Saturday, December 1, 2012
NGUYỄN THIÊN THỤ * VIỆT NAM NIỀM THƯƠNG NỖI NHỚ
VIỆT NAM NIỀM THƯƠNG NỖI NHỚ
NGUYỄN SONG ANH
VÕ PHƯỚC HIẾU
HƯƠNG CAU-PARIS-2011
332 trang,
Song Anh 7 bài , Võ Phước Hiếu 3 bài
VÕ PHƯỚC HIẾU
HƯƠNG CAU-PARIS-2011
332 trang,
Song Anh 7 bài , Võ Phước Hiếu 3 bài
Nội dung gồm bảy bài viết của Song Anh và ba bài viết của Võ Phước Hiếu. Phần lớn là biên khảo.
Bảy bài đầu của Song Anh là bảy bài biên khảo về lịch sử Miền Nam và tư tưởng của các bậc tiền nhân Lý Trần, Nguyễn. Bảy bài này cũng nói lên cảm nghĩ của tác giả đối với nưóc Việt Nam gồm Biên Hòa, Bình Dương, Hà Nội.
Ba bài của Võ Phước Hiếu là những bài:
+Tập Tành Chữ Nghĩa
+Khuê Phụ Thán, Một Thể Loại Liên Hòan đặc thù Miền Nam
+Chút Tình Tưởng Nhớ anh Võ Thu Tịnh
Bài mở đầu của Song Anh, "Vào xuân lá rụng" là một hồi ký về thuở đi dạy học ở "một tỉnh lỵ vừa mới được thành lập giữa chiến khu D miền Đông đất đỏ", bốn bề là rừng núi cao su bạt ngàn" (14)
Song Anh đã sống ở nơi đó, đã qua Phước Thành, Phú Giáo, Tân Uyên, Hớn Quản, Lộc Ninh, Bình Long, Dầu Tiếng, Lai Hưng, Lai Khê... và Dĩ An (18).
Sống trong rừng cao su, tác giả đã cảm thông cho nỗi khổ của dân nghèo, nỗi khổ của những người thợ cao mủ cao su, và gia đình họ, cụ thể là đám học trò của ông, con của những công nhân cao su miền Đất Đỏ: "Từ rừng núi bạt ngàn cao su với bao nỗi đắng cay, nghèo khổ, tôi đã sống những năm tháng vui buồn nơi mảnh đất khô cằn cùng đồng bằng và lam lũ" (19).
Bài viết thứ hai trong tập là "Bước đầu tìm hiểu cuộc đất", Song Anh viết về lịch sử miền Đất Đỏ như Dĩ An, Châu Thới, và công trình khai phá của chúa Nguyễn. Ông cũng ghi lại cuộc chiến giữa chúa Nguyễn và Tây Sơn... Những bài tiếp theo, Song Anh viết về thi ca Lý Trần, về Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Tản Đà.. .
Bảy bài đầu của Song Anh là bảy bài biên khảo về lịch sử Miền Nam và tư tưởng của các bậc tiền nhân Lý Trần, Nguyễn. Bảy bài này cũng nói lên cảm nghĩ của tác giả đối với nưóc Việt Nam gồm Biên Hòa, Bình Dương, Hà Nội.
Ba bài của Võ Phước Hiếu là những bài:
+Tập Tành Chữ Nghĩa
+Khuê Phụ Thán, Một Thể Loại Liên Hòan đặc thù Miền Nam
+Chút Tình Tưởng Nhớ anh Võ Thu Tịnh
Bài mở đầu của Song Anh, "Vào xuân lá rụng" là một hồi ký về thuở đi dạy học ở "một tỉnh lỵ vừa mới được thành lập giữa chiến khu D miền Đông đất đỏ", bốn bề là rừng núi cao su bạt ngàn" (14)
Song Anh đã sống ở nơi đó, đã qua Phước Thành, Phú Giáo, Tân Uyên, Hớn Quản, Lộc Ninh, Bình Long, Dầu Tiếng, Lai Hưng, Lai Khê... và Dĩ An (18).
Sống trong rừng cao su, tác giả đã cảm thông cho nỗi khổ của dân nghèo, nỗi khổ của những người thợ cao mủ cao su, và gia đình họ, cụ thể là đám học trò của ông, con của những công nhân cao su miền Đất Đỏ: "Từ rừng núi bạt ngàn cao su với bao nỗi đắng cay, nghèo khổ, tôi đã sống những năm tháng vui buồn nơi mảnh đất khô cằn cùng đồng bằng và lam lũ" (19).
Bài viết thứ hai trong tập là "Bước đầu tìm hiểu cuộc đất", Song Anh viết về lịch sử miền Đất Đỏ như Dĩ An, Châu Thới, và công trình khai phá của chúa Nguyễn. Ông cũng ghi lại cuộc chiến giữa chúa Nguyễn và Tây Sơn... Những bài tiếp theo, Song Anh viết về thi ca Lý Trần, về Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Tản Đà.. .
Bài "Thiết thực kỷ niệm nghìn năm Thăng Long" của Song Anh rất đặc sắc. Ông phê phán cái phô trương dối trá "Ngàn
năm Thăng Long" của Việt Cộng. Ở trời tây nhưng Song Anh đã nhìn thấy
rõ thực trạng ế chề của Thiên Đường Cộng sản Việt Nam. Ông nhận định
rất chính xác:
"Những giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc, phẩm giá và nhân cách của con người Việt Nam bị coi
thường, rẻ rúng, nhất là hình ảnh người phụ nữ. Một nền giáo dục chỉ
đào tạo những " con người mới xã hội chủ nghĩa" phản ánh thực chất phi
tự do , phi nhân bản mà hậu quả tệ hại từ bao thập niên vẫn còn tiếp
diễn ngày càng xấu hơn.
Con người "lao động xã hội chủ nghĩa"
tự mãn, khoe khoang số sản xuất lao động phổ thông nhưng thực chất họ
không có trình độ học lực, không có trình độ chuyên môn. Ra nước ngoài,
số lao động này phải bán hoặc thế chấp ruộng vườn nhà cửa hoặc vay nợ
để có 15 ngàn đô la mua lấy hộ chiếu
qua đám môi giới lao động. Mà họ rất xấu hổ khi cầm hộ chiếu Việt Nam (
lời Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt)
Bên
Á châu, phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài chỉ để giữ em, làm việc nhà. .
nhưng thực tế đau lòng là "lấy chồng" ngoại quốc hoặc bi thảm hơn phải
sa vào con đường trụy lạc khác đề có tiền trả nợ "hộ chiếu".
Bên
Âu châu, Mỹ châu, mang "hộ chiếu doanh nghiệp" hoặc hộ chiếu lao động
nhưng rồi đến nơi thì đứng bán thuốc lá lậu, bán áo quần giả nhãn.. .
rồi đi " trồng cỏ" (trồng cần sa) cho các Mafia Việt Nam, để có tiền
trả nợ hộ chiếu" và hy vọng có chút vốn liếng hồi hương. Ở NewYork,
Texas, Houston,. . . ở cộng hòa Tiệp , ở London, ở Đức, báo chí ngoại
quốc đã đưa tin không biết bao nhiêu vụ người lao động Việt Nam bị bắt
vì" trồng cỏ" (193-94).
" Tập tành chữ nghĩa" là
thiên hồi ký của Võ Phước Hiếu. Võ Phước Hiếu từ trước đến nay vẫn
theo đường lối văn học đồng quê, văn học miền Nam. Từ tác phẩm đầu tay
cho đến tác phẩm này, Võ Phước Hiếu vẫn nhất quán về chủ đề đời sống
thôn quê Miền Nam. Có hai cảnh thôn quê trong tác phẩm của Võ Phước
Hiếu, một là cảnh thôn quê thanh bình trước 1945, và một thôn quê đau
khổ sau 1945 là khi có lá cờ máu phất phơ ở thôn quê và thành thị.
Trong VIỆT NAM NIỀM THƯƠNG NỖI NHỚ, Tập Tành Chữ Nghĩa là một
thiên hồi ký về Miền Nam trước 1945. Đó là nơi ông sinh trưởng, xóm
Phú Thứ, làng Phước Lợi, miệt Gò Đen, gần Sài Gòn. Ông nói về cuộc
sống bình dị nhưng ấm áp tình người ở nơi thôn quê.
Ông đã nói về các trò chơi của trai trẻ nơi thôn quê.
Bất quá chiều chiều, lúc trời êm nắng
dịu , mặt trời thoi thóp chưa kịp phụp hẳn xuống cuối chân trời xa,
đám thanh niên trang lứa " bẻ gãy sừng trâu" hú gọi nhau, tốp năm, tốp
ba lần lượt đổ ra mấy gò đất hoang
hay đồi trọc để đánh trống. Chủ yếu của họ là lấy sức lực và mưu mẹo
ganh đua, ăn thua nhau. Rồi nhóm nào thua bị phạt chạy tiếp sức băng
đồng, vừa chạy vừa u không đượt đứt hơi.
Hoặc
họ tụ tập ở sân phơi lúa khang trang rộng rãi của mấy ông đại điền chủ
để u mọi, quến mấy cụ già chăm nom theo dõi để nhung nhớ một thời vàng
son đã qua. Họ bắt giò, bắt cẳng, vật nhào lăn cù, giúp họ lùa xa
những phiền nhiễu vướng bận hàng ngày . ( 203)
Ông cho biết sơ lược về sinh hoạt văn hóa của dân chúng vùng này. Dù là vùng thôn quê, các trẻ cũng được học hành :
Đám trẻ nhóc con nầy bập bẹ đọc ạch đụi, đọc trật vuột, nhiều câu
phản nghĩa trầm trọngmà chúng một mực phây phây tỉnh bơ, xem như không
có chuyện gì xảy ra. Đôi khi lộn đầu lộn đuôi, thậm chí chúng lộn luôn
cả dấu giọng rất ngây ngô nhưng dễ thương, khiến bao nhiêu người nghe
đang ngồi chung quanh đâu đó không nín được cười nghiêng cười ngửa đến
trào nước mắt, không cách nào cầm lại được. (205)
Dân chúng rất thích nghe truyện, đọc sách những tác phẩm thời danh lúc bấy giờ:
Nào là Phong Thần Diễn Nghĩa, Thuyết
Đường, Thiết Nhơn, Quý Chinh Đông, Tiết Nhơn Quý Chinh Tây, Tam Quốc
Chí, Thủy Hử v.v... Những thiên truyện được mến mộ một thời này được các
nhà xuất bản lớn ở Sài Gòn in từng tập định kỳtrên giấy mỏng te trắng
phau, giống như giấy quyến hút thuốc, được bày bán dẫy đầy, không thiếu
một tập nào ở chợ quận. (205-206)
Thiên Hồi Ký này cũng là một nét phác họa xã hội Miền Nam thời đó về mặt
văn hóa. Đình làng là một văn hóa của chung Việt Nam. Đó là nơi sinh
hoạt chung của dân chúng, là nơi gìn giữ phong tục, tín ngưỡng cũ. Văn
hóa đó là tôn trọng tiền nhân đã lao động và chiến đấu. Đó cũng là nơi
sinh hoạt tập thể của dân làng, không phân biệt già trẻ, tôn giáo, tuổi
tác, đẳng cấp. Linh hồn của văn minh đình làng là lễ tế thần, Kỳ Yên,
các cuộc vui chơi tập thể.
Trước đây, một số người chỉ trích và cấm đoán việc cúng thần.. Họ cho
đó là mê tín, dị đoan, phong kiến, lạc hậu. Họ không biết rằng các tục
lệ về lễ hội là sợi dây liên lạc nối liền quá khứ với hiện tại, nhất là
mối thân thiết giữa những người trong thôn xóm. Nó đề cao tinh thần
trách nhiệm, nó đề cao mối liên lạc
xã hội, đó mới là tinh thần xã hội thực sự. Trước đây, từ Ngô Tất Tố,
các nhà " cách mạng", các chiến sĩ "duy tân" và duy vật đã chỉ trích tục
ăn uống ở thôn quê, nhất là tục cúng tế, xôi thịt, rượu chè ở các
đình, miếu, nhưng nay thì ta thấy dưới chế độ cộng sản
thì nạn ăn uống kèm theo hối lộ, và mua bán dâm lên cao độ. Té ra
"phong kiến" khá hơn cộng sản nhiều. Các ông chạy theo cộng sản rồi bị
cộng sản giết như Ngô Tất Tố, thiệt là thảm thiết! Chửi thực dân để thấy
thực dân tốt hơn cộng sản, mạ lỵ phong kiến để rồi thấy phong kiến có
tình người hơn, tao nhã hơn, văn minh hơn cộng sản!
Cộng sản phá đình chùa coi như là phá tàn tích phong kiến hủ lậu nhưng với
quan niệm chung của các nhà dân tộc học cũng như quan điểm của tác giả đình làng là một trung tâm văn hóa.
Hôm nay, quả là ngày vui thường niên
trong làng, ngày cúng Kỳ Yên mà mọi người nam nữ lớn nhỏ đều mỏi mắt
trông đứng trông ngồi từ nhiều tháng trước. Đồng bào nơi thôn quê nôm na
gọi là ngày cúng đình thần. Mỗi năm, ngày này được dân làng chung sức
chung lòng, kẻ có công người có của chung lo tổ chức rất linh đình trọng
thể. Vì theo tín ngưởng lâu đời còn lưu truyền lại không biết từ đời
thuở nào, hẳn là từ thuở thất tổ huyền tổ xa xôi của họ đã tiên phuông
dấn thân xuôi miền Nam mở đất, khẩn hoang lập ấp. Họ cho rằng vị thần
đình là một mẫu người vượt lên trên hết. Ngài đã có công to hiển hách
lúc sinh tiền nên được dân làng kính yêu, ngưỡng mộ và trọng vọng. (209)
Đình làng là trung tâm sinh hoạt cộng
đồng, nơi cả làng vui chung, nơi tập tinh thần trách nhiệm, tinh thần
tập thể và sự đoàn kết trong cộng đồng:
Theo thông lệ ấy đã được liên tục tiếp
nối mãi cho đến nay, hằng năm bà con làng tôi chọn ngày cúng đình nhằm
vào những ngày lọt thỏm trong tháng giêng ta. Tức khi họ đã gặt hái xong
xuôi đâu vào đó, không còn sót bao nhiêu nơi dang dở, để trơ cánh đồng
một màu bát ngát vàng mơ những rơm rạ. Và cũng theo tục lệ ăn sâu bám rễ
đó, mỗi năm, ban tế tự chọn lấy một tráng đinh đứng ra chịu trách nhiệm
tổ chức ngày lễ trọng đại nầy. Rồi cứ lần lượt luân phiên nhau cho đến
khi không còn sót một tráng đinh nào khác trong làng, họ mới bắt đầu trở
lại người khởi đầu. Và theo chu kỳ không thành văn nầy, họ thống nhứt
nhau trong việc áp dụng nhuần nhuyễn cho những năm về sau..
Nói chịu trách nhiệm tổ chức buổi lễ cho
thêm phần long trọng, có tính cách đề cao để họ kê vai gánh vác một
nhiệm vụ công đức có ý nghĩa trong đời. Kể từ ngày đó, họ được xem như
chánh thức là người lớn, người đã trưởng thành trong cộng đồng, với vị
trí và trách nhiệm minh bạch rõ ràng. Và cũng từ ngày đó, họ cố gắng xử
sự vuông tròn theo đúng phong cách và đức độ của truyền thống ông bà,
làng xóm. Nhưng thực ra, mọi gia đình đều có đóng góp ít nhiều phần mình
trong ngày lễ, tùy hoàn cảnh và khả năng mình, trước cúng dâng thần
linh, sau cùng nhau chung vui hậu hỉ. (209)
Xã hội nào, tổ chức nào cũng có sự ăn uống, tôn giáo nào cũng có sự thờ
cúng ( cộng sản trước đã thờ cúng ông Mao, nay lại bắt dân cúng ông Hồ) ,
thế mà trước đây người ta chỉ trích việc cúng tế, ăn uống. Ở đây có
cúng tế, đó là do tự nguyện, tự giác, là tấm lòng biết ơn tiền nhân, rất cao đẹp:
Người nầy một mâm xôi nếp, xây khéo léo,
mô tròn vung hẳn lên. Xôi nếp ngon, vừa dẻo vừa thơm, màu trắng tinh
tuyền đồng nhứt, đẹp mắt. Nhưng nhiều bà trọng tuổi còn cầu kỳ khoe tài,
vẽ duyên cho thêm chút ít màu vàng vàng óng mượt như nghệ, hoặc màu lá
dứa xanh lơ thơm phưn phứt hay màu gấc tim tím u buồn trông lãng mạn
nhưng hấp dẫn lắm. Từ lúc sáng trắng, khi chim chóc bắt đầu líu lo bên
chòm tre khóm trúc, họ đã đội gọn lỏn mâm xôi trên đầu, khoan thai rảo
bước trên đường đê, đường mòn quanh co uốn éo, đôi khi băng qua những
thửa ruộng khô nức nẻ, mong cho mau đến cổng vòng nguyệt xây trước mặt
đình thật sớm. Sau đó, họ trịnh trọng đặt lên bàn thờ óng ánh lư hương,
chân đèn với khói nhang nghi ngút không ngớt quyện xoáy thẳng lên trần
nhà.Người kia một mâm trái cây vườn nhà vừa mới hái, loại trái chiến to
lớn chín cây no tròn,thơm thơm mùi hoa đồng nội cỏ, căng da đỏ mộng bắt
mắt người ngắm nhìn. Người khác đôi ba buồng cau tơ sai trái, ú na ú nú
hoặc năm bảy trái dừa khô loại dừa bị to lớn nặng trìu trịu. Thêm vào đó
còn có nào bầu, nào bí, dưa chuột dưa gan, các thứ khoai củ như khoai
mỡ, khoai lang bí, khoai từ, khoai mì… ngoài rau cải xanh tươi đủ loại,
trông thấy phát ham phát thèm v.v... Ai có sản phẩm gì trong gia đình,
dù ít dù nhiều, cứ mang đến, nhằm chứng minh tấm lòng mình đối với ngày
đại lễ. Tấm lòng của họ quan trọng hơn cả lễ vật. Những người giàu có
hoặc thừa thãi khá giả sai người làm công thân tín khúm núm mang đến nào
gà nào vịt, loại gà trống thiến mập lút trổ mã, sắc màu tươi mướt, loại
vịt xiêm tơ sà đắc tiền, ít người có điều kiện vói tay tới. Mỗi người
một con hoặc hai ba con. Chúng bị buộc chân buộc cẳng nằm la liệt nơi
mấy hàng cột phía sau đình, thỉnh thoảng vỗ cánh đập
bành bạch chờ chết, kêu la toan toát. (209-210)
Cuối cùng ,tác
giả đưa ra lời so sánh, phê phán hai cuộc sống: cuộc sống thanh bình
ngày xưa và cuộc sống hối hả ngày nay. Đây cũng là mối ưu tư của các
triết gia trước biến chuyển của xã hội mới. Tác giả đã viết rất chí lý:
Xã hội thời đó đã mất hút trong sâu thẳm
dĩ vãng từ lâu rồi. Nhưng dù sao thời gian cũng không thể xóa nhòa
những kỷ niệm. Bây giờ chỉ chớp tắt thoáng hiện trong trí nhớ của một số
người còn nhung nhớ, quan tâm đến cội nguồn gốc rễ. Cái thuở con người
thanh thản thư thả, không hề vướng bận với những ràng buộc giờ giấc,
không bị căng thẳng với cái ăn cái mặc và những đòi hỏi bức bánh về tiện
nghi vật chấttrong đời sống hằng ngày…
Cái thuở mà con người không chút ngần
ngại đắn đo bỏ ra cả ngày cả buổi để giang ca dong dài, bàn thảo tranh
luận về mọi chuyện trên trời dưới đất, nhất là trong lãnh vực tao nhã
thơ ca thi phú, dù là tập tành qua sự hiểu biết quá giới hạng của họ…
Cái thuở đó ngày nay hầu như không thể
bắt gặp được nữa. Tiếc thay! Cuộc sống bây giờ quá đỗi hấp tấp, vội vàng
đến chóng mặt. Con người hầu như tất cả đều tranh nhau dẫm đạp chạy đua
theo giờ giấc hằng ngày, mà khốn thay họ không bao giờ thành công bắt
kịp cái bóng thời gian. Để rồi mãi mãi họ triền miên vướng mắc những
phiền hà tâm linh và những phiền toái tinh thần, một khi nhắm mắt lao
theo đeo đuổi mà không sao thoát ra được. Mặc dù phần vật chất và tiện
nghi quá ư đầy đủ dư thừa quá mức. Suy cho cùng, không biết con người
thời đại tân tiến hiện nay có thực sự sống sung sướng và hạnh phúc bằng
những ông Hai Thắng, thầy giáo Mạnh hay ông thầy thuốc Hai Thiện ngày
xưa hay không? Cho dù ở cái thuở xa xưa hun hút ấy, con người không hề
được thừa
hưởng trọn vẹn và đầy đủ những tiện nghi
và thành quả tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Những người này sống theo
thuyết định mệnh do chịu ảnh hưởng của lớp người trước. Mọi việc trên
cõi đời đều do ông Trời định đoạt cả. Cho nên họ chấp nhận an phận thủ
thường, bằng lòng với hiện tại, nếu có phấn đấu vương lên cũng chỉ bằng
mồ hôi thấm đẫm trên hai vạt áo mình. Không hề có sự bon chen ganh tỵ
bất chánh, tranh giành quá đáng, ham muốn thậm đa… khiến cho con người
không lúc nào bình ổn, thăng bằng trong nội tâm.
Có lẽ nhờ quan niệm sống nhàn nhã trong
sự gói ghém, biết đủ biết thiếu chừng mực và hợp lý, họ tạo được niềm
vui và hạnh phúc thật sự qua tiếng cười chân chất và phong cách xử dụng
giờ giấc thư thả mà con người văn minh tiến bộ ngày nay lắm lúc khó mà
tìm được. Mới hay cái quá khứ thuở nào vẫn có nhiều hấp lực lôi cuốn để
con người ngày nay mãi mãi nhắc nhở nhớ nhung để tiếc nuối?! Không những
chỉ ‘ba trăm năm sau’ mà cả ngàn năm sắp tới nữa, sự nhớ nhung nhắc nhở
ấy chắc chắn sẽ còn đậm đà sâu sắc trong tâm khảm của những thế hệ hậu
sinh.
Tóm lại, Việt Nam Niềm Thương Nỗi Nhớ là
một tác phẩm có thể làm ta nhớ quê hương, nhớ Việt Nam mà hiện nay
đang chìm trong quá khứ và trong đau khổ miên viễn và ta mong ước ngày mai trời lại sáng..
NGUYỄN THIEN THỤ
Ngày 1-12-2012.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 239
Saturday, December 1, 2012
NGUYỄN VĂN SỞ * GIÀ ƠI, CHÀO MI
Gìa ơi, chào mi!
NGUYỄN VĂN SỞ
Đặc biệt tặng các bạn đang già hoặc sắp già của tôi
Anh em chúng ta người trước kẻ sau ai rồi cũng già. Làm sao tránh được! Đã có "sinh" là có "lão". Một giai đoạn tất yếu của cuộc sống. Nếu ngày đầu tiên mình sinh ra mà đã biết nghe, biết nói, nếu có ai bảo rằng mỗi ngày mình lớn lên là một ngày mình sẽ già đi, và tiến dần về cõi chết, chắc chắn là mình đã không tin. Tại sao lại bi quan vậy?
Nói chi chuyện giả tưởng nghe như lối đặt câu với mệnh đề giả định trong một lớp học ngoại ngữ, ngay trong những giai đoạn trưởng thành từ thuở niên thiếu cho đến khi lăn lóc vào đời, có mấy ai ngừng lại vì những bận tâm liên quan đến lão suy hay lão hoá, trừ những thiền sư hay những chú tiểu trong chùa. Giòng sống cứ thế mà cuốn trôi đi, mỗi kiếp nhân sinh như một chiếc lá giữa giòng, trôi từ đầu nguồn ra sông, ra biển. Đâu có như con cá hồi (salmon) sau năm năm ở biển lại quay ngược trở về nguồn để sinh, để chết!
Trong lớp sinh lý học phổ thông, học sinh trung học đã được biết về tiến trình già-chết của các tế bào trên thân thể con người. Từng giây, từng phút. Nhưng biết để mà biết. Đó chỉ là chuyện tăng trưởng và đào thải trong thân thể con người! Hay trong lớp siêu hình học nhập môn, khi nêu lên những vấn nạn về cuộc sống như "Ta là ai?" , "Ta từ đâu tới?" hay "Ta sẽ đi về đâu?", thì cũng chỉ là để đáp ứng một nhu cầu giới hạn nhất định trong phạm vi lớp học. Rời khỏi trường rồi, còn mấy ai nhớ những buổi hăng say thảo luận về các vấn đề triết lý trừu tượng ngày xưa? Còn bao nhiêu chuyện quan trọng, bức bách hơn. Chuyện bây giờ lo đã muốn bức hơi, đa mang chi chuyện của ngày mai, chưa tới.
Nhưng cái già nó vẫn tới và tới với mình chầm chậm, từ từ. Nhiều khi nó đến rồi mà mình vẫn chưa hay. Sở dĩ như vậy là vì hình như ai cũng phải qua một giai đoạn tự phủ nhận (self-denial) trước khi chịu nhận là mình bắt đầu già. Giai đoạn này dài ngắn còn tùy ở cá tánh và hoàn cảnh của mỗi người.
Thật sự ra phải nói là cũng có người tuy tuổi đời còn thấp, nhưng trong cách suy nghĩ hay ứng xử xem ra thì đã có những phản ánh tiêu biểu của người già như phản ứng chậm chạp, nói năng lẩm cẩm, xoay trở vụng về, để đâu quên đó, còn đi lại thì như là người chỉ còn nửa bầu sinh khí.
Lại cũng có người tuy tuổi tác đã cao nhưng lúc nào cũng mau mắn, nhanh nhẹn, nói năng mạch lạc, lớp lang, đầu óc minh mẫn, sáng suốt, ưa thích những sinh hoạt ngoài trời như tắm biển, chơi thể thao, sẵn sàng tham gia các buổi họp mặt với bạn bè, không quá ngần ngại, đắn đo trước những chuyến đi xa, bao giờ cũng sốt sắng, vui vẻ, lạc quan, biết sống trọn vẹn với cái bây giờ thay vì bận bịu, lo toan về cái tương lai, chưa tới
Trong phạm vi bài này tôi không muốn kể lại đây những nhận định của các nhà chuyên môn về tuổi già và người già khi họ giải thích "thế nào là già" hoặc "tại sao ta già". Tôi chỉ muốn chia xẻ một số ghi nhận của chính bản thân mình, một người cũng đã quá cái ngưỡng 70, về những biến đổi tâm sinh lý trong con người mình cũng như về những khó khăn khi đối phó với những dấu hiệu biến đổi đó trước khi chấp nhận "chung sống hòa bình" với nó. Do đó mà có cái tựa đề như trên là "Già Ơi, Chào Mi!"
Tục ngữ Anh có câu "A man is as old as he feels, and a woman as old as she looks", nghĩa là cái già của đàn ông tùy thuộc vào cảm nghĩ của chính anh ta. Nếu anh ta vẫn cảm thấy mình trẻ trung, khỏe mạnh, thì tuổi tác có quan hệ gì đâu. Cũng như đối với người đàn bà, nếu dung nhan vẫn tươi tắn, mặn mà thì già trẻ cũng thế thôi, nhắc đến làm chi. Tựu trung già hay không là tùy ở cái đầu của mình. Bởi thế tôi rất tâm đắc với câu trích dẫn (không có ghi rõ tác giả) sau đây trong tập sách "Già ơi! Chào bạn!" của BS Đỗ Hồng Ngọc mà Anh Hà Quí Phú, một bạn đồng nghiệp cũ cùng tuổi ở Đà Nẳng, vừa gởi cho: "Age is mostly a matter of the mind! If you don't mind, it doesn't matter" (Tuổi tác là chuyện cái tâm, nếu ta không thèm quan tâm, chả có vấn đề tuổi tác!)
Nếu mình ngồi lại với nhau và hỏi nhau "Bạn thấy mình già từ lúc nào?" thì chắc chắn là mỗi người sẽ trả lời một cách, không ai giống ai. Nói như một người bạn của tôi, anh Tôn Thất Khoát : "Nếu ra bãi biển Santa Monica hay Malibu mà tình cờ được xem một màn quay "Baywatch" với những nữ tài tử trẻ trung, hấp dẫn trong show này diễn xuất bằng xương bằng thịt ngay trước mắt mình, nhởn nhơ, khêu gợi, mà trong lòng vẫn thấy dửng dưng, nguội lạnh thì phải nhận là mình đã già." Tếu, nhưng không phải là hoàn toàn sai. Khi chất testosterone trong cơ thể mình đã càng ngày càng khô cạn thì phản ứng như vậy đâu có gì là khó hiểu!Thật sự ra đối với các nhà khoa học thì dấu hiệu sinh lý của tuổi già đã được nghiên cứu từ lâu. Đại loại, nếu bỏ qua các giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi 20 đến tuổi 60 mà chỉ so sánh một người đã quá 60 với thời anh mới 20 tuổi, thì theo Curtis Pesman, tác giả cuốn "How a Man Ages," ta có thể ghi nhận những thay đổi như sau:
Ø Da mỏng hơn và chùng xuống, độ co giản của da càng ngày càng giảm sút, và qua nhiều năm tháng biểu lộ vui, buồn, sướng, khổ, những nét nhăn trên mặt đã hằn sâu và lớn.
Ø Tóc bạc, thưa, và nhẹ hơn, đường kính của tóc chỉ còn 86 microns (1 phần triệu của 1m) so với 101 microns hồi 20 tuổi.
Ø Hai tròng mắt bị co lại, mức độ ánh sáng vào đến võng mạc giảm đi, khó phân biệt được sự vật trong tối, do đó mà khi đọc cần phải có ánh sáng đủ.
Ø Tai không còn nghe được tiếng động trên tầm 10,000 hertz, như tiếng hót của chim, vì chức năng chuyển thể độ rung từ tai ngoài vào tai trong đã suy thoái.
Ø Men răng càng ngày càng mòn dần vì quá trình nhai, nghiến, trong khi đó lợi răng co rút lại, làm lộ rõ khoảng trống giữa các chân răng.
Ø Xương mất dần calcium, trở nên xốp, dòn, dễ gãy, lớp sụn ở các đầu khớp không còn nguyên vẹn, chất nhờn giữa các khớp khô đi, sinh ra di chuyển chậm, khó khăn.
Ø Tim không còn bơm đủ máu ra khắp châu thân, một phần do cholesterol đóng dày trên thành động mạch làm tim phải hoạt động nhiều hơn mới bơm được máu đi.
Ø Các cơ bắp làm cho phổi hoạt động bình thường suy yếu dần, độ co giản của lồng ngực yếu đi, làm cho lượng dưỡng khí hít vào chỉ còn bằng một nửa thời 20 tuổi.
Ø Trọng lượng của thận giảm từ 20% đến 30%, sức lọc chất thải của thận chỉ bằng nửa hồi trẻ, và sức chứa của bọng đái cũng chỉ còn chừng một nửa (8 fluid ounces, khoảng non 230cl).
Ø Với năm tháng qua đi, khối não cũng rút nhỏ lại và giảm trọng lượng, hàng tỷ tế bào não bị mất đi, trí nhớ bị giảm sút.
Những thay đổi trên thì ít nhiều ai cũng nhìn thấy, nhất là nơi người khác. Với tôi, đèn đỏ đầu tiên báo động tiến trình lão suy đã bắt đầu là cách đây 15 năm (1995), lúc tôi phải vào Bệnh viện Hoag ở Newport Beach để mổ tim và thay van (mitral valve). Trước khi vào phòng mổ tôi cũng đã cố tìm đủ mọi lý do để tự thuyết phục cho quyết định của mình, mà lý do nặng ký nhất vẫn là "wear and tear." Có tốt đến đâu mà dùng lâu ngày cũng phải mòn, phải rách. Cũng như chạy xe thì đến lúc cũng phải thay 4 vỏ xe. Cũng như cái máy giặt trong nhà, cái lò trong bếp, hay cái bóng đèn trên trần. Sử dụng cẩn thận đến đâu đi nữa thì đến lúc hỏng cũng phải thay. Nhưng thay van là để được sinh hoạt bình thường trở lại, đâu có nghĩ là cơ thể mình đã bắt đầu già!
Rồi 3 năm sau khi mổ, theo khuyến cáo của những người có thẩm quyền, tôi lại phải ngưng chơi tennis, một thú tiêu khiển cuối tuần mà bao nhiêu năm ròng tôi thích thú đeo đuổi với tất cả hăng say, nhiệt tình. Lý do là chứng đau nhức phần lưng dưới (lower back) cứ dai dẳng, không dứt. Bản án thứ hai: Sau khi xem hình quang tuyến chụp phần lưng dưới, bác sĩ phán là tuy chưa trầm trọng nhưng đã có dấu hiệu suy thoái giữa các khớp xương L2-L3, L3-L4, và L4-L5 là các khớp xương ở phần lưng dưới, nghĩa là chất nhờn đã khô đi, lớp sụn bao quanh các khớp đã mòn (Multilevel Degenerative Disease), khoảng cách giữa các đốt xương sống ở vùng này đã rút ngắn lại, và các ngạnh của khớp xương đã bắt đầu nhô ra (Multilevel Spondylosis). Tóm lại đây là dấu hiệu của bệnh lão suy. Nhưng nói là "bệnh" thì nghe ghê quá! Làm sao tuổi mình mà gọi là già!
Tuy nhiên với bản án khắc nghiệt đó tôi bắt đầu âm thầm tìm cách cưỡng chống lại, ít nữa là cũng để "trì hoãn chiến". Theo các bác sĩ tây y thì không có thuốc chữa. Có loại thuốc với hỗn hợp của hai chất glucosamine và chondroitin được quảng cáo ầm ĩ là có thể làm giảm đau ở các khớp thì Cơ quan Quản trị Thực và Dược Phẩm (U.S. Food &
Drug Administration) lại chưa chuẩn nhận là có giá trị lâm sàng. Đồng thời nó cũng có thể có phản ứng nghịch đối với các loại thuốc làm loãng máu. Chất nhờn giúp các khớp chuyển động dễ dàng, tự nhiên, là của "trời cho", đến một tuổi nào đó sẽ khô dần đi, không có thần dược nào có thể tái tạo nó lại được. Nhưng các bác sĩ đông y lại quả quyết là được. Đau ở lưng là do gan nóng, hoặc thận suy. Nếu kiên nhẫn uống theo toa của các vị này đảm bảo sẽ lành. Thế là lại âm thầm đi bổ thuốc, nghe thầy nào hay xa đâu cũng tìm đến, thuốc sắc (ba, bốn chén còn một), thuốc tể, thuốc ngâm rượu. Thử hết, xem có kết quả gì không. Nhưng cái đau âm ĩ vẫn còn.
Cái khó đối với tôi còn ngặt nghèo hơn so với những anh em khác cùng bịnh trạng là tuy đau nhưng không thể dùng các loại thuốc giảm đau hiện có vì sợ phản ứng nghịch với loại thuốc làm loãng máu (Coumadin) mà tôi vẫn phải uống hằng ngày sau khi thay van nhân tạo bằng kim loại.
Song song với những cố gắng chữa trị bằng thuốc, tôi còn tìm cách thăm dò, luyện tập theo nhiều phương pháp khác nhau, mỗi cách đều có một mức độ công hiệu nhất định, do bằng hữu hoặc các anh chị sinh viên đã từng có thời học ngoại ngữ với tôi biết tôi đau nên đề nghị luyện tập thử. Cũng xin kể ra đây những môn tôi đã có tập qua để có anh em nào đồng bệnh cùng trao đổi kinh nghiệm cho vui:
Ø Yoga (Hatha Yoga và Pilates Yoga) tại các trung tâm 20-Hour Fitness.
Ø Khí công Thiếu Lâm Tự, theo cách hướng dẫn của tác giả Wong Kiew Kit trong cuốn Chi Kung for Health and Vitality.
Ø Phương pháp thở sâu, chậm, nhẹ, và đều trong cuốn Wujishi Breathing Exercise của tác giả Men Den.
Ø Phương pháp Đạt Ma Dịch Cân Kinh.
Ø Phương pháp Thiền Vô Cực do Thầy Tôn Thất Hanh, nguyên giáo sư Quốc Học, Huế, giới thiệu.
Ø Phương pháp Hồi Xuân gồm năm thế tập của các tu sĩ Tây Tạng do Peter Kelder thuật lại trong cuốn Ancient Secret of the Fountain of Youth.
Ø Thái Cực Quyền.
Tôi đã tập qua các phương pháp được giới thiệu cũng như một số phương pháp khác do các bạn thân quen vốn là võ sư chỉ giáo mà tôi không tiện kể hết ra đây, mỗi môn tôi tập một thời gian để tìm xem phương pháp nào phù hợp cũng như thuận tiện và công hiệu với mình nhất. Mấy năm gần nay tôi cố gắng đều đặn tọa thiền mỗi buổi sáng (theo Sổ tức quán) và tập Thái Cực Quyền là chính. Và đã thấy có phần nào giảm đau, không gay gắt như những năm trước đây.
Điều đáng nói không phải là chuyện phải kiên trì tập luyện, vì đây là nhu cầu sinh tử, mà chính là mình phải trực diện với thực trạng của thân thể mình, coi lão hóa là một phần của tiến trình tất yếu, tự nhiên, không có gì phải quá lo âu, sợ hãi. Và như đã nói ở trên, biết nó làm khổ mình, nhưng vẫn phải làm lành với nó, chung sống hòa bình với nó, thực tế khắc chế nó được đến đâu hay đến đó, không nôn nóng, hối hả, không trông chờ phép lạ mà mình biết ở tuổi này khó còn có thể xảy ra.
Gần đây tôi lại tình cờ đọc được bài "Tính Tuổi Theo Lối Mới" (Calculate Your Age in Neo-Years) trên trang nhà của Giáo sư Tiến sĩ Davis Demko có liên quan đến cách suy nghĩ về tuổi già. Theo ông, 75% tiến trình lão hóa của con người có thể điều chế được do tác động của sáu yếu tố sau đây:
Ø Khắc chế yếu tố di truyền. Dĩ nhiên yếu tố di truyền tạo cho mỗi con người một tình trạng có thể bị mắc những bệnh mà cha mẹ người đó đã từng bị, nhưng những phương pháp phòng ngừa và bảo vệ sức khỏe hiện đại, nếu áp dụng đúng mức, có thể làm giảm đi rất nhiều tính đe dọa của yếu tố này.
Ø Tập thể dục, thể thao. Rất nhiều các chứng đau nhức phát sinh do thiếu hoạt động. Nếu luyện tập thường xuyên thì hệ thống tim mạch sẽ được bảo toàn, xương và bắp thịt sẽ rắn chắc, khỏe, và sự phối hợp chân tay sẽ nhịp nhàng, hữu hiệu.
Ø Tinh thần luôn được kích thích. Những người tưổi cao mà vẫn có những sinh hoạt tinh thần đều đặn và đầu óc luôn luôn được kích thích, suy nghĩ, tìm tòi như đọc sách, học ngoại ngữ, chơi ô chữ, hay tham gia vào các cuộc thảo luận hứng thú sẽ giữ được tinh thần minh mẫn, tỉnh táo lâu dài.
Ø Có tập quán dinh dưỡng tốt. Cách tốt nhất để chống lại già trước tuổi hay bệnh tật. Thức ăn là năng lượng. Phải tìm hiểu những phương cách dinh dưỡng lành mạnh, cũng như những sinh tố hay khoáng chất mà cơ thể mình cần.
Ø Sống có ý nghĩa. Sống phải có những mục đích đáng đeo đuổi. Ý thức rõ mục đích công việc mình đang làm dễ gây cho mình cảm hứng, giúp mình tập trung, chú ý, tránh được buồn nản, bẳn gắt, và kết quả tích cực sẽ nâng cao giá trị của chính mình.
Ø Biết phòng ngừa bệnh tật. Đây là yếu tố quan trọng có giá trị điều chế tiến trình lão hóa. Cần khám tổng quát thường xuyên để kịp ngăn chận các bệnh hiểm nghèo. Đừng bao giờ nghĩ là các chứng đau nhức hành hạ mình chỉ là hậu quả của tuổi già.
Sau khi phân tích các yếu tố nói trên, Giáo sư Demko đề nghị một lối tính tuổi mới mà ông cho là chính xác hơn. Ông đặt tên cho công thức tính tuổi của ông là: DNA-Plus. DNA là viết tắt của Demko's Neo Age, Plus ngụ ý là già với những đặc tính tích cực. Công thức DNA-Plus tính trung bình của 4 lọai tuổi:
Ø Tuổi thời gian, tính theo số năm đã sống.
Ø Tuổi thể chất, tính theo tình trạng sức khỏe.
Ø Tuổi xã hội, tính theo mức độ sinh hoạt hằng ngày trong việc làm, đời sống gia đình, giải trí, hay các công tác thiện nguyện.
Ø Tuổi tâm lý, tính theo khả năng đối phó với khủng hoảng, mâu thuẫn, sự căng thẳng trong đời sống, hay thích ứng với mọi sự thay đổi bất ngờ.
Nếu áp dụng công thức này cho một người đã sống đến 80 năm (tuổi thời gian), có tình trạng sức khỏe của một người sống 70 năm (tuổi thể chất), có mức độ hoạt động của một người sống 60 năm (tuổi xã hội), và có khả năng ứng phó của một người mới sống 50 năm (tuổi tâm lý), thì tuổi trung bình của người này sẽ là (80+70+60+50) : 4 = 65 tuổi (Neo Years), nghĩa là tuổi chính xác của người này chỉ mới 65 chứ không phải là 80 theo cách suy nghĩ thông thường.
Bởi vậy cho nên, các Anh các Chị ơi, hãy mỉm cười như tôi mỗi buổi sáng khi thức dậy và bắt đầu ngày mới với một nụ cười: Già ơi, Chào Mi!
Vâng, đúng vậy. Tuổi già đã đến với tôi, và tôi đã làm thân với nó. Vì tò mò tôi cũng đã tính tuổi tôi theo công thức DNA-Plus của Giáo sư Demko. Bây giờ đến lượt Anh và Chị. Anh, Chị thử tính xem mình bao nhiêu tuổi?
Nguyễn Văn Sở
TRẦN ĐAN HÀ *VIỆT NAM, NIỀM THƯƠNG NỖI NHỚ
Trần Đan Hà
Đọc sách:
VIỆT NAM, Niềm Thương và Nỗi Nhớ
Tuyển tập Nguyễn Song Anh & Võ Phước Hiếu
Việt
Nam Niềm Thương và Nỗi Nhớ, là tuyển tập của hai nhà văn mà bản
chất có nhiều nét giống nhau như hai giọt nước, như cặp song
sinh. Dĩ nhiên cũng có đôi điều khác biệt, nhưng lại giữ được
yếu tính trung hòa, tạo nên một “bản đàn thôn dã“ để tấu lên
những khúc ca vọng âm từ hồn thiêng sông núi, của tình cảm con
người, của khát vọng vươn lên và đi tới để hòa chung với nhịp
điệu của thiên nhiên, nền tiến hóa của nhân loại làm nên một
tình tự quê hương và dân tộc Việt rất đặc thù và linh động.
Hai tác giả đã cố gắng vẽ lại dung nhan của một quê hương Việt
Nam, nơi muôn đời yêu thương và nhớ nhung mỗi khi khuất cách.
Hay nói một cách khác đây là tập truyện viết về lịch sử, địa lý,
phong thổ, những sinh hoạt cũng như tình cảm con người, tương
quan với phong tục tập quán lâu đời.
Hai cây bút cùng quê miền Nam, đều xuất thân nhà giáo, có tâm
hồn yêu mến văn chương thi phú. Thích trau chuốt chữ nghĩa để
làm phong phú thêm cho nền văn hóa nước nhà, đồng thời góp phần
gìn giữ gia sản của tổ tiên.
Một người đã từng tốt nghiệp Cử nhân Văn chương Việt – Hán,
Nguyễn Song Anh, nguyên Hiệu trưởng các trường Trung học Phước
Vĩnh, Phước Thành, Dĩ An Biên Hòa.
Còn một người tốt nghiệp trường Tây, Võ Phước Hiếu, từng chăm lo
một nhà xuất bản tại Sài gòn trước năm 1975 và bây giờ ra hải
ngoại vẫn làm việc trong ngành Giáo dục và cộng tác với các tờ
báo Pháp cũng như báo Việt.
Một người nặng về Quốc học, một người nặng về Tây học. Tuy thế
hai cây viết không nghiêng hẳn về một bên, để vẫn còn giữ lại
được một văn phong thâm thúy nhưng lãng mạn, chất phác nhưng
không lỗi thời, chứa đựng những nét văn hóa cổ kim so sánh, gạn
lọc những tinh hoa để cho vào sách sử.
Hai cây viết cùng một đề tài mà họ đã thể nghiệm, cùng khai thác
nguồn sử luận phong phú của quê hương thân yêu, để làm sống lại
những tàng tích đang khuất dấu trong tiềm thức của nhiều thế hệ.
Các thời đại phần nhiều bị chìm ngập trong cảnh loạn lạc chiến
tranh ý thức hệ giữa ngoại xâm và nội thù đã để lại trong lòng
mọi người như một vết thương còn rỉ máu...
Phần I - Truyện của Nguyễn Song Anh
Vào Xuân, Lá Rụng, Bước đầu tìm về Một Cuộc Đất, Mùa Xuân Lý
Trần, Nguyễn Đình Chiểu qua tác phẩm Dương Từ Hà Mậu, Thiết Thực
Kỷ Niệm 1000 năm Thăng Long.
Là những tựa đề của các truyện.
Mở đầu tác giả phiếm luận về bút hiệu của mình: “Tôi làm thơ
với bút hiệu Nguyễn Song Anh, không biết thơ tôi hay dở thế nào
mà có người nhận xét: “Thơ chỉ nói về quê hương, thế sự, không
có tình (yêu) và bút hiệt thường có một ý nghĩa đặc biệt nào đó,
như kỷ niệm tình cảm chẳng hạn““.
Nghe nhắc đến bút hiệu, tôi cảm thấy có chút tự hào nên vội đáp,
đúng, rất có ý nghĩa, vì đó là tên người yêu đầu đời, mối tình
đầu của tôi... Thật ra, tên người yêu tôi không phải là Song
Anh, tôi cũng không biết tên thật của nàng. Chỉ biết nàng đẹp
lắm, đẹp như ngọc, đẹp cả người lẫn nết.
- Vậy chớ gặp cô ấy ở đâu, hồi nào ?
- Ở trong sách. Ba má tôi nói ở trong sách có hai người đẹp, tùy
con chọn, mà chỉ có ở trong sách thôi. Tôi lật sách đọc và tìm.
Và tìm được một cô: “Thư trung hữu Kim Ốc“ (trong sách có nhà
vàng). Còn một cô nữa ở đâu? Lại tìm. Và gặp: “Thư trung hữu nữ
nhan Như Ngọc“ (trong sách có người con gái đẹp). Rồi tình yêu
vụt đến, rất đổi tự nhiên. Tôi chọn bút hiệu Như Ngọc.
Thật ra ba má và thầy cô thường xuyên khuyên tôi nên cố gắng học
để mai nầy có thể giúp đời, đồng thời có thể giàu sang, cưới
được vợ đẹp...
Lớn lên tôi vào đời sớm và hiểu được ý nghĩa giáo huấn đó nên
tôi chọn riêng cho tôi một nàng.
(Trích: Mùa Xuân Lá Rụng, trang 11-12)
Truyện kể: Bước đầu tìm hiểu Một Cuộc Đất.
... Từ dạo ấy xa rồi ngày cũ nhớ lại một khung trời những con
đường ngày hai buổi đi về, những buổi trưa nơi căn nhà trọ bên
con đường sau nhà em qua ngõ có giàn mướp non... (đoản văn gối
đầu truyện).
“Khung trời cũ“ ấy là một huyện thuộc tỉnh Bình Dương:
“Danh xưng “Dĩ An“ có từ lúc nào? Bước đầu tìm hiểu về Một Cuộc
Đất tên Đã Yên nầy, không thể không giở lại những trang sử và
thư tịch từ thời các chúa Nguyễn mở mang bờ cõi về phía Nam, mà
riêng phần “địa cuộc“ (chữ dùng của Trịnh Hoài Đức) nầy đã có
những địa danh ghi đậm dấu ấn từ hơn 250 năm về trước. Đó là núi
Châu Thới (Chiêu Thái), Lồ Ồ (Lộ Khê), Cầu Tân Bàn (cầu Ván),
tổng (huyện) Bình An...“
(trích Một Cuộc Đất).
Những tài liệu tham khảo thì nhiều, trong đó tác giả đặc biệt
chú ý đến sử liệu của Trịnh Hoài Đức và Vương Hồng Sển. Tuy
“Bước đầu tìm hiểu về Một Cuộc Đất“ chú trọng vào địa danh nơi
tác giả đã một thời dạy học ở đó, nhưng sự liên quan chằng chịt
có thể nói rằng nguồn sử liệu ấy đã cung cấp nhiều chi tiết của
các cuộc đất rộng lớn đến các tỉnh Tiền Giang và Hậu Giang.
Tác giả viện dẫn sự tiếp thu những tư tưởng văn hóa và tôn giáo
ngoại lai, nhưng đã được Việt hóa để làm phong phú thêm cho nền
văn hóa dân tộc, cũng như những kinh nghiệm về việc trị quốc an
dân, qua tư tưởng của các Thiền sư và các bậc Nhân sĩ trong thời
Lý Trần. Như Thiền sư Đổ Pháp Thuận đã từng tham gia chính trị
dưới thời vua Lê Đại Hành. Thiền sư phát biểu ý kiến về ngôi chủ
trong thiên hạ như sau: “Quốc tộ như đằng lạc. Nam thiên lý thái
bình. Vô vi cư điện các. Xứ xứ tức đao binh“. (Ngôi nước như
loại dây leo chằng chịt. Muôn dặm phương nam được thái bình.
Triều chính cần áp dụng đường lối vô vi. Nơi nơi không còn giặc
giã đao binh). Như minh quân Lý Thái Tổ, vị vua đã viết
“Thiên Đô Chiếu“ và đặt tên Thăng Long làm kinh đô từ năm 1010,
và gìn giữ bền vững trên ngàn năm, đã thành tâm khấn trời che
chở cho muôn dân khi trên đường chinh phạt trở về: “Tôi là người
kém đức, lạm ở trên muôn dân, vẫn hằng lo sợ như sa xuống vực
sâu, không dám cậy vào quân mạnh mà ỷ thế cất binh đánh giặc...
Trong khi giao tranh, hoặc giết lầm người trung hiếu, hoặc làm
chết oan kẻ hiền lương, làm cho trời nổi giận vạch rõ lỗi lầm
cho tôi, thân nầy dù chết chẳng dám than van. Riêng đối với sáu
quân, tội đó xin dung thứ. Dám mong lòng trời soi xét).
Hay “Chiếu Hối Lỗi“ của vua Lý Cao Tông: (Trẩm còn nhớ đã
phải gánh vác việc lớn, nơi cửu trùng sâu thẳm, không biết đến
nỗi khốn cùng của muôn dân, đã vậy còn nghe theo lời của bọn
tiểu nhân mà kết oán với người dưới. Dân oán hận thì trẫm biết
dựa vào ai?)
Hay tử tưởng uyên thâm cả Nho lẫn Phật của vua Trần Nhân Tông,
qua bài phú Giữa cõi trần vui đạo (Cư trần lạc đạo phú):
“Sách dịch xem chơi, yêu tính sáng hơn yêu châu báu, Kinh nhàn
đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim... Tịnh độ là lòng
trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương. Di Đà là tính sáng
soi, mựa phải nhọc tìm về cực lạc...“.
...
Hay những tấm lòng ngời sáng của trung thần các triều đại. Như
một lần vua Trần Minh Tông khen rằng (lời trung thần sáng như
gương, dạ trung thần đỏ như son. Bậc trung chính tự đó an tâm hả
dạ, lũ gian tà vì đó sởn gáy tan mật...), cùng với bài Thơ Thần
của Lý Thường Kiệt, Hịch Tướng Sĩ của Trần Quốc Tuấn, Thất Trảm
Sớ của Chu Văn An, Vạn Ngôn Thư của Lê Cảnh Tuân..., là quy tụ
những nhân đức trí dũng, khiêm cung từ ái, xuân tứ văn phong, tự
hào về văn hóa, là ánh hào quang thắp sáng cũng như lưu truyền
“Mùa Xuân Lý Trần“ vậy.
Từ đó đem lòng hoài niệm đến một thời của “Thăng Long-Nguyễn Du“
một thời của Nguyễn Đình Chiểu qua tác phẩm Dương Từ Hà Mậu,
Hương Quê qua “Vịnh Bức Dư Đồ Rách“ của Tản Đà... để rồi bây giờ
lại ngậm ngùi với: “Thiết Thực Kỷ Niệm 1000 năm Thăng Long“
trong khi họa xâm lăng của Bắc phương đang trên đà sống lại một
cách mãnh liệt !
Phần II - Truyện Võ Phước Hiếu
Tác giả viết truyện với văn phong chất phác, đôn hậu nhưng trong
sáng. Kết cấu rất tỉ mỉ, nghiêm chỉnh nhưng không kém phần lãng
mạn. Lối kể chuyện dí dỏm, nhưng khiêm cung đúng với tinh thần
của một nhà giáo. Đã giới thiệu với độc giả bước đầu tham dự vào
thế giới văn chương chữ nghĩa, qua câu chuyện “Tập Tành Chữ
Nghĩa“. Kể lại những việc giải trí của người dân quê, sau khi đã
lo xong công việc đồng áng. Lớp trai trẻ thì tụ họp các sân phơi
lúa, gốc đình làng thi đua những trò chơi như nhảy dây, chạy
đua, ù mọi... để giúp cho họ quên đi mệt nhọc, cũng như những ấm
ức đã dồn nén trong lòng, mà họ chưa có cơ hội bộc bạch với ai.
Còn các cụ thì thường nằm nghỉ lưng trên bộ ván danh mộc...:“Các
cụ không quên bảo các cháu học vừa dứt lớp ba, lớp tư trường
làng đọc cho nghe chuyện Bạch Viên Tôn Các, vè Cậu Hai Miêng,
Thầy Thông Chánh và nhất là truyện Lục Vân Tiên... Dường như
trong thâm tâm sâu thẳm, các bậc kỳ lão nầy muốn được sống lại
một thời êm đềm đã qua, muốn lắng nghe lại âm vang những kỷ niệm
ngày cũ còn lắng đọng rõ nét trong lòng mình chăng?“
Đám trẻ nhóc con nầy bập bẹ đọc ạch đụi, đọc trật vuột, nhiều
câu phản nghĩa trầm trọng mà chúng một mực phây phây tỉnh bơ,
xem như không có chuyện gì xẩy ra. Đôi khi lộn đầu lộn đuôi,
thậm chí chúng lộn luôn cả dấu giọng rất ngây ngô nhưng dễ
thương. Khiến bao nhiêu người nghe đang ngồi chung quanh đâu đó,
không nín được cười nghiêng cười ngửa đến trào nước mắt, không
cách nào cầm lại được“.
Nếp sinh hoạt của người dân quê nơi cùng trời cuối đất ấy, không
phải chỉ ở miền Nam mới có mà hình như cùng khắp cả nước non.
Nơi đâu và thời nào cũng đều diễn ra những nét hao hao như thế.
Và còn duy trì cho đến bây giờ vẫn không nhạt phai hương sắc. Vì
chốn đồng quê là nơi vốn thiếu thốn “văn minh“, vì thế con người
phải tự sáng tạo ra, cùng với những người từ xa đến góp công sức
để xây dựng cho chốn quê được ngày càng tiến bộ. Như thầy giáo
Mạnh, một người xuất thân từ Sài gòn được bổ nhiệm về làng quê
nầy để chăm lo dạy dổ cho đám hậu sinh. Tuy là người mới nhưng
thầy đã biết hội nhập với hoàn cảnh, cảm thông phong tục tập
quán và thân phận hẩm hiu của người dân cùng đinh tại địa
phương, đứng ra bênh vực cho những người thấp cổ bé miệng trước
những bất công áp bức của kẻ quyền thế lộng hành.
Hay ông thầy thuốc Hai Thiện đã bỏ nơi chốn phồn hoa đô hội của
thị thành, nguyện đem lòng thi ân bố đức, chữa bệnh miễn phí cho
lớp người nghèo khổ túng thiếu hầu như bị bỏ quên bên lề xã hội.
Hay có người từ xã hội nghèo hèn ấy, nhưng họ tự vươn lên bằng
cách tự học hỏi việc đời từ người nầy sang người khác, như ông
Hai Thắng..., là nhân duyên để xây dựng và duy trì cũng như phát
triển cái “bóng dáng thôn dã“ Việt Nam từ muôn thu trước, cũng
như bây giờ và mai sau, vẫn còn giữ lại một trạng thái nhất
nguyên của chuyển lưu văn hóa.
“Xã hội thời đó đã mất hút trong sâu thẳm của dỉ vãng từ lâu
rồi. Nhưng dù sao thời gian cũng không thể xóa nhòa những kỷ
niệm. Bây giờ chỉ chớp mắt thoáng hiện trong trí nhớ của một số
người nhung nhớ, quan tâm đến cội nguồn gốc rể“.
Khuê Phụ Thán, là tiểu luận tìm hiểu về nguyên nhân hình thành,
thể loại, nét đặc thù của thơ phú miền Nam. Với nội dung nói lên
tâm trạng một người đàn bà vì hoàn cảnh trái ngang, phải xa
chồng xa con nên cất lời than thở sự tình. Ở đây tác giả liên
tưởng đến hai vị vua bị đày trong thời Pháp thuộc, lấy cảm hứng
một bà phi khóc than trước cảnh xa chồng xa con, trước cảnh chia
ly ngăn cách. Giữa lúc đất nước đắm chìm trong loạn lạc và phân
hóa bởi ngoại xâm.
Tác giả còn đề cập đến hoàn cảnh của xã hội miền Nam thời bấy
giờ, cũng như nền văn hóa nước nhà dưới thời kỳ bị đô hộ, tâm sự
của kẻ sĩ và nhất là việc truyền bá văn học bị giới hạn, cùng
với việc tam sao thất bổn khiến cho giá trị nghệ thuật của tác
phẩm lưu truyền không được như nguyên tác. Có nhiều tác giả thời
bấy giờ, vì lý do nầy hay lý do khác đã phải để “khuyết danh“
như kho tàng ca dao là văn chương truyền khẩu trong dân gian từ
vô thỉ.
Tác phẩm Khuê Phụ Thán, không nằm ngoài hoàn cảnh trên, nên khi
tham khảo nhiều tài liệu khác nhau, tác giả đã chú thích phụ
đính lại những lỗi chính tả của nguyên bản, đồng thời khám phá
“Tác giả của tác phẩm Khuê Phụ Thán“ là một nhà chí sĩ yêu nước.
Một nhà Giáo rất uyên bác, với những đức tính của một người đạo
hạnh, cuộc sống giản dị, nhưng cương trực và thẳng thắn. Cụ sống
tri túc vô cầu, không chen đua tranh giành, lấy bối cảnh thiên
nhiên ở làng quê, xóm vắng để di dưỡng tính tình và tinh thần.
Lấy chức năng đào tạo thế hệ mai sau làm mẫu mực để sống, một
bậc thâm nho yêu nước, đúng là một bậc sĩ phu ẩn dật. Người đã
đem tất cả tâm huyết để truyền đạt lại cho hậu sinh.
Và điểm thú vị nhất của người viết tiểu luận nầy là khám phá ra
rằng, tác giả của “Thập Thủ Liên Hườn: Khuê Phụ Thán“ chính là
thân phụ Giáo sư Pháp văn của mình trong cuối thập niên bốn
mươi.
Và cũng từ đó lại có thêm lời hối hận rằng, khi qua Pháp được
gặp lại và được Thầy mình giúp đỡ trong những bước đầu, nhưng
chưa một lần hỏi Thầy về sự nghiệp của thân phụ của Thầy!
Chút Tình Tưởng Nhớ Anh Võ Thu Tịnh, là tâm sự muôn trùng qua
những ân nghĩa với đời: “Chúng tôi dấn thân vào nghiệp văn
chương chữ nghĩa do thôi thúc của đam mê thuở đầu đời, từ khi
còn mài đủng quần ở ghế nhà trường trung học. Chúng tôi cứ nghĩ
chỉ là một thoáng mê hoặc bởi hấp lực của ánh hào quang lấp lánh
nơi cõi ảo tưởng, mung lung mơ hồ của tuổi trẻ... nào ngờ nó vẫn
đeo đuổi mãi theo chúng tôi, song hành với những tháng năm thăng
trầm quá nghiệt ngã của dòng sử mệnh hơn nửa thế kỷ qua.
Tuy nhiên, cũng nhờ nghiệp dĩ, vinh nhục cũng nhiều mà niềm vui
không ít đã giúp chúng tôi được dịp gần gủi và giao tình với
những bậc đàn anh đàn chị tên tuổi lẫy lừng trong chốn văn
chương báo chí, từ thời Việt Nam Cộng Hòa ra tới hải ngoại. Đây
là một may mắn quý hiếm lần đầu tiên trong đời chúng tôi, mà nay
ngoái nhìn lại đoạn đường gian khổ, lao đao lận đận đã qua,
chúng tôi không có điều gì nuối tiếc, trái lại còn hảnh diện là
khác.
*
Đọc một tác phẩm, và muốn giới thiệu đến độc giả khắp nơi cái
hay cái đẹp, cái thâm thúy, cũng như tấm lòng của tác giả đã gởi
gắm, đã tâm sự, đã chia sẻ cùng tha nhân..., nhưng nghĩ lại như
nhà văn Steven Moore:... “một cuộc nghiên cứu sâu rộng như
vậy thì có rất nhiều điều để nói, và tôi không thể nào kể được
dù chỉ một phần lại cho quý vị nghe ở đây“.
Vì thế người đọc cũng chỉ ước mong là giới thiệu qua một vài nét
về tác giả và nhân duyên hình thành tác phẩm, cũng như sự liên
hệ gắn bó giữa hai nhà văn, mà suốt cuộc đời đã dành nhiều thì
giờ cho vấn đề truyền đạt, bảo tồn, phát huy nền văn hóa dân tộc
Việt trên bước đường lưu vong.
Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả.
Trần Đan Hà
Muốn có sách xin liên lạc về:
- Nhóm Văn Hóa Pháp Việt
1 Allée des Peupliers
59320 Hallennes Lez Haubourdin - France
- Nhà Sách Khai Trí
93 Avenue d´Ivry
75013 Paris – France.
|
VÕ PHƯỚC HIẾU * TẬP TÀNH CHỮ NGHĨA
Tập Tành Chữ Nghĩa
Võ Phước Hiếu
Võ Phước Hiếu
Nơi thôn quê cùng trời cuối đất, cách trở diệu vợi với thế giới bên ngoài như ở thôn xóm tôi,
thú vui giải trí tập thể hiếm hoi lắm. Đôi khi còn thiếu hẳn.
Bất quá chiều chiều, lúc trời êm nắng dịu, mặt trời thoi thóp chưa kịp phụp hẳn xuống cuối
chân trời xa, đám thanh niên trang lứa “bẻ gãy sừng trâu“ hú gọi nhau, tốp năm tốp ba lần
lượt đổ ra mấy gò đất hoang hay đồi trọc để đánh trổng. Chủ yếu của họ là lấy sức lực và
mưu mẹo ganh đua ăn thua nhau. Rồi nhóm nào thua bị phạt chạy tiếp sức băng đồng, vừa
chạy vừa u không được đứt hơi.
Hoặc họ tụ tập ở sân phơi lúa khang trang rộng rãi của mấy ông đại điền chủ để u mọi, quến
mấy cụ già chăm chú theo dõi để nhung nhớ một thời vàng son đã qua. Họ bắt giò bắt cẳng,
vật nhào lăn cù, giúp họ lùa xa những phiền nhiễu vướng bận hằng ngày.
Xôm tụ nhứt và quến người xem nhứt, mà đại đa số gồm những đứa trẻ chằn ăn trăn quấn,
lục lăn lục lữa, hằng ngày lang bạt cầu bơ cầu bất đầu làng cuối xóm, là những trận đua trâu
cui trâu cổ qua mùa khô. Lúc này, ruộng lúa đã gặt hái xong xuôi, chỉ còn trơ lại những gốc
rạ vàng sẫm được đám thanh niên vai u thịt bắp cổ động, hô hào đốc thúc nhau cắt tận lực
gần sát mặt đất, liên tiếp mấy buổi chiều.
Họ dùng những cuộc vui chơi ganh đua để thanh lọc, vỗ về và xô đuổi, lùa xa những ấm ức
dồn nén trong lòng, mà đăng đẳng trong suốt những ngày mùa họ ít có cơ hội bọc bạch nơi
thanh thiên. Nhưng tiếc một điều là về phía phụ nữ, hầu như không có một trò vui giải trí
nào cả. Phải chăng họ sinh ra chỉ để làm bổn phận một người vợ đảm đương mẫu mực,
sanh con đẻ cháu duy trì dòng tộc và suốt kiếp vất vả trong sinh hoạt gia đình, nhằm góp
công xây dựng cơ ngơi nhà chồng?
Trưa trưa đứng bóng, dưới cái nắng oi nồng, gió thoang thoảng hiu hiu trong bầu không khí
vắng vẻ, uể oải buồn tênh, mấy người trọng tuổi thuộc lớp trượng triều trượng quốc có thói
quen nằm nghỉ trên bộ ván danh mộc như gõ, nu, cam xe, thao lao hay cẩm lai mát lạnh,
dầy cả một tất tây hơn. Các cụ không quên bảo các cháu học vừa dứt lớp ba lớp tư trường
làng đọc cho nghe chuyện Bạch Viên Tôn Các, vè Cậu Hai Miêng, Thầy Thông Chánh và
nhứt là truyện Lục Vân Tiên... Dường như trong thâm tâm sâu thẳm, các bậc kỳ lão nầy
muốn được sống lại một thời êm đềm đã qua, muốn lắng nghe lại âm vang những kỷ niệm
ngày cũ còn lắng đọng rõ nét trong lòng mình chăng?
Đám trẻ nhóc con nầy bập bẹ đọc ạch đụi, đọc trật vuột, nhiều câu phản nghĩa trầm trọng
mà chúng một mực phây phây tỉnh bơ, xem như không có chuyện gì xảy ra. Đôi khi lộn đầu
lộn đuôi, thậm chí chúng lộn luôn cả dấu giọng rất ngây ngô nhưng dễ thương, khiến bao
nhiêu người nghe đang ngồi chung quanh đâu đó không nín được cười nghiêng cười ngửa
đến trào nước mắt, không cách nào cầm lại được.
Những bác biết chút đỉnh chữ Nho nhờ có học qua mấy năm khổ nhọc với thầy đồ lỡ vận
trong làng, nằm nghỉ thẳng giò thẳng cẳng trên ghế trường kỳ. Chiếc ghế hiếm hoi của
những nhà khá giả nầy có cẩn ốc xa cừ lóng lánh, được đặt ở giữa gian nhà trên, phía
trước dãy bàn thờ đôi ba cái chạm trổ công phu qua bàn tay kiên nhẫn khéo léo của những
nghệ nhân dân gian đã làm nên một thời nơi vùng đất mới này. Có khi người ta bắt gặp họ
-2-
thong dong tréo ngoảy chân, để mắt kiếng lão trệ xuống sóng mũi, đưa mắt đọc chuyện Tàu
chương hồi tràng giang đại hải. Nào là Phong Thần Diễn Nghĩa, Thuyết Đường, Thiết Nhơn
Quý Chinh Đông, Tiết Nhơn Quý Chinh Tây, Tam Quốc Chí, Thủy Hử v.v... Những thiên
truyện được mến mộ một thời này được các nhà xuất bản lớn ở Sài Gòn in từng tập định kỳ
trên giấy mỏng te trắng phau, giống như giấy quyến hút thuốc, được bày bán dẫy đầy,
không thiếu một tập nào ở chợ quận.
Dĩ nhiên, những lúc thoải mái thanh thản trong ngày đó đều có bọn trẻ trạc bảy, tám tuổi
ngồi nhổ tóc ngứa tóc bạc. Chúng tỏ ra quá đỗi sung sướng được làm cái việc khá nhẹ
nhàng này. Vì trước khi bắt tay vào việc, chúng đã được người lớn vui vẻ hứa hẹn sẽ tưởng
thưởng xứng đáng bằng cách tính số tóc chúng nhổ được để đổi ra thành xu thành điếu, tha
hồ đâm đầu chạy u một mạch ra quán lá đầu làng mua bánh kẹo, chập chập nhâm nhi để
thấy đời mình lúc đó lên hương tận mây xanh mây trắng.
Nhưng thực tế, nào có phải như vậy đâu. Chúng nó bị thúc thủ trong tư thế nhàm chán ở
một chỗ quá lâu nên lòng chỉ mong sao cho ông nội hay ông ngoại mình sớm buông rớt
quyển truyện xuống, đánh một giấc trưa say sưa nồng nàn. Chúng chỉ mong được như vậy
để bỏ giò rút lui, hát bài tẩu mã, tìm đường bay nhảy, vui chơi cùng chúng bạn đang lấp ló
chờ đợi đâu đó ngoài sân, ngoài vườn.
Nhưng sanh hoạt rình rang hấp dẫn nhứt, lôi cuốn nhứt được đông đảo nam phụ lão ấu
tham gia, có lẽ là việc kể cho nhau nghe những chuyện đời xưa, chuyện tiếu lâm có sửa
chữa hay cải biến theo bổn cũ cho hợp thời, hợp hoàn cảnh và hợp tình tiết mới trong xã
hội những năm tháng vừa qua. Cả thói quen thanh tao cao nhã ngâm thơ ca thi phú, dẫn
giải phẩm bình lời hay ý đẹp, kết quả vắt tim nạo óc của các tác giả thời danh trong ký ức
tập thể, qua các bậc kỳ lão có ăn học chút đỉnh được thừa hưởng ở những năm miệt mài
khổ cực nơi trường ốc. Mà kể cho nhau nghe ít ra cũng phải có tối thiểu hai người. Nhưng
hai người thì không sôi nổi lôi cuốn bằng có số đông hưởng ứng phụ họa.
Do vậy, họ lợi dụng những lần họp mặt đông đảo, vui nhộn của bà con như dịp giỗ chạp,
quan hôn tang tế... trong thôn xóm để phô diễn sở trường sở đắc của mình. Đặc biệt là
những ngày cúng Kỳ Yên linh đình định kỳ, nơi vui chơi thả giàn thả cửa, một năm mới có
một lần duy nhứt. Họ không phải dè dặt thủ thế, cân phân chọn lựa đề tài, thận trọng từng
lời nói để không tréo cẳng ngổng, vô duyên.
Cũng do thói quen và hoàn cảnh ấy, ông Hai Thắng, Võ Văn Thắng, bực trưởng thượng cố
cựu thuộc gia đình rân rát ở xóm tôi, trong dịp này được xem như một cây đinh chẳng sai
chút nào. Mà là cây đinh dài cả tất tây đó. Ai ai cũng hồm chờ đợi nóng hơ để nghe ông khai
khẩu. Ông nổi tiếng là người có một bồ chữ nghĩa không nhỏ, tha hồ thao thao trào vọt ra
ngoài, khi có người khơi chuyện mở lời.
Bà con tôi hầu hết đều có trình độ học vấn chưa đầy lá mít lá me nhỏ xíu, chưa chắc đã
may mắn trơn tru qua khỏi lớp hai trường làng, ngày ngày mải mê cặm cụi trên đồng cạn
đồng sâu nắng cháy mưa tuông. Họ chỉ ước mong vỏn vẹn một việc duy nhất trong đời là
được ông trời thương tưởng ban cho sức khỏe để tay làm hàm nhai, cơm ngày hai bữa nuôi
vợ nuôi con là mãn nguyện rồi. Họ thấy ông Hai ăn học và hiểu biết hơn mình nên suy tôn
ông có một bồ chữ nghĩa không có gì lạ cả.
Tác người dong dỏng cao, ông ăn nói linh hoạt thiên phú lại có duyên ngầm, cái duyên bắt
hồn bắt vía người đối thoại, luôn luôn quyến rủ người nghe. Chẳng khi nào người ta thấy
ông nói mắc nói mỏ, nói xỏ nói xiêng làm buồn phiền một ai khác. Mà khai khẩu đối với ông
muốn cho có ý nghĩa cũng phải có hứng thú, phải có điều kiện không khí thuận tiện vui nhộn
-3-
tối thiểu. Được vậy, câu chuyện mới bắt tai người nghe, mới trở nên hào hứng thú vị. Và đôi
khi không phải để cười suông qua giờ, mà còn có hậu ý, có ẩn nghĩa thâm trầm sâu sắc
nữa.
Hôm nay, quả là ngày vui thường niên trong làng, ngày cúng Kỳ Yên mà mọi người nam nữ
lớn nhỏ đều mỏi mắt trông đứng trông ngồi từ nhiều tháng trước. Đồng bào nơi thôn quê
nôm na gọi là ngày cúng đình thần. Mỗi năm, ngày này được dân làng chung sức chung
lòng, kẻ có công người có của chung lo tổ chức rất linh đình trọng thể. Vì theo tín ngưởng
lâu đời còn lưu truyền lại không biết từ đời thuở nào, hẳn là từ thuở thất tổ huyền tổ xa xôi
của họ đã tiên phuông dấn thân xuôi miền Nam mở đất, khẩn hoang lập ấp. Họ cho rằng vị
thần đình là một mẫu người vượt lên trên hết. Ngài đã có công to hiển hách lúc sinh tiền nên
được dân làng kính yêu, ngưỡng mộ và trọng vọng.
Theo thông lệ ấy đã được liên tục tiếp nối mãi cho đến nay, hằng năm bà con làng tôi chọn
ngày cúng đình nhằm vào những ngày lọt thỏm trong tháng giêng ta. Tức khi họ đã gặt hái
xong xuôi đâu vào đó, không còn sót bao nhiêu nơi dang dở, để trơ cánh đồng một màu bát
ngát vàng mơ những rơm rạ. Và cũng theo tục lệ ăn sâu bám rễ đó, mỗi năm, ban tế tự
chọn lấy một tráng đinh đứng ra chịu trách nhiệm tổ chức ngày lễ trọng đại nầy. Rồi cứ lần
lượt luân phiên nhau cho đến khi không còn sót một tráng đinh nào khác trong làng, họ mới
bắt đầu trở lại người khởi đầu. Và theo chu kỳ không thành văn nầy, họ thống nhứt nhau
trong việc áp dụng nhuần nhuyễn cho những năm về sau.
Nói chịu trách nhiệm tổ chức buổi lễ cho thêm phần long trọng, có tính cách đề cao để họ kê
vai gánh vác một nhiệm vụ công đức có ý nghĩa trong đời. Kể từ ngày đó, họ được xem như
chánh thức là người lớn, người đã trưởng thành trong cộng đồng, với vị trí và trách nhiệm
minh bạch rõ ràng.
Và cũng từ ngày đó, họ cố gắng xử sự vuông tròn theo đúng phong cách và đức độ của
truyền thống ông bà, làng xóm. Nhưng thực ra, mọi gia đình đều có đóng góp ít nhiều phần
mình trong ngày lễ, tùy hoàn cảnh và khả năng mình, trước cúng dâng thần linh, sau cùng
nhau chung vui hậu hỉ.
Người nầy một mâm xôi nếp, xây khéo léo, mô tròn vung hẳn lên. Xôi nếp ngon, vừa dẻo
vừa thơm, màu trắng tinh tuyền đồng nhứt, đẹp mắt. Nhưng nhiều bà trọng tuổi còn cầu kỳ
khoe tài, vẽ duyên cho thêm chút ít màu vàng vàng óng mượt như nghệ, hoặc màu lá dứa
xanh lơ thơm phưn phứt hay màu gấc tim tím u buồn trông lãng mạn nhưng hấp dẫn lắm.
Từ lúc sáng trắng, khi chim chóc bắt đầu líu lo bên chòm tre khóm trúc, họ đã đội gọn lỏn
mâm xôi trên đầu, khoan thai rảo bước trên đường đê, đường mòn quanh co uốn éo, đôi khi
băng qua những thửa ruộng khô nức nẻ, mong cho mau đến cổng vòng nguyệt xây trước
mặt đình thật sớm. Sau đó, họ trịnh trọng đặt lên bàn thờ óng ánh lư hương, chân đèn với
khói nhang nghi ngút không ngớt quyện xoáy thẳng lên trần nhà.
Người kia một mâm trái cây vườn nhà vừa mới hái, loại trái chiến to lớn chín cây no tròn,
thơm thơm mùi hoa đồng nội cỏ, căng da đỏ mộng bắt mắt người ngắm nhìn. Người khác
đôi ba buồng cau tơ sai trái, ú na ú nú hoặc năm bảy trái dừa khô loại dừa bị to lớn nặng trìu
trịu. Thêm vào đó còn có nào bầu, nào bí, dưa chuột dưa gan, các thứ khoai củ như khoai
mỡ, khoai lang bí, khoai từ, khoai mì… ngoài rau cải xanh tươi đủ loại, trông thấy phát ham
phát thèm v.v... Ai có sản phẩm gì trong gia đình, dù ít dù nhiều, cứ mang đến, nhằm chứng
minh tấm lòng mình đối với ngày đại lễ. Tấm lòng của họ quan trọng hơn cả lễ vật.
Những người giàu có hoặc thừa thãi khá giả sai người làm công thân tín khúm núm mang
đến nào gà nào vịt, loại gà trống thiến mập lút trổ mã, sắc màu tươi mướt, loại vịt xiêm tơ sà
-4-
đắc tiền, ít người có điều kiện vói tay tới. Mỗi người một con hoặc hai ba con. Chúng bị
buộc chân buộc cẳng nằm la liệt nơi mấy hàng cột phía sau đình, thỉnh thoảng vỗ cánh đập
bành bạch chờ chết, kêu la toan toát.
Hằng năm, liên tiếp tròn hai thập niên gần đây, ông Cả Mai Văn Tỵ, ông Chủ Võ Văn Tuôi ở
ấp Nhứt, ông Hương sư Nguyễn Văn Giàu ở xóm Phú Thứ, ba vị chức sắc uy quyền đầu
đàn trong ban bệ Hội Tề làng tôi không quên chung đậu dâng cúng một con heo quay căn
phồng, đỏ hực, được cẩn thận đặt mua cả mấy tuần lễ trước ở “công xi“ ông Bảy Sô nơi
chợ làng Phước Lợi, Gò Đen. Đám gia nhân hai ba đứa đồng chạng lực lưỡng được phân
công bơi ghe phóng nước đại vừa mới đem về đình còn nóng hổi cho kịp giờ lên đèn lên
nhang khai mạt.
Con heo quay to lớn thất kinh, đoán độ ba bốn chục kí chẳng sai chút nào, nằm bệ vệ trên
một thớt cây, quến sự tò mò trầm trồ của đám trẻ phá làng phá xóm, đôi mắt dản nở trắng
dã, chăm bẳm nhìn. Vì dường như chúng chưa hề trông thấy một lần trong đời chăng?
Đình làng được xây cất không xa ngôi đất “thổ mộ“ của gia đình ông bà tôi bao nhiêu, chỉ
cách nhau tròm trèm một hai miếng bưng miếng biền vài công là cùng, có hai ba cây gừa cổ
thụ rễ lòng thòng phất phơ theo gió hay mấy cây bần nước sum xuê làm ranh giới. Thuở tôi
còn nhỏ hếu thường hay rong chơi bạt mạng đầu làng cuối xóm, khét nắng hôi trâu, tôi có
nghe kể và còn nhớ không sai chạy ngôi đình nầy được xây cất rất đơn sơ với mái ngói âm
dương nay đã rong rêu âm ỉ và bốn vách bổ kho mỏng te bằng ván bảng tạp nhạp. Toàn là
loại dênh dênh rẽ tiền lại được đóng thưa rểu để tiết kiệm tiền bạc của công, lởm chởm
những đường mối quanh co uốn éo bất tận, nhìn trong thấy ngoài.
Bên trong là một dãy hai ba bàn thờ cây cũ kỹ, đoan chắc từ đời cố hỉ cố lai của bọn trẻ
chúng tôi. Những bàn thờ nầy không được chạm trổ cầu kỳ hoa mỹ hay cẩn ốc xa cừ như
nơi những ngôi nhà cổ trên trăm năm tuổi, tổ đường của những gia đình giàu có bề thế hoặc
của những người danh giá chức quyền. Có cái đã lặt lìa lặt lọi vừa mới được ông từ đình
chỉnh trang tạm thời để dùng trong ngày lễ.
Đình còn là nơi công cộng, là tài sản chung của làng trên xóm dưới, nên không cửa đóng
then gài cẩn mật. Vả lại, ngoài dãy bàn thờ cây không đáng giá bao nhiêu, tuyệt nhiên
không có chi khác đáng kể để người bất lương quan tâm dòm ngó. Ngày thường, nơi đây
không có một cái bàn ăn, cái ghế ngồi. Ai ai cũng được tự do ra vào thoải mái, bất kể giờ
giấc, bất kể ngày tháng để cúng kiếng, chiêm bái, cầu nguyện khi cần. Nhưng không vì vậy
đình không phảng phất một dáng vẻ uy nghiêm trang trọng của nơi thờ phượng. Huyền bí,
nồng ấm thiêng liêng là khác.
Người dân từ nhỏ chí lớn, trai tráng già cả, không sót một người, đều một lòng tâm niệm
thống nhứt như nhau: đình làng quả thật có một cái hồn. Chính cái phần hồn linh thiêng
huyền bí nầy đã keo sơn khắng khít cột chặt người dân trong xóm. Họ quấn quít, đoàn kết
nhau, thể hiện qua những ngày cúng Kỳ Yên, tề tựu hầu như đông đủ mặt mọi người.
Ngay những người có con cháu vì hoàn cảnh sinh sống để vươn lên phải chấp nhận tha
phương cầu thực, bất đắc dĩ đi làm ăn nơi xa xôi, bôn ba bá nghệ, họ cũng nhớ ngày trọng
đại trong năm nầy để nhín chút ít thì giờ quý báu trở về quê xưa cố thổ, tham gia góp mặt,
dâng hương cúng thần đình. Và nhơn dịp hiếm hoi đó, họ gặp lại bà con thân quyến, bạn bè
nối khố hàn huyên ôn cố luôn thể.
Phía sau đình còn có một cây dương cổ thụ, cao ngất nghểu, cả đôi ba trai tráng lực lưỡng
ôm chưa giáp vòng tay, vượt hẳn lũy tre ranh thôn làng gấp mấy lần. Những bậc trưởng
-5-
thượng thổ công cũng không biết đích xác nó được trồng ở đây lúc nào. Có một điều chắc
chắn là tất cả đều đồng thanh nhìn nhận sự hiện diện của nó nơi chéo vườn đã rỏ phèn rỏ
mặn ngay sau đình, cũng to lớn không khác mấy bây giờ. Vì hằng ngày, họ cấp sách đến
trường đã trông thấy nó đứng sừng sững ở đó rồi.
Ngoài ra, nơi con đường đất đỏ dẫn thẳng trực chỉ vào cửa đình còn một dãy độ một chục
đủ đầu cây dầu cũng to lớn lắm, cứ vào mùa trổ bông, hoa dầu với đôi cánh dài bay bay
xoay tròn theo từng cơn gió. Một rừng hoa cứ la đà, lả lướt rơi rụng thật kỳ lạ, tạo niềm vui
cho lũ chúng tôi trông thơ mộng làm sao! Một thời kỷ niệm của tuổi trẻ khó phai.
Tất cả những loại cây lưu dấu lịch sử nầy đều có tàn nhánh xum xuê rợp bóng mát quanh
năm, nơi quến lũ chăn trâu lúc trời trưa đứng bóng nằm ngủ phơi bụng phơi dạ thẳng giò
thẳng cẳng. Chúng vi vu bất tận, càng tăng thêm vẻ huyền bí u trầm nữa. Nơi xóm nghèo
làng nhỏ, nơi cùng cốc người thưa ít chuyện, thần đình làng tôi không có sắc phong của
triều đình ngoài Huế, nhưng không vì vậy mà đình mất đi cái nét trang nghiêm trong lòng
người cung kính.
Đình cũng là nơi họp hành định kỳ của những vị chức sắc trong ban bệ Hội Tề, cũng như
những lúc chính quyền địa phương muốn tham khảo lấy ý kiến chung thẩm của bà con tôi
về một vấn đề lợi ích công cộng có tánh cách tối quan trọng cho đời sống cư dân. Đại khái
như đắp một con đê vừa dài vừa rộng nối liền từ đầu trên đến cuối xóm. Như đào một con
kinh dẫn thủy nhập điền băng xuyên qua ruộng nương đất điền của nhiều người.
So với những ngôi đình có nét kiến trúc nguy nga tân kỳ theo kiểu cách thiết kế Tây
phương ở những làng tổng quan trọng khác, dĩ nhiên người ta không thể có lời nào sánh
được. Tuy đồ sộ qua nền gạch tàu đỏ au, mái ngói âm dương chắc chắn, vách tường vôi
màu chu đồng nhứt và sạch sẽ, nhưng dưới con mắt người dân quê chơn chất làng tôi, đầu
óc vẫn còn khắng khít với truyền thống lâu đời, họ cảm thấy nó thiếu một cái gì không thể
diễn tả thành lời, nhưng sao vẫn lao xao ngăn ngắt trong lòng. Hơn nữa, họ có đủ lời đủ lẽ
đâu để diễn tả.
Và cái gì đó nó cứ ngăn ngắt, lâng lâng xao xuyến bất tận trong sâu thẳm tấm lòng mỗi
người họ. Phải chăng, nó thiếu một chất keo sơn huyền bí, một cái hồn kết chặt tâm tư tình
cảm con người trong xóm, vốn thống nhứt nhau trong lao động cần cù, trong hy vọng và
niềm tin mãnh liệt ở tương lai.
* * *
Thùng thùng... thùng.
Cắc cắc... cắc.
Keng keng... keng.
Rồi lại tiếp tục thùng thùng... cắc cắc... keng keng… nhịp nhàng theo một nhịp độ khoan thai
không dứt. Tiếng trống, loại trống chầu to lớn sơn màu đỏ hoét treo lừng lững từ trần nhà,
tiếng mõ, loại mõ cây độc mộc no tròn, dài hơn cả hai thước tây, tiếng chập chõa hay phèng
la được treo toòng teng trên một giá cây vừa tầm tay đánh… những âm thanh rộn rả liên
tục không ngưng nầy vực dậy sự chú ý của mọi người, từ nơi thôn ấp hẻo lánh xa xa. Và họ
nôn ruột biết đã đến giờ các chức sắc lên đèn, lên hương bắt đầu mời thỉnh thần đình.
Quan khách và bà con đều ăn mặc trang trọng chỉnh tề. Ngay cả mấy thanh niên trẻ măng
mới tấn lên những năm tháng sau này đang rậm ra rậm rật phụ trách đánh trống, đánh mõ,
đánh phèng la cũng đánh áo đánh quần, ăn mặc khăn đóng áo dài trông ra vẻ lắm. Chính
-6-
chúng nó đã bỏ công khó đích thân tìm tòi đi vay mượn của bà con đâu đó mấy ngày trước
những bộ đồ bắt kế ưng ý nầy.
Nhưng thật ra toàn là đồ bính nên không vừa vặn, trông xúng xính thùng thình. Chập chập,
chúng cứ ngập ngừng, lén lút sửa bộ cho ra vẻ đạo mạo từ tốn. Còn các vị chức sắc dĩ
nhiên khoác bộ áo dài khăn đóng đen huyền còn mới toang, ủi xếp nếp với đôi giày hàm ếch
bóng lưởng óng ánh theo mặt trời trưa.
Qua cung cách ăn mặc, người ta đoán biết không sai một ly một tất người nào thuộc thành
phần khá giả giàu sang hay thuộc lớp dân giả bình thường. Dù vậy, những người bất hạnh
nầy mà trọn một kiếp bị trói chặt vào định mệnh nghiệt ngã cũng cố gắng chưng diện khác
hẳn ngày thường, với áo bà ba quần dài hoặc đen hoặc trắng, qua lớp hồ keo chưa nhụt,
nên khi đi đứng nghe xột xạt làm cho họ đôi khi cảm thấy khó chịu ngượng ngùng.
Ông Cả Tỵ, Chánh tế vừa bệ vệ vừa trịnh trọng chẹt hộp quẹt lần lượt đốt đèn đốt nhang
các dãy bàn thờ trong không khí trang nghiêm, rồi sau đó bắt đầu khấn vái bái lạy thần đình.
Dứt phần nghi lễ cúng lạy của ông Chủ Tuôi, Bồi tế, đến lượt mỗi công dân trong làng, kẻ
trước người sau nối đuôi nhau đến chiêm bái nguyện cầu, tùy hoàn cảnh riêng tư của mỗi
người, mỗi gia đình. Tiếp theo là tiệc tùng lễ mễ, mâm cổ ê hề, lời qua tiếng lại ồn ào náo
nhiệt không lúc nào dứt.
Nơi bàn danh dự duy nhứt được đặt ngay chính giữa đình, người ta thấy sự có mặt không
thể thiếu sót của các vị chức sắc quan trọng như các ông Hương Cả, Hương Chủ, Hương
Sư, Hương Trưởng... thêm vào đó còn có ông Bang Biện đại diện Thầy Cai Tổng vì bận
công vụ khẩn cấp trên quận sao đó nên phải vắng mặt. Ngồi giáp vòng bàn còn có ông điền
chủ Hai Kỉnh, người đứng ra đài thọ mọi chi phí tốn kém cho gánh hát cải lương của ông
Bầu Sáu Ruộng đến trình diễn xả giàn ba đêm liên tiếp. Ba chỗ ngồi phía chót bàn giữa
dành cho ông thầy giáo Mạnh, ông thầy thuốc Nam Hai Thiện và... ông Hai Thắng, được
xem như bậc trưởng thượng lớn tuổi nhất trong xóm. Ba vị này được bà con biết tiếng nhờ
có trình độ học vấn, cơi hơn thiên hạ. Ngoài ra còn phải kể đến phong cách và đạo đức xử
sự gương mẫu của họ nữa.
Thầy giáo Mạnh, con người hiếm hoi xuất thân từ các trường trung học Sài Gòn tăm tiếng
chớ chẳng phải chơi đâu, được bổ nhiệm đến đây chưa đầy một thập niên. Dù thời gian có
ngắn ngủi thật, nhưng thầy rất được lòng mọi người, nhờ biết hội nhập hoàn cảnh, cảm
thông phong tục tập quán cùng thân phận hẩm hiu và chia xẻ kiếp đời cùng đinh, cũng như
bênh vực chỉ vẽ đường đi nước bước cho những người thấp cổ bé miệng trước những bất
công áp bức của kẻ quyền thế lộng hành.
Ông thầy thuốc Hai Thiện đúng là bực ”lương y từ mẫu”. Ông đã phủi tay không thương tiếc,
dứt khoát từ bỏ nơi đô thị phồn hoa lắm cạm bẫy và cám dổ, đơn thương độc mã vào đây
nguyện với lòng mình thi ân bố đức, trông nom chăm lo sức khỏe những người hầu như bị
bỏ quên bên lề xã hội. Do vậy, ông thường chữa trị miển phí cho lớp người nghèo khổ túng
thiếu, tương lai bế tắc như trời ba mươi nên rất được trọng vọng nể nan.
Riêng ông Hai Thắng, một nhân vật khá độc đáo nhưng không hẳn lập dị, vì nơi ông, tiềm
ẩn một lối sống khác lạ hơn người. Đối với trường hợp của ông, người đời thường nói
không sai: ”chớ nên xem mặt mà bắt hình dông”. Trông cái vỏ bên ngoài của ông, ông có vẻ
lù khù khệnh khạng, đôi khi lẩm cẩm là khác, nhưng thực tế không phải như vậy.
Và dù ông không được may mắn được cha mẹ cho đi ăn học đến nơi đến chốn ở trường
quận trường tỉnh, nhưng ông lại là một mẫu người có tánh đam mê khá sớm từ lúc nhỏ tuổi,
-7-
cực kỳ hiếu học, nhờ có chút thông minh nhờ ông trời ưu ái ban cho. Những gì ông không
học được ở trường ở lớp, ở cửa Khổng sân Trình, ông lại học nhiều ở trường đời. Nhứt là
học ở những bực tiền bối giàu kiến thức thực dụng và kinh nghiệm xử sự trong giao tế,
trong cuộc sống. Nhờ vậy, sự hiểu biết tinh thông của ông được đa số bà con tôi đồng thanh
thừa nhận.
Nhờ tánh hiếu học, chẳng những ông để ý trao dồi thường xuyên tầm hiểu biết đó của mình
qua sách vở đã đành mà còn quan tâm qua nghiên cứu tận tường lối sống quý báu của
người xưa. Ngoài lãnh vực văn chương chữ nghĩa, ông được bà con trọng nể tôn vinh là
một thầy đìa tiếng tăm nổi như cồn.
Nơi vùng đất mới quê tôi, kinh mương, ao hồ, đầm vũng, sông rạch… đan quyện nhau như
mặt nia. Cá tôm, sò ốc, lươn ếch… tìm bắt không khó lắm. Có thể nói, cứ đưa tay chìa
thẳng ra phía trước mặt mình là có thể bắt gặp ngay. Nhưng người dân hầu như đều thích
đào đìa trong vuông đất sở hữu của mình như một “mốt” thời đại để mùa thu hoạch tôm cá
được cao hơn. Người nầy làm được phất lên, người kia trông theo bắt chước. Nhờ đó, họ
mơ ước tăng phần thu nhập hằng năm lên gấp bội, nhằm cải thiện mức sống gia đình.
Do vậy, nhu cầu nầy nảy sanh một hạng người khá đặc biệt gọi là thầy đìa. Ông Hai Thắng
là một trường hợp điển hình. Ông tượng trưng cho cái nghề ít ai ở tỉnh ở thành biết đến,
nhưng lại tối cần thiết nơi vùng đất mới và đã làm nên một thời khó quên.
Nhờ gia tâm trì chí nghiên cứu khổ nhọc, lần hồi ông có được một bí quyết hay nói đúng ra
là có được cái thiên nhản hiếm hoi, mà con mắt phàm phu tục tử lục lục thường tình không
thể nào có được. Mà cũng có thể do ông thừa hưởng được những lời chỉ bảo của các bực
tiền bối đã từng xa gần đi qua đời ông. Bây giờ, ông chỉ cần đứng trên một cuộc đất nào đó,
đưa mắt trông lên trời, nhìn xuống đất, im lặng ngắm dòng sông, quan tâm để ý nguồn nước
chảy để nhận định phương hướng. Qua đó, ông biết rõ ràng đích xác đường đi lối về của cá
tôm nhằm góp ý định vị miệng đìa.
Ông thường hay nói, đây là lối định vị rất khoa học nhờ căn cứ theo biến chuyển, vận hành
của thiên nhiên trời đất. Ông không quên nhấn mạnh và nhứt là cực lực đả phá những hình
thức cúng kiến linh đình, đốt giấy tiền vàng bạc tốn kém để thả xuống sông xuống rạch vang
vái, lo lót âm binh thủy thần… Hoặc buồn cười hơn nữa là nhiều tay bá đạo bày trò chít
khăn đỏ hoét, đốt nhang ửng hồng kèm ở vành tai, múa may quay cuồng xong rồi nhảy ùm
xuống nước, lặn lội cả giờ cả buổi để xem đường tôm nẻo cá với biết bao thủ thuật riêng tư
khác tùy người… Tất cả những cách thức đó, theo ông, chỉ là chuyện trình diễn tào lao phù
phiếm để mà mắt thiên hạ, hầu nhắm ý đồ trục lợi mà thôi.
Không biết thực hư hư thực như thế nào. Nhưng thực tế có một điều chắc chắn, khá ngộ
nghỉnh để tránh hai tiếng lạ lùng, không thể phủ nhận được, là mỗi đìa cá đìa tôm do ông
hết lòng hết dạ hướng dẫn chỉ bảo phương hướng miệng đìa, nhứt là những đìa có tầm vóc
to lớn, đến mùa thu hoạch theo phương cách vạn vần đổi công đều đem đến kết quả mỹ
mãn ngoài sức tưởng tượng của gia chủ. Không phải đây là một sự trùng hợp lẻ loi mà hầu
như đìa nào cũng đem lại sự phấn chấn như vậy cả. Do đó, ông được mọi người khẩn
khoản nhờ cậy đến góp ý giúp lời mỗi khi có nhu cầu đào đìa.
Hôm nay trong tiệc, dường như vấn đề ăn uống không mấy quan trọng đối với khách khứa,
mặc dầu thức ăn được bà con để tâm nấu nướng, chăm sóc tươm tất, tận tình lắm. Nếu tinh
mắt để ý một chút, chỉ nhìn cách trình bày thôi cũng đủ thấy sức hấp dẫn gọi mời, quá lạ
mắt của các thức ăn, phần lớn thuộc loại truyền thống lâu đời nhưng được cải tiến, tuy
không cầu kỳ nhưng thăng bằng trong cấu tạo và phù hợp với thiên nhiên vạn vật.
-8-
Quan khách mời mọc nài ép nhau hết tình, nhưng trông họ ăn uống như để lấy lệ, nhứt là ở
nơi bàn danh dự. Trái lại, dường như họ ganh đua nhau nói chuyện huyên thuyên. Mạnh ai
nấy cười. Mạnh ai nấy nói. Lời qua tiếng lại hăng lắm, cốt sao tiếng nói của mình được lọt
vào tai người khác.
Đề tài trao đổi gồm đủ thứ chuyện lang bang trên trời dưới đất, nhưng không hề xa rời với
tầm hiểu biết có giới hạn của họ. Nhờ đó giúp mỗi người đều có cơ hội đồng đều nhau tham
gia góp ý. Như vậy mới vui, không ai cảm thấy mình lép vế, lẻ loi ngượng ngùng. Nhứt là
rượu đế quê hương tiếp tục tuông chảy từng nhạo này qua nhạo khác, rạt rào không thôi,
một khi những câu chuyện hàn huyên ôn cố dần dà trở nên lôi cuốn hấp dẫn, hay những
tranh cãi bỗng chốc trở nên gay cấn.
Lúc đầu, còn tỉnh táo, họ dè dặt thủ thế do thói quen cẩn trọng. Nhưng khi qua được mấy
chầu cạn ly đầy rót đầy ly cạn, họ thách thức cưa hai cưa ba, có khi thi đua đánh trốc dứt
điểm một trăm phần trăm giữa tiếng vỗ tay ngưỡng mộ của những người chung quanh. Đến
giờ phút này, họ không còn thủ thế dè dặt cố hữu nữa. Dường như họ đang bất chấp vai vế,
chức tước, địa vị và uy thế trong xã hội, như muốn phơi bày đầy đủ, trọn vẹn con người họ.
Có thể nói đã đến lúc họ vô tình để lộ rõ chân tướng ẩn giấu của mình để bày trần những
ưu điểm tâm tánh và ngay cả những thói hư tật xấu. Vì đã vào bàn nhậu thì xem như anh
em cả mà.
Ông Cả Tỵ gật gù vì không mạnh rượu cho lắm nên vẫn còn tỉnh táo, sáng suốt trong lời ăn
tiếng nói. Ông cẩn thận giữ thế, cái thế bình thường được mọi người trong làng nể nan
trọng vì, chứ không thể để xem như cá mè một lứa được trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ông
không ngớt cất lời khen đáo để lễ cúng đình năm nay rất tươm tất, được tổ chức vén khéo,
nhứt là không hề phí phạm vô lý. Vì theo quan điểm của ông, phí phạm của cải, dù là của
cải riêng tư hay của công đường đều là một trọng tội không tha thứ được đối với Đất Trời và
đối với tiền nhân khai cơ lập nghiệp, những người đã hy sinh trọn cả một đời người cho hậu
thế.
Nhưng quan trọng hơn cả là bà con vẫn giữ được nét long trọng uy nghiêm của những năm
về trước. Cái đó mới quý. Cái đó mới đáng được đề cao. Mặc dù thời gian có phũ phàng trôi
qua khá nhanh với bao nhiêu nhiễu nhương đổi thay, bao nhiêu sóng gió dồn dập không
lường trước được, ban tổ chức còn giữ được những nét căn bản từ ngàn xưa, thật đáng
ngưỡng mộ vô cùng. Ông hy vọng những năm tới đây cũng sẽ được tốt đẹp như năm nay.
Ông tin chắc:
- Mình biết ơn, biết kính trọng thần đình, ổng sẽ hết lòng phù hộ, sẽ không bỏ bà con mình
đâu. Mùa màn năm tới nhứt định sẽ tốt tươi sung mãn, gió mưa thuận hòa, mọi gia đình sẽ
được ấm no hạnh phúc dài lâu.
Ông Hai Kỉnh, ông chủ điền, ruộng vườn tăm tắp khắp nơi trong quận, tuy mang cái danh vị
không mấy được lòng tá điền mà định mệnh một kiếp người bị buột chặt không rời trên
mảnh đất đầm đìa nước mắt và mồ hôi, nhưng thực tế ông rất mực rộng rãi hiền hòa, biết
quý trọng và thương người, tiếp lời:
- Bác Cả nhận xét đúng lắm, xác thực lắm. Năm nay, tụi con cháu mình tổ chức rình rang
trọng thể và chu đáo như vầy cũng nhờ mưa thuận gió hòa, trúng mùa lớn. So với mấy năm
vừa qua gần đây, mùa màn bệ rạc tệ hại quá, tụi nó vừa ngam ngám đủ ăn đủ mặc nên
không dám phô trương thanh thế. Mà trúng lớn cũng nhờ ơn Trời. Suy ra thất bại hay thành
công gì cũng do ông Trời quyết định cả.
-9-
Ông thầy thuốc Hai Thiện với cái tên tiền định “Thiện”, thiện tâm thiện ý, thiện đức thiện
hạnh… không hổ danh một “lương y từ mẫu”. Ông có chút vốn liếng chữ nho, day qua ông
thầy giáo nói:
- Thầy giáo vốn lão thông kinh sử, chữ nghĩa của thánh hiền. Thầy biết nhiều lại hiểu rộng
hơn thiên hạ ở xóm nầy, chắc cũng đồng ý với bác Hai vừa trình bày là “vạn sự do Thiên”
mà nôm na là muôn việc tại Trời. Nói như vậy là nói theo kinh nghiệm tích lũy hay lối suy
nghĩ đơn giản của đại đa số trong dân gian và có thể cả trong nhân loại không biết chừng.
Kết quả nên hư, những sự thành công hay thất bại tối hậu của hầu hết mọi sự việc trên cõi
đời nhiễu nhương lắm sự này dường như đều do bàn tay huyền bí của ông Trời già định
sẵn cả.
Thầy giáo Mạnh mặt mày ửng đỏ hồng hồng, đôi mắt bắt đầu lờ mờ, do không có tửu lượng
cao nhưng còn vững lắm, phát biểu chậm rãi, có chừng có mực như cuộc đời riêng tư mẫu
mực của thầy:
- Bởi vậy, nhà thơ Tiên Điền Nguyễn Du vẫn hằng tin như thế mới hạ bút viết trong Truyện
Kiều hay Đoạn Trường Tân Thanh câu thơ bất hủ này: “Cho hay muôn sự tại Trời”.
Ông Hai Thắng nãy giờ ngồi im re phăng phắt, thỉnh thoảng nở một nụ cười tươi kín đáo.
Trong bàn tiệc, có thể nói ông là người còn tỉnh táo nhứt. Rượu, ông thường mím môi hay
nhấp nhấp chút đỉnh gọi là tượng trưng cho đúng lệ, mỗi khi đến lượt mình, mặc dù bị thách
thức ép nài. Ông nhậu cho có vị. Không khi nào quá đà để mất nhân phẩm.
Bây giờ ông mới mở miệng:
- Nghe ông giáo nhắc đến Truyện Kiều và “mệnh Trời” gì đó, bỗng dưng tôi lại nhớ cũng
trong Truyện Kiều có một đoạn khá lý thú. Không biết tôi có nhận xét đúng hay không,
nhưng cũng xin phép được nói ra đây để bà con góp ý. Vì tính cách lý thú và nhứt là sự
nghịch lý của nó làm cho tôi lưu ý rồi đâm ra nhập tâm, cứ ám ảnh đeo đuổi để tôi nhớ mãi
đến hôm nay. Và mỗi lần nhớ tới, tôi cứ suy gẩm ngẩm nghĩ, âm thầm tìm hiểu vị trí của con
người trong nhân sinh vũ trụ, về sự hiện hữu của Thượng Đế và về số phận của con người
trong tay Tạo Hóa. Suy nghĩ nhưng tôi chẳng tìm ra được đáp số. Câu ấy như sau:“Xưa nay
nhân định thắng thiên cũng nhiều”.
Rồi nhân dịp hiếm hoi có đông đủ mọi người cao kiến, ông không ngại nêu thắc mắc của
mình để mọi người cùng tìm giải đáp thích ứng giúp ông cho vui, hóa giải những ấm ức. Mà
nếu ổn thỏa được càng tốt:
- Theo thiển ý của tôi, Nguyễn Du tiên sinh quả thật là một vị tiền nhân đầy kinh nghiệm
sống. Người đã từng trải, lao đao lận đận nên thông cảm và hiểu tường tận tâm trạng của
những kẻ si tình đang say mê đắm đuối. Cho nên người đã giúp Kim Trọng, không dè dặt,
thốt ra những lời “trấn an” nàng Kiều bằng một câu rất “bạo” đó. Nếu hiểu “vạn sự do Thiên”
thì câu nói của Kim Trọng quả là câu “nói liều”, liều mạng liều lĩnh quá mức tưởng tượng.
Mà liều ở đây là liều trong lúc si mê tột cùng nơi tình trường phải không chư vị?
Ông giáo Mạnh tỏ ra tâm đắc. Ông khe khẽ gật đầu biểu đồng tình:
- Bác Hai khơi lại đoạn này quả thật có con mắt tinh tế và nhận xét hàm súc. Chính Nguyễn
Du Tiên sinh cũng tin “muôn việc tại Trời” nên mới thốt ra từ cửa miệng Kim Trọng, đang lo
ngại hay phòng xa:
“Ví dầu giải kết đến điều
Thì đem vàng đá mà liều với thân”.
-10-
Cụ Tiên Điền thật quá khéo ăn khéo nói, khéo cư xử. Cụ đón trước rào sau, kín đáo và
chung thủy đến thế là cùng.
Ông thầy thuốc Hai Thiện cũng bắt đầu tham gia, phụ họa:
- Cụ là một bậc tài hoa uyên bác, lại là một vị “túc nho” tiếng tăm lừng lẫy một thời, trước
sau luôn luôn ăn ở “thuận mệnh Trời”. Bởi thế cho nên ngài đã sáng suốt ghi lại cho kẻ hậu
sinh nhận thấy ngay uy quyền tối thượng của Thượng Đế đối với nhân loại. Nhưng sau đó
không lâu, bao nhiêu tang thương oan khổ bỗng nhiên gieo xuống trên thân phận Kim
Trọng, nàng Kiều, ông bà Vương viên ngoại cùng hầu hết những nhân vật trong Truyện,
ngoại trừ một vài vị tu hành hiền đức như vãi Giác Duyên hay Đạo cô Tam Hiệp. Quả là
“giải kết” đã thật “đến điều”! Nhất là với hai nhân vật chánh là nàng Kiều và Kim Trọng,
xuyên suốt những mười lăm năm trời dài đăng đẳng.
Câu chuyện về Truyện Kiều đang vào hồi sôi nổi hấp dẫn, trong khi đám thanh niên lực điền
rất nôn ruột, áp nhau đánh nhanh đánh mạnh nhằm thu dọn gọn chiến trường để sớm gầy
mấy sồng bài cào, cắt tê, tứ sắc hoặc xệp ở hai bên chái hiên đình, quến nhiều người xem
chung quanh. Không khí hò hét xôm tụ lắm.
Bàn giữa danh dự nơi mấy vị chức sắc chưa đi được nửa đoạn đường. Ông Hai Thắng lại
nhơn dịp hiếm hoi có sự họp mặt đông đủ những bậc có tiếng có miếng trong làng nên sa
đà bước sang một thắc mắc khác, mà ông ôm ấp trong lòng bao nhiêu năm trời:
- Sẵn dịp bà con vui vẻ, dong dài giang ca bàn thảo về Truyện Kiều, tôi xin đóng góp một
chút ý kiến mọn, nhờ các bậc có tầm nhìn rộng rãi ở đây giúp giải tỏa giùm. Lâu nay, tôi vẫn
thắc mắc mãi. Cứ ấm ức trong lòng, không chút nào vơi. Mặc dầu ở nơi thôn quê rẫy bái hắt
hiu buồn tênh, làm ruộng làm vườn quần quật cật lực quanh năm suốt tháng không hở đôi
tay, tôi cũng đã có được ít dịp rảnh rỗi giải trí, nhờ đó có đọc đâu đó những sách vở hoặc
bài báo dài lê thê tối mặt tối mày, nào bình giải, nào phê phán Truyện Kiều của nhiều thức
giả tên tuổi. Nhưng thú thật, tôi chưa thấy một ai nêu ra cả. Thắc mắc của tôi xuất phát từ
câu nầy, chỉ một câu duy nhứt nầy mà thôi. Và nói theo ngôn từ của đám trẻ tân học thời
nay nó làm rung rinh cả cái “lâu đài tình ái” của Thúy Kiều và Kim Trọng:
“Với Vương Quan trước vốn là đồng thân”.
Rồi ông đặt thẳng vấn đề:
- Vậy ở đây có mặt các vị chữ nghĩa Việt, Hán, Nôm cả bồ là ông thầy giáo và bác thầy
thuốc cũng nên sẵn sàng giải thích cho tôi được tận tường câu hốc búa rắc rối này, nhất là
hai chữ “đồng thân”.
Ông giáo Mạnh nhíu mày suy nghĩ một chút rồi đưa mắt khẩn khoản hướng nhìn về ông
thầy thuốc, ý như ông “kính lão đắc thọ”, tôn trọng những người tuổi tác hơn mình một
bước. Hơn nữa, ông Hai Thiện không nói ra huỵch tẹt do tánh khiêm nhường của ông,
nhưng mọi người trong làng ai ai cũng biết ông hơn ông giáo Mạnh cả trượng về bộ môn
chữ Nôm chữ Nho. Vì ông giáo dù sao cũng thuộc lớp tân học, nếu có dịp theo học chữ Nho
chữ Nôm cũng không thể học đến nơi đến chốn. Ông học sơ yếu, vừa đủ để tra cứu, tìm
hiểu những danh ngôn, luận ngữ của thánh hiền thôi.
Ông Hai Thiện ngầm hiểu ý nên không thối thác quanh co làm phí mất thêm thì giờ. Ông lên
giọng phát biểu:
-11-
- Tôi nghĩ “đồng thân” là bạn học cũng như “đồng song” vậy. Nghĩa là đồng trường đồng
lớp, đôi khi lại cùng một sách một đèn nữa. Và thường thường họ cùng trang lứa, cùng một
tuổi ngang ngửa với nhau.
Ông giáo Mạnh thêm vào:
- Trở về với quá khứ, tôi nhớ rõ không sai chạy chút nào. “Đồng thân”, “đồng song”, bạn học
với nhau từ “cái thuở học trò xa xôi ấy”, bạn học cùng trường cùng lớp, anh chị nào thông
minh học giỏi, có thể kém ta vài tuổi, năm bảy tháng, còn anh chị nào “dốt” như đại đa số bà
con ở xóm làng mình, thường cũng lớn hơn ta chừng tuổi ấy. Nhưng tựu trung đã là bạn
“đồng thân” thì đều cùng một lứa tuổi, xấp xỉ ngang nhau. Cá mè một lứa mà!
Đến lúc này, ông Hai Thắng mới bắt đầu tuông những trăn trở bấy nay được dồn nén kín
đáo trong lòng, như nước chảy lúc rặc ròng cuồn cuộn như cắt:
- Nếu quý vị phân tách như vậy, tôi thiển nghĩ cũng không sai chút nào cả. Nên tôi quyết
chắc Kim Trọng, con người “văn chương nết đất thông minh tính trời” hẳn đồng một tuổi với
Vương Quan hay cùng một lứa, hoặc lớn hoặc nhỏ hơn một vài tuổi hay năm bảy tháng là
cùng. Nhưng bây giờ mình thử tính tuổi của Vương Quan xem sao? Có như thế mới hy
vọng giải tỏa được phần nào thắc mắc của tôi.
Mấy vị hương chức Hội Tề, cả ông Bang Biện trình độ học vấn và hiểu biết có giới hạn nên
chán nản sao đó đứng lên kiếu ra về sớm. Hơn nữa cũng do lớn tuổi, ngồi lâu mỏi xương
sống, cóng xương sườn. Để lại trên bàn tiệc còn le hoe năm ba người đang say mê sống
với thời đại phong kiến đang trên đà tàn tạ của cụ Tiên Điền. Vắng mặt các vị chức sắc, mọi
người thấy thoải mái hơn nhiều, tha hồ phát biểu, không ngần ngại dè dặt, trái lại chân quê
bọc trực, nghĩ sao nói vậy, không chút văn vẻ cầu kỳ.
Ông Hai Thắng bèn đề cập trở lại câu chuyện dang dở nửa chừng:
- Bây giờ ta thử cùng nhau tính tuổi của Vương Quan xem sao? Chị Cả Thúy Kiều “xuân
xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”. Thầy giáo và ông Hai có đồng ý thống nhứt với tôi ở điểm sau
này không? “Cập kê” là “cái trâm”. Khi cô gái Trung Hoa thời vua chúa, phong kiến xa xưa
được mười lăm tuổi thì cha mẹ mừng húm lo tổ chức chu đáo lễ ”cập kê”. Và từ đó xem như
thiếu nữ ấy có thể lên kiệu hoa, xe hoa hay xuồng hoa đi lấy chồng, làm dâu thiên hạ được
rồi. Cô cả Thúy Kiều được mười lăm tuổi (dù mới xấp xỉ thôi). Bà cụ Viên Ngoại họ Vương
nếu có may mắn lắm «sòn sòn năm một» thì cô Hai Thúy Vân chỉ mươi bốn và cậu Út
Vương Quan cũng chỉ mười ba là cùng! Cho dù bà cụ Vương có sanh đầu năm một đứa,
cuối năm một đứa cũng không thay đổi được gì cho lắm. Tính tuổi giản đơn như thế có
đúng hay không? Cũng có thể sai lắm chứ. Nhưng việc này không hẳn như vậy đâu. Tôi
dám chắc như thế. Nếu có sai thì Thúy Vân và Vương Quan lại càng nhỏ tuổi hơn cô chị,
thua cở mười bốn, mười lăm chớ không thể lớn hơn được. Tôi nghĩ nông cạn đó là cách
tính khoa học theo phép tính cộng trừ nhơn chia mà hồi nhỏ đi học tôi thường bị thầy giáo
khẻ tay vì tính sai. Tính như vậy chắc khó có thể sai, phải không quý vị?
Ông Hai dai qua gọi bầy trẻ đang đứng xớ rớ gần đó, bảo bỏ thêm trà và xuống bếp châm
nước sôi vì bình tít trà đã cạn queo từ lâu, trong khi tiệc chưa tàn. Ông rót ra vài chum, ôn
tồn mời mọi người rồi đưa chum mình lên hớp một hớp thấm giọng:
- Bởi Vương Quan không hơn mười ba tuổi thì Kim Trọng cũng tròn trèm tuổi đó, lớn nhỏ
hơn một hai tuổi là cùng. Đến đây ta mới bật ngửa thấy cái «nguy cơ» nó «lộ dạng» dần
dần với cái tuổi mười ba ấy. Tôi xin nhấn mạnh để lưu ý bà con cái tuổi mười ba của hai cậu
học trò này, nhất là đối với «bé» Kim Trọng. Nguyễn Du tiên sinh viết «Với Vương Quan
-12-
trước vốn là đồng thân». Có nghĩa là từ mấy năm về trước, Kim Trọng và Vương Quan, hai
chú bé này lúc đó hãy còn nhỏ lắm, đã là bạn học cùng trường và có thể cùng lớp nữa. Tôi
nghĩ chắc như bắp, đúng ba bó vào một giạ vậy.
Ông có vẻ nghiêm nghị:
- Nhưng dù có ‘trước’ hay sau gì, cả hai đều là bè bạn đồng chạn với nhau. Chữ ‘trước’ này
không thể nào ‘cứu’ được chú ‘bé’ họ Kim và cũng không thể làm cho ‘bé’ Kim Trọng ‘lớn’
thêm được chút nào cả. Vì vậy cho nên thuở đó, ‘bé’ Kim Trọng có:
«Trộm nghe thơm nức hương lân.
Một nền Đồng tước khóa xuân hai Kiều»
thì dù có ‘ngăn cách’:
«Nước non cách mấy buồng thêu»
hay không thì ‘bé’ Kim Trọng (đang còn bé tí) làm sao lại có thể: «Những là trộm giấu thầm
yêu chốc mồng» cho được? Hơn nữa, ‘bé’ Kim Trọng là con nhà gia thế, kỷ cương lễ giáo,
‘bé’ đâu có sớm ‘mê sắc’ như thế, lại ‘mê’ hai cô chị bạn ‘đồng thân’ với mình. Mà theo tập
tục luân thường đạo lý thuở ấy thì vô lễ quá chừng!
Ông Hai Thắng tiếp tục phân tách thêm trong khi ở bàn tiệc, mọi người ngồi im lặng ngạc
nhiên:
- Tuy vậy do sự xếp đặt những tình tiết éo le của Tiên sinh làng Tiên Điền, mọi sự việc vẫn
tuần tự tiếp diễn trong một tình huống rất mực lạ lùng và mỗi lúc lại càng thêm ‘vô lý’ thêm,
cũng chỉ vì do lứa tuổi thơ ấu của Kim Trọng mà ra cả. Tôi lấy một ví dụ để các ông anh
mình suy gẩm, thử xem cái ‘vô lý’ ấy có đúng như nhận xét của tôi không?
Ông ra chìu suy nghĩ hun lắm, dường như để hồi nhớ những đoạn ông đã giấu kín bấy nay
trong ký ức mình. Đôi chân mày rậm ri điểm bạc đó đây của ông trông đâu hẳn vào nhau
làm nổi bật những nếp nhăn nheo sâu hóm nơi vầng trán và đuôi mắt:
- ‘Bé’ Kim Trọng mới mười ba tuổi đầu làm sao lại một mình ra tỉnh ra thành, trong khi
đường đi nước bước thời xa xưa đó nhiêu khê trắc trở lắm, đôi khi nguy hiểm là khác. Rồi
‘bé’ lại tìm mướn nhà trọ, rồi cố kiếm cho bằng được địa chỉ của nàng Kiều để ‘di cư’ tới cận
kề? ‘Bé’ còn ôm theo vòng vàng chuỗi ngọc, khăn gấm, lụa là… Tôi phỏng chừng chắc có lẽ
‘bé’ Kim đề phòng khi gặp gái đẹp ở thị thành chăng? Thế rồi bỗng nhiên ta lại thấy ‘bé’ trở
thành một thanh niên hào hoa phong nhã, lừng lững trên mình ngựa, dạo chơi trong Hội
Đạp Thanh nhân ngày lễ Thanh Minh. Từ xa ‘vừa tỏ mặt người’, ông văn nhân ‘cỏ pha màu
áo nhuộm non da trời’ ấy vội vàng xuống ngựa đến chào hỏi và ‘tự tình’ với ba chị em nàng
Kiều!
Ngừng một chút, ông tiếp:
- Tôi không phải là hạng người gở gở gàng gàng hoặc ba phải không lập trường, sống lập
dị, xa rời thực tế. Đôi chân tôi luôn luôn đứng vững vàng trên mảnh đất quê hương cố thổ
mình. Nhưng thực tình, tôi lại thấy một điều rất lạ, cứ ám ảnh tôi mãi là tại sao Vương Quan
lại ‘quen mặt’ ông ‘văn nhân’ ấy?
«Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa».
Thì ra chú ‘bé’ Vương Quan bỗng nhiên được tác giả truyện Kiều bất thần ‘phong’ lên là
‘chàng’, mà thật ra thiết nghĩ tiểu tiết này không quan trọng mấy đâu. Điều hết sức quan
-13-
trọng và rất kỳ dị là tại sao Vương Quan lại nhầm lẫn ông ‘văn nhân’ này với ‘bé’ Kim Trọng
là bạn học của Quan? Đây là một trong những hậu quả tai hại của hai chữ ‘đồng thân’ vô
tình gây ra! Vì vậy, theo tôi ngẩm kỹ, phải làm thế nào để tránh hai chữ tai hại này mới
được. Nếu không, ta có thể tưởng tượng đến những ‘màn’ tiếp diễn vô cùng độc đáo trong
những cuộc gặp gỡ giữa Kim Trọng và Thúy Kiều.
Để xác nhận điều này, ông Hai Thắng đằng hắng lấy giọng, sau khi uống một tô con rồng
nước mưa mát lạnh:
- Khi Kim Trọng (mười ba tuổi) ve vản Thúy Kiều và ướm thử:
«Tiện đây xin một hai điều
Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?».
Và Thúy Kiều (mười lăm tuổi) lễ phép trả lời bằng những câu «thưa» lại:
«Nặng lòng xót liễu vì hoa
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!».
Một ‘trẻ thơ’ Thúy Kiều ở tuổi ‘cập kê’ – mười lăm tuổi – ‘thưa’ lại với một em ‘bé’ Kim Trọng
non chèo – mười ba tuổi – thì theo tôi vốn dĩ là con người thủ cựu hủ lậu vào hàng đệ nhứt
xóm mình, quả là sự việc hi hữu lắm đó! Nhưng tôi suy đoán cho cùng, nghĩ rằng tác giả
truyện Kiều quên bẳng tuổi tác Kim Trọng cho nên Người vẫn yên ổn, an tâm tiếp tục sáng
tác phong phóng tuông tràn như không có một trở ngại nào trong dòng suy nghĩ của mình.
Mãi về sau, trong một dịp khác, vì đã mấy hôm liên tiếp không có dịp gặp mặt cho nên Kim
Trọng (mười ba tuổi) than thở với Thúy Kiều:
«Trách lòng hờ hững với lòng
Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu
Những là đắp nhớ đổi sầu
Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm».
Ông nhấn mạnh:
- Đến đây chắc quí ông anh thấy cái đầu ‘hoa râm’ của chú ‘bé’ Kim Trọng cũng thật là lạ
đời, không đúng với sự phát triển tự nhiên của một cơ thể con người bình thường trong xã
hội nhơn quần từ cổ chí kim.
Rồi ông Hai dứt khoát như để kết thúc câu chuyện:
- Những câu đối đáp như thế của chú ‘bé’ Kim Trọng ‘đồng thân’ với em út của Thúy Kiều là
Vương Quan (cũng mười ba tuổi) khiến chúng ta không khỏi bật cười. Nhưng nếu suy nghĩ
kỹ thì nguyên do của những tấn ‘hài kịch’ ấy là bởi câu thơ: «Với Vương Quan trước vốn là
đồng thân» mà ra cả.
Ông thầy giáo Mạnh từ nãy giờ ngồi im lặng, tai lắng nghe phần thắc mắc rắc rối về tuổi tác
của những người trong cuộc cũng động lòng tham gia đóng góp ý kiến mình vào câu chuyện
đã đến hồi kết thúc:
- Tôi thiển nghĩ đây có lẽ là một rủi ro, một thiếu sót hay một sự lãng quên của tác giả
Truyện Kiều mà thôi. Nhưng không may, sự lãng quên rủi ro này lại quá to lớn, có liên quan
trực tiếp đến một nhân vật hàng đầu của tác phẩm là chàng Kim Trọng. Hễ nơi nào có
chàng Kim Trọng là ở đó có sự ‘hóa thân’ vô tình nhưng rất phi lý giữa một cậu ‘bé’ mười ba
tuổi với một thanh niên dạng dầy kinh nghiệm trường đời. Vì cậu ‘bé’ ấy bỗng nhiên đã trở
thành một ‘văn nhân’ rất mực tài hoa phong nhã, mà lại là người yêu của Thúy Kiều nữa!
-14-
Ông thầy thuốc Hai Thiện khe khẽ gật đầu, dường như để biểu đồng tình. Ông tỏ ra tâm đắc
với những lời bào chữa chân tình và hữu lý của ông Thầy Giáo, rồi ung dung bày tỏ ý kiến
vừa chợt đến của mình. Ông xem ra như hiểu nhiều, từng quan tâm đến một giai đoạn đau
buồn của lịch sử nước nhà:
- Bây giờ, ta thử tìm tòi, phỏng đoán xem tại sao và trong trường hợp nào cụ Tiên Điền
Nguyễn Du lại viết nên câu thơ đã gây thắc mắc cho hiền huynh Hai Thắng: “Với Vương
Quan trước vốn là đồng thân“... Và về sau, Tiên sinh không còn lưu ý đến nữa. Chắc mấy
ông anh ở đây thừa biết sứ thần Nguyễn Du Tiên sinh, trong dịp sang Trung Hoa tiến cống
vua Tàu, đã được xem “Đoạn Trường Tân Thanh“ là một cuốn truyện tình éo le bi thảm.
Trong tác phẩm này, có thể cũng có hai người bạn học (đồng thân). Chẳng biết họ ở vào
lứa tuổi nào, nhưng hình như Nguyễn Du Tiên sinh đã dõi theo sự sắp đặt nhuần nhuyễn
các nhân vật trong sách ấy để viết nên cuốn Truyện Kiều hay Kim Vân Kiều bất hủ của
Người. Điều này thú thật tôi có thể tin tưởng được lắm.
Ông Hai Thiện cảm thấy mình có trách nhiệm tiếp tục triển khai thêm cho được sáng tỏ vấn
đề:
- Chúng ta còn được biết thêm trong thời gian đó, Nguyễn Du Tiên sinh, do thế cuộc đổi
thay, tang thương dâu biển, đành cam phận với một “hàng thần lơ láo“, lạc loài giữa triều
đình nhà Nguyễn tại kinh đô Phú Xuân (Thuận Hóa), trong khi Người thuộc dòng họ những
vị cựu thần tiếng tăm của nhà Lê tại Thăng Long. Người lại còn là hậu duệ của những bực
trâm anh thế phiệt, đã bao nhiêu đời làm “cận thần, quan lớn“ của Lê triều, như dân gian
vùng Thanh Nghệ đã từng đặt thành câu phong dao sau đây:
“Bao giờ ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước, họ này hết quan!“.
Sau đó, ông xuống giọng kết luận:
- Nguyễn Du Tiên sinh đang ôm một mối hận vô cùng chua xót, cho nên Người đã tự ví
mình chẳng khác gì Nàng Kiều, phải bán mình vào chốn thanh lâu! Do đó, Người đã viết
nên cuốn Truyện Kiều bất hủ này chính là để giải khuây, vỗ về những ray rứt trong lòng và
để nhắn nhe cùng mai hậu:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ ai người khóc Tố Như”.
Ngừng một chút, ông tắt lưỡi:
- Một câu nhắn nhe thật chua xót! Ngoài ra, Người còn mượn lời Từ Hải để thở than tâm sự
riêng tư sâu lắng, quá cay đắng của chính mình. Mặc dù trường hợp của Từ Công khác
hẳn, bởi chính Từ lụy vì tình mà nên nông nỗi, chứ đâu phải như công thần Nguyễn Du gặp
lúc thất thế sa cơ phải tùy thời!
Được trớn, ông Hai Thiện đi nốt lý giải của mình:
- Để tiếp theo đó Nguyễn Du Tiên sinh đã viết nên những câu thật tài tình và cũng thật là
chua chát:
“Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo, phận mình ra sao?
Áo xiêm buộc trói lấy nhau
Vô luồn ra cúi công hầu mà chi?“.
-15-
Với một trạng thái tâm hồn khổ đau, uất hận, buồn phiền như thế nhưng Người lại viết
Truyện Kiều bằng thơ, một bài thơ lục bát trường thiên, thế gian hy hữu, dài như vô cùng
tận... với 3254 câu đẹp như hạt minh châu. Tấm lòng Người Thơ không khỏi lao đao, xao
xuyến theo từng dòng thơ nét bút! Nhưng đôi lúc chắc hẳn là Tiên sinh cũng thấy lòng
khoan khoái vì... Thơ. Đến đây ta có thể tưởng tượng rằng, khi Người miên man sáng tác:
«Chung quanh vẫn đất nước nhà
Với Vương Quan trước là đồng thân»
Người vẫn lặng thầm, chăm chỉ viết, thật an nhiên tự tại. Rồi khi đến những câu:
«Trộm nghe thơm nức hương lân
Một nền Đồng tước khóa xuân hai Kiều
Nước non cách mấy buồng thêu
Những là trộm giấu thầm yêu chốc mồng».
Lại còn:
«May thay giải cấu tương phùng
Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa” v.v...
Rồi ông kết thúc:
- Những câu thơ hay quá, vần điệu thanh thoát, nhẹ nhàng, trầm bổng du dương khiến
Người Thơ như say như tỉnh, lại thêm cái may mắn bất ngờ của “tuần đố lá” trong một ngày
vừa Lễ Tảo Mộ lại còn là Hội Đạp Thanh. Người còn tạo được một cuộc tương phùng cho
Thúy Kiều Kim Trọng thì thật là “tuyệt diệu”! Cũng có thể Người Thơ còn thích thú ngâm đi
ngâm lại đoạn này và thong thả uống vài ngụm bồ đào mỹ tửu đem từ Bắc Kinh về để nhấp
giọng và khoan khoái gật gù vuốt chòm râu đã bắt đầu nhuốm bạc, rung đùi, vừa ý... tưởng
như Người đang chia xẻ niềm vui tao ngộ giữa Kim Trọng, Thúy Kiều... Rồi Người Thơ vẫn
“an nhiên tự tại“, lại tiếp tục thích thú say sưa mê mẩn viết... và những dòng thơ ngà ngọc
lại tuần tự hiện hình, lung linh, huyền ảo... giữa trạng thái nửa tỉnh nửa mê, vui buồn lẫn lộn
ấy. Do vậy làm sao Người Thơ còn có thể nhớ đến những vụng vặt của cuộc đời trong đó
vô tình Người Thơ quên mất là còn lạc loài tuổi tác hai cậu “bé” “đồng thân”! Các huynh thấy
tôi có lý hay không?
Ông Thầy Giáo Mạnh vừa hút xong điếu thuốc rê quê hương vấn to bằng ngón tay trỏ. Ông
hớp một ngụm trà Thiết Quan Âm đậm đặc âm ấm, lấy giọng:
- Mà hồi thời xa xưa của nhà thơ làng Tiên Điền, làm gì có người phụ trách có trình độ
“duyệt lại” bản thảo Truyện Kiều, trước khi cuốn truyện thơ lẫy lừng này được lên khuôn in
ấn như hiện tại. Có lẽ vì vậy cho nên từ xưa đến nay, hai chữ “đồng thân” vẫn chưa “lộ
dạng”, vẫn chưa được một ai khám phá ra bao giờ, mặc dù Truyện Kiều đã có hằng triệu
triệu người đọc khắp cả nước. Vả lại còn có cả chục dịch giả, phiên âm chữ nôm và chữ
Pháp nữa. Phải chăng vụ việc này là do “tiền định” mà ra? “Vạn sự do Thiên"! Muôn việc tại
Trời! Hay bởi trên đời này chẳng có gì “tuyệt đối” cả? Hơn nữa, có một điều gần như chắc
chắn không một ai có thể phũ nhận được là bởi hào quang của Truyện Kiều quá rực rỡ, chói
lòa nên đã che lắp hai chữ “đồng thân” sơ sót quá tai hại ấy!
Ông Hai Thắng bèn chụp lấy ngay hai chữ “tai hại” ấy để trở lại thắc mắc thuở ban đầu của
mình:
- Bây giờ “ván đã đóng thuyền” quá lâu rồi, chẳng một ai có thể làm gì được nữa. Mà mình
cũng chẳng có chút khả năng tối thiểu nào để làm việc đó. Chẳng qua do vị trí của mình nơi
-16-
cùng trời cuối đất u u tăm tăm này. Dầu mình có nói với tất cả tấm lòng, ai mà nghe cho
thông lổ nhỉ . Mình chỉ còn một chút ước mơ hão huyền. Viễn vong là khác. Là nếu lúc đó
bỗng nhiên Nguyễn Du Tiên sinh đọc lại và ‘nhận diện’ kịp thời hai chữ ‘đồng thân’ nguy
hiểm ấy và Tiên sinh đã thay vào bằng hai chữ khác như ‘hương lân’ chẳng hạn. Vì ‘hương
lân’ là người ở cùng một thôn ấp xóm làng với nhau. Kim Trọng mà ở cùng làng với gia đình
họ Vương (Vương gia) và chàng Kim là một ‘văn nhân’, một trang công tử đã lớn, đã trưởng
thành lại là một bực hào hoa phong nhã thì càng tiện lợi mọi bề. Và nếu được như thế thì ổn
thỏa biết bao, ngày nay chúng ta, hàng hậu duệ, con cháu Tiên sinh Nguyễn Du, đâu còn ai
thắc mắc vì vụ ‘đồng thân’ với lứa tuổi ấu thơ của Vương Quan, Kim Trọng.
Sau cùng, ông Hai Thắng chậm rãi thố lộ nỗi niềm ắp ủ lâu nay trong lòng mình, mong được
sự biểu đồng tình của hai bậc cao kiến trong bàn tiệc là thầy giáo Mạnh và ông thầy thuốc
Hai Thiện:
- Trong trường hợp hão huyền đó, tôi có thể ‘mơ’ thấy Nguyễn Du Tiên sinh xuống bút viết
chẳng hạn như:
«Chung quanh vẫn nước non nhà
Với Vương Gia trước vốn là hương lân
Trộm nghe tài sắc giai nhân
Một nền Đồng tước khóa xuân hai Kiều» v.v…
Phải viết ‘Vương Gia’ và ‘hương lân’ mới tiện cho Kim Trọng quen biết gia đình này và tài
sắc ‘giai nhân’ để thay thế hai chữ ‘hương lân’ đã được đem lên câu trên.
Bốn năm sồng bài cắt tê dà dách, tứ sắc, xệp… bên chái hiên đình làng bắt đầu lên đèn để
tiếp tục sát phạt nhau không nương tay. Mấy con chim vịt từng chập từng chập kêu chiều,
thoảng lên đâu đó ngoài bờ rào rậm rạp lùm buội nơi bến sông đình làng.
Cả ba người, ông Hai Thắng, thầy giáo Mạnh và ông thầy thuốc Hai Thiện cũng bắt đầu mệt
mỏi, chuẩn bị khăn gói dợm chia tay, để mặc mấy thanh niên vai u thịt bắp mới tấn lên
khoảng hai thập niên gần đây, đang tích cực thúc hối nhau lo thu xếp bàn ghế và quét dọn
sạch sẽ trong ngoài cho kịp về nhà trước nửa đêm.
Các ông sung sướng đã cùng nhau họp mặt cả một buổi trời trong thân tình, nhứt là thỏa
lòng toại ý đã đóng góp phần mình trong việc giải tỏa những thắc mắc của ông Hai Thắng.
Và chắc kể từ giờ phút này, ông Hai thấy lòng mình lâng lâng nhẹ nhỏm vì ông đã lùa xa
những vướng bận bấy nay vào niềm vui thanh thản của con người được hoàn toàn toại
nguyện.
* * *
Ông Cả Tỵ, ông Chủ Tuôi, ông Hương Sư Giàu, cả ông Bang Biện rồi ông Hai Thắng, thầygiáo Mạnh và ông thầy thuốc Hai Thiện lần lượt kẻ trước người sau đã ra người thiên cổ.
Nay, họ đã an giấc, mồ yên mả đẹp trong lòng đất quê hương, nơi cái xóm cùng cốc xa vạn
dặm mà danh xưng với âm hưởng hoang dả xa lạ, không ai để ý đến bao giờ.
Xã hội thời đó đã mất hút trong sâu thẳm dĩ vãng từ lâu rồi. Nhưng dù sao thời gian cũng
không thể xóa nhòa những kỷ niệm. Bây giờ chỉ chớp tắt thoáng hiện trong trí nhớ của một
số người còn nhung nhớ, quan tâm đến cội nguồn gốc rễ.
Cái thuở con người thanh thản thư thả, không hề vướng bận với những ràng buộc giờ giấc,
không bị căng thẳng với cái ăn cái mặc và những đòi hỏi bức bánh về tiện nghi vật chất
trong đời sống hằng ngày…
Cái thuở mà con người không chút ngần ngại đắn đo bỏ ra cả ngày cả buổi để giang ca
dong dài, bàn thảo tranh luận về mọi chuyện trên trời dưới đất, nhất là trong lãnh vực tao
nhã thơ ca thi phú, dù là tập tành qua sự hiểu biết quá giới hạng của họ…
Cái thuở đó ngày nay hầu như không thể bắt gặp được nữa. Tiếc thay!
Cuộc sống bây giờ quá đỗi hấp tấp, vội vàng đến chóng mặt. Con người hầu như tất cả đều
tranh nhau dẫm đạp chạy đua theo giờ giấc hằng ngày, mà khốn thay họ không bao giờ
thành công bắt kịp cái bóng thời gian. Để rồi mãi mãi họ triền miên vướng mắc những phiền
hà tâm linh và những phiền toái tinh thần, một khi nhắm mắt lao theo đeo đuổi mà không
sao thoát ra được. Mặc dù phần vật chất và tiện nghi quá ư đầy đủ dư thừa quá mức.
Suy cho cùng, không biết con người thời đại tân tiến hiện nay có thực sự sống sung sướng
và hạnh phúc bằng những ông Hai Thắng, thầy giáo Mạnh hay ông thầy thuốc Hai Thiện
ngày xưa hay không? Cho dù ở cái thuở xa xưa hun hút ấy, con người không hề được thừa
hưởng trọn vẹn và đầy đủ những tiện nghi và thành quả tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
Những người này sống theo thuyết định mệnh do chịu ảnh hưởng của lớp người trước. Mọi
việc trên cõi đời đều do ông Trời định đoạt cả. Cho nên họ chấp nhận an phận thủ thường,
bằng lòng với hiện tại, nếu có phấn đấu vương lên cũng chỉ bằng mồ hôi thấm đẫm trên hai
vạt áo mình. Không hề có sự bon chen ganh tỵ bất chánh, tranh giành quá đáng, ham muốn
thậm đa… khiến cho con người không lúc nào bình ổn, thăng bằng trong nội tâm.
Có lẽ nhờ quan niệm sống nhàn nhã trong sự gói ghém, biết đủ biết thiếu chừng mực và
hợp lý, họ tạo được niềm vui và hạnh phúc thật sự qua tiếng cười chân chất và phong cách
xử dụng giờ giấc thư thả mà con người văn minh tiến bộ ngày nay lắm lúc khó mà tìm được.
Mới hay cái quá khứ thuở nào vẫn có nhiều hấp lực lôi cuốn để con người ngày nay mãi mãi
nhắc nhở nhớ nhung để tiếc nuối?! Không những chỉ ‘ba trăm năm sau’ mà cả ngàn năm
sắp tới nữa, sự nhớ nhung nhắc nhở ấy chắc chắn sẽ còn đậm đà sâu sắc trong tâm khảm
của những thế hệ hậu sinh.
Võ Phước Hiếu
(Trích «VIỆT NAM, Niềm Thương Nỗi Nhớ» của Nguyễn Song Anh & Võ Phước Hiếu,
Hương Cau (Pháp) xuất bản 2011, tr.203-248.)
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 239
HÀN SONG TƯỜNG - TRUYỆN HÀI - NGUYỄN KHÔI
Saturday, December 1, 2012
HÀN SONG TƯỜNG * NẮNG ĐÃ TÀN RỒI
NẮNG ĐÃ TÀN RỒI
1. Nắng Đã Tàn Rồi
Tôi ngập ngừng mãi rồi cũng cho Đông biết, tôi có một đứa con gái sau khi chàng bỏ đi, Đông nghe im lặng, tôi tránh mắt Đông, nhìn sang khóm cây bên kia đường đang vật nghiêng bởi cơn gió mạnh, cơn gió nào đã thổi chàng về đây, có điều tôi muốn hỏi Đông khác kìa không phải nhìn thấy Đông vững chãi thế này, tôi hỏi: “Anh có lạ lùng. Hay thật” Chàng nắm tay tôi kéo mạnh vào hàng hiên: “Con người ta em nuôi, con anh em giết” Câu nói như một gáo cường toan đổ xối lên người tôi xính vính. Tôi lặng người khi nghe bước chân Đông chạy hối về phía trước. Một khoảng khắc bỗng trầm thống và lo sợ bủa vây lấy tôi như hàng trăm mũi nhọn đang đâm vào da thịt -tôi vụt chạy theo Đông, gọi chàng ầm ĩ nhưng không nhìn thấy Đông nữa...
Chẳng hiểu sao tôi lại cho chàng hay những biến đổi quá rõ về quãng thời gian Đông đi biệt mà chi -Sự trở lại của chàng không làm ấm lại những ngày tháng nhớ nhung cùng vơi đi hết niềm thù hận hay sao... (Người đàn bà có quyền chọn lựa một đứa con) Người nữ bác sĩ nói với tôi, sau khi tôi đã làm xong một việc, việc từ chối một đứa bé, bà ta nói chuyện qua rồi, cô còn khóc mà chi, ở đời thiếu gì cảnh như cô, cô là đàn bà, cô sẽ có một đứa con khác, cô có biết, đàn bà mình hơn đàn ông ở chỗ, chắc chắn nó là con mình, nó nằm trong người mình mà, còn đàn ông hả. Có khi họ nhận vơ đó... Tôi gặp bà bác sĩ này, sau khi tôi nổi cơn tảo trí, bất thường khi Đông đi được nửa năm, ngày tháng đó tôi như con thú nhỏ đầy thương tích, khốn cùng, chị Anh bỗng xuất hiện trong đời sống tôi, người nữ bác sĩ tâm lý, độc nhất.
Mở phòng mạch trong cộng đồng người Việt, ế khách quanh năm, nhưng chị có vẻ thích hoạt động trong lãnh vực xã hội, tôi gặp chị qua sự giới thiệu của chương trình y tế địa phương, ngày đầu tiên khi Mỹ Lan cô bạn gái đem tôi đến phòng mạch, tôi đã dẫy nẩy không chịu vào, tôi nói với Mỹ Lan tôi sợ bị bà ta lầm tống tôi vào nhà thương điên, nhưng khi chị Anh ra đem tôi vào ghế, tôi đã nhìn thấy nét tin cẩn trong đôi mắt chị. Ngày đó, tôi nhớ, chị nhìn tôi dò xét rồi chê bai cả con người tôi, nhìn kìa, quần áo cô luộm thuộm, áo đỏ mà cô mặc quần xanh, cô có điên không, tôi lắc đầu -không điên- Chỉ nhức đầu, không ngủ. Không nhớ gì mấy. Mỹ Lan thì kể lể thêm ngọn ngành, nó thêm bớt là tôi nói lộn xộn dữ lắm.
À cô ấy biết mình nói lầm mà vẫn nói chứ gì. Như cái mũi mà gọi là con mắt, cái tay cô gọi cái chân, ai chả vậy, có khi tôi cũng bị lầm lẫn như thế, bây giờ cô phải tập lại, tập nói cho đúng... Sau những ngày tập nhớ lại, tập không nhức đầu, tập đi ngủ, phòng mạch chị tôi đã bớt dần đi lại, tuy vậy hình ảnh Đông vẫn đâu đó, chập chờn trong lòng tôi như cơn mưa thinh... hoặc rơi lộp độp trên mái nhà, xa hơn nữa là tiếng cười nói của chàng còn y như ly rượu vang dụ hoặc.
Bệnh nhức đầu, mặc cảm, tự khổ đã không còn trong tôi nữa, tôi chắc chắn với chị Anh vậy, có chăng tôi bỗng thèm muốn một đứa con. Sau hai năm Đông đi khỏi, để giảm đi lòng hối hận, dày vò, tôi muốn làm một việc, kễ ra cũng hơi khó nhưng mà vào tháng tám năm đó, chị Anh giúp tôi hoàn tất, chị bảo chị chẳng làm cho ai, chỉ vì tôi. Buổi sáng chị bơm cho tôi đầy một ống nhỏ, Mỹ Lan thì đứng cạnh chị dặn dò -Cẩn thận nghe không con Mỹ là bỏ mẹ nó, tôi nói -tôi muốn đứa con nguyên chất Á đông, giống như Đông vậy.
Chị Anh bực bội khi nghe tôi nhắc đến tên Đông, còn Mỹ Lan thì che mặt cười, chị Anh bảo đảm khi xong việc, mọi sự sẽ hơn là điều mong ước nữa kìa. Quả đúng như lời chị nói, khi bé Hạ ra đời nó xinh đẹp lắm. Chị Anh mê nó hơn tôi, chị không nói ra nhưng nhìn chị, tôi hiểu chị đã coi mình như người sáng tạo ra nó, giờ tôi không còn là bệnh nhân mà thành người thân thuộc của chị, chị nhận bé Hạ làm con nuôi, chị săn sóc, cấp dưỡng cho nó, có lần tôi hỏi, chị đào đâu ra ống lăng quăng đó, con bé có vẻ giống Nhật hơn Việt Nam.
Chị bảo không, nó giống tôi, rồi chị đẩy tôi đứng trước gương chỉ chỏ. Nhìn kỹ nhé, mỗi thứ nó đẹp hơn cô một tí, nên nó thành đẹp hơn chứ nó giống y hệt cô, chẳng có gã chết tiệt nào làm ra nó được, chỉ có cô, một mình cô thôi, hiểu chưa đạ hiểu- Tôi trầm mình vào lời dạy dỗ của chị, chị nói gì tôi cũng thấy đúng cả. Bé Hạ ra đời bằng sự nhiệt tâm của người nữ, bác sĩ tâm lý và tôi, bé hoàn toàn không dính líu vào một người cha.
Thời gian không phải mãi nhốt kín nỗi u hoài, mà để lướt qua bao sóng gió, cho tôi còn tồn tại với tình thương nỗi nhớ -bên cạnh tôi bé Hạ vươn lên tươi trẻ, mỗi tuần tôi đến chị Anh đón con về một ngày, hai mẹ con dẫn nhau ra vườn, chỉ cho nó xem từng chiếc lá mới mọc và dạy nó nói, mới hai tuổi bé Hạ đã biết nói khá sõi... Cho đến một ngày, có trời mà hiểu khi Đông ở đâu hăm hở trở về tìm tôi, sau khi chàng kiếm cớ và vu cho tôi bao chuyện oan nghiệt để ra đi, khi thấy Đông ở phòng khách, tôi đã giật mình kẻ mà tôi thù hận, đang đứng mỉm cười, tôi nhớ rõ mấy năm về trước, Mỹ Lan còn treo ảnh Đông lên tường rồi bảo tôi phóng những mũi tên lên người cho nát bấy.
Ai dè Đông vẫn còn sống hiên ngang ghê chưa, thế mà chị Anh và Mỹ Lan quả quyết Đông đã không còn, “này nhé mày cứ băm nó, nguyền rủa nó cả năm trời, nó sống sao nổi”. Một mối tình có đoạn kết đau thương đến thế, người đàn ông bạc bẽo, bị cô nhân tình phóng hàng trăm mũi tên lên người, mũi nào đã trúng tim anh -tôi nghĩ đến hàng đêm rồi buồn day dứt.
Bình minh đã chiếu sáng khắp nơi, vài tia sáng dọi vào chỗ Đông nằm, tôi bước thật nhẹ về phía phòng khách, Đông ngủ ở đó đêm hôm qua, tôi cúi xuống, cầm tay Đông áp vào mặt, hơn bốn năm dài còn gì, trong tôi vẫn còn lưu luyến vô cùng. Khi Đông tỉnh dậy, chàng hỏi -Mấy giờ rồi em. Tôi không nói, Đông đưa tay vò rối làn tóc tôi vừa rũ lên mặt, hình như Đông đang suy nghĩ điều gì, ý nghĩ này khiến tôi lo ngại, lý do nào chàng lại tìm về, niềm hối hận, bị kẻ khác ruồng bỏ, đang bị thất nghiệp, những câu hỏi kể ra toàn là những điều đáng thương xót phải không...
Cơn mưa dai dẳng cả buổi sáng, cũng may khi cùng Đông ra phố thì mưa cũng vừa dứt hẳn, chàng cầm tay tôi hôn -anh rất nhớ em. Câu nói tỏ ra âu yếm nhất của chàng khi cuộc gặp gỡ trở lại và trước vài giờ khi tôi kể cho Đông nghe về bé Hạ, đứa con gái ra đời bằng cách chọn lựa của của tôi. Chàng nói thẳng không tin và tôi trở về nhà nằm vùi hai ngày trời, xung quanh phòng đầy những câu hỏi, tôi học ở đâu những thắc mắc về thân phận con người, của nợ nần, của trả kiếp, ai nhồi vào đầu tôi bao câu hỏi to tát như vậy. Tôi lẩm bẩm đọc lại bài thơ Mỹ Lan làm, bài thơ có câu kiếp xưa, người ta có kiếp hay sao, và bao nhiêu kiếp thì lạc nhau vĩnh viển, không, tôi đã lạc chàng ngay từ kiếp này... Tôi lại mò đến phòng mạch chị Anh xin thuốc ngủ, rồi đi lang thang trong công viên, nhìn bầu trời cao vời vợi, lơ lững đám mây xanh vờn nhau lặng lẽ và đám hoa tường vi nở rộ một màu hồng, một vài người da đen ngồi im lìm nơi ghế đá, không khí tỉnh mịch, dễ chịu, tôi thơ thẩn trong công viên cho đến chiều tàn.
Khi bước vào nhà trời đã sâm sẩm tối, mùi thuốc lá Đông hút như còn đâu đó, cả cái gạt tàn còn bừa bộn, tôi ngồi thừ người cố gắng tập không nghĩ gì cả, dù cây sầu đông, cây cau, cây chuối bỗng mọc um tùm trong óc tôi, quái nhỉ mỗi lần tôi tập trung để quên điều gì thì lại thấy mấy loại cây mọc đầy sau sân nhà bà ngoại tôi hồi thủa bé... Tôi ngủ thiếp đi rồi choàng dậy sau một cơn mơ quá hãi hùng, thằng bé con ai chạy quấn theo tôi gọi là mẹ, mắt nó sưng tím như quả cà, tôi đẩy nó văng tuốt xuống đất, vậy mà một hồi nó lại nằm bên tôi dang hai tay, mắt sáng như lân tinh, tôi hét lớn rồi chạy ra khỏi phòng. Lại thức cho đến sáng (mẹ đừng khóc) bé Hạ nói rồi xoa lên mắt tôi, tôi bật cười ôm chặt nó vào người. Anh tôi dẫn nó đi chơi mới về, nó còn nhỏ vậy mà cũng hay để ý, chắc nó thấy tôi buồn, anh tôi la, tôi với Đông vớ vẩn làm phiền sang mọi người, đã vậy tôi lười biếng không chịu giúp đỡ anh trông nom cửa hàng, anh than công việc chỉ có một mình anh, bố mẹ giờ già cả, tôi cúi mặt xin lỗi. Rồi lấy quyển sách thiếu nhi, đọc cho bé Hạ một đoạn, nó lặng nghe thích thú...
Bây giờ trời đã cuối xuân, bầu trời như trong hơn và nắng nhiều hơn thêm, hai bên đường của khu Briar Forest những cây hoa dogwood trổ một màu trắng hoang tàng là lạ, hàng hoa dài suốt cả dọc đường, đã bao năm qua, tôi vẫn lái xe đi ngang qua đây để biết hôm hoa nở rộ, để nhớ các cành hoa cao thấp và để lòng ủ ê nỗi khát khao vì đâu, mỗi tuần tôi làm bốn ngày ở tiệm bán vải của bố mẹ, khi bước vào tiệm thân thể còn váng vất với thuốc ngủ.
Cô bé phụ việc cằn nhằn tôi đến trễ, tôi cười trừ rồi ngồi vào bàn tính toán cộng số tiền thu nhập, ngoài đường chợt ầm ĩ tiếng động, ai biết động đất nơi nào mà bọn Lesbian đang hùng dũng xuống đường đòi được lập hôn thú, họ ăn mặc lạ kỳ, có vài kẻ tôi không nhận rõ ra đàn bà hay đàn ông, họ đứng chắn ngang giữa đường tay cầm cái bảng viết lằng nhằng những chữ, nhóm nhà báo cầm máy ảnh, chạy qua chạy lại như giặc, khi nhóm phụ nữ thứ hai đòi tự do phá thai đi từ bên đường, xiêm áo luộm thuộm, gào to với chiếc loa “xin đừng đạo đức giả, chết đi bọn giả hình” cái khung cảnh bất ngờ làm tôi hoa mắt, cho dù nhóm chống phá thai mặc toàn màu trắng đứng lặng lẽ ở một góc, tôi đứng thừ người nơi cửa kính, thiên đường, địa ngục, nơi đâu, một phụ nữ áo trắng chạy xồ ra đứng vẫy tôi rối rít, trời đất ai xui khiến Mỹ Lan cũng tham dự cuộc xuống đất vậy kia, tôi nhắm mắt, ngồi bệt xuống, chiều vội tàn, một góc phố như chìm lắng vào cõi khác, tiếng chân người thưa thớt, lẫn tiếng xe uể oải xa dần, tôi mở cửa tìm
Mỹ Lan nhưng không thấy nàng, có lẽ Mỹ Lan đi theo họ về con phố khác, đàn bà coi vậy mà muôn mặt, họ có kém gì đâu. Một lần tôi hỏi Mỹ Lan sao không đi theo họ, nàng cười -không được, tao muốn lập một giáo phái nữ thánh mà con cái phải theo họ mẹ- hay chưa, đàn bà mỗi ngày một khôn hơn, và xã hội đang cần tạo ra vài điều khác mới mẻ để nếp sống đỡ nhàm chán, thật không? Tôi vẫn đồng ý với bạn, riêng tôi thì cứ ù lì, Mỹ Lan bảo tôi lười biếng, ỷ y, thây kệ tôi là lớp hoa lục bình, mặc nước cứ đẩy đi xa tắp, xa tắp, ai hay...
... Tôi lại tìm Đông vào cuối tháng Chạp trong năm. Con đường đến nhà chàng ở, hàng cây bên đường còn vàng úa màu lá, Đông đứng đợi tôi ở đầu ngõ, khuôn mặt đẹp đẽ, tôi che mắt cười.
“Thôi, em đừng cười nữa.”
“Sao?”
“Anh biết rồi.”
Tôi mỉa mai - đừng lo, chúng ta còn vài chục năm để kiếm chuyện.
Đông cầm tay tôi, bàn tay chàng lạnh ngắt, anh dẫn tôi đi dưới các mái hiên thẫm tối. Cả một buổi bên nhau, anh nói tôi thay đổi nhiều, và khó tính, không giống hồi xưa. Hồi xưa để anh ăn hiếp hay sao -thôi bỏ qua đi em- tôi cúi mặt cắn môi, cảm giác đau đớn, thú vị, làm sao ai hiểu, tôi muốn nhìn anh buồn phiền và cô quạnh như, như thế này, căn apt nhỏ xíu, để vừa cái giường, bàn viết và tủ sách, những quyển sách ngổn ngang trên bàn và nằm đầy dưới đất, cái tựa lạ lẫm với tôi, tác giả ở mãi đâu đâu và tập giấy chàng viết dở dang, ừ Đông cứ chết dấp trong cõi sách vở của chàng, những cuốn sách làm đau đớn con người thì nhiều, khôn thay Đông cứ ngụp lặn với nó, tôi lấy chân đá chồng sách tuốt vào gầm bàn, em ghét nó - đừng em- Nó lấy hết thì giờ, mấy năm qua cũng chỉ vì đống giấy này đây, thôi em -em cứ đổ thừa, chàng cúi xuống ôm lấy chân tôi năn nỉ - đâu có gì là quá đáng. Có phải vậy không?
... Khi Đông dẫn tôi ra khỏi rạp hát, phố đã lên đèn, nhân vật trong phim làm rộn lòng tôi, người đàn ông chết vì một lưỡi gươm của thằng con ít, người đàn bà chết vì người đàn ông, rốt cuộc người ta chết vì nhau mà có ai ngờ, tôi ôm tay chàng nói nhỏ -em rất buồn, chàng vỗ về, thật ra chàng chưa hiểu trong tâm hồn tôi đã quá nhiều uẩn khúc dù tôi đã cố gắng, kể cả tìm ra một đứa con để xếp đặt lại tất cả, khi chia tay ở trước cửa, Đông im lặng hôn lên môi tôi bỏ về, có tiếng chim kêu thảng thốt trong bóng tối, con chim gọi bạn hay vừa lẻ bạn, điều nào cũng day dứt lòng người, quanh tôi giờ vẫn là ngày ngày lẻ bạn, đi làm và nhớ Đông, tìm kiếm và xa lánh...
Vào giữa năm Đông phải đi làm ở một tỉnh xa, tôi nghe tin bỗng đau nhói, linh tính cho tôi biết, tôi sẽ mất chàng, khi đứng nhìn xe Đông chạy khuất khỏi quãng đường, tôi bật khóc cho dù tôi biết tôi muốn thế, có những chuyện người ta đau khổ vì nhau nhưng không thể sống bên nhau, người ta thương nhớ nhau, người ta mãi mãi tiếc nhau mà người ta vẫn cứ xa nhau, tôi đã chọn con đường mất anh, để mãi mãi ôm ấp trong tim nỗi day dứt bí mật, thà như vậy... Mỹ Lan hỏi có phải mày lỡ xem Đông như một kẻ thù, có phải mày không thể sống với kẻ thù hay là mày trả thù, tôi không nói, nước mắt tuôn xuống tay bạn, một năm như thế, cho đến ngày tôi đi lấy chồng, Kiên người đàn ông giản dị, anh chẳng cần tìm hiểu mấy về tôi, anh chỉ biết tôi là của anh, im lặng và chịu đựng, yên vui và đồng tình, khi về ở với Kiên, sống đầy đủ đến nỗi Mỹ Lan bảo nàng ghen tị, tôi đề nghị -
Vậy mày ở lại đây, mày có thể chia xẻ tất cả, kể cả ông chồng- Mỹ Lan cười ầm lên ôm chầm lấy tôi -Mày đùa dai quá, tao là bà thánh mày quên sao... Khi tôi sanh đứa con trai, bé Hạ đã tám tuổi, chị em vẫn có nét giống nhau, Kiên đổi khai sinh cho bé Hạ để chị em có cùng một họ. Kiên tốt lắm, anh biết tôi có một mối tình và người ấy đi biệt, mỗi ngày tôi tìm cách tĩnh lặng một mình, cho niềm riêng tư được sống còn, khi tôi lặng lẽ đứng ở căn phòng trên lầu cao nhìn theo ánh mặt trời về chiều vàng vọt chiếu hắt lên mặt kính cửa sổ, cho đến khi biến mất, giây phút thầm lặng ấy là của tôi nhớ Đông, cho dù tôi không bao giờ mong mỏi gặp Đông nữa, cả đời này và kiếp sau. “Còn gì nữa đâu mà phải khóc nhau”, lời bài hát ai viết loen trên giấy học trò, còn nhớ, rùng mình như vệt máu, thỉnh thoảng Mỹ Lan lại chơi, hai đứa kéo lên cái phòng riêng trên lầu này... Vừa rồi Mỹ Lan đem đến hai quyển truyện Đông vừa xuất bản, có vài câu chàng ghi (đoạn này cho Th) tôi hiểu tôi là một đoạn của chàng, một đoạn chông gai, những quyển sách được Mỹ Lan xếp bên cạnh lọ hoa ở góc bàn, tôi sẽ không đọc lại nữa đâu...
... Hơn chín năm qua nữa, hai đứa con tôi đã lớn, bé Hạ vừa bước vào đại học, tháng trước tôi và Kiên có dẫn con đi xem trường, con gái tôi xinh đẹp, thông minh, chị Anh, tôi và cả nhà đều thương nó. Bấy lâu nay tôi ít đi đâu, nghe nói cơn bão nhỏ tháng trước làm tơi tả dẫy hoa Dogwood trên đường Briar Forest, những cành hoa gẫy rụng làm trắng suốt mặt đường... Và Mỹ Lan giờ đã về ở hẳn với Đông. Nàng bảo Đông không muốn viết lách, tốt thôi. Tôi cười dò xét, tôi muồn kiếm ra điều gì bất ổn ở Mỹ Lan vì đâu nàng làm được điều ấy, Mỹ Lan có thể sống bên Đông ư -còn tôi- nàng không nhớ đến sao- khi tôi cầm chặt tay Mỹ Lan chạy lên lầu, hậm hực. Nàng dằng co, nói rên rỉ -mày đừng ghen với tao, chúng mình già cả rồi, tất cả chẳng còn gì để mà giận hờn, để mà phóng đãng- Tôi ngồi thụp xuống bậc thang ôm mặt, Mỹ Lan thì thầm -Tao thương yêu cả hai. Cả mày và Đông -Không- Tôi không muốn nghe Mỹ Lan nói nữa, tôi chạy về phía cửa sổ, dang tay ôm lấy vạt nắng, ánh mặt trời vẫn còn đó, còn đó chưa tàn, nhưng Mỹ Lan đã chiếm đoạt mất của tôi kỷ niệm còn đâu...
... Tôi lại một mình lên căn lầu cao nhìn về phía mặt trời, thời gian đến rồi đi vùn vụt, chìm theo những cơn mưa và gió lạnh, thỉnh thoảng mặt trời trốn tránh về mãi nơi xa, ánh nắng yếu ớt rọi chẳng thấu lòng đời, tôi vẫn chờ đợi cơn nắng chói ngất ngây trên mặt cửa sổ cho mồ hôi ẩm trên mặt tôi thấm lên cửa kính, ôi, những cơn nắng Houston cháy bỏng trên da người, tôi say nắng như tôi say quá khứ, cho dù Mỹ Lan cố tình làm mờ đi dấu tích đời tôi, hôm qua Mỹ Lan giữ tôi thật chặt không cho tôi nhảy xuống lầu này, trên má tôi còn hằn dấu tay nàng, nàng khóc
-Tao làm vậy cho mày tỉnh, mày ích kỷ, mày thù dai quá. Cả chục năm, mày chẳng nghĩ đến ai, không, tôi đang nhớ đến mọi người đây, nhất là Mỹ Lan, bà thánh dẫn Đông ra khỏi nỗi cô đơn, nàng nói thế cho dù tôi có nhốt Đông bằng chục lần cửa khóa, nàng vẫn tìm cách mở cho Đông ra, Mỹ Lan thì thầm chẳng có bóng nắng nào cứu được con người, câu nói nằm ngất trong lòng tôi xúc cảm... Còn có ai, nào có ai tìm thấy những tia nắng hắt vỡ vụn trên hiên cửa cùng tôi ngoài Mỹ Lan. Nhưng nàng đã lấy đi tất cả rồi, tôi bàng hoàng chạy xuống nhà, Kiên đã về tự lúc nào, đang chờ tôi ở dưới chân thang, tôi ôm chặt lấy anh sợ hãi, bàn tay Kiên vuốt trên mắt tôi ứa lệ, cơn say nắng như dừng lại, chập chờn ẩn miết vào tâm trí, mặt trời lặn mất từ lâu, có điều tôi muốn nhắn với Mỹ Lan những tia nắng cũ giờ nàng đã đem nó về đâu.
(Những giòng cuối gởi đến Mỵ) - Houston 96.
Tôi ngập ngừng mãi rồi cũng cho Đông biết, tôi có một đứa con gái sau khi chàng bỏ đi, Đông nghe im lặng, tôi tránh mắt Đông, nhìn sang khóm cây bên kia đường đang vật nghiêng bởi cơn gió mạnh, cơn gió nào đã thổi chàng về đây, có điều tôi muốn hỏi Đông khác kìa không phải nhìn thấy Đông vững chãi thế này, tôi hỏi: “Anh có lạ lùng. Hay thật” Chàng nắm tay tôi kéo mạnh vào hàng hiên: “Con người ta em nuôi, con anh em giết” Câu nói như một gáo cường toan đổ xối lên người tôi xính vính. Tôi lặng người khi nghe bước chân Đông chạy hối về phía trước. Một khoảng khắc bỗng trầm thống và lo sợ bủa vây lấy tôi như hàng trăm mũi nhọn đang đâm vào da thịt -tôi vụt chạy theo Đông, gọi chàng ầm ĩ nhưng không nhìn thấy Đông nữa...
Chẳng hiểu sao tôi lại cho chàng hay những biến đổi quá rõ về quãng thời gian Đông đi biệt mà chi -Sự trở lại của chàng không làm ấm lại những ngày tháng nhớ nhung cùng vơi đi hết niềm thù hận hay sao... (Người đàn bà có quyền chọn lựa một đứa con) Người nữ bác sĩ nói với tôi, sau khi tôi đã làm xong một việc, việc từ chối một đứa bé, bà ta nói chuyện qua rồi, cô còn khóc mà chi, ở đời thiếu gì cảnh như cô, cô là đàn bà, cô sẽ có một đứa con khác, cô có biết, đàn bà mình hơn đàn ông ở chỗ, chắc chắn nó là con mình, nó nằm trong người mình mà, còn đàn ông hả. Có khi họ nhận vơ đó... Tôi gặp bà bác sĩ này, sau khi tôi nổi cơn tảo trí, bất thường khi Đông đi được nửa năm, ngày tháng đó tôi như con thú nhỏ đầy thương tích, khốn cùng, chị Anh bỗng xuất hiện trong đời sống tôi, người nữ bác sĩ tâm lý, độc nhất.
Mở phòng mạch trong cộng đồng người Việt, ế khách quanh năm, nhưng chị có vẻ thích hoạt động trong lãnh vực xã hội, tôi gặp chị qua sự giới thiệu của chương trình y tế địa phương, ngày đầu tiên khi Mỹ Lan cô bạn gái đem tôi đến phòng mạch, tôi đã dẫy nẩy không chịu vào, tôi nói với Mỹ Lan tôi sợ bị bà ta lầm tống tôi vào nhà thương điên, nhưng khi chị Anh ra đem tôi vào ghế, tôi đã nhìn thấy nét tin cẩn trong đôi mắt chị. Ngày đó, tôi nhớ, chị nhìn tôi dò xét rồi chê bai cả con người tôi, nhìn kìa, quần áo cô luộm thuộm, áo đỏ mà cô mặc quần xanh, cô có điên không, tôi lắc đầu -không điên- Chỉ nhức đầu, không ngủ. Không nhớ gì mấy. Mỹ Lan thì kể lể thêm ngọn ngành, nó thêm bớt là tôi nói lộn xộn dữ lắm.
À cô ấy biết mình nói lầm mà vẫn nói chứ gì. Như cái mũi mà gọi là con mắt, cái tay cô gọi cái chân, ai chả vậy, có khi tôi cũng bị lầm lẫn như thế, bây giờ cô phải tập lại, tập nói cho đúng... Sau những ngày tập nhớ lại, tập không nhức đầu, tập đi ngủ, phòng mạch chị tôi đã bớt dần đi lại, tuy vậy hình ảnh Đông vẫn đâu đó, chập chờn trong lòng tôi như cơn mưa thinh... hoặc rơi lộp độp trên mái nhà, xa hơn nữa là tiếng cười nói của chàng còn y như ly rượu vang dụ hoặc.
Bệnh nhức đầu, mặc cảm, tự khổ đã không còn trong tôi nữa, tôi chắc chắn với chị Anh vậy, có chăng tôi bỗng thèm muốn một đứa con. Sau hai năm Đông đi khỏi, để giảm đi lòng hối hận, dày vò, tôi muốn làm một việc, kễ ra cũng hơi khó nhưng mà vào tháng tám năm đó, chị Anh giúp tôi hoàn tất, chị bảo chị chẳng làm cho ai, chỉ vì tôi. Buổi sáng chị bơm cho tôi đầy một ống nhỏ, Mỹ Lan thì đứng cạnh chị dặn dò -Cẩn thận nghe không con Mỹ là bỏ mẹ nó, tôi nói -tôi muốn đứa con nguyên chất Á đông, giống như Đông vậy.
Chị Anh bực bội khi nghe tôi nhắc đến tên Đông, còn Mỹ Lan thì che mặt cười, chị Anh bảo đảm khi xong việc, mọi sự sẽ hơn là điều mong ước nữa kìa. Quả đúng như lời chị nói, khi bé Hạ ra đời nó xinh đẹp lắm. Chị Anh mê nó hơn tôi, chị không nói ra nhưng nhìn chị, tôi hiểu chị đã coi mình như người sáng tạo ra nó, giờ tôi không còn là bệnh nhân mà thành người thân thuộc của chị, chị nhận bé Hạ làm con nuôi, chị săn sóc, cấp dưỡng cho nó, có lần tôi hỏi, chị đào đâu ra ống lăng quăng đó, con bé có vẻ giống Nhật hơn Việt Nam.
Chị bảo không, nó giống tôi, rồi chị đẩy tôi đứng trước gương chỉ chỏ. Nhìn kỹ nhé, mỗi thứ nó đẹp hơn cô một tí, nên nó thành đẹp hơn chứ nó giống y hệt cô, chẳng có gã chết tiệt nào làm ra nó được, chỉ có cô, một mình cô thôi, hiểu chưa đạ hiểu- Tôi trầm mình vào lời dạy dỗ của chị, chị nói gì tôi cũng thấy đúng cả. Bé Hạ ra đời bằng sự nhiệt tâm của người nữ, bác sĩ tâm lý và tôi, bé hoàn toàn không dính líu vào một người cha.
Thời gian không phải mãi nhốt kín nỗi u hoài, mà để lướt qua bao sóng gió, cho tôi còn tồn tại với tình thương nỗi nhớ -bên cạnh tôi bé Hạ vươn lên tươi trẻ, mỗi tuần tôi đến chị Anh đón con về một ngày, hai mẹ con dẫn nhau ra vườn, chỉ cho nó xem từng chiếc lá mới mọc và dạy nó nói, mới hai tuổi bé Hạ đã biết nói khá sõi... Cho đến một ngày, có trời mà hiểu khi Đông ở đâu hăm hở trở về tìm tôi, sau khi chàng kiếm cớ và vu cho tôi bao chuyện oan nghiệt để ra đi, khi thấy Đông ở phòng khách, tôi đã giật mình kẻ mà tôi thù hận, đang đứng mỉm cười, tôi nhớ rõ mấy năm về trước, Mỹ Lan còn treo ảnh Đông lên tường rồi bảo tôi phóng những mũi tên lên người cho nát bấy.
Ai dè Đông vẫn còn sống hiên ngang ghê chưa, thế mà chị Anh và Mỹ Lan quả quyết Đông đã không còn, “này nhé mày cứ băm nó, nguyền rủa nó cả năm trời, nó sống sao nổi”. Một mối tình có đoạn kết đau thương đến thế, người đàn ông bạc bẽo, bị cô nhân tình phóng hàng trăm mũi tên lên người, mũi nào đã trúng tim anh -tôi nghĩ đến hàng đêm rồi buồn day dứt.
Bình minh đã chiếu sáng khắp nơi, vài tia sáng dọi vào chỗ Đông nằm, tôi bước thật nhẹ về phía phòng khách, Đông ngủ ở đó đêm hôm qua, tôi cúi xuống, cầm tay Đông áp vào mặt, hơn bốn năm dài còn gì, trong tôi vẫn còn lưu luyến vô cùng. Khi Đông tỉnh dậy, chàng hỏi -Mấy giờ rồi em. Tôi không nói, Đông đưa tay vò rối làn tóc tôi vừa rũ lên mặt, hình như Đông đang suy nghĩ điều gì, ý nghĩ này khiến tôi lo ngại, lý do nào chàng lại tìm về, niềm hối hận, bị kẻ khác ruồng bỏ, đang bị thất nghiệp, những câu hỏi kể ra toàn là những điều đáng thương xót phải không...
Cơn mưa dai dẳng cả buổi sáng, cũng may khi cùng Đông ra phố thì mưa cũng vừa dứt hẳn, chàng cầm tay tôi hôn -anh rất nhớ em. Câu nói tỏ ra âu yếm nhất của chàng khi cuộc gặp gỡ trở lại và trước vài giờ khi tôi kể cho Đông nghe về bé Hạ, đứa con gái ra đời bằng cách chọn lựa của của tôi. Chàng nói thẳng không tin và tôi trở về nhà nằm vùi hai ngày trời, xung quanh phòng đầy những câu hỏi, tôi học ở đâu những thắc mắc về thân phận con người, của nợ nần, của trả kiếp, ai nhồi vào đầu tôi bao câu hỏi to tát như vậy. Tôi lẩm bẩm đọc lại bài thơ Mỹ Lan làm, bài thơ có câu kiếp xưa, người ta có kiếp hay sao, và bao nhiêu kiếp thì lạc nhau vĩnh viển, không, tôi đã lạc chàng ngay từ kiếp này... Tôi lại mò đến phòng mạch chị Anh xin thuốc ngủ, rồi đi lang thang trong công viên, nhìn bầu trời cao vời vợi, lơ lững đám mây xanh vờn nhau lặng lẽ và đám hoa tường vi nở rộ một màu hồng, một vài người da đen ngồi im lìm nơi ghế đá, không khí tỉnh mịch, dễ chịu, tôi thơ thẩn trong công viên cho đến chiều tàn.
Khi bước vào nhà trời đã sâm sẩm tối, mùi thuốc lá Đông hút như còn đâu đó, cả cái gạt tàn còn bừa bộn, tôi ngồi thừ người cố gắng tập không nghĩ gì cả, dù cây sầu đông, cây cau, cây chuối bỗng mọc um tùm trong óc tôi, quái nhỉ mỗi lần tôi tập trung để quên điều gì thì lại thấy mấy loại cây mọc đầy sau sân nhà bà ngoại tôi hồi thủa bé... Tôi ngủ thiếp đi rồi choàng dậy sau một cơn mơ quá hãi hùng, thằng bé con ai chạy quấn theo tôi gọi là mẹ, mắt nó sưng tím như quả cà, tôi đẩy nó văng tuốt xuống đất, vậy mà một hồi nó lại nằm bên tôi dang hai tay, mắt sáng như lân tinh, tôi hét lớn rồi chạy ra khỏi phòng. Lại thức cho đến sáng (mẹ đừng khóc) bé Hạ nói rồi xoa lên mắt tôi, tôi bật cười ôm chặt nó vào người. Anh tôi dẫn nó đi chơi mới về, nó còn nhỏ vậy mà cũng hay để ý, chắc nó thấy tôi buồn, anh tôi la, tôi với Đông vớ vẩn làm phiền sang mọi người, đã vậy tôi lười biếng không chịu giúp đỡ anh trông nom cửa hàng, anh than công việc chỉ có một mình anh, bố mẹ giờ già cả, tôi cúi mặt xin lỗi. Rồi lấy quyển sách thiếu nhi, đọc cho bé Hạ một đoạn, nó lặng nghe thích thú...
Bây giờ trời đã cuối xuân, bầu trời như trong hơn và nắng nhiều hơn thêm, hai bên đường của khu Briar Forest những cây hoa dogwood trổ một màu trắng hoang tàng là lạ, hàng hoa dài suốt cả dọc đường, đã bao năm qua, tôi vẫn lái xe đi ngang qua đây để biết hôm hoa nở rộ, để nhớ các cành hoa cao thấp và để lòng ủ ê nỗi khát khao vì đâu, mỗi tuần tôi làm bốn ngày ở tiệm bán vải của bố mẹ, khi bước vào tiệm thân thể còn váng vất với thuốc ngủ.
Cô bé phụ việc cằn nhằn tôi đến trễ, tôi cười trừ rồi ngồi vào bàn tính toán cộng số tiền thu nhập, ngoài đường chợt ầm ĩ tiếng động, ai biết động đất nơi nào mà bọn Lesbian đang hùng dũng xuống đường đòi được lập hôn thú, họ ăn mặc lạ kỳ, có vài kẻ tôi không nhận rõ ra đàn bà hay đàn ông, họ đứng chắn ngang giữa đường tay cầm cái bảng viết lằng nhằng những chữ, nhóm nhà báo cầm máy ảnh, chạy qua chạy lại như giặc, khi nhóm phụ nữ thứ hai đòi tự do phá thai đi từ bên đường, xiêm áo luộm thuộm, gào to với chiếc loa “xin đừng đạo đức giả, chết đi bọn giả hình” cái khung cảnh bất ngờ làm tôi hoa mắt, cho dù nhóm chống phá thai mặc toàn màu trắng đứng lặng lẽ ở một góc, tôi đứng thừ người nơi cửa kính, thiên đường, địa ngục, nơi đâu, một phụ nữ áo trắng chạy xồ ra đứng vẫy tôi rối rít, trời đất ai xui khiến Mỹ Lan cũng tham dự cuộc xuống đất vậy kia, tôi nhắm mắt, ngồi bệt xuống, chiều vội tàn, một góc phố như chìm lắng vào cõi khác, tiếng chân người thưa thớt, lẫn tiếng xe uể oải xa dần, tôi mở cửa tìm
Mỹ Lan nhưng không thấy nàng, có lẽ Mỹ Lan đi theo họ về con phố khác, đàn bà coi vậy mà muôn mặt, họ có kém gì đâu. Một lần tôi hỏi Mỹ Lan sao không đi theo họ, nàng cười -không được, tao muốn lập một giáo phái nữ thánh mà con cái phải theo họ mẹ- hay chưa, đàn bà mỗi ngày một khôn hơn, và xã hội đang cần tạo ra vài điều khác mới mẻ để nếp sống đỡ nhàm chán, thật không? Tôi vẫn đồng ý với bạn, riêng tôi thì cứ ù lì, Mỹ Lan bảo tôi lười biếng, ỷ y, thây kệ tôi là lớp hoa lục bình, mặc nước cứ đẩy đi xa tắp, xa tắp, ai hay...
... Tôi lại tìm Đông vào cuối tháng Chạp trong năm. Con đường đến nhà chàng ở, hàng cây bên đường còn vàng úa màu lá, Đông đứng đợi tôi ở đầu ngõ, khuôn mặt đẹp đẽ, tôi che mắt cười.
“Thôi, em đừng cười nữa.”
“Sao?”
“Anh biết rồi.”
Tôi mỉa mai - đừng lo, chúng ta còn vài chục năm để kiếm chuyện.
Đông cầm tay tôi, bàn tay chàng lạnh ngắt, anh dẫn tôi đi dưới các mái hiên thẫm tối. Cả một buổi bên nhau, anh nói tôi thay đổi nhiều, và khó tính, không giống hồi xưa. Hồi xưa để anh ăn hiếp hay sao -thôi bỏ qua đi em- tôi cúi mặt cắn môi, cảm giác đau đớn, thú vị, làm sao ai hiểu, tôi muốn nhìn anh buồn phiền và cô quạnh như, như thế này, căn apt nhỏ xíu, để vừa cái giường, bàn viết và tủ sách, những quyển sách ngổn ngang trên bàn và nằm đầy dưới đất, cái tựa lạ lẫm với tôi, tác giả ở mãi đâu đâu và tập giấy chàng viết dở dang, ừ Đông cứ chết dấp trong cõi sách vở của chàng, những cuốn sách làm đau đớn con người thì nhiều, khôn thay Đông cứ ngụp lặn với nó, tôi lấy chân đá chồng sách tuốt vào gầm bàn, em ghét nó - đừng em- Nó lấy hết thì giờ, mấy năm qua cũng chỉ vì đống giấy này đây, thôi em -em cứ đổ thừa, chàng cúi xuống ôm lấy chân tôi năn nỉ - đâu có gì là quá đáng. Có phải vậy không?
... Khi Đông dẫn tôi ra khỏi rạp hát, phố đã lên đèn, nhân vật trong phim làm rộn lòng tôi, người đàn ông chết vì một lưỡi gươm của thằng con ít, người đàn bà chết vì người đàn ông, rốt cuộc người ta chết vì nhau mà có ai ngờ, tôi ôm tay chàng nói nhỏ -em rất buồn, chàng vỗ về, thật ra chàng chưa hiểu trong tâm hồn tôi đã quá nhiều uẩn khúc dù tôi đã cố gắng, kể cả tìm ra một đứa con để xếp đặt lại tất cả, khi chia tay ở trước cửa, Đông im lặng hôn lên môi tôi bỏ về, có tiếng chim kêu thảng thốt trong bóng tối, con chim gọi bạn hay vừa lẻ bạn, điều nào cũng day dứt lòng người, quanh tôi giờ vẫn là ngày ngày lẻ bạn, đi làm và nhớ Đông, tìm kiếm và xa lánh...
Vào giữa năm Đông phải đi làm ở một tỉnh xa, tôi nghe tin bỗng đau nhói, linh tính cho tôi biết, tôi sẽ mất chàng, khi đứng nhìn xe Đông chạy khuất khỏi quãng đường, tôi bật khóc cho dù tôi biết tôi muốn thế, có những chuyện người ta đau khổ vì nhau nhưng không thể sống bên nhau, người ta thương nhớ nhau, người ta mãi mãi tiếc nhau mà người ta vẫn cứ xa nhau, tôi đã chọn con đường mất anh, để mãi mãi ôm ấp trong tim nỗi day dứt bí mật, thà như vậy... Mỹ Lan hỏi có phải mày lỡ xem Đông như một kẻ thù, có phải mày không thể sống với kẻ thù hay là mày trả thù, tôi không nói, nước mắt tuôn xuống tay bạn, một năm như thế, cho đến ngày tôi đi lấy chồng, Kiên người đàn ông giản dị, anh chẳng cần tìm hiểu mấy về tôi, anh chỉ biết tôi là của anh, im lặng và chịu đựng, yên vui và đồng tình, khi về ở với Kiên, sống đầy đủ đến nỗi Mỹ Lan bảo nàng ghen tị, tôi đề nghị -
Vậy mày ở lại đây, mày có thể chia xẻ tất cả, kể cả ông chồng- Mỹ Lan cười ầm lên ôm chầm lấy tôi -Mày đùa dai quá, tao là bà thánh mày quên sao... Khi tôi sanh đứa con trai, bé Hạ đã tám tuổi, chị em vẫn có nét giống nhau, Kiên đổi khai sinh cho bé Hạ để chị em có cùng một họ. Kiên tốt lắm, anh biết tôi có một mối tình và người ấy đi biệt, mỗi ngày tôi tìm cách tĩnh lặng một mình, cho niềm riêng tư được sống còn, khi tôi lặng lẽ đứng ở căn phòng trên lầu cao nhìn theo ánh mặt trời về chiều vàng vọt chiếu hắt lên mặt kính cửa sổ, cho đến khi biến mất, giây phút thầm lặng ấy là của tôi nhớ Đông, cho dù tôi không bao giờ mong mỏi gặp Đông nữa, cả đời này và kiếp sau. “Còn gì nữa đâu mà phải khóc nhau”, lời bài hát ai viết loen trên giấy học trò, còn nhớ, rùng mình như vệt máu, thỉnh thoảng Mỹ Lan lại chơi, hai đứa kéo lên cái phòng riêng trên lầu này... Vừa rồi Mỹ Lan đem đến hai quyển truyện Đông vừa xuất bản, có vài câu chàng ghi (đoạn này cho Th) tôi hiểu tôi là một đoạn của chàng, một đoạn chông gai, những quyển sách được Mỹ Lan xếp bên cạnh lọ hoa ở góc bàn, tôi sẽ không đọc lại nữa đâu...
... Hơn chín năm qua nữa, hai đứa con tôi đã lớn, bé Hạ vừa bước vào đại học, tháng trước tôi và Kiên có dẫn con đi xem trường, con gái tôi xinh đẹp, thông minh, chị Anh, tôi và cả nhà đều thương nó. Bấy lâu nay tôi ít đi đâu, nghe nói cơn bão nhỏ tháng trước làm tơi tả dẫy hoa Dogwood trên đường Briar Forest, những cành hoa gẫy rụng làm trắng suốt mặt đường... Và Mỹ Lan giờ đã về ở hẳn với Đông. Nàng bảo Đông không muốn viết lách, tốt thôi. Tôi cười dò xét, tôi muồn kiếm ra điều gì bất ổn ở Mỹ Lan vì đâu nàng làm được điều ấy, Mỹ Lan có thể sống bên Đông ư -còn tôi- nàng không nhớ đến sao- khi tôi cầm chặt tay Mỹ Lan chạy lên lầu, hậm hực. Nàng dằng co, nói rên rỉ -mày đừng ghen với tao, chúng mình già cả rồi, tất cả chẳng còn gì để mà giận hờn, để mà phóng đãng- Tôi ngồi thụp xuống bậc thang ôm mặt, Mỹ Lan thì thầm -Tao thương yêu cả hai. Cả mày và Đông -Không- Tôi không muốn nghe Mỹ Lan nói nữa, tôi chạy về phía cửa sổ, dang tay ôm lấy vạt nắng, ánh mặt trời vẫn còn đó, còn đó chưa tàn, nhưng Mỹ Lan đã chiếm đoạt mất của tôi kỷ niệm còn đâu...
... Tôi lại một mình lên căn lầu cao nhìn về phía mặt trời, thời gian đến rồi đi vùn vụt, chìm theo những cơn mưa và gió lạnh, thỉnh thoảng mặt trời trốn tránh về mãi nơi xa, ánh nắng yếu ớt rọi chẳng thấu lòng đời, tôi vẫn chờ đợi cơn nắng chói ngất ngây trên mặt cửa sổ cho mồ hôi ẩm trên mặt tôi thấm lên cửa kính, ôi, những cơn nắng Houston cháy bỏng trên da người, tôi say nắng như tôi say quá khứ, cho dù Mỹ Lan cố tình làm mờ đi dấu tích đời tôi, hôm qua Mỹ Lan giữ tôi thật chặt không cho tôi nhảy xuống lầu này, trên má tôi còn hằn dấu tay nàng, nàng khóc
-Tao làm vậy cho mày tỉnh, mày ích kỷ, mày thù dai quá. Cả chục năm, mày chẳng nghĩ đến ai, không, tôi đang nhớ đến mọi người đây, nhất là Mỹ Lan, bà thánh dẫn Đông ra khỏi nỗi cô đơn, nàng nói thế cho dù tôi có nhốt Đông bằng chục lần cửa khóa, nàng vẫn tìm cách mở cho Đông ra, Mỹ Lan thì thầm chẳng có bóng nắng nào cứu được con người, câu nói nằm ngất trong lòng tôi xúc cảm... Còn có ai, nào có ai tìm thấy những tia nắng hắt vỡ vụn trên hiên cửa cùng tôi ngoài Mỹ Lan. Nhưng nàng đã lấy đi tất cả rồi, tôi bàng hoàng chạy xuống nhà, Kiên đã về tự lúc nào, đang chờ tôi ở dưới chân thang, tôi ôm chặt lấy anh sợ hãi, bàn tay Kiên vuốt trên mắt tôi ứa lệ, cơn say nắng như dừng lại, chập chờn ẩn miết vào tâm trí, mặt trời lặn mất từ lâu, có điều tôi muốn nhắn với Mỹ Lan những tia nắng cũ giờ nàng đã đem nó về đâu.
(Những giòng cuối gởi đến Mỵ) - Houston 96.
CHUYỆN KHÔI HÀI HIỆN ĐẠI
VỊT QUAY BẮC KINH
Tại quán vịt Quay 29 Nguyễn Thượng Hiền, Hà Nội, bữa ấy đông người ăn uống. Bỗng một người khách dáng vẻ đại gia , bước vào quán. Ông ta gọi độc một món Vịt quay Bắc Kinh là món ăn nổi tiếng của cơ sở này. Trước khi anh bồi bàn đi vào phía trong, ông ta còn dặn đi dặn lại: "phải là vịt Bắc Kinh tôi mới trả tiền".
Chủ quán thấy ông khách có vẻ "sành điệu" bèn
chạy ra đon đả:
- Đại gia cứ yên tâm. Nhà hàng của chúng tôi đảm bảo uy tín, chất lượng.
- Đại gia cứ yên tâm. Nhà hàng của chúng tôi đảm bảo uy tín, chất lượng.
Một lúc sau, nhà bếp đưa lên một con vịt quay vàng ươm, thơm phức. Vị khách hít hà phao câu vịt ba cái rồi nói chắc như đinh đóng cột:
- Đây là vịt Hongkong.
Chủ quán ngượng ngùng:
- Đầu bếp của tôi thật sơ xuất. Xin thủ trưởng vui lòng đợi thêm chút nữa.
Mười lăm phút sau, nhà bếp lại bưng lên một con vịt béo quay, vàng rộm. Vị khách tiếp tục ngửi phao câu rồi phán "xanh rờn":
- Nếu tôi không nhầm thì đây là vịt Quảng Đông.
Lần này chủ quán tái mặt. Sau khi xin lỗi vị thực khách, ông bèn đích thân vào tận bên trong chỉ đạo bếp trưởng.
Cuối cùng, món Vịt quay Bắc Kinh cũng được đưa lên. Ông chủ quán cười như hối lỗi:
- Nhà hàng chúng tôi xin biếu không đại biểu con vịt quay này ạ.
Khuya hôm đó, vị khách kia đang mơ màng giấc điệp thì chợt nghe thấy có tiếng chuông cửa. Thành phố này ông chẳng biết ai. Mở cửa ra thì thấy cô nhân viên phục vụ quán ăn buổi sáng.
- Thưa thủ trưởng, vất vả lắm em mới tìm được ra thủ trưởng ở khách sạn này.
- Đồng chí tìm tôi có việc gì thế? Vị khách hỏi
- Dạ, sáng nay em chứng kiến từ đầu đến cuối việc thủ trưởng ngửi phao câu vịt mà đoán được ra vịt của địa phương nào...em phục sát đất về trí tuệ đỉnh cao của thủ trưởng a.
- Vậy thì sao?
- Em lưu lạc từ nhỏ. Giờ chẳng biết quê hương bản quán mình ở đâu. Nay em muốn nhờ thủ trưởng tìm giúp nguồn gốc của em...
Ông khách nói;
-Thế thì đồng chí vào đây.
Sau khi ngửi "phao câu" vài lần, ông khách phán:
-Thế thì đồng chí vào đây.
Sau khi ngửi "phao câu" vài lần, ông khách phán:
-Quê đ/c ở Nghệ An. Tôi còn biết cha đ/c là ai nữa kia!
-Cha tôi là ai?
-Cha đ/c là Hồ Chí Minh , đã bán đ/c cho Tàu từ lúc đ/c chưa đầy tháng!
NGUYỄN KHÔI * YÊN THAO
NGUYỄN KHÔI
Nhà
Thơ Yên Thao
Trữ Tình và Trào Lộng
Trữ Tình và Trào Lộng
Xế trưa ngày 31-10-2007 ,
Nguyễn Khôi tôi đang ngồi trong nhà ở phố Vọng, trông ra cửa đón cái gió bấc
mưa phùn đầu mùa vừa tái xuất giang hồ sau nhiều năm mất hút (có lẽ do trái đất
nóng lên /vì môi trường ô nhiễm ...) , đang mơ màng thì nhà thơ Yên Thao (YT
Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam) đội mưa phùn gió bấc , cưỡi xe đạp điện lao vào
ngõ Bãi than Vọng (nhà NK) , lão thi sỹ gọi cửa như reo lên :
- Anh đem đến cho chú em tập
thơ THI TỬU ( Nhà xuất bản Hội Nhà Văn Việt Nam ) , sắp trình Làng vào quý Tư
năm 2007!
NK đón nhà thơ Yên Thao (YT)
vào nhà , lão thi sỹ vẫn dồn dập hỏi :
- Lại nghe nói chú mới đi
Tây dài ngày về, có gì hay không ?
Hai nhà thơ an toạ trong
phòng khách và đàm đạo, NK thưa lại :
- Ôi ! Thưa ông anh ( YT hơn
NK chừng 10 tuổi ). Tây /Ta thì thiếu gì chuyện, mà thường là khác biệt nhau ,
diễn đạt không khéo thì lại chuốc phiền vào thân ! Em xin ví dụ : Về văn Việt
Nam có độc giả hải ngoại lại cho rằng trong nước đương đại thì số 1 Dương Thu
Hương (Thiên đường mù, Bên kia bờ ảo vọng ) và số 2 Nguyễn Huy Thiệp
(Tướng về hưu) , còn thơ hồi 9 năm có độc giả hải ngoại lại cho rằng số 1
Quang Dũng (Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây) ,số 2 là Hữu Loan (Đèo
cả, Màu tím hoa sim ) , và họ cho rằng số 3 là Yên Thao ( Nhà tôi ).
Nhà thơ số 3 YT gặng hỏi :
- Tại sao ?
- Về Yên Thao , vì họ cho là
có tính nhân văn cao, quân kỷ của Bộ đội Cụ Hồ rất đáng khâm phục :
Này , anh đồng chí
Người
bạn pháo binh!
Đã
đến giờ chưa nhỉ
Mà
tôi nghe như trại giặc tan tành ?
Anh
rót cho khéo nhé
Kẻo
lại nhầm nhà tôi!
Nhà
tôi ở cuối thôn Đồi
Có
giàn thiên lý có người tôi thương .
Độc giả hải ngoại thích hơn
ở thơ Yên Thao là cái chất lãng mạn tiểu tư sản của chàng trai ven đô :
Tôi có người vợ trẻ
Đẹp
như thơ
Tuổi
chớm đôi mươi,cưới buổi dâng cờ
Má
trắng mịn thơm thơm mùa lúa chín
Ai
ra đi mà không từng bịn rịn
Rời
yêu thương nào đã mấy ai vui
Em
lặng buồn nhìn với lúc chia phôi
Tôi
mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ
NK tiếp :
- Chính cái " đoạn
" thơ hay bất tử này ,bên ta thì " chẩm " , bên địch lại lăng xê
( thời 9 năm đánh Pháp ), tình cảnh tế nhị kéo dài đã làm cho nhà thơ Yên Thao
phải im hơi, lặng tiếng dài dài...Tất cả các Tuyển Tập thơ Việt Nam , thời 9
năm đánh Pháp, xuất bản ở Hà Nội đều không có bài thơ Nhà Tôi của Yên
Thao .
Nhà thơ trữ tình YT với bài
thơ bất tử Nhà tôi , âm thầm chuyển sang làm thơ trào phúng , YT trở
thành chủ nhiệm Câu lạc bộ thơ trào phúng Hà Nội.
Hình như YT vào Hội Nhà Văn
Việt nam ở cửa "Trào Phúng " chứ không phải cửa thơ "
Trữ tình ".
Mãi
đến khi Yên Thao gần 80 tuổi mới được kết nạp vào Hội Nhà Văn Việt nam !
Sau
đó Hà Nội ồn ã truyền khẩu bài thơ trào phúng , rì rầm gán cho tác giả Yên Thao
:
Ghét nhau cùng chiếu không
ngồi
Cùng
chai không uống , cùng nồi không ăn
Chỉ
trừ cái hội nhà văn
Ghét
nhau đến mấy cũng lăn cả vào
Có kẻ ác khẩu còn "
biên tập " lại câu cuối :
Chỉ trừ cái hội nhà văn
Cắn
nhau như chó vẫn lăn xả vào
Nghe đâu bài thơ truyền khẩu
đến tai lãnh đạo Hội, Yên Thao bị nhắn nhe :
- Bác làm thơ chửi Hội à!
-
Đâu có, chúng nó tếu đấy mà ...
-
Bác chỉ cái vụng chèo khéo chống
Còn thế hệ độc giả yêu bài
thơ Nhà Tôi của Yên Thao, đọc báo thấy tin Yên Thao được vào Hội , thì
chúc mừng :
- Bác vào Hội nhà Văn rồi à
, tưởng bác đi Văn Điển (một nghĩa trang ở
phía Nam Hà Nội ) rồi chứ !
Có lẽ về thơ trữ tình thì
bài Nhà tôi là đỉnh của nghiệp thơ Yên Thao, dù sau này YT có làm hàng
trăm bài thơ khác. Thơ và tài, nó trớ trêu là vậy . Đã lên đến đỉnh là đi
xuống.
Từ thơ trữ tình chuyển sang
thơ trào lộng, YT cũng có nhiều thành công .
Ví dụ về Hoàng Cầm , YT viết
:
Vế 1
Đêm mơ thấy vợ hoá đàn ông
Con
cà thay chỗ lá Diêu bông
Vế 2
Hoảng hồn tỉnh lại thanh tra
thử
Di
tích còn nguyên , có sướng không ?
Và YT đùa tếu với Hoàng Cầm
: "Di tích đã xếp hạng chưa " ,HC " Còn chờ BTVH ký
".
Ví dụ 2 trêu nhà Hà nội học
Nguyễn Vinh Phúc ( nguyên phó chủ tịch Hội Văn Nghệ dân gian Hà Nội )
Quý báu gì đâu cái chữ NHÀ
Có
nhà thì ế , có nhà Pha ( nhà tù )
"
Nhà Hà nội học riêng ông " XƯỚNG"
tấm
biển đồng treo chướng bỏ bà .
YT và Nguyễn Vinh Phúc thân
là thế , vì bài thơ mà YT bị giận mãi.
YT còn làm thơ trêu ghẹo
Giáo sư Trần Quốc Vượng( cố chủ tịch Hội Văn Nghệ dân gian Hà Nội ) , khi vị GS
này trên 70 , vô cùng uyên bác , trán hói chỉ còn vài sợi tóc , còn tục huyền
với cô học trò dưới 40 tuổi :
Lơ thơ tơ liễu sọ dừa
Đánh
du cỏ rậm mu rùa chóng TOI
Đồn đại rằng, vị GS ấy cười
tủm và xin YT đổi hai chữ " chóng toi " thành " sống
lâu ". Vị GS giỏi xem tử vi ấy , đúng như YT "tiên tri
"," nhân bảo như thần bảo" ! "Ai cũng thương tiếc vô
hạn vị GS lỗi lạc này !
Nhà thơ YT sinh năm 1927 quê
Đông Ngạc , Từ Liêm Hà Nội, hiện nay cư trú t ại 78 Phố Huế Hà Nội
Riêng
Nguyễn Khôi cho rằng Yên Thao thành công ở thơ trữ tình với đỉnh là bài Nhà
tôi và cũng ghi dấu ấn trong độc giả với những bài thơ trào lộng "
xuất khẩu thành thi "./.
Hà
Nội, tháng 11 năm 2007
Nguyễn Khôi
Nguyễn Khôi
_____________________________________________
|
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 239
Posted by
vanhoa
at
4:33 PM
No comments:
Quanlambao - Ngày 21-9-2012 BCT bắt đầu họp chuẩn bị cho Hội Nghị Trung Ương 6, Đồng chí X đã cùng cố vấn Nguyễn Văn Hưởng sang Trung Quốc và
đã gặp Tập Cận Bình - Cả hai cùng đeo cà vạt xanh nước biển, tươi cười
hớn hở thể hiện 'tình đoàn kết cao'. Trước đó Cố vấn Nguyễn Văn Hưởng đã
có buổi mật đàm cùng đồng 'niêu' Trung Quốc:
Quanlambao
- Có lẽ không có doanh nhân đúng nghĩa nào khi đọc bài này không xót xa cho số phận của một con người và một gia đình có tài, có tâm như gia đình ông Đặng Văn Thành. Nhưng có lẽ chính vì có tài, có tâm mà ông cùng gia đình đang gánh đại họa như nhưng doanh nhân khác ở Việt Nam gần đây: Gia đình ông Nghị Đặng Thành Tâm, gia đình Bà Diệu Hiền, Gia đình chủ Ngân hàng HBB, ....
Họ đều trở thành nạn nhân vì họ quá tài giỏi, tay trắng tạo dựng cơ đồ và nhưng kẻ ăn cướp nhìn thấy sản nghiệp của họ như những miếng mồi ngon và chúng đã dùng Quyền lực, dùng tiền để ăn cướp! Ăn cướp, lột sạch nhưng vẫn bắt nạn nhân phải 'Cám ơn'! Những ai không chấp nhận cám ơn bè lũ cướp ngày thì đại họa đổ xuống đầu! Hai gia đình họ Đặng này đã dám phản kháng, dám viết đơn gởi khắp nơi kêu cứu... Vậy là cái giá phải trả cho cái 'tội' dám 'kêu cứu'!
Rồi đây có lẽ sẽ còn nhiều đòn thù giáng xuống đầu họ, cho đến khi họ trở thành thân tàn ma dại trong ngục tù thì những kẻ thủ ác cướp ngày mới an lòng.
Quanlambao
Twitter
chia sẻ
Gửi cho bạn bè
In trang này
"Chúng ta phải lưu tâm đến thực tế
rằng Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) có thể biến thành chuyện như
Palestine, nếu các nước không cố gắng hơn nữa nhằm giảm căng thẳng", ông
nói.
Hoa Kỳ với chiến lược đổi trọng tâm về châu Á để đối trọng với Trung Quốc mới đây có động thái gần gũi hơn với Miến Điện và Việt Nam, là các quốc gia cũng không muốn thấy Trung Quốc, với sức mạnh về kinh tế và quân sự, áp đảo khu vực.
Bị kẹp giữa hai cường quốc, các nước Đông Nam Á sẽ ngày càng chịu áp lực phải đứng về phía một trong hai trừ phi họ có thể có quan điểm đồng nhất, Financial Times dẫn lời ông Pitsuwan, một nhà ngoại giao Thái Lan sẽ mãn nhiệm vào tháng tới sau nhiệm kỳ 5 năm.
Ông Pitsuwan cho rằng tình hình đang xấu đi ở
Biển Đông là kết quả của "sức mạnh từ bên trong Trung Quốc", với Bắc
Kinh tập trung vào việc giữ vững chủ quyền và lãnh thổ trong bối cảnh
thay đổi lãnh đạo gần đây và Bắc Kinh ngày càng thịnh vượng.
ASEAN, diễn đàn cấp cao duy nhất cho các vấn đề an ninh ở châu Á, đã chứng kiến những ngày lộn xộn gần đây khi Campuchia, một đồng minh thân cận Bắc Kinh và nước giữ quyền chủ tịch luân phiên của tổ chức, đã làm ảnh hưởng tiêu cực tới các nỗ lực của Philippines và Việt Nam nhằm tạo một sự đồng thuận về cách để đối phó với lập trường quyết đoán của Trung Quốc.
"Campuchia phải tự cân bằng trong trò chơi quyền lực ngày càng căng thẳng", ông Pitsuwan nói.
"Tôi nghĩ rằng Campuchia đã làm những gì họ phải, người ta nên đánh giá Campuchia trong vị trí của họ."
Ông Pitsuwan nói thêm rằng hy vọng tốt nhất để tránh xung đột cho ASEAN và Trung Quốc đồng ý được bộ qui tắc ứng xử theo đó không khuyến khích các nước chiếm đảo, giếng dầu và bãi đánh bắt cá như cách để chứng minh cho chủ quyền lãnh thổ của mình.
Nhưng điều này sẽ là thách thức trong bối cảnh thể chế chính trị và cơ chế giải quyết tranh chấp tại các nước châu Á hiện vẫn đang còn kém xa so với sức mạnh kinh tế của họ.
Hoa Kỳ tuyên bố không chấp nhận bản đồ « gây tranh cãi » in trên hộ
chiếu mới của Trung Quốc, mà hiện đang bị nhiều nước láng giềng, đặc
biệt là Việt Nam phản đối kịch liệt. Bản đồ in trên hộ chiếu mới của
Trung Quốc, được sử dụng từ tháng 5 vừa qua, bao gồm nhiều vùng lãnh
thổ mà Bắc Kinh đang tranh chấp chủ quyền với các nước Việt Nam,
Philippines, Đài Loan, Nhật Bản, Ấn Độ, đặc biệt là có phần bản đồ đường
« lưỡi bò », bao phủ gần như toàn bộ khu vực Biển Đông.
Từ nhiều ngày qua, để tỏ thái độ phản đối, công an Việt Nam ở một số cửa
khẩu quốc tế đã từ chối đóng dấu visa vào hộ chiếu mới của các du khách
Trung Quốc nhập cảnh Việt Nam, mà chỉ cấp giấy thị thực rời cho họ.
Chính quyền New Delhi cũng đã trả đũa bằng cách đóng dấu bản đồ của Ấn
Độ lên hộ chiếu của khách Trung Quốc. Việt Nam cũng như những nước khác
có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Bắc Kinh sợ rằng đóng dấu visa lên
hộ chiếu Trung Quốc chẳng khác gì công nhận bản đồ in trên đó.
Nhưng Hoa Kỳ hôm qua đã trấn an các nước này là Washington không công
nhận bản đồ đó, cho dù đối với họ, về mặt kỹ thuật pháp lý, hộ chiếu mới
của Trung Quốc vẫn có giá trị.
Trong cuộc họp báo thường kỳ ngày 26/11/2012, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Victoria Nuland tuyên bố rằng bản đồ « sai lạc » in trên hộ chiếu mới của Trung Quốc không được Hoa Kỳ chấp nhận. Bà Nuland nhắc lại lập trường của Washington rằng Biển Đông là vấn đề « cần được đàm phán giữa các bên có liên quan, giữa ASEAN và Trung Quốc, và một hình ảnh trên hộ chiếu không thay đổi lập trường đó ».
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ nói thêm rằng có những chuẩn mực quốc tế căn bản cần phải được đáp ứng trong một tấm hộ chiếu và những tấm bản đồ « sai lạc » không thuộc các chuẩn mực đó. Theo bà Nuland, « xét về mặt kỹ thuật pháp lý, bản đồ này không có ảnh hưởng gì đến tính hợp lệ của hộ chiếu trong việc cấp visa nhập cảnh vào Mỹ ».
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố : "Tôi không chắc là chúng tôi sẽ có dịp thảo luận với phía Trung Quốc hay không. Thành thực mà nói, chúng tôi chỉ bắt đầu chú ý đến vấn đề này từ cuối tuần qua, khi hộ chiếu đó bị nhiều nước phản đối. Xuất phát từ quan điểm một số nước coi hộ chiếu mới của Trung Quốc là hành động khiêu khích, chúng tôi sẽ trao đổi ( với Trung Quốc ) về việc này, nhưng chỉ là nói về yếu tố kỹ thuật trên hộ chiếu ».
Cho tới nay, lập trường của Hoa Kỳ vẫn là không ủng hộ bên nào trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông, mà chỉ chú trọng đến việc bảo vệ quyền tự do lưu thông hàng hải ở khu vực này, xem đây là vấn đề quyền lợi quốc gia đối với Mỹ. Washington cũng chủ trương là tranh chấp Biển Đông phải được thảo luận tại các diễn đàn đa phương, trong khi Bắc Kinh không chấp nhận « quốc tế hóa » vấn đề này, mà chỉ muốn giải quyết trên cơ sở song phương với các nước có liên quan. Trong cuộc họp thượng đỉnh Đông Á vừa qua tại Phnom Penh, bất chấp phản đối của Trung Quốc, Tổng thống Obama đã nêu lên vấn đề Biển Đông, kêu gọi các bên giảm căng thẳng ở khu vực này.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20121127-hoa-ky-khong-cong-nhan-ho-chieu-%C2%AB-luoi-bo-%C2%BB-cua-trung-quoc
“Kỷ luật mà không tính kỹ thì lại rối, mai kia là ân oán, thù oán, đối phó, thành phe phái, rối nội bộ,” ông Trọng được dẫn lời nói trên tờ Tuổi Trẻ.
Ông Trọng cũng làm rõ trọng tâm của Nghị quyết 4 không phải là kỷ luật như nhiều người mong đợi mà là ‘cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, ngăn chặn’.
“Tôi nhiều lần nói rằng nghị quyết 4 trước hết là cảnh tỉnh, thức tỉnh lại những người lâu nay quên đi rồi, không thấy nguy cơ này, không thấy tại sao Liên Xô sụp đổ,” ông Trọng được Tuổi Trẻ dẫn lời nói.
"Vừa rồi đã răn đe chưa? Khối anh sợ chứ."
Theo ông giải thích thì việc phê và tự phê mà không kỷ luật sẽ có tác dụng ‘bền vững, sâu xa hơn’ vì mỗi cán bộ đã ‘tự nghiền ngẫm, tự giác sửa mình’.
Ông giải thích đây là tư tưởng ‘tất cả cùng tiến lên’ và ca ngợi hành động này là ‘cái tính Việt, tư tưởng nhân văn và tư tưởng Hồ Chí Minh’.
Một mặt, ông tổng bí thư nhấn mạnh đến tinh thần khoan dung lẫn nhau trong nội bộ Đảng theo tinh thần ‘nhân văn Việt Nam’, một mặt ông cũng nhắc đến luật pháp khi mà đã kiểm điểm rồi mà ‘không sửa chữa’ thì mới dùng đến luật pháp.
Người đứng đầu Đảng cũng có động thái
rõ ràng là giảm nhẹ tầm quan trọng của việc phê và tự phê
trước sự kỳ vọng lớn lao của công chúng.
Ông được Thông tấn xã dẫn lời nói rằng ‘Nghị quyết trung ương 4 không chỉ có tự phê bình và phê bình, mà còn nhiều việc khác’ và rằng ‘một loạt biện pháp, giải pháp về cơ chế chính sách mới quan trọng’.
Trước đó, phê và tự phê đã được Đảng phát động rầm rộ trên tất cả các cơ sở Đảng trên toàn quốc mà Đảng xem như là một biện pháp cốt tử để vực dậy uy tín.
Ông cũng cố gắng giảm nhẹ sự kỳ vọng quá lớn vào Nghị quyết 4 khi nói rằng đây là một công việc ‘lâu dài’ chứ không nên mong chờ kết quả trong nhiệm kỳ này mặc dù ông cũng nhấn mạnh ‘ý nghĩa rất hệ trọng’, ‘liên quan đến sự sống còn của Đảng’ của công việc chỉnh đốn Đảng.
Trước câu hỏi của cán cán bộ lão thành yêu cầu tổng bí thư chỉ ra ‘một bộ phận không nhỏ suy thoái’ mà ông từng ̣đề cập ở đâu, ông Trọng nói đây là vấn đề ‘không đơn giản’, theo tường thuật của báo mạng VnExpress.
"Chả bao giờ mình thấy khuyết điểm của mình đâu. Đụng đến lợi ích của mình là phản ứng, nhất là lợi ích nhóm khi đã móc ngoặc với nhau thì vô cùng phức tạp."
Ông cho rằng đây là chỉ ra ‘bộ phận không nhỏ là bao nhiêu’ là một việc ‘khó và trừu tượng’.
“Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu,” ông giải thích tại sao đấu tranh với cán bộ suy thoái lại khó như thế, “Chả bao giờ mình thấy khuyết điểm của mình đâu. Đụng đến lợi ích của mình là phản ứng, nhất là lợi ích nhóm khi đã móc ngoặc với nhau thì vô cùng phức tạp.”
Cũng theo tường thuật của VnExpress thì ông Trọng đã nhiều lần đề cập đến cụm từ ‘lợi ích nhóm’ đang hoành hành trong Đảng.
“Khổ là bên ấy (Chính phủ) quá nhiều việc, chưa nói là tâm lý ăn cây nào rào cây ấy, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ hay không. Anh nào ra cái đề án cũng phải cố gắng bảo vệ cho mình,” ông nói, giải thích lý do tại sao Đảng tái lập các cơ quan chuyên môn dẫm chân lên công việc của bộ máy chính phủ.
“Không có người thẩm định, không có người kiểm tra nên mới dẫn đến những cái sai như vừa rồi,” ông nói và yêu cầu ‘đã sinh ra cơ quan quyền lực thì phải có sự kiểm soát cái quyền lực ấy’ nếu không sẽ sinh ra ‘tự tung tự tác’.
Tổng bí thư Đảng cũng cảnh báo việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm mà Quốc hội mới thông qua có thể cho ra kết quả sai lệch do ‘lợi ích cục bộ, cá nhân, lợi ích nhóm’.
“Có chuyện hứa hẹn cho cái này cái kia, ràng buộc lẫn nhau, có khi lại đe dọa, không hề đơn giản,” ông giải thích việc một số đại biểu có thể bị chi phối vì lợi ích nhóm khi bỏ phiếu tín nhiệm.
Chủ tịch Sang cảnh báo tồn vong chế độ
EM CÓ VỀ KINH BẮC
THƯƠNG VỀ XỨ NẪU
QUAN LÀM BÁO - THƠ
Monday, December 3, 2012
QUAN LÀM BÁO CHỬI QUAN GIAN ÁC
NHÂN DÂN VIỆT NAM BẮT ĐẦU TRẢ NỢ CHO CAM KẾT CỦA NGUYỄN VĂN HƯỞNG VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG
Ngày 20/9/2012 gặp Tập Cận Bình |
Tướng
Hưởng: "Nếu các ngài gây sức ép để Thủ Tướng không bị phe chỉnh đốn
Đảng bãi miễn đợt này, đổi lại thủ trưởng của tôi sẽ thực hiện 'toàn
diện' quan điểm của người anh em Trung Quốc!"
"Chúng tôi cần có hành động cụ thể.."
Tướng Hưởng: "Việt Nam sẽ không có ý kiến gì nếu Trung Quốc dành lại đảo Điếu ngư đài của Nhật Bản…"
"Khá lắm!"
Tướng Hưởng : "Tôi đề nghị các đồng chí anh em Trung Quốc ủng hộ để ông Nguyễn Tấn Dũng có thể làm một cuộc cách mạng để lên vị trí Tổng Thống theo mô hình như Trung Quốc"
"Nhân dân Trung Hoa sẽ được gì?"
Tướng Hưởng: "Việt Nam sẽ không có ý kiến gì nếu Trung Quốc dành lại đảo Điếu ngư đài của Nhật Bản…"
"Khá lắm!"
Tướng Hưởng : "Tôi đề nghị các đồng chí anh em Trung Quốc ủng hộ để ông Nguyễn Tấn Dũng có thể làm một cuộc cách mạng để lên vị trí Tổng Thống theo mô hình như Trung Quốc"
"Nhân dân Trung Hoa sẽ được gì?"
Labels:
CHỦ QUYỀN
Reactions: |
CƯỚP ĐÊM LÀ GIẶC, CƯỚP NGÀY LÀ ... X?
Quanlambao
- Có lẽ không có doanh nhân đúng nghĩa nào khi đọc bài này không xót xa cho số phận của một con người và một gia đình có tài, có tâm như gia đình ông Đặng Văn Thành. Nhưng có lẽ chính vì có tài, có tâm mà ông cùng gia đình đang gánh đại họa như nhưng doanh nhân khác ở Việt Nam gần đây: Gia đình ông Nghị Đặng Thành Tâm, gia đình Bà Diệu Hiền, Gia đình chủ Ngân hàng HBB, ....
Họ đều trở thành nạn nhân vì họ quá tài giỏi, tay trắng tạo dựng cơ đồ và nhưng kẻ ăn cướp nhìn thấy sản nghiệp của họ như những miếng mồi ngon và chúng đã dùng Quyền lực, dùng tiền để ăn cướp! Ăn cướp, lột sạch nhưng vẫn bắt nạn nhân phải 'Cám ơn'! Những ai không chấp nhận cám ơn bè lũ cướp ngày thì đại họa đổ xuống đầu! Hai gia đình họ Đặng này đã dám phản kháng, dám viết đơn gởi khắp nơi kêu cứu... Vậy là cái giá phải trả cho cái 'tội' dám 'kêu cứu'!
Rồi đây có lẽ sẽ còn nhiều đòn thù giáng xuống đầu họ, cho đến khi họ trở thành thân tàn ma dại trong ngục tù thì những kẻ thủ ác cướp ngày mới an lòng.
Tấm hộ chiếu bành trướng và những nỗi nhục của Người Việt Nam ta
Quanlambao -
Mấy hôm nay, không chỉ ở Việt Nam mà cả thế giới xôn xao về tấm hộ
chiếu Trung Cộng vẽ đường lưỡi bò chiếm 80% Biển Đông, phần lãnh thổ
tranh chấp với Ấn Độ, Đài Loan, Nam Hàn vào hộ chiếu cấp cho công dân họ
đi khắp thế giới. Đây là một đòn bẩn, nhằm buộc các nước vào thế khó,
nếu đóng dấu chứng thực vào tấm hộ chiếu này, nghĩa là công nhận phần
lãnh thổ tham vọng đó thuộc Trung Cộng.
Nói đến những đòn bẩn của anh bạn 16 chữ vàng và 4 tốt của đảng và nhà nước ta, thì kể suốt ngày không hết. Không chỉ chuyện bây giờ mà từ ngàn xưa đến nay vẫn thế, ai mà không biết. Dù với thời đại nào, chính thể nào ở Trung Hoa, thì âm mưu bành trướng bá quyền vẫn là một hằng số, không thay đổi. Vấn đề biết vậy, nhưng hành động với nó ra sao, là điều cần bàn.
Tấm hộ chiếu bành trướng vẽ đường lưỡi bò
Khắp nơi trên thế giới, những phản ứng mạnh mẽ đã được đưa ra: Ấn Độ quyết định cấp thị tờ thực khẳng định phần lãnh thổ tranh chấp là của mình. Còn Philippines thì Bộ trưởng Ngoại giao chính thức gửi công hàm ngoại giao đến Bắc Kinh và gọi bản đồ là “tuyên bố vô lý về không gian hàng hải và là vi phạm luật pháp quốc tế”. Ngoài ra, còn Đài Loan cũng lên tiếng phản đối điều này.
Ở Việt Nam, người dân mới tá hỏa tam tinh chỉ biết tin đó khi Người phát ngôn BNG trả lời câu hỏi của một phóng viên tọc mạch về cái hộ chiếu bành trướng. Thậm chí, còn được nghe rằng đã gửi công hàm phản đối đến Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội. Thế rồi báo chí tung tin rằng “cửa khẩu quốc tế Lào Cai đã đóng dấu hủy vào 111 hộ chiếu của công dân Trung Quốc có in hình đường lưỡi bò khi nhập cảnh vào VN”. Thực chất là chỉ đóng dấu hủy vào những thị thực mà Việt Nam đã cấp, đã dán vào cái hộ chiếu có hình lưỡi bò, chứ đâu dám đóng dấu hủy vào hộ chiếu của anh bạn vàng(!)
Nói đến những đòn bẩn của anh bạn 16 chữ vàng và 4 tốt của đảng và nhà nước ta, thì kể suốt ngày không hết. Không chỉ chuyện bây giờ mà từ ngàn xưa đến nay vẫn thế, ai mà không biết. Dù với thời đại nào, chính thể nào ở Trung Hoa, thì âm mưu bành trướng bá quyền vẫn là một hằng số, không thay đổi. Vấn đề biết vậy, nhưng hành động với nó ra sao, là điều cần bàn.
Tấm hộ chiếu bành trướng vẽ đường lưỡi bò
Khắp nơi trên thế giới, những phản ứng mạnh mẽ đã được đưa ra: Ấn Độ quyết định cấp thị tờ thực khẳng định phần lãnh thổ tranh chấp là của mình. Còn Philippines thì Bộ trưởng Ngoại giao chính thức gửi công hàm ngoại giao đến Bắc Kinh và gọi bản đồ là “tuyên bố vô lý về không gian hàng hải và là vi phạm luật pháp quốc tế”. Ngoài ra, còn Đài Loan cũng lên tiếng phản đối điều này.
Ở Việt Nam, người dân mới tá hỏa tam tinh chỉ biết tin đó khi Người phát ngôn BNG trả lời câu hỏi của một phóng viên tọc mạch về cái hộ chiếu bành trướng. Thậm chí, còn được nghe rằng đã gửi công hàm phản đối đến Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội. Thế rồi báo chí tung tin rằng “cửa khẩu quốc tế Lào Cai đã đóng dấu hủy vào 111 hộ chiếu của công dân Trung Quốc có in hình đường lưỡi bò khi nhập cảnh vào VN”. Thực chất là chỉ đóng dấu hủy vào những thị thực mà Việt Nam đã cấp, đã dán vào cái hộ chiếu có hình lưỡi bò, chứ đâu dám đóng dấu hủy vào hộ chiếu của anh bạn vàng(!)
Labels:
CHỦ QUYỀN
Reactions: |
THỐNG ĐỐC BÌNH - ĐIỂN HÌNH CỦA BỐ GIÀ NGA
Quanlambao
-
Thống đốc Nguyễn Văn Bình - Thủ phạm đẻ ra độc quyền vàng miếng SJC, để
rồi hàng loạt hệ lụy ào ạt đổ xuống nền kinh tế đất nước và người dân
gánh chịu.
Từ việc giá vàng hỗn loạn giúp cho một nhóm chủ của SJC đầu cơ trục lợi thu tô cho mỗi luojng vàng chỉ để đóng cái dấu "SJC' vô tri vô giác lên vàng miếng! Nhưng nhờ vậy Thông đốc Bình, Lê Hùng Dũng và Đỗ Minh Phú đã ngồi đó hàng ngày tiền thu tô từ cách doanh nghiệp buộc phải chuyển đổi cứ thế đổ vào, ngoài việc trả tiền gia công 50.000 đồng/lượng thì phải trả ngoài thêm 50.000 đồng nữa để được đổi nhanh, để không bị hạ 'độ tuổi', thôi thì đủ thứ có thể làm tiền và các công ty kinh doanh vàng nhẫn nhục chịu đựng.
Nay ông Thống đốc cho tái xuất và được miễn thuế để rồi mỗi tấn xuất đi giấy phép mà ông cấp sẽ phải chi cho ông và băng nhóm cấp phép 5% bằng 50% của số thuế được miễn giảm. Một thỏa thuận ngầm đã xong và ông Thống đốc bắt đầu chạy thật nhanh cho cái 'cơ chế' do chính ông đẻ ra.
Nguyễn Văn Bình - Đại diện điển hình của bố già Nga |
Từ việc giá vàng hỗn loạn giúp cho một nhóm chủ của SJC đầu cơ trục lợi thu tô cho mỗi luojng vàng chỉ để đóng cái dấu "SJC' vô tri vô giác lên vàng miếng! Nhưng nhờ vậy Thông đốc Bình, Lê Hùng Dũng và Đỗ Minh Phú đã ngồi đó hàng ngày tiền thu tô từ cách doanh nghiệp buộc phải chuyển đổi cứ thế đổ vào, ngoài việc trả tiền gia công 50.000 đồng/lượng thì phải trả ngoài thêm 50.000 đồng nữa để được đổi nhanh, để không bị hạ 'độ tuổi', thôi thì đủ thứ có thể làm tiền và các công ty kinh doanh vàng nhẫn nhục chịu đựng.
Nay ông Thống đốc cho tái xuất và được miễn thuế để rồi mỗi tấn xuất đi giấy phép mà ông cấp sẽ phải chi cho ông và băng nhóm cấp phép 5% bằng 50% của số thuế được miễn giảm. Một thỏa thuận ngầm đã xong và ông Thống đốc bắt đầu chạy thật nhanh cho cái 'cơ chế' do chính ông đẻ ra.
Labels:
HỒ SƠ THÔNG ĐỐC
Reactions: |
Câu hỏi lớn về một bộ phận không nhỏ
Quanlambao
“trong lần nghe truyền đạt Nghị quyết Trung ương 4 chúng tôi có hỏi báo cáo viên “bộ phận không nhỏ” chiếm bao nhiêu phần trăm, nhưng báo cáo viên không chỉ ra được”. Ông Thịnh vô cùng thẳng thắn hỏi người đứng đầu Đảng cầm quyền: “Đề nghị Tổng bí thư làm rõ bộ phận không nhỏ ấy đang nằm ở đâu? Trung ương bảo như vậy nhưng về các tỉnh thành chúng tôi chẳng thấy bộ phận không nhỏ ấy nằm ở đâu cả?”.
Trong buổi TBT tiếp xúc cử tri, đã có một câu hỏi lớn về “bộ phận không nhỏ” được cử tri Nguyễn Khắc Thịnh nêu ra
“trong lần nghe truyền đạt Nghị quyết Trung ương 4 chúng tôi có hỏi báo cáo viên “bộ phận không nhỏ” chiếm bao nhiêu phần trăm, nhưng báo cáo viên không chỉ ra được”. Ông Thịnh vô cùng thẳng thắn hỏi người đứng đầu Đảng cầm quyền: “Đề nghị Tổng bí thư làm rõ bộ phận không nhỏ ấy đang nằm ở đâu? Trung ương bảo như vậy nhưng về các tỉnh thành chúng tôi chẳng thấy bộ phận không nhỏ ấy nằm ở đâu cả?”.
Labels:
BCT CHỐNG THAM NHŨNG
Reactions: |
Viễn tưởng từ chức
Quanlambao
1. Tình hình kinh tế và xã hội quá bi đát. Những thông tin kinh khủng đã lộ ra mới chỉ là dấu hiệu, báo động những tháng ngày tồi tệ sắp tới. Không thể đổ lỗi cho thiên tai, địch họa. Không thể dùng khủng hoảng kinh tế trên Thế giới để biện hộ.Lãnh đạo ở tầng cao nhất phải chịu trách nhiệm chính về thực trạng này, cả với tư cách tập thể lẫn tư cách cá nhân.Không thể dùng trách nhiệm tập thể để che chắn cho trách nhiệm cá nhân . Và ngược lại, không thể chỉ thí một vài cá nhân để bao biện cho cả tổ chức .
Đối diện với khủng hoảng trầm trọng, lãnh đạo Đảng CSVN đã tiến hành một chiến dịch kiểm điểm hiếm có. Dư luận chờ đợi có ai đó ở thượng tầng sẽ bị cách chức, hay buộc phải từ chức, để giải tỏa một phần bức xúc của Nhân dân và cho họ một lý do để hy vọng. Song kết cục còn bất ngờ hơn cả vở kịch đầy kịch tính nhất: Đa số Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN khóa XI đã bỏ phiếu không chấp nhận đề nghị kỷ luật của Bộ Chính trị .
Nhiều người tưởng rằng: Chỉ vì cái đa số ấy mà ý định xử lý nghiêm túc của Bộ Chính trị đã không trở thành hiện thực.Thật ra, theo Thông báo Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI , thì
1. Tình hình kinh tế và xã hội quá bi đát. Những thông tin kinh khủng đã lộ ra mới chỉ là dấu hiệu, báo động những tháng ngày tồi tệ sắp tới. Không thể đổ lỗi cho thiên tai, địch họa. Không thể dùng khủng hoảng kinh tế trên Thế giới để biện hộ.Lãnh đạo ở tầng cao nhất phải chịu trách nhiệm chính về thực trạng này, cả với tư cách tập thể lẫn tư cách cá nhân.Không thể dùng trách nhiệm tập thể để che chắn cho trách nhiệm cá nhân . Và ngược lại, không thể chỉ thí một vài cá nhân để bao biện cho cả tổ chức .
Đối diện với khủng hoảng trầm trọng, lãnh đạo Đảng CSVN đã tiến hành một chiến dịch kiểm điểm hiếm có. Dư luận chờ đợi có ai đó ở thượng tầng sẽ bị cách chức, hay buộc phải từ chức, để giải tỏa một phần bức xúc của Nhân dân và cho họ một lý do để hy vọng. Song kết cục còn bất ngờ hơn cả vở kịch đầy kịch tính nhất: Đa số Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN khóa XI đã bỏ phiếu không chấp nhận đề nghị kỷ luật của Bộ Chính trị .
Nhiều người tưởng rằng: Chỉ vì cái đa số ấy mà ý định xử lý nghiêm túc của Bộ Chính trị đã không trở thành hiện thực.Thật ra, theo Thông báo Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI , thì
Labels:
BCT CHỐNG THAM NHŨNG,
ĐẢNG CSVN
Reactions: |
Nhóm lò
.
Nào anh em ơi! Ta nhóm lò lên
Ta nhóm lò bằng bầu nhiệt huyết
Củi khô, củi tươi cho vào cháy hết
Có sá gì lúc nhúc bầy sâu.
Ngọn lửa thiêng tưởng sẽ bền lâu
Và bầy sâu sẽ đến ngày tận số
Bỗng dưng từ đâu ào ào nước đổ
Người buồn, lửa tắt, sâu cười.
.
Huỳnh Văn Úc - Theo Blog Nguyetuongthuy
TIN TỨC XA GẦN
Căng thẳng Biển Đông trở thành Palestine?
Cập nhật: 15:37 GMT - thứ năm, 29 tháng 11, 2012
Facebook
Vào tuần này một nhà ngoại giao
hàng đầu của châu Á cảnh báo tranh chấp tại Biển Đông có thể có rủi ro
trở thành “Palestine của châu Á” và dẫn tới xung đột có bạo động gây bất
ổn toàn vùng.
Tổng thư ký Asean sắp mãn nhiệm, Tiến sỹ Surin
Pitsuwan, nói với Financial Times rằng Asean đang đi qua giai đoạn
"nhiều tranh chấp nhất" trong những năm gần đây.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Hoa Kỳ với chiến lược đổi trọng tâm về châu Á để đối trọng với Trung Quốc mới đây có động thái gần gũi hơn với Miến Điện và Việt Nam, là các quốc gia cũng không muốn thấy Trung Quốc, với sức mạnh về kinh tế và quân sự, áp đảo khu vực.
Bị kẹp giữa hai cường quốc, các nước Đông Nam Á sẽ ngày càng chịu áp lực phải đứng về phía một trong hai trừ phi họ có thể có quan điểm đồng nhất, Financial Times dẫn lời ông Pitsuwan, một nhà ngoại giao Thái Lan sẽ mãn nhiệm vào tháng tới sau nhiệm kỳ 5 năm.
"Chúng ta phải lưu tâm đến thực tế rằng Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) có thể biến thành chuyện như Palestine," nếu các nước không cố gắng hơn nữa nhằm giảm căng thẳng."
Tiến sỹ Surin Pitsuwan, Tổng thư ký Asean
ASEAN, diễn đàn cấp cao duy nhất cho các vấn đề an ninh ở châu Á, đã chứng kiến những ngày lộn xộn gần đây khi Campuchia, một đồng minh thân cận Bắc Kinh và nước giữ quyền chủ tịch luân phiên của tổ chức, đã làm ảnh hưởng tiêu cực tới các nỗ lực của Philippines và Việt Nam nhằm tạo một sự đồng thuận về cách để đối phó với lập trường quyết đoán của Trung Quốc.
"Campuchia phải tự cân bằng trong trò chơi quyền lực ngày càng căng thẳng", ông Pitsuwan nói.
"Tôi nghĩ rằng Campuchia đã làm những gì họ phải, người ta nên đánh giá Campuchia trong vị trí của họ."
Ông Pitsuwan nói thêm rằng hy vọng tốt nhất để tránh xung đột cho ASEAN và Trung Quốc đồng ý được bộ qui tắc ứng xử theo đó không khuyến khích các nước chiếm đảo, giếng dầu và bãi đánh bắt cá như cách để chứng minh cho chủ quyền lãnh thổ của mình.
Nhưng điều này sẽ là thách thức trong bối cảnh thể chế chính trị và cơ chế giải quyết tranh chấp tại các nước châu Á hiện vẫn đang còn kém xa so với sức mạnh kinh tế của họ.
"Mục đích của hộ chiếu điện tử mới là để tăng cường khả năng về công nghệ và cũng để tiện dụng cho công dân Trung Quốc ra vào nước"
Hồng Lỗi, Người phát ngôn Bộ ngoại giao TQ
Trong khi đó Trung Quốc nói người ta không nên xăm xoi nhiều vào bản đồ in trên hộ chiếu điện tử gây tranh cãi gần đây.
Philippines và Việt Nam đã lên án Bắc Kinh khi nói rằng bản đồ ‘lưỡi bò’
này là vi phạm chủ quyền lãnh thổ của họ.Ấn Độ hiện cũng tuyên bố chủ
quyền tại hai khu
vực tại Himalaya mà Bắc Kinh gộp vào vùng lãnh thổ Trung Quốc tên bản đồ
cũng có phản ứng tương tự “Mục đích của hộ chiếu điện tử mới của Trung
Quốc là để tăng cường khả năng về công nghệ và cũng để tiện dụng cho
công dân Trung Quốc ra vào Trung Quốc’’, người phát ngôn Bộ ngoại giao
Hồng Lỗi nói tại một buổi họp báo ở Bắc Kinh mới đây.Quyết định cấp
hộ chiếu gắn chip điện tử
với nhiều hình vẽ gây tranh cãi của Trung Quốc đã khiến nhiều
quốc gia có tranh chấp chủ quyền với nước này tức giận.Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam được báo chí trong nước
dẫn lời nói nói Chính phủ Việt Nam đã "chỉ đạo" không đóng dấu vào hộ
chiếu có đường lưỡi bò của Trung Quốc, theo
báo chí trong nước Ngoại trưởng Indonesia vào hôm 29/11 nói Trung Quốc
không thành thật khi đưa ra hộ chiếu có đường lưỡi bò và động thái này
sẽ phản tác dụng. Giới chức Philippines trước đó cũng quyết định
không đóng dấu chứng thực nhập cảnh lên hộ chiếu có đường
'lưỡi bò' của Trung Quốc và dùng tờ thị thực rời. Trong khi đó
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Victoria Nuland vào ngày
26/11 nói việc Mỹ đóng dấu nhập cảnh lên hộ chiếu có đường
'lưỡi bò' không có nghĩa thừa nhận
chủ quyền của Trung Quốc.
Hoa Kỳ không tán đồng việc in bản đồ "lưỡi bò" lên hộ chiếu Trung Quốc
Hộ chiếu mới của Trung Quốc với bản đồ “hình lưỡi bò”. REUTERS/Stringer
Thanh Phương Trong cuộc họp báo thường kỳ ngày 26/11/2012, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Victoria Nuland tuyên bố rằng bản đồ « sai lạc » in trên hộ chiếu mới của Trung Quốc không được Hoa Kỳ chấp nhận. Bà Nuland nhắc lại lập trường của Washington rằng Biển Đông là vấn đề « cần được đàm phán giữa các bên có liên quan, giữa ASEAN và Trung Quốc, và một hình ảnh trên hộ chiếu không thay đổi lập trường đó ».
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ nói thêm rằng có những chuẩn mực quốc tế căn bản cần phải được đáp ứng trong một tấm hộ chiếu và những tấm bản đồ « sai lạc » không thuộc các chuẩn mực đó. Theo bà Nuland, « xét về mặt kỹ thuật pháp lý, bản đồ này không có ảnh hưởng gì đến tính hợp lệ của hộ chiếu trong việc cấp visa nhập cảnh vào Mỹ ».
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố : "Tôi không chắc là chúng tôi sẽ có dịp thảo luận với phía Trung Quốc hay không. Thành thực mà nói, chúng tôi chỉ bắt đầu chú ý đến vấn đề này từ cuối tuần qua, khi hộ chiếu đó bị nhiều nước phản đối. Xuất phát từ quan điểm một số nước coi hộ chiếu mới của Trung Quốc là hành động khiêu khích, chúng tôi sẽ trao đổi ( với Trung Quốc ) về việc này, nhưng chỉ là nói về yếu tố kỹ thuật trên hộ chiếu ».
Cho tới nay, lập trường của Hoa Kỳ vẫn là không ủng hộ bên nào trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông, mà chỉ chú trọng đến việc bảo vệ quyền tự do lưu thông hàng hải ở khu vực này, xem đây là vấn đề quyền lợi quốc gia đối với Mỹ. Washington cũng chủ trương là tranh chấp Biển Đông phải được thảo luận tại các diễn đàn đa phương, trong khi Bắc Kinh không chấp nhận « quốc tế hóa » vấn đề này, mà chỉ muốn giải quyết trên cơ sở song phương với các nước có liên quan. Trong cuộc họp thượng đỉnh Đông Á vừa qua tại Phnom Penh, bất chấp phản đối của Trung Quốc, Tổng thống Obama đã nêu lên vấn đề Biển Đông, kêu gọi các bên giảm căng thẳng ở khu vực này.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20121127-hoa-ky-khong-cong-nhan-ho-chieu-%C2%AB-luoi-bo-%C2%BB-cua-trung-quoc
Hộ chiếu có bản đồ: hành động “rất có hệ thống” của Trung Quốc
Thanh Quang, phóng viên RFA
2012-11-30
Trung Quốc vừa mới tiến thêm một bước đáng ngại nữa trong tham
vọng bành trướng bá quyền Đại Hán qua việc cho in hình bản đồ “lưỡi bò”
vào hộ chiếu cấp cho hàng chục triệu công dân Trung Quốc.
AFP
Dấu hiệu đó chứng tỏ Bắc Kinh bằng mọi giá, mọi cách hay nói cách
khác không từ thủ đoạn nào nhằm tạo điều kiện cho tham vọng “lưỡi bò” ấy
“liếm” gần trọn biển Đông, dù bị hầu như toàn thế giới chứ không riêng
những nước có tranh chấp chủ quyền lãnh hải với Hoa Lục phản đối.
Phản ứng của Việt Nam chưa đủ hiệu quả
Giữa lúc nhiều nước, từ Philippines, Đài Loan tới cả Ấn Độ phản đối
“hộ chiếu lưỡi bò”, thì tại cuộc họp báo chính phủ hôm 29 tháng 11 vừa
rồi, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Việt Nam Vũ Đức Đam lưu ý
tới chuyện phương Bắc vẽ thêm “đường lưỡi bò phi pháp” không được quốc
tế công nhận, và phía Việt Nam không đóng dấu lên “hộ chiếu lưỡi bò” mà
chỉ cấp thị thực trên “tờ giấy rời” cho du khách Trung Quốc mang hộ
chiếu này. Việt Nam cũng đã phát đi công hàm phản đối, trong khi phát
ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng hành động ấy vi phạm chủ quyền
lãnh hải Việt Nam, đồng thời lại khẳng định về chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại biển Đông.
Nhưng, theo GS Nguyễn Thế Hùng thuộc Đại học Bách khoa Đà Nẵng, thì phản ứng như vậy của Việt Nam là chưa thích hợp.
Tôi thấy vấn đề phản đối là chưa đủ mà cần phải làm nhiều hơn nữa. Nhà nước, thí dụ như, phải cho dân chúng biểu tình bất bạo động để người ta bày tỏ thái độ đối với chuyện in bản đồ “lưỡi bò” lên hộ chiếu của Trung Quốc
GS Nguyễn Thế Hùng
Tôi thấy vấn đề phản đối là chưa đủ mà cần phải làm nhiều hơn nữa.
Nhà nước, thí dụ như, phải cho dân chúng biểu tình bất bạo động để
người ta bày tỏ thái độ đối với chuyện in bản đồ “lưỡi bò” lên hộ chiếu
của Trung Quốc một cách phi pháp như thế. Trong khi vấn đề (biển Đông)
mà quốc tế chưa ngã ngũ là bên nào thì
tự nhiên Trung Quốc lại in cái “lưỡi bò” với đường chấm,
chấm đỏ cũng như là nó thuộc về Trung Quốc thì thật là phi lý. Nó không
có tí gì dựa trên cơ sở pháp lý nào hết.
Từ Đà Lạt, nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh có nhận xét như sau:
Về vấn đề hộ chiếu có đường lưỡi bò của Trung Quốc, phản ứng của
nhà cầm quyền như vậy cũng chưa đủ hiệu quả. Vì việc giới hữu trách
không đóng dấu vào hộ chiếu, nhưng lại cấp tờ rời gần như visa tạm thời,
theo tôi nghĩ, nó chỉ giải quyết được chuyện trước mắt thôi, chưa có
hiệu quả. Tôi nghĩ nhà nước phải có biện pháp cứng rắn hơn nữa. Ví dụ
như mình tuyên bố là trong thời hạn bao lâu đó sẽ không công nhận hộ
chiếu “lưỡi bò” ấy, và buộc những người Trung Quốc muốn sang Việt Nam
phải đổi hộ chiếu khác. Đó là tôi chỉ thí dụ về một biện pháp thôi.
Vẫn theo học giả Mai Thái Lĩnh thì phía Trung Quốc lâu nay luôn làm
những việc coi như sự đã rồi, tức họ lấn từng bước, một cách có hệ
thống, mà Việt Nam lại đối phó theo kiểu tạm thời, không có biện pháp
nhanh chóng, hiệu quả, khiến phía Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục những
thủ đoạn khác nữa.
Học giả Mai Thái Lĩnh viện dẫn những hành động “rất có hệ thống” của Trung Quốc từ trước tới nay, thí dụ trong thời gian gần đây, cho thành lập TP Tam Sa trên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa
Nhà nghiên cứu này viện dẫn những hành động “rất có hệ thống” của
Trung Quốc từ trước tới nay, thí dụ trong thời gian gần đây, cho thành
lập TP Tam Sa trên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa để quản lý gần trọn biển
Đông, xúc tiến xây dựng hạ tầng cơ sở trên
đó, thành lập một bộ chỉ huy lực lượng đồn trú ở Tam Sa, tiếp tục
tung tàu bè uy hiếp biển đảo, ngư dân của Việt Nam cùng các nước láng
giềng.v.v…, tức Bắc Kinh, theo học giả Mai Thái Lĩnh, tiến hành từng
bước để biến sự việc thành “tình trạng đã rồi” trong khi phía “Việt Nam
lại không có những biện pháp ứng phó hiệu quả”.
Chấn hưng dân khí là việc cần làm
Trước nguy cơ đó, có lẽ câu hỏi cần được nêu lên là giới cầm quyền
Việt Nam cư xử với người dân Việt yêu nước chống lại thảm hoạ ngoại xâm
ấy ra sao ? GS Nguyễn Thế Hùng nhận xét:
Tôi thấy có những chuyện thuộc về chủ quyền của đất nước, dân tộc,
nên người dân Việt Nam bày tỏ thái độ yêu nước bất bạo động, thì đối
với một nhà nuớc chính danh, điều đó phải được trân trọng, ủng hộ. Trước
kia, hồi thời Việt Nam còn là thuộc địa của Pháp, cụ Phan Chu Trinh
cũng chủ trương muốn cứu nước thì phải nâng cao dân trí, chấn hưng dân
khí. Bây giờ, một đất nước mà không chấn hưng dân khí thì khi đất nước
có hoạ ngoại xâm, ai là người bảo vệ tổ quốc ? Có phải những người lãnh
đạo tự đứng ra đánh ngoại xâm không ?
Hay là họ phải dựa vào sức mạnh của toàn dân ? Cho nên vấn đề chấn
hưng dân khí là một việc rất quan trọng. Nhưng bây giờ, những người yêu
nước biểu tình bất bạo động, bày tỏ thái độ yêu nước như thế, mà nhà
cầm quyền lại đàn áp, đánh đập rồi bắt nhốt, như vậy thì lòng yêu nước,
sự ái quốc đó bị xúc phạm, bị đau đớn. Đó là điều nhà nước không nên
làm.
Cho nên vấn đề chấn hưng dân khí là một việc rất quan trọng. Nhưng bây giờ, những người yêu nước biểu tình bất bạo động, bày tỏ thái độ yêu nước như thế, mà nhà cầm quyền lại đàn áp, đánh đập rồi bắt nhốt
GS Nguyễn Thế Hùng
Theo học giả Mai Thái Lĩnh thì người dân trong nước có ý muốn đấu
tranh cho quê hương bây giờ cũng không biết cách gì để thể hiện chuyện
phản đối những chính sách đối với Trung Quốc. Họ không được phép biểu
tình, hội họp cũng không được…Cùng lắm thì một số trí thức ký kiến nghị
mà thôi. Nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh nhận thấy cách làm của nhà nước
như thế khiến ngày càng có nhiều người nghi ngờ, không biết đảng và nhà
nước Việt Nam này có thực tâm muốn bảo vệ chủ quyền dân tộc, muốn đấu
tranh chống lại hành động của Bắc Kinh hay không. Nhất là gần đây, rất
nhiều người yêu nước lại bị nhà cầm quyền bắt bớ, xử án rất nặng – hành
động mà ông Mai Thái Lĩnh cho là “cực kỳ vô lý”, như ông phân tích sau
đây:
Hiện nay, chúng tôi thấy người dân trong nước, nhìn chung, họ rất
bất mãn hành động về phía Trung Quốc. Nhưng về phía chính quyền trong
nước, chúng tôi nhận thấy có những cách ứng phó nhiều khi mang tính chất
nước đôi. Thí dụ như Việt Nam có hành động thì phản đối – mà phản đối
cũng không hiệu quả bao nhiêu, nhưng mặt khác lại có những hành động
tiếp tục hợp tác giữa 2 bên, làm cho người dân bây giờ hết sức hoang
mang. Họ nghĩ rằng không biết nhà nước này có thực sự ra sức bảo vệ chủ
quyền của dân tộc hay không !
Rồi học giả Mai Thái Lĩnh đi tìm nguyên nhân, nhận thấy vấn đề có thể
bắt nguồn từ thời kỳ đầu thập niên 90, khi đảng cộng sản Việt Nam bắt
đầu hoà hoãn với Trung Quốc, rồi gặp nhau tại hội nghị Thành Đô. Hai bên
thoả thuận như thế nào đó mà cho đến nay, người ta thấy đường lối đối
ngoại của Việt Nam đối với Trung Quốc rất là không rõ ràng.
Giữa lúc những người yêu nước tìm cách biểu tình, hay có biểu lộ lòng
ái quốc dưới hình thức nào đó, thì họ bị đánh đập, bắt bớ, tù đày…Trong
khi rất nhiều cơ quan, ban ngành lại tiếp tục hợp tác “nồng thắm” với
phía phương Bắc. Rồi khi Bắc Kinh có hành động ngang ngược thì Việt Nam
phản đối “một cách chiếu lệ” . Đường lối đối ngoại đó của Việt Nam, theo
học giả Mai Thái Lĩnh, “rất là không rõ ràng; thậm chí có người coi đó
là một sự đầu hàng Trung Quốc”.
Theo dòng thời sự:
- Hoa Kỳ: Hộ chiếu lưỡi bò không có giá trị về pháp lý
- Philippines không đóng dấu những hộ chiếu TQ có hình bản đồ “lưỡi bò”
- Trung Quốc phản ứng về vụ hộ chiếu mới bị chỉ trích
- Trí thức Việt Nam phản đối hộ chiếu in hình "lưỡi bò" của TQ
- Bản đồ trên hộ chiếu: cơ hội cho Việt Nam?
- Tranh chấp biển Đông căng thẳng tại Thượng đỉnh ASEAN
- http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-reac-ch-nw-clai-scs-11302012075935.html
Ông Trọng: 'Kỷ luật sinh ra thù oán' -
Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng hôm thứ Bảy ngày 1/12 đã có giải thích về việc tại sao
xây dựng chỉnh đốn Đảng cho đến nay vẫn chưa kỷ luật được bất
cứ cán bộ nào có vi phạm.
Ông nói rằng việc phê bình và tự phê bình đặt ra theo Nghị quyết trung ương 4 ‘không nhằm để kỷ luật’ cán bộ.Các bài liên quan
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
Đây có thể xem là lời giải thích của ông
Trọng về việc Trung ương Đảng đi đến quyết định không kỷ luật
tại hội nghị toàn thể lần thứ 6 vừa qua.“Kỷ luật mà không tính kỹ thì lại rối, mai kia là ân oán, thù oán, đối phó, thành phe phái, rối nội bộ,” ông Trọng được dẫn lời nói trên tờ Tuổi Trẻ.
Ông Trọng cũng làm rõ trọng tâm của Nghị quyết 4 không phải là kỷ luật như nhiều người mong đợi mà là ‘cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, ngăn chặn’.
“Tôi nhiều lần nói rằng nghị quyết 4 trước hết là cảnh tỉnh, thức tỉnh lại những người lâu nay quên đi rồi, không thấy nguy cơ này, không thấy tại sao Liên Xô sụp đổ,” ông Trọng được Tuổi Trẻ dẫn lời nói.
"Vừa rồi đã răn đe chưa? Khối anh sợ chứ."
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
“Thứ hai là cảnh báo nguy cơ đó. Thứ ba là răn
đe. Thứ tư là ngăn chặn. Vừa rồi đã răn đe chưa? Khối anh sợ chứ,” ông
nói thêm, “ Đến cuối cùng anh không sửa mới là kỷ luật, xử lý.”Theo ông giải thích thì việc phê và tự phê mà không kỷ luật sẽ có tác dụng ‘bền vững, sâu xa hơn’ vì mỗi cán bộ đã ‘tự nghiền ngẫm, tự giác sửa mình’.
Ông giải thích đây là tư tưởng ‘tất cả cùng tiến lên’ và ca ngợi hành động này là ‘cái tính Việt, tư tưởng nhân văn và tư tưởng Hồ Chí Minh’.
Một mặt, ông tổng bí thư nhấn mạnh đến tinh thần khoan dung lẫn nhau trong nội bộ Đảng theo tinh thần ‘nhân văn Việt Nam’, một mặt ông cũng nhắc đến luật pháp khi mà đã kiểm điểm rồi mà ‘không sửa chữa’ thì mới dùng đến luật pháp.
Giảm nhẹ tự phê
Ông được Thông tấn xã dẫn lời nói rằng ‘Nghị quyết trung ương 4 không chỉ có tự phê bình và phê bình, mà còn nhiều việc khác’ và rằng ‘một loạt biện pháp, giải pháp về cơ chế chính sách mới quan trọng’.
Trước đó, phê và tự phê đã được Đảng phát động rầm rộ trên tất cả các cơ sở Đảng trên toàn quốc mà Đảng xem như là một biện pháp cốt tử để vực dậy uy tín.
Ông cũng cố gắng giảm nhẹ sự kỳ vọng quá lớn vào Nghị quyết 4 khi nói rằng đây là một công việc ‘lâu dài’ chứ không nên mong chờ kết quả trong nhiệm kỳ này mặc dù ông cũng nhấn mạnh ‘ý nghĩa rất hệ trọng’, ‘liên quan đến sự sống còn của Đảng’ của công việc chỉnh đốn Đảng.
Trước câu hỏi của cán cán bộ lão thành yêu cầu tổng bí thư chỉ ra ‘một bộ phận không nhỏ suy thoái’ mà ông từng ̣đề cập ở đâu, ông Trọng nói đây là vấn đề ‘không đơn giản’, theo tường thuật của báo mạng VnExpress.
"Chả bao giờ mình thấy khuyết điểm của mình đâu. Đụng đến lợi ích của mình là phản ứng, nhất là lợi ích nhóm khi đã móc ngoặc với nhau thì vô cùng phức tạp."
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
“Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu,” ông giải thích tại sao đấu tranh với cán bộ suy thoái lại khó như thế, “Chả bao giờ mình thấy khuyết điểm của mình đâu. Đụng đến lợi ích của mình là phản ứng, nhất là lợi ích nhóm khi đã móc ngoặc với nhau thì vô cùng phức tạp.”
Cũng theo tường thuật của VnExpress thì ông Trọng đã nhiều lần đề cập đến cụm từ ‘lợi ích nhóm’ đang hoành hành trong Đảng.
“Khổ là bên ấy (Chính phủ) quá nhiều việc, chưa nói là tâm lý ăn cây nào rào cây ấy, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ hay không. Anh nào ra cái đề án cũng phải cố gắng bảo vệ cho mình,” ông nói, giải thích lý do tại sao Đảng tái lập các cơ quan chuyên môn dẫm chân lên công việc của bộ máy chính phủ.
"Sự đời nó không đơn giản thế. Cứ nói cùng là đảng viên cả, cùng là ủy viên trung ương, Bộ Chính trị cả thì phải tin các đồng chí ấy chứ. Không có người thẩm định, không có người kiểm tra nên mới dẫn đến những cái sai như vừa rồi."
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
“Sự đời nó không đơn giản thế. Cứ nói cùng là
đảng viên cả, cùng là ủy viên trung ương, Bộ Chính trị cả thì phải tin
các đồng chí ấy chứ,” ông phân trần tại sao Đảng không tin bên Chính
phủ.“Không có người thẩm định, không có người kiểm tra nên mới dẫn đến những cái sai như vừa rồi,” ông nói và yêu cầu ‘đã sinh ra cơ quan quyền lực thì phải có sự kiểm soát cái quyền lực ấy’ nếu không sẽ sinh ra ‘tự tung tự tác’.
Tổng bí thư Đảng cũng cảnh báo việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm mà Quốc hội mới thông qua có thể cho ra kết quả sai lệch do ‘lợi ích cục bộ, cá nhân, lợi ích nhóm’.
“Có chuyện hứa hẹn cho cái này cái kia, ràng buộc lẫn nhau, có khi lại đe dọa, không hề đơn giản,” ông giải thích việc một số đại biểu có thể bị chi phối vì lợi ích nhóm khi bỏ phiếu tín nhiệm.
27.11.12
Tin tức / Việt Nam
Hai thành phố Quận Cam không hoan nghênh quan chức CSVN
Năm thành viên Hội Ðồng Thành Phố Garden Grove bỏ phiếu cho nghị quyết ngăn CSVN. (Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt)
CỠ CHỮ
02.12.2012
Thành phố Garden Grove thuộc Orange County, tiểu bang California, đã
thông qua nghị quyết buộc các phái đoàn quan chức Cộng sản Việt Nam đến
thành phố phải báo trước 14 ngày. Thành phố Santa Ana của Orange County
cũng muốn có một chính sách tương tự.
Các giới chức của Garden Grove nói rằng lý do thông qua nghị quyết là vì các cuộc viếng thăm này có thể tạo phản đối và gây rủi ro về an toàn.
Nghị quyết của Garden Grove còn cảnh báo các phái đoàn quan chức Việt Nam đến thăm thành phố có thể phải trả các dịch vụ cảnh sát cần thiết nếu họ không tuân thủ chính sách này.
Ông Bruce Broadwater, Thị trưởng của Garden Grove, thành phố có 170.000 người Mỹ gốc Việt, nói rằng thành phố ông nhất định không phải là chỗ để đem các phái đoàn quan chức Việt Nam đến, những người này có thể đến Las Vegas.
Tại Việt Nam, Báo Nhân Dân cho rằng nghị quyết này “đi ngược lại ý chí, nguyện vọng của phần lớn người Mỹ gốc Việt, gây trở ngại cho mối quan hệ đang ngày càng phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Mỹ.”
Nguồn: Los Angeles Times, Nhân Dân
http://www.voatiengviet.com/content/hai-thanh-pho-quan-cam-khong-hoan-nghenh-quan-chuc-cs-vietnam/1556943.html
Các giới chức của Garden Grove nói rằng lý do thông qua nghị quyết là vì các cuộc viếng thăm này có thể tạo phản đối và gây rủi ro về an toàn.
Nghị quyết của Garden Grove còn cảnh báo các phái đoàn quan chức Việt Nam đến thăm thành phố có thể phải trả các dịch vụ cảnh sát cần thiết nếu họ không tuân thủ chính sách này.
Ông Bruce Broadwater, Thị trưởng của Garden Grove, thành phố có 170.000 người Mỹ gốc Việt, nói rằng thành phố ông nhất định không phải là chỗ để đem các phái đoàn quan chức Việt Nam đến, những người này có thể đến Las Vegas.
Tại Việt Nam, Báo Nhân Dân cho rằng nghị quyết này “đi ngược lại ý chí, nguyện vọng của phần lớn người Mỹ gốc Việt, gây trở ngại cho mối quan hệ đang ngày càng phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Mỹ.”
Nguồn: Los Angeles Times, Nhân Dân
http://www.voatiengviet.com/content/hai-thanh-pho-quan-cam-khong-hoan-nghenh-quan-chuc-cs-vietnam/1556943.html
Sunday, December 2, 2012
TS.NGUYỄN NGỌC SẲNG * HỒ CHÍ MINH
Cái Chết Của Hồ Chí Minh:
Ghi chú:
(1) Đường Ulm nơi tọa lạc của trường Cao Đẳng Sư Phạm của Pháp (Ecole Normale Supérieure), một trường thuộc loại danh gía từng đào tạo những cấp lãnh đạo, của Pháp như tổng thống Georges Pompidou, tổng thống Sénégal Léopold Senghor, và nhà văn Thierry Maulnier vv..
Tham Khảo:
Dương Thu Hương (1991) Thiên Đường Mù, Hà Nội, Việt Nam
International Symposium on Ho Chi Minh, Di Chúc của Hồ Chí Minh, Vietnamese National Commission for Unesco, Vietnam Courier, Ha Noi 1990.
Nguyễn Ngọc Phách (2006) 13 Hồ-Sơ Lịch Sử, Người Dân, số 190, trang 4-8.
Tauriac, Michel (2001). Viet Nam: Le Dossier Noir Du Comminisme. Nguyên Văn chuyển ngữ, xuất bản năm 2002 tại California. Văn Mới xuất bản.
Thụy Khuê (2005). Sóng Từ Trường 3, California, Văn Mới xuất bản. --
Một Phỉnh Gạt Kiệt Tác
Sau cuộc tấn công thảm bại năm Mậu Thân 1968, Hồ Chí Minh vô cùng thất vọng và đã qua đời năm 1969.
Ông ta để lại tờ di chúc được các nhà lãnh đạo Hà Nội thêu dệt, thần thánh hóa như là một cha gìa của dân tộc, suốt đời hy sinh cho dân cho nước, suốt đời cần kiệm, liêm chính.
Tới cuối cuộc đời còn dặn lại đảng và nhà nước không được lảng phí tài sản quốc gia cho dù trong đám tang của mình.
Nhưng sự thật ra sao?
Tờ
di chúc được cộng đảng phổ biến cho thấy ông ta từ chối mọi bia mộ và
hình tượng, chỉ muốn được hỏa thiêu và đựng trong 3 chiếc hủ sành và đem
chôn đơn sơ tại ba miền Bắc, Trung và Nam của đất nước.
Trước
khi hắt hơi thở cuối cùng ông còn ráng dùng hết sức còn lại dặn Bộ
Chính Trị là hãy miển thuế cho nông dân sau khi chiến tranh chấm dứt.
Con người yêu nước đến thế là cùng!
Lịch sử thế giới từ cổ chí kim chưa có vị hoàng đế, hay lãnh tụ nào thương dân,
yêu quê hương, đất nuớc họ như ông Hồ Việt Nam mình!
Vào
tháng Giêng năm 2000, tại Hà Nội một vài tin tức từ kẻ xấu am hiểu tình
hình trong cung đình đỏ xì ra thì hai năm trước khi người “điếm gìa” về
gặp cụ Mác, cụ Lê thì đảng cộng sản Việt Nam đã yêu cầu một nhóm chuyên
viên lăng tẫm của Liên Sô sang để chuẩn bị ướp xác cho một xác chết
hiện chưa có.
Để
bảo đảm cho công việc không bị trở ngại trong bất cứ tình huống nào, Hà
Nội đã cử ba y sĩ Việt Nam được chọn lựa kỹ càng, sang Liên Sô để thực
tập công tác nầy.Khi
ông ta qua đời, xác chết được đưa đến một hang sâu cách phía tây Hà Nội
một trăm cây số về phía bờ sông Hác để ướp và giữ nơi đó vì trong lúc
còn đang chiến tranh.
Sở dĩ xác được cất trong hang sâu vì sợ Mỹ dội bom, và được canh giữ bởi một toán đặc nhiệm khoảng ba chục người.
Theo bác sĩ Nguyễn Ngọc Quý, chủ tịch Viện Đông Nam Á Châu ở Paris thì người ta không thể ngây thơ để tin tưởng rằng Hồ Chí Minh còn giữ được sáng suốt cho đến ngày cuối đời, và đã không biết gì về sự chuẩn bị ướp xác mình từ trước.
Theo bác sĩ Nguyễn Ngọc Quý, chủ tịch Viện Đông Nam Á Châu ở Paris thì người ta không thể ngây thơ để tin tưởng rằng Hồ Chí Minh còn giữ được sáng suốt cho đến ngày cuối đời, và đã không biết gì về sự chuẩn bị ướp xác mình từ trước.
“Tôi
nghĩ đây là sự đánh lừa cuối cùng của ông Hồ. Ông được thần thánh hoá
từ lúc còn sống, nên ông ta không muốn được ướp xác nghịch lại ý muốn
mình, mà ông muốn mình giống như Lenine, người mà ông tôn sùng, và giống
như Staline, có một cái lăng lộng lẫy sau khi chết. Chỉ có một điều là
để đóng vai trò gần với nhân dân và là một người khiêm nhường để tiếp
tục lừa dối dân chúng và thế giới, ông để nguời khác (Bộ Chánh Trị) thay
ông để thực hiện ước nguyện nầy.” (Nguyên Văn, trang 161).
Sự dối trá cuối cùng.
Theo
xác nhận y khoa thì ông Hồ chết vào ngày 2 tháng 9 năm 1969, và được
loan báo ngày hôm sau vì không thể cho ông chết vào cái ngày kỷ niệm bản
tuyên ngôn độc lập của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Tương tự như trường hợp Phạm Văn Đồng, họ cho sống thêm một ngày nữa,
vì không thể để ông chết vào ngày mà cả nước ăn mừng chiến thắng 30 tháng 4 lần thứ 25, đúng vào năm 2000.
Sự thật ông Đồng từ trần vào ngày 30 tháng 4 năm 2000.
Còn tư tưởng Hồ Chí Minh là gì mà tất cả học sinh muốn vượt qua ngưởng cửa nhà trường từ trung học đến đại học đều phải thấu triệt.
Còn tư tưởng Hồ Chí Minh là gì mà tất cả học sinh muốn vượt qua ngưởng cửa nhà trường từ trung học đến đại học đều phải thấu triệt.
Thật
ra từ người dạy đến người học đều biết với trình độ lớp ba trường làng
của họ Hồ thì làm gì tạo ra được một nguồn tư tưởng, một triết lý sống
và chiến đấu.
Có
chăng đó chỉ là những mảnh vụn của sự lừa đảo, gian trá mà Hồ áp dụng
suốt cuộc đời mình, rồi bọn xu nịnh gọp lại, tô lên lớp son phấn rẽ tiền
để đặt cho một tên gọi là tư tưởng Hồ.
Ngay cã việc quan trọng nhất của cuộc đời Hồ là chiến đấu mà ông ta không biết được mục tiêu của nó là gì.
Ngay cã việc quan trọng nhất của cuộc đời Hồ là chiến đấu mà ông ta không biết được mục tiêu của nó là gì.
Lúc để lừa dối những người quốc gia ông tuyên bố mục tiêu của ông là vì nền độc lập của dân tộc.
Nhưng rất nhiều lần ông tuyên lại bố:
“Chủ
nghĩa Mác Lê không những chỉ xây dựng một cái túi thần và một kim chỉ
nam, mà còn thực sự là một mặt trời soi sáng con đường đi đến chiến
thắng cuối cùng, đến xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa” (Nguyên Văn, trang 159).
Rành
rành ông đã là tên lính xung kích mang chủ thuyết ngoại lai Mác Lê áp
đặt lên quê hương dân tộc bằng phương tiện bạo lực, bạo tàn nhất trong
lịch sử loài người.
Nói đến sự lừa dối không thể không đề cập đến những kẻ bị lừa, những nạn nhân của sự lừa dối không tiền khoáng hậu đuợc đa số người Việt Nam biết đó là triết gia Trần Đức Thảo, xuất thân từ Đường Ulm (1), là bạn học cũng là bạn thân của triết gia lừng danh Pháp là Jean Paul Sartre.
Nói đến sự lừa dối không thể không đề cập đến những kẻ bị lừa, những nạn nhân của sự lừa dối không tiền khoáng hậu đuợc đa số người Việt Nam biết đó là triết gia Trần Đức Thảo, xuất thân từ Đường Ulm (1), là bạn học cũng là bạn thân của triết gia lừng danh Pháp là Jean Paul Sartre.
Ông Trần Đức Thảo đã từng được Sartre bày tỏ sự khâm phục trong khi tranh luận và đã tạo được hình ảnh tốt cho Việt Nam trong văn giới Pháp.
Hồ cho người sang mời thỉnh ông Thảo về để phục vụ quê hương.
Một số không nhỏ những người Việt thành công ở hải ngoại đều nghĩ đến sự cống hiến khả năng của mình cho đất nước.
Một số không nhỏ những người Việt thành công ở hải ngoại đều nghĩ đến sự cống hiến khả năng của mình cho đất nước.
Ông Thảo là một trí thức không ngoại lệ.
Sau
khi về nước, rất nhanh chóng ông nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông
không ngần ngại trình bày quan điểm mình trong vấn đề văn học, nghệ
thuật và tức thời những chế độ ưu đải của ông đều bị cắt hết.
Ông trở thành tù nhân không song sắt.
Sự đói khổ vằn vặt khiến nhà trí thức khoa bảng nầy bán hết sách vở, bàn ghế, rồi đến những bộ quần áo mà còn có người mua.
Vậy
mà vẫn không được buông tha, ông cuối cùng bị đày vào một miền quê hẻo
lánh mà theo ông Trương Như Tảng viết trong hồi ký, ông Thảo giống như
một người trên cung trăng, một tên khật khùng.
Năm
1993, vì biết ông không còn sống sót được bao lâu, người cộng sản tống
ông sang Paris, nơi mà thời sinh viên ông được ái mộ, khâm phục.
Ông qua đời tại đây trong nghèo đói và vô thừa nhận.
Người cộng sản hủy hoại tài năng trí tuệ của đất nước một cách quá thô bạo.
Người thứ hai là luật gia Nguyễn Mạnh Tường, chủ tịch luật sư đoàn ở Hà Nội và cũng được đào tạo tại Pháp.
Người thứ hai là luật gia Nguyễn Mạnh Tường, chủ tịch luật sư đoàn ở Hà Nội và cũng được đào tạo tại Pháp.
Nghe lời kêu gọi của ông Hồ, ông Tường về để góp phần xây dựng đất nước.
Vào khoảng năm 1956, phấn chấn trước phong Trào Trăm Hoa Đua Nở của
Trung
Quốc, giới văn nghệ sĩ, trí thức Việt Nam cảm thấy luồng gió tự do dân
chủ đã thổi đến. Họ tung ra một số tác phẩm đế cao tự do, dân chủ.
Hà
Nội chờ cho các đoá hoa xuân nầy nở rộ để rối tất cả đều bị tóm gọn và
đưa vào trại tập trung cải tạo, trong đó có vị cha để của bản quốc thiều
Lưu Hữu Phước, và
Nguyễn Mạnh Tường cũng cùng số phận với khoảng năm ngàn văn nghệ sĩ, trí thức vì đã bày tỏ quan điểm phong kiến và tiểu tư sản.
Ba mươi bảy năm sau, 1992, ông vẫn bị bạc đải.
Ba mươi bảy năm sau, 1992, ông vẫn bị bạc đải.
Tất cả nhu cầu sinh sống bị cắt bỏ kể cả trợ cấp y tế lúc đau yếu, ông Tường gởi bản Hồi Ký của mình đến Ủy Ban Việt Nam Tranh Đấu Cho Nhân Quyền ở Paris.
Ông
lên án sự dã man tột cùng của chế độ đối với trí thức vì muốn có tự do
dân chủ, và ông không tỏ ra hối hận vì ông đã làm tròn bổn phận của một
trí thức đối với dân tộc và trước lịch sử.
Ông chết trong sự đói khổ vào năm 1996.
Và
tài sản duy nhất của ông còn để lại, đó là một con gà mái mà ông cùng
vợ và đứa con gái lượm trứng để sống thoi thóp từng ngày.
Đây là một vài việc trong muôn ngàn lấn lừa dối mà người cộng sản đã làm trong suốt thời gian họ giấy loạn cho đến lúc họ hoàn toàn chiếm được miền Nam.
Đây là một vài việc trong muôn ngàn lấn lừa dối mà người cộng sản đã làm trong suốt thời gian họ giấy loạn cho đến lúc họ hoàn toàn chiếm được miền Nam.
Đây là bài học quí gíá cho những ai còn lăm le hòa hợp, hoà giải với cộng sản để hòng kiếm địa vị.
Nhà ái quốc Phan Bội Châu mà còn bị chúng bán cho mật vụ Pháp để lấy tiền thưởng, huống hồ gì quí vị.
Nhà ái quốc Phan Bội Châu mà còn bị chúng bán cho mật vụ Pháp để lấy tiền thưởng, huống hồ gì quí vị.
Hãy liệu lấy hồn đừng mắc vào chiếc bẩy cũ mèm của
cộng sản để rồi hối tiếc suốt đời.
Ts . Nguyễn ngọc Sẳng
Ts . Nguyễn ngọc Sẳng
(1) Đường Ulm nơi tọa lạc của trường Cao Đẳng Sư Phạm của Pháp (Ecole Normale Supérieure), một trường thuộc loại danh gía từng đào tạo những cấp lãnh đạo, của Pháp như tổng thống Georges Pompidou, tổng thống Sénégal Léopold Senghor, và nhà văn Thierry Maulnier vv..
Tham Khảo:
Dương Thu Hương (1991) Thiên Đường Mù, Hà Nội, Việt Nam
International Symposium on Ho Chi Minh, Di Chúc của Hồ Chí Minh, Vietnamese National Commission for Unesco, Vietnam Courier, Ha Noi 1990.
Nguyễn Ngọc Phách (2006) 13 Hồ-Sơ Lịch Sử, Người Dân, số 190, trang 4-8.
Tauriac, Michel (2001). Viet Nam: Le Dossier Noir Du Comminisme. Nguyên Văn chuyển ngữ, xuất bản năm 2002 tại California. Văn Mới xuất bản.
Thụy Khuê (2005). Sóng Từ Trường 3, California, Văn Mới xuất bản. --
Saturday, December 1, 2012
THƠ NGUYỄN KHÔI
(Tặng : Hải Anh)
-------
Em có về
Kinh
Bắc
thả thuyền dòng Tiêu Tương
Ngàn xưa hương Cổ Pháp
Cất cánh Rồng Thăng Long...
Em có về Kinh Bắc
đi võng cáng đòn tre
theo ngựa anh về Phủ
rước Bảng vàng Trạng Nguyên.
Em có về Kinh Bắc
đi trẩy hội giao duyên
đứng trên cầu Quan họ
hát đến hẹn lại lên.
Em có về Kinh Bắc
cùng tắm nước sông Thương
Vang danh trai Yên Thế
Gái Nội Duệ, Cầu Lim.
Em có về Kinh Bắc
lơ thơ nước sông
Cầu
qua bến đò Như nguyệt
tình ta xanh ngàn dâu.
Mai ta đi hội Dâu
Chùa khói hương nghi ngút
Kính viếng Kinh Dương Vương
Lễ dâng thầy Sĩ Nhiếp.
ÔI sông Đuống thân thương
bao phem chôn xác giặc
Trai Đình Bảng vung gươm
thẳng dong lên Ải Bắc...
Ơi quê hương Kinh Bắc
Ngàn đời đẹp như thơ
Em đi xa xứ Bắc
Hội xuân...anh vẫn chờ...
Quê , xuân 2012
Nguyễn Khôi
THƯƠNG VỀ XỨ NẪU
(Tặng : Phạm Ngọc Hiền)
---------
Thương nhớ lắm vọng trông về Xứ Nẫu
"Con mắt Phú Yên" thắc thỏm trong tim (1)
Hồn lộng gió Cù Mông, Đèo Cả
Nghe bước chân thi thút mé Đồi
Thơm.
Chóp Chài đây, chiều nào ai đứng ngóng
Núi Mẹ Bồng Con lặng đợi bên trời
Lên Tháp Nhạn ngắm sông Ba rờn sóng
Cầu Đà Rằng từng nhịp võng lòng
tôi.
Về Xứ Nẫu bừng coi đêm hát hội
Nhớ ai xa ca điệu Bài Chòi
Lòng chằn chặn hằn trên ghềnh Đá Đĩa
Vịnh Xuân Đài vàng tỏa ánh trăng
soi.
Xa Xứ Nẫu để nhớ về Xứ Nẫu
Cứ như mơ ai đó nói thầm thì
Đành bấm "chuột " vào Google tìm kiếm
Chiếc hôn nồng hư ảo ở đầu kia.
------
(1) tên riêng của tỉnh Phú Yên , nơi ngày trước Tản Đà đi qua ...có câu thơ bất hủ :
"Đa tình con mắt Phú Yên"...để cho đến bây giờ Người Đời còn tốn nhiều bút mực tranh cãi mà hình như vẫn chưa có hồi kết ?
Hà Nội 19-5-2012
Nguyễn Khôi
(Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội)
NHỚ VỀ QUÊ CỌ
(Tặng: Phùng Phương Quý)
____________
"Ai đó vừa đi ngang đồi Cọ
Nón trắng còn vương vệt nắng vàng
Áo tím thoảng riêng một mùi nhớ
Để mình lên đồi Cọ lang thang..."
*
Cuối năm nhớ về quê Cọ
Heo may xào xạc vùng đồi
Trung Du ai quên rồi nhỉ
Hay là chỉ một mình tôi ?
*
Sông Thao êm trôi lắng đỏ
Mía thơm vụ "mật" chiều đông
Đàn Bò vào rừng tìm cỏ
Tưới vun ...chị mải
ngoài đồng.
Đầu hồi : cày bừa nằm nghỉ
Lợn chờ tết "vỗ" béo tròn
-Khuya còn bập bùng bếp lửa
Cha ngồi hút thuốc nhớ con.
Thời buổi "Thị trường" bươn trải
Cháu con tứ xứ kiếm ăn
Quê nhà người già khắc khoải
-"giá nghèo xum họp còn hơn ? !"
*
Nhưng thôi,đời thường là thế
Sướng đâu chân đất, nhà gianh ?
-Những mơ Cao tầng, biệt thự
Ô tô hội nhập thị thành...
*
Ừ phải, Văn minh phải thế
-Cưới mừng những mấy "cây" vàng
Con Dâu diện "mi ni Juýp"
Ai người chả thích giầu sang ?!
*
Còn ai về Làng nữa nhỉ ?
Trung du rừng Cọ tan hoang
Một tiếng còi tàu han rỉ
Trăm năm sơn thủy mơ màng.
Phú Thọ - Yên Bái 12-2008
Hà Nội 1-12-2012
NHỚ SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
(Tặng : Tô Ngọc Thạch -Hải Phòng)
----------------
Cái anh chàng Grigôri Mê lê khốp
Yêu Ắcxinhia
thế mà
cả đời mình trăn
trở...?
*
ÔI Sông Đông êm đềm
Tykhi Don
một thuở
phi ngựa
vung
gươm
lao vào chém giết
thỏa chí trai
đi tiêu diệt "kẻ thù giai cấp"
Uống những liều độc dược
Những giáo lý cực đoan
"giết giết"...
70 năm hồi tưởng
Ôi huynh
đệ tương tàn
(nay trở về xuất phát ).
*
Sông Đông êm đềm
Tikhy Don
một thời bão táp
Hỡi M. Sholokhov thiên tài
đã mở mắt
cho những ai
còn nhắm mắt ?!
Hà Nội, 7-11-2012
kỷ niệm 95 Cách mạng tháng mười Nga
Nguyễn Khôi
|
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 239
No comments:
Post a Comment