Saturday, March 23, 2013
Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN,*ĐỐI VỚI ĐIỀU 4,
ĐỐI VỚI ĐIỀU 4, KHÔNG
THỂ NHÂN NHƯỢNG, MÀ PHẢI DỨT KHOÁT LOẠI BỎ
Giáo sư
Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tếGeneva,
14.03.13
Công Giáo VN dứt khoát với Điều 4 qua Bản Nhận Định & Góp Ý về sửa đổi
Hiến Pháp của Hội Đồng Giám Mục VN do ĐC Nguyễn Văn Nhơn ký 1/3/13
(Hình Giáo Dân GX Ngọc Long - Vinh ký kiến nghị đòi hủy bỏ Điều 4 Hiến Pháp)
Đã nhiều năm liên kết Đấu tranh cùng với PHONG TRÀO HIẾN CHƯƠNG 2000, chúng tôi đồng quan điểm với PHONG TRÀO rằng Dân phải NỔI DẬY dứt bỏ Cơ chế CSVN hiện hành để có thể phát triển đất nước và cứu Nước trước xâm lăng của Trung quốc.
Ngày nay cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đang bùng dậy tại Quốc nội đầu tiên từ giới Trí thức và Tôn Giáo. Nhưng giới Trí thức và Tôn giáo cần phải có một SỨC MẠNH KHẢ THỂ của quần chúng thì mới có hiệu lư.c. Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đặt trọng tâm vào Điều 4 của Hiến Pháp vì chính Điều 4 này là nguồn gốc gây tha hoá Cá nhân và Xã hội cũng là nguyên cớ phá sản Kinh tế Quốc gia.
Bài này có ý cho thấy rằng tầm quan trọng của cuộc đấu tranh CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đặt vào việc loại bỏ Điều 4. Để chứng minh như vậy, chúng tôi xin bàn đến những khía cạnh sau đây:
=> Cách Mạng Hiến Pháp bất bạo động cần Quần chúng sẵn sàng bạo động
=> Điều 4 tự nó là Nghịch lý Nguyên tắc và tạo Loạn quyền thực tế
=> Cách Mạng Hiến Pháp nhất thiết phải đòi bỏ Điều 4
A. Cách Mạng Hiến Pháp bất bạo động cần Quần chúng sẵn sàng bạo động
Cuộc đấu tranh trong Cơ chế CSVN ngày nay là phải đối chọi với thứ ĐỘC TÀI cố thủ giữ lấy của cải đã ăn cướp được một cách bất chính. Độc tài thời Lénine/Staline còn có lý tưởng vì họ muốn áp đặt lên dân một Ý thức hệt với ngưỡng vọng một “Thiên đàng trần thế “. Nhưng khi chính đoàn ngũ đảng viên của họ nhận biết “Thiên đàng trần thế“ chỉ là ảo tưởng, thì đoàn ngũ cán bộ này sẵn sàng đi với dân để chấm dứt độc tài nhà nước. Khi Liên-xô và Đông Au sụp đổ rồi, Trung quốc và Việt Nam vẫn cố thủ giữ lấy Cơ chế Cộng sản. Những nước này giữ thứ ĐỘC TÀI không phải vì lý tưởng nữa, mà là thứ ĐỘC TÀI tham quyền cố vị cho đảng mà thôi, bất chấp dân đói khổ. Dân đói khổ quá buộc hai đảng CSTQ và CSVN phải mở cửa với Tây phương để kiếm cơm. Khi Tây phương đổ vốn vào, thì ĐỘC TÀI dùng quyền chặn họng dân để vơ vét của chung thành của riêng bằng THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ.
Khi đảng viên CS từ trên xuống dưới đã ăn cướp được ngập họng rồi, thì ĐỘC TÀI trở thành một thứ dùng quyền để giữ của cải ăn cướp được cho riêng mỗi người.
Chúng tôi đã ví CSVN ngày nay giống như đàn chó mỗi con đang ngậm được cục xương. Con chó ngậm cục xương tìm chỗ riêng mà trốn để gâ.m. Con chó gậm xương vừa mang thái độ sợ sệt vì lo xương đang ngậm bị cướp lại, vừa dễ trở thành điên rồ cắn càng, thậm chí cắn cả mẹ của nó.
ĐỘC TÀI csvn ngày nay là thứ độc tài vừa sợ Dân vì của cải riêng có được là bất chính, vừa hung hổ với Dân vì sợ Dân lấy lại của cải đang dấu cất.
Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP lúc này là phải đối chọi với thứ ĐỘC TÀI bảo vệ tài sản đã cướp giựt được một cách bất chính, nghĩa là không phải là thứ độc tài cho ý thức hệ như thời Lénine/Staline, không phải là thứ độc tài cố thủ giữ lấy quyền hành cho đảng như sau khi Liên –xô, Đông Au vừa sụp đổ, cũng không phải là thứ độc tài hù doạ, lừa bịp dân để vơ vét tài sản riêng bằng THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ.
Hiện nay chúng ta phải đấu tranh với ĐỘC TÀI của những con chó đang ngậm cục xương, cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP nếu chỉ bằng kiến nghị giấy tờ với những lý luận, thì CSVN dễ bỏ những kiến nghị ấy vào sọt rác.
Đã từ ngày 14.02.2013, nhận thấy tình hình sẽ đi đến bùng nổ một cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP, chúng tôi đã chọn Chủ để: PHONG TRÀO QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH ĐÒI MỘT HIẾN PHÁP MỚI. Chúng tôi đã viết trong Bài Mở Đầu như sau:
“Có người cho rằng việc Ký Tên như cuộc “Cách Mạng nhung“ của giới Trí thức mà CSVN sẽ bỏ sọt rác, nghĩa là không mang đến hiệu lực nào. Trước sức mạnh võ lực đàn áp của Công an CSVN, những cuộc đấu tranh bằng bất bạo động, bằng văn bản, tự nó không mang lại hiệu lực tác động lên ĐỘC TÀI CSVN ở giai đoạn chỉ bảo vệ miếng ăn mà họ đang ngậm trong mồm. Cái hiệu lực của bất bạo động hay văn bản lý luận không nằm ở những Lý lẽ đúng hay sai, mà nằm ở cái SỨC MẠNH BẠO ĐỘNG KHẢ THỂ đứng hậu thuẫn cho bất bạo động hay những Văn bản Lý lẽ đưa ra.
Thực vậy, Chính quyền Anh quốc không trao trả Độc Lập cho Dân Ấn Độ nếu không có SỨC MẠNH BẠO ĐỘNG KHẢ THỂ hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh bất bạo động của Thánh GANDHI. Hiệu quả của cuộc đấu tranh bất bạo động của Thánh GANDHI đến từ việc cả khối người Ấn Độ sẵn sàng BẠO ĐÔ.NG.”
Trong Bài tiếp theo ngày 21.02.2013, dưới đầu đề QUẦN CHÚNG HÓA NHỮNG ĐÒI HỎI VỀ HIẾN PHÁP, chúng tôi kêu gọi việc đấu tranh phải lan mạnh tới quần chúng để lấy SỨC MẠNH BẠO ĐỘNG KHẢ THỂ, nghĩa là một sức mạnh của quần chúng sẵn sàng BẠO ĐỘNG tự vệ khi những con chó điên CSVN đang ngậm cục xương dùng bạo lực cắn càn hay bỏ những đòi hỏi chính đáng của cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP bất bạo động bằng Lý luận vào sọt rác.
Việc Ký tên cho Phong trào Đấu tranh đang tiến hành rộng rãi, mỗi Chữ Ký là một đóng góp cho SỨC MẠNH BẠO ĐỘNG KHẢ THỂ làm tăng thêm hiệu lực thành công của cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP. Hiện nay có ba Nhóm kêu gọi quần chúng Ký Tên:
1) NHÓM KHỞI XƯỚNG BỞI 72 NHÀ TRÍ THỨC
Nhóm này khởi xướng bởi 72 nhà Trí thức Quốc nô.i. Nhóm kêu gọi Ký Tên qua Diễn Đàn BOXIT Việt Nam.
2) NHÓM “LỜI TUYÊN BỐ CÔNG DÂN TỰ DO“
Nhóm này khởi xướng bởi những Nhà Báo nhân việc Nhà Báo trẻ NGUYỄN ĐẮC KIÊN thẳng thắn phê bình Nguyễn Phú Tro.ng. Nhóm kêu gọi Ký tên qua Diễn Đàn DÂN LÀM BÁO.
3) NHÓM ỦNG HỘ LÁ THƯ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
Lá Thư của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vừa được công bố ngày 01.03.2013, thì ngày 03.03.2013, các Giám mục VN ở Hải ngoại và các Cơ quan Truyền Thông Công Giáo Hải ngoại kêu gọi Ký Tên ủng hộ qua Diễn Đàn VIETCATHOLIC.
Những Chữ ký này đóng góp xây dựng một LỰC LƯỢNG QUẦN CHÚNG CỤ THỂ mà CSVN phải nể sợ SỨC MẠNH của Lực Lươ.ng.
B. Điều 4 tự nó là Nghịch lý Nguyên tắc và tạo Loạn quyền thực tế
Đây là nhận định của LÁ THƯ góp ý của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và nay được phổ biến rộng rãi trong các Giáo xứ từ Bắc chí Nam. Chúng tôi theo sát LÁ THƯ này để trình bầy tính cách NGHỊC LÝ NGUYÊN TẮC và LOẠN QUYỀN THỰC TẾ do chính Điều 4 Hiến Pháp tạo ra.
Đọc kỹ LÁ THƯ góp ý của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về Hiến Pháp, chúng tôi thấy nổi bật lên những điểm sau đây: (i) nghịch lý nguyên tắc; (ii) lọan quyền thực tế; (iii) thủ phạm của nghịch lý nguyên tắc và loạn quyền thực tế chính là Điều 4 Hiến Pháp.
Nhập đề cho LÁ THƯ, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã nói rất rõ về lý do để viết đưa ý kiến về sửa đổi Hiến Pháp:
1) Chính Nhà nước CHXHCN đã muốn lấy ý kiến của nhân dân. Hội Đồng Giám Mục khen ngợi và tán thành nhã ý này của Nhà nước vì Nhà nước CHXHCN đã hiểu rất đúng rằng “Hiến Pháp của một quốc gia trước hết và trên hết phải là của chính người dân “.
2) Vì thấy đồng một nhận thức như vậy, nên Hội Đồng Giám Mục VN, ở tư cách là công dân của một nước, ý thức trách nhiệm phải đóng góp xây dựng cho Hiến Pháp được hiểu là “của chính người dân “. Những ý kiến đóng góp xây dựng Hiến Pháp được gửi đến Uûy Ban Dự thảo sửa đổi Hiến Pháp, chứ không phải gửi lên Nhà nước hay đảng CSVN đang cầm quyền. Hội Đồng Giám Mục VN viết LÁ THƯ cũng không phải là ở quan điểm đấu tranh cho Tôn Giáo.
I. Quyền con người
Hội Đồng Giám Mục VN cũng nhìn nhận rằng “Bản Dự thảo đã dành cả chương II (điều 15-52) để nói về quyền con người. Quyền con người đã được chính thức nhìn nhận trong Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người (10.12.1948), và Việt Nam cũng đã ký kết. Bản Dự thảo đã liệt kê khá đầy đủ những quyền căn bản của con ngườị“
Nhưng đó chỉ là những liệt kê trên văn bản theo nguyên tắc. Những điều mà Hội Đồng Giám Mục muốn phân tích để từ đó góp ý kiến là trên thực tế những điều liệt kê ấy có được hiểu đúng, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo pháp luật hay không?
Theo nguyên tắc, quyền bính Chính trị được nhân dân trao cho nhà cầm quyền là để tạo điều kiện pháp lý và môi trường thuận lợi cho việc thực thi quyền con người. Nhưng trên thực tế, những quyền của con người chỉ được ban phát cách tùy tiện do quyền bính Chính trị. Lý do chính yếu của việc những quyền con người liệt kê trên văn bản không được hiểu đúng, không được tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo pháp luật trong thực tế là Hiến Pháp ngay từ đầu (Điều 4) đã dành quyền Chính trị cho độc đảng với độc tôn một Chủ nghĩa riêng của đảng này: “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng” (Điều 4)
Thực vậy:
=> Quyền tự do ngôn luận (điều 26), quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật (điều 43), quyền tự do tín nguỡng, tôn giáo (điều 25) không thể được thực hiện hay chỉ được tùy tiện ban phát khi mà Điều 4 độc tôn Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vốn từ bản chất là vô thần.
=> Thực tế từ bao chục năm trường, sự trói buộc tư tưởng vào một hệ ý thức duy nhất đã kìm hãm tư duy sáng tạo của người dân Việt Nam. Đây là một trong những lý do lớn, dẫn đến tình trạng trì trệ và chậm tiến của Việt Nam về nhiều mặt: giáo dục, khoa học và công nghệ, văn hóa và nghệ thuâ.t.
Điều 4 trong cùng một văn bản Hiến Pháp tự nó, theo nguyên tắc, là trái nghịch với những Điều khoản về những quyền của con người được liệt kê ra trong cùng văn bản; và trên thực tế là cho đảng độc quyền Chính trị tùy hứng ban phát cho dân mà thôi.
Chính vì nhận định những nghịch lý trên nguyên tắc và những lạm quyền đối với những quyền căn bản của con người, nhất là những quyền chỉ được nhắc ra mà không khai triển cụ thể trên thực tế, mà Hội Đồng Giám Mục VN đề nghị:
l. Hiến pháp cần xác định rõ: mọi người đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền. Quyền con người là những quyền gắn liền với phẩm giá làm người, và vì thế, là những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm, bất khả nhươ.ng.
2 . Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt Nam.
3 . Nêu rõ nội dung quyền được sống (đối chiếu với điều 21 Dự thảo): mọi người đều có quyền sống. Không ai được phép tước đoạt sự sống của người khác, từ khi thành thai đến khi chết. Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ sự sống con người. Mọi người đều có quyền bảo vệ sự sống của mình, miễn là không làm tổn hại đến sự sống của người khác.
4 . Nêu rõ quyền tự do ngôn luận (đối chiếu điều 26 Dự thảo): mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do trình bày quan điểm và niềm tin của mình.
5 . Nêu rõ quyền tự do tôn giáo (đối chiếu điều 25 Dự thảo): mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền này bao hàm việc tự do theo hay không theo một tôn giáo nào, tự do thực hành các nghi lễ tôn giáo, cá nhân hoặc tập thể. Không tôn giáo nào hoặc chủ thuyết nào được coi là bó buộc đối với người dân Việt Nam. Nhà nước không tuyên truyền tiêu cực về tôn giáo, không can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo như: đào tạo, truyền chức, thuyên chuyển, chia tách sát nhập... Các tổ chức tôn giáo có quyền tự do hoạt động xã hội cộng đồng như giáo dục, y tế...
II. Quyền làm chủ của nhân dân
Nhà nước CHXHCN tuyên bố rằng quyền lực tối cao là từ người dân. Hội Đồng Giám Mục VN cũng nhận định quyền làm chủ của nhân dân như sau đây. Theo nguyên tắc, chủ thể của quyền bính chính trị phải là chính nhân dân xét như một toàn thể trong đất nước. Nhân dân trao việc thi hành quyền bính ấy cho những người có năng lực và tâm huyết mà họ bầu làm đại diện cho họ, bất kể người đó thuộc đảng phái chính trị hoặc không thuộc đảng phái nào. Chỉ khi đó mới có Nhà nước pháp quyền “của dân, do dân và vì dân” (Lời nói đầu). Vì thế việc tự do ứng cử của mỗi công dân là đòi hỏi tất yếu trong một xã hội dân chủ, văn minh và lành ma.nh. Đồng thời việc bỏ phiếu công khai, khách quan và công bằng, là đòi hỏi cần thiết để người dân có được những đại diện mà họ tín nhiê.m. Chính nhân dân có quyền đánh giá năng lực của những đại diện họ đã bầu, và khi cần, họ có quyền thay thế những đại diện đó. Tuy nhiên trong thực tế từ bao chục năm trường, Điều 4 Hiến Pháp khẳng định cách tiên thiên sự lãnh đạo quyền bính Chính trị dành cho đảng CSVN, nghĩa là chính Điều 4 phủ nhận chủ thể quyền bính phải là từ dân.
Chính vì để có sự thuần nhất nhận định về chủ quyền của người dân trong Hiến Pháp cả về nguyên tắc và thực tế mà Hội Đồng Giám Mục VN đề nghị những điểm sau đây:
l . Hiến pháp cần phải làm nổi bật quyền làm chủ của nhân dân, không chỉ bằng một mệnh đề lý thuyết nhưng cần được thể hiện trong những điều khoản cụ thể của Hiến pháp, và có thể thi hành trong thực tế. Bản Dự thảo khẳng định: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Ðiều 2). Nhưng trong thực tế, công nhân, nông dân và trí thức là những thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hô.i. Thực tế đó cho thấy khẳng định về quyền làm chủ của nhân dân chỉ có trên giấy tờ và lý thuyết.
2. Để tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trong Hiến pháp không nên và không thể khẳng định cách tiên thiên sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phải chính trị nào (X. điều 4), vì chủ thể của quyền bính chính trị là chính nhân dân, và nhân dân trao quyền bính đó cho những người họ tín nhiệm qua việc bầu cho.n. Những cá nhân được bầu phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về việc họ làm, chứ không thể là một tập thể mơ hồ rồi cuối cùng không ai chịu trách nhiệm cả.
3. Hiến pháp hiện hành chỉ công nhận quyền sử dụng đất chứ không công nhận quyền sở hữu đất của công dân. Ðiều này đã gây ra nhiều lạm dụng và bất công nghiêm tro.ng. Vì thế, Hiến pháp mới cần công nhận quyền sở hữu đất đai của công dân và các tổ chức tư nhân như tuyệt đại đa số các quốc gia trên thế giới.
4. Hiến pháp phải tôn trọng quyền tham gia hệ thống công quyền ở mọi cấp, của mọi công dân, không phân biệt thành phần xã hội, sắc tộc, tôn giáo...
III. Thi hành quyền bính chính trị
Theo nguyên tắc, quyền bính chính trị mà nhân dân trao cho nhà cầm quyền được phân chia thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Để những quyền bính này được thi hành cách đúng đắn và hiệu quả, cần có sự độc lập chính đáng của mổi bên và vì công ích của toàn xã hô.i. Trong thực tế của Việt Nam nhiều năm qua, đã không có được sự độc lập này, dẫn đến tình trạng lạm quyền và lộng quyền, gây ra nhiều bất công, suy thoái về nhiều mặt: kinh tế, xã hội, đạo đức. Cuối cùng, người dân nghèo phải gánh chịu mọi hậu quả và Việt Nam, cho đến nay vẫn bị xem là một nước kém phát triển.
Nguyên nhân sâu xa là không có sự phân biệt giữa đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền. Điều này thể hiện ngay trong nội dung của Hiến pháp 1992, và Dự thảo vẫn tiếp tục đường lối như thế.
Một đàng, điều 74 khẳng định Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”; đàng khác, Điều 4 lại khẳng định đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vậy, ai lãnh đạo ai? Phải chăng Quốc hội chỉ là công cụ của đảng cầm quyền? Nếu như thế, việc người dân đi bầu các đại biểu Quốc hội có ý nghĩa gì? Một sự chọn lựa thật sự tự do hay chỉ là thứ dân chủ hình thức?
Bản Dự thảo cũng dành nhiều chương dài để nói về Quốc Hội (điều 74-90), về Chủ tịch nước (điều 91-98), về Chính phủ và Thủ tướng (điều 99-106). Không có chương nào và điều nào nói về Tổng bí thư đảng cầm quyền. Đang khi đó, thực tế là Tổng bí thư nắm quyền hành cao nhất vì cũng theo Dự thảo, đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (điều 4)! Như thế phải chăng đảng ở trên luật pháp và ngoài luật pháp, chứ không lệ thuộc luật pháp? Nếu đảng cầm quyền đã lãnh đạo cả Nhà nước và xã hội, thì còn cần gì Quốc hội, cần gì đến Tòa án!
Những phân tích trên cho thấy sự mâu thuẫn và tính bất hợp lý ngay trong nội dung Hiến pháp. Sự bất hợp lý này dẫn đến tình trạng bất hợp lý trong thực tế cuộc sống, là nguồn gốc của những bất công, dẫn đến bất ổn xã hội, kìm hãm sự phát triển lành mạnh và bền vững của đất nước.
Chính vì tính cách loạn quyền hành do Điều 4 sinh ra như trên đã trình bầy mà Hội Đồng Giám Mục VN đề nghị:
l . Phải vượt qua sự bất hợp lý từ trong cấu trúc Hiến pháp, bằng cách xóa bỏ đặc quyền của bất kỳ đảng phải chính trị nào, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”, do dân bầu ra và là đại diện đích thực của nhân dân, chứ không phải là công cụ của một đảng cầm quyền nào.
2 . Xác định tính độc lập của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; cung cấp nền tảng pháp lý cho việc thi hành những quyền này cách độc lập và hiệu quả.
3. Luật hóa sự kiểm soát của nhân dân đối với việc thi hành pháp luật bằng những quy định cụ thể.
Kết luận
Đọc kỹ những phân tích của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong những phần trên đây, chúng tôi thấy rằng thủ phạm gây nghịch lý nguyên tắc chính trong nội tại Hiến Pháp và tạo lọan quyền thực tế đối với người dân chính là Điều 4 của Hiến Pháp. Những đề nghị của Hội Đồng Giám Mục VN, dù không minh nhiên nhắc đến thủ phạm ấy, nhưng đều quy tụ vào một điểm là phải loại Điều 4 hiện hành ra khỏi Hiến Pháp.
Nếu đảng CSVN cố tình để Điều 4 trong Hiến Pháp thì đó là chỉ vì cố thủ dành lấy quyền hành độc đoán Chính trị trên Dân tộc mà thôi.
Như trong phần mở đầu LÁ THƯ, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đứng về phía trách nhiệm người dân mà góp ý. Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP bất bạo động ngày nay đang mạnh dạn nổi dậy tại Quốc nội là việc đối chọi quy tụ vào Điều 4 của Hiến Pháp giữa Dân và đảng CSVN:
1) Một mặt, Dân chúng muốn xóa bỏ Điều 4 khỏi Hiến Pháp như loại trừ thủ phạm gây nghịch lý nguyên tắc trong văn bản Hiến Pháp và tránh đi cái nguồn gốc gây lọan quyền thực tế, lộng hành quyền bính trong thực tế đối với dân.
2) Một mặt, đảng CSVN cố thủ giữ Điều 4 trong Hiến Pháp bất chấp những nghịch lý nguyên tắc do Điều 4 này cho thấy tỏ tường, đồng thời đảng cần Điều 4 để dễ lọan quyền thực tế, lộng hành quyền lực mà hà hiếp, bóc lột Dân.
Nếu xét về quyền lợi Dân tộc và Đất nước, thì Dân đứng về phía bảo vệ chính đáng, còn đảng CSVN đứng về phía tàn phá bất nhân !
C. Cách Mạng Hiến Pháp nhất thietá phải đòi bỏ Điều 4
Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Sinh Hùng phải lo sợ và phát biểu ra những điều bất nhất và vô lý trước cao trào CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đang nổi dậy mạnh mẽ tại Quốc nội vì những lý do sau đây:
1) Một mặt,
Chính CSVN kêu gọi “Dân góp ý sửa đổi Hiến Pháp“, nghĩa là CSVN đã cho phép và cổ võ cho cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đang bùng lên hiện nay. Trọng và Hùng thấy mình “há miệng mắc quai“ nên đã phải nói sảng nói khùng mà một số nhà báo chịu không được đã lên tiếng phản bác. Nhà báo trẻ Nguyễn Đắc Kiên, phóng viên “Gia đình và Xã hội”, đã mạnh mẽ chống lại những lời tuyên bố của Nguyễn Phú Trọng khiến nhà báo này bị sa thải. Nhà báo Võ Văn Tạo cũng đã có bài viết tựa đề “Giữ Điều 4 mới chính là suy thoái đạo đức, thưa ông Tổng bí thư!”. Trong bài này, ông Võ Văn Tạo viết :”Muốn duy trì điều 4 trong Hiến pháp, ông Trọng muốn giữ độc quyền đảng trị, thực chất chỉ cốt duy trì quyền uy chính trị và đặc quyền đặc lợi vật chất cho những đảng viên có chức quyền biến chất.”
2) Mặt khác,
CSVN không ngờ rằng, vì lời kêu gọi mỵ dân “Dân góp ý sửa đổi Hiến Pháp“, mà cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đã nhanh chóng NỔI DẬY từ Bắc chí Nam. Số người ký tên vào Phong trào CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP cho đến ngày hôm nay 05.03.2013 đã lên tới 6611 mà người mang số 6611 là Hồ Hồng Sơn, một công nhân tại Sài Gòn. Trong danh sách, những thành phần ký tên gồm những người đã là cựu Bộ trưởng, những đảng viên CSVN, những Trí thức, Thanh niên, Sinh viên. Lực lượng có sức mạnh cụ thể, sẵn sàng hành động dù với BẠO ĐỘNG, đó là giới nội trợ, nông dân và công nhân. Điều mà CSVN còn ngại sợ hơn nữa là cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP còn có sự tham dự dứt khoát của Khối Công Giáo Việt Nam với những Vị Giám mục đã ký tên như: Giám mục NGÔ QUANG KIỆT, cự Tổng Giám Mục Hà Nội, Giám mục NGUYỄN CHÍ LINH, Giáo phân Thanh Hóa và là Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục VN, Giám mục NGUYỄN THÁI HỢP, Giáo phận Vinh và là Chủ tịch Uûy Ban Công Lý & Hòa Bình. Trong danh sách, người ta còn thấy ký tên nhiều Linh mục và các Nữ tu. Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Sinh Hùng chắc chắn phải hoảng sợ vì Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã chính thức và dứt khoát tham dự cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP này. Đàng sau Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là Khối Công Giáo toàn quốc gồm các Giám mục, Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ và Giáo dân trong đó hơn 1 triệu Giáo dân Miền Bắc và 500’000 Giáo dân Vinh đã từng đấu tranh gần đây trong sự đàn áp dã man của Công An. Những Giáo dân này sẽ không còn sợ hãi nữa trong cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP này mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã chính thức và dứt khoát nhập cuô.c. Đã 13 năm nay, chúng tôi theo rõi thái độ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam dưới sự cai trị hà khắc của CSVN. Chúng tôi đã có lần công kích thái độ “trùm chăn“ của Hội Đồng Giám Mục VN, nhưng lần này, chúng tôi ngạc nhiên và hết lòng ca ngợi việc nhập cuộc cứng rắn và dứt khoát của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cho cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP để cứu nước.
Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đòi hỏi chính yếu và nhất thiết phải bỏ ĐIỀU 4 khỏi Hiến Pháp. Điều 4 mà CSVN muốn cố thủ giữ lại, khẳng định: “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng“
Cho dù Hiến Pháp 2013 được vẽ vời với những mỹ từ về NHÂN QUYỀN, về TỰ DO tư duy, lòng tin và ngôn luận, về tổ chức CÔNG QUYỀN, về QUỐC HỘI, về QUÂN ĐỘI, về KINH TẾ với Tư hữu, về ĐỘC LẬP tam quyền Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp… cho đẹp Văn Bản Hiến Pháp như thế nào đi chăng nữa, mà nếu ĐIỀU 4 được giữ lại thì tất cả những vẽ vời vừa nói ra đây trong Văn Bản sẽ phải chịu quy chế “XIN-CHO” mà quyền lực tối thượng của đảng CSVN độc đoán muốn CHO thì cho, muốn KHÔNG CHO thì không cho. Đó là Điều khoản cho phép đảng CSVN trở thành “Hoàng Đế” sinh sát Dân, những quyền cá nhân của Dân và những Tổ chức xã hội mà Dân cần có để điều hợp cuộc sống chung. Điều 4 cho đảng CSVN một thứ siêu quyền lực đứng trên mọi thứ quyền khác của Dân và của Xã hội Việt Nam.
Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP này bản chất là BÁT BẠO ĐÔ.NG. Việc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP nhất thiết đòi hỏi phải bỏ ĐIỀU 4 là hoàn toàn hữu lý. Nếu đảng CSVN cố thủ giữ lại ĐIỀU 4, đó là sự điên rồ mà Khối Dân nổi lên làm CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP không thể nào nhượng bộ đươ.c. Lý do không thể nhượng bộ là Dân Tộc Việt Nam không thể tiếp tục sống trong tình trạng nô lệ dưới quyền tối thượng “Hoàng đế đảng CSVN“.
Nếu CSVN dùng bạo lực Công an để khoá miệng Dân, áp đặt ĐIỀU 4, thì Khối CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP cũng có sức mạnh quần chúng sẵn sàng hành động dù với BẠO ĐỘNG để tự vệ và tiếp tục đòi bỏ ĐIỀU 4 vì đây là việc giải thoát chính mình ra khỏi tình trạng nô lệ dưới ách độc tài của đảng CSVN.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 14.03.13
Hiến Pháp của Hội Đồng Giám Mục VN do ĐC Nguyễn Văn Nhơn ký 1/3/13
(Hình Giáo Dân GX Ngọc Long - Vinh ký kiến nghị đòi hủy bỏ Điều 4 Hiến Pháp)
Đã nhiều năm liên kết Đấu tranh cùng với PHONG TRÀO HIẾN CHƯƠNG 2000, chúng tôi đồng quan điểm với PHONG TRÀO rằng Dân phải NỔI DẬY dứt bỏ Cơ chế CSVN hiện hành để có thể phát triển đất nước và cứu Nước trước xâm lăng của Trung quốc.
Ngày nay cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đang bùng dậy tại Quốc nội đầu tiên từ giới Trí thức và Tôn Giáo. Nhưng giới Trí thức và Tôn giáo cần phải có một SỨC MẠNH KHẢ THỂ của quần chúng thì mới có hiệu lư.c. Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đặt trọng tâm vào Điều 4 của Hiến Pháp vì chính Điều 4 này là nguồn gốc gây tha hoá Cá nhân và Xã hội cũng là nguyên cớ phá sản Kinh tế Quốc gia.
Bài này có ý cho thấy rằng tầm quan trọng của cuộc đấu tranh CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đặt vào việc loại bỏ Điều 4. Để chứng minh như vậy, chúng tôi xin bàn đến những khía cạnh sau đây:
=> Cách Mạng Hiến Pháp bất bạo động cần Quần chúng sẵn sàng bạo động
=> Điều 4 tự nó là Nghịch lý Nguyên tắc và tạo Loạn quyền thực tế
=> Cách Mạng Hiến Pháp nhất thiết phải đòi bỏ Điều 4
A. Cách Mạng Hiến Pháp bất bạo động cần Quần chúng sẵn sàng bạo động
Cuộc đấu tranh trong Cơ chế CSVN ngày nay là phải đối chọi với thứ ĐỘC TÀI cố thủ giữ lấy của cải đã ăn cướp được một cách bất chính. Độc tài thời Lénine/Staline còn có lý tưởng vì họ muốn áp đặt lên dân một Ý thức hệt với ngưỡng vọng một “Thiên đàng trần thế “. Nhưng khi chính đoàn ngũ đảng viên của họ nhận biết “Thiên đàng trần thế“ chỉ là ảo tưởng, thì đoàn ngũ cán bộ này sẵn sàng đi với dân để chấm dứt độc tài nhà nước. Khi Liên-xô và Đông Au sụp đổ rồi, Trung quốc và Việt Nam vẫn cố thủ giữ lấy Cơ chế Cộng sản. Những nước này giữ thứ ĐỘC TÀI không phải vì lý tưởng nữa, mà là thứ ĐỘC TÀI tham quyền cố vị cho đảng mà thôi, bất chấp dân đói khổ. Dân đói khổ quá buộc hai đảng CSTQ và CSVN phải mở cửa với Tây phương để kiếm cơm. Khi Tây phương đổ vốn vào, thì ĐỘC TÀI dùng quyền chặn họng dân để vơ vét của chung thành của riêng bằng THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ.
Khi đảng viên CS từ trên xuống dưới đã ăn cướp được ngập họng rồi, thì ĐỘC TÀI trở thành một thứ dùng quyền để giữ của cải ăn cướp được cho riêng mỗi người.
Chúng tôi đã ví CSVN ngày nay giống như đàn chó mỗi con đang ngậm được cục xương. Con chó ngậm cục xương tìm chỗ riêng mà trốn để gâ.m. Con chó gậm xương vừa mang thái độ sợ sệt vì lo xương đang ngậm bị cướp lại, vừa dễ trở thành điên rồ cắn càng, thậm chí cắn cả mẹ của nó.
ĐỘC TÀI csvn ngày nay là thứ độc tài vừa sợ Dân vì của cải riêng có được là bất chính, vừa hung hổ với Dân vì sợ Dân lấy lại của cải đang dấu cất.
Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP lúc này là phải đối chọi với thứ ĐỘC TÀI bảo vệ tài sản đã cướp giựt được một cách bất chính, nghĩa là không phải là thứ độc tài cho ý thức hệ như thời Lénine/Staline, không phải là thứ độc tài cố thủ giữ lấy quyền hành cho đảng như sau khi Liên –xô, Đông Au vừa sụp đổ, cũng không phải là thứ độc tài hù doạ, lừa bịp dân để vơ vét tài sản riêng bằng THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ.
Hiện nay chúng ta phải đấu tranh với ĐỘC TÀI của những con chó đang ngậm cục xương, cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP nếu chỉ bằng kiến nghị giấy tờ với những lý luận, thì CSVN dễ bỏ những kiến nghị ấy vào sọt rác.
Đã từ ngày 14.02.2013, nhận thấy tình hình sẽ đi đến bùng nổ một cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP, chúng tôi đã chọn Chủ để: PHONG TRÀO QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH ĐÒI MỘT HIẾN PHÁP MỚI. Chúng tôi đã viết trong Bài Mở Đầu như sau:
“Có người cho rằng việc Ký Tên như cuộc “Cách Mạng nhung“ của giới Trí thức mà CSVN sẽ bỏ sọt rác, nghĩa là không mang đến hiệu lực nào. Trước sức mạnh võ lực đàn áp của Công an CSVN, những cuộc đấu tranh bằng bất bạo động, bằng văn bản, tự nó không mang lại hiệu lực tác động lên ĐỘC TÀI CSVN ở giai đoạn chỉ bảo vệ miếng ăn mà họ đang ngậm trong mồm. Cái hiệu lực của bất bạo động hay văn bản lý luận không nằm ở những Lý lẽ đúng hay sai, mà nằm ở cái SỨC MẠNH BẠO ĐỘNG KHẢ THỂ đứng hậu thuẫn cho bất bạo động hay những Văn bản Lý lẽ đưa ra.
Thực vậy, Chính quyền Anh quốc không trao trả Độc Lập cho Dân Ấn Độ nếu không có SỨC MẠNH BẠO ĐỘNG KHẢ THỂ hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh bất bạo động của Thánh GANDHI. Hiệu quả của cuộc đấu tranh bất bạo động của Thánh GANDHI đến từ việc cả khối người Ấn Độ sẵn sàng BẠO ĐÔ.NG.”
Trong Bài tiếp theo ngày 21.02.2013, dưới đầu đề QUẦN CHÚNG HÓA NHỮNG ĐÒI HỎI VỀ HIẾN PHÁP, chúng tôi kêu gọi việc đấu tranh phải lan mạnh tới quần chúng để lấy SỨC MẠNH BẠO ĐỘNG KHẢ THỂ, nghĩa là một sức mạnh của quần chúng sẵn sàng BẠO ĐỘNG tự vệ khi những con chó điên CSVN đang ngậm cục xương dùng bạo lực cắn càn hay bỏ những đòi hỏi chính đáng của cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP bất bạo động bằng Lý luận vào sọt rác.
Việc Ký tên cho Phong trào Đấu tranh đang tiến hành rộng rãi, mỗi Chữ Ký là một đóng góp cho SỨC MẠNH BẠO ĐỘNG KHẢ THỂ làm tăng thêm hiệu lực thành công của cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP. Hiện nay có ba Nhóm kêu gọi quần chúng Ký Tên:
1) NHÓM KHỞI XƯỚNG BỞI 72 NHÀ TRÍ THỨC
Nhóm này khởi xướng bởi 72 nhà Trí thức Quốc nô.i. Nhóm kêu gọi Ký Tên qua Diễn Đàn BOXIT Việt Nam.
2) NHÓM “LỜI TUYÊN BỐ CÔNG DÂN TỰ DO“
Nhóm này khởi xướng bởi những Nhà Báo nhân việc Nhà Báo trẻ NGUYỄN ĐẮC KIÊN thẳng thắn phê bình Nguyễn Phú Tro.ng. Nhóm kêu gọi Ký tên qua Diễn Đàn DÂN LÀM BÁO.
3) NHÓM ỦNG HỘ LÁ THƯ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
Lá Thư của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vừa được công bố ngày 01.03.2013, thì ngày 03.03.2013, các Giám mục VN ở Hải ngoại và các Cơ quan Truyền Thông Công Giáo Hải ngoại kêu gọi Ký Tên ủng hộ qua Diễn Đàn VIETCATHOLIC.
Những Chữ ký này đóng góp xây dựng một LỰC LƯỢNG QUẦN CHÚNG CỤ THỂ mà CSVN phải nể sợ SỨC MẠNH của Lực Lươ.ng.
B. Điều 4 tự nó là Nghịch lý Nguyên tắc và tạo Loạn quyền thực tế
Đây là nhận định của LÁ THƯ góp ý của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và nay được phổ biến rộng rãi trong các Giáo xứ từ Bắc chí Nam. Chúng tôi theo sát LÁ THƯ này để trình bầy tính cách NGHỊC LÝ NGUYÊN TẮC và LOẠN QUYỀN THỰC TẾ do chính Điều 4 Hiến Pháp tạo ra.
Đọc kỹ LÁ THƯ góp ý của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về Hiến Pháp, chúng tôi thấy nổi bật lên những điểm sau đây: (i) nghịch lý nguyên tắc; (ii) lọan quyền thực tế; (iii) thủ phạm của nghịch lý nguyên tắc và loạn quyền thực tế chính là Điều 4 Hiến Pháp.
Nhập đề cho LÁ THƯ, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã nói rất rõ về lý do để viết đưa ý kiến về sửa đổi Hiến Pháp:
1) Chính Nhà nước CHXHCN đã muốn lấy ý kiến của nhân dân. Hội Đồng Giám Mục khen ngợi và tán thành nhã ý này của Nhà nước vì Nhà nước CHXHCN đã hiểu rất đúng rằng “Hiến Pháp của một quốc gia trước hết và trên hết phải là của chính người dân “.
2) Vì thấy đồng một nhận thức như vậy, nên Hội Đồng Giám Mục VN, ở tư cách là công dân của một nước, ý thức trách nhiệm phải đóng góp xây dựng cho Hiến Pháp được hiểu là “của chính người dân “. Những ý kiến đóng góp xây dựng Hiến Pháp được gửi đến Uûy Ban Dự thảo sửa đổi Hiến Pháp, chứ không phải gửi lên Nhà nước hay đảng CSVN đang cầm quyền. Hội Đồng Giám Mục VN viết LÁ THƯ cũng không phải là ở quan điểm đấu tranh cho Tôn Giáo.
I. Quyền con người
Hội Đồng Giám Mục VN cũng nhìn nhận rằng “Bản Dự thảo đã dành cả chương II (điều 15-52) để nói về quyền con người. Quyền con người đã được chính thức nhìn nhận trong Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người (10.12.1948), và Việt Nam cũng đã ký kết. Bản Dự thảo đã liệt kê khá đầy đủ những quyền căn bản của con ngườị“
Nhưng đó chỉ là những liệt kê trên văn bản theo nguyên tắc. Những điều mà Hội Đồng Giám Mục muốn phân tích để từ đó góp ý kiến là trên thực tế những điều liệt kê ấy có được hiểu đúng, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo pháp luật hay không?
Theo nguyên tắc, quyền bính Chính trị được nhân dân trao cho nhà cầm quyền là để tạo điều kiện pháp lý và môi trường thuận lợi cho việc thực thi quyền con người. Nhưng trên thực tế, những quyền của con người chỉ được ban phát cách tùy tiện do quyền bính Chính trị. Lý do chính yếu của việc những quyền con người liệt kê trên văn bản không được hiểu đúng, không được tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo pháp luật trong thực tế là Hiến Pháp ngay từ đầu (Điều 4) đã dành quyền Chính trị cho độc đảng với độc tôn một Chủ nghĩa riêng của đảng này: “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng” (Điều 4)
Thực vậy:
=> Quyền tự do ngôn luận (điều 26), quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật (điều 43), quyền tự do tín nguỡng, tôn giáo (điều 25) không thể được thực hiện hay chỉ được tùy tiện ban phát khi mà Điều 4 độc tôn Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vốn từ bản chất là vô thần.
=> Thực tế từ bao chục năm trường, sự trói buộc tư tưởng vào một hệ ý thức duy nhất đã kìm hãm tư duy sáng tạo của người dân Việt Nam. Đây là một trong những lý do lớn, dẫn đến tình trạng trì trệ và chậm tiến của Việt Nam về nhiều mặt: giáo dục, khoa học và công nghệ, văn hóa và nghệ thuâ.t.
Điều 4 trong cùng một văn bản Hiến Pháp tự nó, theo nguyên tắc, là trái nghịch với những Điều khoản về những quyền của con người được liệt kê ra trong cùng văn bản; và trên thực tế là cho đảng độc quyền Chính trị tùy hứng ban phát cho dân mà thôi.
Chính vì nhận định những nghịch lý trên nguyên tắc và những lạm quyền đối với những quyền căn bản của con người, nhất là những quyền chỉ được nhắc ra mà không khai triển cụ thể trên thực tế, mà Hội Đồng Giám Mục VN đề nghị:
l. Hiến pháp cần xác định rõ: mọi người đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền. Quyền con người là những quyền gắn liền với phẩm giá làm người, và vì thế, là những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm, bất khả nhươ.ng.
2 . Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt Nam.
3 . Nêu rõ nội dung quyền được sống (đối chiếu với điều 21 Dự thảo): mọi người đều có quyền sống. Không ai được phép tước đoạt sự sống của người khác, từ khi thành thai đến khi chết. Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ sự sống con người. Mọi người đều có quyền bảo vệ sự sống của mình, miễn là không làm tổn hại đến sự sống của người khác.
4 . Nêu rõ quyền tự do ngôn luận (đối chiếu điều 26 Dự thảo): mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do trình bày quan điểm và niềm tin của mình.
5 . Nêu rõ quyền tự do tôn giáo (đối chiếu điều 25 Dự thảo): mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền này bao hàm việc tự do theo hay không theo một tôn giáo nào, tự do thực hành các nghi lễ tôn giáo, cá nhân hoặc tập thể. Không tôn giáo nào hoặc chủ thuyết nào được coi là bó buộc đối với người dân Việt Nam. Nhà nước không tuyên truyền tiêu cực về tôn giáo, không can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo như: đào tạo, truyền chức, thuyên chuyển, chia tách sát nhập... Các tổ chức tôn giáo có quyền tự do hoạt động xã hội cộng đồng như giáo dục, y tế...
II. Quyền làm chủ của nhân dân
Nhà nước CHXHCN tuyên bố rằng quyền lực tối cao là từ người dân. Hội Đồng Giám Mục VN cũng nhận định quyền làm chủ của nhân dân như sau đây. Theo nguyên tắc, chủ thể của quyền bính chính trị phải là chính nhân dân xét như một toàn thể trong đất nước. Nhân dân trao việc thi hành quyền bính ấy cho những người có năng lực và tâm huyết mà họ bầu làm đại diện cho họ, bất kể người đó thuộc đảng phái chính trị hoặc không thuộc đảng phái nào. Chỉ khi đó mới có Nhà nước pháp quyền “của dân, do dân và vì dân” (Lời nói đầu). Vì thế việc tự do ứng cử của mỗi công dân là đòi hỏi tất yếu trong một xã hội dân chủ, văn minh và lành ma.nh. Đồng thời việc bỏ phiếu công khai, khách quan và công bằng, là đòi hỏi cần thiết để người dân có được những đại diện mà họ tín nhiê.m. Chính nhân dân có quyền đánh giá năng lực của những đại diện họ đã bầu, và khi cần, họ có quyền thay thế những đại diện đó. Tuy nhiên trong thực tế từ bao chục năm trường, Điều 4 Hiến Pháp khẳng định cách tiên thiên sự lãnh đạo quyền bính Chính trị dành cho đảng CSVN, nghĩa là chính Điều 4 phủ nhận chủ thể quyền bính phải là từ dân.
Chính vì để có sự thuần nhất nhận định về chủ quyền của người dân trong Hiến Pháp cả về nguyên tắc và thực tế mà Hội Đồng Giám Mục VN đề nghị những điểm sau đây:
l . Hiến pháp cần phải làm nổi bật quyền làm chủ của nhân dân, không chỉ bằng một mệnh đề lý thuyết nhưng cần được thể hiện trong những điều khoản cụ thể của Hiến pháp, và có thể thi hành trong thực tế. Bản Dự thảo khẳng định: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Ðiều 2). Nhưng trong thực tế, công nhân, nông dân và trí thức là những thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hô.i. Thực tế đó cho thấy khẳng định về quyền làm chủ của nhân dân chỉ có trên giấy tờ và lý thuyết.
2. Để tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trong Hiến pháp không nên và không thể khẳng định cách tiên thiên sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phải chính trị nào (X. điều 4), vì chủ thể của quyền bính chính trị là chính nhân dân, và nhân dân trao quyền bính đó cho những người họ tín nhiệm qua việc bầu cho.n. Những cá nhân được bầu phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về việc họ làm, chứ không thể là một tập thể mơ hồ rồi cuối cùng không ai chịu trách nhiệm cả.
3. Hiến pháp hiện hành chỉ công nhận quyền sử dụng đất chứ không công nhận quyền sở hữu đất của công dân. Ðiều này đã gây ra nhiều lạm dụng và bất công nghiêm tro.ng. Vì thế, Hiến pháp mới cần công nhận quyền sở hữu đất đai của công dân và các tổ chức tư nhân như tuyệt đại đa số các quốc gia trên thế giới.
4. Hiến pháp phải tôn trọng quyền tham gia hệ thống công quyền ở mọi cấp, của mọi công dân, không phân biệt thành phần xã hội, sắc tộc, tôn giáo...
III. Thi hành quyền bính chính trị
Theo nguyên tắc, quyền bính chính trị mà nhân dân trao cho nhà cầm quyền được phân chia thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Để những quyền bính này được thi hành cách đúng đắn và hiệu quả, cần có sự độc lập chính đáng của mổi bên và vì công ích của toàn xã hô.i. Trong thực tế của Việt Nam nhiều năm qua, đã không có được sự độc lập này, dẫn đến tình trạng lạm quyền và lộng quyền, gây ra nhiều bất công, suy thoái về nhiều mặt: kinh tế, xã hội, đạo đức. Cuối cùng, người dân nghèo phải gánh chịu mọi hậu quả và Việt Nam, cho đến nay vẫn bị xem là một nước kém phát triển.
Nguyên nhân sâu xa là không có sự phân biệt giữa đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền. Điều này thể hiện ngay trong nội dung của Hiến pháp 1992, và Dự thảo vẫn tiếp tục đường lối như thế.
Một đàng, điều 74 khẳng định Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”; đàng khác, Điều 4 lại khẳng định đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vậy, ai lãnh đạo ai? Phải chăng Quốc hội chỉ là công cụ của đảng cầm quyền? Nếu như thế, việc người dân đi bầu các đại biểu Quốc hội có ý nghĩa gì? Một sự chọn lựa thật sự tự do hay chỉ là thứ dân chủ hình thức?
Bản Dự thảo cũng dành nhiều chương dài để nói về Quốc Hội (điều 74-90), về Chủ tịch nước (điều 91-98), về Chính phủ và Thủ tướng (điều 99-106). Không có chương nào và điều nào nói về Tổng bí thư đảng cầm quyền. Đang khi đó, thực tế là Tổng bí thư nắm quyền hành cao nhất vì cũng theo Dự thảo, đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (điều 4)! Như thế phải chăng đảng ở trên luật pháp và ngoài luật pháp, chứ không lệ thuộc luật pháp? Nếu đảng cầm quyền đã lãnh đạo cả Nhà nước và xã hội, thì còn cần gì Quốc hội, cần gì đến Tòa án!
Những phân tích trên cho thấy sự mâu thuẫn và tính bất hợp lý ngay trong nội dung Hiến pháp. Sự bất hợp lý này dẫn đến tình trạng bất hợp lý trong thực tế cuộc sống, là nguồn gốc của những bất công, dẫn đến bất ổn xã hội, kìm hãm sự phát triển lành mạnh và bền vững của đất nước.
Chính vì tính cách loạn quyền hành do Điều 4 sinh ra như trên đã trình bầy mà Hội Đồng Giám Mục VN đề nghị:
l . Phải vượt qua sự bất hợp lý từ trong cấu trúc Hiến pháp, bằng cách xóa bỏ đặc quyền của bất kỳ đảng phải chính trị nào, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”, do dân bầu ra và là đại diện đích thực của nhân dân, chứ không phải là công cụ của một đảng cầm quyền nào.
2 . Xác định tính độc lập của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; cung cấp nền tảng pháp lý cho việc thi hành những quyền này cách độc lập và hiệu quả.
3. Luật hóa sự kiểm soát của nhân dân đối với việc thi hành pháp luật bằng những quy định cụ thể.
Kết luận
Đọc kỹ những phân tích của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong những phần trên đây, chúng tôi thấy rằng thủ phạm gây nghịch lý nguyên tắc chính trong nội tại Hiến Pháp và tạo lọan quyền thực tế đối với người dân chính là Điều 4 của Hiến Pháp. Những đề nghị của Hội Đồng Giám Mục VN, dù không minh nhiên nhắc đến thủ phạm ấy, nhưng đều quy tụ vào một điểm là phải loại Điều 4 hiện hành ra khỏi Hiến Pháp.
Nếu đảng CSVN cố tình để Điều 4 trong Hiến Pháp thì đó là chỉ vì cố thủ dành lấy quyền hành độc đoán Chính trị trên Dân tộc mà thôi.
Như trong phần mở đầu LÁ THƯ, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đứng về phía trách nhiệm người dân mà góp ý. Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP bất bạo động ngày nay đang mạnh dạn nổi dậy tại Quốc nội là việc đối chọi quy tụ vào Điều 4 của Hiến Pháp giữa Dân và đảng CSVN:
1) Một mặt, Dân chúng muốn xóa bỏ Điều 4 khỏi Hiến Pháp như loại trừ thủ phạm gây nghịch lý nguyên tắc trong văn bản Hiến Pháp và tránh đi cái nguồn gốc gây lọan quyền thực tế, lộng hành quyền bính trong thực tế đối với dân.
2) Một mặt, đảng CSVN cố thủ giữ Điều 4 trong Hiến Pháp bất chấp những nghịch lý nguyên tắc do Điều 4 này cho thấy tỏ tường, đồng thời đảng cần Điều 4 để dễ lọan quyền thực tế, lộng hành quyền lực mà hà hiếp, bóc lột Dân.
Nếu xét về quyền lợi Dân tộc và Đất nước, thì Dân đứng về phía bảo vệ chính đáng, còn đảng CSVN đứng về phía tàn phá bất nhân !
C. Cách Mạng Hiến Pháp nhất thietá phải đòi bỏ Điều 4
Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Sinh Hùng phải lo sợ và phát biểu ra những điều bất nhất và vô lý trước cao trào CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đang nổi dậy mạnh mẽ tại Quốc nội vì những lý do sau đây:
1) Một mặt,
Chính CSVN kêu gọi “Dân góp ý sửa đổi Hiến Pháp“, nghĩa là CSVN đã cho phép và cổ võ cho cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đang bùng lên hiện nay. Trọng và Hùng thấy mình “há miệng mắc quai“ nên đã phải nói sảng nói khùng mà một số nhà báo chịu không được đã lên tiếng phản bác. Nhà báo trẻ Nguyễn Đắc Kiên, phóng viên “Gia đình và Xã hội”, đã mạnh mẽ chống lại những lời tuyên bố của Nguyễn Phú Trọng khiến nhà báo này bị sa thải. Nhà báo Võ Văn Tạo cũng đã có bài viết tựa đề “Giữ Điều 4 mới chính là suy thoái đạo đức, thưa ông Tổng bí thư!”. Trong bài này, ông Võ Văn Tạo viết :”Muốn duy trì điều 4 trong Hiến pháp, ông Trọng muốn giữ độc quyền đảng trị, thực chất chỉ cốt duy trì quyền uy chính trị và đặc quyền đặc lợi vật chất cho những đảng viên có chức quyền biến chất.”
2) Mặt khác,
CSVN không ngờ rằng, vì lời kêu gọi mỵ dân “Dân góp ý sửa đổi Hiến Pháp“, mà cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đã nhanh chóng NỔI DẬY từ Bắc chí Nam. Số người ký tên vào Phong trào CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP cho đến ngày hôm nay 05.03.2013 đã lên tới 6611 mà người mang số 6611 là Hồ Hồng Sơn, một công nhân tại Sài Gòn. Trong danh sách, những thành phần ký tên gồm những người đã là cựu Bộ trưởng, những đảng viên CSVN, những Trí thức, Thanh niên, Sinh viên. Lực lượng có sức mạnh cụ thể, sẵn sàng hành động dù với BẠO ĐỘNG, đó là giới nội trợ, nông dân và công nhân. Điều mà CSVN còn ngại sợ hơn nữa là cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP còn có sự tham dự dứt khoát của Khối Công Giáo Việt Nam với những Vị Giám mục đã ký tên như: Giám mục NGÔ QUANG KIỆT, cự Tổng Giám Mục Hà Nội, Giám mục NGUYỄN CHÍ LINH, Giáo phân Thanh Hóa và là Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục VN, Giám mục NGUYỄN THÁI HỢP, Giáo phận Vinh và là Chủ tịch Uûy Ban Công Lý & Hòa Bình. Trong danh sách, người ta còn thấy ký tên nhiều Linh mục và các Nữ tu. Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Sinh Hùng chắc chắn phải hoảng sợ vì Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã chính thức và dứt khoát tham dự cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP này. Đàng sau Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là Khối Công Giáo toàn quốc gồm các Giám mục, Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ và Giáo dân trong đó hơn 1 triệu Giáo dân Miền Bắc và 500’000 Giáo dân Vinh đã từng đấu tranh gần đây trong sự đàn áp dã man của Công An. Những Giáo dân này sẽ không còn sợ hãi nữa trong cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP này mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã chính thức và dứt khoát nhập cuô.c. Đã 13 năm nay, chúng tôi theo rõi thái độ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam dưới sự cai trị hà khắc của CSVN. Chúng tôi đã có lần công kích thái độ “trùm chăn“ của Hội Đồng Giám Mục VN, nhưng lần này, chúng tôi ngạc nhiên và hết lòng ca ngợi việc nhập cuộc cứng rắn và dứt khoát của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cho cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP để cứu nước.
Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đòi hỏi chính yếu và nhất thiết phải bỏ ĐIỀU 4 khỏi Hiến Pháp. Điều 4 mà CSVN muốn cố thủ giữ lại, khẳng định: “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng“
Cho dù Hiến Pháp 2013 được vẽ vời với những mỹ từ về NHÂN QUYỀN, về TỰ DO tư duy, lòng tin và ngôn luận, về tổ chức CÔNG QUYỀN, về QUỐC HỘI, về QUÂN ĐỘI, về KINH TẾ với Tư hữu, về ĐỘC LẬP tam quyền Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp… cho đẹp Văn Bản Hiến Pháp như thế nào đi chăng nữa, mà nếu ĐIỀU 4 được giữ lại thì tất cả những vẽ vời vừa nói ra đây trong Văn Bản sẽ phải chịu quy chế “XIN-CHO” mà quyền lực tối thượng của đảng CSVN độc đoán muốn CHO thì cho, muốn KHÔNG CHO thì không cho. Đó là Điều khoản cho phép đảng CSVN trở thành “Hoàng Đế” sinh sát Dân, những quyền cá nhân của Dân và những Tổ chức xã hội mà Dân cần có để điều hợp cuộc sống chung. Điều 4 cho đảng CSVN một thứ siêu quyền lực đứng trên mọi thứ quyền khác của Dân và của Xã hội Việt Nam.
Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP này bản chất là BÁT BẠO ĐÔ.NG. Việc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP nhất thiết đòi hỏi phải bỏ ĐIỀU 4 là hoàn toàn hữu lý. Nếu đảng CSVN cố thủ giữ lại ĐIỀU 4, đó là sự điên rồ mà Khối Dân nổi lên làm CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP không thể nào nhượng bộ đươ.c. Lý do không thể nhượng bộ là Dân Tộc Việt Nam không thể tiếp tục sống trong tình trạng nô lệ dưới quyền tối thượng “Hoàng đế đảng CSVN“.
Nếu CSVN dùng bạo lực Công an để khoá miệng Dân, áp đặt ĐIỀU 4, thì Khối CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP cũng có sức mạnh quần chúng sẵn sàng hành động dù với BẠO ĐỘNG để tự vệ và tiếp tục đòi bỏ ĐIỀU 4 vì đây là việc giải thoát chính mình ra khỏi tình trạng nô lệ dưới ách độc tài của đảng CSVN.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 14.03.13
Friday, March 22, 2013
NGUYỄN VẠN PHÚ * VINASHIN
Vinashin gây hại như thế nào?
Thời báo Kinh tế Sài Gòn tuần này có hai bài quan trọng về hậu quả mà Vinashin đang gây ra cho hệ thống ngân hàng trong nước.
Đó là bài “Phá sản Vinashin, tại sao không?” của Hải Lý và bài “Nỗ lực lội ngược dòng của PVFC” của Ngọc Lan.
Lâu nay nói đến Vinashin chúng
ta đều hình dung một cục nợ khổng lồ nhưng hầu như không có thông tin gì
cụ thể về cục nợ này. Chỉ đến khi các ngân hàng hay công ty liên quan
có vấn đề, phải sáp nhập, hợp nhất hay nói chung có động thái gì đó phải
công khai thông tin thì “cục nợ Vinashin” mới dần lộ diện. Quy mô và sự
độc hại của một Vinashin đang trên bờ phá sản có thể vượt quá sự hình
dung của mọi người.
Nổi lên gần đây nhất là chuyện
đảo nợ. Toàn bộ số tiền 600 triệu đô-la nợ của các tổ chức tài chính
nước ngoài được Vinashin đề xuất hoán đổi thành trái phiếu kỳ hạn 12
năm, có sự bảo lãnh của Bộ Tài chính Việt Nam. Trước đó khoản trái phiếu
quốc tế 750 triệu đô-la thì chắc chắn Nhà nước phải gánh vì do Chính
phủ phát hành lấy tiền về giao cho Vinashin.
Bài báo của Hải Lý viết: “Nếu
tính cả khoản trái phiếu quốc tế 750 triệu đô la Mỹ mà Chính phủ đã phát
hành dành cho Vinashin, từ nay ngân sách nhà nước có khả năng phải gánh
1,35 tỉ đô la Mỹ nợ của tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy. Số tiền này gần
bằng 30.000 tỉ đồng mà Ngân hàng Nhà nước dự tính sẽ tái cấp vốn cho 5
ngân hàng, do Nhà nước nắm quyền chi phối, trong ba năm để hỗ trợ viên
chức, bộ đội mua, thuê nhà ở xã hội”.
Với những khoản nợ trong nước,
nạn nhân đầu tiên của Vinashin là Habubank, phải sáp nhập với SHB vì
không gánh nổi khoản nợ xấu hơn 3.345 tỉ đồng của Vinashin để lại. Rồi
đến Tổng công ty cổ phần Tài chính dầu khí (PVFC) và Ngân hàng Phương
Tây (Western Bank) lên kế hoạch sáp nhập, phải xin phép Ngân hàng Nhà
nước cho phép không tính hai khoản nợ xấu của Vinashin và Vinalines trị
giá hơn 2.800 tỉ đồng vào tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng hợp nhất.
Bài báo của Ngọc Lan kể lại:
“Đầu năm 2010, khi công bố báo cáo tài chính năm 2009, PVFC đã phải giải
trình về khoản dư nợ tín dụng 1.305 tỉ đồng cho các khách hàng thuộc
nhóm Vinashin vay quá hạn thanh toán mà không tính vào nợ xấu. Tại thời
điểm đó, PVFC viện dẫn tất cả các quyết định của Chính phủ và NHNN cho
phép khoanh, cơ cấu lại các khoản nợ cũ của Vinashin, chưa đưa vào nợ
xấu nhằm “giữ” được lợi nhuận hơn 500 tỉ đồng của năm tài chính 2009.
Kết quả kinh doanh những năm tiếp theo cũng không khá hơn vì cục nợ này
vẫn còn nguyên đó”.
Ngoài trường hợp cụ thể này,
bài báo còn cho biết hàng chục ngân hàng chủ nợ khác cũng được Chính phủ
chỉ đạo khoanh nợ, không yêu cầu nhận nợ bắt buộc, không phát mãi tài
sản đối với con nợ Vinashin. Đổi lại, tất cả các khoản vay, mua trái
phiếu của Vinashin tại các ngân hàng được hoán đổi thành trái phiếu đảo
nợ có bảo lãnh của Chính phủ, thời hạn 10 năm nhưng có giá trị bằng 30%
dư nợ gốc mà các tổ chức tín dụng đã cho Vinashin vay. Các ngân hàng
thiệt hại đến 70%, rồi 10 năm nữa không biết sẽ nhận về được bao nhiêu.
Mỗi ngân hàng thiệt hại cả ngàn tỷ đồng nhưng chưa biết sẽ hạch toán ra
sao như “BIDV đã trích tới gần 4.000 tỉ đồng [dự phòng rủi ro đối với
các khoản vay của Vinashin] mà vẫn chưa hết nợ”.
Chính vì thế bài của Hải Lý cho
rằng cần phải để Vinashin phá sản vì “sự phá sản của Vinashin là một
bài học cảnh tỉnh cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, buộc họ phải
đẩy nhanh cải cách, tự nâng cao hiệu quả kinh doanh, vì nếu không họ sẽ
bị đào thải”.
Dù còn chưa đi vào chi tiết, hai bài báo cũng bước đầu làm rõ cái tác hại của Vinashin lên nền kinh tế.
Xin mời mọi người mua báo để đọc.
* * *
Vấn đề đặt ra ở đây là vì sao
không công khai thông tin giải quyết cục nợ Vinashin để xã hội giám sát?
Sau khi vụ việc Vinashin nổ ra từ năm 2010, đã có nhiều văn bản liên
quan đến chuyện tái cơ cấu tập đoàn này, trong đó luôn nhấn mạnh đến yêu
cầu minh bạch thông tin nhưng tình hình làm ăn của Vinashin những năm
gần đây, cách giải quyết nợ nần, cách sắp xếp tổ chức lại tập đoàn này
ra sao thì hoàn toàn thiếu vắng thông tin.
Lúc trước các quan chức nói
cũng có phần đúng là Vinashin nợ 86.000 tỷ đồng nhưng tiền không mất đi
đâu, tiền nằm trong tài sản của Vinashin. Lúc mới nổ ra vụ việc, dù giá
trị thật của tài sản Vinashin thấp hơn nợ nần nhưng dù sao cũng có giá
trị nào đó. Nay bên nợ thì khoanh lại, không cho đòi, lại giải quyết
theo kiểu “đẩy về tương lai” thì chắc chắn bên tài sản do không ai giám
sát, không ai đòi quyết liệt, sẽ hao hụt theo ngày tháng. Lẽ ra đã phải
cho Vinashin phá sản từ lâu để chủ nợ chăm lo việc thanh lý tài sản,
biết đâu thu về còn nhiều hơn bây giờ.
VOA * TRƯỜNG TRƯNG VƯƠNG
Tin tức / Ðời sống / Phụ nữ
Trưng Vương ngày ấy, bây giờ
Tin liên hệ
- Ngôi làng nhỏ của những bà mẹ đơn thân Việt Nam
- Sau 'Inside out and Back again,' nhà văn Lại Thanh Hà tiếp tục với 'Listen, Slowly'
- Mathilde Tuyết Trần, người phụ nữ của quá khứ, hiện tại, và tương lai
- Nghệ sĩ Trang Trịnh đưa nhạc cổ điển đến gần hơn với khán giả Việt
- Nhiếp ảnh gia Việt lưu giữ khoảnh khắc hạnh phúc của thế giới (p2)
Trưng Vương ngày ấy, bây giờ
Đại hội Trưng Vương mỗi năm được tổ chức ở một địa điểm dành cho các cựu nữ sinh Trưng Vương sống khắp nơi trên thế giới. Đại hội năm nay được diễn ra chính thức vào tối thứ Bảy, ngày 30 tháng Ba, tại khách sạn Mariott Saville, bang Virginia, thuộc khu vực thủ đô Hoa Kỳ Washington D.C. VOA ban Việt ngữ đã liên lạc và có cơ hội trò chuyện với ba cựu nữ sinh Trưng Vương, đồng thời là ba trong số các thành viên tham gia chuẩn bị cho đại hội, để biết thêm chi tiết về đại hội, và đồng thời được lắng nghe thêm những tâm sự của họ về sự kiện này. Xin mời quý vị cùng theo dõi Câu chuyện Phụ nữ tuần này do Hồng Hoa trình bày.
Tại thủ đô Hoa Kỳ Washington, D.C hàng năm, cứ vào thời điểm cuối tháng Ba, đầu tháng Tư, nhiều du khách từ khắp mọi nơi lại kéo về để được cảm nhận không khí tưng bừng, đầy sức sống qua hình ảnh những khóm anh đào bừng nở. Còn đối với những cựu nữ sinh trường Trưng Vương, một trong những trường danh tiếng hàng đầu ở Việt Nam dành cho nữ sinh từ khoảng 50 năm trước, hòa quyện trong vẻ đẹp rực rỡ, tinh khôi, của những cành anh đào, thì ngày 30 tháng Ba năm nay sẽ là dịp để họ tề tựu, họp mặt, cùng nhau ôn lại những kỷ niệm đẹp thời đi học.
Cựu nữ sinh Hồng Thủy, một thành viên tham gia tổ chức đại hội Trưng Vương năm nay tại Washington, D.C. cho biết:
“Đại hội Trưng Vương năm nay thì chúng tôi có hai phần: một ngày là tiền đại hội, diễn ra vào ngày 29/3, đây là ngày cho các cựu học sinh họp mặt trong nội bộ Trưng Vương thân mật ở nhà hàng Harvest Moon, Arlington, Virginia; còn ngày đại hội chính thức dành cho không những cựu học sinh Trưng Vương mà còn mở cửa tiếp đón các thân hữu khác, thì sẽ làm ở khách sạn Marriott Saville, cũng ở bên Virginia, vào tối thứ Bảy, ngày 30/3.”
Được biết, tổng số vé đại hội Trưng Vương bán ra năm nay đã vượt quá con số 500 tính tới thời điểm hiện tại. Cô Hồng Thủy nói hiện vẫn còn rất nhiều cựu học sinh Trưng Vương ở xa gọi về muốn tham dự nên ban tổ chức không biết số người tham dự cuối cùng là bao nhiêu. Đây quả là một tín hiệu vui khi sau mấy chục năm ra trường, cho dù mỗi người mỗi ngả, nhưng đại hội thế giới của trường Trưng Vương luôn thu hút rất nhiều người từ khắp mọi nơi, bao gồm Canada, Mỹ, Pháp, Việt Nam v…v… đến tham dự. Và để chuẩn bị cho một đại hội thế giới với quy mô lớn như vậy, theo cô Thúy Diệm, một thành viên khác tham gia tổ chức đại hội cho biết thường phải mất ba, bốn tháng lên kế hoạch, phân chia nhiệm vụ, và tiến hành công việc.
Cô Hồng Thủy còn cho biết, ba vùng lớn nhất mà Trưng Vương hay luân phiên tổ chức đại hội là Washington, D.C; California; và Houston, Texas, cho nên riêng tại Washignton D.C thì tổ chức năm năm một lần. Tuy nhiên, ngoài đại hội Trưng Vương thế giới, cô Kiều Thu, thuộc niên khóa nhỏ nhất, cho biết thêm:
Các cựu học sinh Trưng Vương tại lễ tưởng niệm Hai Bà Trưng
Ngoài việc gặp gỡ, hàn huyên nói chung, cô Hồng Thủy nói, riêng các cựu học sinh sống ở vùng Washington, D.C còn tổ chức những buổi mừng sinh nhật chung. Bên cạnh đó, còn những sinh hoạt chính như ngày lễ Hai Bà Trưng sắp tới thì Trưng Vương cũng phụ với Hội Cao niên để tổ chức lễ Hai Bà Trưng.
Tuy đã tham gia đại hội bốn lần trên tổng số khoảng bảy lần đại hội được tổ chức tại D.C., nhưng cô Kiều Thu tâm sự mỗi lần tham dự đại hội cô đều có cảm xúc khác nhau:
“Lần đầu tiên chỉ mua vé đến tham dự, ngồi một góc nhìn các chị bận rộn lo tổ chức. Nhưng mình đến là để ủng hộ tinh thần của học trò Trưng Vương. Lần thứ nhì thì được tham dự một vài công tác thì là cũng vui. Lần thứ ba thì đóng góp nhiều hơn. Lần thứ tư thì tổ chức với nhóm trẻ của Trưng Vương 68-75, nói trẻ thì là trẻ so với các chị lớn thôi chứ các cô cũng lớn hết rồi.”
Thời gian không chờ đợi ai, nhưng có lẽ những kỉ niệm vẫn luôn ở đó, trong lòng từng con người đã từng gắn bó dưới cùng ngôi trường, nơi mà cô Thúy Diệm nói rằng Trưng Vương là một nơi mà bảy năm trời tất cả học sinh cùng học với nhau như một gia đình. Khi hồi tưởng lại những năm tháng ấy, cô Thúy Diệm chia sẻ:
“Cô hay làm báo thời còn đi học. Khi có báo rồi thì được qua các trường khác để bán báo. Rồi các trường khác cũng qua trường mình để bán báo. Lúc đó thì các nam sinh mới được qua các trường nữ và nữ sinh mới được qua các trường nam. Khi mình đi qua đi lại đó thì mình cũng có quen những người bạn khác phái, và từ đó cũng nảy nở tình bạn mà đem lại cho mình niềm vui và những cuộc gặp gỡ thú vị.
Rồi làm bích báo, viết bài cho trường, hay tập san Mê Linh. Thành ra cô nhớ những thời gian mà Tết, làm những tờ bích báo, viết bằng tay. Thời đó viết bằng tay trên một tờ giấy rất to, rồi dán lên trên tường, mỗi lớp dán một tờ như vậy, rồi thi đua xem tờ bích báo nào được chọn. Sau này được in thành những đặc san. Mỗi một năm, ban đại diện của trường thì lại được chịu trách nhiệm làm đặc san cho trường. Thành ra những thời gian đó cô rất thích, tại vì cô cũng hay trình bày báo, viết bài, và đó là những việc mà cô nhớ nhất khi mà cô còn ở dưới mái trường Trưng Vương.”
Cô Hồng Thủy cũng kể thêm:
“Kỷ niệm thời đi học thì có nhiều lắm. Con gái mới lớn mà, thì chúng tôi trong những dịp lễ Hai Bà Trưng thì cũng có những chương trình múa hát, văn nghệ. Tôi có một nhóm bạn cũng năng nổ hoạt động trong trường, chúng tôi có những kỉ niệm tập múa tập hát. Rồi những đêm văn nghệ ở Norodom, thì các trường thi thố tài năng thì cũng có dịp gặp trường Chu Văn An và các trường khác. Con gái mới lớn lên thì đó là thời mơ mộng, chi tiết cũng vui.”
Cũng giống như cô Hồng Thủy, cô Kiều Thu nói rằng kỷ niệm ở Trưng Vương thì rất nhiều, để mà kể thì không biết kể cái nào và bỏ cái nào, vì cái nào cũng đẹp và cũng đáng nhớ.
Buổi họp mặt của các cựu nữ sinh Trưng Vương niên khóa 60-67
Theo lời của cả ba cô Hồng Thủy, Thúy Diệm, và Kiều Thu, ba cựu học sinh thuộc các thế hệ khác nhau, thì Trưng Vương luôn là một ngôi trường không những đặt trọng tâm vào chuyện học văn hóa, mà chuyện duy trì hạnh kiểm tốt, đức hạnh cũng là một chuyện rất quan trọng. Để thi được vào trường đã khó, đến lúc vào được trường rồi, dù học giỏi đến đâu mà hạnh kiểm không tốt, vi phạm những kì luật của trường thì đều bị đuổi. Khắt khe là vậy, nhưng cô Hồng Thủy nói:
“Khi mà mình được đào tạo trong một ngôi trường kỉ luật như vậy thì ra ngoài mình cũng là một công dân tốt trong nước Việt Nam của mình. Và trong gia đình, khi người đàn bà lập gia đình, một người đàn bà có đức hạnh, thì gia đình của mình cũng sẽ hạnh phúc; con cái mình được giáo dục cái giáo dục của mình.”
Và đây là ý kiến của cô Thúy Diệm:
“Công ơn của các thày cô không thể nào mà các cựu nữ sinh, cô nói riêng, và các cựu nữ sinh Trưng Vương nói chung, quên được. Nhờ có sự rèn luyện đó, và thày cô cũng như cha mẹ, cũng như cô chú bác dạy dỗ mình, thương yêu thật lòng. Thành ra những tình cảm đó, không nhờ những sự dạy dỗ đó, thì có lẽ rằng là bây giờ mình có thể không được như ngày nay.”
Cũng giống như hai cô Hồng Thủy và cô Thúy Diệm, cô Kiều Thu tâm sự:
“Dù cho ngày hôm nay, mình có làm đến chức gì đi chăng nữa, mình có làm cao chăng nữa thì mình nợ những sự thành công đó. Nhờ có sự dạy dỗ của thày cô, sự nuôi nấng của bố mẹ mình mới được ngày hôm nay. Trong thâm tâm của cá nhân cô cũng như những người học trò Trưng Vương khác, ai cũng nhớ ơn thày cô, đã dạy cho mình từ lúc vỡ lòng, chập chững đến trường, đến lúc mình rời ghế nhà trường. Đó là ơn vô cùng to lớn mà mình không biết làm sao mình trả được.“
Bên cạnh những ký ức về những người thày, người cô, tình bạn cũng chính là điều mà các cựu nữ sinh Trưng Vương hiện giờ luôn nâng niu và quý trọng. Cô Thúy Diệm nói:
“Với các bạn mà không được tham dự thì Thúy Diệm thấy những bạn Trưng Vương đó mà có dịp gặp lại nhau thì đó là cả một hạnh phúc. Tại vì khi gặp lại nhau không chỉ nhìn thấy những khuôn mặt của những người bạn của mình ngày xưa, mà cả những kỷ niệm, bao nhiêu thứ trở lại với mình. Mấy bạn không tham dự được thì Thúy Diệm cũng mong rằng có một ngày nào đó Thúy Diệm được gặp lại các bạn, để chia sẻ với các bạn những ngày mình không được gặp nhau.”
Cô Kiều Thu muốn nhắn gửi tới những người bạn học mà cô chưa có cơ hội gặp lại rằng:
“Riêng với những người bạn mà không có dịp gặp lại, nhất là những người bạn thân ở Trưng Vương thì những kỷ niệm ngày xưa, cá nhân Kiều Thu lúc nào cũng nhớ. Cầu mong các bạn được vui vẻ, hạnh phúc, và hy vọng rằng, chúng ta có dịp gặp lại. Dù ở môi trường nào thì cái ngày gặp lại đó sẽ rất vui và có lẽ chắc sẽ rất cảm động.”
Cô Hồng Thủy nói thêm:
“Thật sự ra em biết không, khi hỏi một người như tôi, một người đàn bà 70 tuổi, khi mình muốn trở lại cái gì thì chắc chắn mình muốn trở lại thời tuổi trẻ của mình. Muốn trở lại ngày vui với bạn bè, muốn được sống lại những ngày đó….”
Ý kiến
bởi: Thanh Mai từ: Saigon
21.03.2013 11:11
Thanh Mai xin nhờ nơi đây để gửi lời kính thăm đến quý Thày cô và toàn
thể các bạn TV rất đáng mến yêu. TM luôn nhớ về trường xưa bạn cũ, dù
đã "sáu mí" tuổi rồi!
Nhân đây xin trả lời bạn "vô danh" rằng: dù có khó nghèo, ở VN chúng tôi vẫn tổ chức Đại Hội TV gần như thường niên. Chúng tôi gặp gỡ vì "Tình TV" luôn sâu xa đầm ấm, chứ không phải vì "phú quý sinh lễ nghĩa", hay "bần cùng thì sinh...đạo tặc" đâu bạn ạ. Các bạn TV ở nước ngoài về VN cũng tìm thăm bạn cũ, mà ở VN ra nước ngoài cũng tìm bạn cũ để thăm, đó là mối dây thiêng liêng ràng buộc, chứ không phải do dư tiền dư giờ mà gặp. Mong bạn hiểu lại dùm, cảm ơn.
Nhân đây xin trả lời bạn "vô danh" rằng: dù có khó nghèo, ở VN chúng tôi vẫn tổ chức Đại Hội TV gần như thường niên. Chúng tôi gặp gỡ vì "Tình TV" luôn sâu xa đầm ấm, chứ không phải vì "phú quý sinh lễ nghĩa", hay "bần cùng thì sinh...đạo tặc" đâu bạn ạ. Các bạn TV ở nước ngoài về VN cũng tìm thăm bạn cũ, mà ở VN ra nước ngoài cũng tìm bạn cũ để thăm, đó là mối dây thiêng liêng ràng buộc, chứ không phải do dư tiền dư giờ mà gặp. Mong bạn hiểu lại dùm, cảm ơn.
bởi: kim cuc từ: phap
21.03.2013 10:28
Cac chi, cac ban oi, hom nay minh moi biet duoc trang web cua truong
TV, minh rat muon va biet tin ban cua minh bay gio o dau lam, neu cac
ban con nho den toi hoc lop 11&12C nam 1975-1976 thi email cho minh
biet nha, minh rat muon biet tin cac ban lam.
bởi: Thương Nhớ Khôn Nguôi từ: Hoa Kỳ
21.03.2013 08:46
Cứ mỗi lần có dịp được thưởng thức ca khúc Trưng Vương Khung Cửa Mùa
Thu (nguyên tác: Tell Laura I Love Her), lời Việt: Nam Lộc, lòng tôi lại
bồi hồi bất tận, thật khó mà cầm được nước mắt, thương nhớ khôn nguôi
đến biết bao kỷ niệm thật khó phai của Đất Nước…
Cuộc đời cứ miên man trôi mãi tựa như một dòng sông, lúc thì có hướng, khi thì bất định, hai chữ Vô Thường của Nhà Phật thật ý vị và thâm diệu làm sao, trong những phút lắng đọng, trôi theo bao dòng hoài niệm của một thưở học trò xa xăm, nhưng vẫn cứ tựa như là mới trong ngày hôm qua vậy…
Chúc các bạn Nữ Sinh Trưng Vương năm cũ trên khắp TG, luôn có dịp hội ngộ, tề tựu bên nhau, để cùng nhau tâm sự, vui đùa, và sẽ cũng cùng nhau chan hòa nước mắt… khi ôn lại những khoảng trời hoài niệm khó quên, về những năm tháng xa xưa của tuổi hoa học trò, quyện hòa với những dòng định mệnh bi tráng của Đất Nước…
VN, với một dòng Lịch Sử khá đặc thù, biến cố 1975…, đây là một trong những cuộc di dân rất ấn tượng của TG, trong thế kỷ 20 vừa qua, và hy vọng cuối cùng, vẫn sẽ là qui về những gì tốt đẹp nhất cho Dân Tộc này, phải không các bạn?
“…
Ta quyết nêu cao đức hạnh
Chăm lo trí dục người thục nữ anh tài”
Cầu mong rằng, ca khúc nữ sinh VN năm xưa này, sẽ sống mãi trong tim tôi, trong tim các bạn và trong tim của tất cả chúng ta, những người con của dòng giống Tiên Rồng, trong bất kỳ một tình huống nào của Lịch Sử Dân Tộc và TG…
Cuộc đời cứ miên man trôi mãi tựa như một dòng sông, lúc thì có hướng, khi thì bất định, hai chữ Vô Thường của Nhà Phật thật ý vị và thâm diệu làm sao, trong những phút lắng đọng, trôi theo bao dòng hoài niệm của một thưở học trò xa xăm, nhưng vẫn cứ tựa như là mới trong ngày hôm qua vậy…
Chúc các bạn Nữ Sinh Trưng Vương năm cũ trên khắp TG, luôn có dịp hội ngộ, tề tựu bên nhau, để cùng nhau tâm sự, vui đùa, và sẽ cũng cùng nhau chan hòa nước mắt… khi ôn lại những khoảng trời hoài niệm khó quên, về những năm tháng xa xưa của tuổi hoa học trò, quyện hòa với những dòng định mệnh bi tráng của Đất Nước…
VN, với một dòng Lịch Sử khá đặc thù, biến cố 1975…, đây là một trong những cuộc di dân rất ấn tượng của TG, trong thế kỷ 20 vừa qua, và hy vọng cuối cùng, vẫn sẽ là qui về những gì tốt đẹp nhất cho Dân Tộc này, phải không các bạn?
“…
Ta quyết nêu cao đức hạnh
Chăm lo trí dục người thục nữ anh tài”
Cầu mong rằng, ca khúc nữ sinh VN năm xưa này, sẽ sống mãi trong tim tôi, trong tim các bạn và trong tim của tất cả chúng ta, những người con của dòng giống Tiên Rồng, trong bất kỳ một tình huống nào của Lịch Sử Dân Tộc và TG…
bởi: ba Tam buon dua từ: dallas
20.03.2013 20:48
Mới ngày nào.Da dẻo căng tròn nhựa sống,mái tóc den nhánh và hai mắt to
tròn như mắt nai.Bây giờ bà đã gần 70 "hai má hom hem lại lẹm cằm" Toc
thi bạc phơ như cước ,hai mắt bây giờ thành bốn mắt ma` cũng không nhìn
rõ di bên cạnh là anh chồng bụng bự lệnh khệnh .
Ôi ! Quá khứ sao ma dep quá hiện tại thì chỉ la bà gìa khó tính nhưng có văn họa.
Ôi ! Quá khứ sao ma dep quá hiện tại thì chỉ la bà gìa khó tính nhưng có văn họa.
bởi: Nguyễn từ: hoa kỳ
20.03.2013 19:34
Hoan nghênh các chị đã có cố tìm đến nhau .Mong truyền thống Trưng
Vương luân chuyển mãi cho những thế hệ mai sau.Người phất cờ khởi nghĩa
đầu tiên của một dân tộc quật cường nhưng trọng nam khinh nữ lại là một
người Nữ-thật đáng để các đấng nam nhi tự suy nghĩ về trách nhiệm của
mình đối với đất nước.Một gợi ý có thể nào các chị cùng góp tay giúp 1
học sinh Trưng Vương nào đó có hoàn cảnh khó khăn được cắp sách đến
trường cho đến khi thành tài .
bởi: Vô danh
20.03.2013 14:13
Tất cả các hội viên luôn tỏ ra xứng đáng với danh hiệu con cháu HAI BÀ. Thật vậy ngoài tài nội tướng - đảm đang việc nhà - các hội viên còn tỏ ra rất xông xáo quán xuyến việc xã hội. Tôn chỉ của hội là luôn mở rộng vòng tay đến với nhau tìm đến nhau vì vậy số hội viên càng ngày càng gia tăng .
Bên cạnh đó là những chân tình của những học sinh đối với Thầy Cô
Nửa chữ tình này sánh Thái Sơn
Tình riêng riêng vẫn nhớ công ơn...
Được thể hiện qua những món quà tinh thần gởi về các Thầy Cô ở Việt Nam cùng những gói quà lưu niệm trao tận tay đến các Thầy Cô trong các buổi đại hội hàng năm.
Mỗi năm, trong ngày lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng, Hội Cựu Nữ Sinh Trưng Vương Nam California, đều có phát giải Khuyến Học cho học sinh xuất sắc được tuyển chọn từ các Trung Tâm Việt Ngữ miền Nam California.
Tấm gương của hai vị anh thư nuớc Việt luôn soi dọi tâm trí của các hội viên trên con đường phát triển sự nghiệp mà Hai Bà đã giao lại cho chúng ta.
Bảo trì và phát huy văn hóa dân tộc nơi xứ người , nhất là qua việc tổ chức một cách trang trọng đại lễ Kỷ Niệm Hai Bà Trưng , là Ngày Truyền Thống của trường Trưng Vương từ xưa đến nay.
http://www.trungvuongus.com/
bởi: Vô danh
20.03.2013 11:24
Phú quý sinh lễ nghĩa nếu còn ở VN "kinh tế mới" thì có họp bạn không.
bởi: Việt Kiều từ: VA
20.03.2013 10:11
Trong lúc nghe các bà phát ngôn,con tim bị rục rịch nên viết sai,xin vui lòng cho đính chính câu cuối của bài Ca Dao :
Lợn no,con nín,tòm tem thì ...Tòm !
Xin đa tạ
Lợn no,con nín,tòm tem thì ...Tòm !
Xin đa tạ
bởi: Dương Mỵ UYỂN từ: 15c/6 Thi Sach Q1 HCM
20.03.2013 10:11
Chi em oi minh là HS Truong Trung Vương 68_75 nè khong biết làm sao để
liên lạc với mọi người , có ai nhận ra cái tên của mình không vậy ? Ai
nhận ra thi hướng dẫn mình liên hệ với mọi người nhé , Thân chào và chúc
mọi người vui vẻ Đại Hội Trưng Vương nhé
Mong lắm
Mong lắm
Trả lời
bởi: Vô danh
20.03.2013 12:30
Trưng Vương
CÁC BẠN TRƯNG VƯƠNG XA GẦN , NẾU Có TIN VUI , TIN BUỒN , MUỐN ÐĂNG TRÊN www.trungvuongus.com XIN HÃY GỬI VỀ tvdoday@yahoo.com, HOẶC
HỘI CỰU NỮ SINH TRƯNG VƯƠNG NAM CALIFORNIA
PO BOX 6073 ,
HUNTINGTON BEACH ,CA 92615 - 6073, USA
Tìm Bạn Trưng Vương Dấu Yêu Xưa :
http://www.trungvuongus.com/
CÁC BẠN TRƯNG VƯƠNG XA GẦN , NẾU Có TIN VUI , TIN BUỒN , MUỐN ÐĂNG TRÊN www.trungvuongus.com XIN HÃY GỬI VỀ tvdoday@yahoo.com, HOẶC
HỘI CỰU NỮ SINH TRƯNG VƯƠNG NAM CALIFORNIA
PO BOX 6073 ,
HUNTINGTON BEACH ,CA 92615 - 6073, USA
Tìm Bạn Trưng Vương Dấu Yêu Xưa :
http://www.trungvuongus.com/
bởi: Việt Kiều từ: VA
20.03.2013 10:06
Các bà nội trợ VN là những người đàn bà đảm đang nhất thế giới,trong đó
có các cựu nữ sinh trường trung học Trưng Vương Hànội Sàigon .Này nhé :
Đang khi lửa tắt,cơm sôi,
Lợn kêu,con khóc,chồng đòi tòm tem .
Bây giờ lửa đã cháy lên,
Lợn no,cơm chín,tòm tem thì tòm.
Xin kính cẩn nhiêng mình hoan hô các bà .
Đang khi lửa tắt,cơm sôi,
Lợn kêu,con khóc,chồng đòi tòm tem .
Bây giờ lửa đã cháy lên,
Lợn no,cơm chín,tòm tem thì tòm.
Xin kính cẩn nhiêng mình hoan hô các bà .
bởi: Đỗ Diễm Thúy từ: Việt Nam
20.03.2013 09:33
Được xem tấm hình 6"cô" mặc áo dài trắng đứng trong sân trường , bỗng dưng nghe lòng xúc động chi lạ ...!
7 năm Trưng Vương (1975-1982) đối với em tưởng chừng như 7 năm trong cơn mộng mị , êm đềm và nên thơ làm sao ...!! Và thương quá một thời áo trắng .
Trưng Vương , Trưng Vương ... khung cửa mùa Thu !!
7 năm Trưng Vương (1975-1982) đối với em tưởng chừng như 7 năm trong cơn mộng mị , êm đềm và nên thơ làm sao ...!! Và thương quá một thời áo trắng .
Trưng Vương , Trưng Vương ... khung cửa mùa Thu !!
bởi: thang từ: vietnam
20.03.2013 08:53
Toi thich nghe bai " Trung Vuong khung cua mua thu" tu nho rui, cho hoi
truong Trung Vuong hien gio o Saigon nam o dau vay ? Cam on nha
bởi: Dân Đen Tui từ: Ở nhờ đất Hoa Kỳ
20.03.2013 05:44
Kính thưa Qúy bà ,quý cô " Lịch sử không phải là cái miếu để thờ cúng ,
mà là đời sống luôn đổi mới .Truyền thống là một thói quen ,nếu truyền
thống không hiện đại hoá " ( Trần Trung Đạo )đó là thông điệp,và còn bao
nhiêu thôngn điệp nữa , như nhà báo trẻ Nguyễn đắc Kiên ,như Tạ phong
Tần đang nằm trong khám lạnh ....còn có người đâu được học cái trường
như các bà ,các cô học đâu ? Họ chỉ được học cái trường rất khiêm tốn
Quốc Gia Nghĩa Tử mà giờ nầy họ đóng góp cho xã hội cả trăm cái bằng
sáng chế . Đúng ! họ là anh hùng, con của những anh hùng "Vị quốc vong
thân ...) Họ được cả thế giới vinh danh anh hùng đó . Dân Đen Tui ít
học chỉ có cái chứng chỉ (Học tại trường làng ) thôi , xin quý bà ,quý
cô đừng cười người ít học như Tui tội nghiệp nghe ! Dân Đen Tui tin
rằng nhân kỷ niệm cuộc họp mặt năn nầy , qúy bà,qúy cô sẽ làm và sẽ nói
cho cả thế giới thấy dân Việt Nam Tui đang đổi mới ,đang hiện đại hoá
truyền thống như Trần Trung Đạo nói ở trên . Xin đừng nói chuyện đổi
mới xe hơi, nhà lầu và cũng đừng hiện đại một vài câu tiếng Anh ,tiếng
Pháp thậm chí cả tiếng Tàu nữa . ..Nếu không làm được như những thông
điệp nêu ở trên, thì xin qúy Bà,quý Cô đừng xưng chúng Tui là người
Việt Nam ,chúng Tui là học sinh của trường Nữ anh Hùng TRƯNG VƯƠNG .
Tội nghiêr.p lắm ! ! !
bởi: bi mat từ: SG
20.03.2013 04:52
Ánh dương lấp ló ngọn hồng
Hoa tươi khai sắc , hương nồng nồng bay
phụ nữ Viêt Nam đẹp tuyệt vời ,chúc vui khỏe
Hoa tươi khai sắc , hương nồng nồng bay
phụ nữ Viêt Nam đẹp tuyệt vời ,chúc vui khỏe
bởi: khanhtran từ: TP/HCM
20.03.2013 04:46
Nhung ky niem thuo HS bao gio cung la nhung ky uc dep mai trong long
moi con nguoi(nhat la nhung nguoi xa xu)! Thoi cap sach bao gio cung
dong lai trong tam tri moi nguoi nhieu vui,buon thoi ay,giu duoc lien
lac voi nhau ,den tham voi nhau, that song lai nhung tinh cam do den khi
lia xa nhau!cach biet am duong moi lam cho chung ta thay quy cuoc song
va yeu thuong nhau rat nhieu !Toi la 1 nam sinh truong C.V.A gop y chuc
hoi nhung cuu HS Trung Vuong dum boc nhau hon.Kinh chuc!
bởi: tudo từ: Pháp.
20.03.2013 00:55
Trương nầy không nhận học sinh " góc giá " .
bởi: no name từ: tphcm.
20.03.2013 00:44
nhac den truong nu trung hoc trung vuong con chau haiba trung phat co
khoi nghia chong quan tau xam luoc nuoc ta. ma khong nhac den truong
trung hoc vo truong toan (nam sinh )thi con gi vui nua.-anh la traai anh
hung votruong toan............
em la gai trung vuong muu cao..................
thao cam vien la noi bon tre hoc sinh chung toi tron hoc vao day quay pha nu sinh trung vuong thi hien thuc day nhung khong de bat nat duoc dau. gay tay gay chan bon con trai nam sinh la chuyen thuong tinh. bay gio da 69 tuoi roi nho em qua thoi gian qua mau that. kinh chuc quy cuu nu sinh trung vuong luon thanh dat tro ve xay dung lai hoi phunu viet nam da bi bon cong san pha tan nat het ca roi.khong mot dinh huong nao cho ho ca.dao duc xuong cap tram trong - chui chong boi nho chong tocao chong phan dong van duoc cong an tp pho ho chi minh khuyen khich
mot ngan le mot cach de nguoi cong san viet nam ap dung bao ve cho chu nghia maclenin phat trien. dung bao gio nghi rang luc luong vu trang viet nam- trung voi nuoc hieu voi dan- khi cai ban tho chu nghia maclenin van con ghi trong hien phap.
nguoi cong san cuc doan rap khuon bac kinh van chua chiu lui vao bong toi .thi lam sao lay lai duoc bien dao.danh mat hoang sa va truong sa vao tay cong san bac kinhma thoi , lieu chung co chiu dung lai o hoang sa va truong sa hay khong do moi la van de chinh hom nay.luc luong vu trang nhan dan hay luon sang suot de phong bon phan quoccam tamlam tay sai cho chinh quyen cong san bac kinh doi lot cong an nhan dan viet nam.chuan bi tam mau viet nam.chung dang yeu cau duoc phep ban nguoi dan viet nam dam chong nguoi thi hanh cong vu.mot phu nu can dam damtat vao mat ten cong san giao thong hanh su bat chinh bi lanh an 9 thang tu giam - mot trung uy canh sat co dong lanh 2nam tu giam vi dam chong lai canh sat giao thong quan binh thanh nhung ban an nang ne nhu vay van chua thoa man long khat mau cua chung-.nay lai con doi ban nua that la kinh khung.
da yeu kem trong van de dau tranh voi toi pham toi pham long hanh nhan dan dau kho con do long hanh cong an bat luc. nganh cong an co xung dang voi dong luong ma nhan dan viet nam da nai lung dong thue de tra luong cho cong an nhan dan viet namhay khong?rap khuon bac kinh la tu sat ong bo truong cong an hay ghi nho nhung loi noi nay.
ky ten
chu van than. . em la gai trung vuong muu cao..................
thao cam vien la noi bon tre hoc sinh chung toi tron hoc vao day quay pha nu sinh trung vuong thi hien thuc day nhung khong de bat nat duoc dau. gay tay gay chan bon con trai nam sinh la chuyen thuong tinh. bay gio da 69 tuoi roi nho em qua thoi gian qua mau that. kinh chuc quy cuu nu sinh trung vuong luon thanh dat tro ve xay dung lai hoi phunu viet nam da bi bon cong san pha tan nat het ca roi.khong mot dinh huong nao cho ho ca.dao duc xuong cap tram trong - chui chong boi nho chong tocao chong phan dong van duoc cong an tp pho ho chi minh khuyen khich
mot ngan le mot cach de nguoi cong san viet nam ap dung bao ve cho chu nghia maclenin phat trien. dung bao gio nghi rang luc luong vu trang viet nam- trung voi nuoc hieu voi dan- khi cai ban tho chu nghia maclenin van con ghi trong hien phap.
nguoi cong san cuc doan rap khuon bac kinh van chua chiu lui vao bong toi .thi lam sao lay lai duoc bien dao.danh mat hoang sa va truong sa vao tay cong san bac kinhma thoi , lieu chung co chiu dung lai o hoang sa va truong sa hay khong do moi la van de chinh hom nay.luc luong vu trang nhan dan hay luon sang suot de phong bon phan quoccam tamlam tay sai cho chinh quyen cong san bac kinh doi lot cong an nhan dan viet nam.chuan bi tam mau viet nam.chung dang yeu cau duoc phep ban nguoi dan viet nam dam chong nguoi thi hanh cong vu.mot phu nu can dam damtat vao mat ten cong san giao thong hanh su bat chinh bi lanh an 9 thang tu giam - mot trung uy canh sat co dong lanh 2nam tu giam vi dam chong lai canh sat giao thong quan binh thanh nhung ban an nang ne nhu vay van chua thoa man long khat mau cua chung-.nay lai con doi ban nua that la kinh khung.
da yeu kem trong van de dau tranh voi toi pham toi pham long hanh nhan dan dau kho con do long hanh cong an bat luc. nganh cong an co xung dang voi dong luong ma nhan dan viet nam da nai lung dong thue de tra luong cho cong an nhan dan viet namhay khong?rap khuon bac kinh la tu sat ong bo truong cong an hay ghi nho nhung loi noi nay.
ky ten
bởi: Hung từ: Dallas, TX
20.03.2013 00:05
Tôi nhìn vào tấm Ảnh của các Nữ sinh trường Trưng-Vương ngày ấy, làm
cho tôi nhớ lại những ngày vào năm 67-68, tôi thường đến cổng-trường
trong giờ tan-học, để được làm quen với một Nữ-sinh. Nhưng ước muốn lại
không thành, vì sau năm 68 tôi lại chuyển đơn-vị ra tận Miền-trung, ở
đây ngày ngày đều cấm-trại, cấm-quân, cả năm không được ngày phép, nên
đành chịu. Thời gian đã qua lâu nhưng tôi vẫn còn nhớ. Tôi chúc các Cô,
các Chị thành-công tốt đẹp trong Đại-hội năm nay tại Hoa-thịnh-Đốn. Xin
thân chào tất cả trong Đại-hội./.
bởi: nguyen thi bich Nga từ: Viet Nam
19.03.2013 23:44
Nhung nam thang hoc o Trung Vuong ( 1972-1975) la khoang thoi gian dep
nhat trong cuoc doi toi ma khi ay toi chua cam nhan duoc het .
Toi rat tu hao la hoc sinh Trung Vuong , la con chau cua cac vi anh thu Hai Ba Trung , Ba Trieu ... ma su sach ngan doi luu danh.
Bai hop xuongTrung Nu Vuong va Tieng Trong Me Linh luon lam toi xuc dong va tu hao .
Toi rat tu hao la hoc sinh Trung Vuong , la con chau cua cac vi anh thu Hai Ba Trung , Ba Trieu ... ma su sach ngan doi luu danh.
Bai hop xuongTrung Nu Vuong va Tieng Trong Me Linh luon lam toi xuc dong va tu hao .
bởi: nguyen thuy dung từ: saigon
19.03.2013 22:57
Sau nhieu năm giai phong,VN chúng tòi có "Mái trường XHCN " dạy hoc
sinh theo 5 điều cua Bac Hồ,không dạy hoc sinh "Tiên học lể, Hậu học
văn" như các truong học duoi chế độ miền Nam VN trước đây nên giờ cái
hậu qua thê thảm của nền giáo dục suy đồi, đạo đức xuống cấp hết cở nó
đang thể hiện khắp xã hội VN hiện nay
bởi: 2lua từ: hoaky
19.03.2013 21:50
Nhung ke que mua thuong hay show off(nu sinh trung-vuong saigon) Hi hi hi !
bởi: Thảo Dân từ: Sài Gòn
19.03.2013 20:46
Bài viết cần nói rõ là trường Trưng Vương nào, Sài Gòn hay Hà Nội? Vì ở
Hà Nội cũng có trường Trưng Vương. Và cũng rất nổi tiếng.
NGUYỄN MINH CẦN * STALIN
Stalin là lãnh tụ tài ba hay bạo chúa khát máu ?
Xếp hàng để đặt hoa lên mộ Stalin tại Quảng trường Đỏ Matxcơva, nhân kỷ niệm 60 năm ngày mất của nhà độc tài, ngày 05/03/2013.
REUTERS/Sergei Karpukhin
Thủ phạm gây ra cái chết oan khiên cho hàng chục triệu người hay anh hùng chiến thắng Đức quốc xã ?
Sáu mươi năm sau ngày Stalin qua đời, ngày 05/03/1953, và hơn 20 năm sau
ngày chế độ cộng sản Xô Viết sụp đổ, người dân Nga có vẻ mơ hồ về công,
tội của nhân vật bị giới sử gia gọi tên là « đồ tể ». Chính sách trấn
áp của Stalin vẫn còn được vài chế độ độc tài ở châu Á cố gắng bám víu,
bất chấp những vết xe đổ.
Hơn hai mươi năm cầm quyền của Stalin từ 1930 đến 1953 được
đánh dấu bằng những đợt khủng bố quy mô có hệ thống mà nạn nhân đầu tiên
là các sắc dân thiểu số, rồi đến nông dân, tư sản trí thức và thành
phần quân đội bị nghi ngờ « chống đảng ». Vào cuối thập niên 1980 nhờ
chính sách perestroika của Mikhail Gorbachev và sự tan rã của Liên Xô,
tội ác của Stalin được tố cáo một cách mạnh mẽ.
Trong tập tài liệu Les crimes de masse sous Staline (1930-1953) - Những tội ác tập thể của Stalin, công bố năm 2008,chuyên gia Nicolas Werth của trường Đại học Chính trị Pháp thống kê được 10 đợt khủng bố chính trị trong và ngoài nước, nhân danh lòng ái quốc.
Tháng 10/2007, lần đầu tiên Tổng thống Nga Vladimir Putin tham dự buổi lễ truy điệu từ 20 triệu đến 40 triệu nạn nhân của kẻ được mệnh danh là tay đồ tể. Đứng bên cạnh một « mồ chôn tập thể » ở thao trường quân sự Butovo, ngoại ô Maxcơva, nơi mà mật vụ Liên Xô đã xử bắn hàng chục ngàn người, Tổng thống Nga kêu gọi dân Nga « đoàn kết » đừng để tái diễn « quá khứ đau thương này ». Cựu trung tá KGB lên án điều mà ông gọi là « ý thức hệ hoang tưởng » nhưng bề ngoài được ngụy trang bằng những « giá trị cơ bản, nhân sinh, tự do dân chủ ».
70 năm trước, trong đợt « đại khủng bố » từ tháng 8/1937 đến tháng 11/1938, hơn 1,5 triệu người bị bắt và 800.000 bị xử bắn mà phần lớn… là đảng viên đảng cộng sản.
Tuy nhiên đến năm 2013 này, nhân ngày giỗ 60 của Stalin thì tình hình tại Nga có vẻ đổi khác.Theo nhà xã hội học Nga Lev Gudkov,chính quyền Putin công khai vinh danh Stalin. Trong một quyển sách giáo khoa được Bộ Giáo dục công nhận, ông Stalin được mô tả là một nhà « lãnh đạo hiệu quả ». Không ít người Nga mơ tưởng một Stalin « thứ hai » để phục hồi chế độ mà họ cho là « vàng son ».
Trong một cuộc thăm dò ý kiến năm 2012, có đến 47% người Nga tin rằng nhờ Stalin « sáng suốt » mà « Liên Xô được hùng mạnh phú cường » quốc tế kiêng nể. Tỷ lệ ý kiến ngược lại chỉ có 37%.
Nhà nghiên cứu chính trị Nga Maria Lipman, quy trách nhiệm cho cặp lãnh đạo Putin-Medvedev . Tuy hai nhân vật này tố cáo tội ác Stalin nhưng lại tránh phân tích sâu xa chủ nghĩa Stalin, vì chế độ hiện nay cũng xây dựng quyền lực « dựa vào mật vụ trấn áp dân chúng » bất chấp vết xe đổ. Tại Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Việt Nam « trại cải tạo lao động » vẫn tồn tại với nhiều hình thức.
Stalin là bạo chúa khát máu hay là một nhà lãnh đạo sáng suốt ? RFI đặt câu hỏi với nhà báo Nguyễn Minh Cần từ Maxcơva.
Đề tài về Stalin lại nổi lên
Trong tháng Ba năm nay, đề tài Stalin lại nổi lên trong dịp kỷ niệm 60 năm ngày ông qua đời. Điều này chẳng có gì lạ cả. Vì Iosif (Joseph) Stalin là vị chúa tể độc tài đã từng cai trị Liên bang Xô Viết bằng bàn tay sắt trong suốt 30 năm trời(1922-1953). Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, là Đại nguyên soái, Tổng tư lệnh tối cao các Lực lượng vũ trang Liên Xô, được suy tôn là “Người cha của các dân tộc”.
Do sự tuyên truyền, nhồi sọ người dân trong hàng chục năm trời, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã làm cho người dân Liên Xô một thời gian dài trên nửa thế kỷ sùng bái Stalin, coi ông không khác gì một vị thánh sống, một đấng cứu tinh của toàn nhân loại. Đến nỗi một nhà thơ Việt Nam, xứ sở cách xa Liên Xô hàng chục vạn cây số, mà cũng đã thốt lên: “Yêu biết mấy nghe con tập nói/Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!” (Bài thơ Đời đời nhớ Ông, của Tố Hữu, tháng 3/1953).
Một ít sự thật về Stalin
Thế nhưng, kể từ sau khi bản báo cáo mật của Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô, Khroutchev tại đại hội 20, Đảng Cộng Sản Liên Xô (25-2-1956) về “Tệ sùng bái cá nhân Stalin” được tiết lộ ra ngoài thì nhiều người mới tá hỏa là nhà độc tài “đỏ” này đã gây ra quá nhiều tội ác, trước hết là tội diệt chủng đối với nhân dân đất nước mà ông ta thống trị.
Tội ác của Stalin có nhiều mặt, ở đây chỉ xin nói vài điều thôi.
1/ Bằng chính sách tập thể hóa nông thôn trong nửa đầu thập niên 30, ông đã tiêu diệt không thương tiếc tầng lớp năng nổ, tích cực, sáng tạo nhất ở nông thôn mà ông gọi là tầng lớp cu-lắc. Chính sách này bị nông dân phản đối, thì tại hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản năm 1934, Stalin tuyên bố: “Phải tạo ra một tình thế mà các hộ cá thể, sau khi thu hoạch trên mảnh đất canh tác của họ, phải sống tồi hơn để họ có khả năng kém hơn các nông trang viên. Phải tăng thêm gánh nặng thuế má cho họ.”
Ở nhiều vùng, nông dân nổi dậy, Stalin đưa quân tàn sát rất dã man. Ở Ukraina, nơi được coi là vựa lúa của Liên Xô, cả một vùng lớn, nông dân không nổi dậy nhưng cũng không chịu vào nông trang tập thể, thế là Stalin dùng cái chính sách, tiếng Nga gọi là “golodomor”, dịch ra tiếng Việt là “làm cho chết đói”, nghĩa là cho quân bao vây cả vùng, không cho dân được xuất, không cho lương thực được nhập, đồng thời cho các đội (tựa như đội cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam hồi 1953) xuống từng làng lùng sục, tịch thu tất cả lương thực để cho dân chết đói. Trong trận “golodomor” này có từ 20 đến 25 triệu người chết vì đói.
Nhà văn nổi tiếng Liên Xô Vasili Grosman đã mô tả trận giam đói nông dân ghê rợn này trong cuốn sách tựa đề “Mọi sự trôi qua”. Một điều chúng tôi nói thêm mà rất nhiều người Việt Nam không hề biết và không thể tưởng tượng nổi, là ở Liên Xô mãi cho đến năm 1956, nông dân vẫn sống như dưới thời nông nô (mặc dù chế độ nông nô đã được Nga hoàng xóa bỏ từ năm 1861), vì nông dân không được ra khỏi nông thôn. Một cách giản đơn nhất để làm chuyện đó là chính quyền Xô Viết không cấp giấy thông hành (passport) cho họ. Chỉ sau đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô, tội ác của Stalin bị vạch trần, từ đó ở Liên Xô người ta mới có chế độ cấp passport cho dân nông thôn như dân thành phố!
2/ Stalin là một con người rất đa nghi và rất sợ mất quyền lực. Cho nên ngay cả những người cùng hàng ngũ của ông ta, nếu lộ ra hoặc bị nghi là bất đồng tư tưởng với ông ta là ông tìm cách thanh toán không chút thương tiếc. Một ví dụ rất điển hình là tại đại hội XVII Đảng Cộng sản Liên Xô (năm 1934), phần đông đại biểu muốn bầu Kirov làm Tổng bí thư. Thế là sau đại hội, Stalin trả thù: 98 người trong tổng số 139 ủy viên trung ương chính thức và dự khuyết do đại hội XVII bầu ra, tức là 70%, đã bị bắt và bị xử bắn (phần lớn vào những năm 1937-38).
Không những các ủy viên trung ương mà đa số đại biểu dự đại hội XVII của Đảng cũng chịu chung số phận: trong số 1.956 đại biểu chính thức và dự khuyết thì 1.108 người bị bắt và ghép tội phản cách mạng. Như vậy, Stalin đã đánh ngay vào cái Đảng Cộng sản Liên Xô mà chính ông ta làm Tổng bí thư.
Sau đây là một vài con số chính thức về cuộc đại khủng bố (1937-1938): Đã có trên 1.440.000 người bị kết án, trong số đó trên 725.000 người bị bắn, trong số bị bắn có nhiều ủy viên Bộ Chính trị , ủy viên trung ương, người đứng đầu chính phủ, Bộ trưởng v.v... Kể cả một ủy viên Bộ Chính trị là Chủ tịch đầu tiên của Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản là Zinoviev; một ủy viên Bộ Chính trị, người đứng thứ ba sau Lênin (người đứng thứ hai là Trostski thì đã bị Stalin diệt rồi) là Kamenev, một ủy viên Bộ Chính trị được coi là người con yêu của đảng là Bukharin cũng bị bắn. Một số cán bộ người nước ngoài của Quốc tế Cộng sản cũng bị giết.
Trong hàng ngũ quân đội, thì có đến trên 41.000 sĩ quan và binh lính bị xử tử, kể cả nhiều nguyên soái, các tướng lĩnh cho đến binh nhì. Đó là chưa nói đến hàng trăm nghìn người thuộc các dân tộc không phải Nga bị cưỡng bức di dân đến các vùng khác phải bỏ mình trên đường đi hay ở nơi mới đến. Cho nên có nhà sử học đã kêu lên: Stalin đúng là một tên diệt chủng đối với nhân dân nước mình!
Còn đối với người nước ngoài thì dã man nhất là Stalin đã ra lệnh giết 20.000 sĩ quan Ba Lan hồi tháng 2 năm 1940 ở rừng Katyn, gần Smolensk, rồi vu khống cho phát xít Đức giết. Các lãnh đạo khác sau này của Liên Xô cứ mập mờ, ấp úng không chịu công bố sự thật, mãi gần đây các lãnh đạo Nga mới chịu công bố. Xin nói rõ thêm: các sĩ quan Ba Lan này đã đánh nhau với phát xít Đức khi bọn này tấn công Ba Lan, họ bị thua nên chạy sang Liên Xô lánh nạn và bị giết.
Còn nhiều chuyện nữa, nhưng xin dừng tại đây.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa Stalin đối với Việt Nam
Như nhiều người biết, ảnh hưởng đó cho đến nay vẫn còn rất nặng nề. Nó biểu hiện rất rõ ở vài điểm sau đây:
1/ Cho đến bây giờ, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn giương cao chủ nghĩa Mác Lênin trong điều lệ, trong đường lối, chính sách của đảng. Cái gọi là chủ nghĩa Mác Lênin mà Đảng Cộng sản Việt Nam nói đến, thực chất là chủ nghĩa Stalin. Từ thời bí mật cho đến ngày nay, các cán bộ cao và trung cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam học về chủ nghĩa Lênin chủ yếu từ cuốn “Nguyên lý chủ nghĩa Lênin” được biên soạn dưới sự hướng dẫn của Stalin, theo cách nhìn của Stalin. Đó là một thứ chủ nghĩa Lênin đã biến dạng.
Và ngay cả ông Hồ Chí Minh đến Liên Xô sau khi Lênin đã qua đời, ông đã sống và học tập dưới thời của Stalin, ông tiếp nhận cả lý luận cũng như toàn bộ thực tiễn của thời đó (như sự kềm kẹp, đàn áp người dân, tiêu diệt các tôn giáo, thanh trừng nội bộ...) nên cái chủ nghĩa, cũng như cái cung cách cai trị mà ông du nhập vào Việt Nam thực tế cũng là chủ nghĩa Stalin. Nói rằng lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam theo chủ nghĩa Stalin thì người ta giẫy nẩy chối đây đẩy, vì người ta biết rằng Stalin là một tên sát nhân bị thế giới phỉ nhổ. Nhưng, khi nhìn vào lời nói và hành động của lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam thì không thể nào nói khác được!
2/ Chuyện trước mắt hiện nay ở Việt Nam đang tranh cãi là điều 4 Hiến pháp. Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam thì khăng khăng cho rằng phải giữ và ghi rõ quyền lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản vào Hiến pháp, trái hẳn với ý kiến và nguyện vọng của các nhân sĩ, trí thức tiến bộ, các công dân tự do, các vị lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo và người dân có hiểu biết. Khi nghe lập luận hồ đồ của các lãnh đạo cao nhất của đảng, cũng như lũ tôi tớ viết thuê, nói thuê của họ, ta thấy họ lặp lại gần như nguyên văn những lời nói có tính áp đặt chẳng cần lý lẽ gì của Stalin hồi năm 1936.
Xin trích vài câu: “Tôi phải thừa nhận rằng, trong dự thảo Hiến pháp , thực tế đã để nguyên hiệu lực của chế độ chuyên chính của giai cấp công nhân cũng như giữ nguyên không thay đổi điều nói về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô (vỗ tay nhiệt liệt)... Ở Liên Xô không có mảnh đất cho sự tồn tại của các đảng khác, nghĩa là không có tự do cho các đảng ấy. Chính vì thế tôi nghĩ rằng Hiến pháp Liên Xô là Hiến pháp duy nhất trên thế giới có tính dân chủ triệt để.” (sách: “Về dự thảo Hiến pháp Liên Xô”, NXB Partizdat, 1937 - người viết dịch từ nguyên bản tiếng Nga). Bằng chứng rõ rành rành là ngày nay lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn đang theo chủ nghĩa Stalin.
3/ Chính là dựa trên cái nền “dân chủ triệt để” đó của Liên Xô mà từ tháng 9 năm 1929, Stalin đã lập ra các trại lao động cải tạo (mỹ danh chỉ nhà tù Cộng sản ) và phát triển ngày càng nhiều đến mức nhà văn nổi tiếng Soljenitsyn gọi cả hệ thống các trại lao động cải tạo đó là Quần đảo ngục tù (goulag) để nhốt hàng nhiều triệu “kẻ thù của nhân dân”.
Stalin thường cười bọn Nga hoàng ngốc lắm, giam tù lỏng lẻo, mà còn cho tù ngồi đọc sách, viết sách, cho vợ con tù đến ở gần hàng tuần và người đi đày thì được đi săn, đi câu, nên ông ra lệnh siết rất chặt chế độ nhà tù xô-viết. Từ năm 1937, ông còn cho phép lập “nhóm ba người” trong Bộ Nội vụ có quyền quyết định mức án đối với tù nhân mà không cần phải qua tòa án. Cái chế độ tù đày và hệ thống các trại lao động cải tạo ở Việt Nam cũng chính là sự thực hành chủ nghĩa Stalin trong thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vài lời kết
Trong thời đại ngày nay, mọi chế độ độc tài toàn trị, dù là độc tài Cộng sản hay không Cộng sản, độc tài cá nhân hay độc tài tập thể, trước sau gì cũng phải sụp đổ trước sức mạnh của đại chúng và sức ép của dư luận quốc tế. Cái gương những Honecker, Ceausescu, Hussein, Kadahfi, Mubarak... đã cho mọi người thấy rõ.
Ngày nay, trong nước ta một thế hệ trẻ đầy lòng yêu nước, yêu tự do có tinh thần dấn thân cao đã xuất hiện, báo hiệu tốt cho tiền đồ cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài toàn trị theo hình mẫu của chủ nghĩa Stalin.
http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20130321-stalin-la-lanh-tu-tai-ba-hay-bao-chua-khat-mau
Trong tập tài liệu Les crimes de masse sous Staline (1930-1953) - Những tội ác tập thể của Stalin, công bố năm 2008,chuyên gia Nicolas Werth của trường Đại học Chính trị Pháp thống kê được 10 đợt khủng bố chính trị trong và ngoài nước, nhân danh lòng ái quốc.
Tháng 10/2007, lần đầu tiên Tổng thống Nga Vladimir Putin tham dự buổi lễ truy điệu từ 20 triệu đến 40 triệu nạn nhân của kẻ được mệnh danh là tay đồ tể. Đứng bên cạnh một « mồ chôn tập thể » ở thao trường quân sự Butovo, ngoại ô Maxcơva, nơi mà mật vụ Liên Xô đã xử bắn hàng chục ngàn người, Tổng thống Nga kêu gọi dân Nga « đoàn kết » đừng để tái diễn « quá khứ đau thương này ». Cựu trung tá KGB lên án điều mà ông gọi là « ý thức hệ hoang tưởng » nhưng bề ngoài được ngụy trang bằng những « giá trị cơ bản, nhân sinh, tự do dân chủ ».
70 năm trước, trong đợt « đại khủng bố » từ tháng 8/1937 đến tháng 11/1938, hơn 1,5 triệu người bị bắt và 800.000 bị xử bắn mà phần lớn… là đảng viên đảng cộng sản.
Tuy nhiên đến năm 2013 này, nhân ngày giỗ 60 của Stalin thì tình hình tại Nga có vẻ đổi khác.Theo nhà xã hội học Nga Lev Gudkov,chính quyền Putin công khai vinh danh Stalin. Trong một quyển sách giáo khoa được Bộ Giáo dục công nhận, ông Stalin được mô tả là một nhà « lãnh đạo hiệu quả ». Không ít người Nga mơ tưởng một Stalin « thứ hai » để phục hồi chế độ mà họ cho là « vàng son ».
Trong một cuộc thăm dò ý kiến năm 2012, có đến 47% người Nga tin rằng nhờ Stalin « sáng suốt » mà « Liên Xô được hùng mạnh phú cường » quốc tế kiêng nể. Tỷ lệ ý kiến ngược lại chỉ có 37%.
Nhà nghiên cứu chính trị Nga Maria Lipman, quy trách nhiệm cho cặp lãnh đạo Putin-Medvedev . Tuy hai nhân vật này tố cáo tội ác Stalin nhưng lại tránh phân tích sâu xa chủ nghĩa Stalin, vì chế độ hiện nay cũng xây dựng quyền lực « dựa vào mật vụ trấn áp dân chúng » bất chấp vết xe đổ. Tại Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Việt Nam « trại cải tạo lao động » vẫn tồn tại với nhiều hình thức.
Stalin là bạo chúa khát máu hay là một nhà lãnh đạo sáng suốt ? RFI đặt câu hỏi với nhà báo Nguyễn Minh Cần từ Maxcơva.
Đề tài về Stalin lại nổi lên
Trong tháng Ba năm nay, đề tài Stalin lại nổi lên trong dịp kỷ niệm 60 năm ngày ông qua đời. Điều này chẳng có gì lạ cả. Vì Iosif (Joseph) Stalin là vị chúa tể độc tài đã từng cai trị Liên bang Xô Viết bằng bàn tay sắt trong suốt 30 năm trời(1922-1953). Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, là Đại nguyên soái, Tổng tư lệnh tối cao các Lực lượng vũ trang Liên Xô, được suy tôn là “Người cha của các dân tộc”.
Do sự tuyên truyền, nhồi sọ người dân trong hàng chục năm trời, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã làm cho người dân Liên Xô một thời gian dài trên nửa thế kỷ sùng bái Stalin, coi ông không khác gì một vị thánh sống, một đấng cứu tinh của toàn nhân loại. Đến nỗi một nhà thơ Việt Nam, xứ sở cách xa Liên Xô hàng chục vạn cây số, mà cũng đã thốt lên: “Yêu biết mấy nghe con tập nói/Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!” (Bài thơ Đời đời nhớ Ông, của Tố Hữu, tháng 3/1953).
Một ít sự thật về Stalin
Thế nhưng, kể từ sau khi bản báo cáo mật của Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô, Khroutchev tại đại hội 20, Đảng Cộng Sản Liên Xô (25-2-1956) về “Tệ sùng bái cá nhân Stalin” được tiết lộ ra ngoài thì nhiều người mới tá hỏa là nhà độc tài “đỏ” này đã gây ra quá nhiều tội ác, trước hết là tội diệt chủng đối với nhân dân đất nước mà ông ta thống trị.
Tội ác của Stalin có nhiều mặt, ở đây chỉ xin nói vài điều thôi.
1/ Bằng chính sách tập thể hóa nông thôn trong nửa đầu thập niên 30, ông đã tiêu diệt không thương tiếc tầng lớp năng nổ, tích cực, sáng tạo nhất ở nông thôn mà ông gọi là tầng lớp cu-lắc. Chính sách này bị nông dân phản đối, thì tại hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản năm 1934, Stalin tuyên bố: “Phải tạo ra một tình thế mà các hộ cá thể, sau khi thu hoạch trên mảnh đất canh tác của họ, phải sống tồi hơn để họ có khả năng kém hơn các nông trang viên. Phải tăng thêm gánh nặng thuế má cho họ.”
Ở nhiều vùng, nông dân nổi dậy, Stalin đưa quân tàn sát rất dã man. Ở Ukraina, nơi được coi là vựa lúa của Liên Xô, cả một vùng lớn, nông dân không nổi dậy nhưng cũng không chịu vào nông trang tập thể, thế là Stalin dùng cái chính sách, tiếng Nga gọi là “golodomor”, dịch ra tiếng Việt là “làm cho chết đói”, nghĩa là cho quân bao vây cả vùng, không cho dân được xuất, không cho lương thực được nhập, đồng thời cho các đội (tựa như đội cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam hồi 1953) xuống từng làng lùng sục, tịch thu tất cả lương thực để cho dân chết đói. Trong trận “golodomor” này có từ 20 đến 25 triệu người chết vì đói.
Nhà văn nổi tiếng Liên Xô Vasili Grosman đã mô tả trận giam đói nông dân ghê rợn này trong cuốn sách tựa đề “Mọi sự trôi qua”. Một điều chúng tôi nói thêm mà rất nhiều người Việt Nam không hề biết và không thể tưởng tượng nổi, là ở Liên Xô mãi cho đến năm 1956, nông dân vẫn sống như dưới thời nông nô (mặc dù chế độ nông nô đã được Nga hoàng xóa bỏ từ năm 1861), vì nông dân không được ra khỏi nông thôn. Một cách giản đơn nhất để làm chuyện đó là chính quyền Xô Viết không cấp giấy thông hành (passport) cho họ. Chỉ sau đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô, tội ác của Stalin bị vạch trần, từ đó ở Liên Xô người ta mới có chế độ cấp passport cho dân nông thôn như dân thành phố!
2/ Stalin là một con người rất đa nghi và rất sợ mất quyền lực. Cho nên ngay cả những người cùng hàng ngũ của ông ta, nếu lộ ra hoặc bị nghi là bất đồng tư tưởng với ông ta là ông tìm cách thanh toán không chút thương tiếc. Một ví dụ rất điển hình là tại đại hội XVII Đảng Cộng sản Liên Xô (năm 1934), phần đông đại biểu muốn bầu Kirov làm Tổng bí thư. Thế là sau đại hội, Stalin trả thù: 98 người trong tổng số 139 ủy viên trung ương chính thức và dự khuyết do đại hội XVII bầu ra, tức là 70%, đã bị bắt và bị xử bắn (phần lớn vào những năm 1937-38).
Không những các ủy viên trung ương mà đa số đại biểu dự đại hội XVII của Đảng cũng chịu chung số phận: trong số 1.956 đại biểu chính thức và dự khuyết thì 1.108 người bị bắt và ghép tội phản cách mạng. Như vậy, Stalin đã đánh ngay vào cái Đảng Cộng sản Liên Xô mà chính ông ta làm Tổng bí thư.
Sau đây là một vài con số chính thức về cuộc đại khủng bố (1937-1938): Đã có trên 1.440.000 người bị kết án, trong số đó trên 725.000 người bị bắn, trong số bị bắn có nhiều ủy viên Bộ Chính trị , ủy viên trung ương, người đứng đầu chính phủ, Bộ trưởng v.v... Kể cả một ủy viên Bộ Chính trị là Chủ tịch đầu tiên của Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản là Zinoviev; một ủy viên Bộ Chính trị, người đứng thứ ba sau Lênin (người đứng thứ hai là Trostski thì đã bị Stalin diệt rồi) là Kamenev, một ủy viên Bộ Chính trị được coi là người con yêu của đảng là Bukharin cũng bị bắn. Một số cán bộ người nước ngoài của Quốc tế Cộng sản cũng bị giết.
Trong hàng ngũ quân đội, thì có đến trên 41.000 sĩ quan và binh lính bị xử tử, kể cả nhiều nguyên soái, các tướng lĩnh cho đến binh nhì. Đó là chưa nói đến hàng trăm nghìn người thuộc các dân tộc không phải Nga bị cưỡng bức di dân đến các vùng khác phải bỏ mình trên đường đi hay ở nơi mới đến. Cho nên có nhà sử học đã kêu lên: Stalin đúng là một tên diệt chủng đối với nhân dân nước mình!
Còn đối với người nước ngoài thì dã man nhất là Stalin đã ra lệnh giết 20.000 sĩ quan Ba Lan hồi tháng 2 năm 1940 ở rừng Katyn, gần Smolensk, rồi vu khống cho phát xít Đức giết. Các lãnh đạo khác sau này của Liên Xô cứ mập mờ, ấp úng không chịu công bố sự thật, mãi gần đây các lãnh đạo Nga mới chịu công bố. Xin nói rõ thêm: các sĩ quan Ba Lan này đã đánh nhau với phát xít Đức khi bọn này tấn công Ba Lan, họ bị thua nên chạy sang Liên Xô lánh nạn và bị giết.
Còn nhiều chuyện nữa, nhưng xin dừng tại đây.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa Stalin đối với Việt Nam
Như nhiều người biết, ảnh hưởng đó cho đến nay vẫn còn rất nặng nề. Nó biểu hiện rất rõ ở vài điểm sau đây:
1/ Cho đến bây giờ, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn giương cao chủ nghĩa Mác Lênin trong điều lệ, trong đường lối, chính sách của đảng. Cái gọi là chủ nghĩa Mác Lênin mà Đảng Cộng sản Việt Nam nói đến, thực chất là chủ nghĩa Stalin. Từ thời bí mật cho đến ngày nay, các cán bộ cao và trung cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam học về chủ nghĩa Lênin chủ yếu từ cuốn “Nguyên lý chủ nghĩa Lênin” được biên soạn dưới sự hướng dẫn của Stalin, theo cách nhìn của Stalin. Đó là một thứ chủ nghĩa Lênin đã biến dạng.
Và ngay cả ông Hồ Chí Minh đến Liên Xô sau khi Lênin đã qua đời, ông đã sống và học tập dưới thời của Stalin, ông tiếp nhận cả lý luận cũng như toàn bộ thực tiễn của thời đó (như sự kềm kẹp, đàn áp người dân, tiêu diệt các tôn giáo, thanh trừng nội bộ...) nên cái chủ nghĩa, cũng như cái cung cách cai trị mà ông du nhập vào Việt Nam thực tế cũng là chủ nghĩa Stalin. Nói rằng lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam theo chủ nghĩa Stalin thì người ta giẫy nẩy chối đây đẩy, vì người ta biết rằng Stalin là một tên sát nhân bị thế giới phỉ nhổ. Nhưng, khi nhìn vào lời nói và hành động của lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam thì không thể nào nói khác được!
2/ Chuyện trước mắt hiện nay ở Việt Nam đang tranh cãi là điều 4 Hiến pháp. Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam thì khăng khăng cho rằng phải giữ và ghi rõ quyền lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản vào Hiến pháp, trái hẳn với ý kiến và nguyện vọng của các nhân sĩ, trí thức tiến bộ, các công dân tự do, các vị lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo và người dân có hiểu biết. Khi nghe lập luận hồ đồ của các lãnh đạo cao nhất của đảng, cũng như lũ tôi tớ viết thuê, nói thuê của họ, ta thấy họ lặp lại gần như nguyên văn những lời nói có tính áp đặt chẳng cần lý lẽ gì của Stalin hồi năm 1936.
Xin trích vài câu: “Tôi phải thừa nhận rằng, trong dự thảo Hiến pháp , thực tế đã để nguyên hiệu lực của chế độ chuyên chính của giai cấp công nhân cũng như giữ nguyên không thay đổi điều nói về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô (vỗ tay nhiệt liệt)... Ở Liên Xô không có mảnh đất cho sự tồn tại của các đảng khác, nghĩa là không có tự do cho các đảng ấy. Chính vì thế tôi nghĩ rằng Hiến pháp Liên Xô là Hiến pháp duy nhất trên thế giới có tính dân chủ triệt để.” (sách: “Về dự thảo Hiến pháp Liên Xô”, NXB Partizdat, 1937 - người viết dịch từ nguyên bản tiếng Nga). Bằng chứng rõ rành rành là ngày nay lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn đang theo chủ nghĩa Stalin.
3/ Chính là dựa trên cái nền “dân chủ triệt để” đó của Liên Xô mà từ tháng 9 năm 1929, Stalin đã lập ra các trại lao động cải tạo (mỹ danh chỉ nhà tù Cộng sản ) và phát triển ngày càng nhiều đến mức nhà văn nổi tiếng Soljenitsyn gọi cả hệ thống các trại lao động cải tạo đó là Quần đảo ngục tù (goulag) để nhốt hàng nhiều triệu “kẻ thù của nhân dân”.
Stalin thường cười bọn Nga hoàng ngốc lắm, giam tù lỏng lẻo, mà còn cho tù ngồi đọc sách, viết sách, cho vợ con tù đến ở gần hàng tuần và người đi đày thì được đi săn, đi câu, nên ông ra lệnh siết rất chặt chế độ nhà tù xô-viết. Từ năm 1937, ông còn cho phép lập “nhóm ba người” trong Bộ Nội vụ có quyền quyết định mức án đối với tù nhân mà không cần phải qua tòa án. Cái chế độ tù đày và hệ thống các trại lao động cải tạo ở Việt Nam cũng chính là sự thực hành chủ nghĩa Stalin trong thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vài lời kết
Trong thời đại ngày nay, mọi chế độ độc tài toàn trị, dù là độc tài Cộng sản hay không Cộng sản, độc tài cá nhân hay độc tài tập thể, trước sau gì cũng phải sụp đổ trước sức mạnh của đại chúng và sức ép của dư luận quốc tế. Cái gương những Honecker, Ceausescu, Hussein, Kadahfi, Mubarak... đã cho mọi người thấy rõ.
Ngày nay, trong nước ta một thế hệ trẻ đầy lòng yêu nước, yêu tự do có tinh thần dấn thân cao đã xuất hiện, báo hiệu tốt cho tiền đồ cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài toàn trị theo hình mẫu của chủ nghĩa Stalin.
http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20130321-stalin-la-lanh-tu-tai-ba-hay-bao-chua-khat-mau
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 254
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0254
HÀ THÚC SINH - PHAN - HUY PHƯƠNG - SƠN TRUNG
Sunday, March 24, 2013
HÀ THÚC SINH * TRUYỆN CŨ
Hà Thúc Sinh
Truyện Cũ
Tính
chàng cẩn thận, đi đâu khoá cửa trước sau, huống hồ tủ giả ngăn kéo
trong nhà; vậy mà một chiều mùa Đông từ toà báo về, lười nấu, ghé quán
ăn bậy tô mì, tính rút điện thoại ngủ sớm, vừa mở cửa thấy ngay nàng
ngồi nơi bàn viết, mặc tấm áo vàng chàng tặng khi xưa nay thời gian đã
làm ố bạc phần nào. Nàng ngồi kín đáo khép chân, tưởng như sự phát phì
đã nuốt trửng phong cách khiêu khích cũ. Đàn bà, chàng nghĩ, chỉ thời
gian hạ nổi sự cường dã nơi họ!
Nàng lên tiếng trước, giọng mệt, khá mềm mỏng:
“Ngạc nhiên?”
Chàng cởi áo khoác móc trên giá:
“Tài ha, vào cách nào vậy em?”
“Anh không từng bảo em luôn sống giữa tim anh?”
Cải lương! Chàng cười thầm, xoa tay, hỏi lảng:
“Sao không vặn sưởi cho ấm?”
“Thành tro lâu rồi còn biết gì lạnh!”
Lại dỗi! Nhưng nhờ đó chàng lại hiểu rõ hơn một điều. Thời gian chỉ làm mòn nét đẹp nàng nhưng không làm mòn được cá tính. Nàng chúa gây. Và đó là một cách gây. Nhưng thôi. Ba năm rồi ít gì. Gặp lại con mèo lạc người ta còn thương, huống hồ tình cũ.
Chàng đến bên đặt khẽ tay trên vai nàng. Nàng không chống mà vói một tay chận trên tay chàng. Giữa lúc chàng bâng khuâng nhìn làn da tay nàng nhăn nhúm khác thường thì nàng đột ngột ngửa mặt cười; chàng cố cười theo, giọng đấu dịu:
“Nhiều lúc nhớ em...”
“Những tối không có lũ đào non quấy rầy?”
“Đừng...”
“Lạ gì bọn đàn ông các anh.”
“Nữa.”
“Chúa ích kỷ.”
Chàng thả người xuống chiếc ghế kế bên, giọng giả lả:
“Sao, ích kỷ sao, nói nghe.”
“Văn mình vợ người. Ấy chứ đứa nào chim vợ mình không phạm tội giết người cũng toan tội tự tử!”
Thấy bất nhẫn, chàng toan ôm lấy nàng thì nàng hơi dạt ra, nhẹ khoa tay, giọng thương cảm bất ngờ: “Thôi em rút lại. Em nào phải vợ anh. Mười năm sống ba năm xa.”
Nàng đặt hai tay trên đùi, cúi nhìn chiếc bụng đẫy đà trên đôi hông nở nang, thở dài: “Em xộc xệch quá rồi anh hả. Bị quên cũng đáng đời. Nhưng chớ nghĩ em quên anh đâu đấy. Báo anh giờ hàng đầu. Chiến lắm. Hôm nay không dưng nhớ, ghé thăm, nhưng đừng lo, chẳng nhờ đăng hiếu hỉ miễn phí đâu.”
Thế là:
“Chai nào ngon em?”
Nàng cười:
“Người có danh rượu vanh có tuổi, chai nào quên lâu nhất sẽ đậm đà nhất!”
Căn phòng bít bùng ba năm qua lại đầy khói thuốc lá, rượu, tiếng cười, tiếng khóc, và dường như có hơn hai con người.
Rượu nắm tay chàng dẫn đến sự ngả ngớn nhưng nàng thì không, mặt cứ sạm dần như bụi phủ.
Nàng bảo:
“Anh hứa mình sẽ sống với nhau tròn ba mươi năm. Ba mươi năm phải là ba mươi chương đời thấm thía.”
“Sao?”
“Anh làm hỏng em, bôi bẩn lên tường đời một bệt và bảo đó là chữ yêu.”
“Anh...”
Nàng thở dài:
“Chẳng trách giận đâu, nhưng bao giờ anh bỏ được thói hư đó?”
Chàng nốc chút cặn rượu, nói kiểu chữa ngượng:
“Đời có những thói hư chưa kịp sửa đã già!”
“Chạy làng đấy!”
Đột ngột nàng đứng lên lặng lẽ nhìn ra bóng đêm ngoài cửa sổ, lâu lắm mới thầm thì: “Dãy lê kia đã nhìn em với bao mùa Đông trôi qua!”
Chàng khẽ nhắm mắt, đầu nổi những chòm cây lấm tấm hoa trắng như lũ bạc đầu, bất giác nghĩ cần an ủi cho sự bẽ bàng của người đàn bà chàng quá hiểu vì đâu đâm dang dở.
Chàng nói khẽ:
“Anh xấu quá, phải không?”
Nàng quay phắt lại, mắt có ngấn lệ, giọng cay đắng hẳn:
“Nhưng anh là đàn ông!”
“Thà làm người đàn bà đẹp hơn làm người đàn ông xấu!”
Nàng chưng hửng:
“Vẫn thói ngạo mạn! Nhưng tệ là anh không làm theo điều anh nghĩ. Anh phá huỷ em. Đến sự hiện hữu của em anh còn chẳng thiết, nữa là đẹp.”
“Nhảm nào. Có điều...”
“Lại biện bác.”
“Không, thật đấy. Anh thề anh muốn em sống mãi, đẹp mãi, nhưng...”
“Trăm sự có phải vì anh tham, anh lý tưởng?”
“Có thể, nhưng em ơi, em cần biết mọi dự tính đều thần tiên lúc khởi đầu nhưng ác quỷ xuất hiện trong chi tiết.”
“Và vì thế giày chật vứt giày đi, không gọt chân mình được?”
“Anh...”
Chàng nói ngập ngừng như kẻ ngọng, rồi úp mặt vào lòng nàng không rõ để cầu hoà hay giấu khổ sở. Nghe giọng nàng biết. Xỉn đến nơi. Trời đêm bên ngoài bê bết màu đèn vàng lạnh. Biết có nói, có kể, thậm chí có rên xiết cũng bằng thừa, nàng lặng lẽ lấy gối kê đầu chàng, đi thu dọn ly tách chai lọ, lau bàn, sắp xếp gọn ghẽ mọi thứ như một người vợ hiền. Rồi nàng ra soi trước gương, phủi nhẹ ít nếp nhăn trên tấm áo khoác vàng, thở dài ngửi thấy mùi bụi mốc. Ngủ lại với chàng chăng? Nàng tự hỏi. Trời ơi nàng chưa quên chút nào những tật xấu của chàng khi ân ái, nhưng cũng vì đó nàng say đắm chàng. Yêu xong chàng hay vói tay lấy gói thuốc chỗ đó, bật diêm, gác chân lên thành giường chỗ kia, rít sâu từng hơi, mắt đăm chiêu như cố hình dung lại một thân thể nào đó trong lũ đào non của chàng. Nhưng đêm nay rõ chàng đã già, mới nửa chai vanh đã lăn như cái lọ thế này còn nước non gì! Nàng quyết định ra về với mối sầu chịu đựng. Lần cuối liếc qua bàn, nàng đọc trúng câu thơ chàng viết dở, ngẫm nghĩ giây lâu.
Câu thơ viết:
...
Ô hô ai tai!
Ô hô ai tai!
(Có nhiều gạch xoá.)
Những cánh buồm xưa giờ đã rách,
không còn ủ được gió tương lai (*)
...
Nghĩa là sao vậy nhỉ? Thốt nhiên nàng phát giận đùng đùng. Nàng phun vào bàn viết chàng một tràng những từ không đẹp đẽ. Rồi như phải tìm cho ra kẻ xúi giục chàng bệ rạc, bỏ bê mình, nàng nhìn quanh, khi bất lực, điên tiết nàng gạt luôn một xấp báo của chàng vào thùng rác, đẩy mạnh cửa bước ra ngoài trời sương.
Có giọng nhừa nhựa dễ ghét nói với theo:
“Khoá trái giùm anh, cưng nhé!”
Gần sáng lạnh ngắt nhưng men rượu khiến chàng thèm nàng, thèm khủng khiếp. Chàng vòng tay ôm lấy nàng, mò mẫm trong ngực nàng, bất giác thất kinh. Đâu mà gầy nhanh thế. Lạnh gáy nghĩ có người đàn bà lạ vừa xâm nhập phòng mình, chàng bật đèn, ngơ ngác thấy trên giường chỉ một khối cô đơn, vài quyển sách vụn vặt, dăm tờ báo lem nhem. Nhưng lạ, không hiểu sao trên bàn viết lại nằm xộc xệch chồng bản thảo đã dày bộn chàng cất đâu trong ngăn kéo mấy năm qua; đó là bản thảo một tiểu thuyết viết dở dang, một tiểu thuyết chàng từng mơ một thời, ước một thủa.
Ngồi xuống ghế, rà nhẹ bàn tay trên bìa sách vàng ố có những vết mực cũ loang như máu mắt, chàng lắng mãi vẫn chưa định được ngoài trời gió nổi hay lòng vừa chộn rộn một nỗi ray rứt, u hoài./.
___
(*) thơ Trần Kiêu Bạt
Alhambra 1-96
Nàng lên tiếng trước, giọng mệt, khá mềm mỏng:
“Ngạc nhiên?”
Chàng cởi áo khoác móc trên giá:
“Tài ha, vào cách nào vậy em?”
“Anh không từng bảo em luôn sống giữa tim anh?”
Cải lương! Chàng cười thầm, xoa tay, hỏi lảng:
“Sao không vặn sưởi cho ấm?”
“Thành tro lâu rồi còn biết gì lạnh!”
Lại dỗi! Nhưng nhờ đó chàng lại hiểu rõ hơn một điều. Thời gian chỉ làm mòn nét đẹp nàng nhưng không làm mòn được cá tính. Nàng chúa gây. Và đó là một cách gây. Nhưng thôi. Ba năm rồi ít gì. Gặp lại con mèo lạc người ta còn thương, huống hồ tình cũ.
Chàng đến bên đặt khẽ tay trên vai nàng. Nàng không chống mà vói một tay chận trên tay chàng. Giữa lúc chàng bâng khuâng nhìn làn da tay nàng nhăn nhúm khác thường thì nàng đột ngột ngửa mặt cười; chàng cố cười theo, giọng đấu dịu:
“Nhiều lúc nhớ em...”
“Những tối không có lũ đào non quấy rầy?”
“Đừng...”
“Lạ gì bọn đàn ông các anh.”
“Nữa.”
“Chúa ích kỷ.”
Chàng thả người xuống chiếc ghế kế bên, giọng giả lả:
“Sao, ích kỷ sao, nói nghe.”
“Văn mình vợ người. Ấy chứ đứa nào chim vợ mình không phạm tội giết người cũng toan tội tự tử!”
Thấy bất nhẫn, chàng toan ôm lấy nàng thì nàng hơi dạt ra, nhẹ khoa tay, giọng thương cảm bất ngờ: “Thôi em rút lại. Em nào phải vợ anh. Mười năm sống ba năm xa.”
Nàng đặt hai tay trên đùi, cúi nhìn chiếc bụng đẫy đà trên đôi hông nở nang, thở dài: “Em xộc xệch quá rồi anh hả. Bị quên cũng đáng đời. Nhưng chớ nghĩ em quên anh đâu đấy. Báo anh giờ hàng đầu. Chiến lắm. Hôm nay không dưng nhớ, ghé thăm, nhưng đừng lo, chẳng nhờ đăng hiếu hỉ miễn phí đâu.”
Thế là:
“Chai nào ngon em?”
Nàng cười:
“Người có danh rượu vanh có tuổi, chai nào quên lâu nhất sẽ đậm đà nhất!”
Căn phòng bít bùng ba năm qua lại đầy khói thuốc lá, rượu, tiếng cười, tiếng khóc, và dường như có hơn hai con người.
Rượu nắm tay chàng dẫn đến sự ngả ngớn nhưng nàng thì không, mặt cứ sạm dần như bụi phủ.
Nàng bảo:
“Anh hứa mình sẽ sống với nhau tròn ba mươi năm. Ba mươi năm phải là ba mươi chương đời thấm thía.”
“Sao?”
“Anh làm hỏng em, bôi bẩn lên tường đời một bệt và bảo đó là chữ yêu.”
“Anh...”
Nàng thở dài:
“Chẳng trách giận đâu, nhưng bao giờ anh bỏ được thói hư đó?”
Chàng nốc chút cặn rượu, nói kiểu chữa ngượng:
“Đời có những thói hư chưa kịp sửa đã già!”
“Chạy làng đấy!”
Đột ngột nàng đứng lên lặng lẽ nhìn ra bóng đêm ngoài cửa sổ, lâu lắm mới thầm thì: “Dãy lê kia đã nhìn em với bao mùa Đông trôi qua!”
Chàng khẽ nhắm mắt, đầu nổi những chòm cây lấm tấm hoa trắng như lũ bạc đầu, bất giác nghĩ cần an ủi cho sự bẽ bàng của người đàn bà chàng quá hiểu vì đâu đâm dang dở.
Chàng nói khẽ:
“Anh xấu quá, phải không?”
Nàng quay phắt lại, mắt có ngấn lệ, giọng cay đắng hẳn:
“Nhưng anh là đàn ông!”
“Thà làm người đàn bà đẹp hơn làm người đàn ông xấu!”
Nàng chưng hửng:
“Vẫn thói ngạo mạn! Nhưng tệ là anh không làm theo điều anh nghĩ. Anh phá huỷ em. Đến sự hiện hữu của em anh còn chẳng thiết, nữa là đẹp.”
“Nhảm nào. Có điều...”
“Lại biện bác.”
“Không, thật đấy. Anh thề anh muốn em sống mãi, đẹp mãi, nhưng...”
“Trăm sự có phải vì anh tham, anh lý tưởng?”
“Có thể, nhưng em ơi, em cần biết mọi dự tính đều thần tiên lúc khởi đầu nhưng ác quỷ xuất hiện trong chi tiết.”
“Và vì thế giày chật vứt giày đi, không gọt chân mình được?”
“Anh...”
Chàng nói ngập ngừng như kẻ ngọng, rồi úp mặt vào lòng nàng không rõ để cầu hoà hay giấu khổ sở. Nghe giọng nàng biết. Xỉn đến nơi. Trời đêm bên ngoài bê bết màu đèn vàng lạnh. Biết có nói, có kể, thậm chí có rên xiết cũng bằng thừa, nàng lặng lẽ lấy gối kê đầu chàng, đi thu dọn ly tách chai lọ, lau bàn, sắp xếp gọn ghẽ mọi thứ như một người vợ hiền. Rồi nàng ra soi trước gương, phủi nhẹ ít nếp nhăn trên tấm áo khoác vàng, thở dài ngửi thấy mùi bụi mốc. Ngủ lại với chàng chăng? Nàng tự hỏi. Trời ơi nàng chưa quên chút nào những tật xấu của chàng khi ân ái, nhưng cũng vì đó nàng say đắm chàng. Yêu xong chàng hay vói tay lấy gói thuốc chỗ đó, bật diêm, gác chân lên thành giường chỗ kia, rít sâu từng hơi, mắt đăm chiêu như cố hình dung lại một thân thể nào đó trong lũ đào non của chàng. Nhưng đêm nay rõ chàng đã già, mới nửa chai vanh đã lăn như cái lọ thế này còn nước non gì! Nàng quyết định ra về với mối sầu chịu đựng. Lần cuối liếc qua bàn, nàng đọc trúng câu thơ chàng viết dở, ngẫm nghĩ giây lâu.
Câu thơ viết:
...
Ô hô ai tai!
Ô hô ai tai!
(Có nhiều gạch xoá.)
Những cánh buồm xưa giờ đã rách,
không còn ủ được gió tương lai (*)
...
Nghĩa là sao vậy nhỉ? Thốt nhiên nàng phát giận đùng đùng. Nàng phun vào bàn viết chàng một tràng những từ không đẹp đẽ. Rồi như phải tìm cho ra kẻ xúi giục chàng bệ rạc, bỏ bê mình, nàng nhìn quanh, khi bất lực, điên tiết nàng gạt luôn một xấp báo của chàng vào thùng rác, đẩy mạnh cửa bước ra ngoài trời sương.
Có giọng nhừa nhựa dễ ghét nói với theo:
“Khoá trái giùm anh, cưng nhé!”
Gần sáng lạnh ngắt nhưng men rượu khiến chàng thèm nàng, thèm khủng khiếp. Chàng vòng tay ôm lấy nàng, mò mẫm trong ngực nàng, bất giác thất kinh. Đâu mà gầy nhanh thế. Lạnh gáy nghĩ có người đàn bà lạ vừa xâm nhập phòng mình, chàng bật đèn, ngơ ngác thấy trên giường chỉ một khối cô đơn, vài quyển sách vụn vặt, dăm tờ báo lem nhem. Nhưng lạ, không hiểu sao trên bàn viết lại nằm xộc xệch chồng bản thảo đã dày bộn chàng cất đâu trong ngăn kéo mấy năm qua; đó là bản thảo một tiểu thuyết viết dở dang, một tiểu thuyết chàng từng mơ một thời, ước một thủa.
Ngồi xuống ghế, rà nhẹ bàn tay trên bìa sách vàng ố có những vết mực cũ loang như máu mắt, chàng lắng mãi vẫn chưa định được ngoài trời gió nổi hay lòng vừa chộn rộn một nỗi ray rứt, u hoài./.
___
(*) thơ Trần Kiêu Bạt
Alhambra 1-96
PHAN * XIN NGƯỜI CỨ GIAN DỐI
Tôi xin người cứ gian dối...
- Details
- Created on Thursday, 21 March 2013 21:23
- Category: Tạp Ghi
- Phan
Những
người không liên can nên thái độ vừa phải nhất là lắng nghe một người
đang hùng hồn biện luận “thật thà là cốt lõi của hạnh phúc”. Nhân vật
phản biện của anh ta lại là một nữ lưu; cô ta cũng lắng nghe bằng hết
sức kềm chế của một trái bom định vị đang dò tìm mục tiêu. Rồi hành vi
cuộn cuốn báo trong tay cô thành một ống tròn và vỗ cái ống giấy ấy vào
lòng bàn tay trái vừa xoè ra của cô - báo hiệu mục tiêu đã được phát
giác, nên tôi lắng nghe!
Cô nói: “Không, không nên thật thà trong tình yêu...”
Căn
phòng trở nên yên lặng đáng buồn cho không khí đang vui nhộn. Một người
khác đề nghị: “dẹp quách cái microphone đi cho rảnh; ba cái karaoke này
chỉ toàn lời nhảm nhí mà sao nhiều người lại thích quảng bá không công
cho nó chớ!...”
Rồi chẳng ai lên tiếng nữa, chẳng lẽ chỉ một lời nhạc, “tôi xin người cứ gian dối, nhưng xin người đừng lìa xa tôi...” lại
có thể dập tắt được một cuộc vui đang tới hồi hứng khởi bởi rượu bia?
Nhất là tiệc đầu năm; tiệc mừng trăng mới - Nguyên tiêu của những người
nguyên thủy còn sót lại trong xã hội đèn LED, có ai còn nghĩ đến trăng
đâu! Riêng tôi nghĩ không ra đồng loại của mình:
Có ai thật thà với ai bao giờ, ai cũng thừa biết điều ấy là sự thật! Nhưng người ta thay vì đi tìm hung thủ thì lại ru ngủ mình bằng ước mong một hôm, một ngày nào đó sẽ có người thật thà với mình - đó là người yêu lý tưởng - người chắc chắn sẽ đem đến hạnh phúc vô bờ cho ta. Nếu không chung sống được với người ấy thì đời này vô nghĩa... tôi giật mình không biết mình đã nghĩ đến đâu rồi, nên vội vàng quay lại với đồng loại. Con người khi thấy ai có vẻ thật thà với mình thì lấy làm mãn nguyện như một sự thành đạt; một ân sủng trong đời không bằng, đi tạ ơn trên với thỏa mãn lòng tự trọng của con người nhân đức hạnh nhất trần gian-là mình. Thế bỏ đâu cho hết những tội lỗi, sai lầm, mà ta cứ cố che đậy bao nhiêu thì người khác lại tài giỏi hơn ta trong việc phơi bày ra cho mọi người thấy rõ ta là ai và cũng là biết họ là ai...
Có ai thật thà với ai bao giờ, ai cũng thừa biết điều ấy là sự thật! Nhưng người ta thay vì đi tìm hung thủ thì lại ru ngủ mình bằng ước mong một hôm, một ngày nào đó sẽ có người thật thà với mình - đó là người yêu lý tưởng - người chắc chắn sẽ đem đến hạnh phúc vô bờ cho ta. Nếu không chung sống được với người ấy thì đời này vô nghĩa... tôi giật mình không biết mình đã nghĩ đến đâu rồi, nên vội vàng quay lại với đồng loại. Con người khi thấy ai có vẻ thật thà với mình thì lấy làm mãn nguyện như một sự thành đạt; một ân sủng trong đời không bằng, đi tạ ơn trên với thỏa mãn lòng tự trọng của con người nhân đức hạnh nhất trần gian-là mình. Thế bỏ đâu cho hết những tội lỗi, sai lầm, mà ta cứ cố che đậy bao nhiêu thì người khác lại tài giỏi hơn ta trong việc phơi bày ra cho mọi người thấy rõ ta là ai và cũng là biết họ là ai...
Trở
lại với bàn tiệc. Gần hơn quan hệ xã hội, đồng nghiệp là quan hệ
nam-nữ; trong tình yêu đôi lứa, người ta không suy xét gì trước khi tự
lừa dối mình rằng hai người phải thật thà với nhau thì mới yêu nhau được
chứ! Sao lại quá nhiều người nghĩ và tin như thế là lẽ phải? Trong khi
thật thà và yêu đương như hai nhánh của chữ “Y”, càng thật thì tình càng
xa nhau theo chiều lên; Trong khi hạnh phúc là chiều xuống- nếu hai
người biết giữ gìn sự thật bản thân một chút thì tình chìm nghỉm trong
hạnh phúc chung đường... về địa ngục.
Không
ngờ những suy nghĩ thầm lặng của tôi trùng khớp với lý luận của vị nữ
lưu đang trình bày, và khiến người đàn ông tranh luận với cô ta nổi
nóng, “Một người xinh đẹp, học thức như cô mà lại nói ra được những câu
phi truyền thống như thế thì tôi chịu!”
Tôi
chả biết anh ta muốn nói đến truyền thống nào của dân tộc; chả lẽ bốn
ngàn năm văn hiến chỉ hun đúc nên một con vẹt, (đã đi tu mà không bị đi
tù đã là may mắn; chả biết anh ta có mấy ý thức về trường hợp mình!) Một
người rành về anh ta nói cho tôi nghe như thế! Đúng là chuyện riêng của
người này là bùa hộ mạng của người khác trong xã hội đương đại. Người
ta để dành những bí mật của người khác như một thứ vũ khí khi đối phương
chưa động chạm đến mình - thì người ta cũng đã có thể phun ra để khẳng
định mình.
Tôi
chỉ thấy người hùng biện điên tiết nói, “Nếu không có sự thật thà trong
quan hệ xã hội thì nhân loại đi về đâu, làm gì có tình yêu, tình bạn;
sự cao đẹp và những giá trị thiêng liêng! Ngay cả hạnh phúc cũng là
hoang tưởng...”
Chúa
ơi! Giá đừng nghe người bên cạnh vừa cho biết thông tin cá nhân của
người đàn ông đang (trở thành cái rốn của vũ trụ đêm nay) thì tôi đã
tưởng Chúa lại đến với thế giới tội lỗi để cứu rỗi nhân loại thêm một
lần trước khi bom nguyên tử hủy diệt hết loài người. Trong khi vợ anh ta
hân hoan giãn nở chân mày tưởng thưởng người chồng uyên bác và đức độ.
Sự tương phản với nét ngây ngô của cô vợ người học thức làm hằn học thêm
đôi chân mày nhíu lại của nữ lưu đang tranh luận với chồng cô ta. Nữ
lưu hớp hớp vang sành điệu như một nhà ngoại giao uống nước lã trong
phòng họp của Liên hiệp quốc. Cô ấy từ tốn nhả chữ: “Yêu nhau là một
việc mà thật thà với nhau lại là một việc khác. Tôi cho là không nên
trộn chúng vào nhau để thăng hoa tình yêu của mình bởi sự trộn chung
thiếu kiến thức về hóa chất sẽ gây ra một vụ nổ; sự hòa quyện thành thật
vào ái tình khi chưa hiểu hết đối tác là nguy hiểm. Mà đối tác của tình
ái, hôn nhân trong thời đại này đều là những người uyên bác, tài ba,
anh ạ!...”
Cô
ngưng nói, nhưng chưa hết ý nên đối phương im lặng lịch sự, hay cũng
chỉ là một cái thùng rỗng kêu to bị đậy nắp bất tử nên ú ớ! Người đàn
ông sầm mặt xuống như cái rổ méo. Rồi cô ta tiếp lời với đám đông: “Tôi
thành thật với người yêu của tôi, làm lộ ra những điều anh ấy muốn biết
mà không tiện hỏi, hay đang chờ dịp để hỏi... đều bất lợi cho tình yêu
của hai người; bất lợi cho hạnh phúc gia đình nếu đã cưới nhau! Đơn giản
là tôi kể về người bạn trai trước khi quen biết anh, hạnh phúc của tôi
và anh không thăng hoa do sự thành thật tôi vừa kể ra mà chỉ hao mòn từ ý
nghĩ trong anh cũng vừa xuất hiện: anh chỉ là người đến sau! Vậy! Sao
tôi không giữ kín kỷ niệm, những hình ảnh đẹp về người bạn trai trước
của tôi. Điều đó cũng đồng nghĩa với giữ gìn hạnh phúc đang có...”
Dường
như đây là một ý tưởng không mới, nhưng người ta quá bận rộn với những
điều sáo mòn nên quên; nên chả ai ý kiến theo kinh điển nghe tốt hơn nói
trước đám đông. Và nữ lưu kia lại thuyết, “Điều tối kỵ nhất là hỏi han
chồng tôi về những người bạn gái xưa cũ của anh. Có khác nào đưa anh vào
khó xử: Một. Nói thật cho tôi biết thì không được, vì đổ vỡ có thể do
anh gây ra thì sao! Mà nói không thật thì xúc phạm đến người xưa, nhỡ
quả đất tròn-gặp lại; nhỡ tôi biết ra anh nói láo thì sự tín nhiệm trong
hôn nhân hao mòn... còn một điều, người đàn ông khó tha thứ là xúc phạm
đến tự trọng của anh, là điều chắc chắn nhất!
Đơn
giản là tình yêu của tôi với anh đã đi đến đám cưới; đừng thắc mắc gì
về sự đổ vỡ của những cuộc tình đã qua của cả hai người. Trong hôn nhân,
không nên biết quá nhiều về người phối ngẫu, đặc biệt là những điều
người phối ngẫu không muốn nói thì đừng hỏi; thậm chí có tự nói theo
kiểu không đánh mà khai khi ái tình làm u mê lý trí con người thì ta
cũng không nên nghe, bởi sự thật (thật thà) không giúp ích gì cho hạnh
phúc. Sự ích kỷ cố hữu khiến người ta muốn biết hết kho tàng của người
tình, nhưng kho tàng ấy luôn chứa ít châu báu hơn khổ đau, chính là cái
sự ham biết ấy đấy! Chúng ta lầm tưởng sự rộng lượng của mình đủ để bảo
tồn hạnh phúc, nhưng kỳ thực sự rộng lượng với người khác cơ! Sự rộng
lượng thừa thãi trong mỗi chúng ta chỉ là sự rộng lượng với chính mình.
Nội việc bao che cho cái sĩ diện hão của mỗi mình đã không xong thì rộng
lượng với ai được mà lầm tưởng mãi...”
Căn
phòng im lặng, mỗi người đều ra vẻ trầm tư. Vị nữ lưu không để ý tới sự
trầm tư của mọi người là thật hay chỉ là một phép lịch sự trên bàn
tiệc. Cô ta chỉ đọc được ý nghĩ của vài người đang trách khứ cô ta: Sao
lại đưa ra những vấn đề người ta cố tránh trong đời sống bây giờ; trong
bữa tiệc vui đang tới hồi hoan ca...
Cô
ấy thật đáo để, liền kể một câu chuyện về người bạn thân của cô ấy.
Nhưng tôi là người đẻ ngược nên tôi nghĩ cô ấy đang kể chuyện mình với
một người bạn thân của cô ấy! Chuyện kể của nữ lưu như sau: “Tôi có cô
bạn thân, từ khi còn đi học chung. Khi cô ấy có bạn trai, lúc hai người
đang cặp kè thì tôi cũng thường được ăn ké họ. Tôi chả có lý do gì từ
chối cái chức dâu phụ trong hôn lễ của cô bạn. Vai trò tương lai của tôi
đang sắp lên chức mẹ đỡ đầu của con cô bạn thân thì cô ấy không còn
tươi vui như xưa... Một hôm tôi không hỏi, nhưng cô ấy tự nói: Tau rủ
mày đi sắm đồ cho con tau, con đỡ đầu của mày. Lẽ ra không nên nói
chuyện buồn. Nhưng kỳ thực, nếu còn kịp thì tau bỏ cái thai này!
Tôi
nghe như sấm sét kinh hoàng! Sau phút bàng hoàng, tôi hỏi ra cho cặn cẽ
mới biết, sự thật thà của chúng tôi với nhau thật đáng quý trong tình
bạn; nhưng sự thật thà là hung thủ trong hôn nhân của cô bạn! Nguyên là,
một hôm được chồng chở đi khám thai, hai người đang vui vẻ tính chuyện
đi ăn, đi chơi cho hết buổi chiều lãng mạn. Bỗng cái thai chòi đạp làm
cô ấy mệt. Họ trở về nhà để chẳng làm được gì hơn là nằm khoèo trên
giường mà thoa bóp như dỗ con ngủ ngoan cho mẹ đỡ đau...
Anh
chồng tự sự chuyện ngày xưa, trước khi quen được bạn tôi, anh có yêu
một người bạn gái cùng khoa. Nhưng tình cảm ấy của anh không được đáp
lại vì nhiều lý do khó hiểu... Anh mang ấm ức đến khi quen biết bạn tôi
thì nguôi ngoai dần. Cho đến khi chỉ còn bạn tôi trong trái tim anh ta
là lúc anh ta đề nghị làm đám cưới. Và sẽ muôn đời anh chỉ có một người
đàn bà trong tim là bạn tôi... Cô bạn tôi ngây ngất hạnh phúc, mong ước
đứa con chòi đạp trong bụng sớm ra đời để làm bằng chứng tình yêu trọn
vẹn của hai người.
Nhưng
chỉ từ chiều về khuya hôm ấy, cô bạn tôi thức giấc không thấy chồng bên
cạnh nên đi tìm. Thì ra anh ta đang vò đầu, bứt tóc ngoài garage - với
chai rượu mạnh lại chẳng cần đến cái ly nhỏ; cứ nốc từng ngụm rồi vò đầu
bứt tóc...
Nguyên
nhân là: “Sao em không kể chuyện tình của em trước khi quen biết anh
cho anh nghe!” Bạn tôi thương chồng đến chả cần ý tứ về sự thành thật và
hạnh phúc dễ xung đột! Cô ấy kể cho chồng nghe, người bạn trai đầu tiên
của em là từ thời còn đi trung học. Chúng em đi đại học khác nhau nên
chỉ liên lạc thơ từ một thời gian, rồi gián đoạn vì việc học, việc làm,
v.v... Sau đứt đoạn luôn khi em báo tin cho anh ta hay là em đã có bạn
trai, là anh. Anh ta gởi lời chúc mừng. Bẵng đi một thời gian, thì anh
ấy gởi lời báo tin là anh ta cũng đã có bạn gái. Em cũng gởi lại lời
chúc mừng và lời hứa xem nhau như bạn tốt trong đời... Nói thế chứ có
gặp lại nhau bao giờ vì hai đứa hai nơi, hai tiểu bang ở Mỹ đâu phải
gần, nhất là khi mỗi người đều đã có gia đình riêng...
Sự
thật thà cuối cùng làm tràn tự ái người chồng, vì những thật thà trước
chỉ tạo khoảng cách như em giúp bạn vài trăm được không anh; em giúp em
của em vài ngàn mua xe được không anh; em giúp... Từ đó, người chồng của
bạn tôi đã không còn là người đàn ông lý tưởng trong đầu óc và trái tim
cô ta nữa! Anh ấy thường biểu lộ khinh bỉ người phối ngẫu, mà trầm
trọng nhất là sự thiếu trong sạch trong hôn nhân của anh ấy! Bạn tôi chỉ
còn là một người nữ đã hoen ố trong tình yêu, (dù thời trung học không
biết cô ấy chỉ yêu tưởng tượng với người bạn trai cũng giàu tưởng tượng
vào thời mới lớn). Anh chồng của cô bạn tôi thường có những lúc xuất
thần vô biên để chất vấn, sỉ nhục người phối ngẫu, mà sau đó anh xin lỗi
là không tự chủ được với vết thương lòng quá sâu trong anh.
Quý
vị có hiểu không, người đàn ông có khả năng lừa dối chính họ để sai
trái, nhưng không bao giờ tin, chả phải thiếu hiểu biết mà đó là bí mật
của đàn ông. Cũng có những vị may mắn là họ thật sự không đủ sức, nhưng
lừa mình dư can đảm nên làm liều; ai dè, thiên thời, địa lợi, nhân hòa
đúng lúc, làm cho họ thành công, thì đó là tài ba chứ không có hên gì
hết! Đàn ông không mê tín dị đoan nhưng lại rất dị ứng với sự thật!
Đó
là nguyên nhân bạn tôi muốn bỏ cái thai trong bụng để dễ bề giải quyết
mọi vấn đề. Nhưng sự hủy bỏ một sinh linh đã hình thành trong mình không
dễ với phụ nữ... là điều chính phụ nữ nhiều khi cũng không hiểu về mình
như bệnh háo thắng mà sợ (trốn) trách nhiệm ở đàn ông.
Từ
cuộc sống gia đình đang hạnh phúc, chỉ một phút thành thật mà đổ vỡ ra
từng mảnh vụn lòng tin của người chồng đến đổ vỡ hôn nhân của hai
người... Quý vị có hiểu không?”
Câu
chuyện của nữ lưu như đã lấy lại được phần nào cảm tình của thính giả;
nhiều gương mặt thượt ra vì có hiểu gì đâu, nhưng người ta vẫn thế!
Những tiếng thở dài thừa thãi lại thường vang lên không đúng lúc, đúng
chỗ cũng là người ta cả. Con người dễ có động thái xót thương cho người
khác nhưng thương xót một con người lại cần những thứ khác hơn. Người ta
vẫn không đủ biện lý để chối cãi chân lý nên hành vi phi lý ấy đã tồn
tại trong văn minh nhân loại vì cái gì lặp lại nhiều lần thành thói
quen, thành phong tục, thành văn hóa, rồi thành chân lý trong cõi dư
thời gian này.
Tôi
châm cho nữ lưu ly vang như que diêm châm vào dây pháo nịnh. Thiên hạ
nổ điếc tai luôn! Người góc này ý kiến: “Cái anh đàn ông ấy quá đáng,
vừa nhỏ nhặt lại vừa ghen tuông thường tình, cớ gì khi mình cũng có bạn
gái trước hôn nhân; thì vợ mình có bạn trai trước hôn nhân cũng là lẽ
thường; ai chả có tuổi trẻ; ai chả phải giúp đỡ người thân... như tôi!”
(Bà vợ ông liền rời mắt khỏi danh mục những bài hát karaoke để lắng
nghe). Ông nín dứt như thằng bé đói đang khóc nhè thì gặp mẹ cả vú đã đi
chợ về... ông ấm ớ cho qua chuyện: Miễn sao sau hôn lễ, hai người cùng
vun đúc cho hạnh phúc gia đình là hơn không? Tay điên ấy đi ghen bóng
ghen gió với vợ để tới đổ vỡ gia đình thì anh ta phải chịu trách nhiệm
hoàn toàn...”
Quý
hóa quá - một ông chánh án từ bi đến chẳng ai tin. Nhưng sự đồng tình
tương tự với ông của nhiều người lại vang lên. Bữa tiệc vui vẻ trở lại.
Người đàn ông ban đầu đấu lý với nữ lưu cáo từ gia chủ ta thăng vì lý do
sức khỏe; Sự hiện diện của ông tan biến trong tiếng nhạc trỗi lên, dàn
karaoke hoạt động trở lại... chỉ riêng nữ lưu chìm đắm trong ly vang
hạnh phúc tràn đầy những khổ đau. Không. Chỉ là sự tương phản màu nho
lên đôi mắt long lanh bởi ánh sáng đèn màu chứ không phải cô ấy khóc ra
máu... đó là người vợ đã trót thật thà với chồng đang tưởng nhớ một đoạn
đời; một chuyện tình; một kịch tác gia tiêu biểu nhất trong vở kịch
thật thà và hôn nhân của cô ta...
Phan
HUY PHƯƠNG * CHI TIÊU VÀ DỐI TRÁ
Chỉ tiêu và con đường dối trá
- Details
- Created on Sunday, 24 March 2013 11:22
- Category: Tạp Ghi
HUY PHƯƠNG
Từ ngày vào trại tập trung cộng sản, tôi mới nghe nhiều đến hai tiếng
“chỉ tiêu”, và cũng khốn khổ vì hai tiếng này. Người tù ăn theo định mức
nhưng làm theo chỉ tiêu. Mỗi ngày theo lệnh trại, dưới sự quản chế của
cai tù, nhất là với sự đốc thúc của những tên đội trưởng chỉ huy, đội
phó kế hoạch, mà trước đây chính là “chiến hữu” của mình, theo dõi, kiểm
soát. Một người tù phải lao động vất vả để hoàn tất mỗi ngày việc vun 6
luống khoai, 15 hố sắn, chặt đủ 12 cây luồng, 2 bó củi hay cuốc nửa sào
đất tùy theo “lệnh” mỗi ngày. Chỉ tiêu chưa đủ, tranh thủ làm thêm.
Nghĩ đến phải đào những cái hố sắn, mỗi bề chỉ có 8 tấc, trên những ngọn
đồi đất đá, mỗi lần nhát cuốc chạm vào những hòn đá, sức mạnh bật ngược
trở lại cái thân thể ốm đói của người tù, như những ngọn roi tra tấn
khó quên. Người lính thất trận hao gầy, ốm yếu theo năm tháng tù đày, và
không ít người đã nằm lại trên những vùng đồi núi, không bao giờ trở
về.
Chế độ Cộng Sản dùng chỉ tiêu để cai trị và dùng thành tích để khoa trương, lừa dối dân chúng. Chỉ tiêu này đã nhiều lần vấy máu, mà dù lịch sử đã được những người cộng sản viết lại cũng không bao giờ rửa hết mùi tanh. Cuộc “cải cách ruộng đất” tại vùng đất “độc lập-tự do-hạnh phúc” Bắc Việt từ năm 53-56, theo “chỉ tiêu” thỏa thuận của cố vấn Tàu và Trường Chinh, tổng bí thư đảng, trưởng ban chỉ đạo cuộc đấu tố “cải cách ruộng đất”, là phải có 5% địa chủ trên tổng số nông dân. Theo tài liệu của Vũ Thư Hiên, con số địa chủ bị thảm sát rất khó thống kê, ước tính từ 4,000 đến 5,000 người.
Hai tiếng “chỉ tiêu” đã giết và cầm tù bao nhiêu người dân. Chỉ tiêu “làm sạch tệ nạn xã hội” không căn cứ vào thực trạng của mỗi địa phương, mà đảng ra lệnh mỗi xã bao nhiêu dân thì phải có bao nhiêu thành phần cần tập trung vào trại “cải tạo,” do đó đã xảy ra không biết bao nhiêu số phận oan khuất.
Năm 1980, ở trại tù Phú Sơn, Bắc Việt, tôi đã được gặp một người tù trẻ tuổi, nhưng khuôn mặt già cỗi và thân hình ốm yếu, nhỏ bé của em khó có thể đoán được tuổi đời. Em cho biết tuổi của em là 13, nhưng đã có 5 tuổi tù, bị đày đọa qua nhiều trại “cải tạo”, bây giờ chẳng còn biết cha mẹ là ai, nhà cửa ở đâu. Năm em lên 8 tuổi, tại trường học, chỉ vì đánh lộn với một thằng bé, con trưởng công an xã, nhân lấy cho đủ chỉ tiêu, em được liệt vào thành phần băng đảng xã hội, chúng giật em ra khỏi vòng tay của cha mẹ, cho em làm người tù không bản án. Từ đó đến nay, mỗi lúc nhớ đến những trại tù cộng sản, tôi lại nhớ đến hình ảnh của em. Thực tâm, tôi không mong là em còn sống trên đời này, khi cuộc sống còn thua một con chó, khi tôi trông thấy em lần mò dưới những chiếc bàn để kiếm một miếng xương vịt của những người “tù cải tạo” chúng tôi vừa nhả ra, trong một bữa ăn “bồi dưỡng” trước khi phải lên đường chuyển đến một trại tù khác.
Chính vì chỉ tiêu và chiến dịch thi đua, vượt chỉ tiêu trước ngày hạn định nên những công trình xây dựng chỉ chuộng hình thức, ngay cả những phương tiện liên quan đến sự chết sống của dân, như những cây cầu, những hầm xuyên núi, những con đường, những đập chắn nước, chưa khánh thành đã phải tu sửa. Các công trình này chỉ cố gắng làm cho nhanh để hoàn tất trước thời hạn và chỉ tiêu được cấp trên giao phó, mà không chú trọng đến chất lượng...
Cần đạt được chỉ tiêu để báo cáo thành tích, nên con người phải gian dối cho vừa lòng cấp trên của chế độ. Thời chiến tranh, dân nghèo miền Bắc, mỗi năm ngày lễ Tết, dân nghèo mới có được một bát cơm trắng, mà Nguyễn Văn Tý cũng đẻ ra được một “Bài Ca 5 Tấn” để ca tụng thành tích của nông dân.
Chỉ một việc “hạn chế đà gia tăng dân số” tại Việt Nam đã là một chuyện buồn cười. Được trung ương giao “chỉ tiêu”, suốt hai năm liền, huyện Châu Thành A, Hậu Giang, dẫn đầu tỉnh về phong trào triệt sản. Một người triệt sản được phát 2 triệu đồng, không có tiền thì quy ra gạo. Có người đàn ông độc thân cũng được ghi danh triệt để lãnh tiền. Có người đã có con, vợ đã bị mổ tử cung, không còn sinh nở được nữa cũng có tên trong danh sách tình nguyện triệt sản. Nguyên tắc triệt sản là tự nguyện và không ai đi vận động những người chưa có gia đình hay chưa có con. Chính quyền địa phương, điển hình là huyện Châu Thành A, Hậu Giang, vận động không đúng người hay gian dối để “vượt chỉ tiêu” bằng cách ghi tên một phụ nữ không còn sinh nở được nữa vào danh sách những người tình nguyện triệt sản. Do đó địa phương này đã “vận động” được 329 trường hợp, có thị trấn trong khi chỉ tiêu là 8, nhưng vượt chỉ tiêu đến 98. Vừa được bằng khen vì thành tích, vừa có cơ hội kiếm tiền, đó là “ưu điểm” của những tên “đầy tớ của nhân dân”.
Giáo dục hẳn là quan trọng đối với một quốc gia. Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam vừa công bố “chỉ tiêu” đào tạo tiến sĩ ở ngoại quốc theo đề án 911 năm 2013, là 1.100 người. Hèn chi Hà Nội ngày nay tiến sĩ chạy đầy đường như xe gắn máy!
Trong các trường học, thầy, cô giáo chỉ chú trọng đến vấn đề làm sao tỉ lệ học sinh tốt nghiệp cao vượt qua chỉ tiêu đã đặt ra, để vượt qua các trường bạn, kết quả là học sinh nào cũng tốt nghiệp, dẫn đến hiện tượng một nhà giáo tốt nghiệp đại học, với kiến thức “canh gà Thọ Xương” cũng đại loại như “bánh cuốn Thanh Trì” hay “nem Thủ Đức!”. Đạt chỉ tiêu để “lập công dâng đảng” là điều quan trọng, còn chất lượng, kiến thức thì sao?
Không nghe nói đến “chỉ tiêu” vơ vét của cấp lãnh đạo thì bao nhiêu cho đủ và các ông đã vượt chỉ tiêu, nâng thành tích lên được bao nhiêu? 16 tấn vàng vu oan cho ông Nguyễn Văn Thiệu đem ra nước ngoài, được chở về Bắc, các đồng chí trong bộ chính trị, mỗi người “cấu” một ít, hay 5 tấn vàng sau vụ đánh tư sản, mại bản miền Nam, hơn 5 nghìn ký vàng trong vụ đuổi người Tàu ra khỏi nước, không tính kim cương, hột xoàn, bất động sản, xe cộ, tàu bè... đã chia chác với nhau ra sao, để cho đảng giàu dân đói. Nhưng hiện nay đa số dân chúng nghèo, mà bộ chính trị và quan chức nhà nước thì giàu “nứt đố, đổ vách”.
Chỉ tiêu của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đưa ra trong Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976, rất khiêm nhường là mỗi gia đình có được một cái “phích” nước và bữa ăn có nước chấm, nay đã vượt bực rồi. Nhưng làm sao hạn chế, đừng để gian dối, bất nhân, vô đạo “vượt chỉ tiêu,” may ra mới cứu được đất nöôùc naøy.
Chế độ Cộng Sản dùng chỉ tiêu để cai trị và dùng thành tích để khoa trương, lừa dối dân chúng. Chỉ tiêu này đã nhiều lần vấy máu, mà dù lịch sử đã được những người cộng sản viết lại cũng không bao giờ rửa hết mùi tanh. Cuộc “cải cách ruộng đất” tại vùng đất “độc lập-tự do-hạnh phúc” Bắc Việt từ năm 53-56, theo “chỉ tiêu” thỏa thuận của cố vấn Tàu và Trường Chinh, tổng bí thư đảng, trưởng ban chỉ đạo cuộc đấu tố “cải cách ruộng đất”, là phải có 5% địa chủ trên tổng số nông dân. Theo tài liệu của Vũ Thư Hiên, con số địa chủ bị thảm sát rất khó thống kê, ước tính từ 4,000 đến 5,000 người.
Hai tiếng “chỉ tiêu” đã giết và cầm tù bao nhiêu người dân. Chỉ tiêu “làm sạch tệ nạn xã hội” không căn cứ vào thực trạng của mỗi địa phương, mà đảng ra lệnh mỗi xã bao nhiêu dân thì phải có bao nhiêu thành phần cần tập trung vào trại “cải tạo,” do đó đã xảy ra không biết bao nhiêu số phận oan khuất.
Năm 1980, ở trại tù Phú Sơn, Bắc Việt, tôi đã được gặp một người tù trẻ tuổi, nhưng khuôn mặt già cỗi và thân hình ốm yếu, nhỏ bé của em khó có thể đoán được tuổi đời. Em cho biết tuổi của em là 13, nhưng đã có 5 tuổi tù, bị đày đọa qua nhiều trại “cải tạo”, bây giờ chẳng còn biết cha mẹ là ai, nhà cửa ở đâu. Năm em lên 8 tuổi, tại trường học, chỉ vì đánh lộn với một thằng bé, con trưởng công an xã, nhân lấy cho đủ chỉ tiêu, em được liệt vào thành phần băng đảng xã hội, chúng giật em ra khỏi vòng tay của cha mẹ, cho em làm người tù không bản án. Từ đó đến nay, mỗi lúc nhớ đến những trại tù cộng sản, tôi lại nhớ đến hình ảnh của em. Thực tâm, tôi không mong là em còn sống trên đời này, khi cuộc sống còn thua một con chó, khi tôi trông thấy em lần mò dưới những chiếc bàn để kiếm một miếng xương vịt của những người “tù cải tạo” chúng tôi vừa nhả ra, trong một bữa ăn “bồi dưỡng” trước khi phải lên đường chuyển đến một trại tù khác.
Chính vì chỉ tiêu và chiến dịch thi đua, vượt chỉ tiêu trước ngày hạn định nên những công trình xây dựng chỉ chuộng hình thức, ngay cả những phương tiện liên quan đến sự chết sống của dân, như những cây cầu, những hầm xuyên núi, những con đường, những đập chắn nước, chưa khánh thành đã phải tu sửa. Các công trình này chỉ cố gắng làm cho nhanh để hoàn tất trước thời hạn và chỉ tiêu được cấp trên giao phó, mà không chú trọng đến chất lượng...
Cần đạt được chỉ tiêu để báo cáo thành tích, nên con người phải gian dối cho vừa lòng cấp trên của chế độ. Thời chiến tranh, dân nghèo miền Bắc, mỗi năm ngày lễ Tết, dân nghèo mới có được một bát cơm trắng, mà Nguyễn Văn Tý cũng đẻ ra được một “Bài Ca 5 Tấn” để ca tụng thành tích của nông dân.
Chỉ một việc “hạn chế đà gia tăng dân số” tại Việt Nam đã là một chuyện buồn cười. Được trung ương giao “chỉ tiêu”, suốt hai năm liền, huyện Châu Thành A, Hậu Giang, dẫn đầu tỉnh về phong trào triệt sản. Một người triệt sản được phát 2 triệu đồng, không có tiền thì quy ra gạo. Có người đàn ông độc thân cũng được ghi danh triệt để lãnh tiền. Có người đã có con, vợ đã bị mổ tử cung, không còn sinh nở được nữa cũng có tên trong danh sách tình nguyện triệt sản. Nguyên tắc triệt sản là tự nguyện và không ai đi vận động những người chưa có gia đình hay chưa có con. Chính quyền địa phương, điển hình là huyện Châu Thành A, Hậu Giang, vận động không đúng người hay gian dối để “vượt chỉ tiêu” bằng cách ghi tên một phụ nữ không còn sinh nở được nữa vào danh sách những người tình nguyện triệt sản. Do đó địa phương này đã “vận động” được 329 trường hợp, có thị trấn trong khi chỉ tiêu là 8, nhưng vượt chỉ tiêu đến 98. Vừa được bằng khen vì thành tích, vừa có cơ hội kiếm tiền, đó là “ưu điểm” của những tên “đầy tớ của nhân dân”.
Giáo dục hẳn là quan trọng đối với một quốc gia. Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam vừa công bố “chỉ tiêu” đào tạo tiến sĩ ở ngoại quốc theo đề án 911 năm 2013, là 1.100 người. Hèn chi Hà Nội ngày nay tiến sĩ chạy đầy đường như xe gắn máy!
Trong các trường học, thầy, cô giáo chỉ chú trọng đến vấn đề làm sao tỉ lệ học sinh tốt nghiệp cao vượt qua chỉ tiêu đã đặt ra, để vượt qua các trường bạn, kết quả là học sinh nào cũng tốt nghiệp, dẫn đến hiện tượng một nhà giáo tốt nghiệp đại học, với kiến thức “canh gà Thọ Xương” cũng đại loại như “bánh cuốn Thanh Trì” hay “nem Thủ Đức!”. Đạt chỉ tiêu để “lập công dâng đảng” là điều quan trọng, còn chất lượng, kiến thức thì sao?
Không nghe nói đến “chỉ tiêu” vơ vét của cấp lãnh đạo thì bao nhiêu cho đủ và các ông đã vượt chỉ tiêu, nâng thành tích lên được bao nhiêu? 16 tấn vàng vu oan cho ông Nguyễn Văn Thiệu đem ra nước ngoài, được chở về Bắc, các đồng chí trong bộ chính trị, mỗi người “cấu” một ít, hay 5 tấn vàng sau vụ đánh tư sản, mại bản miền Nam, hơn 5 nghìn ký vàng trong vụ đuổi người Tàu ra khỏi nước, không tính kim cương, hột xoàn, bất động sản, xe cộ, tàu bè... đã chia chác với nhau ra sao, để cho đảng giàu dân đói. Nhưng hiện nay đa số dân chúng nghèo, mà bộ chính trị và quan chức nhà nước thì giàu “nứt đố, đổ vách”.
Chỉ tiêu của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đưa ra trong Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976, rất khiêm nhường là mỗi gia đình có được một cái “phích” nước và bữa ăn có nước chấm, nay đã vượt bực rồi. Nhưng làm sao hạn chế, đừng để gian dối, bất nhân, vô đạo “vượt chỉ tiêu,” may ra mới cứu được đất nöôùc naøy.
SƠN TRUNG * CHÍNH LUẬN 14
SƠN TRUNG CHÍNH LUẬN 14
Đặng Tiểu Bình, Hồ Cẩm Đào vừa nhậm chức đã sang thăm Mỹ. Như vậy là các
ông này muốn duy trì mối thân hữu với Mỹ. Nay Tập Cận Bình vừa nhậm
chức đã đi thăm Nga và châu Phi. Điều này cho thấy Tập Cận Bình không
còn muốn thân thiện với Mỹ nữa, mà trái lại đang chuẩn bị đối phố với Mỹ
bằng cách liên minh với Nga. Ông cũng muốn tái chiếm châu Phi vì sau
các cuộc cách mạng Hoa Lài tại châu Phi, Trung Cộng ủng hộ độc tài nên
mất chỗ đứng
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130322-tap-can-binh-sang-maxcova-tim-doi-tac-chong-my
RFI cho biết Ông Tập Cận Bình kỳ vọng
vào nguồn năng lượng của nước Nga để củng cố guồng máy kinh tế và sự hỗ
trợ ngoại giao của Vladimir Putin nhằm ngăn chận chính sách tái định vị
của Hoa Kỳ tại châu Á Thái Bình Dương. Nhưng giới trẻ Trung Quốc bày tỏ
tâm lý chống Nga. Ông Dương Khiết Trì là người chủ trương là cần phải
buộc Hoa Kỳ không dấn thân vào châu Á, mà đặc biệt là trong hồ sơ tranh
giành chủ quyền biển đảo ở Hoa Đông và biển Đông. Trên thế cờ đối đầu
với Mỹ, ban lãnh đạo Trung Quốc trông cậy vào Nga.
Tình cảnh trớ trêu này là do người TRung Quốc đã chịu ảnh hưởng chống Nga của Mao Trạch Đông mà nay Tập Cận BÌnh chịu hậu quả. Nga gần Trung Quốc nhưng xưa nay tâm lý Trung Cộng ghét Nga nên không thân thiện lắm. Nay tình thế mới, nếu xảy ra chiến tranh, mất dầu xăng châu Phi và Trung Đông thì phải cần đến năng lương Nga để duy trì kinh tế và chiến tranh. Đó là mục đich rõ ràng của Tập Cận Bình. Và chính từ điểm này, ta thấy Trung Quốc đang chuẩn bị chiến tranh chống Mỹ và xâm lược thế giới. Sự thực thì từ thời chiến tranh vùng Vịnh cho đến nay, , Nga và Trung Cộng liên minh chống Mỹ tại hội đồng Liên Hiệp quốc.
Tình cảnh trớ trêu này là do người TRung Quốc đã chịu ảnh hưởng chống Nga của Mao Trạch Đông mà nay Tập Cận BÌnh chịu hậu quả. Nga gần Trung Quốc nhưng xưa nay tâm lý Trung Cộng ghét Nga nên không thân thiện lắm. Nay tình thế mới, nếu xảy ra chiến tranh, mất dầu xăng châu Phi và Trung Đông thì phải cần đến năng lương Nga để duy trì kinh tế và chiến tranh. Đó là mục đich rõ ràng của Tập Cận Bình. Và chính từ điểm này, ta thấy Trung Quốc đang chuẩn bị chiến tranh chống Mỹ và xâm lược thế giới. Sự thực thì từ thời chiến tranh vùng Vịnh cho đến nay, , Nga và Trung Cộng liên minh chống Mỹ tại hội đồng Liên Hiệp quốc.
Theo tin RFI, hôm 07/03/2013 Hoa Kỳ và Trung Quốc bắt đầu tham gia cuộc
tập trận tại biển Ả Rập, nhằm phô trương khả năng chống khủng bố và hải
tặc.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130307-hoa-ky-va-trung-quoc-tham-gia-tap-tran-tren-bien-voi-pakistan
Than ôi, chó mèo chơi chung ư? Đó là trò bịp trong chính trị và quân sự,
người ta vỗ vai, tay bắt mặt mừng trước khi tặng nhau vài nhát dao chí
tử..
Đài VOA loan tin Bộ trưởng Quốc phòng Nga, Đại tướng Sergei Shoigu, công du Việt Nam
trong hai ngày 4 và 5 tháng 3 để thảo luận tăng cường các mối quan hệ quân sự Việt-Nga, theo tin hãng thông tấn Itar-Tass
Sau đó, dài VOA cũng loan tin hãng Hàng không Việt Nam sẽ chính thức mở đường bay trực tiếp từ Phi
trường Quốc tế Cam ranh đến Phi trường Domodedovo ở Moskova vào ngày 5
tháng 4.http://m.voatiengviet.com/a/1624487.html
Phải chăng Việt Cộng đã bán Cam Ranh cho Nga? Họ dùng Nga ngăn Trung Cộng hay chống Mỹ?
Nguyển Chí Vịnh cam đoan không để ngoại quốc đặt căn cứ tại Việt Nam. Trung cộng chống Mỹ nhưng có bằng lòng cho Nga ở biển Động không?
Theo RFI, hôm qua, 21/03/2013, chính quyền Hoa Kỳ đã bày tỏ quan ngại về sự “thụt lùi”
của Việt Nam về mặt nhân quyền, đồng thời khẳng định việc thúc đẩy các
quyền tự do cá nhân là trọng tâm trong chính sách của Mỹ ở Châu Á. Theo
AP, phát biểu trước tiểu ban Ngoại giao Thượng viện Mỹ, Phó Trợ lý Ngoại
trưởng đặc trách Đông Á Dan Baer nêu lên ví dụ về cách đối xử của chính
quyền Hà Nội đối với các blogger, bị truy tố về những điều luật liên
quan đến an ninh quốc gia.
Việt Cộng nay càng tỏ ra dã man tàn bạo khi họ chuẩn bị đưa luật bắn bỏ người dân nếu họ muốn.
RFA cho biết Bộ công an vừa trình dự thảo cho phép được bắn đối với ai chống
lại người thi hành công vụ, ngay lập tức dư luận lên tiếng chống đối
mạnh mẽ và cho rằng luật này sẽ gây thêm nhiều vụ giết người vô tội nữa.
Ngày nay công an được đảng cướp cho công khai đánh dân biểu tình, cho
công an thẳng tay sát hại nhân dân. Mấy năm nay, công an bắt người về
đồn rồi đánh chết mà không bị trừng phạt. Nay bọn họ lại đưa ra dự luật
bắn dân chúng. Trong dự thảo Nghị định quy định các biện pháp phòng
ngừa, ngăn chận
và xử lý các hành vi chống người thi hành công vụ Bộ Công an đề xuất nếu
đối tượng vi phạm có hành vi chống người thi hành công vụ gây hậu quả
nghiêm trọng thì người thi hành công vụ được phép nổ súng trực tiếp vào
người và phương tiện vi phạm để phòng vệ.
Càng áp bức thì sức phản kháng
càng mạnh. Ngày phán xử cuối cùng sẽ đến, bọn cộng sản phải trả nợ máu
trước tòa án Quốc tế và tòa án nhân dân.
VIệt cộng tự hào nước họ " văn
minh giàu mạnh" nhưng thực tế là chẳng văn minh và chẳng giàu mạnh.
Không biết trên thế giới có ai trong một đêm muốn biến thành người Việt
Cộng văn minh giàu mạnh, để được công an đạp vào mặt, và tra tấn cho đến
chết?
RFA loan tin ngày 24-3-2013, tàu Trung Quốc bắn cháy tàu cá Việt Nam.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/cn-ships-shoot-to-fire-lysons-fishingboat-03242013091326.html
Trước sự bạo hành của Trung Cộng, Việt Cộng cúi đầu và im miệng? Ôi tinh thần "bách chiến bách thắng" đâu cả rồi?Ôi các đại tướng, các anh hùng, chiến sĩ thi đua nay ở đâu hay đã trăm tuổi ngủ yên với đại tướng Võ Nguyên Giáp?
Đài VOA loan tin ngày 23-3- 2013 rằng tình thế nghiệm trọng ở Biển Đông sẽ đưa đến chiến tranh mà nguyên do chính là tinh thần dân tôc. Vì tinh thần dân tộc mù quáng, Trung cộng muốn cướp biển Đông , vì tinh thần dân tộc, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Nam Hàn , Úc châu sẽ chống Trung Cộng xâm lược.
Ông Royce, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện, nói:
“Điều chúng ta đang chứng kiến là việc châu Á hiện đang dần chuyển mối
quan tâm về sự phồn thịnh kinh tế sang các mối quan ngại về an ninh",
ông nói.
"Các quốc gia từng chú tâm vào vấn đề thương mại thì giờ họ lại bàn về chủ nghĩa dân tộc, ngân sách quốc phòng hay thậm chí cả những thái độ khiêu khích, mà ví dụ điển hình là các tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông Trung Hoa và biển Nam Trung Hoa (biển Đông)”.
Trong bối cảnh đó, ông Royce cho rằng Hoa Kỳ ‘cần phải nhanh chóng hành động’ đồng thời nói rằng ‘không có ai giành phần thắng trong các cuộc chạy đua vũ trang hay trong các cuộc xung đột’.
Theo lời vị dân biểu đại diện tiểu bang California, Hoa Kỳ ‘cần phải thay đổi hướng tiếp cận ngoại giao cũ, trong đó tiến trình tiếp xúc chính trị và kinh tế bị tách biệt’.
Trả lời câu hỏi của VOA Việt Ngữ về mối lo ngại có thể xảy ra một cuộc xung đột vũ trang xuất phát từ các tranh chấp ở biển Đông, ông Royce nói rằng mục tiêu của Mỹ là thúc giục chính phủ các nước không sử dụng các tuyên bố mang tính dân tộc thái quá, có thể dẫn tới đối đầu.
Các nhà quan sát chính trị nhận định rằng tinh thần dân tộc và tâm lý bài Trung Quốc ở Việt Nam ngày càng gia tăng trước các tuyên bố đòi chủ quyền có tính chất quyết liệt của nước láng giềng phương bắc.
Tương tự như vậy, nhiều cuộc xuống đường cũng diễn ra tại Tokyo và Bắc Kinh liên quan tới tranh chấp lãnh hải giữa hai quốc gia ở biển Hoa Đông.
Trong khi đó, mới đây, ông Tom Donilon, Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống Barack Obama, cho rằng các tranh chấp lãnh thổ ở biển Hoa Đông và biển Đông sẽ trắc nghiệm cấu trúc an ninh và chính trị của khu vực.
"Các quốc gia từng chú tâm vào vấn đề thương mại thì giờ họ lại bàn về chủ nghĩa dân tộc, ngân sách quốc phòng hay thậm chí cả những thái độ khiêu khích, mà ví dụ điển hình là các tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông Trung Hoa và biển Nam Trung Hoa (biển Đông)”.
Trong bối cảnh đó, ông Royce cho rằng Hoa Kỳ ‘cần phải nhanh chóng hành động’ đồng thời nói rằng ‘không có ai giành phần thắng trong các cuộc chạy đua vũ trang hay trong các cuộc xung đột’.
Theo lời vị dân biểu đại diện tiểu bang California, Hoa Kỳ ‘cần phải thay đổi hướng tiếp cận ngoại giao cũ, trong đó tiến trình tiếp xúc chính trị và kinh tế bị tách biệt’.
Trả lời câu hỏi của VOA Việt Ngữ về mối lo ngại có thể xảy ra một cuộc xung đột vũ trang xuất phát từ các tranh chấp ở biển Đông, ông Royce nói rằng mục tiêu của Mỹ là thúc giục chính phủ các nước không sử dụng các tuyên bố mang tính dân tộc thái quá, có thể dẫn tới đối đầu.
Các nhà quan sát chính trị nhận định rằng tinh thần dân tộc và tâm lý bài Trung Quốc ở Việt Nam ngày càng gia tăng trước các tuyên bố đòi chủ quyền có tính chất quyết liệt của nước láng giềng phương bắc.
Tương tự như vậy, nhiều cuộc xuống đường cũng diễn ra tại Tokyo và Bắc Kinh liên quan tới tranh chấp lãnh hải giữa hai quốc gia ở biển Hoa Đông.
Trong khi đó, mới đây, ông Tom Donilon, Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống Barack Obama, cho rằng các tranh chấp lãnh thổ ở biển Hoa Đông và biển Đông sẽ trắc nghiệm cấu trúc an ninh và chính trị của khu vực.
“Chỉ có nỗ lực hòa bình, hợp tác và ngoại giao, phù hợp với luật pháp
quốc tế, mới có thể mang lại các giải pháp lâu dài, phục vụ mọi lợi ích
của tất cả các nước tuyên bố chủ quyền cũng như các quốc gia khác tại
khu vực quan trọng này”.Tom Donilon, Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống Barack Obama, nói.
Trung Quốc tưởng rằng họ đã mạnh, đủ sức gạt Mỹ và ngồi vào vị trị
lãnh đặo quần hùng. Họ cậy mạnh bất chấp. Cộng sản không bao giờ yêu
chuộnbg hòa bình và công lý. Họ dùng sức mạnh quân sự và mưu mánh lừa
bịp. Nói hòa bình và pháp lý với Trung Cộng, Việt Cộng, Bắc Hàn là nói
với kẻ điếc. Rõ ràng là Phi Luật Tân đưa vấn đề Biển Đông ra quốc tế
thì Trung Cộng phủ nhận. Trung Quốc muốn gạt Mỹ khái Biển Đông để cho họ
mặc tình xâm chiếm biển Đông làm của riêng, Một bên xâm lược thì các
nước phải bảo vệ chủ quyền, họ lấy tinh thần dân tộc chính đáng lại tinh
thần dân tộc của Trung Cộng. Làm sao mà bỏ tinh thần dân tộc? Người Mỹ
nói đúng là cần tôn trong pháp lý quốc tế thì mới giữ hòa bình để xây
dựng kinh tế, còn chiến tranh chỉ gây đổ vỡ. Đó là điều chính đáng cho
chính nghĩa Mỹ. Nhưng giảng đạo lý làm gì với bọn cướp. Cuối cùng thì
cũng đưa đến chiến tranh để giải quyết hơn thua. Ta muốn hòa bình mà
Trung Cộng gây hấn thì đành chịu.
THƠ XƯỚNG HỌA
HOÀNG
SA
(Tưởng nhớ ngày 19 tháng 1 năm
1974)
Xướng
Thao thức đêm trường nhớ biển đông
Xót cơn nước bạc rẽ chia dòng
Giận quân gian xảo bày mưu kế
Ghét kẻ ngông cuồng tiếp nội công
Lau mặt lệ nhòa đau xót đảo
Trông mây tim thắt tái tê lòng
Thương con sóng vỗ than hồn nước
Giữa chốn ngàn trùng réo núi sông!
Hạ Thái Trần
Quốc Phiệt
HẬN LOÀI XÂM
LƯỢC
Họa
Hận
quân ngang ngược quậy trời đông
Cùng hướng bỗng dưng rẽ ngược dòng
Chiếm đảo giả vờ sang bảo vệ
Lấn bờ toan tính đến làm công
Thù nầy hả dạ - moi phanh cốt
Nợ đó sôi gan - móc lấy lòng
Thề quyết một mai ta lớn mạnh
Diệt loài xâm lược cứu non sông !
Võ Làng Trâm
Cùng hướng bỗng dưng rẽ ngược dòng
Chiếm đảo giả vờ sang bảo vệ
Lấn bờ toan tính đến làm công
Thù nầy hả dạ - moi phanh cốt
Nợ đó sôi gan - móc lấy lòng
Thề quyết một mai ta lớn mạnh
Diệt loài xâm lược cứu non sông !
Võ Làng Trâm
HOÀNG
SA
TÀU VÀ MỸ
Họa
TÀU VÀ MỸ
Họa
Ký rồi chờ Mỹ tếch trời đông
Lặng lẽ cho quân hạm thẳng dòng
Bắn cháy tàu ra chưa rõ việc
Bắt gom người sót đã thành công
Hoàng Sa nuốt gọn theo thâm dạ
Ma Gạc phá luôn bởi phản lòng
Đế quốc bắt tay ngầm đổi tráo
Máu xương dân Việt đã thành sông
Nha Trang,20.03.2013
Võ Sĩ Quý
Lặng lẽ cho quân hạm thẳng dòng
Bắn cháy tàu ra chưa rõ việc
Bắt gom người sót đã thành công
Hoàng Sa nuốt gọn theo thâm dạ
Ma Gạc phá luôn bởi phản lòng
Đế quốc bắt tay ngầm đổi tráo
Máu xương dân Việt đã thành sông
Nha Trang,20.03.2013
Võ Sĩ Quý
TRẮC ẨN
!!!
Họa
Lòng mong
xuân đến mấy mùa đông
Gom ý dân đen
hạ ít dòng :
"Tụi Mỹ tham
tàn còn đuổi tới
Bọn Tàu lấn
lướt lại thu công "
"Chờ cho vửng
mạnh thì tan nước (xác)
Chống cự hơn
thua mới hả lòng "
Đất tổ mất
dần, sao nhịn được?
Ngán Tây, sợ
Mỹ ! tội non sông !!!
LV Hạt
,
Saigon
HOÀNG SA BỨC
TỬ
Họa
Hoàng
Sa bức tử... một ngày đông
Tổ
Quốc lâm nguy, lệ chảy dòng
Cũng
bởi "bạn bè" chơi xỏ lá
Cho
nên Tàu cộng mới thành công
Hận
sầu đất mất- tím bầm ruột
Thương
xót nhà tan- đau đớn lòng
Mong
một ngày mai trời lại sáng
Xua
thù, giành trọn vẹn non sông !
MAR. 21st. 2013
MAR. 21st. 2013
motthoi
HOÀNG SA
Họa
Nhân tâm trăn trở biển trời đông.
Từ độ Bắc kinh diễn ngược dòng.
Căm hận bá quyền quân cướp nước.
Khinh nhờn ô lại lủ tranh công.
Biên cương xâm lấn đau hồn nước.
Hải đảo tiêu hao xót tấc lòng.
Con Lạc cháu Hồng đâu chí cả.
Ai người lèo lái cứu non sông!
Hồ Trọng Trí
Kim long
Từ độ Bắc kinh diễn ngược dòng.
Căm hận bá quyền quân cướp nước.
Khinh nhờn ô lại lủ tranh công.
Biên cương xâm lấn đau hồn nước.
Hải đảo tiêu hao xót tấc lòng.
Con Lạc cháu Hồng đâu chí cả.
Ai người lèo lái cứu non sông!
Hồ Trọng Trí
Kim long
HỒN
NỨỚC
Mưu đồ thôn
tính biển phương đông
“Môi hở lạnh
răng” ký lệch dòng!
Căm bọn
ngoại bang bày kế sách
Ghét
bầy nội gián chực tâng công
Giặc còn tham
vọng sao cam dạ
Ta quyết hợp
châu (2) mới hả lòng
Hào khí Đông
A hồn đất việt
Âm vang sát
thát dậy non sông !...
Lê
Đăng Mành
(2)
Châu về hợp phố
HOÀNG
SA
Họa
Tàu to súng
lớn với dân đông
Muốn cướp
HOÀNG SA để xẻ dòng
Căm bọn quân
gian bày kế hiểm
Thù bầy giặc
xảo đặt mưu công
Trời NAM đoàn
kết không lùi bước
Đất VIỆT cùng
nhau lại một lòng
Thề quyết đấu
tranh trừng trị chúng
Bảo toàn hải
đảo giữ non sông
Trần
Ngộ
Lâm Đồng
Lâm Đồng
TƯỞNG NIỆM
CÁC TỬ SĨ HOÀNG SA
Họa
Ngồi buồn ngẫm nghĩ chuyện Tây, Đông,
Như lúc thời gian chảy ngược dòng…
Hào kiệt dẫu nguy không lép vế,
Anh hùng dù khuất chẳng quên công.
Trung quân đại đảm nêu cao nghĩa,
Vị quốc vong thân khắc đáy lòng.
Quân tử, thất phu xin ráng nhớ,
Bao người liều chết giữ non sông.
Dương Hồng Kỳ
CÁC TỬ SĨ HOÀNG SA
Họa
Ngồi buồn ngẫm nghĩ chuyện Tây, Đông,
Như lúc thời gian chảy ngược dòng…
Hào kiệt dẫu nguy không lép vế,
Anh hùng dù khuất chẳng quên công.
Trung quân đại đảm nêu cao nghĩa,
Vị quốc vong thân khắc đáy lòng.
Quân tử, thất phu xin ráng nhớ,
Bao người liều chết giữ non sông.
Dương Hồng Kỳ
NHỚ HOÀNG
SA
Họa
Trời Tây man mác nhớ phương Đông
Chạnh tưởng Hoàng Sa lệ ứa dòng
Hận cũ dân Nam hoài tạc dạ
Gương xưa sử sách mãi ghi công (1)
Nam Quan vời ngóng tim se thắt
Hải đảo trông sang nhức nhối lòng
Di sản tổ tiên truyền hậu thế
Cớ nào đành đoạn tách non sông!
Duy Trà - OKC
(1) Hải Quân VNCH.
QUÊ
TA
Họa
Sấm chớp vang rền một cõi Đông
Sấm chớp vang rền một cõi Đông
Triều dâng,
sao thác chửa khơi dòng ?
Vần xoay thế
cuộc do con tạo
Suy thịnh chu
kỳ luật Hóa Công
Bản Giốc gió
gào đau rát ruột
Hoàng Sa sóng
thét hận sôi lòng
Quê ta, sao
Chệt tung hoành nhỉ?
Đứng dậy mà
đòi núi với sông !
Ngô Minh
Hằng
HOÀNG SA
Đất trời ta rộng tây sang đông,
Lịch sử ngàn năm chảy thuận giòng.
Căm giận Cộng quân rày cướp đảo,
Ngậm ngùi chiến sĩ đã ra công.
Xót đoàn ngư phủ nghe bầm ruột,
Thương đám đấu tranh đến nát lòng,
Ta quyết đứng lên đòi đất tổ,
Rồi ta xây dựng lại non sông.
Sơn Trung
RFA * QUYỀN CÔNG DÂN CỦA VIỆT NAM
Quyền công dân trong thực tế ở Việt Nam
Quyền công dân là quyền lợi rất quan trọng đối với người dân một đất nước, quyền này luôn được ghi nhận một cách trang trọng trong bản Hiến pháp mỗi quốc gia. Liệu giữa lý thuyết và thực tế ở Việt Nam có khoảng cách nào không, các công dân ở quốc gia này đã nhìn nhận và suy nghĩ như thế nào về các quyền của mình?
Tác động của chính quyền
Khi bàn luận về quyền công dân tức đã đề cập đến vấn đề người dân thực hiện quyền lực của mình, thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhằm tác động không chỉ đến cơ quan dân cử mà còn qua các đơn vị nhà nước khác.Được hỏi có suy nghĩ như thế nào về quyền công dân, ông Nguyễn Lân Thắng, một facebooker nổi tiếng trong cộng đồng cư dân mạng Việt Nam cho chúng tôi biết:
“Tôi nghĩ rằng đây là một câu hỏi, từ trước đến nay, có rất nhiều người khi có những bức xúc, khi có các vấn đề thì lúc ấy người ta mới đặt câu hỏi. Chứ tự quyền công dân cũng giống như quyền con người, đây là các quyền tồn tại hết sức là tự nhiên. Thế cho nên để định nghĩa về quyền công dân, tôi nghĩ là sẽ tìm được rất nhiều ý kiến. Nhưng trước hết, quyền công dân là những quyền của chúng ta có ý kiến và có tham gia với nhà nước ở trong một xã hội.
Có những người trong lòng có suy nghĩ cụ thể, nhưng người ta không dám phát biểu lên những ý kiến của mình, vì họ lo sợ những sự đàn áp.Đó là sự lựa chọn của mỗi người, tùy theo trình độ nhận thức, tùy theo quan điểm… Và thậm chí là tùy theo sự tác động của chính quyền đối với người dân. Bởi vì có những người trong lòng có suy nghĩ cụ thể, nhưng người ta không dám phát biểu lên những ý kiến của mình, vì họ lo sợ những sự đàn áp.”
Nguyễn Lân Thắng
Quyền công dân được hiểu theo nhiều cách khác nhau, do đó trước cùng một sự việc, các công dân sẽ có những biểu hiện không giống nhau. Cũng câu hỏi được hiểu như thế nào về quyền công dân, ở góc độ khác, một phụ nữ không tiện nêu tên ở Hà Nội cho biết:
“Thực ra đối với tôi hay có lẽ, đối với rất nhiều người dân ở Việt Nam, khái niệm quyền công dân cũng rất là mơ hồ. Bởi vì cũng chẳng có ai được dạy trong trường phổ thông hay ở đâu đó; hay được phổ biến trên phương tiện truyền thông về quyền công dân là gồm những thứ gì. Cho nên chúng tôi chỉ biết là chúng tôi phải có một cái quyền rất chung chung thôi, chứ còn nói một cách chặt chẽ thì khó phát biểu được quyền công dân – nó là cái gì.
Trong Hiến pháp có nói một vài những cái quyền, nhưng cái quyền ở trong Hiến pháp đấy có gọi là quyền công dân hay không; hay ngoài ra nó còn có những quyền gì khác nữa thì chúng tôi cũng không được biết một cách rõ ràng.”
Một khái niệm trừu tượng
Quyền công dân trong thực tế được thể hiện qua nhiều hình thức cụ thể, như: quyền tự do ngôn luận, quyền lập hội, quyền cư trú, quyền đi lại, quyền được biểu tình.v.v. Nếu không được áp dụng vào đời sống thường nhật, quyền công dân chỉ còn là một khái niệm trừu tượng. Sự việc này đồng nghĩa với trạng thái giá trị dân sự cơ bản của con người bị trắng trợn tước đoạt. Liên hệ với một hoạt động bày tỏ quyền công dân, ông Nguyễn Lân Thắng cho biết thực tế đang diễn ra ở Việt Nam, như sau:“Giữa quyền công dân và quyền biểu tình, thì quyền biểu tình chỉ là một phần nhỏ trong quyền công dân thôi. Ở Việt Nam, quyền biểu tình hoàn toàn đang bị nhà nước ngăn cấm bằng rất nhiều hình thức; từ biện pháp đe dọa cho đến việc ban hành những văn bản trái với Hiến pháp, để ngăn chận một trong các quyền công dân đó.”
Xem ra các quyền hiến định của người dân có vẻ bị hạn chế bởi các văn bản pháp luật có giá trị thấp hơn Hiến pháp. Để hiểu rõ hơn, chúng tôi được người phụ nữ Hà Nội ẩn danh tiếp tục cho ý kiến:
“Tôi thấy là từ xưa nay ở Việt Nam, người dân đều quen như thế rồi. Không mấy ai giở quyển Hiến pháp ra để mà đọc. Cho dù là có đọc đi chăng nữa thì cũng không hiểu rằng là đem kiến thức đấy ra áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, liệu phỏng có hiệu quả gì hay không. Cho nên không có mấy ai vận dụng đến Hiến pháp.
Gần đây người ta cũng nói nhiều đến Hiến pháp, đến quyền và nói nhiều đến những quốc luật. Nhưng như mọi người cũng nhìn thấy là các cơ quan, các bộ ngành đưa ra những luật nọ luật kia. Chẳng hạn như vừa rồi, đội mũ bảo hiểm dởm ra ngoài đường thì sẽ bị phạt; hoặc ngày trước có lần quy định ngực lép thì không được đi xe máy; hay gần đây, những anh công an bụng phệ thì không được đứng đường để làm giao thông… Những quy định như thế, thực ra chẳng ai hiểu là vậy thì chúng có hợp với những quyền của họ hay quyền của công dân hay không.”
Hiện tượng lạm quyền nảy sinh trong xã hội xuất phát từ nguyên nhân thiếu tôn trọng pháp luật của nhiều cơ quan chức năng, song mặt khác, sự tồn tại của hiện tượng này còn là hệ quả của tình trạng thiếu hiểu biết về chính trị xã hội từ không ít người dân hiện nay. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Lân Thắng, nguyên nhân không chỉ đơn giản là như vậy:
Chỉ có được thông tin khi có sự trao đổi, tranh luận; có sự bàn bạc. Thế bây giờ một chủ đề bị nhà nước ngăn cản việc trao đổi, làm sao mà mọi người dân có thể có thông tin.
Nguyễn Lân Thắng
“Điều này là hoàn toàn chính xác. Ngay như tôi là một
người sinh ra và lớn lên ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, gia
đình tôi có bố mẹ đều là đảng viên. Lớn lên, tôi được đi học
ở Việt Nam, từ tiểu học lên đến đại học. Tất cả những điều
mà trong những năm gần đây, ở Việt Nam nảy ra những tranh luận
và thảo luận các vấn đề chính trị xã hội, dần dần tôi mới
được biết. Những người không có điều kiện học rộng thì chắc
chắn khó có những hiểu biết về chuyện ấy.
Bởi vì toàn bộ các phương tiện truyền thông, báo chí là
do nhà nước kiểm soát. Họ không bao giờ đề cập các vấn đề
tranh luận về chính trị xã hội, không bao giờ đưa ra các tranh
luận về chủ đề chính trị xã hội. Người ta chỉ có được thông
tin khi có sự trao đổi, tranh luận; có sự bàn bạc. Thế bây giờ
một chủ đề bị nhà nước ngăn cản việc trao đổi, làm sao mà
mọi người dân có thể có thông tin, có hiểu biết về vấn đề đó
được.”
Thừa nhận hiện tượng lạm quyền xảy ra trong xã hội, một
phần xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về pháp luật của người
dân. Người phụ nữ ẩn danh Hà Nội còn cho biết cảm nghĩ về
những áp lực thường trực trong cuộc sống thực tế như sau:
“Sự hiểu biết về pháp luật của người dân còn rất là
ít. Bởi vì một thời gian rất là dài trong đời sống hằng
ngày, các cơ quan nhà nước cứ đưa ra các quy định một cách tùy
tiện, người dân thì cứ cam chịu nghe theo. Thành ra người dân
nghĩ rằng, dù có viện vào luật nào thì cũng không đem lại
hiệu quả gì. Nên người dân không có thói quen là kiểm tra xem
những điều quy định đó có phù hợp hay không.”
Một khi người công dân không nhận thức rõ được quyền của
mình thì sẽ khó tránh được tình trạng bị các cơ quan công
quyền thao túng. Trong quá trình quản trị xã hội, ngoài chức
năng điều tiết vận hành các hoạt động quốc gia, cơ quan công
quyền còn phải có trách nhiệm thực hiện và bảo vệ quyền của
các công dân.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/fact-of-citizens-s-rights-in-vn-nk-03222013114913.html
Trong mấy ngày qua, công luận tiếp tục xôn xao và phản ứng mạnh mẽ về việc Bộ Công An đề xướng biện pháp công an được quyền nổ súng “nếu thấy” nghi can “có dấu hiệu chống người thi hành công vụ”.
Trong thời gian gần đây, những bi cảnh trong nước khiến công luận phẫn nộ phát xuất từ “kiêu binh công an” xem chừng như ngày càng gia tăng đáng ngại – mà, nói theo lời nhạc sĩ Tô Hải, “người dân vào đồn công an là người sống, ra khỏi đồn công an thành người chết”; nói theo nhà văn Thùy Linh, “người dân vào trụ sở công an đã không trở về thì khá nhiều”; nói theo Trịnh Kim Tiến có thân phụ bị công an đánh chết tức tưởi, “Người chết không biết cãi, người sống không thể cãi khi luật trong tay kẻ mạnh, nắm quyền lực, khi tội ác vẫn đang bị bao che lấp liếm, dung túng”; nói theo blogger Ngô Minh, “có rất nhiều vụ… bị bắn chết, đập chết ở đồn, hoặc vào đồn rồi không trở về nữa.
Người dân chết do công an đánh, bắn diễn ra khắp nơi như Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng Yên, Gia Lai, Sài Gòn, Hải Phòng.v.v… không thể kể xiết”…, thì mới đây, Bộ Công An lại đề xuất cho “công an được nổ súng trực tiếp vào người và phương tiện vi phạm” để vô hiệu hóa các trường hợp gọi là “có dấu hiệu chống người thi hành công vụ”.
"Xu hướng của thế giới ngày nay, của xã hội ngày nay là phải đi đến dân chủ hóa và tôn trọng các quyền con người, tôn trọng sinh mạng của nhân dân. Nhưng Bộ Công an và Nhà nước CSVN lại tùy tiện đưa ra một nghị định để trình Quốc hội và có thể trở thành luật hóa và thực thi trong bối cảnh như vậy khiến dân chúng trong nước, khiến những người có lương tri hết sức căm phẫn, bởi vì nó đi ngược lại nguyên tắc nhân quyền cùng sự tôn trọng sinh mệnh, quyền sống của nhân dân. Nếu như dự luật này được thông qua thì rất nguy hiểm vì đã trao cho công an sự lạm quyền, sự lũng đoạn và sự tùy tiện để vận dụng quyền được bắn thẳng vào nhân dân."
Trước “hung tin” như vậy, ông Nguyễn Quang Phục, cha của nạn nhân Trần Quốc Bảo tử vong về tay công an, chua chát rằng:
"Chúng ta phải hỏi các cơ quan chính đảng của ta đã bảo vệ được cái quyền, lợi ích hợp pháp của công dân chưa? Và pháp luật của nước VN này đã bảo vệ quyền và tính mạng của người dân hay không?"
Là người trực tiếp phải chịu cảnh thương tâm tột cùng và mãi mãi do cái chết trong dằn vặt đau đớn, đói khát, oan khuất về tay công an của thân phụ Trịnh Xuân Tùng, Trịnh Kim Tiến bày tỏ quan ngại rằng nếu đề xuất này của Bộ Công an được duyệt, thì không biết rồi đây sẽ có thêm “bao nhiêu người mẹ mất con, bao nhiêu người vợ mất chồng, bao nhiêu người con mất cha một cách oan ức” giống như chính nạn nhân Kim Tiến. Cách nay ít lâu, khi đề cập tới tình trạng công an giết người, nhà báo Nguyễn Minh Cần từ Mascơva báo động:
"Đó là cái gì? Là sự khuyến khích của nhà nước dẫn tới tình trạng CA hành hung người dân. Chưa bao giờ số người dân bị CA giết chết nhiều như vậy."
Nhà báo Huy Đức nhận xét rằng “Trong khi người dân đang cần được bảo vệ trước sự lạm quyền của người thi hành công vụ, đặc biệt là công an, thì Bộ lại đề nghị cho CA dùng súng bắn dân (bị cho là) chống người thi hành công vụ.”
Theo nhà báo Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, tức blogger Mẹ Nấm, thì câu trả lời cho sự “nếu thấy” ấy của công an khiến tái diễn “những Trịnh Xuân Tùng, Nguyễn Quốc Bảo, Nguyễn Công Nhựt, Trần Văn Tân… khác của năm 2013, 2014, 2015”, và về sau nữa!
Hai từ “nếu thấy” đó – tức dựa vào mức độ tùy tiện và cảm tính cá nhân - để mở đường cho công an nổ súng bắn dân là điều đáng ngại và nguy hiểm nhất. Trong khi Mẹ Nấm nêu lên câu hỏi rằng thế nào là “nếu thấy” của công an, thì nhà văn Thùy Linh lưu ý rằng “ngay khái niệm chống người thi hành công vụ” cũng rất mơ hồ.
Nhà văn Thùy Linh nêu lên một loạt câu hỏi rằng thế nào là chống người thi hành công vụ? Ở mức độ nào được phép nổ súng? Thái độ của người thi hành công vụ khi tham gia xử lý các vụ việc cần tuân thủ nguyên tắc làm việc nào giữa lúc người dân hiện nay “có quá nhiều bất bình với lực lượng hành pháp này”.
Và nhà văn Thùy Linh không khỏi thắc mắc rằng đề nghị ấy của Bộ Công an có thực sự phát xuất từ yêu cầu thực tế hay không, hay chỉ là cách mà giới cầm quyền chuẩn bị ứng phó sự bất bình ngày càng dâng cao của dân chúng?
Do đó, theo blogger Ngô Minh, nếu công an được phép nổ súng bắn chết người, nghĩa là không cần xét xử, như vậy là “xử án không cần luật”. Nói cách khác, lúc đó “công an đứng trên luật, ngoài luật”.
Theo luật gia Giang Quyết thì “không ai có quyền tước đi sinh mạng của người khác”, không thể chỉ vì một hành vi “có dấu hiệu chống người thi hành công vụ” mà có thể tước đoạt ngay tức khắc mạng sống con người.
Nhà văn Đào Tuấn thì cảnh báo về “một cái quyền to quá liên quan trực tiếp đến sinh mạng con người” mà chỉ được quy định chung chung trong một nghị định, do một bộ soạn thảo, mà bộ đó lại chính là cơ quan đặc trách điều tra, xử lý một khi xảy ra cảnh “người dân vào đồn công an là người sống và ra khỏi đồn công an thành người chết”.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/fact-of-citizens-s-rights-in-vn-nk-03222013114913.html
Về việc công an được quyền nổ súng
Trong mấy ngày qua, công luận tiếp tục xôn xao và phản ứng mạnh mẽ về việc Bộ Công An đề xướng biện pháp công an được quyền nổ súng “nếu thấy” nghi can “có dấu hiệu chống người thi hành công vụ”.
Trong thời gian gần đây, những bi cảnh trong nước khiến công luận phẫn nộ phát xuất từ “kiêu binh công an” xem chừng như ngày càng gia tăng đáng ngại – mà, nói theo lời nhạc sĩ Tô Hải, “người dân vào đồn công an là người sống, ra khỏi đồn công an thành người chết”; nói theo nhà văn Thùy Linh, “người dân vào trụ sở công an đã không trở về thì khá nhiều”; nói theo Trịnh Kim Tiến có thân phụ bị công an đánh chết tức tưởi, “Người chết không biết cãi, người sống không thể cãi khi luật trong tay kẻ mạnh, nắm quyền lực, khi tội ác vẫn đang bị bao che lấp liếm, dung túng”; nói theo blogger Ngô Minh, “có rất nhiều vụ… bị bắn chết, đập chết ở đồn, hoặc vào đồn rồi không trở về nữa.
Người dân chết do công an đánh, bắn diễn ra khắp nơi như Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng Yên, Gia Lai, Sài Gòn, Hải Phòng.v.v… không thể kể xiết”…, thì mới đây, Bộ Công An lại đề xuất cho “công an được nổ súng trực tiếp vào người và phương tiện vi phạm” để vô hiệu hóa các trường hợp gọi là “có dấu hiệu chống người thi hành công vụ”.
Giấy phép giết dân
Đề xướng ấy lập tức bị công luận đồng loạt lên án bằng đủ thứ ngôn từ quan ngại và phẫn nộ. Từ Hà Nội, nhà báo Nguyễn Khắc Toàn lên tiếng:"Xu hướng của thế giới ngày nay, của xã hội ngày nay là phải đi đến dân chủ hóa và tôn trọng các quyền con người, tôn trọng sinh mạng của nhân dân. Nhưng Bộ Công an và Nhà nước CSVN lại tùy tiện đưa ra một nghị định để trình Quốc hội và có thể trở thành luật hóa và thực thi trong bối cảnh như vậy khiến dân chúng trong nước, khiến những người có lương tri hết sức căm phẫn, bởi vì nó đi ngược lại nguyên tắc nhân quyền cùng sự tôn trọng sinh mệnh, quyền sống của nhân dân. Nếu như dự luật này được thông qua thì rất nguy hiểm vì đã trao cho công an sự lạm quyền, sự lũng đoạn và sự tùy tiện để vận dụng quyền được bắn thẳng vào nhân dân."
Trước “hung tin” như vậy, ông Nguyễn Quang Phục, cha của nạn nhân Trần Quốc Bảo tử vong về tay công an, chua chát rằng:
"Chúng ta phải hỏi các cơ quan chính đảng của ta đã bảo vệ được cái quyền, lợi ích hợp pháp của công dân chưa? Và pháp luật của nước VN này đã bảo vệ quyền và tính mạng của người dân hay không?"
Là người trực tiếp phải chịu cảnh thương tâm tột cùng và mãi mãi do cái chết trong dằn vặt đau đớn, đói khát, oan khuất về tay công an của thân phụ Trịnh Xuân Tùng, Trịnh Kim Tiến bày tỏ quan ngại rằng nếu đề xuất này của Bộ Công an được duyệt, thì không biết rồi đây sẽ có thêm “bao nhiêu người mẹ mất con, bao nhiêu người vợ mất chồng, bao nhiêu người con mất cha một cách oan ức” giống như chính nạn nhân Kim Tiến. Cách nay ít lâu, khi đề cập tới tình trạng công an giết người, nhà báo Nguyễn Minh Cần từ Mascơva báo động:
"Đó là cái gì? Là sự khuyến khích của nhà nước dẫn tới tình trạng CA hành hung người dân. Chưa bao giờ số người dân bị CA giết chết nhiều như vậy."
Nhà báo Huy Đức nhận xét rằng “Trong khi người dân đang cần được bảo vệ trước sự lạm quyền của người thi hành công vụ, đặc biệt là công an, thì Bộ lại đề nghị cho CA dùng súng bắn dân (bị cho là) chống người thi hành công vụ.”
Đó là cái gì? Là sự khuyến khích của nhà nước dẫn tới tình trạng CA hành hung người dân.Nhà báo Nguyễn Ngọc Như Quỳnh báo động đề xướng của Bộ Công an như vậy chẳng khác nào là một hình thức “giấy phép giết dân” với một điều kiện đơn giản dành cho phía công an là “nếu thấy”, như ghi trong dự thảo đề nghị “nếu thấy hành vi chống đối sẽ gây hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho mình hoặc người khác, cán bộ thi hành công vụ được nổ súng trực tiếp vào người và phương tiện vi phạm”.
Nhà báo Nguyễn Minh Cần
Theo nhà báo Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, tức blogger Mẹ Nấm, thì câu trả lời cho sự “nếu thấy” ấy của công an khiến tái diễn “những Trịnh Xuân Tùng, Nguyễn Quốc Bảo, Nguyễn Công Nhựt, Trần Văn Tân… khác của năm 2013, 2014, 2015”, và về sau nữa!
Hai từ “nếu thấy” đó – tức dựa vào mức độ tùy tiện và cảm tính cá nhân - để mở đường cho công an nổ súng bắn dân là điều đáng ngại và nguy hiểm nhất. Trong khi Mẹ Nấm nêu lên câu hỏi rằng thế nào là “nếu thấy” của công an, thì nhà văn Thùy Linh lưu ý rằng “ngay khái niệm chống người thi hành công vụ” cũng rất mơ hồ.
Nhà văn Thùy Linh nêu lên một loạt câu hỏi rằng thế nào là chống người thi hành công vụ? Ở mức độ nào được phép nổ súng? Thái độ của người thi hành công vụ khi tham gia xử lý các vụ việc cần tuân thủ nguyên tắc làm việc nào giữa lúc người dân hiện nay “có quá nhiều bất bình với lực lượng hành pháp này”.
Và nhà văn Thùy Linh không khỏi thắc mắc rằng đề nghị ấy của Bộ Công an có thực sự phát xuất từ yêu cầu thực tế hay không, hay chỉ là cách mà giới cầm quyền chuẩn bị ứng phó sự bất bình ngày càng dâng cao của dân chúng?
Đứng trên luật
Theo blogger Ngô Minh, dự thảo nghị định ấy của Bộ Công an “mới nghe đã kinh hồn, bạt vía”, vì, nếu nghị định được quyền nổ súng này có hiệu lực, thì “không còn pháp luật nữa”, do tiếng súng giết người của công an đã biến tất cả những ai bị cho là “chống người thi hành công vụ” thành tử tội trực tiếp mà không cần xử án. Blogger Ngô Minh nhân tiện nhắc tới chuyện những người biểu tình yêu nước chống TQ xâm lược từng bị công an cho là “gây mất trật tự công cộng” và rồi “chống người thi hành công vụ”; hoặc những người có tâm huyết với vận nước chỉ vì đến theo dõi các phiên toà gọi là “xét xử công khai” với những bản “án bỏ túi” đã từng bị công an ngăn chận và quy chụp “chống người thi hành công vụ”.Do đó, theo blogger Ngô Minh, nếu công an được phép nổ súng bắn chết người, nghĩa là không cần xét xử, như vậy là “xử án không cần luật”. Nói cách khác, lúc đó “công an đứng trên luật, ngoài luật”.
Theo luật gia Giang Quyết thì “không ai có quyền tước đi sinh mạng của người khác”, không thể chỉ vì một hành vi “có dấu hiệu chống người thi hành công vụ” mà có thể tước đoạt ngay tức khắc mạng sống con người.
Nhà văn Đào Tuấn thì cảnh báo về “một cái quyền to quá liên quan trực tiếp đến sinh mạng con người” mà chỉ được quy định chung chung trong một nghị định, do một bộ soạn thảo, mà bộ đó lại chính là cơ quan đặc trách điều tra, xử lý một khi xảy ra cảnh “người dân vào đồn công an là người sống và ra khỏi đồn công an thành người chết”.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/people-at-risk-tobe-killed-more-by-police-03232013131914.html
Thêm một người chết tại đồn công an tỉnh Dak Nông
Thêm một trường hợp tử vong ngay tại đồn công an dù nạn nhân là người khỏe mạnh trước khi bị đưa vào đó. Vụ việc được ghi nhận tại trụ sở Công an thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Dak Nông.
Người khỏe bị nhốt tại đồn công an và chết
Nạn nhân được người nhà cho biết là ông Hoàng Văn Ngài, sinh năm 1974, cư ngụ tại xã Quảng Thành, thị xã Gia Nghĩa tỉnh Dak Nong. Ông này qua đời ngay tại trụ sở công an thị xã Gia Nghĩa.Ông này cùng người em là ông Hoàng Văn Tá và một người thân bán lại rẫy cho hai anh em là ông Sùng A Tú, cùng vợ của cả hai anh em bị công an xã và thị trấn Gia Nghĩa đến bắt đi khi họ đang dọn khu rẫy đó hồi ngày 14 tháng 3 vừa qua. Lý do mà phía cơ quan chức năng nêu ra để bắt giữ tất cả là vì họ phá rừng.
Sau hai ngày giam giữ hai người vợ của hai anh em Hoàng Văn Ngài và Hoàng văn Tá được cho về; trong khi đó những người đàn ông vẫn bị giam giữ tại trụ sở công an thị xã Gia Nghĩa.
Việc bắt giam được tiến hành mà không có lệnh gì hết như lời ông Hoàng Văn Tá cho biết vào ngày 22 tháng 3 như sau:
“Họ bắt đột xuất, không có giấy tờ báo lệnh bắt về điều gì cả. Những ngày tạm giam họ cũng không có quyết định gì cả. Họ giam hai anh em chúng tôi cùng hai bà vợ: vợ anh Ngài và vợ tôi nữa.”
Dù bị bắt chung nhưng mỗi người đều bị nhốt riêng ở một phòng khác nhau. Ông Hoàng văn Tá kể lại sự việc dẫn đến cái chết của người anh Hoàng văn Ngài như sau:
Họ tự mổ thi thể mà không có sự đồng ý của người nhà. Kết quả khám nghiệm không có thương tích gì. Ông Ngài tự tử.“Vào ngày 16, khoảng 17 giờ, họ thả vợ tôi cùng vợ anh Ngài ra về rẫy. Đến ngày chủ nhật 17, công an thị xã Gia Nghĩa có thả anh Ngài và tôi ra dọn vệ sinh, lau nhà, rửa xe. Đến khoảng 3 giờ chiều, khi đang điều tra tại phòng anh Ngài, nghe có tiếng ồn, va đập vào tường rất nhiều, ồn ào. Khoảng 16 giờ tôi xin cán bộ công an ra ngoài đi tiểu. Công an dẫn tôi ra ngoài đi tiểu; nhưng tôi không nhìn qua cửa sổ phòng anh Ngài như mọi khi. Khi tiểu xong về, tôi nhìn qua cửa sổ phòng anh Ngài, loại cửa làm bằng kính, đóng kín. Tôi thấy anh Ngài đưa hai tay như là cầu cứu. Tôi xin công an cho tôi đứng lại để xem anh Ngài cần thiết cái gì, công an bảo tôi phải đi vào phòng nhanh, không ngó gì hết. Công an đưa tôi vào phòng.
Anh Hoàng văn Tá
Một lát sau, công an đi đá bóng về, một công an đi trước chạy về bảo rằng ‘Ôi, ông này chắc chết rồi’. Một lúc sau họ gọi điện xe taxi Mai Linh đến trước cửa trụ sở công an. Họ kéo anh Ngài ra đưa lên xe taxi bốn chỗ, đi cấp cứu. Lúc đó tôi thấy tình hình không ổn, tôi đập cửa nói họ cho tôi ra ngoài để tôi đi thăm nuôi anh tôi. Họ nghiêm cấm, đóng chặt cửa phòng, không cho tôi ra ngoài để thăm nuôi anh tôi. Tôi khóc và ngất khoảng 30 phút; sau đó tôi xin cho tôi ra ngoài để đi theo anh Ngài, thăm nuôi anh. Tôi chắc anh Ngài chết rồi; nhưng họ ngăn tôi đến ba giờ sáng không cho tôi đi thăm anh Ngài.
Đến sáng hôm sau, 5 giờ sáng tôi dậy sớm và nói với công an cho tôi về thăm anh Ngài. Nhưng họ ngăn tôi đến 8 giờ sáng họ mới đưa tôi lên. Có một công an gọi tôi lên phòng trực ban, hội trường của cơ quan. Tôi cùng một công an lên đó, và gặp người nhà ở đó nói là ‘anh chưa biết anh Ngài chết à?’. Vậy là tôi mới biết anh Ngài chết thật, như hôm qua. Họ đưa xác anh Ngài vễ chỗ nhà tang lễ của bệnh viện Đa Khoa tỉnh Dak Nong. Họ mổ thi thể của anh Ngài không có sự chứng kiến của gia đình. Họ lấy một người cũng bị giam giữ trong phòng đứng ra chứng kiến việc mổ thi thể anh Ngài. Họ tự mổ thi thể mà không có sự đồng ý của người nhà. Kết quả khám nghiệm không có thương tích gì. Ông Ngài tự tử.”
Ông Sùng A Tú cũng xác nhận việc ông Hoàng Văn Ngài bị chết tại trụ sở Công an thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Dak Nong khi ông này cũng bị giam tại đó dù rằng không tận mắt thấy được sự việc:
“Vâng, chết tại phòng công an luôn đó. Công an cũng giữ cả tôi.Tôi nghe thấy tiếng ghế kêu, ghế động, không thấy tiếng người kêu.”
Công an trốn tránh
Chúng tôi đã nhiều lần cố gắng liên lạc với ông Châu, phó trưởng Công an thị xã Gia Nghĩa. Vào tối ngày 22 tháng 3, sau hai lần bắt máy, ông này nói không nghe rõ điện thoại vì đang dự liên hoan của một ngân hàng tại đó.Sang đến chiều ngày 23 tháng 3, chúng tôi gọi lại, máy tắt không thể liên lạc được.
Quyết đòi công lý
Trước cái chết ngay tại trụ sở công an, rồi việc khám nghiệm tử khi không được thông báo cho gia đình nạn nhân đến để chứng kiến, những người thân của nạn nhân Hoàng Văn Ngài đều cho rằng họ phải đòi hỏi công lý cho người chết. Ông Hoàng Văn Tá nói về điều đó vào tối ngày 22 tháng 3:“Đây là vấn đề bức xúc vì anh Ngài chết tại phòng Công an. Đề nghị các cấp xem xét, xem lại việc anh Ngài bị chết tại cơ quan công an để lấy công bằng cho công dân Việt Nam chúng tôi, thì chúng tôi mới tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng, chính quyền địa phương. Gia đình đang đòi hỏi sự công bằng, hợp lý của Nhà nước Việt Nam. Đòi hỏi nguyên nhân làm sao anh Ngài chết; mà anh Ngài là một người khỏe mạnh khi công an đến chở anh Ngài từ lán đi. Trước đây anh Ngài không hề có bệnh tật mà sao lại chết tại cơ quan công an?”
Suốt mấy năm qua tại nhiều địa phương trong cả nước đã xảy ra những vụ chết ngay tại trụ sở Công an và cơ quan này cho rằng nạn nhân hoặc đột tử, hoặc tự tử mà chết. Thế nhưng người thân của những nạn nhân đều cho rằng giải thích đó của công an không thỏa đáng, và họ nghi ngờ chính những người giam giữ đã gây ra cái chết cho thân nhân của họ. Một số gia đình quyết đưa vụ việc đến các cơ quan chức năng để khiếu kiện, nhưng phần thua thiệt bao giờ cũng thuộc về gia đình nạn nhân có người thân đã mất.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 254
BIỂN ĐÔNG - TRẦN VĂN TUYÊN - CON VŨ TRỌNG PHỤNG
SƠN TRUNG * CHÍNH LUẬN 12
CUỘC CỜ ĐÔNG HẢI
Từ đầu năm 2013, tình hình biển đông có vẻ tạm yên.Các lãnh tụ Trung Quốc và Mỹ không có màn đấu khẩu nào có lẽ Quốc Hội Trung Quốc chưa bỏ phiếu bầu Tập Cận Bình vào địa vị Chủ Tịch nước, nhưng tàu hải giám Trung Quốc ngày càng lộng hành. Tin đài VOA ngày13.03.2013 cho biết
Hai
tàu cá mang cờ hiệu Việt Nam bị Trung Quốc phát hiện sáng ngày 13/3 gần quần
đảo Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền đã bị hai tàu hải giám Trung Quốc
đuổi ra khỏi khu vực vì điều mà Tân Hoa xã gọi là “bị tình nghi đánh bắt cá bất
hợp pháp trong lãnh hải Trung Quốc.”
Trung Quốc tăng cường tuần tra Biển Đông từ năm ngoái và lần đầu tiên đã điều động một máy bay trực thăng lên tàu tham gia công tác này.
Đội tàu của Trung Quốc đang tiến hành công tác tuần tra định kỳ ở Hoàng Sa hiện do thành phố Tam Sa của Bắc Kinh quản lý hành chính.
Truyền thông Trung Quốc cho hay chuyến tuần tra 9 ngày khởi sự hôm 10/3 phối hợp giữa trực thăng và 3 tàu hải giám mang số hiệu 83, 262, và 263 hôm nay đã hoàn tất tuần tra quần đảo Vĩnh Lạc thuộc Hoàng Sa.
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-xua-duoi-tau-ca-vietnam-o-hoang-sa/1620778.html
Trung Quốc tăng cường tuần tra Biển Đông từ năm ngoái và lần đầu tiên đã điều động một máy bay trực thăng lên tàu tham gia công tác này.
Đội tàu của Trung Quốc đang tiến hành công tác tuần tra định kỳ ở Hoàng Sa hiện do thành phố Tam Sa của Bắc Kinh quản lý hành chính.
Truyền thông Trung Quốc cho hay chuyến tuần tra 9 ngày khởi sự hôm 10/3 phối hợp giữa trực thăng và 3 tàu hải giám mang số hiệu 83, 262, và 263 hôm nay đã hoàn tất tuần tra quần đảo Vĩnh Lạc thuộc Hoàng Sa.
http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-xua-duoi-tau-ca-vietnam-o-hoang-sa/1620778.html
Lẽ tất nhiên cộng đảng Việt Nam đối với mẫu quốc phải im
lặng vì "im lặng là vàng". Cả thế giới lo lắng nhưng giới chức thẩm
quyền Đài Loan bình chân như vại.Đài VOA hôm 11-3- 2013 loan tin rằng Đài Loan
nói rằng Hiện tại xung đột quân sự vì tranh chấp
chủ quyền tại Biển Đông và biển Đông Trung Hoa có phần chắc sẽ không xảy ra,
nhưng có nguy cơ có thể có các cuộc đụng độ tình cờ. Đó là nhận định của Bộ
Quốc phòng Đài Loan đưa ra ngày 9/3 được thông tấn xã trung ương Đài Loan đăng
tải. http://www.voatiengviet.com/content/dai-loan-khong-co-kha-nang-xung-dot-quan-su-tai-bien-dong/1619419.html
Mấy vị sếnh sáng này khôn quá trời , chuyên môn nói nước đôi
kiểu thầy bói quê ta:
"Số cô có vợ có
chồng,
Sinh con đầu lòng chẳng
gái thời trai".
Tiếc rằng các vị thẩm quyền chẳng cho biết lý do làm sao mà
quả quyết chiến tranh Biển Đông
"có phần chắc sẽ không xảy ra" .Tàu không dám đánh Mỹ hay Mỹ chẳng dám đánh
Tàu? Nếu vậy thì thích quá, hòa bình sẽ mãi mãi vững bền trên biển Thái Bình,
và biển Thái Bình quả là cái tên định mệnh! Trong khi các ông Đài Loan rung đùi
an tâm hưởng lạc thì các ông Mỹ lo lắng, chạy ngược chạy xuôi. Theo Trọng Nghĩa
đài RFI trong bài nhan đề "Hoa Kỳ : Hội thảo về nguy cơ Biển Đông biến
thành bom nổ chậm" , cho biết
Từ ngày 13/03 đến 15/03/2012, tranh chấp tại Biển Đông sẽ được
giới chuyên gia quốc tế mổ xẻ nhân cuộc hội thảo tại Mỹ do Hội châu Á Asia
Society - trụ sở tại New York - phối hợp với Trường Chính sách công Lý Quang
Diệu tại Singapore đồng tổ chức. Đặt dưới lăng kính "Biển Đông là nhân tố
trung tâm cho hòa bình và an ninh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương", các
chuyên gia tham gia hội thảo sẽ phân tích xem phải chăng tranh chấp trong vùng
này đang là một quả bom nổ chậm, đòi hỏi nhanh chóng có giải pháp tháo gỡ.
http://www.viet.rfi.fr/node/79459
Sau khi Obama đắc cử Tổng
Thống, người ta chờ đợi chính sách mới của ông như thế nào, có theo đường lối
mạnh mẽ của bộ trưởng Gates và Clinton hay đánh trống bỏ dùi. Nhất là hai ông
cựu chiến binh Việt Nam nổi tiếng thân cộng lên làm bộ trưởng Ngoại giao và Quốc
Phòng thì tình hình sẽ về đâu? Hai ông có theo đường lối phản chiến nữa hay
không?
Minh Anh, đài RFI ngày 13-3-2013 , đã lấy từ nhật báo
kinh tế Les Echos hôm nay có bài phân tích đề tựa « Căn nguyên và những cái
bẫy trong việc rẽ hướng sang châu Á của Hoa Kỳ ». Tờ báo nhận định rằng,
việc Mỹ tăng cường quân đội trong khu vực có nguy cơ khiến cho Trung Quốc thêm
hung hăng.
Tờ báo này cho biết Tổng thống Obama đã quyết tâm
chuyển hướng về châu Á. Sự chuyển hướng này rất cần thiết để chống lại Trung
Quốc bành trướng. Sự chuyển hướng này có hai cái lợi là chiếm lấy kho dầu ở
Thái Bình Dương để khỏi lệ thuộc Trung Đông. Sự chuyển hướng xoay trục này cũng
có lợi vì Mỹ sẽ bắt đầu từ việc rút hết quân tại Irak vào năm 2011 và
tương tự cho Afghanistan từ đây đến hết năm 2014. Mặt khác, chiến tranh lạnh
kết thúc cho phép Mỹ giải ước từ từ khỏi châu Âu. Lầu Năm Góc sẽ cho rút bớt
thêm quân tại các khu căn cứ ở Đức.
Tờ báo này nói đến hai điều bất lợi. Đó là làm cho
Trung Cộng hung hăng và bang giao Mỹ Trung xấu đi. Tờ báo kể ra hai điểm nhưng
hai điều cũng là một. Còn việc làm cho Trung Quốc hung hăng thì Trung Quốc hung
hăng từ lâu chứ không phải từ khi Obama xoay trục đổi chiều.
Trong khi đó, tờ Le Monde lại cho
rằng căng thẳng Nhật Trung sẽ đưa đến chiến tranh. Lê Phước, đài RFI ngày 12
tháng 3 năm 2013 nhận định rằng Nhật Báo Le
Monde hôm nay góp phần giải đáp thắc mắc này với bài phỏng vấn hai chuyên gia
về Trung Quốc Jean-Philippe Béja và Valérie Niquet. Bài phỏng vấn chạy dòng tít
cảnh báo:« Trung-Nhật, chiến tranh lạnh tại Châu Á ». Hai chuyên gia
đi vào phân tích cặn kẽ nhiều vấn đề cốt lõi trong tranh chấp Nhật-Trung, trong
đó đại để có mấy vấn đề nổi cộm sau:
-
Tập Cận Bình luôn khẳng định bảo vệ chủ quyền quốc gia.
-Thủ tướng Shinzo Abe từ khi nhậm
chức đã tỏ ra cứng rắn với Trung Quốc.
Trong khi hai vị lãnh đạo tỏ ra hăng
hái chiến đấu, thì dân Trung quốc và Trung Cộng thấy họ đủ mạnh để thay Mỹ làm
bá chủ hoàn cầu. Tham vọng của Trung Cộng làm cho cả châu Á đứng về phía Mỹ, và
hoan hô Mỹ trở lại vùng này. Trung Cộng muốn chia hai Thái Bình Dương với Mỹ
nhưng Mỹ không chấp nhận. Trung cộng ra sức ve vuốt , hăm dọa, chia rẽ khối
Asian nhưng Trung Cộng không hoàn toàn mãn nguyện. Có thể Việt Nam, Lào,
Cambodia theo Trung Cộng nhưng cả khối lớn Nhật Bản, Ấn Đô, Philuật tân, Úc châu
sẽ theo Mỹ, cán cân lực lượng rõ là nghiêng về Mỹ. Các chuyên gia cũng nói rằng
thực lực quân sự Trung Cộng chỉ dọa trẻ con chứ so với Mỹ thì chẳng ăn thua gì
mà hung hăng bọ xít!
Đi xa hơn nữa, tờ Phương Đông của
Trung Cộng đã loan tin là họ thấy trước Nhật Mỹ đánh hàng không mẫu hạm của họ.
Trong tình hình đảo
Senkaku vô cùng căng thẳng, báo chí Hồng Kông cho rằng, một khi Trung-Nhật giao
chiến, Nhật-Mỹ sẽ coi tàu chiến cỡ lớn của Quân đội Trung Quốc là mục tiêu tấn
công đợt đầu, thậm chí dự định một lần là bắn chìm tàu sân bay Trung Quốc.
Cách đây không lâu, tờ
Sankei Shimbun Nhật Bản đã công bố kế hoạch tác chiến chủ yếu nhất hiện nay của
Bộ Quốc phòng Nhật Bản, tổng cộng có 5 phương án tác chiến, trong đó có 3
phương án liên quan tới Quân đội Trung Quốc. Ba phương án chiến tranh ở cấp độ cao
nhất này đều liên quan đến cuộc khủng hoảng xảy ra ở biển Hoa Đông.
Phương án thứ nhất là
Trung-Nhật xảy ra chiến tranh do tranh đoạt chủ quyền đảo Senkaku; phương án
thứ hai là Trung-Nhật xảy ra va chạm ở xung quanh đảo Senkaku, tình hình leo
thang mở rộng, Quân đội Trung Quốc can thiệp, Trung Quốc muốn kiểm soát đảo
Ishigaki và đảo Miyako ở phía tây bắc Đài Loan; phương án tác chiến thứ ba thậm
chí đặt ra tình huống Quân đội Trung Quốc tấn công Đài Loan.
Trong các phương án tác
chiến này, đều phỏng đoán Quân đội Trung Quốc điều động tàu sân bay, tàu tấn
công đổ bộ, lực lượng đặc nhiệm, tên lửa đạn đạo và máy bay chiến đấu, Mỹ-Nhật
liên kết chống lại Quân đội Trung Quốc.
Đặc biệt là trong phương
án thứ ba, Bộ Quốc phòng Nhật Bản cho rằng, Quân đội Trung Quốc sẽ xảy ra cuộc
đối đầu trực tiếp với quân Mỹ và quân Nhật lấy Okinawa làm căn cứ.
Nếu quân Mỹ toàn lực tham gia, Trung Quốc sẽ sử dụng tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D đe dọa tàu sân bay của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời sử dụng tên lửa đạn đạo tầm xa DF-31 đe dọa lãnh thổ Mỹ.
Theo tờ “Liên hợp Buổi sáng” Singapore, nếu
Trung-Nhật xảy ra xung đột quân sự, một khi quy mô xung đột mở rộng, rất có khả
năng hải quân và không quân đều sẽ tham gia.
Bình luận viên quân sự
Trần Quang Văn của tờ “Thế giới báo” cho rằng, trong chiến tranh trên biển-trên
không hiện đại, do sức mạnh không quân ngày càng mạnh, có khả năng răn đe đối
không, đối hải tương đối mạnh, cho nên ngoài sức chiến đấu của hải quân, không
quân của hai bên mới là then chốt của thắng bại. Không có sự yểm trợ của không
quân, các tàu chiến mặt nước của hải quân đều sẽ trở thành “bia ngắm”, đặc biệt
là những tàu chiến mặt nước cỡ lớn như tàu sân bay, tàu tấn công đổ bộ.
Truyền hình vệ tinh
Phượng Hoàng Hồng Kông cho rằng, trong thời điểm hai bên “say sưa” giao chiến
quyết liệt, quân Mỹ ra tay để viện trợ cho quân Nhật, cuộc chiến tranh trên
biển sẽ kết thúc với thắng lợi nghiêng về Nhật-Mỹ.
Trong tình hình tàu chiến của Nhật-Mỹ cơ bản chưa bị tổn thất, nhiều tàu khu trục, tàu ngầm của Trung Quốc bị bắn chìm.
Đặc biệt, tàu sân bay
Liêu Ninh cũng bị bắn trúng chỗ hiểm và bốc cháy, để nước tràn vào và nghiêng
ngả, không thể tự chủ hoạt động. Sau 30 phút, Nhật Bản hạ lệnh cho tàu ngầm
phóng ngư lôi bắn chìm tàu sân bay Liêu Ninh. Cuối cùng, Nhật-Mỹ liên kết đánh
bại Hải quân Trung Quốc.
Nguồn:
Đông Bình - GDVN
Đài RFI và đài VOA cùng loan tin
rằng Obama quyết tâm ủng hộ các nước Asian trong cuộc tranh chấp chủ quyền biển
đảo. Trọng Nghĩa đài RFI loan tin Vào tháng Mười
tới đây, Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ đến Brunei tham gia hai hội nghị thượng
đỉnh Đông Á EAS và Mỹ-ASEAN. Phát biểu vào hôm qua, 12/03/2013 sau cuộc hội đàm
song phương với Quốc vương Brunei Hassanal Bolkiah tại Nhà Trắng ở Washington,
ông Obama xác nhận rằng ông sẽ đề cập đến các « vấn đề hàng hải » với lãnh đạo
các nước sẽ đến Bandar Seri Badawan, thủ đô Brunei, để tham gia hai hội nghị
thượng đỉnh thường niên kể trên.
Tổng thống Mỹ nhấn mạnh : «
Chúng tôi sẽ thảo luận về vấn đề hàng hải. Rõ ràng là đang có rất nhiều căng
thẳng trong khu vực liên quan đến các vấn đề trên biển. »Theo Tổng
thống Mỹ, người đứng đầu xứ Brunei đã chứng tỏ tài lãnh đạo trong việc « đoàn kết các nước lại với nhau để đảm bảo sao cho tất cả
mọi người đều tuân thủ các quy tắc cơ bản của luật pháp và các chuẩn mực quốc
tế. »
Trong thời gian gần đây, và nhất là
từ khi chính thức nhậm chức chủ tịch luân phiên khối ASEAN, Brunei luôn khẳng
định rằng họ sẽ thúc đẩy trong nhiệm kỳ của mình, việc đúc kết một bộ quy tắc
ứng xử tại Biển Đông mang tính chất ràng buộc giữa Trung Quốc và ASEAN.
Tổng thống Obama nói các cuộc họp
sắp tới sẽ là kênh hữu ích để thảo luận các vấn đề thương mại, kinh tế, và
ngoại giao có ảnh hưởng tới khu vực mà Hoa Kỳ đang chuyển trọng tâm hướng tới.
Tổng thống Mỹ cũng cho biết rằng Hoa
Kỳ sẽ tham gia vào cuộc diễn tập đầu tiên phối hợp giữa Mỹ, Trung Quốc, và các
nước ASEAN vào tháng sáu năm nay để trắc nghiệm xem các cường quốc quân sự Thái
Bình Dương có thể hợp tác thế nào trong công tác cứu trợ thảm họa.
Brunei đã tuyên bố sẽ theo đuổi một
bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc pháp lý giữa các nước có tranh chấp ở
Biển Đông trong lúc giữ ghế Chủ tịch ASEAN trong năm nay.
Trong khi đó, Trung Quốc vẫn nhất
mực đòi giải quyết tay đôi với từng nước một có tranh chấp.
Nguồn: AFP, Washington Post.
LUẬT SƯ TRẦN VĂN TUYÊN II
Thư Ngỏ Của Gia Đình Cố LS Trần Văn Tuyên
Ngày: Saturday, 01, March
Ông Trần Tử Thanh - thứ nam cố LS Trần Văn Tuyên
Chúng tôi nhận được lá thư gởi các cơ quan báo chì của gia đinh cố LS Trần Văn Tuyên lên tiếng về vụ phỏng vấn giữa Tường Thắng và ông Vũ Trọng Khanh. Trong thư, gia đình cố luật sư Trần Văn Tuyên phủ nhận có các liên hệ họ hàng với ông Vũ Trọng Khanh. Ngoài ra chúng tôi cũng đồng ý có một cuộc phỏng vấn với ông Trần Tử Thanh - thứ nam của cố LS Trần Văn Tuyên để phản biện những gì mà ông Vũ Trọng Khanh đã nói. Khi nào thực hiện xong cuộc phỏng vấn, chúng tôi sẽ mời quý bạn đọc theo dõi. Chúng tôi đăng nguyên văn lá thư của cố gia đình LS Trần Văn Tuyên để quý bạn đọc tham khảo.
Thư Ngỏ Của Gia đình Cố Phó Thủ tướng, Luật sư Trần Văn Tuyên
Đồng kính gửi:
- Các cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, các mạng internet.
- Qúy vị :
Lãnh đạo tinh thần các tôn giáo
Chủ tịch các Đảng pháiquốc gia
Chủ tịch Cộng Đồng
- CácTổ chức, Hội đoàn người Việt quốc gia tại hải ngoại.
- Bà con Thân Thuộc và Bằng Hữu của Gia Dình Cố Luật Sư Trần
Văn Tuyên trong và ngoài nước
Mới đây trong một cuộc phỏng vấn kéo dài 4 phần trên đài truyền hình
SBTN ở quận Cam và được báo Việt Nam Exodus đưa lên mạng, có một
người xưng là Vũ Trọng Khanh, tự Vũ Lăng, cựu Đại Tá QLVNCH tốt
nghiệp khóa 4 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt (?) , con của nhà văn Vũ
Trọng Phụng (?) - không hiểu vì ly do gì, đã mạo nhận là cháu của Luật
Sư Trần Văn Tuyên.
Vì sự việc có liên quan đến thân phụ và giòng tộc chúng tôi, chúng tôi xin
minh xác:
1. Họ và tên người này nêu ra trong cuộc phỏng vấn để chứng minh
liên hệ với gia đình Luật Sư Trần Văn Tuyên là hoàn toàn xa lạ đối
với gia đình chúng tôi và không có trong gia phả của giòng họ
Trần.
2. Những sự kiện liên quan đến thân phụ chúng tôi là những sự kiện
hoàn toàn bịa đặt một cách trắng trợn.
Tất nhiên khi tạo dựng những sự kiện nêu trên, người được phỏng vấn
hẳn đã có mưu đồ đen tối nào đó.
Vì vậy chúng tôi xin gởi bức thư ngỏ này thông báo tới toàn thể bà con
trong gia tộc, các bằng hữu quen biết gia đình chúng tôi, cùng mọi giới,
để cảnh giác đề phòng và tránh mọi ngộ nhận trong tương lai.
Thay mặt gia đình cố Luật Sư Trần Văn Tuyên
Luật Sư Trần Tử Huyền, Trưởng Nam
California, ngày 17 tháng Hai năm 2008
Bài này o+? Vietnam Exodus
http://www.vietnamexodus.info/vne
URL cu?a bài này là:
http://www.vietnamexodus.info/vne/modules.php?name=News&file=article&sid=3516
NHÀ TÙ CHÓT của PHÓ THỦ TƯỚNG TRẦN VĂN TUYÊN
Nhà tù chót của Trần Văn Tuyên
VIÊN LINH sao lục
Wednesday, October 27, 2010
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=122321&z=257
Hơn một năm sau khi ở tù cộng sản, nhà văn hóa, người lo việc nước Trần Văn Tuyên (sinh ngày 1 tháng 9, 1913), gục ngã trên mặt bàn trong trại tù tập trung Hà Sơn Bình, hai ngày sau thì từ trần.
Cố luật sư, Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên, chụp trước Quốc Hội VNCH. (Hình do Tạp chí Khởi Hành cung cấp.)
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/122321-TRVTUYEN-1-300.jpg
Theo tin tức do Việt Cộng đưa ra, đó là ngày 28 tháng 10, 1976. Như thế cho tới hôm nay, nhà lãnh tụ tên tuổi nhất của Việt Nam Quốc Dân Ðảng của miền Nam đã khuất bóng vừa đúng 34 năm; và ở đời được 63 năm. Cuộc đời ông vào tù ra khám nhiều lần, song cứ theo một bài thơ ông để lại, hình như ông không “lấy đó làm điều:”
Thân già tuổi tác trời cho sống
Ta vẫn yêu đời thỏa chí trai
Cùm xích nung sôi hồn cách mạng
Giao thừa chóng đến đợi sao mai.
(Trần Văn Tuyên, Giao Thừa Trong Ngục, Khởi Hành 10, 1998)
Thế hệ ’40, ’50 (những người trưởng thành vào những năm 1940, những năm 1950) lưu tâm tới tình hình đất nước của một Việt Nam tranh đấu, hầu như không ai là không nghe nói đến Trần Văn Tuyên. Nhưng sau đó, và nhất là sau khi đất nước thu vào một mối (“một mối u sầu một mối tang thương” như thơ Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực), ít người còn biết rõ con người ấy là ai. Cho nên bài viết này chỉ là một ghi chép thu gọn, nhằm giúp trí nhớ bạn đọc, nhất là các bạn đọc trẻ, về chân-thân người yêu nước Trần Văn Tuyên qua mô tả của nhiều nhân vật chứng nhân của một thời kỳ quốc cộng phân tranh.
1. “Trong số những người thân thuộc này, tôi nghĩ tới chiến sĩ Trần Văn Tuyên, mà trong 40 năm qua tôi vẫn xem là một huynh trưởng, một người bạn vong niên, một nhà văn hóa, một nhà văn học, một nhà ái quốc, một nhà cách mạng chân chính đã nêu cao truyền thống dân tộc và giữ vững tinh thần bất khuất của giống nòi Lạc Việt.
Ngày 6 tháng 12, 1947: Hội đàm Bollaert-Bảo Ðại tại Vịnh Hạ Long.
Sau cuộc hội đàm Vịnh Hạ Long, cựu hoàng
Bảo Ðại cử hai vị cộng sự viên thân tín từ HongKong về nước tiếp xúc
với các nhân sĩ quốc nội, nhằm thành lập chính phủ quốc gia đầu tiên.
Hai cộng sự viên than tín đó là ông Lưu Ðức Trung và ông Trần Văn Tuyên.
Năm 1951 Thủ Tướng Trần Văn Hữu ký nghị định cử ông Trần Văn Tuyên và
chúng tôi (Thái Văn Kiểm) đi Pháp tham dự lễ kỷ niệm 2000 năm thành lập
Paris (Paris tên cũ là Lutetie-Lutece được thành lập năm 51 trước C.N.).
Trong các hoạt động hiệp hội, đoàn thể,
LS Tuyên là sáng lập viên phong trào Hướng Ðạo Việt Nam, phong trào
Truyền Bá Quốc Ngữ, Hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Công Quyền, cố vấn Tổng
Công Ðoàn Tự Do. Ông có dạy học ở trường Thăng Long Hà Nội.”
(Thái Văn Kiểm, Liệt sĩ Trần Văn Tuyên)
2. “Sau hơn nửa thế kỷ qua, tôi vẫn còn
nhớ rõ hình ảnh người huynh trưởng Trần Văn Tuyên bên đống lửa trại Chùa
Láng (gần Hà Nội) năm xưa. Anh cũng mặc đồng phục Hướng Ðạo như chúng
tôi. Cũng quần soọc tím, áo sơ mi nâu bạc màu, cũng thắt khăn quàng nơi
cổ như mọi HÐ khác. Lúc ấy hướng đạo sinh của các đoàn đã ngồi thành
vòng tròn khá lớn quanh đống lửa trại. Anh Tuyên vừa bước qua vòng tròn,
mọi tiếng rì rào nổi lên khắp dẫy, như một dòng điện truyền lan: ‘Anh
Tuyên! Anh Tuyên đấy!’ Anh là hình ảnh một trong những thần tượng Hướng
Ðạo của chúng tôi.”
(Mặc Thu, Nhớ về Trần Văn Tuyên)
3. “Tầm thước, nhanh nhẹn, tóc húi cao,
mắt sáng tinh anh sau cặp kính cận dầy cộm, luôn tươi cười cởi mở, anh
Trần Văn Tuyên là mẫu người trí thức thông minh, rõ rệt là một hiền
nhân. Rất uyên bác, đọc nhiều sách khảo cứu, có cả một thư viện trong
nhà, anh thông thạo Pháp, Anh và Hán tự Anh viết báo, làm luật sư, lưu
vong sang Tầu, ở tù nhiều lần, làm bộ trưởng Thông Tin, làm phó thủ
tướng Ðặc Trách Kế Hoạch, dân biểu, trưởng khối đối lập, thủ lãnh luật
sư đoàn.”
(Nguyễn Tường Bá, vài kỷ niệm về
anh Trần Văn Tuyên. Vẫn theo LS Nguyễn Tường Bá, báo New York Times gọi
Trần Văn Tuyên trong tù là “một Solzhenitsyn của nhà tù Gulag Việt Nam)
4. Khởi Hành phỏng vấn ông Trần Tử Miễn, con trai út của LS Tuyên. Lời ông Miễn:
“Ông theo gương chí sĩ Nguyễn Thái Học,
gia nhập Quốc Dân Ðảng năm 16 tuổi. Ông cảm phục Abraham Lincoln, Thomas
Jefferson (người nói báo chí là Ðệ Tứ Quyền), và Tôn Dật Tiên, cha đẻ
của thuyết Tam Dân của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng: Dân tộc độc lập – Dân
quyền tự do – Dân sinh hạnh phúc. Ba tiêu đề này, Việt Cộng trộm mấy chữ
sau: Ðộc lập Tự do Hạnh phúc để lừa phỉnh. Cũng chính vì ba chữ này mà
một số anh em Việt quốc đi theo hàng ngũ Việt Cộng (trước cuộc di cư
1954). Về tình bằng hữu, cha tôi thân thiết với cố Dân Biểu Trần Văn Văn
(thân phụ anh Trần Văn Bá) cả hai cha con đều bị Việt Cộng sát hại
trước và sau 1975.
Cha tôi không bao giờ chấp nhận chính
phủ ba thành phần. Trước 30 tháng 4 độ hai tháng, Tòa Ðại Sứ Mỹ có liên
lạc nói họ dành 50 chỗ cho gia đình cha tôi và thân hũu trên máy bay để
di tản. Nhưng ông không có ý định ra đi. Vì các lý do: Mình sinh ra ở
đây, thà chết ở đây. Tất cả anh em VNQDÐ đều quyết định ở lại, vậy mình
càng không bỏ rơi anh em.”
(Thụy Khanh phỏng vấn, Saint Germain les Corbeit, 21 tháng 9, 1998)
5. Lời Trần Văn Tuyên: “Xét quá trình
hoạt động, tôi không thấy có tội gì với nhân dân Việt Nam. Nếu tôi có
tội thì đó là cái nhìn của đảng Cộng Sản Việt Nam.” (Trần Văn Tuyên, Bản
khai lý lịch tại trại tù Long Thành, 16 tháng 5, 1975)
“Một ánh sáng chói lòa. Tôi giật mình
ngẩng đầu nhìn, tưởng lựu đạn hay plát-tích nổ. Bên cạnh tôi, một đám
khói trắng bùng lên. Tôi nhìn khách, không thấy khách. Cũng không phải
là lựu đạn hay plát-tích. Cũng không phải là pháo bông ăn mừng cách mạng
thành công. Ngẩn ngơ, tôi thủng thẳng bước đi. Mình cảm thấy lòng mình
cũng bơ vơ, cơ khổ: không còn nơi dung thân, không có nơi gieo ý, không
có nơi xây dựng!
Như khách, tôi cũng nhận thấy con người
mới chỉ thấy hoang tàn, tang tóc của cách mạng mà chưa thấy phần xây
dựng của cách mạng. Và ngày ngày, mỗi buổi chiều, tôi tới vườn Diên Hồng
ngồi đợi khách. Nhưng cách mạng! Anh còn đây hay đã đi đâu?”
(Trần Văn Tuyên, Người Khách Lạ, tập truyện ngắn, 30 tháng 10, 1965)
Chú thích: Các trích dẫn trên
đây chỉ là phần ngắn gọn cho hợp khuôn khổ Trang Thời Sự Nhân Văn, từ
những bài dài in trong Khởi Hành chủ đề Trần Văn Tuyên, số 24, xuất bản
tháng 10, 1998.
Đại Tá Vũ Lăng Vũ Trọng Khanh
Posted on March 5, 2008 by hoanghaithuy
Biết dzồi.. Khổ lắm.. Kể mãi..! Vâng, không tả oán nữa, xin nói ngay vào chuyện. Một tối Phù Hư, người bạn văn nghệ của tôi, ghé nhà tôi, anh nói:
- Tôi mới gặp anh con trai của ông Vũ Trọng Phụng. Anh ta mới ở Hà Nội vào. Tôi hẹn gặp lại anh ta sáng mai.
Anh hỏi tôi:
- Anh có muốn gặp con trai ông Vũ Trọng Phụng không? Muốn gặp thì sáng mai đi với tôi.
Từ lâu tôi biết Nhà Văn Vũ Trọng Phụng không có con trai, ông chỉ có một người con gái. Gần như tất cả những người đọc những tiểu thuyết Giông Tố, Số Đỏ, Cơm Thầy Cơm Cô của Nhà văn Vũ Trọng Phụng đều biết ông chỉ có một người con gái. Nay ở đâu ra anh con này của Nhà Văn? Mạo nhận ư? Nhưng mạo nhận là con Nhà Văn để làm gì? Tôi không tin người nào đó là con trai của Nhà Văn nhưng vì buồn quá đỗi, buồn đến có thể chết được, phần vì không có việc gì làm, tôi theo Phù Hư đi gặp anh ta.
Những tháng đầu tiên bọn Bắc Cộng rước hình Chủ Tịt Hồ chí Minh của chúng vào Sài Gòn, dzân Sài Gòn — thất nghiệp không phải chăm phần chăm mà là năm chăm phần chăm — toàn dzân không ai có việc gì làm, người ta đổ ra đường kiếm ăn Chợ Trời, Chợ Đất, nhiều người Sài Gòn ra Chợ Trời cho đỡ buồn, nhiều người mở hàng cà phe vỉa hè. Hàng họ thật giản dzị, vài cái bàn, vài cái ghế thấp tè đóng bằng gỗ ván thùng, vài phin cà phe, một ấm cà phe bí tất, nửa ký cà phe, nửa ký đường, bán gần hết chạy đi mua, 1 phích nước, dăm cái ly, cái muỗng, thế là thành một tiệm cà phe vỉa hè Sài Gòn Thất Thủ Lủ Khủ Lù Khù. Sáng hôm ấy tôi theo Phù Hư đến một tiệm cà phe như thế trên vỉa hè đường Gia Long. Đúng giờ hẹn người tự nhận là con trai của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng đến.
Người thanh niên trắng trẻo, đẹp trai, mặt mũi sáng sủa, bận bộ đồ bà ba đen mới may. Tôi không có khả năng nhận xét sắc xảo gì nhưng nhìn anh tôi biết chắc anh không phải là dân Sài Gòn, anh là người miền Bắc mới vào Sài Gòn nhưng anh không có cái vẻ cù lần của bọn thanh niên Hà Nội Bắc Kỳ Xã Hội Chủ Nghĩa, những kẻ được dân Sài Gòn tả trong câu dzân dzao 1975:
Trai Sài Gòn như chim anh vũ,Phù Hư đãi anh ly cà phê đen giá 1 đồng, 1 đồng tiền Hồ là 500 đồng bạc Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
Trai Hà Nội như củ khoai lang.
Tôi nói với anh thanh niên :
- Tôi tưởng ông Vũ Trọng Phụng không có con trai ?
Rất lễ phép, và có vẻ đầy đủ thẩm quyền, coi như chuyện người thiên hạ không biết Nhà Văn Vũ Trọng Phụng có con trai là chuyện thường, là những người không biết đáng thương hại, anh ta nói :
- Thưa bác.. Bố cháu có cháu và em gái cháu. Tên cháu là Vũ Trọng Khanh.
Lần thứ nhất tôi nghe cái tên Vũ Trọng Khanh là trong một buổi sáng cuối năm 1975, hay đầu năm 1976, trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn.
Sau ly cà phe, vài điếu thuốc lá, Phù Hư và tôi chia tay với Vũ Trọng Khanh. Ngoài việc xưng là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, người nói tên mình là Vũ Trọng Khanh không ba hoa chích chòe khoe khoang, không nói lời gì với ý định lừa gạt hay lợi dụng Phù Hư và tôi. Anh cũng không hỏi nhà chúng tôi, không nói chỗ anh ở, công tác anh làm, không hẹn gặp lại. Từ đấy tôi không gặp lại anh, tôi cũng không nghe ai nói đến anh.
Năm 1975, 1976 tôi 40 tuổi, người tự nhận là Vũ Trọng Khanh, con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, trạc 30 tuổi. Nếu anh là con ông Vũ, anh phải ra đời trước năm 1939 là năm ông Vũ từ trần, ít nhất anh phải ra đời trong những năm 1934, 1935, năm 1975 anh phải gần 40 tuổi, anh phải già, phải via tông-keng bằng tôi, anh không thể trẻ đến như thế. Tôi không tin anh là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng nhưng tôi chẳng bắt bẻ anh làm gì. Tại sao lại cố ý moi móc để chứng tỏ người ta nhận vơ ? Mà người ta nhận vơ người ta là con ông Nhà Văn sì đã nàm thao? Hại gì ai ? Nhà văn Vũ Trọng Phụng có nổi tiếng, có được người đời trọng mến, mới có người nhận là con. Ở đời thiếu gì anh con từ bố, chối bố hay xấu hổ khi có ai nói anh là con của ông bố anh.
Những năm 2000, 2001, ở Kỳ Hoa Đất Trích, tôi nghe nói :
- Ở San José có người nhận là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, tên là Vũ Trọng Khanh.
Tôi nghe qua rồi bỏ. Tự nhiên tôi không tin nhân vật Vũ Trọng Khanh San José 2000 là nhân vật Vũ Trọng Khanh tôi gặp năm 1975, 1976 trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn. Lại một người nhận vơ.. ! Mà người ta nhận vơ sì đã nàm thao? Người ta nhận vợ kệ người ta, mình không nhận vơ, mình không tin chuyện người ta nhận vơ thì thôi. Có gì quan trọng mà cứ phải vạch ra là người ta nhận vơ.
Ngày tháng qua đi..
Tháng 2 năm 2008, liêu lạc ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, sau hơn 30 mùa lá rụng vật đổi, sao dời, người tù rạc, người đi, người ở, người về, người ra nghĩa địa, người vào lò thiêu, tôi gặp lại cái tên Vũ Trọng Khanh, tôi lại nghe nói đến ông Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh tôi thấy ở Kỳ Hoa Đất Trích trên màn ảnh truyền hình SBTN năm 2008 không phải là anh thanh niên Bắc Kỳ đẹp trai Vũ Trọng Khanh tôi gặp ở Sài Gòn cuối năm 1975 hay đầu năm 1976.
Như vậy : trước sau, trong vòng 40 năm, tôi thấy cuộc đời này có hai ông Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh thứ nhất tôi được gặp, được nói chuyện ở Sài Gòn năm 1975 không có chức vụ, không cấp bậc gì cả, ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tôi chỉ được nhìn thấy dung nhan trên màn hình Internet trong cuộc phỏng vấn của Hệ Thống Truyền Thông SBTN. Ông Vũ Trọng Khanh San José 2008 được Đài SBTN giới thiệu bằng cái tên có cấp bậc quân đội là Đại Tá Vũ Lăng.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San José 2008 trạc Sáu Bó tuổi đời, bận quân phục, tôi nhìn không rõ đó là quân phục Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa hay quân phục Quân Đội Hoa Kỳ. Ông có vẻ đau yếu, dường như ông ngồi không vững, ông nói khó khăn, ông có bà vợ trẻ ngồi bên đỡ lời, nói dùm. Trong cuộc phỏng vấn ông nói ba, bà nói bẩy. Chuyện kỳ lạ là, như tôi đã viết trên đây, gần như tất cả những người Việt Nam từng đọc tiểu thuyết của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, từng biết, dù biết ít, biết lơ mơ, về đời tư của Nhà Văn, đều biết Nhà Văn không có con trai, nhưng ký giả SBTN — không lẽ không biết — không đặt câu hỏi :
- Có gì chứng minh ông là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ?
Ký giả phỏng vấn, dường như tên là ông Tường Thắng, phăng phăng la tuy-líp coi người được phỏng vấn đúng là ông con của Nhà Văn. Ông ký giả cũng phoong phoong gọi người được phỏng vấn là Đại tá.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San Jose, và bà vợ, kể nhiều chuyện kỳ cục quá đỗi là kỳ cục. Không những chỉ kỳ cục, đó còn là những chuyện dựng đứng. Không chỉ chuyện dựng đứng thường mà là chuyện dựng đứng năm chăm phầm chăm. Tôi nghe chuyện ông bà kể mà chịu hổng có nổi. Tôi kể lại những lời ông bà nói như sau, tất nhiên tôi chỉ kể đại khái thôi, tôi không thể kể hết hay kể thật đúng từng tiếng trong những lời ông bà nói, nhưng tôi kể không sai.
Ông Đại Tá Vũ Lăng kể ông bị bọn Bắc Cộng bắt sống năm 1961, ông bị tù giam 22 năm ở Bắc Việt, năm 1982 ông trở về Sài Gòn, năm 1985, 1986 ông vượt biên bằng đường bộ sang Thái Lan, người ta đón ông sang Hoa Kỳ. Trong thời gian chịu tù đày ở Bắc Việt, ông bị bọn Cai Tù Bắc Cộng tra tấn, chúng đánh ông thủng ba lỗ ở đầu, rút hết 10 móng tay ông.
Ông kể :
Lúc đầu Bộ Trưởng Công An Bùi Thiện Ngộ và Thiếu Tướng Công An Dương Thông hỏi cung tôi, rồi đến ông Đại Tá Bùi Tín. Khi nghe tôi nói tôi là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, Đại Tá Bùi Tín đập bàn, quát :
- Mày nói láo. Nhà Văn Vũ Trọng Phụng làm gì có thằng con phản động như mày !
Tôi nói :
- Ông Bùi Bằng Đoàn cũng làm gì có thằng con mất dậy như Bùi Tín.
Ông ấy móc súng Côn ra dọa bắn nát đầu tôi nhưng rồi ông ấy không dám bắn.
Khi ông Thầy Châm Cứu Bùi Duy Tâm ở San Francisco tổ chức chào đón Đại Tá Việt Cộng Bùi Tín đến San José, tôi đến nơi gặp ông. Thấy tôi, ông Bùi Tín mặt xanh rờn, tôi vỗ vai ông ta, nói :
- Đại Tá đừng sợ, đây là đất tự do, ông và tôi cùng là người đi tìm tự do.
Ông xin tôi tha lỗi, tôi nói :Ông kể :
- Đại tá yên tâm, tôi không trả thù ông đâu.
Đại Tá Vũ Lăng kể Vũ Trọng Phụng không phải là tên thật của Nhà Văn, tên thật của Nhà Văn là Vũ Văn Tý. Tên của bà mẹ ông, bà vợ Nhà Văn, là Phụng, ông Vũ Văn Tý ghép tên bà thành bút hiệu Vũ Trọng Phụng. Ông kể bà vợ Nhà Văn, bà mẹ ông, là em gái Luật Sư Trần Văn Tuyên, em cùng cha, khác mẹ. Ông kể năm ông 9 tuổi, Luật Sư Trần Văn Tuyên nói với bà mẹ ông là đưa ông sang Pháp, nhưng ông TV Tuyên lại đưa ông sang Vân Nam bên Tầu. Ông sống ở đất Tầu mấy năm cho đến khi ông gặp ông Nguyễn Mạnh Côn, ông nói rõ :
- Người về sau là Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn.
Ông kể ông Nguyễn Mạnh Côn đưa ông từ Vân Nam về Hong Kong rồi đưa ông xuống tầu biển về Singapore. Không thấy ông nói rõ ông Nguyễn Mạnh Côn có cùng về Singapore rồi Sài Gòn với ông hay không. Chỉ biết ông kể tới đây là mất tích ông Nguyễn Mạnh Côn. Chính quyền Singapore giúp phương tiện cho ông về Sài Gòn. Từ Sài Gòn ông lên Tòa Thánh Tây Ninh.
Ở Tây Ninh tôi gặp lại ông Trần Văn Tuyên. Ông ấy đang là Cố vấn Pháp Luật của Đức Hộ Pháp Pham Công Tắc. Ông ấy bảo tôi: “Mày đừng nói với ai mày là cháu tao. Ở đây chúng nó kỳ thị, chúng nó thù ghét Bắc Kỳ. Đừng nhận họ để khi nếu nó giết tao thì nó không giết mày, nó giết mày thì nó không giết tao.”Ngưng lời kể của Đại Tá Vũ Lăng.
Tôi được Tướng Trịnh Minh Thế nhận là em nuôi, cho tôi đi học Khóa 4 Trường Sĩ Quan Đà Lạt. Năm ấy (1952) tôi nhớ Thiếu Tá Lefort là Hiệu Trưởng. Mỗi khóa Trường Võ Bị Đà Lạt cho các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo được cử 10 người theo học. Những năm 1960, 1961 có một số cán bộ, binh sĩ Việt Cộng gài lại trong Nam sau Hiệp Định Geneve được đưa ra Bắc chỉnh huấn, Tình Báo tổ chức cho tôi nhập vào những toán đó để ra Bắc hoạt động. Tôi ra Bắc năm 1961, bị bắt, bị tù đến năm 1982 mới trở về Sài Gòn.
***
Ai thì tôi không dzám quả quyết chứ Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn thì tôi
tự cho tôi có thể nói chắc là cả đời ông — Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn —
không một lần đi ra khỏi nước Việt Nam. Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn, tác giả
những văn phẩm nổi tiếng một thời của Văn Chương Quốc Gia Việt Nam Cộng
Hòa Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử, Mối Tình Mầu Hoa Đào, Ba Người Lính Nhẩy Dù Lâm Nạn, Kỳ Hoa Tử..vv..
bị bọn Bắc Cộng bắt Tháng Ba 1976, năm 1979 ở Trại Tù Khổ Sai Xuyên
Mộc, Nhà Văn đòi bọn CS phải trả tự do cho ông, chúng không chịu trả,
ông tuyệt thực. Bắt chước cách đàn áp tù nhân của bọn Nga Cộng, Tầu
Cộng, bọn Cai Tù Xuyên Mộc không cho ông uống nước đến chết. Nhà Văn
chết ở Trại Tù Xuyên Mộc.
Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên có ông con là Trần Tử Thanh. Năm 1988 Trần Tử Thanh nằm phơi rốn trong Phòng 10 Khu ED Nhà Tù Chí Hòa cùng Tu sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát và người anh em cùng vợ với tôi là Hoàng Hải Thủy. Năm ấy ông Trần Tử Thanh, cùng ông em là Trần Vọng Quốc, bị Phản Gián P 25 nó tó vì tội làm tình báo, tình bổ chi đó. Hai anh em ông cùng nằm phơi rốn trong Nhà Tù Chí Hòa. Tôi, qua điện thoại, hỏi ông Trần Tử Thanh về chuyện ông Đại Tá Vũ Lăng San José nói bà mẹ ông ta là em gái Cố Luật sư Trần Văn Tuyên, tức bà là bà cô ruột của ông, và như dzậy Đại Tá Vũ Lăng Vũ Trọng Khanh San José là anh em con cô, con cậu với ông, ông Trần Tử Thanh cũng đã biết về cuộc phỏng vấn của Đài SBTN, ông kêu :
- Làm gì có chuyện đó. Bà vợ ông Vũ Trọng Phụng đâu phải là em ông cụ tôi. Ông cụ tôi có bao giờ đến Tòa Thánh Tây Ninh đâu. Hoàn toàn bịa đặt. Anh em chúng tôi sẽ phải lên tiếng về vụ này.
Ông Trần Tử Thanh gửi cho tôi bức thư ngỏ :
THƯ NGỎ
Đồng kính gửi :
- Các cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, các mạng Internet.
- Quí vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, quí vị chủ tịch các đảng phái quốc gia, quí vị Chủ Tịch Công Đồng, các Tổ Chức, Hội Đoàn người Việt Quốc Gia tại hải ngoại.
- Bà con thân thuộc và Bằng Hữu của Gia Đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Mới đây trong cuộc phỏng vấn kéo dài 4 phần trên Đài Truyền Hình SBTN ở Quận Cam và được báo Việt Nam Exodus đưa lên mạng, có một người xưng là Vũ Trọng Khanh, tự Vũ Lăng, Cựu Đại Tá QLVNCH, tốt nghiệp Khóa 4 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt ( ? ), con của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ( ? ) — không hiểu vì lý do gì, đã mạo nhận là cháu của Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Vì sự việc có liên quan đến thân phụ và giòng tộc chúng tôi, chúng tôi xin minh xác :
1 — Họ và tên người này nêu ra trong cuộc phỏng vấn để chứng minh liên hệ với gia đình Luật Sư Trần Văn Tuyên là hoàn toàn xa lạ với gia đình chúng tôi và không có trong gia phả của giòng họ Trần.
2 — Những sự kiện liên quan đến thân phụ chúng tôi là những sự kiện hoàn toàn bịa đặt một cách trắng trợn.
Tất nhiên khi tạo dựng những sự kiện nêu trên, người được phỏng vấn hẳn có mưu đồ đen tối nào đó.
Vì vậy, chúng tôi xin gửi bức thư ngỏ này thông báo tới toàn thể bà con trong gia tộc, các bằng hữu quen biết gia đình chúng tôi, cùng mọi giới để cảnh giác đề phòng và tránh mọi ngộ nhận trong tương lai.
Thay mặt gia đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Luật Sư Trần Tử Huyền, Trưởng Nam.
California, ngày 17 Tháng Hai năm 2008.
***
Trước năm 1975 giới ca-ve Sài Gòn có cô Lan, biệt hiệu Lan Khùng, nói
cô là con ông Nhà Văn Lê Văn Trương. Năm 1980 ở Sài Gòn có ông Lê Khiêm
nhận là con Nhà Văn Lê Văn Trương.Năm 1990 ở Hà Nội có ông Mạc Can, ông này viết tiểu thuyết, nghe nói là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1976 ở Sài Gòn Cờ Đỏ tôi gặp người xưng tên là Vũ Trọng Khanh, nhận mình là con trai ông Nhà Văn Vũ Trọng Phụng.
Năm 2008 ở Kỳ Hoa, tôi thấy ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tự nhận mình là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng. Ông Vũ Trọng Khanh San José còn tự nhận ông là Đại Tá và là cháu ruột Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Tôi đã kể những gì tôi biết về nhân vật Vũ Trọng Khanh. Xin để quí vị có ý kiến về vụ này. Chỉ xin viết vài chuyện cho đỡ ngứa ngáy:
- Ông Vũ Trọng Khanh nói ông là “bạn vong niên của Nhà Thơ Nguyễn Bính.” Ông kể năm ông 9 tuổi, khoảng những năm 1940, 1941 ông Trần Văn Tuyên đưa ông từ Hà Nội sang Vân Nam, khoảng những năm 1949, 1950 ông Nguyễn Mạnh Côn đưa ông từ Vân Nam đến Hong Kong rồi về Singapore, ông đến Tòa Thánh Cao Đài ở Tây Ninh, ông đi học Khóa Sĩ Quan Đà Lạt, năm 1961 ông ra Bắc, ông bị tù trên đất Bắc 22 năm. Thời gian nào ông là “bạn vong niên” của Nhà Thơ Nguyễn Bính. Ít nhất khi Nhà Thơ 40 tuổi, ông phải 20 tuổi, khi Nhà Thơ 60 tuổi, ông 30, ông mới có thể là “bạn vong niên” của Nhà Thơ. Năm Nhà Thơ 30 tuổi, ông 9 tuổi, nàm thao ông có thể là “bạn vong niên” của Nhà Thơ? Nhờ ông tí!
- Ông kể ông bị bọn Bắc Cộng giam tù 22 năm. Khi giả làm Việt Cộng miền Nam ra Bắc năm 1961 cứ cho cấp bậc của ông là Trung Úy đi, trong 22 năm tù ông “ô-tô-măng-tít”, tức ông tự động thăng cấp? Trở về Sài Gòn năm 1982 ông là Đại Tá? Năm 1982 các ông Tướng của quân đội tôi ông thì ngồi tù, ông thì ở nước ngoài, ông về ai phong cấp Tá cho ông? Sôi sì ông tự phong cấp Tá cho ông cũng được đi, kỳ cục là chuyện mấy ông TV SBTN phây phây giới thiệu ông là Đại Tá.
Những năm 1961, 1962 ông bị bọn Cai Tù Bắc Cộng tra tấn, hỏi cung, bọn Bắc Cộng đã làm gì có Bộ Trưởng Công An Bùi Thiện Ngộ với Đại Tá Bùi Tín!
Ở Sài Gòn tôi có người bạn văn nghệ trẻ có bút hiệu lạ là Phù Hư. Hôm nay kể chuyện xưa nhắc đến Phù Hư, tôi nhớ ở Kỳ Hoa tôi có người bạn văn nghệ trẻ bút hiệu là Hư Vô.
Hai cái tên Phù Hư, Hư Vô giống nhau quá đi mất. Hai người cùng Hư, một người Hư Phù, người kia Hư Vô. Hư Phù hay Hư Vô cũng là Hư. Xong Hư Phù đỡ Hư hơn Hư Vô, Hư Phù còn tí ti hư để mà phù, Hư Vô thì vô luôn, không còn tí hư nào để mà vô cả.
Ở quê hương tôi hôm nay là Ngày Hai Mươi Tết, Tết Nguyên Đán vừa qua được hai mươi ngày. Ông bà tôi thường nói là: “Ra Giêng..”, tức sang Tháng Giêng. Chiều nay ở Kỳ Hoa đã là cuối Tháng Hai Tây. Mưa tuyết trên Rừng Phong. Tuyết này là Tuyết Hoa — Tuyết nhẹ, mỏng, khô, tan ngay — trong bài viết này tôi nhắc đến Phù Hư, viết xong tôi nhớ anh, nhớ hình ảnh anh năm xưa. Anh đưa tôi đi gặp Vũ Trọng Khanh một buổi sáng ở Sài Gòn năm 1976. Cà phê vỉa hè đường Gia Long. Sài Gòn buồn ơi là buồn. Năm ấy Phù Hư ba mươi, tôi bốn mươi.
Tôi mong Phù Hư, hiện sống ở Sài Gòn, sẽ đọc bài viết này của tôi.
Tôi gửi bài này tặng Hư Vô ở Kỳ Hoa.
Tôi đố quí vị biết Hư Vô là nam hay nữ?
Lại viết thêm vài dòng nữa: Ối.. ông Đại Tá Vũ Lăng ơi.. Lộng giả thành chân có thế thôi..! I can You. I xin You. Ông định làm trò lộng giả thành chân nhưng không được đâu, nhiều khi lộng giả không thành chân, thành cẳng mà là thành dzởm! Ông dựng đứng lên những chuyện không thật, chúng tôi biết những chuyện ông nói không thật, chúng tôi bắt buộc phải lên tiếng.
Chúng tôi không ai nói gì, mấy ông Nhà TiVi SBTN có thể bảo nhau:
- Bọn “sì-péc-ta-tưa” của mình chúng nó ngu lắm. Mình cho người kể chuyện dzởm năm chăm phần chăm về Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn, Luật Sư Trần Văn Tuyên mà chúng nó im re, không thằng nào, con nào nói gì cả!
Tội chúng tôi quá, mấy ông ơi!
http://hoanghaithuy.wordpress.com/2008/03/05/dai-ta-vu-lang-vu-trong-khanh/
About these ads
Nguồn: Trannhuong.com
Bà Hằng
Câu chuyện ông Vũ Lăng nào đó “nhận vơ” là con trai của Vũ Trọng Phụng thật chẳng có gì quan trọng. Vì thiên hạ ai cũng đều biết đó là chuyện “bá vơ”.
Nhưng từ chuyện nhận vơ này nhảy sang chuyện “nhận vơ” là thư ký riêng của ông Vũ Hồng Khanh VNQDĐ trong khi đương sự chỉ mới 15 tuổi (sic) thì “bụt trên tòa cũng phải nhảy xuống”. Ở hải ngoại hiện nay những cái tên của các chính đảng như VNQDĐ thường bị kẻ xấu mạo nhận, thậm chí tổ chức lễ lạ, xử dụng đảng kỳ nhằm tạo hư danh nhưng láo lếu đến xúc phạm đảng thể như Vũ Lăng và Dương Thị Phương Hằng thì thật mới có một (đôi sất). Đọc bà Hằng viết mấy chữ tiền bối với hậu bối thấy nó trơ trẽn, ngu ngơ làm sao. Tiền bối là chữ dùng để chỉ lớp người đi trước chung một con đường, chung lý tưởng, chung chí hướng, có nhân cách. Người có học hành, đủ chữ nghĩa, có tư cách chẳng ai dám tự nhận mình là tiển bối người khác. Mấy lời nhắc nhở này ông bà nên ghi nhớ.
Lãnh tụ Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần, nhà văn lập thuyết Nguyễn Mạnh Côn đã đi vào lịch sử. Nhà văn Vũ Trọng Phụng đã đi vào văn học sử.
Thân thế của họ đã được soi rọi kỹ lưỡng vì họ là người của công chúng.
Tất nhiên xã hội có nhiề kẻ muốn lợi dụng tên tuổi của họ để phục vụ mưu đồ cá nhân vào mục đíc nào đó. Nhưng những kẻ xạo láo hay có nhiều sơ hở, viết bừa, nói càn và sau đó khốn nạn thay chúng lại quên hết. Bà Hằng có tật già mồm, chầy cối nhưng những sai lệch, bất hợp lý về không gian, thời gian, và nhân vật được nhắc tới trở thành những bằng chứng khó biện giải. Ông bà có thể đã quên nhiều điều huênh hoang, láo xạo trước đây (chẳng ai chấp vì vô hại) nhưng Công Tử Hà Đông vì ở Rừng Phong gần gũi, quen biết với gia đình ông Trần văn Tuyên biết chuyện nên có một bài; nếu ông bà không lưu giữ, chúng tôi gửi lại để bạn đọc trên diễn đàn cùng thưởng lãm.
Kim Âu
NOV23
ĐẠI TÁ VŨ LĂNG??!!, CON TRAI VŨ TRỌNG PHỤNG?
CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG
Tháng 2, tháng 3 năm 1976/ Tháng 2, tháng 3 năm 2008..Thấm thoắt dzây mà thời gian đã qua 33 mùa lá rụng..Những năm 1975, 1976 tôi sống những ngày buồn thảm, u tối, tuyệt vọng giữa lòng Sài Gòn, thành phố thủ đô đau thương của tôi.
Biết dzồi..Khổ lắm..Kể mãi..! Vâng, không tả oán nữa, xin nói ngay vào chuyện. Một tối Phù Hư, người bạn văn nghệ của tôi, ghé nhà tôi, anh nói:
- Tôi mới gặp con trai của ông Vũ Trọng Phụng. Anh ta mới ở Hà Nội vào. Tôi hẹn gặp lại anh ta sáng mai.
Anh hỏi tôi:
- Anh có muốn gặp con trai ông Vũ Trọng Phụng không?
Từ lâu tôi biết Nhà Văn Vũ Trọng Phụng không có con trai, ông chỉ có một người con gái. Gần như tất cả những người đọc những tiểu thuyết Giông Tố, Số Đỏ, Cơm Thầy Cơm Cô của Nhà văn Vũ Trọng Phụng đều biết ông chỉ có một người con gái. Nay ở đâu ra anh con này của Nhà Văn? Mạo nhận ư? Nhưng mạo nhận là con Nhà Văn để làm gì? Tôi không tin người nào đó là con trai của Nhà Văn nhưng vì buồn quá đỗi, buồn đến có thể chết được, phần vì không có việc gì làm, tôi theo Phù Hư đi gặp anh ta.
Những tháng đầu tiên bọn Bắc Cộng rước hình Chủ Tịt Hồ chí Minh của chúng vào Sài Gòn, dzân Sài Gòn – thất nghiệp không phải chăm phần chăm mà là năm chăm phần chăm – toàn dzân không có việc gì làm, đổ ra đường kiếm ăn Chợ Trời, Chợ Đất, mở hàng cà phe vỉa hè. Hàng họ thật giản dzị, vài cái bàn, vài cái ghế thấp tè đóng bằng gỗ ván thùng, vài phin cà phe hay một ấm ninh cà phe, nửa ký cà phe, nửa ký đường, bán gần hết chạy đi mua, 1 phích nước, dăm cái ly, cái muỗng, thế là thành một tiệm cà phe vỉa hè Sài Gòn Thất Thủ Lủ Khủ Lù Khu. Sáng hôm ấy tôi theo Phù Hư đến một tiệm cà phe như thế trên vỉa hè đường Gia Long. Đúng giờ hẹn người tự nhận là con trai của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng đến.
Người thanh niên trắng trẻo, đẹp trai, mặt mũi sáng sủa, bận bộ đồ bà ba đen mới may. Không có khả năng nhận xét sắc xảo gì nhưng nhìn anh tôi biết chắc anh không phải là dân Sài Gòn, anh là người miền Bắc mới vào Sài Gòn nhưng anh không có cái vẻ cù lần của bọn thanh niên Hà Nội Bắc Kỳ Xã Hội Chủ Nghĩa, những kẻ được dân Sài Gòn tả trong câu dzân dzao 1975:
Trai Sài Gòn như chim anh vũ,
Trai Hà Nội như củ khoai lang.
Phù Hư đãi anh ly cà phê đen giá 1 đồng, 1 đồng tiền Hồ là 500 đồng bạc Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi nói với anh thanh niên :
- Tôi tưởng ông Vũ Trọng Phụng không có con trai ?
Rất lễ phép, và có vẻ đầy đủ thẩm quyền, coi như chuyện người thiên hạ không biết Nhà Văn Vũ Trọng Phụng có con trai là chuyện thường, anh ta nói :
- Thưa bác..Bố cháu có cháu và em gái cháu. Tên cháu là Vũ Trọng Khanh.
Lần thứ nhất tôi nghe cái tên Vũ Trọng Khanh là trong một sáng cuối năm 1975, hay đầu năm 1976, trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn.
Sau ly cà phe, vài điếu thuốc lá, tôi chia tay với Vũ Trọng Khanh. Ngoài việc xưng là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, người nói tên mình là Vũ Trọng Khanh không ba hoa chích chòe khoe khoang, không nói lời gì với ý định lừa gạt hay lợi dụng Phù Hư và tôi. Anh cũng không hỏi nhà chúng tôi, không nói chỗ anh ở, công tác anh làm, không hẹn gặp lại. Từ đấy tôi không gặp lại anh, tôi cũng không nghe ai nói đến anh.
Năm 1975, 1976 tôi 40 tuổi, người tự nhận là Vũ Trọng Khanh, con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, trạc 30 tuổi. Nếu anh là con ông Vũ, anh phải ra đời trước năm 1939 là năm ông Vũ từ trần, ít nhất anh phải ra đời trong những năm 1934, 1935, năm 1975 anh phải gần 40 tuổi, phải già, phải via tông-keng bằng tôi, anh không thể trẻ đến như thế.
Lần gặp Vũ Trọng Khanh ở Sài Gòn, tôi không tin anh là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng nhưng tôi chẳng bắt bẻ anh làm gì. Tại sao lại cố ý moi móc để chứng tỏ người ta nhận vơ ? Mà người ta nhận vơ người ta là con ông Nhà Văn sì đã nàm thao? Hại gì ai ? Nhà văn Vũ Trọng Phụng có nổi tiếng, có được người đời trọng mến, mới có người nhận là con. Ở đời thiếu gì anh con từ bố, chối bố hay xấu hổ khi có ai nói anh là con của ông bố anh.
Những năm 2000, 2001, ở Kỳ Hoa Đất Trích, tôi nghe nói :
- Ở San José có người nhận là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, tên là Vũ Trọng Khanh.
Tôi nghe qua rồi bỏ. Tự nhiên tôi không tin nhân vật Vũ Trọng Khanh San José 2000 là nhân vật Vũ Trọng Khanh tôi gặp năm 1975, 1976 trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn. Lại một vụ nhận vơ.. ! Mà người ta nhận vơ sì đã nàm thao?
Ngày tháng qua đi..Tháng 2 năm 2008, liêu lạc ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, tôi gặp lại cái tên Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh tôi thấy ở Kỳ Hoa năm 2008 không phải là anh thanh niên Bắc Kỳ đẹp trai Vũ Trọng Khanh tôi gặp ở Sài Gòn cuối năm 1975 hay đầu năm 1976. Như vậy : trước sau, trong vòng 40 năm, tôi thấy cuộc đời này có hai ông Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh thứ nhất tôi được gặp, được nói chuyện ở Sài Gòn năm 1975 không có chức vụ, không cấp bậc gì cả, ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tôi chỉ được nhìn thấy dung nhan trên màn hình Internet trong cuộc phỏng vấn của Hệ Thống Truyền Thông SBTN. Ông Vũ Trọng Khanh San José 2008 được SBTN giới thiệu bằng cái tên có chức vị quân đội là Đại Tá Vũ Lăng.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San José 2008 trạc Sáu Bó tuổi đời, bận quân phục, tôi nhìn không rõ đó là quân phục Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa hay quân phục Quân Đội Hoa Kỳ. Ông có vẻ đau yếu, dường như ông ngồi không vững, ông nói khó khăn, ông có bà vợ trẻ ngồi bên đỡ lời, nói dùm. Trong cuộc phỏng vấn ông nói ba, bà nói bẩy. Chuyện kỳ lạ là, như tôi đã viết trên đây, gần như tất cả những người Việt Nam từng đọc tiểu thuyết của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, từng biết, dù biết ít, biết lơ mơ, về đời tư của Nhà Văn, đều biết Nhà Văn không có con trai, nhưng ký giả SBTN – không lẽ không biết – không đặt câu hỏi :
- Có gì chứng minh ông là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ?
Ký giả phỏng vấn, dường như tên là ông Tường Thắng, phăng phăng la tuy-líp coi người được phỏng vấn đúng là ông con của Nhà Văn.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San Jose, và bà vợ, kể nhiều chuyện kỳ cục quá đỗi là kỳ cục. Không những chỉ kỳ cục, đó còn là những chuyện dựng đứng. Không chỉ chuyện dựng đứng thường mà là chuyện dựng đứng năm chăm phầm chăm. Tôi nghe chuyện ông bà kể mà chịu hổng có nổi. Tôi kể lại những lời ông bà nói như sau, tất nhiên tôi chỉ kể đại khái thôi, tôi không thể kể hết hay kể thật đúng những lời ông bà nói, nhưng tôi kể không sai.
Ông Đại Tá Vũ Lăng kể ông bị bọn Bắc Cộng bắt sống, giam tù 22 năm ở Bắc Việt, năm 1982 ông trở về Sài Gòn, năm 1985, 1986 ông vượt biên bằng đường bộ sang Thái Lan, người ta đón ông sang Hoa Kỳ. Trong thời gian chịu tù đày ở Bắc Việt, ông bị bọn Cai Tù Bắc Cộng tra tấn, chúng đánh ông thủng hai lỗ ở đầu, rút hết 10 móng tay ông.
Ông kể :
- Lúc đầu Bộ Trưởng Công An Bùi Thiện Ngộ và Thiếu Tướng Công An Dương Thông hỏi cung tôi, rồi đến ông Đại Tá Bùi Tín. Khi nghe tôi nói tôi là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, Đại Tá Bùi Tín đập bàn, quát :
- Mày nói láo. Nhà Văn Vũ Trọng Phụng làm gì có thằng con phản động như mày !
Tôi nói :
- Ông Bùi Bằng Đoàn cũng làm gì có thằng con mất dậy như Bùi Tín.
Ông ấy móc súng Côn ra dọa bắn tôi nhưng rồi ông ấy không dám bắn.
Khi ông Thầy Châm Cứu Bùi Duy Tâm ở San Francisco tổ chức chào đón Đại Tá Việt Cộng Bùi Tín đến San José, tôi đến nơi gặp. Thấy tôi, ông Bùi Tín mặt xanh rờn, tôi vỗ vai ông ta, nói :
- Đại Tá đừng sợ, đây là đất tự do, ông và tôi cùng là người đi tìm tự do.
Đại Tá Vũ Lăng kể Vũ Trọng Phụng không phải là tên thật của Nhà Văn, tên thật của Nhà Văn là Vũ Văn Tý. Tên của bà mẹ ông, bà vợ Nhà Văn, là Phụng, ông Vũ Văn Tý ghép tên bà thành bút hiệu Vũ Trọng Phụng. Ông kể bà vợ Nhà Văn, bà mẹ ông, là em gái Luật Sư Trần Văn Tuyên, em cùng cha, khác mẹ. Ông kể năm ông 9 tuổi, Luật Sư Trần Văn Tuyên nói với bà mẹ ông là đưa ông đi chơi , nhưng ông TV Tuyên lại đưa ông sang Vân Nam bên Tầu. Ông sống ở đất Tầu mấy năm cho đến khi ông gặp ông Nguyễn Mạnh Côn, ông nói rõ :
- Người về sau là Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn.
Ông kể ông Nguyễn Mạnh Côn đưa ông từ Vân Nam về Hong Kong rồi đưa ông xuống tầu biển về Singapore . Không thấy ông nói rõ ông Nguyễn Mạnh Côn có cùng về Singapore với ông hay không. Chỉ biết ông kể tới đây là mất tích ông Nguyễn Mạnh Côn. Chính quyền Singapore giúp phương tiện cho ông về Sài Gòn. Từ Sài Gòn ông lên Tòa Thánh Tây Ninh.
Ông kể :
- Ở Tây Ninh tôi gặp lại ông Trần Văn Tuyên. Ông ấy đang là Cố vấn Pháp Luật của Đức Hộ Pháp Pham Công Tắc. Ông ấy bảo tôi : « Mày đừng nói với ai mày là cháu tao. Ở đây chúng nó kỳ thị, chúng nó thù ghét Bắc Kỳ. Đừng nhận họ để khi nếu nó giết tao thì nó không giết mày, nó giết mày thì nó không giết tao. »
Tôi được Tướng Trịnh Minh Thế nhận là em nuôi, cho tôi đi học Khóa 4 Trường Sĩ Quan Đà Lạt. Năm ấy ( 1952 ) tôi nhớ Thiếu Tá Lefort là Hiệu Trưởng. Mỗi khóa Trường Võ Bị Đà Lạt cho các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo được cử 10 người theo học. Những năm 1960, 1961 có một số cán bộ, binh sĩ Việt Cộng gài lại trong Nam sau Hiệp Định Geneve được đưa ra Bắc chỉnh huấn, Tình Báo tổ chức cho tôi nhập vào những toán đó để ra Bắc hoạt động. Tôi ra Bắc năm 1961, bị bắt, bị tù đến năm 1982 mới trở về Sài Gòn.
Ngưng lời kể của Đại Tá Vũ Lăng.
*
Ai thì tôi không dzám quả quyết chứ Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn thì tôi tự cho tôi có thể nói chắc là cả đời ông – Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn – không một lần đi ra khỏi nước Việt Nam. Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn nổi tiếng một thời của Văn Chương Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử, Mối Tình Mầu Hoa Đào, Ba Người Lính Nhẩy Dù Lâm Nạn, Kỳ Hoa Tử..vv..bị bọn Bắc Công bắt Tháng Ba 1976, năm 1979 ở Trại Tù Khổ Sai Xuyên Mộc, Nhà Văn đòi bọn CS phải trả tự do cho ông, chúng không chịu trả, ông tuyệt thực. Bắt chước cách đàn áp tù nhân của bọn Nga Cộng, Tầu Cộng, bọn Cai Tù Xuyên Mộc không cho ông uống nước dến chết. Nhà Văn chết ở Trại Tù Xuyên Mộc.
Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên có ông con là Trần Tử Thanh. Năm 1988 Trần Tử Thanh nằm phơi rốn trong Phòng 10 Khu ED Nhà Tù Chí Hòa cùng Tu sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát và người anh em cùng bà vợ, với tôi là Hoàng Hải Thủy. Năm ấy ông Trần Tử Thanh, cùng ông em là Trần Vọng Quốc, bị Phản Gián P 25 nó tó vì tội « âm mưu cưa ghế chính quyền nhân rân » . Hai anh em ông cùng nằm phơi rốn trong Nhà Tù Chí Hòa. Tôi, qua điện thoại, hỏi ông Trần Tử Thanh về chuyện ông Đại Tá Vũ Lăng San José nói bà mẹ ông ta là em gái Cố Luật sư Trần Văn Tuyên, tức là bà cô ruột của ông, và như dzậy Đại Tá Vũ Lăng Vũ Trọng Khanh San José là anh em con cô, con cậu với ông, ông Trần Tử Thanh cũng đã biết về cuộc phỏng vấn của SBTN, ông kêu :
- Làm gì có chuyện đó. Bà vợ ông Vũ Trọng Phụng đâu phải là em ông cụ tôi. Gia phả giòng tộc nhà tôi không có ai tên như vậy cả. Hoàn toàn bịa đặt ! Anh em chúng tôi sẽ phải lên tiếng về vụ này.
Ông Trần Tử Thanh gửi cho tôi bức thư ngỏ :
THƯ NGỎ
Đồng kính gửi :
- Các cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, các mạng Internet.
- Quí vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, quí vị chủ tịch các đảng phái quốc gia, quí vị Chủ Tịch Công Đồng, các Tổ Chức, Hội Đoàn người Việt Quốc Gia tại hải ngoại.
- Bà con thân thuộc và Bằng Hữu của Gia Đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Mới đây trong cuộc phỏng vấn kéo dài 4 phần trên Đài Truyền Hình SBTN ở Quận Cam và được báo Việt Nam Exodus đưa lên mạng, có một người xưng là Vũ Trọng Khanh, tự Vũ Lăng, Cựu Đại Tá QLVNCH, tốt nghiệp Khóa 4 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt ( ? ), con của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ( ? ) – không hiểu vì lý do gì - đã mạo nhận là cháu của Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Vì sự việc có liên quan đến thân phụ và giòng tộc chúng tôi, chúng tôi xin minh xác :
1 – Họ và tên người này nêu ra trong cuộc phỏng vấn để chứng minh liên hệ với gia đình Luật Sư Trần Văn Tuyên là hoàn toàn xa lạ với gia đình chúng tôi và không có trong gia phả của giòng họ Trần.
2 – Những sự kiện liên quan đến thân phụ chúng tôi là những sự kiện hoàn toàn bịa đặt một cách trắng trợn.
Tất nhiên khi tạo dựng những sự kiện nêu trên, người được phỏng vấn hẳn có mưu đồ đen tối nào đó.
Vì vậy, chúng tôi xin gửi bức thư ngỏ này thông báo tới toàn thể bà con trong gia tộc, các bằng hữu quen biết gia đình chúng tôi, cùng mọi giới để cảnh giác đề phòng và tránh mọi ngộ nhận trong tương lai.
Thay mặt gia đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Luật Sư Trần Tử Huyền, Trưởng Nam.
California, ngày 17 Tháng Hai năm 2008.
*
Trước năm 1975 giới ca-ve Sài Gòn có cô Lan, biệt hiệu Lan Khùng, nói cô là con ông Nhà Văn Lê Văn Trương. Năm 1980 ở Sài Gòn có ông Lê Khiêm nhận là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1990 ở Hà Nội có ông Mạc Can, ông này viết tiểu thuyết, nghe nói là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1976 ở Sài Gòn Cờ Đỏ tôi gặp người xưng tên là Vũ Trọng Khanh, nhận mình là con trai ông Nhà Văn Vũ Trọng Phụng.
Năm 2008 ở Kỳ Hoa, tôi thấy ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tự nhận mình là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng. Ông Vũ Trọng Khanh San José còn tự nhận ông là Đại Tá và là cháu ruột Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Tôi đã kể những gì tôi biết về nhân vật Vũ Trọng Khanh. Xin để quí vị nhận định về vụ này.
CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG
----- Forwarded Message -----
Ngày 22 Tháng 11 Năm 2012
Chúng tôi trả lời ông Kim Âu về những vấn đề liên quan đến thân phụ của chúng tôi là cố văn hào Vũ Trọng Phụng và bác của chúng tôi là ông Vũ Hồng Khanh và VNQDĐ. Chúng tôi cũng đính kém hai bài viết : Lên Tiếng của Gia Đình Vũ Trọng Phụng về bài viết Nhìn Lại Vũ Trọng Phụng của Hội Nhà Văn của chế độ Cộng Sản Việt Gian bán nước. Máy của chúng tôi sử dụng pages nên sẽ bị corrupted với PC cho nên chúng tôi phải chuyển đổi thành PDF.
Bà Vũ Mỹ Lương không có tên gọi là bà Gái và cũng không hề là con gái của ông Cữu Tích ( do người vợ thứ tư sinh hạ ). Như vậy, thông tin mà ông Kim Âu có được hoàn toàn không đúng sự thật.
Bà Vũ Mỹ Lương có thuộc về một gia đình chỉ chuyên nghề bán thuốc cam tích tán ở tại căn nhà riêng của bà Cả Giảng là chị của bà Vũ Mỹ Lương tại phố Hàng Bạc chứ không thuộc một gia đình tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Nếu là một nhà tư sản có cửa hàng thuốc thì phải mở tại phố thuốc Bắc có tên Lãn Ông.
Bố Vũ Trọng Phụng của chúng tôi chỉ chính thức cưới vợ một lần vào năm 1929 khi bố chúng tôi cưới bà Trần Thị Kim Phụng và sinh hạ anh Vũ Trọng Khanh còn được gọi là Vũ Thiếu Lăng vào ngay 1 tháng 1 năm 1930.
Khi bố của chúng tôi chớm mắc bệnh lao vào năm 1934 ông bà ngoại của anh Vũ Trọng Khanh buộc bà Trần Thị Kim Phụng mang anh Vũ Trọng Khanh về Tuyên Quang để tránh bị lây bệnh. Mẹ đẻ của anh Vũ Trọng Khanh là bà Trần Thi Kim Phụng không chịu nhưng với sức ép của gia đình, bà Trần thị Kim Phụng đã quyết lên chùa Bò quy y cửa Phật để ông bà ngoại của anh Vũ Trọng Khanh không làm cho vấn đề trở nên phức tạp và đau lòng hơn. Từ năm 1935 anh Vũ Trọng Khanh trở thành một đứa trẻ thiếu vắng người mẹ và côi cút. Đến năm 1936 chứ không phải là năm 1938 ( như những gì chế độ cộng sản rêu rao) thì cố văn hào Vũ Trọng Phụng mới chịu nghe lời bà Phạm Thị Khách lấy người vợ lẽ để chăm sóc cho anh Vũ Trọng Khanh và bà Vũ Mỹ Lương đã nhận lời về làm vợ lẽ bố chúng tôi và làm mẹ kế của anh Vũ Trọng Khanh. Chúng tôi không sống ở phố Hàng Bạc vì căn nhà đó là của bà Cả Giảng, chị ruột của bà Vũ Mỹ Lương. Chúng tôi sống ở phố Cầu mới quận Ngã tư Sở thuộc tỉnh Hà Đông. Thông tin của ông Kim Âu hoàn toàn không đúng sự thật.
Gia đình cố văn hào Vũ Trọng Phụng chỉ còn lại một mẹ già là bà Phạm Thị Khách, tức là bà nội của anh Vũ Trọng Khanh. Khi ông Kim Âu viết: Ông ( Vũ Trọng Phụng )mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng. Thông tin này hoàn toàn không đúng sự thật bởi vì ông nội và bà nội của bố anh Vũ Trọng Khanh đã chết 20 năm trước khi bố của anh Vũ Trọng Khanh cưới bà Phạm Thị Khách. Những người trong dòng họ của bà Phạm Thị Khách tức bà nội của anh Vũ Trọng Khanh đều là những đảng viên của VNQDĐ.
Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài còn ông Vũ Hồng Khanh đào thoát sang Trung Hoa móc nối với các đồng chí tiếp tục hoạt động cũng vào năm 1930 và vẫn là lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân đảng chứ không hề trở thành lãnh đạo mới của VNQDĐ. Ông Vũ Hồng Khanh ( tên thật là Vũ Văn Giản) là cháu ruột của ông Nguyễn Hải Thần ( tên thật là Vũ Hải Thu ). Chúng tôi thiết nghĩ chỉ những người trong gia tộc mới biết rõ những điều này và ông Vũ Hồng Khanh đã sống với ông Nguyễn Hải Thần, ông Hồ Học Lãm, ông Nguyễn Thượng Hiền, Vũ Quang Tài, Vũ Bá Phẩm, Phạm Hồng Thái, Lê Tán Anh từ năm 1930.
Việt Nam Cách mạng Đồng Minh Hội là do ông Nguyễn Hải Thần và ông Trương Bội Công thành lập từ những năm 1917 sau khi mặt trận của ông Đội Cấn bị Pháp triệt hạ. Ông Nguyễn Hải Thần là bạn đồng chí với ông Phan Bội Châu và đã lưu vong sang Trung Hoa từ những năm 1900 và trở thành anh em kết nghĩa với ông Tôn Dật Tiên. Ông Nguyễn Hải Thần cũng là bạn học với ông Tưởng Giới Thạch ở bên Nhật tại Trường Chấn Võ Sĩ Quan Quan Quân Học Hiệu. Ông Trương Bội Công lúc bấy giờ đã là Trung tướng trong quân đội của Nhật hoàng. Giây mơ rể má là do Kỳ Ngoại hầu Cường Để được một công chúa Nhật thương yêu và được làm phò mã của Nhật Hoàng cho nên Phong trào Đông du mới thành hình được. Ông Trương Bội Công là chú ruột của ông Trương Bội Hoàng và ông Trương Bội Hoàng là bố đẻ của ông Trương Tử Anh. Với giây mơ rễ má này mà ông Vũ Hồng Khanh đã chấp thuận để VNQDĐ và Đại Việt thống nhất làm một. Sở dĩ có tên Việt nam Cách mạng Đồng minh Hội là bởi vì những đồng minh của ông Nguyễn Hải Thần là người Trung Hoa và người Nhật trong đó có ông Tôn Dật Tiên, ông Tưởng Giởi Thạch, Khuyển Dưỡng Nghị, Trương bội Công ( Tướng Nhật )Như vậy ông Vũ Hồng Khanh không hề thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội vào năm 1942 tại Liễu châu. Thông tin mà ông kim Âu có hoàn toàn không đúng sự thật.
Đến cuối năm 1941 ông Trần văn Tuyên bị Pháp truy bức( một đảng viên của VNQDĐ) đến đường cùng đã phải giả dạng làm một bà nhà buôn và ông đã xin với mẹ của tôi (Vũ Trong Khanh ) đang tu tại chùa Bò cho phép ông đưa tôi đi trốn cùng ông để tránh sự nghi ngờ của mật vụ Pháp bởi vì không ai nghi ngờ một mụ đàn bà đi buôn dắt theo một đứa trẻ con để phụ giúp(Vũ Trọng Khanh 11 tuổi gần 12 tuổi ). Thế là tự nhiên tôi ( Vũ Trọng Khanh ) trở thành một giá trị lợi dụng cho những nhà cách mạng mà những người này có máu mủ ruột thịt với tôi.
Sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị Pháp giết ông Vũ Hồng Khanh luôn giữ chức vụ Bí Thư Trưởng và không hề có sự thay đổi. Không hề có mặt trận QDĐ mà chỉ có những đảng viên QDĐ. Ông Nguyễn Tường Tam có tham vọng riêng và đã lợi dụng Việt Nam Cách mạng Đồng Minh Hội nhưng ông Nguyễn Tường Tam chưa bao giờ được tuyên thệ làm một đảng viên của VNQDĐ. Do đó mà ông Nguyễn Tường mới bị lão Ba Vương Nguyễn Tất Thành lợi dụng và cả hai đã bị quân đội của Tưởng giới Thạch là Tướng Trương Phát Khuê bắt giải về Liễu châu. Và, ông Vũ Hồng Khanh là người đã cứu hai kẻ phản bội này.
Ông Vũ Hồng Khanh không hề có mặt tại phố Ôn Như Hầu vào năm 1945. Lúc đó ông Vũ Hồng Khanh đang ở tại số 80 Phố Quan Thánh và tôi, Nguyễn Hữu Thanh và Tô Trọng Khoa cũng có mặt tại đó. Năm 1945 tôi ( Vũ Trọng Khanh) được 15 tuổi. Do bị mật thám Pháp truy lùng tất cả các đảng viên VNQDĐ đều không thể ra mặt hoạt động cho nên phải sử dụng những đứa trẻ bằng tuổi tôi hoặc lớn hơn vài tuổi trong đó có anh Tô Trọng Khoa, Nguyễn Hữu Thanh, Bằng Xồm, Phạm Xuân Chiểu, Tôn Nữ Lệ Hà, Phạm Văn Liễu và còn nhiều nữa.
Nếu muốn biết thêm nhiều chi tiết thật về nguyên nhân thành lập chính phủ Hiên Hiệp và tại sao có vụ án Ôn Như Hầu, xin quý vị chờ đón đọc toàn bộ sách: Truyện của Đời Tôi của tác giả Vũ Trọng Khanh tức Đại tá Vũ Lăng.
Chúng tôi không trách cứ thái độ vô lễ của những hậu bối khi viết “ Vậy thì ông Vũ Lăng con nhà văn Vũ Trọng Phụng và cứ cho là cháu ông Vũ Hồng Khanh làm thư ký và liên lạc viên cho ông Vũ Hồng Khanh lúc mấy tuổi vậy? 12, hay 13? Không lẽ VNQDĐ hết nhân sự rồi hay sao mà phải dùng trẻ con làm thư ký riêng, cán bộ giao liên cho Bí thư trưởng. “ Tại sao quý vị không đặt ngược lại vấn đề để thương cảm cho những đứa trẻ như chúng tôi thời đó? Làm thư ký riêng và làm cán bộ giao liên cho những nhà cách mạn thời đó là làm cái gì?
Chúng tôi thiết nghĩ không có những anh hùng tí hon này qua mặt bọn mật thám Pháp để thông tin cho nhau bằng những ngày dài chạy bộ hàng chục cây số với cái bụng đói meo thì VNQDĐ đã bị tận diệt từ năm 1930 rồi không còn có cơ hội để cho quý vị tỏ thái độ như thế, phải không?
Chúng tôi chỉ buồn là đến thế hệ của quý vị rồi mà cũng không biết sử dụng cái đầu độc lập của mình để suy xét vấn đề mà cứ tiếp tục tin theo những dối láo của những bài viết trong quá khứ hay trong hiện tại. Tôi, Vũ Trọng Khanh là cháu của ông Vũ Hồng Khanh thế thì tại sao cứ phải cho là cháu của Vũ Hồng Khanh cũng như tôi, Vũ Trọng Khanh là con trai duy nhất của cố văn hào Vũ Trọng Phụng, tại sao tôi phải tự nhận là con trai của một người nghèo kiết xác vfa chết vị bệnh ho lao không có tiền để chữa bệnh?
Dương Thị Phương Hằng & Đại Tá Vũ Lăng
Kính chị Hằng
Tôi cũng có liên quan chút chút với VNQDĐ nên có một vài thắc mắc nhờ chị cho biết .
Nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912, quê ở làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất tại Hà Nội. chết năm 1939. Vợ ông, bà Vũ Mỹ Lương, tên thường gọi là bà Gái, là con người vợ thứ tư của cụ Cửu Tích, một nhà tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Sau khi làm đám cưới vào ngày 23 tháng 1 năm 1938, hai vợ chồng đã cùng thuê nhà ở phố Hàng Bạc.
Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng.
Ngày 13 tháng 2 năm 1930, ông Vũ Hồng Khanh là một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng ở Kiến An (Hải Phòng) [1]. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài còn ông đào thoát sang Trung Hoa móc nối với các đồng chí tiếp tục hoạt động và trở thành lãnh đạo mới của Việt Nam Quốc dân đảng.
Năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Hoa), Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ (Quốc dân đảng), Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân chính đảng), Nguyễn Hải Thần thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, thường được gọi tắt là Việt Cách.
Ngày 1 tháng 9 năm 1945, ông từ Côn Minh về nước qua ngả Mường Khương, vào Lào Cai.
Do cần phải hợp tác để đối phó với Việt Minh ngày 15 tháng 12 năm 1945 các đảng phái chống Việt Minh đã thống nhất thành lập một lực lượng gọi là Mặt trận Quốc dân Đảng. Vũ Hồng Khanh giữ chức Bí thư trưởng tổ chức này.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946 ông tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến và đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội (sau đổi là Ủy ban Kháng chiến). Ông cùng Hồ Chí Minh đã ký với Jean Sainteny Hiệp định sơ bộ 1946.
Tháng 7 năm 1946, xảy ra vụ án phố Ôn Như Hầu ở Hà Nội, lực lượng công an khám xét các trụ sở của Việt Nam Quốc dân đảng, phát giác nhiều vũ khí, truyền đơn hiệu triệu chống chính phủ (do Việt Minh dàn dựng). Tuy nhiên theo Việt Nam Quốc dân Đảng, trụ sở ở phố Ôn Như Hầu chỉ là một chỗ làm việc bình thường của Việt Nam Quốc dân Đảng bị tấn công trong lúc không nghĩ là mình sẽ bị tấn công và các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng không có vũ khí nặng nào. Vũ Hồng Khanh và các lãnh đạo các đảng phái chống Việt Minh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Trung Hoa.
Vậy thì ông Vũ Lăng con nhà văn Vũ Trọng Phụng và cứ cho là cháu ông Vũ Hồng Khanh làm thư ký và liên lạc viên cho ông Vũ Hồng Khanh lúc mấy tuổi vậy? 12, hay 13? Không lẽ VNQDĐ hết nhân sự rồi hay sao mà phải dùng trẻ con làm thư ký riêng, cán bộ giao liên cho Bí thư trưởng.
Chị có thể viết rõ thêm về đoạn này được không?
Trân trọng
Kim Âu
Kính chị Hằng
Tôi cũng có liên quan chút chút với VNQDĐ nên có một vài thắc mắc nhờ chị cho biết .
Nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912, quê ở làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất tại Hà Nội. chết năm 1939. Vợ ông, bà Vũ Mỹ Lương, tên thường gọi là bà Gái, là con người vợ thứ tư của cụ Cửu Tích, một nhà tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Sau khi làm đám cưới vào ngày 23 tháng 1 năm 1938, hai vợ chồng đã cùng thuê nhà ở phố Hàng Bạc.
Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng.
Ngày 13 tháng 2 năm 1930, ông Vũ Hồng Khanh là một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng ở Kiến An (Hải Phòng) [1]. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài còn ông đào thoát sang Trung Hoa móc nối với các đồng chí tiếp tục hoạt động và trở thành lãnh đạo mới của Việt Nam Quốc dân đảng.
Năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Hoa), Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ (Quốc dân đảng), Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân chính đảng), Nguyễn Hải Thần thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, thường được gọi tắt là Việt Cách.
Ngày 1 tháng 9 năm 1945, ông từ Côn Minh về nước qua ngả Mường Khương, vào Lào Cai.
Do cần phải hợp tác để đối phó với Việt Minh ngày 15 tháng 12 năm 1945 các đảng phái chống Việt Minh đã thống nhất thành lập một lực lượng gọi là Mặt trận Quốc dân Đảng. Vũ Hồng Khanh giữ chức Bí thư trưởng tổ chức này.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946 ông tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến và đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội (sau đổi là Ủy ban Kháng chiến). Ông cùng Hồ Chí Minh đã ký với Jean Sainteny Hiệp định sơ bộ 1946.
Tháng 7 năm 1946, xảy ra vụ án phố Ôn Như Hầu ở Hà Nội, lực lượng công an khám xét các trụ sở của Việt Nam Quốc dân đảng, phát giác nhiều vũ khí, truyền đơn hiệu triệu chống chính phủ (do Việt Minh dàn dựng). Tuy nhiên theo Việt Nam Quốc dân Đảng, trụ sở ở phố Ôn Như Hầu chỉ là một chỗ làm việc bình thường của Việt Nam Quốc dân Đảng bị tấn công trong lúc không nghĩ là mình sẽ bị tấn công và các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng không có vũ khí nặng nào. Vũ Hồng Khanh và các lãnh đạo các đảng phái chống Việt Minh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Trung Hoa.
Vậy thì ông Vũ Lăng con nhà văn Vũ Trọng Phụng và cứ cho là cháu ông Vũ Hồng Khanh làm thư ký và liên lạc viên cho ông Vũ Hồng Khanh lúc mấy tuổi vậy? 12, hay 13? Không lẽ VNQDĐ hết nhân sự rồi hay sao mà phải dùng trẻ con làm thư ký riêng, cán bộ giao liên cho Bí thư trưởng.
Chị có thể viết rõ thêm về đoạn này được không?
Trân trọng
Kim Âu
----- Forwarded Message -----
From: Michelle Duong
Wednesday, November 21, 2012 10:53 PM
Subject: [ChinhNghiaViet] DTPH góp ý về VNQDĐ và Đại Việt QDĐ:: (CHÍNH NGHĨA): TNHH: CÓ MA KHÔNG? [1 Attachment]
Chào chị TNHH,
1) Chúng tôi là những đảng viên kỳ cựu của VNQDĐ cùng lưu vong sang Trung hoa với ông Vũ Hồng Khanh sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị lên đoạn đầu đài tại Yên Báy. Chúng tôi xin khẳng định về hai đảng lớn duy nhất còn lại tại miền Nam Việt Nam sau năm 1954: VNQDĐ và Đại Việt. Đại Việt do ông Trương Tử Anh thành lập nhưng vào năm 1942 ông Trương tử Anh đã sang Trung Hoa xin gặp ông Vũ Hồng Khanh tại Vân Nam và xin được sát nhập Đại Việt với VNQDĐ và đã được ông Vũ Hồng Khanh chuẩn thuận để thống nhất làm một. Tại hải ngoại lúc bấy giờ vẫn giữ tên Việt Nam QDĐ, và ở trong quốc nội vẫn giữ tên Đại Việt bởi vì Đại Việt là danh xưng của tổ quốc Việt Nam lúc đó, Hoàng đế Bảo Đại vẫn xưng là Hoàng đế của Đại Việt. Anh Vũ Trọng Khanh tức Đại tá Vũ Lăng là cháu ruột của ông Vũ Hồng Khanh lúc bấy giờ đang sống lưu vong bên Trung Hoa vừa làm thơ ký riêng và vừa làm cán bộ giao liên cho cho ông Vũ Hồng Khanh và ông Nguyễn Hải Thần. Chính anh Vũ Trọng Khanh đã chứng kiến và ghi chép buổi họp giữa ông Vũ Hồng Khanh và ông Trương Tử Anh. Kể từ ngày đó VNQDĐ và ĐẠI VIỆT đã trở thành một.
2) Đến năm 1945 Trương Tử Anh bị Việt Minh giết và người kế nhiệm ông Trương Tử Anh là anh Lê Ninh nhưng không bao lâu sau anh Lê Ninh bị thủ tiêu và Đại Việt đã rẻ sang một lối khác với những người đảng viên thích quyền lực cho tới bây giờ.
3) VNQDĐ từ khởi thủy không hề có phân hóa cho nên không có những hệ phái như chị TNHH nêu ra trong bài viết dưới đây: Có MA không? VNQDĐ chỉ có một danh xưng là VNQDĐ thống nhất bởi vì sau khi tổ quốc Việt Nam bị Hồ Chí Minh bắt tay với Pháp để dành quyền cai trị và Hồ Chí Minh đã chấp nhân chia đôi đất nước ra làm hai quốc gia khác biệt về thể chế chinh trị cũng như hình thức cai trị nhân dân. Ở tại miền Bắc VN số đảng viên QDĐ vẫn còn những cơ sở hạ tầng chưa chạy được vào miền Nam từ năm 1945-1954.
4) Sau năm 1954 ông Vũ Hồng Khanh đã thống nhất Kỳ bộ miền Bắc do ông Vũ Hồng Khanh lãnh đạo với Xứ bộ miền Nam do ông Nguyễn Hòa Hiệp lãnh đạo. Sau khi thống nhất kỳ bộ miền Bắc với Xứ bộ miền Nam ông Vũ Hồng Khanh được bầu giữ chức vụ Bí thư trưởng của VNQDĐ thống nhất và ông Nguyễn Hòa Hiệp giữ chức vụ Bí thư Thường vụ và LS Trần Văn Tuyên giữ chức vụ Tổng Thư Ký. Sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị Pháp giết tất cả các đảng viên của VNQDĐ cùng thời với ông Nguyễn Thái Học đã thề quyết không bầu ai vào chức vụ đảng trưởng nữa nhằm mục đích giữ vững lòng trung kiên với lý tưởng và ngọn cờ mà đảng trưởng Nguyễn Thái Học đã phất lên.
4) Ông Nguyễn Tường Tam có tham vọng riêng và chưa bao giờ là đảng viên của VNQDĐ. Chỉ có ông Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long là đảng viên trung kiên của VNQDĐ.
5) Khi ra tới Hải ngoại chúng tôi đã biết có những kẻ tự xưng là VNQDĐ và đã làm những điều xấu xa chỉ vì những tham vọng hảo huyền. Những người này không hề biết đến những hy sinh lớn lao của những bậc tiền bối. Chúng tôi tin rằng một viên ngọc dù cho có vỡ nát thì giát ngọc vẫn trong. Một cục đất sét dù cho có vo ve thành viên ngọc thì đất sét vẫn hoàn đất sét. Vài hàng thân kính gởi đến chị TNHH, một người phụ nữ có nhiều tâm huyết với chiều dài và bề dày của Lịch sử đầy máu và nước mắt của tiền nhân. Chúng tôi rất trân trọng và quý mến chị.
DuongThiPhuongHang 1476 & Đại tá Vũ Lăng
--- On Wed, 11/21/12, TonNuHoangHoa wrote:
Date: Wednesday, November 21, 2012, 5:12 PM
Dạ xin cảm ơn chị DTPH đã bổ khuyết Khi có người đặt câu hỏi có ma không ? thì có người nói có, cũng có người nói không. Nhưng câu hỏi được chuyễn đến mọi người có cùng một hơi thở trên hai tầng không khí khác nhau. Một của cuộc sống bên ngoài và một của cõi riêng mình thì câu trả lời lại thấp thoáng vào con đường giáo lý của tôn giáo về hai phần thể xác và linh hồn.
Trong phần thể xác còn có khuôn dạng của bóng dáng con người cùng với cuộc sống trôi nỗi dập dồn và với cái lý của nhân quả đó là một cuộc vay trả nợ đời.
Chuyện của tôi không nằm trong sự chết có linh hồn mà trong cái nghiệt ngã không có sự luân chuyễn di động của một người quen vừa mới chết
Hai hay ba năm trước Đại tá T. ở Oregon có gọi cho tôi và yêu cầu tôi gọi cho bác Đoàn Thái vì bác Thái muốn nói chuyện với tôi.
Tôi gọi bác Thái. Trong khoảng thời gian này tình trạng sức khỏe của bác Thái cũng không khả quan lắm. Bác nói với tôi về Đảng Đại Việt của Bác và chê trách ông Hà Thúc Ký tại sao lại giao Đại Việt cho ông Bùi Diễm mà theo bác Thái Bùi Diễm là một tên Việt gian
Bác Thái bảo với tôi là bác đã theo dõi bài viết của tôi từ ngày chúng tôi chủ trương Tạp Chí Gọi Nhau (1989). Bác khích lệ tôi đã chịu khó học hỏi nên đã tiến tời nhiều trong việc viết văn. Tôi cảm ơn lời khích lệ của bác và cũng không quên nói cho bác Thái biết là tôi không thích tham gia và tham dự vào chuyện của các đảng phái. Trong ý nghĩ đơn giãn của tôi từ khi hiểu biết chuyện nước non thì hình thức 2 chữ Đảng phái đồng nghĩa với 2 chữ phân hóa
Bác Thái không cần biết tôi thích nghe hay không, bác vẫn nói và còn bảo tôi là : Tôi nói cho cô biết để sau này tôi chết đi cô viết cho tôi một bài
Tôi nghe lời bác Thái nói mà bỗng tức cười cho tôi là đã trở thành Công Ty Viết hồi nào mà lại đang nhận phiếu đặt hàng. Bác Thái bên kia dòng điện thoại nhắc tôi có nghe không mà sao im lìm quá vậy? Dạ cháu đang nghe xin bác nói tiếp
Bác Thái lại nói tiếp trong khi đó tôi nghe lời bác Thái gái bên cạnh nhắc nhở bác từ từ kẽo ngột thở.
Mô Phật ! tôi lạnh toát cả người cho nên tôi để bác Thái nói hết mà không dám xen vào
Bác chê trách ông Hà Thúc Ký bởi cái lý do là ông Ký đã đưa Đảng Đại Việt cho VG Bùi Diễm. Bác bảo Đại Việt cách Mạng Đảng là do ông Trương Tử Anh sáng lập với Cương Lĩnh Dân Tộc Sinh tồn gồm có 3 sứ bộ Bắc Kỳ Trung kỳ và Nam Kỳ. Trung Kỳ do ông Bửu Hiệp nắm, Nam Kỳ là do ông Nguyễn Hòa Hiệp Khi ông Bửu Hiệp chết thì ông Hà Thúc Ký tự động lên thay thế .
Còn ông Bùi Diễm lúc bấy giờ tự xưng là Đại Việt Quan Lại. Bác Thái bảo là ông HTK xách ông Bùi Diễm về làm chủ tịch là từ nguyên nhân buôn bán Computer của ông Hoàng Tuấn. Ông Tuấn mách mối cho ông Ký và ông Ký mời gọi ông Bùi Diễm hùn với ông Tuấn mỗi người $50,000 đô la. Bác Thái còn nói lúc đó có mời cố TT Thiệu nhưng ông Thiệu từ chối. Sau này ông Tuấn cho ông Ký và ông Bùi Diễm cả triệu đô la chia nhau. Đó là lý do ông Bùi Diễm nhảy vào làm chủ tịch. Trong khi đó người mà bác Thái quí mến nhất là BS Hồ Văn Châm. Bác nói tại sao ông Ký không đưa cho ông Châm mà lại đưa cho tên VG Bùi Diễm ?
Bác Thái còn nói đến chuyện chiến khu Ba Lòng cùng chuyện Đại Tá Huỳnh Văn Tồn cứu ông Hà Thúc Ký
Tôi nghe xong rồi cũng quên. Nhất là khi Bác Thái nói về ông Hà Thúc Ký mà không biết bác Thái có biết là anh Hà Thúc Ký là anh em cô cậu ruột với tôi không?
Đôi khi, tôi nghĩ con người thường hay làm tù nhân của chính mình đi từ dòng suy nghĩ tương phản nín nhịn trên sự suy tư qua nhiều dòng diễn tiến để đi đến một số định lý qua một lối thẳng, nhiều giai đoạn rồi từ đó tự giãi đáp cái ẩn số của phương trình
Từ đó tôi cũng ít gọi bác Thái. Cho đến một hôm cách đây vài tuần, tự nhiên trong sự suy nghĩ của tôi có Bác Thái. Tôi định sẽ gọi thăm bác nhưng trước khi gọi bác tôi lại gọi cho Đại tá T ở Oregon muốn hỏi xem bác Thái dạo này ra sao ?
Tiếng ĐT T. bên kia rõ mồm một : Ổng chết rồi chị ơi ! chết gần hai năm rồi . Nếu tôi nhớ không lầm thì ngày giỗ của ông ấy hôm nay hay vài ngày qua tôi không rõ
Mô Phật. Tôi sợ gần chết. Mới đó mà gần hai năm. Tôi lật đật vào Cell phone để delete tên của Bác trong contact list nhưng không biết tại sao tên và phone của Bác vẫn còn trong contact list cho đến bây giờ
Tôi nhớ lại lời bác Thái bảo tôi viết về lời bác nói. Tôi đã hoàn thành hôm nay để không còn mắc nợ ngừơi chết Tuy nhiên đối với tôi chuyện Đảng phái tôi chưa bao giờ cảm thấy hãnh diện để nghe, chỉ trừ khoảng thời gian hào hùng khí phách của 2 đảng Việt Nam QDĐ và Đại Việt Quốc dân đảng từ 1945-1955.
Sau này tìm hiểu thêm về thực trạng và nhu cầu kết hợp của các đảng phái tôi lại buồn hơn. Như đã có lần chúng tôi đã thưa cùng quí vị là sự ổn định của chính trị rất cần thiết để phát triễn xã hội hay nói rõ ra sự ổn định chính trị rất cần thiết cho sự giữ vững thành trì chống Cộng của Tập Thể Ngừơi Việt QG tại hải ngoại
Từ năm 1964- 1967 theo một thống kê cho biết Chính thể Đệ Nhị VNCH có đến 33 đảng phái trong 33 danh xưng có Phong Trào , Lực Lượng, Mặt Trận, Đảng , Khối Đoàn.
Hiện tượng đa đảng này trên chính trường lúc bấy giờ không thấy có những việc làm gì ích quốc lợi dân mà tệ trạng phân hóa càng ngày càng lên cao trên mục tiêu để "dành ghế" trong chính quyền.
Thậm chí có những nhà gọi là chính trị đảng phái cũng mom men đến cửa Chùa hay cổng nhà thờ nhờ oai lực của các vị lãnh đạo tôn giáo để có được những “cái ghế” này. Từ Khối Chùa Xá Lợi với Hội Phật Học Nam Việt rồi Việt Nam Quốc Tự, Ấn Quang miền Vĩnh Nghiêm đến Khối Công Giáo Chính trị cũng chia ra Lực Lượng Đại Đoàn Kết , Công Giáo Tiến Hành, Mặt Trận Công Dân Công Giáo vân vân và vân vân
Trong khi đó hai đảng kỳ cựu là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng thì tình trạng phân hóa càng ngày càng tăng như Việt Nam Quốc Dân Đảng(VNQDĐ) trong thời kỳ này lại chia ra làm 10 hệ phái(*) như:
- VNQDD Trung Ương cả Tiến
- VNQDD Trung Ương Lâm Thời
- VNQDD Thống Nhất
- VNQDD Chủ Lực
- VNQDD Tân Chính
-VNQDĐ Xứ Bộ Miền Bắc
-VNQDĐ Xứ Bộ Miền Trung
-VNQDĐ Xứ Bộ Miền Nam
-VNQDĐ Biệt Bộ Nguyễn Tường Tam
-VNQDĐ Liên Tỉnh Miền Trung
Về phía Đại Việt đảng này cũng phân hóa thành 5 phe:
-Tân Đại Việt (Nguyễn Tôn Hoàn, Phan Thông Thảo, Nguyễn Ngọc Huy)
-Đại Việt Cách Mạng Đảng (Hà Thúc Ký, Hoàng Xuân Tửu)
-Đại Việt Nguyên Thủy(Trần Văn Xuân)
-Đại Việt Quan Lại (Phan Huy Quát, Đặng Văn Sung)
-Đại Việt Thống Nhất (Nguyễn Đình Luyện)
Ngoài ra, ở miền Nam có Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng gọi tắt là Dân Xã Đảng cũng chia thành 3 nhánh cùng tên đảng nhưng khác tên của lãnh tụ:
-Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng(Trình Quốc Khánh)
-Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng( Phạm Bá Cần)
-Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng( Trịnh Kim Cù)
Theo tài liệu chúng tôi đọc được của một tác giả xuất thân từ Trường Quốc Gia Hành Chánh VNCH thì ngoài 54 tên của đảng có khai báo còn có rất nhiều tổ chức đảng phái chính trị khác
Ra tới hải ngoại thì sự phân hóa này lại càng trầm trọng hơn. Một số thành viên chân chính của các đảng phái này tự cho mình là "kẽ dại" đã lặng lẽ đi vào nơi yên tĩnh để cho những người “khôn“đang tìm chủ nghĩa cơ hội vẫn ở chốn "lao xao". Có một lần tôi hỏi một vị sĩ quan của Quân Lực VNCH về đảng Đại Việt mà ông là đảng viên thì ông lắc đầu ngao ngán bảo tôi là đừng có hỏi nữa.
Bây giờ nói chuyện đảng phái giống như nồi cháo heo. Tự nhiên tôi cảm thấy vô cùng tiếc nuối như vừa vụt mất một bảo vật
Trong khi đó một số tự xưng là “con dòng cháu giống của VNQDĐ”, là lãnh tụ hải ngoại thì lại đi bắt tay với đảng Việt Tân là hậu thân của MTQGTNGPVN (Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam ( gọi nôm na mặt Trận Hoàng Cơ Minh) đã được thành lập tại cái nôi xôi đậu Bá Linh. Một đảng phái mà theo sự suy nghĩ của phần đông Người Tỵ nạn cs tại hải ngoại cho là ngoại vi của đảng csVN.
Chính sự suy nghĩ này mà người tỵ nạn cs tại hải ngoại đã nhìn những khuôn mặt tổ chức đảng phái như một hóa thân kỳ diệu của một dáng dấp liêu trai mờ mờ ảo ảo không có tượng hình.
Thật ra , người Việt tỵ nạn cs cũng có thể nhìn ra khuôn mặt của đảng phái nhưng ngoài sự phân hóa ra họ đã trở thành những con thuyền có bến nhưng đã quên con suối cội nguồn ,quên đi những dòng lịch sử oai hùng chuyễn tải những tinh thần đề kháng chống VGCS để biến hình thành dạng yêu ma theo phù thủy VGCS đọc bùa chú úm bà la úm bà la bán nước hại dân . Vì ẩn hiện mập mập mờ mờ qua những cương lĩnh đấu tranh đầu voi đuôi chuột đã làm người dân mất hết niềm tin
Trong khi người dân chỉ có một ước mơ thầm lặng duy nhất là được nhìn thấy một kết hợp giữa những cảm nhận, những cảm thấy của những trái tim VN tỵ nạn cs và không phải bị "ràng buột bên những biên cương thống khổ của đảng phái này hay đảng phái nọ"
Những ước mơ đó rất bình thường, rất giản dị nhưng lại vô cùng khó khăn khi cả tập thể người Việt tỵ nạn cs không đảng phái lại phải đối đầu với những con Ma đảng đang chập chờn ẩn hiện gây phân hóa trên sự ổn định của người dân mỗi ngày một trầm trọng.
Đó chính là những con Ma chưa chôn còn vật vờ trên dương thế nhưng đã chết tự lâu rồi trong lòng người Việt TỴ NẠN cs Tại Hải Ngoại.
Chúng tôi hy vọng rằng nếu những vị đảng viên chân chính của các chính đảng nên tìm một giãi pháp để ổn định lại sự sinh hoạt cho các đảng phái của mình trước hiễm họa của đảng csVN đang dọn đường để đưa dân tộc VN vào con đường diệt vong (có nghĩa là Dân Tộc hết sinh tồn). Còn hơn là tự chọn con đường tiêu cực để làm mai một tinh hoa của những nhà cách mạng đã lao tâm gầy dựng nên các chính đảng một thời.
Tôn Nữ Hoàng Hoa
20 tháng 11 năm 2012
Kính chị Hằng
Tôi cũng có liên quan chút chút với VNQDĐ nên có một vài thắc mắc nhờ chị cho biết .
Nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912, quê ở làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất tại Hà Nội. chết năm 1939. Vợ ông, bà Vũ Mỹ Lương, tên thường gọi là bà Gái, là con người vợ thứ tư của cụ Cửu Tích, một nhà tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Sau khi làm đám cưới vào ngày 23 tháng 1 năm 1938, hai vợ chồng đã cùng thuê nhà ở phố Hàng Bạc.
Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng.
Ngày 13 tháng 2 năm 1930, ông Vũ Hồng Khanh là một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng ở Kiến An (Hải Phòng) [1]. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài còn ông đào thoát sang Trung Hoa móc nối với các đồng chí tiếp tục hoạt động và trở thành lãnh đạo mới của Việt Nam Quốc dân đảng.
Năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Hoa), Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ (Quốc dân đảng), Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân chính đảng), Nguyễn Hải Thần thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, thường được gọi tắt là Việt Cách.
Ngày 1 tháng 9 năm 1945, ông từ Côn Minh về nước qua ngả Mường Khương, vào Lào Cai.
Do cần phải hợp tác để đối phó với Việt Minh ngày 15 tháng 12 năm 1945 các đảng phái chống Việt Minh đã thống nhất thành lập một lực lượng gọi là Mặt trận Quốc dân Đảng. Vũ Hồng Khanh giữ chức Bí thư trưởng tổ chức này.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946 ông tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến và đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội (sau đổi là Ủy ban Kháng chiến). Ông cùng Hồ Chí Minh đã ký với Jean Sainteny Hiệp định sơ bộ 1946.
Tháng 7 năm 1946, xảy ra vụ án phố Ôn Như Hầu ở Hà Nội, lực lượng công an khám xét các trụ sở của Việt Nam Quốc dân đảng, phát giác nhiều vũ khí, truyền đơn hiệu triệu chống chính phủ (do Việt Minh dàn dựng). Tuy nhiên theo Việt Nam Quốc dân Đảng, trụ sở ở phố Ôn Như Hầu chỉ là một chỗ làm việc bình thường của Việt Nam Quốc dân Đảng bị tấn công trong lúc không nghĩ là mình sẽ bị tấn công và các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng không có vũ khí nặng nào. Vũ Hồng Khanh và các lãnh đạo các đảng phái chống Việt Minh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Trung Hoa.
Vậy thì ông Vũ Lăng con nhà văn Vũ Trọng Phụng và cứ cho là cháu ông Vũ Hồng Khanh làm thư ký và liên lạc viên cho ông Vũ Hồng Khanh lúc mấy tuổi vậy? 12, hay 13? Không lẽ VNQDĐ hết nhân sự rồi hay sao mà phải dùng trẻ con làm thư ký riêng, cán bộ giao liên cho Bí thư trưởng.
Chị có thể viết rõ thêm về đoạn này được không?
Trân trọng
Kim Âu
-
Chào chị TNHH,
1) Chúng tôi là những đảng viên kỳ cựu của VNQDĐ cùng lưu vong sang Trung hoa với ông Vũ Hồng Khanh sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị lên đoạn đầu đài tại Yên Báy. Chúng tôi xin khẳng định về hai đảng lớn duy nhất còn lại tại miền Nam Việt Nam sau năm 1954: VNQDĐ và Đại Việt. Đại Việt do ông Trương Tử Anh thành lập nhưng vào năm 1942 ông Trương tử Anh đã sang Trung Hoa xin gặp ông Vũ Hồng Khanh tại Vân Nam và xin được sát nhập Đại Việt với VNQDĐ và đã được ông Vũ Hồng Khanh chuẩn thuận để thống nhất làm một. Tại hải ngoại lúc bấy giờ vẫn giữ tên Việt Nam QDĐ, và ở trong quốc nội vẫn giữ tên Đại Việt bởi vì Đại Việt là danh xưng của tổ quốc Việt Nam lúc đó, Hoàng đế Bảo Đại vẫn xưng là Hoàng đế của Đại Việt. Anh Vũ Trọng Khanh tức Đại tá Vũ Lăng là cháu ruột của ông Vũ Hồng Khanh lúc bấy giờ đang sống lưu vong bên Trung Hoa vừa làm thơ ký riêng và vừa làm cán bộ giao liên cho cho ông Vũ Hồng Khanh và ông Nguyễn Hải Thần. Chính anh Vũ Trọng Khanh đã chứng kiến và ghi chép buổi họp giữa ông Vũ Hồng Khanh và ông Trương Tử Anh. Kể từ ngày đó VNQDĐ và ĐẠI VIỆT đã trở thành một.
2) Đến năm 1945 Trương Tử Anh bị Việt Minh giết và người kế nhiệm ông Trương Tử Anh là anh Lê Ninh nhưng không bao lâu sau anh Lê Ninh bị thủ tiêu và Đại Việt đã rẻ sang một lối khác với những người đảng viên thích quyền lực cho tới bây giờ.
3) VNQDĐ từ khởi thủy không hề có phân hóa cho nên không có những hệ phái như chị TNHH nêu ra trong bài viết dưới đây: Có MA không? VNQDĐ chỉ có một danh xưng là VNQDĐ thống nhất bởi vì sau khi tổ quốc Việt Nam bị Hồ Chí Minh bắt tay với Pháp để dành quyền cai trị và Hồ Chí Minh đã chấp nhân chia đôi đất nước ra làm hai quốc gia khác biệt về thể chế chinh trị cũng như hình thức cai trị nhân dân. Ở tại miền Bắc VN số đảng viên QDĐ vẫn còn những cơ sở hạ tầng chưa chạy được vào miền Nam từ năm 1945-1954.
4) Sau năm 1954 ông Vũ Hồng Khanh đã thống nhất Kỳ bộ miền Bắc do ông Vũ Hồng Khanh lãnh đạo với Xứ bộ miền Nam do ông Nguyễn Hòa Hiệp lãnh đạo. Sau khi thống nhất kỳ bộ miền Bắc với Xứ bộ miền Nam ông Vũ Hồng Khanh được bầu giữ chức vụ Bí thư trưởng của VNQDĐ thống nhất và ông Nguyễn Hòa Hiệp giữ chức vụ Bí thư Thường vụ và LS Trần Văn Tuyên giữ chức vụ Tổng Thư Ký. Sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị Pháp giết tất cả các đảng viên của VNQDĐ cùng thời với ông Nguyễn Thái Học đã thề quyết không bầu ai vào chức vụ đảng trưởng nữa nhằm mục đích giữ vững lòng trung kiên với lý tưởng và ngọn cờ mà đảng trưởng Nguyễn Thái Học đã phất lên.
4) Ông Nguyễn Tường Tam có tham vọng riêng và chưa bao giờ là đảng viên của VNQDĐ. Chỉ có ông Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long là đảng viên trung kiên của VNQDĐ.
5) Khi ra tới Hải ngoại chúng tôi đã biết có những kẻ tự xưng là VNQDĐ và đã làm những điều xấu xa chỉ vì những tham vọng hảo huyền. Những người này không hề biết đến những hy sinh lớn lao của những bậc tiền bối. Chúng tôi tin rằng một viên ngọc dù cho có vỡ nát thì giát ngọc vẫn trong. Một cục đất sét dù cho có vo ve thành viên ngọc thì đất sét vẫn hoàn đất sét. Vài hàng thân kính gởi đến chị TNHH, một người phụ nữ có nhiều tâm huyết với chiều dài và bề dày của Lịch sử đầy máu và nước mắt của tiền nhân. Chúng tôi rất trân trọng và quý mến chị.
DuongThiPhuongHang 1476 & Đại tá Vũ Lăng
Dạ xin cảm ơn chị DTPH đã bổ khuyết
Kính
TNHH
Chào chị TNHH,
Một trong 3 lãnh tụ của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng là Trương Kim Cù chứ không phải Trịnh Kim Cù.
DuongThiPhuongHang 1476
Nhưng có một cái gì đó từ trong mộng hay thoáng trong thực đánh thức mình dậy trong một giấc ngủ dài hoặc một chút lành lạnh chạy từ ót đến cuối đừơng xương sống thì cho dù cả trong mộng hay trong thực cũng gờn gợn lên hình ảnh của Ma. Vì cái ý nghỉ mênh mông vượt lên trên mọi thứ tiếng nói không hạn chế, vụt chốc thóang lên cao, bay bổng ra ngoài mọi toan tính cân đo của con người cùng bao nhiêu màu sắc biến hiện phát ra từ lân tinh gọi hồn xương cốt mà con người có thể gọi đó là Ma
Chuyện của tôi không nằm trong sự chết có linh hồn mà trong cái nghiệt ngã không có sự luân chuyễn di động của một người quen vừa mới chết
Hai hay ba năm trước Đại tá T. ở Oregon có gọi cho tôi và yêu cầu tôi gọi cho bác Đoàn Thái vì bác Thái muốn nói chuyện với tôi.
Tôi gọi bác Thái. Trong khoảng thời gian này tình trạng sức khỏe của bác Thái cũng không khả quan lắm. Bác nói với tôi về Đảng Đại Việt của Bác và chê trách ông Hà Thúc Ký tại sao lại giao Đại Việt cho ông Bùi Diễm mà theo bác Thái Bùi Diễm là một tên Việt gian
Bác Thái bảo với tôi là bác đã theo dõi bài viết của tôi từ ngày chúng tôi chủ trương Tạp Chí Gọi Nhau (1989). Bác khích lệ tôi đã chịu khó học hỏi nên đã tiến tời nhiều trong việc viết văn. Tôi cảm ơn lời khích lệ của bác và cũng không quên nói cho bác Thái biết là tôi không thích tham gia và tham dự vào chuyện của các đảng phái. Trong ý nghĩ đơn giãn của tôi từ khi hiểu biết chuyện nước non thì hình thức 2 chữ Đảng phái đồng nghĩa với 2 chữ phân hóa
Bác Thái không cần biết tôi thích nghe hay không, bác vẫn nói và còn bảo tôi là : Tôi nói cho cô biết để sau này tôi chết đi cô viết cho tôi một bài
Tôi nghe lời bác Thái nói mà bỗng tức cười cho tôi là đã trở thành Công Ty Viết hồi nào mà lại đang nhận phiếu đặt hàng. Bác Thái bên kia dòng điện thoại nhắc tôi có nghe không mà sao im lìm quá vậy? Dạ cháu đang nghe xin bác nói tiếp
Bác Thái lại nói tiếp trong khi đó tôi nghe lời bác Thái gái bên cạnh nhắc nhở bác từ từ kẽo ngột thở.
Mô Phật ! tôi lạnh toát cả người cho nên tôi để bác Thái nói hết mà không dám xen vào
Bác chê trách ông Hà Thúc Ký bởi cái lý do là ông Ký đã đưa Đảng Đại Việt cho VG Bùi Diễm. Bác bảo Đại Việt cách Mạng Đảng là do ông Trương Tử Anh sáng lập với Cương Lĩnh Dân Tộc Sinh tồn gồm có 3 sứ bộ Bắc Kỳ Trung kỳ và Nam Kỳ. Trung Kỳ do ông Bửu Hiệp nắm, Nam Kỳ là do ông Nguyễn Hòa Hiệp Khi ông Bửu Hiệp chết thì ông Hà Thúc Ký tự động lên thay thế .
Còn ông Bùi Diễm lúc bấy giờ tự xưng là Đại Việt Quan Lại. Bác Thái bảo là ông HTK xách ông Bùi Diễm về làm chủ tịch là từ nguyên nhân buôn bán Computer của ông Hoàng Tuấn. Ông Tuấn mách mối cho ông Ký và ông Ký mời gọi ông Bùi Diễm hùn với ông Tuấn mỗi người $50,000 đô la. Bác Thái còn nói lúc đó có mời cố TT Thiệu nhưng ông Thiệu từ chối. Sau này ông Tuấn cho ông Ký và ông Bùi Diễm cả triệu đô la chia nhau. Đó là lý do ông Bùi Diễm nhảy vào làm chủ tịch. Trong khi đó người mà bác Thái quí mến nhất là BS Hồ Văn Châm. Bác nói tại sao ông Ký không đưa cho ông Châm mà lại đưa cho tên VG Bùi Diễm ?
Bác Thái còn nói đến chuyện chiến khu Ba Lòng cùng chuyện Đại Tá Huỳnh Văn Tồn cứu ông Hà Thúc Ký
Tôi nghe xong rồi cũng quên. Nhất là khi Bác Thái nói về ông Hà Thúc Ký mà không biết bác Thái có biết là anh Hà Thúc Ký là anh em cô cậu ruột với tôi không?
Đôi khi, tôi nghĩ con người thường hay làm tù nhân của chính mình đi từ dòng suy nghĩ tương phản nín nhịn trên sự suy tư qua nhiều dòng diễn tiến để đi đến một số định lý qua một lối thẳng, nhiều giai đoạn rồi từ đó tự giãi đáp cái ẩn số của phương trình
Từ đó tôi cũng ít gọi bác Thái. Cho đến một hôm cách đây vài tuần, tự nhiên trong sự suy nghĩ của tôi có Bác Thái. Tôi định sẽ gọi thăm bác nhưng trước khi gọi bác tôi lại gọi cho Đại tá T ở Oregon muốn hỏi xem bác Thái dạo này ra sao ?
Tiếng ĐT T. bên kia rõ mồm một : Ổng chết rồi chị ơi ! chết gần hai năm rồi . Nếu tôi nhớ không lầm thì ngày giỗ của ông ấy hôm nay hay vài ngày qua tôi không rõ
Mô Phật. Tôi sợ gần chết. Mới đó mà gần hai năm. Tôi lật đật vào Cell phone để delete tên của Bác trong contact list nhưng không biết tại sao tên và phone của Bác vẫn còn trong contact list cho đến bây giờ
Tôi nhớ lại lời bác Thái bảo tôi viết về lời bác nói. Tôi đã hoàn thành hôm nay để không còn mắc nợ ngừơi chết Tuy nhiên đối với tôi chuyện Đảng phái tôi chưa bao giờ cảm thấy hãnh diện để nghe, chỉ trừ khoảng thời gian hào hùng khí phách của 2 đảng Việt Nam QDĐ và Đại Việt Quốc dân đảng từ 1945-1955.
Sau này tìm hiểu thêm về thực trạng và nhu cầu kết hợp của các đảng phái tôi lại buồn hơn. Như đã có lần chúng tôi đã thưa cùng quí vị là sự ổn định của chính trị rất cần thiết để phát triễn xã hội hay nói rõ ra sự ổn định chính trị rất cần thiết cho sự giữ vững thành trì chống Cộng của Tập Thể Ngừơi Việt QG tại hải ngoại
Từ năm 1964- 1967 theo một thống kê cho biết Chính thể Đệ Nhị VNCH có đến 33 đảng phái trong 33 danh xưng có Phong Trào , Lực Lượng, Mặt Trận, Đảng , Khối Đoàn.
Hiện tượng đa đảng này trên chính trường lúc bấy giờ không thấy có những việc làm gì ích quốc lợi dân mà tệ trạng phân hóa càng ngày càng lên cao trên mục tiêu để "dành ghế" trong chính quyền.
Thậm chí có những nhà gọi là chính trị đảng phái cũng mom men đến cửa Chùa hay cổng nhà thờ nhờ oai lực của các vị lãnh đạo tôn giáo để có được những “cái ghế” này. Từ Khối Chùa Xá Lợi với Hội Phật Học Nam Việt rồi Việt Nam Quốc Tự, Ấn Quang miền Vĩnh Nghiêm đến Khối Công Giáo Chính trị cũng chia ra Lực Lượng Đại Đoàn Kết , Công Giáo Tiến Hành, Mặt Trận Công Dân Công Giáo vân vân và vân vân
Trong khi đó hai đảng kỳ cựu là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng thì tình trạng phân hóa càng ngày càng tăng như Việt Nam Quốc Dân Đảng(VNQDĐ) trong thời kỳ này lại chia ra làm 10 hệ phái(*) như:
- VNQDD Trung Ương cả Tiến
- VNQDD Trung Ương Lâm Thời
- VNQDD Thống Nhất
- VNQDD Chủ Lực
- VNQDD Tân Chính
-VNQDĐ Xứ Bộ Miền Bắc
-VNQDĐ Xứ Bộ Miền Trung
-VNQDĐ Xứ Bộ Miền Nam
-VNQDĐ Biệt Bộ Nguyễn Tường Tam
-VNQDĐ Liên Tỉnh Miền Trung
Về phía Đại Việt đảng này cũng phân hóa thành 5 phe:
-Tân Đại Việt (Nguyễn Tôn Hoàn, Phan Thông Thảo, Nguyễn Ngọc Huy)
-Đại Việt Cách Mạng Đảng (Hà Thúc Ký, Hoàng Xuân Tửu)
-Đại Việt Nguyên Thủy(Trần Văn Xuân)
-Đại Việt Quan Lại (Phan Huy Quát, Đặng Văn Sung)
-Đại Việt Thống Nhất (Nguyễn Đình Luyện)
Ngoài ra, ở miền Nam có Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng gọi tắt là Dân Xã Đảng cũng chia thành 3 nhánh cùng tên đảng nhưng khác tên của lãnh tụ:
-Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng(Trình Quốc Khánh)
-Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng( Phạm Bá Cần)
-Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng( Trịnh Kim Cù)
Theo tài liệu chúng tôi đọc được của một tác giả xuất thân từ Trường Quốc Gia Hành Chánh VNCH thì ngoài 54 tên của đảng có khai báo còn có rất nhiều tổ chức đảng phái chính trị khác
Ra tới hải ngoại thì sự phân hóa này lại càng trầm trọng hơn. Một số thành viên chân chính của các đảng phái này tự cho mình là "kẽ dại" đã lặng lẽ đi vào nơi yên tĩnh để cho những người “khôn“đang tìm chủ nghĩa cơ hội vẫn ở chốn "lao xao". Có một lần tôi hỏi một vị sĩ quan của Quân Lực VNCH về đảng Đại Việt mà ông là đảng viên thì ông lắc đầu ngao ngán bảo tôi là đừng có hỏi nữa.
Bây giờ nói chuyện đảng phái giống như nồi cháo heo. Tự nhiên tôi cảm thấy vô cùng tiếc nuối như vừa vụt mất một bảo vật
Trong khi đó một số tự xưng là “con dòng cháu giống của VNQDĐ”, là lãnh tụ hải ngoại thì lại đi bắt tay với đảng Việt Tân là hậu thân của MTQGTNGPVN (Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam ( gọi nôm na mặt Trận Hoàng Cơ Minh) đã được thành lập tại cái nôi xôi đậu Bá Linh. Một đảng phái mà theo sự suy nghĩ của phần đông Người Tỵ nạn cs tại hải ngoại cho là ngoại vi của đảng csVN.
Chính sự suy nghĩ này mà người tỵ nạn cs tại hải ngoại đã nhìn những khuôn mặt tổ chức đảng phái như một hóa thân kỳ diệu của một dáng dấp liêu trai mờ mờ ảo ảo không có tượng hình.
Thật ra , người Việt tỵ nạn cs cũng có thể nhìn ra khuôn mặt của đảng phái nhưng ngoài sự phân hóa ra họ đã trở thành những con thuyền có bến nhưng đã quên con suối cội nguồn ,quên đi những dòng lịch sử oai hùng chuyễn tải những tinh thần đề kháng chống VGCS để biến hình thành dạng yêu ma theo phù thủy VGCS đọc bùa chú úm bà la úm bà la bán nước hại dân . Vì ẩn hiện mập mập mờ mờ qua những cương lĩnh đấu tranh đầu voi đuôi chuột đã làm người dân mất hết niềm tin
Trong khi người dân chỉ có một ước mơ thầm lặng duy nhất là được nhìn thấy một kết hợp giữa những cảm nhận, những cảm thấy của những trái tim VN tỵ nạn cs và không phải bị "ràng buột bên những biên cương thống khổ của đảng phái này hay đảng phái nọ"
Những ước mơ đó rất bình thường, rất giản dị nhưng lại vô cùng khó khăn khi cả tập thể người Việt tỵ nạn cs không đảng phái lại phải đối đầu với những con Ma đảng đang chập chờn ẩn hiện gây phân hóa trên sự ổn định của người dân mỗi ngày một trầm trọng.
Đó chính là những con Ma chưa chôn còn vật vờ trên dương thế nhưng đã chết tự lâu rồi trong lòng người Việt TỴ NẠN cs Tại Hải Ngoại.
Chúng tôi hy vọng rằng nếu những vị đảng viên chân chính của các chính đảng nên tìm một giãi pháp để ổn định lại sự sinh hoạt cho các đảng phái của mình trước hiễm họa của đảng csVN đang dọn đường để đưa dân tộc VN vào con đường diệt vong (có nghĩa là Dân Tộc hết sinh tồn). Còn hơn là tự chọn con đường tiêu cực để làm mai một tinh hoa của những nhà cách mạng đã lao tâm gầy dựng nên các chính đảng một thời.
Tôn Nữ Hoàng Hoa
gần 40 tuổi, phải già, phải via tông-keng bằng tôi, anh không thể trẻ đến như thế.
Lần gặp Vũ Trọng Khanh ở Sài Gòn, tôi không tin anh là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng nhưng tôi chẳng bắt bẻ anh làm gì. Tại sao lại cố ý moi móc để chứng tỏ người ta nhận vơ ? Mà người ta nhận vơ người ta là con ông Nhà Văn sì đã nàm thao? Hại gì ai ? Nhà văn Vũ Trọng Phụng có nổi tiếng, có được người đời trọng mến, mới có người nhận là con. Ở đời thiếu gì anh con từ bố, chối bố hay xấu hổ khi có ai nói anh là con của ông bố anh.
Những năm 2000, 2001, ở Kỳ Hoa Đất Trích, tôi nghe nói :
- Ở San José có người nhận là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, tên là Vũ Trọng Khanh.
Tôi nghe qua rồi bỏ. Tự nhiên tôi không tin nhân vật Vũ Trọng Khanh San José 2000 là nhân vật Vũ Trọng Khanh tôi gặp năm 1975, 1976 trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn. Lại một vụ nhận vơ.. ! Mà người ta nhận vơ sì đã nàm thao?
Ngày tháng qua đi..Tháng 2 năm 2008, liêu lạc ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, tôi gặp lại cái tên Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh tôi thấy ở Kỳ Hoa năm 2008 không phải là anh thanh niên Bắc Kỳ đẹp trai Vũ Trọng Khanh tôi gặp ở Sài Gòn cuối năm 1975 hay đầu năm 1976. Như vậy : trước sau, trong vòng 40 năm, tôi thấy cuộc đời này có hai ông Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh thứ nhất tôi được gặp, được nói chuyện ở Sài Gòn năm 1975 không có chức vụ, không cấp bậc gì cả, ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tôi chỉ được nhìn thấy dung nhan trên màn hình Internet trong cuộc phỏng vấn của Hệ Thống Truyền Thông SBTN. Ông Vũ Trọng Khanh San José 2008 được SBTN giới thiệu bằng cái tên có chức vị quân đội là Đại Tá Vũ Lăng.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San José 2008 trạc Sáu Bó tuổi đời, bận quân phục, tôi nhìn không rõ đó là quân phục Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa hay quân phục Quân Đội Hoa Kỳ. Ông có vẻ đau yếu, dường như ông ngồi không vững, ông nói khó khăn, ông có bà vợ trẻ ngồi bên đỡ lời, nói dùm. Trong cuộc phỏng vấn ông nói ba, bà nói bẩy. Chuyện kỳ lạ là, như tôi đã viết trên đây, gần như tất cả những người Việt Nam từng đọc tiểu thuyết của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, từng biết, dù biết ít, biết lơ mơ, về đời tư của Nhà Văn, đều biết Nhà Văn không có con trai, nhưng ký giả SBTN – không lẽ không biết – không đặt câu hỏi :
- Có gì chứng minh ông là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ?
Ký giả phỏng vấn, dường như tên là ông Tường Thắng, phăng phăng la tuy-líp coi người được phỏng vấn đúng là ông con của Nhà Văn.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San Jose, và bà vợ, kể nhiều chuyện kỳ cục quá đỗi là kỳ cục. Không những chỉ kỳ cục, đó còn là những chuyện dựng đứng. Không chỉ chuyện dựng đứng thường mà là chuyện dựng đứng năm chăm phầm chăm. Tôi nghe chuyện ông bà kể mà chịu hổng có nổi. Tôi kể lại những lời ông bà nói như sau, tất nhiên tôi chỉ kể đại khái thôi, tôi không thể kể hết hay kể thật đúng những lời ông bà nói, nhưng tôi kể không sai.
Ông Đại Tá Vũ Lăng kể ông bị bọn Bắc Cộng bắt sống, giam tù 22 năm ở Bắc Việt, năm 1982 ông trở về Sài Gòn, năm 1985, 1986 ông vượt biên bằng đường bộ sang Thái Lan, người ta đón ông sang Hoa Kỳ. Trong thời gian chịu tù đày ở Bắc Việt, ông bị bọn Cai Tù Bắc Cộng tra tấn, chúng đánh ông thủng hai lỗ ở đầu, rút hết 10 móng tay ông.
Ông kể :
- Lúc đầu Bộ Trưởng Công An Bùi Thiện Ngộ và Thiếu Tướng Công An Dương Thông hỏi cung tôi, rồi đến ông Đại Tá Bùi ... [tiếp theo]
bị Phản Gián P 25 nó tó vì tội « âm mưu cưa ghế chính quyền nhân rân » . Hai anh em ông cùng nằm phơi rốn trong Nhà Tù Chí Hòa. Tôi, qua điện thoại, hỏi ông Trần Tử Thanh về chuyện ông Đại Tá Vũ Lăng San José nói bà mẹ ông ta là em gái Cố Luật sư Trần Văn Tuyên, tức là bà cô ruột của ông, và như dzậy Đại Tá Vũ Lăng Vũ Trọng Khanh San José là anh em con cô, con cậu với ông, ông Trần Tử Thanh cũng đã biết về cuộc phỏng vấn của SBTN, ông kêu :
- Làm gì có chuyện đó. Bà vợ ông Vũ Trọng Phụng đâu phải là em ông cụ tôi. Gia phả giòng tộc nhà tôi không có ai tên như vậy cả. Hoàn toàn bịa đặt ! Anh em chúng tôi sẽ phải lên tiếng về vụ này.
Ông Trần Tử Thanh gửi cho tôi bức thư ngỏ :
THƯ NGỎ
Đồng kính gửi :
- Các cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, các mạng Internet.
- Quí vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, quí vị chủ tịch các đảng phái quốc gia, quí vị Chủ Tịch Công Đồng, các Tổ Chức, Hội Đoàn người Việt Quốc Gia tại hải ngoại.
- Bà con thân thuộc và Bằng Hữu của Gia Đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Mới đây trong cuộc phỏng vấn kéo dài 4 phần trên Đài Truyền Hình SBTN ở Quận Cam và được báo Việt Nam Exodus đưa lên mạng, có một người xưng là Vũ Trọng Khanh, tự Vũ Lăng, Cựu Đại Tá QLVNCH, tốt nghiệp Khóa 4 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt ( ? ), con của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ( ? ) – không hiểu vì lý do gì - đã mạo nhận là cháu của Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Vì sự việc có liên quan đến thân phụ và giòng tộc chúng tôi, chúng tôi xin minh xác :
1 – Họ và tên người này nêu ra trong cuộc phỏng vấn để chứng minh liên hệ với gia đình Luật Sư Trần Văn Tuyên là hoàn toàn xa lạ với gia đình chúng tôi và không có trong gia phả của giòng họ Trần.
2 – Những sự kiện liên quan đến thân phụ chúng tôi là những sự kiện hoàn toàn bịa đặt một cách trắng trợn.
Tất nhiên khi tạo dựng những sự kiện nêu trên, người được phỏng vấn hẳn có mưu đồ đen tối nào đó.
Vì vậy, chúng tôi xin gửi bức thư ngỏ này thông báo tới toàn thể bà con trong gia tộc, các bằng hữu quen biết gia đình chúng tôi, cùng mọi giới để cảnh giác đề phòng và tránh mọi ngộ nhận trong tương lai.
Thay mặt gia đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Luật Sư Trần Tử Huyền, Trưởng Nam.
California, ngày 17 Tháng Hai năm 2008.
*
Trước năm 1975 giới ca-ve Sài Gòn có cô Lan, biệt hiệu Lan Khùng, nói cô là con ông Nhà Văn Lê Văn Trương. Năm 1980 ở Sài Gòn có ông Lê Khiêm nhận là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1990 ở Hà Nội có ông Mạc Can, ông này viết tiểu thuyết, nghe nói là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1976 ở Sài Gòn Cờ Đỏ tôi gặp người xưng tên là Vũ Trọng Khanh, nhận mình là con trai ông Nhà Văn Vũ Trọng Phụng.
Năm 2008 ở Kỳ Hoa, tôi thấy ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tự nhận mình là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng. Ông Vũ Trọng Khanh San José còn tự nhận ông là Đại Tá và là cháu ruột Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Tôi đã kể những gì tôi biết về nhân vật Vũ Trọng Khanh. Xin để quí vị nhận định về vụ này.
CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 253
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0253
HÀ THỊ CẦU - GS NGHIÊM THẨM -NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
Friday, March 15, 2013
RFI * NGHỆ SĨ HÀ THỊ CẦU
Thứ sáu 15 Tháng Ba 2013
Hà Thị Cầu – Truyền nhân cuối cùng của nghệ thuật Hát xẩm?
Nghệ nhân Hà Thị Cầu
DR
Nghệ nhân Hà Thị Cầu vừa ra đi ở tuổi ngoài 90. Giới những
người yêu quí nghệ thuật cổ truyền Việt Nam thương và tiếc một đỉnh cao.
Nhiều tiếng nói khẳng định : « Người hát xẩm cuối cùng đã về trời ». Sự
ra đi của Hà Thị Cầu liệu có phải là dấu chấm cáo chung Hát xẩm, môn
nghệ thuật một thời là món ăn tinh thần quen thuộc của đông đảo người
bình dân Việt Nam ?
Hát xẩm, môn nghệ thuật từng đặc biệt nở rộ tại miền bắc Việt
Nam trong nửa đầu thế kỷ XX, đã không có đất sống trong chế độ mới.
Nhưng những gì thấm sâu vào máu thịt của người nghệ sĩ đích thực không
thể nào biến mất. Trong cuộc đời gần một thế kỷ của mình, nhất là hai
mươi năm cuối đời, Hà Thị Cầu đã liên tục truyền đến cho các thế hệ đi
sau những gì tinh túy nhất trong môn nghệ thuật của đầu thế kỷ trước.
Tạp chí Văn hóa của RFI tuần này xin chuyển tới quý thính giả tiếng
nói của một số nhà nghiên cứu, nghệ sĩ, từng gắn bó với nghệ nhân Hà Thị
Cầu hay đặc biệt quan tâm đến di sản của bà.
Khách mời của tạp chí là nhà dân tộc nhạc học Trần Quang Hải (Paris),
nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa, nhạc sĩ Đặng Hoành Loan và nhà nghiên cứu Bùi
Trọng Hiền từ Hà Nội.
Vượt lên đau khổ : Thần lực của một giọng hát
Mở đầu tạp chí là tiếng nói của nhà nghiên cứu Trần Quang Hải :
|
Trần Quang Hải : Bà ấy mất đi là xứ Việt Nam mất đi
một gia tài rất lớn, về văn chương, văn học dân gian, là cái văn học
dính liền với những người « dân gian », những người nghèo nhất.
trong xã hội. Tôi thấy rằng, muốn hát xẩm cho thật hay, phải sống rất
nhiều, phải lăn lộn vào trong cuộc đời, phải có nhiều kinh nghiệm, phải
có nhiều đau khổ và chính là cái đau khổ đó mới tạo ra một cái thần lực ở
trong giọng hát của mình.
RFI : Ông có thể cho biết, vì sao ông lại biết đến môn nghệ thuật hát xẩm và những kỷ niệm của ông với nghệ nhân Hà Thị Cầu.
Trần Quang Hải : Khi tôi đi về Việt Nam lần đầu
tiên, thì tôi có nghe nói ở Hà Nội có một điệu hát xẩm, thì tôi có đi
gặp anh Thao Giang, phó giám đốc Trung tâm về nhạc dân gian Việt Nam.
Anh ấy nói với tôi là đương muốn trùng tu hát xẩm trở lại, sau khi bị
mất đi trên 50 năm. Khi đó, Thao Giang mới cho tôi nghe một số làn điệu
đặc biệt, trong đó có một vài bài do bà Hà Thị Cầu hát. Tôi hỏi, ai mà
có giọng quá đặc biệt như vậy.
Tôi gặp một bà cụ, cái cặp mắt rất là sắc sảo và cái giọng nói rất là
vang, vang mạnh lắm và tiếng đờn nghe não ruột luôn. Tôi nhắm mắt mà
nghe, thì tôi thấy rằng, rõ ràng là người này đã sống rất nhiều và đã có
một đời sống rất là gian truân, nhưng mà có điều, vẫn lướt lên để sống,
chấp nhận cái cuộc sống của mình, chứ không có đòi hỏi gì nhiều hết.
Thành ra cái tiếng đờn và giọng hát, nó đi quyện vào nhau. Tôi rất lấy
làm sung sướng được nghe bà ấy hát. Lần đầu tiên bà ấy hát cho tôi nghe
bài « Thập ân ». Thì tôi nhớ hoài cái bài Thập ân này. Nó nói lên cái lòng hiếu thảo của người con.
Từ đó về sau này, tôi không có dịp gặp được bà ấy nữa. Có điều tôi
theo dõi tất cả những sinh hoạt của bà, qua báo chí, qua đài truyền
hình… Tôi biết rằng năm 2008 bà ấy được lãnh giải thưởng Đào Tấn, là một giải thưởng rất là quan trọng cho những người đã phụng sự âm nhạc dân tộc và nghệ thuật cổ truyền.
Trong 10 năm chót của cuộc đời bà ấy, có rất nhiều học trò đã đến học
với bà ấy. Anh Thao Giang cũng đã quay nhiều phim cho đài truyền hình
về sinh hoạt của bà ấy và có phim « Xẩm Đỏ », được đạo diễn Lương Đình Dũng quay cách nay 2 năm.
Tôi xem bà ấy cũng như tất cả những diva, hay những người nghệ sĩ
lớn, hay những ca sĩ lớn của xứ Việt Nam hay ngay như trên thế giới,
ngang hàng với bà Quách Thị Hồ. Bà ấy có một giọng hát rất là đặc biệt,
là đại diện cho một truyền thống âm nhạc đang sắp mai một đi (…).
Di sản lớn, tiếp thu rất nhỏ
Theo như tôi nghĩ, sự ra đi của bà Hà Thị Cầu sẽ để lại sự mất mát
rất lớn trong truyền thống hát xẩm. Không có một cơ quan nghiên cứu để
làm một cuộc điền dã, đi thâu thập bà ấy, theo phương pháp dân tộc nhạc
học. Các điền dã ít có làm hoặc chỉ làm một cách chung chung để thâu một
số bài bản cho một số người trẻ học thôi, chứ không có đi thâu một cách
tận tường, thâu hết – một việc cần làm để duy trì truyền thống hát xẩm
với người cuối cùng còn lại của truyền thống này.
Nhạc sĩ Đặng Hoành Loan là người đã thực hiện từ sớm việc thu
thanh nghệ nhân Hà Thị Cầu. Sau đây ông chia sẻ một số ấn tượng về tài
năng Hà Thị Cầu và thực trạng của việc kế thừa.
|
Đặng Hoành Loan : Bà ấy là một tài năng xẩm, với
giọng hát tuyệt vời, với những rung cảm dường như nó từ máu, từ trong
huyết mạch của bà ấy, cho nên khi bà ấy cất lên giọng hát là nó cuốn hút
người ta ngay. Tôi được làm việc với bà ấy và thu thanh toàn bộ những
vốn liếng của bà ấy vào những năm 1990. Nếu bây giờ đem đối chiếu lại
với cái việc bà truyền lại cho lớp trẻ hiện nay, thì chắc chỉ được 1/10
thôi.
Đấy là vốn liếng bài bản. Còn vốn liếng nghệ thuật, tức là cái trình
diễn nghệ thuật của bà ấy, thì phải nói rằng là lớp trẻ chưa tiếp cận
được. Bởi vì bà có một tài năng mà không phải nghệ sĩ nào cũng có. Một
người vừa đàn, vừa hát, một người vừa đánh trống, vừa hát. Một người tự
mình có thể đánh hai ba trống một lúc, thì đấy là điều hiếm thấy. Đồng
thời bà ấy lại là một nghệ sĩ, một người hát xẩm, đúng là xẩm, tức là sự
ngẫu hứng những bài hát, thì bà ấy là người ngẫu hứng vô cùng tài ba.
Và có nhiều bài hát bà để lại những dấu ấn rất sâu, như « Yên Mô quê mình », là bài viết về quê hương Yên Mô của bà ấy.
Có lẽ đây là người cuối cùng ra đi cùng với tài sản xẩm, không còn
bao giờ có thể thấy nó hiện hữu được nữa. Và nếu nói một cách theo chủ
quan của những người… thì cũng có thể nói là cũng còn lại một chút ít,
của lớp trẻ tiếp thu được dăm ba bài.
Cũng như nhà dân tộc nhạc học Trần Quang Hải, nhạc sĩ Đặng Hoành
Loan nhận thấy, nghệ nhân Hà Thị Cầu đã ra đi, và cùng với bà là cả một «
gia tài » hết sức lớn lao đã một đi không trở lại, lớp nghệ sĩ trẻ mới
chỉ thâu nhận được những điều ít ỏi từ người nghệ sĩ lớn.
Nỗ lực nối lại một truyền thống nửa thế kỷ đứt đoạn
Như chúng ta biết, môn hát xẩm như một phương tiện kiếm sống của
những người mù trên các không gian ngoài đường phố đã không còn tồn tại
từ hàng chục năm nay. Trong thời gian ít năm trở lại đây, tại Hà Nội bắt
đầu phát triển một số nhóm biểu diễn do các nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu
chủ trì với mục tiêu phục dựng lại những bài hát và làn điệu xẩm thời
xưa.
Trung tâm phát triển nghệ thuật âm nhạc, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, kể
từ năm 2008, đã tổ chức Lễ giỗ Tổ nghề hát xẩm (vào ngày 22/2 âm lịch)
sau nửa thế kỷ gián đoạn, nhằm nối lại với truyền thống này.
Chúng tôi xin chuyển đến quý vị tiếng nói của nghệ sĩ Mai Tuyết
Hoa, một trong những giọng hát và tay đàn quen thuộc với nhiều người yêu
thích xẩm. Chị Mai Tuyết Hoa là một trong các trụ cột của sân khấu xẩm
được tổ chức vào thứ bảy hàng tuần trước cửa chợ Đồng Xuân (Hà Nội). Sau
đây nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa chia sẻ những kỷ niệm và ấn tượng in dấu
trong tâm hồn chị trong thời gian được theo học nghệ nhân Hà Thị Cầu.
|
Mai Tuyết Hoa : Tôi biết bà qua giọng hát, qua những
cái băng tư liệu của Viện nghiên cứu âm nhạc Việt Nam sưu tầm. Nghe
băng, nghe đĩa của cụ và tôi đã bắt chước cái giọng hát của cụ, cũng như
tiếng đàn của cụ. Cái điều ấn tượng nhất với tôi là cái phong cách của
cụ, cũng như tính cách của cụ, rất là gần gũi, dí dỏm và rất là hài
hước.
Riêng đối với nghệ thuật hát xẩm, thì phải nói, nó rất là phong phú.
Phong phú ở bài bản, phong phú ở làn điệu, có buồn, có vui. Nói chung,
thì nghệ thuật hát xẩm diễn tả được tất cả những tâm trạng của con
người. Và cái điều khó nhất, chính là làm sao mà mình hát gần gũi nhất,
dí dỏm nhất và lôi cuốn người nghe nhất. Và cho dù là, cho đến bây giờ,
tôi đã học đến hơn mười năm, nhưng mà cái điều mà nghệ nhân Hà Thị Cầu
làm được, cuốn hút được người nghe, thì tôi nghĩ vẫn còn rất là xa, bởi
vì tôi cũng chỉ có thể học được một chút gì đó của cụ thôi, còn để đạt
đến đỉnh điểm như cụ, thì tôi nghĩ điều đó khó ai có thể làm được.
Hát cho mình, hát cho mọi người
Đặc biệt là nghệ thuật hát xẩm, thì nó không như những loại hình nghệ
thuật khác, nó khác quan họ, nó khác ca trù, nó rất là dân dã, rất là
bình dân. Bình dân ở đây là nó rất gần gũi với mọi người. Ở mọi tầng lớp
đều có thể thưởng thức nghệ thuật hát xẩm, vì nó dễ nghe, dễ hiểu. Nghệ
thuật hát xẩm chính là cái mà người hát xẩm hát cho mình và cho mọi
người.
RFI : Hát cho mình và hát cho mọi người là như thế nào, xin chị diễn tả thêm.
Mai Tuyết Hoa : Người hát xẩm hát thế nào để cho
người nghe cảm thấy rằng là, cái điều này nó lay động lòng người lắm, nó
miêu tả được nhân tình thế thái, thời sự chiến cuộc. Hoặc là ví dụ như,
một người rất thích người hát xẩm hát cho một nỗi niềm gì đấy của mình,
ví dụ như anh đang thích một cô này, mà chưa nói được ra lời, thì nhờ
người hát xẩm hát cho là tôi đang rất là thích cô đấy, cô có đồng ý đến
với tôi hay không ? Người hát xẩm hát cho cuộc đời mình và hát hộ người
kia. Người kia cảm thấy rằng là anh hát xẩm này anh ấy có ích, anh ấy
giúp được cô kia cô ấy hiểu được ý nghĩa của anh í, thì anh í động lòng,
anh í để vào chậu thau đồng một chút ít tiền vào chậu thau đồng, gọi là
thưởng cho người hát xẩm. Chứ người hát xẩm không đi xin, đó là điều
tôi muốn nói với tất cả mọi người là như vậy.
Kết thúc chương trình hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị nghe
tiếng nói của nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền, người được nghệ nhân Hà Thị
Cầu nhận làm con nuôi. Ông cũng là người từ gần 20 năm nay liên tục nỗ
lực để hiểu xẩm, với hy vọng truyền đến công chúng những bí ẩn của môn
nghệ thuật này.
Bùi Trọng Hiền : Tôi được nghe giọng của bà lần đầu
tiên là vào năm 1979-1980, thời đó trên làn sóng phát thanh của đài
tiếng nói Việt Nam, phát một bài hát xẩm, gọi là « Theo Đảng trọn đời
», là do bà đặt lời, vừa đàn, vừa hát. Đấy là lần đầu tiên trong cuộc
đời tôi được nghe. Hồi đó còn nhỏ lắm, thì thấy đó là một giọng hát rất
hay. Nội dung của bài ca ấy nói về những người con đi tha phương cầu
thực, tìm miếng ăn để sống, trong thời ly loạn của chiến tranh.
Sau này, khi lớn lên, học nhạc cổ rồi trở thành một người làm nghiên
cứu, thì cái lần tôi được tiếp xúc chính thức với bà là năm 1992, trong
những cuộc liên hoan ở Hà Nội, thì được gặp bà. Thì đến năm 1994, tôi
mới có dịp được về Ninh Bình, để thăm bà. Từ đó, bà nhận tôi làm con
nuôi, và tôi nhận bà làm mẹ đỡ đầu. Cứ có cơ hội, thì tôi lại xách máy
và phi xe máy 120 cây về Ninh Bình nhà bà, và tranh thủ học hỏi và ghi
chép tất cả, và thu âm toàn bộ những gì tinh hoa nhất, mà bà có.
Cái phóng khoáng và giang hồ của xẩm
Thông qua bà, tôi hiểu được xẩm của thời xưa, bởi vì bà là người cuối
cùng hát xẩm. Thông qua những lời kể của bà, rồi những ngón đàn tiếng
ca của bà, rồi tất cả những kỹ thuật, về phách, sênh, đàn nhị, về cách
đặt lời của bà, cũng như tất cả những gì kỳ vĩ nhất của nghệ thuật xẩm
của những người hát rong, vốn là những người hỏng mắt, cứ theo đó mà
tuôn trào qua những lời kể, và tôi đã ngấm rất nhiều và thực sự bà là
một người thầy rất lớn của tôi.
Suốt từ đó, cho đến khi bà còn khỏe, trong rất nhiều năm, cứ có dịp
nào về là tôi lại xách máy quay lại thu âm. Một bài của bà, tôi thu
không biết bao nhiêu lần, và mỗi lần bà lại đàn hát ra một dị bản khác
nhau. Các bạn cũng biết là nghệ thuật xẩm cũng như rất nhiều thể loại
nghệ thuật cổ truyền khác của Việt Nam là nghệ thuật ngẫu hứng. Mỗi làn
điệu của một « lòng bản », trên cái lòng bản đó, người ta trình diễn các dị bản rất khác nhau. Đó là độ « giang hồ » của xẩm.
|
RFI : Thưa anh, nghệ thuật xẩm của rất nhiều làn
điệu. Làn điệu nào có thể nói là đặc trưng cho nghệ thuật hát xấm và
bản thân nghệ nhân Hà Thị Cầu là đỉnh cao trong những làn điệu đó.
Bùi Trọng Hiền : Từ một hình thức hát rong của những
người hỏng mắt, xẩm đã sáng tạo những làn điệu của riêng mình, mà không
một thể loại nào có. Tôi lấy ví dụ như điệu xẩm Huê tình chẳng hạn. Đấy
là một điệu xẩm rất nổi tiếng. Nổi tiếng đến mức mà các ngành cổ nhạc
bạn, ví dụ như chèo và ca trù đã du nhập làn điệu đấy vào trong kho tàng
âm nhạc của mình.
Chúng ta biết rằng xẩm ngày xưa hát ở đường phố, hát ở bến nước, sân
đình, hát ở bến đò, hát ở góc chợ. Cái nhu cầu của xẩm là hát ở những
nơi đông người để kiếm sống. Thế cho nên, một bài ca xẩm thường không
thể là bài ngắn gọn và nó thường là những làn điệu để chuyển tải những
bài thơ rất dài. Để làm sao, người ta đi chợ, người ta nghe được đoạn
đầu, thậm chí người ta nghe được bất cứ đoạn nào trong lời ca đó, người
ta cũng nắm bắt được làn điệu đó, và người ta cảm thấy thích thú. Vì
thế, cái tính gọi là tính trường thiên, tính kể truyện của xẩm rất là rõ
ràng.
Người kể truyện trong sân khấu cuộc đời
Một đặc điểm nữa là nội dung của xẩm phải rất đặc biệt. Đặc biệt để
làm sao trong đám đông ấy, giữa những tiếng ồn ào của chợ búa, của bến
đò, của đường phố, người ta phải nghe nó đập vào ấn tượng, vào tai, vào
mắt cái người đi đường, để người ta dừng lại, người ta thưởng tiền cho
người hát xẩm. Thì với cái đặc điểm hát rong, nay đây mai đó, thì bản
chất cái nghề nghiệp đó, cái cách thức diễn xướng, lấy đường phối, lấy
bầu trời, lấy khung cảnh xã hội làm sân khấu, gọi là « sân khấu cuộc đời » của mình, thì hát xẩm đã tự hình thành nên những tính cách nghệ thuật rất riêng.
Bà biết hầu hết tất cả các làn điệu xẩm cổ truyền. Ở bà có cái đặc
biệt là bà không biết chữ, như những người nghệ sĩ xẩm thời xưa thôi,
nhưng chỉ có điều cái trữ lượng lời ca và làn điệu trong bà, nó như là
một cái ăn sâu vào trong máu rồi, bởi vì bà hát từ năm 8 tuổi, 10 tuổi,
nó in cả cuộc đời và một lúc nào đấy là nó bật ra, thì bà lại hát trường
thiên cả một đoạn rất dài. Thế cho nên, khó có thể nói là bà hát cái gì
hay nhất, bởi vì đối với tôi, bu tôi hát cái gì cũng hay. Bà sử dụng
thành thạo tất cả các nhạc cụ sênh, phách, trống mảnh, nhị và việc diễn
tấu đa năng, vài nhạc cụ một lúc như thế, vừa hát, vừa đàn, là một điểm
rất đặc trưng của xẩm. Đối với tôi, thì bu hát làn điệu nào cũng ngọt
ngào và hết sức kinh điển.
RFI : Một trong những cái nét mà anh vừa nhấn
mạnh, là cái sự phóng khoáng trong diễn xuất của người hát xẩm và đặc
biệt là nghệ nhân Hà Thị Cầu, đúng không ạ ?
Bùi Trọng Hiền : Bản chất của mỗi làn điệu xẩm là
mang tính dị bản rất lớn, mỗi người thể hiện một cách khác nhau và thậm
chí cùng một người mỗi lần hát một cách khác nhau, nhưng nó lại có một lòng bản riêng của từng làn điệu (Hát minh họa hai câu trong bài Thập ân với các biến tấu khác nhau : « Mẹ mới có thai, kể từ một ân, thì con ơi, mẹ mới có thai. Âm dương nhị khí nào ai biết gì »).
Một tuyến giai điệu có thể hát dựng lên, hoặc hát luồn xuống là tùy
theo các cảm hứng của người ta lúc ấy. Nhưng cái điểm vào đầu và điểm
kết thúc phải xác định được theo điệu thức của làn điệu đó và cái khung
lòng bản của làn điệu đó, ứng với lời thơ lục bát, thì nó sẽ ra được làn
điệu Thập ân. Và đấy chính là độ giang hồ, hoang dã của xẩm, khiến cho
cái độ phóng khoáng và mỗi người sẽ thể hiện vào đó một dấu ấn của riêng
mình.
RFI : Thưa anh, xẩm được coi là nghệ thuật của
những người có cuộc sống rất khổ ải. Điều này có đúng không và nếu đúng,
thì được thể hiện như thế nào qua giọng hát của bà Hà Thị Cầu ?
Bùi Trọng Hiền : Có điều rất lạ là cuộc sống của
những người xẩm ngày xưa được xếp vào ở tầng đáy của xã hội, bởi vì họ
là những người bị hỏng mắt, thì âm nhạc trở thành cứu cánh của những
người hỏng mắt, và vì thế họ tìm đến xẩm. Thì đấy là cái đầu tiên ta
thấy.
Nhưng điều đặc biệt của hát xẩm, chúng ta tưởng tượng là, nếu như để
kiếm sống, mà chỉ hát những khúc hát bi ai không, thì sẽ rất khó, cho
nên là, anh muốn người ta nghe và người ta cho anh tiền, thì thường anh
phải tìm đến những chủ đề đừng có quá buồn, quá bi lụy. Tôi cho rằng
chính đặc điểm xã hội đấy, từ nhu cầu của đám đông đấy, nó dẫn đến trong
xẩm là âm nhạc tươi sáng rất nhiều. Những cái điệu buồn rất ít, mà cái
buồn chỉ là cái buồn man mác. Cái buồn nó không bi lụy, ai oán đến mức
bi sầu, cảm thấy không lối thoát. Còn lại đa số là các làn điệu vui,
tươi sáng.
Xẩm đủ bản lĩnh để hát về thời sự
Chúng ta biết rằng, trong xã hội có những thói hư tật xấu gì mà người
ta muốn đả kích, thì xẩm rất nhanh nhạy, biến tất cả những câu chuyện
ấy thành một bài thơ dài và bắt đầu hát. Tất nhiên là trong đám đông ở
chợ, khi mà nghe thấy hát về một hiện tượng có tính thời sự như thế, thì
lập tức người ta sẽ dừng lại nghe và người ta rất vui, vì đánh trúng
vào thị hiếu của người ta mà. Chẳng hạn như có cô gái không chồng mà
chửa, hay một cô gái lấy Tây đen, hay là có một ông nhà giàu keo kiệt,
chẳng hạn, thì xẩm lập tức ứng biến ngay thành bài ca. Chúng ta biết
trong thời chống Pháp, thì cuộc khởi nghĩa của Đội Cấn thất bại trên
Thái Nguyên, thì khi đó ai là người dám nói ? Thời đó không có báo chí
nhiều như bây giờ và những thông tin ấy tất cả đều thông qua xẩm hết. Và
lập tức xẩm ở Hà Nội có một bài vè rất dài, gọi là « vè Đội Cấn
». Và cả trăm câu thơ đó, người xẩm đã sáng tạo ra và hát những nội
dung có tính hết sức thời sự và đánh đúng vào tinh thần yêu nước, vào
cái câu chuyện vừa mới nóng hổi. Và xẩm đủ bản lĩnh để hát những điều
đó.
RFI : Anh nói đến một điều rất thú vị và quan
trọng. Thế ở nghệ nhân Hà Thị Cầu, thì tính thời sự và cập nhật này được
thể hiện như thế nào ?
Bùi Trọng Hiền : Trong những bài hát rất nổi tiếng của bà như « Dâu lười » và « Rể lười »,
chẳng hạn. Chúng ta biết là trong xã hội, chuyện trong một làng xóm,
một vùng nào đó, chuyện gọi là dâu lười và rể lười là rất phổ biến. Chỉ
có điều, không ai có thể đem công khai ra nói được. Bỗng nhiên, có một
người xẩm hát một bài « Dâu lười », rồi sau đó người ta cứ tự
vận vào, chắc là nói đến ông nào đó trong xóm nhà mình, hoặc gia đình
mình, người ta nghe thấy đã quá. Có thể nói chuyện « Dâu lười » và « Rể lười »
là một trong các chủ đề về thời sự rất đặc sắc mà bà còn nhớ lại được.
Nó nằm trong kho tàng của xẩm cổ truyền. Về sau này, hầu như là bà rất
ít « viết » bài ca mới, ngoài bài « Theo Đảng trọn đời »
rất nổi tiếng, vào thời gian Việt Nam chống lại quân Trung Quốc xâm
lược năm 1979. Còn phần lớn kho tàng bà hát thì phần lớn là xẩm cổ
truyền, lời cổ truyền hết.
RFI : Nghệ nhân Hà Thị Cầu được coi là người hát xẩm cuối cùng, bà đã ra đi, vậy tương lai của môn nghệ thuật này sẽ ra sao ?
Bùi Trọng Hiền : Những làn điệu xẩm vẫn còn lại. Còn
lại trong các băng đĩa của các nhà nghiên cứu, còn lại trong một số
nghệ sĩ đã học được một vài làn điệu, nhưng một nghệ sĩ xẩm đúng nghĩa
của nó, một nghệ sĩ xẩm đích thực, thì đã chấm dứt cuộc sống. Cho nên,
sự ra đi của bà cũng đặt dấu chấm hết cho nghệ thuật hát xẩm nói chung.
Bà Hà Thị Cầu là người cuối cùng.
RFI xin chân thành cảm ơn nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa, các nhà
nghiên cứu Trần Quang Hải, Đặng Hoành Loan và Bùi Trọng Hiền đã dành
thời gian cho tạp chí
Các bài liên quan
Thursday, March 14, 2013
SƠN TRUNG * GS. NGHIÊM THẨM
HOÀI NIỆM GS. NGHIÊM THẨM
SƠN TRUNG
Sinh ngày 13-5-1920, tại Hà Đông. Giáo sư Đại Học Văn Khoa và Quản thủ viện Bảo tàng Quốc Gia
Cư ngụ tại 290/27 Công Lý, Saigòn.
Gia nhập :Socié té des Etudes Indochinoises.
Hội Việt Nam Liên Lạc Văn Hóa Á Châu.
THÀNH TÍCH VĂN HÓA:
Ông viết khoảng 30 bài, ở đây chúng tôi xin ghi lại 10 bài tượng trưng.
Ông viết khoảng 30 bài, ở đây chúng tôi xin ghi lại 10 bài tượng trưng.
1. Introduction à Ethnographie du Vietnam.(Revue Văn Hóa Nguyệt San N0 75, Saigon, 1962.)
2."Esquisse d'une étude sur les interdits chez les Vietnamiens" (Publication de l Institu de Recherches Archeologiques N0 8, Saigon, 1965.
3. Comment se pose la question des sources et des documents en Asie et en Afriques, notamment en ce qui a trait à l' histoire, à la philologie, au droit et plus généralement aux science humaines.(Publié dans " État et perspertives des etudes Affricaines et Orientales", Université de Montreal, 1964)
4.Towards understanding the origines of Vietnam (Revue "Asian culture", vol III, N0 2, Saigon 1961, publié par Vietnamese Association for Asian cltural relation).
5. Đi thăm kho tàng của các vua Chàm. Văn Hóa nguyệt san, số 56, 57; Saigon, 1960.
6. Sơ lược về các kho tàng chứa báu vật của các vua Chàm. Khào cổ tập san, số 1, Saigon, 1960.
7. Công việc bảo tồn và trùng tu các cổ tích lịch sử và mỹ thuật. Quê Hương số 39, 1962.
8. "Nguyễn Văn Học hay Trần Văn Học", Tạp chí Văn hóa nguyệt san, số 61, 1961.
9. Đồng bào Sedang. Quê Hương số 27, 1961.
10. Những thế kỷ đầu tiên của Phật giáo tại Việt Nam. Vạn Hạnh số 8, 9 năm 1966.
QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC & CÔNGTÁC
Diplome de l' Ecole du Louvre (Paris)
Diplome de Muséeologie ( Paris)
Được ủy nhiệm đi Hoa Kỳ 1960 để tổ chức cuộc triển lãm lưu động về Mỹ Thuật và Khảo cổ Việt Nam.
Chánh sự vụ viện Khảo Cổ (1957-1963)
Giám Đốc Viện Khảo Cổ ( 1964)
Chuyên viên tại viện Bảo Tàng Saigon (1965-1967)
Quản thủ viện Bảo Tàng Quốc Gia Saigon (từ 1968).
Giáo sư khoa Khảo cổ và viện lịch sử mỹ thuật Đông Phương tại trường Quốc Gia cao đẳng Mỹ thuật Saigon (1067-1969).
Giáo sư Đại Học Văn Khoa Saigon (từ 1961).
Hội viên Hội Đồng Dân Quân, ban Văn Hóa (1966-1967)
Chủ tịch tiểu ban Nghiên cứu các sắc dân thiểu số, Hội Đồng dân quân (1967)
Giáo sư tại Đại học Chiến tranh chính trị Da lat (từ 1966)
Hội viên ủy ban Khoa học Nhân Văn của Hội Đồng Quốc gia khảo cứu Khoa Học (Từ 1969)Đắc cử Hội viên Hội đồng Văn Hóa Giáo dục (1969) [1]
2."Esquisse d'une étude sur les interdits chez les Vietnamiens" (Publication de l Institu de Recherches Archeologiques N0 8, Saigon, 1965.
3. Comment se pose la question des sources et des documents en Asie et en Afriques, notamment en ce qui a trait à l' histoire, à la philologie, au droit et plus généralement aux science humaines.(Publié dans " État et perspertives des etudes Affricaines et Orientales", Université de Montreal, 1964)
4.Towards understanding the origines of Vietnam (Revue "Asian culture", vol III, N0 2, Saigon 1961, publié par Vietnamese Association for Asian cltural relation).
5. Đi thăm kho tàng của các vua Chàm. Văn Hóa nguyệt san, số 56, 57; Saigon, 1960.
6. Sơ lược về các kho tàng chứa báu vật của các vua Chàm. Khào cổ tập san, số 1, Saigon, 1960.
7. Công việc bảo tồn và trùng tu các cổ tích lịch sử và mỹ thuật. Quê Hương số 39, 1962.
8. "Nguyễn Văn Học hay Trần Văn Học", Tạp chí Văn hóa nguyệt san, số 61, 1961.
9. Đồng bào Sedang. Quê Hương số 27, 1961.
10. Những thế kỷ đầu tiên của Phật giáo tại Việt Nam. Vạn Hạnh số 8, 9 năm 1966.
QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC & CÔNGTÁC
Diplome de l' Ecole du Louvre (Paris)
Diplome de Muséeologie ( Paris)
Được ủy nhiệm đi Hoa Kỳ 1960 để tổ chức cuộc triển lãm lưu động về Mỹ Thuật và Khảo cổ Việt Nam.
Chánh sự vụ viện Khảo Cổ (1957-1963)
Giám Đốc Viện Khảo Cổ ( 1964)
Chuyên viên tại viện Bảo Tàng Saigon (1965-1967)
Quản thủ viện Bảo Tàng Quốc Gia Saigon (từ 1968).
Giáo sư khoa Khảo cổ và viện lịch sử mỹ thuật Đông Phương tại trường Quốc Gia cao đẳng Mỹ thuật Saigon (1067-1969).
Giáo sư Đại Học Văn Khoa Saigon (từ 1961).
Hội viên Hội Đồng Dân Quân, ban Văn Hóa (1966-1967)
Chủ tịch tiểu ban Nghiên cứu các sắc dân thiểu số, Hội Đồng dân quân (1967)
Giáo sư tại Đại học Chiến tranh chính trị Da lat (từ 1966)
Hội viên ủy ban Khoa học Nhân Văn của Hội Đồng Quốc gia khảo cứu Khoa Học (Từ 1969)Đắc cử Hội viên Hội đồng Văn Hóa Giáo dục (1969) [1]
Đọc bài viết của Bạch Diện thư sinh, tôi có cảm hứng và có tài liệu để
viết bài này. Trước 1975, tôi cùng làm việc với GS Nghiêm Thẩm tại Đại
Học Văn Khoa Saigon. GS thuộc lớp thế hệ gìà, còn tôi thuộc thế hệ trẻ.
GS dạy ban Nhân Văn, tôi dạy ban Văn Chương Việt Nam. Ban Văn Chương
Việt Nam có môn phụ là Văn Minh Việt Nam, mời GS Nghiêm Thẩm dạy về môn
Khảo cổ, chương trình của GS Nghiêm Thẩm là các nền văn minh cổ như Đông
Sơn với trống đồng, búa cổ. Ban Văn Minh Việt Nam còn có GS Vũ Quốc
Thúc dạy về pháp chế Việt Nam thời cổ.
Tôi it khi gặp GS và chuyện trò cùng GS Nghiêm Thẩm vì giờ giấc khác nhau .
Sau ngày 30- tháng 4-1975, trường chưa giải thể, chúng tôi phải học tập chính trị hơn một năm. Lúc đó , tôi mới biết Bà Ngô Thị Dung là người vợ mới của GS. Bà vốn chuyên về tiếng Nhật, lúc đó cũng được tập trung học chính trị tại DHVK Saigon với chúng tôi. Một hôm tại Đại học Văn Khoa , bà đi trước, tôi đi sau, tôi mới thấy rõ tướng "xà hành" là như thế nào. Sách triết lý cũng như sách tướng Đông phương bao giờ cũng chú trọng bốn chữ "Quang Minh chính đại" . Sắc mặt tươi sáng thì tốt, mặt mũi, thân hình phải ngay chính. Miệng méo, vai lệch, tiếng nói không rõ, thân hình xiêu vẹo, tam đình bất cân là tướng tiểu nhân hoặc ít hưởng phúc lộc. Người xưa thường lấy cái cụ thể để nói về cái tượng trưng, hoặc lấy cái hình tướng này để nói về hình tướng khác. Cổ nhân lại ưa dùng lời văn bóng bảy Nếu không có thầy hướng dẫn, ta khó mà hiểu được. Thí dụ mũi rồng, mắt phượng thì hiểu làm sao vì không ai thấy rồng, thấy phượng. Nói dáng " tọa như sơn" thì nghĩa hiểu rõ nhưng thế nào là tọa như sơn". Điều mà ai cũng biết như sách nói "mao như thảo" nghĩa là lông như cỏ nhưng có ba bảy loại cỏ. Trên Long Khánh, hay Đà Lạt cỏ cao hơn đầu người vậy thì hiểu làm sao cho đúng.
Sau nghe tin GS Nghiêm Thẩm bị giết, búa bổ vào đầu, tôi mới nghiệm thấy cái tướng "xà hành" là không tốt cho chồng con.
Tôi it khi gặp GS và chuyện trò cùng GS Nghiêm Thẩm vì giờ giấc khác nhau .
Sau ngày 30- tháng 4-1975, trường chưa giải thể, chúng tôi phải học tập chính trị hơn một năm. Lúc đó , tôi mới biết Bà Ngô Thị Dung là người vợ mới của GS. Bà vốn chuyên về tiếng Nhật, lúc đó cũng được tập trung học chính trị tại DHVK Saigon với chúng tôi. Một hôm tại Đại học Văn Khoa , bà đi trước, tôi đi sau, tôi mới thấy rõ tướng "xà hành" là như thế nào. Sách triết lý cũng như sách tướng Đông phương bao giờ cũng chú trọng bốn chữ "Quang Minh chính đại" . Sắc mặt tươi sáng thì tốt, mặt mũi, thân hình phải ngay chính. Miệng méo, vai lệch, tiếng nói không rõ, thân hình xiêu vẹo, tam đình bất cân là tướng tiểu nhân hoặc ít hưởng phúc lộc. Người xưa thường lấy cái cụ thể để nói về cái tượng trưng, hoặc lấy cái hình tướng này để nói về hình tướng khác. Cổ nhân lại ưa dùng lời văn bóng bảy Nếu không có thầy hướng dẫn, ta khó mà hiểu được. Thí dụ mũi rồng, mắt phượng thì hiểu làm sao vì không ai thấy rồng, thấy phượng. Nói dáng " tọa như sơn" thì nghĩa hiểu rõ nhưng thế nào là tọa như sơn". Điều mà ai cũng biết như sách nói "mao như thảo" nghĩa là lông như cỏ nhưng có ba bảy loại cỏ. Trên Long Khánh, hay Đà Lạt cỏ cao hơn đầu người vậy thì hiểu làm sao cho đúng.
Sau nghe tin GS Nghiêm Thẩm bị giết, búa bổ vào đầu, tôi mới nghiệm thấy cái tướng "xà hành" là không tốt cho chồng con.
Vài ngày sau, gặp GS Thanh Lãng, được GS cho biết trước đó vài hôm, GS
Nghiêm Thẩm có đến thăm GS. Thanh Lãng, và ông cho biết trước đó một
ngày, một con chim ở đâu bay tới sa xuống trước mặt ông, ông cho là điềm
xấu và ông lấy làm bồn chồn, lo lắng. GS Nghiêm Thẩm lo lắng là phải vì
dân ta ta có câu " chim sa cá nhảy " là độc lắm. Chúng tôi nghe
chuyện, ai nấy buồn xo.
Khi sinh thời, GS Nghiêm Thẩm có tiếng trăng hoa, cho nên khi GS bị giết, ai cũng nghĩ rằng ông bị tình địch trả thù. Tuy nhiên, GS Nghiêm Thẩm cũng như GS. Phạm Văn Diêu có nhiều sách quý, Cộng sản không muốn hai ông mang sách quý ra ngoại quốc cho nên họ đã giữ hai ông ở lại. GS Phạm Văn Diêu là cháu họ Phạm Văn Đồng, người ta lại càng muốn không cho đi sợ tiết lộ bí mật quốc gia và thanh danh của thủ tướng. Cũng như bà Giáo sư, tiến sĩ Võ Hồng Anh, người phụ nữ đầu tiên của ngành vật lý Việt Nam con gái Võ đại tướng được tặng giải thưởng Kovalevskaia, được Mỹ mời qua dạy học, chắc là đảng không muốn bà đi..
Nay đọc tài liệu của Bạch Diện thư sinh thì tôi mới biết một khuôn mặt khác của người giáo sư đó. Té ra ông là một bậc chính nhân quân tử, "uy vũ bất năng khuất". Một khi đại vương hạ giá cầu hiền mà ông thẳng thắn từ chối thì ông quả có gan cóc tía, con người đó rất quý, không tìm thấy đủ trên mười ngón tay. Người ta hai lần cầu khẩn mà ông cương quyết thì ông can đảm hơn Trần Bình Trọng. Ông quyết liệt thì bọn họ sẽ không tha thứ!GS Nghiêm Thẩm tất biết họ dùng ông để làm gì. Họ dùng ông để ngụy tạo chứng cớ lịch sử để khoe mẽ với Nga Tàu và Quốc Tế. Ông đã quyết liệt nếu mềm lòng, suốt đời ông sẽ là nô lệ của họ.
Khi sinh thời, GS Nghiêm Thẩm có tiếng trăng hoa, cho nên khi GS bị giết, ai cũng nghĩ rằng ông bị tình địch trả thù. Tuy nhiên, GS Nghiêm Thẩm cũng như GS. Phạm Văn Diêu có nhiều sách quý, Cộng sản không muốn hai ông mang sách quý ra ngoại quốc cho nên họ đã giữ hai ông ở lại. GS Phạm Văn Diêu là cháu họ Phạm Văn Đồng, người ta lại càng muốn không cho đi sợ tiết lộ bí mật quốc gia và thanh danh của thủ tướng. Cũng như bà Giáo sư, tiến sĩ Võ Hồng Anh, người phụ nữ đầu tiên của ngành vật lý Việt Nam con gái Võ đại tướng được tặng giải thưởng Kovalevskaia, được Mỹ mời qua dạy học, chắc là đảng không muốn bà đi..
Nay đọc tài liệu của Bạch Diện thư sinh thì tôi mới biết một khuôn mặt khác của người giáo sư đó. Té ra ông là một bậc chính nhân quân tử, "uy vũ bất năng khuất". Một khi đại vương hạ giá cầu hiền mà ông thẳng thắn từ chối thì ông quả có gan cóc tía, con người đó rất quý, không tìm thấy đủ trên mười ngón tay. Người ta hai lần cầu khẩn mà ông cương quyết thì ông can đảm hơn Trần Bình Trọng. Ông quyết liệt thì bọn họ sẽ không tha thứ!GS Nghiêm Thẩm tất biết họ dùng ông để làm gì. Họ dùng ông để ngụy tạo chứng cớ lịch sử để khoe mẽ với Nga Tàu và Quốc Tế. Ông đã quyết liệt nếu mềm lòng, suốt đời ông sẽ là nô lệ của họ.
Trong thời gian đó tôi thấy có những vị ngày tháng quỳ mòn sân Ngô Tổng
Thống, hoặc đức cha Ngô Đình Thục, giờ chót lại theo cờ đỏ... Thật sự có
những ông rất khí tiết và hiểu đời. Khi cộng sản vào, GS Nghiêm Toản ,
GS Nguyễn Duy Cần lấy cớ già 70 lại bệnh tật nên xin về nghỉ. Tôi cũng
thấy có ông ngày xưa nịnh hót khoa trưởng Bùi Xuân Bào, sau khi GS. Bùi
Xuân Bào đi tù, vô cớ ông đứng lên chỉ trích vắng mặt GS. Bùi Xuân Bào.
Tôi nói vô cớ vì lúc đó không ai bắt ông phải chỉ trích, phê bình ai.
GS Lê Văn Diệm là con người lù đù, it nói nhưng đã đứng lên phản pháo
ông nọ, cũng là con người can đảm. GS Bùi Xuân Bào là con người hiền
lành. Khi ở tù về, ông thành thực than thở với tôi rằng Ông chỉ muốn qua
Pháp để gặp vợ con". Đó cũng là con người hiền lành, gỉỏi chịu đựng.
Tôi cũng thấy có ông trên 80-90 tuổi, họ cho về hưu thì vẫn xin ở lại "học tập tốt, lao động tốt" để được lưu dung. Ông này lấy cớ học tập tốt để cho con ông một trung tá đang đi tù ở miền Bắc được sớm về đoàn tụ gia đình.Trước đây tôi cho ông là nịnh nhưng sau mới biết ông yêu cộng sản thật tình, ông không muốn con ông chạy theo "Mỹ ngụy" nên khuyên con ông ở lại để hưởng độc lập tự do.
Sau 1975, chúng tôi mỗi người một phương tan tác, it khi nghe tin nhau. Nay được đọc bài của Bạch Diện thư sinh, lòng thêm mối cảm phục GS Nghiêm Thẩm.
______
[1] Hình ảnh và tiểu sử lấy từ Niên Giám Văn Nghệ Sĩ và Hiệp Hội Văn Hóa Việt Nam 1969- 1970. Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa, Saigon, 1970. tr.87. Sau này, ông Nghiêm Trung gửi thư cho biết GS. NghiêmThẩm sinh năm 1918 chứ không phải 1920 và tháng mất của GS là 26/07/1979 chứ không phải là tháng 11.Xin cảm tạ.)
BẠCH DIỆN THƯ SINH * GS NGHIÊM THẨM
GS. Nghiêm Thẩm: Vị giáo sư anh hùng - Nhà khoa học chân chính
Sau ngày 30-4-1975, nhiều giáo sư các Đại học miền Nam bị loại ra khỏi Đại học. Một số giáo sư tìm cách vượt biên, một số bất hợp tác thẳng thừng, một số chấp nhận hợp tác, hợp tác miễn cưỡng hay hợp tác tự nguyện. Có một sự thật phũ phàng là, hợp tác tự nguyện hay hợp tác miễn cưỡng, các vị giáo sư ấy đều bị kì thị và không được tin dùng. Thêm một sự thật khác nữa, đó là các vị ấy thường xuyên nhận được lệnh phải viết lách hoặc thực hiện những công trình “khoa học” nhằm phục vụ nhu cầu chính trị. Trong cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Đức vừa mới được phổ biến, có đoạn trích lời phát biểu của Huỳnh Kim Báu, Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận sự thật ấy: “Những năm ấy, các trí thức Sài Gòn vẫn nhận được điện thoại từ Văn phòng Thành ủy hỏi xem: ‘Có công trình khoa học chào mừng 3-2 hay 19-5 không?’. Những Giáo sư như Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Thới thì mắng ngay: ‘Không có thứ khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả’. Nhưng một số người khác thì có, người thì làm ra chất tẩy rửa ‘pentonic’, người chứng minh ‘ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký thịt bò’, người thì ‘ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo’. Nhưng ngay cả những ‘nỗ lực’ đó cũng không giúp kiến tạo được lòng tin”. (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc. Cuốn I, Phần I: Miền Nam, Chương VI: Vượt Biên. Bodoilambao.wordpress.com).
Trong số những giáo sư Đại học ở lại và hợp tác miễn cưỡng, đã nổi bật lên một vị giáo sư anh hùng, dám đem mạng sống của mình để bảo vệ danh dự của một nhà giáo, một nhà khoa học chân chính. Vị giáo sư đó chính là Giáo sư Nghiêm Thẩm, Giám đốc Viện Bảo tàng Sài Gòn, giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn và cũng là giáo sư của hầu hết các Đại học công tư ở miền Nam hồi đó.
Thân thế
Gs. Nghiêm Thẩm sinh năm 1920, tại huyện Đông Anh, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc Hà Nội); là con thứ 5 của cụ Nghiêm Hoàn Luyến, người làng Hòa Xá, phủ Ứng Hòa, Hà Nội.
Dòng tộc Gs. Nghiêm Thẩm, lớp trước, có nhiều người xuất thân khoa bảng, quan lại. Thế hệ sau, ở miền Bắc, có người là thứ trưởng, đại sứ, doanh gia; ở miền Nam, người anh thứ ba của Gs. Nghiêm Thẩm là Gs. Nghiêm Đằng, nguyên Phó Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh và anh thứ 4 là Nghiêm Mỹ, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Malaysia, Jordan và New Zealand. (Xin xem Bài Phát Biểu của Ông Nghiêm Kiến Nam trong buổi lễ kỉ niệm ngày húy 90 năm của Cụ Bảng Mai Lâm Nghiêm Châu Tuệ tổ chức ngày 18.9.2011. Nghiemchungtam.wordpress.com)
Sau khi tốt nghiệp Trung học ở Hà Nội, ông được gửi sang Pháp, học trường École du Louvre, Paris, ngành bảo tàng (de Muséologie).
Năm 1956, ông về nước. Từ đó, ông lần lượt đảm trách nhiều công tác văn hóa giáo dục:
- Phục vụ tại Viện Khảo cổ Sài Gòn, đặc trách khai quật di tích lịch sử Óc Eo (Ba Thê, An Giang); hướng dẫn các đoàn đi nhiều nơi ở miền Nam để khai quật những di chỉ khảo cổ.
- 1961, được bầu làm thành viên Hội đồng điều hành khóa 10 Hội Tiền sử Viễn Đông (Far Eastern Prehistory Association - FEPA). Cũng trong năm này, ông được mời làm giáo sư ngành nhân chủng học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn và Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định.
- Năm 1964, ông được mời làm Giám đốc Viện Khảo cổ Sài Gòn và giáo sư tại Đại học Vạn Hạnh vừa mới thành lập; đồng thời, được mời làm cố vấn xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm.
- Năm 1966, được mời giảng dậy tại trường Đại học Chiến Tranh Chánh Trị Đà lạt.
- Năm 1968, Quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Sài Gòn.
- Năm 1969, Ủy viên Ủy ban Khoa học Nhân văn của Hội đồng Quốc gia Khảo cứu khoa học Việt Nam Cộng hòa.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, Gs. Nghiêm Thẩm ở lại và tiếp tục được coi là nhân viên giảng huấn như trước. (Chúng tôi chưa biết Gs. Nghiêm Thẩm “được phép” dậy môn gì).
Cuối tháng 11 năm 1979, Gs. Nghiêm Thẩm bị giết chết một cách tàn ác tại nhà riêng số 29/27 Nam Kỳ Khởi Nghĩa (tên cũ: đường Công Lý), phường 8, quận 3,Tp. HCM.
Những công trình khảo cứu
Gs. Nghiêm Thẩm để lại nhiều công trình nghiên cứu nhân chủng và khảo cổ quý báu cho đời sau (theo Wikipedia).
1. "Tôn giáo của người Chăm ở Việt Nam", Quê-hương bộ 2 tập I, tháng 4/1962, tr. 108-123. (tài liệu tham-khảo đã được Pierre Bernard Lafont nhắc lại trong "Contributions à l'ètude des structures sociales des Chams du Viêt-nam", Bulletins de l'Ecole francaise d'Extreme-Orient, No 1/volume 52,p157 - p171, 1964).
2. "Sơ lược về các kho tàng chứa bảo vật của các vua Chăm", "Việt-nam khảo-cổ tập san', số 1, 1960, Saigon Tham khảo bổ-túc cùng tác-giả Văn-hóa Nguyệt-san, số 56, trang 1359-1366, 1960 và Văn-hóa Nguyệt -san, số 57, trang 1567-1575, 1960 "Đi thăm kho tàng các vua Chăm".
3. "Esquisse d'une étude sur les interdits chez les Vietnamiens" (tiếng Pháp), Ministère de la culture et de l'éducation la République du Vietnam, 1965, 240 trang. Tủ sách Viện Khảo Cổ ( trích đoạn: "le nom d'une personne fait partie integrante de son individu. On doit ménager ces noms individuels comme si l'on a affaire avec la substance precieuse et sacrée qu'est l'âme.(tr.74)" [tham khảo bổ túc "Interdits concernant les noms imperiaux sous le règne des Nguyễn" Tạ quang Phát, tập san khảo cổ 4, Saigon, 1966, pp 52–84].
4. "Tương quan giữa Sử địa và Nhân chủng học", Tập san Sử địa cuốn 1, th.1,2,3, 1966.
5. "Công trình sư Trần Văn Học", Tạp chí Văn hóa, số 61, 1962.
6. "Tìm hiểu đồng bào Thượng" Tạp chí Quê-hương, số 31, giêng/1962, tr 130-150 Bản dịch tiếng Anh của Voth Donald E. "Seeking to understand the highlanders: the two tribal kingdoms of the vietnamese Court in the past, king of Fire (Po Tau Pui) and King of Water(Po Tau Ea)". South-East Asia. An international quarterly, vol 1, pp335–363, 1971.Tham-khảo bổ-túc tư-liệu của ông Adhemar Leclere "Compte-rendus des seances de l'Academie des Inscriptions et Belles Lettres 3903, vol 47, issue 4, pp 369-378. Bị vong lục của Công-sứ Pháp tại Cao-miên, Adhemar Leclere, phúc-trình Hiến-chương về việc sáng-lập một Đại thọ lâm Phật giáo "veah" (Vihara), ở Sâmbok (tỉnh Kratie), mà quốc vương Cao-miên Sauriyopor, gọi là "ngọ môn"(threa nokor) trong đó có nhắc đến các "Vua Lửa" (Hỏa xá) & "Vua nước" (Thủy xá) mà hai vương quốc Cao-miên và Ai-lao phải triều cống cứ ba năm một lần (kèm theo danh sách dài các loại cống-vật), ngoài ra cón cam kết sẽ bảo-lãnh chu toàn việc hậu sự cho các tiểu vương Hỏa xá và Thủy xá nếu một trong hai vị này băng hà. Vihara (đại tòng lảm) Sâmbok, khoảng 10 kms bắc Kratíe (Kracheh), hay, Wat Phnom Sâmbok, dựa theo hiến chương này được sáng lập vào năm 1601. Bản phúc-trình của Công sứ Leclere được in bởi nhà Alphonse Picard & fils, libraires des archives nationales et de la Sociéte de l'École des Chartes, 82 rue Bonaparte, Paris 6.
7. "Kĩ thuật Bảo tàng học và giáo dục căn-bản", 96 trang, UNESCO, Saigon, 1959 (dịch).
8. "Persistence culturelle du substrat indonesien chez les Vietnamiens" (Sự tồn tại của bản chất Indonesien trong nền văn hóa Việt Nam) ngày 11 tháng 9 năm 1961.
9. Tờ trình về việc đi xem công tác xây cất hai ngôi đền tại Kalong và tại Sopmadronhay, để chứa bảo vật của các vua Chăm, và ghé thăm các Tháp Po Dam, tháp Phố Hài (Pajai), còn gọi Tháp Po Sah Inư trên Đồi Bà Nài và đền thờ vua Po Nrop (đồng tác giả với Lưu Quý Tân).
10. Phúc trình việc đi tiếp nhận những tảng đá chạm tại trường tiểu học Tam Hiệp, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.(chú giải: v/v những tảng đá chạm, yêu cầu bạn đọc nên tham khảo bổ túc ở Louis Malleret, "II. Pierres gravées et Cachets de divers pays du Sud-Est de l'Asie, trường Viễn Đông Bác Cổ, B.E.F.E.O, vol 51, issue 51-1, pp 99–116, 1963).
11. R.Y. Lefebvre D'Argencé, Les céramiques à base chocolatée au musée Lous Finot de l'Ecole francaise d'Extrême-Orient à Hanoi.
Đời tư
Có 3 vị phụ nữ đã chính thức đi qua cuộc đời Gs. Nghiêm Thẩm: Hồi còn học bên Pháp, ông sống chung với bà Gerda Meta Nielsen, một nghệ sĩ phong cầm người Đan Mạch. Ông bà có với nhau 1 con gái tên là Đan Tuyết Thẩm Nghiêm, sanh năm 1956, tên đầy đủ là Ester Bondo Đan Tuyết Thẩm Nghiêm.
Đi du học về, ông thành hôn với Bà Ds. Đỗ Thị Thuần Bích. Bà là giáo sư dậy tại trường đại học Dược khoa Sài Gòn. Gs.Thuần Bích sinh 2 con trai, Nghiêm Thẩm Đan Nghị và Nghiêm Thẩm Đan Đại. Năm 1977, Bà Thuần Bích đưa 2 con đi vượt biên và định cư tại Hoa Kì. Bà đã qua đời tại Sacramento, CA., vào năm 2010.
Sau khi Bà Ds. Thuần Bích đi vượt biên được một thời gian, Gs. Nghiêm Thẩm sống chung với Bà Ngô Thị Dung. Bà Ngô Thị Dung giảng dậy tiếng Nhật tại Đại học Tổng hợp Thành phố HCM (Đh. Văn khoa cũ) sau ngày 30.4.1975.
Phong cách
Gs. Nghiêm Thẩm là một trí thức thứ thiệt, có cuộc sống giản dị, thanh bạch. Phong thái ông an nhiên, tự tại; nét mặt thường tươi vui, hiền lành. Ông cười bằng miệng và cả bằng mắt. Chiếc tẩu hút thuốc “pipe” coi như là vật tùy thân của ông. Gs. Đỗ Khánh Hoan, Trưởng Ban Anh văn Đại học Văn khoa Sài Gòn trước 30.4.1975, đồng nghiệp lâu năm của Gs. Nghiêm Thẩm, nhận xét về Gs. Nghiêm thẩm như sau: “Theo chỗ tôi biết Gs. Thẩm hiền lành, không gây thù chuốc oán với ai, không ganh đua kèn cựa với ai, coi mọi thứ như 'nơ pa.'” (Email của Gs. Đỗ Khánh Hoan ngày 02.02.2013).
Mức lương một giáo sư Đại học ở miền Nam thời ấy đâu đến nỗi nào, song suốt bao năm, ông rong ruổi khắp mọi con đường Sài Gòn chỉ với một cái xe đạp, đàng sau ràng chiếc cặp samsonite đựng tài liệu giảng dậy. Bọn đạo chích đã từng chiếu cố chiếc samsonnite này của ông nhiều lần! Những thứ đó làm nên dáng dấp và phong cách độc đáo rất dễ mến của Gs. Nghiêm Thẩm.
Có lẽ của cải vật chất qúy giá nhất của ông là căn nhà do chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cấp cho. Gia đình ông đã sống tại đây trên 20 năm và cũng chính tại nơi đây, ông đã bị thảm sát.
Cuộc sống Gs. Nghiêm Thẩm tuy thanh bạch về của cải vật chất, song trong căn nhà ông, chất chứa cả một kho tàng văn hóa vô giá. Thật vậy, chỉ cần phát mại một pho tượng đồng đen hay một chiếc búa khảo cổ không thôi, ông đã có thể kiếm được một món tiền khá lớn, đấy là chưa kể đến tủ sách hiếm qúy của ông. Còn nhớ, khi được Gs. Nghiêm Thẩm nhận đỡ đầu tiểu luận, ông đã đưa tôi lên lầu thăm kệ sách của ông kê chung quanh phòng ngủ. Ông hãnh diện bảo tủ sách của ông có những cuốn hiện ở cả miền Nam không đâu có. Liên tục trong nhiều năm, giáo sư đã chi tiêu một khoản tiền khá lớn để thuê người đóng bìa cứng cho những cuốn sách hiếm qúy mà ông sưu tầm được. Đương nhiên những cuốn sách này là vô giá trong thị trường văn hóa, chữ nghĩa.
Cái chết anh hùng của một nhà giáo, một nhà khoa học chân chính
Gs. Đỗ Khánh Hoan cho biết: Gs. Nghiêm Thẩm chỉ miệt mài nghiên cứu và giảng dậy, không bao giờ dính dáng chuyện chính trị (qua cuộc tiếp xúc điện thoại với Gs. Đỗ Khánh Hoan ngày 08 và 09, 01. 2013) .
Ai cũng nghĩ, sau 30.4.1975, một người luôn luôn xa tránh chính trị như Gs. Nghiêm Thẩm, sẽ được sống an thân dưới chế độ mới. Đáng tiếc, điều đó đã sai. Bởi vì, dưới chế độ Cộng Sản, tất cả đều phải phục vụ chính trị, đều phải phục vụ tuyên truyền. Chống chế độ, đương nhiên sẽ bị chế độ bóp nát. Không chống chế độ, nhưng không chịu làm tay sai cho chế độ, cũng bị chế độ nghiền nát.
Đó là trường hợp Gs. Nghiêm Thẩm.
Hồi tưởng, khoảng gần cuối tháng 4 năm 1975, vì có việc phải vào gặp Ông Chấn tại Văn phòng Đại học Văn khoa Sài Gòn; khi đi ra ngang cửa Câu lạc bộ Văn khoa, tôi gặp Gs. Nghiêm Thẩm. Ông vẫn xách chiếc samsonite như mọi khi, nhưng khuôn mặt ra chiều rất đăm chiêu. Tôi chào ông và hỏi ông tình hình rồi sẽ ra sao. Giáo sư bảo: “Hết rồi. Sài Gòn sẽ như Nam Vang” (Nam Vang thất thủ ngày 17. 4. 1975). Ông còn nói như tiên tri: “Đại sứ Mĩ Martin (Graham Martin) sẽ cuốn cờ, leo lên máy bay trực thăng mà đào thoát y như Đại sứ Mĩ Dean (John Gunther Dean) ở Nam Vang”. Tôi hỏi tiếp: “Thầy có đi không”. Ông buồn buồn bảo: “Tôi không đi. Tôi già rồi, đi làm gì”. Đó là lần cuối cùng tôi gặp Gs. Nghiêm Thẩm.
Năm 1988, đi tù cải tạo về, nghe tin Gs. Nghiêm Thẩm đã bị sát hại, tôi rủ anh Nguyễn Văn V. tới thăm Gs. Toan Ánh và cũng để hỏi về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm. (Anh NVV. là giáo sư Trung học, cũng đi tù cải tạo về vì tội chống đối nhà trường XHCN).
Theo lời Gs. Toan Ánh kể cho hai chúng tôi thì Gs. Nghiêm Thẩm vẫn thường hay lên nhà ông chơi. Rồi, một sáng, Gs. Nghiêm Thẩm từ nhà Gs. Toan Ánh đạp xe về nhà, khi bước lên lưng chừng cầu thang, Gs. Nghiêm Thẩm đã bị một tên hung thủ dùng cái búa khảo cổ của ông đập vào đầu ông tới chết. Một điều đáng ngạc nhiên là, không biết căn cứ vào đâu, Gs. Toan Ánh nghi ngờ nguyên do vụ án mạng là vì tình.
Khi sang tới Hoa Kì, tình cờ tôi được đọc cuốn “Rồng Xanh Ngục Đỏ” (Hội Hữu xuất bản tại Hoa Kì năm 1986) của Lm. Vũ Đình Trác, trong đó có nói về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm.
Lm. Vũ Đình Trác và Gs. Nghiêm Thẩm quen nhau và trở thành đôi bạn thân từ năm 1978 khi hai vị, như hầu hết các giáo sư Đại học còn ở lại, đã gia nhập vào các nhóm nghiên cứu văn hóa thành lập sau 30.4.1975. Vì say mê khảo cổ, cho nên khi nghe Lm. Vũ Đình Trác nói ông có Cuốn Bách Việt Tiên Hiền Chí, trích ra từ Đại Bộ Dã Sử Trung Hoa Lĩnh Nam Di Thư, ngay lập tức, Gs. Nghiêm Thẩm tìm tới làm quen với Lm. Vũ Đình Trác. Rồi từ chỗ trao đổi sách cổ và tài liệu cổ, hai vị trở thành đôi bạn tri kỉ, tâm giao.
Lần đầu tới thăm Gs. Nghiêm Thẩm, Lm. Vũ Đình Trác ngạc nhiên được biết thêm Gs. Nghiêm Thẩm đang sống chung với bà Ngô Thị Dung. Sau 30.4.1975, bà Ngô Thị Dung dậy Nhật ngữ tại Đại học (Văn khoa cũ). Lm. Vũ Đình Trác quen biết Bà Ngô Thị Dung hồi cả hai còn học bên Nhật. Gs. Nghiêm Thẩm nói ông và bà Ngô Thị Dung đã làm hôn thú để làm đơn xin đi đoàn tụ với ba má bà đang sống ở Canada.
Trong thời đại “đồ đểu cáng” sau 30.4.1975, dưới những con mắt tham lam và tàn ác của những ông kẹ văn hóa, việc sở hữu những đồ cổ và sách cổ qúy giá cũng trở thành một mối lo hại thân cho các khổ chủ .
Cho nên Gs. Nghiêm Thẩm phải dặn dò Lm. Vũ Đình Trác: “Linh mục phải giữ bí mật những tài liệu cổ này, kẻo tụi nó đánh hơi được thì phiền to; chiếc búa khảo cổ của tôi, tụi nó cũng đã biết rồi, mà cứ nay đứa này, mai đứa khác đến hỏi thăm và đòi xem” (Sđd. Trang 253).
Còn Bà Ngô Thị Dung thì thổ lộ: “Anh Thẩm là một nhà khoa học thuần túy, nên anh thiếu sự đưa đẩy uyển chuyển, khi giao tiếp với công an cán bộ”. Bà cũng nói thật “ Anh Thẩm qúy cha lắm, mới tiết lộ những bí mật của anh như thế” (Sđd. Trang 253).
Thêm vào đó, sau khi chiếm trọn miền Nam, với khí thế thắng lợi ngút trời, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ bộc lộ tham vọng muốn làm bá chủ toàn vùng Đông Nam Á. Trên thực tế, vào thời điểm đó, CSVN đã chiếm đóng Lào, rồi Kampuchea, và đang chuẩn bị “giải phóng” Thái Lan. Để thực hiện âm mưu, họ tích cực chuẩn bị mọi mặt. Trong kế hoạch chuẩn bị, họ toan tính lợi dụng chất xám của trí thức để đánh mặt trận tâm lí, khơi dậy ý chí quật cường và lòng kiêu hãnh dân tộc. Đây là điểm khởi đầu cho tai họa sắp đổ ập xuống cuộc đời của một trí thức thứ thiệt như Gs. Nghiêm Thẩm.
Đúng như vậy. Gs. Nghiêm Thẩm đã tâm sự với Lm. Vũ Đình Trác chuyện Tổng Bí thư đảng CSVN Lê Duẩn, với sự tháp tùng của Nguyễn Tuân, đã vào Nam và cho mời Gs. Nghiêm Thẩm tới khách sạn Majestic mà đãi đằng, khen ngợi, rồi “đưa đơn đặt hàng” cho ông.
Cuối bữa tiệc thịnh soạn, Lê Duẩn nói với Gs. Nghiêm Thẩm: “Anh Nghiêm Thẩm, chắc anh biết: cả thế giới đang coi Việt Nam mình như “đỉnh cao trí tuệ loài người” mà anh cũng được vinh dự ấy. Việt Nam chúng ta phải làm chủ miền Đông-Nam-Á này. Mọi yếu tố làm chủ hầu như đã đầy đủ, chỉ còn thiếu một điều…
Từ trước tới nay, mấy thằng chép sử “nhãi ranh’ vẫn cho rằng: nguồn gốc các sắc tộc miền Đông-Nam Á-Châu này là Mã Lai hay Indonesien. Đại Nga-xô mới tìm được ít dấu vết chứng tỏ rằng Việt Nam chúng mình mới là thủy tổ. Chúng ta đang làm lại lịch sử Đông-Nam Á-Châu. Khoa nhân chủng học và khảo cổ của ta lúc này đang phát đạt vô biên, nên anh phải nắm lấy cơ hội này, với uy tín sẵn có của anh, anh phải viết một bài lớn, thẩm định lại: Dân Việt Nam là thủy tổ các dân tộc Đông-Nam Á-Châu. Như thế mới đúng ý nghĩa của “Đỉnh cao trí tuệ loài người” và mới xứng đáng tài năng hiếm có của anh”.
Tôi im lặng một phút…trả lời hắn: “Uy tín của tôi lúc này là nói đúng và nói thật. Theo các tài liệu khoa học hiển nhiên, nhất là khoa khảo cổ học và nhân chủng học quá rõ ràng, tôi không thể viết thế khác được. Viết như đồng chí nói là phản khoa học”.
Hắn mỉm cười, bảo tôi: “Anh nói thế tức là còn đang ở trong vòng gò bó của sách vở, của óc đế quốc, của hủ lậu, chứ không theo sử quan một tí nào cả”.
Tôi cảm thấy tức đầy ruột…nên tôi hơi bạo lời: “Nếu tôi viết như thế, thì các nhà khảo cổ và nhân chủng học trên thế giới sẽ cho tôi và cả chế độ tôi phục vụ là con chó chết. Tôi không bao giờ làm chuyện sa đọa ấy”.
Lê Duẩn vẫn không lộ vẻ tức giận. Hắn hỏi tôi vắn tắt: “Anh nhất định không làm chuyện đó?”.
Tôi bỗng tìm được một danh từ xưng hô, trả lời hắn: “Tôi không thể đáp ứng yêu cầu của đàn anh trong việc này”.
Lê Duẩn ném cho tôi một cái nhìn có vẻ dữ tợn với câu nói cộc lốc: “Anh nhất định thế…Mong anh đổi ý”.
Tôi cũng nhìn thẳng vào mặt hắn, trả lời cương quyết: “Tôi không bao giờ đổi ý”.
Hắn đi ra, không nói thêm nửa lời.
Tôi coi đó như một biến cố đổ vỡ trong đời tôi, dưới chế độ khốn nạn này. Nhưng tôi thà tan vỡ cả tấm thân với cả chế độ này, còn hơn đổ vỡ cho đất nước tôi, cho chí hướng và danh dự học thức của tôi” (Sđd. Trang 254, 255,256).
Sau lần gặp Lê Duẩn, Gs. Nghỉêm Thẩm sống thấp thỏm, lo âu, chờ đợi một điều gì đó không hay xẩy ra cho ông. Nhưng rất bất ngờ, giáo sư lại được mời đi họp một lần nữa. Người mời lần này là Bộ trưởng Thông tin Văn hóa CSVN Nguyễn Văn Hiếu. Tháp tùng Bộ trưởng Thông tin Văn hóa còn có Gs. Phạm Huy Thông, Viện trưởng Viện Khảo cổ Hà Nội và mấy viên bộ trưởng khác. Nơi hội họp là khách sạn Hữu Nghị. Thời gian họp kéo dài ba bốn ngày. Đưa rước bằng xe Mercedes. Ăn uống sang trọng. Mục đích được cho biết là chuẩn bị tham dự Đại hội khảo cổ sắp diễn ra ở Moscow. Họ yêu cầu Gs. Nghiêm Thẩm đóng góp tài liệu và kiến thức; họ nói úp mở có thể sẽ mời giáo sư tham gia phái đoàn.
Đáp lại, Gs. Nghiêm Thẩm dứt khoát không chấp nhận đưa ra quan điểm nào khác, ngoài sự tôn trọng tính khách quan của những tài liệu khảo cổ và giáo sư cũng ngỏ ý xin được miễn tháp tùng phái đoàn đi Moscow, viện cớ “tôi có nhiều ý kiến đối nghịch, sẽ bất lợi cho Đại hội” (Sđd. Trang 256).
Trước thái độ cương quyết của Gs. Nghiêm Thẩm, viên bộ trưởng nói: “Cái đó tùy anh” và “Anh chưa đủ thành thực”.
Gs. Nghiêm Thẩm nói với Lm. Vũ Đình Trác: “Tôi nghe câu đó như một bản án kết tội; từ đó, tôi bắt đầu chán sống. Bà NTD (Ngô Thị Dung) bảo tôi: thái độ như vậy không hay. Coi chừng tụi nó cho mình là phản chế độ, là bất hợp tác. Anh nên mềm dẻo với tụi nó thì hơn” (Sđd. Trang 257).
Chuyện Gs. Nghiêm Thẩm bị bọn Cộng sản làm phiền cũng được Gs. Đỗ Khánh Hoan xác nhận qua email ông gửi cho tôi ngày 02.02.2013 như sau: “…Nhiều lần gặp nhau anh (tức Gs. Nghiêm Thẩm) chỉ nói: Bọn nó muốn 'toucher' moa nhưng moa không thích, dính vào tụi nó bẩn người và khó chịu lắm. Họa chứ không phải phúc đâu, Hoan! Moa chỉ mong nó bảo nhau đến nhận chìa khóa cơ sở là moa bai bai!”.
Vào thời điểm đầu Tháng 11.1979, Gs. Nghiêm Thẩm rất bi quan, chán nản; thậm chí có lần ông còn thổ lộ với Lm. Vũ Đình Trác là ông muốn vào đạo Chúa, mong nấp bóng từ bi của Ngài và được Ngài an ủi, phù trì.
Nỗi chết chóc càng ngày càng ám ảnh tâm trạng Gs. Nghiêm Thẩm.
Tuy rất thông cảm tâm trạng u uẩn của bạn, nhưng Lm. Vũ Đình Trác không biết làm gì để giúp bạn. Rồi vì phải đi Cần Thơ giảng dậy lớp Đông y, linh mục buồn bã chia tay Gs. Nghiêm Thẩm, ông nói với giáo sư: “Số phận chúng mình dưới chế độ Cộng sản chỉ có thế”.
Sau mấy tuần đi dậy ở miền Tây, Lm. Vũ Đình Trác trở lại Sài Gòn và tới thăm Gs. Lê Tôn Nghiêm (cựu linh mục, giáo sư Triết học). Gs. Lê Tôn Nghiêm cho linh mục biết Gs. Nghiêm Thẩm đã bị sát hại cách đó 2 tuần, tức là vào cuối Tháng 11.1979.
Theo sự tường thuật của Lm. Vũ Đình Trác thì vụ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm xẩy ra vào lúc 11 sáng. Thủ phạm là 2 tên lạ mặt. Chúng tông cửa vào nhà và móc súng ra, uy hiếp Gs. Nghiêm Thẩm phải giao ra chiếc búa khảo cổ của ông. Khi lấy được chiếc búa khảo cổ, một tên dùng chính chiếc búa khảo cổ đập 3 búa lên đầu giáo sư, rồi chúng tẩu thoát cùng với chiếc búa cướp được. Gs. Nghiêm Thẩm nằm chết trên vũng máu. Lúc xẩy ra án mạng, bà Ngô Thị Dung không có ở nhà chỉ có cô cháu lén nhìn trộm thấy mọi diễn biến.
Cô cháu vội đi tìm bà Ngô Thị Dung. Công an tới lập biên bản và niêm phong tủ sách của giáo sư.
Bà Ngô Thị Dung lo việc mai táng cho Gs. Nghiêm Thẩm. Có một ít đồng nghiệp tiễn đưa giáo sư ra nghĩa trang.
Sau lễ an táng, một số giáo sư thân hữu đã ngồi lại với nhau để hồi tưởng về Gs. Nghiêm Thẩm. Qua trao đổi tâm tình, các vị biết được Gs. Nghiêm Thẩm đã thổ lộ tâm sự bi quan, yếm thế với 6 thân hữu khoảng 10 ngày trước khi ông bị thảm sát.
Gs. Lê Tôn Nghiêm và Gs. NTN (chưa đoán ra là vị nào) mời thân hữu nâng li, đang khi đó Gs. TNT ngâm lên bài thơ chiêu hồn thống thiết:
Nghiêm Thẩm! Nghiêm Thẩm!
Anh là đỉnh cao của hoa gấm Giang sơn,
Anh ra đi mang nặng những oán hờn.
Có khôn thiêng, xin hãy về chứng giám
Vạn lòng thành, vạn niềm tin tưởng niệm
Của anh em trí thức dưới trời Nam.
Nguyện làm gió quét sạch lũ sài lang,
Nguyện làm mưa cho quê hương mát mẻ,
Nguyện làm nắng cho rực màu đất mẹ,
Nguyện làm trăng gieo rắc ánh thanh bình.
Vài nhận xét:
1. Về thời điểm: Wikipedia và vietgle.vn đều chỉ nói vắn tắt Gs. Nghiêm Thẩm bị cướp giết chết tại tư gia vào năm 1982.
Thiển nghĩ, thời điểm 1982 không chính xác. Xin nêu 2 bằng chứng:
Một là, Gs. Đỗ Khánh Hoan cho chúng tôi biết ông đã nghe tin Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại trước khi ông vượt biên vào Tháng 12.1979. Vậy vụ thảm sát Gs. Nghiêm Thẩm không thể nào xẩy ra sau ngày Gs. Đỗ Khánh Hoan vượt biên được (qua cuộc điện thoại của tôi với Gs. Đỗ Khánh Hoan vào ngày 08 và 09. 01. 2013).
Hai là, trong hồi kí “Rồng Xanh Ngục Đỏ” (Sđd), Lm. Vũ Đình Trác nói ông chia tay Gs. Nghiêm Thẩm vào đầu Tháng 11.1979 để đi Cần Thơ giảng dậy lớp Đông y. Khi ông trở về Sài Gòn thì Gs. Lê Tôn Nghiêm cho biết Gs. Nghiêm Thẩm đã bị sát hại cách đó 2 tuần, tức là vào cuối Tháng 11.1979. Năm sau, Lm. Vũ Đình Trác vượt biên vào Tháng 5.1980.
Với 2 bằng chứng khả tín này, có thể khẳng định Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại vào Tháng 11 năm 1979 chứ không phải là năm 1982.
2. Về thủ phạm và cách gây án: Gs. Toan Ánh và Lm. Vũ Đình Trác đều nói Gs. Nghiêm Thẩm bị hung thủ đập vào đầu đến chết bằng cái búa khảo cổ qúy giá của ông. Nhưng Gs. Toan Ánh lại nghi sát thủ là một tay gian phu, cho nên chắc hung thủ chỉ có một tên mới hợp lí. Đang khi đó, theo Lm. Vũ Đình Trác thì hung thủ là 2 tên lạ mặt.
Mặc dù chúng tôi biết rõ Gs. Toan Ánh vốn là bạn thâm giao của Gs. Nghiêm Thẩm, nhưng không hiểu ông căn cứ vào đâu để nêu lên nghi vấn một tên gian phu đã gây nên cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm. Đàng khác, nghi vấn này xét thấy càng vô lí hơn, vì bất cứ tên gian phu nào cũng như bất cứ người nào muốm cắm sừng lên đầu người phối ngẫu của mình, tối thiếu, đều phải tính toán cẩn thận giờ giấc sinh hoạt của nạn nhân và phải chọn thời điểm và nơi hành sự cho an toàn, kín đáo.
Nếu vụ án Gs. Nghiêm Thẩm là do một tên gian phu thì quả là y quá ngang nhiên và quá táo bạo, cho nên mới dám vi phạm những điều cấm kị sơ đẳng của một kẻ gian. Thiển nghĩ, cái nghi vấn của Gs. Toan Ánh sẽ mãi mãi chỉ là một nghi vấn có tính cách “tiêu cực”, trừ khi những người trong cuộc còn tại thế chịu lên tiếng.
Cũng không loại bỏ cái nghi vấn của Gs. Toan Ánh là do bị ảnh hưởng bởi thủ đoạn đánh lạc dư luận của những kẻ phạm án. Biết đâu chúng đã thi hành âm mưu bắn một mũi tên mà giết được 2 con chim: tức là chúng giết Gs. Nghiêm Thẩm rồi cho Công an lập ra một biên bản gian trá, trong đó dàn dựng thủ phạm sát nhân là một tên gian phu. Làm thế, chúng vừa làm mất danh dự vừa bịt miệng vị phụ nữ, là người không có mặt ở nhà lúc xẩy ra án mạng.
Chắc nhiều người còn nhớ CSVN đã bắt Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đêm 05.10.2010 với tang vật tội “mua dâm” là “hai bao cao su (condoms)” khều ra được từ sọt rác phòng khách sạn của ông. Thế rồi CSVN lại phù phép tội mua dâm thành ra tội “tuyên truyền chống phá nhà nước XHCN”!
3. Về nguyên do tại sao Gs. Nghiêm Thẩm bị thảm sát
Có nhiều bằng chứng cho một nghi vấn khác “hợp lí” hơn: Chính bọn lãnh đạo chóp bu CSVN ra lệnh giết Gs. Nghiêm Thẩm vì ông là một trí thức bất hợp tác, không chịu khuất phục làm công cụ tuyên truyền cho chúng.
Đọc cuốn hồi kí “Rồng Xanh Ngục Đỏ” dài 379 trang của Lm. Vũ Đình Trác, chúng tôi thấy có vài chỗ tác giả đã lầm lẫn hoặc là cả tin. Chẳng hạn như ở trang 209, tác giả kể chuyện Gs. Lý Chánh Trung đã vượt biên tới Thái Lan năm 1981 và vì bị đồng bào vạch mặt chỉ tên là Cộng sản, cho nên không thể xin định cư tại Hoa Kì mà phải xin đi Pháp. Có lẽ tác giả muốn kể chuyện vượt biên của Gs. Châu Tâm Luân. Sự thật thì Gs. Lý Chánh Trung không hề vượt biên; ông vẫn ở Việt Nam.
Hay là ở các trang 262- 275, Lm. Vũ Đình Trác thuật lại một cách tin tưởng những chuyện phép lạ do tên Hồ Ngọc Ánh (Hồ Ngọc Anh) “đạo diễn” cho Đức Mẹ Maria “thi hành” ở Trung tâm Fatima, Bình Triệu, vào năm 1975. Theo tôi, tay Hồ Ngọc Anh này là một tên đại bịp. Không biết bằng cách nào, sau này, hắn ta lại có mặt tại Hoa Kì và đã tới lãnh địa Dòng Đồng Công tại Carthage, Missouri, toan dở trò bịp bợm một lần nữa vào Tháng 12 năm 1993, nhưng đã bị Dòng Đồng Công lột mặt nạ (Xin xem bài Sự Thật Về Ông Hồ Ngọc Anh dài 7 trang trên Nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ, Số 194, Tháng 02,1994). Thực ra, không phải chỉ một mình Lm. Vũ Đình Trác tin vào vụ “phép lạ Hồ Ngọc Anh” mà còn có vài giáo sĩ vị vọng khác nữa cũng tin như vậy!
Mặc dù có vài điều đáng tiếc ấy, song không thể phủ nhận toàn bộ giá trị cuốn hồi kí Rồng Xanh Ngục Đỏ được. Đọc cuốn hồi kí này, chúng ta sẽ có cái nhìn sống động tổng quát về tình hình suy sụp của xã hội miền Nam sau ngày 30.4.1975, nhất là tình cảnh bi đát của giới trí thức và giáo sư Đại học. Đúng là cái cảnh “sĩ khí rụt rè gà phải cáo”!.
Riêng phần tường thuật diễn tiến các tình tiết dẫn đưa tới cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm, chúng tôi thấy có lớp lang và hữu lí.
Thứ nhất: Tính khảng khái và sự bất hợp tác của Gs. Nghiêm Thẩm
Bất cứ ai quan tâm tới lịch sử cận đại Việt Nam cũng đều biết tỏ tường rằng, trong quá trình đấu tranh cướp chính quyền ở cả hai miền đất nước, bọn lãnh đạo chóp bu CSVN đã thủ tiêu nhiều nhà đối lập danh tiếng, nhiều đồng chí dầy công nghiệp của họ, cho nên việc họ tiêu diệt một trí thức bất hợp tác như Gs. Nghiêm Thẩm chỉ là chuyện nhỏ, chuyện thường tình!
Đối với bọn Cộng Sản, không theo chúng cũng bị chúng coi là kẻ thù cần phải tiêu diệt. Thế mà Gs. Nghiêm Thẩm đã dám không tuân theo lệnh của Lê Duẩn là kẻ có quyền lực vô biên vào thời đó. Hậu quả tất nhiên là Gs. Nghiêm Thẩm phải chết.
Thứ hai: Để thi hành lệnh hành quyết của các lãnh tụ CS, bọn tay sai sát nhân có trăm phương nghìn kế để giết người: Bắt đi “cải tạo” nơi rừng thiêng nước độc không có ngày về, mật báo cho đối phương để mượn tay đối phương tiêu diệt đối thủ, dùng thuốc độc, cho xe cán chết, dàn dựng một vụ chết vì lạc đạn hoặc là một vụ cướp của giết người…
Xem xét thấy vụ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm, bắt buộc người quan sát phải nghi ngờ ngay đây là một vụ thanh toán kẻ bất hợp tác về chính trị, được dàn dựng như là một vụ giết người cướp của.
Nghi vấn này căn cứ trên lập luận như sau: Kẻ trộm cướp thường chỉ nhắm vào những con mồi có tiền của; đang khi Gs. Nghiêm Thẩm không phải là người có tiền của. Bọn hung thủ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm và chỉ lấy được chiếc một búa khảo cổ. Thử hỏi làm sao những tên trộm cướp bình thường lại biết Gs. Nghiêm Thẩm sở hữu chiếc búa khảo cổ và nếu chỉ để lấy chiếc búa ấy, có đáng để chúng phải giết một mạng người không? Suy ra, chỉ có những kẻ chủ mưu, những kẻ ra lệnh giết người thuộc giới cầm quyền chính trị văn hóa cao cấp mới biết Gs. Nghiêm Thẩm có đồ cổ và sách vở hiếm qúy. Cướp của trong trường hợp này là thứ yếu, tiêu diệt đối tượng bất hợp tác chính trị mới là chủ đích. Thêm vào đó, ngay sau khi Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại, Công an tới lập biên bản và “tức khắc niêm phong tủ sách” của ông (Sđd. Trang 258). Bọn cướp của giết người bình thường không biết giá trị của sách vở.
Thứ ba: Gs. Đỗ Khánh Hoan cho biết, Ban Giám hiệu nhà trường Cộng sản rất thích màu mè. Theo lệ, mỗi khi một giáo sư hay nhân viên Trường Đại học nào có cha mẹ vợ con qua đời, nhà trường đều cử đại diện đi phúng điếu. Riêng trường hợp Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại, nhà trường phản ứng rất khác lạ. Gs. Đỗ Khánh Hoan chỉ được nghe tin về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm chứ không được nhà trường thông báo chính thức và nhà trường cũng không cử phái đoàn đi thăm viếng hoặc phúng điếu. Gs. Nghiêm Thẩm là giáo sư kì cựu của nhà trường. Bà Ngô Thị Dung sống chung có hôn thú với Gs. Nghiêm Thẩm, cũng là giảng viên Nhật ngữ của nhà trường. Vậy tại sao nhà trường lại đối xử phân biệt tệ hại và vô tình đến như vậy? Câu trả lời chỉ có thể vì đây là vụ án chính trị mà thôi.
Từ câu trả lời trên, người ta có thể hiểu được tại sao vài tài liệu trên mạng lại “ngụy tạo” nguyên do và thời điểm về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm. Họ nói Gs. Nghiêm Thẩm bị cướp giết tại tư gia năm 1982. Phải chăng họ muốn tung hỏa mù, muốn đánh lạc hướng dư luận?
Thứ tư: Hoạt cảnh sát hại Gs. Nghiêm Thẩm diễn ra trước con mắt nhìn lén của cô cháu gái, lúc đó có mặt ở nhà.
Thứ năm: Cứ sự thường, nếu đây là vụ án hình sự thuần túy thì, ít nhiều gì, công an, báo chí và tòa án cũng đã làm việc. Nhưng đây là vụ án mạng có tính chính trị mà thủ phạm là bọn Cộng sản, rồi chính bọn họ lập biên bản và điều tra thì chẳng khác chi một kẻ vừa đá banh vừa thổi còi, cho nên vụ án giết Gs. Nghiêm Thẩm ngay giữa thành phố lớn nhất của một nước đã bị cho chìm xuồng, và dư luận không mấy ai hay, không mấy ai biết.
Vụ Gs.Nghiêm Thẩm bị sát hại chưa bao giờ được điều tra nghiêm chỉnh và khách quan, cũng như chưa bao giờ được một tòa án xứng đáng xét xử công khai với đầy đủ thủ tục tố tụng, cho nên theo luật, không ai có thẩm quyền đưa ra lời buộc tội có giá trị pháp lí ở đây và vụ việc vẫn còn là một nghi án. Thế nhưng, trên đời này có nhiều vụ việc, mặc dù chưa được công nhận là có giá trị pháp lí (de jure), nhưng đã có giá trị trên thực tế rồi (de facto).
Trong thời cận đại và thời hiện đại, cha chú chúng tôi và chính chúng tôi là những chứng nhân sống, là nạn nhân thật sự của các thủ đoạn cướp chính quyền và các đòn phép kềm kẹp tàn độc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cho nên chúng tôi không lạ gì những thủ đoạn thâm hiểm, những tội ác tày trời của bọn Cộng sản VN. Vụ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm chưa có bản án pháp lí, nhưng trong tâm trí chúng tôi, với những bằng chứng và những suy luận trên đây, thiết tưởng đã đủ lí do để chúng tôi đi từ nghi vấn đến kết luận rằng Gs. Nghiêm Thẩm đã bị bọn chóp bu Cộng sản VN ra lệnh sát hại một cách tàn ác, vì ông đã cương quyết bất hợp tác, không chịu bẻ cong ngòi bút làm công cụ tuyên truyền cho chúng.
Oan khuất thay! Đau đớn thay!
Vinh danh Gs. Nghiêm Thẩm
Mặc dù chưa được thụ án nghiêm chỉnh và dư luận không mấy ai hay, không mấy ai biết vụ Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại, nhưng chúng tôi là môn sinh của Gs. Nghiêm Thẩm, chúng tôi biết và chúng tôi muốn danh tính và cái chết tức tưởi của vị giáo sư anh hùng được đời sau biết tới. Hiện nay, bọn CSVN làm ra rất nhiều luật lệ, nhưng chúng xài có một thứ luật. Đó là luật rừng. Cho nên không mong gì chúng giở lại hồ sơ vụ án Gs. Nghiêm Thẩm. Nếu có ai khiếu kiện thì kết quả cũng chỉ là “con kiến mà kiện củ khoai” mà thôi. Song chúng tôi tin rằng CSVN không có thể thống trị đất nước này mãi được. Sẽ có một ngày đất nước thoát khỏi gông cùm Cộng sản. Chắc chắn lúc đó, công lí sẽ được trả lại cho Gs. Nghiêm Thẩm một cách sòng phẳng.
Trong hoàn cản hiện nay, môn sinh chúng tôi có thể làm ngay một việc là vinh danh Gs. Nghiêm Thẩm như một trí thức anh hùng, một nhà giáo, một nhà khoa học chân chính.
Bất kể bọn Cộng sản đã dàn dựng vụ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm như thế nào, và rồi giải thích ra sao, Gs. Nghiêm Thẩm vẫn đã là anh hùng rồi. Gs. Nghiêm Thẩm là anh hùng ngay từ khi ông dứt khoát không tuân lệnh của Tổng Bí thư đảng CSVN Lê Duẩn, của viên Bộ trưởng Thông tin Văn hóa CSVN để phải bẻ cong ngòi bút mà viết bài phục vụ chính trị. Gs. Nghiêm Thẩm đã không chịu khuất phục trước cường quyền, sẵn sàng chấp nhận tất cả, ngay cả cái chết để bảo vệ danh dự một trí thức, bảo vệ sự thực khách quan của khoa học.
Gs. Nghiêm Thẫm xứng đáng là một Chu Văn An, là một Nguyễn Bỉnh Khiêm thời đại ngày nay.
Cuối cùng, chúng tôi xin mượn những câu thơ bất khuất của kẻ sĩ Phùng Quán để kính viếng hương hồn Gs. Nghiêm Thẩm.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
(Lời Mẹ Dặn)
*Bạch Diện Thư Sinh
02.02.2013.
(Mong được qúy độc giả chỉ cho biết những phát hiện khác có liên quan tới cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm, để sự thật càng sáng tỏ hơn. Xin liên lạc về: yetkieu01@gmail.com. Xin cảm tạ.)
Phần phụ thêm:
1. Gs. Toan Ánh (1916-2009)
Gs. Toan Ánh (ảnh của Nguyễn Thụy Long)
Tên thật là Nguyễn Văn Toán. Sinh tại Thị Cầu, Bắc Ninh.
Ông từng là công chức cao cấp Bộ Thông Tin, Phó Chủ tịch Hội đồng Văn hóa Giáo dục VNCH và là giảng sư Đại học Vạn Hạnh và Đại học Huế.
Ông là nhà biên khảo tiếng tăm, là tác giả của trên 120 cuốn sách, hầu hết là những cuốn khảo luận về phong tục tập quán giá trị, như: Nếp Cũ (11 cuốn), Việt Nam Chí Lược (5 cuốn), Tín Ngưỡng Việt Nam, Hội Hè Đình Đám, Cầm Ca, v.v….
Gs. Toan Ánh là một học giả luôn luôn nâng đỡ, khuyến khích hậu sinh học tập. Năm 1971, dù không phải là học trò của ông, chúng tôi cũng đã mấy lần được hầu chuyện giáo sư. Tôi được Gs. Nghiêm Thẩm nhận đỡ đầu cho tiểu luận của tôi, một phần là nhờ lời giới thiệu của Gs. Toan Ánh.
Tư gia của Gs. Toan Ánh nằm trong cư xá dân sự đường Công Lý, chênh chếch phía trước cổng Tổng Tham Mưu QLVNCH. Còn nhớ hồi ấy, chung quanh phòng khách là những kệ sách xếp đầy sách vở. Lần trở lại thăm Gs. Toan Ánh năm 1988, tôi nhận thấy người và cảnh đã đổi khác nhiều. Căn phòng chỉ còn là phòng khách, không còn những kệ đầy ắp sách vở. Hồi đó, giáo sư còn tráng kiện, hoạt bát làm sao. Nay thì tuổi đời chồng chất và nhất là hoàn cảnh đổi dời của thời thế đã làm cho dáng vẻ giáo sư ra chiều ưu tư, xa vắng. Nụ cười vẫn còn đó, nhưng chừng như ít tươi hơn xưa! Giáo sư bảo ông đã hưu dưỡng và người ta đang thương lượng để xuất bản những bộ sách cũ cũng như mới của ông. Ông than phiền rằng bên hải ngoại đã in sách của ông mà không hỏi ông. Khi ông viết thư yêu cầu họ trả cho ông chút tiền nhuận bút để dưỡng già, họ trả lời: “Sách của ông chúng tôi in ra cho, ông còn muốn gì nữa?!” Gs. Toan Ánh chua chát nói: “Đấy, mấy anh coi, họ nói thế có nghe được không. Trước 30.4.1975, sách của tôi xuất bản bao nhiêu
bộ, toàn là sách bán được, sách có độc giả, không bao giờ thuộc loại sách bán “xon” ngoài hè phố. Sách của tôi khá nhiều. Tên tuổi Toan Ánh đâu có xa lạ gì với độc giả toàn miền Nam. Tôi đâu có cần nhờ tới họ mới được thiên hạ biết đến”.
Hiện ở trong nước, Nhà xuất bản Trẻ đã kí hợp đồng 10 năm (2004-2015) để được độc quyền xuất bản Toan Ánh Toàn Tập, gồm 124 tác phẩm đã từng xuất bản và chưa xuất bản của Gs. Toan Ánh. Có một điểm cần lưu ý là tất cả những sách vở đã xuất bản thời Quốc gia nay được in lại ở trong nước đều bị đục bỏ, sửa chữa những chỗ đụng chạm tới Cộng sản VN hoặc là sẽ có những ghi chú cuối trang theo quan điểm của người Cộng sản.
2. Lm. Vũ Đình Trác (1927-2003)
Lm. Vũ Đình Trác
Ông sinh tại Trung Lao, Nam Định.
1954: Linh mục
1960: Cử nhân Văn chương Việt Hán, Đại học Văn khoa Sài Gòn.
1963 – 68: Bề trên Tu viện Mai Khôi, Chí Hòa; Hiệu trưởng Trung học Minh Viễn, Chợ Lớn.
1968 – 71: Du học Đài Loan, đậu Thạc sĩ Triết tại Đại học Fujen (Phụ Nhân), Đài Bắc.
1971 – 74: Học Đại học Sophia, Tokyo, Nhật Bản, đậu Tiến sĩ Triết.
1974: Về nước, dậy học.
Ông là tác giả khoảng 20 cuốn sách, như: Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ, Triết Lý Nhân Bản Nguyễn Du, Một Trăm Cây Thuốc Vạn Linh, Việt Nam Trong Qũy Đạo Thế Giới, Rồng Xanh Ngục Đỏ, Công Giáo Việt Nam Trong Truyền Thống Văn Hóa Dân Tộc…
Cuối Tháng 8. 1975: bị đuổi cùng 60 tu sĩ ra khỏi cơ sở tu hội Thánh Gioan Bình triệu do lệnh của UB Quân quản Xã Bình Trước, Quận Thủ Đức, vì chúng muốn cướp cơ sở của Tu hội. Về nhà ở với mẹ tại Chí Hòa. Làm việc mục vụ chui cho các nữ tu Mai Khôi Chí Hòa; đồng thời dậy các nữ tu chế thuốc Nam và chữa bệnh chui, nhưng rất mát tay. Để khỏi phiền phức, ông viết đơn xin nghỉ dậy Đại học. Có lúc được mời mở lớp dậy châm cứu và thuốc dân tộc tại Trung tâm Tĩnh tâm Betania, Chí Hòa. Ông còn đi mở lớp ở Cần Thơ, Long Xuyên, Đà Lạt, Dốc Mơ. Sau đó, xin mở Phòng Đông y tại Bệnh viện Saint Paul (nay là Bv. Điện Biên Phủ) cho đến sau Tết 1980.
Tháng 5. 1980: Vượt biên sang Hoa Kì.
2003: Qua đời tại Nam California.
Tên thật là Nguyễn Văn Toán. Sinh tại Thị Cầu, Bắc Ninh.
Ông từng là công chức cao cấp Bộ Thông Tin, Phó Chủ tịch Hội đồng Văn hóa Giáo dục VNCH và là giảng sư Đại học Vạn Hạnh và Đại học Huế.
Ông là nhà biên khảo tiếng tăm, là tác giả của trên 120 cuốn sách, hầu hết là những cuốn khảo luận về phong tục tập quán giá trị, như: Nếp Cũ (11 cuốn), Việt Nam Chí Lược (5 cuốn), Tín Ngưỡng Việt Nam, Hội Hè Đình Đám, Cầm Ca, v.v….
Gs. Toan Ánh là một học giả luôn luôn nâng đỡ, khuyến khích hậu sinh học tập. Năm 1971, dù không phải là học trò của ông, chúng tôi cũng đã mấy lần được hầu chuyện giáo sư. Tôi được Gs. Nghiêm Thẩm nhận đỡ đầu cho tiểu luận của tôi, một phần là nhờ lời giới thiệu của Gs. Toan Ánh.
Tư gia của Gs. Toan Ánh nằm trong cư xá dân sự đường Công Lý, chênh chếch phía trước cổng Tổng Tham Mưu QLVNCH. Còn nhớ hồi ấy, chung quanh phòng khách là những kệ sách xếp đầy sách vở. Lần trở lại thăm Gs. Toan Ánh năm 1988, tôi nhận thấy người và cảnh đã đổi khác nhiều. Căn phòng chỉ còn là phòng khách, không còn những kệ đầy ắp sách vở. Hồi đó, giáo sư còn tráng kiện, hoạt bát làm sao. Nay thì tuổi đời chồng chất và nhất là hoàn cảnh đổi dời của thời thế đã làm cho dáng vẻ giáo sư ra chiều ưu tư, xa vắng. Nụ cười vẫn còn đó, nhưng chừng như ít tươi hơn xưa! Giáo sư bảo ông đã hưu dưỡng và người ta đang thương lượng để xuất bản những bộ sách cũ cũng như mới của ông. Ông than phiền rằng bên hải ngoại đã in sách của ông mà không hỏi ông. Khi ông viết thư yêu cầu họ trả cho ông chút tiền nhuận bút để dưỡng già, họ trả lời: “Sách của ông chúng tôi in ra cho, ông còn muốn gì nữa?!” Gs. Toan Ánh chua chát nói: “Đấy, mấy anh coi, họ nói thế có nghe được không. Trước 30.4.1975, sách của tôi xuất bản bao nhiêu
bộ, toàn là sách bán được, sách có độc giả, không bao giờ thuộc loại sách bán “xon” ngoài hè phố. Sách của tôi khá nhiều. Tên tuổi Toan Ánh đâu có xa lạ gì với độc giả toàn miền Nam. Tôi đâu có cần nhờ tới họ mới được thiên hạ biết đến”.
Hiện ở trong nước, Nhà xuất bản Trẻ đã kí hợp đồng 10 năm (2004-2015) để được độc quyền xuất bản Toan Ánh Toàn Tập, gồm 124 tác phẩm đã từng xuất bản và chưa xuất bản của Gs. Toan Ánh. Có một điểm cần lưu ý là tất cả những sách vở đã xuất bản thời Quốc gia nay được in lại ở trong nước đều bị đục bỏ, sửa chữa những chỗ đụng chạm tới Cộng sản VN hoặc là sẽ có những ghi chú cuối trang theo quan điểm của người Cộng sản.
2. Lm. Vũ Đình Trác (1927-2003)
Lm. Vũ Đình Trác
Ông sinh tại Trung Lao, Nam Định.
1954: Linh mục
1960: Cử nhân Văn chương Việt Hán, Đại học Văn khoa Sài Gòn.
1963 – 68: Bề trên Tu viện Mai Khôi, Chí Hòa; Hiệu trưởng Trung học Minh Viễn, Chợ Lớn.
1968 – 71: Du học Đài Loan, đậu Thạc sĩ Triết tại Đại học Fujen (Phụ Nhân), Đài Bắc.
1971 – 74: Học Đại học Sophia, Tokyo, Nhật Bản, đậu Tiến sĩ Triết.
1974: Về nước, dậy học.
Ông là tác giả khoảng 20 cuốn sách, như: Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ, Triết Lý Nhân Bản Nguyễn Du, Một Trăm Cây Thuốc Vạn Linh, Việt Nam Trong Qũy Đạo Thế Giới, Rồng Xanh Ngục Đỏ, Công Giáo Việt Nam Trong Truyền Thống Văn Hóa Dân Tộc…
Cuối Tháng 8. 1975: bị đuổi cùng 60 tu sĩ ra khỏi cơ sở tu hội Thánh Gioan Bình triệu do lệnh của UB Quân quản Xã Bình Trước, Quận Thủ Đức, vì chúng muốn cướp cơ sở của Tu hội. Về nhà ở với mẹ tại Chí Hòa. Làm việc mục vụ chui cho các nữ tu Mai Khôi Chí Hòa; đồng thời dậy các nữ tu chế thuốc Nam và chữa bệnh chui, nhưng rất mát tay. Để khỏi phiền phức, ông viết đơn xin nghỉ dậy Đại học. Có lúc được mời mở lớp dậy châm cứu và thuốc dân tộc tại Trung tâm Tĩnh tâm Betania, Chí Hòa. Ông còn đi mở lớp ở Cần Thơ, Long Xuyên, Đà Lạt, Dốc Mơ. Sau đó, xin mở Phòng Đông y tại Bệnh viện Saint Paul (nay là Bv. Điện Biên Phủ) cho đến sau Tết 1980.
Tháng 5. 1980: Vượt biên sang Hoa Kì.
2003: Qua đời tại Nam California.
BX CANH * CỪU VÀ SÓI
Con Cừu và Con Chó Sói – BXCanh
Đăng trong: Tháng Hai 18, 2013 | Tác giả: muoisau | Filed under: Human Right | Tags: Bình Luận |1 Comment »
2 Votes
Bài đọc suy gẫm: Con Cừu và Con Chó Sói hay Những Bài Học Để Đời của tác giả BXCanh.Hình ảnh chỉ có tính minh họa.
Hình Ls. Nguyễn Mạnh Tường hồi trẻ và 1952.
1. Trí thức NGUYỄN MẠNH TƯỜNG.
Nói tới tên ông, nhiều người Việt nghĩ ngay tới việc ông đỗ
hai bằng tiến sĩ, Văn và Luật tại Montpellier, Pháp trong một năm, lúc
mới 23 tuổi. Ngoài ra, người ta không nhớ ông đã làm được công nghiệp gì
tương xứng với tài năng và công lao học tập! Điều đó không có chi lạ.
Ông đã theo “Hồ tặc” đi kháng chiến, và kể từ lúc ấy, đời ông kể như đã
đi vào ngõ cụt. Đã có quá nhiều sách báo nói về ông Nguyễn Mạnh Tường và
những tháng ngày thê thảm của ông và gia đình ông, dù bản thân ông chưa
phải là trái chanh đã hết nước trong tay Cộng. Nếu không đọc cuốn sách
Un Excommunié do chính ông viết, chúng ta khó tưởng tượng ông “lưỡng
khoa tiến sĩ” này lại bị đau nhục dưới tay “vượn người” như thế! Nhưng
vì đâu nên nỗi?
Hoàn cảnh lịch sử? Lòng yêu nước, hay sự bịp bợm của cộng sản đã đưa ông vào thảm trạng?
Năm 1936, cậu thanh niên 27 tuổi, với hai bằng tiến sĩ từ mẫu quốc
hồi hương, tương lai sáng rỡ như mặt trăng mặt trời. Cậu trở thành giáo
sư trường Lycée du Protectorat tức trường Bưởi, rồi cậu mở văn phòng
luật sư tại hai biệt thự tại thủ đô Hà Nội. Khi cộng sản cướp chính
quyền, cậu hào hứng hiến luôn cả hai biệt thự cho nhà nước. Kháng chiến
bùng nổ, cậu không ngại gian lao, xách khăn gói vào Khu Tư, tức Thanh
Hóa theo “Bác.”
Chiến tranh tạm ngừng năm 1954, nhà trí thức lúc ấy đã mỏi mệt vì
những điều tai nghe, mắt thấy về Đảng và “bác”, nhưng cổ đã vướng tròng,
khó bề thoát ra. Trở về Hà Nội, ông được cộng sản ấn vào tay một lô
chức tước “phó”, vô danh và… vô thực luôn: Phó chủ tịch Hội Luật Gia
Việt Nam, phó Trưởng khoa Đại Học Sư Phạm, thành viên Hội Hữu Nghị
Việt-Xô, v…v..
“ Đó là các chức vụ hoàn toàn có tính cách lễ nghi, không hiệu năng
mà cũng chằng có thực quyền, đó là những chức vụ mà tôi chỉ là kẻ dư
thừa .”
Năm 1956, có phong trào Đòi tự do, dân chủ của các báo Nhân Văn, Giai
Phẩm. Báo Nhân Văn đăng bài phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Tường. Ông vạch
trần tính chất phản dân hại nước của cộng sản:
“Đảng Viên đảng Lao Động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tính thần dân chủ, xa lìa quần chúng, tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình… ”
“Đảng Viên đảng Lao Động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tính thần dân chủ, xa lìa quần chúng, tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình… ”
Dĩ nhiên, ông cũng còn tin cộng sản có thể sửa đổi được, và ông đề
nghị những biện pháp sửa đổi! Ngày nay, dù đã có một tay cộng sản gộc,
chính tông, là Boris Yelsin bỏ đảng và tuyên bố
“Cộng Sản không thể sửa đổi ”, nhiều ông trí thức của ta vẫn tin rằng
có thể dùng kiến nghị, thư ngỏ… để thay đổi chính sách của Cộng sản.
Cộng sản dĩ nhiên không thèm đếm xỉa gì đến những đề nghị của ông Tường;
nhưng lãnh đạo Cộng sản lại dương những con mắt cú vọ quan sát, nhằm
“chiếu tướng” ông trí thức. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, ông luật sư, giáo
sư, kiêm luôn bao nhiêu chức Phó và Thành viên các hội, đọc một bài
diễn văn tại cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc, phân tích những khốc hại đẫm
máu của việc Cải Cách Ruộng Đất, và đề ra phương hướng để tránh mắc lại!
Ông Trí thức lúc ấy chắc vẫn tin là cộng sản mắc “sai lầm”, chứ không
phải là chúng chủ tâm và tỉ mỉ hoạch định đủ phương kế để giết người và
cướp đất ruộng. Sau bài diễn văn với những đề nghị này, nọ của ông, dây
thừng quanh cổ ông được cộng sản xiết chặt lại. Bao nhiêu chức tước vớ
vẩn của ông được gỡ sạch. Ông bị đưa ra đấu tố tại trường Đại Học cho
học trò ông xỉ vả, mắng mỏ; ông bị ra trước Mặt Trận Tổ Quốc để các
“đồng chí” của ông đấu đá. Ông bị các đảng viên đảng Xã Hội, một đảng bù
nhìn do cộng sản nặn ra để trang trí cho chế độ, đấu tố ông lần chót.
Ông chống trả rất can trường, với lập luận sắc bén của một luật sư có
tài. Nhưng rồi ông đau khổ nhận rằng:
“Con cừu thì không thể lý luận với một con chó sói”.
Số phận ông đã được Cộng đảng quyết định: Bỏ cho chết đói giữa một sa mạc hận thù không lối thoát. Ông than thở
“Tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958
đến năm 1990, hơn ba mươi năm dài đằng đẵng! Chìm trong vùng cát của sa
mạc tuyệt vọng làm cạn khô dòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn
bởi thiếu thốn cô đơn với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn chua cay và vị
đắng của mật!” Trong ba mươi năm dài ấy, nhà trí thức sống ra sao?
Ông kể lại:
“Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen sa hoa của
những người tư sản. Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn
trưa và tố́i. Khẩu phần cơm rau mỗi ngày một ít đi, và đến lúc mỗi ngày
chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông
thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói.”
Trong cơn khốn cùng như thế, gia đình ông Tiến sĩ “may mắn” có được
một con gà mái “mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên ”. Mỗi ngày con gà cho
một trái trứng, và mỗi người trong gia đình thay phiên nhau hưởng. Muốn
cho gà đẻ trứng, thì phải cho nó ăn. Khốn nỗi người còn sắp chết đói,
lấy đâu gạo, bắp cho gà! Nhà trí thức ‘phát huy sáng kiến’:
“mỗi ngày, vào lúc hoàng hôn, khi chợ đã vắng người mua bán, tôi lượn
quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh không để người qua đường
nhìn thấy, mang về nuôi nó”
Thê thảm không còn gì để nói! Nhưng con gà, dù mắn đẻ, tất cũng không
nuôi sống nổi cả gia đình của ông tiến sĩ. Ông phải đau khổ, năn nỉ
những kẻ có tiền để họ mua những thứ ông có thể vơ vét ở trong nhà: sách
vở, quần áo của ông, son phấn , tóc giả của bà, muỗng nĩa trong bếp…
Giống hệt tình cảnh của toàn dân miền Nam năm 1975 khi được cộng “giải
phóng.” Ba mươi năm vật lộn mỏi mòn, chỉ để khỏi chết đói!
Cộng sản đã trả công cho sự nhiệt thành và công lao hạn mã của ông
bằng cái đói và nhục. Nhiệt thành, say sưa, vì khi Cộng mới nổi lên, ông
đã đem tất cả nhà cửa hiến dâng cho đảng.
Công lao hãn mã, vì ông đã lặn lội sang tận thủ đô Bruxelles của Bỉ,
năm 1956, đem tài hùng biện, chứng minh với Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ
thế giới, là Bắc cộng có “chính nghĩa” khi dùng súng đạn để “giải phóng
miền Nam ” Nhưng xem tư cách và sự phản ứng can trường của ông trong
suốt 30 năm bị cộng mưu dìm cho chết, chúng ta ngậm ngùi thương ông hơn
là oán giận. Ông đã lạc đường vào lịch sử và bị vây bọc trong hoàn cảnh
khó khăn. Không khuất phục được ông, bọn cộng vô học ghen, tức, đầy đọa
và hạ nhục ông.
So sánh với những anh “trí thức” hải ngọai ngày nay, từng kinh hoàng
bỏ chạy khi cộng sản tới, lại được chứng kiến sự tan rã tận gốc của cái
chủ thuyết giết người tàn độc, mà vẫn xun xoe đưa đầu cho cộng sai
khiến, chúng ta phải kinh ngạc về sự “khả úy” của các “trí thức” hậu
sinh. Ông Nguyễn Mạnh Tường có lẽ đã trả được mối thù với bọn việt cộng
bằng cách mô tả sự tàn độc của chúng trong hai cuốn Hồi Ký mà ông để lại
cho đời.
Ông đã thảnh thơi từ giã cuộc đời ngày 13 tháng 6 năm 1997.Hình Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường và vợ, bà Tống Lệ Dung.
2. Trí thức DƯƠNG QUỲNH HOA
Nhận định bất hủ của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (trí thức theo công sản sau phản tỉnh lại và bị chế độ đối xử tệ bạc) là :”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẽ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói:” Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”. Blog Truong Sa
Bà Dương Quỳnh Hoa sinh trưởng trong tầng lớp thượng lưu của xã hội
Việt Nam. Bà theo học y khoa tại Saigon rồi sang Pháp năm 1948 học tiếp
và đỗ bác sĩ năm 1953. Ăn phải bả Cộng sản, bà liên lạc với Cộng sản
Pháp, gia nhập cộng đảng vào cuối thập niên 1950 và hoạt động cho Cộng
trong thời gian ở Pháp từ 1948 đến 1954. Sau 1954, bà về Saigon nằm vùng
và do thám cho cộng. Năm 1960, được bọn Bắc cộng giựt dây, bọn theo
cộng miền Nam thành lập Mặt Trận Giải Phóng. Bà Hoa là một sáng lập viên
của cái Mặt Trận này. Năm 1968, sau vụ đại bại của cộng quân, mụ cùng
chồng trốn ra bưng với Việt cộng, và được cho làm Bộ Trưởng Y Tế. Trong
thời gian ở trong bưng, đứa con trai nhỏ của mụ đã chết vì bệnh sưng
màng não. Chồng bà là Huỳnh Văn Nghị được cộng dụ dỗ cho nhập Đảng;
nhưng ông Nghị nhận rõ bộ mặt thật của bọn giải phóng, nên tìm cách
khước từ “vinh dự” đó. Năm 1975, sau khi chiếm được Miền Nam, bọn Bắc
Cộng ra tay xóa sổ cái Mặt Trận Giải Phóng.
Những anh chị trót bán linh hồn cho quỷ trong Mặt Trận, như các anh
Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trương Như Tảng… và bọn lủng lẳng đứng
giữa như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung… đều vỡ
mặt, tẽn tò như một lũ con nít bị lừa không được ăn kẹo! Chính bà Hoa
sau này đã thú nhận việc đi theo Cộng là một ảo tưởng chính trị trong
đời bà. Ngày 17 tháng 10 năm 1996, khi được tờ báo Far Eastern Economic
Review phỏng vấn:
“ Quel est l’évenement le plus marquant pendant les 50 années passées?”
Bà trả lời:“L’effondement du mur de Berlin qui a mis un term à la “grande illusion”
dịch tạm: Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua?
Bà DQH: Đó là sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một “ảo tưởng lớn ”
Khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt nam, bà nói:
“Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đa hết ”.[I have been a communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communist, and it is a failure - mismanagement, corruption, repression. My ideals are gone”]
“Tôi và anh chỉ là những kẻ bù nhìn, là những món đồ trang sức rẻ tiền. Chúng ta không thể nào phục vụ một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ.”
Khi được phỏng vấn về bọn lãnh đạo Việt cộng, bà lạnh lùng trả lời:
“Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản”.
Trong những câu bà Hoa nói trên, chúng ta nên chú ý đến câu
“Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản…”
Đó chính là một lời thú nhận là:
dù học hành nhiều như bà, được sống trong một nước tự do như nước
Pháp, có thừa phương tiện tìm hiểu, nghiên cứu, bà đã không biết gì về
chủ nghĩa cộng sản!
Ngày 25/2/2006, người nữ cán bộ cộng sản đã góp công không nhỏ cho
cộng sản đặt cái ách khốn cùng trên đầu đồng bào của bà, lặng lẽ bị các
oan hồn chết vì giặc cộng, đưa về trước Diêm Vương để nghe phán xét tội
lỗi. Cái bạo quyền bà đã hy sinh hết tuổi thanh xuân và tài năng để dựng
nên nó, không có được một lời nói về bà. Mang “ảo tưởng ”, tự hiến mình
làm “bù nhìn, đồ trang sức rẻ tiền ”, “ không biết sự thật về cộng sản
mà vẫn theo chúng” thì kết quả đương nhiên chỉ có như thế.
Các vị trí thức tiền bối như Nguyễn Mạnh Tường, Dương Quỳnh Hoa, do
hoàn cảnh lịch sử hoặc do sai lầm nhất thời, đã có lúc theo cộng hay
thân cộng. Nhưng khi nhận rõ bộ mặt phản dân hại nước của cộng sản, họ
đã có phản ứng quyết liệt. Trí thức Nguyễn Manh Tường đã dõng dạc tuyên
bố:
“ Tôi không hề tham gia mặt trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một
người yêu nước, luôn luôn ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước.
Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí
thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Người
trí thức phải đứng về phía nhân dân, chứ không đứng về phía nhà cầm
quyền.”
Ông cũng đã can đảm nhận chịu 30 năm đọa đầy thê thảm chứ không đầu
hàng cộng. Khi thoát khỏi sự kiềm chế của Cộng sản, ông đã viết hai cuốn
sách:
(1) Un Excommunié – http:// http://www.ethongluan.org/ và
(2) Une Voix Dans La Nuit http://www.viet.rfi.fr/vi%C3%AAtnam/20110918-plan-vii-nguyenmanh-tuong-tieu-thuyet-une-voix-dans-la-nuit-ii-van-de-tri-thuc-v
, bày tỏ lập trường của trí thức, và mô tả sự xấu xa tàn độc của Cộng
sản. Cuốn Une Voix Dans La Nuit, [chưa xuất bản, được bà Thụy Khuê trích
dẫn và bình luận trong Website của RFI] viết về về sự thiết lập chế độ
ác ôn cộng sản ở Việt Nam. Ông viết xong vào năm 1993, lúc đã 85 tuổi,
chứng tỏ ông trí thức vẫn nặng lòng vì đất nước. Bà Dương Quỳnh Hoa cũng
dứt khoát vứt bỏ mọi ưu tiên mà chế độ dành cho bà, để quay về vị trí
của người trí thức.
Những trí thức nói trên, nhất là tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, vẫn còn lưu lại trong lòng chúng ta sự ngậm ngùi thương tiếc.
BXCanh
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment