HUỲNH NGỌC TUẤN * NHÀ TÙ CỘNG SẢN
25.5.12
Hồi ức về nhà tù cộng sản Việt Nam
A20 Huỳnh Ngọc Tuấn
Kính tặng anh Nguyễn Ngọc Đăng
Và
Các anh các chú đã từng đi qua những nhà tù Xuân Phước-Thanh Hóa-Nam Hà
Kính nhớ Bác sĩ Nguyễn Kim Long, chú Nguyễn Trưởng, anh Nguyễn Văn Bảo, anh ĐỗHườn
Và
Những người đã nằm xuống trong nhà tù Cộng sản Việt Nam vì những giá trị Dân chủ Nhân quyền.
Huỳnh Ngọc Tuấn
*****
Các anh các chú đã từng đi qua những nhà tù Xuân Phước-Thanh Hóa-Nam Hà
Kính nhớ Bác sĩ Nguyễn Kim Long, chú Nguyễn Trưởng, anh Nguyễn Văn Bảo, anh ĐỗHườn
Và
Những người đã nằm xuống trong nhà tù Cộng sản Việt Nam vì những giá trị Dân chủ Nhân quyền.
Huỳnh Ngọc Tuấn
*****
(Phần 1)
Miền Trung Việt Nam bây giờ
là chớm đông với những cơn mưa trút nước. Cánh đồng trước mặt một ngày
trước đây mướt xanh màu lúa non, bây giờ đã mênh mông nước bạc. Những
con đường nhỏ ngập ngụa trong bùn vàrác…chẳng đi đâu được, đọc sách hoài cũng chán, mở tivi ra thi cứ toàn phim Tàuvà những lời lẽ tuyên truyền cũ rích nhai đi nhai lại. Chỉ còn biết ngồi nhìn mưa và vừa nhận được email từ Úc: Ông bạn Nguyễn Ngọc Đăng đang bị ốm. Lòng buồn rười rượi. Bao nhiêu kỷ niệm lại quay về.
Trại giam Xuân Phước - Phú Yên, mùa đông 1994
Những cơn mưa nhỏ lất phất, trời không lạnh, những người tù chính trị chúng tôi trong đội 12 vào nghỉ giải lao trong một căn nhà lợp lá dừa. Cũng không phải là nhà vì chỉ có mái che, chung quanh không có phên vách gì.
Tôi - một người tù chính trị còn rất trẻ và mới toanh, lúc đó tôi mới 35 tuổi, tìm một chỗ khiêm tốn giữa những bậc trưởng thượng.
Tôi gọi họ là trưởng thượng vì tuổi tác họ đáng bậc anh cả hoặc cha chú; về con đường đấu tranh cho những giá trị tự do dân chủ, họ là những người đi trước. Những người như chú Phạm Đức Khâm-thành viên diễn đàn Dân chủ của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt. Thiếu tá Đặng Trần Phương, một sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng hoà. Đối với tôi, họ là bậc cha chú và cũng là những người thầy đáng kính.
Trong đội 12 lúc này, còn có Phạm Văn Thành từ Pháp về cũng rất trẻ, Thành nhỏ hơn tôi 1 tuổi. Anh Dương Văn Sĩ hơn tôi 2 tuổi nhưng tham gia đấu tranh và bị bắt lúc 24 tuổi chưa hề biết bàn tay nuồt nà của phụ nữ ra sao! Anh Trần Nam Phương, anh Hoàng Xuân Chinh, Trương Nhật Tân là những người đồng hương Quảng Nam, cũng là những người anh cả dìu dắt giúp đỡtôi trên con đường gian khổ và đầy hiểm nguy trong nhà tù. Anh Nguyễn Văn Trung, Vũ Đình Thụy là những người đã đi trước tôi trên con đường đấu tranh này hơn 10 năm…Đứng giữa những con người này tôi thấy mình nhỏ nhoi và non trẻ. Anh Bùi Gia Liêm một cựu sĩ quan (Đại úy) có mái tóc bồng bềnh và bạc trắng với hàm râu quai nón bao kín mặt, đôi mắt hiền từ, giọng nói ấm áp, cửchỉ ân cần, mang đến cho chúng tôi một ấm trà nóng và bao thuốc lá rẻ tiền…Tôi không hút thuốc, chỉ ngồi uống trà và nghe các anh nói chuyện.
Anh công an dẫn giải đội đứng gần đó, anh này người sắc tộc miền núi phía Bắc, dáng người cao gầy (đi qua mấy nhà tù Cộng Sản, tôi chưa gặp người công an nào tốt như anh ta. Sau này anh ta bị thải hồi).
Đứng khoảng 5 phút, anh ta lại bỏ đi. Tôi không biết anh ta nghĩ gì, nhưng có lẽ anh ta muốn tỏ ra lịch sự không muốn nghe lén chuyện người khác. Hơn nữa, ở đây là rừng núi, chung quanh kiểm soát chặt chẽ chẳng sợ ai trốn.
Anh Thành ra hiệu cho chúng tôi xích gần lại để thông báo cho chúng tôi biết một tin quan trọng. Theo nguốn tin từ những anh em đi làm “rộng” cho biết: Đài VOA đưa tin sắp tới sẽ có một phái đoàn của uỷ ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốcđến Việt Nam để thanh sát, chưa biết chính xác thời gian nhưng khoảng một tuần nữa. Mọi người trao đổi với nhau chớp nhoáng và sơ khởi ý kiến của mình … sẽlàm gì, nói gì khi phái đoàn đến. Riêng tôi rất hồi hộp và vui mừng vì nguồn tin này.
Tôi - một người tù chính trị còn rất trẻ và mới toanh, lúc đó tôi mới 35 tuổi, tìm một chỗ khiêm tốn giữa những bậc trưởng thượng.
Tôi gọi họ là trưởng thượng vì tuổi tác họ đáng bậc anh cả hoặc cha chú; về con đường đấu tranh cho những giá trị tự do dân chủ, họ là những người đi trước. Những người như chú Phạm Đức Khâm-thành viên diễn đàn Dân chủ của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt. Thiếu tá Đặng Trần Phương, một sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng hoà. Đối với tôi, họ là bậc cha chú và cũng là những người thầy đáng kính.
Trong đội 12 lúc này, còn có Phạm Văn Thành từ Pháp về cũng rất trẻ, Thành nhỏ hơn tôi 1 tuổi. Anh Dương Văn Sĩ hơn tôi 2 tuổi nhưng tham gia đấu tranh và bị bắt lúc 24 tuổi chưa hề biết bàn tay nuồt nà của phụ nữ ra sao! Anh Trần Nam Phương, anh Hoàng Xuân Chinh, Trương Nhật Tân là những người đồng hương Quảng Nam, cũng là những người anh cả dìu dắt giúp đỡtôi trên con đường gian khổ và đầy hiểm nguy trong nhà tù. Anh Nguyễn Văn Trung, Vũ Đình Thụy là những người đã đi trước tôi trên con đường đấu tranh này hơn 10 năm…Đứng giữa những con người này tôi thấy mình nhỏ nhoi và non trẻ. Anh Bùi Gia Liêm một cựu sĩ quan (Đại úy) có mái tóc bồng bềnh và bạc trắng với hàm râu quai nón bao kín mặt, đôi mắt hiền từ, giọng nói ấm áp, cửchỉ ân cần, mang đến cho chúng tôi một ấm trà nóng và bao thuốc lá rẻ tiền…Tôi không hút thuốc, chỉ ngồi uống trà và nghe các anh nói chuyện.
Anh công an dẫn giải đội đứng gần đó, anh này người sắc tộc miền núi phía Bắc, dáng người cao gầy (đi qua mấy nhà tù Cộng Sản, tôi chưa gặp người công an nào tốt như anh ta. Sau này anh ta bị thải hồi).
Đứng khoảng 5 phút, anh ta lại bỏ đi. Tôi không biết anh ta nghĩ gì, nhưng có lẽ anh ta muốn tỏ ra lịch sự không muốn nghe lén chuyện người khác. Hơn nữa, ở đây là rừng núi, chung quanh kiểm soát chặt chẽ chẳng sợ ai trốn.
Anh Thành ra hiệu cho chúng tôi xích gần lại để thông báo cho chúng tôi biết một tin quan trọng. Theo nguốn tin từ những anh em đi làm “rộng” cho biết: Đài VOA đưa tin sắp tới sẽ có một phái đoàn của uỷ ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốcđến Việt Nam để thanh sát, chưa biết chính xác thời gian nhưng khoảng một tuần nữa. Mọi người trao đổi với nhau chớp nhoáng và sơ khởi ý kiến của mình … sẽlàm gì, nói gì khi phái đoàn đến. Riêng tôi rất hồi hộp và vui mừng vì nguồn tin này.
Hai, ba ngày sau đó, ban giám thị trại giam quyết định cho tổng kiểm tra. Chúng tôi được nghỉ một buổi để kiểm tra buồng giam và đồ
đạc cá nhân. Hai cán bộ an ninh - 1 trực trại cùng với 1 anh tự quản
(có nơi gọi là trật tự - họ là những tù nhân thường phạm được chọn lựa
cẩn thận về lý lịch). Từng người một mang đồ của mình ra sân, bày ra hai
tấm chiếu trải dướiđất. Hai cán bộ của trại kiểm tra từng trang sách,
từng chiếc áo, chiếc quần. Họ lộn ngược, lộn xuôi, lục lọi cẩn thận, nắm
bóp khắp nơi. Họ mở từng hộp trà, bao muối, xé tung những bao mì tôm,
bao thuốc lá. Xong đồ dùng cá nhân - họkhám xét trong người. Cởi quần
dài, áo ngoài ra, còn lại đồ lót. Họ thận trọng nắn bóp từng chỗ kín.
Nếu có nghi ngờ ai về một điều gì đó thì sẽ khám kỹ hơn. Bảo người tù
cuối khom xuống, anh trật tự kéo quần lót xuống, dùng hai tay vạch mông
ra nhòm vào hậu môn, hai cán bộ trại giam cũng dòm vào cái nơi tối tăm vàkhông sạch sẽ đó, đầu nghiêng qua nghiêng lại rất cẩn trọng !!!
Kiểm tra xong, chúng tôi được lệnh chuyển buồng giam. Tôi mang đồ đạc của mìnhvào buồn số 2, khu A.
Sau khi ổn định chỗ nằm tôi mới biết tất cả những người tù chính trị được xem là “có vấn đề” đều dồn hết về đây. Buồng số 2 của tôi gồm có 3 đội: Đội 12, đội 17, đội 2 - Buồng số 1 cũng có 2 đội: đội nhà bếp - quy tụ những tù nhân chính trị có mức án từ 20 năm đến chung thân và phần lớn những anh em trong tổ chức Liên đảng của ông Hoàng Việt Cương,đội 6 và những nhân sự đặc biệt giúp việc cho cán bộ. Tôi và anh Nguyễn Ngọc Đăng, người của Liên đảng có quốc tịch Canada. Anh Đăng là người thấp đậm, người Bắc 54 ở cùng buồng. Trước đây, những buổi chiều, khi tôi đi làm về, cơm nước xong đi dạo ngoài sân chờ điểm danh. Chúng tôi cũng chỉ mỉm cười, chào xã giao, trao đổi một vài câu về thời tiết. Lúc này, anh Đăng đã nổi tiếng trong anh em là người ăn nói bộc trực. Có khi làm mất lòng anh em và làm cay cú những tay cán bộ trong trại. Có một lần, anh vừa đi lại trong sân buổi chiều, vừa hát rất to: “Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến, hận thù đằng đằng, nên hoà hay chiến. Nên chiến! Nên chiến…” anh hét lên rất to… Anh em ai nghe thấy cũng cười lắc đầu. Cán bộ của trại nghe anh hát với một thái độ đầy ẩn ý nhưng cũng lờ đi. Nếu là anh em quốc nội thì đã bị chụp cho cái mũ nào đó và đi cùm là cái chắc rồi . Tôi phục anh lắm.
Kiểm tra xong, chúng tôi được lệnh chuyển buồng giam. Tôi mang đồ đạc của mìnhvào buồn số 2, khu A.
Sau khi ổn định chỗ nằm tôi mới biết tất cả những người tù chính trị được xem là “có vấn đề” đều dồn hết về đây. Buồng số 2 của tôi gồm có 3 đội: Đội 12, đội 17, đội 2 - Buồng số 1 cũng có 2 đội: đội nhà bếp - quy tụ những tù nhân chính trị có mức án từ 20 năm đến chung thân và phần lớn những anh em trong tổ chức Liên đảng của ông Hoàng Việt Cương,đội 6 và những nhân sự đặc biệt giúp việc cho cán bộ. Tôi và anh Nguyễn Ngọc Đăng, người của Liên đảng có quốc tịch Canada. Anh Đăng là người thấp đậm, người Bắc 54 ở cùng buồng. Trước đây, những buổi chiều, khi tôi đi làm về, cơm nước xong đi dạo ngoài sân chờ điểm danh. Chúng tôi cũng chỉ mỉm cười, chào xã giao, trao đổi một vài câu về thời tiết. Lúc này, anh Đăng đã nổi tiếng trong anh em là người ăn nói bộc trực. Có khi làm mất lòng anh em và làm cay cú những tay cán bộ trong trại. Có một lần, anh vừa đi lại trong sân buổi chiều, vừa hát rất to: “Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến, hận thù đằng đằng, nên hoà hay chiến. Nên chiến! Nên chiến…” anh hét lên rất to… Anh em ai nghe thấy cũng cười lắc đầu. Cán bộ của trại nghe anh hát với một thái độ đầy ẩn ý nhưng cũng lờ đi. Nếu là anh em quốc nội thì đã bị chụp cho cái mũ nào đó và đi cùm là cái chắc rồi . Tôi phục anh lắm.
Có một điều là ở đây, những người
tù chính trị trại A20 Xuân Phước này chưởi chế độ, chưởi cộng sản rất
thoải mái, không sợ hãi gì…Lúc mới vào
Xuân Phước từ trại giam An Điềm Quảng Nam, nghe anh em công khai chưởi
cộng sản tôi phát hoảng. Lúc này, tôi mới hoàn hồn. Vì ở Xuân Phước này
khác xa với An Điềm, Quảng Nam. An Điềm, Quảng Nam là một địa ngục thực
sự. Đặt chân đến Xuân Phước tôi mới hy vọng mình có thể sống sót để quay
về với các con. Tại An Điềm, không có chút hy vọng nào có thể sống còn.
Nếu không chết vì tra tấn đánh đập thì cũng chết vì kiệt sức bởi chế độ
cưỡng bức lao động nghiệt ngã với điều kiện sinh hoạt tồi tệ đến tận
cùng. Tại An Điềm, Quảng Nam chỉ có 6 tháng ở đó mà tôi đã chứng kiến
mấy vụ tự tử. Một người nhảy từ cầu treo cao hơn 10m, một người treo cổ,
một người uống thuốc trừ sâu, một người tự cắt đứt nhượng chân, một
người tự cắt đứt nhượng tay của mình vì không chịu đựng nổi chỉ tiêu và điều kiện lao động cùng với sự tra tấn đánh đập dã man ở đây.
Ở Xuân Phước thì mình được mua hàng ở Canteen và tự nấu ăn, lao động thì cũng vừa sức và điều quan trọng là được ngủ yên giấc; không bị ngồi nội quy, không bị đánh đập tra tấn nếu không hoàn thành chỉ tiêu lao động. Người điều hành của trại giam A20 này toàn là người Miền Bắc vì là trại của Bộ công an.
Tôi có cảm tưởng là người miền Bắc họ tốt hơn người Quảng Nam. Cũng là cộng sản nhưng người miền Bắc không quá tàn ác như người Quảng Nam. Rồi khi sống gần gũi với những người như anh Nguyễn NgọcĐăng, chú Phạm Đức Khâm, anh Phạm Anh Dũng, Phạm Văn Thành, tôi lại quý những người miền Bắc hơn. Có thể những cảm nghĩ này là ngây ngô, nhưng nó xuất phát từ tận đáy lòng.
Ba ngày sau…
Vẫn là những cơn mưa lất phất, đôi lúc tưởng trời hững nắng lúc về chiều, so với Quảng Nam thời tiết ở đây thật dễ chịu, không có những cơn mưa như trút nước hoặc dai dẳng đến thối đất. Chúng tôi vẫn đi làm và trao đổi những thông tin mới nhất. Theo nguồn tin đáng tin cậy thì phái đoàn của Uỷ ban nhân quyền Liên Hiệp Quốc sẽ đến trong ngày mai. Buổi tối, anh em vẫn uống trà như mọi ngày, nhưng trong lòng ai nấy cũng bồi hồi vì đây là cơ hội để trình bày với phái đoàn những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Ai cũng chuẩn bị cho mình một bài “diễn văn” súc tích nhất. Chúng tôi cốgắng giữ bí mật làm như không biết gì cả, vì trong phòng có rất nhiều tai mắt Cộng Sản.
Vẫn như mỗi tối, anh Nguyễn Đức với cây đàn Guitar đặt nằm trên sàn, anh dùng một thanh sắt nhỏ, sáng bóng ấn lên 6 dây đàn, tay kia lướt trên mặt đàn, bàn tay khô gầy nhưng mềm mại, uyển chuyển, sinh động vô cùng. Tiếng đàn thoát ra du dương đến lạ lùng. Tôi có hỏi anh vì ngạc nhiên lắm, lần đầu tiên trong đời được thưởng thức âm thanh lạ lẫm và mềm mại này. Anh mỉm cười, tay vẫn lướt trên từng phiếm đàn: “Mình bắt chước tiếng Hạ uy cầm”
Tối nay, mân mê chén trà trên tay, vẫn tiếng đàn mượt mà ấy, vẫn tiếng nhạc mà tôi yêu thích ấy nhưng không sao tập trung được. Tuy vậy tôi vẫn nhận ra sựngập ngừng khác thường khi anh Đức dạo khúc: ”Tiếng Xưa” của Dương Thiệu Tước. Có lẽ anh cũng đang trong tâm trạng như tôi.
Một đêm dài trôi qua trong thao thức, trằn trọc, tôi thức giấc khi nghe tiếng kẻng.
Vẫn là những cơn mưa lất phất, đôi lúc tưởng trời hững nắng lúc về chiều, so với Quảng Nam thời tiết ở đây thật dễ chịu, không có những cơn mưa như trút nước hoặc dai dẳng đến thối đất. Chúng tôi vẫn đi làm và trao đổi những thông tin mới nhất. Theo nguồn tin đáng tin cậy thì phái đoàn của Uỷ ban nhân quyền Liên Hiệp Quốc sẽ đến trong ngày mai. Buổi tối, anh em vẫn uống trà như mọi ngày, nhưng trong lòng ai nấy cũng bồi hồi vì đây là cơ hội để trình bày với phái đoàn những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Ai cũng chuẩn bị cho mình một bài “diễn văn” súc tích nhất. Chúng tôi cốgắng giữ bí mật làm như không biết gì cả, vì trong phòng có rất nhiều tai mắt Cộng Sản.
Vẫn như mỗi tối, anh Nguyễn Đức với cây đàn Guitar đặt nằm trên sàn, anh dùng một thanh sắt nhỏ, sáng bóng ấn lên 6 dây đàn, tay kia lướt trên mặt đàn, bàn tay khô gầy nhưng mềm mại, uyển chuyển, sinh động vô cùng. Tiếng đàn thoát ra du dương đến lạ lùng. Tôi có hỏi anh vì ngạc nhiên lắm, lần đầu tiên trong đời được thưởng thức âm thanh lạ lẫm và mềm mại này. Anh mỉm cười, tay vẫn lướt trên từng phiếm đàn: “Mình bắt chước tiếng Hạ uy cầm”
Tối nay, mân mê chén trà trên tay, vẫn tiếng đàn mượt mà ấy, vẫn tiếng nhạc mà tôi yêu thích ấy nhưng không sao tập trung được. Tuy vậy tôi vẫn nhận ra sựngập ngừng khác thường khi anh Đức dạo khúc: ”Tiếng Xưa” của Dương Thiệu Tước. Có lẽ anh cũng đang trong tâm trạng như tôi.
Một đêm dài trôi qua trong thao thức, trằn trọc, tôi thức giấc khi nghe tiếng kẻng.
Như mọi ngày, làm vệ sinh cá nhân…nhận cơm sáng ăn vộivàng và ra sân tập hợp đi làm.
Hôm nay trời hững nắng..màu nắng vàng ươm trên những tán cây dừa làm cho chúng như ướt đẫm nước. Cái vùng đất Phú Yên này rất hợp với dừa, cây nào cũng trĩu quả, nối tiếp quanh năm. Tôi chợt nhận ra Quê hương mình mỗi nơi mỗi vẻ, mỗi nét riêng. Tôi đến ngồi bên cạnh chú PhạmĐức Khâm. Chú Khâm người thấp đậm, màu da hồng hào, chú đã ngoài 60, mái tóc bạc khá nhiều nhưng đó là mái tóc gợn sóng bồng bềnh, nghệ sĩ với một gương mặt đẹp quý phái…Chú là một con người nhân hậu. Khi chân ướt chân ráo đến Phú Yên, tôi may mắn được Trương Nhật Tângiới thiệu với chú. Lúc đó tôi mới 35, bằng tuổi con trai đầu của chú. Với tôi, chú mãi là người thầy đã dìu dắt tôi, trao truyền cho tôi những kinh nghiệm quý báu.
Chú là chứng nhân của một thời đại-thời đại đầy đau thương và nước mắt của dân tộc. Chú kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện. Khi tâm sự với tôi, chú nói có dự định sau này sẽ viết một cuốn hồi ký về cuộc đời mình. Cuộc đời đã can dự vàchứng kiến những thăng trầm của đất nước, những biến cố lớn của dân tộc. Tôi vẫn chờ được đọc cuốn hồi ký đó và tôi tin rằng đó sẽ là một cuốn sách hay vàrất giá trị để những người trẻ sau này hiểu được những gì đã xảy ra với đất nước và dân tộc mình.
Sau khi lục xét từng người, chúng tôi xuất trại. Khu đất của đội 12 chúng tôi tiếp giáp với trại. Ở đây có nhiều ao nuôi cá, rất nhiều cá: rám cỏ, mè, rô phi, chép. Tôi được những anh em “cựu chiến binh” từ những ngày đầu kể cho nghe những ngày tháng hãi hùng trước biến cố Đông Âu và sụp đổ của Liên Xô. Lúc đó, chế độ lao từ ở đây cực kỳ nghiệt ngã, với sự tra tấn đánh đập, cưỡng bức laođộng và thiếu đói: đã cướp đi sinh mạng của rất nhiều anh em. Có những người còn rất trẻ, chỉ mới tuổi đôi mươi. Chưa một lần cầm tay người phụ nữ, chưa biết hương vị của tình yêu, họ đã dấn thân vào con đường đấu tranh vì không thểsống nỗi với chế độ bạo ngược tàn ác, vì không thể khoanh tay đứng nhìn những người cộng sản đang dẫn dắt dân tộc và đất nước vào hố thẳm, vì đã sớm nhận ra cái chủ nghĩa phi nhân hại nước, vì đã sớm đoán định ra cái não trạng hoangđường, phiêu lưu nguy hiểm của tập đoàn cộng sản. Và họ đã ngã xuống…, mãi mãi ra đi khi ước mơ giải phóng dân tộc khỏi sự mông muội, tái lập Tự do-Dân chủchưa thành. Nhưng sự hy sinh của họ lịch sử sẽ không quên.
Rất nhiều lần tôi đứng trên dòng suối nhỏ, nơi có chiếc cầu tre bắc qua. Chung quanh là màu xanh của bắp, của rau xanh, của những tán dừa… màu vàng chói chang của ánh nắng hắt lên từ mặt hồ. Tôi vẫn ý thức một cách thường trực rằng: Đất dưới chân tôi đang đứng đây, trên con đường mòn nhỏ quanh co này, máu và xương của những người yêu nước đã đổ xuống đây!
Hôm nay trời hững nắng..màu nắng vàng ươm trên những tán cây dừa làm cho chúng như ướt đẫm nước. Cái vùng đất Phú Yên này rất hợp với dừa, cây nào cũng trĩu quả, nối tiếp quanh năm. Tôi chợt nhận ra Quê hương mình mỗi nơi mỗi vẻ, mỗi nét riêng. Tôi đến ngồi bên cạnh chú PhạmĐức Khâm. Chú Khâm người thấp đậm, màu da hồng hào, chú đã ngoài 60, mái tóc bạc khá nhiều nhưng đó là mái tóc gợn sóng bồng bềnh, nghệ sĩ với một gương mặt đẹp quý phái…Chú là một con người nhân hậu. Khi chân ướt chân ráo đến Phú Yên, tôi may mắn được Trương Nhật Tângiới thiệu với chú. Lúc đó tôi mới 35, bằng tuổi con trai đầu của chú. Với tôi, chú mãi là người thầy đã dìu dắt tôi, trao truyền cho tôi những kinh nghiệm quý báu.
Chú là chứng nhân của một thời đại-thời đại đầy đau thương và nước mắt của dân tộc. Chú kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện. Khi tâm sự với tôi, chú nói có dự định sau này sẽ viết một cuốn hồi ký về cuộc đời mình. Cuộc đời đã can dự vàchứng kiến những thăng trầm của đất nước, những biến cố lớn của dân tộc. Tôi vẫn chờ được đọc cuốn hồi ký đó và tôi tin rằng đó sẽ là một cuốn sách hay vàrất giá trị để những người trẻ sau này hiểu được những gì đã xảy ra với đất nước và dân tộc mình.
Sau khi lục xét từng người, chúng tôi xuất trại. Khu đất của đội 12 chúng tôi tiếp giáp với trại. Ở đây có nhiều ao nuôi cá, rất nhiều cá: rám cỏ, mè, rô phi, chép. Tôi được những anh em “cựu chiến binh” từ những ngày đầu kể cho nghe những ngày tháng hãi hùng trước biến cố Đông Âu và sụp đổ của Liên Xô. Lúc đó, chế độ lao từ ở đây cực kỳ nghiệt ngã, với sự tra tấn đánh đập, cưỡng bức laođộng và thiếu đói: đã cướp đi sinh mạng của rất nhiều anh em. Có những người còn rất trẻ, chỉ mới tuổi đôi mươi. Chưa một lần cầm tay người phụ nữ, chưa biết hương vị của tình yêu, họ đã dấn thân vào con đường đấu tranh vì không thểsống nỗi với chế độ bạo ngược tàn ác, vì không thể khoanh tay đứng nhìn những người cộng sản đang dẫn dắt dân tộc và đất nước vào hố thẳm, vì đã sớm nhận ra cái chủ nghĩa phi nhân hại nước, vì đã sớm đoán định ra cái não trạng hoangđường, phiêu lưu nguy hiểm của tập đoàn cộng sản. Và họ đã ngã xuống…, mãi mãi ra đi khi ước mơ giải phóng dân tộc khỏi sự mông muội, tái lập Tự do-Dân chủchưa thành. Nhưng sự hy sinh của họ lịch sử sẽ không quên.
Rất nhiều lần tôi đứng trên dòng suối nhỏ, nơi có chiếc cầu tre bắc qua. Chung quanh là màu xanh của bắp, của rau xanh, của những tán dừa… màu vàng chói chang của ánh nắng hắt lên từ mặt hồ. Tôi vẫn ý thức một cách thường trực rằng: Đất dưới chân tôi đang đứng đây, trên con đường mòn nhỏ quanh co này, máu và xương của những người yêu nước đã đổ xuống đây!
Chúng tôi được anh đội trưởng Ngô Bích phân chia công việc.
Hôm nay, tôi, chú Khâm, Phạm Văn Thànhvà mấy anh em khác đi cắt cỏ, nhổ rau cho cá. Tôi và anh Trần Đức Hào gom cỏ và rau sam vào giỏ tre lớn để ném xuống ao cho cá. Dưới làn nước đục ngầu, cá rất nhiều. Tôi ôm từng đống cỏ lớn và rau ném xuống mặt hồ. Chỉ một lát sau mặt nước xôn xao bóng cá, chúng vùng vẫy tranhgiành nhau, làm cả một vùng nước xao động. Những con cá trắm cỏ to bằng bắp vếngười lớn, những con cá mè 10-15 kg, chao lượn … thấp thoáng những chiếc lưngđen trũi. Trông đẹp lạ lùng.
Đến giờ giải lao, chúng tôi tụ tập trong túp lều lợp bằng lá dừa để uống trà vàtrao đổi tin tức. Tôi nói với chú Khâm: “Chú hát một bài cho anh em nghe đi chú”
Chú Khâm cười thật giòn: “Bây giờ có lòng dạ nào mà hát nữa chứ.”
Nói thì nói vậy nhưng chú vẫn hát. Bài hát tôi vẫn ưa thích: “Anh đến thăm em một chiều mưa”.
Anh Trần Diễn, một người rất am hiểu về âm nhạc, cộng với khả năng xướng âm tuyệt vời…huýt sáo theo tiếng hát.. Khi bài hát chấm dứt, anh nói: “Anh Khâm có chất giọng rất tốt”
Chúng tôi – mỗi người đón nhận mấy cây kẹo của thầy Mai Đức Chương trao cho. Thầy Mai Đức Chương thuộc dòng Đồng Công của Đức Cha Trần Đình Thủ… Khi chưa bị bắt, tôi có đọc báo về vụ án này… Tôi có hỏi thầy về sự thật của việc này. Thầy điềm tĩnh nhưng thoáng nét buồn rầu trên khuôn mặt già nua:
“Chính quyền họ dựng lên vụ án này đểcướp đất, cướp tài sản của giáo hội và cũng để trừng phạt vì Cha bề trên không chịu hợp tác với chính quyền. Họ sợ những ảnh hưởng của Đức Cha trong cộng đồng giáo dân không có lợi cho họ”. Giờ tôi mới hiểu ra đây chỉ là vụ vừa ăn cướp vừa la làng, đây không phải là vụ đầu tiên cũng không phải vụ cuối cùng!
Hôm nay, tôi, chú Khâm, Phạm Văn Thànhvà mấy anh em khác đi cắt cỏ, nhổ rau cho cá. Tôi và anh Trần Đức Hào gom cỏ và rau sam vào giỏ tre lớn để ném xuống ao cho cá. Dưới làn nước đục ngầu, cá rất nhiều. Tôi ôm từng đống cỏ lớn và rau ném xuống mặt hồ. Chỉ một lát sau mặt nước xôn xao bóng cá, chúng vùng vẫy tranhgiành nhau, làm cả một vùng nước xao động. Những con cá trắm cỏ to bằng bắp vếngười lớn, những con cá mè 10-15 kg, chao lượn … thấp thoáng những chiếc lưngđen trũi. Trông đẹp lạ lùng.
Đến giờ giải lao, chúng tôi tụ tập trong túp lều lợp bằng lá dừa để uống trà vàtrao đổi tin tức. Tôi nói với chú Khâm: “Chú hát một bài cho anh em nghe đi chú”
Chú Khâm cười thật giòn: “Bây giờ có lòng dạ nào mà hát nữa chứ.”
Nói thì nói vậy nhưng chú vẫn hát. Bài hát tôi vẫn ưa thích: “Anh đến thăm em một chiều mưa”.
Anh Trần Diễn, một người rất am hiểu về âm nhạc, cộng với khả năng xướng âm tuyệt vời…huýt sáo theo tiếng hát.. Khi bài hát chấm dứt, anh nói: “Anh Khâm có chất giọng rất tốt”
Chúng tôi – mỗi người đón nhận mấy cây kẹo của thầy Mai Đức Chương trao cho. Thầy Mai Đức Chương thuộc dòng Đồng Công của Đức Cha Trần Đình Thủ… Khi chưa bị bắt, tôi có đọc báo về vụ án này… Tôi có hỏi thầy về sự thật của việc này. Thầy điềm tĩnh nhưng thoáng nét buồn rầu trên khuôn mặt già nua:
“Chính quyền họ dựng lên vụ án này đểcướp đất, cướp tài sản của giáo hội và cũng để trừng phạt vì Cha bề trên không chịu hợp tác với chính quyền. Họ sợ những ảnh hưởng của Đức Cha trong cộng đồng giáo dân không có lợi cho họ”. Giờ tôi mới hiểu ra đây chỉ là vụ vừa ăn cướp vừa la làng, đây không phải là vụ đầu tiên cũng không phải vụ cuối cùng!
Tôi viết những dòng này khi sự kiện Thái Hà và Toà khâm sứ vừa lắng xuống nhưng chưa chấm dứt…
Vấn đề là hoàn cảnh bây giờ đã khác xưa…Cộng sản Việt Nam không còn đủ thế vàlực để làm ra một vụ như vụ án Đồng Công nữa. Cộng sản Việt Nam đã bị đẩy vào thế phòng ngự.
Vấn đề là hoàn cảnh bây giờ đã khác xưa…Cộng sản Việt Nam không còn đủ thế vàlực để làm ra một vụ như vụ án Đồng Công nữa. Cộng sản Việt Nam đã bị đẩy vào thế phòng ngự.
Chúng tôi tiếp tục đi cắt cỏ, chỉ còn hai
giỏ nữa làđủ chỉ tiêu cho buổi mai. Chúng tôi cố gắng hoàn thành thật
sớm để còn đi kiếm ít rau cho mình. Đi ngang qua vườn rau thơm, anh Nguyễn Đức
phụ trách cái vườn này, tôi thấy anh lom khom, chậm rãi cắt rau. Ở đây
có đủ loại rau thơm, bạc hà, tía tô, ngò, hành hương, rau răm, dấp cá -
mùi thơm quen thuộc và hấp dẫn.
Mới sáu mươi mà anh Đức trông như một ông cụ ngoài 70 hom hem, yếu đuối. Trông anh tôi vô cùng ái ngại với bản án chung thân, với một sức khoẻ tàn tạ như thế,anh còn có cơ hội để quay về với các con không? Anh đứng lên, dùng nắm tay xương xẩu đấm nhè nhẹ vào lưng khi tôi vừa ngang qua chỗ anh, anh nhìn tôi, nụcười thân thiện. Anh bảo: “Lấy một ít rau thơm về ăn đi em”.
Tôi cảm tạ và nhận một gói ni lon nhỏ đầy rau mà anh đã dành cho tôi… nói với anh dăm ba câu, tôi vội vã đi về bờ ao rau muống.. Tôi lội xuống hái một ít rau muống về luộc cho bữa trưa. Ao và ruộng ở đây không có đỉa. Tôi rất sợ đỉa. Thời gian ở An Điềm để lại một ấn tượng hãi hùng làm cho trong những giấc mơ tôi vẫn còn sợ. Ruộng ở An Điềm toàn đỉa ơi là đỉa. Chúng tôi bị chúng tấn công tứphía. Cái loại sinh vật hút máu người này thật quái ác, chúng chọn những chỗhiểm để hút máu. Có những anh em tù bị đỉa bâu vào chỗ kín, về đến buồng giam ngủ một đêm. Sáng ra thấy máu chảy dầm dề, lúc đầu phát hoảng, sau mới biết làđỉa. Cởi quần lôi nó ra, cả một cục bầy nhầy gớm ghiếc. Có những chuyện đau lòng mà tôi đã tận mắt chứng kiến chung quanh “Con đỉa An Điềm”. Có một người tù vượt biên khốn khổ, không có thăm nuôi,chắc gia đình anh nghèo quá. Chị vợtrẻ đi làm không đủ nuôi con, lấy tiền đâu thăm anh. Trong tù chỉ có cơm vàmuối trắng. Chỉ tiêu đặt ra cho một người bằng ba bốn người khoẻ mạnh bên ngoài thì làm sao không kiệt sức. Nếu không hoàn thành thì bị đánh đập dã man. Bọn cai ngục ở An Điềm, chúng nghĩ ra nhiều hình thức trừng phạt tù nhân vô cùngđộc ác: cách ly, không được nói chuyện, quan hệ với ai, không được ngủ trưa cho lại sức, tối về bị đấu tố, hành hạ, đánh đập, sỉ nhục hoặc ngồi nội quy (ngồi nhìn bản nội quy đến sáng), hoặc cúi khom lưng xuống nền nhà như tư thế người nông dân cấy lúa với một viên đá tròn đặt trên lưng, nếu viên đá rớt xuống sẽbị đánh, nhẹ thì 1-2 tiếng đồng hồ, nặng thì đến 12 giờ khuya. Với một chính sách “khoan hồng” như thế, làm sao không kiệt sức cho được.
Mới sáu mươi mà anh Đức trông như một ông cụ ngoài 70 hom hem, yếu đuối. Trông anh tôi vô cùng ái ngại với bản án chung thân, với một sức khoẻ tàn tạ như thế,anh còn có cơ hội để quay về với các con không? Anh đứng lên, dùng nắm tay xương xẩu đấm nhè nhẹ vào lưng khi tôi vừa ngang qua chỗ anh, anh nhìn tôi, nụcười thân thiện. Anh bảo: “Lấy một ít rau thơm về ăn đi em”.
Tôi cảm tạ và nhận một gói ni lon nhỏ đầy rau mà anh đã dành cho tôi… nói với anh dăm ba câu, tôi vội vã đi về bờ ao rau muống.. Tôi lội xuống hái một ít rau muống về luộc cho bữa trưa. Ao và ruộng ở đây không có đỉa. Tôi rất sợ đỉa. Thời gian ở An Điềm để lại một ấn tượng hãi hùng làm cho trong những giấc mơ tôi vẫn còn sợ. Ruộng ở An Điềm toàn đỉa ơi là đỉa. Chúng tôi bị chúng tấn công tứphía. Cái loại sinh vật hút máu người này thật quái ác, chúng chọn những chỗhiểm để hút máu. Có những anh em tù bị đỉa bâu vào chỗ kín, về đến buồng giam ngủ một đêm. Sáng ra thấy máu chảy dầm dề, lúc đầu phát hoảng, sau mới biết làđỉa. Cởi quần lôi nó ra, cả một cục bầy nhầy gớm ghiếc. Có những chuyện đau lòng mà tôi đã tận mắt chứng kiến chung quanh “Con đỉa An Điềm”. Có một người tù vượt biên khốn khổ, không có thăm nuôi,chắc gia đình anh nghèo quá. Chị vợtrẻ đi làm không đủ nuôi con, lấy tiền đâu thăm anh. Trong tù chỉ có cơm vàmuối trắng. Chỉ tiêu đặt ra cho một người bằng ba bốn người khoẻ mạnh bên ngoài thì làm sao không kiệt sức. Nếu không hoàn thành thì bị đánh đập dã man. Bọn cai ngục ở An Điềm, chúng nghĩ ra nhiều hình thức trừng phạt tù nhân vô cùngđộc ác: cách ly, không được nói chuyện, quan hệ với ai, không được ngủ trưa cho lại sức, tối về bị đấu tố, hành hạ, đánh đập, sỉ nhục hoặc ngồi nội quy (ngồi nhìn bản nội quy đến sáng), hoặc cúi khom lưng xuống nền nhà như tư thế người nông dân cấy lúa với một viên đá tròn đặt trên lưng, nếu viên đá rớt xuống sẽbị đánh, nhẹ thì 1-2 tiếng đồng hồ, nặng thì đến 12 giờ khuya. Với một chính sách “khoan hồng” như thế, làm sao không kiệt sức cho được.
Người tù vượt biển đó bị một con đỉa bu vào
sau tai trong lúc hì hục vác lúa đến máy tuốt, khi máu me bê bết anh
mới hay. Trong nỗi khốn cùng tuyệt vọng, anh nói: “Tau đã khổ thế này mà
mày còn hút máu tau nữa sao?!”
Mấy tên công an dẫn giải và quản lý đội của anh nghe câu nói đó. Chúng nó coi câu nói toát ra từ một con người tuyệt vọng có ẩn ý gì, nên anh bị gọi lại… vàmột trận đòn man rợ đã phủ xuống tấm thân tàn tạ của anh. Anh không đứng lênđược nữa, người ta khiêng anh về đưa xuống trạm xá trại… Rồi nghe nói người tađưa anh đi bệnh viện… nhưng từ đó không thấy anh đâu. Có người nói anh ta đã chết, có người nói anh ta được khoan hồng cho về với gia đình.
Mấy tên công an dẫn giải và quản lý đội của anh nghe câu nói đó. Chúng nó coi câu nói toát ra từ một con người tuyệt vọng có ẩn ý gì, nên anh bị gọi lại… vàmột trận đòn man rợ đã phủ xuống tấm thân tàn tạ của anh. Anh không đứng lênđược nữa, người ta khiêng anh về đưa xuống trạm xá trại… Rồi nghe nói người tađưa anh đi bệnh viện… nhưng từ đó không thấy anh đâu. Có người nói anh ta đã chết, có người nói anh ta được khoan hồng cho về với gia đình.
Vừa nghĩ miên man vừa hái rau, tôi nghe tiếng ai gọi, quay lại thấy anh Dương Văn Sỹ
đang trong túp lều lợp lá dừa. Tôi đi về phía anh. Anh Sỹ còn rất trẻ,
chỉ hơn tôi hai tuổi nhưng ở tù trước tôi mười năm với mức án chung
thân. Anh Sỹ người tỉnh Sóc Trăng, nước da trắng hồng, tay chân và ngực đầy lông, anh phụ trách việc chăn nuôi heo gà cho đội. Anh đưa cho tôi một gáo nước dừa non… thật tuyệt vời!
Ở trại Xuân Phước này chúng tôi được uống nước dừa thường xuyên, có khi chúng tôi được thưởng công vài trái dừa non hoặc bỏ tiền ra mua, dù sao cũng có cơhội được uống thứ nước tuyệt vời này.
Ở trại Xuân Phước này chúng tôi được uống nước dừa thường xuyên, có khi chúng tôi được thưởng công vài trái dừa non hoặc bỏ tiền ra mua, dù sao cũng có cơhội được uống thứ nước tuyệt vời này.
Kẻng báo thức buổi chiều sớm hơn thường lệ. Chúng tôi bị lùa ra sân trại. Tạiđây được bày biện sẵn một dãy bàn ghế phủ khăn sơ sài, mấy lọ hoa nhựa vô duyênđứng chơ vơ, nó cũng vô duyên như mấy khuôn mặt của Ban giám thị trại - vênh váo, kệch cỡm. Chúng tôi nhìn nhau không ai nói điều gì nhưng ai cũng hiểu là có vẫnđề gì đó liên quan đến việc phái đoàn thanh sát nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Tay phó giám thị của trại Xuân Phước thông báo cho chúng tôi biết với vẻ quan trọng thái quá thường trực ở con người này:
- Chiều nay các anh được nghỉ lao động,và để đối phó với những diễn biến phức tạp của thời tiết, Ban Giám Thị trại quyết định tổ chức buổi thực tập chống bão lụt. Các anh sẽ được Cán bộ hướng dẫn các kỹ năng cứu hộ, yêu cầu tất cả mọi người nghiêm chính chấp hành mệnh lệnh của cán bộ. Ai vi phạm sẽ bị kỹ luật nghiêm khắc.
Dứt lời một vỡ kịch thô vụng được dàn dựng, một số nhân sự đặc biệt của trạiđóng vai người cứu hộ, nạn nhân là những người bệnh đang chết mòn chết dần trong trạm xá của trại vì không có thuốc được đem ra diễn, trông họ thật đáng thương. Phần nhiều trong số bệnh nhân này mắc bệnh hiểm nghèo như lao phổi, ung thư, tiểu đường, bại liệt. Họ được những người tù thường phạm được huấn luyện cõng hoặc đưa lên băng ca cán ra ngoài, không biết là đi đâu. Một ít đồ đạc cá nhân được mang theo.
Đội 12 chúng tôi được lệnh xuất trại. Lần này với hai cán bộ dẫn giải, như vậy chúng tôi sẽ được quản lý chặt chẽ hơn. Chúng tôi bị dẫn vòng vèo trên một conđường quanh co dưới bóng dừa. Sau đó băng qua một rẫy mía, lại về đến đội 12 nơi chúng tôi vẫn làm việc. Chúng tôi được chỉ định nghỉ giải lao, một nửa nghỉtrong lều, một nửa nghỉ trên bờ hồ.
Mười lăm phút sau, Đại úy Thăng - cán bộ quản giáo của đội bảo chúng tôi đi cắt cỏ cho cá… Một số anh em thấy khó hiểu? Anh Nguyễn Văn Trung vốn là người nóng tính, bộc trực lên tiếng hỏi
- Chiều này chúng tôi được nghỉ để thực tập chống bão lụt mà ?
Cán bộ Thăng cười gượng gạo:
- Nói thì nói thế, các anh ngồi không cũng buồn, giúp tôi cắt cỏ cho cá, sẽ có bồi dưỡng cho các anh.
Nói rồi anh ta bảo anh TMT đi hái dừa.
Trong số những cán bộ quản giáo. Tôi nhận thấy Thăng là một người khá biếtđiều, không quá khắc nghiệt như những cán bộ khác. Khi tôi mới vào trại Xuân Phước được biên chế vào đội 12, qua hai tháng thì chuyển qua đội 6 để làm gạch. Công việc trong lò gạch vừa nguy hiểm vừa nặng nhọc. Tên cán bộ quản giáoNguyễn Văn Cát là người tham lam vô độ, hắn muốn vắt kiệt sức người tù. Lúc nào cũng chèn ép anh em nhưng khi gặp sự chống đối thì hắn lại nhượng bộ, được vài hôm hắn lại tìm cách khác để bóc lột sức anh em. Công việc sản xuất gạch mang lại cho hắn những món lợi kếch xù, nhưng hắn không bao giờ thoả mãn.
Mấy tháng ở đội 6 làm tôi vất vả, tuy không nghiệt ngã như ở An Điềm nhưng cũng khá nặng nhọc, hơn nữa tôi muốn có thời gian để đọc sách thêm nên tôi rất hay nghỉ việc mà không xin phép, viện lý do là không làm nổi. Tên Cát muốn kỷ luật tôi để dằn mặt anh em. Tổ chức họp đội để lên án và lấy ý kiến làm cơ sở để kỷluật tôi nhưng tất cả anh em đều đứng về phía tôi, bảo vệ tôi, nhất là anh Hoàng Xuân Chinh, nên cuối cùng tôi chỉbị cảnh cáo trước trại rồi chuyển về đội 12. Tôi thoát được hình thức kỷ luật nhưng cũng trầy trật và căng thẳng vì bị gọi đi làm việc liên miên mấy ngày ròng rã.
Cả đội đi cắt cỏ, anh TM Tuấn và mấy anh em khác đi hái dừa.
Chúng tôi chui vào rẫy mía để nhổ rau dền cho cá, trong rẫy mía có rất nhiều rau dền đỏ, chúng mọc dày trên mặt đất, có cây cao hơn gang tay, tạo thành một tấm thảm lỗ chỗ màu đỏ tía trông tuyệt đẹp. Thỉnh thoảng tôi cũng nhổ một ít vềluộc ăn.
Ngồi khuất trong rẫy mía chúng tôi nói chuyện tương đối thoải mái. Ai cũng đồng ý đây là một vỡ kịch để đối phó với tình hình. Chúng tôi hiểu vừa rồi, họ đưa những người bệnh sắp chết đi giấu một nơi nào đó để khi phái đoàn đến, không nhìn thấy những thây ma vật vờ làm mất đi hình ảnh “ưu việt” của nhà tù CS, thay vào đó là những người khoẻ mạnh được đóng vai bệnh nhân. Chắc là trên đầu giường của những người đóng vai “bệnh nhân” đó đầy ắp những lon sữa, những hộp thuốc quý và thức ăn mà người bệnh nằm mơ cũng không thấy. Khi phái đoàn đi rồi, những hộp sữa, hộp thuốc, hay thức ăn đó được lấy lại cất đi.
Vở kịch này tôi đã mục kích tại trại giam An Điềm, lần đó là để quay phim.
Có đoàn làm phim từ trung ương về, vậy là họ biến chúng tôi thành những diễn viên bất đắt dĩ. Bản chất lừa bịp và coi thường công luận dẫn họ đến những hànhđộng vượt quá ranh giới của sự dối trá…nên biến thành lố bịch.
Những người tù ở trại giam An Điềm kiệt sức vì công việc quá nặng nhọc, bàn tay rách toạt, tươm máu vì nhổ mạ hay cắt lúa được bố trí ngồi đọc sách ở thư việnđược mở cửa vài năm một lần, những người bệnh chỉ còn da bọc xương nằm chờ thần chết đến rước… bỗng một ngày thấy mình nằm giữa đống thuốc và thức ăn đầy ắp ngon lành…được chiêm ngưỡng trong chốc lát những thứ mình khao khát đó… Rồi hình ảnh cán bộ CS kéo chăn đắp cho tù nhân… được chiếu trên Tivi cho người dân thấy được sự nhân ái của công an CSVN làm tôi thấy buôn nôn. Ở đất nước VN này, có ai không biết công an CS và sự tàn bạo của họ, chỉ cần có cơ hội là người dân sẽ tự phát đứng lên… và máu sẽ đổ thành sông… Họ sẽ mổ bụng, moi gan Việt cộng, có khi con cái những người này cũng bị vạ lây. Nghĩ đến viễn cảnh này, tôi muốn hoá thân thành bướm như Trang Tử để khỏi phải thấy… một ngày nào đó không xa.
(Phần 2)
Trời mùa đông đến thật nhanh, mới đó mà con đường nhỏ và rặng cây trước mắt đã nhập nhoà, như thường lệ thì chúng tôi đã về trại rồi. Anh Nguyễn Văn Trung giục anh Ngô Bích đội trưởng đến hỏi cán bộ Thăng sao chưa cho anh em về. Anh Ngô Bích ngần ngại một chút rồi đứng dậy đến hỏi: “Anh em về đựơc chưa cán bộ, đã trểrồi - còn tắm táp và ăn tối nữa chứ.” (Anh Bích nói thêm như để giải thích).
- Chưa có lệnh, các anh ráng chờ một chút.
Chúng tôi nhìn về phía trại… ánh đèn vàng ệch từ dẫy bóng tròn treo lủng lẳng trên hàng rào thép gai bao quanh trại làm dâng lên nỗi buồn thê lương. Khi những giọt mưa lất phất bay, tôi chợt nhớ đến các con. Bây giờ TV, KV, TH đã đi học về chưa? Con đường làng ngập bùn đất và xa thăm thẳm..mùa đông xứ Quảng thì nghiệt ngã, mà các con thì còn bé quá. Các con tôi đâu có tội tình gì? Có chăng chúng chỉ là con của một người cha dám lên tiếng phản kháng lại một thế lực bạo quyền đã dìm đất nước trong bất công, đói nghèo và lạc hậu. Chế độ đã tước đi của người dân tất cả: Từ của cải đến nhân phẩm, nhân quyền và cả ngay lúc nàyđây họ vẫn tiếp tục dùng vũ lực và sự dối trá để duy trì và bảo vệ ngai vàng của họ.
Mỗi lúc mưa lại càng nặng hạt, chung quanh tối om không nhìn thấy người bên cạnh. Từ trong bóng đêm, anh Trung hỏi:
- Cán bộ tính sao chứ anh em đói và mỏi mệt quá rồi. Nếu ở lại ngoài này thì cho anh em về mang cơm nước gì chứ ông.
Tiếng anh Trung cười dòn dã, mọi người cười theo vì ai cũng biết làm gì có chuyện ở lại ngoài này. Thăng không nói gì, ánh đèn bin trong tay quét loang loáng trong đêm. Có tiếng máy bộ đàm sôi rè rè, tiếng cán bộ Thăng trả lời: Dạvâng… dạ vâng ạ.
Sau đó cán bộ Thăng bảo anh Ngô Bích cho anh em điểm danh để về trại.
Buổi tối hôm nay thật vui… vui vì anh em được một bữa cơm ngon để bồi dưỡng cho những cơ thể suy nhược vì thiếu đói. Có rất nhiều anh em không có gia đình, không thăm nuôi, không quà. Thậm chí có vài trường hợp đã ở tù 10 năm mà không nhận được thư từ, thông tin gì về gia đình. Có những việc đau lòng xảy ra mà trí tưởng tượng con người khó hình dung nỗi.
Vì phòng vệ sinh chật chội nên mọi người phải nhường nhau. Cứ hình dung căn phòng một chiều 6m, chiều 10m.
Và phòng vệ sinh 6m x 3m mà có đến 100 con người ở trong đó…
Chỗ ngủ có hai tầng… những người lớn tuổi vì không thể leo trèo nên ở dưới, những người trẻ hơn hoặc còn khoẻ thì ngủ ở trên.
Mùa đông thì còn chịu được vì thời tiết mát mẻ, nhưng mùa hè thì thật đáng sợ,nóng chẳng khác gì cái lò bánh mì. Dưới mái nhà lợp tôn là tấm lưới chống B40, từ sàn gỗ đến mái tôn khoảng 2.5m. Mùa hè, để nghỉ ngơi buổi trưa tôi phải nhúng nước một tấm chăn lớn, vắt sơ sài để nước khỏi chảy thành dòng rồi căng lên để tránh bớt sức nóng như thiêu đốt vậy mà vẫn không ngủ được, mồ hôi tuôn ra nhầy nhụa, cứ chập chờn nửa tỉnh nửa mê, khi tiếng kẻng báo thức vang lên, thu tấm chăn xuống, nó khô giòn trên tay.
- Có lẽ bây giờ phái đoàn mới đến, tụi nó tắt đèn để không ai nhìn thấy gì ở đây.
Tôi cũng nghĩ như vậy… thực tập chống bão lụt là vỡ kịch mà họ không cần diễn cho đến nơi đến chốn, giữa chừng thì bỏ dở, họ mang chúng tôi đi dấu để pháiđoàn Nhân quyền quốc tế không tiếp xúc được và họ cũng không cần che đậy hay giấu giếm ý đồ của mình. Cho đến lúc này, chúng tôi vẫn chưa có thông tin gì, chỉ phán đoán như thế. Còn chuyện cắt điện cũng có thể chỉ là ngẫu nhiên thôi vì năm 1994, ở trại Xuân Phước chưa có mạng lưới điện quốc gia. Cả trại dùng một cái máy phát cũ kỹ nên chuyện cắt điện vẫn thường xảy ra.
Sáng ra, chúng tôi nhận được tin của anh em báo cho biết là phái đoàn thanh sát nhân quyền LHQ đã đến trại vào đêm qua. Họ được trại hướng dẫn đi thăm các khu trại giam và phái đoàn đã bị chi phối hoàn toàn. Những cò mồi của trại đã cung cấp cho phái đoàn những thông tin sai lạc… họ được hướng dẫn đến thăm khu của thường phạm, nhưng đề phòng có ai đó không chịu nỗi sự bất công và nghiệt ngã của nhà tù có thể nói ra những điều bất lợi cho chế độ nên tay trưởng an ninh của trại là đại uý Lâm.. răn đe họ rằng: “Tâyđến rồi Tây lại đi… chỉ còn có người Việt Nam chúng ta ở lại với nhau. Các anh muốn nói gì thì cũng phải nghĩ đến tương lai và số phận của mình. Tây thì xa mà chúng tôi thì gần… nước xa sao cứu được lửa gần”.
Buổi mai hôm đó chúng tôi bỏ cơm để hội ý, anh Phạm Văn Thành và anh Phạm Anh Dũng đề nghị:
- Biết đâu phái đoàn vẫn còn ở lại và làm việc với Ban giám thị ngoài kia. Chúng ta tổ chức bãi công và hô khẩu hiệu. Khi chúng tôi (PVT và PAD) hô: Nhân quyền cho Việt Nam bằng 3 thứ tiếng: Việt, Anh và Pháp thì các anh hô thật lớn 3 tiếng “Nhân quyền! Nhân quyền! Nhân quyền!” cũng bằng 3 thứ tiếng trên.
Sau khi tham khảo ý kiến chớp nhoáng với một số anh em chúng tôi đồng ý để 3 người là Phạm Văn Thành, Phạm Anh Dũng và Nguyễn Ngọc Đăng hướng dẫn và lãnh đạo cuộc đấu tranh này vì dù sao họ cũng là những người có hậu thuẫn từ các nước dân chủ. Anh Phạm Anh Dũng: Quốc tịch Pháp, anh Phạm Văn Thành: thường trú nhân. Anh Nguyễn Ngọc Đăngquốc tịch Canada. Dù sao họ cũng được sự bảo vệ của các quốc gia đó và họ cũng có kinh nghiệm trong việc đấu tranh bất bạo động. Một số người tuy không đồng ý nhưng cũng không phản đối… số nữa thì lưng chừng, vì sĩ diện. Bên ngoài có vẻ đồng ý nhưng không tham gia nhiệt tình.
Khi cán bộ trực trại vào mở của khu để chúng tôi xuất trại thì anh Phạm Văn Thành, Phạm Anh Dũng và Nguyễn Ngọc Đăng cùng chúng tôi ra trước sân của khu thay phiên nhau hô to:
- Nhân quyền cho VN!
Đồng loạt, các anh em dơ nắm tay lên hô vang:
”Nhân quyền! Nhân quyền! Nhân quyền !”
Những tiếng hô lớn vang dội cả trại làm cho Đại uý công an trực trại tên là Đavà những người trật tự đi theo kinh ngạc. Đa đứng sững sờ không biết chuyện gì. Chúng tôi tiếp tục: “Nhân quyền! Nhân quyền! Nhân quyền!”, mấy tay công an đứng gác ở chòi cao cũng há hốc mồm nhìn xuống… dưới sân lố nhố người với những cánh tay vung lên mạnh mẽ và quyếtđoán trong giọng hô hào hùng, đanh thép của những người con yêu nước Việt Nam.
Lịch sử của đất nước VN cũng đã có nhiều lần như thế và âm vang vẫn còn vang vọng trên sông núi nước Việt, đó là tiếng thét của đội quân Tây Sơn khi tiến quân ra Bắc Hà đánh tan quân Thanh. Hay những tiếng thét vang lên trong hội nghị Diên Hồng và tiếp nối truyền thống hào hùng bất diệt đó, chúng tôi những người tù chính trị tại A20 Xuân Phước đã vượt qua sự sợ hãi hô vang lên tiếng thét đòi nhân quyền, nhân phẩm.
Những người tù thường phạm đang tập trung ở ngoài sân trại chuẩn bị đi làm đổxô đến xem. Họ vô cùng kinh ngạc, trên nét mặt hiện rõ vẻ vừa thán phục vừa lo sợ cho chúng tôi. Cán bộ Đa không nói gì, lặng lẽ rút lui và đuổi tất cả mọi người đang tò mò đứng nhìn. Đóng cửa khu A. Còn chúng tôi, những người tù chính trị của chế độ trong những bộ quần áo tù bạc thếch, lôi thôi, những cánh tay gầy trơ xương vẫn tiếp tục vươn cao mạnh mẽ oai hùng, tiếng hô vang động cả một góc trời. Hy vọng những tiếng hô vang này sẽ đánh động lương tri nhân loại văn minh, sẽ đên được với LHQ để mọi người trên thế giới biết rằng: Tại VN, một đất nước ở vùng Đông Nam Á, một chế độ độc tài đã cướp đi tất cả nhân quyền cơ bản của con người.
2 tiếng đồng hồ trôi qua vẫn không có động tĩnh gì từ phía trại. Chúng tôi vẫn tiếp tục hô để đòi hỏi nhân quyền và hy vọng sự lắng nghe của phái đoàn Liên hiệp quốc.
- Phạm Văn Thành, Phạm Anh Dũng, NguyễnNgọc Đăng, Trương Nhật Tân, Hoàng Xuân Chinh, Trần Nam Phương, Trần Đức Hào, Trần Minh Tuấn, Vũ Đình Thụy, Trần Văn Lương, Lê Thiện Quang, Lê Văn Điểm,Nguyễn Văn Trung và tôi Huỳnh Ngọc Tuấn.
Buổi tối hôm đó, chúng tôi họp bàn những khả năng mà công an Việt cộng có thểdùng để trấn áp. Lần đầu tiên chúng tôi tiến hành một cuộc đấu tranh tập thểbằng phương pháp bất bạo động.
Hôm nay nghĩ lại thấy đa phần anh em lúc đó chưa có kỷ năng để tiến hành một cuộc đấu tranh như vậy, và cũng chưa lường hết hậu quả của nó. Chúng tôi chỉ có tấm lòng đầy nhiệt huyết.
Một đêm trôi qua trong hồi hộp và chờ đợi, nghe một số anh em là tai mắt của mình cho biết: Rất nhiều công an được huy động đến, rải ra dày đặt bên ngoài, việc thân nhân đi thăm nuôi cũng bị đình chỉ hoàn toàn. Bộ công an đã cho người về chỉ đạo trực tiếp.
Việc gì rồi cũng bị lãng quên, cuộc đấu tranh này cũng có thể đi vào quên lãng, nhưng nó sẽ mãi mãi sống trong lòng những người tù chính trị chúng tôi.
9h sáng: BGT bắt loa kêu gọi chúng tôi chấm dứt đấu tranh..nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục hô to khẩu hiệu Nhân quyền …Việt Nam.
Để không ai nghe thấy vì nhà thăm nuôi gần đó, những người nông dân thường đi làm ngang qua đó, BGT trại XP cho mắc một số loa phóng thanh và phát những bài hát để át tiếng chúng tôi buộc lòng chúng tôi phải gào thật to.
Một buổi trưa đi qua trong căng thẳng. Bây giờ thì không ai có thể nghỉ ngơi kểcả những người thờ ơ nhất…
Khi tiếng kẻng báo thức buổi chiều vang lên.. BGT và rất nhiều công an trại giam tập trung bên ngoài cánh cửa của khu A. Với loa phóng thanh cầm tay, họtiếp tục kêu gọi chúng tôi chấm dứt đấu tranh kèm với lời đe doạ sẽ có biện pháp mạnh.
Chúng tôi rút vào phòng, mỗi người ngồi vào chỗ của mình và tiếp tục hô khẩu hiệu. 30 phút sau, BGT và rất nhiều công an trang bị mặt nạ chống độc, lựu đạn cay cầm tay, một số đông cầm dùi cui… và có vài chục người đựơc tuyển chọn từ đội thường phạm… họ là những người khoẻ mạnh lực lưỡng,trẻ và nhanh nhẹn. Những người này tôi gọi nôm na là lực lượng đặc biệt của trại.
Cán bộ Nhuận, một người có dáng dấp dễ coi, rất bảnh trai lúc đó là thượng uý phụ trách văn hoá của trại. Con người này có cách hành xử, thái độ và ngôn ngữtrái với vẻ bề ngoài. Đây là một cán bộ điển hình về sự hung bạo và thủ đoạn. Sự hà khắc quá mức đối với anh em.
Nhuận xuất hiện trước cửa phòng, trong tay cầm danh sách những người tù hiện diện trong buồng số 2 khu A, phía sau y là một đám công an lạ mặt, những anh emở đây lâu nhất cũng không nhận ra. Tay cầm lựu đạn, một số mang mặt nạ chốngđộc và dùi cui điện. Y đọc tên từng người và yêu cầu mang đồ đạt ra khỏi buồng giam. Có một vài người không chịu nỗi áp lực, không thắng nỗi sự sợ hãi đã bỏhàng ngũ của anh em để đi ra.
Điểm đến người cuối cùng trong danh sách, hắn thông báo cho chúng tôi biết:
- Chúng tôi cho các anh 30 phút để bàn bạc, sau 30’ chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện , hắn chỉ ra phía sau đám công an hùng hổ.
Chúng tôi chui vào rẫy mía để nhổ rau dền cho cá, trong rẫy mía có rất nhiều rau dền đỏ, chúng mọc dày trên mặt đất, có cây cao hơn gang tay, tạo thành một tấm thảm lỗ chỗ màu đỏ tía trông tuyệt đẹp. Thỉnh thoảng tôi cũng nhổ một ít vềluộc ăn.
Ngồi khuất trong rẫy mía chúng tôi nói chuyện tương đối thoải mái. Ai cũng đồng ý đây là một vỡ kịch để đối phó với tình hình. Chúng tôi hiểu vừa rồi, họ đưa những người bệnh sắp chết đi giấu một nơi nào đó để khi phái đoàn đến, không nhìn thấy những thây ma vật vờ làm mất đi hình ảnh “ưu việt” của nhà tù CS, thay vào đó là những người khoẻ mạnh được đóng vai bệnh nhân. Chắc là trên đầu giường của những người đóng vai “bệnh nhân” đó đầy ắp những lon sữa, những hộp thuốc quý và thức ăn mà người bệnh nằm mơ cũng không thấy. Khi phái đoàn đi rồi, những hộp sữa, hộp thuốc, hay thức ăn đó được lấy lại cất đi.
Vở kịch này tôi đã mục kích tại trại giam An Điềm, lần đó là để quay phim.
Có đoàn làm phim từ trung ương về, vậy là họ biến chúng tôi thành những diễn viên bất đắt dĩ. Bản chất lừa bịp và coi thường công luận dẫn họ đến những hànhđộng vượt quá ranh giới của sự dối trá…nên biến thành lố bịch.
Những người tù ở trại giam An Điềm kiệt sức vì công việc quá nặng nhọc, bàn tay rách toạt, tươm máu vì nhổ mạ hay cắt lúa được bố trí ngồi đọc sách ở thư việnđược mở cửa vài năm một lần, những người bệnh chỉ còn da bọc xương nằm chờ thần chết đến rước… bỗng một ngày thấy mình nằm giữa đống thuốc và thức ăn đầy ắp ngon lành…được chiêm ngưỡng trong chốc lát những thứ mình khao khát đó… Rồi hình ảnh cán bộ CS kéo chăn đắp cho tù nhân… được chiếu trên Tivi cho người dân thấy được sự nhân ái của công an CSVN làm tôi thấy buôn nôn. Ở đất nước VN này, có ai không biết công an CS và sự tàn bạo của họ, chỉ cần có cơ hội là người dân sẽ tự phát đứng lên… và máu sẽ đổ thành sông… Họ sẽ mổ bụng, moi gan Việt cộng, có khi con cái những người này cũng bị vạ lây. Nghĩ đến viễn cảnh này, tôi muốn hoá thân thành bướm như Trang Tử để khỏi phải thấy… một ngày nào đó không xa.
(Phần 2)
Nhổ xong mấy gánh cỏ cho cá, chúng tôi vào lều nghỉ.Anh TMTuấn
mang dừa đến cho mỗi người một trái... chúng tôi vừa uống nước dừa vừa
thì thầm nói chuyện, ai cũng lo lắng. Nếu phái đoàn nhân quyền vào
trại lúc này thì không gặp được chúng tôi mà chỉ gặp được những người
do trại bố trí để nói những gì họ được chỉ định, như vậy là chuyến đi
của phái đoàn coi như thất bại.
Trời mùa đông đến thật nhanh, mới đó mà con đường nhỏ và rặng cây trước mắt đã nhập nhoà, như thường lệ thì chúng tôi đã về trại rồi. Anh Nguyễn Văn Trung giục anh Ngô Bích đội trưởng đến hỏi cán bộ Thăng sao chưa cho anh em về. Anh Ngô Bích ngần ngại một chút rồi đứng dậy đến hỏi: “Anh em về đựơc chưa cán bộ, đã trểrồi - còn tắm táp và ăn tối nữa chứ.” (Anh Bích nói thêm như để giải thích).
- Chưa có lệnh, các anh ráng chờ một chút.
Chúng tôi nhìn về phía trại… ánh đèn vàng ệch từ dẫy bóng tròn treo lủng lẳng trên hàng rào thép gai bao quanh trại làm dâng lên nỗi buồn thê lương. Khi những giọt mưa lất phất bay, tôi chợt nhớ đến các con. Bây giờ TV, KV, TH đã đi học về chưa? Con đường làng ngập bùn đất và xa thăm thẳm..mùa đông xứ Quảng thì nghiệt ngã, mà các con thì còn bé quá. Các con tôi đâu có tội tình gì? Có chăng chúng chỉ là con của một người cha dám lên tiếng phản kháng lại một thế lực bạo quyền đã dìm đất nước trong bất công, đói nghèo và lạc hậu. Chế độ đã tước đi của người dân tất cả: Từ của cải đến nhân phẩm, nhân quyền và cả ngay lúc nàyđây họ vẫn tiếp tục dùng vũ lực và sự dối trá để duy trì và bảo vệ ngai vàng của họ.
Mỗi lúc mưa lại càng nặng hạt, chung quanh tối om không nhìn thấy người bên cạnh. Từ trong bóng đêm, anh Trung hỏi:
- Cán bộ tính sao chứ anh em đói và mỏi mệt quá rồi. Nếu ở lại ngoài này thì cho anh em về mang cơm nước gì chứ ông.
Tiếng anh Trung cười dòn dã, mọi người cười theo vì ai cũng biết làm gì có chuyện ở lại ngoài này. Thăng không nói gì, ánh đèn bin trong tay quét loang loáng trong đêm. Có tiếng máy bộ đàm sôi rè rè, tiếng cán bộ Thăng trả lời: Dạvâng… dạ vâng ạ.
Sau đó cán bộ Thăng bảo anh Ngô Bích cho anh em điểm danh để về trại.
Chúng tôi lần mò từng bước trong đêm. Con
đường tuy quen thuộc nhưng bây giờ không thấy gì. Trong đội có nhiều
người đã cao tuổi,ốm yếu. Ánh đèn bin tiếp tục quét qua quét lại cho
chúng tôi đi.
Về đến trại, ai cũng vội vàng đi lấy nước tắm. Cơm được chia trong buồng giam vì cửa buồng đã đóng.
Nhìn thau cơm trắng tinh, những thau thức ăn ngon lành, cá chiên, rau xào vàthịt kho. Chưa bao giờ chúng tôi được trại cho ăn như thế. Kể cả những ngày Tết cũng rất đơn sơ. Chúng tôi biết những món ăn này là dùng để quảng cáo, tất cả đều dối láo. Anh em nhìn nhau cười. Khi sự dối trá đã bắt đầu thì khó lòng dừng lại ngoại trừ kẻ dối trá là một con người can đảm hoặc những người bị dối gạt phải đứng lên. Không biết nó (những món hàng quảng cáo này) đã làm xong nhiệm vụ của mình chưa.
Về đến trại, ai cũng vội vàng đi lấy nước tắm. Cơm được chia trong buồng giam vì cửa buồng đã đóng.
Nhìn thau cơm trắng tinh, những thau thức ăn ngon lành, cá chiên, rau xào vàthịt kho. Chưa bao giờ chúng tôi được trại cho ăn như thế. Kể cả những ngày Tết cũng rất đơn sơ. Chúng tôi biết những món ăn này là dùng để quảng cáo, tất cả đều dối láo. Anh em nhìn nhau cười. Khi sự dối trá đã bắt đầu thì khó lòng dừng lại ngoại trừ kẻ dối trá là một con người can đảm hoặc những người bị dối gạt phải đứng lên. Không biết nó (những món hàng quảng cáo này) đã làm xong nhiệm vụ của mình chưa.
Buổi tối hôm nay thật vui… vui vì anh em được một bữa cơm ngon để bồi dưỡng cho những cơ thể suy nhược vì thiếu đói. Có rất nhiều anh em không có gia đình, không thăm nuôi, không quà. Thậm chí có vài trường hợp đã ở tù 10 năm mà không nhận được thư từ, thông tin gì về gia đình. Có những việc đau lòng xảy ra mà trí tưởng tượng con người khó hình dung nỗi.
Vì phòng vệ sinh chật chội nên mọi người phải nhường nhau. Cứ hình dung căn phòng một chiều 6m, chiều 10m.
Và phòng vệ sinh 6m x 3m mà có đến 100 con người ở trong đó…
Chỗ ngủ có hai tầng… những người lớn tuổi vì không thể leo trèo nên ở dưới, những người trẻ hơn hoặc còn khoẻ thì ngủ ở trên.
Mùa đông thì còn chịu được vì thời tiết mát mẻ, nhưng mùa hè thì thật đáng sợ,nóng chẳng khác gì cái lò bánh mì. Dưới mái nhà lợp tôn là tấm lưới chống B40, từ sàn gỗ đến mái tôn khoảng 2.5m. Mùa hè, để nghỉ ngơi buổi trưa tôi phải nhúng nước một tấm chăn lớn, vắt sơ sài để nước khỏi chảy thành dòng rồi căng lên để tránh bớt sức nóng như thiêu đốt vậy mà vẫn không ngủ được, mồ hôi tuôn ra nhầy nhụa, cứ chập chờn nửa tỉnh nửa mê, khi tiếng kẻng báo thức vang lên, thu tấm chăn xuống, nó khô giòn trên tay.
Cơm xong tôi ngồi uống trà và chờ cho mọi người làm vệsinh hết rồi, đến gần 10 giờ đêm tôi xuống nhà tắm toilet chải răng và tắm
qua quýt, vừa leo lên đến chỗ nằm thì mất điện. Căn nhà tối om… tôi
ngồi bó gối trong khoảng tối chờ người trực đêm thắp đèn. Hai cây đèn
dầu nhỏ ở hai đầu căn buồng không đủ ánh sáng anh Dương Văn Sỹthắp một mẫu đèn cầy nhỏ để tôi giăng mùng, anh nói nhỏ với tôi:
- Có lẽ bây giờ phái đoàn mới đến, tụi nó tắt đèn để không ai nhìn thấy gì ở đây.
Tôi cũng nghĩ như vậy… thực tập chống bão lụt là vỡ kịch mà họ không cần diễn cho đến nơi đến chốn, giữa chừng thì bỏ dở, họ mang chúng tôi đi dấu để pháiđoàn Nhân quyền quốc tế không tiếp xúc được và họ cũng không cần che đậy hay giấu giếm ý đồ của mình. Cho đến lúc này, chúng tôi vẫn chưa có thông tin gì, chỉ phán đoán như thế. Còn chuyện cắt điện cũng có thể chỉ là ngẫu nhiên thôi vì năm 1994, ở trại Xuân Phước chưa có mạng lưới điện quốc gia. Cả trại dùng một cái máy phát cũ kỹ nên chuyện cắt điện vẫn thường xảy ra.
Sáng ra, chúng tôi nhận được tin của anh em báo cho biết là phái đoàn thanh sát nhân quyền LHQ đã đến trại vào đêm qua. Họ được trại hướng dẫn đi thăm các khu trại giam và phái đoàn đã bị chi phối hoàn toàn. Những cò mồi của trại đã cung cấp cho phái đoàn những thông tin sai lạc… họ được hướng dẫn đến thăm khu của thường phạm, nhưng đề phòng có ai đó không chịu nỗi sự bất công và nghiệt ngã của nhà tù có thể nói ra những điều bất lợi cho chế độ nên tay trưởng an ninh của trại là đại uý Lâm.. răn đe họ rằng: “Tâyđến rồi Tây lại đi… chỉ còn có người Việt Nam chúng ta ở lại với nhau. Các anh muốn nói gì thì cũng phải nghĩ đến tương lai và số phận của mình. Tây thì xa mà chúng tôi thì gần… nước xa sao cứu được lửa gần”.
Buổi mai hôm đó chúng tôi bỏ cơm để hội ý, anh Phạm Văn Thành và anh Phạm Anh Dũng đề nghị:
- Biết đâu phái đoàn vẫn còn ở lại và làm việc với Ban giám thị ngoài kia. Chúng ta tổ chức bãi công và hô khẩu hiệu. Khi chúng tôi (PVT và PAD) hô: Nhân quyền cho Việt Nam bằng 3 thứ tiếng: Việt, Anh và Pháp thì các anh hô thật lớn 3 tiếng “Nhân quyền! Nhân quyền! Nhân quyền!” cũng bằng 3 thứ tiếng trên.
Sau khi tham khảo ý kiến chớp nhoáng với một số anh em chúng tôi đồng ý để 3 người là Phạm Văn Thành, Phạm Anh Dũng và Nguyễn Ngọc Đăng hướng dẫn và lãnh đạo cuộc đấu tranh này vì dù sao họ cũng là những người có hậu thuẫn từ các nước dân chủ. Anh Phạm Anh Dũng: Quốc tịch Pháp, anh Phạm Văn Thành: thường trú nhân. Anh Nguyễn Ngọc Đăngquốc tịch Canada. Dù sao họ cũng được sự bảo vệ của các quốc gia đó và họ cũng có kinh nghiệm trong việc đấu tranh bất bạo động. Một số người tuy không đồng ý nhưng cũng không phản đối… số nữa thì lưng chừng, vì sĩ diện. Bên ngoài có vẻ đồng ý nhưng không tham gia nhiệt tình.
Khi cán bộ trực trại vào mở của khu để chúng tôi xuất trại thì anh Phạm Văn Thành, Phạm Anh Dũng và Nguyễn Ngọc Đăng cùng chúng tôi ra trước sân của khu thay phiên nhau hô to:
- Nhân quyền cho VN!
Đồng loạt, các anh em dơ nắm tay lên hô vang:
”Nhân quyền! Nhân quyền! Nhân quyền !”
Những tiếng hô lớn vang dội cả trại làm cho Đại uý công an trực trại tên là Đavà những người trật tự đi theo kinh ngạc. Đa đứng sững sờ không biết chuyện gì. Chúng tôi tiếp tục: “Nhân quyền! Nhân quyền! Nhân quyền!”, mấy tay công an đứng gác ở chòi cao cũng há hốc mồm nhìn xuống… dưới sân lố nhố người với những cánh tay vung lên mạnh mẽ và quyếtđoán trong giọng hô hào hùng, đanh thép của những người con yêu nước Việt Nam.
Lịch sử của đất nước VN cũng đã có nhiều lần như thế và âm vang vẫn còn vang vọng trên sông núi nước Việt, đó là tiếng thét của đội quân Tây Sơn khi tiến quân ra Bắc Hà đánh tan quân Thanh. Hay những tiếng thét vang lên trong hội nghị Diên Hồng và tiếp nối truyền thống hào hùng bất diệt đó, chúng tôi những người tù chính trị tại A20 Xuân Phước đã vượt qua sự sợ hãi hô vang lên tiếng thét đòi nhân quyền, nhân phẩm.
Những người tù thường phạm đang tập trung ở ngoài sân trại chuẩn bị đi làm đổxô đến xem. Họ vô cùng kinh ngạc, trên nét mặt hiện rõ vẻ vừa thán phục vừa lo sợ cho chúng tôi. Cán bộ Đa không nói gì, lặng lẽ rút lui và đuổi tất cả mọi người đang tò mò đứng nhìn. Đóng cửa khu A. Còn chúng tôi, những người tù chính trị của chế độ trong những bộ quần áo tù bạc thếch, lôi thôi, những cánh tay gầy trơ xương vẫn tiếp tục vươn cao mạnh mẽ oai hùng, tiếng hô vang động cả một góc trời. Hy vọng những tiếng hô vang này sẽ đánh động lương tri nhân loại văn minh, sẽ đên được với LHQ để mọi người trên thế giới biết rằng: Tại VN, một đất nước ở vùng Đông Nam Á, một chế độ độc tài đã cướp đi tất cả nhân quyền cơ bản của con người.
2 tiếng đồng hồ trôi qua vẫn không có động tĩnh gì từ phía trại. Chúng tôi vẫn tiếp tục hô để đòi hỏi nhân quyền và hy vọng sự lắng nghe của phái đoàn Liên hiệp quốc.
Tôi thấy anh Phạm Văn Thành rất căng thẳng, vì sau bản phúc trình anh gởi ra ngoài cho công luận quốc tế biết về những vi phạm nhân quyền và tội ác của chế độ CSVN, anh trở thành đối tượng số 1 của Trại… thêm lần này nữa, anh đã đánh một đòn đauvào
chế độ. Họ có để anh yên không? Tính mạng của anh đang bị đe doạ cho dù
anh có là thường trú nhân của Pháp. Không căng thẳng sao được, tôi rất
hiểu tâm trạng của anh.
Buổi trưa hôm đó chúng tôi ăn vội vàng,
chờ cho mọi người đi ngủ trưa… một số anh em can đảm dám dấn thân họp
nhau lại ở phòng ăn (vừa là nơi nấu ăn của tù nhân, buồng 2 khu A) để
soạn một bản kiến nghị gởi giám thị trại và một bản nữa gởi ra ngoài bằng con đường riêng mà các anh Phạm Văn Thành, Phạm Anh Dũng và Nguyễn Ngọc Đăng đã móc nối và thiết lập được. Tôi cũng tham gia góp ý kiến vào kiến nghị đó. Anh Vũ Đình Thụy chấp bút, những người ký tên tham gia tuyệt thực để phản đối những hành vi vi phạm nhân quyền và nhân phẩm của BGT trại A20 Xuân Phước gồm có:
- Phạm Văn Thành, Phạm Anh Dũng, NguyễnNgọc Đăng, Trương Nhật Tân, Hoàng Xuân Chinh, Trần Nam Phương, Trần Đức Hào, Trần Minh Tuấn, Vũ Đình Thụy, Trần Văn Lương, Lê Thiện Quang, Lê Văn Điểm,Nguyễn Văn Trung và tôi Huỳnh Ngọc Tuấn.
Buổi chiều ngày hôm đó BGT
trại Xuân Phước cho gọi các anh đội trưởng của các đội 12, 17, 2 ra làm
việc. Họ yêu cầu các anh ấy vềthuyết phục anh em đi làm, chấm dứt đấu tranh. Anh Phạm Văn Thành đại diện cho anh em trả lời họ rằng sẽ tiếp tục đấutranh.
Chúng tôi vẫn tiếp tục vừa đi dạo trên sân vừa hô to: Nhân quyền cho VN! Nhân quyền cho VN!Chiều hôm đó những người ký tên vào bản kiến nghị không nhận cơm.
Đội nhà bếp ở buồng kế bên cùng khu, đội này tập hợp những người có mức án cao từ 20 năm đến chung thân và gồm phần lớn các anh em từ hải ngoại về thuộc tổchức Hoàng Việt Cương. Họ không trực tiếp tham gia đấu tranh, họ chỉ qua lại để động viên chúng tôi. Anh Lê Hoàn Sơn là thường trú nhân tại Phápđến gặp từng người để thăm hỏi và cổ vũ cho chúng tôi.
Chúng tôi vẫn tiếp tục vừa đi dạo trên sân vừa hô to: Nhân quyền cho VN! Nhân quyền cho VN!Chiều hôm đó những người ký tên vào bản kiến nghị không nhận cơm.
Đội nhà bếp ở buồng kế bên cùng khu, đội này tập hợp những người có mức án cao từ 20 năm đến chung thân và gồm phần lớn các anh em từ hải ngoại về thuộc tổchức Hoàng Việt Cương. Họ không trực tiếp tham gia đấu tranh, họ chỉ qua lại để động viên chúng tôi. Anh Lê Hoàn Sơn là thường trú nhân tại Phápđến gặp từng người để thăm hỏi và cổ vũ cho chúng tôi.
Buổi tối hôm đó, chúng tôi họp bàn những khả năng mà công an Việt cộng có thểdùng để trấn áp. Lần đầu tiên chúng tôi tiến hành một cuộc đấu tranh tập thểbằng phương pháp bất bạo động.
Hôm nay nghĩ lại thấy đa phần anh em lúc đó chưa có kỷ năng để tiến hành một cuộc đấu tranh như vậy, và cũng chưa lường hết hậu quả của nó. Chúng tôi chỉ có tấm lòng đầy nhiệt huyết.
Một đêm trôi qua trong hồi hộp và chờ đợi, nghe một số anh em là tai mắt của mình cho biết: Rất nhiều công an được huy động đến, rải ra dày đặt bên ngoài, việc thân nhân đi thăm nuôi cũng bị đình chỉ hoàn toàn. Bộ công an đã cho người về chỉ đạo trực tiếp.
Buổi sáng ngày hôm sau.
Chúng tôi tiếp tục cuộc đấu tranh, những tiếng hô vang dội giữa rừng sâu núi thẳm. Xuân Phước được mệnh danh là “Thung lũng tử thần” đang chứng kiến một việc chưa từng thấy kể từ ngày CS cưỡng chiếm miền nam. Một cuộc đấu tranh sẽ đi vào lịch sữ của trại tù CSVN. Chúng tôi tiên liệu sẽ bị đàn áp: nhưng chúng tôi sẽkhông mãi mãi cúi đầu. Chúng tôi hy vọng rằng: Cuộc đấu tranh này sẽ được nhân dân biết đến như một cách làm xói mòn quyền lực tưởng như bất khả xâm phạm của CS.
Chúng tôi tiếp tục cuộc đấu tranh, những tiếng hô vang dội giữa rừng sâu núi thẳm. Xuân Phước được mệnh danh là “Thung lũng tử thần” đang chứng kiến một việc chưa từng thấy kể từ ngày CS cưỡng chiếm miền nam. Một cuộc đấu tranh sẽ đi vào lịch sữ của trại tù CSVN. Chúng tôi tiên liệu sẽ bị đàn áp: nhưng chúng tôi sẽkhông mãi mãi cúi đầu. Chúng tôi hy vọng rằng: Cuộc đấu tranh này sẽ được nhân dân biết đến như một cách làm xói mòn quyền lực tưởng như bất khả xâm phạm của CS.
Việc gì rồi cũng bị lãng quên, cuộc đấu tranh này cũng có thể đi vào quên lãng, nhưng nó sẽ mãi mãi sống trong lòng những người tù chính trị chúng tôi.
9h sáng: BGT bắt loa kêu gọi chúng tôi chấm dứt đấu tranh..nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục hô to khẩu hiệu Nhân quyền …Việt Nam.
Để không ai nghe thấy vì nhà thăm nuôi gần đó, những người nông dân thường đi làm ngang qua đó, BGT trại XP cho mắc một số loa phóng thanh và phát những bài hát để át tiếng chúng tôi buộc lòng chúng tôi phải gào thật to.
Một buổi trưa đi qua trong căng thẳng. Bây giờ thì không ai có thể nghỉ ngơi kểcả những người thờ ơ nhất…
Khi tiếng kẻng báo thức buổi chiều vang lên.. BGT và rất nhiều công an trại giam tập trung bên ngoài cánh cửa của khu A. Với loa phóng thanh cầm tay, họtiếp tục kêu gọi chúng tôi chấm dứt đấu tranh kèm với lời đe doạ sẽ có biện pháp mạnh.
Chúng tôi rút vào phòng, mỗi người ngồi vào chỗ của mình và tiếp tục hô khẩu hiệu. 30 phút sau, BGT và rất nhiều công an trang bị mặt nạ chống độc, lựu đạn cay cầm tay, một số đông cầm dùi cui… và có vài chục người đựơc tuyển chọn từ đội thường phạm… họ là những người khoẻ mạnh lực lưỡng,trẻ và nhanh nhẹn. Những người này tôi gọi nôm na là lực lượng đặc biệt của trại.
Cán bộ Nhuận, một người có dáng dấp dễ coi, rất bảnh trai lúc đó là thượng uý phụ trách văn hoá của trại. Con người này có cách hành xử, thái độ và ngôn ngữtrái với vẻ bề ngoài. Đây là một cán bộ điển hình về sự hung bạo và thủ đoạn. Sự hà khắc quá mức đối với anh em.
Nhuận xuất hiện trước cửa phòng, trong tay cầm danh sách những người tù hiện diện trong buồng số 2 khu A, phía sau y là một đám công an lạ mặt, những anh emở đây lâu nhất cũng không nhận ra. Tay cầm lựu đạn, một số mang mặt nạ chốngđộc và dùi cui điện. Y đọc tên từng người và yêu cầu mang đồ đạt ra khỏi buồng giam. Có một vài người không chịu nỗi áp lực, không thắng nỗi sự sợ hãi đã bỏhàng ngũ của anh em để đi ra.
Điểm đến người cuối cùng trong danh sách, hắn thông báo cho chúng tôi biết:
- Chúng tôi cho các anh 30 phút để bàn bạc, sau 30’ chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương tiện , hắn chỉ ra phía sau đám công an hùng hổ.
Có một điều làm tôi vô cùng cảm động và thán
phục… trong buồng giam số 2 Khu A lúc đó có gần 20 cụ già, họ đã ở tù
mười mấy năm, thân thể hao mòn, hom hem, đi lại khó khăn. Có những anh
tuy còn trẻ nhưng vì bị tra tấn hành hạ cộng với cuộc sống nghiệt ngã đã
trở thành phế nhân. Như anh Thành người Huế, Anh chỉ còn da bọc xương,
một thân thể tàn tạ nhưng có nụ cười thân thiện. Chỉ một lần gặp, vài lần tiếp xúc, chúng ta sẽ không thể quên được anh. Những người này sẽ phải thế nào nếu những quả lựu đạn kia ném vào. Tổn thất sinh mạng của anh em là vô cùng lớn. Chúng tôi những người trẻ khoẻ và đi đầu trong cuộc đấu tranh này,
được những con người này tin cậy, họ sát cánh cùng chúng tôi bất chấp
hiểm nguy. Họ giao phó tính mệnh cho chúng tôi. Nhìn họ, tôi thấy rất
thán phục nhưng không kém phần ái ngại. Vì họ chúng tôi đi đến một quyết
định hết sức khó khăn… Chấm dứt cuộc đấu tranh.
(Phần 3)
Khi lực lượng công an quay trở lại và sẵn sàng đàn áp, Anh Phạm Văn Thành đại diện cho chúng tôi đồng ý chấm dứt cuộc đấu tranh và mọi người với đồ dùng cá nhân dọn ra sân.
Chúng tôi tập hợp ở ngoài sân trong khu A trước cửa buồng số 2 thành 5 hàng dọcvà một cuộc đấu khẩu đã diễn ra. BGT trại Xuân Phước cáo buộc chúng tôi vi phạm nội qui trại giam. Chúng tôi phản bác lại bằng một ý kiến đã thống nhất từtrước: Chúng tôi chỉ bảo vệ nhân quyền và nhân phẩm của chúng tôi: Trại đã vi phạm nhân quyền khi không cho chúng tôi tiếp xúc với phái đoàn LHQ để nói lên những yêu cầu và quan điểm của mình,nói lên thực trạng tại nhà tù CSVN.
Xúc phạm đến nhân phẩm của chúng tôi vì BGT đã dàn dựng vỡ kịch rồi đem chúng tôi đi giấu không cho chúng tôi có cơ hội để gặp phái đoàn LHQ. Chúng tôi đấutranh ôn hoà để bảo vệ quyền làm người của chúng tôi, điều này không hề vi phạm nội quy, nếu có vi phạm nội quy thì chính cái nội quy này đã vi phạm nhân quyềnvà cần phải được thay đổi.
Tay thiếu tá giám thị trại A20 nói:
- Các anh nói chúng tôi vi phạm nhân quyền. Vậy có ai ở đây tước cái quyền ăn, quyền hít thở khí trời của các anh đâu.
Không biết ông Giám thị dốt hay khiêu khích chúng tôi bằng cái giọng điệu ngu ngốc và trịch
thượng, khi nhân quyền chỉ được hiểu nhưlà quyền ăn uống hay hít thở
khí trời, như vậy họ coi chúng tôi chỉ bằng động vật. Phạm Văn Thành đứng dậy, dáng anh cao lớn và đẹp như một diễn viên điện ảnh trong bộ đồ tù.
- BGT hiểu nhân quyền là quyền ăn uống và hít thở khí trời thì rõ ràng BGT coi chúng tôi như những con vật. Tôi xin nhắc lại một cách nghiêm túc:Nhân quyền là những giá trị được minh định trong công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị. Trong tuyên ngôn quốc tế nhân quyền mà nhà nước XHCN Việt Nam đã tham gia ký kết.
Anh Nguyễn NgọcĐăng cũng đứng lên:
- Và chúng tôi yêu cầu BGT ở đây và Nhà nước CHXHCNVN phải tuân thủ những gì mình đã ký, thực hiện trách nhiệm của mình với tư cách là một nước thành viên LHQ.
Mọi người ồ lên một chút tán thưởng, nhưng để không trở thành sự thách thức đối với những con người kém hiểu biết nhằm tránh những phản ứng đáng tiếc xảy ra.
Anh Thành quay lại phía sau cười với anh NguyễnNgọc Đăng, nụ cười ý nhị vừa vui mừng vừa thầm cảm ơn người đồng đội của mình.
Cảm thấy không thể tranh luận
về vấn đề nhân quyền với chúng tôi, nhất là những người đã sống ở các
nước Dân chủ văn minh như: Mỹ,Pháp, Úc, Canada.v.v. Một người trạc ngoại
40 tuổi, mặc thường phục từ nãy đến giờ vẫn đứng quan sát chúng tôi lên
tiếng:
- Các anh nên nhớ ở đây là VN, VN có luật pháp của VN, và chúng tôi sẽ làm theo cách của chúng tôi.
- Các anh nên nhớ ở đây là VN, VN có luật pháp của VN, và chúng tôi sẽ làm theo cách của chúng tôi.
Thành dõng dạc nói với họ
- Nếu các anh phủ nhận những gì nhà nước này đã ký thì không còn gì để nói ở đây cả, nhưng chúng tôi khẳng định lại một lần nữa. Chúng tôi không vi phạm nội qui mà các ông cứ cố tình ép chúng tôi thì đây:
Thành giơ hai tay ra làm như để tra vào còng. Tay công an chỉ huy ra lệnh còng tay anh Phạm Văn Thành và nói:
- Đưa nó vào kỷ luật.
- Nếu các anh phủ nhận những gì nhà nước này đã ký thì không còn gì để nói ở đây cả, nhưng chúng tôi khẳng định lại một lần nữa. Chúng tôi không vi phạm nội qui mà các ông cứ cố tình ép chúng tôi thì đây:
Thành giơ hai tay ra làm như để tra vào còng. Tay công an chỉ huy ra lệnh còng tay anh Phạm Văn Thành và nói:
- Đưa nó vào kỷ luật.
Anh Nguyễn NgọcĐăng bước ra khỏi hàng tiến về phía trước mấy bước:
- Chúng tôi sẵn sàng vào kỷ luật để chứng minh lẽ phải của mình, và chúng tôi sẽ bảo vệ lẽ phải bằng bất kỳ giá nào.
- Chúng tôi sẵn sàng vào kỷ luật để chứng minh lẽ phải của mình, và chúng tôi sẽ bảo vệ lẽ phải bằng bất kỳ giá nào.
BGT và những người đi theo hơi sững sờ, vì trong thâm tâm họ không muốn đụng tới anh NguyễnNgọc Đăng vì dù sao anh cũng là công dân Canada. Ngần ngại một chút họquyết định:
- Đưa anh này đi luôn
- Đưa anh này đi luôn
Và họ còng tay anh Nguyễn Ngọc Đăng dẫn đi cùng với Phạm Văn Thành. Tay giám thị quay về phía chúng tôi hỏi vẻ thách thức:
- Còn ai muốn đi cùm nữa không?
- Còn ai muốn đi cùm nữa không?
Anh Nguyễn Văn Trung từ dưới bước lên:
- Tôi sẽ đi cùng với anh em tôi, tôi sẽ bảo vệ chân lý đến cùng.
Anh Trung quay lại hướng về chúng tôi:
- Các anh em ở lại giữ gìn sức khoẻ
- Tôi sẽ đi cùng với anh em tôi, tôi sẽ bảo vệ chân lý đến cùng.
Anh Trung quay lại hướng về chúng tôi:
- Các anh em ở lại giữ gìn sức khoẻ
Chúng tôi đã hiểu ý anh Nguyễn Văn Trung và chúng
tôi đã thoả thuận với nhau, dù sao cũng phải bảo vệ những người trong
nhóm: “Thập tam Thái Bảo” để đối phó với tình hình. Không nên kéo nhau vào kỷ luật hết, phải có người ở ngoài để giúp đỡ các anh em ở trong biệt giam.
Lần này thì BGT càng ngạc nhiên hơn vì họ không ngờ rằng có những con người nhưvậy. Tay giám thị chỉ còn biết nói:
- Tôi lầm anh Trung rồi anh Trung ạ, tôi tưởng anh biết điều hơn.
Lần này thì BGT càng ngạc nhiên hơn vì họ không ngờ rằng có những con người nhưvậy. Tay giám thị chỉ còn biết nói:
- Tôi lầm anh Trung rồi anh Trung ạ, tôi tưởng anh biết điều hơn.
Vậy là chúng tôi bị xé nhỏ ra từng mảnh,
mỗi người vềmột khu để không liên lạc được với nhau. Đội 12 của tôi về
khu C ở chung với những đội thường phạm.
Sau đó họ buộc chúng tôi viết kiểm điểm nhưng chúng tôi chỉ viết tường thuật đểtrình bày quan điểm của mình.
Trong những bản tường thuật đó, anh em vẫn giữ lập trường kiên định về những gìđã xảy ra.
Sau đó họ buộc chúng tôi viết kiểm điểm nhưng chúng tôi chỉ viết tường thuật đểtrình bày quan điểm của mình.
Trong những bản tường thuật đó, anh em vẫn giữ lập trường kiên định về những gìđã xảy ra.
Buổi tối hôm đó tôi không ngủ được. Hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Đăng
cứ ở trước mắt, dáng người thấp đậm, giọng Bắc kỳ pha Sài Gòn, con
người tưởng chừng dễ dãi, nóng vội không ngờ lại hành động quả cảm và đầy
trí tuệ như vậy. Tôi tiếc là không có cơ hội tiếp xúc với anh sớm hơn.
Bây giờ anh đã ở trong biệt giam, rồi sẽthế nào đây? Chắc chắn là họ sẽ
tìm cách trù dập chúng tôi và sẽ chuyển mỗi người đi mỗi nơi để cách ly và trừng
phạt. Chúng tôi chờ đợi cái ngày ấy, không biết còn có cơ hội gặp được
con người này nữa không. Anh Đăng đã tạo cho tôi một ấn tượng tuyệt vời.
Mấy ngày sau đó có một đợt chuyển trại,
trong chuyếnđi này, những nhân vật đứng đầu các tổ chức hoặc những nhân
vật chính quyền cho là nguy hiểm như: Phạm Văn Thành, Phạm Anh Dũng, Nguyễn Ngọc Đăng, Nguyễn Văn Muôn, Phạm Đức Khâm, Trần Văn Lương, Lê Thiện Quang, Mai Đức Chương, Đỗ Hồng Vân, Lê Hoàn Sơn.
Chúng tôi vẫn còn ở lại và gặp rất nhiều khó khăn. Trước đây trại vẫn mở cửa để anh em có thể đi từ khu này đến khu khác và được dạo chơi ở ngoài sân của trại. Ở đó có một hồ nước nhỏ khoảng 20m2, một hòn dã sơn và những con cá đủ màu vàng trắng. Buổi chiều đi làm về, ăn vội bát cơm rau, mấy anh em vội vàng tụ tập ở đó để bàn thảo tình hình chính trị thế giớivà thông
báo cho nhau những tin tức từ bên ngoài, nơi những anh em đi làm tựgiác
mang về. Những thông tin quý giá mà tôi nhận được là từ anh Nguyễn Văn Thoại,
anh Thoại làm việc ởnhà thăm nuôi, cũng có nhiều nhận xét không tốt về
anh, đó là thời gian tôi chưa có mặt ở đây. Nhưng khi tiếp xúc với anh
tôi thấy anh là người dễ mến, nặng tình cảm, hơi yếu đuối và thiếu
bản lĩnh, kiến thức chính trị cũng còn hạn chế. Cũng dễ hiểu thôi, đây
là thực tế vì đa số anh em chúng ta khi tham gia một tổ chức phản kháng
nào đó để chống lại một chế độ độc tài toàn trị và vô
cùng hà khắc, họ còn rất trẻ. Đa số họ chưa có gia đình, chưa có người
yêu, chỉmới ngoài đôi mươi. Thời cuộc đất nước đảo điên đã đẩy họ vào
vòng xoáy khi họhoàn toàn chưa được trang bị những hiểu biết về chính
trị, mà họ đâu có làm chính trị. Họ chỉ là những con người can đảm, có
tấm lòng yêu nước, bất bình trước sự bạo ngược của một chế độ vô thần,
cực đoan và ngu dốt đang đưa đất nước tới hố thẳm và họ chống lại bằng tất cả những gì họ có, họ chống lại chế độ cường quyền vì sự thôi thúc của lương tri.
Nhưng trong số đó có rất nhiều người ưu tú. Họ là những bác sĩ, kỹ sư, giáo sư,các nhà lãnh đạo tôn giáo, nhà văn, nhà báo, nhạc sĩ, thi sĩ, hoạ sĩ, một số là cựu sĩ quan của chế độ VNCH và cũng có những người làm chính trị chuyên nghiệp nữa.
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt là một người tiêu biểu, ông được sự quý trọng của tất cả mọi người vì ngoài kiến thức uyên bác, còn có một tình cảm thiết thân với anh em. Ông còn thể hiện cái bản lĩnh của một người lãnh đạo. Trong nhà tù CSVN, nơi tính mạng của con người không hơn một tờ “biên bản” như những người cộng sản vẫn nói.
Ông đã tạo một diễn đàn để giải đáp những thắc mắc, những ưu tư của anh em tù chính trị…về hiện tình đất nước và thế giới. Ông sẵn sàng đến gặp gỡ và traođổi với anh em.
Trong trại tù Xuân Phước lúc đó đã hình thành những nhóm, những câu lạc bộ,những hội đồng hương, và ông đã đến với họ để trao đổi và có khi là tranh luận bất chấp những nguy hiểm đến với ông. Khi giáo sư bị chuyển ra Bắc, tôi rất buồn và tiếc vô cùng, nhiều anh em khác cũng thế, diễn đàn chính trị Xuân Phước vắng mất một vị “chủ soái”.
Tôi có một may mắn đựơc tiếp xúc với giáo sư trong một buổi gặp mặt đồng hương Quảng nam gồm có: Anh Trương Nhật Tân, Trần Nam Phương, Hoàng Xuân Chinh, chú Nguyễn Xuân Đồng, anh Trần Đức Hào…, anh Tân là người đại diện anh em Quảng Nam mời.
Lần đầu tiên gặp gỡ, tôi có ngay
một ấn tượng: Đây là một con người đặc biệt, có sức cuốn hút mãnh liệt,
cuốn hút người khác bởi kiến thức quảng bác và sự thân mật. Tôi có cảm giác là mình như đã thân thiện với ông từ lâu lắm. Tôi nghe anh Nguyễn Văn Thoại
nói về bà Trần Thị Thức vợ của giáo sư Hoạt. Bà cũng là một con
ngườiđặc biệt, cũng là giáo sư tiến sĩ, cũng là một nhà hoạt động dân
chủ. Bà có kiến thức rộng và sức cuốn hút người khác như chồng mình.
Trong một lần bà Trần Thị Thức đi thăm giáo sư Hoạt, bà Thức thông báo cho giáo sư biết những thông tin mà chế độ cho là nhạy cảm, ông giám thị trại Xuân phướcđề nghị ông, bà không được nói chuyện chính trị, chỉ nói chuyện gia đình. Giáo sư Hoạt đã trả lời một cách rất hùng biện:
- Chuyện chính trị là chuyện của gia đình tôi.
Và họ tiếp tục nói về những đề tài chính trị, bất chấp sự không hài lòng của ông giám thị.
Khi tin này lan ra khắp nhà tù Xuân Phước, BGT trại biết ngay ai là người đưa thông tin đó.
Sau khi nhận biết anh Thoại cung cấp thông tin cho anh em. Trại A20 không cho anh làm ở nhà thăm nuôi nữa, từ đó một kênh thông tin đã bị cắt.
Khi Gs Đoàn Viết Hoạt gởi bản điều trần đến LHQ về giải pháp chính trị cho tình hình dân chủ hoá Việt Nam làm đau đầu nhà cầm quyền Hà Nội. Cộng với những hoạtđộng của giáo sư ở trong tù và nhận thấy những ảnh hưởng của giáo sư trong anh em tù chính trị nhất là những anh em trẻ.
Chính quyền CS đã quyết định chuyển giáo sư ra Bắc, mục đích là để trừng phạt ông và cách ly giáo sư khỏi chúng tôi.
Trại A20 Xuân Phước khi thiếu giáo sư Đoàn Viết Hoạt,
anh em cảm thấy hụt hẩng, diễn đàn chính trị mất đi một người lãnh đạo.
Rất nhiều cuộc hẹn không thực hiện được trong đó có cuộc hẹn của nhóm
Quảng Nam với giáo sư Hoạt. Tôi rất tiếc và cảm thấy mất mát một cái gì đó to lớn.
Tôi có một cơ duyên nữa khi gặp chú Phạm Đức Khâm,
nhân vật số 2 của diễnđàn dân chủ, mấy tháng được sống gần chú là những
ngày đáng ghi nhớ trong tù. Tôi học được từ chú ấy rất nhiều. Chú đã
nói cho tôi nghe về những biến cốtrọng đại của đất nước về chế độ VNCH,
về chính sách của Mỹ đối với Việt Nam, quan hệ Mỹ, Nga, Trung trong quá
khứ và hiện tại với những hệ luỵ của nó đối với Việt nam .Những lượng định chính trị trong tương lai về một trật tự thếgiới mới.
Tôi cảm nhận ở nơi chú một tấm lòng quảng đại, nhân hậu, một kho tàng những kinh nghiệm và kiến thức cho những người trẻ như tôi. Tôi vô cùng biết ơn chú. Trong lòng tôi, Chú Khâm mãi mãi là người Thầy đáng kính-người chú thân tình đã giúp đở dìu dắt tôi trên một đoạn đường chông gai.
Tôi cảm nhận ở nơi chú một tấm lòng quảng đại, nhân hậu, một kho tàng những kinh nghiệm và kiến thức cho những người trẻ như tôi. Tôi vô cùng biết ơn chú. Trong lòng tôi, Chú Khâm mãi mãi là người Thầy đáng kính-người chú thân tình đã giúp đở dìu dắt tôi trên một đoạn đường chông gai.
Giờ đây, chú Khâm, anh Thành, anh Đăng và một số anh em khác nữa đều bị chuyểnđi. Chúng tôi như bầy chim bị bão dữ tấn công tan tác, nhưng dù cho đàn chim có tan tác nhưng từng con chim vẫn hiên ngang vững vàng, cho dù gục ngã cũng gục ngã trong vinh dự và niềm tin vào công lý và tự do.
Buổi sáng ngày cuối cùng của năm 1994, chúng tôi được lệnh chuyển trại. Tôi thu xếp đồ dùng cá nhân vào
mấy cái hộp giấy ộp ẹp rồi dùng những sợi dây vải buộc chúng lại thật
kỹ. Đây là những vật dụng cần thiết cho sinh hoạt của một người tù cho
dù nó hạn chế đến mức không thể hạn chế được nữa. Cuộc sống và sinh
hoạt của một người tù trong chế độ lao tù CS bị đơn giảnđến mức vượt
quá sự nghèo nàn, chỉ có tư tưởng của họ là được tự do…Chính tại nơi
đây, một thế giới của bệnh tật, đói rách, tra tấn, khủng bố đã ra đời
những tác phẩm nghệ thuật quý giá. Chính tại nơi nầy, nhà tù cộng sản
những thi phẩm-nhạc phẩm, tiểu thuyết đã ra đời hoặc được thai nghén.
Nơi tận cùng của bất hạnh là niềm cảm hứng và cũng là nơi phải trả những cái giá quá đắt quá khủng khiếp cho những sáng tạo đó:
- Giáo sư Đoàn Viết Hoạt với Tiến trình Dân chủ hoá VN.
- Anh Phạm Văn Thành với phúc trìnhvà những tội ác về sự vi phạm nhân quyền của chế độ.
- Anh Vũ Đình Thụy 12 năm tù với một tập thơ.
- Anh Hoàng Xuân Chinh, Trần Nam Phương, Trương Nhật Tân bị kỷ luật vì những bài thơ của mình .
- Riêng phần tôi suýt bị cùm vì mấy trang nhật ký.
Chúng tôi tập trung ngoài sân trại
với những đồ đạt cá nhân. BGT cố tình hạn chế tối đa những gì chúng tôi
mang theo. Họ buộc chúng tôi bỏ lại những vật dụng cần thiết với lý do
là xe không đủ chỗ. Có một sốngười lờ đi không nghe, bao giờ cũng vậy,
người cai trị muốn bóp nghẹt những người bị trị, càng nghẹt càng tốt,
bóp đến tận cùng và đâu là giới hạn của sựtận cùng? Đối với chế độ CS, không có bất cứ sự tận cùng nào ..sự tận cùng là ý muốn của họ nhưng cũng tuỳ vào thời cuộc và sự phản kháng của kẻ bị trị.
Trước khi lên xe chúng tôi bị kiểm tra, từ hành lý đến con người đều bị tìm kiếm, lục lọi, soi mói, nắn bóp.
Chúng tôi thực sự vui mừng khi anh NguyễnVăn Trung với đồ đạt cá nhân được thả ra để cùng đi với chúng tôi sau hơn một tháng gông cùm trong biệt giam. Nước da trắng của anh trở nên xanh mướt, bàn tay lạnh ngắt khi bắt tay tôi nhưng nụ cười của anh vẫn rạng rỡ và tiếng nói vẫn sang sảng khi anh đến từng người thân trò chuyện hỏi han.
Chúng tôi thực sự vui mừng khi anh NguyễnVăn Trung với đồ đạt cá nhân được thả ra để cùng đi với chúng tôi sau hơn một tháng gông cùm trong biệt giam. Nước da trắng của anh trở nên xanh mướt, bàn tay lạnh ngắt khi bắt tay tôi nhưng nụ cười của anh vẫn rạng rỡ và tiếng nói vẫn sang sảng khi anh đến từng người thân trò chuyện hỏi han.
Việc kiểm tra gần 100 người mất một thời gian khá lâu. Gần một giờ đồng đồng hồ, chúng tôi tranh thủ để dặn dò, trao đổi địa chỉ vì chuyến đi này không biết sẽ ra sao, ở đâu? Về đâu?
Chúng tôi vô cùng hồi hộp khi chiếc xe chở tù vào sân, và tên từng người được gọi. Số người tù đầu tiên lên xe có những người bạn thân thiết của tôi: Anh Lê Văn Điểm và Trương Nhật Tân, Lê Văn Hiếu, chú Nguyễn Xuân Đồng, anh TrầnĐức Hào.
Chuyến thứ hai, tôi thật sự bồn chồn. Khi tên từng người bạn của tôi bước lên xe: Anh Trần Nam Phương, Hoàng Xuân Chinh, Phan Văn Bàn và rất nhiều người khác… vẫn chưa thấy tên tôi… đầu óc tôi trống rỗng cho đến khi tôi nghe gọi lên mình. Tôi bước lên xe, vào chỗ ngồi mới biết mình là người cuối cùng của chuyến xe này, nhìn xuống vẫn còn mười mấy anh em dưới đó chờ xe sau.
Định thần lại, khi tôi đã ngồi được một lát trên xe và đếm được 32 người tù, còn lại là một số cán bộ của trại Xuân Phước và mấy tay cán bộ của trại nào đó. Xe vẫn còn mấy ghế trống.
Tôi may mắn được ngồi kế cửa sổ bên tay trái, một tay còng vào thành xe. Phải công nhận lần chuyển trại này chúng tôi được ngồi trên một chiếc xe tử tế. Xe chở khách, ghế ngồi êm, xe sạch sẽ không giống như chiếc xe chờ lợn mà trại AnĐiềm chở chúng tôi vào Xuân Phước với những chiếc còng tay chặt cứng, ứ máu vàmột mớ dây nhợ trói chân chúng tôi vào nhau rồi cẩn thận hơn: vòng quanh người kéo hai cánh tay ra sau. Những sợi dây ny lông này trói cọp cũng chết huống hồtrói người.
(Phần 4)
Không hiểu sao chúng tôi cảm thấy vui,
nét mặt ai cũng rạng rỡ, dù sao cũng được một chuyến rong chơi cho dù
trước đó có những đồnđoán về sự khắc nghiệt ghê gớm ở những trại tù miền
Bắc.
Xe bắt đầu lăn bánh chạy vun vút giữa rừng cây, tôi nhìn cảnh vật bên đường lướt nhanh, những mái nhà đơn sơ, khoảng sân nhỏ, vườn cây chật hẹp. Tôi biết người nông dân bây giờ thiếu đất canh tác vì đất là của nhà nước của Đảng, nó như là “hương hoả ”của Đảng, dùng để bán dần theo kế hoạch. Những người dân lầm lũi đi ven đưòng bên những con bò gầy trơ xương. Đã hai năm tù, mọi thứ vẫn vậy.
Xe đến ngã 3 Phú Thạnh. Chúng tôi hồi hộp tuy đã chuẩn bị sẵn sàng cho chuyếnđi này và biết chắc mười mươi là sẽ ra Bắc nhưng trong lòng vẫn nôn nao. Biếtđâu lại vào Nam, ánh nắng phương Nam ấm áp làm chúng tôi mơ ước. Xe rẽ trái, chiếc đầu tiên rẽ trái, chiếc tôi đang ngồi rẽ trái, chiếc thứ ba rẽ trái. Chú Trần Văn Nhi nói với sự trầm tĩnh vốn có:
- Đi Bắc rồi . Giọng chú kéo dài.
Như vậy là đã rõ, tôi thấy lòng thư thái, nhìn ra bên đường gió thổi lồng lộng, trời nắng nhẹ, một chút nắng mùa đông yếu ớt của miền Nam trung bộ.
Anh em vẫn bình thản nói cười. Tôi thầm nghĩ với những con người đã trải qua rất nhiều gian khổ và hiểm nguy, thì ở đâu, đi đâu cũng vậy thôi. Trong lòng mọi người ai cũng muốn được đi khắp các nhà tù của chế độ để chứng kiến sự dã man tàn bạo của cái thiên đường ảo tưởng này, để một ngày nào đó, nếu may mắnđược quay về, họ sẽ là chứng nhân lịch sử. Chứng nhân và nạn nhân của một guồng máy bạo quyền nhân danh chân lý “giải phóng loài người”.
Khi còn ở bên ngoài, ở đâu tôi cũng thấy cũng nghe từbáo chí sách vở đài phát thanh và rất
nhiều ở những diễn văn của các nhà lãnhđạo CS nói về sự “giải phóng
loài người” ra khỏi sự kìm kẹp của phong kiến, đếquốc-thực dân, nhưng
khi ai đó đã vào đến đây rồi:
Sau cánh cổng sắt, sau những hàng rào kẽm gai dày đặt, trong một góc
biệt giam tối tăm, rồi thì mọi việc đều sáng tỏ. Ở đây mọi kịch bản đều
vứt bỏ, mọi chiếc mặt nạ bị lấy ra, mọi khẩu hiệu đều kéo xuống, chỉ còn
một sự thật trần trụi, lạnh lùng bày ra trước mắt: Sự đoạ đầy, tra tấn,
bệnh hoạn và chết chóc. Trong
địa ngục, con ác quỷ đã hiện nguyên hình. Ở đây chúng tha hồ tác yêu tác
quái, những thủ đoạn tàn độc nhấtđược thực thi mà không cần phải che
dấu hay đóng kịch. Chính trong nhà tù, bản chất chế độ đã được phơi bày.
Xe đi qua nhiều vùng đất mà tôi
không biết rõ tên, chỉthấy đất nước này thật đẹp thật nên thơ, mơn mởn
như một cô gái xuân nhưng bây giờ lại nằm trong tay một đám người thô
lỗ, hung bạo để chịu sự dày vò, đáng tiếc và đáng buồn biết bao.
Xe chạy qua Sa huỳnh, tôi nhoài người nhìn ra khoang cửa bên kia, loáng thoáng biển xanh mênh mông, một vài chiếc thuyền đánh cá làm tôi nhớ đến bờ biển quê tôi. Biển quê tôi không đẹp như Sa Huỳnh, chỉ có bờ cát trằng và trong kia là rừng dương xen lẫn với rất nhiều những cây dứa gai. Mùa hạ đến, mùi dứa gai thơm man mát, xao xuyến lòng những đôi tình nhân nép mình vào nhau mê đắm. Tôi nhớ đến Trang - vợ tôi với những đêm trăng cầm tay nhau đi trong một khoảng trời cát trắng với mùi hoa dứa nồng nàn. Tôi nhớ đến các con tôi những chiều các cháu cùng tôi đi dạo, những đôi chân trần bé tí, những mái tóc mềm như tơbị gió thổi tung, những vỏ sò vỏ ốc trên đôi tay mũm mỉm, những nụ cười trẻ thơtrong trẻo, hồn nhiên. Khi mỏi chân, cha con chúng tôi ghé vào một quán nước nghèo nàn, uống một chai nước khoáng và mấy cái cái bánh đậu xanh Bảo Hương nổi tiếng của Tam Kỳ. Lúc đó là những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, ở quê tôi như vậy là sang lắm rồi. Các con bây giờ như thế nào đây khi không có ba ởnhà. Ai đưa đón các con tôi đi học, ai đưa các con đi chơi, ai nghe các con kểchuyện.. các con làm nũng với ai? Nước mắt tôi chảy thành dòng, tôi không phải che giấu, không cần giải thích.
Xe chạy qua Sa huỳnh, tôi nhoài người nhìn ra khoang cửa bên kia, loáng thoáng biển xanh mênh mông, một vài chiếc thuyền đánh cá làm tôi nhớ đến bờ biển quê tôi. Biển quê tôi không đẹp như Sa Huỳnh, chỉ có bờ cát trằng và trong kia là rừng dương xen lẫn với rất nhiều những cây dứa gai. Mùa hạ đến, mùi dứa gai thơm man mát, xao xuyến lòng những đôi tình nhân nép mình vào nhau mê đắm. Tôi nhớ đến Trang - vợ tôi với những đêm trăng cầm tay nhau đi trong một khoảng trời cát trắng với mùi hoa dứa nồng nàn. Tôi nhớ đến các con tôi những chiều các cháu cùng tôi đi dạo, những đôi chân trần bé tí, những mái tóc mềm như tơbị gió thổi tung, những vỏ sò vỏ ốc trên đôi tay mũm mỉm, những nụ cười trẻ thơtrong trẻo, hồn nhiên. Khi mỏi chân, cha con chúng tôi ghé vào một quán nước nghèo nàn, uống một chai nước khoáng và mấy cái cái bánh đậu xanh Bảo Hương nổi tiếng của Tam Kỳ. Lúc đó là những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, ở quê tôi như vậy là sang lắm rồi. Các con bây giờ như thế nào đây khi không có ba ởnhà. Ai đưa đón các con tôi đi học, ai đưa các con đi chơi, ai nghe các con kểchuyện.. các con làm nũng với ai? Nước mắt tôi chảy thành dòng, tôi không phải che giấu, không cần giải thích.
Ai đã cướp mất của các con tôi những ngày tháng hạnh phúc bình thường đó? Đây là một tội ác trong vô vàn những tội ác mà CS đã gieo rắc trên đất nước tôi nhân danh một chủ nghĩa ưu việt.
Nước mắt tôi khô dần trên má, xe đi qua Quảng Ngãi, xe chạy chậm lại vì đường quá hẹp, tôi được nhìn rõ những cảnh tượng quen thuộc, những người bán hàng rong ven đường ngước mắt nhìn chúng tôi lạ lẫm. Họ bán đủ thứ, bánh mì chả,bánh ú, vé số và nhiều nhất là những lon mạch nha và đường phổi. Xe dừng lại cho mấy tay cán bộ mua quà về cho gia đình ngoài Bắc. Chúng tôi không có tiềnđể mua, chỉ nhìn những lon mạch nha và những bánh đường phổi để mà thèm thôi. Có một vài cô gái muốn leo lên xe để rao hàng nhưng bị công an đuổi xuống với thái độ rất thô bạo. Có một người trong bọn họ giải thích khi dân chúng tò mò nhìn chúng tôi.
- Đây là xe giải bọn tội phạm nguy hiểm, chúng là bọn cướp của giết người… bà con phải tránh xa ra.
Những người dân đi đường nghe nói vậy họ càng hiếu kỳ kéo đến xem ngày mộtđông. Có người nhận xét.
- Cướp gì toàn mấy ông già và mấy người hiền khô trói gà không chặc vậy! Mấyổng nói sao chứ!
Không biết trong anh em chúng tôi có ai đó giải thích cho họ. Họ nói với nhau:
- Tù chính trị bà con ơi… ra coi tù chính trị này.
Như vậy là cả một dãy phố gần đó và những người đi đường đứng lại vây quanh xe chúng tôi. Tôi và mọi người giơ cánh tay bị cùm vẫy chào bà con với nụ cười thân mật, tự hào… trong lòng dâng lên một niềm vui khôn tả nỗi.
Mấy tay công an vất vả xua đuổi họ.
- Chính chị chính em cái gì… giải tán hết.
Mặc cho sự xua đuổi thô bạo, bà con vẫn tiếp tục vây quanh mỗi lúc một đông. Thấy tình hình bất lợi, một cán bộ vào gặp lãnh đạo. Một lát sau xe chuyển bánh, bà con vẫy tay với theo lưu luyến.
Tôi bồi hồi nhìn những mảnh đất
quen thuộc lướt nhanh qua khung cửa, đây là sông Trà Khúc, núi Ấn đây
rồi, tôi nhìn lên núi Ấn, núi xanh và u uẩn như mang tâm sự gì.
Đây là một dãy phố nghèo nàn chật hẹp, những người nông dân gánh những buồng chuối màu vàng, màu xanh đi bán dạo.
Hai bên đường những mảnh ruộng nhỏ như bàn tay, lúa đang lên rất xanh, chuẩn bịtrổ bông, những rừng bạch đàn trên đồi cao lao xao trong nắng và gió. Xe vượt lên mấy ngọn dốc nhỏ, tôi biết đã gần đến Chu Lai, quê của anh Trần Nam Phương và anh Hoàng Xuân Chinh.
Đây là một dãy phố nghèo nàn chật hẹp, những người nông dân gánh những buồng chuối màu vàng, màu xanh đi bán dạo.
Hai bên đường những mảnh ruộng nhỏ như bàn tay, lúa đang lên rất xanh, chuẩn bịtrổ bông, những rừng bạch đàn trên đồi cao lao xao trong nắng và gió. Xe vượt lên mấy ngọn dốc nhỏ, tôi biết đã gần đến Chu Lai, quê của anh Trần Nam Phương và anh Hoàng Xuân Chinh.
Chu Lai là vùng đất đẹp tuyệt vời. Tôi đã đến đây rất nhiều lần. Phía Tây tiếp giáp với Trường Sơn, là những ngọn núi không cao lắm. Ở đó người dân đốt rừng làm rẫy. Những buổi mai và buổi chiều, trời trong và gió nhẹ nhìn lên từng cột khói trắng đang rướn mình vào khoảng không gian rồi tan loãng ở đó. Trong thời kỳ gọi là “bao cấp” và hợp tác xã nông nghiệp. Người nông dân không sống nỗi với chế độ “lúa điểm”, họ vào rừng lên núi để khai hoang..Vậy là rừng bị tàn phá.
Vào trong rừng sâu sống đơn độc một vài gia đình, mọi liên lạc với cuộc sống bên ngoài rất hạn chế.
Không có gì cả, chỉ có núi rừng bao bọc, ban đêm nằm nghe tiếng nai, tiếng man rất gần. Người ta không đi chợ vì không có chợ.
Cuộc sống hoàn toàn khác, cá dưới suối, dưới sông, chim thú trên rừng, lúa ngô tự làm ra, nhà tự cất lấy.
Cuộc sống như người tiền sử, nhưng được cái tự do, không bị gọi đi họp mỗi đêm. Ít khi tiếp xúc với công an-chính quyền để khỏi nhìn thấy những khuôn mặt đê tiện-hung bạo-hống hách hay những khuôn mặt lạnh lùng như nặn bằng sáp-không tình người không sinh khí. Chỉ là những cổ máy, những công cụ.
Tôi đã từng đi tìm vàng, len lỏi vào tận rừng sâu, dựng lều bên dòng suối để đãi vàng, đêm vào tá túc nơi nhà những người nông dân. Nhà rất hẹp nhưng tấm lòng thì rộng vô cùng, là khách phương xa được đối xử chân tình thân mật. Tôi mang cho họ vài tấm lưới, một vài cái bẫy chồn, bẫy nhím… như vậy là cả tháng trời họ cho mình ăn ngủ không mất tiền.
Lúc đó đãi vàng cũng chẳng được bao nhiêu, ngặt nỗi chẳng có việc gì làm nên phải cầu may ở số mệnh.
Phía đông Chu Lai giáp biển, không biết sao, một dẫy núi lạc loài lại nhô lên ven biển, ông trời mang đến cho Chu Lai một cảng biển nhỏ nhưng tuyệt đẹp, tàu thuyền ra vào tấp nập. Ở đây rất nhiều cá, những con cá mà khi viết những dòng này chỉ còn ước mơ chứ khó mà được thưởng thức.
Cá mú, cá chim, cá hồng, cá thu và rất nhiều mực, mực nang, mực ống..mùa hè đến Chu Lai vô cửa Kỳ Hà, từ xa chúng ta nghe xông lên mùi cá khô, cá mắm.
Xe chạy ngang qua Chu Lai, anh Phương nhờ
tôi ném xuống một lá thư ngắn. Sau này mới biết lá thư ngắn này đến
được tay của chịTuyết vợ anh Phương. Tôi cũng chuẩn bị một tờ giấy nhỏ
viết mấy dòng..
“Kính nhờ bà con nào nhặt được chuyển đến số nhà … giúp tôi.
Ba cùng với anh em tù chính trị ở Xuân Phước đã chuyển ra Bắc”.
Không may cho tôi, tờ giấy của tôi bị xe công an áp tải phía sau trông thấy. Họdừng xe nhặt miếng giấy lên. Khi đi ngang qua Tam Kỳ, tôi cầu mong trời Phật cho tôi thấy được các con tôi vô tình đi qua … Tôi căng mắt nhìn xuống phố.
Cái thị xã nhỏ bé này thật quen thuộc quá. Từ ngày ra đi, cách đây 2 năm. Tam Kỳ vẫn vậy: nhỏ bé đơn sơ. Hàng cây xà cừ xanh hơn một chút. Xe chạy rất nhanh, tiếng còi của xe mô tô công an chạy trước mở đường. Đoàn xe tù chính trị chúng tôi mỗi khi đi qua một thị xã một thành phố nào cùng có công an địa phương hộtống mở đường nhưng khi qua Tam Kỳ tôi cảm thấy xe chạy nhanh hơn.
Cái giây phút được nhìn lại quê hương đi qua nhanh quá chưa kịp cho cái cảm giác khao khát vơi đi một chút.
Xe chạy đến đoạn đường cuối của thị xã Tam Kỳ, cái mong ước được nhìn thấy các con như vậy là hết (tôi biết điều này sẽ không xảy ra nhưng vẫn hy vọng). Khi xe ra ngoại ô thị xã, bất ngờ dừng lại trên một cánh đồng. Tôi nhận ra nơi này lúc còn đi học, những buổi chiều chủ nhật chúng tôi đạp xe rong chơi, chúng tôi ngồi bên vệ đường (ngày đó rất ít xe qua lại) ăn ổi chấm muối ớt mà các cô đã chuẩn bị sẳn ở nhà… vừa ăn ổi vừa kể chuyện cười. Tôi nhận ra chỗ chúng tôi vẫn hay ngồi và hình dung cả những người bạn của tôi… ở chỗ đó là Hà, gần bên kia là Hương, Ấn và Trinh lúc nào cũng đi cặp. Chung quanh là cánh đồng có khi ươmvàng mùa hạ và ngập nước mùa đông, chơ vơ gốc rạ mùa thu và mơn mởn khi xuân sắp về.
Tay thiếu tá công an của Bộ nội vụ là Tiếp hùng hổ bước lên xe, hắn ta mặc thường phục, khoác chiếc áo jean mặt hằm hằm quát mắng mấy người công an trên xe.”
- Chúng mày ở đây làm gì để cho chúng nó vứt tài liệu xuống, rồi quay qua chúng tôi hỏi: Ai là Huỳnh Ngọc Tuấn.
Tôi giơ cánh tay không cùm lên, linh cảm lá thư đã bị bắt được, lần đi Bắc này chắc bị cùm rồi.
Hắn ta không nói gì nhưng đôi mắt đó, khuôn mặt đó thật hung dữ, rồi ra lệnh cho mấy người công an áp giải
- Cùm hết hai tay chúng nó lại
Họ lôi ra một lô còng tay, tôi và tất cả mọi người ngồi bên cửa sổ đều bị treo tay lên trần xe. Tên công an phụ trách văn hoá của trại Xuân Phước tên là Nhuận mà anh em gọi là “con rắn độc” vì nhìn bề ngoài hắn rất đẹp trai, nhưng lại có những hành vi tàn bạo thâm độc với mọi người. Hắn bóp còng vào tay tôi thật chặt. Tôi nói với hắn:
- Chặt quá, cán bộ nới còng ra một chút để máu lưu thông, nếu không thì bỏng tay tôi mất.
Hắn không thèm trả lời, chỉ nhìn tôi hằn học như muốn ăn tươi nuốt sống. Cái nhìn này giống hệt cái nhìn tôi đã từng thấy từ tên Trung tá công an Hồ Quỳnh -Trưởng CA thị xã Tam Kỳ… khi tôi bị bắt. Đó là đôi mắt của dã thú, đó là đôi mắt của con rắn hổ mang nhìn mồi khi bị khiêu khích.
Tạo hóa cho loài người đôi mắt không chỉ để nhìn ngắm mà còn để chuyển tải một tấm lòng một tình cảm, qua đôi mắt chúng ta thấy được nội tâm của người đối diện. Có những đôi mắt nai vàng, đôi mắt thơ ngây của trẻ con, đôi mắt đa tình của cô gái, đôi mắt từ ái của cha mẹ, đôi mắt bao dung của các vị linh mục, sư sãi,đôi mắt thân tình của bạn bè..nhưng cũng đáng buồn cho những đôi mắt đầy lòng hận thù, hừng hực lửa hung bạo và sát khí. Họ căm thù những con người lương thiện, tay không tấc sắt nhưng không làm vừa lòng họ, không để họ đè đầu cưỡi cổ, không để họ tự do vơ vét, tự do chém giết. Họ căm thù những con người có dũng khí đã dám nói lên cái bí mật lớn nhất của họ đó là sự ngu dốt, não trạng hoang đường, phiêu lưu, hiếu sát, tham lam vô độ. Tôi không còn cách nào khác, chỉ còn cách xoay cánh tay để mạch máu không bị chận, nếu không bàn tay bị chết mất vì thiếu máu nhưng những ngón tay vẫn bị tê dại.
Xe ra đến chân đèo Hải Vân thì trời đã
tối hẳn, chúng tôi vượt qua đèo Hải Vân trong bóng đêm dày đặc, chung
quanh tối như mực, trời lại mưa lất phất.
Tôi liên tục co duỗi mấy ngón tay cho máu lưu thông, trong lòng sẵn sàn chấp nhận bỏ một bàn tay. Trong chế độ cộng sản này những người dám đứng lên phản kháng chế độ độc tài, phải chuẩn bị cho mình một khả năng là sẵn sàng buông bỏtất cả, cho dù đó là tính mạng của mình. Nếu không chuẩn bị trước điều này thì sẽ vô cùng sợ hãi khi đối diện với gian nguy và cái chết luôn luôn gần kề.
Xe lên đến đỉnh đèo thì dừng lại, chúng tôi được ăn tối ở đây, mỗi người một dĩa cơm và một khúc cá kho, một ít rau tươi. Tôi vui mừng vô cùng vì dù sao cũng được tháo còng một lúc. Tôi co duỗi mấy ngón tay đã tê cứng, bàn tay phải như mất cảm giác khi chạm vào dĩa cơm. Tôi cố gắng để không làm rơi cả dĩa.
15 phút họ cho nghỉ ngơi và kiểm tra xe trước khi xuống dốc. Xe lại nổ máy nhẹnhẹ chuẩn bị lên đường.
Người cán bộ còn rất trẻ đến còng tay tôi, tôi nói với anh ta.
- Cán bộ Nhuận còng tay tôi chặt quá, nếu cần thì chặt tay tôi chứ đừng còng như vậy. Tôi sẽ la lên cho mọi người biết.
Anh ta còng vừa phải. Tên Nhuận từ dưới bước lên xe đến chỗ tôi, hắn kiểm tra còng tay rồi hắn bóp chặt vào. Tôi phản đối dữ dội, tôi la lớn:
- Cán bộ muốn giết tôi à, còng tay như thế này thì chặt đi cho xong!
Mọi người quay lại nghe tôi nói. Anh em ai cũng lên tiếng phản đối. Chú Sáu Bàng lên tiếng quyết liệt nhất. Chú nói với nó:
- Nếu tử hình cũng phải có án, chặt tay cũng phải có quyết định. Cán bộ không thể hành động tuỳ tiện như vậy được.
Thấy mọi người phản đối hành động bất nhân của hắn, tên Nhuận đồng ý nới còng ra. Còng vẫn còn chặt nhưng như thế này thì bàn tay tôi sẽ không sao.
Hắn cẩn thận dùng khoá để khoá còng tay lại.
Tôi nhớ mãi khuôn mặt trắng trẻo được chăm sóc một cách cẩn thận và đôi mắt vô hồn vô cảm của hắn.
Nhuận là một điển hình của bọn công an cộng sản VN, bên ngoài lịch sự, bảnh bao vì được đầu tư từ nguồn ngân sách khổng lồ của ngành CA, ngân sách này là tiền của dân, tiền từ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên quốc gia được chi dùngđể bảo vệ chế độ, mặc cho dân sống khốn khổ trong nghèo nàn tăm tối, mặc cho giáo dục ý tế lạc hậu suy đồi. Nhưng bên trong là một trái tim hoang dã, tâmđịa thâm độc, dối trá hung bạo.
Những cơn gió lạnh lùa vào khung cửa, những giọt mưa lất phất bay, bóng đêm dàyđặc, xa xa có một vài ánh đèn lẻ loi, yếu ớt..đây là những hình ảnh mà chúng tôi nhìn thấy trên đường ra Bắc cũng là hình ảnh của đất nước và dân tộc ngày nay. Tôi vẫn khắc khoải trong lòng một câu hỏi lớn: Bao giờ trời sáng, bao giờthì bóng đêm tan - còn bao lâu nữa, không thể biết chính xác. Sau khi Đông Âuvà Liên Xô sụp đổ, nhân dân VN hy vọng sẽ có những thay đổi lớn ở VN. CSVN sau một thời gian khủng hoảng đã tìm được chỗ dựa mới cho dù phải hy sinh quyền lợi quốc gia dân tộc..chỗ dựa đó là Trung Cộng. Trước đây CSVN coi Liên Xô và khối cộng sản Đông Âu là “hòn đá tảng”. Bây giờ “hòn đá tảng” không còn CSVN phải bám víu vào Trung Cộng để duy trì quyền lực, đối với họ Trung cộng bây giờ là“bùa hộ mệnh” đúng hơn là ông “thần hộ mệnh”.
A20 Huỳnh Ngọc Tuấn
HỒI KÝ VƯỢT BIÊN LÊ TẤN LÝ
"Đi chừng vài cây số thì đau đớn thay, chúng tôi thấy xác chết của
bảy người bạn đồng hành trên chuyến đi ấy. Đây là những người bạn đã từ
giã chúng tôi để ra đi đêm hôm trước. Họ bị giết chết bằng súng vì chỉ
nhìn các vết thương của họ, chúng tôi cũng đoán được.
Thường thì người Miên giết người bằng giáo mác hay dao búa, nhưng bảy người này bị bắn chết. Có lẽ họ bị một trong các lực lượng chiến đấu bắn chết. Nạn nhân không nằm gần nhau: Bốn người thì nằm cách gần nhau, còn ba người kia thì nằm chết cách xa đó độ hai trăm thước. Có lẽ họ đã chạy được mà bị đuổi theo để bắn chết..."
Ông Lê tấn Lý vượt biên bằng đường bộ cùng với hai con trai. Ông cùng hai con đến trại Non Chan, sau đó qua trại NW 9,rồi trại Panatnikhom và một vài trại khác trước khi đến Hoa Kỳ vào tháng 7, năm 1981.
Hiện nay ông đã được đoàn tụ với vợ và hai con gái. Gia đình ông hiện đang cư ngụ ở Anaheim, California.
Thường thì người Miên giết người bằng giáo mác hay dao búa, nhưng bảy người này bị bắn chết. Có lẽ họ bị một trong các lực lượng chiến đấu bắn chết. Nạn nhân không nằm gần nhau: Bốn người thì nằm cách gần nhau, còn ba người kia thì nằm chết cách xa đó độ hai trăm thước. Có lẽ họ đã chạy được mà bị đuổi theo để bắn chết..."
Ông Lê tấn Lý vượt biên bằng đường bộ cùng với hai con trai. Ông cùng hai con đến trại Non Chan, sau đó qua trại NW 9,rồi trại Panatnikhom và một vài trại khác trước khi đến Hoa Kỳ vào tháng 7, năm 1981.
Hiện nay ông đã được đoàn tụ với vợ và hai con gái. Gia đình ông hiện đang cư ngụ ở Anaheim, California.
Gia đình ông đã may mắn tới nơi, trong khi bảy người bạn đồng hành của cha con ông đã bị bắn chết trên đường đi.
Tuy tôn trọng quan điểm của ông khi nhận xét về lực luợng Para, nhưng
tôi không đồng ý với sự nhận xét đó. Lý đo vì chính ông và gia đình ông
không ai bị hãm hiếp hay giết hại bởi bàn tay của lực luợng này.
Cuộc Hành Trình Vượt Biên Bằng Đường Bộ Từ Việt Nam Qua Thái Lan.
Ba cha con tôi ra đi từ Sàigòn vào ngày 2 tháng 4, năm 1980. Mỗi đầu người phải trả bốn lạng vàng cho ban tổ chức. Tôi bắt liên lạc với đoàn xe vận tải chuyên chở gạo từ Sàigòn đến Battambang ở Cambodia.
Tổ chức này làm giấy giả cho tôi để giả dạng làm lơ xe và phu khuân vác
gạo. Đoàn xe này khi rời Sàigòn đến Nam Vang thì có mười lăm chiếc.
Nhưng từ Nam Vang đến Battambang thì chỉ có ba chiếc xe thôi. Vì thế,
con đường đi của chúng tôi rất gian nan và nguy hiểm. Lý do chính là nếu
đi mười lăm chiếc thì dễ trà trộn hơn là chỉ có ba chiếc thôi.
Khi tới Nam Vang thì xe vận tải đậu ở ngoại ô thành phố. Chúng tôi ở tại
đây được hai ngày. Sau đó thì đi Battambang. Tới Battambang, chúng tôi
sợ luôn những người tổ chức trong đoàn xe vận tải ấy. Lý do vì họ không
phải là người nhận tiền của chúng tôi.
Người nhận tiền vì lý do nào đó đã kẹt ở Sàigòn, nên anh ta giao chúng
tôi cho một nhóm người khác để họ đưa chúng tôi đi. Nhóm này hỏi chúng
tôi có vàng thêm thì đưa cho họ. Dù trong túi còn vàng, chúng tôi vẫn
làm bộ hết tiền để khỏi chi thêm cho họ.
Vì thế, họ để cho nhóm lính kiểm soát thẳng cánh xét hỏi chúng tôi mà họ
không hề binh vực chúng tôi điều gì. Trên đoạn đường đi từ Nam Vang đến
Battambang dài độ hai trăm năm mươi cây số, mỗi lần gặp trạm kiểm soát,
chúng tôi phải đưa giấy tờ giả ra cho họ xem. May mắn là qua thoát được
hết cả. Chúng tôi run sợ trong suốt cuộc hành trình đó.
Khi đến Battambang, cha con tôi rời ngay đoàn xe vận tải để tìm đến địa
điểm hẹn mà người trong ban tổ chức đã chỉ dẫn. Chúng tôi đến được một
quán ăn có bán hủ tiếu và nước ngọt. Nơi đây, tôi gặp người dẫn đường là
một người Miên nhưng có vợ là người Việt Nam. Ông này nói tiếng Việt
rất giỏi. Ông ta đưa chúng tôi đi từ Battambang đến Sisophon bằng xe mô
tô ba bánh, kiểu xe thồ.
Dọc đường, có hai trạm kiểm soát của người Miên, chúng tôi cũng giả làm
người Miên nên đi qua trót lọt. Đến thành phố Sisophon, người dẫn đường
dắt chúng tôi vào nhà một người quen để ăn uống và chuẩn bị cho cuộc đi
bộ vào ban đêm. Họ nói từ Sisophon đến biên giới Thái độ chừng tám mươi
cây số. Nhưng tôi tính ra thì chỉ độ khoảng năm mươi hay sáu mươi cây số
mà thôi.
Chúng tôi nhập bọn với bảy người đàn ông trai tráng nữa . Trong số ấy
cũng có người lớn tuổi như tôi, cỡ trên năm mươi tuổi. Thế là chúng tôi
đi bộ trong rừng mà không có đường mòn. Mỗi lần đi phải vạch cây lá mà
đi.
Từ Sisophon đến Non Chan, chúng tôi phải đi trong bốn
đêm. Cứ tối, độ 7:00 giờ hay 8:00 giờ tối là bắt đầu đi cho đến độ 5:00
giờ sáng thì được nghỉ. Thường thì người dẫn đường dắt chúng tôi gửi
vào nhà người quen để khỏi bị lộ, và để ăn uống và ngủ lấy lại sức, chờ
đến tối thì đi tiếp.
Tối đến thì chúng tôi lại được giao cho một toán dẫn đường khác. Như thế
họ cứ thay đổi người dẫn đường mãi. Nhờ chúng tôi đi số đông, hết thảy
là mười người đàn ông nên chúng tôi bênh vực và bảo vệ cho nhau, do đó
những kẻ dẫn đường dù có tà tâm cũng không thể giết chúng tôi được.
Sau ba đêm, đến một chỗ vắng, chúng tôi bị giao cho một nhóm dẫn đường
khác. Nhóm người này cầm búa và rìu trông vẻ mặt thì dữ tợn và bất
lương. Họ đưa chúng tôi vào rừng rồi bắt cởi hết quần áo để họ xét và ăn
cướp tất cả.
Lúc đầu họ còn nói ngọt ngào để chúng tôi viết giấy về gia đình nói là
đã đến biên giới rồi. Như quy ước, nếu đến nơi, nếu như viết đúng nội
dung mật hiệu đã quy định thì người nhà tôi mới giao đủ số vàng còn lại.
Tôi đã dùng mật hiệu báo cho vợ tôi biết là tôi chưa đến nơi. Chứ nếu
không viết thư thì chúng làm khó dễ và bỏ rơi mình.
Ở tại khu rừng ấy, có lẽ chỉ cách trạm gác của Bộ đội Việt Nam độ vài
cây số, thì bọn cướp này cướp tất cả mọi thứ của cải của chúng tôi. Khi
chúng tôi vùng vằng phản đối thì bọn chúng dọa sẽ tố cáo với Bộ đội Việt
Nam để chúng tôi bị bắt.
Vì thế, chúng tôi nghi là bộ đội Việt nam chắc là ở không xa nơi
này là bao. Bọn chúng cướp tất cả những quần áo lành lặn mà chúng tôi
đang mặc trên người. Khi thấy chúng tôi trần truồng,
trông khó coi qúa thì chúng bèn vứt cho chúng tôi vài cái quần đùi, vài
cái áo rách rưới và hôi hám, và vài khăn quàng của người Miên.
Lúc ấy, chúng tôi thấy cái chết trước mắt, không còn cách gì mà đến được
biên giới nữa rồi. Chỉ còn một hy vọng mong manh làkhi bọn hắn đã lấy
khá nhiều vàng, đồng hồ và quần áo rồi, chắc là chúng sẽ tiếp tục dắt
mình đi nữa.
Khoảng 7:00 giờ tối, bọn cướp bèn dùng đèn pin dắt chúng tôi đi tiếp độ
hơn nửa cây số. Đến một lộ đất, chúng nói gạt chúng tôi rằng chỉ còn có
hai cây số nữa là đến trại của quân Kháng Chiến chống Cộng sản Việt nam,
đó tức là lực lượng Para. Nghe như vậy, chúng tôi rất nôn nóng và thèm
khát được đến đó vô cùng.
Khi vừa ra khỏi lộ đất thì bọn chúng tắt đèn và rút lui mất dạng hồi nào
mà chúng tôi không hay biết. Chỉ còn mười người chúng tôi tiếp tục lần
mò đi theo hướng mà chúng đã chỉ. Đi độ chừng một cây số thì con tôi là
cháu Tiến bị xỉu ngay tại chỗ mà không còn đi được nữa. Có lẽ Tiến bị
xáo trộn tinh thần qua việc bị cướp bóc mà xỉu.
Tôi bèn yêu cầu cả đoàn ở lại nghỉ mệt để chờ con tôi bớt mệt rồi cùng
đi tiếp. Ban đầu, bọn họ làm thinh. Sau đó, họ bàn bạc và quyết định để
ba cha con tôi ở lại, còn họ đi tiếp vì họ không thể vì một người xỉu để
mà ở lại hết.
Thế là họ chào chúng tôi và tiếp tục lên đường vào lúc độ
9:00 giờ tối. Buồn tủi và bàng hoàng, ba cha con tôi đành ở lại vì không
còn đi được nữa. Chúng tôi đi sâu vào trong rừng, rồi đạp cỏ tranh dẹp xuống để làm thành một chỗ mà nằm ngủ tạm. May là không bị rắn cắn trong đêm ấy.
Đêm đó, tôi sợ hãi mà không dám ngủ, trong khi hai cậu con trai của tôi
ngủ say và ngáy vang trời. Vốn là sĩ quan của chế độ VNCH, tôi đã biết
cách di chuyển ở những vùng biên giới nguy hiểm. Lại nữa, tôi nghĩ rằng
nơi đây là vùng ranh giới, nơi có nhiều lực lượng quân sự khác nhau như
quân đội của Cộng Sản Việt nam, của Cộng Sản Miên, của lực lượng Kháng
chiến, và của Khmer Đỏ tức là Pol Pot. Ngoài ra, còn có lực lượng du
kích hoạt động về đêm và cả dân buôn lậu nữa.
Chính vì tính cách đa dạng và nguy hiểm của vùng biên giới, bởi bất cứ
lực lượng nào cũng có thể bắn mình nếu họ khám phá ra có bóng người di
chuyển. Vì vậy tới đây, ta không thể di chuyển ban đêm được nữa, mà phải
di chuyển vào ban ngày để bảo đảm sự an toàn hơn.
Sẵn dịp Tiến bị xỉu, tôi phải chờ đến lúc rạng đông có mặt trời lên để
biết hướng tây mà đi. Tôi nghĩ mình cứ chực chỉ hướng tây thì thể nào
cũng đến được biên giới Thái. Lúc ấy tôi cũng chưa biết gì về lực lượng
lính Para cả.
Sáng 10 tháng 4, năm 1980, lúc đi dọc đường, chúng tôi thấy từ xa có
đoàn xe bò từ biên giới về, nên cha con tôi lại nhảy vào bụi rậm để trốn
núp. Đoàn xe đi ngược lại hướng chúng tôi đang đi. Khi họ đi qua, chúng
tôi thấy trên xe bò chỉ có đàn bà và con nít chứ không có vũ khí. Biết
họ chỉ là dân lành nên tôi cũng yên tâm. Tuy nhiên chúng tôi cũng chờ họ
đi qua một đoạn khá xa rồi mới đi tiếp nữa.
Vì thế nên chúng tôi đi rất lâu. Độ một tiếng sau, tôi quay lại dặn hai con:
- Ba đã lớn tuổi rồi có chết cũng được, không sao cả. Còn hai con còn
trẻ, chết sớm tội nghiệp lắm. Bây giờ ba đi trước, còn tụi con đi sau
khoảng vài trăm thước. Nếu thấy ba bị bắt thì tụi con phải nhảy vào rừng
trốn ngay, chứ để bị bắt chung cũng không có lợi gì. Rồi từ từ, các con
đi sau. May ra thì cũng tới nơi!
Các con tôi không chịu, chúng sợ tôi đi một mình nguy hiểm nên chúng cứ
đi theo sát tôi. Vì thế tôi lại càng phải cẩn thận hơn. Đi độ một lúc
nữa, chúng tôi vì khát qúa mà lại ở trong rừng khô, không có nước, nên
chúng tôi phải đi tiểu vào bi đông để uống lại nước tiểu của mình.
Một chập, chúng tôi thấy bóng năm, sáu người đi bộ từ đàng xa. Họ đang
gánh một cây sào dài, trên đó có bao gạo, sô nước và đồ dùng. Chúng tôi
lại trốn núp chờ họ đến gần. Biết chắc là nếu gặp họ thì cũng không có
gì nguy hiểm, nên tôi bèn nhảy ra chận họ lại để xin nước uống. Ban đầu
họ nghi ngờ tôi, mà tôi cũng sợ họ.
Sau họ thấy tôi ra dấu muốn xin nước uống, họ liền cho tôi uống ngay.
Tôi bèn đổ bi đông nước tiểu để xin họ cho một bi đông nước uống. Họ
cũng vui vẻ cho tôi nước. Trông họ rất thật thà và tử tế, khác hẳn với
những người Miên cầm quân và những kẻ dẫn đường đã cướp hết của cải của
chúng tôi. Lũ người kia thật là ác độc và tham lam.
Vừa khi ấy, hai con trai tôi lững thững từ trong rừng bước ra. Tôi đưa tay chỉ con đường phía trước và hỏi họ:
”Xiêm?”
Họ bèn gật đầu và hỏi tôi xem phía sau lưng tôi có Bộ đội Việt Nam hay không? Họ nói được bốn tiếng ”Bộ đội Việt Nam” bằng tiếng Việt. Chúng tôi hỏi đường rồi tiếp tục đi nữa.
Đi chừng vài cây số thì đau đớn thay, chúng tôi thấy xác chết của bảy
người bạn đồng hành trên chuyến đi ấy. Đây là những người bạn đã từ giã
chúng tôi để ra đi đêm hôm trước. Họ bị giết chết bằng súng vì chỉ nhìn
các vết thương của họ, chúng tôi cũng đoán được.
Thường thì người Miên giết người bằng giáo mác hay dao búa,
nhưng bảy người này bị bắn chết. Có lẽ họ bị một trong các lực lượng
chiến đấu bắn chết. Nạn nhân không nằm gần nhau: Bốn người thì nằm cách gần nhau, còn ba người kia thì nằm chết cách xa đó độ hai trăm thước. Có lẽ họ đã chạy được mà bị đuổi theo để bắn chết.
Tôi không thể gom họ lại và chôn xác họ được, mà chỉ biết van vái cho họ
giúp chúng tôi đến nơi chốn bình yên. Chỗ họ chết chỉ cách biên giới
Thái chừng mười lăm cây số mà thôi! Ôi, giá của tự do qúa đắt! Họ đã trả
giá bằng chính mạng sống của chính mình! Định mệnh thật đáng sợ. Tôi
chợt nhớ đến số phận mình. Nếu Tiến không xỉu đêm ấy, chắc ba cha con
tôi cũng chịu chung số phận bất hạnh như họ rồi.
Thế rồi chúng tôi lại đi tiếp, mỗi lần gặp những người đi ngược chiều
với mình, thì đó là những người đi buôn lậu và xin gạo từ Miên về, là
chúng tôi hỏi tiếp đường đi. Đến khoảng 10:00 giờ sáng thì chúng tôi gặp
một người đàn ông Miên đang đi ngược chiều với chúng tôi, tay anh ta
cầm chiếc búa đẽo cây.
Một điều lạ lùng là khi anh ta thấy chúng tôi thì vội xoay người lại để
đi cùng chiều với chúng tôi. Dáng vẻ anh như đang suy tính điều gì quan
trọng. Chừng như anh ta là quân thám thính và đang muốn trở về báo cáo
với cấp trên về sự hiện diện của ba người lạ mặt là chúng tôi. Lúc ấy,
chúng tôi sợ hãi vô cùng. Muốn chạy mà chạy cũng không được. mà muốn
trốn thì sợ họ nghi. Tôi còn một niềm hy vọng là sớm gặp các lực lượng
binh sĩ chống Cộng.
Đi khoảng nửa cây số thì tôi gặp một đám lính tóc dài, mặc quần áo
dù rằn ri như quân phục của Quân đội VNCH ngày xưa. Tôi mừng thầm vì
nghĩ rằng họ là lực lượng chống Cộng Sản, tức là đồng minh của mình. Bọn
họ chận chúng tôi để lục xét tiền bạc và quần áo. Con trai tôi là Nhân
còn giữ được một miếng vàng nhờ nó kẹp giữa bó vải bó cái chân bị sưng phồng.
Thế là họ cướp miếng vàng ấy và dặn chúng tôi khi vào trong trại Para
thì không được khai là đã bị họ cướp vàng. Nếu khai đã bị họ cướp thì họ
sẽ giết chúng tôi ngay. Cũng may là chúng tôi còn chút vàng để cho họ
cướp thì họ mới cho đi ngay. Còn nếu không, chúng tôi không biết sẽ bị
đối xử ra sao.
Sau đó, đám lính Para này cho chúng tôi vào trại Para. Tại văn phòng của
lực lượng nàycó một vài người biết nói tiếng Anh và tiếng Pháp. Họ vặn
hỏi lý lịch của chúng tôi. Họ còn hỏi xem chúng tôi có thân nhân ở nước
ngoài không. May cho tôi là xấp giấy tờ tùy thân còn nguyên vì bọn cướp
đường không thèm lấy. Họ lục coi từng chữ một, xong họ cho chúng tôi ra
ngồi phía trước văn phòng. May là tôi có thân nhân ruột thịt ở Mỹ quốc
nên họ cũng không đối xử tử tế hơn với chúng tôi.
Sau đó, họ cho chúng tôi ra ngoài bụi tre. Tại đây tôi gặp gia đình ông Mỹ là bốn nguời, gia đình ông Nê là bốn người, anh em anh Hoà, anh Trung, vợ chồng anh Cho, vợ chồng anh Vĩnh (gia đình Kim Hà). Còn cô Oanh đến trước và bị nhốt ở trại bên kia. Cô ta tới trại lúc 12:00 giờ khuya.
Tại đây, nhóm lính Para phát gạo cho dân tị nạn ăn và cho muối để làm thức ăn. Sau đó, khoảng ba, bốn giờ chiều, cả đoàn tị nạn gồm ba mươi tư người được đưa qua nhà thương Non Chan.
Lực Lượng Para
Lực lượng Para nằm ngay
biên giới Thái và Cambodia. Họ là lính vô kỷ luật. Dù có tinh thần chống
Cộng nhưng sức yếu, chống không nổi Cộng Sản Việt và Cộng Sản Cambodia.
Ở chiến khu, họ tìm quỹ tiền bạc để sống bằng cách chận những người buôn
lậu từ biên giới Thái Lan về để cướp của. Họ còn chận bắt những người
tị nạn Việt Nam để bắt bớ, cướp của, hãm hiếp và giết hại.
Đương nhiên ở tại vùng biên giới, họ là ngưỡng cửa để chận cả hai bên mà
ăn cuớp. Xong xuôi, họ còn bắt giữ dân tị nạn Việt Nam lại để làm gia
mặc cả và đòi hội HTTQT nếu muốn cứu dân tị nạn thì phải trả cho họ
khoảng 5 tạ gạo cho mỗi đầu người dân tị nạn.
Lực lượng kháng chiến Para vì chuyện chận bắt người buôn lậu và người
Việt tị nạn để cướp của, hãm hiếp và giết hại. Nên từ đó, những người
đứng đắn và có chính nghĩa ở trong Mặt Trận Giải Phóng Quốc Gia Cambodia
đã rút lui hết. Chỉ còn lại toàn phường đầu trộm đuôi cướp mà thôi.
Nhân số của lực lượng này chỉ độ năm trăm người lính vô kỷ luật, toàn là
quân ăn cướp và sát nhân. Những lần đụng trận với Cộng Sản Việt Miên
thì họ đều bị đánh bật ra, phải tràn qua Thái Lan và nhờ lính Thái đánh
trả lại lính Cộng sản.
Có thể nói lực lượng Para là những con thú dữ chống Cộng Sản. Họ phải tự
tìm phương kế sinh sống nơi biên giới bằng cách cướp của giết người.
Hãy thử tưởng tượng năm trăm con người chiến đấu ở vùng biên giới. Trước
mặt và sau lưng đều có kẻ thù: Lực lượng Khmer Đỏ Pol Pot và lực lượng
Cộng Sản Việt Nam. Nếu họ không được tài trợ và nuôi đưỡng đầy đủ thì họ
làm gì để sống và để duy trì cơ sở căn bản của mặt trận của họ. Tuy
nhiên, họ đã đối xử độc ác với những người tị nạn Việt Nam đi ngang qua
căn cứ địa của họ. Họ sống ở trong rừng, thiếu thốn mọi nhu cầu, kể cả
nhu cầu sinh lý. Vì thế họ đã làm bậy bằng cách hãm hiếp các phụ nữ của
dân tộc khác.
Những thanh niên Para này lại ít học và ngu dốt. Sau khi đã cướp của,
hãm hiếp và giết người, họ sợ tiếng xấu loan truyền ra ngoài. Vì thế, họ
phải giết người để ngăn tiếng xấu. Ai ngờ tiếng xấu cũng vẫn lọt ra và
làm cho giá trị mặt trận thấp kém và mất uy tín đi.
Lực luợng Para muốn mua lòng dân chúng Miên. Họ dùng dân tị nạn Việt nam
để đổi lấy số gạo từ hội HTTQT, nhưng phát gạo cho dân chúng Miên. Hễ
dân Miên nào đói khổ, tới xin gạo thì họ đều cho gạo để mang về nhà ăn.
Cũng nhờ vậy mà dân Miên lên xin gạo, để rồi người tị nạn Việt mới có
lối đi vượt biên.
Người dân Miên đi xin gạo có hàng đoàn dài, đa số đi bằng xe bò. Có
người đem dân tị nạn cho Para để nhận thêm phần gạo đem về. Số này cũng
không nhiều vì có truờng hợp nhiều người tị nạn bị dân dẫn đường bỏ rơi
dọc đường.
Lực lượng Para là một nhóm quân lính ở trong rừng rú, không văn phòng,
không kỷ luật. Người lính thì bản chất còn man dại, mang thú tính, không
văn hóa và không có sợ răn dạy.
Người tị nạn Việt nam nếu muốn tới nơi thành công thì cũng phải dùng tất
cả mưu trí và sự chịu đựng. Sự cực khổ càng nhiều thì càng chứng tỏ mức
độ thông minh và mưu trí của người tị nạn. Mình còn sống đây là vì đã
biết chịu đựng nhịn nhục vô cùng. Mình nhịn còn nhiều hơn là ”Hàn Tín
luồn trôn”. Đôi khi luồn trôn vẫn còn qúa dễ hơn là những người tị nạn
phải chịu nhục nhã bởi sự đàn áp và hành hung của lính Para.
Nguyên nhân nào làm cho lính Para trở thành bọn cướp đường hung ác? Ta
hãy nhìn lại qúa trình lịch sử của đất nước Cambodia. Sau năm 1975, dân
tộc họ bị Pol Pot tàn sát khoảng hai, ba triệu người. Sau đó vào năm
1979, Việt Cộng xâm lăng Cambodia và áp đặt chính phủ bù nhìn lên dân
tộc Cambodia.
Vì thế bọn Para đã chống đỡ hàng ngày, quen thói giết người. Họ giết
người theo luật rừng xanh, không cần tòa án. Họ tập trung năm, sáu trăm
người gan lì nhất, những kẻ chấp nhận cái chết và sự giết chóc. Họ giết
người mà không bị ở tù.
Người Miên lại có mối thù truyền kiếp với dân tộc Việt Nam. Vả lại,
người nào trong đám đó hầu như cũng có một tiểu sử thù hận nên mới ở lại
trong rừng để chiến đấu. Nếu không thì họ đã đi làm ruộng hay đi tị nạn
như một số dân Miên khác.
Trại Tị Nạn Non Chan
Tại trại tị nạn Non Chan, chúng tôi được ban đại diện trại phát cho sáu
tấm ni lông xanh để căng lều và ngủ chung với nhau. Hội HTTQT là những
người can đảm và đầy lòng bác ái. Trong những nhân viên người Mỹ, Hoà
Lan, Thụy Sĩ, Bỉ và Pháp thì cô Denyse Betchov là người can đảm và dũng
cảm, lai có lòng thương yêu người yếu kém.
Khi ở trại Non Chan, tôi vì già nên được miễn lao động, còn hai con tôi
phải làm lao động cho lính Para. Họ đánh đập dân tị nạn, như trường hợp
anh B. bị họ đánh đập khi anh ấy đang bị bịnh.
Cũng may là trong nhiều đêm chúng tôi ở Non Chan, nếu giả sử có một đêm
mà Cộng Sản tấn công vào Non Chan, chắc chắn lính Para đã giết sạch sáu
trăm người tị nạn Việt Nam rồi. Lúc ấy đúng là giai đoạn thập tử nhất
sinh.
Khoảng trung tuần tháng 4 năm 1980, khi chúng tôi còn ở trại tị nạn tạm thời ở Non Chan, hội HTTQT đã đem một trăm bốn
mươi chiếc xe vận tải để chở gạo đến tại Non Chan. Lúc ấy, gần sáu trăm
người tị nạn Việt Nam ngồi trong vòng rào ngó ra. Lòng ai cũng mừng
khấp khởi vì tưởng là những xe ấy, sau khi đổ gạo xuống sẽ di chuyển chúng tôi đến trại tị nạn ở trên đất Thái Lan.
Lính Para kiểm soát số gạo xong thì hứa với hội HTTQT là sẽ cho người tị
nạn đị đến trại tị nạn trên đất Thái. Tuy nhiên, chúng lại giở quẻ và
đi tìm bắt phụ nữ tị nạn để hãm hiếp. Bọn chúng giở trò đánh đập và cô
lập người tị nạn, không cho bất cứ người nào được buớc chân ra khỏi vòng
rào của trại Non Chan, dù là để đi phóng uế hay tìm nước uống. Ai cãi
lại đều bị đánh bằng roi.
Để đối phó với tình hình khẩn trương đó, ban đại diện cử trên mười người
họp nhau ở một khu lều xanh để tìm cách đối phó. Vào đêm 20 tháng 4,
năm 1980, có chừng trên mười người trong nhóm lính Para đã đến khu lều
phụ nữ và con nít để tìm bắt cô Phụng Tiên, một cô gái đẹp người Hoa để
đem về cho người chỉ huy tư lệnh của lực lượng Para hãm hiếp.
Mười mấy anh em uy tín, trong đó có tôi, bèn bàn nhau để đối phó. Có anh
đề nghị là nên hy sinh cô Phụng Tiên để mà cứu lấy gần sáu trăm người
tị nạn khác. Nhưng có anh lại bàn rằng nếu mình nhượng bộ, chúng sẽ đòi
được cô ta, rồi chúng sẽ tìm bắt hết các phụ nữ trong trại để làm nhục.
Vì thế thì phải chận ngay từ đầu.
Thế là cô Phụng Tiên được dấu trong bao gạo. Họ lục xét không tìm được
cô ta, nên họ giở trò đòi bắt sáu anh em trong ban đại diện là những
người biết tiếng Miên, Anh và Pháp ra để bắn chết, trong đó có cả anh
Vinh. Các anh ấy sợ qúa chạy trốn, chỉ có hai anh giả bộ đánh lộn để
đánh thức tất cả mọi người và yêu cầu họ la lên đồng loạt.
Khi bọn chúng tiếp tục lôi kéo tìm các phụ nữ khác thì tiếng la khóc của
những người bị bắt nổi lên, rồi cả trại cùng đồng thanh la lên một
giọng. Bọn Para tức giận vô cùng. Chúng chỉa súng đòi bắt tất cả những
người mà chúng nghĩ là giật giây. Tất cả bà con lại la lên nhiều lần.
Cuối cùng, bọn chúng đành phải hậm hực rút lui.
Đến sáng hôm sau, ngày 21 tháng 4 năm 1980, lúc 8:00 giờ sáng có một xe
cứu thương của người Nhật Bản đến trại cấp phát thuốc men cho dân tị
nạn. Một số người trong ban đại diện yêu cầu nhóm ấy can thiệp để cứu
dân tị nạn. Nhưng họ trả lời là họ không có quyền hạn để làm việc ấy.
Khoảng 11:00 giờ trưa hôm đó, cô Denyse Betchov, nhân viên hội HTTQT lọt
vào trại. Cô ta dùng máy truyền tin của xe cứu thương Nhật Bản để liên
lạc với Thái Lan và xin được phép đưa gần sáu trăm người tị nạn đi vào
lãnh địa Thái Lan. Sau đó, các vị chỉ huy của hội HTTQT đều có mặt để
săn sóc dân tị nạn. Suốt ngày ấy, dân tị nạn không được phép ra ngoài
lấy nước. Vì thế, nhân viên hội HTTQT ở vùng biên giới phải lái xe chở
nước đến cho đồng bào tị nạn uống.
Cuối cùng, vào khoảng 5:00 giờ chiều có khoảng chín xe vận tải đến đón
dân tị nạn. Bà con mừng rỡ dọn dẹp trại sạch sẽ rồi sắp hàng trật tự để
được lên xe. Đến khoảng 5:00 giờ chiều, mọi nguời mới lên xe hết. Xe bắt
đầu chuyển bánh và đi về hướng tây bắc để đến trại NW 9.
Trại Tị Nạn Nw 9
Đoàn sáu trăm người này do anh Vinh làm đại diện gọi là trại B. Khi đến
trại NW 9 thì ở nơi đó chỉ là một rừng cây, có rải rác vài tấm lều ni
lông xanh của lính Thái canh gác. Tại đó có ba trăm người tị nạn vừa ở
Non Samet đến vào ba ngày trước. Đoàn ba trăm người này gọi là trại A,
do anh PNB làm trưởng trại. Anh B. là cựu trung úy, rất giỏi Anh văn.
Khi chúng tôi đến nơi thì được anh B. và ba trăm người tị nạn đến trước
ra chào đón. Họ cũng đã cất một số lều, nấu cơm nóng và cá hộp để đón
chúng tôi. Sau đó, cứ mỗi ba người lại được phát một tấm vải ni lông màu
xanh để trải ra ngủ tạm trên đất đầy cỏ và cây cối. Cũng đêm ấy, một
con rắn bò qua tay cô Oanh. Cô này hốt hoảng la hét lên, thế là cả trại
cũng hốt hoảng hét to theo.
Lúc đầu, ông George Verheil, nhân viên hội HTTQT đã chuyển lời của viên đại úy TháiLan có tên là Viroj để dằn mặt chúng tôi:
“Các bạn được ở tạm đây và được coi như là những người nhập cư bất hợp
pháp. Cuộc sống của các bạn sẽ không có ai bảo đảm. Các bạn không được
đi ra khỏi giao thông hào chống chiến xa ở trước trại, cũng không được
đi ra khỏi vòng dây giới hạn làm vòng rào. Nếu ai cãi lệnh sẽ bị xử bắn
ngay.”
Các binh lính Thái Lan thì đóng rải rác ngay chung quanh trại này. Từ
tháng 4 năm 1980 đến tháng 6, năm 1980, không có phái đoàn nào tiếp đón
chúng tôi. Đến tháng 6 năm 1980, viên đại úy Thái là Viroj cho biết là
nếu đến ngày 31 tháng 7, năm 1980 mà không có phái đoàn nước nào nhận
chúng tôi thì tất cả mọi người sẽ bị đuổi về lại biên giới Thái và
Cambodia, chứ không được ở nơi đây nữa.
Ban đại diện và các thân hào, nhân sĩ bèn họp nhau quy tụ những người giỏi sinh ngữ để viết thư cho ba mươi bốn
nơi trên thế giới để xin cầu cứu. Chúng tôi viết thư đến các chính
quyền Thái Lan, Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp và Anh, kể cả việc việt thư cho
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II ở La Mã, Ý và Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Tây
Tạng.
Sau đó, chúng tôi họp tất cả khoảng ba ngàn người tị nạn trong trại NW
9, đọc cho họ nghe và xin thêm ý kiến. Rồi chúng tôi nhờ nhân viên hội
HTTQT là ông Leon de Riedmatten chuyển thư đi.
Vì tuyệt vọng và lo sợ bị trả về biên giới rồi sẽ bị nhóm lính Para, Pol
Pot hay Việt cộng bắn giết, hãm hiếp và bỏ tù, nên một số chúng tôi
trong ban đại diện đã bàn với nhau để thống nhất một kế hoạch chung,
chuẩn bị nếu người tị nạn bị trả về vùng biên giới sôi động.
(Lúc ấy, các người đàn ông và thanh niên chúng tôi sẽ trở về đầu quân
cho cho quân Kháng Chiến chống Cộng Sản của người Cambodia. Sau khi được
phát súng để chiến đấu, chúng tôi sẽ tìm đường vượt biên giới Thái, đi
về hướng đông nam của đất Thái, lấy tàu bè của của dân Thái để vượt biển
lần nữa đi đến Mã Lai hay Singapore. Lý do là vì lúc ấy đâu còn tiền để
mua thuyền được. Có thể vào giờ cuối, chính quyền Thái vì lý do nhân
đạo sẽ chỉ cứu vớt những gia đình có con nhỏ. Còn đám đàn ông, thanh
niên như chúng tôi thì luôn chịu sự thiệt thòi.)
Sau đó một tháng thì có một phái đoàn của vị thứ trưởng bộ Ngoại
Giao Mỹ đến thăm trại chúng tôi. Tất cả dân tị nạn trại NW 9 mừng rỡ vô
cùng vì nghĩ rằng trại sắp được giải quyết. Khoảng hai tuần lễ sau thì
có một danh sách gồm một trăm bốn mươi mốt người được phái đoàn Mỹ chấp nhận cho rời NW 9 để đến trại Panatnikhom ở sâu trong nội địa Thái, gần Bangkok.
Vào giờ chót, chính quyền Thái Lan gạt ra một số người để buộc họ ở lại,
chỉ còn hơn một trăm người được tiếp tục đi. Trong số người bị gạt lại
đó có tên ba cha con tôi vì chúng tôi không có trẻ con và phụ nữ.
Khi chúng tôi đến trại NW 9 thì nhân số vào khoảng chín trăm người.
Nhưng khi chúng tôi rời trại thì nhân số lên đến ba ngàn người. Dân tị
nạn đến rải rác hàng ngày và đều do xe của hội HTTQT chở đến từ các trại
thuộc quyền kiểm soát của Para và Pol Pot. Mỗi ngày người tị nạn đến
chừng vài ba chục người. Lúc ấy có tôi, ông C. và anh H. làm giấy tờ lý
lịch (Tracing cards) cho những người mới đến.
Sau khi bị gạt tên trong danh sách, mãi đến hai tháng sau, gia đình tôi
mới được đi tới trại Panatnikhom. Chúng tôi còn phải qua trại Galang ở
Indonesia cho đến ngày 10 tháng 7, năm 1981 mới được đặt chân lên
Oakland, San Francisco thuộc tiểu bang California.”
Lê Tấn Lý
Lời nói đầu: Ông Trần Chí Thành sinh năm 1957, đã cư ngụ tại Sàigòn. Hiện nay ông sinh sống tại Garden Grove, California. Ông Thành là một nhạc sĩ Tây Ban Cầm khá nổi tiếng trong các ban nhạc ở Orange County, California. Ông đã đi vượt biên bằng đường thủy đến ba, bốn lần nhưng đều thất bại vì bị lừa gạt. Cuối cùng, vào tháng 4, năm 1980, ông ra đi bằng đường bộ và thành công sau bao gian khổ.
Quý vị sẽ tìm thấy bàng bạc qua lời kể chuyện là tâm tình của ông thể hiện các ưu điểm đáng yêu và đáng qúy của một con người nghệ sĩ chân chính: yêu nhân loại, yêu gia đình, yêu tự do, và yêu thiên nhiên. Ông lại có nhiều rung cảm trước những sự cố vui buồn xảy ra. Là một thanh niên còn trẻ mà ông đã có lòng xót thương nhân loại.
Cuộc Hành Trình Vượt Biên Từ Sàigòn Đến Thái Lan.
Nhóm chúng tôi ra đi từ Sàigòn đến Thái Lan. Chúng tôi có sáu thanh niên
đi theo sự hướng dẫn của người đàn ông Miên gốc Việt. Chúng tôi khởi
hành từ Sàigòn lúc 8:00 giờ sáng ngày 20 tháng 4, năm 1980.
Vượt biên bằng đường bộ là một điều hoàn toàn mới lạ với chúng tôi.
Chúng tôi đã tiên liệu trước những nguy hiểm mà mình sẽ đối đầu: phải đi
băng qua một đất nước lạ là xứ Cambodia với ngôn ngữ khác hẳn tiếng mẹ
đẻ. Trời nước mênh mông mà mình lại không hiểu được tiếng nói của dân
địa phương.
Đã ra đi là chúng tôi chấp nhận hai điều: một là thành công, hai là chịu
hậu qủa thật thảm khốc như bị bắt giữ, cầm tù hay bị chết, bỏ xác trên
quê người.
Tuy đã dự đoán những nguy hiểm trước mặt, nhưng xuyên qua cuộc hành
trình vượt biên đường bộ gian nan trong mười lăm ngày, rồi xuyên qua
kinh nghiệm xương máu ở trại tị nạn, tôi đã gặp phải nhiều sự khó khăn,
nguy hiểm, đau khổ và chua xót mà không thể ngờ trước được.
Từ Sàigòn, chúng tôi khởi hành tại Xa cảng miền Tây để đến Long Xuyên và Châu Đốc.
Sáu chúng tôi phải hóa trang giả làm công nhân và dùng những giấy tờ
giả mạo để đi đường. Thời ấy, dân chúng không được tự do đi lại mà phải
trình Công an quận, nếu họ cho phép mới được đi đến tỉnh khác.
Vì thế sự nguy hiểm đã đến với chúng tôi ngay từ phút đầu tiên, vào sáng
hôm ấy, ngày 20 tháng 4 năm 1980. Chúng tôi có thể bị bắt bất cứ lúc
nào, bất cứ ở trạm gác nào nếu bị Công An Việt nam phát hiện ra là giấy
giả hay nếu họ tìm thấy một điều khả nghi nào nơi chúng tôi.
Từ Xa Cảng miền Tây, chúng tôi ngồi xe đò đi qua Long An, rồi Bắc
Mỹ Thuận, nơi mà dòng sông Cửu Long chảy qua, nơi có những vườn cây xum
xuê đầy trĩu trái. Cứ thế, chúng tôi đến Long Xuyên và Châu Đốc vào buổi xế chiều.
Đêm ấy, chúng tôi nghỉ ngơi tại nhà của người dẫn đường. Đêm đầu tiên xa nhà, lại nằm trên
chiếc ghe đậu bên bờ sông bến vắng. Tôi trằn trọc mãi, nhớ nhà, nhớ gia
đình, nhớ nhất là mẹ tôi. Hơn nữa, tôi lại phải lo nghĩ vẩn vơ đến việc
ra đi trước mặt của mình.
Chung quanh tôi đầy những âm thanh của tiếng dế gáy, tiếng ễnh ương kêu,
tất cả hòa lên một điệu nhạc buồn thê lương và áo não. Tôi nghe hồn
mình bồng bềnh theo nhịp sóng êm đềm vỗ nhẹ bên bờ ghe. Thế rồi lâu lắm
tôi mới chợp mắt và thiếp đi một lúc.
Hôm sau, khoảng mười hai giờ trưa ngày 21, tháng 4, năm 1980, chúng tôi dùng ghe đến Tân Châu. Khi tới nơi thì vì ghe hư nên chúng tôi buộc lòng phải ngủ đêm tại Tân Châu, một thị trấn sát biên giới Việt Miên.
Nơi đây, dấu vết của chiến tranh vẫn còn vì cách đó vài tháng vừa có
cuộc giao tranh giữa hai lực lượng Cộng Sản Việt và Miên: Nhà cửa đổ
nát, tường nhà loang lổ ghi đầy vết đạn. Tình hình thành phố căng thẳng,
sự nguy hiểm như rình rập đó đây. Quân đội của Cộng Sản Việt Nam giăng
đầy khắp thành phố. Do đó, chúng tôi đã hạn chế đến mức tối đa việc di
chuyển.
Lại một đêm xa nhà thứ hai. Tâm sự tôi ngổn ngang trăm mối. Tôi
nhớ mẹ tôi vô vàn, người mẹ già suốt đời tận tụy hy sinh cho đàn con và chồng mình.
Chắc hẳn giờ này mẹ tôi cũng đang thao thức vì lo cho tôi và nhớ đến
tôi. Mẹ ơi! biết đến bao giờ con mới được gặp lại mẹ lần nữa?
Sáng hôm sau, ghe máy đã được sửa xong, nên khoảng mười giờ sáng ngày 22
tháng 4, năm 1980, chúng tôi đi bằng ghe đến Vĩnh Xương, một quận lỵ
sát biên giới Việt và Cambodia. Không khí chiến tranh ở quận này càng rõ
rệt và căng thẳng hơn bao giờ hết.
Chiếc ghe của những người dẫn đường vẫn thong thả ngược dòng sông
MéKong để đi qua nhiều trạm kiểm soát rất chặt chẽ của Công an Biên
phòng Việt Nam. Trong lúc đó, người đưa đường đưa sáu chúng tôi xuống phà đi vào phía rừng để bọc trong rừng hầu tránh các trạm kiểm soát. Chúng tôi đi qua phà khoảng nửa giờ thì đến khu rừng.
Sau đó, chúng tôi xuống phà
và đi bộ lặng lẽ trong rừng, tiến sâu hơn vào những cánh rừng chừng hai
tiếng đồng hồ. Đến khoảng 1:30 giờ trưa, chờ khi lính Cộng sản Việt Nam
canh gác lơ là, thì chúng tôi đã vượt biên giới một cách chớp nhoáng.
Qua khỏi bìa rừng, chúng tôi đi về phía bờ sông để tìm về ghe cũ. Các
người đưa đường đã đi ghe qua các trạm gác dễ dàng vì họ là người Việt
gốc Miên, có giấy phép đàng hoàng, nên họ không bị trở ngại. Chúng tôi
lúc này chia làm hai nhóm, rồi leo lên hai chiếc ghe để đi tiếp.
Lúc qua khỏi biên giới Việt và Cambochia, tôi cố trấn tĩnh tâm hồn để đè
nén những nỗi cảm xúc đang dâng lên dào dạt trong lòng. Từ đây tôi sẽ
rời bỏ quê hương, gia đình và kỷ niệm để đi nơi vùng đất Cambodia xa lạ.
Tôi đã thực sự bắt đầu cuộc sống xa quê hương.
Chúng tôi phải thay đổi quần áo để cải trang thành dân quê người Miên. Chúng tôi quăng hết quần áo công nhân xuống sông và mặc những bộ đồ đen, có những khăn quàng cà ma để che đầu cho giống người bản xứ một chút.
Kể từ giây phút này trở đi, chúng tôi phải cảnh giác tối đa, không được
nói bất cứ một tiếng Việt nào. Mọi sự hướng dẫn đều phải thầm lặng.
Chúng tôi theo dõi lẫn nhau, phải khôn ngoan và nhanh trí để sẵn sàng
đối phó với tình thế mới. Chúng tôi nhất trí phải bám sát nhau và tuân
theo sự chỉ dẫn của người dẫn đường.
Hai chiếc ghe của chúng tôi đi ngược dòng sông MéKông vào chiều hôm đó.
Chúng tôi phải đi qua rất nhiều trạm gác. Hễ thấy trạm gác có cờ đỏ là
chúng tôi phải cho ghe tấp vào để trình giấy. Hai ghe của chúng tôi đều
giả làm ghe buôn có chở đầy trái cây như dừa, chuối, cam, xoài và bánh
kẹo.
Hễ tới mỗi trạm gác thì người dẫn đường vừa lên trình giấy, vừa phải hối
lộ cho lính Cộng Sản Miên vài trái dừa khô, vài nải chuối hay ít bánh
kẹo. Có những trạm gác khó thì lại phải hối lộ vàng và tiền nữa.
Cứ mỗi lần đến trạm kiểm soát là chúng tôi run lên, hồi hộp và nơm nớp
lo sợ. May nhờ người dẫn đường có giấy tờ hợp lệ, nên chúng tôi không
gặp trở lại mà êm xuôi. Ghe đi mãi trong đêm khuya vắng vẻ. Tiếng ghe
chèo đập trên mặt sông nghe thật êm tai. Giá như đi chơi trên sông như
thế này vào những ngày thanh bình thì còn cái thú nào bằng.
Nhưng tiếc nỗi, con sông MéKong lúc đó không phải là hồ Động Đình để cho
người thi sĩ đối ẩm vịnh thơ, mà tôi cũng chẳng phải là một thi nhân
hay văn nhân hưởng nhàn, mà chỉ là một thanh niên trốn chui, trốn nhủi
để đi tìm tự do.
Đến nửa đêm, người dẫn đường cho thuyền dừng bên bờ sông vắng. Ông ta
bảo đi ban đêm rất nguy hiểm. Vì thế, chúng tôi lặng lẽ tìm đến một ngọn
đồi hoang để ngủ đỡ. Đêm trở nên vắng lặng đến rùng mình. Chúng tôi
không dám nổi lửa hay chuyện trò to nhỏ vì sợ bị lộ.
Tờ mờ sáng hôm sau, 23 tháng 4, năm 1980, vào lúc năm giờ sáng, hai
chiếc thuyền của chúng tôi lại tiếp tục lên đường, và lại vượt qua nhiều
trạm gác ven sông nữa. Bất ngờ, khoảng sáu giờ sáng, khi trời còn tờ mờ
chưa sáng rõ, hai chiếc ghe của chúng tôi bị một chiếc thuyền kiểm soát
của lính Cộng Sản Miên đuổi theo và bắt lại.
Họ ra lệnh kéo hai chiếc thuyền của chúng tôi chạy ngược về phía sau,
nơi chúng tôi đã đi qua. Thế rồi, họ kéo hai chiếc ghe chạy khoảng nửa
tiếng đồng hồ để về một đồn canh gác của họ. Chúng tôi tái mặt, điếng
hồn và lo sợ, chờ đợi sự trừng phạt. Tôi nghĩ thầm có lẽ cuộc ra đi đã
chấm dứt, lại cảnh tù đày và lao động khổ sai.
Khi về đến đồn canh gác, người dẫn đường đã khôn khéo hối lộ vàng cho
lính canh. Nên sau đó, họ lại cho phép chúng tôi đi tiếp. Cho đến lúc
ấy, bọn chúng tôi vẫn không hề nói lời tiếng Việt nào cả nên có lẽ họ
không biết chúng tôi là người Việt mà giữ lại. Chúng tôi lại tiếp tục đi
ghe cho đến 9:00 giờ sáng thì chúng tôi đến bến phà Hố Lương.
Khi đến bến phà này, chúng tôi bỏ ghe đi bộ lên bờ. Ở đây, cách thức
sinh hoạt của người Miên thật từng bừng và tấp nập. Chúng tôi thấy bóng
dáng lính Bộ đội Việt Nam rất nhiều. Các xe vận tải chở gạo của công ty
hợp doanh số năm đậu ở đây nhiều để chờ phiên qua phà đi Nam Vang.
Người đưa đường ra hiệu cho chúng tơi tìm cách đứng hay ngồi xa nhau, cứ
rải rác ở những ngã tư vắng vẻ gần đó. Thế rồi, ông ta thì đi tìm các
tài xế xe vận tải để móc nối cho chúng tôi lên xe vận tải đi tiếp đến
Nam Vang.
Trong lúc chờ đợi, chúng tôi rất lo sợ vì hễ một người Miên đến hỏi
chuyện mà chúng tôi không biết tiếng Miên để trả lời là bị lộ ngay lập
tức. Vì thế, chúng tôi càng ẩn mình chừng nào thì càng tốt. Chúng tôi
không dám lộ vẻ gì đặc biệt để khỏi bị chú ý. Riêng tôi thì dùng khăn cà
ma quấn nhiều vòng để che mặt hay cột đầu, hay quấn quanh cổ để dấu
khuôn mặt mình lại.
Sau một hồi lâu, người đưa đường đi về phía chúng tôi và dùng mắt ra
hiệu cho chúng tôi theo sau ông ta để leo lên một chiếc xe vận tải. Các
xe vận tải này đều chở gạo từ Sàigòn đến Nam Vang rồi qua Battambang.
Chúng tôi hồi hộp leo lên xe vận tải này. Sàn xe rất dơ, người và súc
vật đều ngồi trên sàn xe. Chúng tôi ngồi lẫn lộn trong đám người Miên,
lưng đụng lưng nhau. Ai nấy nói cười và chen lấn nhau. Xe thì chật mà số
người ngồi thì đông đúc.
Chúng tôi rất lo ngại vì các người bạn đồng hành cứ tìm cách gợi chuyện
với chúng tôi. Nếu nói thì không biết tiếng Miên để mà bắt chuyện. Mà
nếu im lặng thì sợ họ nghi là người Việt Nam đi trốn. Xe chật chội và
ngột ngạt vì mùi mồ hôi người. Người ta cứ thích chen lấn và cạ sát lưng
vào chúng tôi, rồi họ xấn đến hỏi chuyện và nói cười thoải mái. Cực
chẳng đã, chúng tôi cứ giả bộ nhắm mắt ngủ hay giả bộ ngu dốt để tránh
những sự giao thiệp khó khăn và bất lợi.
Trong chuyến xe ấy, có một thanh niên người Việt Nam mà sau này tôi đoán
hắn là lính Quân báo của Cộng Sản Việt Nam. Hắn cứ lăm lăm nhìn và quan
sát chúng tôi. Chừng như thấy chúng tôi không giống người Miên nên hắn
vỗ vai một người trong nhóm chúng tôi và gặn hỏi:
-Anh có phải là người Việt Nam không?
Anh bạn tôi giật nẩy mình, và vì theo quy ước là tuyệt đối không được
nói năng một tiếng Việt Nam nào, nên anh đã làm thinh và giả bộ quay mặt
đi chỗ khác. Hắn ta bèn quay qua tôi và giáng ngay một chưởng:
-Nếu các anh đi vượt biên thì phải coi chừng. Ở đây có lính Quân báo của Việt Nam nhiều lắm!
Tôi hoảng hồn nhưng cố giữ vẻ thản nhiên và im lặng. Không hiểu xuất xứ
của hắn ra sao vì hắn dám nói tiếng Việt công khai giữa đất Miên mà
không sợ hãi gì cả. Tôi đoán hắn có thể là một bộ đội Việt Nam được về
phép hay cũng có thể hắn là công nhân viên của nhà nước Việt Nam mà được
biệt phái sang làm việc ở đất Miên. Tựu trung, hắn không thể là bạn của
mình được. Chúng tôi rất lo sợ nhưng vẫn im lặng, không hé ra một tiếng
Việt Nam nào.
Trong suốt lộ trình từ Hố Lương đi Nam Vang, chúng tôi lo sợ vô cùng,
lòng chỉ mong cho chóng đến nơi để tìm cách thoát khỏi sợ dòm ngó của
anh chàng người Việt tò mò ấy.
Chừng 12:00 giờ trưa, xe đến Nam Vang nên chúng tôi xuống xe
từ ngoài thành phố để nối đuôi nhau đi vào thành phố Nam Vang. Chúng
tôi cũng đã đi ngang qua những trạm gác của lực lượng lính hỗn hợp Việt
Miên mà lòng thì hồi hộp và bất an.
Sau cùng, chúng tôi đi rải rác theo nhau vào một ngôi chợ ở Nam Vang để
ăn trưa. Trong lúc chúng tôi đang tụ họp ăn uống thì anh thanh niên Việt
Nam hồi nãy từ đâu đi tới, hắn vỗ vai tôi và nói:
-Những người vượt biên qua đây bị lính quân báo bắt nhiều lắm!
Hắn gằn giọng từng tiếng một. Mỗi câu nói của hắn dường như những mũi
tên găm sâu và trái tim bồi hồi của chúng tôi. Sau đó, hắn bỏ đi. Ngay
lập tức, tôi vội vàng chạy tới phiá người đưa đường để trình bày mọi
việc và cũng để kiếm cách đào thoát. Ông dẫn đường cũng tái mặt vì sợ
hãi.
Thế là chúng tôi vạch kế hoạch để lẩn trốn, phân tán mỏng và đánh lạc
hướng nhóm lính quân báo ấy, nếu có. Ngay sau đó, người dẫn đường đứng
lên, ra dấu bằng mắt để chúng tôi bám đuôi nhau đi lần lượt ra phiá cửa
chính của chợ. Chúng tôi đứng lấp ló để chờ đợi ông ta hành động.
Khoảng mười lăm phút sau, khi ông dẫn đường thuê xe đạp thồ xong, ông ta
trở lại ra dấu cho chúng tôi leo lên sáu chiếc xe đạp thồ để đi. Như đã
thỏa thuận trước, những người Miên đi xe thồ chờ chúng tôi leo lên xe
là họ phóng xe đi như bay.
Dọc đường họ cứ tưởng chúng tôi là người Miên nên nói liên tiếp và đấu
hót tưng bừng. Riêng chúng tôi thì cứ ú ớ như người câm. Chúng tôi sợ
phát rét trong khi ấy, cơn nắng và nóng của bầu trời Nam Vang thật dữ
dội. Chỉ cần một kẻ đạp xe thồ nhiều chuyện mà muốn kiếm điểm là có thể
sáu chúng tôi vào ngay trong trạm kiểm soát của lính Cộng sản Miên ngay
lập tức.
Theo sự chỉ dẫn của người dẫn đường, sáu chiếc xe đạp chở chúng tôi chạy
lòng vòng trên các đường phố của Nam Vang. Chúng tôi cũng chẳng còn
lòng dạ nào để mà ngắm nghía và quan sát cái thủ đô đẹp đẽ của xứ Chùa
Tháp này nữa.
Sau cùng, khi đến một khu nhà thật vắng vẻ ở Nam Vang, người dẫn đường ra hiệu cho chúng tôi xuống xe. Thế là cả bọn lục tục nhảy xuống xe
đạp và phân tán mỏng ngay tại một ngã tư. Chúng tôi chia nhau ngồi ở
ghế đá, ở vệ đường, ở gốc cây để chờ đợi. Tuy ngồi rải rác và làm bộ như
không biết nhau, nhưng thần kinh chúng tôi căng thẳng, lúc nào cũng
nhìn dáo dác để quan sát chung quanh.
Người dẫn đường cũng có những ưu tư và lo lắng riêng. Ông ta nghĩ rằng
làm theo cách này là để tránh được sự theo dõi của lính Quân Báo Cộng
Sản, và đánh lạc hướng những kẻ muốn theo dõi chúng tôi.
Đến độ ba, bốn tiếng đồng
hồ sau, nhóm chúng tôi được chia ra làm hai nhóm. Mỗi nhóm ba người để
đến hai trạm quen của người dẫn đường tại Nam Vang. Đó là đêm 24 tháng
4, năm 1980 , nhằm ngày thứ hai trong tuần.
Suốt trong ba ngày nằm chờ
đợi tại nhà của một bà Miên gốc Việt, chúng tôi không được xuất đầu lộ
diện. Bà chủ nhà phải tiếp tế đồ ăn cho chúng tôi như cơm, thức ăn, cà
phê sữa đá. Xóm của bà ta qúa nhỏ nên cả xóm đồn ầm lên là bà chủ nhà
chứa ba người Việt Nam.
Thế là tối hôm ấy, lúc bảy giờ tối, lính du kích ấp đã phát giác ra
chúng tôi. Họ bắt chúng tôi ra trụ sở ấp. Ôi, thế là đời mình tàn rồi,
sự nghiệp tiêu ma hết rồi! Chúng tôi sợ đến nỗi run rẩy như bầy cừu non
trước nanh vuốt cọp dữ.
Họ hỏi chúng tôi đủ thứ, nhưng vì ngôn ngữ bất đồng nên họ không thể lấy
khẩu cung để làm báo cáo mà gửi lên cấp huyện được. Họ nói lõm bõm
tiếng Việt rằng:
”Dzun tâu Xiêm” (Việt Nam đi Thái).
Sau đó, họ bắt chúng tôi chờ ở đấy. Chừng mười lăm phút sau, họ trở lại
và đem theo một người Bộ đội Cộng Sản người Việt, nói giọng miền Bắc.
Anh bộ đội tự giới thiệu mình là một sĩ quan thiếu úy. Cho đến giờ này,
tôi không hiểu có phải là phép lạ, vì tình đồng hương hay vì sự thương
hại trước sự run rẩy của chúng tôi mà anh Bộ đội Việt Nam ấy nói:
-Nếu các anh đã biết lỗi thì nên quay về vì người Miên ở đây đã kết tội
các anh là những người vượt biên ”Tâu Xiêm”. Tội vượt biên có thể bị bắt
giam ít nhất là sáu tháng.
Nói xong, anh ta ra mệnh lệnh cho toán lính Miên (Lúc đó, Bộ đội Cộng
Sản Việt Nam có uy quyền đối với lính Miên) là hãy để cho chúng tôi tự
do và rồi ngày mai chúng tôi sẽ quay trở về Việt Nam.
Tuy thế, viên trưởng ban xã ấp người Miên vẫn không tha cho chúng tôi. Hắn đặt ngay chiếc ghế bố trước nhà bà Miên để canh chừng chúng tôi phòng khi chúng tôi lén lút trốn đi.
Đêm hôm ấy, chúng tôi lòng rối như tơ vò, phần thì mừng hú hồn vì
được giải thoát mà không ngờ trước, phần thì trằn trọc và lo sợ vì người
Miên kia nằm canh gác ngay bên
ngoài. Còn người dẫn đường thì sợ hãi quá nên không dám đến liên lạc
nữa. Chúng tôi qúa sức sợ vì mình đang bị giam lỏng. Dù chúng tôi bảo
rằng qua Miên để thăm bà con, nhưng họ vẫn biết ngay là chúng tôi đi
vượt biên nên vẫn theo dõi và dò xét.
Sáng hôm sau, chúng tôi ra chợ, đến ngồi tại quán cà phê và gặp lại
người dẫn đường. Anh này ngồi ở góc bàn phía xa, anh viết tay trên bàn
chữ ” Năm N”. Chúng tôi về suy nghĩ và bàn luận chắc có lẽ là điểm hẹn,
nhưng mình không biết tiếng Miên thì làm sao mà đi được. Chúng tôi thắc
mắc mãi mà không biết câu giải đáp. Cảnh tù giam lỏng làm cho chúng tôi
thấy ngột ngạt và khổ sở.
Thình lình lúc sáu giờ chiều hôm ấy, bà Miên trở về và ra dấu cho chúng
tôi trốn đi bằng cửa sau. Vừa trốn ra khỏi cửa, chúng tôi đã thấy người
dẫn đường đứng sẵn và ra hiệu cho chúng tôi chạy thật lẹ. Thế là chúng
tôi cắm đầu chạy thục mạng về phía anh ta.
Tới nơi, chúng tôi thấy ba người đạp xe đạp thồ đang chờ sẵn. Thế là cả
ba anh em tôi nhào lên xe. Ba anh đạp xe thồ đạp thật mau. Chúng tôi lại
tẩu thoát lần nữa. Đi lòng vòng một hồi lâu thì chúng tôi được chở tới
một công trường bên cạnh nhà ga.
Nơi sân ga, có rất đông người Miên nằm, ngồi la liệt để chờ đợi xe lửa đến. Họ trải chiếu rồi bạ đâu nằm đó. Cũng tại đây, tôi gặp lại nhóm ba người bạn kia. Thế là sáu người lại gặp nhau. Cẩn thận một chút, chúng tôi ngồi thụp xuống, và cố gắng trà trộn trong đám người dân Miên để mong khỏi bị lộ.
Bất thình lình, người bạn tôi nhìn ra và bắt gặp một người đang lái xe
Vespa Sprint vòng quanh công trường, mắt ngó dáo dác như đang tìm bắt
một người nào đó. Chúng tôi đồng loạt ngó ra và hoảng hốt khi nhận ra đó
chính là tên trưởng ban xã ấp người Miên đã rình rập chúng tôi. Chắc
hẳn hắn đã khám phá ra rằng chúng tôi đã trốn thoát nên giờ này hắn đi
tìm để bắt lại.
Nhanh như một mũi tên bắn, chúng tôi vội nằm thụp xuống và
bò đi theo người dẫn đường để đào tẩu lần thứ hai. Thật giống như tình
tiết éo le trong một câu chuyện mạo hiểm phiêu lưu hay phim gián điệp.
Chúng tôi bò đi và phóng thật mau vào một con đường nhỏ ở gần đó rồi đi
bộ rải rác hai bên vệ đường theo dấu người dẫn đường.
Cũng may, lúc đó trời vừa sập tối nên không ai để ý. Chúng tôi cứ lếch
thếch đi theo người dẫn đường mãi đến khi rã rời hai đầu gối. Lúc này,
ai cũng đi như lết qua khắp các nẻo đường của thành phố Nam Vang để mong
đánh lạc hướng tên trưởng ban xã ấp kia. Cứ thề mà đi lòng vòng mãi gần
khắp các nẻo đường.
Cuối cùng khi biết chắc chắn là người kia đã không thể theo dõi được nữa
thì người dẫn đường đưa chúng tôi vào ngủ trên những sạp hàng của người
Miên ở giữa chợ. Những sạp bán thịt cá ban ngày nên tối đến mùi hôi
thối bay lên. Không còn có sự lựa chọn nữa nên bọn tôi đành leo lên các
sạp hàng để ngủ. Đêm hôm đó thật hãi hùng, tôi thiếp đi và ngủ quên bên
cạnh tiếng những con chuột tranh ăn kêu chí chóe, tiếng dế gáy và tiếng
côn trùng kêu rỉ rả suốt đêm.
Sáng hôm sau, 27 tháng 4 năm 1980, chúng tôi thức dậy sớm, trước khi
buổi chợ họp nhóm. Theo quy ước, chúng tôi phân tán đi lang thang trong
chợ để chờ đến mười giờ sáng thì tập trung ở cổng chính của ngôi chợ
này. Lại một lần nữa, chúng tôi phải trà trộn trong đám người Miên, giả
dạng đi ngắm hàng hóa hoặc mua bán. Tuy vậy, chúng tôi vẫn phải đề cao
cảnh giác vì mình có thể bị phát hiện bất cứ lúc nào và bị nguy hiểm bất
cứ ở đâu, nếu có người nào chận lại hỏi mình vài câu tiếng Miên.
Khoảng mười giờ sáng, chúng tôi tập trung tại cổng chính của chợ để đi
bộ theo người dẫn đường tới nhà ga. Khoảng 11:00 giờ trưa, chúng tôi
được luồn dưới một cổng nhỏ vào ga. Có lẽ người dẫn đường đã mua bằng vé
chợ đen để vào nhà ga. Đúng 12:00 giờ trưa, chúng tôi leo lên xe lửa để
đi từ Nam Vang đến thành phố Battambang.
Có lẽ đến suốt đời tôi, tôi không thể nào quên được chuyến xe lửa đặc
biệt và kỳ lạ như thế. Hồi còn ở Việt Nam, tôi đã từng đi nhiều chuyến
xe lửa chật chội và chậm rì. Nhưng nay, tôi vẫn không thể nào tưởng
tượng ra được một chiếc xe lửa nào mà đông người như cá hộp, lại còng
chạy chậm hơn rùa bò như chiếc xe lửa này.
Xe lửa đông và chật đến nỗi các toa tầu phía dưới đã hết chỗ chứa, mà ở
trên mui cũng đông. Hàng ngàn người ngồi san sát đến nỗi không còn một
chỗ chen chân. Chúng tôi đành leo hết lên mui toa xe lửa.
Khổ thật, lần này lại phải chung đụng với người bản xứ, cơ hội bị lộ đến
nữa rồi. Người ta cười đùa, nói chuyện và chửi rủa nhau. Nhiều người
mua bán, trao đổi và xô đẩy nhau thật là nguy hiểm. Cũng may, với vận
tốc chậm rì , độ hai mươi lăm cây số một giờ, nên xe lửa không chao đảo
nhiều lắm.
Bởi thế, chúng tôi dù ngồi trên mui xe lửa, dù bị xô đẩy cũng không té được. Nhưng chỉ một sơ xuất nhỏ cũng đủ để chúng tôi rớt xuống đất,
nếu không bị té chết thì cũng bị thương hay gẫy tay chân. Thật sự, trên
chiếc xe lửa đi từ Nam Vang đến Battambang, tôi thấy đã có nhiều người
sơ xuất và lọt chân rớt xuống hai vệ đường. Tôi không được biết số phận những người đó ra sao, nhưng chắc chắn là họ bị thương nặng vì té từ trên cao xuống đất trong khi xe lửa vẫn di chuyển.
Lúc ấy trời nóng như lửa cháy, lại bị những người khách trên xe lửa xô
lấn nên người dẫn đường đã ngồi xa chúng tôi, vì thế mà chúng tôi không
còn liên lạc được với anh ta nữa. Khổ thay, trong túi chúng tôi lại
không có một đồng nào để mua nước hay thức ăn khi tàu lửa ngừng lại ở
các ga trên lộ trình.
Từ lúc rời Nam Vang vào buổi trưa đến lúc tới Battambang là vào trưa hôm
sau, chúng tôi đành nhịn đói và nhịn khát nên ai cũng mệt lả, người thì
khô cứng ra. Người dẫn đường không hề tiếp tế lương thực hay nước uống,
còn chúng tôi thì sợ lộ tông tích nên không dám xin xỏ những người ngồi
chung quanh mình.
Cuối cùng vì quá khát nên tôi đánh bạo vỗ vai một thanh niên Miên bên
cạnh và chỉ vào bình nước của anh ta. May mắn thật, anh ta vui vẻ gật
đầu. Thế là tôi vội vàng cầm lấy bình nước tu ừng ực.
Đêm hôm ấy, xe lửa ngừng ở Pursak nên chúng tôi tạm ngủ ở vệ đường
khoảng vài tiếng đồng hồ. Chúng tôi cũng không được ăn uống gì cả. Sáng
hôm sau, khoảng năm giờ sáng, chúng tôi lại leo lên xe lửa để đi tiếp.
Xe chạy mãi đến khoảng một giờ trưa thì đến Battambang. Thật là một
chuyến xe lửa qúa hãi hùng để rồi mãi mãi tôi sẽ không thể nào quên được
cái kinh nghiệm đau khổ ấy.
Từ Battambang, người dẫn đường thuê những chiếc xe lôi để chở chúng tôi
tới Sway và Sisophon. Trước khi lên xe đi Sisophon, thì người dẫn đường
dẫn chúng tôi đi ăn uống để lấy lại sức khỏe và phục hồi tinh thần sau
một ngày và một đêm nhịn đói và khát.
Anh ta còn mua ba chiếc xe đạp cho chúng tôi. Lúc ấy, chúng tôi mới lấy
lại tư thế thăng bằng về mặt tinh thần. Thế nhưng từ đây trở đi, vì là
gần biên giới nên đường đi khá gay go. Người dẫn đường đã báo động rằng
gần đây, vì tình hình biên giới sôi động nên quân lính đóng ở đây rất
đông, vì thế tình trạng rất nguy hiểm.
Khoảng sáu giờ chiều hôm ấy, chúng tôi qua trạm Cầu Sắt để đi vào thành
phố Sisophon. Tại trại này, lính Bộ đội Việt Nam canh gác rất cẩn thận.
Vì thế, chúng tôi phải trà trộn trong đám dân đi qua lại để băng qua cầu
này.
Chúng tôi chia ra nhiều tốp, mỗi tốp gồm hai người chở nhau trên một
chiếc xe đạp. Bọn chúng tôi phải cố trấn tĩnh và cảnh giác tối đa để có
đủ can đảm mà đi qua cầu này. Tôi và Sơn chở nhau đi qua trót lọt. Sau
đó, Phước và Đông cũng trót lọt. Nhưng chiếc xe thứ ba gồm có hai bạn
Đức và Hải, vì còn trẻ tuổi và khuôn mặt trắng trẻo nên họ vừa tới cầu
thì bị lính Cộng Sản phát hiện và chận bắt ngay lập tức.
Lính Cộng Sản Việt Nam ở Cầu Sắt này nổi tiếng là kiểm soát chặt
chẽ. Tội nghiệp cho hai người bạn bất hạnh của tôi. Sau này tôi được
biết là Đức và Hải bị bắt giam sáu tháng tại Miên rồi sau đó bị chở về
Việt Nam để bị tù tiếp ở khám Chí Hòa. Số mệnh thật đáng sợ. Cuộc đời
thật ghê gớm và khủng khiếp qúa. Sáu người cùng đi chung mà hai người đã
bị bắt, chỉ còn lại bốn người.
Sau khi biết hai người bạn đồng hành của mình bị bắt, chúng tôi đau đớn,
bàng hoàng và thương xót cho nỗi bất hạnh lớn lao của bạn mình. Cuộc
hành trình tìm tự do đã gần đạt đến đích, thế mà họ mãi mãi chịu số phận
long đong, trở nên những tù nhân ngay trên xứ người và chính quê hương
của mình. Định mệnh thật là khắt khe vì số họ chịu sự khốn khổ và kiếp
lưu đày.
Nỗi bất ổn đè nặng tâm tư của chúng tôi nhiều hơn. Chúng tôi biết
mình có thể bị bắt bất cứ lúc nào. Thêm vào đó, cái không khí chiến
tranh sôi động của một tỉnh biên giới thật căng thẳng đến phát sợ. Đêm
hôm ấy, chúng tôi ngủ đêm tại vùng Sway-Sisophon, nằm trên một vỉa hè đường, nằm ngủ trà trộn với dân địa phương đi buôn.
Sáng hôm sau, khoảng sáu giờ sáng ngày 29 tháng 4, năm 1980, chúng
tôi bắt đầu lên đường qua biên giới. Trời mờ sáng nên ít người qua lại.
Vì sơ ý đi quá sớm nên chúng tôi đã bị một người bộ đội Miên chận bắt.
Thế là bốn chúng tôi và người
dẫn đường mạnh ai nấy chạy trốn. Tôi cũng cắm đầu chạy thục mạng vào một
ngã tư gần đấy, lòng bâng khuâng không biết số phận bạn mình ra sao.
Chờ đến sáng tỏ rồi tôi mới lò mò đi thì chỉ gặp người dẫn đường
và một bạn trong nhóm. Anh dẫn đường giao cho tôi một chiếc xe đạp và
bạn tôi một chiếc nữa. Tâm hồn chúng tôi bối rối và căng thẳng. Tình thế thật là nguy hiểm: Đi sáu người rồi còn bốn, đang bốn người nay lại còn có hai. Chúng tôi đi xe đạp về phía đường mòn để hướng về biên giới.
Khoảng 11:00 giờ trưa, chúng tôi bị toán lính Bộ đội Việt Nam chận bắt.
Cả ba người: hai chúng tôi và người dẫn đường đều bị hành hạ và đe dọa
đủ điều nhưng chúng tôi không chịu khai điều gì khác những gì mà họ
thấy. Họ lục xét và cướp hết số vàng bạc và tiền trong người chúng tôi.
Thấy số vàng khá nhiều nên họ thả cho chúng tôi đi tiếp. Lại có một phép
lạ xảy ra vì tại đây, chính mắt tôi thấy bọn ho đã bắt những người vượt
biên người Việt Nam, rồi trói ké lại thật chặt như những con heo để
giải họ về giam giữ ở Việt Nam. Nhìn thấy các nạn nhân trông thương tâm
và đáng tội nghiệp. Thế mà bọn họ lại thả chúng tôi đi. Đúng là một phép
lạ của Thượng Đế!
Sau đó, người dẫn đường vội vàng dắt hai chúng tôi vào một trạm nhà sàn ở
bìa rừng gần đó. Ông ta cho tôi và Phước ăn cơm và nghỉ trưa tại nhà
này. Còn ông ta đi ngược về Sway-Sisophon để kiếm hai người bạn tôi đã
thất lạc trong lúc chạy tán loạn, không biết bây giờ họ ở nơi đâu.
Mãi đến ba giờ chiều hôm ấy, ông ta tới và đem theo hai người bạn đã bị
thất lạc. Chúng tôi bồi hồi và sung sướng gặp lại nhau. Thật không còn
nỗi mừng nào to lớn hơn. Tinh thần chúng tôi cũng lên cao hơn vì nghĩ
mình có một người dẫn đường đáng tin cậy và vì tái ngộ với hai bạn tưởng
đã mất đi.
Kể từ đây, theo lời ông đưa đuờng thì con đường dẫn tới Thái Lan không
còn bao xa. Nếu tính theo đường chim bay thì còn cỡ hai mươi lăm hay ba
mươi cây số nữa. Nhưng có hai phương cách để đi đến đích. Cách thứ nhất
là đi theo đường đi buôn của dân Miên. Họ đi từng tốp xe đạp để chở hàng
hoá về. Họ đi con đường thẳng, đến ngã ba thì quẹo trái để ra đường qua
biên giới Thái Lan.
Nếy muốn đi lối này thì gặp rất nhiều trạm kiểm soát của Bộ đội Việt Nam
cũng như Bộ đội Cộng sản Miên. Những người lính canh gác ở đây rất dữ
dằn và canh gác nghiêm nhặt vì đây là những trạm gác cuối cùng để đi đến
biên giới và cũng là những trạm gác địa đầu nếu từ biên giới Thái trở
về Cambodia. Nếu đi vượt biên lối này thì rất khó thoát vì chính mắt tôi
đã thấy rất nhiều người Việt Nam bị bắt hôm nay.
Cách thứ hai là đi tắt vào đường rừng để đến biên giới. Nhưng đi trong
đường rừng rất khó mà định phương hướng. Ngoài ra ta sẽ gặp mìn, hay
không thể kiếm mua lương thực và nước uống, như vậy có thể đói và chết
bỏ xác dọc đường.
Sau khi bàn tính để so sánh lợi hại giữa hai cách đi, chúng tôi liền nhớ
lại cảnh hai người bạn bị bắt hôm trước vì đi qua các trạm kiểm soát.
Với phương cách giả dạng dân Miên đi buôn, chúng tôi không tin rằng mình
có thể đi trót lọt qua nhiều trạm kiểm soát gắt gao của vùng địa đầu
biên giới này.
Tính tới hôm nay, chúng tôi đã trải qua mười ngày đường đầy gian
khổ và hiểm nguy. Chúng tôi đã qúa mệt mỏi cả về tinh thần lẫn thể xác:
ăn uống thất thường, nằm bờ
ngủ bụi. Thần kinh của chúng tôi đã căng thẳng đến mức tột cùng. Không
một giây phút nào mà không phải lo âu và suy nghĩ. Sự đau khổ và nỗi hãi
hùng cứ chồng chất thêm vào bước chân đi tới.
Lính Cộng Sản Việt Nam giăng lưới bủa vây khắp nơi. Chúng tôi khiếp hãi
đến tột độ. Thôi! thà ráng chọn lối đi vào rừng, dù cho nó có dài hơn và
khổ hơn nhưng vẫn tốt hơn là cứ phải đối diện với kẻ thù và không biết
họ sẽ bắt mình lúc nào nữa. Do đó chúng tôi đều chọn lối đi vào rừng, dù
có thể đạp mìn, có thể đói khát vì thiếu luơng thực và nước uống.
Sau khi nghỉ trưa ở trạm bên bìa rừng, vào khoảng 4:00 giờ chiều ngày 29
tháng 4, năm 1980, chúng tôi bắt đầu đi bộ tắt vào đường rừng, băng qua
núi theo sự hướng dẫn của một thổ dân ở đó để tránh khỏi đạp những ổ
mìn của tất cả các phe phái chính trị.
Đêm hôm ấy, chúng tôi ngủ tạm ở trong rừng biên giới. Ánh trăng sáng
vằng vặc làm không khí khu rừng đỡ buồn tẻ. Chúng tôi vẫn lo sợ và cảnh
giác tối đa.
Sáng hôm sau, vào đúng ngày 30 tháng 4 năm 1980, đúng 5 năm,sau khi Cộng
Sản Việt Nam chiếm miền Nam Việt Nam, và cũng là ngày Quốc Hận, chúng
tôi đã dậy thật sớm và bắt đầu đi băng qua đường rừng. Suốt ngày hôm ấy,
chúng tôi chịu cảnh đói khát. Tay chân mỏi rã rời. Nắng cứ quái ác rót
đổ trên đầu làm mồ hôi chúng tôi toát ra như tắm.
Nhưng nhất định phải cố mà đi, nếu sơ hở một chút thì chúng tôi lại có
thể bị bắt ngay hay bị đạp mìn mà chết banh xác trong rừng biên giới. Sự
nguy hiểm đã và đang rình rập chúng tôi trên từng bước. Con đường rừng
trải dài trước mắt và chúng tôi cứ lầm lũi quyết chí tiến lên.
Sau cùng, chúng tôi cũng đã lần mò đến được con đường mòn của dân đi
buôn lậu. Tới đây, người dẫn đường cười hớn hở và quay lại nói với chúng
tôi rằng:
-Tới đây, các anh đã thoát khỏi tầm hoạt động của Cộng Sản Việt Nam rồi.
Bắt đầu từ đây, các anh có thể gặp lính Miên của Lon Nol, Sihanouk, Son
Sann hay lính Khmer Đỏ của Pol Pot. Họ có thể bắt các anh để tra hỏi và
cướp của. Các anh đừng trốn tránh và cứ để cho họ bắt. Cuối cùng, họ
cũng giao các anh cho người Mỹ!
Chúng tôi mừng rỡ vì đã thoát khỏi vùng kiểm soát của Bộ đội Việt nam.
Thế là chúng tôi lại tiếp tục đi mãi trên con đường mòn biên giới. Người
dẫn đường dặn dò chúng tôi:
-Các anh cứ đi thẳng theo đường xe bò này là tới trại tị nạn!
Rồi sau đó, anh ta bỏ rơi chúng tôi ở dọc đường. Kể từ 5:00 giờ sáng
khởi sự đi trên đường mòn, chúng tôi gặp rất nhiều dân Miên đi buôn bằng
xe đạp. Họ nói cười và đùa giỡn rất vui vẻ. Còn chúng tôi thì đã qúa
mỏi chân và mệt nhoài. Thử đánh bạo, chúng tôi ngoắc họ lại để xin đi
qúa giang nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối. Chán nản cùng cực, chúng tôi
lại tiếp tục đi bộ tiếp.
Bất ngờ, chúng tôi bị ba người lính Miên chặn lại. Những nhóm lính này
không mặc quân phục giống Bộ đội Cộng sản Miên hay Bộ đội Cộng Sản Việt
Nam, mà họ lại mặc quân phục rằn ri như lính nhảy dù của VNCH ngày xưa.
Chúng tôi đoán đây là lực lượng kháng chiến của Lon Nol hay Sihanouk.
Đám lính này tra xét và khi biết chúng tôi là người Việt Nam thì
họ cười đùa thích thú, rồi họ ra lệnh cho chúng tôi đi theo họ vào sâu
trong rừng, xa khỏi đường mòn. Tại đây, họ chỉa súng vào người chúng tôi
và nhanh như chớp, họ bắt chúng tôi lột trần như nhộng để họ khám xét mọi chỗ trong cơ thể và hành lý để cướp của. Sau đó, họ lại cho chúng tôi đi tiếp.
Trên suốt con đường mòn trong rừng biên giới, chúng tôi đã bị chận xét
và lục soát để lấy của đến mấy chục lần, bởi hết toán lính này đến toán
lính khác. Cuối cùng, chúng tôi chẳng còn một thứ hành trang nào khác,
ngoài bộ quần áo đen mặc trên người.
Tiền hết, cơn đói rã rời, cơn khát cháy cổ, tất cả những lo âu và bận
tâm ấy làm chúng tôi mệt đến muốn ngất xỉu. Chúng tôi bèn hỏi những
người dân Miên đi buôn rằng bao giờ tới Thái Lan. Ai cũng trả lời còn
năm hay mười cây số nữa thôi. Tuy nhiên, lần nào hỏi cũng chỉ nghe năm
hay mười cây số. Chúng tôi tưởng chừng muốn điên lên vì qúa sức khổ và
đói khát.
Trời cực nóng, nắng sôi đổ lửa trên đầu, con đường mòn như cứ kéo dài
ra. Rồi cuối cùng, chúng tôi cũng đã lần mò và tìm đến gặp một đồn lính
của lực lượng Para vào khoảng lúc trời nhá nhem tối, độ 6:30 giờ chiều.
Tôi tưởng rằng mình sắp đến trại tị nạn rồi nên mừng rỡ. Thế là từ đây
sẽ không còn ai dám làm gì hại được chúng tôi nữa rồi. Một ngày qua đi
với hơn năm mươi cây số lội bộ đường rừng, với cơn đói và khát khô cổ.
Chúng tôi đã băng qua một khu rừng đầy những quân lính của bao nhiêu phe
phái, nghe nhiều tiếng súng nổ, vượt khỏi những bãi mìn giăng đầy. May
là chúng tôi có người dẫn đường chỉ dẫn cho đi vào con đường mòn. Chứ
nếu không, có thể chúng tôi đã chết banh xác vì đạp nhằm mìn từ lúc đi
băng rừng rồi.
Thoạt đầu, chúng tôi tưởng mình sẽ được thoải mái khi được ở đồn Para vì
chúng tôi đã thoát khỏi tay lính Việt Cộng. Nhưng rồi, qua kinh nghiệm,
chúng tôi thấy bọn Para cũng độc ác và nguy hiểm không kém.
Bọn này không để cho chúng tôi yên, chúng cứ thay phiên nhau lục xét để
cướp của. Thậm chí vào ban đêm, chúng cũng rọi đèn pin vào mặt rồi dựng
đầu chúng tôi dậy đi, bất chấp cả khi chúng tôi đang ngủ ngon lành.
Chúng tôi ở tại đồn Para trong hai đêm. Đến ngày 2 tháng 5, năm
1980, lúc 9:00 giờ sáng, thình lình hai phe Para và Pol Pot đụng độ nên
bắn nhau đữ đội, đạn bay vù vù trên đầu. Chúng tôi qúa sức hoảng sợ nên
nhất loạt nằm cúi rạp xuống đất để tránh tầm đạn.
Lúc này, bọn Para đã hoàn toàn ở vào tư thế ứng chiến. Chúng vội
vàng đeo bùa vào cổ, vào tai và tay. Bùa màu đỏ, đeo tòn ten trên người
nên trông chúng còn dữ dằn hơn lúc bình thường. Nhóm Para này núp vào
các bụi cây để bắn trả nhóm lính Pol Pot một cách quyết liệt. Bọn họ nằm cách chúng tôi chỉ có vài chục thước. Còn chúng tôi thì không có một tấc sắt trên tay, chỉ biết nằm úp mặt xuống đất, mặc cho định mệnh an bài.
Sau khoảng nửa giờ giao tranh, hai phe im tiếng súng. Trưa hôm đó, nhóm Para đưa bốn chúng tôi đến trại Non Samet, tức là trại 007.
Trại Tị Nạn Non Samet (007)
Chúng tôi ở trại này trong sự băn khoăn chờ đợi vì không biết số phận
mình sẽ được định đoạt như thế nào. Trong lúc ấy, nhóm lính Para ở trại
này vẫn lại tiếp tục lục xét. Cái trò lục xét và bắt nạn nhân cởi quần
áo và chổng mông cho họ móc trong hậu môn đã làm cho chúng tôi chán ghét
và cảm thấy tủi nhục thêm vì thấy thân phận mình còn thua một con chó.
Họ muốn hành hung và hạ nhục mình lúc nào cũng được.
Trong thời gian này, tôi lân la bắt chuyện với một người lính Para và
được biết trại này chỉ cách ranh giới Thái Lan có mười cây số. Tôi nghĩ
thầm:
-Nếu đi mười cây số thì chỉ mất có hai tiếng đồng hồ là cùng. Mình phải
đi thôi, nếu không thì cứ phải chịu đựng cái cảnh chờ đợi mỏi mòn và
chịu nhục vì bị họ lục soát mãi.
Tôi bèn bàn luận với ba người bạn và rủ họ cùng trốn qua đất Thái Lan.
Nhưng ba người bạn tôi lắc đầu từ chối nên tôi phải trốn đi một mình với
hai bàn tay trắng. Tôi nhắm hướng theo lời chỉ dẫn của tên lính Miên để
đến Thái Lan.
Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, khi đã vào trong một cánh rừng nọ, thình
lình tôi gặp một nhóm lính khác, mặc sắc phục khác hẳn nhóm lính Miên ở
đây. Có lẽ họ là lính Thủy Quân Lục Chiến của Thái Lan vì họ mặc quần áo
rằn ri, có nón sắt và đi xe thiết giáp.
Tôi sung sướng qúa vì giây phút chờ đợi từ lâu nay đã đến. Tôi mừng rỡ
chạy lại phía họ vì nghĩ rằng họ sẽ đón tiếp tôi vì tôi là người tị nạn
Cộng Sản để tìm tự do. Nhưng hỡi ơi! Năm người lính Thái, với vẻ mặt
hung dữ đã chiả súng vào tôi và ra lệnh cho tôi đứng yên để họ lục xét.
Có lẽ họ ngỡ tôi là dân Miên, muốn vượt biên giới để trốn qua Thái, nên
họ ra lệnh cho tôi hãy trở về phiá biên giới Cambodia. Thất vọng qúa nên
tôi rút giấy tờ tùy thân mà tôi vẫn giữ ở trong bóp ra để chứng minh
thân thế của tôi là người Việt nam đi tị nạn Cộng Sản.
Cuối cùng, viên xếp của lính Thái lắc đầu và tiếp tục đuổi tôi về lại
biên giới. Tôi đau đớn và bàng hoàng vì đã phải trải qua mười lăm ngày
đường vất vả hiểm nguy, đã bỏ tất cả sự nghiệp, xa lìa cha mẹ anh em, hy
sinh chính mạng sống mình để đi tìm tự do. Không ngờ khi đã đến bến bờ
tự do, tôi lại bị bạc đãi và bị đuổi một cách nhục nhã. Nhưng nếu không
trở về thì làm sao đây? Mà nếu liều vượt biên giới thì lính cũng sẽ bắn
chết.
Thành ra, tôi buồn tủi, đau đớn, chua xót và ngậm ngùi mà phải trở lui,
đi ngược về phía làng Para. Về lại chốn cũ trong mệt mỏi rã rời, tôi gặp
lại ba người bạn đồng hành. May mắn là bọn lính Para không hề hay biết
gì về cuộc đào thoát tới Thái của tôi. Nếu họ biết thì chết. Họ có thể
hành quyết tôi ngay mà không suy nghĩ.
Thế rồi chúng tôi đành sống tiếp tục ở trại Non Samet cho đến hôm
sau, vào ngày 4 tháng 5, 1980, thì một chiếc xe của hội HTTQT đến trại.
Có một người Âu Châu đứng tuổi đến để lãnh dân tị nạn đến trại tị nạn.
Sau đó, chúng tôi được kêu lên phòng làm việc của viên Para chỉ huy để
làm thủ tục giấy tờ, rời nơi đó mà đến trại tị nạn. Tại văn phòng của
viên chỉ huy Para, tôi gặp một tốp người Việt Nam ở đó. Nhóm này gần
mười người, gồm các gia đình khác nhau. Họ dường như vất vả và cực khổ
hơn chúng tôi nhiều.
Chúng tôi là bốn thanh
niên nên chỉ bị khám xét, lột lấy vàng bạc. Tuy tinh thần chúng tôi mệt
mỏi, nhưng chúng tôi vẫn còn lành lặn. Nhóm người tị nạn Việt kia thì
tội nghiệp hơn. Có ba người đàn ông trong nhóm thì một người da bị cháy
nám, một ông già hơn thì không còn đi được nhưng chỉ lết mà thôi. Ba
người phụ nữ trong nhóm thì da mặt đều cháy nám đen, vẻ mặt mệt mỏi và
hằn đầy nét tủi nhục.
Theo lời những người đàn ông kể lại thì ba người phụ nữ này khi ở tiền
đồn Para đã bị bọn lính Para làm nhục rất nhiều lần. Họ bị hãm hiếp tập
thể và còn bị chúng hành hạ đớn đau. Tôi nghe mà chỉ biết đau đớn, ngậm
ngùi và thương xót cho họ chứ còn biết làm gì hơn?
Trong đám người đến sau này, tôi thấy ông già bị liệt chân vì cuộc đi bộ
triền miên, cứ ngồi tỉ tê khóc mãi. Tiếng khóc thổn thức làm cho người
nghe phải cảm thương và xót xa cho thân phận ông. Khi hỏi ra thì mới rõ
rằng ông ta đi với một con trai nhỏ và một con gái. Nhưng khi ông ta đến
nơi thì chỉ còn hai cha con, còn con trai nhỏ của ông đã bị thất lạc,
có thể đã bỏ xác trong rừng rồi.
Cạnh đó là một gia đình khác gồm người mẹ trên bốn mươi tuổi đi cùng ba con nhỏ. Bà L. này đến nơi thì gửi thư về Việt Nam cho chồng và hai con còn lại để họ đi sau. Vài tuần lễ sau, chỉ có hai con của bà được hội HTTQT đem vào trại ti nạn. Còn chồng bà
L. thì biệt tin tức, chắc chắn ông ta đã bị giết chết hay bỏ xác trong
rừng biên giới rồi. Thật đau khổ khi người cha thì mất tích, còn hai
người con bơ vơ đến được trại tị nạn gặp lại mẹ.
Còn nhiều trường hợp như hoàn cảnh của anh L., anh đến bến bờ tự do cùng
với đứa con ba tuổi. Còn vợ và đứa con một tuổi của anh đã bị lính Cộng
Sản bắn chết ở Battambang, trên con đường vượt thoát.
3. Kết Luận.
Ngày 4 tháng 5, năm 1980, lúc 4:15 giờ chiều, sau mười lăm ngày dài cực
khổ và hiểm nguy, chúng tôi đã được hội HTTQT đón và đưa về trại tị nạn
NW 9. thoát nạn khỏi bàn tay của lính Para, một nhóm người chuyên sống
bằng luật rừng xanh.
Sau khi ở trại NW 9, tôi được tới trại Pananikhom, rồi qua trại Bataan trước khi định cư ở Mỹ quốc.”
HỒI KÝ VƯỢT BIÊN KIM HÀ
Hồi Ký Tị Nạn Của Gia Đình Bà Kim Hà
Posted: Sunday, November 14, 2010 by Hưng in
"Từ xa, có những tiếng súng nổi lên rồi có những tiếng hét thảm
thiết của phụ nữ. Chúng tôi đoán chừng chắc là nhóm lính Para khác đang
tra tấn, hành hạ những người ty nạn Việt Nam khác. Tiếng kêu thét như
tiếng heo bị thọc tiết, ai oán, nghe như xé ruột, vang động cả núi rừng.
Rồi thì tiếng gầm thét của bọn lính. Tôi không ngờ mình đã gặp phải một
bọn quỷ râu xanh như bọn Para này. Tôi hoảng quá vì sợ chúng hãm hiếp
mình. May mà tôi đang có thai sáu tháng, bụng đã to, chứ không thì...
Tôi rùng mình và không dám nghĩ hết"
Lời Nói Đầu: Thưa quý độc giả, gia đình chúng tôi là những người tị nạn đường bộ. Chúng tôi khởi sự vượt biên từ Sàigòn, Việt Nam vào ngày 27 tháng 3 năm 1980, đến trại tị nạn Non Chan ngày 10 tháng 4 năm 1980. Sau hơn 7 tháng sống khổ cực trăm bề ở các trại Non Chan, NW9, Pananikhom Holding Center và Rangsit Transit Center, thì cuối cùng, vào ngày 16 tháng 10 năm 1980, gia đình chúng tôi đã đến được mảnh đất tự do, đó là thành phố Los Angeles, thuộc tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Từ ngày 16 tháng 10 năm 1980 trở đi, tôi đã dùng rất nhiều thì giờ và công sức để viết báo, viết sách nhằm gióng lên tiếng chuông kêu cứu cho người tị nạn, đặc biệt là người tị nạn đường bộ còn kẹt lại ở các trại tị nạn vùng Đông Nam Á. Cũng từ đó, chúng tôi tích cực tham gia trong các phong trào cứu những người tỵ nạn đường bộ cũng như đường thủy.
Câu chuyện mà chúng tôi sẽ kể sau đây chỉ là một phần nhỏ trích trong tác phẩm Qua Cơn Bão Dữ mà chúng tôi đã xuất bản năm 1992. Nếu muốn tham khảo bằng tiếng Anh thì xin mời quý vị đọc tác phẩm Stormy Escape, xuất bản năm 1997 và Report On The Vietnamese Land Refugees, xuất bản năm 1983. Ba tác phẩm này đều do chúng tôi viết ra để làm tài liệu lịch sử cho đời sau.
Lời Nói Đầu: Thưa quý độc giả, gia đình chúng tôi là những người tị nạn đường bộ. Chúng tôi khởi sự vượt biên từ Sàigòn, Việt Nam vào ngày 27 tháng 3 năm 1980, đến trại tị nạn Non Chan ngày 10 tháng 4 năm 1980. Sau hơn 7 tháng sống khổ cực trăm bề ở các trại Non Chan, NW9, Pananikhom Holding Center và Rangsit Transit Center, thì cuối cùng, vào ngày 16 tháng 10 năm 1980, gia đình chúng tôi đã đến được mảnh đất tự do, đó là thành phố Los Angeles, thuộc tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Từ ngày 16 tháng 10 năm 1980 trở đi, tôi đã dùng rất nhiều thì giờ và công sức để viết báo, viết sách nhằm gióng lên tiếng chuông kêu cứu cho người tị nạn, đặc biệt là người tị nạn đường bộ còn kẹt lại ở các trại tị nạn vùng Đông Nam Á. Cũng từ đó, chúng tôi tích cực tham gia trong các phong trào cứu những người tỵ nạn đường bộ cũng như đường thủy.
Câu chuyện mà chúng tôi sẽ kể sau đây chỉ là một phần nhỏ trích trong tác phẩm Qua Cơn Bão Dữ mà chúng tôi đã xuất bản năm 1992. Nếu muốn tham khảo bằng tiếng Anh thì xin mời quý vị đọc tác phẩm Stormy Escape, xuất bản năm 1997 và Report On The Vietnamese Land Refugees, xuất bản năm 1983. Ba tác phẩm này đều do chúng tôi viết ra để làm tài liệu lịch sử cho đời sau.
Cuộc hành trình của chúng tôi phải nói là gian khổ nhiều vì gia đình đông con, gồm hai vợ chồng và
4 con nhỏ, tuổi từ 4 tuổi đến 9 tuổi, lại còn thêm cái bào thai 5
tháng. Cháu bé thai nhi này được sinh ra tại trại tị nạn NW 9, trên lãnh
thổ của Thái Lan, vào ngày 17 tháng 7 năm 1980.
Cuộc sống thê thảm sau kỳ vượt biên đường thủy thất bại:
Chúng tôi đã đi vượt biên bằng đường thủy vào tháng 6 năm 1978 nhưng bị thất bại. Sau đó, cả hai vợ chồng tôi đều bị mất việc vì bị ghép tội là thành phần “Phản động” và “Phản quốc”. Chồng tôi bị đi tù, còn 5 mẹ con tôi chỉ bị tù ba ngày rồi được trả về.
Sau đó, tôi lặn lội đi buôn thúng, bán bưng ở các vỉa hè, nơi ngã ba
Hàng Xanh xa lộ, vùng Thị Nghè, Bà Chiểu, Sài Gòn. Khi nào bán ế thì về
nhà luộc bắp, nướng bắp mà ăn trừ cơm.
Một hôm, chị hàng xóm tốt bụng rủ tôi đi mua mít Tố Nữ ở Lái Thiêu về Sàigòn bán lẻ. Khi hai chị em vừa xuống xe,
mỗi người gánh một gánh mít đi bán ở vùng xa lộ thì trời đổ mưa tầm tã.
Chúng tôi phải nép vào một cái quán để tránh mưa. Mưa ướt ngoài trời mà
mưa lệ cũng ướt đầm đià trên đôi mắt tôi.
Cả đời tôi chưa hề một lần buôn thúng bán bưng mà giờ phút ấy, hai vai
của tôi quằn lại vì gánh nặng của hai thúng mít. Mưa ròng rã suốt buổi
nên cuối cùng, tôi gánh về nhà để ăn. Hàng xóm thấy tội nghiệp nên mua
giúp cho tôi. Sau đó, tôi đổi nghề đi buôn thuốc tây, nhưng vì không
quen làm ăn nên làm gì cũng thua lỗ. Từ từ, tôi đem đồ đạc đã gửi nơi
nhà bà con để bán dần, lấy tiền mua gạo cho con cái ăn uống để cầm cự
qua ngày.
Mãi đến mấy tháng sau, chồng tôi
được thả về. Anh lặn lội đi buôn bán chợ trời nên gia đình tôi bớt vất
vả. Trong thời gian ở tù, anh có quen một người tù khác. Ông này vì là
triệu phú bị kiểm kê tài sản mà bị ở tù. Khi ra khỏi tù thì tính chuyện
đi vượt biên bán chính thức. Ông ta cho vợ chồng tôi
mượn 8 cây vàng, và nói rằng khi qua Mỹ, ông ta sẽ đòi tiền nơi mẹ của
tôi. Sau đó, chúng tôi khám phá ra rằng trong số 8 cây vàng mà ông ta
cho mượn thì có 1 cây vàng giả. Sự khám phá ra vàng giả cũng làm cho tôi
đau đớn và suýt lên cơn đau tim vì e rằng không đủ tiền trả cho những
người dẫn đường.
Trong lúc ấy, chồng tôi là anh
Vĩnh móc nối đường dây đi vượt biên bằng đường bộ. Người ta hứa rằng chỉ
lấy một nửa số tiền, khi nào thành công thì chúng tôi sẽ viết mật hiệu
về Việt Nam cho em gái tôi trả thêm một nửa số tiền còn lại.
Cuộc hành trình tìm tự do đầy gian nan:
Đến ngày đi, vợ chồng tôi chia
gia đình ra làm hai nhóm, ngồi chung xe nhưng làm mặt lạ với nhau để
khỏi bị lộ. Khi đi xe lên đến vùng Gò Dầu thì người dẫn đường đưa chúng
tôi vào một căn nhà tranh lụp xụp. Họ đổi cho chúng tôi quần áo của
người Miên, và bắt chồng tôi đem
hết vàng và giấy tờ quan trọng để đi vượt biên qua biên giới Việt Miên
vào buổi trưa, khoảng 1, 2 giờ trưa. Tôi có nói với chồng tôi
rằng khi anh đã vượt biên thành công thì xin viết mật hiệu báo tin là
anh qua lọt để tôi ở bên này biên giới, tức là vùng Gò Dầu, Tây Ninh, sẽ
cảm thấy yên tâm. Anh đồng ý và ra đi.
Trong lúc ấy, bốn đứa con của
tôi ở trong căn nhà tranh bắt đầu kiếm chuyện vì bị tù túng. Chúng than
van là trời nóng, chúng khát nước và đòi uống nước đá. Chúng đòi đi cầu,
đi tiểu. Tôi không dám thò đầu ra ngoài vì sợ hàng xóm của gia chủ nghi
ngờ và đi báo cáo cho công an. Thế mà cũng có những ngừơi hàng xóm tò
mò sang bắt chuyện và hỏi thăm. Tôi phải làm bộ ngủ, quay mặt vào trong
để tránh các câu chuyện không cần thiết và bất lợi.
Buổi chiều, các người dẫn đường đòi đưa tôi và hai con nhỏ đi trước qua
biên giới, còn hai con lớn của tôi sẽ qua biên giới sau. Tôi sợ mất con
nên nhất định không đồng ý. Thế là đêm ấy tôi lo sợ, không ngủ được,
phần thì không có tin chồng báo về và sợ chồng bị cướp của và bị giết chết, phần thì con quấy rầy, phần thì bị cơn ho hành hạ.
Cuối cùng, vào ban đêm, có hai người lái xe Honda đến chở năm mẹ con tôi
lên xe để vượt biên giới bằng đường ruộng, không bằng đường lộ. Đi lòng
vòng một hồi lâu, hai xe dừng lại, và năm mẹ con tôi phải đi theo một
người dẫn đường người Miên giữa đêm khuya, không trăng, không đèn.
Vì phải leo lên leo xuống các bờ
đê trong ruộng nên mẹ con tôi bị ngã hoài. Chúng tôi không biết tiếng
Miên, mà ông Miên dẫn đường lại không biết tiếng Việt. Phần thì ông ta
đi quá mau còn bà bầu như tôi và lũ con trẻ lại đi quá chậm. Vì phải
chạy theo ông ta nên chúng tôi cứ té ngã mãi. Tôi còn phải cõng đứa con
bé nhất trên lưng.
Trên vùng đất Campuchia:
Ði mải miết ba bốn tiếng đồng hồ
thì chúng tôi qua được biên giới. Ở bên đất Miên, người ta đốt lửa và
họp chợ. Tới biên giới, người ta cho năm mẹ con chúng tôi ngồi trên ba
cái xe đạp thồ và chở chúng tôi đi lên đường rồi xuống ruộng.
Sau đó, họ bắt tôi lên mặt đường ngồi chờ họ cả buổi. Lòng tôi lúc ấy
rất hoang mang và lo sợ. Phần thì sợ lạc con, phần sợ chồng bị giết rồi, phần sợ không có đủ sức khỏe để tiếp tục cuộc hành trình.
Cuối cùng, sau một hồi lâu, họ đến đón tôi về xum họp với chồng con ở trong một ngôi nha bằng tranh. Họ dặn chúng tôi không được nói tiếng Việt. Lúc gặp lại chồng,
anh Vĩnh cho biết là khi qua biên giới xong thì họ quay ngay xe đi,
không đợi cho anh ấy viết vài chữ về cho tôi. Anh còn kể là họ dùng mỹ
nhân kế để quyến rũ anh. Anh phải giả vờ ngủ và phải tranh đấu lắm để
không rơi vào lưới tình của người đàn bà trẻ kia.
Sau đó, họ hoá trang cho tôi bằng cách bôi khuôn mặt tôi cho đen hơn. Họ
cho tôi cái khăn quàng gọi là “cà ma’ để đội. Tôi phải cải trang mặc áo
sà rông, giống như một cái váy ra ngoài cái quần đen của tôi. Rồi họ
chia gia đình tôi ra làm hai nhóm và cho ngồi hai xe vận tải khác nhau.
Tôi và hai con gái ngồi ngay trên xe vận tải, bên cạnh tài xế, còn chồng tôi và hai con trai ngồi dấu mình ở đàng sau một xe vận tải khác.
Cứ mỗi khi sắp đến trạm kiểm soát thì chúng tôi phải xuống đi
bộ, đi vào ruộng và khi qua khỏi trạm kiểm soát thì lại leo lên xe vận
tải. Trên đoạn đường từ Gò Dầu Thượng đến Soài Riêng có cả mấy chục trạm
kiểm soát, mà cứ đến mỗi trạm thì chúng tôi đều phải xuống đi bộ, bọc qua ruộng để tránh các trạm kiểm soát.
Có một lần vì thương hai đứa con gái nhỏ phải đi bộ vất vả nên tôi đề
nghị chúng ngồi lại trên xe vận tải cùng với một giỏ quần áo để khi
chúng tôi đi bộ, bọc qua ruộng xong thì sẽ gặp lại chúng. Khi ấy, cháu
Kim, 4 tuổi nhất định khóc và đòi đi với mẹ, nên cháu Trang 8 tuổi cũng
nhảy xuống theo. Tôi bèn để cái giỏ đồ, trong đó có cái kiếng cận thị của tôi trên xe.
Sau đó, khi chúng tôi đi bọc xong, lên lại đường lộ thì chiếc xe ấy chạy
đi mất hút. Nếu tôi buộc hai con gái tôi phải ngồi trên xe ấy thì tôi
đã thất lạc hai con rồi. May mà chỉ mất một trong hai cái giỏ của gia
đình mà thôi, nhưng cũng khổ cho tôi là từ khi mất kiếng cận thị, tôi
đâm ra mù lòa, khốn khổ trong suốt bẩy tháng trời ở trại tị nạn.
Khi chúng tôi đón một xe khác đi tiếp thì nhóm dẫn đường gài cho chúng
tôi bị công an bắt, giải ngược lại con đường mà chúng tôi đã đi qua. Sở
dĩ chúng tôi biết là họ gài cho công an bắt là vì khi chúng tôi đang
ngồi ăn cơm trưa trong quán, thình lình có một xe công an đến quán và ra
hiệu đòi chúng tôi đi với họ.
Vì biết rằng khi trở về thì sẽ bị tù, nên vợ chồng tôi
bàn với nhau định chôn dấu mớ giấy tờ bảo lãnh của mẹ tôi làm từ Mỹ gửi
về. Nhưng Chúa thương các con của tôi cách riêng, nên khi bị bắt, lính
Miên chỉ đuổi chúng tôi về lại Việt Nam chứ không bắt giữ.
Khi được thả ra thì chúng tôi không còn thấy những ngừơi dẫn đường của gia đình tôi nữa. Lòng bối
rối lo âu, gia đình tôi đi lang thang giữa đường của thành phố Soài
Riêng như một đám ăn mày. Bản thân tôi lo sợ như kẻ mất hồn nên đi
nghênh ngang giữa đường và bị xe đạp đụng làm rách cả cái áo.
Lúc ấy, chồng tôi dặn tôi trong
nom 4 đứa con để anh ấy đi lùng tìm bọn dẫn đường. Anh đi tìm một cách
vô vọng thế mà lại gặp bọn chúng. Cuối cùng chúng phải dắt gia đình
chúng tôi đi ăn tối. Sau đó, chúng tôi xin ngủ tạm ở nhà một gia đình
người Miên. Đêm mùa hè mà nằm lăn lóc trên nền xi măng còn hực lửa nắng hè, tôi lo buồn nên không dám ngủ vì sợ ngủ hết lỡ họ cướp tiền và giết mình thì sao.
Sáng hôm sau, bọn dẫn đường đành phải đưa gia đình tôi đi tiếp. Lộ trình
đi vào thủ đô Phnom Pênh (Nam Vang) cũng gian nan không kém lộ trình từ
Gò Dầu đến Soài Riêng.
Sống lo âu ở Phnom Penh:
Qua bao nhiêu gian khổ, chúng tôi đến được Phnom Penh. Bọn đẫn đường cho
gia đình tôi vào ở trong một gia đình người Miên và rồi chúng lại trốn
đi, để mặc gia đình chúng tôi bơ vơ nơi xứ lạ quê người.
Giờ phút ấy, chúng tôi chỉ biết quỳ xuống cầu nguyện để xin Chúa và Đức Mẹ Maria cứu nguy mà thôi. Chúa lại thương nên chồng tôi tìm được hai tên dẫn đường đang ngồi xe xích lô để chuồn về Việt Nam. Khi chồng tôi
bắt chúng về lại nhà trọ thì chúng nói thẳng là chúng không biết đường
đi đến Thái Lan. Lúc đó, chúng tôi mới biết là chúng đã gài cho lính
Công an bắt chúng tôi khi còn ở phạm vi của tỉnh Soài Riêng.
Chúng tôi làm dữ với bọn dẫn đường và dọa sẽ ra công an tố cáo chúng lừa
gạt chúng tôi. Cuối cùng, chúng phải trả lại gần một nửa số tiền mà
chúng đã lấy của chúng tôi.
Sau đó, chúng dẫn gia đình tôi gặp một người dẫn đường khác. Họ dắt
chúng tôi đến một nhà khác để đợi chờ. Trong suốt thời gian chờ đợi,
lòng vợ chồng tôi bồn chồn và lo lắng như ngồi trên lửa.
Đi xe lửa đến Pursak và Battambang:
Rồi khoảng một tuần sau, anh chàng dẫn đường tên Sán mới dắt chúng tôi
đi tiếp để đến biên giới Thái Lan. Lần này, anh ta đưa chúng tôi đến nhà
ga và bảo chúng tôi leo lên xe lửa. Xe lửa đầy những người. Người ta
ngồi trong các toa xe. Rất nhiều người khác thì ngồi lắt lẻo trên các
mui xe lửa. Còn gia đình chúng tôi thì phải cố gắng leo lên trên một cái
toa ở sát toa đầu xe lửa, nơi chất đầy củi để nhét vào lò, hầu làm cho
xe lửa chạy.
Đây là một cực hình cho gia đình tôi vì các tàn lửa bay ra tấp vào quần
áo chúng tôi và lửa châm vào da thịt chúng tôi, để lại những vết cháy
trên da thịt. Lại nữa, toa này không có mui vì là toa chở củi, nên cơn
nắng làm nóng khủng khiếp. Lại thêm cái đói và khát hành hạ gia đình
chúng tôi. Lúc ấy, tôi cứ cầu nguyện để xin Chúa cho tôi được chết phứt
cho xong kiếp đời đau khổ.
Vợ chồng tôi và các con ngồi chỉ
cách nhau có 2 thước nhưng chỉ biết im lặng mà nhìn nhau một cách đau
đớn. Lòng chúng tôi xót xa đến đứt ruột vì thương các con nhỏ dại mà
phải chịu khổ. Cả gia đình tôi chịu cảnh khát nước đến cháy cổ nhưng
không biết làm cách nào mà có nước uống vì xe lửa cứ chạy mãi.
Cuối cùng, tôi đánh bạo móc ra 5 đồng bạc Việt Nam để đưa cho những
người ngồi gần, rồi ra dấu chỉ vào những trái bắp luộc và một ổ bánh mì
đang nằm trong các chiếc giỏ
hàng của họ. Họ bèn đưa cho gia đình tôi 5 trái bắp luộc và 1 ổ bánh mì.
Thế là giải quyết được việc ăn. Rồi tôi lại ra dấu xin họ cho nước
uống. Chị hàng xóm mở bi-đông rót ra một chút nước đen ngòm. Tôi vội cầm
chiếc nắp bi-đông ấy để cho bé Kim, đứa con nhỏ nhất của tôi. Còn lại
thì cả gia đình đều chịu trận khát khô cổ.
Trong cái nắng gắt của mùa hè nhiệt đới, chúng tôi ngồi im lặng như chết
mà không trao đổi với nhau một câu nói vì sợ người ta biết mình là
người Việt Nam vượt biên.
Đến 9 giờ tối, xe lửa mới ngừng trước ga Pursak. Chúng tôi mất trọn một ngày mà mới đi được có nửa đường.
Tôi hôm ấy, chúng tôi được anh Sán dắt đi ăn. Sau đó, anh chàng dặn chúng tôi hãy ngủ ngay phía đường rầy để mai đi tiếp.
Vợ chồng tôi rất run sợ vì nghĩ
rằng anh ta có thể bỏ rơi gia đình mình bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, tôi
phải lôi hết áo quần trong giỏ ra để làm chiếu cho các con nằm xuống. Chung quanh tôi, mọi người đều nói chuyện vui vẻ, chỉ có gia đình tôi là im lặng, sợ hãi và buồn bã.
Nền đất đá cứng và gồ ghề làm cho chúng tôi đau lưng, lại thêm cái nóng của mặt đất bốc lên làm cho chúng tôi trằn trọc suốt đêm không ngủ được .
Sáng hôm sau, anh Sán dắt chúng tôi lên xe lửa đi tiếp. Lại thêm một
ngày nóng và khát. Suốt bảy tiếng đồng hồ ngồi phơi trên xe lửa không
nóc, chúng tôi mệt muốn xỉu.
Khoảng 3 giờ chiếu thì xe lửa vào đến địa phận tỉnh Battambang. Sau một
hồi tìm kiếm, anh Sán cho chúng tôi vào một căn nhà trống trơn. Nơi đây
có một lu nước. Không ai bảo ai, cả gia đình tôi nhào đến lu nước, rồi
người dùng gáo, kẻ dùng tay để múc nước và uống ừng ực.
Vừa uống xong, tôi bủn rủn tay chân và đầu óc quay cuồng. Tôi cảm thấy
chóng mặt và tim đập mạnh. Tôi nghĩ mình sẽ chết ngay tại đó. Chồng con tôi cuống quít cạo gió cho tôi. Tôi cố dằn cơn xúc động, nhưng nước mắt cứ chảy ra dào dạt. Tôi dặn anh Vĩnh, chồng tôi rằng:
“Anh ơi, nếu rủi em có chết tại đây thì xin anh cố gắng dắt các con đi
tiếp cho đến đích, vì chỉ còn có 60 cây số nữa thôi. Xin anh đừng lo gì
cho em, đừng tính chuyện chôn cất gì cả. Mình không thể bỏ cuộc một cách
dễ dàng. Mình đã tốn quá nhiều công sức rồi!”
Nghe lời trăn trối của tôi, cả gia đình tôi khóc thổn thức. Vừa sợ cảnh
chia ly, vừa sợ người thân chết, vừa sợ bị người dẫn đường bỏ rơi, lòng
chúng tôi đau đớn, xót xa.
Khoảng 4 giờ 30 chiều, anh Sán trở lại. Anh cho gia đình ăn cơm và đưa chúng tôi đi ra biên giới bằng 2 chiếc xe mô tô thồ.
Cứ trước mỗi trạm gác, những người tài xế xe lại ra hiệu cho gia đình tôi xuống xe
đi bộ qua trạm gác. Anh Vĩnh luôn luôn phải đi trước để thoát thân, vì
nếu vợ con bị chận lại thì anh sẽ không bị bắt. Đàn bà, con trẻ thì có
bị bắt cũng không lâu, còn đàn ông thì ở tù không có ngày về.
Trong khu rừng vắng gần biên giới Thái-Campuchia với nỗi lo âu:
Qua biết bao gian nan, chúng tôi thoát nạn qua các trạm gác. Đến tối,
anh Sán cho chúng tôi vào một khu rừng và bảo rằng anh ấy sẽ trở lại vào
sáng ngày hôm sau. Cơn mệt buổi trưa lại đến. Tôi lập lại lời dặn dò và
trăn trối. Chồng con tôi lại
hốt hoảng vì sợ tôi chết tại đấy. Tôi cố gắng trấn an và nhất quyết dặn
chống tôi phải vượt bỏ tất cả những ủy mị, đau buồn để đưa các con đến
nơi, nếu như tôi có chết dọc đường, bỏ cuộc trên con đường đi tìm tự do.
Lúc ấy tôi cảm thấy Thiên Chúa thật gần. Gia đình chúng tôi cầu nguyện
như là đang nói chuyện với Ngài. Chúng tôi lại cầu nguyện với Đức Mẹ
Maria. Chúng tôi khấn xin các thánh, các linh hồn ông bà, cha mẹ chồng đã khuất để xin sự che chở và bảo vệ.
Chỉ có những lúc như thế, chúng tôi mới cảm thấy thân phận con người
thật nhỏ bé giữa trùng vây của nguy hiểm và lo âu hãi hùng. Có trải qua
những phút âu lo đó, tôi mới thấy cái hạnh phúc là có một người bạn
đường bên cạnh, tôi mới cảm thấy Thiên Chúa thật linh thiêng, sự sống
thật đáng quý, tình cảm gia đình thật cao đẹp và ý nghĩa của hai chữ tự
do thật cao cả.
Suốt đêm hôm ấy, gia đình tôi được ở trong một cái lán giữa chốn rừng hoang. Cái lán này còn sơ sài hơn một túp lều. Vợ chồng tôi lo lắng vì sợ bị bỏ rơi và sợ cướp giết mình hay bị rắn cắn. Chúng tôi lại lôi quần áo trong giỏ ra để làm chiếu cho các con nằm. Hai vợ chồng tôi lại nằm theo hình chữ V, hai đầu quay gần nhau, bốn đứa con nằm giữa. Tôi nằm yên lặng, thần kinh căng thẳng nên không chợp mắt vì quá sức sợ hãi.
Tôi nhìn lên bầu trời, mở mắt thật to để tìm một chùm sao hình chữ T. là
tên tắt của thánh nữ Têrêsa, thánh quan thầy của tôi để xin thánh nữ
cầu bầu cho gia đình tôi. Tôi xin Đức Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình cầu
bầu cho gia đình được ơn bình an, thoát khỏi tai nạn, nhất là nạn cướp
trong rừng biên giới.
Đem đen như mực, tiếng côn trùng kêu rả rích. Vợ chồng con cái nằm im,
chả ai buồn nói với ai một lời. Một sự bất an bao trùm. Thần kinh căng
thẳng. Chúng tôi lắng nghe để xem có tiếng ai đi đâu đó không. Giữa rừng
cây um tùm, ví thử bọn cướp có đến giết gia đình để cướp của thì cũng
chả ai mà biết, và nếu gia đình tôi có hét lên thì cũng chả ai nghe được
mà cứu.
Trời bắt đầu lạnh, sương xuống mỗi lúc một nhiều. Nhìn bầy con nhỏ vô tội đang nằm lăn
lóc giữa sương gió, tim tôi nhói đau như bị ai bóp. Giữa lúc ấy, mạng
sống con người còn nhỏ nhoi hơn một con giun, con dế. Cứ mỗi lần có
tiếng động là vợ chồng tôi ngồi bật dậy để quan sát và nghe ngóng. Cứ thế, chúng tôi nằm chờ sáng trong muôn ngàn nỗi âu lo, sợ hãi và trong niềm hối hận vì đã hành xác con cái trong cơn đói khát, khổ cực.
Bị cướp và bị bỏ rơi trên đường đi:
Sáng hôm sau, khi thức dậy, chúng tôi thấy có hai người đàn ông người
Campuchia đến gần. Không hỏi ý chúng tôi mà họ tự ý lục lọi đồ đạc trong
giỏ của chúng tôi. Sau khi chẳng kiếm được cái gì mà họ muốn lấy, họ đề
nghị chúng tôi đi tắm mát. Đó là để khi chúng tôi xuống hồ ao thi họ lục lấy vàng hay tiền trong quần áo chúng tôi.
Vợ chồng chúng tôi biết là gặp bọn người bất lương nên tôi bàn với chồng tôi
là anh Vĩnh nên đi chậm với hai người ấy để cản đường, còn tôi thì lùa
các con chạy trước. Nhưng để có thể biết hướng đi ra khỏi rừng, chúng
tôi phải đi theo hướng bọn họ sẽ đi. Khi thấy con đường đất đỏ trải dài
trước mắt, lòng chúng tôi mừng khấp khởi vì biết là đến nơi an toàn hơn.
Một lúc sau, tôi thấy bóng một đứa bé ngồi trên lưng trâu, tôi quay nhìn anh Vĩnh và nói to:
“Chuẩn bị chạy!”
Rồi tôi nói với các con:
“Chạy ra theo đường kia, các con ơi! Chạy lẹ kẻo bọn cướp kia bắt được mình đấy!”
Thế là như bầy ong vỡ tổ, các con tôi ùa ra chạy thật lẹ, tôi cũng ì ạch chạy theo các con.
Trong lúc ấy, anh Vĩnh bị hai tên người Miên kèm sát để mong cướp của và vàng bạc. Tôi lại quay ngược đầu về phía sau kêu chồng tôi:
“Chạy theo em, anh ơi!”
Lúc ấy, chồng tôi phải hết sức
khéo léo để giựt lại cái giỏ đồ và thùng đựng nước. Anh cũng cố tình trì
hoãn lại để mẹ con tôi có thêm thì giờ mà chạy thoát. Thế là cả gia
đình cắm đầu chạy như ma đuổi.
Trời đã về chiều mà chúng tôi không có nơi ăn, chốn ở. Lúc đó khoảng 2, 3 giờ chiều, tôi bèn bàn với chồng tôi:
“Anh ơi, có lẽ em và các con sẽ trở về lại Việt Nam. Em ra trình diện
với bộ đội Việt Nam để trở về nhà, tiền mình còn ít qúa, chắc không đủ
cho cả gia đình mình đi đến Thái Lan đâu. Còn lại số tiền này, anh hãy
giữ lấy mà tìm đường đi tiếp. Chứ mình đi như vầy hoài, tiền gần cạn hết
rồi, biết tìm ai mà đi tiếp?”
Khi nghĩ đến chuyện chia tay, kẻ ở người đi, lòng chúng tôi ngậm ngùi và tan nát. Thế là chúng tôi bị bỏ rơi lần thứ hai rồi.
Vừa đau khổ, tôi vừa cầu nguyện. Không một lối thoát, ngôn ngữ không đủ
để xin người bản xứ cứu giúp hay dẫn đường cho gia đình mình đến biên
giới. Bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu vấn đề nan giải hiện ra. Tôi ước ao
được chết ngay lúc đó, chết chung với chồng và các con, để khỏi phải lo âu và khắc khoải nữa, để khỏi phải chịu cảnh đói khát dưới cơn nắng khủng khiếp ấy nữa.
Trong tuyệt vọng thì tìm ra đường sống.
Khi chúng tôi đi ra đường thì gặp một người phụ nữ Miên chừng 25 tuổi,
chị ấy hỏi chúng tôi rằng : “Việt Nam?” Tôi buồn bã gật đầu. Chị ấy chỉ
ra phía trước, ra dấu hai tay sẽ bị còng và nói liên tiếp. Tôi chỉ hiểu
rằng chị bảo chúng tôi coi chừng ra ngoài ấy sẽ bị bộ đội Việt Nam bắt
còng tay và cho vào tù.
Biết chị là người có lòng tốt, tôi kể lể bằng tiếng Việt Nam về nỗi khổ
của mình. Không biết chị có hiểu gì không nhưng chị ấy dắt chúng tôi về
căn lều của gia đình chị. Chúng tôi vui mừng vì thấy một lu nước. Vừa
xin phép chị, gia đình tôi vừa nhào đến thi nhau uống nước. Dù nước rất
đục nhưng có nước còn hơn không. Cơn khát đã hành hạ chúng tôi từ lúc
sáng đến giờ.
Câu chuyện thì dài lắm, nhưng kết quả là gia đình chị ấy chịu hướng dẫn
chúng tôi đi qua biên giới Thái với điều kiện là chúng tôi phải trả hết
số tiền bằng chiếc nhẫn kin cương mà tôi đã dấu trong cạp quần và một số
tiền mặt khác.
Đêm hôm ấy, gia đình tôi được tắm mát nơi cái giếng cạn của gia đình chị Miên. Đêm ấy, vợ chồng tôi được bình an vì biết rằng mình đang ở trong tay một gia đình tốt lành.
Ngày hôm sau đó, gia đình chị cho chúng tôi lên ba chiếc xe bò trong một
đoàn xe bò, rồi họ trả tiền cho ba người chủ xe bò. Từ đó trở đi, họ và
chúng tôi không còn gặp nhau nữa vì gia đình tôi nay thuộc quyền của ba
người chủ xe bò. Đến khi khám phá ra là họ bỏ mình cho những người chủ
xe bò, vợ chồng tôi hoảng hốt và
lo âu trên suốt cuộc hành trình ấy. Giữa đường đi, chúng tôi lại bị
cướp thêm một lần nữa. Anh Vĩnh ngồi chiếc xe bò thứ hai, tôi và hai con
gái ngồi trên xe bò thứ ba, còn hai con trai của chúng tôi ngồi trên xe
bò thứ bốn.
Cuộc hành trình qua biên giới đầy gian khổ vì đói khát và sợ hãi. Ở vùng
biên giới này, nhiều người tị nạn Việt Nam bị bộ đội Việt Nam bắt giữ
và gửi về Việt Nam để bị giam trong các nhà tù. Cũng tại rừng biên giới
này mà nhiều phụ nữ Việt Nam bị hãm hiếp bới bọn lính Miên, tức là lực
lượng Para, một thứ linh chống chính phủ Phnom Penh. Tại nơi đó, nhiều
người tị nạn bị giết chết vì lằn đạn pháo, vì bị lính Miên nghi ngờ, hay
vì bị rắn cắn.
Sau đây, tôi xin được kể lại ngày thứ 15 trong cuộc hành trình vươt biên của gia đình chúng tôi:
Điển hình là ngày cuối cùng của lộ trình:
Ngày 10 tháng Tư năm 1980, tức là ngày 25 tháng Hai năm Canh Thân), cũng là ngày thứ mười lăm của lộ trình.
Sáng tinh sương, khoảng bốn giờ
sáng, bà già Miên chủ xe bò đánh thức chúng tôi để đi tiếp. Đoàn xe bò
lại lọc cọc lăn bánh dưới ánh trăng mờ nhạt. Tôi không đủ ngôn ngữ để
hỏi bà già đó xem bao giờ thì tới Thái. Lòng phân vân, hoang mang, lo
nghĩ, tôi ngồi ngủ gật trên xe bò. Khoảng năm giờ sáng, bà già quay lại
nói:
"Bộ đội Việt Nam"
Tôi giật mình ra dấu hỏi. Bà ta chỉ về phía trước mặt. Thế là chúng tôi lại cho các con tôi nằm chôn
dưới bao rơm, đậy miếng nilông lên. Tôi lại được mượn cái nón đội che
nửa khuôn mặt. Cơn hãi sợ lại ập đến bủa vây tôi. Tôi cố giấu mặt trong
chiếc nón gồi và liếc nhìn qua vành nón tỏa rộng. Nếu không được bà ta
cho mượn nón, có lẽ tôi đã bị lộ rồi.
Đoàn xe vẫn lăn bánh lọc cọc trên đường mòn gập ghềnh sỏi đá Mỗi bước đi
đến gần trạm kiểm soát là mỗi chút hồi hộp tăng dần. Tôi có cảm tưởng
như máu trong cơ thể mình đông đặc lại.
"Càng gần biên giới, sự kiểm soát càng chặt chẽ, liệu mình có an toàn đến nơi không?"
Câu hỏi như gắn chặt trong tâm trí. Tôi run rẩy chờ đợi. Khoảng năm giờ
rưỡi sáng, chúng tôi đã đến đầu bìa rừng biên giới - sau này tôi mới rõ.
Đó cũng là trạm kiểm soát cuối cùng có Cộng Sản Việt Nam. Từ xa, tôi
thấy lố nhố một số lính bộ đội. Họ la lớn bằng tiếng Việt:
"Đứng lại hết, chờ xét đã!"
Thế là đoàn xe bò dừng hẳn lại. Đám đàn ông trên xe bò lật đật leo xuống xe, đứng rải rác gần đó. Anh Vĩnh, chồng tôi, cũng vội vàng bước xuống xe
và trà trộn ngay vào đám đàn ông Miên ấy. Tim tôi hồi hộp và đập thình
thịch. Tôi cảm thấy rét run như bị cơn sốt rét. Hai tay run lẩy bẩy như
bị động kinh phong. Giờ phút sống còn đã điểm. Một là tới Thái, hai là
vào tù lần nữa.
Có sáu người lính Việt Cộng. Họ vác súng chạy rầm rập từ phía đầu của
đoàn xe bò đến phía cuối. Họ lục xét để kiếm gà. Tiếng họ nói oang oang:
"Gà đâu? Gà đâu? Có gà thì "tâu", ót gà ót tâu!" (Có gà thì đi, không gà không đi!)
Vừa lục xét họ vừa cười nói và chửi thề luôn miệng. Giọng nói quê và
nặng của dân quê miền Bắc Việt Nam. Tôi hơi mừng thầm vì thấy họ chỉ
nhắm đến việc xét bắt gà vịt của người Miên đi xe bò hơn là nhằm mục
đích xét người Việt Nam vượt biên. Có lẽ họ sống đói khát và thèm thuồng
ở vùng núi biên giới này đã lâu nên chỉ mong cướp cạn để thỏa mãn sự
thiếu thốn.
Hai tên lính xét xe bò thứ nhất, ba tên lính chạy xuống xét
xe bò đi sau chót. Còn một tên đứng cách xe bò của tôi độ hai mét, tay
hắn cầm cây súng chĩa lăm lăm về phía đoàn xe chúng tôi.
Đến xe bò thứ nhất, họ lật các bao rơm để kiếm gà. Tôi sợ đến ngộp thở.
Chắc chết đến nơi rồi vì chỉ còn có một xe nữa là đến xe các con trai
của tôi đang núp trong lớp rơm. Tàn đời rồi. Lại vô tù lần nữa thôi.
"Chúa ơi, cứu con với!"
Tôi hét thầm trong lòng. Rồi, họ xét đến xe Vĩnh đã ngồi là xe thứ hai.
Họ lục lọi và lật tìm gà nơi các bao rơm. Họ bóp giỏ đồ của Vĩnh treo
nơi xe mà không mở ra - nếu họ mở ra, chắc họ sẽ biết ngay chúng tôi là
người Việt vì quần áo người lớn, con nít tùm lum. May mà anh Vĩnh đã trà
trộn trong đám đàn ông kia rồi!
Khi họ bước qua xe bò thứ ba - nơi mà hai con trai của tôi đang được dấu
dưới lớp rơm che kín-thì trái tim tôi như ngừng đập. Thôi rồi, lộ tẩy
rồi! Thay vì tìm ra gà, họ sẽ tìm thấy ra hai cậu bé Việt Nam. Tôi lẩm
bẩm cầu xin Thượng Đế che chở.
Lại một phép lạ của Thượng Đế! Khi họ định lục xe bò có hai con trai tôi
thì bỗng ba tên lính Việt Cộng ở phía xe bò đàng sau chạy lạch bạch
tới, tay họ cầm hai con gà. Họ vui mừng hét thật to:
"Có gà rồi! Có gà rồi chúng mày ơi! Đến hai con gà cơ!"
Hai tên lính này mừng quá, bỏ chuyện xét xe bò thứ ba và xe thứ tư - nơi
tôi ngồi - để xúm lại bàn tán về thành tích cướp cạn vừa kể. Họ hý hửng
cười, đập tay vào lưng, vào vai nhau một cách khoái trá và quên đi
chuyện xét xe bò tiếp.
Trong khi ấy - cháu Kim 4 tuổi, vì bị chôn dưới lớp rơm và bao ni lông trên xe bò quá lâu nên mệt. Cháu la lên:
"Nóng quá! Khát quá mẹ ơi!"
Tôi lại giựt mình vì những người lính Việt Cộng chỉ đứng cách xe tôi
ngồi có hai thước mà thôi. Tôi vừa sợ vừa giận nhưng chỉ biết im lặng vỗ
vỗ vào lớp rơm che cho cháu để dỗ nó mà thôi. Con bé vẫn khóc y ỷ như
chè thiu. Chắc là có ơn trên che chở, làm cho các anh lính bộ đội Việt
Cộng bận chú ý về mấy con gà nên họ không thể nghe tiếng bé Kim khóc và
nói bằng tiếng Việt Nam. Vả lại, lúc ấy trời còn mờ mờ tối nên đám lính
này không thấy cảnh chúng tôi ngụy trang.
"Con bé này cứng đầu quá chừng, chuyên mang nỗi khó khăn đến cho cha mẹ!"
Tôi nghiến hai hàm răng để cắn chặt cơn giận và tiếng la mắng:
"Chuyến này mà lộ thì ăn đòn chết, nghe con!"
Tôi giận tái người vì đứa con dại khờ, cái chết bên mình mà vẫn không biết.
Trong lúc ấy, bà già Miên, chủ xe bò của chúng tôi cũng sợ hết hồn. Bà
ta thò tay vào lục trong giỏ mãi mới kiếm được một quả xoài xanh nhỏ
bằng trái trứng gà. Rồi bà ta đưa trái xoài cho tôi. Tôi bèn giả bộ cúi xuống, vén lớp rơm và để quả xoài vào bàn tay con bé. Con bé nắm chặt quả xoài rồi nín ngay, không khóc nữa.
Nó bắt đầu tìm cách đưa quả xoài vào miệng, vì thế tấm ni lông lại sột soạt di động. Tôi phải gõ gõ để nó hiểu mà tạm nằm yên. Trong lúc ấy mấy anh lính Việt Cộng lấy súng gõ vào thành gỗ của một vài chiếc xe bò và hét to lên:
"Tâu đi! Tâu đi!" (Đi đi, đi đi!)
Đoàn xe bò chậm rãi chuyển bánh. Anh Vĩnh và đám đàn ông lẹ làng đi bộ
qua mặt nhóm lính Việt Cộng. Tôi thở phào nhẹ nhõm như vừa thoát khỏi
một gánh nặng.
Trời đã hơi sáng, đoàn người đi lặng lẽ vào rừng thưa. Lúc này đã vào
rừng rồi - rừng biên giới Cambodia và Thái Lan. Qua khỏi trạm gác khá
xa, các con tôi mới được trút bỏ lớp rơm che đậy chúng để ngồi lên như
cũ. Trời vẫn còn sớm nên người đi lại thưa thớt. Dần dần, trời đã sáng
bạch, chúng tôi đã tiến sâu vào rừng, qua con đường mòn cỏ cây đan
nhánh. Tôi ngồi trên xe bò mà nhủ thầm:
"Mình còn sướng hơn các người đi bộ kia, chắc là họ mệt lắm - mình còn hên nhiều!"
Tôi chợt nghĩ đến cảnh những người vượt biên đi sau tôi - nếu họ đi vào
tháng Năm, tháng Sáu mà gặp mưa thì chết cóng vì lạnh và ướt thôi. Suốt
cuộc hành trình là nằm ở ngoài
bờ bụi, làm sao họ chống trả nổi với cơn mưa suốt đêm? Rồi họ phải lội
ruộng, lội đồng. Nếu nước ngập làm sao họ có thể bước đi mau được khi mà
đường thì dài vô tận? Đã có bao nhiêu người bị chết vì cóng lạnh dưới
cơn mưa, trên đường đi vượt biên, trước gia đình tôi? Và sẽ còn bao
nhiêu người chết vì cơn nóng, cái đói khát sau gia đình tôi?
Tôi không trả lời được mà chỉ biết thương xót cho họ. Người dân Việt Nam
- có cả chúng tôi - đã trả giá quá đắt cho sự kiếm tìm tự do. Họ trả
giá bằng chính sinh mạng của họ và gia đình họ. Tôi đã nếm mùi vượt
biên. Nếu yên lành đến nơi, tôi sẽ viết thư về để ngăn cản, không cho bà
con, bạn bè đi bằng đường bộ nữa.
Ghê gớm quá, khủng khiếp quá. Tôi ngồi thừ ra suy nghĩ mãi. Xe bò đi sâu
vào rừng. Chung quanh là cây cao bóng mát. Bóng mát ở đây nhiều nhưng
riêng tôi, tôi vẫn chưa tìm thấy bóng mát của cuộc đời. Một cuộc đời
trôi nổi, đầy thiệt thòi và mất mát. Hai lần bỏ xứ ra đi: Một lần từ Bắc
di cư vào Nam, và lần này, từ Việt Nam bỏ tất cả để dấn bước phiêu lưu
đi tìm tự do.
Tôi lớn lên để bị chứng kiến những cảnh đổ vỡ của gia đình và của đất
nước. Tôi đã khóc rất nhiều trước những cơn bão táp ấy. Tôi còn nhỏ lúc
đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào năm 1963, nhưng tôi đã khóc khi
thấy hình Tổng Thống Diệm bị đốt. Tôi thấy đau đớn khi ngọn lửa ăn dần
hình ảnh hiền hậu của vị Tổng Thống ấy. Hình như đôi mắt ông Diệm đã
khóc khi lửa liếm dần và thiêu rụi. Tôi nhủ thầm, nếu Tổng Thống Diệm
không bị ám sát thì chắc đất nước mình vẫn còn thanh bình và thịnh vượng
như thời kỳ 1960, có đâu mà dân tộc mình phải chịu đắng cay và đau khổ
như bây giờ? Có đâu mà mình và gia đình phải chịu đủ mọi khổ sở như vầy?
Cảnh rừng thưa vào ban mai thật đẹp và hùng vĩ. Cây mọc chằng chịt, chỉa
cành ra phía đường mòn, ánh nắng như được lọc qua bóng cây, đổ xuống tràn
đầy. Tiếng chim hót líu lo, tiếng bánh xe bò kêu lọc cọc đưa tôi về
thực tại. Các người đàn ông đi bộ nay đã leo lại lên xe bò. Xe vẫn đi
chậm như rùa bò.
Tôi đưa trả bà già Miên chiếc nón mà bà đã tử tế cho tôi mượn để hóa
trang. Tôi mở luôn chiếc khăn quàng để hít thở thoải mái bầu không khí
trong lành của buổi sáng sớm trong rừng đầy cây xanh. Một cách cẩn thận,
tôi chỉ tay về phía trước, ra dấu và hỏi xem còn bộ đội Việt Nam ở
trong rừng không thì bà già Miên lắc đầu. Tôi mừng rỡ, thở phào nhẹ nhõm
rồi ngửng mặt lên nhìn ngắm vòm cây xanh cao trước mặt. Những trái xanh
treo lửng lơ trên cây. Tôi không biết là loại trái gì nhưng vẫn cầu
mong cho một vài trái rớt xuống để mút đỡ khát. Tôi thì thầm câu nói của một bà già trong truyện Tấm Cám:
"Thị ơi! Thị rụng bị bà
Bà để bà ngửi chứ bà không ăn.”
Buồn thay, chả có trái nào rụng xuống.
Tôi nuốt nước bọt mà thèm. Một chút gì êm ả, một chút gì ngọt ngào
thoáng đến trong hồn tôi. Hình như hồn quê hương tôi còn quanh quẩn đâu
đây với cảnh đẹp thiên nhiên này. Tôi sung sớng hít thở mãi.
Lúc này, người ta đi lại tấp nập hơn. Người đi bộ, người đi xe bò, kẻ đi
xe đạp. Những người đi cùng chiều với tôi thì đa số đi tay không hay
xách giỏ nhỏ. Trái lại, những người đi ngược chiều với tôi - từ biên
giới Thái về - thì chở đầy hàng hóa, thuốc lá và vải vóc mà họ đã mua từ
biên giới về.
Họ dùng xe đạp để chở đồ đạc. Người thì dắt xe, người thì tải hàng, cứ
thế, họ đi bộ về chợ trời Soay - gần Sisophon. Còn các xe bò ở biên giới
về thì chở đầy các bao gạo, loại một trăm kí lô gram. Xe bò đi về cũng
khá nhiều. Tính ra, họ cũng rất giàu. Khi đi thì chở người Việt Nam vượt
biên, khi ở biên giới về thì chở gạo về Miên bán, hay chở vải vóc,
thuốc lá, đồng hồ về bán. Xem ra người dân Miên buôn bán tự do hơn người
dân Việt Nam ở quê hương tôi.
Thỉnh thoảng, tôi thấy một người ngồi bên đường để bán nước đá sirô, dưa
hấu và xoài chín. Những ly nước sirô có đá màu đỏ, màu cam như trêu,
như chọc cơn thèm khát. Những miếng dưa hấu đỏ óng như mời, như gọi.
Những trái xoài vàng đậm như đợi, như chờ chúng tôi với tay đến. Những
thỏi nước đá trắng trong vắt, trông đẹp như pha lê.
"Trời ơi! làm sao mình có tiền để mua được đây?"
Tôi dán chặt mắt vào các món giải khát ấy rồi nuốt nước bọt. Các con tôi
cũng nhìn một cách thèm thuồng. Chúng tôi cứ mơ và ước đến các món giải
khát mãi.
Thình lình, từ trong lùm cây rậm rạp, có hai tên lính Miên mặt non choẹt, trông chỉ độ mười bốn,
mười lăm tuổi, mặc quân phục rằn ri như lính nhảy dù, chúng xông ra
chận xe bò của tôi lại. Chúng lăm lăm chĩa súng vào người mẹ con tôi và
hét lên:
"Việt Nam, Việt Nam, xuống, xuống ngay!".
Tôi sợ điếng hồn. Tưởng là đã thoát ách bộ đội Việt Cộng thì hết sự nguy
hiểm rồi. Thế mà nay lại bị bắt nữa rồi. Tôi lúng túng đứng lên. Bọn
chúng - sau này tôi mới biết chúng là lực lượng Para, một loại lính biệt
kích của kháng chiến quân Cambodia. Có người thì nói là lính của
Sihanouk, của Lon Nol, của Son Sann, của chính phủ Thái thuê để đánh lại
bộ đội Việt Cộng và lính Cộng Sản của Miên - lại la lên:
"Xuống! Nếu không thì "ông lớn" bắn chết!"
Chúng nói tiếng Việt không rõ. Rồi chúng hung hăng chụp cháu Kim vứt xuống đất. Con bé hoảng sợ, khóc thét lên. Chúng túm lấy cháu Trang đuổi xuống. Tôi sợ quá, vội vàng nhào xuống xe. Rồi tôi quay lại bà già Miên để nhờ lấy đồ đạc của tôi ở trên xe xuống hết.
Đàng trước, chiếc xe bò chở hai con trai tôi cũng đã ngừng lại, ông già Miên cũng lật đật bỏ hai con tôi xuống đất.
Thế là năm mẹ con tôi riu ríu đi theo hai người lính Para vào bụi rậm
để chúng lục xét. Trong khi ấy, xe bò chở Vĩnh đã đi thoát về phía
trước. Tôi vái trời cho Vĩnh đi thoát, bề nào thì anh ấy là đàn ông, nếu
bị bắt lại thì lại bị tù tội gk có ngày về. Bọn Para hỏi lớn:
“Chồng bòn đâu?” ("Bòn" là anh hay chị).
Tôi lắc đầu quầy quậy và làm bộ ngớ ngẩn để tránh câu trả lời. Bọn lính Para bực tức hỏi to hơn:
-Chồng bòn đâu? Nói! Nói đi! Không thì ông lớn Para bắn chết!”
Tôi hoảng hốt nên làm thinh và chỉ tay về phía đoạn đường vừa đi qua.
Bọn Para không tin, chúng quay lại hỏi vói tới mấy người Miên trong đoàn
xe bò. Lập tức, một trong số những người ấy chỉ tay về phía trước và
nói tía lia.
Ngay tức khắc, một tên lính Para đạp xe đạp chạy đuổi theo xe bò chở anh
Vĩnh. Thôi rồi! Anh Vĩnh cũng sẽ bị bắt rồi! Thằng còn lại lấy báng
súng đánh mạnh vào lưng tôi, rồi thuận chân, hắn đá vào người tôi một
cách giận dữ vì tôi đã đánh lừa nó. Đôi giầy săng đá - bốt
đờ sô - đánh vào mông tôi. Tôi đau đớn rú lên. Tuy vậy, cái đau của thể
xác không làm cho tôi đau bằng cái nhục nhã của một con người bị một
đứa con nít đáng tuổi con cháu mình xúc phạm mình.
Lúc ấy, cả năm mẹ con tôi ngồi thụp xuống đất,
co ro và run rẩy như bầy chiên ở trước nanh vuốt cọp dữ. Từ đâu không
biết mà bọn lính Para người Miên kéo tới khoảng mười tên. Tất cả đều còn
rất trẻ, chỉ độ hai mươi lăm tuổi trở xuống đến mười bốn,
mười lăm tuổi. Thằng nào cũng mặc đồ lính dù, rằn ri hoa lá. Thằng nào
cũng đeo súng, đeo bùa màu đỏ tòn ten trên cổ. Chúng đeo tượng Phật vàng
trên cổ. Sau này tôi mới hiểu tại sao mà chúng có vàng vòng nhiều vậy -
đó là do việc cướp bóc tài sản của dân ty nạn đường bộ người Việt Nam.
Nơi cổ, nơi ngực, nơi tay chúng đều xâm hình Phật và nhiều chữ Miên.
Khi đó, chúng cười hằng hặc vì đã túm được con mồi là gia đình tôi. Tôi
sợ quá rồi. Chỉ cần nhìn những khuôn mặt đen đúa của chúng, chỉ cần nghe
giọng cười khả ố là tôi sợ đến khiếp đảm.
Tất cả những câu chuyện mà tôi được nghe hồi ở Việt Nam chợt hiện đến
trong đầu. Nào là dân tỵ nạn Việt Nam bị chặt cổ, nào là họ bị bắn, bị
mổ bụng ở rừng biên giới. Nào là chuyện “cáp duồn”: Vào các năm 1970,
1971, người Việt Kiều ở Miên phải hồi hương vì người Miên nổi lên chặt
đầu, hãm hại và giết chóc người Việt. Tôi chợt nhớ đến câu chuyện sử mà
thầy giáo tôi đã kể hồi tôi học lớp Nhất (lớp Năm bây giờ) rằng Chúa
Nguyễn Ánh đã sai tướng Lê Văn Duyệt đánh phá Cao Miên và tiến đánh Siêm
(Thái Lan). Quân lính Việt Nam hồi ấy đã giết hại quân lính Miên rồi
dùng dao chặt đầu họ để kê làm bếp nấu cơm - Cứ ba cái đầu người Miên
làm thành một cái bếp. Rồi lại cướp đất của người Miên để làm đất của
người Việt Nam. Do đó, hai dân tộc căm thù nhau vô cùng. Tôi nhớ đến
những câu chuyện ấy mà rùng mình, rởn gai ốc. Không hiểu đó là sự thật
hay do thầy tôi thêm thắt, dệt thêm. Dòng tư tưởng đưa tôi liên miên suy
nghĩ và liên hệ đến thực tại. Tôi nhủ thầm:
"Chắc bọn họ chờ dịp này để hãm hại dân mình rồi đây, mình là nạn nhân của sự trả thù ngàn đời về trước rồi!"
Chúng tôi run sợ như lũ nai tơ bị bầy chó sói bao vây để hãm hại. Sau
này, tôi được biết là trong cánh rừng đó, bọn lính người Miên tên Para,
Pol Pot và lính kháng chiến quân của người Lào cũng ở đó. Không một ai
thoát khỏi nanh vuốt của bọn lính này. Hàng ngày, hàng giờ, bọn chúng
chia nhau ngồi ở hai bên đường mòn để chực bắt các người tỵ nạn Việt
Nam. Chúng dùng tiếng Miên để kiểm soát và lọc ra những người không hiểu
tiếng Miên. Vả lại, nét mặt, màu da, dáng điệu của người Việt khác xa
người bản xứ. Chỉ cần quan sát kỹ cũng đủ nhận ra. Nếu may ra mà gặp
lính của vị tướng người Lào thì đỡ hơn vì tương đối họ tử tế và có tác
phong tốt hơn.
Bọn lính Para ra dấu hiệu cho chúng tôi đi theo chúng vào sâu trong rừng
cây. Ba thằng lôi tôi vào bụi rậm, bắt tôi cởi hết áo quần. Trong lúc
tôi đứng tơ hơ thì bọn chúng chia nhau lục xét áo quần và xà rông của
tôi. Rồi chúng chia nhau xét cái giỏ quần áo của tôi. Chúng bắt tôi
chổng mông để chúng móc ở hậu môn, ở cửa mình để kiếm vàng. Bàn tay
chúng thô và to như những trái chuối. Tôi đau đớn và hổ thẹn, muốn khóc
mà khóc không được. Cái nhục không thể nào kể xiết được. Nỗi hận thù
chất đầy tâm trí. Tôi không dám chống cự và la hét vì sợ bị giết ở ngay
tại đó, tội nghiệp cho bầy con vô tội ngây thơ.
Sau đó, bọn lính bóp miệng tôi để xem có vàng nhẫn dấu trong miệng tôi
không. Rồi chúng nắm tóc tôi gỡ ra từng đám để xem tôi có cột nhẫn vàng
trong tóc không. Xét kỹ lưỡng mà chúng chả tìm được một xu nhỏ nơi tôi,
bọn chúng tát cho tôi mấy cái tát tóe lửa rồi xô tôi té nhào vào bụi
gai. Tôi rú khẽ vì quá đau. Máu từ vết thơng bị gai đâm rỉ ra. Tôi đau
quá, ứa nước mắt sống ra. Trong lòng tôi, tôi nhủ thầm:
"Bọn khốn nạn, chúng mày sẽ phải trả giá đắt cho việc làm chó má của chúng mày!”
Tới phiên các con tôi, chúng lôi các cháu vào nơi khác để xét. Chúng bắt
các cháu cởi quần áo để chúng mong tìm chút vàng hay tiền. Cuối cùng,
chúng lôi được tờ bạc hai mươi dollars mà tên lính Miên hôm qua đã thí
lại cho chúng tôi từ chiếc quần của cháu Trang. Thế là chúng đánh con
tôi túi bụi vì con bé đã không chịu đưa cho chúng ngay, phải đợi chúng
xét mới thấy.
Con gái tôi khóc rấm rứt vì bị đòn. Chúng cũng xét miệng các cháu, bóp
miệng, nắm tóc móc hậu môn. Xét chưa xong thì tên lính Para kia đã đưa
được anh Vĩnh đi ngược về. Chúng xô Vĩnh té nhào xuống đất,
rồi đánh anh bằng báng súng. Mặt anh tái nhợt. Chúng tôi đưa mắt nhìn
nhau mà ứa lệ. Ngôn ngữ không đủ để diễn tả cho phút nhục nhã cực điểm
ấy Thế rồi chúng bắt anh Vĩnh tới lùm cây khác để xét của. Chúng bắt
Vĩnh cởi truồng, chổng mông để chúng tìm nhẫn vàng trong hậu môn. Rồi
lại một màn bị bóp miệng, bị đánh đấm nữa. Chúng bực bội vì gặp một bọn
nghèo mạt như gia đình tôi. Chúng hung hăng như bầy quỷ dữ. Chúng nói đủ
thứ mà tôi không thể hiểu được. Rồi chúng hất hàm cho phép chúng tôi
mặc quần áo. Chúng tôi cắm đầu mặc đồ vội vàng, không dám nói chuyện hay
hó hé gì cả.
Từ xa, có những tiếng súng nổi lên rồi có những tiếng hét thảm thiết của
phụ nữ. Chúng tôi đoán chừng chắc là nhóm lính Para khác đang tra tấn,
hành hạ những người ty nạn Việt Nam khác. Tiếng kêu thét như tiếng heo
bị thọc tiết, ai oán, nghe như xé ruột, vang động cả núi rừng. Rồi thì
tiếng gầm thét của bọn lính. Tôi không ngờ mình đã gặp phải một bọn quỷ
râu xanh như bọn Para này. Tôi hoảng quá vì sợ chúng hãm hiếp mình. May
mà tôi đang có thai sáu tháng, bụng đã to, chứ không thì... Tôi rùng
mình và không dám nghĩ hết.
Bọn lính Para hằn học đá tung mấy cái giỏ của chúng tôi và ra dấu cho
gia đình tôi ngồi lại một chỗ chung với nhau. Từ nãy đến giờ, những
người chủ xe bò thấy chúng tôi bị bắt xét, nên họ cũng ngừng xe lại để
nghỉ ngơi, cho trâu bò ăn rơm và để nấu cơm cho bữa ăn trưa.
Một ông Miên tuổi trung niên, đi trong đoàn xe bò của tôi bước đến nói
rất nhiều với nhóm lính Para. Tôi đoán chừng chắc ông ta kể cho chúng là
chúng tôi đã bị cướp sạch từ ngày hôm trước rồi. Rồi bọn Para nói đủ
thứ như dặn dò ông trung niên nọ điều gì. Chúng tôi ngồi lo nghĩ, mặt
hướng về phía đường mòn và mong cho sớm được thả. Nếu được thả sớm thì
còn đi ké theo đoàn xe bò. Chứ nếu được thả trễ, đám người kia ăn cơm
xong rồi đi tiếp thì xe đâu mà đi, biết đường đâu mà lần tới biên giới?
Tiền đã mất trọn, không có người đưa đi thì chắc chết cả gia đình. Mà
còn kéo dài những phút này, còn sợ bị bọn chúng hãm hiếp và giết hại.
Thời gian như ngừng đọng lại, tôi đưa mắt nhìn ông Miên trung niên kia
ra vẻ cầu xin ông giúp đỡ. Mắt tôi nhìn ông, rồi quay nhìn chồng con,
rồi lại nhìn bọn Para. Ông ta hiểu ý, quay lại nói với bọn Para nữa.
Khoảng độ nửa tiếng sau, chúng hất hàm ra dấu cho chúng tôi được đi
tiếp. Chúng tôi mừng quá chạy vội đến xe bò, không dám chần chờ vì sợ
chúng đổi ý thì chết. Nắng lên đã cao. Dù ở trong rừng, cơn nắng vẫn
quái ác, tác hại đến chúng tôi. Cái khát làm bỏng cổ họng.
Chúng tôi leo lên lại hai xe bò. Tôi và hai cháu gái một xe, hai cháu
trai một xe, hai xe này khác hai xe chúng tôi đã đi. Còn anh Vĩnh thì bị
ông Miên trung niên đòi hết số giấy tờ quan trọng của gia đình chúng
tôi. Ông ta bọc số giấy tờ của chúng tôi vào người ông rồi ông dắt Vĩnh
đi bộ với ông ta. Tôi không hiểu ý ông ta muốn gì mà lại giữ giấy tờ của
gia đình tôi và lại còn bắt Vĩnh đi bộ sát ông ta. Chắc bọn kia đã dặn
dò ông ta làm như thế. Bây giờ chúng tôi như cá trong rọ, chim trong
lồng nên chỉ biết nghe lời người ta.
Trời đã về trưa, chúng tôi đi giữa cái nóng, cái nắng và sự lo âu. Cháu Ninh kêu mệt và nằm ngửa trên xe bò, dưới cơn nắng. Dù đang ở trong rừng nhưng nắng vẫn ác nghiệt đổ xuống đầu chúng tôi. Tôi đau xót nhìn con trai nhưng không làm gì giúp con được vì cháu ngồi xe phía trước, còn tôi ngồi xe phía sau. Bố nó lại phải đi bộ một cách khổ cực.
Cứ thế chúng tôi câm nín đội cái nắng mà đi. Các con trâu, con bò cũng
mệt mỏi, chúng chẳng thèm bước, chủ chúng phải rút ra cái roi có đinh
nhọn để đánh chúng, buộc chúng đi. Chúng kêu lên đau đớn. Trông thật tội
nghiệp. Đi khoảng nửa giờ, chúng tôi lại gặp một bọn Para khác, chúng
lại bắt chúng tôi xuống xe bò,
vào bụi. Lại một màn xét, lục lọi, nắn bóp và đánh đập, và chửi rủa.
Chúng tôi làm thinh chờ. Bọn lính này tức giận vì không kiếm được một xu
nơi chúng tôi. Còn gì nữa đâu mà cướp mà lấy?
Lúc này, cháu Ninh đã mệt lả, cháu xỉu luôn tại lùm cây đó. Mặt cháu tái
xám, đôi mắt nhắm chặt như chết rồi. Tôi thương con quá. Rồi chúng tôi
xúm lại lôi dầu cù là ra để bôi và giựt tóc mai cho cháu. Tôi biết chắc
là cháu không trúng gió gì cả mà chỉ vì đói, khát và trúng nắng mà thôi.
Sức cháu yếu, sự chịu đựng chỉ có hạn mà sự khổ sở thì vô vàn. Cháu xỉu
là phải. Tôi quay nhìn bọn Para hung dữ, cổ chúng toàn màu đỏ và đủ
loại bùa. Chúng xâm hình tượng Phật đầy mặt mũi tay chân. Mặt thằng nào
cũng đen đúa. Tôi chỉ cháu Ninh, rồi chỉ một bình nước ra ý muốn xin cho
cháu một ngụm nước. Chúng gật đầu, chúng tôi liền đưa vào miệng đứa
con. Đứa bé vội mở mắt, uống ngay. Nhưng, cháu vừa uống được một hớp thì
một tên Para giằng bình nước lại và cất đi. Tôi tức muốn khóc. Cháu
Ninh vẫn nằm thiêm thiếp, mặt tái mét.
Ở góc cây phía xa, tôi thấy hai cô gái Việt Nam đứng run rẩy, nét mặt
còn hằn vẻ đau đớn, nước mắt còn lưng tròng. Quần áo các cô rách nát tả
tơi. Tôi đau nhói trong lòng, không dám hỏi han, chỉ biết thương và xót
cho các cô gái xinh tươi đó. Anh Vĩnh ghé sát tai ông Miên giữ giấy tờ
của chúng tôi, anh ra hiệu để ông ta nói với bọn Para cho đi tiếp.
Đoàn người đi buôn lậu vẫn tấp nập qua lại trên đường rừng. Một số người
thấy cảnh tình con tôi bị xỉu thì họ đứng lại xem và bàn chuyện. Chúng
tôi biết chỉ có cách là chịu nhịn, năn nỉ bọn lính Para mà đi thì mới
mong yên thân, nếu còn ở lẩn quẩn đâu đây, nếu chúng buồn tình lia cho
một tràng đạn thì uổng công, uổng đời quá.
Đã đến lúc cùng cực ấy, tôi chịu nhục, chắp tay lạy bọn Para để xin cho
đi tiếp; chúng cười ha hả vì thấy có kẻ lạy chúng. Tôi chỉ tay liên tiếp
về phía cháu Ninh đang nằm bất động để mong chúng động lòng thương hại. Chúng suy nghĩ rồi gật đầu. Thế là Vĩnh cõng con trai chạy thật lẹ đi kiếm xe bò.
Đoàn xe bò đã đi khuất từ lúc nào, có lẽ từ lúc chúng tôi cạo gió cho
con. Chúng tôi đành lếch thếch kéo nhau đi bộ dưới cái nóng tàn bạo. Ông
người Miên dẫn chúng tôi đi tiếp. Tôi dặn Vĩnh phải bám sát ông ta kẻo
lạc ông ta là mất hết giấy tờ quan trọng của mình. Cứ thế, chúng tôi lại
đi bộ như lết. Vĩnh cõng cháu Ninh, tôi cõng cháu Kim, còn hai cháu lớn
lếch thếch chạy bộ phía sau. Tay chúng tôi còn hai xách giỏ quần áo,
thùng nước và hai chai nước. Hai chai nước còn quý hơn mọi thứ gì khác,
mất chúng là chết khát.
Như một bọn ăn mày lem luốc, chúng tôi bước đi nặng nhọc. Hai chân mỏi
rã rời. Cơn khát làm bỏng cổ, cháy họng. Cái nắng chói chang làm chúng
tôi tối tăm mặt mày, hoa cả mắt, mắt nổ đom đóm. Các con tôi hết sức để
mà nói, mà than thở. Chúng phải chạy mới theo kịp ông Miên dẫn đường.
Tôi bâng khuâng tự hỏi không biết mình còn chịu cảnh "vác thập giá" này
đến bao nhiêu lâu nữa?
Tôi đoán chắc năm xưa, Chúa Giêsu vác thánh giá chắc cũng đau đớn như
chúng tôi lúc đó là cùng, khác hơn là Chúa chỉ có một mình. Còn chúng
tôi phải lo nghĩ, băn khoăn cho sự sống và an sinh của gia đình gần bảy
người.
Cái nắng bây giờ đã ở trên đỉnh đầu nên càng làm chúng tôi mệt mỏi hơn.
Phân bò rơi rải rác đầy đường mòn nên chúng tôi phải đi cẩn thận để khỏi
đạp trúng các đám phân bò ấy. Chân chúng tôi bắt đầu sưng tấy lên và
gây cơn nhức nhối. Tôi lên tiếng kêu Vĩnh kéo ông Miên dẫn đường đứng
lại để chúng tôi được nghỉ dừng chân một tí cho đỡ mệt. Nhưng kệ, ông ta
vẫn cắm đầu bước thật mau. Hình như ông đã quá quen với việc đi bộ và
với lộ trình này. ông ta nói tía lia và chỉ tay về phía trước. Vĩnh
chẳng hiểu gì nhưng anh vẫn hỏi:
"Xiêm? Xiêm?" ý là "Tới Thái Lan chưa?"
Ông Miên gật đầu và ra dấu cho gia đình tôi bước mau hơn. Trên lưng
Vĩnh, cháu Ninh mắt nhắm chặt, mặt xám ngắt. Cháu đã bất động từ hồi lâu
rồi. Tuy cơn mệt mỏi đã lớn và giãn nở ra, nhưng chúng tôi buộc lòng
phải cố mà lết về phía trước để hy vọng đến trại tỵ nạn sớm mà xin cơm,
nước và thuốc cho cháu Ninh và các đứa con khác của tôi.
Trên lưng tôi, cháu Kim rên rỉ vì quá khát, nó cũng chẳng còn sức đâu mà
khóc, mà nói nhiều nữa, nó chỉ rên khẽ trong miệng. Thời gian như ngưng
đọng lại. Từ phía sau của chúng tôi, một cô gái người Miên - người mà
tôi đã gặp lúc chúng tôi dừng lại để nấu cơm cùng với bọn người đi xe bò
chiều hôm trước - đã đi bắt kịp chúng tôi và sau đó, ông Miên và cô gái
vừa đi vừa thảo luận. Tôi nghe mà chẳng hiểu gì. Cơn mệt quá sức. Cơn
khát quá sức chịu đựng. Tôi đứng lại thở hắt ra và la lớn:
"Tắc, tắc, bòn ơi! Tắc, tắc!" (Uống, uống, ông ơi, cho tôi uống!)
Hai người Miên kia quay lại nhìn tôi và nói thật to những tiếng Miên mà
tôi chẳng hiểu gì, nhưng qua ngôn ngữ quốc tế, tôi đoán là chắc sắp đến
nơi rồi.
Hai đứa con lớn của tôi vừa đi vừa chạy, mặt chúng đã xạm đi vì cháy
nắng. Chúng đưa mắt nhìn tôi cầu cứu và van lơn. Hai chai nước đã trống
rỗng vì hết đã từ lâu nhưng chúng tôi vẫn phải giữ cái vỏ chai để dành
khi gặp vũng nước ao tù hay ao nước bùn thì lấy nước dùng. Hai cái vỏ
chai mà chị Tư đã cho lúc này đập long coong vào nhau vì cháu Khang đã
đuối sức, nó cứ để cho hai cái vỏ chai trống rỗng tha hồ đập vào nhau.
Lúc ấy, tôi chỉ sợ lỡ hai chai đó bể thì sẽ chết khát vì không còn gì để
đựng nước. Vì thế tôi quay về hướng Khang và hất hàm ra dấu cho cháu
đeo hai chai nước lên vai. Làm như vậy thì cháu đỡ phải xách vì một chai
ở phía trước còn chai kia ở sau lưng. Sau này, cũng nhờ hai cái vỏ chai
tầm thường đó mà chúng tôi có đồ chứa nước để chạy giặc và để dấu kỹ
trong lều tỵ nạn.
Đối với dân ty nạn đường bộ như chúng tôi thì những đồ đựng nước còn quý
hơn vàng bạc. Ở các trại tỵ nạn sâu trong rừng hoang, cho dù có tiền
vẫn không thể mua gì được vì không có chợ cũng không được đi ra ngoài
vòng rào của trại. Về sau, người ta ăn cắp chai nước của nhau đều đều.
Kẻ bị mất chai nước thì sáng hôm sau dậy khóc la thảm thiết vì tiếc của.
Rồi dưới cơn nắng đổ lửa, chúng tôi lết đi theo sự dẫn đường của hai
người Miên. Cực hình đeo đẳng, chúng tôi chỉ mong chết ngay lập tức để
tránh nỗi khổ sở đó. Con đường trước mặt như cứ dài thêm lên. Đứa con
trên lưng cứ chực muốn rớt tuột xuống.
Lâu lâu, tôi phải đứng dừng lại để sửa vị trí đứa con lại cho ngay
ngắn. Mỗi lần như vậy, tôi phải chạy mới theo kịp những người khác.
Đến khoảng một, hai giờ trưa ngày 10 tháng 4 năm 1980, gia đình chúng
tôi đến một đồn lính. Lúc đó, tôi chẳng biết ở trong đó có những ai,
nhưng vì tưởng tượng nhiều quá nên tôi nghĩ rằng chắc nơi đây có hội
thiện nguyện, có người Âu Mỹ. Chắc họ sẽ đón tiếp mình ân cần lắm vì hội
thiện là một tổ chức nhân đạo. Tôi lại hình dung đến những ly nước đá
mát rượi, những chai nước si rô màu đỏ, màu cam hay những miếng dưa hấu
đỏ óng ánh và những trái xoài chín vàng thơm ngon. Có lẽ họ sẽ cho mình
các thức ăn đó.
Tôi cố nuốt nước miếng và quay ra hỏi ông Miên dẫn đường, dù biết rằng
ông ta không hiểu tôi nói "trại ty nạn.” là cái gì. Ông Miên đáp:
"Ông lớn Para!"
Từ ngữ "Ông lớn" này được tất cả những người Miên mà tôi gặp trên xe bò
hay trên đường đi dùng để nói về bọn lính Para. Họ nói chữ "Ông lớn"
bằng tiếng Việt Nam. Bọn lính trẻ Para mà tôi gặp ở trong rừng cũng từng
tự xưng là "Ông lớn". Về sau tôi còn được biết nghĩa chữ ông lớn dịch
ra tiếng Miên là "Lục thum" hay "Lục thung.”
10. Kết Luận:
Cuối cùng, khi chúng tôi đến được biên giới Thái Miên thì ai cũng tơi tả và rách rưới như những người hành khất.
Đến được trại Non Chan, chúng tôi nhập đoàn vói nhóm ông Phạm Thanh và
gia đình ông Lê Tấn Lý. Chúng tôi sống lây lất trong 7 tháng trời trong
cơn đói khát và khổ cực.
Những gì xẩy ra trong các trại tỵ nạn mà gia đình chúng tôi ở như ở các
trại Non Chan, Northwest 9 (NW9), Panatnikhom Holding Center, và Rangsit
Transit Center thi cũng đã được mô tả kỹ lưỡng trong các phần kể chuyện
của những người bạn tỵ nạn của chúng tôi ở các chương trước.
Trong lúc mang thai cháu bé, gia đình chúng tôi phải chạy giặc nhiều
lần, mỗi lần chạy giặc về thì rơi mất dép, mất các chai nước để dành
trong lều và mất luôn quần áo.
Cùng với những người tị nạn khác sống trong trại Non Chan và NW 9, chúng tôi luôn phải chạy trốn vì trại tị nạn nằm giữa
hai lằn đạn của Việt Công và Thái Lan. Nhưng nỗi thống khổ vô cùng lớn
lao, bút mực không tả xíêt. Cảnh đói khát, áp bức, tranh giành và hiếp
đáp xẩy ra hằng ngày như một tấn bi hài kịch trên sân khấu.
Một điều đặc biệt là tôi sinh ra một cháu gái có tên là Hà Thái Thiên
Hương vào đêm rạng sáng 17 tháng 7 năm 1980. Cháu sinh ra mà không có
nước để tắm, không có quần áo tã lót để mặc. Mẹ cháu phải đi bộ rất xa
để đến các hố vệ sinh, dù vừa sinh con. Gia đình tôi phải xin một miếng
vải bao gạo để làm võng cho cháu bé nằm. Thấy con sinh ra giữa cảnh không nhà, không tiền bạc, không quần áo, không nước tắm, lòng chúng tôi xót xa ngậm ngùi.
Ngày nay, sau 27 năm, cháu Thiên Hương đã tốt nghiệp đại học UCI. Cháu
là đứa con rất thông minh, tài giỏi và ngoan ngoãn nhất trong gia đình.
Vợ chồng tôi luôn cảm tạ Thiên Chúa và Mẹ Maria vì hồng ân
cao cả mà gia đình chúng tôi đã nhận được. Lòng biết ơn của gia đình
chúng tôi thể hiện nơi cái tên mà chúng tôi chọn cho cháu Thiên Hương.
(Hương Thơm của Thiên Chúa.)
Đi vượt biên đường bộ mà không bị bắt hay bị giết, không lạc thân nhân, không bị hãm hiếp thì đó là một hồng ân
mà muôn đời chúng tôi không ngớt ngợi khen Danh Chúa. Tuy nhiên, chúng
tôi không quên cầu nguyện cho các bạn tị nạn xấu số. Họ mãi mãi bị vùi
xác nơi rừng hoang biên giới, chết tức tưởi mà không ai biết nơi chôn.
Xin quý vị cùng các bạn cùng giữ thinh lặng trong giây lát để dâng một
lời cầu nguyện chân thành cho các hương hồn người tị nạn đường bộ Việt
Nam đã dám hy sinh mạng sống để tìm tự do. Xin Thiên Chúa đầy Lòng
Thương Xót giải oan và giải thoát cho linh hồn các nạn nhân này sớm
hưởng Nhan Thánh Chúa!
Kim Hà
22/4/07 (Những Ngày Của Tháng Tư Đen)
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 011
THƠ NGÔ MINH HẰNG
( Vi‰t ñ‹ K› NiŒm Mùa Vu Lan)
Ngô Minh H¢ng
Trª låi tØ nÖi Çã mÎt mùng ?
Gi»a ti‰ng sóng gào, trong ánh ch§p,
Vì tình sông núi trä chÜa xong ?
M©i annh xin hãy ghé vào Çây ,
UÓng cån cùng tÓi chén rÜ®u này.
ThÙc nh¡m ê hŠ bao vÎ Ç¡ng,
K‹ tØ hoàng håc phút xa bay .
UÓng cån cùng tÓi chén rÜ®u này.
ThÙc nh¡m ê hŠ bao vÎ Ç¡ng,
K‹ tØ hoàng håc phút xa bay .
K‹ tØ bÕ núi, bóng chim Çi,
Træm nhánh sông chia ch£ng hån kÿ.
V‰t chém cûa th©i trai trÈ cÛ,
ñau hÒn cung ki‰m ,tûi nhung y !
Træm nhánh sông chia ch£ng hån kÿ.
V‰t chém cûa th©i trai trÈ cÛ,
ñau hÒn cung ki‰m ,tûi nhung y !
UÓng thêm ly n»a, uÓng Çi anh,
DiŒn ki‰n âm dÜÖng quä h»u tình.
Hãy uÓng cho vàng Çêm nguyŒt th¿c,
Cho hÒn siêu thoát v§i u linh...
ñÜa cay, nâng chén, g¡p Çi anh,
Nh»ng món Çau thÜÖng thÆt h»u hình.
Anh Çã thua Ç©i canh båc lÆn,
Tôi th¢ng trúng Ƕc, kÈ hàng binh.
DiŒn ki‰n âm dÜÖng quä h»u tình.
Hãy uÓng cho vàng Çêm nguyŒt th¿c,
Cho hÒn siêu thoát v§i u linh...
ñÜa cay, nâng chén, g¡p Çi anh,
Nh»ng món Çau thÜÖng thÆt h»u hình.
Anh Çã thua Ç©i canh båc lÆn,
Tôi th¢ng trúng Ƕc, kÈ hàng binh.
RÜ®u cay, Ø nhÌ, vÎ Ç©i cay,
Rót n»a, m©i nhau nh»ng chén ÇÀy.
Say Ç‹ thËn lòng câu h»u trách,
ThËn cùng gÜÖm súng bu°i buông tay !
Rót n»a, m©i nhau nh»ng chén ÇÀy.
Say Ç‹ thËn lòng câu h»u trách,
ThËn cùng gÜÖm súng bu°i buông tay !
Say Çi mà hát bän trÜ©ng ca,
Hát mŒt nhìn nhau låi khóc òa.
M¥c kÈ chê mình: " Th¢ng låc hÆu,
CÙ hoài nh¡c nhª chuyŒn ngày qua."
Hát mŒt nhìn nhau låi khóc òa.
M¥c kÈ chê mình: " Th¢ng låc hÆu,
CÙ hoài nh¡c nhª chuyŒn ngày qua."
" Bây gi© Ç°i m§i , hãy nhìn
coi,
Dân nܧc giàu sang, ti‰n b¶ rÒi.
Træm vån hotel, ngàn biŒt th¿,
Ngoài ÇÜ©ng bóng l¶n nh»ng xe hÖi.
" B¡t tay Çi chÙ, nghïa ÇÒng bào,
Núm ru¶t tình xa quš bi‰t bao.
Xóa bÕ hÆn thù chung d¿ng låi,
Thiên Çàng chû nghïa ánh vàng sao! "
Dân nܧc giàu sang, ti‰n b¶ rÒi.
Træm vån hotel, ngàn biŒt th¿,
Ngoài ÇÜ©ng bóng l¶n nh»ng xe hÖi.
" B¡t tay Çi chÙ, nghïa ÇÒng bào,
Núm ru¶t tình xa quš bi‰t bao.
Xóa bÕ hÆn thù chung d¿ng låi,
Thiên Çàng chû nghïa ánh vàng sao! "
Anh Öi, tôi bi‰t nói chi Çây?
NgÜ©i tÌnh, tôi thì cÙ muÓn say.
Say Ç‹ hát trÜ©ng ca ÇÃt mË,
Cho ngÜ©i Çói lånh tÓi Çêm nay.
NgÜ©i tÌnh, tôi thì cÙ muÓn say.
Say Ç‹ hát trÜ©ng ca ÇÃt mË,
Cho ngÜ©i Çói lånh tÓi Çêm nay.
Anh em tôi Çó, sÓng Çau
thÜÖng,
Qu¢n quåi chen nhau chuít vÌa ÇÜ©ng.
NgÜ©i mË xót con n¢m Çói lä,
Em buÒn thÜÖng chÎ m¶ng hoàn lÜÖng !
Qu¢n quåi chen nhau chuít vÌa ÇÜ©ng.
NgÜ©i mË xót con n¢m Çói lä,
Em buÒn thÜÖng chÎ m¶ng hoàn lÜÖng !
Tôi say nên ch£ng thÃy dân giàu,
ChÌ thÃy gông xiŠng, thÃy kh° Çau.
ThÃy nh»ng chiêu bài gian quyŒt quá,
ThÃy ngày nhÆt th¿c ,thÃy Çêm sâu.!!!
ChÌ thÃy gông xiŠng, thÃy kh° Çau.
ThÃy nh»ng chiêu bài gian quyŒt quá,
ThÃy ngày nhÆt th¿c ,thÃy Çêm sâu.!!!
Này anh,tôi tÌnh ho¥c tôi mÖ,
NhÜng ch¡c r¢ng tôi ch£ng dåi kh©.
Nºa th‰ k› dài tôi thÃy Çû,
Nh»ng trò bÎp b®m, nh»ng ngây thÖ.
NhÜng ch¡c r¢ng tôi ch£ng dåi kh©.
Nºa th‰ k› dài tôi thÃy Çû,
Nh»ng trò bÎp b®m, nh»ng ngây thÖ.
N‰u nhÜ ch‰ Ƕ Ç°i thay thì,
Hånh phúc, nhân quyŠn hãy th¿c thi.
Lúc Ãy không m©i ,tôi cÛng ljn,
B¡t tay, làm bån, d¿ng xây quê.
Hånh phúc, nhân quyŠn hãy th¿c thi.
Lúc Ãy không m©i ,tôi cÛng ljn,
B¡t tay, làm bån, d¿ng xây quê.
M©i anh ly n»a, uÓng Çi nào,
RÜ®u cån sao lòng chäng bi‰t Çau.
Tôi vÅn ch© Çây.hÒn B¡c ñÄu,
Sáng bØng nhÆt nguyŒt, sáng trong nhau.
RÜ®u cån sao lòng chäng bi‰t Çau.
Tôi vÅn ch© Çây.hÒn B¡c ñÄu,
Sáng bØng nhÆt nguyŒt, sáng trong nhau.
Ngô Minh H¢ng
TUYẾT PHƯỢNG * CÔNG ƠN MẸ
Công Ön
mË
Tuy‰t PhÜ®ng
Tuy‰t PhÜ®ng
MË nhÜ n¡ng
s§m dÎu hiŠn,
TÃm lòng bát ngát Çôi miŠn thùy dÜÖng.
S§m hôm c¿c kh° træm ÇÜ©ng,
Nuôi Çàn con nhÕ gió sÜÖng dãi dÀu.
Dù cho tóc Çã båc màu,
D¡t dìu con cháu qua cÀu gió lay.
Dù con Çem cä Ç©i này,
CÛng không trä ÇÜ®c m¶t ngày công Ön.
TÃm lòng bát ngát Çôi miŠn thùy dÜÖng.
S§m hôm c¿c kh° træm ÇÜ©ng,
Nuôi Çàn con nhÕ gió sÜÖng dãi dÀu.
Dù cho tóc Çã båc màu,
D¡t dìu con cháu qua cÀu gió lay.
Dù con Çem cä Ç©i này,
CÛng không trä ÇÜ®c m¶t ngày công Ön.
THƠ TUYẾT HỒNG
Tuy‰t HÒng
Tr©i
làm chi cänh loån ly,
MË con ta phäi chia lìa Çôi nÖi.
MË Çi muôn d¥m xa khÖi,
ñ‹ con ª låi ngàn l©i nh§ mong.
Con cÀu mong chóng trùng phùng,
MË cÛng mong ÇÜ®c sÓng cùng cháu con.
Tr©i già sao khéo Ça Çoan,
Con s¡p r©i nܧc , mË tròn tám mÜÖi.
ChÌ còn vài tháng n»a thôi,
Con chÜa sang kÎp, mË th©i qui tiên.
K‹ sao cho h‰t n‡i niŠm,
Lòng con nh§ mË triŠn miên não nŠ.
Cháu con lŒ nhÕ dÀm dŠ,
CÀu mong bà ngoåi s§m vŠ cõi tiên.
Thoát ly m†i n‡i Üu phiŠn,
Tiêu dao ngày tháng , thoát miŠn trÀn gian..
MË Çi vui v§i træng ngàn,
ñ‹ con ª låi muôn vàn nh§ thÜÖng.
Dù cho cách tr© âm dÜÖng,
NhÜng hình bóng mË luôn luôn hiŒn vŠ.
Tuy‰t HÒng
MË con ta phäi chia lìa Çôi nÖi.
MË Çi muôn d¥m xa khÖi,
ñ‹ con ª låi ngàn l©i nh§ mong.
Con cÀu mong chóng trùng phùng,
MË cÛng mong ÇÜ®c sÓng cùng cháu con.
Tr©i già sao khéo Ça Çoan,
Con s¡p r©i nܧc , mË tròn tám mÜÖi.
ChÌ còn vài tháng n»a thôi,
Con chÜa sang kÎp, mË th©i qui tiên.
K‹ sao cho h‰t n‡i niŠm,
Lòng con nh§ mË triŠn miên não nŠ.
Cháu con lŒ nhÕ dÀm dŠ,
CÀu mong bà ngoåi s§m vŠ cõi tiên.
Thoát ly m†i n‡i Üu phiŠn,
Tiêu dao ngày tháng , thoát miŠn trÀn gian..
MË Çi vui v§i træng ngàn,
ñ‹ con ª låi muôn vàn nh§ thÜÖng.
Dù cho cách tr© âm dÜÖng,
NhÜng hình bóng mË luôn luôn hiŒn vŠ.
Tuy‰t HÒng
THƠ TRẦN HỒNG CHÂU
BỐ NẰM
XUỐNG
Trần Hồng Châu
Bố nằm xuống đất rồi càng thương bố
đời loạn lạc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố thèm chén rượu nhạt
(một đôi khi thôi, đâu có nghiện ngập gì!)
con cũng chẳng có tiền mua
túi sạch sành sanh
sau mấy chuyến đi chui chẳng thành công
Bố muốn bộ đồ xa-xi tầm thường
để bận cho thoải mái
con cũng chỉ mua được vải tám lai rai
Trông bố ăn
rất ngon lành
củ khoai lang buổi sáng
con muốn khóc quá trời!
Đời loạn lạc
chó nhẩy bàn độc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố di bộ suốt Chợ lớn mới
về Đại thế giới
để dành tiền vé xe buýt
bố mua hai đồng ô mai
một gói đậu phụng
Bên cửa bếp
hai bố con ngồi nhấm nháp
vị sí muội mặn chát
chua ơi là chua
ôi men đắng cuộc đời!
ngọn gió nào đã thổi tứ tung
vỏ lạc lá vàng bay
Hai bố con lặng lẽ
cắn từng miếng me khô
muối ớt cay cay
từng quả cóc ngâm đường
dôn dốn ngọt chua
Bố bảo: bố con mình thế mà gân ra phết!
Bố nằm xuống đất rồi,lại càng thương bố
đời loạn lạc...
Trần Hồng Châu
(Nhớ Đất Thương Trời )
*
Trần Hồng Châu
Bố nằm xuống đất rồi càng thương bố
đời loạn lạc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố thèm chén rượu nhạt
(một đôi khi thôi, đâu có nghiện ngập gì!)
con cũng chẳng có tiền mua
túi sạch sành sanh
sau mấy chuyến đi chui chẳng thành công
Bố muốn bộ đồ xa-xi tầm thường
để bận cho thoải mái
con cũng chỉ mua được vải tám lai rai
Trông bố ăn
rất ngon lành
củ khoai lang buổi sáng
con muốn khóc quá trời!
Đời loạn lạc
chó nhẩy bàn độc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố di bộ suốt Chợ lớn mới
về Đại thế giới
để dành tiền vé xe buýt
bố mua hai đồng ô mai
một gói đậu phụng
Bên cửa bếp
hai bố con ngồi nhấm nháp
vị sí muội mặn chát
chua ơi là chua
ôi men đắng cuộc đời!
ngọn gió nào đã thổi tứ tung
vỏ lạc lá vàng bay
Hai bố con lặng lẽ
cắn từng miếng me khô
muối ớt cay cay
từng quả cóc ngâm đường
dôn dốn ngọt chua
Bố bảo: bố con mình thế mà gân ra phết!
Bố nằm xuống đất rồi,lại càng thương bố
đời loạn lạc...
Trần Hồng Châu
(Nhớ Đất Thương Trời )
*
THƠ NGÔ MINH HẰNG
Ngô Minh H¢ng
(Vi‰t Ç‹
nh§ mË ngày Vu Lan.
Thân t¥ng các bån ÇÒng tâm cänh )
Thân t¥ng các bån ÇÒng tâm cänh )
Hôm nay ,
nh§ MË ôi
nhiŠu qúa,
Ba chøc næm dÜ v¡ng MË rÒi.
N‡i nh§ se lòng day dÙt lå,
Trong mùa lÍ nh§. MË hiŠn Öi.
Ba chøc næm dÜ v¡ng MË rÒi.
N‡i nh§ se lòng day dÙt lå,
Trong mùa lÍ nh§. MË hiŠn Öi.
CuÓi hè, thiên hå vui nhÜ n¡ng,
Con låi buÒn nhÜ ti‰ng lŒ rÖi.
Con nh§ mùa xuân Çau ǧn Ãy,
Mùa xuân con MË khóc chia phôi.
Con låi buÒn nhÜ ti‰ng lŒ rÖi.
Con nh§ mùa xuân Çau ǧn Ãy,
Mùa xuân con MË khóc chia phôi.
Mùa xuân, MË bÕ con Çi mãi,
BiŠn biŒt bao næm ,ch£ng trª vŠ.
Hai chøc tu°i Ç©i, con trÈ dåi,
LÀn ÇÀu nhÕ lŒ khóc phân ly.
BiŠn biŒt bao næm ,ch£ng trª vŠ.
Hai chøc tu°i Ç©i, con trÈ dåi,
LÀn ÇÀu nhÕ lŒ khóc phân ly.
LÀn ÇÀu con khóc ai ng© låi,
Khóc MË! Tr©i Öi thÆt não lòng.
Con l§n v¶i vàng nhÜ MË v¶i,
Trª vŠ v§i ÇÃt ,v§i hÜ không!
Khóc MË! Tr©i Öi thÆt não lòng.
Con l§n v¶i vàng nhÜ MË v¶i,
Trª vŠ v§i ÇÃt ,v§i hÜ không!
Cút côi låi g¥p th©i tao loån,
Thì trách Ç©i chi chuyŒn båc lòng.
CÖm áo tØ ÇÒng b¢ng nܧc m¡t,
Con càng thÜong MË . Nh§ vô song!
Thì trách Ç©i chi chuyŒn båc lòng.
CÖm áo tØ ÇÒng b¢ng nܧc m¡t,
Con càng thÜong MË . Nh§ vô song!
M‡i lÀn nh§ MË, con thÜ©ng mÖ,
Tû MË, con tìm áo MË xÜa.
L¥ng ng¡m hàng gi© tØng mÛi chÌ,
RÒi ôm ch¥t áo khóc nhÜ mÜa!!!
Tû MË, con tìm áo MË xÜa.
L¥ng ng¡m hàng gi© tØng mÛi chÌ,
RÒi ôm ch¥t áo khóc nhÜ mÜa!!!
Vùi ÇÀu trong áo, hôn lên
áo,
CÓ g¡ng con tìm m¶t chút hÜÖng.
ñ‹ d‡ lòng mình là MË vÅn,
Bên Ç©i, an ûi lúc Çau thÜÖng.
CÓ g¡ng con tìm m¶t chút hÜÖng.
ñ‹ d‡ lòng mình là MË vÅn,
Bên Ç©i, an ûi lúc Çau thÜÖng.
Th‰ rÒi, m¶t bu°i, con Çành phäi,
TØ giã trÜ©ng xÜa, bÕ phÓ xÜa.
ñ‹ ljn m¶t tr©i xa xæm l¡m,
Mà bao bÃt tr¡c bi‰t Çâu ng© !
TØ giã trÜ©ng xÜa, bÕ phÓ xÜa.
ñ‹ ljn m¶t tr©i xa xæm l¡m,
Mà bao bÃt tr¡c bi‰t Çâu ng© !
Hành trang: BÓn ÇÙa con thÖ
dåi,,
Áo MË. H©n vong quÓc. TÆp thÖ.
CuÓi chuy‰n häi hành còn sót låi,
Xác tàu tan và Çám con kh© !
Áo MË. H©n vong quÓc. TÆp thÖ.
CuÓi chuy‰n häi hành còn sót låi,
Xác tàu tan và Çám con kh© !
Quê ngÜ©i, ÇÃt khách buÒn
ghê
l¡m,
TÃt tä xoay che gió bÓn mùa.
Nh§ MË, bây gi© không có áo,
ñ‹ mà úp m¥t khóc nhÜ xÜa !
TÃt tä xoay che gió bÓn mùa.
Nh§ MË, bây gi© không có áo,
ñ‹ mà úp m¥t khóc nhÜ xÜa !
ñ‹ mà tìm ít mùi hÜÖng
MË,
Con d‡ con cho b§t tûi lòng.
Ba chøc næm tr©i xa cách th‰,
SuÓi vàng, MË h«i nh§ con không ?
Con d‡ con cho b§t tûi lòng.
Ba chøc næm tr©i xa cách th‰,
SuÓi vàng, MË h«i nh§ con không ?
ChiŠu nay nh§ MË, con ngÒi vi‰t,
M¶t khúc thÖ buÒn, chín khúc Çau.
Xin MË linh thiêng, vŠ chÙng giám,
Ba mÜÖi næm, m¶t š thÖ sÀu!
M¶t khúc thÖ buÒn, chín khúc Çau.
Xin MË linh thiêng, vŠ chÙng giám,
Ba mÜÖi næm, m¶t š thÖ sÀu!
Ngô
Minh H¢ng
SƠN TRUNG * RẰM THÁNG BẢY
SÖn Trung
Ngày
r¢m tháng bäy âm
lÎch còn Çu®c g†i là ngày
lÍ
Trung nguyên. Tåi Çây, hai tôn
giáo
c° truyŠn , Çåo ông bà và
Çåo
PhÆt Çã hòa h®p cùng nhau.
Nh»ng ngÜ©i th© ông bà tin r¢ng ngày r¢m tháng bäy là ngày " xá t¶i vong nhân" ,( ngÜ©i ch‰t ª ÇÎa ngøc ÇÜ®c phóng thích )
Nho giáo và PhÆt giáo ÇŠu tin có ma qu›, cõi tiên,cõi PhÆt, cõi ÇÎa ngøc...
Nh»ng ngÜ©i lÜÖng thiŒn, khi ch‰t Çi ÇÜ®c lên cõi tiên hay ÇÀu thai làm ngÜ©i. Còn nh»ng kÈ gian ác, bÎ b¡t xuÓng ÇÎa ngøc. H† bÎ giam gi» tåi Çây và bÎ tra tÃn, Çánh ÇÆp tän nhÅn v§i nh»ng cách trØng phåt nhÜ lóc thÎt, bÕ vào våc dÀu sôi...
NhÜng ljn tháng bäy âm lÎch, nh»ng kÈ này ÇÜ®c thä ra khÕi ÇÎa ngøc. Cho nên tháng bäy là tháng có nhiŠu ma qu› nhÃt. Nh»ng vong hÒn có con cháu cúng quäi thì ÇÜ®c no Çû. Nh»ng ma qu› không bà con,thân thích ÇÜ®c g†i là nh»ng cô hÒn thì Çói khát, không nÖi nÜong t¿a. Vua Lê Thánh tông và NguyÍn Du Çã làm væn t‰ nh»ng vong hÒn này.
Trong bài " Væn t‰ ThÆp Loåi Chúng Sinh", NguyÍn Du vi‰t
:
Nh»ng ngÜ©i th© ông bà tin r¢ng ngày r¢m tháng bäy là ngày " xá t¶i vong nhân" ,( ngÜ©i ch‰t ª ÇÎa ngøc ÇÜ®c phóng thích )
Nho giáo và PhÆt giáo ÇŠu tin có ma qu›, cõi tiên,cõi PhÆt, cõi ÇÎa ngøc...
Nh»ng ngÜ©i lÜÖng thiŒn, khi ch‰t Çi ÇÜ®c lên cõi tiên hay ÇÀu thai làm ngÜ©i. Còn nh»ng kÈ gian ác, bÎ b¡t xuÓng ÇÎa ngøc. H† bÎ giam gi» tåi Çây và bÎ tra tÃn, Çánh ÇÆp tän nhÅn v§i nh»ng cách trØng phåt nhÜ lóc thÎt, bÕ vào våc dÀu sôi...
NhÜng ljn tháng bäy âm lÎch, nh»ng kÈ này ÇÜ®c thä ra khÕi ÇÎa ngøc. Cho nên tháng bäy là tháng có nhiŠu ma qu› nhÃt. Nh»ng vong hÒn có con cháu cúng quäi thì ÇÜ®c no Çû. Nh»ng ma qu› không bà con,thân thích ÇÜ®c g†i là nh»ng cô hÒn thì Çói khát, không nÖi nÜong t¿a. Vua Lê Thánh tông và NguyÍn Du Çã làm væn t‰ nh»ng vong hÒn này.
Trong bài " Væn t‰ ThÆp Loåi Chúng Sinh", NguyÍn Du vi‰t
:
Toát hÖi may, lånh buÓt xÜÖng khô.
Não ngÜ©i thay, bu°i chiŠu thu,
Hoa lau nhuÓm båc, lá ngô røng vàng.
ñÜ©ng båch dÜÖng, bóng chiŠu man mác,
D¥m ÇÜ©ng lê, lác Çác sÜÖng sa.
Lòng nào, lòng ch£ng thi‰t tha,
Cõi dÜÖng còn th‰, n»a là cõi âm ! Trong trÜ©ng då ,tÓi tæm tr©i dÃt,
Cô hÒn thÜ©ng phäng phÃt u minh.
ThÜÖng thay thÆp loåi chúng sinh,
HÒn ÇÖn, phách chi‰c linh Çinh quê ngÜ©i !
HÜÖng lºa Çã không nÖi nÜÖng t¿a,
HÒn mÒ côi lÀn lºa bÃy niên!
Còn chi ai khá ,ai hèn,
Còn chi mà nói kÈ hiŠn, ngÜ©i ngu !...
Vì
quan niŒn nhÜ vÆy, cho nên
ngày r¢m tháng bäy, nhà nào
cÛng
cúng t° tiên, ông bà...
Ngoài
ra, ngÜ©i ta còn Ç¥t lÍ vÆt
ÇÖn
båc nhÜ b¡p rang , cháo , bánh Ça
,trái cây, ho¥c gà vÎt ...Ç¥t
trܧc ngõ Ç‹ cúng cô
hÒn.
Cháo tr¡ng ÇÜ®c nÃu chín,
Ç°
ra trên nh»ng cái bÒ Çài
làm
b¢ng lá Ça khoanh tròn, cu¶n låi,
hai ÇÀu có cài que tre cho ch¥t. Sau
khi
gia chû khÃn vái xong, thì ÇÒ
cúng cô hÒn ÇÜ®c phát cho
trÈ
con, ho¥c cho æn mày.
Trong ngày r¢m, trÈ con tø h†p thành Çàn Çi cܧp ÇÒ cúng cô hÒn.Cho nên tøc ng» có câu:
"Cܧp cháo thí lá Ça" . Khi chû nhân cúng xong, thì lÛ trÈ ào vào giành giÆt bánh trái, gà vÎt..Ÿ di‹m này, lÍ trung nguyên có phÀn giÓng lÍ Halloween ª B¡c MÏ. Ngäy xÜa, trÈ con có phép t¡c, bây gi© trÈ con, nhÃt là b†n du Çäng quá l¶ng hành. Chû nhà m§i d†n ra thì Çã bÎ cܧp ngay trên tay. Bªi vÆy, sau 1975 ,chû nhà muÓn cúng cô hÒn thì phäi canh gi».
PhÆt giáo khi truyŠn ljn Á châu thì Çã chú tr†ng ljn ch» hi‰u cûa dân chúng tåi Çây.PhÆt giáo Çã k‰t h®p viŒc cúng PhÆt và cúng vong,lÃy s¿ tích Møc KiŠn Liên xuÓng ÇÎa ngøc cÙu mË làm š nghïa cæn bän, ÇÒng th©i khuy‰ch trÜÖng viŒc bÓ thí các vong .( ViŒc bÓ thí các vong, hay các chi‰n sï tº trÆn thì chùa nào cÛng Çã làm thÜ©ng ngày.)
Tåi chùa, các sÜ cÛng t° chÙc cúng cô hÒn vào r¢m tháng bäy. Tåi miŠn b¡c trܧc 1945, tÜ gia cÛng nhÜ làng xã và chùa chiŠn thÜ©ng lÆp Çàn tràng. Làng xã ho¥c tÜ gia thÜ©ng m©i pháp sÜ lÆp Çàn tràng phá ngøc, giäi oan. Chùa chiŠn thi có tøc chåy Çàn, nghïa là các sÜ sãi vØa chåy quanh Çàn vØa džc kinh, niŒm chú. S¿ cúng quäi ª Çây mang š nghïa bÓ thí và giäi thoát.
Tåi miŠn B¡c và miŠn Trung, ngÜ©i ta thÜ©ng cúng vào ngày r¢m. Còn trong Nam thì cúng ngày nào cÛng ÇÜ®c, miÍn là trong tháng bäy. Nh»ng xe Çò chåy ÇÜ©ng trÜ©ng phäi cúng xe hàng næm . Cho nên chû xe cúng cô hÒn rÃt tr†ng th‹, thÜ©ng là cúng m¶t con heo quay Ç‹ cÀu cho an toàn trên xa l¶.
Trong ngày r¢m, trÈ con tø h†p thành Çàn Çi cܧp ÇÒ cúng cô hÒn.Cho nên tøc ng» có câu:
"Cܧp cháo thí lá Ça" . Khi chû nhân cúng xong, thì lÛ trÈ ào vào giành giÆt bánh trái, gà vÎt..Ÿ di‹m này, lÍ trung nguyên có phÀn giÓng lÍ Halloween ª B¡c MÏ. Ngäy xÜa, trÈ con có phép t¡c, bây gi© trÈ con, nhÃt là b†n du Çäng quá l¶ng hành. Chû nhà m§i d†n ra thì Çã bÎ cܧp ngay trên tay. Bªi vÆy, sau 1975 ,chû nhà muÓn cúng cô hÒn thì phäi canh gi».
PhÆt giáo khi truyŠn ljn Á châu thì Çã chú tr†ng ljn ch» hi‰u cûa dân chúng tåi Çây.PhÆt giáo Çã k‰t h®p viŒc cúng PhÆt và cúng vong,lÃy s¿ tích Møc KiŠn Liên xuÓng ÇÎa ngøc cÙu mË làm š nghïa cæn bän, ÇÒng th©i khuy‰ch trÜÖng viŒc bÓ thí các vong .( ViŒc bÓ thí các vong, hay các chi‰n sï tº trÆn thì chùa nào cÛng Çã làm thÜ©ng ngày.)
Tåi chùa, các sÜ cÛng t° chÙc cúng cô hÒn vào r¢m tháng bäy. Tåi miŠn b¡c trܧc 1945, tÜ gia cÛng nhÜ làng xã và chùa chiŠn thÜ©ng lÆp Çàn tràng. Làng xã ho¥c tÜ gia thÜ©ng m©i pháp sÜ lÆp Çàn tràng phá ngøc, giäi oan. Chùa chiŠn thi có tøc chåy Çàn, nghïa là các sÜ sãi vØa chåy quanh Çàn vØa džc kinh, niŒm chú. S¿ cúng quäi ª Çây mang š nghïa bÓ thí và giäi thoát.
Tåi miŠn B¡c và miŠn Trung, ngÜ©i ta thÜ©ng cúng vào ngày r¢m. Còn trong Nam thì cúng ngày nào cÛng ÇÜ®c, miÍn là trong tháng bäy. Nh»ng xe Çò chåy ÇÜ©ng trÜ©ng phäi cúng xe hàng næm . Cho nên chû xe cúng cô hÒn rÃt tr†ng th‹, thÜ©ng là cúng m¶t con heo quay Ç‹ cÀu cho an toàn trên xa l¶.
Dân
ViŒt Nam ta nghèo låi chÎu chi‰n tranh
liên miên. Sau khi vua T¿ ñÙc
mÃt
Çi, chính quyŠn ViŒt Nam rÖi vào tay
th¿c
dân Pháp. Dân ta bÎ th¿c dân
Pháp
rÒi låi bÎ c¶ng sän bách håi.
Dân ViŒt Nam , Cao Miên, Liên Xô, Trung
quÓc
là ch‰t oan Ùc nhiŠu nhÃt trên th‰ gi§i
k‹ tØ ÇŒ nhÎ th‰ chi‰n ljn nay. Tåi
ViŒt
Nam, có hàng triŒu vong hÒn oan khuÃt
vì
th¿c dân Pháp và c¶ng sän. ViŒc
Pháp
tÃn công Gia ñÎnh, Hu‰, Hà N¶i,
viŒc
c¶ng sän gi‰t ÇÒng bào trong
tháng
8-1945, viŒc giêt håi các Çäng
viên
ViŒt Nam QuÓc dân Çäng, ñåi ViŒt
ñäng, viŒc sát håi mÆu thân
(1968),
và cái ch‰t cûa hàng vån
ÇÒng
bào tØ Quäng TrÎ, Hu‰, ñà
N¤ng,
Ban Mê Thu¶t ,Nha Trang ,và bao cái ch‰t
âm
thÀm trong tråi giam, trong rØng sâu,
trên
bi‹n cä...
Sau vø Pháp gi‰t håi nhân dân kinh thành Hu‰ ,ngày 23 tháng tÜ næm Ãt dÆu Çã trª thành ngày tang tóc cho toàn th‹ dân chúng ViŒt Nam. Trong Çêm 23 tháng tÜ, Çêm r¢m tháng bäy, Çêm mÒng hai tháng giêng, dân Hu‰ ÇÓt Çèn trên sông HÜÖng Ç‹ tܪng niŒm cac oan hÒn..NhÜng nay c¶ng sän cÃm tøc lŒ này. H† nói là bäo vŒ môi trÜ©ng nhÜng s¿ th¿c h† cÃm ngÜ©i ta khóc, cÃm lòng dân tuªng nh§ ljn nh»ng ngÜ©i Çã ch‰t...
Sau vø Pháp gi‰t håi nhân dân kinh thành Hu‰ ,ngày 23 tháng tÜ næm Ãt dÆu Çã trª thành ngày tang tóc cho toàn th‹ dân chúng ViŒt Nam. Trong Çêm 23 tháng tÜ, Çêm r¢m tháng bäy, Çêm mÒng hai tháng giêng, dân Hu‰ ÇÓt Çèn trên sông HÜÖng Ç‹ tܪng niŒm cac oan hÒn..NhÜng nay c¶ng sän cÃm tøc lŒ này. H† nói là bäo vŒ môi trÜ©ng nhÜng s¿ th¿c h† cÃm ngÜ©i ta khóc, cÃm lòng dân tuªng nh§ ljn nh»ng ngÜ©i Çã ch‰t...
NGUYỄN MINH * ĐẠO PHẬT
vào ÇÀu th‰ k› thÙ hai ( sau tây lÎch )
NguyÍn Minh
NguyÍn Minh, NguyÍn ñÙc là bút hiŒu cûa Phåm ñÙc Liên tiên sinh, m¶t sº gia tåi Montreal,Canada,nguyên giáo sÜ Çåi h†c North Carolina, nay dåy ª Central Piedmont Community College, MÏ quÓc.
Tiên sinh Çã c¶ng tác v§i nhiŠu t© báo ViŒt, MÏ. Bài biên khäo này Çã Çæng täi trên ñ¥c San Liên Hoa 10 mùa PhÆt ñän 2543,cûa h¶i PhÆt giáo North Carolina,nay dÜ®c tác giä cho phép Çæng låi trên BÊn Kia B© ñåi DÜÖng nhân ngày Vu Lan K› Mão (1999).
- ñÙc PhÆt và giáo lš nhà PhÆt:
- PhÆt giáo du nhÆp ViŒt Nam tØ ÇÀu th‰ k› thÙ hai ( sau công nguyên)
Tên ñÙc PhÆt là Siddhattha, Ngài sanh næm 623 trܧc công nguyên, nh¢m ngày træng tròn Vesaka tÙc ngày 15 tháng tÜ âm lÎch. Ngài là thái tº con cûa vua Suddhodana và hoàng hÆu Maya. Ngài có v® con.
ñÙc PhÆt ra Ç©i - nhÜ m¶t bình minh chói sáng gi»a m¶t xã h¶i ƒn ñ¶ có nhiŠu giai cÃp bÃt công- tràn ngÆp kh° Çau và ÇÀy mê tín, dÎ Çoan. ñÙc PhÆt giáng sinh nhÜ muÓn cÙu thoát nhân loåi ra khÕi nhà lºa th‰ gian- Çang bØng cháy vì tham,sân,si...
Ngài quy‰t ÇÎnh xuÃt gia næm 29 tu°i, Çi tìm chân lš, cÙu thoát chúng sinh ra khÕi nhà lºa cu¶c Ç©i. ñÙc PhÆt Çã ép xác - theo ÇÜ©ng tu kh° hånh. ròng rã hÖn 6 næm tåi BÒ ñŠ Çåo tràng ( Buddha Gaya) . Ngài suy tÜ vŠ thân phÆn mÕng manh cûa con ngÜ©i, qua nhiŠu khía cånh khác nhau: tØ hình änh m¶t hài nhi, qua m¶t cø già, m¶t ngÜ©i Çau Óm, ljn m¶t ngÜ©i ch‰t. Sau 49 ngày cuÓi cùng, Ngài giác ng¶ hoàn toàn và thành Çåo næm 35 tu°i, hiŒu là Thích Ca Mâu Ni ( 588 trܧc tây lÎch). Sau khi Ç¡c Çåo, ngài Çi kh¡p ƒn ñ¶ trong suÓt 45 næm Ç‹ thuy‰t pháp, giáo hóa m†i ngÜ©i. Ngài viên tÎch và nhÆp Ni‰t Bàn næm 80 tu°i ( næm 543 trܧc công nguyên ).
ñÙc PhÆt là hiŒn thân cûa lòng tØ bi bao la. Ngài dåy chúng ta ÇÙc vÎ tha ( quên mình vì ngÜ©i ). Ngài cho r¢ng:"M†i phiŠn não và kh° Çau, ÇŠu do lòng vÎ k› cûa con ngÜ©i gây ra. Con ngÜ©i có giá trÎ do nÖi nhân cách, Çåo ÇÙc."
ñÙc PhÆt chû trÜÖng: tÃt cä con ngÜ©i ÇŠu bình Ç£ng, không phân biŒt giàu nghèo, sang hèn, quan dân...Ngài bäo r¢ng :"Làm sao có giai cÃp ÇÜ®c khi nh»ng gi†t máu cùng ÇÕ và làm sao có Ç£ng cÃp ÇÜ®c khi nh»ng gi†t nܧc m¡t ÇŠu m¥n."
ñÙc PhÆt là hình änh cûa hòa bình, không hÆn thù, bÃt båo Ƕng. Ng¢i dåy :"Th¡ng l®i thì bÎ thù oán, thÃt båi thì bÎ Çau kh°." Và " HÆn thù không trØ ÇÜ®c hÆn thù, chÌ có tØ bi m§i trØ ÇÜ®c hÆn thù mà thôi."
Giáo pháp cûa ÇÙc PhÆt là bÃt cÙ ÇiŠu gì cÛng phäi th¿c hành , phäi dÃn thân, Ngài cho r¢ng :" Nh»ng ngÜ©i chÌ bi‰t nói diŠu lành mà không làm ÇiŠu lành, ch¢ng Çem låi l®i ích gì cä."
Giáo lš cûa nhà PhÆt là tri hành h®p nhÃt, là trí tuŒ và tØ bi.
Và ÇÙc PhÆt dåy: " Hãy lÃy mình làm nÖi nÜÖng t¿a cho chính mình, ÇØng tìm chÓn nÜÖng t¿a ª kÈ khác."
Ngài nh¡c nhª chúng ta:M‡i ngÜ©i phäi t¿ th¡p lên ng†n ÇuÓc cho chính mình và phäi tìm lÃy hÜi§ng Çi do s¿ soi sáng cûa ng†n Çèn lš trí.
ñÙc PhÆt lÜu š chúng sinh v§i NgÛ gi§i cÃm và Bát Chánh Çåo.
NgÛ gi§i cÃm là không gi‰t håi, không tr¶m c¡p, không tà dâm,không nói dÓi, không uÓng rÜ®u. Và Bát chánh Çåo gÒm : hi‹u bi‰t chân chính, suy nghï chân chính, nói l©i chân thành, hành Ƕng ngay th£ng, sinh hoåt chân chánh, nh§ nghï chân chính và ÇÎnh tâm chân chính.
TÜ®ng PhÆt tåi Colombo (Tích Lan)
Tóm låi, ÇÙc PhÆt là" Bi, Trí, DÛng". ñåo PhÆt là cä m¶t hŒ thÓng tri‰t lš,là cä m¶t pho sách dày hàng ngàn trang mà chúng sanh nên džc nhiŠu lÀn và suy ngÅm. M‡i cá nhân nên cÓ g¡ng t¿ tu, hãy làm nh»ng hòn Çäo cho chính mình- còn các ÇÙc PhÆt ( NhÜ Lai ) chÌ là nh»ng bÆc thÀy hܧng dÅn mà thôi. ñÙc NhÜ Lai xuât hiŒn ª th‰ gian, không phäi Ç‹ ng¿ trÎ hay Ç‹ ÇÜ®c sùng kính. Ngài chì là m¶t tia sáng l;e lói trong Çêm Çen nhÜng nh© Çó mà chúng sinh- m‡i ngÜ©i hãy ÇÓt lên m¶t ng†n ÇuÓc cho r¿c sáng tØ khu rØng Kusinagara ( Çông b¡c ƒn ñ¶ ).
ñiŠu Çáng k‹ là Çåo PhÆt Çã bành trܧng mà không cÀu viŒn Çên sÙc månh quân s¿ hæy th‰ l¿c chính trÎ nào.Không m¶t gi†t máu nào Çã chäy- nhân danh ÇÙc NhÜ Lai- Ç‹ truyŠn bá Çåo pháp cûa Ngài.
T§i th‰ k› thÙ hai sau tây lÎch, PhÆt giáo chia ra hai hŒ phái: PhÆt giáo Ti‹u thØa và PhÆt giáo ñåi thØa. Vùng änh hܪng PhÆt giáo Ti‹u thØa là: Cao Miên, Ai Lao, Thái Lan, Mi‰n ñiŒn và Tích Lan v.v.. Vùng hoåt Ƕng cûa ñåi thØa là Trung hoa ,Tây Tång,ViŒt Nam,ñåi hàn, NhÆt bän v.v..
Sau khi t§i Trung hoa,Çåo PhÆt phát tri‹n không ngØng. Trung hoa bi‰n thành m¶t trung tâm nghiên cÙu Phât giáo rÃt thâm thúy, không thua gì Çåo PhÆt nguyên thûy ª ƒn ñ¶.
Vào ÇÀu th‰ k› thÙ hai sau công nguyên, tØ ƒn ñ¶, PhÆt giáo du nhÆp ViŒt Nam.
PhÆt giáo xÙ Tây Trúc Çã chi phÓi xã h¶i ViŒt Nam tØ lúc khªi ÇÀu ljn th‰ k› thÙ V( sau tây lÎch). TØ th‰ k› thÙ sáu ljn th‰ k› thÙ mÜ©i là änh hܪng sâu r¶ng cûa PhÆt giáo Trung hoa. Và tØ th‰ k› XI, Çåo PhÆt tåi ViŒt Nam ti‰n tri‹n nhÜ tìm m¶t th‰ ÇÙng cho riêng mình: PhÆt giáo ViŒt Nam.
PhÀn vì thích h®p v§i xã h¶i ViŒt Nam, phÀn vì có s¿ bi‹u ÇÒng tình tØ quan ljn dân,PhÆt giáo ViŒt Nam Çã bành trܧng liên tøc: tØ Ç©i nhà ñinh ( 968-979), nhà Lê( 980-1009), nhà Lš( 1010-1224), nhà TrÀn (1225-1399), qua các th©i chúa NguyÍn nhÜ chúa NguyÍn HiŠn vÜÖng( 1648-1687), chúa Ngãi vÜÖng (1687-1691) và nhÃt là v§i chúa Minh vÜÖng (1691-1725). NhÜ th©i nhà Lš, träi qua 8 vÎ vua, vua nào cÛng sùng Çåo PhÆt. Næm vÎ vua, lúc vŠ già ÇŠu xuât gia ÇÀu PhÆt: Lš Thái tông, Lš Thánh tông, Lš Anh tông, Lš Cao tông và Lš HuŒ tông. PhÆt giáo ViŒt Nasm trong giai Çoån này rÃt thÎnh, gi» ÇÎa vÎ gÀn nhÜ Ç¶c tôn và ÇÜ®c xem là " công giáo", là " quÓc giáo" vÆy.
Nh»ng vÎ sÜ ÇÀu tiên ljn ViŒt Nam truyŠn bá Çåo PhÆt là các nhà sÜ ƒn ñ¶, rÒi ljn các pháp sÜ Trung Hoa. ñó là các danh tæng nhÜ nhà sÜ Mahajivaka, Kang Seng Hoeui , Tch Kiang Leang và Mâu Bác ( th‰ k› thÙ ba sau tây lÎch ), ñàm Thiên ( th‰ k› thÙ næm), Vô Ngôn Thông (th‰ k› thÙ chín ), Thäo ñÜ©ng ( th‰ k› mÜ©i m¶t )v.v..
HÀu h‰t m‡i làng ÇŠu có m¶t ngôi chùa hay tÓi thi‹u m¶t niŒm PhÆt ÇÜ©ng, mà hàng tháng c٠ljn ngày mÒng m¶t hay ngày r¢m, quš vÎ chÙc s¡c trong làng cùng dân chúng tø h†p Çông Çû lÍ PhÆt.
Nan ViŒt vÜÖng ñinh LiÍn (968-979) là con trܪng cûa ñinh Tiên hoàng, Çã cho kh¡c kinh PhÆt vào 100 c¶t Çá Ç‹ cúng vào các chùa ª trong nܧc ( g†i lä kinh tràng )
Dܧi triŠu Çåi nhà Lš, næm 1026, có lÍ khánh thành nh»ng hình PhÆt sÖn trên tÜ©ng, kh¡p các quán bên ÇÜ©ng và nh»ng nÖi công c¶ng. Næm 1031, vua Lš Thái tông ( 1028-1054) cho mª h¶i khánh thành 950 ngôi chùa ª kh¡p nÖi và næm Çó miÍn thu‰ cho dân. Næm 1105, vua Lš Nhân tông ( 1072-1127) låi ra lŒnh cho xây trên 100 ngôi chùa ª kh¡p nÖi trong nܧc.
Næm 1256, vua TrÀn Thái tông ( 1225-1258) cho Çúc 330 quä chuông ÇÒng ban cho các chùa.
Bên cånh nh»ng công trình xây chùa, Çúc chuông, các vua chúa ViŒt Nam còn gºi nhiŠu sÙ b¶ qua Trung hoa nghiên cÙu Çåo PhÆt và thÌnh kinh. N8am 1008, Vua Lê ñåi hành cØ ngÜ©i sang Trung hoa thÌnh kinh ñåi tång. Nhà Lš cÛng gºi hai ph¡i Çoàn qua Trung hoa vào næm 1019 và 1034. Và næm 1299 v§i sÙ b¶ cûa nhà TrÀn sang Trung hoa thÌnh kinh. Cho t§i th‰ k› 17, các chúa NguyÍn vÅn gºi ngÜ©i qua Trung hoa và thÌnh ÇÜ®c hÖn 1000 b¶ kinh ñåi tång Çem vŠ phân phát cho các chùa kh¡p xÙ ñàng Trong.
Ngoài ra l§p trí thÙc th©i xÜa, phÀn l§n là nh»ng vÎ chân tu, nh»ng thiŠn sÜ- nên các vua thÜ©ng cho m©i vào triŠu Çình Ç‹ lo viŒc chính trÎ và bang giao. Vua ñinh Tiên hoàng Çã phong cho sÜ Ngô Chân LÜu ( Khuông ViŒt ) làm thái sÜ và sÜ ñång Huy‹n Quang làm Sùng Chân Uy Nghi. Vua Lê ñåi hành cÛng rÃt tr†ng døng các vÎ cao tæng, m†i viŒc quÓc gia tr†ng Çåi vua ÇŠu hÕi š ki‰n quÓc sÜ Khuông ViŒt và sÜ ñ‡ Pháp ThuÆn.
Dܧi Ç©i nhà Lš, Çåi sÜ Vån Hånh, thái sÜ Lš ñåo Thành, sÜ TØ ñåo Hånh, sÜ NguyÍn Minh Không và quÓc sÜ Khô ñÀu Çã giúp vua trÎ nܧc trên nhiŠu lãnh v¿c chính trÎ, væn hóa, giáo døc v. v..
Qua nhà TrÀn, vua TrÀn Nhân tôn tØng th† giáo sÜ TuŒ Trung. Chính vua TrÀn Anh tông(1293-1314) là ÇŒ tº cûa sÜ Pháp Loa và sÜ HuyŠn Quang. Sang nhà HÆu Lê (1428-1527), có thiŠn sÜ HuŒ Thông. ñ‰n Ç©i các chúa NguyÍn, « xÙ ñàng Trong có nhà sÜ Lê ThiŒt DiŒu ( LiÍu Quán thiŠn sÜ) ,ngÜ©i tÌnh Phú Yên.
Chuông chùa Thiên Mø, Minh vÜÖng Tháp Phܧc Duyên, vua ThiŒu TrÎ d¿ng næm 1844
Çúc næm 1710 n¥ng 3282 cân ta. cao hÖn 21 met
Tóm låi, ánh Çåo vàng Çã r¿c sáng trên toàn lãnh th° ViŒt Nam trong suÓt 16 th‰ k›( tØ th‰ k› thÙ hai ljn th‰ k› thÙ mÜ©i tám ). Có hÜng thÎnh thì phäi có suy ÇÒi. PhÆt giáo ViŒt Nam Çã không tránh ÇÜ®c" cái chu kÿ ÇÎnh mŒnh " Çó. TØ cuÓii th‰ k› thÙ 19, Çåo PhÆt ViŒt Nam không còn gi» ÇÜ®c ÇÎa vΠǶc tôn n»a. Ti‰ng chuop6ng chùa ngân vang không Çû mãnh l¿c Ç‹ bäo vŒ pháp giáo cûa ñÙc NhÜ Lai , trܧc s¿ du nhÆp cûa nŠn væn minh Âu MÏ và nhÃt là s¿ phá hoåi cûa th¿c dân Pháp trong hÖn 80 næm cai trÎ nܧc ta.
Næm 1951, tåi chùa TÜ ñàm ( xây tØ Ç©i chúa NguyÍn Phúc Trân hay chúa Ngãi vÜÖng 1687-1691 tåi Hu‰ ), m¶t Çåi h¶i toàn quÓc ÇÜ®c triŒu tÆp, trong chiŠu hܧng chÃn hÜng PhÆt giáo ViŒt Nam. T°ng h¶i PhÆt giáo ViŒt Nam ÇÜ®c ra Ç©i và sau næm 1963,là Giáo H¶i Viêt Nam ThÓng NhÃt Çã chÌnh ÇÓn tÃt cä cÖ cÃu t° chÙc tØ trung ÜÖng ljn ÇÎa phÜÖng./.
NguyÍn Minh
ĐẶNG PHÙNG QUÂN * TRUYỆN CỰC TIỂU
đặng phùng quântruyện cực tiểu
v. t. d.định nghĩacực tiểu là cái gì không thể nhỏ hơn nữa, bởi nhỏ hơn nữa là vượt qua giới hạn và như thế lại vô cùng lớn
Pascal không thấy điều đó - ông không là một nhà văn.
ông viết quid fiet hominibus qui minima contemnunt, majora non credunt
cũng Pascal, người phân chia cái vô cùng nhỏ và cái vô cùng lớn cứ thử tưởng tượng một đêm khi bạn lái xe trên lộ xuyên bang mịt mùng mông quạnh, nhìn lên vòm trời không trăng sao, hình dung chiếc xe bề thế đang ở trên một lằn ranh mong manh của hành tinh này nó đang quay đấy rất chậm so với tốc độ xe đang chạy ở trên khoảng không mênh mông kia có còn là bạn cứ thử tưởng tượng một phần tỷ tỷ tỷ tỷ…một chấm nhỏ cũng không đối với hư vô bao la bên ngoài trời là trời chẳng đâu là tâm chẳng đâu là hạn
với cái tấm thân bẩy thước bạn vẫn hữu hình ở đó lúc này nhớ khi bạn đứng trên chót vót đỉnh trời Himalaya, bên này là mây bên kia là mù sừng sững như người khổng lồ tầm nhìn gần nhất khi bạn trên chuyến bay từ Oahu qua Maui thấy vịnh biển như bờ ao nhà sức mạnh Icare hùng tráng tìm lại được mình
khởi sự văn chương cực tiểu từ chỗ phi lýtrích Daniil Kharms:
một lần tôi thấy con ruồi và con rệp đánh nhau, cảnh tượng kinh khủng đến nỗi tôi chạy ra ngoài đường và chạy miết
cung cách như quyển sưu tập ảnh: anh làm xáo trộn thì chuyện đã rồivậy thì tự vô thỉ vô chung, cực tiểu đã là cái phi lý, cốt lõi của nó là vô sự, nói theo M. Robert un genre faux, voué par nature à la fadeur et à la sensiblerie – nhưng nó không là giả tưởng, dầu là lịch sử hay hiện thực, nó không là tiểu thuyết nhưng là một tản văn, không kể chuyện thực hay giả, không kể sự cố nhưng sự vật, một hệ liệt không không/thời
trong Tự truyện nói đến cấu trúc cơ bản mà Ingarden nói đến một cách khái quát trong tác phẩm Về nhận thức những tác phẩm nghệ thuật :
tản văn là một hình thành đa tầng gồm tầng âm từ và hình thành cũng như đặc tính ngữ âm ở trình độ cao cấp, tầng ngữ vị gồm nghĩa câu và nghĩa toàn nhóm câu, tầng phối cảnh vẽ ra những đối tượng khác nhau, tầng những khách tính biểu hiệntruyện cực tiểu là đơn vị nhỏ nhất của thuyết thoại: Barthes thì cho nó còn nhỏ hơn cả câu, Gerald Prince nhận định bởi thời gian khu biệt trong hệ biến chẳng hạn, nói Xuân ăn và Thu ăn chỉ là một tĩnh ngôn, nhưng nếu nói Xuân ăn và Thu ăn, rồi Hạ ăn là hẳn một thuyết thoại vì nhân tố phân cách trong thời tính – vai trò của hệ biến được xác định như chuyển dịch từ một thế này sang thế khác
nói gì thì nói, cũng phải bắt đầu từ một phân định rõ giữa ngữ ý và ngữ thái, như sơ đồ:Ngữ ý giống miêu dừng xe
DẤU CHỈ -------------------- MÈO ----------------------------- ĐÈN ĐỎ
Ngữ thái m – è – o/ m(ờ)(e)(meo) ánh sáng đỏnhững tiêu chuẩn biến đổi trong thuyết thoại học được phân tích tỉ mỉ, như tĩnh (cô Y bệnh) với động (cô Y ngã bệnh) để phân biệt hai câu: (Cô Y lau nhà. Cô Y bệnh) với câu: (Cô Y lau nhà. Cô Y ngã bệnh) ở chỗ trong thí dụ sau quan hệ là sự biến đổi
John Gerlach khi bàn về truyện cực tiểu đưa ra những phong cách ngôn ngữ khác nhau:
bản Anh ngữ mang tên “Taboo”:
Thiên thần hộ mệnh thì thầm với Fabian, đằng sau lưng gã:
“Cẩn thận, Fabian ơi! Có lệnh truyền là con sẽ chết vào cái giây phút nào con thốt lên tiếng trưởng lão.”
“Trưởng lão?” Fabian, kinh ngạc, hỏi.
Và gã chết.đây thực sự là một truyện kể, có diễn biến, có tình tiết? ‘Taboo” thật ra là bản văn của Enrique Anderson Imbert, ở đó Gerlach đối chiếu từ “kinh ngạc/intrigued” trong nguyên tác là “azorado/kinh sợ” và từ “trưởng lão/doyen” trong nguyên tác là “zangolotino/lão ngoan đồng” – Gerlach nhận xét: quả thực là một khái niệm khác, khi chuyển ngữ và người ta có thể thay đổi lý giải của chúng ta, nhưng không ai thay đổi được tri giác của chúng ta về tính truyện
do cái đặc thị của truyện là mời gọi dẫn giải đủ điều, như nhân quả, động lực, liên hệ, đáp án cho muôn sự, cái quyền năng tuyệt đối của ông trời với cái vớ vẩn thai đố của người sáng tạo (nhà văn/ông trời con)
Gerald Prince cho là “thuyết thoại minh họa cái gì bất bình thường, khả nghi”
có khác biệt giữa tản văn và thơ xuôi ?những thi sĩ làm thơ xuôi tuyệt vời như Baudelaire, Lautréamont, Tản Đà, Tagore, Henri Michaux, Francis Ponge, Saint-John Perse, Edmond Jabès, chỉ kể một vài tiêu biểu…làm thế nào để xác định thơ xuôi khác với truyện cực tiểu?
người ta thử nghĩ đến nhân vật. không thể. trong thơ xuôi của Michaux., Plume là một nhân vật: Plume ngủ, không có gì kéo ra khỏi giấc ngủ, Plume trong nhà hàng, ăn những thứ không có trên thực đơn, những du hành kỳ thú
les Chants de Maldoror là sáu điệu khúc, thơ hay tản văn? Ở đoạn 4 khúc thứ nhất, Lautréamont viết: celui qui chante ne prétend pas que ses cavatines soient une chose inconnue ở đoạn 9 khúc thứ nhất, những điệp khúc: Vieil océan lập lại chín lần xác định thể hình tuyệt đối là thơ
le Parti pris des choses là một nan đề khác: lựa chọn dứt khoát đảng tính, tự ngẫu hay tất yếu? mọi vật trong thơ Ponge mang mâu thuẫn hình dung pháp (oxymore) như trong “Le papillon/bướm” với những hình tượng : allumette volante, sa flamme n’est pas contagieuse (với Baudelaire là những chrysalides funèbres, charmant et sépulcral…)
với Ponge thơ và (văn) xuôi là proême (prose + poème) khá rõ nét về kinh nghiệm ngôn ngữ qua sự vật – nhắc nhở một tựa sách của Foucault: les mots et les choses; mối quan hệ giữa tư tưởng và thơ)
đề Khối tình con Tản Đà khẳng định tính phá thể: chẳng lề chẳng lối cũng văn chươngnhiều bài thơ xuôi của Baudelaire, của Jabès xem ra hình thái tương tự như những truyện cực tiểu của Kharms:
gương
một người đàn ông quái dị đi vào và nhìn mình trong gương
“ – tại sao ông nhìn ông trong gương, vì ông chỉ thấy mình trong đó chẳng vui thích gì?”
người quái dị trả lời tôi: “ – Thưa ông, theo những nguyên tắc bất tử của năm 89, mọi người đều bình đẳng về quyền; vậy tôi có quyền soi gương; thích hay không thích, lương tâm tôi biết.”
nhân danh lương tri, chắc hẳn tôi có lý; nhưng,trên quan điểm luật pháp, ông ta lầm.
(Baudelaire: le miroir)truyện cực tiểu không là thơ xuôi, vì đơn vị cực kỳ vi mô nhỏ hơn câu – nó là đơn tử của văn tự. ngôn ngữ trong thơ là đối thoại, như Heidegger phát biểu: tuyết rơi mang con người dưới bầu trời sầm tối vào trong đêm. tiếng chuông chiều đưa người vị tử tới trước thần linh. Nhà và bàn kết nối người với đất. những sự vật gọi tên, như thể, nối trời và đất, người và thần. bốn thể tương thân trong một cách thế nguyên sơ và thống nhất. sự vật để bốn thể ở cùng chúng. Thu tập và tụ lại là thể vật của vật. chúng ta gọi bốn thể/geviert hợp nhất trời với đất, người và thần – tọa nơi thể vật của vật (là) - : thế giới.nhân vật không còn là chủ thể của truyện. có trong hoàn cảnh khốn cùng của thời phát xít (dưới mọi chế độ), thời đại của những trại tâïp trung, cải tạo ở mọi nơi (từ Đông Aâu qua Đông Á, từ Buchewald đến …) nhân vật bị nghiền nát như truyện kể của Eugen Kogon:
ở Buchenwald, hai người do thái suy yếu gây chú ý của cảnh bị quốc xã, y đẩy họ xuống hố và sai một tù nhân ba lan chôn sống họ.khi người tù từ chối, thay vì bắn gã, tên quốc xã đẩy gã xuống hố và ra lệnh cho hai người do thái chôn sống gã
trong nỗi sống kinh hoàng và niềm hy vọng thoát chết, họ thi hành mệnh lệnh. chỉ khi đầu gã ba lan còn chưa bị phủ, y ra lệnh ngưng và cho kéo gã lên
lần này y ra lệnh hai người do thái xuống hố và lại sai gã ba lan chôn họ. lần này gã thi hànhFernando Pessõa là thi sĩ chỉ viết tập văn xuôi duy nhất Quyển sách băn khoăn/Livro do Deassossego dưới bút hiệu Bernado Soares có dự cảm phân biệt khi làm thơ, mỗi nhân vật là một sáng tạo khác biệt toàn diện, nhưng khó hơn khi trở thành một kẻ khác trong tản văn.
phép hình dung mâu thuẫn /oxymorique như một đặc thị của thơ xuôi như dẫn nơi trên, có thể được minh họa rõ nét trong kinh nghiệm của mỗi nhà thơ
như Baudelaire: thơ xuôi…không vần điệu, khá nhuần nhị/souple lại trái chướng/heurtée cho phù hợp với những vận động tình tự của tâm hồn
trong khi Mallarmé coi mọi nở rộ của câu thơ, dầu trúc trắc, với những âm sắc vần điệu dấu khuất cũng vẫn là thơ xuôi
có phải đứng trước một bản văn ngắn, người ta có thể nhận rõ đâu là truyện, đâu là thơ?
sự phối trí hình thức, sự toàn diện của hình ảnh, lược bỏ tiếp từ của cú pháp, đa nghĩa, nhịp điệu trong toàn câu
để phân biệt với truyện cực tiểu
vì khởi sự là truyện – bắt nguồn từ historia có nghĩa là người hiểu biết/histor – historia đi từ truy cứu/wid-tor mà căn ngữ hy lạp của nó là idein/nhìn,oida/gnâ/biết và wid trong họ la tinh videre/nhìn,phạn vid/tri giác, gô-tích witz/biết…truyện cũng là thuyết thoại căn ngữ la tinh narrare < gno/kể cho nên ngay trong truyện cực tiểu (sẽ minh họa dưới đây) thuyết thoại phi lý, gián đoạn cũng vẫn nằm trong cái tổng thể liên hệ
khi Aristote nhận thức bi kịch không trụ ở nhân vật như ở cảnh ngộ/situ – đó cũng là cơ sở của truyện cực tiểu
ở cùng kỳ lý, cảnh ngộ xác định trước khi có nhân vật, nói như Hebbel: Was einer werden kann, das ist er schontruyện cực tiểu là một hình thái phá thể - theo định nghĩa muốn nói một cái gì mới hơn những cái đã có, một vận động hủy triệt trong sáng tạo - hủy/tạo mọi quy ước về ngôn ngữ, quy phạm, tu từ, phong cách, tư duy, nhân vật, thế giới, khoa học…
trong khi mọi thuyết thoại là đồng đại mà vận động đọc là lịch đại (có nghĩa là lúc nhà văn viết ra mọi sự đều trải trên một mặt phẳng thời gian/ dầu tôi cố ý kéo dài lịch sử câu truyện từ thời này qua thời khác với những diễn ngữ như ngày này năm sau, hai ba thế kỷ liên tiếp thì mọi lịch sử cũng đã là quá khứ; trong khi người đọc ở bên ngoài trên bình tuyến thời gian)
truyện cực tiểu không theo quy luật đồng đại/lịch đạimột ví dụ truyện cực tiểu tối cổ:tiềm long vật dụng
truyện của Trình Di: hào chín đầu ở dưới một quẻ, là đầu các vật, khí Dương đương sinh, thánh nhân còn trong hàn vi, cũng như rồng còn lặn hụp, chưa thể tự ra làm việc, phải náu kín để đợi thờitích giả trang châu mộng vi hồ điệp, hủ hủ nhiên hồ điệp dã, tự dụ thích chí dữ bất tri châu dã; nga nhiên giác, tắc cừ cừ nhiên châu dã. bất tri châu chi mộng vi hồ điệp dư. hồ điệp chi mộng vi châu dư. châu dữ hồ điệp, tắc tất hữu phận hĩ. thử chi vị vật hóa
những truyện cực tiểu trong nam hoa kinh chỉ ra tính đồng bộ xuôi ngược hai mặt nhân vật (nhưng không là nhân vật)
luận ngữ là biến thái của truyện cực tiểu vào thời kỳ thoái hóa
ở thời hiện đại, tản văn cụ thể là một biểu tượng truyện cực tiểu như Seiichi Niikuni, vũ/rain; môn/ảm/âmcó thể phối trí
MÔN
ẢM ÂM
MÔNẢMÂMÔNẢMÂMÔNẢMÂM
ẢMÂMÔNẢMÂMÔNẢMÂMÔNẢM
ÂMẢMÔNÂMẢMÔNÂMẢMÔNÂM
MÔNẢMÂMÔNẢMÂMÔNẢMÂMÔN
ẢMÂMÔNẢMÂMÔNẢMÂMÔNẢMÂM
ÂMẢMÔNÂMẢMÔNÂMẢMÔNÂMẢM
(khác biệt giữa hán tự và la tinh ở kiến trúc kỷ hà – Seiichi Niikuni trình bày 9 hàng Môn, 1 hàng Ảm 23 hàng Âm thành vuông vức, tôi thử dùng hình thái mẫu tự la tinh biến dạng bình hành; về mặt ngữ nghĩa: cửa/u tối/tiếng – tiếng nằm trong cửa trở nên u ám; ngôn ngữ khó hiểu vì chưa được khai môn, mở cửa)
cửa mở, không còn ngôn ngữ, hà tất nói trong không?Herakleitos còn để lại một ẩn dụ: hòa hợp tiềm tàng hùng lực hơn phô trương không ngoài ý đómột ví dụ truyện cực tiểu hàm số:Y là người đọc Frege, Husserl và Russell; càng đọc lại thấy thấp thoáng bóng Thiệu Khang Tiết đâu đó – kể từ đấy mỗi khi trong đầu nghĩ con số 125 chẳng hạn, bàn tay lại viết xuống con số 394, rồi thử nghĩ khác với 2 x 2 = 4, như 2 x 2 = 5, như 2 x 2 = 3 ! Est modus in rebus, sunt certi denique fines.
tự thuở nào con số chẳng là con số. What is a number ? Y điên.
viết lại hồn bướm mơ tiên (truyện cực tiểu)khái hưng cho ngọc gọi lan là thi vì lan không thể là thi
nhưng cả lan thi ngọc khái hưng không có đáp án bí mật khi thổ lộ lan nhất định sống để dạ chết mang đidi thưcon của mẹ, thư này mẹ viết trong khi tỉnh táo cất gửi trong hộp sắt an toàn và người giám hộ chỉ mở sau khi mẹ không còn trên đời này, cùng với chiếc kéo và chiếc vòng tương truyền từ nhiều đời về trước của dòng họ bà ngoại cho mẹ (còn tất cả những thứ quý giá để lại cho con – mẹ không để ý, khi thứ quý giá nhất mẹ đã đánh mất từ ngày người đàn ông bỏ mẹ) để trả thù mẹ đã đi theo một gã tùy tùng của y để tới một vùng băng giá với ý định gặp ý trung nhân để mưu cầu một hạnh phúc mẹ vẽ lên mộng tưởng tuyệt vời – lần thứ nhất của cuộc đời mẹ được sống trong một lâu đài như trong chuyện thần tiên mẹ đọc vào tuổi bắt đầu biết chữ và ngày nào mẹ cũng được trượt tuyết, quần ngựa, xuống phố, nghe nhạc giao hưởng với chàng và lúc đêm xuống trước khi mẹ thiếp đi vào mộng, chàng cũng tự tay đem khay trà đến bên đầu giường để hưởng một nụ hôn mẹ ban cho trước khi chàng trở về phòng riêng, mẹ sống như vậy trong một tháng với mọi hoạt cảnh xảy ra như diễn tập một vở kịch hoang đường đến độ mẹ phát chán và mẹ đã giã từ chàng để trở về với người đàn ông bội bạc đón mẹ khi bước xuống phi trường không chờ không hẹn – lần thứ hai mẹ lại chuẩn bị chuyến đi trong âm thầm trở lại lâu đài một mình để gặp chàng và diễn tập tiếp vở kịch cũ cho đến ngày thứ mười lăm cũng như thường lệ, chàng đem khay trà tới bên giường, lần thứ nhất của cuộc đời mẹ một người cởi chiếc áo choàng dạ phô bầy nguyên một thân thể đàn ông trần truồng trong khi mẹ thật kinh hoàng chàng đã dữ tợn giật phăng mảnh y phục che phần hạ thể của mẹ, hai cánh tay như cột trão quấn lấy phần thân trên, hai đầu gối chàng kìm lấy bắp chân mẹ, ở vào phút kinh hoàng ghê gớm đó mẹ không nhớ sự việc diễn ra trong con người xương thịt của mẹ như thế nào vì ở vào khoảnh khắc mơ hồ mẹ như một con thú tỉnh giấc đã đưa bàn tay phải quơ lên chiếc bàn đầu giường ngủ nắm được chiếc kéo và đâm thẳng lên phần thân đang đè nặng trên hạ thể mẹ, mọi sự diễn như một tia chớp khi tiếng la của con thú bị thương tức thời lăn khỏi người mẹ và mẹ vùng thoát ra khỏi phòng, ra khỏi lâu đài trong đêm trăng còn vằng vặc trên cao ,mẹ chạy riết qua những con đường cho đến kiệt sức bất tỉnh, vì sau đó lúc mở mắt mẹ chỉ còn nhớ đã khai với nhà chức trách là mẹ bị mộng du ban ngày , đã làm một chuyến đi đến một nơi có cái tên của thành phố này và giờ đây mẹ chỉ còn nhớ lại tên người đàn ông và nơi trở về, vé bay, người hộ tống, tiếp viên hàng không đã làm đầy đủ nhiệm vụ thủ tục để mẹ gặp lại người đàn ông bội bạc như lần thứ nhất, chỉ có biến chuyển đầu tiên của đời mẹ là ngả vào vòng tay ông ta khi về tới nơi và ngoan ngoãn là một người đàn bà làm tình với một người đàn ông
trong hai, người nào hiếp mẹ,lấy đi tiết trinh của mẹ? bí mật này mẹ chẳng thể hỏi ai. mẹ không gặp lại chàng, ngoại trừ chiếc kéo đã khô máu trong một mầu nhiệm nào vẫn nằm trong túi áo choàng khi mẹ bất tỉnh ở một nơi nào cái đêm kinh hoàng một đời đó, mẹ cũng chẳng ở với người đàn ông bội bạc, người tình đầu đời mẹ kể cả trong khi mang thai, sinh con ra
mẹ có yêu người đàn ông ở lâu đài hai lần sống chung như bạn?
mẹ cũng không thể biết khi phản ứng đâm người từ vô thức đó, chàng đã thực sự thực hiện trọn vẹn điều người đời gọi là giao hợp?
mẹ cũng ngạc nhiên tại sao mẹ gọi trong tiềm thức người đàn ông trên lâu đài đó với cái tên thân thương như người tình nói về người tình là “chàng” – trong khi mẹ biết rõ mẹ “không” yêu
mẹ biết rõ trong cuộc đời của mẹ, cõi lòng lắng như đáy, chẳng mảy may cuồng nhiệt với người đàn ông nào trong cả hai, đừng nói chi tới vô số những người đàn ông chạm mặt trong công việc hàng ngày
con của mẹ, bây giờ thì con biết mẹ là một người đàn bà nổi tiếng trong xã hội - con chỉ biết có mẹ, con cũng chẳng bao giờ hỏi mẹ về bất kỳ người đàn ông nào có trong đời mẹ, con cũng chẳng quan tâm tới một tiếng gọi là cha
con của mẹ, khi mẹ chết đi, đọc thư này và chiếc kéo, không một hình ảnh, chỉ có hai cái tên,
con có quyền của con, nếu con muốn có cha, tự con chọn lựa
tinh thần mẹ thật tỉnh táo – mẹ không một lời khuyên con trên đời này có cần cha không, tôn giáo mẹ con ta chẳng màng, huống hồ…truyện cực tiểu/minimal fiction của Richard KostelanetzNothing
(trang 70 trong minimal fictions của R. Kostelanetz, asylum arts x.b., 1994)
truyện cực tiểu john stevens kểcó một người đàn bà thật trần tục tên là Mujaku sống gần một tu viện, thiền sư ở đó gửi mọi cao tăng đến nàng để qua cuộc thử thách cam go; Man’an trong những bậc tu khả kính thi hành công phu thiền, Mujaku mời ngài vào phòng và khi Man’an vào thấy nàng nằm tênh hênh trần truồng, ngài chỉ vào mu lồn và hỏi cho biết, “cái gì đấy? phải cửa vào thế giới?: Mujaku đáp,”mọi đấng giác ngộ quá khứ, hiện tại, vị lai, sáu đại trưởng lão, và mọi cao tăng từ đây mà tinh tấn!” Man’an hỏi: “vậy một lão tu như ta có thể trở lại đó hay không?” Mujaku cảnh báo: “những chàng ngốc không tới đâu đây,” xoay mình về phía Man’an, dạng chân ra, Man’an đỏ mặt, ngượng ngùng, rông tuốt.
(đây là công án của thiền sư Suzuki Shòsan: ngươi có thể nói gì để trả lời câu hỏi:”vậy một lão tu như ta có thể trở lại đó hay không?” (theo John Stevens, trong Lust for Enlightenment, tr. 120-1 Shambhala x.b., 1990) John Stevens là một học giả Thiền, võ sư Hiệp khí đạo, giáo sư về môn Phật học tại đại học ở Sendai, Nhật)truyện cực tiểu của R. Carverhọ kết hôn, sống và làm việc chung với nhau, ngủ với nhau – chắc chắn làm tình rồi – và rồi gã mù phải chôn nàngecce homo của Nietzschevào ngày toàn hảo này, khi mọi sự chín mùi và không những nho trở thành nâu,những tia sáng mặt trời cũng tấn xuống đời tôi: tôi nhìn lại, tôi nhìn tới, và chưa hề thấy xiết bao những điều tốt đến thế.chẳng phải không cớ gì tôi chôn vùi bốn mươi bốn năm trời của tôi hôm nay, tôi có quyền chôn vùi nó – cuộc đời có ra sao cũng là bất tử. Quyển sách thứ nhất của bộ Đảo hoán mọi giá trị, những khúc ca Zarathustra, Hoàng hôn của những thần tượng, mưu đồ triết lý của tôi với cái búa – mọi tặng dữ của năm này, quả thực của tam cá nguyệt cuối cùngrồi. làm sao tôi lại không biết ơn suốt cuộc đời tôi? – và như thế tôi kể lại đời mình với chính mình
tiểu thuyết chưởngSamuel Beckett viết những đoản văn cực tiểu ghi trong những năm 60 (của thế kỷ XX) như Pour finir encore et autres foirades không làm người đọc ngạc nhiên, như khi đối chiếu với một tác gia như Yasunari Kawabata (với những tiểu thuyết Xứ tuyết, Tiếng núi, Ngàn hạc) đã viết những truyện cực tiểu từ những năm 1923 (hầu như trước cả những truyện cực tiểu của Daniil Kharms), những tiểu thuyết chưởng/Tenohira No Shòsetsu/tiểu thuyết cỡ lòng bàn tay. tiểu thuyết chưởng của Kawabata thực sự dụng công tương đắc với nghệ thuật bonsai, tiểu họa:bức ảnh
một người đàn ông xấu xí – nói vậy thì thô lỗ thật, nhưng chắc hẳn vì xấu trai nên y trở thành thi sĩ – thi sĩ tâm sự với tôi như thế này:
“tôi ghét chụp ảnh và ít khi nghĩ phải chụp lấy một bức. chỉ chụp một lần khoảng bốn, năm năm về trước với một thiếu nữ vào dịp chúng tôi đính hôn. nàng rất trân quý với tôi, tôi không tin một người đàn bà như thế lại xuất hiện trong đời mình. giờ đây những tấm ảnh ấy là kỷ niệm đẹp duy nhất của tôi.
dẫu sao năm rồi một tạp chí nhất định muốn đăng một chân dung tôi. tôi cắt bức ảnh chụp tôi với vị hôn thê và em gái của nàng đem gửi cho tạp chí. mới đây một phóng viên nhà báo lại yêu cầu chân dung tôi. tôi suy nghĩ một lát rồi sau cùng cắt bức ảnh vị hôn thê với tôi làm hai và đưa cho anh ta. tôi nói với anh ta nhớ đem trả, nhưng tôi chẳng nghĩ có thể lấy lại bao giờ. chẳng sao.
tôi nói chẳng sao nhưng quả thực tôi kinh ngạc khi nhìn vào nửa bức ảnh còn lại chỉ có vị hôn thê của tôi một mình. có phải vẫn người thiếu nữ ấy không? để tôi nói ngài nghe.
người thiếu nữ trong bức ảnh đẹp và duyên dáng, nàng mới mười bẩy và đang yêu. nhưng khi nhìn vào bức ảnh tôi có trong tay – tấm hình người con gái đã cắt ra từ tôi – tôi nghĩ ngợi thấy nàng đần làm sao. vậy mà cho đến lúc này vẫn là bức ảnh đẹp nhất tôi chưa từng thấy…trong khoảnh khắc tôi tỉnh giấc mộng. kho tàng quý báu của tôi đã tan tành.và rồi…
thi sĩ hạ giọng
“nếu nàng nhìn chân dung tôi trên báo, chắc hẳn nàng cũng nghĩ vậy. nàng sẽ lấy làm xấu hổ đã có thời yêu một người như tôi vậy.
câu chuyện như thế đấy.
nhưng tôi tự hỏi nếu nhật báo nọ có đăng cả hai chúng tôi với nhau, như khi chụp ảnh, liệu nàng có trở lại với tôi khi nghĩ tôi cũng là người điển trai chứ lỵ?”
(Kawabata: shashin/tả chân, 1924)khi bà chúa nổi giậncó một thuở tuyên phi Đặng thị Huệ gọi Nguyễn triệu Luật, người viết tiểu thuyết Bà chúa chè lại mắng:”nhà ngươi ở đời sau mắt không nhìn thấu thời gian mấy trăm năm về trước, tai không nghe được tiếng vọng siêu tầng, trí không vượt khỏi tầm tiểu học, hư tưởng những điều văn hoa như cảnh ta gặp chúa Tĩnh đô:“ – con trồng hoa này hay mua ở đâu?
- bẩm, lệnh bà thần thiếp khiến trồng.
- con kiếm giống hoa này ở đâu?
- bẩm, cũng là giống huệ trắng thường, nhưng bón một thứ màu riêng.
- được, con cắùm vào cái lọ sứ giang tây ở góc phòng kia.
- …
- con cầm cái dùi, đánh vào cái khánh đồng này, gọi một tên tiểu hoàng môn ra ta bảo.
- …
- con có biết chữ không?
- bẩm có
- vậy kéo cái ghế ngồi cạnh sập đây, cầm những bản khải ở chồng này đọc ta nghe.
- …
- thưởng cho giai nhân ở phương bắc đã mang tới cho ta cái tường triệu ở phương nam…”
rồi ngươi hư tưởng ngày lễ đại tường “nàng đã nằm phục trên đống máu, một con dao cắm từ hầu lòi qua gáy” trong khi ngay cả Ngô thời Chí cùng thời cũng chẳng dám biết ta sống, chết ra sao
láo, thật láo, lũ con trẻ thời sau, chưa biết qua dăm chữ, học lóm một chút phân tâm học, đua đòi viết tiểu thuyết lịch sử”để ta tặng một đôi câu:“Pisatel’ : Ia pisatel’
Chitatel’ : A po-moemu, ty g…o!
Nhà văn: Tôi là nhà văn
Người đọc: Theo như tôi biết, anh chỉ là c…ứt!” (Kharms, Polet v nebesa, 1988)[1] Điều gì trở thành nơi con người lầm chuyện nhỏ, không tin vào những chuyện lớn hơn?[1] X. Tự truyện ĐPQ.[1] Vom Erkennen des Literarischen Kunstwerks[1] người hát không muốn những đơn điệu của mình là một điều xa lạ[1] Der Schneefall bringt die Menschen unter den in die Nacht verdammernden Himmel. Das Lauten der Abendglocke bringt sie als die Sterblichen vor das Gottliche. Haus und Tisch binden die Sterblichen an die Erde. Die genannten Dinge versammeln, also gerufen, bei sich Himmel und Erde, die Sterblichen und die Gottlichen. Die Vier sind ein ursprunglich-einiges Zueinander. Dieses versammelnde Verweilenlassen ist das Dingen der Dinge. Wir nennen das im Dingen der Dinge verweilte einige Geviert von Himmel und Erde, Sterblichen und Gottlichen: die Welt. (Die Sprache).[1] Cái gì đã có là cái gì có thể sinh thành[1] Hidden dragon. Do not act.[1] theo Ngô Tất Tố (so với bản tiếng Anh của Thomas Cleary: the first yang, at the bottom of the hexagram, represents the beginning of creation, when positive energy has just sprouted, when the sage is in a lowly position like a dragon that is concealed in the depths in the Tao of Organization – Cheng Yi ).[1] xưa trang châu chiêm bao thấy mình làm bướm tỉnh giấc không thấy mình là châu, hay bướm, hay bướm chiêm bao là châu[1] unsichtbare Harmonie ist starker als sichtbare (in Die Vorsokratiker, hrg: Wilhelm Capelle)[1] An diesem vollkommnen Tage, wo alles reift und nicht nur die Traube braun wird, fiel mir eben ein Sonnenblick auf mein Leben: ich sah ruckwarts,ich sah hinaus, ich sah nie so viel und so gute Dinge auf einmal. Nicht umsonst begrub ich heute mein vierundvierzigstes Jahr, ich durfte es begraben – was in ihm Leben war, ist gerettet, ist untersterblich. Das erste Buch der Umwertung aller Werte, die Lieder Zarathustras, die GotzenDammerung, mein Versuch, mit dem Hammer zu philosophieren – alles Geschenke dieses Jahrs, so gar seines letzten Vierteljahrs! Wie sollte ich nicht meinem ganzen Leben dankbar sein? – Und so erzahle ich mir mein Leben.[1] X. Tự truyện ĐPQ tr. 106đặng phùng quân
THƠ THANHTÂM TUYỀN
Trang thơ Thanh Tâm Tuyền
Bài hát buồn
July5Anh cần đốt điếu thuốc ấy
Vì có nụ cười sau làn khói
Với màu mắt em hoàng hôn màu áo em
Trong buổi chiều miền đồi núi
Điếu thuốc như một lời
Trao gửi chưa thành nghĩa
Như tên em hay tên loài hoa nào biết được
Anh sợ những ngôn ngữ bơ vơ
Khóm rừng quên dưới thung lũng
Bầy cỏ hoang ven đường
Mọc lên trong hồn anh dại dột
Sau những chiều động bão
Những ngày kín sương mù
Nhưng điếu thuốc bỗng trở thành niềm hắt hủi
Khói tím buồn
Vì chiều theo chân em sang bên kia đồi
Nụ cười mang theo
Không rớt vì sao trên nền trời
Lần sau hàng thân cây cô đơn như mình anh
Màu áo nhoà tan
Còn tưởng ấy màu mắt lưu luyến
Em có biết sau lúc em từ biệt
Điếu thuốc cháy trên môi như người bạn chết
Hơi nóng khô nhành củi gãy tàn
Em có biết em cúi nhìn vào trang sách
Những chữ hoa tưởng tượng bắt đầu
Nguồn nước dữ cuốn trôi vùi hận sầu đen tối
Chôn xuống đáy biển sâu
Rồi anh bước trên những chiều dốc lạnh
Con đường duỗi dài cánh tay người chết đuối
Cầu cứu thành phố bỏ trốn đâu
Căn nhà nào của em
Lưng đồi đầu rừng cuối đường mòn
Bên những chùm lửa ấm
Em có thấy hư vô đắp dưới mền tóc dầy
Anh để mặc cỏ hoa ẩn náu vào mắt anh
Cả thiên nhiên thở lên man mọi
Với hết tự do còn ở ngón tay ngón chân tóc
Với hết hồn thơ nghiến chặt giữa hai răng giữa xương tuỷ
Như loài rễ cây độc
Anh chọn tình yêu không
Điên như đá
(Tập thơ Liên Đêm mặt trời tìm thấy, Sáng Tạo xuất bản, Sài Gòn 1964)Bài ngợi ca tình yêu
July231.
Tôi chờ đợi
lớn lên cùng dông bão
hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai
tìm cánh tay nước biển
con ngựa buồn
lửa trốn con ngươi
Ðất nước có một lần
tôi ghì đau đớn trong thân thể
những dòng sông những đường cày núi nhọn
những biệt li rạn nứt lòng đường
hút chặt mười ngón tay ngón chân da thịt
như người yêu từ chối vùng vằng
Tôi chờ đợi
cười lên sặc sỡ
la qua mái ngói
thành phố đồng ruộng
bấu lấy tim tôi
thành nhịp thở
ngõ cụt đường làng cỏ hoa cống rãnh
cây già đá sỏi bùn nước mặn nồng
chảy máu
tiếng kêu
2.
Tôi chờ đợi
phổi đầy lửa cháy
môi đầy thẹn thùng
vục xuống nhục nhằn tổ quốc
nhìn gót giầy miệng uống tro than
nghe tiếng ca của một người không quen
của cuộc đời tình nhân
3.
Trang sách khởi đầu viết
mắt người cần ánh sáng
môi người cần mặt trăng
bàn tay đòi mặt trời
và ngực em tự do
của anh của anh tất cả
Em gối đầu sương xuống
chuyện trò bằng bóng hình
Tôi đẹp như hình tôi
như cuộc đời
như mọi người
như chút thôi
anh yêu lấy em
Em là lá biếc là mây cao là tiếng hát
sớm mai khua thức nhiều nhớ thương
em là cánh hoa là khói sóng
đêm màu hồng
Vòng tay dĩ vãng và bát ngát
chỗ yên nghỉ cuối cùng
dưới mắt sao dưới bàn chân những đứa con
4.
Tôi chờ đợi
một người không
nhiều người
ở thành phố thiếu thốn
ở làng mạc đọa đày
tôi là tiếng nói là tiếng khóc
những người bỏ đi hẹn trở về
những người mím hơi thừa chịu đựng
tôi chờ đợi
tôi là tiếng thơ là tiếng cười
mai Việt Nam hỡi mai Việt NamLiên những bài thơ tình thời chia cắt
May24I
Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai
(nếu đời người không có những sớm mai)
anh trở dậy
đọc thơ Nguyễn Du
những câu lục bát buồn rưng rưng cuối đường của một ngày
chợt anh muốn viết tặng em
không thể được
em làm con tin ở một thế giới
mà lòng sầu héo là trọng tội
anh cố gắng viết những lời thơ thật tự nhiên
như câu chuyện buổi còn gặp gỡ
như khoảng trời đơn sơ sau cửa sổ
anh gọi thầm một mình
trong giấc mơ phủ làn tóc biếc
anh biết anh gọi thầm một mình
LIÊN
II
Anh nhớ em cùng một lúc với thành phố
với những con đường anh đi qua một lần
để đến nhà em anh băng ngang một vườn hoa vắng
(lần trở về anh ngồi xuống ghế dài
nếu là buổi chiều quạnh hiu mây lá mùa thu)
một phố bình dân có chợ và những quán ăn
giản dị như trang nhật ký của anh
ngày bắt đầu yêu em
III
Trời trắng cánh tay mặc áo ngắn
những cuốn sách nhỏ chuyền tay
được viết cho những người ngày mai
cuộc đời tối tăm đòi ánh sáng
anh nâng niu cuốn sách nói đến cách mạng
nói đến người tâm hồn trái tim tự do
nói đến anh và em
hoàn toàn cởi mở
IV
Sự vắng mặt của em và bãi biển mùa đông
thành phố đau từ mỗi cột đèn
mỗi bực thềm cửa đóng
em đi không nón không áo choàng
mưa tầm tã
những cửa sổ đêm muốn hé ra
nổi loạn
và mắt em mặt trời cỏ hoa với môi anh đằm thắm
và rực rỡ nhớ thương
V
Nét cong môi hồng mắt tình cờ
ngực hoa yếu đuối
những miền không gian được gọi qua
tình yêu không thẹn thùng
đâu phải một thứ mưa ô bay vào thành phố
năm cửa ô hồi sinh trên xác năm cửa tù
mưa nắng cùng rủ nhau xuống Sinh từ ngõ Hội vũ
bao nhiêu đường tình tự ga hàng cỏ
nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang
tà áo bàn tay hương trẻ con
hoàng hôn tỉnh
kim khí khua trong bước trở về nhà cửa
sự vắng mặt không thể lâu hơn nữa
thù nghịch tan vào hơi thở
trong giấc hôn mê thôi khóc tiếng mèo đêm
tình yêu mầu nhiệm hoàn thành
vĩnh viễn
VI
Anh xin em ngọn tóc cỏ cái hôn tím
mắt chợt xẩm chiều
bởi trôi qua những miền tâm sự viếng thăm
có thể em chết trước khi anh kịp về
mùa lạnh gian phòng cũ
không ai khép cửa sổ
cúi xuống viền mi những bóng tối bên ngoài
có thể rồi anh sẽ yêu người đàn bà thứ hai
anh không chối
nhưng mãi mãi em còn là đất dĩ vãng
mà rễ tình cảm đòi bén gần
và những viên gạch những lối xưa
còn chiêm bao gót em mềm âu yếm
em ơi tình yêu thương đến vào buổi chiều
đúng hơn là buổi sáng rừng tâm hồn ta
vậy sao em lại ngủ
ngủ trong lòng mộ trong nghĩa địa thân thể anh
với áo cỏ may châm da thịt
anh đã đến từ biệt lùa mái tóc vào những ngón tay
những giọt lệ sương lấp lánh
anh hứa trở về không đối diện với thù
giòng sông chỉ còn tiếng sóng vỗ
cười tung lồng ngực chứa chan
thành phố đứng cao làm hiệu
rằng anh còn trở về
rằng anh còn người yêu
nàng công chúa ngủ trong rừng không giận hờn
LIÊN
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 011
THƠ TRẦN HỒNG CHÂU
TrÀn HÒng Châu
bi‹n vÅn bi‹n quê hÜÖng
nÓi dài muôn trùng sóng
hÒ khoan vÅn b¡c cÀu vÒng nh§ nhung
lºa ti‰p sÙc vÅn tØ lòng ÇÃt mË...
nÓi dài muôn trùng sóng
hÒ khoan vÅn b¡c cÀu vÒng nh§ nhung
lºa ti‰p sÙc vÅn tØ lòng ÇÃt mË...
nhÜng dܧi sâu
sâu n»a
vån hÒn thuyŠn nhân
s§m Çi tÓi vŠ
vÅn oan khiên
ngÆp tràn bi‹n Çông!
sâu n»a
vån hÒn thuyŠn nhân
s§m Çi tÓi vŠ
vÅn oan khiên
ngÆp tràn bi‹n Çông!
nܧc bi‹n có giäi oan
tr¡ng tinh hÒn nhÜ®c ti‹u?
nܧc bi‹n có m¥n chát
vån niŠm Çau ?
nܧc bi‹n có rºa såch
š thÙc hŒ Çen
ÇÒ thán
chÃt ngÃt tr©i xanh ?
tr¡ng tinh hÒn nhÜ®c ti‹u?
nܧc bi‹n có m¥n chát
vån niŠm Çau ?
nܧc bi‹n có rºa såch
š thÙc hŒ Çen
ÇÒ thán
chÃt ngÃt tr©i xanh ?
sóng vÆt v©
sóng thành ÇÌnh Hy Mã
sóng thành v¿c A tÿ
thuyŠn lá tre vút lên l©i nguyŒn cÀu
ÇÕ thÜÖng Çau
m¶t håt cát trong vô cùng sa måc
m¶t gi†t nܧc trong vô cùng Çåi dÜÖng
sóng thành ÇÌnh Hy Mã
sóng thành v¿c A tÿ
thuyŠn lá tre vút lên l©i nguyŒn cÀu
ÇÕ thÜÖng Çau
m¶t håt cát trong vô cùng sa måc
m¶t gi†t nܧc trong vô cùng Çåi dÜÖng
Çoàn häi khÃu
ác Çi‹u Çen
b‡ng Ç° sÆp xuÓng m¶t tr©i bóng tÓi
n» tu, thôi h‰t n» ÇÒng trinh
nghïa phu thê, thôi l©i vïnh biŒt
em gái nhÕ, thôi nhé
dÅm nát m¶t búp hÒng non!
ác Çi‹u Çen
b‡ng Ç° sÆp xuÓng m¶t tr©i bóng tÓi
n» tu, thôi h‰t n» ÇÒng trinh
nghïa phu thê, thôi l©i vïnh biŒt
em gái nhÕ, thôi nhé
dÅm nát m¶t búp hÒng non!
m¡t loån thÎ
ÇÀu hoang tܪng
nhãn ngÜ, ngÜ nhãn
ÇiŒu hÒ khoan, Ö h©!
ta Çã Çi ljn tÆn cùng cûa chÎu Ç¿ng
Çi! cho ta n¡m bàn tay tuyŒt diŒu
cho ta vào lòng bi‹n sâu
vào giÃc ngû vô thÜ©ng...
ÇÀu hoang tܪng
nhãn ngÜ, ngÜ nhãn
ÇiŒu hÒ khoan, Ö h©!
ta Çã Çi ljn tÆn cùng cûa chÎu Ç¿ng
Çi! cho ta n¡m bàn tay tuyŒt diŒu
cho ta vào lòng bi‹n sâu
vào giÃc ngû vô thÜ©ng...
dܧi sâu vÅn vô vàn cánh bay
d¢ng d¥c
dây xích oan khiên
vŠ lòng ÇÃt
ai Çây tiêp dÅn
chúng sinh hÒn trÀm låc ?
d¢ng d¥c
dây xích oan khiên
vŠ lòng ÇÃt
ai Çây tiêp dÅn
chúng sinh hÒn trÀm låc ?
TrÀn HÒng Châu
( Nh§ ñÃt ThÜÖng Tr©i )
( Nh§ ñÃt ThÜÖng Tr©i )
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 011
No comments:
Post a Comment