DUY THANH * GIẤC NGỦ
Giấc ngủ
Duy Thanh
À mày lại còn chối hả? im miệng hả?
Thằng nào nó ngủ với mày thì phải khai ra, cái bụng mày nó chương phềnh ra thế
kia thì còn giấu vào đâu hở con mụ ranh. Mày định làm xấu mặt cả làng này hay
sao? Nói ngay để tao bỏ tù nó. Phép tắc luân lý ở đây đâu có đốn mạt như thế
bao giờ? Mày làm bêu mặt chúng tao. Rồi mai đây bái chí đăng rầm cái tin khốn
nạn này thì thể thống làng này còn ra cái gì hở… hở?
Y
hồng hộc chỉ vào mặt tôi mà mắng như tát nước. Phải, tôi chửa hoang. Con mụ Tư
thọt này chửa hoang đây, đứa nào àm gì thì làm, tôi hét to trong bụng tôi như
vậy. Nếu tôi mà đứng được dậy thì thách y chửi tôi đấy. Tôi sẽ chồm lên mà xé
tan cái mặt y ra, chứ tôi sợ gì cái mặt thịt ngồng ngộng bộ râu cá trê đáng ghét.
Y
quay ra như phân vua với mọi người: Tiên nhân nó chứ, cái mặt nó cứ lầm lì như
thế kia thì làm sao mà khảo được. Cái thá mày thì gọi là cho lên máy chém. Y
lại xổ vào tôi mà thét: Gan, gan hở? ông thời bóp chết như ngoé. Tôi giơ tay
chùi những tia nước bọt phì cả vào mặt. Nơi tay áo vải nâu đã bạc phếch, sờm ra
và có mùi khăn khẳn. Ánh nắng chói làm tôi bật hắt hơi. Tức thì y lùi lại dang
tay tát tôi đánh bốp kèm theo một câu chửi thật bẩn. Mấy mụ đàn bà ở bên ngoài
cười rộ vì thấy tôi hực lên rồi vật đầu vào vách. Nhưng
họ lại im ngay. Một không khí lo ngại trùm trong căn nhà họp của xóm. Trong đám
đông có người nói to:
-
Thôi đi ông Xã, nó đã không khai thì khảo mãi cũng
vô ích, nhất là chị ta cũng đương bụng mang dạ chửa.
Một
giọng khác phản đối:
-
Sao lại không, phải bắt nó khai chứ còn thế
nào. Cứ đánh bỏ mẹ thì thế nào nó
cũng phải nói. Thế mà mấy tháng nay cứ tưởng chị chàng bị báng hay bệnh gì. Ðến
bây giờ nó chềnh ềnh như cái trống mới thấy nhé.
Lão Xã
trưởng được thể quay lại doạ tôi:
- Mày
mà không khai thì còn là khổ, con ạ. Giọng y ngọt hơn: Ờ thì cứ nói xem thằng nào, rồi tao bắt nó
phải lấy mày. Chứ không biết ai thì cứ gọi là tức hộc máu.
Y hoa
tay một vòng rồi nói với đám người xung quanh:
-
Tôi nói thế có phải không các ông các bà?
-
Kể cũng tức thật đấy, nhưng chị ta cứ không chịu
nói là ai thì làm thế nào. Hay là cứ để cho chị ấy đẻ đi đã rồi trông đứa bé nó giống ai thì nó sờ sờ ra chứ
còn gì nữa.
Một
giọng nữa tiếp:
-
Ấy chết không được, sợ cứ trông rồi đoán tầm bậy
thì lại khốn khổ nhiều anh.
Mấy cô
gái làng thấy câu nói lý thú bấm nhau cười cung cúc.
Tôi trông thấy chúng nó mà
ghét tệ. Chúng nó đẹp, chúng nó xinh, chúng nó có chồng con, có nhân tình nhân
ngãi. Còn tôi thì sống lết lê, chẳng ai thèm để ý. Hai chân tôi nó quặt đi nhỏ
bằng cái ống sậy. Tôi đi bằng tay lê la như một con chó. Con chó còn sướng hơn
bởi nó có bốn chân nó chạy. Còn tôi từ xó nhà ra đầu ngõ, rồi từ ngõ vào đến
vườn là hết. Từ xưa chưa hề có ai để ý đến tôi cả, họ nhìn tôi như một con vật.
Với ai tôi cũng phải ngửa đầu nhìn lên. Cho đến bây giờ tôi có chửa họ mới vụt
nhận ra tôi cũng là người như họ. Tôi có chửa. Con mụ Tư thọt có chửa thì còn
trời đất nào. Với ai? Có lẽ họ muốn biết để thoả tính tò mò, tôi còn lạ gì. Lão
Xã trưởng nó hứa hẹn với tôi rằng khai ra thì gả kẻ đó cho tôi, lúc thì y lại bảo khai ra để y bỏ tù người ấy.
Dễ tôi mới đẻ hôm qua chắc. Năm nay tôi ba mươi hai tuổi đầu và chưa hề nằm ngủ
với người đàn ông nào trong đời, trừ một lần cách đây năm tháng. Cái bào thai
trong bụng này là của anh ta. Nhưng đừng có hòng tôi nói ra… Tôi giữ cái kỷ
niệm, cái hình ảnh ấy cho mình tôi. Tôi
cho là đẹp, tôi ôm ấp cái hình ảnh ấy mặc cho họ rủa sả. Tôi chắc anh ta còn
hối hận về phút cuồng dâm bữa ấy. Với tôi thì không. Tôi yêu. Tôi chắc anh ta sẽ tự tử nếu tôi khai tên
anh ta ra. Mà sao tôi lại nói? Tôi thì mong lấy gì ai? Tôi lê đi dưới đất như một con chó. Tôi với cái
bướu trên lưng. Tôi với hình người chẳng ra người. Ai cười thì cười. Ðứa trẻ
nào trông thấy tôi cũng chế nhạo. Lũ người lớn thì coi tôi như không có trên
thế gian này. Mỗi lần nhìn tôi sao họ
có vẻ hợm hĩnh thế. Tôi thù họ. Cho đến ngày nay thì tôi trả được cái thù này.
Tôi có chửa với một người của họ. Một
gã đàn ông. Tôi sướng khoái với cảm giác thấy họ bị dằn vặt đau khổ. Thì ra lần
đầu tôi được chú ý tới. Tôi là cái mốc cho họ bàn tán, ghen ghét. Lần đầu tiên
họ nhận thấy có tôi trên cõi đời.
Mẹ tôi mang một nắm lạt tre để xuống
bên cạnh tôi. Tôi vẫn tiếp tục đan thành hình một cái giỏ.
Thấy người thở dài, tôi chỉ bảo:
-
Bầm khỏi phải lo, chẳng ai làm gì được mẹ con ta
cả. Còn người ấy thì nhất định con không nói ra đâu. Anh ta chẳng có tội gì
hết. Con cũng không, con sẽ đẻ. Và sẽ nuôi đứa trẻ này.
Mẹ tôi
nắm lấy tay tôi, tôi nhìn xuống bàn tay gầy guộc đầy gân xám to bằng con giun.
Bàn tay tôi cũng sần lên như một bàn chân. Chưa ai ở làng này xấu bằng tôi. Thế
mà tôi sắp có con với anh ta, với đứa con giai có vợ sắp cưới là cái Gái ở xóm dưới. Con bé vào loại nhất
nhì trong làng. Tiếng mẹ tôi run run khàn khàn trong cái tĩnh mịch của chiều
xuống. Tiếng lạt tre cọ vào nhau dưới ngón tay tôi đưa đẩy.
-
Buổi chiều ông Xã có bảo với bầm rằng phải về dỗ
ngon dỗ ngọt cho mày nói tên người ấy ra, không thì ông ấy đuổi ra khỏi làng.
Bây giờ bầm già rồi, chỉ muốn yên phận. Vậy tùy mày xử trí thế nào thì xử. Đời
bầm đã khổ nhiều từ ngày lấy bố mày.
Mẹ tôi
không nói hết câu, cái hình ảnh cuối cùng là người bố chìm và tan trong một
tiếng nấc. Buổi chiều lạnh và mênh mông như một cánh rừng: chơ vơ, lạc hướng.
Tôi hình dung lại hình dáng người cha từ thuở nào xa lắm, cái hơi nồng của men
rượu, những câu rủa tục tằn lúc nào cũng đeo trên đôi môi dày thâm sịt. Tôi
biết mẹ tôi khổ nhiều, kể cả vì tôi. Không hiểu sao những kiếp người như chúng
tôi lại cứ có trên cuộc đời. Đã thế lại còn bám vào cái sống không chịu buông.
Ngày bố tôi chết vì say rượu trượt chân ngã xuống ao thì cả làng như bớt một gánh nặng. Chính tôi
cũng không cảm thấy thương tiếc. Chúng tôi vẫn sống cái kiếp sống của con người
vật, dài và buồn nản.
Tôi sờ
tay lên gò má còn hằn ngón tay của lão xã, chưa bao giờ tôi thù y đến như thế.
Y lại còn muốn làm khổ mẹ tôi. Với tôi như thế chưa đủ hay sao? Đã thế tôi sẽ
làm cho y điên đảo. Tôi sẽ khai quách cho cháu y rồi muốn ra sao thì ra. Tôi nhớ lại cái gã đàn ông nặng nề và
chậm chạp thỉnh thoảng qua ngõ nhà tôi. Đã có lần tôi ước ao ngủ với hắn và
được hít cái mùi hoi hoi của chính người hắn đang vương trong không khí.
Cúi đầu
xuống, tôi lại nghĩ đến cái thằng người con ngoi ngóp trong ấy. Nó đương ngọ
nguậy, nhè nhẹ nhè nhẹ, nhưng nhiều khi nó cũng làm tôi đau nghiến. Tôi kéo bàn
tay mẹ tôi để lên bụng:
-
Bầm sắp có cháu bế.
Mẹ tôi
yên lặng một lúc rồi bỗng nhiên nói:
-
Mày đã định đặt tên nó là gì chưa.
-
Chưa, bầm
ạ.
Ba
chúng tôi cùng ngồi yên, cùng nghĩ tới nhau, chưa bao giờ tôi thấy yêu mẹ tôi,
yêu con tôi và yêu anh ta đến thế. tại sao tôi không đối phó để giữ những gì
tôi ấp ủ?
-
Bầm ạ, tôi thấy nóng mặt vì sắp nói dối mẹ tôi.
Anh Ba đấy.
-
Ba nào? Tiếng mẹ tôi lo âu.
-
Ba, cháu ông Xã ấy mà.
Mẹ
tôi chậm rãi đứng dậy chép miệng thở dài. Tôi biết người lo ngại viên xã
trưởng. Tôi thì chẳng sợ gì. Y là một thứ vũ phu, y khảo tôi vì tò mò mà cũng
để sĩ diện với làng xóm là mình có uy quyền. Đời nào y dám đuổi mẹ con tôi ra
khỏi làng này.
-
Thôi tao đi nằm đã, rồi cũng liệu mà đóng cửa
Tư ạ, xẩm tối rồi.
Mẹ
tôi quờ quạng tìm chiếc đèn dầu mắc ở xó nhà, châm lửa. Ánh đỏ chập chờn hoa
lên trong chạng vạng của bóng tối vừa xuống. Tôi nói:
-
Để con cố đan nốt chiếc giỏ này đã bầm ạ, gần
xong rồi.
-
Liệu mà nghỉ sớm cho khoẻ.
Mảnh
trăng thượng tuần nhô lên sau đám mây dầy, lạnh lùng, đơn độc.
Tôi
nhớ lại cái đêm tôi gặp anh ta, trăng cũng như thế này nhưng vào khuya hơn chút
nữa. Lần đầu tôi biết một người đàn ông. Từ đó đêm nào tôi cũng nghĩ đến anh
ta, cái hình ảnh ấy đến với tôi như một ám ảnh vĩnh viễn. Tôi mê cái ám ảnh đó
mỗi buổi chiều tắt đi.
-
Đừn,g anh, đừng ở đây.
Tiếng người con gái van vỉ. Giọng người đàn ông như lạc đi:
-
Không, để yên nào.
-
Nhưng anh vừa uống rượu với lại…
Câu nói bị đứt quãng bởi một bàn tay giật mạnh. Người con gái kêu lên
một tiếng nhỏ rồi giằng ra. Tiếng xoạt của vải rách kèm theo một tiếng rủa
ngắn. Tiếng chân chạy xa và gã đàn ông rên lên. Hắn loạng choạng bíu vào cành tre lả gần mặt. Tôi nghe thấy
tiếng thở hừng hực. Lúc hắn đi quành ra đằng sau cậy rơm để ngồi xuống thì hắn
há miệng vì ngạc nhiên. Một hình thù ngồi đấy tự bao giờ. Đó là tôi, một con
vật giống cái. Thỉnh thoảng tôi vẫn bò ra ngồi chỗ này hóng mát, vì nó ở ngay
phía sau nhà tôi, cạnh con đường ven làng. Lần này tôi đã thiu thiu chợp được
một giấc khá dài. Trăng lấp sau bụi tre và bóng người đàn ông chỉ còn là một
khối đen lớn trên nền sẩm của lá.
Anh ta chập choạng đi đến phía tôi rồi qùy thụp xuống nhìn vào tận mặt.
Hơi rượu cay cay làm tôi muốn bật ho.
Một con muỗi bay bên lỗ tai vo vo, anh ta giơ tay đập cái đét rồi ôm
choàng lấy tôi.
Tôi không kêu nhưng cố đẩy anh
ta ra kịch liệt. Mà tại sao tôi lại chống cự cơ chứ? Tôi thường mơ ước được
ngửi hơi thở một người đàn ông và lần này tôi đã được. Anh ta ở ngay trên tôi.
Anh ta với những bắp thịt rắn đanh. Tay tôi ghì lấy lưng áo sâm sấp mồ hôi hay
vì sương xuống tôi không biết. Ánh trăng rất mờ, đám mây xám đảo trên trời như
bão hay bão ở lòng tôi, tôi cũng không hay.
Rồi anh ta buông tôi và bỏ đi giữa lúc tôi nằm yên trên cỏ. Mùi rơm hăng
và thơm như lúa mới, nhưng không làm tôi quên cái mùi người anh ta, và tiếng
chân bỏ xa trên đất cũng không làm tôi trở mình. Tôi nằm đấy suốt đêm với con
trăng ướt lạnh, với những vòng hào quang thần thánh quay cuồng không gian.
Quả nhiên sự báo
thù của tôi lại công hiệu. Viên xã trưởng thấy mẹ tôi nói là cháu hắn ta thì
tái người. Y cũng không dám đánh tôi vì
có người nói tôi mà trụy thai thì y
không khéo mất chức mà lại khốn khổ. Mẹ tôi chỉ luôn miệng van xin. Người này,
người nọ mỗi người hỏi một câu, chêm vào một chuyện. Lúc tôi trông thấy cái mặt
tái xám của anh Ba thì lại không cầm lòng thương. Tôi bèn đổ đại cho một chàng
khác.Rồi lại một tên nữa bay ra, khiến cả làng hoang mang. Họ càng tra hỏi thì
lại càng lúng túng bởi những câu trả lời của tôi. Tôi dám chắc rằng cả đời chưa
bao giờ tôi lại nguy hiểm đến như thế. Tôi không còn là một con chó thường nữa
mà là một con chó dại khiến mọi người sợ điên lên. Tôi thú vị vì trả thù được
những đứa con gái hợm hĩnh có tình nhân hoặc chồng bị ghép ngủ với tôi. Bao
nhiêu chàng ê chề, nhục nhã và ngượng đến phát sốt rét vì bị mang cái tiếng tăm
đó. Thế ra tôi đã ngủ hết với họ theo tưởng tượng của mọi người. Tôi trở thành
một thần tượng cho mọi người sợ và ghét.
Chỉ vì mày đấy con ạ, ôi cái hòn máu bé nhỏ là con của mẹ. Mẹ ước ao
rắng sinh ra con hoàn toàn là một người chứ không phải là con vật nữa. Mẹ mang
con trong bụng mẹ và lê con trên mặt đất. Mỗi một thước dài là mẹ lại cảm thấy
sự có mặt của con và nỗi yêu đương của mẹ.
Tôi
thấy nó cười trong tôi, tê tái như sau đêm anh ta đến, và tự nhiên tôi thấy yêu cả cuộc đời. Lão xã trưởng
với bộ râu trê ngồng ngộng không còn đáng ghét nữa, y có thể tát tôi dăm bảy
cái liền. Tôi cũng không còn ghét những đứa con giai, con gái làng lầm lì nhìn
tôi một cách hằn học. Bởi vì tôi đã báo được thù, tôi đã cho họ nhận thấy
là tôi ngang hàng với họ, những kẻ có
hai cẳng đứng hẳn hòi. Ý tưởng đó làm tôi suýt bật cười thành tiếng. Một người
đàn bà sấn đến cạnh tôi vừa chửi vừa định đánh. May mà có một người khác giữ
lại:
-
Tiên sư nó chứ, chồng bà đâu có ngủ lang với
cái thứ mày hởi con giời đánh kia. Bà chỉ cho mấy thanh củi là mày chết bỏ đời.
-
Thôi thì bác chấp làm gì. Chị ta giở hơi đấy
mà. Đánh chửi lắm nó lại càng khai tầm bậy. Với lại cái mã ấy cũng chẳng sống
được đâu. Người như thế làm sao mà đẻ với đái được.
Câu
nói đâm vào phổi tôi buốt như một cây kim nhọn.
Tôi
nghĩ đến thằng người con trong bụng. Không!
Nó còn sống, nó đang sống, nó phải sống. Nó đang ngọ nguậy trong tôi,
làm sao nó lại chết được. Tôi bằng lòng chết cho nó sống. Tôi bằng lòng chết mà
không cần oán hờn gì ai hết, kể cả anh ta. Mà tôi phải biết ơn mới đúng chứ.
Anh ta đã cho tôi dư vị của sự sống. Sự sống tràn trề bùng lên như lửa.
-
Không, tôi không chết, các người đi đi. Tôi hét
lên, và mọi người lầm lũi tản ra.Họ vẫn sợ tôi như một con chó dại.
Thế
rồi câu chuyện cũng hơi nguôi mặc dầu bụng tôi ngày mỗi lớn. Tôi không lê được
nữa. Tôi ở nhà.
Mẹ tôi cũng lo ngại bảo với tôi:
-
Bầm
hỏi bà mụ ở làng thì bà ấy bảo phải đem mày ra tỉnh mới đủ thuốc. Người lại
chép miệng: Thì người ta cũng sợ không làm nổi, nhỡ có sao lại khốn cả hai mẹ
con.
Tôi phải đi vì tôi muốn con
tôi sống, nó sống để làm người. Mà tôi còn tiếc gì cái làng này khi người ta
nhìn đến tôi như một con người vật.
Chúng tôi thu xếp lên tỉnh.
Lần đi này, tôi có cảm giác
sẽ không bao giờ trở về nữa. Giã từ tất cả, căn nhà, bụi tre, đống rạ sau nhà.
Tôi chỉ mang đi toàn hình ảnh. Những hình ảnh se thắt lại trong những cơn đau dữ dội từng hồi.
Vị bác sĩ khám cho tôi xong
quay lại bảo nhỏ với cô nữ y tá tay cầm bút ghi chép. Mẹ tôi thì lo âu nhìn hai
người.
-
Sản
phụ phải ở đây tĩnh dưỡng cho đến ngày sinh nở. Vị bác sĩ nói. Trường hợp này
phải mổ để lấy đứa bé ra mới hy vọng cứu cả hai mẹ con. Nhưng tình trạng của
sản phụ nguy hơn. Dù sao chúng tôi cũng cố gắng.
Không, nó sẽ sống,
tôi kêu thầm như vậy. Tôi bằng lòng hy sinh để nó sống.
Nằm trên giường sắt trắng,
tôi như chói mắt vì sắc trắng của trần nhà và buồn nôn vì cái không khí của nhà
thương. Những sản phụ khác cũng nhìn tôi bằng con mắt tọc mạch. Chắc họ cũng tự
hỏi làm sao một người như tôi lại có chửa như họ được. Và loáng thoáng tôi cũng nghe thấy những
tiếng xấm xì từ giường này qua giường khác. Nhưng tôi thì cần gì nghĩ đến họ.
Tôi nghĩ đến đứa con tôi, đến cái đêm mà trời như đổ xuống. Da tôi tê đi, ràn
rạn như có sự cọ sát của những sợi râu thưa đâm vào má. Mẹ tôi nói:
-
Tao
lo cho mày, Tư ạ… nhỡ làm sao.
Tôi ngắt lời khe khẽ:
-
Bầm
khỏi lo, rồi bầm có cháu bế mà. Còn con thì…
Tôi
cũng không nói hết câu nhưng mẹ tôi cũng thừa hiểu.
- Có
gì bầm nuôi nó. Giọng nói của tôi nghẹn trong cuống họng, chúng tôi im lặng mỗi
người một ý nghĩ. Đêm ấy tôi mơ thấy tôi đi về làng như một người thường. Bằng hai chân. Ai nấy đều
chào hỏi tôi như chính tôi cảm thấy từ trước mình vẫn là người thường. Đến nhà
thì có một thằng nhỏ ra đón với mẹ tôi. Trông tôi thằng bé chỉ cười. Mẹ tôi dắt
nó đến và bảo: Sao không chào mẹ mày đi. Tôi giơ tay bế nó hôn, rồi hai mẹ con
dong chơi trong vườn. Giữa lúc đang đùa với con và đang sống tràn trề hạnh phúc
thì tôi hãi hùng chợt thấy cảnh vật như lớn lên và tôi nhỏ dần, nhỏ dần lại. Một cảm giác ớn lạnh suốt sống lưng
và tôi chợt thức dậy. Bấy giờ còn là đêm. Đầu phòng một ngọn đèn còn le lói và
qua khung kính nhỏ trời sao lấp lánh. Căn phòng lặng lẽ như một chiếc quan tài.
Tôi đặt tay lên bụng mỉm cười nghĩ đến nó rồi lại ngủ thiếp đi.
Tôi đặt tay lên bụng mỉm cười nghĩ đến nó rồi lại ngủ thiếp đi.
***
THANH TÂM TUYỀN *NGHỆ THUẬT ĐEN
Thanh Tâm Tuyền
Nghệ thuật đen
Gọi
nghệ thuật đen là thứ nghệ thuật bi đát phẫn nộ, thứ nghệ thuật dục
tình suồng sã, thứ nghệ thuật vô luân trắng trợn. Thứ nghệ thuật bị các
nhà đạo đức lên án, bị con người văn minh chối nhận, bị những người
Mác-xít dè bỉu – những hạng người rất nghịch nhau lại gặp nhau ở điểm
này.
Gọi nghệ thuật đen là nghệ thuật bị hắt hủi, một nghệ thuật “mọi” của những tên “mọi” trong xã hội. Nhưng này, tất cả những nhà đạo đức, những người văn minh, những người Mác-xít, hãy nhận lấy một sự thực: “mọi” cũng là người và nghệ thuật của “mọi” cũng là nghệ thuật của người. Và bọn “mọi” ấy cũng muốn được phát biểu ý kiến như các ngài vậy.
Tại sao lại có nghệ thuật đen?
Các nhà đạo đức: Tình trạng suy đồi của tinh thần con người mất đức tin nơi Thượng Đế, mất hết ý niệm Thiện Ác, hoang mang lạc lõng không tìm được ánh sáng chân lý trong cơn khủng hoảng tột độ của một xã hội vật chất. Người văn minh: Phản ứng ngu muội thoái hoá của bọn người lạc hậu không thích ứng được với cuộc tiến triển của xã hội nhân loại, một khuynh hướng phản động luyến tiếc một thứ tự do ấu trĩ phát động bởi bản năng (gọi người văn minh là người tin tưởng chắc chắn vào lẽ tiến hoá của xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn trong mọi địa hạt: những nhà xã hội học, triết gia, khoa học, cách mạng chuyên nghiệp v.v… và họ là những người trông thấy tường tận, nắm giữ phần nào cái động lực tiến hoá của xã hội). Những người Mác-xít: Sản phẩm của xã hội tư sản trụy lạc, dấu hiệu giờ phút lâm chung của xã hội ấy, “ngày mai đang ca hát” dưới ngòi bút của những người góp công với lao động xây dựng xã hội chủ nghĩa, còn bọn này – bọn làm nghệ thuật đen – là bọn người “đào huyệt” chôn mình và chôn luôn cái xã hội thối nát của chúng. Tóm lại mọi người đồng ý nghệ thuật đen là phản động, phản tiến hoá, phản nhân loại. Trong sự phân tích tìm hiểu lý do phát sinh nghệ thuật đen, ba hạng người đại diện kể trên chỉ nhìn thấy vấn đề trên bình diện xã hội. Đành rằng nghệ thuật nào cũng chỉ là biểu thức của một xã hội, nhưng nó lại được phát biểu bởi những cá nhân. Bởi thế trên lộ trình dẫn từ xã hội vào cá nhân, không nói đó là một con đường quanh co khúc khuỷu khó dò tìm, thực tế xã hội đã bị chuyển hoá, biến dạng, hơn nữa với sự chủ động của cá nhân (lại không nói đến những nội quy của thế giới nghệ thuật) phản ảnh của xã hội có thể bị mờ nhạt hoặc biệt tích mở ra những chân trời mới trong tác phẩm. Lối giải thích văn chương nghệ thuật bằng xã hội chỉ giữ người ta đứng ở bên ngoài mà la lối hò hét với những thiên kiến và chỉ nạt nộ được những kẻ yếu bóng vía hay vô thức. Ba quan điểm kể trên giải thích và phê phán nghệ thuật đen là ba cấp độ rời xa dần trong sự tìm hiểu nghệ thuật. Nếu chịu đặt câu hỏi như thế này: Tại sao trong một tình trạng xã hội như thế lại sản sinh ra thứ nghệ thuật ấy? Sẽ thấy được điều trình bày như tất yếu, như luật nhân quả rơi vỡ và có một khoảng trống của vực sâu thăm thẳm mà lý luận của người ta đã nhảy vọt lấp liếm. Nghệ thuật bắt nguồn nơi đời sống biểu diễn của đời sống – hãy mở rộng hai chữ đời sống theo nghĩa thông dụng, đời sống cụ thể, hằng ngày, phức tạp, đừng giản lược vào trong sự vận động của xã hội, hay nghèo nàn hơn nữa trong sự vận động của kinh tế – đồng thời cũng là sự biểu thị của một tự do của một con người giữa đời sống trước xã hội. Muốn hiểu được nghệ thuật, khoan dán nhãn hiệu xã hội cho nó: đó là việc sau của lịch sử (trường hợp của cộng sản thường làm bởi họ có quan niệm lịch sử biện chứng, một quan niệm lịch sử đường thẳng, nên họ dám tin lịch sử ở trong tay họ nhào nặn) bởi cái ý nghĩa xã hội của nghệ thuật cũng chính là ý nghĩa lịch sử của nó; phải bắt đầu tìm hiểu ý nghĩa phát sinh của nghệ thuật, cái ý nghĩa trong tự thân nó, rồi nếu vẫn còn muốn hiểu cái ý nghĩa xã hội của nó thì từ đó suy ra mới may tránh được những sai lầm tai hại vì thiên kiến vu vơ không liên lạc chút nào tới nghệ thuật.
*
Nghệ thuật trước hết là một lối nhận thức đời sống. Nhận thức nào cũng bắt đầu bằng sự chia lìa cần thiết giữa một ý thức và đối tượng của nó. Cấp độ của sự nhận thức cao thấp là tùy theo sự chia lìa ấy sâu xa hay hời hợt. Hằng ngày người ta sinh sống trong một thế giới nhân loại được xếp đặt quy định trong một trật tự được tự nhiên hoá không nghi ngờ không dò hỏi, người ta sống yên ổn thoải mái với những thói quen, tiếp nhận hạnh phúc cũng như sự phiền muộn như những trái cây ngon ngọt hay đắng chát của Tạo Hoá ban cho, nhưng rồi một cơ hội nào đó trật tự kia bị xô lệch bởi những người khác, người ta có thể ngạc nhiên rồi quên đi khi trật tự vãn hồi, người ta có thể hoảng kinh vì không quên được trước cái trật tự giả tạo. Người ta cảm thấy từ đấy sự chia lìa giữa mình với đời sống xung quanh, giữa mình với mình, người ta tự hỏi, người ta cố gắng tìm cách trả lời, người ta hoài nghi. Như một cơn địa chấn – nói theo Nietzsche – con người lúc bấy giờ thấy mặt đất điên đảo dưới chân mình, một mình mình gánh nặng cả đời sống trên hai vai, nỗi hoảng kinh thất thần của chàng Roquentin trong tác phẩm của Sartre lan tràn ra bên ngoài như thế đó, chàng nhìn lọ mực để trên bàn, nhìn bàn tay của mình, cái mặt cái miệng của kẻ khác, cái rễ cây nơi công viên, những sinh vật hết sức tự nhiên đối với mọi người trở nên hãi hùng đối với chàng. Nghệ thuật đen bắt đầu bằng một ý thức chia lìa ghê gớm đó. Chia lìa ghê gớm thế nghĩa là gì? Đó là một bệnh trạng của trí thức thời nay chăng? Không. Đó là khởi nguyên của ý thức là mầm mống của thay đổi, của sáng tạo. Sự chia lìa ghê gớm kia là điều kiện cho một nhận thức sâu xa hơn về đời sống, rũ bỏ những huyễn ảnh của kẻ bấy lâu ngồi trong hốc đá chỉ nhìn những bóng chiếu in trên vách mà tưởng là sự thật. Triết lý luôn luôn là một sự khởi đầu, kẻ tới sau muốn lật đổ áp lực người thuở trước. Nghệ thuật đối với các tác giả lớn cũng là một sự khởi đầu. Nghệ thuật gần gũi với triết lý ở điểm này. Bởi thế không lấy làm lạ thứ nghệ thuật tầm thường là thứ nghệ thuật không có một nhận thức về đời sống, hay nhận thức đời sống theo những giản đồ được quy định từ trước. Khi Dostoievsky nói người ta chỉ sáng tạo được trong đau khổ, hãy hiểu nỗi đau khổ ấy là sự chia xé tan hoang của một ý thức tận trong phần sâu hút của nó bơ vơ trơ trọi ngoài đời sống muốn trở về gia nhập nhưng không thỏa mãn với trật tự hiện hữu và chưa nhìn thấy cái trật tự tìm kiếm. Sự khác biệt giữa lối nhận thức nghệ thuật và lối nhận thức triết lý là: lối nhận thức thứ nhất thiên về cụ tượng, cố gắng thâu tóm lấy sự toàn thể của thực tế lúc xuất hiện trong một ý thức khởi nguyên thông suốt – một thứ trực giác, theo ngôn ngữ thông thường -; lối nhận thức thứ hai thiên về quan niệm, cố gắng vượt từ những kinh nghiệm riêng tư đạt tới những ý tưởng chân xác phổ biến nhờ sự can thiệp của lý tính trong ý thức bằng sự sử dụng luận lý. Lối nhận thức của nghệ thuật, so với lối nhận thức triết lý, tất nhiên là mơ hồ hẹp hòi, nhưng lại giữ được tính cách cụ thể mạnh mẽ xúc động, tránh xa sự trừu tượng, cuộc phiêu lưu tách rời khỏi thực tế của một ý thức mãi đuổi theo sự tuyệt đối mà ra khỏi thế giới nhân loại lúc nào không biết. Nhận thức triết lý về đời sống ở một triết gia bao giờ cũng đến sau một nhận thức theo lối nghệ thuật đen ở nơi người ấy, nghĩa là một sự đột khởi xé toang ý thức dìm nó vào một cơn khủng hoảng đảo điên trong một thời khắc đặc biệt nào mà một kinh nghiệm rất nhỏ bé đơn giản hiện lên tóm thâu cả ý nghĩa của một đời một cách chập chờn kỳ lạ, trong bóng tối đến đặc của giao động đã rực rỡ ánh sáng; nhận thức triết lý sau này tới để phân giải để khơi sáng cái nhận thức khởi đầu ấy. Như thế sẽ không ngạc nhiên khi thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của Lão Trang trong nguồn cảm hứng của thi ca xưa – bởi lối nhận thức của hai triết gia này rất gần với lối nhận thức của Sartre là người có “khiếu thực tế” (sens du réel) bởi bên cạnh những tác phẩm triết học công trình xây dựng thuần trí thức, ông thường quay về với lối nhận thức khởi đầu bằng những tác phẩm văn chương. Vậy nghệ thuật là một lối nhận thức đời sống riêng, có nguồn giống triết lý, những nghệ thuật lớn từ ngàn xưa vẫn phảng phất cái không khí siêu hình là thế. Nhưng từ đây có thể nhìn rõ sự phân ly giữa nghệ thuật đen và nghệ thuật xưa. Bởi nghệ thuật gần gũi với triết lý, chỉ cần một bước cố gắng của ý thức là có hy vọng tới (nhưng là một bước tự sát của nghệ thuật) nên nghệ thuật xưa có khuynh hướng muốn đồng hoá với triết lý. Phải đặt sang bên hội họa và âm nhạc, những nghệ thuật mà sự đồng hoá với triết lý là điều không thể quan niệm nổi, những người trong hai ngành này có thể có ý thức siêu hình nhưng sự thể hiện qua những chất liệu đặc thù là màu sắc cùng âm thanh đã giới hạn rõ ràng phạm vi của họ; chỉ còn văn chương vì cùng sử dụng ngôn ngữ nên sự tràn lấn giữa hai phạm vi thật dễ dàng. Nhưng ngay trong lĩnh vực văn chương, cái tham vọng của nhà văn muốn đồng hoá văn chương với triết lý bao giờ cũng dẫn tới sự thất bại trên bình diện nghệ thuật – không kể đến thứ vach đồng hoá với luân lý hay với chính trị là thứ phản-văn-chương, bởi nó chẳng mang tới một nhận thức nào về đời sống, nó chỉ minh họa cho một nhận thức đã được quy định giản lược từ trước. Người ta đã chẳng thường trách tư tưởng triết lý của Nguyễn Gia Thiều, của Nguyễn Du là thứ chắp nhặt vá víu gượng ép đó hay sao? Nếu có tìm được ý nghĩa gì về đời sống này qua tác phẩm của những tác giả ấy là ở chỗ khác ngoài ý muốn của tác giả – đây là điểm quan hệ của văn chương của nghệ thuật –: chính là ở chỗ biểu diễn đời sống bằng nghệ thuật, một nhận thức nghệ thuật về đời sống. Giải thích được sự thất bại này là xác định được phạm vi của nghệ thuật, vai trò của người làm nghệ thuật trong đời sống. Chẳng nên để tâm tới sự phê bình vội vã thô tục, bắt nguồn từ một mặc cảm tự tôn nơi các triết gia, là triết lý vốn là phần trí thức cao cả mà bọn nghệ sĩ tầm thường chưa bao giờ đạt tới được, nếu có cố gắng vươn lên may thành mô đất bên những đỉnh non chót vót. Mỗi ngành hoạt động tinh thần của con người đều dựa trên một năng khiếu riêng, phải biết tự đặt mình vào trong phạm vi chuyên môn để nhận định rõ vai trò, trách nhiệm của ngành hoạt động mình trong xã hội loài người. Nếu một người có thể hoạt động cùng một lúc trong nhiều ngành khác nhau, người ấy khi làm phải vạch những biên giới cho từng địa hạt để khỏi xâm lấn sang nhau. Văn chương gần gũi với triết lý, liên hệ với triết lý nhưng chẳng thể đồng hoá với triết lý. Trước hết người viết văn là người ràng buộc mật thiết với đời sống, một đời sống cụ thể hằng ngày đụng chạm quanh người hắn ngay khi hắn nhìn vào sự vật để tìm lấy cái bản thể hay đạt tới sự vĩnh viễn, cái khuynh hướng của hắn vẫn là phải chụp lấy trong những tình thế nhất định bằng những kinh nghiệm độc nhất; không giống như các triết gia, đối tượng chỉ là khởi điểm không quan trọng, họ tước bỏ tất cả những tính cách vô thường (nghĩa là cụ thể) để đạt cho được yếu tính của sự vật, nghĩa là đặt đời sống vào trong ngoặc, để dễ dàng theo đuổi những ý niệm tuyệt đối vượt ngoài thời gian và không gian. Cái ý nghĩa vĩnh cửu của đời sống trong văn chương, nếu đạt tới, vẫn bị giữ rịt giữa một hiện tại rõ ràng hiển hiện, gọi nó là một hiện tại bất diệt vậy, không bao giờ nó là một thứ tuyệt đối khách quan như cái ý niệm của Platon, của Hegel, hay – Thượng Đế (hoặc sự Siêu hoá) của các nhà hiện sinh Công giáo như Kierkegaard, Jaspers, hay Tự Do (viết hoa) của Sartre. Sau đó, vì sự tự vẫn trong triết lý – danh từ của Camus – mà nghệ thuật chẳng thể đồng hoá với triết lý. Sự như thế nào hãi hùng đầu tiên nói ở trên, nguồn gốc sáng tạo của nghệ thuật cũng như triết lý, đối với triết gia bao giờ cũng phải chấm dứt, phải tìm sự thăng bằng sáng suốt cho ý thức dẫn họ tới sự giải thích tất cả bằng một hệ thống hay một câu trả lời (những triết gia phi hệ thống). Khi một hệ thống hoàn thành, một câu trả lời được thốt ra là triết gia bị giam luôn trong ấy, hắn chẳng những chỉ đóng cửa với quá khứ mà còn luôn cả với tương lai nữa, cùng với hệ thống hắn bay ra ngoài đời sống ngự ở trên các thư viện đại học uy nghi. Một là hắn tin tưởng một cách hồn nhiên ngây thơ như Hegel là lịch sử đời sống nhân loại sẽ tuần tự thực hiện theo cái quá trình biện chứng của ý niệm tuyệt đối đã tìm thấy chẳng còn điều gì đáng để nói thêm nữa, một là hắn phải nhận như Marx là triết gia cần phải biến cải thế giới nghĩa là dựng xong hệ thống hắn sẽ xuống đường dùng võ lực bạo động cưỡng ép mọi người sống theo hệ thống của hắn. Cả hai thái độ ấy chẳng phải là thái độ của nghệ thuật. Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một sự khởi đầu, một ý thức siêu hình (chữ siêu hình hiểu theo nghĩa thời nay không phải thuộc những địa hạt cao xa tách lìa với đời sống như trong triết học cổ điển, tính cách siêu hình có thể tìm thấy trong mọi hình thái sinh hoạt của con người hằng ngày) trong một khoảnh khắc nhất định, là sự dò hỏi của một tự do đối đầu với cảnh ngộ, chẳng bao giờ ý thức ấy muốn trói mình vào một hệ thống hay một câu trả lời dứt khoát. Người làm nghệ thuật chấp nhận cái thế chông chênh hãi hùng của ý thức sáng tạo không rút mình vào trong sự tự vẫn triết lý, bởi khi tiến tới một hệ thống hay một câu trả lời dứt khoát người ta đã nhắm mắt nhảy vọt qua cái vực mâu thuẫn hun hút trước mặt, quay lưng lại với những câu hỏi thúc bách lúc đầu vẫn còn theo đuổi, chặt đứt liên lạc với thực tế để đặt chân tới mảnh đất của tuyệt đối. Mà tuyệt đối là một ý niệm rỗng tuếch một ảo ảnh lừa dối, nó cho phép người ta giải thích được tất cả và vẫn chẳng giải thích được điều gì ráo. Nghệ thuật đen chính là cái ý thức siêu hình trước những cảnh ngộ trong đời sống hôm nay, là biểu thị sự tự do của những con người bằng xương thịt trong những tình thế có thực của kiếp người, là lời kêu gọi cất lên cùng mọi người trong cuộc hành trình lịch sử phải sống. Bởi đó nó bi đát phẫn nộ, nó suồng sã dục tình, nó vô luân trắng trợn. Tại sao vậy? Đã có một thời nghệ thuật chỉ là ý thức thưởng ngoạn trước đời sống. Người làm nghệ thuật tách mình ra khỏi đời sống để nhìn ngắm nó một cách khách quan tìm lấy cái lý tuyệt đối vượt ngoài tính cách vô thường của vạn vật. Nghệ thuật này thường tìm về gần với tạo vật thiên nhiên vì ở đấy người ta tìm được một trật tự tự nhiên, dẹp được nỗi bàng hoàng của ý thức, thả cho ý thức được thảnh thơi ghi nhận lấy những vẽ Đẹp kín đáo vẫn có sẵn ở quanh mình. Nếu trước thiên nhiên tạo vật nỗi kinh hoàng của ý thức vẫn trỗi dậy, bước thêm bước nữa nghệ thuật này tìm tới tôn giáo, ở đấy những lý lẽ tuyệt đối tạo trong một trật tự đời đời không còn phải hoài nghi nữa. Tóm lại, nghệ thuật thoát từ đời sống cụ thể ra ngoài tự nhiên rồi bay bổng lên trời. Từ cái ngôi cao vút nhìn xuống đời sống – bởi nghệ thuật này vẫn không quên nổi đời sống – nghệ thuật làm hiển hiện cái lý tuyệt đối, tinh lý của đời sống chỉ là phản ảnh của cái thế giới tuyệt đối trên kia mà thôi. Người làm nghệ thuật bấy giờ đứng ở quan điểm Tạo Hoá, từ nhận thức cho đến cách thể hiện. Người ta đặt những quy luật chặt chẽ cho nghệ thuật, tìm ra những ước lệ – những yếu tố lý tưởng vĩnh viễn – mà ở nơi ấy đời sống bị tước bỏ nghèo nàn chỉ còn là một mớ ý niệm ký hiệu xếp đặt theo một khuôn mẫu bất biến. Ở nghệ thuật này, đời sống thường nhật, những sự vật nhỏ nhặt cụ thể, những cá nhân hèn mọn, những con người có xúc cảm có bản năng chỉ là những sinh vật mang theo những ước muốn những khát khao sát trên mặt đất, bị khinh bỉ, bị gạt bỏ. Nếu đôi lúc nghệ thuật có nhìn tới nơi này, là với một lòng xót xa của kẻ bề trên, nghệ thuật này có diễn tả sự xấu xa ghê tởm của xã hội cũng cố tạo những rung động thuần khiết, nhưng rung động có tác dụng đẩy thêm con người xa lìa sự sống hiện hữu, một rung động rất Đẹp. Người làm nghệ thuật không còn là một tự do biểu diễn đời sống, với một nhận thức thành nề néep hoá ra không còn là nhận thức nữa, hắn chỉ còn biết theo đuổi cố gắng đạt tới bằng mọi xảo thuật cái thế giới lý tưởng, thế giới Nghệ Thuật (viết hoa), thế giới Đẹp không dính dáng tới cái kiếp người hèn mạt của chính hắn và của người quanh hắn. Nếu chẳng may trong thời kỳ này, một vài hiện tượng đặc biệt xảy ra: Có những người ngoảnh mặt với cái thế giới tuyệt đối kia để nhìn thẳng vào đời sống đang ngọ nguậy xung quanh da thịt mình, thì thái độ của những kẻ bảo vệ thứ nghệ thuật viết hoa nói trên hoặc là mang con ngáo ộp luân lý ra để nạt nộ hoặc không thể chối cãi được về giá trị của công trình sáng tạo, họ chỉ còn cách kéo nó vào cái thế giới Đẹp của họ và làm ngơ trước cái sự sống ghê tởm (theo ý họ) chứa đựng trong nó. Chưa thấy ai phân tích tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều hay của Nguyễn Du như một nhận thức mới lạ trước đời sống, một ý thức siêu hình trong nghệ thuật của tác giả Cung oán ngâm khúc và tác giả Đoạn trường tân thanh (không phải là triết lý mà các tác giả ấy trình bày một cách minh bạch, cái ý thức siêu hình nằm trong sự nhận thức đời sống khi diễn tả vượt ngoài cả ý định của tác giả). Chưa thấy ai đả động đến cái ý nghĩa của sự thèm muốn nhục dục ghê gớm, được diễn tả bằng những câu thơ nặng những cảm xúc bằng giác quan, sự thái quá của tình ý đưa tới những phẫn uất những tuyệt vọng thê lương trong Cung oán ngâm khúc, tạo cho tác phẩm cái không khí căng thẳng dồn ép đáng sợ, như một ý thức siêu hình nơi Nguyễn Gia Thiều; nếu có nhắc tới một điểm nào ở trên người ta sẽ vội vã giải thích bằng sự lạc lõng trong tinh thần, sự sa đọa đáng được khoan dung (!) của cá nhân tác giả. Với Nguyễn Du cũng vậy, cái nhận thức sâu sắc, khởi từ một ý thức chia xé hãi hùng với kiếp sống, biểu diễn ra một tác phẩm phức tạp như Đoạn trường tân thanh chỉ được người ta nhận định đơn giản là một mối tâm sự bất mãn của Tố Như, một dấu hiệu của sự trụy lạc của đẳng cấp Tố Như, hay vô lễ hơn nữa là một dâm thư hay một công trình Nghệ thuật tinh tuý. Với quan niệm nghệ thuật như thế, người ta hủy diệt hết cái nội dung sống thực của tác phẩm để chỉ giữ lại cái vỏ hình thức rỗng không mỹ lệ một cách trâng tráo thô bỉ. Cho nên cũng chẳng thèm phiền trách những người khư khư với quan niệm nghệ thuật kia khi họ lên tiếng phê bình phán đoán nghệ thuật đen, chỉ muốn nói giúp họ nhận định lại một hiện tượng của thời đại bằng cặp mắt rộng rãi đứng đắn hơn, tránh những thiên lệch thiển cận dẫn họ tới cái thế bảo thủ vô ý thức một cách đáng ghét. Cái tính chất đen đầu tiên của nghệ thuật hiện nay là sự bi đát đến phẫn nộ ít thấy ngày trước. Đừng giải thích vội vàng bằng sự bệnh hoạn của cá nhân, cũng không hẳn hoàn toàn là một tâm trạng của thời đại. Cũng đừng vội chê trách nghệ thuật đen là thứ chỉ đưa ra sự bế tắc, một thứ thuốc độc giết mòn tinh thần của người đọc. Khi nghệ thuật đen nhất định trói mình vào trong đời sống thực, nhất định trung thành với cái ý thức siêu hình phát động nguồn sáng tạo; không chịu dấn thân vào cuộc phiêu lưu thuần lý để đi tới chốn tự sát trong triết lý, nhận thức trực tiếp toàn diện một cảnh ngộ cụ thể bằng ý thức khởi đầu ấy, tất nhiên đối với những người vẫn quen tìm ở nơi nghệ thuật sự biểu diễn một trật tự sẵn có hay tìm thấy, một lời giải đáp minh bạch – nói theo tiếng thông dụng trong giới văn nghệ ngày nay: một lối thoát, tính cách xây dựng lành mạnh của nghệ thuật – thì nghệ thuật đen là bi quan lạc lõng. Nhưng nếu người ta chịu hiểu sâu xa hơn một chút rằng nhận thức nào cũng là một sự khẳng định và trong sự khẳng định đã giúp cho con người tìm lấy những phương tiện thích ứng để hoạt động trong thế giới sự vật – ngay sự nhận thức một tình thế tuyệt vọng qua tác phẩm cũng là sự khẳng định đối đầu với thực tế phũ phàng đòi tìm cách ứng phó, không trốn chạy bằng những ngõ ngách quắt quéo của cái thói tự gạt mình vô ích. Sở dĩ nghệ thuật đen không đưa lại một lời giải đáp thì chỉ có tính cách cá nhân của tác giả, là một trong rất nhiều lời giải đáp khác nhau, không thể tìm tính cách chung bởi như thế phản nghệ thuật. Nói rõ: nghệ thuật đen đứng lại là một lời kêu gọi, ý thức siêu hình sáng tạo của nó cố gắng đạt đến một nhận thức càng rộng rãi đầy đủ bao nhiêu càng hay bấy nhiêu, phô bày qua tác phẩm những thực kiện phức tạp cho thật cụ thể chân xác, nỗ lực trong nhận thức triệt để về một cảnh ngộ là đã mở ra những tầm chân trời để tùy sự lựa chọn từng cá nhân đường lối thích hợp cho riêng mình giải phóng mình khỏi cảnh ngộ. Đối với xã hội, nghệ thuật đen giữ vai trò là một ý thức dò hỏi phát hiện những vấn đề có liên quan đến kiếp sống con người, một ý thức siêu hình luôn luôn thức tỉnh hoạt động trong phạm vi của nó, không có tham vọng giải quyết. Giải quyết thuộc phần vụ của các ngành hoạt động khác trong xã hội nhân loại, nói cho đúng là công trình của cả một xã hội trong sự vận dụng hết mọi khả năng của xã hội ấy. Làm sao lại bắt người làm nghệ thuật, một cá nhân chỉ có năng khiếu dễ gần gũi gắn liền với thực tế xã hội trong một đời sống văn minh phát triển ghê gớm về mọi mặt như ngày nay phải có được sự hiểu biết thông thái về mọi ngành để đúc kết tiên đoán về tương lai, phải làm một việc vượt ngoài khả năng của hắn? Người làm nghệ thuật hôm nay rất khiêm nhượng không muốn khoác cái bộ dạng lố bịch của một người thầy đời bằng những câu giải đáp nông cạn lý tưởng vô ích và hào nhoáng chỉ lòe được đám học sinh hay bọn trí thức một dúm; hắn biết rõ hắn chỉ là một cá nhân hèn mọn, cái kiến thức chuyên môn về các địa hạt tinh thần khác, nếu có, chỉ là một mớ kiến thức phổ thông sở đẳng so với những bậc thức giả mỗi ngành, trước mắt các bậc ấy những câu giải đáp của hắn chỉ là một trò múa rối của kẻ tự kiêu ngu ngốc, hắn tự định rõ vị trí của hắn trong hoạt động tinh thần nhân loại là tận dụng hết năng khiếu thực tế của mình để biểu diễn cái đời sống tầm thường hiện thực hằng ngày nơi ấy vẫn ẩn nấp trong mỗi thời khắc những vấn đề siêu hình (vẫn hiểu theo nghĩa rộng) mà ngày nay ảnh hưởng tới từng khía cạnh vụn vặt nhất của cuộc sinh hoạt. Nghệ thuật đen là ý thức siêu hình của xã hội, có thể là thô sơ, nhưng chắc chắn là thực tế nhất. Người làm nghệ thuật khi muốn vượt cái tính cách đen ấy của nghệ thuật là bước xa nghệ thuật, là thất bại trông thấy. Trường hợp của nhà văn quá cố Camus là một. Những tác phẩm đầu tiên của nhà văn này là những lời kêu gọi thống thiết một nhận định mới về cảnh ngộ sống của con người trước thời đại này là những tác phẩm giá trị. Nhưng khi ông biến sự phi lý của một cảnh ngộ có thực là con người trong xã hội Âu châu khủng hoảng, nhất là con người trí thức, thành sự phi lý của kiếp sống người đời, để rồi ông chọn lấy cái thế thăng bằng rất chông chênh của một kẻ Juste, đóng vai trò một nhà văn luân lý, làm nghèo nàn hẳn những tác phẩm về sau của ông. Từ La Peste đến La Chute nghệ thuật của Camus giản lược dần chỉ còn là kỹ thuật văn chương trau chuốt, đời sống thu hẹp vào trong cái ý niệm trừu tượng quen thuộc ở ông – cái kỹ thuật của La Chute cũng tố cáo sự tù túng của Camus trong một chuỗi độc thoại mà chủ đề được trình bày sáng sủa đơn giản mạch lạc như một tác phẩm luận thuyết – La Chute là sự khai triển cực độ của nghệ thuật Camus, thành công nhất nhưng cũng là dấu hiệu của sự tận cùng. Nhận thức về sự phi lý cụ thể của xã hội Âu châu trong cơn khủng hoảng đã khởi từ Malraux [1] , nhưng Malraux không hề đẩy đưa nó tới thành triết lý. Sự phi lý của kiếp người qua nhận thức của Camus chính là ở những người đòi hỏi sự tuyệt đối mà vẫn biết không đạt tới được đành quay trở về đời sống làm công việc vác đá leo núi của Sisyphe, “phải tưởng tượng rằng Sisyphe sung sướng” câu kết thúc tác phẩm luận thuyết về sự phi lý của ông thật là chua chát. Sự thực cuộc đời tự nó không phi lý, chỉ có những cảnh ngộ con người phải chịu đựng trong những thời điểm nào đó phi lý mà thôi. Đúng như Camus đã thú nhận sở dĩ có sự phi lý là ở nơi con người nhiều hơn ngoại vật, sự phi lý mà Camus mang trùm lên cho kiếp người vĩnh viễn chỉ có ở những người như Camus đã mất huyễn ảnh của tuyệt đối nhưng vẫn không ngừng luyến tiếc nó, sống giữa đời vẫn bị nó ám ảnh khiến cho thấy mọi việc làm ở đời đều vô ích luống công. Không muốn tự sát trong tư tưởng giống như những triết gia khác ở Tây phương tìm lối trở về với Tuyệt Đối do chính mình phóng tưởng, không phải là Thượng Đế cụ thể của tôn giáo, nhưng cũng không có can đảm dứt bỏ tuyệt đối trở về hẳn với đời sống thế tục, Camus đã chọn một bình diện trung gian giữa thế tục và Thiên Đường đã mất, đứng làm một kẻ Juste ở lưng chừng trời cảm thông vào việc đời biết là chẳng đi đến đâu mà vẫn hành động, hành động để nhắc nhở đến một thế giới tuyệt đối mà chính Camus biết rõ là không thể có, sự phi lý nằm sỗ sàng trong thái độ của Camus đó vậy. Đứng ở bình diện trung gian – làm gạch nối giữa tuyệt đối hư vô và cuộc đời hiện thực – tất nhiên sẽ nhìn thấy kiếp người vĩnh viễn chỉ là một chuỗi hành động vô nghĩa; những kẻ tìm được cái thế giới tuyệt đối cho họ cũng không nhìn đời phi lý như thế, từ trên cao ấy họ có thể trông thấy cái ý nghĩa của kiếp sống qua những phản ảnh của tuyệt đối ở nơi ấy. Khi đã chối nhận tuyệt đối, không thèm luyến tiếc bởi đã biết nó không có và chẳng bao giờ có, sống trong những cảnh ngộ hiện thực thì ý nghĩa của mỗi hành động tương quan với một cảnh ngộ trong sự giải phóng ra ngoài cảnh ngộ, giá trị của hành động không quy định bởi cái mù mịt của trống không. Người ta chẳng quyết định được tương lai để chứng thực hành động nhưng cũng chẳng phải người ta không có tương lai, tương lai sẽ đến bằng hành động của mình cùng với mọi kẻ khác và hành động ngoài ý nghĩa quy định bởi cảnh ngộ hiện thời còn có một ý nghĩa quy định bởi tương lai đã thành hình, quy định bởi kẻ khác, có thể là ngoài ý hướng của mình: ý nghĩa thứ nhất là ý nghĩa xã hội của hành động; ý nghĩa thứ hai là ý nghĩa lịch sử vậy. Camus thường thanh minh rằng ông không phải là một triết gia, đúng. Ông là một nhà văn luân lý kiểu Tây phương đó vậy, cho nên có gọi ông là nhà văn cổ điển ở thế kỷ XX cũng không phải là quá. Khi ông viết L’homme révolté, thuật lại cuộc phiêu lưu ý thức của ông cũng là lúc chấm dứt cuộc phiêu lưu ấy, những tác phẩm sau không mang thêm nhận thức nào mới lạ, chỉ củng cố cho một địa vị đã vững vàng trong các tủ sách của các bậc trí thức muốn học đòi theo ông, của các thư viện đại học rất bảo thủ, đưa ông tới diẽn đàn Hàn lâm viện Thụy Điển nhận lấy vòng hào quang trao tặng đứa con hoang đàng trở về ngoan ngoãn dưới mái nhà đã có lần nó vùng vằng bất mãn bỏ đi. Cái chết bất ngờ nhốt luôn Cmus vào quá khứ. Bởi nghệ thuật đen khởi đi từ một ý thức siêu hình bắt nguồn từ kiếp sống hiện hữu và chỉ là một nhận thức mở ngỏ kết cấu nên sau quá trình của một ý thức dò hỏi hết nghĩa một cảnh ngộ, và chẳng vội chịu tiến tới một kết luận nào nên nó bi đát. Và phẫn nộ. Phẫn nộ với chính nó. Nhưng nó không thể tự thỏa thuận, tự làm yên lòng bằng cách kết thúc sự dò hỏi bướng bỉnh bằng lời giải đáp dứt khoát, bởi như thế nó đã rời xa đời sống, bởi như thế nó đã vượt quá giới hạn của nó, bởi như thế nó đã đánh lừa nó đóng một vai trò không phải của mình, bởi như thế nó đã tự vẫn nó. Sự bi đát phẫn nộ hiển hiện trong cái ý thức siêu hình phiêu lưu không ngừng nghỉ của nghệ thuật đen vì quá ràng buộc với sự vận động thường trực của cõi thế phải chăng là dấu hiệu của sự suy đồi bạc nhược của tinh thần ở một cá nhân cũng như xã hội? Cớ sao không nhận định trái ngược lại, đó là dấu hiệu sự cường tráng đặc biệt của tinh thần khiến cho ý thức không biết mệt mỏi chán ngán tìm nơi ẩn trú ngơi nghỉ ở cõi tuyệt đối? Đối với xã hội, cái ý thức dò hỏi bướng bỉnh, chối nhận những giá trị đã lập thành, cớ sao không thấy đó là sự cố gắng mãnh liệt của con người tìm đường thoát thân trong cuộc đảo lộn toàn diện của một thời đại mà các giá trị cần được xét định lại, khởi đầu bằng những nhận thức mở ngỏ dũng cảm một giai đoạn phát triển hoá kiếp của xã hội. Nghệ thuật đen chỉ đóng vai trò cất lên lời kêu gọi, cuộc giải quyết là công trình của xã hội của lịch sử, thành hay bại không tính trước được, cho nên cũng có thể nó trở thành một sản phẩm của một xã hội mạt kiếp, nhưng cũng có thể nó là sự giác ngộ thúc đẩy trong công cuộc lột xác của một xã hội. Đó là một vấn đề thuộc lịch sử mà nghệ thuật đen tự nó không giải quyết cho nó được. Nghệ thuật đen là một ý thức siêu hình về đời sống thế tục, ý thức ấy có những nguồn mạch chằng chịt hút xuống trái đất. Nghệ thuật lý tưởng của một thời – là ý thức thưởng ngoạn bay bổng ngoài cõi tục – đã loại trừ ra khỏi nó cái đời sống mà nó cho là ô trọc, cụ thể, “vật chất”. Trong nghệ thuật này người ta khinh bỉ sợ hãi cái “xác thịt”, những “thực phẩm của địa cầu”, tất cả những gì còn mang nặng cái chất của một sự sống hữu hình, e rằng những thứ ấy là những vật nặng cản trở sự tinh tuý của ý thức đang muốn bay bổng lên cõi hư không. Bởi thế những quy luật chặt chẽ, những ước lệ kiểu mẫu trong phép thể hiện của nghệ thuật lý tưởng là những màng lọc cái chất sống tầm thường đến ghê tởm bám ý thức không cho lọt vào, tính cách nghiệt ngã của hình thức chỉ bằng lòng cho phép nhập nội cái phần tinh tuý của ý thức đã bị tước lược hết hình hài còn lại là những ý niệm. Nhận thức, nhất là nhận thức bằng nghệ thuật, không phải là công trình của một năng khiếu thuần lý. Không có ý thức nói trống không bay lượn trong không không, nói ý thức là nói ý thức của một người, người bằng xương bằng thịt với những điều kiện sinh hoạt trong xã hội trong lịch sử và trong cảnh ngộ. Ý thức phát động để cấu thành nhận thức tiếp xúc ngoại vật không độc nhất bằng đường lối tư duy; bởi ý thức của một người chính là người ấy với mắt mũi chân tay đầu tóc cho nên một người có thể ý thức và nhận thức, một cách mù tối nhưng cụ thể nguyên vẹn hơn, bằng da thịt bằng cảm xúc giác quan. Nghệ thuật đen chuộng sự cụ thể, trong phép thể hiện của nó thường dùng lối nhận thức thô sơ này bởi ở đấy ngoại vật còn giữ được nguyên hình thể, tính chất của nó. Do đó trong nghệ thuật đen dẫy đầy những xúc cảm đứng lại ở giác quan còn thô kệch xù xì khó chịu, ý thức “thuần tuý” băng hoại bám vào mở rộng ngoài da thịt thành một thứ dục tình [2] suồng sã. Sở dĩ sự nhận thức về cảnh ngộ tuyệt vọng của người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc trở nên mãnh liệt ghê gớm khiến nàng phải thốt kêu những tiếng phản kháng đớn đau bởi tác giả đã trói buộc nhân vật của mình vào trong cái “xác thịt” của nó để cho nó không thoát lên được mà tìm những mối an ủi hứa hẹn lừa dối của “tinh thần” của lý trí để rồi phải chết dần mòn trong cảnh ngộ vẫn còn khư khư ôm lấy huyễn ảnh được giải phóng, cách thể hiện đầy xúc cảm trần tục nhầy nhụa trong tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều phát hiện hết cái thân phận cung nữ. Nghệ thuật Nguyễn Gia Thiều là nghệ thuật đen vậy. Xin nhường công việc phân tích tìm hiểu cái nhận thức siêu hình của Nguyễn Gia Thiều về kiếp sống qua sự thể hiện bằng thân phận của nhân vật cung nữ, bằng tác phẩm của ông cho các nhà phê bình văn học. Cái nhận thức của Nguyễn Gia Thiều tất nhiên là cấu thành bởi cái ý thức dò hỏi của ông trong cảnh ngộ sống, là thời Lê Mạt của thế kỷ XVIII. Dục tình trong nghệ thuật đen là một phương cách của nhận thức siêu hình, hiển nhiên không phải là phương cách độc nhất. Nếu nghệ thuật đen có thường dùng đến luôn chỉ bởi phương cách ấy từ xưa vẫn bị nghiêm cấm khinh rẻ, dục tình trong nghệ thuật ở xứ ta là một khu đất hoang chưa được khai thác trong khi thật sự nơi ấy, cũng nh ưở những hình thái sinh hoạt nhân loại khác, tiềm ẩn cái ý nghĩa siêu hình của kiếp sống mà nhận thức nghệ thuật có thể phơi mở. Không tuyệt đối tin theo Freud rằng cuộc sinh hoạt nhân loại bị quy định thầm kín bởi dục tình bởi bản năng – sự sai lầm hư hỏng của Freud là muốn biến khoa tâm phân bệnh học của ông thành một triết lý toàn diện giải thích tất cả – nhưng cũng không thể chối rằng bản năng, dục tình không giữ vai trò gì đáng kể trong cuộc sinh hoạt nhân loại. Nghệ thuật đen không ngoảnh mặt với đời sống, đối diện với nó trong mọi mặt xuất hiện để theo đuổi dò hỏi ý nghĩa của nó. Hơn nữa, dục tình lại là điểm phát khởi của đời sống nhân loại lúc sơ khai và còn dự phần mãi mãi trong đời sống ấy, trong nó có chứa đựng cái ý nghĩa siêu hình thiết thực của thế tục. Không nhận thức nào cụ thể mạnh mẽ hơn về sự sầu khổ hay hân hoan bằng sự sầu khổ, hân hoan hiển hiện trong da thịt của một người, người ta không còn thể chối cãi rằng đó chỉ là tưởng tượng. Đáng thương cho những kẻ mà sự nhận thức mới nằm trong địa hạt của lý tính trong con người, nó làm cho họ trở thành kẻ lạ mặt giữa cuộc sống, kẻ lạ mặt trong chính thân xác họ. Đối với một vài cảnh ngộ, dục tình còn có thể và sự yêu mến tất cả. Trong dục tình người ta yêu cái chết cùng một lúc với sự sống. Nói như Sartre, “dục tình ném con người vào trong lòng sôi sục của tự nhiên và đồng thời nâng nó vượt khỏi tự nhiên do sự khẳng định cái quyền hạn của nó không được thỏa mãn” [3] . Chính từ khởi điểm nghệ thuật đen cố gắng là một nhận thức sâu xa linh động về sự vật, vượt ngoài những khuôn sáo tĩnh chết đã bị thực tế chối bỏ, nên nó chấp nhận dục tình xưa nay bị nghiêm cấm làm phương tiện trong công cuộc theo đuổi khám phá ý nghĩa của sự vật. Và vì thế nó hiện ra trước mắt những người mà nhận thức được chết dí ở một nơi là thứ nghệ thuật vô luân trắng trợn. Trong xã hội, cái đồn lũy luân lý bao giờ cũng là nơi phòng vệ cuối cùng của khuynh hướng bảo thủ trốn tránh sự tấn công của những lực lượng cấp tiến đòi thay đổi, riêng trong xã hội cộng sản cái đồn phòng vệ ấy còn kiên cố hơn nữa gồm cả một hệ thống giáo điều của chủ nghĩa. Không muốn nhắc lại rằng nhận thức nghệ thuật khởi đi từ sự cảm nhận mạnh mẽ một cảnh ngộ có thực, mà những tiêu chuẩn của luân lý có tính cách khái quát và lý tưởng chỉ là chướng ngại cho nhận thức nghệ thuật chân thực. Đối với luân lý của một xã hội, nghệ thuật đen không phải tất yếu là phải nhắm vào đấy để công phá, cái ý hướng ấy cũng đã thu hẹp một phần nào nhận thức, nó chỉ gạt sang bên len lỏi không đếm xỉa tới khi nhận thức. Rất có thể đôi khi nghệ thuật đen phù hợp với một nền luân lý nào đó thì không phải là nó có dụng ý thuyết minh cho nền luân lý ấy mà chính nền luân lý kia đã tìm được ở nó cái ý nghĩa, cái lý do tồn tại của mình; và thường khi nó phản nghịch lại luân lý xã hội, đó không phải là nó vô luân mà chính bởi luân lý xã hội đã bắt đầu mất ý nghĩa, thiếu lý do tồn tại. Bởi một nền luân lý chỉ là một kiến trúc những quy ước tinh thần trên một trật tự lý tưởng để bảo vệ cho trật tự ấy. Khi cái trật tự lý tưởng con người dựng lên trước mặt để noi theo không còn thích ứng với những cảnh ngộ nó sống thì luân lý mất ý nghĩa ban đầu là con đường sáng cho nó noi theo chỉ còn là một nhà giam chật hẹp giết mòn đời sống của nó một cách vô nhân đạo. Cái ý thức siêu hình phát khởi nghệ thuật đen không kèm theo một ý thức luân lý để giới hạn nó lại trong sự thâu tóm ghi nhận cảnh ngộ, bởi cái ý thức trên có thể là khởi điểm cho một ý thức luân lý mới, nhưng nghệ thuật đen không muốn tiến tới đó. Sự sử dụng luân lý trên những đòi hỏi mới của con người là công việc của nhà luân lý học. Riêng đối với người tiếp thu nghệ thuật, nghệ thuật đen mở rộng tầm chân trời để tùy cá nhân nhận định lấy trong phần cá biệt của mình cái luân lý của một cảnh ngộ nhất định – sự thực vấn đề này chỉ là một phần trong vấn đề nhận thức mà không tiến đến kết luận của nghệ thuật đen đã nói đến ở trên. Vậy nghệ thuật đen là biểu thị một tự do trước cảnh ngộ, kêu gọi những tự do khác trong cuộc gặp gỡ xúc tiếp. Có thể bảo nghệ thuật đen là phi luân lý thì đúng. Nói kết lại nghệ thuật đen đóng vai trò khích động sự thức tỉnh của xã hội trước những câu hỏi cụ thể thúc bách thế tục, ném sự dò hỏi trâng tráo vào giữa mắt mọi người vẫn ngủ mê trong sự tin tưởng vu vơ trừu tượng ở cõi tuyệt vời càng ngày càng mất hút, kêu gọi mọi người trông thẳng vào cảnh ngộ đang sống, vận động trước hết cho một ý thức dũng cảm táo bạo nhận thức cho đầy đủ thực tế. Và sau đó chiều hướng của lịch sử, ý nghĩa của một kiếp sống tìm thấy vươn tới, là thuộc về mọi người định đoạt thực hiện. Gọi nghệ thuật đen không phải vì những ý nghĩa suy đồi lầm lạc người ta gán cho nó. Gọi nghệ thuật đen bởi liên tưởng tới một màu da của nhân loại, màu da đen. Đen có thể là một màu đẹp như đêm tối trong suốt vô cùng, như tròng mắt của người thiếu nữ Á Đông. Nhưng hiện thời đen tiêu biểu hết nghĩa cho một cảnh ngộ trong ấy con người chịu đựng sức nặng đè ép của sự vật, của một trật tự mấy nghìn đời. “Cớ sao tôi xanh, tôi sầu và tôi đen thế này?”. Hãy nghe tiếng kêu ấy của chàng nhạc sĩ da đen, hãy nghe những âm thanh đổ vỡ lổng chổng hay mệt mỏi thê thiết của chàng như hình ảnh của một thế giới dục tình bi đát. Danh từ nghệ thuật đen được tạo thành từ hình ảnh một màu da lại luôn luôn là thân phận của người, một thân phận mọi. Bởi thế nghệ thuật đen chính là nghệ thuật hôm nay vậy. [1]Xem Malraux par lui-même của Picon hay La Tenlation de l’Occident của Malraux. [2]Chữ dục tình hiểu theo nghĩa rộng như chữ Désir của tiếng Pháp. [3]…Du désir qui (…) replonge Phomme au sein bouillonnant la Nature et l’élève en même temps au-dessus de la Nature par l’afirmation de son Droit à l’insatistaction (Situations, trang 255).
Nguồn: Tạp chí Sáng Tạo,
bộ mới, số 3, ra ngày 1-9-1960, trích từ trang 35 đến 48. Chủ nhiệm: Mai
Thảo. Quản lý: Đặng Lê Kim. Trình bày: Duy Thanh. Toà soạn và trị sự:
133B Ký Con, Sài Gòn. Giá: 15đ. Bản điện tử do talawas thực hiện.
|
THỤY KHUÊ * TẠP CHÍ SÁNG TẠO
TẠP CHÍ SÁNG TẠO
Thụy Khuê
Trong khoảng thời gian từ 45 đến 54, những xu hướng muốn làm mới văn học nghệ thuật đều bị cản trở, Nguyễn Xuân Sanh trở về với thơ mới, Tô Ngọc Vân vẽ tranh tuyên truyền, Nguyễn Ðình Thi cũng làm thơ khuôn khổ, Văn Cao im lặng, ...
Sự đòi hỏi tự do sáng tác và đổi mới tư duy văn học trổi dậy sau ngày chia đôi đất nước. Miền Bắc xuất hiện phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, với ý thức cải tạo toàn diện đời sống con người, dân chủ hóa đất nước và tự do sáng tác. Riêng trong địa hạt thi ca, những nhà thơ như Hoàng Cầm, Trần Dần và nhất là Lê Ðạt còn muốn đoạn tuyệt với thơ mới để bước vào thơ hiện đại.
Nhưng họ thất bại và phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dẹp tan. Mãi đến những năm 90, Ðặng Ðình Hưng và Lê Ðạt mới lại được phép xuất hiện trên văn đàn. Ðặng Ðình Hưng với Bến Lạ và Ô Mai, Lê Ðạt với Bóng Chữ. Thi pháp của họ đánh dấu ngõ quặt trong thơ hiện đại.
Ở miền Nam, tháng 10 - 1956, tạp chí Sáng Tạo ra đời tại Sàigòn như một sự "nổi loạn", một "chất nổ phá đổ cái cũ, tạo dựng cái mới". Trên Sáng Tạo xuất hiện những tên tuổi: Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Quách Thoại, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Ðức Sơn ...
Họ tạo dựng cái mới như thế nào? Mai Thảo bảo: "Văn học nghệ thuật mặc nhiên không thể còn là tả chân Nguyễn Công Hoan, lãng mạn lối Thanh Châu, những khái niệm Xuân Thu, những luận đề Tự Lực ... Những trào lưu cạn dòng phải nhượng bộ rứt thoát cho những ngọn triều lớn dậy thay thế. [...] Cái vấn đề lớn nhất của chúng ta bây giờ, trước sau vẫn là phải làm sao đoạn tuyệt được hoàn toàn với những ám ảnh và những tàn tích của quá khứ [...]. Công tác chặt đứt với những trói buộc cũ phải được đặt lên hàng đầu ... và thơ bây giờ là thơ tự do"(1). Ở bình diện khác, Thanh Tâm Tuyền định nghĩa nổi loạn: "Nổi loạn là một hành động đòi được gia nhập đời sống: Kẻ nô lệ đòi quyền sống như những người tự do. Như thế nổi loạn là điều kiện sáng tạo."
Trên thực tế, có thể nói Sáng Tạo đã làm được "ngọn triều lớn" trong thời điểm 50 - 60, tương tự như Tự Lực Văn Ðoàn những năm 39 - 45: Thổi nguồn gió mới vào thời đại của họ, thay đổi bộ mặt văn học nghệ thuật.
Về nội dung của thay đổi, khi viết "Ðặt Nguyễn Xuân Sanh lên đỉnh cao của đường cong", Trần Thanh Hiệp muốn tiếp tục công việc mà Xuân Thu Nhã Tập đã thử nghiệm những năm 40 trong sáng tác: đưa tự do vào thơ, vào nghệ thuật. Sáng Tạo đã thành công trong việc hiện đại hóa văn học, đem hai dòng mạch lớn của thế kỷ XX vào văn học Việt: Dòng hiện sinh và dòng siêu thực, với những tính chất nền tảng: Hoài nghi và Mộng tưởng.
Về văn xuôi và tiểu luận, xuất hiện những tiêu đề chính trong văn học hiện đại, chủ yếu biện chứng của Sartre:
1. Ðặt lại vấn đề tác phẩm (oeuvre). Có thể có tác phẩm văn học hay không? Có thể có một cuốn tiểu thuyết, một kịch bản, một bài thơ được không? Chữ nghĩa có giá trị gì? Ðặt lại vấn đề viết (écriture). Viết như thế nào? Lối viết kể chuyện, có cốt truyện, và cả lối viết hiện thực, tả chân kiểu Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng ... đã lỗi thời vì không đạt tới tận cùng tính cách chính xác và xác thực. Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền là một ví dụ về cách viết, cách đặt lại vấn đề viết.
2. Tác phẩm mở: tác phẩm không còn mục đích hướng dẫn người đọc tới một chủ đích như luân lý, đạo đức, triết học, văn chương, xã hội, v.v... nữa. Tác phẩm không cần kết luận, mà tác phẩm trình bầy một biện chứng, một thẩm mỹ của sự dang dở, mở cửa cho những suy nghĩ khác và sẵn sàng chờ đón những nối tiếp về sau (Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, Tháng Giêng Cỏ Non, Bản Chúc Thư Trên Ngọn Ðỉnh Trời của Mai Thảo ...).
3. Tính chất biến dạng của tác phẩm: tác giả không còn là chứng nhân biện hộ (témoin de la défense) kiểu Gide, mà trở thành chứng nhân không thể loại trừ (témoin inéliminable), kiểu Sartre, chứng nhân nằm trong diễn biến, chao đảo với hoàn cảnh, chịu sự chia phối của các áp lực nội tâm cũng như ngoại cảnh (Tâm trong Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền).
4. Ðưa vai trò của nhận thức (perception) vào tác phẩm. Tác phẩm không còn nhiệm vụ khơi gợi cảm xúc và làm mủi lòng theo nghĩa lãng mạn, mà tác phẩm gây nỗi đau, gây khó chịu bằng nhận thức (thơ Thanh Tâm Tuyền).
5. Xuất hiện hình thức mỉa mai, châm biếm hiện đại (ironie moderne) kiểu Sartre, Beckett, thay thế lối châm biếm lãng mạn (ironie romantique), kiểu Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng. Dạng thức này cay độc hơn vì người viết không ở ngoài để ghi nhận hiện thực mà ở ngay trong cuộc, diễu mình, cười mình. Lối tự trào này rải rác trong các tác phẩm của những người cùng thời với Sáng Tạo như Túy Hồng, Nhã Ca, Trần Thị Ngh, ... gọi nôm na là sự "chọc quê" chính mình.
6. Tính cách dấn thân của người nghệ sĩ trong sáng tạo và trong cuộc sống, thể hiện trên hai mặt:
- Chính trị: Chiến sĩ tự do, (...) truyền thống anh hùng (kiểu Malraux) như Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, ...
- Văn nghệ: Cực lực đổi mới, bài trừ cái cũ: Chống Tự Lực Văn Ðoàn, đả kích Vũ Hoàng Chương ... Thái độ "chặt đứt" với quá khứ, tính cách "nổi loạn" và những tuyên ngôn thái quá làm gai mắt những người cựu trào như Nguyễn Hiến Lê (Ðời Viết Văn Của Tôi), Võ Phiến (Văn Học Miền Nam).
7. Hoài nghi: trên tất cả là hư vô, không có gì hết (Mai Thảo: Bản Chúc Thư Trên Ngọn Ðỉnh Trời, Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Ðền).
8. Dòng mạch siêu thực hòa hợp mộng vào đời, mở những ngưỡng cửa mới cho sáng tác: đập vỡ bức màn kiểm duyệt của lý trí, của ý thức xã hội, tìm đến bề sâu của tâm hồn ẩn dấu trong phần tiềm thức và vô thức, nâng cao vai trò của tưởng tượng, tìm ra những phương pháp tạo hình mới cho thơ và họa, mở thêm một cánh cửa nữa về phía Tự do. Sáng Tạo đã nắm bắt được luồng sinh khí ấy và đem vào văn học Việt.
Tháng 9/95
Chú thích
(1) Tuyển Tập Sáng Tạo, Sống Mới tái bản tại Hoa Kỳ.
© 1991-1995 Thụy Khuê
Nguồn: http://thuykhue.free.fr/mucluc/sangtao.html
Thụy Khuê
Trong khoảng thời gian từ 45 đến 54, những xu hướng muốn làm mới văn học nghệ thuật đều bị cản trở, Nguyễn Xuân Sanh trở về với thơ mới, Tô Ngọc Vân vẽ tranh tuyên truyền, Nguyễn Ðình Thi cũng làm thơ khuôn khổ, Văn Cao im lặng, ...
Sự đòi hỏi tự do sáng tác và đổi mới tư duy văn học trổi dậy sau ngày chia đôi đất nước. Miền Bắc xuất hiện phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, với ý thức cải tạo toàn diện đời sống con người, dân chủ hóa đất nước và tự do sáng tác. Riêng trong địa hạt thi ca, những nhà thơ như Hoàng Cầm, Trần Dần và nhất là Lê Ðạt còn muốn đoạn tuyệt với thơ mới để bước vào thơ hiện đại.
Nhưng họ thất bại và phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dẹp tan. Mãi đến những năm 90, Ðặng Ðình Hưng và Lê Ðạt mới lại được phép xuất hiện trên văn đàn. Ðặng Ðình Hưng với Bến Lạ và Ô Mai, Lê Ðạt với Bóng Chữ. Thi pháp của họ đánh dấu ngõ quặt trong thơ hiện đại.
Ở miền Nam, tháng 10 - 1956, tạp chí Sáng Tạo ra đời tại Sàigòn như một sự "nổi loạn", một "chất nổ phá đổ cái cũ, tạo dựng cái mới". Trên Sáng Tạo xuất hiện những tên tuổi: Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Quách Thoại, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Ðức Sơn ...
Họ tạo dựng cái mới như thế nào? Mai Thảo bảo: "Văn học nghệ thuật mặc nhiên không thể còn là tả chân Nguyễn Công Hoan, lãng mạn lối Thanh Châu, những khái niệm Xuân Thu, những luận đề Tự Lực ... Những trào lưu cạn dòng phải nhượng bộ rứt thoát cho những ngọn triều lớn dậy thay thế. [...] Cái vấn đề lớn nhất của chúng ta bây giờ, trước sau vẫn là phải làm sao đoạn tuyệt được hoàn toàn với những ám ảnh và những tàn tích của quá khứ [...]. Công tác chặt đứt với những trói buộc cũ phải được đặt lên hàng đầu ... và thơ bây giờ là thơ tự do"(1). Ở bình diện khác, Thanh Tâm Tuyền định nghĩa nổi loạn: "Nổi loạn là một hành động đòi được gia nhập đời sống: Kẻ nô lệ đòi quyền sống như những người tự do. Như thế nổi loạn là điều kiện sáng tạo."
Trên thực tế, có thể nói Sáng Tạo đã làm được "ngọn triều lớn" trong thời điểm 50 - 60, tương tự như Tự Lực Văn Ðoàn những năm 39 - 45: Thổi nguồn gió mới vào thời đại của họ, thay đổi bộ mặt văn học nghệ thuật.
Về nội dung của thay đổi, khi viết "Ðặt Nguyễn Xuân Sanh lên đỉnh cao của đường cong", Trần Thanh Hiệp muốn tiếp tục công việc mà Xuân Thu Nhã Tập đã thử nghiệm những năm 40 trong sáng tác: đưa tự do vào thơ, vào nghệ thuật. Sáng Tạo đã thành công trong việc hiện đại hóa văn học, đem hai dòng mạch lớn của thế kỷ XX vào văn học Việt: Dòng hiện sinh và dòng siêu thực, với những tính chất nền tảng: Hoài nghi và Mộng tưởng.
Về văn xuôi và tiểu luận, xuất hiện những tiêu đề chính trong văn học hiện đại, chủ yếu biện chứng của Sartre:
1. Ðặt lại vấn đề tác phẩm (oeuvre). Có thể có tác phẩm văn học hay không? Có thể có một cuốn tiểu thuyết, một kịch bản, một bài thơ được không? Chữ nghĩa có giá trị gì? Ðặt lại vấn đề viết (écriture). Viết như thế nào? Lối viết kể chuyện, có cốt truyện, và cả lối viết hiện thực, tả chân kiểu Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng ... đã lỗi thời vì không đạt tới tận cùng tính cách chính xác và xác thực. Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền là một ví dụ về cách viết, cách đặt lại vấn đề viết.
2. Tác phẩm mở: tác phẩm không còn mục đích hướng dẫn người đọc tới một chủ đích như luân lý, đạo đức, triết học, văn chương, xã hội, v.v... nữa. Tác phẩm không cần kết luận, mà tác phẩm trình bầy một biện chứng, một thẩm mỹ của sự dang dở, mở cửa cho những suy nghĩ khác và sẵn sàng chờ đón những nối tiếp về sau (Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, Tháng Giêng Cỏ Non, Bản Chúc Thư Trên Ngọn Ðỉnh Trời của Mai Thảo ...).
3. Tính chất biến dạng của tác phẩm: tác giả không còn là chứng nhân biện hộ (témoin de la défense) kiểu Gide, mà trở thành chứng nhân không thể loại trừ (témoin inéliminable), kiểu Sartre, chứng nhân nằm trong diễn biến, chao đảo với hoàn cảnh, chịu sự chia phối của các áp lực nội tâm cũng như ngoại cảnh (Tâm trong Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền).
4. Ðưa vai trò của nhận thức (perception) vào tác phẩm. Tác phẩm không còn nhiệm vụ khơi gợi cảm xúc và làm mủi lòng theo nghĩa lãng mạn, mà tác phẩm gây nỗi đau, gây khó chịu bằng nhận thức (thơ Thanh Tâm Tuyền).
5. Xuất hiện hình thức mỉa mai, châm biếm hiện đại (ironie moderne) kiểu Sartre, Beckett, thay thế lối châm biếm lãng mạn (ironie romantique), kiểu Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng. Dạng thức này cay độc hơn vì người viết không ở ngoài để ghi nhận hiện thực mà ở ngay trong cuộc, diễu mình, cười mình. Lối tự trào này rải rác trong các tác phẩm của những người cùng thời với Sáng Tạo như Túy Hồng, Nhã Ca, Trần Thị Ngh, ... gọi nôm na là sự "chọc quê" chính mình.
6. Tính cách dấn thân của người nghệ sĩ trong sáng tạo và trong cuộc sống, thể hiện trên hai mặt:
- Chính trị: Chiến sĩ tự do, (...) truyền thống anh hùng (kiểu Malraux) như Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, ...
- Văn nghệ: Cực lực đổi mới, bài trừ cái cũ: Chống Tự Lực Văn Ðoàn, đả kích Vũ Hoàng Chương ... Thái độ "chặt đứt" với quá khứ, tính cách "nổi loạn" và những tuyên ngôn thái quá làm gai mắt những người cựu trào như Nguyễn Hiến Lê (Ðời Viết Văn Của Tôi), Võ Phiến (Văn Học Miền Nam).
7. Hoài nghi: trên tất cả là hư vô, không có gì hết (Mai Thảo: Bản Chúc Thư Trên Ngọn Ðỉnh Trời, Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Ðền).
8. Dòng mạch siêu thực hòa hợp mộng vào đời, mở những ngưỡng cửa mới cho sáng tác: đập vỡ bức màn kiểm duyệt của lý trí, của ý thức xã hội, tìm đến bề sâu của tâm hồn ẩn dấu trong phần tiềm thức và vô thức, nâng cao vai trò của tưởng tượng, tìm ra những phương pháp tạo hình mới cho thơ và họa, mở thêm một cánh cửa nữa về phía Tự do. Sáng Tạo đã nắm bắt được luồng sinh khí ấy và đem vào văn học Việt.
Tháng 9/95
Chú thích
(1) Tuyển Tập Sáng Tạo, Sống Mới tái bản tại Hoa Kỳ.
© 1991-1995 Thụy Khuê
Nguồn: http://thuykhue.free.fr/mucluc/sangtao.html
NGUYỄN THIÊN -THỤ * TẠP CHÍ SÁNG TẠO
TẠP CHÍ SÁNG TẠO
NGUYỄN THIÊN -THỤ
Hiệp
định Genève ký ngày 20-7-1954 đã kết thúc chiến tranh kéo dài mười năm,
và chia đôi Việt Nam. Những người miền Bắc không muốn ở lại với ngọn
cờ đỏ thì đành bỏ quê hương mà vào Nam. Một số thanh niên, sinh viên Hà
Nội di cư vào Nam Họ dựng lều tại sân Khám Lớn.
Nhóm sinh viên này có một
tờ báo sinh viên tên là Lửa Việt. Họ gồm có Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sĩ
Tế, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Lữ Hồ, Quách Thoại, Duy Thanh, Ngọc
Dũng. Chính tờ Lửa Việt đã nhận được truyện ngắn nhan đề Đêm giã từ Hà
Nội ký tên Mai Thảo. Đây là một truyện ngắn hợp thời đại nhất, hợp tâm
lý của những kẻ phải giã từ Hà Nội mến yêu. Đặc biệt là lối hành văn của
tác giả rất đặc biệt. Nó giống văn phong Nguyễn Tuân. Từ tờ báo sinh
viên, họ lập thành một tờ nguyệt san, lấy tên là Sáng Tạo.
Người chủ biên là Mai
Thảo , quản lý là Đặng Lê Kim, tòa soạn tại 133B Ký Con, Sài Gòn. Nhóm
này về sau càng có nhiều người gia nhập. Tô Thùy Yên, Thái Tuấn, Cung
Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Mai Trung Tĩnh, Trần Lê Nguyễn,
Võ Phiến, Trường Dzi, Trần Lê Nguyễn, Thao Trường, Vĩnh Lộc, Nguyễn Đức
Sơn, Vương Linh, Vương Tân. . . .
Họ là những người trẻ,
mang vào Nam một nền văn hóa và một ý thức hệ mạnh mẽ vì chính ý thức hệ
này đã thúc đẩy họ từ bỏ cộng sản và di cư vào Nam. Họ cũng muốn xây
dựng một nền văn hóa mới. Đấy là hành trang và vũ khí của những người
trai trẻ của thời đại này.
Sáng Tạo ra đời tháng 10- 1957, khoảng 31 số (số 31 tháng 9-1959). Sáng Tạo bộ mới ra đời tháng 7- 1960, và đóng cửa sau khi ra được khoảng 4, 5 số. Sáng Tạo trước hết là một tạp chí văn học nghệ thuật, chủ trương văn nghệ tự do và đổi mới văn nghệ. Họ là những người Bắc di cư, có người đã sống và hoạt động trong chiến khu Việt Minh. Họ đã bị cộng sản khống chế mọi thứ tự do, trong đó có tự do sáng tác. Cũng như Trần Dần và các văn nghệ sĩ quân đội và dân chính, họ hết sức phản đối văn nghệ chỉ huy.Một số trong Sáng Tạo là người Trung, người Nam là những người trẻ tài hoa, muốn xây dựng một nếp sống mới và nền văn học, nghệ thuật mới. Trong bài Chúng ta hình thành văn nghệ mới, Trần Thanh Hiệp viết:
Chúng ta không muốn ở đây có mặt những
‘’ chính trị viên văn nghệ’’. Tôi không muốn là một nhà đạo đức bàn chuyện’’ văn dĩ tải đạo’’. Câu chuyện văn nghệ nên trả về cho những người văn nghệ . . . . Có thể lướt qua, không bàn nhiều về nhiều về thứ văn nghệ giai cấp . Vì rằng những người đề xướng văn nghệ giai cấp là những người gian lận, những người làm trò ảo thuật.. Mọi tính tự ‘’tùy viên’’: tiến bộ, xã hội, khoa học, hiện thực v. v. . chỉ là những lời thế bạc ! (ST 21, 6-1958, 11).
Trần Thanh Hiệp , Mai Thảo và Thanh Tâm Tuyền muốn học hỏi văn chương và triết học Tây phương để làm giàu cho học thuật và tư tưởng nước nhà. Trần Thanh Hiệp viết:
Văn nghệ Tây phương phong phú về thể nghiệm, về biến thái. Con người trong đó được trình bày qua khắp các khía cạnh. . . Nhưng có lẽ bổ ích nhất cho chúng ta là sự bổ túc của văn nghệ Tây phương hiện kim, đánh dấu một chuyển hướng lớn (ST 21, 6-1958, 13).
Sáng Tạo đã đạt được nhiều thành tích lớn:
1. Sáng Tạo tập họp được một số tài năng .Ngoài những người trong ban biên tập như Doãn Quốc Sỹ, Duy Thanh, Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thái Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, và Trần Thanh Hiệp, còn có các cộng tác viên. như Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Mai Trung Tĩnh, Võ Phiến, Trường Dzi, Trần Lê Nguyễn, Thao Trường, Vĩnh Lộc, Nguyễn Đức Sơn, Viên Linh, Vương Tân, Lý Hoàng Phong, Thạch Trân, Hoàng Bảo Việt, Tô Kiều Ngân, Phạm Nguyên Vũ . . . Những người này hoạt động hữu hiệu trong thời gian đó và còn là nòng cốt trong nền văn học nghệ thuật 1960- 1975 và văn học Việt Nam hải ngoại. Những người này , đa số giỏi hai ba bộ môn. Mai Thảo, Trần Thanh Hiệp , Duy Thanh là nhà văn cũng là nhà thơ. Nguyên Sa viết truyện, làm thơ và biên khảo.
2. Sáng Tạo đã hoạt động thành công trên nhiều bộ môn:
( 1).Về khảo luận:
Nguyên Sa, Nguyễn Sỹ Tế, Lê Huy Oanh, Lữ Hồ, Lê Văn Siêu. Họ nghiên cứu văn học Việt Nam, văn học quốc tế, và triết học, nhất là tư tưởng Hiện Sinh. Tư tưởng Hiện Sinh đã ảnh hưởng sâu xa đến nhóm Sáng Tạo. Thơ Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh, Tô Thùy Yên; tiểu thuyết của Mai Thảo đều phản chiếu tư tưởng Hiện Sinh.
(2). Về hội họa: Thái Tuấn, Duy Thanh,Ngọc Dũng, Tạ Tỵ.
(3).Về âm nhạc: Lê Cao Phan, Cung Thư, Nguyễn Phụng.
(4).Về truyện dài, truyện ngắn: bộ môn này rất phong phú: Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh, Dương Nghiễm Mậu, Trường Dzi, Người Sông Thương, Võ Phiến, Thanh Nam, Trần Thanh Hiệp. Thạch Trân, Tạ Ty, Lôi Tam. Các tác phẩm của Sáng Tạo có những nhân vật và sự kiện mới. Họ là những nhân vật thực trong cuộc sống, là những người Bắc di cư vào Nam, là những phụ nữ miền Nam phải làm gái trong những xóm nghèo, là những thợ thuyền trong xóm lao động, là những người lính từ mặt trận trở về. Họ khác với những nhân vật của Nhất Linh, Hồ Biểu Chánh hay Hồ Hữu Tường.
Những truyện dài, truyện ngắn của Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Duy Thanh, Thanh Tâm Tuyền mang nỗi nhớ thương đất Bắc. Đặc biệt những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ mang tính chất chống cộng.
(5).Về thi ca:
Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Trần Da Từ, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Duy Thanh, Vương Tân, Hoàng Bảo Việt, Phạm Nguyên Vũ. Về thơ, nhóm Sáng Tạo, nhất là Thanh Tâm Tuyền, đã cổ vũ cho loại thơ tự do và thơ xuôi. Họ có những ý kiến, những tư tưởng về thi ca.
Trong bài Nói chuyện về thơ bây giờ, Thanh Tâm Tuyền đề cao phái Siêu Thực:
Thơ bây giờ là một sự xáo trộn ngôn ngữ. Ta phải ghi nhận công của phái Siêu Thực Tây phương đối với ngôn ngữ. Khi tôi làm thơ, ngoài mối ám ảnh chung về tư tưởng đức lý nói trên, còn theo đuổi một mối ám ảnh về ngôn ngữ.. Nhà thơ còn đóng một vai trò trong đời sống ngôn ngữ dân tộc. Nhà thơ tầm thường là thợ ngôn ngữ. Có tài là kẻ sáng chế ngôn ngữ ( ST số 2 bộ mới, tháng 8-1960, 4.).
Thanh Tâm Tuyền còn cho rằng Hình thức không quan trọng ( tr.6). Thanh Tâm Tuyền chê bai Vũ Hoàng Chương vì thơ Vũ Hoàng Chương không còn là ngôn ngữ bây giờ.. Thơ Vũ Hoàng Chương bây giờ do đó chỉ là sử dụng khéo léo những xác chữ, mà đời sống đã đi mất (9).
Lê Huy Oanh có ý kiến khác Thanh Tâm Tuyền:
Ngôn ngữ trong thơ của các thi sĩ tiền chiến như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử. . . chưa hẳn đã hoàn toàn lỗi thời (9).
Trong bài Nỗi buồn trong thơ hôm nay, Thanh Tâm Tuyền cho rằng thơ mới là thơ phá thể, song ‘’thơ hôm nay không dừng lại ở thơ phá thể, thơ hôm nay là thơ tự do’’ (ST 31, 9-1059,1). Thanh Tâm Tuyền đã cho biết rằng hiện tại, người đọc không ủng hộ thơ tự do và thơ xuôi, nhưng trong tuơng lai, họ sẽ thay đổi quan niệm. Ông viết:
Tôi nghĩ rằng điều làm cho người đọc xa lạ với thơ hôm nay không hoàn toàn vì hình thức tự do của nó.Thơ không vần, không điệu, thơ xuôi nếu quả thật là thơ - nghĩa là đạt đến ngôn ngữ mầu nhiệm, không chỉ chuyên chở ý tưởng mà còn ám ảnh vang vọng mãi trong tâm hồn - thì sớm muộn người đọc cũng tìm thấy và quen dần với một thứ nhịp điệu đơn giản rất gọn (ST 31, 9-1959,1).
Đa số nhà thơ trên Sáng Tạo đã làm thơ xuôi. Nhưng một thời gian sau, người đọc vẫn thờ ơ với Thanh Tâm Tuyền và Tôi Không Còn Cô Độc của ông. Chính các thi sĩ trong Sáng Tạo cũng đã hạ bớt nhiệt tình với thơ xuôi.
Sáng Tạo đã cố gắng làm mới thi ca Việt Nam, và đã làm giàu cho tiểu thuyết Việt Nam với những sắc thái mới mẻ và sát với đời sống thực hơn. Sáng Tạo chỉ tồn tại vài năm, không lâu dài như Đông Dương, Nam Phong và Tự Lực Văn Đoàn với Phong Hóa và Ngày Nay, song cũng đạt nhiều thành tích, làm cho văn học miền Nam thêm khởi sắc. So với các tạp chí đương thời, Sáng Tạo quả là Thái Sơn, Bắc Đẩu trên nền trời văn học Việt Nam.
Trong Sáng Tạo có những người hiểu biết sâu xa như Lê Huy Oanh, nhưng Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh thì quá khích, đã phủ nhận giá trị thơ tiền chiến.[1] Thanh Tâm Tuyền đã quá tin vào thơ xuôi mà không biết rằng tại Tây phương, thơ xuôi cũng như tân tiểu thuyết chỉ là nhất thời. Ông chỉ trích Vũ Hoàng Chương và các thi sĩ tiền chiến, đồng thời ca tụng anh em cùng nhóm. Thế Uyên đã không đồng ý với Sáng Tạo về thái độ làm ầm ĩ về Nhất Linh ‘’tiền chiến’’, và về cái thái độ bắt đầu xây dựng văn nghiệp bằng cách phủ nhận tất cả quá khứ ( Nhật Thịnh, Chân Dung Nhất Linh, 160).
Ngày xưa, Phong Hóa cũng đã phạm lỗi công kênh nhau và công kích các bậc tiền bối lẫn những văn thi sĩ đương thời. Thiết tưởng, nhà thơ, nhà văn nên cố gắng làm hết sức mình, sau này độc giả và dư luận sẽ phê phán, không nên nâng mình mà hạ người. Đó là tài hoa và đạo đức của văn nghệ sĩ chân chính.
Trong khoảng thập niên 60, thời gian Sáng Tạo đóng cửa, nhiều tạp chí khác ra đời như Văn Nghệ, Hiện Đại . Những chủ nhiệm, chủ bút và các cộng tác viên của các tạp chí này đều đã viết cho Sáng Tạo. Và những tạp chí này đều là tạp chí văn nghệ, chủ trương gần giống với Sáng Tạo. Bàn về tạp chí Sáng Tạo, Tạ Tỵ viết:
Có nhiều người nói tờ Sáng Tạo ra đời được là do quỹ nọ quỹ kia. Việt cộng, Hồ Chí Minh sống còn nhờ vào tiền bạc, vũ khí của đệ tam quốc tế thì cũng vậy thôi. Riêng tôi không cần biết, tôi chỉ biết mục đích của nó chống cộng và phục vụ văn hóa văn nghệ là đủ. Phải thừa nhận Sáng Tạo đã có công khai phá, mở ra một chân trời mới cho hướng đi của văn nghệ. Nó không công nhận những giá trị cũ, tự nó hình thành những công trình do sự đóng góp của nhóm anh em đồng chí hướng.
Sáng Tạo ra đời tháng 10- 1957, khoảng 31 số (số 31 tháng 9-1959). Sáng Tạo bộ mới ra đời tháng 7- 1960, và đóng cửa sau khi ra được khoảng 4, 5 số. Sáng Tạo trước hết là một tạp chí văn học nghệ thuật, chủ trương văn nghệ tự do và đổi mới văn nghệ. Họ là những người Bắc di cư, có người đã sống và hoạt động trong chiến khu Việt Minh. Họ đã bị cộng sản khống chế mọi thứ tự do, trong đó có tự do sáng tác. Cũng như Trần Dần và các văn nghệ sĩ quân đội và dân chính, họ hết sức phản đối văn nghệ chỉ huy.Một số trong Sáng Tạo là người Trung, người Nam là những người trẻ tài hoa, muốn xây dựng một nếp sống mới và nền văn học, nghệ thuật mới. Trong bài Chúng ta hình thành văn nghệ mới, Trần Thanh Hiệp viết:
Chúng ta không muốn ở đây có mặt những
‘’ chính trị viên văn nghệ’’. Tôi không muốn là một nhà đạo đức bàn chuyện’’ văn dĩ tải đạo’’. Câu chuyện văn nghệ nên trả về cho những người văn nghệ . . . . Có thể lướt qua, không bàn nhiều về nhiều về thứ văn nghệ giai cấp . Vì rằng những người đề xướng văn nghệ giai cấp là những người gian lận, những người làm trò ảo thuật.. Mọi tính tự ‘’tùy viên’’: tiến bộ, xã hội, khoa học, hiện thực v. v. . chỉ là những lời thế bạc ! (ST 21, 6-1958, 11).
Trần Thanh Hiệp , Mai Thảo và Thanh Tâm Tuyền muốn học hỏi văn chương và triết học Tây phương để làm giàu cho học thuật và tư tưởng nước nhà. Trần Thanh Hiệp viết:
Văn nghệ Tây phương phong phú về thể nghiệm, về biến thái. Con người trong đó được trình bày qua khắp các khía cạnh. . . Nhưng có lẽ bổ ích nhất cho chúng ta là sự bổ túc của văn nghệ Tây phương hiện kim, đánh dấu một chuyển hướng lớn (ST 21, 6-1958, 13).
Sáng Tạo đã đạt được nhiều thành tích lớn:
1. Sáng Tạo tập họp được một số tài năng .Ngoài những người trong ban biên tập như Doãn Quốc Sỹ, Duy Thanh, Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thái Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, và Trần Thanh Hiệp, còn có các cộng tác viên. như Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Mai Trung Tĩnh, Võ Phiến, Trường Dzi, Trần Lê Nguyễn, Thao Trường, Vĩnh Lộc, Nguyễn Đức Sơn, Viên Linh, Vương Tân, Lý Hoàng Phong, Thạch Trân, Hoàng Bảo Việt, Tô Kiều Ngân, Phạm Nguyên Vũ . . . Những người này hoạt động hữu hiệu trong thời gian đó và còn là nòng cốt trong nền văn học nghệ thuật 1960- 1975 và văn học Việt Nam hải ngoại. Những người này , đa số giỏi hai ba bộ môn. Mai Thảo, Trần Thanh Hiệp , Duy Thanh là nhà văn cũng là nhà thơ. Nguyên Sa viết truyện, làm thơ và biên khảo.
2. Sáng Tạo đã hoạt động thành công trên nhiều bộ môn:
( 1).Về khảo luận:
Nguyên Sa, Nguyễn Sỹ Tế, Lê Huy Oanh, Lữ Hồ, Lê Văn Siêu. Họ nghiên cứu văn học Việt Nam, văn học quốc tế, và triết học, nhất là tư tưởng Hiện Sinh. Tư tưởng Hiện Sinh đã ảnh hưởng sâu xa đến nhóm Sáng Tạo. Thơ Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh, Tô Thùy Yên; tiểu thuyết của Mai Thảo đều phản chiếu tư tưởng Hiện Sinh.
(2). Về hội họa: Thái Tuấn, Duy Thanh,Ngọc Dũng, Tạ Tỵ.
(3).Về âm nhạc: Lê Cao Phan, Cung Thư, Nguyễn Phụng.
(4).Về truyện dài, truyện ngắn: bộ môn này rất phong phú: Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh, Dương Nghiễm Mậu, Trường Dzi, Người Sông Thương, Võ Phiến, Thanh Nam, Trần Thanh Hiệp. Thạch Trân, Tạ Ty, Lôi Tam. Các tác phẩm của Sáng Tạo có những nhân vật và sự kiện mới. Họ là những nhân vật thực trong cuộc sống, là những người Bắc di cư vào Nam, là những phụ nữ miền Nam phải làm gái trong những xóm nghèo, là những thợ thuyền trong xóm lao động, là những người lính từ mặt trận trở về. Họ khác với những nhân vật của Nhất Linh, Hồ Biểu Chánh hay Hồ Hữu Tường.
Những truyện dài, truyện ngắn của Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Duy Thanh, Thanh Tâm Tuyền mang nỗi nhớ thương đất Bắc. Đặc biệt những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ mang tính chất chống cộng.
(5).Về thi ca:
Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Trần Da Từ, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Duy Thanh, Vương Tân, Hoàng Bảo Việt, Phạm Nguyên Vũ. Về thơ, nhóm Sáng Tạo, nhất là Thanh Tâm Tuyền, đã cổ vũ cho loại thơ tự do và thơ xuôi. Họ có những ý kiến, những tư tưởng về thi ca.
Trong bài Nói chuyện về thơ bây giờ, Thanh Tâm Tuyền đề cao phái Siêu Thực:
Thơ bây giờ là một sự xáo trộn ngôn ngữ. Ta phải ghi nhận công của phái Siêu Thực Tây phương đối với ngôn ngữ. Khi tôi làm thơ, ngoài mối ám ảnh chung về tư tưởng đức lý nói trên, còn theo đuổi một mối ám ảnh về ngôn ngữ.. Nhà thơ còn đóng một vai trò trong đời sống ngôn ngữ dân tộc. Nhà thơ tầm thường là thợ ngôn ngữ. Có tài là kẻ sáng chế ngôn ngữ ( ST số 2 bộ mới, tháng 8-1960, 4.).
Thanh Tâm Tuyền còn cho rằng Hình thức không quan trọng ( tr.6). Thanh Tâm Tuyền chê bai Vũ Hoàng Chương vì thơ Vũ Hoàng Chương không còn là ngôn ngữ bây giờ.. Thơ Vũ Hoàng Chương bây giờ do đó chỉ là sử dụng khéo léo những xác chữ, mà đời sống đã đi mất (9).
Lê Huy Oanh có ý kiến khác Thanh Tâm Tuyền:
Ngôn ngữ trong thơ của các thi sĩ tiền chiến như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử. . . chưa hẳn đã hoàn toàn lỗi thời (9).
Trong bài Nỗi buồn trong thơ hôm nay, Thanh Tâm Tuyền cho rằng thơ mới là thơ phá thể, song ‘’thơ hôm nay không dừng lại ở thơ phá thể, thơ hôm nay là thơ tự do’’ (ST 31, 9-1059,1). Thanh Tâm Tuyền đã cho biết rằng hiện tại, người đọc không ủng hộ thơ tự do và thơ xuôi, nhưng trong tuơng lai, họ sẽ thay đổi quan niệm. Ông viết:
Tôi nghĩ rằng điều làm cho người đọc xa lạ với thơ hôm nay không hoàn toàn vì hình thức tự do của nó.Thơ không vần, không điệu, thơ xuôi nếu quả thật là thơ - nghĩa là đạt đến ngôn ngữ mầu nhiệm, không chỉ chuyên chở ý tưởng mà còn ám ảnh vang vọng mãi trong tâm hồn - thì sớm muộn người đọc cũng tìm thấy và quen dần với một thứ nhịp điệu đơn giản rất gọn (ST 31, 9-1959,1).
Đa số nhà thơ trên Sáng Tạo đã làm thơ xuôi. Nhưng một thời gian sau, người đọc vẫn thờ ơ với Thanh Tâm Tuyền và Tôi Không Còn Cô Độc của ông. Chính các thi sĩ trong Sáng Tạo cũng đã hạ bớt nhiệt tình với thơ xuôi.
Sáng Tạo đã cố gắng làm mới thi ca Việt Nam, và đã làm giàu cho tiểu thuyết Việt Nam với những sắc thái mới mẻ và sát với đời sống thực hơn. Sáng Tạo chỉ tồn tại vài năm, không lâu dài như Đông Dương, Nam Phong và Tự Lực Văn Đoàn với Phong Hóa và Ngày Nay, song cũng đạt nhiều thành tích, làm cho văn học miền Nam thêm khởi sắc. So với các tạp chí đương thời, Sáng Tạo quả là Thái Sơn, Bắc Đẩu trên nền trời văn học Việt Nam.
Trong Sáng Tạo có những người hiểu biết sâu xa như Lê Huy Oanh, nhưng Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh thì quá khích, đã phủ nhận giá trị thơ tiền chiến.[1] Thanh Tâm Tuyền đã quá tin vào thơ xuôi mà không biết rằng tại Tây phương, thơ xuôi cũng như tân tiểu thuyết chỉ là nhất thời. Ông chỉ trích Vũ Hoàng Chương và các thi sĩ tiền chiến, đồng thời ca tụng anh em cùng nhóm. Thế Uyên đã không đồng ý với Sáng Tạo về thái độ làm ầm ĩ về Nhất Linh ‘’tiền chiến’’, và về cái thái độ bắt đầu xây dựng văn nghiệp bằng cách phủ nhận tất cả quá khứ ( Nhật Thịnh, Chân Dung Nhất Linh, 160).
Ngày xưa, Phong Hóa cũng đã phạm lỗi công kênh nhau và công kích các bậc tiền bối lẫn những văn thi sĩ đương thời. Thiết tưởng, nhà thơ, nhà văn nên cố gắng làm hết sức mình, sau này độc giả và dư luận sẽ phê phán, không nên nâng mình mà hạ người. Đó là tài hoa và đạo đức của văn nghệ sĩ chân chính.
Trong khoảng thập niên 60, thời gian Sáng Tạo đóng cửa, nhiều tạp chí khác ra đời như Văn Nghệ, Hiện Đại . Những chủ nhiệm, chủ bút và các cộng tác viên của các tạp chí này đều đã viết cho Sáng Tạo. Và những tạp chí này đều là tạp chí văn nghệ, chủ trương gần giống với Sáng Tạo. Bàn về tạp chí Sáng Tạo, Tạ Tỵ viết:
Có nhiều người nói tờ Sáng Tạo ra đời được là do quỹ nọ quỹ kia. Việt cộng, Hồ Chí Minh sống còn nhờ vào tiền bạc, vũ khí của đệ tam quốc tế thì cũng vậy thôi. Riêng tôi không cần biết, tôi chỉ biết mục đích của nó chống cộng và phục vụ văn hóa văn nghệ là đủ. Phải thừa nhận Sáng Tạo đã có công khai phá, mở ra một chân trời mới cho hướng đi của văn nghệ. Nó không công nhận những giá trị cũ, tự nó hình thành những công trình do sự đóng góp của nhóm anh em đồng chí hướng.
Nó đã mở đường cho nhiều
nhà văn, nhà thơ trẻ, nổi bật nhất là Dương Nghiễm Mậu, Nguyên Sa (Những
Khuôn Mặt Văn Nghệ Đã đi Qua Đời Tôi. 210)
Văn Nghệ là một nguyệt san văn nghệ, do Đoàn Tường chủ nhiệm , bút hiệu Lý Hoàng Phong, là anh ruột của Quách Thoại ( Đoàn Thoại), Ngọc Dũng làm thơ ký. Số đầu ra mắt độc giả vào tháng 2-1961, tòa soạn số 554 Trương Minh Giảng, Sài gòn. Ban biên tập có Thanh Tâm Tuyền, Lê Huy Oanh, Viên Linh, Dương Nghiễm Mậu, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Kiêm Minh, Mai Thảo, Tô Thùy Yên, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Lê Xuyên, Võ Phiến, Vương Tân, Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Thạch, Phan Nguyên, Hoàng Bảo Việt, Trần Lê Nguyễn,Văn Nghệ ra được khoảng 22 số ( tháng 3-1963), nghĩa là tồn tại được ba năm. Trong làng báo chí Việt Nam, ba năm cũng là trường thọ cho một tạp chí văn nghệ tư nhân. Sáng Tạo tập trung nhiều người tài ba. Doãn Quốc Sỹ mở đường cho văn học chống cộng tại miền Nam. Duy Thanh là họa sĩ và cũng là một cây viết truyện ngắn sắc sảo. Thanh Tâm Tuyền là thi sĩ và cũng là tiểu thuyết gia. Trần Thanh Hiệp lý luận, Nguyên Sa vừa chuyên thi ca và triết học.
______
Văn Nghệ là một nguyệt san văn nghệ, do Đoàn Tường chủ nhiệm , bút hiệu Lý Hoàng Phong, là anh ruột của Quách Thoại ( Đoàn Thoại), Ngọc Dũng làm thơ ký. Số đầu ra mắt độc giả vào tháng 2-1961, tòa soạn số 554 Trương Minh Giảng, Sài gòn. Ban biên tập có Thanh Tâm Tuyền, Lê Huy Oanh, Viên Linh, Dương Nghiễm Mậu, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Kiêm Minh, Mai Thảo, Tô Thùy Yên, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Lê Xuyên, Võ Phiến, Vương Tân, Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Thạch, Phan Nguyên, Hoàng Bảo Việt, Trần Lê Nguyễn,Văn Nghệ ra được khoảng 22 số ( tháng 3-1963), nghĩa là tồn tại được ba năm. Trong làng báo chí Việt Nam, ba năm cũng là trường thọ cho một tạp chí văn nghệ tư nhân. Sáng Tạo tập trung nhiều người tài ba. Doãn Quốc Sỹ mở đường cho văn học chống cộng tại miền Nam. Duy Thanh là họa sĩ và cũng là một cây viết truyện ngắn sắc sảo. Thanh Tâm Tuyền là thi sĩ và cũng là tiểu thuyết gia. Trần Thanh Hiệp lý luận, Nguyên Sa vừa chuyên thi ca và triết học.
______
[1] Lê Huy Oanh, Nhận định về thơ hậu chiến, Văn Nghệ 8, 10-1961, 17.
MỤC LỤC PHÂN TÍCH TẠP CHÍ SÁNG TẠO
MỤC LỤC BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG (38)
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 254
ẢNH HƯỞNG CỦA TẠP CHÍ SÁNG TẠO
Ảnh hưởng & đóng góp của tạp chí Sáng Tạo
11/12/2011
“Thanh Tâm Tuyền cùng nhóm Sáng Tạo là một hiện tượng của văn học miền Nam thời kỳ 1954–1975.” Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã vượt lên trên cái nhìn đầy thành kiến và ác ý ở trong nước để khẳng định như vậy. Nhiều nhà phê bình văn học khác cũng công nhận vai trò tiên phong mở đường và công lao cũng như ảnh hưởng lâu dài của tạp chí Sáng Tạo. Thật vậy, ngoài những sáng tác để lại cho đời sau của các tác giả như Trần Thanh Hiệp, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Sỹ Tế, Thái Tuấn, Duy Thanh, Ngọc Dũng hay Cung Tiến, nhóm Sáng Tạo đã đem đến những đổi mới trong cách diễn đạt và suy tưởng cho văn học ở Miền Nam. Để soi sáng và định hướng con đường đi của mình, nhóm thường tổ chức những cuộc hội thảo giữa các thành viên với nhau. Một trong những cuộc hội thảo đáng chú ý nhất sau này được đặt tên là “Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo”.
Tạp chí Sáng Tạo
Tuy nhiên đối với nhóm Sáng Tạo thì những thành tựu của Tự Lực Văn Đoàn cần phải xét lại. Những thành viên trong nhóm Sáng Tạo cho rằng Tự Lực Văn Đoàn vẫn còn hạn chế trong việc khai phóng một nền văn chương thật sự cho đất nước. Sáng Tạo đã đưa ra nhiều nhận xét mà người đọc thoạt đầu khó thể chấp nhận, nhưng nhìn trên khung cảnh lịch sử văn học thì những sự chống đối của Sáng Tạo không nằm ngoài phạm vi mong muốn một sự khai phá và đổi mới triệt để. Có thể ngôn ngữ của các thành viên Sáng Tạo hơi quá khích hay chủ quan, nhưng cốt lõi vấn đề được họ đào bới rất khách quan và cần thiết cho bất cứ một nền văn học nào. Khao khát khai phá cái mới, cái cần thiết cho một nền văn học là mục tiêu cũng là lý tưởng của các thành viên trong nhóm.
Quan điểm của nhóm về một số vấn đề
Thanh Tâm Tuyền mạnh mẽ hơn khi nói rằng nông cạn của nghệ thuật tiền chiến, lỗi chính vẫn là ở những người sáng tác, không phải ở hoàn cảnh. Sự va chạm mạnh mẽ giữa văn hoá Đông-Tây đầu thế kỷ, các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn nhìn một cách rất thu hẹp, trong phạm vi cá nhân, mà không hề thấy đó là sự đảo lộn cả một nếp sinh hoạt mấy nghìn năm, mà trong đó dân tộc phải tìm lấy một đường lối giải thoát thích hợp, không bảo thủ luyến tiếc quá khứ thì họ lại đuổi theo một thứ tình cảm cá nhân để giải quyết cho riêng mình.
Trong hoàn cảnh phôi thai của nền hội họa thời bấy giờ mà nhóm Sáng Tạo đã ý thức được hội họa và văn chương có quan hệ mật thiết như thế nào, đã khởi đầu cho một cuộc vận động toàn diện nhằm hòa nhập thật sự vào dòng chảy văn học thế giới. Sự nhấn mạnh đến những phong trào, những khuynh hướng sáng tác đã tác động đến vấn đề sáng tác và nhận thức mỹ học ra sao đã khiến nhóm Sáng Tạo được nhiều văn nghệ sĩ lẫn trí thức tin tưởng hơn vào chủ trương lẫn lý thuyết của nhóm. Những sáng tác của anh em Sáng Tạo và những suy tưởng lý luận của họ đã ảnh hưởng sâu đậm tới vận hành của văn học nghệ thuật Miền Nam. Võ Phiến viết trong Văn Học Miền Nam Tổng Quan: “Tháng 10 năm 1956 tạp chí Sáng Tạo ra đời. Tờ báo đáp ứng một sự thiếu vắng, nó được hoan nghênh ngay. Trước “vận hội mới” quần chúng độc giả chờ đợi một xuất hiện mới trên lãnh vực văn nghệ. Loại thơ văn trên báo Đời Mới của Trần Văn Ân chẳng hạn không còn sức thu hút nữa, những sáng tác ra mắt trên nhật báo không thể thỏa mãn, tờ Mùa Lúa Mới vẫn chỉ là của một địa phương. Tờ Sáng Tạo chính đã đến đúng lúc. Và nó đã nhằm đúng vào tâm trạng quần chúng: chờ cái mới. Thoạt ra mắt, Sáng Tạo đã phát động ngay “một nền nghệ thuật mới”, “nghệ thuật hôm nay”. Phát động thật ồn ào. Mười bốn năm sau, Mai Thảo nói về lúc khởi đầu ấy vẫn còn nói bằng giọng say sưa: “Chất nổ ném vào. Cờ phất. Xuống núi, xuống đường. Ra biển, ra khơi. Và cuộc cách mạng tất yếu và biện chứng của văn chương đã bắt đầu.” Cách mạng chống lại cái gì? Phá bỏ cái gì vậy? – Những cái không thuộc về hôm nay: “Trong một thực trạng dày đặc những chất liệu của sáng tạo và phá vỡ như vậy, văn học nghệ thuật mặc nhiên không thể còn là tả chân Nguyễn Công Hoan, lãng mạn lối Thanh Châu, những khái niệm Xuân thu, những luận đề Tự lực.” Cuộc cách mạng này “tựu trung vẫn chỉ là lịch sử tiến trình biện chứng của những trào lưu cạn dòng phải nhượng bộ rứt thoát cho những ngọn triều lớn dậy thay thế”. Tuy nhiên, Võ Phiến tỏ ra nghi ngờ: “Nhưng đến khi cần biết về “ngọn triều lớn” thì không thể biết gì rõ ràng. “Văn nghệ hôm nay” chủ trương ra sao? Đưa ra lý thuyết gì? Vạch ra những đường lối gì? Bác bỏ văn nghệ hôm qua ở chỗ nào? – Nhóm Sáng Tạo không có giải đáp…” Tuy vậy, tác giả Văn Học Miền Nam Tổng Quan cũng công nhận: “Nhìn như một tinh thần, thì đó là một tinh thần đổi mới đầy tự tin, đầy hứng khởi. Tinh thần ấy có sức lôi cuốn, động viên; một tinh thần đáng tán thưởng.” Và Võ Phiến đã ca ngợi thành quả của tạp chí Sáng Tạo: “Sáng Tạo đã có những đóng góp đáng kể. Mặc dù chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn 31 tháng, nó đã phát huy được một số văn tài đông đảo. Nhiều người trong số đó về sau, sau khi tờ tạp chí đình bản, tiến lên giữ vai trò quan trọng trong những hoạt động văn nghệ riêng biệt của mình. Thanh Tâm Tuyền dần dần viết truyện nhiều hơn làm thơ, viết truyện rất thành công và có ảnh hưởng rộng trong văn giới lớp sau; Doãn Quốc Sỹ chủ trương một nhà xuất bản, giới thiệu thêm một số cây bút mới nữa (trong đó có Phan Nhật Nam); Nguyên Sa rồi đứng ra chủ trương các tạp chí Gió Mới, Hiện Đại, và có một uy thế riêng; Tô Thùy Yên, Sao Trên Rừng (sau đổi ra là Nguyễn Đức Sơn) rồi trở thành những thi sĩ có bản sắc đặc biệt; Dương Nghiễm Mậu sáng tác mỗi lúc mỗi phong phú mỗi độc đáo, chủ trương nào nhà xuất bản nào tạp chí Văn Nghệ (cùng với Lý Hoàng Phong), là một cây bút xuất sắc hoạt động mạnh mẽ cho đến ngày cuối cùng của Miền Nam v. v…”(Võ Phiến “Văn Học Miền Nam Tổng Quan” )
Từ
trái: Trần Lê Nguyễn, Mai Thảo, Thái Tuấn, Thanh Tâm Tuyền (chú rể),
Mai Hoa (cô dâu), Nguyễn Sĩ Tế, Ngọc Dung, Trần Thành Hiệp
“… Ở miền Nam, tháng 10 - 1956, tạp chí Sáng Tạo ra đời tại Sàigòn như một sự “nổi loạn”, một “chất nổ phá đổ cái cũ, tạo dựng cái mới”. Trên Sáng Tạo xuất hiện những tên tuổi: Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Quách Thoại, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đức Sơn... Họ tạo dựng cái mới như thế nào? Mai Thảo bảo: “Văn học nghệ thuật mặc nhiên không thể còn là tả chân Nguyễn Công Hoan, lãng mạn lối Thanh Châu, những khái niệm Xuân Thu, những luận đề Tự Lực... Những trào lưu cạn dòng phải nhượng bộ rứt thoát cho những ngọn triều lớn dậy thay thế. [...] Cái vấn đề lớn nhất của chúng ta bây giờ, trước sau vẫn là phải làm sao đoạn tuyệt được hoàn toàn với những ám ảnh và những tàn tích của quá khứ [...]. Công tác chặt đứt với những trói buộc cũ phải được đặt lên hàng đầu... và thơ bây giờ là thơ tự do”(1). Ở bình diện khác, Thanh Tâm Tuyền định nghĩa nổi loạn: “Nổi loạn là một hành động đòi được gia nhập đời sống: Kẻ nô lệ đòi quyền sống như những người tự do. Như thế nổi loạn là điều kiện sáng tạo.” Trên thực tế, có thể nói Sáng Tạo đã làm được “ngọn triều lớn” trong thời điểm 50 - 60, tương tự như Tự Lực Văn Đoàn những năm 39 - 45: “Thổi nguồn gió mới vào thời đại của họ, thay đổi bộ mặt văn học nghệ thuật.” Theo Thụy Khuê, “Sáng Tạo đã thành công trong việc hiện đại hóa văn học, đem hai dòng mạch lớn của thế kỷ XX vào văn học Việt: Dòng hiện sinh và dòng siêu thực, với những tính chất nền tảng: Hoài nghi và Mộng tưởng.” Tiếp tục những nhận định của mình, Thụy Khuê viết: “Về văn xuôi và tiểu luận, xuất hiện những tiêu đề chính trong văn học hiện đại, chủ yếu biện chứng của Sartre: 1. Đặt lại vấn đề tác phẩm (oeuvre). Có thể có tác phẩm văn học hay không? Có thể có một cuốn tiểu thuyết, một kịch bản, một bài thơ được không? Chữ nghĩa có giá trị gì? Đặt lại vấn đề viết (écriture). Viết như thế nào? Lối viết kể chuyện, có cốt truyện, và cả lối viết hiện thực, tả chân kiểu Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng... đã lỗi thời vì không đạt tới tận cùng tính cách chính xác và xác thực. Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền là một ví dụ về cách viết, cách đặt lại vấn đề viết. 2. Tác phẩm mở: tác phẩm không còn mục đích hướng dẫn người đọc tới một chủ đích như luân lý, đạo đức, triết học, văn chương, xã hội, v.v... nữa. Tác phẩm không cần kết luận, mà tác phẩm trình bầy một biện chứng, một thẩm mỹ của sự dang dở, mở cửa cho những suy nghĩ khác và sẵn sàng chờ đón những nối tiếp về sau (Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, Tháng Giêng Cỏ Non, Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời của Mai Thảo...). 3. Tính chất biến dạng của tác phẩm: tác giả không còn là chứng nhân biện hộ (témoin de la défense) kiểu Gide, mà trở thành chứng nhân không thể loại trừ (témoin inéliminable), kiểu Sartre, chứng nhân nằm trong diễn biến, chao đảo với hoàn cảnh, chịu sự chia phối của các áp lực nội tâm cũng như ngoại cảnh (Tâm trong “Bếp Lửa” của Thanh Tâm Tuyền). 4. Đưa vai trò của nhận thức (perception) vào tác phẩm. Tác phẩm không còn nhiệm vụ khơi gợi cảm xúc và làm mủi lòng theo nghĩa lãng mạn, mà tác phẩm gây nỗi đau, gây khó chịu bằng nhận thức (thơ Thanh Tâm Tuyền). 5. Xuất hiện hình thức mỉa mai, châm biếm hiện đại (ironie moderne) kiểu Sartre, Beckett, thay thế lối châm biếm lãng mạn (ironie romantique), kiểu Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng. Dạng thức này cay độc hơn vì người viết không ở ngoài để ghi nhận hiện thực mà ở ngay trong cuộc, diễu mình, cười mình. Lối tự trào này rải rác trong các tác phẩm của những người cùng thời với Sáng Tạo như Túy Hồng, Nhã Ca, Trần Thị Ngh, ... gọi nôm na là sự “chọc quê” chính mình. 6. Tính cách dấn thân của người nghệ sĩ trong sáng tạo và trong cuộc sống, thể hiện trên hai mặt: - Chính trị: Chiến sĩ tự do, (...) truyền thống anh hùng (kiểu Malraux) như Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền,... - Văn nghệ: Cực lực đổi mới, bài trừ cái cũ: Chống Tự Lực Văn Đoàn, đả kích Vũ Hoàng Chương... Thái độ “chặt đứt” với quá khứ, tính cách “nổi loạn” và những tuyên ngôn thái quá làm gai mắt những người cựu trào như Nguyễn Hiến Lê (Đời Viết Văn Của Tôi), Võ Phiến (Văn Học Miền Nam). 7. Hoài nghi: trên tất cả là hư vô, không có gì hết (Mai Thảo). 8. Dòng mạch siêu thực hòa hợp mộng vào đời, mở những ngưỡng cửa mới cho sáng tác: đập vỡ bức màn kiểm duyệt của lý trí, của ý thức xã hội, tìm đến bề sâu của tâm hồn ẩn dấu trong phần tiềm thức và vô thức, nâng cao vai trò của tưởng tượng, tìm ra những phương pháp tạo hình mới cho thơ và họa, mở thêm một cánh cửa nữa về phía Tự do. Sáng Tạo đã nắm bắt được luồng sinh khí ấy và đem vào văn học Việt.” (nguồn: http://thuykhue.free.fr/mucluc/sangtao.html) Một thời đại đã qua. Nhiều biến chuyển được ghi nhận trên dòng lịch sử và văn học Việt Nam. Tuy nhiên, quan điểm và ảnh hưởng của Sáng Tạo vẫn còn có mặt ở đâu đó, trong nhận thức và cách nghĩ, cách viết của các nhà văn hiện đại. Thiết tưởng, công lao đó không nhỏ. NGUYỄN & BẠN HỮU |
Các bài liên quan
- Linda Lê Viết giữa hai nền văn hóa
- Thanh Tâm Tuyền và những người bạn trước khi có tạp chí Sáng Tạo
- Thanh Tâm Tuyền và những người bạn trước khi có tạp chí Sáng Tạo
- Thanh Tâm Tuyền và những người bạn trước khi có tạp chí Sáng Tạo
- Thanh Tâm Tuyền và những người bạn trước khi có tạp chí Sáng Tạo
- Lạch Đước
- Măng đầu mùa muộn
- Đêm Cao Miên
Bạn có thể đưa ý kiến của mình vào khung phía dưới. Ý kiến của Bạn sẽ
được Tre Online xem xét trước khi đưa lên trang web, phù hợp với Nguyên
tắc sử dụng của Tre Online. Ý kiến của Bạn sẽ không xuất hiện ngay lập
tức. Tre Online không chịu trách nhiệm về nội dung các ý kiến.
Enter Code: |
NGUYÊN SA * TRIẾT HỌC CỦA KANT
TRIẾT HỌC CỦAKANT (I)
Tác giả: Nguyên Sa
Sáng Tạo, số 11, tháng 8, 1957
________________
Văn thi sĩ, Nguyên Sa còn là giáo sư
Triết bậc trung học. Chúng tôi xin trân trọng
giới thiệu lại một số bài viết của
Nguyên Sa trong lĩnh vực này, xuất hiện trên tạp
chí Sáng Tạo vào cuối thập niên 1950, với ngôn
ngữ thời đó.
Phạm Trọng Luật
___________________________
Khi Kant bắt đầu giảng dạy
tại đại học Konigsberg thì triết học Tây phương đang
bị chi phối bởi hai trào lưu tư tưởng
chính: một bên là những đề án có tính cách quyết
đoán (dogmatique) của Leibniz và Wolf, bên kia là những tác
phẩm thiên về hoài nghi chủ nghĩa của David Hume.
Những người thuộc phe quyết
đoán tin rằng có đủ chứng cớ để
chứng minh sự hiện hữu của Thượng
đế, sự bất diệt của linh hồn, tính
tự do của con người. Rồi họ suy diễn
ra rằng: tin tưởng ở Thượng đế, ta
có thể hy vọng sẽ được hưởng một
cuộc đời bất diệt đầy hạnh phúc.
Kết luận: ta phải cố gắng làm việc tu nhân,
tích đức cho thuận với lẽ trời.
Cũng có những người thuộc phe
quyết đoán lại chủ trương ngược
hẳn lại. Họ cho rằng có thể chứng minh
sự vô hữu của Thượng đế - chết là
hết - và họ nghĩ rằng ta không có gì để hy
vọng ở bên kia cõi đời này. Cho nên tất cả
vấn đề là làm thế nào quy định
được cho rõ ràng thế nào là hạnh phúc và cách
thức đạt tới ra làm sao?
Phe hoài nghi chủ nghĩa cho rằng ta không
thể trả lời được câu hỏi có Trời
hay không. Ta không thể biết được một chút gì
về nguồn gốc và số phận ta. Cho nên ta không nên
hy vọng vì tất cả có thể là ảo vọng.
Cuộc sống của ta như vậy, ta nên hướng
dẫn theo thói lề, tập quán, rồi được
đến đâu hay đến đấy - đó là
lời khuyên của một Montaigne. Còn câu hỏi: «ta
phải sống ra làm sao?» là một vấn đề nan
giải.
Nhận biết rõ hoàn cảnh triết học
đường thời (và cũng là hoàn cảnh truyền
thống của triết học), Kant đã tóm tắt
lại trong một trang sách danh tiếng rằng: những
vấn đề triết học thật ra chỉ có ba
vấn đề. Thứ nhất: ta biết
được những gì? Thứ hai: ta được
phép hy vọng gì? Và thứ ba: ta phải làm gì? Vấn
đề thứ nhất nhằm sự phê bình những
khả năng của tri thức. Vấn đề thứ
hai thuộc phạm vi tôn giáo. Và vấn đề sau cùng là
một vấn đề luân lý. Những nhà triết học
trước Kant đều đặt và thử giải
quyết ba vấn đề kể trên theo thứ tự
đó: Kant cũng nhận thấy rằng cần thiết
phải trả lời ba vấn đề đó. Nhưng
cái đặc biệt đầu tiên của nhà triết
học Đức là đã không theo thứ tự cổ
truyền trong khi thử giải quyết. Kant nghĩ
rằng vấn đề luân lý không tùy thuộc vấn
đề tôn giáo. «Ta phải làm gì?» không cần phải
được diễn dịch ra từ lời giải
thích câu hỏi «ta có thể hy vọng được gì?» Và
hơn nữa,
chính giải đáp của câu hỏi
thuộc phạm vi luân lý sẽ giúp ta giải quyết
được vấn đề tôn giáo. Cho nên từ câu
hỏi thứ nhất, Kant đã đi thẳng sang vấn
đề thứ ba, để lại trở lại
vấn đề thứ hai sau cùng.
Đảo lộn những vấn
đề không phải Kant muốn phủ nhận trật
tự luân lý của những vấn đề đó mà chính
vì muốn đem lại cho triết học một nền
tảng mới. Ngay từ khi trả lời câu hỏi
đầu tiên «ta có thể biết được gì?» trong
sách «Critique đe la raison pure spéculative», Kant đã
có cao vọng đưa triết học ra khỏi chỗ
bế tắc. Sự suy ngẫm về sách vở của
David Hume đã không cho phép Kant chấp nhận biện pháp
dễ dàng của chủ trương quyết đoán, Hume
đã thức tỉnh Kant khỏi «giấc mơ quyết
đoán». Nhưng chấp nhận quan niệm của Hume, Kant
nhận thấy rằng không thể được. David
Hume không những cho rằng ta không thể biết chắc
rằng «có thượng đế hay không», lại còn lên
tiếng hồ nghi cả những khoa học như toán
pháp và vật lý. Hume bảo rằng: sở dĩ ta tin
ở sự thật hiển nhiên của những nguyên lý và
những định luật thiên nhiên chỉ là vì thói quen.
Kant không thể nhận được những lời
chứng minh, những lý luận dễ dàng về sự
hiện hữu hay vô hữu của Thượng
đế, nhưng ông cũng không đồng ý với phái
hoài nghi. Từ đấy đường lối triết
lý của Kant đã được vạch định.
Không đồng ý với hoài nghi chủ nghĩa thì ta
phải căn cứ ở những gì để chứng
minh rằng có những sự kiện như khoa học chẳng
hạn là chắc chắn, là không đáng hoài nghi. Không
chấp nhận lý luận quyết đoán về sự
hiện hữu và vô hữu của Thượng đế,
ta cần phải vạch rõ chỗ quyết đoán
của những lý luận đó, sự thất bại
của siêu hình học. Sau đó, ta mới giải quyết
những vấn đề luân lý và tôn giáo xem «ta phải làm
gì?» và «có thể hy vọng gì ở thế giới bên
kia?...»
*
Trước hết ta hãy xét xem Kant nghĩ gì
về khả năng của tri thức? Ta hãy bắt
đầu nhớ lại văn ảnh danh tiếng
của Platon. Tri thức của con người Platon cho
rằng chỉ là một thứ kiến thức của
«ếch ngồi đáy giếng». Kiến thức của
con người giống như sự hiểu biết
của một kẻ bị giam hãm từ lúc sinh ra trong một
hang đá có bốn bề thì ba khép kín. Còn một lỗ
hổng qua đó ánh sáng của mặt trời rọi
xuống và trên những bức tường đá ta nhìn
thấy bóng của sự vật. Chỉ có bóng
của sự vật thôi vì sự vật ở trên kia,
ở bên ngoài hang đá. Phải thoát ra ngoài ta mới
biết được, phân biệt được
rằng sự vật không giống những bóng đen in
trên vách đá một chút nào. Với Kant ta phải nói
đến một văn ảnh khác, tuy tương tự
nhưng bi đát hơn nhiều. Tù nhân của Platon có
thể vượt hang đá ra ngoài để chiêm
ngưỡng thực tại, phân biệt thực hư.
Kant nghĩ rằng ta bị vĩnh viễn giam cầm. Ta
bị giam trong một chiếc tháp kín mít. Ta có thể nhìn ra
ngoài nhưng chỉ nhìn qua những khuôn cửa khép chặt
bởi một thứ lăng kính có khả năng bóp méo
sự vật bên ngoài hay nói khác đi ta chỉ nhận
được những hình ảnh giả tạo, méo mó.
Hơn nữa, chiếc tháp giam cầm con người
đó lại nằm trong lòng chiếc tháp nữa cũng
bịt kín bằng những tấm lăng kính có những
đặc tính như những tấm lăng kính nói trên.
Nhưng Kant đã muốn nói gì qua văn ảnh đó? Kant
đã nhận thấy ta biết được sự
vật bên ngoài là nhờ tri năng. Tri năng tổng
hợp «những chất liệu của trực giác» mà giác
quan đem lại cho ta. Nhưng «chất liệu» mà cảm
quan đem lại đó vốn phân tán, cần phải
được xếp vào một cái dàn, cái khung. Dàn đó là
những hình thức của cảm quan, những hình
thức có sẵn. Ta biết được sự vật
ở trong «khung» thời gian và không gian. Đó là hai khái
niệm có sẵn ở nơi ta. Nếu là một con ong,
cái kiến ta sẽ nhìn thiên nhiên qua những biểu
tượng khác, bởi vì loài vật không có như ta
một hình thức của cảm quan. Hình thức
của cảm quan đó chính là những lăng kính bóp méo sự
vật bởi vì ta không thể nhận thẳng sự
vật y như nó xuất hiện mà chỉ nhận
biết chúng qua một khung không gian, thời gian nào đó
của ta. Tri năng của ta bị giam cầm, bị
lừa lọc bởi những tấm kính cảm quan.
Cần phải tổng hợp cái phân tán, lý luận
để xây dựng một hệ thống sự vật
thống nhất và mạch lạc. Nhưng biểu tượng
về sự vật mà tri năng tác thành được,
tổng hợp được sẽ chỉ là một
tổng hợp về hiện tượng của
sự vật, cái vẻ ngoài, cái hiện ra bên ngoài của
sự vật mà Platon đã gọi là ảo ảnh. Nên Kant
đi đến kết luận rằng ta không thể
vượt khỏi được những tấm kính «hình
thức của cảm quan»; cố gắng tìm đến
cái tuyệt đối, cái ẩn tượng của
sự vật, ta sẽ rơi vào một lý luận bất
lực một cách phũ phàng. Tất cả những gì ta
biết sẽ chỉ là những hiểu biết về
hiện tượng của sự vật mà thôi.
Lý thuyết bi đát vô cùng nhưng cũng
thật khôn ngoan. Kant tránh được hoài nghi chủ
nghĩa. Ông không như họ phủ nhận giá trị
của những nguyên lý trên đó khoa học
được xây dựng. Bởi lẽ ta có thể
biết được, dựng được một khoa
học về hiện tượng. Và như thế
những nguyên lý không phải chỉ là «sản phẩm
của thói quen» như Hume đã chủ trương.
Đồng thời Kant cũng loại bỏ
được những lý luận dễ dàng của phe
quyết đoán. Loại bỏ được cái ảo
vọng xây dựng được một khoa siêu hình xây
dựng trên những chứng minh có tính chất khoa học
như toán pháp.
*
Để chứng minh sự tin
tưởng đó, nhà triết học Đức đã
đưa ta vào những lý luận hết sức phức
tạp nhưng cũng rất phong phú.
Trước hết, nhà triết học
Đức phân biệt nơi con người ba khả
năng để hiểu biết: cảm quan, tri năng và
lý trí. Và sự hiểu biết thật sự tất nhiên sẽ
đưa ta đến chỗ phê phán chính xác. Nhưng
thế nào là phê phán? Kant đã trả lời: phê phán là
sự nhận biết của trí tuệ về sự
tương quan giữa chủ thể và những thuộc
từ. Thí dụ: «Tất cả mọi người
đều phải chết». Đó là một lời phê phán
quy định chủ thể «người» thuộc về
loại thuộc từ «phải chết». Phê phán như
vậy là một lời công nhận đến từ trí
tuệ. Nhưng khác với những nhà luận lý học
cổ truyền, Kant chia phê phán ra làm ba loại trong khi
những nhà luận lý nói trên chỉ nhận thấy có hai.
Ba loại phê phán đó là: phê phán phân tách, phê phán tổng
hợp, và phê phán tổng hợp và tiên nghiệm. Từ
xưa, phàm đã nói
đến phê phán phân tách tức là nói đến tiên
nghiệm. Thí dụ: con bạch mã của vua Henri
đệ tứ sắc trắng, nước sông Hồng
màu đỏ. Ta chỉ cần phân tách khái niệm «con
bạch mã của vua Henri
đệ
tứ và nước sông Hồng Hà là thâu tóm được
ngay màu sắc của con ngựa và nước sông». Phê phán
phân tách vốn tiên nghiệm và tất yếu. Tất nhiên
màu lông của con bạch mã là trắng. Chủ trương
ngược lại sẽ rơi vào chỗ vô lý. Ta đã
nói đến bạch mã sao lại còn bảo rằng con
ngựa không có màu trắng? Tóm lại, ở một lời
phê phán phân tách, ta biết ngay sự thật mà không
cần thử thách, thí nghiệm. Đó là một lời
phê phán tất yếu bởi vì tiên nghiệm. Kinh nghiệm chỉ cho ta
biết về sự hiện hữu của một sự
kiện chứ không cho ta biết gì về một
điều không thể nào không có được.
Phê phán
tổng hợp trái lại không thể đến từ
chỗ phân tách chủ thể. Thí dụ tôi nói: con ngựa
của vua Henri đệ tứ sắc trắng. Phân tách
chủ thể «con ngựa của vua Henri đệ
tứ», tôi vẫn chưa
biết gì về màu sắc của con ngựa. Lời phê
phán đó đòi hỏi sự va chạm, kinh nghiệm.
Vậy đặc tính của phê phán tổng hợp là: hậu
nghiệm. Va chạm, kinh nghiệm đem lại cho ta
sự hiểu biết lời phê phán. Vậy phê phán
tổng hợp sẽ không có tính cách thiết yếu:
con ngựa của vua Henri đệ tứ không nhất
thiết phải trắng. Nhưng ở ngoài hai loại phê
phán đó, Kant cho rằng đã khám phá ra một loại phê
phán thứ ba: phê phán tổng hợp và tiên
nghiệm. Vừa tổng hợp vừa tiên nghiệm,
hai tính chất vốn mâu thuẫn được phối
hợp. Thí dụ khi ta nói: con đường thẳng là
con đường gần nhất nối liền hai
điểm trong không gian. Lời phê phán đó mang hai tính chất:
l- Nó tất yếu:
đường thẳng nhất định là
đường gần nhất
2- Nó tổng
hợp: phân tách khái niệm đường thẳng ta
vẫn chưa biết về sự nó là con
đường gần nhất từ một điểm
đến một điểm khác.
Nói khác
đi, lời phê phán đó tất yếu vậy tiên
nghiệm, bởi lẽ những gì hậu nghiệm
vốn biến đổi chứ không thể nào tất
yếu được. Con ngựa mà ta sắp quan sát
không nhất thiết mang
sắc trắng. Nhưng lời phê phán trên, một
đằng thì tất yếu, đằng khác lại tổng
hợp. Và tổng hợp như chúng ta đã biết vốn hậu
nghiệm. Làm thế nào ta lại có thể phát biểu
những lời phê phán vừa tổng hợp vừa tiên
nghiệm như vậy được? Lời giải
theo Kant rất giản dị: ta biết một cách tiên
nghiệm những sự kiện chính vì ta đã đem
một chút gì của ta vào đó. Từ điểm
nhận định này, Kant đã xây dựng tất cả
hệ thống triết
học của mình: chứng minh sự thành công chắc
chắn của một khoa học về hiện
tượng và sự thất bại phũ phàng của siêu
hình học.
Chúng ta
đã đem một chút gì của ta vào trong biểu
tượng của ta về sự vật nên ta mới có
thể có được những phê phán vừa tổng
hợp, vừa tiên nghiệm.
Về toán pháp chẳng hạn, ta thấy có
những phê phán vừa
tổng hợp vừa tiên nghiệm liên quan
đến không gian, thí dụ như lời phê phán
về đường thẳng mà ta đã đề
cập đến ở trên. Có những phê phán khác liên quan
đến thời gian chẳng hạn như mệnh
đề «thời gian chỉ có một chiều», mệnh
đề then chốt của
cơ học thuần lý. Ta hãy nhận rõ: ta có thể có
những lời phê phán tổng hợp và thuần lý liên quan
đến không gian và thời gian. Như thế nghĩa là
ta đã đem một chút gì của ta vào sự nhận
định đó, ta đã có một kinh nghiệm tiên
nghiệm về thời
gian và không gian trong biểu tượng mà ta có về sự
vật.
Không gian và thời gian theo Kant không phải là
thực tại mà chỉ là
những hình thể ta dùng để nhận định
những chất liệu của cảm quan. Không gian và
thời gian là những tấm lăng kính bóp méo sự
vật. Cảm quan ta chỉ có thể nhận biết
sự vật qua bức
tường vô hình đó mà không thể vượt qua
được.
Trong vật lý ta cũng có những lời phê
phán tổng hợp và tiên
nghiệm. Kant phân ra làm bốn loại: «công
lý của trực giác, tiên đoán của sự nhận
định, tương xứng của kinh nghiệm,
định đề của tư tưởng… » Nguyên
lý về sự căn do «không có gỉ xảy ra trong thiên
nhiên mà không có căn do» là một thí dụ. Nguyên lý đó chi
phối tất cả vật lý học cho nên ta phải
nhận định rằng có thể có một vật lý
học chắc thực như toán học.
Ta hãy đi sâu hơn chút nữa vào chi
tiết của triết học Kant. Ta nhớ rằng: có
những chất liệu của sự hiểu biết
đến từ cảm quan.
Chất liệu đó bị đóng khung vào trong những hình
thể có sẵn là
những hình thức của cảm quan: thời gian và
không gian. Hình thức đó ví như những tấm kính bóp
méo sự vật của chiếc tháp kể trên. Tri năng
ta bị giam cầm trong tháp, nhận biết sự vật
qua những lăng kính «hình thức cảm quan». Thế
tại sao ta lại xây được một khoa học
về hiện tượng? Chính vì ta đã đóng những
chất liệu đến từ cảm quan vào trong khung
«hình thức cảm quan», và những hiện tượng mà
ta nhận biết là những sự kiện chỉ
hiện ra với con người không thể khác đi
được khi ta vẫn có những «hình thức cảm
quan» đó, nên một khoa học về hiện
tượng là điều có thể. Những chất
liệu đó phân tán, hỗn độn thì đã có tri
năng dàn xếp. Biểu tượng về sự vật
của ý thức ta là kết quả của một cuộc
tổng hợp bởi tri năng. Tri năng phê phán và hành động chính là
hành động tổng hợp, thu gọn những sự
kiện phân tán về một mối thống nhất. Ta có
thể phê phán thiên về: 1) lượng - 2) phẩm – 3) tương quan – 4)
hình thái dạng thức. Nói khác đi, tri năng
được sự giúp sức của phạm trù
trong hành động phê phán. Thí dụ khi ta nói: tất
cả mọi người đều phải chết. Tri
năng sẽ không thể phê phán tất cả mọi
người nếu không có sẵn một khái niệm
về toàn thể. Tri năng không thể công nhận
sự sẽ chết của con người là đúng
nếu không có một khái niệm về thực tại.
Mệnh đề sẽ không được kể là
một sự kiện nếu tri năng không có khái
niệm hiện hữu.
Tri năng như vậy theo Kant đã
được phụ lực bởi 12 phạm trù gồm
trong bốn loại: lượng, phẩm, tương quan,
hình thái dạng thức. Tri năng ngồi trong tháp nhìn
những hình ảnh méo mó, phân tán nhưng cũng có những
ống kính khác, nếu không đủ sức giúp nó nhận
ra cái ẩn tượng của hiện tượng thì
cũng tổng hợp được chất liệu phân
tán đó.
Thế tại sao những chất liệu
vốn hậu nghiệm đến nhờ cảm quan
và những phạm trù của tri năng vốn tiên
nghiệm lại phù hợp với nhau? Động
cơ gì đã thúc đẩy sự ăn khớp đó?
Kant bảo: Tri năng ta chỉ nhận biết
được sự vật ở trong khuôn khổ của
những định luật hết sức tổng quát,
đó là những nguyên lý của tri năng. Thí dụ ta
sẽ không biết gì về một vật nếu nó không có
phẩm, lượng, không liên quan với vật khác
bởi một tương quan nhân quả định rõ
trước sau. Đó là những điều kiện
để tôi có thể biết về sự vật
được. Và nếu tôi biết thì chính là sự
vật có những tính chất đó để có thể được
biết. Nhiều người sau Kant còn đi xa
đến chỗ chủ trương rằng không có
hiện tượng nào xuất hiện ra trước trí
tuệ con người được, nếu không ở
trong khuôn khổ định luật giúp ta biết rõ
hiện tượng đó, cũng như giúp ta tiên đoán
và sử dụng hiện tượng. Kant không đi
đến đó nhưng ông đã nói rõ rệt: ta biết
được sự vật (hiện tượng), vì
hiện tượng có tính chất biết
được. Kết quả lạc quan là ta có thể
xây dựng một khoa học về hiện tượng
trên những hệ thống công lý của tri năng.
Thuyết hoài nghi bị loại bỏ.
Nhưng tại sao trong khi tin tưởng
được ở khoa học về hiện
tượng thì siêu hình học lại đang bị gạt
sang một bên?
(Kỳ sau
tiếp)
TRIẾT HỌC CỦA KANT (II)
Tác giả: Nguyên Sa
Sáng Tạo, số 12, tháng 9, 1957
II - SỰ THẤT BẠI CỦA SIÊU HÌNH HỌC
Con người bởi có lý trí nên không
chịu dừng bước trước những hiểu
biết nửa chừng. Cảm quan được giúp
sức bởi những thể tiên nghiệm (formes a
priori) và bởi những phạm trù của tri năng
(catégories de l'entendement) đã đem lại cho con
người những hiểu biết về hiện
tượng. Khoa học vốn là một khoa học
về hiện tượng nên cũng nhờ thế mà thành
công. Nhưng lý trí con người không muốn dừng
bước trước những sự hiểu biết
về hiện tượng đó. Ta đã biết về
cái hiện tượng, cái vẻ ngoài của sự
vật đó, nên ta khao khát muốn biết cái bề trong,
cái ẩn tượng (noumène) của sự vật ra
sao. Thống nhất được toàn thể kiến
thức, vén được bức màn che dấu cái
tuyệt đối, đó là những nguyện vọng
của lý trí. Nhưng những bề trong, những ẩn
tượng mà lý trí muốn đạt tới đó là gì?
Đã nhờ tri năng, cảm quan mà con người
biết được tương quan giữa các hiện
tượng trong vũ trụ, con người còn muốn
biết cái lý do sâu xa của vũ trụ, của cõi
đời. Biết được cuộc sống là cái
vẻ ngoài của con người, ta lại muốn
biết về linh hồn, cái lý do sâu xa của cuộc
sống đó. Biết rằng mỗi sự kiện
đều có một căn do, ta muốn tìm đến cái
căn do nguyên thuỷ có khả năng chi phối, phát sinh
ra mọi căn do nhỏ bé khác, đó là Thượng
đế. Tìm hiểu về linh hồn, về vũ
trụ, về Thượng đế là những mục
tiêu cốt yếu của lý trí.
Nhưng
trước những mục tiêu đó, lý trí phải thúc
thủ, bó tay bởi vì không có một phương tiện
nào để đạt tới. Triết học cổ
điển đã thử thách nhiều lần. Siêu hình
học đã nhiều lần được dựng lên.
Nhưng tất cả đều đưa đến
chỗ suy sụp. Tri năng có những nguyên lý giúp ta biết
được hiện tượng. Nhưng siêu hình
học cổ truyền đã lấy những nguyên lý
của tri năng làm nguyên lý cho 1ý trí. Siêu hình học lý luận
về những sự kiện ở ngoài lĩnh vực
thấu triệt được bởi cảm quan. Như
thế, cũng như tri năng đã lý luận về
những hiện tượng, lý luận về những điều vô hình
bằng cách suy diễn từ chỗ hữu hình đến
chỗ vô hình. Mà thật ra nguyên lý của tri năng không có
một giá trị gì ngoài thế giới của hiện
tượng. Vì thế nên tất cả chỉ là một
biện chứng hão huyền.
*
Trong thế giới hiện tượng
chẳng hạn, ta thấy rằng mỗi sự kiện thường
có những đặc tính của những hiện
tượng đó. Những thuộc tính có thể
biến đổi, khác nhau nhưng sự kiện vẫn
là một. Lý trí căn cứ vào sự nhận định đó để
chứng minh tính chất đơn thuần của linh
hồn. Triết học cổ điển chủ
trương rằng linh hồn vốn đơn giản,
duy nhất, bất khả phân và bất tử. Để
chứng minh những đặc tính đó của linh
hồn, siêu hình học đã
căn cứ trên những lý luận lỏng lẻo. Họ
lý luận bằng cách: lấy điều ta tưởng
rằng thật làm sự thật. Tôi nhận thấy tôi chỉ là tôi mặc
dầu quan niệm, tính tình tôi có khác đi ít nhiều theo
sự biến đổi của thời gian. Tôi thấy rằng
tôi chỉ 1à tôi, chỉ là một, vậy tôi vốn có bản
chất đơn thuần;
cũng vậy, tôi thấy rằng tôi bất khả
phân, không thể bị hủy diệt được,
vậy tôi kết luận: tôi có một bản chất
bất khả phân, bất diệt.
Nhưng
siêu hình học cổ điển đã sai lầm. Bởi
vì tôi thấy rằng tôi vẫn là tôi qua những biến
đổi của thời gian, tôi cũng chưa đủ quyền,
đủ lý để kết luận rằng tôi vẫn có
một bản chất đơn thuần. Điều tôi
nhận thấy, tôi căn cứ vào đâu mà quả
quyết rằng đó là chân lý. Tôi chẳng nhận
thấy rằng trái đất bất động đó hay
sao? Thế sao tôi vẫn không được kết
luận rằng trái đất quả nhiên là bất
động? Vì vậy, mặc dầu tôi thấy rằng
tôi đơn thuần, bất khả phân, bất diệt,
tôi cũng không được kết luận rằng tôi
quả nhiên là có một bản chất đơn thuần,
bất khả phân và bất diệt. Căn cứ vào
những tính chất hiện ra ở cái vẻ ngoài
để kết luận về bản chất sâu xa là
một việc sai lầm:
Suy từ mối tương quan giữa
chủ thể và thuộc tính (sujet et les attrìbuts), của
những sự kiện thuộc thế giới hiện
tượng đến linh hồn, một ẩn
tượng, và đặc tính của linh hồn là sự
suy diễn sai lầm thứ nhất.
Sự suy diễn sai lầm thứ hai là suy
từ nguyên lý nhân quả phổ quát trong thế giới
hiện tượng đến bản chất sâu xa
của vũ trụ, cõi đời [1]
Sự suy
diễn thứ ba liên quan đến vấn đề
Thượng đế. Để chứng minh sự
hiện hũu của Thượng đế, lý trí
thường căn cứ trên ba chứng cớ: vũ
trụ chứng (preuve cosmologique), cứu cánh chứng (preuve
téléologique) và thực thể chứng (preuve ontologique).
Nhưng Kant nhận thấy rằng hai chứng cớ
đầu tiên lại được xây dựng dựa
trên chứng cớ thứ ba. Nếu thực thể chứng
vững vàng thì cả ba đều đứng vững.
Ngược lại, nếu thực thể chứng sai
lầm thì tất cả đều sụp đổ.
Vũ trụ chứng dựa vào thực
thể chứng, đó là một điều rõ rệt.
Vũ trụ chứng vạch cho ta biết rằng
Trời sinh ra vũ trụ, bởi vì mọi vật
hiện hữu đều có một căn do sinh ra nó,
vậy căn do của vũ trụ chỉ có thể là
Thượng đế. Nhưng Kant hỏi: thí dụ ta tin
rằng vũ trụ có một căn do sinh ra nó, ta cũng
chưa được kết luận ngay rằng đó là
Thượng đế. Bởi vì, như vậy ta đã
gián tiếp bảo rằng Thượng đế là
một đấng vạn năng có quyền tạo hóa
và tự tạo nên tất hữu. Vũ trụ
chứng mới vạch ra một điều: vũ
trụ có một căn do chứ chưa chứng minh
được sự hiện hữu của Thượng
đế. Chứng minh được ý kiến
Thượng đế có tài tạo hóa và tự tạo nên
tất hữu là điều mà thực thể chứng
muốn vạch ra. Nên vũ trụ chứng phải tùy
thuộc vào chứng cớ sau này vậy.
Cứu cánh chứng cũng rơi vào
khuyết điểm đó. Chứng cớ đó cho
rằng: một sự kiện được tạo thành
vì một cứu cánh nào đó, tức là phải có một
người thợ khôn khéo làm việc tạo thành đó. Và
vũ trụ ta thấy rằng như được
tạo thành nhằm một cứu cánh nào đó. Vậy
tất nhiên phải có một người thợ khéo. Đó là Tạo hóa,
Thượng đế. Nhưng nhiều câu hỏi
được đặt ra: có thật chắc chắn
rằng vũ trụ được tạo thành nhằm một cứu cánh nào đó không?
Và nếu có thì có thật chắc chắn rằng
người thợ khéo đó phải là Thượng
đế hay không? Và khi ta nói
rằng có một người thợ khéo tạo nên vũ
trụ để hướng nó về một cứu cánh
nào đó, ta đã đưa vào một ý kiến: chỉ có
một đấng hoàn toàn mới tổ chức
được vũ trụ và tự tạo nên tất
hữu. Như vậy, cũng lại căn cứ trên
thực thể chứng rồi.
Nhưng giá trị của thực thể
chứng rằng sao? Kant trả lời: không có giá trị gì
cả.
Chứng
cớ đó vạch ra rằng: Thượng đế là
một đấng vạn năng, hoàn toàn. Mà sự
hiện hữu là một điều hoàn hảo.
Thượng đế toàn thiện, toàn mỹ, vạn
năng, vậy phải có hiện- hữu-tính. Ắt
phải có Thượng đế, cũng như những
tính chất của tam giác đã nằm trong khái niệm tam
giác. Nhưng hiện hữu, Kant bảo rằng không
phải là một sự kiện toàn. Một ngườí
điêu khắc hình dung một bức tượng. Hình dung
từng chi tiết, không thiếu sót một tí gì. Hình dung
đó là một hình ảnh tuyệt đẹp. Khi bức
tượng được tạo thành, nó có đẹp
hơn hình ảnh bức tượng trong đầu nhà
điêu khắc hay không? Tất nhiên là không. Vậy thì
sự hiện hữu của bức tượng làm cho nó
hoàn toàn hơn hay kém cũng không sinh ra tính chất hoàn toàn.
Cũng vậy, ta không thể bảo rằng Thượng
đế hoàn toàn, vậy có Thượng đế vì
hiện hữu là một sự hoàn toàn.
*
Như vậy, siêu hình học không thể là
một khoa học. Những chủ trương cho rằng
ta có thể biết một cách khoa học bản thể
sâu xa của con người, bản chất sâu xa của
vũ trụ, và chứng minh được về sự
hiện hữu của Thượng đế như
những chứng minh toán học đều được
xây dựng trên ảo tưởng. Ảo tưởng
về giá trị của phương pháp và lý luận siêu
hình. Cái tuyệt đối ở ngoài phạm vi hiểu
biết của ta. Những thể tiên nghiệm của
cảm quan và những nguyên lý của tri năng giúp ta
biết được một cách chắc chắn, khoa
học những hiện tượng bởi vì hiện
tượng vốn biết được, có
đưa điều kiện để biết
được. Nhưng nếu vượt ra ngoài biên
giới của hiện tượng, đi sâu vào thế
giới của bóng tối của ẩn tượng,
những hình thể, những nguyên lý đó sẽ hoàn toàn
thất bại.
Giải đáp cho câu hỏi đầu
tiên «ta biết được gì» của Kant thật là
rành mạch, rõ ràng. Ta xây dựng được một lâu
đài toán học nhờ những phê phán tổng hợp và
tiên nghiệm, những thể tiên nghiệm của cảm
quan. Ta biết
được một khoa vật lý cũng nhờ
những thể tiên nghiệm đó và cũng nhờ
những nguyên lý của tri năng. Đó là những
kiến thức chắc chắn - nhìn vào kết quả ta
thấy không thể rơi vào hoài nghi chủ nghĩa
được. Nhưng ta cũng không được quên
rằng tuyệt đối, ẩn tượng ở ngoài
phạm vi hiểu biết của ta. Ta không có đủ lý
luận, kinh nghiệm hay một phương tiện nào
giúp ta đạt tới cả. Muốn thành thật, ta
phải nhận rằng ta chưa biết gì cả.
*
Không
biết gì về những điều tuyệt đối,
con người có vì thế mà trở nên bơ vơ,
lạc lõng hay không? Kant trả lời: không. Không biết
một cách khoa học những vấn đề siêu hình, ta
vẫn được quyền tín ngưỡng.
Thế giới hiện tượng ta biết
được, và ta biết rằng hiện tượng
bị chi phối bởi định luật, bởi quy
luật chặt chẽ của quy định thuyết
(déterminisme). Nhưng, ở thế giới ẩn
tượng những định luật đó sẽ vô
hiệu. Ta có thể không bị chi phối bởi
định luật nào cả. Tự do của ta
được bảo vệ tuyệt đối. Không
chứng minh một cách khoa học được những
vấn đề siêu hình, ta có quyền chọn lựa, có
quyền tin tưởng. Có những tin tưởng có xây
dựng và đáng được truyền giảng hơn
những tin tưởng khác. Cũng vì thế, trong
những sách vở về luân lý học và tôn giáo của
Kant, nhà triết học Đức đã nói lên tính cách
khả kính của những bổn phận đạo
đức và sự hiện hữu cần thiết của
Trời [2].
NGUYÊN SA
[1] Sự suy diễn thứ hai
cũng như những quan niệm luân lý, tôn giáo của
Kant, chúng tôi sẽ trình bày trong một dịp khác.
[2] Xem chú thích trên.
DƯƠNG NGHIỄM MẬU * BUỒN VÀNG
Buồn vàng [i]
Dương Nghiễm Mậu
Tôi chạy xa để thoát khỏi vùng tiếng động,
nhưng dư âm vẫn như còn đuổi theo quấn quít. Tôi bỏ hai tay lên ôm lấy đầu, bịt
hai lỗ tai và nhắm mắt lại. Cả một khối đen như trùm lấy và ôm khít, thân thể
tôi co rúm và bủn rủn, tôi níu tay ôm lấy cái bóng đen đứùng cao trước mặt để
đứng lại. Âm thanh kim khí, man rợ... rồi dần dần loãng và nhẹ nhàng. Một người
ở thế giới nào đó tiến lên. Sân khấu là một tấm màn màu nâu, người chắp tay
trước ngực, có bánh xe (có phải là một bánh xe không ?) quay đều đều bởi
một sức mạnh lạ mặt đứng khuất. Tiếng nói cất lên – ‘‘Vậy chứ ở đó như thế
chăng?’’ – ‘‘Không phải như thế’’– ‘‘Người bảo sao?’’ – ‘‘Tôi cũng từ bỏ nó’’–
‘‘Có lẽ rồi không muốn, vậy người định tới đâu?’’ – ‘‘Hư vô’’– ‘‘Tôi đã nghe ở
đâu đó, có nơi nào khác thế này chăng?’’ – ‘‘Có, để nói cho nghe’’– ‘‘Tôi muốn
biết nơi nào người ta sống lâu nhất, dù sao thì cũng phải sống lâu, nhưng được
chết êm ả’’. ‘‘Ðúng như thế đó, có kẻ đã dạy thế. Con người ở mấy nơi, có một
nơi mặt đất hình vuông, không hiểu con mắt nào nhìn thấy vuông, mặt người ở
cũng mang hình đó. Xin đừng cười và hỏi lại, vì tôi chỉ kể. Nơi này người ta
sống dài một ngàn năm, mười thế kỷ của đời anh. Người ta sống không có một quy
luật nào. Không có ai nhận mình tìm ra một thứ chỉ đạo cho đời sống, chẳng
nghĩ, chẳng tin, câm điếc như loài thảo mộc. Cho nên chẳng một ý kiến, một lý
thuyết nào có thể đến đó. Vùng bao la mang một phòng tuyến mong manh nhưng vững
chắc là sự thản nhiên. Không phải trải qua sự khổ. Không có tiếng nói chỉ sự khổ.
Còn chúng ta có bao nhiêu ngôn ngữ để chỉ: khổ sỡ, tật nguyền, ốm đau, giết
tróc, tù đày... thôi tôi chẳng phải nhắc vì
nếu tôi chỉ ngừng lại, và anh bắt đầu thế cũng chưa biết đến bao giờ anh
mới nói hết... có khi đến chết cũng chưa biết nữa. Tôi kể tiếp: ở đó con người
không biết khổ, không ý niệm được nó nữa. Chúng ta phải làm lụng, có phải chúng
ta là loài vật duy nhất phải làm việc để kiếm ăn không? Chúng ta mệt nhọc thể
xác và tâm trí – kiếm ăn uống, xây nhà cửa, chăm sóc con cái, làm ruộng, buôn bán.
Nhưng ở nơi, ở thế giới tôi nói thì tuyệt nhiên không. Cây là nhà cửa. Khi đói
họ tìm đến gốc cây, ở dưới gốc có sẵn một cái vạc lớn, trong óc muốn ăn thức gì
tuỳ ý, chỉ việc đưa tay hái một quả bỏ vào vạc, ánh sáng mặt trời chiếu xuống
đó nấu chín món ăn. Mỗi khi tắm vứt bỏ quần áo lên cây, tắm xong lấy một quả bổ
làm hai lấy ra quần áo mới mà mặc. Khi đại tiện đất nứt thành hố, đi xong ập
lại, ở đó mấy bông sen mọc lên toả hương thơm ngát. Từ cái lược, đôi hài, chiếc
mũ, nhất nhất cái gì người ta gọi đến, cần đến, cây đều sinh ra. Khi một đôi
trai gái bằng lòng nhau, mang nhau đến một gốc cây, bóng cây rũ xuống che khuất
để biến thành một lâu đài, đôi uyên ương chung sống với nhau ở trong đó, chỉ
trải qua bảy ngày thì sinh con. Nhưng cha mẹ không phải nuôi, chỉ việc mang đứa
nhỏ để ở một ngã ba đường, người qua lại cho nó mút ngón tay, ở đầu ngón tay
mỗi người đều tiết ra một chất nước ngọt đủ nuôi sống đứa bé lớn lên. Chỉ bảy
ngày sau đứa bé như người thường; con trai đi với con trai, con gái đi với con
gái, chẵng lấy vợ lấy chồng hay có gia đình chi cả. Người ta sống như một loài
cây cỏ, cứ đến độ có hoa thì nhị đực tìm nhị cái mà ra kết quả. Sống cho đến
hết một ngàn năm những vui, buồn, sầu, khổ, tật bệnh, giận ghét không biết đến.
Khi nhắm mắt lại thì có loài chim đen, cánh lớn đến cắp xác tha đi – Câu chuyện
là như thế’’.
Tôi nhìn trong bóng tối, một bánh xe quay
tròn bên tiếng nói phát ra, tôi nhủ thầm: ‘‘Ở đó có bánh xe như thế kia quay
không?’’ Tôi ôm chắc lấy bóng đen cao cất tiếng: ‘‘Không, không khi nào tôi tới
đó, hay muốn cho nơi này như thế! Họ không là người. Họ khác hẳn tôi. Tôi là
người. Tôi từ giã, từ giã...’’ Bóng tối như xiết chặt tôi mãi vào một vật cứng
đứùng cao lắm. Tôi đưa tay sờ soạn một lần cứng mấp mô, như một lần da sần sùi không
hơi nóng, không thoi thóp thở, một thứ gì sượng sần, nhớp nháp, tim tôi đập
mạnh, mồ hôi đổ nóng, má tôi chạm vào một lần đất sỏi khô. Một điệu kèn ré lên
buốt nhức khoảng không quay cuồng nhồi vào trí não một hơi rượu mạnh cay sé
môi, lưỡi và cuống họng. Người nhạc sĩ bước ra khỏi vùng bóng tối. Hắn đã bị bỏ
rơi từ bao nhiêu thế hệ. Số kiếp họ là một cái gì – có phải nó mang chứng tích
một sự thực hiển hiện nơi màu da đen bóng kia không. Màu da đen nổi bật hẳn
trước tấm màn đỏ. Ðiệu kèn ré lên với một nhịp điệu man rợ như ngọn lửa bốc
cháy say đắm của vùng nhiệt đới. Cây cỏ hoa lá cũng cháy nơi họ sinh ra. Sự
cuồng nhiệt dục tình đã thổi vào mạch máu, hiện ra đời sống mà dồn ép họ vào
một bóng tối sâu thẳm từ bao nhiêu lâu nay, đến bây giờ mới đứng ra cất tiếng
nói từ trong đáy lòng: «... Cớ sao tôi đen và tôi sầu đến thế»... Chẳng có gì?
Làm sao để tôi nói với anh khi trên môi anh cái ống đồng phụ họa cất lên
kia? Người nhạc sĩ uốn cong thân hình, oằn oại như một con trăn ngũ sắc vừa
nuốt vào bụng một loài vật đang vặn mình tiêu hoá. Hắn cúi gập, vươn cao và
những âm thanh oằn oại, tức tưởi, nghẹn ngào, uất ức, đắng và buốt trườn lên.
Mắt hắn nhắm nghiền, má phồng, mồ hôi vã ra đầm đìa... Tiếng trống vang theo
một không khí bập bùng bao la quỷ quái... Aùnh đèn chớp động vẫn vằn vèo xanh
đỏ, tím, đen, vàng chập chờn mê loạn, thế giới của hắn bắt đầu đảo điên. Cái
khoảng bóng tối xung quanh loãng ra màu đỏ. Rồi những loài vật dưới đó cử động
dần dần. Như những ma chơi, hình nộm dưới tay bùa phép của một gã phù thủy vô
hình điều khiển. Những cánh tay vươn cao cuồng loạn, chập trùng và tiếng hét,
tiếng la tạo thành một khúc thánh ca. Ðám người mỗi lúc một đông, chuyển động
mỗi lúc một nhanh. Tôi bắt đầu nhìn ra những thân thể: một chòm tóc quăn, chiếc
cổ nhỏ, những thân người nhỏ như que sậy, tay khô như những giây kẽm buộc vào
những chiếc que như sợi tóc. Mắt trắng giã, răng nhe ra một vành môi và lưỡi đỏ
lòm như những ngọn lửa bắt đầu bốc cháy. Tiếng kèn trên môi người nhạc sĩ vẫn
ré lên xé từng chút tế bào của cơ thể. Và một thế giới chìm xuống dưới chân.
Cái thân thể trong tay tôi đen thêm. Ðôi mắt trắng dã đã mở ra một vùng biển
cát bỏng cháy, có những đàn sư tử vờn nhau. Mái tóc dài cứng gió đập như quất
vào mặt những ngọn roi da điếng buốt. Tôi úp mặt vào làn môi dầy sần sùi nóng
ran. Tôi giữ chắc. Tôi khẽ nói: ‘‘Buông anh ra, để anh nhìn rõ em?’’–‘‘Chúng ta
bắt đầu điệu múa chứ?’’–‘‘Không phải như thế. Em?’’ –‘‘Bài ca còn dài, điệu kèn
chưa hết, bây giờ là của em, của chúng em.’’ –‘‘Làm sao em dám chắc?’’–‘‘Ðể em
mô tả nơi chúng ta đến cho anh nghe, xứ sở quê hương của em...’’–‘‘Không có gì
cả ư?’’–‘‘Im để em nói: em đã tủi hổ uất ức từ bao lâu, tại sao anh không thèm
biết đến em, không ôm và hôn em? Em phải chiếm anh, chiếm thế giới anh. Anh
không thể chạy trốn được. Người ta không thể ngoảnh mặt mãi được với sự thật
súc vật nơi con người. Ðừng che đậy gì, y phục, nhà cửa, lề luật, tự những sự
thật xé nó trần truồng, trơ trụi, phung phá. Trả nó lại sự đó. Ôm lấy em, ôm
chắc lấy em. Lửa đã bốc lên từ bao giờ bây giờ mới chiếu sáng cho anh nhìn em,
em đen và em sầu’’.
Tôi soa tay
lên làn da sần sùi, khô cứng, bóng tối vây phủ. Tiếng kèn vẫn soáy buốt. Người
nhạc sĩ vẫn oằn người gân cổ thổi âm thanh vào thế giới vây quanh rung chuyển
cùng điệu trống bập bùng cuồng loạn. ‘‘Có riêng em ở đây thôi, em có bao
nhiêu’’– ‘‘Ở cùng khắp, anh hãy lắng nghe ở cùng khắp, tất cả. Anh lặng im em hát cho anh nghe...’’ Tôi nhắm mắt và giữ
chặt bóng tối. Người nhạc sĩ ôm chiếc kèn lùi vào, bỏ lại khoảng trống trần
trụi. ‘‘Em, em đâu?’’ Tiếng gọi mất đi một khoảng im lặng.
Âm thanh vọng
động trườn từng đợt như một viên sỏi ném xuống mặt nước yên tĩnh bắt đầu loãng
xạ những đợt sóng trùng điệp – Tôi đã bỏ nó. Sự khiếp sợ quay lộn, vật thân
thể. Chân tay tôi như một thứ gì thừa thãi, vô ích trở thành vô tri. Tôi níu
giữ sự sáng suốt của đầu óc. Tôi nhắm mắt thu sức giữ lại khoảng tối, chút gì
đó còn cứng chưa lay động ở trong vòng tay mà mặt tôi úp lên phà hơi thở nóng
bỏng đứt đoạn. Tôi cố sức nghĩ xem tôi đang đứng ở chỗ nào. Nhất định không
phải là nơi mang danh hư vô mà có kẻ đã hét vào tai. Nó cũng không hẳn là những
sinh vật lúc nhúc chen lấn giữa cái thế giới mà người nhạc sĩ đen vừa thổi âm
thanh tới – ‘‘Người đang đến với ta đây. Có một phần của hắn đấy’’– Tôi muốn cất tiếng hỏi – ‘‘Người ở đâu đến?
Ðây là đâu? Sao có tiếng nói?’’. Cổ tôi khô cứng rồi mềm nhũn ra không tạo nổi
âm thanh. Tôi muốn mở mắt, nhưng một cái gì nặng nề chét lấy hai chút đen cần
dò hỏi tìm kiếm. Tôi muốn cử động nhưng chừng như gân cốt đã bị cắt đứt, tôi cử
động ở sự vướng víu của quần áo nhớp nháp bắt đầu tê lạnh ướt át. Hình như một
chiếc búa đập vào óc tôi, và một mũi kim nhọn khẽ ấn vào tim tê buốt. Những đợt
sóng bắt đầu vỗ về, mang một cảm giác mơ hồ bao la, của một vùng nước ngủ phẳng
phiu bình lặng đến ghê khiếp, hoang sơ cùng độ – ‘‘Chúng ta ở nơi siêu thoát
này’’– ‘‘Nhưng thân thể tôi đây?’’ – ‘‘Tôi mang cái đó lên sự siêu thoát, hãy
nhìn xem tôi đây’’. Trong một vùng ánh sáng sữa loãng, một bóng trắng tiến lên,
âm điệu du dương, dìu dặt, bay bổng uốn theo một hình bóng dườn dưỡn, rồi một
tràng cười xé tan, một đứa con gái, nhe đôi hàm răng soã tóc đen quay cuồng tạo
nên một trận bão cát đau nhức. Nó quay cuồng ở một khoảng trống, tiếng đập đá,
vỗ tay, cười cợt lạnh điếng như những thoi sắt chạm vào nhau, một đống thủy
tinh cử động cọ sát. Nhưng cái gì cho hắn điên cuồng lên thế? Nó ở một cõi
tuyệt đối nào? Aâm thanh ánh sáng, mờ đi dần dần. Một thân thể vô hình ôm chặt
lấy tôi – ‘‘Em là nỗi cô đơn này, lặng thinh đi cho chốn hoang đường chi phối
thể xác, ôm lấy em. Hôn lên môi mày. Một cõi nào mang nỗi say đắm của anh và em
lên đó. Chúng ta thụ hưởng một mũi thuốc ma túy và thân thể. Ðể không còn bị chi phối, thay đổi sự thực
này. Chúng ta từ chối tất cả. Nó là cõi không trắng ngần trong suốt của sự thèm
khát, tìm kiếm thoả mãn cổ sơ. Này anh, loài ác điểu có tám chân ăn cơm với
cát, loài bò sát có hai tay ôm nhảy luân vũ, cây cổ thụ mang những sợi tóc kim
tuyến, đôi mắt của mỗi cánh lá mang tia nhìn chinh phục đến loài quạ khoang.
Chúng ta mất chân tay, mọc đôi cánh, đầu thêm sừng, miệng thêm vòi. Và anh đang
nghe em nói bằng hai con mắt. Thế giới tạo thành trên những sợi chỉ bạch kim.
Và mỗi kẻ sống ở toà lâu đài cô đơn của mình. Thế giới cô độc ấy tạo nên một xã
hội riêng. Xã hội của em là những người mù mang đôi mắt màu đỏ. Có chân màu tím
đôi cánh loài ác điểu hôi hám ăn thịt lẫn nhau bằng đôi mõ của loài rắn có lưỡi
dài sẻ đôi phun nọc độc. Người ta nói bằng ngôn ngữ loài cá thờn bơn. Thế giới
và xã hội của người khai thiên lập địa mới mở cửa, chẳng lương tri, thiện ác,
tốt xấu. Em mang anh đến ‘‘Nhưng cái gì làm thành xã hội đó?’’–‘‘Cái chủ lực
thế giới vô thức cô đơn’’–‘‘Cái gì làm cái vô thức cô đớn?’’–‘‘Thôi đừng hỏi,
cái gì cho anh có chân và tay?’’–‘‘Ðúng đó, anh không trả lời được, anh công
nhận sự thực ngừng lại ở cái hạn hẹp này, không mang lên hay xuống. Cái gì đứng
sau ở thực tại mang bộ mặt xa lạ, cậm điếc chỉ là mối lo âu định liệu và cho
cái gì anh đang có đây là thực, cái thực định bằng cái hư không’’– ‘‘Em là cái
dồn ép tình dục, đau đớn, khổ ải, em sầu và em trắng.’’
Tôi tỉnh dậy ở dưới một thân cây cổ thụ, bóng
tối loãng ra. Tôi đứng nơi một vũng nắng chói, mặt trời bắt đầu thiêu đốt trên
da thịt. Thân cây cao trụi lá, những cành khô vươn cao nỗi cô đơn chót vót đầy
ải, lần vỏ sần sùi khô cứng. Người ta đã giữ chúng tôi ở lại đây. Chúng tôi
giống nhau bên những sinh vật khác nhau. Một đàn kiến lửa bu trên tay tôi đốt
đau ngừa lay động cảm giác, có tiếng chim kêu trên cao. Trận mưa đổ xuống. Trên
mặt tôi nhớp nháp chừng như loài nhện nào đã giăng tơ. Tôi đứng nơi xứ sở này,
mảnh đất thân thuộc, đồng loại gần gũi. Tiếng hát cất lên.
Sự tình cờ nào
mang chúng ta đến đây chung đụng với nhau. Người ta mang đến những gì bỏ lại:
tù đầy, hiếp tróc, đày ải, nô lệ... Chúng tôi tự do với nhau trong mỗi tâm hồn
không cùm xích, bắt bớ, giết hại. Chúng tôi công nhận kẻ đứng bên. Tôi cúi nhìn
bàn tay sưng vù nhức nhối. Chút thể xác này và nỗi thèm muốn trong lòng. Trong tôi một thế giới. Nhưng ở giữa thiên nhiên này,
có người đến đày tôi công nhận một sự hiện diện cần thiết. Mọi người có mặt
đông đảo. Những sự thực đời sống ngự trị đây. Kẻ tù đày người uất ức, người hân
hoan. Niềm vui đứa trẻ nhỏ, điệu ru trên môi người mẹ, người chị... Tôi trấn
tỉnh để nhìn ra nơi tôi đang đứng, đang thở, đang nghĩ. Aùnh nắng bốc cháy, rồi
cơn mưa ập xuống một bầu không khí ngột ngạt, tức thở, oi bức. Khí hậu nhiệt
đới soi vào thân thể nỗi hèn mọn con người. Chúng tôi nhận sự hèn mọn đó. Tôi
đứng vững, đưa tay vuốt mặt và cất tiếng nói:
-
Có phải tôi
đang đứng ở đây không?
-
Phải rồi.
-
Có phải tôi
ở trong đám đông này không?
-
Còn gì nữa,
anh ở trong đám chúng tôi.
Tôi cố sức
đẩy lùi thân cây, đứng ở một khoảng trống vươn vai, đưa tay níu lấy mọi người
‘‘Dù em đen và em sầu, dù em trắng và em sầu. Ðó
là em. Còn anh, anh sầu và anh vàng. Cái chung của chúng ta là sầu. Nhưng cái
sắc vàng này là của anh. Anh vàng và anh buồn em ơi’’.
DƯƠNG
NGHIỄM MẬU
[i]
Buồn vàng được Dương Nghiểm Mậu viết năm 1959, trích trong tập Kinh Cầu Nguyện, Nxb Văn Xã, Sàigòn 1967
ST bộ mới số 7. 9.1961 59.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 254
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0254
TÔ THÙY YÊN - TẠP CHÍ SÁNG TẠO -
Wednesday, March 20, 2013
DU TỬ LÊ * TÔ THÙY YÊN
DU TỬ LÊ * Tô Thùy Yên, một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam
Tô Thùy Yên, theo tôi, là một trong những nhà thơ của 20 năm văn học miền Nam, có ảnh hưởng rộng, lớn. Cái ảnh hưởng rộng, lớn ông có được, không phải vì ông cùng với Thanh Tâm Tuyền là hai “mũi nhọn xung kích” thổi bùng ngọn lửa thơ tự do ở miền Nam, như một số người ngộ nhận.
Sự thực, cùng với Thanh Tâm Tuyền,
những người tận hiến tâm huyết mình, cho mục đích xiển dương thơ tự do ở miền
Nam (giới hạn trong phạm vi tạp chí Sáng Tạo,) là Quách Thoại, Trần Dạ Từ, Trần
Lê Nguyễn, Đỗ Quý Toàn, Ngọc Dũng, Người Sông Thương (bút hiệu của Nguyễn Sĩ
Tế)…chứ không phải là Tô Thùy Yên. Những bài thơ của ông, được yêu thích nhất,
cũng không phải là những bài thơ Tự Do mà, lại là thơ vần, điệu. Hoặc những bài
ông dung hoà được đặc tính của thơ tự do và thơ cũ (như một số tác giả cùng
thời khác đã thành công. Điển hình, như cố thi sĩ Nguyên Sa.)
Duyệt lại hành trình thi ca Tô Thùy
Yên, 20 năm văn chương miền Nam, căn cứ trên mấy chục số tạp chí Sáng Tạo, từ
bộ cũ đến bộ mới; bên cạnh những bài thơ tự do, Tô Thùy Yên còn có nhiều, khá
nhiều, những bài thơ có vần, điệu. Đôi khi vần, điệu của ông, nơi những
bài thơ ấy, còn chặt chẽ hơn cả những thi sĩ thời tiền chiến nữa. Trong thể loại
này, Tô Thùy Yên trội, bật nhất là thể thơ 7 chữ.
Bài thơ đầu tiên (?) của Tô Thùy Yên
được giới thiệu trên Sáng Tạo, gây tiếng vang lớn và, dư âm của nó, kéo dài
nhiều năm sau, là “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu” viết tháng 4 năm 1956. Một
bài thơ 7 chữ.
Bài thơ này có tất cả 15 câu, toàn
vần “au.” Rất chặt chẽ. Bài thơ đó, nguyên văn như sau:
“Trên cánh đồng hoang thuần một mầu
“Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
“Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
“Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau.
“Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
“Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt.
“Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.
“Ngựa thở hào hển, thở hào hển.
"Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.
“Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
“Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
“Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.
“Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.
“Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
“Chấm giữa nền nhung một vết nâu.” (1)
“Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
“Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
“Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau.
“Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
“Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt.
“Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.
“Ngựa thở hào hển, thở hào hển.
"Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.
“Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
“Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
“Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.
“Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.
“Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
“Chấm giữa nền nhung một vết nâu.” (1)
Tôi nghĩ, có thể vì tính liên tục
của cuộc rượt, đuổi giữa con ngựa và, chuyến tàu, nên tác giả đã cố tình không
phân đoạn bài thơ của mình (?)
Nếu phân đoạn bài thơ trên với 4 câu
cho mỗi khổ thơ, chúng ta sẽ có tất cả 4 khổ, mà khổ thơ chót, chỉ có 3 câu
(Như thể đánh dấu sự bỏ cuộc, gục ngã bất ngờ, phút chót của con ngựa?!.)
Dựa trên việc phân đoạn, để sự tìm
hiểu bài thơ dễ dàng hơn; ghi nhận đầu tiên của tôi là, Tô Thùy Yên đã dùng âm
“trắc” cho chữ cuối cùng của câu thứ hai - - Nhưng không phải để hiệp vần
“trắc” với chữ cuối cùng của câu thứ thư - - Mà, nó chỉ là sự chuyển đổi
vị trí. Bởi vì, ông vẫn cho hiệp vần “bằng” của các chữ cuối, ở những câu thứ
nhất với các câu thứ ba và, thứ tư.
Nói về thơ 7 chữ, cũng như nói về
thơ lục bát, những người có kinh nghiệm với cuộc chơi “chọn vần, lựa chữ,” đều
hiểu rằng, ngoài luật định hiệp vần, còn có luật định về nhịp điệu riêng của
thể thơ này nữa.
Nhìn lại những nhà thơ tiền chiến,
từng được mô tả là thành công với thể thơ 7 chữ, tôi nghĩ, chúng ta có thể nhắc
tới Huy Cận, với bài “Tràng giang.”
Khổ thơ thứ nhất của bài “Tràng
giang,” nguyên văn như sau:
“Sóng gợn tràng giang / buồn điệp
điệp,
“Con thuyền xuôi mái / nước song song.
“Thuyền về nước lại, / sầu trăm ngả;
“Củi một cành khô / lạc mấy dòng.” (2)
“Con thuyền xuôi mái / nước song song.
“Thuyền về nước lại, / sầu trăm ngả;
“Củi một cành khô / lạc mấy dòng.” (2)
Tôi dùng dấu gạch chéo / slash để
phân nhịp cho mỗi câu thơ. Kết quả, tất cả 4 câu thơ này, đều có nhịp 4/3.
Bước qua một bài thơ 7 chữ khác,
cũng của Huy Cận, ta thấy, chúng cũng có chung một nhịp 4/3 như thế. Như bài
“Vạn lý tình.” Cũng đoạn thứ nhất:
“Người ở bên trời, / ta ở đây;
“chờ mong phương nọ, / ngóng phương nầy.
“Tương tư đôi chốn / tình ngàn dặm,
“Vạn lý sầu lên / núi tiếp mây.” (3)
“chờ mong phương nọ, / ngóng phương nầy.
“Tương tư đôi chốn / tình ngàn dặm,
“Vạn lý sầu lên / núi tiếp mây.” (3)
Nhịp 4/3 cũng là nhịp của hầu hết
những bài thơ 7 chữ của Lưu Trọng Lư. Tôi xin chọn bài 7 chữ của ông, quen
thuộc nhất với chúng ta. Bài “Nắng mới”:
“Mỗi lần nắng mới / hắt bên song,
“Xao xác gà trưa / gáy não nùng;
“Lòng rượi buồn theo / thời dĩ vãng,
“Chập chờn sống lại / những ngày không.” (4)
“Xao xác gà trưa / gáy não nùng;
“Lòng rượi buồn theo / thời dĩ vãng,
“Chập chờn sống lại / những ngày không.” (4)
Ngay Xuân Diệu (người được coi là
luôn có những đổi mới đáng kể về hình thức, cũng như tu từ,) cũng dùng nhịp 4/3
cho thơ 7 chữ của ông:
“Tôi nhớ Rimbaud / với Verlaine
“Hai chàng thi sĩ / choáng hơi men
“Say thơ xa lạ, / mê tình bạn,
“Khinh rẻ khuôn mòn, / bỏ lối quen.”
(Trích Tình trai.) (5)
“Hai chàng thi sĩ / choáng hơi men
“Say thơ xa lạ, / mê tình bạn,
“Khinh rẻ khuôn mòn, / bỏ lối quen.”
(Trích Tình trai.) (5)
Nhưng Tô Thùy Yên đã cho thơ 7 chữ
của ông một nhịp, điệu khác.
Trừ 2 câu đầu, và câu số 10, với nhịp 4/3 - - Tất cả những câu còn lại của bài “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu,” đều ở nhịp 3/4 ở những câu số 3, 4. Nhịp 3/2/2, ở những câu số 5, 9, 11, 13. Hoặc nhịp 2/5, ở những câu số 6, 14. Thậm chí ông còn cho câu số 12 của ông, một nhịp lạ hơn nữa. Đó là nhịp 2/1/4: “Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.”
Trừ 2 câu đầu, và câu số 10, với nhịp 4/3 - - Tất cả những câu còn lại của bài “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu,” đều ở nhịp 3/4 ở những câu số 3, 4. Nhịp 3/2/2, ở những câu số 5, 9, 11, 13. Hoặc nhịp 2/5, ở những câu số 6, 14. Thậm chí ông còn cho câu số 12 của ông, một nhịp lạ hơn nữa. Đó là nhịp 2/1/4: “Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.”
Tuy nhiên, bài thơ không chỉ tạo
được sự chú ý chỉ bởi nhịp đi mới mẻ của nó!
Sâu xa hơn, theo tôi, lại là những
gì nằm sâu, sau phần hình thức này.
Tôi nghĩ, hình ảnh con ngựa rượt,
đuổi chuyến tàu, với phông nền là những cánh đồng nối nhau, hút mắt; là một bức
tranh sống động vẽ bằng…ngôn ngữ. Sức sống động mạnh mẽ tới độ, chúng cho ta
cảm tưởng tác giả đã chụp được một bức ảnh thời gian…Bằng tài năng đặc biệt của
mình.
Lại nữa, sự đuối sức, đầu hàng, từ
giã cuộc đua của con ngựa, vẫn theo tôi, là một ẩn dụ, nhắc nhở rằng: Ý chí,
sức mạnh của con người, dù kiên quyết, lớn lao tới đâu, cũng vẫn bị lưỡi dao
hữu hạn, đời người, chém đứt!.!
Nói cách khác, bất lực trước, sau,
vẫn là thuộc tính của con người, khi con người phải đối diện với chiều dài thời
gian. Vô tận.
Đọc lại bài thơ, một lần nữa, về
phương diện nhịp, điệu, tôi chợt có cảm nhận rằng, khi Tô Thùy Yên chọn cho bài
7 chữ này của ông, những nhịp đi gập ghềnh, có dễ ông cũng muốn cho người đọc
liên tưởng tới những hơi thở không đều của chuyến tàu, con ngựa trong cuộc
rượt. Một cuộc rượt, đuổi với tốc độ “tàu chạy mau mà qua rất lâu,” hay
“tàu chạy mau, tàu chạy rất mau”… dẫn tới kết quả là những hơi thở
“hào hển” hoặc, “cúi đầu”…
Mọi ẩn dụ, liên tưởng mà, bài thơ
đem được, đến cho người đọc, theo tôi là những chiếc chìa khoá quý giá, để độc
giả được quyền thênh thang bay bổng, phiêu hốt trong đất, trời rất tư, riêng,
của bài thơ ấy - - Dù cho (cũng dễ hiểu thôi,) nếu những cảm nhận của độc giả,
thường…xa lạ, không ăn nhằm, chẳng liên hệ gì, tới tình, ý (mơ hồ?) của tác
giả, khi sáng tác!.
Nhưng, điều đó, cũng chỉ có thể xẩy
đến cho những bài thơ hay, đi ra từ những tài thơ lớn. Mà, “Cánh đồng con ngựa
chuyến tàu,” là một thí dụ cụ thể vậy.
Một nét đặc thù khác trong thơ Tô
Thùy Yên là chủ tâm sử dụng khá nhiều ngôn ngữ Nam…rặc. Chủ tâm này rất đáng
kể; nếu người đọc nhớ lại rằng, đó là những câu thơ được viết trong khoảng thời
gian 1956 tới 1975, trên một diễn đàn cổ suý văn chương…mới. Chúng ta có thể
tìm thấy nhiều ngôn ngữ đặc biệt kia, trong Tô Thùy Yên Thơ Tuyển (TTY/TT) in
năm 1995, tại Hoa Kỳ. Như trong bài “Anh hùng tận,” ông viết:
“Dựng súng trường, cởi nón sắt
“Đơn vị dừng quân trọn buổi chiều.
“Trọn buổi chiều, ta nhậu nhẹt,
“Mồi chẳng bao nhiêu, rượu rất nhiều.
(……)
“Đơn vị dừng quân trọn buổi chiều.
“Trọn buổi chiều, ta nhậu nhẹt,
“Mồi chẳng bao nhiêu, rượu rất nhiều.
(……)
“Thiệt tình, tên bạn ta không
nhớ
“Nhưng mà trông mặt thấy quen quen.”
(……)
“Nhưng mà trông mặt thấy quen quen.”
(……)
“Tiếng hò mời dzô, dzô
tở mở,
“Muỗi thuỷ triều chừng cũng giạt ra…”
“Muỗi thuỷ triều chừng cũng giạt ra…”
(Trích TTY/TT.)
Hay một số chữ trong bài “Mòn gót
chân sương nắng tháng năm”:
“Vụt đuốc đi thầm đến mãn kiếp,
“Lèm bèm ú ớ chuyện nhân gian,”
“Lèm bèm ú ớ chuyện nhân gian,”
(……)
“Sáng ngày, đời giật mình ngơ ngác,
“Mường tượng đôi ba chuyện bắt quàng.”
“Mường tượng đôi ba chuyện bắt quàng.”
(……)
“Ta lại trồi lên dương thế rộn,
“Ngày ngày ra bãi vắng vời trông…”
“Ngày ngày ra bãi vắng vời trông…”
Hoặc:
“Ra đi như nước ao lền đặc”
(Trong bài “Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai,” TTY/TT.)
(Trong bài “Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai,” TTY/TT.)
“Thế giới làm sàm điếc lác
nặng”
(Trong bài “Bất tận nỗi đời hung hãn đó,” TTY/TT.”
(Trong bài “Bất tận nỗi đời hung hãn đó,” TTY/TT.”
Như đã nói, 7 chữ là đường kiếm lấp
lánh nhất, trong cõi thơ Tô Thùy Yên, 20 năm, miền Nam. (Ngay bài thơ nổi tiếng
“Ta về” Tô Thùy Yên viết tháng 7 năm 1985, hơn mười năm sau thời điểm vừa kể,
cũng là thơ 7 chữ.)
Căn cứ vào tập TTY / TT, do chính
tác giả xuất bản, tính riêng số thơ sáng tác trước tháng 4 năm 1975 của ông, có
tất cả 21 bài; thì hết 14 bài viết theo thể 7 chữ. Bảy bài còn lại, dành
cho tất cả những thể thơ khác.
Hầu hết thơ 7 chữ của Tô Thùy Yên
đều đậm tính “khẩu khí!” Rõ hơn, ông mượn loại thơ này, để bày tỏ tâm sự mình
trước thế sự. Cái tâm sự kẻ sĩ ngao ngán, bất mãn trước thời cuộc và, kiếp
người. Khi viết loại này, các thi sĩ thường chọn thể loại “Hành.”
Chỉ có thể loại này, mới giúp tác
giả hiển lộ tính cảm-thán của mình. Đồng thời, nó cũng dễ gợi, khêu trong tâm
hồn người đọc, cái phong vị hoài cổ. Chính vì thế mà, khi chọn thể loại “Hành,”
ngoài yếu tố thơ 7 chữ, các tác giả thường xưng “ta với ngươi,” hoặc “ta với
người.” Dường như các thi sĩ không bao giờ dùng nhân xưng đại danh tự “tôi!” Có
dễ vì nó không thích hợp với phong cách ngang tàng, chán chường, bất cần đời
mà, dạng thơ này, cung ứng.
Nói về những bài “Hành” nổi tiếng từ
thời tiền chiến, người ta thường nghĩ Thâm Tâm (6) với “Tống biệt hành;” và
Nguyễn Bính (7) với “Hành phương nam.”
“Tống biệt hành” của Thâm Tâm ngắn
hơn “Hành phương nam” của Nguyễn Bính. Nhưng bù lại, bài “hành” của Thâm Tâm
không dùng một điển tích nào, trong khi Nguyễn Bính thì có.
Bài “Tống biệt hành” của Thâm Tâm có
những câu như:
“Đưa người ta chỉ đưa người ấy
“Một giã gia đình, một dửng dưng...
“- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
“Chí nhớn chưa về, bàn tay không,
“Thì không bao giờ nói trở lại!
“Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.”
“Một giã gia đình, một dửng dưng...
“- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
“Chí nhớn chưa về, bàn tay không,
“Thì không bao giờ nói trở lại!
“Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.”
(……)
“Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
“Chị thà coi như là hạt bụi,
“Em thà coi như hơi rượu say.”
(Trích “Thi Nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân; nhà Văn Học Hà Nội, 1988.)
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
“Chị thà coi như là hạt bụi,
“Em thà coi như hơi rượu say.”
(Trích “Thi Nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân; nhà Văn Học Hà Nội, 1988.)
Và bài “Hành phương nam’ của Nguyễn
Bính, có những câu như:
“Ngươi ơi buồn lắm mà không khóc
“Mà vẫn cười qua chén rượu này
“Vẫn dám ăn tiêu cho đến hết
“Ngày mai ra sao rồi sẽ hay.
“Ngày mai, có nghĩa gì đâu nhỉ?
“Cốt nhất cười vui trọn tối nay.
“Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
“Mắt đỏ lên rồi, cứ chết ngay.
(……)
“Mà vẫn cười qua chén rượu này
“Vẫn dám ăn tiêu cho đến hết
“Ngày mai ra sao rồi sẽ hay.
“Ngày mai, có nghĩa gì đâu nhỉ?
“Cốt nhất cười vui trọn tối nay.
“Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
“Mắt đỏ lên rồi, cứ chết ngay.
(……)
“Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
“Đã dấy phong yên khắp bốn trời
“Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
“Uống say mà gọi thế nhân ơi!
“Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
“Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
“Dằn chén hất cao đầu cỏ dại
“Hát rằng phương Nam ta với ngươi
“Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề! Ngươi ơi!...”
Nguyễn Bính, Đa kao 1943.
(Theo dactrung.com)
“Đã dấy phong yên khắp bốn trời
“Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
“Uống say mà gọi thế nhân ơi!
“Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
“Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
“Dằn chén hất cao đầu cỏ dại
“Hát rằng phương Nam ta với ngươi
“Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề! Ngươi ơi!...”
Nguyễn Bính, Đa kao 1943.
(Theo dactrung.com)
Qua tới Tô Thùy Yên, tất cả những
chữ “ngươi,” được thay thế bằng “bạn”:
“Tới đây toàn những tay hào sĩ
“Sống chết không làm thắt ruột gan.
“Cũng không ai nhắc gì thân thế
“Có vợ con mà như độc thân.
“Bạn hỏi thăm ta cho có lệ”
“Sống chết không làm thắt ruột gan.
“Cũng không ai nhắc gì thân thế
“Có vợ con mà như độc thân.
“Bạn hỏi thăm ta cho có lệ”
(……)
“Người thuở trước tìm vàng khẩn đất
“Tiêu xác thân, để lại oan hồn
Ngày nay, ta bạn đến đây nữa
“Đất thì không khẩn, vàng không tìm…
“Bạn nhủ ta: đừng hỏi khó
“Uống mất ngon vì chuyện loạn tâm…”
(TTY/TT.)
“Tiêu xác thân, để lại oan hồn
Ngày nay, ta bạn đến đây nữa
“Đất thì không khẩn, vàng không tìm…
“Bạn nhủ ta: đừng hỏi khó
“Uống mất ngon vì chuyện loạn tâm…”
(TTY/TT.)
Đôi khi, nhân vật thứ hai trong
những bài “Hành” của Tô Thùy Yên, là kẻ vắng mặt. Kẻ “vắng mặt” ở đây, khi là
thiên, địa; lúc là lẽ tử, sinh:
“Nên ta phó mặc cho trời đất
“Trời đất vô ngôn lại bất nhân.
“Nên ta lẳng lặng đi đi khuất
“Trong lãng quên xanh hút thời gian.
“Trời đất vô ngôn lại bất nhân.
“Nên ta lẳng lặng đi đi khuất
“Trong lãng quên xanh hút thời gian.
(……)
“Trăng, bạn hiền xưa giờ tái ngộ
“Ta thức đêm nay chơi với trăng,
“Nghĩ tội thương sau này, mãi mãi
“Quanh mồ ta, trăng phải lang thang.”
“Ta thức đêm nay chơi với trăng,
“Nghĩ tội thương sau này, mãi mãi
“Quanh mồ ta, trăng phải lang thang.”
Hay:
“Những người thuở trước bây giờ lạc
“Trong dã sử nào như bóng mây,
“Trong trí nhớ nào như giọng hát.
“Hỡi ôi, trời đất lạnh tình thay!”
(TTY/TT.)
“Trong dã sử nào như bóng mây,
“Trong trí nhớ nào như giọng hát.
“Hỡi ôi, trời đất lạnh tình thay!”
(TTY/TT.)
Có lần, “nhân vật vắng mặt” kia,
được ông mệnh danh là “Hiu Quạnh lớn”:
“Mùa đông Bắc, gió miên man thổi
“Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
“Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
“Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ…”
(TTY/TT.)
“Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
“Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
“Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ…”
(TTY/TT.)
Ai làm ngơ? Thiên, địa; lẽ tử, sinh
hay, tự thân cuộc đời đã vốn là một lãng quên, lớn?
Về phương diện ngữ pháp, tôi nghĩ,
trước Tô Thùy Yên (vẫn với thể thơ 7 chữ,) ít tác giả có những câu thơ như:
“Mưa lâu, trời mốc buồn hôi
xưa.
“Con đường đáo nhậm xa như nhớ…”
(Trong “Qua sông,” TTY/TT.)
“Con đường đáo nhậm xa như nhớ…”
(Trong “Qua sông,” TTY/TT.)
Hay:
“Đôi bàn tay vỗ nháng âm
thanh.
(……)
“Cỏ cây lưu gió khóc mơ màng…
(……)
“Gió thổi chai người đứng
lặng thinh.”
(Trong “Mòn gót chân sương nắng tháng năm,” TTY/TT.)
(Trong “Mòn gót chân sương nắng tháng năm,” TTY/TT.)
Hoặc:
“Ta dậy khi gà truyền nhiễm
gáy,
“Chân trời rách đỏ vết thương dài.
“Chân trời rách đỏ vết thương dài.
(……)
“Còn lại chăng chút u hoài mốc.
“Còn lại chăng chút u hoài mốc.
(……)
“Ngọn cây, ô! đã giát
hoàng hôn.
(Trong “Hề, ta trở lại căn nhà cỏ,” TTY/TT.)
(Trong “Hề, ta trở lại căn nhà cỏ,” TTY/TT.)
Tô Thuỳ Yên cũng như nhiều tác giả
khác, từ đông qua tây, thường đối diện với những câu hỏi lớn mang tính siêu
hình. Khi đề cập tới những vấn đề này, ông cho thấy sự dứt khoát đi tới một
cách quyết liệt, không khoan nhượng. Ông không chỉ đặt vấn đề về ý nghĩa rốt ráo
của thân phận con người; như con người được sinh ra từ đâu? Để làm gì? Rồi, sau
khi chết, con người sẽ đi về đâu? Hay sự thực cuối cùng, thảm hại thay, tất cả
cũng chỉ là hư không:
“Con chim nhào chết khô trên cửa,
“Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm,
“Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ.
“Sao người khai giải chưa về thăm?”
(Trong “Goá phụ,” TTY/TT.)
“Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm,
“Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ.
“Sao người khai giải chưa về thăm?”
(Trong “Goá phụ,” TTY/TT.)
Hay:
“Ta thấy mặt tinh cầu xếp nếp
“Như lằn nhăn tuổi tác hư không…”
“Như lằn nhăn tuổi tác hư không…”
(Trong “Và rồi tất cả sẽ nguôi
ngoai,” TTY/TT.)
Với thơ Tô Thùy Yên, tôi không biết
có một tương quan hữu cơ nào chăng, giữa con người, sự chết và, Thượng đế:
“Vì bom đạn bất dung,
“Thi thể chẳng ai thâu,
“Nào có chi đáng kể…”
(Trong chiều trên phá tam Giang,” TTY/TT.)
“Thi thể chẳng ai thâu,
“Nào có chi đáng kể…”
(Trong chiều trên phá tam Giang,” TTY/TT.)
Hay:
“Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
“Thắp trắng thời gian mái tóc em.”
(Trong Goá phụ, TTY/TT.)
“Thắp trắng thời gian mái tóc em.”
(Trong Goá phụ, TTY/TT.)
Hoặc:
“Ta bằng lòng phận que diêm tắt,
“Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông.
(Trong “Tưởng tượng ta về nơi bản trạch,” TTY/TT.)
“Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông.
(Trong “Tưởng tượng ta về nơi bản trạch,” TTY/TT.)
Chưa kể, ông luôn cho người đọc như
tôi, cảm nhận, với ông, chiến tranh cũng là một thứ thuộc tính của nhân loại,
kiếp người:
“Tiếp tế khó - đôi lần phải lục
“Trên người bạn gục đạn mươi viên.
“Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
“Trong vết thương người bạn nín rên.
“Người chết mấy ngày chưa lấy xác,
“Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh…”
(Trong “Qua sông,” TTY/TT.)
“Trên người bạn gục đạn mươi viên.
“Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
“Trong vết thương người bạn nín rên.
“Người chết mấy ngày chưa lấy xác,
“Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh…”
(Trong “Qua sông,” TTY/TT.)
Hoặc:
“Cỏ cây sống chết không ta than.
“Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?”
(Trong “Goá phụ,” TTY/TT.)
“Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?”
(Trong “Goá phụ,” TTY/TT.)
Phải chăng, Tô Thùy Yên chọn lựa sự
có mặt của mình, như một đối đầu sống, mái trước Thượng đế; dù có thể ông những
hiểu rằng, cách gì, con người, cuối cùng cũng chỉ là một thứ con tin, trong
vòng tay gai độc của định mệnh. Ông viết:
“Có đọc thuộc thánh thư,
“Linh hồn tôi vẫn vậy.
“Tôi vẫn không thể lạy
“Dù đứng trước hư vô.
“Linh hồn tôi vẫn vậy.
“Tôi vẫn không thể lạy
“Dù đứng trước hư vô.
(……)
“Đầu tôi cứng và trơn,
“Thượng đế làm sao ngự?”
(Trong “Thân phận của thi sĩ,” TTY/TT.)
“Thượng đế làm sao ngự?”
(Trong “Thân phận của thi sĩ,” TTY/TT.)
Dù đứng ở góc độ nhân sinh, chủ quan
nào, chấp nhận hay, ruồng rẫy tiếng thơ Tô Thùy Yên (8), tôi vẫn trân trọng
kính mời quý độc giả, cùng tôi đọc lại bài “Trường sa hành,” của ông - - Mà,
theo tôi, là một trong dăm bài Hành hay nhất, của văn học, nghệ thuật miền Nam,
20 năm:
Trường Sa Hành
Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh
choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.
Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ.
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ.
Đảo hoang vắng cả hồn ma quỷ.
Thảo mộc thời nguyên thuỷ lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên.
Thảo mộc thời nguyên thuỷ lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên.
Bốn trăm hải lý nhớ không tới.
Ta khóc cười như tự bạo hành,
Dập giận vác khòm lưng nhẫn nhục,
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.
Ta khóc cười như tự bạo hành,
Dập giận vác khòm lưng nhẫn nhục,
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.
Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.
Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt,
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.
Dăm cây bật gốc chờ tan xác,
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.
Dăm cây bật gốc chờ tan xác,
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng,
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.
Mặt trời chiều rã rưng rưng biển.
Vầng khói chim đen thảng thốt quần.
Kinh động đất trời như cháy đảo.
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.
Vầng khói chim đen thảng thốt quần.
Kinh động đất trời như cháy đảo.
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.
Ta ngồi bên đống lửa man rợ,
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.
Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ,
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ,
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.
Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya,
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.
Như người bị bức tử canh khuya,
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.
Ta nói với từng tinh tú một,
Hằng đêm, tất cả chuyện trong lòng.
Bãi lân tinh thức, âm u sáng.
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.
Hằng đêm, tất cả chuyện trong lòng.
Bãi lân tinh thức, âm u sáng.
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.
Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
Con chim động giấc gào cô đơn.
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
Con chim động giấc gào cô đơn.
Ngày. Ngày trắng chói chang như
giũa.
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên.
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên.
Ôi lũ cây gầy ven bãi sụp,
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.
San hô mọc tủa thêm cành nhánh.
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai.
Thời gian kết đá mốc u tịch,
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.
3-1974.
(Theo TTY/TT.)
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai.
Thời gian kết đá mốc u tịch,
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.
3-1974.
(Theo TTY/TT.)
Chú thích:
(1)Trích “Tô Thùy Yên / Thơ Tuyển.”
Tác giả xuất bản, 1995, Hoa Kỳ. Tr. 13.
(2,) (3,) (4,) (5): Nhà xuất bản
Đồng Nai, tủ sách thơ Việt
Nam.
(6) Nhà thơ Thâm Tâm tên thật Nguyễn
Tuấn Trình. Ông sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917, tỉnh Hải Dương; mất ngày 18
tháng 8 năm 1950 ở gần Việt Bắc.
(7) Nhà thơ Nguyễn Bính, tên thật
Nguyễn Trọng Bính. Ông sinh năm 1918 tại Vụ Bản, tỉnh Nam Định; mất ngày 20
tháng 1 năm 1966 ở nhà một người bạn, thuộc tỉnh Hà Nam.
(8) Tên thật Đinh Thành Tiên, Tô
Thùy Yên sinh ngày 20 tháng 10 năm 1938 tại Gia Định. Ông có thơ đăng trên báo
Đời Mới (thập niên 1950,) trước khi xuất hiện trên tạp chí Sáng Tạo. Sau
30-4-1975, ông bị nhà cầm quyền CS cầm tù 3 lần; tổng cộng gần 13 năm. Cùng gia
đình, Tô Thùy Yên hiện cư ngụ tại thành phố Houston, Texas.
VƯƠNG TÂN * TẠP CHÍ SÁNG TẠO
Vương Tân * TẠP CHÍ SÁNG TẠO
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp
định Genève ký kết giữa chánh phủ Cộng Hòa Pháp do
thủ tướng Mandès France và ngọai trưởng nươc Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng đã chia đôi đất
nước VN. Chánh phủ Quốc Gia Việt Nam do thủ tướng Ngô
đinh Diệm đứng đầu đã phản đối việc chia cắt
đất nươc đã không ký hiệp định Genève khiến
cho Việt Nam trở thành hai nước , một nước VN thủ đô
là Hà nội và nước Việt Nam thủ đô là Saigon. Thời
gian này tôi làm chủ bút văn nghệ tuần báo Quê Hương
của ông Bùi Đức Thịnh một nhân vật thân tín của
chánh khách Ngô Đình Diệm, khi chánh khách Ngô đình Diệm
làm thủ tuớng chánh phủ quốc gia Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của quốc trưởng Bảo Đai thì ông Thịnh đã
quyết định tham chánh ngừng xuất bản tuần báo Quê
Hương [xem chương hồi ký VT viết về giai đọan làm chủ
bút văn nghệ tuần báo Quê Hương]. Cùng với việc làm
báo thời gan này tôi còn đi học luật tại trường đai
học luật Đông Dương ở Hà nội, hiệp đinh Genève ra đời
trường này quyết định rời Hà nội vào Saigon, tôi đã
theo trường vào Saigon. Vào Saigon tôi ở trong lều bạt
của đòan sinh viên Hà nội và đi viết báo kiếm sống. Tại
Saigon tôi gặp Buttinger -một người Mỹ- là chuyên gia
nghiên cứu lịch sử VN, nói thạo tiếng Pháp mà tôi quen
biết từ hồi còn ở ngòai Hà nội . Buttinger hỏi tôi vẫn
còn viết báo chứ, tôi cho Buttinger biết tôi hiện là một
nhà báo tự do viết báo ăn tiền bài theo đơn đạt hàng
của một vài tờ tạp chí , Buttinger cho tôi biết tổ chức
phi chánh phủ của người Mỹ đó là tổ chức
IRC [International Recue Committee] mà ông là đai diện ở VN
vừa nhận lời giúp đỡ một nhóm văn nghệ sĩ di cư mà
trong đó có một người thân với tôi là Như Phong Lê Văn
Tiến xuất bản một tờ nhật báo bằng Việt ngữ
giương cao ngọn cờ báo chí tự do vậy Buttinger muốn tôi tham
gia tờ báo này. Tôi nói với Buttinger hiện Như Phong Lê
Văn Tiến là thư ký riêng của bộ trưởng thông tin Bùi
kiến Tín và tôi là người 'kỵ' giao thiệp với các
quan chức nhà nước nên từ khi vô Saigon tôi không còn
liên lạc với Tiến. Buttinger xin địa chỉ của tôi và
nói với tôi Tiến sẽ đến kiếm tôi
Tối hôm đó lúc tôi vừa về
tới lều bạt nơi tôi ngủ đêm đã thấy Như Phong Lê
Văn Tiến ngồi ngòai cửa lều chờ tôi. Thấy tôi về
Tiến nói ngay ông Buttinger bảo với mình phải mời cậu
tham gia tờ Tự Do cậu nhận lời chứ. Với tôi Như Phong
Lê Văn Tiến không phải chỗ xa lạ. Tiến là em kết nghĩa
của nhà văn Hòang Đạo Nguyễn Tường Long, đươc nhà văn
Hòang Đao không những bồi dưỡng cho nghề văn ,nghề báo
mà còn giới thiệu với bạn văn người Nhật là ông
Komasu một nhà văn Nhật bản có tiểu thuyết được dịch
ra tiếng Pháp, từng đươc nhà thơ Nguyễn Giang con trai nhà
văn Nguyễn Văn Vĩnh, anh nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp chuyển
ra tiếng Việt. Như Phong Lê vănTiên đươc nhà văn Komasu
- người mà giới trí thưc ở Hà nội đồn rằng ông ta
là một đảng viên Đảng Hắc Long thuộc lọai vai vế ở
Hà nội dạy không những nghề văn còn nghề tình báo
nữa. Như Phong Lê Văn Tiến không chỉ là em kết nghĩa của
nhà văn Hòang Đao mà còn là thư ký riêng của nhà văn
này.Năm 1945 chính nhà văn Hòang ĐạoNguyễn Tường Long
đã giới thiệu với bác sĩ Luyện chủ nhiệm báo Tin Mới
để bác sĩ Luyện dùng Như Phong Lê Văn Tiến làm phóng
viên chánh trị của báo Tin Mới. Khi bác sĩ Nguyễn Tiến
Hỷ khai sinh ra trường Lục quân Yên Bái của Quốc dân
quân nhà văn Hòang Đạo đã gửi Như Phong Lê Văn Tiến
đi học trường Lục quân Yên Bái. Như Phong Lê Văn Tiến
sau này nổi tiếng là nhà báo ngươi Việt trong làng báo
tiếng Anh là người thông thạo nhất về nội tình Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Như Phong Lê Văn Tiến không chỉ là
nhà báo có hạng mà còn là nhà văn kiệt xuất với bút
hịệu Lý Thắng Như Phong Lê Văn Tiến đã viết cuốn
trường giang tiểu thuyết Khói Sóng đăng trên nhật báo
Tự Do nhiều năm. cuốn tiểu thuyêt trường giang Khói Sóng
này được giới thưởng ngọan văn chương nhận định là một
trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc của văn chương
Việt Nam hậu bán thế kỷ hai mươi
Sau khi nhà văn Hòang Đạo đột tử
ở Qủang Châu [Trung Quốc] thì Như Phong Lê Văn Tiến về ở
hẳn với gia đình nhà văn Hòang Đạo và được đưa vào
Nha Thông Tin Bắc Việt làm biên tập viên. Tiến thân với
nhà văn Măc Thu Lưu Đức Sinh, kich tác gia Vũ Khắc Khoan và
nhà văn Chu Tử Chu Văn Bình. Do đó khi kịch tác gia Vũ
Khắc Khoan làm chánh văn phòng cho tổng trưởng bộ thông
tin là bác sĩ Bùi Kiến Tín họ Vũ đã đưa Như Phong Lê Văn Tiến
làm thư ký riêng cho tổng trưởng Bùi Kiến Tín. Như Phong
Lê Văn Tiến làm tình báo làm chánh trị và từng là cố vấn chuyên môn cho bác sĩ
Trần Kim Tuyến ông trùm tình báo của chế độ Ngô Đình
Diệm, làm chánh trị Như Phong Lê Văn Tiến từng là ủy
viên Ủy ban hành pháp trung ương [tương đương bộ
trưởng] và là người vẽ sơ đồ tổ chức cho mấy tay
tướng trẻ nắm chánh quyền [giữa năm 1976 thế kỷ hai
mưoi khi cùng ở chung phòng giam ký hiệu B với tôi tại
trại giam sở công an TPHCM nơi mà thiên hạ lúc đó
gọi 'khách sạn cây mít' Như Phong Lê Văn Tiến trả lời
câu hỏi của tôi về chuyện thiên hạ nhiều lời về
mối quan hệ giữa cậu em kết nghĩa của chồng và bà
chị dâu vừa góa chồng ở chung nhà với nhau. Như Phong Lê Văn Tiến cười sòa rồi nói rằng Như Phong
Lê Văn Tiến nghe rác tai những lời đàm tiếu của thiên
hạ về mối quan hệ giữa Tiến và chị Long nhưng thiên
hạ quên một điều quan trọng là Tiến ở nhà anh chị
Long từ khi Tiến chưa đầy hai mươi tuổi và lúc anh Long
lưu vong đã ký thác vợ con cho Tiến chăm sóc thời gian
này chị Long đã cẩn thận đón mẹ đến ở cùng. Tiến
công nhận chị Long là người đẹp vào lọai 'quốc sắc
thiên hương ' và Tiến rất là' thần tương' chị Long có
lẽ vì vậy mà tới khi chị qua đời Tiến vẫn chưa lập
gia đình. Đời Tiến có hai mối hận là không kiếm đươc
người bằng nửa thần tượng để cưới làm vợ nhưng
vì Tiến đối xử với các con anh Long như con Tiến nên
họ lúc nào cũng coi Tiến như cha nuôi, dù gọi Tiến là
chú, nỗi ân hận thứ hai là lập kế họach và dựng mô
hình đưa đám tướng trẻ lên cầm quyền đám này làm
ăn quá tệ đến nỗi phe quốc gia tan đàn xẻ nghé như
ngày nay
Theo nhà văn Tạ Quang Khôi thì
cuối đời Tiến làm cố vấn cho đài Á Châu Tự Do và
viết báo Wallstreet nhưng dành nhiều thời gian sang Paris
tìm đọc tiểu thuyết Khói Sóng trong thư viện Pháp để
sửa chữa và viết tiếp . Tiến đã hòan thành trường
giang tiểu thuyết Khói Sóng trươc khi qua đời
Tôi nhận lời Như Phong Lê Văn
Tiến về tòa sọan báo Tự Do làm phóng viên chánh trị
nhưng nói với Tiến rằng tôi là anh viết văn làm thơ
tôi không muốn rời anh em sinh viên Hà nội lúc đó đang
làm tờ nguyệt san Lửa Việt. Nhóm sinh viên này không xa
lạ gì với Như Phong Lê văn Tiến đó là những sinh viên
như luât sư Trần Thanh Hiệp sinh viên cao học luât, nhà
giáo Nguyễn Sỹ Tế sinh viên cao học luật, nhà giáo Dõan
Quốc Sỹ con rể nhà thơ Tú Mỡ sinh viên văn khoa, nhà
giáo Thanh Tâm Tuyền sinh viên luât, nhà giáo Lữ Hồ sinh
viên Cao Đẳng sư phạm.
Nhóm Trần Thanh Hiệp Thanh Tâm
Tuyền lúc đó cộng tác với Vũ Ngọc Các làm tờ nhật
báo Hòa Bình. Trần Thanh Hiệp phụ trách phần chánh trị
coi như chủ bút, Thanh Tâm Tuyền coi mảng văn nghệ coi như
chủ trương trang văn nghệ cuối tuần. Một bữa Thanh
TâmTuyền nhận đươc thư độc giả gửi một truyện
ngắn tựa đề Đêm gĩa từ Hà nội ký tên tác giả là
Mai Thảo một tên lạ hoắc Tuyền định xếp xó nhưng
đọc qua dòng đầu tiên của truyện ngắn thì sửng sốt
văn hay quá cứ như thơ vậy. Tuyền đọc xong truyện ngắn
thấy phía dưới đề đia chỉ liên lạc với tác giả
là Nguyễn Đăng Qúy bèn gọi điện thọai cho Nguyễn Sỹ
Tế chủ bút nguyệt san Lửa Viêt báo tin mình vừa khám
phá ra một thiên tài và yêu cầu Nguyễn Sỹ Tế xếp chỗ
cho truyện ngắn Đêm Gĩa Từ Hà nội trên Lửa Viêt số
sắp ra
Sự ra đời của nhà văn Mai Thảo
và tác phẩm Đêm Gĩa Từ Hà Nội là như thế đó
Sau đó tôi gặp Nguyễn Đăng Qúy
tôi mới biêt Qúy là em Nguyễn Đăng Viên và trưóc khi
Qúy là nhà văn Mai Thảo , Qúy làm thơ ký bút hiệu Nhị
Qúy là dân Thổ Khối, một xã trong làng Bát Tràng anh em
họ với nhà văn hóa Nguyễn Đăng Thục em ruột Nguyễn
Đăng Viên mà Viên thì lại chẳng xa lạ gì với tôi . Viên
là đệ tử nhà văn Chu Tử. Viên học giỏi và là bạn cùng học
với một tên tướng Pháp khi tên này làm tư lệnh quân
đội Pháp ở Bắc Việt. Viên đã được tên này đề bạt
môt lúc làm tỉnh trưởng ba tỉnh Hưng Yên Thái Bình Ninh
Bình. Viên từng đươc cố Đảng trưởng đảng Đai Việt
Trương Tử Anh kết nạp Đảng cùng thời với bác sĩ
Đặng Văn Sung, cố đảng trưởng Trương Tử Anh rất tin
tưởng Viên. Nguyễn Đăng Viên có tài nhưng phải tật tếu
táo thích đùa rỡn. Viên từng dùng trung úy Nguyễn văn
Thiệu làm sĩ quan hầu cận. Khi ông Thiệu làm Tổng Thống
có mời Viên tham chánh. Viên đã từ chối với lý do làm
giám đốc khách sạn Palace của Pháp ở đường Nguyễn
Huệ luơng to hơn lương bộ trưởng. Có lẽ vì cái tính
tếu táo mà có lúc Viên đã bị thủ tướng Ngô Đình Dịệm
nhốt vào khám Chí Hòa. Lúc Nguyễn Đăng Qúy đăng quang
cái tên nhà văn Mai Thảo thì Nguyễn Đăng Viên cùng với
nhà văn Chu Tử mở trường trung học tư thục Thăng Long
ở số 207 Bùi Viện.
Sau ngày 30 tháng tư Nguyễn Đăng
Viên bị tù cải tạo tại trại Xuyên Mộc hút thuốc lào
sòng sọc xuốt ngày, ra tù Viên vươt biển đăm tầu sác
chôn bụng cá Thái Bình Dương [muốn biết thêm về Nguyễn
Đăng Viên đọc hồi ký Vương Tân chương Nguyễn Đăng
Viên]
Khi cái tên Mai Thảo đươc Thanh
Tâm Tuyền 'đánh bóng' thì Nguyễn Đăng Qúy nghĩ ngay tới
chuỵện kinh doanh gom các truyện ngắn đã viết lại
thành một tập lấy tên là tập truyện ngắn Đêm Gĩa Từ
Hà nội in thành sách đem bán. Thời đó lọai truyện như
Đêm Gỉa Từ Hà nội phát hành tác gỉa muốn có lời
chỉ có hai nơi tiêu thụ ngon lành là Bộ Thông Tin và
Phòng Thông Tin Hoa Kỳ. Bộ Thông Tin thì Nguyễn Đăng Qúy
nhờ sư quen biết của Nguyễn Đăng Viên nên bộ này đã
nhận lời mua một nghìn cuốn. Phòng Thông Tin Hoa Kỳ qua
Viên Qúy gặp Từ Ngọc Bích phó phòng Thông Tin Hoa Kỳ
nơi này không những chịu mua cho Mai Thao tới hai nghìn
cuốn Đêm Gĩa Từ Hà nội mà Bích còn giới thiệu với
Mai Thảo một ngươi Mỹ gốc Ý tên Tucker lúc đó là
trưởng phòng Thông Tin Hoa Kỳ tại Saigon nói thạo tiếng
Pháp. Gặp Mai Thảo Tucker gợi ý Mai Thao nên xuất bản
một tạp chí văn chương ra hàng tháng với điều kiện
tạp chí này cổ võ cho xu hướng văn chương hiện đại
và văn chương tự do. Phòng Thông Tin Hoa Kỳ có thể yểm
trợ Mai Thảo bằng cách mua cho mỗi kỳ hai ngàn số để
Mai Thảo không bị lỗ vốn có thu nhập đủ chi phí cho
tòa sọan và trả tiền nhuận bút. Mai Thảo đã nhận lời
đề nghị của Tucker. Trong khi đó Đòan Sinh Viên Hà nội
hết nhiệm vụ lịch sử tờ Lửa Viêt ngưng xuất bản,
nhóm Lửa Việt xuất bản tờ Người Việt đưa nhà văn
Dõan Quốc Sỹ làm chủ nhiệm nhà văn Nguyễn Sỉ Tế làm
chũ bút
Khi Lửa Việt đổi thành Người
Việt, họa sĩ Lữ Hồ tốt nghiệp trường Cao Đẳng sư
phạm Saigon về Huế lấy vợ rời cây cọ, thành ra Người
Việt không có họa sĩ trình bầy, tôi đã giới thiệu cho
Người Việt họa sĩ Duy Thanh một họa sĩ nổi tiếng từ
Hànội là truyền nhân của họa sĩ Nguyễn Tiến Chung để
minh họa và trình bầy Người Việt [muốn biết thêm về
họa sĩ Duy Thanh đọc hồi ký Vương Tân chương viêt về
họa sĩ Duy Thanh]
Tuần báo Ngươi Việt ra ít số
thì Nguyên Sa Trần Bích Lan [vương tân dành một chương
hồi ký viết về Nguyên Sa] từ Pháp về tìm tôi nói về
nền văn học hiện sinh và đưa tôi bài thơ viết về Nga
vợ Nguyên Sa in trên một tấm thiếp báo hỉ cùng mấy
bài thơ. Tôi đã mang tấm thiếp báo hỉ và mấy bài thơ
của Nguyên Sa đưa cho Thanh Tâm Tuyền đọc. Thanh Tâm Tuyên
đọc xong mấy bài thơ Nguyên Sa đã bảo tôi đưa Thanh
Tâm Tuyền một bài thơ tôi mới sáng tác để Thanh Tâm
Tuyền làm một trang thơ bạn giới thiệu thơ tôi và thơ
Nguyên Sa như một hiện tượng thi ca mới xuât hiện trên
bầu trời thi ca Việt Nam do Thanh Tâm Tuyền viết lời
giới thiệu đăng vào Ngươi Viêt số Xuân 1956 [số báo
này còn lưu giữ nơi các thư viện ở Saigon Paris
Washington]
Báo Ngươi Việt ra đươc mấy số
thì hết tiền đình bản. Nguyên Sa Trần Bích Lan bỏ tiền
tục bản với điều kiện cho NGUYÊN Sa phần lựa bài
đăng nhưng Người Việt ra hai số với sự lựa bài của
Nguyên Sa thì Thanh Tâm Tuyền đã yêu cầu Dõan Quốc Sỹ đòi
lại báo vì không thích đuờng lối văn nghệ hiện sinh
và nói Nguyên Sa Trần Bích Lan lấy tiền của bác sĩ Trần
KimTuyến [trùm mật vụ của chế độ Ngô Đình Diệm
] xuất bản báo Người Việt. Dõan Quốc Sỹ đã làm theo
yêu cầu của Thanh Tâm Tuyền.
Trong khi Mai Thảo xuất bản tạp
chí Sáng Tạo anh em Người Viêt không ai tham gia bài vở dù
có đi ăn nhậu và khiêu vũ với Mai Thảo vì ai cũng ngại
mang tiếng viết tờ báo nhận tài trợ của Phòng Thông
Tin Hoa Kỳ
Nhưng Sáng tạo ra mấy số thấy
không có mầu mè gì của Mỹ cả vì Mai Thảo được tòan
quyền lựa bài vở theo hướng đứng về phía cái mới
làm mới văn chương Việt Nam hiện đại hóa văn chương
Việt Nam thì anh em Người Việt mới bắt đầu viết cho Sáng Tạo
Tờ Sáng Tạo đã đưa ra được
những nhà văn mới như Thảo Trường, Dương Nghiễm Mậu,
Lý Hòang Phong những nhà phê bình hội họa Nguyễn Trung,
Thái Tuấn [hai nhân vật này từ phê bình sang sáng tác đã
trở thành những danh họa]
Thiên hạ thường ba điều bốn
chuyện về chuyện tại sao Nguyên Sa là người bên cạnh
Mai Thảo từ khi Sáng Tạo sửa sọan ra đời và cũng
chính Nguyên Sa đã giới thiệu Nguyên Văn Trung tham gia
viết Sáng Tạo ban đầu với bút hiệu Hòang Thái Linh thế
mà chẳng bao lâu Nguyên Sa và Sáng Tạo lại lạnh nhạt
với nhau. Có người như Du Tử Lê chẳng hạn quả quyết
chuyện Mai Thảo lạnh nhạt với Nguyên Sa là vì một bài
phỏng vấn Nguyên Sa của Vương Tân trong bài này Nguyên
Sa nói hơi nhiều về luật bằng trắc trong thơ và thơ tự
do 'đụng' tới Thanh Tâm Tuyền khiến Thanh Tâm Tuyền áp
lưc Mai Thảo 'nghỉ chơi' với Nguyên Sa..Mai Thảo được
hỏi về chuyện này thì lại bảo rằng chuyện hơi tế
nhị nên Mai Thảo không muốn tiết lộ. Thật ra chuyện tế
nhị đó là mối quan hệ của Nguyên Sa với bác sĩ Trần
Kim Tuyến trùm mật vụ của chế độ Ngô đình Diệm, bác
sĩ Tuyến muốn nắm tờ Sáng Tạo sau khi đã nắm tờ Tự
Do chứng cớ là khi Sáng Tạo ngưng xuất bản bác sĩ
Tuyến đã tài trợ cho nhà thơ Nguyên Sa xuất bản tạp
chi Hiện Đại với ý đồ trám chỗ tạp chí Sáng Tạo
nhưng vì không mời được Mai Thảo cũng như anh em nhóm
Ngươi Việt tham gia bộ biên tập nên Hiện Đại không
vô được đất đứng của Sáng Tạo nơi bạn đọc.
Sáng tạo cả hai thời kỳ xuất
bản không nhiều số thời kỳ đầu từ 1956 tới 1960 do
Phòng Thông Tin Hoa Kỳ yểm trợ rồi thời kỳ thứ hai
năm 1964 do một tổ chức văn hóa Hoa Kỳ yểm trợ qua bác
sĩ Lý Trung Dung đã tạo đươc một vị trí tầm cỡ
trong văn học nghệ thuật Việt Nam trong những thập niên 50 và
60. Sáng Tạo nổi đình đám nhờ phất ngọn cờ làm mới
văn học nghệ thuật VN có sự tham gia của nhóm Người
Việt chứng cờ là sau Sáng Tạo Mai Thảo từng chủ
trương các tờ Nghệ Thuật rồi Văn nhưng không có sự
tham gia đông đảo của nhóm Ngươi Việt nên các tờ này
đâu thay thế được tạp chí Sáng Tạo
Tạp chí Sáng Tạo thời kỳ 1956
-1960 so với thời kỳ 1964 cũng hòan tòan khác thời kỳ
1956-1960 dấu ấn của nhóm Người Việt đậm hơn thời
kỳ 1964
Những đặc sắc của Sáng Tạo
là phất ngọn cờ đổi mới văn học nghệ thuật nỗ
lực cổ động cho phong trào sáng tác và đọc thơ tự do
và mở rộng cửa đón những văn tài mới.
Cái làm nên bản chất của tạp
chí Sáng Tạo là nhà văn Mai Thảo cộng với sự hợp tác
của nhóm Người Việt. Phải công bằng mà nói một Ngươi
Việt không chẳng thể làm nên tạp chí Sáng Tạo, chứng
cớ là sau năm 1963 Vũ Khắc Khoan ra tạp chi Vấn Đề đưa
Thanh Tâm Tuyền làm thư ký tòa sọan lôi kéo nhóm Ngươi
Việt tham gia viết nhưng Vấn Đề vẫn không thay thế
được Sáng Tạo trong khuynh hướng thưởng ngọan văn
chương của bạn đọc và Mai Thảo làm báo Nghệ thuật
rồi Văn thiếu sự góp mặt của nhóm Người Việt cũng
không tạo đươc vị thế của Sáng Tạo trong giới đọc
cũng như giới thưởng ngọan văn chương.
Sáng Tạo tuy phất ngọn cờ đổi
mới văn học nghệ thuật dứt khóat đứng về phía cái
mới chủ lưc là nhóm Người Việt nhưng là diễn đàn
mở có sự tham gia của các nhà thơ tiền chiến Đinh Hùng,
Vũ Hoàng Chương và nhà văn nhóm Quan Điểm Mặc Đỗ, nhà
văn quân đội Tạ Tỵ nhà văn công chức đài phát thanh
Saigon Lý Hòang Phong nhà thơ thuộc nhóm Đời Mới Hòang
Bảo Việt
Vị trí của Sáng tạo trong văn
học sử Việt Nam như thế nào nay đã rõ vì ngay những
nhà nghiên cứu văn học ở miền Bắc những người có
tầm nhìn khá khắc khe và hạn chế về nền văn học
miền Nam trong hai thập niên 50,60, của thế kỷ hai mươi
cũng phải thừa nhận rằng sự xuất hiện của tạp chí
Sáng Tạo đã đem lại không khí đổi mới cho văn chương
Việt Nam, đưa văn chương VN ra khỏi những hạn chế của
su hướng văn chương tiền chiến với những Tự Lưc Văn
Đòan Tiểu thuyêt thư bẩy thứ năm hay Xuân thu nhã tập
Thanh Nghị.
PHAN THANH TÂM * SÁNG TẠO
Vấn đề nguồn gốc của tạp chí “Sáng Tạo”
Được đăng bởi nguyentrongtao vào lúc: 5:02 sáng ngày 12/02/2011
Vấn đề nguồn gốc của tạp chí “Sáng Tạo”
(xuất bản tại Sài Gòn năm 1956)
(xuất bản tại Sài Gòn năm 1956)
Kính gửi ông Nguyễn Trong Tạo
“Sáng tạo” là một tạp chí văn học nghệ thuật quan trọng xuất hiện ở miền Nam vào năm 1956 dưới chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong một bài viết mới đây, nhà thơ Du Tử Lê đã nói đến một cách khá cụ thể nguồn gốc tài chính của “Sáng tạo” sau đó nêu ra nghi vấn chính trị trong dư
luận báo chí đối với Mai Thảo, người đứng tên chủ nhiệm tạp chí này như
sau: “Hồi nào giờ, dư luận vẫn đặt nhiều câu hỏi về nguồn gốc Sáng Tạo.
Có những bài báo không ngần ngại viết, tạp chí Sáng Tạo ra đời bằng
tiền tài trợ của người Mỹ. Từ đấy suy ra, nhà văn Mai Thảo phải là nhân
viên CIA! Chí ít, ông cũng phải có liên hệ gần xa với cơ quan tình báo
này.” (“Duy Thanh, đầu mối dưới sự ra đời tạp chí Sáng Tạo?”, blog Du Tử Lê).
Câu
hỏi này không chỉ đụng chạm đến nhân thân một cá nhân mà liên quan đến
một vấn đề lịch sử văn học, thiết tưởng không nên cho là quan trọng
những suy đoán vu vơ của dư luận mà phải dựa vào những tài liệu chính
xác để làm sáng tỏ. Do đã đọc được một tài liệu nói rõ vấn đề này cách
đây khá lâu, nay sưu tầm lại và phối hợp với sự công bố của Du Tử Lê để
bổ sung, tôi nghĩ chúng ta có thể đưa ra nhận xét như sau mà không sợ hồ
đồ. Không có cơ sở để cho rằng nhà văn Mai Thảo là “nhân viên CIA” hoặc “có liên hệ gần xa với cơ quan tình báo này”
nhưng việc nhà văn này có quan hệ với chính quyền Mỹ ở miền Nam bấy giờ
về tiền bạc khi xuất bản tờ “Sáng tạo” là hoàn toàn chính xác. Xét về
mặt lịch sử văn học, vấn đề cần làm rõ thêm ở đây là: cơ
quan nhà nước Mỹ nào đã chi tiền cho Mai Thảo làm tờ “Sáng tạo”, vị trí
thực sự của Mai Thảo đối với tạp chí này là gì? Và quan trọng hơn: các
biện pháp viện trợ văn hoá (mà trường hợp tờ “Sáng tạo” chỉ là ví dụ) đã
đóng vai trò như thế nào đối với quá trình Mỹ can thiệp vào Việt Nam?
Trang nhà Nguyễn Trọng Tạo có tải lại bài viết của Du Tử Lê, nay kính nhờ chủ bút Nguyễn Trong Tạo cho đăng thêm tài liệu nói trên để rộng đường học thuật đối với bạn đọc. Tài liệu này tôi sưu tầm được từ cuốn Cuộc xâm lăng về văn hoá và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam của tác giả Lữ Phương (Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1981, từ tr. 216 đến tr. 222).
Trân trọng
Người sưu tầm
Phan Thanh Tâm (Bình Dương)
TÀI LIỆU 1
Đơn xin xuất bản một số tờ báo tiếng Việt (trong đó có tờ “Chân trời mới”, sau đổi là “Sáng tạo”) do Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ tại Việt Nam (USIS) đứng tên
U.S INFORMATION SERVICE
THE FOREIGN SERVICE OF THE UNITED STATES OF AMERICA
Sài Gòn ngày 26 tháng 7 d.l 1956
Kính gửi Ông Bộ trưởng Bộ Thông tin và Thanh niên
Thưa Ông Bộ trưởng,
Tôi xin phép trình bày cùng Ông chương trình của Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ Sài Gòn về ba tập san mà chúng tôi dự định cho xuất bản trong một ngày gần đây.
Như quí Ông đã rõ, chúng tôi hiện nay đang xuất bản hai tập san tức nguyệt san “Thế giứi Tự do” và tuần san “Sức mạnh Tự do”. Hai
tập san này đăng những bài về chương trình cải cách kinh tế, quân sự
cùng là những tiến bộ của Chánh phủ Cộng hoà Việt Nam, được phân phát
khắp giới dân chúng với mục đích cho toàn dân hiểu rõ những hoạt động
tốt đẹp của chính phủ. Những tập san này được tiếp tục xuất bản, với mục
đích tương tự và chúng tôi dự định tăng con số ấn hành.
Và đây là chi tiết những ấn loát phẩm của chúng tôi:
1)
GIA ĐÌNH: một tờ bán nguyệt san, cỡ 26×36 phân tây theo khuôn khổ các
hoạ báo “Life”, “Look” và “Paris Match”, mỗi số phát hành 80.000 số, ấn
loát tại ngoại quốc; nội dung gồm tranh, ảnh, các bài phóng sự và đoản
thiên thích hợp với hoàn cảnh và sở thích một gia đình Việt Nam bậc
trung với mục đích là:
a)
Chứng tỏ cho mọi người dân thấy đời sống gia đình của người Việt Nam
ngày nay sáng sủa đẹp đẽ hơn là trong thời thuộc địa và phong kiến trước
kia.
b) Nêu cao tinh thần đoàn kết toàn
dân. Ngày nay các đồng bào di cư sau khi thoát ách thống trị của cộng
sản, vui vẻ đón cuộc sống thanh bình, chung lưng đấu cật với đồng bào
miền Nam tự do để xây đắp một quốc gia mới và hùng mạnh.
c)
Trình bày với các gia đình Việt Nam rằng trong khi bảo tồn những thuần
phong mỹ tục của tổ tiên, họ vẫn có thể sánh vai cùng các dân tộc khác
trong Thế giới Tự do tiếp đón và thực hiện những tiến bộ mới.
d)
Vạch rõ sự kiện là trong khi gia đình tại miền Nam sự tự do được tuyệt
đối tôn trọng thì đời sống gia đình bị xâm phạm, huỷ hoại tại những vùng dặt dưới ách thống trị của Cộng sản.
Tờ bán nguyệt san này thay thế cho tờ tập san “TRẺ” do chúng tôi ấn hành trước kia sẽ do chính Sở Thông tin Hoa kì ấn loát tại ngoại quốc và phát hành tại đây.
II)
CHÂN TRỜI MỚI (New Horizons): là một tờ nguyệt san văn nghệ dày 48
trang, cỡ 16×24 phân tây, do Ban Biên tập Chân trời Mới xuất bản, dành
cho giới công chức trí thức Việt Nam.
Nội
dung sẽ gồm những truyện ngắn, những bài phóng sự, không có tính cách
chính trị mà chuyên về khoa học lịch sử, cơ khí, địa dư, y khoa v.v…
những bài khảo luận về âm nhạc, điện ảnh, mỹ thuật và kịch trường và một
mục riêng về văn chương.
Mục đích của tờ nguyệt san là:
a) Đề cao Sài Gòn là thủ đô văn hoá và trí thức của Việt Nam;
b) Đề cao trình độ và trí thức và đời sống văn hoá hiện hữu của Việt nam Tự do;
c) Vạch rõ tại Việt Nam Tự do các học giả và văn sĩ đứng đắn được hoạt động tự do trong phạm vi văn nghệ;
d) Khích lệ giới công chức Việt Nam trau dồi trí thức, thúc đẩy họ tham gia và góp phần vào công cuộc phục hưng nước nhà;
e) Làm trung tâm văn nghệ có sức hấp dẫn toàn thể người Việt ở trong nước cũng như ngoài nước.
III) Tập “NGHIÊN CỨU CHÍNH TRỊ”: là
một tạp chí do Viện Nghiên cứu chính trị Việt Nam xuất bản hàng tháng,
nội dung gồm những bài khảo luận lành mạnh và có đầy đủ tài liệu về
những vấn đề chính trị hiện đại do hiểm hoạ cộng sản gây nên với mục
đích là:
a) Đả phá âm mưu quốc tế mệnh danh là Cộng sản;
b) Trình bày rằng hiểm hoạ cộng sản ở Việt Nam là một bố cục trong cuộc âm mưu quốc tế nhằm mục đích lôi cuốn Việt nam vào vòng thống trị của khối Nga-Hoa;
c) Vạch rõ những phương pháp mà cộng sản thường dùng để cướp chính quyền tại một quốc gia;
d) Phơi bày tính chất giả dối của chủ nghĩa Cộng sản và của cách thức tuyên truyền cộng sản; cộng sản chỉ hành động theo thời cơ mà không phải vì một lý tưởng nào;
e) Lợi dụng những mâu thuẫn và nhược điểm hiện hữu và đang phát sinh trong khối cộng sản.
Vì
xuất bản thêm nhiều loại tập san, chúng tôi cần tới một số nhân viên
biên tập. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi có ý địunh giao hai tờ
“Chân trời mới” và “Nghiên cứu Chính trị” cho hai người Việt Nam làm chủ
nhiệm. Như vậy chúng tôi được lợi là không phải tăng thêm con số nhân
viên Phòng Xuất bản, và hơn nữa, đối với độc giả hai tập san này sẽ
không lộ rõ là những tài liệu tuyên truyền công khai.
Như
trong tôn chỉ và mục đích của mấy tờ báo kể trên, bản ý chúng tôi là
mong muốn góp phần vào công cuộc xây dựng một nền văn hoá Việt Nam lành
mạnh, và giúp cho mọi người dân Việt khắp đó đây có dịp mở rộng kiến
thức và trau đồi trí tuệ.
Vậy
chúng tôi thiết tha hy vọng Ông sẽ vui lòng cấp giấy phép cho hai chủ
nhiệm mà chúng tôi sẽ đệ trình danh sách, để chúng tôi có thể xuất bản
hai tờ nguyệt san “Chân Trời Mới” và “Nghiên cứu Chính trị” trong một
ngày tương lai rất gần đây và xin Ông nhận nơi đây lời cảm tạ chân thành
của chúng tôi.
Ông
Graham Tucker tức Trưởng ban Xuất bản của Cơ quan chúng tôi bàn qua
việc này với ông Đổng lý Văn phòng của Bộ Ông, vậy tôi xin đề nghị, với
sự chấp thuận của Ông, là để ông Tucker thảo luận kĩ càng về chi tiết và
thủ tục về việc xin cấp giấy phép với ông Đổng lý.
Trân trọng kính chúc Ông an khang
Nay kính
Ký tên
Robert P. Speer
Giám đốc Cơ quan Thông tin Hoa kỳ tại Việt Nam
TÀI LIỆU 2
Nghị
định của Bộ Thông tin và Thanh niên của Việt Nam Cộng hoà cho phép
Robert Speer giám đốc Cơ quan Thông tin Hoa kì tại Việt Nam xuất bản
nguyệt san “Sáng tạo”
VIỆT NAM CỘNG HOÀ
BỘ THÔNG TIN VÀ THANH NIÊN
NGHỊ ĐỊNH SỐ: 174-BTT/BC-1/NĐ
Cho
phép Ô. Robert Speer, Giám đốc Cơ quan Thông tin Hoa kì tại Việt Nam
xuất bản bán nguyệt san “GIA ĐÌNH” và tờ nguyệt san “SÁNG TẠO”
BỘ TRƯỞNG BỘ THÔNG TIN VÀ THANH NIÊN
Chiếu hiến ước tạm thời số 1 ngày 26-10-1955
Chiếu
sắc lệnh số 4-TTP ngày 29 tháng 10 năm 1955 ấn định thành phần Chính
phủ và sắc lệnh số 30-TTP ngày 3 tháng 12 năm 1955 của Bộ Thông Tin và
Chiến tranh Tâm lí thành Bộ Thông tin và Thanh Niên;
Chiếu
sắc lệnh số 36-TT ngày 19 tháng 9 năm 1949 ấn định chức chưởng của Bộ
trưởng Bộ Thông tin và sắc lệnh bổ túc số 19-a/TT ngày 28-3-54;
Chiếu Nghị định số 146-Cab/SG ngày 7 tháng 3 năm 1952 qui định thời hạn hiệu lực các giấy phép xuất bản báo chí;
Chiếu luật lệ báo chí hiện hành;
Chiếu
đơn ngày 26 tháng 7 năm 1956 của ông Robert Speer Giám đốc Cơ quan
Thông tin Hoa kỳ tại Việt Nam xin phép xuất bản tờ bán nguyệt san “GIA
ĐÌNH” và tờ nguyệt san “SÁNG TẠO”.
NGHỊ ĐỊNH:
ĐIỀU
THỨ NHỨT– Nay cho phép Ông Robert Speer Giám đốc Cơ quan Thông tin Hoa
Kì tại Việt Nam xuất bản một tờ bán nguyệt san Việt ngữ lấy tên là “GIA ĐÌNH” và một tờ nguyệt san Việt ngữ lấy tên là “SÁNG TẠO” kể từ ngày ký nghị định này.
ĐIỀU
THỨ HAI – Đổng lý Văn phòng, Tổng thư kí và Giám đốc Thông tin Báo chí
Bộ Thông tin và Giám đốc Nha Thông tin Nam Việt chiếu nhiệm vụ thi hành
nghị định này.
Sài Gòn ngày 6 tháng 8 năm 1956
Kí tên: TRẦN CHÁNH THÀNH
PHỤ BỔN
Giám đốc Thông tin và Báo Chí
NGUYỄN NGỌC CHÁC
Nơi nhận:
– Toà Đại biểu Chính phủ tại Nam Việt
– Bộ Nội Vụ
– Bộ Tư Pháp
– Sở Công báo Việt Nam
Đồng gởi:
– Toà Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt và Cao nguyên miền Nam Đà lạt
Các Nha Thông tin T.V. và Cao nguyên miền Nam
Thẻ:Phan Thanh Tâm
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 254
NGUYỄN HIẾN LÊ - ÔN NHƯ HẦU - NGUYÊN SA
Thursday, March 21, 2013
NGUYỄN THIÊN-THỤ * NGUYỄN HIẾN LÊ
NGUYỄN HIẾN LÊ
(1912-1984)
Nguyễn
Hiến Lê sinh ngày 8-1-1912 tại Hà Nội( khai sinh ghi 8-4-1912), quê ở
Phượng Khê, phủ Quảng Oai, Sơn Tây. Lúc nhỏ học trường Yên Phụ ( Hà
Nội), rồi trường Bưởi trường Cao Đẳng Công Chánh, ra làm nhân viên sở
Công chánh từ 1935, chuyên về thủy lợI, thường công tác ở Hậu Giang. Từ
1935, ông bắt đầu viết văn, viết hồi ký, du ký, tiểu luận, dịch thuật.
Cuốn sách đầu tiên của ông là cuốn Tổ Chức Làm Việc Theo Khoa Học, do
một người bạn xuất bản năm 1948. Cuốn Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười
viết cho Thanh Nghị, nhưng không gửi được sau thất lạc phải viết lại.
Sau 1945, ông bỏ Công Chánh, dạy học tư tại Long Xuyên, sau dạy Thoại
Ngọc Hàu ba năm. Năm 1932 ông lên Sài gòn, năm 1933 lập nhà xuất bản
Nguyễn Hiến Lê. Từ đó ông chuyên viết và xuất bảb các tác phẩm của ông
cho đến 1975. Khoảng 1980, ông lui về Long Xuyên và mất tại đó năm 1984.
Nguyễn Hiến Lê là nhà một trong những nhà văn lớn tại miền Nam vì nhiều
lý do. Thứ nhất, ông là một người có nhiều tác phẩm nhất Việt Nam. Ông
có tất cả khoảng 100 tác phẩm, gồm nhiều loại. Thứ hai, ông là nhà văn
có nhiều hoạt động trong những bộ môn khác nhau như dịch thuật, biên
khảo, giáo dục, Học Làm Người ( loại sách Học Làm Người và sách Giáo
Khoa chiếm khá nhiều) . Thứ ba, ông là một trong những nhà văn kỳ cựu
tại đây vì ông hoạt động liên tục từ 1948 đến 1975.
Nhiều
người cho rằng ông không chuyên. Có lẽ thấy loại nào ông thích, hoặc dự
đoán là xuất bản được thì ông viết. Ông không có một định hướng rõ rệt.
Tuy nhiên, chúng ta có thể coi ông là một nhà Trung Hoa học bởi vì
phần lớn tác phẩm ông nghiên cứu hay dịch thuật là các tác phẩm Trung
quốc. Về mặt biên khảo, ông có những tác phẩm sau đây là đáng chú ý:
-Nho Gíáo, Một Triết Lý Chính Trị , Nguyễn HIến Lê xb, SG, 1958.
-Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê xb, SG. 1965
-Văn Học Trung Quốc Hiện Đại, NHL, SG, 1969.
-Đông Kinh Nghĩa Thục, Lá Bối, SG, 1968.
i.
Đông Kinh Nghĩa Thục, 178 trang, là một tác phẩm nghiên cứu về Đông
Kinh Nghĩa Thục, ông đã phải tăng bổ nhiều lần, tài liệu khá đầy đủ.
ii.
Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc gồm ba quyển. Đây là một bộ văn học sử
Trung Quốc đầu tiên ở nước ta, biên khảo từ khởi đầu đến Trung Hoa Dân
Quốc. Ông làm việc rất cẩn thận Các bài thơ được in chữ Hán, phiên âm,
và dịch thơ khá đày đủ. Cuối mỗi chương, ông có tóm tắt.
Văn Học
Trung Quốc Hiện Đại gồm hai quyển, biên khảo từ 1898 đến 1960. Quyển này
ông không in chữ Hán, đôi khi cũng không phiên âm, không dịch thơ văn
tuy rằng thỉnh thoảng ông cũng trích đoạn. Viết tập này, ông dường như
là một người khác, hoặc theo một người khác. Trong tập này, ông chú
trọng đến văn học cộng sản . Ông thích dùng ngôn từ cộng sản: thời kỳ
quá độ (I, 19); cao trào cách mạng' (I, 95); đãu tranh tư tưởng (II,
125); bọn ác bá, hắn (II, 94, 95); bọn phản động (II, 102).
Ông kết luận về các nhà văn cộng sản 'rất đúng đường lối của đảng' (96), đúng với chủ trương của Mao Trạch Đông' (100).
Nhận định về văn học nghệ thuật Đài Loan và Trung cộng, Nguyễn Hiến Lê tỏ ra thiên cộng.
Ở
bên kia nhà cầm quyền coi văn nghệ là lợi khí của chính trị, chỉ huy
văn nghệ nhưng cũng đặc biệt khuyến khích văn nghệ; ở đây ( Đài Loan)
nhà cầm quyền lưng chừng, không ra chỉ thị cho văn nghệ sĩ, nhưng vẫn hô
hào họ chống cộng, và họ chống hay không thì cũng mặc; mà cũng không
phải cho họ tự do hẳn, vẫn kiểm duyệt đãy nhưng cơ hồ như không có đường
lối. . (149).
Nguyễn Hiến Lê là một nhà trí thức mà ăn nói như
mấy tay cộng sản gian xảo! Có hai tên công an, một tên bóp cổ nạn nhân
le lưỡi, một bên nới lỏng, chỉ đặt nhẹ tay lên cổ.Tên thứ hai đã cho nạn
nhân khá nhiều tự do rồi đó. Chính tự do là ở cái không có chính sách
kiểm duyệt. Trước đây, mấy cán bộ đại học của cộng sản đã chê bai rằng
đại học Sài gòn không có sách giáo khoa đại học. Họ không biết rằng đại
học tư bản đã tuyển chọn các bậc thầy có bằng cấp MA hay tiến sĩ, và họ
cho rằng các giáo sư đại học có quyền dạy theo ý muốn của họ theo tinh
thần tự do và sáng tạo, mỗi giáo sư có một giáo trình riêng, chứ không
bắt buộc theo giáo khoa chặt chẽ như ở chế độ cộng sản.
Ngay
cả trung học cũng vậy. Chương trình trung học của tư bản rất cởi mở,
không bắt buộc phải theo đúng pháp lệnh nhà nước. Nhận định trên tỏ ra
ông ghét phe quốc gia và thiên cộng. Sự thật, nếu so với Âu Mỹ, các dân
tộc Á Châu ta không có tự do bằng, nhưng so quốc cộng, ta phải nhận thấy
phe quốc gia dễ dãi hơn nhiều. Nói về lính, một bên bắt nhịn đói, một
bên ăn no, mặc đủ lại có lương tiền. Nói về tù, một bên ăn đói, không
biết bao giờ về, một bên ăn cơm no, có cá mắm, được gia đình thăm nuôi
hàng tuần, hàng tháng, có luật sư biện hộ, biết rõ thời hạn tù của mình.
Nói về văn nghệ sĩ, một bên có quyền không ca tụng nhà nước, một bên
bắt buộc phải ca tụng đảng và lãnh tụ. . . Hai bên rõ ràng khác nhau,
thế mà ông Nguyễn Hiến Lê không nhìn thấy! Nếu ông không thân cộng, ta
có thể nói ông viết văn học Trung quốc hiện đại là vô tình, nhưng ông
thân cộng, ta có thể nghi ngờ rằng ông viết Trung quốc văn học hiện đại
là để tuyên truyền cho cộng sản, cho đường lối văn hóa của xã hội chủ
nghĩa.
III.Hồi Ký của Nguyễn Hiến Lê gồm ba tập, 354 trang và 346
trang, 207 trangdo Văn Nghệ, CA xuất bản năm 1988-89, được nhiều người
tại Việt Nam và hải ngoại chào đón. Hồi ký này vốn được Việt Nam in và
bỏ bớt những đoạn bất lợi cho họ. Ba tập chia làm ba phần.
Tập
I. Phần I, chương 1-9: lúc nhỏ đến khi tốt nghiệp trường Công
Chánh. Phần II, chương 10- chương 15 : Vào Nam làm việc. Phần III, (
chương 16-18): chiến tranh Việt Pháp.
Tập II. Phần IV. chương 19-24: Nam bắc chia hai.
Phần V. chương 25-29: làm văn hóa.
Tập III. Phần VI, chương 30-33. Giai đoạn 1975-1981.
Quyển
hồi ký này cho ta nhiều điều hữu ích. Phần thứ nhất, Nguyễn Hiến Lê cho
ta hiểu rõ cuộc đời của ông và đời sống của dân chúng miền bắc trước
1945. Phần hai, ông cho ta biết về cuộc chiến tranh Việt Pháp. Phần thứ
ba, ông cho ta biết tình hình miền Nam thời Mỹ đến miền Nam. Quan trọng
nhất là phần V, cuộc đời làm văn hóa của ông. Rất tiếc là phần này chỉ
khoảng chiếm 150 trang/ 700 trang. Ông đã mất nhiều thời giờ để nói về
Pháp và Mỹ. Ông viết hồi ký nghĩa là ông viết về ông, đâu phải viết lịch
sử Việt Nam mà phải tốn nhiều về Pháp và Mỹ! Phải chăng ông viết như
thế để thanh minh ông ghét Pháp và Mỹ, ông không dinh gì đến '' ngụy
quân ngụy quyền'', ông là người trong sạch, là người ''yêu nước''?
Viết cuốn này, Nguyễn Hiến Lê chứng tỏ ông chẳng có lập trường chính
trị, chẳng có kiến thức chính trị mặc dầu ông đọc rất nhiều và viết rất
nhiều. Ông thuộc loại nửa nạc nửa mỡ, lúc thì không ưa cộng sản, lúc thì
tán tụng cộng sản. Đoạn ông viết về Pháp, về Điện Biên Phủ thật là tồi
tệ. Hơn nữa, những điều ông viết chỉ làm hạ giá trị của ông. Thứ nhất
, ông gọi quân cộng sản là ' quân mình' 'bên mình dàn quân để chiến
đãu'; quân mình thắng '; quân mình lần đầu thấy bom napalm hoảng hốt ;
trận đó mình thất bại nặng . . . ( II, 67, 68)
Thứ hai ông chê bai Bảo Đại, và Ngô Đình Diệm, và mạt sát các tướng lãnh cộng hòa:
Bảo
Đại bù nhìn của Pháp thì bị dân chúng khinh; tay sai của Mỹ ông Diệm
thì bi toàn dân ghét; những người hùng do Mỹ đưa lên sau này vưà bị
khinh vừa bị ghét (127-128).
Trong khi đó ông tôn kính Hồ Chí
Minh : uy tín của Hồ Chí Minh vẫn lớn (II, 66). Ông há không biết trong
khi Bảo đại, Diệm theo Pháp, Mỹ thì Hồ Chí Minh cũng là tay sai của Nga,
Tàu. Ông há không biết Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản đã phạm nhiều tội
ác? Giữa quốc và cộng, ông theo ai? Bao năm ở miền Nam, ông ngồi yên ổn
để viết, để kiếm tiền là nhờ ai đã ngăn chận bàn tay cộng sản?
Thứ
ba, viết về Điện Biên Phủ, ông lại theo những lời tuyên truyền, thêu
dệt của cộng sản Việt Nam (70 ) mà không biết rằng trận Điện Biện Phủ là
chủ trương của các tướng lãnh Trung Quốc như Lã Quý Ba, Trần Canh, Vi
Quốc Thanh. Điện Biên Phủ là trận Trung quốc phục hận Tây phương và trận
thử lửa Đông Tây. Võ Nguyên Giáp chỉ là cha hờ của một đứa con người
khác. Việt Nam đóng một vai trò công khai để che dấu bí mật bên trong do
Trung quốc lãnh đạo cuộc chiến.
Những lời phê bình của ông về
giáo dục, chủ trương dùng roi vọt có lẽ không được đa số hưởng ứng. Nhận
định của ông về xã hội Âu Mỹ cũng vậy:
- Sản xuất kém, tiêu thụ mạnh
-Đời sống quay cuồng
-Cảm giác bất an (187-194).
Ông
không ở Mỹ, ông cũng không là một nhà xã hội học, cho nên ý kiến ông
có phần thiển cận. Ông cũng như mấy tay cộng sản cực đoan ghét Mỹ ra mặt
trong khi những tay cộng sản thuần thành thì rất thích Mỹ và đô la Mỹ!
Tuy
nhiên, ông cũng có những nhận định khá chính xác. Ông cho rằng nuớc ta
không có giai cấp đãu tranh (130). Ông cũng chỉ trích tục ăn uống của xã
hội chủ nghĩa (113) và sự phát triển của bọn cường hào mới ở thôn quê
(137). Tuy nhiên, cái mà ông phê phán chỉ là bệnh ngoài da, ông không
thấy nguồn gốc trong tạng phủ của bệnh nhân.
Tập III của ông là
một sự ngạc nhiên cho độc giả. Tập này là những ăn năn hối hận của ông
về con người thiên cộng của ông. Đọc tập này, ta biết ông thân cộng và
đã từng ủng hộ cộng sản.
Tôi vốn có cảm tình với Việt Minh, với
cộng sản, ghét thực dân Pháp, Mỹ, nhất là từ 1965 khi quân Mỹ đổ ào ạt
vào miền Nam, tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp Mỹ, tôi phục
tinh thần hi sinh, kỷ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp
họ đuợc gì thì tôi sẵn lòng giúp. . . Tôi ngây thơ quá (18- 23).
Tập
này viết về Việt Nam từ 1975 đến 1981 . Ông viết xong năm 1980 và 1981
có sửa chữa vài chỗ. Tập này được coi như một thiên lịch sử Việt Nam từ
1975 đến 1981, trong đó ông phân tích và phê bình cộng sản về các mặt
hành chánh, tài chánh, ngân hàng, nông nghiệp, kinh tế mới, sản xuất,
đánh tư bản, văn hóa, giáo dục, y tế, tư pháp, ngoại giao. . .tại miền
Nam sau ngày cộng sản chiến thắng.
Về nông nghiệp, ông chỉ trích:
'ban
quản lý hợp tác xã cấu kết với nhau, gian lận, làm giàu, úc hiếp xã
viên, họ là một bọn cường hào mới' (50); thiếu kỹ thuật gia giỏi (54); '
Chương trình đẩy một triệu dân Sàigòn di kinh tế mới để đưa một triệu
dân Bắc vào như vậy là không thực hiện được một nửa: đồng bào bắc đã vào
Sài gòn và còn vào nữa, như đồng bào kinh tế mới cũng lại trở về Sài
gòn, và Sài gòn đông nghẹt, bẩn thỉu hơn trước nhiều (54).
Về kinh tế ông viết:
'
Công ty tư doanh chỉ đứng được ít năm rồi cũng phải đóng cửa vì chính
phủ cho số lời ít quá, thu thuế nặng quá nhất là thiếu nguyên liệu,
nhiên liệu (59).
Ông chỉ trích việc phân phối thực phẩm:
Ở
Trung Hoa, Mao chia cán bộ thành 30 cấp ( thời Chiến quốc, Trung Hoa chỉ
có 10 cấp thôi) . . . Cách thức phân phối rất bất tiện cho dân. Khi có
nhiều món hàng tới một lúc, phường phân phối cho mỗi hộ bao nhiêu thì
hộ phải mua hết, cả những món không dùng tới, không thì không mua đuợc
món nào cả. Không được lựa chọn. . . Thịt tới 12 giờ trưa, cũng kêu dân
đi mua, cá tới 11 giờ khuya, cũng đánh thức dân dậy. Các công sở lớn có
hợp tác xã riêng. Giữa giờ làm việc, xe chở cá ( thường là cá biển)
tới, công nhân viên xách giỏ, ùa ra lựa cá rồi đem ngay lại máy nước
trong sân tranh nhau rửa, làm cá xong rồi mơi trở về phòng làm việc, có
người đem thẳng về nhà, nghỉ luôn buổi đó (66-68).
Ông phê phán nền giáo dục cộng sản:
Muốn
vô đại học thì sức học không quan trọng bằng lý lịch. . . Chính phủ
sắp các thí sinh thành 12 thành phần. Thành phần 12 thấp nhất gồm con
ngụy quân, ngụy quyền hạng nặng; thành phần 11 ngụy quân ngụy quyền hạng
trung; hạng mười là con ngụy quân, ngụy quyền hạng nhẹ, và tư bản. Cao
nhất là con gia đình cán bộ hay liệt sĩ. . .Thí sinh thuôc thành phần
10,11,12 dù học giỏi cũng vô ích. . . Có nơi thí sinh không được chọn
trường. Ở Đại học và Cao Đẳng, sinh viên được ăn ở tập thể, được nhà
trường nuôi, nhưng mỗi tháng phải xin cha mẹ từ 100 đến 200 đồng để mua
thức ăn (73).
Chương XXXI, ông phê bình kết quả sau năm năm cộng sản cai trị:
-Thất bại trong hòa bình: Không đoàn kết được nhân dân (90); Xã hội
bất công hơn trước (93); Tinh thần bè phái, không có kỷ luật (95);
Suy sụp kinh tế (97).
- Xã hội sa đọa : Ăn cắp của công (101);Nạn buôn lậu , chợ đen (102)
-Con người mât nhân phẩm (105)
- Dân chúng bỏ đi : vượt biên (108)
- Đảng đã sai lầm trong tư tưởng, và những chủ trương của đảng chỉ
làm cho cán bộ hủ hóa, tinh thần quân đội sa sút (114).
Nhiều khi ông mâu thuẫn. Có lẽ trong ông, cái cũ
(
ca tụng cộng sản) và cái mới ( chỉ trích cộng sản ) đang đãu tranh
nghiêng ngửa. Tự thâm tâm, tính thiên cộng vẫn tồn tại ít nhiều. Ông
không phải là một người quốc gia như đa số chúng ta. Ông tố cáo quân đội
cộng sản cướp nhà dân:
đương đêm quân đội tới bắt dọn đồ dạc ra
đường để chúng chiếm nhà (35), thế mà nhiều lần ông ca tụng quân đội
cộng sản có kỷ luật: tôi phục tinh thần hi sinh, kỷ luật của anh em
kháng chiến''(18). . . Tôi phục quân đội cộng sản có kỷ luật (24);
''người Nam nào cũng phục tinh thần kỷ luật của quân đội giải phóng
(126).
Đôi khi ông vẫn chưa hiểu rõ cộng sản, vẫn ca tụng cộng sản
. Ông đã ca tụng cộng sản Việt Nam. Là một học trò mà lại tự hào giỏi
hơn thầy. Lại nữa, trong ngôn ngữ, ông tự coi như thuộc phe ta, tức là
thuộc hàng ngũ cộng sản:.Ông viết:
-chế độ lương của mình còn hơn Nga là không có dự cách biệt rất xa giữa cấp cao và cấp thấp (94).
Tại Việt nam, cái quan trọng là chức vụ và uy quyền, lợi lộc ở đó, chứ không phải ở lưong chính thức.
-Kravchenko nói chính phủ Nga bắt dân đói để dân biết phép chính phủ mà
phải tuân lệnh. Nước ta không đến nỗi như vậy, có áp dụng chính sách
đó thì chỉ áp dụng cho những kẻ thù của chế độ thôi (95).
Nông
dân, công nhân, cán bộ, bộ đội, công an tiền gạo rất ít, và chính sách
hộ khẩu, chế độ khẩu phần, thuế má cao, đóng góp nhiều. . .là các chính
sách bắt dân đói tại Việt Nam. Chính ông đã quy tội cho chính phủ làm
dân đói:
Tất cả chỉ tại cái lệ chính phủ định giá. định lương rẻ
quá không cho dân đủ sống, dân phải xoay xở lấy, bóc lột lẫn nhau (107).
.
Và chính ông đã viết về cái đói của dân miền Bắc:
Từ trên
xuống dưới ai cũng phải ăn độn có khi 60-70%. Có hồi gạo quý tới nỗi
người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng như nhân sâm,
chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày tết mà có đủ
gạo nấu cơm cúng ông bà là mừng lắm; khi nào ăn một bữa cơm không độn
với nước mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm,
có người ở Nghệ An hay Hà Tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người
trong Nam ra đem theo nước mắm, xin một vài muỗng rồi cầm nuốt ực ngay
hết, không đợi đem về nhà (98).
Ông cũng viết về cái đói của dân miền Nam sau 30-4-1975:
Dân
Miền Nam từ xưa chưa bao giờ biết đói, phải ăn độn thì năm 1979 đã phải
ăn độn 70-80%, có những gia đình phải ăn bữa cơm bữa cháo, có cô giáo
và học sinh đói quá, tới lớp té xỉu'. Nhà nào cũng bán đồ cũ để ăn
(98).. . .Ở Nam, có nơi hai tháng nhân viên chưa được lãnh lương,chắc
nhiều gia đình không đủ tiền mua rau muống nữa (99).
Vậy thì ở
Việt Nam, người ta cũng áp dụng chính sách bần cùng hóa nhân dân như ở
Nga, chứ không như nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê suy nghĩ.
Những đoạn sau đây ông lại ca tụng Nga. Ông cho rằng dân Nga không thích
chế độ tư bản,' không muốn trở về chế độ tư bản' . . .vì khắp thế giới
không có dân nước nào được hưởng nhiều bảo đảm vật chất mà phải làm việc
rất it như dân Nga (143).
Giọng điệu của ông giống như ca vè Sô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 ca tụng thiên đường cộng sản Nga xô:
Có đâu như ở bên Nga,
Ngày làm, ngày nghỉ đều là có lương'.
Làm
sao ở Nga đời sống dân chúng đuợc bảo đảm vật chất ? Ai cũng biết Nga
nghèo khổ vì chủ nghĩa cộng sản kém hiệu năng sản xuất và bao tài nguyên
đều đặt nặng vào quốc phòng. Chính ông cũng đồng ý về những nhận định
của các tác giả khác viết về nước Nga:
- Thế kỷ trước, Nga là một xứ kỹ nghệ kém nhất châu Âu (136).
-Tư
bản vẫn mạnh chứ không chết, sự phát triển kinh tế, nâng cao mức sống
của dân Nga không theo kịp tư bản (136). Nga phải mua lúa và bắp của Mỹ
(49).
-Các nước Đông Âu đã bỏ chính sách kinh tế của Nga nhờ vậy mà mức sống của họ cao hơn Nga (137).
-Nhà cầm quyền Nga giả dối, ích kỷ, tàn nhẫn (138).
Ông cũng giống như Marx cho rằng tư bản sẽ chết:
' Từ 1945 đến nay, phe tư bản phải lùi bước ở nhiều nơi. . .Nếu phe tư
bản không thay đổi chính sách và thái độ đó thì họ sẽ thua cộng sản
(144-145).
Rất tiếc là ông đã chết trước khi Đông Âu và Liên Xô
sụp đổ, và không kịp thấy Trung Quốc, Việt Nam nay mở cửa cầu tư bản đầu
tư.
Ông đã lậm tư tưởng của cộng sản quá đậm. Ông không thấy
rõ tội ác của ông Hồ, và tham vọng nhuộm đỏ toàn cầu của cộng sản, ông
vẫn ngây thơ coi ông Hồ là thần tượng. Ông cũng như một số cộng sản
tin rằng ông Hồ là người tốt, nếu ông còn sống thì không gây ra những
đau khổ cho dân tộc như là ông sẽ không thống nhất Nam Bắc :
Ông
Hồ Chí Minh rất sáng suốt, từ 1962 đã thấy sự thống nhất Việt Nam không
có lợi mà gây ra nhiều vấn đề khó khăn, chỉ tạo gánh nặng cho miền bắc.
Nếu ông còn sống thì chắc ông để cho miền Nam trung lập ( đúng như lời
tuyên bố của Mặt Trận Giải Phóng khi mới vô Sài gòn (116).
Tại sao
thống nhất mà tạo gánh nặng cho miền Bắc? Ông Nguyễn Hiến Lê tiếp thu ý
tưởng của cộng sản mà không suy nghĩ. Mộng của người cộng sản là xích
hóa toàn cầu chứ không dừng lại ở Bến Hải. Nếu được, sau khi chiếm Lào,
Miên, họ sẽ chiếm Thái Lan, Ấn Độ . Mộng của họ lớn lắm chứ không phải
tầm thường. Chiếm miền Nam, người cộng sản thu hoạch biết bao nguồn
lợi! Nguyễn Hiến Lê há không thấy sau 30-4-1975, liên tiếp bao năm, họ
đã chở biết bao hàng hóa, tài sản trong Nam ra Bắc! Họ đã lấy dược kho
vũ khí, thuốc men, vàng bạc, và nhà cửa, đất đai miền Nam. Họ đã kiếm
công việc, và lợi nhuận cho bao triệu dân Bắc vào sinh sống và làm việc
tại miền Nam. Sài gòn sau 1975 đã cung ứng cho Hà Nội nửa ngân sách cả
nước. Lợi quá đi chứ sao lại bảo miền Nam là gánh nặng?
Thống nhất
Bắc Nam hay không thống nhất, thực tế là dân Bắc kỳ đã nắm hết mọi sự,
Nguyễn Hữu Thọ, Trình Đình Thảo chỉ là bù nhìn. Thống nhất bắc nam là
việc đương nhiên vì ông Hồ dã từng nói : 'Dân tộc Việt Nam là một. Đất
nước Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý đó
không thay đổi.' Không ai đem xương máu chiến đãu mà lại để cho người
khác hưởng! Ai bảo ông Hồ muốn miền Nam trung lập? Nếu ông nói thì cũng
chỉ là hứa cuội, sao lại tin vào lời của trùm Cuội?
Cuối quyển
sách, ông vẫn coi ông thuộc phe cộng sản: ' Hoàn cảnh ta khác Nga..
.quân đội của ta mỗi ngày một mạnh. . . Mao thống nhất Trung quốc rồi
giúp mình khí giới và cán bộ (147) .
Nguyễn Hiến Lê là người trí
thức, đọc nhiều, viết nhiều, nhưng kiến thức chính trị của ông thua xa
những người đàn bà thôn quê Việt Nam đã bỏ làng xóm, nhà cửa, bồng con
chạy thoát bàn tay cộng sản!
Ông viết:
Từ năm 1954 tôi đã
đọc nhiều bài tố cộng của chính phủ Ngô Đình Diệm; hơn nữa tôi được
nhiều bạn của tôi di cư vô Sài gòn kể cho tôi nghe chính sách điền địa ở
Bắc tàn nhẫn tới mức bỏ tù, giết cả những ngườI kháng chiến, có con ở
trong kháng chiến, chỉ vì họ có 4, 5 mẫu ruộng ( chưa đầy hai hecta), và
bị liệt vào hạng điền chủ, bóc lột kẻ nghèo. . .Tôi được đọc một số
sách Pháp, hoặc Nga, Anh dịch ra tiếng Pháp viết về đời sống ở Nga,
Trung Cộng. . . kể những vụ đại thanh trừng trong các năm 1935-1938 ở
Nga thời Stalin. . . Năm 1968 nghe những tin tức về cuộc tàn sát rùng
rợn ở Huế trong biến cố mậu thân, tôi hoang mang,đau lòng cho đồng bào
Huế và lo lắng cho tương lai dân tộc. Năm 1968, tôi lại được đọc trên
báo Pháp những lời chỉ trích Nga của hai nhân vật Nga nổi danh khắp thế
giới: nhà bác học Sakharov' cha sinh ra bom H' của Nga, và nhà văn
Soljennitsyne. . . nhưng vẫn tin rằng chế độ cộng sản công bằng hơn
chế độ tư bản; nhất là cộng sản Bắc Việt dươi sự lãnh đạo thời kháng
chiên của Hồ Chủ tịch mà tám chín phần mười người Việt kính mến, khắp
thê giơi phục thì không thể nào tàn nhẫn như Nga, Trung Hoa được, đảng
có lỗi lầm thì sửa sai ngay (18- 20).
Tại sao vậy? Thiết tưởng có bốn lý do.
1. Ông làm việc cho Pháp nên sợ cộng sản giết. Ông mang mặc cảm Việt
gian cho nên dễ dàng đầu hàng cộng sản. Ông muốn tỏ mình yêu nước, chống
Pháp, chống Mỹ. .
2. Ông là người kém lanh lợi, khôn ngoan,
không tinh tế về chính trị. Một số người như thế, nhất là các nhà khoa
học, ít nghiên cứu chính trị, và một số người học nhiều nhưng hiền lành
dễ bị lừa gạt như Huỳnh Thúc Kháng, Trần Đức Thảo. Nguyễn Mạnh Tường.
Hơn nữa, ông lại tự cao, cho mình là đọc rộng hiểu nhiều nên không thèm
phê phán, tìm hiểu. Ông có định kiến với phe quốc gia và tư bản. Trong
gia đình, riêng ông là mù quáng. Em gái Trịnh Đình Thảo, cũng là em vợ
của ông là Trịnh thị Mộng Đơn theo nhà chồng sang Mỹ, và em gái ông,
Nguyễn Thị Mùi, tuổi gần 60 cũng theo gia đình chồng sang Mĩ (22).
3.
Có thể ông giả dối bởi vì ông ghét tư bản nhưng lại cho con đi Pháp;
ghét quốc gia nhưng vẫn ở vùng quốc gia, viết sách làm gìàu mà không ra
chiến khu chiến đãu, hay tham gia hoạt động nội thành như Thiếu Sơn Lê
Sĩ Quý, Thiên Giang Trần Kim Bảng.
4. Ông cũng như một số trí thức
Sài gòn đã bị cộng sản tuyên truyền, và ông đã ủng hộ họ (18) nhiều
mặt. Vợ cả của ông, bà Trịnh thị Tuệ đã sang Pháp từ 1972 là em gái
luật sư Trịnh Đình Thảo, chắc là ông cũng có nuôi nấng, liên lạc với mấy
ông Việt cộng và đuợc họ lôi kéo, mua chuộc, hứa hẹn. Hơn nữa, gia đình
ông lại là gia đình liệt sĩ (34- 35), gia dinh bên vợ là Trịnh Đình
Thảo gốc rễ sum xuê nên ông càng tin tưởng vào cộng sản và thiên cộng.
Cổ
nhân nói: '' Độc vạn quyển thư bất như hành thiên lý lộ'' . Kiến thức
thực tế giúp ta hiểu rõ sự vật hơn là đọc sách. Chính ông đã thú nhận
cái non kém của ông:
'muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống
dưói chế độ dăm năm. Đó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà
tôi và có lẽ cả 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay. Muốn nghe
ai phê bình, khen chê gì thì nghe, muốn đọc sách gì thì đọc, dù là người
thông minh, chịu suy nghĩ, cũng chỉ biết lờ mờ một chế độ thôi (26).
Thực tế hàng ngày và sự động chạm quyền lợi cụ thể đã cho ông thấy bộ mặt thật cộng sản:
-Họ không cho ông viết sách và xuất bản sách vì nay nhà nước nắm độc quyền.
-Họ không cho ông gửi sách đi Pháp cho vợ con ông (22).
-Họ phong tỏa ngân hàng của ông, mỗi tháng chỉ cho lấy 60 đồng trong khi mỗi tháng ông cần 100 đồng (176).
-Họ muốn lấy nhà ông ở Long Xuyên dù đó là nhà liệt sĩ ( 34-35).
- Họ đá văng đám Trịnh Đình Thảo và Giải phóng miền Nam.
Trường
hợp của Nguyễn Hiến Lê khiến cho ta suy nghĩ. Rất nhiều người học thức
đã sa vào mưu sâu của cộng sản. Nhiều người có tiền của cũng nghe theo
lời đường mật của cộng sản. Chỉ có những người quốc gia chân thật mới
bền lòng tranh đãu chống cộng để đòi tự do, nhân quyền và xây dựng Việt
Nam hùng mạnh. Và từ đó chúng ta cảm phục những tấm gương sáng của các
nhà văn lớn như Nhất Linh, Khái Hưng, Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang , Hữu
Loan, Trần Dần, Phùng Quán, và Nguyễn Chí Thiện . Những điều ông viết
ra, mâu thuẫn nhau. Phải chăng ông tuổi già lú lẫn, không còn sáng suốt?
Hoặc nộc độc cộng sản quá mạnh trong tâm hồn ông?
Về
công trình biên khảo, Nguyễn Hiến Lê có một số tác phẩm tốt. Ông cũng là
một dịch giả về Trung Hoa. Các tác phẩm loại này cũng khá phong phú
như: Cổ Văn Trung Quốc(1965); Sử Ký Tư Mã Thiên, Lá Bối, 1972; Kinh
Dịch v. v.. Phần lớn những tác phẩm này người ta đã dịch rồi. Nếu ông là
người có khă năng Hán văn, lại có phương tiện, tại sao ông chẳng quan
tâm đến văn học Việt Nam, thử dịch lấy vài tác phẩm của Nguyễn Văn Siêu,
Phan Thanh Giản, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Bùi Hữu Nghĩa v . .v..
.
Wednesday, March 20, 2013
VŨ KHẮC KHOAN * ÔN NHƯ HẦU
MỘT KHÍA CẠNH TÂM SỰ
CỦA ÔN NHƯ HẦU
Vũ Khắc Khoan
Sáng Tạo, số 11, tháng
8, 1957
Ôn
Như Hầu chinh tên là Nguyễn gia Thiều, con Đạt Vũ Hầu Nguyễn Gia Cư và bà quận
chúa Ngọc Trân tức Quỳnh Liên công chúa, con gái chúa Trịnh Cương.
Ông sinh năm 1741, niên hiệu Cảnh
Hưng triều vua Lê Hiển Tôn. Vì có họ với chúa Trịnh, lên 5, ông được vào cung
chúa Trịnh Doanh ăn học. Tư chất thông minh, ông giỏi nghề văn lại tinh thông
nghề võ. Năm 19 tuổi được tuyển vào trong cung làm chức Hiệu Úy quản binh mã.
Về sau có chiến công, thời chúa Trịnh Sâm, ông được phong tước Ôn Như Hầu. Từ
phong hầu về sau, ông hay giao du cùng với những triết gia, và thi gia trong
nước, mê man trong những cuộc thanh đàm về đạo Phật, đạo Lão, lấy sự nhàn hạ
khoáng dật làm chí thú, không quản việc triều đình nên mất sự tín nhiệm của vua
Lê cùng chúa Trịnh. Gia dĩ lại có nhiều kẻ ganh tài, ghen ghét mà dèm pha, ông
lại càng chán ngán việc đời. Kịp đến khi Nguyễn Huệ lấy Bắc Hà, ông bèn dựng
nhà ở Tây Hồ ở ẩn. Triều Tây Sơn có triệu ông ra tham chính, ông cáo bệnh mà từ
chối.
Ôn Như Hầu mất năm 1798, thọ được
52 tuổi, cuối triều vua Cảnh Thịnh, Tây Sơn.
Trong
thời ông ở ẩn, ông chuyên về việc sáng tác. Những tác phẩm chính của ông là:
Ôn Như thi tập gồm hơn một nghìn bài thơ chư Hán. Tác phẩm này hiện thất
lạc.
Tây Hồ thi tập, viết bằng chữ nôm.
Tứ Trai thi tập,
viết bằng chữ nôm.
Ngoài ra, còn bộ Sơn Trung Am, Sở Từ Điệu phổ vào âm nhạc.
Tác phẩm nổi tiếng nhất được lưu truyền đến
bây giờ là một tập trường ngâm viết bằng chữ nôm, nhan đề là Cung Oán Ngâm Khúc.
Nhưng
ít người bàn luận về Cung Oán Ngâm Khúc, so sánh với những tác
phẩm cổ điển khác, như Đoạn Trường Tân Thanh, như Chinh Phụ
Ngâm.
Hình
như Ôn Như Hầu. trên văn đàn Việt Nam đã được rõ ràng định đoạt địa vị. Hình
như về mọi phương diện, Cung Oán Ngâm Khúc đã được giải thích rõ
ràng. Thật vậy, tự cổ chí kim, tất cả những người nghiên cứu tác phẩm này, ít
nhiều, đều như đã đồng ý mà cho rằng viết nên Cung Oán Ngâm Khúc,
Ôn Như Hầu chỉ nhằm một mục đích thiển cận là giãi bày nỗi oán của mình khi
thấy mất sự tín nhiệm của vua Lê và chúa Trịnh. Vậy tâm sự của ông chỉ là tâm
sự của một viên quan bị thất sủng. Cũng như tâm sự của người cung nữ trong tập Cung
Oán. Và cũng như người cung nữ, tuy oán nhưng ông vẫn không dám
giận hờn và vẫn nuôi một chút hy vọng mỏng manh:
Phòng khi động đến cửu trùng
Giữ sao cho được má hồng như xưa...
Chủ
trương đó, mới xét qua, có vẻ hợp lý, cảnh ngộ của tác giả tưởng chừng như ăn
khớp với cảnh ngộ của nhân vật chính trong tác phẩm là người cung nữ. Cả hai
cùng đã được sủng ái rồi cả hai đều đã bị thất sủng.
Nhưng,
đọc kỹ tác phẩm, chúng tôi thấy không thể không thắc mắc. Vì nếu muốn nhằm mục
đích kêu nài một chút ơn mưa móc của một «đấng quân vương» mà Ôn Như Hầu đã
sáng tác ra cả một tập trường ngâm, thì tại sao khi nói đến «đấng quân vương»,
ông hầu Ôn Như lại đã vụng về đến nỗi hơn một lần mắc lỗi mạn thượng?
Trong cái đêm đầu tiên gặp gỡ giữa
nhà vua và người cung nữ, giữa lúc người cung nữ phấp phỏng đợi chờ như:
Chồi thược dược mơ màng thụy vũ,
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu.
Ta
hãy nghe thi sĩ mô tả cử chỉ vũ phu của nhà vua:
Gió
đông thôi đã cợt đào ghẹo mai.
Ta
hãy nghe thi sĩ mô tả thái độ tục tằn của «đấng quân vương»
Khi ấp mận, ôm đào gác nguyệt,
Lúc cười sương cợt tuyết đền phong.
Đoá lê ngon mắt cửu trùng,
Và
ngay trong khi được sủng ải, chiều chuộng, đây là lời tâm sự của người cung nữ:
Cho cam
công kẻ nhúng tay thùng chàm.
Đến khi bị thất sủng, đây là một ỷ nghĩ
chua chát của nàng:
Vốn đã biết cái thân cáu chõ
Cá no mồi
cũng khó nhử lên.
Nói đến «đấng quân vương» giữa thời quân
chủ chuyên chế mà dùng đến những danh từ «cợt», «ghẹo», «ôm», «ấp »,
«cười » để mô tả cử chỉ, hay «thùng chàm», «cá no mồi» để ám chỉ đến chính
«đấng quân vương», thì cấu tứ nên non bốn trăm câu thơ, Ôn Như Hầu nhất định
không nhằm cải đích oán thầm «quân vương» để mong «quân vương» thương lại, để
mong vớt lại một chút ơn mưa móc...
Gia dĩ, đương thời tác giả thì «đấng quân
vương» là ai? Là Lê Hiển Tôn, Lê Chiêu Thống, là Trịnh Sâm, Trịnh Cán, Trịnh
Khải, Trịnh Bồng, nghĩa là những người đại diện cuối cùng cho những triều đại
suy tàn đến độ diệt vong. Lê Hiển Tôn suốt đời bị uy hiếp; Lê Chiêu Thống chết
nơi đất khách; Trịnh Sâm cúi đầu trước Đặng Thị Huệ; Trịnh Cán, Trịnh Khải nép
mình dưới uy thế Kiêu Binh; Trịnh Bồng thất bại trước Nguyễn Hữu Chỉnh. «Đấng
quân vương» đã như vậy, cái «ơn mưa móc» nếu có, thật đã ra gì ? Ôn Như Hầu còn
mong gì ở «đấng quân vương» ấy mà đã phải làm thơ để kêu nài một chút tín
nhiệm?
Vậy nếu cứ lập luận, dựa vào cái điển tích
cũ rích «người cung nữ nhà Tần oán Lưu Bang» để chủ trương rằng sáng tác
nên tập Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu chỉ muốn ký thác cái tâm
sự thấp hèn của một viên quan thất sủng thì thật quả là quá đắc tội với cổ nhân,
mà vô tình hạ giá nội dung của một tác phẩm cổ điển.
Bởi tâm sự của Ôn Như Hầu không phải là
tâm sự của một bề tôi không đắc dụng, mà chính là tâm sự của một kẻ sĩ mắt đã
nhìn thấy bao nhiêu cuộc tang thương biến đổi, tai đã nghe bao nhiêu câu chuyận
thăng trầm, đích thân lại đã sống giữa bao nhiêu biến cố lịch sử quan trọng,
tâm tư đòi phen bận rộn về ý nghĩa của cuộc đời.
Tâm sự đó là một tấn kịch day rứt tiềm
tàng một mâu thuẫn khá gay go giữa một cuộc sống nội tâm muốn siêu thoát và
những triền phọc trong thực tại nó bó buộc con người phải «nhập ngũ» Tâm sự đó
tố cáo một thế sống chênh vênh bởi «người trong cuộc» vẫn còn thắc thắc, vẫn
còn cảm thấy lạc loài trong mê cung của thế sự.
*
Ôn Như Hầu là một sĩ
phu. Đẳng cấp của thi sĩ là một đẳng cấp luôn luôn nắm quyền chủ động trong mọi
công cuộc quan trọng của dân tộc. Đó là đẳng cấp của những Tô Hiến Thành, Lý
Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi... Con người sĩ phu vì vậy
đã luôn luôn tự nhận và đòi hỏi một phận sự trong xã hội, một trách nhiệm trước
lịch sử.
Cách đấy mấy chục năm về sau, Nguyễn Công
Trứ, một đại diện xứng đáng của đảng cấp cũng đã viết:
Tước hữu
ngũ, sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu
tứ, sĩ vi chi tiên
Có giang
sơn thì sĩ đã có tên
Tự Chu, Hán vốn sĩ này là quý
Và đã long trọng công nhận:
Trong vũ
trụ đã đành phận sự....
Đi sâu thêm vào cuộc sống nội tâm, thì
ngoài cái lý xử thế của Khổng học, con người sĩ phu lại còn mang thêm cái sắc
thái thanh thoát của Thiền học và Lão học. Chính cái sắc thái này đã giúp cho
con người sĩ phu giữ trọn tiết tháo mỗi một khi không gặp thời
mà lui về an bần lạc đạo.
Đã từ lâu, bởi cái tương quan giữa hoàn
cảnh bên ngoài và con người nội tại của kẻ sĩ vẫn giữ được thế thăng bằng cho
nên mâu thuẫn không có cơ nẩy nở: người sĩ phu dầu gặp thời hay không đạt vận,
dầu xuất hay xử vẫn giữ trọn được tính cách của đẳng cấp, vẫn được tôn trọng,
kính nể trong xã hội.
Nhưng cái thế thăng bằng đó không thể vĩnh
viễn. Và kịp đến khi, Ôn Như Hầu:
Mang tiếng khóc bưng đầu mà ra
Thì mâu thuẫn giữa con người sĩ phu và
thời đại đã trở nên gay go. Thời thế đã thôi thanh bình. Người sĩ phu trở nên
hoang mang trong một xã hội chuyển biến gấp rút.
Thật vậy, từ năm 1741 - là năm Ôn Như Hầu
ra đời - cho đến năm 1798 - là năm Ôn Như Hầu mất - suốt giải đất Việt Nam đã
trở nên một bãi chiến trường. Từ Nam ra Bắc, bao nhiêu cuộc giao tranh đã diễn
ra: Trịnh - Nguyễn, Tây Sơn - Nguyễn, Tây Sơn - Trịnh, Trịnh - Nguyễn Hữu
Chỉnh, Tây Sơn - Nguyễn Hữu Chỉnh, Tây Sơn - Mãn Thanh... Riêng ở Bắc Việt, bỏ
ra ngoài những vụ loạn như Ngân Già, Ninh Xá, Quận He, Quận Hẻo,... vào những
năm I741, 1742, đã bao nhiêu lần xảy ra biết bao nhiêu là cuộc tranh chấp! Nào
là Kiêu Binh tàn phá Thăng Long, nào là Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh, rồi đến
Nguyễn Hữu Chỉnh ra Bắc lập nghiệp, Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh,
Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Vũ Văn Nhậm, Mãn Thanh ở Trung Hoa tràn xuống, Nguyễn
Huệ ra Bắc diệt Mãn Thanh, Nguyễn Huệ đột ngột nằm xuống, Nguyễn Ánh sửa soạn
Bắc tiến.
Ở vào thời đó, thiên hạ đua nhau theo đuổi
việc binh mà sao lãng văn học. Giới sĩ phu trở nên vô dụng. Bộ máy cai trị diễn
ra cái cảnh tượng vô cùng rối nát. Văn võ quan lại trốn tránh nhiệm vụ, phỉnh
nịnh người trên, tàn bạo, hà hiếp dân lành. Việc thi cử hoặc tuyển dụng công
chức trở nên luộm thuộm. Vì thiếu công quỹ, chính quyền ra lệnh ai bỏ tiền ra
cũng được đi thi, ai bỏ tiền ra thì được làm quan. Trường thi biến thành chợ
thi. Quan trường trở nên một chỗ buôn danh bán tước. Không có lúc nào sĩ khí
suy vong như trong thời bấy giờ. Có kẻ hùa theo thế mạnh. Lại có người trốn
trách nhiệm mà về ở ẩn. Nhưng cũng có những người vừa ý thức được nhiệm vụ
truyền thống của đẳng cấp, lại cũng vừa hiểu rõ nỗi bất lực của đẳng cấp trước
thời cuộc, vừa muốn làm, lại vừa biết rằng có làm cũng là vô ích. Những người này
là những con người đau khổ của thời đại.
Ôn Như Hầu là một trong đám người trí thức
này. Hơn ai hết, tâm sự của Ôn Như Hầu bị dày vò. Một mặt, thi sĩ cảm thấy phải
làm một cái gì, theo lời gọi của tinh thần truyền thống kẻ sĩ tiềm ẩn trong
thâm tâm, mặt khác, lại không biết phải làm gì. Theo Tây Sơn ư? Theo Tây Sơn
lúc đó là phù thịnh, là phản bội lại cái nghĩa trung của đạo Khổng. Phù Lê ư?
Hơn ai hết, bởi đã được sống trong cung cấm, Ôn Như Hầu đã hiểu rõ những thối
nát và đớn hèn của cảnh vua Lê, chúa Trịnh. Đi ở ẩn chăng? Cuộc đời ẩn sĩ mà Ôn
Như Hầu đã chọn sau bao nhiêu suy nghĩ, tuy có làm thỏa mãn cái cốt cách Lão
Trang của thi sĩ, nhưng đồng thời lại mâu thuẫn với cái lý «nhập thế cuộc» để
nhận trách nhiệm của một kẻ sĩ.
Làm hay không làm? Nhập thế hay xuất thế?
Tấn kịch manh nha đã trở nên mãnh liệt. Và cùng một lúc, cái hoàn cảnh khách
quan ác nghiệt nó làm đảo lộn tất cả cái thế thăng bằng trong tâm hồn Ôn Như
Hầu, vụt trở nên nghiêm khắc như một định mệnh.
Thế là Ôn Như Hầu tuy tài trí có dư - như
người cung nữ tài sắc vẹn toàn trong Cung Oán Ngâm Khúc - Ôn Như
Hầu cũng đành thúc thủ trước Định Mệnh đã an bài tất cả. Nhà Lê mất cũng vì
Định Mệnh. Nghiệp Trịnh cáo chung cũng vì Định Mệnh. Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn
Nhậm bất đắc kỳ tử cũng chỉ vì Định Mệnh. Nguyễn Huệ oanh liệt một thời rồi đột
ngột từ giã cuộc đời cũng vì Định Mệnh. Định Mệnh là tất cả. Trước Định Mệnh,
con người chỉ là một con số không kinh khủng. Trước Định Mệnh, hỡi ơi! Còn đâu
là Tự Do của con người?
Quyền họa
phúc trời giành mất cả,
Chút tiện
nghi chẳng trả phần ai.
Cái quay
búng sẵn trên đời,
Mờ mờ
nhân ảnh như người đi đêm.
Trong cái lưới mênh mang của Định Mệnh
khắt khe, người sĩ phu bị kẹt là Ôn Như Hầu chỉ còn có biết:
Muốn kêu
một tiếng cho dài kẻo căm.
Kêu lên để vợi bớt nỗi bất bình, để cho
tâm hồn tìm được đôi phần bình thản giữa cái ồn ào của thế sự.
Một tiếng kêu não nuột, bốn trăm vần thơ
trác tuyệt, thiên đoàn bách luyện. Một bàu tâm sự u uất. Một tấm thảm kịch day
rứt.
Đấy là nội dung của một tác phẩm: Cung
Oán Ngâm Khúc. Đấy là ý nghĩa của một cuộc đời: Ôn Như Hầu.
VŨ KHẮC KHOAN
DU TỬ LÊ * NGUYÊN SA & SÁNG TẠO
Liên hệ giữa Nguyên Sa, Sáng Tạo và, những ngộ nhận
(08/24/2011 02:51 PM)
Liên hệ giữa Nguyên Sa, Sáng Tạo và, những ngộ nhận.
(08/24/2011 02:44 PM) (Xem: 0)
Tôi không biết lý do gì, nhiều người cho rằng nhà thơ Nguyên
Sa không thuộc nhóm Sáng Tạo! Quả quyết này chỉ được giải tỏa khi họ gặp nhà
văn Mai Thảo và, nghe chính tác giả “Đêm giã từ Hà Nội” xác nhận rằng:
“Không. Nguyên Sa có mặt từ những ngày đầu tiên, với anh em
Sáng Tạo.”
Những ai có cơ hội đọc “Nguyên Sa, Tác giả và Tác phẩm,” trong
đó có bài viết của Mai Thảo thì không có nghi vấn đó:
“Tờ Người Việt đình bản. Tờ Sáng Tạo thay thế. Vào nghề gõ đầu
trẻ, vẫn cái mũ casque trắng, vẫn giáo viên trường làng, vẫn Khái Hưng, Nguyên
Sa khác với Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn (văn) Trung, Nguyễn Khắc Hoạch không thường
xuyên, đã cùng với giao tình thân thiết mau chóng, trở thành người viết chủ lực
của Sáng Tạo suốt hai năm đầu của diễn đàn này. Đó là thời kỳ của những tiểu luận
văn học, triết học đầy không khí Sorbone và những bài thơ tự do loạt đầu, làm từ
trở về Việt Nam của Nguyên Sa gần như không số nào là không có đăng trên tờ
Sáng Tạo…” (Mai Thảo, “Màu lụa Hà Đông trong thơ Nguyên Sa,” sđd. Tr. 59.)
Mặt khác, trong Hồi Ký của mình, nhà thơ Nguyên Sa cũng thuật
rõ liên hệ giữa ông và, tạp chí Sáng Tạo, ngay khi tạp chí này ở giai đoạn chuẩn
bị:
“Trước khi Sáng Tạo chào đời, Mai Thảo và tôi vẫn cùng nhau
đi chơi lung tung ở Sài Gòn. Khi Sáng Tạo trong thời kỳ chuẩn bị, tôi nhiệt
tình bàn tính với Mai Thảo. Phải ra chứ. Làm chứ sợ gì. Mai Thảo chở tôi trên
chiếc xe Austin
đi chơi lung tung, tôi lái chiếc xe hào hứng tới rủ Nguyễn Văn Trung về viết
cho Sáng Tạo, rủ cả linh mục Trần Văn Hiến Minh cùng đi chuyến xe…” (Sđd. Tr.
191.)
Nhưng điều gì đã xẩy ra giữa Nguyên Sa và Sáng Tạo, khiến
nhà văn Mai Thảo không che dấu bùi ngùi trước sự kiện tác giả “Thơ Nguyên Sa”
chấm dứt cộng tác với Sáng Tạo qua đoạn viết sau đây:
“…Sau hai năm đầu kể từ hồi hương và với tờ Sáng Tạo, Nguyên
Sa không còn gần tôi nữa. Con chim đã vùn vụt cất cánh bay tới những phần đất
khác. Đời sống trăm dòng và nhà thơ kiêm giáo sư triết, người giám đốc trường,
người chủ nhiệm mới đã ở trên cái trăm dòng nhiều mặt ấy. Khiến chẳng những tôi
đã thấy xa còn như thấy mất hẳn Nguyên Sa trước tầm mắt nhiều khoảng thời gian.
Ở những khuất mặt này, tấm lòng đôi lúc cũng xa và đã gây nên một vài ngộ nhận
đáng tiếc không do nơi tôi và cũng chẳng nên thuật lại làm gì…” (Sđd. Tr. 61,
62.)
Người đứng đầu tạp chí Sáng Tạo đã rất đỗi thành thật khi
nói, “ngộ nhận” không do nơi ông. Hơn thế, thoạt đầu, chính ông cũng không biết
nguyên nhân sâu xa của điều mà ông gọi là “ngộ nhận.” Một “ngộ nhận” đáng tiếc
(rất đáng tiếc,) theo tôi.
Sau này, đôi lần, trong chỗ riêng tư, Mai Thảo nói rõ đó là
sự “ngộ nhận” giữa Thanh Tâm Tuyền và Nguyên Sa. Hai nhà thơ mà ông từng coi là
“hai tiếng thơ xung xích, tiền phong,” trong bài ông viết giới thiệu thi phẩm “Thơ
Nguyên Sa, Tập Hai”:
“Trở về nước sau nhiều năm du học ở Âu Châu, bấy giờ là cuối
thập niên 50, ông đã cùng với Thanh Tâm Tuyền, dẫu mỗi người từ một vị thế khác
biệt, là hai tiếng thơ xung kích, tiền phong vượt qua giòng thơ tiền chiến như
một biên thùy cũ của thơ và đưa thơ tới những biên thùy mới. Bằng làm đầy cho
thơ một định nghĩa và một chứa đựng mới. Bằng phá vỡ hết mọi ước lệ, mọi câu
thúc vẫn còn với giòng thơ tiền chiến…” (Sđd. Tr. 67, 68.)
Nhưng, do đâu mà hai tác giả kia, lại có sự “đối chọi” đáng
tiếc ấy?
Muốn hiểu ngọn nguồn, có dễ chúng ta phải đi ngược lại những
năm đầu ở giữa thập niên (19)50, khi tác giả “Áo Lụa Hà Đông” trả lời cuộc phỏng vấn của nhà báo Hồ Nam (1) vào đầu
năm 1956 ở Sài Gòn. Nguyên Sa viết:
“…Chúng tôi không có sự xa cách của đối chọi. Dù vậy, có một
khoảng cách. Khoảng cách của ngộ nhận. Một trái núi hiểu lầm đã vô tình
được dựng
lên giữa Nguyên Sa và các bạn văn trong Sáng Tạo, trông thì chỉ như giả
sơn, mà
vượt qua không được. Hạnh phúc và bất hạnh của tôi trong những ngày
tháng đầu
tiên về nước, đầu năm 1956 là được Hồ Nam phỏng vấn cho một chương trình
văn
nghệ gì đó trên đài phát thanh. Từ Paris từ những cuộc thảo luận thâu
đêm canh
thức, từ không khí hừng hực văn chương và triết học của tả ngạn sông
Seine, đúng như Thanh Tâm Tuyền đã viết Nguyên Sa mang về
cùng với thơ, không khí tự do mà chúng ta mong nhớ. Nhưng người làm thơ
từ Paris trở về là con trừu non trước những câu hỏi cáo già của
Hồ Nam.
Tôi nói. Hồ Nam
hỏi và tôi trả lời. Tôi nói về luật bằng trắc, về vai trò của âm thanh
trong
thi ca. Tôi không biết dừng lại ở những vấn đề tổng quát, không biết
phân biệt
việc và người. Tôi không biết tả ngạn sông Seine
và Sài Gòn trong văn chương còn phủ những nho phong. Hồ Nam thọc sâu
những
mũi kích. Tôi nói về thơ Thanh Tâm Tuyền. Tôi nói về những người chỉ
trích thơ
tự do. Những lời nói trong bối cảnh của một Paris
hiện ra bằng hữu, hiện ra trong lương tâm trí thức, trong khuôn khổ văn
học miền
Nam
thời đó được ngắm nhìn như những lời công kích không thân hữu. Tôi không
nhận
ra ngay những sự nhìn ngắm nghiêm khắc này. Dần dần tôi mới nhận ra. Mai
Thảo
những lần khác biệt bất ngờ nói với tôi Thanh Tâm Tuyền quý anh lắm.
Thanh Tâm
Tuyền viết những lời chào mừng Nguyên Sa tuyệt đẹp trên trên tờ tuần báo
văn
nghệ (Người Việt). Tôi cũng không hiểu rõ vì sao giữa những câu chuyện
có những
xen kẽ bất ngờ. Không giống như trách cứ. Có một chút vẻ đáng tiếc nuối
điều
gì. Nguyên Sa đã đi quá xa trong ngôn ngữ? Phải chi không có chuyện đó.
Dần dần
khuôn mặt vui tươi của Hồ Nam
hiện ra rõ nét. Hồ Nam
hỏi lại tôi về những câu trả lời. Tôi giữ lấy niềm tin được phát biểu…”
(Hồi ký
Nguyên Sa, sđd. Tr. 188, 189.)
Thời gian đó, những người tình cờ nghe được cuộc nói chuyện
về thơ tự do giữa Hồ Nam
và Nguyên Sa trên đài phát thanh cho biết, đại ý, Nguyên Sa cho rằng Thanh Tâm
Tuyền không biết làm thơ tự do. “Thơ tự do không phải thế.” Đã vậy, khi bị Hồ Nam “thọc sâu
những mũi kích,” nhà thơ Nguyên Sa thay vì sớm nhận ra cái bẫy xập đã giương ra
thì, ông lại xác nhận nhiều lần phát biểu của mình. Như khẳng định trách nhiệm
của ông về những gì đã nói. Phần nhà báo Hồ Nam, không ai nghĩ ông có ác ý hay
thiên kiến gì. Chẳng qua, do nhậy bén nghề nghiệp, khi gặp được “khối thuốc nổ,”
nhà báo lập tức tìm cách nâng sức “tàn phá” lên tới mức cao nhất, có thể có được!
Sự đối chọi hay ngộ nhận giữa hai nhà thơ trên, lẽ ra, rồi
cũng sẽ nhạt phai với thời gian. Nhưng tiếc thay, sau đó, trên mặt báo Sáng Tạo,
nhà thơ Thanh Tâm Tuyền cho phổ biến một bản lên tiếng, giống như tuyên ngôn của
những người làm thơ tự do thuở đó. Rất nhiều nhà thơ, kể cả những tác giả không
có mặt trên diễn đàn Sáng Tạo tự những số đầu, họ là những tên tuổi thuộc vòng
ngoài, chỉ cộng tác với Sáng Tạo sau này, cũng được nêu tên. Trong khi Nguyên
Sa, hiện diện từ thời kỳ chuẩn bị, theo
ghi nhận của Mai Thảo, còn là thành phần chủ lực, thì lại không có tên. Sinh thời,
nhà thơ Nguyên Sa cho biết:
“Tôi hiểu rằng tôi đã bị anh em gạt ra khỏi Sáng Tạo. Nên,
tôi đã lặng lẽ rút lui. Không một lời, ngay cả với Mai Thảo!”
“Đối chọi” hay “ngộ nhận” giữa hai tác giả này, lên tới “đỉnh
điểm” vào năm 1971, xuyên qua sự kiện nhà thơ Trần Dạ Từ được trao tặng giải
thưởng Văn Chương Toàn Quốc, bộ môn Thơ, với thi phẩm “Thuở làm thơ yêu em.” Mà
cả Nguyên Sa lẫn Thanh Tâm Tuyền cùng trong ban giám khảo.
“Đối chọi” hay “ngộ nhận” đáng tiếc ấy, trở thành công khai sau
đó. Khi nhà báo Lê Phương Chi(2) với một bài viết dài 2 kỳ trên tuần Báo Đời (của
nhà văn Chu Tử,) các số 127 và 128, đề ngày 13 và 20 tháng 4 năm 1972, (và trên
Nguyệt san Bách Khoa số 369, đề ngày 15 tháng 5-1972.) Họ Lê tìm hiểu, phỏng vấn cả 5 giám khảo…(3)
Qua những phát biểu của các nhân vật trong cuộc, người ta thấy sự đối chọi giữa
Thanh Tâm Tuyền và Nguyên Sa, đã trở thành quyết liệt!
Để tạm kết, theo ghi nhận riêng của tôi, trong sinh hoạt 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, còn khá
nhiều những “ngộ nhận” đáng tiếc khác. Tuy nhiên, đó không phải là mục tiêu của
loạt bài này.
Du Tử Lê
MAI THẢO * NGHỆ THUẬT SỰ BÁO ĐỘNG KHẨN THIẾT
Mai Thảo
Nghệ thuật, sự báo động khẩn thiết và thường trực của ý thức
Trong bài tiểu luận “Con đường trở thành và tiến tới của nghệ thuật” đăng trong số Sáng tạo
trước đây, tôi có nhận định con đường trở thành và tiến tới của nghệ
thuật hôm nay như một con đường gai lửa, con đường của những viễn tượng
rực rỡ, con đường đó cũng là con đường của những khó khăn mênh mông và
những trở lực trùng điệp.
Lấy khoảng thời gian sáu bảy năm trở lại đây, tôi muốn nói từ ngày có Hiệp định Genève, làm dấu mốc đo lường những thực hiện đã đạt ở phía những người đã dũng cảm kéo lên ngọn cờ tiền phong cách mạng của nghệ thuật, tôi không ngần ngại khẳng định như phía nắm giữ trọn vẹn tương lai văn học nghệ thuật Việt Nam – sự khẳng định không có ý nghĩa xác nhận một vinh dự, mà chỉ là ý thức một trách nhiệm – điều chúng ta phải thành thực công nhận là những thành tích thâu lượm được mới chỉ là những nền tảng khởi đầu, những dấu chân thứ nhất.
Trước một sự nghiệp văn học vĩ đại, người ta đã thấy dựng lên, như một định luật tất yếu, những trở lực vĩ đại. Hoàn cảnh xã hội hiện hữu, tình trạng hiện hữu của nghệ thuật nói chung, trình độ của một lớp người thưởng ngoạn đến nay còn tù túng trong những quan niệm sơ đẳng ấu trĩ bởi sự thâm nhập độc hại của hơn một hình thức nghệ thuật thương mại, giải trí, chơi chữ, thù tạc, diễm tình còn sinh năm nở bề bộn như nấm dại cỏ độc, thái độ xuyên tạc ngoan cố của bọn bảo thủ phản tiến hóa, những hiểm họa thường trực đe dọa đời sống, một mặt, một mặt khác, trạng thái đau thương của người làm nghệ thuật phản tính một sớm một chiều đứng trước những đòi hỏi cấp bách lớn thường vượt khỏi khả năng và tầm sức của mình, những yếu tố ngoại cảnh và nội giới ấy, tổng hợp lại, đã đúc kết thành những điều kiện tinh thần và vật chất, chủ quan và khách quan có thể nói là hết sức bất lợi cho mọi cố gắng phát huy và kiến tạo một nền văn học nghệ thuật chính thống, nền văn học nghệ thuật đó vừa phải đánh đổ những tàn tích di hưởng độc hại của những dòng nghệ thuật quá khứ, đồng thời phác định một hướng đi cho lớp người làm văn học nghệ thuật mai sau.
Đặt vấn đề trên bình diện quốc tế, thế giới, hoặc thu hẹp trong phạm vi hoàn cảnh một dân tộc, với nghệ thuật, sự thực vẫn chỉ là một. Nếu một nhà xã hội học một thời đại chỉ tìm thấy những chứng tích tiêu biểu điển hình xác thực và trung thành nhất của một thế hệ về trước (nghĩa là không phải dòng sinh hoạt tĩnh chết, tuần tự qua năm tháng, mà ý thức và tâm trạng chủ yếu của thế hệ, qua ánh sáng chiếu tỏa từ những tác phẩm, những công trình sáng tạo văn học nghệ thuật của thế hệ đó, mà không phải ở trong những tài liệu lịch sử, mọi sinh hoạt giáo dục, kinh tế, chính trị chỉ phản ánh được thực chất một cơ cấu tổ chức xã hội, nền tảng một chế độ; ý thức thế hệ, khát vọng thời đại lại thường được cấu thành từ những trạng thái đối nghịch, mâu thuẫn với những cơ cấu và nền tảng hiện hữu đó, trạng thái đối nghịch mâu thuẫn chính là nguyên nhân của tiến bộ cách mạng, động lực của lịch sử tiến hóa) là vì văn học nghệ thuật một thời đại – tôi nói bởi có những thời đại không có văn học nghệ thuật – không chỉ ghi nhận mọi thực trạng cố định, sẵn có, - công việc đó là của những sử gia – bằng một thái độ nhân chứng khách quan, thái độ này đã biến thành, ở nghệ thuật, nguyên tắc sáng tác và nhìn ngắm đời sống của các nhà văn trường phái tả chân cổ điển, ở đó người làm nghệ thuật chỉ còn đóng vai trò một cá nhân đứng ngoài mọi thảm kịch, mọi biến động, tóm lại vai trò một người viết lịch sử bằng nghệ thuật. Trong một tương quan muôn phần quyết định hơn, do đó vai trò cũng hàm chứa tất cả tính chất quyết định của nó, nghệ thuật thiết yếu phải là một động lực cách mạng với chính nó. Với tương quan xã hội, nó phải bao gồm mọi khuynh hướng, mọi hành động cách mạng của một thế hệ sinh thành trong khuôn khổ trật tự một tổ chức xã hội, không phải để thoả thuận và tuân theo, mà trái lại, để phá vỡ cái trật tự hiện hữu đó, đưa tới hình thành một trật tự xã hội mới, và như thế mãi mãi không ngừng. Nói một cách khác, nghệ thuật thường trực tạo nên một thế xung khắc, đối nghịch với mọi trật tự xã hội cố định, bất cứ là một trật tự xã hội nào. Dòng vận động và trở thành của nó đối với bất luận một trật tự xã hội nào, thiết yếu là một dòng vận động xung khắc đối nghịch. Tính chất cách mạng xã hội này, nếu đi đến tận cùng lý luận về lịch sử tiến hóa, sẽ không còn nữa, nghĩa là chừng nào xã hội hoàn toàn tốt đẹp, đã trở nên một thứ thiên đường thế gian, bởi khi đó không còn vấn đề gì đặt ra, và nghệ thuật cũng không còn lý do tồn tại vì hoàn toàn vô ích. Nhưng đến nay, và đến bao giờ, có ai dám quyết đoán đến bao giờ, đã có ở quốc gia nào, một lục địa nào, một xã hội hoàn toàn tốt đẹp? Đặt câu hỏi đó tức là đã tìm được giải đáp cho vai trò xã hội của nghệ thuật, đồng thời làm sáng tỏ vị trí, chỗ đứng, trách vụ của người làm nghệ thuật trong một tương quan xã hội. Và cũng ở điểm căn bản chủ yếu này mà người làm nghệ thuật không thể bao giờ đóng vai trò một nhân chứng khách quan một kẻ xem kịch, hắn đóng vai chính trong vở kịch lớn, hắn là một kẻ nhập cuộc, hắn có một thái độ, một trách vụ minh bạch, hắn không chỉ ghi chép, thu lượm cho một viện bảo tàng hậu thế những biến động lịch sử một thời. Nghệ thuật không còn là một hình thức diễn tả tiêu cực, nghệ thuật là một hành động tích cực trong cái ý nghĩ toàn vẹn, cách mạng nhất của danh từ, người làm nghệ thuật không viết lịch sử, hắn làm lịch sử và sống chết với nó.
Bởi vậy mà người làm nghệ thuật là một con người chân thân cách mạng, không có sự lựa chọn và con đường nào khác. Bởi vậy mà tác động và hiệu lực của nghệ thuật là một tác động hiệu lực cách mạng. Không có hiệu lực và tác động nào khác. Bởi vậy mà nghệ thuật là sáng tạo, người làm nghệ thuật sáng tạo ngôn ngữ, danh từ, âm thanh, màu sắc thành những hành động, những hành động cách mạng. Đó cũng là cái ý nghĩa đích thực và duy nhất của sáng tạo ở nghệ thuật.
Bởi nhận định kể trên, mà vấn đề đặt ra cho bản thân người làm nghệ thuật, trước thiên bẩm, trước năng khiếu, trước khả năng và trước những tâm sự riêng tây, phải là vấn đề ý thức được vai trò của nghệ thuật, do đó ý thức được vai trò của bản thân mình trong đời sống xã hội.
Từ trước đến nay, nếu người ta vẫn thường nói đến tinh thần độc lập tự do trong tư tưởng, sự minh bạch trí thức, thái độ dũng cảm được biểu hiện bằng những hành động chống đối cự tuyệt trước mọi bất công, bạo hành, áp bức của đời sống, tóm lại những độc ác và xấu xa hiện hình giữa đời sống dưới mọi hình thức, nếu người ta vẫn nói đến cái tác phong dũng cảm không khiếp nhược, không đầu hang, không run sợ trước áp lực, đe dọa, quyền thế, như những điều kiện tiên thiên chủ yếu của một người làm nghệ thuật chân chính, những đặc tính đó cần phải được thấu hiểu chân xác như sự trở thành chói sáng của một ý thức cách mạng, sự giác ngộ đúng đắn về một vai trò, một bổn phận, một quyền hạn đặc biệt hơn là những bản tính tự nhiên sẵn có, tinh thần độc lập tự do vô ý thức vô trách nhiệm, lòng can đảm mù quáng không đối tượng chỉ tạo nên những mẫu anh hùng cá nhân không tưởng, người làm nghệ thuật cách mạng không phải là một anh hùng cá nhân, nghệ thuật hắn hàm chứa tính chất và giá trị một hành động cá nhân sáng suốt hình thành từ sự thấm nhuần và triệt thấu sáng suốt một ý thức tote.
Cho nên những danh từ cá nhân, độc đáo, bản chất và tư năng ở nghệ thuật cũng mang nặng một ý nghĩa khác biệt với ý nghĩa thông thường phổ biến của danh từ. Tôi hoàn toàn đồng ý với ai đã đả kích và chế giễu cái quan niệm thông thường hẹp hòi người ta vẫn gán cho tác giả Đoạn trường tân thanh, tâm trạng của Nguyễn Du không phải là cái tâm trạng giản đơn tầm thường một cá nhân bất mãn trước thời thế, dù cá nhân là một thiên tài, tâm trạng đó không bao giờ được những kích thước hình thành tác phẩm. Đoạn trường tân thanh trên từng dòng chữ, từng câu thơ không bao giờ mang kích thước nhỏ hẹp một tâm sự cá nhân bất mãn, Đoạn trường tân thanh rực rỡ một ý thức toàn thể kết tinh bằng ý thức Nguyễn Du, cái ý thức đó bao trùm bàng bạc một thời đại, có điều khác biệt là cái ý thức nơi tài năng Nguyễn Du mới có đủ cường độ hút lấy và biểu hiện lên bằng tác phẩm. Và người ta đã thấy người làm nghệ thuật không phải là một siêu nhân, một bậc á thánh xuất chúng, người làm nghệ thuật có những vóc dáng thông thường, phổ biến của đường lối, nhưng khi được chói sáng dưới một ý thức cách mạng, cái vóc dáng ấy đã nguy nga vĩ đại ngần nào.
Phủ nhận quan niệm thần thánh, siêu nhân, xuất chúng, á thánh, nòi thơ, nòi tình, thiên chức, ngụy cảnh ngộ, ngụy thời thế, đầu thai lầm thế kỷ, mang nặng một màu sắc cá nhân duy tâm, những quan niệm cổ điển lỗi thời và hủ hóa qua đó, người làm nghệ thuật xuất hiện giữa đời sống như một cá thể đặc biệt, ý thức cách mạng của nghệ thuật và một tương quan cách mạng giữa nghệ thuật đã kéo hắn trở về với kích thước phổ biến của đời sống, của đồng loại. Người ta sẽ hỏi, vậy nghệ thuật không bao hàm một sự kiện gì khác biệt với mọi sự kiện của đời sống sao? Trả lời: Có. Nhưng sự khác biệt không nằm trong lĩnh vực một cá nhân, một con người đơn độc hiểu theo nghĩa hẹp vì đã bị chặt đứt mọi tương quan giữa cá nhân với toàn thể – như vậy lại rơi vào quan điểm Tháp Ngà – sự khác biệt nằm trong vai trò, trong tương quan xã hội của người làm nghệ thuật, tương quan ấy cũng đồng thời của chính nghệ thuật, với đời sống. Đó là một tương quan tiến bộ. Một tương quan cách mạng. Tương quan của một ý thức tiến bộ cách mạng.
Từ trước đến nay, nhất là ở xã hội chúng ta, một xã hội đắm chìm trong một trạng thái phân hóa và dao động trầm trọng bởi sự va chạm quay cuồng của nhiều dòng ý thức tư tưởng đối nghịch dị biệt, (một trạng thái xã hội chưa hình thành trọn vẹn thì những giá trị cũng chưa được xác định những vai trò cũng chưa được sáng tạo) người ta đã có những định kiến rất sai lầm, những ngộ nhận rất nguy hiểm về tác dụng của nghệ thuật cách mạng tiến bộ, về vai trò của người làm nghệ thuật cách mạng tiến bộ.
Những sai lầm và ngộ nhận ấy, phải nhận chúng như những dấu hiệu tố cáo một khía cạnh sơ đẳng non kém nhất, đen tối nhất của sinh hoạt nghệ thuật hiện đại, có bởi rất nhiều nguyên nhân. Tinh thần tự ti mặc cảm, sự ngu tối thảm thương của những đầu óc mà ý thức thời đại đã bỏ xa hàng năm bảy thế kỷ còn nô lệ trong những mớ thành kiến lạc hậu hoặc vẩn đục bởi những dụng tâm độc hiểm, trình độ thấp kém một lớp người đến nay chưa nhận được những kiến thức chết tối thiểu (người ta thấu triệt được ở đây tất cả trọng tội của những loại nghệ thuật hạ cấp, rẻ tiền và ảnh hưởng độc hại của chúng), sự tù túng trong cái quá khứ sâu thẳm, tinh thần lạc hậu phản cách mạng, sự thiếu vắng hoàn toàn một ý thức tự do dân chủ, một sự lẫn lộn về tất cả mọi vấn đề, sự chênh lệch đến độ hãi hùng giữa khả năng một cá nhân với vấn đề hắn lên tiếng phê phán, khiến lĩnh vực nghệ thuật thường trực diễn ra những cảnh tượng tiêu bạc giả, khỉ hút thuốc lá, những chuyện tiếm vị, lộn sòng, đó là những nguyên nhân chính. Tôi miễn dẫn chứng. Những thí dụ thật nhiều vô kể.
Không cần bị xô đẩy bởi một nhiệt tình, một đam mê nào – mọi tình cảm, mọi thái độ quá khích nếu không giải đáp được gì hết, nhưng thư thái và bình tĩnh mà nói, một xã hội sẽ là một xã hội khốn nạn, một tập thể sẽ là một tập thể khốn nạn, một cá nhân sẽ là một cá nhân khốn nạn nếu xã hội, nếu tập thể, nếu cá nhân đó, trong cuộc đấu tranh dành quyền sống còn và thúc đẩy lịch sử tiến hóa, không được đốt cháy bởi một ý thức cách mạng tiến bộ, không thấm nhuần được nhu cầu thiết yếu của tiến tới và đổi mới, trong khi thực trạng hiện hữu phơi bày một trạng thái trì trệ bất động, trạng thái mệt mỏi lười biếng đang manh nha cho một khuynh hướng tiêu cực thoả hiệp, mở đường cho sự trốn chạy ẩn náu vào những giới tuyến quá khứ, vào ước lệ, vào tập quán cũ.
Chưa từng bao giờ bằng ở những giờ phút này lại thấy bỏng cháy sự cần thiết lớn lao cho nghệ thuật (hiện đang nằm trong vực thẳm, ngõ cụt) như sự hình thành một vận động cách mạng, một ý thức cách mạng vậy. Nghệ thuật hôm nay thiết yếu phải là một dòng nghệ thuật cách mạng. Cho sự hiện hữu và lý do tồn tại của chính nó. Cho đời sống. Cho lịch sử. Cũng bởi nhu yếu có tính chất bao trùm và toàn diện đó mà danh từ “nghệ thuật cách mạng” hôm nay không còn được phép nhận định đơn giản và hẹp hòi như đặc tính riêng biệt của một trường phái, một tập đoàn, một cá nhân, người ta vẫn có thói quen nghĩ đến nghệ thuật cách mạng như độc quyền của một lớp người có tinh thần tiền phong, cấp tiến – tuy sự thực có như vậy – nhưng một dòng nghệ thuật cách mạng đã đến lúc phải được thấm nhuần và thực hiện cùng khắp, như một dòng nghệ thuật chính thống, phổ biến, để trở nên một ý thức đồng nhất cho tất cả những người làm nghệ thuật chúng ta, để trở nên một đặc tính tự thân, bắt buộc, nội tại của nghệ thuật nói chung.
Nhưng thế nào là nghệ thuật cách mạng? Và thế nào là vai trò người làm nghệ thuật cách mạng?
Hãy gạt sang một bên không nói đến những phần tử bảo thủ phản tiến hóa (nghệ thuật với họ chỉ là những mớ tàn tích, khuôn sáo, ước lệ cũ, cái thế giới nặng chĩu một không khí hoài cổ, thương tiếc quá khứ, cái thế giới dày đặc những dấu quen, những nẻo mòn, ngõ cụt, cái thế giới của những giá trị và thần tượng lỗi thời, những khuôn thước không bao giờ đổi thay, cái thế giới đứng biệt lập trong một vũ trụ buồn nản quẩn quanh khép kín, cái thế giới tĩnh chết xa lạ, ở ngoài, thù nghịch mọi biến động, vai trò và tương quan xã hội ở đó bị tuyệt đối phủ nhận, nghệ thuật nghèo nàn khô cạn đi dần đến tiêu khiển, đến thù tạc, thứ nghệ thuật của tâm sự và tình cảm riêng tây không có vấn đề gì đặt ra giữa nó và đời sống, thứ nghệ thuật được mệnh danh là thuần túy chỉ duy trì được sự hiện hữu với chính nó) những người Mác-xít và những tín đồ chủ nghĩa vị lai không tưởng cũng tự nhận là đại diện của dòng nghệ thuật cách mạng, sự thực ở họ và với họ, nghệ thuật chỉ có cái vỏ ngoài, cái hình thức, cái lý thuyết cách mạng.
Khởi đi từ sự hòa hợp và hiện tượng vận động song hành với một cuộc đấu tranh vô sản mà tính chất cách mạng đã đứng lại cùng với sự thiết lập một chế độ thống trị mới nhằm hủy diệt và khống chế mọi khuynh hướng dị biệt mọi tư tưởng chống đối, nghệ thuật Mác-xít (phản cách mạng từ đó) bị tước đoạt mọi tính chất độc lập, tự do, đối kháng, tự đẩy nó và những người làm nghệ thuật Mác-xít cùng với nó xuống vị trí thoả thuận, chấp nhận, thuần phục vô điều kiện chế độ thừa hành, chỉ còn là công cụ tuyên truyền phục vụ một chế độ một giai cấp mới. Nó không còn là một động lực cách mạng đối kháng với một trật tự cố định hiện hữu nữa (là chế độ), ngược lại nó thường trực chịu đựng sự kiểm thảo của chế độ và thừa hành những chỉ thị của chế độ ban bố xuống, để biến thành một thứ nghệ thuật vụ giai đoạn, vụ khẩu hiệu, tiếng nói “chính thức” của một chế độ duy trì bằng bạo lực, nghệ thuật Mác-xít phản cách mạng khi không còn độc lập không còn tự do.
Phơi bày một sắc thái đối nghịch hoàn toàn với dòng nghệ thuật bảo thủ luôn luôn trở lui về quá khứ, nghệ thuật của những người không tưởng viễn kiến hình thành trên những nền tảng giả định, trên một hy vọng, một niềm tin, một giả thuyết, một ước đoán về một xã hội tương lai lý tưởng, nghệ thuật vị lại viễn kiến là một chủ quan cách mạng không tưởng, bảo vệ tác động của nghệ thuật, bởi vậy tác động của nghệ thuật viễn kiến đơn thuần là tác động của lý thuyết (có thể rất quyến rũ) một hệ thống lý luận không được thể nghiệm và áp dụng vào đời sống, người ta nghĩ đến vai trò một nhà truyền giáo với những viễn tượng rực rỡ về một thiên đường với một thế giới đại đồng mai sau, nghệ thuật viễn kiến không duy trì được sự kiện hiện hữu giữa đời sống, bởi nó không bao giờ có mặt cùng đời sống, bởi nó đã đi trước đời sống và vĩnh viễn ở ngoài đời sống.
Tóm lại, vị lai viễn kiến là một khuynh hướng nghệ thuật đẫm màu lý tưởng, hiến thân và hậu thân của chủ nghĩa không tưởng cấu thành từ một nền tảng gia đình, dòng nghệ thuật đó giao động từ một trạng thái của nhiệt tình quá độ, khi hãy còn, đến một trạng thái thất vọng cay đắng, khi đã mất đối tượng là niềm tin, nó xa rời thực tế và phản lại đời sống, vì sống ý thức (không phải là tin tưởng) những người không chịu đặt nền tảng đời sống trên một niềm tin vô bằng là những người sống mãnh liệt toàn vẹn nhất, kẻ quan niệm sống trước hết là ý thức là kẻ sống tự do.
Khác biệt hoàn toàn với dòng nghệ thuật bảo thủ phản tiến hóa và vị lai viễn kiến không tưởng, nghệ thuật ý thức cách mạng duy trì sự hiện hữu thường trực giữa hiện tại, giữa đời sống, quá khứ chỉ là một kinh nghiệm, tương lai chỉ là một hướng tới, nghệ thuật ý thức cách mạng chính là đời sống của một ý thức kết tinh thành hành động, ý thức đó nhập vào dòng sống và tác động trở lại nó. Trong và ở giữa đời sống, nền nghệ thuật đó đóng giữ một vị trí chủ động và hoàn toàn tự do. Nó không tuân theo một ước lệ, một trật tự nào, ngoài những quy luật tự thân cách mạng của nghệ thuật, ngoài một ý thức đúc kết thành hành động của con người trong tương quan và ý hướng thúc đẩy đời sống tiến lên. Thường trực một thế xung khắc đối nghịch với mọi hình thái của xã hội và đời sống khi đã có những triệu chứng cố định, đứng lại, để biến thành những trở lực phản động và đối nghịch với tiến bộ và tiến hóa, nó dành quyền cứu xét phân tích, truy tìm, phê phán từ nguyên lý đến trở thành, mọi biến thái, mọi nguyên ủy của sự vật. Nó không tự thoả mãn với những biểu hiện bề ngoài, dung dị, đơn phương của sự vật. Nó đào sâu vào nguồn gốc, chân tướng, những khía cạnh tiềm ẩn chứa dấu của sự vật, đặt sự vật và đời sống trần truồng, toàn vẹn trước ý thức. Nó trình bày những yếu tố, những dữ kiện đầy đủ, đưa tới sự am hiểu thấu suốt và tận cùng mọi hiện tượng mọi vấn đề, bởi đó sẽ được cấu thành những hành động thích ứng không mơ hồ không nhầm lẫn. Hoàn toàn đối nghịch với chủ trương lãng mạn hóa, siêu thoát hóa, thi vị hóa đời sống, nghệ thuật cách mạng ý thức quan niệm và nhận định đời sống như một thực thể luôn luôn đổi khác, và tiến hóa không ngừng, thực thể đó lại luôn luôn đứng trước nguy cơ khống chế, uy hiếp, hủy diệt của bạo hành, bất công, tội ác, cho nên vai trò của nó cũng là một hành động thường trực động viên ý thức và năng lực con người tới những thái độ và hành động đấu tranh đối kháng thích ứng trước mọi hiểm họa đe dọa đời sống và bản thân. Nghệ thuật chiếu sáng vào ý thức con người và nhận lại sự chía của ý thức con người trở lại với nó, bởi đó mà trước đối tượng là đời sống, nghệ thuật và con người đã bắt gặp được nhau trong điểm đồng nhất là sự triệt thấu được vị trí, hoàn cảnh và vai trò của mình trước toàn thể, vai trò đó không hề bị lệ thuộc vào một ràng buộc nào ngoài ý hướng tìm kiếm và tạo một động lực cách mạng cho đời sống tiến tới một bình diện cao hơn. Cũng phải hiểu rằng sự xác định về vai trò không có nghĩa là nghệ thuật đã tự chôn chết mình trên một vị trí nhất định, cố hữu. Người làm nghệ thuật đứng trên một vị trí bất động của đời sống chỉ tạo được cho mình một chủ quan hẹp hòi và thiên lệch, nghệ thuật cách mạng ý thức không như vậy, nó là hình ảnh một vận động di chuyển luân lưu không ngừng trên khắp mọi chiều sâu mọi bình diện của đời sống, nó cũng không có ý định kiến trúc một đời sống khác cho đời sống hiện hữu (như vậy lại rơi vào không tưởng chủ nghĩa), nó tạo nên ở một xã hội chưa thể đổi thay trên cơ cấu sinh hoạt, những con người đã đổi khác, của một xã hội chưa tự do những con người đã tự do, của một xã hội còn mê muội của những người đã sáng suốt, của một xã hội có thể còn đầy dẫy áp lực, bất công, áp lực, bạo hành đó. Nghệ thuật cách mạng ý thức tạo nên trong phạm vi một trật tự hiện hữu, những mầm sống những điều kiện cách mạng. Nó không nhất thiết phải hoàn thành một cuộc cách mạng cải tạo và giải phóng xã hội, nhưng nó là một động lực khởi điểm cho mọi hành động cách mạng cải tạo và giải phóng xã hội của con người. Tất cả sự tế nhị của vấn đề là ở đó. Đối tượng của nghệ thuật không phải là một hình thức sinh hoạt nhất thiết phải đạp đổ, một thế giới nhất thiết phải tạo đựng, đối tượng của nghệ thuật không phải là một thực thể đã trở thành, đối tượng của nghệ thuật là một tương quan cách mạng giữa cá nhân và toàn thể với xã hội, xã hội với lịch sử. Chủ đích của nghệ thuật không hề là sự tìm kiếm và đề nghị cho đời sống một vóc dáng lý tưởng bất biến (những nhân vật của một tác phẩm nghệ thuật ý thức không là những mẫu người lý tưởng điển hình như quan điểm sáng tác của nghệ thuật Mác-xít và trường phái được mệnh danh là lãng mạn cách mạng, ở đấy là nhân vật là những mẫu người hoặc mang đầy những đức tính tốt đẹp cao quý cho người đời bắt chước sống theo, hoặc xấu xa kinh tởm cho người đời ghê hãi lảng tránh, mà trái lại: nhân vật hiện hình trong thế giới tiểu thuyết mới như một đối tượng phản chiếu để trở lại ý thức được bản thân mình và tìm được một thái độ, một giải đáp cho mọi vấn đề của đời sống bản thân. Nói một cách khác người đọc không đứng lại với nhân vật, ở nhân vật, mà vượt qua và đi xa hơn nhân vật), tóm lại, trước và sau, nghệ thuật vẫn chỉ là một động lực thúc đẩy, tạo thành một ý thức cách mạng cho con người trước sự vật và đứng lại ở đó, để từ ý thức đó, con người sẽ đi tới những hành động phù hợp thích ứng trước một sự kiện, một vấn đề nhất định.
Một trong những ngộ nhận lớn lao tố cáo tất cả sự thực thảm thương của một trình độ hiểu biết sơ đẳng hiện diện hỗn xược và ngạo nghễ trên diễn đàn văn học nghệ thuật hiện tại là sự nhận định hoàn toàn sai lầm, bằng những điểm đồng nhất và trùng hợp giả ngụy của bọn “ngự sử” dốt nát về một vài tư trào nghệ thuật và triết học Tây phương với những khởi điểm đã hình thành của dòng nghệ thuật cách mạng ý thức ở đây, những đầu óc thiếu vắng một liêm khiết trí thức tối thiểu không bao giờ dám tìm hiểu những khởi điểm tiến bộ ấy trong một tương quan xã hội hiện hữu, những kẻ bất tài không tìm được luận điệu nào hơn là gán ghép một số danh từ công thức máy móc (vô thần, hiện sinh, nổi loạn) lên sự hình thành tất yếu của một dòng nghệ thuật chính thống đã trở lại duy trì sự có mặt rạng rỡ của nó giữa đời sống, sự có mặt không do một phiêu lưu, một ngẫu hứng, một tình cờ nào hết, sự có mặt chỉ là kết quả một giác ngộ và trưởng thành nơi người làm nghệ thuật đã nhận thức được vai trò cách mạng của nghệ thuật và khởi hành từ nhận thức đó.
Nếu vượt bỏ tất cả mọi thời kỳ về trước, kể cả thời kỳ văn học Phục hưng, thế hệ hiện đại đã được chứng nghiệm như thế hệ của sự đắc thắng vẻ vang và tận cùng của trí thức, trí tuệ trước mê muội dốt nát – sự đắc thắng của ánh sáng trước bóng tối –nghệ thuật cách mạng cũng đã vượt bỏ mọi giới hạn trường phái (nghệ thuật hiện đại không còn là một vấn đề trường phái) để trở nên một ý thức bao trùm, phổ biến kết tinh thành một ý thức hệ hoàn toàn. Từ sự đồng nhất này mà, phá vỡ những vĩ tuyến và san phẳng những biên thùy, dòng nghệ thuật ý thức đã mặc nhiên là dòng nghệ thuật chính thống của con người, của thế hệ của đời sống. Ngoài nó và khác nó, tất cả đều là giả ngụy, đội lốt. Ngoài nó và khác nó, tất cả đều là vô ích. Ngoài nó và khác nó, tất cả đều hình thức tiểu xảo, tất cả đều là giấy bạc giả, tất cả đều là phiến diện, là danh từ. Nó là đời sống. Và bất tử bất diệt với đời sống.
Nói vậy không có nghĩa là lúc nào đó cũng được biểu hiện rõ ràng trên đường lớn, ở trung tâm, trên ngọn đỉnh chói lòa của đời sống và sinh hoạt nghệ thuật. Trái lại, vì tiến bộ, nó luôn luôn bị những phần tử phản cách mạng kết tội, lên án. Vì ý thức, nó luôn luôn bị những khuynh hướng mê muội, những tâm hồn hèn đớn kình chống và coi như kẻ thù. Trên những trang lịch sử nhân loại đen tối, dòng nghệ thuật ý thức cách mạng hiện lên như một lịch sử đấu tranh quyết liệt, hơn một lần được nuôi dưỡng bằng máu huyết và sinh mệnh những kẻ đại diện đã anh dũng ngã xuống trước tù đày, bạo hành, đàn áp, khủng bố, nhưng không vì thế mà nó diệt vong, nó vẫn còn đó như một thực thể trường tồn hiện hữu cùng đời sống, như đời sống. Nó chính là ánh sáng của đời sống đó, giữa những trào lưu nghệ thuật đớn hèn mê muội, nó chính là tiếng nói đó, cái tiếng nói rực rỡ của nghệ thuật mặt trời. Phản ánh đời sống linh động, uyển chuyển, nó cũng uyển chuyển linh động như đời sống vậy. Sáng chói trong ý thức thiên tài cô đơn khi thời đại thấp kém không bắt kịp được ý thức mình như trường hợp và thời đại của Nguyễn Du), rút lui xuống chiến hào để biến thành một hình thái nghệ thuật bí mật, bất hợp pháp – littérature clandestine (như nghệ thuật Pháp dưới thời kỳ chiếm đóng của Đức Quốc xã) – hoặc ẩn mình thành một hành động đối kháng tiêu cực là sự im lặng khi xã hội hấp hối dưới một bao trùm toàn diện của bạo hành và khủng bố (như trường hợp các xã hội bên kia bức màn sắt) hoặc bị xuyên tạc, vu khóng như một dòng nghệ thuật điên loạn, phản luân lý, phản đạo đức, tóm lại được tôn trọng, công nhận hay bị hắt hủi xua đuổi (tùy nơi xã hội trực thuộc tiến bộ, cách mạng hay sa đọa hủ hóa, tùy nơi chế độ trực thuộc dân chủ tự do hay độc tài áp bức), hoặc tiềm tàng ẩn giấu, hoặc phơi mở lộ liễu, dòng nghệ thuật cách mạng vẫn tồn tại, cái khối mặt trời có thể bị sương mù che lấp, nhưng sương mù và bóng tối không bao giờ hủy diệt được cái khối mặt trời.
Người ta sẽ hỏi: đã khẳng định tính chất chính thống trường cửu, bất diệt và phổ biến của nghệ thuật ý thức cách mạng như vậy, tại sao còn cần thiết phải đặt vấn đề nhận thức và đấu tranh thực hiện một sự thực đã có, vẫn có? Câu trả lời nằm ngay trong câu hỏi: Chính là để nhận thức và đấu tranh thực hiện dòng nghệ thuật cách mạng ý thức đó má vấn đề đã đặt ra.
Đến đây, nảy ra một yếu tố quyết định: vốn sống của người làm nghệ thuật. Hiện tượng hàm chứa một ý nghĩa đặc biệt – bởi đã chiếu sáng cho cả một quan điểm nhận thức – thường thấy trong sinh hoạt nghệ thuật chúng ta là sự chê trách ở phía những người làm nghệ thuật lớp trước về sự thiếu thốn một vốn sống tối thiểu của thế hệ những người viết trẻ. Vốn sống theo nhận thức cổ điển là sự tích lũy theo thời gian những kinh nghiệm bản thân, sự từng trải lão luyện, sự lăn lộn ngụp lặn vào những thăng trầm biến động của đời sống, người làm nghệ thuật phải đích thân đắm mình trong không khí, bối cảnh, thời gian và không gian đề tài, nhận thức này cấu thành lề lối “sống để và cho sáng tác” rất máy móc ấu trĩ, một nhà văn luôn luôn tâm tâm niệm niệm sống để ghi nhớ và tìm kiếm những chứng liệu cho sáng tác, sẽ không sống được gì trên thực tế, hoặc sẽ sống rất mực kiểu cách giả tạo, những điều ghi nhận được chỉ là những chi tiết tỉ mỉ, vụn vặt, vô nghĩa, sự vận dụng óc đời sống theo nhận thức cổ điển biến người sáng tác thành cái máy chụp hình, hắn không bao giờ thấu triệt được chân tướng và bản thể sự vật, tới khi thể hiện vào sáng tác, vẫn chỉ là những chi tiết đơn độc nguyên hình hiện lên. Mặt khác, sự tích lũy những kỷ niệm, những rung động theo nhận thức cổ điển đã đưa tới trạng thái đãl àm dáng, tự soi ngắm, người làm nghệ thuật trở về tù túng trong cái thế giới cá nhân (những chi tiết tiền chiến slũy giàu có không ai bằng Nguyễn Tuân, nhưng nghệ thuật Nguyễn Tuân là một thế giới hết sức cá nhân, chính Nguyễn Tuân cũng đã thú nhận có những nhà văn rất phong phú trong đời sống lại rất nghèo nàn trong sáng tác), nghệ thuật chỉ còn là sự vận chuyển nguyên vẹn đời tư vào sáng tác, và dừng lại ở đó, sáng tác bưng bít kín hẹp không mở được vào một thế giới nào khác ngoài cái thế giới đời sống thường nhật của tác giả, sáng tác chỉ còn là cái “tôi” của tác giả, cái tôi trong ý nghĩa nhỏ hẹp và tầm thường nhất của danh từ.
Trái với nhận thức cổ điển mang nặng một màu sắc hưởng thụ nói trên, ở đó phát sinh thái độ kiêu hãnh về thành tích về “thâm niên” rất dễ nhận thấy ở những nhà văn nhà thơ tiền chiến, nghệ thuật Mác-xít quy định vốn sống như sự giác ngộ quyền lợi giai cấp, sự thấm nhuần chủ nghĩa và những công tác lao động cộng lại, cả hai nhận thức này đều bắt gặp nhau trong điểm sai lầm chung là sự phủ nhận tính chất sáng tạo của nghệ thuật (phải trụy lạc trác táng mới “nắm” được những vấn đề trụy lạc trác táng, phải đi cày mới viết được về đời sống nông dân, phải làm thợ riết mới viết được về đời sống công nhân v.v…), vốn sống theo nhận thức nghệ thuật tiến bộ cách mạng không phải như vậy. Vốn sống là sự trưởng thành của ý thức. Nó nằm trong chủ quan mãnh liệt của người làm nghệ thuật mà ý thức đã trưởng thành là ngọn lửa tỏa chiếu và bao trùm thấu suốt mọi hiện tượng đời sống. Chính ngọn lửa đó tỏa đi, mở rộng và phóng lớn của ý thức mới là điều kiện thiết yếu khiến người làm nghệ thuật đi tới được những tầng đáy những chiều dày của vấn đề, sáng tỏ được trọng tâm, nguyên ủy, nghĩa là sự thật của sự vật và đời sống, chính cái ngọn lửa đó tỏa đi, mở rộng và phóng lớn của ý thức đã khiến cho người làm nghệ thuật thực hiện được sự có mặt thường trực ở bất cứ nơi nào của đời sống, chính cái ngọn lửa đó tỏa đi, mở rộng và phóng lớn của ý thức đã thu trọn đời sống trong nó, đời sống không còn những đề tài tách biệt, đời sống là một đề tài vĩ đại duy nhất mà chỉ có sự trưởng thành của ý thức mới tạo được sự quân bình của chủ quan cá nhân người làm nghệ thuật với nó mà thôi.
Phải có một vốn sống phong phú mãnh liệt, phải có một vốn sống trước đã, vốn sống là điều kiện căn bản, nó phải được nuôi dưỡng bồi đắp không ngừng bởi những tiếp xúc thường trực với mọi khía cạnh của đời sống phức biệt đa dạng, đó là một sự thực không thể chối cãi. Nhưng nhận thức cũng không thể ngừng lại đó mà phải hiểu được sâu và xa hơn rằng: vốn sống thiết yếu phải được cấu thành từ một ý thức cách mạng, một vốn sống không được cấu thành bởi một ý thức cách mạng là vốn sống chết, vô giá trị, nó không bao giờ được là nguyên liệu quý giá tạo thành tác phẩm, nó chỉ là cái khối nặng chồng chất vô ích của tác phẩm.
Vấn đề đặt ra do đó không phải là sống nhiều, đi nhiều, biết nhiều, lăn lộn từng trải nhiều, rung động đau khổ nhiều mà là sống như thế nào, biết như thế nào, đi như thế nào, lăn lộn từng trải như thế nào, rung động đau khổ như thế nào. Những sản phẩm văn nghệ tiền chiến đã hơn một lần phơi bày cho chúng ta thấy rõ thực chất và giá trị của “vốn sống tiền chiến” khi chuyển vận vào tác phẩm, những tác giả tiêu biểu, có tên tuổi thành tích của dòng nghệ thuật tiền chiến đều có thể coi là những người đã sống nhiều biết nhiều từng trải nhiều (họ thường kiêu hãnh và xếp đặt thứ bậc trên dưới căn cứ theo đó) nhưng những công trình sáng tác của họ đều là những thế giới nghèo nàn, cá nhân, khép kín, cái vốn sống mà họ tiếp nhận được của đời sống, vận chuyển vào tác phẩm, chỉ là những tình cảm tâm sự riêng tây, cái vốn sống đó không có một hiệu lực, một tác động nào với đời sống bởi nó không bao giờ được thu nhận từ một ý thức phóng lớn ngang bằng với những kích thước đích thực của đời sống, nó chỉ là cái vỏ ngoài vô nghĩa, những biểu tỏ phiến diện và không chứng tỏ được gì của đời sống. Vốn sống theo nhận thức cổ điển, và phản ánh bằng những sản phẩm thuộc dòng nghệ thuật tiền chiến, đưa tới thực chất biện chứng và tất yếu người ta đã thấy của dòng nghệ thuật đó: một dòng nghệ thuật lặn chìm mau chóng vào quá khứ tịch mịch trong khi đời sống đã bỏ lại và đi qua.
Bởi đó mà đã sai lầm và lỗi thời tất cả những định kiến đo lường vốn sống của một người làm nghệ thuật bằng tuổi tác, bằng thâm niên, bằng từng trải, kinh nghiệm, một nhà văn thiếu vắng một trưởng thành tối thiểu của ý thức rất có thể có một thời gian sống lâu dài đến chừng nào vẫn chưa bao giờ bắt gặp và gia nhập được vào dòng sống đích thực, hắn không bao giờ duy trì được sự hiện hữu giữa trọng tâm bản thể đời sống, hắn vĩnh viễn đứng trên cái đường viền của đời sống, hắn vĩnh viễn lạc lõng, mù tối trước mọi vận động tiến hóa của đời sống, trạng thái lạc lõng, mù tối ấy, đầy dẫy trong sinh hoạt nghệ thuật chúng ta, nơi những nhà văn, nhà thơ, tiểu thuyết gia không nhận thức được rằng sống ở nghệ thuật, không phải là tiếp nhận, thụ hưởng, mà là ý thức, là phản tỉnh, là giác ngộ, sống không phải là sự đắm chìm buông thả vô thái độ, sự thoả thuận, sự thụ động trước đời sống mà là sự phản ứng quyết liệt của ý thức con người trước sức xô đẩy, đàn áp, khống chế của chính sự vật và đời sống, ở nghệ thuật và bằng nghệ thuật, là sự tranh thủ thường trực quyết liệt của con người với sự vật và ngoại cảnh luôn luôn kìm hãm, hạn chế, hủy diệt bản thể và sự hiện hữu của nó qua cái hiện tượng chồng chất tích lũy của sự vật và ngoại cảnh tự nghìn đời đè nặng xuống thân phận con người.
Trong phạm vi và ý hướng một cuộc hành trình của một dòng nghệ thuật ý thức chuyên chở trên dòng vận động của nó cả một tâm trạng thế hệ đòi quyền chủ động đời sống, nghệ thuật đã được hình thành như một đấu tranh tự giải phóng của thân phận con người khỏi cái thân phận hiện hữu của nó giữa một xã hội mà nó không thoả thuận và chấp nhận, khuynh hướng đối kháng đã trở nên của những người làm nghệ thuật cách mạng. Sự đối kháng đó tự nhiên, bắt buộc và thường trực. Cho nên cái thái độ của người làm nghệ thuật chỉ có thể là một thái độ duy nhất: thái độ đó là sự báo động thường trực của ý thức. Và đặt câu hỏi nghệ thuật là gì để chúng ta trả lời rằng: nghệ thuật là sự báo động thường trực của ý thức, sự đối kháng thường trực và vĩnh viễn của thân phận con người trước sự vật trước đời sống, sự đối kháng không phải là một hành động phá hoại, nó chính là hình thái xây dựng đích thực, duy nhất của nghệ thuật giữa đời sống, lý do đích thực và duy nhất cắt nghĩa sự có mặt và vai trò của nghệ thuật giữa đời sống.
Tất cả vấn đề đặt ra cho những người làm nghệ thuật hôm nay, cho những nhà phê bình, cho lớp người thưởng ngoạn hôm nay, cho tất cả những phần tử có thẩm quyền có trách nhiệm trước sinh mệnh và tiền đồ nghệ thuật hôm nay là sự thấu nhận được chính xác tính chất đối kháng và sự báo động thường trực của ý thức ở nghệ thuật như những điều kiện cấu thành bắt buộc phải có của nghệ thuật, của những người làm nghệ thuật, mà không nhầm lẫn và ngộ nhận như một thái độ cực đoan, quá khích, vô chính phủ, vô trách nhiệm. Đã đến lúc con người ta phải vượt khỏi cái trình độ sơ đẳng ấu trĩ thảm thương nằm trong những ngộ nhận và nhầm lẫn khủng khiếp đó, đã đến lúc người ta phải hổ thẹn và hãi hùng trước mọi khuynh hướng bạc nhược, hèn đớn (dù được ngụy trang dưới một hình thức nào, che giấu dưới một luận điệu nào) đã tạo nên cái tình trạng băng hoại bi đát của nghệ thuật nói chung. Đã đến lúc người ta phải trả lại địa vị chính thống của dòng nghệ thuật cách mạng, tạo những điều kiện phát triển thuận lợi cho mọi khuynh hướng tiến bộ cách mạng, xác nhận sự hiện hữu thiết yếu và tất yếu của những người làm nghệ thuật ý thức cách mạng. Đã đến lúc tất cả những hình thức nghệ thuật ru ngủ, giải trí, thù tạc, lỗi thời, ấu trĩ, phản tiến hóa phải được hủy diệt đến tận gốc rễ, để chặn đứng mọi ngõ ngách phát triển mọi hình thái tác động, ảnh hưởng của chúng trong sinh hoạt nghệ thuật hiện tại. Đã đến lúc những người làm nghệ thuật phải đặt thành vấn đề kiểm thảo trước một ý thức chân thành và sáng suốt, về quan niệm, khuynh hướng, bản ngã, quá khứ, để nhận thức được vai trò của nghệ thuật và của bản thân mình trong đời sống, trong quá trình sinh thành và tiến tới của nghệ thuật hôm nay. Đã đến lúc mọi người phải biết đặt câu hỏi (và chính bản thân người làm nghệ thuật cũng vậy, đã đến lúc hắn phải biết đặt câu hỏi) về vai trò, ý hướng, tính chất, lý do hiện hữu của nghệ thuật, tương quan giữa nghệ thuật và đời sống, và tìm được câu trả lời.
Hiện tượng nghệ thuật hôm nay không thể còn là những giả vấn đề được đếm ra tranh luận bàn cãi vô ích, sự xung đột của những trường phái mới cũ, sự cách mạng bề ngoài của một hệ thống diễn tả như người ta vẫn lầm tưởng. Sau những kinh nghiệm những khám phá mang một triển vọng tốt đẹp về những chân trời những thế giới mới, đã đến lúc của một bước trở lui cần thiết nằm trong sự minh định chính xác, sự thấu triệt về vai trò, về đối tượng của nghệ thuật, nói một cách khác, đã đến lúc trở lại một thái độ nhận đường.
Nếu cùng một lúc, và trên một chiều hướng đối nghịch, là sự rút lui của những thần tượng mất ngôi về những lăng tẩm quá khứ, những đại diện cuối cùng của dòng nghệ thuật tiền chiến sau khi đã lạc lõng thoi thóp giữa dòng sống, hơi thở và không khí mới, không tìm được phương pháp tự cứu nào hơn là trở lại trung thành với cốt điệu và vóc dáng cũ, sự rút lui đã tập hợp họ thành cái thành phần bảo thủ phản tiến bộ của nghệ thuật, ở đó chỉ còn là một thế giới điêu tàn và tịch mịch không có gì đáng lưu ý tới) sự xuất hiện của những người viết trẻ và cuộc hành trình đã khởi sự của họ là một hiện tượng đặc biệt xứng đáng được quan tâm theo dõi. Bởi hiện tượng đó, nếu bao hàm ý nghĩa một mầm mống, một hé lộ, một triển vọng, một hứa hẹn, thì mầm mống, triển vọng, hứa hẹn đó cũng phải được nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo, một mặt để trường tồn và phát triển, một mặt để phòng ngừa sự rơi ngã vào những lỗi lầm của thế hệ trước, do đó mà sự thấu triệt về vai trò và đối tượng của nghệ thuật đã đến lúc phải được coi như biện pháp điều chỉnh và củng cố cần thiết cho một trạng thái dẫu sao vẫn còn nhiều bấp bênh, giao động. Kinh nghiệm cho thấy rằng: thiếu một ý thức sáng suốt hướng dẫn, những khám phá táo bạo nhất rất dễ dàng băng hoại để chỉ còn là cái mới đơn thuần hình thức, thiếu một ý thức điều động hướng dẫn, một cuộc khởi hành tốt đẹp nhất rất dễ biến thành một cuộc phiêu lưu mông lung vô ích, người làm nghệ thuật đi vào cái thế giới mới khám phá thấy để rồi rợn ngợp trong đó và không tìm thấy hướng thoát ra.
Tôi thuộc về những người đặt tất cả hy vọng tin tưởng vào thế hệ của những người viết trẻ, tôi gọi những ngôi sao mới mọc trên vòm trời nghệ thuật ấy là niềm hy vọng cuối cùng và lớn lao nhất của nghệ thuật chúng ta, nhưng điểm trọng yếu, theo tôi mà bất cứ một người viết trẻ nào cũng phải đặt thành vấn đề suy tưởng thực hiện là sự đạt tới một ý thức đầy đủ – ý thức trước đã – về vai trò và nguyên nhân hiện hữu của nghệ thuật ở một xã hội, một đời sống mà nghệ thuật, nếu không được quyền khinh mạn và hạ thấp xuống thành phương tiện giải trí, cũng không thể được là một cuộc phiêu lưu vô trách nhiệm, nghệ thuật phải được đặt vào vai trò lịch sử và cách mạng của nó, người làm nghệ thuật trước hết phải nhìn thấy cái tương quan mật thiết của nghệ thuật với đời sống, tương quan đó chính là lý do hình thành của một dòng nghệ thuật ý thức cách mạng không nói trống không nữa mà phải xác định rõ rệt: một dòng nghệ thuật ý thức cách mạng Việt Nam. Những thí nghiệm những khám phá là những biểu tượng tất nhiên của một nghệ thuật trẻ và những người viết trẻ, nhưng thí nghiệm và khám phá không thể coi là những thực thể xong xuôi trọn vẹn, cuối cùng, để người ta tự bằng lòng với chúng, đứng lại với chúng. Nói một cách khác, thí nghiệm và khám phá chỉ có ý nghĩa ở nghệ thuật khi nó đưa dẫn tới một kết quả, nói một cách khác nữa nghệ thuật không thể vĩnh viễn nằm trong một trạng thái khởi đầu, nó cách mạng không phải vì nó mới lạ hình thức, nó cách mạng vì nó ý thức, nó cách mạng vì nó hành động.
Xác định thái độ nhận đường trong ý nghĩa một trở lui cần thiết cho toàn thể, nhất là cho hệ thống những người viết trẻ trong khi đã khẳng định tính chất chính thống của dòng nghệ thuật ý thức cách mạng và sự hình thành tất yếu của nó không phải là thú nhận một lỗi lầm, nghi ngờ những dấu chân, những đoạn đường đã để lại, mà chỉ là sáng tỏ đúng tầm mức tính chất cách mạng thường trực của nttn. Mặt khác, nhận đường tự nó đã bao hàm một hành động cách mạng của người làm nghệ thuật với chính bản thân mình. Chính nhờ những bước trở lui cần thiết mà người làm nghệ thuật trên quá trình tiến tới luôn luôn tạo được cơ hội suy ngẫm nhận định, đối chiếu, điều chỉnh, bổ khuyết, quan sát, luôn luôn tạo được một thái độ chủ động thích ứng trước mọi biến chuyển đột ngột, bất ngờ của đời sống, do đó nhận đường đã trở nên một tác phong cách mạng không thể thiếu sót và coi thường trong tư tưởng, trong nếp sinh hoạt của người làm nghệ thuật hôm nay.
Ném một cái nhìn tổng quát vào một thực trạng nghệ thuật, để nhìn thấy ở đó một biến đổi căn bản và lớn lao đã khởi diễn, để nhìn thấy ở đó, nơi nào một thế giới cũ đã tàn lụi cho một thế giới mới đã thành hình, nơi nào cái gốc cũ đã thối nát, cái hạt mới đã nảy mầm, nơi nào những nếp rung động cảm nghĩ cũ chỉ còn là những tiếng vang chìm xuống đáy mồ quá khứ, nơi nào một nếp rung động cảm nghĩ mới đã truyền đi bát ngát vòm trời thế hệ, nơi nào nghệ thuật đã chết đi, nơi nào đó đã phục sinh, đã về cùng đời sống, chúng ta đã có thể đi đến một kết luận: mặc dầu trên bề mặt còn bày ra một trạng thái phân hóa hỗn loạn, nhưng trong bản thể, trong chiều sâu, nghệ thuật chúng ta đã chuyển mình tiến tới một chu kỳ mới, một bình diện mới, một trật tự mới, một hướng đi mới, một khuynh hướng với những người đại diện mới; những tiếng nói khác biệt nhưng có chung một khuynh hướng cách mạng, tiến bộ đã kết tinh dần dần nghệ thuật thành một dòng chảy, dòng chảy đó đã quy định được dần dần trong thể chất ý hướng, thể chất đó càng ngày càng cô đọng phát triển, ý hướng đó càng ngày càng phóng lớn chói sáng. Nghệ thuật hôm nay không mê muội, hèn đớn, sơ đẳng ấu trĩ nữa, nó cũng không siêu thoát, hoài cổ, tiền chiến, cá nhân, tình cảm, nó cũng không giải trí, thù tạc, chơi chữ, diễm tình, hình thức nữa, nghệ thuật hôm nay chính là hiện thân một ý thức bị phẫn đớn đau không còn im lặng nép chịu. Nó là phản ảnh của một thế hệ dũng cảm đấu tranh đòi quyền chủ động đời sống, nghệ thuật hôm nay là một vận động cách mạng thường trực, nó bao hàm và biểu hiện cuộc chiến đấu của thân phận tự giải phóng tự thực hiện, nghệ thuật hôm nay là phương tiện hành động, phản kháng trước mọi khống chế, đàn áp của đời sống để thực hiện và giải phóng cho thế hệ, cho con người. Nghệ thuật hôm nay khôi phục lại vai trò cách mạng của nó giữa đời sống. Nó như vậy và chỉ có thể là như vậy mà thôi.
Nhận thức được trọn vẹn tầm quan trọng của vấn đề, chúng ta sẽ nhận thấy nghệ thuật hôm nay chưa phải là một thực trạng đã đạt được để có thể tự mãn, kiêu hãnh, đứng lại, do đó mà họ đã chết trong một thế giới đã chết. Một tác phong cách mạng nào cũng nhuốm một màu sắc quyết liệt, khổ hạnh. Nghệ thuật hôm nay, trước những đối tượng phải thực hiện, phải hủy phá của nó, đòi hỏi ở mỗi người làm nghệ thuật có ý thức trách nhiệm một sự khổ hạnh của tư tưởng và tâm hồn. Một trong những thảm kịch lớn nhất của nghệ thuật hôm nay – như tôi đã nói ở trên – là trạng thái đau thương của người làm nghệ thuật phản tỉnh một sớm một chiều đứng trước những đòi hỏi lớn thường vượt khỏi khả năng và tầm sức của mình. Chúng ta phải đặt thành vấn đề thanh toán, chấm dứt trạng thái đó. Bằng những chặng đường tranh đấu và thực hiện bản thân tiến tới một trưởng thành ý thức. Cho nên trước hiện thực, trước tác phẩm, nghệ thuật hôm nay vẫn bắt buộc khởi đầu từ một thái độ chủ yếu của người làm nghệ thuật: sự báo động thường trực của ý thức trước bản thân và trước đời sống.
Lấy khoảng thời gian sáu bảy năm trở lại đây, tôi muốn nói từ ngày có Hiệp định Genève, làm dấu mốc đo lường những thực hiện đã đạt ở phía những người đã dũng cảm kéo lên ngọn cờ tiền phong cách mạng của nghệ thuật, tôi không ngần ngại khẳng định như phía nắm giữ trọn vẹn tương lai văn học nghệ thuật Việt Nam – sự khẳng định không có ý nghĩa xác nhận một vinh dự, mà chỉ là ý thức một trách nhiệm – điều chúng ta phải thành thực công nhận là những thành tích thâu lượm được mới chỉ là những nền tảng khởi đầu, những dấu chân thứ nhất.
Trước một sự nghiệp văn học vĩ đại, người ta đã thấy dựng lên, như một định luật tất yếu, những trở lực vĩ đại. Hoàn cảnh xã hội hiện hữu, tình trạng hiện hữu của nghệ thuật nói chung, trình độ của một lớp người thưởng ngoạn đến nay còn tù túng trong những quan niệm sơ đẳng ấu trĩ bởi sự thâm nhập độc hại của hơn một hình thức nghệ thuật thương mại, giải trí, chơi chữ, thù tạc, diễm tình còn sinh năm nở bề bộn như nấm dại cỏ độc, thái độ xuyên tạc ngoan cố của bọn bảo thủ phản tiến hóa, những hiểm họa thường trực đe dọa đời sống, một mặt, một mặt khác, trạng thái đau thương của người làm nghệ thuật phản tính một sớm một chiều đứng trước những đòi hỏi cấp bách lớn thường vượt khỏi khả năng và tầm sức của mình, những yếu tố ngoại cảnh và nội giới ấy, tổng hợp lại, đã đúc kết thành những điều kiện tinh thần và vật chất, chủ quan và khách quan có thể nói là hết sức bất lợi cho mọi cố gắng phát huy và kiến tạo một nền văn học nghệ thuật chính thống, nền văn học nghệ thuật đó vừa phải đánh đổ những tàn tích di hưởng độc hại của những dòng nghệ thuật quá khứ, đồng thời phác định một hướng đi cho lớp người làm văn học nghệ thuật mai sau.
Đặt vấn đề trên bình diện quốc tế, thế giới, hoặc thu hẹp trong phạm vi hoàn cảnh một dân tộc, với nghệ thuật, sự thực vẫn chỉ là một. Nếu một nhà xã hội học một thời đại chỉ tìm thấy những chứng tích tiêu biểu điển hình xác thực và trung thành nhất của một thế hệ về trước (nghĩa là không phải dòng sinh hoạt tĩnh chết, tuần tự qua năm tháng, mà ý thức và tâm trạng chủ yếu của thế hệ, qua ánh sáng chiếu tỏa từ những tác phẩm, những công trình sáng tạo văn học nghệ thuật của thế hệ đó, mà không phải ở trong những tài liệu lịch sử, mọi sinh hoạt giáo dục, kinh tế, chính trị chỉ phản ánh được thực chất một cơ cấu tổ chức xã hội, nền tảng một chế độ; ý thức thế hệ, khát vọng thời đại lại thường được cấu thành từ những trạng thái đối nghịch, mâu thuẫn với những cơ cấu và nền tảng hiện hữu đó, trạng thái đối nghịch mâu thuẫn chính là nguyên nhân của tiến bộ cách mạng, động lực của lịch sử tiến hóa) là vì văn học nghệ thuật một thời đại – tôi nói bởi có những thời đại không có văn học nghệ thuật – không chỉ ghi nhận mọi thực trạng cố định, sẵn có, - công việc đó là của những sử gia – bằng một thái độ nhân chứng khách quan, thái độ này đã biến thành, ở nghệ thuật, nguyên tắc sáng tác và nhìn ngắm đời sống của các nhà văn trường phái tả chân cổ điển, ở đó người làm nghệ thuật chỉ còn đóng vai trò một cá nhân đứng ngoài mọi thảm kịch, mọi biến động, tóm lại vai trò một người viết lịch sử bằng nghệ thuật. Trong một tương quan muôn phần quyết định hơn, do đó vai trò cũng hàm chứa tất cả tính chất quyết định của nó, nghệ thuật thiết yếu phải là một động lực cách mạng với chính nó. Với tương quan xã hội, nó phải bao gồm mọi khuynh hướng, mọi hành động cách mạng của một thế hệ sinh thành trong khuôn khổ trật tự một tổ chức xã hội, không phải để thoả thuận và tuân theo, mà trái lại, để phá vỡ cái trật tự hiện hữu đó, đưa tới hình thành một trật tự xã hội mới, và như thế mãi mãi không ngừng. Nói một cách khác, nghệ thuật thường trực tạo nên một thế xung khắc, đối nghịch với mọi trật tự xã hội cố định, bất cứ là một trật tự xã hội nào. Dòng vận động và trở thành của nó đối với bất luận một trật tự xã hội nào, thiết yếu là một dòng vận động xung khắc đối nghịch. Tính chất cách mạng xã hội này, nếu đi đến tận cùng lý luận về lịch sử tiến hóa, sẽ không còn nữa, nghĩa là chừng nào xã hội hoàn toàn tốt đẹp, đã trở nên một thứ thiên đường thế gian, bởi khi đó không còn vấn đề gì đặt ra, và nghệ thuật cũng không còn lý do tồn tại vì hoàn toàn vô ích. Nhưng đến nay, và đến bao giờ, có ai dám quyết đoán đến bao giờ, đã có ở quốc gia nào, một lục địa nào, một xã hội hoàn toàn tốt đẹp? Đặt câu hỏi đó tức là đã tìm được giải đáp cho vai trò xã hội của nghệ thuật, đồng thời làm sáng tỏ vị trí, chỗ đứng, trách vụ của người làm nghệ thuật trong một tương quan xã hội. Và cũng ở điểm căn bản chủ yếu này mà người làm nghệ thuật không thể bao giờ đóng vai trò một nhân chứng khách quan một kẻ xem kịch, hắn đóng vai chính trong vở kịch lớn, hắn là một kẻ nhập cuộc, hắn có một thái độ, một trách vụ minh bạch, hắn không chỉ ghi chép, thu lượm cho một viện bảo tàng hậu thế những biến động lịch sử một thời. Nghệ thuật không còn là một hình thức diễn tả tiêu cực, nghệ thuật là một hành động tích cực trong cái ý nghĩ toàn vẹn, cách mạng nhất của danh từ, người làm nghệ thuật không viết lịch sử, hắn làm lịch sử và sống chết với nó.
Bởi vậy mà người làm nghệ thuật là một con người chân thân cách mạng, không có sự lựa chọn và con đường nào khác. Bởi vậy mà tác động và hiệu lực của nghệ thuật là một tác động hiệu lực cách mạng. Không có hiệu lực và tác động nào khác. Bởi vậy mà nghệ thuật là sáng tạo, người làm nghệ thuật sáng tạo ngôn ngữ, danh từ, âm thanh, màu sắc thành những hành động, những hành động cách mạng. Đó cũng là cái ý nghĩa đích thực và duy nhất của sáng tạo ở nghệ thuật.
Bởi nhận định kể trên, mà vấn đề đặt ra cho bản thân người làm nghệ thuật, trước thiên bẩm, trước năng khiếu, trước khả năng và trước những tâm sự riêng tây, phải là vấn đề ý thức được vai trò của nghệ thuật, do đó ý thức được vai trò của bản thân mình trong đời sống xã hội.
Từ trước đến nay, nếu người ta vẫn thường nói đến tinh thần độc lập tự do trong tư tưởng, sự minh bạch trí thức, thái độ dũng cảm được biểu hiện bằng những hành động chống đối cự tuyệt trước mọi bất công, bạo hành, áp bức của đời sống, tóm lại những độc ác và xấu xa hiện hình giữa đời sống dưới mọi hình thức, nếu người ta vẫn nói đến cái tác phong dũng cảm không khiếp nhược, không đầu hang, không run sợ trước áp lực, đe dọa, quyền thế, như những điều kiện tiên thiên chủ yếu của một người làm nghệ thuật chân chính, những đặc tính đó cần phải được thấu hiểu chân xác như sự trở thành chói sáng của một ý thức cách mạng, sự giác ngộ đúng đắn về một vai trò, một bổn phận, một quyền hạn đặc biệt hơn là những bản tính tự nhiên sẵn có, tinh thần độc lập tự do vô ý thức vô trách nhiệm, lòng can đảm mù quáng không đối tượng chỉ tạo nên những mẫu anh hùng cá nhân không tưởng, người làm nghệ thuật cách mạng không phải là một anh hùng cá nhân, nghệ thuật hắn hàm chứa tính chất và giá trị một hành động cá nhân sáng suốt hình thành từ sự thấm nhuần và triệt thấu sáng suốt một ý thức tote.
Cho nên những danh từ cá nhân, độc đáo, bản chất và tư năng ở nghệ thuật cũng mang nặng một ý nghĩa khác biệt với ý nghĩa thông thường phổ biến của danh từ. Tôi hoàn toàn đồng ý với ai đã đả kích và chế giễu cái quan niệm thông thường hẹp hòi người ta vẫn gán cho tác giả Đoạn trường tân thanh, tâm trạng của Nguyễn Du không phải là cái tâm trạng giản đơn tầm thường một cá nhân bất mãn trước thời thế, dù cá nhân là một thiên tài, tâm trạng đó không bao giờ được những kích thước hình thành tác phẩm. Đoạn trường tân thanh trên từng dòng chữ, từng câu thơ không bao giờ mang kích thước nhỏ hẹp một tâm sự cá nhân bất mãn, Đoạn trường tân thanh rực rỡ một ý thức toàn thể kết tinh bằng ý thức Nguyễn Du, cái ý thức đó bao trùm bàng bạc một thời đại, có điều khác biệt là cái ý thức nơi tài năng Nguyễn Du mới có đủ cường độ hút lấy và biểu hiện lên bằng tác phẩm. Và người ta đã thấy người làm nghệ thuật không phải là một siêu nhân, một bậc á thánh xuất chúng, người làm nghệ thuật có những vóc dáng thông thường, phổ biến của đường lối, nhưng khi được chói sáng dưới một ý thức cách mạng, cái vóc dáng ấy đã nguy nga vĩ đại ngần nào.
Phủ nhận quan niệm thần thánh, siêu nhân, xuất chúng, á thánh, nòi thơ, nòi tình, thiên chức, ngụy cảnh ngộ, ngụy thời thế, đầu thai lầm thế kỷ, mang nặng một màu sắc cá nhân duy tâm, những quan niệm cổ điển lỗi thời và hủ hóa qua đó, người làm nghệ thuật xuất hiện giữa đời sống như một cá thể đặc biệt, ý thức cách mạng của nghệ thuật và một tương quan cách mạng giữa nghệ thuật đã kéo hắn trở về với kích thước phổ biến của đời sống, của đồng loại. Người ta sẽ hỏi, vậy nghệ thuật không bao hàm một sự kiện gì khác biệt với mọi sự kiện của đời sống sao? Trả lời: Có. Nhưng sự khác biệt không nằm trong lĩnh vực một cá nhân, một con người đơn độc hiểu theo nghĩa hẹp vì đã bị chặt đứt mọi tương quan giữa cá nhân với toàn thể – như vậy lại rơi vào quan điểm Tháp Ngà – sự khác biệt nằm trong vai trò, trong tương quan xã hội của người làm nghệ thuật, tương quan ấy cũng đồng thời của chính nghệ thuật, với đời sống. Đó là một tương quan tiến bộ. Một tương quan cách mạng. Tương quan của một ý thức tiến bộ cách mạng.
Từ trước đến nay, nhất là ở xã hội chúng ta, một xã hội đắm chìm trong một trạng thái phân hóa và dao động trầm trọng bởi sự va chạm quay cuồng của nhiều dòng ý thức tư tưởng đối nghịch dị biệt, (một trạng thái xã hội chưa hình thành trọn vẹn thì những giá trị cũng chưa được xác định những vai trò cũng chưa được sáng tạo) người ta đã có những định kiến rất sai lầm, những ngộ nhận rất nguy hiểm về tác dụng của nghệ thuật cách mạng tiến bộ, về vai trò của người làm nghệ thuật cách mạng tiến bộ.
Những sai lầm và ngộ nhận ấy, phải nhận chúng như những dấu hiệu tố cáo một khía cạnh sơ đẳng non kém nhất, đen tối nhất của sinh hoạt nghệ thuật hiện đại, có bởi rất nhiều nguyên nhân. Tinh thần tự ti mặc cảm, sự ngu tối thảm thương của những đầu óc mà ý thức thời đại đã bỏ xa hàng năm bảy thế kỷ còn nô lệ trong những mớ thành kiến lạc hậu hoặc vẩn đục bởi những dụng tâm độc hiểm, trình độ thấp kém một lớp người đến nay chưa nhận được những kiến thức chết tối thiểu (người ta thấu triệt được ở đây tất cả trọng tội của những loại nghệ thuật hạ cấp, rẻ tiền và ảnh hưởng độc hại của chúng), sự tù túng trong cái quá khứ sâu thẳm, tinh thần lạc hậu phản cách mạng, sự thiếu vắng hoàn toàn một ý thức tự do dân chủ, một sự lẫn lộn về tất cả mọi vấn đề, sự chênh lệch đến độ hãi hùng giữa khả năng một cá nhân với vấn đề hắn lên tiếng phê phán, khiến lĩnh vực nghệ thuật thường trực diễn ra những cảnh tượng tiêu bạc giả, khỉ hút thuốc lá, những chuyện tiếm vị, lộn sòng, đó là những nguyên nhân chính. Tôi miễn dẫn chứng. Những thí dụ thật nhiều vô kể.
Không cần bị xô đẩy bởi một nhiệt tình, một đam mê nào – mọi tình cảm, mọi thái độ quá khích nếu không giải đáp được gì hết, nhưng thư thái và bình tĩnh mà nói, một xã hội sẽ là một xã hội khốn nạn, một tập thể sẽ là một tập thể khốn nạn, một cá nhân sẽ là một cá nhân khốn nạn nếu xã hội, nếu tập thể, nếu cá nhân đó, trong cuộc đấu tranh dành quyền sống còn và thúc đẩy lịch sử tiến hóa, không được đốt cháy bởi một ý thức cách mạng tiến bộ, không thấm nhuần được nhu cầu thiết yếu của tiến tới và đổi mới, trong khi thực trạng hiện hữu phơi bày một trạng thái trì trệ bất động, trạng thái mệt mỏi lười biếng đang manh nha cho một khuynh hướng tiêu cực thoả hiệp, mở đường cho sự trốn chạy ẩn náu vào những giới tuyến quá khứ, vào ước lệ, vào tập quán cũ.
Chưa từng bao giờ bằng ở những giờ phút này lại thấy bỏng cháy sự cần thiết lớn lao cho nghệ thuật (hiện đang nằm trong vực thẳm, ngõ cụt) như sự hình thành một vận động cách mạng, một ý thức cách mạng vậy. Nghệ thuật hôm nay thiết yếu phải là một dòng nghệ thuật cách mạng. Cho sự hiện hữu và lý do tồn tại của chính nó. Cho đời sống. Cho lịch sử. Cũng bởi nhu yếu có tính chất bao trùm và toàn diện đó mà danh từ “nghệ thuật cách mạng” hôm nay không còn được phép nhận định đơn giản và hẹp hòi như đặc tính riêng biệt của một trường phái, một tập đoàn, một cá nhân, người ta vẫn có thói quen nghĩ đến nghệ thuật cách mạng như độc quyền của một lớp người có tinh thần tiền phong, cấp tiến – tuy sự thực có như vậy – nhưng một dòng nghệ thuật cách mạng đã đến lúc phải được thấm nhuần và thực hiện cùng khắp, như một dòng nghệ thuật chính thống, phổ biến, để trở nên một ý thức đồng nhất cho tất cả những người làm nghệ thuật chúng ta, để trở nên một đặc tính tự thân, bắt buộc, nội tại của nghệ thuật nói chung.
Nhưng thế nào là nghệ thuật cách mạng? Và thế nào là vai trò người làm nghệ thuật cách mạng?
Hãy gạt sang một bên không nói đến những phần tử bảo thủ phản tiến hóa (nghệ thuật với họ chỉ là những mớ tàn tích, khuôn sáo, ước lệ cũ, cái thế giới nặng chĩu một không khí hoài cổ, thương tiếc quá khứ, cái thế giới dày đặc những dấu quen, những nẻo mòn, ngõ cụt, cái thế giới của những giá trị và thần tượng lỗi thời, những khuôn thước không bao giờ đổi thay, cái thế giới đứng biệt lập trong một vũ trụ buồn nản quẩn quanh khép kín, cái thế giới tĩnh chết xa lạ, ở ngoài, thù nghịch mọi biến động, vai trò và tương quan xã hội ở đó bị tuyệt đối phủ nhận, nghệ thuật nghèo nàn khô cạn đi dần đến tiêu khiển, đến thù tạc, thứ nghệ thuật của tâm sự và tình cảm riêng tây không có vấn đề gì đặt ra giữa nó và đời sống, thứ nghệ thuật được mệnh danh là thuần túy chỉ duy trì được sự hiện hữu với chính nó) những người Mác-xít và những tín đồ chủ nghĩa vị lai không tưởng cũng tự nhận là đại diện của dòng nghệ thuật cách mạng, sự thực ở họ và với họ, nghệ thuật chỉ có cái vỏ ngoài, cái hình thức, cái lý thuyết cách mạng.
Khởi đi từ sự hòa hợp và hiện tượng vận động song hành với một cuộc đấu tranh vô sản mà tính chất cách mạng đã đứng lại cùng với sự thiết lập một chế độ thống trị mới nhằm hủy diệt và khống chế mọi khuynh hướng dị biệt mọi tư tưởng chống đối, nghệ thuật Mác-xít (phản cách mạng từ đó) bị tước đoạt mọi tính chất độc lập, tự do, đối kháng, tự đẩy nó và những người làm nghệ thuật Mác-xít cùng với nó xuống vị trí thoả thuận, chấp nhận, thuần phục vô điều kiện chế độ thừa hành, chỉ còn là công cụ tuyên truyền phục vụ một chế độ một giai cấp mới. Nó không còn là một động lực cách mạng đối kháng với một trật tự cố định hiện hữu nữa (là chế độ), ngược lại nó thường trực chịu đựng sự kiểm thảo của chế độ và thừa hành những chỉ thị của chế độ ban bố xuống, để biến thành một thứ nghệ thuật vụ giai đoạn, vụ khẩu hiệu, tiếng nói “chính thức” của một chế độ duy trì bằng bạo lực, nghệ thuật Mác-xít phản cách mạng khi không còn độc lập không còn tự do.
Phơi bày một sắc thái đối nghịch hoàn toàn với dòng nghệ thuật bảo thủ luôn luôn trở lui về quá khứ, nghệ thuật của những người không tưởng viễn kiến hình thành trên những nền tảng giả định, trên một hy vọng, một niềm tin, một giả thuyết, một ước đoán về một xã hội tương lai lý tưởng, nghệ thuật vị lại viễn kiến là một chủ quan cách mạng không tưởng, bảo vệ tác động của nghệ thuật, bởi vậy tác động của nghệ thuật viễn kiến đơn thuần là tác động của lý thuyết (có thể rất quyến rũ) một hệ thống lý luận không được thể nghiệm và áp dụng vào đời sống, người ta nghĩ đến vai trò một nhà truyền giáo với những viễn tượng rực rỡ về một thiên đường với một thế giới đại đồng mai sau, nghệ thuật viễn kiến không duy trì được sự kiện hiện hữu giữa đời sống, bởi nó không bao giờ có mặt cùng đời sống, bởi nó đã đi trước đời sống và vĩnh viễn ở ngoài đời sống.
Tóm lại, vị lai viễn kiến là một khuynh hướng nghệ thuật đẫm màu lý tưởng, hiến thân và hậu thân của chủ nghĩa không tưởng cấu thành từ một nền tảng gia đình, dòng nghệ thuật đó giao động từ một trạng thái của nhiệt tình quá độ, khi hãy còn, đến một trạng thái thất vọng cay đắng, khi đã mất đối tượng là niềm tin, nó xa rời thực tế và phản lại đời sống, vì sống ý thức (không phải là tin tưởng) những người không chịu đặt nền tảng đời sống trên một niềm tin vô bằng là những người sống mãnh liệt toàn vẹn nhất, kẻ quan niệm sống trước hết là ý thức là kẻ sống tự do.
Khác biệt hoàn toàn với dòng nghệ thuật bảo thủ phản tiến hóa và vị lai viễn kiến không tưởng, nghệ thuật ý thức cách mạng duy trì sự hiện hữu thường trực giữa hiện tại, giữa đời sống, quá khứ chỉ là một kinh nghiệm, tương lai chỉ là một hướng tới, nghệ thuật ý thức cách mạng chính là đời sống của một ý thức kết tinh thành hành động, ý thức đó nhập vào dòng sống và tác động trở lại nó. Trong và ở giữa đời sống, nền nghệ thuật đó đóng giữ một vị trí chủ động và hoàn toàn tự do. Nó không tuân theo một ước lệ, một trật tự nào, ngoài những quy luật tự thân cách mạng của nghệ thuật, ngoài một ý thức đúc kết thành hành động của con người trong tương quan và ý hướng thúc đẩy đời sống tiến lên. Thường trực một thế xung khắc đối nghịch với mọi hình thái của xã hội và đời sống khi đã có những triệu chứng cố định, đứng lại, để biến thành những trở lực phản động và đối nghịch với tiến bộ và tiến hóa, nó dành quyền cứu xét phân tích, truy tìm, phê phán từ nguyên lý đến trở thành, mọi biến thái, mọi nguyên ủy của sự vật. Nó không tự thoả mãn với những biểu hiện bề ngoài, dung dị, đơn phương của sự vật. Nó đào sâu vào nguồn gốc, chân tướng, những khía cạnh tiềm ẩn chứa dấu của sự vật, đặt sự vật và đời sống trần truồng, toàn vẹn trước ý thức. Nó trình bày những yếu tố, những dữ kiện đầy đủ, đưa tới sự am hiểu thấu suốt và tận cùng mọi hiện tượng mọi vấn đề, bởi đó sẽ được cấu thành những hành động thích ứng không mơ hồ không nhầm lẫn. Hoàn toàn đối nghịch với chủ trương lãng mạn hóa, siêu thoát hóa, thi vị hóa đời sống, nghệ thuật cách mạng ý thức quan niệm và nhận định đời sống như một thực thể luôn luôn đổi khác, và tiến hóa không ngừng, thực thể đó lại luôn luôn đứng trước nguy cơ khống chế, uy hiếp, hủy diệt của bạo hành, bất công, tội ác, cho nên vai trò của nó cũng là một hành động thường trực động viên ý thức và năng lực con người tới những thái độ và hành động đấu tranh đối kháng thích ứng trước mọi hiểm họa đe dọa đời sống và bản thân. Nghệ thuật chiếu sáng vào ý thức con người và nhận lại sự chía của ý thức con người trở lại với nó, bởi đó mà trước đối tượng là đời sống, nghệ thuật và con người đã bắt gặp được nhau trong điểm đồng nhất là sự triệt thấu được vị trí, hoàn cảnh và vai trò của mình trước toàn thể, vai trò đó không hề bị lệ thuộc vào một ràng buộc nào ngoài ý hướng tìm kiếm và tạo một động lực cách mạng cho đời sống tiến tới một bình diện cao hơn. Cũng phải hiểu rằng sự xác định về vai trò không có nghĩa là nghệ thuật đã tự chôn chết mình trên một vị trí nhất định, cố hữu. Người làm nghệ thuật đứng trên một vị trí bất động của đời sống chỉ tạo được cho mình một chủ quan hẹp hòi và thiên lệch, nghệ thuật cách mạng ý thức không như vậy, nó là hình ảnh một vận động di chuyển luân lưu không ngừng trên khắp mọi chiều sâu mọi bình diện của đời sống, nó cũng không có ý định kiến trúc một đời sống khác cho đời sống hiện hữu (như vậy lại rơi vào không tưởng chủ nghĩa), nó tạo nên ở một xã hội chưa thể đổi thay trên cơ cấu sinh hoạt, những con người đã đổi khác, của một xã hội chưa tự do những con người đã tự do, của một xã hội còn mê muội của những người đã sáng suốt, của một xã hội có thể còn đầy dẫy áp lực, bất công, áp lực, bạo hành đó. Nghệ thuật cách mạng ý thức tạo nên trong phạm vi một trật tự hiện hữu, những mầm sống những điều kiện cách mạng. Nó không nhất thiết phải hoàn thành một cuộc cách mạng cải tạo và giải phóng xã hội, nhưng nó là một động lực khởi điểm cho mọi hành động cách mạng cải tạo và giải phóng xã hội của con người. Tất cả sự tế nhị của vấn đề là ở đó. Đối tượng của nghệ thuật không phải là một hình thức sinh hoạt nhất thiết phải đạp đổ, một thế giới nhất thiết phải tạo đựng, đối tượng của nghệ thuật không phải là một thực thể đã trở thành, đối tượng của nghệ thuật là một tương quan cách mạng giữa cá nhân và toàn thể với xã hội, xã hội với lịch sử. Chủ đích của nghệ thuật không hề là sự tìm kiếm và đề nghị cho đời sống một vóc dáng lý tưởng bất biến (những nhân vật của một tác phẩm nghệ thuật ý thức không là những mẫu người lý tưởng điển hình như quan điểm sáng tác của nghệ thuật Mác-xít và trường phái được mệnh danh là lãng mạn cách mạng, ở đấy là nhân vật là những mẫu người hoặc mang đầy những đức tính tốt đẹp cao quý cho người đời bắt chước sống theo, hoặc xấu xa kinh tởm cho người đời ghê hãi lảng tránh, mà trái lại: nhân vật hiện hình trong thế giới tiểu thuyết mới như một đối tượng phản chiếu để trở lại ý thức được bản thân mình và tìm được một thái độ, một giải đáp cho mọi vấn đề của đời sống bản thân. Nói một cách khác người đọc không đứng lại với nhân vật, ở nhân vật, mà vượt qua và đi xa hơn nhân vật), tóm lại, trước và sau, nghệ thuật vẫn chỉ là một động lực thúc đẩy, tạo thành một ý thức cách mạng cho con người trước sự vật và đứng lại ở đó, để từ ý thức đó, con người sẽ đi tới những hành động phù hợp thích ứng trước một sự kiện, một vấn đề nhất định.
Một trong những ngộ nhận lớn lao tố cáo tất cả sự thực thảm thương của một trình độ hiểu biết sơ đẳng hiện diện hỗn xược và ngạo nghễ trên diễn đàn văn học nghệ thuật hiện tại là sự nhận định hoàn toàn sai lầm, bằng những điểm đồng nhất và trùng hợp giả ngụy của bọn “ngự sử” dốt nát về một vài tư trào nghệ thuật và triết học Tây phương với những khởi điểm đã hình thành của dòng nghệ thuật cách mạng ý thức ở đây, những đầu óc thiếu vắng một liêm khiết trí thức tối thiểu không bao giờ dám tìm hiểu những khởi điểm tiến bộ ấy trong một tương quan xã hội hiện hữu, những kẻ bất tài không tìm được luận điệu nào hơn là gán ghép một số danh từ công thức máy móc (vô thần, hiện sinh, nổi loạn) lên sự hình thành tất yếu của một dòng nghệ thuật chính thống đã trở lại duy trì sự có mặt rạng rỡ của nó giữa đời sống, sự có mặt không do một phiêu lưu, một ngẫu hứng, một tình cờ nào hết, sự có mặt chỉ là kết quả một giác ngộ và trưởng thành nơi người làm nghệ thuật đã nhận thức được vai trò cách mạng của nghệ thuật và khởi hành từ nhận thức đó.
Nếu vượt bỏ tất cả mọi thời kỳ về trước, kể cả thời kỳ văn học Phục hưng, thế hệ hiện đại đã được chứng nghiệm như thế hệ của sự đắc thắng vẻ vang và tận cùng của trí thức, trí tuệ trước mê muội dốt nát – sự đắc thắng của ánh sáng trước bóng tối –nghệ thuật cách mạng cũng đã vượt bỏ mọi giới hạn trường phái (nghệ thuật hiện đại không còn là một vấn đề trường phái) để trở nên một ý thức bao trùm, phổ biến kết tinh thành một ý thức hệ hoàn toàn. Từ sự đồng nhất này mà, phá vỡ những vĩ tuyến và san phẳng những biên thùy, dòng nghệ thuật ý thức đã mặc nhiên là dòng nghệ thuật chính thống của con người, của thế hệ của đời sống. Ngoài nó và khác nó, tất cả đều là giả ngụy, đội lốt. Ngoài nó và khác nó, tất cả đều là vô ích. Ngoài nó và khác nó, tất cả đều hình thức tiểu xảo, tất cả đều là giấy bạc giả, tất cả đều là phiến diện, là danh từ. Nó là đời sống. Và bất tử bất diệt với đời sống.
Nói vậy không có nghĩa là lúc nào đó cũng được biểu hiện rõ ràng trên đường lớn, ở trung tâm, trên ngọn đỉnh chói lòa của đời sống và sinh hoạt nghệ thuật. Trái lại, vì tiến bộ, nó luôn luôn bị những phần tử phản cách mạng kết tội, lên án. Vì ý thức, nó luôn luôn bị những khuynh hướng mê muội, những tâm hồn hèn đớn kình chống và coi như kẻ thù. Trên những trang lịch sử nhân loại đen tối, dòng nghệ thuật ý thức cách mạng hiện lên như một lịch sử đấu tranh quyết liệt, hơn một lần được nuôi dưỡng bằng máu huyết và sinh mệnh những kẻ đại diện đã anh dũng ngã xuống trước tù đày, bạo hành, đàn áp, khủng bố, nhưng không vì thế mà nó diệt vong, nó vẫn còn đó như một thực thể trường tồn hiện hữu cùng đời sống, như đời sống. Nó chính là ánh sáng của đời sống đó, giữa những trào lưu nghệ thuật đớn hèn mê muội, nó chính là tiếng nói đó, cái tiếng nói rực rỡ của nghệ thuật mặt trời. Phản ánh đời sống linh động, uyển chuyển, nó cũng uyển chuyển linh động như đời sống vậy. Sáng chói trong ý thức thiên tài cô đơn khi thời đại thấp kém không bắt kịp được ý thức mình như trường hợp và thời đại của Nguyễn Du), rút lui xuống chiến hào để biến thành một hình thái nghệ thuật bí mật, bất hợp pháp – littérature clandestine (như nghệ thuật Pháp dưới thời kỳ chiếm đóng của Đức Quốc xã) – hoặc ẩn mình thành một hành động đối kháng tiêu cực là sự im lặng khi xã hội hấp hối dưới một bao trùm toàn diện của bạo hành và khủng bố (như trường hợp các xã hội bên kia bức màn sắt) hoặc bị xuyên tạc, vu khóng như một dòng nghệ thuật điên loạn, phản luân lý, phản đạo đức, tóm lại được tôn trọng, công nhận hay bị hắt hủi xua đuổi (tùy nơi xã hội trực thuộc tiến bộ, cách mạng hay sa đọa hủ hóa, tùy nơi chế độ trực thuộc dân chủ tự do hay độc tài áp bức), hoặc tiềm tàng ẩn giấu, hoặc phơi mở lộ liễu, dòng nghệ thuật cách mạng vẫn tồn tại, cái khối mặt trời có thể bị sương mù che lấp, nhưng sương mù và bóng tối không bao giờ hủy diệt được cái khối mặt trời.
Người ta sẽ hỏi: đã khẳng định tính chất chính thống trường cửu, bất diệt và phổ biến của nghệ thuật ý thức cách mạng như vậy, tại sao còn cần thiết phải đặt vấn đề nhận thức và đấu tranh thực hiện một sự thực đã có, vẫn có? Câu trả lời nằm ngay trong câu hỏi: Chính là để nhận thức và đấu tranh thực hiện dòng nghệ thuật cách mạng ý thức đó má vấn đề đã đặt ra.
Đến đây, nảy ra một yếu tố quyết định: vốn sống của người làm nghệ thuật. Hiện tượng hàm chứa một ý nghĩa đặc biệt – bởi đã chiếu sáng cho cả một quan điểm nhận thức – thường thấy trong sinh hoạt nghệ thuật chúng ta là sự chê trách ở phía những người làm nghệ thuật lớp trước về sự thiếu thốn một vốn sống tối thiểu của thế hệ những người viết trẻ. Vốn sống theo nhận thức cổ điển là sự tích lũy theo thời gian những kinh nghiệm bản thân, sự từng trải lão luyện, sự lăn lộn ngụp lặn vào những thăng trầm biến động của đời sống, người làm nghệ thuật phải đích thân đắm mình trong không khí, bối cảnh, thời gian và không gian đề tài, nhận thức này cấu thành lề lối “sống để và cho sáng tác” rất máy móc ấu trĩ, một nhà văn luôn luôn tâm tâm niệm niệm sống để ghi nhớ và tìm kiếm những chứng liệu cho sáng tác, sẽ không sống được gì trên thực tế, hoặc sẽ sống rất mực kiểu cách giả tạo, những điều ghi nhận được chỉ là những chi tiết tỉ mỉ, vụn vặt, vô nghĩa, sự vận dụng óc đời sống theo nhận thức cổ điển biến người sáng tác thành cái máy chụp hình, hắn không bao giờ thấu triệt được chân tướng và bản thể sự vật, tới khi thể hiện vào sáng tác, vẫn chỉ là những chi tiết đơn độc nguyên hình hiện lên. Mặt khác, sự tích lũy những kỷ niệm, những rung động theo nhận thức cổ điển đã đưa tới trạng thái đãl àm dáng, tự soi ngắm, người làm nghệ thuật trở về tù túng trong cái thế giới cá nhân (những chi tiết tiền chiến slũy giàu có không ai bằng Nguyễn Tuân, nhưng nghệ thuật Nguyễn Tuân là một thế giới hết sức cá nhân, chính Nguyễn Tuân cũng đã thú nhận có những nhà văn rất phong phú trong đời sống lại rất nghèo nàn trong sáng tác), nghệ thuật chỉ còn là sự vận chuyển nguyên vẹn đời tư vào sáng tác, và dừng lại ở đó, sáng tác bưng bít kín hẹp không mở được vào một thế giới nào khác ngoài cái thế giới đời sống thường nhật của tác giả, sáng tác chỉ còn là cái “tôi” của tác giả, cái tôi trong ý nghĩa nhỏ hẹp và tầm thường nhất của danh từ.
Trái với nhận thức cổ điển mang nặng một màu sắc hưởng thụ nói trên, ở đó phát sinh thái độ kiêu hãnh về thành tích về “thâm niên” rất dễ nhận thấy ở những nhà văn nhà thơ tiền chiến, nghệ thuật Mác-xít quy định vốn sống như sự giác ngộ quyền lợi giai cấp, sự thấm nhuần chủ nghĩa và những công tác lao động cộng lại, cả hai nhận thức này đều bắt gặp nhau trong điểm sai lầm chung là sự phủ nhận tính chất sáng tạo của nghệ thuật (phải trụy lạc trác táng mới “nắm” được những vấn đề trụy lạc trác táng, phải đi cày mới viết được về đời sống nông dân, phải làm thợ riết mới viết được về đời sống công nhân v.v…), vốn sống theo nhận thức nghệ thuật tiến bộ cách mạng không phải như vậy. Vốn sống là sự trưởng thành của ý thức. Nó nằm trong chủ quan mãnh liệt của người làm nghệ thuật mà ý thức đã trưởng thành là ngọn lửa tỏa chiếu và bao trùm thấu suốt mọi hiện tượng đời sống. Chính ngọn lửa đó tỏa đi, mở rộng và phóng lớn của ý thức mới là điều kiện thiết yếu khiến người làm nghệ thuật đi tới được những tầng đáy những chiều dày của vấn đề, sáng tỏ được trọng tâm, nguyên ủy, nghĩa là sự thật của sự vật và đời sống, chính cái ngọn lửa đó tỏa đi, mở rộng và phóng lớn của ý thức đã khiến cho người làm nghệ thuật thực hiện được sự có mặt thường trực ở bất cứ nơi nào của đời sống, chính cái ngọn lửa đó tỏa đi, mở rộng và phóng lớn của ý thức đã thu trọn đời sống trong nó, đời sống không còn những đề tài tách biệt, đời sống là một đề tài vĩ đại duy nhất mà chỉ có sự trưởng thành của ý thức mới tạo được sự quân bình của chủ quan cá nhân người làm nghệ thuật với nó mà thôi.
Phải có một vốn sống phong phú mãnh liệt, phải có một vốn sống trước đã, vốn sống là điều kiện căn bản, nó phải được nuôi dưỡng bồi đắp không ngừng bởi những tiếp xúc thường trực với mọi khía cạnh của đời sống phức biệt đa dạng, đó là một sự thực không thể chối cãi. Nhưng nhận thức cũng không thể ngừng lại đó mà phải hiểu được sâu và xa hơn rằng: vốn sống thiết yếu phải được cấu thành từ một ý thức cách mạng, một vốn sống không được cấu thành bởi một ý thức cách mạng là vốn sống chết, vô giá trị, nó không bao giờ được là nguyên liệu quý giá tạo thành tác phẩm, nó chỉ là cái khối nặng chồng chất vô ích của tác phẩm.
Vấn đề đặt ra do đó không phải là sống nhiều, đi nhiều, biết nhiều, lăn lộn từng trải nhiều, rung động đau khổ nhiều mà là sống như thế nào, biết như thế nào, đi như thế nào, lăn lộn từng trải như thế nào, rung động đau khổ như thế nào. Những sản phẩm văn nghệ tiền chiến đã hơn một lần phơi bày cho chúng ta thấy rõ thực chất và giá trị của “vốn sống tiền chiến” khi chuyển vận vào tác phẩm, những tác giả tiêu biểu, có tên tuổi thành tích của dòng nghệ thuật tiền chiến đều có thể coi là những người đã sống nhiều biết nhiều từng trải nhiều (họ thường kiêu hãnh và xếp đặt thứ bậc trên dưới căn cứ theo đó) nhưng những công trình sáng tác của họ đều là những thế giới nghèo nàn, cá nhân, khép kín, cái vốn sống mà họ tiếp nhận được của đời sống, vận chuyển vào tác phẩm, chỉ là những tình cảm tâm sự riêng tây, cái vốn sống đó không có một hiệu lực, một tác động nào với đời sống bởi nó không bao giờ được thu nhận từ một ý thức phóng lớn ngang bằng với những kích thước đích thực của đời sống, nó chỉ là cái vỏ ngoài vô nghĩa, những biểu tỏ phiến diện và không chứng tỏ được gì của đời sống. Vốn sống theo nhận thức cổ điển, và phản ánh bằng những sản phẩm thuộc dòng nghệ thuật tiền chiến, đưa tới thực chất biện chứng và tất yếu người ta đã thấy của dòng nghệ thuật đó: một dòng nghệ thuật lặn chìm mau chóng vào quá khứ tịch mịch trong khi đời sống đã bỏ lại và đi qua.
Bởi đó mà đã sai lầm và lỗi thời tất cả những định kiến đo lường vốn sống của một người làm nghệ thuật bằng tuổi tác, bằng thâm niên, bằng từng trải, kinh nghiệm, một nhà văn thiếu vắng một trưởng thành tối thiểu của ý thức rất có thể có một thời gian sống lâu dài đến chừng nào vẫn chưa bao giờ bắt gặp và gia nhập được vào dòng sống đích thực, hắn không bao giờ duy trì được sự hiện hữu giữa trọng tâm bản thể đời sống, hắn vĩnh viễn đứng trên cái đường viền của đời sống, hắn vĩnh viễn lạc lõng, mù tối trước mọi vận động tiến hóa của đời sống, trạng thái lạc lõng, mù tối ấy, đầy dẫy trong sinh hoạt nghệ thuật chúng ta, nơi những nhà văn, nhà thơ, tiểu thuyết gia không nhận thức được rằng sống ở nghệ thuật, không phải là tiếp nhận, thụ hưởng, mà là ý thức, là phản tỉnh, là giác ngộ, sống không phải là sự đắm chìm buông thả vô thái độ, sự thoả thuận, sự thụ động trước đời sống mà là sự phản ứng quyết liệt của ý thức con người trước sức xô đẩy, đàn áp, khống chế của chính sự vật và đời sống, ở nghệ thuật và bằng nghệ thuật, là sự tranh thủ thường trực quyết liệt của con người với sự vật và ngoại cảnh luôn luôn kìm hãm, hạn chế, hủy diệt bản thể và sự hiện hữu của nó qua cái hiện tượng chồng chất tích lũy của sự vật và ngoại cảnh tự nghìn đời đè nặng xuống thân phận con người.
Trong phạm vi và ý hướng một cuộc hành trình của một dòng nghệ thuật ý thức chuyên chở trên dòng vận động của nó cả một tâm trạng thế hệ đòi quyền chủ động đời sống, nghệ thuật đã được hình thành như một đấu tranh tự giải phóng của thân phận con người khỏi cái thân phận hiện hữu của nó giữa một xã hội mà nó không thoả thuận và chấp nhận, khuynh hướng đối kháng đã trở nên của những người làm nghệ thuật cách mạng. Sự đối kháng đó tự nhiên, bắt buộc và thường trực. Cho nên cái thái độ của người làm nghệ thuật chỉ có thể là một thái độ duy nhất: thái độ đó là sự báo động thường trực của ý thức. Và đặt câu hỏi nghệ thuật là gì để chúng ta trả lời rằng: nghệ thuật là sự báo động thường trực của ý thức, sự đối kháng thường trực và vĩnh viễn của thân phận con người trước sự vật trước đời sống, sự đối kháng không phải là một hành động phá hoại, nó chính là hình thái xây dựng đích thực, duy nhất của nghệ thuật giữa đời sống, lý do đích thực và duy nhất cắt nghĩa sự có mặt và vai trò của nghệ thuật giữa đời sống.
Tất cả vấn đề đặt ra cho những người làm nghệ thuật hôm nay, cho những nhà phê bình, cho lớp người thưởng ngoạn hôm nay, cho tất cả những phần tử có thẩm quyền có trách nhiệm trước sinh mệnh và tiền đồ nghệ thuật hôm nay là sự thấu nhận được chính xác tính chất đối kháng và sự báo động thường trực của ý thức ở nghệ thuật như những điều kiện cấu thành bắt buộc phải có của nghệ thuật, của những người làm nghệ thuật, mà không nhầm lẫn và ngộ nhận như một thái độ cực đoan, quá khích, vô chính phủ, vô trách nhiệm. Đã đến lúc con người ta phải vượt khỏi cái trình độ sơ đẳng ấu trĩ thảm thương nằm trong những ngộ nhận và nhầm lẫn khủng khiếp đó, đã đến lúc người ta phải hổ thẹn và hãi hùng trước mọi khuynh hướng bạc nhược, hèn đớn (dù được ngụy trang dưới một hình thức nào, che giấu dưới một luận điệu nào) đã tạo nên cái tình trạng băng hoại bi đát của nghệ thuật nói chung. Đã đến lúc người ta phải trả lại địa vị chính thống của dòng nghệ thuật cách mạng, tạo những điều kiện phát triển thuận lợi cho mọi khuynh hướng tiến bộ cách mạng, xác nhận sự hiện hữu thiết yếu và tất yếu của những người làm nghệ thuật ý thức cách mạng. Đã đến lúc tất cả những hình thức nghệ thuật ru ngủ, giải trí, thù tạc, lỗi thời, ấu trĩ, phản tiến hóa phải được hủy diệt đến tận gốc rễ, để chặn đứng mọi ngõ ngách phát triển mọi hình thái tác động, ảnh hưởng của chúng trong sinh hoạt nghệ thuật hiện tại. Đã đến lúc những người làm nghệ thuật phải đặt thành vấn đề kiểm thảo trước một ý thức chân thành và sáng suốt, về quan niệm, khuynh hướng, bản ngã, quá khứ, để nhận thức được vai trò của nghệ thuật và của bản thân mình trong đời sống, trong quá trình sinh thành và tiến tới của nghệ thuật hôm nay. Đã đến lúc mọi người phải biết đặt câu hỏi (và chính bản thân người làm nghệ thuật cũng vậy, đã đến lúc hắn phải biết đặt câu hỏi) về vai trò, ý hướng, tính chất, lý do hiện hữu của nghệ thuật, tương quan giữa nghệ thuật và đời sống, và tìm được câu trả lời.
Hiện tượng nghệ thuật hôm nay không thể còn là những giả vấn đề được đếm ra tranh luận bàn cãi vô ích, sự xung đột của những trường phái mới cũ, sự cách mạng bề ngoài của một hệ thống diễn tả như người ta vẫn lầm tưởng. Sau những kinh nghiệm những khám phá mang một triển vọng tốt đẹp về những chân trời những thế giới mới, đã đến lúc của một bước trở lui cần thiết nằm trong sự minh định chính xác, sự thấu triệt về vai trò, về đối tượng của nghệ thuật, nói một cách khác, đã đến lúc trở lại một thái độ nhận đường.
Nếu cùng một lúc, và trên một chiều hướng đối nghịch, là sự rút lui của những thần tượng mất ngôi về những lăng tẩm quá khứ, những đại diện cuối cùng của dòng nghệ thuật tiền chiến sau khi đã lạc lõng thoi thóp giữa dòng sống, hơi thở và không khí mới, không tìm được phương pháp tự cứu nào hơn là trở lại trung thành với cốt điệu và vóc dáng cũ, sự rút lui đã tập hợp họ thành cái thành phần bảo thủ phản tiến bộ của nghệ thuật, ở đó chỉ còn là một thế giới điêu tàn và tịch mịch không có gì đáng lưu ý tới) sự xuất hiện của những người viết trẻ và cuộc hành trình đã khởi sự của họ là một hiện tượng đặc biệt xứng đáng được quan tâm theo dõi. Bởi hiện tượng đó, nếu bao hàm ý nghĩa một mầm mống, một hé lộ, một triển vọng, một hứa hẹn, thì mầm mống, triển vọng, hứa hẹn đó cũng phải được nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo, một mặt để trường tồn và phát triển, một mặt để phòng ngừa sự rơi ngã vào những lỗi lầm của thế hệ trước, do đó mà sự thấu triệt về vai trò và đối tượng của nghệ thuật đã đến lúc phải được coi như biện pháp điều chỉnh và củng cố cần thiết cho một trạng thái dẫu sao vẫn còn nhiều bấp bênh, giao động. Kinh nghiệm cho thấy rằng: thiếu một ý thức sáng suốt hướng dẫn, những khám phá táo bạo nhất rất dễ dàng băng hoại để chỉ còn là cái mới đơn thuần hình thức, thiếu một ý thức điều động hướng dẫn, một cuộc khởi hành tốt đẹp nhất rất dễ biến thành một cuộc phiêu lưu mông lung vô ích, người làm nghệ thuật đi vào cái thế giới mới khám phá thấy để rồi rợn ngợp trong đó và không tìm thấy hướng thoát ra.
Tôi thuộc về những người đặt tất cả hy vọng tin tưởng vào thế hệ của những người viết trẻ, tôi gọi những ngôi sao mới mọc trên vòm trời nghệ thuật ấy là niềm hy vọng cuối cùng và lớn lao nhất của nghệ thuật chúng ta, nhưng điểm trọng yếu, theo tôi mà bất cứ một người viết trẻ nào cũng phải đặt thành vấn đề suy tưởng thực hiện là sự đạt tới một ý thức đầy đủ – ý thức trước đã – về vai trò và nguyên nhân hiện hữu của nghệ thuật ở một xã hội, một đời sống mà nghệ thuật, nếu không được quyền khinh mạn và hạ thấp xuống thành phương tiện giải trí, cũng không thể được là một cuộc phiêu lưu vô trách nhiệm, nghệ thuật phải được đặt vào vai trò lịch sử và cách mạng của nó, người làm nghệ thuật trước hết phải nhìn thấy cái tương quan mật thiết của nghệ thuật với đời sống, tương quan đó chính là lý do hình thành của một dòng nghệ thuật ý thức cách mạng không nói trống không nữa mà phải xác định rõ rệt: một dòng nghệ thuật ý thức cách mạng Việt Nam. Những thí nghiệm những khám phá là những biểu tượng tất nhiên của một nghệ thuật trẻ và những người viết trẻ, nhưng thí nghiệm và khám phá không thể coi là những thực thể xong xuôi trọn vẹn, cuối cùng, để người ta tự bằng lòng với chúng, đứng lại với chúng. Nói một cách khác, thí nghiệm và khám phá chỉ có ý nghĩa ở nghệ thuật khi nó đưa dẫn tới một kết quả, nói một cách khác nữa nghệ thuật không thể vĩnh viễn nằm trong một trạng thái khởi đầu, nó cách mạng không phải vì nó mới lạ hình thức, nó cách mạng vì nó ý thức, nó cách mạng vì nó hành động.
Xác định thái độ nhận đường trong ý nghĩa một trở lui cần thiết cho toàn thể, nhất là cho hệ thống những người viết trẻ trong khi đã khẳng định tính chất chính thống của dòng nghệ thuật ý thức cách mạng và sự hình thành tất yếu của nó không phải là thú nhận một lỗi lầm, nghi ngờ những dấu chân, những đoạn đường đã để lại, mà chỉ là sáng tỏ đúng tầm mức tính chất cách mạng thường trực của nttn. Mặt khác, nhận đường tự nó đã bao hàm một hành động cách mạng của người làm nghệ thuật với chính bản thân mình. Chính nhờ những bước trở lui cần thiết mà người làm nghệ thuật trên quá trình tiến tới luôn luôn tạo được cơ hội suy ngẫm nhận định, đối chiếu, điều chỉnh, bổ khuyết, quan sát, luôn luôn tạo được một thái độ chủ động thích ứng trước mọi biến chuyển đột ngột, bất ngờ của đời sống, do đó nhận đường đã trở nên một tác phong cách mạng không thể thiếu sót và coi thường trong tư tưởng, trong nếp sinh hoạt của người làm nghệ thuật hôm nay.
Ném một cái nhìn tổng quát vào một thực trạng nghệ thuật, để nhìn thấy ở đó một biến đổi căn bản và lớn lao đã khởi diễn, để nhìn thấy ở đó, nơi nào một thế giới cũ đã tàn lụi cho một thế giới mới đã thành hình, nơi nào cái gốc cũ đã thối nát, cái hạt mới đã nảy mầm, nơi nào những nếp rung động cảm nghĩ cũ chỉ còn là những tiếng vang chìm xuống đáy mồ quá khứ, nơi nào một nếp rung động cảm nghĩ mới đã truyền đi bát ngát vòm trời thế hệ, nơi nào nghệ thuật đã chết đi, nơi nào đó đã phục sinh, đã về cùng đời sống, chúng ta đã có thể đi đến một kết luận: mặc dầu trên bề mặt còn bày ra một trạng thái phân hóa hỗn loạn, nhưng trong bản thể, trong chiều sâu, nghệ thuật chúng ta đã chuyển mình tiến tới một chu kỳ mới, một bình diện mới, một trật tự mới, một hướng đi mới, một khuynh hướng với những người đại diện mới; những tiếng nói khác biệt nhưng có chung một khuynh hướng cách mạng, tiến bộ đã kết tinh dần dần nghệ thuật thành một dòng chảy, dòng chảy đó đã quy định được dần dần trong thể chất ý hướng, thể chất đó càng ngày càng cô đọng phát triển, ý hướng đó càng ngày càng phóng lớn chói sáng. Nghệ thuật hôm nay không mê muội, hèn đớn, sơ đẳng ấu trĩ nữa, nó cũng không siêu thoát, hoài cổ, tiền chiến, cá nhân, tình cảm, nó cũng không giải trí, thù tạc, chơi chữ, diễm tình, hình thức nữa, nghệ thuật hôm nay chính là hiện thân một ý thức bị phẫn đớn đau không còn im lặng nép chịu. Nó là phản ảnh của một thế hệ dũng cảm đấu tranh đòi quyền chủ động đời sống, nghệ thuật hôm nay là một vận động cách mạng thường trực, nó bao hàm và biểu hiện cuộc chiến đấu của thân phận tự giải phóng tự thực hiện, nghệ thuật hôm nay là phương tiện hành động, phản kháng trước mọi khống chế, đàn áp của đời sống để thực hiện và giải phóng cho thế hệ, cho con người. Nghệ thuật hôm nay khôi phục lại vai trò cách mạng của nó giữa đời sống. Nó như vậy và chỉ có thể là như vậy mà thôi.
Nhận thức được trọn vẹn tầm quan trọng của vấn đề, chúng ta sẽ nhận thấy nghệ thuật hôm nay chưa phải là một thực trạng đã đạt được để có thể tự mãn, kiêu hãnh, đứng lại, do đó mà họ đã chết trong một thế giới đã chết. Một tác phong cách mạng nào cũng nhuốm một màu sắc quyết liệt, khổ hạnh. Nghệ thuật hôm nay, trước những đối tượng phải thực hiện, phải hủy phá của nó, đòi hỏi ở mỗi người làm nghệ thuật có ý thức trách nhiệm một sự khổ hạnh của tư tưởng và tâm hồn. Một trong những thảm kịch lớn nhất của nghệ thuật hôm nay – như tôi đã nói ở trên – là trạng thái đau thương của người làm nghệ thuật phản tỉnh một sớm một chiều đứng trước những đòi hỏi lớn thường vượt khỏi khả năng và tầm sức của mình. Chúng ta phải đặt thành vấn đề thanh toán, chấm dứt trạng thái đó. Bằng những chặng đường tranh đấu và thực hiện bản thân tiến tới một trưởng thành ý thức. Cho nên trước hiện thực, trước tác phẩm, nghệ thuật hôm nay vẫn bắt buộc khởi đầu từ một thái độ chủ yếu của người làm nghệ thuật: sự báo động thường trực của ý thức trước bản thân và trước đời sống.
Nguồn: Tạp chí Sáng tạo,
bộ mới, số 7, ra tháng 9-1961, trích từ trang 1 đến 16. Chủ nhiệm: Mai
Thảo. Quản lý: Đặng Lê Kim. Trình bày: Duy Thanh. Toà soạn và trị sự:
133B Ký Con, Sài Gòn. Giá: 15đ. Bản điện tử do talawas thực hiện.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 254
No comments:
Post a Comment