Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Sunday, 4 December 2016

BẰNG CẤP TẠI VIỆT NAM =THƠ=NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG

BẰNG CẤP TẠI VIỆT NAM


 
 Bằng cấp tại Việt Nam 
ngày hôm nay


Tại Việt Nam ngày nay, phu quét đường, đào mả cũng phải là Tiến Sĩ, thậm chí ngư dân nuôi cá tra cũng có bằng Thạc Sĩ. Mời các bạn đọc bài viết dưới đây để lên tinh thần sau 1 ngày dài đầu tuần. Xin mời..
Nguyễn Huy Điền
              Tại tôi... không may

 
Ở Việt Nam người ta hay nói đến bằng A, bằng B, bằng C để định mức cho trình độ ngoại ngữ tiếng Anh được học ở các "Trung Tâm Đào Tạo" (TTĐT) ngắn hạn, hoặc bằng cử nhân Anh Văn cho bậc đại học chính quy dài hạn 4 năm.
Tiếng là bằng cấp hay đúng hơn là một loại chứng chỉ (certificate) của các TTĐT ngắn hạn (vocational centre) nhưng đừng xem thường nó à nha!.
Như đã kể ở bài trước, có một dạo tôi làm việc cho một công ty của Thụy Sĩ có chi nhánh ở Việt Nam . Quanh năm ngày tháng tôi hết ở Hà Nội rồi đến Sài Gòn, những lúc ở Sài Gòn, buổi tối tôi cũng thường hay la cà bụi đời nơi mấy cái quán bar ở Phạm Ngũ Lão (Sài Gòn) để nhìn "tây ba lô" cho đỡ nhớ xứ “xứ người”. Lúc đó, ngồi đía dóc với mấy người đẹp chân dài làm pha chế cho quán bar ở đây, tôi đã vài lần được các nàng cho biết các nàng cũng đang theo học bằng B, bằng C tiếng Anh ở các TTĐT trong phố. Để chứng minh, các nàng còn "khè" cho tôi coi một số bài tập của thầy cho đem về nhà làm. Nhìn các bài tập này tôi thấy nó khó dàn trời mây luôn đối với một thằng đã ở Úc trên 10 năm, và cũng có chút học hành lem nhem ở đây như tôi.
Tình thật mà nói nếu cho tôi làm một bài luận văn của học viên đang học tiếng Anh ở mức bằng C ở trong nước thì tôi... bí lù. Làm được chết liền! Vậy thì trình độ ngoại ngữ của dân mình ở trong nước phải giỏi lắm chứ. Bởi vì hầu như ai cũng có vài cái bằng cấp phải học bằng ngoại ngữ hết. Bằng B, hay bằng C là loại "lôm côm" nhất chứ người ta còn có đến bằng Thạc sĩ hay Tiến sĩ , Giáo sư đào từ các đại học ngoại nữa kìa...
Cho đến một hôm, công ty (nước ngoài) nơi tôi đang làm việc có nhu cầu tuyển thêm một số nhân viên địa phương mới. Thằng sếp thấy tôi là (gốc) Việt Nam , lại biết nói tiếng Việt "very well" (rất nhiều "vi kê" khác về nước làm không biết nói tiếng Việt đâu nha!) nên đẩy cho tôi ôm cái công việc mà tôi không khoái tý nào, đó là phỏng vấn các ứng đơn xin việc để tuyển người.
Phải công nhận là ở Việt Nam mình chuyện gì thì chậm chứ chuyện đăng báo tuyển người thì vô cùng hiệu quả, rất là nhanh. Mẩu quảng cáo đăng lên báo chỉ có 1 ngày thôi thì phòng nhân sự đã nhận được trên 40 hồ sơ xin việc. Công ty tôi chỉ tuyển có mấy người nên sếp giao cho tôi làm cái chuyện khó nuốt là chuyện sàn lọc để loại bớt.
Ngày phỏng vấn, tôi chỉ cho hẹn chục 12 người, chọn lựa những ai có đơn xin việc tương đối thích hợp nhất mà tôi đã tham khảo trước...
Thú thật là lần đầu tiên xem hồ sơ của các bạn trẻ trong nước tôi có chút ngạc nhiên là sự đồng bộ giống y khuôn nhau trong các hồ sơ xin việc. Người nào cũng có một cử nhân hay cao đẳng hệ chính quy nào đó, ai cũng có vài chứng chỉ ngoại ngữ tiếng Anh bằng B hay C, và ai cũng có thêm vài bằng vi tính loại sử dụng thành thạo các thứ Office Word, Excel, Power Point, Asset v.v... Người này giống y chang người kia.
Đọc xong xấp hồ sơ của các ứng viên tôi mới thấy cái khó cho người chọn lựa. Ai cũng như ai thì biết chọn... ai đây? Vì vậy tôi đành phải xem qua mấy... tấm hình dán trong đơn xin việc để làm tiêu chí mà "sàn lọc" bớt số đơn thặng dư. Tôi xin thành thật mà nói là tôi biết rõ các công việc của công ty tôi đang muốn tuyển chẳng có liên quan gì đến chuyện hình ảnh xấu đẹp của ứng đơn hết, nhưng tôi đành phải "tội nghiệp " cho những ai đi xin việc ở trong nước (nhất là mấy cô) mà không có "ngoại hình" loại "điện nước đầy đủ" (dễ nhìn).
Đại học danh tiếng của quận Cam, University of California, Irvine nằm sát nách Little Sài-Gòn của Mít tị nạn. Theo Blogger Nguyễn Văn Tuấn, trường đại học Irvine bị cơ sở kinh doanh bằng cấp "dỏm", ăn cắp những chương trình, thời gian học, ban giảng huấn, phương cách giáo dục,... tạo ra chuyện Irvine University từng hợp tác với Đại học Quốc gia Hà- Nội, đào tạo thạc sĩ quản trị kinh doanh!(MBA). Các quan cứ thế lấy tiền của dân, ị lên đầu dân, mua bằng "dỏm" xài "búa xua".
Description: http://i415.photobucket.com/albums/pp239/nhacyeuem/Sep%202011/imageHeader_about.jpg

Đành rằng có rất nhiều công việc tuyển dụng chẳng có chút xíu liên quan gì đến ... điện nước của mấy nàng, nhưng như đã nói khi mà hai ứng đơn giống nhau y chang về văn bằng, về chứng chỉ chuyên môn thì người tuyển chọn chỉ còn biết "trông mặt mà bắt hình dong" thôi chứ làm cách nào khác giờ.
Cuối cùng tôi cũng chọn ra hơn chục bộ hồ sơ loại "ngon cơm" nhất, và nghĩ là buổi phỏng vấn chỉ cho có lệ, chỉ gặp để nhìn rõ "dung nhan" của nhau thôi chứ người nào trong nhóm xin việc này cũng có trình độ toàn hàng "chiến đấu" không hà. Nhất là cái khoản tiếng Anh và vi tính, nhìn cả đống bằng cấp và những chứng chỉ mà họ đính kèm thì tôi biết mấy thứ này họ giỏi hơn tôi là cái chắc rồi chứ còn phỏng vấn phỏng viếc làm gì nữa.
Ấy! Nghĩ vậy mà không phải vậy đâu bạn mình ơi! Tôi không biết khi đi xin việc ở nơi khác người ta phỏng vấn ra sao. Còn tôi thì như đã nói, tự biết "tài" của mình, nên tôi không dám ba xí ba tú hỏi lôi thôi sẽ dễ bị lộ tẩy mấy cái dốt của tôi trước mặt các ứng viên. Hơn nữa phần vi tính các công việc mà tôi đang tuyển không cần phải đòi hỏi trình độ cao siêu để biết cách đút "phần mềm" vào hay rút "phần cứng" ra (khi nó không còn... cứng nữa) khỏi ổ máy v.v... Tôi chỉ cần họ biết đánh văn bản trên computer thôi, vậy là đủ. Vì vậy tôi không dám múa rìu qua mắt thợ (ở Việt Nam rất nhiều bạn trẻ rất giỏi về computer), tôi chỉ đẩy cái laptop của tôi đang xài cho anh chị ứng viên đang phỏng vấn xin việc, và nhỏ nhẹ ... nhờ "em gõ dùm cho tôi chừng 10 câu, một bài ca, bài thơ hay bất cứ cái gì mà em thuộc".
Tôi tin rằng chỉ cần nhìn người nào dạo chừng 2 câu trên bàn phím thôi chứ đừng nói gì đến 10 câu là tôi có thể biết được khả năng đánh máy của họ như thế nào rồi chứ cần gì nhìn cái bằng cấp ghi là một phút mấy chữ.
Vậy mà các bạn có biết chuyện gì xảy ra không? Thiệt là không tưởng tượng được trong 12 người dự phỏng vấn với Word, Excel, Power Point thứ gì họ cũng có bằng cấp chứng chỉ, với chú thích đạt yêu cầu loại "khá", nhưng khi cần gõ máy thì họ nhìn cái bàn keyboard như nhìn cây "thiên ma cầm" trong phim chưởng vậy. Dấu chấm, dấu phẩy, xuống dòng v.v... Họ chăm chú tìm trên bàn phím như thầy pháp tìm bùa lỗ bang.
Đó là chưa kể trong buổi phỏng vấn này tôi đã khám phá thêm vài "bí kiếp" tuyển dụng chắc là khá "đại trà" ở trong nước. Nếu như các cô chân dài có lợi điểm dùng ngoại hình để đánh bại đối thủ khi đi xin việc thì phía các anh cũng biết tận dụng thủ tục "đầu tiên" (tiền đâu) để lót tay người phỏng vấn.
Hôm đó tôi thực hiện buổi phỏng vấn với riêng từng người, và trong phòng riêng khi chỉ có "sếp" và người xin việc thì đã có hai ứng viên nam, một mạnh dạn đẩy cái bao thơ (tiền) về phía tôi với câu chào mở đầu "Sếp cho em gửi các cháu ăn quà.." , còn anh thứ nhì đã quên luôn mục đích của anh đến gặp tôi là để phỏng vấn xin việc làm, anh thân thiện đến bất ngờ, cứ nằn nì rủ rê tôi (như rủ bạn anh vậy) chiều tan việc đi uống bia với anh. Anh giới thiệu là “có biết có cái quán mới mở ở Tân Định toàn "hàng" (nữ tiếp viên) chiến đấu không hà... sẵn sàng phục vụ từ A đến Z"
Còn phía "chân dài" các nàng cũng không lép vế, không phải ai cũng vậy nhưng một vài nàng đã biểu diễn vài "chiêu" thật ngoạn mục. Các nàng gọi "sếp" bằng anh xưng em ngọt như mía lùi. Đứng lên ngồi xuống luôn thể hiện kiểu cách y như đang đi thi hoa hậu. Có một nàng trong nhóm xin việc hôm đó, cứ chống tay lên cầm mà nhìn ông "sếp" đang phỏng vấn mình cười cười mỉm mỉm thiệt là đẹp mê hồn làm cho tim tôi nhảy muốn rớt ra ngoài luôn.
Còn chết người hơn nữa là cái cách của nàng này nhìn người đang phỏng vấn nàng, là tôi đây, y chang như trong tiểu thuyết ba xu của Mỹ gọi là nhìn kiểu "love at first sight", còn tiếng Việt mình các nhà văn trữ tình cũng diễn tả đó là "tiếng sét ái tình" hay "yêu ngay lần đầu" gì đó... Kể luôn cụ Nguyễn Du thi nhân đại tài của nhà mình năm xưa cũng đưa kiểu nhìn này vô tác phẩm Đoạn trường tân thanh của cụ. Đó là "Người đâu gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không..."
Má ơi! Cũng may là "sếp" (dỏm) này chưa được công ty cho tiêu chuẩn tuyển thư ký riêng cho mình nên đành vừa tụng kinh vừa ngó lơ chỗ khác để tránh ánh mắt "ba đào dị nịch nhân" đắm đuối đến làm người ta chết chìm được của cô em chân dài đi xin việc hôm đó...
Kết quả có 8 ứng viên trong số 12 đơn có đủ các loại văn bằng chuyên môn về “phần cứng phần mềm” nhưng không gõ được vài dòng chữ cho liền lạc bằng keyboard...
Phần tiếng Anh cũng vậy, như đã nói, tôi vốn hơi "ớn ợn" với trình độ tiếng Anh của mấy trung tâm ngoại ngữ trong nước nên cũng chẳng dám hỏi han gì nhiều mà chỉ yêu cầu các ứng đơn "xin bạn kể cho tôi nghe bằng tiếng Anh, sáng giờ bạn làm gì. Thí dụ bạn thức dậy lúc mấy giờ, ăn sáng món gì, bạn đi bằng cách gì đến đây, bạn có thể chỉ đường cho tôi đi từ đây ra hồ... con rùa hay không””
Chỉ đơn giản vậy thôi. Tôi nghĩ rằng nếu anh chị nào đó có thể nói được cho tôi nghe chừng năm ba câu thôi thì tôi có thể nhắm mắt mà phê đại mấy chữ "đạt yêu cầu" vô phần tiếng Anh của họ cái cho rồi.
Nhưng tiếc thay! Cũng như phần vi tính, phần tiếng Anh cũng hầu như không ai thể hiện được điều gì như trình độ của các bằng cấp hay chứng chỉ mà họ có. Cuối cùng chỉ có 3 anh chị giọng nói tuy chưa được hay lắm, nhưng khả năng Anh ngữ của các anh chị này cho tôi tin là họ có học thật chứ không phải loại có bằng thật mà học dỏm.
Description: http://i415.photobucket.com/albums/pp239/nhacyeuem/Sep%202011/t673126.jpg
Description: http://i415.photobucket.com/albums/pp239/nhacyeuem/Sep%202011/222_4_thu-truong-y-te.jpg
Description: http://i415.photobucket.com/albums/pp239/nhacyeuem/Sep%202011/232_15-cao-minh-quangjpg.jpg

Ngài Thứ trưởng Y-tế nước CHXHCNVN bị uýnh tơi tả vì chức thiệt mà bằng giả, Blog Khai Trí đòi hỏi giùm cho hơn 80 triệu dân, vì sức khỏe và sinh mệnh của họ có thể bị ảnh hưởng bởi chất lượng “tri thức” của ông, rất cần ông trả lời trên báo chí.
Riêng Web Hà Tĩnh Mình Thương còn đưa ra danh sách các quan đỏ nào đang xài bằng gỉả. Ôi nhân tài như lá mùa thu ở nước ta! Mùa "Thương Khó" của các đại gia...
Thì ra, sau buổi phỏng vấn tôi mới hiểu tại sao các hồ sơ xin việc lại có nhiều sự đồng bộ như vậy. Rất nhiều các loại chứng chỉ ngoại ngữ, chứng chỉ vi tính được các trung tâm đào tạo "bán" cho người xin việc như người ta bán một cần thiết phải có trong đơn xin việc chứ không cần chất lượng của bằng cấp hay chứng chỉ đó. Rất nhiều TTĐT ở trong nước chỉ cần có học viên ghi danh, có đóng đủ học phí là có chứng chỉ, không nhất thiết là phải có học hay khảo sát (thi) đạt yêu cầu...
Điều này đã làm cho trình độ của các chủ nhân của bằng cấp chứng chỉ thành đồng bộ, và đã làm cho rất nhiều người tuyển chọn phải lấy những tiêu chí không liên quan đến chuyên môn để mà chọn lựa như "ngoại hình", "điện nước", “”bao thơ” v.v...Trong đó mém chút nữa là cũng có tôi luôn.
Hôm đó nếu không kịp nhớ lại tôi vừa tự mình ký bản án chung thân với một "tiger" biết nói tiếng người, bây giờ đang làm mẹ của 2 đứa con gái tôi, thì tôi đã tuyển cô nàng "love at first sight" kia vô công ty chỗ tôi đang làm rồi.
Thế thì, có lẽ các bạn đang thắc mắc là bộ mấy ông chủ tuyển dụng nhân sự hoặc các sếp phỏng vấn nào cũng nhận bao thơ hay "tiếng sét ái tình" (như tôi) và để cho mấy cái bằng dỏm "lướt" đi một cách dễ dàng vậy sao?
Không hẳn là vậy, nhưng sự thật thì cũng có rất nhiều sếp không có trình độ (vi tính hay tiếng Anh) như các loại bằng cấp chứng chỉ thể hiện, nên không có khả năng khảo sát chất lượng thật của người "đã học" các loại bằng cấp này là học thiệt hay học dỏm.
Chuyện này cho đến hôm nay vẫn còn khá phổ biến ở nước mình. Đó là những bằng dỏm và bằng giả, bằng cách nào đó, đã len lỏi vào lực lượng nhân sự của tất cả mọi vị trí trong đủ các loại ngành nghề ở phía chính quyền lẫn tư nhân, và được chấp nhận y như bằng... thiệt.
Xin mở ngoặc ở chỗ này để quý bạn đọc ở nước ngoài hiểu thêm, ở nước mình bây giờ người ta phân biệt hai chữ "bằng dỏm" và "bằng giả" là hai loại khác nhau. Việc này đã được một "cao nhân" sử dụng bằng dỏm (hay giả) tự định nghĩa một cách rõ ràng cách đây cũng khá lâu. Đó là vị Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên, một tỉnh nằm cạnh Nha Trang ở đâu đó ngoài miền Trung.
Nếu tôi nhớ không lầm là năm 98 hay 99 gì đó. Khi bị báo chí phanh phui là bằng cấp ông này đang sử dụng, là một cần thiết cho chức vụ Chủ tịch mà ông đang làm - hình như là bằng tốt nghiệp phổ thông lớp 12 thì phải - là bằng giả. Ông chủ tịch của mình đã "nổi dóa" đăng đàn mở họp báo lớn tiếng ong óng cãi lại là:
"Tôi công nhận tôi không có học mà có bằng là vi phạm, nhưng bằng này là bằng thật chứ không phải bằng giả. Con dấu thật, chữ ký thật do Giám đốc sở giáo dục tỉnh Đồng Nai cấp đàng hoàng (không tin hỏi ổng coi!) sao lại gọi là giả được".
Sự việc được "khui" thêm ra là 2 ông chức sắc ở tỉnh Phú Yên và tỉnh Đồng Nai đó đã áp dụng tính ưu việt của nền "kinh tế đối lưu" trong thời bao cấp trước đây. Lúc còn bao cấp người ta ít khi xài tiền, mà là dùng hàng hóa để trao đổi (như thời... đồ đá vậy). Ông Phú Yên có biển, có rừng nên cho ông Sở Giáo Dục Đồng Nai ít gỗ vụn để xây nhà, xây dư thì bán đi cho người ta làm củi chụm cũng được mà. Có... vài ngàn mét khối thôi chứ mấy.
Ngược lại ông Đồng Nai có cái Sở Giáo Dục hàng năm "búng" ra cả vài chục ngàn cái bằng trung học phổ thông thì tiếc gì không "búng" cho bạn mình một cái. Bằng thiệt, chữ ký thiệt đàng hoàng ai dám bảo là bằng... giả đâu.
Bó tay luôn phải không quý vị! Lúc đó báo chí trong nước đã bầu cho câu nói của ông Chủ tịch Phú Yên là "câu nói hay nhất trong năm" của quan chức nước mình. Và (có lẽ) từ đó chữ "bằng dỏm" được ra đời để chỉ loại bằng có con dấu thiệt, chữ ký thiệt, có lưu chiếu vào sổ bộ thiệt đàng hoàng, nhưng chủ nhân của nó không cần do học (thiệt) mà có. Và cũng từ đó trong lý lịch của một số quan chức trong phần trình độ văn hóa học vấn, nhiều vị khai tốt nghiệp cử nhân kinh tế, cử nhân luật v.v... Có vị cẩn thận hơn đã mở ngoặc đóng ngoặc mấy chữ (có học thiệt) để chú thích phân biệt với các loại bằng, cũng thiệt y như của họ, nhưng là học dỏm.
Còn loại bằng giả khác với bằng dỏm vừa kể là bằng giả không có con dấu thiệt, không có chữ ký thiệt, không có lưu chiếu. Người có được (bằng giả) là do in ấn nháy hiệu cho giống y thiệt, rồi lấy củ khoai tây tự khắc thành con dấu giả, nháy theo dấu thiệt, như đồng hồ nháy hiệu vậy, hoặc cạo sửa từ bằng thiệt của người khác rồi bỏ đại (mẹ) tên mình vô.
Như vậy thì người xài bằng giả và bằng dỏm về hình thức thì khác nhau, nhưng có một điểm giống nhau là cả hai không ai cần phải đi học (thiệt) để có bằng.
Ngày nay ở nước mình, sự kiện bằng dỏm & và bằng giả không chỉ ở những loại "lôm côm" như mấy cái chứng chỉ vi tính hay bằng B, bằng C của tiếng Anh để đi xin việc, hoặc bằng tốt nghiệp trung học phổ thông như ông chủ tịch Phú Yên năm xưa mà còn "leo cao" hơn đến các bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ, Giáo sư v.v... đã không còn là chuyện hiếm thấy...
Bằng dỏm và giả với học vị càng cao thì người sử dụng nó, thường là có chức quyền hay tiền, nên càng dễ đạt được yếu tố "tiêu cực" lúc dự tuyển bổ nhiệm vào các chức vụ cao (đa số là viên chức, công chức cấp cao của nhà nước), hoặc là vì bằng ở loại học vị cao nên nơi nhận (việc) cho các loại bằng cấp này, vì không có trình độ khảo sát nên đã dễ dàng để bằng dỏm hay giả biến thành bằng... thiệt.
Trong tháng (7-2010) vừa qua, chắc quý bạn đọc cũng đã biết rồi, báo chí trong nước lại lùm xùm lu xa bu thêm hai bằng Tiến sĩ "dỏm" do không học mà có, mà lại còn ác liệt hơn nữa, các bằng Tiến sĩ dỏm kỳ này ngoài chuyện có chữ ký thật, con dấu thật nhưng lại được mấy trường đại học "không có thật" (trường ma) cấp.
Không biết các chủ nhân của hai bằng Tiến sĩ này có mạnh miệng cãi là "bằng của tui là bằng thật có con dấu thật, chữ ký thật chỉ do trường... dỏm cấp mà thôi nên không thể gọi là bằng giả được..." như ông Phú Yên năm xưa hay không.
Hai bằng Tiến sĩ mà báo chí mới phanh phui kỳ này. Một là của ông Giám đốc Sở "Văn hóa & Du lịch” Phú Thọ, và bằng thứ hai là của ông Phó bí thư Tỉnh ủy tỉnh Yên Bái.
Theo báo chí trong nước thì ông "Sở văn hóa" Phú Thọ có bằng Tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài, nghĩa là phải học bằng tiếng Anh, mà khả năng tiếng Anh của ông thì lại "xem xem" với mấy anh xin việc mà tôi phỏng vấn lúc trước.
Nghĩa là ông không kể được bằng tiếng Anh hồi sáng này ông ăn sáng món gì, tối hôm qua ông đi bia ôm ở quán nào, có vụ... A đến Z với mấy cô tiếp viên ở đó không... chứ đừng nói gì đến việc ông làm luận án khoa học bằng tiếng Anh để được cấp bằng Tiến sĩ...
Và ông Phó Yên Bái thì còn "thần đồng" hơn nữa, từ lúc ông có quyết định lãnh tiền của nhà nước hỗ trợ cho ông đi học cho đến lúc ông "khè" cái bằng Tiến sĩ ra cho thiên hạ ớn chơi chỉ có... 6 tháng.
Chuyện mà báo chí trong nước thấy đáng nói là cả hai bằng Tiến sĩ này đều có giá "học phí" (dù chẳng cần đi học) là 17,000 đô Mỹ để có. Cả hai đều nằm trong tiêu chuẩn sử dụng tiền "quỹ hổ trợ" của nhà nước dành cho cán bộ hiếu học muốn nâng cao trình độ để lấy cái bằng này.
Chuyện của hai ông Tiến sĩ dỏm ở Phú Thọ và Yên Bái lấy tiền nhà nước, không đi học mà vẫn có bằng dường như đã làm ức lòng đến hai ông Tiến sĩ (thiệt) đang làm việc tại các đại học và viện nghiên cứu của Úc đó là Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn (Sydney) và Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc (Melbourne)
Giáo sư Tuấn qua bài viết "Thêm bằng chứng về bằng giả trường dỏm" cho rằng ông Phó bí thư Yên Bái bị (trường dỏm) lừa gạt, hay là ông sẵn sàng (để cho) bị lừa gạt khi tốn 17 ngàn để lấy cái bằng ở một trường đại học không có thật, và cái bằng đó chỉ là một tấm giấy lộn chứ không có giá trị gì hết.
Và ở một bài khác "Bằng tiến sĩ dỏm giá 17,000 đô - Hãi" Ông Tuấn cho biết lý do người sử dụng bằng dỏm (ở trong nước) không chỉ mục đích lòe thiên hạ cho oai mà còn là một nhu cầu cho chức quyền.
Đồng lúc đó Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc cũng viết 2 bài "Bằng giả và bằng dỏm" và "Tiến sĩ dỏm ở Việt Nam"
Ông Quốc cho là xài bằng giả để lòe thiên hạ cho sướng thì vấn đề chỉ là tâm lý và đạo đức chứ không liên quan đến pháp luật, chính quyền không can thiệp nhưng nếu sử dụng cái bằng dỏm hay giả ấy để mưu lợi thì lại khác. Ví dụ để xin dạy trong các trường học hoặc để thăng quan tiến chức như ông Phó bí thư Yên Bái thì: Nó trở thành một hành động lừa bịp...
Và cũng cùng lúc này tờ báo mạng TuanVietnam.net ở trong nước cũng có bài châm biếm sự giải trình của chính chủ nhân cái bằng Tiến sĩ dỏm không biết tiếng Anh là ông Giám đốc Sở văn hóa Phú Thọ.
Cũng như ông Chủ tịch Phú Yên năm xưa. Ông giám đốc Sở Phú Thọ này cũng đăng đàn họp báo, ông đến tận tòa soạn báo TuầnViệtNam.Net, nhờ tiếng nói của tờ báo này để giải trình qua hình thức phỏng vấn hỏi đáp về việc ông tốn 17,000 đô để "học" cái bằng Tiến sĩ ở nước ngoài mà không cần biết một chữ tiếng Anh
Trong bài hỏi đáp của TuầnViệtNam.net ông Giám Đốc Sở Phú Thọ này hé lộ me mé ra là còn đến... 10 quan chức khác cũng có bằng Tiến sĩ ở cùng trường "dởm" với ông. Mấy ông học bằng cách "online" (hàm thụ từ xa qua mạng) và nơi dạy không yêu cầu người học phải biết tiếng Anh. Ông khai những người khác (cũng là quan chức nhà nước ở Phú Thọ và Hà Nội) cũng học cùng "lò" nơi ông học, cũng được cấp bằng như ông, nhưng người ta không ai bị gì cả, còn ông chỉ là...
"Tại tôi không may thôi!"
Đúng là "pó toàn thân" luôn chứ không thèm "pó tay" nữa với chuyện "quê nhà xứ huyện" của nước mình phải không quý vị? Dùng tiền của nhà nước (là tiền của dân) "mua" một bằng cấp là một "tấm giấy lộn không giá trị gi hết" để "thăng quan tiến chức" và "mưu lợi" cho cá nhân mình. Khi bị đổ bể đối với mấy ông không là "một hành động lừa bịp" mà chỉ là "Tại tôi không may thôi!"
Không biết câu nói này có nên bầu là "câu nói hay nhất trong năm" của quan chức mình lần nữa không các pác nhẩy!
Phương "N"
-
Mua bằng giả ở Việt Nam dễ như 'mua rau'
Wednesday, March 14, 2012 7:14:59 PM

Bookmark and Share

HÀ NỘI (NV) -
Mua bằng giả đủ mọi loại, từ trung học tới đại học có thể ví dễ như mua rau ở chợ tại Việt Nam. Báo Thanh Niên ngày 13 tháng 3, 2012 đã phải kêu lên rằng nhiều nhóm, tổ chức hay cá nhân “công khai... làm bằng giả.”



Hoàng tại điểm hẹn với phóng viên (ảnh 1) và đưa ra một bằng giả giống y thật cho phóng viên xem (ảnh 2). (Hình: Thanh Niên)
Tờ báo Thanh Niên kể chuyện phóng viên của họ đi “thực tế” đã gặp người “đầu mối làm bằng giả” ở Hà Nội thì được hỏi ở “tỉnh nào để giới thiệu đồng nghiệp tiếp nhận đơn đặt hàng; không hạn chế số lượng và loại bằng cấp 'kể cả bằng của ngành công an.' Biết chúng tôi ở Sài Gòn, người này cho số điện thoại (016525935xx), nói của Nguyễn Minh Hoàng.”
Theo nguồn tin, tùy loại bằng và của trường nào cấp mà giá dịch vụ có thể từ 2.5 triệu đồng đến 10 triệu đồng một cái bằng giả.
Những lời “chào hàng” dịch vụ làm bằng giả tại Việt Nam có thể tìm thấy rất nhiều trên Internet. Gõ nhóm từ “bằng giả” có thể thấy hiện ra tới 35 triệu địa chỉ hay trang thông tin về bằng giả, trong đó không ít những “đầu mối” nhận cung cấp bằng giả đủ mọi loại với các số điện thoại liên lạc.
Bản tin ký sự của báo Thanh Niên thuật lại cuộc hẹn của phóng viên với một “đầu mối” của nhóm làm bằng giả có tên Nguyễn Minh Hoàng và được cho xem một số mẫu bằng giả “có đóng dấu tròn đỏ tươi, chữ ký của hiệu trưởng hẳn hoi” và còn được bảo đảm máy móc in ấn hiện đại và kẻ làm bằng giả đã “mua phôi, tem của Bộ Giáo Dục, làm giống như thật, không dễ gì phát hiện ra được!”
Mới ngày 11 tháng 2, 2012, báo Quảng Ninh loan tin Nguyễn Thị Hạ, 51 tuổi và Bùi Tiến Hùng, 71 tuổi, ở huyện Vân Ðồn đã bị kết án mỗi người một năm tù vì cung cấp bằng tốt nghiệp trung học “hệ bổ túc” cho một người cần bằng để đi học “thợ lò.”
Phần lớn các người có nhu cầu bằng cấp giả là đám quan chức đảng viên của đảng CSVN cần thăng quan tiến chức. Ðây là chuyện rất phổ biến tại Việt Nam trong nhiều năm qua.
“Hàng trăm bằng tốt nghiệp Trung Học Phổ Thông và giấy chứng nhận tốt nghiệp bổ túc ở Ðồng Bằng Sông Cửu Long vừa được Sở Giáo Dục-Ðào Tạo thành phố Cần Thơ xác định là giả. Rất nhiều chủ nhân của các bằng cấp giả này là cán bộ cơ sở.” báo Người Lao Ðộng ngày 22 tháng 8, 2010 đưa tin. Theo nguồn tin này, ít nhất là 10 quan chức thành phố Cần Thơ đã dùng bằng cấp giả để tiến thân, hầu hết không thấy nêu tên là những ai.
Ngày 3 tháng 7, 2011, báo điện tử VNExpress cho biết “hơn 40 cán bộ sử dụng bằng giả bị phát hiện ở các huyện An Phú và Thoại Sơn tỉnh An Giang.” Trước đó không lâu, cũng VNExpress ngày 8 tháng 4, 2011 nói rằng “280 cán bộ, giáo viên ở Sóc Trăng xài bằng giả.”

Bằng giả rao bán trên Internet. (Hình: Thanh Niên)
Cho tới nay, người ta chỉ thấy có một số ít những kẻ làm bằng cấp giả tại Việt Nam là bị bỏ tù. Ðám quan chức đảng viên xài bằng giả, bằng dỏm thì thường chỉ bị “cảnh cáo,” ít khi bị mất chức.
Vũ Viết Ngoạn được ông Thủ Tướng Nguyễn tấn Dũng cử làm “Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia” cấp bậc hàng bộ trưởng hồi tháng 7, 2011 đã xài bằng tiến sĩ dỏm mua của một xưởng in bằng dỏm ở tiểu bang Louisiana, Hoa Kỳ. Ðến nay, ông ta vẫn tại chức, không hề bị ai “khiến trách” hay bị mất chức.
Mới ngày Thứ Tư, 14 tháng 3, 2012, “Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương” đảng CSVN chỉ ra quyết định “cảnh cáo” đối với Thứ Trưởng Bộ Y Tế Cao Minh Quang dù ông này đã bị cáo buộc khai gian bằng tiến sĩ và “vi phạm tiêu chuẩn đảng viên và quy định về những điều đảng viên không được làm, gây ảnh hưởng đến đoàn kết nội bộ, làm cho uy tín của cá nhân giảm sút.” (TN)





Vụ làm hàng chục ngàn bằng giả tại Hà Nội: Bị cáo đầu vụ lãnh bốn năm tù

Pháp luật TPHCM - 26 tháng trước 43 lượt xem
Vu lam hang chuc ngan bang gia tai Ha Noi: Bi cao dau vu lanh bon nam tu
Đây là vụ án mà PV Pháp Luật TP.HCM đã điều tra, cung cấp thông tin để cơ quan chức năng vào cuộc.
Hôm qua, TAND TP Hà Nội đã xử sơ thẩm Nguyễn Hoài Nam cùng bảy đồng phạm về tội làm giả con dấu, tài liệu của các cơ quan, tổ chức. Tòa tuyên phạt Nam 48 tháng tù, Bùi Thanh Tuấn 36 tháng tù, Hồ Thị Xuân 30 tháng tù, Phạm Văn Hải 20 tháng tù, Vũ Văn Hải 12 tháng cải tạo không giam giữ. Ba bị cáo Phạm Anh Hưng, Trương Công Quế, Hoàng Đông Anh mỗi người lãnh 12 tháng tù treo.
Chứng chỉ tin học giá… 15.000 đồng
Theo hồ sơ, tháng 1-2009, Liên hiệp Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam quyết định thành lập Liên hiệp Phát triển nguồn nhân lực và quản trị doanh nghiệp (UHDEM), bổ nhiệm Nam làm giám đốc. Sau đó, Nam giao cho Tuấn làm phó giám đốc, Xuân làm kế toán.
Lợi dụng chức danh này, Nam đã nhờ Quế tìm người thiết kế mẫu các chứng chỉ; nhờ Hưng in 23.000 chứng chỉ các loại với số tiền in gần 42 triệu đồng. Thực hiện đơn hàng, Hưng dựa vào mẫu chứng chỉ do Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội phát hành để chỉnh sửa thành ba mẫu chứng chỉ do UHDEM cấp. Hưng thuê Anh in số chứng chỉ trên với giá hơn 32 triệu đồng. Anh đã mang các mẫu phôi chứng chỉ đi thuê làm phim âm bản rồi mang đến xưởng của Phạm Văn Hải, Nguyễn Thái Bình in với giá gần 30 triệu đồng.
Có chứng chỉ giả trong tay, Nam, Tuấn, Xuân móc nối với Vũ Văn Hải để tiêu thụ. Đường dây này tìm khách bằng nhiều cách, thậm chí Nam còn đăng quảng cáo trên mạng, rao bán 15.000 đồng một chứng chỉ tin học, 40.000-50.000 đồng một chứng chỉ ngoại ngữ, 150.000 đồng một chứng chỉ sơ cấp nghề…
Các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm.
Về phần Quế, dù không có giấy phép của Sở Giáo dục và Đào tạo TP Hà Nội, dù biết Nam không có chức năng cấp chứng chỉ tin học, ngoại ngữ nhưng vẫn mở Trung tâm dạy tin học, ngoại ngữ Incomtech. Sau đó, Quế chuyển 50 hồ sơ của các học viên trung tâm mình cho Nam để cấp chứng chỉ giả.
Hám lợi nhỏ, gây hậu quả lớn
Tại phiên tòa, tất cả bị cáo đều nhận tội. Vũ Văn Hải khai nếu trót lọt Hải sẽ được hưởng chênh lệch 20.000-50.000 đồng một chứng chỉ. Còn Xuân khai ngoài việc đóng dấu chứng chỉ giả và thu tiền của khách, Xuân đã trực tiếp nhận bảy hồ sơ để làm chứng chỉ giả, thu lợi chỉ hơn 200.000 đồng.
Theo đại diện VKS, việc thành lập các trung tâm giáo dục, đào tạo phải có giấy phép của Sở, của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Mặt khác, việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học phải đảm bảo đúng chương trình, giáo trình cũng như đội ngũ giáo viên theo quy định của Bộ. Các học viên phải được học, kiểm tra, tham gia thi, có hội đồng sát hạch và đạt kết quả thì mới được cấp chứng chỉ.
Cạnh đó, văn bằng chứng chỉ cấp cho người tốt nghiệp cũng được quản lý thống nhất. Bộ Giáo dục và Đào tạo thống nhất quy định, quản lý mẫu, việc in, thủ tục cấp phát, thu hồi, hủy bỏ văn bằng, chứng chỉ. Mọi tổ chức và cá nhân không được tự ý in và cấp phát. Biết rõ điều đó nhưng vì hám lợi, các bị cáo vẫn tự ý lợi dụng tư cách pháp nhân của UHDEM để phạm tội.
Theo tòa, hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm, không những xâm phạm đến trật tự quản lý của các cơ quan, tổ chức mà còn gây hệ quả xấu cho xã hội. Theo cơ quan điều tra, đã có tới 799 người mua chứng chỉ giả của các bị cáo. Các bị cáo đa phần là trí thức, đã tốt nghiệp đại học nhưng chỉ vì hám lợi mà quên đi những hậu quả rất xấu mà bản thân các bị cáo cũng như xã hội phải gánh chịu.
Riêng đối với Nguyễn Thái Bình có hành vi in 3.000 chứng chỉ sơ cấp nghề nhưng xét mức độ phạm tội, cơ quan điều tra chỉ xử phạt hành chính. Đối với những người đã mua chứng chỉ giả của UHDEM, cơ quan điều tra đã quyết định tách ra để tiếp tục xác minh, xử lý sau.
Đầu tháng 2-2009, Pháp Luật TP.HCM đã tìm hiểu về tình trạng rao bán bằng cấp giả tràn lan trên mạng, qua đó phát hiện hai đường dây mua bán bằng cấp giả lớn tại TP.HCM và Hà Nội. Hai tổ phóng viên tại hai TP đã được thành lập để điều tra song song hai đường dây này.
Tại TP.HCM, cuối tháng 2-2009, báo đã liên hệ, cung cấp các chứng cứ cho Phòng Cảnh sát hình sự Công an TP.HCM. Đơn vị này đã lập chuyên án bóc gỡ. Ngày 2-3, hàng loạt đối tượng đã tra tay vào còng khi đang giao bằng giả cho PV. Mở rộng điều tra, cơ quan công an đã bắt giữ nhiều đối tượng tại TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương, thu hàng ngàn bằng giả các loại.
Tại Hà Nội, cùng thời điểm, văn phòng đại diện của báo cũng đã làm việc, cung cấp thông tin cho Cục An ninh tư tưởng văn hóa (A25 - Bộ Công an). Ngày 6-3-2009, Cục A25 đã chuyển những thông tin trên đến Phòng Cảnh sát hình sự Công an TP Hà Nội. Ngày 2-4-2009, Phòng Cảnh sát hình sự đã báo cáo đề xuất, được Thiếu tướng Đỗ Kim Tuyến, Phó Giám đốc Công an TP Hà Nội, phê duyệt lập chuyên án 455H để tổ chức đấu tranh, bóc gỡ đường dây này. Đến ngày 18-5-2009, Phòng Cảnh sát hình sự Công an TP Hà Nội đã bắt quả tang Hải đang đi tiêu thụ hai chứng chỉ tin học, ngoại ngữ do Tuấn ký và đóng dấu. Sau đó, lần lượt các đồng phạm của Hải, Tuấn đều bị bắt.
THANH LƯU

THƠ SONG NGỮ


HÌNH ẢNH ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA




Bà Danielle Mitterrand và Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Los Angeles, 11/10/1999.
Bà Danielle Mitterrand và Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Los Angeles, 11/10/1999.
Gilles Mingasson/Getty

<a title='Trung Quốc'  target='_blank' href='http://autotintuc.com/tim-kiem/trung-quoc.html'>Trung Quốc</a> âm mưu đầu độc Đạt Lai Lạt Ma?



Image

Image

Image

Image

Image

Image

Image

Image

Image

Image

Image

BÙI HIỂN TRUYỆN NGẮN


Nằm vạ

Tác giả: Bùi Hiển

Chị Đỏ chợt rùng mình nhẹ, vì thấy buồn buồn ở bụng chân. Và, trong cử động nửa ý thức của giấc ngủ bị quấy phá, chị rụt chân lại. Cái buồn buồn chị cảm thấy rõ rệt nó chạy trên ống chân rồi tới gót thì biến đi.
Chị cựa mình. Thân thể đau dần khắp cả. Cùi tay mỏi mệt rơi đánh thịch. Mắt vẫn nhắm, chị cố nghĩ, cố nhớ xem mình đang ở đâu. Và chị chợt hiểu ra là mình vẫn nằm trên nền đất, trong gian buồng hẹp và mùi ẩm mốc tanh nhạt đọng thành lớp đặc xông lên mũi.
Từ ngoài đưa vào, tiếng xôn xao đã hơi rời rạc đượm buồn của làng mạc về chiều. Sự hoạt động của cuộc sống ngoài kia khiến chị tức bực, và chị muốn chửi lên một câu để nguyền rủa bất kỳ ai. Đã hai ngày hai đêm, chị nằm dài trên đất ẩm của căn buồng hẹp tối. Chị đã tự đầy đọa như vậy, vì một câu chuyện không đâu. Sáng hôm kia anh Đỏ mắng chị về tội đi ngủ không đóng cửa chuồng gà. Chị lầm bầm cãi lại:
- Quên một bữa cũng chẳng sao! Chào ôi! Chăm sóc đến gà gớm. Để hắn đẻ trứng nào là nuốt lống đi trứng ấy mà!
Anh Đỏ giận tím mặt dưới lần da đen, lẳng lặng đi ra. Nhưng chị Đỏ, với cái nư dai dẳng của đàn bà, vừa quét sân vừa kiếm câu đâm chọc. Chị bảo con em chồng:
- Xin ơi! Rầy tao giao cho mi việc đóng cửa chuồng gà đó! Được trứng nào thì đem anh mi ăn rồi anh mi cho cái vỏ.
Anh Đỏ chẳng nói chẳng rằng, vứt mảng lưới anh đang vá, xông tới túm lấy vợ trong hai bàn tay sắt, lôi xềnh xệch vào buồng; đoạn anh ném vợ xuống đất, như ném một đống giẻ. Chị Đỏ đổ nhoài ra, nằm thẳng cẳng như người chết rồi. Anh đạp vào mông vợ mấy cái, đoạn bỏ ra.
Con Xin phải nấu cơm sáng thay chị. Dọn mâm rồi, nó vào buồng gọi, nhưng chị Đỏ nằm lỳ. Anh Đỏ vào lôi chị ra, chị bíu chặt lấy chân giường, miệng ngoặp vào chân chồng. Anh đau quá kêu lên: "ái! Đồ chó cắn! Được, đã muốn nằm vạ tao cho nằm".
Bà mẹ chồng đang ở chợ bán mẻ cá mà con trai đánh được hồi đêm, nghe con Xin ra mách, vội chạy về. Với tất cả cái hùng hổ của những mẹ chồng, mụ xăm xăm vào buồng, chống nạnh, bàn tay ngoặt ra sau, và hếch mặt nạt:
- Này con kia, muốn tốt thì ngồi dậy mà lo ăn làm. Chẳng ai hơi đâu nuôi đứa nằm ăn vạ.
Chị Đỏ nằm im. Mụ cúi định lôi dậy, lại bị ngoặp vào tay; mụ vừa chạy ra, vừa kêu như sắp bị chết chém: "Ua làng nước ôi! A làng nước ôi! Hắn cắn đứt tay tôi rồi!".
Thế là câu chuyện thành to và không thể vãn hồi. Chiều đó vài bà con trong họ đến hỏi thăm; có đôi đứa bé tò mò ghé mắt nhìn vào buồng. Anh Đỏ gắt đuổi ra, đem buộc ở cửa một mảng buồm rách làm rèm che.
Trong bóng tối, chị Đỏ thấy dễ chịu hơn, và thầm cám ơn chồng, chị đã có ý muốn thôi nằm vạ.
Nhưng đến đêm, anh Đỏ vào buồng ngủ, anh chỉ nói một câu cụt lủn:
- Muốn tốt muốn lành thì dậy!
Tự mình ngồi dậy thì sượng mặt, chị Đỏ nằm chờ. Nhưng anh gắt:
- Muốn đạp thêm cho ít cái nữa lắm.
Rồi trèo lên giường ngủ. Chị Đỏ nằm một đêm dưới đất lạnh buốt xương không sao nhắm mắt được. Sáng hôm sau, chồng ra rồi, chị lồm cồm tới giường, lấy hai manh chiếu, một rải ra đất, một đắp lên mình, đánh một giấc dài khoan khoái. Đó là lần đầu chị được ngủ ngày một cách say sưa, không bị quấy rối; lần đầu chị nếm cái thú nhàn hạ của các bà tỉnh thành.
Nhưng đến đêm, anh Đỏ tàn nhẫn đẩy chị lăn ra, giật lấy chiếu và chị lại nằm một đêm trên đất cứng lạnh.
*
* *
Tiếng xôn xao ngoài kia nhỏ dần, nhỏ dần... Thực ra, ngày chưa tắt; nhưng thính quan chị đã yếu đi trong sự mệt nhọc toàn thân, một sự mệt nhọc rời rã, khiến cho xương mềm, thịt nhão và ngón tay co quắp, sự mệt nhọc gây bởi cơn đói. Chị nhịn ăn đã hai ngày! Đó không phải cái đói giày vò, quằn quại, náo động của những miệng ăn hùm hổ. Vốn tính ăn ít, làm nhiều, chị chỉ thấy một cái đói nhẫn nại nó thỉnh thoảng cào xót trong dạ dày. Hình như mồ hôi toát trên trán lạnh, nhưng chị không còn đủ sức đưa tay lên sờ. Chị cựa mình quay nghiêng vì nãy giờ nằm ngửa, da bụng căng ép lên dạ dày trống rỗng, như một hòn đá nặng.
Chị nằm co như con chuột chết, bụng thóp lại. Mắt mở trân trân dán vào một vuông sáng mà có lẽ chị cũng không nhận ra là lỗ thông để đùn rác rưởi quét ở buồng ra.
Chợt mảnh buồm che cửa lay động. Chị không nghe động nhưng thấy một vệt ánh sáng lấp loáng và mảnh vải bị nâng để lộ da trời. Rồi một cái đầu ló trong ánh sáng tam giác ấy, cái đầu tóc bơ phờ khăn quấn cẩu thả của mẹ chồng chị. Chị Đỏ liếc nhìn lên, nhưng không thấy rõ mặt mụ, sấp bóng tối. Tuy vậy, chị tưởng tượng mụ ta đương dạo đôi mắt lấc láo lo ngại trong vòm sâu hoắm; và chị nghĩ thầm: "Mình mà chết thì cũng rầy với mình! Quan khám, lệ hạch, rồi họ cũng đến lo mà chết luôn thôi! ừ, mình cứ nằm đây, không vào bồng dậy mà chớ!". Cái đầu biến đi và khung sáng sụp tối.
Cái cảm giác buồn buồn lại tới ám chị, lần này ở đầu ngón chân cái; chị cũng không buồn rụt chân. Nó chạy dần lên, dừng ở mắt cá, tiến tới đầu gối, chui vào một chút xíu dưới váy chị, rồi chạy trở ra. Đến bụng chân, nó biến đi. Bỗng một bóng đen nhỏ vụt qua lỗ hổng; chị nhận ra một con chuột nhắt.
Một lát sau, con chuột lại hiện ra trong khung trắng. Nó quay đầu bên này, bên kia, chạy từng chập ngắn trên chân nhỏ thoăn thoắt, dừng lại, chạy ít bước vội vàng, dừng lượt nữa, rồi chạy trở lại như để dử ai. Nó đứng yên, quay nhìn vào buồng, mắt tròn ngời ánh đỏ hoe như hạt ngọc. Con vật xinh nhỏ có một dáng điệu nửa nghi ngờ, nửa tinh nghịch. Sau cùng, nó chạy vào buồng, xấp tới bàn tay chị Đỏ lê trên đất. Nó vểnh tai nhìn rất lâu những ngón tay rung rung, đoạn khôn ngoan chạy về phía vách, lẩn trong bóng tối.
Tiếng bát đĩa lách cách dưới bếp làm nao lên trong lòng chị một niềm giận dữ. Hừ! Họ vẫn ăn đủ bữa và no bụng. Đã không muốn lo, để rồi chị cho mẻ lo. Khi quan về khám án mạng thì những kẻ kia hãy liệu mà bán thuyền bán lưới đi thôi!
Con chuột nhắt núp trong tối lâu lắm, rồi lại chạy ra. Lòng vẫn sôi tức bực, chị Đỏ choài tay định bắt. Nó kêu lên một tiếng nhọn hoắt, vút ra lỗ sáng rồi thoắt biến, để lại trên đất một vật trắng nhỏ bằng hạt đỗ. Chị Đỏ cầm lấy, nhận ra một mẩu khoai xát khô, bèn bỏ tọt vào miệng. Nước miếng nhoèn nhoẹt đầy trên lưỡi, tẩm vị ngọt của khoai.
Một ý nghĩ lóe ra trong trí yếu chị Đỏ. Thu góp sức tàn, chị lê xoay mình về phía vách, giơ tay quờ trong bóng tối. Một cái chóe1 bị vật ra đất, với một tiếng nặng nề khô khan. Tay chị đưa lần miệng chóe, nắm lấy cái nút lớn làm bằng một nùi rơm bọc lá chuối, cố sức rút. Nút bật tung, và những lát khoai rào rạt tuôn ra trắng đất. Chị Đỏ vội vàng bốc lấy một nắm trong tay run run, vụng về đưa vào miệng. Khoai rơi lả tả xuống. Chị Đỏ nằm ngửa ra, nhai. Chị nhai ngồm ngoàm, hộc tốc, trợn mắt nuốt. Chị cảm thấy rõ sự cọ xát trên da thực quản của những mẩu khoai chưa nghiền kỹ. Khi bụng đã thôi bị sức căng ép, chị quay nằm ngửa, nhai chậm hơn. Mắt nhìn một lỗ hổng trắng trên mái tranh, tay đưa dần từng miếng khoai lên miệng, chị nhai một cách từ tốn quý phái, để nước miếng tiết ra nhiều ngào miếng ăn thành một làn bột mềm, ngọt và thơm mát.
Nhưng một lát sau, một sự khó chịu bỗng chiếm lấy chị. Chị Đỏ thấy tức ách trong bụng quá đầy, tưởng có một hòn đá nặng trong đó, khiến chị không trăn trở mình được. Trên đầu máu tụ, và chị Đỏ nằm thiếp đi trong cơn bội thực, bàn tay mở vẫn đặt trên những lát khoai còn lại ở mặt đất.
*
* *
Chị Đỏ ren rén ngồi dậy, lê đến cạnh vách, ghé mắt vào một lỗ hổng nhỏ nhìn ra sân. Chị thở phào một tiếng. Ông Lý sắp đến thực. Mẹ chồng chị đương têm trầu, anh Đỏ xăng xít nhấc chiếc phản ra sân để "làng" ngồi. Con Xin ngồi xổm trong một góc, lo đánh bộ chén cọc cạch thẹn thùng nằm trên cái đĩa Tàu cổ rất đẹp mà anh Đỏ đã lấy được trên một chiếc tàu ô trôi lênh đênh vô chủ ngoài bể cả sau một trận cuồng phong nào.
Chị trở lại chỗ cũ, nằm duỗi cẳng, khoan khoái đợi. Cái trò đùa thực đã kéo dài quá thể. Chị nằm vạ bảy ngày trời rồi! Hôm nhờ con chuột nhắt, chị khám phá ra cái kho lương thực bất ngờ ấy, ý nghĩ thứ nhất đến với chị là một ý nghĩ phục thù: chị sẽ nằm dài ra đó, ít ra cho đến lúc còn trơ lại cái chóe không. Cho đáng kiếp!
Nhưng chị chẳng phải dùng nhiều bữa khoai sống mới nhận thấy rằng thức ăn kia cào xót ruột và ứ hơi trong bụng đầy trình trịch. Một đôi khi nước ợ lên đến cổ, vị chua gắt, suýt trào ra ngoài miệng lúc chị nằm nghiêng; chị nhắm mắt nuốt đánh ực, và vị chua khiến chị rùng mình.
Cơ sự đã thành nghiêm trọng, chỉ còn chờ "làng" đến mới phân xử được. Mỗi khi thấy cái đầu mẹ chồng ghé mắt nhìn vào, chị thở rốc lên những hồi ghê rợn như người sắp chết, để mụ lo lắng thêm. Vậy mà những ngày dài chờ đợi vẫn trôi đi, ông Lý vẫn biệt tăm dạng. Đã có lúc chị nghĩ: "Hay là họ cứ để mình nằm thế này cho đến chết đói?" Và giận dữ sôi lên trong lòng, chị lại nghĩ đến chuyện cắn lưỡi.
Thực ra, mẹ chồng chị không vô lo như chị tưởng. Trong bốn tối luôn mụ ra chầu chực nhà ông Lý. Nhưng ông Lý và ông Phó mắc việc quan trên phủ. Tối hôm thứ năm, mụ cuống cuồng lên, đến tận bến đò đợi. Mụ vừa chạy theo ông Lý về, vừa kể lể sự tình. Ông Lý hẹn:
- Mai đến.
Mụ mừng cuống, đem đĩa trầu khô vẫn bưng cò kè vào trút lên cơi bà Lý, rồi chạy về báo tin cho con.
*
* *
Ông Lý bước vào, xúng xính trong áo lương rộng và lẹp kẹp đôi giầy da. Khuôn mặt phì nộn tươi nở như một cái hoa, mà nhụy là cái mũi đỏ chóe, to lạ lùng và đâm lỗ chỗ như da trái bưởi.
Ông đặt đít ngồi; theo thói quen, ông đập hai bàn chân vào nhau phủi đất, rồi mới đưa lên xếp bằng trên phản. Đoạn hách dịch gọi:
- Con mẹ Đỏ đâu rồi?
Một người em họ anh Đỏ đã đứng chực sẵn, vào buồng nhắc chị ra; chân chị lê xềnh xệch trên đất. Chị giả cách cố gượng mới ngồi lên được ngưỡng cửa. Tóc chị rối bù, khăn xổ xuống che một mắt; chị đã tự soạn một bộ mặt chết đói bảy ngày.
Hàng xóm đến xem, đứng vây thành vòng bán nguyệt. Những đứa con nít nghiêng đầu hấp háy nhìn bằng đôi mắt nhèm, hai tay chắp lại trên cu tồng ngồng. Vài cô gái kháo nhau:
- ả Đỏ tài nhịn gớm, bay ạ. Bảy tám ngày, mà chẳng gầy đi tí nào.
Chị Đỏ sẽ dệch mép cười lặng lẽ.
Ông Lý nhấp trà rồi cất tiếng:
- Sao đó, đã ưng dậy chưa? Chà, vợ chồng người ta ở với nhau năm năm, mười năm, cãi lộn nhau cho hắn đáng; đằng này, đôi vợ chồng son, anh như mâm ngọc, em còn như đôi đũa vàng, ha ha ha... chưa chi đã giận hờn, rồi lăn ình ra nằm vạ.
Sự khoái hoạt ầm ĩ của ông Lý khiến mọi người cười theo; và, đâm nhờn, một cô gái trong bọn đứng xem liền đùa một câu:
- Ông Lý hát phường giỏi lắm đó.
Ông Lý liếc nhìn cô một thoáng mau, rồi lập nghiêm ông hỏi:
- Sao? Bây giờ muốn hòa thuận với nhau lại không? Hay là muốn ly dị, thì ta cho đồng tiền chiếc đũa mà về cùng bố mẹ?
Mẹ anh Đỏ đứng chắp tay thưa:
- Thưa ông, chứ con ấy tệ lắm. Mắng hắn một tiếng hắn cãi lại hai tiếng, rồi hắn lăng loàn, hắn gieo mình nằm vạ, hắn cắn đứt tay tôi. Xin làng cứ phép xử thì đội ơn lắm.
- Thế mụ muốn hai bên ly dị à?
- Bẩm không! Bẩm không! Là tôi trình để làng biết cho như thế thôi.
Mụ vội nói thế. Mụ dại gì mà cho dâu về, đứa dâu mụ vẫn tự hào mát tay mới chọn được. Chị Đỏ tuy xấu tính thực, nhưng hay làm, đảm đang tất cả việc trong nhà. Vả cưới chị có phải tốn ít đâu; tiền anh Đỏ dành dụm trong hai năm đi chài, từ khi còn là một chú trai nấu cơm xách nước cho đến khi lên anh bạn lành nghề đều dốc vào đó hết.
Ông Lý gắt:
- Muốn đường nào thì nói rõ ra một đường!
Anh Đỏ vẫn đứng chắp tay trong góc nhà, nói ra:
- Thưa ông, ông xử cho tôi phận nào, tôi được nhờ phận nấy.
- Ăn nói hàm hồ thế thì ai biết đường nào mà xử! Mẹ Đỏ! Muốn ở hay muốn về?
- Dạ trăm sự nhờ ông cả, ông cho sao thì được vậy... Trăm sự cũng là nhờ ông.
Chị Đỏ đáp vậy, giọng kéo dài như mỏi mệt. Ông Lý đét vào đùi, bộ thất vọng:
- Thế thì cha ai mà xử được. Anh nói "nhờ ông", ả nói "nhờ ông", sao mà hai anh ả khéo bảo nhau ghê. Đã đồng ý với nhau thế thì, thôi! Cho đoàn tụ!
Mọi người vẫn im lặng. Thấy lời tuyên án không hiệu quả và câu khôi hài kín đáo không ai thưởng thức, ông Lý ngồi lặng thinh uống nước.
Anh Đỏ bước ra rót nước. Bấy giờ chị Đỏ mới chợt nhận thấy chồng mình mặc áo dài. Cái áo lương tưởng như sắp bật tung trên thân hình vạm vỡ của anh dân chài. ống áo chịt vào cổ tay đen, và tà ngắn đập cũn cỡn trên đầu gối. Chị Đỏ vờ cúi mặt, liếc nhìn qua mớ tóc rối trên trán, và mỉm cười ngắm những cử chỉ ngây ngô của chồng. Chị nhớ lại hôm cưới, anh Đỏ ngượng nghịu trong cái áo lương độ ấy còn mới nguyên, và cái quần cứng đét hồ, thì thụp lạy trước bàn thờ. Chị bất giác cười lên tiếng. Anh Đỏ quay nhìn, càng ngượng nghịu thêm, thủ hai bàn tay dưới áo, rồi chắp lại, rồi gãi đầu, rồi mân mê khuy áo. Sau cùng anh mỉm cười cho đỡ thẹn. Ông Lý kêu lên:
- ờ, anh ả cười với nhau rồi đó kìa! Cần gì ai phân xử nữa!
*
* *
Con Hoét mách:
- Mẹ ơi, ả Đỏ vào buồng.
Mụ Bình chạy vào, thấy chị Đỏ đứng chải đầu. Mụ hỏi:
- Mi lấy gì đó?
- Lấy gì đâu?
Khi mụ Bình ra rồi, con Hoét, còn nhỏ mà đã ranh vặt, đứng nhìn. Từ ngày chị nó về nhà chồng, nó vẫn quen coi chị như người xa lạ, theo gương mẹ nó. Con gái là con nhà người... Mỗi khi thấy chị về chơi nhà lấy vật gì, nó kêu lên như bị mất cướp. Chị Đỏ chải đầu xong, thản nhiên đi ra. Con Hoét yên tâm, không ngờ chị nó đã mang một bọc khoai khô trong tà áo nâu dài buộc túm, bọc khoai đã ăn trộm được trong chum mẹ chị.
Về đến nhà chồng, chị len lén nhìn, rồi thẳng tuột vào buồng. Chị mở nút tà áo ra, tuồn khoai vào chóe, vừa vặn đầy như trước. Một hôm trời hửng nắng hanh vàng, mẹ chồng chị đem khoai ra sân phơi. Chị Đỏ ngồi đan lưới trong nhà, hồi hộp nhìn ra. Mụ đưa bàn tay nổi gân rải xòa đống khoai. Chợt mụ lặng yên như đang suy tính gì lung lắm. Mụ cầm một lát khoai, nhìn mãi trong một ngạc nhiên câm lặng. Mụ di di móng dài ngón tay cái lên trên, cố cạo lớp vỏ xám. Sau cùng, mụ ngoảnh vào, nói với con dâu điều phát kiến mới mẻ của mụ:
- Mẹ Đỏ này, cái chóe khoai mình nút không chặt để gió vào, thành thử cả lớp khoai trên hắn xạm đen mặt lại.

1940
Rút từ tập truyện ngắn Nằm vạ.
Nxb Đời Nay, Hà Nội, 1941

TẠ DUY ANH * NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG


NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG 

ở với ma, sống với người


[Vào lúc : 00:10 - 29/04/2012 | Chuyện mục : Chuyện làng văn nghệ]
Nhà văn Tạ Duy Anh bình phẩm: “Có lẽ do quá tự tin mà Nguyễn Khắc Trường thành cả tin! Ông cực kỳ dễ tin người. Có ông quan văn nghệ rất thâm hiểm nhưng khéo đóng kịch, đã qua mắt được Nguyễn Khắc Trường suốt mấy chục năm. Có những lời nói dối một trăm phần trăm, nhưng nó được uốn éo thế nào đó, lại khiến ông tin là thật. Và ông giữ niềm tin ấy rất lâu nếu không muốn nói là suốt đời. Ông trở thành người kể tốt không công, bền bỉ và vô tư cho khối kẻ chả ra gì. Chỉ khi có bằng chứng rõ ràng về sự đểu giả trực tiếp tác động đến ông, hoặc đến người mà ông quan tâm, ông mới thôi không tin nữa. Không tin nhưng vẫn chơi và chỉ chờ cơ hội để chứng tỏ mình nhận định sai”


NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG
 ở với ma, sống với người

TẠ DUY ANH

Từ khi còn chưa bén mảng đến cửa văn đàn, tôi đã quen với cái tên Thao Trường. Trong một tác phẩm của ông hình như có tên là Miền đất mặt trời, tôi còn rất thích cái giọng tếu táo đậm đặc chất dân dã của ông. Ông có lối ví von rất hóm và rất…đĩ! Nhưng ấn tượng của tôi về ông hồi đó chỉ như vậy. Cái tên Thao Trường có vẻ không phải là tên của một nhà văn tầm cỡ, ít ra cũng thuộc loại khiến người ta phải chú ý. Nó quá nhẹ và nhạt, thiếu năng lượng, thiếu sự bí ẩn. Một nhà văn có khả năng thành quan trọng hay không thường báo hiệu trước hết ở cái tên.
Rất cảm tính nhưng phần lớn lại đúng, thế mới lạ. Nguyễn Khắc Trường cũng hoàn toàn đồng ý với điều đó khi có lần thổ lộ là ông 'mất toi nửa đời cầm bút' vì cái tên không phải dành cho mình. Rồi vỗ đùi cười hố hố rất đắc chí. Trên thực tế cái tên Thao Trường còn báo hại tác giả “Mảnh đất lắm người nhiều ma nhiều” hơn thế. Suốt hàng năm trời, khi tiểu thuyết nổi tiếng của ông đã có mặt trên sạp sách, vẫn còn không ít người cười nửa miệng hoài nghi. Giờ thì ông đã xoá được cái hạn 'do nông nổi' đó-sau gần hai mươi năm.

Giữa Nguyễn Khắc Trường và tôi có một mối nhân duyên mà ông không nhớ. Khi còn ở quân đội đóng tại thị xã Lào Cai, tôi có gửi về Tạp chí Văn nghệ quân đội một truyện ngắn (mà tôi không nhớ tên mình đặt) viết về lính tráng. Một anh bộ đội biên giới tranh thủ thời gian công tác muốn về thăm gia đình nhưng anh đứng ở ngã ba thị trấn trung du vẫy xe suốt buổi chiều không được. Chả ông tài xế nào động lòng. Cuối cùng khi trời đã tối, anh mới phát hiện ngoài anh ra có thêm một cô gái bán thuốc lá. Anh không biết là cô gái nấn ná ở lại chưa về cũng vì không nỡ bỏ anh lại một mình. Cuối cùng họ làm quen và anh đồng ý nghỉ tạm tại nhà cô gái mà ngoài cô ra có thêm đứa em trai, theo lời mời của cô. Đêm ấy cả anh và cô chủ nhà đều không ngủ. Họ nghĩ về nhau, về ánh trăng vàng óng bên ngoài cửa sổ và thấy đều cô đơn, cần có nhau…
Đại loại truyện có nội dung như vậy, với âm hưởng ca ngợi vẻ đẹp của anh bộ đội và tình quân dân. Đúng khi tôi nghĩ nó đã vào sọt rác thì nhận được thư của Văn nghệ quân đội, ký tên Thao Trường, biên tập viên văn xuôi. Ông chúc mừng tôi là truyện có nội dung tốt. Ông đổi tên truyện thành “Dọc đường”, chữa qua vài chi tiết và sẽ cho đăng trên tạp chí. Tôi nhớ không lầm thì đó vào khoảng năm 1986. Tôi đã giữ lá thư đó của Thao Trường-lá thư đầu tiên mà tôi nhận được từ một nhà văn trung ương-mãi cho tới khi ra khỏi quân đội và bị thất lạc đâu mất. Khi truyện được đăng, anh em trong đơn vị nhìn tôi rất nể. Với họ, được đăng truyện ở Tạp chí Văn nghệ quân đội phải có đẳng cấp, không còn là vớ vẩn nữa! Tôi được hưởng sái sẩm khá nhiều từ cái truyện có tên rất sái đó! Bởi đúng như thi hào Nguyễn Du đã viết: Kể chi những chuyện dọc đường, tác phẩm đó của tôi không để lại tăm dạng gì.

Đã thế một chị bạn nhà thơ, sau mấy năm gặp lại tôi, cười cười bảo: 'Ngần ấy năm anh đi lính xem ra cũng chả khá hơn tí nào so với lúc còn ở Hoà Bình. Truyện chán chết đi được'. Tôi đành chỉ im lặng. Biết làm thế nào được khi cái gì cũng phải đến số. Tôi nói vậy vì nó rất ám vào trường hợp của Nguyễn Khắc Trường. Có lẽ cái số ông phải đeo sự nhạt nhoà suốt hàng chục năm, trước khi trở thành một tên tuổi mà văn học sử sẽ còn phải nhắc tới.
Tôi nhớ hồi năm 1989, sau khi đã về học tại trường viết văn Nguyễn Du, một lần tôi được mời tụ tập uống bia cỏ với mấy nhà văn đàn anh. Nghe ai đó bảo Thao Trường sắp có tiểu thuyết và lấy lại tên cúng cơm là Nguyễn Khắc Trường, một anh bạn nhà thơ quân đội cười rất 'hiểu biết' nhưng cũng rất 'đểu', bảo: 'Thao hay Khắc thì cũng vẫn chỉ là nước ốc thôi, hay thế chó nào được!' Quả nhiên ông nhà thơ này sau đó không đọc ngay “Mảnh đất lắm người nhiều ma”. Phải vài tháng sau tôi mới thấy ông ta có bài viết khen Nguyễn Khắc Trường hết lời và nhân tiện bày tỏ nỗi ân hận vì đã trót coi thường cuốn sách chỉ vì cái tên cũ của tác giả! Mà nói đâu xa. Chính giáo sư Hoàng Ngọc Hiến cũng có ứng xử tương tự. Tức là cụ Hiến cũng bị ấn tượng bởi cái tên Thao Trường đến mức xuýt thì oan cho Nguyễn Khắc Trường!

Sau khi “Mảnh đất lắm người nhiều ma” được giải thưởng Hội nhà văn rồi trở thành hiện tượng văn học, tác giả của nó mới hoàn toàn thoát khỏi cái 'dớp' Thao Trường. Từ đó ông mới chính là ông. Nhưng từ khi chính là ông thì ngoài vẻ hồn hậu, mộc mạc, nông dân cố hữu, ông cũng nhiễm thêm một số bệnh của đám trí thức nổi tiếng. Thực ra đó là căn bệnh chung của nhà văn xứ ta. Cứ nổi tiếng là ăn nói như ông kễnh bằng thái độ xưng xưng rất đáng ghét! Nhưng với người khác có vẻ là chuyện bình thường, còn với Nguyễn Khắc Trường thì điều đó gây nên mối 'nguy hiểm tiềm tàng' cho bọn viết trẻ máu phá phách, vì ông có uy tín với mọi người. Mọi người tin vào thẩm định của ông, tự nguyện coi ông như người 'cầm cân nảy mực'. Tác phẩm nào đó vào tay ông mà ông bảo 'vứt', sẽ không bao giờ có cơ hội được ông nghĩ lại! Ngay cả khi nó được dư luận nồng nhiệt tán thưởng, ông vẫn bảo lưu quan điểm một cách ngoan cố!
Nói khác đi, với ông không có sự nhầm lẫn để ân hận. Trên thực tế ông khen đúng nhiều hơn là chê. Nghĩa là tác phẩm nào đó được ông khen, hoàn toàn có thể tin nó hay. Nhưng với những tác phẩm bị ông chê thì chưa chắc đã dở. Chỉ có điều, khi đã chê là ông bỏ ngoài tai mọi lời bênh vực. Đó là nguyên nhân nhiều người có đầu óc cách tân tìm thấy lý do lánh xa ông. Mặt khác, ông tiếp tục đà hưng phấn của người thành danh để dạy bảo bọn trẻ và làm rộng thêm khoảng cách với những kẻ vừa nứt mắt, chưa học được bao nhiêu, còn thiếu thốn đủ đường nhưng lại thừa máu tự phụ-trong đó có tôi. Nhưng tôi không thích ông lại chủ yếu ở chuyện khác: Ông chơi với nhiều người mà tôi không ưa và hơn thế, ông lại luôn dễ dãi với họ! Nhiều người thuộc loại lưu manh một trăm phần trăm, lưu manh chuyên nghiệp nhưng Nguyễn Khắc Trường vẫn hồn nhiên tin họ là người tốt, chỉ vì họ khéo thủ vai. Đã vậy ông lại sẵn sàng tặng cho họ những phẩm chất mà có sống và tu thêm vài kiếp họ cũng không có. Đơn giản vì tính ông xuề xoà, ít khi nghĩ xấu về bạn bè. Ông là cậu bé vĩnh cửu với sự hồn nhiên, ngơ ngác, trong sáng…khi nhìn cuộc đời.

Đó thực ra cũng đáng là một nét tính cách quý giá. Nhưng tôi thì muốn mọi thứ phải rạch ròi, yêu ghét, trọng khinh rất rõ ràng và rứt khoát. Đành rằng sống là phải bao dung. Nhưng kẻ nào tầm thường thì họ chỉ nên được hưởng sự chiếu cố vừa phải. Có lẽ do quá tự tin mà Nguyễn Khắc Trường thành cả tin! Ông cực kỳ dễ tin người. Có ông quan văn nghệ rất thâm hiểm nhưng khéo đóng kịch, đã qua mắt được Nguyễn Khắc Trường suốt mấy chục năm. Có những lời nói dối một trăm phần trăm, nhưng nó được uốn éo thế nào đó, lại khiến ông tin là thật. Và ông giữ niềm tin ấy rất lâu nếu không muốn nói là suốt đời. Ông trở thành người kể tốt không công, bền bỉ và vô tư cho khối kẻ chả ra gì. Chỉ khi có bằng chứng rõ ràng về sự đểu giả trực tiếp tác động đến ông, hoặc đến người mà ông quan tâm, ông mới thôi không tin nữa. Không tin nhưng vẫn chơi và chỉ chờ cơ hội để chứng tỏ mình nhận định sai.

Hàng chục năm trời ông không ưa tôi và biết là tôi cũng không ưa ông, không thực sự tâm phục khẩu phục ông. Trong những lý do đã kể, còn có thêm lý do là ông nghĩ tôi hay làm to chuyện liên quan đến vấn đề xuất bản sách của mình. Rồi số phận lại xô đẩy thế nào để ông và tôi cùng làm việc với nhau ngày ngày. Khi làm xuất bản, Nguyễn Khắc Trường dần dần thừa nhận nhiều thực tế mà ông không biết nhưng lại cứ làm như mình biết hết. Lần đầu tiên Nguyễn Khắc Trường trực tiếp chứng kiến cảnh Lão Khổ bị ngăn cản tái bản để ông thấy tôi không hề làm nghiêm trọng hóa vấn đề.
Và ông quyết định ra tay giúp tôi. Sau sự việc đó, Nguyễn Khắc Trường và tôi có thêm mối thân tình tự nhiên. Nhưng có lẽ chúng tôi thực sự gắn bó với nhau do bắt đầu nhận ra ở nhau nhiều nét tương hợp. Đầu tiên tôi nhận ra ở ông một sự chân thành rất hiếm và rất quý trong thời buổi bây giờ.
Hầu như ông không biết nói dối. Mọi suy nghĩ của ông đều được thổ lộ bằng thứ giọng nói cho cả tổng nghe rõ. Ngồi đàm thoại với ông phải tránh đi những chuyện bí mật riêng tư, nếu không muốn xung quanh nghe thấy. Với vấn đề nào đó ông tin mình đúng, ông thường đưa ra những kết luận chắc như đinh và vỗ đùi cười sảng khoái, thây kệ người khác nghe rất tức. Sau đó ông mỉm cười nghe cãi lại và nếu anh cãi hay thì lại khiến ông vỗ đùi tán thưởng rầm rầm nhưng nhất định không thay đổi quan điểm. Vì ngay thẳng nên ông không e ngại bị hiểu lầm, ngay cả khi ông nói sai bét vấn đề.

Bề ngoài ồn ào, thô mộc như vậy nhưng chớ ai nghĩ ông sốc nổi. Ông là người nhiều ưu tư, luôn sẵn mối quan tâm thường trực, nhất là trước những vấn đề tiêu cực ảnh hưởng tới xã hội. Khi đó nét mặt ông trở nên trầm buồn, chán nản và có phần thất vọng. Cũng khi đó tính cách khí khái, ngang tàng của ông được thể hiện rõ ràng nhất. Nó khác hẳn với một Nguyễn Khắc Trường khề khà, dễ dãi khi nhận lời đi đánh chén thịt chó, dùng tay bốc bải một cách tự nhiên rất thô nhưng cũng rất ngon mắt! Mặt ông rạng rỡ trước những miếng thịt bóng nhoáng mỡ. Với ông, trên đời này chỉ có hai món thuộc hàng cao lương mỹ vị, ấy là thịt chó lá mơ kèm mắm tôm và thịt lợn cắp nách chấm hạt dổi. Mà phải là thịt nửa nạc nửa mỡ, có dính bì thui rơm. Còn hai thứ đó tức là cuộc đời này còn đáng sống để làm việc hết mình và tận hưởng!

Có Nguyễn Khắc Trường về, giám đốc giao cho ông phó phần văn xuôi trong nước, cũng là phần khó gặm nhất. Ông tận dụng triệt để cái uy của mình để bênh vực những tác phẩm thuộc loại 'có vấn đề'. Khi bị cấp trên căn vặn, ông tỏ ra điềm tĩnh hơn cả mức cần thiết. Đôi khi câu trả lời của ông chỉ là: 'Không có vấn đề gì, tôi đọc kỹ rồi, hoàn toàn yên tâm', bằng ngữ điệu của một ông nông dân biết rõ từng thửa ruộng. Nguyễn Khắc Trường có khả năng nhớ hầu hết tên tuổi cũng như tác phẩm của những nhà văn đàn anh và lớp cùng thời. Ai có tác phẩm nào đáng nhớ, ai đang ở đâu, làm gì, tử tế hay không, đang viết gì, mới in gì, con cái ra sao, phát ngôn nào ấn tượng, nếu tuyển chọn thì lấy tác phẩm nào…ông đều nhớ và có thể nói vanh vách. Vì thế nếu phải làm tuyển mà có ông thì rất nhàn.

Sở dĩ có được điều đó vì Nguyễn Khắc Trường đã đọc của ai thì đọc rất kỹ, rất cẩn thận, có nhận xét, thậm chí nhớ cả những tình tiết đặc sắc và nhớ rất dai. Trong công việc duyệt tác phẩm cũng thế. Nhiều bản thảo biên tập đọc qua loa, nhưng đến ông thì nó được xăm soi từng từ, chữa cả dấu chấm, phảy theo ngữ pháp mà ông ưa thích. Ông là người công bằng khi đối xử với bản thảo và tác giả, đành rằng không tránh khỏi có lúc rất cảm tính và nhiều khi gây sốc. Nhưng nó đều có chung điểm xuất phát là rất chân thành và thẳng thắn. Ông không bao giờ nghĩ thế này lại nói thế khác, kể cả nói ra những điều không thật thuyết phục.
Khi đã đặt bút ký duyệt in, Nguyễn Khắc Trường cũng sẵn sàng chịu trách nhiệm đến cùng mà không đổ lỗi cho ai. Ông sẵn sàng đối chất với các cấp quản lý để bảo vệ tác phẩm và tác giả. Thậm chí, thay vì nói chung chung để xí xoá như cách quen thuộc, Nguyễn Khắc Trường lại dùng những lời lẽ mạnh hơn mức cần thiết để khẳng định là ông đúng, tác giả đúng, việc cuốn sách ra đời là đúng. Khi đó mới thấy cái uy của sự chân thành. Phải là người có trách nhiệm với nghề, với bạn đọc và với đồng nghiệp mới có thể làm như vậy. Bởi vì, để có một ấn phẩm thực sự tốt đến tay bạn đọc, là cả một nghệ thuật leo dây của biên tập viên. Nhưng cho dù biên tập viên có giỏi đến mấy, bản lĩnh đến mấy cũng không phải là người quyết định cuối cùng số phận bản thảo nào đó. Chính vì thế có một lãnh đạo uy tín cao, có lương tâm nghề nghiệp và có bản lĩnh, là vô cùng quan trọng. Và trong gần 10 năm làm biên tập, tôi đã có một lãnh đạo xuất bản như vậy để cùng nhau làm việc, đó chính là nhà văn Nguyễn Khắc Trường.

Từ khi có Nguyễn Khắc Trường, thì ông và tôi luôn tìm cách 'minh oan' cho những tác giả và những tác phẩm bị thời cuộc hiểu lầm. Thực ra là chúng tôi chỉ đòi mọi người phải thực hiện nghiêm túc những gì hiến pháp quy định cho quyền được công bố tác phẩm của công dân. Hàng loạt tác phẩm của Bùi Ngọc Tấn, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Trần Bạt, Trần Đức Tiến, Hoàng Minh Tường, Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Trọng Thắng…và hàng loạt tác phẩm một thời bị coi là có vấn đề như của Lê Minh Khuê, Hồ Anh Thái, Nguyễn Quang Lập, Tạ Duy Anh, Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương….đều phải nhờ đến Nguyễn Khắc Trường mới được tái bản. Không có Nguyễn Khắc trường trong khoảng gần 10 năm ở nhà xuất bản, thì uy tín của nhà xuất bản sẽ không bao giờ có được như hiện nay.
Nếu không nhờ Nguyễn Khắc Trường, ít nhất có hai chục cuốn sách làm vẻ vang cho Nhà xuất bản, vẻ vang cho Hội nhà văn trong đó có những cuốn sách làm thay đổi hình ảnh đất nước theo chiều hướng đẹp lên trong con mắt người ngoài, sẽ vĩnh viễn cứ chỉ là bản thảo hoặc quá lắm thì lang thang trên mạng với sự tiếp nhận không trọn vẹn, không thể hiệu quả như họ đã đọc trên bản in với danh nghĩa Nhà xuất bản hội nhà văn.

Không ít lần, vì nhiều chuyện mà tôi thấy mệt mỏi, chỉ muốn bỏ cuộc nếu không có sự trợ sức mạnh mẽ từ Nguyễn Khắc Trường. Mà ông chả cần nói gì nhiều. Ông chỉ cần ngồi sờ cằm, gật gù, ề à, miệng mủm mỉm hoặc vỗ đùi cười ngất ngú…đã đủ khiến người khác an lòng. Nếu lại rủ được ông đi thịt chó lá mơ thì kể như mọi bức bách được giải toả. Ông có cái uy của một nhà văn nổi tiếng, điều đó khỏi phải bàn. Nhưng Nguyễn Khắc Trường còn có cái uy của một người không bao giờ lèo lá mà chỉ biết nói thẳng. Rất ít người sống thẳng thắn như ông mà không bị nhiều người khác ghét bỏ. Họ ngại ông, bị ông át vía nhưng lại thích gần gụi để nghe ông nói và cười một cách hào sảng, hào sảng theo kiểu của anh nông dân dư dật, hơi tự mãn nhưng tốt bụng.

Nguyễn Khắc Trường cũng là người có nguyên tắc sống đáng nể. Ông rất biết mình là ai, có thể làm gì. Mặc dù có nhiều điều bất mãn với thời cuộc, như bất cứ ai yêu cái cuộc đời này, nhưng ông chấp nhận luật của cuộc chơi rất sòng phẳng và nghiêm túc. Không chơi thì thôi, khỏi bàn. Đã chơi thì không phá bĩnh, không miệt thị theo kiểu hàng tôm hàng cá, không đánh lén, không ném đá giấu tay. Ông muốn mọi sự phải minh bạch. Ông là người có khả năng điều chỉnh rất giỏi gianh giới giữa kẻ nghệ sỹ tự do và con người của công việc vốn không thể hành xử chỉ vì cá nhân mình. Nhưng đó cũng lại là bi kịch lớn nhất của ông, thứ duy nhất ông không thể chia sẻ và rất ít người hiểu được.

Ông cũng là số ít người khiến cho tôi cảm thấy thiếu vắng khi không gặp ngày ngày sau khi ông về hưu. Sống một thời gian với Nguyễn Khắc Trường, tôi nhận ra, ông thuộc số không nhiều những người đàn ông đáng chơi nhất và khi đã chơi có thể hoàn toàn tin tưởng nếu cần phải nói ra bất cứ chuyện gì.


Tran Quang Dai Email
01/05/2012 13:24
 

No comments:

Post a Comment