SƠN TRUNG * BÁO CÁO KHOA HỌC
BÁO CÁO KHOA HỌC
**
Sau khi đệ nhất hoàng đế băng, đệ nhị hoàng đế lên ngôi. Ông vua này chủ trương ba dòng thác cách mạng, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là quan trọng nhất. Thực ra lời nói trên không phải là sáng tác của ông vua đệ nhị này, ông chỉ nói theo vua mẫu quốc, khi vua mẫu quốc tuyên bố theo đuổi chính sách bốn hiện đại hóa, lấy khoa học, kỹ thuật làm then chốt. ( Đức vua ta không lẽ sao chép nguyên văn, người ta nói bốn hiện đại thì ta cũng nói ba dòng thác cách mạng, người ta nói khoa học kỹ thuật là then chốt, thì ta cũng nói khoa học kỹ thuật là quan trọng ). Vì vậy mà toàn quốc, từ quan lại đến dân chúng, từ đại học đến trung tiểu học đều được nghe thường xuyên báo cáo khoa học.
Hoàng đế và triều đình thì ở Bắc kinh, còn Nam kinh là kinh đô cựu trào, nơi đây còn có viện Đại Học Nam kinh là lớn nhất, tập trung các nhân tài cựu triều còn sót lại. Sau này tân triều bỏ viện Đại học Nam Kinh, lập thành nhiều trường, như trường Bách Hợp, trường Bách Khoa, Trường Y, trường Dược, trường Canh Nông. . . . Đứng đầu mỗi trường là hiệu trưởng, và các giáo quan được gọi là giáo viên, chỉ có những giáo viên được triều đình tấn phong mới là giáo sư mặc dầu họ không có bằng tú tài hay cử nhân. Các vị khoa bảng cựu triều chỉ là phó thường dân, được các quan lại tân triều từ Bắc kinh cử về quản lý chặt chẽ. Về học hàm, học vị, các vị tiến sĩ cựu triều được xếp ngang với cấp tốt nghiệp đại học (tức cử nhân) ngoài Bắc. Nghĩa là họ bị coi khinh, bị lăng nhục và bị giáng cấp! Có người ưu thời mẫn thế làm hai câu thơ:
Tiến sĩ còn chẳng ra gì,
Cử nhân, thạc sĩ khác chi thằng hề!
Các vị tiến sĩ tân tòng hay nằm vùng xuất thân miền Nam cũng chỉ làm đến đội trưởng, đội phó là cùng, còn các chức vụ ngon lành thì do quan lại Bắc kinh nắm giữ. Thậm chí đầu bếp, gác dang, người quét dọn trong trường đều là người tân triều từ Bắc kinh chuyển vào công tác. Các giáo quan cựu trào ai muốn nghỉ việc thì tân trào rất hoan nghênh vì họ có thêm một chỗ để bán lấy tiền, vì lúc này, ngoài Bắc, kinh tế khó khăn, trong Nam còn it nhiều cá thịt, nhà cửa và it nhiều tự do, nên ai cũng xin vào Nam công tác. Ai không được giấy phép, cũng kéo nhau vào đại vì trong Nam dễ sống hơn ngoài Bắc. Một lão hành khất quê Nghệ An đã nói với một gia chủ trong Nam: Trong Nam sướng quá, đến nhà nào cũng được cho, không tiền bạc thì cũng cho cơm áo. Ngoài Bắc thì đừng hòng ai cho một xu!
Như trên đã nói, tân triều bây giờ chú trọng khoa học, hàng tuần các cơ quan, đoàn thể, các bộ viện và trường học thường được nghe báo cáo khoa học, tức là nghe trình bày các thành tựu khoa học của ‘’triều đình ta và nhân dân ta ‘’.
Công cuộc báo cáo khoa học được chia ra hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là tại trung ương, triều đình mở cuộc báo cáo khoa học để nghe các khoa học gia của chế độ trình bày các phát minh của họ, sau đó triều đình sẽ chấm điểm. Ai có những phát minh xuất sắc thì được tôn là anh hùng lao động, hay chiến sĩ thi đua, hay khoa học gia nhân dân, khoa học gia ưu tú. Giai đoạn thứ hai là đem những thành tựu khoa học này truyền bá khắp nơi, khiến cho cán bộ và dân chúng phải thán phục tài năng siêu việt của triều đình, và sự lãnh đạo anh minh của hoàng đế bệ hạ.
Cuộc báo cáo khoa học đã được thực hiện tại trường Đại học Bách Hợp, vì tại đây có đủ các ngành, trong đó có ngành khoa học là chủ yếu. Một số giáo viên, giáo sư, kỹ sư, bác sĩ các trường khác trong nước và trong thành Nam kinh cũng được mời tham dự để vỗ tay và đóng góp ý kiến cho xôm tụ.
Mở đầu, quan Hiệu trưởng lên kêu gọi các giáo viên và quan lại triều đình tích cực đóng góp ý kiến để công việc nghiên cứu khoa học đạt nhiều thắng lợi ngỏ hầu đưa nước ta trở thành hùng cường bậc nhất trên thế giới, và đời sống nhân dân ta tốt đẹp hơn mười lần xưa.
Sau lời quan Hiệu trưởng, là một tràng vỗ tay nhiệt liệt tán thưởng. Mở đầu, một vị phó tiến sĩ Bắc kinh lên trình bày phát minh ‘’bèo hoa dâu’’ của một khoa học gia ưu tú dất Bắc Hà. Theo báo cáo viên này, bèo hoa dâu đem làm phân bón có thể tăng năng suất các vụ lúa. Sau khi nghe vị phó tiến sĩ này trình bày, cả hội trường vang dội tiếng hoan hô. Quan hiệu trưởng lại đứng lên yêu cầu hội nghị phát biểu ý kiến. Tiến sĩ Ngô Gia Định của cựu trào lên tiếng:
Bèo hoa dâu đối với các nước trên thế giới là một loài cỏ dại. Hơn nữa, bèo hoa dâu đã được dùng từ lâu ở thôn quê nên không thể gọi là phát minh. Tuy vậy, bèo hoa dâu chỉ dùng để trồng khoai, không được dùng trồng lúa., vì bèo sẽ ăn hết chất màu mỡ của lúa..
Một số giáo viên Bắc Hà lên tiếng phản đối Ngô Gia Định. Họ bảo :
Đảng ta sáng suốt , các khoa học gia ta tài ba cho nên những thành tựu như được trình bày tại trung ương và tại đại học Bách Hợp là tinh hoa của nhân dân ta và triều đình ta. Những ai dám chỉ trích tức là có ý đồ chống đối triều đình. Chỉ có người dại chứ không có cỏ dại. Bèo hoa dâu là một sáng kiến khoa học mới mẻ, phát xuất từ nhân dân để phục vụ nhân dân, kết hợp hiện đại với truyền thống dân tộc ta!
Tiếp theo, một vị Phó tiến sĩ Bắc Hà đứng lên trình bày sáng kiến của một khoa học gia Bắc Hà là đem phân trâu, phân bò khô làm thức ăn cho heo, gà bò sẽ giúp gia súc mau to béo và đẻ vượt chỉ tiêu! Cả hội trường lại vỗ tay hoan hô ầm ĩ !
Tiến sĩ Bạch Xuân Hà cũng là tiến sĩ cựu triều lên phát biểu:
Thưa các đại biểu,
Phân trâu, phân bò chỉ là những chất thải, lại mang nhiều vi trùng và độc tính, chỉ có hại cho gia súc. Ngay cả việc nuôi gia súc thông thường cũng it ai cho gia súc ăn cám. Tại Nam Hà ai cũng nuôi heo bằng cơm hoặc gạo nấu với rau và cám và cho uống thuốc bổ, chứ không nuôi thuần cám như lối cũ mà nay ở Bắc Hà còn bảo lưu. Nuôi rau, cám thì cũng được nhưng không có ích lợi kinh tế. Nhiều người phản khoa học đã dùng nước tiểu chữa bệnh. Nếu dùng phân trâu bò cho heo gà ăn, e mai sau cũng có phát minh dùng phân trâu, phân bò và phân người cho người ăn nữa.
Ý kiến của ông có tính chất trào lộng nên được đa số vỗ tay nồng nhiệt xen lẫn với những tiếng cười hả hê.
Tiến sĩ Thanh Thiên Bạch Nhật lên phát biểu ý kiến:
Thưa các đại biểu,
Tôi nhận thấy những báo cáo khoa học trên chỉ là những tập tục cổ lỗ trong dân chúng trong bao đời, Ngay tại vùng Nam Hà không còn ai canh tác và chăn nuôi theo lối đó nữa. Hơn nữa, những báo cáo khoa học trên không có tính khoa học cao, vì không do các nhà bác học nghiên cứu, và không được kiểm nghiệm. Không có thực nghiệm, không có kiểm chứng thì tất cả lý thuyết chỉ là lý thuyết suông và rất tai hại cho công, nông nghiệp và sức khoẻ của nhân dân. Khoa học khác với thi ca và tiểu thuyết là bộ môn của tưởng tượng. Trước đây, không biết do đâu mà các bộ viện và báo chí ca tụng xuyên tâm liên là thần dược, nhà nước đã sản xuất hàng triệu tấn thuốc loại này, và cuối cùng đổ bỏ. Xin các đại biểu lưu ý điều này, vì làm khoa học thì phải khách quan và thực nghiệm, không thể duy tâm thần bí, bẻ cong sự thực, và đề cao một vài cá nhân nào đó trong tinh thần ích kỷ, tư lợi và phản khoa học!
Ý kiến của tiến sĩ Thanh Thiên Bạch Nhật rất chính xác nhưng trong hội nghị có vài người tỏ vẻ khó chịu. Một vị đại biểu khác lên phát biểu:
- Xin báo cáo cùng các quan lớn và các đồng chí,
Triều đình của ta là triều đình của công nông binh. Khoa học của ta là vì nhân dân, xuất phát từ nhân dân và phục vụ nhân dân lao động và nhân dân vô sản. Khoa học phải có tính bình dân và đại chúng. Ý kiến của Thanh Thiên Bạch Nhật là hoàn toàn phản động, đề cao tư bản, khinh rẻ nhân dân lao động. Tư tưởng này là tư tưởng lạc hậu và phản động, theo Nho giáo đề cao kẻ sĩ, coi khinh công nông binh.
Tư tưỏng này cũng là tư tưởng đế quốc, coi trọng tư sản và tiểu tư sản, khinh rẻ quần chúng vô sản. Nhân dân ta đã đại thắng các quân thù hùng mạnh nhất thế giới, như thế là đã có trình độ đại học cao nhất thế giới và đã đạt nhiều thành quả vĩ đại . Nhân dân ta đã dùng súng trường bắn hạ pháo đài bay tối tân của đế quốc. Nhân dân ta đã có sáng kiến lấy ống đu đủ hút dầu lên nấu bánh chưng, không cần những kỹ thuật tốn tiền như bọn tư bản. Và nhân dân ta đã chế ra xăng bột, lúc nào cần thì đổ ra trộn nước lạnh là có thể dùng được. Loại xăng bột này do nhân dân ta chế tạo mà tư bản không chế được. Vì vậy những tư tưởng của đế quốc là lạc hậu, thấp kém không thể chấp nhận trong chế độ văn minh của chúng ta! Với chiến thắng hôm nay, và với sự lãnh đạo anh minh của hoàng thượng và triều đình,ta quyết xây dựng một nền khoa học văn minh tiến bộ gấp năm, gấp mười tư bản!Những kẻ theo tư bản, chống nhân dân vô sản sẽ bị nghiêm khắc trừng trị.
Nói xong ông giơ tay hô to:
Hoan hô cách mạng vô sản!
Muôn năm hoàng thượng!
Muôn năm triều đình!
Cả hội nghị vang tiếng vỗ tay và hoan hô ầm ĩ có thể ngoài Bắc kinh cũng nghe rõ. Tiếp theo nữa, một vị phó tiến sĩ tân triều lên trình bày về công trình nghiên cứu khoa học của Hàn Lâm viện sĩ Nguyễn Khắc Vằn Vện, ca tụng phát minh của nhân dân ta là cầu tiêu hai đáy, đã được đại biểu các châu Âu, châu Mỹ và châu Phi thán phục là ưu việt nhất thời đại Sao vàng!
Nhiều tiến sĩ và học giả Nam Hà ngơ ngác, không hiểu phát minh cầu tiêu hai đáy là như thế nào mà vang dội khắp toàn cầu khiến cho biết bao phái đoàn quốc tế phải đến Bắc Kinh tham quan, học tập và trầm trồ khen ngợi. Vì không hiểu rõ nội dung như thế nào, nhất là Viện sĩ Nguyễn Khắc Vằn Vện mà đã bốc thơm thì không thể thúi được, nên không ai có ý kiến. Tiết mục này được thông qua. Đến giờ giải lao, ông nghè Đinh Đóng Cột kéo ông nghè Dương Như Dê , vốn là tiến sĩ tiền triều, ra ngoài sân đi dạo. Nhân lúc không có ai, hỏi nhỏ bạn:
Này bác, ngoài Bắc cầu tiêu hai đáy là cái gì mà Âu Mỹ phải thán phục ghê gớm vậy? Tôi ở Nam Hà mà từ trước đến nay chưa nghe ai nói đến. Ông là người Hà Đông, thủ đô Bắc Kinh , ông biết việc này chứ?
Dương tiến sĩ cười ngặt nghẽo mà nói rằng:
Việc này là nét văn hóa đặc thù của thủ đô Bắc Kinh, sách vở đời trước đã nói nhiều. Có gì đâu bạn ơi! Tại thủ đô Bắc Kinh bao đời người ta đào hố sau nhà, ngồi lên trên mà đại, tiểu tiện.Tại các miền thôn quê cũng vậy. Cái khác biệt giữa thành phố Bắc Kinh và thôn quê là thành phố văn minh hơn. Họ làm hai thùng đặt ở hai hố liền nhau, hể đầy bên này thì sang ngồi bên kia.. Ban đêm gần sáng, thì phu đổ thùng vào khiêng đi, chở lên vùng Láng, Bưởi mà bón rau, bón hoa, bón cây trái.
Trần Tế Xương đã nói việc này:
Thối om sọt phẩn nhiều cô gánh,
Tanh ngắt hơi đồng lắm cậu yêu.
Gần đây lão Phan Lạc Tiếp trong tập truyện “Quê Hương 40 Năm Ngày Trở Lại” viết rằng nửa đêm cả nhà phải thức dậy để cho phái đoàn đổ thùng vào làm công tác, chính là chuyện này. Sau ngày Bắc Nam thống nhất, phái đoàn phụ nữ trong Nam ra tham quan Bắc Kinh đã phải kêu trời vì các bà phải sắp hàng hàng giờ để ngồi cầu tiêu công cộng, trống trải tư bề, rất hôi thối và đầy ruồi nhặng. Cầu tiêu này cũng giống như cầu cá tra trong Nam. Cầu cá tra trong Nam là cầu tiêu một đáy, bất động, và chìm dưới nước, còn cầu tiêu ngoài Bắc là hai đáy, di động, và nổi. Đó là chỗ khác biệt giữa hai miền. Ngoài ra cầu cá tra để mặc bèo dạt mây trôi, không ai động chạm đến đống vàng khối dưới đó. Còn cầu tiêu hai đáy hay cầu tiêu trại giam thì hàng ngày, hàng đêm có người múc lên, bưng ra để tưới cây, bón rau. Ông mà làm một chuyên đề báo cáo khoa học về ao cá Nam Hà thì chắc cũng đuợc triều đình khen ngợi.
Ông nghè Đinh Đóng Cột lắc đầu than thở:
Không ngờ một thằng bác sĩ đi học Tây Tàu về mà viết được một bài văn kinh khủng như thế! Thằng cha này thuộc hạng đệ nhất gian nịnh chẳng phải chơi! Cục phân mà nó ca tụng là kim cương!
Tiến sĩ Dương Như Dê cười mà nói:
-Đúng rồi, nếu không giỏi nâng bi thì sao gả lại được phong là Hàn Lâm Viện Sĩ trong khi nước ta chưa có viện Hàn Lâm! Hàn lâm viện sĩ này ngoài tài nịnh còn có nhiều tài khác mà bác không biết đó thôi!
Cuộc báo cáo khoa học lại tiếp tục sau giờ giải lao. Tiến sĩ nông nghiệp Lâm Tòng Xuân, biệt hiệu Xuân Tóc Đỏ, một người cựu triều nhưng đã bí mật theo tân triều. Trước đây, thời chiến tranh, triều đình Nam kinh đã ra sức cải thiện dân sinh và phát triển công, nông nghiệp. Khi Nam kinh nhập cảng cá rô Phi và trê Phi và khuyến khích dân nuôi hai loại cá này vì chúng sinh sôi nẩy nở rất nhanh và thịt rất ngon thì tôi tớ Bắc kinh phao tin là ăn cá trê Phi và cá rô Phi bị cùi. Khi Nam kinh chăm lo sức khỏe dân chúng bằng cách khám sức khoẻ và phát thuốc cho các trường học và khu phố, bọn nội gián Băc kinh rỉ tai phụ huynh học sinh và dân chúng là Nam kinh hút máu trẻ con.
Xuân Tóc Đỏ đã nằm vùng từ trước và cũng theo lệnh Bắc kinh nói ngược, nói xuôi theo kiểu tuyên truyền phá hoại như đã kể trên. Tuy nhiên, ông là nhà khoa học nên nói dối có trình độ. Trong khi Viện Nông nghiệp Nam kinh nghiên cứu thành công các loại lúa mới R1, RM2, RS1 thành công và phổ biến trong dân chúng, đồng thời nhập cảng thuốc trừ sâu và phân bón hóa học thì ông đã phản đối việc dùng thuốc trừ sâu và phân bón của tiền triều vì cho rằng chất hóa học làm hư ruộng đất. Tuy nhiên, ông không đưa ra giải pháp nào để bảo vệ hoa màu và tăng năng xuất, mà lúc này trên thế giới, Pháp Mỹ, Nhật, Nga, Tàu , và ngay triều đình Hà Đông cũng dùng thuốc trừ sâu và phân bón hóa học cho các hợp tác xã nông nghiệp ngoài đó.
Hôm ấy, trong hội nghị báo cáo khoa học, Lâm Xuân Tóc Đỏ nói:
Triều đình anh minh, hoàng thượng sáng suốt nên đã thu thập được nhiều thành tích khoa học có giá trị. Việc dùng bèo hoa dâu, phân người, phân heo, phân trâu bò trong nông nghiệp và đời sống là một nền khoa học ưu việt, khác với nền khoa học lạc hậu của Tây phương dùng quá nhiều hóa học chỉ gây ô nhiễm môi trường.
Xuân Tóc Đỏ là một nhà khoa học lại có tài chính trị và ngoại giao. Kết quả ông được nhà cầm quyền Nam kinh khen ngợi là khoa học gia ưu việt. Cũng ngay sau đó, tiến sĩ Ngô Gia Định, tiến sĩ Bạch Xuân Hà và tiến sĩ Thanh Thiên Bạch Nhật được mời ra khỏi đại học vì tội phản khoa học và chống đối triều đình.
Từ thời chiến tranh Nam Bắc, Bắc triều đã hô hào tăng năng xuất. Muốn tăng gia sản xuất thì việc đầu tiên là phá rừng. Một số khoa học gia đã phản đối việc phá rừng bừa bãi sẽ gây tai họa cho môi sinh, mà quan trọng nhất phá rừng thì sẽ gây lụt lội. Các quan đại thần trong triều cho là ý kiến viễn vông và phản động. Xưa nay người ta vẫn đốn cây, phá rừng, làm rẫy mà có gây gì tai hại đâu. Gió mưa, bão lụt là việc tự nhiên của trời đất, không liên hệ đến việc phá rừng. Ông quan lại này sính thơ đã đọc một câu thơ của ai đó:
Gió mưa là bệnh của trời!
Tấu chương của các đại thần dâng lên, kết tội các khoa học gia nọ là phản động, khiến họ phải bị lưu đày viễn xứ!
Các khoa học gia nọ chỉ biết về khoa học mà không biết lòng người! Chính sách tăng gia sản xuất, mở rộng diện tích canh tác chỉ là bề ngoài. Thực tế là họ chặt cây rừng để bán gỗ ra ngoại quốc lấy tiền bỏ túi. Hơn nữa, việc phá rừng đưa về cho họ bao ruộng đất khiến cho các đại thần trở thành đại điền chủ. Ai chống đối việc phá rừng là chống đối lại họ, sẽ bị họ giết sạch không tha. Ông Tô Hoài Tô Mãi trong sách của ông có nói:
Ngày xưa Việt Trì Tam Đảo là rừng. Nay đứng ở Việt Trì Tam Đảo có thể ngó thấy Lạng Sơn .
Câu này cho thấy công cuộc phá rừng tại miền Bắc ghê gớm là dường nào. Quan đại thần Nguyễn Văn Trấn Áp trong quyển Thư Gửi Mẹ Tôi cũng viết rằng ‘’tụi Bắc Hà đã phá núi rừng miền Bắc, chúng cũng sẽ chặt trụi núi rừng miền Nam trơn tru như mu bà bóng!’’ chính là việc này.
Sau khi hoàng đế ra lệnh phá rừng, nông dân đã thực hiện tăng gia sản xuất, nhưng nông dân vẫn đói, lúa gạo vẫn không đủ ăn. Vua liền bắt các đại thần và khoa học gia tìm phương án giải quyết. Bọn khoa học gia và một số đại thần hội họp, tổ chức báo cáo khoa học rầm rộ, từ xã lên huyện, từ huyện lên tỉnh, từ tỉnh lên trung ương. Sau khi xài tốn hàng tỷ bạc, họ đúc kết ý kiến đại hội báo cáo khoa học, và trình hoàng thượng nghị quyết là phải giết chó mèo vì chó mèo không sản xuất, chỉ ăn hại. Mỗi con chó, con mèo ăn mỗi ngày ăn bằng nửa số gạo cung cấp cho công nhân. Tính toàn quốc, chó mèo ăn cả hàng triệu tấn gạo mỗi năm! Hoàng thượng nghe theo ý kiến này mà ra lệnh giết chó mèo. Các đại thần nghe vua ban lệnh, liền quỳ xuống tung hô:
Thánh thượng anh minh! Thánh thượng vạn, vạn tuế!
Trong khi đó, một số nhà tu chân chính dâng sớ xin quốc vương đừng sát sinh, đừng phạm giới, họ liền bị bắt mang xiềng xích, diễu khắp phố phường, rồi đày ra biên cương. Một vài vụ mùa sau, hoa màu bị thiệt hại nặng vì không có chó mèo thì chuột sinh ra đông đúc hàng vạn, hàng triệu, kéo thành đàn. Triều đình lại ra lệnh nuôi chó, mèo và diệt chuột. Chó mèo đã giết sạch nay còn đâu. Bộ ngoại thương được giao hàng vạn lượng vàng để thu mua chó mèo ở các nước lân cận. Lúa gạo vẫn hao hụt. Vua ra lệnh triều đình và khoa học gia tìm phương cứu vãn. Các quan đại thần và nhà khoa học lại tổ chức báo cáo khoa học. Cuộc hội nghị kéo dài hàng tuần, tốn mấy chục con dê, con heo, con bò và hàng ngàn bình mỹ tửu, và đi đến quyết định do Viện trưởng viện khoa học đến trước sân rồng tâu lên:
Muôn tâu bệ hạ, toàn dân, toàn đảng và viện khoa học đã nhất trí rằng chính chim chóc phá hại mùa màng nên lúa gạo không đủ cho nhân dân. Vậy xin bệ hạ ra lệnh giết chim.
Vua bèn ra lệnh giết chim. Cả bọn họ quỳ xuống hô to: Hoàng thượng anh minh! Hoàng thượng vạn vạn tuế!
Ngay lập tức, đại tướng tổng tư lệnh, tổng bí thư đảng, thủ tướng triều đình ra lệnh các binh sĩ, thầy giáo, học sinh, bác sĩ, kỹ sư, nông dân đều phải tham gia chiến dịch giết chim. Từ vũ khí hiện đại cho đến công cụ thô sơ đều được vận dụng phục vụ chiến dịch. Súng đạn, cung tên, bẫy sập, gậy gộc đều được đưa ra phục vụ chiến dịch. Vui thích nhất là mấy đứa trẻ, được nghỉ học để bắn giết chim cho thỏa thích. Vừa vui thú, vừa đuợc khen thưởng, lại vừa có chất tươi bổi dưỡng! Kết quả trong một tháng, bầu trời không bóng chim bay và rừng không còn tiếng chim hót. Sau khi giết hết chim, một tai họa khác lại sinh ra, là sâu bọ xuất hiện hàng đàn bay kín bầu trời, đậu lên cánh đồng lúa chỉ vài phút là cánh đồng lúa biến mất.
Các khoa học gia và đại thần lại được triệu tập để nghe báo cáo tình hình khẩn cấp. Hoàng đế bèn ra lệnh nuôi chim để chim giết sâu bọ. Nhưng trong nước không còn chim chóc nữa. Bộ ngoại thương trình ý kiến là bộ sẽ nhận trách nhiệm thu mua chim. Nhưng bộ trưởng bộ Canh nông đứng lên phản đối, ông cho rằng việc này là nhiệm vụ của bộ Canh Nông. Đức vua nhận thấy lời tâu của thượng thư bộ Canh nông là đúng nên sai ngân khố xuất hàng vạn lạng vàng cho bộ Canh nông nhập cảng chim các nước.
Cả nước lại rộn rịp tổ chức báo cáo khoa học. Bộ Canh Nông triệu tập quan lại cao cấp và các nhà khoa học trong nước để thảo luận nên mua số lượng là bao nhiêu và mua những loại chim nào. Kết quả, sau mấy tháng hội họp, hội nghị không đi đến nhất trí. Thượng thư bộ Canh Nông phải thỉnh thị ý kiến đức vua. Đức vua lấy hạt súc sắc ra lắc, kết quả là mua sáu triệu con chim, và bảy loại chim nhưng ngài không chỉ thị rõ phải mua loại nào. Quan thượng thư bộ Canh Nông lại tổ chức hội thảo khoa học.
Ngài Tả thị lang (đệ nhất thứ trưởng) đề nghị mua gà vì gà ăn sâu bọ. Nhưng ý kiến Ngài bị hội nghị phản đối vì gà chỉ đào bới giun và ăn thóc lúa quá nhiều nên không giúp gì cho việc trừ côn trùng. Ngài Hữu thị lang (đệ nhị thứ trưởng ) đề nghị không mua các giống chim biển như hải âu, cò, dịệc, vịt trời, bói cá vì chúng chỉ ăn hại cá, không trừ côn trùng.
Một vị phó tiến sĩ Viện trưởng viện Nông Nghiệp đề nghị không mua các loài quạ, diều hâu, chim ưng vì chúng chỉ ăn xác chết, ăn gà con, không diệt côn trùng. Một vị phó tiến sĩ nông nghiệp cho rằng không nên mua sáo, yểng, nhồng, vẹt là các chim chỉ biết ca hót, nói tiếng người, không trừ diệt côn trùng. Công cuộc thảo luận kéo dài vài tháng. Kết cuộc, quan thượng thư bộ Canh Nông phải cho đầu phiếu để xem ý kiến nào được đa số thì thắng. Kết quả là chim sâu, gà, quạ, dơi, sẻ được ưu tiên mua trước, các loại sau sẽ nghiên cứu bổ túc. Sau đó nghe tin vị phó tiến sĩ nông nghiệp đề nghị loại bỏ sáo, yểng, nhồng vẹt bị bỏ tù vì tư tưởng phản động, đã có ý xuyên tạc các đại thần hết lòng trung thành với hoàng thượng là ngu dốt, nịnh hót.
Trong thời gian này, Hội đồng Khoa học nhà nước triệu tập các quan đại thần và nhà khoa học hội họp, tổ chức ăn mừng chiến thắng. Họ ăn hàng chục con dê, con bò, uống hàng ngàn bình mỹ tửu, rồi đi đến nhất trí dâng sớ ca tụng chủ trương sáng suốt của hoàng đế và triều đình!
Sau khi đệ nhất hoàng đế băng, đệ nhị hoàng đế lên ngôi. Ông vua này chủ trương ba dòng thác cách mạng, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là quan trọng nhất. Thực ra lời nói trên không phải là sáng tác của ông vua đệ nhị này, ông chỉ nói theo vua mẫu quốc, khi vua mẫu quốc tuyên bố theo đuổi chính sách bốn hiện đại hóa, lấy khoa học, kỹ thuật làm then chốt. ( Đức vua ta không lẽ sao chép nguyên văn, người ta nói bốn hiện đại thì ta cũng nói ba dòng thác cách mạng, người ta nói khoa học kỹ thuật là then chốt, thì ta cũng nói khoa học kỹ thuật là quan trọng ). Vì vậy mà toàn quốc, từ quan lại đến dân chúng, từ đại học đến trung tiểu học đều được nghe thường xuyên báo cáo khoa học.
Hoàng đế và triều đình thì ở Bắc kinh, còn Nam kinh là kinh đô cựu trào, nơi đây còn có viện Đại Học Nam kinh là lớn nhất, tập trung các nhân tài cựu triều còn sót lại. Sau này tân triều bỏ viện Đại học Nam Kinh, lập thành nhiều trường, như trường Bách Hợp, trường Bách Khoa, Trường Y, trường Dược, trường Canh Nông. . . . Đứng đầu mỗi trường là hiệu trưởng, và các giáo quan được gọi là giáo viên, chỉ có những giáo viên được triều đình tấn phong mới là giáo sư mặc dầu họ không có bằng tú tài hay cử nhân. Các vị khoa bảng cựu triều chỉ là phó thường dân, được các quan lại tân triều từ Bắc kinh cử về quản lý chặt chẽ. Về học hàm, học vị, các vị tiến sĩ cựu triều được xếp ngang với cấp tốt nghiệp đại học (tức cử nhân) ngoài Bắc. Nghĩa là họ bị coi khinh, bị lăng nhục và bị giáng cấp! Có người ưu thời mẫn thế làm hai câu thơ:
Tiến sĩ còn chẳng ra gì,
Cử nhân, thạc sĩ khác chi thằng hề!
Các vị tiến sĩ tân tòng hay nằm vùng xuất thân miền Nam cũng chỉ làm đến đội trưởng, đội phó là cùng, còn các chức vụ ngon lành thì do quan lại Bắc kinh nắm giữ. Thậm chí đầu bếp, gác dang, người quét dọn trong trường đều là người tân triều từ Bắc kinh chuyển vào công tác. Các giáo quan cựu trào ai muốn nghỉ việc thì tân trào rất hoan nghênh vì họ có thêm một chỗ để bán lấy tiền, vì lúc này, ngoài Bắc, kinh tế khó khăn, trong Nam còn it nhiều cá thịt, nhà cửa và it nhiều tự do, nên ai cũng xin vào Nam công tác. Ai không được giấy phép, cũng kéo nhau vào đại vì trong Nam dễ sống hơn ngoài Bắc. Một lão hành khất quê Nghệ An đã nói với một gia chủ trong Nam: Trong Nam sướng quá, đến nhà nào cũng được cho, không tiền bạc thì cũng cho cơm áo. Ngoài Bắc thì đừng hòng ai cho một xu!
Như trên đã nói, tân triều bây giờ chú trọng khoa học, hàng tuần các cơ quan, đoàn thể, các bộ viện và trường học thường được nghe báo cáo khoa học, tức là nghe trình bày các thành tựu khoa học của ‘’triều đình ta và nhân dân ta ‘’.
Công cuộc báo cáo khoa học được chia ra hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là tại trung ương, triều đình mở cuộc báo cáo khoa học để nghe các khoa học gia của chế độ trình bày các phát minh của họ, sau đó triều đình sẽ chấm điểm. Ai có những phát minh xuất sắc thì được tôn là anh hùng lao động, hay chiến sĩ thi đua, hay khoa học gia nhân dân, khoa học gia ưu tú. Giai đoạn thứ hai là đem những thành tựu khoa học này truyền bá khắp nơi, khiến cho cán bộ và dân chúng phải thán phục tài năng siêu việt của triều đình, và sự lãnh đạo anh minh của hoàng đế bệ hạ.
Cuộc báo cáo khoa học đã được thực hiện tại trường Đại học Bách Hợp, vì tại đây có đủ các ngành, trong đó có ngành khoa học là chủ yếu. Một số giáo viên, giáo sư, kỹ sư, bác sĩ các trường khác trong nước và trong thành Nam kinh cũng được mời tham dự để vỗ tay và đóng góp ý kiến cho xôm tụ.
Mở đầu, quan Hiệu trưởng lên kêu gọi các giáo viên và quan lại triều đình tích cực đóng góp ý kiến để công việc nghiên cứu khoa học đạt nhiều thắng lợi ngỏ hầu đưa nước ta trở thành hùng cường bậc nhất trên thế giới, và đời sống nhân dân ta tốt đẹp hơn mười lần xưa.
Sau lời quan Hiệu trưởng, là một tràng vỗ tay nhiệt liệt tán thưởng. Mở đầu, một vị phó tiến sĩ Bắc kinh lên trình bày phát minh ‘’bèo hoa dâu’’ của một khoa học gia ưu tú dất Bắc Hà. Theo báo cáo viên này, bèo hoa dâu đem làm phân bón có thể tăng năng suất các vụ lúa. Sau khi nghe vị phó tiến sĩ này trình bày, cả hội trường vang dội tiếng hoan hô. Quan hiệu trưởng lại đứng lên yêu cầu hội nghị phát biểu ý kiến. Tiến sĩ Ngô Gia Định của cựu trào lên tiếng:
Bèo hoa dâu đối với các nước trên thế giới là một loài cỏ dại. Hơn nữa, bèo hoa dâu đã được dùng từ lâu ở thôn quê nên không thể gọi là phát minh. Tuy vậy, bèo hoa dâu chỉ dùng để trồng khoai, không được dùng trồng lúa., vì bèo sẽ ăn hết chất màu mỡ của lúa..
Một số giáo viên Bắc Hà lên tiếng phản đối Ngô Gia Định. Họ bảo :
Đảng ta sáng suốt , các khoa học gia ta tài ba cho nên những thành tựu như được trình bày tại trung ương và tại đại học Bách Hợp là tinh hoa của nhân dân ta và triều đình ta. Những ai dám chỉ trích tức là có ý đồ chống đối triều đình. Chỉ có người dại chứ không có cỏ dại. Bèo hoa dâu là một sáng kiến khoa học mới mẻ, phát xuất từ nhân dân để phục vụ nhân dân, kết hợp hiện đại với truyền thống dân tộc ta!
Tiếp theo, một vị Phó tiến sĩ Bắc Hà đứng lên trình bày sáng kiến của một khoa học gia Bắc Hà là đem phân trâu, phân bò khô làm thức ăn cho heo, gà bò sẽ giúp gia súc mau to béo và đẻ vượt chỉ tiêu! Cả hội trường lại vỗ tay hoan hô ầm ĩ !
Tiến sĩ Bạch Xuân Hà cũng là tiến sĩ cựu triều lên phát biểu:
Thưa các đại biểu,
Phân trâu, phân bò chỉ là những chất thải, lại mang nhiều vi trùng và độc tính, chỉ có hại cho gia súc. Ngay cả việc nuôi gia súc thông thường cũng it ai cho gia súc ăn cám. Tại Nam Hà ai cũng nuôi heo bằng cơm hoặc gạo nấu với rau và cám và cho uống thuốc bổ, chứ không nuôi thuần cám như lối cũ mà nay ở Bắc Hà còn bảo lưu. Nuôi rau, cám thì cũng được nhưng không có ích lợi kinh tế. Nhiều người phản khoa học đã dùng nước tiểu chữa bệnh. Nếu dùng phân trâu bò cho heo gà ăn, e mai sau cũng có phát minh dùng phân trâu, phân bò và phân người cho người ăn nữa.
Ý kiến của ông có tính chất trào lộng nên được đa số vỗ tay nồng nhiệt xen lẫn với những tiếng cười hả hê.
Tiến sĩ Thanh Thiên Bạch Nhật lên phát biểu ý kiến:
Thưa các đại biểu,
Tôi nhận thấy những báo cáo khoa học trên chỉ là những tập tục cổ lỗ trong dân chúng trong bao đời, Ngay tại vùng Nam Hà không còn ai canh tác và chăn nuôi theo lối đó nữa. Hơn nữa, những báo cáo khoa học trên không có tính khoa học cao, vì không do các nhà bác học nghiên cứu, và không được kiểm nghiệm. Không có thực nghiệm, không có kiểm chứng thì tất cả lý thuyết chỉ là lý thuyết suông và rất tai hại cho công, nông nghiệp và sức khoẻ của nhân dân. Khoa học khác với thi ca và tiểu thuyết là bộ môn của tưởng tượng. Trước đây, không biết do đâu mà các bộ viện và báo chí ca tụng xuyên tâm liên là thần dược, nhà nước đã sản xuất hàng triệu tấn thuốc loại này, và cuối cùng đổ bỏ. Xin các đại biểu lưu ý điều này, vì làm khoa học thì phải khách quan và thực nghiệm, không thể duy tâm thần bí, bẻ cong sự thực, và đề cao một vài cá nhân nào đó trong tinh thần ích kỷ, tư lợi và phản khoa học!
Ý kiến của tiến sĩ Thanh Thiên Bạch Nhật rất chính xác nhưng trong hội nghị có vài người tỏ vẻ khó chịu. Một vị đại biểu khác lên phát biểu:
- Xin báo cáo cùng các quan lớn và các đồng chí,
Triều đình của ta là triều đình của công nông binh. Khoa học của ta là vì nhân dân, xuất phát từ nhân dân và phục vụ nhân dân lao động và nhân dân vô sản. Khoa học phải có tính bình dân và đại chúng. Ý kiến của Thanh Thiên Bạch Nhật là hoàn toàn phản động, đề cao tư bản, khinh rẻ nhân dân lao động. Tư tưởng này là tư tưởng lạc hậu và phản động, theo Nho giáo đề cao kẻ sĩ, coi khinh công nông binh.
Tư tưỏng này cũng là tư tưởng đế quốc, coi trọng tư sản và tiểu tư sản, khinh rẻ quần chúng vô sản. Nhân dân ta đã đại thắng các quân thù hùng mạnh nhất thế giới, như thế là đã có trình độ đại học cao nhất thế giới và đã đạt nhiều thành quả vĩ đại . Nhân dân ta đã dùng súng trường bắn hạ pháo đài bay tối tân của đế quốc. Nhân dân ta đã có sáng kiến lấy ống đu đủ hút dầu lên nấu bánh chưng, không cần những kỹ thuật tốn tiền như bọn tư bản. Và nhân dân ta đã chế ra xăng bột, lúc nào cần thì đổ ra trộn nước lạnh là có thể dùng được. Loại xăng bột này do nhân dân ta chế tạo mà tư bản không chế được. Vì vậy những tư tưởng của đế quốc là lạc hậu, thấp kém không thể chấp nhận trong chế độ văn minh của chúng ta! Với chiến thắng hôm nay, và với sự lãnh đạo anh minh của hoàng thượng và triều đình,ta quyết xây dựng một nền khoa học văn minh tiến bộ gấp năm, gấp mười tư bản!Những kẻ theo tư bản, chống nhân dân vô sản sẽ bị nghiêm khắc trừng trị.
Nói xong ông giơ tay hô to:
Hoan hô cách mạng vô sản!
Muôn năm hoàng thượng!
Muôn năm triều đình!
Cả hội nghị vang tiếng vỗ tay và hoan hô ầm ĩ có thể ngoài Bắc kinh cũng nghe rõ. Tiếp theo nữa, một vị phó tiến sĩ tân triều lên trình bày về công trình nghiên cứu khoa học của Hàn Lâm viện sĩ Nguyễn Khắc Vằn Vện, ca tụng phát minh của nhân dân ta là cầu tiêu hai đáy, đã được đại biểu các châu Âu, châu Mỹ và châu Phi thán phục là ưu việt nhất thời đại Sao vàng!
Nhiều tiến sĩ và học giả Nam Hà ngơ ngác, không hiểu phát minh cầu tiêu hai đáy là như thế nào mà vang dội khắp toàn cầu khiến cho biết bao phái đoàn quốc tế phải đến Bắc Kinh tham quan, học tập và trầm trồ khen ngợi. Vì không hiểu rõ nội dung như thế nào, nhất là Viện sĩ Nguyễn Khắc Vằn Vện mà đã bốc thơm thì không thể thúi được, nên không ai có ý kiến. Tiết mục này được thông qua. Đến giờ giải lao, ông nghè Đinh Đóng Cột kéo ông nghè Dương Như Dê , vốn là tiến sĩ tiền triều, ra ngoài sân đi dạo. Nhân lúc không có ai, hỏi nhỏ bạn:
Này bác, ngoài Bắc cầu tiêu hai đáy là cái gì mà Âu Mỹ phải thán phục ghê gớm vậy? Tôi ở Nam Hà mà từ trước đến nay chưa nghe ai nói đến. Ông là người Hà Đông, thủ đô Bắc Kinh , ông biết việc này chứ?
Dương tiến sĩ cười ngặt nghẽo mà nói rằng:
Việc này là nét văn hóa đặc thù của thủ đô Bắc Kinh, sách vở đời trước đã nói nhiều. Có gì đâu bạn ơi! Tại thủ đô Bắc Kinh bao đời người ta đào hố sau nhà, ngồi lên trên mà đại, tiểu tiện.Tại các miền thôn quê cũng vậy. Cái khác biệt giữa thành phố Bắc Kinh và thôn quê là thành phố văn minh hơn. Họ làm hai thùng đặt ở hai hố liền nhau, hể đầy bên này thì sang ngồi bên kia.. Ban đêm gần sáng, thì phu đổ thùng vào khiêng đi, chở lên vùng Láng, Bưởi mà bón rau, bón hoa, bón cây trái.
Trần Tế Xương đã nói việc này:
Thối om sọt phẩn nhiều cô gánh,
Tanh ngắt hơi đồng lắm cậu yêu.
Gần đây lão Phan Lạc Tiếp trong tập truyện “Quê Hương 40 Năm Ngày Trở Lại” viết rằng nửa đêm cả nhà phải thức dậy để cho phái đoàn đổ thùng vào làm công tác, chính là chuyện này. Sau ngày Bắc Nam thống nhất, phái đoàn phụ nữ trong Nam ra tham quan Bắc Kinh đã phải kêu trời vì các bà phải sắp hàng hàng giờ để ngồi cầu tiêu công cộng, trống trải tư bề, rất hôi thối và đầy ruồi nhặng. Cầu tiêu này cũng giống như cầu cá tra trong Nam. Cầu cá tra trong Nam là cầu tiêu một đáy, bất động, và chìm dưới nước, còn cầu tiêu ngoài Bắc là hai đáy, di động, và nổi. Đó là chỗ khác biệt giữa hai miền. Ngoài ra cầu cá tra để mặc bèo dạt mây trôi, không ai động chạm đến đống vàng khối dưới đó. Còn cầu tiêu hai đáy hay cầu tiêu trại giam thì hàng ngày, hàng đêm có người múc lên, bưng ra để tưới cây, bón rau. Ông mà làm một chuyên đề báo cáo khoa học về ao cá Nam Hà thì chắc cũng đuợc triều đình khen ngợi.
Ông nghè Đinh Đóng Cột lắc đầu than thở:
Không ngờ một thằng bác sĩ đi học Tây Tàu về mà viết được một bài văn kinh khủng như thế! Thằng cha này thuộc hạng đệ nhất gian nịnh chẳng phải chơi! Cục phân mà nó ca tụng là kim cương!
Tiến sĩ Dương Như Dê cười mà nói:
-Đúng rồi, nếu không giỏi nâng bi thì sao gả lại được phong là Hàn Lâm Viện Sĩ trong khi nước ta chưa có viện Hàn Lâm! Hàn lâm viện sĩ này ngoài tài nịnh còn có nhiều tài khác mà bác không biết đó thôi!
Cuộc báo cáo khoa học lại tiếp tục sau giờ giải lao. Tiến sĩ nông nghiệp Lâm Tòng Xuân, biệt hiệu Xuân Tóc Đỏ, một người cựu triều nhưng đã bí mật theo tân triều. Trước đây, thời chiến tranh, triều đình Nam kinh đã ra sức cải thiện dân sinh và phát triển công, nông nghiệp. Khi Nam kinh nhập cảng cá rô Phi và trê Phi và khuyến khích dân nuôi hai loại cá này vì chúng sinh sôi nẩy nở rất nhanh và thịt rất ngon thì tôi tớ Bắc kinh phao tin là ăn cá trê Phi và cá rô Phi bị cùi. Khi Nam kinh chăm lo sức khỏe dân chúng bằng cách khám sức khoẻ và phát thuốc cho các trường học và khu phố, bọn nội gián Băc kinh rỉ tai phụ huynh học sinh và dân chúng là Nam kinh hút máu trẻ con.
Xuân Tóc Đỏ đã nằm vùng từ trước và cũng theo lệnh Bắc kinh nói ngược, nói xuôi theo kiểu tuyên truyền phá hoại như đã kể trên. Tuy nhiên, ông là nhà khoa học nên nói dối có trình độ. Trong khi Viện Nông nghiệp Nam kinh nghiên cứu thành công các loại lúa mới R1, RM2, RS1 thành công và phổ biến trong dân chúng, đồng thời nhập cảng thuốc trừ sâu và phân bón hóa học thì ông đã phản đối việc dùng thuốc trừ sâu và phân bón của tiền triều vì cho rằng chất hóa học làm hư ruộng đất. Tuy nhiên, ông không đưa ra giải pháp nào để bảo vệ hoa màu và tăng năng xuất, mà lúc này trên thế giới, Pháp Mỹ, Nhật, Nga, Tàu , và ngay triều đình Hà Đông cũng dùng thuốc trừ sâu và phân bón hóa học cho các hợp tác xã nông nghiệp ngoài đó.
Hôm ấy, trong hội nghị báo cáo khoa học, Lâm Xuân Tóc Đỏ nói:
Triều đình anh minh, hoàng thượng sáng suốt nên đã thu thập được nhiều thành tích khoa học có giá trị. Việc dùng bèo hoa dâu, phân người, phân heo, phân trâu bò trong nông nghiệp và đời sống là một nền khoa học ưu việt, khác với nền khoa học lạc hậu của Tây phương dùng quá nhiều hóa học chỉ gây ô nhiễm môi trường.
Xuân Tóc Đỏ là một nhà khoa học lại có tài chính trị và ngoại giao. Kết quả ông được nhà cầm quyền Nam kinh khen ngợi là khoa học gia ưu việt. Cũng ngay sau đó, tiến sĩ Ngô Gia Định, tiến sĩ Bạch Xuân Hà và tiến sĩ Thanh Thiên Bạch Nhật được mời ra khỏi đại học vì tội phản khoa học và chống đối triều đình.
Từ thời chiến tranh Nam Bắc, Bắc triều đã hô hào tăng năng xuất. Muốn tăng gia sản xuất thì việc đầu tiên là phá rừng. Một số khoa học gia đã phản đối việc phá rừng bừa bãi sẽ gây tai họa cho môi sinh, mà quan trọng nhất phá rừng thì sẽ gây lụt lội. Các quan đại thần trong triều cho là ý kiến viễn vông và phản động. Xưa nay người ta vẫn đốn cây, phá rừng, làm rẫy mà có gây gì tai hại đâu. Gió mưa, bão lụt là việc tự nhiên của trời đất, không liên hệ đến việc phá rừng. Ông quan lại này sính thơ đã đọc một câu thơ của ai đó:
Gió mưa là bệnh của trời!
Tấu chương của các đại thần dâng lên, kết tội các khoa học gia nọ là phản động, khiến họ phải bị lưu đày viễn xứ!
Các khoa học gia nọ chỉ biết về khoa học mà không biết lòng người! Chính sách tăng gia sản xuất, mở rộng diện tích canh tác chỉ là bề ngoài. Thực tế là họ chặt cây rừng để bán gỗ ra ngoại quốc lấy tiền bỏ túi. Hơn nữa, việc phá rừng đưa về cho họ bao ruộng đất khiến cho các đại thần trở thành đại điền chủ. Ai chống đối việc phá rừng là chống đối lại họ, sẽ bị họ giết sạch không tha. Ông Tô Hoài Tô Mãi trong sách của ông có nói:
Ngày xưa Việt Trì Tam Đảo là rừng. Nay đứng ở Việt Trì Tam Đảo có thể ngó thấy Lạng Sơn .
Câu này cho thấy công cuộc phá rừng tại miền Bắc ghê gớm là dường nào. Quan đại thần Nguyễn Văn Trấn Áp trong quyển Thư Gửi Mẹ Tôi cũng viết rằng ‘’tụi Bắc Hà đã phá núi rừng miền Bắc, chúng cũng sẽ chặt trụi núi rừng miền Nam trơn tru như mu bà bóng!’’ chính là việc này.
Sau khi hoàng đế ra lệnh phá rừng, nông dân đã thực hiện tăng gia sản xuất, nhưng nông dân vẫn đói, lúa gạo vẫn không đủ ăn. Vua liền bắt các đại thần và khoa học gia tìm phương án giải quyết. Bọn khoa học gia và một số đại thần hội họp, tổ chức báo cáo khoa học rầm rộ, từ xã lên huyện, từ huyện lên tỉnh, từ tỉnh lên trung ương. Sau khi xài tốn hàng tỷ bạc, họ đúc kết ý kiến đại hội báo cáo khoa học, và trình hoàng thượng nghị quyết là phải giết chó mèo vì chó mèo không sản xuất, chỉ ăn hại. Mỗi con chó, con mèo ăn mỗi ngày ăn bằng nửa số gạo cung cấp cho công nhân. Tính toàn quốc, chó mèo ăn cả hàng triệu tấn gạo mỗi năm! Hoàng thượng nghe theo ý kiến này mà ra lệnh giết chó mèo. Các đại thần nghe vua ban lệnh, liền quỳ xuống tung hô:
Thánh thượng anh minh! Thánh thượng vạn, vạn tuế!
Trong khi đó, một số nhà tu chân chính dâng sớ xin quốc vương đừng sát sinh, đừng phạm giới, họ liền bị bắt mang xiềng xích, diễu khắp phố phường, rồi đày ra biên cương. Một vài vụ mùa sau, hoa màu bị thiệt hại nặng vì không có chó mèo thì chuột sinh ra đông đúc hàng vạn, hàng triệu, kéo thành đàn. Triều đình lại ra lệnh nuôi chó, mèo và diệt chuột. Chó mèo đã giết sạch nay còn đâu. Bộ ngoại thương được giao hàng vạn lượng vàng để thu mua chó mèo ở các nước lân cận. Lúa gạo vẫn hao hụt. Vua ra lệnh triều đình và khoa học gia tìm phương cứu vãn. Các quan đại thần và nhà khoa học lại tổ chức báo cáo khoa học. Cuộc hội nghị kéo dài hàng tuần, tốn mấy chục con dê, con heo, con bò và hàng ngàn bình mỹ tửu, và đi đến quyết định do Viện trưởng viện khoa học đến trước sân rồng tâu lên:
Muôn tâu bệ hạ, toàn dân, toàn đảng và viện khoa học đã nhất trí rằng chính chim chóc phá hại mùa màng nên lúa gạo không đủ cho nhân dân. Vậy xin bệ hạ ra lệnh giết chim.
Vua bèn ra lệnh giết chim. Cả bọn họ quỳ xuống hô to: Hoàng thượng anh minh! Hoàng thượng vạn vạn tuế!
Ngay lập tức, đại tướng tổng tư lệnh, tổng bí thư đảng, thủ tướng triều đình ra lệnh các binh sĩ, thầy giáo, học sinh, bác sĩ, kỹ sư, nông dân đều phải tham gia chiến dịch giết chim. Từ vũ khí hiện đại cho đến công cụ thô sơ đều được vận dụng phục vụ chiến dịch. Súng đạn, cung tên, bẫy sập, gậy gộc đều được đưa ra phục vụ chiến dịch. Vui thích nhất là mấy đứa trẻ, được nghỉ học để bắn giết chim cho thỏa thích. Vừa vui thú, vừa đuợc khen thưởng, lại vừa có chất tươi bổi dưỡng! Kết quả trong một tháng, bầu trời không bóng chim bay và rừng không còn tiếng chim hót. Sau khi giết hết chim, một tai họa khác lại sinh ra, là sâu bọ xuất hiện hàng đàn bay kín bầu trời, đậu lên cánh đồng lúa chỉ vài phút là cánh đồng lúa biến mất.
Các khoa học gia và đại thần lại được triệu tập để nghe báo cáo tình hình khẩn cấp. Hoàng đế bèn ra lệnh nuôi chim để chim giết sâu bọ. Nhưng trong nước không còn chim chóc nữa. Bộ ngoại thương trình ý kiến là bộ sẽ nhận trách nhiệm thu mua chim. Nhưng bộ trưởng bộ Canh nông đứng lên phản đối, ông cho rằng việc này là nhiệm vụ của bộ Canh Nông. Đức vua nhận thấy lời tâu của thượng thư bộ Canh nông là đúng nên sai ngân khố xuất hàng vạn lạng vàng cho bộ Canh nông nhập cảng chim các nước.
Cả nước lại rộn rịp tổ chức báo cáo khoa học. Bộ Canh Nông triệu tập quan lại cao cấp và các nhà khoa học trong nước để thảo luận nên mua số lượng là bao nhiêu và mua những loại chim nào. Kết quả, sau mấy tháng hội họp, hội nghị không đi đến nhất trí. Thượng thư bộ Canh Nông phải thỉnh thị ý kiến đức vua. Đức vua lấy hạt súc sắc ra lắc, kết quả là mua sáu triệu con chim, và bảy loại chim nhưng ngài không chỉ thị rõ phải mua loại nào. Quan thượng thư bộ Canh Nông lại tổ chức hội thảo khoa học.
Ngài Tả thị lang (đệ nhất thứ trưởng) đề nghị mua gà vì gà ăn sâu bọ. Nhưng ý kiến Ngài bị hội nghị phản đối vì gà chỉ đào bới giun và ăn thóc lúa quá nhiều nên không giúp gì cho việc trừ côn trùng. Ngài Hữu thị lang (đệ nhị thứ trưởng ) đề nghị không mua các giống chim biển như hải âu, cò, dịệc, vịt trời, bói cá vì chúng chỉ ăn hại cá, không trừ côn trùng.
Một vị phó tiến sĩ Viện trưởng viện Nông Nghiệp đề nghị không mua các loài quạ, diều hâu, chim ưng vì chúng chỉ ăn xác chết, ăn gà con, không diệt côn trùng. Một vị phó tiến sĩ nông nghiệp cho rằng không nên mua sáo, yểng, nhồng, vẹt là các chim chỉ biết ca hót, nói tiếng người, không trừ diệt côn trùng. Công cuộc thảo luận kéo dài vài tháng. Kết cuộc, quan thượng thư bộ Canh Nông phải cho đầu phiếu để xem ý kiến nào được đa số thì thắng. Kết quả là chim sâu, gà, quạ, dơi, sẻ được ưu tiên mua trước, các loại sau sẽ nghiên cứu bổ túc. Sau đó nghe tin vị phó tiến sĩ nông nghiệp đề nghị loại bỏ sáo, yểng, nhồng vẹt bị bỏ tù vì tư tưởng phản động, đã có ý xuyên tạc các đại thần hết lòng trung thành với hoàng thượng là ngu dốt, nịnh hót.
Trong thời gian này, Hội đồng Khoa học nhà nước triệu tập các quan đại thần và nhà khoa học hội họp, tổ chức ăn mừng chiến thắng. Họ ăn hàng chục con dê, con bò, uống hàng ngàn bình mỹ tửu, rồi đi đến nhất trí dâng sớ ca tụng chủ trương sáng suốt của hoàng đế và triều đình!
BÙI NGỌC TẤN * NGUYÊN HỒNG
Vĩ thanh
Tôi đã viết xong tập sách. Những kỷ niệm của tôi với Nguyên Hồng. Kỷ niệm với các bạn tôi. Kỷ niệm về một thời đã mất. Với tôi thời nào cũng là thời để mất cả mà thôi Tôi đã cố nhớ lại. Và tôi biết mình quên rất nhiều. Có thể nói không ngoa: Tới 90 phần trăm. Cả ngọt ngào. Cả đắng cay.
Tôi đã đi cầu viện, hỏi lại, gợi lại trí nhớ bè bạn. Khi biết mục đích của tôi, tất cả đều hoan nghênh, khuyến khích và giúp đỡ tôi.
Tôi khám phá ra một điều chẳng mới mẻ gì nhưng với tôi thật là sâu sắc. Tình cảm anh em văn nghệ Hải Phòng, nhất là anh em viết văn, làm thơ đối với Nguyên Hồng sâu đậm thế. Anh sâu nặng với Hải Phòng. Hải Phòng sâu nặng với anh. Con trẻ dễ dàng nhận ra anh cảm đích thực của ai đó với nó. Không thể lừa dối được trẻ thơ. Trong trường hợp này, Hải Phòng giống như con trẻ.
Các bạn tôi mỗi người đều có những kỷ vật về anh, cất giữ chúng như những tài sản quý giá. Một bức thư anh viết một mẩu giấy anh dặn dò công việc, một tờ lịch anh ghi chương trình công việc, tập sách với chữ đề tặng của anh...
Các bạn tôi đã kể cho tôi nghe nhiều chuyện về Nguyên Hồng. Tôi cũng hiểu ngay rằng nếu các bạn có kể cho tôi những chuyện gì đó về anh thì cũng chỉ là những chuyện loại B. Chu Văn Mười nửa đùa nửa thật nói lên cái điều tôi cho là ý nghĩ của số đông:
- Em không bán lúa non đâu.
Trừ một hai ngoại lệ, còn lại các miễn cưỡng “bán lúa non” và cũng nới thẳng ra điều ấy. Sụ bủn xỉn keo kiệt nhưng đồng thời cũng là hào phóng tuyệt vời ấy một phần dành cho tôi, nhưng cái chính là vì Nguyên Hồng. Vậy là vàng ròng vẫn còn đang được cất giữ. Và sẽ được tung ra thị trường vào một lúc nào đó. Tôi tin một cách chắc chắn rằng sẽ còn nhiều truyện viết về Nguyên Hồng. Những truyện hay nhất về Nguyên Hồng còn chưa được viết ra.
Tuy nhiên cũng có người dốc hết cho tôi, cho tôi đến cạn láng: Đoàn Min chẳng hạn. Và Nguyên Bình. Chẳng những Nguyên Bình cho tôi chi tiết, anh còn gợi lại nhiều điều, nhiều việc, nhiều chuyện tôi đã quên đi. Những chuyện, những việc ấy làm chúng tôi sống lại một thời, làm chúng tôi trẻ lại, kích thích tôi làm việc. Ngày ấy chúng tôi đã gắn bó với nhau, và bao giờ Nguyên Bình cũng mong tôi thành công. Thành công trong cuộc sống. Thành công trong sáng tác. Tôi vô cùng cám ơn các anh Nguyễn Văn Chuông, Nguyễn Quang Thân, Thi Hoàng, Thanh Tùng, Thọ Vân, Phạm Ngà, Lưu Văn Khuê, Phùng Văn Ong, Phan Công Hiển, Vũ Hiển..., những người đã trực tiếp cho tôi tư liệu, đánh thức trí nhớ của tôi, khuyến khích tôi viết tập sách này, và tất nhiên tôi không thể quên hai anh Vương Trí Nhàn, Nguyễn Kiên, ngay từ đầu đã nhắc tôi: Hãy coi là nhiệm vụ của tôi đối với Nguyên Hồng và đối với chính tôi nữa.
Tôi đã đi về xóm Cấm, về Đông Khê, sang Hạ Lý, vào ngõ ông Đồng Lùn, ngõ ông Lý Phình, ngõ Sau Nhà Lốp. Đi một mình, không có anh đi cùng, không có Nguyên Hồng đi cùng. Tôi tìm lại hiệu cà phê điểm tâm Bác Học. Không nhận ra đâu nữa. Chỗ ấy tưng bừng mầu sắc của hàng hoá, của những biển hàng, những trung tâm, những dịch vụ... Tôi tìm đến danh thủ bóng đá một thời Nguyễn Danh Túc để hỏi về ông, một người đam mê bóng đá như Nguyên Hồng đam mê sáng tác và cho đến bây giờ tôi mới hiểu có sự gặp nhau ấy giữa hai người. Túc năm nay đã ngoài sáu mươi tuổi cho tôi biết ông Bác Học vừa mới qua đời nửa năm. Ông Học qua đời cũng rất nhanh. Hôm trước còn đi xem trận đấu giữa các lão tướng Hải Phòng với các lão tướng Hà Nội, về bị cảm, hôm sau chết. Ông đi giống như Nguyên Hồng đi. Nhanh quá. Nhanh đến ngỡ ngàng. Đức, Túc cùng các lão tướng khác khiêng quan tài ông. Vậy là một thế hệ đã ra đi, từ dương vô cùng thoắt cái thành âm vô cùng như cách nói của Xuân Diệu. Cả Xuân Diệu sôi nổi tha thiết yêu nữa cũng đã âm vô cùng, đã thành những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ (thơ Vũ Đình Liên).
Một mình tôi thơ thẩn ở phố Nguyên Hồng.
Ngày xưa Nguyên Hồng dạy tôi yêu Hải Phòng qua các tên phố, nhưng có một tên phố Hải Phòng hải phòng hơn mọi tên phố khác mà Nguyên Hồng không biết. Đó là phố Nguyên Hồng. Sau khi anh mất, Hải Phòng có một đường phố mang tên anh. Phố Nguyên Hồng ngắn, có khoảng 60 số nhà, nối đại lộ Tôn Đức Thắng với phố Lán Bè, còn gọi là phố Bờ Sông... Ở đại lộ Tôn Đức Thắng có những cô gái bán hoa đêm tối đứng ven đường chào khách. Ở phố Lán Bè, phần lớn dân phố bán toàn bộ phiếu lương thực, thực phẩm, phiếu chất đốt, tem vải của cả năm, để lấy vốn làm ăn, buôn bán, sinh nhai. Ở phố Lán Bè có một người bạn nhỏ tuổi của tôi tù đầy từ bé. Đó là Giăng... Sau khi ở tù ra, tôi và Giăng đã ngồi ở bờ sông bàn chuyện làm miến kiếm sống. Nhưng làm miến thất bại, Giăng lại đi đánh nghẽo (ăn cắp xe đạp). Lại tù...
Thành phố Hồ Chí Minh cũng có phố Nguyên Hồng, nhưng tôi chưa đặt chân tới đó.
Như vậy là sau khi chết đi, Nguyên Hồng đã biến thành hai dẫy phố. Nguyên Hồng vẫn tiếp tục sống cuộc sống vỉa hè đường phố, bụi bậm, náo nhiệt, có cả bỉ vỏ và chạy vỏ, có cả cậu giáo, có cả hai nhà nghề, hàng cơm đêm...(tên những tác phẩm của Nguyên Hồng).
Chết đi rồi lại biến thành đường phố, sự tái sinh thật là kỳ diệu. Riêng ở Hải Phòng, phố Nguyên Hồng còn gần bờ sông. Nguyên - Hồng - phố có thể nghe thấy tiếng chân vịt tầu thuỷ đạp nước ngược xuôi Hải Phòng - Nam Định như một thời nghe tiếng còi tầu Bạch Thái Bưởi, An Xương... Và vọng tiếng ru con ngày trước
Con ơi đừng khóc mẹ sầu
Cha con đốt lửa dưới tầu Giang Môn
Bao giờ con lớn con khôn
Thời con lại xuống Giang Môn con làm
(Trích Sóng gầm)
Cùng với việc đi tìm những gì của Nguyên Hồng còn trong thành phố, tôi đọc lại anh. Một lần nữa tôi tin rằng Những ngày thơ ấu là tác phẩm hay nhất của Nguyên Hồng.
Tôi viết về anh, cố gắng viết chân thực.
Tôi viết về Nguyên Hồng như tôi biết, như tôi thấy, không thêm bớt, không tô vẽ.
Còn nhiều tài liệu tôi phải để lại. Tập sách này không phải là tập hợp những mẩu chuyện, những giai thoại về Nguyên Hồng để có thể cứ thêm một cái tít là có thể viết thêm một đoạn.
Tôi trình bày nó như một thể thống nhất về một thời đã mất. Có những chuyện không phải chuyện Nguyên Hồng, đó chỉ là vì tôi muốn nói lên bối cảnh chúng tôi đang sống. Những ngày đã qua ấy thật tươi đẹp, thật đau khổ, thật hạnh phúc và cũng thật bất hạnh ít ra đối với tôi và với một số người khác.
Có thể kể ở đây chuyến đi của các anh Phạm Ngà, Lưu Văn Khuê lên Yên Thế, tới nhà Nguyên Hồng như một cuộc hành hương về đất thánh. Các anh đã nhìn thấy tập bản thảo Bỉ vỏ viết tay, Nguyên Hồng ghi sau dòng cuối cùng hai chữ bằng mực tím Năm 1936 và thấy thời gian như ngưng đọng ở đấy. Cùng với Nguyễn Vũ Giang, thứ nam của Nguyên Hồng, hai người đi bộ trên con đường mòn sỏi đỏ, dưới những cây bạch đàn mới trồng tới mộ nhà văn và vợ nhà văn. Hai ngôi mộ song song bên nhau nhìn xuống cánh đồng lúa xanh lúc này lại càng xanh vì cơn mưa vừa dứt, một con suối nhỏ ôm quanh, êm đềm chảy và một bầu trời nặng mây của vùng trung du nhấp nhô đồi núi. Những câu thơ ập đến với Phạm Ngà, bài thơ được hoàn thành gần như tức thời khi thắp hương xong trước mộ vợ chồng nhà văn, anh cùng Lưu Văn Khuê mỗi người một tâm tư, yên lặng.
Thắp hương trước mộ Nguyên Hồng
Chẳng ngờ trời nổi cơn mưa
Lại chẳng ngờ nữa trời vừa tạnh êm
Cung đường nửa xuống nửa lên
Nửa nơi cư tụ, nửa miền hoang sơ
Khói dương sương lạnh mịt mờ
Đỏ au đồi đất, lơ thơ gió đồng
Ông bà kề giấc thong dong
Suối nông một dải ngập ngừng chảy trôi
Chắp tay ngoảnh bốn phương trời
Rượu suông nghiêng chén dâng người nằm đây
Đất trời cũng đảo điên say
Men nồng chưa ráo đã cay mắt mình
Bút lăn rướm máu nhân tình
Bao nhiêu thân kiếp u minh cõi lòng
Khóc người gang tấc vừa xong
Khóc than bao kẻ lạnh lùng bơ vơ...
Còn có thể kể thêm về nỗi ân hận của Thanh Tùng đối với Nguyên Hồng. Suốt lúc sinh thời, Nguyên Hồng toàn bao rượu Thanh Tùng. Thanh Tùng chưa bao giờ được mời Nguyên Hồng uống bằng rượu của mình, trừ một lần anh đã say lắm, mang chai rượu phong tê thấp xin của phòng khám bệnh đến Hội, kéo Nguyên Hồng đang ngồi với Nguyễn Văn Chuông lên gác.
- Hôm nay con uống bố...
Chuông cũng bị kéo lên. Thanh Tùng rót rượu và nói với Nguyên Hồng:
- Hôm nay con uống bố. Bố có công nhận con có tài ứng tác không?
Và Chuông đã thách Thanh Tùng đọc ngay bài thơ về cái bóng đèn điện đang treo lủng lẳng trước mặt ba người.
Thanh Tùng đứng lên bật điện. Thanh Tùng mím môi, im lặng nhìn cái bóng đèn tròn 100 oát đang toả sáng. Như thôi miên. Rồi đọc. Nào là ánh sáng văn minh. Mặt trời đêm tối. Bài ca chiến thắng sau mỗi trận bom.
Trong bữa rượu, cả Nguyên Hồng và Nguyễn Văn Chuông đều công nhận tài ứng tác của Thanh Tùng. Tác giả Thời hoa đỏ còn nói với tôi rằng anh đang truy tìm lý lịch Tư Lập lơ, Năm Sài Gòn, Tám Bính, những nguyên mẫu ngoài đời mà Nguyên Hồng dựa vào đấy để viết Bỉ vỏ. Anh nói “Tư Lập lơ thật” người Hải Dương mới chết ít lâu nay.
Nói vậy để hiểu rằng sau khi qua đời, Nguyên Hồng vẫn sống trong các anh em “trẻ” Hải Phòng như thế nào. Nguyễn Văn Chuông và Nguyên Bình thì lại cứ thích chuyện hài hước, những chuyện hài hước chỉ làm người ta thêm yêu Nguyên Hồng mà người nghe không còn biết thật hư thế nào nữa. Như chuyện bản thảo nở. Nguyên Hồng có mất một bản thảo nào đó. Bản thảo mất ấy lúc đầu chỉ dài 100 trang, ít ngày sau nó nở ra 200 trang. Rồi một hôm Chuông bảo với Nguyên Bình: nó nở ra tới 300 trang rồi! Tôi xếp những chuyện loại này (nhiều lắm, như chuyện Nguyên Hồng được một bỉ vỏ gọi lên xe pousse-pousse càng đồng sáng loáng về một biệt thự ở phố Tây và sống ở đó suốt một tuần lễ trong nhung lụa, rượu và vòng tay người đẹp cho tới khi chồng thị, một tên quan tư đi kinh lý trở về) thuộc loại dị bản (có lẽ nên gọi là những giai thoại, bao gồm cả những chuyện hoàn toàn hư cấu (bịa đặt) được gán cho nhà văn), cần được xem xét thêm. Có thể cũng lại chỉ vì quá yêu Nguyên Hồng nên bạn bè nói thế về anh thôi.
Người bạn tù già trại Đồng Vải đã đoán sai về tôi: Tôi không bỏ nghề, không chuyển nghệ, tuy một thời gian rất dài tôi tin lời đoán ấy và thực tế cũng chứng minh lời đoán ấy là đúng. Nhưng rồi tôi lại viết.
Đầu năm 1990, Nguyễn Quang Thân gặp tôi đâu là nhắc
- Bây giờ viết được rồi đấy. Mày viết cái gì cho Cửa biển đi.
Bùi tai. Hăng lên. Tôi viết. Nhưng viết gì đây. Sau hơn hai mươi năm ngừng viết, lại trải qua quá nhiều chuyện thăng trầm, cái vốn của tôi không phải không có, không đến mức phải bịa đặt ra. Tôi đã nói với Hứa Văn Định vào cái lúc anh đang đưa Vũ Trọng Phụng lên màn ảnh nhỏ:
- Tao quan niệm văn chương trước hết là thông tin. Phải đưa những thông tin đến với bạn đọc. Văn nghệ trước đây không làm việc ấy, nên bây giờ mới tùm lum lên nhiều chuyện. Mới thấy cuộc đời chẳng có gì ổn cả. Còn trong sách thì ổn lắm. Tốt tốt. Xà và tốt tốt (thơ Lê Đạt).
Định trừng mắt:
- Sao mày lại nói văn học là thông tin?
- Tất nhiên là thông tin mang tính nghệ thuật.
Tôi nói vậy vì đối với tôi, nhu cầu thông tin quá lớn.
Tôi suy nghĩ về điều tôi sẽ viết theo đặt hàng của Nguyễn Quang Thân. Tôi nghĩ đến Nguyên Hồng. Tôi trở lại nghề viết bằng bài Nguyên Hồng thời đã mất. Tôi viết một mạch, gần như không phải nghĩ. Chỉ phải nghĩ khi bài báo đã viết xong: Liệu Chu Văn Mười có in cho mình không?
May quá lần này Chu Văn Mười đã in bài tôi viết ký tên thật của tôi trên tạp chí Cửa biển mà anh là tổng biên tập. Cũng lại tình cờ, trong số tạp chí ấy, ngay cạnh bài viết của tôi về Nguyên Hồng là bài Thư gửi về bên kia mộ của Dương Tường viết từ bên dòng sông Tiền nhân ngày giỗ Nguyễn Tuân, gửi bác Nguyễn, “Người làm vườn quốc ngữ tài hoa”, người đã viết nên “Những dàn chữ tươi mẩy, căng mọng electron biểu năng, đôi khi thành những tiệc chữ tưng bừng mà anh nắm được bí quyết tạo tác”.
Thế là đôi bạn hậu sinh bèo mây tan tác chúng tôi không ai bảo ai lại có mặt bên nhau, cùng tưởng nhớ đến bậc tiền bối đã khuất đang xum họp “bên kia mộ”.
Sinh thời Nguyên Hồng gọi tôi là Bùi Ngọc Tấn rất thương. Anh thương tôi vì những gì tôi đã nếm trải. Anh thương tôi vì những gì tôi sắp nếm trải, vì tôi không còn viết được nữa.
Anh Hồng ơi!
Hôm nay tôi lại được viết và viết được rồi.
Hãy bớt đi chữ rất trong tên tôi. Hãy gọi tôi là Bùi Ngọc Tấn thương thôi, anh nhé.
Tôi viết về anh trung thực, mong anh chứng giám.
Trời còn cho sống, cho viết, tôi luôn cố gắng là người trung thực.
17.10.1993 - 11.1.1994
______________________
Phụ lục 1
Lại chuyện Nguyên Hồng - Một thời đã mất
(Bài viết nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày mất Nguyên Hồng (1982-1992)- In trong tạp chí Cửa Biển).
- Lại mở cửa hiệu bán buôn bán lẻ Nguyên Hồng đấy phải không?
Một anh bạn hỏi tôi như vậy khi thấy tôi loay hoay với những trang bản thảo dập dập xoá xoá viết về Nguyên Hồng. Nguyên Hồng quả như một vùng tài nguyên chưa cạn vẫn còn đang được khai thác và chưa thấy đâu là vỉa quặng cuối cùng. Người ta đã viết và in nhiều về anh (tôi cũng có một bài). Năm nay kỷ niệm tròn mười năm anh từ biệt thế giới này, lại một loạt bài nữa về anh. Bài nào cũng có những thông tin mới, cũng đậm tình người viết. Đó là điều đặc biệt đời dành cho anh. Không một ai - kể cả Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng - được như vậy. Người ta viết về anh như viết về một nhà văn lớn. Như viết về một người bạn. Như viết về cuộc đời của chính họ. Cuộc đời ấy là một tập đại thành chữ của Nguyên Hồng) của khát vọng, của lao động khổ sai, của sảng khoái hưởng thụ, của sự nhọc nhằn lam lũ vất vả, của ý thức về sự cao sang nghề nghiệp, sự nhẹ dạ hồn nhiên trong cuộc sống, và vượt lên tất cả là lòng yêu đời, dù thế nào cũng cứ yêu tha thiết cuộc sống này. Anh là lương tâm văn học của lớp trẻ chúng tôi. Chưa bao giờ đời cám dỗ nổi anh, biến anh thành một công chức văn nghệ.
Thế là đã mười năm Hải Phòng vắng bóng anh. Tôi nhớ lại mùa hè năm 1982 đó. Tôi đang làm ở xí nghiệp đánh cá. Một xí nghiệp có đối tượng lao động là biển cả. Người ta đi biển hàng tháng, hàng năm mới trở về. Người ta vật lộn với bão, với gió mùa, với biển động, với những sự cố và những tai nạn. Người ta làm việc không kể ngày đêm. Thèm một ngọn rau xanh. Nhớ vợ con. Nhớ người yêu Nhớ cây. Nhớ tiếng còi ô tô. Nhớ đất ẩm. Và uống rượu. Ai cũng uống. Uống nhiều cho quên đi tất cả. Bởi vậy người ta ít quan tâm đến mọi chuyện. Nhiều người còn lẫn lộn tên và chức vụ của những vị rường cột nhà nước. Nhưng tin Nguyên Hồng qua đời ai cũng biết. Ai cũng biết đất nước vừa mất đi một nhà văn lớn dù có người chưa đọc anh một dòng nào.
Tin dữ đến với tôi quá bất ngờ. Tôi đã tưởng không còn chuyện gì là bất ngờ đối với tôi được nữa và đã tự bảo chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Thế mà tôi vẫn choáng. Vẫn phải cố gắng lắm mới quen với ý nghĩ từ nay không được gặp anh nữa, anh đã đi vào hư vô. Ba năm sau cảm giác ấy lại đến với tôi khi cha tôi qua đời cũng đột ngột như vậy. Cũng như với Nguyên Hồng, tôi nghĩ cha tôi còn có thể sống khoẻ mạnh mươi năm nữa. Khi thế hệ cha anh mình mất đi, mình bỗng thấy trơ trọi. Không còn nữa cái tuyến một vẫn đứng chắn giữa mình với vô cùng, che chở cho mình bình yên sống. Mình không an toàn nữa. Mình bỗng biến thành tuyến đầu. Từ nay mình bị phơi ra trước họng súng bắn tỉa của Thần Chết.
Bên cạnh nỗi xót thương, tôi quen dần những cuộc trò chuyện tay đôi với kết cục tất yếu sẽ đến cùng mỗi chúng ta và tôi hiểu rằng được chết như anh, như cha tôi là vô cùng sung sướng. Chết mà không biết rằng mình đã chết. Chết mà vẫn chuẩn bị cho những việc phải làm, vẫn bận bịu với công việc và hình như đến bây giờ vẫn tưởng mình còn đang làm việc. Tôi muốn lên Yên Thế - một vùng đất tôi sống nhiều năm trong thời chống Pháp - vĩnh biệt anh lần cuối. Nhưng với văn chương, tôi đã là người ngoài cuộc. Tôi đã bị văng ra ngoài quỹ đạo. Tôi đành ở lại thành phố Hải Phòng, nơi chính tôi đã cùng Nguyên Bình đưa mẹ anh từ Đông Khê ra ô tô để bà lên Yên Thế. Tôi nhớ đến căn nhà đơn sơ của bà ở Đông Khê, nơi anh viết Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu. Tôi nhớ đến bà, đến dáng người, vẻ mặt bà.
Bà rất giống anh. Chẳng riêng ngoại hình mà còn ở những điều dễ nhận thấy trong tính cách: sự chịu đựng và lòng đôn hậu.
***
Thực ra trong những năm cuối đời, Nguyên Hồng ít lại nhà tôi. Anh đến tôi chỉ để được yên tĩnh. Nằm trên giường, đọc, hoặc uống rượu.
Trước đây nơi ở chính của anh khi anh về Hải Phòng là nhà tôi. Giờ đây anh đã có một chỗ trong trụ sở Hội văn nghệ Hải Phòng. Và hình như cả một căn buồng ở Cầu Tre thành phố phân cho anh.
Anh đến nhà tôi và nằm xoài xuống sàn nhưng tôi vẫn tinh ý thấy anh nhìn rất nhanh vào đám chai lọ ở gầm giường.
Tôi biết anh đang thèm rượu. Rất ít khi anh bị thất vọng. Tôi có thể moi ra ở đám chai lọ ấy khi nửa chai Lúa Mới, khi một xị rượu gừng hay một cút cuốc lủi. Lúc thì thứ rượu cà phê thẫm mầu. Sau vụ tai nạn của tôi, vợ tôi, một nữ sinh kháng chiến, rất chăm chỉ hương khói.
Nguyên Hồng là người được hưởng lộc nhiều nhất. Anh không khắt khe chọn rượu. Anh đã uống cả rượu cà phê, thứ rượu trước đây anh cho là dã man, bởi vì theo anh, cà phê làm giã rượu. Uống rượu cà phê có nghĩa là được uống nhưng không bao giờ được thoả mãn. Đó chính là tra tấn. Vậy là anh đã quen với sự tra tấn ấy.
Thời gian anh đi Liên xô về, tôi hỏi anh rượu bên ấy loại nào ngon. Anh thì thầm vào tai tôi như sợ có người nghe thấy điều bí mật phạm pháp, vì nó phủ nhận quốc doanh trên quy mô lớn:
- Cũng như ta thôi. Ngon nhất là, là vốt-ca lậu!
Rồi cười. Cười như một người khám phá công bố kết quả bất ngờ. Cười như một người táo tợn dám nói lên chân lý. Cười như đã tìm ra đặc điểm chung nhất của nhân loại. Cười như một trò tinh nghịch. Đó là lúc anh thật sự thơ trẻ lại.
Nhìn Nguyên Hồng uống rượu bao giờ tôi cũng vui. Hơn thế, một cảm giác kính cẩn, gần như một nghi thức tôn giáo.
Từ Cô Tô về, đen nhẻm, anh kể về bữa rượu ngoài đảo do chính quyền sở tại chiêu đãi anh em văn nghệ sĩ. Hải sản. Tất nhiên. Lại cả thịt dê. Và rượu. Và cũng tất nhiên là Nguyên Hồng ngồi cùng mâm với Nguyễn Tuân. Một thứ rượu tăm chính hiệu. Hai người tận hưởng ngọn lửa được thắp lên ở họng và lan vào cơ thể. Anh em văn nghệ sĩ trẻ ngồi cùng mâm và khác mâm ăn như đã bị bỏ đói mấy ngày. Vì không khí trên đảo. Vì sự chuyển dịch. Vì những món ăn ngon lạ miệng. Vì biển ngay bên cạnh. Vì chẳng mấy khi tụ họp đông vui thế... “Họ ăn hơi phũ”. Nguyên Hồng nói vậy. Thực ra họ ăn phũ. Ngon miệng, vô tâm, ồn ào, háu đói.
Mặc. Hai ông già cứ “nâng lên đặt xuống”. Cứ đối ẩm. Cứ ngâm nga. Như chỉ có hai người. Khi hai ông ngừng uống để ăn cơm, các món ăn chỉ còn lại xương. Thấy mỗi người chỉ và một lưng cơm như kiểu ăn chiếu lệ, một bạn trẻ cùng đi lễ phép hỏi:
- Hai bác ăn ít thế ạ?
Nguyên Hồng im lặng vì biết thế nào Nguyễn Tuân cũng... trả lời. Anh không nhầm. Tác giả Sông Đà, Vang bóng một thời nhìn cái bụng căng tròn của anh bạn trẻ, đáp với giọng thương hại:
- Sao anh chậm hiểu thế. Các anh ăn gạo. Còn chúng tôi ăn tinh của gạo.
Lại cười dòn. Nguyên Hồng quả là người mau nước mắt. Khi cười cũng lấy khăn mùi soa lau mắt. Dịp quốc khánh năm ấy, anh thi đua xí nghiệp đánh cá (nơi tôi sẽ đến làm thi đua khi ở tù ra) mua cho tôi mười ki lô cá mực theo giá cung cấp. Nghĩa là “bán như cho” và “mua như vớ được”. Chưa bao giờ tôi có trong tay một khối lượng thực phẩm quý giá, khổng lồ như vậy. Khi đó tôi vẫn đang làm báo. Sau khi đã vợi bớt cho vài người bạn thân, chúng tôi giã chả. Hai vợ chồng thay phiên nhau giã, rán. Và phải gương mẫu ăn nữa vì cũng chỉ có hai chúng tôi. Các cháu đã về quê với bố mẹ tôi.
Suốt một ngày ăn chả mực, tới tối vẫn còn một đĩa men đầy. Giống này rất chóng thiu. Đang lo vì sắp phải mở toà án lương tâm tự đưa mình ta xét xử về tội tham lam dẫn tới sự lãng phí không thể tha thứ được thì Nguyên Hồng đến. Thấy anh và cái làn ràng ràng lủng củng chai lọ hiện ra ở hành lang, chúng tôi cùng reo lên.
Anh ngạc nhiên:
- Có chuyện gì mà vui thế?
Đó là một đêm thu. Trời đẹp. Gió tới tấp. Mà cửa sổ nhà tôi thì rộng, lại trông thẳng ra biển. Bóng điện tròn treo giữa nhà bị gió đánh đung đưa. Nguyên Hồng rút từ trong làn ra một gói chè Ba Đình và hai gói thuốc Tam Đảo tiêu chuẩn phân phối của anh. Quà anh mang từ Hà Nội về tặng tôi ngày Quốc khánh.
Nhìn đĩa chả mực vàng ruộm vợ tôi vừa rán lại, Nguyên Hồng xuýt xoa. Chúng tôi ngồi uống rượu.
Nguyên Hồng nói với vợ tôi:
- Chị Bích ạ. Chả mực phải rán nhỏ nữa. Bằng ngón chân cái thôi. Rán ngập mỡ. Như mấy bà bán ở chợ ấy.
Thế là anh kể về những hàng quà rong. Cái thú khi ngồi ăn ở vỉa hè, cổng chợ. Vừa ngon. Vừa rẻ. Vừa được nhìn, được nghe. Biết bao nhiêu chuyện. Như cái hôm anh ăn bên Hạ Lý. Giời rét đại hàn chi cực. Anh thanh niên ngồi cạnh anh quần áo phong phanh lại chỉ ăn bún chấm mắm tôm, vừa ăn vừa run lập cập khiến chính Nguyên Hồng cũng run lên. Lại như cái hôm anh ngồi uống rượu ở hàng bà bán bún ngoài cổng chợ Lạc Viên. Ngồi ghế đối diện với anh là một phụ nữ, chắc là làm bốc vác Cảng. Giầy vải, quần áo bảo hộ lao động xanh rộng thùng, lấm bẩn. Rõ ràng vừa tan ca về. Người ấy lẳng lặng ăn như anh lẳng lặng uống. Ăn xong khen bún ngon và lấy trong túi xách ra cái cặp lồng đựng một bát mua thêm. Lấy cả chanh ớt, chíu chương. Thêm một ít hành dúng. Đừng cho hành dúng vào bún. Cứ để ngăn trên chỗ chanh ớt. Rồi chỉ vào cái tỏi gà: Chặt cho tôi cái tỏi này. Con gà hôm nay béo, mềm. Gói riêng ra hộ tôi. Cả lá chanh nữa. Cho vào cặp lồng, cho gói thịt vào túi xách. Tưởng xong. Lại rút từ túi ra một con hươu. Cho tôi một cút vào đây. Lúc ấy mới trả tiền. Xách túi đứng lên còn quay lại giải thích với Nguyên Hồng đang cố làm ra không để ý gì đến mọi việc chung quanh:
- Cho ông lão ở nhà.
Và đon đả ra đi.
Nguyên Hồng xuýt xoa không một chút hài hước:
- Lấy được một người vợ như vậy thật đại hạnh phúc!
Chúng tôi cùng cười. Hình như anh muốn tin đấy là Gái Đen, là mẹ La của anh. Anh muốn tin rằng đó là những người trong Cửa biển của anh đã đổi đời cũng với cách mạng, đang sống hạnh phúc trong cuộc sống mới.
Chúng tôi uống lâu. Tới lúc đài phát thanh kết thúc bản tin và bắt đầu chương trình văn nghệ- tiết mục Tiếng thơ. Mười giờ đêm rồi. Cái loa nón Ngã Sáu vọng vào giọng ca thơ lanh lảnh của ai đó đang hát bài thơ chưa in (như giới thiệu của đài Tiếng nói Việt Nam) của Tố Hữu, bài Nhật ký đường về. Đúng là inédite vì tới sáng hôm sau, mùng hai tháng chín báo Nhân Dân in bài thơ ấy mới phát hành.
Hay tin giặc bắn Hòn Mê
Đêm nằm nghe biển gọi về quê hương
Sáng ra cất cánh lên đường
Xôn xao sóng nước đại dương muốn trùng.
Cu Ba chào bạn anh hùng
Cũng giống tôi, Nguyên Hồng không thích ngâm thơ. Ghét nữa. Giọng véo von trầm bổng làm mất âm điệu của ngôn ngữ. Nó giết chết nhạc của thơ. Nó có thể tạo nên một lớp công chúng không biết gì về chất nhạc này. Nguyên Hồng không gọi là ngâm thơ. Anh gọi là hát thơ. Và anh cho biết thủ phạm của ngành nghệ thuật này chính là hai nhà thơ Hoàng Cầm, Xuân Diệu. Nguyên Hồng ghé sát tai tôi, tinh nghịch:
- Lại có những vị lên ngâm thơ cứ ưỡn bụng ra mà chẳng có gì là gợi tình cả.
Chúng tôi lại cười. Tràn ngập không gian là tiếng đàn thập lục thánh thót, tiếng sáo lúc vút lên như tiếng chim chiền chiện, lúc là là như trôi sát mặt sông và giọng ngâm điêu luyện:
Sáng rồi rộn rã trong tim
Đường về phơi phới cánh chim tung hoành
Cờ bay Vạn lý trường thành
Bắc Kinh tay chị tay anh triệu vòng
Tôi bảo Nguyên Hồng:
- Cửu Long giang ta ơi của anh cũng được hát trên đài đấy. Tôi nghe mấy lần rồi.
Anh làm ra bộ thiểu não, lắc đầu, kiểu như muốn nói: “Phải chịu thôi. Phải đầu hàng thôi. Không còn cách nào khác”.
Chúng tôi lại nói chuyện thơ. Nguyên Hồng là tác giả những bài thơ có thể làm bất kỳ nhà thơ nào ghen tỵ.
Một bài thơ của anh ít được nhắc tới, nhưng tôi chỉ nghe một lần đã thuộc. Và nó cứ nằm lý trong trí nhớ ngày một tồi một suy giảm của tôi. Đó là bài “Hồng Hà, tên con, dòng sông yêu dấu”.
Hồng Hà
Ngẩng trán lên
Cha hôn
Nước sa đã về
Vải thiều đã đỏ.
Bãi ngô ngả rạp
Gió Tây chảy vàng đồng lúa
Mây đen Tam Đảo gọi gió chiều hôm
Lô, Thao thác réo ghềnh sôi
Biển Đông chớp nhói lửa chài chông chênh.
Mẹ đẻ con
Mùa ấy
Tên con tìm đặt
Ngay khi thai nghén
Vú nhỏ nổi gai
Bụng nhỏ căng tròn
Mặt váng vất những buổi chiều nhớ sốt
Trong thịt xương một xương thịt mang hồn
(.)
Còn đây là Cửu Long giang ta ơi đã đi vào cổ điển:
() Mê kông chảy
Cây lao đá đổ
Lan hoang dứa mật thông nhựa lên hương
Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn.
Ngẫm nghĩ vơi đi
Thác Khôn cười trắng xoá
Rừng Lào - Miên rộng quá
Dân Lào - Miên mến yêu
Hai bài thơ anh viết về hai con sông lớn nhất đất nước, một ở miền Nam, một ở miền Bắc, bồi đắp thành hai châu thổ lớn, “thành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa”.
Trong thơ Nguyên Hồng không có chỗ cho sự trung bình của tình cảm, lại càng không có chỗ cho sự uốn éo, làm duyên.
Đêm ấy chúng tôi thức khuya. Một tối thật vui.
Nguyên Hồng ngủ lại nhà tôi. Vợ tôi dẹp mâm. Tôi lấy khăn mặt đưa anh lau tay, lau miệng. Nhưng anh cho tay vào làn, lục tìm, lôi từ đống hỗn mang ấy ra một cái khăn mặt mầu nước dưa và thân mật vỗ vai tôi, phổ biến cho tôi một chân lý mới mẻ, vĩnh hằng:
- Người ta có thể uống chung một chén rượu. Nhưng không thể dùng chung một cái khăn mặt!
***
Khi tôi bị văng ra ngoài quỹ đạo, Nguyên Hồng thưa lại nhà tôi. Ngoài những lý do về nhà cửa, nơi ở của anh đã có còn một lý do khác nữa. Anh không thể nói chuyện văn chương với tôi, mà đấy lại là nội dung chính trong cuộc sống của anh. Mọi con đường đều dẫn tới thành Rôm. Dù có nói chuyện gì cuối cùng cũng dẫn tới chuyện sáng tác, cũng dính dáng tới công việc của anh, tới các bạn tôi đang viết, đang in.
Cuối năm 1974, nghĩa là khi tôi ở tù ra được một năm và đang làm bốc vác, Nguyên Hồng lại nhà tôi. Đó là một tối mùa đông. Ngồi trên chiếc chiết giải giữa nhà, đúng chỗ tôi và anh uống rượu với chả mực năm nào, anh lục trong cặp (lần này là cặp, không phải cái làn đựng các thứ hỗn mang nữa) rút ra một tập sách anh mới in. Một tuổi thơ văn. Anh lấy bút ghi tặng tôi, vẫn bằng thứ chữ to anh chuyên đề tặng trên các tập sách: Cho Bùi Ngọc Tấn rất thương. Mùa đông nhớ năm xưa. Nguyên Hồng.
Đưa tập sách cho tôi, thật bất ngờ, anh oà khóc. Đó là những giọt nước mắt mặn xót cả lòng tôi. Tập sách đầu tiên anh tặng tôi khi tôi trở lại cuộc sống con người. Cầm tập sách tôi nguôi đi tất cả những hờn giận về anh, về những xa cách đã có giữa chúng tôi. “... rất thương. Mùa Đông nhớ năm xưa”. Anh vẫn nhớ những năm xưa. Không quên.
Đó là tất cả những gì có thể làm được cho tôi. Thế cũng đã là nhiều lắm.
Hơn một lần anh chảy nước mắt về những đau khổ của tôi. Nhưng chỉ ba lần anh khóc nhiều như vậy. Lần đầu tiên: Gặp lại tôi sau 5 năm tù. Lần thứ hai khi tôi cho anh xem bộ quần áo số của tôi. Và lần này. Anh sợ quyển sách của anh sẽ làm tôi đau. Vì tôi đã bị văng ra ngoài quỹ đạo.
Nguyên Hồng vẫn tránh mọi chuyện văn chương với tôi ấy thế mà có một lần vừa đến nhà, anh đã lôi ra một tạp chí nước ngoài. Anh lật tìm trang. Và đặt trước mặt tôi quyển tạp chí để mở. Tôi nhìn tấm hình in trên tạp chí và lại nhìn anh. Đúng là anh. Nhưng tôi kêu lên:
- Giống Đề Thám quá?
Thật là một phát hiện bất ngờ. Eureka!
Tạp chí giới thiệu Nguyên Hồng và in ảnh của anh. Khuôn mặt. Chòm râu. Chỉ thiếu vành khăn trên đầu là thành Hoàng Hoa Thám.
Anh ngắm lại tấm ảnh:
- Mình không biết họ chụp mình lúc nào. Đúng là Đề Thám.
Khi đó anh đang viết Núi rừng Yên Thê, anh “vẫn khoẻ vì cần phải khoẻ” như thư anh viết cho tôi ngày trước.
Khi đó anh đã dạy con gái anh cách bán mèo ở chợ Yên Thế để lấy tiền mua sách bút vào năm học mới.
- Con cứ cầm gáy nó giơ lên thế này này. Chân nó chụm lại thế này là mèo hay chuột đấy. Cứ bảo người ta là mèo nhà cháu hay chuột lắm..
Chờ đến gần trưa, chưa thấy con gái về, Nguyên Hồng ra chợ. Chợ đã vãn. Con bé con và con mèo con vẫn còn ngồi đó. Thấy anh, con bé oà lên khóc
- Con đã làm như thầy bảo, nhưng người ta không mua. Người ta bảo mèo nhà mình là mèo đực.
Còn một chuyện nữa về Nguyên Hồng, tôi cứ suy nghĩ mãi: Nên viết hay chỉ lưu giữ trong bộ nhớ. Đó là cuộc gặp giữa Giăng và Nguyên Hồng ở nhà tôi. Giăng là con liệt sĩ. Bố Giăng hy sinh từ những năm đầu chống Pháp. Mẹ đi lấy chồng. Giăng trở thành trẻ bụi. Móc túi. Đánh nhau. Ăn cắp xe đạp. Đi tù.
Khi tôi và Nguyên Hồng đang uống rượu thì Giăng đến. Không cần giới thiệu, Giăng cũng biết ngay là Nguyên Hồng. Có lẽ hồi ở trong tù tôi đã tả về anh quá nhiều, nên vừa gặp, Giăng đã nhận ra anh. Tôi bảo Giăng ngồi xuống mâm. Thức nhắm với Nguyên Hồng bao giờ cũng đơn giản. Bữa ấy chỉ có ít lạc rang. Tôi nói cho Nguyên Hồng biết đôi chút về cuộc đời Giăng. Giăng rụt dè:
- Cháu đã đọc Bỉ vỏ. Chúng cháu thích lắm...
Đó là những điều quá nhàm, nhà văn chỉ mỉm cười độ lượng. Nhưng câu nói tiếp theo của Giăng thật bất ngờ:
- Sao bác không viết những chuyện như thế nữa. Những chuyện xẩy ra bây giờ cơ. Nhiều chuyện lắm. Chúng cháu sẽ kể cho bác. Bác viết thì hay lắm...
Nguyên Hồng im lặng. Giăng nhìn anh chờ câu trả lời.
Tôi bỗng nhớ đến một câu chuyện Nguyên Hồng kể cho tôi lâu lắm rồi, từ trước khi tôi bị bắt. Một cô gái tuổi đôi mươi nói với Nguyên Hồng đầy tự tin:
- Tôi có cuộc sống. Anh có tay nghề. Chúng ta sẽ cộng tác viết một tác phẩm...
Tôi đã cười mãi về sự tự tin đến mức ngây ngô của người con gái ấy, người đã khoe cuộc sống với cả Nguyên Hồng. Giờ đây tôi mới hiểu cô. Đến bây giờ tôi mới biết có những Tám Bính, Năm Sài Gòn mới đang đòi có những nhà văn của mình.
Tôi nhớ sự đăm chiêu của Nguyên Hồng trước câu hỏi của Giăng. Tôi nhớ anh đã tránh cái nhìn lễ phép, chờ đợi của Giăng. Tôi nhớ vẻ sợ sệt của Giăng vì đã làm anh buồn.
Cũng như tôi nhớ trong một lần khác, lại nhà tôi, anh phe phẩy cái quạt giấy tuỳ thân. (Anh không thích dùng quạt máy dù tôi đã ưu tiên cái quạt cóc duy nhất cho anh). Nằm trên giường, anh đọc. Bỗng anh nhổm dậy gọi tôi với vẻ đầy sảng khoái:
- Tấn ơi! Làm gì đấy. Nghe đã nhé. Đây là câu kết một vở kịch Ba Lan. Nhân vật chính quay ra nói với khán giả: “Các bạn có biết vì sao người ta nói dối không? Có hai lý do. Thứ nhất: Người ta sợ nói khác mọi người. Thứ hai: Người ta mệt quá rồi”.
Ngã Sáu 18 - 20.5.1992
MỘT THỜI ĐỂ MẤT
Tôi đã viết xong tập sách. Những kỷ niệm của tôi với Nguyên Hồng. Kỷ niệm với các bạn tôi. Kỷ niệm về một thời đã mất. Với tôi thời nào cũng là thời để mất cả mà thôi Tôi đã cố nhớ lại. Và tôi biết mình quên rất nhiều. Có thể nói không ngoa: Tới 90 phần trăm. Cả ngọt ngào. Cả đắng cay.
Tôi đã đi cầu viện, hỏi lại, gợi lại trí nhớ bè bạn. Khi biết mục đích của tôi, tất cả đều hoan nghênh, khuyến khích và giúp đỡ tôi.
Tôi khám phá ra một điều chẳng mới mẻ gì nhưng với tôi thật là sâu sắc. Tình cảm anh em văn nghệ Hải Phòng, nhất là anh em viết văn, làm thơ đối với Nguyên Hồng sâu đậm thế. Anh sâu nặng với Hải Phòng. Hải Phòng sâu nặng với anh. Con trẻ dễ dàng nhận ra anh cảm đích thực của ai đó với nó. Không thể lừa dối được trẻ thơ. Trong trường hợp này, Hải Phòng giống như con trẻ.
Các bạn tôi mỗi người đều có những kỷ vật về anh, cất giữ chúng như những tài sản quý giá. Một bức thư anh viết một mẩu giấy anh dặn dò công việc, một tờ lịch anh ghi chương trình công việc, tập sách với chữ đề tặng của anh...
Các bạn tôi đã kể cho tôi nghe nhiều chuyện về Nguyên Hồng. Tôi cũng hiểu ngay rằng nếu các bạn có kể cho tôi những chuyện gì đó về anh thì cũng chỉ là những chuyện loại B. Chu Văn Mười nửa đùa nửa thật nói lên cái điều tôi cho là ý nghĩ của số đông:
- Em không bán lúa non đâu.
Trừ một hai ngoại lệ, còn lại các miễn cưỡng “bán lúa non” và cũng nới thẳng ra điều ấy. Sụ bủn xỉn keo kiệt nhưng đồng thời cũng là hào phóng tuyệt vời ấy một phần dành cho tôi, nhưng cái chính là vì Nguyên Hồng. Vậy là vàng ròng vẫn còn đang được cất giữ. Và sẽ được tung ra thị trường vào một lúc nào đó. Tôi tin một cách chắc chắn rằng sẽ còn nhiều truyện viết về Nguyên Hồng. Những truyện hay nhất về Nguyên Hồng còn chưa được viết ra.
Tuy nhiên cũng có người dốc hết cho tôi, cho tôi đến cạn láng: Đoàn Min chẳng hạn. Và Nguyên Bình. Chẳng những Nguyên Bình cho tôi chi tiết, anh còn gợi lại nhiều điều, nhiều việc, nhiều chuyện tôi đã quên đi. Những chuyện, những việc ấy làm chúng tôi sống lại một thời, làm chúng tôi trẻ lại, kích thích tôi làm việc. Ngày ấy chúng tôi đã gắn bó với nhau, và bao giờ Nguyên Bình cũng mong tôi thành công. Thành công trong cuộc sống. Thành công trong sáng tác. Tôi vô cùng cám ơn các anh Nguyễn Văn Chuông, Nguyễn Quang Thân, Thi Hoàng, Thanh Tùng, Thọ Vân, Phạm Ngà, Lưu Văn Khuê, Phùng Văn Ong, Phan Công Hiển, Vũ Hiển..., những người đã trực tiếp cho tôi tư liệu, đánh thức trí nhớ của tôi, khuyến khích tôi viết tập sách này, và tất nhiên tôi không thể quên hai anh Vương Trí Nhàn, Nguyễn Kiên, ngay từ đầu đã nhắc tôi: Hãy coi là nhiệm vụ của tôi đối với Nguyên Hồng và đối với chính tôi nữa.
Tôi đã đi về xóm Cấm, về Đông Khê, sang Hạ Lý, vào ngõ ông Đồng Lùn, ngõ ông Lý Phình, ngõ Sau Nhà Lốp. Đi một mình, không có anh đi cùng, không có Nguyên Hồng đi cùng. Tôi tìm lại hiệu cà phê điểm tâm Bác Học. Không nhận ra đâu nữa. Chỗ ấy tưng bừng mầu sắc của hàng hoá, của những biển hàng, những trung tâm, những dịch vụ... Tôi tìm đến danh thủ bóng đá một thời Nguyễn Danh Túc để hỏi về ông, một người đam mê bóng đá như Nguyên Hồng đam mê sáng tác và cho đến bây giờ tôi mới hiểu có sự gặp nhau ấy giữa hai người. Túc năm nay đã ngoài sáu mươi tuổi cho tôi biết ông Bác Học vừa mới qua đời nửa năm. Ông Học qua đời cũng rất nhanh. Hôm trước còn đi xem trận đấu giữa các lão tướng Hải Phòng với các lão tướng Hà Nội, về bị cảm, hôm sau chết. Ông đi giống như Nguyên Hồng đi. Nhanh quá. Nhanh đến ngỡ ngàng. Đức, Túc cùng các lão tướng khác khiêng quan tài ông. Vậy là một thế hệ đã ra đi, từ dương vô cùng thoắt cái thành âm vô cùng như cách nói của Xuân Diệu. Cả Xuân Diệu sôi nổi tha thiết yêu nữa cũng đã âm vô cùng, đã thành những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ (thơ Vũ Đình Liên).
Một mình tôi thơ thẩn ở phố Nguyên Hồng.
Ngày xưa Nguyên Hồng dạy tôi yêu Hải Phòng qua các tên phố, nhưng có một tên phố Hải Phòng hải phòng hơn mọi tên phố khác mà Nguyên Hồng không biết. Đó là phố Nguyên Hồng. Sau khi anh mất, Hải Phòng có một đường phố mang tên anh. Phố Nguyên Hồng ngắn, có khoảng 60 số nhà, nối đại lộ Tôn Đức Thắng với phố Lán Bè, còn gọi là phố Bờ Sông... Ở đại lộ Tôn Đức Thắng có những cô gái bán hoa đêm tối đứng ven đường chào khách. Ở phố Lán Bè, phần lớn dân phố bán toàn bộ phiếu lương thực, thực phẩm, phiếu chất đốt, tem vải của cả năm, để lấy vốn làm ăn, buôn bán, sinh nhai. Ở phố Lán Bè có một người bạn nhỏ tuổi của tôi tù đầy từ bé. Đó là Giăng... Sau khi ở tù ra, tôi và Giăng đã ngồi ở bờ sông bàn chuyện làm miến kiếm sống. Nhưng làm miến thất bại, Giăng lại đi đánh nghẽo (ăn cắp xe đạp). Lại tù...
Thành phố Hồ Chí Minh cũng có phố Nguyên Hồng, nhưng tôi chưa đặt chân tới đó.
Như vậy là sau khi chết đi, Nguyên Hồng đã biến thành hai dẫy phố. Nguyên Hồng vẫn tiếp tục sống cuộc sống vỉa hè đường phố, bụi bậm, náo nhiệt, có cả bỉ vỏ và chạy vỏ, có cả cậu giáo, có cả hai nhà nghề, hàng cơm đêm...(tên những tác phẩm của Nguyên Hồng).
Chết đi rồi lại biến thành đường phố, sự tái sinh thật là kỳ diệu. Riêng ở Hải Phòng, phố Nguyên Hồng còn gần bờ sông. Nguyên - Hồng - phố có thể nghe thấy tiếng chân vịt tầu thuỷ đạp nước ngược xuôi Hải Phòng - Nam Định như một thời nghe tiếng còi tầu Bạch Thái Bưởi, An Xương... Và vọng tiếng ru con ngày trước
Con ơi đừng khóc mẹ sầu
Cha con đốt lửa dưới tầu Giang Môn
Bao giờ con lớn con khôn
Thời con lại xuống Giang Môn con làm
(Trích Sóng gầm)
Cùng với việc đi tìm những gì của Nguyên Hồng còn trong thành phố, tôi đọc lại anh. Một lần nữa tôi tin rằng Những ngày thơ ấu là tác phẩm hay nhất của Nguyên Hồng.
Tôi viết về anh, cố gắng viết chân thực.
Tôi viết về Nguyên Hồng như tôi biết, như tôi thấy, không thêm bớt, không tô vẽ.
Còn nhiều tài liệu tôi phải để lại. Tập sách này không phải là tập hợp những mẩu chuyện, những giai thoại về Nguyên Hồng để có thể cứ thêm một cái tít là có thể viết thêm một đoạn.
Tôi trình bày nó như một thể thống nhất về một thời đã mất. Có những chuyện không phải chuyện Nguyên Hồng, đó chỉ là vì tôi muốn nói lên bối cảnh chúng tôi đang sống. Những ngày đã qua ấy thật tươi đẹp, thật đau khổ, thật hạnh phúc và cũng thật bất hạnh ít ra đối với tôi và với một số người khác.
Có thể kể ở đây chuyến đi của các anh Phạm Ngà, Lưu Văn Khuê lên Yên Thế, tới nhà Nguyên Hồng như một cuộc hành hương về đất thánh. Các anh đã nhìn thấy tập bản thảo Bỉ vỏ viết tay, Nguyên Hồng ghi sau dòng cuối cùng hai chữ bằng mực tím Năm 1936 và thấy thời gian như ngưng đọng ở đấy. Cùng với Nguyễn Vũ Giang, thứ nam của Nguyên Hồng, hai người đi bộ trên con đường mòn sỏi đỏ, dưới những cây bạch đàn mới trồng tới mộ nhà văn và vợ nhà văn. Hai ngôi mộ song song bên nhau nhìn xuống cánh đồng lúa xanh lúc này lại càng xanh vì cơn mưa vừa dứt, một con suối nhỏ ôm quanh, êm đềm chảy và một bầu trời nặng mây của vùng trung du nhấp nhô đồi núi. Những câu thơ ập đến với Phạm Ngà, bài thơ được hoàn thành gần như tức thời khi thắp hương xong trước mộ vợ chồng nhà văn, anh cùng Lưu Văn Khuê mỗi người một tâm tư, yên lặng.
Thắp hương trước mộ Nguyên Hồng
Chẳng ngờ trời nổi cơn mưa
Lại chẳng ngờ nữa trời vừa tạnh êm
Cung đường nửa xuống nửa lên
Nửa nơi cư tụ, nửa miền hoang sơ
Khói dương sương lạnh mịt mờ
Đỏ au đồi đất, lơ thơ gió đồng
Ông bà kề giấc thong dong
Suối nông một dải ngập ngừng chảy trôi
Chắp tay ngoảnh bốn phương trời
Rượu suông nghiêng chén dâng người nằm đây
Đất trời cũng đảo điên say
Men nồng chưa ráo đã cay mắt mình
Bút lăn rướm máu nhân tình
Bao nhiêu thân kiếp u minh cõi lòng
Khóc người gang tấc vừa xong
Khóc than bao kẻ lạnh lùng bơ vơ...
Còn có thể kể thêm về nỗi ân hận của Thanh Tùng đối với Nguyên Hồng. Suốt lúc sinh thời, Nguyên Hồng toàn bao rượu Thanh Tùng. Thanh Tùng chưa bao giờ được mời Nguyên Hồng uống bằng rượu của mình, trừ một lần anh đã say lắm, mang chai rượu phong tê thấp xin của phòng khám bệnh đến Hội, kéo Nguyên Hồng đang ngồi với Nguyễn Văn Chuông lên gác.
- Hôm nay con uống bố...
Chuông cũng bị kéo lên. Thanh Tùng rót rượu và nói với Nguyên Hồng:
- Hôm nay con uống bố. Bố có công nhận con có tài ứng tác không?
Và Chuông đã thách Thanh Tùng đọc ngay bài thơ về cái bóng đèn điện đang treo lủng lẳng trước mặt ba người.
Thanh Tùng đứng lên bật điện. Thanh Tùng mím môi, im lặng nhìn cái bóng đèn tròn 100 oát đang toả sáng. Như thôi miên. Rồi đọc. Nào là ánh sáng văn minh. Mặt trời đêm tối. Bài ca chiến thắng sau mỗi trận bom.
Trong bữa rượu, cả Nguyên Hồng và Nguyễn Văn Chuông đều công nhận tài ứng tác của Thanh Tùng. Tác giả Thời hoa đỏ còn nói với tôi rằng anh đang truy tìm lý lịch Tư Lập lơ, Năm Sài Gòn, Tám Bính, những nguyên mẫu ngoài đời mà Nguyên Hồng dựa vào đấy để viết Bỉ vỏ. Anh nói “Tư Lập lơ thật” người Hải Dương mới chết ít lâu nay.
Nói vậy để hiểu rằng sau khi qua đời, Nguyên Hồng vẫn sống trong các anh em “trẻ” Hải Phòng như thế nào. Nguyễn Văn Chuông và Nguyên Bình thì lại cứ thích chuyện hài hước, những chuyện hài hước chỉ làm người ta thêm yêu Nguyên Hồng mà người nghe không còn biết thật hư thế nào nữa. Như chuyện bản thảo nở. Nguyên Hồng có mất một bản thảo nào đó. Bản thảo mất ấy lúc đầu chỉ dài 100 trang, ít ngày sau nó nở ra 200 trang. Rồi một hôm Chuông bảo với Nguyên Bình: nó nở ra tới 300 trang rồi! Tôi xếp những chuyện loại này (nhiều lắm, như chuyện Nguyên Hồng được một bỉ vỏ gọi lên xe pousse-pousse càng đồng sáng loáng về một biệt thự ở phố Tây và sống ở đó suốt một tuần lễ trong nhung lụa, rượu và vòng tay người đẹp cho tới khi chồng thị, một tên quan tư đi kinh lý trở về) thuộc loại dị bản (có lẽ nên gọi là những giai thoại, bao gồm cả những chuyện hoàn toàn hư cấu (bịa đặt) được gán cho nhà văn), cần được xem xét thêm. Có thể cũng lại chỉ vì quá yêu Nguyên Hồng nên bạn bè nói thế về anh thôi.
Người bạn tù già trại Đồng Vải đã đoán sai về tôi: Tôi không bỏ nghề, không chuyển nghệ, tuy một thời gian rất dài tôi tin lời đoán ấy và thực tế cũng chứng minh lời đoán ấy là đúng. Nhưng rồi tôi lại viết.
Đầu năm 1990, Nguyễn Quang Thân gặp tôi đâu là nhắc
- Bây giờ viết được rồi đấy. Mày viết cái gì cho Cửa biển đi.
Bùi tai. Hăng lên. Tôi viết. Nhưng viết gì đây. Sau hơn hai mươi năm ngừng viết, lại trải qua quá nhiều chuyện thăng trầm, cái vốn của tôi không phải không có, không đến mức phải bịa đặt ra. Tôi đã nói với Hứa Văn Định vào cái lúc anh đang đưa Vũ Trọng Phụng lên màn ảnh nhỏ:
- Tao quan niệm văn chương trước hết là thông tin. Phải đưa những thông tin đến với bạn đọc. Văn nghệ trước đây không làm việc ấy, nên bây giờ mới tùm lum lên nhiều chuyện. Mới thấy cuộc đời chẳng có gì ổn cả. Còn trong sách thì ổn lắm. Tốt tốt. Xà và tốt tốt (thơ Lê Đạt).
Định trừng mắt:
- Sao mày lại nói văn học là thông tin?
- Tất nhiên là thông tin mang tính nghệ thuật.
Tôi nói vậy vì đối với tôi, nhu cầu thông tin quá lớn.
Tôi suy nghĩ về điều tôi sẽ viết theo đặt hàng của Nguyễn Quang Thân. Tôi nghĩ đến Nguyên Hồng. Tôi trở lại nghề viết bằng bài Nguyên Hồng thời đã mất. Tôi viết một mạch, gần như không phải nghĩ. Chỉ phải nghĩ khi bài báo đã viết xong: Liệu Chu Văn Mười có in cho mình không?
May quá lần này Chu Văn Mười đã in bài tôi viết ký tên thật của tôi trên tạp chí Cửa biển mà anh là tổng biên tập. Cũng lại tình cờ, trong số tạp chí ấy, ngay cạnh bài viết của tôi về Nguyên Hồng là bài Thư gửi về bên kia mộ của Dương Tường viết từ bên dòng sông Tiền nhân ngày giỗ Nguyễn Tuân, gửi bác Nguyễn, “Người làm vườn quốc ngữ tài hoa”, người đã viết nên “Những dàn chữ tươi mẩy, căng mọng electron biểu năng, đôi khi thành những tiệc chữ tưng bừng mà anh nắm được bí quyết tạo tác”.
Thế là đôi bạn hậu sinh bèo mây tan tác chúng tôi không ai bảo ai lại có mặt bên nhau, cùng tưởng nhớ đến bậc tiền bối đã khuất đang xum họp “bên kia mộ”.
Sinh thời Nguyên Hồng gọi tôi là Bùi Ngọc Tấn rất thương. Anh thương tôi vì những gì tôi đã nếm trải. Anh thương tôi vì những gì tôi sắp nếm trải, vì tôi không còn viết được nữa.
Anh Hồng ơi!
Hôm nay tôi lại được viết và viết được rồi.
Hãy bớt đi chữ rất trong tên tôi. Hãy gọi tôi là Bùi Ngọc Tấn thương thôi, anh nhé.
Tôi viết về anh trung thực, mong anh chứng giám.
Trời còn cho sống, cho viết, tôi luôn cố gắng là người trung thực.
17.10.1993 - 11.1.1994
______________________
Phụ lục 1
Lại chuyện Nguyên Hồng - Một thời đã mất
(Bài viết nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày mất Nguyên Hồng (1982-1992)- In trong tạp chí Cửa Biển).
- Lại mở cửa hiệu bán buôn bán lẻ Nguyên Hồng đấy phải không?
Một anh bạn hỏi tôi như vậy khi thấy tôi loay hoay với những trang bản thảo dập dập xoá xoá viết về Nguyên Hồng. Nguyên Hồng quả như một vùng tài nguyên chưa cạn vẫn còn đang được khai thác và chưa thấy đâu là vỉa quặng cuối cùng. Người ta đã viết và in nhiều về anh (tôi cũng có một bài). Năm nay kỷ niệm tròn mười năm anh từ biệt thế giới này, lại một loạt bài nữa về anh. Bài nào cũng có những thông tin mới, cũng đậm tình người viết. Đó là điều đặc biệt đời dành cho anh. Không một ai - kể cả Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng - được như vậy. Người ta viết về anh như viết về một nhà văn lớn. Như viết về một người bạn. Như viết về cuộc đời của chính họ. Cuộc đời ấy là một tập đại thành chữ của Nguyên Hồng) của khát vọng, của lao động khổ sai, của sảng khoái hưởng thụ, của sự nhọc nhằn lam lũ vất vả, của ý thức về sự cao sang nghề nghiệp, sự nhẹ dạ hồn nhiên trong cuộc sống, và vượt lên tất cả là lòng yêu đời, dù thế nào cũng cứ yêu tha thiết cuộc sống này. Anh là lương tâm văn học của lớp trẻ chúng tôi. Chưa bao giờ đời cám dỗ nổi anh, biến anh thành một công chức văn nghệ.
Thế là đã mười năm Hải Phòng vắng bóng anh. Tôi nhớ lại mùa hè năm 1982 đó. Tôi đang làm ở xí nghiệp đánh cá. Một xí nghiệp có đối tượng lao động là biển cả. Người ta đi biển hàng tháng, hàng năm mới trở về. Người ta vật lộn với bão, với gió mùa, với biển động, với những sự cố và những tai nạn. Người ta làm việc không kể ngày đêm. Thèm một ngọn rau xanh. Nhớ vợ con. Nhớ người yêu Nhớ cây. Nhớ tiếng còi ô tô. Nhớ đất ẩm. Và uống rượu. Ai cũng uống. Uống nhiều cho quên đi tất cả. Bởi vậy người ta ít quan tâm đến mọi chuyện. Nhiều người còn lẫn lộn tên và chức vụ của những vị rường cột nhà nước. Nhưng tin Nguyên Hồng qua đời ai cũng biết. Ai cũng biết đất nước vừa mất đi một nhà văn lớn dù có người chưa đọc anh một dòng nào.
Tin dữ đến với tôi quá bất ngờ. Tôi đã tưởng không còn chuyện gì là bất ngờ đối với tôi được nữa và đã tự bảo chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Thế mà tôi vẫn choáng. Vẫn phải cố gắng lắm mới quen với ý nghĩ từ nay không được gặp anh nữa, anh đã đi vào hư vô. Ba năm sau cảm giác ấy lại đến với tôi khi cha tôi qua đời cũng đột ngột như vậy. Cũng như với Nguyên Hồng, tôi nghĩ cha tôi còn có thể sống khoẻ mạnh mươi năm nữa. Khi thế hệ cha anh mình mất đi, mình bỗng thấy trơ trọi. Không còn nữa cái tuyến một vẫn đứng chắn giữa mình với vô cùng, che chở cho mình bình yên sống. Mình không an toàn nữa. Mình bỗng biến thành tuyến đầu. Từ nay mình bị phơi ra trước họng súng bắn tỉa của Thần Chết.
Bên cạnh nỗi xót thương, tôi quen dần những cuộc trò chuyện tay đôi với kết cục tất yếu sẽ đến cùng mỗi chúng ta và tôi hiểu rằng được chết như anh, như cha tôi là vô cùng sung sướng. Chết mà không biết rằng mình đã chết. Chết mà vẫn chuẩn bị cho những việc phải làm, vẫn bận bịu với công việc và hình như đến bây giờ vẫn tưởng mình còn đang làm việc. Tôi muốn lên Yên Thế - một vùng đất tôi sống nhiều năm trong thời chống Pháp - vĩnh biệt anh lần cuối. Nhưng với văn chương, tôi đã là người ngoài cuộc. Tôi đã bị văng ra ngoài quỹ đạo. Tôi đành ở lại thành phố Hải Phòng, nơi chính tôi đã cùng Nguyên Bình đưa mẹ anh từ Đông Khê ra ô tô để bà lên Yên Thế. Tôi nhớ đến căn nhà đơn sơ của bà ở Đông Khê, nơi anh viết Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu. Tôi nhớ đến bà, đến dáng người, vẻ mặt bà.
Bà rất giống anh. Chẳng riêng ngoại hình mà còn ở những điều dễ nhận thấy trong tính cách: sự chịu đựng và lòng đôn hậu.
***
Thực ra trong những năm cuối đời, Nguyên Hồng ít lại nhà tôi. Anh đến tôi chỉ để được yên tĩnh. Nằm trên giường, đọc, hoặc uống rượu.
Trước đây nơi ở chính của anh khi anh về Hải Phòng là nhà tôi. Giờ đây anh đã có một chỗ trong trụ sở Hội văn nghệ Hải Phòng. Và hình như cả một căn buồng ở Cầu Tre thành phố phân cho anh.
Anh đến nhà tôi và nằm xoài xuống sàn nhưng tôi vẫn tinh ý thấy anh nhìn rất nhanh vào đám chai lọ ở gầm giường.
Tôi biết anh đang thèm rượu. Rất ít khi anh bị thất vọng. Tôi có thể moi ra ở đám chai lọ ấy khi nửa chai Lúa Mới, khi một xị rượu gừng hay một cút cuốc lủi. Lúc thì thứ rượu cà phê thẫm mầu. Sau vụ tai nạn của tôi, vợ tôi, một nữ sinh kháng chiến, rất chăm chỉ hương khói.
Nguyên Hồng là người được hưởng lộc nhiều nhất. Anh không khắt khe chọn rượu. Anh đã uống cả rượu cà phê, thứ rượu trước đây anh cho là dã man, bởi vì theo anh, cà phê làm giã rượu. Uống rượu cà phê có nghĩa là được uống nhưng không bao giờ được thoả mãn. Đó chính là tra tấn. Vậy là anh đã quen với sự tra tấn ấy.
Thời gian anh đi Liên xô về, tôi hỏi anh rượu bên ấy loại nào ngon. Anh thì thầm vào tai tôi như sợ có người nghe thấy điều bí mật phạm pháp, vì nó phủ nhận quốc doanh trên quy mô lớn:
- Cũng như ta thôi. Ngon nhất là, là vốt-ca lậu!
Rồi cười. Cười như một người khám phá công bố kết quả bất ngờ. Cười như một người táo tợn dám nói lên chân lý. Cười như đã tìm ra đặc điểm chung nhất của nhân loại. Cười như một trò tinh nghịch. Đó là lúc anh thật sự thơ trẻ lại.
Nhìn Nguyên Hồng uống rượu bao giờ tôi cũng vui. Hơn thế, một cảm giác kính cẩn, gần như một nghi thức tôn giáo.
Từ Cô Tô về, đen nhẻm, anh kể về bữa rượu ngoài đảo do chính quyền sở tại chiêu đãi anh em văn nghệ sĩ. Hải sản. Tất nhiên. Lại cả thịt dê. Và rượu. Và cũng tất nhiên là Nguyên Hồng ngồi cùng mâm với Nguyễn Tuân. Một thứ rượu tăm chính hiệu. Hai người tận hưởng ngọn lửa được thắp lên ở họng và lan vào cơ thể. Anh em văn nghệ sĩ trẻ ngồi cùng mâm và khác mâm ăn như đã bị bỏ đói mấy ngày. Vì không khí trên đảo. Vì sự chuyển dịch. Vì những món ăn ngon lạ miệng. Vì biển ngay bên cạnh. Vì chẳng mấy khi tụ họp đông vui thế... “Họ ăn hơi phũ”. Nguyên Hồng nói vậy. Thực ra họ ăn phũ. Ngon miệng, vô tâm, ồn ào, háu đói.
Mặc. Hai ông già cứ “nâng lên đặt xuống”. Cứ đối ẩm. Cứ ngâm nga. Như chỉ có hai người. Khi hai ông ngừng uống để ăn cơm, các món ăn chỉ còn lại xương. Thấy mỗi người chỉ và một lưng cơm như kiểu ăn chiếu lệ, một bạn trẻ cùng đi lễ phép hỏi:
- Hai bác ăn ít thế ạ?
Nguyên Hồng im lặng vì biết thế nào Nguyễn Tuân cũng... trả lời. Anh không nhầm. Tác giả Sông Đà, Vang bóng một thời nhìn cái bụng căng tròn của anh bạn trẻ, đáp với giọng thương hại:
- Sao anh chậm hiểu thế. Các anh ăn gạo. Còn chúng tôi ăn tinh của gạo.
Lại cười dòn. Nguyên Hồng quả là người mau nước mắt. Khi cười cũng lấy khăn mùi soa lau mắt. Dịp quốc khánh năm ấy, anh thi đua xí nghiệp đánh cá (nơi tôi sẽ đến làm thi đua khi ở tù ra) mua cho tôi mười ki lô cá mực theo giá cung cấp. Nghĩa là “bán như cho” và “mua như vớ được”. Chưa bao giờ tôi có trong tay một khối lượng thực phẩm quý giá, khổng lồ như vậy. Khi đó tôi vẫn đang làm báo. Sau khi đã vợi bớt cho vài người bạn thân, chúng tôi giã chả. Hai vợ chồng thay phiên nhau giã, rán. Và phải gương mẫu ăn nữa vì cũng chỉ có hai chúng tôi. Các cháu đã về quê với bố mẹ tôi.
Suốt một ngày ăn chả mực, tới tối vẫn còn một đĩa men đầy. Giống này rất chóng thiu. Đang lo vì sắp phải mở toà án lương tâm tự đưa mình ta xét xử về tội tham lam dẫn tới sự lãng phí không thể tha thứ được thì Nguyên Hồng đến. Thấy anh và cái làn ràng ràng lủng củng chai lọ hiện ra ở hành lang, chúng tôi cùng reo lên.
Anh ngạc nhiên:
- Có chuyện gì mà vui thế?
Đó là một đêm thu. Trời đẹp. Gió tới tấp. Mà cửa sổ nhà tôi thì rộng, lại trông thẳng ra biển. Bóng điện tròn treo giữa nhà bị gió đánh đung đưa. Nguyên Hồng rút từ trong làn ra một gói chè Ba Đình và hai gói thuốc Tam Đảo tiêu chuẩn phân phối của anh. Quà anh mang từ Hà Nội về tặng tôi ngày Quốc khánh.
Nhìn đĩa chả mực vàng ruộm vợ tôi vừa rán lại, Nguyên Hồng xuýt xoa. Chúng tôi ngồi uống rượu.
Nguyên Hồng nói với vợ tôi:
- Chị Bích ạ. Chả mực phải rán nhỏ nữa. Bằng ngón chân cái thôi. Rán ngập mỡ. Như mấy bà bán ở chợ ấy.
Thế là anh kể về những hàng quà rong. Cái thú khi ngồi ăn ở vỉa hè, cổng chợ. Vừa ngon. Vừa rẻ. Vừa được nhìn, được nghe. Biết bao nhiêu chuyện. Như cái hôm anh ăn bên Hạ Lý. Giời rét đại hàn chi cực. Anh thanh niên ngồi cạnh anh quần áo phong phanh lại chỉ ăn bún chấm mắm tôm, vừa ăn vừa run lập cập khiến chính Nguyên Hồng cũng run lên. Lại như cái hôm anh ngồi uống rượu ở hàng bà bán bún ngoài cổng chợ Lạc Viên. Ngồi ghế đối diện với anh là một phụ nữ, chắc là làm bốc vác Cảng. Giầy vải, quần áo bảo hộ lao động xanh rộng thùng, lấm bẩn. Rõ ràng vừa tan ca về. Người ấy lẳng lặng ăn như anh lẳng lặng uống. Ăn xong khen bún ngon và lấy trong túi xách ra cái cặp lồng đựng một bát mua thêm. Lấy cả chanh ớt, chíu chương. Thêm một ít hành dúng. Đừng cho hành dúng vào bún. Cứ để ngăn trên chỗ chanh ớt. Rồi chỉ vào cái tỏi gà: Chặt cho tôi cái tỏi này. Con gà hôm nay béo, mềm. Gói riêng ra hộ tôi. Cả lá chanh nữa. Cho vào cặp lồng, cho gói thịt vào túi xách. Tưởng xong. Lại rút từ túi ra một con hươu. Cho tôi một cút vào đây. Lúc ấy mới trả tiền. Xách túi đứng lên còn quay lại giải thích với Nguyên Hồng đang cố làm ra không để ý gì đến mọi việc chung quanh:
- Cho ông lão ở nhà.
Và đon đả ra đi.
Nguyên Hồng xuýt xoa không một chút hài hước:
- Lấy được một người vợ như vậy thật đại hạnh phúc!
Chúng tôi cùng cười. Hình như anh muốn tin đấy là Gái Đen, là mẹ La của anh. Anh muốn tin rằng đó là những người trong Cửa biển của anh đã đổi đời cũng với cách mạng, đang sống hạnh phúc trong cuộc sống mới.
Chúng tôi uống lâu. Tới lúc đài phát thanh kết thúc bản tin và bắt đầu chương trình văn nghệ- tiết mục Tiếng thơ. Mười giờ đêm rồi. Cái loa nón Ngã Sáu vọng vào giọng ca thơ lanh lảnh của ai đó đang hát bài thơ chưa in (như giới thiệu của đài Tiếng nói Việt Nam) của Tố Hữu, bài Nhật ký đường về. Đúng là inédite vì tới sáng hôm sau, mùng hai tháng chín báo Nhân Dân in bài thơ ấy mới phát hành.
Hay tin giặc bắn Hòn Mê
Đêm nằm nghe biển gọi về quê hương
Sáng ra cất cánh lên đường
Xôn xao sóng nước đại dương muốn trùng.
Cu Ba chào bạn anh hùng
Cũng giống tôi, Nguyên Hồng không thích ngâm thơ. Ghét nữa. Giọng véo von trầm bổng làm mất âm điệu của ngôn ngữ. Nó giết chết nhạc của thơ. Nó có thể tạo nên một lớp công chúng không biết gì về chất nhạc này. Nguyên Hồng không gọi là ngâm thơ. Anh gọi là hát thơ. Và anh cho biết thủ phạm của ngành nghệ thuật này chính là hai nhà thơ Hoàng Cầm, Xuân Diệu. Nguyên Hồng ghé sát tai tôi, tinh nghịch:
- Lại có những vị lên ngâm thơ cứ ưỡn bụng ra mà chẳng có gì là gợi tình cả.
Chúng tôi lại cười. Tràn ngập không gian là tiếng đàn thập lục thánh thót, tiếng sáo lúc vút lên như tiếng chim chiền chiện, lúc là là như trôi sát mặt sông và giọng ngâm điêu luyện:
Sáng rồi rộn rã trong tim
Đường về phơi phới cánh chim tung hoành
Cờ bay Vạn lý trường thành
Bắc Kinh tay chị tay anh triệu vòng
Tôi bảo Nguyên Hồng:
- Cửu Long giang ta ơi của anh cũng được hát trên đài đấy. Tôi nghe mấy lần rồi.
Anh làm ra bộ thiểu não, lắc đầu, kiểu như muốn nói: “Phải chịu thôi. Phải đầu hàng thôi. Không còn cách nào khác”.
Chúng tôi lại nói chuyện thơ. Nguyên Hồng là tác giả những bài thơ có thể làm bất kỳ nhà thơ nào ghen tỵ.
Một bài thơ của anh ít được nhắc tới, nhưng tôi chỉ nghe một lần đã thuộc. Và nó cứ nằm lý trong trí nhớ ngày một tồi một suy giảm của tôi. Đó là bài “Hồng Hà, tên con, dòng sông yêu dấu”.
Hồng Hà
Ngẩng trán lên
Cha hôn
Nước sa đã về
Vải thiều đã đỏ.
Bãi ngô ngả rạp
Gió Tây chảy vàng đồng lúa
Mây đen Tam Đảo gọi gió chiều hôm
Lô, Thao thác réo ghềnh sôi
Biển Đông chớp nhói lửa chài chông chênh.
Mẹ đẻ con
Mùa ấy
Tên con tìm đặt
Ngay khi thai nghén
Vú nhỏ nổi gai
Bụng nhỏ căng tròn
Mặt váng vất những buổi chiều nhớ sốt
Trong thịt xương một xương thịt mang hồn
(.)
Còn đây là Cửu Long giang ta ơi đã đi vào cổ điển:
() Mê kông chảy
Cây lao đá đổ
Lan hoang dứa mật thông nhựa lên hương
Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn.
Ngẫm nghĩ vơi đi
Thác Khôn cười trắng xoá
Rừng Lào - Miên rộng quá
Dân Lào - Miên mến yêu
Hai bài thơ anh viết về hai con sông lớn nhất đất nước, một ở miền Nam, một ở miền Bắc, bồi đắp thành hai châu thổ lớn, “thành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa”.
Trong thơ Nguyên Hồng không có chỗ cho sự trung bình của tình cảm, lại càng không có chỗ cho sự uốn éo, làm duyên.
Đêm ấy chúng tôi thức khuya. Một tối thật vui.
Nguyên Hồng ngủ lại nhà tôi. Vợ tôi dẹp mâm. Tôi lấy khăn mặt đưa anh lau tay, lau miệng. Nhưng anh cho tay vào làn, lục tìm, lôi từ đống hỗn mang ấy ra một cái khăn mặt mầu nước dưa và thân mật vỗ vai tôi, phổ biến cho tôi một chân lý mới mẻ, vĩnh hằng:
- Người ta có thể uống chung một chén rượu. Nhưng không thể dùng chung một cái khăn mặt!
***
Khi tôi bị văng ra ngoài quỹ đạo, Nguyên Hồng thưa lại nhà tôi. Ngoài những lý do về nhà cửa, nơi ở của anh đã có còn một lý do khác nữa. Anh không thể nói chuyện văn chương với tôi, mà đấy lại là nội dung chính trong cuộc sống của anh. Mọi con đường đều dẫn tới thành Rôm. Dù có nói chuyện gì cuối cùng cũng dẫn tới chuyện sáng tác, cũng dính dáng tới công việc của anh, tới các bạn tôi đang viết, đang in.
Cuối năm 1974, nghĩa là khi tôi ở tù ra được một năm và đang làm bốc vác, Nguyên Hồng lại nhà tôi. Đó là một tối mùa đông. Ngồi trên chiếc chiết giải giữa nhà, đúng chỗ tôi và anh uống rượu với chả mực năm nào, anh lục trong cặp (lần này là cặp, không phải cái làn đựng các thứ hỗn mang nữa) rút ra một tập sách anh mới in. Một tuổi thơ văn. Anh lấy bút ghi tặng tôi, vẫn bằng thứ chữ to anh chuyên đề tặng trên các tập sách: Cho Bùi Ngọc Tấn rất thương. Mùa đông nhớ năm xưa. Nguyên Hồng.
Đưa tập sách cho tôi, thật bất ngờ, anh oà khóc. Đó là những giọt nước mắt mặn xót cả lòng tôi. Tập sách đầu tiên anh tặng tôi khi tôi trở lại cuộc sống con người. Cầm tập sách tôi nguôi đi tất cả những hờn giận về anh, về những xa cách đã có giữa chúng tôi. “... rất thương. Mùa Đông nhớ năm xưa”. Anh vẫn nhớ những năm xưa. Không quên.
Đó là tất cả những gì có thể làm được cho tôi. Thế cũng đã là nhiều lắm.
Hơn một lần anh chảy nước mắt về những đau khổ của tôi. Nhưng chỉ ba lần anh khóc nhiều như vậy. Lần đầu tiên: Gặp lại tôi sau 5 năm tù. Lần thứ hai khi tôi cho anh xem bộ quần áo số của tôi. Và lần này. Anh sợ quyển sách của anh sẽ làm tôi đau. Vì tôi đã bị văng ra ngoài quỹ đạo.
Nguyên Hồng vẫn tránh mọi chuyện văn chương với tôi ấy thế mà có một lần vừa đến nhà, anh đã lôi ra một tạp chí nước ngoài. Anh lật tìm trang. Và đặt trước mặt tôi quyển tạp chí để mở. Tôi nhìn tấm hình in trên tạp chí và lại nhìn anh. Đúng là anh. Nhưng tôi kêu lên:
- Giống Đề Thám quá?
Thật là một phát hiện bất ngờ. Eureka!
Tạp chí giới thiệu Nguyên Hồng và in ảnh của anh. Khuôn mặt. Chòm râu. Chỉ thiếu vành khăn trên đầu là thành Hoàng Hoa Thám.
Anh ngắm lại tấm ảnh:
- Mình không biết họ chụp mình lúc nào. Đúng là Đề Thám.
Khi đó anh đang viết Núi rừng Yên Thê, anh “vẫn khoẻ vì cần phải khoẻ” như thư anh viết cho tôi ngày trước.
Khi đó anh đã dạy con gái anh cách bán mèo ở chợ Yên Thế để lấy tiền mua sách bút vào năm học mới.
- Con cứ cầm gáy nó giơ lên thế này này. Chân nó chụm lại thế này là mèo hay chuột đấy. Cứ bảo người ta là mèo nhà cháu hay chuột lắm..
Chờ đến gần trưa, chưa thấy con gái về, Nguyên Hồng ra chợ. Chợ đã vãn. Con bé con và con mèo con vẫn còn ngồi đó. Thấy anh, con bé oà lên khóc
- Con đã làm như thầy bảo, nhưng người ta không mua. Người ta bảo mèo nhà mình là mèo đực.
Còn một chuyện nữa về Nguyên Hồng, tôi cứ suy nghĩ mãi: Nên viết hay chỉ lưu giữ trong bộ nhớ. Đó là cuộc gặp giữa Giăng và Nguyên Hồng ở nhà tôi. Giăng là con liệt sĩ. Bố Giăng hy sinh từ những năm đầu chống Pháp. Mẹ đi lấy chồng. Giăng trở thành trẻ bụi. Móc túi. Đánh nhau. Ăn cắp xe đạp. Đi tù.
Khi tôi và Nguyên Hồng đang uống rượu thì Giăng đến. Không cần giới thiệu, Giăng cũng biết ngay là Nguyên Hồng. Có lẽ hồi ở trong tù tôi đã tả về anh quá nhiều, nên vừa gặp, Giăng đã nhận ra anh. Tôi bảo Giăng ngồi xuống mâm. Thức nhắm với Nguyên Hồng bao giờ cũng đơn giản. Bữa ấy chỉ có ít lạc rang. Tôi nói cho Nguyên Hồng biết đôi chút về cuộc đời Giăng. Giăng rụt dè:
- Cháu đã đọc Bỉ vỏ. Chúng cháu thích lắm...
Đó là những điều quá nhàm, nhà văn chỉ mỉm cười độ lượng. Nhưng câu nói tiếp theo của Giăng thật bất ngờ:
- Sao bác không viết những chuyện như thế nữa. Những chuyện xẩy ra bây giờ cơ. Nhiều chuyện lắm. Chúng cháu sẽ kể cho bác. Bác viết thì hay lắm...
Nguyên Hồng im lặng. Giăng nhìn anh chờ câu trả lời.
Tôi bỗng nhớ đến một câu chuyện Nguyên Hồng kể cho tôi lâu lắm rồi, từ trước khi tôi bị bắt. Một cô gái tuổi đôi mươi nói với Nguyên Hồng đầy tự tin:
- Tôi có cuộc sống. Anh có tay nghề. Chúng ta sẽ cộng tác viết một tác phẩm...
Tôi đã cười mãi về sự tự tin đến mức ngây ngô của người con gái ấy, người đã khoe cuộc sống với cả Nguyên Hồng. Giờ đây tôi mới hiểu cô. Đến bây giờ tôi mới biết có những Tám Bính, Năm Sài Gòn mới đang đòi có những nhà văn của mình.
Tôi nhớ sự đăm chiêu của Nguyên Hồng trước câu hỏi của Giăng. Tôi nhớ anh đã tránh cái nhìn lễ phép, chờ đợi của Giăng. Tôi nhớ vẻ sợ sệt của Giăng vì đã làm anh buồn.
Cũng như tôi nhớ trong một lần khác, lại nhà tôi, anh phe phẩy cái quạt giấy tuỳ thân. (Anh không thích dùng quạt máy dù tôi đã ưu tiên cái quạt cóc duy nhất cho anh). Nằm trên giường, anh đọc. Bỗng anh nhổm dậy gọi tôi với vẻ đầy sảng khoái:
- Tấn ơi! Làm gì đấy. Nghe đã nhé. Đây là câu kết một vở kịch Ba Lan. Nhân vật chính quay ra nói với khán giả: “Các bạn có biết vì sao người ta nói dối không? Có hai lý do. Thứ nhất: Người ta sợ nói khác mọi người. Thứ hai: Người ta mệt quá rồi”.
Ngã Sáu 18 - 20.5.1992
MỘT THỜI ĐỂ MẤT
HỒ HỮU TƯỜNG * VỀ QUẶP RÂU
Những chuyện tiếu lâm về “quặp râu”
CHUYỆN ANH NHÀ QUÊ QUẶP RÂU
Ngày xưa, có hai anh nọ, Giáp và Ất, là bạn chỉ thân. Hôm nọ, Giáp đến nhà Ất chơi, thấy Ất mặt mày sưng vù, dấu cào xé còn rõ trên má. Thấy bạn như vầy, Giáp động lòng, hỏi:
“Tại sao anh ra như thế?”
“Tại trời…”
“Làm gì mà tại trời? Trời đánh thì chết ngay, trúng xém, thì anh cũng nám da nám mặt, đâu có những dấu cào xé như thế này?”
“… Tại trời mưa.”
“Trời mưa, thì ướt mình, có mưa đá đi nữa, thì một hai dấu ném trên đầu, chớ làm sao có những dấu nọ?”
“Anh nóng quá, để tôi kể đầu đuôi cho mà nghe. Số là, sớm mai nầy, khi đi chợ, mẹ nó có phơi cái váy nơi sào. Tôi ở nhà mê đọc tiểu thuyết, nên trời mưa mà tôi quên lấy vào. Khi mẹ nó về, thấy váy của nó ướt, nên đánh tôi ra thân thể như vầy.”
“Hứ! Anh là thứ đàn ông hư phải gặp tôi, mà xem…”
Vừa nói đến đây, thì Giáp nghe sau lưng mình, có tiếng thứ ba chen vào:
“… Phỏng gặp tôi, thì đã xem cái gì?”
Giáp lật đật quay lại nhìn, thì là bà Giáp đứng ngay sau lưng, và vừa hỏi câu nọ. Lanh trí, Giáp quặp râu lại và trả lời:
“Phải gặp tôi, thì trời vừa kéo mây, tôi đã cẩn thận lấy vô rồi.”
CHUYỆN NHÀ TRÍ THỨC QUẶP RÂU
Ngày xưa, có một vị vua nọ đến đỗi là anh hùng, đánh đâu thắng đó, oai danh đồn khắp các nước ngoài, trẻ con nghe nói đến tên chẳng dám khóc, quân vừa kéo đến biên giới một nước nào, thì nước ấy đầu hàng ngay. Thấy ai nấy cũng sợ mình thì nhà vua càng khổ tâm hơn nữa.
Một hôm, người cho vời tất cả bá quan văn võ, các bực hiền đức, các nhà trí thức đến đủ mặt tại sân chầu, rồi trang nghiêm, người đứng phán rằng:
“Ta được tiếng là anh hùng nhưng không ai biết mình cho rõ hơn chính mình, ta xét ta không đủ tư cách mà lãnh cái danh lớn ấy. Bởi ta cảm thấy ta còn biết sợ. Vì vậy, mà ta xét thấy mình không xứng đáng mà ngồi nơi ngai nầy. Nay ta muốn noi gương các vua hiền đời xưa, nhường ngôi cho ai nhiều đức hạnh hơn. Nên ta cho gọi tất cả bậc hiền lương trong xứ, và hôm nay, ta mở một cuộc thi chung để tìm ra người nào là xứng đáng thay ta mà lên ngôi báu. Vậy ta ra lệnh cho tất cả tham gia vào cuộc thi nầy. Và đây là bài thi thứ nhất. Nơi sân, ta đã vạch trước một đường thẳng. Vậy cả thảy đều bước sang tay tả đi.”
Lịnh vừa truyền tất cả đều sang bên tả, Vua nói tiếp:
“Những ai sợ vợ, thì bước sang hữu, ai không sợ thì đứng lại!”
Cả thảy ríu ríu bước sang qua bên hữu, chỉ chừa một lão già quặp râu lại mà đứng nguyên chỗ cũ. Vua mừng quá, bước xuống ngai, vịn vai lão già mà nói rằng:
“Thật là hồng phúc của nước ta, mới được có người xứng đáng như thế này. Ta vốn có tiếng là anh hùng, nhưng trong cung, hãy còn sợ hoàng hậu. Nay có người, ngoài không sợ ai, trong không sợ vợ thì xứng làm vua nước nầy biết chừng nào!”
Lão già run bẩy bẩy tâu rằng:
“Tâu bệ hạ, thần không dám nhận.”
“Cớ sao khi nãy, ta truyền lịnh xong người chẳng bước sang bên hữu?”
“Bởi vì thần sợ vợ quá. Vừa nghe nói đến, thì là hồn phi phách tán, chết đứng rồi, còn đi đâu nổi mà bước sang bên kia? Bệ hạ cứ xem lại râu của thần, nó quặp sát vào cổ thì biết.”
CHUYỆN DIÊM VƯƠNG QUẶP RÂU
Ngày xưa, có một chàng thi sĩ nọ dùng thơ ca mình mà rung động không biết bao nhiêu trái tim non, mà chẳng để cho cô nào được diễm phúc yêu chàng. Rồi thất vọng, các cô ấy thảy liều mình tự tử. Trên trần tục, chẳng có luật pháp nào trị tội giết người bằng lối đó. Nên bè bạn của chàng thi sĩ khuyên dứt chàng:
“Anh làm vừa vừa chớ! Đã đành luật đời chưa có khoản nào buộc tội anh được. Nhưng luật trời khó thoát. Khi chết rồi, anh không sợ bị luật của Diêm đình sao?”
“Diêm đình ấy à? Tôi nào có sợ thứ toà án vô hiệu lực ấy?”
Không dè lời thống mạ toà án nọ đã có kẻ ghi chép, tâu ngay với Diêm Vương. Sổ biên đã quá dài rồi, nên khi tới số, hồn chàng bị bắt xuống Diêm đình. Thì hôm ấy chín cung kia đều nghỉ việc và tất cả mười vua ở Diêm thế, tất cả quỷ dạ xoa đều hội lại thành hội đồng đề hình đặc biệt. Mục đích của hội đồng đề hình là: 1) xét coi cái tội giết người bằng tình yêu của chàng thi sĩ, trên trần chẳng có luật nào buộc tội, dưới âm phủ, cũng chưa lập thành điều rõ ràng, nay phải phạt bằng cách nào; 2) xử tội chàng thi sĩ nầy dám buông lời mắng toà án là vô hiệu.
Hôm ấy, Diêm chúa làm chủ toạ, các vua khác, ngồi ghế hội đồng. Bao nhiêu quỷ dạ xoa hầm hầm, chờ hô một tiếng là xốc vào, mần…
Phán quan đọc án vừa xong, thì Diêm chúa hỏi chàng có lời gì để bào chữa lấy. Chàng bước tới, bộ nghinh ngang, dáng khinh khỉnh, ai thấy cũng no giận cành hông, nhưng chờ chàng nói gì. Chàng mở miệng:
“Thưa dượng…”
Nghe gọi mình bằng dượng, Diêm chúa sợ hãi, liền quặp râu, té xỉu. Các vua xốc lại đỡ vào hậu đường, và tạm bế mạc phiên toà. Vào trong, quạt hồi lâu, Diêm chúa mới tỉnh, thì thấy bóng bà đi ngang qua. Vội vã, người gọi lại hỏi nhỏ nhỏ:
“Bà có nhớ, hồi trên trần, bà có con cháu gì gọi bà bằng cô hay bằng dì chăng?”
“Ông khéo hỏi mà thôi? Bộ ông bà tôi làm ác, làm tội đến thế nào, mà tuyệt tự, cho đến đỗi tôi không còn con, còn cháu?”
Nói rồi, bà nguýt ông một cái, mà bước vào sau. Diêm chúa mừng không xiết. Cũng may mà người chết xỉu kịp, bằng không, rủi kết án nhằm con cháu của bà, (mà đích thị là con cháu của bà rồi, lại là gọi bà bằng cô hay bằng dì, nên mới kêu mình bằng dượng), nếu rủi kết án con cháu bà, thì chỉ có đường bỏ quách chức Diêm Vương nầy cho rồi mà trốn đi, chớ ở nán lại đây, thì làm sao mà chịu bà cho nổi?
Có phải là sợ vợ, sợ tên tiếng vợ chưa phải là quá. Diêm chúa sợ lấy đến cả cháu vợ nữa chăng?
(Truyền Tin, Xuân Ất Mùi)
CHUYỆN ANH NHÀ QUÊ QUẶP RÂU
Ngày xưa, có hai anh nọ, Giáp và Ất, là bạn chỉ thân. Hôm nọ, Giáp đến nhà Ất chơi, thấy Ất mặt mày sưng vù, dấu cào xé còn rõ trên má. Thấy bạn như vầy, Giáp động lòng, hỏi:
“Tại sao anh ra như thế?”
“Tại trời…”
“Làm gì mà tại trời? Trời đánh thì chết ngay, trúng xém, thì anh cũng nám da nám mặt, đâu có những dấu cào xé như thế này?”
“… Tại trời mưa.”
“Trời mưa, thì ướt mình, có mưa đá đi nữa, thì một hai dấu ném trên đầu, chớ làm sao có những dấu nọ?”
“Anh nóng quá, để tôi kể đầu đuôi cho mà nghe. Số là, sớm mai nầy, khi đi chợ, mẹ nó có phơi cái váy nơi sào. Tôi ở nhà mê đọc tiểu thuyết, nên trời mưa mà tôi quên lấy vào. Khi mẹ nó về, thấy váy của nó ướt, nên đánh tôi ra thân thể như vầy.”
“Hứ! Anh là thứ đàn ông hư phải gặp tôi, mà xem…”
Vừa nói đến đây, thì Giáp nghe sau lưng mình, có tiếng thứ ba chen vào:
“… Phỏng gặp tôi, thì đã xem cái gì?”
Giáp lật đật quay lại nhìn, thì là bà Giáp đứng ngay sau lưng, và vừa hỏi câu nọ. Lanh trí, Giáp quặp râu lại và trả lời:
“Phải gặp tôi, thì trời vừa kéo mây, tôi đã cẩn thận lấy vô rồi.”
CHUYỆN NHÀ TRÍ THỨC QUẶP RÂU
Ngày xưa, có một vị vua nọ đến đỗi là anh hùng, đánh đâu thắng đó, oai danh đồn khắp các nước ngoài, trẻ con nghe nói đến tên chẳng dám khóc, quân vừa kéo đến biên giới một nước nào, thì nước ấy đầu hàng ngay. Thấy ai nấy cũng sợ mình thì nhà vua càng khổ tâm hơn nữa.
Một hôm, người cho vời tất cả bá quan văn võ, các bực hiền đức, các nhà trí thức đến đủ mặt tại sân chầu, rồi trang nghiêm, người đứng phán rằng:
“Ta được tiếng là anh hùng nhưng không ai biết mình cho rõ hơn chính mình, ta xét ta không đủ tư cách mà lãnh cái danh lớn ấy. Bởi ta cảm thấy ta còn biết sợ. Vì vậy, mà ta xét thấy mình không xứng đáng mà ngồi nơi ngai nầy. Nay ta muốn noi gương các vua hiền đời xưa, nhường ngôi cho ai nhiều đức hạnh hơn. Nên ta cho gọi tất cả bậc hiền lương trong xứ, và hôm nay, ta mở một cuộc thi chung để tìm ra người nào là xứng đáng thay ta mà lên ngôi báu. Vậy ta ra lệnh cho tất cả tham gia vào cuộc thi nầy. Và đây là bài thi thứ nhất. Nơi sân, ta đã vạch trước một đường thẳng. Vậy cả thảy đều bước sang tay tả đi.”
Lịnh vừa truyền tất cả đều sang bên tả, Vua nói tiếp:
“Những ai sợ vợ, thì bước sang hữu, ai không sợ thì đứng lại!”
Cả thảy ríu ríu bước sang qua bên hữu, chỉ chừa một lão già quặp râu lại mà đứng nguyên chỗ cũ. Vua mừng quá, bước xuống ngai, vịn vai lão già mà nói rằng:
“Thật là hồng phúc của nước ta, mới được có người xứng đáng như thế này. Ta vốn có tiếng là anh hùng, nhưng trong cung, hãy còn sợ hoàng hậu. Nay có người, ngoài không sợ ai, trong không sợ vợ thì xứng làm vua nước nầy biết chừng nào!”
Lão già run bẩy bẩy tâu rằng:
“Tâu bệ hạ, thần không dám nhận.”
“Cớ sao khi nãy, ta truyền lịnh xong người chẳng bước sang bên hữu?”
“Bởi vì thần sợ vợ quá. Vừa nghe nói đến, thì là hồn phi phách tán, chết đứng rồi, còn đi đâu nổi mà bước sang bên kia? Bệ hạ cứ xem lại râu của thần, nó quặp sát vào cổ thì biết.”
CHUYỆN DIÊM VƯƠNG QUẶP RÂU
Ngày xưa, có một chàng thi sĩ nọ dùng thơ ca mình mà rung động không biết bao nhiêu trái tim non, mà chẳng để cho cô nào được diễm phúc yêu chàng. Rồi thất vọng, các cô ấy thảy liều mình tự tử. Trên trần tục, chẳng có luật pháp nào trị tội giết người bằng lối đó. Nên bè bạn của chàng thi sĩ khuyên dứt chàng:
“Anh làm vừa vừa chớ! Đã đành luật đời chưa có khoản nào buộc tội anh được. Nhưng luật trời khó thoát. Khi chết rồi, anh không sợ bị luật của Diêm đình sao?”
“Diêm đình ấy à? Tôi nào có sợ thứ toà án vô hiệu lực ấy?”
Không dè lời thống mạ toà án nọ đã có kẻ ghi chép, tâu ngay với Diêm Vương. Sổ biên đã quá dài rồi, nên khi tới số, hồn chàng bị bắt xuống Diêm đình. Thì hôm ấy chín cung kia đều nghỉ việc và tất cả mười vua ở Diêm thế, tất cả quỷ dạ xoa đều hội lại thành hội đồng đề hình đặc biệt. Mục đích của hội đồng đề hình là: 1) xét coi cái tội giết người bằng tình yêu của chàng thi sĩ, trên trần chẳng có luật nào buộc tội, dưới âm phủ, cũng chưa lập thành điều rõ ràng, nay phải phạt bằng cách nào; 2) xử tội chàng thi sĩ nầy dám buông lời mắng toà án là vô hiệu.
Hôm ấy, Diêm chúa làm chủ toạ, các vua khác, ngồi ghế hội đồng. Bao nhiêu quỷ dạ xoa hầm hầm, chờ hô một tiếng là xốc vào, mần…
Phán quan đọc án vừa xong, thì Diêm chúa hỏi chàng có lời gì để bào chữa lấy. Chàng bước tới, bộ nghinh ngang, dáng khinh khỉnh, ai thấy cũng no giận cành hông, nhưng chờ chàng nói gì. Chàng mở miệng:
“Thưa dượng…”
Nghe gọi mình bằng dượng, Diêm chúa sợ hãi, liền quặp râu, té xỉu. Các vua xốc lại đỡ vào hậu đường, và tạm bế mạc phiên toà. Vào trong, quạt hồi lâu, Diêm chúa mới tỉnh, thì thấy bóng bà đi ngang qua. Vội vã, người gọi lại hỏi nhỏ nhỏ:
“Bà có nhớ, hồi trên trần, bà có con cháu gì gọi bà bằng cô hay bằng dì chăng?”
“Ông khéo hỏi mà thôi? Bộ ông bà tôi làm ác, làm tội đến thế nào, mà tuyệt tự, cho đến đỗi tôi không còn con, còn cháu?”
Nói rồi, bà nguýt ông một cái, mà bước vào sau. Diêm chúa mừng không xiết. Cũng may mà người chết xỉu kịp, bằng không, rủi kết án nhằm con cháu của bà, (mà đích thị là con cháu của bà rồi, lại là gọi bà bằng cô hay bằng dì, nên mới kêu mình bằng dượng), nếu rủi kết án con cháu bà, thì chỉ có đường bỏ quách chức Diêm Vương nầy cho rồi mà trốn đi, chớ ở nán lại đây, thì làm sao mà chịu bà cho nổi?
Có phải là sợ vợ, sợ tên tiếng vợ chưa phải là quá. Diêm chúa sợ lấy đến cả cháu vợ nữa chăng?
(Truyền Tin, Xuân Ất Mùi)
THỤY KHUÊ * NHÂN VĂN GIAI PHẨM
Thụy Khuê - Nhân Văn Giai Phẩm Nguyên nhân đưa đến cuộc cách mạng mùa thu của tư tưởng
Thụy Khuê
Từ mùa xuân 1956 sang mùa thu 1956
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn I gắn bó với Giai phẩm mùa xuân và giai đoạn II gồm toàn bộ những tờ báo phát hành từ tháng 8/1956 đến tháng 12/56.
Giai đoạn I có thể tóm tắt như sau:
Giai phẩm mùa xuân ra đời cuối tháng 1/1956. Hơn một tuần sau, nhiều sự kiện quan trọng liên tiếp xẩy ra:
- 28 Tết Nguyên đán: Tố Hữu sai người tìm gọi Lê Đạt lên Tuyên Huấn.
- 4 Tết: Trần Dần và Tử Phác bị bắt tại Yên Viên, nơi đang học tập cải cách ruộng đất.
- 5 Tết: Lê Đạt ăn Tết xong mới lên trình diện Tố Hữu. Bị giữ lại kiểm thảo 15 ngày.
- Trần Dần, sau
ba ngày bị giam dưới một căn hầm, dùng dao cạo cứa cổ, được đưa đến bệnh
viện. Tại đây, ngày 21/2/56 Trần Dần viết một lá thư dài cho đại tướng
Nguyễn Chí Thanh. Tướng Thanh can thiệp, Trần Dần, Tử Phác được tha ngày
5/5/56.
Trong tháng 2/56,
một "hội nghị lớn" luận tội Trần Dần (vắng mặt) được tổ chức. Chiến
dịch đánh Trần Dần bắt đầu ngày 7/3/1956 với bài viết của Hoài Thanh
trên báo Văn Nghệ số 110.
Giai đoạn II bắt nguồn từ những biến cố lớn trong các nước cộng sản và trong nội bộ của đảng cộng sản Việt Nam:
Ngày 24/2/1956, tại đại hội XX của đảng Cộng sản Liên xô: Khrouchtchev đọc bản tường trình mật về tội ác của Staline. Ngày 26/5/1956, Mao Trạch Đông phát động phong trào "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng". Ngày 28/6/1956, Ba Lan nổi dậy.
Những biến cố trên đây ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình Việt Nam: Theo đường lối của Liên Xô và Trung quốc, Đảng Lao Động mở rộng chính sách học tập tự do dân chủ.
Một mặt khác, trong nội bộ Đảng cũng đang có những bất ổn chính trị:
Trong hội nghị
lần thứ 10 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (họp từ ngày 25/8/56 đến
24/9/56), Trường Chinh bị "nghiêm khắc kiểm điểm sai lầm" trong công tác
cải cách ruộng đất, phải tự kiểm thảo và xin từ chức. Hoàng Quốc Việt
và Lê Văn Lương, bị loại ra khỏi Bộ Chính trị, Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban
Chấp Hành Trung ương Đảng. Hồ Chí Minh kiêm nhiệm hai chức Chủ Tịch
Đảng và Tổng bí Thư từ (9/1956 đến 9/1960). Sau đó là thời kỳ Lê Duẩn
làm Tổng Bí Thư (9/1960 đến 7/1986), xẩy ra vụ Xét Lại Chống Đảng.
Vụ NVGP xẩy ra dưới thời Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng kiêm Tổng bí thư.
Vậy ai là người trách nhiệm chính?
Ai trách nhiệm vụ Nhân văn giai phẩm?
Trả lời câu hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh có trách nhiệm như thế nào về vụ NVGP, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố: "Cái
việc mà người ta cứ nói là việc nọ việc kia là người dưới làm chứ cụ Hồ
không biết, cụ Hồ không thực tiễn làm, đó là một cách nói không đúng sự
thật. Người ta thấy việc gì mà có dư luận kêu ca, thắc mắc thì không
muốn để cái kêu ca thắc mắc đó hướng vào vị lãnh tụ mà người ta suy tôn
tuyệt đối. Có thể nói là người ta thần thánh hóa cụ Hồ. Vì cái lý do nó
là như thế. Thực chất thì cụ Hồ không phải là người bị vô hiệu hóa trong
bộ máy lãnh đạo của đảng và của dân tộc. Cụ Hồ lúc nào cũng là người có
đầy đủ quyền hành, lúc nào cụ cũng sáng suốt, linh lợi, lúc nào cụ cũng
có uy tín với dân và cũng có quyền đối với các đồng chí trong đảng, đối
với những người lãnh đạo khác. Chắc bà cũng biết rằng những vị lãnh đạo
khác của đảng, đối với cụ Hồ là học trò chứ không phải như ở các đảng
Cộng sản khác đâu. Cho nên uy tín của cụ Hồ, quyền hành của cụ Hồ bao
giờ cũng rất vững, cụ Hồ biết hết cả, và việc đó cụ Hồ cũng đồng tình
làm.
Có thể nói
tóm một câu là cho đến mấy năm sau cùng, vì cụ yếu cụ ít chăm nom công
việc, cụ khoán cho Bộ chính trị, cụ ít can thiệp trực tiếp, chứ còn
trước đó thì bất cứ việc gì cũng là trong phạm vi chỉ đạo của cụ cả. Hay
cũng ở cụ, dở cũng ở cụ. Cụ phải gánh trách nhiệm đó, điều đó rõ ràng.
Có khi nào
một lãnh tụ tối cao đối với dân tộc, lãnh tụ tối cao của Đảng mà lại
không có trách nhiệm về việc nọ, việc kia. Điều đó không đúng. Chế độ
gọi là "báo cáo thỉnh thị" rất chặt chẽ trong nội bộ đảng Cộng sản và
trong bộ máy chuyên chính của nhà nước cũng thế, nghiêm ngặt lắm". (Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI, ngày 3/9/1995).
Nhận định trên
đây của Nguyễn Hữu Đang phù hợp với một số nhận định khác về vai trò của
chủ tịch Hồ Chí Minh trong đời sống văn hóa văn nghệ:
Hà Xuân Trường nói về vai trò của Đảng trong "Mặt trận văn hoá văn nghệ" : "Tôi
muốn trở lại ý cơ bản này: buổi đầu cách mạng và kháng chiến, tờ báo
Đảng đã có sự quan tâm thích đáng đến mặt trận văn hoá - văn nghệ.(...)
Sự đầu tư công sức và tâm huyết của Đảng vào mặt trận này là đáng kể: từ
Bác, đến các anh Trường Chinh, Tố Hữu. Cần nhắc thêm vai trò của Bác và các ý kiến của Bác căn dặn giới báo chí và văn hoá - văn nghệ ngay từ buổi đầu này. Bác thường gửi bài cho báo Đảng, trên Sự Thật lúc ấy, cũng như trên tờ Nhân Dân sau này [Nhân Dân, tiếp tục tờ Sự thật, ra số 1, ngày 11/3/1951] dưới
các bút danh ta đã quen thuộc: C.B, X.Y.Z, A.G (chúng tôi thường gọi
Anh Già)... Điều đặc biệt là Bác viết rất ngắn và mỗi lần gửi bài cho
báo, Bác thường viết luôn một loạt có đánh số thư tự. Bác dặn anh em
chúng tôi là đánh số như thế để cho bạn đọc và cả Bác dễ nhớ, bao giờ
gần hết bài thì Bác chỉ cần xem trên báo là Bác biết để Bác kịp viết
tiếp, "các chú không cần phải nhắc". (Hà Xuân Trường, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, nxb Tác Phẩm Mới, 1987, trang 44-45).
Và ông xác định vị trí và trách nhiệm của từng người trong cấp lãnh đạo:"Công
tác văn hoá - văn nghệ lúc bấy giờ nằm trong sự chỉ đạo của Tiểu ban
tuyên truyền do anh Trường Chinh đứng đầu. Anh Tố Hữu lúc này được Trung
Ương giao trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác văn nghệ. Tôi là người
của Tiểu ban tuyên truyền, làm tờ Sự thật, do vậy mà có trách nhiệm liên
lạc giữa Trung ương và bộ phận văn hoá - văn nghệ, giữa anh Trường
Chinh và anh Tố Hữu. Trách nhiệm chính là làm sao giúp Trung ương nắm
tình hình văn nghệ, và từ góc độ báo Đảng, mà góp phần gợi giúp cho
người văn nghệ mạnh dạn đi vào quần chúng, dần dần nắm hiểu đời sống,
tham gia công tác cách mạng, và khắc phục từng bước các ảnh hưởng của
cách nhìn và thói quen cảm xúc tiểu tư sản..." (Hà Xuân Trường, bđd, trang 41)
"Anh [tức Trường Chinh] còn cho biết thêm là bản báo cáo [Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam] tuy là do anh trực tiếp soạn thảo, nhưng đã được ban thường vụ Trung ương thông qua và Bác đã xem và góp ý kiến" (Hà Xuân Trường, bđd, trang 42).
Hoàng Trung Thông cho biết: "Sau này tôi mới biết cuốn truyện về chiến sĩ thi đua đầu tiên là do Bác Hồ viết để làm mẫu cho những người khác viết theo" (Hoàng Trung Thông, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học,Tập I, nxb Tác Phẩm Mới, 1985, trang 191).
Tháng Giêng năm 1956, Giai Phẩm Mùa Xuân vừa
ló dạng thể hiện tự do sáng tác, đã bị dập tắt ngay. Vậy có thể hiểu là
Trường Chinh đã giao cho Tố Hữu, người có tư thù với Hoàng Cầm, Trần
Dần và Lê Đạt trong việc phê bình tập thơ Việt Bắc, xử lý vụ Giai phẩm mùa xuân theo chỉ thị của Hồ Chí Minh.
Trong tháng 8 và 9 năm 1956, có hai sự kiện trùng hợp đáng kể:
Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư. Phong trào NVGP phát triển trở lại.
Quyết định cho
phép Hội văn nghệ tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày, theo đường lối
Liên Xô, trong tháng 8/1956, đến từ ai, nếu không phải là Hồ Chí Minh?
Lớp học này do
Nguyễn Hữu Đang phụ trách. Vai trò của Nguyễn Hữu Đang sẽ nổi bật trong
lớp học này và bài tham luận ông đọc ngày 26/8/56 tổng kết lớp học sẽ là
cái mốc quan trọng đẩy mạnh tiến trình đòi hỏi tự do dân chủ, việc
thành lập báo Nhân Văn và tục bản tờ Giai Phẩm, tạo nên cuộc Cách mạng mùa thu của tư tưởng.
Tháng 10/56 Hungary nổi dậy. Tháng 11/56 xe tăng Xô Viết tiến vào Budapest.
Ngày 9/12/1956 Hồ Chí Minh ký sắc lệnh báo chí. Đóng cửa Nhân Văn.
Phong trào NVGP bị dập tắt lần thứ nhì, tháng12/56.
Tháng 2/57 trong
Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, họp từ 20 đến 28/2 tại Hà Nội,
Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát âm mưu phản động" của nhóm NVGP.
Cuối năm 57: Mao
Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Huy Cận và Hà Xuân Trường được cử đi
học tập chính sách của Trung Quốc. Khi họ trở về, tháng 2/58 việc thanh
trừng NVGP được tổ chức quy mô và toàn diện trong hai lớp đấu tranh Thái
Hà.
Lần này nữa, trách nhiệm hẳn cũng đến từ từng cao nhất của cấp lãnh đạo: Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Khảo sát bị kịch
Nhân Văn, chúng ta thấy rõ sự đối lập giữa hai nhân vật: Nguyễn Hữu Đang
và Trường Chinh, cả hai đều được Hồ Chí Minh tin dùng.
Trường Chinh là Tổng bí thư đảng Cộng sản, còn Nguyễn Hữu Đang là ai?
Tại sao ông lại
được Hồ Chí Minh giao cho trách nhiệm tổ chức ngày lễ độc lập 2/9/45. Vì
bất đồng ý kiến với Trường Chinh, năm 1948, ông đã bỏ đảng. Nhưng sau
khi hoà bình lập lại, năm 1954, ông lại được gọi về làm việc và đến
tháng 8/56, ông được phép đứng ra tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày.
Phong trào Nhân
Văn Giai Phẩm chống lại toàn bộ chính sách văn hoá văn nghệ của đảng
Cộng sản. Vì vậy, chúng ta cần tìm hiểu chính sách văn hoá văn nghệ ấy
như thế nào?
Nói đến đường lối
văn hoá văn nghệ của đảng Cộng sản là phải nói đến Trường Chinh, vì
chính Trường Chinh (chứ không phải Hồ Chí Minh) đã viết bản đề cương văn
hoá văn nghệ và cũng chính Trường Chinh trực tiếp lãnh đạo văn hoá văn
nghệ.
Trường Chinh
Trường Chinh Đặng
Xuân Khu (1907-1988) là nhà chính trị, nhưng trước tiên, ông là nhà
báo, viết văn và làm thơ (bút hiệu Sóng Hồng). 1927, gia nhậpViệt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (tiền thân của đảng cộng sản). 1940 là chủ bút báo Cờ Giải phóng, cơ quan của xứ ủy Bắc Kỳ. Sau đó làm chủ bút tờ Sự thật, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản. Từ tháng 5/1941 đến tháng 9/ 1956, làm Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam.
[Đảng này thành
lập tháng 2/1930. Từ tháng 9/1930 đến tháng 11/1945, lấy tên là Đảng
Cộng sản Đông dương (theo chỉ thị của quốc tế cộng sản). Tháng 11/1945
Đảng "tự giải thể", rút vào bí mật. 1951, Đảng công khai trở lại với tên
Lao Động và đến năm 1976, mới chính thức lấy tên là đảng Cộng sản VN]
Hà Xuân Trường kể lại: "Đảng lúc bấy giờ, sau khi tuyên bố "tự giải tán", để chuyển thành Hội nghiên cứu chủ nghiã Mác ở Đông Dương (ngày 11/11/1945). Anh
Trường Chinh lúc bấy giờ là Tổng bí thư Đảng, Trưởng tiểu ban tuyên
truyền của Trung ương, kiêm chủ bút (tức Tổng biên tập) tờ Sự thật" (ra số 1, ngày 5/12/1945 ở Hà Nội)" (Hà Xuân Trường, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, trang 31).
Đảng trải qua hai
biến cố quan trọng: Ngày 2/9/1945: Tuyên ngôn độc lập. Hơn hai tháng
sau, ngày 11/11/1945, Đảng tuyên bố "tự giải tán", đổi tên thànhHội nghiên cứu chủ nghiã Mác ở Đông Dương. Đó là chiến thuật chính trị của Hồ Chí Minh: Chính phủ lâm thời tạm giấu cái gốc quốc tế cộng sản, lấy danh nghĩa Mặt trận Việt Minh để tập hợp mọi thành phần dân tộc cả quốc gia lẫn cộng sản trong công cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nguyễn Hữu Đang cho biết: "Vai trò của Hồ chủ tịch rất quan trọng. Cụ có thành lập Mặt trận Việt Minh thì mới có Cách mạng tháng Tám. Nếu
đảng Cộng sản đứng ra vận động cuộc Cách mạng tháng Tám, tôi tin là
không được kết quả như là Mặt trận Việt Minh, đó là một mặt trận gồm
nhiều thành phần, nhiều tầng lớp tham gia cho nên phát triển mạnh, được
nhân dân ta hưởng ứng hơn chứ còn nếu đảng Cộng sản đứng ra thì vẫn bị
hạn chế đấy". "Đảng Cộng sản lúc bấy giờ có 5000 người chứ ăn thua gì đâu".(Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI)
Về mặt thực tế, đảng cộng sản vẫn lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp.
Trường
Chinh là người thảo đề cương, vạch rõ đường lối văn hoá và văn nghệ
Mác-xít của đảng cộng sản Việt nam qua hai văn bản quan trọng: "Đề cương
văn hoá Việt Nam" (1943) và Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam đọc tại
Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ nhì, ở Việt Bắc, ngày 19/7/1948.
Tầm quan trọng và
ảnh hưởng của hai văn bản này trong đời sống văn hoá văn nghệ Việt Nam
dưới chế độ cộng sản, được Hà Xuân Trường so sánh với lập thuyết của
Mao: "Chúng ta chỉ cần nghiên cứu Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943,
báo cáo Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam năm 1948 của đồng chí Trường
Chinh, và so sánh những văn kiện đó với phần "Văn hóa dân chủ mới" và
"Tọa đàm văn nghệ ở Diên An" của Mao Trạch Đông thì rõ ràng khác nhau
lắm, khác từ gốc, khác từ mục tiêu đến phương pháp nhận thức". (Hà Xuân Trường, bđd, trang 46).
Như vậy, Trường
Chinh là người được Hồ Chí Minh giao cho trọng trách khai thảo đường lối
văn học mác-xít của đảng cộng sản Việt Nam. Trường Chinh chính là người
khai sinh và chỉ đạo chính sách văn hoá văn nghệ kháng chiến. Tố Hữu, trách nhiệm phần lãnh đạo văn nghệ:
"Công tác văn hoá
- văn nghệ lúc bấy giờ nằm trong sự chỉ đạo của Tiểu ban tuyên truyền
do anh Trường Chinh đứng đầu. Anh Tố Hữu lúc này được Trung Ương giao
trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác văn nghệ" (Hà Xuân Trường, bđd,
trang 41).
Vai trò của Trường Chinh trong giai đoạn đầu cách mạng được xác định như sau: "1943,
ông đã chỉ đạo việc thành lập hội văn hoá cứu quốc-tổ chức văn nghệ
cách mạng đầu tiên ở Việt Nam, và là người soạn thảo "Đề cương văn hoá
Việt Nam" (Nguyễn Hoành Khung, Từ điển Văn Học).
Bản Đề cương văn hoá Việt Nam
Bản Đề Cương Văn Hoá Việt Nam có 5 phần chính:
1- Cách đặt vấn đề.
2- Phân đoạn văn hoá VN.
3- Những nguy cơ văn hoá dưới ách phát- xít Nhật Pháp.
4- Xác định văn hoá cách mạng VN.
5- Nhiệm vụ của các nhà văn hoá mác-xít VN.
[in trong Tiên Phong số 1, ra ngày 10/11/45, và in lại trong Sưu tập trọn bộ Tiên Phong 1945-1946 của Lại Nguyên Ân, nxb Hội Nhà Văn, 1996]
Phần đầu, Trường Chinh giới hạn lãnh vực của văn hoá: "Văn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật". Và xác định sự lãnh đạo của đảng:"đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hoá tiên phong" .
Phần hai, phân chia văn hoá VN làm ba giai đoạn: từ Quang Trung trở về trước "phong kiến", "nô lệ", "phụ thuộc vào văn hoá Tàu"; từ Quang Trung đến thời Pháp thuộc "phong kiến, tiểu tư sản"; từ Pháp thuộc đến1943: "phong kiến, tư bản, thuộc địa".
Phần ba, tác giả vạch rõ "những thủ đoạn phát-xít trói buộc văn hoá và giết chết văn hoá Việt Nam".
Phần bốn, ông đặt hai tiêu đề chính:
- "Cách mạng văn hoá muốn hoàn thành phải do đảng C.S.Đ.D. lãnh đạo"
- Và "Nền văn hoá mà cuộc cách mạng văn hoá Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hoá xã hội chủ nghiã".
Và phần năm, xác định "nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hoá mác xít Đ.D và nhất là những nhà văn hoá mác xít V.N", qua hai công việc chính phải làm:
a/ Tranh đấu
về học thuật tư tưởng (đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học
Âu, Á có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở ta: triết học Khổng, Mạnh,
Đê-các-tơ (Descartes), Béc-son (Bergson), Căng (Kant), Nít-sờ
(Nietzsche), v.v...; làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử thắng.
b/ tranh đấu
về tông phái văn nghệ (chống chủ nghiã cổ điển, chủ nghiã lãng mạn, chủ
nghiã tự nhiên, chủ nghiã tượng trưng v.v... làm cho xu hướng tả thực xã
hội chủ nghiã thắng).
Đây là văn bản chính thức của đảng cộng sản, xác định đường lối văn hoá văn nghệ mác-xít. Văn bản này là đầu mối trách
nhiệm tình trạng suy đồi của văn hoá văn nghệ Việt Nam: bắt buộc sáng
tác và phê bình phải theo con đường duy nhất là tuyên truyền và phục vụ
sự lãnh đạo độc tôn của đảng cộng sản. Triệt hạ những đường hướng tư
tưởng khác. Triệt hạ những tài năng có tư tưởng tự do.
Nguyễn Hữu Đang
Qua hoạt động
chính trị và ngòi bút, Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) được xác định như một
nhà chính trị và văn hoá: Theo cách mạng từ những buổi đầu, có óc tổ
chức và tài hùng biện, Nguyễn Hữu Đang được coi là "cánh tay phải" của
Hồ Chí Minh.
Năm 1929, Nguyễn
Hữu Đang gia nhập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Hoạt động
đắc lực trong Hội truyền bá quốc ngữ từ năm 1938. Từ 1937 đến 39, làm
báo cùng với Đặng Xuân Khu (tức Trường Chinh) và Trần Huy Liệu. 1943:
Tham gia đảng Cộng sản Đông dương, liên lạc mật thiết với Trường Chinh
(Tổng bí thư) và thành ủy Hà Nội, nhưng chưa được kết nạp. 1943-46: Cùng
Trường Chinh sáng lập và lãnh đạo Hội Văn hóa cứu quốc. Tổ chức ngày
tuyên ngôn độc lập 2/9/1945. Tham gia Chính phủ lâm thời, làm thứ trưởng
Bộ truyên truyền, rồi Bộ thanh niên, Chủ tịch uỷ ban vận động mặt trận
văn hoá. Tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội, "Khai mạc Đại hội văn hoá toàn quốc lần thứ nhất vào chiều 24/11/1946 có Bác Hồ đến nói chuyện" (Hà Xuân Trường, bđd, trang 40).
Vị trí và uy tín của Nguyễn Hữu Đang, được Nguyễn Huy Tưởng ghi lại trong nhật ký như sau:
"Anh Nguyễn
Hữu Đang xuống làm việc cho Truyền bá quốc ngữ từ hơn hai tháng nay. Anh
xin nghỉ ở sở Tài chính [Hà Nội] xuống đây làm việc nghĩa. Đức hi sinh
của anh thực không thể nào tả được. Nhờ anh mà phong trào quốc ngữ ở Hải
Phòng chết đi nay sống lại. Anh như một ông tướng khuyến khích được cả
một đạo quân chiến bại". (Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng ngày 16/6/1942).
Nguyễn Huy Tưởng ghi: "Chuyện
Tham Ý phục các cán bộ Việt Minh. (...) Phục Đang. Hỏi thầm một người:
Có phải là cánh tay phải của Cụ Hồ không? Băn khoăn không biết bây giờ
Đang về khu này thì phải vào chức gì cho xứng? Theo ý anh tham biện ấy,
thì ở đây không có một chức gì cao hơn để Đang làm cả, vì Đang trên cả
ủy ban kháng chiến". (Ngày 15/11/1947)
Năm 1947, Nguyễn Hữu Đang mới được chính thức kết nạp vào Đảng.
Năm 1948, ông rời mọi sinh hoạt của Đảng, lui về Thanh Hoá.
Từ vị trí được coi là "cánh tay phải của cụ Hồ", "trên cả ủy ban kháng chiến", tại sao năm 1948, Nguyễn Hữu Đang rút lui về Thanh Hoá?
Sự chia tay xẩy ra trong Đại hội
văn hoá toàn quốc lần thứ hai (khai mạc ngày 15/7/48 ở Việt Bắc). Trong
hội nghị này Trường Chinh đọc bản báo cáo nổi tiếng Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam.
Hoàng Cầm kể về đại hội này: "Vào
khoảng tháng 7 năm 48, có Đại hội văn hóa toàn quốc do ông Trường Chinh
đề xướng và làm chủ tịch. Hội nghị văn hóa toàn quốc được tổ chức để
động viên và hướng dẫn trí thức và văn nghệ sĩ chuẩn bị đi sâu vào cuộc
kháng chiến. (...) Tức là lúc bấy giờ hội nghị mới đề ra Văn nghệ kháng
chiến. (...) Tôi cũng được mời, nhưng không đi dự vì bị ốm, trong hội
nghị có mặt anh Nguyễn Hữu Đang. Sau hội nghị đó, không hiểu vì lý do gì thì anh Đang không làm công tác kháng chiến nữa,anh
về Thanh Hóa, ở nhà người bạn là anh Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất
bản Minh Đức(...) Anh Đang không làm công việc gì của nhà nước cả, tôi
cũng không hiểu rõ nguyên nhân. Mãi sau này, hòa bình rồi, về Hà Nội tôi
cũng chỉ nghe phong phanh anh em bàn tán thôi chứ hỏi anh Đang thì anh
ấy cũng không nói, là hình như trong Hội nghị văn hóa toàn quốc, anh
Đang có mâu thuẫn về đường lối văn nghệ, văn hóa với ông Trường Chinh.
Do mâu thuẫn không giải quyết được, cho nên anh Đang không làm việc nữa,
anh nghỉ. Anh về Thanh Hóa". (Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI)
[Xin nhắc lại: tháng 7/48 có hai đại hội: Đại hội Văn hoá toàn quốc lần thứ hai tại Việt Bắc, khai mạc ngày 15/8/48, do Trường Chinh chủ trì và đọc bản bán cáo Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam, Nguyễn Hữu Đang có tham dự. Hội nghị Văn nghệ toàn
quốc lần thứ nhất, cũng họp tại Việt Bắc, từ 23 đến 25/7/48, chính thức
thành lập Hội Văn Nghệ Việt Nam, Nguyễn Hữu Đang không tham dự].
Nguyễn
Hữu Đang, vì không đồng ý với Trường Chinh trong Hội nghị Văn hoá toàn
quốc, nên đã bỏ về Thanh Hoá, không tham dự đời sống văn hoá chính trị
nữa.
Mà không đồng ý thì chắc chắn là về bản báo cáo của Trường Chinh.
Vậy bản báo cáo mà Trường Chinh đọc tại hội nghị này có nội dung ra sao?
Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam
Bản báo cáo Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam được
nhà xuất bản Sự thật in thành sách (Chúng tôi không có văn bản này).
Nhưng Phần VII, được in trên báo Văn Nghệ số 6 tháng 11/48, dưới tiêu
đề "Mấy vấn đề thắc mắc trong văn học nghệ thuật" và sau này in lại trong cuốn Cách Mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, đổi tên thành "Mấy vấn đề cụ thể trong văn học và nghệ thuật".
Bài "Mấy vấn đề thắc mắc trong văn học nghệ thuật" đặt trọng tâm trả lời những thắc mắc của người làm văn học nghệ thuật, trên một số điểm:
1- Xác định nghệ thuật và tuyên truyền:
"Nghệ thuật
phục vụ cho mục đích chính nghĩa là nghệ thuật hợp chân lý. Nghệ thuật
phục vụ cho mục đích phi nghĩa là nghệ thuật phản chân lý".
"Tuyên truyền
của phe xâm lược, phản động là tuyên truyền phản chân lý. Tuyên truyền
của phe cách mạng là tuyên truyền chân thật, phù hợp với chân lý rõ
ràng".
2- Khẳng định khuynh hướng sáng tác: Hiện thực xã hội chủ nghĩa.
3- Chỉ ra đường lối "phê bình đúng nguyên tắc","chú trọng đả kích tư tưởng, văn học, nghệ thuật phản động của địch".
4- Cho rằng "Quần
chúng là nhà phê bình nghệ thuật sành hơn ai hết, chính vì quần chúng
gồm nhiều tai, mắt, óc khôn và có cảm giác chung đấu lại. Không một nhà
phê bình nào sánh được với quần chúng về mặt đó".
5- Chỉ ra 4 điều cho nhà văn noi theo để "làm sao cho sáng tác văn nghệ được tốt".
6- Xác định: "Đối tượng sáng tác văn nghệ của ta là nhân dân"."Sáng tác văn nghệ có cả một nguồn cổ vũ mạnh mẽ là phong trào thi đua".
Tóm lại, Trường Chinh đã vạch sẵn con đường văn học nghệ thuật xã hội chủ nghiã.
Con đường này,
gồm những yếu tố chính: Văn nghệ phục vụ cách mạng. Văn nghệ tuyên
truyền. Văn nghệ thi đua. Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đả kích tư tưởng
phản động của địch. Sáng tác cho nhân dân. Nhân dân làm chủ phê bình.
Đường lối văn nghệ tuyên truyền cách mạng này đã tạo ra nhiều lớp người viết với những sáng tác mà nhạc sĩ Tô Hải, trong cuốn Hồi ký của một thằng hèn (Tủ sách Tiếng Quê Hương, Virginia, Hoa Kỳ, 2009) đã gọi là thời kỳ "bồi bút, bồi nhạc". Cao điểm là cuốn Bọn Nhân văn giai phẩm trước toà án dư luận mà chúng ta đã biết. Và ảnh hưởng của nó còn kéo dài tới ngày nay.
Là người làm văn hoá, Nguyễn Hữu Đang bỏ đi từ năm 1948 là phải.
Sự rời đảng của Nguyễn Hữu Đang không chỉ vì bất đồng ý kiến về văn hoá mà còn cả những bất đồng về chính trị nữa.
Nhưng trong kháng
chiến không chỉ có một Nguyễn Hữu Đang chống lại đường lối văn hoá văn
nghệ của đảng Cộng sản, mà còn có những tiếng nói khác, như Nguyễn Mạnh
Tường:
Hoàng Trung Thông kể: "Năm 1949, Đại hội văn nghệ Khu Bốn được tổ chức và Chi hội văn nghệ Liên khu Bốn được thành lập (...)
"Cuộc tranh
đấu tư tưởng duy nhất ở Liên Khu Bốn trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp là cuộc đấu tranh với một số quan điểm của Nguyễn Mạnh Tường. Trong
một cuộc nói chuyện Nguyễn Mạnh Tường cho rằng văn nghệ ta như một cái
chuồng nhốt các văn nghệ sĩ trong đó". (Hoàng Trung Thông, bđd, trang 181)
Như Trương Tửu:
"Đồng chí
Nguyễn Chí Thanh - bấy giờ là bí thư Đảng bộ Liên Khu Bốn, đã có ý kiến
về những luận điểm tơ-rốt-kít của Trương Tửu trong buổi lễ kỷ niệm ngày
thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong cuộc đấu tranh chính trị năm
1952, Trương Tửu bị đưa ra phê phán gay gắt." (Hoàng Trung Thông, bđd, trang 187).
Như Tô Ngọc Vân:
"Anh Tô Ngọc
Vân tỏ ý không đồng tình về sự phân tích của đồng chí Trường Chinh về
chủ nghiã "quy-bít". Nhưng anh Trường Chinh không trực tiếp trả lời, và
tờ Sự thật không lên tiếng, để tránh gây các mặc cảm không cần thiết đối
với anh chị em văn nghệ đang đến với Đảng, và tự giác chấp nhận sự lãnh
đạo của Đảng. Bài viết của tôi thảo luận với anh Tô Ngọc Vân, ký tên Lê
Trọng Lâm, lại đăng trên tạp chí Văn nghệ" (Hà Xuân Trường, bđd, trang 42-43).
Thái độ của Trường Chinh đối với những người chống đối rất khôn khéo: ông không ra mặt trả lời và khuyên cấp dưới "cần
phải đấu tranh tư tưởng nhưng đừng nặng lời quá; vì lúc bấy giờ chúng
ta đang cần phải đoàn kết để kháng chiến chống Pháp, mặc dầu đoàn kết
không có nghiã là thủ tiêu đấu tranh" (Hà Xuân Trường, bđd, trang 42-43).
Tóm lại, đã có những người làm văn hoá văn nghệ bắt đầu thắc mắc về đường lối văn hoá văn nghệ của đảng Cộng sản ngay trong kháng chiến. Nhữngthắc mắc này càng lớn mạnh khi hòa bình lập lại sau 1954, kết hợp thành sự phản kháng toàn bộ trong phong trào NVGP.
Sự trở lại của Nguyễn Hữu Đang
Nguyễn Hữu Đang, vì bất đồng ý kiến với Trường Chinh, bỏ về Thanh Hoá, cộng tác với nhà xuất bản Minh Đức từ 1948.
Nhưng tại sao năm 1954, ông trở lại hoạt động? Việc gọi ông trở lại có thể từ lệnh của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hoàng Cầm kể: "Đến
khi hòa bình lập lại, năm 1954, tôi cũng chỉ được nghe kể lại chứ không
được chứng kiến, là như sau: Ông Trường Chinh có hỏi ông Tố Hữu: Anh
Đang anh ấy đã không làm việc gì từ lâu rồi, từ mấy năm nay, thì bây giờ
hòa bình thắng lợi rồi, ta phải mời anh ấy ra làm việc chứ. Thế là anh
Tố Hữu cũng nghe theo và mời anh Đang ở Thanh Hóa ra"(Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI).
Theo hồi ký Nguyễn Huy Tưởng, chính ông là người được
cử vào Thanh Hoá mời Nguyễn Hữu Đang. Và theo Hoàng Cầm: Khi Nguyễn Hữu
Đang ra đến Hà Nội, Tố Hữu đề nghị chức Giám đốc sở Văn hóa Thông tin
Hà Nội, nhưng Nguyễn Hữu Đang từ chối, ngỏ ý muốn làm báo Văn Nghệ, Tố
Hữu đành phải bằng lòng.
Những thắc mắc
Hoàng Cầm kể:"Anh
Đang về báo Văn Nghệ, nhưng anh Đang là người đặc biệt có tài tổ chức:
trong kháng chiến anh ấy đã tổ chức thanh niên xung phong, tổ chức mặt
trận bình dân học vụ, sau đó lại là tổ chức hội nghị văn hóa toàn
quốc.(...) Vì anh ấy có tài tổ chức cho nên anh ấy tổ chức ngay hai cuộc
phê bình trong văn học:
Thứ nhất là cuộc
phê bình tác phẩm Vượt Côn Đảo của Phùng Quán (...) Và tổ chức một lớp
học tập chính trị, đầu đề tài liệu học tập là "Những tài liệu của Mác,
Lê- nin, Staline nói về vấn đề văn nghệ". (Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI).
Về không khí của lớp học này, Hoàng Cầm nhớ lại:
"Đầu đề tài liệu
học tập là "Những tài liệu của Mác, Lê- nin, Staline nói về vấn đề văn
nghệ". Buổi sáng học, buổi chiều làm việc cơ quan. Tôi nhớ học 18 ngày.
Nhưng từ hôm mở lớp đến độ ngày thứ năm thì có cái mục gọi là liên hệ
thực tế. Tất cả các văn nghệ sĩ ở các tỉnh hoặc đi tập kết về Hà Nội, thì họ đều nêu lên những thắc mắc, mà phải nói là những thắc mắc ghê gớmvề vấn đề văn nghệ và lãnh đạo văn nghệ. Nó gần như là một cuộc tố khổ: các văn nghệ sĩ đều nói ra những thắc mắc về việc lãnh đạo địa phương, cả lãnh đạo trung ương nữa, đối với văn nghệ (...) Toàn là những thắc mắc mà anh em lôi ra từ thực tế trong kháng chiến và thực tế trong hòa bình lập lại"(Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI).
Georges Boudarel, đặt trọng tâm trên hai chữ thắc mắc này, theo ông đây là một thứ mây mù của ý thức, một kỹ xảo nói mà như không nói, một nghệ thuật không gọi sự vật theo tên của nó.
Hai chữ thắc mắc không
thể dịch sang tiếng Pháp, Boudarel cho là trung tâm của vấn đề: Trong
một nước mà cuộc đấu tranh chống thực dân, giành độc lập, bảo vệ truyền
thống dân tộc, được phất lên dưới ngọn cờ của chủ nghiã Mác-Lê-Mao, như
một nghịch lý, thì thắc mắc là đứa con lai lạ lùng, sinh ra từ cuộc tình vừa nóng bỏng vừa tương phản vừa không thể thú nhận được giữaquốc tế vô sản và lòng ái quốc cực đoan.
Chủ nghiã cộng
sản mà người ta du nhập vào đã thủ tiêu nhanh chóng mọi hình thức tự do
phát biểu của xã hội dân sự kể cả những người ủng hộ nhiệt thành. Năm
1950, khi chủ nghiã Mao ào ạt tràn vào, với những đợt chỉnh huấn, phát
hiện, tố giác, kiểm thảo, tự kiểm thảo... mang lại những hậu quả tai
hại.
Nếu năm 1946, hầu
hết mọi thành phần dân tộc đều đi theo kháng chiến chống Pháp, thì tới
1950, nhiều trí thức văn nghệ sĩ nổi tiếng trong đó có Phạm Duy, Vũ
Hoàng Chương... đã không thể chịu được, họ phải quay "về thành".
Sự phản kháng của
họ mang tính chất bi đát, bởi phải chọn lựa giữa hai con đường: hoặc
tiếp tục chống thực dân Pháp thì phải theo chủ nghiã cộng sản Mao; hoặc
chống cộng sản Mao thì phải vào vùng Pháp đóng. Bị xâu xé giữa, một bên
là, lòng yêu nước thúc đẩy họ phải chấp nhận tất cả để chiếm lại tổ quốc
đã mất và một bên là cái vốn văn hoá Tây phương thúc đẩy họ đòi hỏi một
thứ tự do không thể có được với đảng Cộng sản. Người trí thức, những
năm tháng ấy, vừa như sống một bản hùng ca, lại vừa chịu một bi kịch gậm
nhấm từ bên trong.
Đại đa số thành phần dân tộc, trong đó có người trí thức, tìm cách hoà mình với đời sống mới, từ đó nẩy sinh những thắc mắc: Nền dân chủ cộng hoà, do Hồ Chí Minh tạo dựng, có mang lại độc lập thật sự cho nước Việt không? Những người có thắc mắc trong lòng muốn tin vào lãnh đạo của họ nhưng trong thâm tâm vẫn không thể nào tin được. Chỉ biết là mình có những thắc mắckhông thể nói ra. Cái
hình thức đối lập bị dồn nén, sự phản kháng bị chôn vùi, chỉ được nói
thầm, nói một nửa, đọc giữa hai hàng chữ, đoán ngầm những ngụ ý... trở
thành một phần của đời sống Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Và những vấn
đề mở ra từ năm 1956, với NVGP, vẫn còn đúng với hôm nay. (Theo phân
tích của Boudarel, trong cuốn THĐNTĐVN, từ trang 9 đến 20).
Những thắc mắc ấy tạm ngủ yên trong thời chiến, nhưng bừng lên khi hoà bình lập lại.
Và trong lớp học
18 ngày, Nguyễn Hữu Đang là người đã thấy rõ tình thế, mạnh bạo đứng
lên, đặt với lãnh đạo những câu hỏi cần thiết.
Lớp học 18 ngày
Về lớp học này, Người Quan Sát tường thuật trên Nhân Văn số 1 (20/9/56), như sau:
"Trong tháng Tám vừa qua, Hội Văn nghệ đã tổ chức tại thủ đô một đợt học tập mười tám ngày nhằm mục đích nâng cao trình độ lý luận văn nghệ của anh chị em công tác trong ngành. [...] Ý định của Thường vụ Hội là như vậy, nhưng trên ba trăm người tham gia học tập đã dần dần từ thảo luận nguyên tắc sáng tác chuyển sang kiểm điểm phong trào, đem lý luận đối chiếu với thực tế, liên hệ bản thân cũng có, nhưng chủ yếu là liên hệ lãnh đạo.
Mà phê bình lãnh
đạo ngày nay, nhờ có ảnh hưởng của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên xô,
thường là rất mạnh bạo chứ không còn e dè, quanh co như cái thời phục
tùng mù quáng hoặc có thắc mắc thì trước mặt cả nể, kể lể sau lưng nữa. Anh chị em đã phát huy tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, đem hết nhiệt tình cách mạng ra mà nói thẳng, nói thật, nói hết.
Thế là việc học tập trở nên sôi nổi, nhất là ở bước cuối thì người ta
có thể nói đến một không khí bừng bừng đấu tranh, làm cho chẳng những
giới văn nghệ như cựa mình một cái thực mạnh mà nhiều ngành khác ở thủ
đô cũng như thấy rung động lây.
Qua những sự việc mà
anh chị em phát hiện cũng như qua những ý nghĩ, tình cảm mà anh chị em
bộc lộ, chúng ta đã thấy phong trào văn nghệ trong sáu bảy năm nay đã có
những sai lầm nghiêm trọng về mặt lãnh đạo. Quyền tự do tư tưởng, tự do
ngôn luận, tự do sáng tác đã bị vi phạm một cách có hệ thống". (Trích
bài "Chuẩn bị Đại Hội Văn nghệ Toàn quốc - Một đợt học tập và đấu tranh
của giới văn nghệ", Nhân Văn số 1, ra ngày 20/9/56).
Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang đọc ngày 26/8/56 chỉ trích đường lối văn nghệ của Đảng trên ba điểm chính:
- Đường lối lãnh đạo văn nghệ của Trung ương Đảng hẹp hòi, gò bó, do nhận thức không đúng về mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ.
- Trung ương Đảng chưa có một chính sách cụ thể về văn nghệ.
- Bộ phận lãnh đạo văn nghệ không hợp lý, không trong sạch, có tính bè phái, nguy hiểm.
Nguyễn Hữu Đang được "cử toạ hoan hô nhiệt liệt". Qua lời tổng kết của Nguyễn Đình Thi và lời tự kiểm thảo của Tố Hữu, bộ phận lãnh đạo văn nghệ đã phải "thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa".
Vai trò lãnh đạo
phong trào NVGP của Nguyễn Hữu Đang đã rõ: Dựa vào những biến động ở
Liên xô và Trung quốc, vào sự đồng thuận của đông đảo trí thức văn nghệ
sĩ, vào thế yếu của lãnh đạo sau thất bại Cải cách ruộng đất, Nguyễn Hữu
Đang, với tài hùng biện nổi tiếng, đứng ra cổ động trí thức, hướng dẫn
phong trào và chủ trương báo Nhân Văn, với ý định cải tổ lại nền chính
trị của miền Bắc Việt Nam.
Ba mươi chín năm sau, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố: "Thực
chất phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nếu đứng về mặt chính trị, thì đó
là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số
đảng viên về chính trị nữa, là chống -không phải chống Đảng Cộng Sản
đâu, mà đấy là chống- cái chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch
Ðông. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao Trạch Đông
đưa đến nhiều hiện tượng -nói là chuyên chính thì chưa đủ- phải nói là
cực quyền toàn trị, nó gay gắt ghê lắm. Nó gay gắt ghê lắm! Ðảng Cộng
Sản đã phạm sai lầm trong Cải cách ruộng đất, rồi thì Chỉnh huấn, Chấn
chỉnh tổ chức, Ðăng ký hộ khẩu v.v... Tất cả những cái đó đều do những
cái quá tả, từ phương Bắc nó xâm nhập vào, chứ không phải chờ đến bây
giờ nó mới đem cái tả khuynh hữu trí vào nước Việt Nam. Cái thời mà cụ
Hồ chưa về nước và ông Trần Phú làm Tổng bí thư, thì làm cái cuộc gọi là
Xô Viết Nghệ Tĩnh, đưa ra cái khẩu hiện rất quái gở tức là "Trí, phú,
địa, hào đánh tận gốc, trốc tận rễ". Nó quá tả như thế thì còn làm sao
giành được độc lập! Như thế là chia rẽ dân tộc. Lúc bấy giờ chúng tôi
cũng cảnh giác, chúng tôi theo đảng Cộng sản nhưng chống chủ nghĩa
Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Ðông. Nhưng rất tiếc là lúc bấy
giờ, thế lực của Liên Xô rất mạnh, áp lực của Trung Quốc cũng rất mạnh
cho nên cuộc đối thoại ấy không có kết quả" (Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI tháng 9/1995).
Từ cuối tháng 8 đến cuối tháng 11 năm 1956: không những Giai phẩm mùa xuân được in lại mà còn ra tiếp 4 số nữa, tổng cộng là 5 số Giai phẩm và 5 số Nhân Văn. Ngoài ra, còn có 1 số Đất Mới của sinh viên và 10 số Trăm Hoacủa Nguyễn Bính (từ tháng 10 đến tháng 12/56), thêm báo Nói Thật của Hoàng Công Khanh và Tập san phê bình,
xuất hiện tới cuối năm 1957. Cuối tháng 11/56, trên các báo Nhân Văn và
Giai Phẩm, nhà xuất bản Minh Đức còn quảng cáo mời độc giả tìm đọc Tự do diễn đàn và Sáng tạo (chuyên về điện ảnh kịch trường). Nhưng rút cục Tự do diễn đàn in xong bị cấm. Nhưng Văn, báo chính thức của Hội Nhà Văn, sang năm 57 vẫn còn in bài của những người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, đến số 36 (10/1/58) Văn mới bị đình bản vì đăng bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi.
Cuộc cách mạng mùa thu của tư tưởng đã xẩy ra.
© Copyright Thụy Khuê 2004 - 2009
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 022
Y BAN * 27 BƯỚC CHÂN
Y Ban
27 bước chân là lên thiên đường
Em đã run lên khi nghe cú điện thoại của anh. Em nằm úp mặt xuống gối và nghe tiếng tim đập thùm thụp.
Có
một tiếng nói từ đâu đó vọng đến. Hãy tắt máy điện thoại đi. Khi tắt
máy điện thoại thì sự liên lạc giữa anh và em sẽ không còn nữa. Vậy mà
em lại với nó để sát vào người em hơn. Trong khoảng khắc điện thoại chưa
đổ chuông, tim em đập rung lên và ngực em co tròn lại, tức ở hai bầu
vú. Đầu em toang tuyếch. Em muốn đến với anh và em cũng muốn mình vượt
qua sự cám dỗ ngọt ngào này. Chuông điện thoại đổ gắt gao:
- Em đã sắp đi chưa?
- Chưa.
- Sao lại không đi?
- Em sợ?
- Em sợ gì chứ?
- Em chỉ muốn ngồi bên anh trong một quán cà phê nhỏ.
- Ừ thì cứ đến đây đi, mình sẽ đi uống cà phê. Đi đi em. Anh đang chờ em đấy.
Em bật dậy ra khỏi giường và trang điểm cẩn thận. Em kẻ viền mắt thẫm hơn và thoa thêm phấn hồng lên má. Tim em vẫn đập gấp gáp.
Em
dừng taxi ở phía bên kia đường và mua một thỏi singum. Em chợt nhớ ra
chưa kịp đáng răng. Em có thói quen chỉ đánh răng vào buổi sáng và chiều
nay là một ngoại lệ. Vì thế mà em quên.
Anh ra cửa đón em. Anh bảo:
- Em mặc đồ hiện đại đẹp hơn.
Em mặc quần bò và chiếc áo thun đen. Em hiểu anh đã so sánh với những lần anh đã gặp em khi thì em mặc áo dài khi thì mặc lụa.
Em
theo anh vào khách sạn với những bước đi run rẩy. Chiếc sắc em cầm
trong tay cũng rung lên. Anh bảo em ngồi xuống nghế. Anh cũng ngồi xuống
bên cạnh em. Anh nhìn vào mắt em và nắm lấy tay em. Tay em đang rất
lạnh. Tay anh ấm và khô. Em cảm nhận được sự ấm áp từ tay anh truyền
sang. Anh cười. Em ấp úng và tránh cái nhìn của anh:
- Mình đi một quán cà phê nào đi anh.
- Ừ ở đây cũng có cà phê. Nhưng có lẽ mình vào một phòng nào đó để nói chuyện và uống cà phê.
Người em đông cứng lại. Em biết điều gì sẽ chờ em trong căn phòng đó.
Anh ra quầy lễ tân lấy chìa khoá.
- Đi em.
Em theo anh như một chiếc bóng vô hồn.
Trong phòng có hai chiếc nghế. Anh ngồi xuống một chiếc và em ngồi xuống chiếc đối diện. Anh lại nhìn vào mắt em.
- Em sợ gì thế? Nói gì đi em. Em sợ gì nào?
Em
không nhìn vào mắt anh mà quay cái nhìn ra cửa. Dưới tay nắm cánh cửa
có một tờ giấy ghi dòng chữ: quý khách nhớ chốt cửa. Cửa anh chưa đóng
chặt vẫn mở he hé. Em cảm thấy yên tâm hơn.
- Em sợ ngày mai.
- Sao lại sợ ngày mai?
- Ngày mai em phải đối diện với những sự thật. Em sẽ nhìn mọi thứ đúng với tên gọi của nó. Và điều đó làm em khốn khổ.
-
Hàng ngày thiên hạ đang sống với nhau một cách giả dối. Mình không sống
được thật lòng với nhau hay sao? Em cũng thích anh chứ?
Em gật đầu.
- Anh cũng rất thích em mà.
Anh áp hai tay lên tay em. Tay anh vẫn rất ấm. Tay em đã bớt lạnh.
- Nào đã hết sợ chưa em?
Em
ngước nhìn anh cái nhìn bối rối. Anh đứng lên kéo em ấp vào người anh.
Cái hôn đầu tiên anh đặt lên má em. Em run rẩy như không thể đứng vững.
Em tựa vào người anh. Anh ghì chặt em vào người anh.
Trước khi tan biến em còn cảm nhận được môi anh cũng rất ấm trên ngực em.
Em
đã tan biến vào anh rồi. Người em cong cứng. Anh đã làm dịu em lại bằng
những cái hôn. Nhưng ngay cả cái hôn cũng không làm dịu em được. Em mút
chặt lưỡi anh và một biển nước ào ạt như muốn nhấn chìm em.
Thực
ra em đã muốn làm điều này với anh từ lâu rồi. Ngay sau cái lần anh
nhìn rất lâu vào em trong cái đám đông người ấy và nói em đẹp. Nhưng em
lại muốn cả tình yêu nữa.
Sự cảm nhận của em đã truyền sang anh. Anh nói trong hơi thở gấp gáp:
- Em thế này làm sao anh quên em được.
Nước mắt em tràn trề vì hạnh phúc.
Em
nằm duỗi người, hai tay để lên đầu. Em thả lõng người thoải mái. Anh
lại hôn em. Môi anh vẫn nồng ấm. Anh đã kết thúc và rất thoả mãn. Một
tay anh để lên ngực em xoa nhẹ. Em muốn khóc nức nở. Em đã cố gắng để
không khóc. Em bắt ý nghĩ quay về một điều gì đó. Em chợt nhớ ra cửa anh
vẫn để he hé. Và em bỗng sợ. Em nhổm người dậy để nhìn. Cửa đã được
đóng chặt và cài kín từ bên trong. Em cố nghĩ xem anh đã cài kín cửa từ
khi nào? Em đã không nhớ.
Anh vào nhà tắm. Tiếng nước xối ào ào. Em buồn ngủ. Muốn ngủ một giấc thật ngon. Nhưng em lại nhớ câu nói của anh:
- Em thế này anh làm sao mà quên em được.
Em đã cưỡng lại cơn buồn ngủ, cố thức để tận hưởng cảm giác.
Em
nghĩ về anh. Anh là người đàn ông đang trên bệ phóng của danh vọng.
Hằng đêm trong chương trình thời sự luôn thấy hình ảnh của anh. Nhưng
tất cả những thứ đó không quan trọng với em. Cái dẫn đến giây phút em
đang tận hưởng là vì em yêu và ngưỡng mộ anh. Em đã rất ngưỡng mộ anh và
khao khát một tình yêu.
Em, một người đàn
bà bình thường nhưng thông minh. Cái thông minh nhất của em là em nhận
chân được mình là ai? Chỗ đứng của em ở chỗ nào trên trái đất này? Em
cũng rất nhạy cảm. Em cảm nhận được ánh mắt đang chĩa về em nặng nhẹ thế
nào?
Em biết trong một người đàn ông dẫu
có quyền lực và địa vị thế nào thì vẫn có một phần của con người bình
thường. Em đã yêu cái phần người bình thường đó trong anh.
Em
đã không nhầm. Cái giây phút như tan biến trong nhau ấy. Em đã bừng
tỉnh để nhận ra sự nức nở của anh trên ngực em. Trong cơn vọt trào của
cảm xúc anh đã rên rỉ bằng tiếng của chú mèo chứ không phải tiếng gầm
của sư tử. Em tự hào vì đã làm cho anh sung sướng.
Anh
ra khỏi nhà tắm, quấn chặt mình trong chiếc khăn bông trắng. Nhìn thấy
em vẫn nằm ngạo nghễ trên giường anh lấy chiếc chăn mỏng phủ lên người
em. Em muốn đùa với anh. Em hất tung chăn và duỗi dài chân tay. Anh lại
lấy chăn phủ lên người em. Em lại hất tung chăn ra. Lần thứ 3 em đã nhìn
thấy ánh mắt bực bội của anh. Em bật dậy vào nhà tắm. Em soi mình vào
gương. Da thịt em sáng loáng. Môi em đỏ mọng và hơi trễ xuống. Mắt em
sáng long lanh.
Em ra khỏi nhà tắm và quấn
mình trong chiếc khăn bông trắng. Anh đã mặc quần áo chỉnh tề. Em nhìn
vào mắt anh, không còn ánh mắt bực bội nữa. Cái nhìn của anh đằm thắm và
bao dung. Anh đến phía sau em cầm chiếc khăn lau vai cho em và nói:
- Vai em còn đọng nhiều nước quá.
Người
em lại mềm ra để đón nhận một chiếc hôn vào vai. Và em còn xoay người
để đón một cái hôn nữa vào môi. Nhưng anh chỉ hôn vào má em.
Đã
xong. Quần áo em đã gọn gàng. Đầu tóc cũng gọn gàng. Môi em không trễ
tràng nữa. Em ngồi như một tội đồ trên ghế. Anh cũng không nhìn em. Thời
gian như đông cứng lại. Em sợ những khoảng khắc như thế này. Em bảo
anh:
- Mình về đi.
- Ừ.
Em đứng lên và anh vẫn ngồi
- Anh không còn nhớ mấy câu thơ này là của ai nữa? Lemontop hay Puskin. Nhưng anh rất thích nó. Tạm biệt nhé nếu là lần cuối...
Người
em như có hào quang toả ra. Em líu lo hát những bài hát từ trái tim.
Mắt em cười và má em ửng đỏ. Em đã không kiểm soát được các hành vi của
mình. Em đã hăm hở bước 26 bước gần đến thiên đường.
24
giờ sau. Đúng cái khoảnh khắc ấy, tim em lại đập loạn lên. Em chờ điện
thoại của anh. Em chờ đúng cái khoảnh khác ấy. Cái khoảng khắc vào xế
chiều, khi công việc đã vãn. Em đếm từng phút 5, 10, 15... 45. Đã sắp
hết giờ làm việc. Tim em muốn nổ tung ra. Em không thể chờ được nữa. Em
run rẩy bấm số điện thoại của anh.
- Alô, tôi nghe đây.
Em nghi ngại không biết có phải giọng nói của anh không?
- Cho tôi hỏi thăm, đây có phải là...
- Vâng tôi đây.
- ... là em, anh quên em rồi phải không?
- Em đấy à. Anh làm sao mà quên em được.
Đúng là giọng nói của anh hay nói với em rồi. Nhưng là giọng của công việc chứ không phải là giọng của nồng nàn.
- Em khoẻ không? Anh cũng đang định gọi cho em đây.
- Vâng.
Em không biết nói gì thêm nữa.
- Tý nữa anh còn có một cuộc hẹn. Chúc em trẻ, khoẻ, thành đạt và hạnh phúc.
- Và giữ vững lập trường, tư tưởng nữa phải không anh.
-
Đúng thế. Vào một thời gian thích hợp nào đó chúng mình sẽ gặp nhau nữa
nhé. À này em, khi tình cờ gặp nhau ở đám đông chúng mình nên tế nhị
nhé.
- Vâng, em hiểu rồi.
Chân tay em run lẩy bẩy như mới ốm dậy.
Nỗi
buồn làm em đổ sụp xuống. khi em đến chỗ hẹn cùng anh, em cũng đã nghĩ
đến điều này như là một sự rủi ro. Nhưng em đã gạt nó đi bằng niềm tin
và hy vọng.
Trong nỗi buồn em vẫn còn hy
vọng. 48 giờ, 72 giờ... Em vẫn chờ và hy vọng và sợ hãi. Nỗi sợ hãi bị
tổn thương lần nữa đã làm em không thể nhấc điện thoại để gọi cho anh.
Những
ý nghĩ khốn khổ đã bủa vây em và nhấn chìm em xuống. Em là người đàn bà
như thế nào đây, trong suy nghĩ của anh? Em hám danh vọng và hám tiền
tài ư? Không, em đã có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và danh vọng cần
có của một người đàn bà bình thường. Em còn có cả lòng tự trọng. Bây
giờ thì em biết chắc anh đã rất hiểu điều này khi chọn em phải không
anh? Còn trong suy nghĩ của em, em là một người đàn bà dễ dãi hư hỏng ư?
Không, em đã mê đắm anh để từ bỏ một người đàn ông đã yêu em thực lòng.
Em
sống không luỵ người khác. Thiên đường và địa ngục của em cũng không
giống của người khác. Thiên đường cách cuộc sống của em 27 bước chân. Em
đã bước được 26 bước rồi. Chỉ cần một bước chân nữa thôi em sẽ được lên
thiên đường. Sau cái khoảnh khắc tan biến vào anh, bước chân cuối cùng
ấy em tưởng tượng ra đó chính là lời anh thổ lộ rằng anh yêu em. Sau 48
giờ, 72 giờ... thì chỉ cần những cú điện thoại hỏi thăm em dịu dàng.
Kỳ
lạ thay cái thiên đường. Adam và Eva vì yêu nhau mà phải đầy xuống hạ
giới. Còn em chỉ vì thiếu tình yêu em không được lên thiên đường. Còn
anh, anh đang ở đâu?Anh có ở thiên đường của anh không? Mỗi buổi tối em
vẫn thích xem chương trình thời sự. Em vẫn không thể dời mắt khỏi anh.
Em
nhớ anh nói với em rằng, một thời gian thích hợp nào đó mình sẽ gặp
nhau. Và em cũng nhớ câu thơ cuối anh đọc cho em, anh không phải là anh
bây giờ. Em biết. Và em cũng không phải là em bây giờ. Trong khi những ý
nghĩ quay cuồng làm khổ em, em đã tìm cho mình một lối thoát. Em đã lấy
câu chuyện của một cô gái bán hoa để làm bài học răn mình. Câu chuyện
rằng, một đêm cô đi bán hoa bị khách chơi trả cho một tờ bạc giả. Thay
vì sự rên rỉ cô đã tự an ủi mình: Mình bị hiếp rồi.
Thực
chất, thiếu một bước chân em đã bị sa xuống địa ngục rồi. Dưới địa ngục
con người vô cảm, không còn cảm giác buồn đau và sung sướng nữa.
Nguồn: Ngọi sao.net
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 3 tháng 4 năm 2005
THƠ CAO TẦN
Mai
mốt anh về
Mai
mốt anh về có thằng túm hỏi
Mày
qua bên Mỹ học được củ gì
Muốn
biết tài nhau đưa ông cây chổi
Nói
mày hay ông thượng đẳng cu li
Ông
rửa bát chì hơn bà nội trợ
Ông
quét nhà sạch hơn em bé ngoan
Ngày
ngày phóng xe như thằng phải gió
Ðêm
về nằm vùi nước mắt chứa chan
Nghệ
thuật nói bỗng hóa trò lao động
Thằng
nào nói nhiều, thằng ấy tay to
Tiếng
mẹ đẻ thường chỉ dùng chửi đổng
Hay
những đêm sầu tí toáy làm thơ
Ông
học được Mỹ đất trời bát ngát
Nhưng
tình người nhỏ hơn que tăm
Nhiều
đứa hồn nhiên giống bầy trẻ nít
Còn
hồn ông: già cốc cỡ nghìn năm
Bài
học lớn từ khi đến Mỹ
Là
ngày đêm thương nước mênh mang
Thù
hận bọn làm nước ông nghèo xí
Hận
gấp nghìn lần khi chúng đánh ông văng
Nếu
mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông
anh hùng ông cứu được quê hương
Ông
sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa
cả nước vào học tập yêu thương
Cuộc
chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp
Phản
động gì cũng chỉ sống trăm năm
Bồ
bịch hết không đứa nào là Ngụy
Thắng
vinh quang mà bại cũng anh hùng.
(tháng
3, 77)
Chốn
tạm dung
Nhà
tôi ở toòng teng đỉnh đồi
Buổi
mai đi làm thấy đời xuống dốc
Sau
lưng sương ngập cao lưng trời
Trước
mặt thông sầu reo đáy vực
Bắt
đầu ngày bằng một chút vui
Hát
nghêu ngao trong lòng xe rỗng tuếch
Bài
ca quen bỗng chợt quên lời
Chút
kỷ niệm còn lại mất khơi khơi
Tiếng
Việt trong ta ngày mỗi héo
Hồn
Việt trong ta ngày mỗi khô
Dốc
mở như đời ta trước mặt
Sương
kín như đời ta hôm xưa
Giang
hồ một túi bài ca cũ
Hát
nhảm cho qua nốt tuổi già
Qua
những bình minh còn ngái ngủ
Còn
như chưa lạc mất quê ta
Giữa
đỉnh sương mù thông đáy vực
Trên
đường chênh chếch nắng mênh mang
Trôi
xuôi một mảnh hồn lưu lạc
Ðã
chán nhân gian ở cuối đường
Chiều
về lên dốc thân tơi tả
Một
quả hoàng hôn đỏ kín trời
Mình
mới ngoi lên ngày đã ngã
Ðêm
phờ lăn lóc ngủ thay chơi
Giữa
đỉnh sương mù thông đáy vực
Ngược
xuôi ngơ ngẩn một linh hồn
Còng
lưng gánh nốt đời lưu lạc
Nặng
trĩu nghìn cân nhớ nước non.
(tháng
5, 77)
THƠ DIÊN NGHỊ
GÃ DA ĐEN GÓC PHỐ
Trầm lụn không gian đen
Loáng thoáng đèn mờ đục
Gã da đen gà gật
Liên tưởng cổ tích xa
Đón đợi bóng người qua
Ngửa tay xin điếu thuốc
Đồng quarter cũng tốt
Để còn thấy ngày mai....
Hư ảo vòng sinh phần
Nhìn hàng phong trụi lá
Từng mảng đời lụi gió
Như hóa hiện mong manh
Mái trọ kẻ không nhà
Mất còn bên góc phố
Nếu gã còn nguyên hơi
Khúc saxo... cuồng nộ
Vang động bốn phương trời
Nếu gã làm được thơ
Ngôn từ thơ u-uất
Ý từ thơ rất thật
Rút từ nỗi đau người!
Một đêm xuân lêu bêu
Tối loanh quanh ngang phố
Gã da đen dáng quen
Co quắp trong túi ngủ
Vườn kỳ vĩ thiên đường
Vẫn nhú mầm địa ngục
Giấc chập chờn sắc không
Gã tìm ra hạnh phúc
Gã da đen kiệt sức
Đã vĩnh biệt mùa xuân
Xã hội người bất lực
Và tôi, kẻ yếu hèn.
DIÊN NGHỊ
San Jose 2002
Trầm lụn không gian đen
Loáng thoáng đèn mờ đục
Gã da đen gà gật
Liên tưởng cổ tích xa
Đón đợi bóng người qua
Ngửa tay xin điếu thuốc
Đồng quarter cũng tốt
Để còn thấy ngày mai....
Hư ảo vòng sinh phần
Nhìn hàng phong trụi lá
Từng mảng đời lụi gió
Như hóa hiện mong manh
Mái trọ kẻ không nhà
Mất còn bên góc phố
Nếu gã còn nguyên hơi
Khúc saxo... cuồng nộ
Vang động bốn phương trời
Nếu gã làm được thơ
Ngôn từ thơ u-uất
Ý từ thơ rất thật
Rút từ nỗi đau người!
Một đêm xuân lêu bêu
Tối loanh quanh ngang phố
Gã da đen dáng quen
Co quắp trong túi ngủ
Vườn kỳ vĩ thiên đường
Vẫn nhú mầm địa ngục
Giấc chập chờn sắc không
Gã tìm ra hạnh phúc
Gã da đen kiệt sức
Đã vĩnh biệt mùa xuân
Xã hội người bất lực
Và tôi, kẻ yếu hèn.
DIÊN NGHỊ
San Jose 2002
LS. LÂM LỄ TRINH * TRẦN VĂN LẮM
Cựu Ngoại Trưởng Trấn Văn Lắm Tiết Lộ Về Hiệp Định PARIS_Luật Sư Lâm Lễ Trinh.
CỰU NGOẠI TRƯỞNG TRẦN VĂN LẮM TIẾT LỘ VỀ
HIỆP ĐỊNH PARIS VÀ NHỮNG NGÀY CUỐI CỦA VNCH
LÂM LỄ TRINH
Hội nghị 4 bên vời ngoại trưởng Trần Văn Lắm
Thập niên 60, tướng độc nhãn Moshe Dayan , nhà chiến thuật gia Do Thái, qua viếng Miên Nam VN . Khi trở về, báo chí hỏi cảm tưởng. Ông trả lời:” Bắc Việt sẽ thua chiến tranh ngày họ chiếm được Miền Nam”. Lời tiên tri này có vẻ sắp thành sự thực. Có một điều chắc chắn là Benjamin Franklin đã nói không sai:” Trong những chế độ xấu củng như ở các giòng sông, rác rưới nổi lên trên mặt ”. Con sông Việt Nam hiện bị ô nhiểm trầm trọng vì quốc nạn tham nhủng cộng sản.
LÂM LỄ TRINH
Thuỷ Hoa Trang
Huntington Beach, Californie
Ngày 8.2.2001
@Tác Giả gởi bài đến Ban Biên Tập
@Diễn Đàn Người Dân Việt Nam
HIỆP ĐỊNH PARIS VÀ NHỮNG NGÀY CUỐI CỦA VNCH
LÂM LỄ TRINH
Hội nghị 4 bên vời ngoại trưởng Trần Văn Lắm
LTS:
Sau đây là cuộc mạn đàm về Hiệïp định Paris giữa nguyên Ngoại trưởng
Trần Văn Lắm mãn phần ngày 5 tháng 2 vừa qua tại tư thất ở Canberra, Úc
Đại Lợi, và Ls Lâm Lễ Trinh, nguyên Đại sứ VNCH tại Trung Đông, hiện là
chủ bút Tạp chi Pháp- Anh Human Rights / Droits de l’Homme. .
Mổi
năm khi tiết trời bắt đầu lập đông, ông bạn Trần Văn Lám thường rời tạm
vài tháng ngôi nhà xinh xắn tại Elvire Place, Palmerston, Úc Đại Lợi để
bay qua New York thăm gia đình trưởng nữ và đi đây đó viếng một số
thân hữu và bạn đồng viện củ . Trong dịp tái ngộ lần chót tại Orange
County đầu tháng giêng 1999, tác giả bài này được nguyên Ngoại trưởng và
Chủ tịch Thượng Viện Việt Nam Cộng hoà , lúc đó 86 tuổi nhưng vẩn còn
minh mẩn, cho biết nhiều chi tiết mới lạ về Hoà đàm Paris và trường hợp
trao quyền cho Dương Văn Minh. Trong cương vị người đứng đầu ngành
Ngọai giao và Lập pháp những năm chót của VNCH ,cụ Trấn .Văn .Lắm đã
đóng một vai trò then chốt trong chính trường Miền Nam .Tóm lược sau đây
những câu trả lời có ghi âm của Chủ tịch Lắm về một số điểm :
1- Hoà đàm Paris. Suy ngẩm về một sự phản trắc .
Ngoại
trưởng Mỹ Henry Kissinger phải vận động đôn đáo suốt ba năm trời, từ
25.3.1965 ( là ngày Tổng thống Lyndon Johnson tuyên bố sẳn sàng nói
chuyện hoà bình với Bắc Việt) , mới tổ chức được cuộc họp mặt đầu tiên
10.5.1968 giữa Averell Harriman, đại diện Hoa kỳ,và Xuân Thủy , có Hà
Văn Lâu phụ tá và Lê Đức Thọ cố vấn . Ông Trần Văn Lắm thay Trần Chánh
Thành – cả hai thuộc Liên danh Bạch tượng tại Thượng viện – trong chức
vụ Ngoại trưởng sau cuộc hội kiến Johnson – Thiệu tại Honolulu. Thọ
thường eo xách khó dể và lắm lúc đối xử với Kissinger, theo lời của
chính Kissinger, như “một thầy giáo nghiêm khắc rầy la đứa học trò kém
khả năng”. Kissinger, mặt khác, gây nhức đầu cho Chính phủ Sàigòn
không ít. Ngày 21.10.1972, Tổng Thống Thiệu yêu cầu Ngoại trưởng Trần
Văn Lắm và Cố vấn tại Phủ Tổng thống Nguyễn Phú Đức nhóm riêng với
Kissinger tại tư thất của ông Lắm tại 57 đường Hồng Thập Tự Sàigòn về
vấn đề VNCH đòi Hànội rút binh khỏi Miền Nam đồng một lúc với Mỹ sau khi
ban hành lệnh dình chiến tại chổ. Phiên họp thất bại vì hai bên bất
đồng ý kiến. Trong lúc Kissinger chưa rời khỏi thủ đô Sàigòn, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng hạ độc thủ bằng cách tiết lộ với phóng viên Newsweek rằng
Kissinger đã chấp nhận nguyên tắc lập tại Miền Nam “ một Chính phủ 3
thành phần : Việt Nam Cộng hoà, Mặt Trận Giải phóng Miền Nam và nhóm
Trung lập” thay vì một Hội đồng Hoà Hợp Hoà Giải có tính cách hành chính
như Kissinger đả từng nói với Thiệu.
Để chận đứng mưu toan của
Kissinger xuyên tạc sự thực, Thiệu gởi Nguyễn Phú Đức cuối tháng 10.
1972 qua Phnom Penh, Bangkok, Vientiane va Jakarta, để giải thích quan
điểm của Chính phủ Sàigòn. Bên cạnh phái đoàn Miền Nam do Đại sứ Phạm
Đăng Lâm và Nguyễn Xuân Phong phụ trách, có một ban cố vấn gồm Phó Tổng
thống Nguyễn Cao Kỳ, Luật sư Nguyễn Thị Vui (từng quen biết với Nguyễn
Thị Bình), ,Gs Nguyễn Ngọc Huy, Đăïng Đức Khôi (rể của ông Lắm)....Vợ
chồng ông Kỳ gây tai tiếng tại Paris với những lời tuyên bố bị báo
giới quốc tế phê bình bất lợi. Phó Thủ tướøng Nguyễn Lưu Viên , anh rể
của Nguyễn Phú Đức, là người có trách vụ thảo kế hoạch bầu cử tại Miền
Nam với Chính phủ Cách Mạng Lâm thời của MTGP . Điều chua cay là kế
hoạch này không được đối phương lưu ý thảo luận tại La Celle Saint Cloud
.
Thường sau các phiên họp ở Paris, Nguyễn Thị Bình, trưởng phái
đoàn MTGPMN, gặp riêng ông Lắm để trao đổi ý kiến . Bà Bình là cháu
ngoại của cụ Phan Châu Trinh. Quen với ông Lắm từ trước thời chiến
tranh. Bà Bình tỏ ra cởi mở nhưng về chính trị, không dám vượt qua chỉ
thị của Lê Đức Thọ. Quê muà những ngày đầu, bà Bình lên tinh thần nhờ
các báo và nhóm phản chiến Pháp ở Paris cổ vỏ và tiếp hơi . Bà lần hồi
trang sức khá hơn trong các phiên họp kế tiếp và “ dùng cả nước hoa
Chanel thơm phức” (Trần Văn Lắm nguyên văn!).
Ngày 27.1.1973,
Ngoại trưởng Lắm bay trở qua Paris, đón Kissinger tại phi trường, cả hai
về thẳng sứ quán VNCH và tại nơi đây, theo lời yêu cầu của Sàigòn,
Kissinger tái xác nhận Hoa kỳ sẽ trả đủa nếu CS vi phạm Hiệp ước. Dinh
Độc lập liền được phúc trình mọi việc. Với sự cho phép của TT Thiệu và
Hội đồng An ninh, Ngoại trưởng Lắm ký Hiệp ước nhân danh VNCH vào ba bản
tiếng Anh, Việt và Pháp.
Đầu tháng 4.1973, Nixon mời vợ chồng
Thiệu – có Trần Văn Lắm và Nguyễn Phú Đức tháp tùng - qua tư thất Casa
Pacifica tại San Clemente, Californie, để vổ về an ủi. Không khí phản
chiến sôi nổi không cho phép tiếp chính thức TT Thiệu ở Hoa Thịnh Đốn .
Theo ông Lắm, Nixon chỉ cho biết lơ là “ cho có chuyện” vấn đề viện
trợ còn tuỳ thuộc Quốc hội Mỹ định đọat. Tác giả bài này có hỏi từ lúc
nào Ngoại trưởng Lắm mới biết Hoa kỳ bỏ rơi Miền Nam thì ông thở dài trả
lời vắn tắc:” Mọi việc có thể đổi khác nếu không có vụ Watergate!”.
Trùng hợp lạ kỳ thay, đây củng là câu phúc đáp của TT Thiệu ngày
24.4.1995 trong dịp nói chuyện với chúng tôi . Đi Mỹ về, ông Lắm từ chức
Ngoại trưởng để tái ứng cử tại Thượng viện và sau đó, được bầu vào chức
Chủ tịch. Cơ Trời sắp xếp hay...Chính trị sắp đặt?
2- Vài kỷ niệm về Miền Nam thất thủ.
Chủ
tịch Trần Văn Lắm kể lại: Trung tuần tháng 3.1975, sau khi Ban Mê
Thuột thất thủ, TT Thiệu có mời ông và Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẫn
vào Dinh Độc lập thông báo lệnh rút quân khỏi Cao nguyên “ vì địch quá
mạnh và Hoa kỳ không chiụ oanh tac!” (lời Thiệu). Tại chiến trường Quảng
trị, tướng Ngô Quang Trưởng than với ông Lắm rằng “pháo kích đối phương
mà không đủ đạn dược là tự sát” vì lúc đó, CS binh đông hơn gắp bội và
được vỏ trang hùng mạnh .
Gặp Chủ tịch Lắm trong một cuộc tiếp
tân, sau khi Cao Nguyên và Miền Trung bị mất thảm hại, Tướng
Westmoreland kéo ông Lắm vào một góc phòng, lắc đầu than:” Tôi chưa từng
thấy một quân đội nào thối lui hổn lọan và không có kế hoạch như
vậy!”. Cùng với Bác sĩ Nguyễn Duy Tài, chủ tịch Ủy ban Ngoại giao
Thượng viện, ông Lắm đi Hoa Thịnh Đốn để thử vận động với Quốc hội lần
chót. Những chính khách lúc trước bênh vực nhiệt liệt Miền Nam như Phó
Tổng thống Nelson Rockkefeller, nghị sĩ Fullbright...đều tránh né và “
xem vấn đề Việt Nam thuộc về dỉ vảng”.
Tác giả bài này củng có hỏi
Chủ tịch Lắm vì sao Đệ nhị Cộng hoà không rút kinh nghiệm nguy hại của
chế độ Ngô Đình Diệm để tổ chức sau 1964, một khối áp lực lobby tại Hoa
Thịnh Đốn với nhân lực và phương tiện sẳn có? . Ông Lắm giải thích miển
cưởng: “ Giới cầm quyền ở nước mình quá nặng tình cảm”, ngụ ý họ (lầm)
tưởng nói chuyện thẳng với Toà Bạch Ốc tức Tổng thống Hoa kỳ là đủø. Bất
chấp ngành Lập pháp, Công luận và giới Truyền thông Mỹ. Quan niệm cục
bộ này là nguồn gốc của sự lủng củng bang giao giữa Sàigòn và Hoa Thịnh
Đốn.
Điểm cần ghi là Quốc hội Hoa Kỳ không bao giờ có công khai
tuyên chiến theo hiến định với Bắc Việt mặc dù trong suốt mấy chục năm
chiến tranh, Quốc hội vẫn nhóm dài dài cấp ngân khoản để đánh giặc. Bởi
thế một số “thức giả (cà chớn) ” tại xứ này đã không ngượng miệng cải
rằng Hoa Kỳ .“không chính thức bại trận tại VN” (!) . Điểm khác là Toà
Bạch ốc không có thông báo cho các ủy ban liên hệ và nhân viên Hội đồng
Nội các Mỹ hay biết những điều mà Nixon và Ford cam kết riêng với Thiệu .
Có lần TT Thiệu đã điềm nhiên nói với tác giả bài này :” Nếu không tin
lời cam kết bằng miệng và được xác nhận bằng thơ riêng của Tổng thống
Mỹ thì còn tin được ai?”. Sau hết, Hiệp ước Paris củng không hề được
trình cho Thượng viện phê chuẩn theo luật. Đây là một trường hợp hi hữu
và duy nhất trong lịch sử bang giao Hoa kỳ với một đồng minh . Một đồng
minh từng được đềø cao là “ thành trì bảo vệ tự do ở Á châu”. Cay đắng
thay cho VNCH ! Xấu hổ thay cho Đại cường lảnh tụ của Thế giới Dân chủ!
Lạ
hơn nữa, khi Cố vấn Nguyễn Tiến Hưng đề nghị phổ biến rộng rải trong
báo giới và chính quyền Mỹ xấp thỏ mật dày cộm trao đổi giữa Dinh Độc
lập và Toà Bạch ốc để gây áp lực dư luận, ông Thiệu một mực từ chối:”
Tôi không muốn bội ước bảo mật với các Tổng thống Mỹ . Tôi không muốn
người Mỹ có prétexte để trỏ ngón tay vào mặt tôi!”
3 – Câu chuyện bàn giao giữa Trần Văn Hương và Dương Văn Minh.
Ngày
21.4.1975 – ông bạnï Trần Văn Lắm kể lại- Thiệu từ chức và Trần Văn
Hương thay thế. Được hỏi về những áp lực khiến ông Trần Văn Hương rút
lui và Quốc hội ngày 28 tháng tư sửa Hiến pháp để dâng chức Tổng thống
cho Dương Văn Minh , chủ tịch Lắm cho biết: Quốc hội VNCH nhóm trong bối
cảnh rối loạn để nghe Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn , Phó Thủ
tướng Nguyễn Văn Hão và Tổng Giám đốc Cảnh sát Công an Nguyễn Khắc Bình
tường trình về tình trạng quân sự ,an ninh và tài chính trong nước đang
bị CS bao vây. Ba nhân vật này vẽ ra một bức tranh khẩn trương và tuyệt
vọng. Nên ghi lại rằng tướng Trần Văn Đôn trước đó vài ngày đôn đáo vận
động với Mỹ, Pháp, MTGPMN và CS Hànội để lập một Chính phủ hoà hợp hoà
giải nhưng thất bại. Trong lúc Quốc hội thảo luận, các dân biểu em út
của Dương Văn Minh như Lý Quý Chung, Dương Văn Ba, Kiều Mộng Thu, Hồ
Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức...ồn ào cổ vỏ cho người đàn anh. Đại sứ Graham
Martin cho ông Lắm biết riêng “bên kia” (tức MTGPMN) không chấp nhận nói
chuyện với một Chính phủ do Đôn hay Lắm cầm đầu . Ông Lắm cảm
thấy,,,,”nhẹ nhỏm ”! (nguyên văn) . Đại sứ Pháp Mérillon ủng hộ Minh,
thúc Quốc hội sớm biểu quyết, để tránh cho thủ đô Sàigòn khỏi bị “ bom
đạn tiêu hủy”.
Sau khi Quốc hội bầu Dương Văn Minh vào ghế Tổng
thống, Chủ tịch Lắm đích thân viếng cụ Hương cho hay kết quả để chuẩn bị
diển văn bàn giao. Ông Hương viện lẻ yếu mệt nên sẽ chỉ “nói qua loa
vài lời, không dài dòng văn tự” và phú cho ông Lắm lo các chi tiết.
Trưởng ban Nghi lể Tôn Thất Ân phụ trách mọi việc. Chủ tịch Lắm liền đi
gặp Dương Văn Minh tại biệt thự Hoa lan , đường Hồng Thập Tự. Ông ôn
lại: “ Tôi đề nghị lể bàn giao cử hành 9 giờ sáng hôm sau. Tướng Minh
bảo tôi đợi và bước qua phòng bên cạnh. Tôi thấy ông phụ nhĩ với hai cố
vấn Mai Hữu Xuân và Lý Chánh Trung., xong trở ra nói vắn tắc :” Không
được! 9 giờ sáng không tốt. Xin định vào 5 giờ rưởi chiều”. Ngày 29
tháng 4, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu viết thơ dục Graham Martin đóng cửa Toà
Đại sứ Hoa kỳ và rời VN với kiều dân Mỹ trong 24 tiếng đồng hồ.
Được
hỏi nghĩ gì về TT Thiệu trong giai đoạn hoà đàm, ông Lắm mỉm cười:” Xin
cho tôi miển phê bình”. Về tin đồn CS mời Dương Văn Minh trở về VN và
Dương Văn Minh tuyên bố sẳn sàng đấu tranh cho dân chủ, cụ Lắm nói:” Tôi
quen với ông Minh hồi y còn là adjudant ở trường Tong ra, đến thăm tôi
tại nhà đường Võ Tánh, Sàigòn. Trop paresseux! Thiếu văn hoá. Sẽ bị
Hànội dùng làm ballon d’essai”. Về câu hỏi của chúng tôi “ Nghị sĩ Trần
Văn Tuyên đề nghị giải pháp gì trong những ngày cuối cùng của Miền Nam,
chủ tịch Lắm trả lời:” Tôi không biết vì không gần ông Tuyên nhiều. Ông
Tuyên chống chế độ Thiệu và nặng về đảng phái”
Để kết thúc cuộc
mạn đàm, cụ Trần Văn Lắm .có một mong nguyện thiết tha: “ Dân tộc Việt
chân thành hoà giải hòa hợp trong tình thương và tha thứ. Nhưng không
giải bằng súng đạn và hợp bằng thủù đoạn”. Ông tin rằng ở phiá “ bên
kia”, mổi ngày có thêm đông những phần tử “ vở mộng, giác ngộ và hối
cải” như Nguyễn Văn Trấn, người bạn học đồng lớp với ông tại trường
Pétrus Ký và vẫn giử liên lạc sau 1975 cho đến khi qua đời.
Ngày
28.4.1975, cụ Lắm đến Toà Đại sứ Hoa kỳ tại Sàigòn và từ đó, được chuyển
bằng tàu Pioneer Contender với gia đình cựu Ngoại trưởng Trần Văn Đổ và
hai nghị sĩ Đặng Văn Sung - Lê Văn Đồng qua Subic Bay, Phi luật tân.
Vì sao CS thắng chiến tranh nhưng sẽ thua hoà bình tại Việt Nam?
Tiếng súng đã ngưng 25 năm nhưng đến nay, nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời thoả đáng: Vì sao có chiến tranh VN? Chiến tranh có cần thiết, có thể tránh được chăng? Lý do nào khiến Mỹ không thắng được? Chừng nào VN mới an bình, dân chủ và dân Việt mới hoà giải hoà hợp thực sự? Biện pháp để chấm dứt độc đảng tại VN ?..vv..và vv.. Ít nửa củng có hai điều thấy rỏ:
Tiếng súng đã ngưng 25 năm nhưng đến nay, nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời thoả đáng: Vì sao có chiến tranh VN? Chiến tranh có cần thiết, có thể tránh được chăng? Lý do nào khiến Mỹ không thắng được? Chừng nào VN mới an bình, dân chủ và dân Việt mới hoà giải hoà hợp thực sự? Biện pháp để chấm dứt độc đảng tại VN ?..vv..và vv.. Ít nửa củng có hai điều thấy rỏ:
1- Miền
Nam thua vì lảnh đạo kém và bị Hoa kỳ chèn ép, bỏ rơi. Nam và Bắc Việt
đều tuyên bố đấu tranh Độc Lập và Tự do cho đất nước nhưng mổi bên theo
đường lối va ødựa vào thế lực khác nhau. Chế độ Sàigòn sụp đổ vì vọng
ngoại và quá ỷ lại vào Hoa kỳ, đồng minh duy nhất trong khi Hànội biết
xoay trở giữa hai đàn anh Nga – Tàu tranh chấp ảnh hưởng. Độc tài, chia
rẻ và tham nhủng làm cho Miền Nam mất dần hậu thuẩn quần chúng. Tại Miền
Bắc, với chính sách lộng ngôn và bịp bợm, Hồ Chí Minh đã đánh lừa lòng
yêu nước của dân để đưa xứ sở vào quỷ đạo CS quốc tế. Về quân sự, Quân
lực VNCH không thua kém bộ đội bắc Việt vì đã đẩy lui đối phương Tết
Mậu Thân 1968 và trong các vụ tấn công Mùa Phục sinh năm 1972 tại
Kontum, Quảng trị, Huế và An lộc khi Mỹ rút quân gần hết. Quân Miền Nam
sau đó bị đồng minh đâm sau lưng và Tư lệnh tối cao của họ phản bội.
Cách đây vài năm, gặp tướng Ngô Quang Trưởng ,tác giả bài này được ông
xác nhận rằng vào tháng ba 1975, lực lượng của ta không yếu đến nổi cần
tháo chạy gắp tại Miền Trung nhưng ông phải tuân lệnh của thượng cấp khi
thì bảo cố thủ ,khi lại hối rút quân khỏi Huế .
2- CS thắng nhờ
chiụ đựng một cuộc chiến dai dẳng và tiêu hao. Nhưng họ đang thua vì
không xây dựng được hoà bình, không thống nhất nhân tâm, đặt đảng trên
đất nước, dùng chính sách ngu dân để cai trị, bóp chẹt tự do và càng
ngày thêm hủ hoá. Đổi mới kinh tế chỉ để làm giàu cấp chỉ huy thay vì
phục vụ đại chúng. Xin bang giao và giao thương với Hoa kỳ không ngoài
mục tiêu này.
**********
**********
Thập niên 60, tướng độc nhãn Moshe Dayan , nhà chiến thuật gia Do Thái, qua viếng Miên Nam VN . Khi trở về, báo chí hỏi cảm tưởng. Ông trả lời:” Bắc Việt sẽ thua chiến tranh ngày họ chiếm được Miền Nam”. Lời tiên tri này có vẻ sắp thành sự thực. Có một điều chắc chắn là Benjamin Franklin đã nói không sai:” Trong những chế độ xấu củng như ở các giòng sông, rác rưới nổi lên trên mặt ”. Con sông Việt Nam hiện bị ô nhiểm trầm trọng vì quốc nạn tham nhủng cộng sản.
LÂM LỄ TRINH
Thuỷ Hoa Trang
Huntington Beach, Californie
Ngày 8.2.2001
@Tác Giả gởi bài đến Ban Biên Tập
@Diễn Đàn Người Dân Việt Nam
THƠ VŨ HOÀNG CHƯƠNG * ĐỜI VẮNG EM RỒI
Đời Vắng Em Rồi
Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu
Lênh đênh thương nhớ giạt trời Âu
Thôi rồi tay nắm tay lần cuối
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau
Trai lỡ phong vân gái lỡ tình
Này đêm tri ngộ xót điêu linh
Niềm quê sực thức lòng quan ải
Giây phút dừng chân cuộc viễn trình.
Tóc xõa tơ vàng nệm gối nhung
Đây chiều hương ngát lả hoa dung
Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo
Mơ kiếp nào xưa đã vợ chồng.
Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay
Buồn mưa trăng lạnh nắng hoa gầy
Nắng mưa đã trải tình nhân thế
Lưu lạc sầu chung mộng hướng say
Gặp gỡ chừng như truyện Liễu Trai
Ra đi chẳng hứa một ngày mai
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai ?
Phương Âu mờ mịt lối quê nàng
Trăng nước âm thầm vạn dặm tang
Ghé bến nào đây người hải ngoại
Chiều sương mặt bể có mơ màng.
Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không
Mà đây lòng trắng một mùa đông
Tương tư nối đuốc thâu canh đợi
Thoảng gió trà mi động mấy bông.
Lênh đênh thương nhớ giạt trời Âu
Thôi rồi tay nắm tay lần cuối
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau
Trai lỡ phong vân gái lỡ tình
Này đêm tri ngộ xót điêu linh
Niềm quê sực thức lòng quan ải
Giây phút dừng chân cuộc viễn trình.
Tóc xõa tơ vàng nệm gối nhung
Đây chiều hương ngát lả hoa dung
Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo
Mơ kiếp nào xưa đã vợ chồng.
Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay
Buồn mưa trăng lạnh nắng hoa gầy
Nắng mưa đã trải tình nhân thế
Lưu lạc sầu chung mộng hướng say
Gặp gỡ chừng như truyện Liễu Trai
Ra đi chẳng hứa một ngày mai
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai ?
Phương Âu mờ mịt lối quê nàng
Trăng nước âm thầm vạn dặm tang
Ghé bến nào đây người hải ngoại
Chiều sương mặt bể có mơ màng.
Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không
Mà đây lòng trắng một mùa đông
Tương tư nối đuốc thâu canh đợi
Thoảng gió trà mi động mấy bông.
NGUYỄN MINH CẦN * CHÍNH LUẬN
Ðảng Cộng
Sản
Việt Nam
Qua Những Biến
Ðộng
Trong Phong Trào Cộng Sản
Quốc Tế
Nguyễn
Minh Cần
LTS: Nhậ n
thấy cuốn sách
"Ðảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến
Ðộng Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế của
ông Minh Nguyễn Cần là một cuốn sách giá trị
với nhiều nhận định sâu sắc, chứa
đựng nhiều tài liệu lịch sử hữu ích;
chúng tôi liên lạc với ông Nguyền Minh Cần
và ông
đã có nhã ý để đăng trên tờ Tạp
Chí Cách
Mạng trong việc phổ biến rộng rãi đến
mọi người.
Tiểu Sử:
Nguyễn Minh
Cần
Sinh năm 1928
tại
Huế. Tham gia phong trào giải phóng dân tộc đầu
năm 1945, khi còn là học sinh, hoạt động trong
một tổ chức bí mật của Việt Minh. Tháng 8
năm 1945, tham gia tổ chức và lãnh đạo khởi
nghĩa ở thành phố Huế và vùng phụ cận.
Sau
Cách mạng tháng 8,
hoạt động trong phong trào công nhân Huế. Vào
Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5 năm
1946, sau đó là ủy viên Thường vụ Thành ủy
Huế. Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp
hồi tháng 12 năm 1946, ở trong Ban chỉ huy mặt
trận B thành phố Huế. Từ năm 1947, hoạt
động trong vùng tạm chiếm tỉnh Thừa Thiên,
làm bí thư Huyện ủy Hương Trà, về sau là
ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên
cho đến đầu năm 1951.
Từ năm 1951,
được Trung ương Đảng điều
động ra Hà Nội, vào hoạt động bí mật
ở Hà Nội đang bị Pháp chiếm. Từ tháng 10 năm
1954 đến năm 1962 là thành ủy viên, rồi ủy
viên Thường vụ Thành ủy Hà Nội, phó chủ
tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội,
chủ
nhiệm báo “Thủ Đô Hà Nội”.
Năm 1962, đi
học
Trường Đảng Cao cấp thuộc Trung
ương Đảng Cộng sản Liên Xô tại Moskva.
Do bất đồng với đường lối thân Mao
của ban lãnh đạo Đảng, bị lãnh đạo
Đảng truy bức, tháng 6 năm 1964 đã thoát ly
Đảng Cộng sản và xin cư trú chính trị
tại Liên Xô. Tại đây, làm nghề phiên
dịch và biên
tập ở Nhà xuất bản Tiến Bộ, Moskva trong 25
năm.
Khi bắt đầu
perestroika, đã tích cực tham gia phong trào
dân chủ ở
Nga và nhiệt thành ủng hộ cuộc đấu tranh cho
dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Hiện cư
trú tại Moskva.
Sách
đã xuất bản:
“Công
Lý Đòi Hỏi”, NXB
Văn Nghệ, năm 1997;
“Chuyện Nước
Non”,
NXB Văn Nghệ, năm 1999;
“Đảng Cộng
sản
Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào
Cộng Sản Quốc Tế”, NXB Tuổi Xanh, năm 2001.
Đảng cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) qua những biến động trong phong trào
cộng sản quốc tế (PTCSQT) là một đề
tài khá rộng. Việc nghiên cứu kỹ đề tài
này
có thể giúp ta hiểu được nhiều vấn
đề thuộc về quá khứ không xa, cũng như
hiện tại và tương lai của đất
nước. Để có thể có cái nhìn bao quát
giúp cho
việc nghiên cứu được sâu, người
viết xin trình bày theo trình tự sau đây:
Đôi
điều về
đảng cộng sản (ĐCS) và PTCSQT,
Đôi
điều về
ĐCSVN,
Những thời kỳ
biến động lớn nhất trong lịch sử
PTCSQT,
ĐCSVN qua
những
biến động đó.
Những vấn đề
này liên quan chặt chẽ với nhau. Có hiểu
được thực chất của ĐCS nói chung và
PTCSQT thì dễ dàng nắm bắt được những đặc
điểm chính của ĐCSVN, và khi biết rõ những
đặc điểm đó rồi thì dễ dàng hiểu
được thái độ của ĐCSVN trước
những biến động lớn trong PTCSQT, và nhất là
hiểu được thái độ của ĐCSVN trong
tình hình hiện nay trước xu thế chung của
thời đại, đồng thời có thể dự
đoán phần nào sự chuyển biến tình hình
đất nước trong tương lai.
Đây
là một bài có tính
chất nghiên cứu, nên người viết chủ
yếu dựa trên sự kiện thực tế và trình bày
thẳng thắn, không thêm bớt, không thiên vị để
bảo đảm tính khách quan.
Nhận thức
rằng
những điều trình bày dưới đây mới
chỉ là nét phác họa chưa đầy đủ,
sức của người viết thì có hạn, mà
đề tài lại lớn cần có sự nghiên cứu
sâu hơn và kỹ hơn của nhiều người, nên
mong mỏi và hoan nghênh các nhà nghiên
cứu cùng các bạn
đọc góp sức, góp ý để vấn đề
được sáng tỏ thêm. Người viết sẵn
sàng đón nhận với lòng biết ơn mọi ý
kiến phê bình xây dựng.
I. Đôi
điều
về ÐCS và PTCSQT
Trước hết,
cần biết qua quan điểm của các lãnh tụ
cộng sản Marx, Engels, Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông
về ĐCS, cũng như thực tiễn xây dựng
đảng của họ, để dễ hiểu về
ĐCSVN, vì xưa nay những người lãnh đạo
cộng sản Việt Nam đều coi quan điểm lý
luận của các lãnh tụ
đó là “kim chỉ nam cho hành động” của họ,
còn
các Đảng cộng sản Liên Xô (ĐCSLX)â, Trung
Quốc (ĐCSTQ) là khuôn mẫu để họ rập
theo xây dựng ĐCSVN.
A. Quan điểm
của
Marx-Engels về ĐCS
Khi
nghiên cứu xã hội
tư bản, Karl Marx và Fredrich Engels cho rằng cuộc cách
mạng công nghiệp ở các nước Âu Mỹ đã
sinh ra giai cấp vô sản, lực lượng xã
hội chủ yếu tạo ra mọi của cải
vật chất của xã hội tư bản chủ
nghĩa. Trong quá trình sản
xuất, giai cấp vô sản tạo ra giá trị và giá
trị thặng dư, và giai cấp tư bản ăn bám
đã chiếm đoạt thứ giá trị thặng dư
này để trở nên giàu có. Toàn bộ
quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản làm cho giai
cấp vô sản, nhất là vô sản công nghiệp, trở
thành giai cấp tiên tiến
nhất, có tổ chức nhất, cách mạng
triệt để nhất, nó là giai cấp lãnh đạo
cách mạng vô sản, nó sẽ là kẻ đào mồ
chôn
chủ nghĩa tư bản và xây dựng nên xã hội
mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Muốn
làm được nhiệm vụ lịch sử đó, theo
Marx và Engels, thì “phải tổ chức những
người vô sản thành giai cấp (ý nói phải tổ
chức đảng của vô sản - NMC), lật
đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”
(1).
Trong
bài này, chúng tôi không
muốn bàn nhiều đến sai lầm trong luận
điểm của Marx và Engels về vai trò của giai
cấp vô sản trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa, cũng như vai trò lãnh đạo của
giai cấp đó trong xã hội, vì đề tài
đó
thuộc một vấn đề khác rộng hơn.
Nhưng vì luận điểm đó là cơ sở
đặt nền móng cho toàn bộ học thuyết
của hai ông, trong đó có lý luận về đảng
của giai cấp vô sản, nên buộc lòng cũng
phải nói qua. Luận điểm trên của Marx và Engels
về vai trò của giai cấp vô sản là dựa trên
sự phân tích xã hội tư bản được trình
bày một cách thiên lệch trong bộ “Tư bản”
của Marx. Vì tác giả
của nó muốn đề cao vai trò của giai cấp vô
sản, nên khi trình bày về kinh tế tư bản chủ
nghĩa đã cố tình chỉ nhấn mạnh đến
đến vai trò lao động, chủ yếu bằng chân
tay, của giai cấp vô sản trong nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa nói chung, cũng như trong
sự cấu thành giá trị và giá trị thặng dư
nói
riêng, mà coi nhẹ hoặc không đếm xỉa
đến thứ lao động quan trọng nhất,
quyết định nhất
là lao động bằng trí tuệ của tầng lớp
trí thức, nhất là trong lĩnh vực khoa học kỹ
thuật, tức là lớp người tạo nên nền
sản xuất với kỹ thuật tiên tiến, hiện
đại, và của tầng lớp quản lý, tức là
lớp người điều khiển, vận hành toàn
bộ nền sản xuất phức tạp đó, trong
việc này có cả phần đóng góp của giai cấp
tư bản. Do phương pháp luận không khách quan
đó, nên Marx đã rút ra những kết luận sai
lầm. Thực tiễn thế giới ngay giữa thế
kỷ 20 đã hoàn toàn bác bỏ những kết luận
của Marx về vai trò của giai cấp vô sản trong xã
hội, bác bỏ những điều khẳng định
về những tính chất “tiên tiến nhất,
có tổ chức nhất, cách mạng
triệt để nhất” của giai cấp này. Còn
đến cuối thế kỷ 20, khi nền kinh tế toàn
cầu hóa, cuộc cách mạng tin học tiến mạnh,
kinh tế tri thức nở rộ thì chẳng còn mấy ai
tin vào những kết luận đó nữa. Thế mà, Marx
và Engels dựa trên những kết luận sai lầm
đó, đã đưa ra trong “Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản” (năm 1848) quan niệm về
đảng của những người cộng sản
và nhiệm vụ xây dựng xã hội cộng sản
của giai cấp vô sản.
Công
bằng mà nói, trong các
tác phẩm của mình, hai ông
thường nhấn mạnh: cách mạng vô sản
chỉ có thể tiến hành ở các nước công
nghiệp phát triển, nghĩa là những nước
thực sự có giai cấp vô sản, và ĐCS phải thực
sự là “đảng của giai cấp vô sản” mang
tính chất vô sản. Sở dĩ phải nhấn mạnh
như thế vì hai ông phòng trước: nếu không
có
điều kiện căn bản đó, ĐCS sẽ
là đảng
của lớp nghèo không phải vô sản, “lớp đáy”
của xã hội, mà Marx gọi là “lumpen-proletariat”
(vô sản
áo rách, vô sản lưu manh), sẽ mang nặng tính
chất
của các tầng lớp đó và vì thế sẽ làm
sai
mục tiêu của cách mạng vô sản. Về sau, Lenin
và
phe cánh của ông ta tự cho mình phát triển
chủ
nghĩa Marx thì lại coi nhẹ điều này, ông cho
rằng cách mạng vô sản có thể diễn ra ở các
nước công nghiệp kém phát triển, nơi đang là
khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản.
Thậm chí Lenin và phe cánh còn cho rằng
những nước
chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa
tư bản cũng có thể làm cách mạng vô sản
miễn là họ nhận được sự giúp
đỡ của một nước mà ĐCS nắm chuyên
chính vô sản.
Nếu
nghiên cứu kỹ
thì có thể dễ dàng nhận thấy một số quan
điểm căn bản về ĐCS của Marx và Engels
ghi trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” khác
với quan niệm và thực hành của Lenin và những
lãnh tụ cộng sản khác trong thế kỷ 20. Có
những điều hai ông đã viết ra rất ít
được những người theo chủ nghĩa Lenin sau
này nhắc tới
hoặc đem ra bình luận. Vì thế, xin dẫn ra ở
đây vài đoạn đáng chú ý trong
“Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản”:
“... về mặt
thực
tiễn, những người cộng sản là bộ
phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân
ở tất cả các nước...” (2)...
“Những người
cộng sản không phải là một đảng riêng
biệt, đối lập với các đảng công nhân
khác”
(3)...
“Họ
không đặt ra
những nguyên tắc phe phái nhằm khuôn phong
trào công nhân
theo những nguyên tắc ấy.
Những người
cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản
khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc
đấu tranh của những người vô sản
thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên
hàng
đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ
thuộc vào dân tộc mà chung cho toàn thể giai
cấp vô
sản; hai là, trong các giai đoạn khác nhau của
cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản,
họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn
bộ phong trào”
(4).
Qua những
điều
đó thấy rõ rằng, khi đặt cho đảng
của giai cấp vô sản nhiệm vụ làm cách mạng
vô sản đánh đổ chế độ tư bản
chủ nghĩa bằng bạo lực, rồi dùng chuyên chính
vô sản để tiêu diệt giai cấp tư bản,
xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Marx và Engels quan
niệm ĐCS là một tổ chức xã hội,
chứ không phải là một hội kín của những
kẻ âm mưu. Cứ nhìn các đảng vô sản
dưới thời hai ông, chẳng hạn, công
đảng, đảng xã hội chủ nghĩa,
đảng xã hội-dân chủ... thì thấy rõ điều
này. Marx và Engels quan niệm một nền chính
trị,
trong đó giai cấp vô sản có nhiều đảng,
chứ không phải một ĐCS duy nhất. Dĩ nhiên,
không thể coi đây đã là nền chính trị
đa
nguyên, đa đảng theo quan niệm dân chủ hiện
thời, vì hai ông chỉ nói đến “các đảng
công
nhân khác” mà thôi. Hai ông không
quan niệm ĐCS là một
tổ chức cao nhất đứng trên các đảng vô
sản khác, có độc quyền lãnh đạo hay
độc tôn thống trị các đảng và các tổ
chức vô sản khác, như Lenin, Stalin và Mao Trạch
Đông về sau đã chủ trương. Điều
đáng chú ý nữa là Marx và Engels
luôn luôn đề cao chủ
nghĩa quốc tế, hai ông nhấn mạnh trong
bất cứ trường
hợp nào ĐCS không được lấy quyền
lợi dân tộc làm gốc mà phải lấy chủ
nghĩa quốc tế làm căn bản. Điều này thì
càng về sau, các ĐCS hoặc chỉ nói mà
không làm,
hoặc chỉ lợi dụng chiêu bài chủ nghĩa
quốc tế vô sản để che đậy cho
quyền lợi tập đoàn của họ.
Về mặt thực
hành
quan điểm của hai ông về đảng, Marx và Engels
đã lập ra hồi năm 1864 “Liên minh công
nhân quốc
tế” (sau này được mệnh danh là Đệ
Nhất Quốc tế), với số phân bộ không
nhiều, phần lớn ở châu Âu. Trước đó,
Marx và Engels cũng lập ra “Liên đoàn những
người cộng sản”, nhưng trên thực tế
cả tổ chức này cũng không có hoạt động
gì nổi bật, ngoài việc ra “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản”. Do cuộc đấu tranh
giữa các khuynh hướng trong nội bộ “Liên minh công
nhân quốc tế”, tổ chức này dần dần tan rã,
và
năm 1876 tuyên bố tự giải tán. Đến năm
1889, cuộc đại hội các đảng xã hội
chủ nghĩa (ở Việt Nam thường gọi là đảng
xã hội) của nhiều nước châu Âu, của Mỹ
và Argentina đã thành lập “Liên minh
quốc tế
của các đảng xã hội chủ nghĩa” (về
sau được mệnh danh là Đệ Nhị
Quốc tế). Sau khi Engels mất (1895), Đệ
Nhị Quốc tế bị Lenin công kích thậm tệ, lên
án tổ chức quốc tế này là theo đường
lối “xét lại”, cải lương, cơ hội
chủ nghĩa, thỏa hiệp giai cấp, tay sai của
tư sản và phản bội cách mạng. Lenin tuyên bố
là trung tâm cách mạng thế giới đã chuyển
sang
nước Nga và chỉ có ĐCS “bolshevik” Nga mới
thật là cách mạng triệt để.
B. Quan điểm
và
thực hành của Lenin về ĐCS
Lenin tự cho
mình là
người kế nghiệp chân chính những di sản lý
luận của Marx và Engels, còn Karl Kautsky là
renégat (các
dịch giả Hà Nội chuyển ngữ là: kẻ phản
bội), dù về mặt pháp lý Kautsky được di
chúc
là người thừa kế chính thức các di cảo
của Marx và Engels. Trên thực tế rất nhiều
vấn đề Lenin đã làm khác, nếu không muốn
nói
là xuyên tạc, những tư tưởng của Marx và
Engels. Làm như thế, Lenin và phe cánh của
ông cho rằng
họ đã phát triển chủ nghĩa Marx. Chẳng
hạn, về lý luận, Lenin cho rằng cách mạng vô
sản có thể giành được thắng lợi ở
cái khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản,
khâu đó là nước Nga - một nước mà chủ
nghĩa tư bản phát triển còn thấp, chứ không
nhất thiết phải nổ đồng loạt ở
nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã phát
triển, như Marx và Engels đã dự kiến, mà muốn
thế thì phải có một “đảng kiểu mới”
khác hẳn với các đảng vô sản đã có
trong các
Quốc tế dưới thời Marx và Engels. Quan
điểm của Lenin về “đảng kiểu
mới”, dĩ nhiên, khác hẳn quan điểm của Marx
và Engels.
Khi
phân tích quan điểm
này của Lenin, chúng tôi không viện dẫn những
câu
“nhật tụng” “tung hỏa mù” mà giới lý luận
xô-viết thường hay trưng ra (như ĐCS là đội
quân tiên tiến nhất, giác ngộ nhất của giai
cấp vô sản, ĐCS là đội quân có tổ chức
nhất của giai cấp vô sản, v.v... và v.v...)
để che đậy quan
điểm thật của Lenin về ĐCS, mà chúng tôi
dựa vào sách “Làm gì?” do Lenin viết
và xuất bản
năm 1902 ở Stutgart. Trong tác phẩm đó, Lenin nói
rõ
nhất về quan điểm của ông và kế hoạch
xây dựng ĐCS “kiểu mới” của những
người cách mạng chuyên nghiệp. Ông cho rằng
ở nước Nga tuy chủ nghĩa tư bản
chưa phát triển cao nhưng vẫn có thể làm
cách
mạng vô sản thắng lợi được, miễn
là những người cộng sản xây dựng
được ĐCS “kiểu mới” thật bí mật
biết dùng bạo lực để cướp chính
quyền, nói một cách khác xây dựng được
một hội kín của
những kẻ âm mưu. Ngay hồi đầu thế kỷ
20, Lenin đã nói: “Hãy cho tôi một đảng
những
người cách mạng chuyên nghiệp thì tôi lật
ngược cả nước Nga” (còn sau cuộc
đảo chính tháng 10.1917, ông mơ ước lật
ngược cả thế giới nữa!). Ông cho rằng
người muzhich (nông dân) Nga vốn có truyền thống
khuất phục, nếu ĐCS cướp được
chính quyền rồi thì cả xã hội đều sẽ
khuất phục theo và bằng bạo lực của chuyên
chính vô sản, ĐCS sẽ
xây dựng được chế độ cộng sản.
Để chuẩn bị cướp chính quyền, Lenin
đặc biệt chú ý lập ra các nhóm khủng bố
võ trang gồm cả những phần tử tội
phạm để làm nhiệm vụ “tước
đoạt” (ăn cướp), ám sát, v.v... Chỉ huy các
nhóm khủng bố này là ba người (gọi là
“troika”)
rất bí mật trong trung ương Đảng bolshevik,
trong “troika” đó có Lenin và Krasin. Nên
nhớ rằng, hồi
đó, Đảng bolshevik là một bộ phận của
Đảng công nhân xã hội – dân chủ Nga, mà
Đảng
công nhân xã hội –
dân chủ
Nga thì cực lực lên án và cấm tuyệt
hành
động khủng bố, cho nên Lenin và phe cánh phải
giữ bí mật tuyệt đối nhóm “troika” và việc
ông ta chỉ huy nhóm khủng bố (5). Thực tế đã
chứng tỏ rằng với cái “đảng-hội kín-âm
mưu” đó, Lenin và những người bolsheviks Nga có
được trong tay một công cụ (instrument) hữu
hiệu đã làm đảo chính cướp chính quyền
và thiết lập chuyên chính vô sản hồi
tháng 10.1917.
Ngày nay, giới sử học Nga cũng đã khẳng
định sự biến tháng 10.1917 là một cuộc
đảo chính lật đổ chính quyền dân chủ
chứ không phải là một cuộc cách mạng, như
những người bolsheviks thường nói. Và chính Lenin trong mấy năm
đầu sau tháng 10.1917 cũng gọi đó là “đảo
chính” (tiếng Nga là “perevorot”,
các dịch giả Hà Nội cố ý chuyển ngữ
bằng một từ rất lờ mờ là “chính biến”
– NMC).
Để xây
dựng
ĐCS với thực chất hội kín của những
kẻ âm mưu như vậy, Lenin đặc biệt
nhấn mạnh vai trò “những người cách mạng
chuyên nghiệp”. Ông viết: “... tổ chức của
những người cách mạng phải bao gồm
trước tiên và chủ yếu những người mà
nghề nghiệp của họ là hoạt động cách
mạng ...” (6). Sự thật chứng tỏ rằng
“những người cách mạng chuyên nghiệp” Nga
trước tháng 10.1917, phần lớn là những kẻ vô
nghề nghiệp, không lao động, hoặc có nghề
nghiệp mà không làm việc gì, ngoài
“việc làm” cách
mạng; cũng có một số đã có quá khứ tội
phạm. Ngay cách làm tài chính cho tổ chức
của
những người chuyên nghiệp này cũng thấy rõ
tính chất hội kín của những kẻ âm mưu:
dựa vào hoạt động khủng bố để cướp
đoạt làm tiền cho đảng (họ gọi
bằng từ ngữ của Marx là tước
đoạt). Lenin lý giải thật giản đơn cái
quan điểm về “những người cách mạng
chuyên nghiệp”. Ông viết: “bắt được
mười thằng khôn khó hơn bắt một trăm
thằng ngốc”, và ông nhấn mạnh: “phải
hiểu rằng – như tôi đã nhiều lần vạch
rõ – chỉ có những người cách mạng chuyên
nghiệp (chữ in đậm của Lenin – NMC)
mà thôi” (7). Nhưng cả “những thằng khôn”
lẫn “những thằng
ngốc” đó phải đứng vào trong “một tổ
chức bí mật hết sức nghiêm ngặt”, và tổ
chức này phải do “một ủy ban gồm những
người cách mạng chuyên nghiệp” (8) điều
khiển. Rõ ràng là theo quan điểm của Lenin, ĐCS
thực ra là một hội kín
của những kẻ âm mưu, chứ không phải
là một chính đảng với tính cách là
tổ chức
xã hội của giai cấp vô sản. Bản thân Lenin
cũng không giấu giếm điều đó, khi ông nói: “thật vô cùng ngây thơ khi sợ bị
buộc tội chúng ta, là những người xã hội-dân
chủ, lại muốn thành lập một tổ chức
âm mưu” (9). Ông cho rằng tổ chức đó cần
có “một mạng lưới những agents” (từ
này trong tiếng Nga có nhiều nghĩa, chúng
tôi muốn
giữ nguyên dạng từ này, vì nó lột tả thực
chất cách đặt vấn đề của Lenin),
nhưng - theo ông – “nếu ai đó không thích
“cái từ
khủng khiếp” này thì có thể thay bằng từ
“những nhân viên”, có khả năng bảo đảm “xác
xuất lớn nhất của thắng lợi trong
trường hợp nổi dậy” (10). Cũng vì tính
chất hội kín của những kẻ âm mưu, nên Lenin
luôn luôn đưa lên hàng đầu đòi hỏi
“đảng kiểu mới” phải là một tổ
chức “tập trung nhất”,“bí mật nhất” và phải
“có kỷ luật sắt” cực kỳ nghiêm ngặt.
Nền tảng để xây dựng “đảng kiểu
mới” với tính cách “công cụ” ngoan ngoãn của
một
lãnh tụ hoặc một nhóm lãnh tụ là
nguyên tắc
tập trung dân chủ. Chính nguyên tắc này bảo
đảm sự phục tùng tuyệt đối của
đại đa số đảng viên đối với
một nhóm nhỏ những người lãnh đạo, hay
nói theo cách của Lenin
“một ủy ban gồm những người cách
mạng chuyên nghiệp”, và ủy ban này – đến lượt
nó – phải phục tùng tuyệt đối một hay vài
lãnh tụ (chẳng hạn, nhóm ba người gọi là
“troika” đã nói trên). Nhóm nhỏ lãnh
đạo ĐCS này khi
cướp được chính quyền rồi trở
thành tập đoàn thống trị nhà nước và
xã
hội.
Lenin
còn đưa ra
luận điểm về “sự độc quyền
lãnh đạo (hégémonie) của giai cấp vô
sản,
tức là của ĐCS”. Xin chú ý rằng: trong
các
cụm từ “sự độc quyền lãnh đạo
của giai cấp vô sản” hay “chuyên chính của giai
cấp vô sản”, cái vế “của giai cấp vô sản”
chỉ là một cách nói đẹp để dụ
hoặc người lao động, còn nghĩa thực
của nó là của một hoặc vài lãnh tụ, tức
là
một nhúm nhỏ “những người cách mạng chuyên
nghiệp”, nói cách khác là một tập
đoàn thống
trị cộng sản. Đối với Lenin, cả
giai cấp vô sản, hay nói rộng hơn toàn dân
tộc,
toàn nước Nga chỉ có thể có một đảng
duy nhất, đó là ĐCS của những người
bolsheviks, đứa con đẻ quan trọng nhất
của “chủ nghĩa Lenin”, hình mẫu cho các ĐCS trên
thế giới.
Đấy, quan
niệm
về ĐCS của Lenin là như thế, và chính quan
niệm đó là một trong những cơ sở
để xây dựng lên chế độ cực quyền
toàn trị khi ĐCS đã cướp được
chính quyền. Sau cuộc
đảo chính tháng 10.1917, ĐCS trở thành một
yếu tố chính của nhà nước mới xuất
hiện. Những người bolsheviks, thông qua ĐCS,
nắm quyền thống trị độc tôn chuyên
chế vô hạn đã tiêu diệt hết các
đảng và các tổ chức đối lập, tiêu
diệt “các giai cấp thù địch” – cụ
thể là giai cấp các chủ ruộng
đất, giai cấp các nhà công nghiệp, thương nghiệp,
giai cấp những người nông dân năng nổ
nhất, đắc lực nhất trong nền sản
xuất nông nghiệp (tiếng Nga gọi là kulak), giai
cấp các nhà trí thức, tiêu diệt hết mọi mầm
mống dân chủ trong xã hội. Quyền chuyên chế vô
hạn đó đã được thiết lập ở
Nga hồi tháng 10.1917 là do trình độ văn
hóa chính
trị thấp kém của dân chúng, đặc biệt là
của người muzhich ở nông thôn, và truyền
thống dân chủ quá non yếu của xã hội Nga.
Bằng bạo lực đẵm máu, những người
cộng sản-bolshevichs duy trì được quyền
đó đã hơn bảy thập niên ở nước Nga
cho đến khi ĐCS bị hạ bệ hồi tháng
8.1991. Trong suốt thời gian đó, ĐCS đã biến
mình trở thành trung tâm liên kết và hình
thành một giai
cấp thống trị mới, giai cấp quan liêu
đặc quyền đặc lợi gọi là
“nomenklatura”.
Một điểm quan
trọng cần vạch rõ nữa là: sau ngày ĐCS
cướp được chính quyền ở Nga, xuất
hiện ngay một sự cộng sinh (symbiose)
giữa đảng và nhà nước, dựa trên sự
kết hợp trước hết giữa đảng và
cơ quan công an mật vụ
(lúc đầu gọi là Vecheka - ủy ban đặc
biệt toàn Nga, hay Cheka - ủy ban đặc biệt).
Điều đó thể hiện rõ trong nhiều “chỉ
thị” của Lenin. Xin dẫn một đoạn trong
thư Lenin gửi cho Yakov Ganetsky: “hãy thiết lập
mối quan hệ khắng khít nhất giữa
các tổ chức đảng với các
Cheka... bắt buộc tất cả các đảng viên có
chức vụ phải báo cho các Cheka tất cả những
tin tức đến họ bằng con đường
riêng tư hay chính thức và có ích cho
cuộc đấu
tranh chống phản cách mạng và gián điệp.
Không
chỉ hạn chế trong việc đó mà thôi, họ còn
phải giúp đỡ một cách hữu hiệu các Cheka,
tham gia việc xét xử... dự các cuộc hỏi cung,
v.v...” (11). Chính Lenin đã từng viết: “một
người cộng sản tốt đồng thời
phải là một chekist (công an mật vụ) tốt”
(12). ĐCS cầm quyền thực tế trở thành một
đảng-nhà nước. ĐCS giống như con
bạch tuộc vươn dài các vòi của nó
bám chặt
vào mọi cơ cấu của bộ máy nhà nước,
xoắn quyện nhau, gắn chặt thành một bộ máy
đảng-nhà nước của giai cấp thống
trị mới, giai cấp quan liêu (nomenklatura) đông hàng
nhiều triệu người. Bộ máy này rất to
lớn và cồng kềnh đè nặng lên quảng
đại dân chúng, trước nhất là các giai cấp
mà
đảng coi là thành phần cơ bản của xã
hội (công nhân và nông dân lao động),
cũng như lên
quần chúng đảng viên. Bằng bạo lực chuyên
chế đẵm máu, bộ máy này nghiền nát chẳng
những mọi phản kháng, mọi ý đồ
đối lập, mà còn đè bẹp, triệt tiêu cả
mọi tư tưởng độc lập, mọi ý
hướng dân chủ, mọi tư tưởng khác
biệt trong đảng và ngoài xã hội.
Vô
hình trung trong cả
đất nước rộng lớn bao la chiếm
đến một phần sáu địa cầu đã hình
thành nên một kim tự tháp xã hội mà
kẻ đứng
trên đỉnh tháp là “lãnh tụ tối cao” của
đảng với quyền lực cá nhân không hạn
chế được tôn vinh là “lãnh tụ của giai
cấp vô sản toàn thế giới” (Lenin) hoặc
“người cha của các dân tộc” (Stalin), thực
chất là một Nga hoàng đỏ, một tên độc
tài đỏ. Trong kim tự tháp lớn lại có nhiều
kim tự tháp nhỏ, trên đỉnh mỗi kim tự tháp
nhỏ là một bí thư đảng bộ cộng
sản địa phương, tức là một “lãnh
tụ con”, một lãnh chúa phong kiến đỏ. Còn ở
đáy kim tự tháp là quảng đại dân
chúng, bao
gồm chủ yếu là
những thành phần gọi là cơ bản của
đảng – công nông binh, đảng viên thường. Trong
số này một số không ít được giai cấp
quan liêu tuyển chọn làm cán bộ để dần
dần bổ sung vào giai cấp quan liêu cầm quyền,
hoặc làm tay sai cho giai cấp đó.
Đấy, từ quan
niệm của Lenin về ĐCS đã tạo nên chế
độ cực quyền toàn trị như thế. Đó
là hình mẫu chung cho tất cả các nước gọi
là
“xã hội chủ nghĩa”.
C. Dựng
lên một
ĐCS thế giới
Sau khi cướp
được chính quyền bằng một cuộc
đảo chính khá dễ dàng (1917), Lenin càng
say sưa
với những kết luận của mình, đã nêu ra trong
sách “Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn
tột cùng của chủ nghĩa tư bản” (viết
năm 1916) mà những
kẻ tán dương Lenin gọi là “phát kiến vĩ
đại, có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới”.
Những kết luận đó là: “chủ nghĩa
đế quốc là giai đoạn chủ nghĩa tư
bản giãy chết”...”là giai đoạn cuối cùng của
chủ nghĩa tư bản”... “là đêm trước của
cách mạng vô sản thế giới”. Để kịp
đón cái “đêm trước của cách mạng vô
sản
thế giới”, để
làm “cách mạng vô sản thế giới” và
thiết
lập “chuyên chính vô sản thế giới”, Lenin và
đảng
bolshevik thực tế bắt tay chuẩn bị thành
lập một “đảng-hội kín-âm mưu” thế
giới, tức là một “ĐCS thế giới”, bao
gồm nhiều ĐCS theo hình mẫu “ĐCS bolshevik Nga”
ở các nước trên thế giới. Đây chính là
thực chất của cái gọi là PTCSQT.
Về việc
thành lập
“ĐCS thế giới” ấy, nhà sử học D. Volkogonov
(viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm khoa học,
tiến sĩ triết học, tiến sĩ sử
học, trung tướng của quân đội xô-viết,
vốn là một đảng viên cộng sản chính
thống về sau đã tỉnh thức và trở thành nhà
dân chủ triệt để) đã kể lại như
sau: để chuẩn bị thành lập tổ chức
quốc tế đó, Lenin và đảng bolshevik phái
những agents của công an mật vụ Nga (Vecheka)
đến một số đảng xã hội chủ
nghĩa để phân hóa, chia rẽ, lôi kéo, tuyển mộ
tay chân, cung cấp tài chính, v.v... nhằm tạo ra
“phe
tả” làm “hạt nhân”
đầu tiên của tổ chức “Quốc tế”
mới (13). Volkogonov đưa ra nhiều tài liệu cụ
thể về vai trò của công an mật vụ Nga trong
việc thành lập và hoạt động của Quốc
tế cộng sản, những tài liệu này dẫn
từ kho lưu trữ của QTCS, nay là RSKHIDNI - Trung tâm
lưu trữ văn kiện lịch sử hiện
đại). Hồi năm 1918, ngoài ĐCS bolshevik Nga, ở
châu Âu chỉ có một ĐCS Đức nữa mà thôi,
còn
các nơi khác mới chỉ đang thời
kỳ “thai nghén” “phe tả” trong các
đảng xã hội chủ nghĩa. Theo lệnh của
Lenin, Bộ trưởng ngoại giao Chicherin ra lời kêu
gọi trên đài phát thanh gửi tới tất cả
những người cộng sản châu Âu và châu Á
mời
họ đến Moskva tham dự hội nghị. Không có
tiếng vang đáp lại, vì chẳng ai để ý
đến lời kêu gọi đó cả. Cuối cùng,
chỉ phủ dụ được một số tù binh nước
ngoài đang ở Nga tham gia cuộc họp, cộng thêm
Eberlain từ Đức đến với một vài
người ngẫu nhiên nào đấy nữa. Gần
một tuần lễ, cái nhúm người đó, chưa
đầy ba chục mống, giống như một
bọn âm mưu, bàn cãi nhau: nên lấy danh xưng
cho
cuộc họp như thế nào? Thế là nhúm người
đó quyết định: cuộc họp là “hội
nghị cộng sản quốc tế để thành
lập Đệ Tam Quốc tế”. Tuyên ngôn ký tên
17
(!?) cái gọi là “đoàn đại biểu”, phần
lớn là những kẻ vô danh tiểu tốt, và những
người ngẫu nhiên nào đấy. Còn “Đại bách
khoa toàn thư xô-viết” thì phịa thêm
là đại
hội thành lập Quốc tế cộng sản (QTCS –
Komintern) hồi tháng 3.1919 tại Moskva “có mặt đại
biểu của các ĐCS và các nhóm xã hội
chủ nghĩa
tả phái của 30 (!?) nước”! Lenin đặt nhiệm
vụ chủ yếu cho QTCS là “đấu tranh giành chuyên
chính vô sản thế giới”. Tại “đại
hội” đó, mọi vấn đề đưa ra
đều do Lenin và bộ chính trị (BCT) ĐCS bolshevik
Nga quyết định trước cả. Lenin đã
tự tay viết ra “21 điều kiện gia nhập
QTCS” nhằm chọn lọc các đảng cho vào
Quốc tế mới. Thâm ý của ông là muốn tạo cho
QTCS một hình thức tổ chức chặt chẽ mà ông
và ĐCS của ông có thể nắm chắc
được ngay từ đầu. Do đó, những
người lãnh đạo chủ chốt QTCS từ
trước đến sau phần lớn đều là cán
bộ của ĐCS bolshevik Nga hoặc là những tay chân
trung thành với họ. Chủ tịch đầu tiên
của Ban chấp hành QTCS (từ năm 1919) là Zinoviev,
ủy viên BCT của ĐCS Nga, đến năm 1926 Zinoviev
bị Stalin phế truất, và về sau bị hành
quyết. Còn từ năm 1926 đến năm 1929, chủ
tịch kế nhiệm là Bukharin, cũng là ủy viên BCT
của ĐCS Nga, đến năm 1929 Bukharin cũng
bị Stalin phế truất, và về sau cũng bị hành
quyết. Nguyên tắc tổ chức của QTCS là tập
trung dân chủ. Như vậy, mỗi ĐCS là một phân
bộ (section) của QTCS, phải phục tùng nghiêm ngặt
theo hệ thống dọc đến cấp cao nhất là
Ban chấp hành QTCS, mà ban này thật ra chỉ
là cái dù che đậy
sự lũng đoạn của tập đoàn thống
trị ĐCS Nga trong QTCS. Hơn nữa, tổ chức
quốc tế này bị phụ thuộc hoàn toàn về
mặt tài chính, cán bộ... vào TƯ ĐCS
bolshevik Nga làm cho
nó trở thành một công cụ hoàn toàn
ngoan ngoãn để
thực hiện những ý đồ của họ.
D.Volkogonov
viết: “Ban lãnh
đạo bolshevik tin tưởng một cách cuồng tín
rằng chỉ cần đốt lên ngọn đuốc cách
mạng thế giới ở Nga thì tòa nhà cũ kỹ
rệu rã của nền văn minh nhân loại
giống như túp lều gỗ mục
nát sẽ nhanh chóng bắt lửa và cháy
bùng lên. Khi
đọc diễn văn nhân dịp kỷ niệm năm
thứ nhất thành lập
Đệ Tam Quốc tế tại phiên họp long
trọng của Xô-viết Moskva ngày 6.3.1920, Lenin đã
tuyên
bố: “phải đoan chắc (chữ in
nghiêng của D.V.)
rằng thắng lợi của cách mạng cộng sản
là không thể nào tránh khỏi”. Lãnh tụ
những
người bolsheviks kết thúc bài diễn văn của
ông ta bằng những lời sau đây trong tiếng vỗ
tay hoan hô nhiệt liệt: “... thắng lợi của
QTCS trên toàn thế giới, và trong một thời hạn
không xa lắm – thắng lợi đó đã được
bảo đảm” (14). Phải có một tầm mắt
cận thị và vô trách nhiệm đến kỳ lạ
mới có thể tung ra những lời tuyên bố kêu vang
mà
rỗng tuếch đến thế” (15).
Để gây
đám cháy
“cách mạng” ở các nước, Lenin và những
người bolsheviks đã tung tiền của, vàng bạc
cho các đảng tay chân ở các nước, đồng
thời phái những nhóm “agents” (hoạt động viên)
của mình đem vũ khí,
tài liệu tuyên truyền đến các nước đang
có sự sục sôi trong dân chúng (Hungarie, Đức,
Italia, Ba
Tư (Persia), Ấn Độ, Trung Quốc...), rồi
tổ chức các nhóm khủng bố để khích động
phong trào, hòng lật đổ các chế độ hiện
tồn và thiết lập chuyên chính vô sản, hay
nói theo
từ ngữ thời thượng của họ hồi
đó là “xô-viết hóa các nước”.
Họ
đặc biệt chú ý hai nước láng giềng Hungarie
và Đức đang có biến động. Và
đến tháng 3.1919, nước Cộng hòa xô-viết
Hungarie ra đời do lãnh tụ cộng sản Bela Kun
đứng đầu. Lenin và những người
bolsheviks Nga hân hoan cực độ. Lenin gửi
điện nhân danh đại hội 8 ĐCS bolshevik Nga
chào mừng với những câu như sau: “Đại
hội đảng chúng tôi tin tưởng rằng chẳng
bao lâu nữa chủ nghĩa cộng sản sẽ
thắng lợi trên toàn thế giới. Giai cấp công
nhân
Nga sẽ dốc toàn lực vội vã giúp đỡ các
bạn... Nước cộng hòa cộng sản quốc
tế muôn năm!” . Ông còn gửi điện mật cho
Bela Kun: “Hãy cứng rắn. Nếu trong số bọn xã
hội chủ nghĩa hay bọn tiểu tư sản,
mới theo các đồng chí ngày hôm qua,
mà tỏ ra giao
động đối với chuyên chính vô sản thì
hãy
đàn áp ngay không thương tiếc. Bị xử
bắn - đó là số
phận đúng luật của tên hèn nhát trong chiến
tranh”
(16).
Chưa đầy một
tháng sau ở Bavaria (Đức), một chính phủ do
người cộng sản Evgheni Levine đứng
đầu lên nắm quyền. Chính phủ này gấp rút
tiến
hành những nhiệm vụ cấp bách của chuyên
chính vô
sản: quốc hữu hóa các ngân hàng,
thành lập Hồng
quân, quy định ngày làm việc 8 tiếng, võ
trang giai
cấp vô sản, cô lập giai cấp tư sản. Lenin
cũng vội vàng gửi điện ngay với một
loạt chỉ thị như sau: “... đã võ trang công
nhân
chưa, đã tước võ khí của giai cấp tư
sản chưa, đã tăng gấp đôi, gấp ba
tiền công cho bần nông và lao công chưa,
đã tịch
thu toàn bộ giấy in và tất cả các nhà in
chưa...
đã dồn nhà ở của giai cấp tư sản
ở Munich để cho công nhân dọn đến ở các
nhà giàu chưa... đã bắt con tin của giai cấp
tư sản chưa... đã động viên toàn thể công
nhân để phòng thủ và
để tuyên truyền tư tưởng cho các vùng nông
thôn lân cận chưa?” (17). Lenin gửi những phái
viên
của ông mang theo chỉ thị và những va li vàng
đến ngay những nơi đang “xô-viết hóa” đó.
Ông tin tưởng là cách mạng đã bắt đầu
ở châu Âu, và cho rằng ngọn lửa cách mạng
đang bùng cháy ở Đức. Ông đã bí mật
chuẩn bị một đội quân do Toukhachevsky chỉ
huy để thấm nhập vào Đức, nhưng quân
chưa kịp vào thì cuộc biến động ở
Bavaria đã bị dẹp yên. Điều mong ước
về cách mạng bùng lên ở Đức đã
được Trotsky bộc tuệch nói ra: “...
nước Đức xô-viết thống nhất với
nước Nga xô-viết thì ngay lập tức sẽ
mạnh hơn tất cả các nước tư bản
gộp lại!”. Trong óc của các lãnh tụ cộng
sản Nga hiện lên giấc mơ rõ nét về một “Liên
bang xô-viết Âu châu”, rồi một “Liên
bang cộng sản Thế giới” mà họ
sẽ làm chủ. Chính tay Lenin đã ghi vào lời
mở
đầu của “Hiến pháp Liên Xô” (được công
bố năm 1924) câu sau: “Nhà nước mới
xô-viết là... một bước quyết định
mới trên con đường thống nhất những
người lao động tất cả các nước vào
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết Thế giới”.
Xin nhắc lại một lần nữa: thực chất
của PTCSQT là thế đó!
Thế nhưng, cả
ở Hungarie lẫn ở Bavaria, chính quyền xô-viết
đã sụp đổ, và châu Âu, châu Mỹ – nơi
thực tế có giai cấp vô sản – thì yên ổn,
các lãnh
tụ Moskva bèn hướng về phương Đông:
Ấn Độ, Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên...
Nhưng sau sự kiện Hungarie và Bavaria thì “cuộc
cách
mạng thế giới” mà Lenin đã tiên đoán “rất
thiên tài” cứ tàn lụi dần. May thay cho nhân
loại, cái
mộng tưởng của Lenin và những người
bolsheviks Nga đốt lên đám cháy cách mạng
thế
giới, thành lập “Liên bang xô-viết Âu
châu”, “Liên bang
cộng sản Thế giới” chỉ là ảo mộng còn
nằm lại trên những bài báo, những chỉ thị
của họ mà thời gian đã phủ lên một lớp
bụi dày. Trong lúc đó, đã xảy ra chuyện
oái ăm
của lịch sử: “Liên hiệp Âu châu” với
đủ mọi cơ cấu, kể cả nghị
viện, tòa án, đồng Euro... đang hoạt
động hữu hiệu mà lại không do những
người cộng sản bolsheviks Nga lập ra và không có
chuyên chính của giai cấp vô sản!
D. Stalin đối
với
ĐCS và QTCS
Ở đây,
người
viết sẽ chỉ nói một vài sự kiện cụ
thể làm nổi bật thái độ và hành động
của kẻ độc tài với ĐCS và QTCS, mà không
nhắc đến những quan điểm thường
được tán tụng trên sách báo chính
thức của
ĐCSLX (vì thật ra Stalin chỉ lặp lại những
điều Lenin nói).
Đối với ĐCS:
Khi Lenin
còn sống, Stalin
đã thấy rất rõ toàn bộ tính chất lợi
hại của bộ máy đảng-nhà nước
xô-viết với tính cách một công cụ sắc
bén, ngoan
ngoãn trong tay một nhúm người để thống
trị đất nước và xã hội. Cho nên khát
vọng mãnh liệt nhất của ông là nắm bằng
được bộ máy ấy để thu tóm
được toàn bộ quyền lực tối
thượng trong nước và xã hội. Trên thực
tế, Stalin không đưa ra một quan điểm “lý luận” nào khác những điều ông
đã thừa kế của Lenin về ĐCS và về
chế độ cực quyền xô-viết mà Lenin đã
đặt cơ sở, còn ông thì “hoàn thiện”
chúng
đến cao độ khi trị vì trên một đế
quốc rộng lớn nhất thế giới.
Để nói
về quan
điểm “lý luận” riêng của Stalin về ĐCS,
người ta thường nhắc tới lời tuyên
bố sau đây của ông: “ĐCS cũng là một
loại như giáo đoàn
những chevaliers de l’ordre des Porte-Glaive” (18), (các bản
dịch ra tiếng Việt đều ghi là “đoàn kỵ
sĩ mang kiếm”, không rõ nghĩa lắm, nên xin
phép dùng
nguyên tiếng Pháp với vài lời giới thiệu. - NMC).
Xin nói qua vài nét lịch sử. Giáo
đoàn này gồm
những hiệp sĩ Đức được thành
lập năm 1202 để xâm
chiếm vùng Đông Baltic và sau đó tiến
công vào
lãnh thổ Nga. Tên như thế là do phù hiệu của
họ trên mũ giáp là một thanh kiếm và
thánh giá.
Đến năm 1236, giáo đoàn bị đánh bại
nặng nề và năm 1237 tàn quân nhập vào một
giáo
đoàn khác. Vì thế sự ví von này của
Stalin lộ rõ ý
đồ “quân sự hóa đảng” để
thực hiện âm mưu bành trướng. Điều này
thể hiện rõ nét nhất từ những năm 30
dưới thời Stalin – đảng cộng sản
đã là một “tổ chức quân sự hóa” đến cao
độ và hoàn toàn mất hết những dấu vết
dân chủ ít ỏi còn sót lại trước đây.
Tại hội nghị trung ương đảng hồi
tháng 2.1937, tức là trong thời kỳ đại khủng
bố ác liệt nhất, Stalin tuyên bố: “Trong
đảng ta, có 3-4 ngàn người lãnh đạo cao
cấp, có thể nói đó là hàng tướng
lĩnh
của đảng. Sau đó, là
30-40 ngàn người lãnh đạo trung cấp, đó
là hàng sĩ quan của đảng. Rồi đến
khoảng 100-150 ngàn cán bộ chỉ huy cấp dưới.
Có thể nói đó là những hạ sĩ quan của
đảng” (19). Cố nhiên, tổng tư lệnh
tối cao “đạo quân” đó là Stalin.
Một lời
tuyên bố
khác của Stalin nữa cũng rất đáng
được chú ý vì nó lộ rõ tư tưởng
thật của kẻ độc tài: “ĐCS là công cụ
của chuyên chính vô sản” (20). Công cụ như
thế
nào, sau này lịch sử đã chứng tỏ. Và quan
điểm của Stalin về “chuyên chính vô sản” như
thế nào thì xin bạn đọc hãy suy xét qua
câu nói sau
đây của ông ta mà Boris Bazhanov, cựu thư ký
riêng
của Stalin (từ 9.8.1923 đến 1.1.1928), đã kể
lại trong hồi ký: ngày 17.6.1924, tức là sau đại
hội 12, Stalin đọc báo
cáo ở lớp huấn luyện các bí thư huyện
ủy, ông ta đã nói thẳng rằng: “hiện nay
chuyên
chính vô sản về thực chất được thay
thế bởi chuyên chính của đảng” (21).
Nếu nói trắng ra thì chuyên chính của đảng
có
nghĩa là chuyên chính của một người: Stalin.
Vì thế, ông ta phải chiến đấu để giành
quyền chuyên chính đó.
Sau
đây, chỉ xin nói
đến mấy việc:
a.
Giành cho bằng
được vị thế chính thống để
“nối ngôi” và nắm lấy ĐCS.
Đọc tiểu sử
Stalin, ta thường gặp những nhóm từ
được nhắc đi nhắc lại nhiều
lần -“Stalin là người bạn chiến đấu
gần gũi nhất của Lenin”, “người học trò
kiệt xuất của Lenin”, “người kế tục
sự nghiệp của Lenin”,
hoặc thường được nghe kể
nhiều về “tình bạn vĩ đại giữa hai lãnh
tụ” trước cuộc đảo chính tháng 10.1917.
Những điều đó là sự xuyên tạc lịch
sử có dụng ý.
“Tình
bạn vĩ
đại” như thế nào? Sự thật là trước
tháng 10.1917, đối với Lenin thì Dzhugashvili-Stalin chỉ là một người nào
đấy trong đám “những người cách mạng
chuyên nghiệp” mà thôi. Tháng 12.1905, Stalin
đi họp hội
nghị đảng ở Tammerfors và ở đấy có
Lenin đến dự họp. Trước tháng 10.1917,
cũng có vài lần Stalin được đi dự
đại hội đảng và có gặp Lenin, nhưng
Lenin cũng chẳng để ý. Thế mà sau này (1931), Stalin lại “phịa” là: “Bao
giờ cũng vậy, mỗi lần tôi đi ra
nước ngoài để gặp Lenin – hồi năm 1906,
1907, 1912, 1913...” (22). Hồi năm 1915, Lenin cũng
chỉ nhớ mang máng ai đó có bí danh
là “Koba” ở trong
nhóm khủng bố của đảng bolshevik vùng Caucase. Ông
nhớ vì có một việc “động trời” hồi
năm 1907 ở thành phố Tiflis (sau này là Tbilisi),
Koba
(tức là Dzhugashvili-Stalin) đã tham gia
cùng Kamo một vụ ăn cướp tiền
lớn (những người bolsheviks gọi những
cuộc ăn cướp này là “tước đoạt” –
dựa theo khẩu hiệu của Marx “tước
đoạt kẻ đi tước đoạt”) đến 350 ngàn
rúp để
“làm tài chính” cho đảng bolshevik. Hồi đó,
những
người bolsheviks ở Gruzia (còn gọi là Georgia)
nhiều lần đã làm việc “tước đoạt”
như thế, nhưng vụ năm 1907 là lớn
nhất. Để hiểu rõ
hơn sự thật về “tình bạn vĩ đại”
giữa Lenin và Stalin, xin trích dẫn một bức thư
của Lenin gửi Zinoviev hồi năm 1915 đăng trong
tập 49 bộ Lenin Toàn tập, trong thư Lenin hỏi
Zinoviev: “Anh có nhớ họ của Koba không?”.
Zinoviev
viết thư trả lời là không biết. Lúc đó Lenin
mới viết thư cho Karspinsky để hỏi về
điều đó: “Tôi thiết tha yêu cầu anh tìm
hiểu (có thể hỏi qua Stepko hay Mikha và v.v...) họ
của “Koba” (Iosip Dz... ?? Chúng tôi quên
mất)...” (23). Tài
liệu lịch sử đó cho thấy “tình bạn vĩ
đại giữa hai lãnh tụ” trước tháng 10.1917
chỉ là huyền thoại, dù rằng giữa hai
người sau đó thỉnh thoảng cũng có trao
đổi thư từ với nhau.
Cả sau khi
những
người bolsheviks đã cướp được chính
quyền, “tình bạn vĩ đại” đó giữa hai
“lãnh tụ” cũng không có. Đây là một sự
việc
nữa mà ban lãnh đạo cộng sản Liên Xô cứ
giấu kín mãi cho đến ngày khai mạc đại
hội 20 (1956). Khi Lenin bị ốm nặng, Stalin cho tay
chân theo dõi sát “người thầy vĩ đại”
của mình, thậm chí đưa cả vợ là Nadezhda
Allilueva đến làm thư ký riêng cho Lenin. Biết Lenin hồi đó đang viết
“cái gì đấy” có lẽ là không có
lợi cho mình, Stalin
lấy cớ Lenin ốm nặng, đưa ra BCT
thông qua nghị quyết
hạn chế việc thông báo tình hình
chính trị cho Lenin,
hạn chế việc ghi chép giúp Lenin những điều
do ông đọc ra... Có một lần, ngày 21.12.1922, Lenin
muốn viết thư cho Trotsky, ông mới nhờ vợ là
Krupskaya ghi bức thư ngắn do ông đọc. Bà vợ
đã cẩn thận xin phép bác sĩ của Lenin rồi
mới làm việc này. Đến khi Stalin biết được,
Stalin đã mắng Krupskaya một trận cực kỳ thô
bỉ, lại còn dọa trừng trị bằng kỷ
luật đảng. Ngày 23.12.1922, Krupskaya viết thư cho
Kamenev và Zinoviev – theo lời bà – “là những
người
bạn gần gũi nhất của Ilich” (tức là Lenin –
NMC) để cầu cứu sự bảo vệ. Hai tháng
rưỡi sau, Lenin biết được chuyện này,
ngày 5.3.1923, ông đã viết thư cho Stalin một bức
thư với lời lẽ như sau: “... Tôi không thể
dễ dàng quên được việc đó, và chẳng
cần nói gì thì đồng chí cũng phải hiểu
là
những gì chống lại vợ tôi, tôi cũng coi như chống
lại tôi. Vì thế, tôi yêu cầu đồng chí
cân
nhắc xem đồng chí có sẵn sàng rút lui những
lời đã nói và xin lỗi vợ tôi hay là
muốn
đoạn tuyệt mọi quan hệ giữa chúng ta”
(24).
Không
phải là “bạn”
của Lenin, cũng không phải là một trong những lãnh
tụ nổi bật nhất của đảng bolshevik,
thế thì tại sao “quyền trượng” lại
“lọt” vào tay Stalin sau khi Lenin qua đời? Đây là
một vấn đề lịch sử với nhiều
tình tiết. Nhưng trong phạm vi bài này chỉ xin
đề cập tới những vấn đề liên quan
đến phương diện tổ chức của
ĐCS mà thôi.
Hồi
còn sống, Lenin
không có chức vụ gì khác trong đảng,
ngoài chức
vụ ủy viên BCT, còn về mặt chính quyền ông
là
chủ tịch Hội đồng dân ủy. Nhưng ông là
cha đẻ của ĐCS bolshevik, nên về mặt tinh
thần ông có vị trí cao nhất trong đảng và
ông cứ
mặc nhiên sử dụng cái vị thế đó. Lãnh
tụ đứng thứ hai sau Lenin hồi đó là Trotsky.
Kamenev và Zinoviev cũng là những lãnh tụ được
Lenin đánh giá cao, Kamenev là ủy viên BCT,
phó chủ tịch
Hội đồng bộ trưởng dân ủy, Zinoviev là
ủy viên BCT, chủ tịch Ban chấp hành (BCH) QTCS. Còn
Stalin, vào cuối đời Lenin, đã được
bầu làm tổng bí thư TƯ đảng vào ngày
3.4.1922.
Nhưng hồi đó chức vụ tổng bí thư chỉ
có chức năng tổng
hợp các vấn đề để đưa ra BCT
giải quyết và điều khiển bộ máy hành chính,
văn phòng của TƯ. Lenin
cần một người tổ chức công việc
của bộ máy TƯ đảng. Vì quan niệm chức
năng của tổng bí thư như thế, nên chính
Kamenev và Zinoviev đã nhường cho Stalin chức vụ
đó. Nhưng khi Stalin đã là tổng bí thư
trung
ương đảng rồi thì ít lâu sau, Lenin lại
thấy rất lo ngại, ông muốn đại hội 13
đưa Stalin ra khỏi chức vụ tổng bí thư,
thay bằng một người khác. Dù đang bị ốm
nặng, hồi tháng 12.1922, đã Lenin đọc cho thư
ký viết một bức thư gửi đại hội
đảng và yêu cầu chỉ được bóc ra sau khi
ông chết, vì thế sau này người ta gọi nó
là “di
chúc chính trị của Lenin”. Trong thư có đoạn
viết: “Stalin là người thô lỗ quá đáng,
và
nhược điểm này – hoàn toàn có thể chịu
đựng được giữa chúng ta với nhau và
trong quan hệ giữa những người cộng
sản – nhưng không thể chấp nhận
được trong cương vị tổng bí thư
đảng. Vì thế, tôi đề nghị các đồng
chí hãy suy nghĩ để chuyển Stalin ra khỏi
trọng trách ấy. Hãy cử vào vị trí của
Stalin
một đồng chí khác, có tính nết tốt hơn
Stalin: kiên nhẫn hơn, trung thực hơn, lịch
sự hơn và chu đáo hơn đối với các
đồng chí, tính khí ít thất thường hơn,
v.v...”
(25).
Khi Lenin qua
đời,
chức vụ tổng bí thư đã ở trong tay Stalin,
nên việc đầu tiên ông ta phải làm là
làm sao giành
được vị thế “chính thống” để
được “nối ngôi”. Muốn thế phải
gạt cho được nhân vật thứ hai sau Lenin ra
khỏi việc tổ chức và tiến hành tang lễ
của Lenin. May cho Stalin là khi Lenin chết, Trotsky đang
còn
bận công tác ở miền Nam nước Nga. Stalin ra
lệnh điện cho Trotsky báo sai ngày cử hành tang lễ
cốt để Trotsky về Moskva sau khi tang lễ đã
xong. Stalin quyết định làm những nghi lễ vô cùng
trọng thể và ông giành được việc
đọc diễn văn trong tang lễ để xác
nhận trước toàn đảng, toàn dân sự thừa
kế chính thức ngôi vị của Lenin. Trong việc
kế vị này, Stalin tỏ rõ là người hiểu
biết trình độ văn hóa thấp kém và tâm
lý sùng bái
lãnh tụ của đảng viên và dân chúng
Nga. Trong bài
diễn văn trước thi hài Lenin, Stalin lặp đi
lặp lại đến bảy
lời thề theo một lối rất “tôn giáo” gây
xúc động cho nhiều người (chắc nhiều
người còn nhớ, năm 1969, Lê Duẩn cũng
bắt chước Stalin đọc năm lời thề
với văn phong y hệt như vậy trước quan
tài Hồ Chí Minh), nên trước mắt dân
chúng và toàn
đảng, ai cũng mặc nhiên thấy ngay chính Stalin là
người có tư cách “chính thống” duy nhất
để nhận lãnh “quyền trượng” và “ngai vàng”
trên đất nước Nga. Đến khi Trotsky trở
lại Moskva thì mọi việc đều đã an bài
đâu vào đấy rồi: Stalin đã thâu tóm
toàn bộ
quyền lực trong tay mình.
Cố
nhiên, Stalin còn
phải đối phó với bức thư của Lenin
gửi đại hội 13 của đảng.
Trước đây, Lenin đã phòng trước sự theo
dõi của Stalin, nhưng ông không ngờ là người
nữ thư ký L.Fotieva của ông lại là tay chân
của
Stalin. Lenin đã dặn dò bà ấy và Krupskaya
phải
tuyệt đối giữ bí mật bức thư, chỉ
bóc nó và đưa ra khi đại hội đảng khai
mạc. Nhưng Fotieva đã kịp báo ngay cho Stalin về
nội dung bức thư. Thế là với sự
“lèo lái” khéo léo của Stalin, hội
nghị TƯ đảng dưới sự chủ tọa
của ông, họp ngày 22.5.1924 đã quyết định
không đưa “thư gửi đại hội” ra thảo
luận ở đại hội 13 nữa. Trước
đó, Stalin còn “đóng kịch” vờ vĩnh xin từ
chức tổng bí thư đề mọi người nài
kéo ông ta ở lại.
Khi đã
nắm toàn bộ
quyền lực rồi, Stalin tìm mọi cách làm cho dư
luận trong và ngoài
đảng đều coi ông là người bạn
chiến đấu gần gũi nhất của Lenin
từ những năm đầu tiên xây dựng
đảng và là người duy nhất hợp pháp
để kế tục sự nghiệp của Lenin,
đồng thời tìm mọi cách thanh trừng các
địch thủ của ông, thậm chí tiêu diệt
họ cả về thể xác và đưa tay chân của
mình vào cơ quan lãnh đạo tối cao của
đảng.
b. Biến ĐCS
thành công cụ hoàn
toàn ngoan ngoãn trong
tay Stalin
Có một
số
người cộng sản nghĩ rằng giá như sau khi
Lenin qua đời, quyền bính lọt vào tay người
khác thì chế độ xô-viết đã không phải
là
chế độ chuyên chế cực quyền đảng
trị khủng khiếp như vừa qua, và lịch sử
nước Nga đã không ghi tên kẻ độc tài
đẵm máu Stalin-Dzhugashvili. Không phải thế! Với
một ĐCS dựa trên một ý thức hệ như
thế, tổ chức theo những nguyên tắc như
thế, với mục tiêu và phương pháp hành
động như thế thì
không thể nào không đẻ ra chế độ
độc tài toàn trị, không thể nào không
đẻ ra
những tên độc tài đẵm máu. Nếu không
có
một Stalin-Dzhugashvili thì sẽ có một “stalin”
khác, có
thể không khát máu bằng Stalin-Dzhugashvili, nhưng
vẫn
là một kẻ độc tài chính cống. Vả lại,
cũng cần nói thẳng rằng chính Lenin cũng là
một kẻ độc tài độc ác đầu tiên
đã đặt nền móng cho chế độ cực
quyền toàn trị cộng sản để Stalin thừa
kế.
Sau khi
chính thức kế
thừa ngôi vị của Lenin, việc đầu tiên Stalin
làm là nắm chắc ngay bộ máy đảng và bộ
máy
công an mật vụ (hồi đó vẫn gọi là Vecheka,
về sau mới đổi tên nhiều lần). Rồi
Stalin dựa vào bộ máy công an mật vụ đó
để vu khống, bao vây, đàn áp, triệt hạ
dần các cán bộ cốt cán của ĐCS dưới
thời Lenin, đồng thời là những địch
thủ của ông trong đảng. Stalin dùng chiến
thuật liên kết với một số người
để cô lập và đánh đổ từng đối
tượng, rồi đưa tay chân mình vào thay thế
chỗ trống, sau đó quay lại hạ uy thế
những người vừa mới liên kết, rồi
đánh đổ họ, cứ như thế đến
khi bộ máy đảng-nhà nước thật sự
trở thành “công cụ” riêng của ông. Đối với
các địch thủ, Stalin không chỉ đánh đổ
họ về mặt chính trị, mà thường tìm cách
tiêu
diệt cả về thể xác để trừ hậu
họa. Trong thời kỳ đầu, TƯ đảng,
cũng như đại hội đảng họp
tương đối đều đặn vì Stalin
cần dựa vào danh nghĩa đảng, dùng sức
mạnh toàn đảng để triệt hạ
địch thủ của mình.
Hỏa lực đại
pháo trước tiên tập trung vào nhân vật đứng
thứ hai sau Lenin, tức là Trotsky, “đại công thần”
đã từng gánh vác những việc nặng nề
nhất để dựng lên chế độ
xô-viết.Trotsky từng làm bộ trưởng ngoại
giao, bộ trưởng quốc phòng và hải quân, chủ
tịch Hội đồng quân sự cách mạng,
người thành lập Hồng quân. Mấy kỳ
đại hội liền kể từ đại hội
13 (5.1924), 14 (12.1925), 15 (12.1927) Stalin đều nhằm
triệt hạ Trotsky – đến năm 1926 Trotsky đã
bị khai trừ khỏi đảng, năm 1928 - bị
trục xuất khỏi Liên Xô. Để đánh Trotsky,
Stalin lúc đầu liên kết với Kamenev và Zinoviev,
hai
ủy viên BCT. Khi Trotsky đã bị đánh bại về
chính trị rồi, thì ngay trong năm 1926, đến
lượt Zinoviev, lúc bấy giờ là ủy viên BCT,
chủ tịch đầu tiên của BCH QTCS:
Zinoviev bị ghép chung vào
khối với Trotsky để đánh tại đại
hội 15 (1927). Triệt hạ xong Zinoviev, Stalin lại quay
ra đánh Kamenev. Đến năm 1926, ba ủy viên BCT
dưới thời Lenin, là Trotsky, Kamenev và Zinoviev,
đã
vĩnh viễn rời khỏi võ đài chính trị.
Cũng năm đó Dzherzhinsky qua đời. Còn
lại Bukharin,
người
được Lenin
gọi là “con cưng của đảng”. Khi vị thế
của Stalin vững vàng rồi thì đến lượt
Bukharin, ủy viên BCT, chủ tịch BCH QTCS (thay thế
Zinoviev từ năm 1926) bị đánh. Về sau cả ba
“đại công thần” nữa là Kamenev, Zinoviev và
Bukharin
đều bị hành quyết trong cuộc đại
khủng bố, còn Trotsky thì Stalin phái tay sai
ám sát tại
Mexico hồi năm 1940. Stalin đưa vây cánh của mình
hết lớp này đến lớp khác vào các cơ quan
lãnh
đạo của bộ máy đảng-nhà nước. Cứ
thế, những cán bộ bolsheviks
của đảng Lenin, những “đại công
thần” đã dựng lên bộ máy đảng-nhà
nước và chế độ cực quyền xô-viết
chưa hoàn toàn chịu khuất phục hoặc không
chiếm được lòng tin của vị chúa tể
mới, thì cứ lần lượt hết lớp này
đến lớp khác đều bị triệt hạ.
Cố nhiên, có phản ứng chống lại. Nhưng vì
nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng-nhà
nước loại trừ mọi tính chất dân chủ,
nên bất cứ sự phản ứng nào của những
người trung thực cũng đều bị vu
khống, bị quy kết vào những tội danh “chết
người” và bị đàn áp khủng bố vô cùng
ác
liệt. Bộ máy công an mật vụ được
“bật đèn xanh” để vu khống, tra tấn,
đánh lừa, dựng lên những hồ sơ giả
mạo, rồi bày ra những vụ án khủng khiếp
trong “cuộc đại khủng bố” hồi
những năm 1937-1938 và hành quyết nhiều ủy viên
BCT, nhiều cán bộ đảng viên là “đại công
thần” của chế độ xô-viết.
Cần
nói thêm về
sự kiện này, vì nó là nguyên cớ cho
trận đại
khủng bố nói trên. Tại đại hội 17
của đảng (tháng 1-2.1934), một số cán bộ
kỳ cựu của đảng Lenin đã cố làm
một hành động, mà nhiều nhà sử học coi
như là trận đánh quyết định chống Stalin
và phe cánh: một nhóm đại biểu trong đại
hội, do B.Sheboldaev và I.Vareikis thay mặt, đã đề
nghị S.Kirov ra ứng cử vào chức vụ bí thư
TƯ đảng, họ đề nghị bỏ chức
vụ tổng bí thư và chuyển Stalin vào chức vụ
chủ tịch Hội đồng dân ủy. Theo lời
của A.Mikoyan kể lại tại đại hội 20
(1956), Kirov đã thẳng thắn báo trước chuyện
đó cho Stalin, mặc dù vậy Stalin càng thêm
nghi ngờ
Kirov. Tại đại hội 17, Stalin và phe cánh đã
dùng OGPU (tên của cơ quan
công an mật vụ thời đó - NMC) để theo dõi
đại hội đảng. Đến khi bầu các
cơ quan lãnh đạo thì Stalin là người bị
phiếu chống nhiều nhất. Cũng theo lời
Mikoyan, khi kiểm phiếu thấy thế, chủ tịch
ban kiểm phiếu là Zatonsky lo lắng, đến báo cáo
ngay với Kaganovich, ủy viên BCT là tay chân của
Stalin.
Kaganovich cương quyết ra lệnh chỉ
được ghi ba phiếu chống Stalin mà thôi. Theo
lời của Mikoyan và Shatunovskaya, một phần số
phiếu đã bị Kaganovich lấy mất, không còn trong
hồ sơ đại hội nữa. Sau đại
hội 20, ủy ban điều tra của BCT báo cáo là trong
hồ sơ đại hội thiếu mất 166
phiếu, như vậy chứng tỏ là có kẻ muốn
phi tang việc gian lận phiếu bầu. Một số
đại biểu hồi đó còn sống sót khai rằng
đại hội đã dành sự tín nhiệm cao nhất
cho Kirov. Rõ ràng đây là sự gian lận trắng
trợn
nhất trong lịch sử các ĐCS, chứng tỏ tên
độc tài đã coi ý chí của đại hội – cơ quan cao nhất của đảng
– chẳng ra cái gì cả!
Một vấn đề
cấp bách đặt ra cho kẻ độc tài - muốn
nắm giữ quyền lực thì phải trừ ngay
kẻ cạnh tranh. Ngày 1.12.1934, Kirov bị ám sát ở
Leningrad. Kẻ sát nhân trực tiếp bắn vào Kirov
là
Leonid Nikolaev bị bắt và xử tử. Vợ, anh em,
bạn bè của y cũng bị giết sạch. Kẻ
thủ mưu vụ này thì... không ai biết
được! Vụ này mãi mãi vẫn còn là một
“mảng tối” của lịch sử. Tuy nhiên, điều
rõ ràng là Stalin đã lợi dụng ngay vụ
ám sát này
để dựng lên một loạt “vụ án” chính
trị, đem xử công khai hàng loạt ủy viên BCT,
ủy viên TƯ và cán bộ cao cấp dưới thời
Lenin, dựa trên những hồ sơ và bằng chứng
giả mạo. Stalin cho phép tra tấn để lấy
khẩu cung, lập hồ sơ, rồi tự mình phê
duyệt án tử hình đối với các ủy viên BCT,
như Zinoviev, Kamenev, Radek, Piatakov, Bukharin, Rykov, Tomsky
(ông này
đã tự tử trước), v.v..., hai chủ tịch
và nhiều ủy viên BCH QTCS, nhiều “đại công
thần” của chế độ xô-viết, nhiều tướng
lĩnh (ba nguyên soái là Toukhachevsky, Blucher,
Egorov, nhiều
đại tướng, như Alknis, Bielov, Kachirin, Kork, Ouborevitch,
Eideman, Feldman, Primakov, Putna, v.v... nhiều đô đốc
hải quân, như Orlov,
Viktorov, Sivkov, v.v...) và nhiều cán bộ cấp cao
khác
của đảng-nhà nước và quân đội. Họ
đều bị ghép tội “phản cách mạng”, thậm
chí “gián điệp”, “tay sai của nước ngoài”.
Hàng
triệu cán bộ, đảng viên, những nhà trí thức,
nhân sĩ, nhiều sĩ quan cao cấp, các quân nhân,
những người bình thường đã bị bắt
bớ, bắn giết hoặc bị quẳng vào các
trại tập trung giăng khắp Liên bang xô-viết,
gọi là GULAG. Đấy, Stalin đã trả thù việc
đại hội 17 định phế truất ông ta
như vậy đó.
Trong bản
báo cáo bí
mật tại đại hội 20, Khrutshev đã cho
biết: “Cuộc điều tra cho thấy: 98 người
trong số 139 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết
do đại hội 17 bầu ra, tức là 70%, đã bị
bắt và bị xử bắn (phần lớn vào những
năm 1937-38)”... và: “Không những các ủy viên
TƯ, mà
đa số đại biểu dự đại hội 17
của đảng cũng chịu chung số phận. Trong
số 1961 đại biểu chính thức và dự bị
thì 1108 người bị bắt và ghép tội phản cách
mạng, tức là hơn một nửa số đại
biểu đại hội (tính chính xác là 56,5% -
NMC). Sự
kiện này tự nó vạch rõ tính chất kỳ
quái và
ngược đời của những lời buộc
tội “phản cách mạng” gán cho đa số đại
biểu đại hội”. Khrutshev đã cho biết là 80%
đại biểu đại hội 17 đã vào
đảng trong thời kỳ bí mật, trước tháng
10 năm 1917, đã tham gia nội chiến, nghĩa là
trước năm 1921, còn về nguồn gốc xã hội
thì 60% là công nhân, lao động. Trên
thực tế, Stalin
đã tiêu diệt ĐCS của Lenin và dựng lên ĐCS
của mình.
Sau cuộc “đại
khủng bố” 1937-1938, ĐCS đã hoàn toàn trở
thành
một công cụ ngoan ngoãn trong tay của Stalin. Từ
đó, chúng ta càng thấy rõ thái độ
trịch
thượng, coi thường của kẻ độc tài
đối với ĐCS. Nếu trước đây, Stalin
thấy cần thiết họp đại hội, họp
TƯ đảng hay BCT tương đối đều
kỳ chẳng qua chỉ để dựa thế vào cái
“cơ chế dân chủ trong nội bộ đảng”
nhằm đè bẹp và tiêu diệt những địch
thủ của mình, còn bây giờ cái gọi là
“sinh hoạt
dân chủ” của ĐCS không còn cần thiết cho ông
ta
nữa: ông đã là chủ của ĐCS rồi. Đây là
một ví dụ rất dễ thấy. Khoảng cách
giữa đại hội 14 và 15 là 2 năm (1925-1927),
giữa đại hội 15 và 16
là 3 năm (1927-!930), giữa đại hội 16 và 17 là 4
năm (1930-1934), giữa đại hội 17 và 18 là 5
năm (1934-1939), giữa đại hội 18 và 19,
đại hội cuối đời của Stalin, là 13
năm (1939-1952). Và hội nghị TƯ đảng thì
rất ít họp, đặc biệt từ hội nghị
TƯ tháng 2.1947 bàn về nông nghiệp mãi đến 5
năm sau, tháng 8.1952 mới có hội nghị TƯ tiếp
theo để bàn về đại hội 19 của
đảng (26). Còn BCT thì hầu như không khi nào
họp
đủ thành phần. Những quyết nghị của
BCT được thực hiện chủ yếu bằng
cách lấy chữ ký các ủy viên dưới văn
bản dự thảo do Stalin sai người chuẩn
bị sẵn. “Dân chủ” kiểu này thì ai mà
dám không “tán
thành” ý kiến của “lãnh tụ”!
Đấy, ĐCS theo
quan
niệm của Marx cuối cùng đã biến hóa (metamorphose)
thành “công cụ”, “kẻ đầu sai” trong tay tên
độc tài thực tế đã ngồi chồm hổm
trên đầu ĐCS. Còn chế độ cộng sản
mà Marx và Engels mô tả và Lenin khẳng định
là
“một triệu lần dân chủ hơn các chế
độ dân chủ tư sản” thì hóa ra là một
chế độ độc tài chuyên chế nhất trong
lịch sử mang nặng tàn dư phong kiến, chế
độ nông nô, thậm chí chế độ chiếm
hữu nô lệ! Người viết không nói ngoa tí
nào. Xin
các bạn cứ nghĩ xem, việc ướp xác lãnh
tụ để tôn thờ, có phải là thứ văn hóa
pharaon thời cổ đại không? Việc bắt hàng 5
triệu người, có năm lên đến 7 triệu
(ở đây, người viết dẫn số liệu
“thận trọng nhất” của các sử gia Nga, còn các
nhà
nghiên cứu nước ngoài thì cho số liệu cao
hơn, thấp nhất là 8 triệu, cao nhất là 15
triệu, còn theo báo cáo của chính phủ Anh
tại Hội
đồng Kinh tế và Xã hội của LHQ ngày 15.8.1950
thì
10 triệu) (27) nhốt vào các
trại tập trung để khai thác triệt để
lao động không công của những tù nhân
này, có phải
là hình thức bóc lột của chế độ chiếm
hữu nô lệ không? Việc tổ chức các tòa
án chính
trị hồi những năm 30, có phải là áp dụng
mẫu mực của các tòa án giáo hội
(inquisition)
thời Trung cổ không? Việc Stalin không cho nông
dân
được có giấy thông hành (tiếng Nga là
passport) để
buộc chân nông dân, không cho rời khỏi
nông thôn có
phải là chế độ nông nô không? Cái kiểu
tôn ty
trật tự trong ĐCS và chế độ xô-viết
với những đặc quyền đặc lợi quái
gỡ nhất, có phải là tàn dư của văn hóa
phong
kiến hay không?
Hồi đầu thế
kỷ 20, Plekhanov đã từng cảnh báo những
người cách mạng Nga rằng trong điều
kiện nước Nga còn lạc hậu, nền công
nghiệp chưa phát triển cao, giai cấp vô sản công
nghiệp chưa trưởng thành mà đòi làm
cách mạng
vô sản thì nhất định không tránh khỏi đưa
đến một chế độ độc tài không
hạn chế. Lời cảnh báo linh nghiệm biết bao
đã bị Lenin và những người bolsheviks gạt
bỏ!
Đối với QTCS
và
PTCSQT:
Càng
ngày Stalin càng thấy rõ
“tiên đoán thiên tài” của Lenin về
cách mạng vô
sản thế giới sắp bùng nổ là chuyện vớ
vẩn, viễn vông. Nhưng ông ta cũng còn cần mạng lưới tay sai ở
các nước, cho nên vẫn gắng gượng duy trì QTCS
trong chừng mực cần thiết cho đường
lối chính trị của ông. Vì thế, tiền, vàng,
châu
báu đổ ra để cấp cho tổ chức này tuy
vẫn tiếp tục như trước, nhưng khối
lượng ngày càng giảm bớt. Hơn nữa, Stalin e
ngại tổ chức này có thể là “hang ổ” cho
những lực lượng đối lập chống
lại ông, vì hai chủ tịch BCH QTCS là Zinoviev
(1919-1926) và
Bukharin (1926-1929) và nhiều cán bộ QTCS đã bị
ông hành
quyết, nên ông cũng muốn sớm kết liễu
tổ chức này. Không phải Stalin không còn
ý định
chinh phục thế giới nữa, nhưng ông tính làm
việc đó bằng cách khác, thông qua cơ quan
công an
mật vụ, mạng lưới gián điệp, cùng
với sự liên hệ trực tiếp với các nhóm
khủng bố, các ĐCS đã hình thành trên
các nước
và được Liên Xô nuôi dưỡng, đào luyện.
Chính Dimitrov, chủ tịch cuối cùng của BCH QTCS
cũng cảm thấy thái độ lạnh nhạt
của Stalin đối với tổ chức mà ông đang
phụ trách, nên cũng “tự nguyện” đề nghị
giảm bớt “chức năng” của QTCS đi.
Đến năm 1943, Stalin vin cớ cần làm yên lòng
các
nước đồng minh để mở rộng
mặt trận chống phát xít, đã tự ý
tuyên bố
giải tán QTCS mà chẳng thấy cần phải tuân theo
“nghi thức dân chủ” của một tổ chức
quốc tế “độc lập”. Còn Dimitrov, chủ
tịch BCH QTCS, thì được chuyển sang làm
trưởng ban đầu tiên của Ban quốc tế
của TƯ ĐCSLX (28). Trong cung cách Stalin giải tán
QTCS, ta thấy rõ toàn bộ tính chất bù
nhìn, bung xung,
đầu sai của tổ chức này.
Đến năm 1947,
Stalin thấy cần có một tổ chức quốc
tế để phối hợp lực lượng
cộng sản thế giới dưới sự chỉ
huy của ĐCSLX, hơn nữa ông ta muốn các ĐCS
cầm quyền, nhất là ở Đông Âu, đều
thống nhất (unification) chế độ của mình
theo một mẫu mực chung, nên mùa thu năm ấy
một tổ chức bao gồm 9 ĐCS Âu châu (Liên Xô, Nam
Tư, Bulgaria, Rumanie, Hungaria, Ba Lan, Tiệp Khắc, Pháp
và Ý)
gọi là “Cục thông tin quốc tế” (Kominform)
đã
được lập ra. Có thể nói, Kominform có tham
vọng trong chừng mực nào đó kế tục sự
nghiệp của QTCS (Komintern).
Cái
mẫu mực chung mà
Stalin muốn phổ biến cho các nước dưới
quyền cai trị của các ĐCS cố nhiên là mô
hình
xô-viết. Nhưng Tito và một số lãnh tụ ĐCS
ở Đông Âu ngay từ đầu đã cảm thấy
không thể rập khuôn theo mô hình chế độ
xô-viết được. Gomulka hồi đó đã nói
đến “con đường Ba Lan” tiến tới
chủ nghĩa xã hội; những người cộng
sản Bulgaria cũng nói khéo nước họ là “cộng
hòa nhân dân” chứ không phải là “cộng
hòa xô-viết”; nhà
hoạt động Hungarie Rivai nói: ở Hungarie mà tính
chuyện thành lập nông trang tập thể (kolkhoz),
tức là “việc làm của
bọn khiêu khích và phá hoại”... Một điều
nên
nhắc lại là sau thế chiến thứ hai, uy tín
của Tito và ĐCS Nam Tư (tên
chính thức là Liên minh những người cộng sản
Nam Tư) rất lớn, chỉ đứng sau Stalin và
ĐCSLX mà thôi. Vì ĐCSNT dưới sự lãnh đạo
của Tito đã kiên cường “đơn thương
độc mã” chiến đấu chống quân phát xít
Đức-Ý và tự mình giải phóng đất
nước. Cho nên lúc đầu trong Kominform ảnh
hưởng của ĐCSNT khá lớn. Điều đó,
cố nhiên, không làm Stalin
thích thú. Hơn nữa, Stalin muốn ép Nam Tư rập khuôn theo mẫu mực
xô-viết của mình và gặp phải sự chống
đối của Nam Tư. Đó là nguồn gốc sâu xa
của những xung đột giữa Stalin và Tito,
giữa hai ĐCS và hai nước Liên Xô và Nam Tư.
Tháng 6.1948, dưới sự đạo diễn của
Stalin, Kominform đã họp ở Bucarest gồm đại
biểu 8 ĐCS (Nam Tư không đến họp)
để buộc tội những người lãnh
đạo ĐCSNT là theo “chủ nghĩa dân tộc” và khai
trừ ĐCSNT ra khỏi Kominform. Về sau Stalin còn mở
một chiến dịch lớn bôi nhọ “bè lũ xét
lại Nam Tư đứng đầu là Tito”, thậm chí
vu khống Tito là “gián điệp”, “tay sai của đế
quốc”. Hầu hết các ĐCS trên thế giới đã
hùa theo Stalin và Kominform để chống Tito và
cô lập Nam
Tư. Thế nhưng, Nam Tư vẫn tồn tại, còn
Kominform, một tổ chức bị bại liệt
bẩm sinh, không có sức sống, nên lần hồi đã
lặng lẽ chết không kèn không trống (29).
Dù
QTCS không còn nữa mà
Kominform thì èo uột, nhưng Stalin vẫn dựa vào uy
lực cá nhân của mình cũng như sức mạnh quân
sự của Liên Xô để điều khiển các
ĐCS “đàn em” và cố sức mở rộng phạm vi
ảnh hưởng của đế quốc cộng
sản. “Bàn tay Moskva” đã can thiệp vào việc nội
bộ và nhen nhóm các cuộc nội chiến ở Thổ
Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, v.v... đã dựng lên cái gọi
là
“chế độ dân chủ mới” với những chính
phủ bù nhìn ở Đông Âu, Bắc Triều Tiên,
đã
giúp chủ nghĩa cộng sản bành trướng ở
Trung Quốc, Việt Nam, v.v...
Cũng
nên nhắc
đến mưu đồ của Stalin và Mao Trạch
Đông gây ra chiến tranh Triều Tiên hồi năm 1950
với mưu đồ thôn tính Nam Triều tiên đã gieo
rắc biết bao tang tóc, xương máu cho người
dân. Đó là chưa nói đến việc Stalin hồi
đầu thập niên 50 đã có một kế hoạch
chuẩn bị tấn công “giải phóng” châu Âu
mà nhà
sử học Tiệp Khắc Karel Kaplan đã phát giác trong
sách “Dans les Archives du Comité Central. Trente ans de
secret du Bloc
soviétique” (tr.165-167). Cuối những năm 40, Stalin nhận
định tình hình thế giới và đi đến
kết luận: nửa đầu thập niên 50 sẽ là
thời điểm thuận lợi nhất để giáng
một đòn quyết định vào châu Âu tư bản
chủ nghĩa và thiết lập ở đấy chế
độ xã hội chủ nghĩa. Để thực
hiện âm mưu này, cần phải kiềm chế
được Hoa Kỳ, và Liên Xô ra sức chạy đua
võ trang trong lĩnh vực nguyên tử, đến năm
1949 Liên Xô đã có được bom nguyên tử.
Theo tài
liệu bí mật lưu trữ ở ĐCS Tiệp
Khắc mà Kaplan công bố thì hồi tháng 1.1951,
Stalin, Molotov
đã họp bí mật với lãnh tụ và chỉ huy
quân
sự cao cấp những nước cùng phe ở Đông
Âu bàn về việc chuẩn bị trong vòng 3-4 năm
thực hiện kế hoạch tấn công “giải phóng”
châu Âu (30). Về điều phát giác của Kaplan
thì kẻ
viết bài này không đủ điều kiện để
xác minh, nhưng cũng xin nói rõ là: căn cứ
theo tài
liệu lịch sử thì đúng là hồi tháng 1.1951,
đã
một cuộc hội nghị quan trọng có mặt các
tổng tham mưu trưởng và bộ trưởng
quốc phòng các nước “dân chủ nhân dân” Âu châu mà Stalin đã
tự thân tham
dự để kiểm điểm tình trạng sẵn
sàng chuẩn bị của lực lượng võ trang các
nước này, và tại hội nghị đó Stalin đã
khẳng định là chỉ có thể có được
một thời kỳ “tạm nghỉ” 3-4 năm mà thôi
để chuẩn bị cho trận chiến đấu
mới, vì ông cho rằng cuộc chiến tranh Triều Tiên
mới chỉ là cuộc thử sức đầu tiên
của hai địch thủ. Trước khi kết thúc
hội nghị, người ta đã ký một hiệp
định bí mật, theo đó khi xảy ra chiến tranh,
các đồng minh của Liên Xô có trách
nhiệm phải chuyển
giao quân đội của mình dưới quyền chỉ
huy trực tiếp của bộ chỉ huy xô-viết.
Đồng thời, người ta cũng đã duyệt
lại một cách căn bản các kế hoạch kinh
tế của các nước “dân chủ nhân dân” nhằm
tăng cường phát triển hơn nữa công
nghiệp nặng và công nghiệp quân sự (chính
việc
này đã gây ra sự mất cân đối trầm trọng
sau này trong nền kinh tế của các nước này,
nhất là đối với nông nghiệp và sản
xuất hàng tiêu dùng). Công việc đang khai
triển thì
đến tháng 3.1953, Stalin chết, nếu không thì những
kế hoạch phiêu lưu của kẻ độc tài
sẽ còn gây thêm biết bao núi xương và
sông máu nữa
cho nhân loại để thực hiện mục tiêu
cuối cùng của PTCSQT.
E. “Cống
hiến”
của Mao Trạch Đông vào việc xây dựng ĐCS
Sau những
trận tranh
quyền quyết liệt trong nội bộ ban lãnh
đạo, cuối cùng Mao Trạch Đông đã giành
được quyền lực trong ĐCS hồi năm
1935. Việc đầu tiên họ Mao nghĩ đến
là làm sao nắm
chắc được “công cụ đảng” trong tay mình.
Sống trong hoàn cảnh một nước Á châu không
có chút
truyền thống dân chủ nào mà mang nặng văn
hóa phong
kiến, Khổng giáo, Mao và phe cánh hiểu được
sự cần thiết phải khai thác triệt để
đầu óc sùng bái và tuân phục của thần
dân
đối với “thiên tử”, cho nên đã đặc
biệt coi trọng việc “tẩy não” và “nhồi sọ”
trong đảng, quân đội và trong dân chúng. Điều
đó họ gọi là “công tác tư tưởng”,
với mục tiêu làm cho mỗi đảng viên cộng
sản, cũng như mỗi thần dân trong chế
độ “xã hội chủ nghĩa” mất hết cá tính,
mất hết năng lực và thói quen tư duy độc
lập, làm cho toàn ĐCS, toàn dân Trung Quốc
sùng bái,
thần thánh hóa đến độ cuồng tín để
biến trên 600 triệu người sẽ trở thành
một “công cụ” dễ bảo, một cái “đinh ốc
bé tí” trong tay họ Mao và ĐCS. Để đạt
được cái mục tiêu đó, Mao và phe cánh đưa ra một phương
pháp gọi là “chỉnh phong”. Qua quá
trình “chỉnh
phong”, đảng (và cả công an mật vụ) nắm
được “tư tưởng” của đảng viên,
đoàn viên, cán bộ, quân nhân... để tiến
hành
“đấu tranh tư tưởng” và “cải tạo tư
tưởng” cho những người bất đồng
chính kiến. Thông thường những cuộc chỉnh
phong đều kèm theo những cuộc đấu đá,
xỉ vả, lăng nhục, đày ải cán bộ, trí
thức về nông thôn
để “lao động cải tạo” hay thậm chí
bắt bớ, tù đày cán bộ, trí thức trong
các
“trại lao cải”, một kiểu GULAG made in China.
Chỉnh phong là “cống hiến” độc đáo nhất
của họ Mao vào “kho tàng chủ nghĩa Marx-Lenin” mà
nhiều ĐCS châu Âu, châu Mỹ không thể nào
hiểu
nổi và học nổi!
Họ Mao
còn có một “sáng
kiến” nữa là khi cần đấu tranh giành và giữ
quyền lực, ông ta không ngần ngại huy động
quần chúng cuồng tín chống lại ĐCS: khi phát
động làm “đại cách mạng văn hóa” ông
đã cho “hồng vệ binh” “tạo phản” nã súng bắn
vào đảng mà ông ta gọi là “bộ tham mưu
xét
lại, hữu khuynh”. Về thực chất cũng như
hậu quả, cuộc “đại cách mạng văn hóa”
của Mao không khác mấy cuộc “đại khủng
bố” 1937-1938 của Stalin.
Còn
tiếp...
Tài
Liệu Tham Khảo:
1.
Marx K. và Engels F. Tuyên ngôn của
Đảng Cộng Sản. NXB Sự Thật, Hà Nội,
1983, tiếng Việt, tr.66. (ở tr.16).
2.
Sách đã dẫn, tr.66. (ở tr.18).
3.
Sách đã dẫn, tr.65. (ở tr.18).
4.
Sách đã dẫn, tr.65. (ở tr.19).
5.
Razinsky Edvard. Stalin.Moskva, 1997, tiếng Nga,
tr.54, 64-69. (ở tr.22).
6.
Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 6, tiếng
Nga, tr.112. (ở tr.23).
7.
Sách đã dẫn, tr.124. (ở tr.23).
8.
Sách đã dẫn, tr.122, 125. (ở tr.24).
9.
Sách đã dẫn, tr.136. (ở tr.24).
10.
Sách đã dẫn, tr.178. (ở tr.24).
11.
Lenin và Vecheka, 1975. tiếng Nga, tr.281.
(ở tr.27).
12.
Sách đã dẫn, tr.363. (ở tr.27).
13.
Volkogonov D. Lenin. Chân Dung Chính Trị. Hai
tập, 1994. tiếng Nga, tập 1, tr.272-273, 289-290. (ở
tr.29).
14.
Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 40, tiếng
Nga, tr.209, 211. (ở tr.31).
15.
Volkogonov D. Lenin. Chân Dung Chính Trị. Hai
tập, 1994. tiếng Nga, tập 2, tr.271. (ở tr.31).
16.
Sách đã dẫn, tập 2, tr.276, 278.
(ở tr.32).
17.
Sách đã dẫn, tập 2, tr.277. (ở
tr.33).
18.
Stalin I.V. Toàn Tập, t.5, tiếng Nga, tr.71.
(ở tr.35).
19.
RSKHIDNI – Trung Tâm Lưu Trữ Văn
Kiện Lịch Sử Hiện Đại (trước là
Kho Lưu Trữ của Quốc Tế Cộng Sản),
Fond 17, Op.12, Document 612, Vyp. III, List 35. (ở tr.36).
20.
Stalin I. “Những vấn đề
của chủ nghĩa Lenin”, M.1945, tiếng Nga, tr. 71.
(ở tr.36).
21.
Bazhanov B. Hồi Ký Của Cựu Thư
Ký Của Stalin, xuất bản ở Pháp 1980, ở Nga 1992,
tiếng Nga, tr.129. (ở tr.36).
22.
Stalin I.V. Tác Phẩm, tập13, tiếng
Nga, tr.121. (ở tr.37).
23.
Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 49, tiếng
Nga, tr.101 và161. (ở tr.38).
24.
Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 54, tiếng
Nga, tr.330. (ở tr.39).
25.
Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 45, tiếng
Nga, tr.346. (ở tr.40).
26.
Volkogonov D. Stalin. Chân Dung Chính Trị. Hai
tập, 1994. tiếng Nga, t.2, tr.614. (ở tr.48).
27.
Geller M. và Nekrich A. Lịch Sử
Nước Nga (1917-1995), tập 2, tr.54. (ở tr.49).
28. Medvedev V.
Sự Tan Rã. Nó Đã Chín Muồi Thế Nào
Trong “Hệ
Thống Xã Hội Chủ Nghĩa Thế Giới”. Moskva,
1994, tiếng Nga, tr.19. (ở tr.50).
29.
Giuseppe Boffa. Lịch Sử Liên Xô. tập
2, tiếng Nga, tr.361-363. (ở tr.52).
30.
Geller M. và Nekrich A. Lịch Sử
Nước Nga (1917-1995), tập 2, tr.67, 68. (ở tr.53).
o0o
Danh
Mục
·
Alknis
Ya.I. – đại tướng LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo quyết định của Stalin.
·
Allilueva
N.S. - vợ của Stalin, chết trong hoàn cảnh khó
hiểu.
·
Andropov
Yu.V. (1914-84) - đại tướng, chủ tịch KGB LX
(1967-82), tổng bí thư ĐCSLX (1982-84), chủ tịch XV
Tối cao LX từ 1983. Thời ông cầm quyền
được đánh dấu bởi hàng loạt vụ
đàn áp khốc liệt những người bất
đồng chính kiến, tình trạng khủng hoảng
của LX thêm trầm trọng và việc đẩy
mạnh cuộc phiêu lưu quân sự ở Afganistan; ông
có ý
định dùng biện pháp hành chính để ngăn
cuộc khủng hoảng của đất nước.
·
Bazhanov
B. - thư ký riêng của Stalin từ 1923 đến 1928,
đã viết cuốn “Hồi Ký Của Cựu Thư Ký
Của Stalin”.
·
Beliov
– đại tướng LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo quyết định của Stalin.
·
Blucher
V.K. (1890-1938) - tướng lĩnh Hồng quân trong nội
chiến, nguyên soái LXâ, bị vu khống và bị
bắt,
chết trong thời gian giam giữ theo quyết
định của Stalin.
·
Borodin
M. – cán bộ của Đảng Cộng sản LX
đứng đầu phái đoàn xô-viết cạnh chính
phủ Trung Hoa Dân Quốc hồi những năm 20. Sau khi
về nước, bị đàn áp dưới thời
Stalin và chết trong nhà tù.
·
Brezhnev
L.I. (1906-82) – ủy viên Bộ Chính trị TƯ từ 1957,
đã tổ chức việc lật đổ Khrutshev
(1964), làm tổng bí thư Đảng Cộng sản LX
(1964-1982). Dưới thời ông, nền kinh tế
xô-viết bị trì trệ và khủng hoảng nặng.
Thời ông cầm quyền được đánh dấu
bởi các vụ đàn áp khốc liệt những
người bất đồng chính kiến, vụ can
thiệp võ trang vào Tiệp Khắc 1968 và cuộc
phiêu
lưu quân sự ở Afganistan 1979.
·
Bukharin
N.I. (1888-1938) - ủy viên Bộ Chính trị TƯ (1924-29),
chủ bút tờ Pravda (1918-29), chủ bút tờ Izvestia
(1934-37), chủ tịch Ban Chấp Hành Quốc Tế
Cộng Sản (1926-29), bị vu khống và bị xử
bắn theo quyết định của Stalin.
·
Chernenko
K.U. (1911-85) – ủy viên Bộ Chính trị dưới
thời Brezhnev, nổi tiếng là một người quan
liêu, bất tài, tổng bí thư Đảng Cộng
sản LX (1984-85).
·
Chicherin
G.V. (1872-1936) – bộ trưởng ngoại giao xô-viết
thời Lenin.
·
Dimitrov
G. (1892-1949) – chủ tịch
Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng Sản (1929-43),
tổng bí thư Đảng Cộng sản Bungarie từ
1948, chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Bungarie.
·
Dzerzhinsky
F.E. (1877-1926) - chủ tịch Vecheka từ 1917, một trong
những người xây dựng bộ máy mật vụ và
tổ chức “khủng bố đỏ” khủng
khiếp thời xô-viết.
·
Eberlain
– đại biểu cánh tả Đức đến
dự hội nghị lập Đệ Tam Quốc Tế
1919.
·
Egorov -
nguyên soái LX, bị vu khống và
bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·
Eideman
- đại tướng LX,
bị vu khống và bị xử bắn theo quyết
định của Stalin.
·
Engels
Fredrich (1820-95) - một trong những người sáng
lập ra chủ nghĩa Marx; cùng với Marx và một
số người khác, ông đã lập ra Liên Minh
Công Nhân
Quốc Tế (Đệ Nhất Quốc Tế) hồi
1864 và đã soạn thảo Tuyên Ngôn Của Đảng
Cộng Sản; sau khi tổ chức quốc tế này tan
rã ông là cố vấn cho nhiều Đảng Xã Hội
chủ nghĩa trong Đệ Nhị Quốc Tế.
Những tác phẩm của ông có ảnh hưởng
lớn đối với trí thức Âu Mỹ hồi
cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
·
Feldman
B.M. - đại tướng LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo quyết định của Stalin.
·
Fotieva
L.A. - thư ký riêng của Lenin.
·
Ganetsky
Ya.S. (1879-1937) – đảng viên bolshevich nổi tiếng,
trước tháng 10.1917, ở nước ngoài phụ trách
những mật vụ của Lenin và liên lạc với
người môi giới Parvus để nhận tiền
của chính phủ Đức cấp cho Đảng
bolshevich để làm thất bại nước Nga Sa
hoàng,; về sau bị vu khống và bị xử bắn
theo quyết định của Stalin.
·
Gdlyan
– cán bộ cao cấp Viện Tổng Công tố LX, một
trong những thành viên tích cực của Nhóm
dân biểu liên
vùng.\
·
Gomulka
V. (1905-82) – nguyên tổng bí thư của Đảng
Cộng sản (lấy tên Đảng Công nhân Thống
nhất) Ba Lan (1943-48), 1949 ông bị truất quyền,
rồi bị bỏ tù 1951-55 dưới thời Stalin,
đến 1956-70 lại được đưa lên
đứng đầu Đảng.
·
Gorbachev
M.S. (s.1931) – tổng bí thư
Đảng Cộng sản LX (1985-91), chủ tịch
Chủ Tịch Đoàn Xô-viết Tối Cao LX (1988-89),
Tổng thống LX (1989-90), người khởi
xướng và thực hiện “perestroika” và “glasnost” với
ý muốn đưa đất nước ra khỏi
cuộc khủng hoảng. Điều nổi bật
dưới thời ông cầm quyền là sự chấm
dứt “chiến tranh lạnh”, sự sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và ngay
chính
ở Liên Xô. Ông được giải thưởng Nobel
Hòa Bình (1990).
·
Hồ
Chí Minh (tên thật Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là
Nguyễn Tất Thành, ngoài ra còn có rất nhiều
bí danh,
bút danh khác) (1890-1969) - nhà cách mạng
cộng sản nổi
tiếng, một trong những người đầu
tiên đưa chủ nghĩa
Marx-Lenin vào Việt Nam; dưới sự lãnh đạo
của ông, cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945
đã thắng
lợi đưa chính quyền vào tay Đảng Cộng
sản và cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng
lợi (1954). Thời ông cầm quyền được
đánh dấu bởi cuộc cải cách ruộng
đất khủng khiếp hồi thập niên 50, cuộc
cải tạo công thương nghiệp, vụ án Nhân
Văn – Giai Phẩm, việc xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và việc bắt đầu
cuộc chiến tranh ác liệt với miền Nam.
·
Kachirin
- đại tướng LX,
bị vu khống và bị xử bắn theo quyết
định của Stalin. tr.46.
·Kadar Janos (1912-89) –
người đứng đầu Đảng Cộng
sản (lấy tên Đảng Xã hội Chủ nghĩa Công
nhân) Hungarie từ 1956-88; thủ tướng chính phủ
Hungarie được thành lập trên đất LX
để thay thế cho chính phủ Imre Nagy bị đánh
đổ.
·
Kaganovich
L.M. (1893-1991) - ủy viên Bộ Chính Trị Đảng
Cộng sản LX (1930-57), một trong những người
tích cực tổ chức các cuộc đàn áp
hàng loạt
người vô tội dưới thời Stalin; cùng với
Molotov, Malenkov chống lại đường lối
của Khrutshev, nên bị đưa ra khỏi cương
vị lãnh đạo Đảng hồi 1957.
·
Kamenev
L.B. (1883-1936) – đảng viên bolshevich, ủy viên Bộ
chính trị Đảng Cộng sản Nga và LX (1919-1926), phó
thủ tướng chính phủ LX (1923-26), bị vu
khống và bị xử bắn
hồi 1936 theo quyết định của Stalin.
·
Kamo
- bí danh của Ter-Petrosyan, người tổ chức các
vụ ăn cướp tiền cho đảng của
Lenin.
·
Kaplan
Karel - sử gia Tiệp
Khắc, tác giả sách “Dans les Archives du Comité
Central. Trente ans
de secret du Bloc soviétique”.
·
Kautsky
Karl (1854-1938) - một trong những lãnh tụ và nhà
lý
luận nổi tíếng của Đảng Xã hội Dân
chủ và Đệ Nhị Quốc Tế, theo chủ
nghĩa trung phái, chống lại đường lối
cực đoan của Đảng bolshevich.
·
Kestler
Artur (1905-83) - nhà văn Anh, tác phẩm nổi tiếng nhất
của ông “Bóng Đen Dày Đặc” (1940) nói về cơ
chế tâm lý của sự khủng bố thời Stalin,
được xuất bản ở LX hồi 1988.
·
Khrutshev
N.S. (1894-1971) - ủy viên Bộ Chính trị (1939-53), từ
1953 đến 1964 đứng đầu Đảng
Cộng sản LX; tại đại hội 20 (1956) và 22
(1961) ông phê phán kịch liệt tệ sùng
bái cá nhân Stalin.
Thời ông cầm quyền được đánh dấu
bởi việc giải phóng cho hàng triệu người ra
khỏi các trại tập trung và minh oan cho rất nhiều
người vô tội trong các vụ án chính trị
dưới thời Stalin, bởi sự cố gắng
đẩy mạnh sản xuất công nông nghiệp và
những nỗ lực để cải thiện
đời sống cho người dân, nhưng đồng
thời cũng bởi việc đàn áp cuộc biểu
tình của công nhân ở Novocherkassk, việc đối
đầu với phương Tây ở Berlin hồi 1961,
ở biển Caribe hồi 1962, bởi cuộc can thiệp võ
trang vào Hungarie hồi 1956. Ông có để lại tập
hồi ký, xuất bản ở Hoa Kỳ 1981, còn ở Nga
xuất bản toàn bộ hồi 1999.
·
Kirov
S.M. (1886-1934) - ủy viên Bộ Chính trị từ 1930,
bị giết 1934. Cái chết của ông bị Stalin dùng
để mở một loạt cuộc đàn áp khủng
khiếp trong thời kỳ gọi là Đại khủng
bố trong những năm 30.
·
Koba
- bí danh của Stalin hồi hoạt động bí mật
ở xứ Caucase.
·
Kork
- đại tướng LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo quyết định của Stalin.
·
Krasin
L.B. (1870-1955) – nhà lãnh đạo Đảng bolshevich, ủy
viên TƯ Đảng 1903-07, lãnh đạo công tác
quân
sự-chiến đấu trong cách mạng 1905-07; sau tháng
10.1917 làm các chức vụ cao cấp trong bộ máy
nhà
nước.
·
Krupskaya
N.K. (1869-1939) - vợ và bạn chiến đấu của
Lenin.
·
Kun
Bela (1886-1938) - nhà cách mạng Hungarie, người tổ
chức Đảng Cộng sản Hungarie (1918),
đứng đầu chính phủ xô-viết Hungarie hồi
1919; từ 1920 ở nước Nga, ủy viên Ban Chấp
hành Quốc Tế Cộng Sản, bị giết
dưới thời Stalin.
·
La
Văn Lâm (s.1919) – đảng viên lão thành của
Đảng Cộng sản VN, đã giữ nhiều
chức vụ quan trọng của nhà nước, từ
những năm 80 nhiều lần phát biểu ý kiến
về các vấn đề chính trị, về vấn
đề dân chủ.
·
Lê
Duẩn (1900-1986) - nhà cách mạng cộng sản, một
trong những người đã lãnh đạo phong trào
đấu tranh ở miền
Nam chống chế độ VN Cộng hòa; tổng bí
thư Đảng Cộng sản VN từ 1960-86. Thời
ông cầm quyền
được đánh dấu bởi việc đẩy
mạnh cao độ cuộc chiến tranh với miền
Nam, đưa đến sự sụp đổ của
chế độ miền Nam và sự thống nhất
cả nước dưới quyền của những
người cộng sản, bởi việc xây dựng
chế độ xã hội chủ nghĩa trại lính
với nền chuyên chế vô sản tàn bạo, những
cuộc đàn áp hàng loạt người dưới
chế độ cũ, đàn áp các giáo phẩm và
các giáo
hội, đàn áp cán bộ, đảng viên, trí
thức
bất đồng chính kiến; nó cũng được
đánh dấu bởi sự đưa quân đánh vào Cam
Bốt và chiếm đóng nước này trong 10 năm, gây
ra xung đột lớn với TQ. Đường lối
của ông đã đưa đến cuộc khủng
hoảng toàn diện của VN hồi cuối thập niên
80.
·
Lenin
V.I. (tên thật Ulyanov) (1870-1924) - nhà lý luận
theo chủ
nghĩa Marx, một trong những người sáng lập và
là lãnh tụ Đảng bolshevich, lãnh đạo cuộc
đảo chính tháng 10.1917, lật đổ chính quyền
dân chủ, thiết lập chuyên chính vô sản với
chế độ cực quyền toàn trị xô-viết.
Với ý đồ làm cách mạng thế giới, phổ
biến chế chế độ xô-viết ra toàn thế
giới, ông đã thành lập Quốc Tế Cộng
Sản (1919). Dưới chế độ chuyên chính vô
hạn của ông, hàng triệu người dân vô tội
đã bị giết.
·
Levine
E. - đảng viên cộng
sản, đứng đầu chính phủ ở Bavaria
hồi năm 1919.
·
Lin,
Linov - một trong nhiều bí danh của Nguyễn Ái
Quốc, tức Hồ Chí Minh sau này.
·
Malenkov
G.M. (1902-88) - ủy viên Bộ Chính trị nhiều năm
(1926-57), thuộc giới thân cận Stalin, một trong
những người tích cực tổ chức các cuộc
đàn áp hàng loạt người vô tội dưới
thời Stalin; cùng với Molotov, Kaganovich chống lại
đường lối của Khrutshev, nên bị đưa
ra khỏi cương vị lãnh đạo Đảng
hồi 1957.
·
Mao
Trạch Đông (1893-1976) –
lãnh tụ Đảng Cộng sản TQ, chủ tịch
nước Cộng hòa Nhân dân TQ (1954-59); người xây
dựng chế độ cực quyền toàn trị
khắc nghiệt, ông đề xướng phong trào “công xã
nhân dân” và “đại nhảy vọt” ở TQ để
tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. Thời ông
cầm quyền được đánh dấu bởi
những cuộc vận động ác liệt,
thường là đẫm máu, như cải cách ruộng
đất, “tam phản”, “ngũ phản”, cải tạo
trí thức, “đại cách mạng văn hóa”... đã
đẩy nền kinh tế, văn hóa TQ đến bên
bờ vực thẳm. Hồi sinh thời của ông,
việc sùng bái cá nhân ông đã
lên cao đến mức
chưa từng thấy.
·
Marx
Karl (1818-83) - người sáng lập ra chủ nghĩa Marx,
đã nêu lên vai trò giai cấp vô sản
toàn thế giới
trong việc đánh đổ chủ nghĩa tư
bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản; tác
phẩm căn bản của ông là bộ “Tư Bản”
nổi tiếng; cùng với Engels và một số người
khác, ông đã lập ra Liên Minh Công
Nhân Quốc Tế
(Đệ Nhất Quốc Tế) hồi 1864 và soạn
thảo Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản. Chủ
nghĩa Marx hồi cuối thế kỷ 19 đầu
thế kỷ 20 có ảnh hưởng lớn trong giới
trí thức, nhất là ở Âu Mỹ, nhưng dần
dần qua thực tiễn lịch sử trong thế
kỷ 20 người ta đã thấy rõ những sai lầm
của nó.
·
Medvedev
V. - ủy viên Bộ Chính trị TƯ Đảng Cộng
sản LX dưới thời Gorbachev, phụ trách Ban
quốc tế TƯ.
·
Mikoyan
A.I. (1895-1978) –ủy viên Bộ Chính trị nhiều năm
(1935-66), thuộc giới thân cận Stalin; về sau ông
đã vạch trần tệ sùng bái cá nhân
Stalin.
·
Mitterand
F. (1916-96) – lãnh tụ Đảng Xã hội chủ nghĩa
Pháp, tổng thống Pháp (1981-95).
·
Molotov
V.M. (1890-1986) - ủy viên Bộ Chính trị nhiều năm
(1926-57), thuộc giới thân cận Stalin, một trong
những người tích cực tổ chức các cuộc
đàn áp hàng loạt người vô tội dưới
thời Stalin; cùng với Kaganovich, Malenkov chống lại
đường lối của Khrutshev, nên bị đưa
ra khỏi cương vị lãnh đạo Đảng
hồi 1957. Ông đã ký với Ribbentrov, bộ trưởng
ngoại giao nước Đức, hiệp ước phân
chia đất đai các nước châu Âu giữa
nước Đức
phát-xít và LX.
·
Nagy
Imre (1896-1958) - thủ tướng chính phủ Hungarie
hồi 1953-55 và từ tháng 10 đến tháng 11.1956 sau
là
thành lập ngày 3.11.1956; sau khi quân đội
Liên Xô can
thiệp võ trang dẹp tan cuộc cách mạng nhân
dân
Hungarie, đã bị bắt và bị xử bắn năm
1958; sau khi nước Hungarie
giành lại chủ quyền hồi 1989, ông được
minh oan và coi là anh hùng nhân dân.
·
Nguyễn
Ái Quốc - bí danh của Nguyễn Tất Thành, tức
Hồ Chí Minh sau này.
·
Nguyễn
Minh Cần – xem tiểu sử trên bìa.
·
Nikolaev
L. - người bắn Kirov
năm 1934, bị tử hình.
·
Orlov
- đô đốc hải quân LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo lệnh của Stalin. Ouborevitch -
đại tướng LX,
bị vu khống và bị xử bắn theo lệnh
của Stalin.
·
Piatakov
G.L. (1890-1937) - đảng viên
bolshevich, nhà hoạt động nổi tiếng ĐCS và
nhà nước xô-viết, bị vu khống và bị xử
bắn theo quyết định của Stalin.
·
Plekhanov
G.V. (1856-1918) - triết gia, nhà
lý luận của chủ nghĩa Marx, người sáng
lập Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga,
ông không
tán thành cách mạng vô sản theo kiểu của
Lenin vì cho
rằng nước Nga chưa đủ điều
kiện kinh tế, xã hội cho một cuộc cách mạng
như thế.
·
Primakov
- đại tướng LX,
bị vu khống và bị xử bắn theo quyết
định của Stalin. tr.46.
·Pugo B. - bộ
trưởng Bộ Nội vụ LX, một trong những
người lãnh đạo cuộc đảo chính tháng
8.1991 của những phần tử bảo thủ nhất
trong TƯ ĐCSLX, khi đảo chính thất bại thì
tự tử.
·
Putna
- đại tướng LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo quyết định của Stalin. tr.46.
·Radek K.B. (1885-1939) - nhà
hoạt động của Đảng dân chủ xã hội
Ba Lan và Đức, sau là đảng viên Đảng
bolshevich Nga, ủy viên Ban Chấp hành Quốc Tế Cộng
Sản, bị vu khống và bị xử bắn theo
quyết định của Stalin.
·
Rykov
A.I. (1881-1938) – đảng viên bolshevich, nhà hoạt
động nổi tiếng Đảng Cộng sản và
nhà nước xô-viết, ủy viên Bộ Chính trị
TƯ (1922-30), thủ tướng chính phủ LX (1924-30),
bị vu khống và bị xử bắn theo quyết
định của Stalin.
·
Shatunovskaya
– một trong những đại biểu đã đưa
ra lời chứng tại
đại hội 20 của ĐCS LX về việc
một số phiếu bầu tại đại hội 17
đã bị đánh cắp để gian lận trong
cuộc bầu ban lãnh đạo đảng.
·
Sheboldaev
B. – đại biểu tại đại hội 17 ĐCS
LX đã đề nghị Kirov ra ứng cử vào chức
vụ tổng bí thư, về sau bị đàn áp.
·
Sivkov -
đô đốc hải quân LX,
bị vu khống và bị xử bắn theo quyết
định của Stalin.
·
Stalin
I.V. (tên thật Dzhugashvili) (1878-1953) - nhà cách
mạng cộng
sản nổi tiếng, người kế nhiệm Lenin
làm lãnh tụ LX từ 1924; ông
đã hoàn thiện chế độ cực quyền toàn
trị xô-viết mà Lenin đã khởi đầu.
Dưới chế độ độc tài vô hạn
của cá nhân ông, hàng chục triệu đảng
viên và
những người dân vô tội đã bị giết.
·
Tito
B.I (1892-1980) – lãnh tụ của Liên Minh những
người cộng sản Nam Tư, người
đứng đầu nhà nước Nam Tư; do không
chịu theo khuôn mẫu xô-viết để xây dựng xã
hội Nam Tư, nên bị
Stalin trục xuất Đảng Cộng sản Nam Tư
ra khỏi phong trào cộng sản quốc tế và vu
khống cho ông là gián điệp của đế quốc,
các đảng “anh em” đều hùa theo LX tẩy chay Nam
Tư và đả kích Tito là phần tử xét lại
hiện đại.
·
Tomsky
M.P. (1880-1936) - chủ tịch Công đoàn LX, ủy viên
Bộ Chính trị trong nhiều năm; bị vu khống,
ông bị bắt theo lệnh của Stalin, để không
bị giết, ông đã tự tử.
·
Toukhachevsky
M.N. (1893-1937) - tướng lĩnh nổi tiếng của
Hồng quân trong nội chiến, chỉ huy việc đàn
áp các cuộc nổi dậy ở Kronshtadt và tỉnh
Tambovskaya, thứ trưởng Bộ quốc phòng Liên Xô,
nguyên soái Liên Xô, bị vu khống và bị
xử bắn
theo quyết định của Stalin.
·
Trotsky
L.D. (tên thật là Bronshtein) (1879-1940) - nhà
cách mạng
cộng sản nổi tiếng, ủy viên Bộ Chính
trị TƯ Đảng Cộng sản Nga và Liên Xô (1917,
1919-26), bộ trưởng ngoại giao (1917-18), bộ
trưởng quân sự (1918-25). Cuộc tranh giành quyền
lực giữa Stalin và Trotsky đã kết thúc bằng
sự thất bại của Trotsky, nên 1927, ông bị khai
trừ ra khỏi Đảng, bị đày đến Alma
Ata, rồi trục xuất khỏi LX (1929). Ông khởi
xướng thành lập Đệ Tứ Quốc Tế
(1938), bị giết bởi tên đặc vụ xô-viết
tên là R.Merkader.
·
Vareikis
I. - đại biểu tại đại hội 17
Đảng Công sản LX đã đề nghị Kirov ra
ứng cử vào chức vụ tổng bí thư, về sau
bị đàn áp.
·
Viktorov
- đô đốc hải quân LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo lệnh của Stalin. tr.46.
·Volkogonov D.A. (1928-95) -
giáo sư, tiến sĩ triết học, tiến sĩ
sử học, đảng viên cộng sản, trung
tướng xô-viết, viện sĩ thông tấn Viện
hàn lâm khoa học Nga; ông đã ra khỏi Đảng
Cộng sản LX hồi 1990, trở thành nhà dân chủ
triệt để. Ông đã để lại những tác
phẩm sử học nổi tiếng về Lenin, Trotsky,
Stalin, cũng như về
Khrutshev, Brezhnev, Andropov, Chernenko và Gorbachev.
·
Zatonsky
– chủ tịch ban kiểm phiếu tại đại
hội 17 Đảng Cộng sản LX.
·
Zinoviev
G.E. (tên thật là Radomyslsky) (1883-1936) - đảng
viên
bolshevich, ủy viên Bộ Chính trị TƯ (1917-26) từ thời
Lenin, chủ tịch Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng
Sản (1919-26), bị vu khống và bị xử bắn
theo quyết định của Stalin.
·
·
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 022
GS.NGUYỄN VĂN PHÚ * CON ONG
câu chuyện con ong
Nguyễn Văn Phú
Đêm đã khuya. Theo thường lệ sau khi kinh hhành tại sân chùa, Tổ lên chánh điện, chậm
rãi đi một vòng, để mắt xem xét.Bỗng Ngài dừng lại, nhìn vào cành hoa cắm trên bình ở bàn
thờ đức Quán Thế Âm.Giữa bông hoa,một con ong vàng đang bò chậm chạp. Nghĩ rằng con
ong này ban ngày bay lọt vào chánh điện, hút nhị hoa rồi vướng chân dính cánh vào đó, giờ
này hãy còn loanh quanh tại đây, Ngài nhẹ nhàng giơ tay với một cây nhang mới, khẻ khều
con ong, hy vọng khi nó bám vào đầu cây nhang thì Ngài sẽ đem ra ngoài mà phóng sinh.
Đột nhiên Ngài giật mình.Trong tiếng vo ve, rõ ràng Ngài nghe tiếng nói:
-Bạch Ngài, không phải con lạc vào đây đâu! Từ lâu rồi, có một lần bay ngang qua đây
kiếm mật, con thấy Ngài giảng về nhân quả luân hồi.Con đậu trên khung cửa nghe được toàn
bài.Từ đó con không trở về tổ của con nữa, chỉ quanh quẩn ở đây để chờ được nghe Ngài giảng
Phật pháp, con chưa đưộc nghe thêm thời pháp nào nhưng ngày ngày con được nghe ba thời kinh
khi thì kinh Di Đà,khi thì kinh Địa Tạng,lúc khác lại kinh Dược Sư, hoặc Pháp Hoa.Con
không hiểu được bao nhiêu nhưng vẫn hy vọng một lúc nào đó sẽ hiểu. Xin Ngài đừng bỏ con
ra ngoài,cứ để con ở nguyên chỗ đó, con đang cầu xin đức Quán Âm...
Tu hành đã lâu, Tổ không ngạc nhiên, và hỏi lại con ong rằng:
-Chú đang cầu xin đức Quán Âm điều gì thế?
-Bạch Ngài, con đang cầu xin đức Quán Âm mở lòng đại từ đại bi cho con được biết kiếp,
con đã gây những nghiệp gì mà kiếp này phải đọa làm thân con ong.và kiếp sau, liệu con còn
có thể khá hơn không?Con cầu xin Ngài lâu rồi, con hết lòng thành khẩn, những mong được
Ngài cảm ứng mà chỉ đường cho con.
Tổ nhắm mắt nhập định, hồi lâu mở mắt, bảo con ong nhỏ bé kia rằng:
-Này chú, đức Quán Âm không bỏ chúng sinh nào miễn là chí thành, chí tịnh cầu xin Ngài.
Diều chú muốn biết, tôi giúp chú được một phần, Kiếp trước chú là một người nữ làm ăn siêng
năng đã thế lại cần kiệm biết dành dụm. Nhưng phạm một điều, chú phạm khẩu nghiệp nặng.
-Bạch Ngài, khẩu nghiệp con ra sao? Nói dối, nói xấu, nói hai lưỡi, nói thêu dệt,không
biết con đã phạm những lỗi nào?
-Chú phạm lỗi nói châm chọc làm cho người ta phát điên, phát khùng,làm cho người ta khổ
sở điêu đứng. Vì thế chú phải đọa làm con ong.
-Lạy Ngài, xin Ngài chỉ đường cho con giải thoát.
Tổ lặng lẽ chỉ tay lên tượng đức Thế tôn. Con ong biết ý bay đến đậu dưới chân đức Thế tôn.
Tổ chậm chạp đi tới, làm lễ quy y cho con ong và ban cho một thời pháp.
It lâu sau, khi chú tiểu bao xái bàn thờ, cầm phất trần phủi bụi ở chân tượng đức Thế tôn,
chú thấy xác một con ong. Đúng lúc đó, Tổ đi tới, Ngài ra tay ra hiệu cho chú tiều ngừng
quét.Ngài nhẹ nhàng nhặt cái xác con ong, đem ra cổng chùa, đến gần cây đa lớn. Ngài dí ngón
chân xuống đất, đặt con ong xuống và phủ đất lên, rồi nhập dịnh.
Kể từ đó, có một thần A tu la nương náu ở gốc đa. Ngoài việc giữ chùa, A tu la đều đặn
nghe kinh, tu tâm sửa tánh, những mong đến kiếp sau nữa, sẽ lại được trở thành người, lần này
nhất định tu pháp môn " Tịnh khẩu nghiệp".
(Trich GÓP NHĂT )
Nguyễn Văn Phú
Đêm đã khuya. Theo thường lệ sau khi kinh hhành tại sân chùa, Tổ lên chánh điện, chậm
rãi đi một vòng, để mắt xem xét.Bỗng Ngài dừng lại, nhìn vào cành hoa cắm trên bình ở bàn
thờ đức Quán Thế Âm.Giữa bông hoa,một con ong vàng đang bò chậm chạp. Nghĩ rằng con
ong này ban ngày bay lọt vào chánh điện, hút nhị hoa rồi vướng chân dính cánh vào đó, giờ
này hãy còn loanh quanh tại đây, Ngài nhẹ nhàng giơ tay với một cây nhang mới, khẻ khều
con ong, hy vọng khi nó bám vào đầu cây nhang thì Ngài sẽ đem ra ngoài mà phóng sinh.
Đột nhiên Ngài giật mình.Trong tiếng vo ve, rõ ràng Ngài nghe tiếng nói:
-Bạch Ngài, không phải con lạc vào đây đâu! Từ lâu rồi, có một lần bay ngang qua đây
kiếm mật, con thấy Ngài giảng về nhân quả luân hồi.Con đậu trên khung cửa nghe được toàn
bài.Từ đó con không trở về tổ của con nữa, chỉ quanh quẩn ở đây để chờ được nghe Ngài giảng
Phật pháp, con chưa đưộc nghe thêm thời pháp nào nhưng ngày ngày con được nghe ba thời kinh
khi thì kinh Di Đà,khi thì kinh Địa Tạng,lúc khác lại kinh Dược Sư, hoặc Pháp Hoa.Con
không hiểu được bao nhiêu nhưng vẫn hy vọng một lúc nào đó sẽ hiểu. Xin Ngài đừng bỏ con
ra ngoài,cứ để con ở nguyên chỗ đó, con đang cầu xin đức Quán Âm...
Tu hành đã lâu, Tổ không ngạc nhiên, và hỏi lại con ong rằng:
-Chú đang cầu xin đức Quán Âm điều gì thế?
-Bạch Ngài, con đang cầu xin đức Quán Âm mở lòng đại từ đại bi cho con được biết kiếp,
con đã gây những nghiệp gì mà kiếp này phải đọa làm thân con ong.và kiếp sau, liệu con còn
có thể khá hơn không?Con cầu xin Ngài lâu rồi, con hết lòng thành khẩn, những mong được
Ngài cảm ứng mà chỉ đường cho con.
Tổ nhắm mắt nhập định, hồi lâu mở mắt, bảo con ong nhỏ bé kia rằng:
-Này chú, đức Quán Âm không bỏ chúng sinh nào miễn là chí thành, chí tịnh cầu xin Ngài.
Diều chú muốn biết, tôi giúp chú được một phần, Kiếp trước chú là một người nữ làm ăn siêng
năng đã thế lại cần kiệm biết dành dụm. Nhưng phạm một điều, chú phạm khẩu nghiệp nặng.
-Bạch Ngài, khẩu nghiệp con ra sao? Nói dối, nói xấu, nói hai lưỡi, nói thêu dệt,không
biết con đã phạm những lỗi nào?
-Chú phạm lỗi nói châm chọc làm cho người ta phát điên, phát khùng,làm cho người ta khổ
sở điêu đứng. Vì thế chú phải đọa làm con ong.
-Lạy Ngài, xin Ngài chỉ đường cho con giải thoát.
Tổ lặng lẽ chỉ tay lên tượng đức Thế tôn. Con ong biết ý bay đến đậu dưới chân đức Thế tôn.
Tổ chậm chạp đi tới, làm lễ quy y cho con ong và ban cho một thời pháp.
It lâu sau, khi chú tiểu bao xái bàn thờ, cầm phất trần phủi bụi ở chân tượng đức Thế tôn,
chú thấy xác một con ong. Đúng lúc đó, Tổ đi tới, Ngài ra tay ra hiệu cho chú tiều ngừng
quét.Ngài nhẹ nhàng nhặt cái xác con ong, đem ra cổng chùa, đến gần cây đa lớn. Ngài dí ngón
chân xuống đất, đặt con ong xuống và phủ đất lên, rồi nhập dịnh.
Kể từ đó, có một thần A tu la nương náu ở gốc đa. Ngoài việc giữ chùa, A tu la đều đặn
nghe kinh, tu tâm sửa tánh, những mong đến kiếp sau nữa, sẽ lại được trở thành người, lần này
nhất định tu pháp môn " Tịnh khẩu nghiệp".
(Trich GÓP NHĂT )
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 022
No comments:
Post a Comment