Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday, 13 December 2016

NGƯỜI HÀ NỘI=BIỂN ĐÔNG=CÂY CẢNH=NGUYỄN MẠNH CÔN

QUỐC VIỆT * PHIẾM LUẬN

 


Chuyện nói năng ở Hà Nội
Tác Giả : Quốc Việt

Cô gái trẻ tay cầm mảnh sắt tam giác khều ốc, mồm cứ chì chiết về một lão "quái thai ngâm giấm" nào đó là nhân tình cũ. "Cái lão ầy dở hơi không thể nào tin nổi, cứ chăm chăm buộc tao phải làm bu của mấy đứa con lão. Nhưng bọn mày xem tao có điên mới chịu làm vợ lẽ cái lão quái thai ngâm giấm dặt dẹo ấy..."

Tôi trợn mắt suýt nuốc cả vỏ ốc vào mồm khi nghe cô gái Hà Nội trẻ đẹp Thùy (Ô) kể chuyện "người yêu". Anh bạn chính gốc trai phố Hàng Bông chỉ chép miệng cười với tôi "Ba hoa bốc phét ! Rượu vào lời ra ấy mà. Cái ngữ đỏ vỏ đen lòng như con ranh ấy thì mấy thằng "củ chuối" yếu choèn choẹt dễ chảy thành nước lắm". Rồi anh ta nhổ toẹt các đuôi ốc đang nhai trong mồm, giải thích cho cái thằng miền Nam là tôi nghe ấy là bốn "cave" đi ăn đêm "Tình bướm đêm tanh như cá ! Gặp giai nào bao được cũng ti tỉ yêu thương trẹo cả mỏ, nhưng quay lưng đi là chửi vãi cả tiên sư người ta"...

Tốp "cave" vừa lên xe "a còng" vọt về bãi đáp khách sạn thì lại thế ngay vào đó một nhóm học sinh đi chơi khuya. Các em chỉ trạc lớp 11, 12. Giọng véo von dễ thương như chim hót. Nhưng thú thật nếu không có anh bạn dân Hà thành làm thông dịch, thì với vốn ngôn ngữ "lúa" của mình, tôi chỉ có nước giơ tay chào thua. Các em đang say sưa bàn tán về một chàng ca sĩ miền Nam nào đó đang Bắc tiến "Anh chàng trông cũng hầm hố nhỉ. Ít ra cũng quần bò, áo phông, tóc mui rùa bụi bặm chứ không đến nỗi ẻo lả như mấy lão xăng nhớt gì cũng chơi tất tần tật..."

Cô bạn cứ mải mê hỏi chuyện Năm Cam trong Nam, nhưng khi tôi hỏi lại tiếng đồ các cô cậu ấm Hà thành dám vung đô la mua một chúc cả chục chiếc "a còng" thì cô ta chỉ bình luận "Cái đồ voi đú chuột chù cũng đú ấy mà". Nhìn ánh mắt người ngoài hành tinh của tôi, anh bạn phì cười "Trong ông thì đại loại gọi là đua đòi học làm sang đấy"

Đầu giớ sáng, tôi ngoắc xe ôm, mới mở miệng vài câu, nghe giọng miền Nam đặc tương trúng mánh lạnh băng toang tác giá 50 nghìn đồng. Tôi chưa kịp trả giá hết câu đã ù cả lỗ tai vì mấy câu gắt gỏng "DM! Mới mở mắt đi cuốc đầu tiên đã vớ phải mặt hãm tài đành đạch như quả táo tàu khô. Đi không đi ngoác cái mồm nhanh lên cho người ta nhờ. Đồ dở hơi!" Sự việc có lẽ sẽ không dừng lại mấy lời đôi co nếu tôi không kịp nghe những bạn xe ôm của anh ta nói chuyện với nhau cũng những lời như vậy ...

http://my.opera.com/xahoihoc/blog/show.dml/984453

PHỞ & DIET


PHỞ & DIET


Một buổi chiều nọ ba cha con tôi đang chơi trò vật lộn ì xèo trên sàn nhà. Bà xã đi đâu về mặt hầm hầm, bước vào nhà ngồi cái phịch xuống ghế sofa, chưa kịp nóng đít bả đã đứng dậy vỗ tay bôm bốp ra hiệu yên lặng. Cha con tôi lập tức gĩa từ cuộc chơi kéo lại ngồi quây quần dưới chân mẹ nó, ngỏng cổ chuẩn bị nghe thông báo, cứ như là thánh chỉ đến thần dân rạp đầu đón nhận vậy.
Cha con anh coi thử em dạo này có mập không? Vừa nói bả vừa đứng dậy xoay một vòng 360 độ.

Tôi chưa kịp nói gì, thằng con đầu 6 tuổi đã nhảy cẫng lên la lớn:
- Mẹ mập, mẹ mập!
- Em có da có thịt tức em mạnh khỏe, không có bệnh tật gì thì tốt chứ có sao đâu – Tôi cẩn thận tránh dùng chữ mập, từ tốn nói mà trong lòng không biết chuyện gì sẽ xẩy ra tiếp theo
- Như vậy cha con anh cũng nói em mập? Hèn chi tụi con Huệ, con Lan trong hãng cứ nói dạo này bà ăn cái gì mà mập qúa vậy, làm em tức muốn chết – Mặt bà xã bổng đanh lại – chê bà hả, bà sẽ đai-ét thử coi ai mập hơn ai!

Nói là làm, bà xã tôi sẽ đai-ét! Ai đó trên đời này bảo diet là tốt cho sức khỏe, cho thân hình thêm đẹp chứ đối với cha con tôi đó là tai họa! Bả mà đai-ét thì cha con tôi cũng phải đai-ét theo, cả nhà diet, người người diet, thế có chết không chứ? Thật tình mà nói tôi khoái bà xã tôi có da có thịt, trông bả vừa khỏe mạnh vừa xếch xi. Da thịt bả láng mướt và mát lạnh đẹp muốn “chớt” luôn, vậy mà bả còn đòi diet cái nỗi gì. Cưới nhau đã hơn chục năm, mỗi lần ngồi ngắm cái tướng núng nính của bả đi đi lại lại dọn dẹp tôi còn xốn xang bấn loạn tinh thần nữa là. Trong lòng tôi bả là hoa hậu, là tiểu thơ, là những gì đẹp nhất, bả chiếm trọn trái tim tôi không còn một chỗ nào “vacancy” hết trơn. Bả như bây giờ tôi đã thấy đẹp lắm rồi. Hổng phải khoe khoang chứ tôi cũng có con mắt thẩm mỹ lắm. Hồi đó cả cái lớp ESL hơn hai chục cô, tôi chấm bả cái một liền. Hổng cần quyền qúi cao sang gì hết, cứ bình thường giản dị biết yêu chồng thương con là đủ rồi.

Sáng nay bả đi chợ về, cha con tôi hì hục khiêng vô một đống rau. Nhìn đống rau sắc mặt tôi đã xanh rờn rồi chưa nói tới việc xơi cả tuần cả tháng. Thực đơn cho gia đình tôi từ này trở đi có sự thay đổi lớn lao. Thịt, tôm, cá, cheese, bơ, sữa, trứng, Coke, Pepsi, Mountain Dew…. là những món rồi đây sẽ trở nên xa lạ với chúng tôi. Thay vào đó là rau và đậu hũ, đậu hũ và rau. Mấy ngày đầu món canh hẹ nấu đậu hũ và đậu hũ sốt cà chua kể cũng ngon miệng, nhưng ăn suốt tôi đâm sợ luôn, sợ đến nỗi có đêm nằm mơ tôi thấy một tảng đậu hũ to bằng cái nhà từ trên trời rớt xuống cái bịch đè lên tôi, càng vẩy vùng, nó càng đè bẹp dí tôi xuống đến nỗi thở không ra hơi. Nghe tiếng tôi la ú ớ bà xã lay tôi dậy hỏi nằm mơ thấy cái gì mà la lối òm xòm? Tôi sợ hết hồn hết vía, mồ hôi đầm đìa như tắm. Nghe bả hỏi nhưng tôi đâu dám khai thiệt, sợ bả bảo rằng tôi nói móc nói mỉa bả sanh chuyện không hay, thôi thì đành phải nói láo rằng tôi thấy một bầy ngựa… cái rượt tôi chạy trối chết.

Chưa hết tuần đầu, thằng con lớn tôi đã càm ràm, mẹ nấu món gì yucky qúa nó ăn hổng dzô. Tội nhứt là thằng em mới có 4 tuổi mỗi lần đút cơm là nó rùng mình phun ra hết. Ðến tôi là sư phụ ăn cơm trộn bobo ngày trước ở khu tập thể sinh viên còn chịu hổng thấu huống chi tụi nó sanh bên này, ăn đồ Việt Nam đã là khó khăn rồi. Thương tụi nó qúa cỡ, chiều nào đi làm về tôi cũng lén mua pizza, Burger King, Big Mac, Happy Meal cho chúng. Có bữa cha con đang ăn pizza mẹ nó về, cả ba dzọt vô closet vừa ăn vừa trốn. Nghe mẹ nó kêu qúa nên tôi cho thằng lớn chạy ra do thám tình hình. Mẹ nó hỏi con ăn cái gì đó? Nó nói ba dặn hổng được nói với mẹ là ba mua pizza. Tôi trong này nghe mà chưng hửng luôn. Cái thằng, dặn đi dặn lại mấy lần cuối cùng cũng làm lộ bí mật. Biết tội, cha con tôi dẫn nhau ra nộp mình tự thú. Bà xã hổng nói tiếng nào, chỉ hỏi một câu có lệ là cha con anh ăn cơm chưa? Thằng nhỏ 4 tuổi phang liền con ăn pizza rồi ngon lắm, mẹ muốn ăn hông? Thiệt tình, dấu cái đầu lại lòi cái đuôi.

Tánh bà xã tôi cứng rắn và hơi ngang bướng, hễ bả muốn làm cái gì là làm cho bằng được mới thôi. Bả quyết định đai-ét là làm ngay lập tức không nấn ná chờ đợi gì hết. Mọi hôm đi làm, bả mang theo một gà mèn cơm đầy nhóc, còn thêm đủ lọai đồ ăn vặt, kẹo bánh, chuối khô, trái cây … thấy mà phát sốt, giờ chỉ mang theo chút xíu cơm còn ít hơn cơm tù cải tạo nữa. Tôi chợt lo lắng cho bả, công việc thì nặng nhọc, ăn uống mà không đầy đủ làm sao cáng đáng nỗi, đổ bịnh ra đó thì khổ. Ði làm mệt như vậy chưa đủ, về nhà bả còn lôi trong nhà kho cái máy đi bộ lau chùi sạch sẽ, ngày nào cũng đi đi chạy chạy làm cha con tôi mấy phen chóng mặt tối tăm mặt mày. Ngày xưa con đường từ phòng ngủ đến cái tủ lạnh vô cùng tấp nập, thậm chí lâu lâu còn bị kẹt đường nữa. Thằng em lấy ice cream, thằng anh lấy cool aid, bà xã lấy trái cây, rồi mới đến tôi, cái gì còn sót là tôi vơ hết, cả nhà tập trung ở phòng khách coi tivi. Ngày nay chẳng còn mấy ai còn “chạy” tuyến đường đó nữa, có chăng thì đó là phản xạ vô điều kiện đã xa xôi lắm rồi, đi ngang qua tiện tay mở ra xem có cái gì ăn được không, dù biết rằng cái tủ lạnh trống không.

Tháng đầu qua cái vèo, tôi thầm cầu mong cho bà xã bỏ cuộc không đai-ét nữa, nhưng dường như ý chí của bả quá sắt … máu. Tôi không còn cách nào khác là phải tuân theo mệnh Trời. Trời thương thì tôi nhờ, Trời ghét thì tôi chỉ có nước… khóc ròng. Ðai-ét, đẹp đẽ đâu không thấy, tôi chỉ thấy bả càng ngày càng tiều tụy, mặt mày bơ phờ như thiếu ngủ, ít nói, ít cười, hay than mệt và không còn chơi chung với cha con tôi như trước nữa. Công bằng mà nói bả có xuống cân thiệt, nhưng tôi hoàn toàn không thấy bả đẹp thêm chút nào. Biết như vậy như tôi nào dám nói ra. Tôi đã từng nếm trải những kinh nghiệm đau thương khi dám chê bà xã già và không đẹp, dù đó là lời nói chơi 100%, có hai thằng nhóc làm chứng. Lần đó bả giận tôi suốt một tuần, không thèm nói chuyện. Cuối cùng thì bả bảo em già và xấu anh lấy em làm gì? Tôi còn biết làm gì hơn là xin lỗi, tỏ lòng sám hối ăn năn và dốc lòng chừa cãi.
Ðã hơn mấy lần chúng tôi nghe lời xầm xì sau lưng, “Ối giời sao cô ấy ốm quá vậy?” “Ốm thấy mà ghê?” Có người còn hỏi thẳng vợ chồng tôi: “Ủa em bị bệnh hay sao mà ốm và xanh qúa vậy?” Gặp tình cảnh như vậy tôi đành nhào ra đỡ đạn: “Dạ tại lo lắng chuyện con cái nhà cửa nên hơi ốm một chút.” Cái từ “hơi ốm” của tôi là nói thách đấy, chứ thật tình ốm qúa đi chứ còn gì nữa. Từ một người đàn bà có da có thịt, trắng trẻo, hồng hào trở thành một người tiều tụy xanh xao như dân kinh tế mới hỏi sao người ta không thắc mắc? Tính đến nay bả mất cũng gần 10 pound rồi. Lắm lúc sẵn dịp đi chợ tôi muốn dẫn bả tạt ngang quầy thịt, biểu ông Mễ cắt giùm một cục mười pound, đưa cho bả coi bả đã mất chừng đó thịt biểu sao không ốm o gầy mòn. Còn nữa, bao nhiêu quần áo ngày trước phải xếp lại cho vào túi nilon nhét hết vào closet, rồi lại đi shopping mua quần áo mới.

Nói đến chuyện shopping cùng bà xã là tôi sợ đến tháo mồ hôi trán rán mồ hôi hột lận. Ngày trước khi chưa cưới nhau tôi còn gồng mình để đẹp lòng người yêu, bây giờ thiệt tình tôi chịu hổng nỗi nữa, chắc là có tuổi nên hay mắc cái chứng chóng mặt trong mấy khi đi shopping chăng? Bả hay trấn an tôi rằng anh phải thông cảm chứ, phụ nữ tụi em mua quần áo cần phải lựa chọn nhiều mới được. Mà bả có chọn nhiều gì cho cam. Cha con tôi chờ cả buổi trời, bả lựa và thử có mười mấy cái áo và chục cái quần, cuối cùng bả quyết định mua cái xách tay on sale! Khổ nỗi mỗi lần đi đâu là cả gia đình phải đi chung, cái truyền thống tuy tốt đẹp nhưng làm khổ cha con tôi không ít.

Ðã ba tháng sống lây lất trong thảm cảnh đai-ét, ba tháng sao mà nó dài hơn cả thế kỷ, ba tháng với biết bao cơn mộng mị kinh hoàng. Rồi dịp may cũng đến, giữa đường hầm tối tăm bỗng lóe lên một đốm sáng hy vọng. Tự nhiển tự nhiên bà xã tôi bị lở miệng, tiếng Mỹ hay gọi là canker sore ấy mà. Lúc đầu chỉ mọc sơ sơ vài nốt nhỏ bên trong môi trên, chuyện này bả vẫn thường hay bị, chỉ vài ba ngày một tuần là khỏi. Nhưng lần này không phải vậy. Càng ngày nó càng sưng to, sưng vều đỏ chót như cái hotdog vắt ngang làm tôi sợ hãi vô cùng. Lập tức đem bả đi bác sĩ. Ðợi làm đủ loại kiểm tra xong, bác sĩ bảo bả bị thiếu vitamin! Ðó, tôi nói có sai, ăn uống không đầy đủ làm sao đủ sinh tố. Cái miệng bà xã tôi đang đỏ mọng đẹp như mơ thế kia ai chơi ác gắn cái hotdog bự tổ chảng lên môi của bả hỏi sao tôi không rầu!

Một buổi chiều nọ đang bận túi bụi với đống hồ sơ sổ sách của công ty, tôi phải giải quyết gấp, thời gian không còn nữa. Bỗng có tiếng phone reo, một cô từ đầu giây bên kia nói rằng: “Bà xã của anh bị xỉu trong khi làm việc, hiện đang nằm ở nhà thương Saint Edward, anh cần đến gấp”. Tin như sét đánh ngang tai, tôi tung mớ hồ sơ đang cầm lên cái ào, tông cửa chạy như bay ra bãi đậu xe.

Bà xã tôi nằm trên giường mắt lim dim coi bộ mệt mỏi lắm. Trông sắc mặt tiều tụy của bả tôi đau đớn như đứt bảy tám khúc ruột. Vừa giận đến tím gan vừa thương tràn trề, hỏi làm sao tôi chửi bả cho được. Vội vàng lấy khăn nhúng nước lạnh, Tôi cẩn thận lau hết những giọt mồ hôi còn sót lại trên khuôn mặt trái xoan của bả, vén những cọng tóc lòa xòa sang một bên cho gọn ghẽ, xong tôi ngồi bên cạnh nắm lấy tay bả như thầm muốn nói rằng có anh ở đây, em đừng sợ gì hết, anh sẽ bảo vệ em đến hơi thở cuối cùng … câu này hơi cải lương nhưng kỳ thực lòng tôi là như vậy đó. Tôi thầm câu xin Chúa, Phật, Ðức Mẹ, Ông bà tổ tiên hộ phù cho bả được bình yên vô sự là con … hứa sẽ làm nhiều việc thiện chớ ăn chay, con ăn hổng có nỗi nữa các Ðấng ơi. Chợt một giọt nước mắt tràn ra từ khóe mắt bà xã, bả biết tôi yêu bả đến chừng nào. Bả mở mắt ra, tôi lo lắng hỏi liền:
- Em ra sao rồi?
- Em đói bụng lắm anh à − bả thều thào
Ðược rồi em muốn ăn gì anh đi mua ngay – Tôi sốt sắng
- Anh mua cho em tô phở, em thèm phở qúa – Bả trả lời
- Ðược rồi, em ăn phở gì? – Dù biết bả thích loại phở nào nhưng tôi vẫn hỏi
- Cho em phở tái chín, bò viên
- Ok, anh đi ngay đây – Tôi đứng dậy định đi ra.
- Anh kêu thêm nước béo và giá trụng hành trần cho em nha – Bả nói tiếp

Tôi gật đầu đi vội ra cửa, bả còn ngoắc tay nói theo:
- Tô lớn nha anh.


LÊ DIỄN ĐỨC * CHÍNH LUẬN




Đàn cá trong ao Bác Hồ và những con chó của Pavlov


"Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng"! - Ảnh: Vietnamnet
Kể về bản thân là chuyện nên kỵ. Nói về cái dở thì không sao, nhưng nói cái hay, dễ bị coi là khoe mẽ. Vì thế, tôi thỉnh cầu trước một sự châm chước.
Tôi có ý định lấy chính mình làm điểm xuất phát để bàn về một chuyện khác. Về những cay đắng của một con người. Như một ví dụ. Chẳng phải để dạy dỗ ai (làm gì dám cho mình ghê thế!). Cũng chẳng khoác cái áo “dân chủ, nhân quyền” gì ráo trọi. Càng không nhân danh trí thức. Đơn giản chỉ là những nghĩ suy. Một kinh nghiệm.
Khi mới ở tuổi lên mười tôi đã đạt danh hiệu “Cháu ngoan Bác Hồ”. Năm 1967 tôi được Hồ Chí Minh trao phần thưởng cho kết quả học tập xuất sắc với tất cả 14 môn học đạt điểm cao nhất. Đấy là một cuốn sổ tay kích thước khoảng 20 x 15cm, giấy trắng tinh, bìa cứng láng bóng, màu xanh dương, có in hình Hồ Chí Minh chụp thẳng và dòng chữ phía dưới: “Giải thưởng của Hồ Chủ Tịch”. Với tôi, gia đình, trường học và chính quyền địa phương, giải thưởng này là một vinh dự, vì không phải tỉnh, thành phố nào cũng có thưởng, và nếu có thì chỉ có một hoặc hai người. Buổi trao giải thưởng được tổ chức hào hứng trên sân kho của hợp tác xã, dưới ánh trăng (vì lúc bấy giờ máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc dữ dội, học sinh đi sơ tán ở thôn quê, ban đêm không dám nổi lửa, thắp đèn). Bà con làng xóm tụ hội rất đông. Ba tôi cảm động đến phát khóc. Tôi nâng niu cuốn sổ tay đến mức không dám xài, lâu lâu lấy ra ngắm nghía! Tuy nhiên cũng chưa tức cười thảm hại bằng thằng bạn. Năm 1968, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thăm trường, tặng cho mỗi đứa được cử đi gặp một cục kẹo Hải Châu (thứ cao cấp, hiếm hoi, xa xỉ với lũ học sinh nghèo trong những ngày chiến tranh). Thằng bạn thèm rỏ dãi nhưng trân trọng quá, không dám ăn, để dành làm kỷ niệm. Trời nóng, chỉ vài hôm cục kẹo chảy nhão nhoẹt dính bê bết với giấy bọc, phải vứt đi. Hắn đi Đông Đức, về nước giảng dạy ở Bách khoa Hà Nội, cho đến giờ. Tôi tin chắc hắn không quên chuyện này!
Tôi sang Ba Lan năm 1969. Cả đoàn du học sinh chúng tôi phải vào nằm viện để bác sĩ khám, tẩy giun sán trước khi được sống chung với người ta tại Trung tâm học tiếng Ba Lan dành cho người nước ngoài. Trong bệnh viện, được báo tin Hồ Chí Minh từ trần, chúng tôi khóc thảm thiết! Mấy cô y tá Ba Lan ngơ ngác, lúng túng chẳng biết chuyện gì xảy ra!
Chúng tôi đã yêu Đảng, yêu Bác Hồ đến thế! Đã một thời ngây thơ, ngây ngô như thế!
Đến năm 1994, Kim Nhật Thành chết, xem TV thấy dân Bắc Triều Tiên đứng đông nghẹt hai bên đường ôm nhau gào khóc. Lúc này thì tôi đã bật cười! Cười cả chính mình! Tôi cũng đã y chang vậy ngày nào, bị ngu hoá, bị lừa gạt mà không biết.
Phải thừa nhận các chế độ cộng sản đạt mức siêu đẳng về chuyện nuôi trồng con người theo ý đồ của mình.
Thế hệ tôi và cả xã hội miền Bắc, mỗi một con người được nhào nặn, rèn luyện, nhồi nhét tư tưởng vào trí não, để không còn là mình nữa, chỉ biết suy nghĩ và hành động theo những lời dạy dỗ của Đảng và Bác, đi theo con đường mà Bác và Đảng vạch ra, như con rối, như cái máy. Cái bóng Đảng, Bác bao trùm lên đời sống.
Phản ứng của chúng tôi chẳng khác gì những con cá trong ao của ông Hồ ở Phủ Chủ Tịch. Không hơn, không kém.
Vào năm 1958, theo yêu cầu của ông Hồ, kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh đã thiết kế cho ông ngôi nhà sàn theo kiểu của người miền núi, cùng với vườn cây, ao cá.
Ngôi nhà sàn có hai tầng, tầng trên ông Hồ dùng làm phòng ngủ và phòng làm việc trong mùa đông, tầng dưới là nơi ông làm việc vào mùa hè, họp Bộ Chính trị. Ngôi nhà sàn xây dựng xong vào ngày 1/05/1958, bằng gỗ loại bình thường, chiểu theo căn dặn của ông – báo chí viết như thế.
Tuy nhiên, trong thực tế, mãi sau này tôi mới biết, gỗ được sử dụng để làm ngôi nhà sàn “giản dị” thuộc loại tốt. Ngoài ra, sự giản dị này cũng đáng bàn. Bởi vì, ngôi nhà tọa lạc giữa phong cảnh hữu tình, đầy cây cỏ, hoa lá xanh tươi, chim bay, cá lượn bốn mùa. Bác ngồi thư giãn, hút thuốc lá 555 hay xì-gà của Fidel Castro gửi tặng thì còn gì bằng! Đấy là chưa nói đến chuyện có các nàng tới hầu hạ (như cô Nông Thị Xuân chẳng hạn)! Ngay giữa thủ đô chật hẹp, ồn ào, bụi bặm mà hưởng thụ một dinh cơ tao nhã, thanh bạch như vầy, thì khác gì cuộc sống của Tiên ông dưới trần, quả là chưa có tiền lệ.

Nhà sàn Bác Hồ, toàn cảnh - Ảnh: OnTheNet

Nhà sàn Bác Hồ, tầng trệt - Ảnh: OnTheNet
Vào thời buổi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lắm đại gia tư bản đỏ chơi độc theo gương ông Hồ, cũng xây những dinh thự to rầm theo kiểu nhà sàn bằng toàn gỗ quý, vườn tược được trồng nhiều loại cây kiểng mà một chậu trị giá hàng chục ngàn đôla. Cũng ngay trong lòng Hà Nội.
Hồi nhỏ tôi được nghe nhiều huyền thoại về ông Hồ. Với chúng tôi, tên Hồ Chí Minh đồng nghĩa với đấng siêu nhân, thánh thiện và lòng tôn kính. Ở Nghệ An, có bài đồng giao xem ông Hồ, Tướng Giáp sinh ra như là tất yếu của Trời Đất: “Đụn Sơn phân dái / Hòn Đái thất thanh / Nam Đàn sinh Thánh / Đông Thành sinh Tướng”…
Mỗi lần nghe ai kể về đời sống của Bác, nói đến đàn cá trong ao của Bác, lũ trẻ chúng tôi xuýt xoa, phục lăn. Số là đàn cá đông đúc được ông Hồ luyện công phu. Sau một thời gian nhử mồi cám dỗ, ông đã thành công. Khi cho cá ăn, ông chỉ cầm cái que gõ gõ vào cái hộp đựng mồi hay thành bờ ao gì đó là cả đàn lúc nhúc bơi lại.
Lên cấp 2, bắt đầu học vật lý, tôi không còn phục cao kiến luyện cá của ông Hồ nữa, mà chỉ phục ông ở tính kiên nhẫn. Tôi cúc cục mãi mới tập gọi được đàn gà. Còn dạy cá đâu phải giỡn! Té ra ông Hồ chỉ thực hành lý thuyết từ xửa xưa của nhà khoa học người Nga Ivan Pavlov, Giải thưởng Nobel Y học năm 1904.
Ivan Pavlov nổi danh từ việc thí nghiệm phản ứng tiêu hoá trên cơ thể chó. Qua nghiên cứu sinh lý học của nước bọt, ông khẳng định rằng, nước bọt không chỉ tiết ra lúc ăn, mà cả trong phản ứng trước bữa ăn. Thức ăn gây chảy nước bọt được gọi là “kích thích ban đầu”, còn tiếng chuông gõ hoặc ánh sáng của cái đèn xuất hiện trước bữa ăn, gọi là loại “thức ăn phụ trợ”. Kích thích chó liên tục một thời gian dài bằng “thức ăn phụ trợ”, cùng lúc với “kích thích ban đầu” để tạo thói quen, ông đã làm chó tiết nước bọt chỉ còn qua sự kích thích thứ cấp. Hiện tượng này được gọi là phản xạ có điều kiện của Pavlov, trái ngược với sự chảy nước bọt bẩm sinh, là phản xạ vô điều kiện.

Con chó của Pavlov - Ảnh: Age-of-The-Sage.org
Thì ra, những con cá của ông Hồ chỉ là một phiên bản nhỏ từ con chó của Pavlov.
Phiên bản lớn mới thật hãi hùng.
Người ta nói Việt Nam là một nhà tù lớn, hay cả quốc gia đang bị nhốt trong cái cũi.
Trong cái cũi này, giống như đàn cá trong ao, ông Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng muôn vàn “thức ăn phụ trợ” để “trồng người” vì “hạnh phúc trăm năm” của… Đảng.
Bằng quản lý trong tay sổ hộ khẩu, sổ gạo, sổ dầu, phiếu thực phẩm, phiếu vải, học đại học; nay thêm sổ đỏ, chứng minh nhân dân, hộ chiếu, giấy chủ quyền xe, v.v… – ông Hồ và Đảng từ lúc cầm quyền đến nay đã biến đất nước thành một phòng thực nghiệm vĩ đại của “phản xạ có điều kiện”, biến dân tộc thành một bầy đàn ngoan ngoãn. Hàng chục triệu người Việt đã, đang và tiếp tục trở thành những con cá trong ao hay là những con chó của Pavlov.
Ngoài ra, còn một “thức ăn phụ trợ” khác công hiệu. Đó là bộ máy tuyên truyền khổng lồ, chằng chịt từ trung ương xuống thôn xã, bản làng, liên tục đập vào não trạng con người ngay từ thưở thiếu thời. Bất kỳ nguồn thông tin nào bất lợi cho sự độc quyền cai trị của Đảng đều bị ngăn chặn. Những mầm mống phản kháng ngay lập tức bị đè bẹp, đời sống của gia đình, người thân bị phong toả đến bần cùng…
Cho nên, lúc còn là học sinh, tay còn vương mực tím, khi ông Hồ chết, tôi và các bạn tôi cùng thời đã chảy dài nước mắt, cũng không có gì là lạ. Đúng ra, chúng tôi nên được chia sẻ, được thương hại, tội nghiệp.
Nhưng nhờ Trời, ngay trong năm thứ nhất học đại học tôi đã nhanh chóng nhận ra lẽ thường phải có ở đời, sự bất công và bất nhân của chế độ cộng sản. Nó tước đi của con người đời sống riêng tư, cá tính và những quyền tự do tối thiểu nhất. Chúng tôi bị Toà đại sứ Việt Nam tại Ba Lan cấm không được yêu đương, không được mặc quần jeans ra ngoài đường, không được khiêu vũ, không được đến thăm nhà người bản xứ, không được đi lao động kiếm thêm tiền trong dịp nghỉ Hè, v.v… Một ngàn lẻ một thứ cấm! Hàng tuần họp chi đoàn, viết bản tự kiểm. Lơ mơ là bị trục xuất về nước!
Và tôi lơ mơ, xé rào nên bị trục xuất thật. Vừa đặt chân tới ga xe lửa Hàng Cỏ, Hà Nội, chưa kịp xuống tàu, hai công an đã xông lên chỗ ngồi và áp tải tôi vào trại giam, sau đó lãnh án tù hai năm về tội yêu và trốn ở lại nước ngoài. Ra tù, lận đận mãi tôi mới xoay được việc làm và quay lại Ba Lan năm 1989, đúng lúc chế độ cộng sản Ba Lan sụp đổ. Làm nhân chứng của 20 năm xây dựng thể chế dân chủ ở Ba Lan với muôn vàn khó khăn nhưng thành quả phát triển giành được thấy rõ qua từng năm tháng, nhãn quan chính trị của tôi thay đổi hoàn toàn. Tôi được tỉnh ngộ qua liệu pháp điện áp của thực tế một xã hội từ chế độ cộng sản chuyển sang dân chủ tự do, cho mình cơ hội nhìn nhận, phân biệt Ác và Thiện. Quy trình tiến hoá bình thường của tôi được tái hiện, từ “con cá của Bác Hồ”, “con chó của Pavlov” lên làm người. Tôi lột xác cùng với những thăng trầm của tiến trình dân chủ hoá ở Ba Lan và Đông Âu.
Ba Lan tự do đã đưa sự thật lịch sử ra ánh sáng và công lý. Quá khứ đã chứng minh không thể chối cãi rằng, chế độ cộng sản tồn tại thực chất nhờ dối trá và bạo lực. Những người cộng sản không thèm nghe ai khi thấy phương hại đến độc quyền lãnh đạo của họ, cho dù những lời khuyên đó có mang lại lợi ích cho đất nước đến đâu. Chỉ khi bị áp lực tranh đấu mạnh mẽ của quần chúng, bị thất bại, bị dồn vào thế cùng họ mới làm ra vẻ hướng thiện hoặc nhượng bộ. Nhưng khi có sức mạnh và nhất là lúc thành công, họ tự mãn, cao ngạo, và độc ác gấp bội. Bản chất lưu manh, cướp giật của họ, theo thời gian càng ngày càng lộ liễu. Họ biến thù thành bạn, biến bạn thành thù tuỳ theo tình huống có lợi cho sự bảo đảm quyền lực.


Họ là bậc thầy của sự tráo trở, lật lọng và bội bạc. Quan điểm phải hợp tác với cộng sản để cải tạo cộng sản, có cách nói cho cộng sản nghe, đã chứng tỏ tính chất xuẩn ngốc của nó qua hậu quả việc làm của rất nhiều người từ hàng chục năm nay. Chưa có vị “quân sư” nào làm cộng sản thay đổi được bản chất, ngược lại, họ thường bị phản phé, ngược đãi và chịu chung một bi kịch giống nhau. Rốt cuộc họ chỉ là những kẻ bị phấn khích hoặc có tâm thức bất bình thường, thích đi theo vết xe đổ.
Thiếu tự do và thông tin với bên ngoài, con người không thể nào có đủ kiến thức để nhìn nhận, so sánh các mô hình sinh hoạt xã hội khác, cho nên đại bộ phận người Việt trong chế độ cộng sản, nhất là nông dân, cứ tưởng rằng, cái ao, cái cũi mà trong đó mình đang được Đảng ban phát là “đỉnh cao chói lọi” rồi.
Mẹ kiếp! Nhốt người ta lại, bưng tai, bịt mắt, chỉ mở cho nhìn, cho nghe những gì mình muốn áp đặt, cùng với sự đe doạ mạng sống thường trực – rồi bảo “dân trí thấp”, “dân tộc chưa trưởng thành”. Nói thế có khác gì trói chân, buộc tay thằng bé, cho ăn uống nhỏ giọt, cách ly với sông nước, rồi phán nó chậm lớn, không có khả năng biết bơi. Đểu giả, mất dạy cỡ này là cùng!
Vậy mà, lạ lùng thay, có những người không sinh ra trong chế độ ấy, đầu đã hai thứ tóc, mà giờ đây bắt đầu muốn yêu Bác Hồ như thế hệ chúng tôi mấy chục năm trước đây!
Lạ lùng nữa, vì những người ấy đã tháo thân chạy khỏi chế độ cộng sản và được lớn lên, ăn học, trở thành kỹ sư, giáo sư, tiến sĩ ở các quốc gia dân chủ, tự do.
Lạ lùng hơn, vì những người ấy, được gọi là trí thức, không thể không biết đến tội ác mà chủ nghĩa cộng sản toàn trị đã gây ra cho nhân loại nói chung và đối với dân tộc Việt Nam nói riêng trong suốt gần một thế kỷ.
Lạ lùng đến kinh ngạc, vì những bi kịch Cải cách Ruộng đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ Xét lại Chống Đảng, Thảm sát Tết Mậu Thân Huế 1968, Cải tạo Tư bản, Tư thương miền Nam sau 1975, Chiến dịch bán bãi thu vàng, các vụ án Minh Phụng-Epco, Năm Cam, PMU 18, PCI, vân vân và vân vân… – chẳng mang đến cho họ một chút ý thức gì về dã tâm khủng khiếp và ghê tởm của lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam.
Không biết bị ám bởi phản xạ có điều kiện nào qua “thức ăn phụ trợ” của thời “đổi mới”, “tăng trưởng”, “phát triển”, “vươn ra biển lớn”, mà giữa lòng Hà Nội xuất hiện một sự đảo ngược tiến trình tiến hoá của loài người. Cả ngàn con người đang no cơm ấm cật, xiêm áo chỉnh tề, bỗng dưng biến thành đàn cá Bác Hồ, bầy chó của Pavlov, “hân hoan”, “hồn nhiên” hát bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Và rồi sau khi kết thúc thắng lợi ra về, cùng nhau đồng ca điệp khúc: “dân trí Việt Nam còn thấp”, “dân tộc ta chưa trưởng thành” nên chưa thể vươn tới tiến trình dân chủ hoá.
Bệnh này coi bộ hết phương cứu chữa! ■
Warsaw, Ba Lan 20/12/2009http://ledienduc.wordpress.com/2009/12/24/dan-ca-trong-ao-bac-h%e1%bb%93-nh%e1%bb%afng-cho-c%e1%bb%a7a-pavlov/

THÍCH VIÊN ĐỊNH * CHÍNH LUẬN


TỔ QUỐC LÂM NGUY
Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam thuờng gán tội “cấu kết với các thế lực thù địch âm muu lật đổ chính quyền” lên các thành viên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, các Giáo Hội độc lập của các tôn giáo, các thân hào, nhân si, các nhà trí thức, các văn nghệ si, các sinh viên, học sinh biểu tình, vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải cho Tổ quốc Việt Nam.
Không một quốc gia văn minh, dân chủ nào trên thế giới có “các thế lực thù địch âm muu lật đổ chính quyền”, không luật pháp nuớc nào có tội danh đó.
- Tại sao Nhà cầm quyền độc tài Cộng sản luôn có các “Thế lực thù địch”?
Năm 1975, Cộng sản Bắc Việt dùng vu lực cuỡng chiếm miền Nam rồi duy trì sự cai trị độc tài, độc đảng suốt từ đó đến nay bằng súng đạn, quân đội, nhà tù, công an, khủng bố, bung bít, lừa dối, tuyên truyền.

Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam là một trong số rất ít những nhà cầm quyền còn sót lại trên thế giới đa cuớp chính quyền bằng bạo lực. Trong khi đó, toàn dân lại luôn mong muốn có một chính quyền đuợc bầu cử hợp pháp bằng lá phiếu của nguời dân một cách tự do, dân chủ, công bằng, một chính quyền thật sự của dân, do dân, và vì dân. Không do dân bầu, bất hợp pháp, nên Nhà cầm quyền độc tài cộng sản Việt Nam luôn ở trong tình trạng bất an, lúc nào cung cảm thấy có “các thế lực thù địch âm muu lật đổ chính quyền”.
Trong một chế độ dân chủ, đa nguyên, đa đảng, câc đảng phái, mặc dù đối lập nhau, nhung không thù địch, trái lại, hỗ tuong, bổ khuyết nhau, rất cần cho sự cạnh tranh để phát triển đất nuớc. Trái lại, duới chế độ độc tài, độc đảng, thì bất cứ tổ chức, cá nhân nào vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, đều bị xem là vi phạm luật pháp, là thù địch.
Mặc dù bị nhà cầm quyền độc tài bỏ tù, quản thúc, gán tội vi phạm luật này, luật nọ, những điều luật mo hồ, phản tự do, phi dân chủ, chống nhân quyền, trái với Công uớc quốc tế… những nguời bị hãm hại này lại chính là những nguời mà Đức Cố Tăng Thống, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Đại Lão Hoà thuợng Thích Huyền Quang gọi là những nguời “tù không tội”. Bởi vì vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, toàn vẹn lãnh thổ, góp công với đất nuớc, sao gọi là tội ?
- Các “ thế lực thù địch” của Nhà cầm quyền cộng sản là ai?
“Thế lực thù địch” dễ biết nhất là cộng đồng nguời Việt tỵ nạn cộng sản ở nuớc ngoài, tiếp đến là các đảng phái chính trị không cộng sản trong và ngoài nuớc, và cuối cùng là 85 triệu nguời dân Việt trong nuớc ngày đem mong muốn đuợc sống trong không khí Tự do, Dân chủ, Nhân quyền nhu các dân tộc văn minh khác trên thế giới. Ngoài ra, cung phải kể đến một số tổ chức, hội đoàn và chính quyền các nuớc văn minh chống độc tài, độc đảng, yểm trợ các phong trào vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, công bằng, phát triển tại Việt Nam.
- Có “âm muu lật đổ chính quyền” hay không?
Tất cả các đảng Cộng sản trên thế giới đều dùng bạo lực để cuớp chính quyền. Trái lại, các đảng phái chính trị, không cộng sản, của nguời Việt trong và ngoài nuớc, các cộng đồng nguời Việt tỵ nạn cộng sản, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các bậc si phu, trí thức, văn nghệ si, sinh viên, học sinh và 85 triệu nguời dân trong nuớc, hiện nay, không có thành phần nào chủ truong dùng bạo lực để lật đổ chính quyền.
Theo trào luu dân chủ trên thế giới, nguời dân Việt Nam, ai cung mong muốn có một cuộc bầu cử trong tự do, dân chủ, công bằng để bầu ra một chính quyền đích thực “của dân, do dân, và vì dân”. Đảng phái nào đuợc dân ủng hộ, đắc cử, thì đứng ra lập chính quyền. Trong thế giới dân chủ, văn minh ngày nay không chấp nhận việc dùng bạo lực để cuớp chính quyền. Cung không chấp nhận việc dùng súng đạn, công an, nhà tù…để duy trì quyền lực.
Nhà cầm quyền độc tài Cộng sản Việt Nam, theo chủ thuyết Mác-Lê, vừa sai lầm, vừa lạc hậu đa cản trở buớc tiến của dân tộc. Vì đặc quyền đặc lợi, muốn tiếp tục nắm giữ quyền hành, nhung Nhà cầm quyền cộng sản lại không dám tranh cử công bằng với các đảng phái, cá nhân thuộc thành phần đối lập, nên cố tình gán cho các thành phần khác là “các thế lực thù địch” để dễ tuyên truyền, đan áp, tiêu diệt. Việc ghép tội “âm muu lật đổ chính quyền” lên các cá nhân, đảng phái đối lập là hoàn toàn vu cáo.
Tình trạng độc tài đảng trị lâu ngày sinh ra các tệ nạn tham nhung, hối lộ, cắt xén, mua bằng, bán chức…làm băng hoại xã hội, cản trở buớc tiến của dân tộc.


Lo lắng truớc hiểm hoạ độc tài này, trong Thu Chúc Xuân gửi các bậc si phu, trí thức, văn nghệ si năm Ất Dậu, 2005, Đại Lão Hoà thuợng Thích Quảng Độ, Viện truởng Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đa nói rằng, “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và trong cuong vị Tăng si, chúng tôi không làm chính trị, không tham gia chính trị. Nhung chúng tôi phải có thái độ chính trị”. Hoà thuợng đa đề nghị giải pháp đa nguyên đa đảng, buớc đầu có thể là 3 đảng, “Chỉ cần một đảng tả khuynh, một đảng hữu khuynh, một đảng trung hòa đại diện cho các dòng suy nghi chính luu”.

Nhung Nhà cầm quyền cộng sản cứ khăng khăng cố giữ thể chế độc tài độc đảng, cho rằng “bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”. Điều 4 trong Hiến Pháp hiện nay, dành cho Đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo đất nuớc, giống nhu thời phong kiến, Thiên tử, con trời, đuợc độc quyền cai trị đất nuớc, không ai đuợc tranh giành.
Nghị quyết 1481, ngày 25.1.2006, Quốc Hội Âu châu đa lên án các Đảng cộng sản trên thế giới là phi nhân tính, là thảm hoạ dân tộc, là tội ác chống nhân loại. Hoa kỳ đa lập Đai tuởng niệm trên 100 triệu nạn nhân đa bị các chế độ cộng sản sát hại trên thế giới. Vậy mà Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vẫn còn tiếp tục làm những việc trái luật pháp, phản dân chủ, bắt nguời, giam giữ mà không cho liên lạc với thế giới bên ngoài, không cho luật su biện hộ, dùng những lời khai, đua lên báo, đai để bôi nhọ, lăng nhục, trong khi Hiến Pháp, điều 72, xác nhận rằng : “ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chua có bản án kết tội của Toà án đa có hiệu lực pháp luật”.
Không sao cả, có thể, nay một vài luật su, mai vài ba bác si, ngày mốt là các tu si, bữa kia là công nhân, rồi tiếp đến là nông dân, thuong gia, sinh viên, học sinh…các giới cùng bị đua lên báo, đai, với cùng tội danh, “chống nhà cầm quyền độc tài, vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền và công lý”. Càng có nhiều nguời chống độc tài, nền dân chủ sẽ đến với dân tộc ngày càng gần hon.
Mỗi nguời, tuỳ sức khoẻ cá nhân, tuỳ hoàn cảnh gia đinh, vợ dại, con tho, cha già, mẹ yếu, có cách đối phó riêng trong cuộc chiến giành tự do rất gian khó này. Cần phải sống để giành cho đuợc Tự do, Độc lập cho dân tộc. Cái tội, “chống độc tài, yêu tự do”, ai lại không muốn lãnh ? Nếu những nguời vận động cho tự do, dân chủ, nhất thời có bị đan áp, chỉ đua tới sự thắng thế của bạo lực, không có gì phải tủi hỗ. Cuối cùng, Tự do, Dân chủ sẽ thắng !
Tuy chăm chú việc lên án các đảng phái chính trị và những nguời khác chính kiến là “thù địch”, nhung hiện nay Nhà cầm quyền cộng sản, luôn tránh né, không bao giờ đề cập, lên án tội “ Cấu kết với thế lực thù địch âm muu xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam”, cái tội liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của tổ quốc và dân tộc mà các nhà lãnh đạo các tôn giáo, các đảng phái, các tổ chức, các si phu, trí thức, sinh viên, học sinh và 85 triệu nguời dân đang rất quan tâm, hồi hộp, lo lắng từng ngày. Nếu gọi là thù địch thì giặc ngoại xâm mới thật sự là thù địch. Không nên điên đảo, nhìn kẻ cuớp nuớc là bạn, xem đồng bào ruột thịt là thù.
Cái “ Thế lực thù địch lâu đời” này mới đáng lo, nó không âm muu lật đổ chính quyền, mà nguy hại hon, “âm muu xâm chiếm Tổ quốc Việt Nam !” . Việc thay đổi chính quyền chỉ là chuyện nhỏ, chuyện nội bộ. Tổ quốc là của chung, không phải riêng ai. Các đảng phái thay nhau lập chính phủ chỉ là sự cạnh tranh, cần có, tránh sự trì trệ, để phát triển đất nuớc. Không thể một mình một chợ, một đội bóng một sân banh, mặc tình, tham nhung, hối lộ, cắt xén, làm đất nuớc suy yếu, nghèo đói, tụt hậu. Nay, đảng này lên, mai, đảng kia xuống, chỉ là những chuyện thuờng ngày trong các bản tin thời sự quốc tế, không có gì là quan trọng, ầm i hay thù địch. Tổ quốc bị xâm lăng mới là chuyện lớn, mới là chuyện thù địch.
- “Thế lực thù địch” của Dân tộc đang “âm muu xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam” là ai?
Hỏi tức là trả lời. Toàn dân, già, trẻ, lớn, bé, ai cung biết, cái “thế lực thù địch” với Tổ quốc và dân tộc Việt Nam từ xua đến nay chính là Bắc phuong! Việt Nam đang bị Hán hoá! Hoạ mất nuớc đa bắt đầu:
- Năm 1958, Nhà cầm quyền Trung cộng tuyên bố lãnh hải của Trung quốc bao gồm các hải đảo Hoàng sa, Truờng sa của Việt Nam. Năm 1974, Trung cộng đánh chiếm quần đảo Hoàng sa. Năm 1979, Trung cộng đánh chiếm 6 tỉnh miền Bắc, khi rút về, dời cọc biên giới, lấy mất Ải Nam quan, Thác Bản Giốc. Năm 1988, Trung cộng đánh chiếm quần đảo Truờng sa. Năm 2005, 2006, ngu dân Thanh Hóa ra đánh cá trong vùng lãnh hải Việt Nam quen thuộc, nhiều lần bị lính Trung cộng bắn chết, bắt nguời bị thuong, cuớp ghe thuyền kéo về giam cầm tại đảo Hải Nam Trung quốc.


Năm 2007, Trung cộng tuyên bố thiết lập Huyện Tam sa bao gồm các quần đảo Hoàng sa, Truờng sa của Việt Nam. Năm 2008, Trung cộng và nhà cầm quyền Hà nội hoàn thành việc cấm mốc biên giới phía Bắc lùi sâu vào địa phận lãnh thổ Việt Nam. Năm 2009, Trung cộng đuợc nhà cầm quyền Hà nội mời vào khai thác quặng Bô-xit ở Tây nguyên, gây nguy co an ninh quốc phòng noi vùng chiến luợc yết hầu của Việt nam và Đông duong do sự uy hiếp của hàng chục nghìn công nhân Trung quốc. Ngoài ra còn tàn phá môi truờng, thải ra hàng núi Bùn đỏ độc hại làm ô nhiễm môi truờng nghiêm trọng, lâu dài trong lòng đất, sông ngòi và khí hậu cho cả khu vực Nam Trung bộ và Miền nam Việt Nam. Nguy hại nhất là vị trí chiến luợc quốc phòng bị chiếm đóng. Năm 2009, Trung cộng cấm đánh cá 3 tháng trên Biển Đông, bắt tàu thuyền, ngu dân Việt Nam, đoi tiền chuộc…
Suốt 4 ngàn năm lịch sử, ông cha ta không làm mất một tấc đất, ngày nay, mới vài chục năm, tổ quốc đa bị xâm lấn từ biên giới phía Bắc đến hải đảo phía Đông, cả Tây nguyên cung sắp mất.
Đa xác định đuợc “thế lực thù địch âm muu xâm lăng Tổ quốc” là “Trung cộng” thì cung xác định đuợc:
- Ai là kẻ “cấu kết với thế lực thù địch âm muu xâm lăng Tổ quốc”?
Nhân dân Việt Nam, với truyền thống anh hùng, mấy nghìn năm chống “thế lực thù địch phuong Bắc”, tại sao ngày nay lại để quê huong tổ quốc, từng phần, roi dần vào tay kẻ thù truyền kiếp một cách âm thầm nhu vậy?
Phải có sự cấu kết trong nuớc nên các cuộc biểu tình, lên tiếng chống Trung cộng của sinh viên, học sinh và đồng bào ta mới rụt rè, yếu ớt, mau tàn rụi vì bị hăm doạ, cản trở từ phía Nhà cầm quyền vào đến cảc truờng đại học bởi lý do : “không đuợc phép”.
Phải có sự cấu kết trong nuớc, Trung cộng mới vừa là kẻ xâm lăng vừa lại đuợc uu tiên trong việc đấu thầu các công trình khai thác ở Việt Nam.
Phải có sự cấu kết trong nuớc, Trung cộng mới dễ dàng xâm chiếm các hải đảo, lãnh hải, biên giới, đua dân tràn vào Việt nam một cách tự do, ào ạt, không cần chiếu khán. Đây là một cuộc xâm lăng kiểu mới, rất tinh vi, quân dân Trung cộng đang đổ bộ vào chiếm đóng nuớc ta một cách nhẹ nhàng, êm thắm, không tốn một viên đạn, không mất một giọt máu.
Quân đội và đồng bào ta đa anh dung hy sinh để bảo vệ tổ quốc trong các trận chiến đảo Hoàng sa năm 1974, đảo Truờng sa năm 1988, nhất là cuộc chiến rất ác liệt ở biên giới phái Bắc năm 1979, gần 40 nghìn quân đân Việt Nam đa bỏ mình vì tổ quốc, vậy mà hàng năm không thấy tổ chức kỷ niệm, nêu guong hy sinh bảo vệ tổ quốc cho con cháu noi theo. Trái lại, cứ mỗi lần Tết đến, Nhà cầm quyền lại tổ chức viếng lễ các nghia trang quân xâm lăng Trung cộng, đặt vòng hoa: “đời đời nhớ on các liệt si Trung quốc”.
Công Hàm ngày 14.9.1958, do Thủ tuớng Bắc Việt, Phạm văn Đồng, ký công nhận tuyên bố của Trung cộng, lãnh hải Trung quốc bao gồm đảo Hoàng sa và Truờng sa của Việt Nam, có phải là bằng chứng cấu kết với thế lực thù địch âm muu xâm lăng tổ quốc ?
Phuong châm 16 chữ vàng: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, huớng tới tuong lai” và 4 tốt : “láng giềng tốt, hợp tác tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” có phải là bằng chứng của sự cấu kết ?
Đảng cộng sản Việt Nam theo chủ thuyết Mác-Lê với lý tuởng : “vô gia đinh, vô tổ quốc, vô tôn giáo”. Nếu hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung quốc đa: “ hợp tác toàn diện” theo lý tuởng “vô tổ quốc” trong tinh thần : “đồng chí tốt” thì còn gì là Dân tộc !, còn gì là non sông!
Hoạ mất nuớc đa đến, tái hiện cảnh : Ngàn năm làm nô lệ Bắc phuong!
Tổ quốc lâm nguy!!!
Thích Viên Định


Sunday, December 27, 2009


NGUYỄN VĨNH LONG HỒ * THẰNG CHÁU ĐÍCH TÔN


THẰNG CHÁU ĐÍCH TÔN

Trước năm 1975. Cha tôi là thầy giáo, dạy tại một trường tiểu học ở quận Cái Răng thuộc tỉnh Phong Dinh. Chú Ba, em ruột của cha tôi, là phi công loại phi cơ quan sát L19, căn cứ không quân đóng tại phi trường Bình Thủy, cách thị xã Cần Thơ khoảng 4 cây số.
Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chú Ba lái xe jeep xuống chợ quận Cái Răng gặp cha mẹ tôi tại nhà. Trông chú có vẻ khẩn trương, nhìn cha tôi, nói:
- “Sớm hay muộn gì Cộng Sản Bắc Việt sẽ nhuộm đỏ Miền Nam Việt Nam. Nếu như, Miền Nam Việt Nam lọt vào tay quân Cộng Sản Bắc Việt. Em sẽ bay sang Thái Lan rồi qua Mỹ tỵ nạn. Em sẽ tìm cách liên lạc với gia đình sau. Anh chị Hai hãy an tâm!”
Thấy tôi đang đứng xớ rớ bên cạnh cha, chú hỏi:
- “Nếu anh chị Hai đồng ý! Em sẽ đưa thằng Bỉnh sang Hoa Kỳ. Em hứa sẽ lo cho nó ăn học đến thành tài. Anh chị nghĩ sao?”
Cha quay sang mẹ tôi, hỏi:
“Ý kiến của chú Ba cũng tốt đó! Còn ý của bà thế nào?”
Nhưng, mẹ tôi có vẻ e ngại, nói:
- “Tôi đồng ý với ông và chú Ba. Nhưng mà,” mẹ tôi ngập ngừng, nói. “Thằng Bỉnh chưa đầy 11 tuổi. Tôi chỉ sợ, nó sẽ là gánh nặng cho chú Ba thôi!”
Chú Ba nói:
- “Anh chị bằng lòng là được rồi! Nhưng, việc nầy còn phải tùy cháu nữa!” rồi chú Ba quay sang, hỏi tôi: “Sao, cháu có muốn đi máy bay theo chú sang Mỹ học hành không nào?”
Tôi nghe nói đi máy bay là khoái chí tử rồi, gật đầu chịu liền; vì lúc đó, tôi đâu có biết nước Mỹ cách xa đất nước tôi gần nửa vòng trái đất. Trong lúc mẹ lo thu xếp đồ đạt của tôi cho vào cái túi xách. Tôi thấy cha bảo chú đứng trước bàn thờ tổ tiên, thắp một nén nhang cắm lên lư hương, rồi trịnh trọng nói với chú tôi:
- “Anh chị Hai bằng lòng gởi thằng Bỉnh cho chú. Nhưng, chú phải hứa với tổ tiên nhà họ Huỳnh một chuyện.”
Chú Ba hỏi:
- “Thưa anh Hai, hứa chuyện gì mới được chớ?”
Cha tôi nói:
- “Chú phải phải nhắc nhở thằng Bỉnh rằng, khi nó trưởng thành phải ghi tâm, khắc cốt điều nầy: “Hấp thụ một nền giáo dục và khoa học kỹ thuật của Hoa Ky,ø không phải để trở thành người Mỹ mà phải biết áp dụng sở học đó để thăng hoa nền Văn hóa – Giáo dục truyền thống của dân tộc Việt Nam, sẵn sàng dấn thân giúp Quốc Gia - Dân Tộc mình sau nầy,” cha tôi nói tiếp. “Chú hãy nhớ rằng, không có một chế độ chính trị nào tồn tại vĩnh viễn, chỉ có Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam là trường tồn mà thôi! Gia đình anh Hai đặt hết kỳ vọng nơi chú Ba đó!”
Chú Ba trả lời một cách dứt khoát:
- “Trước bàn thờ tổ tiên nhà họ Huỳnh! Em hứa sẽ làm tròn trách nhiệm đối với gia tộc và anh chị.”
Thế rồi vài giờ sau đó. Sau khi nghe Tổng thống Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trước lực lượng vũ trang Cộng Sản Bắc Việt. Chú Ba cùng một người bạn đưa tôi lên chiếc phi cơ L19, cất cánh rời phi đạo vào lúc 11 giờ trưa, từ phi trường Bình Thủy bay thẳng sang Thái Lan. Phi trường Utapao là trạm dừng đầu tiên trên bước đường lưu vong, trước khi được đưa sang Hoa Kỳ định cư...
Mười tám năm sau, vào mùa xuân năm Quí Dậu 1993.. Trong lúc tôi đang phục vụ trong Hải Quân Hoa Kỳ với cấp bực Đại úy trong ngành Quân Y. Vâng lệnh cha mẹ ở quê nhà và chú, tôi thành hôn với cô Lê Tú Quyên, con gái đầu lòng của bạn chú Ba. Một năm sau đó, chúng tôi đã có một đứa con trai đầu lòng thì má tôi cũng qua đời.
Mùa Đông năm 2005. Cháu Huỳnh Quật Cường vừa tròn 11 tuổi. Và cũng cuối năm đó, tôi rời quân ngũ. Trong thời gian nghỉ xả hơi, tôi dự định đưa thằng cháu nội đích tôn của cha tôi về Việt Nam cho ông nội thấy mặt, ít nhứt cũng một lần. Tôi nghĩ cha tôi cũng già yếu lắm rồi, không biết cha đi sum họp với mẹ lúc nào.
Vừa hay tin tôi quyết định đưa con về Việt Nam, ăn Tết Nguyên Đán Bính Tuất 2006 với gia đình bên nội. Nhạc mẫu tôi từ Cali gọi sang Maryland chất vấn:
- “Con đưa thằng Cường về Việt Nam thăm ông nội của nó! Tại sao con không dẫn vợ con cùng đi chớ?”
Tôi trả lời:
- “Thưa má, vợ con cũng muốn đi lắm! Nhưng, Quyên về Việt Nam vào lúc này chưa thuận tiện thôi, má à!”
Bà nói:
- “Sao kỳ vậy cà? Đâu, bảo vợ con nói chuyện với má coi nà!”
- “Dạ được, má chờ chút nghe!”
Tôi trao điện thoại cho vợ tôi đang đứng bên cạnh. Quyên lên tiếng:
- “Alô! Con đây! Má đó hả?”
- “Ừ, má đây! Sao, con không đi Việt Nam cùng với cha con thằng Bỉnh để thăm cha chồng con một lần cho biết, để nó đi một mình nguy hiểm lắm!”
- “Con mới nhận được một cái “Job” mới rất thơm, làm việc trong cơ quan chánh phủ chưa đầy hai tháng, làm sao con rời nhiệm sở được chớ?” Vợ tôi làm ra vẻ ngây thơ, tiếp. “Ảnh đi với con hay một mình cũng vậy thôi! Có gì nguy hiểm đâu hả, má?”
Bà lo lắng, nói:
- “Tại con không muốn biết thôi! Có mấy khứa lão ở Cali, tuổi gần đất xa trời mà cũng sanh tật, bỏ vợ bỏ con, chạy theo đào nhí ở Việt Nam, tuổi đáng con đáng cháu của mình đó, con gái à!”
Nàng trấn an bà:
- “Má an tâm đi! Chồng con không phải hạng người như vậy đâu; vả lại, con đã sắp đặt kế hoạch hết rồi. Vừa đến phi trường Tân Sơn Nhất, cậu Năm sẽ đích thân hộ tống hai cha con ảnh về nhà ngay lập tức. Sáng hôm sau, cậu sẽ dẫn độ hai cha con ảnh về Cái Vồn, giao cho cha chồng con ngay. Má đừng có lo gì hết. OK?”
Bà có vẻ an tâm, nói:
- “Con nói vậy, má cũng an lòng! Hôn thằng cháu ngoại cưng của má một cái. Bye, bye các con và thằng Cường nghe!”
Chỉ còn một ngày nữa là sáng mai bước lên máy bay. Bà xã tôi dặn dò đủ thứ thập cẩm, nào là: “Về Sài Gòn tuyệt đối không ăn óc khỉ sống, bồ cạp, kỳ tôm, cá sấu, rắn rết...nghe chưa?”, “Cấm vào các quán bia ôm, ngủ ôm; tóm lại, dịch vụ nào có gái ôm để phục vụ là cấm triệt để!”, “Cho con đi ngủ đúng giờ!”, “Đừng cho nó tắm sông!”, “Nhắc cha phải uống thuốc mỗi ngày đó nghen!”... làm tôi cũng bực mình, phát cáu. Tôi trả lời:
- “Đã bảo nhớ rồi mà! Nhắc đi nhắc lại mãi hoài vậy má nó!”
Cả đêm tôi trằn trọc, thấp tha, thấp thỏm.. Quá nửa đêm về sáng, vừa mới thiu thỉu ngủ là cái đồng hồ báo thức reo lên inh ỏi. Tôi bật đèn ngồi dậy, ngáp dài. Mới đó, mà đã 4 giờ sáng rồi.. Vậy là mất toi một đêm, rồi tôi tự an ủi: “Thôi, sáng mai lên máy bay ngủ tiếp!”
Đúng 5 giờ sáng ngày thứ tư 25/1/ 2006. Đến hẹn, thằng bạn thân lái xe đến nhà, đưa hai cha con tôi ra phi trường quốc tế Dulles ở Virginia. Tôi đáp máy bay hảng All Nippon Airways. Máy bay cất cánh rời phi đạo lúc 10 giờ sáng đi Tokyo. Và từ đó bay đi Tân Gia Ba để đổi máy bay về Sài Gòn. Chuyến máy bay mang số 742 của hảng hàng không VietNam Airlines cất cánh từ phi trường Tân Gia Ba đưa chúng tôi vào không phận Việt Nam vào lúc 11 sáng 27/1/2006 giờ VN. Sau khi hoàn tất thủ tục nhập cảnh, tôi dẫn thằng con ra ngoài sân phi trường Tân Sơn Nhất. Gia đình cậu mợ Năm của bà xã tôi đang sốt ruột chờ tôi bên cạnh chiếc xe van. Tôi nhận diện cậu Năm dễ dàng nhờ tấm ảnh mang theo. Cậu bảo bác tài lái xe đưa chúng tôi đi một vòng thành phố Sài Gòn để xem chợ Tết. Ngồi trên xe, tôi bấm máy lia lịa. Nhìn dòng xe gắn máy đủ loại phân khối phun khói mù mịt, bóp kèn inh ỏi làm tôi choáng ngộp. Sau đó, tôi mời tất cả mọi người dùng cơm trưa tại nhà hàng Đồng Khánh, rồi đưa tôi về nhà cậu ở Tân Định ngủ qua đêm, mặc dù trái giờ giấc, nhưng hai cha con tôi vẫn ngủ say như chết vì đi đường xa mỏi mệt.
Vào khoảng 8 giờ sáng ngày 28/1/2006. Cậu Năm đánh thức chúng tôi dậy để chuẩn bị lên đường về quê cho kịp đón giao thừa với gia đình.. Aên điểm tâm qua loa vừa xong, chiếc xe van do cậu mướn cũng vừa dừng trước cửa. Tôi lấy mấy cái bao “lì xì” màu đỏ của Quyên đã chuẩn bị sẵn để biếu mấy em, con của cậu mợ Năm, và cả bác tài xế để lấy lộc đầu năm.
Lúc xe leo dốc cầu cầu Mỹ Thuận, bác tài hỏi tôi:
- “Ở bên Mỹ có cây cầu nào vĩ đại bằng cây cầu Mỹ Thuận nầy không hả cậu?”
Tôi chỉ cười không trả lời. Cậu Năm nói:
- “Nhưng, cũng nhờ cây cầu nầy mà cuộc hành trình về Miền Tây đã rút ngắn được ít nhất cũng được vài ba tiếng đồng hồ.”
Thật vậy, khoảng 11 giờ trưa. Chiếc xe van đã đưa chúng tôi vào thị xã Vĩnh Long, rồi theo quốc lộ 1A để đi về Cái Vồn là quê nội của tôi. Khi xe chạy qua thị trấn Ba Càng, rồi đến cầu Rạch Mút và khi vừa vượt qua cầu Cái Vồn Lớn thì cậu Năm bảo tài xế ngừng lại ở dãy quán cóc bên đường.
Cha tôi và một người chú họ đang nóng ruột ngồi trong quán chờ. Rời quê hương gần 31 năm, đây là lần đầu tiên tôi gặp lại cha. Tôi rất ngạc nhiên, tuổi đời của cha ngoài thất tuần, nhưng trông người vẫn còn khá khỏe mạnh, đôi mắt vẫn còn tinh anh. Hai cha con ôm nhau mà nước mắt chảy ràn rụa.
Thằng Cường nhìn ông nội, rồi ngơ ngác hỏi tôi:
- “Who is he, daddy?”
Tôi trả lời:
- “He is your grandpa!”
Thằng Cường chìa tay ra bắt tay ông nội, theo lối xã giao phương Tây:
- “Hello, Grandpa! How are you doing!”
Cha tôi nhìn thằng cháu đích tôn trân trối, nét thất vọng hẹn rõ trên gương mặt già cỗi của người.. Cha tôi nói, giọng bất mãn ra mặt:
- “Bộ thằng con mầy không biết kêu ông nội bằng tiếng Việt sao hả, Bỉnh?”
Tôi mỉm cười, nói:
- “Con là công dân Mỹ, phải làm nghĩa vụ đối với đất nước đã cưu mang người tỵ nạn Việt Nam, còn vợ con đi làm suốt ngày, đến tối mò mới về nhà. Làm sao tụi con có thì giờ dạy nó nói tiếng Việt. Cha thông cảm cho tụi con đi!”
Sau khi biết sự thật khá phủ phàng. Cha tôi mất thiện cảm đối với thằng cháu nội đích tôn và ngậm ngùi nói:
- “Cha cầm bằng kể như không có thằng cháu nội đích tôn nầy đi! Làm người Việt Nam mà không biết nói tiếng mẹ đẻ là người vong bản. Lớn lên, nó lấy một con vợ Mỹ, rồi đẻ ra một lô con lai Mỹ, thế là mất gốc luôn!”
Cậu Năm nói an ủi:
- “Thôi, đừng buồn mà anh Giáo! Thằng cháu nội đích tôn của anh nó sanh ở bên Mỹ, ăn đồ Mỹ, học trường Mỹ thì nó phải nói tiếng Mỹ là đúng rồi! Có trách là trách người lớn kìa, như con mẹ Năm bán cá ở chợ Cầu Ông Lãnh, mới bỏ nước ra đi theo diện ODP được năm, sáu năm gì đó, mà khi trở về nước đã quên hết tiếng Việt, đi đâu cũng dẫn con em theo tò tò để làm “thông dịch viên”. Thế mới là dị hợm chớ!”
Cha nhìn tôi, hỏi:
- “Con về thăm Việt Nam, định ở chơi với cha bao lâu?”
Tôi thưa:
- “Dạ, đúng một tuần lễ! Mùng 8 con trở lên Sài Gòn, mua sắm một ít quà tặng gia đình và bè bạn. Mùng 10, con và thằng Cường lên máy bay trở qua Mỹ. Con còn phải lo công ăn việc làm. Sau khi việc làm ổn định, con hứa năm sau sẽ về thăm cha và sẽ ở lâu hơn.”
Cha hỏi về chú tôi:
- “Còn chú thím Ba mầy dạo nầy thế nào? Sao, không cùng về Việt Nam cho cha gặp mặt?”
Tôi nói:
- “Về Việt Nam đi bằng đầu gối, còn phải nạp tiền hối lộ cho tụi công an Hải quan ở phi trường. Chú Ba dứt khoát không trở về Việt Nam đâu, cha ơi!”
Cha tôi hỏi:
- “Còn con thì sao? Có hối lộ cho tụi nó không?”
Tôi trả lời bằng sự thật:
- “Có chớ sao không, cha! Ai sao mình vậy mà; vả lại, con không muốn họ bắt chẹt, làm khó dễ tháo tung hành lý, lục lọi quà cáp của con đem về biếu cha và bà con mình..”
Cậu Năm nhìn đồng hồ, rồi đến bắt tay cha và tôi, chào từ giã:
- “Bây giờ tôi phải trở về Sài Gòn để còn kịp cúng giao thừa. Sáng mùng tám, khoảng giờ nầy, tôi sẽ có mặt tại đây để đón hai cháu về Sài Gòn.”
Chờ khi chiếc van nổ máy, quay trở về hướng Sài gòn. Cha dẫn tôi và thằng Cường xuống bờ rạch Cái Vồn Lớn, một chiếc ghe tam bản có gắn máy đuôi tôm đang cắm sào dưới chân cây cầu dừa. Chờ mọi người xuống ghe xong, người chú họ cho nổ máy, chiếc ghe tam bản lồng lên, cất mũi, chạy ngược về phía trong rạch Cái Vồn. Hai bên bờ rạch với những xóm nhà lá mọc san sát bên nhau, nhà nào cũng đào mương, lên líp, lập vườn trồng cây ăn trái; thỉnh thoảng, mới thấy vài căn nhà ngói ba gian của các điền chủ thời xa xưa. Thằng Cường nằm trong khoang ghe, gối đầu lên cái xách tay ngủ vùi. Còn cha tôi ngồi xếp bằng trước mũi ghe yên lặng, ánh mắt đăm chiêu nhìn dòng sông cuộn chảy; thỉnh thoảng, người lại thở dài... Tánh cha tôi bảo thủ, người thất vọng vì thằng cháu đích tôn vong bản, không biết nói tiếng Việt. Còn tôi, len lén nhìn cha rồi nhớ đến người mẹ kính yêu đã quá vãng mà nước mắt bỗng trào ra.
Từ khi rời Việt Nam vào lứa tuổi thằng Cường cho mãi đến bây giờ, tôi mới có dịp ngồi trên chiếc ghe tam bản di chuyển trên dòng sông. Con rạch Cái Vồn làm tôi nhớ quá khúc sông Cần Thơ, đoạn chảy qua cầu Cái Răng đến vàm sông Ba Láng. Hồi đó, vào những mùa trăng thơ mộng, cha mẹ tôi thường dẫn tôi xuống chiếc ghe tam bản của chú Khai - người lái đò dọc - mướn chú ấy chèo ghe dọc theo sông Cần Thơ để ngắm trăng. Cha mẹ tôi rất tâm đầu ý hợp, cả hai người đều có tâm hồn nghệ sĩ và rất yêu thích Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Bản thân tôi cũng được dạy cho những kinh sống rút ra từ Truyện Kiều. Cha thường khuyên bảo: “Làm người phải giữ sao cho cái “TÂM” của mình luôn trong sáng, vì chữ “TÂM” kia mới đích thực bằng ba chữ “TÀI”đó con!” hoặc “Có tài mà cậy chi tài / Chữ tài liền với chữ tai một vần.” Trong lúc chiếc ghe hơi chòng chành, lướt sóng theo nhịp chân của người lái đò dọc, cha thường ngồi trước mũi ghe thổi sáo để mẹ ngâm Truyện Kiều cho cha tôi thưởng thức....
Khoảng một giờ sau, chiếc ghe tam bản đã vào địa phận xã Thuận An, quận Bình Minh. Cha tôi nói: “Đến nhà rồi đó con! Đánh thức thằng Cường dậy.”
Tôi nhìn lên trên bờ, thấy các chú bác, cô dì, bà con hai bên nội ngoại trên mươi người, đứng dọc theo con rạch Cái Vồn, trước căn nhà hương hỏa lợp ngói đỏ, gồm có ba gian để đón cha con tôi. Nhìn cái thân xác đồ sộ của tôi: cao gần 1 mét 80, nặng trên 190 pounds. Ai cũng lắc đầu, cười, nói đùa với cha tôi:
-“Chắc thằng Bỉnh qua Mỹ, uống sửa...voi, sao mà nó bự con quá nè trời!”.
Một bà cô nhìn thằng Cường, hỏi :
- “Cháu tên gì? Mấy tuổi rồi?”
Thằng Cường nghe hỏi, nó trố mắt nhìn rồi lắc đầu, đáp:
- “I’ m very sorry! I don’t understand what you say!”
Cha tôi ngó thằng Cường, rồi nhìn tôi như thầm trách, nói :
- “Thằng cháu nội đích tôn của tôi mất gốc rồi chị Tám ơi! Nó có nói được tiếng Việt đâu mà hỏi nó làm gì cho mệt chớ! Mà thôi, tôi mời tất cả bà con vô nhà, dùng với tôi một bữa tiệc tất niên đạm bạc, để mừng gia đình cha con chúng tôi đoàn tụ trong dịp Tết Bính Tuất.”
Vừa bước chân vào trong nhà, hai cha con tôi thắp nén nhang thơm trên bàn thờ tổ tiên và quỳ lạy trước di ảnh của mẹ. Trên cái bàn tròn kê giữa nhà, mọi người trong nhà lo sắp chén đũa, một cái lẩu mắm kho và rau sống đủ loại, một cái nồi cơm còn đang bốc khói nghi ngút. Mắm kho và rau là món ăn khoái khẩu nhất của tôi từ thuở còn tắm truồng. Cha mời mọi người ngồi vào bàn. Hai cha con tôi ngồi bên phải và trái của cha già. Thằng Cường ngửi thấy mùi mắm kho là nó làm bộ nhăn mặt, lấy tay bịt mũi làm cha tôi giận tái mặt. Bỗng thấy con ruồi xanh từ đâu bay vào đậu trên bàn, nó lật đật nhảy xuống ghế, chạy đến ôm tôi cứng ngắt, sợ hãi, hét lớn:
- “Daddy! Blue bee scares me!”
Mọi người trên bàn tiệc cười ầm lên. Đến nước nầy, cha tôi dằn cũng hết nổi, quát:
- “Thằng nhóc con! Con ruồi xanh chớ không phải con ong đâu mà mầy sợ!”
Thấy ông nội nổi giận, nó lấm lét nhìn tôi như ngầm hỏi ý. Tôi bèn mỉm cười, nháy mắt, thầm nhắc tuồng cho nó. Thằng Cường hiểu ý, trở về chỗ ngồi. Bất ngờ, nó cầm chai rượu đế “Song Phú” rót vào cái ly xây chừng, hai tay kính cẩn dâng lên ông nội, rồi xổ một câu tiếng Việt rành rọt, đúng giọng, làm cha tôi chưng hững:
- “Con kính dâng ông nội một ly! Con cũng nhậu với ông nội xã láng, sáng về sớm! Nhậu không say không trở về Mỹ!”
Cha tôi sửng sốt, nghe thằng Cường bật nói được tiếng Việt, cha mừng đến chảy nước mắt. Người ngửa mặt lên trần nhà, cười ha hả một cách sảng khoái, rồi nói:
- “Cháu nội đích tôn của nhà họ Huỳnh ta, ít ra phải như vậy mới được chớ!”
Thằng Cường nó mang một kho pháo từ Mỹ về nước, chờ dịp nổ với ông nội. Nó nói:
- “Ông học giả Phạm Quỳnh có nói rằng: “Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn. Tiếng Việt còn, nước Việt Nam mình còn”. Bây giờ, con đọc một đoạn Kiều gồm 4 câu, có đủ ba thứ tiếng: Việt, Hoa và Mỹ cho ông nội thưởng thức.
Cha tôi không tin, nói:
- “Đâu, con đọc thử cho mọi người nghe coi! Con mà đọc được, muốn đòi cái gì ông nội cũng thưởng hết!”
Thằng Cường nắm tay nội, nói:
- “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy, à nghen ông nội!”
Cha tôi khoái chí, xoay người lại, nhìn lên bàn thờ như khoe với mẹ tôi:
- “Bà nó ơi! Thằng cháu nội đích tôn của mình nó biết đọc thơ Kiều, còn xài cả chữ Nho với tui nữa nè bà!”
Tôi nói với thằng con:
- “Thôi, đọc Kiều cho ông nội thưởng thức coi.”
Nó tằng hắng lấy giọng, lên gân cổ, đọc:
- “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh/ Một, hai nghiêng nước nghiêng thành/ Sắc đành đòi “dách”, tài đành họa “two”....”
Nó sợ ông nội không hiểu, liền giải thích:
- “Tiếng Hoa “dách” là “một”; còn tiếng Mỹ “two” là “hai”. Ông nội thua con rồi!”
Cha tôi chỉ chờ có vậy, người ôm thằng cháu nội lạc loài vào lòng mà hai hàng nước mắt chan hòa vì vui mừng. Cha mắng yêu:
- “Tổ cha mầy! Chơi chữ với ông Nội đó hả? Ừ, nội chịu thua rồi đó! Con muốn nội thưởng cái gì đây?”
Thằng Cường bá cổ, hôn lên má của ông nội một cái chụt, nói:
- “Hồi sáng đến giờ, ông nội xài xể con te tua. Bây giờ, phải bù lỗ cho con. Hôn con 10 cái đi, ông nội!”.
Trong lòng tràn đây hân hoan và sung sướng, cha tôi hôn chùn chụt lên hai má nó như hôn tôi lúc còn bé, rồi mời mọi người cầm đũa. Thằng Cường nó ăn mắm và rau như điên. Nó lua luôn một hơi 3 chén cơm còn khen mắm kho ngon hết sẩy, trước con mắt ngạc nhiên của mọi người.
Sau bữa cơm đạm bạc, cha tôi vuốt tóc thằng Cường, hỏi:
-“Ai dạy con mấy câu thơ Kiều vậy, Cường?”
-“Dạ, Ba má dạy con mấy câu thơ Kiều để về Việt Nam đọc cho nội nghe chơi. Ba má còn dạy con đọc, viết tiếng Việt và cả lịch sử nước Việt Nam. Sau khi trở qua Mỹ, con sẽ viết thơ thăm ông bằng tiếng Quốc Ngữ để cho ông vui,” thằng Cường còn khoe. “Ông chú còn dạy con võ Vovinam Việt Võ Đạo nữa đó!”
Sáng mùng 1 Tết Nguyên Đán Bính Tuất. Tất cả con cháu tụ họp nơi căn nhà hương hỏa, trước để làm lễ cúng gia tiên và sau đó chúc Tết cha tôi. Thằng Cường vận võ phục Vovinam Việt Võ Đạo, lưng thắt đai trắng. Mừng tuổi ông nội xong, nó nói:
- “Tết không có lân múa. Con xin biểu diễn võ thuật cho ông nội, các ông bà, cô dì, chú bác thưởng thức.”
Nói xong, thằng Cường bước ra giữa nhà, cuối đầu chào mọi người theo nghi thức con nhà võ, rồi bắt đầu thi triển quyền pháp, cước pháp . Cha tôi say sưa nhìn thằng Cường ra đòn tấn công địch nhanh lẹ, thế thủ gọn chắc và đôi lúc nhào lộn để tránh đòn và phản đòn vô cùng linh hoạt.. Cuộc biểu diễn chấm dứt, mọi người vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt. Cha tôi ôm thằng Cường vào lòng, hỏi:
- “Con học võ để đánh lộn với tụi Mỹ con, phải không Cường?”
Thằng Cường lắc đầu, đáp:
- “Con luyện võ Vovinam vì lòng kiêu hãnh và lòng tự hào về tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam mình, chớ không phải để đánh lộn đâu!”
Lời nói đó, làm cha tôi sung sướng đến nhỏ lệ. Tôi lấy bàn tay lau những giọt nước mắt yêu thương, trân quý đó như để nó thấm vào máu thịt, cuộn chảy mãi trong dòng máu Việt Nam của tôi...
Nguyễn Vĩnh Long Hồ

FRANCIS. P. CHURCH * TRUYÊN NGẮN GIÁNG SINH


Câu chuyện không mất thời gian tính

Câu chuyện xảy ra vào năm 1897. Cô bé tám tuổi Virginia O´Hanlon sống tại New York muốn biết chắc rằng, liệu có Ông Giáng Sinh (còn gọi là „ông già Noel“) không. Vì thế cô bé đã gửi thư đến hỏi tòa soạn của tờ nhật báo New York „Sun“. Ký giả Francis P. Church đã trả lời thư của cô bé; và bài viết trả lời của ông đã trở thành một áng văn nổi tiếng.

Hơn nửa thế kỷ, nhật báo „Sun“ đã đăng lại cuộc trao đổi thư tín này mỗi độ Giáng Sinh về, mãi cho đến khi tờ báo đình bản vào năm 1950.

Bản dịch tiếng Việt:
„Chúng tôi rất vui để trả lời ngay và qua đó cũng trang trọng và hân hoan thông báo rằng, nữ tác giả (của câu hỏi) là một thân hữu của báo "Sun":

Quý tòa soạn thân mến: Cháu năm nay 8 tuổi. Một số bạn nhỏ của cháu bảo rằng: không có Ông Giáng Sinh. Nhưng bố cháu bảo: „Nếu con thấy trong tờ Sun đăng như thế, thì nó là như thế!“ Xin quý toà soạn cho cháu biết sự thật: Ông Giáng Sinh có thật không?
Virginia O´Hanlon - 115 West Ninety-fifth Street.

(Bài trả lời của ký giả Francis P. Church)
Virginia, các bạn nhỏ của cháu nói không đúng đâu. Các em này bị ảnh hưởng bởi não trạng ngờ vực của một thời đại ngờ vực. Chúng không tin những gì chúng không nhìn thấy. Chúng cho rằng, những thứ mà tinh thần nhỏ bé của chúng không nhận ra được thì cũng không thể hiện hữu. Virginia ạ, tinh thần của người lớn hay của trẻ thơ thì cũng đều nhỏ bé. Trong vũ trụ bao la thì tri thức của con người chỉ là một côn trùng, một con kiến. Cái tri thức nhỏ bé này không đủ để nhận ra và hiểu được tất cả sự thật.

Đúng thế, Virginia, Ông Giáng Sinh có thật. Sự hiện hữu của ông chắc chắn như sự hiện hữu của tình yêu, sự rộng lượng và lòng thành tín. Và cháu cũng biết rằng, những điều đó hiện hữu dư tràn khắp nơi và làm cho cuộc sống tươi đẹp. Cứ tưởng tượng xem, nếu không có Ông Giáng Sinh thì thế giới sẽ tối tăm thế nào! Sẽ không có những Virginia. Sẽ không có những tin yêu đơn giản, không có thi văn, không có sự lãng mạn... là những điều làm cho cuộc đời đáng sống. Sẽ chỉ còn niềm vui đến từ những điều có thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được bằng cảm giác. Nhưng rồi cái ánh sáng của tuổi thơ chan hoà trong thế giới vì thế sẽ lịm tắt.

Nếu cháu không tin rằng có Ông Giáng Sinh, thì cháu cũng không thể tin những chuyện cổ tích. Dĩ nhiên, cháu có thể nói bố cháu nhờ người đêm Giáng Sinh đi canh giữ tất cả các lò sưởi để bắt Ông Giáng Sinh. Nhưng nếu họ cũng không thấy Ông Giáng Sinh leo xuống từ ống khói, thì điều đó sẽ chứng minh cái gì? Không ai thấy Ông Giáng Sinh cả, nhưng đó không phải là bằng chứng để nói rằng, không có Ông Giáng Sinh! Những điều thật sự quan trọng của thế giới này thường là những điều mà cả mắt người lớn và trẻ em đều không thấy được. Cháu đã bao giờ thấy Elfen nhảy múa trên bãi cỏ chưa? Dĩ nhiên là chưa. Nhưng đó không phải là bằng chứng để nói rằng chúng không có mặt ở đó. Ngay cả những cái đầu khôn ngoan nhất cũng không có khả năng để thấy hoặc tưởng tượng ra tất cả những phép nhiệm màu vô hình trong thế giới này.

Cháu có thể mở con búp bê ra để xem cái gì đã tạo ra những âm thanh. Nhưng cái thế giới nhiệm mầu vô hình được che bởi một bức màn, mà người khỏe nhất; không, tất cả những người khoẻ nhất hợp sức lại cũng không thể nào vén lên được. Chỉ có niềm tin, óc tưởng tượng, thi văn, tình yêu và sự lãng mạn mới có khả năng vén bức màn huyền diệu này để ngắm nhìn và diễn tả vẻ đẹp tuyệt vời cũng như sự huy hoàng của nó. Thật thế không? Đúng thế Virginia, trên thế giới không có điều gì thật hơn và vĩnh cửu hơn điều đó.

Ông Giáng Sinh vẫn sống. Cám ơn trời! Và ông sống mãi. Ngàn năm nữa, không Virginia, hàng nhiều nhiều nghìn năm nữa ông vẫn tiếp tục đem niềm vui nồng ấm đến cho trẻ thơ!. Chúc Virginia Giáng Sinh vui vẻ! Francis Church."
(bản dịch của Lê Văn Hồng)

Nguyên bản tiếng Anh:
We take pleasure in answering thus prominently the communication below, expressing at the same time our great gratification that its faithful author is numbered among the friends of The Sun:


I am 8 years old. Some of my little friends say there is no Santa Claus. Papa says, "If you see it in The Sun, it's so." Please tell me the truth, is there a Santa Claus?
Virginia O'Hanlon -115 West Ninety-fifth Street.

Virginia, your little friends are wrong. They have been affected by the skepticism of a sceptical age. They do not believe except what they see. They think that nothing can be which is not comprehensible by their little minds. All minds, Virginia, whether they be men's or children's, are little. In this great universe of ours, man is a mere insect, an ant, in his intellect as compared with the boundless world about him, as measured by the intelligence capable of grasping the whole of truth and knowledge.

Yes, Virginia, there is a Santa Claus. He exists as certainly as love and generosity and devotion exist, and you know that they abound and give to your life its highest beauty and joy. Alas! how dreary would be the world if there were no Santa Claus! It would be as dreary as if there were no Virginias. There would be no childlike faith then, no poetry, no romance to make tolerable this existence. We should have no enjoyment, except in sense and sight. The external light with which childhood fills the world would be extinguished.

Not believe in Santa Claus! You might as well not believe in fairies. You might get your papa to hire men to watch in all the chimneys on Christmas eve to catch Santa Claus, but even if you did not see Santa Claus coming down, what would that prove? Nobody sees Santa Claus, but that is no sign that there is no Santa Claus. The most real things in the world are those that neither children nor men can see. Did you ever see fairies dancing on the lawn? Of course not, but that's no proof that they are not there. Nobody can conceive or imagine all the wonders there are unseen and unseeable in the world.

You tear apart the baby's rattle and see what makes the noise inside, but there is a veil covering the unseen world which not the strongest man, nor even the united strength of all the strongest men that ever lived could tear apart. Only faith, poetry, love, romance, can push aside that curtain and view and picture the supernal beauty and glory beyond. Is it all real? Ah, Virginia, in all this world there is nothing else real and abiding.

No Santa Claus?Thank God he lives and lives forever. A thousand years from now, Virginia, nay 10 times 10,000 years from now, he will continue to make glad the heart of childhood. Merry Christmas, Virginia! Your Francis Church."

Bản tiếng Đức:
„Mit Freude beantworten wir sofort und damit auf herausragende Weise die folgende Mitteilung und drücken gleichzeitig unsere große Befriedigung aus, dass ihre gewissenhafte Autorin zu den Freunden der Sun zählt:

Lieber Redakteur: Ich bin 8 Jahre alt.
Einige meiner kleinen Freunde sagen, dass es keinen Weihnachtsmann gibt.
Papa sagt: ‚Wenn du es in der Sun siehst, ist es so.‘
Bitte sagen Sie mir die Wahrheit: Gibt es einen Weihnachtsmann?
Virginia O’Hanlon - 115 West Ninety-fifth Street.

Virginia, deine kleinen Freunde haben unrecht. Sie sind beeinflusst von der Skepsis eines skeptischen Zeitalters. Sie glauben an nichts, das sie nicht sehen. Sie glauben, dass nichts sein kann, das für ihre kleinen Geister unfassbar ist. Alle Geister, Virginia, seien sie nun von Erwachsenen oder Kindern, sind klein. In diesem unseren großen Universum ist der Mensch vom Intellekt her ein bloßes Insekt, eine Ameise, verglichen mit der grenzenlosen Welt über ihm, gemessen an der Intelligenz, die zum Begreifen der Gesamtheit von Wahrheit und Wissen fähig ist.

Ja, Virginia, es gibt einen Weihnachtsmann. Er existiert so zweifellos wie Liebe und Großzügigkeit und Zuneigung bestehen, und du weißt, dass sie reichlich vorhanden sind und deinem Leben seine höchste Schönheit und Freude geben. O weh! Wie öde wäre die Welt, wenn es keinen Weihnachtsmann gäbe. Sie wäre so öde, als wenn es dort keine Virginias gäbe. Es gäbe dann keinen kindlichen Glauben, keine Poesie, keine Romantik, die diese Existenz erträglich machen. Wir hätten keine Freude außer durch Gefühl und Anblick. Das ewige Licht, mit dem die Kindheit die Welt erfüllt, wäre ausgelöscht.

Nicht an den Weihnachtsmann glauben! Du könntest ebensogut nicht an Elfen glauben! Du könntest deinen Papa veranlassen, Menschen anzustellen, die am Weihnachtsabend auf alle Kamine aufpassen, um den Weihnachtsmann zu fangen; aber selbst wenn sie den Weihnachtsmann nicht herunterkommen sähen, was würde das beweisen? Niemand sieht den Weihnachtsmann, aber das ist kein Zeichen dafür, dass es den Weihnachtsmann nicht gibt. Die wirklichsten Dinge in der Welt sind jene, die weder Kinder noch Erwachsene sehen können. Sahst du jemals Elfen auf dem Rasen tanzen? Selbstverständlich nicht, aber das ist kein Beweis dafür, dass sie nicht dort sind. Niemand kann die ungesehenen und unsichtbaren Wunder der Welt begreifen oder sie sich vorstellen.

Du kannst die Babyrassel auseinanderreißen und nachsehen, was darin die Geräusche erzeugt; aber die unsichtbare Welt ist von einem Schleier bedeckt, den nicht der stärkste Mann, noch nicht einmal die gemeinsame Stärke aller stärksten Männer aller Zeiten, auseinanderreißen könnte. Nur Glaube, Phantasie, Poesie, Liebe, Romantik können diesen Vorhang beiseiteschieben und die himmlische Schönheit und den Glanz dahinter betrachten und beschreiben. Ist das alles wahr? Ach, Virginia, in der ganzen Welt ist nichts sonst wahrer und beständiger.

Der Weihnachtsmann lebt! Gottseidank! Und er lebt auf ewig. Noch in tausend Jahren, Virginia, nein, noch in zehnmal zehntausend Jahren wird er fortfahren, das Herz der Kindheit zu erfreuen. Frohe Weinacht, Virginia! Dein Francis Church“






ẠN MỘC CƯ SĨ * PHIẾM LUẬN



BÀN VỀ SẤM KÝ

Trong lịch sử Việt Nam, giữa những trang tranh đấu xương máu hiện thực, có nhiều trang ghi lại những chuyện tâm linh huyền bí.Lẽ tất nhiên, bá nhân bá tính, có kẻ tin người không vì xã hội ta là xã hội tự do. Tuy xã hội quân chủ là tư do mà là một xã hội đạo đức, chứ không phải mang hai mặt như truyền thống Marx Lenin :một mặt hung bạo, gian manh, một mặt xưng thần xưng thánh !

Các nhà viết sử, một mặt mang tính khách quan của sử học, ghi chép sự thực, vua và triều đình không được dòm ngó việc của sử quan. Một mặt các sử quan tin vào Trời Phật, tức là thuộc phái Duy Tâm như phe Marx nhận định.Vì vậy trong sử ta có nhiều đoạn viết về sấm.Sấm, hay sấm ngôn là những lời, những bài thơ ngắn hoặc dài, thường là ngắn, có nội dung tiên đoán tương lai của một ông vua hay một triều đại, hay một biến cố quan trọng sắp xảy đến cho một quốc gia, dân tộc. Tôi xin đưa một vài dẫn chứng về sử:


Theo sử sách, nhà tiên tri đầu tiên của Việt Nam là sư Định Không (730-808), thuộc đời thứ 8 dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Thuở nhỏ, Ngài thông về lý số, được mọi người tôn trọng, gọi ngài là trưởng lão. Khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (765-804) nhà Đường, sư lập chùa Quỳnh Lâm tại quê nhà. Lúc đào đất đắp nền, sư được một quả hương và 10 cái khánh. Sư đem xuống ao rửa, một cái khánh lăn xuống tận đáy ao. Sư làm bài tụng:

Địa trình pháp khí
Nhất phẩm tinh đồng.
Trị Phật pháp chi hưng long
Lập hương danh Cổ Pháp.

( Đất dâng pháp khí,
Là một chất đồng ròng.
Điềm Phật pháp hưng long
Đặt tên làng Cổ Pháp)
Sư lại nói :
Pháp khí xuất hiện, thập khẩu đồng chung,
Lý hưng vương, tam phẩm thành công.

Bài sấm này tiên đoán họ Lý làng Cổ Pháp sẽ lên làm vua. Tam phẩm có hai nghĩa : Nghĩa thứ nhất, ở triều Lê, Lý Công Uẩn làm Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ có thể vào bậc tam phẩm. Nghĩa thứ hai là chữ Uẩn vì chữ Uẩn gồm hai chữ giống chữ tam và chữ phẩm. Quả nhiên, hai trăm năm sau, Lý Công Uẩn lên làm vua tức Lý Thái tổ (1010- 1225). Sư lại nói thêm:


Thập khẩu thủy thổ khứ
Cổ pháp danh hương hiệu.
Kê cư loan nguyệt hậu,
Chánh thị hưng tam bảo.
( Thập, khẩu, thủy, thổ, khứ
Tên làng là Cổ Pháp.
Gà ở sau loan nguyệt,
Tam bảo được hưng vượng)

Quả nhiên năm kỷ dậu (1009), Lê Long Đỉnh chết, Lý Công Uẩn lên ngôi, Phật giáo toàn thịnh. Sau sư trụ trì chùa Thiền Chúng ở làng Dịch Bảng, sau đổi là Đình Bảng, phủ Thiên Đức ( Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Trước khi viên tịch, sư dặn đồ đệ là Thông Thiện như sau:

Ta muốn mở rộng làng nhà, nhưng e sau này sẽ có tai họa, vì người lạ sẽ đến phá hoại cảnh thổ ta. Sau khi ta viên tịch, ngươi phải giữ gìn đạo pháp của ta. Khi gặp người họ Đinh, thì truyền cho y, như vậy chí nguyện của ta mới thỏa.

Nói xong thì tịch, thọ 79 tuổi. Thông Thiện dựng tháp thờ sư ở chùa Lục Tổ, ghi lời sư dặn vào đá. Khoảng năm ất dậu (865), Cao Biền sang Việt Nam làm Tiết Độ sứ, Cao Biền làm phép trấn yểm nhiều nơi, trong đó có làng Cổ Pháp, đúng như sư Định Không tiên đoán.

Sư La Quý An là đệ tử đời thứ mười dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi, sư họ Đinh, thuở nhỏ tham yết khắp các thầy. Sau gặp sư Thông Thiện ở chùa Thiền Chúng, nghe sư nói một lời liền giác ngộ, bèn theo Thông Thiện. Khi Thông Thiện sắp viên tịch, gọi sư lại mà bảo:

Xưa thầy ta là Định Không dặn rằng : Hãy gìn giữ pháp của ta, gặp người họ Đinh sẽ giao truyền. Vậy ngươi hãy nhận lấy trách nhiệm này, ta từ giã đây'

Sư Thông Thiện mất, La Quý An đi tìm đất dựng chùa, truyền giảng chánh pháp, lời sư nói đều là sấm ngữ. Sư đúc tượng lục tổ bằng vàng nhưng sợ trộm cướp bèn chôn xuống đất. Sư có di chúc:

Đại sơn long đầu khởi
Cù vĩ ẩn chu minh
Thập bát tử định thành
Miên thụ hiện long hình
Thố kê thử nguyệt nội
Định kiến nhật xuất thanh.

Đại sơn : Đinh Bộ Lĩnh ( Lĩnh là núi cao), Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua năm mậu thìn (968). Chu minh : ánh sáng đỏ, tức ánh sáng mặt trời. Chỉ Lê Hoàn ( trong chữ Hoàn có chữ Nhật), nhưng đây là mặt trời bị mây che ( ẩn ) vì trên dưới đều có chữ nhất ngăn chận, và cây cối che lấp ( bên cạnh có chữ mộc) . Lê Hoàn lên ngôi cuối năm canh thìn 980 ( cù vĩ). Thập bát tử họp lại thành chữ Lý .Nhà Lý lên thay Tiền Lê. Miên thụ cây bông gạo. Chữ Miên và chữ Uản giống nhau, đều là cây bông, cây gai dùng dệt vải may quần áo. Uẩn là cây gai và Uản là súc tích thông nghĩa. Thố, kê, thử nguyệt : trong khoảng tháng mão, tháng dậu, tháng tí, Lý Công Uẩn lên ngôi. Quả vậy, ngày quý sửu, tháng mười, năm kỷ dậu (1909), Lý Công Uẩn lên ngôi, mở một kỷ nguyên thái bình thịnh trị.

Năm thứ năm, niên hiệu Thái Bình (974), đời Đinh Tiên Hoàng, trong dân gian truyền tụng bài sấm sau:

Đỗ Thích thí Đinh Đinh,
Lê gia xuất thánh minh.
Cạnh đầu đa hoành nhi ,
Đạo lộ tuyệt nhân hành.
Thập nhị xưng đại vương
Thập ác vô nhất thiện
Kế đô nhị thập thiên.

Dịch
Đỗ Thích thí Đinh, Đinh (Đỗ Thích giết hai người họ Đinh) : tháng mười, năm kỷ mão (979), Đỗ Thích giết Đinh Tiên hoàng và Việt Nam vương Đinh Liễn.
Lê gia xuất thánh minh ( Họ Lê làm vua sáng)
Đinh Toàn lên ngôi mới sáu tuổi, binh quyền lọt vào tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Bà Dương Thái hậu tư thông với Lê Hoàn, trao ngôi vua cho Lê Hoàn tức vua Lê Đại Hành. Lê Đại Hành lên ngôi đánh thắng quân Tống xâm lược.
Cạnh đầu đa hoành nhi ( Các trẻ tranh giành nhau). Đại lộ tuyệt nhân hành ( Trên đường cái, không người qua lại). Lê Đại Hành lên ngôi, cho con thứ ba là Lê Long Việt làm thái tử. Lê Đại Hành mất ( 1005), các con tranh giành nhau, đem binh chém giết nhau trong bảy tháng trường, ngoài đường không ai dám qua lại.
Thập nhị xưng đại vương. Thập ác vô nhất thiện
( Thập nhị tự xưng làm vua). Thập nhị là Lê Long Đỉnh giết anh là Lê Long Việt mà lên làm vua ( Trong chữ Đỉnh có Nhâm chiết tự là Thập Nhị). Long Đỉnh là người tàn ác ( Mười điều ác không có một điều lành) .
Thập bát tử đăng tiên : (Thập bát tử họp lại thành chữ Lý ) họ Lý sẽ lên làm vua.
Kế đô nhị thập thiên : Đô nhị thập thiên : bốn chữ này hợp thành Trần giả .
Kế đô nhị thập thiên tức là họ Trần sẽ kế tiếp làm vua.

Trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, ở hương Duyên Uẩn, châu Cổ Pháp, có cây gạo bị sét đánh, trong ruột cây có chữ:

Thụ căn diễu diễu ,
Mộc biểu thanh thanh.
Hòa đao mộc lạc,
Thập bát tử thành.
Đông A nhập địa
Dị mộc tái sinh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
Sư Vạn Hạnh giải thích như sau :
Vua thì non yểu, tôi thì cường thịnh. Họ Lê mất, họ Lý nổi lên. Họ Trần làm vua, rồi đến Lê. Sau đó, họ Mạc nổi lên rồi nhà Lê trung hưng. Rồi họ Trịnh mất. Trải qua năm, sáu năm, thiên hạ thái bình.(1)
Sấm Trạng Trình phần đầu cũng nhắc lại các việc trên:

7-Việt Nam khởi tổ xây nên
8 - Lạc Long ra trị đương quyền một phương
9 - Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
10 - Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
11 - Đến Đinh hoàng nối ngôi cửu ngũ
12 - Mở bản đồ rũ áo chấp tay
13 - Nhự đao phút chốc đổi thay
14 - Thập bát tử rày quyền đă nổi lên
15 - Đông a âm vị nhi thuyền
16 - Nam phương kỳ mộc bổng liền lại sinh
17 - Chấn cung hiện nhật quang minh
18 - Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
19 - Đoài cung vẽ rạng trăng thu
20 - Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn.

Trong dân gian từ xưa đến vẫn có sấm. Sấm là do những bậc tiên tri nhưng cũng có thể là do những tay chính trị làm ra. Nhưng ta phải phân biệt vì những tiên tri thường là xuất hiên trước. Sấm ký nhiều khi là những ý kiến bình luận.
Tại Hà Tĩnh, người ta ca tụng về họ Nguyễn Du:
"Bao giờ ngàn Hống hết cây,
Sông Rum hết nước, họ này hết quan."

Tại Nghệ An trước thời Lê đã truyền tụng:
+Bao giờ Bò Đái thất thanh,
Nghệ An sinh thánh rành rành chẳng sai."(Ca dao)
Nguyễn Thiếp thì nói:
+Đụn sơn phân giái,
Bò Đái thất thanh,
Đông Thành (2)
phát thánh

Nhưng Nguyễn Thiếp thì nói câu sấm đó không đúng. (3)

Bò Đái là một địa danh, là một cái suối kêu vang. Tại Nghệ An có hai ông vang danh thiên ha. Một là Phan Bội Châu, hai là Nguyễn Tất Thành tức Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chí Minh . Nhưng hai ông này đều quê Nam Đàn chứ không phải quê Đông Thành . Hơn nữa, ông Hồ là Quỷ vương, không phải là thánh vì ông cũng như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot giết nhiều người quá, và ông rốt cuộc cũng chỉ là kẻ bán nước cầu vinh, phản quốc hại dân!

Trước đây một số người Thiên chúa giáo ghét Bảo Đại vì người ta loan truyền "Bảo Đại" là bãi đạo". Việc này không đúng vì bên cạnh Bảo Đại có bà Nam Phương và các đại thần là giáo dân, và trện cao là thực dân Pháp, làm sao vua Bảo Đại lại "bãi đạo"? Lại nữa, ông được đào tạo tại Pháp, người khôn ngoan, cởi mở, việc gì mà phải "bãi đạo"!
Nhưng tiên tri này cũng đúng vì trong thời vua Bảo Đại còn sống, Việt Minh cai trị, chúng đã giết hại Thiên chúa giáo và các tôn giáo khác.


Một lão nhân kể truyện trước 1945, cụ đi xin cơ bút.Trong thơ tiên có câu:
" Nhất nhật đằng vân quy Bắc hải"( một ngày sau sẽ bay về biển băc) . Vì vậy sau di cư vào Nam, cụ tin tưởng có ngày cả nhà trở về đất Bắc! Nhưng thực tế hơi khác điều cụ nghĩ. Sau 1980, dần dần cả nhà đi máy bay ( đằng vân) sang định cư tại Bắc Hải tức là Mỹ và Canada! Nhưng biết đâu sau này con cháu cụ sẽ trở về Hà Nội trong ngày vinh quang?

Những truyện về Trạng Trình, người ta bàn đã nhiều. Sấm Trạng Trình cũng như sấm Nostradamus thì bí hiểm, nhiều người giải thích khác nhau. Sấm Trạng Trình có đoạn:

Cửu cửu kiền khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An
(AB 444, AB 355 thư viện Viễn đông Bác cổ Hà Nội)

Có kẻ bàn :Năm 1954 vào tiết thanh minh đã tàn (Hoặc thế lực Pháp suy tàn? Đến đầu năm dê và đuôi ngựa (1954) tám vạn lính cộng sản (Hồ binh) tiếp thu Hà Nội.

Một đoạn khác:
109- Ô hô thế sự tự bình bồng
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông ?
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng.
113- Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc
Ngưu xuất lam điền nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ thái bình phong.

Trưóc đây tôi nghĩ về đoạn này. Trong chiến tranh, nhất là khi Nam Băc chia cắt, đường sắt Việt Nam cũng bị cắt đôi. Sau 1975, cộng sản tái lập giao thông toàn quốc, Cục Đường Sắt lập ra "Xe lửa Thống Nhất" chạy suốt Nam Bắc. Tôi nghĩ câu sấm Trạng Trình rất đúng;
Trạng Trình đặ ra câu hỏi và trả lời:
Khi nào thì đường sắt Việt Nam nối liền?
Lả khi Hồ Chí Minh (1890- 1969) và Mao (1893- 1976) chết. Chính trong giai đoạn này đã xảy ra cuộc hải chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải quân Trung Quốc. Hải quân Trung Quốc được Phạm Văn Đồng hoan hô nhiệt liệt với công hàm công nhận chủ quyền Trung Quốc ở
biển đông:



Công hàm của TT Phạm Văn Đồng


Công hàm của TT Phạm Văn Đồng by Nguyen Tien Trung.




Ngày 4 tháng 9 năm 1959, Bắc Kinh ra tuyên bố chính thức về hải phận của họ, bao gồm 12 hải lý từ bất kỳ mốc lãnh thổ nào của Trung Quốc, "trong đó tính gồm cả các đảo Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa.... tức là Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam"

Mười ngày sau, Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng gởi công hàm chính thức cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai.

Và rõ ràng là ở thế kỷ XVI, Trạng Trình (1491-1585) đã thấy xe lửa Việt Nam, cuộc hải chiến này và việc cộng sản chiến thắng miền Nam. Cũng có thể ngài nhìn xa hơn nữa.

Nhân đây, tôi xin kể thêm một việc nhỏ. Giáo sư Bửu Cầm trước 1975 kể cho tôi nghe rằng người Mỹ đã tìm đến giáo sư và hỏi câu:
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng. Có phải là chiến tranh ngoài biển không?Nay những biến cố về biển đông dồn dập, uy hiếp sự tồn vong của nhân dân Việt Nam, lòng tôi không nén được kinh hãi. Câu trên vẫn có thể hiểu một cách khác.

Có ba sự kiện:+Toàn cầu: Trung Cộng xâm lăng kinh tế khắp thế giới
+Về mặt biển: Cộng sản chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và vẽ lại bản đồ thềm lục địa hình lữỡi bò. Trung Cộng nửa đùa nửa thực đề nghị với Mỹ đòi chia đôi Thái Bình Dương. Hơn nữa Trung Cộng đã đem chiến thuyền diễn hành khắp nơi từ Á sang Phi.
+Về mặt bộ, Trung cộng đã trúng thầu nhiều mối làm ăn, nhất là việc làm đường xe lửa Trung Quốc Việt Nam mà địa điểm đầu là Hà Nội:
Công ty quốc doanh Đường Sắt số 6 của Trung quốc vừa trúng thầu xây dựng hệ thống đường sắt nội đô Hà Nội trị giá gói thầu $350.57 triệu, theo tin từ Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư CSVN được hãng tin tài chính Dow Jones thuật lại.

Tin này được đưa ra không thấy hệ thống báo chí trong nước loan tải vào lúc đang có nhiều chuyện tố cáo các nhà thầu Trung Quốc trúng thầu hầu hết các dự án đầu tư xây dựng lớn ở Việt Nam và họ đem lậu hàng ngàn công nhâu đủ loại vào Việt Nam thay vì thuê mướn nhân công địa phương.

“Cổng thông tin điện tử” của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư CSVN phần tiếng Việt cũng không thấy đưa tin này.

Theo nguồn tin Dow Jones thuật lại từ bản tin của Bộ vừa nói cho biết công ty của Trung quốc sẽ lập đồ án và xây dựng hệ thống 13.5 km đường sắt cũng như cung cấp 52 toa xe trong vòng 5 năm.

Đường sắt sẽ xây dựng chạy từ trung tâm ở thủ đô tới quận Hà Đông nằm phía Tây Nam thành phố, với phí tổn chung cho dự án là $552.86 triệu. Hà Đông trước đây là thị xã của tỉnh Hà Tây nhưng nay trở thành một phần của thủ đô khi được sát nhập vào thành Hà Nội mở rộng.
http://www.hoa-viet.com/forum/archive/index.php/t-13301.html
http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=142950
Phải chăng chiến tranh ngoài hải phận Việt Nam sẽ xảy ra trong thời gian làm xe lửa Trung Việt (Nam Bắc hà thời thiết lộ thông? ).


Suy nghĩ lại, tôi thấy hai cuộc hải chiến khác nhau. Cuộc hải chiến Việt Nam Cộng Hòa và Trung Quốc 1974 hay cuộc giao phong giữa hải quân Việt Cộng và Trung cộng 1988 là không đúng ý nghĩa của Trạng Trình bởi hai điều:
  • Cuộc chiến trên chỉ hư hại vài chiếc tàu và chỉ chết mấy chục người thì không đáng kể.
  • Cuộc chiến trên xảy ra khi Ưng khứ ( Mỹ bỏ đi) còn cuộc chiến tương lại là Ưng lai ( Mỹ trở lại) Trạng Trình muốn nói đến cuộc hải chiến kinh khiếp máu loang biển đông. trong tương lai . Nhưng phải chờ Mỹ đến đánh Trung Quốc (con chim ưng đạp đầu, mổ mắt con sư tử -- Nhược đãi Ưng lai Sư tử thượng --- Mỹ là chim ưng, Tàu được mệnh danh là con sư tử Á châu), thì thế giới mới hòa bình. Chữ đãi có ý nghĩa sâu xa. Việt Nam và các nước lân cận sẽ bị Trung cộng khống chế hoặc xâm lược và phải cúi đầu cam chịu một thời gian. Phải chờ đợi quân Mỹ và đồng minh tiến công thì Việt Nam và thế giới mới được hòa bình. Tuy nhiên câu trên cũng có kẻ giải:
+Khi nào Mỹ đánh Trung Quốc thì Thái Bình Dương nổi sóng (Thái Bình phong)
+Khi nào Mỹ tấn công Trung Quốc, thì chiến tranh Thái Bình Dương lan khắp thế giới (Tứ phương thiên hạ).

Theo thiển ý , đoạn trên có ý nghĩa như sau:
Bao giờ đường xe lửa Bắc Nam thông suốt? Bắc Nam đây là Việt Nam và Bắc Quốc Trung Hoa chứ không phải Bắc Kỳ- Nam Kỳ!
Đó là giai đoạn Hồ Cẩm Đào cầm quyền , hay ẩn dật, hay chết. .(Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch)
Hải chiến rất khủng khiếp, máu loang biển động.
Hai câu năm và sáu không rõ. Phải chăng chiến tranh xảy ra năm dậu?
Phải chờ Mỹ ra tay thì thế giới mới hòa bình.
*
Một số người Việt Nam không tin thần thánh, bói toán. Đó là tự do của họ. Đừng có nửa nạc nửa mỡ như các ông cộng sản lúc thì phỉ báng thần thánh, mạ lị khoa học tiên đoán tương lai để rồi bắt giam người ta và khủng bố người ta như họ đã làm với các tôn giáo và thầy bói, đồng bóng! Nhưng nay cộng sản lại tin đồng bóng, thờ cúng, cụ thể là họ làm rầm rộ cái mà họ gọi là "môn ngoại cảm"!Họ luôn luôn oai phong mà không chút xấu hổ về những điều họ đã nói và làm trong quá khứ!

Tuy nhiên ta phải coi chứng về thần thánh và bói toán vì nhiều lẽ:
+Thần thánh có lúc ứng lúc không, ma quỷ có nhiều trình độ như con người chúng ta ở thế gian. có kẻ i tờ, có ông tiến sĩ. Các ông thầy bói cũng có thầy giỏi, thầy dở, và có lúc đúng, lúc sai.

Kinh Thư (5) là một cổ thư nhưng có nhiều điều chí lý.
  • Kinh Thư khuyên ta nên dùng ý chí quyết định mọi việc. Trừ khi nào không quyết định được hoặc nghi ngờ thì mới dùng bói toán, và cầu thần thánh.Tuy nhiên việc quan trọng nhất là phải hỏi các quan đại thần, sau là phải theo ý kiến dân chúng rồi mới bói (237).
  • Kinh Thư khuyên ta nên thận trọng. Nên chọn thầy nổi tiếng, đứng bạ ai cũng tin. Và sau khi đã chọn thầy, cũng nên kiểm nghiệm bằng cách thử gặp vài thầy để xem họ nói có đúng không và thống nhất không. Nên chọn ba người, nếu ý hai thầy giống nhau thì ta theo. (236)
+Nhiều kẻ lợi dụng bói toán để làm tiền. Việc nào, giới nào cũng có chân và giả. Có thầy bói tài ba, có thấy bói ba xạo. Chính trị gia có kẻ chân thành, có kẻ gian ác như ta đã thấy trong thế giới cộng sản. Tu hành cũng vậy, có loại chân chính, có hạng lưu manh .

Nêu bạn không tin bói toán, không tin thần thánh là tự do của bạn, nhưng xin nói thêm:
  • Nếu bạn là nhà khoa học, hay nhà kinh tế, chính trị, triết học duy vật,xin bạn đừng chỉ trích tôn giáo và các khoa học huyền bí vì đối tượng nghiên cứu của bạn không thuộc bộ môn này. Không phải chuyên môn của mình thì xin đừng đề cập đến.
  • Nếu bạn là tín đồ một tôn giáo, xin đừng chỉ trích tôn giáo khác là mê tín, dị đoan... bởi vì tôn giáo nào cũng có những điều "thiêng liêng" nhưng đối với tôn giáo khác lại là những điều khả ố, hoặc mê tín dị đoan.

Dân ta một số nông nổi. Vừa theo Tây phương ít tháng, vừa nghe cộng sản vài ngày đã lên tiếng chỉ trích duy tâm thần bí, mê tín dị đoan. Không ai phủ nhận Mỹ là khoa học kém nhưng người Mỹ bộ môn nào người ta cũng nghiên cứu kỹ dù duy tâm hay duy vật. Xem như chuyện giáo sư Bửu Cầm (nay còn sống ở Việt Nam) và chuyện về tài liệu ông Đạo Nhỏ mà CIA lấy đi thì sẽ thấy rõ người Mỹ nghiên cứu kỹ lưỡng như thế nào.TÀI LIỆU VỀ CÁC NHÀ TIÊN TRI ___

1.Ngô Sĩ Liên. Toàn Thư I, bản dịch Viện Sử Hoc, KHXH,-186).
2.Bò Đái : Lao Tuyền (Khe Bò). Khe này ở xã Bích Triều, huyện Thanh Chương, Nghệ An. Nguyễn Thiếp có câu thơ nhắc đến câu sấm trong dân gian:
Đụn sơn phân giái, Bò Đái thất thanh, Đông Thành phát thánh.(Khi nao núi Đụn nứt đôi,
Bò im tiếng,thánh sinh Đông Thành). Hoàng Xuân Hãn. La Sơn Phu Tử. Minh Tân. Paris.1952, chù, tr.62.

3. Huyện Đông Thành thuộc phủ Diễn Châu, ở gần Thanh Hóa (Phan Huy Chú. Dư Địa Chí, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, tr.69.Còn huyện Nam Đường ở miền thượng du và biển,sau cải thành Nam Đàn, thuộc phủ Anh Đô sau là Anh Sơn , ở giữa trấn Nghệ An. tr.72)
4. Trường Sa 1988 là tên gọi của cuộc xung đột trên biển Đông năm 1988 giữa Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa với Hải quân Nhân dân Việt Nam để chiếm các đảo thuộc quần đảo Trường Sa vào ngày 14 tháng 3 năm 1988 mà kết quả thắng lợi thuộc về Trung Quốc, phía Việt Nam mất 3 hải vận hạm của hải quân Việt Nam, 64 thủy binh Việt Nam đã chết.Trong các tài liệu của Hải quân Nhân dân Việt Nam, sự kiện này được biết đến với tên gọi CQ-88 (Chủ quyền-88). http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i_chi%E1%BA%BFn_Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_Sa_1988
5. Thẩm Quỳnh dịch.Bộ Giáo Dục, Saigon, 1965,




Friday, December 25, 2009


ĐÀI VOA * VIỆT NAM & TRUNG QUỐC

*
Việt Nam mua tàu ngầm để đối phó với mối đe dọa từ TQ
17/12/2009


A Russian-built, Kilo-class diesel submarine
Tàu ngầm 'Kilo' do Nga sản xuất
Nhận định về việc Việt Nam và Nga đạt một thỏa thuận mua bán vũ khí quan trọng, trong đó có 6 tàu ngầm do Nga sản xuất, một số phân tích gia cho rằng hành động này của Việt Nam là nhằm củng cố tuyên bố của mình trước Trung Quốc về chủ quyền đối với các quần đảo ở Biển Đông.

Các phân tích gia cho rằng với phần lớn số trang thiết bị quân sự đã cũ, Việt Nam đã quyết định dồn nguồn lực đáng kể vào việc phát triển một hạm đội tàu ngầm vào lúc căng thẳng đang ngày càng gia tăng với nước láng giềng khổng lồ ở phương Bắc xung quanh vấn đề về chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Mặc dù chi tiết cụ thể về thỏa thuận này không được hai bên loan báo, nhưng theo hãng thông tấn Nga Interfax, hôm thứ Ba vừa qua, nhân chuyến thăm Nga của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Việt Nam đã ký thỏa thuận mua 6 tàu ngầm của Nga với trị giá khoảng hơn 2 tỷ đôla.

Hãng thông tấn Pháp AFP trích lời một phân tích gia về quốc phòng khu vực tại trường Quan hệ Quốc tế S. Rajaratnam ở Singapore, ông Richard Bitzinger, cho rằng lý do chính của hành động này là để tạo nên một sự đối trọng đối với việc Trung Quốc tăng cường lực lượng ở Biển Nam Trung Hoa hay còn gọi là Biển Đông.

Trong khi giám đốc Học viện Chính sách Chiến lược Australia Peter Abigail cũng cho rằng hành động này không có gì đáng ngạc nhiên nếu xét đến những quan ngại của Việt Nam về tình hình trên biển đặc biệt là khu vực Biển Đông.

Một chuyên gia khác, giáo sư Carl Thayer tại Học viện Quốc phòng Australia thì nhận định với bờ biển dài và tiềm năng ngoài khơi to lớn, Việt Nam phải đối mặt với sự “yếu thế về chiến lược” và những tàu ngầm này ít nhất là sẽ giúp Việt Nam có khả năng bảo vệ lợi ích hàng hải của mình.

SU-30MKI
Chiến đấu cơ SU của Nga
Theo báo Vedomosti của Nga, hồi đầu năm nay Việt Nam cũng đã đặt mua 12 chiến đấu cơ Sukhoi Su-30MK2 của Nga, được cho là một trong các loại chiến đấu cơ tân tiến nhất thế giới, trị giá trên 500 triệu đôla.

Chuyên gia Bitzinger cho rằng với những thương vụ mua bán vũ khí lớn này Việt Nam đang tìm cách tăng cường sự hiện diện quân sự của mình.

Khi được hãng thông tấn Pháp đề nghị đưa ra nhận định trước thỏa thuận mua tàu ngầm của Việt Nam, một giới chức tại đại sứ quán Trung Quốc nói rằng Việt Nam và Nga cũng như các nước khác trong khu vực “phải nghĩ đến hòa bình ở Biển Nam Trung Hoa”.

Trong khi đó, việc Trung Quốc hiện đại hóa quân đội nước họ không chỉ khiến Việt Nam quan tâm và còn gây quan ngại ở Hoa Kỳ.

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gates từng nói rằng ưu thế quân sự của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương có thể bị hủy hoại, còn Ngũ Giác Đài thì nhận định vũ khí và chiến đấu cơ của Trung Quốc có khả năng tiến hành các chiến dịch rộng lớn ở Biển Nam Trung Hoa.

Nguồn: AFP, Vnexpress, AP
http://www.voanews.com/vietnamese/2009-12-17-voa17.cfm

*


ĐÀI BBC * TRUNG QUỐC & VIỆT NAM


Đương đầu với thách thức từ Trung Quốc




Tàu ngầm của Trung Quốc
Việc Thủ tướng Việt Nam loan báo về các hợp đồng mua tàu ngầm và vũ khí của Nga đã được nhiều tờ báo và cây bút quốc tế chú ý.
Hãng thông tấn Agence France-Presse, trong bài bình luận phát đi từ Hà Nội, nhận xét các hợp đồng này là nhằm "củng cố tuyên bố chủ quyền chống lại Trung Quốc trong vùng Biển Đông".
Hãng AFP trích ý kiến của nhiều nhà phân tích nói rằng, phần lớn trang thiết bị quốc phòng của Việt Nam đã quá cũ kỹ nên nước này quyết định bỏ ra ngân sách lớn để phát triển hạm đội ngầm của mình, trogn khi quan ngại gia tăng về căng thẳng với nước láng giềng khổng lồ trong khu vực có Hoàng Sa và Trường Sa.
Hãng tin này trích lời ông Richard Bitzinger, phân tích gia về quốc phòng khu vực tại Học viện Quan hệ Quốc tế mang tên S. Rajaratnam ở Singapore, nói rằng ý tưởng chủ đạo của việc mua vũ khí là "đối chọi lại với việc tăng cường quân sự mà Trung Quốc đang tiến hành tại Biển Đông".
Ông Peter Abigail, Giám đốc Viện Chính sách Chiến lược Australia, thì được trích lời nhận định rằng quyết định của Việt Nam không gây ngạc nhiên vì lâu nay nước này đã bày tỏ quan ngại về môi trường hàng hải, "đặc biệt ở vùng Biển Đông".
Tờ nhật báo Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (South China Morning Post) xuất bản tại Hong Kong thì đánh giá rằng "Trung Quốc đang đối diện khả năng có đối thủ mới trong sức mạnh tàu ngầm tại Biển Đông" và cho đây là dấu hiệu phản ánh quan ngại của cả khu vực trước tiến trình củng cố hải quân của Bắc Kinh.
Tầm vóc của Trung Quốc khiến toàn bộ châu Á, kể cả Nhật Bản và Ấn Độ, đều không thể sánh được về sức nặng và năng lực với nước này, dù là 20 hay 30 năm nữa. Vậy cho nên chúng tôi cần nước Mỹ để đối trọng.
Cựu Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu

Không chỉ có Việt Nam, mà cả Australia, Indonesia và Malaysia đều đang tìm cách mở rộng chương trình tàu ngầm trong khi Mỹ thì lo ngại rằng ảnh hưởng và sự thống lĩnh truyền thống của mình tại Đông Á đang bị việc phát triển hải quân của Trung Quốc thu hẹp lại.
Báo này nhận định, hợp đồng mua bán vũ khí lớn nhất kể từ khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc 35 năm trước cho thấy các nước trong vùng đang cảnh giác trước xu hướng là quyền lực mềm của Trung Quốc nay có thể trở nên cứng rắn hơn.

Tờ nhật báo tiếng Anh có uy tín nhận xét: "Với việc mua sáu tàu ngầm hạng Kilo, Việt Nam còn kiến thiết quan hệ quân sự mới với Moscow, đồng minh chính thời kỳ Chiến tranh lạnh".
Chủ trương đa phương hóa quan hệ quốc phòng của Việt Nam cũng được thể hiện trong kế hoạch hình thành quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, quốc gia đang tăng cường hiện diện hải quân tại Biển Đông.

Cân bằng ảnh hưởng

Tất nhiên, Việt Nam nhiều lần khẳng định muốn giải quyết các xung đột, tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình, nhưng giới chuyên gia cho rằng nước này, với đặc thù có bờ biển dài và trữ lượng dầu khí dồi dào trong lòng biển, cảm thấy dễ bị thương tổn nhất về chiến lược trong lĩnh vực hải quân và đó là lý do Việt Nam muốn có hạm đội tàu ngầm mạnh.
Ngoài tàu ngầm, Việt Nam còn muốn mua thêm nhiều chiến đấu cơ Sukhoi Su-30MK2 của Nga.
Đây là loại máy bay chiến đấu hiện đại nhất và có thể bảo vệ, hỗ trợ hải quân từ trên không.
AFP trích lời ông Bitzinger nói: "Việt Nam mong muốn nhất là tăng cường hiện diện của mình về quân sự."

Bưu điện Hoa Nam thì nói rằng ý định tìm cách quân bằng lại sự trỗi dậy của Trung Quốc là một trong những chủ đề được nhắc đến nhiều nhất trong các thảo luận cấp cao ở trong khu vực.
Cựu Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu hồi tháng 10 đã nói một câu có tính khái quát cao, trong đó ông đặt câu hỏi về tính minh bạch trong kế hoạch củng cố quốc phòng của Trung Quốc và kêu gọi Hoa Kỳ tham gia.
Ông nói Mỹ sẽ đánh mất vai trò lãnh đạo toàn cầu nếu không "đối trọng" lại với sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Hải quân Trung Quốc đang được hiện đại hóa nhanh chóng. Các nước láng giềng không đe dọa được chúng tôi
Tướng Trung Quốc Xu Guangyu
"Tầm vóc của Trung Quốc khiến toàn bộ châu Á, kể cả Nhật Bản và Ấn Độ, đều không thể sánh được về sức nặng và năng lực với nước này, dù là 20 hay 30 năm nữa. Vậy cho nên chúng tôi cần nước Mỹ để đối trọng."Thế còn Trung Quốc nói gì trước việc Việt Nam mua vũ khí của Nga?
Hãng AFP trích một quan chức giấu tên ở tòa đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội nói rằng cả Việt Nam, Nga và các nước khác trong khu vực đều "cần nghĩ tới hòa bình và hoà bình trong vùng Biển Đông".
Tờ Bưu điện Hoa Nam trích lời một vị tướng của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc nay đã về hưu, ông Xu Guangyu, nói: "Đây không bất ngờ và cũng chẳng phải đe dọa cho Trung Quốc".
"Việt Nam có bờ biển dài và chúng tôi hiểu tại sao họ cần nâng cấp hạm đội. Có thể họ thấy nhu cầu cấp thiết hơn vì chương trình hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc."
"Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu các nước khác cũng bắt đầu nâng cấp hạm đội của mình. Đa phần hải quân các quốc gia trong khu vực đều làm thế cả và có thể hiểu được điều này."

Tướng Xu cho rằng cạnh tranh ở đâu cũng có, nhưng không nên thổi phồng tầm mức cạnh tranh.
"Hải quân Trung Quốc đang được hiện đại hóa nhanh chóng. Các nước láng giềng không đe dọa được chúng tôi."



Wednesday, December 23, 2009


SƠN TRUNG * VIỆT NAM & TRUNG QUỐC

**

I. TRUYỀN THỐNG XÂM LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC

Trong vùng Á châu, Trung Hoa là một nước lớn nhất và đông dân nhất. Trung Hoa cũng tự hào là một nước có nền văn minh tối cổ. Vì cậy mình mạnh, từ đời Tần, Thủy Hoàng với mộng trường sinh bất lão và mộng bá chủ hoàn cầu đã đem quân xâm lấn các nước lập thành nước Trung Quốc. Năm 214 tr.TL, Tần Thủy Hoàng đã sai tướng Đồ Thư xâm lược nước ta nhưng rồi cũng bị thất bại.Nước ta được độc lập một thời gian. Sau nhà Hán lên, Hán Cao Tổ tiếp tục chính sách bá chủ thiên hạ. Năm 196 tr.TL, Hán Cao Tổ sai Lục Giả sang chiêu hàng Triệu Đà và xâm lược nước ta. Kết quả là nhân dân ta sau một thời kỳ lệ thuộc nhà Hán đã giành được độc lập.

Đến thời Hốt Tất Liệt, quân Mông Cổ đã sang chiếm châu Âu, đem quân đánh Nhật Bổn nhưng bị sóng cả đánh tan thuyền. Quân Mông cổ thắng khắp nơi nhưng đã thất trận tại Việt Nam. Tiếp theo, người Mãn Thanh chiếm Trung Quốc, lập nhà Thanh. Nhân Lê Chiêu Thống sang cầu cứu, họ bèn đem quân xâm lược, rốt cuộc Tôn Sĩ Nghị đại bại dưới tay Nguyễn Huệ..
Nhờ có biến loạn trong nước, nhất là việc bát quốc xâm chiếm Trung Quốc cho nên nước ta không bị nhà Thanh quấy nhiễu. Đến thời Dân Quốc, Mao Trạch Đông nổi lên, nhờ có Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng chống cự nên Trung Cộng không chiếm được lục địa và tiến đánh Việt Nam. Sau 1945, Đồng minh giao cho Tưởng kiểm soát Việt Nam nhưng Tưởng Giới Thạch trả lời:
"Chúng tôi không nhận nhiệm vụ này vì người Việt Nam hay chống đối chúng tôi!"

Tưởng Giới Thạch trả lời như vậy bởi vì ông không có tham vọng như Mao. Vả lại, Tưởng là ngưởi thông minh, ông hiểu số phận của ông đã được Mỹ quyết đinh từ lâu.Khi bắt tay với Nga chống phát xít, hoặc chậm lắm là trong hội nghị Yalta chia thiên hạ, Mỹ đã phải chấp nhận chia Đông Âu và Trung Quốc cho Stalin.

Chính nhờ Pháp và Mỹ mà từ 1945 cho đến 1975, một nửa dân Việt Nam được hưởng chút ít tư do trong buổi Quốc Cộng phân tranh nếu không sau 1947, Việt Nam cũng lâm hoàn cảnh Tây Tạng, Mông Cổ, Tân Cương. Từ 1945, Việt Minh lên là đa số bị tại họa cộng sản. Chính từ 1924, Hồ Chí Minh đã trở thành tay sai Đệ tam quốc tế, sau đó là tay sai Trung Quốc. Hồ Chí Minh hai vai mang nặng Nga Hoa. Kết quả là 1945, Nga Hoa lãnh đạo Cộng sản Việt Nam mà Trung Quốc là nước trục tiếp yểm trợ và rèn luyện cộng sản Việt Nam. Khi lập Đệ tam quốc tế là Stalin đã muốn tóm thâu thế giới. Nga và Trung Quốc chính là hai nước đế quốc cộng sản. Họ dùng chủ nghĩa Marx, đảng cộng sản và vũ khí xâm chiếm thế giới. Chính Nga và Trung Quốc đã mượn tay và mượn danh nghĩa Việt Nam để chiếm Việt Nam cũng như Bắc Việt mượn tay và mượn danh nghĩa Giải Phóng Miền Nam để chiếm miền Nam.

Lã Quý Ba (LÃ QUÝ BA *HỒI KÝ ) nói rằng viện trợ của Trung Quốc là vô vị lợi (tất nhiên có phần cho không chứ không phải là tất cả) nhưng trước khi đánh Điện Biên Phủ, và tất nhiên để chắc ăn, Mao đã yêu cầu phần lớn quan chức trung ương Việt Nam gồm Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp , Tôn Đức Thắng. . .bí mật sang Trung Quốc ký kết hiệp định bán nước.Sau này, Phạm Văn Đồng ra mặt công nhận Trường Sa, Hoàng Sa là lãnh thổ Trung Quốc.

( hình trong sách của Lã Quý Ba )
Còn trong thời chiến, ông Hồ đã cho phép quân Trung Quốc mở trường huấn luyện, đặt kho lương thực và vũ khí tại biên giới và nơi này trở thành đất đai của họ, người Việt Nam hay Mán, Thổ, Mường . . .đều cấm lai vãng. (Vũ Thư Hiên, Đêm Giữa Ban Ngày)
Nay thì rõ ràng là Trung Quốc muốn chiếm Việt Nam và thế giới.

Tuy khéo giấu diếm, Trung Quốc cũng đã hù họa, thách thức Việt Nam. Trong lúc Việt Hoa còn thắm thiết, trong một cuộc hội nghị Hữu nghị Việt Trung, Trần Huy Liệu lúc bấy giờ còn được ông Hồ trân quý, giao cho chức vụ Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt – Trung dù trong “thế” phải giữ gìn ông vẫn có thể trả lời ngoại trưỏng Trần Nghị khi ông này ghé tai hỏi: “Các đồng chí có sợ chúng tôi không? ” rằng: “Các đồng chí cứ nhìn lại lịch sử!
(Ngô Vĩnh Bình.Trần Huy Liệu là chứng nhân, là câu hỏi của thế kỷ XX. http://www.vannghequandoi.com.vn/-nhanvt-vn-skin/1--nhanvt-vn-skin/4453-trn-huy-liu-la-chng-nhan-la-cau-hi-ca-th-k-hai-mi.html


Trong thế giới có ba hạng người. Một hạng lương thiện, một hạng gian ác và một hạng gian nịnh. Hạng hùng mạnh mà sinh ra kiêu căng, đàn áp, cướp bóc cũng chỉ vì lợi danh. Chủ đề tiểu thuyết của Kim Dung chính là tố cáo tâm lý xưng hùng bá của một số hiệp khách mang danh quân tử nhưng thực chất là " ngụy quân tử", là những tên gian tham, đại gian, đại ác.

Trong thế kỷ XX, Stalin đã chiếm các nước nhỏ lập liên bang Xô Viết, sau đó ông thôn tính Đông Âu. Liên Xô là một cường quốc của phe XHCN, Liên Xô không cần thần phục ai. Stalin thuộc hạng gian ác, hống hách. Trung Quốc là một nước nghèo và lạc hậu. Buổi đầu, Trung Quốc đã phải thần phục Liên Xô. Có nguồn tin nói rằng Mao đã cắt đất phía Bắc dâng cho Nga để cầu viện trợ. Đến khi Khrutchshev hạ bệ Stalin là thần tượng của Mao, hai nước đưa đến chiến tranh biên giới (nhưng họ giữ kín cũng như chiến tranh Việt Trung trước 1979).

Tâm lý Trung Quốc, Việt Nam là tâm lý hạng gian nịnh. Họ có hai khuôn mặt. Một bộ mặt nịnh bợ kẻ mạnh, đồng thời có bộ mặt hống hách với kẻ yếu. Tục ngữ Việt Nam có câu" Nịnh trên đạp dưới" chính là thái độ của Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nói là "nịnh trên", thực ra có lúc " chó cắn chủ". Đó là trường hợp Trung Quốc chống Liên Xô, và Việt Nam chống Trung Quốc thời Lê Duẩn.

Tại sao Trung Quốc chống Liên Xô? Họ xung đột vì ba lý do:
+Liên Xô hạ bệ Stalin là thần tượng của Mao. Việc xét lại ở Liên Xô có thể đưa đến việc xét lại ở Trung Quốc mà Mao có thể bị lật đổ dưới sự thúc đẩy của Liên Xô thời Khrutchshev,
+Liên Xô xâm chiếm biên giới phía bắc của Trung Quốc.
+Các cố vấn Liên Xô khinh mạn Trung Quốc chẳng khác gì bọn Anh, Pháp, Đức. . .

Còn Việt Nam chống Trung Quốc là do ba nguyên nhân:
+Việt Nam đã ký hiệp định liên minh với Nga nên không sợ Tàu.
+Việt Nam chiến thắng Mỹ nên tin tưởng có thể đánh thắng ông thầy mình!
+Việt Nam không muốn bị Trung Quốc khống chế.

Tại sao Trung Quốc khống chế Việt Nam ? Vì Trung Quốc muốn làm bá chủ theo đường lối đế quốc phong kiến kết hợp với đế quốc cộng sản.

  • Trung Quốc bắt bọn CS Việt Nam phải cúi đầu như trong hiệp định Genève. Trung Quốc muốn lấy lòng quốc tế đã chơi đẹp, tự ý cắt vĩ tuyến 17 phân chia Nam Bắc trong khi Phạm Văn Đồng không muốn chia cắt, và nếu chia cắt thì phải cắt từ vĩ tuyến 16.Nếu Việt Nam không tuân lệnh, thì Trung Quốc căt viện trợ.
  • Trung Quốc đưa cán bộ trực tiếp lãnh đạo CCRĐ
  • Trung Quốc muốn Mỹ ở lại Miền Nam để ngăn chận Liên Xô
  • Trung Quốc muốn Việt Nam trung lập, chịu ảnh hưởng Nga, Tàu, Mỹ, Pháp. Đây chính là một âm mưu Trung Quốc nhắm cai trị Việt Nam bằng phương thức quốc tế trung lập. Chính vì sơ Giải Phóng Miền Nam theo Trung Cộng và Pháp trong ván bài trung lập mà Bắc Việt phải thống nhất cấp thời và đá văng bọn Giải Phóng Miền Nam.
Con người ta suy yếu cũng muốn làm anh chị, như Việt Nam đã xâm lược Miên, Lào, huống hồ Trung Quốc nay đã có bộn tiền nhờ buôn bán với tư bản. Nước Anh trước kia bị La Mã đô hộ, sau khi cách mạng khoa kỹ thuật thành công, liền lộ bộ mặt đế quốc. Tiếp theo là Pháp. Nhật Đức Ý cũng vậy. Tâm lý con người là như thế! Ít ai giữ trọn khí tiết "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di!"Ban đầu Đặng Tiểu Bình rất khiêm nhường. Trước khi đánh Việt Nam, ông đã sang Mỹ ,Úc thăm dò quan điểm thế giới. Ông tuyên bố là người Trung Quốc phải khiêm tốn, phải cúi mình thật thấp và đừng bao giờ đi trước” trong các vấn đề quốc tế.(TRẦN BÌNH NAM * TRUNG QUỐC)

Đặng Tiểu Bình và Trung Quốc lúc này như một vị tân khoa nghèo nay được bổ nhậm làm quan cho nên buổi đầu còn khiêm cung. Đến Hồ Cẩm Đào thì chồn đã thành tinh lộ bộ mặt đanh ác đe dọa thế giới. Mấy ông đảng ác ôn cộng với bọn quân phiệt đua nhau đốc thúc chế tạo vũ khí , luyện tập quân đội và đóng các hải thuyền để thực hiện mộng bá chủ toàn cầu.

Giáo sư Willy Wo-Lap Lam, chuyên viên nghiên cứu tại The Jamestown Foundation, và từng viết bình luận cho Asiaweek, South China Morning Post, đã viết bài “China unveils its new worldview” đăng trên Asia Times on line ngày 11 /12/2009: http://www.atimes.com/atimes/China/KL11Ad01.html thuật bài báo “Quan điểm của Chủ Tịch nước Hồ Cẩm Đào trong thời đại mới” (Hu Jintao’s Viewpoints about the Times) đăng trên tuần báo Outlook Weekly (của đảng cộng sản Trung quốc) số cuối tháng 11 vừa qua. Quan điểm của Hồ Cẩm Đào gồm 5 điểm do Zhang Xiaotong, một lý thuyết gia của đảng viết :

( 1). Sự thay đổi sâu rộng của thế giới
(2). Xây dựng một thế giới hài hòa
(3). Cùng nhau phát triển
(4). Chia xẻ trách nhiệm
(5). Nhiệt tình hợp tác vào công việc thế giới

Lý thuyết gia Zhang Xiaotong cho rằng quan điểm của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào là một sáng kiến lý thuyết quan trọng dựa vào sự phán đóan một cách khoa học sự phát triển của thế giới qua thời gian. (TRẦN BÌNH NAM * TRUNG QUỐC)

Trước đây, thế giới đã khốn đốn về những lời giả dối. Thực dân, đế quốc xâm lược thế giới dưới danh nghĩa truyền bá văn minh, mở rộng nước chúa. Cộng sản thì rêu rao tinh thần vô sản quốc tế, đấu tranh giai cấp, công bằng xã hội. Trước đây, Nhật Bản cũng thương yêu người châu Á với chủ thuyết " Đại Đông Á", và khẩu hiệu "Châu Á của người Á châu"! Và bây giờ Hồ Cẩm Đào với bọn quân phiệt đưa ra chính sách năm điểm, nghe thiệt kinh hoàng! Đó là một bản tuyên ngôn của đế quốc Cộng sản Trung Quốc, là một bản tuyên chiến với nhân loại, đặc biệt là phe tư bản.

Trước đây, người Trung Quốc đã ngạo mạn. Họ nhờ Liên Xô cung cấp vũ khí, cố vấn và tổ chức nhưng sau đó thì họ cho rằng trong khi bọn Nga sống man dã thì người Trung Quốc sống ung dung, ngồi uống trà, nhắm rượu. Mao bảo Mỹ là con cọp giấy. Nay thì Mỹ vay nợ Trung Quốc. Người Trung Quốc và bọn nịnh Trung Quốc lên tiếng Mỹ đã hết thời. Nay là thời của Trung Quốc xưng bá chủ thay Mỹ. Trung Quốc thay thế Mỹ cai trị thế giới và đồng Quan thay đồng Mỹ kim. Hạm đội Trung Quốc sẽ làm chủ Thái Bình Dương và thế giới....Đây là một sự thật không phải vu khống cho Trung Quốc. Nay với chủ thuyết năm điểm, thì những ai hững hờ với cuộc thế cũng phải lo âu! Một Hốt Tất Liệt sẽ san bằng không những châu Âu mà toàn thế giới!
Chúng ta thử phân tích sơ lược năm điểm của thế giới quan Trung Quốc:

-Thế giới phải thay đổi, nghĩa là Mỹ, Anh, Pháp phải đầu hàng Trung Quốc, không còn làm cha thiên hạ như trước đây!
-Xây dựng một thế giới hòa hài dưới sự lãnh đạo của cộng sản Trung Quốc, nghĩa là tất cả các nước sẽ biến thành Tây Tạng, Tân Cương. Và các tôn giáo như Thiên chúa giáo, Tin Lành giáo, Do Thái giáo, Ấn Độ giáo sẽ bị giết, bị tù như Pháp luân công,và Phật giáo Tây Tạng.
-Cùng nhau phát triển như kiểu Việt Nam và Trung Quốc hợp tác đánh cá mà ngư dân Việt Nam bị cấm đánh cá trên hải phận của mình!
-Chia xẻ trách nhiệm nghĩa là từ nay Trung Quốc sẽ chia quyền lợi với Mỹ, Anh, Pháp!Hay nói rõ hơn, Trung Quốc cầm đầu thế giới, Anh, Pháp Mỹ chỉ là thứ thằn lằn, cắc ké. . .
-Nhiệt tình hợp tác vào công việc thế giới nghĩa là từ nay Trung Quốc sẽ là sen đầm quốc tế, sẵn sàng đem quân can thiệp mọi nơi!Nước nào cứng đầu sẽ bị xóa sổ theo khẩu hiệu
" Hàng thì sống, chống thì chết!" mà cộng sản các nước đều làm và nói y chang!

II.VIỆT NAM, LÊ CHIÊU THỐNG HAY NGUYỄN HUỆ ?Trước thái độ hung hăng của Trung Cộng, các ông cộng sản đầu sõ co vòi rụt cổ không dám lên tiếng phản đối, để mặc cho đất nước và hải phận bị xâm chiếm, ngư dân bị đánh đuổi. Các ông lớn thay nhau sang Trung quốc triều cống, lạy lục. Trước và sau khi sang Mỹ, họ đều thưa trình Trung Quốc! Họ là Lê Chiêu Thống quỳ lạy khóc lóc ở cung điện nhà Thanh hay Việt Câu Tiễn phải nếm phân, hay Hàn Tín phải tạm thời nhẫn nhục mà luồn trôn?

Nay thì Việt Nam đã có bốn hành động mới tương đối tích cực.
-Một số tướng lãnh lên tiếng xa gần.
-Việt Nam đã sang giao thiệp với Mỹ và các nước Asean
-Việt Nam mua vũ khí của Nga, Pháp. . .
-Chính sách quân sự mới

Các báo chí ngoại quốc đã đưa tin và bình luận việc này.

1.
CÁC TƯỚNG LÃNH LÊN TIẾNGTrước đây, cuối năm 2008 và đầu năm 2009, báo chí trong và ngoài nước đã loan tin đại tướng Võ Nguyên Giáp và trung tướng Đồng Sĩ Nguyên lên tiếng chống đối việc để Trung Quốc khai thác mỏ Bauxite Tây Nguyên, vì khai thác Bauxite sẽ gây ô nhiễm, và Tây nguyên là điểm trọng yếu về quân sự, không thể để cho ai chiếm lãnh. www.bbc.co.uk/vietnamese/.../090503_dongsinguyen.shtml

Nay nhân kỷ niệm 65 năm thành lập quân đội, tướng Đồng Sĩ Nguyên trả lời phóng viên Vietnamnet về nền độc lập của Việt Nam:
Dân tộc Việt Nam yêu nước nồng nàn và khát khao chung sống hòa bình, không gây chuyện với bất kỳ ai để chăm lo cuộc sống. Nhưng mà nhớ rằng bất cứ ai đến xâm lăng nước ta thì có thể nói là không được quyền. (Hình tướng Đồng Sĩ Nguyên)

Bàn về tình hình Biển Đông, ông nói:
Biển Đông hiện nay là thách thức trực tiếp, hiện hữu với sự tham gia của nhiều nước nhiều bên trong khu vực. Tranh chấp Biển Đông thì xưa nay vẫn thế và hiện nay còn gay gắt khốc liệt hơn do tài nguyên biển phong phú ở khu vực này.
Ứng xử của chúng ta là hết sức tìm cách xây dựng hòa bình, tìm cách giải quyết vấn đề bằng con đường đàm phán thương lượng…. Nhưng chúng ta cũng không thể nhân nhượng nếu ai đó cứ đi mãi con đường đè nén hay phá phách công cuộc xây dựng, phát triển đất nước của Việt Nam.
Tôi mong các bên liên quan bình tĩnh, cùng bàn bạc để làm thế nào hợp tác, cùng khai thác Biển Đông. Chứ đừng tưởng mạnh là thắng được yếu đâu.



Trong hàng trăm tướng lãnh, ta chỉ thấy hai ông tướng già 80-90 tuổi lên tiếng, còn các vị tuổi trẻ giòng hào kiệt thì sao?

2. VIỆT NAM, MỸ & ASEANNguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Minh Triết đã sang Mỹ trong năm 2009. Cuối năm, đại tướng Phùng Quang Thanh, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam đã đi thăm Asean và Hoa Kỳ. Ngày 12-12, Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam, đại tướng Phùng Quang Thanh tuyên bố với Thông tấn xã Việt Nam sáng hôm nay, sau khi công du Hoa Kỳ và Pháp trở về:
Việt Nam sẽ phát triển hợp tác quốc phòng song phương và đa phương, tham gia mọi hoạt động quân sự của ASEAN cũng như với các nước Châu Á Thái Bình Dương trong tinh thần tự chủ và độc lập.

Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam nói rằng một trong những công việc ưu tiên hàng đầu của quân đội Việt Nam là hợp tác trong lãnh vực tuần tra trên biển với Trung Quốc, Campuchia và Thái Lan, sắp tới sẽ hợp tác thêm với Indonesia, Malaysia và Philippines. Việc hợp tác này nhằm tránh những tranh chấp lãnh hải ở biển Đông.

Trong khi đó thì tư lệnh hải quân Việt Nam, trung tướng Nguyễn Văn Hiến, cho biết hải quân Việt Nam đang được hiện đại hoá.

Tướng Nguyễn Văn Hiến tuyên bố việc bảo vệ chủ quyền , giữ an ninh lãnh hải , đánh đuổi tàu nứơc ngoài xâm phạm hải phận là nhiệm vụ của hải quân Việt Nam, dù phải chiến đấu và hy sinh. ĐÀI Á CHÂU TỰ DO

Ngày 16-12-2009, Đài VOA đưa tin về cuộc hội đàm quân sự Việt Mỹ tại Ngũ Giác Đài. vào 8-12-2009. Giáo sư Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm)
từ Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á – Thái Bình Dương ở Hawaii, nhận định rằng chuyến thăm của ông Thanh là một ‘dấu mốc mới trong quan hệ quốc phòng giữa hai nước Việt Nam – Hoa Kỳ’. . .



(Hình DT.Phùng thăm Hawaii)
Trước đó, hôm 11/12, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đã tới một căn cứ hải quân và lên thăm một tàu ngầm tấn công USS Jacksonville của Hoa Kỳ ở Hawaii. Thông cáo của Hải quân Hoa Kỳ nói rằng Mỹ và Việt Nam ‘ngày càng tăng cường hợp tác trong một loạt các lĩnh vực như gìn giữ hòa bình; cứu trợ nhân đạo; tìm kiếm cứu nạn; an ninh biển và biên giới’.


Giáo sư Vũ Hồng Lâm cho rằng chặng dừng chân ở Hawaii của ông Thanh cho thấy ‘mối quan tâm về vũ khí’ của Việt Nam: 'Chuyến thăm này có một điểm đặc biệt là ông Phùng Quang Thanh không đến thẳng Washington, mà trước khi đến đó, ông dừng lại ở Hawaii ba ngày để đi thăm bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ - tức là bộ tư lệnh có trách nhiệm đối với toàn bộ khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Ông thăm cơ sở của hải quân và không quân cụ thể như đến xem tầu ngầm và máy bay. Điều đó cũng nói lên phần nào là phía Việt Nam có thể cũng quan tâm đến vấn đề mua vũ khí của Mỹ'.

Đây là lần thứ hai một Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ kể từ khi hai bên bình thường hóa quan hệ năm 1995. Vào năm 2003, vị Bộ trưởng lúc đó là Phạm Văn Trà đã có chuyến công du sang Washington.

Chuyến đi lần này của ông Thanh tới Hoa Kỳ được các nhà quan sát đánh giá là một thời điểm tốt khi Việt Nam đang tìm cách tranh thủ sự ủng hộ quốc tế nhằm đối phó với Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông. ĐÀI VOA * TIN VIỆT MỸ

Việc này là một điều bất đắc dĩ cho Việt Nam. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam phải lạy lục Trung Quốc để làm nô lệ mà kiếm chút cơm thừa canh cặn của Trung Quốc. Nay bị Trung Quốc xâm lược, họ phải quay sang phe tư bản. Tất nhiên đây cũng là một lựa chọn khó khăn vì trong nội bộ trung ương cộng sản, có người của Trung Quốc cầm quyền. Họ chiếm đa số. Thiểu số thờ ơ, gió chiều nào thì che chiều ấy. Một số nghĩ đến việc phải nhờ Mỹ và các nước tư bản. Hai phe này tranh đấu. Phe Nông Đức Mạnh với Tổng cục 2, tổng cục 4 đã muốn đảo chánh lập một chính phủ theo Trung Quốc hoàn toàn. (
ĐÀI Á CHÂU TỰ DO * TỔNG CỤC 2. Bên Kia Bờ Đại Dương.số 113,ngày tháng8 2009.)

Trong khi đó, các khách Asean cũng đã đến thăm Việt Nam.
Trung tướng Trần Quang Khuê, phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam vừa tiếp phó đề đốc Ferdinand Golez, tư lệnh hải quân Philippines.
Trong chuyến thăm Hà Nội, ông Ferdinand Golez đã có cuộc hội đàm với tư lệnh Hải quân Việt Nam.
Ông Golez đuọc báo Việt Nam trích lời nói, “mong muốn quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hải quân Việt Nam và Philippines ngày càng phát triển.”

Tư lệnh hải quân Philippines đề nghị tiếp tục trao đổi đoàn quân sự ở các cấp “nhằm tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau.”
Hiện hai nước Việt Nam và Philippines đang “nghiên cứu thời điểm thuận lợi để ký Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng song phương,” theo tin của báo trong nước.
Trong một hoạt động khác, thượng tướng Nguyễn Khắc Nghiên, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam đã tiếp bà Maha Chakri Sirindhorn, Công chúa Thái Lan trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/11/091128_vn_asean_military.shtml

Nay thì bộ trưởng quốc phòng Việt Nam sang Mỹ nhưng Tổng bí thư đảng cộng sản lại ra chỉ thị cho quân đối chống diễn biến hòa bình nghĩa là chống tư bản nói chung và Mỹ nói riêng. Hội nghị quân chính toàn quân 2009 diễn ra trong hai ngày 05/12-06/12, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh tham dự và đọc bài phát biểu:
"Trong tình hình mới, hơn bao giờ hết, quân đội phải tỉnh táo, nhạy bén về chính trị, phân biệt rõ địch, ta, đối tượng, đối tác, nắm vững bản chất, đánh giá đúng các hiện tượng, chủ động ngăn ngừa và đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch".
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/12/091207_hoinghi_quanchinh.shtml

Như vậy là nội bộ không nhất trí, kẻ theo Trung Quốc, người theo Mỹ hay đu dây ở giữa?

3. MUA VŨ KHÍ

Việt Nam đã đặt mua vũ khí và tàu lặn, máy bay của Nga.

Hồi giữa tháng này, ông Nguyễn Tấn Dũng-Thủ tướng Việt Nam, đến Nga rồi xác nhận với báo giới Nga rằng Việt Nam đã ký các hợp đồng mua tàu ngầm, máy bay và các trang thiết bị quốc phòng khác của Nga. Báo chí Nga tiết lộ thêm, Nga sẽ chế tạo cho Việt Nam 6 tàu ngầm hạng Kilo, sẽ giao cho Việt Nam 8 chiến đấu cơ loại SU-30MK2 và Việt Nam dự định mua thêm 12 chiến đấu cơ loại này, cùng với một lượng lớn trực thăng MI-17,...
Đúng thời điểm đó, truyền thông Nga loan báo thêm, một xưởng đóng tàu ở Tatarstan tiết lộ vừa hoàn tất việc đóng một tuần dương hạm loại Gepart-3.9 cho Việt Nam và đang thực hiện tuần dương hạm thứ hai.
Cũng vào giữa tháng 12, tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đến Hoa Kỳ. Tướng Thanh cho biết ông đã đề nghị Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Sau đó, Hoa Kỳ loan báo đang cân nhắc việc bán cho Việt Nam các phương tiện quân sự không sát thương như hệ thống radar hay máy bay tuần tra. Trong tương lai, có thể Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ Việt Nam rà gỡ bom mìn, tham gia các lĩnh vực gìn giữ hoà bình, tìm kiếm cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thiên tai.
Ngay sau khi rời Hoa Kỳ, tướng Phùng Quang Thanh tới Pháp, chính thức bày tỏ mong muốn mua từ Pháp các loại máy bay vận tải và trực thăng, đề nghị hỗ trợ huấn luyện quân y, hợp tác quốc phòng song phương.
Đó là chưa kể, ở thời điểm giữa tháng 12 còn có sự kiện tướng Nguyễn Huy Hiệu-Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam, đi thăm Hàn Quốc để phát triển quan hệ đối tác chiến lược. Tại Hàn Quốc, tướng Hiệu đã đến thăm một tập đoàn đóng tàu, một tập đoàn thiết bị quốc phòng, chuyên sản xuất các hệ thống điện tử chính xác cho hỏa tiễn, radar... http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Modernizing-the-military-The-hope-is-not-simply-TrVan-12232009100336.html
Quốc tế có vài ý kiến khen ngợi vì việc mua vũ khí này là đúng. Trong lúc này Việt Nam có nhiều tiền cũng nên bỏ ra một số đô la để hiện đại hóa quân đội. Không lẽ trong khi Trung Quốc bành trướng, Việt Nam chỉ biết mua xe hơi, hoặc mua cây kiểng giá triệu đô la mà chơi, hoặc trùm chăn nằm ngủ hay sao? Ông Ernest Bower, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á của Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Quốc tế của Hoa Kỳ thì cho rằng!
: “Việc quân đội Việt Nam hiện đại hóa là nhằm duy trì khả năng để bảo vệ quyền lợi của mình. Giúp họ ngang tầm với các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á và châu Á nói chung, bao gồm cả Trung Quốc.” Trả lời Ban Việt ngữ Đài Á châu Tự do, ông Carl Thayer, giáo sư Học viện Quốc phòng Hoàng gia Úc, chuyên nghiên cứu về Việt Nam, nhận định rằng việc mua hàng mới là đúng:
Kể từ sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ hồi năm 1991, quân đội Việt Nam đã có sự suy yếu đáng kể vì họ không thể tự bảo dưỡng những loại vũ khí và thiết bị quân sự trị giá hàng tỷ đô la của Liên Xô. Đây là lý do họ phải thay đổi.”
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Modernizing-the-military-The-hope-is-not-simply-TrVan-12232009100336.html

Riêng Thái Lan nhìn việc này bằng đôi mắt e ngại và lo lắng. Họ lo Việt Nam sẽ gây ra việc chạy đua vũ khí làm mất hòa bình ở vùng này. Phải chăng họ muốn Việt Nam đưa tay cho Trung Quốc bắt trói ? Họ muốn yên, nhưng họ có nghĩ rằng sau khi chiếm Việt Nam, Trung Quốc có để yên cho Thái Lan không? Hay họ sợ Việt Nam sẵn súng ống, tàu bè sẽ theo Trung Cộng mà đe dọa họ như Việt Nam đã cùng bọn Khmer Đỏ xâm phạm Thái Lan trước đây?

Tuy nhiên, các bình luận gia quốc tế cũng nêu lên những khó khăn của Việt Nam:

(1).Trên thực tế có nhiều biểu hiện cho thấy năng lực của cả không quân lẫn hải quân Việt Nam đều rất yếu.
Đài Á châu tự do viết:
Trong nhiều năm qua, năm nào cũng có vài vụ tai nạn xảy ra với máy bay quân sự, khi phi công Việt Nam đang tập luyện. Theo báo chí Việt Nam, riêng trong năm nay, ít nhất đã có hai vụ tai nạn liên quan đến máy bay quân sự. Vụ thứ nhất xảy ra hôm 9 tháng 6. Hôm đó, trong khi đang thực hiện bài bay huấn luyện, một chiếc SU-22 đã lao xuống xã Cẩm Phú, huyện Cẩm Thủy, cách thành phố Thanh Hóa khoảng 60 cây số khiến một đại úy phi công thiệt mạng. Vụ thứ hai diễn ra hồi tháng trước. Ngày 22 tháng 11, trong một đợt huấn luyện, một chiếc MIG-21 đã lao xuống khu vực phường Yên Ninh, thành phố Yên Bái khiến một thượng tá là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân 31 và một thượng úy cùng tử nạn. Đối với hải quân, tuy Việt Nam có khoảng 3.000 cây số bờ biển song giới nghiên cứu quốc phòng cho biết, tàu chiến Việt Nam vừa thiếu, vừa cũ kỹ. Đây cũng là lý do khiến nhiều ngư dân cũng như thân nhân của họ cùng than, như vợ của thuyền trưởng một tàu đánh cá, ngụ ở Đà Nẵng: “Ở ngoài biển phần ai nấy biết chứ có ai bảo vệ mô. Bảo vệ là hồi bão tố, biên phòng ở trong bờ điện ra nhắc chừng, bảo là đài báo bão, bảo phải cập bến thì họ kêu gọi mình vô bờ thôi chứ ngoài đó làm chi có ai bảo vệ. Làm ăn ngoài biển mạnh anh mô lo anh nấy. Lo làm ăn thế thôi chứ không có ai bảo vệ hết!”

Đối với hải quân, tuy Việt Nam có khoảng 3.000 cây số bờ biển song giới nghiên cứu quốc phòng cho biết, tàu chiến Việt Nam vừa thiếu, vừa cũ kỹ.

Mãi đến gần đây, hiện đại hóa quân đội nói chung và hiện đại hóa hải quân nói riêng mới được Quốc hội, các viên chức lãnh đạo nhà nước, chính quyền, cũng như quân đội loan báo rộng rãi. Đặc biệt là trong một vài tuần qua, Việt Nam liên tục chứng minh mình đang nỗ lực biến mong muốn hiện đại hoá quân đội thành hiện thực. http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Modernizing-the-military-The-hope-is-not-simply-TrVan-12232009100336.html
(2). Tốn kémTuy nhiên, trong bài trên, cả ông Carl Thayer và ông Ernest Bower cùng tin rằng kế hoạch hiện đại hóa quân đội của Việt Nam có khá nhiều rủi ro mà rủi ro đầu tiên là chi phí quá lớn. Ngoài chi phí để mua, còn phải có tiền để chi cho huấn luyện và đầu tư hạ tầng phục vụ việc sử dụng chúng.
(3). Vũ khí hỗn tạp
Trong bài trên, ông Carl Thayer và ông Ernest Bower cho rằng khi mua nhiều loại vũ khí, thiết bị quân sự khác nhau của nhiều quốc gia, cả việc bảo dưỡng lẫn phối hợp sử dụng sẽ hết sức phức tạp, tốn kém.

Tuy nhiên ta cũng thông cảm cho Việt Nam. Đứa con vừa buông tay ra khỏi vú mẹ dứt sữa tập ăn cháo, ăn cơm thì sẽ bỡ ngỡ. Sau 1975, nhất là sau đổi mới 1986, đảng và quân đội, cho là đại thắng lợi, đã đánh thắng những kẻ địch hùng mạnh nhất, kể từ đây không còn ai dám đụng đến Việt Nam. Lòng tự hào cộng với cơ hội làm ăn cho nên họ ngủ quên trên chiến thắng, và bỏ súng mà lo việc kinh doanh. Hơn nữa, họ cũng như ông Hồ tin tưởng Trung Quốc là đồng chí và anh em, là thành trì cách mạng, là chỗ dựa vững chắc cho Việt Nam. Quân đội, công an lo làm ăn, văn không ôn, võ không luyện thì làm sao chống Trung Quốc? Bây giờ họ bắt đầu tập tách ra khỏi Trung Quốc, như đứa trè vừa lửng thửng tập đi vừa quay đầu ngó lại ông bố nghiêm khắc đang cầm cây roi mây to và dài.

Việc đầu tiên là mua vũ khí. Họ không thể hoàn toàn tin vào Nga hay Mỹ. Họ phải mua hàng nhiều nơi để cầu mong sự giúp đỡ của nhiều nước. Mua hàng nhiều nước thì không bị lệ thuộc về nhiều mặt một khi đối phương ngưng bán, tăng giá cao hay thay đổi đường lối chính trị, quân sự. Vì vậy mà vũ trí, tàu bè, máy bay, đại bác của họ là thứ thập cẩm là điều tất nhiên.

4. CHÍNH SÁCH QUÂN SỰ:
Trong khi Việt Nam nhúc nhích cựa quậy là Trung Quốc đã biết. Tin tức đài Á châu tự do cho biết báo Trung Quốc nhận định các chính sách mới của Việt Nam trong lĩnh vực quốc phòng-quân sự như sau:
1. Ngày 08/12/2009, Việt Nam công bố Sách Trắng quốc phòng, trong đó nêu bật trọng tâm vấn đề chủ quyền ở Nam Hải (Việt Nam gọi là Biển Đông), chỉ thiếu nước về câu chữ chưa nói rõ là tranh chấp lãnh thổ với nước lớn phương Bắc nào đó;
2. Ngày 23/11/2009, Việt Nam thông qua Luật dân quân tự vệ, quy định 86 triệu dân toàn quốc, nam từ 18-45 tuổi, nữ từ 18-40 tuổi phải tham gia nghĩa vụ dân quân ;
3. Ngày 01/12/2009, vùng 2 hải quân Việt Nam và 7 tỉnh thành phía Nam ký hiệp ước bảo vệ biển đảo và khu vực phụ cận Nam Sa (Trường Sa), huấn luyện ngư dân phối hợp với hải quân ngăn chặn tàu thuyền nước ngoài xâm nhập lãnh hải;
4. Truyền thông Việt Nam gần đây cho biết, Việt Nam đã động viên toàn dân tham gia xây dựng quốc phòng, phát huy tính tích cực của vùng biển rộng lớn đặc biệt là của dân chúng vùng phụ cận Tây Sa và Nam Sa (Hoàng Sa và Trường Sa);
5. Việt Nam mua của Nga 12 chiếc SU-30MK2 và 6 chiếc tàu ngầm lớp Kilo, xây sân bay ở Nam Sa và bố trí thêm 1 trung đoàn tăng cường, đồng thời điều 4 binh đoàn chiến lược tới biên giới Trung-Việt.

III. QUAN ĐIỂM TRUNG QUỐC
Bài viết trên của RFA còn cho biết ý kiến một tờ báo điện tử Trung Hoa cho rằng, chiến tranh sẽ xảy ra và là thế giới chiến tranh. Người Trung Quốc nhận định:
"Trong trường hợp nổ ra chiến tranh tại Biển Đông, nhất định nhiều nước khác cũng sẽ "dây máu ăn phần".
"Tính chất nhạy cảm của Nam Hải không chỉ ở chỗ nó liên quan tới nhiều quốc gia, mà quan trọng là một số lái buôn chiến tranh cũng muốn thọc tay vào."
"Mỹ, Ấn Độ, thậm chí Nga đều ngầm ủng hộ VN phát động chiến tranh trên Nam Hải. Và một số nước phương Tây như Anh, Pháp cũng muốn được chia phần ở Nam Hải."
"Thậm chí, Việt Nam và Mỹ còn câu kết với nhau, mỗi nước dựa vào nhu cầu của mình mà tuyên chiến với Trung Quốc."
Tác giả cảnh tỉnh người Trung Quốc phải có chuẩn bị tâm lý, "củng cố lại lòng tin và quyết tâm" cho khả năng chiến tranh xảy ra.
"Trung Quốc đã ở vào ranh giới chiến tranh, đánh hay không đánh đều có khả năng. Vấn đề là đã lâu Trung Quốc không có chiến tranh."
"Chỉ cần Trung Quốc phân tâm một chút là sẽ xảy ra tranh chấp biên giới trên diện rộng."
Kết luận trên trang mạng bán chính thức của Trung Quốc là: "Việt Nam điều chỉnh gấp chính sách, Trung Quốc phải đối phó".
"Chỉ có thay đổi chính sách ngoại giao, thực hiện chiến tranh toàn dân mới có thể nắm chắc chiếc cung chiến tranh, buộc kẻ địch không ra tay hoặc ra tay muộn hơn."
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2009/12/091223_chinawebsite_vietdefence.shtml

IV.KẾT LUẬN

Chúng ta thât sự chưa biết cộng sản Việt Nam làm gì, tính gì.
Họ làm thế để chứng tỏ họ có tinh thần chống xâm lược, hay chỉ để trang trí trong khi thực tế ho đu giây. Hoặc hiện đại hóa để rồi theo Trung Cộng, làm một chư hầu trung thành như Bắc Triều Tiên?

Nếu họ quả thật yêu nước, muốn bảo vệ tổ quốc, muốn chống Trung Quốc xâm lược, việc giao thiệp với các nước Asean, Âu, Mỹ, việc mua vũ khí và việc đưa ra các kế sách quân sự là cần nhưng chưa đủ.
+Nếu trong nội bộ đảng có phe theo Trung Quốc, hoặc có nhiều gián điệp Trung Quốc thì có kế sách gì, vũ khí gì cũng thất bại.
+Phải đoàn kết toàn dân. Phải thực thi dân chủ chính hiệu. Phải trả tự do tôn giáo, tự do ứng cử và bầu cử, phải cho cá nhân ra báo và nhân dân được phát biểu ý kiến. Quốc gia là của toàn dân chứ không phải là của đảng cộng sản. Hãy trả ruộng đất, nhà cửa cho nhân dân và trừng trị bọn tham quan ô lại. Ngoài ra phải đoàn kết quốc nội và quốc, hãy dẹp tan những trò quấy phá hải ngoại thì mới có sự đoàn kết thực sự của toàn dân.
+Điều quan trọng là cần có một Gorbachev giải thể đảng cộng sản để xây dưng một Việt Nam vững mạnh, đủ sức vệ quốc và kiến quốc.
*






TRẦN BÌNH NAM * TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC


Dã tâm xâm lược của Trung Quốc xưa và nay.

Trần bình Nam



Mối lo hôm nay đối với người Việt Nam là tham vọng nuốt chửng Việt Nam của Trung quốc. Từng lời nói, từng hành động của các nhà lãnh đạo Trung quốc hiện nay đều nhắm vào hướng này.
Nhưng mộng bành trướng và khống chế Việt Nam của Trung quốc không phải trong thời đại đang vươn mình này của Trung quốc mới có. Đó là giấc mộng ngàn đời, từ thời đại các hoàng đế Trung quốc, qua các triều đại Minh, Nguyên, Thanh. Và gần đây Đặng Tiểu Bình, người được liệt vào bậc anh quân đã có đủ sáng suốt chuyển hướng chính trị đưa Trung quốc ra khỏi trận cuồng phong Mácxít và Maoít cũng là người đã ra lệnh cho hàng chục sư đoàn tiến đánh Việt Nam (2/1979). Và trước đó, Mao Trạch Đông, một nhà đại cách mạng Trung quốc, người được coi là một hoàng đế tân thời của Trung quốc hậu bán thế kỷ 20, người hết lòng giúp đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Pháp giành độc lập cũng – trong mọi hành động của ông – đều có sự tính toán để uy hiếp và tối hậu thôn tính Việt Nam.


Người Trung hoa từ ngàn xưa vẫn xem Việt Nam là một phần đất của Trung quốc. Những khẩu hiệu Trung quốc- Việt Nam “núi liền núi, sông liền sông” , “môi hỡ răng lạnh” chỉ là những khẩu hiệu, và mới nhất là châm ngôn 16 chữ vàng “Láng giềng hữu nghị, Hợp tác toàn diện, Ổn định lâu dài, Hướng tới tương lai.”cũng chỉ là chiêu bài để che đậy những ý đồ có tính lịch sử của Trung quốc .
Cho nên việc giữ nước lâu dài đòi hỏi các vua chúa Việt Nam hay những nhà lãnh đạo Việt Nam nắm vững yếu tính lịch sử đó để có chính sách phòng ngự thích hợp, dù đó là chính sách kinh tế, xã hội hay quốc phòng.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập (1930) cho đến năm 1992 nắm vững được yếu tính lịch sử này. Trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp giành độc lập (1945-1954), thời kỳ xâm lăng miền nam Việt Nam (1960-1975) cũng như sau khi thống nhất Việt Nam các nhà lãnh đạo tại Hà Nội – dù được Trung quốc viện trợ – vẫn luôn luôn cảnh giác ý đồ của Trung quốc.
Nhưng từ năm 1992, do nhu cầu sống còn trước sự sụp đổ của Đông Âu và Liên bang Xô viết, đảng cộng sản Việt Nam trở nên lệ thuộc hoàn toàn vào Trung quốc và nền an ninh Việt Nam trở nên bị đe dọa. Sự bảo vệ biên giới đất liền, lãnh hải, hải đảo trở nên càng lúc càng yếu ớt.
Trở lại một ít lịch sử bang giao Việt Nam và Trung quốc sau khi Mao Trạch Đông đánh thắng Tưởng Giới Thạch và thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc năm 1949.


Trong cuốn sách mới nhất về Mao Trạch Đông của bà Jung Chang viết chung với ông Jon Halliday nhan đề “Mao: The Unknown Story” (Những Câu Chuyện Chưa Được Tiết Lộ về Mao) (1) bà Jung Chang đã để dành một chương để nói về các ý đồ của Mao đối với Việt Nam (trang 560 -566).
Theo bà Jung Chang, mỗi hành động của Mao đối với Hồ Chí Minh đều có hậu ý. Trung quốc giúp huấn luyện và trang bị quân đội cho ông Hồ trong chiến dịch biên giới (1950) chủ ý là không để cho các thành phần Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch bị tảo thanh tại Trung quốc chạy trốn sang Bắc Việt Nam có điều kiện trở lại tấn công Mao (2).
Nhưng đến năm 1954, Việt Nam mới thật sự nghi ngờ Trung quốc trước thái độ tráo trở của Bắc Kinh trong cuộc hội đàm tại Geneve năm 1954.


Năm 1954 Mao phát động chương trình canh tân để biến Trung quốc thành một siêu cường (Superpower Program). Trung quốc cần hiểu biết kỹ thuật và trang thiết bị lúc đó đang bị Tây phương cấm vận. Trung quốc tranh thủ viện trợ của Liên bang Xô viết, nhưng Mao biết chưa đủ nên Mao vận động giải tỏa cấm vận từ Pháp vì Pháp là nước giữ được tính độc lập với Hoa Kỳ nhiều nhất.
Lúc đó Pháp đang lúng túng tại Đông Dương. Ý của Mao là giúp Hồ Chí Minh đẩy Pháp vào chân tường rồi sẽ ra tay gỡ kẹt cho Pháp để đổi lấy điều kiện đòi giúp đỡ kỹ thuật. Tháng 5/1953 khi cuộc chiến tranh Triều Tiên sắp chấm dứt, Trung quốc chuyển sĩ quan và cố vấn sang thẳng biên giới Việt Nam chuẩn bị cho chiến trường Đông Dương mà cao điểm là cuộc chiến thắng có tính quyết định ván bài Việt Nam của trận Điện Biên Phủ tháng 5/1954.



Theo tài liệu của bà Jung Chang, trước khi hội nghị Geneve họp (26/4/1954) Mao đã quyết định sẽ giúp Pháp và tìm một giải pháp nhẹ nhàng cho Pháp chứ không để cho đảng Cộng sản Việt Nam nhân cuộc chiến thắng Điện Biên Phủ đòi những điều kiện bất lợi cho Pháp. Thống nhất Việt Nam bằng cách đẩy mạnh các cuộc tấn công quân sự, đuổi Pháp một lèo ra khỏi Đông Dương là một trong những chương trình của đảng Cộng sản Việt Nam .
Ngày 7/5/1954 Điện Biên Phủ thất thủ. Ngày 17/5 chính phủ Pháp sụp đổ. Theo kế hoạch của Mao sẽ dùng chiến trường Việt Nam đổi chác với Pháp, ngày 23/5 thủ tướng Chu Ân Lai gặp riêng tân thủ tướng Pháp Mendes France tại Geneve và đưa ra món hàng đổi chát. Phái đoàn đảng Cộng sản Việt Nam do thủ tướng Phạm Văn Đồng cầm đầu hoàn toàn không hay biết sự đối chác này.



Phạm văn Đồng đưa ra một chương trình ở thế mạnh gồm chấm dứt chiến tranh, Pháp rút ra khỏi Đông Dương, thành lập Liên bang Đông Dương Việt Miên Lào, và không đồng ý chia cắt Việt Nam như gợi ý của phái đoàn Chu Ân Lai. Ông Đồng nghĩ rằng quân đội Cộng sản Việt Nam đang làm chủ chiến trường Bắc Việt, và đã kiểm soát một khu rộng lớn tại miền Nam Trung bộ và Nam bộ nên không có lý do gì chấp nhận giải pháp chia cắt. Mặt khác với sự mất tinh thần của quân đội Pháp sau trận Điện Biên Phủ và thời gian hứa hẹn của thủ tướng Mendes France (3), Hà Nội có thể đẩy mạnh các cuộc tấn công quân sự là đủ buộc đối phương phải nhượng bộ chấp nhận chương trình của Hà Nội.


Tuy nhiên Chu Ân Lai chỉ trích chương trình của Phạm Văn Đồng và vừa áp lực vừa dọa rằng nếu Hà Nội tiếp tục thừa thắng tấn công đẩy Pháp vào chân tường Hoa Kỳ và Liên hiệp quốc có thể nhập cuộc như đã xẩy ra tại Triều Tiên. Chu Ân Lai cho biết nếu Hà Nội không ký một bản hiệp ước tạm thời chia cắt Việt Nam thì đảng Cộng sản Việt Nam sẽ phải tự lực chiến đấu, Trung quốc không có điều kiện để tiếp tục giúp đỡ (4).
Hồ Chí Minh biết không thể làm ngược lại ý của Trung quốc, hơn nữa Hồ Chí Minh cũng không muốn thấy cuộc chiến tranh Việt Nam biến thành một trận chiến tranh Triều Tiên thứ hai nên Hồ Chí Minh ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký Hiệp định hòa bình chấm dứt chiến tranh và chia đôi Việt Nam qua vĩ tuyến 17. Theo các nhân chứng tại Geneve, Phạm Văn Đồng đã khóc mà tuân lệnh Hồ Chí Minh. Chọn vĩ tuyến 17 thay vì vĩ tuyến 16 là một món quà “phụ thêm” của Trung quốc tặng cho Pháp vì quốc lộ số 9 nối liền Lào với biển nằm giữa vĩ tuyến 16 & 17.
Mối nghi ngờ giữa đảng Cộng sản Việt Nam và Trung quốc nẩy mầm từ đó.


Đầu năm 1965, khi Brezhnev bắt đầu chương trình tăng viện trang bi nặng cho đảng Cộng sản Việt Nam như súng phòng không và hỏa tiễn để chống cuộc không tập của không quân Hoa Kỳ vào miền Bắc Việt Nam, Mao thuyết phục Brezhnev nên dành tài nguyên đó để đương đầu phía Âu châu hơn là giúp Việt Nam. Mặt khác Mao thuyết phục Hồ Chí Minh chớ nên quá lệ thuộc vào Mạc Tư Khoa. Chu Ân Lai - suy bụng ta ra bụng người - từng nói với Phạm Văn Đồng rằng: “Các anh không nên nhận viện trợ của Liên bang Xô viết … Liên bang Xô viết giúp các anh chỉ để tạo điều kiện thương thuyết làm hòa với Hoa Kỳ thôi.”
Trong khi đó Mao nỗ lực o bế Hồ Chí Minh. Mao cho đổ vào Việt Nam tiền bạc và hằng ngàn tấn vật liệu và vũ khí nhẹ cùng với 130.000 binh sĩ để giúp điều khiển súng phòng không và bảo trì hệ thống lưu thông chống cuộc oanh tạc của Hoa Kỳ. Theo bà Jung Chang, Trung quốc còn dùng mỹ nhân kế giới thiệu một thiếu phụ trẻ đẹp làm vợ Hồ Chí Minh, nhưng Hồ từ chối không nhận.


Ngày 31/3/1968 khi tổng thống Johnson tuyên bố không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ 2 (11/1968) và đề nghị thương thuyết, Trung quốc khuyên Hà Nội đừng nhận lời, nhưng Hà Nội vốn nghi ngờ thiện chí của Trung quốc đã nhất định đi tới và ngày 3/4/68 tuyên bố nhận lời đề nghị của tổng thống Johnson.
Khi cuộc thương thuyết tại Paris bắt đầu. Chu Ân Lai nói với Hà Nội rằng Trung quốc có nhiều kinh nghiệm thương thuyết với Hoa Kỳ nên Hà Nội cần cố vấn của Trung quốc trong phái đoàn thương thuyết, nhưng Hà Nội tư chối. Để trả đũa Trung quốc tìm cớ ngăn cản sự chuyển vận vật liệu chiến tranh cho Bắc Việt (của Trung quốc và của Nga chở qua đường Trung quốc) và cắt đứt các cuộc dàn xếp viện trợ tương lai. Hà Nội được yêu cầu đừng gởi phái đoàn thương thuyết viện trợ dự tính đi Bắc Kinh tháng 10/1968.


Dù bị Trung quốc làm khó khăn Hà Nội vẫn không để cho Trung quốc nắm cuộc thương thuyết tại Paris.
Không dùng viện trợ uy hiếp được Bắc Việt, Mao dùng phương pháp gián tiếp. Mao thành lập một đảng Cộng sản Cambốt lấy tên là Khmer Đỏ do Polpot cầm đầu, vừa chống Sihanouk vừa chống Việt Nam, và năm 1967 Mao định đảo chánh lật đổ Sihanouk để thiết lập một chế độ thân Trung quốc tại đó nhưng không thành.
Cơ hội tới khi Lonol (với sự tổ chức của cơ quan tình báo Hoa Kỳ CIA) đảo chánh lật đổ Sihanouk ngày 18/3/1970. Mao vội vàng đưa Sihanouk sang Bắc Kinh và thuyết phục Việt Nam phối hợp với Sihanouk thành lập một mặt trận Đông Dương chung chống Mỹ (lẽ dĩ nhiên) dưới sự lèo lái của Trung quốc.
Chính sách của Mao đối với Hà Nội thống nhất ở chỗ tạo trở ngại không cho Việt Nam thống nhất và ngăn cản không để Việt Nam tạo ảnh hưởng tại hai nước Miên, Lào. Ngay cả Mặt Trận Giải Phóng miền Nam do Hà Nội nặn ra do nhu cầu chính trị xâm lấn miền Nam Trung quốc cũng không bỏ lỡ cơ hội ve vuốt, mua chuột để tách Mặt Trận này ra khỏi ảnh hưởng của Hà Nội. Chính sách trước sau của Trung quốc là không để cho Việt Nam trong bất cứ trường hợp nào trở thành một quốc gia thống nhất và hùng mạnh .


Trong thời kỳ chiến tranh (chống Pháp 1946-1954), và xâm lấn miền Nam (1960-1975) Hà Nội dùng chính sách đi dây giữa Trung quốc và Liên bang Xô viết để bảo đảm nguồn viện trợ quân sự và kinh tế, nhưng sau khi thống nhất Việt Nam (1975), Hà Nội bắt đầu có thái độ độc lập hơn với Trung quốc.
Để giải tỏa gọng kềm của Trung quốc chọc từ phía Cam bốt, tháng 12/1978 Hà Nội tấn công lật đổ chế độ Polpot thân Trung quốc. Hậu quả là cuộc tấn công trả đũa của Trung quốc qua biên giới phía Bắc tháng 2/1979.
Hà Nội cũng chứng tỏ chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung quốc vẫn thường tuyên bố là thuộc Trung quốc. Khi Hà Nội đẩy mạnh cuộc tấn công trên bộ chiếm miền Nam năm 1975 Hà Nội đã cho các đơn vị hải quân ra trú đóng tại một số đảo quan trọng trong quần đảo Trường Sa để chận trước sự “xí phần” của Trung quốc. Sự hiện điện của quân đội Cộng sản Hà Nội tại các đảo Trường Sa là điều làm cho Trung quốc rất khó chịu và đã dẫn đến cuộc đụng độ tại Trường Sa năm 1988 làm cho hơn 80 chiến sĩ hải quân Việt Nam tử trận.
Các diễn biến trên chứng tỏ rằng cho đến năm 1992 dù bị áp lực nhiều phía của Trung quốc các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vẫn cố gắng thực hiện truyền thống bảo vệ tổ quốc trước cuộc xâm lấn không mệt mỏi của Trung quốc.


Nhưng vào năm 1992 tình hình thế giới chuyển biến đột ngột. Liên bang Xô viết sụp đổ và Hoa Kỳ đã rút ra khỏi vùng Thái Bình Dương trong khi Trung quốc trở nên lớn mạnh về cả hai mặt quân sự và kinh tế. Hà Nội trước sự đe dọa sụp đổ đã phải nhờ cậy vào Trung quốc để sống còn nên mất tư thế của một nước có chủ quyền đối với Trung quốc.
Hình như các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay không đủ bản lãnh để hoạch định một chính sách giữ nước trong những điều kiện mới. Và từ sự thiếu vắng chính sách và nhân sự lãnh đạo vững vàng là một chuổi dài thua thiệt và nhượng bộ.
Hà Nội phải ký hai Hiệp ước đất liền (1999) và biển (2000) với những điều khoản bất lợi cho Việt Nam. Mất thêm đất trong vùng Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, và nhiều chục ngàn hải lý rộng trong vịnh Bắc Việt. Vùng đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vịnh Bắc Việt và ngoài khơi biển Nam Hải bị hạn chế do chính sách “gunboat” của Trung quốc. Ảnh hưởng của Việt Nam đối với hai nước láng giềng Cam Bốt và Lào dần dần bị thu hẹp. Trung quốc đã thả hai gọng kềm hai bên hông Việt Nam, một bên là Lào nay hoàn toàn tùng phục Trung quốc, một bên là căn cứ tàu ngầm tại cực nam đảo Hải Nam. Tương lai của Việt Nam còn lệ thuộc vào nguồn dầu hỏa trên biển Đông thì Việt Nam hiện nay cũng không có điều kiện khai thác. Nỗ lực khai thác qua việc ký giao kèo tìm dầu khí với công ty BP của Anh (2007) và ExxonMobil của Mỹ (2008) không thành trước áp lực của Trung quốc.


Việt Nam hình như đang mất sự tự do tối thiểu của một quốc gia độc lập.
Ngư dân bị tàu Trung quốc bắn chết (1/2005) trong Vịnh Bắc Việt Hà Nội không dám lên tiếng công khai phản đối và đòi bồi thường.
Trung quốc lấy đất của Việt Nam ghép vào quận huyện của Trung quốc (12/2007) Hà Nội không dám để cho nhân dân biểu tình bày tỏ sự phản đối .
Và năm nay, kỷ niệm 30 năm trận chiến bảo vệ biên giới năm 1979, báo chí Hà Nội không được viết lách tự do ca ngợi các chiến sĩ đã hy sinh bảo vệ tổ quốc. Và làm lễ chào mừng các chiến sĩ đang trú đóng tại Trường Sa mà báo chí và các cơ sở truyền thông do chính phủ kiểm soát không loan tin… Và còn nữa!
Vậy phải làm gì?


Phát huy nội lực và liên kết với đồng minh là sách lược ngàn đời để cứu nước.
Liên kết với ai? Nếu không phải với Hoa Kỳ, Úc châu, Nhật Bản, Ấn Độ, Liên bang Nga, Liên hiệp Âu châu, Hiệp Hội Asean trong đó có trọng lượng nhất là Hoa Kỳ. Nhưng chính Hoa Kỳ cũng đang gặp khó khăn vì cuộc khủng hoảng kinh tế và trong kế hoạch chấn hưng kinh tế Hoa Kỳ cũng đang nhờ sự hợp tác tài chánh của Trung quốc. Trung quốc đã không ngần ngại cho biết thế yếu của Hoa Kỳ và cảnh giác Hoa Kỳ chớ quá nóng vội giúp đỡ Việt Nam.
Bà Hillary Clinton tân bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ trong chuyến công du đầu tiên đến Trung quốc (2/2009) đã lỡ lời “thỉnh cầu” Trung quốc mua trái phiếu quốc gia của Hoa Kỳ để cùng có lợi chung thì liền ngay sau đó Trung quốc cho tàu chiến nghênh tàu của Hoa Kỳ trong biển Đông trong một vùng biển được hiểu là hải phận quốc tế. Để áp lực Hoa Kỳ nhượng bộ trên biển Đông, thủ tướng Ôn Gia Bảo lên tiếng nhắc khéo rằng “không biết trái phiếu Trung quốc đang mua của Hoa Kỳ có bảo đảm không?”


Vậy chỉ còn phát huy nội lực là chính. Và phát huy nội lực đòi hỏi sự đoàn kết của toàn dân sau lưng người cầm quyền. Và toàn dân chỉ đoàn kết sau lưng nhà cầm quyền khi họ có đầy đủ quyền tự do dân chủ.
Chính sách từ Mao, đến Đặng Tiểu Bình, rồi nay đến Hồ Cẩm Đào trước sau vẫn là khống chế Việt Nam. Và trong chiến lược lâu dài đương đầu với Hoa Kỳ để giành quyền bá chủ, Trung quốc sẽ phải chủ động mở con đường về phía nam trước. Bất cứ gì trên con đường tiến ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đều phải được thôn tính.
Việt Nam ở ngay trên con đường tiến của Trung quốc. Chừng nào thì những người lãnh đạo tại Hà Nội nhận thức được mối nguy mất nước để đoàn kết quốc dân cùng cứu nước?
Trần Bình Nam
March 19, 2009

No comments:

Post a Comment