
Đỗ ôm lấy vai nàng :
-
Chậm lại ít bữa
được chăng ?
-
Lệnh Thiên Đình không
thể trì hoãn. Vả công sai áp giải đã chực sẵn
từ sáng. . . . Mới lại đằng nào chẳng phải
xa nhau ?
Đỗ ngùi ngùi gặng hỏi :
-
Xa nhau mãi ư ?
-
Sớm lắm cũng
khoảng hai năm. Còn chậm, thật chưa biết đến
bao giờ.
Nói rồi, hai người nhìn nhau thổn
thức. Ve kêu ran ngoài đường khắp các cành cây. Sao
từng ngôi lấp lánh vòm trời. Nàng chợt đứng
dậy, nhưng Đỗ bàng hoàng nắm áo, nhất định
không chịu chia tay. Nàng đành nuốt lệ nói sẵng :
-
Xa nhau ít lâu rồi lại
gặp, Chàng sao nặng tình quá thế !
Đỗ rằng :
-
Bây giờ mới biết
thế sao ?
Biết Đỗ giận, nàng vội nhích
lại gần :
-
Nói đùa chàng đấy
. . . Thật tình biết chàng từ lâu, ngay từ khi chưa
gặp . . .
-
Thật hay đùa nữa ?
-
Thật đấy !
Ngày ngày ven hồ mà đi nghe giảng văn, ai mà không thấy ?
Lại những trắng đêm đọc sách, vẻ ưu
tư của chàng, gợn cả sóng hồ. Em vốn cũng
nặng tình với số phận Đất Nước, làm
gì mà không để ý ?
Đỗ vội hỏi :
-
Ở đây rồi sẽ
ra sao, có thể biết trước được không ?
Nàng cười mà không trả lời.
Đỗ lại gặng hỏi, thì nàng đáp :
-
Biết làm sao được ?
-
Cạnh nàng chắc cũng
có vbàn luận nhiều đến thời cuộc, nỡ nào
lại còn giấu nhau ?
-
Thân còn không tiếc, giấu
chàng làm gì việc ấy ?
Đỗ tần ngần mà rằng :
-
Tôi tưởng đã có
định trước . . .
-
Định hẳn làm
sao được ?
-
Thế sao lại có việc
Lê Lợi đào được kiếm thần ?
-
Đào được
kiếm thần thì ai đào mà chả được ?
Thiên Đình thật ra có biệt nhỡn riêng ai ? Chỉ
sợ không sử dụng nổi kiếm thần mà thôi !
. . .
Đỗ không tin :
-
Nếu có kiếm thần
trong tay thì còn sợ gì nữa ?
Nàng liền nói tiếp :
-
Trước kia em cũng
lầm tưởng như chàng cho nên mới hủy công tu
luyện mà ra công giúp đỡ Thục Vương. Ấy
thế mà rồi cũng hỏng cả . . . Nỏ thần
dù màu nhiệm, nếp xoáy Loa thành có hiểm trở nhưng
người đứng đầu không vững tay sử dụng
thì đại sự vẫn không thành . . . Nhân sự thật
thật là phức tạp. Tính trước làm sao được
mối oan tình Trọng Thủy, Mỵ Châu ? Cho nên Thiên Đình
dù có biết trước thời cơ cũng không lý nổi
nhân sự. Lê Lợi, Quang Trung chẳng qua chỉ là những
người ý thành, tâm chính, hiểu thời, nổi dậy
mà thiên hạ phải bình, có thế thôi !
Nàng bặt lời, cúi đầu ngẫm
nghĩ. Đỗ cũng cảm thấy xáo trộn trong tâm
mà yên lặng không lời . . . Trên trời, sao từng ngôi tắt
ngấm. Rì rào ngọn gió bắt đầu kể lể riêng
tây đây đó, từng lá từng cành. . .
Giọng người thần nữ Kim Quy
lại thổn thức cất lên :
-
Trước kia vì đại
sự mà giận Mỵ Châu, bây giờ thật mới hiểu
nàng.
-
Sao ?
-
Lại còn phải hỏi
ư ?
-
Có bằng Mỵ Châu,
Trọng Thủy không ?
-
So sánh làm sao được ?
-
Nếu muốn thử
thách, liệu có dám làm như Mỵ Châu không ?
-
Có lẽ cũng không giữ
nổi lòng đâu !
Đỗ dụt dè :
-
Ngộ . . . muốn xin
chiếc kiếm Lam Sơn thì sao ?
-
Em được lệnh
trên mà lấy lại kiếm thần nhưng lại không giữ
. . .
-
Ai giữ ?
-
Chính Lê Lợi ! . .
. Nhưng chàng muốn được kiếm để làm
gì ?
Đỗ chợt dằn giọng :
-
Nhận trách nhiệm.
Mưu đại sự.
Dứt lời, gió đột nhiên tự bốn
phương ào ào đưa lại. Vòm trời đen kịt
nhằng nhịt ánh chớp. Căn gác rung lên cùng tiếng sấm
vang dậy.
Thần Kim Quy tái mặt vùng dậy :
-
Trời ơi !
Đỗ cũng hoảng hốt xô lại
định giơ tay đỡ, nhưng nàng đã rú lên :
-
Đừng, đừng
chạm vào em ! Em không còn là em nữa đâu !
Trước mắt Đỗ, thần Kim
Quy . . . lần lần lộ nguyên hình.
Đỗ thổn thức cố nói :
-
Đừng quên nhau . .
.
Ánh chớp sáng loáng mai rùa, long lanh ngấn lệ.
Thần Kim Quy gật đầu rồi từ từ bò
khuất vào giữa cơn bão gió đen kịt đêm tàn
xuân. Đỗ gục vào thành giường mà khóc cho
đến sáng.
Gần sáng, bão gió chưa tắt, mưa
đã dội xuống. Rồi vừ mưa vừa gió
suốt ba ngày ba đêm không lúc nào ngớt. Cây cổ thụ
Kẻ Chợ bật gốc có đến mấy trăm
thân, nhà Kẻ Chợ bay nóc có trên hàng nghìn chiếc.
Trời hửng nắng, thì cá hồ Hoàn
Kiếm chết nổi lềnh bềnh như bèo Nhật
bản. Thiên hạ hiếu kỳ rủ nhau đi xem
đông nghịt ven hồ, ai cũng lấy làm lạ. Duy có
Đỗ từ buổi đó thì thôi hẳn ra
đường, suốt ngày thơ thẩn trong phòng,
lắm lúc vật mình mà khóc, có đêm ôm gối tương
tư, như điên như dại. Lúc đầu còn có
bạn đến thăm, nhưng vì lãnh đạm không
tiếp, lâu dần chẳng còn ai lui tới.
Năm Mão qua đi mà trọn bốn mùa,
Đỗ không thôi thương nhớ. Một ngày trọng
Đông năm Thìn, Đỗ không đâu mà cảm thấy
bồn chồn, tâm linh xao động, dường như
có gì thúc bách. Bèn tung chăn đứng dậy, bách bộ
quanh phòng. Một lát, dừng bước trước
đống sách. Quen lệ cũ, đã định giơ
tay với một cuốn : gió bấc chợt lọt
kẽ song, phả vào mặt Đỗ một mùi tử khí
tự đống sách dâng lên. Nhìn kỹ, mốc xanh lốm
đốm khâm liệm đống sách đã tự bao
giờ. Nhằng nhịt, nhện đả giăng tơ,
tơ nhện hứng bụi tường tỏa trắng
một góc buồng. Tự đêm nguyên tiêu kỳ ngộ, có
lần nào Đỗ nén lòng đọc được
một trang ? Vả lại, cũng tự đêm ấy,
Đỗ bắt đầu thấy ngấy chữ
nghĩa cổ nhân . . .
Đỗ nhìn xuống bàn tay. Bàn tay vốn
xanh xao bỗng trở nên gân guốc. Như muốn
đập phá. Như muốn cấu xé. Thế rồi,
giữ lại cũng không kịp, hai bàn tay, mười
ngón chồm lên. Khi định thần, đống sách
đã nằm gọn trong lò sưởi góc phòng.
Cuộc phần thư bắt đầu.
Năm xưa, ngọc lửa phần
thư nhóm lên do một bàn tay ưa chuyện “khanh nho”.
Kẻ sĩ đời Tần nghẹn ngào, hằn
học, lời nguyền rủa vượt khỏi
Trường thành, sang sảng cập đến tai hậu
thế.
Giờ đây, lửa phần thư
lại do chính một kẻ sĩ tự ý gây lên. Lửa
không lan rộng mà âm ỷ xoáy hẳn vào bề sâu một
cơn khủng hoảng.
Đỗ nhập thiền, vừa
chừng kiến, vừa chịu cực hình một lễ
hỏa thiêu lạ lùng. Từng tờ một, quằn
quại để rồi siêu thoát, từng nguồn tư
tưởng, Christ từ từ ngược lại quãng
đường dẫn tới đỉnh Golgotha. Thích Ca
Mâu Ni lại gặp một gốc Bồ đề. Mã
Khắc Tư thủ thế trước Freud. Sartre
giật mình, ngơ ngẩn trong một thế ngõ cụt.
Rồi lần lượt He’gel, Lão Tử, Khổng
Khưu. . . Từng tờ một, thiêu dần từng
nỗi băn khoăn. Đỗ qua từng cơn cảm
giác tân kỳ. Có lúc xót xa như bị lột xác, có lúc
rợn người như thoáng bóng ma, nhiềukhi ê chề
như bị lăng trì. Dần dà thì tâm trí lâng lâng, ngũ
giác gấp phần minh mẫn. TƯởng như mang
nổi nghìn cân, mọc cánh mà bay ngang con hồng, con hộc,
vươn mình đuổi kịp ngực Ký, ngực
Kỳ.
Ngọn lửa trong lò cũng qua cơn ngùn
ngụt, tới độ điều hòa. Đỗ
đắm mình trong hơi ấm của lửa. Giữa
tiết trọng đông mà không khí gian phòng gợi
đến nước sông Nghi và tấm áo mát của
thầy Tăng Điểm. Không
khí gợi đến hơi thở của . . .
-
Em đã về đây ...chàng
!
Lửa phần thư đã tắt. Trên đống
tro tàn của đống sách hỏa thiêu, người thần
nữ Kim Quy xuất hiện.
Đỗ bàng hoàng giơ tay chới với.
Nàng từ lò sưởi bước ra, hương thơm
ngây ngất quanh phòng.
-
Trời ! Ta mê hay
thật là nàng ?
Đỗ nắm chặt tay người thần
nữ. Yên lặng ngùi ngùi trong gian
phòng ấm áp.
Một lát sau, nàng nhẹ nhàng rút tay ra rồi
mỉm cười :
-
Đã quyết định rồi
sao ?
-
Sao lại hỏi thế ?
-
Thế sao lại đốt
sách ?
-
Đốt sách là quyết định
ư ?
-
Chàng chỉ còn một chút sản
nghiệp tinh thần, Hỏa thiêu đi là đã có ý định
rồi đó !
-
Không biết có ý định
gì, nhưng vì đốt sách mà gặp lại nhau, không quý
sao ?
-
Tại sao chàng biết đốt
sách thì gặp lại em ?
-
Căn vặn nhau mãi !
Nàng ngồi yên không nói. Đỗ gạn hỏi
thì nhìn Đỗ mà tủm tỉm cười. Bèn nắm lấy
tay, đùa mà dọa :
-
Không nói thì lại bắt chước
họ Thẩm, còn nhớ không ?
Nàng nghiêm nét mặt :
-
Cái dây của một viên thị
trưởng bằng sao được một mối tình
? Không cần trói cũng khó mà rời nhau . . .
Thấy Đỗ ngậm ngùi, nàng lại nói
tiếp :
-
Lần trước gặp
chàng vì tiền duyên. Cũng vì tiền duyên mà mang lụy tại
Động Đình Hồ. Nhưng vì mối tình của chàng
có nặng, sóng tình cập tới Thiên đình, nên em sớm được
trở lại với chàng . . .
Đỗ lộ vẻ mừng:
-
Có thể ở luôn với
nhau được không ?
Nàng rằng :
-
Sao lại không ? Nhưng còn
phải đợi . . . Số là, lại với chàng, em còn
một nhiệm vụ.
-
Sao ?
-
Chàng cứ yên, em xin nói. Trước
khi gặp em, chàng thường băn khoăn về thế
cuộc. Điều đó chân thành xuất tự tâm can, hiện
lên vẻ mặt, tất không giấu nổi Thiên đình.
Nhưng muốn mưu đại sự, một nỗi băn
khoăn tất nhiên chưa đủ. Cần phải có thời
. . . Mà xét kỹ thì thời đến rồi đó . . .
-
Xin nói rõ cho nghe . . .
-
Chàng còn nhớ khi chia tay bận
trước, chàng có gợi đến việc kiếm thần
. . .
-
Quên làm sao được ?
-
Chuyện có thể thành đấy.
. . Nhưng . . .chàng có hiểu tại sao em lại về đây,
giữa khi chàng đốt sách ?
-
Hiểu làm sao được
. . .
-
Thật tình nếu không có việc
đốt sách thì chẳng bao giờ lại được
gặp nhau.
-
Ồ ! . .
-
Vì . . . Thiên đình tuy để
ý tới chàng nhưng còn đợi chàng tự ý quyết định.
-
Vậy ra đốt sách là
quyết định hay sao ?
-
Chưa hẳn là thế, nhưng
ít ra cũng lộ một phần ý chí . . .
Đỗ vùng dậy, đi lại quanh phòng.
Người thần nữ yên lặng nhìn theo, đầu mày
cuối mắt lộ tình quyến luyến. Đêm lặng
lẽ xuống dần. Lòng người trẻ tuổi tơ
vò trăm mối.
Có cơn gió bấc lọt kẽ song. Đỗ
rùng mình tiến lại phía người thần nữ, người
nàng ấm như áo khinh cừu. Hai bàn tay run rẽ như
hai con sẻ, Đỗ hơi nhích ra xa, giọng cất lên
biểu lộ nỗi đắn đo đến cực độ.
-
Giờ đây xin ngồi yên để
nghe lời vàng ngọc. Nàng hãy giảng giải rõ ràng. Sau cùng
sẽ xin quyết định.
-
Xin hỏi lại chàng, tại
sao lại đốt sách ?
-
Cũng không hiểu tại
sao. Lúc biết thì lửa đã bén vào sách.
-
Thật ra thì cái việc phần
thư của chàng âm ỷ đã từ lâu. Từ lâu, từ
đêm đầu tiên gặp gỡ,chàng đã thấy bực
dọc với chữ nghĩa của người xưa .
. .
-
Xin nghe . . .
-
Chàng khổ tâm vì trong cái thế
tranh hùng Hán Sở, không biết đâu là nơi dụng võ. Một
đằng là mặt đe nẩy lửa. Một đằng
là kẻ có tiền, một đằng hoàn toàn tay trắng.
Nhập vào đâu cũng chỉ là kế nhất thời. Đứng
ở đâu cũng là mượn tạm đất đứng
. . .
Người thần nữ im lặng giây lâu,
rồi lại tiếp :
-
Lý ưng ra, chàng phải nhập
vào bọn người áo vải vì thật tình sản nghiệp
của chàng không một tấc đất cắm dùi. Nhưng
cái khổ của chàng lại là những uẩn khúc tâm tư,
nhằng nhịt, dọc ngang như thế bàn cờ . . .
-
Vậy đốt sách đi
. . .
-
Đốt được nhà
. . . nhưng đốt sao được sách ? Chàng còn nhớ
cuộc phần thư thuở ban đầu xây dãy Trường
thành ? Càng đốt sách, nghĩa của chữ lại càng
trong trẻo, dễ vút lên cao, dễ lan ra rộng . . . Họ
Tần đốt sách Khổng Khưu vậy mà cái lý Tam cương
của người nước Lỗ có bị hỏa thiêu
cùng sách ?
-
Thế là đốt sách . .
.
-
Là một chuyện
cần. Vì đối với chàng, đó là một hành vi quyết
định. Hành vi đó lại là một lời cầu
nguyện động đến Thiên đình. Và em đã được
phép trở lại với chàng, khi lửa phần thư đã
bắt đầu dịu ngọn. Chàng muốn thiêu hủy
đến không còn một tấc đất tư duy. Nhưng
kết cục, chàng lại thấy em, giữa đống
tro tàn. Em là của chàng. Cũng như đã từ lâu chàng là
của riêng em.
-
Nói vậy, hóa ra lại
là Vương Khải, Thạch Sùng ? Cái lẽ quyết
định là ở chỗ đó sao ?
-
Sao lại mơ hồ
đến thế, hở chàng ? Mặt trời sắp
mọc và mặt trời đang lặn, ánh sáng tuy bàng bạc
như nhau, nhưng sao lại vì cái thế bình minh khởi sắc
với ánh tà thoi thóp của lửa hoàng hôn ?
Đỗ cúi đầu suy nghĩ. Trong
tịch mịch của đêm đông, người con trai bắt
đầu giác ngộ. Giữa bãi chiến trường nhọn
hoắt đao gươm, Đỗ dần dần nhận
ra chỗ đứng của mình. Người thần nữ
đọc được ý nghĩ của chàng. Nàng bèn lên
tiếng :
-
Trong binh pháp,
thường nhắc đến thế bối thủy. Chàng
nhận thấy chưa ? Không tiến cũng chết. Mà
đứng yên lại càng chóng chết.
Đỗ ngước mắt nhìn nàng :
-
Không biết một mình
có làm nổi . . .
-
Sao lại một mình ?
Thời đã đến, ắt là cái thế chung cho phần
đông thiên hạ. Vả lại kiếm thần sẽ
giao phó tận tay, chàng ngần ngại ư ?
Đỗ đứng phắt dậy :
-
Thật ư ? Kiếm
thần . . .
-
Nhận kiếm thần
chính là nhận nhiệm vu.
Đỗ bồn chồn :
-
Vậy bao giờ ?
-
Hẹn chàng giữa đêm
trừ tịch, năm nay.
-
Ngay bây giờ không được
sao ?
-
Ngay bây giờ ư ?
Bây giờ. . . chàng ơi ! . . .
Giọng người thần nữ thiết
tha. Mắt nàng ngời sáng. Đỗ lạcvào một rừng
hoa lạ. Trong yên lặng của trời đất, niềm
giao hòa vượt khỏi nhung của da và hoa hồng tím thẫm
của môi, chơi vơi tới mãi nơi thượng từng
tĩnh khí.
Gà gáy sáng tự bao giờ.
Năm thìn, giữa đêm trừ tịch,
cầu Thê Húc tự nhiên xụp đổ. Người Kẻ
Chợ đi xin lộc đền Ngọc Sơn ngã xuống
hồ không biết bao nhiêu mà kể. Thiên hạ xôn xao. Có người
cho là Thần Rùa báo oán việc xưa. Có kẻ nghi là điềm
gở, tính việc bán nhà mà bỏ vào Nam.
Lúc sửa lại cầu, viên đốc công
thấy chân cầu tuy gẫy mà gỗ vẫn tốt nguyên.
Duy chỗ gẫy như có vật sắc phạt ngang, ngày đêm
rỉ nhực đỏ lòm như máu. Nói lại, ai cũng
cho là lạ. Kẻ bàn, người tán, không biết ra sao.
Có người biết Đỗ, tìm đến
nơi định hỏi. Nhưng cũng giữa đêm trừ
tịch, Đỗ đã bỏ kinh thành, biệt vô âm tín ./.
Vũ Khắc Khoan
1954
Kịch tác gia nhà văn Vũ Khắc Khoan từ
Hà Nội di cư vào Nam năm 1954. Là giáo sư văn
chương và kịch nghệ của các đại
học lớn như Sài Gòn, Huế, Vạn Hạnh, Đà
Lạt cho đến năm 1975.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 091
BS. HỒ VĂN CHÂM * CỘNG ĐỒNG
Vấn Đề Kết Hợp Cộng Đồng
Từ một vài năm trở
lại đây, vấn đề kết hợp cộng đồng rất được nhiều vị lãnh đạo các tổ chức chính
trị, tôn giáo, xã hội, văn hóa ở hải ngoại đặc biệt quan tâm. Năm ngoái, ở
California và ở Quận Columbia, Hoa kỳ, đã có những nỗ lực tích cực để tiến tới
việc kết hợp một số tổ chức cộng đồng Bắc Mỹ, Tây Âu và Úc châu. Kết quả buổi
đầu có vẻ khích lệ. Năm nay, ở Toronto, Canada, đang tiến hành giai đoạn chuẩn
bị vận động thành lập Mặt Trận Dân Chủ kết hợp các phong trào đấu tranh dân chủ
Hải ngoại-Quốc nội. Khí thế đang lên, và công việc được tiến hành với niềm tin
mạnh mẽ.
Các hoạt động trên
đây là những tín hiệu đáng mừng để chấm dứt một tình trạng rất phổ biến hiện
nay là tình trạng phân hóa và đa tạp của các cộng đồng Việt Nam hải ngoại.
Những người có lòng với quê hương, với dân tộc, ai không mong mõi người người
đoàn kết, nhà nhà đoàn kết, để các cộng đồng hải ngoại có thể kết hợp thành một
tổ chức thuần nhất, có lãnh đạo tập trung, có thực lực cụ thể và có mục tiêu rõ
ràng.
Bài này là những ý
kiến đóng góp vào việc thực hiện niềm mong ước nói trên.
Vấn đề kết hợp cộng
đồng bao hàm hai ý niệm, ý niệm đoàn kết và ý niệm hợp nhất. Hai ý niệm này
không phải là hai yếu tố riêng rẽ, nhưng là hai thành phần cấu tạo pha trộn
nhuần nhuyễn với nhau của một khối thành phẩm duy nhất. Muốn hợp nhất các cộng
đồng thì các thành viên cộng đồng phải đoàn kết với nhau, nhiên hậu các cộng
đồng mới có thể kết hợp thành một tổ chức thuần nhất có thực lực, có lãnh đạo
và có mục tiêu hành động cụ thể.
Từ nửa thế kỷ nay,
người ta nói quá nhiều đến vấn đề đoàn kết. Trước tiên, ông Bảo Đại đã đề cập
đến vấn đề này trong chiếu thoái vị tháng 9 năm 1945: "Đoàn kết là sống,
chia rẽ là chết". Sau đó, Mặt Trận Việt Minh, rồi Mặt Trận Liên Việt luôn
luôn kêu gọi đoàn kết và gán câu nói trên cho ông Hồ Chí Minh. Bản thân ông Hồ
Chí Minh cũng đưa ra khẩu hiệu: "Đoàn kết, Đoàn kết, Đại đoàn kết; Thành
công, Thành công, Đại thành công". Mọi người đều kêu gọi đoàn kết, nhưng ngoài
miệng thì cùng nói đoàn kết mà trong bụng thì mỗi người nghĩ về đoàn kết một
cách khác nhau. Ông Bảo Đại nói đoàn kết để che đậy sự khiếp nhược không dám
đương đầu với Việt Minh. Ông Bảo Đại khoác áo đoàn kết lên người để che đậy sự
đầu hàng dễ dàng và nhục nhã trước một đối phương lúc bấy giờ không có thực lực
đáng kể, trong khi bản thân ông chỉ vì hèn nhát, vì chây lười quen thân, nên
ngại khó ngại khổ mà từ chối vận dụng cả một khối người thạo việc và cả một kho
vũ khí tối tân người ta mang đến dâng hiến tận tầm tay. Ông Hồ Chí Minh nói
đoàn kết để bắt mọi người phải tuyệt đối nghe theo lời ông, làm theo lệnh ông,
dù cho lời nói và việc làm của ông có nhiều khi đi ngược lại quyền lợi của quốc
gia, của dân tộc. Ông Hồ Chí Minh ký Hiệp Ðịnh sơ bộ 6-3-1946 để cho thực dân Pháp mang quân
vào chiếm đóng các thị trấn quan yếu ở phía bắc vĩ tuyến 16, có ai vì yêu nước
chống thực dân mà lên tiếng phản đối là bị lên án thiếu đoàn kết. Ông Hồ Chí
Minh cho bày ra vụ Ôn Như Hầu, gây chia rẽ quốc cộng, đem Vệ Quốc Quân và Công
An Nhân Dân tiêu diệt các đảng phái chính trị, ám sát các lãnh tụ tôn giáo,
chụp mũ những ai bất đồng chính kiến là thiếu đoàn kết, là phản động, để củng
cố độc quyền lãnh đạo, để thực
hiện
chuyên chính vô sản.
Phức tạp như vậy thì
chúng ta phải hiểu thế nào là đoàn kết? Làm thế nào để có được đoàn kết và thực
hiện sự kết hợp các cộng đồng?
Muốn nắm vững vấn đề
đoàn kết, trước hết chúng ta phải phân biệt bản chất với hiện trạng. Bản chất
của đoàn kết nằm trong chữ kết, có nghĩa là đan, là bện lại với nhau, là gắn,
là dính liền với nhau. Còn hiện trạng của đoàn kết ở nơi chữ đoàn, bao hàm ý
niệm về lượng, về số đông, số nhiều, càng đông càng nhiều thì càng to càng lớn,
càng mạnh càng vững. Thông thường thì trị số tuyệt đối của bản chất và hiện
trạng biến đổi ngược chiều với nhau. Tổ chức càng đông người thì sự liên hệ
giữa các thành viên càng lỏng lẻo. Tổ chức càng ít người thì sự cố kết giữa các
thành viên càng thắt chặt, càng gắn bó. Tất nhiên là vẫn có những truờng hợp
đặc biệt. Tổ chức tuy đông, địa bàn tuy rộng, nhưng nội bộ vẫn đoàn kết, muôn
lòng như một, nhờ vào kỹ luật nghiêm minh, lý tưởng cao đẹp, mục tiêu rõ ràng,
lãnh đạo tập trung, thành viên năng nỗ và hết mình vì nghĩa vụ, không vì quyền
lợi riêng tư mà xem nhẹ công việc chung của tổ chức, của cộng đồng.
Đây mới chỉ là sự
đoàn kết nội bộ của từng cộng đồng. Đến như sự kết hợp các cộng đồng lại với
nhau thì cần phải có một sự đoàn kết ở mức độ lớn hơn, cao hơn, giữa các cộng
đồng, nhiên hậu mới có khả năng hợp nhất các cộng đồng thành một tổ chức duy
nhất. Thực hiện đoàn kết giữa các thành viên của một cộng đồng đã là khó, đương
nhiên việc thực hiện đoàn kết giữa các cộng đồng với nhau để đi đến việc hợp
nhất các cộng đồng và duy trì sự hợp nhất đó là cả một vấn đề phức tạp và khó
khăn, cần đến uy tín, đức độ và khả năng của người chủ xướng và nhất là tùy
thuộc vào tính cách hữu hiệu và khả thi của phương thức thực hiện.
Các vị lãnh đạo tinh
thần chủ trương độc tôn và các nhà chính trị chủ trương chuyên chính thì thực
hiện việc kết hợp cộng đồng bằng phương thức hội nhập. Các cộng đồng thành viên
được phân tích tỉ mỉ về mọi mặt, được đánh giá thận trọng để sắp hạng, được gạn
lọc kỹ lưỡng để loại bỏ những thành phần xét không thể kết hợp, sau đó các cộng
đồng tuyển chọn được phân biệt cộng đồng nào là thành phần chính và những cộng
đồng nào là những thành phần phụ. Và đây là cốt lõi của phương thức hội nhập : tất
cả những thành phần phụ phải sát nhập vào thành phần chính, tan biến vào thành
phần chính, xóa bỏ bản sắc riêng để đồng hóa với thành phần chính và cuối cùng
trở thành thành phần chính. Nếu không thể hoặc không muốn hội nhập thì phải bị
tiêu diệt.
Đấy là phương thức
kết hợp theo kiểu Việt Minh, theo kiểu Liên Việt. Những năm đầu của thập niên
40, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh) ra đời, kêu gọi mọi người đoàn
kết.Vì nhu cầu chống thực dân Pháp đang mưu toan trở lại đô hộ Việt Nam, chính
phủ liên hiệp quốc cộng đã được thành lập vào đầu năm 1946. Chính thể liên hiệp
quốc cộng lúc bấy giờ mang màu sắc đại đoàn kết dân tộc, với một quốc hội có 40
ghế nhường sẵn (không cần phải bầu cử) cho các chính đảng không cộng sản, và
một chính phủ, ngoài các thành phần cộng sản, còn bao gồm các thành phần nhân
sĩ không đảng phái như cụ Huỳnh Thúc Kháng, các thành phần thân Trung Quốc như
Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (Việt Cách) của cụ Nguyễn Hải Thần, và các
thành phần đảng phái chính trị cách mạng khuynh hướng quốc gia cực đoan Quốc
Dân Đảng (Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng, và Đại Việt Dân Chính
Đảng). Các thành phần không cộng sản tham gia chính thể liên hiệp chỉ vì nhu
cầu đoàn kết dân tộc để chống thực dân, trong lúc thâm ý của ông Hồ Chí Minh là
muốn tạo cho chế độ một bộ mặt quốc gia dân chủ để che đậy bản chất cộng sản đệ
tam quốc tế của chính quyền Việt Minh lúc bấy giờ
đang bị phe Đồng Minh nghi kỵ. Trong việc kết
hợp cộng đồng quốc cộng lần này, ông Hồ Chí Minh vẫn chủ trương áp dụng phương
thức hội nhập, với toan tính cố hữu là cộng sản là thành phần chính, các cá
nhân độc lập và các đảng phái chính trị không cộng sản là các thành phần phụ,
các thành phần phụ này phải phục vụ các mục tiêu của phe cộng sản để rồi trở
thành cộng sản, nếu không thì phải bị tiêu diệt. Bởi nguyên lý bất di bất dịch
đó mà cụ Huỳnh Thúc Kháng trọn đời là cái bung xung cho ông Hồ Chí Minh lợi
dụng. Cũng bởi cái nguyên lý bất di bất dịch đó mà sau khi ông Nguyễn Tường Tam
không chịu phó thự Hiệp Định sơ bộ 6-3-1946 thì Công An Nhân Dân đã ngụy tạo vụ
Ôn Như Hầu để chính quyền Việt Minh lấy cớ đem quân đội và công an tiêu diệt toàn
bộ lực lượng Quốc Dân Đảng.
Một thí dụ điển hình
khác của việc kết hợp cộng đồng bằng phuơng thức hội nhập là trường hợp Mặt
Trận Liên Việt. Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp thực dân,
chính quyền cộng sản đã dàn dựng nên Mặt Trận Liên Việt để kết hợp các thành
phần tôn giáo, địa chủ, phú nông, trí thức, văn ngệ sĩ v.v. Nếu năm 1946, đối
tượng kết hợp cộng đồng là các lực lượng chính trị thì việc kết hợp cộng đồng
lần này nhằm vào các đối tượng tôn giáo và các giai cấp xã hội không cộng sản
để huy động các nguồn nhân tài vật lực phục vụ kháng chiến chống Pháp và thực
hiện chủ nghĩa xã hội. Luôn luôn cái chính vẫn là chủ nghĩa cộng sản, luôn luôn
cái chính vẫn là giai cấp vô sản, nhưng những người chủ xướng việc kết hợp đã
khôn khéo đề cao tinh thần yêu nước và tình tự dân tộc để mưu toan lôi kéo các
cộng đồng tôn giáo và các giai tầng xã hội phi vô sản đi theo con đường
"đầu hàng giai cấp" do Bác và Đảng vạch ra. Cộng sản đề cao Nguyễn
Tri Phương, Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám,
Trương Định; và cộng sản đã có được những tổ chức Phật Giáo yêu nước, Công Giáo
yêu nước, Hòa Hảo yêu nước, Cao Đài yêu nước; cộng sản đã lập được những đảng
chính trị như đảng Xã Hội, như đảng Dân Chủ với các lãnh tụ chính trị salon như
Nghiêm Xuân Yêm, như Nguyễn Xiễn; cộng sản đã sử dụng được tài năng chuyên môn
của những trí thức hoạt đầu như Phan Anh, vô tâm như Tôn Thất Tùng, thật thà
như Trần Đại Nghĩa; cộng sản đã khai thác đất đai và tiêu xài tiền bạc của biết
bao nhiêu người hằng tâm hằng sản trong giai cấp địa chủ, phú nông như bà Cát
Hanh Long; cộng sản đã vận dụng được cả một đội ngũ văn nghệ sĩ gia nô rất mực
trung thành như Hoài Thanh, như Chế Lan Viên, như Lưu Trọng Lư, như Nguyễn Đình
Thi, trung thành tuyệt đối đến độ phủ nhận cả các đứa con tinh thần dày công
mang nặng đẻ đau của mình trước khi Đảng rọi cho ánh sáng để đổi đời. Vậy thì,
rõ ràng là những cái phụ phải tự xóa bỏ bản sắc để hội nhập vào cái chính, tan
biến vào cái chính, trở thành cái chính, và nếu không thể hoặc không muốn trở
thành cái chính thì phải bị tiêu diệt. Bởi thế, đã có biết bao nhiêu tu sĩ Phật
Giáo, linh mục Công Giáo, mục sư Tin Lành, phải chịu cảnh quản thúc. Bởi thế,
Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ phải bị mất tích để chỗ lại cho Mười Trí tung hoành. Bởi
thế, bà Cát Hanh Long bản chất địa chủ không thể từ bỏ được bản chất địa chủ,
không thể đầu hàng giai cấp, thì bản thân vốn là cát bụi, Đảng cho về với cát
bụi. Bởi thế, Hoàng Thọ, Nguyễn Bình, cho dù đánh trận có giỏi, chỉ huy có hay,
nhưng bản chất tiểu tư sản, cá nhân chủ nghĩa, không thể cải hóa thành vô sản
chân chính, nên phải bị tiêu diệt, bằng cách này hay cách khác, người thì bị
chụp mũ phản động, ra tòa lãnh án tử hình, người thì bị thảm sát bởi thủ đoạn
hiểm độc mượn tay quân biệt kích đối phương. Bởi thế, nhóm Nhân Văn Giai Phẩm
nhân vì trăm hoa đua nở mà bị tơi bời hoa lá, Phan Khôi bị đả kích, Nguyễn
Tuân, Nguyễn Mạnh Tường bị kiểm điểm, Hữu Loan, Trần Dần, Phùng Quán, bị án lao
động cải tạo trên miền than Đông Bắc. Diễn biến của quá trình kết hợp theo
phương thức hội nhập của Mặt Trận Liên Việt kéo dài xuyên qua chín năm kháng
chiến và tiếp tục tác động trong các cơ chế hậu thân là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng
Miền Nam trước
đây và Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam hiện giờ.
Nhưng việc kết hợp
theo phương thức hội nhập với những hệ quả tàn độc cũng chẳng phải là hành động
của riêng gì ông Hồ Chí Minh và tập đoàn cộng sản Việt Nam. Ở ngay
nước Trung Hoa láng giềng của chúng ta cũng như trong lịch sử Việt Nam kim cổ vẫn
nhan nhãn những trường hợp tương tự, một khi người ta thực hiện kết hợp cộng
đồng nhưng lại chủ trương chính trị chuyên chế. Lấy ngay thí dụ của Quốc Dân
Đảng Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1949, khi bị Mao Trạch Đông đuổi chạy ra Đài Loan,
Tưởng Giới Thạch kêu gọi toàn dân đại đoàn kết. Chúng ta cũng cần lưu ý là tình
hình chính trị của Trung Hoa Dân Quốc khi chân ướt chân ráo ra tới Đài Loan y
hệt như tình hình chính trị của Việt Nam Cộng Hòa những năm đầu thập niên 70,
nghĩa là rối loạn và phân hóa cùng cực. Tưởng Giới Thạch triệu tập quốc dân đại
hội để bàn chuyện thực hiện đại đoàn kết dân tộc, nhưng thay vì thành tâm bàn
chuyện kết hợp, lại sai bộ hạ thân tín là Đại Tá Bành Mạnh Tập ngầm bố trí sẵn
quân sát thủ, để khi các đại biểu thuộc mọi khuynh hướng chính trị, tôn giáo,
văn hoá, xã hội, xưa nay vẫn có thái độ chống đối họ Tưởng, vừa an tọa là bị
súng liên thanh bắn chết không còn sót một mống. Tưởng Giới Thạch không chấp
nhận bất kỳ chính kiến nào đi ra ngoài khuôn khổ Chủ nghĩa Tam Dân; Tưởng Giới
Thạch không dung dưỡng bất kỳ chính khách nào không chịu tuyệt đối và mù quáng
tuân thủ mệnh lệnh lãnh tụ. Như vậy, kết hợp cộng đồng theo kiểu Quốc Dân Đảng
Trung Hoa Dân Quốc năm 1949 phải được hiểu là những thành phần phụ phải hội
nhập trọn vẹn vào thành phần chính, tan biến vào thành phần chính, trở thành
thành phần chính là Quốc Dân Đảng Trung Hoa Dân Quốc dưới sự lãnh đạo độc tôn
của họ Tưởng, nếu không thì phải bị tiêu diệt trọn vẹn. Sau vụ tàn sát tập thể
các thành phần đối lập, Bành Mạnh Tập được thăng cấp tướng và được đưa đi làm Đại Sứ Trung Hoa Dân Quốc tại Thái Lan.
Trong tình
trạng hiện nay của các cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại, liệu chúng ta có
thể thực hiện việc kết hợp theo phương thức hội nhập như thế được không? Chắc
chắn là không. Vậy có còn phương thức kết hợp nào khác để cho chúng ta lựa
chọn? Và chúng ta phải đứng trên bình diện nào để phân tích bản chất các cộng
đồng, và từ góc cạnh nào để quan sát
hoạt động và lượng định tầm vóc các cộng đồng ngõ hầu hoạch định kế sách thực
hiện vấn đề kết hợp? Nói khác đi, chúng ta phải làm gì để kết hợp các cộng đồng
và duy trì sự kết hợp đó ?
Không ai có thể phủ nhận một
chuyện hiển nhiên là việc kết hợp thực sự và bền chặt các cá nhân, các tổ chức,
các thành phần, các hiệp hội, các hệ phái chính trị, các đoàn thể cộng đồng
..., đương nhiên phải được hiểu như là một sự hội nhập trọn vẹn, một sự tan
biến toàn diện của những cái phụ vào cái chính, hay nói một cách khác, là một
sự kiêm tính đôi lúc có thể có tính chất tương đối của cái chính đối với những
cái phụ, để tất cả hòa đồng thành một thực thể duy nhất mang sắc thái của cái
chính, hay có sắc thái mới riêng biệt không giống sắc thái của bất kỳ thành
viên nào. Sự hội nhập đó không nhất thiết phải bị cưỡng bức bằng bạo lực
mà ngược lại vẫn có thể thực hiện tự nguyện. Và đặc biệt là những thành phần
không muốn hội nhập hay không thể hội nhập vẫn có thể được dung dưỡng tồn tại. Những
Bá Di, Thúc Tề không chịu ăn lúa của nhà Chu vẫn có điều kiện lên núi Thú Dương
tìm rau vi ăn mà sống. Tuy nhiên, một khi đã tự nguyện kết hợp thì những thành
phần phụ không thể nào cứ giữ bản sắc riêng, cơ cấu riêng, sinh họat riêng,
truyền thống riêng, vì sự kiện này sẽ đưa đến hệ quả tất yếu là làm cho bản
chất của thành phẩm kết hợp trở thành một thứ lổn nhổn, không thể kết dính,
không thể thuần nhất, không thể vững bền. Lại nữa, vì không thể áp đặt độc tôn,
vì không thể chủ trương chuyên chính, vì không thể sử dụng bạo lực để củng
cố và duy trì sự kết
hợp, nên muốn cho tổ chức
được chặt chẻ,
hành động được nhất quán, mệnh lệnh được tuân hành, nhóm chủ xướng, và đặc biệt
là người lãnh đạo, phải là những người năng nỗ và có thực tài, phải có uy tín
và đức độ, để cho mọi người tâm phục. Ngoài ra, mọi người trong tổ chức kết
hợp, bất kỳ xuất thân từ nguồn gốc nào, không phân biệt nguyên thủy là từ tổ
chức thuộc thành phần phụ, hay xưa nay vốn thuộc thành phần chính gốc, tất cả
đều phải có thiện tâm thiện chí, hết mình vì nghĩa cả, quên quyền lợi riêng tư
để mà chỉ biết có công việc chung. Sau cùng, tổ chức kết hợp phải có chương
trình hành động cụ thể và khả thi, có mục tiêu đấu tranh rõ ràng và thực tế, có
tinh thần phục vụ kiêm ái và vị tha, có tính chất tác động quảng bá và đại
chúng, có lý tưởng phụng sự cao cả, chính đại và quang minh, không theo đuôi
ngoại bang, không phục vụ cho quyền lợi của người ngoài, mà chỉ một lòng một dạ
vì dân tộc, vì đất nước, vì Tổ Quốc Việt Nam.
Trên đây là đại lược những điều
kiện tối thiết để thực hiện việc kết hợp các cộng đồng thành một tổ chức thuần
nhất, gắn bó chặt chẻ và tồn tại lâu dài, không bằng phương thức ép buộc, không
bằng thủ đoạn bá đạo, không sử dụng phương tiện bạo lực. Trên cơ sở đó, xét đến hiện tình các cộng đồng hải ngoại
Việt Nam đang hoạt động công khai hoặc bán chính thức, một vấn đề khác vô cùng
quan yếu lại nẩy sinh, đấy là làm thế nào để lượng giá các cộng đồng, phân loại
thành cái chính và những cái phụ, để tuyển chọn làm trung tâm hấp lực, thu hút
các cộng đồng khác hội nhập vào để trở thành một tổ chức duy nhất. Thật là hiếm
thấy những cộng đồng có thực lực, có tổ chức, tự bản thân có đủ hấp lực để thu
hút các cộng đồng khác hội nhập vào mình. Hơn nữa, với con số hàng trăm hội
đoàn và tổ chức đang hoạt động hiện nay rải rác khắp năm châu bốn biển, có cộng
đồng nào tự giác chịu lép vai lép vế, tự nguyện nhường ngôi nhường vị cho cộng
đồng khác đâu? Đó là chưa kể đến tệ trạng chia rẽ và kèn cựa bên trong từng tổ
chức, từng hội đoàn, từng hệ phái, và hiện tượng thiếu đoàn kết, bất hợp tác,
giữa các cộng đồng với nhau.
Vì vậy, trong nhất thời, chưa thể
nào nói đến chuyện thực sự kết hợp các cộng đồng thành những tổ chức thuần
nhất, nói chi đến việc kết hợp thành một tổ chức duy nhất. Như đã trình bày ở
phần vào đề, trước khi hợp nhất thì phải có đoàn kết, đoàn kết trong nội bộ
từng tổ chức, và đoàn kết và hợp tác giữa các cộng đồng. Đoàn kết là điều kiện
tiên quyết cơ bản của vấn đề kết hợp cộng đồng. Thêm vào đó là yếu tố thời
gian. Hãy để cho thời gian làm sáng tỏ mục tiêu chung. Hãy để cho thời gian
quét sạch bụi mù, vén cao chân mây cho mọi người nhìn thấy chính nghĩa, nhiên hậu
tìm ra mẫu số chung làm động cơ cho nhu cầu kết hợp. Và cũng vô cùng thực tế là
hãy để cho thời gian thực hiện sự sàng lọc. Các tổ chức tôn giáo, các tổ chức
chính trị, các tổ chức văn hóa, các tổ chức xã hội..., tự mình hãy lo kiện toàn
tổ chức, thanh lọc hàng ngũ, cải tiến lề lối làm việc, nghĩ đến công việc chung
mà dẹp bỏ quyền lợi riêng tư của bản thân, của phe nhóm, đừng quá chú tâm
vào cái tôi và cái chúng tôi mà xem nhẹ cái chúng ta, để làm
sáng tỏ đường lối hành động, mục tiêu đấu tranh, lý tưởng hoài bão. Thứ đến là
hãy chấm dứt ngay việc công kích nhau, khuynh loát nhau, thậm chí bôi bẩn nhau.
Nếu quan điểm có bất đồng thì hãy lịch sự phê phán, bình tĩnh tranh luận, để
làm sáng tỏ chân lý. Hãy kính trọng lẫn nhau. Các cộng đồng hải ngoại, xin đừng
có ai ngậm máu phun người. Ngậm máu phun người thì miệng mình bị hoen ố trước,
mặt mình bị lem luốc trước. Sau cùng là hãy thiết lập một mối quan hệ thân hữu
thường xuyên giữa các cộng đồng, để trao đổi quan điểm với nhau, học tập kinh
nghiệm lẫn nhau, để rồi dần dà cùng nhau tìm ra cái mẫu số chung cho động cơ
hoạt động của đại khối cộng đồng.
Những cá nhân lem nhem, những tổ
chức bê bối, dần dà sẽ bị đào thải. Những cá nhân năng nỗ, đức độ và có thực
tài, những tổ chức đứng đắn, có uy tín, có thực lực, có hậu thuẫn, sẽ có cơ hội nổi
bật. Đến lúc đó, quần chúng các cộng đồng hải ngoại sẽ có cơ sở để phân biệt cái
chính và những cái phụ. Đương nhiên, cái chính sẽ thu hút những cái phụ, những
cái phụ sẽ tự nguyện tự giác hội nhập vào cái chính. Sự đoàn kết của các cộng
đồng Việt Nam
ở hải ngoại sẽ được thực hiện. Sự kết hợp của các cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại
thành một tổ chức duy nhất có chung một màu cờ, một sắc áo sẽ được hình thành.
Ottawa, tháng bảy, 1996
Minh
Vũ Hồ Văn Châm
KHUC THỤY DU * ĐAI BÀNG LỬA
Đại Bàng Lữa
Khúc Thụy Du
Nó
rời khỏi con suối trời đã về chiều. Nắng hanh hao như lưỡi
dao bào mòn da thịt. Nội nó, lão già đã bước qua cái tuổi cổ
lai hy, đang đi đi lại lại trước căn lều trống hoác, cử chỉ
bồn chồn lo lắng không yên. Ngày võ vàng như người mắc chứng
sốt kinh niên. Những tia nắng cuối cùng đang vắt kiệt những
giọt máu tím bầm trên cánh đồng chó ngáp. Ông già bập bập
chiếc tẩu, những sợi khói trắng le lói thoát ra từ cái miệng
móm xọm. Lão chống nạnh thở dài. Đôi mắt mờ đục hướng về
phía con đường bụi cuốn mịt mù. Vẫn không thấy bóng dáng
thằng Bờ đâu. Chắc là thằng nhỏ mải mê rượt đuổi lũ chim
trời. Cái tật thích cà rà nói hoài vẫn không chịu sửa. Chốc
nữa về nhà, ông phải xạc cu cậu một trận nên thân. Nội già
khó tánh quá! Mọi người trên thảo nguyên nói nội là già gừng
già quế chẳng sai chút nào. Mỗi lần ông mở miệng càm ràm
là nó vọt miệng nói ngay câu thuộc nằm lòng rồi há miệng
cười hết cỡ để lộ mấy cái răng sún. Đúng là người giàt nhưng
nếu so với tính khí thích gây sự của lão Trời già, lão còn
kém xa. Lão hay trở chứng thất thường. Liên tiếp mấy năm, lão
hào phóng ban phát nắng nôi lại dè sẻn từng giọt nước. Thời
tiết khắc nghiệt khiến cỏ cây cháy trụi và ao suối, sông hồ
lần lượt rủ nhau qua đời.
Hút hết phần thuốc lá trong tẩu, lão ho ran mấy tiếng. Mọi khi hai ông cháu cùng đi lấy nước nhưng sáng nay lão thấy người không được khỏe đành phải ở nhà, để đứa cháu mới hơn mười tuổi đầu tự xoay xở một mình. Đường xa trắc trở, lão không yên tâm chút nào. Cái chân đáng ghét của lão đáng lẽ không nên ăn vạ vào lúc này mới phải. Một chấm nhỏ từ phía nam đang di chuyển về hướng căn lều của lão. Qua lớp bụi bặm dăng dăng như sương mù tháng chạp, lão kịp nhận ra cái chấm nhỏ ấy là thằng Bờ. - Sao về trễ vậy? Cháu không gặp chuyện gì đó chớ? – Ông già chanh chân chạy ra đón lấy bình nước trên tay thằng cháu đích tôn. Thằng Bờ chẳng thèm trả lời chỉ khẽ gật đầu rồi xây mặt nhìn về phía mặt trời đang lặn dần ở phía tây. Gương mặt nó đỏ gay, mồ hôi dầm dề như vừa bơi trong bể rượu. Ông già uống vài ngụm nước rồi nheo mắt nhìn nó săm soi như báu vật: - Cháu khiến ông lo đứng lo ngồi, chắc la cà đâu đó rồi. Nó nung nẩy cái mặt đen nhẻm. Cặp môi mỏng dánh cong lên tỏ vẻ không bằng lòng. Nói xong, ông già biết mình bị hớ. Thảo nguyên bao la vừa hoàn tất thủ tục khai tử chỉ còn lại hai ông cháu mà thôi. - Lặn lội cả buổi chắc mệt lắm rồi. Cháu vô nằm nghỉ một chốc. Ông sửa soạn bữa tối đây. Ông già quày quã bước vào bên trong. Chân tay rã rời nhưng nó chẳng buồn đi nằm. Nó ngước mắt nhìn trời rồi thở dài thườn thượt. Gương mặt rúm ró như ông cụ non. Nắng hạn kéo dài, thảo nguyên xanh rờn tràn trề sức sống bỗng hóa thành hoang mạc thê lương. Mặt trời đã lặn chỉ còn lại vầng đỏ thở thoi thóp. Nếu Ngày chết đi thế gian chỉ còn lại Đêm, lúc ấy con người chẳng phải làm bất cứ việc gì ngoài chuyện ngủ. Có lẽ như thế sẽ tốt hơn...Bất chợt con trốt hình khu ốc như con quái vật hung hăng chụp xuống người nó, những ý nghĩ buồn rầu bị cuốn trôi tơi tả. Nó đưa tay che mắt. Cát bụi quất vào người nó đau rát như hàng vạn mũi kim châm. Trời tối rất mau. Trong lều, nội nó đang loay hoay nhúm bếp. Củi khô mau bắt lửa. Ông già rút bớt củi trong lò, đứng nhón chân lấy xâu thịt dê phơi khô treo tòn ten trên giàn bếp đặt vào chiếc vỉ kẽm và bắt đầu nướng. Ánh lửa chập chờn như ma trơi. Lão lào phào câu thơ một thời hoài niệm:” Đốt than nướng cá cho vàng/ Đem tiền mua rượu cho chàng uống chơi.” - Cũng là món thịt dê dai nhách nữa hả ông? – Nó cất giọng buồn rầu. Ông già đặt miếng thịt dê lên đĩa rồi đẩy về phía nó. Nó nén tiếng thở dài, mắt nhìn trân trân lên cái bóng đổ liu xiu lên phên vách. - Dùng đỡ đi cháu. – Ông già xé miếng thịt dê cho vô miệng nhai trệu trạo. Hàm răng hai chiếc xộc xệch không nghiến đứt miếng thịt dê già:- Đợi mưa xuống ông cháu ta ra suối bắt cá, lúc ấy tha hồ chế biến món chiên, món um, ăn đi, ông thương. - Ông Trời đã quên thảo nguyên này rồi. Đây là thịt của con Đại Tướng phải không, ông? – Giọng nó rè rè, ứ nước. Nếu là con Đại tướng nhất định thằng nhỏ sẽ không ăn, ông buộc lòng nói dối: - Không phải! Con Mỹ Lệ Tuyền! Con Đại Tướng, chúng ta chưa dùng tới. Trong đàn dê hàng trăm con, nó thích nhất con Đại Tướng. Đó là vị nguyên soái oai phong lẫm liệt nhất thảo nguyên. Tất cả những con dê đực đầu đàn nhà khác đều cúi đầu quy phục và các ả dê cái cứ xúm xít bên Đại Tướng để xin chút tình ban phát. Vị chúa tể bình nguyên bao la dũng mãnh vô địch và cũng háo sắc vô địch, nó chẳng bỏ sót nàng dê cái xinh xẻo nào. Tuy nhiên Mỹ Lệ Tuyền mới thật sự là hầu thiếp yêu quý nhất. Hạn hán đã giết chết già nửa đàn dê, trong đó có con Đại tướng. Cha nó xẻ thịt những con dê xấu số, phơi khô để ăn dần. Hôm đó, nó khóc hết nước mắt. - Cháu không muốn ăn. - Ăn đi! Để bụng đói cào ruột làm sao ngủ được. Nó thở dài, nét mặt đăm đăm trông già trước tuổi. * Cái nóng nực ban ngày đã cái lạnh giá ban đêm chế ngự. Muỗi mòng kéo đến như trấu ném. Hai ông cháu nằm trên chiếc giường ọp ẹp. Nội nó hút thuốc trong chiếc tẩu. Nó mở mắt thao láo nhìn lên trần nhà. - Chừng nào cha về, hả ông? – Nó đưa tay quạt muỗi bên tai. Tiếng vo ve của chúng gây cho nó cảm giác khó chịu vô cùng. - Nay mai trời đổ mưa tất cả sẽ quay về thôi, cháu đừng sốt ruột. Đừng nghĩ đến chuyện thời tiết mùa màng nữa, ta sẽ thấy thoải mái hơn, cháu à. Làm sao không nghĩ được chứ? – Giọng nó buồn rầu. Để bảo toàn đàn dê, cha nó và những người trong làng phải lùa đàn gia súc đến những nơi có cỏ, có nước. - Biết chừng nào mới có mưa. Ông Trời càng già càng khó tánh hung! - Già hay sanh tật mà, cháu. Ngủ đi. Ông buồn ngủ lắm rồi đây. Về khuya không khí vô cùng dễ chịu. Trăng lên cao dần phả thứ ánh sáng rờn rợn lên thảo nguyên bàng bạc. Nó không thấy buồn ngủ chút nào. - Cháu chưa ngủ à? - Chưa. Ông kể chuyện cổ tích cho cháu nghe đi. - Ông đã kể hết cho cháu rồi còn gì. - Cũ cũng được, buồn quá hà. Chiều ý thằng cháu đích tôn, ông già tằng hắng mấy cái: - Ngày xửa ngày xưa... * Nửa đêm , hai ông cháu bị đánh thức bởi bầy sói. Tiếng sói tru trăng vang lên giữa đêm khuya thanh vắng nghe như tiếng oán than, hờn trách, rờn rợn, thê lương khiến người can đảm nhất cũng rùng mình sởn gáy. Tiếng tru của loài sói trên thảo nguyên có sức mạnh huyền bí, hoang dại vô cùng. Vào những đêm trăng sáng, thỉnh thoảng con Mi Na chăn dắt đàn dê nhà nó sủa cũng trăng nghe rợn người. Nhưng đó là tiếng sủa của loài chó được thuần dưỡng và sủa trong không gian chật hẹp. Còn đây là tiếng tru giữa không gian mênh mông. Trăng càng sáng tiếng tru càng dài, càng chất chứa hoang dã. Ông nó kể rằng ngày xưa các bộ lạc nghe tiếng sói tru trăng là điềm báo hiệu chiến tranh. Vì thế mỗi khi nghe tiếng tru của chúng là họ sẵn sàng vũ khí để giáp chiến. Rồi thây phơi máu đổ. Nó kinh hãi ôm chặt lấy người ông nó. - Đừng sợ cháu. Cháu biết tại sao lũ sói tru trăng không. Bởi vì đôi mắt hung hãn của chúng không chịu được thứ ánh sáng không có sức nóng. Khi ánh sáng lạnh lẽo ấy len vào mắt khiến chúng khó chịu và chỉ muốn Trăng mau khuất đi. Chúng là loài thú độc ác, hoang dã không chịu cuộc sống thanh bình. Ánh trăng lạnh lẽo chỉ kích động ma quỷ và sự chết chóc. Đó là nguyên nhân vào những đêm sáng trăng tất cả những người chăn nuôi gia súc đều không dám ngủ, bởi họ sợ đàn sói sẽ bất ngờ tấn công lều trại của mình.. Nói đoạn, ông già nhỏm dậy vơ lấy khẩu súng săn, bước lom khom ra ngoài. Nước trăng đổ tung tóe bên cửa sổ. Nó nghe tiếng sói tru mỗi lúc càng xa dần rồi ngủ thiếp lúc nào không hay... Cả làng chỉ còn lại người già và trẻ con. Chờ đợi mỏi mòn không có một giọt mưa, người ta lần lượt dắt díu đến nơi khác để lánh nạn. Rốt cuộc chỉ còn lại hai ông cháu. Nó không chịu nổi cảnh cô đơn, buồn thảm. - Tại sao Cha không đưa cháu đi cùng, ở đây buồn chết đi được. - Đi đâu hả cháu? Cha con về không thấy ông cháu mình sẽ nháo nhào tìm kiếm cho xem. Vả lại nơi khác chắc gì đã tốt và an toàn hơn. Cực khổ trăm bề, cháu ạ. Ông đã từng đi xa và đã thấm thía rất nhiều. Cả ngày hai ông cháu ngồi lì trong nhà tránh cái nóng. Thực đơn bữa trưa vẫn là món dê nướng. Ngồi lâu buồn chân, nó chạy vài vòng quanh lều. Bàn chân nó lấm lem bụi cát. Mồ hôi trên người nó tứa ra như tắm. Chua lè. Xế chiều nắng bắt đầu nhạt, hai ông cháu ra suối lấy nước. Những giọt nước rỉ rả mắc chứng bệnh trầm kha từ khe đá. Đứng đợi đến chồn chân mà nước chỉ hơn lưng bình. - Con suối này trước kia có rất nhiều cá, bây giờ chẳng còn con nào. Đêm qua ông có bắn được con sói nào không, cháu ngủ mê chẳng biết trời trăng gì.. Ông già lắc đầu. - Chúng không đọng đến ta, ta cũng không đọng đến chúng. Luật của thảo nguyên cần được tôn trọng. Tuy nhiên phải đợi chúng bỏ đi, ông mới dám lên giường, dù sao cẩn thận vẫn tốt hơn. Thịt ông già dai như giẻ rách, lũ sói chỉ thích thịt trẻ con. Nó uống từng ngụm nước nhỏ. Ông nó dặn, nực nội không nên uống nhiều, càng uống càng khát. Uống xong nó đưa cái bình cho ông nó. Ông già lắc đầu nói không khát. Giữa sa mạc hoang vắng bỗng xuất hiện mấy con chim rất lạ từ hướng tây bay đến, chúng cao gần hai mét, đầu trắng, mỏ dài và sếu, cổ rút. Chúng bay là đà trên đầu hai ông cháu và liên tục phát ra những âm thanh đượm mùi âm khí. - Chim gì kỳ quá vậy cháu mới thấy lần đầu. Ông già cúi xuống nhặt hòn đá ném mạnh về phía mấy con chim đói. - Lũ kên kên đáng ghét này chỉ mong hai ông cháu ta ngã xuống để tha hồ chè chén đây. Cháu đừng sợ chúng chỉ khoái khẩu món thịt ươn. Sói và kên kên đều là nô lệ Thần mặt trời. Chúng trở nên hung ác, dũng mãnh hơn dưới cái nắng chói chang. Thằng Bờ lộ vẻ ngạc nhiên: - Cháu cứ đinh ninh ánh trăng mới khiến lũ sói... - Đó là suy luận hoàn toàn sai lầm đã tồn tại từ vạn năm trước! Thật ra, chúng trở nên yếu đuối và vô hại chính là vào những đêm trăng sáng. Tuy nhiên tiếng tru ghê rợn của chúng khiến con người bị hoảng sợ và phải liên tục cảnh giác. Lũ chim đảo quanh một lúc và tỏ vẻ thất vọng. Rồi chúng bay về phía những rặng đồi trọc nằm ở hướng đông. - Ông thử đoán xem, đêm nay lũ sói có tru trăng nữa không? * Những chuyện cổ tích cũ mèm cứ hâm đi hâm lại riết rồi cũng chán. Ông già buộc lòng sáng tác theo trí tưởng tượng để trốn chạy những lời ỉ eo của đứa cháu yêu. Khổ nỗi trình độ sáng tác của ông già còn thua xa mấy tay nhà văn hạng xoàng. - Thôi ông đừng kể nữa! Ông bịa chuyện chẳng hay chút nào. Cháu có thể kể hay hơn! Ông già cười khà. Thằng Bờ giậm chân làm mình làm mẩy. Ông già gõ gõ tẩu thuốc xuống bàn rồi đưa tay véo một ít thuốc cho vào tẩu. - Vậy thì, ông sẽ kể cho cháu nghe chuyện đại bàng lửa. Đây là chuyện hoàn toàn có thật. Nói đoạn ông già hút vài hơi rồi bắt đầu câu chuyện bằng giọng khàn khàn cố hữu: - Đại bàng lửa là loài chim... Nó ngỏm người dậy. - Đại bàng lửa ư? – Nó tròn xoe cặp mắt, cắt ngang câu nói:- Cháu nghe người ta nói nhiều về loài chim bằng. Đấy là giống chim to và bay đi rất xa. Đại bàng lửa thì chưa nghe ai nói đến bao giờ. Ông đã từng thấy chúng chưa? Ông già lắc đầu. - Ông chỉ nghe cha của ông tức là ông cố của cháu kể lại hồi ông còn nhỏ. Ông cố cũng chỉ nghe từ người khác nói lại mà thôi. Nó phì cười: - Như vậy chỉ là những lời đồn đãi chắc gì có thật. Một cọng lông qua vài cái miệng nhiều chuyện hóa thành cả đàn gà! Ông nó nghiêm mặt. - Đây là việc nghiêm chỉnh đàng hoàng chớ chẳng phải chuyện đùa. Người lớn chẳng bao giờ nói dối với con nít cả. Ông có bao giờ xí gạt cháu đâu. Nó gật đầu: - Nhưng mà...người ta không thể tìm kiếm những gì không có trên thế gian này. Nếu có người đã từng nhìn thấy loài đại bàng lửa ắt hẳn phải tả được hình dạng cũng như thuộc tính của nó... Đúng là ông già chỉ nghe phong thanh nhưng ông tin chuyện đó là có thật. Ngày ông còn bé như thằng Bờ, ông đã nhiều lần nghe cha kể chuyện về giống đại bàng lửa. Đó là loài chim xuất xứ từ Ả Rập, có bộ lông màu lửa cháy và chỉ xuất hiện vào giữa trưa khi mặt trời đứng bóng. Thông tin về loài chim kỳ lạ chỉ có vài dòng ngắn ngủn không thể làm thỏa mãn sự hiếu kỳ của nó. Dẫu sao nó cũng tin vào sự trung thực của người lớn. * Cả tháng dài đăng đẳng bầu trời vẫn nóng ran như chiếc chảo lửa khổng lồ, tuyệt nhiên chẳng có lấy một giọt mưa. Thịt dê phơi khô đã dần cạn, suối nước hầu như đã ngừng chảy. Lũ sói đã mất hết kiên nhẫn đành phải rời khỏi hoang mạc tìm đến vùng đất khác theo bản năng sinh tồn. Tình thế thật sự khó khăn nhưng hai ông cháu lại bận tâm đến chuyện khác. - Ông cháu ta quả là ngớ ngẩn, ăn cơm dưới đất lại nghĩ chuyện trên trời! Thằng Bờ nói chuyện mà đôi mắt vẫn ngước trên cao: - Chắc là chúng ta không có cơ hội nhìn thấy đại bàng lửa rồi, ông ạ, cả tháng rồi còn gì. – Giọng thằng bé lộ vẻ chán nản. - Cầu may thôi chắc gì đã được, có người cả một đời tìm kiếm vẫn hoài công, chỉ những ai có cơ duyên mới mong gặp được. – Và để đứa cháu tiếp tục nuôi hy vọng, cho dù là hy vọng hão huyền. Hy vọng bao giờ cũng tốt hơn tuyệt vọng. Ông già bèn lên dây cót tinh thần đứa cháu yêu: - Ông tin, chúng ta là những người có duyên may. Điều quan trọng phải biết nhẫn nại chờ đợi. Chờ đợi không bao giờ vô ích đâu. - Cháu không bao giờ đánh mất niềm tin, ông ạ. Từ hôm nghe ông kể, cháu nôn nao cả người, không ngờ chuyện thần thoại lại có thật ngoài đời. Đôi khi cháu nhìn thấy đại bàng lửa trong giấc mơ. Kỳ lắm ông à, cháu thấy mình cỡi trên lưng con đại bàng lửa và bay đi thật xa. Cháu còn nghe tiếng gió ù ù bên tai. Thích lắm! Bộ lông màu lửa của nó mới tuyệt làm sao! Ông có nằm mơ như cháu không? Ông già gật bừa: - Cũng như cháu, ông từng nhìn thấy, tuy nhiên ông không ngồi trên lưng nó, mà chỉ ngó thấp thoáng từ xa thôi. Bộ lông lửa của nó có làm cháu nóng không? Nó reo lên thích thú: - Không! Vậy là ông không may mắn như cháu rồi! – Giọng nó hãnh diện pha lẫn tiếc rẻ:- Phải chi đó không phải là giấc mơ mà là sự thật thì hay biết mấy, ông nhỉ. - Tất nhiên! Giấc mơ thành hiện thực thì cuộc đời này tốt đẹp biết bao. - Cháu đã đọc rất nhiều sách về loài vật và cũng đã từng đi thăm vườn thú ở thành phố vào mùa hè năm ngoái nhưng chưa bao giờ được nhìn thấy hay nghe ai nói về giống đại bàng lửa, ngoài ông ra. Cha cháu chưa bao giờ nhắc đến chuyện này. - Ông không nói làm sao cha cháu biết được! Vũ trụ bao la và huyền bí vô cùng mà những kiếp sống nhỏ nhoi như chúng ta không tài nào khám phá được hết. Loài chim ấy thật kỳ diệu. Giá như trước lúc nhắm mắt xuông được nhìn thấy chim thần ấy thì chẳng có gì phải tiếc nuối. - Ông lại nói gở rồi, ông phải sống để chăn dê với cháu chứ. – Thằng Bờ đột ngột chuyển hướng câu chuyện:- Cháu nhớ đàn dê quá ông à. - Rõ khỉ! Cha mẹ không nhớ lại nhớ đến mấy con dê bẩn thỉu. * Thoạt đầu, ông già khơi chuyện đại bàng lửa với mong muốn thằng cháu đích tôn đỡ buồn. Sa mạc hoang phế đang cướp dần sự sống từng ngày, để chạy trốn hiện thực khắc nghiệt đôi khi con người phải huyễn hoặc bản thân, và không biết từ lúc nào ông bỗng trở thành diễn viên chính trong kịch bản do mình dàn dựng. Trong những ngày dài mòn mỏi chờ đợi cơn mưa bố thí, hai ông cháu chỉ biết ngẩng mặt nhìn trời và thầm van vái phép lạ xuất hiện. Ông già hoàn toàn không hy vọng sự xuất hiện của đại bàng lửa, bởi từ xưa tới nay chưa ai có diễm phúc tạn mắt giống chim kỳ lạ đó, tuy ngoài miệng ông lại nói khác đi để tiếp tục duy trì ngọn lửa niềm tin le lói trong đầu thằng cháu thân yêu. Thằng Bờ vừa nhai thịt dê vừa tía lia về vận may số phận. Nó chắc chắn một ngày nào đó không xa đại bàng lửa sẽ xuất hiện và đưa nó, ông nội đi khắp sơn cùng thủy tận. Chưa bao giờ món thịt dê nướng ngon như lúc này. * Ông già chưa có diễm phúc nhìn thấy đại bàng lửa đã bị thời tiết khắc nghiệt quật ngã, ban đầu là những cơn sốt nhẹ vào buổi chiều chừng nửa giờ thì khỏi, dần dần những cơn sốt xuất hiện nhiều hơn, thời gian cũng lâu hơn và cũng vì thế bệnh tình của ông nó ngày càng trở nên trầm trọng. Thứ thịt dê dai như cao su, ông nó nuốt không trôi. Trong nhà không còn hột gạo nấu cháo. Nó chạy vòng quanh làng hy vọng tìm được người giúp đỡ. Vô ích. Mọi người chỉ trở về khi cơn mưa đầu mùa trải thảm trên sa mạc khô cằn. Sáng nay ông già nằm mê man bất động, hơi thở đi qua cổ họng khò khè. Nó đi lấy nước từ sớm. Nội bị sốt cao cần uống nhiều nước. Nó về đến nhà thì mặt trời đã lên cao. Hôm nay nắng gay gắt hơn mọi ngày. - Ông ngồi dậy uống miếng nước cho đỡ khát. Ông có đói không để cháu đi nướng thịt dê, ông nhá. - Ông không thấy đói. Nướng đủ phần cháu được rồi. - Ông không ăn thì cháu cũng nhịn luôn! – Nó làm mặt giận. - Vậy thì cháu nướng cho ông bằng một nửa ngày thường thôi. Nó xăng xái xuống bếp nướng thịt. Trước khi đưa cho ông nội, nó cẩn thận lấy muỗng cạo sạch chỗ bị cháy. Ông già ngỏm đầu dậy, hết nhìn dĩa thịt rồi quay sang nhìn nó: - Đảm đang lắm! Cháu đã trưởng thành rồi. - Nội phải ăn nhiều vô mới mong khỏi bệnh. Đại bàng lửa xuất hiện, ông nằm bẹp gí như vầy thì thật là uổng! Ăn xong mấy miếng thịt dê, ông già nằm mê man. Nó ngồi bên ông nội, mặt mày buồn so. Càng về trưa nắng càng gay gắt, ngồi một chỗ mà mồ hôi tuôn ra như tắm. Lát sau nó thấy mỏi lưng bèn nằm xuống bên cạnh ông và ngủ quên lúc nào không hay. Tiếng phành phạch tựa như tiếng cánh quạt máy bay trực thăng mồn một bên tai đã đánh thức nó dậy. Ban đầu nó cứ đinh ninh là tiếng động cơ chiếc xe tải đến mua dê như mọi khi, ngay lập tức nó ngồi bật dậy như chiếc lò xo. Nhìn quanh quất chẳng có chiếc ô tô nào cả. Vũng tối lướt nhanh qua người nó kèm theo là tiếng kêu thảm thiết trên không trung. Nó ngửa mặt nhìn lên và reo lên kinh ngạc: - Ồ, đại bàng lửa! Đại bàng lửa! Mặc dù đã nghe ông nội kể nhưng nó vẫn không thể ngờ đại bàng lửa lại to đến thế, thậm chí còn to hơn cái lều nó đang ở. Cánh chim bằng trong giấc mơ mệt nhoài của nó bé hơn và không dũng mãnh như con đại bàng đang hiện hữu trước mặt. Đại bàng lửa lượn nhiều vòng trên không và thấp dần. Bộ lông đỏ rực như đám cháy khổng lồ lấn át cả cái nắng chói chang. - Ông ơi! – Nó nói lắp bắp qua hơi thở dồn dập:- Đại bàng lửa xuấn! Đại bàng lửa xuất hiện, kìa ông! Ông già nói mà mắt vẫn nhắm chặt: - Để ông nghỉ ngơi, cháu đừng quấy rầy! Đại bàng lửa chỉ là huyền thoại mà thôi! Ông xin lỗi vì đã gieo vào lòng cháu những điều không có thật. - Không! Ông dậy đi! – Nó nắm tay ông già giật mạnh:- Thật sự đại bàng lửa đang ràng ràng trước mắt. Ông dậy nhanh lên kẻo nó bay mất. – Giọng nó run lên vì kích động. Ông già mắt nhắm mắt mở để thằng Bờ lôi xềnh xệch ra phía ngoài. Trước mắt ông là quả cầu lửa khổng lồ lượn vòng trên không trung. - Ồ, đúng là đại bàng lửa thật rồi. – Ông thốt lên sửng sốt:- Thật kỳ diệu! - Mình chạy ra ngoài xem cho rõ, ông nhá. - Đừng, cháu! Sự có mặt ông cháu ta sẽ khiến nó sợ, cứ đứng đây mà quan sát. - Tại sao nó kêu ghê vậy, hả ông? - Chuyện này... ông không rõ lắm...Ừ, tiếng kêu của nó nghe thảm thiết quá! Chuyện gì đang xảy ra với nó? Câu chuyện của hai ông cháu bị xé vụn bởi tiếng đập cánh dữ dội hòa lẫn tiếng kêu thê thảm. Cả thế gian bị nhấn chìm trong bể lửa. Để chạy trốn cái nóng như thiêu như đốt, hai ông cháu bước lùi vào lều. Ngoài kia, đại bàng đang liệng mình vật vã. Tiếng kêu của nó như mũi kim xuyên qua màng nhỉ. Mịt mùng bụi cát. Mục kích cảnh tượng đó, thằng Bờ rươm rướm nước mắt: - Coi kìa! Chắc là đại bàng lửa đã bị thương. Tội nghiệp nó quá, ông à. Ông già chẳng bận tâm đến cảm xúc của nó. Điều ông muốn biết, chuyện gì đang xảy ra với thần điểu mà thôi. Chim bằng lửa lượn thêm vài vòng, khi cách mặt đất chừng vài thước, đột nhiên nó nghiêng mình lao vún không trung như tên bắn và chỉ trong nháy mắt bóng nó khuất dạng phía sau ngọn đồi trọc. Thằng Bờ sững sờ giây lát rồi vùng chạy ra. Gương mặt rám nắng hiển hiện tột cùng nuối tiếc như vừa đánh rơi bảo vật thiêng liêng: - Ôi, nó bay mất rồi. Uổng quá! - Không đâu, ông linh tính nó sẽ quay lại. Cháu đừng sốt ruột, vào bên trong đi và tiếp tục chờ. - Do đâu, ông dám chắc như vậy? – Nó nói thắt thẻo. - Bằng trực giác của một người từng trải. Nó sẽ quay lại, ông tin chắc như thế. Quả thật, chỉ vài phút sau đại bàng lửa quay trở lại chỗ cũ. Chiếc mỏ cứng như thép cắp lấy thân gỗ to bằng bắp chân. Thằng Bờ vỗ tay, reo lên: - Ông nói cứ như thánh phán! Cháu phục ông sát đất. - Xuỵt! - Ông già đưa ngón trỏ lêng ra hiệu nó im lặng:- Nhìn kìa! Hai ông cháu cùng hướng mắt ra phía ngoài. Đại bàng lửa thả khúc gỗ xuống bãi đất trống đối diện với căn lều chừng vài chục thước rồi hối hả hướng về phía khu rừng gần đó. - Nó tha củi để làm gì? - Ông cũng không biết, hãy im lặng và theo dõi, đừng nhấp nhỏm lên như thế. Hai ông cháu im lặng. Thời gian đủ nấu chín nồi cơm, đại bàng tha củi khô chất vun như quả núi nhỏ. Trong lúc hai ông cháu đang còn ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì thì đại bàng lửa bỗng bay là là và đập liên hồi đôi cánh khổng lồ. Bụi cát bốc lên như lốc xoáy. Một lúc sau đóng cũi bắt đầu ngún khói. Đống củi khô cháy rất nhanh. Khói và hơi nóng xộc vào lều khiến hai người ho sặc sụa. Qua bức màn ảo ảnh, hai ông cháu cô đơn giữa thảo nguyên còn kịp nhìn thấy đại bàng lao mình vào lửa đó. Thằng Bờ gào lên thảm thiết: - Nó tự tìm đến cái chết! Hãy làm làm gì để cứu nó, ông ơi. - Đừng gào lên như thế! – Giọng ông già rè rè:- Trong tình thế này, ông cháu ta chẳng thể làm gì được. Nó khóc ngằn ngặt. Thân hình ông nó cũng run lên cầm cập vì cám cảnh. Trong nháy mắt đám cháy đã nuốt chửng cánh đại bàng tội nghiệp. Cụm khói bốc cao. Tứ bề lửa cháy. Những tiếng nổ lép bép kèm theo là tiếng vùng vẫy con chim lửa đang hóa thân. Đám cháy kéo dài chừng nửa giờ thì rụi. Hai ông cháu không ai bảo ai lập tức lao nhanh về đống lửa tàn. - Đại bàng lửa! Đại bàng lửa! – Thằng Bờ gào lên trong tuyệt vọng và thương xót. Khi khoảng cách chỉ còn vài sải chân, đột nhiên có cảm giác như “ núi lửa đang phun trào nham thạch”. Qua làn bụi lửa mờ mịt hai ông cháu kịp nhìn thấy con đại bàng với bộ lông màu lửa kiêu hãnh vút lên trời cao, theo sau nó là một đại bàng con. Tiếng kêu của nó lảnh lót cả bừng sáng bầu trời trong xanh. Buổi chiều, trời đổ mưa. Cơn mưa lớn chưa từng có. Qua ngày hôm sau, cả sa mạc khô cằn bổng bừng bừng sức sống, cỏ cây, hoa lá rào rào đâm chồi, nẩy lộc, suối chảy ồ ạt dựng bờm trắng xóa như đàn tuấn mã. Người và gia súc lần lượt trở về. |
VÕ PHIẾN * BÀ CON
Bà Con Chòm Xóm
VÕ PHIẾN
Một
buổi chiều cuối năm, nằm tưởng nhớ lan man về làng quê, tôi mấy lần tự
bắt gặp mình nghĩ tới chị Bốn Chìa Vôi. Hình ảnh chị xua đi lại trở về.
“Ơ hay!” tôi ngạc nhiên về mình. “Vẫn chị Bốn! Thì chị Bốn. Xem chị có
gì nào!”
VÕ PHIẾN
Trong nhân cách chị có nhiều đặc điểm, nhưng đối với người làng điều thường được nêu lên như một tiêu biểu là chị không sợ thằn lằn rắn nước. Con người, đa số, vẫn đố kỵ loài bò sát; chị Bốn không đố kỵ. Chị biết khai thác đặc điểm của mình, khiến mọi người chú ý. Một nhóm bạn bè đang ngồi tán dóc, chị chạy tới mời ăn me. Đàn bà con gái nào lại không thích me? Mỗi người giành lấy một quả xong, chị Bốn rút từ trong bọc ra một gói nhỏ. Trời, sao mà chu đáo thế: lại có cả muối ớt nữa kìa. Vài bàn tay nóng nảy giật nhanh gói giấy, mở ra: con thằn lằn luống cuống nhảy hoảng vào lòng một chị nào đó. Cả bọn la như cắt cổ.
Chị Bốn Chìa Vôi có thể bắt nhốt vào túi áo một con rắn nước, lấy kim băng cài lại cẩn thận. Để rồi chỉ mở túi khi đã ngồi sát kề vài người bạn. Rắn vọt ra, kẻ nhanh nhất cũng không tránh kịp.
Người ta sợ những con vật hiền lành vô hại, sợ một cách vô lý. Chị Bốn không vô lý, thế là chị bị coi như nham nhở, lì lợm. Giá là “hôm nay”, chị được cho là rất chì. Chì thì không có gì tệ. Nhưng ở địa phương, hồi đó, người ta đánh giá thấp thái độ ấy. Có người bảo: Con đó ma vật không chết, thiên lôi đánh không chết v.v... Toàn thị là những nhận xét có tính cách thóa mạ. Trong chỗ địa phương, giàu có chẳng được mấy kẻ, hầu hết là dân nghèo với nhau. Từ lối xưng hô cho đến cách nhận xét nhau nghe có vẻ sỗ sàng mà thân mật. Xóm giềng với chị Bốn Chìa Vôi là anh Ba Càng Cua, chú Năm Cán Vá, anh hai Mỏ Gảy, cậu Ấm Sứt v.v... ai nấy đều thông cảm sự giễu cợt của bà con chòm xóm, không oán trách gì. Trường hợp đáng để ý là một người tên Hai Cư. Anh ta cũng lớn lên trong cảnh nhà nghèo khổ, không có tham vọng. Bỗng có người tuổi tác tốt bụng mách cho biết nội tổ của anh ta từng có quan tước, nếu chịu mất hai đồng bạc cho làng, anh có thể làm đơn xin tập ấm để được miễn sai. Anh nghe theo, anh được chỉ vẽ, giúp đỡ, cuối cùng được thành một ấm tôn. Anh mở tiệc khao làng và họ hàng thân thuộc. Ngay trong tiệc vui ấy anh đã nghe loáng thoáng cái tiếng “ấm sứt”. Anh lặng người đi một lát. Rồi anh bâng khuâng, trầm ngâm, như một người bắt đầu chịu trở nên chín chắn, từ bỏ những ngông nghênh rồ dại nhất thời để trở về với những cái thiết thực. Rốt cuộc, anh nhếch miệng cười nhẫn nại, chấp nhận. Tiếng “ấm sứt” phổ biến nhanh chóng. Dân làng mừng rỡ, không ganh tị tí nào đối với chút quyền lợi anh được hưởng, nhưng còn sự danh giá thì họ đã bảo toạc ngay cho anh biết là không có đâu.
Chị Bốn ngày nhỏ tên là Bình. Nhưng càng lớn chị càng toe toét, nói bậy nói bạ, bừa bãi lung tung; cho nên bị coi không xứng là miệng Bình, dù là bình vôi. Do đó, bèn đặt tên là Chìa Vôi.
Kể ra đặt như thế cũng bừa bãi, chẳng có ý nghĩa gì. Tôi thuật lại bấy nhiêu điều là để chứng tỏ ở đây người ta sống gần gũi, cởi mở. Cho đến cái tên của nhau ai nấy cũng tha hồ bôi bác lên đấy tùy thích, cái tên riêng của cá nhân không còn thuộc về cá nhân mà là kết quả những ý kiến tập thể. Sự can thiệp ngang nhiên, không e dè nể nang gì cả. Thoạt đầu, có người bất bình chút ít, rồi đâu lại vào đó.
Chị Bốn nham nhở đến nỗi mang tên là Bốn Chìa Vôi, lại còn bị rủa là thiên lôi đập ba búa không chết. Không sợ loài bò sát, đó chỉ là tính tiêu biểu, thật ra chị còn lắm điều ngổ ngáo khác. Chẳng hạn nói tục. Các nhà nghiên cứu chuyện tiếu lâm đồng ý rằng đề tài trào lộng chính của dân quê ngày xưa là cái tục. Có những vị còn đi xa hơn, cho rằng như thế không phải vì dân lao động nghèo khổ ham thích cái tục hơn hạng nho sĩ trí thức; họ nói tục chính vì óc tranh đấu bài phong tức là vì một lý tưởng cao đẹp. Hạng giàu có nho sĩ sống trong lễ giáo giả dối, tránh chuyện tục tĩu; kẻ vô sản đầy tinh thần cách mạng bèn xổ tục ra, có ý tỏ sự chống đối, khinh khi, khiêu khích, có ý muốn quăng những cái tục ấy vào mặt bọn giàu sang trí thức.
Tôi không có dịp trông thấy chị Bốn Chìa Vôi quăng cái tục vào từng lớp thống trị. Chỉ thấy chị thường nói trong lúc chuyện trò, làm lụng. Giữa đồng nước lênh láng tiết tháng mười, chị vừa cấy mạ vừa kể chuyện. Xung quanh chị, đàn bà con gái thỉnh thoảng nhao nhao, kêu oai oái, kêu lóe chóe, kêu ầm lên, như không chịu nổi. Thế nhưng họ chịu được tất. Hơn nữa, ai nấy đều hau háu đối với chuyện của chị Bốn Chìa Vôi. Họ tranh nhau nghe, họ kêu, rồi họ cười ngắc nghẻo, họ oằn người, gập người lại mà cười.
Nhìn cảnh tượng những người lao động nói cười ầm ĩ như thế giữa công việc, giữa trời nước bao la, dễ có cảm tưởng họ sung sướng vui vẻ, họ đang dự vào một sinh hoạt lành mạnh, làm sảng khoái tinh thần. Thú thực, chưa có lần nào trước cảnh ấy tôi có ý nghĩ chị Bốn Chìa Vôi đang đầu độc trí óc bạn bè. Có lẽ những câu chuyện tiếu lâm đã thành hình trong dân gian theo kiểu ấy. Có điều các khảo cứu không hay chú ý tới nỗi khổ tâm, hy sinh, của người sáng tác. Tôi được biết có lần chị Bốn Chìa Vôi bị chồng đánh một trận tơi bời, vì trong lúc cao hứng, hăng say, chị đã mang cả chuyện riêng trong buồng the ra làm trò cười.
Xưa, tôi cũng lây cái thành kiến của người làng mà coi nhẹ chị Bốn, mặc dù đối với tôi chị Bốn Chìa Vôi bao giờ cũng tốt. Ngày nay, tưởng nhớ đến chị trong niềm hối hận chân thành, tôi chỉ muốn đem tất cả sự hiểu biết lõm bõm của mình mà tìm ra một ý nghĩa cách mạng trong thái độ của chị. Bèn nghĩ rằng cái tục là cái cấm kỵ (tabou) trong cuộc sống xã hội loài người với nhau, bò sát là một cấm kỵ khác; thiên hạ tránh né những cấm kỵ ấy, chị Bốn ngang nhiên bất chấp, ấy không phải là chống đối, phản kháng, là hành vi “nổi loạn” sao? Những kẻ văn nhược nho nhã chúa sợ rắn, sợ thạch sùng, sợ các tiếng tục tĩu, những kẻ ấy đớn hèn đã đành. Còn trong hạng lao động khả kính, đầu làng cuối xóm thiếu chi người, tại sao ý thức nổi loạn lại cứ nhất định nhóm lên từ đầu óc một người nghèo rớt mùng tơi, nhà dột cột xiêu, từ một chị đàn bà lôi thôi lếch thếch, vú bõ lòng thòng? Đó chẳng phải là điểm vinh dự riêng cho chị Bốn sao?
Cái tốt đặc biệt của chị Bốn tôi không quên được là chị thường cho chim. Chị là người đàn bà độc nhất trong vùng có thể bắt được chim. Bởi vì chim chóc không phải như con cua, con ốc, con chí, con rận. Phải lanh lẹ, phải giỏi leo trèo mới bắt được chim. Đàn bà không sở trường về cái ấy.
Lần đầu tiên chị Bốn cho chim, chị cho tôi một lượt hai con se sẻ. Tôi quýnh lên. Tôi nằn nì hỏi chị làm thế nào bắt được. Chị cười tít mắt, bảo đang đi giữa đường, tự dưng thấy hai con sẻ đuổi nhau bay tới, sà xuống đất, vùi nhau cắn lộn, chị đưa tay ra chộp như chơi. Tôi ngẩn ngơ ganh tiếc: Một cơ hội như thế tại sao lại không xảy đến cho tôi? Nắm chim trong tay đã đành là thích thú, nhưng so với cái lúc chộp được một lúc hai con chim đang cắn lộn thì thú ấy chẳng thấm vào đâu. Vậy mà cái dịp may dị thường chẳng thuộc về tôi đang lồng lên ao ước, lại thuộc về chị Bốn là kẻ dửng dưng không biết gì khoái thích!
Lần khác, chị cho tôi bốn con sáo ngà vừa bể bộng xểnh. Tôi lại tra vặn làm sao bắt được. Chị cuời rũ rượi kể rằng đang làm cỏ chợt thấy con sáo mẹ tha mồi về một bộng cây mù u bên bờ ruộng và sáo con trong bộng thò đầu ra, chị chạy đến bắt trọn, thế thôi. Tôi dẫy nẩy lên, bắt chị phải cam đoan lần sau thì chị không được vội vàng như thế nữa: cứ để yên và chạy về mách tôi.
Nhưng lần sau và những lần sau nữa cũng không phải là cơ hội để tôi tự tay tóm được con chim tự do. Mỗi lần chị Bốn được chim vào một trường hợp khác nhau. Hoặc một con sáo ham ăn giun xán tới những luống cày vỡ, bị người ta dùng roi cày quất chết tức, chị Bốn xin con sáo chết, đem bỏ ở chỗ đất ướt một lát, nó sống lại. Hoặc một con cò bị kẹt giữa lùm tre dày sau một đêm mưa gió. Hoặc một con cò khác bị mắc vào bẩy giò mà chị Bốn tình cờ bắt gặp trước khi người đánh bẩy trông thấy.
Tôi kết luận rằng chị Bốn Chìa Vôi quả không có tài nghệ gì. Chị chỉ có sự may mắn. Giá tôi mà gặp con cò mắc kẹt trong bụi tre thì tôi cũng lôi ra được như chị, lại giá có người dùng roi quất lăn kềnh một con sáo bên chân thì nhất định tôi cũng nhặt lên được. Tôi quả quyết như thế. Và từ ganh, tôi ức với chị Bốn Chìa Vôi. Tại sao lần nào cũng vẫn lại chị có mặt ở những chỗ ấy mà không phải là tôi?
Tôi còn nhỏ, chưa biết phục thiện. Thực ra, không phải không có lý do mà chị Bốn Chìa Vôi gặp chim. Xem hình dáng chị thì biết. Áo của chị kết năm hột nút thì đã rụng mất ba; hở cả bụng cả ngực. Đầu chị rối bời, tóc thì hoe vàng, đuôi tóc xơ xác. Suốt ngày từ sáng tinh sương cho đến tối mịt, lúc nào chị cũng tất tả ngược xuôi, dầm mưa giãi nắng. Chị kiếm củi, mò cua, bắt ốc, lúc ở bờ ao mép suối, lúc ở ven rừng ven đồi... Tình hình trong vùng có gì đáng chú ý chị chú ý tới trước tiên, có gì đáng trông thấy chị trông thấy trước tiên. Năm Cán Vá hò hẹn với bà thím dâu ở suối chăng? Đám mì của ông Tư bị kẻ chăn bò đào trộm củ đem lên gò nướng chăng? Tre năm nay trỗ bông nhiều? Chuột đồng gặp gió tây vừa chết lác đác ở các cửa hang? Cây trâm sau đình làng trái sắp chín tới? Không có gì chị Bốn Chìa Vôi không biết. Như thế, không những chị thường gặp chim chóc, chị còn bắt gặp gà rừng đang ấp và hốt trọn cả ổ trứng, chị gặp rắn đực rắn cái quấn nhau để về xóm thuật lại cho mọi người nghe, chị gặp dơi ngủ trong đọt chuối, gặp chồn cắn nhau v.v...
Ngày xưa, tôi không rõ lý do khiến chị Bốn gặp chim, nhưng tôi yên trí là biết rõ lý do khiến chị cho chim. Vì sao chị chọn tôi, mà không chọn đứa trẻ nào khác? Thật minh bạch: vì tôi dễ thương nhất chứ còn gì nữa.
Sau này, dần dần tôi tưởng hiểu được chị Bốn Chìa Vôi hơn. Sự việc không giản dị đến thế.
Chị Bốn vẫn xưng với mọi người là bà con họ hàng với chúng tôi. Trong khi ấy gia đình chúng tôi không phi bác cũng không xác nhận. Sự thực chị Bốn cùng mang họ Đặng. Nhưng ngôi thứ của chị trong thân tộc như thế nào không rõ, gặp chị chúng tôi cứ tùy tuổi tác mà xưng hô: kẻ gọi chị, gọi cô, người kêu mày, kêu con v.v... Ngày giỗ, ngày Tết, chị đến nhà chúng tôi, lăng xăng giúp đỡ.
Bình nhật, mỗi lần chị tới nhà là gặp việc gì làm việc ấy luôn tay. Trông thấy bà tôi ngồi buồn, chị đề nghị xổ tóc bắt chí. Trong khi tìm chí, chị vui miệng hẹn hôm sau sẽ đem đến cho nắm bồ kết. Đưa tới một nắm bồ kết, một mớ rau đắng, chị mang về chén mắm, trái cà, trái dưa muối v.v...
Đối với các cô tôi, chị cũng không đáng ghét. Mỗi lúc nhìn trước ngó sau quanh quất không thấy bóng bà tôi, chị Bốn liền kể một chuyện tục. Các cô tôi phản đối, đấm thùm thụp lên lưng chị. Nhưng khi bà nghe tiếng, hiện đến hỏi, thì ai nấy đều toa rập chối đây đẩy, vừa bảo là không có gì vừa cười rúc rích với nhau.
Hễ cứ lâu ngày không thấy chị Bốn Chìa Vôi đến, tôi lên tiếng hỏi. Bà tôi kêu: “Cái thằng! Không thấy nhắc đến sách vở bao giờ. Lại đi nhắc con ấy.” Các cô tôi cười. Tuy nhiên, tôi thấy rõ không có sự phản kháng nào rõ rệt.
Một năm trời làm đói. Tháng mười mất mùa, tháng ba lại mất mùa nữa. Cả làng thiếu ăn, trẻ con ốm tong teo. Bấy giờ, ngày nào chị Bốn cũng lảng vảng đến nhà tôi một lần. Về sau, cùng đường xoay trở, chị đến ở hẳn với chúng tôi. Rồi chị đem theo thằng con nhỏ nhất. Sau rốt, mang luôn đến con chị kề của đứa bé. Chị bảo với mọi người: có bà có con nhất định phải nhờ bà nhờ con một phen. Ngầm ý nói dù có bị đuổi cũng không chịu đi.
Mùa tháng mười năm sau, bắt đầu gặt hái được là chị đem con về, tất tả kiếm ăn, không kéo dài cảnh nhờ vả thêm một ngày.
Ngày nay các cô tôi thường nhắc lại vụ đói năm ấy để oán trách chị Bốn Chìa Vôi. Phải, có nhiều người trong chúng tôi oán trách chị.
Số là từ khi làng mất an ninh, dân làng kéo ra quận ra tỉnh lánh nạn một số lớn. Gia đình tôi về tỉnh lỵ; chị Bốn thì không thể tưởng tượng có thể sinh sống ở chỗ thành phố, nên chị ở lại làng. Trong khi ra đi lén lút vội vàng, chúng tôi không đem theo cả gia sản mà cũng không thể bán được cho ai. Những thứ gì còn lại, chị Bốn hứa sẽ trông nom giúp. Thế rồi, ít lâu có người bỏ làng ra tỉnh kể rằng hai con bò của chúng tôi bị “Giải phóng” tịch thu chia cho đồng bào, mà một con thuộc về phần chị Bốn. Sau đó, lại có người khác kể rằng ruộng đất của chúng tôi “Giải phóng” cũng chia cho đồng bào canh tác, riêng phần chị Bốn hưởng được hai đám. Dĩ nhiên chị Bốn là đồng bào, nhưng tại sao cái gì của chúng tôi chị cũng thụ hưởng được nhiều hơn mọi người. Có điều ám muội gì trong đó? Lần khác, có tin chị Bốn bán dừa của chúng tôi. Lại lần khác nữa, chị đem cỗ thọ đường bằng ván mít của bà tôi hiến cho bộ đội “Giải phóng”. Bà tôi kêu trời. Các cô tôi mỗi người góp một chi tiết, nhắc lại những sự giúp đỡ của chúng tôi đối với chị Bốn trước kia, và trách mắng thậm tệ “quân ăn cháo đái bát”.
Chúng tôi với chị Bốn thành ra người của hai thế giới. Không ai biện bạch với ai được lời nào. Không có đối thoại. Sự thực, chị Bốn Chìa Vôi đã nghĩ ngợi ra sao, đã hành động với dụng ý gì, chúng tôi không rõ. Chỉ nghe lời người khác thuật lại, nay một việc mai một việc, chắc chắn là vừa thuật vừa thêm mắm thêm muối cho đậm đà câu chuyện, thế rồi chúng tôi kết tội chị Bốn bội bạc, vong ân, chúng tôi lồng lên phẫn uất.
Trong tâm trạng ấy, chúng tôi kiểm điểm lại tính nết của chị, và toàn thấy những nét trí trá, tinh quái. Cái người con gái biết mua chuộc kẻ này bằng con chim, kẻ kia bằng câu chuyện tục kể lén v.v..., người ấy thực đã quỉ quyệt, thao túng chúng tôi không chừa một ai. Càng nghĩ các cô tôi càng tức giận, vì đã thua cái tinh khôn của một kẻ tuổi tác chỉ đáng đàn em, lại không có học hành gì.
Cứ thế cho đến hôm tôi trông thấy người ta khiêng chị Bốn Chìa Vôi vào bệnh viện, người rách bươm tơi tả.
Sau khi chúng tôi bỏ làng đi độ ba tháng thì làng cũng không thuộc về chính phủ nữa. Thôn trưởng bị bắt lên núi. Rồi quận cũng tìm ra người khác để đặt làm thôn trưởng, nhưng từ khi nhậm chức, chú Tư Huệ Héo — tức em ruột anh Ba Càng Cua — liền bỏ nhà xuống quận lưu vong. Ở làng, phe “Giải phóng” lập ban tự quản.
Như thế, cả hai phía cùng nhau cai trị dân làng. Một phía thuộc về chú Tư Huệ Héo, một phía thuộc về chú Ba Thiên, tức cháu gọi Hai Mỏ Gảy bằng cậu.
Ba Thiên tịch thu ruộng và bò của chú Tư. Một ngày tháng bảy, vào canh tư, trời còn tối, một trung đội nghĩa quân từ dưới quận kéo lên vây xóm. Bố trí chưa xong thì một phát súng nổ quá sớm làm cho bọn cộng sản nhào ra chạy. Có hai tên trúng đạn, một bị gãy chân, một bể ngực chết. Tuy vậy cả hai đều thuộc hạng không quan trọng, còn Ba Thiên đã kịp trốn thoát.
Mờ sáng, nghĩa quân vào làng, người ta thấy Tư Huệ Héo đi theo, tập trung dân chúng, điểm mặt từng người, phổ biến chính sách. Xong rồi, chú Tư tới nhà Ba Thiên lùa tất cả bò mình lẫn bò Ba Thiên về quận. Đến lượt chú Ba bị tịch thu trở lại: Lùa bò, gánh lúa, còn nhà thì đốt bỏ.
Sau vụ ấy, Ba Thiên bắn tin xuống quận cho Tư Huệ Héo hay là có ngày “Giải phóng” sẽ tới tận quận hỏi tội y. Còn Tư Huệ Héo thì lén lút phàn nàn với một vài người thân tín rằng hôm đó có một anh nghĩa quân non gan, ngại đụng độ lớn, nên giả vờ lỡ tay làm nổ phát súng để đuổi địch chạy thoát, nếu không Ba Thiên đã bị bắt rồi. “Nhưng giữa nó với tôi còn có ngày gặp nhau mà. Nó đừng nóng nảy vô lối: rồi trước sau tôi cũng chẻ ba thẻ tre đem manh chiếu rách rước nó xuống quận một lần cho bà con coi chơi”.
Tin nhắn đi nhắn lại qua trung gian những người đàn bà đi chợ quận. Cũng qua thứ trung gian ấy, chú Tư đòi bẻ cổ hết những ai cày ruộng của chú do bên kia cấp phát. Ba Thiên họp đồng bào, đánh tan hoang mang, bảo đảm rằng chính sách sẽ được thi hành tới cùng.
Chị Bốn Chìa Vôi có được chia ruộng của chú Tư. Mặc dù có sự bảo đảm, nhân một hôm đi chợ, chị vẫn lẻn gặp chú Tư để điều đình xin coi như chị cày thuê với một giá tương đối rẻ. Sự việc tiến hành trong vòng bí mật. Tiền thuê ruộng sẽ giao tới tay chú Tư làm ba lần. Tư Huệ Héo lấy làm hài lòng; trong lúc cao hứng còn khoe rằng hôm đưa nghĩa quân lên vây xóm chú đã nắm vững tình hình, biết rõ con đường hầm rút lui của từng tên trong bọn Ba Thiên. “Chậm năm phút nữa thì nó chạy đằng trời”. Chú Tư nhếch miệng cười. Chú có đặc điểm là dẫu cười, cái cười cũng khổ sở, méo xệu. Vì vậy mà tên Huệ được đổi ra Huệ Héo.
Hai hôm sau, con Sáu Ty bỗng dưng chận chị Bốn Chìa Vôi lại, hỏi ấm ớ:
— Mợ đi thương lượng với nó rồi hả?
Chị Bốn khựng người lại:
— Mầy nói cái gì vậy Sáu? Tao không hiểu.
Sáu Ty cười khẽ:
— Mợ khó hiểu thì có.
Rồi giọng nó đay nghiến:
— Của nhân dân chia cho, mợ không cày thì trả lại, người khác cày. Tại sao mợ lại đi phục hồi chủ quyền cho nó?
Chị Bốn vẫn chống chế, mà van lơn:
— Sáu! Mày nghi ngờ gì mợ đấy? Có gì mày cứ nói toạc ra, rồi khuyên bảo cậu mợ. Mày hiểu chính sách, chớ cậu mợ đâu có hiểu, Sáu!
— Mợ đã tìm thằng Tư Huệ Héo điều đình riêng.
Chị Bốn giãy nảy lên lên thề thốt:
— Ai nói với mày vậy? Nó vu cáo mợ, mày không cãi cho mợ mày được một câu sao Sáu. Tao thề có Trời có Phật...
Con Sáu Ty ngoay ngoảy bỏ đi:
— Nay mai rồi mợ sẽ cãi lấy.
Chị Bốn tuyệt vọng, gọi vói theo:
— Sáu. Ngày mốt giỗ bác Hai, mày nhớ đó chớ, đừng để cậu mợ mời lần nữa nhé.
Sáu Ty là cháu của chị Bốn Chìa Vôi. Mẹ nó chết sớm. Ngày nó còn bé, chị Bốn thỉnh thoảng tới nhà, lôi nó ra tắm rửa, kỳ cọ, giặt giũ quần áo cho nó. Bây giờ Sáu Ty làm cán bộ, trở lại khắt khe với chị. Ở cái tuổi của chị, lớn lên trong hoàn cảnh của chị, chị không tự cắt nghĩa nổi sự hằn học của con Sáu Ty. Chị không tranh giành quyền lợi của cải của nó, tại sao nó có thể ghét chị đến thế? Lý do chính trị là cái gì, chị không hiểu.
Những lần bị Sáu Ty chèn ép, làm khó làm dễ thái quá, chị đi phân trần với người này người kia: Mới ngày nào chị vừa kỳ ghét trong nách trong háng của nó vừa la mắng nó, cốc lên đầu nó, chị coi nó như con như cái. Một đứa con nít như thế! Chị than trời trách đất.
Chị gặp Sáu Ty hôm trước, thì hôm sau ban tự quản thôn gọi chị tới cho biết là phần ruộng tịch thu của Tư Huệ Héo chia cho chị bị rút lại cấp cho ông Tam Khoang.
Sự đen đủi này tiếp theo sự đen đủi khác. Thằng con trai của chị mới mười bảy tuổi tự dưng nhảy đại vô “lực lượng”. Ở địa phương chị, người ta vẫn gọi tắt như thế cái lực lượng võ trang của mặt trận Giải phóng. “Vô lực lượng thì có súng để mang. Vô lực lượng, ta đòi làm thịt đứa này, đòi hạ đứa nọ, nửa đêm bất thần về làng, thiên hạ cuống cả lên; không vô lực lượng thì cũng phải đi lính quốc gia, mà lính quốc gia ở ngoài sáng, lực lượng ở trong tối dễ bắn ra v.v...” Không biết ai đã dụ dỗ, rủ rê nó mà thằng nhỏ bỏ nhà theo lực lượng. Chị Bốn Chìa Vôi hết nghi người này lại ngờ kẻ khác; chị oán chị trách.
Ba Càng Cua có hai đứa con trai, một đứa vô nghĩa quân, đóng tại quận, một đứa học trung học, đi Quang Trung, gắn lon trung sĩ. Ba Càng Cua vẫn ở lại làng. Nhưng sau khi thằng con chị Bốn Chìa Vôi vô lực lượng ít lâu, bỗng một hôm, vào mùa gieo, trời chưa sáng, đường còn lờ mờ ánh trăng, Ba Càng Cua đánh bò gồng gánh ra đồng. Người ta yên chí là đi gieo. Cứ thế, qua khỏi các chỗ canh gác, gia đình Ba Càng Cua đi thẳng xuống quận lánh cư. Đến trưa, ập vào xét nhà Ba Càng Cua thấy thứ gì thứ nấy đã dọn sạch. Thì ra trong cái gánh mà người ta tưởng là gánh lúa giống để gieo ấy anh ta trói nhốt năm con gà, với mắm muối, thuốc, lư đồng v.v...
Xuống quận được dăm ba hôm, Ba Càng Cua bắt đầu phát biểu cảm tưởng lai rai. “Con Sáu Ty ngày nào nó cũng lọt vào nhà người ta vài bận. Nhà có bao lúa nào nó dòm lủng bao, có niêu cơm nó dòm lủng niêu. Con đó còn sống ngày nào, xóm làng còn điêu đứng ngày ấy. Con Bốn Chìa Vôi, con mẹ trời đánh sinh ra thằng con trai nghịch hết nói được. Nó mà nhảy núi chuyến này, nguy hiểm lắm. Tôi cho thằng đó nguy hiểm nhất.” Bấy giờ người ta mới nhớ ra trước kia giữa nó với thằng con trai của Ba Càng Cua có nhiều chuyện hiềm khích rắc rối.
Chẳng bao lâu sau đó, cậu nghĩa quân này bị phục kích, trúng đạn hỏng mất con mắt bên trái, gò má lủng lốm đốm.
Mấy lần chị Bốn Chìa Vôi đi chợ quận bị mụ vợ Ba Càng Cua đón đường, may mà đón hụt. Anh Ba Càng Cua lồng lên như gà mắc đẻ. Anh quả quyết đến lúc phải tảo thanh gấp cái làng ấy, nếu không cả quận này không yên. Anh chủ trương mở hành quân cấp tốc về làng. Ý kiến ấy, anh tìm Tư Huệ Héo để trình bày, rồi gặp người nào — nhất là lính — anh cũng nói. Anh hy vọng ý kiến tới tai ông quận. Nhưng anh nói mãi, ý kiến chẳng đi tới đâu. Bỗng một hôm, một chiếc máy bay lướt nhanh qua làng, có kẻ nào đó dùng súng trường “bia” một phát. Chiếc oanh tạc cơ quành lại, bắn, bỏ bom loạn xạ. Mười ngôi nhà cháy, hai người chết. Trong hai kẻ xấu số, một là chồng chị Bốn Chìa Vôi, bị cắt đúng nửa thân người. Đêm ấy chôn cất xong xuôi, mờ sáng hôm sau, cả làng đón một cuộc hành quân. Lần này Ba Thiên cũng lại suýt bị tóm, nhưng vẫn chưa bị tóm. Đạn đuổi sau lưng y. Cán bộ thôn hao hết thêm ba mạng. Ban tự quản gần tan rã. Thế nhưng Sáu Ty thì thoát, và Ba Thiên cũng chỉ suýt bị bắt.
Rồi Hai Mỏ Gảy lánh cư. Rồi Năm Cán Vá cũng bỏ làng ra đi. Nhưng chị Bốn Chìa Vôi thì ở lại, để thỉnh thoảng còn hy vọng gặp thằng con trong lực lượng. Chị cần dỗ dành để nó rời bỏ lực lượng, ít ra nó đừng có “bia” vu vơ vào một chiếc phi cơ bay lẻ, vào một anh địa phương quân lơ thơ về thăm vợ v.v..., đừng có gây rắc rối làm cho cả làng bị tai họa lây. Chị Bốn Chìa Vôi ở lại làng, chịu khổ chịu sở mà ở lại. Nhưng mãi không gặp được đứa con. Chị ở lại chỉ để có dịp chôn xác con Sáu Ty.
Sau đó, một đại đội quân quốc gia về đóng tại làng. Ba Thiên bỏ nhà nhảy núi. Cậu em vợ của chú Ba cũng nhảy theo. Trước khi đi, nó năn nỉ rủ đứa con gái đầu lòng của chị Bốn Chìa Vôi. Đứa con gái khóc tỉ tê. Chị Bốn biết được, chị quát mắng; cậu kia van nài, xin cho nó cưới. Cứ cho nó cưới, rồi thì vợ nó ở lại làng cũng được. Chị Bốn không cho.
Anh em Ba Thiên đi rồi, bốn tháng sau đứa con gái chị Bốn phải lòng một anh hạ sĩ quốc gia. Chờ mãn tang anh Bốn, chị cho cưới. Đám tiệc gần tàn, lúc ấy vào khoảng tám giờ rưỡi tối. Có người đứng ngoài rào nói vọng vào nhà: “Khách khứa hai họ còn cả trong ấy chứ? Xin có quà mừng nhá.” Tiếp theo, một trái lựu đạn rơi xuống, nổ ngay trên thềm nhà, bốc văng mái trước, phá nát hết cửa lớn cửa nhỏ. Đứa con gái thoát nạn, không bị thương tích gì. Nhưng anh hạ sĩ chết ngay tại chỗ, còn chị Bốn Chìa Vôi thì đứt đi nửa ống chân, khắp người lỗ chỗ đều có mảnh lựu đạn ghim.
Mở mắt, bắt gặp tôi tình cờ lảng vảng trong bệnh viện tỉnh lỵ, chị Bốn Chìa Vôi mừng rỡ, kêu lên: “May ơi là may! lại gặp bà con. Ông Trời có con mắt, không nỡ hại người hiền lương lòng ngay dạ thẳng.”
Chị nức nở. Chị cảm động. Chị đội ơn Trời Phật đã xui khiến người ta đưa chị đi bệnh viện kịp thời, xui khiến chị gặp lại tôi. “Thế nầy là tui không bơ vơ, tui có chỗ nương tựa rồi. Tui sống rồi. Nó hại tui, nhưng Trời Phật thương tui, bà con thương tui v.v...”
Tôi thuật lại câu chuyện, cả nhà không biết nói sao. Chỉ có chút thắc mắc là chị Bốn nỡ đem cỗ thọ đường của bà tôi bán đi. Chỗ thắc mắc ấy, tới khi các vết thương gần lành, hàng ngày ra vào gặp nhau trò chuyện, rồi chị Bốn cũng dò hiểu tâm lý chúng tôi. Và chị chắp hai tay trước ngực van vái: “Xin Trời Phật chứng giám, tui có lòng nào, xin cho bom đạn phân thây tui ra.” Xong chị buông tay xuống trợn tròn mắt, kể đầu đuôi tự sự: Đêm nọ, vào quá một giờ sáng, cán bộ gọi cửa, đồng bào thức giấc trông thấy “giải phóng” kéo về thật đông. Nhà nào có thọ đường của ông già bà cả đều bị trưng thu trưng dụng. Quyết định xong, thi hành liền. Bao nhiêu cỗ thọ đường trong làng bị họ khênh ra hết. Khênh ra ngoài bóng tối, lao xao một lát, rồi biến đi đâu mất. Như thế tức là vừa có đụng độ gần đâu đây, bên lực lượng bị thiệt hại nặng về nhân mạng. Sáng ra ban tự quản cấp cho mỗi thọ đường có chủ thứ tốt năm trăm, thứ xấu ba trăm. Chị Bốn ChìaVôi nêu lên vấn đề cỗ thọ đường của bà tôi. Sáu Ty hỏi: “Ai là chủ đây?” Chị đáp: “Có tui. Tui nhận thay.” Sáu Ty: “Ủa, lại mợ.” Thế rồi nó bác bỏ, nhất định nó bác bỏ, không cho chị nhận xu nào. Chị Bốn lại chắp hai tay trước ngực: “Có Trời Phật chứng giám, con đòi chúng nó năm trăm đồng có phải để con tiêu đâu. Định tâm giữ đó rồi nộp lại bà. Bà đã gởi gắm thứ nọ thứ kia cho con, con không giữ nổi để chúng nó lấy cả đi mà không bồi thường đồng nào, con còn mặt mũi nào gặp lại bà.” Chị đau đớn, gần khóc. Ruộng của chúng tôi, bò của chúng tôi, chị đòi cày, ấy cũng là để giữ lấy nộp lại bà. Không thì mặt mũi nào.
Nhưng con sáu Ty, khiếp, nó nghiệt ngã không tưởng tượng được. Nó xoi mói, vạch kẽ từng ly từng tí. Mỗi lần chị đi nộp lúa đảm phụ, nó chê lúa lép, đem ra giê lại; lúc đưa vào cân, thiếu mấy trăm gam nó cũng đuổi về không nhận. “Con hết lời với nó: ‘Sáu, mày nghĩ lại, hồi nào mợ hốt cứt hốt đái cho mày, mợ rửa háng rửa khu cho mày. Mày nhận cho mợ đi, thiếu bao nhiêu rồi mợ sẽ đem thêm tới nộp đủ.’ Nhưng mặt nó cứ như sắt nguội. Thưa bà, lòng dạ nó không như lòng dạ mình đâu. Mình thì dễ xiêu, chứ nó...” Nó, con Sáu Ty, nó là thứ người kỳ lạ lắm kia. Chị Bốn Chìa Vôi chồm tới, níu vai cô tôi, kéo lại thì thầm một lát. Cô tôi xô chị ra: “Mụ nói cái quỉ gì đấy? Có thật không?” — “Trời Phật chứng giám, nó không còn ở đời nữa, tui đặt điều thêm thắt cho nó làm gì. Vừa với thằng Ba Thiên vừa với thằng Bướm. Ít nhất hai thằng...” Chị níu vai cô tôi, thì thầm vào tai. Một lát, cô tôi xô chị ra, đỏ mặt: “Mụ nói yêu nói quỉ”. Chị Bốn nhiệt liệt: “Có Trời Phật... Con mà nói dối! Rõ ràng khi con trông thấy thì đũng quần nó hãy còn ướt nhẹp...” Chị vội vàng đưa hai bàn tay bụm miệng lại. Nhưng chậm quá, mọi người vừa kêu la phản đối vừa sặc lên cười. Thấy thế, chị tự cho phép bỏ bàn tay che miệng ra, và tiếp tục kể. Hôm con Sáu Ty bị phục kích bắn ngã, đồng bào ai nấy đều bảo nhau như thế là phải, không tránh khỏi: nó mang nợ với đồng bào nhiều quá, nó phải trả. Nghĩa quân dưới quận nhắn về làng bảo: “Thân nhân con Sáu Ty, ai chôn cất thì hãy cột chân mà lôi, đừng nâng đầu.” Vừa lôi xác nó nhúc nhích một cái là quả lựu đạn cài sẵn dưới đầu phát nổ ngay. “Con nghe tin. Con vội vàng tay xách một ấm nước đầy tay mang theo chiếc chõng tre. Con chạy thẳng ra gò định khiêng nó lên chõng, rửa ráy sạch sẽ, mặc lại đồ đạc tử tế cho nó trước khi đặt nó vào áo quan. Thưa con đã kỳ cọ khắp người nó trước kia, bao giờ con cũng coi nó như còn nhỏ. Con thương nó. Nhưng trời ơi, lúc tới nơi lật manh chiếu ra trông thấy cái xác không đầu, con không còn hồn vía nào nữa. Con quăng cái ấm đổ nước tung tóe, nhảy ngược lại, con khiếp quá, không dám hé mắt nhìn nữa. Thưa có Trời Phật chứng giám... con thương nó lắm kia. Mình ăn ở lòng ngay dạ thẳng v.v...”
Vừa bắt đầu chống nạn đi lại được, chị Bốn Chìa Vôi đã hoạt động. Chị nấu giúp ấm nước cho người này, mua giùm lon sữa, trái chuối cho người khác v.v... Chị được các bệnh nhân khác cho tiền tiêu. Chúng tôi có cảm tưởng một mai lành bệnh hẳn, chị có thể xin một chân giúp việc nhẹ trong bệnh viện có lẽ cũng không khó. Như thế chị sống ở thành phố, xa lánh chỗ nguy hiểm. Bây giờ chị tàn tật rồi, không làm được việc nặng, về quê làm gì sinh sống nổi?
Trong lúc ấy, một vài người ở làng trốn ra bảo với chúng tôi: “Nghe nói đứa con trai của mụ Bốn ném lựu đạn vào nhà giết chị đấy. Chị nó lấy lính quốc gia là lấy kẻ định giết nó. Nó phá đám cưới. Còn con Sáu Ty? Thì chính là mụ Bốn dẫn đường chỉ lối cho nghĩa quân phục kích chứ còn ai vào đấy?”
Chị Bốn không phải không nghe phong thanh những lời như thế. Chị khinh thị: “Quân ấy chỉ được cái đểu giả. Thời buổi này nhà nào ở thôn quê không thế: con bên này cha bên kia, anh bên này em bên kia. Hễ cứ em bị bắn chết là tụi nó đồn anh hại, cha bị mìn là con hại. Nó chia rẽ. Nhưng nó qua mặt con này sao được? Rõ ràng tiếng nói ngoài rào tối hôm đó là tiếng thằng Bướm, con này lạ gì”. Chị cười gằn khó hiểu.
Thế rồi ít lâu, không gặp chị Bốn nữa. Hỏi lại thì ra chị đã rời tỉnh lỵ. Chị đã về làng.
Ở thành phố, nhà chúng tôi cũng được trang điểm một cách rất nhàm như hầu hết những nhà khác: Mặt tiền không còn được mấy tí đất, vài chậu hoa nép sát hè, dưới bóng một cây bông giấy đỏ. Thường, trong mười nhà trồng hoa phía trước, ở đô thị, đã có chín nhà trồng bông giấy. Giống cây mạnh lạ lùng, không cần chăm nom gì mà nhiều lá nhiều hoa. Càng khô nắng lại càng nhiều hoa.
Một buổi sáng, nhân theo dõi một nụ lan huệ tôi để ý đến một vệt trắng trên lá lan. Xem đi xem lại, tôi bỗng phập phồng phấn khởi: phân chim.
Tôi không còn bé nhỏ nữa, ồ không, tuổi nhỏ của tôi đã cách biệt xa tít, đã bị cuộc chiến tranh, nói đúng hơn là hai cuộc chiến tranh, che khuất từ lâu. Thật bất ngờ, tôi không tưởng tượng rằng hi vọng bắt được một con chim có thể gây nơi lòng mình một xúc động vui mừng như thế. Y như ngày nào còn bé thơ. Thế mới biết mối cảm tình giữa người và chim thực sâu xa vô hạn.
Ở thành phố, từ lâu chúng tôi không được gần gũi chim chóc. Tưởng đã quên chúng, nhưng kỳ thực đâu đó trong lòng vẫn tiềm tàng một khao khát nhớ nhung. Bỗng nhiên gặp một giọt phân chim, niềm vui bừng dậy. Thế ra đêm đêm vẫn có chim ngủ sát ngoài hiên nhà? Ở đâu? Trên một nhánh bông giấy nào đó chăng?
Buổi tối, tôi rình chờ, không thấy con chim nào về ngủ cả. Vài ba hôm sau, trên lá lan, lại có một hạt phân chim trăng trắng nữa. Tối đến, rón rén ra xem vẫn không thấy chim đâu. Thì ra mãi đến lớn, sống quá nửa đời người tôi vẫn không tìm được cơ hội tự mình bắt con chim tự do. Tôi chỉ có thể thưởng thức cái thú vuốt ve, ngắm nghía những con chim do chị Bốn Chìa Vôi cho. Tôi nghĩ đến chị Bốn.
Chị trở về làng làm gì? Chị đã mất một người chồng, một đứa con rể ở làng. Chị đã mất đi nửa ống chân và quá nửa ngôi nhà ở làng. Một đứa con gái dở dang và một đứa con trai thất lạc... Như vậy không đủ ê chề rồi sao? Chị còn trở về làng làm gì với thân hình thủng nhiều vết và với cặp nạng? Dĩ nhiên không phải vì mấy đám ruộng và mấy con bò của chúng tôi. Tôi lấy làm hổ thẹn và hối hận. Sao trước kia chúng tôi có thể bất bình với chị vì những thứ đó được nhỉ? Nó nhỏ mọn biết bao! Chúng tôi đã sợ hãi, đã bỏ chạy. Cái nơi mà chúng tôi lánh xa, chị Bốn nhất định lần về. Lần này, tôi tin thái độ của chị không do lòng tham lam. Để có thể thản nhiên trở về chỗ tử địa, chỗ sấm sét ấy, con người phải được hướng dẫn bởi một thứ tình cảm mãnh liệt. Không biết là thứ tình cảm gì, tốt hay xấu, nhưng nó phải thực mãnh liệt. Chỉ nghĩ đến mức độ mãnh liệt ấy đã cảm thấy mọi so đo tính toán đều nhỏ mọn, không xứng.
Chị Bốn Chìa Vôi về làng được ba tháng, có người nói chị bây giờ như con hổ thọt. Chị dữ tợn vô song. Thằng Bướm — em vợ của Ba Thiên — bị phục kích hai lần, đều do chị mách. Ba Thiên cho vợ về quận qui chánh. Thím Ba nhờ Hai Mỏ Gảy vận động với Tư Huệ Héo, tìm cách đưa chồng trở về. Nhưng chị Bốn Chìa Vôi thì cứ lồng lên: Nó mang nợ với đồng bào nhiều quá lắm. Nó phải trả. Hồi chánh thế nào được.
Chị Bốn đứng về phe nhất định đòi nợ. Họ rình rập, nghe ngóng, thề không để cho Ba Thiên lọt tới cơ quan hữu trách. Họ phải đón Ba Thiên giữa đường.
Lấy oán báo oán, oán oán chập chồng. Biết bao giờ gỡ xong. Nhưng họ say rồi, họ bị thu hút vào cơn lốc.
Một buổi sáng vô vị ở chỗ đô thị, nhìn giọt phân chim nhỏ trên lá tôi bồi hồi nghĩ đến chị Bốn Chìa Vôi. Cuộc đời của chị, ngày nay, bỗng nhuốm vẻ bi đát, khốc liệt, làm cho sự yêu ghét trách giận của những kẻ ở chỗ yên ổn như tôi đều không xứng đáng. Chị Bốn Chìa Vôi, người đàn bà thô tục, tuệch toạc ấy.
Cuối năm, chúng tôi càng chú ý nhiều hơn đến mấy chậu hoa trước hè. Do sự chăm sóc ấy, tôi có dịp làm gãy một nhánh lan.
Thứ lan huệ, hoa nó màu tím, cánh mỏng, trông rất mong manh. Nhất là hoa nở ở đầu chót một cọng tròn bằng que tăm mà dài ngót nửa thước tây, vì vậy càng có vẻ mong manh. Mỗi cơn gió thoảng làm chùm hoa gật gù gật gù, cánh hoa mấp máy rung rinh.
Tiếc nhánh hoa, tôi đem cắm nó vào một ly nước. Sáng hôm sau, vẫn còn tươi, tuy không nở thêm chiếc hoa nào. Đầu cành có hai hoa nở, một nụ lớn, hai nụ bé; và tình trạng vẫn nguyên như thế sau hăm bốn giờ.
Sáng ngày sau nữa, trông lên bàn, thấy nó vẫn còn đó, mong manh mà nguyên vẹn. Tôi ngạc nhiên. Nụ lớn bằng đầu ngón tay út, vẫn cứ no đầy, tuy không hé ra nổi. Suốt ngày hôm ấy, thỉnh thoảng tôi thăm chừng. Nó có vẻ cầm cự được đến chiều. Chiều, quả nhiên vẫn tươi.
Hôm sau, thức giấc, tôi ngước mắt tìm nó liền. Vẫn tươi. Sau bảy mươi hai giờ, chỉ được tiếp tế nước qua một nhánh nhỏ như que tăm, cả hoa cả nụ vẫn không hề hấn gì. Cánh hoa mỏng như tờ giấy, sức chịu đựng của nó bền bỉ lạ. Tôi càng tò mò.
Hôm sau nữa, cuống hoa bắt đầu nhăn rồi. Tuy vậy tất cả chưa sụm hẳn. Nó còn đương đầu nổi ít ra trọn ngày hôm ấy. Chín mươi sáu giờ? Mấy đóa hoa mong manh như thế, lìa khỏi thân cây, vẫn tiếp tục tươi tắn trong khoảng thời gian đủ cho quân đội Do Thái phát khởi và kết thúc một cuộc chiến tranh.
Chiến tranh có thể có những hình thức bạo liệt mà chớp nhoáng như vậy. Nghĩ đến cuộc chiến tranh ấy rồi nghĩ đến thứ chiến tranh trên đất nước mình! Nó phát khởi từ ngày chị Bốn Chìa Vôi chưa chồng cho tới ngày nay, đứa con trai của chị đến tuổi gia nhập “lực lượng”, vác súng “bia” lên trời đoành đoành. Nó phát khởi từ ngày chị Bốn Chìa Vôi rửa ráy kỳ cọ khắp người con Sáu Ty, cho đến ngày nay Sáu Ty trở thành cán bộ chấp hành chính sách một cách khắt khe, ngã gục, để không còn đầu cho chị Bốn rửa lần cuối.
Người ta vẫn trách nền văn hóa chúng ta thiếu những công trình đồ sộ: không có Vạn Lý Trường Thành, không có Đế Thiên Đế Thích, thậm chí cũng không có những kiến trúc bằng cỡ tháp Chàm. Hôm nay thì chúng ta có thể vênh mặt lên vặn hỏi: Thế cuộc chiến tranh phần tư thế kỷ của chúng tôi? Vĩ đại chớ?
Và chắc chắn không còn ai dám cãi. Đánh nhau vào hậu bán thế kỷ thứ hai mươi không phải là trò chơi. Hãy tính số bom rơi trên đất nước Việt rồi chia cho từng đầu người xem; hãy tính số phát đạn cỡ lớn cỡ nhỏ bắn ra trong một trận đánh tại Việt Nam xem; chúng ta có ngay những con số danh dự, khả dĩ so sánh với bất cứ thành tích của bất cứ cuộc chiến tranh quốc tế nào, từ Thái Bình dương qua Đại Tây dương.
Trong những trường hợp hùng biện long trọng, trên các diễn từ, tuyên ngôn v.v... ít khi các chính khách quên nhắc đến hơn hai mươi năm khói lửa, phần tư thế kỷ quằn quại v.v...; trong thơ phú văn chương, văn nhân nghệ sĩ cũng không ngớt nói đến phần tư thế kỷ quằn quại, hơn hai mươi năm khói lửa. Con số càng lớn, khả năng xúc động càng cao. “Phần tư thế kỷ... dân tộc đau thương...”, lắng kỹ mà nghe: trong câu văn, trong giọng nói của những kẻ đề cập đến cuộc chiến tranh vĩ đại in tuồng có ngầm phảng phất chút gì như sự kiêu hãnh! Không sao?
Đối với những người như chị Bốn Chìa Vôi, một phần tư thế kỷ trước, chỉ thấy ở chị mấy nét tinh ranh, tính chai lỳ, lối ăn nói tục tĩu. Đã hẳn không phải đó là những nết quí đáng mơ ước. Nhưng những gì nhận thấy ở chị một phần tư thế kỷ sau thực đáng ngại. Có phải đích là chị đã lập tâm hại con Sáu Ty? Tôi không dám tin hẳn lời đồn của nhiều người. Tuy vậy những khi chị Bốn Chìa Vôi thuật lại cái chết của Sáu Ty và kết thúc: “Con thương nó, con thương nó lắm kia”, trông nét mặt và nghe giọng nói của chị có cái gì rờn rợn. Chị có giết người hay không giết người, có “đòi nợ” hay không “đòi nợ”, những gì xảy ra ở chốn hỗn độn ấy đều vô bằng, khó minh xác; nhưng trong tâm hồn chị rành rành đã có một yếu tố mới. Nó làm cho lời ăn tiếng nói chị khác đi, hành vi phong thái của chị khác đi, khác trước một cách đáng sợ.
Mà chị biết làm sao được? Chị sống giữa hoàn cảnh như thế, trong hỏa ngục, trong giết chóc, xâu xé hàng ngày, chị phải tả xông hữu đột để tranh sống. Làm sao ngăn cản ảnh hưởng một hoàn cảnh ác liệt như thế khỏi thấm nhiễm vào tâm hồn chị? Ngày một ngày hai, chị biến cải. Cuộc chiến kéo dài lâu quá: Trong nguy biến chị phản ứng tàn nhẫn, rồi quen với những phản ứng ấy.
Mai sau, khói lửa với quằn quại chấm dứt, nhưng cái nét tàn nhẫn nọ rồi có sẽ lưu lại như một di tích trong tâm hồn chị và những người như chị, lưu lại như một thêm thắt vào cái vốn các đặc tính truyền thống của dân tộc chăng?
Chém giết, dù kịch liệt đến thế nào, trong một trăm, hai trăm giờ rồi ngừng, thì chuyện có thể trôi qua. Nhưng chém giết lọc lừa suốt phần tư thế kỷ, như thế liệu có thành một tập quán sinh hoạt gây tệ hại tâm lý lâu dài?
Tôi theo dõi con chim quí báu ở đô thị nép ngủ trước hiên nhà tôi. Buổi chiều, không hề trông thấy nó về. Tối, nửa đêm, tôi thình lình rón rén hé cửa bước ra, soi tìm. Vẫn không thấy. Một đêm mưa lạnh, tôi nghĩ nó phải tìm xuống đậu những cành thấp. Họa may dễ trông thấy hơn chăng. Tôi hé cửa, rón rén. Lại chẳng thấy gì.
Ngẫu nhiên, một buổi sáng, trên bàn viết tôi bắt gặp một vết phân trắng y hệt trên lá lan. Thế này thì là một chú thạch sùng rồi!
Trời, lẫn lộn chim chóc với bò sát. Sự ngộ nhận không thể tha thứ được. Cuối năm, tôi ghi nhận thêm một sự sai lầm nham nhở, bẽ bàng.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 091
TRẦN BÌNH NAM * TRUNG ĐÔNG
Chính sách Trung
đông của Hoa Kỳ
(qua tòa đại
sứ đang xây tại Baghdad)
Trần Bình
Nam
Chính trường Hoa Kỳ đang sôi nổi về cuộc chiến
Iraq. Đa số dân
chúng muốn Hoa Kỳ rút lui càng sớm càng tốt, trong khi đảng Cộng hòa cầm quyền
và đảng Dân chủ đối lập tranh cãi về cách rút lui.
Qua
thông tin hằng ngày trên báo chí, truyền thanh, truyền hình chúng ta có cảm
tưởng đảng Dân chủ muốn quân đội Hoa Kỳ rút lui để cho người Iraq giải quyết
chuyện nội bộ với nhau, trong khi tổng thống Bush muốn duy trì quân đội Hoa Kỳ
tại đó cho đến khi thiết lập được một chính quyền thân Tây phương tại Baghdad.
Sự
thật không phải như vậy. Cả hai đảng đều có chính sách dài hạn duy trì sự hiện
diện của Hoa Kỳ tại Trung đông. Và điều này có thể thấy qua ngân sách 592 triệu
mỹ kim do chính quyền Cộng hòa đề nghị và quốc hội do đảng Dân chủ nắm đa số
chấp thuận mới đây để xây một tòa đại sứ vĩ đại của Hoa Kỳ tại Baghdad mà không
có một tranh luận ồn ào nào cả.
Theo bài báo “Fortress America” (tạm dịch: Pháo đài của nước
Mỹ) của ký giả Jane C. Loeffler đăng trên tạp chí Foreign Policy số
tháng 9 & tháng 10, 2007, tòa đại sứ 592 triệu mỹ kim đang được xây cất trên
một công viên lớn bên bờ sông Tigris nằm trong Green Zone tại Baghdad là tòa đại
sứ lớn nhất trong số 250 tòa đại sứ và cơ sở ngoại giao của Hoa Kỳ trên thế
giới. Tòa đại sứ mới chiếm 104 mẫu tây, tức rộng gấp sáu lần khuôn viên của trụ
sở Liên hiệp quốc tại New York, và rộng gấp mười lần tòa đại sứ mới đang được
xây tại Bắc Kinh.
Tòa
đại sứ mới tại Baghdad vừa là một
pháo đài (như tên bài báo của Jane Loeffler gợi ý) vừa là một thành phố nhỏ
(ngoại trừ chưa có một phi trường riêng) tự túc về mọi phương diện từ điện,
nước, hệ thống thoát nước cho đến tiếp vận. Ông đại sứ, nhân viên và gia đình có
thể sống và làm việc trong tòa đại sứ một cách an toàn ngay cả trường hợp thành
phố Baghdad bị bao vây dài ngày.
Trong khuôn viên tòa đại sứ có tiệm ăn, có siêu thị, có trung tâm mua bán, rạp
chiếu bóng, viện thẩm mỹ cho các bà, có sân tennis, khu thể dục thể thao, hồ
tắm, trường học, thư viện, và một American Club cho các sinh hoạt xã hội.
Tòa đại
sứ gồm 20 khu dinh thự trong đó có sáu khu chung cư mỗi khu có 619 phòng ngủ,
hai khu dinh thự khác dùng làm văn phòng có khả năng cung cấp chỗ làm việc cho
1000 viên chức. Giới chức cao cấp của tòa đại sứ có nhà ở riêng biệt. Khuôn viên
104 mẫu đất dù nằm trong Green Zone được bảo vệ vẫn được bảo vệ thêm bởi một bức
tường cao 3 mét và một đội quân gồm 1000 thủy quân lục chiến. Theo ông Charles
E. Williams, người phụ trách xây cất các cơ sở ngoại giao ở hải ngoại, chi phí
điều hành của tòa đại sứ mới ở Baghdad ước lượng 2 triệu 740 ngàn mỹ kim mỗi
ngày.
Nếu đảng
Dân chủ muốn bỏ mặc
Iraq - như dư
luận cho chúng ta có cảm tưởng như vậy- đảng Dân chủ sẽ không im lặng chấp thuận
ngân sách xây cất một tòa đại sứ qui mô như vậy tại
Baghdad mà không lên tiếng ngăn cản.
Như vậy,
như đã nói ở trên, hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đều có chính sách dài hạn duy
trì sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Trung đông như khuyến cáo của Nhóm Nghiên Cứu
Iraq (Iraq Study Group) do hai ông James Baker III, bộ trưởng ngoại giao
dưới thời tổng thống George H. W. Bush và Lee H. Hamilton Dân biểu Dân chủ
nguyên chủ tịch ủy ban Ngoại giao Hạ nghị viện làm chủ tịch và đồng chủ tịch gởi
tổng thống Bush ngày 6/12/2006, và đề nghị của ông cựu bộ trưởng quốc phòng
Donald Rumsfeld đệ trình ngày 3/12/2006.
Trong thời kỳ Việt Nam hóa chiến tranh Việt Nam (1968-1972) Hoa Kỳ cho
xây cất để mở rộng thêm rất nhiều căn cứ cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa, từ
Trung tâm Huấn luyện, căn cứ tiếp liệu, đến căn cứ đồn trú và trại gia binh để
có khả năng tăng quân số cho kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, nhưng các công
trình xây cất này đều bằng vật liệu nhẹ chỉ dùng được tối đa từ 5 đến 7 năm (và
sau này chúng ta biết là các nhà hoạch định sách lược Hoa Kỳ đã có chính sách
rút lui vĩnh viễn khỏi Việt Nam sau khi ký được hiệp định ngưng bắn với Hà Nội
và thu hồi tù binh).
Theo bản
nghiên cứu Baker-Hamilton, Hoa Kỳ nên áp dụng chiến lược tái phối trí
gồm: 1) Tăng cường huấn luyện quân đội
Iraq để họ có
thể duy trì an ninh ngăn chận một cuộc nội chiến lan rộng. 2) Tái phối trí quân
đội tùy theo tình trạng an ninh, và nên chấm dứt nhiệm vụ tác chiến sớm, tốt
nhất là vào đầu năm 2008. 3) Cải thiện quan hệ với Iran và Syria và yêu cầu hai
nước này giúp ổn định tình hình tại Iraq và Trung đông, và cần tìm một giải pháp
cụ thể cho cuộc tranh chấp Do Thái – Palestines.
Về
kế hoạch dài hạn ông Rumsfeld, trước khi từ chức đã trình tổng thống Bush một
chương trình tái phối trí quân đội Hoa Kỳ tại Trung đông. Ông đề nghị tập trung
quân đội Hoa Kỳ từ 55 căn cứ như hiện nay còn 5 căn cứ và đóng tại những vùng an
toàn tại Iraq hay tại Kuwait để sẵn sàng can thiệp.
Nhóm nghiên cứu Baker-Hamilton không đề nghị rút quân một cách dứt khoát
và vĩnh viễn ra khỏi Trung đông mà chỉ đề nghị chấm dứt tác chiến trên đường phố
để tránh tổn thất sinh mạng binh sĩ. Toàn bộ đề nghị này không trái với đề nghị
tái phối trí của ông Rumsfeld.
Việc xây cất tòa đại sứ mới tại
Baghdad cho thấy Hoa Kỳ đã có kế
hoạch ở lại Trung đông sau khi chấm dứt các cuộc giao tranh với quân nổi dậy và
tái phối trí lực lượng quân sự. Việc tái phối trí này là một phần trong chương
trình tái phối trí toàn bộ các lực lượng Hoa Kỳ trên thế giới như đã được Bộ
quốc phòng Hoa Kỳ tiết lộ vào tháng Tư năm 2005.
Theo kế
hoạch này Hoa Kỳ sẽ giảm quân số 71.000 tại Đức hiện nay xuống một nửa. Trong số
71.000 quân này, bộ binh gồm 56.000 người sẽ được giảm 60%. Hoa Kỳ sẽ thiết lập
một số căn cứ nhỏ đóng tại
Romania hay
Bulgaria với
những đơn vị quân đội trang bị nhẹ có khả năng can thiệp
nhanh chóng để chống khủng bố. Các căn cứ quân
sự ở vùng Trung Á như Uzbakistan,
Tajikistan và
Kyrgyzstan được
thành lập năm 2001 vì nhu cầu chiến tranh tại
Afghanistan sẽ
biến thành những trung tâm huấn luyện và tiếp vận. Số quân đóng tại Nhật Bản và
Nam Hàn cũng sẽ được giảm xuống 15% còn lại khoảng 85.000 quân. Sự giảm quân này
trong vùng Thái bình dương sẽ được bù đắp lại bằng những đơn vị hải không quân
với hàng không mẫu hạm đóng tại Guam và Hawaii. Hoa Kỳ cũng sẽ chuẩn bị những
căn cứ tiếp vận và hành quân tại Úc,
Singapore và Thái Lan. Nói
chung Hoa Kỳ sẽ giảm quân số tại hải ngoại nhưng không giảm khả năng hành động
và can thiệp trên thế giới.
Tại
Trung đông, trung tâm ngoại giao và chính trị là tòa đại sứ mới được xây cất như
một pháo đài tại Baghdad được yểm
trợ bởi một số căn cứ quân sự như đề nghị của ông Rumsfeld. Một chính phủ
Iraq thân Hoa Kỳ
sẽ làm việc trong Green Zone và sẽ được quân đội
Iraq bảo vệ.
Một thực
tế trước mắt dân chúng Hoa Kỳ đang quan tâm là Hoa Kỳ đang có chiến tranh, một
cuộc chiến tranh không được lòng dân và Hoa Kỳ rút ra sớm ngày nào tốt
ngày đó. Nhưng đảng nào làm việc đó mà không có chính sách làm cho
Hoa Kỳ mạnh hơn, gây lại uy tín đã mất trên thế giới thì đảng đó sẽ thất bại,
trước mắt là cuộc bầu cử tháng 11 năm 2008.
Cuộc chiến tranh tại Iraq tuy còn nhì nhằng, nhưng chính sách lưỡng đảng
là rút quân khỏi chiến trường Iraq nên sẽ không còn là một yếu tố ảnh hưởng đến
cuộc bầu cử tổng thống năm 2008 cho bằng chính sách của hai đảng Cộng hòa và Dân
chủ đối với tình hình chung tại Trung đông nói riêng và sự ổn định thế giới nói
chung trong đó có chính sách của Hoa Kỳ đối với Liên hiệp Âu châu, đối với Trung
quốc và Liên bang Nga.
Đảng nào qua các chính sách trên củng cố được uy tín của Hoa Kỳ đảng đó
sẽ được dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ.
Người ta
đang chờ đợi bản báo cáo của tướng David Petraeus, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại
Iraq và đại sứ Ryan Crocker sẽ đệ trình tổng thống và quốc hội vào giữa tháng 9
này như là báo cáo để dựa vào đó hoạch định sách lược quân sự của Hoa Kỳ đối với
cuộc chiến Iraq.
Nhưng
chiến lược của Hoa Kỳ tại Trung đông hình như đã được đồng thuận của hai đảng,
và bản báo cáo của tướng Petraeus cũng không có gì có thể thay đổi chiến lược
đó. Bản báo cáo sẽ phản ánh thực tế của chiến trường là trước sau Hoa Kỳ cũng
phải xuống thang chiến tranh, nhưng cần thời gian để củng cố một chính phủ thân
Hoa Kỳ tại Baghdad. Trong khi đó Hoa
Kỳ tái phối trí quân đội về những vị trí có thể can thiệp nhanh chóng bằng hải
lục không quân phối hợp.
Tòa đại
sứ Hoa Kỳ đang được xây cất tại
Baghdad sẽ là cứ điểm phòng vệ cuối
cùng, ngay cả trong trường hợp xấu nhất là
Baghdad bị quân nổi dậy bao vây.
Trần Bình
Nam
September 4,
2007
THƠ TRẦN MỘNG TÚ
Kiếp Sau
Đêm qua em nằm mơ
Mẹ đem em gả chồng
Cho một chàng thi sĩ
Số chàng rất long đong
Hai vợ chồng làm thơ
Trong một gian lều cỏ
Mái dột mái cứ dột
Làm thơ vẫn làm thơ
Thơ chàng dán trên vách
Thơ em che trời mưa
Một đàn con tám đứa
Lớn lên chỉ mê thơ
Ngoài vườn đầy hoa nở
Trong lòng ngập mộng mơ
Cửa lều thường không khép
Nên Xuân đến bốn mùa
Mặc người đời mua bán
Mặc cuộc đời hơn thua
Cả nhà làm thi sĩ
Nên nghèo xác nghèo xơ
Em cầu cùng thượng đế
Kiếp sau có lấy chồng
Xin lấy chàng thi sĩ
Dầu biết chàng tay không...
Con Mèo Cô Đơn
Con mèo nằm ngoài sân
Cô đơn đùa với nắng
Tôi bên trong cửa kính
Cô đơn ngắm con mèo
Cỏ màu xanh ngọc thạch
Chiếc lưng trắng quay tròn
Nắng lung linh từng giọt
Mèo xoay quanh nỗi buồn
Tôi nhìn tôi trên kính
Chiếc bóng mờ vết loang
Cửa hôn nhân khép chặt
Giam tôi rất nhẹ nhàng
Mèo có góc sân nhỏ
Tôi có khung kính mờ
Hai ta cùng bé nhỏ
Niềm cô đơn vô bờ
Mèo ơi phơi trong nắng
Khô hộ tôi nỗi buồn
Quê xưa, người tình cũ
Vẫn ướt sũng trong hồn.
TRẦN NHẬT TÂN * CHÂN DUNG
Chân dung tự họa
Trần Nhật Tân
Tóc em che khuất ngọn hải đăng. Anh hóa thân con tàu biển
giữamê lộ giọng em vẳng từ đỉnh Thi sơn đang kể hoa cỏ nghe câu
chuyện thần tiên.
Giờ đây( khi trở về)các loài ác thú giục anh đánh cắp lửađể
thiêu hủy mấy nghìn trang thi sử từ thời hổn mang của tuổi địa cầu
...Anh chợt cảm toàn thân mình run bật nên vội hát lớn bài ca
nhiệt đới mà chỉ nghe tiếng hú vọng lại của người tiền sử đang phơi
xương tuần lộc làm vòng nữ trang.
Ô ước mơ sao đầy dông bão người homo sapiens chợt tỉnh bên
chung trà u uất anh còn phải ru em thêm ngậm ngùi bao nhiêu thế kỷ...
biết bao Hoa Xanh chưa kịp hái những chiều mắt lưu ly gợi anh từng
nguyên tử nhớ anh đành úp mắt nghe gió vuốt ve một thân ngọn cuồng
si trở về(nay đã trở về) bên suối mệnh chung.
1981
Trần Nhật Tân
Tóc em che khuất ngọn hải đăng. Anh hóa thân con tàu biển
giữamê lộ giọng em vẳng từ đỉnh Thi sơn đang kể hoa cỏ nghe câu
chuyện thần tiên.
Giờ đây( khi trở về)các loài ác thú giục anh đánh cắp lửađể
thiêu hủy mấy nghìn trang thi sử từ thời hổn mang của tuổi địa cầu
...Anh chợt cảm toàn thân mình run bật nên vội hát lớn bài ca
nhiệt đới mà chỉ nghe tiếng hú vọng lại của người tiền sử đang phơi
xương tuần lộc làm vòng nữ trang.
Ô ước mơ sao đầy dông bão người homo sapiens chợt tỉnh bên
chung trà u uất anh còn phải ru em thêm ngậm ngùi bao nhiêu thế kỷ...
biết bao Hoa Xanh chưa kịp hái những chiều mắt lưu ly gợi anh từng
nguyên tử nhớ anh đành úp mắt nghe gió vuốt ve một thân ngọn cuồng
si trở về(nay đã trở về) bên suối mệnh chung.
1981
NGUYỄN TUÂN * XÁC NGỌC LAM
Xác ngọc lam
Nguyễn Tuân
Ở làng Hồ Khẩu có nhà họ Chu làm giấy nổi tiếng đã đến mấy mươi đời liền. Ông tổ bốn đời của nhà họ Chu, đâu suýt nữa có lần ra làm quan. Thời ấy, nhà vua xuống chiếu cho quan địa phương phải làm sổ đệ dâng về những môn bách nghệ trong nước và tên họ những người có tài thủ công trong các môn ấy. Về các phường làm giấy bán giấy, một hạt Hà Đông, nhà họ Chu được đứng đầu vào sổ kê khai bách nghệ. Ý chừng quan địa phương đã cho giấy là có mật thiết với văn chương khoa bảng của một nước sùng thượng kẻ sĩ nên đã liệt họ Chu lên đầu sổ. Chẳng rõ như thế có phải không, nhưng cứ cái chất giấy dó của nhà họ Chu đem ra xét thì đến giấy trúc của Tầu cũng xê ra lui chứ đừng nói là giấy dó của bất cứ lò nào xứ ta nữa.
Nhà họ Chu vốn không làm giấy moi bao giờ. Chỉ toàn làm giấy lụa và giấy lệnh hội để viết bằng viết sắc. Và vào khoảng đầu năm Tí Mão Ngọ Dậu có khoa thi, thì nhà ấy mới làm đến thứ giấy để học trò đóng quyển gọi là giấy thi. Giấy của họ Chu chế ra, bao giờ soi lên cũng có hai chữ Chu Hồ in lối thủy ấn. Hai chữ thương tiêu viết theo lối triện cổ trước đời Tần nhắc cho người dùng giấy biết rằng đấy là giấy của họ Chu làng Hồ Khẩu. Trông đến tờ giấy dó của nhà này là ai cũng biết ngay, chẳng cần phải soi lên mà tìm dấu thương tiêu thủy ấn nữa. Cái đám đàn bà con gái buôn tạp hóa họ đã đố nhau là xếp ra trước mặt rất nhiều loại giấy của rất nhiều nhà làm giấy bán ra, rồi người bị đố sẽ nhắm mắt lại, chỉ được lấy tay rờ mà phải gọi được tên giấy của lò nhà nào ra. Chẳng bao giờ các bác các cô ấy gọi sai các loại giấy của nhà họ Chu cả. Thì ra gồng gánh ăn phường ăn hàng mãi khắp chợ thôn quê, họ đã hiểu hết những đức tính của giấy nhà họ Chu. Nó nhẵn mặt mà không cứng mình mà chất lại dai và lắm tờ khổ rộng mình dầy thế mà bắc đồng cân lên thì nặng chỉ như cái lông ngỗng. Mặt giấy xốp, nghiêng giấy ra ánh sáng mà nhìn chất cát dó thì nó như làn da má trinh nữ phẳng đượm chất tuyết của lớp lông măng. Vuốt vào mặt giấy, người ta có cái cảm tưởng được sống là một điều dễ chịu; mùa nực, rờ vào giấythấy mát cả lòng bàn tay và về tiết đông ấp tay vào giấy nhà Chu, thấy nó âm ấm như có sinh khí. Đưa lên mũi, tờ giấy đượm hơi thơm của một thứ mùi thảo mộc còn tươi sống, thật là một vật quý trên thế gian. Tờ giấy dó từ nhà Chu họ đưa ra thị trường, ai nhìn thấy cũng lấy làm sung sướng. Nó đẹp đến nỗi mọi người đếu yên trí rằng dẫu đứa thất phu có cầm bút vẽ bậy vào đấy thì những nét lếu láo ấy vẫn cứ thành được hình chữ.
Nhưng hồi ấy người ta còn trọng nho phong và chúng nhân đều là người trí sĩ cả, nên tờ giấy nhà họ Chu còn được may hơn là phận những vách đá giơ mình ra cho người dốt thích thơ vào. Người có chữ nhưng mà văn xoàng và chữ xấu thì đều không nhẫn tâm đè giấy họ Chu ra mà viết. Người dốt thì biết kiêng sợ và chỉ trông thấy giấy có thủy ấn Chu Hồ là đã chạy xa rồi. Thành ra, kẻ sĩ ở vào cái thời ấy thấy ai dùng đến giấy Chu Hồ là họ tìm đến; vì chẳng được văn đại khoa thì âu chữ cũng phải có nét bút thiếp – Mà sự dùng giấy dó nhà họ Chu Hồ đã thành một lối biểu dương riêng của một phái quý tộc trong làng văn mặc.
Cái lần ấy được triệu vô kinh và được hầu lạy quan thượng thư bộ Lễ để tỏ bày những đức tính của giấy dó lò nhà, ông cụ họ Chu đã làm cho bực lão thần và tất cả thuộc nha một bộ phải kinh ngạc và trầm trồ. Ông cụ đã bày các thứ giấy các loại án thư và bắt những con gián con nhậy con dài đuôi thả vào đám giấy ấy. Thì lạ quá, cả một lũ côn trùng kẻ thù truyền kiếp của sách và giấy đều chạy lảng xa rất nhanh khỏi chồng giấy và lẩn trốn đi đâu hết cả. Bộ Lễ bèn làm giấy dâng lên chỗ chín bệ và nhà vua bèn xuống chỉ cho ông cụ già họ Chu sung vào một chân trong Cẩn Tín Viện để ở luôn nơi Thành Vàng sớm tối chế giấy cung cho cả một hoàng tộc và cả một triều đình. Bộ Công đã có chỉ phải xây hai lò giấy dó bên sông Hương và ông già họ Chu sẽ là vị quan trọng dụng lần thứ nhất để coi mấy lò giấy mới mở đó. Nhưng ông già họ Chu lấy làm sợ hãi mà tâu lên rằng hiện trong mình đang mang cái tang mẹ và xin được lộn về bắc, cứ ở nơi Tây Hồ nguyên quán mà chế giấy Ngự Chỉ và thường niên đệ vào kinh do quan địa phương săn sóc việc đưa đi theo những kì hạn nhất định. Triều đình thấy việc ông già họ Chu cũng thuộc về một trường hợp đình gián nên cũng ưng và không nghị tội.
Vậy từ ấy, giấy Chu Hồ tiếng lại càng bay rộng ra. Thường niên gặp kỳ vạn thọ hoặc khánh đản triều đình vẫn nhớ đến công người làm giấy, ban cho nhà Chu hết Tưởng lục này đến Tưởng lục nọ và ân tứ cho vô khối là vàng lụa. Đời một người thôn dã lái buôn mà được đặc sủng đến dường ấy, thực cũng là một sự đáng ghi lại nơi ngoại sử của một thời trong một nước chỉ biết quý yêu có kẻ sĩ. Và cổng lò giấy nhà họ Chu làng Hồ còn nhiều ngàylại vui nhộn quá cửa hầu quyền. Lốt xe vệt móng trước nhà người thường nhân, hãn hữu lắm mới chịu ăn rêu đậu cỏ. Những bực cao sang tài huấn của một thành đô vẫn thường lấy chỗ ông già Chu là một nơi hẹn hò với hạnh phúc. Được cái nhà họ Chu có cái đức làm người bình dị rất vững, nên vẫn cố giữ mực thường, không vì thế mà thành kiêu lộng và lại càng vui với cần lao và nghề nhà ngày một càng tinh xảo. Vào nhà ấy người ta không thấy có gì là lộ ra cái lối phú quý chơi trèo. Giá vào kẻ khác thì ít ra ở đấy cũng đã điểm những vệt vàng lớp son - mà vả cũng chính đáng lắm chứ sao. Nhưng không. Ở đây vẫn chỉ có cái tầu dó gỗ xù xì, tảng đá ép ấy vẫn nhẵn lặng và hòn đá nghè giấy rất khiêm tốn nằm trên giữa nền đất trị. Từ đời ấy đến đời khác vẫn chỉ có bấy nhiêu. Rất cổ điển, cổ kính và đơn bạc. Cái gì mà cả dòng nhà ấy biết quý yêu thì vẫn lại là cái tờ giấy do mình chế ra cho người có chữ dùng.
Cho đến bây giờ.
Cái tảng đá xanh màu núi mùa thu và vuông mỗi chiều hai thước ta, dùng để nghè giấy cho nhẵn mặt, vẫn chỉ là một vật rất thành thuộc ở với nhà họ Chu đã đến sáu bảy đời. Nó câm lặng mà phụng sự như không biết có mình nữa. Và người ta quý nể nó như là nương nhẹ một người lão bộc. Ít khi người nhà họ Chu nỡ nặng tay gieo đầu chầy xuống miếng đá của tổ phụ lưu lại, những khi nghè mặt dó giấy. Mà người ngoài cùng làm nghề này thì cũng chỉ thấy viên đá là một viên đá, đánh cho nó cái giá của một viên đá thôi. Cả đến nhà họ Chu cũng nghĩ vậy.
Nhưng… hòn đá ấy vốn có một đời sống thuộc về tâm hồn. Kể cũng hơi lạ…
Rừng Hoành Bồ có một nương dó. Rộng sâu lắm. Cũng gần thành một cánh rừng riêng. Gió thung lũng thổi vật vào nương dó, mỗi đợt muốn đi gấp qua hết lòng nương thì cũng phải tàn mất nửa điếu thuốc quấn. Trong cái lỗ cùng tịt của rừng dó, có một cây dó không rõ mọc từ đời nào mà cao vút, cành lá vênh vào át cả những cây Thiên niên tùng gần đó.
Loài dó vốn là một loại cây trung bình, thường chỉ cao hơn đầu người, mấy khi đã có được chút bóng dài. Vậy mà cây dó cổ thụ này mình to như mình lim, mỗi lúc mặt giời chỉ lệch quá ngọ một phần nén nhang là bóng nó đã rợp cả một khoảng lòng suối xa kia để làm vui cho một đàn cá hương ngư. Người trung châu mình vốn hay khiếp lánh những cái gì to quá, không dám nhận những cái cao to là hẳn vật riêng của thế giới mình bèn gọi cây đại thụ đó là Gốc Dó Thần, phải nhắc đến thì chỉ dám nói thầm và lần gặp mùa bóc dó, họ đều lảng xa khỏi gốc dó thần. Góc nương dó có gốc cây thần, chả mấy mà đã thành hoang vu và trở nên bí mật như một rừng cấm, gió ngàn có lách qua được kể cũng còn mệt. Chỉ có bọn thổ dân sơn cước muốn mở một lối đi tắt là còn dám lần vào đó chứ đến bọn người Kinh đi bóc dó thuê là đều lùi cả.
Nhiều buổi rừng dó lặng gió quang mây, từ góc rừng cấm nổi lên những tiếng hát, giọng không ra bắc không ra nam mà hơi hát thì toàn bắt chênh đi cả; lúc xa lúc gần, cái thứ tiếng nói không ai hiểu là tiếng gì đó đi khắp cả nương dó. Tiếng nói, đôi khi lại có chen vào ít tiếng trúc. Bọn người Kinh đi lên rừng Hoành Bồ bóc dó, nghe thấy tiếng hát giữa nơi mênh mông đìu hiu, giá đừng có những cái lối khiếp đảm tầm thường, thấy bất cứ cái gì không quen thuộc như là cơm áo và tiền là y như đã sợ - thì vào những ngày gió tạnh mây quang nơi nương dó ấy, là họ đã có dịp gần nghệ thuật và tai nghe được cái tiếng thuần túy của nghệ thuật rồi đấy. Họ nghe tiếng hát lần lần vẳng lên thì cái lòng kinh hãi nơi lòng họ cũng tăng lên dần dần. Thậm chí có người ngất đi và cấm khẩu, phải đốt đến hàng đống là khô mới tỉnh lại. Mới hay tiếng hát u hiển và tiếng trúc tuyệt vời có khi lại cũng làm tội đến cả những kẻ đi làm thuê ăn công nhật. Rồi có bao nhiêu người Kinh đi bóc dó thuê kia đều lấm lét bỏ cả việc, quây quần lại sát thít vào nhau bên đống lửa cho đỡ sợ. Tiếng hát tắt đã lâu lắm bọn họ mới lại dám lò dò ra làm nốt buổi. Nhưng người thổ dân cùng đi bóc dó chung với họ, lấy thế làm cười và bảo họ:
- Không việc gì mà thất đảm đến như thế. Cô Dó hát đấy. Cô Dó không có làm hại ai bao giờ.
- Các bác bảo cô Dó hát? Ai là cô Dó?
Đám thổ dân sơn cước vui vẻ chỉ đúng cái cây Gốc Dó Thần ở phía xa:
Cô Dó ấy đấy. Cô ở cái cây đấy. Cô là hồn sống của cái cây ấy. Chúng tôi vẫn thấy luôn. Hôm nào đi làm về, gặp cô thì y như về đến nhà, ở mãi trên kia – bọn tôi cũng đều vui và quên mệt. Cô lúc nào cũng mặc một cái áo màu chàm.
Họ còn nói bọn thợ Kinh nghe rằng cứ năm nào cô Dó hát trong nương thì giấy dưới vùng xuôi làm ra rất nhiều. “Chắc dưới vùng xuôi lại có khoa thi khoa thiếc gì , nên năm nay cô Dó lại hát”. Bọn thợ Kinh tính ra thì năm họ đang bóc dó vụ chiêm đây là một năm Mão. Vả nghe thấy đám người núi nói chuyện giọng thành thực, nên bọn Kinh cũng đỡ sợ và từ đấy một vài người lại còn sinh ra tò mò nữa. Họ rình cô Dó ra hát – Bọn thổ dân nói đúng đấy. Cô Dó mặc áo xanh màu lam và cứ đi đến gốc Dó Thần thì vụt mất. Nhiều lần thấy thái độ bọn thợ Kinh là suồng sã lộ liễu quá, cô Dó giận dỗi mất hàng mấy hôm. Bấy giờ thấy nương vắng tiếng cô Dó, bọn thợ Kinh phần đông mới thấy nhớ và thấy hình như ngày làm của họ thiếu mất một cái gì. Nhưng sau đấy ít ngày, rừng dó lại vang tiếng sáo tiếng hát. Bởi vì vui hát là bẩm tính của cô Dó và cô vốn không phải là một sinh vật trong nhân loại nên lòng tha thứ ở người cô rất quảng đại.
Chuyện này đồn về đến vùng xuôi.
Có cậu Năm nhà họ Chu ở ven hồ Lãng Bạc nghe chuyện lấy làm mê lắm. Vụ bóc dó mùa năm sau cậu Năm bèn dặn dò lại công việc làm ăn cho người nhà trông đỡ lấy lò giấy làng Hồ Khẩu rồi theo luôn bọn thợ bóc dó lên rừng Hoành Bồ. Cậu tìm vào nương dó đánh gianh làm nếp nhà bên suối, ngày ngày ăn cơm lam chấm với tro giang tàn nứa đốt ra làm muối. Cậu Năm nhất định chờ cô Dó. Đôi khi cậu Năm bắt chợt được tiếng hát tiếng trúc, nhưng đến bóng người áo chàm thì từ ngày vào nương, cậu chưa được thoáng một lần nào. Thì ra cái giống tình xưa nay vẫn là thế, lúc không thì chẳng sao, khi mà một bên đã hơi hiểu đến tình ý thì y như e lệ thẹn lánh rồi là bày ra cái trò bất diệt đi trốn đi tìm. Biết có người trai đẹp dưới Kinh tìm đến chỗ cỏ cây muôn năm xanh tươi để chí tình cầu đến cái thanh cái sắc của mình, cô Dó trở nên mất hết tự nhiên rồi lãng hết lối mọi ngày tung tăng trong nương. Và giờ, có cao hứng lắm thì cô Dó chỉ ngồi trong Gốc Dó Thần mà hát cho đủ thành điệu thôi. Thế mà cậu Năm đã chờ bên gốc cổ thụ hôm nào không rõ. Cậu Năm là người có chữ nên cậu ngờ rằng điệu hát cô Dó mang máng như lối trong giáo phường đọc phú và nhiều khúc thì lại có cái âm luật xốc vác của thơ cổ phong năm chữ ngâm bằng một giọng bi tráng khê nồng của người khách hiệp gặp đường cùng. Đến đoạn sau thì dài hơn, trong trẻo như pha lê và vui như tiếng thông reo giữa giời nổi gió. Có dờn dợn chăng thì là cái đoạn chót của bài hát. Nó lơ lớ ấm ế ôi a như lối ma hời đưa võng ru con. Đứt câu hát, lại có tiếng cười gằn và tiếng thở dài. Buồn cho hoang vu và cảm thấy lẻ loi, tay dờ dẫm Năm ta bấm móng tay vào vỏ dó thì thấy từ ruột cây tuôn rơi xuống hai dòng lệ đặc. Trời, như vầy thì đến phải lấy nhau mới xong. Cậu Năm bèn khấn xin cô Dó cho thấy mặt. Bóng dương đã ba lần chếch bên cây to mà cậu Năm vẫn một niềm chôn chân đứng chờ giữa trời. Cây to vẫn im lặng, gió rừng chiều gỡ một cái lá, thả từ chỏm cây vào lòng cậu Năm như trao cho nhau một bức thư không lời.
Ngày thứ tư, mặt giời vừa vươn lên khỏi ngàn trước mặt là đã thấy cậu Năm đứng dướic gốc dó tay cầm một cây rìu lưỡi sáng quắc. Người tình nhân ấy bữa nay trông quả quyết như một người sơn tràng sắp ngả một cây gỗ rừng rồi tay đè rồi đẽo sẹo rồi cốn nốt và thả đà.
Cậu Năm vỗ vào thân cây, tiếng nói thất thanh, kêu rằng cậu không đợi được lâu hơn nữa – trong người cậu thấy rề rề mầm bệnh sốt rét rừng và nếu hôm nay cô Dó còn lánh mặt nữa, thì phải phá nhà cô nghĩa là chém cây cổ thụ mà “còn tình chi nữa là thù đấy thôi” rồi cậu xuôi luôn về Kinh đây này cho mà biết.
Đến nước này thì cô Dó phải ra. Dưới gốc, kẻ khóc người cười. Cả hai cùng e ấp rồi cùng khấu đầu tạ lỗi. Sóng vai trên cỏ sương hai người bàn đến chuyện đưa nhau về Kinh. Chợt nhìn đến lưỡi tầm sét sáng như nước nằm dưới chân, hai người cười liếc nhau và cậu Năm cầm liệng luôn xuống dưới lòng con suối bạc. Sợ người ta ngượng vì mình và yêu nhau kém tự nhiên đi, mấy con bướm phấn đậu ra những ngọn lau xa. Đàn chim – má cũng ửng hồng lên vì chút thẹn lây – bay đãi lạc đậu lên chòm xanh, chừng cũng cho thế là phải, bèn rủ nhau đi sang rừng khác, sau khi gáy lên mấy dịp tươi nhanh để tỏ mừng. Mấy bụi sim quanh quất gần đều cho mở một loạt cánh tím, mặc dầu mùa hoa tím đã hết từ ngày hạ.
Cô Dó sụt sùi hỏi cậu Năm rằng:
- Trên này tôi đã quen với thảo mộc. Về dưới Kinh anh cây cỏ cằn vắng, chất xanh nghèo nàn sẽ biết gửi mình nơi nao và ở vào đâu?
- Em sẽ ở với đá với nước. Lấy cái xanh của nước thay tạm cho cái xanh của lá, lấy cái lành vững của đá thay cái mềm lạnh của cây, anh tưởng cũng tiềm tiệm được.
- Đá nào? Nước nào?
- Nước Hồ Tây. Và phiến đá làng Hồ Khẩu. Nhà anh làm giấy ở kẹt vào giữa một con sông và một cái hồ rộng. Có hòn đá nghè giấy, mỗi chiều bằng vai em, tưởng em cũng không đến nỗi chật quá. Vả em vốn sinh trưởng bằng nhựa dó và dưới ấy là nhà anh làm giấy, sự sống hàng ngày có thêm em nữa, cũng không phiền thêm chút nào. Thế giờ liệu đã xuống núi được chưa?
Cô Dó gật gật. Rồi cô xin phép cậu Năm cho cô khóc một lúc để tỏ chút nghĩa với Rừng Cao Cả. Cô quỳ xuống lạy Ngàn Xanh hai lạy, giọt dài không khác người con gái lạy sống cha mẹ đẻ lúc bước chân về nhà chồng. Cậu Năm mắt cũng rớm lệ. Con suối bạc cảm động quá ngừng hẳn lại, không chịu chảy xuôi nữa. Lòng suối im ả như gương tàu phản chiếu không nhòe lấy một đường viền nào, cái bóng hai người đang lấy tà áo chùi lẫn cho nhau những châu lệ hạnh phúc sớm mờ. Hai người say sưa và mệt mỏi, đi trên một cái lối mòn ăn ra dốc đèo.
Chúa rừng cho nổi một cơn gió nóng tiễn đưa cô Dó ra cửa ngàn. Có một con hươu đực đang vươn cổ cao nhìn cô Dó xuống đồng bằng, mỗi lúc một bé dần. Nó quật sừng nó vào cái cây đại có những cành ngang và lá to làm bận tầm mắt nó.
Cái bóng áo chàm người sơn thần nữ vu quy đã tan lẫn vào cái xanh lớn lao của ngàn già. Bữa ăn chiều ấy, hươu đực ngốn tấc cỏ thấy chát đắng.
Nương dó mất tiếng hát từ đấy. Sớm ngày sau rừng dó bỗng kêu một tiếng ầm như ngọn núi nào lở thụt ngã xuống vực. Gốc dó thần đổ vật. Người giai nhân đã đi. Đất này trơ lại những lá úa rầu.
Nhưng mà từ nay ven hồ Tây và trên dòng sông Tô Lịch lại có tiếng cô Dó bây giờ xuống hát ở dưới đồng bằng.
Hát riêng cho cậu Năm nhà họ Chu nghe thôi.
Hôm về tới làng Hồ Khẩu, trời đã canh hai, cả nhà đều đã ngủ say. Cậu Năm đưa cô Dó về nhà mà không ai biết tí gì cả.
Trông thấy viên đá xanh nghè giấy đặt chìm xuống nền đất trị, cô Dó cười hỏi chồng:
- Đấy phải không?
Cậu Năm đang dở tay đốt đèn quay lại gật gật. Thế là cô Dó lẩn mình ngay vào tấm đá, sau khi ăn hết hương thơm của mấy trăm tờ sắc vừa seo xong còn ướt để ở ngoài hiên – Mấy ngày đi đường, cô đói quá. Lại vừa mệt nữa. Nên chỉ kịp chào cậu Năm và nói có một câu “Đầu canh tư, anh đánh thức em dậy với” là cô đã ngủ ngay trong lòng đá.
Riêng cậu Năm thì không ngủ được. Ngồi uống rượu một mình cho đỡ lạnh, Năm thấy phải độc ẩm có ý buồn buồn, bèn thành kính rót một chén xuống mặt phiến đá và tuy mới sang canh ba được có một lúc, cậu cũng đánh thức vợ dậy để cùng nhắp một chén tân hôn.
- Này em này, đã sang canh tư rồi. Sao tua dua tháng mười đã gần tụt hết xuống phía đoài rồi đấy. Em ngồi dậy uống một chén mừng cho đỡ lạnh
- Anh lấy một ít bột dó chưa seo đắp lên mặt đá cho em kẻo trong này lạnh lắm. Ngày thường, anh bắt đầu làm việc từ lúc nào?
- Cứ trời gần hửng sáng thì anh đã trở dậy nghè giấy. Đúng ngọ, ngừng tay một lát ăn cơm. Mặt trời lặn thì anh nghỉ hẳn tay chầy.
- Từ nay có em về ở cùng, anh nên đổi thời khắc biểu cũ đi. Em thuộc chất âm, ít chịu được cái nóng sáng của mặt giời. Em muốn từ bây giờ, anh thay giờ làm việc, lấy đêm ra mà làm ngày. Như thế nó tiện cho em những lúc phải đỡ đần anh một tay. Vả chăng, cái việc em về làm bạn với anh, cũng không nên cho người khác biết cả đến người nhà nữa. Muốn giữ bền được hạnh phúc, chúng ta nên mai ẩn ít nhiều tung tích của mình đi để tránh những việc dòm giỏ của chung quanh. Lại còn thế này nữa: là thỉnh thoảng em có muốn lách mình ra khỏi đá để hát cho anh nghe hoặc đánh bóng mặt giấy cho anh, mà phải lộ tấm hình hài cho người ngoài thấy thì thực là một điều không những là bất tiện mà lại còn nguy hiểm cho hai mình nữa. Nào, anh đổ xuống mặt đá cho em một chén rượu nữa, người em vẫn còn mệt lắm, nhưng đã là ngày vui nhất trong cuộc đời thì phải say và phải hát chứ. Em sẽ hát bài ngắn thôi rồi đi nằm. Lúc nào gà gáy canh một đêm nay, em sẽ dậy. Anh cũng đi ngủ; để tối hãy làm giấy.
Cậu Năm nghe theo lời vợ hiền. Và từ bấy giờ cả nhà đều phải để ý đến những giấc ngủ ngày triền miên của cậu Năm. Hỏi, cậu bảo rằng cậu vừa tìm được một phương pháp mới để chế giấy cho tốt hơn: giấy nghè vào lúc đêm hôm thì mặt bóng hơn, chất chắc hơn vì… vì nó có hơi sương và tia trăng tia sao! Cậu nói thế mà cũng có khối người trong nhà nghe được đấy.
Ở ven hồ Tây, giờ cảnh đêm đông không còn lặng lạnh như mọi khi nữa. Trong sương, đùng đục những dịp tiếng chầy nhà cậu năm giã dó và lắm buổi lại còn lẫn một thứ tiếng hát, âm thanh lơ lớ và nhịp, lúc mau như tiếng khổ dựng trong nhà Tơ và lúc thưa thì giống hệt lối ngâm thơ Thiên Thai rồi ngân dần lên và lại dần dần ngân mà xuống đúng như hơi hát cung bắc hay lúc đổ con kiến.
Đêm đêm, cậu Năm làm giấy và cô Dó cũng lách mình ra khỏi đá giúp chồng. Cả ngày chỉ ngủ không ăn, giờ, bữa cơm chính của cậu Năm thường lại là một bữa siu-dề có điểm mấy chén rượu. Vợ chồng vui vẻ, nói khôn nên lời. Ái tình và cần lao. Lắm khi ngà ngà mà say, phất phơ mà đi, nhìn đêm lạnh giăng suông, nhớ rừng cũ, cô Dó lại càng hát nhiều nhiều. Khuya im một mầu sương muối, cỏ cây đùng đục vẩn trong sữa giăng loãng, giời đất trông ra như lúc hỗn mang. Cô Dó đánh bạo ra ngoài. Đêm đông trường chỉ có tiếng hát của cô dó chập chờn đi từ giới hạn một bờ Tây Hồ đến bờ một khúc sông Tô Lịch. Tiếng huyền diệu và mờ mù bao la.
Từ đấy lò chế giấy nhà cậu Năm họ Chu làng Hồ Khẩu biết một kỷ nguyên mới – giấy tự nhiên thơm đẹp lên và bỏ xa sự cạnh tranh của nghìn vạn người sống bằng vỏ dó. Loại giấy Chu Hồ có từ bấy giờ. Ấp tờ giấy đẹp vào lòng, biết nó là cái công ơn của người vợ hiền nhiều đêm đã cần cù vì mình, cậu Năm đê mê vì chân hạnh phúc và thú cần lao nhiều phút ban ngày sướng quá, ngất đi và tỉnh cơn cuồng lại vỗ mãi vào phiến đá nghè có ý đánh thức vợ dậy mà xem mình đang khóc vì… hoan lạc.
Có một lần, cô Dó dở giời khó ở mất đến một tuần, giấy Chu Hồ tự nhiên xuống hẳn mặt. Đã có bao đêm liền, cậu Năm bó gối gác chầy bên phiến đá, nghiêm và rầu như kẻ sắp gieo mình xuống dòng. Dưới lòng đá, có tiếng phào phào đưa lên:
- Em đã rõ chứng bệnh em rồi anh ạ. Ra em không chịu được cái mùi hoa hòe nhà ta vẫn mua về để nhuộm giấy sắc. Đổ cái chất vàng ấy lên mình em, em ăn phải cho nên đầy và cứ phù dần người ra. Anh thử bỏ vứt bột hoa hòe đi em xem.
Có như thế. Sau khi cậu Năm cho đổ hết hòe xuống hồ - làm vàng ố cả một vùng xanh trong - thì cô Dó cất cơn ngay. Lò giấy nhà họ Chu, thôi hẳn việc chế giấy sắc vàng lại cũng từ đấy. Ngày tháng. Hai người càng yêu nhau trong ca vui và cần lao; trăm năm cũng già. Không, cô Dó vẫn trẻ. Chỉ có cậu Năm là già đi vì cậu vốn thuộc chất dương và vốn thời gian chi phối. Cậu Năm chính là ông cụ tổ ba đời của ông cụ họ Chu được nhà vua cho quan bộ Lễ vời vào kinh để sung một chức ở Cẩn Tín viện đấy.
Cậu Năm trăm tuổi đi rồi, cô Dó đêm đêm ra ngồi ở ven Hồ Tây và ven sông Tô có mấy tháng liền, sự nhớ thương lại biến thành nhiều khúc hát buồn và những bài ca điếu ấy, cô có chép vào một tập đề là “Chu Ngũ Lương Nhân Hoài Khúc” giữ luôn dưới lòng đá và nét chữ cô Dó lởm chởm nhọn hoắt và so le như ngọn cỏ bồng. (Mấy mươi đời sau, đâu có một người tài về môn cách vật trí tri bảo đấy là thứ chữ không phải của loài người chế lấy mà dùng; nó là thứ chữ Sơn Hoàng của Chúa Rừng truyền dạy cho các hồn cây hồn quả hiến viết lúc dâng bài Chúc Thọ và chỉ những người nào có số hổ vồ là đọc thông được thôi).
Phiến đá xanh nghè giấy, từ cụ Năm về giời, bỗng trắng toát ra. Phiến bạch thạch lẫn vải bố góc bàn thờ mới. Sau ba năm, cô Dó rất có thể lộn về rừng- cái quê hương cũ vốn muôn năm xanh vui của mình. Nhưng không, cô vẫn còn thương cậu Năm nhiều lắm và thề ở lại giúp và dựng cho lũ con lũ cháu và lũ chắt nhà chồng, có cái định kiến là đến bao giờ dân trung châu hạ bạn tuyệt nghề làm giấy bản thì cô mới bỏ nhà chồng và lộn về rừng. Từ ngày theo chồng về Hồ Khẩu cho đến quá về sau cái thời chồng chết, người quả phụ ấy chỉ có một lần tìm đường qui ninh về rừng thăm lại Mẹ Ngàn.(Cô Dó quy ninh đâu vào cái khoảng người cháu bốn đời nhà cậu Năm)
Từ cậu Năm mất đi, con cháu nhà họ Chu lại trở lại tập quán cũ, nghĩa là nghè giấy vào lúc ban ngày. Dưới đá trắng cư tang, nghe những âm chầy non dại đổ xuống dó ướt, cô Dó mỉm cười. Thương trẻ, đêm đêm Cô lại hiện ra, hà ít hơi mình vào giấy và lấy tay vuốt từng tờ giấy một. Giấy Chu Hồ vì thế vẫn giữ được vẻ quý mà riêng lũ con cháu nhà cậu Năm thì vẫn không biết lấy mảy may về sự hiển linh nhà mình. Đời ấy và đời khác…
Năm 1925 vào cuối đời Hoàng Tôn Tuyên Hoàng Đế, đất Nam Kỳ, trấn Gia Định… có một ông huyện… tên là Khỏe. Ông huyện Khỏe là một người phú quý tột bực, hay gây ra nhiều điều thất đức. Lúc trẻ tráng, cái lối ngông lối hợm của ông huyện Khỏe lại… vô địch nữa. Điền địa của cha mẹ để lại cho thì là bờ xôi ruộng mật, đều là nhất đẳng điền cả.
Thủa ấy ông thực là công tử số một, chơi vàng cả một giời và đến ngay đám công tử Bạc Liêu nghe đến danh ông thẩy đều xanh cả mắt… Khoảng thời thiếu niên của ông huyện Khỏe, thật lúc nào cũng là vui như hội Tây. Giờ ông đã có tuổi vẫn giàu có như xưa nhưng đã trở nên phải chăng trong cử chỉ hằng ngày. Ông chỉ còn đi xe hơi hai mươi bốn ngựa thăm ruộng xa như một đất phong cường và các nhà máy xà phòng, gạo và dầu cù là của ông rải rác ở khắp lục tỉnh. Người thương nhân này lúc về già còn buộc thêm vào cái đời con toán của mình một cái thị hiếu chơi những vật hiếm trên đời. Những đồ vật không cứ là cổ và đẹp nếu là độc nhất vô nhị trên trần thì bao nhiêu ông cũng mua. Và những bực có tài xem đồ cổ ông đều giữ luôn trong nhà, lấy thứ lễ hạng nhất ra mà đãi.
Trong đám thực khách nhà ông huyện Khỏe có một người tên là Chiêu Hiện được chủ nhân tin trọng lắm, coi gần như quản gia. Ông Chiêu Hiện quê vùng phủ Quốc, bỏ xứ Bắc vào trong Nam đã lâu, lúc bỏ nhà đi, có chỉ vào cái cầu Phùng mà thề độc rằng “bất thừa xa mã bất quá thử kiều”. Ở Sài Gòng được ít năm, ông Chiêu Hiện bị vướng vào một vụ cướp có án mạng tại Chợ Lớn… Chiêu Hiện thụ cái ơn ấy canh cánh để bên lòng và tự nhủ trong suốt một đời thể nào cũng phải tìm lấy dịp để trả ơn lại ông huyện nghĩa là lúc nào cũng nghĩ đến việc đi tìm báu vật cho ân nhân. Xứ Bắc Kỳ cũng như về mặt nhân vật, về đường bảo vật vẫn còn nhiều cái lạ lắm. Đôi ba năm, Chiêu Hiện lại lộn về một lần để sục xem có được cái gì không. Lần ấy lộn về Hà Nội, không rõ dùng chước thuật gì mà đánh tráo ngay phiến bạch thạch đó, đem về cho ông huyện Khỏe.
Thâu ngày thâu đêm, đá đã qua hết giang khẩu và những con đèo rất hiểm nghèo. Về đến biệt thự ông huyện Khỏe, đá bỡ ngỡ với thời tiết ở đấy quanh năm nóng như lò nung vôi, đá bỗng đổ mồ hôi. Cầm chén rượu rũ bụi, lúc đã thong dong, ông Chiêu Hiện mới đứng lên kể lai lịch đá cho người ân nhân mình nghe. Và quả như lời ông Chiêu Hiện nói, đêm ấy lúc canh đã dịu lạnh, trong phiến đá có tiếng hát giọng buồn. Không rõ lời nhưng nghe cái âm tiêu sái ấy, đến như ông huyện Khỏe mà cũng sụt sùi. Chiêu Hiện bèn dẫn giảng rằng đấy là một trong những bài thương ở tập “Chu Ngũ Lương Nhân Hoài Khúc” của hồn đá làm ra từ lúc thiếu chồng. Tính hay khoe của, ông huyện Khỏe, ngay ngày hôm sau, gửi luôn thiếp danh đi mời các khách quý đến ăn tiệc và “xem một hòn đá biết sụt sịt trong đêm”.
Tàn tiệc rượu có một cuộc dạ vũ. Chiêu Hiện mặc đồ lễ… ra xin với quan khách chỉ nên vui nhộn đến đúng giờ tý thôi, nếu có bụng chân thành muốn nghe những tiếng thương xót của hòn đá “nó là cái cớ đẹp của buổi hợp hoan này”. Trong biệt thự im vắng và tắt hết điện chỉ còn leo lét một ngọn đèn cầy. Sau đấy một giờ, lòng đá lại như đêm trước, bật nổi lên những tiếng tương tư thê thảm. Tân khách thẩy đều rơi châu. Tờ mờ sớm, họ ra về và bắt chủ nhân phải hứa là có một ngày gần đấy phải cho họ được xem đến mặt người sương phụ trong đá kia. Và từ đêm ấy, còn tiếp bao nhiêu dạ hội khác. Mới hay, chẳng cứ là tiếng người mà cái tiếng ly khổ của hồn một phiến đá lương thiện có tình lại còn là cái cớ vui cho người đứng ngoài nữa.
Muốn đánh lừa cô Dó phải nhầm lẫn về hoàn cảnh mới gắt để thỉnh thoảng hiện hình ra như trước, ông Chiêu Hiện đã xui ông huyện Khỏe cho đào cả hai bên biệt thự lên, một bên giả làm dòng con sông Tô Lịch, một bên giả làm vùng nước ven Tây Hồ, tiền nhân công tính theo lối nhà nước ngăn đắp đập. Ngày lạc thành cái mẩu hồ lộn sòng và cái khúc sông giả vờ đó, lại tiệc yến. Những tân khách của những kỳ dạ hội cũ đã được nghe đá khóc thì bây giờ lại theo ước cũ đến đây uống rượu nữa để xem mặt cái hồn đá sầu. Nửa đêm ấy, cô Dó hiện ra thật, vẫn mặc tấm áo chàm như ngày ở rừng xa, nhưng dưới gấu đã xé xơ ra cho nó thành tấm áo trảm thôi (áo đại tang) và mớ tóc tang rối như xơ dó vừa ăn vôi. Có bao nhiêu người bừng bừng hơi rượu rải rác núp trong xó tối, khẽ trầm trồ với nhau là đẹp và đoan chính đến bực ấy là cùng.
Cô Dó chập chờn trên nước sông đào, trên nước hồ đắp, tỉ mỉ rờ vào các lá cây thân cây quanh đó. Cô thấy không phải là cây quen thuộc của xứ Bắc. Đây chỉ là những lá cành của kè, cọ, dừa xiêm, vú sữa, măng cụt, sầu riêng thôi. Ngờ ngợ đến sự nguy hiểm của một trung thổ lạ, cô lại vội lẩn ngay vào trong lòng đá trắng. Từ đấy không ra nữa và cũng ít khi lên tiếng nhớ cậu Năm.
Sau đêm ấy ông Chiêu Hiện bỗng nấc lên mấy tiếng rồi lả dần đi. Vực ông vào buồng bệnh, thấy Chiêu Hiện cứ mở thao láo mắt mà thiếp đi đã một ngày một đêm, ông huyện Khỏe biết là chứng bệnh cũ của người quản gia lại phát lại và chỉ dặn người nhà phải ngày đêm túc trực nơi giường bệnh, ngâm giấy phèn vào nước, cứ mỗi giờ lại đổ cho uống, chứ tịnh không phải thuốc thầy gì cả. Mọi khi vẫn thế. Nhưng lần này thì hơi phiền hơn; là đã quá mười ngày rồi mà Chiêu Hiện không thấy tỉnh lại. Mọi lần trước chỉ ba bốn ngày đêm thôi. Bệnh này trong sách Y Dược Đại Toàn gọi là bệnh Miên nhất khí và người nào hay có cái khiếu về hư linh học thì thường hay mắc phải.
Thế mà đến ngày thứ mười hai, ông Chiêu Hiện đã tỉnh lại. Nghe ông huyện Khỏe thuật lại cho hay rằng mình đã ngủ mười hai ngày có dư, Chiêu Hiện đã bốc đứng người dậy, kêu xong hai tiếng “hỏng rồi” thì lăn đùng ra giữa nền cẩm thạch, mồ hôi vã ra như tắm. Không hiểu là cái gì “hỏng rồi”, ông huyện Khỏe mặt như chàm đổ, sợ sệt nhìn con bệnh bây giờ đang lăn lộn như có ai cấu rốn. Đến lúc tỉnh lại lần thứ hai, hai mắt dại dột Chiêu Hiện chán chường nhìn vào khoảng không và miệng – tiếng đã thất thanh, lại nhắc lại: “Hỏng rồi”, đầu lắc mãi như từ chối một cái gì. Chiêu Hiện tập tễnh bước lại chỗ đặt viên đá trắng, ấp tay vào mặt đá, ấp tai vào mặt đá vẫy ông huyện Khỏe lại:
- Đến phải đập vỡ đá này thì may ra mới chữa được người trong ấy, cô Dó không khéo chết mất rồi ông Huyện ạ!
- Ông Chiêu nói chuyện cho tôi rõ đầu cuối với.
- Nguyên là thế này. Hòn đá này phải ăn chất vỏ dó. Thiếu nó thì cái người nằm khóc trong đó mọi ngày cho ông nghe sẽ phải chết khô. Ông nhiều việc không hay để ý đến, chứ thực ra từ ngày mang đá về, tôi đã mang theo về bao nhiêu là bó vỏ dó để ngày ngày ấp lên đá cho người trong đó ăn. Gần hết, tôi lại đánh giấy ra Bắc cho người bà con gửi vào. Từ hôm bị bệnh, đột ngột nằm xuống, không kịp dặn ai thay cho việc bón đá, đến nay là quá mười ngày, người trong ấy chết đói rồi chứ còn gì nữa.
- Vậy bây giờ nếu phải đập phiến bạch thạch ra để cứu lấy người trong đá thì ông cứ tùy tiện mà làm.
Một nhát búa. Một tiếng xé rất khô gọn và ít mảnh vỡ bắn tung lên. Hòn đá chẻ ra làm hai theo chiều ngang và phần trên khi đã bật ra thì quỷ thần ơi! Có một người đàn bà rất xinh bé đang nằm ngủ. Nàng mặc một cái áo lam, xiêm cũng màu lam. Lúc ông Chiêu Hiện đã nhẹ nhàng ẵm nàng ra đặt lên giường thì mảnh phiến đá vỡ vẫn còn in khuôn những nét hình một tấm thân người nhỏ, nhiều khoảng trũng xuống như chỗ đựng nước trong một cái nghiên dùng viết đại tự.
Chiêu Hiện rờ vào ngực cô Dó thấy còn nóng, vội gọi gia đinh đem cái bó vỏ dó ông cất trong kho ra ngay mau. Chúng đều trả lời rằng không biết ai đã tưởng là thứ dây dợ gì lấy đi gói buộc hết cả rồi. Cái tia hy vọng cuối cùng đã tắt nốt. Ông Chiêu Hiện dẫm chân kêu giời, nước mắt đỏ như máu, tiếng mất hẳn đi. Bèn lấy giấy, bút đàm cùng ông huyện: “Ông phải làm ngay hai việc: nhất diện là cho đánh xe đi lên Sài Goòng về các miền lục tỉnh, vét lấy hết giấy bản của ta, chứ giấy moi và giấy tàu của các Chú chế ra thì vô dụng. Một mặt nữa thì cho đánh ngay dây thép ra Bắc – theo địa chỉ này – bảo phải gửi ngay vào cho dăm kiện vỏ dó theo lối đại tốc”.
Trong lúc chờ giấy bản, vớ được mươi quyển chép dở những thi ca của mấy chỗ thế gia ngoài Bắc, ông Chiêu Hiện đem xé vò ra, chất thành một đống to, đốt sưởi cho cô Dó hồi lại. Người đá chết lả đã dần dần tỉnh lại, ngón tay động làm buột rơi một cuốn sách nhỏ ngoài bìa bằng lá cây có nét kim khí vạch sáu chữ “Chu Ngũ Lương Nhân Hoài Khúc”. Cô Dó mắt vẫn còn nhắm nghiền nhưng môi đã mấp máy được và đang hé cười. Những những luồng khói đặc ở luồng giấy bản đã thưa loãng dần. Khói tắt, hương giấy tàn đi, người cô Dó càng lạnh, lạnh thêm lạnh mãi rồi cứng chắc lại, mồm ngậm kín một khóe cười không kịp nở hết. Cô Dó đã trở nên người thiên cổ. Cô Dó đã thành người của một thế giới khác, của một thế giới ngọc đá muôn năm. Cái màu xanh ở tấm áo đã đậm và bóng hẳn lên thành một thứ ngọc lam trong sáng.
Bên tử thi đá lam, có một người nấc lên mấy tiếng. Ông Chiêu Hiện tưởng còn có thể điên cuồng thêm nữa khi lũ gia nhân sai đi mua giấy bản về đưa trình vẻn vẹn được độ ba trăm tờ hoen nhàu với một câu: “Dạ, chúng con đang cho xe lên Sài Goòng và về cả lục tỉnh mà cũng chỉ vơ vét được có bấy nhiêu. Dạ bẩm trong này ít dùng thứ giấy này. Việc quan và tư thảy đều dùng có giấy tây thôi”. Ngẫm nghĩ một hồi lâu, Chiêu Hiện trấn tĩnh được lòng tiếc và tự nhủ rằng thôi chẳng qua ông huyện Khỏe có cái số không được làm quý nhân nên quý vật nó mới không chịu ở với. Và cô Dó đã nhất định đi, giá có nấn ná lùi lại đến lúc này chờ giấy bản về kịp, thì cái đệp giấy khốn nạn mỏng và biển lận kia cũng không đủ để sưởi nóng cô, hồ cầm lấy chút hơi tàn mà chờ vỏ ở Bắc gửi vào theo lối đại tốc. Sau phút lấy nước ngũ vị tắm cho thi hài đá lạnh, Chiêu Hiện thấy lòng chứa chan hối lỗi vì đã phạm vào tội giết mất một thứ ngọc sống. Vì có biết thế này thì đã không khi nào ông dìu ngọc vào đất Sài Goòng để đến nỗi đắc tội với ngọc đá và đánh hỏng cả cuộc đời một vật báu. Chiêu Hiện lại khóc lên ba tiếng để sau ba tiếng của mình khóc ngọc tị trần vừa dứt thì tiếp theo nghe đến ba tiếng cười của ông huyện Khỏe. Ông huyện Khỏe đã ôm lấy xác cô Dó vui reo ồn ào:
- Trời, té ra là ngọc thạch. Thúy ngọc ông Chiêu ạ. Một khối ngọc toàn bích. Việc gì mà ông buồn khóc. Thì ra trước kia nó là thứ ngọc biết nói. Mất người nhưng chúng ta vẫn còn lành vẹn một phiến ngọc ví bán đi thì có thu về được cơ man là tiền bạc. Hoặc là bán, hoặc là để đem làm vật tạ lễ một vị quan thầy. Người ngọc ví có còn sống để lên tiếng một đôi khi mà làm vui cho đám tửu đồ nhà tôi thì cũng vẫn là một sự đáng quý đấy. Mất đi ai chẳng tiếc. Nhưng mất người mà còn sót lại ngọc, thì cái di hài này có lẽ còn quý giá hơn người lúc sống kia đó vậy. Để tôi đem dâng cho quan thầy tôi…
Thôi, nín đi mà bác Chiêu.
Chiêu Hiện đã nín thật. Nghe giọng lưỡi ông huyện Khỏe, ông Chiêu thấy khắp mình toát ra một thứ mồ hôi dầu. Trời, thế này thì ra từ bao nhiêu lâu nay ông đã thờ nhầm phải một người có nhân cách đê hạ quá. Đã thấm chưa! Ở vào một trường hợp tang tóc ngập lòng này, lòng người ta phải đau rầu gấp bội lòng người chết vợ trẻ hiền, mà ông huyện Khỏe đã vội tính đến nước bán Xác Ngọc, cũng là cho ngọc đi ở vào cửa hầu nhà khác thì tưởng không còn sự tuyệt tình nào phụ bạc hơn được nữa. Nhớp đến thế là cùng. Một người đã vô sở bất chí đến như thế thì còn cái gì ở thế gian này mà hắn không làm đến. Có khi rồi, nếu không sớm liệu, thì ông ta sẽ bán đến cả mình nữa như bán một tên nô lệ cho chủ khác. Ngọc về ở với ông ta, chẳng may xấu số về giời sớm, ngọc đấy mà ông ta còn đòi bán đi nữa, huống chi là mình. Ở sát cạnh một người thiên về danh lợi quá đến nỗi không còn lấy mảy may tình ý về kỷ niệm; cứ ở gần kề đứa bạo ngược, không sớm liệu thì rồi vạ kéo đến cũng chỉ một sớm một chiều đấy thôi.
Ngay đêm ấy, Chiêu Hiện đã bỏ ông huyện hàm. Lúc bỏ đi, không thèm chào, không thèm đem theo một vật gì là tặng phẩm của ông huyện vẫn đưa từ trước tới giờ. Chỉ để lại có mỗi một lá thư, trong nói là về Bắc chữa cho khỏi ít cố tật trong người; không dám hứa là có quay trở lại với ân nhân cũ nữa không, nhưng dẫu sao ơn ngày trước tưởng cũng đã đáp lại được chín mười bằng một cái tử thi ngọc xanh đó.
Mười mấy năm bỏ làng đi vào trong làm… cho một tên bạo phú, giờ về quê cũ, một tấm vải đắp lên cái thân dầu dãi đã cuối chầu, ông Chiêu Hiện qua sông Hát Giang lại nhớ lời thề cũ là không có ngựa xe thì không chịu qua cầu Phùng đây mà lộn về phủ Quốc. Nỗi buồn ấy đã thấm vào đâu khi Chiêu Hiện lộn lại làng Hồ Khẩu hỏi thăm về sự làm ăn của nhà họ Chu. Thì ra, từ ngày bị đánh tráo phiến đá nghè, nhà ấy làm ăn mỗi ngày một xuống và giấy Chu Hồ bây giờ đã là một câu chuyện gần như cổ tích, một câu chuyện chỉ còn thuộc về lịch sử giấy đẹp của nghìn xưa.
Để duy trì cái sống hàng ngày, nhà họ Chu bây giờ cũng làm giấy nhưng là giấy moi…
Lòng nặng về tội ác, ông Chiêu Hiện có chép lại việc này, đủ ngành ngọn vào cuối cuốn gia phả tỏ ý ăn năn nhiều về chỗ đã giết chết mất ngọc biết nói và dặn con cháu từ sau chớ nên xúc phạm vào bất cứ một phiến đá tảng đá hòn nào; mặc dầu nó có là đá bên đường đi nữa.
Sau đấy một tháng, chứng bệnh cũ miên nhất khí bỗng phát lại và lần này thì ông Chiêu Hiện ngủ luôn một giấc để lũ con đưa ra một cánh đồng tỉnh Sơn Tây, huyệt đào sâu xuống mới có nửa thước, đã thấy lởm chởm lổn nhổn những đá tổ ong.
BS. HỒ VĂN CHÂM * QUỐC GIA DÂN TỘC
Quốc Gia, Dân Tộc
và Địa Phương Phân Quyền
Từ hơn nửa thế kỷ nay, người Việt Nam chúng ta bàn tán, thảo luận nhiều
về các ý niệm quốc gia và dân tộc, quốc gia và quốc tế, quốc gia và cộng sản.
Vì lẽ quốc tế là đối vị của quốc gia, mà cộng sản trong bản chất là quốc tế,
nên người Việt Nam
chúng ta trong bấy lâu nay có thói quen sử dụng các từ quốc gia và cộng sản như
là biểu thị của các ý niệm và thực thể đối kháng nhau. Mặt khác, không phải chỉ
có quốc tế mới là đối vị của quốc gia, mà còn có một ý niệm khác không kém phần
quan trọng đối kháng với từ quốc gia, đó là ý niệm địa phương. Thực vậy, quốc
gia là nước, lớn hơn nước là quốc tế, nhỏ hơn nước là địa phương. Thế thì tại
sao khi bàn tán, thảo luận về các vấn đề liên quan đến quốc gia, dân tộc, chúng
ta chỉ chú trọng đến khía cạnh quốc gia và quốc tế mà xem nhẹ khía cạnh quốc
gia và địa phương, cũng như có thói quen mặc nhiên thừa nhận quốc gia và cộng sản
là những ý niệm và thực thể đối kháng với nhau.
Nguyên do chính yếu của tình hình vừa nêu trên là vì bước chân vào thế kỷ
hai mươi, đất nước chúng ta vẫn còn đắm chìm trong tình trạng một xã hội nửa
phong kiến, nửa thuộc địa. Các nỗ lực giải phóng dân tộc thoát vòng nô lệ ngoại
bang thường đi đôi với nỗ lực khôi phục vương triều nhà Nguyễn. Nói một cách
khác, cho đến thời điểm này, ở nước ta, ý niệm ái quốc đi liền với ý niệm trung
quân, và tinh thần quốc gia chưa được hình thành. Phải đợi đến thập niên những
năm hai mươi, sau khi Phan Tây Hồ lên tiếng chế riễu “ Ai về địa phủ hỏi Gia
Long, Khải Định thằng này phải cháu ông?”, và nhất là sau khi mười ba liệt sĩ
Việt Nam Quốc Dân Đảng lên đoạn đầu đài ở Yên Bái vào năm 1930, thì ý niệm ái
quốc mới tách rời khỏi ý niệm trung quân, và tinh thần quốc gia dân tộc mới được
hình thành và khẳng định. Cũng cùng thời gian này, Nguyễn Ái Quốc viết kịch
“Con rồng tre” đả kích Nam triều, và theo lệnh Đệ tam Quốc tế kết hợp ba tổ chức
Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng, và Đông Dương Cộng Sản Liên
Ðoàn, để thành lập Việt Nam Cộng Sản Đảng vào đầu năm 1930 tại Quảng Châu (đến
cuối năm 1930 thì Trần Phú đổi lại tên là Đông Dương Cộng Sản Đảng). Tất cả các
tổ chức chính trị lúc bấy giờ, cả cộng sản lẫn không cộng sản, đều chủ trương
đánh đuổi thực dân Pháp để giải phóng đất nước và kích động tình tự dân tộc để
tổ chức quần chúng. Vì những điểm tương đồng rất cơ bản này mà thành phần quần
chúng trí thức không chú tâm phân biệt cộng sản với không cộng sản, mà chỉ hời
hợt nhận thức bản chất quốc gia hay quốc tế của các tổ chức chính trị đương thời.
Đông Dương Cộng Sản Đảng là một bộ phận của Đệ tam Quốc tế, mang tính chất quốc
tế rõ rệt, nên tất cả những tổ chức nào không phải là cộng sản (đệ tam lẫn đệ tứ)
đều được gộp lại dưới một danh xưng chung là quốc gia, để rồi dần dà quốc gia
trở thành đối vị của cộng sản.
Từ đó cho đến nay, người Việt Nam chúng ta cứ quen đem quốc gia
ra đối kháng với cộng sản. Tàu Tưởng với Tàu Mao đánh nhau thì gọi là chiến
tranh Quốc Cộng. Việt Minh với Quốc Dân Đảng kình chống nhau thì gọi là phân
tranh Quốc Cộng. Từ cơ sở đó, hễ cái gì chống lại cộng sản thì được gộp lại
thành một danh xưng chung chung là quốc gia. Như vậy là không được chính xác. Từ
quốc gia bao hàm nhiều ý niệm cao sâu, không thể tùy tiện dùng làm đối vị với từ
cộng sản. Người Việt Nam
cộng sản lấy chủ nghĩa Mác Lê làm kinh điển, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim
chỉ nam. Người Việt Nam không theo chủ nghĩa cộng sản nhận định rằng chủ nghĩa
Mác Lê là không tưởng, là ngụy biện, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là những ý tưởng
của người khác được lặp lại, không có gì mới lạ. Người Việt Nam không theo
chủ nghĩa cộng sản có thể là đa số quần chúng thầm lặng, hay có thể là những
người chống cộng nhiệt tình, nhưng cho dù thuộc thành phần nào chăng nữa thì
chính xác họ là những người không cộng sản. Do đó, đối vị của cộng sản là cụm từ
không cộng sản.
Mặt khác, đối vị của tinh thần quốc gia là tinh thần quốc tế và tinh thần
địa phương. Quốc gia bao hàm hai ý niệm cơ bản là trong cả nước và cho toàn
dân. Hễ một trong hai ý niệm đó không được thể hiện đúng mức hoặc thiếu trọn vẹn
thì mất đi tính chất quốc gia. Quốc tế có thể mang nhiều hình thái. Quốc tế có
thể là chính trị, là quân sự, là tôn giáo, là kinh tế, là văn hóa, là xã hội.
Dù cho toàn dân, nhưng một khi đã là quốc tế, thì quốc gia bị phủ lấp, quyền lợi
quốc gia không được tôn trọng, phúc lợi dân tộc phải chịu hy sinh cho nghĩa vụ
quốc tế. Nếu là quốc tế mà lại không phải cho toàn dân thì càng tệ hại hơn, chẳng
những quyền lợi quốc gia bị hy sinh mà phúc lợi dân tộc cũng hoàn toàn bị quên
lãng. Chung qui chỉ có thiểu số hưởng đặc quyền đặc lợi là ngồi mát ăn bát
vàng, sống no say phè phỡn trên sự điêu tàn của quốc gia và nỗi khốn cùng của đại
khối dân tộc. Tinh thần địa phương cũng tác hại không kém. Địa phương thì đương
nhiên không thể nào là trong cả nước và cho toàn dân. Địa phương xói mòn, phá nát
sự thống nhất quốc gia. Địa phương phân hóa, hủy hoại tình đoàn kết dân tộc.
Tinh thần địa phương làm nẩy sinh sự đố kỵ giữa các địa phương, sự bất phục
tùng trung ương, đưa đến hậu quả cát cứ và nội chiến, quốc gia vỡ vụn thành nhiều
mảnh, dân tộc chia rẽ thành nhiều nhóm sống trong hận thù.
Quốc gia là không cộng sản, vì lẽ cộng sản là quốc tế. Nhưng cộng sản Việt
Nam
trong quá khứ lại thường gian trá đội lốt quốc gia, và triệt để khai thác tình
tự dân tộc. Ngày nay, mặt nạ yêu nước thương dân của cộng sản Việt Nam đã bị vỡ
vụn, bộ mặt thật của cộng sản Việt Nam đã lộ nguyên hình, và người Việt Nam
chúng ta, sau bao nhiêu kinh nghiệm cay đắng, đã nhận chân thực tế phũ phàng là
đối với cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản mới là cứu cánh, còn quốc gia chỉ
là chiêu bài, dân tộc chỉ là phương tiện. Tuy vậy, cộng sản Việt Nam trăm mưu
nghìn kế, ngày nay vẫn tiếp tục lừa mị quần chúng ngây thơ, nhất là trí thức và
tuổi trẻ nhiệt tình, sử dụng các hình thái văn nghệ tâm lý chiến để kích động
lòng yêu nước thương dân của các thành phần này, đồng thời mập mờ khoác trở lại
lên mình cái lốt mới quốc gia dân tộc. Bởi vậy, người Việt Nam chúng ta
ngày nay vẫn cần phải cảnh giác thủ đoạn quỉ quyệt của người cộng sản để tỉnh
táo nhận định chân với giả. Trong ý hệ Mác Lê, dứt khoát là không có chỗ đứng
cho hai tiếng quốc gia. Trong ý hệ Mác Lê, tình tự dân tộc bị chê là ấu trĩ, chủ
nghĩa dân tộc bị chê là hẹp hòi. Người Việt Nam cộng sản đặt quyền lợi Đảng Cộng
sản của họ lên trên quyền lợi quốc gia và không đếm xĩa gì đến phúc lợi dân tộc.
Mọi hành vi và ngôn ngữ yêu nước thương nòi chỉ là những màn kịch khéo đóng.
Quốc gia là chống cộng, nhưng ngược lại, không phải bất cứ cơ cấu chống
cộng nào cũng có thể gộp chung lại thành một tổng thể để mệnh danh là quốc gia.
Thực vậy, nếu có những cơ cấu chống cộng ở phạm trù cả nước thì cũng có những
cơ cấu chống cộng mang tính chất quốc tế hoặc địa phương. Mặt khác, đã từng có
những cơ cấu chống cộng tự nhận là quốc gia nhưng không lấy quyền lợi quốc gia
làm cứu cánh, lấy phúc lợi dân tộc làm đối tượng, mà trong thực tế, chỉ nhằm
vào việc đấu tranh với đảng cộng sản cầm quyền để tranh giành đặc quyền đặc lợi
cho một thiểu số thành phần nhân dân mang tính chất giai cấp, tôn giáo, địa
phương, hoặc chủng tộc. Do đó, vấn dề đặt ra ở đây là vấn đề chính danh. Quốc
gia là chống cộng, quốc gia và chống cộng có chung một mục tiêu đấu tranh là thực
hiện sự giải thể chế độ cộng sản và triệt tiêu chính quyền chuyên chính vô sản,
nhưng quốc gia với chống cộng cực đoan có sự khác biệt tế nhị là quốc gia chống
cộng nhưng không bao giờ vì sự nghiệp chống cộng mà đi ngược quyền lợi tối thượng
của quốc gia và hy sinh phúc lợi của đại khối dân tộc.
Tinh thần quốc gia là yếu tố căn bản để thực hiện và củng cố sự thống nhất
quốc gia và tình đoàn kết dân tộc. Một khi đã nhận định rằng đối vị của quốc
gia là quốc tế và địa phương thì song song với sự nghiệp bảo vệ đất nước chống
lại các hình thái xâm lược hoặc áp đảo của các thế lực quốc tế, người Việt Nam
chúng ta ngày nay cần phải nhanh chóng tìm cách giải tiêu tinh thần địa phương
vốn là uyên nguyên của tình trạng kỳ thị và chia rẽ nam bắc của đất nước chúng
ta xuyên suốt chiều dài lịch sử phát triển dân tộc. Các yếu tố lịch sử và địa
lý đã hình thành trên quốc gia Việt Nam hai khu vực lớn chung quanh Hà
Nội và Sài Gòn. Hai trung tâm này kèn cựa nhau để tranh giành ngôi vị thủ đô nước
Việt Nam
thống nhất. Tình trạng này quả tình là không thích hợp với chính sách trung
ương tập quyền. Cần thực hiện ngay sự phân quyền rộng rãi cho địa phương. Trung
ương chỉ cần nắm chính cương chính sách, và một vài lĩnh vực trọng yếu trên phạm
trù quốc gia như ngoại giao, quốc phòng, tiền tệ. Mọi việc khác nên để cho địa
phương tự trị. Địa phương sẽ tùy nghi huy động nhân tài vật lực cơ hữu để phát
triển khu vực của mình dưới sự điều hợp của trung ương cho ăn nhịp với chính
sách chung của cả nước.
Hà Nội và Sài Gòn đều là đại địa, là trung tâm của những miền rộng đất,
đông dân và nhiều của. Tuy vậy, chính quyền trung ương của nước Việt Nam thống nhất
không nên đóng ở Hà Nội hoặc Sài Gòn. Nếu thủ đô đóng ở một trong hai trung tâm
lớn này thì trung tâm kia sẽ cảm thấy bị thua thiệt, bị lấn ép, bị khai thác, bị
bóc lột, bị lãng quên, bị kìm hãm, vì nghĩ rằng
trung ương qui tụ nhân tài và tập trung vật lực của cả nước vào việc tô
bồi, tân tạo và phát triển thủ đô. Năm 1902, phủ Toàn Quyền Đông Dương thuộc
Pháp dời từ Sài Gòn ra Hà Nội thì Sài Gòn hậm hực. Năm 1948, chính quyền Quốc
Gia Việt Nam
đặt thủ đô ở Sài Gòn thì Hà Nội bất mãn. Năm 1976, hiệp thương hai miền Nam Bắc
thành nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với Hà Nội tiếp tục làm thủ đô
thì Sài Gòn và miền Nam uất ức. Cứ cái đà này thì mâu thuẫn bắc nam mỗi ngày một
thêm trầm trọng, tinh thần kỳ thị địa phương mỗi ngày một thêm sâu sắc, nguy cơ
cát cứ và phân ly mỗi ngày một thêm đè nặng lên nền thống nhất quốc gia và tình
đoàn kết dân tộc. Bởi vậy, song hành với việc để các địa phương nam bắc được tự
trị rộng rãi, chính quyền trung ương của nước Việt Nam thống nhất nên đặt ở một nơi
khác, không nam không bắc. Nếu Việt Nam chia làm hai miền tự trị thì
chính quyền trung ương đặt ở Huế. Nếu Việt Nam chia làm ba miền Trung Nam Bắc
thì chính quyền trung ương đặt ở Đà Lạt.
Nếu Việt Nam
chia làm hai miền thì từ Quảng Trị trở ra thuộc về Hà Nội, từ Quảng Nam trở vào thuộc
về Sài Gòn. Nếu Việt Nam chia làm ba miền thì Thanh Hóa thuộc về miền Bắc, Bình
Thuận thuộc về miền Nam, từ Nghệ An đến Ban Mê Thuột và Khánh Hòa là miền
Trung. Để phát triển khu vực miền Trung ngang tầm với hai miền Nam Bắc, cần gộp
hai thành phố Huế và Đà Nẵng thành một phức hợp đô thị có một tổ chức quản lý
hành chánh duy nhất. Huế-Đà Nẵng sẽ vừa là trung tâm địa lý, chính trị, kinh tế
và văn hóa của miền Trung, vừa là nền móng vững chãi cho sự thống nhất lãnh thổ
và sự hòa hợp nhân tâm của quốc gia và dân tộc Việt Nam. Huế có thế mạnh lịch sử
và văn hóa, Đà Nẵng có thế mạnh địa lý và kinh tế. Huế có vị trí chiến lược của
thành Khu Túc thời Bắc thuộc, có vai trò chính trị của Hóa Thành thời Trần Lê,
có dấu ấn văn hóa của cố đô Phú Xuân thời các vua chúa nhà Nguyễn. Đà Nẵng là mắt
xích quan yếu của hệ thống hàng không hàng hải quốc tế đông tây. Đà Nẵng nằm
ngay trên đường bay quốc tế A1. Lệ phí Hồng Kông (Hongkong fee) của Đà Nẵng,
tính theo vị trí xa gần đối với thủy đạo từ Singapore đi Hong Kong men theo bờ
biển Phi Luật Tân, thì tương đương với Vũng Tàu và Cam Ranh, và thấp hơn Hải
Phòng rất nhiều. Nếu thủy đạo Singapore-Hồng Kông men theo bờ biển Trung Bộ và
Hải Nam
thì Đà Nẵng và Cam Ranh nằm ngay trên hải trình. Đà Nẵng lại là cảng biển nước
sâu (cảng Nam Thọ ở mặt đông bán đảo Sơn Chà), thuận lợi hơn các cảng Sài Gòn
và Hải Phòng phải đi vào cửa sông.
Nếu phát triển riêng rẽ, Huế cũng như Đà Nẵng đều bộc lộ những mặt mạnh
mặt yếu. Nhưng nếu tổ chức lại thành một phức hợp đô thị, Huế-Đà Nẵng sẽ bổ khuyết
cho nhau để tự giải hóa các mặt yếu, đồng thời phát huy được tối đa các mặt mạnh.
Ngược dòng lịch sử, Huế-Đà Nẵng là địa bàn giao thoa của hai văn hóa Đông Sơn
và Sa Huỳnh, là nơi đối đầu của hai văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, và là chiến
trường tranh chấp giữa hai quốc gia Cổ Việt và Cổ Chiêm. Trước khi Đại Việt và
Chiêm Thành thống nhất, Huế và Đà Nẵng luôn luôn cùng thuộc về một phân hạt
hành chánh, dù là thuộc Chiêm hay thuộc Việt. Thuộc Chiêm thì cùng là châu Lý
(Ri), thuộc Việt thì cùng là châu Hóa. Đến khi An Nam thống nhất với Việt Thường
để trở thành Việt Nam
thì Huế trở thành kinh đô và Đà Nẵng là cửa ngõ của triều đình. Nằm ở đầu mối
giao thông hàng không hàng hải quốc tế, Đà Nẵng lo việc giao lưu với bên ngoài.
Nằm ở đầu mối hành lang đông tây, Huế phụ trách việc thâm nhập và khai thông nội
địa. Từ ngã ba Tuần, ngược nguồn Tả Trạch, nếu qua đèo Khiêm Quang thì ta vào
thượng đạo Quảng Nam, nếu qua thung lũng A Sau và huyện Hiên huyện Giàng thì ta
lên Tây Nguyên hoặc qua Biển Hồ. Cũng từ ngã ba Tuần, ngược nguồn Hữu Trạch lên
huyện A Lưới, nếu theo đường xuyên sơn thì ta qua Paksé, nếu vượt đèo Lao Bảo
thì ta qua Savanakhet, Korat, và Thượng Lào. Đường hầm Hải Vân đang được thi
công sẽ thu ngắn khoảng cách 107 kilômét giữa Huế và Đà Nẵng còn lại năm bảy chục
kilômét, vừa vặn là đường kính của một đô thị thông thường trên thế giớì ngày
nay. Mặt khác, đèo Lao Bảo có độ dốc rất xuôi, các điểm cao cũng chỉ trên dưới
200 mét, cho nên các dự án đường sắt và sông đào Đông Hà-Savanakhet đã hoạch định
từ thời Pháp thuộc và Nhật thuộc có nhiều khả năng được thực hiện dễ dàng với
trình độ kỹ thuật hiện đại.
Mỗi khi đề cập các vấn đề chính trị và văn hóa của đất nước, cũng như thảo
luận các vấn đề phát triển kinh tế và cải tiến dân sinh, người Việt Nam chúng
ta ngày nay nên gạt bỏ tinh thần địa phương để nâng tầm nhìn lên cao bao quát
toàn bộ lãnh thổ quốc gia, từ bắc xuống nam, từ biển lên rừng, chứ không nên
khư khư tự giới hạn trong khuôn khổ một khu vực, một địa phương. Đành rằng các
lưu vực sông Hồng sông Mã là nơi hình thành dân tộc Việt Nam qua tiến trình hỗn
chủng giữa dân Tiền Việt và dân Hán Hoa Bắc, nhưng địa bàn dân Tiền Việt tỏa rộng
khắp miền Hoa Nam và bán đảo Đông Dương, cho nên chúng ta không nên tự giới hạn lãnh thổ ban đầu của chúng ta
trong mỗi một huyện Tây Vu hoặc quận Giao Chỉ. Nước Văn Lang hay Môn Lang, có
nghĩa là làng của người Môn, đất nước của người Môn, vươn dài lên tới hồ Động
Đình. Cha rồng họ Lạc, mẹ tiên họ Âu, rõ ràng đất nước thời hồng hoang đã bao gồm
cả Bắc Việt (Lạc Việt) lẫn Lưỡng Quảng (Âu Việt). Thế thì tại sao Thục Phán từ
Tây Âu xuống kiêm tính Lạc Việt, lập ra nước Âu Lạc, lại được thừa nhận là vua
Việt Nam, còn Triệu Đà từ Âu Việt qua thôn tính Âu Lạc, lập ra nước Nam Việt,
đã được sử cũ thừa nhận là vua Việt Nam, lại bị các sử gia Hà Nội xem là quân
xâm lược? Phải chăng vì Thục Phán đóng đô ở Cổ Loa huyện Tây Vu, còn Triệu Đà
đóng đô ở Phiên Ngung huyện Nam Hải, bên ngoài lãnh thổ miền bắc nước ta ngày
nay? Chả thế mà nhà cầm quyền Hà Nội có dự án khôi phục lại thành Cổ Loa, một
việc làm vừa phi kinh tế, vừa không có ý nghĩa, bởi lẽ, trái với sự lầm tưởng của
các nhà biên khảo từ trước tới nay, thực tế lịch sử là chỉ có vòng thành ngoài
hình trôn ốc bằng đất là của An Dương Vương, chứ thành vuông bằng gạch bên
trong là thành của Mã Viện.
Công nghiệp của Thục Phán và Triệu Đà đều nên được xem như là nỗ lực thống
nhất dân tộc, nghĩa là thâu gồm các lãnh thổ vụn vặt thành một đất nước rộng lớn,
tập hợp các vương quốc nhỏ bé thành một quốc gia hùng mạnh, trên nền móng một
quốc dân hợp nhất là chủng tộc Bách Việt. Sự kiện này được nhìn nhận trong bức
thư của Hán Văn Đế gửi Triệu Vũ Vương, cũng như qua quyết định của Hán Vũ Đế
duy trì toàn thể lãnh thổ Nam Việt trong một tổ chức riêng biệt gọi là Giao Chỉ
Bộ, mà về sau được đổi lại là Giao Châu. Chỉ vì nhà Đông Ngô không kiềm chế nỗi
Sĩ Nhiếp, tuy đã cử Bộ Chất làm Thứ Sử Giao Châu, nhưng vẫn phải chịu để Sĩ Nhiếp
kiêm tính cả hai thành Quảng Tín và Luy Lâu, cũng như phải chịu để Sĩ Nhiếp cắt
cử anh em chia nhau giữ chức Thái Thú các quận Nhật Nam, Hợp Phố và Nam Hải,
nên sau khi Sĩ Nhiếp chết, Ngô Tôn Hạo bèn chia Giao Châu làm hai châu Giao, Quảng.
Sĩ Nhiếp với Triệu Đà, tuy bên văn bên võ khác nhau, nhưng công trạng đối với
dân ta có mức độ tương đồng. Nếu Sĩ Nhiếp đã được tôn xưng là Sĩ Vương, là Nam
Giao Học Tổ, thì lẽ nào Triệu Đà, người đã đưa dân ta từ văn minh đồ đồng tiến
lên văn minh đồ sắt, lại không được thừa nhận là vua chúa Việt Nam?
Cũng cùng một chiều hướng, việc Khu Liên ở huyện Tượng Lâm dựng nền tự
chủ, lập ra nước Lâm Ấp, phải được xem như là sự nghiệp giải phóng cư dân bản địa
thoát khỏi sự đô hộ của người Tàu. Vào thời điểm này, cư dân bản địa ở huyện Tượng
Lâm không có gì khác biệt với cư dân bản địa ở huyện Tây Quyển hoặc ở huyện Tây
Vu. Mặt khác, một số vua chúa Lâm Ấp buổi đầu như Phạm Văn, Phạm Phật, Phạm Hồ
Đạt lại là di dân gốc Hán, y hệt Triệu Đà ở Nam Hải, Sĩ Nhiếp ở Thương Ngô, Lý
Bôn ở Giao Chỉ. Vua Lâm Ấp Phạm Dương Mại II lại đã từng đòi hỏi nhà Tống (Nam
Bắc Triều) giao trả quyền thống lĩnh toàn bộ Giao Châu. Bởi vậy, cuộc chiến
tranh ở biên cương giữa Lâm Ấp với Giao Châu phải được người Việt Nam chúng ta
ngày nay xem là cuộc đấu tranh với quân giặc xâm lược để tiếp tục hoàn chỉnh sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Nếu Thục Phán và Triệu Đà đã được
sử cũ xem là vua chúa Việt Nam thì vua chúa Lâm Ấp cũng như vua chúa Chiêm
Thành về sau phải được người Việt Nam chúng ta ngày nay thừa nhận là vua chúa
Việt Nam, ít nhất cũng ngang tầm với vua chúa các thời đại đất nước qua phân Mạc,
Lê Trung Hưng, Trịnh, Nguyễn, và Tây Sơn.
Với góc nhìn và thế đứng được điều chỉnh lại, song hành với việc tái tổ
chức lãnh thổ và phân quyền rộng rãi cho các địa phương, người Việt Nam chúng
ta ngày nay, một mặt sẽ gột bỏ được tinh thần kỳ thị địa phương, chia rẽ nam bắc,
mặt khác sẽ rũ sạch tâm lý phục Tàu, sợ Tàu, chạy theo đuôi Tàu, đồng thời sẽ
có thái độ thân ái hơn, cư xử bình đẳng hơn, không còn mang nặng đầu óc tự tôn
quá đáng trong khi giao tiếp với các sắc tộc anh em trong cộng đồng dân tộc.
Chúng ta nâng tầm nhìn lên cao để bao quát cả khu vực cư dân Bách Việt, rọi ánh
sáng tìm tòi lùi xa trở lại thời sơ sử mịt mù, và chúng ta sẽ hóa giải mưu mô
thâm độc của người Hán cứ tìm mọi cách để chúng ta tự mình đồng hóa với người
Tàu. Cha rồng họ Lạc, mẹ tiên họ Âu đều là người đồng chủng. Làm gì có chuyện
Âu cơ vốn là người Bắc (người Hán), muốn đem 50 con về bắc nhưng bị Hoàng Đế
đem binh ngăn trở. Lúc bấy giờ, Hoàng Đế còn ở tận trên thảo nguyên Cam Túc,
đâu đã có mặt ở Giang Nam.
Thực tế lịch sử là không hề có liên hệ huyết thống giữa Việt tộc và Hán tộc vào
thời bấy giờ. Chỉ từ khi Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang quân đi đánh Bách Việt,
sự hỗn chủng mới xẩy ra. Do yếu tố di dân Hán mà phát sinh sự phân hóa cư dân
Tiền Việt thành hai tộc Việt Mường riêng rẽ, nhưng người Việt vẫn không phải là
người Hán, người Việt vẫn bảo lưu được nhiều đặc điểm nhân chủng và yếu tố văn
hóa cội nguồn, nhờ vậy mà người Việt không bị tuyệt giống.
Tuy nhiên, người Tàu cũng đã thành công một phần trong việc làm cho đa số
người Việt tự nhận là hậu duệ của di dân gốc Hán. Người Việt Nam chúng ta ngày
nay cần ý thức rằng cho dù gia phả chúng ta còn ghi tiên tổ xa xưa vốn người
Chân Định (Triệu Đà) hay người nước Lỗ (Sĩ Nhiếp), người đất Mân (Trần Thủ Độ)
hay người Triết Giang (Hồ Quý Ly), thì trong máu thịt chúng ta cũng vẫn có ít
nhiều yếu tố bản địa, khiến đầu chúng ta đa số có chỉ số sọ dài, khiến máu
chúng ta đa số thuộc nhóm máu loại O. Dứt khoát chúng ta là người Việt chứ
không phải là người Hán. Chúng ta phải chấm dứt việc sử dụng góc nhìn và thế đứng
rập khuôn theo người Tàu mỗi khi đề cấp đến các vấn đề chính trị và văn hóa Việt
Nam.
Chúng ta đừng theo đuôi người Tàu gọi bà Triệu là con mụ Triệu (Triệu Ẩu), truyền
tụng với nhau rằng bà Triệu chết đi được Thượng Đế cho làm thần ôn dịch, xuyên
tạc việc dân chúng Cửu Chân bày tượng thần linga trong đền thờ bà Triệu là để
trấn áp ôn dịch bởi vì bà Triệu là phụ nữ, nay tuy làm thần ôn dịch nhưng vẫn
không thoát khỏi tính cả thẹn khi nhìn thấy các hình tượng sinh thực khí (Việt
điện u linh tập của Lý Tế Xuyên). Chúng ta cũng đừng theo đuôi người Tàu gọi
người Lâm Ấp là dân man, gọi các đạo binh Lâm Ấp đánh vào Nhật Nam, Cửu Chân và
Giao Chỉ là quân giặc cướp, bởi lẽ tiên tổ người Lâm Ấp - Chiêm Thành cũng là
di dân người Môn Nam Á đợt hai đã từ Hoa Nam tiến vào bờ biển Tượng Lâm cùng thời
với đám di dân tiến vào bờ biển Giao Chỉ, và thực tế lịch sử đã chứng minh rằng
mục đích tiến quân của Lâm Ấp là để đánh đuổi quân Tàu xâm lược ra khỏi Giao
Châu, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Bằng cớ hiển nhiên của sự kiện
này là việc quân Lâm Ấp tiến chiếm thành Khu Túc (Thừa Thiên), triệt hạ các quận
thành Cửu Chân (Thanh Hóa) và Giao Chỉ (Bắc Ninh) năm 248 sau Công nguyên, đã xẩy
ra cùng một lúc với việc khởi nghĩa của Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh, và
trước áp lực của đạo quân Lục Dận, khi quân Lâm Ấp phải rút lui thì việc khởi
nghĩa của anh em họ Triệu cũng thất bại.
Người Việt Nam chúng ta thường
xuyên phải đối đầu với âm mưu của người ngoài luôn luôn toan tính xé nát quốc
gia Việt Nam làm nhiều mảnh, chia rẽ quốc dân Việt Nam thành nhiều nhóm, bằng
nhiều hình thức tinh tế và đa dạng nhằm mục đích khoét sâu các dị biệt nam bắc,
các bất đồng địa phương, các mâu thuẩn sắc tộc. Với góc nhìn và thế đứng được
điều chỉnh lại như thế, chúng ta dễ dàng phát huy tinh thần quốc gia, vun quén
tình tự dân tộc, và củng cố sự đoàn kết quốc dân, để vô hiệu hóa các kế hoạch
thâm độc của người ngoài. Thực tế lịch sử là không hề có sự kiện vương quốc Đại
Việt thôn tính vương quốc Chiêm Thành, sắc dân Kinh đồng hóa sắc dân Thượng.
Quốc gia Việt Nam ngày nay là kết quả của sự thống nhất An Nam với Việt Thường,
được hình thành từ thuở hồng hoang trên cùng chung một cơ sở đất nước và con
người: Văn Lang, hay Môn Lang, làng của người Môn, đất nước của người Môn.
Tháng
10 năm 2002
Minh Vũ Hồ Văn Châm
No comments:
Post a Comment