Thursday, August 23, 2012
TIN TỨC
I. VIÊT NAM
- K‹ tù tháng 12-1998, ViŒt Nam xi‰t ch¥t viŒc ki‹m soát mång lܧi Internet vì h† s® dân chúng trong nܧc džc ÇÜ®c các web page ViŒt Nam häi ngoåi và quÓc t‰, cùng liên låc v§i bên ngoài b¢ng E Mail.
- CÀu b¡c qua sông Gianh do Pháp viŒn tr® sÙc ngÜ©i, sÙc cûa,do công ty quÓc doanh Thæng Long xây cÃt v§i kinh phí 240 t›, Çã ÇÜ®c khªi công tØ tháng 5-95 và ÇÜ®c khánh thành hôm 26-11-98, nhÜng Çã có 3 v‰t nÙt dài tØ 1 ljn 2 mét, r¶ng 1,5 mm. Ÿ ViŒt Nam ta có hai con sông l§n nhÃt mà tØ trܧc ljn nay chÜa b¡c cÀu là sông Gianh và sông Mekong. Nay Úc Çã xây cÀu qua B¡c MÏ ThuÆn, và Pháp viŒn tr® xây cÀu qua phà sông Gianh. VÅn là tÆp Çoàn tham nhÛng c¶ng sän æn chÆn tiŠn båc, xi mæng, s¡t thép...cho nên cÀu vØa xây Çã rån nÙt.
- Thû tܧng Phan Væn Khäi tuyên bÓ nhân dÎp cuÓi næm t°ng Bí thÜ Lê Khä Phiêu sang chÀu Trung quÓc r¢ng ViŒt Nam không th‹ Ç°i m§i chính trÎ vì làm nhÜ th‰, ch‰ Ƕ c¶ng sän së bÎ søp Ç°.
- TrÀn ñ¶ Çã
vi‰t xong ngày23-9-98, m¶t bút kš có nhan
ÇŠ" M¶t Cái Nhìn Trª
Låi".Ông chia cu¶c Ç©i ông
làm 4 giai Çoån:
- Th©i h†c sinh,ông ܧc mÖ m¶t cu¶c sÓng lš tܪng.
- Th©i kháng chi‰n chÓng Pháp : Çi b¶ Ƕi, lÆp nhiŠu chi‰n công.
- Sau 1975, 18 næm làm l§n ( lš thuy‰t gia c¶ng sän, Phó thû tܧng) nhÜng thÃy ÇÃt nܧc vÅn nghèo kh° nhÜ xÜa.
- Th©i hÜu trí: Çi kh¡p nܧc,thÃy nhiŠu cänh gian tham,Çàn áp,bóc l¶t ch£ng khác th©i Pháp thu¶c.
- B¶ máy Çäng và nhà nܧc quá cÒng kŠnh: quá nhiŠu b¶ viŒn và cÖ quan.
- B¶ máy công an to l§n quá.
- HŒ tÜ tܪng thÓng trÎ tÃt cä.
- Quá chênh lŒch gi»a giàu và nghèo.
"Nh»ng mÖ xóa ác ª trên Ç©i,
Ta phó thân ta v§i ÇÃt tr©i.
Ác xóa Çi thay b¢ng c¿c thiŒn,
Tháng ngày bi‰n hóa ác luân hÒi"
- VÅn tin vŠ TrÀn
ñ¶.ChiŠu ngày 4 tháng 1-1999,chi b¶
vø Væn Hóa Giáo Døc thu¶c
Væn Phòng quÓc h¶i c¶ng sän ViŒt Nam
Çã h†p và Çi ljn quy‰t
ÇÎnh khai trØ TrÀn ñ¶ ra
khÕi Çäng c¶ng sän ViŒt Nam.
Trong bÙc thÜ ngõ, ông vi‰t:"Tôi
Çã là Çäng viên 58
næm(48-98).Tôi không ª trong Çäng
nhÜng tôi còn là m¶t ngÜ©i
dân,tôi vÅn gi» nguyên š ki‰n cûa
tôi.Ông nói ông không ngåc
nhiên vì Çäng khai trØ ông,
nhÜng ông ngåc nhiên vì nh»ng
giÃc mÖ ban Çâu låi bi‰n thành
hiŒn th¿c chua chát. Ông cho r¢ng
trܧc sau Çäng cÛng phäi
Ç°i,n‰u không Ç°i thì ch‰t."
- Sau khi Çäng khai trØ TrÀn ñ¶, m¶t sÓ sï quan và Çäng viên cao cÃp Çã lên ti‰ng ûng h¶ TrÀn ñ¶ nhÜ là Çåi tá Phåm QuÓc DÜÖng,chû nhiŒm Tåp chí LÎch sº Quân ñ¶i, Hoàng H»u Nhân, bí thÜ thành ûy Häi Phòng..
- Ngày 18 tháng
1-1999,khoäng 2000 ÇÒng bào Nam Cali
Çã tø tÆp tåi Little Saigon,
gÀn ÇÜ©ng Bolsa
Ç‹ phän ÇÓi m¶t chû tiŒm cho
thuê bæng vidéo Çã treo c©
c¶ng sän và änh HÒ Chí Minh.
II .TH GII
- Ngày thÙ bäy 19 -12-98,
Hå viŒn Hoa kÿ Çã h†p Ç‹ bÕ
phi‰u cho viŒc
truÃt ph‰ t°ng thÓng Clinton. Trܧc
Çây, t°ng thÓng Andrew Johnson
Çã bÎ luÆn t¶i khi‰n ông bÎ
mÃt chÙc vào næm 1968.
Tháng giêng næm 1999, thÜ®ng viŒn së h†p và quy‰t ÇÎnh viŒc này. N‰u 2/3 nghÎ sï tán thành bän cáo trång cûa Hå ViŒn, t°ng thÓng Clinton së phäi ra Çi. NhÜng ông tuyên bÓ là không tØ chÙc. - ChiŠu 19 tháng 12-1998, trong
lúc Çang bÎ HåviŒn luÆn
t¶i,t°ng thÓng Clinton hå lŒnh tÃn
công
Iraq. ñây là cu¶c chi‰n tranh ÇÖn
phÜÖng vì Iraq im l¥ng. Liên ti‰p
4 Çêm máy bay B52 cÛng nhÜ các
pháo håm Çã liên ti‰p tÃn
công d» d¶i v§i các hÕa tiÍn
Tomahawk. M‡i hÕa tiÍn này giá
khoäng m¶t triŒu mÏ kim ,và trong bÓn
ngày, MÏ Çã phóng Çi
khoäng
400 hÕa tiÍn loåi này. ChÌ có
Canada,Anh quÓc ûng h¶ quy‰t ÇÎnh
cûa
Hoa Kÿ.
Cu¶c tÃn công này có ich l®i gì cho MÏ và th‰ gi§i? T°ng thÓng MÏ bäo là Ç‹ cÙu nhân loåi khÕi bÎ bom vi trùng,bom hÖi Ƕc do Iraq ch‰ tåo.- NhÜng chÌ tÃn
công trong 4 ngày thì có triŒt hå
ÇÜ®c
các cÖ sª và mÜu toan cûa Iraq ch‰
tåo vÛ khí hóa h†c không?
- Th¿c tâm Hoa kÿ muÓn giäi quy‰t tÆn gÓc ng†n vø vÛ khí hóa h†c, hay chÌ là m¶t cái c§ Ç‹ cÙu vãn uy tín Clinton trong lúc bÎ Hå viŒn bÕ phi‰u truÃt ph‰?
- Chính nܧc MÏ
Çã không Üa ch‰ Ƕ quân
chû cûa Iran và
Iraq, Çã ûng h¶ các l¿c
lÜ®ng dân chû tåi Trung ñông
.Chính MÏ cÛng Çã ÇÜa
Saddam Hussein lên ngôi vÎ ngày nay.
Có lë Hoa kÿ nên xem låi chính sách ÇÓi ngoåi cûa mình.
- NhÜng chÌ tÃn
công trong 4 ngày thì có triŒt hå
ÇÜ®c
các cÖ sª và mÜu toan cûa Iraq ch‰
tåo vÛ khí hóa h†c không?
LUẬN LÊ TÙNG MINH
CHÍNH SÁCH ĐàO TạO" TRÍ THứC MỚI "
của ĐẢNG
CộNG SẢN Việt
NAM
Lê
Tùng Minh
Từ sau năm 1954, khi nắm được chủ quyền trên toàn
lãnh
thổ miền Bắc Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam (lúc ấy mang
tên "đảng Lao
Động Việt Nam") đã quan tâm đào tạo một đội ngũ
"Trí Thức Mới"
để phục vụ cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa,
vì như Lênin đã dạy cho
những lãnh tụ cộng sản rằng : "Không có trí
thức cộng sản thì không thể
xây dựng chủ nghĩa cộng sản !".
Do đó, từ 1956, dù ngân sách
Nhà Nước còn rất thiếu thốn,
trông cậy vào sự viện trợ của các nước anh em
xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là Liên
Xô và Trung Quốc, đảng Cộng Sản Việt Nam cho mở cấp tốc
một số trường đại học
như : Đại Học Tổng Hợp, Đại Học Sư Phạm, Đại Học Kinh Tế, Đại Học Y
Dược Khoa
và Đại Học Nông Lâm. Về hình thức, hệ thống
đại học miền Bắc có vẻ rầm rộ bởi
sự phô trương và tuyên truyền, nhất thời đã
lôi cuốn nhiều nhà "trí
thức cũ" tham gia đào tạo đội
ngũ "trí thức mới" ( như các giáo sư Trần Đức
Thảo, Nguyễn Mạnh
Tường, Phạm Huy Thông, Trương Tửu, Phan Khôi, Ngụy Như
Kontum, Nguyễn Hoán,
Đặng Văn Chung v.v...).
Buổi đầu, do
tập trung lo
giải quyết nhiều vấn đề chính trị, kinh tế quan trọng hơn,
nên Bộ Chính Trị
Trung Ương đảng Cộng Sản Việt Nam giao khoáng công
tác giáo dục đại học cho
Đảng Đoàn Bộ Giáo Dục lo, cụ thể là giao cho
Nguyễn Khánh Toàn và sau đó là
Võ
Thuần Nho (em ruột của Võ Nguyên Giáp), Bí
Thư Đảng Đoàn kiêm Thứ Trưởng Bộ
Giáo Dục (lúc này chưa thành lập Bộ Đại
Học). Võ Thuần Nho chịu trách nhiệm
trước Trung Ương Đảng về mọi vấn đề của ngành giáo dục,
trực tiếp chịu sự chỉ
đạo của Lê Đức Thọ (Ủy viên Bộ Chính Trị kiêm
Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương
Đảng).
Nhưng sau vụ "Nhân Văn Giai Phẩm" và "Đất
Mới", Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
Trường
Chinh và Lê Đức Thọ, quyết định siết chặt công
tác tổ chức và tư tưởng đối với
ngành đại học, thực hiện một CHÍNH SÁCH GIAI CẤP
TRONG VIC ĐÀO T[1]O
"TRÍ THC MỚI".
Chính sách ác nghiệt, phản sự tiến
hóa của tiến trình
sinh hoạt cộng đồng và nhân bản của dân tộc, được
thể hiện cụ thể ở mấy điểm
sau đây :
1.- CHỌN
LỰA ĐỘI NGŨ THẦY GIÁO Đ[1]I
HỌC.
Nguyên tắc căn bản để chọn lựa đội ngũ Thầy giáo
Đại Học,
do Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đề ra
là : " Lý Lịch Phải Trong
Sạch; Tuyệt Đối
Trung Thành với Đảng". Do đó, các giáo sư
có dính líu đến các vụ án chống
Đảng hồi năm 1956-1957 đều bị đuổi khỏi
trường đại học, cho đi lao động cải tạo (như các giáo sư
Trần Đức Thảo, Nguyễn
Mạnh Tường, Trương Tửu, Phan Khôi). Giáo sư Trần Văn
Giàu, đảng viên cao cấp,
nhưng vì "tiêu cực đấu tranh" nên cũng không
được tiếp tục dạy ở đại
học (mãi đến sau năm 1975, ông Giàu mới được
phép diễn thuyết ở các trường đại
học).
Bất cứ nhà giáo dục nào cũng hiểu rõ
: Đại Học là nơi đào
tạo nhân tài cho đất nước, vì thế NHÂN TỐ
QUAN TRỌNG HÀNG ĐẦU LÀ ĐỘI
NGŨ THẦY GIÁO (giáo sư, phó giáo sư, giảng
viên và cán bộ hướng dẫn). Có đội
ngũ thầy giáo giỏi mới đào tạo được một lớp học
trò giỏi, là một chân lý phổ
biến, không thể phủ nhận !
Vậy mà thực trạng thầy giáo đại học từ sau
1959-1960 của
ngành đại học miền Bắc Việt Nam đã được TUYỂN LỰA THEO
TIÊU CHUẨN "HỒNG"
HƠN "CHUYÊN".
"Hồng"
là "đỏ
về mặt tư tưởng", nghĩa là phải tuyệt đối trung thành với
Đảng, dạy đúng
theo lời của Đảng. Những người mà Đảng coi là "hồng" bao
gồm các
thành phần : Đảng viên, Đoàn viên xuất
thân từ giai cấp cơ bản (công nhân, bần
cố nông, dân nghèo thành thị). Những người
thầy nầy, dù không có bằng cấp cao,
dù học lực trung bình, cũng được Ban Tổ Chức Trung Ương
Đảng phong cho chức
"giáo sư" hay "phó giáo sư" để có "học vị"
lên
đứng trên bục giảng đường. Tỷ lệ những người thầy đại học
này chiếm đến 80%
tổng số cán bộ giảng dạy đại học của miền Bắc Việt Nam trong
giai đoạn
1960-1975.
Bởi thế,
giáo sư Tạ Quang
Bửu khi còn làm Bộ Trưởng Đại Học (1961-1968) có
nói một câu khá hài hước :
" Đại HỌC CỦA CHÚNG TA CHỈ LÀ PHỔ THÔNG CẤP 4 ".
Còn giáo sư Trần
Văn Giàu thì kết luận thẳng rằng : " NẾU ANH KHÔNG
CÓ BẰNG TIẾN SĨ, KHI TỔ
CHC MUỐN ANH LÀM GIÁO SƯ M
C NHIÊN ANH LÀ TIẾN SĨ ( ! ). NẾU ANH CÓ BẰNG CẤP TIẾN SĨ , MÀ TỔ CHC MUỐN ANH LÀM THẰNG CHĂN BÒ, ANH PHẢI LÀ THẰNG CHĂN BÒ ( ! ) ".
Phương thức tuyển lựa đội ngũ thầy giáo đại học của miền
Bắc Việt Nam có hai cách : Tuyển lựa những người được
đào tạo trong nước, và
tuyển lựa những người được đào tạo ở các nước xã
hội chủ nghĩa (chủ yếu là Liên
Xô và Trung Quốc).
* NHNG THẦY GIÁO Đ[1]I
HỌC ĐƯỢC TUYỂN LỰA TRONG
NƯỚC.
Trong giai đoạn lịch sử này (1960-1975) không
có ai có
bằng cấp Tiến Sĩ cả, mà chỉ có những người đã học
xong CHƯƠNG TRÌNH 10+3 ( tức
là 10 năm ở cấp phổ thông từ tiểu học đến trung học, học
thêm 3 năm ở đại học )
hoặc CHƯƠNG TRÌNH 10+4 ( sau khi
tốt
nghiệp phổ thông học thêm 4 năm đại học ). Trung thực
mà nói, trong đội ngũ
thầy giáo đại học (sau khi tốt nghiệp đại học được giữ lại
trường làm cán bộ
giảng dạy) được tuyển lựa ở diện này cũng có một số người
giỏi (có thể chiếm tỷ
lệ 5%) và về sau đã nổi tiếng là nhờ sự tự học của
họ như Phan Huy Lê, Trần
Quốc Vượng, Hà Văn Tấn.
* NHNG THẦY GIÁO Đ[1]I
HỌC ĐƯỢC TUYỂN CHỌN TRONG SỐ ĐI HỌC Ở CÁC NƯỚC
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
Phần đông trong số họ được đào tạo qua trường bổ
túc công
nông (có trình độ lớp 2 hay lớp 3 vào học 3
năm, 4 tháng lên một lớp thì đậu
bằng tương đương lớp 10), rồi học một năm ngoại ngữ của nước mà
họ được đi du
học (chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc). Sau 4
hay 5 năm học ở nước ngoài, đậu
bằng kỹ sư, cử nhân hay phó tiến sĩ. Bất cứ học sinh
công nông nào được cử đi
du học ở các nước xã hội chủ nghĩa, dù học giỏi
hay dở, đến thời hạn vẫn được
cấp bằng (theo chính sách "chiếu cố Việt Nam" của phe
quốc tế cộng
sản). Có thể khẳng định tỷ lệ giỏi cũng không quá
5%. Trường hợp phó tiến sĩ
sinh vật học Phan Văn Khải, đương kim thủ tướng của Cộng Sản Việt Nam
cũng xuất
thân từ đội ngũ công nông du học này.
*
* *
Một số thầy giáo đại học sau này được Nhà
Nước Cộng Sản
phong giáo sư và đã nổi tiếng là giỏi như
giáo sư sử học Phan Huy Lê (em ruột
của bác sĩ Phan Huy Quát, nguyên chủ tịch
Liên Minh Á Châu Chống Cộng Việt Nam,
đã chết trong nhà tù của Cộng Sản Việt Nam sau năm
1975); giáo sư toán học Phan
Đình Diệu; giáo sư ngôn ngữ Nguyễn Tài Cẩn
v..v... tuy không thuộc thành phần
cơ bản, nhưng họ không có biểu lộ "mất lập trường
chính trị" và nhất
là không có hành động chống đối, làm
tốt công tác giảng dạy, đào tạo theo chính
sách của Đảng (ít nhất là trước 1990). Nói
cách khác, dù là người có
tài, đỗ
đạt cao, nhưng không thuộc thành phần cơ bản, nếu
có được giảng dạy ở đại học
thì cũng là loại giảng viên thường, không
được giữ những chức vụ như Chủ Nhiệm
Khoa hay Trưởng Bộ Môn, thậm chí không được giữ cả
chức Chủ Nhiệm Lớp.
Sau năm 1975, khi đảng Cộng Sản Việt Nam dùng võ
lực
cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, và đặt cả nước vào chung
một chế độ chính trị
"Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam", do việc "mua chuộc"
một số trí thức khoa bảng của chế độ Việt Nam Cọng Hòa
nên về
HÌNH THC TUYỂN
DỤNG THẦY GIÁO Đ[1]I
HỌC CÓ THAT ĐỔI; NHƯNG VỀ BẢN CHẤT GIAI CẤP CỦA CHÍNH
SÁCH V N KHÔNG HỀ
THAY ĐỔI ! Chính vì lẽ đó mà nhiều
giáo sư của chế độ cũ dần dần từ bỏ chế độ
mới, vượt biên bỏ nước ra đi, mang đầy sự hận tủi của người
trí thức lưu vong !
Để cho bộ mặt đại học khỏi phải mang tiếng là "Phổ
thông cấp 4", và cũng để "sánh ngang" với nền đại
học nước
người, Nhà nước Cộng Sản Việt Nam liền cho phong hàm, cấp
vị một cách
"khoáng đại". Hàng loạt Phó Tiến Sĩ, Tiến Sĩ,
Giáo Sư, Phó Giáo Sư ra
đời không theo qui chế nào của đại học quốc tế (!?). Theo
sự đánh giá của các
chuyên gia đại học quốc tế thì nhiều lắm chỉ có 5%
trong số được phong hàm, học
vị đại học của Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam (sau năm 1975)
là đạt tiêu chuẩn
(!?). Số lượng thầy giáo tăng lên một cách đột
ngột, mà nếu xét về hiện tượng
chưa chắc có một quốc gia nào, dù là hiện
tại như Pháp, Anh, Mỹ, so sánh bằng:
Theo thống kê chính thức của Bộ Đại Học và
Giáo Dục Chuyên Nghiệp (của Nhà Nước
Cộng Sản Việt Nam) tỷ lệ trung bình của thầy giáo Đại Học
so với sinh viên toàn
quốc là 1/6. Còn tại một số đại học lớn ở Hà Nội
là 1/2.5; đặc biệt có một vài
đại học là 1/1 (số liệu thống kê năm 1993).
2.- PHƯƠNG THC
THI TUYỂN SINH VIÊN.
Theo các thông tri tuyển sinh vào đại học
của Bộ Giáo Dục
(trước năm 1966) và Bộ Đại Học và Giáo Dục
Chuyên Nghiệp (sau năm 1961) cho
đăng công khai trên các báo của Nhà
Nước thì "không phân biệt thành phần
giai cấp và tín ngưỡng, miễn em nào có bằng
lớp 10 (phổ thông hoặc bổ túc công
nông) đều được quyền dự thi tuyển vào trường đại học
nào mà các em thích; đồng
thời nếu đạt đủ điểm qui định thì không có
lý do nào không được nhận vào trường
đại học".
Nhưng sự thật
thì không hoàn
toàn đúng như lời bố cáo trong các bản
thông tri tuyển sinh hằng năm của Bộ
Giáo Dục (hay Bộ Đại Học.....).
Thực tế, có sự phân biệt đối xử theo một
chính sách rất
khắc nghiệt đối với các em học sinh không thuộc
thành phần cơ bản (công nhân,
bần cố nông, lớp nghèo thành thị ) như là :
* Kiên quyết loại
bỏ các em học sinh thuộc các thành phần địa chủ,
tư sản... và càng kiên quyết
loại trừ các em thuộc thành phần làm việc cho chế
độ cũ ( làm cho Pháp trước
năm 1954 và làm cho Việt Nam Cọng Hòa hoặc
làm cho Mỹ sau 1955 ). Nếu có trường
hợp em nào quá giỏi, có dư luận đông đảo của
quần chúng biết đến, thì cho vào
học các trường trung cấp chuyên nghiệp (nhưng rất hạn
hữu). Chính sách giai cấp
này đã mang lại một hậu quả rất nghiêm trọng :
Không những đã kềm hãm và giết
chết tài năng của tuổi trẻ, làm tổn hại đến nhân
tài của đất nước trong tương
lai; mà còn tạo ra một thảm cảnh làm tan
nát cuộc đời của một số em, vì thất vọng
buồn chán..... rồi gia nhập vào đội quân "xã
hội đen" (!).
* Ưu tiên tối đa
cho các em thuộc thành phần cơ bản, đặc biệt là
con em của cán bộ trung cao cấp
đảng, con em của các đảng viên đang nắm quyền thế ở địa
phương, từ Xã, Huyện, Tỉnh đến
Trung Ương. Do đó, có
những em rất kém cũng thi vào đại học. Theo dư luận
xã hội : Đó là thi
"đậu lý lịch" (!). Chính sách ưu tiên cho
giai cấp cầm quyền này đã
tạo một hậu quả nghiêm trọng lâu dài cho tương lai
của dân tộc; bởi vì chỉ đào
tạo một tầng lớp trí thức không đủ tiêu chuẩn về mặt
kiến thức, và thiếu cả
phẩm hạnh của trí thức là tự tin, dựa vào sức
mình là chính ! Chính một số trí
thức mới được đào tạo trong cái lò này
đã và đang trở thành những "ông
quan cách mạng" chỉ biết vâng, dạ, xu nịnh, mánh
mung làm thiệt hại lớn
cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước !
Thực tế, tưởng rằng đã được thay đổi tận gốc từ lâu
sau
khi đảng Cộng Sản Việt Nam tuyên bố đổi mới tư duy, mở cửa về
kinh tế, cải cách
về giáo dục (từ sau 1990). Nhưng thực chất vấn đề "chủ nghĩa
giai
cấp", vẫn còn nguyên, dù rằng báo chí
của Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam có
tuyên truyền rầm rộ cho sự thay đổi này (!). Chính
sách giai cấp, chủ nghĩa
thành phần (hay chủ nghĩa lý lịch) vẫn còn thống
trị trong đầu óc các cán bộ tổ
chức có trách nhiệm duyệt xét tuyển sinh.
Vì lý do đó, đã nãy sinh tâm
lý phổ
biến đối với các em học sinh học giỏi, nhưng không thuộc
thành phần cơ bản,
muốn bỏ nước ra đi ngày càng nhiều. Họ có
hoài bảo sẽ đỗ đạt cao ở nước ngoài.
Đó là một nguyện vọng chính đáng, nhưng
là một hiện tượng đáng buồn cho sự
nghiệp đào tạo trí thức tại nước nhà cho dân
tộc ! Khốn khổ thay ! Không phải
em học sinh nào vượt biên, bỏ nước ra đi, đều đến bến bờ
vinh quang ! Tất cả
đều bắt nguồn từ một chính sách sai lầm tả khuynh của
Đảng Cộng Sản Việt Nam,
mà đến nay họ mới nhìn thấy trên khía cạnh
lý thuyết. Nhưng họ vẫn kiên quyết
bảo vệ chính sách độc quyền giai cấp ấy !
3.- SỰ THỐNG
TR CỦA MÔN "CHỦ NGHĨA MARX - LÊNIN" VÀ H
U QUẢ CỦA NÓ.
Như
trên đã trình
bày : Trong chính sách đào tạo "trí
thức mới" (hay trí thức xã hội
chủ nghĩa) của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì, coi trọng "HỒNG" hơn "CHUYÊN".
Muốn tô "hồng" tư tưởng, tình cảm và lập
trường
của sinh viên chỉ có cách là nhồi
nhét thật nhiều, thật sâu môn học "chủ
nghĩa Marx-Lênin" cho sinh viên; đồng thời bắt buộc sinh
viên phải nhận
thức được rằng môn "chủ nghĩa Marx - Lênin" là
môn học quan trọng
hàng đầu ở đại học, là một môn học có vai
trò quyết định cả tương lai thăng
tiến của mỗi sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học (!).
Vì vậy, trong chương trình giảng dạy ở các
trường đại học
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, môn chủ nghĩa Marx -
Lênin coi như là môn bắt buộc
phải đạt điểm theo quy định.
Môn học chủ nghĩa Marx - Lênin bao gồm những
bài học về :
a) Triết học
Marx-Lênin (Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử).
b) Kinh tế chính trị
học Marx-Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học (cụ thể
là học về chính sách của
các đảng cộng sản, đặc biệt là chính sách
của đảng Cộng Sản Liên Xô,
Trung Quốc
và Việt Nam). Nội
dung giảng dạy môn này cho sinh viên ở các
trường đại học chuyên nghiệp (Bách
khoa,Y Dược, Nông Lâm, Kiến trúc, Thủy lợi v..v...)
nhẹ hơn sinh viên các
trường Khoa học Xã hội (Kinh tế, Luật, Sử, Văn....). Tuy
nhiên, nói chung môn
chủ nghĩa Marx-Lênin dạy ở các trường đại học không
nhằm đào tạo những
"cán bộ lý luận" Marx-Lênin (như trường Đảng Nguyễn
Ái Quốc hay
trường Đại Học Chính Trị), mà chủ yếu là
rèn luyện lập trường chính trị, lập
trường "tin tưởng tuyệt đối" vào sức mạnh vạn năng của chủ nghĩa
Marx-Lênin, của Đảng Cộng Sản (!).
Vì mục đích và yêu cầu của môn
chủ nghĩa Marx-Lênin ở các
trường đại học như vậy, nên điều quan trọng nhất là "cưỡng
bức tư
tưởng" hơn là tiếp thu một môn khoa học xã hội. Do
đó, các thầy giáo dạy
chủ nghĩa Marx-Lênin ở các trường đại học cũng có
những tiêu chuẩn khác. Trước
tiên, họ phải là đảng viên đã được trui
rèn trong quá trình thử thách sự trung
thành đối với Đảng. Sau đó, họ được đào tạo qua
một lớp học chủ nghĩa
Marx-Lênin (ngắn hạn là 1 năm, dài hạn là
2-3 năm) và có khả năng
giảng dạy (hay truyền đạt đúng như chỉ thị của
Đảng), chớ không cần có khả năng nghiên cứu
phát hiện ra những lỗi lầm của học
thuyết Marx-Lênin. Cuối cùng, họ chỉ cần có một
trình độ văn hóa nhất định
(trình độ sơ học hay trung học càng tốt), không
đòi hỏi họ có bằng đại học.
Nhưng, họ lại là những thầy giáo có vai trò
lãnh đạo các thầy giáo của các bộ
môn khác trong trường đại học. Mọi chủ trương,
chính sách về cán bộ, về lương
bổng, thậm chí về nội dung giảng dạy ở nhà trường đại học
đều do thành phần này
quyết định là chủ yếu.
Đối với sinh viên, nếu học kém về môn chủ
nghĩa
Marx-Lênin thì không được lên lớp, không
đủ điểm trong kỳ thi tốt nghiệp về môn
này thì không được cấp bằng tốt nghiệp, dù
số điểm của các môn khác có cao đến
đâu (!). Sinh viên phải thi lại vào năm sau, hoặc
năm sau nữa, cho đến khi nào
đậu môn chủ nghĩa Marx-Lênin mới được nhận bằng tốt nghiệp.
(!). Vì vậy, dư
luận sinh viên đã cho rằng : " MÔN CHỦ NGHĨA
MARX-LÊNIN LÀ MÔN QUYẾT ĐNH
CUỘC ĐỜI ", hay mỉa mai hơn " MÔN CHỦ NGHĨA
MARX-LÊNIN
LÀ CHA CỦA CÁC
MÔN HỌC KHÁC ".
Trong thực
tế, nhiều sinh
viên học môn này không phải để nâng cao
kiến thức, mà "học gạo" để đối
phó, miễn sao cho đủ điểm đậu, chớ
không cần gì hơn. Do đó, đa số sinh viên sau
khi tốt nghiệp nhất là sinh viên
khoa học cơ bản (Toán, Lý, Hóa, Sinh vật...)
và
sinh
viên kỹ thuật chuyên
nghiệp (Cơ khí, Luyện kim, Điện học, Xây dựng, Nông
Lâm nghiệp, Kế toán, Tài
chánh...) đều không thể giải thích nổi một
câu hỏi thuộc phạm trù lý luận của
chủ nghĩa Marx-Lênin (Thí dụ : Tại sao gọi là Duy
Vật Biện Chứng ? Nội dung của
Chủ nghĩa Duy Vật Lịch Sử là gì ? Những điểm khác
nhau giữa chủ nghĩa Xã Hội Khoa
Học và Lịch Sử Đảng ? v..v...).
SỰ THỐNG TR MÙ QUÁNG ĐẾN CUỒNG TÍN CỦA BỘ
MÔN CHỦ
NGHĨA MARX-LÊNIN TRONG CÁC TRƯỜNG Đ[1]I
HỌC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIT NAM , KÉO DÀI
TỪ NĂM 1956
ĐẾN NĂM 1990 :
19 năm của riêng miền Bắc Việt Nam, và 15 năm cho cả nước
Việt Nam. Đây quả là
một tai ách đối với ít nhất 9-10 thế hệ đại học, nối tiếp
nhau (nếu tính trung
bình, một thế hệ là 4 năm). Nó bóp chết
biết bao nhiêu tài năng của dân tộc,
đồng thời nó còn gây một hậu quả trầm trọng cho
việc xây dựng và phát triển đất
nước trở thành một quốc gia văn minh và hiện đại !
Sau sự biến động ở Đông Âu, khối Cộng Sản Quốc Tế do
Liên
Xô đứng đầu đã sụp đổ hoàn toàn (1988-1991,
lý tưởng Cộng Sản trở thành cơn ác
mộng, và CHỦ NGHĨA MARX-LÊNIN
KHÔNG CÒN
Ở TÌNH TR[1]NG
XÉT L[1]I
HIN Đ[1]I,
MÀ NÓ ĐÃ RƠi VÀO TÌNH TR[1]NG
B CHỐI BỎ ! Những thần tượng Marx,
Engels, Lênin, Xít ta Lin, Mao Trạch Đông, Hồ
Chí Minh lần lượt sụp đổ trong
lòng tin, ngay cả đối với các đảng viên Cộng Sản
thức tỉnh. Vì vậy, việc học
tập môn chủ nghĩa Marx-Lênin ở các trường đại học
Việt nam cũng bị xét lại :
Thầy giáo lên bục cũng không dám tin những
điều của họ giảng là chân lý. Sinh
viên ngồi học thì cảm thấy chán nản vì thấy
mình đang là con cừu non trước sự
thuyết giảng đầy dối trá. Cả thầy và trò đều mất
lòng tin, đều cảm thấy khó
chịu vì bị bắt buộc giảng và học đến như những người
cuồng tín. Nhưng, trong
khi các nước Đông Âu và Nga đã
bãi bỏ hẳn giáo trình chủ nghĩa Marx-Lênin ở
đại
học, thì ở Việt Nam vẫn cứ duy trì một môn học
vô giá trị đó đối với việc đào
tạo tầng lớp trí thức mới. Tuy nhiên, sức mạnh của
dòng tư tưởng đối kháng
trong sinh viên đại học đã trưởng thành theo phong
trào dân chủ tự do của toàn
dân, nên đảng Cộng Sản Việt Nam không dám
ngoan cố trắng trợn như những năm
1991 về trước và đã âm thầm cho phép nới
lỏng yêu cầu học môn chủ nghĩa
Marx-Lênin, vô hình trung không còn coi
môn học này là môn học có tính
quyết
định số phận tốt nghiệp của sinh viên nữa.
Cho đến nay, giáo trình "chủ nghĩa
Marx-Lênin" cho
các trường đại học đã được biên soạn lại nhiều lần,
nhưng chưa có một giáo
trình nào hoàn chỉnh. Đã có nhiều
ý kiến cho rằng : Bộ Đại Học và Giáo Dục
Chuyên Nghiệp nên bỏ môn học "chủ nghĩa
Marx-Lênin", hay ít nhất chỉ
xem đó là một môn học bình thường và
học hay không là quyền chọn lựa của sinh
viên (?). Vẫn chưa thấy ban Khoa Giáo Trung Ương Đảng trả
lời dứt khoát (?).
4.- THỰC TR[1]NG
CỦA NỀN Đ[1]I
HỌC VIT NAM TRONG TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH
HIN NAY.
Ông Bộ Trưởng Đại Học Trần Hồng Quân luôn
luôn lên tiếng
về chương trình cải cách nền đại học của chế độ Cộng Sản
Việt Nam trong mấy năm
qua, nhưng thực tế thì không tiến triển bao nhiêu.
Theo các quan chức của nền
đại học Việt Nam thì MỘT TRONG LÝ DO QUAN TRỌNG
LÀM CH
M SỰ ĐỔI MỚI CỦA NỀN GIÁO DỤC Đ[1]I HỌC LÀ
"KHÔNG
CÓ NGÂN
SÁCH". Ví dụ như : Theo tài liệu của Bộ Tài
Chánh Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam cho ta thấy ngân sách của Nhà Nước
dành cho việc giáo dục đại
học thật là quá ít, như năm 1993 chỉ có 85
triệu Mỹ kim (chiếm 15% trên tổng số
ngân sách của toàn ngành giáo dục).
Phần lớn số tiền đó dành để trả lương cho
giáo chức và nhân viên phục vụ ở đại học.
Vì vậy, chính phủ Cộng Sản chấp thuận
cho Bộ Đại Học tiến hành trước tiên là CẢI TỔ
TÀI CHÁNH như thu học phí đại học,
cho phép mở đại học bán công, dân lập
và tư thục; đồng thời phát triển nguồn
thu tài chánh từ các hoạt động nghiên cứu
khoa học và dịch vụ tư vấn. Nhưng
trong thực tế từ năm 1991 đến năm 1995, trong tiến trình cải tổ
đại học, việc
cải tổ tài chánh không đạt được kết quả đáng
kể, để bù đắp cho sự thiếu hụt
trầm trọng của ngân sách giáo dục đại học. Ngược
lại, đã tạo ra sự cạnh tranh
kiếm tiền giữa các trường đại học, làm giảm sút
chất lượng giảng dạy và gây
nhiều mâu thuẫn, cũng như tệ đoan tham nhũng trong các kỳ
thi tuyển vào đại học
(ý
kiến của Tiến Sĩ Nguyễn
Thiện Tống, giáo sư đại học của chế độ Cộng Sản Việt Nam).
Và,
theo các nhà nghiên cứu
giáo dục đại học thì LÝ DO CHÍNH LÀM
CHO CÔNG CUỘC CẢI CÁCH Đ[1]I
HỌC TIẾN TRIỂN CH
M CH[1]P LÀ DO SC Ỳ CỦA THẾ LỰC BẢO THỦ TRONG HÀNG NGŨ LÃNH Đ[1]O ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC. Họ tuy đã chấp nhận về mặt lý thuyết rằng : "Phải cải cách nền đại học để đáp ứng kịp thời những nhu cầu về trí thức và đào tạo một xã hội giao lưu và mở cửa ra bên ngoài, nên phải chấp nhận quy luật cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, đào thải không nhân nhượng đối với mọi cá nhân đã và đang tụt hậu trước trào lưu tiến hóa của một xã hội văn minh và tiến bộ"
(xem
Thông tri về "Cải
cách nền đại học", 1992, phần "Lý do phải cải cách
nền đại học").
Họ cũng thừa
nhận rằng :
"Trong một thời gian dài hệ đại học Việt Nam được xây dựng
và đào tạo trí
thức mới theo kế hoạch Nhà Nước. Đại học tách rời với
nghiên cứu, và tách rời
nhu cầu tiến lên của xã hội, lại càng tách
rời với sự tiến bộ không ngừng của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang tiến hành
trên hầu khắp thế giới văn
minh" (tài liệu đã dẫn). Tài liệu điều tra của
liên ngành Lao Động -
Thương Binh - Xã Hội với liên hiệp các hội Khoa Học
Kỹ Thuật thành phố HCM thì
trong số hơn 10,000 kỹ sư, cử nhân, bác sĩ ra trường trong
niên khóa 1994-1995
của nước cho thấy 70% "trí thức mới chưa đủ trình độ
thích ứng với những
đòi hỏi của một nền kinh tế thị trường". Theo như sự than phiền
của nhiều
giáo sư đang giảng dạy trong chế độ của Cộng Sản Việt Nam
thì "Các giáo sư
đánh giá và cho điểm các luận văn tốt
nghiệp (chớ không phải luận án !) chỉ
đồng nghĩa với việc 'trả xong nợ sách đèn'. Nghĩa
là các luận văn tốt nghiệp
chỉ là sự luyện tập cho sinh viên về phương diện
nghiên cứu chuyên đề khoa học.
Thực tế, nó chẳng đóng góp gì
cho khoa
học và đời sống của xã hội". Và theo ông
Nguyễn Văn Giao, chuyên viên cao
cấp của văn phòng chính phủ Cộng Sản Việt Nam khẳng định
: "Nhà Nước không
ổn định được mức độ chất lượng đào tạo, và cũng
không có khả năng đảm bảo chất
lượng, nhất là trong lãnh vực nghiên cứu khoa học".
Thực tế này đến năm
nào mới khắc phục ?
Sự cải
cách nền đại học đang
"bước những bước như rùa bò, trong khi nhu cầu điều
hành, quản lý một nền
kinh tế thị trường thì chạy với tốc độ cấp số nhân" !
Chúng
ta biết thời
đại hiện nay là thời đại của hỏa tiễn và điện tử,
đòi hỏi những nhà trí thức,
những chuyên gia phải có khả năng thích nghi với
tiến bộ của khoa học, kỹ thuật
hiện đại thật mau chóng, phải có khả năng sáng tạo
không ngừng mới được hữu
dụng. Thời đại hôm nay đòi hỏi những người có
trình độ đại học không được phép
dừng lại ở những gì đã học được trong nhà trường,
mà phải đòi hỏi đổi nghề
nhiều lần trong nghề lao động trí óc của một chuyên
gia. Ngày nay, với đà văn
minh mới, việc tổ chức hợp lý hóa lao động lấy máy
móc làm yếu tố quyết định
của Taylor đã lỗi thời. Với kỹ thuật hiện đại, chất lượng tri
thức về khoa học
kỹ thuật của con người là nhân tố hàng đầu trong
việc tăng khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp, và tạo hiệu năng cho toàn bộ
nền kinh tế của quốc gia. Vì
vậy, nhiệm vụ chính của nền đại học là đào tạo
những trí thức mới thích ứng
không những cho hôm nay mà cho cả ngày mai,
cho những thời buổi đột biến mà
chưa ai đoán chắc được ! Nền đại học Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam liệu có làm nỗi nhiệm vụ đó hay
không, khi thế giới bước vào thế
kỷ thứ 21, một thế kỷ có nhiều đột biến bất ngờ (?).
Vì như trên đã có đề cập, số lượng
giáo chức của đại học
Việt Nam hiện nay rất đông, nhưng lại thiếu những giáo sư
có đủ trình độ để
giảng dạy ở đại học theo yêu cầu mới. Theo tài liệu thống
kê của Bộ Đại Học
Cộng Sản Việt Nam năm 1994-1995 cho thấy : Số giáo chức đại học
có bằng cấp
trên đại học (Phó Tiến Sĩ, Tiến Sĩ) ở các viện đại
học lớn (Hà Nội và Thành phố
HCM) chỉ chiếm hơn 30% trong tổng số giáo chức đại học cả nước.
Trong khi đó, ở
các nước như Mỹ, Anh, Pháp hay Nhật, Úc
v..v...giáo sư đại học đều phải có cấp
bằng Tiến Sĩ. Đó là chưa kể bằng cấp Phó Tiến Sĩ,
Tiến Sĩ ở Việt Nam còn nhiều
điểm yếu hơn bằng cấp quốc tế. Tình trạng này đã
tạo nên một dư luận phổ biến
trong giới tuyển dụng "trí thức mới" rằng : " Đ[1]I
HỌC VIT NAM CHỈ SẢN XUẤT HÀNG GIẢ (!?). Và mỉa mai thay,
" NGƯỜI CHƯA
TỐT NGHIP Đ[1]I
HỌC CŨNG ĐI CHIÊU SINH CAO HỌC. Không thể nào tưởng
tượng được trường
phổ thông cũng đứng ra thông cáo mở Cao học" ( Theo
Tiến Sĩ Đào Công Tiến,
giám đốc trường Đại Học Kinh Tế thành phố HCM ).
Việc mời một số giáo sư người Việt nước ngoài, hay
một số
giáo sư người Pháp, người Mỹ vào
dạy
một số môn ở các đại học Việt Nam chỉ là một việc
làm có tính cách "tô son
điểm phấn" cho chính sách cải cách đại học của
Cộng Sản Việt Nam. Thật sự,
nó chẳng mang một ý nghĩa chuyển mình nào
về mặt chất lượng giáo dục đại học.
*
* *
Muốn cải cách nền đại học cho có kết quả tốt trong
tình
hình hiện nay của Việt Nam Cộng Sản là vấn đề rất
khó khăn. Vấn đề chính không
phải là khó khăn về mặt ngân sách, mà
ĐIỀU KHÓ KHĂN NHẤT LÀ QUAN ĐIỂM CỦA CÁC
NHÀ LÃNH Đ[1]O
TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIT NAM. Họ có chịu từ bỏ
chính sách giai cấp trong việc đào tạo
các
chuyên gia hay không ? Họ có chịu để cho nền
giáo dục đại học được mở rộng, tự
do phát triển như nền giáo dục đại học ở các nước
Âu Mỹ hay không ?
Việt Nam không thiếu mầm non nhân tài,
có thể khẳng định
là không thua kém bất cứ dân tộc nào
trên trái đất này. Điều này đã được
chứng
minh hùng hồn qua sự thành công của tuổi trẻ Việt
Nam ở Hải Ngoại trong hai
thập niên qua ( 1975-1995 ). Thế nhưng ngày nay nền
giáo dục Việt Nam tụt hậu
hơn vài chục năm so với các nước láng giềng
Châu
Á. Thử hỏi trách nhiệm
lỗi lầm này thuộc về ai ?
Để thay lời kết luận, chúng tôi xin trích
đăng lại lời
than vãn của ông Trần Hồng Quân, đương kim Bộ Trưởng
Đại Học của Cộng Sản Việt
Nam, rằng : " Nếu chúng ta đào tạo chất lượng kém
thì số lượng càng lớn
càng lãng phí mà thôi. Chúng
ta làm HÀNG GIẢ
thì
có tội với xã hội và người
học. Có tội ở đây là HÀNG GIẢ gây ra
tai hại cho xã hội, nhưng đồng thời HÀNG
GIẢ chiếm mất chỗ lẽ ra phải có của HÀNG TH
T để thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội to lớn" ( Theo bài " Chất lượng giáo dục đồng thời ", báo
Tuổi
Trẻ, 27-11-94 ) ./.
Lê Tùng
Minh
SƠN TRUNG * LỜI THẢO MỘC
L©i
Thäo M¶c
SÖn Trung
Tôi là thäo m¶c, m¶t loài
thäo m¶c tÀm thÜ©ng.Tôi sÓng
ª Canada, là m¶t xÙ sª tuyŒt v©i
nhÃt th‰ gi§i. Ti‰ng nói cûa tôi
là ti‰ng nói cûa các loài cây
trên rØng,cây trong công viên.
Ti‰ng nói cûa tôi cÛng là ti‰ng
nói cûa loài cÕ
trên ÇÒi, rau trong nông tråi,
và hoa trong vÜ©n
M¶t sÓ ngÜ©i không hi‹u chúng
tôi. H† nghï
r¢ng chúng tôi là loài vô
giác, vô tri. S¿ th¿c,
chúng tôi không khác gì loài
ngÜ©i. Chúng tôi
cÛng æn uÓng nhÜ loài ngÜ©i
cho nên con ngÜ©i
Çã phäi tܧi nܧc và vun
bón chúng tôi.
M¶t sÓ anh em chúng tôi ª Phi châu
Çã æn thÎt
sÓng. N‰u loài ngÜ©i chia ra nam n»,
Çàn ông
yêu Çàn bà, Çàn bà
yêu Çàn ông thì chúng tôi
cÛng vÆy. Chúng tôi ÇÜ®c chia
ra hoa Ç¿c,
hoa cái và chúng tôi cÛng có
hiŒn tÜ®ng thø
phÃn nhÜ Çàn bà thø thai.
Chúng tôi cÛng thª
ra,hít vào nhÜ con ngÜ©i. N‰u loài
ngÜ©i thª
b¢ng miŒng và mÛi thì chúng tôi
cÛng thª b¢ng lá. Ban ngày, chúng
tôi thäi dÜ«ng khí
ra,hút thán khí vào. Còn ban
Çêm, chúng tôi
thäi thán khí ra, hít dÜ«ng
khí vào.
Chúng tôi có m¶t Ç©i
sÓng. Chúng tôi cÛng sinh ra, l§n
lên và m¶t ngày nào Çó,
chúng tôi cÛng së ch‰t Çi. Chúng
tôi có m¶t lÎch sº. Chúng tôi
có quá khÙ, hiŒn tåi và
tÜÖng lai. Chúng tôi cÛng có h†
hàng, t° tiên, cha mË,và anh chÎ
em.Và chúng tôi cÛng có bån
bè n»a. Chúng tôi cÀn yêu
và ÇÜ®c yêu. Chúng tôi
khác v§i loài Çá sÕi vô
tri, lånh lùng và vô cäm. Chúng
tôi có linh hÒn và tình cäm.
Trong các thi nhân th‰ gi§i, chúng tôi
yêu Chateaubriand nhÃt, là m¶t thi sï
ngÜ©i Pháp ª th‰ k› 19 , bªi vì
ông Çã hi‹u chúng tôi. Ông
nói r¢ng chúng tôi- cây cÕ,
sÕi Çá, sông,hÒ..-
ÇŠu có m¶t linh hÒn, linh hÒn
ông và linh hÒn chúng tôi cùng
tÜong thông tÜÖng cäm :
" Objets inanimés, avez vous donc une âme?
Qui s' attache à notre âme et la force d'aimer ?"
Chúng tôi có buÒn, có vui. Chúng tôi có lúc hy v†ng và cÛng có lúc tuyŒt v†ng. Mùa xuân là mùa ÇËp nhÃt trong næm. ñó là th©i kÿ hånh phúc nhÃt trong Ç©i chúng tôi. BÀu tr©i rång r« và m¥t tr©i chi‰u sáng. Khí hÆu tuyŒt v©i và chúng tôi rÃt khÕe kho¡n. Chim ca trên bÀu tr©i và chúng tôi mÌm cÜ©i b¢ng nh»ng Çoá hoa ÇËp Çë cûa chúng tôi. Chúng tôi rÃt sung sܧng khi thÃy nh»ng Çôi nam n» tay trong tay Çi dåo trong công viên.
Mùa hè chúng tôi cÛng rÃt sung sܧng. M†i ngÜ©i lìa bÕ nh»ng chi‰c áo mùa Çông, mÛ,giày Óng. H† Çi ljn công viên , h† Çi ra bãi bi‹n b¢ng nh»ng thÙ y phøc nhË nhàng. ñây là th©i gian mà chúng tôi cÓng hi‰n cho loài ngÜ©i rÃt nhiŠu hoa,trái và rau.
Sau mùa hè là mùa thu. NhiŠu væn nhân, thi sï Çã ca tøng mùa thu. H† ca tøng vÈ ÇËp cûa mùa thu , nhÃt là mùa thu Canada. H† rÃt vui thú khi thÃy lá cây thay màu Ç°i s¡c, tØ xanh sang vàng, tØ hÒng sang ÇÕ. S¿ thÆt, h† không hi‹u chúng tôi. H† sung sܧng trܧc cái Çau ǧn,buÒn bã và tuyŒt v†ng cûa chúng tôi. Mùa thu là khªi Çi‹m cûa n‡i Çau kh°, ch‰t chóc cûa chúng tôi. Nhåc sï Phåm Duy , m¶t nhåc sï ViŒt Nam Çã hi‹u chúng tôi khi ông vi‰t bän nhåc " Mùa Thu Ch‰t". NgÜ©i ta yêu màu ÇÕ,màu hÒng,màu vàng nhÜng chúng tôi thì không. Chúng tôi chÌ yêu màu xanh bªi vì Çó là màu t¿ nhiên,màu ÇËp Çë. M¶t sÓ ngÜ©i cho r¢ng màu xanh là màu hy v†ng. Chính th‰. Màu xanh là màu cûa s¿ sÓng chúng tôi. Còn các màu khác là dÃu hiŒu cûa bŒnh hoån, ch‰t chóc. ñÓi v§i con ngÜ©i,nhiŠu màu s¡c là tÓt, còn chúng tôi thì ghét l¡m . Chúng tôi ÇÒng š v§i m¶t nhåc sï ViŒt Nam trong bài "Mùa thu ch‰t". Tåi sao vÆy? Bªi vì mùa xuân, mùa hè,khí hÆu khoäng 20 Ƕ-30 Ƕ, rÃt thích h®p v§i con ngÜ©i, thú vÆt và cây cÕ. NhÜng khi mùa thu ljn,khí hÆu xuÓng ljn không Ƕ ho¥c hÖn n»a. Chúng tôi không th‹ chÎu Ç¿ng ÇÜ®c khí hÆu kinh khûng này. Chúng tôi trª nên héo úa. Chúng tôi b¡t ÇÀu tranh ÇÃu v§i ÇiŠu kiŒn khÓn kh° này, cho nên chúng tôi không còn gi» ÇÜ®c màu s¡c xanh tÜÖi nhÜ trܧc.Khi mùa Çông ljn, chúng tôi ch‰t thÆt s¿ ho¥c gÀn ch‰t. M‡i ngày, chúng tôi røng Çi m¶t ít lá. CuÓi cùng thân xác chúng tôi trÖ trøi gi»a tr©i Çông tuy‰t lånh v§i cành cây khô héo,trØ loài thông thì bao gi© cÛng tÓt tÜÖi. Các bån bè chúng tôi,rau cÕ låi càng thê thäm hÖn. Rau trong nông tråi thì ch‰t såch, còn cÕ thì bi‰n mÃt dܧi nh»ng ÇÓng tuy‰t cao. Chúng tôi nói nh»ng ÇiŠu trên là muÓn chÙng tÕ v§i quš vÎ r¢ng chúng tôi có tình cäm và linh hÒn. Chúng tôi còn có lš trí.
NhiŠu phen chúng tôi Çäo Çiên vì nh»ng ÇiŠu kiŒn kh¡c nghiŒt cûa cu¶c sÓng, nhÜng chúng tôi không bi quan. Chúng tôi nhÆn thÙc r¢ng Ç©i có thÎnh có suy, nhÜng vÃn ÇŠ quan tr†ng là chúng ta phäi vÜ®t qua giai Çoån khó khæn và làm h‰t sÙc mình trong m†i tình huÓng. Sau cÖn mÜa tr©i låi sáng. Sau mùa Çông ,là mùa xuân. ñó là th©i kÿ Ãm áp,tuy‰t Çã tan. CÕ trên ÇÒi và bên vŒ ÇÜ©ng Çã xuÃt hiŒn v§i màu xanh non. Cây trong rØng và trong công viên Çã Çâm chÒi. Hoa Çã nª kh¡p nÖi. M¶t cu¶c sÓng m§i Çã trª låi v§i chúng tôi và v§i m†i ngÜ©i. Chúng tôi tÆn hܪng ánh m¥t tr©i Ãm áp. Mùa xuân và muà hè Çã bù Ç¡p cho mùa thu và mùa Çông buÒn bã.
" Objets inanimés, avez vous donc une âme?
Qui s' attache à notre âme et la force d'aimer ?"
Chúng tôi có buÒn, có vui. Chúng tôi có lúc hy v†ng và cÛng có lúc tuyŒt v†ng. Mùa xuân là mùa ÇËp nhÃt trong næm. ñó là th©i kÿ hånh phúc nhÃt trong Ç©i chúng tôi. BÀu tr©i rång r« và m¥t tr©i chi‰u sáng. Khí hÆu tuyŒt v©i và chúng tôi rÃt khÕe kho¡n. Chim ca trên bÀu tr©i và chúng tôi mÌm cÜ©i b¢ng nh»ng Çoá hoa ÇËp Çë cûa chúng tôi. Chúng tôi rÃt sung sܧng khi thÃy nh»ng Çôi nam n» tay trong tay Çi dåo trong công viên.
Mùa hè chúng tôi cÛng rÃt sung sܧng. M†i ngÜ©i lìa bÕ nh»ng chi‰c áo mùa Çông, mÛ,giày Óng. H† Çi ljn công viên , h† Çi ra bãi bi‹n b¢ng nh»ng thÙ y phøc nhË nhàng. ñây là th©i gian mà chúng tôi cÓng hi‰n cho loài ngÜ©i rÃt nhiŠu hoa,trái và rau.
Sau mùa hè là mùa thu. NhiŠu væn nhân, thi sï Çã ca tøng mùa thu. H† ca tøng vÈ ÇËp cûa mùa thu , nhÃt là mùa thu Canada. H† rÃt vui thú khi thÃy lá cây thay màu Ç°i s¡c, tØ xanh sang vàng, tØ hÒng sang ÇÕ. S¿ thÆt, h† không hi‹u chúng tôi. H† sung sܧng trܧc cái Çau ǧn,buÒn bã và tuyŒt v†ng cûa chúng tôi. Mùa thu là khªi Çi‹m cûa n‡i Çau kh°, ch‰t chóc cûa chúng tôi. Nhåc sï Phåm Duy , m¶t nhåc sï ViŒt Nam Çã hi‹u chúng tôi khi ông vi‰t bän nhåc " Mùa Thu Ch‰t". NgÜ©i ta yêu màu ÇÕ,màu hÒng,màu vàng nhÜng chúng tôi thì không. Chúng tôi chÌ yêu màu xanh bªi vì Çó là màu t¿ nhiên,màu ÇËp Çë. M¶t sÓ ngÜ©i cho r¢ng màu xanh là màu hy v†ng. Chính th‰. Màu xanh là màu cûa s¿ sÓng chúng tôi. Còn các màu khác là dÃu hiŒu cûa bŒnh hoån, ch‰t chóc. ñÓi v§i con ngÜ©i,nhiŠu màu s¡c là tÓt, còn chúng tôi thì ghét l¡m . Chúng tôi ÇÒng š v§i m¶t nhåc sï ViŒt Nam trong bài "Mùa thu ch‰t". Tåi sao vÆy? Bªi vì mùa xuân, mùa hè,khí hÆu khoäng 20 Ƕ-30 Ƕ, rÃt thích h®p v§i con ngÜ©i, thú vÆt và cây cÕ. NhÜng khi mùa thu ljn,khí hÆu xuÓng ljn không Ƕ ho¥c hÖn n»a. Chúng tôi không th‹ chÎu Ç¿ng ÇÜ®c khí hÆu kinh khûng này. Chúng tôi trª nên héo úa. Chúng tôi b¡t ÇÀu tranh ÇÃu v§i ÇiŠu kiŒn khÓn kh° này, cho nên chúng tôi không còn gi» ÇÜ®c màu s¡c xanh tÜÖi nhÜ trܧc.Khi mùa Çông ljn, chúng tôi ch‰t thÆt s¿ ho¥c gÀn ch‰t. M‡i ngày, chúng tôi røng Çi m¶t ít lá. CuÓi cùng thân xác chúng tôi trÖ trøi gi»a tr©i Çông tuy‰t lånh v§i cành cây khô héo,trØ loài thông thì bao gi© cÛng tÓt tÜÖi. Các bån bè chúng tôi,rau cÕ låi càng thê thäm hÖn. Rau trong nông tråi thì ch‰t såch, còn cÕ thì bi‰n mÃt dܧi nh»ng ÇÓng tuy‰t cao. Chúng tôi nói nh»ng ÇiŠu trên là muÓn chÙng tÕ v§i quš vÎ r¢ng chúng tôi có tình cäm và linh hÒn. Chúng tôi còn có lš trí.
NhiŠu phen chúng tôi Çäo Çiên vì nh»ng ÇiŠu kiŒn kh¡c nghiŒt cûa cu¶c sÓng, nhÜng chúng tôi không bi quan. Chúng tôi nhÆn thÙc r¢ng Ç©i có thÎnh có suy, nhÜng vÃn ÇŠ quan tr†ng là chúng ta phäi vÜ®t qua giai Çoån khó khæn và làm h‰t sÙc mình trong m†i tình huÓng. Sau cÖn mÜa tr©i låi sáng. Sau mùa Çông ,là mùa xuân. ñó là th©i kÿ Ãm áp,tuy‰t Çã tan. CÕ trên ÇÒi và bên vŒ ÇÜ©ng Çã xuÃt hiŒn v§i màu xanh non. Cây trong rØng và trong công viên Çã Çâm chÒi. Hoa Çã nª kh¡p nÖi. M¶t cu¶c sÓng m§i Çã trª låi v§i chúng tôi và v§i m†i ngÜ©i. Chúng tôi tÆn hܪng ánh m¥t tr©i Ãm áp. Mùa xuân và muà hè Çã bù Ç¡p cho mùa thu và mùa Çông buÒn bã.
Tree sayings
I am a tree, a simple
tree.I live in Canada, which is the most wonderful country in the
world. My voice is the voice of trees in the forests, and trees in the
parks.My voice is also the voice of grass on the hills, vegetables on
the farms, and flowers in the gardens.
A lot of people don't understand us. They think that we are insensible and inaniamate things. In fact, we aren't different from humain beings. We can eat and drink like people, so they have to water and fertilize us. Some of our brothers in Africa are anthropophagous.
As human beings are divided into men and women, men are loving women, and women loving men, so are we. Some of us are stamens, and others are pistils. We also have polination that like women's pregnancy.
We also exhale and inhale like human beings. If they inhale and exhale by mouth nad nose, we also do that with our leaves. We dismiss oxygen by day, and we send out carbondioxide and breathe oxygen by night.
We have a life. We were born, we grow up and some day we'll be dead. We have a history. We have a past, present and future. We also have our families, our ancestors, our parents, our brothers and sisters.We have a lot of friends too. We need to love and to be loved. We are different from stones, which are very different, cold and motionless. We have soul and sentiment. Among the poets in the world, we love Chataubriand- a French poet in the 19th century-very much, because he understood us.He said that trees, stones,rivers,lakes... have had a soul and his soul and ours were related in perception and sentiment:
"Inanimate objects, do you have a soul
That attaches to ours and force us to love them?"
A lot of people don't understand us. They think that we are insensible and inaniamate things. In fact, we aren't different from humain beings. We can eat and drink like people, so they have to water and fertilize us. Some of our brothers in Africa are anthropophagous.
As human beings are divided into men and women, men are loving women, and women loving men, so are we. Some of us are stamens, and others are pistils. We also have polination that like women's pregnancy.
We also exhale and inhale like human beings. If they inhale and exhale by mouth nad nose, we also do that with our leaves. We dismiss oxygen by day, and we send out carbondioxide and breathe oxygen by night.
We have a life. We were born, we grow up and some day we'll be dead. We have a history. We have a past, present and future. We also have our families, our ancestors, our parents, our brothers and sisters.We have a lot of friends too. We need to love and to be loved. We are different from stones, which are very different, cold and motionless. We have soul and sentiment. Among the poets in the world, we love Chataubriand- a French poet in the 19th century-very much, because he understood us.He said that trees, stones,rivers,lakes... have had a soul and his soul and ours were related in perception and sentiment:
"Inanimate objects, do you have a soul
That attaches to ours and force us to love them?"
We have joy and sadness.
We are in hope and sometimes in disappointment. Spring is the most
beautiful season in the year. It is the happiest time in our life. The
sky is bright and
the sun shines. The weather is wonderful and we are very fine. The
birds sing in the sky and we smile with our beautiful flowers. We are
very happy when we see couples hand in hand walking in the parks.
We are also happy in the
summer. Everybody
leaves his winter coat , his hat and his boots. They go to the parks,
to the beaches with light
clothing. It is the time we give them a lot of flowers,
fruits,vegetables.
After summer comes
autumn. A lot of poets,
writers praise autumn. They describe the beauty
of autumn, especially the fall in Canada. They are very happy when they
see trees leaves
change color from green to yellow, and from pink to red. In fact, they
don't understand us.
They are happy before our pain, our sadness,our
disappointment. Autumn is the beginning of our sorrow, our
death.Indeed, Phåm Duy, a Vietnamese music composer ,understood
us when he
wrote the song entitled" The Dead Autumn".
People like red, pink and yellow color, but we don't.
We only love the color green because it is our natural color,our fine
color.People say that green is color of hope.Sure ! Green is our color
of life.
Other colors are signs of sickness, of death. For human
beings,multicolors are good, but we hate it.
Why? Because the weather changes in fall. In summer,
the weather is about 20-30 degree.It is very good
for human beings, animals and plants. But when the autumn comes, the
weather is about 0 to -10. We cannot undergo this terrible weather. We
begin to fade. We begin to struggle against this miserable
condition, so we begin to change color. When winter comes,we are really
dead or nearly dead.
Our leaves fall day by day. Finally, we stand alone
with dry and dead branches in the snow except pines,
a kind of evergreen tree.My friends- vegetables and grass
are more miserable. Vegetables on the farms are now
really dead while grass has disappeared under the thick
layer of snow.
What we have just said to
you is to prove that we have
sentiment and soul. We also have reason.
Sometimes we are very upset because of the hard condition of life, but we aren't pessimistic. We realize that life has its ups and downs, but it's important to get through hard times and to make the best of every situation. After the rain, the sun shines. After winter, comes spring. It is warmer, and the snow begins to melt, Grass on the hills and on the roads appear with a green color. Trees in forests and parks have new buds. Flowers are blooming everywhere. A new life comes back to us and to everybody. We enjoy the warmth of sunlight in spring and summer which compensate everybody for the sad and dead fall and winter.
Sometimes we are very upset because of the hard condition of life, but we aren't pessimistic. We realize that life has its ups and downs, but it's important to get through hard times and to make the best of every situation. After the rain, the sun shines. After winter, comes spring. It is warmer, and the snow begins to melt, Grass on the hills and on the roads appear with a green color. Trees in forests and parks have new buds. Flowers are blooming everywhere. A new life comes back to us and to everybody. We enjoy the warmth of sunlight in spring and summer which compensate everybody for the sad and dead fall and winter.
LINH BẢO * ẢO TƯỞNG
Ảo Tưởng
Linh Bảo - 1971
Trong đời một người, ai cũng có hàng chục hàng trăm lần kêu lên : "Trời ơi! Tôi bận quá! Tôi bận lắm!" hay "Tôi bận kinh khủng!". Mai cũng thế. Suốt quãng đời quá khứ, Mai đã vô cùng bận rộn.
Khi mới sinh ra, Mai bận khóc: khóc để đòi bú, đòi ăn, đòi mẹ ấp ủ, khóc vì ngã đau hay để vòi. Khi còn bé Mai bận chơi rồi bận học. Tuổi dậy thì, Mai bận mơ mộng và bận xây mộng viễn du. Khi lập gia đình, Mai bận việc nhà, bận chồng, bận con và bận đi làm để lãnh số lươnng hàng tháng. Rồi cứ thế, cuộc sống tiếp tục bận rộn vì tranh đấu không ngừng.
Hôm nay bỗng nhiên Mai thấy tất cả mọi việc đều hoàn tất. Hay nói một cách khác, mọi việc như …. hết rồi! Những ngày bận rộn của Mai đã qua và có lẽ vĩnh viễn không bao giờ trở lại nữa. Hôm nay là ngày sinh nhật của Liên, con gái Mai, được 18 tuổi.
Đáng lẽ Mai phải bận rộn lắm mới phải. Mai tính toán, xếp đặt chương trình từ lâu về cái ngày đáng bận rộn hôm nay. Mai phải mua quà, làm bánh sinh nhật, tổ chức tiệc trà, viết thư mời, quét dọn nhà cửa, mua ly cốc, mua đồ ăn thức uống cho bạn bè của Mai và Liên đến dự tiệc. Nhưng trái lại, Mai đã không bận gì cả. Không có bánh, không có tiệc, không có bạn. Cả tòa nhà bỗng nhiên im lặng một cách lạ lùng và trống rỗng đến phát sợ. Cái im lặng trống rỗng mông mênh ấy làm Mai cảm thấy những ngày bận rộn của Mai thật đã chấm dứt từ đây.
Liên được 18 tuổi hôm nay. Nó có một bạn trai và hai đứa rủ nhau đi xa để ăn mừng sinh nhật của nó. Liên đã nói với Mai một cách không có vẻ gì quan trọng là có lẽ chúng nó sẽ đính hôn nhân thể.
Sinh nhật 18 tuổi là một ngày trọng đại đối với pháp luật ở đây. Đứa con 18 tuổi được ở riêng, được uống rượu, được đi lính, được bỏ phiếu và được kết hôn khỏi cần sự đồng ý của cha mẹ. Nó được làm nhiều thứ, không ai có quyền can thiệp, dù những việc ấy trước đây chúng nó cũng đã làm, nhưng sau 18 tuổi thì trên pháp lý danh chánh ngôn thuận.
Liên sẽ mang nhẫn đính hôn, nghĩa là nó sắp lấy chồng. Đúng là một ngày quan trọng nhất trong đời hai mẹ con Mai. Mai ước ao chúng nó làm tiệc ở nhà, để Mai cũng được dự vào một phần quan trọng, nhưng chúng nó thích đi ăn mừng ở một nơi riêng biệt theo kiểu mới, kiểu hippy.
Căn phòng chỉ sáng mờ mờ vừa đủ trông thấy. Mai không bật đèn. Nàng nằm trong phòng của Liên, nghĩ đến con và hồi tưởng lại thuở ấu thơ của mình.
Ngày xưa...Mai cũng đã rất bận rộn, giống như Liên bây giờ. Lần đầu tiên, Mai bỗng thấy bắt được cái cảm giác của mẹ nàng lúc xưa, khi cả gia đình còn sống chung, sống trong thời mới cũ giao nhau.
Ngày xưa...Mai cũng đã làm khổ mẹ. Mai đã bị lôi cuốn vào làn sóng đổi thay của đất nước ở cái tuổi 18, cũng như tất cả thanh niên nam nữ cùng trang lứa. Cái lửa bừng bừng nhiệt huyết đòi "xếp bút nghiên". Sáu anh chị em lần lượt rời gia đình, lăn vào xã hội trước tuổi chín muồi. Mai làm gương trước hết, và kết quả là chỉ đem lại cho cha mẹ những sự bực mình, lo lắng khổ sở, nhưng đàn chim sổ lồng kia có bao giờ biết đến đâu! Chúng nó chỉ lo bay cao, bay xa, bay không ngừng, bay không biết mệt và cũng không quay đầu nhìn lại, sợ trông thấy những giòng nước mắt của mẹ già làm cho sắt thép cũng phải mềm.
Mẹ Mai có cách tự an ủi rất hiệu nghiệm: "Con cái là nợ của cha mẹ từ tiền kiếp. Chúng nó chỉ đến để đòi nợ. Cha mẹ có bổn phận nuôi dưỡng, thương yêu, dìu dắt, tha thứ, giúp đỡ tận tụy, rồi...quên đi. Còn thứ con có nợ cha mẹ mới biết phụng dưỡng báo hiếu, làm cho cha mẹ vẻ vang. Mình vô phước nợ nhiều, thì đành trả vậy, không trả kiếp này, kiếp sau nó còn đòi nữa...mệt lắm!" Bà nói và khôi hài với chính mình, nhưng sự thật không giấu được niềm thất vọng.
Ngày xưa...ngày xưa với ngày nay chỉ cách nhau 20 năm mà đã có biết bao nhiêu là khác biệt. Những việc ngày xưa cho là quan trọng suốt một đời người, thì ngày nay chỉ là một việc "có lẽ" và "nhân thể".
Công bình mà nói, Liên cũng chỉ là một nạn nhân của thế hệ. Thế hệ mới, thế hệ đả phá gia đình, thế hệ của phong trào hippy đang lên đến cao độ. Liên lớn lên trong cái phong trào của thế hệ ấy, làm sao chống cự nổi.
Tuần trước, Mai có khách ăn cơm. Một ông bạn đề nghị mọi người cho biết, nếu trong đời mình có dịp được làm lại, thì mình sẽ làm lại cái gì. Mọi người đều nói lên một vài chuyện vui vui, vô thưởng vô phạt. Khi đến lượt Liên, nó xụ mặt lại bảo:
- Tôi ao ước được...đừng ra đời!
Câu nói như một tiếng sét rơi vào giữa bàn tiệc. Mai lặng hẳn người đi. Mai ngượng với khách và khách ngượng hộ cho Mai. Thằng bạn trai của Liên trưởng thành hơn, tuy không nói gì nhưng cũng tái mặt như tất cả mọi người. Mấy phút nặng nề đến ngạt thở trôi qua. Một bà bạn của Mai gượng cười lên tiếng trước:
- Vừa rồi cháu Liên đã trả lời hay lắm. Cháu chưa thực sự ra ngoài đời để sinh sống, tranh đấu, làm gì đã hiểu đời, đã ưu tư, làm gì đã có lỗi lầm để ao ước được làm lại. "Đời là bể khổ", Phật dạy thế. Thực ra, tôi cũng không thích sống ở cuộc đời đầy vật lộn tranh đấu, mệt óc mệt thân này. Liên thông minh lắm mới biết...sợ đời từ khi chưa biết đời như thế nào!
Một ông bạn khác tiếp theo:
- Chính tôi lắm lúc cũng muốn bỏ hết, lên núi tu tiên cho rảnh.
Chỉ vì cái vụ ... "về nhà thấy vợ công phu chưa đền" nên...không nỡ tu, mới khổ thế này.
Mọi người lại vui vẻ cười đùa, nhưng niềm đau trong lòng Mai lên đến cùng cực. Đời Liên đã có gì sai lầm để Liên chán ghét đến thế? Ai cũng có thể phàn nàn nếu gặp lúc rủi ro khổ sở, nhưng Liên đã ra đời đâu! Liên không khuyết điểm một phương diện nào để có thể phàn nàn được.
Mai chợt thấy lạnh người. Tình cảm bỗng nhiên xoay ra một lối khác. Mai không còn u uất vì đứa con ăn nói mất dạy trước mặt khách làm nàng xấu hổ nữa. Mai chỉ xấu hổ vì, hơn một lần, chính Mai cũng đã nói câu ấy, không hề biết đến cảm nghĩ của người nghe: "Tôi ao ước giá đừng ra đời!" Bây giờ Mai hiểu thấm thía rồi. Cố nhiên Mai được cha mẹ tha lỗi, không phải một lần mà cả trăm lần, cũng như Mai đã tha lỗi cho Liên không hề biết chán.
Hôm nay, ngày Liên 18 tuổi, ngày quan trọng của tuổi thành nhân. Còn quan trọng hơn nữa là nó sẽ làm lễ đính hôn. Thế mà, Mai là mẹ, lại không được dự để chia vui. Giờ này, Liên đang ở xa Mai đến hàng trăm dặm. Liên với bạn trai của nó đang ăn mừng với nhau và với các bạn riêng.
Đây là cuộc sống mới, cuộc sống của cao triều hippy mà Mai cũng như bao nhiêu cha mẹ khác cắn răng chịu đựng, thả buông thả lỏng cho khỏi đứt, chờ khi phong trào chìm lặng, đứa con lạc hướng – hy vọng còn sống – sẽ tìm lại đường về.
Thỉnh thoảng Liên cũng ở nhà, khi ốm, khi đói, khi cần ngủ hay giận thầy, giận bạn. Những lúc ấy, Mai thấy Liên có bộ mặt lầm lì dài thườn thượt. Nó muốn được chiều ý tất cả mà không muốn trả giá bằng một bộ mặt tươi cười.
Càng về tối càng lạnh hơn. Mai không đốt lò sưởi cũng không vặn đèn. Mai muốn hòa lẫn, tan biến vào bóng đêm để trốn tránh hiện tại. Đã lâu không còn ao ước, giờ đây Mai ao ước được trở về quê viếng mộ cha mẹ. Không biết mộ có còn sạch sẽ, hay cỏ dại mọc đầy. Mộ là nhà của người chết. Cha mẹ Mai ngày xưa rất nghiêm khắc trong việc sạch sẽ ngăn nắp. Mai muốn chính tay mình – ít ra cũng được một lần – nhổ cỏ mộ cha mẹ. Đi xa quá sớm, Mai đã mất tất cả cơ hội được thương yêu khi cha mẹ còn sống, bây giờ Mai mới thấy là đã phí phạm một thứ quí gía nhất trên đời.
Lúc cơn buồn lên đến tột độ, Mai cố vùng vẫy để thoát ra khỏi mơ mộng đắm chìm. Mai đứng dậy bước ra khỏi phòng con, không quên khép chặt cửa lại. Khi Liên đi vắng, Mai mở cửa phòng này để nắng gió vào cho thoáng. Khi cửa phòng này đóng chặt thì đó là dấu hiệu Liên có nhà.
Mai đến bàn thờ, đốt một điếu thuốc và một cây hương. Sự thờ cúng tối thiểu của Mai chỉ là tượng trưng, để bày tỏ lòng tưởng nhớ. Sự thật, tất cả đều vô nghĩa. Người chết đã chết, đã thuộc về dĩ vãng ... Người sống đã đi xa...Hiện tại chỉ còn một mình Mai lững thững xuống núi.
Bây giờ là lúc Mai không bận với đời nữa, có đủ thì giờ dành cho gia đình, nhưng nhìn lại, bên mình Mai chỉ còn là khói hương, khói thuốc và cánh cửa phòng con đóng chặt, cho Mai cái ảo tưởng là tất cả những người thân còn lẩn khuất đâu đây.
SƠN TRUNG * MÙA XUÂN NĂM ẤY
SÖn Trung
LÜÖng sinh ra Ç©i vào t‰t
næm mÆu thân 1968. Má cûa
LÜÖng Çã bÒng LÜÖng chåy
kh¡p
nÖi tránh pháo kích cûa ViŒt
c¶ng.Cæn nhà t° tiên Ç‹
låi cho ba má LÜÖng Çã trª
thành ÇÓng gåch vøn.
Ba cûa LÜÖng là m¶t giáo viên trung h†c, Çã phäi vào quân trÜ©ng Thû ñÙc.Má cûa LÜÖng cÛng là m¶t giáo viên cûa trÜ©ng Nam ti‹u h†c tÌnh lÎ.
Tháng tÜ næm 1975, ba cûa LÜÖng Çã buông vÛ khí, trª vŠ nhà trong n‡i u buÒn khûng khi‰p. Má cûa LÜÖng an ûi ba LÜÖng:"Mình trª vŠ an toàn là may m¡n l¡m rÒi.Bi‰t bao ngÜ©i Çã ch‰t thÀm l¥ng trong nh»ng ngày ÇÀu xuân 75."
Nh»ng ngày ti‰p theo là nh»ng ngày buÒn nhÃt trong Ç©i cûa LÜÖng. Ba cûa LÜÖng cÛng nhÜ bao sï quan VNCH ÇÜ®c lŒnh Çi h†c tÆp chính trÎ m¶t tuÀn nhÜng th¿c t‰ là Çã ra Çi không ngày trª låi.Vì thu¶c gia Çình ngøy quân, ngøy quyŠn, má cûa LÜÖng bÎ sa thäi.
Má cûa LÜÖng cÛng nhÜ bao gia Çình khác Çã phäi bán quÀn áo, bàn gh‰...Ç‹ lo cho th¿c phÄm gia Çình.
Má cûa LÜÖng phäi tham gia vào hàng ngÛ buôn thúng bán bÜng Ç‹ sinh sÓng.Bà Çã bán xôi vào bu°i sáng. TØ trܧc, bà là cô giáo chÜa hŠ phäi lao Ƕng nhÜng nay phäi Çi b¶ kh¡p nÖi,vai mang gánh xôi n¥ng trïu.N‡i vui mØng cûa bà là khi bán såch gánh xôi.Bà buÒn bã m‡i khi bán ‰, phäi gánh xôi n¥ng trª vŠ.SuÓt ngày hôm Çó và mÃy hôm sau, anh chÎ em cûa LÜÖng phäi æn xôi thay cÖm. ñã nhiŠu lÀn má LÜÖng tính dËp gánh xôi xoay qua nghŠ khác vì buôn bán ngày càng thua l‡. MÃy nhà bán gåo Çã bán rÈ n‰p cho bà và cho bà mua chÎu. NhÜng khách hàng cûa bà cÛng Çói nghèo nhÜ bà, cÛng mua chÎu rÒi không trä tiŠn cho nên càng ngày bà càng cøt vÓn. Bà phäi ngÒi høi và chåy våy kh¡p nÖi. M¶t n‡i khó khæn khác låi xuÃt hiŒn bªi vì nhiŠu ngÜ©i bÎ nhà nܧc sa thäi,phäi tham gia vào Ƕi ngÛ buôn thúng bán bÜng.Trong xóm trܧc kia m‡i sáng chÌ có ba bà bán xôi,hai bà bán cháo ,nay thì có cä gÀn mÜ©i bà bán xôi,sáu bäy bà bán cháo...Cung thì nhiŠu mà cÀu ngày càng b§t, cho nên sau vài ngày khai trÜÖng, m¶t sÓ l§n Çã dËp buôn bán.
Ba cûa LÜÖng là m¶t giáo viên trung h†c, Çã phäi vào quân trÜ©ng Thû ñÙc.Má cûa LÜÖng cÛng là m¶t giáo viên cûa trÜ©ng Nam ti‹u h†c tÌnh lÎ.
Tháng tÜ næm 1975, ba cûa LÜÖng Çã buông vÛ khí, trª vŠ nhà trong n‡i u buÒn khûng khi‰p. Má cûa LÜÖng an ûi ba LÜÖng:"Mình trª vŠ an toàn là may m¡n l¡m rÒi.Bi‰t bao ngÜ©i Çã ch‰t thÀm l¥ng trong nh»ng ngày ÇÀu xuân 75."
Nh»ng ngày ti‰p theo là nh»ng ngày buÒn nhÃt trong Ç©i cûa LÜÖng. Ba cûa LÜÖng cÛng nhÜ bao sï quan VNCH ÇÜ®c lŒnh Çi h†c tÆp chính trÎ m¶t tuÀn nhÜng th¿c t‰ là Çã ra Çi không ngày trª låi.Vì thu¶c gia Çình ngøy quân, ngøy quyŠn, má cûa LÜÖng bÎ sa thäi.
Má cûa LÜÖng cÛng nhÜ bao gia Çình khác Çã phäi bán quÀn áo, bàn gh‰...Ç‹ lo cho th¿c phÄm gia Çình.
Má cûa LÜÖng phäi tham gia vào hàng ngÛ buôn thúng bán bÜng Ç‹ sinh sÓng.Bà Çã bán xôi vào bu°i sáng. TØ trܧc, bà là cô giáo chÜa hŠ phäi lao Ƕng nhÜng nay phäi Çi b¶ kh¡p nÖi,vai mang gánh xôi n¥ng trïu.N‡i vui mØng cûa bà là khi bán såch gánh xôi.Bà buÒn bã m‡i khi bán ‰, phäi gánh xôi n¥ng trª vŠ.SuÓt ngày hôm Çó và mÃy hôm sau, anh chÎ em cûa LÜÖng phäi æn xôi thay cÖm. ñã nhiŠu lÀn má LÜÖng tính dËp gánh xôi xoay qua nghŠ khác vì buôn bán ngày càng thua l‡. MÃy nhà bán gåo Çã bán rÈ n‰p cho bà và cho bà mua chÎu. NhÜng khách hàng cûa bà cÛng Çói nghèo nhÜ bà, cÛng mua chÎu rÒi không trä tiŠn cho nên càng ngày bà càng cøt vÓn. Bà phäi ngÒi høi và chåy våy kh¡p nÖi. M¶t n‡i khó khæn khác låi xuÃt hiŒn bªi vì nhiŠu ngÜ©i bÎ nhà nܧc sa thäi,phäi tham gia vào Ƕi ngÛ buôn thúng bán bÜng.Trong xóm trܧc kia m‡i sáng chÌ có ba bà bán xôi,hai bà bán cháo ,nay thì có cä gÀn mÜ©i bà bán xôi,sáu bäy bà bán cháo...Cung thì nhiŠu mà cÀu ngày càng b§t, cho nên sau vài ngày khai trÜÖng, m¶t sÓ l§n Çã dËp buôn bán.
Mùa xuân 77, là m¶t mùa
xuân Çáng ghi nh§.
Má LÜÖng cùng vài bà bån
hùn vÓn bán dÜa
hÃu.Khi thuyŠn dÜa ghé ch®, chuÄn bÎ
mang dÜa
lên ch® bán, thì kh¡p ch® công
an ÇÙng ÇÀy.
H† không cho má LÜÖng bán dÜa
hÃu tåi ch®
nhÜ m†i næm bªi vì næm nay cä
nܧc
ti‰n lên h®p tác xã.Kh¡p nÖi, m†i
ngành nghŠ ÇŠu
vào h®p tác, buôn bán cá th‹
bÎ coi là låc hÆu,
là phän Ƕng, bÎ Çäng
và nhà nܧc cÃm tuyŒt.
Má LÜÖng phäi ghé thuyŠn vào
m¶t nÖi xa ch®, bán
tÓng bán tháo ÇÜ®c m¶t
ít nhÜng rÒi låi bÎ công
an Çu°i Çi.CuÓi cùng gÀn
nºa thuyŠn dÜa phäi
thä xuÓng sông vì thúi gÀn
h‰t.Mùa
xuân næm Çó,anh em LÜÖng phäi
chÎu m¶t
cái t‰t nghèo kh° nhÃt Ç©i, trong
khi má cûa
LÜÖng n¢m liŒt giÜ©ng gÀn cä
tháng
tr©i m§i lành bŒnh.
THƠ DIÊN NGHỊ
DIÊN NGHỊ
BÀI THƠ VIẾT TRƯỚC
CỔNG TRƯỜNG VẠN HẠNH
Của SONG NHỊ
Tôi trở về thăm lại trường xưa
Khuôn viên cũ đã thay lề đổi thói
Câu Duy Tuệ (*) xoáy lòng người
nhức nhối
Từng nỗi buồn thấm lạnh từng cơn
Tôi trở về văng vẳng nỉ non
Ngọn tháp rưng rưng
giữa chiều cuối hạ
Rên rỉ oán hờn
Quằn quại hồn Chiêm quốc
Mười năm núi lở đá mòn
Mười năm hồn người nhập viên đá cuội
Chìm lặng giữa dòng sông
Từng đợt sóng ngược dòng cuồn cuộn
Kéo tan hoang một cõi cơ đồ
Tôi trở về thăm lại trường xưa
Trong thác nguồn của thời Vọng Nghiệp
Cuốn đời theo thiên tai
Ngỡ ngàng hư thực
Mở cửa chân như: Lệ thấm Phật đài!
Tôi trở về thăm lại người xưa
Người xưa xuống núi
Tôi lục lọi từ hư vô
Tìm sắc hoàng y một thời rạng rỡ
Người năm xưa tán lạc mơ hồ
Ôm kinh điển trá hình vào cõi tục
Đám sinh đồ nhìn theo lơ ngơ
Gẫm từng trang Thị Nghiệp (*)
Tôi trở về thăm lại trường xưa
Cổ tháp rêu phong giữa đời gió bụi
Bầy chim nhỏ ẩn mình sau mái ngói
Kinh sách cuộn mình phủ bụi nằm mơ
Tôi trở về thăm lại trường xưa
Hồn mê mải góc giảng đường thư viện
Một thuở lòng say mê
Một thuở đời rộn rã...
Mười năm tơi tả tôi về
Chập chờn ác mộng
Thiện ác chân giả lập lờ
Một cõi trần ai nhốn nháo
Bặt tiếng kinh cầu
Trời đất hoang sơ ■
BÀI THƠ VIẾT TRƯỚC
CỔNG TRƯỜNG VẠN HẠNH
Của SONG NHỊ
Tôi trở về thăm lại trường xưa
Khuôn viên cũ đã thay lề đổi thói
Câu Duy Tuệ (*) xoáy lòng người
nhức nhối
Từng nỗi buồn thấm lạnh từng cơn
Tôi trở về văng vẳng nỉ non
Ngọn tháp rưng rưng
giữa chiều cuối hạ
Rên rỉ oán hờn
Quằn quại hồn Chiêm quốc
Mười năm núi lở đá mòn
Mười năm hồn người nhập viên đá cuội
Chìm lặng giữa dòng sông
Từng đợt sóng ngược dòng cuồn cuộn
Kéo tan hoang một cõi cơ đồ
Tôi trở về thăm lại trường xưa
Trong thác nguồn của thời Vọng Nghiệp
Cuốn đời theo thiên tai
Ngỡ ngàng hư thực
Mở cửa chân như: Lệ thấm Phật đài!
Tôi trở về thăm lại người xưa
Người xưa xuống núi
Tôi lục lọi từ hư vô
Tìm sắc hoàng y một thời rạng rỡ
Người năm xưa tán lạc mơ hồ
Ôm kinh điển trá hình vào cõi tục
Đám sinh đồ nhìn theo lơ ngơ
Gẫm từng trang Thị Nghiệp (*)
Tôi trở về thăm lại trường xưa
Cổ tháp rêu phong giữa đời gió bụi
Bầy chim nhỏ ẩn mình sau mái ngói
Kinh sách cuộn mình phủ bụi nằm mơ
Tôi trở về thăm lại trường xưa
Hồn mê mải góc giảng đường thư viện
Một thuở lòng say mê
Một thuở đời rộn rã...
Mười năm tơi tả tôi về
Chập chờn ác mộng
Thiện ác chân giả lập lờ
Một cõi trần ai nhốn nháo
Bặt tiếng kinh cầu
Trời đất hoang sơ ■
THI SĨ TRẦN HỒNG CHÂU
Sunday, December 12, 2010
THƠ VĂN TRẦN HỒNG CHÂU
TIỂU SỬ VÀ THƯ TỊCH THI SĨ TRẦN HỒNG CHÂU [GIÁO SƯ NGUYỄN KHẮC HOẠCH, NGUYÊN VIỆN-TRƯỞNG VIỆN VIỆT HỌC 2001-2003]
* Sinh năm 1921, tại Hưng Yên, Việt Nam; mất năm 2003 tạị California, Hoa Kỳ.
* Học tại Trung Học Khải Định, Huế (1936-1943) rồi Trường Đại Học Luật Hà Nội cho tới năm 1945.
* Xuất ngoại: Học Đại Học Sorbonne, Paris, đậu Cử nhân Văn Chương năm 1950, và Tiến Sĩ Văn Chương Quốc Gia (Doctorat D’Etat) năm 1955.
* Tốt nghiệp Viện Cao Đẳng Quốc Tế Học thuộc Đại Học Luật Khoa Paris (Institut des Hautes Études Internationales de la Faculté de Droit), Paris, 1952.
* Tốt nghiệp Trung Tâm Âu Châu Học thuộc Đại Học Nancy (Centre D’Etude Européennes, Université de Nancy) Pháp quốc, 1957.
* Về nước năm 1957, gia nhập ban giảng huấn Đại Học Văn Khoa Saigon, phụ trách các môn Văn chương Pháp và Văn chương Việt Nam. Đồng thời cũng giảng dậy tại Đại Học Sư Phạm Saigon, Học Viện Quốc Gia Hành chính và Viện Đại Học Huế.
* Được bầu làm Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Saigon từ 1965 đến 1969.
* Giáo sư biệt thỉnh về văn chương Pháp và văn chương, văn hoá Việt Nam tại Southern Illinois University trong thời gian 1970-1974.
* Thành viên của Ủy Ban điển chế văn tự và Ủy Ban soạn thảo từ điển Bách khoa Việt Nam (1968-1970). Thành viên Hội Đồng Viện Đại Học Saigon từ 1958 đến 1970. Được tưởng thưởng Văn Hoá Giáo Dục Bội Tinh (1968).
* Thành viên của các hiệp hội văn hoá giáo dục tại quốc ngoại và quốc nội: Modern Languages Association từ 1971, Association of American University Professors từ 1973, Association for Asian Studies từ 1971, American Oriental Society từ 1973, Societé des Etudes Indochinoises (1961-1970), Hội Việt Nam liên lạc Văn hoá Á châu (1958-1961).
* Đã dự một số hội nghị về văn hoá giáo dục ở trong và ngoài nước: Nhật (Đại Học Keio, 1960), Ấn độ (New Delhi, 1965), Đài Loan (Đài bắc, Việt Trung Hoa học, 1969). Tham quan một số Đại học Đại Hàn (1967) và Hoa Kỳ (1966 và 1968).
* Khai đường mở lối cho Viện Việt Học: Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch đã được Hội Đồng Viện Việt Học mời vào Ban Cố Vấn từ ngày thành lập Viện, 26 tháng 2, năm 2000 và được mời làm Viện Trưởng Viện Việt Học (2001-2003), California.
HOẠT ĐỘNG VĂN NGHỆ
* Cộng tác với các tạp chí Gió Mới và Tiền Phong (1945-1946) tại Hà Nội.
* Chủ trương tạp chí văn nghệ Thế Kỷ 20 tại Sàigòn, 1960.
* Viết cho các tạp chí văn nghệ với bút hiệu Trần Hồng Châu: Trước 1975, tại Sàigòn: Văn, Vấn Đề, Thế K ỷ 20. Sau 1975, tại hải ngoại: V ăn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Khởi Hành.
SÁCH TIỂU SỬ DANH NHÂN
Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch đã được nói đến trong các sách Who’s Who in the World, Men of Achievement, International Book of Honor, và International Who’s Who in Asian Studies.
TÁC PHẨM
* Le Japon et le Traité de Paix (Nhật Bản và Hoà Ước), Paris, 1952.
* Le Roman Vietnamien au 18e et 19e Siècle (Tiểu Thuyết Việt Nam Thế Kỷ 18 và 19), Paris, 1955.
* Les Relations Américano-japonaises depuis 1951 (Quan hệ Nhật-Mỹ từ 1951), Paris, 1957.
* Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hoá Giáo Dục, (biên khảo, phê bình), Lửa Thiêng, Saigon, 1970.
* Thành Phố Trong Hồi Tưởng (tùy bút), An Tiêm, Los Angeles,1991.
* Nửa Khuya Giấy Trắng (thơ), Thanh Văn, Los Angeles, 1992.
* Nhớ Đất Thương Trời (thơ), Thế Kỷ, Los Angeles, 1995.
* Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây (thơ) Văn Học, Los Angeles, 1999.
* Dăm Ba Điều Nghĩ về Văn Học Nghệ Thuật (tiểu luận), Văn Nghệ, 2001.
* Vietnam Culture Series (Series Editor), Việt-Học Publishing, 2001-2003
* Để Tưởng Nhớ Nguyễn Du (thơ), Viện Việt Học, 2002
* Suối Tím (thơ), Văn Nghệ, 2003
* Tuyển tập Trần Hồng Châu (thơ, tùy bút, tiểu luận), Viện Việt Học, 2004.
BÀI BÁO
Trần Hồng Châu, Lê Văn. “Đại Học Văn Khoa Saigon”, Dòng Việt, số 6,7,9 (2000-2003)
Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch là tác giả nhiều bài biên khảo và phê bình trong các tạp chí như Đại Học, Văn hoá Á châu, Quê Hương, Nguyệt san Văn hoá, Luận Đàm, Văn Khoa, Dòng Việt.
ABOUT THE AUTHOR
Professor Nguyễn Khắc Hoạch was born on May 15, 1921 in Hưng Yên, Vietnam. He earned the Licence ès Lettres in Paris in 1950, the Doctorat ès Lettres (Doctorat d'Etat) at La Sorborne (Paris 1955), the Diplome de l'Institut des Hautes Etudes Internationales de la Faculte de Droit (Paris 1952), and the Diplome du Centre d'Etudes Européennes, University of Nancy (1957). Currently involved in poetic writing and in research on comparative literature. Professor Nguyen has taught French, Vietnamese, and comparative literature at the University of Saigon since 1957. He has also been Dean of the Faculty of Letters of Saigon (1965-1969), a visiting professor of French and Vietnamese literature at Southern Illinois University (Carbondale, Illinois) from 1970 to 1974, and editor of XXth Century, a literary review (1960). Professionally affiliated with the Modern Languages Association (since 1971), the Association of American University Professors (since 1973), the Association for Asian Studies (since 1971), and the American Oriental Society (since 1973). Professor Nguyen was a member of the University Senate at the University of Saigon (1958-1970), Executive Committee member and staff member of the Committee for the Vietnamese Encyclopedia (1968-1970), and a member of the Societé des Études Indochinoises (1961-1970).
In recognition of his achievements, Professor Nguyen was awarded the Culture and Education Medal in 1968. The author of four volumes of poetry (pen name Trần Hồng Châu), many articles in cultural journals, and of books entitled Le Roman Vietnamien aux 18e et 19e Siecles (1955), Le Japon et le Traite de Paix (1952), Les Relations Américano-japonaises depuis 1951, Education and Cultures in Vietnam (1970), Thành Phố Trong Hồi Tưởng (1991), Nửa Khuya Giấy Trắng (1992), Nhớ Đất Thương Trời (1995), Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây (1999), Dăm Ba Điều Nghĩ về Văn Học Nghệ Thuật (2001), Vietnam Culture Series (2001-2003), Để Tưởng Nhớ Nguyễn Du (2002), Suối Tím (2003), and Tuyển tập Trần Hồng Châu (2004).
Professor Nguyễn Khắc Hoạch is featured in several biographical references, including Who's Who in the World, Men of Achievement, and International Who's Who in Asian Studies.
The late professor Nguyễn Khắc Hoạch passed away peacefully in December 2003 in Fountain Valley, California.
From International Book of Honor (American Biographical Institute, Raleigh, NC)
Sign in Recent Site Activity Terms Report Abuse Print page | Powered by Google Sites
Nửa khuya giấy
trắng
Nửa khuya giấy trắng tủi hờn tuyết trinh
Vắng em nương bóng tạc hình
Rưng rưng lệ sáp bên mình cô miên
Gió về tám hướng ưu phiền
Ðìu hiu tuyết phủ mấy miền tình thơ
Trắng đêm hồn nhỏ bơ vơ
Lênh đênh suối cảm đợi chờ hoa tiên
Vắng em hồn mộng đỗ quyên
Nước non hiu hắt tiếng huyền bâng khuâng
Ly tao dòng cạn khơi vần
Mưa đan đan mãi giọt nhầu ý thơ
Cỏ vong ưu khói lam mờ
Nửa ly mai lộ nguyệt hờ tắm suông
Bút say vọng tưởng dòng Tương
Mực say ảo mộng lạc đường héo hon
Ngỡ ngàng giấy trắng lòng son
Tuyết rơi rơi mãi gói tròn thương đau.
Chỉ còn nụ cười
em
Một bóng ta một mình
Ðèn khuya mờ giấy
trắng
Tấc lòng người xưa
Trăn trở hôm nay
Quá khứ ngàn cân
Trùng điệp vẫn vòng
vây
Tương lai mịt mờ
Ðường hầm không lối
sáng
Ðời khép kín
Trắng đôi tay
Hồn ngắt lạnh
Chỉ còn nụ cười em
Bình minh rực rỡ
Ngoài chân trời cuộc
sống
Không sắc, không vị
Không một thanh âm
Chỉ còn nụ cười em
Mỗi buổi sớm em mời
anh
Chén trà xanh đầu ngày!
Áo biếc mùa
xưa
Lạc bước phiếm du mùa lửa đỏ
Cố đô ly loạn khói mờ say
Ai đi chập chờn trong nắng biếc
Mái nhạt đền xưa ẩn bóng mây
Hành lang rêu phủ sầu hoa sứ
Áo vân phong gấm nhớ kinh thành
Mắt biếc hồn trao môi thần động
Ý thu khắc khoải mộng khôn đành
Ai về ngất ngưởng hương men đắng
Tám hướng cửa ô say mềm say
Ngõ về gác trọ nửa vầng trăng
Lung linh gió biếc gợn ưu phiền
Ai về mờ nhạt mơ Tình sử
Chơi vơi lửa sáp vờn yêu nữ
Ðiệu biếc hồn trinh thơ nở muộn
Trắng đêm ôm mộng trắng da ngà
Một góc thế kỷ nhiều nhung nhớ
Áo biếc mùa xưa sương khói phủ
Hương sen lãng đãng vương niềm tục
Bến mê tiềm thức vẫn về chơi
Liêu trai mộng biếc xa vời
Thiên thu nửa gối đất trời phút giây.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 02
DIỆU CHÂN * FREEDOM
T.Dieu Chân
"If we all exercise our rights with consideration and respect
for
others' feeling, I'm sure we can foster an atmosphere of
constructive exchanges in harmony and peace."
Tran, Dieu Chan.
(An excerpt of this article was published in the San Jose
Mercury
News on Sunday, May 7, 1998)
-------------------
Living in America, I appreciate more every day our First
Amendment rights - the freedom of expression guaranteed by the
Constitution.
As a Vietnamese-American, I vow to bring this fundamental
right
to my former homeland where people are still jailed for speaking
their mind peacefully and politely. I have dedicated my life for
the past 15 years to foster a democracy in Vietnam where people's
basic rights, including the right to express themselves freely,
are restored and institutionalized.
Yet, I caught myself debating between the absolute freedom to
exercise this right and the need for self-restrain with
consideration for others' feelings.
Let's put aside those who outright abuse this privilege to
slander others with lies, made-up stories or unfounded rumors;
these people apparently violate the law of this land and will
have to face justice in court.
In the remaining gray area, we have those who practice the
freedom of speech with "blind" faith, yet without regard for the
feelings of others. A case in point can be found right here,
in
the Vietnamese-American community in San Jose. This still-going
incident has caused enough vibration in the community that it has
attracted the attention of the San Jose Mercury News, prompting
an article titled "Protests tear at Viet Community" on the front
page, April 30, 1998 and another article earlier.
The incident involves the community's disapproval of a local
Vietnamese-language newspaper, the Thoi Bao, that had published
an interview with the Hanoi's consulate Nguyen Xuan Phong.
Charging the newspaper of being accessory to the spreading of
Hanoi's propaganda, a number of the community members have been
picketing in front of this newspaper office since Feb. 28,
causing the paper losses in both income and readership.
The fact that the SJMN chose to report this incident rather
than
the huge rally of the community with the participation of
thousands to protest the communist oppression in Vietnam upon the
commemoration of April 30, 1975 - the day the entire Vietnam fell
into the communist hands - tells us how much the paper cares
about the issue of freedom of speech.
It's also natural that in both articles, the SJMN's view
leaned
toward the support of Thoi Bao, painting a picture of "extremist"
and "violent" of the protesters. SJMN especially mentioned in
both articles the death of 5 Vietnamese journalists in the past
despite the fact that even FBI could not substantiate whether all
the deaths were politically motivated. Some of the dead
journalists were pro-Hanoi but some vehemently anti-Hanoi (unlike
SJMN's charge that they were all pro-Hanoi); some were
specialized in trash journalism and slandered even the highly
revered dignitaries like the Pope and various top Buddhist
clergies.
As a peace-and-freedom-loving person - like most of my fellow
community members - who diligently and actively lobby for
democratic changes in Vietnam, I feel the need to untangle the
misunderstanding that falsely portrays the Vietnamese-American
community as one that advocates violence, hatred and disregard
for the rule of law. There are crimes, murders in any
communities, including our larger American society. But to
characterize us - Americans - based on a tiny pocket of bad
elements is truly outrageous!
I can deeply understand the protester's feeling, actions, and
positions (though I have never participated in the protest before
the Thoi Bao). At the same time, I'm also an ardent advocate of
the First Amendment. My view is that (1) Had Thoi Bao practiced
its right with consideration for the community's feeling, it
would have saved a lot of people's pain, time and energy. (2) The
protesters have as much right to voice their objection to the
Thoi Bao's behaviors as Thoi Bao to interview whomever it wants.
It is totally up to Thoi Bao to do what is in its best
interest -
in this case apparently not to provide a forum for the
representative of a repressive regime. At the same time, the
protesters, after their first or second demonstrations before the
Thoi Bao, could have better spent their energy in front of the
Hanoi's Consulate in San Francisco where a branch of the root
cause of the Vietnam's suffering resides.
As much as I support the First Amendment, I did participate in
a
protest against the talk of Le Ly Hayslip at the University of
Pacific in Stockton on April 30. Why?
I found it is critical for us to protect our freedom of speech
just as much as practicing this right. One way to protect it is
to reveal the truth or to stop lies from spreading. That's why I
joined other protesters at the talk of Le Ly Hayslip (co-author
of the book "When Heaven and Earth Change Places")
While Ms. Hayslip blamed the American for the Vietnam War, she
totally ignored the international and Vietnamese Communist drive
to dye the world red at that time, failed to acknowledge that the
war had ended 23 years ago but the Vietnamese suffering remains,
failed to even mention the role of the cruel and corrupt
communist system in the Vietnam's misery today.
We were there to counter Hayslip's lopsided version of
Vietnam's
history and reality at best, or outright Hanoi's propaganda
carefully wrapped in her personal tragedy at worst. When she
deliberately told the American audience that Vietnamese rallies
around the globe on April 30 were to "celebrate" that event, to
me, that was the most blatant lie of all. She could be ignorant
of history, but there is no way that she does not know the
rallies around the world on that day were to protest the
oppressive communist rule in Vietnam and to voice the Vietnamese
aspiration for freedom and democracy.
The other protesters, who lost their loved ones, who suffered
tremendously under the communist rule, of course could not hold
in their pains and anger against Hayslip blatant lies and
distortion, especially when they were not provided the forum to
speak like Le Ly. The microphone was taken away from the audience
(I just took my chance by asking for a special permission to make
my personal comments but then had the microphone taken away from
me too later). The protesters screamed: "Hanoi's cadre! Communist
propaganda! Liar!..." to the disapproval of other Americans in
the audience and event organizers.
Naturally, these non-Vietnamese-Americans could not understand
the pain the protesters experienced. To share some of their
feelings, just imagine the pain the Jewish-American community
would feel upon hearing someone praise the Nazi's racial
cleansing; the African-American community would upon hearing the
view advocated by the KKK; the Cambodian-American community would
upon hearing a representative of the Khmer Rouge preach.
As readers, we could and should exercise our rights to agree
or
disagree with a newspaper; same as an audience to a speaker.
But we should voice our objection in a constructive manner such
that positive changes can be fostered. A writer, journalist,
newspaper or event organizer should also consider carefully the
subject they write, interview or invite to speak such that they
won't cause unnecessary pain to others.
If we all exercise our rights with consideration and respect
for
others' feeling, I'm sure we can foster an atmosphere of
constructive exchanges in harmony and peace.
TrÀn DiŒu
Chân
SÓng tåi nu§c
MÏ,càng ngày tôi låi càng
cäm kích hÖn cái quyŠn
thu¶c Tu chính án M¶t quyŠn t¿ do
diÍn Çåt tÜ tܪng
ÇÜ®c bäo Çäm b¢ng
Hi‰n Pháp.
Là m¶t công dân
MÏ gÓc ViŒt, tôi nguyŒn phát huy cái
quyŠn cæn bän này trên quê
hÜÖng cûa tôi nÖi mà ngÜ©i
dân vÅ ti‰p tøc
bÎ tù Çày vì dám nói
lên nh»ng suy nghï cûa mình dù
m¶t cách hòa hoãn
và lÎch s¿. Tôi Çã cÓng
hi‰n cu¶c Ç©i mình trong 15 næm
qua trong møc tiêu ÇÃu tranh cho nŠn
dân chû tåi ViŒt Nam
Ç‹ các quyŠn cæn bän cûa con
ngÜ©i, k‹ cä quyŠn t¿ do diÍn
Çåt tÜ tܪng ÇÜ®c
phøc hÒi và bäo Çäm b¢ng
hi‰n pháp.
VÆy mà tôi låi b¡t g¥p mình
phân vân gi»a cái quyŠn ÇÜ®c
tuyŒt ÇÓi hành sº t¿ do diÍn
Çåt và s¿ cÀn thi‰t phäi
t¿ kiŠm ch‰ quyŠn này khi có th‹ va chåm
ljn tình cäm cûa ngÜ©i khác.
Hãy dËp qua m¶t bên
nh»ng kÈ cÓ tình låm døng
Ç¥c quyŠn này Ç‹
må lÎ,vu khÓng ngÜ©i khác b¢ng
nh»ng dÓi trá, bÎa Ç¥t, ho¥c
ÇÒn Çãi, vu vÖ.
Nh»ng kÈ này rõ ràng là
Çã vi phåm luÆt lŒ và së
phäi bÎ Çem xº trܧc công lš.
Trong cái khoäng xám
còn låi, ta Çã thÃy có
nh»ng
ngÜ©i hành sº quyŠn t¿ do ngôn
luÆn m¶t cách mù
quáng, tÃt nhiên không màng gì
ljn cäm nghï cûa ngÜ©i khác.
M¶t trÜ©ng h®p Çi‹n hình có th‹
tìm thÃy ngay trong c¶ng ÇÒng
ngܩi
MÏ gÓc ViŒt tåi San Jose. ChuyŒn Çang ti‰p
diÍn này Çã tåo nhiŠu chÃn
Ƕng
trong c¶ng ÇÒng ljn Ƕ t©
SJMN Çã phäi chú š ljn và vi‰t
bài tÜ©ng thuÆt
t¿a ÇŠ " ChÓng ÇÓi,cÃu
xé c¶ng ÇÒng ngÜ©i ViŒt" trên
trang nhÃt cûa t© báo báo ngày
30 -4-98 vØa qua và m¶t bài tÜ©ng
thuÆt n»a trܧc Çây.Câu chuyŒn
liên quan
ljn viŒc c¶ng ÇÒng không chÃp
thuÆn viŒc m¶t t© báo ti‰ng ViŒt tåi
ÇÎa
phÜÖng, t© Th©i Báo Çã cho
Çæng täi m¶t bài phÕng vÃn
viên lãnh s¿ NguyÍn Xuân Phong
cûa chính quyŠn c¶ng sän Hà N¶i. Cho
r¢ng t© báo Çã làm công
cø tuyên truyŠn cho ch‰ Ƕ
Hà N¶i, m¶t sÓ các thành
viên cûa c¶ng ÇÒng Çã
liên tøc bi‹u tình trܧc tòa
soån t© báo này tØ ngày 28
tháng 2 khi‰n cho t© báo vØa mÃt tiŠn
vØa mÃt Ƕc giä. HiŒn tÜ®ng
t© SJMN
Çã cho loan täi vø bi‹u tình
chÓng Th©i Báo thay vì loan täi bu°i
bi‹u tình
ngày 30 -4 Çánh dÃu ngày toàn
quÓc ViŒt Nam rÖi vào tay c¶ng sän
v§i tÃt cä hàng ngàn ngÜ©i
tham d¿ chÙng tÕ t© SJMN quan tâm nhiŠu
ljn vÃn ÇŠ t¿ do
t¿ do báo chí. CÛng là lë
ÇÜÖng nhiên khi mà SJMN trong cä hai
bài báo ÇŠu có vÈ
binh v¿c t© Th©i Báo, vë nên
hình änh "c¿c Çoan" và" hung
båo" cûa
nh»ng ngÜ©i bi‹u tình. T© SJMN cÛng
Ç¥c biŒt ÇŠ cÆp ljn trong cä hai
bài báo cái ch‰t cûa næm nhà
báo ViŒt Nam trܧc Çây m¥c dù
cÖ quan FBI cÛng chÜa ki‹m chÙng
ÇÜ®c là cä là 5 cái
ch‰t này có phäi ÇŠu vì chính
trÎ hay không. Trong
sÓ các nhà báo bÎ gi‰t, có
kÈ thân c¶ng, cÛng có ngÜ©i
chÓng c¶ng hæng hái không nhÜ
t© SJMN nói h† hoàn toàn
là thân c¶ng ; có kÈ chuyên
trÎ trong ngành báo chí rác
rܪi
và læng må cä nh»ng vÎ
Çáng kính nhÜ ÇÙc giáo
hoàng và các
cao tæng PhÆt giáo.
Là m¶t ngÜ©i yêu chu®ng t¿ do và hoà bình cÛng nhÜ Ça sÓ các ÇÒng bào tôi trong c¶ng ÇÒng, nh»ng ngÜ©i Çã kiên trì và tích c¿c tranh ÇÃu cho nh»ng thay Ç°i dân chû tåi ViŒt Nam, tôi cäm thÃy cÀn thi‰t phäi Çä thông nh»ng ng¶ nhÆn ÇÜa ljn viŒc tô vë lên m¶t hình änh sai lÀm vŠ c¶ng ÇÒng ngÜ©i MÏ gÓc ViŒt chúng tôi nhÜ m¶t c¶ng ÇÒng hung båo, ÇÀy hiŠm khích và coi thÜ©ng luÆt pháp. C¶ng ÇÒng nào cÛng có nh»ng kÈ phåm t¶i, gi‰t ngÜ©i, k‹ cä c¶ng ÇÒng MÏ cûa chúng ta nói chung. K‰t luÆn c¶ng ÇÒng ngÜ©i MÏ chúng ta d¿a trên m¶t m¶t dúm nh»ng thành phÀn xÃu thì quä thÆt là quá qu¡t!
Tôi có th‹ thông cäm sâu xa cäm nghï,hành Ƕng và quan Çi‹m cûa ngÜ©i bi‹u tình m¥c dù tôi chÜa hŠ tham gia cu¶c bi‹u tình trܧc tòa soån Th©i Báo. Cùng lúc, tôi cÛng là m¶t ngÜ©i tích c¿c tán thành Tu Chính Án sÓ m¶t. Quan Çi‹m cûa tôi là: Giá mà t© Th©i Báo thi hành quyŠn hån cûa mình cùng v§i quan tâm cho cäm nghï cûa c¶ng ÇÒng nói chung thì bao nhiêu Çau ǧn, thì gi© và công sÙc Çã ÇÜ®c bäo tÒn. Nh»ng ngÜ©i bi‹u tình có toàn qÜyŠn nói lên s¿ chÓng ÇÓi cûa h† ÇÓi v§i viŒc hành sº cûa t© Th©i Báo cÛng nhÜ t© Th©i Báo có toàn quyÀn phÕng vÃn bÃt cÙ ai h† muÓn.
T© Th©i Báo ÇÜ®c toàn quyŠn ch†n l¿a viŒc làm sao cho có l®i nhÃt cho t© báo trong trÜ©ng h®p này, rõ ràng không phäi là cung cÃp m¶t diÍn Çàn cho Çåi diŒn m¶t th‹ ch‰ áp bÙc. ñÒng th©i,nh»ng ngÜ©i chÓng ÇÓi, sau khi Çã bi‹u tình trܧc tòa soån Th©i Báo vài lÀn, nên bÕ công sÙc quš báu cûa h† trܧc lãnh s¿ quán Hà N¶i tåi San Francisco, nÖi mà chi nhánh cûa gÓc rÍ các vÃn nån ViŒt Nam Çang trú ngø.
Là m¶t ngÜ©i yêu chu®ng t¿ do và hoà bình cÛng nhÜ Ça sÓ các ÇÒng bào tôi trong c¶ng ÇÒng, nh»ng ngÜ©i Çã kiên trì và tích c¿c tranh ÇÃu cho nh»ng thay Ç°i dân chû tåi ViŒt Nam, tôi cäm thÃy cÀn thi‰t phäi Çä thông nh»ng ng¶ nhÆn ÇÜa ljn viŒc tô vë lên m¶t hình änh sai lÀm vŠ c¶ng ÇÒng ngÜ©i MÏ gÓc ViŒt chúng tôi nhÜ m¶t c¶ng ÇÒng hung båo, ÇÀy hiŠm khích và coi thÜ©ng luÆt pháp. C¶ng ÇÒng nào cÛng có nh»ng kÈ phåm t¶i, gi‰t ngÜ©i, k‹ cä c¶ng ÇÒng MÏ cûa chúng ta nói chung. K‰t luÆn c¶ng ÇÒng ngÜ©i MÏ chúng ta d¿a trên m¶t m¶t dúm nh»ng thành phÀn xÃu thì quä thÆt là quá qu¡t!
Tôi có th‹ thông cäm sâu xa cäm nghï,hành Ƕng và quan Çi‹m cûa ngÜ©i bi‹u tình m¥c dù tôi chÜa hŠ tham gia cu¶c bi‹u tình trܧc tòa soån Th©i Báo. Cùng lúc, tôi cÛng là m¶t ngÜ©i tích c¿c tán thành Tu Chính Án sÓ m¶t. Quan Çi‹m cûa tôi là: Giá mà t© Th©i Báo thi hành quyŠn hån cûa mình cùng v§i quan tâm cho cäm nghï cûa c¶ng ÇÒng nói chung thì bao nhiêu Çau ǧn, thì gi© và công sÙc Çã ÇÜ®c bäo tÒn. Nh»ng ngÜ©i bi‹u tình có toàn qÜyŠn nói lên s¿ chÓng ÇÓi cûa h† ÇÓi v§i viŒc hành sº cûa t© Th©i Báo cÛng nhÜ t© Th©i Báo có toàn quyÀn phÕng vÃn bÃt cÙ ai h† muÓn.
T© Th©i Báo ÇÜ®c toàn quyŠn ch†n l¿a viŒc làm sao cho có l®i nhÃt cho t© báo trong trÜ©ng h®p này, rõ ràng không phäi là cung cÃp m¶t diÍn Çàn cho Çåi diŒn m¶t th‹ ch‰ áp bÙc. ñÒng th©i,nh»ng ngÜ©i chÓng ÇÓi, sau khi Çã bi‹u tình trܧc tòa soån Th©i Báo vài lÀn, nên bÕ công sÙc quš báu cûa h† trܧc lãnh s¿ quán Hà N¶i tåi San Francisco, nÖi mà chi nhánh cûa gÓc rÍ các vÃn nån ViŒt Nam Çang trú ngø.
Dù là tôi rÃt h‡
tr® Tu Chánh án M¶t, tôi Çã
tham gia trong viŒc bi‹u tình chÓng bu°i nói
chuyŒn cûa Lê Lš
Hayslip ( ÇÒng tác giä cho quy‹n sách"
Khi Thiên ñÜ©ng
và Trái ñÃt ñ°i Ngôi")
tåi trÜ©ng ñåi h†c Pacific cûa
Stockton trong ngày 30 tháng tÜ. Tåi sao
vÆy?
Tôi nhÆn thÃy viŒc
bäo vŒ t¿ do ngôn luÆn quan
tr†ng không kém gì viŒc th¿c thi quyŠn
này. M¶t
trong nh»ng cách bäo vŒ. là ÇÜa ra
s¿ th¿c ho¥c
ngæn cän s¿. bành trܧng cûa
các ÇiŠu dÓi trá.
Tåi vÆy mà tôi Çã tham gia
cu¶c bi‹u tình tåi bu°i
nói chuyŒn cûa Lê Lš Hayslip.
Trong khi Hayslip Ç° t¶i cho ngÜ©i MÏ vŠ
cu¶c
chi‰n tåi ViŒt Nam, bà ta hoàn toàn l©
Çi møc tiêu
nhu¶m ÇÕ toàn cÀu cûa CS ViŒt
Nam và CS th‰
gi§i vào th©i Çi‹m Çó; bà
ta không hŠ thØa nhÆn
viŒc chi‰n tranh Çã chÃm dÙt cách
Çây 23 næm
nhÜng nh»ng kh° nån tåi ViŒt Nam vÅn
ti‰p tøc;
bà ta không hŠ nh¡c ljn vai trò
cûa Çäng CSVN
Ƕc ác và tham nhÛng trong nh»ng
khÓn ÇÓn cûa VN hiŒn tåi.
Chúng tôi có m¥t
ª Çó Ç‹ phän bác låi
luÆn ÇiŒu thiên lŒch cûa Lê Lš vŠ
lÎch sº cÛng nhÜ
th¿c t‰ ViŒt Nam. ƒy là nhân nhÜ®ng
mà nói chÙ
n‰u không thì Çúng ra là tuyên
truyŠn cûa Hà N¶i
gói ghém m¶t cách khéo léo
trong câu chuyŒn
thÜÖng tâm cá nhân cûa bà
Lê Lš. Khi bà ta
cÓ tình nói v§i khán giä MÏ
là ngÜ©i ViŒt tø tÆp kh¡p nÖi
trên th‰' gi§i vào ngày 30 tháng
tÜ
Ç‹ "æn mØng" dÎp này thì
ÇÓi v§i tôi, Çó
là m¶t ÇiŠu gian dÓi tr¡ng tr®n
nhÃt. Bà ta có th‹ mù m© vŠ lÎch
sº , nhÜng không th‹ nào
không bi‰t là các cu¶c bi‹u tình
trên toàn
th‰ gi§i vào dÎp 30 tháng TÜ la`Ç‹
chÓng låi
ch‰ Ƕ Ƕc tài CS tåi ViŒt Nam
và Ç‹
nói lên nguyŒn v†ng cho t¿ do và dân chû cûa ngÜ©iViŒt.
nói lên nguyŒn v†ng cho t¿ do và dân chû cûa ngÜ©iViŒt.
Nh»ng ngÜ©i chÓng
ÇÓi khác, nh»ng ngÜ©i
Çã
mÃt ngÜ©i thân, Çã chÎu gian
kh° vô ngÀn dܧi
ch‰ Ƕ cai trÎ CS, dï nhiên không
kŠm ch‰ n°i
niŠm Çau và s¿ tÙc giÆn cûa h†
trܧc nh»ng gian
trá, xuyên tåc tr¡ng tr®n cûa
Lê Lš Hayslip, nhÃt là
khi h† không ÇÜ®c cho phép diÍn
Çåt nhÜ Lê Lš
trong m¶t diÍn Çàn. Micro trong h¶i
trܩng
bÎ dËp Çi.( Tôi liŠu ÇÙng
lên yêu cÀu cho phép góp
š tr¿c ti‰p nên m§i ÇÜ®c nói
dù sau Çó h† cÛng lÃy
mÃt mi-cro tØ tôi). Các ngÜ©i
chÓng ÇÓi Çã hô to:
"Cán b¶ ViŒt C¶ng! Tuyên truyŠn ch‰
Ƕ! ñÒ nói
láo!..." Khán giä MÏ và nh»ng
ngÜ©i t° chÙc ch¡c
là khó chÎu.
Lë dï nhiên, nh»ng
ngÜ©i không phäi gÓc
ViŒt Nam này làm sao có th‹ hi‹u
ÇÜ®c niŠm Çau mà
nh»ng ngÜ©i chÓng ÇÓi
Çä träi qua. ñ‹ có th‹ thông
cäm
cäm ÇÜ®c niŠm Çau cûa h†, xin
hãy tܪng tÜ®ng
niŠm Çau mà nh»ng ngÜ©i MÏ
gÓc Do Thái phäi gánh
chÎu khi nghe có ngÜ©i khen chuyên Nazi
tàn sát chûng
t¶c; niŠm Çau cûa nh»ng ngÜ©i MÏ
gÓc Phi Châu
cäm nhÆn khi phäi nghe các luÆn
ÇiŒu cûa KKK; niŠm
Çau cûa ngÜ©i MÏ gÓc Cam BÓt
khi phäi nghe các luÆn
ÇiŒu cûa Çåi diŒn Khmer ÇÕ.
Là Ƕc giä,
chúng ta có th‹ và nên th¿c thi
cái
quyŠn hån ÇÜ®c phép ÇÒng š
hay không ÇÒng š
v§i m¶t t© báo; thính giä trong
m¶t bu°i nói
chuyŒn cÛng có nh»ng quyŠn t¿ do
ÇÓi v§i
diÍn giä. NhÜng chúng ta nên lên
ti‰ng chÓng ÇÓi
m¶t cách xây d¿ng Ç‹ có th‹
ÇÜa ljn nh»ng thay
ÇÓi tÓt ÇËp. M¶t nhà
væn, nhà báo, m¶t t© báo
hay ngÜ©i t° chÙc h¶i thäo cÛng
nên cÄn tr†ng vŠ
các vÃn ÇŠ h† vi‰t, ngÜ©i h†
phÕng vÃn hay m©i
nói chuyŒn sao cho không tåo ra nh»ng t°n
thÜÖng
không cÀn thi‰t cho ngÜ©i khác.
N‰u tÃt cä chúng ta
ÇŠu th¿c thi các Ç¥c quyŠn
cûa chúng ta v§i s¿ tôn tr†ng và
quan tâm ljn cäm
nghï cûa ngÜ©i khác, tôi tin
ch¡c là chúng ta có
th‹ tåo ÇÜ®c m¶t bÀu không
khí trao Ç°i xây
d¿ng trong hài hòa và an låc.
TrÀn DiŒu
Chân
-- Vietnam Insight (vinsight@best.com)
http://www.vinsight.org/
GIA HỘI * CON MÈO
Gia H¶i
TØ th©i xa xÜa, con ngÜ©i Çã nhÆn thÃy con mèo là m¶t vÆt dÍ thÜÖng cho nên ngÜ©i ta Çã b¡t mèo trên rØng vŠ nuôi. Dân xÙ nào cÛng thích nuôi mèo, nhÃt là các bà, các cô. NgÜ©i ViŒt Nam ta nuôi mèo có nhiŠu møc Çích. Møc Çích trܧc tiên là niŠm vui. Chó cÛng nhÜ mèo,gà, vÎt,bÒ câu là bån cûa con ngÜ©i. Nhìn thÃy con mèo, con chó Çi låi trong sân, ta cäm thÃy vui vÈ.Không gì buÒn cho b¢ng m¶t cæn nhà v¡ng vÈ,không ngÜ©i,không cây cÓi, không thú vÆt .Khi ta ra sân,rãi thóc cho gà,cho bÒ câu æn, chúng ta vô cùng thích thú khi thÃy loài vÆt bâu quanh ta, chen chúc nhau lÜ®m tØng håt thóc vàng.
Loài vÆt không nh»ng là cänh trí mà còn là m¶t phÀn tº giúp viŒc trong gia Çình. Có ngÜ©i coi trâu bò, chó mèo..là con cái trong gia Çình. M‡i loài làm m¶t viŒc, giúp cho gia Çình an ninh,thÎnh vÜ®ng:
" Chó gi» nhà,mèo b¡t chu¶t, gà gáy sáng."
Trong gia Çình ViŒt Nam, con chó là m¶t nhân viên an ninh, canh gi» tr¶m cܧp. Con mèo có nhiŒm vø b¡t chu¶t,n‰u không có mèo, thì chu¶t c¡n quÀn áo, phá ngõ ngách,æn h‰t lúa gåo( Tuy nhiên,không phäi mèo nào cÛng b¡t chu¶t và chu¶t nào cÛng s® mèo. Chu¶t cÓng có con hung d», c¡n ch‰t mèo!)
...Con trâu, con bò Çi cày, Çi bØa ngoài ru¶ng v§i chû.Còn con gà là cái ÇÒng hÒ báo thÙc cûa nông gia.Chúng rÃt h»u ích nhÃt là vào cái bu°i con ngÜ©i chÜa có ÇÒng hÒ.
Con mèo dÜ©ng nhÜ không Çóng m¶t vai trò tích c¿c trong phåm vi huyŠn bí nhÜ chó.NgÜ©i ta coi tܧng chó, ch†n chó tÓt Ç‹ l®i chû. Không ai nói ljn tܧng mèo. NgÜ©i ta thích mèo tam th‹ vì nó ÇËp. Sau này, ngÜ©i ViŒt Nam yêu mèo Xiêm vì mèo Xiêm có b¶ lông Ç¥c biŒt vì phÀn chót cÖ th‹ nó thÜ©ng có màu Çen hay màu mun( mõm Çen, cuÓi Çuôi Çen, cuÓi s®i lông Çen...) rÃt Ç¥c biŒt låi hæng hái b¡t chu¶t.
NgÜ©i ta cho r¢ng mèo ljn ª nhà mình là ÇiŠm xui, trái låi,n‰u có m¶t con chó ª Çâu chåy vào ª nhà mình, thì là ÇiŠm phát tài :
NgÜ©i tây phÜÖng thì s® mèo Çen, còn dân ta không chú š ljn nó. Tuy sÓng trong m¶t nhà, nhÜng chó và mèo có nhiŠu mâu thuÅn. NgÜ©i ta thÜ©ng nói:
Con mèo lanh l®i nên thoát ÇÜ®c nhiŠu tai h†a, con chó chÆm chåp nên lãnh Çû m†i ÇiŠu :
" Con mèo làm b‹ nÒi rang,
Con chó chåy låi mà mang lÃy Çòn."
Con mèo không có công trång hÖn chó th‰ mà ÇÜ®c chû yêu quš hÖn. Nó ÇÜ®c bà chû, cô chû ôm Ãp trong lòng, cho ngÒi cånh bàn æn,ngÒi trên xa lông,Çôi khi còn ngÒi trên giÜ©ng.Còn chó phäi ÇÙng xa,không dám låi gÀn chû,lúc æn thì æn dܧi ÇÃt, và æn toàn xÜÖng xÄu! Dân ta hay æn nhÆu nhÜng không ai æn thÎt mèo.NgÜ©i ta nói thÎt mèo æn xui,và dª. Dân ta cÛng không æn thÎt thÕ m¥c dù mÃy ông tây rÃt thích æn thÎt thÕ. Sau 1975, cá thÎt hi‰m hoi, nhiŠu nhà nuôi thÕ ÇÈ nhiŠu nhÜng cÛng bÕ bªi vì không ai mua. NgÜ©i ta nói thÎt thÕ æn nhÜ thÎt mèo! Ÿ Sàigon nay sÓ mèo hoang rÃt Çông. ( Ngay cä bên MÏ ,bên Pháp cÛng vÆy.) MÃy tay nhÆu chuyên b¡t tr¶m chó, trØ khi túng l¡m m§i b¡t mèo làm thÎt. Trung quÓc có m¶t th©i ra lŒnh gi‰t chim Ç‹ bäo vŒ mùa màng.ñ‹ bäo tÒn lúa gåo, ViŒt Nam và Trung quÓc Çã chû trÜÖng gi‰t chó mèo,cÃm làm bánh,làm phª...NhÜng than ôi. gi‰t chim thì sâu b† vùng lên , gi‰t mèo,gi‰t chó thì chu¶t gia tæng phá hoåi sän xuÃt. Các bÆc lãnh Çåo anh minh låi ra lŒnh nuôi mèo, nuôi chó,tha t¶i cho chim tr©i..Than ôi! Cách mång Çâu có phäi là Ç¥t ÇÀu xuÓng ÇÃt, chân lên tr©i?
Gia H¶i
Mùa Xuân Năm Ấy
Lương sinh ra đời vào tết năm mậu thân 1968. Má của Lương đã bồng Lương chạy khắp nơi tránh pháo kích của Việt cộng.Căn nhà tổ tiên để lại cho ba má Lương đã trở thành đống gạch vụn.
Ba của Lương là một giáo viên trung học, đã phải vào quân trường Thủ Đức.Má của Lương cũng là một giáo viên của trường Nam tiểu học tỉnh lị.
Tháng tư năm 1975, ba của Lương đã buông vũ khí, trở về nhà trong nỗi u buồn khủng khiếp. Má của Lương an ủi ba Lương:"Mình trở về an toàn là may mắn lắm rồi.Biết bao người đã chết thầm lặng trong những ngày đầu xuân 75."
Những ngày tiếp theo là những ngày buồn nhất trong đời của Lương. Ba của Lương cũng như bao sĩ quan VNCH được lệnh đi học tập chính trị một tuần nhưng thực tế là đã ra đi không ngày trở lại.Vì thuộc gia đình ngụy quân, ngụy quyền, má của Lương bị sa thải.
Má của Lương cũng như bao gia đình khác đã phải bán quần áo, bàn ghế...để lo cho thực phẩm gia đình.
Má của Lương phải tham gia vào hàng ngũ buôn thúng bán bưng để sinh sống.Bà đã bán xôi vào buổi sáng. Từ trước, bà là cô giáo chưa hề phải lao động nhưng nay phải đi bộ khắp nơi,vai mang gánh xôi nặng trĩu.Nỗi vui mừng của bà là khi bán sạch gánh xôi.Bà buồn bã mỗi khi bán ế, phải gánh xôi nặng trở về.Suốt ngày hôm đó và mấy hôm sau, anh chị em của Lương phải ăn xôi thay cơm. Đã nhiều lần má Lương tính dẹp gánh xôi xoay qua nghề khác vì buôn bán ngày càng thua lỗ. Mấy nhà bán gạo đã bán rẻ nếp cho bà và cho bà mua chịu. Nhưng khách hàng của bà cũng đói nghèo như bà, cũng mua chịu rồi không trả tiền cho nên càng ngày bà càng cụt vốn. Bà phải ngồi hụi và chạy vạy khắp nơi. Một nỗi khó khăn khác lại xuất hiện bởi vì nhiều người bị nhà nước sa thải,phải tham gia vào đội ngũ buôn thúng bán bưng.Trong xóm trước kia mỗi sáng chỉ có ba bà bán xôi,hai bà bán cháo ,nay thì có cả gần mười bà bán xôi,sáu bảy bà bán cháo...Cung thì nhiều mà cầu ngày càng bớt, cho nên sau vài ngày khai trương, một số lớn đã dẹp buôn bán.
Mùa xuân 77, là một mùa xuân đáng ghi nhớ. Má Lương cùng vài bà bạn hùn vốn bán dưa hấu.Khi thuyền dưa ghé chợ, chuẩn bị mang dưa lên chợ bán, thì khắp chợ công an đứng đầy. Họ không cho má Lương bán dưa hấu tại chợ như mọi năm bởi vì năm nay cả nước tiến lên hợp tác xã.Khắp nơi, mọi ngành nghề đều vào hợp tác, buôn bán cá thể bị coi là lạc hậu, là phản động, bị đảng và nhà nước cấm tuyệt. Má Lương phải ghé thuyền vào một nơi xa chợ, bán tống bán tháo được một ít nhưng rồi lại bị công an đuổi đi.Cuối cùng gần nửa thuyền dưa phải thả xuống sông vì thúi gần hết.Mùa xuân năm đó,anh em Lương phải chịu một cái tết nghèo khổ nhất đời, trong khi má của Lương nằm liệt giường gần cả tháng trời mới lành bệnh.
Sơn Trung
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 02
THƯ CHỦ NHIỆM
THƠ TRẦN HỒNG CHÂU
Gió xuân dìu dặt ngoài thôn
Một con cò lã ru hồn lúa xanh.
Bâng khuâng mây trắng xây thành
Ai về Yên Thái ngọn ngành nhớ ai.
Nhớ lò cao, nhớ bể dài
Nhớ người con gái tóc dài tài seo.
Đời em cây dó cheo leo
Một thân đồi núi mái chèo sông Thao
Về xuôi bột trắng năn nhào
Mấy phen trôi nổi ra vào nước non.
Ngàn năm dó lụavẫn còn
Ngàn năm mộng cũ vuông tròn mười thương.
Giấy mạt hương, giấy nhũ tương,
Giấy hoia trải rộng Đoạn Trường Tân Thanh
Làm seo từ thuở tóc xanh
Đến nay mười tám giấy thành non cao.
Chiều thu gió buốt làm sao
Đôi chân tê mỏi má đào tàn nhang.
Vôi ơi xin chớ phụ phàng
Vôi ăn tay ngọc của nàng Hồ Tây
Giấy hồng vân mầu gió mây
Hoa tiên giấy mãi bấy ch6ày tương tư
Nửa khuya tình tự kim thư,
Hồn em như giấy cũng từ thanh tân,
Lầu thơ ai hẹn một vần,
Tờ hôn mây phối mấy lần đa mang.
Lòng riêng ấp ủ lá vàng
Ý thần tơ giấy ngàn hàng thao thao
Ngàn năm ước hẹn trăng sao
Hồn xưa duyên mới đi vào bỏ hơi
Tấm son nguyện giữa màu tươi
Vì em làm giấy cho người làm thơ!
Chỉ còn nụ cười
em
Một bóng ta một mình
Ðèn khuya mờ giấy
trắng
Tấc lòng người xưa
Trăn trở hôm nay
Quá khứ ngàn cân
Trùng điệp vẫn vòng
vây
Tương lai mịt mờ
Ðường hầm không lối
sáng
Ðời khép kín
Trắng đôi tay
Hồn ngắt lạnh
Chỉ còn nụ cười em
Bình minh rực rỡ
Ngoài chân trời cuộc
sống
Không sắc, không vị
Không một thanh âm
Chỉ còn nụ cười em
Mỗi buổi sớm em mời
anh
Chén trà xanh đầu ngày!
MỘT NĂM QUA
Næm c†p vØa qua là m¶t næm hung hi‹m, m¶t næm ÇÀy bi‰n Ƕng! Chúng ta thº xem låi nh»ng nét chính y‰u trong lÎch sº næm 1998.
I.ViŒt Nam
1.QuÓc N¶i
a.Công cu¶c tranh ÇÃu :
Næm 1997,nhân dân các tÌnh Thái Bình,ñÒng Nai, Xuân L¶c Çã vùng lên và Çã bÎ c¶ng sän khûng bÓ. Sang næm 1998,nhân dân trong nܧc,trong Çó có cä cán b¶, Çäng viên vÅn ti‰p tøc tranh ÇÃu công khai và bí mÆt .
- Tu°i TrÈ ViŒt Nam
Çã vùng lên tranh ÇÃu.
T© báo bí mÆt "Thao ThÙc" sÓ
ÇÀu tiên ra Ç©i tháng 3,
ÇÜ®c m†i ngÜ©i chuyŠn tay džc
- Tháng 5,sinh viên
Væn Lang tranh ÇÃu v§i chính quyŠn
c¶ng sän vŠ giáo døc.
- Trung tuÀn tháng 8,bÃt chÃp s¿ ngæn cÃm cûa chính quyŠn,khoäng mÜ©i ngàn giáo dân các nÖi Çã tham d¿ lÍ k› niŒm 200 næm ñÙc MË La Vang.
- Ngày 21 tháng
10,dân chúng làng Th† ñà,huyŒn
ñông Anh, ( cách Hà N¶i 15 km)
Çã ÇÙng lên tranh ÇÃu
vŠ ru¶ng ÇÃt.
- Trong tháng 6 và
nh»ng tháng sau Çó,
tܧngTrÀn ñ¶ Çã vi‰t
thÜ Çòi xóa bÕ"xã h¶i
chû nghïa" và tÓ cáo s¿
dã man cûa c¶ng sän
- Ông TrÀn DÛng
Ti‰n, m¶t c¿u chi‰n binh th©i kháng
Pháp,
Çã nhiŠu lÀn lên ti‰ng chÌ
trích ñäng.Trong thÜ ÇŠ ngày
10-10,
Ông Çã can Çäm tÓ cáo
các lãnh tø ñäng nhÜ ñ‡
MÜ©i.
- Anh NguyÍn Hoàng
PhÜÖng,28 tu°i,ki‰n trúc sÜ,Çã
lên ti‰ng tÓ cáo
vø"Thûy cung Thæng Long" là m¶t
vø tham nhÛng l§n liên quan ljn
nhiŠu Çäng viên cao cÃp nhÜ Ngô
Xuân L¶c,Phó thû tܧng,NguyÍn
TÃn Vån,
thÙ trܪng b¶ Xây D¿ng, ñinh
Hånh,Phó chû tÎch UBND Hà N¶i...
- GÀn cuÓi næm
,15 Çäng viên lão thành nhÜ
Hoàng Thúy ViŒt,
Lê Månh Nam, ñoàn ñan
Phúc...Çã liên ti‰p tÓ Phåm Th‰
RuyŒt,ñ‡ MÜ©i,
Võ TrÀn Chí vŠ t¶i tham nhÛng.
b.Kinh T‰ :
- Ngày16 tháng 1,ViŒt Nam tuyên bÓ phá giá ÇÒng båc.CuÓi tháng 8, ViŒt Nam låi phá giá lÀn thÙ hai.Trܧc 1998, 1 Çô la æn 11.175 ÇÒng VN. Sau ngày 16 tháng 1,hÓi suÃt là 1 Çô la æn 11.800 ÇÒng VN.Sau tháng 8 là 12.998 nhÜng giá ch® Çen là 14.350 ÇÒng VN.
- Nån tr¶m c¡p, xí ke,ma túy,måi dâm phát tri‹n månh, m¶t phÀn do cán b¶ Çäng cÀm ÇÀu.
- Trong tháng
mÜ©i,tháng mÜ©i m¶t , các
trÆn løt ª miŠn Trung và MiŠn Nam gây
thiŒt håi l§n
nhÃt.LÀn ÇÀu tiên trong lÎch
sº ,Sài gòn bÎ ngÆp løt
kh¡p nÖi.
Nguyên do là nhà nܧc không quan
tâm ljn viŒc tu b° ÇÜ©ng sá,
cÀu cÓng,m¶t phÀn do nån æn
b§t, æn hÓi l¶,æn c¡p...NhÃt
là do
viŒc làm ÇÆp thûy l®i TrÎ An.
- Ngày 28 tháng10,
trong QuÓc H¶i, thû tܧng Phan Væn
Khäi nói r¢ng trong
chín tháng ÇÀu næm,nhÎp
Ƕ tæng trܪng kinh t‰ bÎ
giäm,n¥ng nhÃt là
xuÃt khÄu,ÇÀu tÜ và thu chi
ngân sách.
- Ngày 16 tháng 10,quÏ Phát tri‹n LHQ tuyên bÓ nay nºa sÓ dân VN sÓng dܧi tiêu chuÄn nghèo Çói.(Dܧi 100 Çô m‡i ngÜ©i m¶t næm.)
2.QuÓc Ngoåi
Trong næm 1997, nhân dân Thái Bình, ñÒng Nai,Xuân L¶c Çã ÇÙng lên chÓng båo quyŠn c¶ng sän.TØ cuÓi næm 1997 cho ljn ÇÀu næm 1998, nhiŠu t° chÙc Çã lên ti‰ng ûng h¶ dân chúng ViŒt Nam tåi quÓc n¶i, và cûng cÓ hàng ngÛ Ç‹ tranh ÇÃu månh më cho dân chû và t¿ do tåi ViŒt Nam.
- Ngày 31 tháng 1,Liên Minh các L¿c LÜ®ng Dân T¶c ViŒt Nam ra Ç©i tåi Santa Ana( California).L¿c lÜ®ng này gÒm nh»ng Çåi bi‹u tôn giáo,Çäng phái, quân Ƕi,trí thÙc. Chû tÎch ban chÃp hành trung ÜÖng là bác sï NguyÍn ñình Lš,và các lãnh Çåo liên minh gÒm có Ti‰n sï NguyÍn Bá Long,LuÆt sÜ TrÀn Væn ThuÆn,LuÆt sÜ Lâm ChÃn Th† ,Ti‰n sï DÜ Phܧc Long, ThÜ®ng nghÎ sï Lê TÃn Bºu. ..
- Ngày 21 tháng 3 tåi Houston Texas, Phong trào QuÓc Dân ViŒt Nam Hành ñ¶ng ra Ç©i, do luÆt sÜ Hoàng Duy Hùng làm chû tÎch.
- H¶i nghÎ Liên K‰t NgÜ©i ViŒt T¿ Do h†p ngày 13 và 14 tháng 6 tåi San Jose v§i chû ÇŠ" TÃt cä cùng quÓc n¶i vùng lên vì dân chû cho ViŒt Nam".ñåi diŒn các nhóm gÒm có ông Võ Minh CÜÖng,Phåm Ng†c Ninh, TrÀn Xuân Th©i, Lê Phܧc Sang,NguyÍn Ng†c ñÙc,NguyÍn Kim...
- Næm nay kh¡p nÖi ÇŠu k› niŒm T‰t MÆu Thân (1968).Trong tháng 1,ñÎnh Hܧng Tùng ThÜ (Pháp) Çã xuÃt bän tác phÄm nhiŠu ngÜ©i vi‰t"Cu¶c Thäm Sát MÆu Thân"
- Nhân ngày 30 tháng 4,kh¡p nÖi rÀm r¶ t° chÙc ngày QuÓc HÆn, ÇÒng th©i bày tÕ s¿ ûng h¶ nhiŒt liŒt cûa ÇÒng bào häi ngoåi ÇÓi v§i cu¶c ÇÃu tranh trong nܧc.
- ñ¥c biŒt næm nay kh¡p nÖi làm lÍ k› niŒm 50 næm c© quÓc gia. Ngày thÙ bäy 7-11, c¶ng ÇÒng ngÜ©i ViŒt tåi Toronto Çã cº hành tr†ng th‹ lÍ k› niŒm 50 næm c© quÓc gia.H¶i C¿u quân nhân Toronto Çã mang quân phøc VN diÍn hành tØ phÓ Tàu ljn tòa thÎ sänh Toronto, rØng ngÜ©i tåi Çây dài trên hai cây sÓ. Có nhiŠu xe hoa cûa các chùa tham d¿.
- Sau khi ljn Hoa
kÿ,giáo sÜ
ñoàn Vi‰t Hoåt Çã hoåt
Ƕng månh më.
- Ngày 16 tháng 11,giáo sÜ Çã h†p m¥t v§i các nhà tranh ÇÃu n°i danh quÓc t‰ nhÜ ñÙc ñåt Lai Låt Ma,Harry Wu,Ngøy Kim Sinh, tåi Washington Ç‹ ti‰n t§i viŒc thành lÆp m¶t liên minh quÓc t‰ nhân quyŠn.
- Ngày 28 tháng 11,Giáo sÜ ñoàn Vi‰t Hoåt,LuÆt sÜ NguyÍn H»u ThÓng, Ti‰n sï Lâm Thu Vân Çã ÇÜ®c m©i tham d¿ lÍ k› niŒm 50 næm quÓc t‰ nhân quyŠn Calgary,Edmonton(Canada). Tåi Çây giáo sÜ Hoåt Çã lên ti‰ng Çòi c¶ng sän ViŒt Nam xóa bÕ nh»ng biŒn pháp cùm kËp nhân dân.
- Ngày 10 tháng 12,gíáo sÜ Çã cùng v® là bà TrÀn ThÎ ThÙc và các chi‰n h»u nhÜ Võ ñåi Tôn tuyŒt th¿c 24 gi© tåi công viên LHQ ( San Francisco).
II.QuÓc T‰
Næm 1998 là m¶t næm xÃu cho nhiŠu quÓc gia.Ta có th‹ nói 1998 là m¶t næm Çåi loån tuy r¢ng không phäi là Çåi chi‰n.
- Kh¡p nÖi,nån thÃt nghiŒp gia tæng,Çà suy thoái kinh t‰ vÅn chÜa ÇÙng låi. NhiŠu chính trÎ gia,nhiŠu báo chí ÇÜa ra tin tÙc låc quan,nhÜng phÀn l§n là xäo thuÆt bÀu cº.
- Tåi Á châu nh»ng nܧc nhÜ Thái Lan,ñåi Hàn, Indonesia,Phi LuÆt Tân...ÇÜ®c mŒnh danh là nh»ng ti‹u long kinh t‰.NhÜng các nܧc này Çã søp Ç° ÇÒng loåt trong næm 1997 và ti‰p tøc suy thoái trong næm 1998. Và NhÆt Bän,dù là hùng månh cÛng søp Ç° thäm thÜÖng.M¶t sÓ thÜÖng gia NhÆt Bän,ñåi Hàn Çã tìm giäi thoát b¢ng con ÇÜ©ng t¿ tº.Dân chúng ñåi Hàn Çã tÕ lòng yêu nܧc m¶t cách tích c¿c và cao quš. H† Çã Çem vàng båc,tÜ trang bán rÈ Ç‹ quÓc gia có th‹ trang träi n® nÀn.
- CuÓi næm 1997, Khmer ÇÕ Çã tan rã.Næm 1998,Pol Pot phäi sÓng trong cänh cá chÆu chim lÒng.Ngày 15 tháng 4 ,ông ch‰t trong m¶t cái chòi ª m¶t khu rØng!Lúc sÓng ông gây kinh hoàng cho dân chúng, nhÜng khi ch‰t,xác ông n¢m trÖ Çó ch£ng khác gì xác cûa m¶t nông dân Khmer nghèo gÀy Óm,thäm não!
- Các báo MÏ lên ti‰ng Çem Hunsen ra xº t¶i diŒt chûng vì y Çã cùng Pol Pot trܧc Çây sát håi nhân dân Khmer.
- Tháng 7 næm 1997,Ranariddh bÎ Hunsen lÆt Ç°. Næm 1998,ông ti‰p tøc sÓ phÆn lÜu vong.Và thân phø ông,Sihanouk vÅn ti‰p tøc sÓ phÆn bù nhìn.
- NhiŠu quÓc gia Á châu lâm cänh khûng hoäng kinh t‰,nhÜng Nam DÜÖng låi xäy thêm n¶i loån. T°ng thÓng Suharto Çã phäi nhân nhÜ®ng khi thÃy các ngÜ©i thân cûa ông Çã không còn ûng h¶ Ông n»a. Phó t°ng thÓng Jusuf Habbibie lên thay nhÜng cÖn náo loån vÅn ti‰p diÍn.CuÓi næm, Çám sinh viên låi Çòi T°ng thÓng Habbibie tØ chÙc. Sinh viên Indonesia muÓn gì Çây? Th‰ l¿c Çàng sau tính gì Çây?
- Næm 1998, lÀn ÇÀu tiên trong lÎch sº Çäng, các lãnh tø Çäng nhÜ Võ Væn KiŒt, ñ‡ MÜ©i.. Çã bÎ quÀn chúng và cán b¶ tÓ cáo tham nhÛng...
- Næm này cÛng là m¶t næm r¡c rÓi cho T°ng thÓng Clinton.Sáu ngày trܧc giáng sinh,ông bÎ Hå NghÎ viŒn luÆn t¶i.Dù ông ki‰m ÇÜ®c giäi pháp danh d¿,thì thÆt s¿,con ÇÜ©ng công danh, s¿ nghiŒp và hånh phúc cu¶c Ç©i ông Çã chÃm dÙt vào cuÓi næm 1998.
- NhiŠu t° chÙc quÓc t‰ Çã trao giäi thܪng cho các nhà tranh ÇÃu ViŒt Nam nhÜ ñoàn Vi‰t Hoåt, NguyÍn Ng†c Lan, NguyÍn Chí ThiŒn, VÛ ThÜ Hiên...
- Ngày 15 tháng 10, bäo tàng viŒn væn minh Canada Çã khánh thành cu¶c tri‹n lãm vŠ thuyŠn nhân ViŒt Nam. Bu°i lÍ khánh thành ÇÜÖc Çåt dܧi s¿ chû t†a cûa Toàn quyŠn Anh quÓc tåi Canada, khoäng 4 ngàn ngÜ©i ViŒt Nam và Canada tham d¿. Cu¶c tri‹n lãm së kéo dài 2 næm.
BÃm vào Çây Ç‹ trª låi trang ÇÀu.
Next
No comments:
Post a Comment