DALAI LAMA * HÒA GIẢI SÂN HẬN
Hòa giải Sân Hận
Về phương diện kỹ thuật, (cũng như một vài tác giả khác,) theo tôi, họ Doãn đi tiếp con đường văn chương thời tiền chiến.
Con đường mà hình thức truyện được xây dựng trên hai căn bản:
- Cốt truyện (với những nút thắt, nút mở.) (Và)
- Chủ tâm khai thác tâm lý nhân vật (để người đọc dễ thấy mình, trong truyện.)
Nhưng về phương diện nội dung, vẫn theo tôi, họ Doãn không bó rọ, gói chặt tác phẩm của mình trong những luận đề gia đình, xã hội, xung đột cũ / mới như thời Tự Lực Văn Đoàn.
Ông cũng không bó rọ nội dung chống cộng sản trong tác phẩm của ông trên cái nền cốt truyện và tâm lý nhân vật.
Truyện của ông, dù không hề xa rời hiện thực xã hội, nhiễu nhương, như “Chiếc chiếu hoa cạp điều,” như “Gìn vàng giữ ngọc,” vẫn mở vào phần con người, như một sinh vật linh trưởng, bản chất thiện căn, ở trên mọi hạn hẹp của thể chế chính trị, giai đoạn.
Truyện của ông, ngoài những ẩn dụ, như những phóng chiếu nhân tính qua những truyện ở dạng cổ tích, cũng là những rung động, những lãng mạn thuần khiết (cung ứng cho nhu cầu mơ mộng, căn cốt của con người.) Chúng xiển dương tính hướng thượng. Chúng chan hòa tính nhân loại.
Tới hôm nay, dù trải qua bao năm tháng, bao cuộc đổi đời, tôi vẫn cảm phục ông biết bao, khi trong truyện “Gìn vàng giữ ngọc” của ông, tôi được đọc câu văn:
“Ở thế giới thực dân tư bản, người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn. Ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành.”
3.
Hình như mối bận tâm, nỗi đau đáu lao lung một đời của nhà văn-kẻ-sĩ mang tên Doãn Quốc Sỹ, trước sau vẫn là chủ tâm, nỗ lực kêu đòi, nhắc nhở, cổ súy khả năng “thánh hóa” tình thương yêu rộng rãi và, chân thành nơi mỗi con người ấy.
Sự tương nhượng dẫn tới tương hợp tuyệt vời giữa hai con người nhà văn và, kẻ sĩ nơi họ Doãn, thể hiện sâu sắc nhất, theo tôi ở trường thiên “Khu rừng lau.”
“Khu rừng lau” không chỉ là bản trường ca xương, máu của một dân tộc liên tiếp trải qua những kiếp nạn, từ thời chống ngoại xâm, thực dân Pháp, qua tới những năm tháng bị đầu độc bởi chủ thuyết cộng sản và, tạm dừng ở điểm đứng dân chủ trá hình, lận trong tay áo những con trủy thủ độc tài mà, Khu Rừng Lau còn là trường ca, với những tổ khúc tin tưởng, hy vọng nơi cái Thiện, vốn là một linh – thánh-nhân-bản khi con người (hay nhân loại) phải đối đầu với thảm kịch, với cái ác.
Trường thiên này, theo tôi, là bước song hành giữa kẻ sĩ trước trách nhiệm với lịch sử một đất nước và, nhà văn, trước cái đẹp và, cái thiện của sinh vật linh trưởng.
Nhiều người từng ví trường thiên “Khu rừng lau” với bộ “Chiến tranh và hòa bình” của Leo Tolstoy.(*) Nhưng chưa một ai chỉ ra rằng, nếu Leo Tolstoy là nhà văn dựng lại, (tức đứng ngoài) một giai đoạn lịch sử cháy đỏ lầm than của xứ Đại Nga, kể từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh Pháp-Nga 1811 thì, Doãn Quốc Sỹ là người đứng giữa tâm bão.
Ông không tìm hiểu, để rồi chiêm nghiệm mà, ông đã sống, đã chảy máu cùng lúc với dân tộc, tổ quốc ông; khi lịch sử và, đất nước ông đang chảy máu…
Do đó, với tôi, sự có mặt của ông, Doãn Quốc Sỹ, sự chúng ta còn có trong tâm, trong thế hệ của “Khu rừng lau” của họ Doãn là, một nỗi buồn, đồng thời cũng là một vinh dự, hân hoan lớn, cho văn học và, con người Việt Nam vậy.
Du Tử Lê,
(Calif. Tháng 8-2010.)
_____________________
Chú thích:
(*) Leo Tolstoy (hay Léon Tolstoi,) nhà văn Nga, còn được biết với tên đầy đủ là Lyev Nikolayevick Tolstoy, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828. Ông là tác giả nổi tiếng với hai bộ trường thiên tiểu thuyết: “Chiến tranh và hòa bình” và “Ana Kha Lệ Nin.” Ông mất ngày 20 tháng 11 năm 1910.
NgÜ©i B¶ ñ¶i Næm
XÜa
Hòa giải Sân Hận
Dịch giả: Mỹ Thanh
Ảnh
hưởng của sân hận có tính cách phá hoại rất rõ ràng, hiển nhiên, tức
thời. Thí dụ, khi một ý nghĩ căm hờn chắc chắn hoặc mạnh mẽ xuất hiện,
ngay tức khắc, nó áp đảo con người hoàn toàn và hủy diệt sự an bình hiện
thực của tâm thức. Khi một ý nghĩ căm ghét được nuôi dưỡng trong tâm,
nó sẽ làm cho con người cảm thấy căng thẳng và bực bội, và nó gây ra
triệu chứng mất ăn, mất ngủ, v…v….
Nếu
chúng ta xét nghiệm làm thế nào sự tức giận hoặc các ý nghĩ chán ghét
xuất hiện nơi chúng ta, chúng ta sẽ thấy, thông thường, nó xuất hiện khi
chúng ta bị tổn thương, khi chúng ta bị đối xử không công bằng bởi
người nào đó mà chúng ta đặt kỳ vọng nơi họ. Nếu ngay trong giây phút
đó, ta xem xét kỹ lưỡng cách thức cơn giận xuất hiện, sẽ có một cảm giác
là nó xuất hiện như một vị bảo hộ, một người bạn tới để giúp ta đánh
trận hoặc trả thù cái người vừa làm ta tổn thương. Như vậy, cơn giận
hoặc ý nghĩ chán ghét xuất hiện như một cái thuẫn hoặc một vị bảo hộ.
Nhưng thực tế, đó chỉ là một ảo giác. Nó chỉ là tâm thức điên đảo mà
thôi.
Chandrakirti cho rằng Bước vào Trung Đạo
có thể có những chỉnh lý về việc phản ứng sức mạnh với sức mạnh, nếu
muốn trả thù thì đây là một cách, hoặc ngăn ngừa hay giảm thiểu sự gia
hại. Tuy nhiên, trường hợp nầy không phải vậy, bởi vì nếu như bị gia hại
nơi thân hay bị chửi mắng thì việc ấy đã xảy
ra rồi, cho nên việc trả thù không hề làm giảm đi hay phòng ngừa được sự
việc đã xảy ra rồi và không thể thay đổi được.
Ngược
lại, trong tình huống nào đó, nếu một người thay vì hành xử một cách
bao dung, lại phản ứng một cách tiêu cực như trả thù, thì không những họ
chẳng được lợi ích nào ngay tức thời, mà còn tạo thêm ra thái độ và cảm
giác tiêu cực, và đó là mầm mống xấu cho kiếp sống ở tương lai. Quan
điểm phật giáo cho rằng người nào trả thù, người đó sẽ một mình nhận
lãnh kết quả sự trả thù đó trong kiếp sống ở tương lai. Do đó không
những sự trả thù không mang lại lợi ích nào trong hiện tại, mà nó còn di
hại tới cuộc sống lâu dài của người đó sau nầy.
Tuy
nhiên, nếu một người bị đối xử bất công và nếu như tình trạng đó không
được quan tâm xử lý chính đáng, nó có thể mang lại những kết quả cực kỳ
xấu cho kẻ đã tạo nghiệp ác. Trong trường hợp như vầy, cần đến sự phản
ứng mạnh mẽ. Trong những tình trạng như thế nầy, một người cần có tư thế
mạnh mẽ để có những phản ứng thích hợp, cần nhất là họ phản ứng trong
tinh thần từ bi, không giận dữ hay sân hận. Thật vậy, một trong những
giới cấm của Bồ Tát là cần có những phản ứng mạnh mẽtrong tình trạng
khẩn thiết, và nếu như tình trạng cần kíp, mà vị đó không phản ứng gì
thì xem như đã vi phạm một trong những giới Bố Tát.
Lại nữa, như Bước vào Trung Đạo
đã dẫn giải rõ, không những một thế hệ đầy dẫy các ý nghĩ sân hận đưa
đến những dạng tái sanh không như ý trong kiếp sống ở tương lai, mà đồng
thời các cảm giác giận dữ mạnh mẽ cũng xuất hiện, không cần biết người
đó cố gắng giữ tư thế đáng kính như thế nào, khuôn mặt họ vẫn rất xấu.
Họ cho thấy một khuôn mặt khó chịu, và người nầy phát ra những rung động
rất thù nghịch. Người khác vẫn cảm nhận được, và dường như họ cảm nhận
luôn được làn hơi nóng bốc ra từ thân thể của người kia. Thật ra không
những chỉ con người mới có thể cảm nhận điều đó, kể cả gia súc và những
thú vật khác cũng cảm nhận được, và sẽ tránh người nầy ngay tức khắc.
Nếu
ta xét nghiệm làm thế nào các ý nghĩ giận dữ hoặc sân hận xuất hiện nơi
ta, ta sẽ thấy, thông thường mà nói, nó xuất hiện khi ta đang đau đớn,
khi ta cảm thấy bị đối xử bất công bởi người mà ta không ngờ đến.
Đây
là những kết quả trước mắt của sân hận. Nó mang đến sự chuyển hóa xấu,
sự khó chịu về thân cho con người. Lại nữa, khi sự giận dữ và sân hận
xuất hiện kéo dài, khả năng phân biệt giữa đúng và sai, biết được kết
quả ngắn hay dài hạn, phần khả năng tốt nhất ở não bộ, trở nên hoàn toàn
tê liệt. Nó không còn hoạt động được nữa. Nó làm cho một người trở nên
điên cuồng. Khi sự giận dữ và sân hận xuất hiện thì những kết quả tiêu
cực cũng có mặt.
Khi
chúng ta nghĩ đến kết quả tiêu cực và sức hủy diệt của cơn giận dữ và
sân hận, ta hiểu rõ ta cần tách rời chính ta ra khỏi những cơn bùng nổ
của cảm xúc. Như đã nói qua, kết quả tai hại của những ý nghĩ giận dữ và
sân hận nói trên, một người luôn bị giận dữ và sân hận chi phối , họ sẽ
không nhận được sự bảo vệ nào từ cuộc sống giàu có; kể cả khi người ấy
là triệu phú. Học thức cũng không bảo đảm người đó có thể được bảo vệ
khỏi những hậu quả nầy. Tương tự như vậy, luật pháp không thể bảo đảm
được việc nầy. Kể cả vũ khí hạt nhân, không cần biết hệ thống tự vệ hoàn
chỉnh tới mức nào, nó cũng không bảo vệ hay giúp được gì cho ta. Yếu tố
duy nhất có thể cho ta một nơi an trú hoặc sự bảo vệ an toàn để thoát
khỏi hậu quả của giận dữ và sân hận là thực tập lòng kiên nhẫn và bao
dung.
Bài giảng nầy được trích ra từ quyển sách Hòa giải
Sân hận, bài thuyết pháp của ngài Dalai Lama, dựa vào ««Cẩm nang cuộc
sống Bố Tát Đạo»», Nhà xuất bản Snow Lion (Sư Tử Tuyết).
Nguồn: buddhismtoday.com Được bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 13 tháng 4 năm 2009 |
DU TỬ LÊ * DOÃN QUỐC SỸ
Doãn Quốc Sỹ, nỗi buồn và, niềm vinh dự, hân hoan lớn.
Du Tử Lê
1.
Theo tiểu sử được ghi nhận bởi Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì, nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh tại Hà Đông, ngày 17 tháng 2 năm 1923, trong một gia đình thấm nhuần tinh thần Nho giáo. Năm 1954, ông cùng gia đình phải di cư vào miền Nam vì hiệp định Geneva chia đôi Việt Nam.
Trước thời điểm này không lâu, ông hoàn tất truyện ngắn “Sợ lửa,” (dạng cổ tích,) tựa bước chân đầu tìm đến văn chương.
Cũng trước giai đoạn qua phân đất nước, ở miền Bắc, họ Doãn từng dạy tại một số trường trung học công lập, như Nguyễn Khuyến (Nam Định, 1951-1952,) Chu Văn An (Hà Nội, 1952-1953) v.v…
Những yếu tố như được sinh trưởng trong một gia đình mà, người cha là một nhà Nho, khi trưởng thành, lại chọn cho mình nghề dạy học, theo tôi, là những chỉ dấu cho thấy, ẩn mật đằng sau tư cách nhà văn, họ Doãn còn / đã là một kẻ sĩ.
Kẻ sĩ hiểu theo nghĩa lương tâm và, trách nhiệm của một trí thức, đứa con của một tổ quốc, trước những biến động rung chuyển, bật gốc một đất nước
Tôi không biết định mệnh nghiêng về phía nào, giữa hai con người nhà văn và, kẻ sĩ của một Doãn Quốc Sỹ. Nhưng qua những tác phẩm văn chương của ông, điển hình như bộ trường thiên “Khu rừng lau,” tôi có cảm tưởng ông đã lôi kéo, được định mệnh nghiêng về phía kẻ sĩ trước thời cuộc, ở nơi ông.
2.
Nhìn lại hai mươi năm văn học miền Nam, chúng ta phải nói rằng, đó là thời gian quá ngắn cho sự hình thành, khai triển rồi định hình, một dòng văn học đa dạng, phong phú. Nên, ta cũng có thể nói, nó giống sự vươn vai, lớn dậy thần kỳ, như huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương.
Hai tác nhân chính giúp cho sự thoát thai, sinh thành dòng văn học mang tính Phù Đổng Thiên Vương vừa kể, tôi nghĩ, là thảm kịch chia lìa bật máu, vĩ đại (lần đầu trong lịch sử dân tộc Việt) với hơn 1 triệu người miền Bắc nghiến răng, bậm môi, tự nguyện bỏ lại sau lưng mồ mả ông cha. Và, sự chuyển hóa chớp nhoáng từ thể chế Quân chủ lập hiến, sang thể chế Cộng hòa chỉ trong vài năm, như một giấc mơ, ở miền Nam.
Theo tiểu sử được ghi nhận bởi Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì, nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh tại Hà Đông, ngày 17 tháng 2 năm 1923, trong một gia đình thấm nhuần tinh thần Nho giáo. Năm 1954, ông cùng gia đình phải di cư vào miền Nam vì hiệp định Geneva chia đôi Việt Nam.
Trước thời điểm này không lâu, ông hoàn tất truyện ngắn “Sợ lửa,” (dạng cổ tích,) tựa bước chân đầu tìm đến văn chương.
Cũng trước giai đoạn qua phân đất nước, ở miền Bắc, họ Doãn từng dạy tại một số trường trung học công lập, như Nguyễn Khuyến (Nam Định, 1951-1952,) Chu Văn An (Hà Nội, 1952-1953) v.v…
Những yếu tố như được sinh trưởng trong một gia đình mà, người cha là một nhà Nho, khi trưởng thành, lại chọn cho mình nghề dạy học, theo tôi, là những chỉ dấu cho thấy, ẩn mật đằng sau tư cách nhà văn, họ Doãn còn / đã là một kẻ sĩ.
Kẻ sĩ hiểu theo nghĩa lương tâm và, trách nhiệm của một trí thức, đứa con của một tổ quốc, trước những biến động rung chuyển, bật gốc một đất nước
Tôi không biết định mệnh nghiêng về phía nào, giữa hai con người nhà văn và, kẻ sĩ của một Doãn Quốc Sỹ. Nhưng qua những tác phẩm văn chương của ông, điển hình như bộ trường thiên “Khu rừng lau,” tôi có cảm tưởng ông đã lôi kéo, được định mệnh nghiêng về phía kẻ sĩ trước thời cuộc, ở nơi ông.
2.
Nhìn lại hai mươi năm văn học miền Nam, chúng ta phải nói rằng, đó là thời gian quá ngắn cho sự hình thành, khai triển rồi định hình, một dòng văn học đa dạng, phong phú. Nên, ta cũng có thể nói, nó giống sự vươn vai, lớn dậy thần kỳ, như huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương.
Hai tác nhân chính giúp cho sự thoát thai, sinh thành dòng văn học mang tính Phù Đổng Thiên Vương vừa kể, tôi nghĩ, là thảm kịch chia lìa bật máu, vĩ đại (lần đầu trong lịch sử dân tộc Việt) với hơn 1 triệu người miền Bắc nghiến răng, bậm môi, tự nguyện bỏ lại sau lưng mồ mả ông cha. Và, sự chuyển hóa chớp nhoáng từ thể chế Quân chủ lập hiến, sang thể chế Cộng hòa chỉ trong vài năm, như một giấc mơ, ở miền Nam.
Hai
tác nhân hỗ tương nhau tựa một kết hợp kỳ diệu, biến gần hai chục triệu
người dân miền Nam (thời đó,) trở thành những kẻ đồng hành, nhất tâm,
hăm hở trong một lên đường mới mẻ. Một lên đường khám phá và, khai phóng
cái thổ ngưỡng vốn đã hằng nghìn năm, sẵn đấy.
Tinh thần khai phá của giai đoạn lịch sử miền Nam sau 1954, thể hiện cụ thể, hưng phấn nhất, tiêu biểu là lãnh vực văn học.
Văn học miền Nam ở giai đoạn vỡ đất này có hai khuynh hướng chính:
- Khuynh hướng văn chương chống chế độ cộng sản. (Và)
- khuynh hướng văn chương nặng tính nhân văn, trồng người. Hiểu theo nghĩa lấy đạo lý, nhân tính làm căn bản.
Cũng vẫn ở giai đoạn khẩn hoang, vỡ đất kia, số tác giả đắm mình, vẫy vùng trong ngọn triều chống cộng chiếm đa số. Họ đứng về phía thời thế nóng bỏng. Như một thứ thời thượng… Phía trồng người, xây tâm ít, hiếm.
Theo ghi nhận của tôi, tác giả “Dòng sông định mệnh” ở phía ít, hiếm đó.
Họ Doãn an nhiên, tự tại, nở nụ cười đôn hậu trước chọn lựa có phần thưa, vắng đồng hành, của mình.
Vì
là một lên đường mới mẻ, ồ ạt, nên, trong lúc nhiều tác giả xuất hiện
giữa thập niên 1950, qua sáng tác, còn đang nỗ lực thực chứng sự hiện
diện của mình như Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Tô Thùy Yên, Quách Thoại,
Thanh Tâm Tuyền… thì, Doãn Quốc Sỹ đã định hình (hiểu theo nghĩa được
đám đông đón nhận,) qua những tác phẩm ấn hành như “Sợ lửa” (1956,) “U hoài” (1957,) “Dòng sông định mệnh” (1959)…Tinh thần khai phá của giai đoạn lịch sử miền Nam sau 1954, thể hiện cụ thể, hưng phấn nhất, tiêu biểu là lãnh vực văn học.
Văn học miền Nam ở giai đoạn vỡ đất này có hai khuynh hướng chính:
- Khuynh hướng văn chương chống chế độ cộng sản. (Và)
- khuynh hướng văn chương nặng tính nhân văn, trồng người. Hiểu theo nghĩa lấy đạo lý, nhân tính làm căn bản.
Cũng vẫn ở giai đoạn khẩn hoang, vỡ đất kia, số tác giả đắm mình, vẫy vùng trong ngọn triều chống cộng chiếm đa số. Họ đứng về phía thời thế nóng bỏng. Như một thứ thời thượng… Phía trồng người, xây tâm ít, hiếm.
Theo ghi nhận của tôi, tác giả “Dòng sông định mệnh” ở phía ít, hiếm đó.
Họ Doãn an nhiên, tự tại, nở nụ cười đôn hậu trước chọn lựa có phần thưa, vắng đồng hành, của mình.
Về phương diện kỹ thuật, (cũng như một vài tác giả khác,) theo tôi, họ Doãn đi tiếp con đường văn chương thời tiền chiến.
Con đường mà hình thức truyện được xây dựng trên hai căn bản:
- Cốt truyện (với những nút thắt, nút mở.) (Và)
- Chủ tâm khai thác tâm lý nhân vật (để người đọc dễ thấy mình, trong truyện.)
Nhưng về phương diện nội dung, vẫn theo tôi, họ Doãn không bó rọ, gói chặt tác phẩm của mình trong những luận đề gia đình, xã hội, xung đột cũ / mới như thời Tự Lực Văn Đoàn.
Ông cũng không bó rọ nội dung chống cộng sản trong tác phẩm của ông trên cái nền cốt truyện và tâm lý nhân vật.
Truyện của ông, dù không hề xa rời hiện thực xã hội, nhiễu nhương, như “Chiếc chiếu hoa cạp điều,” như “Gìn vàng giữ ngọc,” vẫn mở vào phần con người, như một sinh vật linh trưởng, bản chất thiện căn, ở trên mọi hạn hẹp của thể chế chính trị, giai đoạn.
Truyện của ông, ngoài những ẩn dụ, như những phóng chiếu nhân tính qua những truyện ở dạng cổ tích, cũng là những rung động, những lãng mạn thuần khiết (cung ứng cho nhu cầu mơ mộng, căn cốt của con người.) Chúng xiển dương tính hướng thượng. Chúng chan hòa tính nhân loại.
Tới hôm nay, dù trải qua bao năm tháng, bao cuộc đổi đời, tôi vẫn cảm phục ông biết bao, khi trong truyện “Gìn vàng giữ ngọc” của ông, tôi được đọc câu văn:
“Ở thế giới thực dân tư bản, người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn. Ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành.”
3.
Hình như mối bận tâm, nỗi đau đáu lao lung một đời của nhà văn-kẻ-sĩ mang tên Doãn Quốc Sỹ, trước sau vẫn là chủ tâm, nỗ lực kêu đòi, nhắc nhở, cổ súy khả năng “thánh hóa” tình thương yêu rộng rãi và, chân thành nơi mỗi con người ấy.
Sự tương nhượng dẫn tới tương hợp tuyệt vời giữa hai con người nhà văn và, kẻ sĩ nơi họ Doãn, thể hiện sâu sắc nhất, theo tôi ở trường thiên “Khu rừng lau.”
“Khu rừng lau” không chỉ là bản trường ca xương, máu của một dân tộc liên tiếp trải qua những kiếp nạn, từ thời chống ngoại xâm, thực dân Pháp, qua tới những năm tháng bị đầu độc bởi chủ thuyết cộng sản và, tạm dừng ở điểm đứng dân chủ trá hình, lận trong tay áo những con trủy thủ độc tài mà, Khu Rừng Lau còn là trường ca, với những tổ khúc tin tưởng, hy vọng nơi cái Thiện, vốn là một linh – thánh-nhân-bản khi con người (hay nhân loại) phải đối đầu với thảm kịch, với cái ác.
Trường thiên này, theo tôi, là bước song hành giữa kẻ sĩ trước trách nhiệm với lịch sử một đất nước và, nhà văn, trước cái đẹp và, cái thiện của sinh vật linh trưởng.
Nhiều người từng ví trường thiên “Khu rừng lau” với bộ “Chiến tranh và hòa bình” của Leo Tolstoy.(*) Nhưng chưa một ai chỉ ra rằng, nếu Leo Tolstoy là nhà văn dựng lại, (tức đứng ngoài) một giai đoạn lịch sử cháy đỏ lầm than của xứ Đại Nga, kể từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh Pháp-Nga 1811 thì, Doãn Quốc Sỹ là người đứng giữa tâm bão.
Ông không tìm hiểu, để rồi chiêm nghiệm mà, ông đã sống, đã chảy máu cùng lúc với dân tộc, tổ quốc ông; khi lịch sử và, đất nước ông đang chảy máu…
Do đó, với tôi, sự có mặt của ông, Doãn Quốc Sỹ, sự chúng ta còn có trong tâm, trong thế hệ của “Khu rừng lau” của họ Doãn là, một nỗi buồn, đồng thời cũng là một vinh dự, hân hoan lớn, cho văn học và, con người Việt Nam vậy.
Du Tử Lê,
(Calif. Tháng 8-2010.)
_____________________
Chú thích:
(*) Leo Tolstoy (hay Léon Tolstoi,) nhà văn Nga, còn được biết với tên đầy đủ là Lyev Nikolayevick Tolstoy, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828. Ông là tác giả nổi tiếng với hai bộ trường thiên tiểu thuyết: “Chiến tranh và hòa bình” và “Ana Kha Lệ Nin.” Ông mất ngày 20 tháng 11 năm 1910.
THƠ NGUYÊN SA
Buổi
Sáng Học Trò
Trang sức bằng nụ cười phì nhiêu
Nhẩy bằng chân chim trên giòng suối cạn
Ấy là em trên đường đi buổi sáng
Trăng ở trên môi và gió ở trong hồn
Mái tóc mười lăm trên lá tung tăng
Em ném vào phố phường niềm vui rừng núi
Vẽ lên chiếc xe sơn xanh dáng thuyền trẩy hội
Cho những vườn hoa cầm đôi mắt bình yên
Gửi những cung đàn tiếng guốc khua vang
Hẹn đám mây xanh vịn cánh tay tuổi trẻ
Khoác giọng nói tin yêu vào hồn anh đóng cửa
Với biển là tay và sóng cũng là tay
Để anh trở thành hải đảo bị bao vây
Để đáy mắt san hô thêm nước ngọt
Như con dế mèn cánh đau vào buổi sáng
Nhìn theo em uống từng giọt sương hoa
Anh chợt nghe mạch đất đưới chân đi
Anh chợt nhớ trong hồn đôi cánh trắng.
Trang sức bằng nụ cười phì nhiêu
Nhẩy bằng chân chim trên giòng suối cạn
Ấy là em trên đường đi buổi sáng
Trăng ở trên môi và gió ở trong hồn
Mái tóc mười lăm trên lá tung tăng
Em ném vào phố phường niềm vui rừng núi
Vẽ lên chiếc xe sơn xanh dáng thuyền trẩy hội
Cho những vườn hoa cầm đôi mắt bình yên
Gửi những cung đàn tiếng guốc khua vang
Hẹn đám mây xanh vịn cánh tay tuổi trẻ
Khoác giọng nói tin yêu vào hồn anh đóng cửa
Với biển là tay và sóng cũng là tay
Để anh trở thành hải đảo bị bao vây
Để đáy mắt san hô thêm nước ngọt
Như con dế mèn cánh đau vào buổi sáng
Nhìn theo em uống từng giọt sương hoa
Anh chợt nghe mạch đất đưới chân đi
Anh chợt nhớ trong hồn đôi cánh trắng.
Áo
Lụa Hà Đông
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mua thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bay vội vã vào trong hồn mở cửa
Gặp một bữa, anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỹ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu
Em không nói đã nghe từng gia điệu
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng, em vào thơ diễm tuyệt
Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
Để anh giận, mắt anh nhìn vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi, sám hối chạy trên môi
Những tháng ngày trên vai buồn bỗng nặng
Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mua thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bay vội vã vào trong hồn mở cửa
Gặp một bữa, anh đã mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỹ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu
Em không nói đã nghe từng gia điệu
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng, em vào thơ diễm tuyệt
Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
Để anh giận, mắt anh nhìn vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi, sám hối chạy trên môi
Những tháng ngày trên vai buồn bỗng nặng
Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng
Paris
Có Gì Lạ Không Em ?
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về giữa bến sông Seine
Anh về giữa một giòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em ?
Em có đứng ở bên bờ sông ?
Làm ơn che khuất nửa vừng trăng
Anh về có nương theo giòng nước
Anh sẽ tìm em trong bóng trăng
Anh sẽ thở trong hơi sương khuya
Mỗi lần tan một chút sương sa
Bao giờ sáng một trời sao sáng
Là mắt em nhìn trong gió đưa ...
Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây
Ngày sau hai đứa mình xa cách
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay
Anh sẽ chép thơ trên thời gian
Lời thơ toàn những chuyện hờn ghen
Vì em hay một vừng trăng sáng
Đã đắm trong lòng cặp mắt em ?
Anh sẽ đàn những phím tơ trùng
Anh đàn mà chả có thanh âm
Chỉ nghe gió thoảng niềm thương nhớ
Để lúc xa vời đó~ nhớ nhung
Paris có gì lạ không em ?
Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen ?...
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về giữa bến sông Seine
Anh về giữa một giòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em ?
Em có đứng ở bên bờ sông ?
Làm ơn che khuất nửa vừng trăng
Anh về có nương theo giòng nước
Anh sẽ tìm em trong bóng trăng
Anh sẽ thở trong hơi sương khuya
Mỗi lần tan một chút sương sa
Bao giờ sáng một trời sao sáng
Là mắt em nhìn trong gió đưa ...
Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây
Ngày sau hai đứa mình xa cách
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay
Anh sẽ chép thơ trên thời gian
Lời thơ toàn những chuyện hờn ghen
Vì em hay một vừng trăng sáng
Đã đắm trong lòng cặp mắt em ?
Anh sẽ đàn những phím tơ trùng
Anh đàn mà chả có thanh âm
Chỉ nghe gió thoảng niềm thương nhớ
Để lúc xa vời đó~ nhớ nhung
Paris có gì lạ không em ?
Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen ?...
Tháng
Sáu Trời Mưa
Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt
Trời không mưa anh cứ lạy trời mưa
Anh lạy trời mưa phong toả đường về
Và đêm ơi xin cứ dài vô tận
Đôi mắt em anh xin đừng lo ngại
Mười ngón tay đừng tà áo mân mê
Đừng hỏi anh rằng: có phải đêm đã khuya
Sao lại sợ đêm khuya, sao lại e trời sáng...
Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến
Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa
Hãy gởi cho nhau từng hơi thở muà thu
Có gió heo may và nắng vàng rất nhẹ
Và hãy nói năng những lời vô nghĩa
Hãy cười bằng mắt, ngủ bằng vai
Hãy để môi rót rượu vào môi
Hãy cầm tay bằng ngón tay bấn loạn
Gió có lạnh hãy cầm tay cho chặt
Đêm có khuya em hãy ngủ cho ngoan
Hãy biến cuộc đời bằng những tối tân hôn
Nếu em sợ thời gian dài vô tận
Tháng sáu trời mưa, em có nghe mưa xuống
Trời không mưa em có lạy trời mưa ?
Anh vẫn xin mưa phong toả đường về
Anh vẫn cầu mưa mặc dầu mây ảm đạm
Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng
Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân
Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
Vì anh gọi tên em là nhan sắc
Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu
Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt
Trời không mưa anh cứ lạy trời mưa
Anh lạy trời mưa phong toả đường về
Và đêm ơi xin cứ dài vô tận
Đôi mắt em anh xin đừng lo ngại
Mười ngón tay đừng tà áo mân mê
Đừng hỏi anh rằng: có phải đêm đã khuya
Sao lại sợ đêm khuya, sao lại e trời sáng...
Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến
Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa
Hãy gởi cho nhau từng hơi thở muà thu
Có gió heo may và nắng vàng rất nhẹ
Và hãy nói năng những lời vô nghĩa
Hãy cười bằng mắt, ngủ bằng vai
Hãy để môi rót rượu vào môi
Hãy cầm tay bằng ngón tay bấn loạn
Gió có lạnh hãy cầm tay cho chặt
Đêm có khuya em hãy ngủ cho ngoan
Hãy biến cuộc đời bằng những tối tân hôn
Nếu em sợ thời gian dài vô tận
Tháng sáu trời mưa, em có nghe mưa xuống
Trời không mưa em có lạy trời mưa ?
Anh vẫn xin mưa phong toả đường về
Anh vẫn cầu mưa mặc dầu mây ảm đạm
Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng
Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân
Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
Vì anh gọi tên em là nhan sắc
Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu
BÙI BẢO TRÚC * LUÂN HOÁN
Ðọc Hơi Thở Việt Nam
Bùi Bảo Trúc
Luân Hoán tên thật Lê Ngọc Châu, một nhà thơ có nhiều tác phẩm đóng góp cho nền văn học miền Nam trước 1975. Tập thơ đầu tiên của ông, tập Về Trời, đã được gởi tới độc giả từ năm 1964. Sau đó, cứ mỗi năm chúng ta lại được đọc một tập thơ khác của ông. Năm 1966 là tập Trôi Sông, năm 1967 là tập Chết Trong Lòng Người, rồi Viên Ðạn Cho Người Yêu Dấu năm 1969. Kế đó là các tác phẩm Lục Bát Ca, Hoà Bình Ơi, Hãy Ðến, Nén Hương Cho Bàn Chân Trái và năm 1974 là cuốn Rượu Hồng Ðã Rót.
Tập Hơi Thở Việt Nam là những bài thơ đã viết trong khoảng thời gian từ 1975 cho tới những năm 1983, 1984, trước khi ông rời Việt Nam, sang Montréal Gia Nã Ðại, nơi ông nói là đến để tạm trú, từ đầu năm 1985. Những bài thơ của tập Hơi Thở Việt Nam đã được đem ra khỏi Việt Nam bằng những cách khá đặc biệt. Một số đã được các con ông học thuộc, và chép lại từ trí nhớ. Một số khác được bạn bè ông gởi dần từ Việt Nam sang Gia Nã Ðại.
Ngay từ những năm ở Việt Nam, Luân Hoán chưa bao giờ là một nhà thơ nổi tiếng với những bài thơ tình. Thơ của ông, ngay cả những bài thơ tình rất ít ỏi, luôn luôn là một tiếng thơ buồn, uất nghẹn, và như lời nhận định của Thái Tú Hạp, là những ấm ức, những phẩn nộ, những đắng cay và những kinh hoàng của một nhân chứng lịch sử đen tối nhất của thời đại. Những nhận định của Thái Tú Hạp là ghi nhận về tập Hơi Thở Việt Nam , nhưng cũng lại đúng cho toàn thể những tác phẩm thi ca khác của Luân Hoán.
Hơi Thở Việt Nam với 39 bài thơ, 5 chữ, lục bát, 7 chữ, 8 chữ là những bài thơ còn vang vọng âm hưởng của những bài thơ mà người ta đã được đọc của ông trong những năm trước 1975. Những hình ảnh xám ngắt của quê hương tan nát, những binh đao trận mạc, những ước mơ của một đời về một hòa bình không bao giờ đến, những quà tặng chiến tranh, những chân tay chia lìa trên một thân thể trở về sau một cuộc chiến.
Tập Hơi Thở Việt Nam ngoài những hình ảnh như vừa kể, còn là tiếng thở của một quê hương rũ liệt, của một đất nước không còn của những người lớn lên ở miền đất đó nữa, của một hòa bình đầy kinh hoàng :
" ngủ ngồi trên gác tối
trong ngày vui hòa bình
tiếng tim đập trong ngực
vừa mơ vừa rùng mình
ngủ ngồi trên gác tối
bụng rỗng như bình hoa
cắm cành cây hy vọng
xanh biếc nỗi xót xa
ngủ ngồi trên gác tối
tôi mơ tôi là người
thịt xương này của đất
hơi thở này của tôi
ngủ ngồi trên gác tối
quyển vở chờ trên bàn
bài thơ là tiếng thở
vỡ òa trong dấu than
ngủ ngồi trên gác tối
tự do như đêm dài
chết cần gì hấp hối
sống cần gì tương lai"Việt nam mà ông lắng nghe từng hơi thở đó không còn là quê hương của những ngày cũ.Việt Nam mà Luân Hoán viết trong thơ ông là những còm cõi, đau thương, là ác mộng, là trái cà chua cũng làm ông hoảng sợ vì cái màu đỏ của nó, như trong một bức thư viết cho người ở xa :
xin báo cùng anh tin vui thứ nhất
cây cúc đầu hè nở được một bông
đất còm cõi nhưng thương đời vẫn gắng
phơi hết lòng mình ra giữa gió đông
xin báo cùng anh cây cà chua nhỏ
cũng đậu được vài trái đỏ xinh xinh
(màu đỏ đẹp ơi, vì sao ta sợ
có lúc nhìn em ta chợt giật mình)
.....
xin báo cùng anh sáng nay đầu ngõ
có con cu cườm đậu tuốt ngọn tre
nó đứng rỉa lông mà không buồn gáy
có phải vì còn sợ ná ai đe ?
.....
nhớ ngủ nghe anh đêm nay em đợi
như những đêm nào đợi pháo nửa đêm
xin mừng tuổi anh câu thơ què quặt
bạc tóc đừng già, mất nước đừng quên...
Và trên đất nước buồn thảm đó Luân Hoán đã sống những ngày làm người lạ mặt ngay trên quê hương mình, là kẻ tội đồ không phạm tội, là người bị buộc phải móc trái tim quăng ra ngoài :
chúng tôi ngồi chồm hỗm
trong sân chùa Hải Châu
mắt lập lòe đom đóm
nắng đổ lửa trên đầu
đã bảy ngày như vậy
chúng tôi lo lắng chờ
miệng khô mồ hôi chảy
vạn người cùng bơ vơ
gục đầu che lồng ngực
tiếng loa xoáy vào hồn :
" các anh là súc vật
nhân dân hằng căm hờn
nhưng cách mạng sáng suốt
bao dung và khoan hồng
hãy thật thà khai báo
tố cáo thật rõ ràng
lập công đầu chuộc tội
giữa trật tự, xếp hàng "chúng tôi là súc vật
hôm nay học làm người
xin chân thành "đăng ký :"
chúng tôi thừa trái tim
đã bảy ngày như vậy
chúng tôi lo lắng chờ
viết thật nhiều lý lịch
để làm người tự do !Luân Hoán sinh tại Quảng Nam, năm 1941, ông viết những bài thơ đầu trong những năm của thập niên 60. Ông nhập ngũ năm 1967 và giải ngũ năm 1970, sau khi để lại chiếc chân trái ở chiến trường. Ông trở về đời sống dân sự sau đó và phục vụ tại một ngân hàng cho tới năm 1975. Luân Hoán đã có thơ đăng trên nhiều tạp chí văn học ở miền Nam trong khoảng thời gian này. Với một lý lịch như thế, ông đã phải sống nhiều tháng trong trại học tập cải tạo :
.....
rồi thì cách mạng bắt
một hai bải tôi khai
tôi khai hoài khai mãi
tôi khai mãi khai hoài
lý lịch tôi từ đó
đâm ra thành truyện dài
mai sau in thành sách
may ra thành thiên tài
xin cảm ơn cách mạng
tôi nguyện cầm bút hoài...
Hơi Thở Việt Nam là một chứng từ của một người đã sống những ngày khủng khiếp nhất tại Việt Nam , những năm 1975. Hãy nghe cảnh cải tạo nhà đất :
có cái gì xôn xao ngoài phố
thử đạp một vòng quanh quẩn coi chơi
mỗi ngã tư đường vài đám đông lố nhố
tiếng síp lê tiếng đạn bắng ngang trời
trước dãy lầu một bà già đứng chửi
vài chục áo vàng rối rít lăng xăng
bọn tự vệ cánh tay choàng gỉe đỏ
ùa vào nhà mang đồ đạc ra quăng
trên hè phố đống nồi niêu soong chảo
ngổn ngang nằm trơ mặt mũi tối đen
vài chiếc chiếu đang cuộn tròn nằm vạ
thằng bé con trất cu đái lăn quăn....Quê hương mà ông nói tới là thù hận, là "đập đá núi lấp cho đầy trí não, xây thành cao bằng ánh mắt căm hờn" là cơ cực, là " một hạt cơm cõng mấy hạt bo bo, nước rau muống có làm em đỡ ngẹn, đời đang vui sao nét mặt buồn xo ?" là nỗi đau đớn của một kẻ lạ mặt ngay trên chính xứ sở mình "giữa quê nhà sao nghe sao nghe quá bơ vơ?" Cái quê hương đó không còn tương lai cho những người lớn "mi nằm mi đứng mi đi, mi mang cái tội Bắc Kỳ di cư, mi mang cái tội làm người, nửa đời tham trận, thua rồi nghe con.." Cũng không còn bình an cho những người đã chết : ..." mẹ có biết con về đào mã mẹ theo chủ trương, đúng chính sách đề ra, ruộng đất hẹp, đời đang cần hoa quả, hỡi qủi thần trả lại bãi tha ma ..." Và tuổi trẻ cũng bị tước đoạt những hồn nhiên măng sữa :
...tuổi em chừng mười bốn
hay sắp tròn mười ba
cớ sao ai cũng sợ
thấy em lo tránh xa ?
ai dạy em phấn đấu
để trở thành đoàn viên
cổ em quàng khăn đỏ
đời đã được bình yên ?
ai dạy em nhận mặt
thế nào là Ngụy Quân
chế độ nào bóc lột
những ai cần thanh trừng ?
hỡi người em tuổi nhỏ
tôi chính là Ngụy Quân
dưới mắt người cộng sản
vẫn thương em vô cùng ..."Trong cái không khí thê lương đó, đôi lúc người ta thấy lóe lên một chút ánh sáng, một chút hy vọng, một chút hạnh phúc trong đêm mịt mùng của chế độ. Hãy nghe Luân Hoán kể về một đêm mưa nghe lén nhạc Phạm Duy :
đêm mưa nằm ngủ không đành
tôi trôi theo giọng Thái Thanh dập dìu
" tôi còn yêu, tôi cứ yêu..."
nhạc bao la trải bóng kiềi liêu trai
" tôi đang mơ giấc mộng dài
đừng lay tôi nhé, cuộc đời chung quanh "
hoan hô anh sống hết mình
cảm ơn anh thắp nỗi tình núi sông
hát lên anh, máu vẫn hồng
xiềng không xích nổi đêm đông nằm sầu..."Ðó là một thứ hơi thở Việt Nam để Luân Hoán sống tiếp. Tập thơ của ông có lúc như những tiếng thét thảm thiết, có lúc như những chịu đựng buông xuôi, có lúc như một cơn mơ hạnh phúc. Ðọc toàn thể, tậo thơ là một nhịp thở bồi hồi của quê hương xa cách ngàn trùng; là những đớn đau của cả một dân tộc bất hạnh được ghi lại. Hơi thở ấy vẫn là những làn hơi ấm nhắc nhở cho những người đọc thơ Luân Hoán về một miền đất cũ.
Bùi Bảo Trúc
tháng 7-1987
DIÊN NGHỊ * HUỆ THU
Diên Nghị
Bài thơ Bế Nắng Bồng Mưa
của HUỆ THU
Ði từ Sài Gòn ra Xuân Lộc
xe qua đèo Mẹ Bồng Con
Tôi không thấy người đàn bà nào
đứng dưới chân đèo
Người ta giải thích: đây là hai hòn núi,
lớn là Mẹ, nhỏ là con
Gọi Ðèo Mẹ Bồng Con: một cách ví von
như thể thấy Con với Mẹ
À thì ra thế!
Xe chạy tiếp ra Phan Thiết, Phan Rang,
ra Nha Trang
sắp vào Tuy Hòa...
Người ta chỉ cho tôi Núi Vọng Phu
bà Mẹ bồng con ngó mông ra biển...
Một bầy hải âu bay liệng
Bất chợt trong lòng tôi...
Tôi cũng từng là Mẹ
từng bồng con
nhưng chưa từng lên non đứng ngóng...
Vì :
Hồi đó chiến tranh
đất nước không ngừng xao động
tôi Mẹ bồng con lạc lõng giữa đời...
Kể cũng lâu rồi
Tôi chưa thành tượng
Con tôi đã lớn
Hai cánh tay tôi đã thừa
Ðể bây giờ bồng nắng bế mưa!
Tôi nghe nói ngoài Bắc, xa xưa
ở trên đỉnh núi Kỳ Lừa
đường lên Cao-Bắc-Lạng
cũng có tượng người Mẹ bồng con
đứng giữa lừng mây
mây tan từng tảng
Bà Mẹ bồng con muôn năm
thành ánh sáng...
Tôi tự hỏi: ở trong Nam sao không ai lãng mạn
Mẹ bế con lên trên núi Thất Sơn
cúi đầu nhìn về Châu Ðốc
Có một thời tôi đứng đây và khóc
tưởng mình là chim bay về núi tối rồi
Phải chăng phù sa không đắp nên đồi
Phải chăờng kỷ niệm của đời tôi mãi mãi
ở trong lòng bàn tay lạnh ngắt?
Xe trở lại Sài Gòn lòng tôi đau như cắt
Mới mà bao nhiêu năm
Con tôi giờ cũng xa xăm
Mẹ bồng ngày tháng vậy!
Huệ Thu
***
Có những hình tượng thiên nhiên trở thành huyền thoại, huyền thuyết, đã đi vào lịch sử văn chương nghệ thuật qua hàng ngàn năm, và sẽ không bao giờ mòn hao ý nghĩa chính nó. Hình tượng Mẹ và Con giữa cuộc đời thường, thể nhập dáng dấp hai ngọn núi, cao thấp mờ xa trên dãy Trường Sơn lừng lững nổi bật giữa vòm trời, hướng ra biển Ðông bao la sóng nước.
Hình tượng Mẹ và Ccon hay Mẹ bồng Con mang nhiều sử tích vừa thực vừa hư. Lãnh thổ tỉnh Bình Ðịnh miền Trung có núi Ðá Vọng Phu. Tỉnh Lạng Sơn, miền Bắc có núi Nàng Tô Thị. Phổ quát nhìn ngắm góc độ nhân gian, còn nhiều hình ảnh Mẹ và Con trên những ngọn núi khác của quê hương, khi
chỉ đơn giản hình dung hai mô đất, đá lớn nhỏ, cao thấp cạnh nhau, phóng chiếu sức tồn tại lâu đời sử tích không thuần từ hình tượng cụ thể, mà bất tử của loài người. Bên Ðông bên Tây, bất cứ dân tộc nào, Ðấng tạo hóa dày ân sủng ban phát cho nhân loại cái Tình bất diệt ấy.
Con người, dù thuộc giai cấp nào trong xã hội, dưới một chế độ chính trị nào, người Mẹ vẫn mang sứ mạng thay Cha, nuôi dạy con. Con luôn gần Mẹ. Mẹ mang nặng đẻ đau, mẹ nâng niu bú mớm. Con với mẹ gắn bó, khăng khít không rời như cơm với cá. (Cơm vói cá như mạ với con). Mẹ ảnh hưởng trực tiếp đến tính tình, ngôn ngữ, phong cách của con, thế nên người đời đa phần nam giới thường đổ vạ, chê trách mỗi khi mắng mỏ những đứa con hư (Con hư tại mẹ v.v.)
Người đàn ông xưa nay, trụ cột gia đình, trách nhiệm nặng nề tạo dựng gia đình ấm no hạnh phúc. Hơn nữa, vai trò đàn ông trong xã hội bao quát, rộng lớn hơn. Từ cộng đồng bán khai cho đến một xã hội qua khỏi giai đoạn săn bắt, hái lượm, người đàn ông vẫn giữ vai trò lao động làm ra của cải vật chất. Không quá khiên cưỡng, ví người đàn ông như cái cần câu cá, mà người đàn bà (làm mẹ) là cái giỏ đựng cá. Mẹ dành dụm, tích lũy của cải để nuôi con, lo cho con từ khi cất tiếng khóc chào đời đến khi khôn lớn...
Người con đã phải nhìn nhận công cha, nghĩa mẹ ố Công cha to lớn tựa ngọn núi Thái Sơn, mà nghĩa mẹ còn bền bỉ luân lưu như nước trong nguồn chảy ra ố Nguồn nước bất tận với thời gian. Chân dung mẹ luôn hàm chứa một ý nghĩa thiêng liêng giữa hiện thể... tiềm tàng giá trị đạo lý, mỗi khi thấy hoặc nghe nhắc nhở:
Ði từ Sài Gòn ra Xuân Lộc
Xe qua đèo Mẹ Bồng Con
Tôi không thấy người đàn bà nào
đứng dưới chân đèo
Người ta giải thích: đây là hai hòn núi,
lớn là Mẹ, nhỏ là Con
Nơi chốn quạnh vắng heo hút ấy, người ta cho tên gọi đèo Mẹ Bồng Con, như một dấu
tích, một diểm mốc đường trường:
Gọi Ðèo Mẹ Bồng Con:
một cách ví von
như thể thấy Con với Mẹ
À thì ra thế!
Dọc Quốc lộ 1, từ Nam ra Trung, một bên biển Ðông thăm thẳm, một bên Trường Sơn trùng điệp, xe vươn tới theo chiều dài đất nước, qua khỏi địa giới Phan Rang, Nha Trang, đến Tuy Hòa gần Bình Ðịnh, trên dãy núi Bà, Hòn Vọng Phu dáng hình bật bóng giữa lưng trời ố Mẹ Bồng Con trên núi cao nhìn ra biển rộng, hoành tráng, kiên trung, thách đố nắng mưa, giông bão thời gian. Mẹ bồng con mong ngóng, rõi đôi mắt trông chờ người về mà không hy vọng nỗi chờ trông thành hạnh ngộ.
Người đàn ông, người chồng, mộ thuở ra đi - giữa thời chinh chiến - thản hoặc người đàn ông nương cánh buồm lướt gió đại dương nặng gánh thương hồ, cũng có thể người ra đi trên con thuyền chài lưới đến trùng khơi mà định mệnh đã an bài cho kẻ rủi ro, bất hạnh một chỗ an nghỉ ngàn thu nào giữa sóng nước mịt mù!
Người vợ bồng con, chong mắt đợi chờ ngày tàn tháng lụn, cho đến một lúc không chịu nổi khốn khổ, dày vò, bức bách, nàng bế con đi tìm chồng, đi mãi, đi lên tận núi cao, ước mong nhìn thấy và dừng lại. Dừng lại, khí thiêng âm dương đúc tạc, biến thể xác hòa hư vô, thành tượng đá!
Lòng chung thủy, kiên trinh của người vợ, người con quả không còn ngôn từ nào diễn đạt đầy dủ.
Từ thi hào Nguyễn Du, trăm năm trước, đến thi sĩ Quách Tấn sau này cũng như Vương Kiến, thời Ðường đã đề thơ vịnh tượng:
của HUỆ THU
Ði từ Sài Gòn ra Xuân Lộc
xe qua đèo Mẹ Bồng Con
Tôi không thấy người đàn bà nào
đứng dưới chân đèo
Người ta giải thích: đây là hai hòn núi,
lớn là Mẹ, nhỏ là con
Gọi Ðèo Mẹ Bồng Con: một cách ví von
như thể thấy Con với Mẹ
À thì ra thế!
Xe chạy tiếp ra Phan Thiết, Phan Rang,
ra Nha Trang
sắp vào Tuy Hòa...
Người ta chỉ cho tôi Núi Vọng Phu
bà Mẹ bồng con ngó mông ra biển...
Một bầy hải âu bay liệng
Bất chợt trong lòng tôi...
Tôi cũng từng là Mẹ
từng bồng con
nhưng chưa từng lên non đứng ngóng...
Vì :
Hồi đó chiến tranh
đất nước không ngừng xao động
tôi Mẹ bồng con lạc lõng giữa đời...
Kể cũng lâu rồi
Tôi chưa thành tượng
Con tôi đã lớn
Hai cánh tay tôi đã thừa
Ðể bây giờ bồng nắng bế mưa!
Tôi nghe nói ngoài Bắc, xa xưa
ở trên đỉnh núi Kỳ Lừa
đường lên Cao-Bắc-Lạng
cũng có tượng người Mẹ bồng con
đứng giữa lừng mây
mây tan từng tảng
Bà Mẹ bồng con muôn năm
thành ánh sáng...
Tôi tự hỏi: ở trong Nam sao không ai lãng mạn
Mẹ bế con lên trên núi Thất Sơn
cúi đầu nhìn về Châu Ðốc
Có một thời tôi đứng đây và khóc
tưởng mình là chim bay về núi tối rồi
Phải chăng phù sa không đắp nên đồi
Phải chăờng kỷ niệm của đời tôi mãi mãi
ở trong lòng bàn tay lạnh ngắt?
Xe trở lại Sài Gòn lòng tôi đau như cắt
Mới mà bao nhiêu năm
Con tôi giờ cũng xa xăm
Mẹ bồng ngày tháng vậy!
Huệ Thu
***
Có những hình tượng thiên nhiên trở thành huyền thoại, huyền thuyết, đã đi vào lịch sử văn chương nghệ thuật qua hàng ngàn năm, và sẽ không bao giờ mòn hao ý nghĩa chính nó. Hình tượng Mẹ và Con giữa cuộc đời thường, thể nhập dáng dấp hai ngọn núi, cao thấp mờ xa trên dãy Trường Sơn lừng lững nổi bật giữa vòm trời, hướng ra biển Ðông bao la sóng nước.
Hình tượng Mẹ và Ccon hay Mẹ bồng Con mang nhiều sử tích vừa thực vừa hư. Lãnh thổ tỉnh Bình Ðịnh miền Trung có núi Ðá Vọng Phu. Tỉnh Lạng Sơn, miền Bắc có núi Nàng Tô Thị. Phổ quát nhìn ngắm góc độ nhân gian, còn nhiều hình ảnh Mẹ và Con trên những ngọn núi khác của quê hương, khi
chỉ đơn giản hình dung hai mô đất, đá lớn nhỏ, cao thấp cạnh nhau, phóng chiếu sức tồn tại lâu đời sử tích không thuần từ hình tượng cụ thể, mà bất tử của loài người. Bên Ðông bên Tây, bất cứ dân tộc nào, Ðấng tạo hóa dày ân sủng ban phát cho nhân loại cái Tình bất diệt ấy.
Con người, dù thuộc giai cấp nào trong xã hội, dưới một chế độ chính trị nào, người Mẹ vẫn mang sứ mạng thay Cha, nuôi dạy con. Con luôn gần Mẹ. Mẹ mang nặng đẻ đau, mẹ nâng niu bú mớm. Con với mẹ gắn bó, khăng khít không rời như cơm với cá. (Cơm vói cá như mạ với con). Mẹ ảnh hưởng trực tiếp đến tính tình, ngôn ngữ, phong cách của con, thế nên người đời đa phần nam giới thường đổ vạ, chê trách mỗi khi mắng mỏ những đứa con hư (Con hư tại mẹ v.v.)
Người đàn ông xưa nay, trụ cột gia đình, trách nhiệm nặng nề tạo dựng gia đình ấm no hạnh phúc. Hơn nữa, vai trò đàn ông trong xã hội bao quát, rộng lớn hơn. Từ cộng đồng bán khai cho đến một xã hội qua khỏi giai đoạn săn bắt, hái lượm, người đàn ông vẫn giữ vai trò lao động làm ra của cải vật chất. Không quá khiên cưỡng, ví người đàn ông như cái cần câu cá, mà người đàn bà (làm mẹ) là cái giỏ đựng cá. Mẹ dành dụm, tích lũy của cải để nuôi con, lo cho con từ khi cất tiếng khóc chào đời đến khi khôn lớn...
Người con đã phải nhìn nhận công cha, nghĩa mẹ ố Công cha to lớn tựa ngọn núi Thái Sơn, mà nghĩa mẹ còn bền bỉ luân lưu như nước trong nguồn chảy ra ố Nguồn nước bất tận với thời gian. Chân dung mẹ luôn hàm chứa một ý nghĩa thiêng liêng giữa hiện thể... tiềm tàng giá trị đạo lý, mỗi khi thấy hoặc nghe nhắc nhở:
Ði từ Sài Gòn ra Xuân Lộc
Xe qua đèo Mẹ Bồng Con
Tôi không thấy người đàn bà nào
đứng dưới chân đèo
Người ta giải thích: đây là hai hòn núi,
lớn là Mẹ, nhỏ là Con
Nơi chốn quạnh vắng heo hút ấy, người ta cho tên gọi đèo Mẹ Bồng Con, như một dấu
tích, một diểm mốc đường trường:
Gọi Ðèo Mẹ Bồng Con:
một cách ví von
như thể thấy Con với Mẹ
À thì ra thế!
Dọc Quốc lộ 1, từ Nam ra Trung, một bên biển Ðông thăm thẳm, một bên Trường Sơn trùng điệp, xe vươn tới theo chiều dài đất nước, qua khỏi địa giới Phan Rang, Nha Trang, đến Tuy Hòa gần Bình Ðịnh, trên dãy núi Bà, Hòn Vọng Phu dáng hình bật bóng giữa lưng trời ố Mẹ Bồng Con trên núi cao nhìn ra biển rộng, hoành tráng, kiên trung, thách đố nắng mưa, giông bão thời gian. Mẹ bồng con mong ngóng, rõi đôi mắt trông chờ người về mà không hy vọng nỗi chờ trông thành hạnh ngộ.
Người đàn ông, người chồng, mộ thuở ra đi - giữa thời chinh chiến - thản hoặc người đàn ông nương cánh buồm lướt gió đại dương nặng gánh thương hồ, cũng có thể người ra đi trên con thuyền chài lưới đến trùng khơi mà định mệnh đã an bài cho kẻ rủi ro, bất hạnh một chỗ an nghỉ ngàn thu nào giữa sóng nước mịt mù!
Người vợ bồng con, chong mắt đợi chờ ngày tàn tháng lụn, cho đến một lúc không chịu nổi khốn khổ, dày vò, bức bách, nàng bế con đi tìm chồng, đi mãi, đi lên tận núi cao, ước mong nhìn thấy và dừng lại. Dừng lại, khí thiêng âm dương đúc tạc, biến thể xác hòa hư vô, thành tượng đá!
Lòng chung thủy, kiên trinh của người vợ, người con quả không còn ngôn từ nào diễn đạt đầy dủ.
Từ thi hào Nguyễn Du, trăm năm trước, đến thi sĩ Quách Tấn sau này cũng như Vương Kiến, thời Ðường đã đề thơ vịnh tượng:
Xe chạy tiếp ra Phan Thiết, Phan Rang,
ra Nha Trang
sắp vào Tuy Hòa...
Người ta chỉ cho tôi Núi Vọng Phu
bà Mẹ bồng con ngó mông ra biển...
Biển mênh mông, sóng bạc đầu lêu nghêu cuốn gió, ầm ào vang động, nói lên tận đáy sâu huyền bí - triết lý vũ trụ dưới làn nước mặn, con người tham vọng cần biết đến đâu cũng chưa thể tìm ra nguyên lý tồn tại của bắt đầu và kết cuộc.
Mẹ bồng con xôn xao, đồng tâm trạng. Hình bóng người về, những làn mây tan tụ giữa vòm trời, những đợt sóng tít tắp vỗ bờ, âm vang vỗ về, dịu dã... và, chỉ có đàn chim hải âu bay liệng trên sóng dật dờ... cho người mòn mỏi đợi chờ, một tín hiệu hy vọng từ mù khơi....
Một bầy hải âu bay liệng
Bất chợt trong lòng tôi...
Dọc chiều dài Quốc lộ 1, chìm nổi bóng hình Mẹ Bồng Con, Huệ Thu bước ra khỏi ngoại giới, trở về bản thể hồi niệm. Ðã từng làm mẹ, bồng con, trải qua thử thách, khốn đọa thời ly loạn nhưng chưa từng vinh dự làm mẹ bồng con lên non trông ngóng, để cuối cùng thành tượng đá:
Tôi cũng từng là Mẹ
từng bồng con
nhưng chưa từng lên non đứng ngóng...
Dưới vòm trời nghiệt ngã, bất an chinh chiến triền miên, Huệ Thu, mẹ bồng con lạc lõng giữa bể đời hiện thực:
Hồi đó chiến tranh
đất nước không ngừng xao động
tôi Mẹ bồng con lạc lõng giữa đời...
Người chồng xông pha trận mạc, cũng đã một lần đi, và... đã không hẹn trở về. Khách má hồng đồng nghĩa với truân chuyên... Bên song cửa, chinh phụ bồng con thao thức trông chờ... Lòng đàn bà tuy có khi yếu đuối vẫn thắng được mình, nhờ hun đúc khung Nho giáo (Tam tòng tứ đức) xa chồng, một mực vọng chồng (Xa chàng điểm phấn tô hồng với ai - CPN) còn làm tròn nghĩa vụ (Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân - CPN)
Hai bức chân dung - đồng cảnh, một đã ghi vào huyền sử, treo cao để được chiêm ngưỡng, một còn lận đận giữa cõi ta bà. Cả hai dạng tĩnh và động, tồn tại song song với thời gian. Trở thành tượng có nghĩa đã chịu dừng lại trong ước vọng của thế gian rồi. Cái chưa thành, có nghĩa luôn hướng lên phía trước để còn phải trả nợ nần làm mẹ, đồng thời cũng để mơ ước chắp cánh bay theo cuộc sống trong giới hạn của đời:
Kể cũng lâu rồi
Tôi chưa thành tượng
Con tôi đã lớn
Hai cánh tay tôi đã thừa
Ðể bây giờ bồng nắng bế mưa!
Hạnh phúc lứa đôi qua ba chặng đường, từ tình nhân đến làm vợ, làm mẹ, nhưng hạnh phúc chẳng bao giờ trọn vẹn như mơ ước của con người. Lứa đôi chồng vợ tạm tách rời hai ngả. Hạnh phúc nối tiếp - sự nuôi dưỡng con cái - con bên mẹ, vò võ đợi chờ thứ hạnh phúc cách chia. Cho đến khi người con biết bước đi một mình trên nẻo đường thân phận, rời khỏi vòng tay thương yêu của mẹ! Miền Bắc, miền Trung, lừng lững hình tượng Mẹ Bồng Con, ngợp ngời ánh sáng trung trinh, tiết nghĩa:
đứng giữa lừng mây
mây tan từng tảng
Bà Mẹ bồng con muôn năm
thành ánh sáng...
Miền Nam, cuối đất quê hương, sao không ai dựng một sử tích lãng mạn, để cùng hứa hẹn thương yêu chung thủy với nhau. Có lẽ đất phù sa không đủ sức bồi cao thành núi! Ðồng bằng miền Nam chằng chịt sông rạch từ Chín Con Rồng tỏa nhánh. Miền Nam hiếm hoi một núi Bà Ðen, một dãy Thất Sơn, chờ đợi đến bao giờ trở thành hiện tượng có một bà mẹ bồng con trên đó. Hình như trong tận cùng tâm trạng ước mơ, Huệ Thu muốn mở tiếng kêu đòi giải đáp:
Tôi tự hỏi: ở trong Nam
sao không ai lãng mạn
Mẹ bế con lên trên núi Thất Sơn
cúi đầu nhìn về Châu Ðốc
Phát xuất từ góc nhìn ngoại giới về hiện thực cô đơn, trăn trở bản thể trong cuộc, kể cả vật thể xung quanh dung thông cảm lụy, bài thơ minh họa một hiện tượng bi đát đang tàng ẩn bàng bạc:
Có một thời tôi đứng đây và khóc
tưởng mình là chim bay về núi tối rồi
Giọt nước mắt âm thầm nhỏ xuống - vừa đơn độc, vừa âu lo, vừa muộn màng, bởi vì bản thể đang thiếu một tương quan! Con người hiện hữu cần thiết những tương quan, thiếu tương quan nên tìm kiếm, tìm gặp. Tìm gặp để được đối thoại, trao gởi... nhất là đối thoại tình cảm. Giữa cuộc đời, nếu vắng những tương quan đối thoại, vô hình trung dẫn dắt vào thế giới của đợi chờ, ước mơ và hoài vọng. Người chồng ra đi, bỏ lại dưới mái nhà một không gian trống lạnh, một nỗi im lặng khủng khiếp bởi không vọng tiếng con người!
Nhìn nhận kỷ niệm của cuộc đời riêng tư đã vuột ra khỏi tầm tay nồng ấm, hoặc có chăng còn lại giữa lòng bàn tay, đến đây cũng giá lạnh! Thu gọn trong con chữ hai câu thơ ngắn mà ý tưởng cơ hồ trải dài mãi mãi:
Phải chăng kỷ niệm của đời tôi mãi mãi
ở trong lòng bàn tay lạnh ngắt?
Hơn ai hết, thi nhân ý thức và cùng sống với những thảm trạng của phận người. Tuy thế, bi quan, hệ lụy từ cuộc đời cũng không thể xô đẩy bản thể vào hố sâu tuyệt vọng. Ý muốn sáng tạo bật lên từ tia sáng tạo vật. Nhà thơ, biết hưởng thụ, sáng tạo cái đẹp ngay giữa cuộc đời phồn tạp bằng nguồn hoài vọng sâu xa... ấp ủ trong con tim nhạy cảm:
Xe trở lại Sài Gòn lòng tôi đau như cắt
Mới mà bao nhiêu năm
Con tôi giờ cũng xa xăm
Mẹ bồng ngày tháng vậy!
Xa chồng xa con mà thời gian ngày tháng trùng vây. Thời gian, dòng chảy bất tận của cuộc đời và con người hiện hữu. Con đã lớn khôn, trưởng thành, tiếp nối thân phận làm người, mẹ rảnh đôi tay, nhưng tình yêu thương luôn đè nặng. Xa chồng, xa con, mẹ đành bồng ngày tháng. Ngày tháng cứ lặng lẽ qua đi, không trở lại. Albert Camus, cho thời gian phi ý, và cuộc sống này không chỉ phi lý thời gian, mà tất cả loài người phải sống trong dòng thời gian ấy.
Diên Nghị, 11-207
ra Nha Trang
sắp vào Tuy Hòa...
Người ta chỉ cho tôi Núi Vọng Phu
bà Mẹ bồng con ngó mông ra biển...
Biển mênh mông, sóng bạc đầu lêu nghêu cuốn gió, ầm ào vang động, nói lên tận đáy sâu huyền bí - triết lý vũ trụ dưới làn nước mặn, con người tham vọng cần biết đến đâu cũng chưa thể tìm ra nguyên lý tồn tại của bắt đầu và kết cuộc.
Mẹ bồng con xôn xao, đồng tâm trạng. Hình bóng người về, những làn mây tan tụ giữa vòm trời, những đợt sóng tít tắp vỗ bờ, âm vang vỗ về, dịu dã... và, chỉ có đàn chim hải âu bay liệng trên sóng dật dờ... cho người mòn mỏi đợi chờ, một tín hiệu hy vọng từ mù khơi....
Một bầy hải âu bay liệng
Bất chợt trong lòng tôi...
Dọc chiều dài Quốc lộ 1, chìm nổi bóng hình Mẹ Bồng Con, Huệ Thu bước ra khỏi ngoại giới, trở về bản thể hồi niệm. Ðã từng làm mẹ, bồng con, trải qua thử thách, khốn đọa thời ly loạn nhưng chưa từng vinh dự làm mẹ bồng con lên non trông ngóng, để cuối cùng thành tượng đá:
Tôi cũng từng là Mẹ
từng bồng con
nhưng chưa từng lên non đứng ngóng...
Dưới vòm trời nghiệt ngã, bất an chinh chiến triền miên, Huệ Thu, mẹ bồng con lạc lõng giữa bể đời hiện thực:
Hồi đó chiến tranh
đất nước không ngừng xao động
tôi Mẹ bồng con lạc lõng giữa đời...
Người chồng xông pha trận mạc, cũng đã một lần đi, và... đã không hẹn trở về. Khách má hồng đồng nghĩa với truân chuyên... Bên song cửa, chinh phụ bồng con thao thức trông chờ... Lòng đàn bà tuy có khi yếu đuối vẫn thắng được mình, nhờ hun đúc khung Nho giáo (Tam tòng tứ đức) xa chồng, một mực vọng chồng (Xa chàng điểm phấn tô hồng với ai - CPN) còn làm tròn nghĩa vụ (Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân - CPN)
Hai bức chân dung - đồng cảnh, một đã ghi vào huyền sử, treo cao để được chiêm ngưỡng, một còn lận đận giữa cõi ta bà. Cả hai dạng tĩnh và động, tồn tại song song với thời gian. Trở thành tượng có nghĩa đã chịu dừng lại trong ước vọng của thế gian rồi. Cái chưa thành, có nghĩa luôn hướng lên phía trước để còn phải trả nợ nần làm mẹ, đồng thời cũng để mơ ước chắp cánh bay theo cuộc sống trong giới hạn của đời:
Kể cũng lâu rồi
Tôi chưa thành tượng
Con tôi đã lớn
Hai cánh tay tôi đã thừa
Ðể bây giờ bồng nắng bế mưa!
Hạnh phúc lứa đôi qua ba chặng đường, từ tình nhân đến làm vợ, làm mẹ, nhưng hạnh phúc chẳng bao giờ trọn vẹn như mơ ước của con người. Lứa đôi chồng vợ tạm tách rời hai ngả. Hạnh phúc nối tiếp - sự nuôi dưỡng con cái - con bên mẹ, vò võ đợi chờ thứ hạnh phúc cách chia. Cho đến khi người con biết bước đi một mình trên nẻo đường thân phận, rời khỏi vòng tay thương yêu của mẹ! Miền Bắc, miền Trung, lừng lững hình tượng Mẹ Bồng Con, ngợp ngời ánh sáng trung trinh, tiết nghĩa:
đứng giữa lừng mây
mây tan từng tảng
Bà Mẹ bồng con muôn năm
thành ánh sáng...
Miền Nam, cuối đất quê hương, sao không ai dựng một sử tích lãng mạn, để cùng hứa hẹn thương yêu chung thủy với nhau. Có lẽ đất phù sa không đủ sức bồi cao thành núi! Ðồng bằng miền Nam chằng chịt sông rạch từ Chín Con Rồng tỏa nhánh. Miền Nam hiếm hoi một núi Bà Ðen, một dãy Thất Sơn, chờ đợi đến bao giờ trở thành hiện tượng có một bà mẹ bồng con trên đó. Hình như trong tận cùng tâm trạng ước mơ, Huệ Thu muốn mở tiếng kêu đòi giải đáp:
Tôi tự hỏi: ở trong Nam
sao không ai lãng mạn
Mẹ bế con lên trên núi Thất Sơn
cúi đầu nhìn về Châu Ðốc
Phát xuất từ góc nhìn ngoại giới về hiện thực cô đơn, trăn trở bản thể trong cuộc, kể cả vật thể xung quanh dung thông cảm lụy, bài thơ minh họa một hiện tượng bi đát đang tàng ẩn bàng bạc:
Có một thời tôi đứng đây và khóc
tưởng mình là chim bay về núi tối rồi
Giọt nước mắt âm thầm nhỏ xuống - vừa đơn độc, vừa âu lo, vừa muộn màng, bởi vì bản thể đang thiếu một tương quan! Con người hiện hữu cần thiết những tương quan, thiếu tương quan nên tìm kiếm, tìm gặp. Tìm gặp để được đối thoại, trao gởi... nhất là đối thoại tình cảm. Giữa cuộc đời, nếu vắng những tương quan đối thoại, vô hình trung dẫn dắt vào thế giới của đợi chờ, ước mơ và hoài vọng. Người chồng ra đi, bỏ lại dưới mái nhà một không gian trống lạnh, một nỗi im lặng khủng khiếp bởi không vọng tiếng con người!
Nhìn nhận kỷ niệm của cuộc đời riêng tư đã vuột ra khỏi tầm tay nồng ấm, hoặc có chăng còn lại giữa lòng bàn tay, đến đây cũng giá lạnh! Thu gọn trong con chữ hai câu thơ ngắn mà ý tưởng cơ hồ trải dài mãi mãi:
Phải chăng kỷ niệm của đời tôi mãi mãi
ở trong lòng bàn tay lạnh ngắt?
Hơn ai hết, thi nhân ý thức và cùng sống với những thảm trạng của phận người. Tuy thế, bi quan, hệ lụy từ cuộc đời cũng không thể xô đẩy bản thể vào hố sâu tuyệt vọng. Ý muốn sáng tạo bật lên từ tia sáng tạo vật. Nhà thơ, biết hưởng thụ, sáng tạo cái đẹp ngay giữa cuộc đời phồn tạp bằng nguồn hoài vọng sâu xa... ấp ủ trong con tim nhạy cảm:
Xe trở lại Sài Gòn lòng tôi đau như cắt
Mới mà bao nhiêu năm
Con tôi giờ cũng xa xăm
Mẹ bồng ngày tháng vậy!
Xa chồng xa con mà thời gian ngày tháng trùng vây. Thời gian, dòng chảy bất tận của cuộc đời và con người hiện hữu. Con đã lớn khôn, trưởng thành, tiếp nối thân phận làm người, mẹ rảnh đôi tay, nhưng tình yêu thương luôn đè nặng. Xa chồng, xa con, mẹ đành bồng ngày tháng. Ngày tháng cứ lặng lẽ qua đi, không trở lại. Albert Camus, cho thời gian phi ý, và cuộc sống này không chỉ phi lý thời gian, mà tất cả loài người phải sống trong dòng thời gian ấy.
Diên Nghị, 11-207
SƠN TRUNG * KHÓC BẠN
Khóc
bạn Trương Quang Gia
Tin
đâu sét đánh bên tai,
Bác
Trương nay đã bỏ đời mà đi !
Còn
bằng hữu, còn thê nhi,
Cớ
sao bác vội đi về cõi không ?
Kìa
Thiên Ấn, nọ Cửu Long,
Núi
sông còn đó, cánh hồng bặt tăm !
Ngàn
trùng non nước xa xăm,
Còn
đâu hình bóng tri âm thuở nào.
Trông
trời lạnh lẽo ngàn sao,
Trông
quê, quê khuất sau màu biển xanh.
Thương
người ngay thẳng hiền lành,
Thương
người học rộng sử kinh gồm tài.
Thương
ngưòi thật dạ yêu đời,
Hoa
sen trong lửa vẫn tươi rạng màu.
Tưởng
rằng còn gặp lại nhau,
Ai
ngờ thế sự biển dâu vô thường.
Tưởng
rằng còn gặp bạn vàng,
Cùng
bình thế sự,còn bàn văn chương.
Từ
đây vĩnh biệt bạn vàng,
Từ
đây cách biệt âm dương đôi miền.
Tâm
hương một nén thắp lên,
Cầu
mong bác ở hoàng tuyền chứng cho.
Gia
Hội
6-1996
LINH BÃO * ÁO MỚI
Linh Bảo
Áo Mới
Chiếc
áo đầu tiên quý giá nhất trong gia đình tôi là một chiếc “Áo vua ban" .
Hồi ấy, ba tôi làm việc tại Tòa Khâm Sứ Huế, mẹ tôi là một cô Tôn nữ
nghèo, Tôn nữ là một người thuộc Hoàng tộc , địa vị xa lắc xa lơ . Nhưng
cũng nhờ thế bà có đường giây bà con quen biết để tiện việc mách mối
mua bán đồ cổ. Ngoài ra, bà còn chụp ảnh cho các Bà Hoàng, Bà Chúa, Bà
Phi, Bà Tân trong Hoàng cung.
Mách mối là một công việc buôn bán rất nhàn. Bà chỉ việc diện bảnh, rẽ đường ngôi cho thẳng, bôi dầu dừa bóng loáng và thơm nức lên, chiếc quần lụa cũng được là ủi thẳng và xếp thành nếp hai bên, gọi là " xếp con " , năm con, bảy con gì đấy, càng nhiều " con" càng sang trọng quý phái. Ăn mặc tề chỉnh như thế xong, bà chỉ việc đến nhà các Mệnh phụ, Công nương, ngồi lê đôi mách một vài buổi. Thế là " Mệ" nào muốn bán cái gì, cụ nào muốn mua cái gì, mẹ tôi biết rõ cả. Bà chỉ việc vắt vẻo ngồi lên chiếc xe kéo nhà, đi thăm viếng xã giao vài lần, là kẻ mua người bán đều vui vẻ.
Nghề chụp ảnh mấy chục năm về trước còn là một nghệ thuật rất mới mẻ, nhất là đối với các Mệ, các bà Phi, bà Tân không thể ra phố mua bán tự do như người thường. Mẹ tôi được các bà hoan nghênh vô cùng. Phải, còn gì sung sướng hơn một bà Phi, suốt mấy năm trời chẳng hề trông thấy " mặt rồng " của ông chồng vua, bỗng dưng có được một tấm ảnh mình ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bành chạm trỗ tinh vi, còn “Hoàng Đế " thì đứng bên cạnh, quàng tay qua lưng ghế, như ôm một cách âu yếm. Mẹ tôi ghép ảnh rất giỏi và tính giá cũng rất “phải chăng”. Nhưng, tiền có nghĩa lý gì đối với những Cung Phi suốt đời, từ lúc tiến cung cho đến già, đến chết vẫn còn là trinh nữ! Tấm ảnh an ủi họ làm thỏa mãn một phần nào lòng hâm mộ hư vinh đã được nuôi dưỡng từ lúc bé thơ.
Trong số khách hàng của mẹ tôi có một bà mẹ Vuạ Vua còn bé đang đi học xa . Bà ở nhà, sống một cuộc đời vương giả. Suốt ngày bà chỉ biết đánh bạc với những người đến " bẩm chảu" tiếng riêng có nghĩa là nịnh bợ. Bà đoạt kỷ lục về nợ nần, chỉ vay mà không cần phải trả. Bà cho là mọi người ai cũng có bổn phận phải cung phụng bà, đưa tiền cho bà tiêu xài như “đưa con vô Nội” một thành ngữ có ý nghĩa sẽ không bao giờ gặp lại. Nhưng bà cũng không bao giờ quên an ủi họ, khéo léo nói úp mở cho họ biết, ngày " Hoàng Đế hồi loan " , bà sẽ đền ơn trả nghĩa. Không biết mẹ tôi có bị bà mê hoặc không, mà nếu có thì chúng tôi, những ranh con, cũng không được quyền can thiệp.
Tôi còn nhớ bốn chị em tôi có bốn chiếc kiềng vàng, một thứ nữ trang đa dụng, vừa đeo cổ cho đẹp, vừa để dành làm của, làm vốn , và nếu cần tiền có thể cầm bán tạm thời qua cơn túng ngặt. Bốn chiếc kiềng lịch sử ấy có một con đường đi bất di bất dịch. Từ nhà tôi đến nhà bà Bộ, một bà nhà giàu chuyên cầm vàng bạc. Chúng nó đi " lữ hành" như thế, ít nhất mỗi tháng vài lần. Mỗi khi mẹ tôi xoay được món tiền, chuộc về nằm trong tủ chưa được nóng chỗ, thì lại có lệnh " Ngài ban vay" . Và như thế, bốn chiếc kiềng bé bỏng của chúng tôi lại lên đường đến nhà bà Bộ tạm trú. Bốn chiếc kiềng vàng đi con đường vòng độc nhất, còn số tiền cầm đồ nhận được thì đi con đường độc đáo một chiều, và là một con đường cụt. Nó từ túi bà Bộ sang túi mẹ tôi, rồi nhảy sang túi “Ngài " để rồi bị thủ tiêu mất tang mất tích trong chiếu bạc, không còn một chút dấu vết gì để lại với đời.
Đã thế, thỉnh thoảng " Ngài " lại " ngự " đến " tệ xá" của chúng tôi ở Nam Giao, mặc dầu " tệ xá" quả thực là quá tệ. Nó chỉ là một gian nhà bé nhỏ nằm lọt vào một vùng đất trống, xưa kia là một bãi tha ma to lớn, cách xa thành phố đúng ba câysố.
Cha mẹ tôi sở dĩ chọn nơi xa xôi như thế để xây " biệt thự" , vì theo lời bác sĩ khuyên, ba tôi yếu phổi nên phải thở không khí có gió thông trong lành rất cần cho sức khỏe. Ấy thế mà trong " tệ xá" có rất nhiều đồ cổ quý giá. Những món ấy toàn là của các Công nương, Mệnh phụ gửi, nhờ cầm hay bán hộ. “ Giấy rách phải giữ lấy lề “ nên dù ngày mai không còn gạo để nấu cháo loãng, họ cũng vẫn giữ bí mật, không bao giờ dám ra mặt tự cầm bán đồ vật. Họ vẫn còn làm bộ điệu rất kênh kiệu quí phái cao sang, cả đến những khi cần đến hai xu để ăn quà sáng.
- Đưa đây cho Mệ hai xu, Mệ " chém" một củ khoai chơi nà!
Tuy cảnh túng của họ đã trầm trọng đến thế, mà bệnh " khẩu khí" vẫn không hề thuyên giảm , và các Mệ thấy cuộc sống vẫn không bớt phần hấp dẫn thú vị tí nào. “ Mệ” là tiếng xưng hô một bà cụ rất già, hay những người trong Hoàng tộc, không phân biệt già trẻ nam hay nữ.
Đường đến nhà tôi, hai bên trồng toàn thông xanh và phải lên hai cái dốc rất cao. Thỉnh thoảng, người ta lại thấy từ dưới dốc đằng xa có một chiếc xe kéo sơn son thếp vàng, một chú lính mặc áo đỏ, chân quần xà cạp vàng, đầu đội nón chóp, ì ạch kéo xe lên dốc. Sau xe có hai cô bé con độ mười bốn, mười lăm tuổi, mặc áo màu hỏa hoàng, đầu chít khăn đồng màu, tóc xõa ngang vai. Một cô tay cầm chiếc hộp trầu và cái ống nhổ bằng bạc, một cô tay cầm chiếc quạt lông, lẽo đẽo chạy theo sau xe. Thỉnh thoảng, cô bé cầm quạt cố chạy lên ngang hàng với chiếc xe, giơ chiếc quạt lông lên, phẩy nhẹ một cái vào trong xe, rồi lại trụt dần xuống đằng sau. Ấy thế mà bọn họ từ Cung cấm trong Thành Nội ra tận Nam Giao, ngót bốn năm cây số để đến " tệ xá " đấy.
Sau khi đến nơi, " Ngài " chễm chệ leo lên chiếc sập cẩn xa cừ đặt ngay chính giữa nhà, hai thể nữ đứng hầu hai bên, kẻ pha trà, người quạt hầu. Ngài lần lượt ngắm nghía, thưởng thức các đồ vật trong " tệ xá" , và cố nhiên khi " Ngài " rời gót ngọc, những món đồ cổ không ít cũng được theo " Ngài " ngự, lên chiếc xe nhà sơn son thếp vàng có hai thể nữ chạy theo hầu ấy.
Trước khi bước chân lên xe, thế nào " Ngài " cũng " ban truyền" :
-Chị Tham tính tất cả tiền những cái ché và độc bình này đi. Cả cái Táo lung Cây vàng Lá ngọc kia nữa, rồi ta sẽ trả tiền lại chọ Còn cái sập cẩn này, chị cho ta mượn, mai ta sai thị vệ ra chở.
Mẹ tôi chỉ biết " Dạ" mà nuốt lệ. Bởi vì mẹ tôi biết, đồ vật cũng như người, khi đã được " tiến cung" thì chỉ còn đợi chết! Mặc dầu được sủng ái, số phận của đồ vật còn đen tối hơn Cung phi Mỹ nữ không được sũng ái. Các cung nhân, khi về già còn được thải hồi nguyên quán, trái lại những món đồ cổ, càng già càng quí thêm, càng không mong gì được trả về với cố chủ.
Cứ mỗi khi như thế, ba tôi lại lẩm bẩm:
-" Thấy Vua" rõ thật là " thua vấy" !
Cuộc đời cứ thế trôi quạ Ba tôi ngày ngày đi làm . Mẹ tôi giới thiệu việc mua bán đồ cổ và ghép ảnh cho Qúy Bà cô đơn. Tiền kiếm được, dùng để nuôi chúng tôi một số rất nhỏ, còn phần lớn để nuôi " Ngài ".
Một hôm, chắc lương tâm " Ngài " thức dậy, hay là " Ngài " sợ nợ mẹ tôi nhiều quá, nếu kiếp này không trả bớt, đến kiếp sau sẽ thành ra " nợ thiên khối" vốn cộng thêm lời lãi chồng chất lên nhau thì nguy to, Ngài bèn long trọng " tuyên dương công trạng" một hồi, rồi “thân tặng" cho mẹ tôi một chiếc áo cũ của ông Vua con.
Đó là một chiếc áo the đen, bên trong lót một lớp hàng mỏng màu vàng. Chiếc áo còn thơm nức mùi xạ hương và long não ướp lâu ngày. Mẹ tôi đem chiếc áo ấy về, vênh vang như một kẻ " áo gấm về làng" . Sự sung sướng của mẹ tôi, được cái “ Áo Vua Ban” ấy, cũng giống như tâm trạng người cung phi trinh nữ, được tấm ảnh ghép ngồi chung với Đức Vuạ Cả hai cùng muốn mang cái ảo ảnh hão huyền ra để thỏa mãn lòng tự ái, lừa mình, lừa người cho đỡ cơn ghiền!
Chiếc áo về phần chị cả tôi. Mỗi năm vài lần, trong những ngày kỵ giỗ, lễ Tết, cái “Áo Vua Ban" ấy được trân trọng " trình bày" trên thân hình bé nhỏ của chị tôi một vài giờ, rồi lại được trân trọng xếp vào rương chờ dịp khác.
Năm tháng qua, chị tôi mới đầu mặc chiếc áo còn rộng thùng thình, rồi chật dần, ngắn dần cho đến khi mặc không vừa nữa, phải cho chị Hai tôi thay thế. Từ chị Cả đến chị Hai, anh Ba, anh Tư, anh Năm, rồi đến chị Sáu, chiếc áo không phân biệt giới tính ấy, mỗi năm lại có dịp đem ra hóng gió một vài lần. Năm lại năm, chờ mãi rồi cũng có ngày đến lượt tôi được xỏ taỵ Hôm Tết, mẹ tôi mang chiếc áo lịch sử quí giá ấy ra để mặc cho tôi và bảo:" Hoa ơi, cái áo này bây giờ về phần con”, thì nó đã mục nát và chỉ động đến là rã tan ra từng mãnh!
Thời gian chờ đợi dù lâu bao nhiêu rồi cũng phải đến, Đông Cung Hoàng Thái Tử ở Pháp học thành tài trở về nước để được tấn phong chính thức làm Vuạ Và cũng từ lúc ấy, " Ngài Mẫu Hậu " ra lệnh không tiếp tất cả các chủ nợ. Bây giờ, " Ngài " đã thành ra một bậc cao sang nhất, không thể có chủ nợ, và lại càng không muốn gặp người nào đã từng quen biết " Ngài" những năm tháng hàn vị Thật là chí lý, chí tình vậy! Còn gì khó chịu hơn một kẻ ở địa vị cao sang, mà ngày ngày phải trông thấy những chủ nợ ngày xưa, đám người mình từng nhờ vả năn nỉ kêu than túng thiếu, những kẻ đã phải cầm bán vay mượn cho mình tiêu xài. Đó là một dĩ vãng buồn, một sỉ nhục tinh thần, có thể làm mất bớt uy nghiêm nhiều lắm.
Tết năm ấy, tôi không được mặc chiếc áo đã bao nhiêu năm chờ đợi để đi mừng tuổi, nên tôi khóc mùi khóc mẫn cả buổi sáng. Tôi tưởng tôi khóc vì khi chiếc áo quí đến phần mình thì hóa ra một mớ dẻ vụn tả tơi rách nát; nhưng thật ra tôi đã khóc cho cái ảo ảnh " ân trả nghĩa đền" của mẹ tôi bị tan vỡ. Tôi khóc cho cái chết của chiếc áo, đổi bằng tất cả tài sản mẹ tôi dành dụm được. Tôi khóc cho nền móng tương lai của một đám trẻ thơ, đáng lẽ được dùng của cải ấy để bồi đắp cho thể chất và tinh thần.
Những năm sau đó, gia đình tôi ngày một khá hơn. Có lẽ vì không phải cung phụng cho ai khác ngoài gia đình, nên lần lần trong mâm cơm đã bắt đầu có nhiều món cá thịt ngon lành. Ba tôi cũng vui vẻ giảng giải cho chúng tôi biết về những thức ăn bổ dưỡng cần thiết cho sức khỏe, một đề tài trước kia ông cố tránh.
Một hôm,không hiểu tại sao, mẹ tôi bỗng nhiên " phát từ bi tâm" may cho chị Sáu, tôi, em Tám và em Chín, mỗi đứa một cái áo xa-tanh màu phấn hồng. Xấp hàng này, có người tặng cho mẹ tôi trong dịp ăn lễ đầy tháng em thứ mười một. Chúng tôi mừng rỡ trông đợi ngày trọng đại, ngày được mặc chiếc áo hồng lộng lẫy, sặc sỡ, bóng loáng, mát rời rợi và rộng thùng thình như áo tế ấy, thì bỗng dưng ông nội tôi chết. Tôi thấy cha me tôi khóc, anh chị tôi khóc, tôi cũng khóc. Nhưng thực ra, tôi không nhớ đã được thấy mặt ông nội tôi hồi nào. Tôi khóc là khóc cho bốn chiếc áo xa-tanh hồng tươi rực rỡ, chưa từng được diện qua một lần, vì phải để tang, đã bị mẹ tôi ngâm vào nước thuốc nhuộm răng. Chúng nó biến thành một màu kỳ lạ, không vàng, không lục, không xanh. Màu ấy, ba tôi gọi mĩa mai một cách văn chương là màu" dưa cải úa mùa thu" . Nếu bây giờ bảo tôi đặt tên lại, thì tôi sẽ gọi là một bức tranh lập thể may thành áo. Từng vệt, từng đám, ngang dọc chồng chất lên nhau, níu kéo nhau chằng chịt. Cái áo nhuộm như thế đấy, mà chúng tôi vẫn phải khen cho mẹ tôi bằng lòng. Bởi vì, đã có định luật rằng một khi " đấng sinh thành" đã quyết định thì con cái phải vui vẻ “Dạ,Vâng”, mới có hiếu. Phần các bậc trưởng thượng thấy các con vui cũng tưởng thiệt mà vui theo một cách dễ dàng.
Chúng tôi phải chịu đựng cái xấu xí của áo, và áo cũng phải cố chịu đựng sư tàn nhẫn vùi dập của bọn trẻ con. Chúng tôi mặc nó lúc nằm lăn đùa nghịch dưới đất, mặc suốt ngày đêm, vò nát nó, ném nó từ góc này sang góc khác. Đôi khi còn cắn nát chéo áo để xem cái mùi chua chua, có phải thật chỉ là thuốc nhuộm chua như mùi dưa cải úa, hay còn lẫn mùi gì khác nữa không.
Thật ra, số phận của những chiếc áo ấy cũng đáng thương như chúng tôi. Tâm hồn chúng tôi sớm đã bị nhuộm thành một màu " dưa cải úa mùa thu " , hay cũng chỉ là một bức tranh lập thể chồng chất những niềm đau khổ bé thơ, đã ai hơn gì ai đâu! Thế mà chúng tôi nỡ dằn vặt chúng nó cho đến khi rách nát, và cùng lúc ấy, tang ông nội tôi cũng vừa mãn.
Một bà bạn ở Saigon gởi tặng mẹ tôi một xấp hàng xa-tanh hồng khác. Mẹ tôi ngại màu sắc quá sặc sỡ lộng lẫy không hợp với người lớn tuổi, nên may cho bốn chúng tôi. Bốn chiếc " áo tế" vừa dài vừa rộng, may xong được cất kỹ, đợi " ngày lành tháng tốt " mới đem ra diện. Thỉnh thoảng, tôi lén mở rương vuốt ve cái áo một lúc. Tôi nâng nó lên, áp chất mịn màng mát rười rượi lên cằm, lên má. Tôi ướm nó vào người, hít cái mùi thơm long não ướp trừ sâu mọt và mùi xạ hương từ trong áo toát ra một cách say sưa. Nhưng cái " ngày lành tháng tốt" ấy không bao giờ đến, vì bỗng nhiên chú tôi mất. Kể ra thì đó chỉ là một cái tang nhỏ thôi, nhưng mẹ cũng bắt chúng tôi để tang. Và một lần nữa chúng tôi khóc cho chiếc áo đẹp lại phải nhuộm thành một màu lem luốc không tên!
Ba tôi lúc ấy đã bắt đầu rảo bước trên con đường trải toàn thẻ ngà. Ông chuyển đổi ngành công chức với Chánh Phủ Bảo Hộ sang ngạch Nam Triều, nôm na gọi là làm quan. Mẹ tôi không còn phải đi giới thiệu mua bán đồ cổ và cũng không cần chụp ảnh cho ai nữa.
Chúng tôi, mỗi người được sắm một con heo đất để dành tiền. Nhưng, những con heo ấy, hàng năm đều phải bị đập ra, vì mẹ tôi mở cuộc " lạc quyên" để may áo quần cho bọn con trai trước ngày tựu trường. Cảm thông những nỗi khó khăn của các anh khi cần thiết, chúng tôi lúc nào cũng vui lòng " quyên" . Mẹ tôi bảo đấy cũng là làm việc nghĩa, chẳng mất đi đâu mà thiệt, vì mai đây,khi các anh mặc ngắn, những chiếc áo ấy cũng sẽ đến phần chúng tôi.
Khi những chiếc áo xa-tanh nhuộm mực lem luốc thứ hai " quá cố " rồi, bọn con gái đã thành những cô gái dậy thì. Chúng tôi đã biết thẹn, nhưng khi ra đường vẫn cứ phải mặc những chiếc áo vải dù, vải ba-ga con trai đã bạc màu và rộng mênh mông như cả một trời đau khổ. Chúng tôi cố năn nỉ xin mẹ may một cái áo mới cho ra hồn. Mẹ tôi bảo:
Áo các anh mặc ngắn, thiếu gì! Còn tốt và bền lắm, may một lần cho cả bầy nhiều tiền lắm, chứ tưởng ít sao! Ngày xưa, suốt đời mẹ chỉ có một chiếc áo vải. Còn các con đã có bao nhiêu cái áo đẹp rồi, nhớ không? " Aó vua ban" này, áo xa-tanh nhuộm màu dưa cải này...
Tôi nhắc:
- Dưa cải úa mùa Thu chứ!
-Ừ thì Thu Đông gì cũng được. Lại còn cái áo xa-tanh nhuộm màu mực này.
Tôi cải chính:
-Màu lem luốc chứ.
-Con Hoa thật nhiều chuyện! Mới may rồi, còn đòi gì nữa!
Em Tám nói:
- Dạ, mới may bốn năm về trước!
Mẹ tôi mắng:
-Chúng mày rắc rối lắm, không biết hà tiện hà tặn, sau hết phước đi! Phải nhớ, hồi xưa mẹ chỉ có một cái áo, nên mới có ngày nay!
Em Chín tiếp:
-Nhưng mà mẹ quên mẹ là con ông Huyện, và mồ côi, còn chúng con là con ông Tổng Đốc đương thời!
Mẹ tôi giận dữ quát lên:
-Ai dạy cho mày ăn nói giảm phước thế ?
-Mẹ không thương chúng con. Mẹ chỉ thương chị Hồng. Mẹ nhớ chị Hồng mất ăn mất ngủ. Mỗi khi chị Hồng tới xin tiền là mẹ đập con Heo của chúng con
Mẹ tôi vội vã:
-Thôi thôi, để tôi may, các cô không cần phải kể con cà con kê...
Mẹ sợ chúng tôi phân bì với chị Hồng lắm. Mỗi tháng cô chị họ ấy đến thăm mẹ tôi một lần, và mỗi lần như thế là cả nhà náo loạn cả lên. Nội một việc hầu hạ phục dịch chị cũng đủ mệt phờ ra. Chị ăn tiêu rộng rãi, thưởng tiền cho người nhà rất hào phóng . Đối với chúng tôi, chị cũng" thết đãi" linh đình. Nghĩa là gọi cả một gánh bánh bèo hay bún bò vào nhà, thết mỗi người một tộ Chỉ có một cái " di hận" là[chị chuyên môn đập Heo của chúng tôi. Ba cho chúng tôi mỗi đứa một ống tiền đặc biệt, tiền thưởng nhiều ít tùy theo học giỏi, trả bài thuộc , những bài học ông soạn riêng để dạy mỗi ngày. Tiền ấy được bỏ vào con Heo bằng đất nung mục đích để dành làm của hồi môn. Nhưng từ khi chị Hồng phát giác ra câu chuyện ấy thì chị rủ mẹ cho chúng tôi hùn vào tiệm may của chị. Mỗi tháng, chị đến đập Heo của chúng tôi một lần. Mãi cho đến khi chị bán cửa tiệm đi lấy chồng, chúng tôi chẳng hề thấy chị thanh toán tiền nong hùn hạp gì cả, làm tôi cứ tưởng là cửa tiệm của chị Ở nhằm hướng " tán tài" nên suốt bao nhiêu năm trời chỉ chuyên môn thua lỗ. Và cái bản tính không bao giờ thanh toán công nợ ấy, chị vẫn giữ mãi suốt đời.
Mẹ tôi quả nhiên giữ lời hứa, lấy một xấp hàng " xa xị" màu vàng nhạt để tận đáy rương ra, may áo cho chúng tôi. Bà gọi người lính ở trong dinh biết may cắt dặn:
-May cho thật dài rộng mát mẻ nghe không!
Vì chúng tôi đã lớn, đã biết sợ những chiếc áo rộng mênh mông, mặc vào như bơi đứng trong áo, nên nghe thế, phải dặn với:
-Ừ, may cho dài...
Và đứng sau lưng mẹ, lấy tay ra hiệu cho người thợ may chật.
Đến lúc áo may xong, mặc thử, thật là dở cười dở khóc. Nó dài phết gót và chật như bó chả. Chật đến nổi tay không co lại được. Người tôi cứ cứng ra như khúc gỗ không cử động trong chiếc áo đó. Chỉ mấy tháng, chiếc áo mới đã phải vá cùi tay và tiếp thêm nách. Nhưng dù vá víu xấu xí đến đâu, tôi cũng mặc đi nhiều nơi, nó vẫn còn hơn chiếc áo vải ba-ga đen cũ bạc mầu của bọn con trai chuyền lại.
Tiếp theo chiếc áo đấu tranh mà có này là một chiếc áo " vải cạt" . Gặp thời buổi chiến tranh Pháp Đức, mọi vật dụng đều khan hiếm nên phải được phối cấp, hàng vải cũng thế. Chúng tôi được may một cái áo bằng thứ “ vải cạt" phối cấp hoa lá cành chằng chịt, màu xanh đỏ tím vàng loạn xà ngầu, sặc sỡ lòe loẹt, nhà quê một cách không thể tả được. Mặc vào trông như một tấm vải màn, hay cái ghế nằm sofa biết đi. Thế nhưng tôi vẫn phớt tỉnh. Coi như trên đời này không có ai nhìn thấy mình cả.
Nhưng cũng từ đấy về sau, mẹ tôi chẳng cần phải may áo mới cho chúng tôi nữa, vì chị Hồng thỉnh thoảng lại gởi về một ít quần áo cũ. Trong số y phục loạn xà ngầu ấy, có hai cái còn coi được. Chị Sáu chọn cái áo màu đỏ, tôi mặc vừa áo màu xanh. Hai chị em, mỗi khi đi phố, đi chợ, đều diện hai cái áo đẹp nhất của mình, mặc cho thiên hạ bạn bè “ khen ngợi”. Nào là màu sắc chửi nhau, nào là " người trong tranh " , nào là bất chấp thời tiết v.v... Chúng tôi giữ vững lập trường " mục trung vô nhân" không cần ai và cũng không cần biết đến cả Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Kể từ ngày mẹ giao tiền chợ cho chị Sáu giữ để chị tập việc quán xuyến gia đình, chị không còn thắc mắc về vấn đề ăn diện làm dáng nữa. Chị tự sắm rất nhiều áo quần đẹp, nhưng cứ nói dối là của bạn bè, bà con ở xa gởi về cho, thành ra mẹ không la rầy được, mà chúng tôi cũng không thể phân bì được. Tôi cầu mong chị cao lớn thêm lên, hay béo ra một chút, để rơi rớt cho tôi vài cái. Nhưng rủi quá, người chị bé nhỏ, lùn thấp hơn tôi nhiều, và lòng dạ chị lại khá sắt đá, nên tôi không hề gạ gẫm gì được cả.
Tôi biết rõ tính mẹ tôi, khi có tiền chỉ thích giúp đỡ người khác, dù người ấy tiêu dùng một cách phí phạm, còn mình và con cái thì phải hết sức kham khổ. Bà luôn luôn nhắc câu:” Người ăn thì còn, con ăn thì hết”. Thành ra khi trong nhà món gì ngon lành là bà đem đi biếu xén tất cả các nơi bạn bè bà con quen biết . Có lẽ mẹ tôi muốn cái gì cũng còn vĩnh viễn nên gặp ai áo rách quần vá là bà lục tủ áo tìm cái nào người ấy mặc vừa là bà cho một cách sung sướng. Tôi tin là mẹ tôi trong cuộc sống sau khi ba tôi hưu trí, bà không cần phải dự lễ tiếp tân, hay thết đãi quan khách với ba tôi thì bà chẳng cần giữ lại một chiếc áo nào ra hồn.
Sau này, lúc đã bị ném ra ngoài đời tranh đấu cho cuộc sống của mình ,tôi vẫn giữ tính nết không ăn diện đã tập được như thuở còn sống với mẹ, mặc dầu lý do nhiều phước hay giảm phước tôi không hề quan tâm. Thời kỳ làm việc tại Hương Cảng tôi cố dành dụm tiền để mỗi cuối năm, mua gửi cho mẹ tôi mười cái áo gấm Thượng Hải. Tôi nghĩ rằng trong mười áo ấy, bà sẽ tha hồ cho, tặng, bán hay gì đi nữa, nhiều lắm là chín cái thôi. Ít nhất cũng phải để lại một cái cho mình. Và được như thế là tôi thỏa mãn rồi.
Ngày mẹ tôi bị bệnh trầm trọng, tôi phải xin nghỉ phép về săn sóc cũng không quên mang theo mười áo gấm nữa cho mẹ tôi. Thế nhưng lúc mẹ mất, tôi lục soát tủ áo để tìm đồ liệm theo, thì không thấy một chiếc áo nào may bằng thứ gấm Thượng Hải tôi đã gởi về biếu mẹ hàng chục năm. Một người bạn trẻ nói với tôi:
-Chị Hoa, cuộc đời chị thế là tàn rồi! Không còn hy vọng! Không còn tương lai! Không còn mơ gì được nữa hết!
Hừ, láo đến thế thì thôi! Hắn biết tôi thất bại về hôn nhân, tôi về nước vì Mẹ, mà về đến nơi chẳng bao lâu thì mẹ mất, đúng là một thất vọng lớn lao. Nhưng đâu đã đến nỗi không còn gì để mơ!
Sau khi chôn mẹ bên cạnh mộ cha xong, tôi trở lại Hương Cảng làm việc. Và từ bấy giờ, dù có thừa tiền để sắm nhiều quần áo đẹp, tôi cũng không còn thấy hứng thú gì nữa,không làm sao còn cái cảm giác say mê nồng nàn như ngày xưa, khi len lén mở rương vuốt ve chiếc áo xa-tanh hồng đầu tiên, thuở mười hai. Tôi còn nhớ, sau ngày ông nội tôi mất, ba tôi thường nhắc đi nhắc lại mãi :
-Khi con cái còn nhỏ dại, chúng nó chưa đủ hiểu biết nên hay oán trách cha mẹ cấm đoán điều này điều nọ. Lúc lớn lên, có gia đình, Sinh con rồi mới hiểu lòng cha mẹ”, lúc ấy muốn báo ân cho kẻ sinh dưỡng mình, thì cơ hội đã không còn nữa!
Ba tôi mỗi lần nói thế, bao giờ cũng không nén được hai giọt nước mắt rưng rưng. Còn tôi, sau này mỗi lúc đi phố, nhìn những hàng gấm màu sắc u nhã, dệt Long, Phụng hay chữ Phúc, chữ Thọ rất đẹp, tôi lại như người lên cơn say, cố mua cho bằng được. Nhưng sau khi mua rồi, mới ngẩn người ra, chợt nhớ mẹ mất rồi còn đâu, mua áo gấm để gởi cho ai!
Hết
(1953)
Mách mối là một công việc buôn bán rất nhàn. Bà chỉ việc diện bảnh, rẽ đường ngôi cho thẳng, bôi dầu dừa bóng loáng và thơm nức lên, chiếc quần lụa cũng được là ủi thẳng và xếp thành nếp hai bên, gọi là " xếp con " , năm con, bảy con gì đấy, càng nhiều " con" càng sang trọng quý phái. Ăn mặc tề chỉnh như thế xong, bà chỉ việc đến nhà các Mệnh phụ, Công nương, ngồi lê đôi mách một vài buổi. Thế là " Mệ" nào muốn bán cái gì, cụ nào muốn mua cái gì, mẹ tôi biết rõ cả. Bà chỉ việc vắt vẻo ngồi lên chiếc xe kéo nhà, đi thăm viếng xã giao vài lần, là kẻ mua người bán đều vui vẻ.
Nghề chụp ảnh mấy chục năm về trước còn là một nghệ thuật rất mới mẻ, nhất là đối với các Mệ, các bà Phi, bà Tân không thể ra phố mua bán tự do như người thường. Mẹ tôi được các bà hoan nghênh vô cùng. Phải, còn gì sung sướng hơn một bà Phi, suốt mấy năm trời chẳng hề trông thấy " mặt rồng " của ông chồng vua, bỗng dưng có được một tấm ảnh mình ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bành chạm trỗ tinh vi, còn “Hoàng Đế " thì đứng bên cạnh, quàng tay qua lưng ghế, như ôm một cách âu yếm. Mẹ tôi ghép ảnh rất giỏi và tính giá cũng rất “phải chăng”. Nhưng, tiền có nghĩa lý gì đối với những Cung Phi suốt đời, từ lúc tiến cung cho đến già, đến chết vẫn còn là trinh nữ! Tấm ảnh an ủi họ làm thỏa mãn một phần nào lòng hâm mộ hư vinh đã được nuôi dưỡng từ lúc bé thơ.
Trong số khách hàng của mẹ tôi có một bà mẹ Vuạ Vua còn bé đang đi học xa . Bà ở nhà, sống một cuộc đời vương giả. Suốt ngày bà chỉ biết đánh bạc với những người đến " bẩm chảu" tiếng riêng có nghĩa là nịnh bợ. Bà đoạt kỷ lục về nợ nần, chỉ vay mà không cần phải trả. Bà cho là mọi người ai cũng có bổn phận phải cung phụng bà, đưa tiền cho bà tiêu xài như “đưa con vô Nội” một thành ngữ có ý nghĩa sẽ không bao giờ gặp lại. Nhưng bà cũng không bao giờ quên an ủi họ, khéo léo nói úp mở cho họ biết, ngày " Hoàng Đế hồi loan " , bà sẽ đền ơn trả nghĩa. Không biết mẹ tôi có bị bà mê hoặc không, mà nếu có thì chúng tôi, những ranh con, cũng không được quyền can thiệp.
Tôi còn nhớ bốn chị em tôi có bốn chiếc kiềng vàng, một thứ nữ trang đa dụng, vừa đeo cổ cho đẹp, vừa để dành làm của, làm vốn , và nếu cần tiền có thể cầm bán tạm thời qua cơn túng ngặt. Bốn chiếc kiềng lịch sử ấy có một con đường đi bất di bất dịch. Từ nhà tôi đến nhà bà Bộ, một bà nhà giàu chuyên cầm vàng bạc. Chúng nó đi " lữ hành" như thế, ít nhất mỗi tháng vài lần. Mỗi khi mẹ tôi xoay được món tiền, chuộc về nằm trong tủ chưa được nóng chỗ, thì lại có lệnh " Ngài ban vay" . Và như thế, bốn chiếc kiềng bé bỏng của chúng tôi lại lên đường đến nhà bà Bộ tạm trú. Bốn chiếc kiềng vàng đi con đường vòng độc nhất, còn số tiền cầm đồ nhận được thì đi con đường độc đáo một chiều, và là một con đường cụt. Nó từ túi bà Bộ sang túi mẹ tôi, rồi nhảy sang túi “Ngài " để rồi bị thủ tiêu mất tang mất tích trong chiếu bạc, không còn một chút dấu vết gì để lại với đời.
Đã thế, thỉnh thoảng " Ngài " lại " ngự " đến " tệ xá" của chúng tôi ở Nam Giao, mặc dầu " tệ xá" quả thực là quá tệ. Nó chỉ là một gian nhà bé nhỏ nằm lọt vào một vùng đất trống, xưa kia là một bãi tha ma to lớn, cách xa thành phố đúng ba câysố.
Cha mẹ tôi sở dĩ chọn nơi xa xôi như thế để xây " biệt thự" , vì theo lời bác sĩ khuyên, ba tôi yếu phổi nên phải thở không khí có gió thông trong lành rất cần cho sức khỏe. Ấy thế mà trong " tệ xá" có rất nhiều đồ cổ quý giá. Những món ấy toàn là của các Công nương, Mệnh phụ gửi, nhờ cầm hay bán hộ. “ Giấy rách phải giữ lấy lề “ nên dù ngày mai không còn gạo để nấu cháo loãng, họ cũng vẫn giữ bí mật, không bao giờ dám ra mặt tự cầm bán đồ vật. Họ vẫn còn làm bộ điệu rất kênh kiệu quí phái cao sang, cả đến những khi cần đến hai xu để ăn quà sáng.
- Đưa đây cho Mệ hai xu, Mệ " chém" một củ khoai chơi nà!
Tuy cảnh túng của họ đã trầm trọng đến thế, mà bệnh " khẩu khí" vẫn không hề thuyên giảm , và các Mệ thấy cuộc sống vẫn không bớt phần hấp dẫn thú vị tí nào. “ Mệ” là tiếng xưng hô một bà cụ rất già, hay những người trong Hoàng tộc, không phân biệt già trẻ nam hay nữ.
Đường đến nhà tôi, hai bên trồng toàn thông xanh và phải lên hai cái dốc rất cao. Thỉnh thoảng, người ta lại thấy từ dưới dốc đằng xa có một chiếc xe kéo sơn son thếp vàng, một chú lính mặc áo đỏ, chân quần xà cạp vàng, đầu đội nón chóp, ì ạch kéo xe lên dốc. Sau xe có hai cô bé con độ mười bốn, mười lăm tuổi, mặc áo màu hỏa hoàng, đầu chít khăn đồng màu, tóc xõa ngang vai. Một cô tay cầm chiếc hộp trầu và cái ống nhổ bằng bạc, một cô tay cầm chiếc quạt lông, lẽo đẽo chạy theo sau xe. Thỉnh thoảng, cô bé cầm quạt cố chạy lên ngang hàng với chiếc xe, giơ chiếc quạt lông lên, phẩy nhẹ một cái vào trong xe, rồi lại trụt dần xuống đằng sau. Ấy thế mà bọn họ từ Cung cấm trong Thành Nội ra tận Nam Giao, ngót bốn năm cây số để đến " tệ xá " đấy.
Sau khi đến nơi, " Ngài " chễm chệ leo lên chiếc sập cẩn xa cừ đặt ngay chính giữa nhà, hai thể nữ đứng hầu hai bên, kẻ pha trà, người quạt hầu. Ngài lần lượt ngắm nghía, thưởng thức các đồ vật trong " tệ xá" , và cố nhiên khi " Ngài " rời gót ngọc, những món đồ cổ không ít cũng được theo " Ngài " ngự, lên chiếc xe nhà sơn son thếp vàng có hai thể nữ chạy theo hầu ấy.
Trước khi bước chân lên xe, thế nào " Ngài " cũng " ban truyền" :
-Chị Tham tính tất cả tiền những cái ché và độc bình này đi. Cả cái Táo lung Cây vàng Lá ngọc kia nữa, rồi ta sẽ trả tiền lại chọ Còn cái sập cẩn này, chị cho ta mượn, mai ta sai thị vệ ra chở.
Mẹ tôi chỉ biết " Dạ" mà nuốt lệ. Bởi vì mẹ tôi biết, đồ vật cũng như người, khi đã được " tiến cung" thì chỉ còn đợi chết! Mặc dầu được sủng ái, số phận của đồ vật còn đen tối hơn Cung phi Mỹ nữ không được sũng ái. Các cung nhân, khi về già còn được thải hồi nguyên quán, trái lại những món đồ cổ, càng già càng quí thêm, càng không mong gì được trả về với cố chủ.
Cứ mỗi khi như thế, ba tôi lại lẩm bẩm:
-" Thấy Vua" rõ thật là " thua vấy" !
Cuộc đời cứ thế trôi quạ Ba tôi ngày ngày đi làm . Mẹ tôi giới thiệu việc mua bán đồ cổ và ghép ảnh cho Qúy Bà cô đơn. Tiền kiếm được, dùng để nuôi chúng tôi một số rất nhỏ, còn phần lớn để nuôi " Ngài ".
Một hôm, chắc lương tâm " Ngài " thức dậy, hay là " Ngài " sợ nợ mẹ tôi nhiều quá, nếu kiếp này không trả bớt, đến kiếp sau sẽ thành ra " nợ thiên khối" vốn cộng thêm lời lãi chồng chất lên nhau thì nguy to, Ngài bèn long trọng " tuyên dương công trạng" một hồi, rồi “thân tặng" cho mẹ tôi một chiếc áo cũ của ông Vua con.
Đó là một chiếc áo the đen, bên trong lót một lớp hàng mỏng màu vàng. Chiếc áo còn thơm nức mùi xạ hương và long não ướp lâu ngày. Mẹ tôi đem chiếc áo ấy về, vênh vang như một kẻ " áo gấm về làng" . Sự sung sướng của mẹ tôi, được cái “ Áo Vua Ban” ấy, cũng giống như tâm trạng người cung phi trinh nữ, được tấm ảnh ghép ngồi chung với Đức Vuạ Cả hai cùng muốn mang cái ảo ảnh hão huyền ra để thỏa mãn lòng tự ái, lừa mình, lừa người cho đỡ cơn ghiền!
Chiếc áo về phần chị cả tôi. Mỗi năm vài lần, trong những ngày kỵ giỗ, lễ Tết, cái “Áo Vua Ban" ấy được trân trọng " trình bày" trên thân hình bé nhỏ của chị tôi một vài giờ, rồi lại được trân trọng xếp vào rương chờ dịp khác.
Năm tháng qua, chị tôi mới đầu mặc chiếc áo còn rộng thùng thình, rồi chật dần, ngắn dần cho đến khi mặc không vừa nữa, phải cho chị Hai tôi thay thế. Từ chị Cả đến chị Hai, anh Ba, anh Tư, anh Năm, rồi đến chị Sáu, chiếc áo không phân biệt giới tính ấy, mỗi năm lại có dịp đem ra hóng gió một vài lần. Năm lại năm, chờ mãi rồi cũng có ngày đến lượt tôi được xỏ taỵ Hôm Tết, mẹ tôi mang chiếc áo lịch sử quí giá ấy ra để mặc cho tôi và bảo:" Hoa ơi, cái áo này bây giờ về phần con”, thì nó đã mục nát và chỉ động đến là rã tan ra từng mãnh!
Thời gian chờ đợi dù lâu bao nhiêu rồi cũng phải đến, Đông Cung Hoàng Thái Tử ở Pháp học thành tài trở về nước để được tấn phong chính thức làm Vuạ Và cũng từ lúc ấy, " Ngài Mẫu Hậu " ra lệnh không tiếp tất cả các chủ nợ. Bây giờ, " Ngài " đã thành ra một bậc cao sang nhất, không thể có chủ nợ, và lại càng không muốn gặp người nào đã từng quen biết " Ngài" những năm tháng hàn vị Thật là chí lý, chí tình vậy! Còn gì khó chịu hơn một kẻ ở địa vị cao sang, mà ngày ngày phải trông thấy những chủ nợ ngày xưa, đám người mình từng nhờ vả năn nỉ kêu than túng thiếu, những kẻ đã phải cầm bán vay mượn cho mình tiêu xài. Đó là một dĩ vãng buồn, một sỉ nhục tinh thần, có thể làm mất bớt uy nghiêm nhiều lắm.
Tết năm ấy, tôi không được mặc chiếc áo đã bao nhiêu năm chờ đợi để đi mừng tuổi, nên tôi khóc mùi khóc mẫn cả buổi sáng. Tôi tưởng tôi khóc vì khi chiếc áo quí đến phần mình thì hóa ra một mớ dẻ vụn tả tơi rách nát; nhưng thật ra tôi đã khóc cho cái ảo ảnh " ân trả nghĩa đền" của mẹ tôi bị tan vỡ. Tôi khóc cho cái chết của chiếc áo, đổi bằng tất cả tài sản mẹ tôi dành dụm được. Tôi khóc cho nền móng tương lai của một đám trẻ thơ, đáng lẽ được dùng của cải ấy để bồi đắp cho thể chất và tinh thần.
Những năm sau đó, gia đình tôi ngày một khá hơn. Có lẽ vì không phải cung phụng cho ai khác ngoài gia đình, nên lần lần trong mâm cơm đã bắt đầu có nhiều món cá thịt ngon lành. Ba tôi cũng vui vẻ giảng giải cho chúng tôi biết về những thức ăn bổ dưỡng cần thiết cho sức khỏe, một đề tài trước kia ông cố tránh.
Một hôm,không hiểu tại sao, mẹ tôi bỗng nhiên " phát từ bi tâm" may cho chị Sáu, tôi, em Tám và em Chín, mỗi đứa một cái áo xa-tanh màu phấn hồng. Xấp hàng này, có người tặng cho mẹ tôi trong dịp ăn lễ đầy tháng em thứ mười một. Chúng tôi mừng rỡ trông đợi ngày trọng đại, ngày được mặc chiếc áo hồng lộng lẫy, sặc sỡ, bóng loáng, mát rời rợi và rộng thùng thình như áo tế ấy, thì bỗng dưng ông nội tôi chết. Tôi thấy cha me tôi khóc, anh chị tôi khóc, tôi cũng khóc. Nhưng thực ra, tôi không nhớ đã được thấy mặt ông nội tôi hồi nào. Tôi khóc là khóc cho bốn chiếc áo xa-tanh hồng tươi rực rỡ, chưa từng được diện qua một lần, vì phải để tang, đã bị mẹ tôi ngâm vào nước thuốc nhuộm răng. Chúng nó biến thành một màu kỳ lạ, không vàng, không lục, không xanh. Màu ấy, ba tôi gọi mĩa mai một cách văn chương là màu" dưa cải úa mùa thu" . Nếu bây giờ bảo tôi đặt tên lại, thì tôi sẽ gọi là một bức tranh lập thể may thành áo. Từng vệt, từng đám, ngang dọc chồng chất lên nhau, níu kéo nhau chằng chịt. Cái áo nhuộm như thế đấy, mà chúng tôi vẫn phải khen cho mẹ tôi bằng lòng. Bởi vì, đã có định luật rằng một khi " đấng sinh thành" đã quyết định thì con cái phải vui vẻ “Dạ,Vâng”, mới có hiếu. Phần các bậc trưởng thượng thấy các con vui cũng tưởng thiệt mà vui theo một cách dễ dàng.
Chúng tôi phải chịu đựng cái xấu xí của áo, và áo cũng phải cố chịu đựng sư tàn nhẫn vùi dập của bọn trẻ con. Chúng tôi mặc nó lúc nằm lăn đùa nghịch dưới đất, mặc suốt ngày đêm, vò nát nó, ném nó từ góc này sang góc khác. Đôi khi còn cắn nát chéo áo để xem cái mùi chua chua, có phải thật chỉ là thuốc nhuộm chua như mùi dưa cải úa, hay còn lẫn mùi gì khác nữa không.
Thật ra, số phận của những chiếc áo ấy cũng đáng thương như chúng tôi. Tâm hồn chúng tôi sớm đã bị nhuộm thành một màu " dưa cải úa mùa thu " , hay cũng chỉ là một bức tranh lập thể chồng chất những niềm đau khổ bé thơ, đã ai hơn gì ai đâu! Thế mà chúng tôi nỡ dằn vặt chúng nó cho đến khi rách nát, và cùng lúc ấy, tang ông nội tôi cũng vừa mãn.
Một bà bạn ở Saigon gởi tặng mẹ tôi một xấp hàng xa-tanh hồng khác. Mẹ tôi ngại màu sắc quá sặc sỡ lộng lẫy không hợp với người lớn tuổi, nên may cho bốn chúng tôi. Bốn chiếc " áo tế" vừa dài vừa rộng, may xong được cất kỹ, đợi " ngày lành tháng tốt " mới đem ra diện. Thỉnh thoảng, tôi lén mở rương vuốt ve cái áo một lúc. Tôi nâng nó lên, áp chất mịn màng mát rười rượi lên cằm, lên má. Tôi ướm nó vào người, hít cái mùi thơm long não ướp trừ sâu mọt và mùi xạ hương từ trong áo toát ra một cách say sưa. Nhưng cái " ngày lành tháng tốt" ấy không bao giờ đến, vì bỗng nhiên chú tôi mất. Kể ra thì đó chỉ là một cái tang nhỏ thôi, nhưng mẹ cũng bắt chúng tôi để tang. Và một lần nữa chúng tôi khóc cho chiếc áo đẹp lại phải nhuộm thành một màu lem luốc không tên!
Ba tôi lúc ấy đã bắt đầu rảo bước trên con đường trải toàn thẻ ngà. Ông chuyển đổi ngành công chức với Chánh Phủ Bảo Hộ sang ngạch Nam Triều, nôm na gọi là làm quan. Mẹ tôi không còn phải đi giới thiệu mua bán đồ cổ và cũng không cần chụp ảnh cho ai nữa.
Chúng tôi, mỗi người được sắm một con heo đất để dành tiền. Nhưng, những con heo ấy, hàng năm đều phải bị đập ra, vì mẹ tôi mở cuộc " lạc quyên" để may áo quần cho bọn con trai trước ngày tựu trường. Cảm thông những nỗi khó khăn của các anh khi cần thiết, chúng tôi lúc nào cũng vui lòng " quyên" . Mẹ tôi bảo đấy cũng là làm việc nghĩa, chẳng mất đi đâu mà thiệt, vì mai đây,khi các anh mặc ngắn, những chiếc áo ấy cũng sẽ đến phần chúng tôi.
Khi những chiếc áo xa-tanh nhuộm mực lem luốc thứ hai " quá cố " rồi, bọn con gái đã thành những cô gái dậy thì. Chúng tôi đã biết thẹn, nhưng khi ra đường vẫn cứ phải mặc những chiếc áo vải dù, vải ba-ga con trai đã bạc màu và rộng mênh mông như cả một trời đau khổ. Chúng tôi cố năn nỉ xin mẹ may một cái áo mới cho ra hồn. Mẹ tôi bảo:
Áo các anh mặc ngắn, thiếu gì! Còn tốt và bền lắm, may một lần cho cả bầy nhiều tiền lắm, chứ tưởng ít sao! Ngày xưa, suốt đời mẹ chỉ có một chiếc áo vải. Còn các con đã có bao nhiêu cái áo đẹp rồi, nhớ không? " Aó vua ban" này, áo xa-tanh nhuộm màu dưa cải này...
Tôi nhắc:
- Dưa cải úa mùa Thu chứ!
-Ừ thì Thu Đông gì cũng được. Lại còn cái áo xa-tanh nhuộm màu mực này.
Tôi cải chính:
-Màu lem luốc chứ.
-Con Hoa thật nhiều chuyện! Mới may rồi, còn đòi gì nữa!
Em Tám nói:
- Dạ, mới may bốn năm về trước!
Mẹ tôi mắng:
-Chúng mày rắc rối lắm, không biết hà tiện hà tặn, sau hết phước đi! Phải nhớ, hồi xưa mẹ chỉ có một cái áo, nên mới có ngày nay!
Em Chín tiếp:
-Nhưng mà mẹ quên mẹ là con ông Huyện, và mồ côi, còn chúng con là con ông Tổng Đốc đương thời!
Mẹ tôi giận dữ quát lên:
-Ai dạy cho mày ăn nói giảm phước thế ?
-Mẹ không thương chúng con. Mẹ chỉ thương chị Hồng. Mẹ nhớ chị Hồng mất ăn mất ngủ. Mỗi khi chị Hồng tới xin tiền là mẹ đập con Heo của chúng con
Mẹ tôi vội vã:
-Thôi thôi, để tôi may, các cô không cần phải kể con cà con kê...
Mẹ sợ chúng tôi phân bì với chị Hồng lắm. Mỗi tháng cô chị họ ấy đến thăm mẹ tôi một lần, và mỗi lần như thế là cả nhà náo loạn cả lên. Nội một việc hầu hạ phục dịch chị cũng đủ mệt phờ ra. Chị ăn tiêu rộng rãi, thưởng tiền cho người nhà rất hào phóng . Đối với chúng tôi, chị cũng" thết đãi" linh đình. Nghĩa là gọi cả một gánh bánh bèo hay bún bò vào nhà, thết mỗi người một tộ Chỉ có một cái " di hận" là[chị chuyên môn đập Heo của chúng tôi. Ba cho chúng tôi mỗi đứa một ống tiền đặc biệt, tiền thưởng nhiều ít tùy theo học giỏi, trả bài thuộc , những bài học ông soạn riêng để dạy mỗi ngày. Tiền ấy được bỏ vào con Heo bằng đất nung mục đích để dành làm của hồi môn. Nhưng từ khi chị Hồng phát giác ra câu chuyện ấy thì chị rủ mẹ cho chúng tôi hùn vào tiệm may của chị. Mỗi tháng, chị đến đập Heo của chúng tôi một lần. Mãi cho đến khi chị bán cửa tiệm đi lấy chồng, chúng tôi chẳng hề thấy chị thanh toán tiền nong hùn hạp gì cả, làm tôi cứ tưởng là cửa tiệm của chị Ở nhằm hướng " tán tài" nên suốt bao nhiêu năm trời chỉ chuyên môn thua lỗ. Và cái bản tính không bao giờ thanh toán công nợ ấy, chị vẫn giữ mãi suốt đời.
Mẹ tôi quả nhiên giữ lời hứa, lấy một xấp hàng " xa xị" màu vàng nhạt để tận đáy rương ra, may áo cho chúng tôi. Bà gọi người lính ở trong dinh biết may cắt dặn:
-May cho thật dài rộng mát mẻ nghe không!
Vì chúng tôi đã lớn, đã biết sợ những chiếc áo rộng mênh mông, mặc vào như bơi đứng trong áo, nên nghe thế, phải dặn với:
-Ừ, may cho dài...
Và đứng sau lưng mẹ, lấy tay ra hiệu cho người thợ may chật.
Đến lúc áo may xong, mặc thử, thật là dở cười dở khóc. Nó dài phết gót và chật như bó chả. Chật đến nổi tay không co lại được. Người tôi cứ cứng ra như khúc gỗ không cử động trong chiếc áo đó. Chỉ mấy tháng, chiếc áo mới đã phải vá cùi tay và tiếp thêm nách. Nhưng dù vá víu xấu xí đến đâu, tôi cũng mặc đi nhiều nơi, nó vẫn còn hơn chiếc áo vải ba-ga đen cũ bạc mầu của bọn con trai chuyền lại.
Tiếp theo chiếc áo đấu tranh mà có này là một chiếc áo " vải cạt" . Gặp thời buổi chiến tranh Pháp Đức, mọi vật dụng đều khan hiếm nên phải được phối cấp, hàng vải cũng thế. Chúng tôi được may một cái áo bằng thứ “ vải cạt" phối cấp hoa lá cành chằng chịt, màu xanh đỏ tím vàng loạn xà ngầu, sặc sỡ lòe loẹt, nhà quê một cách không thể tả được. Mặc vào trông như một tấm vải màn, hay cái ghế nằm sofa biết đi. Thế nhưng tôi vẫn phớt tỉnh. Coi như trên đời này không có ai nhìn thấy mình cả.
Nhưng cũng từ đấy về sau, mẹ tôi chẳng cần phải may áo mới cho chúng tôi nữa, vì chị Hồng thỉnh thoảng lại gởi về một ít quần áo cũ. Trong số y phục loạn xà ngầu ấy, có hai cái còn coi được. Chị Sáu chọn cái áo màu đỏ, tôi mặc vừa áo màu xanh. Hai chị em, mỗi khi đi phố, đi chợ, đều diện hai cái áo đẹp nhất của mình, mặc cho thiên hạ bạn bè “ khen ngợi”. Nào là màu sắc chửi nhau, nào là " người trong tranh " , nào là bất chấp thời tiết v.v... Chúng tôi giữ vững lập trường " mục trung vô nhân" không cần ai và cũng không cần biết đến cả Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Kể từ ngày mẹ giao tiền chợ cho chị Sáu giữ để chị tập việc quán xuyến gia đình, chị không còn thắc mắc về vấn đề ăn diện làm dáng nữa. Chị tự sắm rất nhiều áo quần đẹp, nhưng cứ nói dối là của bạn bè, bà con ở xa gởi về cho, thành ra mẹ không la rầy được, mà chúng tôi cũng không thể phân bì được. Tôi cầu mong chị cao lớn thêm lên, hay béo ra một chút, để rơi rớt cho tôi vài cái. Nhưng rủi quá, người chị bé nhỏ, lùn thấp hơn tôi nhiều, và lòng dạ chị lại khá sắt đá, nên tôi không hề gạ gẫm gì được cả.
Tôi biết rõ tính mẹ tôi, khi có tiền chỉ thích giúp đỡ người khác, dù người ấy tiêu dùng một cách phí phạm, còn mình và con cái thì phải hết sức kham khổ. Bà luôn luôn nhắc câu:” Người ăn thì còn, con ăn thì hết”. Thành ra khi trong nhà món gì ngon lành là bà đem đi biếu xén tất cả các nơi bạn bè bà con quen biết . Có lẽ mẹ tôi muốn cái gì cũng còn vĩnh viễn nên gặp ai áo rách quần vá là bà lục tủ áo tìm cái nào người ấy mặc vừa là bà cho một cách sung sướng. Tôi tin là mẹ tôi trong cuộc sống sau khi ba tôi hưu trí, bà không cần phải dự lễ tiếp tân, hay thết đãi quan khách với ba tôi thì bà chẳng cần giữ lại một chiếc áo nào ra hồn.
Sau này, lúc đã bị ném ra ngoài đời tranh đấu cho cuộc sống của mình ,tôi vẫn giữ tính nết không ăn diện đã tập được như thuở còn sống với mẹ, mặc dầu lý do nhiều phước hay giảm phước tôi không hề quan tâm. Thời kỳ làm việc tại Hương Cảng tôi cố dành dụm tiền để mỗi cuối năm, mua gửi cho mẹ tôi mười cái áo gấm Thượng Hải. Tôi nghĩ rằng trong mười áo ấy, bà sẽ tha hồ cho, tặng, bán hay gì đi nữa, nhiều lắm là chín cái thôi. Ít nhất cũng phải để lại một cái cho mình. Và được như thế là tôi thỏa mãn rồi.
Ngày mẹ tôi bị bệnh trầm trọng, tôi phải xin nghỉ phép về săn sóc cũng không quên mang theo mười áo gấm nữa cho mẹ tôi. Thế nhưng lúc mẹ mất, tôi lục soát tủ áo để tìm đồ liệm theo, thì không thấy một chiếc áo nào may bằng thứ gấm Thượng Hải tôi đã gởi về biếu mẹ hàng chục năm. Một người bạn trẻ nói với tôi:
-Chị Hoa, cuộc đời chị thế là tàn rồi! Không còn hy vọng! Không còn tương lai! Không còn mơ gì được nữa hết!
Hừ, láo đến thế thì thôi! Hắn biết tôi thất bại về hôn nhân, tôi về nước vì Mẹ, mà về đến nơi chẳng bao lâu thì mẹ mất, đúng là một thất vọng lớn lao. Nhưng đâu đã đến nỗi không còn gì để mơ!
Sau khi chôn mẹ bên cạnh mộ cha xong, tôi trở lại Hương Cảng làm việc. Và từ bấy giờ, dù có thừa tiền để sắm nhiều quần áo đẹp, tôi cũng không còn thấy hứng thú gì nữa,không làm sao còn cái cảm giác say mê nồng nàn như ngày xưa, khi len lén mở rương vuốt ve chiếc áo xa-tanh hồng đầu tiên, thuở mười hai. Tôi còn nhớ, sau ngày ông nội tôi mất, ba tôi thường nhắc đi nhắc lại mãi :
-Khi con cái còn nhỏ dại, chúng nó chưa đủ hiểu biết nên hay oán trách cha mẹ cấm đoán điều này điều nọ. Lúc lớn lên, có gia đình, Sinh con rồi mới hiểu lòng cha mẹ”, lúc ấy muốn báo ân cho kẻ sinh dưỡng mình, thì cơ hội đã không còn nữa!
Ba tôi mỗi lần nói thế, bao giờ cũng không nén được hai giọt nước mắt rưng rưng. Còn tôi, sau này mỗi lúc đi phố, nhìn những hàng gấm màu sắc u nhã, dệt Long, Phụng hay chữ Phúc, chữ Thọ rất đẹp, tôi lại như người lên cơn say, cố mua cho bằng được. Nhưng sau khi mua rồi, mới ngẩn người ra, chợt nhớ mẹ mất rồi còn đâu, mua áo gấm để gởi cho ai!
Hết
(1953)
SƠN TRUNG * NGƯỜI BỘ ĐỘI NĂM XƯA
Cách
mång tháng tám bùng lên thì tôi Çang còn nhÕ. Lúc Çó, tôi cÛng nhÜ phÀn Çông dân
chúng hæng hái tham gia và ûng h¶ cu¶c cách mång chÓng Pháp.
Quê
tôi Çã nhiŠu lÀn Ç°i chû.Sau 1947, Pháp trª låi và xây ÇÒn bót kh¡p nÖi. Ban
ngày thì quÓc gia hoåt Ƕng , nhÜng ban Çêm ,ViŒt Minh vŠ treo c© và gi‰t
ngÜ©i.Khoäng 1950, ngÜ©i Pháp rút b§t Çòn bót, C¶ng sän làm chû hoàn toàn.
TØng
Çoàn b¶ Ƕi thÌnh thoäng ghé qua làng tôi. H† chÌ Çóng låi m¶t bu°i hay m¶t hai
ngày rÒi kéo Çi nÖi khác. H† thÜ©ng ª nhà nhºng ngÜ©i giàu trong
làng, trong sÓ Çó có nhà tôi(1). Dân
chúng , nhÃt là trÈ con rÃt hÒ hªi khi b¶ Ƕi vŠ làng.Các anh b¶ Ƕi rÃt vui
vÈ,h† hát rÃt hay,Çôi khi có anh b¶ Ƕi lên ngâm thÖ trong
nhºng bu°i sinh hoåt v§i dân làng. Các cô thi‰u nº thÜ©ng quÃn lÃy các
anh b¶ Ƕi Ç‹ cÜ©i Çùa, Ç‹ chép bài hát, hay h†c Çàn hát. CÛng có
nhºng mÓi tình vøng tr¶m, nhºng ân ái qua ÇÜ©ng,và cÛng có nhºng tình yêu Çi ljn
hôn nhân.
HÒi
Çó khoäng 1953, m¶t nhóm b¶ Ƕi ljn ª nhà tôi. Lúc tôi chÖi ª trܧc sân,tôi nghe
h† lên ti‰ng gay g¡t chÌ trích m¶t anh b¶ Ƕi. Sau tôi thÃy m¶t anh b¶ Ƕi Çi
ra,s¡c m¥t buÒn thäm. Anh gºi låi nhà tôi m¶t chi‰c ba lô nhË. Ông n¶i cûa tôi
bÕ chi‰c ba lô lên gác.Tôi ch£ng bao gi© mª ra vì tôi nghï r¢ng trong Çó
ch£ng có gì cä.
´t
lâu gia Çình tôi tØ trung nông bÎ ghép là phú nông, rÒi lên ÇÎa chû.TÃt cä ngÜ©i
trong
nhà tôi bÎ g†i lên chÃt vÃn vŠ vàng båc, ru¶ng nÜÖng. H† khuyên tôi nên
tÓ cáo ông n¶i tôi.N‰u tôi theo l©i h†, së ÇÜ®c h† cho Çi h†c Trung quÓc.Trong khi
chúng tôi m‡i ngÜ©i bÎ giam giº m¶t nÖi, b†n chúng vào nhà tìm vàng båc,ghi sÓ
lúa,sÓ mâm thau,chÆu ÇÒng, bát chén, quÀn áo. ñêm Çêm,xung quanh nhà tôi ÇŠu có
ngÜ©i rình Ç‹ nghe chúng tôi nói gì, và giám sát m†i hành Ƕng cûa chúng tôi.
Ngày Çêm, xung quanh nhà tôi ÇŠu có ngÜ©i canh gác vì h† s® chúng tôi phân tán
tài sän.Không ai Ç܆c ljn nhà tôi, và chúng tôi tÃt nhiên ch£ng dám ljn nhà ai.
M¶t
ngày n†, anh b¶ Ƕi næm xÜa trª låi nhà tôi,xin låi chi‰c ba lô rÒi v¶i vã ra
Çi.Sau Çó, tôi ÇÜ®c bi‰t khi anh ra khÕi nhà tôi thì bÎ b¡t vì t¶i liên låc v§i
gia Çình ÇÎa chû.Tôi không hi‹u sÓ phÆn anh së ra sao nhÜng tôi nghï dù th‰ nào
Çi nºa sÓ phÆn anh ch£ng hÖn gì chúng tôi vì lúc bÃy gi© nhºng cán b¶, b¶ Ƕi
ÇÜ®c Çön vÎ cho vŠ thæm nhà ÇŠu là con ÇÎa chû mà Çäng Çã nghiên cÙu kÏ hÒ sÖ
nay Çu°i vŠ Ç‹ chÎu t¶i v§i bÓ mË.
Trܧc
ngày thôn tôi t° chÙc ÇÃu tÓ, m¶t ÇÎa chû trong khi bÎ giam giº,thØa lúc
bu°i trÜa æn cÖm,Çã lÃy thanh mã tÃu cûa tên du kích canh gác Çâm c° t¿ tº, cä
làng nhÓn nháo,tôi thØa cÖ vÜ®t tuy‰n. TØ Çó, tôi ra r©i quê hÜÖng, xa r©i bao
ngÜ©i thân yêu, ÇÒng th©i cÛng xa luôn hình änh cûa anh b¶ Ƕi và cán b¶ c¶ng
sän ª quê tôi.
Tôi
tåm trú ª trên ÇÜ©ng Lê Væn DuyŒt,là m¶t trong nhºng con ÇÜ©ng ti‰n quân
cûa c¶ng sän trong ngày 30 tháng tÜ 1975. Sáng
Çó, tôi ra ban công trông Çoàn quân c¶ng sän ti‰n vào thû Çô.
H†
ngÒi trên xe tæng rÃt có khí th‰. H† chÌa súng vào dân chúng b¡t phäi hoan hô
h†.M¶t bån tôi,vón là sinh viên tranh Çãu, sau trª thành luÆt sÜ, giáo sÜ Çåi
h†c, rÃt có cäm tình v§i c¶ng sän, trong ngày 30 tháng tÜ, d¡t con ra
ÇÜ©ng Çón b¶ Ƕi nhÜng khi thÃy h†, anh chán nän t¶t Ƕ, và tØ Çó, anh tham gia
m¶t cu¶c ÇÃu tranh chÓng c¶ng sän, phäi ngÒi tù Phan ñæng LÜu vài næm. Chúng tôi
thÜ©ng ngÒi chung v§i nhau uÓng cà phê bên b© sông Thanh ña, nhÜng tôi quên hÕi
anh tåi sao hình änh ngÜ©i b¶ Ƕi cø HÒ låi làm cho anh ghê tªm ch‰ Ƕ.
Sau
1975, má tôi vào thæm tôi. Sau vài tháng, má tôi trª vŠ quê. Chúng tôi phäi chÀu
ch¿c hàng tuÀn m§i mua ÇÜ®c m¶t tÃm vé xe lºa cho má tôi. Ngày má tôi vŠ quê,
chúng tôi ra ga Bình TriŒu tiÍn ÇÜa. Trong và ngoài sân ga Çông nghÎt
ngÜ©i. PhÀn l§n là b¶ Ƕi.H† kêu nhau Öi §I rÃt to. ñó là m¶t Çi‹m rÃt Ç¥c biŒt
chÜa tØng có trܧc nay ª miŠn Nam.M‡i anh b¶ Ƕi ÇŠu mang nhiŠu hàng hóa,nào là
xe Çåp, phø tùng xe Çåp, radio, honda,väi, quÀn áo,ÇÒ ÇiŒn. H† còn chª hàng tå
gåo,hàng bao bÓ nÒi niêu song chäo,và ÇÒ nh¿a.Khi tàu ljn, h† Ç° xô lên tàu,
ngÜ©i này chen lÃn ngÜ©i n† tåo thành m¶t cu¶c h‡n chi‰n. Má tôi sušt bÎ dÅm
ch‰t trong khi lên tàu.Tôi phäi bÒng má
tôi ÇÄy lên b¢ng cºa s°. Nhìn các anh b¶ Ƕi tä xung hºu Ƕt, tích c¿c làm chû
chi‰n trÜ©ng, tôi thÀm nghï ljn nhºng anh b¶ Ƕi næm xÜa hiŠn lành dÍ thÜÖng
bi‰t bao ! H† làm công tác dân vÆn rÃt tÓt. ñ‰n nhà ai, h† ÇŠu kính cÄn g†i các
bà già b¢ng MË ( MË chi‰n sï ), và xÜng con ng†t ngào.H† gánh nܧc,tܧi rau,b°
cûi,làm m†i viŒc trong nhà nhÜ là m¶t ngÜ©i con
hi‰u thäo.Nay thì h† không còn là m¶t anh b¶ Ƕi thuÀn túy, mà h† trª thành
nhºng con buôn, nhºng tên cܧp, Ç‹ l¶ b¶ m¥t hung hãn,gian ác, bÃt chÃp lÍ
nghïa,bÃt chÃp m†i thû Çoån chÌ vì cái l®i cÖm áo !
GÀn
nhà tôi ª là nhà m¶t ông chû tiŒm vàng, Çã bÕ nܧc ra Çi trong dêm
30-4. B¶ Ƕi ljn ti‰p quän cæn nhà này.H† ª ÇÜ®c vài tháng thì có lŒnh sang Cao
Miên. Ngày ra Çi, h† lÃy m†i thÙ nhÜ là quåt bàn, bàn gh‰, tû, Ãm chén, và tháo
m†i thÙ nhÜ là quåt trÀn, cánh cûa, bàn gh‰...và tháo ngay cä dÒng hÒ ÇiŒn,ÇÒng
hÒ nܧc mang theo.Hôm sau,toán b¶ Ƕi khác ljn ª. Tôi không hi‹u toán này së xº
trí ra sao v§i cæn nhà này bªi vì tôi không dám dòm ngó nÖi h† ª, và không bi‰t
hÕi ai nhºng viŒc xäy ra ª hÒi sau tÃn kÎch.
Tôi
thÀm nghï ngôi nhà này Çã trª thành tråi quân, là cûa chung cûa quân Ƕi nhân
dân,l§p ngÜ©i này Çi , l§p sau së ljn, n‰u l§p trÜóc tháo gª tÃt cä, thì l§p sau
æn ª làm sao . Tåi sao h† låi hành Ƕng nhÜ vÆy ? Sau này, các giáo sÜ Çåi h†c
tåi m¶t building ª ÇÜ©ng TrÀn HÜng ñåo phäi ra Çi Ç‹ nÖi này låi cho ThÜÖng
nghiŒp .Các giáo sÜ vÓn mang ÇÀu óc cÛ, nên khi ra Çi ÇŠu Ç‹ låi y nguyên nhºng
gì cûa nhà nܧc cung cÃp. NhÜng chÌ m¶t bu°i sau ngày ti‰p thu cæn lÀu này, m†i
thÙ ÇŠu bi‰n mÃt, k‹ cä quåt trÀn, cºa s‡, ÇÒng hÒ ÇiŒn, nܧc !
Tôi
quen m¶t ông trung úy b¶ Ƕi ngÜ©i Nam hÒi k‰t, tánh tình b¶c tr¿c, vui vÈ và
rÃt nhåy bén ,tinh khôn trong viŒc làm æn. Tôi Çem th¡c
m¡c cûa tôi ra hÕi. Ông vui vÈ Çáp :
Trܧc
khác, nay khác. HÒi trܧc,ngÜ©i b¶ Ƕi chÌ mang ba lô, nhÜng nay °n ÇÎnh,h†
có nhà cºa, có chÙc vø, có v® con cho nên h† cÀn nhiŠu thÙ, nhÜ là cái rÜÖng Ç‹
Ç¿ng quÀn áo, cái xe Çåp, xe g¡n máy Ç‹ di chuy‹n , tiŠn båc Ç‹ tiêu dùng. Nhà
nܧc không cung cÃp Çû cho h†, thì h† phäi linh Ƕng,sáng tåo Ç‹ tåo cho mình
m¶t Ç©i sÓng vÆt chÃt cao hÖn.
Nghe
xong l©i giäi thích cûa ông, tôi røng r©i chân tay. NhÜ vÆy rõ là chû nghïa xã
h¶i làm cho con ngÜ©i nghèo kh°, cán b¶ bÀn cùng, cho nên dân chúng muôn Ç©i vÅn
Çói rách. Và con ÇÜ©ng thoát thân duy nhÃt cûa cán b¶ là cܧp bóc, tham nhÛng,
gian dÓi, lÜ©ng gåt Ç‹ tÒn tåi.
ñ‹ t¿
bào chºa vŠ hành vi xÃu xa cûa mình, ngÜ©i c¶ng sän nói : ‘Cái khó, ló cái
khôn ‘ là nhÜ th‰ ÇÃy ! NhÜng c° nhân Çã nói :’ ˆn tr¶m quen tay, ngû
ngày quen m¡t ‘ . ñÙa bé ban ÇÀu æn tr¶m
gà,sau
së æn tr¶m trâu bò, và Çi xa nÜã có th‹ cܧp cûa gi‰t ngÜ©i. NgÜ©i cán b¶ c¶ng
sän ban Çàu æn c¡p tØng kš gåo, tØng kš b¶t ng†t,ÇÜÖng nhiên khi trª thành giám
ÇÓc së æn c¡p hàng triŒu,hàng t› mà không bÎ trØng phåt vì m†i ngÜ©ì ÇŠu tham
nhÛng nhÜ nhau.N‰u kÈ nào Çó bÎ báo chí phanh phui,bÎ ra tòa, dù ª tù trên giÃy
t©,là vì h† làm æn l¶ liÍu quá, cÃp trên không th‹ lÃy tay che m¥t tr©i, cho nên
phäi xì ra m¶t hai phÀn træm cûa s¿ th¿c. Ho¥c h† là kÈ bÎ sa thäi, ho¥c là kÈ
thù cûa phe Çang lên.
Trong ch‰
Ƕ phong ki‰n và tÜ bän, chÌ có m¶t sÓ ít tham nhÛng, hÓi l¶, nhÜng hÀu h‰t cán
b¶ c†ng sän ÇŠu tham ô, nhÛng låm vì Çó là lë sÓng và tÆp quán. Càng nghèo, càng
là c¶ng sãn, s¿ tham nhÛng và tàn ác càng månh më và tinh vi.Làm sao Ç°i m§i cho
m¶t Çãt nܧc mà ngÜ©i lãnh Çåo hÀu h‰t là già nua, ngu si và tham ô, tàn ác ?
Tôi
Çã vŠ thæm quê nhiŠu lÀn. M†i ngÜ©i vô ra c‡ng xe lºa và lên tàu thì bÎ khám xét
kÏ càng.NhÜng ª ch‰ Ƕ c¶ng sän, con ki‰n Çi không l†t mà con voi Çi l†t. NgÜ©i
dân chÌ ÇÜ®c mang vài kš ga† Çi ÇÜ©ng nhÜng b†n con buôn,phÀn l§n là v® con Çäng
viên chª hàng tÃn gåo thì vÅn ÇÜ®c. Tôi Çã tØng thÃy trܧc gi© mª cºa, tØng Çoàn
thÜÖng binh chª hàng hoá vào ga m¶t cách dÍ dàng. Và tåi Sàigòn, có nhiŠu xe chª
hàng hóa mà ÇÙng trên mui xe áp täi là nhºng anh thÜÖng binh mang súng Çang ª
trong
tÜ th‰ s¤n sàng. H† vÜ®t qua Çèn ÇÕ nhÜng không m¶t công an nào dám th°i
còi ngæn xe låi. Và cÛng trên nhiŠu chuy‰n ra quê hÜÖng miŠn Trung, chúng tôi Çã
nghe k‹ nhiŠu lÀn chuyŒn thÜÖng binh chÆn xe lÃy tiŠn dân chúng . Và tåi Sàigon,
quân khu 7 Çã lÃy Çãt xây nhà,bán nhà bán Çãt lÃy tiŠn bÕ túi. Tåi Çây ( khu v¿c
Tân Sön NhÃt ) Çã trª thành m¶t quÓc gia riêng biŒt,nào chi‰u phim sex, mª quán
bia ôm...mà công an cùng ûy ban thành phÓ cÛng ch£ng làm gì ÇÜ®c.
Tåi
ViŒt Nam ngày nay có nhiŠu th‰ l¿c nhÜng hai th‰ l¿c månh nhÃt là công an và
quân Ƕi. H† là nhºng Mafia Ƕc quyŠn vŠ kinh t‰ trong Çó có Ƕc quyŠn buôn lÆu, k‹
cä buôn lÆu ma tuš.
Làm
sao Ç°i m§i v§i m¶t l¿c lÜ®ng tham nhÛng, gian ác to l§n nhÜ th‰ ? ñÃt nܧc ViŒt
Nam bao gi© cho h‰t nån này ?
_________
Chú
thích
(1)
Sau này tôi m§i hi‹u là h† ch£ng thÜÖng gì nhà giàu, h† chÌ muÓn l®i døng tiŒn
nghi cûa nhà giàu,ÇÒng th©i mÜ®n tay Pháp gi‰t nhà giàu. M‡i khi Pháp ruÒng bÓ,
hay máy bay Pháp thä bom,b¶ Ƕi và du kích thÜ©ng bÓ trí, Çào hÀm trú Än , Ç¥t
súng b¡n máy bay, Ç¥t súng phóng pháo và chôn mìn tåi nhà giàu.Lë dï nhiên,khi
bÎ phøc kích hay bÎ mìn, ngÜ©i Pháp së b¡n vào nÖi có ViŒt c¶ng, nghïa là b¡n
vào nhà giàu !
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 013
VERMON LOEB * TÀI HOA
Những
Tài Hoa
Bộc Phát
Vernon Loeb
Chuyển Dịch: Nguyễn Phượng Hoàng
Chuyển Dịch: Nguyễn Phượng Hoàng
LTS:
Sau đây là bài dịch Những Tài Hoa
Bộc Phát - Bursts of Brilliance - đăng trên tờ The
Washington Post Magazine, số ngày
15 tháng 12.
Hàng
loạt khám phá bởi
những kỹ sư và lính Không Quân chưa bao giờ
nghe
tên đã đưa nước Mỹ đến tột đỉnh
về sức mạnh quân sự hiện đại.
Bẩy
chục dặm về hướng
nam Hà Nội, cầu Thanh Hóa chạy dài qua Sông
Mã một cách
ngạo nghễ. Những người Miền Bắc
Việt Nam có lý khá hay khi gọi nó là
Hàm Rồng. Hàng nhiều năm,
những
chiếc phản lực cơ của Mỹ đã bay 869 phi
vụ bỏ bom chiếc cầu, rớt mất 11 chiếc
máy bay. Sau mỗi phi vụ, khi khói đã tan,
và chiếc
cầu vẫn đứng vững, như một công trình
nhắc nhở việc vô hiệu quả của những
cuộc bỏ bom trên không. Bẩy năm vô hiệu quả.
Một
buổi sáng của tháng
5 năm 1972, những chiếc phản lực cơ lại
trở lại: những chiếc F-4 Phantom đua nhau trên
bầu trời. Bên dưới những cặp cánh ngắn
và dầy đó: một cuộc thử nghiệm, một
loại bom mới được chế tạo tại Căn
Cứ Không Quân Elgin ở vùng cán cầm
(panhandle) của
tiểu bang Florida, đã được thiết bị để
theo một luồng ánh sáng laser loé lên từ
phía bên trên.
Từng
chiếc một,
những chiếc phản lực lăn xả vào để
thả bom. Những trái bom này đã được khóa
cứng vào luồng laser rọi trên mục tiêu và
đánh
trúng thật chính xác, chiếc cầu bọc trong biển
lửa. Lần này, khi khói đã tan, các phi
công thấy
chiếc cầu đã bị đánh văng khỏi cột
trụ cầu cao 40 bộ. Cầu Thanh Hóa đã sụp. Bom
tinh khôn đã đánh dấu của nó. Chiến tranh sẽ
không bao giờ giống như cũ.
Nếu
Tổng Thống Bush ra
lệnh đánh Iraq trong những tuần, những tháng
sắp tới, chỉ trong vòng vài tiếng hệ thống
phòng không của Iraq sẽ hầu như chắc chắn
bị phá tan trong một khoảng cách thật gần
từ những chiếc máy bay vô hình (stealth aircraft)
mà quân
Iraq không thể thấy, và từ khoảng cách xa bởi
những phi đạn vô hình mà họ không thể cản
được.
Tràng mở đầu sẽ là việc chưa từng
xẩy ra, nếu không phải vì khoảng thời gian thì
vì
sự tàn khốc, khi những trái bom điều khiển
bởi các dụng cụ điện tử tinh xảo, liên
lạc thẳng tới các vệ tinh, đánh đồng
loạt và chính xác vào hàng trăm
các mục tiêu khắp nước,
từ dinh tổng thống ở Tikrit tới những đoàn
quân ở chiến trường gần Basra.
Những
chiếc máy bay không người
lái (drone) sẽ bay vòng vòng trên các
chiến trường
gửi liên tục những tín hiệu thám thính tới
các
vị tư lệnh dưới mặt đất - qua
những hình ảnh trực tiếp, radar và tia hồng
ngoại tuyến - và tới các phi công trên
không, giúp họ
theo dõi và tiêu hủy những mục tiêu di động
chỉ vài phút sau khi chúng xuất hiện từ chỗ
trú
ẩn. Bom phá hầm trú sẽ xuyên thủng những nơi
bảo vệ kỹ lưỡng nhất của quân Iraq, đâm
xuyên sâu tới 100 bộ dưới mặt đất, đâm
sầm qua bờ xi măng cốt sắt, nổ tung chính
xác ở độ sâu đã được dự trù.
Không
một quốc gia nào khác
theo gần được sức mạnh quân sự
mới này của quân đội Mỹ. Không kể từ năm
1945, khi Hoa Kỳ có một thời gian ngắn ngủi độc
tôn về vũ khí hạt nhân, chưa bao giờ có một
khoảng cách sức mạnh như vậy giữa Hoa
Kỳ các các quốc gia khác trên thế giới.
Bằng
các nào chúng ta đã đạt
được vị thế này? Không có một chương
trình nào giống như Chương Trình Manhattan, khi
những người tên tuổi nhất đã tụ
lại để dồn tất cả nỗ lực, cùng
lúc với sự hỗ trợ đồng nhất và
mạnh mẽ của toàn thể chính phủ. Thay vào
đó,
đơn độc, thường là không được
ca ngợi, những cá nhân có đôi giây
phút sung sướng
khi tìm ra điều mới lạ, đã nối những điểm
nổi bật của nền kỹ thuật theo cách
bất viễn kiến và đã thay đổi cả
thế giới. Mất hàng nhiều năm, với
những chứng minh gây ấn tượng sâu sắc gia tăng
trên các chiến trường, trước khi những điều
gây cảm hứng này được công nhận - một đường
lối đánh nhau mới mà làm thay đổi lối tính
toán trong chiến tranh và hòa bình theo
những phương cách
chưa hề xẩy ra trước đây, và hãy còn chưa
chắc chắn lắm.
Vào
một ngày êm dịu của
mùa thu năm 1964, Ðại Tá Không Quân Joe
Davis Jr. theo dõi từ
một văn phòng của một toà nhà lầu có
mái nhà
thấp ở Orlando khi các kỹ sư của hãng Martin
Marietta, một hãng thầu quốc phòng, biểu thị
một vật được gọi là hộp laser.
Hộp laser nhìn giống như hai hộp xì gà đặt
trên một cái chống 3 chân. Những người kỹ sư
rọi cái món đồ chơi điện tử này trên
một tấm ván ép đang bị kéo đi theo một con đường
dốc cao cách đó khoảng 2000 bộ.
Cái
hộp laser này hoàn toàn
lấy ra từ Buck Rogers (Tên chính của nhân vật trong
một cuốn phim giả tưởng - NPH), thuộc
phạm vi của Davis. Ông ta cầm đầu một đơn
vị Không Quân tìm kiếm những kỹ thuật mới
cho trận chiến ở Việt Nam. Cái hộp laser được
khai triển bởi một nhà khoa học của Lục
Quân, một người có viễn tượng là một
ngày nào đó nó sẽ giúp
hướng
dẫn những phi đạn chống chiến xa. Nhưng
ông Davis là một phi công, một phi công xuất
sắc
với nhiều huân chương của Ðệ Nhị
Thế Chiến và Chiến Tranh Ðại Hàn, và khi
ông ta theo
dõi điểm laser bám dính tâm điểm những mục
tiêu di động cách xa đó, đột nhiên nảy ra
sáng
kiến.
"Boy,"
(một chữ
diễn tả sự ta thán - NPH), ông ta nói,
"Chúng ta
phải dùng cái hộp laser này để hướng
dẫn những trái bom của mình."
Chẳng
mấy chốc sau, ông
ta trèo vào ghế sau của một chiếc phi cơ
huấn luyện bay trở về căn cứ Elgin,
một căn cứ lớn bằng khoảng 2/3 tiểu
bang Rhode Island, với một khoảng không gian đủ
cho một đoàn sĩ quan Không Quân và các
nhà khoa học
về bom thí nghiệm hầu như bất cứ vật
gì được thả ra từ máy bay.
Với
một cái máy quay phim
trên tay, ông Davis hướng dẫn người phi công bay
tới một cái đập nước và bay vòng vòng
trên đó.
Nếu cái máy quay phim đó là hộp laser,
ông ta có thể
giữ nó yên một chỗ trên một chiếc máy bay di
động
để luồng laser bám giữ mục tiêu không?
"Khi
chúng tôi trở về, tôi đưa
cho phòng rửa phim cuộn phim,"
ông Davis nhớ
lại, "và
trời ơi, cái dấu chữ thập nhỏ như
sợi tóc ở ngay trên cái đập nước đó."
Ông
Davis biết là mình đang
trên đường tiến đến một cái gì đây.
Vài
tháng sau đó, một người
trong ban điều hành của hãng Texas Instruments tên
Glenn E.
Penisten có mặt tại căn cứ Elgin, với hy
vọng bán cho Không Quân một vài kỹ thuật.
Ông Penisten
nói rằng ông ta có một phi đạn địa không
(ground to air missle) có thể được thiết bị để
theo một luồng laser. Ông Davis mời ông Penisten và
nhóm TI
của ông ta ăn tối tại một nhà nhà sang trọng
chuyên bán đồ biển và bí tết ở Fort Walton
Beach.
Qua những đợt sóng và lớp đất cỏ, ông
thẳng thắn với họ. Ông nói: "Tôi
có vấn
đề với việc thả bom".
Máy
bay Mỹ thả cả hàng tấn bom, nhưng lại không
trúng mục tiêu. Có thể có một hộp laser
hướng
dẫn bom thả từ máy bay không? Sau vài ly rượu,
ông
Penisten nhớ lại, họ bắt đầu họa
chiếc hộp laser đầu tiên hướng dẫn bom trên
một tờ giấy lau miệng.
Không
bao lâu sau buổi nói
chuyện trong bữa ăn đó, nhóm T.I quay trở lại
để bàn bạc sâu rộng hơn. Kỹ Sư Weldon
Word và nhiều người bạn đồng nghiệp
giải thích với ông Davis những gì họ nghĩ trong
đầu:
một dụng cụ có thể gắn vào những trái bom
thường nặng khoảng 500 tới 2000 cân Anh gồm
có một cảm cụ (sensor - dùng để đo nhận
tín hiệu) laser trên mũi trái bom và
trên bộ giữ thăng
bằng của máy bay (fin) ngay đuôi bom. Cảm cụ này
sẽ có khả năng tìm kiếm luồng ánh sáng phản
chiếu của laser trên một mục tiêu.
Tầm
phạm vi quan sát
của cảm cụ được chia làm bốn góc độ
- bất cứ góc độ nào bị kích thích bởi tia
laser sẽ chuyển một tín hiệu tới bộ cân
bằng ở sau đuôi của trái bom, khiến chúng di
chuyển lên hay xuống. Kết quả sự thay đổi
phương hướng của trái bom sẽ đẩy
luồng laser vào trong một góc độ khác của
cảm cụ, gây ra một sự chuyển động khác
từ bộ cân bằng ở đuôi trái bom. Kết
quả tổng hợp là bất cứ khi nào trái bom đi
lạc ra khỏi mục tiêu, bộ cân bằng ở đuôi
bom sẽ hoạt động để giữ trái bom đi
đúng hướng.
Ông
Davis lắng nghe một cách
cẩn trọng. Lúc đó là trưa thứ Sáu.
Ông nói
với họ là nếu sáng thứ Hai họ có thể đưa
ra một bản kế hoạch đề xuất và dưới
$100,000.00, "Tôi
sẽ tài trợ cho các ông".
Nghe
như thế, ông Word và nhóm
kỹ sư T.I bay trở về lại Dallas, làm việc
nguyên cả cuối tuần và quay trở lại sáng
thứ Hai với 12 trang giấy, một bản kế
hoạch đề xuất viết tay kiến tạo 12
hộp laser hướng dẫn bom trong vòng 6 tháng với giá
$99,000.00. Ông Davis xem bản kế hoạch đề
xuất xong, nói với ông Word và người bạn đồng
nghiệp của ông Word trở lại sau giờ ăn trưa.
Ông
Word và người bạn đồng
nghiệp không biết phải kỳ vọng vào cái gì. "Trong
đó,
98 phần trăm là nước bọt, và 2 phần trăm
là thật",
theo lời kể của ông
Word, 71 tuổi, giờ đã về hưu và đang
sống ở Tyler, Texas. Họ đã kiệt sức và rã
rời vì làm việc. Họ mua 6 lon bia và nằm ngủ
trên
bãi biển ngoài căn cứ.
Họ
cần nghỉ ngơi.
Thay vì cho họ toàn bộ hợp đồng, các xếp
của ông Davis về văn phòng Nghiên Cứu và
Phát
Triển của Căn Cứ Không Quân Wright Patterson ở
Ohio đã đưa vào một nhà thầu quốc phòng
khác
nữa, hãng North American Aviation, và tạo một cuộc ganh
đua. Tuy nhiên đó mới chỉ là một phần
của vấn đề. Ông Word và hãng của mình
không có
một tý kinh nghiệm gì về laser, và chỉ có
một ý tưởng
lờ mờ về cách kiến tạo một cảm
cụ laser. Thêm vào đó, họ không cả biết bộ
cân bằng ở đuôi trong bản kế hoạch đề
xuất của họ, được lấy từ phi đạn
Shrike của hãng T.I, có thể điều khiển và
cân
bằng một vật nặng như là trái bom 2000 cân Anh hay
không.
Thiếu
tiền để
thử thí nghiệm trong hầm gió, họ kiến tạo
những trái bom kiểu mẫu nhỏ 10 phân Anh có gắn
bộ cân bằng và thả chúng xuống một cái hồ
bơi
sau nhà, chăm chú ghi chép khi chúng
chìm.
Không
một ai, chỉ một
mình ông Davis có nhiều tin tưởng vào
sáng kiến này. Ông
Penister còn nhớ chính ông xếp của ông ta
đánh cá
với ông một thùng rượu Jack Daniel's rằng bom định
hướng bởi tia laser sẽ không bao giờ thành công.
Tuy thế chỉ trong một khoảng thời gian
ngắn, nó đã được gắn tất cả
với nhau thành 1 dụng cụ với giá ít hơn $2000.00
đô
một cái. Họ chỉ cần một trái bom thật để
gắn nó lên. Ông Penisten đã gọi dây
nói cho ông Davis. Ông
Davis cho khiêng một quả bom không thuốc nổ vào
khoang
chở của chiếc máy bay C-47 và chở nó đến
Dallas. Ông Word hãy còn nhớ cái ngày
mà trái bom được
chở đến tổng hành dinh của hãng. "Thình
lình
mọi người rỉ tai truyền khắp cao ốc -
Có một trái bom ở chỗ rỡ hàng đàng sau!"
Ông
Davis bi giờ được
85 tuổi, một người đàn ông thấp, bệ
vệ với một mái tóc bạc và một làn da sạm
nắng giống như da bò. Ông sống cách cổng
chính
của căn cứ Elgin khoảng 1 dặm rưỡi
với người vợ tên Ann. Ban ngày ông ta đánh
goft.
Ông chơi dưới 90 điểm. Ông hãy còn bay chiếc
máy bay Beechcraft một động cơ khoảng 40 tới
60 tiếng mỗi tháng. Và mỗi lần ông thấy một
chiếc F-15 đâm xuyên qua bầu khí quyển trên
căn
cứ, ông thầm ao ước mình là người đang
bay chiếc máy bay đó.
Ông
chưa bao giờ được
hưởng công nhiều hay tuyên dương cho mình là
người
tiên phong trong việc sáng chế bom hướng dẫn
bởi tia laser. Những người xếp lớn Không
Quân ở Wright Patterson, theo ông, "muốn giữ
tiếng tăm ở
trên đó, và tôi không muốn hơn thua với
họ".
Khi
ông về hưu, ông được trao huy chương
Legion of Merit cho sự đóng góp của mình về bom
tinh
khôn - một sự tuyên dương nhỏ bé hơn mà người
chỉ huy của ông đã đề nghị cho ông. Khi
chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư chuyển biến năm
1991 và ông Davis thấy hoàn toàn việc canh
tân của mình, ông đã
kinh ngạc - và một chút sợ hãi.
"Ðây
là những điều mà ông phải
lo lắng - trái bom laser đó rơi xuống và gây
tử
vong cho một hay hai gia đình, và tên đó
biết ai là người
sáng chế ra laser bom, 'Ô, hắn đi xuống Florida,' "
ông
Davis nói, "Hắn
xuống đây kiếm tôi, và để một viên xuyên
qua đầu
tôi."
Vì
thế ông Davis giữ im
lặng trong suốt những năm vừa qua, ngay cho dù sự
thật là những cuộc không tập chuẩn đích - đã
khiến cuộc chiến lẹ hơn và giới hạn
những tổn thất thương vong thường dân -
mà người ta có thể cho rằng đã cứu hàng
ngàn
sinh mạng thường dân và lính tráng.
Khi
cuộc thử nghiệm
bắt đầu năm 1966, chiếc mẫu đầu
tiên của T.I rớt xa mục tiêu 148 bộ (feet) . Trái
thứ hai cách xa 78 bộ, gấp đôi 30 bộ chính
xác mà
hãng T.I đã cam kết. Cuối cùng thì
có một vài điều
sai trong cảm cụ, bộ cân bằng, và hệ thống điện
tử. Sau khi tất cả được hoàn chỉnh,
mức độ chính xác của bom được cải
tiến kinh khủng. Lần thả thứ năm, nó rơi
cách mục tiêu 12 bộ. Tới lần thứ sáu, nó
trật cách 10 bộ.
Hãng
cạnh tranh với T.I -
hãng North American - không cả được như thế.
Họ dùng hệ thống hướng dẫn phức
tạp hơn thế, nhưng bị thất bại hàng loạt
trong bốn lần ném bom đầu tiên. Và giá tiền
mắc hơn dụng cụ tương đối
đơn giản của hãng T.I đến nỗi hãng North
American không cả đủ tiền để làm tiếp
những chiếc kiểu mẫu.
Vào
tháng 5 năm 1967, hãng T.I
được hợp đồng $1.35 triệu đô
để kiến tạo thêm 50 bộ dụng cụ cho
những trái bom trong việc tiếp tục thử nghiệm.
Ngoài sự thành công về khoảng cách trong
những
cuộc thử nghiệm, chương trình được
thúc đẩy vì những tổn thất máy bay nặng
nề ở Việt Nam. Trong khi ông ta và những kỹ
sư khác làm việc để hoàn thiện trái bom,
ông Word
nhớ rằng ông thấy một bức hình của
chiếc Cầu Thanh Hóa đứng nguyên vẹn giữa
hàng trăm hố bom ở hai bên giòng sông.
Vào
mùa xuân năm 1968, ông Davis và
toán phi công bay thử nghiệm, và các kỹ sư
đã bay
từ Elgin tới Thái Lan để thử những trái bom
trong những trận chiến thật sự. Cuộc ném
bom lần đầu trên chiếc cầu Miền Bắc
Việt Nam hoàn toàn thất bại - những trái bom
hoàn toàn
trật mục tiêu.
Vào
thời đó, họ
cần có hai chiếc máy bay để thả một trái bom
laser định hướng. Một người sĩ quan
vũ khí ngồi đàng sau chiếc F-4 Phantom cầm tay
một chiếc laser để rọi mục tiêu, giống
như ông Davis đã cầm chiếc máy quay phim để rọi
đập nước. Và một chiếc Phantom thứ hai
thả trái bom laser định hướng theo
đường là là khiến các cảm cụ của nó
có
thể nhận được điểm laser. Một
cuộc tường trình tỉ mỉ của cả hai nhóm
phi công đã đưa đến điều xác quyết
là một nhóm đã rọi luồng laser trên chiếc
cầu, và nhóm kia đã nhắm thả trái bom
trên một
chiếc cầu khác cách đó 3000 bộ.
Khi
các viên phi công đã
đồng thuận trên mục tiêu, những trái bom bắt
đầu hoàn thành một cách ngoạn mục. Chúng
tạm
thời được dùng để phá những chiếc
cầu và những mục tiêu khác có giá trị
cao
trước khi Tổng Thống Lyndon Johnson ban hành sắc
quyết năm 1968 ném bom Miền Bắc Việt Nam. Sau
đó, chúng được dùng ở Lào để phá cầu
và các đường vào hang động trú ẩn.
Vào
khoảng thời gian sắc lệnh được bãi
bỏ năm 1972 và cầu Thanh Hóa đã bị sụp đổ,
cảm hứng của ông Davis đã chính thức trở
thành bom laser định hướng Paveway, với một
kiểu mới hơn và chính xác hơn vì đặc
biệt có cảm cụ tia laser được cải
tiến và bộ cân bằng sau đuôi được
bật ra. Trong khi đó, sự tiến bộ đã cho phép
một chiếc phản lực cơ làm cả hai việc
một lúc là rọi mục tiêu và thả bom.
Vào
lúc cuối của cuộc
chiến năm 1975, Hoa Kỳ đã thả hơn 28.000 trái
bom Pavewave ở Ðông Nam Á. Vũ khí laser định
hướng
dùng ít hơn 1% của tổng số 3,3 triệu trái bom
đã
thả xuống suốt cuộc chiến. Song le, chúng đã
chứng tỏ khả năng chính xác trên các chiến
trường
đến độ lạnh mình.
Công
chúng Hoa Kỳ, mệt
mỏi với cuộc chiến không ngưng nghỉ, để
ý một cách qua loa. Nhưng sự thành công của
những
quả bom laser định hướng và các kiểu trước
đó của những trái bom tinh khôn được hướng
dẫn bởi máy thu hình và cảm cụ qua tia hồng
ngoại đã gây một ấn tượng sâu đậm
trong giới quân sự Hoa Kỳ, để đề
xuất những chương trình hoàn thiện cả ba.
Theo
nhà sử học của
Không Quân Richard P. Hallion thì: "Nó
như là một cuộc cách mạng,
một cuộc phát triển sức mạnh trên không
giống như là máy phản lực."
o0o
William
J. Perry hiểu những
ẩn ý rõ như bất cứ người nào. Là một
cựu giáo sư đại học với văn bằng
tiến sĩ Toán, ông Perry trở thành thứ trưởng
Bộ Quốc Phòng lo về nghiên cứu và ngành kỹ
sư
- là nhân vật số 3 của Ngũ Giác Ðài -
năm 1977 vào
thời gian đầu nội các của ông Carter.
Sự
lạnh lẽo sâu đậm
của Chiến Tranh Lạnh, và
hàng rào duy nhất chống lại số vũ khí
thường
to tát nhiều lợi thế của Liên Bang Sô Viết là
khả năng nguyên tử của Mỹ. Ðiều này cho
thấy đã đưa một viễn tượng không an
tâm về Sô Viết, đẩy Tây Âu vào thế
mà Tây Phương
chỉ có 2 sự lựa chọn tồi tệ: Thua
trận hay chiến tranh nguyên tử.
Lúc
này ông Perry tưởng tượng
ra một sự lựa chọn thứ ba: Hoa Kỳ xây
cất một kỹ thuật siêu việt, đặc
biệt là ngành điện toán, để sáng tạo
một cuộc chiến tranh hoàn toàn mới với vũ
khí thường. Ông nhớ đã bàn thảo điều
này
với ông xếp của mình, Bộ Trưởng Quốc
Phòng Harold Brown, một nhà vật lý nguyên
tử, chỉ trong
vòng 6 tháng khi nhậm chức. Cùng với nhau, họ
quyết định lợi thế của Sô Viết
về vũ khí thường có thể được
chống lại bởi sự chính xác của đạn dược,
kỹ năng điện toán của Hoa Kỳ và một
kỹ thuật tối mật được mệnh danh
là "tàng hình (stealth)" đã có thể
biến máy bay Hoa
Kỳ hầu như trở nên vô hình với lực phòng
thủ không phận của Sô Viết.
Hãy
còn đau bởi vết thương
sau cuộc chiến Việt Nam, Ngũ Giác Ðài âm thầm
tái
vũ trang khi ông Perry tới nhậm chức. Ông Perry đã
tự chính mình nuôi dưỡng những thành phần kỹ
thuật cao, mặc dù có một sự chống đối
kịch liệt của một nhóm chỉ trích được
biết lúc đó qua tên "phong trào cải
cách quốc
phòng". Họ lý luận rằng Ngũ Giác Ðài
đã
bị ám ảnh với những vũ khí có kỹ thuật
cao, quá tốn kém, không cả biết có hoạt động
được hay không và, phần nhiều, vô hiệu
quả trên chiến trường.
Ông
Perry nhất định
không nhượng bộ - và ủy thác những số
tiền lớn lao vào một phần ngân sách mật để
chế tạo chiếc chiến đấu cơ tàng hình
(stealth fighter) F-117. "Tàng
Hình, đặc biệt, đã trên đường
tiến nhanh không thể tưởng,"
ông
Perry thuật lại, giờ đã 75 tuổi, một người
đàn ông gầy gầy, với mái tóc bạc và
mỏng.
Ông ta với một sự thoả mãn rõ ràng cho biết
chiếc máy bay tối mật được chế
chỉ trong vòng 4 năm.
Cả
hai chiếc F-117 và
chiếc tàng hình B-2 thả bom, chiếc này cũng bắt
đầu
dưới thời ông Perry, có dạng hình chế tạo
giống như chiếc boomerang đã làm lệch hướng
và phân tán những làn sóng radar,
thay vì phản chiếu
lại tới máy phát sóng của chúng nó.
Chiếc máy bay được
cấu tạo bởi chất liệu giống như than
hút giữ làn sóng radar và làm giảm
"diện tích
radar" - là khoảng phạm vi mà chiếc máy bay
có thể
thấy trên màn ảnh radar - tới độ nhỏ như
của một con chim.
Thế
giới không
được thấy sự hoạt động của
những vũ khí này cho tới những ngày mở màn
của trận chiến tranh vùng Vịnh. Nhưng ông Perry
đã nhìn thấy khả năng của chúng cả thập
kỷ trước đó, tiên đoán một cách tự tin
trong một cuộc phỏngvấn tháng Ba năm 1980 rằng
loại vũ khí mới và chính xác này "phải
làm
thay đổi bộ mặt của trận chiến".
Ở
căn cứ Elgin, ông
Donald Lamberson, một vị phó chỉ huy của Ðoàn vũ
trang của Không Quân, đã đi theo đường
hướng của ông Davis, cố gắng thuyết
phục toàn thể khối Không Quân về những kỹ
thuật mới nhất của bom tinh khôn. Mặc dù
được sự ủng hộ của ông Perry và
sự thành công của bom laser định hướng
ở Việt Nam, ông Lamberson thấy nó tiến triển
một cách chậm chạp.
"Chúng
ta bay những chiếc máy bay
tuyệt vời, và chúng ta thả những trái bom từ
thời Ðệ Nhị Thế Chiến qua những chiếc
máy bay này.",
ông Lamberson kể, giờ đã 71
tuổi.
Những
viên phi công chiến
đấu chỉ huy bộ Tư Lệnh Sách Lược
Không Quân (Tactical Air Command), theo ông,
đã chú trọng vào
việc không chiến (air to air combat) và hãy
còn nghi ngờ
phần nào về sự mạo hiểm mà các phi công
chiến đấu phải bay thấp để thả
những trái bom laser định hướng. Và những phi
công thả bom xa tầm, chỉ huy bộ Tư Lệnh
Chiến Lược Không Quân (Strategic Air Command), theo
ông,
lại càng ít để ý đến việc chính xác
hơn.
Một điều, và chỉ một điều, ông nói,
đã cuối cùng thuyết phục được giới
Không Quân, nếu không phải là cả thế giới,
là
một phương cách chiến tranh mới trong tầm
tay: Cuộc Hành Quân Bão Sa Mạc (Operation Desert
Storm).
Một
buổi sáng sớm
trời còn tối đen, chiếc trực thăng võ trang
Apache ôm tròn trái đất đã bắn phi đạn laser
định hướng Hellfire và hỏa tiễn Hydra vào
giàn radar báo động của quân Iraq. Lúc
đó là ngày 17
tháng Giêng năm 1991. Chiến Trang Vùng Vịnh
đã bắt
đầu.
Vài
phút sau đó, chiếc F-117
chiếc đấu cơ tàng hình bắt đầu tấn
công những nơi phòng không dầy đặc và những
cơ sở chỉ huy ở Baghdad bằng các loại
vũ khí chính xác, không bị phát hiện
bởi sự phòng
thủ không phận dầy đặc gấp 7 lần
những nơi xung quanh Hà Nội khi Hoa Kỳ lần đầu
tiên sử dụng bom laser định hướng ở
Việt Nam.
"Vào
lúc bình minh vừa tỏ vào sáng 17
tháng 1,"
ông Hallion viết trong cuốn lịch
sử chiến tranh của ông ta, Bão Qua Nước Iraq
(Storm Over Iraq), " Iraq
chắc chắn đang ở trên
con đường bại trận..."
Hoa
Kỳ đã sử dụng
những trái bom tinh khôn của mình qua một
cách hoàn toàn
mới lạ, không những
chỉ thả với một số lượng lớn trên
những chiếc cầu khó đổ, mà dùng chúng
để tạo nên điều mà ông Hallion gọi "một
sự đánh sụp đồng lúc, nếu mình muốn,
trên toàn nước."
Năm
1994, khi 47 chiếc B-29
đánh phá xưởng sắt Yawata của Nhật trong
Ðệ Nhị Thế Chiến, ông Hallion kể, "chỉ
có
mỗi một chiếc máy bay đã đánh trúng mục
tiêu,
và chỉ đánh trúng được được 1 trái
bom trong từng đó trái bom." Trong
tối
mở màn của trận Chiến Tranh Vùng Vịnh, theo
bản so sánh, một chiếc F-117 đơn độc
mang 2 trái bom laser định hướng đã tạo ra
hậu quả tàn phá gấp 2 lần của nguyên cả
một phi đoàn.
Chỉ
có khoảng 9% của
số bom được thả xuống trong trận
Chiến Tranh Vùng Vịnh - 7.400 tấn trong 84.200 tấn bom
- là những trái bom thuộc loại được
hướng dẫn chính xác, phần lớn do sự
giới hạn không có nhiều trong kho dự trữ. Nhưng
với 9% đó đã đảm trách cho 75% thiệt hại
tới những mục tiêu chiến lược. "Rõ
ràng
với mọi người là công của những trái bom
đó."
theo lời của tướng hồi
hưu Merrill "Tony" McPeak, Tham Mưu Trưởng Không
Quân lúc đó.
Cuộc
chiến trên không
mất 37 ngày và nhanh chóng chuyển từ những mục
tiêu chiếc lược xung quan Baghdad qua những đoàn
quân Iraq và chiến xa khắp nơi trong nước.
Chiến đấu cơ thả bom F-111F đã chứng
tỏ sự hữu dụng tiêu hủy chiến xa bằng
những trái bom laser định hướng. Trong đêm
tối lạnh lẽo của sa mạc, nhiệt từ
những đầu máy của chiến xa nhìn sáng rực qua
các cảm cụ mục tiêu bằng tia hồng ngoại
tuyến hiện đại dùng trên những chiếc
phản lực.
Thời
gian ngắn sau cuộc
chiến, ông McPeak tuyên bố cuộc Hành Quân
Bão Sa Mạc là
"lần
đầu tiên trong lịch sử mà môt. đoàn
quân trên
bộ đã bị đánh bại bởi không lực."
Những
vị chỉ huy
của Lục Quân và Thủy Quân Lục Chiến bất
đồng ý kiến một cách mạnh mẽ, lý luận
rằng lực lượng trên bộ - không phải không
lực - đã đánh bại quân đội Iraq. Thực
vậy, Darul G. Press, môt. giáo sư của trường
đại học Dartmouth, biện luận trong một bài
viết rằng không lực "làm
giảm và phá vỡ quân đội
Iraq",
nhưng "đã
không vô hiệu hóa lực
lượng Iraq."
Ông
McPeak gạt bỏ những
lời lý luận đó của ông Press và những
người khác, và còn đi xa hơn thế bi giờ. "Càng
ngày càng
rõ là không lực bắt đầu giữ lời hứa là
họ đã có từ lâu, đó là vai trò
chính, và những vai
trò khác là phụ thuộc và yểm trợ,"
ông
ta nói. "Sự
thật là sự thật."
Tuy
nhiên ngay trong trận Bão Sa
Mạc, không lực đã rõ ràng có sự giới
hạn và
khiến những nhà hoạch định trận chiến,
các quan chức, kỹ sư và khoa học gia phải đi
tìm những loại vũ khí mới và cải tiến những
dữ kiện chiến sự trong suốt thập niên 90.
Không Quân và Hải Quân đã thất bại
trong việc
không tiêu hủy
được 1 cái dàn phóng phi đạn Scud
nào
của Iraq mặc dù đã dồn nhiều nỗ lực:
Hoa Kỳ một cách đơn giản đã không thể
nào đánh trúng những mục tiêu di động
đúng
lúc.
Một
vấn đề
lớn khác: Lối chiến tranh mới qua sự chuẩn
xác của Hoa Kỳ, đã bị tê liệt bởi thời
tiết xấu. Không lực của Saddam Hussein, không cất
cánh nổi trong suốt cuộc chiến, đã không thể
ngăn chận được những phản lực
cơ thả bom laser định hướng của Hoa
Kỳ, nhưng những đám mây lại có thể làm
được điều này.
Thật
ra, đã có một
kỹ thuật có thể điều khiển những
quả bom qua đám mây mù dầy đặc - kỹ
thuật này đã bị phớt lờ.
Louis
R. Cerrato bắt đầu
làm việc tại căn cứ Không Quân Elgin cách
đây
một phần tư thế kỷ trong văn phòng mệnh
danh là Kế Hoạch Phát Triển. Nó giống y như
là
đơn vị mà ông Joe Davis cầm đầu khoảng
10 năm trước đó, họa kiểu để tìm
những kỹ thuật mới cho bom. "Anh
nói ra
nhiều ý kiến, và đôi khi có ý kiến
được
giữ,"
theo lời ông Cerrato, giờ đã
được 58 tuổi, một người với
quần áo nhầu nát, hàm râu rậm, trán
sói, tóc bạc và
đeo cặp kính gọng sắt.
Không
giống như ông Davis, ông
Cerrato là một kỹ sư với văn bằng tiến
sĩ. Vì thế, năm 1985, khi vị trưởng khoa
học của căn cứ Elgin chuyển một bài nghiên
cứu tới văn phòng Kế Hoạch Phát Triển
về bom quán tính (inertial) định hướng -
những trái bom, chẳng nhiều thì ít, dùng
lực hút
của trái đất và gia tốc để
"cảm" đường đi đến mục
tiêu - đã gợi trí tò mò của ông
Cerrato. Mặc dù
thiếu sự chính xác như của bom laser định
hướng, trái bom với một hệ thống quán tính
định hướng đã có thể rơi cách mục
tiêu khoảng 30 thước. Với 1 trái bom nặng 2.000
cân Anh, bán kính công phá xa 250
thước, điều đó thì
quá gần để gây thiệt hại nặng nề
đến các kiến trúc và nhân mạng.
Ông
Cerrato hình dung một trái bom
có máy điện toán đã được thảo
chương tọa độ của mục tiêu - nơi tới
của nó. Máy
điện toán của trái bom cũng sẽ nhận tín
hiệu, ngay trước khi nó được thả,
cập nhật hóa chính xác tọa độ của máy bay,
nơi khởi xuất của nó. Một khi trái bom đã
được thả, bộ quay hồi chuyển
(gyroscope) sẽ đo góc động lượng (angular
moment) của trái bom, đồng hồ gia tốc sẽ
đo vận tốc tăng hay giảm, và một máy
điện toán sẽ kết hợp tất cả các
dữ kiện với nhau. Vì thế, trái bom lúc nào
cũng
sẽ biết vị trí của nó và nơi nào để
đi đến, và máy điện toán sẽ tính để
điều chỉnh đường trong lúc bay,
hướng trái bom đến mục tiêu.
Ông
Cerrato tin rằng bộ
phận này có thể sản xuất và gắn vào những
trái bom "ngu" thường, giống như là bộ
phận laser gắn vào bom, nhưng với một giá rẻ
hơn. Tuy nhiên, đối với ông Cerrato thì có
nhiều
lợi điểm của bom quán tính định
hướng: Nó có thể hoạt động trong mọi
trường hợp thời tiết. Và nó có thể
được chở trên một chiếc máy bay nhưng
lại đánh phá được nhiều mục tiêu -
rất chính xác, vì mỗi trái bom đã
được cài
thảo chương trước đó với những
tọa độ của các mục tiêu mà nó được
trù đánh phá.
Song
le, giống như những
nhà viễn kiến, ông Cerrato đã đi trước
thời gian. Ông chẳng mấy chốc đã thấy
sự tỉnh bơ mà ông Lambert đã bị trước
đó. Trái bom của ông ta chìm dần vào
quên lãng vì không có
tiền để phát triển nó thêm.
Tuy
nhiên, khi Chiến Tranh Vùng
Vịnh chấm dứt vào mùa xuân năm 1991, ông
McPeak
viết vội một bức thư bằng tay gửi
tới những người chế bom tinh khôn ở căn
cứ Elgin: "Chúng
ta cần những trái bom định
hướng chính xác dưới mọi thời
tiết."
Và ông ta cần chúng với giá rẻ,
để tránh tình trạng thiếu bom tồn kho một
cách nhanh chóng vì vụ Iraq.
Cám
ơn ông Cerrato, chẳng
phải mất nhiều thời gian. Một loại bom
mới đã được ra đời, một cuộc
cách mạng về cách hoạt động và giá cả
của nó. Ðược gọi là Ðạn Dược Hỗn
Hợp Công Phá Trực Tiếp (Joint Direct Attack Munition -
JDAM)
và đọc là "Jay-dam" bởi những nhân viên
ở Ngũ Giác Ðài, nó được dự định
để trở thành như loại Ford Mustang hoang dại
nổi tiếng của loại bom tinh khôn.
Ông
Terry Little, thuộc típ
người ngang tàng được đưa vào
để coi sóc chương trình này, đã nhớ lại
buổi tường trình tới ông McPeak về khái niệm
loại bom mọi thời tiết của ông Cerrato, đã
phát triển với giá khoảng $60.000 đô một
trái. Khi
ông McPeak hỏi ông là mục tiêu của giá
cả là bao nhiêu
- hăng say để làm vui lòng xếp của mình -
ông đã
bớt đi một phần ba giá cả và nói $40.000 đô.
"Tôi
giả
giá,"
ông cười khúc khích công nhận. "Và
ông McPeak
nói, 'Ðó không phải là mục tiêu
của ông, đó là mức
tối đa của ông.' Và đó là bước ngoặt
của chương trình."
Một
thúc đẩy khác đến
từ sự hội nhập kỹ thuật. Kể từ
năm 1957, Khi Liên Bang Sô Viết phóng Spunik, vệ
tinh
đầu tiên do con người chế tạo, các nhà
hoạch định quân sự Hoa Kỳ đã nhận thức
được rằng vệ tinh có thể trở thành
những kỹ thuật cao tiếp trợ cho việc
định phương hướng. Năm 1973, một
đầu não của Ngũ Giác Ðài đã làm
việc nguyên
cuối tuần lễ ngày Lao Ðộng trong văn phòng
để thiết trù một họa đồ tiếp
trợ cho việc định hướng: Hệ thống
Navstar Global Positioning System, hay còn được biết là
GPS.
Hệ
thống bao gồm 24
vệ tinh bay trong quỹ đạo 12.660 dặm của
trái đất trong không gian. Những vệ tinh gửi tín
hiệu radio đến bộ thu sóng của GPS, nơi
đây sẽ tính mất bao lâu tín hiệu mới nhận
được,
và nhờ vậy sẽ biết nó cách vệ tinh bao xa.
Với 24 vệ tinh trong quỹ đạo, ít nhất là 4
cái, thông thường là 8 cái,
ở trên chân trời và lúc nào
cũng trong khoảng
cách của một máy thu sóng. Mỗi máy thu
sóng cần tín
hiệu từ 4 vệ tinh để tính kinh độ,
vĩ độ và tung độ.
Ðược
xem là một sự
canh tân quan trọng bậc nhất thuộc lãnh vực
điều khiển và chế ngự của quân
đội từ thuở Telegraph tới giờ, GPS đã
bắt đầu kỷ nguyên trên trận chiến trong
suốt Chiến Tranh Vùng Vịnh, hướng dẫn
những phi đạn phóng trên không và đã
giúp những
đơn vị thiết giáp và những đoàn quân với
các máy thu sóng cầm tay biết chính
xác vị trí mình đang
ở nơi đâu trong sa mạc.
Ông
Cerrato và các bạn
đồng nghiệp của mình ở căn cứ Elgin
đã thấy một cơ hội để hoàn chỉnh
một trong những yếu điểm nhất của bom
quán tính định hướng - sự dễ bị
trồi lạc đã khiến hệ thống quán tính
định hướng không chính xác bằng bom laser
định hướng. Với một JDAM mới, hệ
thống quán tính của trái bom hãy còn
dùng để
hướng dẫn trái bom, nhưng nó cũng sẽ bao
gồm một máy thu sóng GPS được cập nhật
hóa mỗi giây để chỉnh lại độ trồi
lạc. Máy điện toán của trái bom, dùng
cùng một con
"chip" của máy điện toán Apple, hội nhập
các dữ kiện của GPS chung với các dữ kiện
của hệ thống định hướng để
cải thiện độ chính xác lên tới 13 thước
hay ít hơn.
Giá
sản xuất cuối cùng
của JDAM dưới mức $20.000 đô, nhờ vào
mức độ sử dụng bên ngoài với tính cách
thương mại và những bộ phận bán cho công
chúng (off-the shelf - tức những vật dụng
được các hãng xưởng kiến tạo bán cho
công chúng, vì sản xuất hàng loạt nên
giá cả rẻ
hơn và không đòi hỏi tiêu chuẩn chế biến cao,
khó khăn như như các vật dụng của quân đội
hay chính phủ - Nguyễn Phượng Hoàng) - công ty sản
xuất bộ cân bằng sau đuôi bom cũng chính là
công ty
sản xuất những bộ phận cho máy cắt cỏ
Toro.
Xung
khắc với JDAM thì hãy
còn là khoảng ngân sách tương đương như
thả chiếc xe hơi Toyota Camry xuống lực
lượng quân địch. Nhưng so sánh với những
phi đạn hàng triệu đô la và những trái bom
laser
định hướng mới nhất, với giá
khoảng $60.000 đô 1 trái, the JDAM, ít ra là
đối
với Ngũ Giác Ðài, hãy còn rẻ kinh khủng.
Năm
1999, trong suốt
trận không chiến 78 ngày của khối NATO ở Seberia,
khi thời tiết xấu gây cản trở việc sử
dụng bom laser định hướng để phá
chiếc Cầu Zezeljev bắt ngang dòng sông Danube ở Novi
Sad, chiếc cầu đã bị phá bởi hàng loạt JDAM.
Cuộc
tấn công đã làm
mở mắt con người. Loại bom mới đã không
có độ chính xác của vũ khí laser định
hướng. Nhưng chúng đủ chính xác - và
chúng,
đúng ra, càng ngày càng khá hơn. Mức
độ chính xác
của JDAM bây giờ đã xuống từ 13 thước
tới khoảng cách từ 4 tới 6 thước, nó càng
cải tiến với độ chính xác của GPS.
Ngay
cho dù trong chiến
thắng, chiến dịch trên không đã cho thấy
những khuyết điểm đang có. Máy bay bỏ bom B-2
đã gây tổn hại nặng nề cho tòa đại
sứ Trung Hoa ở Belgrade với 5 trái bom DJAM, đánh
trúng
mục tiêu một cách chính xác. Vấn đề duy nhất
là tình báo đã sai lầm - những nhà
hoạch định
chiến trường Hoa Kỳ nghĩ rằng họ
đang nhắm mục tiêu một cơ quan quân đội
của Yugoslav và đã lầm lẫn đánh toà đại
sứ.
Cuộc
tấn công thảm
khốc đã giết 3 nhân viên sứ quán và
gây thiệt
hại nghiêm trọng tới nền ngoại giao Hoa Kỳ
- Trung Hoa, cho thấy sự phụ thuộc của cuộc
không tập chính xác vào tình
báo hay - và sự sai lầm
đến thế nào của tình báo Hoa Kỳ có thể
gây
ra.
o0o
Từ
trên cao bãi chiến
trường ở Afghanistan, một người chỉ huy
của Liên Minh Bắc Phương theo dõi những lực
lượng Taliban di chuyển trong một thung lũng bên
dưới. Ðể tiến, ông ta cần đoàn quân
địch và những đoàn xe bị đánh từ trên
không trung trong vòng 24 tiếng. Lúc đó
là tháng 11 năm 2001,
Hoa Kỳ đánh từ trên không nguyên một
tháng không
ngừng nghỉ trong trận chiến với khủng
bố.
Những
toán quân của Lực
Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ, được
đưa vào bãi chiến để chỉ định
những mục tiêu cho các lực lượng Liên Minh
Bắc Phương, chuyển sự yêu cầu của
vị chỉ huy qua vệ tinh tới bộ tư lệnh
của Hoa Kỳ ở Saudi Arabia. Bộ chỉ huy nói chuyện
một chiếc máy bay bỏ bom B-52 và để các phi
công
liên lạc với toán quân của Lực Lượng
Ðặc Biệt bên dưới. Những người lính
đó chiếu một tia laser từ máy chỉ định
về phía toán quân Taliban để chắc chắn vị
trí của họ. Rồi họ cắm máy chỉ
định vào một máy thu sóng GPD mang tay để
có
được tọa độ của GPS và chuyển
tọa độ lại chiếc máy bay qua làn sóng radio.
JDAM
bắt đầu rơi
trên đám quân Taliban trong vòng khoảng 20
phút yêu cầu
của vị chỉ huy Liên Minh Bắc Phương. Sự
kết hợp giữa điềm chỉ viên của
Lực Lượng Ðặc Biệt trên đất và
loại bom mới trên không trung đã khiến chiếc B-52
ì ạch, một loại máy bay được chế
từ thập niên 50, bay như một truyền thống
đã định là một trong những phi vụ
được đòi hỏi nhất trên chiến
trường - cung cấp "yểm trợ sát trên
không" cho những toán quân dưới đất.
Các
phi công Hoa Kỳ đã
thả hơn 5000 trái JDAM ở Afghanistan, vào khoảng
một nửa số tồn kho ban đầu. Việc
sử dụng bom đã trở nên rộng rãi đến
nỗi làm phát lo những nhà hoạch định chiến
trường ở Ngũ Giác Ðài khiến họ phải nói
hãng Boeing, nhà sản xuất bom, gia tăng việc sản
xuất. Thay vì 82.000 trái bom, bây giờ họ muốn
Boeing
làm 230.000 trái.
Tuy
là với JDAM và việc dàn
trận đầy đủ với bom laser định
hướng trong tay, mặt trận mới của cuộc
cách mạng chuẩn xác ở Afghanistan hoàn toàn
về tài
liệu thông tin; nhập chung các dữ kiện từ hàng
loạt cảm cụ và đưa nó hầu như tức
khắc tới các phi công đang chờ đợi để
đánh. "Cảm cụ" tối tân nhất trong
tất cả là con người dưới mặt
đất, những toán Lực Lượng Ðặc
Biệt có khả năng không chỉ những phân biệt
được chiếc xe SUV với chiếc xe chở
học sinh mà còn biết ai ở bên trong mỗi chiếc xe
đó.
Song
le, ngay cho dù những
điềm chỉ viên Mỹ dưới đất cung
cấp những dữ kiện quý giá, cuộc chiến trên
không ở Afghan đã cho thấy một tương lai khi
con người trên bãi chiến sẽ không còn
là cần
thiết. Máy bay thám thính không người
lái Predator - máy bay
được điều khiển từ xa trang bị
với máy video, hồng ngoại tuyến và các cảm
cụ radar và vũ trang bằng những phi đạn laser
định hướng Hellfire - nhận diện các mục
tiêu và bắn phá chúng. Các cảm cụ
và người
bắn trở thành một và cùng trong một lúc.
Máy
bay Predator có thể lấn
ná lâu khoảng 20 tiếng trên một bãi chiến ở
cao
độ 25.000 bộ Anh, bắn
những luồng tài liệu thông tin xuống cho các
vị chỉ huy dưới mặt đất - hay trực
tiếp thẳng tới các máy bay khác. Những người
điều khiển dưới đất, bên kia nửa
quả đất bay chiếc máy bay bằng dụng cụ
điều khiển từ xa, qua sự chuyển tín
hiệu lên các vệ tinh: Thay vì nhìn qua cửa
sổ trong
buồng lái, một người "phi công" của máy
bay Predator và hai nhân viên điều khiển cảm cụ
nhìn trên hàng loạt các hình ảnh được
chuyển
về bởi máy bay. Predator đã được nhập
chung ở Afghanistan với một chiếc máy bay cao
độ không người lái Global Hawk, chiếc này có
thể bay cao hơn (65.000 bộ Anh) và lâu hơn (24
tiếng) .
Ở
vào lúc bắt đầu
của trận chiến với khủng bố,
Tướng John P. Jumper, Tham Mưu Trưởng Không Quân,
đã ra lệnh một nhóm nghiên cứu điều tra xem
có thể chuyển những tín hiệu của mục tiêu
từ Predator thẳng tới chiếc AC-130 Spectre vũ
trang. là một trong những loại vũ khí kinh sợ
nhất chống lại những mục tiêu di động
trong kho của Không Quân, chiếc AC-130 được trang
bị với ba súng cà nông cạnh hông, gồm cả
một khẩu 25 mm Gatling có thể bắn 1.800 viên trong 1
phút. Hai tháng sau khi ông Jumper ra lệnh, phi
hành đoàn của
chiếc AC-130 đã theo dõi những hình ảnh của
Predator chuyển, về những mục tiêu trước khi
họ bay vào khoảng tầm bắn.
Tháng
11 vừa qua, cho thí dụ,
những viên chỉ huy ở trung tâm hành quân
không quân ở
Saudi Arabia nhận tin tình báo về một cuộc họp
đang diễn ra của những người cầm
đầu Taliban và Qaeda. Họ gửi một chiếc
Predator tới vùng tổng quát nơi mà cuộc họp mặt
đang diễn ra. Chẳng mấy chốc sau, radar của
máy bay đã thấy một đoàn công voa đang di
chuyển trên mặt đất. Các dữ kiện liền
được chuyển tới Predator và nó bắt
đầu thăm dò đoàn công voa qua những cảm
cụ video của nó. Các vị chỉ huy cách xa đó
hàng
trăm dặm quan sát những đoạn phim về
đoàn công voa đang lăn bánh về hướng một
ngôi nhà thờ nhỏ Hồi giáo. Họ gọi chiếc
AC-130 đến tấn công. Trên đường đi
đến, những hình ảnh từ chiếc Predator
được chuyển thẳng tới chiếc máy bay
vũ trang đến nỗi phi hành đoàn đã biết
vị trí của mục tiêu trước cả khi họ
bay qua. Khi chiếc máy bay đến nơi họp gần
căn nhà thờ Hồi giáo nhỏ đó, nó khai hỏa
tức
thì, bắn những người cố chạy trốn
về phía những chiếc xe đang đợi. Căn nhà
thờ, được chỉ định như là mục
tiêu "không được bắn", không hề bị
mảy may gì.
Những
nhà hoạch
định chiến trường ở Ngũ Giác Ðài hay so
sánh điều này với trường hợp thấy
ở Chiến Tranh Vùng Vịnh, khi chiếc máy bay thông
tin
phải bay ngay ngày hôm sau mang những kế hoạch
chủ chốt trên những đĩa chứa dữ
kiện tới các hàng không mẫu hạm của Hải
Quân. Những mục tiêu được liệt kê, trung
bình, khoảng 72 tiếng đã trôi qua. Ở Afghanistan,
ngược lại, nhiều mục tiêu - thay vì
được nhận dạng 72 tiếng trước
đó - đã xuất hiện chỉ "sau khi"
những máy bay đã cất cánh từ hàng
không mẫu
hạm. hải Quân báo cáo 65% thành công
trong việc đánh phá
những mục tiêu "xuất hiện", có một
số còn đang di chuyển khi bị đánh.
Tháng
vừa qua ở Yemen,
một chiếc máy đã một mình làm tất cả.
Một mình chiếc Predator, điều khiển từ
căn cứ xa xôi, đã thấy một mục tiêu nghi
ngờ al Qaeda trên một chiếc xe thể thao SUV đang
phóng chạy trên đường lộ, và hủy diệt
nó bằng phi đạn Hellfire, gây tử thương cho 6
tên khủng bố.
o0o
Cuộc
chiến tới sẽ
có những kỹ thuật cao hơn. Nếu cuộc
chiến là đánh Iraq, một nước có hệ
thống phòng thủ trên không được xem là tối
tân hơn Afghanistan, quân đội Hoa Kỳ sẽ chẳng
chút nghi ngờ dùng những thế hệ mới
được mệnh danh vũ khí "từ xa" mà
không cần phải dùng ở Afghanistan. Vũ khí từ xa
tạo khả năng cho quân đội Hoa Kỳ bắn
những vũ khí chuẩn xác định hướng ra
ngoài khỏi tầm tay của hệ thống phòng thủ
khá hơn của đối phương.
Ấn
tượng sâu
đậm nhất là sự phát triển mới mẻ này,
Phi Ðạn Hỗn Hợp Không Ðịa Từ Xa (Joint
Air-to-Surface Stand Off Missle), một loại phi đạn phóng
trên không có mức độ chính xác trong
vòng 200 dặm. Nó
được hướng dẫn bởi hệ thống
quán tính GPS cho đến cuối đường bay, khi
một bộ phận tìm tia hồng ngoại
được thảo chương để nhận
dạng những hình dáng rõ ràng của mục
tiêu
được tác động. Bộ phận tìm kiếm
này hướng dẫn trái bom bay vào mục tiêu với
độ chính xác khoảng 3 thước, khiến nó có
thể được dùng, cho thí dụ, để nhận
dạng và phá hủy nhịp cầu thứ ba hay đánh
trúng lầu thứ tư của một cao ốc.
Ðã
có vũ khí mới Hỗn
Hợp Từ Xa, một loại bom bay là là định
hướng bởi GPS có thể tìm mục tiêu cách xa từ
15 tới 47 dặm, tuỳ vào vận tốc và cao
độ. (Khoảng cách của JDAM thì chỉ ở
khoảng 6 tới 13 dặm).
Và
có loại vũ khí Sensor Fuzed
Weapon, được chế tạo để đánh xe
tăng, thiết giáp loại nhẹ và những đoàn quân
trong khoảng 30 mẫu địa hình thành tro bụi.
Vũ khí này được thả từ máy bay, mở ra
trong lúc trên không và thả ra 10 tên
lửa (projectile), là là
rơi xuống bãi chiến qua những chiếc dù nhỏ.
Khi những tên lửa này gần chạm đất,
những động cơ hỏa tiễn sẽ chạy
nâng chúng lên cao trở lại, lúc đó mỗi
chiếc (10
chiếc) sẽ phóng ra 4 đầu đạn kích thước
bằng khoảng lon nước uống, tổng cộng
40 đầu đạn. Mỗi đầu đạn
được trang bị cảm cụ với tia hồng
ngoại và tia laser. Cảm cụ hồng ngoại kiểm
tra trận địa và tìm những luồng nhiệt
đã được thảo chương và cài với
chúng, giống như những luồng nhiệt thải ra
từ những chiến xa và những xe cộ khác. Một
khi mục tiêu được nhận dạng, cảm
cụ laser liền hướng dẫn đầu
đạn lao vào nó. Nếu cảm cụ hồng ngoại
xác định vị trí của xe tăng hay xe nào
khác, nó
sẽ khai hỏa một đầu đạn xuyên
sắt. Nhưng nếu không có một xe pháo nào
được thấy, cảm cụ sẽ khai hỏa
đầu đạn trên không để rải trên trận
địa với hàng ngàn những miểng chết
người, hay mưa sắt.
Ngoài
những loại bom
mới này, những khoa học gia về bom ở căn
cứ Elgin và những trung tâm nghiên cứu khác
của Không
Quân đã sản xuất được một loại
đầu đạn tân trang chuyên công phá các
hầm trú
ẩn mà nét đặc biệt là một đầu
nhọn dài chế bằng một dung hợp sắt và
nickel-cobalt đã tạo khả năng cho đầu
đạn xuyên thủng qua 11 bộ Anh (11 feets) của xi
măng cốt sắt, tức đi xuyên qua khoảng cách
tương đương 100 bộ Anh của mặt
đất. Một cái "cầu chì tinh khôn" cho một
đầu đạn xuyên phá như thế, dùng một máy
gia tốc để tính số tầng trước khi phát
nổ.
Những
sự tiến
triển này, tuy nhiên, không vào đâu khi
so sánh với kỹ
thuật hiện đại đang được phát
triển và dự trù hoàn tất trong một thập niên
là
nhiều nhất.
Trái
bom được coi là tinh
khôn nhất hiện đang được phát triển
tại căn cứ Elgin. Loại bom bay (winged bomb - loại
bom có cánh) sẽ tìm kiếm các mục
tiêu, theo dõi chúng, và
rồi quyết định xem loại đầu
đạn nào thích hợp nhất để công phá
chúng -
hoàn toàn tự nó hết.
Ðược
trang bị với
một động cơ phản lực nhỏ và nặng
85 cân Anh, mỗi trái bom - được gọi là Hệ
Thống Tự Ðộng Công Phá Giá Hời (Low Cost
Autonomous
Attack Systems) - có thể bay 55 dặm tới mục tiêu và
có
thể lảng vảng trên trận địa 15 phút, lùng
xục trong một diện tích rộng 25 cây số vuông
với một cảm cụ sử dụng luồng laser
để tạo ra những hình ảnh của các mục
tiêu di động trên trận địa.
Ðể
nhận dạng một
mục tiêu đã phải cần tới "thuật toán
tự động nhận biết mục tiêu"
(automatic-target-recognition-algorithms) tác động trên
cảm
cụ dùng kỹ thuật thập phân (digital: làn
sóng
được ngắt ra từng phần và
được biểu hiện bởi các con số thay vì
dùng kỹ thuật tiếp nối (continuous) làn sóng
không bao
giờ gián đoạn. Một trong những lợi
điểm của kỹ thuật thập phân là ít bị
nhiễu xạ hơn - Nguyễn Phượng Hoàng) so sánh
những gì được thấy trên mặt đất
với những mẫu hình đã được chứa
trong máy điện toán của trái bom. "Nó
có thể
phân biệt giàn radar SA-6 với SA-8 telar,"
theo lời ông James Moore, trưởng kế hoạch. "Hay
giàn radar
SA-6 khác với giàn phóng SA-6, cả hai đều
có cùng
một cái khung. Như vậy là quá hay. Một khi tự
nó
đã nhận ra đúng mục tiêu, nó sẽ lao xuống
mục tiêu liền."
Ở
đây, trái bom chứng
tỏ cho thấy giai đoạn cuối của nó về
sự tự thông minh, vũ trang đầu đạn,
một trong hai cái như là đạn xuyên phá xe
bọc
sắt hay những mảnh giết người, tuỳ vào
loại mục tiêu nào mà nó xác định.
Giá cả của
những trái bom "xuất sắc" này thì chỉ có
$63.000 đô, khoảng giá
của kiểu bom laser định hướng hiện
đại.
o0o
Khái
niệm về một trái bom
xuất sắc được thả bay tự do trên
một trận địa đánh phá các mục tiêu theo
ý
của chính máy điện toán của nó khiến một
số người coi nó như là loại vũ khí chuẩn
xác trên không cuối cùng, và những
người khác coi
đó như là cơn ác mộng tối hậu.
Ðúng
thế, hậu quả
của sự gia tăng sức mạnh đánh từ trên
không một cách chuẩn xác của Hoa Kỳ trong
tương lai thì khó mà có thể đo được.
Một trường hợp không giải quyết
được: Bất cứ người nào cũng có
thể truy cập tín hiệu của GPS bằng cách mua máy
thu sóng thương mại (off-the-shelf), và đúng thế,
có
sự quan tâm là những tên khủng bố có thể
phóng
những phi đạn tự chế dùng GPS định
hướng từ những chiếc tầu ngoài hải
phận Mỹ. Một sự quan tâm khác là với kỹ
thuật không ai sánh bằng của quân đội Mỹ
sẽ, một cách đơn giản, đưa bọn
khủng bố và các nước hung hăng tìm chiều
hướng trả lễ dễ dàng hơn, tàn phá
hơn qua đường
vũ khí hóa học, vi sinh và nguyên tử, hay
những
chiếc hãng máy bay chở toàn những hành
khách vô tội.
Nhưng
những người
cổ võ cho sức mạnh không lực được tóm
tắt lại qua ông John A. Warden III, một vị
đại tá Không Quân về hưu, người đã
đóng vai trò cầm đầu trong việc hoạch
định chiến dịch trên không trong cuộc chiến
tranh vùng Vịnh, nghĩ là sự gia tăng sức mạnh
đánh phá toàn cầu của Hoa Kỳ chính
là câu giải
đáp: Ông ta lý luận rằng ngay cả những
nước hung hăng cũng phải suy nghĩ cẩn
thận về việc tích cực chế tạo các
loại vũ khí giết người hàng loạt khi mà
khả năng của Hoa Kỳ có thể tấn công không
cả báo trước và đánh phá một cách
chuẩn
đích vô cùng.
Trong
một cuốn sách mới
tên là "Cuộc Cách Mạng Của Sự Chính
Xác"
viết bởi Michael Russell Rip và James M. Hasik có để
ý
đến sự nguy hiểm khi thúc ép các nước hung
hăng ra khỏi chiến trường quy định,
nhưng nhanh chóng thêm rằng "sức mạnh
này đạt hầu
như bằng kết quả của nguyên tử với
những công phá thường đã có thể đưa
đến một mức độ mới tránh
được cuộc chiến bình thường. Sự
gây hấn có thể hình dung sẽ bị phá ngang một
cách
đơn giản khi danh sách
mục tiêu của lực lượng Hoa Kỳđược
cho xem... hay những bức ảnh của một
người lãnh đạo ngoại quốc bị chộp
bởi một chiếc Global Hawk."
Ông
Warden biện luận
rằng sự ưu việt của sức mạnh trên
không là trung tâm của nền an ninh quốc gia. "Tôi
đã
không thể hừng chí thêm hơn,"
ông
nói, "nếu
chúng ta tiếp tục làm những công việc này
một
cách tích cực, không một lý do tại sao
nào mà chúng ta không
thể duy trì vị thế thống trị về mặt
quân sự vô hạn định trong tương lai."
Ông
Warden, tuy nhiên, không phải
là đã thoả mãn hoàn toàn. Tuy hiện
tại tốt, các
người chỉ huy Hoa Kỳ đánh trúng chính xác
những
gì họ muốn, ông ta nói, họ không nghĩ hạn
hẹp đâu. "Nếu anh
biết có một nhóm
người xấu trong một căn phòng, theo lý thuyết
thì anh chẳng có một lý do gì để phá
tan cả
căn nhà."
Ông Warden nói, lý luận rằng
những cú đánh chuẩn đích, ít ra theo
lý thuyết,
đã cho Hoa Kỳ một khả năng để tiến
hành một cuộc chiến "không
giết bất cứ một
người nào mà chúng ta rõ ràng
không muốn giết."
Bà
Sarah Sewall, một vị
trưởng chương trình của Trung Tâm Carr về
Chính sách Nhân Quyền của viện đại học
Harvard, trường Kennedy Khoa Chính Quyền, nói rằng Hoa
Kỳ thì hãy còn rất xa để thực hiện
viễn kiến của ông Warden. Nhưng ngay cho dù quân
đội Hoa Kỳ có những phương tiện kỹ
thuật, bà Sewall biện luận, nó thì còn xa
cách để
những trái bom tinh khôn có những dữ kiện cần
thiết để khiến bom tinh khôn trở nên khôn, đó
là tình báo quyết định chúng được
dùng ở
đâu - một vấn để đã được
thấy mới đây nhất trong một cuộc tấn
công tháng 6 vào khẩu súng phòng
không ở Afghanistan đã vô
tình giết ít nhất 40 thường dân vô tội trong
một tiệc cưới gần đó. "Anh
có thể
đánh chuẩn đích",
bà ta nói, "đúng
ngay
vật mà không nên đánh."
Ông
Kenneth Roth, giám đốc
điều hành của Human Right Watch ở New York, tin
rằng điều nguy hiểm nhất của những
vũ khí mới này có lẽ là niềm tin quá
mãnh liệt
rằng họ có thể chém đầu một kẻ
địch trong khi giảm tối thiểu sự tổn
thất của thường dân. Với sự giả
định rằng mặt xấu của chiến tranh
đã biến mất, những nhà hoạch định
chiến trường có lẽ sẽ không ngần ngại
bóp cò súng. "Sự gia
tăng niềm tin trên những vũ
khí chuẩn đích thì không được thay thế cho
việc tự kiểm duyệt nghiêm trọng,"
ông
Roth nói, "Và
Ngũ Giác Ðài thuờng thì từ chối làm một
cuộc
phân tích cẩn trọng để xem, đúng ra, mình
đã
làm tất cả có thể được (ở Afghanistan,
Yugoslavia, Bosnia và cuộc chiến vùng Vịnh) để
tránh những thương vong cho thường dân hay
không."
Bộ
Tư Lệnh Trung
Ương Hoa Kỳ, cho thí dụ, đã kiểm chứng
những hoàn cảnh xung quanh việc tử thương
trong tiệc cưới vào tháng 6, chuyện xẩy ra khi
chiếc AC-130 đã tấn công một khẩu súng phòng
không, và kết luận cuộc tấn công đã dựa
trên
sự chính xác của tin tình báo và
trong phạm vi của
luật giao chiến (rules of engagement), mặc dù nó
đã gây
thương vong hàng tá đàn bà và trẻ
em. Phi hành đoàn
của chiếc máy bay vũ trang đã thấy vị trí
khẩu súng phòng không bắn từ đâu nhưng
đã
không thấy một tiệc cưới đang có ở
gần đó.
Ông
Bill Perry, cha đẻ
của tàng hình, đứng giữa cuộc tranh luận
về lợi ích của những cuộc đánh phá
chuẩn đích. Hiện giờ dậy học tại viện
đại học Stanford, ông công nhận sự ưu
việt mãnh liệt của quân đội Hoa Kỳ có
lẽ sẽ đẩy các nước hung hăng cố
phát triển những vũ khí giết người hàng
loạt chóng hơn là họ định.
Nhưng
ông tiếp tục tin
như trong quá khứ và lạc quan về những lợi
ích của nền kỹ thuật, nếu những quyết
định tối hậu về những mục tiêu
đánh phá phải bởi con người, không phải máy
này cho tín hiệu tới máy
kia để tự động khai hỏa. "Tôi
hy
vọng chúng ta đủ trình độ để dùng nó
một cách thích đáng, có nghĩa giữ con người
có
sự suy nghĩ và được huấn luyện
đầy đủ trong vòng quyết định."ã
LS. LÂM CHẤN THỌ * VIỆT NAM
BÀI HỌC CẦN RÚT TỈA
LS Lâm Chấn Thọ
LS Lâm Chấn Thọ
LS Lâm Chấn Thọ
LTS - Cũng như mọi năm, đầu năm Dương lịch 2005, đồng hương
tị nạn CS ở
Ville Mont Royal có nhận được một tờ lịch của Ông Irwin
Cotler, dân
biểu đơn vị Mont Royal và cũng là Bộ trưởng Tư
Pháp Canada tặng, trong
đó có đăng hình ông Irwin Cotler chụp chung
với Uông Chu Lưu, Bộ trưởng
Tư Pháp CSVN. Sự việc này gây căm phẫn cho đồng
hương tị nạn ở Montréal
và nhất là đồng hương tị nạn CS trong vùng Mont
Royal. Ông Tôn Thất
Tuệ, một người cư ngụ trong vùng Mont Royal, người đã
từng bầu cho ông
Irwin Cotler vào quốc hội, có gửi một lá thư phản
đối ông Irwin Cotler
về vấn đề này. (Xin xem lá thư của ông Tôn
Thất Tuệ kèm theo đây).
Nguyệt san Nghệ Thuật cũng nhận được lá thư của một vị độc giả,
luật sư
Lâm Chấn Thọ, một lá thư bày tỏ sự thất vọng của
ông liên quan đến vấn
đề nói trên để lên tiếng vạch rõ những hậu
quả bất lợi về phần chúng ta
khi tấm ảnh bắt tay nhau giữa hai ông Bộ trưởng Tư pháp
Irwin Cotler và
Uông Chu Lưu được tung ra và đồng thời có
vài lời bày tỏ quan điểm của
ông cùng đồng hương tị nạn ở Ville Mont Royal.
Trong cộng đồng của chúng ta ở Montréal có rất
nhiều người ở Ville Mont
Royal khoe rằng mình rất gần gũi với dân biểu của đơn vị
mình và đã
từng nhờ dân biểu ấy - đang giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Tư
pháp Canada -
can thiệp chống vi phạm nhân quyền ở Việt Nam. Xin có lời
cám ơn và
khen ngợi các vị ấy.
Nhưng vừa đây, tôi vô cùng thất vọng khi thấy hình ông dân biểu ấy chụp chung với Bộ trưởng Bộ Tư pháp CS, được in trên lịch và gửi tặng đồng hương tị nạn. Lẽ thường, việc gặp gỡ giữa bộ trưởng bộ Tư pháp các nước không có gì quan trọng để phải lên tiếng nhưng bức hình này có tác dụng thật bất lợi cho việc tranh đấu nhân quyền ở Việt Nam vì những lý do sau đây:
1). Việc này làm cho người ta hiểu lầm rằng mọi vi phạm nhân quyền ở Việt Nam đã được giải quyết thỏa đáng nên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Canada đã nhận lời tiếp đón Bộ trưởng Bộ Tư Pháp CSVN nhất là trước khi làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp, dân biểu này đã từng tham dự các cuộc tranh đấu nhân quyền trên thế giới và nhất là ở Việt Nam.
2). Chúng ta thất bại trong việc tranh thủ dư luận và giới chức Gia Nã Đại vì chúng ta không chuyển đạt được các nguyện vọng của chúng ta một cách kiên trì và liên tục.
3). Chúng ta không nhấn mạnh đủ với các giới chức và dư luận việc Bộ trưởng Bộ Tư pháp CS là người gốc Trung Hoa và vì có liên hệ với Trung Cộng nên được cất nhắc lên làm Tổng trưởng Tư Pháp của chính phủ CSVN.
Vì thế, phải hiểu rằng Bộ trưởng Tư pháp của CS hiện nay không phải là một Bộ trưởng Tư Pháp hiểu theo nghĩa thông thường của các chế độ dân chủ mà ông ta là một công cụ bạo lực để trấn áp dân quyền và nhân quyền dưới sự điều khiển của Cộng sản Việt Nam và Cộng sản Trung Quốc.
Tóm tắt, chúng ta đã thua keo này, có lẽ vì chúng ta đã tự mãn hoặc vì đang bận giải quyết hay đối phó với những vấn đề khác mà chúng ta coi là quan trọng hơn.
Nhưng vừa đây, tôi vô cùng thất vọng khi thấy hình ông dân biểu ấy chụp chung với Bộ trưởng Bộ Tư pháp CS, được in trên lịch và gửi tặng đồng hương tị nạn. Lẽ thường, việc gặp gỡ giữa bộ trưởng bộ Tư pháp các nước không có gì quan trọng để phải lên tiếng nhưng bức hình này có tác dụng thật bất lợi cho việc tranh đấu nhân quyền ở Việt Nam vì những lý do sau đây:
1). Việc này làm cho người ta hiểu lầm rằng mọi vi phạm nhân quyền ở Việt Nam đã được giải quyết thỏa đáng nên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Canada đã nhận lời tiếp đón Bộ trưởng Bộ Tư Pháp CSVN nhất là trước khi làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp, dân biểu này đã từng tham dự các cuộc tranh đấu nhân quyền trên thế giới và nhất là ở Việt Nam.
2). Chúng ta thất bại trong việc tranh thủ dư luận và giới chức Gia Nã Đại vì chúng ta không chuyển đạt được các nguyện vọng của chúng ta một cách kiên trì và liên tục.
3). Chúng ta không nhấn mạnh đủ với các giới chức và dư luận việc Bộ trưởng Bộ Tư pháp CS là người gốc Trung Hoa và vì có liên hệ với Trung Cộng nên được cất nhắc lên làm Tổng trưởng Tư Pháp của chính phủ CSVN.
Vì thế, phải hiểu rằng Bộ trưởng Tư pháp của CS hiện nay không phải là một Bộ trưởng Tư Pháp hiểu theo nghĩa thông thường của các chế độ dân chủ mà ông ta là một công cụ bạo lực để trấn áp dân quyền và nhân quyền dưới sự điều khiển của Cộng sản Việt Nam và Cộng sản Trung Quốc.
Tóm tắt, chúng ta đã thua keo này, có lẽ vì chúng ta đã tự mãn hoặc vì đang bận giải quyết hay đối phó với những vấn đề khác mà chúng ta coi là quan trọng hơn.
Lá thư của ông Tôn Thất Tuệ gửi ông Irwin
Cotler
January 15th, 2005
The Honorable Irwin Cotler
Representative for Mount-Royal
Rm.312 West Blocks/312, Edifice de l' Ouest
House of Commons/Chambre des Communes
Dear Mr. Irwin Cotler,
We, Canadian citizens of Vietnamese origin, would like to send you New Year’s greetings. By the way, we also wish to make it known to you the following.
As a lawyer specialized in human rights, you are well aware of the situation of human rights in Viet Nam, which is severely violated by the Vietamese communist government. You also surely know we are political refugees who have escaped the communist atrocity at all the risk of our lives to come to this country and later become voters who always vote for you in the hope that you would defend us physically and spiritually.
In appreciation of all you have done for us, we have always valued andkept the calendars received from you every year. This year, in February, near our Vietnamese Lunar New Year’s Day, an occasion of great traditional festivity, each of us also received your calendar in which, to our sorrow, there is a picture of you merrily shaking hands with the Communist Vietnamese Minister of Justice Uong Chu Luu and his subordinates, the representatives of the cruel regime who have brought about all sorts of sufferings to our people and country.
Looking at your gift this year, we found our pride hurt. And we wonder if we continue to vote for you, will we receive calendars with such outraging pictures.
We look foward to your condideration.
Yours sincerely,
Mr Ton-that Tue, 4756 De La Peltrie
Montreal (Quebec) H3W 1K3
January 15th, 2005
The Honorable Irwin Cotler
Representative for Mount-Royal
Rm.312 West Blocks/312, Edifice de l' Ouest
House of Commons/Chambre des Communes
Dear Mr. Irwin Cotler,
We, Canadian citizens of Vietnamese origin, would like to send you New Year’s greetings. By the way, we also wish to make it known to you the following.
As a lawyer specialized in human rights, you are well aware of the situation of human rights in Viet Nam, which is severely violated by the Vietamese communist government. You also surely know we are political refugees who have escaped the communist atrocity at all the risk of our lives to come to this country and later become voters who always vote for you in the hope that you would defend us physically and spiritually.
In appreciation of all you have done for us, we have always valued andkept the calendars received from you every year. This year, in February, near our Vietnamese Lunar New Year’s Day, an occasion of great traditional festivity, each of us also received your calendar in which, to our sorrow, there is a picture of you merrily shaking hands with the Communist Vietnamese Minister of Justice Uong Chu Luu and his subordinates, the representatives of the cruel regime who have brought about all sorts of sufferings to our people and country.
Looking at your gift this year, we found our pride hurt. And we wonder if we continue to vote for you, will we receive calendars with such outraging pictures.
We look foward to your condideration.
Yours sincerely,
Mr Ton-that Tue, 4756 De La Peltrie
Montreal (Quebec) H3W 1K3
LS Lâm Chấn Thọ
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 013
No comments:
Post a Comment