Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 1 December 2016

PHẠM TRẦN - HÀ NHÂN VĂN - HUỲNH NGỌC CHÊNH

Sunday, January 13, 2013


PHẠM TRẦN * ĐẢNG NÓI DỐI

Đảng nói dối mình và lừa cả dân 

Phạm Trần

 

“…Làm sao mà đội ngũ “chỉ biết nói cho sang miệng” này có thể chống được “con bệnh kinh niên bất trị” ngay trong lòng mỗi đảng viên khi những người này đã hoàn toàn mất tin tưởng vào đảng và lãnh đạo…”


Bộ Chính trị nhìn nhận Nghị quyết 4 thất bại
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) có bao giờ  tự nói dối mình và không thật với nhân dân chưa?
Nhiều lắm và thường xuyên suốt trong chiều dài lịch sử của đất nước, nhưng hãy kể ra đây ít chuyện gần cho dễ nhớ.
Trước nhất là việc đảng tổ chức lấy ý kiến dân cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Tại Hội nghị toàn quốc triển khai lấy ý kiến nhân dân ngày 08-01-2013 ở Hà Nội, Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội,Chủ tịch Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nói rằng : “Việc lấy ý kiến nhân dân về Hiến pháp là cách thức dân chủ thể hiện vai trò làm chủ của nhân dân đối với các vấn đề quốc gia đại sự. Ông yêu cầu việc lấy ý kiến phải “tạo điều kiện (để) người dân thể hiện các quan điểm, chính kiến về toàn bộ bản Hiến pháp cũng như với từng điều khoản cụ thể”. Bởi chỉ có như vậy mới “tạo sự đồng thuận, nâng cao nhận thức và trách nhiệm đối với việc xây dựng cũng như tôn trọng, thi hành Hiến pháp”. (Báo Lao Động, 09-01-2013)
Nghe chí lý lắm, bởi vì “ý dân là ý trời” cơ mà, “ý đảng” chưa hẳn đã là “lòng dân”, nhưng sao hai ông Ủy viên Bộ Chính trị Đinh Thế Huynh, Trưởng ban Tuyên giáo và Lê Hồng Anh, thường trực Ban Bí thư Trung ương lại dè dặt rào trước đón sau gay gắt quá?
Ông Huynh phán, theo tường thuật của tờ Lao Động: “Ông yêu cầu công tác tư tưởng, tuyên truyền “phải thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng”. “Phải làm cho nhân dân tin tưởng những ý kiến góp ý được trân trọng, được nghiêm túc tổng hợp, nghiên cứu và tiếp thu”, đồng thời giáo dục, nêu cao tinh thần cảnh giác, ý thức tự “đề kháng”, năng lực phản bác của nhân dân trong cuộc đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch.

Ý ông muốn nói là phải “nắn” dân theo ý đảng chứ gì?  Quan điểm của đảng CSVN đối với việc lấy ý kiến dân có phải là “phải chấp nhận quyền cai trị độc tôn, độc quyền bất di bất dịch” của đảng như ghi trong “Điều 4 bổ sung” , lập lại của Hiến pháp 1992 và  đã được tái khẳng định tại  Hội nghị Trung ương 2/XI  (họp từ ngày 4-10/07/2011) như lời Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói trước ông Huynh?

Hội nghị 2 đã quyết định:  “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân và của dân tộc Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là Đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa …”

Như vậy dù biết đảng đã “đặt chiếc cầy trước con trâu” như một việc “đã rồi” nhưng  ông Huynh vẫn muốn các cấp dự Hội nghị hiểu rằng có lấy ý dân cũng không được ra ngoài “ý ấy của đảng” !
Còn cái khoản ông Huynh bảo cán bộ Tuyên giáo phải biết “giáo dục, nêu cao tinh thần cảnh giác, ý thức tự “đề kháng”, năng lực phản bác của nhân dân trong cuộc đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch” khi lấy ý kiến dân là ông muốn nói không chấp nhận ý kiến “trái chiều” chứ gì?

Nhưng không riêng chỉ có ông Đinh Thế Huynh mới “giáo điều” như thế mà cả Ủy viên Bộ Chính trị Lê Hồng Anh cũng “tát nước theo mưa” như thế này: “ Trong quá trình tổ chức lấy ý kiến nhân dân phải đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng... Chỉ đạo chặt chẽ công tác đảm bảo quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự an tòan xã hội , phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị, kịp thời đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng dân chủ trong việc lấy ý kiến nhân dân để chống phá, tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”.

Ghê chưa? Đảng không cần người dân phải có “hành động” mới ra tay dẹp mà chỉ cần biểu lộ bằng “lời nói” hay “cử chỉ” thôi cũng tù mọt gông rồi.

Lấy ý kiến dân mà gò ép dân như thế là độc tài chứ đâu phải là “cách thức dân chủ thể hiện vai trò làm chủ của nhân dân đối với các vấn đề quốc gia đại sự” như ông Nguyễn Sinh Hùng nói?
Nhưng ông Hùng có nói thật lòng mình không, hay ông cũng “cá mè một lứa”? Bởi vì một trong “9 nội dung cơ bản của việc sửa đổi Hiếnpháp” được đề ra tại “Hội nghị tòan quốctriển khai lấy ý kiến nhân dân” ngày 8-01-2013 thì Ủy ban Dự thảo đã minh địnhtrong Điểm thứ 3: “Khẳng định và làm rõ hơn bản chất, vị trí, vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội” .
Như vậy thì còn lấy ý kiến dân làm gì cho mất toi tiền bạc và thời giờ của dân đang cần tiết kiệm để kiếm cơm ăn, áo mặc?
Quyền con người

Thứ nhì là chuyện đảng và báo-đài của nhà nước làm um xùm lên việc Hiến pháp sửa đổi đã dành trọn Chương II gồm 38 Điều nói về “QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN”.
Nhưng các quyền căn bản hiến định này lại bị các Luật của nhà nước vô hiệu hóa bằng các điều mơ hồ hoặc để hở cho nhà nước tự do hành dân tùy tiện theo cách lý giải không cần phải chứng minh “đúng sai”.
Chẳng hạn như đảng viết trong  Điều 15 (sửa đổi, bổ sung Điều 50):

1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được Nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảođảm theo Hiến pháp và pháp luật.

2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng.

Nhưng đố ai biết sự giới hạn quyền của nhà nước đối với công dân trong các “lý do tự biên, tự chế” ở khoản 2 là thế nào không, hay chính phủ muốn sao dân cũng phải chịu?

Đến Điều 16 (mới)  còn bao trùm mơ hồ hơn khi họ viết:

1. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác.

2. Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

Nội dung hai điều trên đây là hiện thân của ba điều trong Luật Hình Sự đã cho phép nhà nước bắt người tùy tiện, đó là: Điều 79 (Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân); Điều 88 (Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam); (và) Điều 89 (Tội phá rối an ninh).

Như vậy là Hiến pháp sửa đổi đã công khai cho phép nhà nước “đeo thêm tròng vào cổ người dân”mà dân không dám cãi thì có phản dân chủ không, hay đã “cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản” như bà Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan từng nói không biết ngượng? (Báo Nhân Dân, 05/11/2011)

Ngoài ra trong Chương này, nhiều quyền của dân cũng được công nhận và bảo vệ như  đảng “đã vẽ ra cho đẹp mắt” trong Hiến pháp 1992 như: quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình,  v.v…

Riêng trong Điều 22 (sửa đổi, bổ sung Điều 71) thì đảng và nhà nước đã vi phạm nghiêm trọng không biết bao nhiều ngàn, triệu lần nhưng vẫn cứ lập lại cho ra vẻ “nhà nước ta là nhà nước pháp quyền”, theo đó:

1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm.

2. Nghiêm cấm mọi hành vi tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử khác xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con người. 

Khi viết lại như thế thì không biết Ủy ban sọan thảo và Quốc hội có biết rằng vào ngày 28 tháng 12 năm 2012, cô Nguyễn Hoàng Vi, một nhà báo Truyền thông xã hội (Blogger) đã bị công an hành hạ, tra tấn và xâm phạm cơ thể, kể cả “chỗ kín”, theo chính lời tố cáo của cô, sau khi cô bị bắt về đồn Công an chỉ vì đã có mặt gần Tòa án xử tái thẩm vụ 3 Nhà báo tự do Điếu Cầy (Nguyễn Văn Hải), Tạ Phong Tần và Anh ba Sài Gòn (Phan Thanh Hải)?

Trước đó vào ngày 30 tháng 10 năm 2012, một phụ nữ khác, cô Huyền Trang, Thông tín viên của Truyền Thông Chúa Cứu Thế cũng đã bị hành hạ tượng tự, tuy không “bỉ ổi” như trường hợp cô Nguyễn Hoàng Vi.
Cô Huyền Trang cũng đã tố cáo trên các mạng báo điện tử hành động “lục soát cơ thể cô”, sau khi cô bị công an vây bắt khi đi quan sát ngoài Tòa án nhân ngày xử hai Nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình.
Đảng thua chính mình
Cuối cùng là chuyện đảng nói mà chẳng bao giờ làm được trong vấn đề kiểm điểm, xây dựng đảng như đã đề ra trong Nghị quyết 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, và 14 năm trước, với việc làm tương tự trong Nghị quyết 6 (lần 2) Khoá đảng VIII thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu.
Chuyện làm bôi bác cho có lệ để mị dân được chứng minh tại Hội nghị Trung ương 6, sau khi Ban Chấp hành Trung ương đảng biểu quyết tự ý không kỷ luật Bộ Chính trị và một Ủy viên Bộ Chính trị (Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) để bảo vệ nội bộ.
Hành động “tự trát tro” vào mặt mình để “nhận khuyết điểm” và “nhận lỗi trước đảng, trước tòan dân” từ trên xuống dưới đã thành một tiền lệ mà đảng không hề biết xấu hổ.
Nhưng điều quan trọng khiến dân “sổ toẹt” vào đảng là những lời cam kết sửa chữa khuyết điểm để làm tròn nhiệm vụ trước nhân dân của lãnh đạo đảng và nhà nước đã tan ra mây khói sau Hội nghị Trung ương 6.
Bằng chứng như Bộ Chính trị đã thừa nhận trong một Văn kiện đóng dấu “MẬT” đề ngày 17/8/2012 về “NHỮNG BIỂU HIỆN CHỦ YẾU CỦA VIỆC KIỂM ĐIỂM KHÔNG ĐẠT YÊU CẦU”.
Tài liệu này được gửi cho tất cả Ban Chấp hành đảng từ Trung ương xuống cơ sở “kèm theo Công văn của Bộ Chính trị số 118-CV/TW, ngày 17-8-2012”.
Nguyên văn 12 điểm nhìn nhận đảng đã thất bại trong việc thi hành Nghị quyết 4, bị tiết lộ ra ngoài như sau:

1.-Tổ chức lấy ý kiến góp ý chuẩn bị kiểm điểm của các tập thể và cá nhân không bảo đảm đúng nguyên tắc theo quy định và hướng dẫn của Trung ương.

2.-Tổng hợp, tập hợp ý kiến góp ý của các tập thể và cá nhân không trung thực, không khách quan, thiếu chính xác.
3.- Chuẩn bị báo cáo kiểm điểm của tập thể và cá nhân không nghiêm túc, không bám sát 3 vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết Trung ương 4, Chỉ thị và Kế họach của Bộ Chính trị và hướng dẫn của các ban đảng Trung ương; không tập trung đi sâu làm rõ các khuyết điểm, yếu kém của tập thể và cá nhân liên quan đến các vấn đề cấp bách, bức xúc, nổi cộm của địa phương, cơ quan, đơn vị và nguyên nhân.
4.-Trong kiểm điểm, không bám sát 3 vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết Trung ương 4, Chỉ thị, Kế họach của Bộ Chính trị và Hướng dẫn của các ban đảng Trung ương.
Đồng chí đứng đầu không gương mẫu kiểm điểm tự phê bình và phê bình; điều hành cuộc kiểm điểm không đúng nguyên tắc, không quán triệt đầy đủ tinh thần, mục đích, yêu cầu, phương châm, phương pháp tiến hành kiểm điểm của Trung ương. Các ý kiến phát biểu góp ý sơ sài, có biểu hiện né tránh là phổ biến.
5.- Không nghiêm túc, tự giác kiểm điểm tự phê bình và phê bình, nhất là không làm rõ khuyết điểm và trách nhiệm của tập thể, của cá nhân, nhất là người đứng đầu, không xác định rõ trách nhiệm cá nhân trong các khuyết điểm, yếu kém tập thể.
6.- Có biểu hiện lợi dụng kiểm điểm tự phê bình và phê bình để nói xấu, gây mất đoàn kết nội bộ, hạ bệ nhau.
7.-Qua kiểm điểm đã xác định tập thể và cá nhân có sai phạm, khuyết điểm đến mức phải kỷ luật, song không tự giác, không thành khẩn nhận hoặc nhận hình thức kỷ luật không đúng mức, không tương xứng.
8.- Không thành khẩn, nghiêm túc tiếp thu ý kiến góp ý của tập thể và cá nhân.
9.-Không giải trình hoặc giải trình không trung thực, không đi thẳng vào nội dung, bản chất của vụ việc theo gợi ý kiểm điểm của Bộ Chính trị (đối với những nơi được gợi ý) và ý kiến góp ý của tập thể và cá nhân.
10.- Qua kiểm điểm, có những vấn đề nảy sinh cần kiểm tra, xác minh, song không giao cho Ủy ban Kiểm tra cùng cấp (hoặc cơ quan chức năng) chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xác minh làm rõ để có kết luận.
11.-Không đề ra được những giải pháp khắc phục, sửa chữa có hiểu qủa các khuyết điểm, hạn chế chủ yếu đã được xác định qua kiểm điểm.
12.-Trong qúa trình chuẩn bị và tổ chức kiểm điểm, để xảy ra tình trạng sao nhãng, bê trễ công việc, để xảy ra các vụ việc quan trọng.
(BỘ CHÍNH TRỊ)

Như thế thì còn “chỉnh” với “sửa” gì nữa ?
Thế mà tại “Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tuyên giáo năm 2012, triển khai nhiệm vụ năm 2013”  tại Hà Nội ngày 09/01/2013, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị  Đinh Thế Huynh vẫn huyênh hoang hô hào cán bộ ngành tư tưởng hãy:” Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” mà trọng tâm là xây dựng và triển khai chương trình hành động khắc phục những hạn chế, khuyết điểm.” (Website Đảng CSVN)

Khuyết điểm và hạn chế là một “truyện dài muôn thuở” lúc nào cũng treo trên đầu mỗi đảng viên CSVN, nhất là những kẻ có chức có quyền như Bộ Chính trị đã nhìn nhận trong 12 Điểm nêu trên.

Nhưng xem ra Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng vẫn chưa thấy đó là “điều  nhục” cho đảng cầm quyền do ông lãnh đạo. Ông vẫn hô hào trước mặt đội nghị làm công tác tuyên truyền rằng: “Trước những yêu cầu, đòi hỏi cao đối với công tác tuyên giáo, cần nâng cao nhận thức, tư tưởng chính trị, kiên định nguyên tắc, mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nắm chắc và vận dụng sáng tạo để thực hiện đường lối của Đảng, phải vững vàng không dao động, giữ vững niềm tin, trong khó khăn càng phải vững niềm tin, củng cố, tăng cường niềm tin vào Đảng, vào chế độ, vào nhân dân, vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng, tạo sự đồng thuận cao trong Đảng, trong Nhà nước, trong nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

Ông còn nói: “Mọi lời nói, việc làm, hành động phải nhằm vào mục tiêu đó, tạo cho được chuyển biến trên thực tế. Công tác tuyên giáo cần quan tâm hơn nữa các vấn đề: Giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, làm tốt công tác thông tin tuyên truyền đối nội và đối ngoại, vừa tuyên truyền mặt tích cực, vừa phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, uốn nắn những nhận thức lệch lạc. 
Để hoàn thành trọng trách được giao, ngành tuyên giáo cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên giáo tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị, luôn giữ gìn, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định, vững vàng, trung thành tuyệt đối, có trình độ chuyên môn giỏi, nói được, viết được, thuyết phục được, không bị cám dỗ, thực sự là lực lượng xung kích đi đầu về tư tưởng chính trị.”

Làm sao mà đội ngũ “chỉ biết nói cho sang miệng” này có thể chống được “con bệnh kinh niên bất trị” ngay trong lòng mỗi đảng viên khi những người này đã hoàn toàn mất tin tưởng vào đảng và lãnh đạo trong khi phải phải chống trả rất khó khăn với cơn hồng thủy “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá” đang đe dọa sự sống còn của đảng, nhất là sau khi Bộ Chính trị nhìn nhận đảng viên các cấp không còn coi Nghị quyết 4 ra gì nữa.
Phạm Trần

Bình luận   


HÀ NHÂN VĂN * LIÊN MINH VỚI HOA KỲ

Hà Nhân Văn

Mục tiêu xa của Bắc Kinh: Dầu khí Côn Sơn, Tây Nguyên, Trường Sơn VIỆT NAM TRƯỚC THÁCH ĐỐ ĐẠI HÁN ĐỎ XÂM LĂNG!

         VẤN ĐỀ LIÊN MINH VỚI HOA KỲ

Ts Cù Huy Hà Vũ từng thống thiết kêu gọi Việt Nam phải liên minh với Hoa Kỳ, "Đó là mệnh lệnh". Mệnh lệnh của ai? Mệnh lệnh của tổ quốc và của Mẹ Việt Nam. Lời kêu trầm thống ấy chính là nguyên nhân Bắc Kinh áp lực CSVN phải bắt giam và bỏ tù Cù Huy Hà Vũ đồng thời tiêu diệt khí thế VN. Nhưng liên minh với Mỹ vào lúc này có dễ không? Dễ mà khó, rất khó!


Dễ là vì Mỹ đang muốn giúp VN và bảo vệ Biển Đông. Các tổ chức cựu chiến binh Mỹ "Viet Veterans" đã và đang đổ xô qua tiếp tay tái thiết VN, hàn gắn vết thương "20 năm cuộc chiến" và xóa nhòa "hội chứng VN". Khuynh hướng thân Mỹ trong giới trí thức, sinh viên, cựu tướng lãnh và cựu chiến binh VNCS càng ngày càng lan rộng, lấy "Trung tâm Hoa Kỳ" ở Sàigòn làm thí dụ, giới trẻ tấp nập đến trung tâm, nhất là ngày thứ bảy chủ nhật. Nhưng rất khó lúc này, chỉ có thể liên minh với Mỹ về chính trị và quân sự trong điều kiện tiên quyết, "ắt có và đủ", VN phải có tự do dân chủ và tôn trọng nhân quyền. Thời cơ vàng son đang tới. Ngày 2-6 vừa qua, sau khi dự thượng đỉnh G-8 trở về, TT Obama tái xác định với lời lẽ hết sức cứng rắn: Bất cứ nơi nào an ninh của Hoa Kỳ bị đe dọa, Hoa Kỳ sẽ phản ứng tức khắc, kể cả dùng biện pháp quân sự. Biển Đông là vùng an ninh của Mỹ.
HAI ĐIỀU KIỆN CHỐNG ĐẠI HÁN

Nếu bất hạnh Trung quốc Đỏ xâm lăng VN như phe diều hâu Bắc Kinh đã và đang hô hào cổ võ "đánh! đánh" , Tàu Đỏ chắc chắn sẽ thua Việt Nam trong 2 điều kiện sinh tử: 1. Diệt được lũ Việt gian trong lãnh đạo và trong lòng ĐCSVN. 2. Trung hòa đạo quân thứ năm của Bắc Kinh đang lúc nhúc trên đất nước, đó là tập thể trên 300,000 Hoa kiều mới nhập lậu vào VN từ đầu thập niên 2000, hầu hết là Hán dân đến từ các tỉnh nghèo như Thiểm Tây, Hà Nam, Hồ Nam... Cần phân biệt lớp Hoa kiều mới này với đồng bào Việt gốc Hoa trước năm 1975 ở cả 2 miền Nam Bắc, nay gọi đơn giản là đồng bào Hoa, hầu hết đến VN từ thế kỷ 17 và trước nữa, gốc Phúc Kiến, Quảng Đông, đảo Hải Nam và một số ở Chiết Giang và Quảng Tây, vốn là huyết hệ Việt tộc trong dòng Bách Việt, ta phải bảo vệ, là đồng bào ta.

TẬP ĐOÀN VIỆT GIAN TRONG ĐẢNG CSVN

Bộ "sậu" của Bắc Kinh đang là một quyền lực sinh sát trong lãnh đạo ĐCSVN. Do cao trào chống Đại Hán bá quyền trong quân đội và quần chúng VN, chúng mai phục nằm im, chờ giờ hành động. Trùm Nguyễn Phú Trọng chắc không đến nỗi nào so với Lê Khả Phiêu - Trần Đức Lương và Tô Huy Rứa, sản phẩm của Bắc Kinh, vẫn chưa đủ lông cánh vượt qua mặt Trương Tấn Sang, dù tháng 7 này, Sang sẽ hết thực quyền điều hành đảng. Một Nguyễn Chí Vịnh, như biết thân phận nằm êm ru, chưa qua mặt nổi Phùng Quang Thanh. ĐH kỳ 11 vừa qua, tướng Thanh về nhì, 95% phiếu sau Trương Tấn Sang. Trọng đứng thứ 6, do là người của Bắc Kinh nên được đẩy lên làm TBT, nếu không có cục Tình báo Hoa Nam mua chuộc thúc đẩy, không đến lượt Trọng làm TBT mà phải do họ Trương. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, Trọng là tay em của phe chống TQ, suốt nhiều năm phục vụ tại tòa soạn báo Nhân Dân, Trọng chống Đại Hán bá quyền rất mãnh liệt, Trọng nằm trong quĩ đạo Lê Duẫn - Lê Đức Thọ. Trọng du học và đậu Phó tiến sĩ ở Liên Xô. Theo tin Hà Nội, Trọng chỉ ngả vào vòng tay Bắc Kinh từ khi Trọng làm bí thư thành ủy Hà Nội, Trọng lạc vào phe làm ăn móc ngoặc với các đại gia Tầu Đỏ trong dịch vụ vĩ đại "mở rộng thủ đô", mua bán đất ở các huyện ngoại thành. Xét về ý thức hệ, suốt nhiều năm, từ thập niên 1960, Trọng thuộc phe giáo điều Mác Lê Liên Xô, cực lực chống lại chủ nghĩa xét lại của Mao Trạch Đông.

Do quyền lợi sinh tử của địa phương, các ủy viên TƯĐ hầu hết thuộc phe âm thầm chống Đại Hán, từ Nghệ Tĩnh đến Nam Ngãi, Bình Phú. Nhờ vậy, bọn Việt gian tay sai Đại Hán càng ngày càng co cụm lại nhưng chúng dư thừa phương tiện. Tiền đẻ ra quyền lực! Sự thức tỉnh, chống Đại Hán càng ngày càng lan rộng trong nội đảng, nhất là hàng tướng lãnh và sĩ quan cao cấp QĐND nay đã về hưu nhưng ảnh hưởng vẫn còn lớn trong tập thể cựu chiến binh và cán bộ cơ sở. Tiêu biểu nhất như cựu Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của VN tại Bắc Kinh (1974-1989), Gs. Trần Phượng, cựu Phó Thủ tướng, sử gia Dương Trung Quốc v.v... họ là những tiếng nói đầy trọng lực và rất thuyết phục, do họ là người yêu nước và thanh liêm... Nhưng bộ sậu của TC và sâu bọ Việt gian vẫn còn lúc nhúc trong nhiều ngành.

TRƯỚC THÁCH ĐỐ VÀ SỢ HÃI

Sợ Trung Cộng thì dân ta không sợ. Nếu sợ, làm sao VNCS chiến thắng cuộc chiến biên giới năm 1979, với trên 20,000 quân TC phơi xác và vài vạn tù binh, thương binh! Đại tướng Tổng tư lệnh quân viễn chinh Dương Đắc Chí trở thành Dương Thất Chí sau khi bị thiêu rụi trăm cỗ xe, pháo, nướng trọn 2 vạn quân. Bây giờ anh tướng Tàu Đỏ rụng răng, tuần này qua tuần khác viết lên website hô hào "đánh Ô Nam, lấy lại đất cũ của Trung quốc"! Những ngàn năm, người Việt dù sợ và rất sợ Đại Hán xâm lăng nhưng ở thế chân tường lại vùng lên không hề biết sợ. Sợ là sợ nội xâm, nội thù. Qua các tấm gương dũng liệt của Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Đan Quế, Lê Quốc Quân và hàng trăm trí thức đã can trường đứng lên, đồng bào trong và ngoài nước chê trách phàn nàn: Hào kiệt VN còn ở đâu? Sao trí thức trong nước vẫn im lìm! Xin khoan phê bình và lên án. Ở hải ngoại này nói gì viết gì mà không được. Nỗi sợ bạo quyền vẫn còn bao trùm xã hội VN hôm nay.

SỢ CHỬI! SỢ CÔNG AN BÔI NHỌ!

Hàng ngàn trí thức và nhân vật thượng thặng của CSVN đã lên tiếng phản đối vụ Bô xít Đắc Nông trong đó có cả bà già Nguyễn Thị Bình và Gs. Ngô Bảo Châu, học giả Nguyễn Huệ Chi. Thế rồi im bặt, tiếng nói tắt ngay như viên sỏi ném xuống lòng giếng sâu. Tại sao? Vẫn là sợ. Sợ tù đầy chưa bằng sợ bị bôi nhọ trên báo của công an Cộng Đảng. Hãy xem: lúc còn sinh thời, cố HT Thích Huyền Quang liên tục bị báo công an bôi nhọ, réo tên tục của ngài, gọi bằng ông. Rồi HT Thích Quảng Độ, liên tục bị xuyên tạc bôi nhọ. Gần đây, tháng 5, báo CA của Đảng lại lải nhải bôi nhọ Cù Huy Hà Vũ, kéo theo Ngô Bảo Châu, gọi là "Gs. Châu hiểu lầm về Cù Huy Hà Vũ". Tâm hồn trí thức, nhất là trong giáo giới đại học vốn rất nhạy cảm, rất sợ bị bôi nhọ, xuyên tạc bôi tác trên mặt báo. Tại sao lại sợ và rất sợ như thế? Đây là tâm lý chung, nó chửi mình mình ráng chịu nhưng còn vợ con, anh em, bà con bên nội bên ngoại và học trò. Bằng hữu và chiến hữu không sao. Đảng CSVN có ba đội "hùng binh" bảo vệ Đảng: một là QĐND, sau là công an rồi đến đội quân báo Đảng trong đó chửi, xuyên tạc và bôi đen đối thủ của Đảng được trao cho báo Công An, nghĩa là công an làm 2 chức năng: bắt bớ tra tấn nhân dân, bôi đen và chửi các nhân vật CS cần triệt hạ. Thí dụ liên tục bôi đen bôi bẩn cựu Đại tá Bùi Tín, vu cáo Đại tá Tín theo VT. Hãy hiên ngang và dõng dạc như Đạ tá Tín, ông sẵn sàng đối phó với quân "khốn kiếp" ấy. Đại tá Tín đã lên tiếng như người cha dạy lũ con hoang của tổ quốc, ông Tín đã cho chúng một vài bài học đích đáng qua bài viết của ông. Bản thân người cầm bút Cao Thế Dung là khách hàng thường trực nhiều năm của báo Công An. Thí dụ tuần báo "An Ninh Thế Giới" của Công An số ra ngày 16-2-2004, số 426, bài đầu, trang 3 "An ninh trong nước", viết rằng: "Các nhân vật trong "chính phủ" bịp đã kể rõ: Cao Thế Dung "tham mưu đường lối" hiện là bồi bút. Ở khu Bolsa, quận Cam, California, nơi có đông người Việt sinh sống và cũng là nơi đẻ ra nhiều tổ chức phản động nhất, hễ ai đưa cho Cao Thế Dung - dù chỉ vài chục "đô", thuê Dung viết bài "đánh" người này người nọ trên mấy tờ báo lá cải là Dung "đánh" liền mà chẳng cần biết sai hay đúng. Trình độ học vấn mập mờ nhưng sang Mỹ, Dung khoe đã có bằng tiến sĩ do... Đại học Harvard cấp". Họ Cao vui vẻ, lịch sự viết thư về Hà Nội trả lời: Chửi nữa đi các em, để anh gửi cho chút ít đô la xài chơi!

Trí thức trong nước hãy noi gương Hòa thượng Thích Quảng Độ, ngài đâu có thèm quan tâm! Chấp! Như đánh cờ chấp chúng cả xe pháo mã. Đừng sợ! ĐGH Gioan Phao lô II, vị tân Á Thánh từng lên tiếng khuyên dân Ba Lan của ngài dưới thời bạo quyền CS: Đừng sợ! Hãy đừng sợ như Điếu Cầy, như Lê Thị Công Nhân, như Cù Huy Hà Vũ, như Nguyễn Đan Quế... Chấp chúng! Nhưng không bất chấp, ta đã và đang thắng bọn bạo quyền Việt gian, ngay cả ở hải ngoại.

Bất chấp luật pháp quốc tế, trước sau TC cũng sẽ chiếm hết Trường Sa, áp đảo VN, thực hiện "nghị quyết" 2 nước, 2 đảng là một, bỏ ngỏ biên giới Việt - Trung. Vấn đề sinh tử của dân tộc VN bây giờ là phải diệt lũ Việt gian, tay sai Đại Hán ở trong lòng lãnh đạo TƯĐ - CSVN. Phải theo gương xưa, ngoại thù có thể khoan hồng, Việt gian phản quốc phải diệt ngay. Nhưng với tập đoàn lãnh đạo CSVN ta phải tính sao đây? Vận nước đang như treo trên sợi chỉ mành. Với lãnh đạo CS thì Đảng trên nước, cá nhân lãnh tụ trên Đảng. Bế tắc! Tạm thời vào lúc này vẫn không thể khoanh tay. Chờ quốc tế can thiệp ư? Chưa thể được! Ngay Hoa Kỳ cũng đã bày tỏ lập trường không can thiệp vào cuộc tranh chấp các phía ở Biển Đông. Nam Dương hiện là chủ tịch ASEAN, Nam Dương vẫn lập lờ. Bắc Kinh đang chia để trị. TC đầu tư dẫn dầu ở Nam Dương. Bắc Kinh đang thuyết phục hải quân Nam Dương và TC sẽ "liên kiểm", 2 bên tuần tiểu chung ở Biển Đông trong khi Nam Dương không liên hệ đến cuộc tranh chấp ở Biển Đông. Còn lại Mã Lai, Brunei, Phi Luật Tân và Tân Gia Ba, cả 3 nước vẫn không tin VN, nghi ngại VN vẫn là chư hầu Đỏ của Bắc Kinh. Vả lại, TC sẽ phá và đả phá mọi toan tính liên minh của ba nước ASEAN. Vậy ta phải làm thế nào? Bài toán rất nan giải! Trước hết, cứu nước như chữa lửa, hải ngoại cần vận động một cao trào không sợ, thúc đẩy đồng bào trong nước không sợ, nhất là không sợ báo đảng Công An bôi nhọ. Và từ đó, vận động cao trào không sợ Đại Hán xâm lược. Bằng tài liệu qua video hay tivi (như Global Tivi) chứng minh để đồng bào các giới trong nước biết rõ 2 điều: 1. Nếu kiện Bắc Kinh ra tòa án quốc tế về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa thuộc VN, TC đã xâm lăng cướp đoạt, ngay cả thềm lục địa VN, chắc chắn VN sẽ thắng. Pháp quốc là một nhân chứng. 2. Làm một phim tài liệu lịch sử qua video: qua 8 lần Đại Hán xâm lăng VN kể từ đời Ngô Vương Quyền, Lê Đại Hành đến Quang Trung, Đại Hán đã bị đánh bại. VN không thua một trận nào. Trước hết, trong sự bế tắc hiện nay hãy tạo một niềm tin tất thắng đã! Điều căn bản khác là tiếp tục tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền, vẫn là một vũ khí nhiệm mầu để lật đổ bạo quyền cho đến chừng nào lũ Việt gian, bộ sậu của TC bị đánh bật khỏi tập thể lãnh đạo VN, chừng nào những Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Trọng Vĩnh, Trần Phương từ lòng đảng CSVN hàng loạt thức tỉnh đứng lên: không sợ bạo quyền, không sợ Đại Hàn Đỏ, bấy giờ khả dĩ VN sẽ tìm được thế quốc tế. Chắc chắn, quốc tế không bỏ Biển Đông, không bỏ rơi ASEAN, không bỏ VN nếu một VN có tự do dân chủ không còn bọn đầy tớ tai sai Bắc Kinh.

BẮC KINH PHƠI BÀY CHÂN TƯỚNG DÃ THÚ

Như quí đồng hương đã rõ qua đài và báo, ngày 26-5 vừa qua, ba tàu hải giám của TC tiến sâu vào hải phận VN, cách Nha Trang hơn 100 hải lý, áp vào tàu Bình Minh 2 của công ty Petro VN, quấy phá, đe dọa và cắt dây cáp thăm dò địa chất. Hà Nội lên tiếng phản đối. Phát ngôn viên bộ ngoại giao TC phản bác lại, ngang ngược nói rằng VN hoạt động phi pháp trong vùng biển của TQ. Và tự hậu VN không được quyền hoạt động phi pháp như vậy! Đây là hành động xâm lăng trắng trợn của TC, chứ không phải 2 bên tranh chấp! Đây là thềm lục địa VN cách Mũi Né và Nha Trang hơn 100 hải lý thì tranh chấp cái gì? Hành động của TC bất chấp luật biển 1982 và công pháp quốc tế. Thực ra thì họ đã bất chấp khi đơn phương in bản đồ mới TQ và Biển Đông, tự khoanh vạch làn ranh chiếm trên 80% Biển Đông! Cả thế giới từ lâu đã biết rõ tham vọng bá quyền của TQ. Nay hơn một lần nữa, TC lại bất chấp quốc tế và ASEAN. Hành động ngang ngược này, TC làm cho cả ĐNA và Á châu hoảng sợ. Tự TC đã tự tố cáo mình là bành trướng bá quyền.
Bắc Kinh có tính toán, tại sao lại hành động vào lúc này? Sau khi hòa hoãn với Mỹ, bái phục Mỹ, nịnh hót Mỹ để Mỹ cho rảnh tay ngang dọc Biển Đông. Lịch sử lại tái diễn, năm 1978, Đặng Tiểu Bình thăm Hoa Kỳ hòa hoãn và kết thân, trở về nước họ Đặng "dạy cho VN một bài học", tung 11 quân đoàn hay là 44 sư đoàn tấn công thượng du cũng là để giải cứu chế độ khát máu Pol Pot đang bị VNCS vây khốn ở vùng Tây Nam Việt - Miên, phá vỡ tham vọng của TC xây một tiền đồn chiến lược ở Cao Miên qua chế độ diệt chủng Pol Pot. Như ta đã biết Bắc Kinh thua to ở cả Cao Miên (1978) và Thượng du Bắc Việt (tháng 2-1979). Nếu không kịp thời tháo chạy, ít nhất 3 quân đoàn TC đã không thoát được vòng vây tử thần ở Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng và Lạng Sơn (sau hơn 3 tuần lễ bại liệt kể từ ngày 17-2-1979). Đánh Thượng du VN, chủ yếu là để cứu Miên. Mất Cao Miên Pol Pot, TC mất thế đứng ở ĐNA (tham khảo: Chang Pao-im "The Sino-Vietnamese conflict over Kampuchia, Suervey, no 27, Autumn & Winter 1983, pp. 171-206). Bài học cũ tái diễn chăng? Bộ trưởng QP Lương Quang Liệt qua Manila hòa hoãn với Phi, hứa hẹn đủ điều, ngầm chia rẽ, xé lẻ Việt - Phi. Tướng Trần Bỉnh Quốc qua Mỹ nịnh Mỹ, thổi Mỹ lên đến mây xanh, cả hai ông trở về Bắc Kinh cho đoàn tàu chiến hải giám tiến sâu vào thềm lục địa VN. Để làm gì? Mới chỉ là "dương oai diễu võ", màn đầu nhưng lại gây tai hại cho TC không phải là nhỏ ở TBD, ĐNA và cả Á châu. TC quá kiêu căng, đi thêm bước nữa sẽ đổ bể to!

LÃNH ĐẠO ĐCSVN BẼ BÀNG - LÚNG TÚNG

Vụ tàu Bình Minh 2 và Bắc Kinh tiếp tục ngang ngược xâm lấn hải phận VN đã làm cho phe thân Bắc Kinh trong lãnh đạo CSVN lúng túng to! Thật sự bẽ bàng, "16 chữ vàng, 4 tốt" trong quan hệ Việt - Trung để đâu? Phe thân Mỹ và Tây phương có lý do vùng lên: Nhìn coi! Đồng chí TQ như thế đấy! Trong họa vốn có phúc, cả nước VN nhốn nháo "mất nước đến nơi rồi!". Đây là cơ hội ngàn vàng "Dân tộc thức tỉnh". Uncle Sam vỗ đùi hỉ hả: "Muốn cứu nguy không? Dân chủ tự do đi, sẽ OK cái rụp!". Có thể nói qua vụ Bình Minh 2, trước sự hung hãn ngang ngược công khai của TC, cả nước VN đều hướng về chân trời Tây, SOS!

MỤC TIÊU CHÍNH CỦA BẮC KINH

Hầu hết cho rằng TC công khai xâm lăng Biển Đông do tham vọng tài nguyên dầu khí, mà một website của Bắc Kinh ví Biển Đông là một vịnh Ba Tư, Ả Rập Trung Đông! Phóng đại! Khí đốt tuy nhiều, tập trung ở thềm lục địa từ Đà Nẵng đến Phú Yên, Nha Trang, nhưng thuộc loại chất lượng kém. Vùng dầu lửa quanh giếng Bạch Hổ không nhiều. Các bản nghiên cứu phúc trình của Đại học Harvard đã cho ta biết rõ về số lượng phỏng định làm sao mà so được với dầu khí ở vịnh Ba Tư (tham khảo "Theo hướng Rồng Bay" - Viện phát triển quốc tế, ĐH Harard 1994 - Bản dịch của Ts. Cao Đức Phát, hiện là bộ trưởng bộ nông nghiệp). Dầu khí và hơi đốt VN tập trung ở vùng đảo Côn Sơn, nhất là từ Nam Côn Sơn đến biển Rạch Giá với khối lượng vĩ đại, vượt Brunei, đứng đầu ĐNA - TBD. Rất may do các hãng dầu Mỹ đã khám phá, có giếng với trữ lượng trên 90 tỷ thùng! Đại Hán Bắc Kinh nhắm tới vùng này. Sau là tài nguyên tôm cá và than đá. Bản nghiên cứu của ĐH Harvard cho biết: "Tại VN có những vỉa than đơn lẻ có độ dầy cực lớn tới 90 m, và hiện nay, VN là nước có trữ lượng than antracit lớn nhất thế giới, nằm ngay sát bờ biển" (tlđd, chương X, tr. 25). Tóm lại mục tiêu chính của Đại Hán Đỏ là nguồn hải sản trong hải phận VN, dầu khí hơi đốt ở vùng biển Côn Sơn và Rạch Giá trong vịnh Thái Lan thuộc VN. Chiến lược của Bắc Kinh là làm chủ Biển Đông, khống chế VN, buộc VN phải qui phục để khai thác tài nguyên như vô tận ở Trường Sơn và Tây Nguyên VN.

Thế nước đang chơi vơi, bên lề sụp đổ. Tiên quyết là phải có tự do dân chủ, nhân quyền và phải có thế tựa Âu Mỹ mới chống trả được đại họa Đại Hán Đỏ.
Hà Nhân Văn


HUỲNH NGỌC CHÊNH * HAI TỬ HUYỆT

Thứ hai, ngày 14 tháng một năm 2013


HAI TỬ HUYỆT CỦA CHẾ ĐỘ

Tác giả Hoàng Xuân Phú đã xuất chiêu điểm đúng vào hai huyệt đạo chết người của đảng. Những lý luận gia đầy bằng cấp của đảng, những "dư luận viên", những "phản biện viên" hãy tung chiêu chống đỡ đi chứ. Các vị mà lặng thinh thì mọi người sẽ cho là các vị đã đồng tình với lập luận không thể nào chống đỡ được nầy.
Hoàng Xuân Phú1
Có lẽ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) quan niệm rằng
-       quy định về quyền lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội, và
-       quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý
tại Điều 4 và Điều 17–18 của Hiến pháp 1992 là hai tử huyệt của chế độ. Vì vậy, dư luận càng muốn hủy bỏ hoặc sửa đổi hai quy định đó, thì họ càng kiên quyết bảo lưu. Chúng nằm trong định hướng bất di, bất dịch của lãnh đạo đảng, và được tái thể hiện tại Điều 4 và Điều 57 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.


Tử huyệt độc quyền lãnh đạo
Trong thế giới văn minh, quyền lãnh đạo đất nước của một đảng chính trị chỉ có thể giành được thông qua tranh đấu và bầu cử dân chủ. Kể cả khi đang cầm quyền, đảng vẫn phải phấn đấu liên tục, để thuyết phục Nhân dân tin tưởng và tiếp tục trao cho quyền lãnh đạo.
Không thể lấy công lao trong một giai đoạn quá khứ để bù lại cho hiện tại yếu kém, với bao sai lầm, tội lỗi, và áp đặt cho cả tương lai vô định. Nếu cứ từng có công là được cầm quyền vĩnh viễn, thì ĐCSVN phải trả lại chính quyền cho triều đình nhà Nguyễn, và triều đình nhà Nguyễn lại phải trả lại chính quyền cho các triều đình trước đó. Thế là khởi động cho một quá trình truy hồi dằng dặc, mà không thể tìm được điểm kết thúc. Hơn nữa, thời gian qua đi, giờ đây nắm quyền lực bao trùm đất nước lại là những người vốn chỉ đi theo hoặc ăn theo cách mạng, hay từng được cách mạng o bế và cưu mang mà thôi. Nếu họ từng có công, thì chưa chắc bù nổi những lỗi lầm đã gây ra. Phần lớn những người có công đáng kể, những công thần của chế độ, đã qua đời, hoặc nếu còn sống thì đã về hưu, và có lẽ đang đau lòng vì phải chứng kiến sự nghiệp cách mạng của thế hệ mình bị phản  bội.
Không thể coi quyền lãnh đạo đất nước của bất kỳ đảng phái nào là đương nhiên, và vì vậy không thể ghi điều đó vào Hiến pháp. Vả lại, nếu quyền đó đã là đương nhiên, được mọi người mặc nhiên thừa nhận, thì cũng chẳng cần ghi vào Hiến pháp làm gì, để khỏi gây phản cảm một cách không cần thiết. Nếu một điều không phải là đương nhiên và không được tất cả mọi người thừa nhận, mà vẫn bất chấp, áp đặt bằng được trong Hiến pháp, thì chỉ riêng việc làm đó đã khắc họa xong tính dân chủ và tính hợp pháp của đảng và chế độ.
Nếu ĐCSVN được đa số Nhân dân tin cậy và ủng hộ, thì bất cứ cuộc tổng tuyển cử dân chủ nào cũng đưa lại một kết quả tất yếu, đó là trao cho đảng quyền lãnh đạo đất nước. Cho nên, khi khẳng định rằng “bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”, thì có nghĩa đã mặc nhiên thừa nhận thực trạng tệ hại của đảng, khiến đa số Nhân dân không thể đồng tình ủng hộ và chắc chắn sẽ không bầu cho đảng. Nếu nghĩ là mình không còn xứng đáng, không còn được đa số Nhân dân tín nhiệm, mà vẫn dùng Hiến pháp để áp đặt bằng được vai trò lãnh đạo, thì có còn tử tế và vì Dân nữa hay không?
Con người muốn tồn tại và phát triển thì không thể khước từ thử thách, không thể lẩn tránh đối đầu. Ngược lại, phải chấp nhận thử thách, vượt qua thử thách mà vươn lên. Nếu một đứa trẻ luôn được o bế trong căn nhà vừa được vô trùng, vừa được điều hòa nhiệt độ một cách tuyệt đối, thì sẽ dễ bị đổ bệnh khi ra khỏi cửa. Nếu con cái được bố mẹ quá bao cấp, kèm cặp từng li từng tí, thì sẽ dễ ngã gục khi bước vào cuộc sống tự lập trong xã hội. Để tránh bệnh tật, hàng tỷ người trên thế giới chấp nhận tiêm vắc-xin, nhằm phát triển khả năng miễn dịch, tức là chủ động đưa cơ thể mình vào trạng thái thử thách. Muốn khỏe, con người không thể ỳ ra, mà phải thường xuyên khổ luyện dưới hình thức thể dục. Không có cạnh tranh, không có thi đua (thực chất), thì con người không thể khá lên được.
Không chỉ từng cá thể, mà cả quần thể, với tư cách tổ chức, đảng phái, hay cả xã hội, cũng phải biết đương đầu với thử thách. Vì biết tận dụng cuộc cạnh tranh giữa hai hệ thống chính trị trên thế giới để tự hoàn thiện, để giành phần thắng trong cuộc chiến tranh lạnh, nên các nước tư bản hàng đầu đã phát triển vượt bậc, không chỉ về kinh tế, khoa học và công nghệ, mà cả về dân chủ và phúc lợi xã hội, cũng như về quyền con người.
Ngược lại, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa đã xử lý sai tình huống và quan hệ địch ta. Nhìn đâu cũng thấy địch, kể cả trong Dân, nên nhiều khi đối xử với Dân cũng giống như với địch, khiến dần dần mất Dân. Ỷ thế vào cường quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đầu têu trong việc cấm đảng phái khác hoạt động, để rồi sau này ĐCSVN cũng nối gót sai lầm. Các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa chấp nhận đa đảng, nhưng cũng chỉ là hình thức. Dân chủ xã hội và quyền con người bị bóp nghẹt, khiến tinh thần và trí tuệ cũng bị lụi tàn. Tưởng rằng như vậy thì các đảng cộng sản sẽ rảnh tay, có thể tập trung lực lượng chiến đấu với kẻ thù chính ở hệ thống bên kia, nhưng kết quả thì ngược lại. Kinh tế suy sụp, lòng Dân ly tán, khiến hệ thống chính trị được dày công xây dựng suốt hơn nửa thế kỷ bị phá từ trong phá ra, đổ rụp trong chốc lát, làm cho đối thủ cũng bị bất ngờ đến ngỡ ngàng.
Họa đôi khi cũng là phúc, nếu biết rút ra bài học hợp lý từ thảm họa. Nếu quay ra chấp nhận cạnh tranh một cách dân chủ trong xã hội đa đảng, đa nguyên, ĐCSVN sẽ buộc phải lựa chọn những người lãnh đạo thuộc loại ưu tú nhất, và chắc chắn sẽ chọn được hàng ngũ lãnh đạo tốt hơn gấp bội lần so với đội hình đương nhiệm, kể cả tài lẫn đức. Mọi phần tử thoái hóa, tham nhũng sẽ bị vạch trần và bị đào thải. Trong ba triệu đảng viên không thiếu người tài, người tốt. Vấn đề là phải dùng dân chủ để giải phóng tiềm năng bị độc quyền giam hãm bấy lâu. Không chỉ dựa vào nội lực, dân chủ xã hội còn cho đảng thêm cả sức mạnh từ ngoài đảng. Nếu đảng cầm quyền không tự nhận ra tồn tại yếu kém của mình, thì các đảng đối lập cũng sẽ vạch ra cho. Chẳng cần đến những nghị quyết vô dụng, những màn kịch phê bình – tự phê bình giả dối và lố bịch, thì ĐCSVN vẫn có thể vươn lên, tốt hơn hẳn hiện tại, để được Nhân dân tin tưởng mà trao quyền lãnh đạo.
Tiếc rằng, lãnh đạo của ĐCSVN lại phản ứng như gã tài xế ù lì, chỉ biết nghiến răng tăng ga, khi cỗ xe đang lao xuống đầm lầy. Một mặt, đảng càng suy sụp thì họ càng bóp nghẹt dân chủ trong đảng, dân chủ trong xã hội, và càng hạn chế quyền con người, nhằm duy trì quyền lực bằng bạo lực. Mặt khác, giới cầm quyền tranh thủ tham nhũng, đua nhau vơ vét, tước đoạt cả tài sản của Dân. Chính họ, chứ không phải thế lực thù địch nào khác, đã và đang phá nát ĐCSVN. Trạng thái độc đảng đã triệt tiêu sức chiến đấu và bản năng sống lành mạnh của đảng. Buông thả trong thế độc quyền, ĐCSVN đang tự tha hóa, tự hủy diệt, như cỗ xe không phanh, lao xuống dốc, hướng thẳng tới vực thẳm.
Có ý kiến đề xuất tăng cường dân chủ trong nội bộ đảng để bù lại, để tự gột rửa và điều trị căn bệnh ung thư đã bước sang giai đoạn di căn. Nhưng không thể tồn tại dân chủ trong một đảng độc quyền. Chỉ có dân chủ ngoài xã hội mới thúc đẩy dân chủ trong đảng, chứ không phải ngược lại.
Khước từ dân chủ xã hội, trong đó có thể chế đa đảng, ĐCSVN không chỉ gây thêm thù oán với Dân, mà còn tự tước bỏ khả năng đề kháng và hy vọng chữa trị căn bệnh nan y của chính mình. Sự bảo thủ kiêu ngạo đã bịt mắt giới lãnh đạo, khiến họ cố tình làm ngơ trước thực tế là: Đảng Nhân dân Camphuchia, một đảng từng được ĐCSVN nâng đỡ và phải đương đầu với hoàn cảnh khó khăn gấp bội, vẫn có thể giữ được quyền lãnh đạo đất nước thông qua bầu cử, mà không cần phải bức hại đa nguyên, không cần phải cưỡng bức Hiến pháp.
Cần phải nói thêm rằng: Quy định ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không có nghĩa nó là lực lượng lãnh đạo duy nhất, càng không phải là đảng duy nhất được phép tồn tại. Do đó, kể cả khi duy trì Điều 4 củaHiến pháp 1992, thì việc ngăn cấm các đảng phái chính trị khác thành lập và hoạt động là vi phạm quyền tự do hội họp, lập hội, được quy định tại Điều 69, Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tử huyệt sở hữu toàn dân về đất đai
Hiến pháp 1946 không đề cập đến đất đai. Hiến pháp 1960 chỉ quy định đất hoang thuộc sở hữu của toàn dân. NhưngHiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 thì quy định (toàn bộ) đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
“Sở hữu toàn dân” lại có nghĩa là chẳng người dân nào có quyền sở hữu. Trớ trêu thay, nhân danh “sở hữu toàn dân” để tước đi quyền sở hữu của toàn dân. Những mảnh đất vốn dĩ có chủ, được khai hoang, được trao đổi, mua bán, hay được thừa kế hợp pháp từ bao đời, nay bỗng nhiên trở thành vô chủ. Bộ máy cầm quyền, vốn dĩ chẳng có gì, mà nay lại chiếm được tất cả, trong đó có quyền quyết định về đất đai trong cả nước.
Để vận động hàng chục triệu nông dân giúp đỡ cướp chính quyền, ĐCSVN đã giương khẩu hiệu “dân cày có ruộng”. Chữ“có ruộng” ở đây đương nhiên là “sở hữu ruộng đất”, chứ không phải chỉ là “có quyền sử dụng đất”. Sau khi giành được chính quyền ở miền Bắc, đảng đã lấy ruộng của người giàu chia cho người nghèo, rồi tiếp đó lại vận động nông dân góp ruộng để làm ăn tập thể, trong mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Khi đã giành được chính quyền trong cả nước, lãnh đạo ĐCSVN quyết định quốc hữu hóa đất đai, dưới hình thức “sở hữu toàn dân”Nếu biết trước kết cục sẽ mất đất như vậy, liệu hàng triệu người có còn theo đảng, giúp đảng giành chính quyền nữa hay không?
Khi chính quyền tử tế, có khả năng sử dụng đất đai một cách vô tư, hợp lý và công bằng, thì sở hữu toàn dân về đất đai có thể tạo ra một sức mạnh cộng hưởng để xây dựng đất nước. Và người dân có thể tự an ủi rằng mình hy sinh bớt lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích cộng đồng, trong đó có cả bản thân và gia đình mình. Nhưng khi chính quyền tham nhũng thì sở hữu toàn dân về đất đai gây ra đại họa, không chỉ làm khổ muôn dân, mà phá nát cả chính quyền.Chỉ mất mấy giây hạ bút, kẻ mang danh “công bộc” đã có thể vơ về cả đống tiền của, mà một người lao động chân chính lăn lộn cả đời cũng không kiếm nổi. Chỉ với mấy chữ ký loằng ngoằng của mấy kẻ có chức quyền, hàng trăm, hàng ngàn người dân đã bị tước mất đất đai, nơi họ đang làm ăn, sinh sống, trở thành dân oan, lang thang khiếu kiện khắp nơi. Càng duy trì sở hữu toàn dân về đất đai, thì càng gia tăng oán hận của Dân, càng sinh sôi tham nhũng trong tầng lớp lãnh đạo, và càng đẩy nhanh quá trình tự hủy diệt của chế độ.
Bộ máy cầm quyền đầy ắp những kẻ tha hóa, cấu kết với bao kẻ vốn đã lưu manh từ trước khi chen chân vào chốn quan trường. Cái thứ “sở hữu toàn dân” ngon lành và dễ ăn như thế, làm sao kìm nổi lòng tham? Có thể những người đã no nê cũng tán thành tư nhân hóa đất đai, vừa giũ bỏ được cái nguồn kiếm chác béo bở đã trở thành “của nợ”, vừa có được quyền sở hữu vĩnh viễn cho số đất đai đã thu gom bấy lâu. Nhưng những vị còn chưa thấy đủ no và những kẻ kế cận đang mong chờ đến lượt mình được vơ vét thì lại không dễ buông tha.
Muốn nuốt thì hóc, mà muốn nhả ra cũng không hề dễ. Tư nhân hóa đất đai thế nào? Trao quyền sở hữu cho ai và trao bao nhiêu? Khi còn là sở hữu toàn dân thì chủ đất cũ đành chịu lặng thinh. Nhưng khi mảnh đất vốn của mình lại được giao cho một người lạ hoắc sở hữu, thì chủ cũ đâu dễ chịu ngồi im. Đất đai vốn dĩ nằm trong trạng thái phân bổ tương đối ổn định và hợp lý về mặt lịch sử, mấy chục năm qua bị đẩy vào tình trạng hỗn loạn. Nếu bây giờ muốn sửa chữa sai lầm, lập lại trật tự, thì lại quá khó. Hoàn cảnh thực tại giống như gã phàm ăn nuốt phải lưỡi câu: Nuốt tiếp thì vướng cước và có thể bị chọc thủng dạ dày, mà lôi ra thì móc vào cổ họng.
Thách thức vượt quá năng lực tư duy và hành động của những đầu óc u mê, trí tuệ giáo điều. Biết làm gì ngoài việc câu giờ, dồn hậu họa lên đầu những người kế nhiệm?
Quả là rất khó để thoát ra khỏi tình trạng sa lầy về sở hữu đất đai. Sai lầm càng lớn thì khắc phục càng khó. Songlãnh đạo ĐCSVN cần xác định rằng họ có trách nhiệm giải thoát Dân tộc ra khỏi bãi lầy, mà chính đảng đã đẩy Dân tộc xuống. Nếu biết huy động trí tuệ của Dân tộc và tạo được sự đồng thuận của Nhân dân, thì khó mấy cũng làm được. Cách làm như thế nào không phải là chủ đề trao đổi của bài này. 
*
*      *
Quy định trong Hiến pháp về quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội tưởng để đảng trường tồn, nhưng lại là điều khoản khai tử của ĐCSVN, khai tử khỏi lòng Dân và khai tử khỏi cuộc sống chính trị.
Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý như cỗ máy khổng lồ, từng phút từng giờ đùn ra hàng đống thuốc nổ, nén chặt vào lòng Dân. Nó giống loại ma túy cực độc, có thể thỏa mãn cơn nghiện tham lam vô biên của giới cầm quyền, nhưng cũng tăng tốc quá trình tự hủy diệt của ĐCSVN và chế độ do đảng dựng nên.
Vì vậy, nếu muốn bảo vệ ĐCSVN và chế độ này, thì cần phải nhanh chóng loại bỏ hai quy định đó ra khỏi Hiến pháp.
Ngược lại, nếu muốn gạt bỏ sự lãnh đạo của ĐCSVN, thì có thể sẽ sớm được toại nguyện, nếu tiếp tục duy trì hai quy định ấy trong Hiến pháp, bởi lẽ không có cách phá nào nhanh hơn là tự phá.
H.X.P.
Hà Nội, 11/01/2013

HUY PHƯƠNG * BIỂU TƯỢNG VIỆT NAM

                        Ði Tìm Một Biểu Tượng Cho Việt Nam Thời Cộng Sản
Huy Phương  January 8, 2013
Hễ nói đến chiếc lá phong màu đỏ Mùa Thu là người ta nghĩ đến quốc kỳ Canada, hay nói đến con Kangaroo thì không ai còn lạ đó là biểu tượng của nước Úc. Rồi hoa anh đào phải chăng là hình ảnh của nước Nhật, Vạn Lý Trường Thành là hình ảnh của Trung Hoa, nhìn tháp Eiffel người ta nghĩ đến nước Pháp. Còn nói đến cái búa, cái liềm màu đỏ máu thì khó quên Liên Xô cũ và các chư hầu của nó. Còn bao nhiêu biểu tượng trên thế giới này đã gắn liền với tên tuổi của những đất nước ấy.


Người chồng Kim Choong-Hwan, người Nam Hàn, một tài xế xe truck 40 tuổi, và cô vợ Ngô Ngọc Quý Hồng, người Việt Nam, 21 tuổi, tại ngôi nhà của họ ở Osan, cách Seoul 55 cây số về phía Nam. (Hình: JUNG YEON-JE/AFP/Getty Images)

Từ lâu đã có nhiều người muốn đi tìm một hình ảnh nào đó có thể làm biểu tượng cho đất nước Việt Nam thời Cộng Sản độc đảng. Làm sao để khi nhìn thấy nó thì người ta nghĩ đến VNCS, mà nói đến VNCS thì phải liên tưởng ngay đến “cái đó”.

Ði tìm cái gì quý giá, độc đáo nhất của Việt Nam thường đem ra phơi bày ở nước ngoài, thì ra đó là món “duyên dáng Việt Nam,” như lãnh tụ Cộng Sản đã từng hãnh diện khoe “con gái Việt Nam đẹp lắm!” Vậy nói đến đất nước ấy bây giờ, người ta không thể không nghĩ đến món “đặc sản đàn bà”.

Các viên chức ngành du lịch Việt nam đang cãi nhau về chuyện quảng cáo cho du lịch, ai cũng than không có ngân quỹ để quảng cáo cho ngành du lịch. Ông Nguyễn Mạnh Cường, phó tổng cục trưởng du lịch Việt Nam, cho rằng cần có tiền thêm để quảng cáo, cục này đã bỏ $50,000 chỉ để làm một đoạn phim chiếu ở Pháp. Ông Vũ Thế Bình, một cựu nhân viên, cũng của cục này, nhắc lại là đạo diễn Việt Nam quá kém, nên đã bỏ ra $50,000 thuê Trung Quốc làm một đoạn phim 10 phút chiếu tận Bắc Kinh. Ông Nguyễn Ðức Quỳnh ở Ðà Nẵng thì sang tận Singapore bỏ $60,000 thuê làm mấy đoạn phim ngắn. Một hình ảnh trong các đoạn phim này là hai cô thiếu nữ Việt Nam mặc “bikini” tên bãi biển, món “câu khách” cổ điển.

Trong khi người ta than phiền thiếu tiền làm quảng cáo thì thực tế là theo tài liệu của Tổng Cục Du Lịch, chỉ trong 9 tháng đầu của năm 2012 Việt Nam đã có 4.85 triệu lượt khách ngoại quốc, nhiều nhất là khách Nam Hàn, tăng 53%, khách Singapore, tăng 49%, Nhật 32%, Mỹ 26%, Úc 20%… Chỉ nói đến khách quốc tế, mục tiêu của thành phố Hà Nội trong năm 2013 là sẽ thu hút 2.25 triệu lượt khách, năm 2015 sẽ là từ 7 đến 8 triệu, năm 2020 là từ 11 đến 12 triệu. Doanh thu từ du lịch sẽ đạt $18 đến $19 tỷ năm 2020.

Một đất nước trộm cắp hoành hành, cướp giật như rươi, ăn mày và kẻ bán hàng rong bám sát khách như đĩa đeo, giao thông thiếu an toàn, chỉ có 91 triệu dân (2012) mà mỗi năm có đến 4, 5 triệu lượt khách ngoại quốc vào, kể cũng lạ. Thực sự là chưa nghe ai tố cáo Việt Nam có sex-tour, nhưng đến Việt Nam tìm một cô gái “tàu nhanh” hay qua đêm còn dễ hơn đi tìm một ổ bánh mì thịt ngoài hè phố.

Chuyện bán dâm bây giờ không còn là chuyện gì bí mật, nhạy cảm phải tránh né nữa. Nó “lền khênh” như những chiếc xe gắn máy trên đường trong giờ tan sở. Ngày xưa chỉ có giới thất học, nghèo hèn mới sa cơ vào nhà thổ, giấu biệt gia thế để khỏi nhục nhã đến tông môn, họ hàng. Ngày nay, người ta đánh giá con người qua bề ngoài, đua nhau xe đẹp, nhà sang, điện thoại xịn, áo quần, mỹ phẩm cao cấp, nên đồng loạt đàn bà vào trận. Báo chí Việt Nam đã nhiều lần nêu đích danh những diễn viên điện ảnh, người mẫu, ca sĩ, hoa hậu, sinh viên trường múa, không có “tước hiệu” gì thì cũng là sinh viên, học sinh.

Một xã hội chỉ nhắm vào việc khai thác thân xác đàn bà để kiếm tiền, càng có nhiều cuộc thi hoa hậu bao nhiêu, xã hội càng có nhiều ứng viên, tước hiệu để hành nghề chừng ấy.
Ðó là hình ảnh của những thành phố lớn ở Việt Nam.

Ra ngoại ô, “trên những nẻo đường Việt Nam, suốt từ Nam Quan cho tới Cà Mau…” có tắm khoáng ở Ba Vì, cà phê đèn mờ ở Mạo khê, Quảng Ninh, hớt tóc thanh nữ ở Saigon, mãi dâm trá hình hay mãi dâm công khai thì không chừa một thành phố nào, từ đất Cảng (Hải Phòng) cho đến đất Mũi (Cà Mau). Những vùng đất ruộng đồng, sông rạch thanh bình, chơn chất ngày trước đã “thay da đổi thịt” bằng võng ôm, chõng ôm, tắm ôm và đàn bà trở thành một thứ mua vui ở đâu cũng có. Ðất nước này đã từng rêu rao “ra ngõ gặp anh hùng,” không biết có đúng không, chứ bây giờ ở Việt Nam, ra đường, chắc chắn đi đâu cũng được gặp “gái mời!”

Ðã bao nhiêu gia đình Việt kiều Mỹ, Úc, Canada… đổ vỡ vì đòn chiêu dụ của gái Việt Nam, nhiều người dở khóc dở cười vì muốn trở về Việt Nam cưới vợ.

Ðàn bà Việt Nam giá rẻ, đó là nhận xét của đám đàn ông Trung Cộng sang Việt Nam kiếm vợ. Theo bài báo “Tại sao trai Trung Cộng ngày càng thích con gái Việt Nam?” đăng trên tờ Tân Hoa Xã, chỉ cần có vài trăm triệu, nam giới nước này đã có thể lấy được cô vợ Việt xinh tương đối, mà với số tiền này, chưa chắc đã qua được cửa nhà những cô nàng Trung Cộng trung bình. Theo đó, bài báo “khen” con gái Việt với vô số mỹ từ: Có thân hình chuẩn và xinh đẹp, mùi thơm, da trắng, chân thực, ít chưng diện, đi nhẹ, nói khẽ, cười duyên…

Con gái Việt Nam từ thời mở cửa, đã lên cơn sốt bỏ quê hương chân lấm tay bùn đi lấy chồng ngoại quốc. Không chỉ các cô gái mới lớn, giấc mơ đổi đời lấy chồng ngoại đã đành, nhiều bậc cha mẹ sốt ruột, tìm cách chạy tiền xã, ấp để sửa lại khai sinh, hộ khẩu, chứng minh nhân dân, nâng tuổi con gái cho đủ 18 để kịp ra đi lấy chồng Nam Hàn, Ðài Loan hay Trung Cộng như ngày xưa thiếu niên khai gian tuổi để tòng quân giết giặc! Hiện tượng này đã khiến xảy ra những buổi coi mắt, kén vợ mà số ứng viên lên đến 161 người, vào ngày 3 tháng 11, 2008 tại Sài Gòn, một con số không nhỏ, chủ yếu là từ Ðồng Bằng Sông Cửu Long.

Theo số liệu của Nam Hàn số cô dâu Việt là 7,636. Từ năm 2003, chúng ta đã có 11,358 cô gái đi lấy chồng Ðài Loan. Theo thống kê của Bộ Công An con số các cô gái Việt sang Trung Cộng lấy chồng không đăng ký kết hôn, tỉnh Lạng Sơn có khoảng 4,800 người, Hải Dương 4,600, tỉnh Thái Bình 4,200… và họ đã đưa hàng trăm con lai về Việt Nam.

Nhưng sự thật con số còn lớn hơn nhiều. Trong thời gian từ năm 1995 đến 2003, tính chung cả nước đã có 60,000 thiếu nữ đã được cho phép xuất ngoại lấy chồng. Mặt khác, theo con số được đưa ra cách đây vài năm ông Gow Wei Chiou, đại diện Ðài Loan ở Hà Nội, đã xác nhận có 100,000 cô gái Việt bị bán hay được gả hợp pháp sang nước ông. Con số do Hội Liên Hiệp Phụ Nữ đưa ra, cũng có khoảng 28,000 cô gái đi lấy chồng Nam Hàn.

Việt Nam từ thời lập quốc đến giờ chưa bao giờ phụ nữ bị hạ phẩm giá như một món hàng rao bán rẻ tiền như ngày hôm nay và nhà hàng “Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” đang quảng cáo món “đặc sản” đàn bà tận tình.


Nếu muốn đi tìm một biểu tượng cho cái đất nước thời đốn mạt này, có lẽ không gì hơn là hình ảnh người đàn bà khốn khổ Việt Nam. Một chiếc lá tượng trưng cho thân thể đàn bà, chiếc lá nho có vẻ phương Tây, thì ta dùng hình ảnh chiếc lá đa cho đượm màu dân tộc vậy!
Huy Phương


Nguồn:

TƯỞNG NĂNG TIẾN * NHÀ GIÁO ƯU TÚ

Nhà Giáo Ưu Tú & Nhà Giáo Hại Dân


 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến


Sự khủng hoảng giáo dục trước hết là khủng hoảng về chất, điều đó cũng có nghĩa là giáo dục không chỉ tụt hậu mà đã đi lạc hướng, trở thành lạc lõng, trong trào lưu chung của thế giới hiện đại.
 Việt ngữ có hai chữ “nhà tôi” (nghe) vừa thân thương, vừa trang trọng. My wifema femme của Anh với Pháp, khi so với nhà tôi, đều trở thành xoàng xĩnh!
Mà chả riêng gì “nhà tôi” đâu nhá. Mọi chức danh, cũng như nghề nghiệp – trong tiếng Việt – hễ cứ bắt đầu bằng chữ “nhà” là ... có giá thấy rõ: nhà qúi tộc, nhà ngoại giao, nhà truyền giáo, nhà ngoại cảm, nhà bình luận, nhà thiên văn, nhà thám hiểm, nhà bác học, nhà nghiên cứu, nhà khảo cổ, nhà yêu nước, nhà chí sĩ, nhà cách mạng, nhà soạn kịch, nhà soạn nhạc, nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo ...
Trong những “nhà” vừa kể (có lẽ) nhà giáo là giới gần gũi nhất, và được nhiều người tin tưởng nhất – trừ hai ông giáo Sầm Đức Xương và Nguyễn Thiện Nhân. 
Nguyễn Thiện Nhân, Deputy Prime Minister of Vietnam and Minister of Education and Training of Vietnam.  Source: en.wikipedia.org.
Ngày 20 tháng 11 năm 2012, Bộ Giáo Dục & Đào Tạo đã trao danh hiệu “ưu tú” cho nhà giáo Nguyễn Thiện Nhân. Sự kiện này khiến cho “dư luận gầm gừ,” như cách tường thuật (rất giận dữ) của bác Cánh Cò:
Theo báo chí loan tải năm nay có 40 Nhà giáo nhân dân và 570 Nhà giáo ưu tú trên khắp mọi miền đất nước được trao tặng danh hiệu cao quý này, trong đó có một suất cho Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân!
Dư luận gầm gừ, báo chí tiếp tục bình luận và người dân vẫn cắm cúi với lon gạo của mình. Người ta không khỏi chạnh nghĩ đến cái danh hiệu Nhà giáo ưu tú có làm ông Phó Thủ tướng xấu hỗ hay không khi chung quanh ông, những người thật sự ưu tú lại không được cái vinh dự này. Còn ông, nếu có một giải thưởng thích hợp nhất thì chỉ nên cho ông nhận giải Nhà giáo ưu tiên là cùng.
Bởi làm tới chức Phó Thủ tướng mà lại xếp hàng đặt cục gạch trước cái danh hiệu ưu tú với những nhà giáo khốn khổ, bệnh hoạn hy sinh cả đời trong sự nghiệp giáo dục và cuối đời cần một danh hiệu dù là đỏm đáng là chính để kiếm thêm thu nhập thì sự giành giật ấy phải nói là bản năng của một đứa con nít chưa biết phân biệt thế nào là điều cần nên tránh và nhất là em chưa học được bài học nhường nhịn cho đứa trẻ khác không có cơ hội bằng mình.
Bác Trương Duy Nhất cũng “gầm gừ” dữ dội:
Trên cương vị Phó Thủ tướng như bây giờ, ông Nguyễn Thiện Nhân có cần phải ôm nhận thêm cái danh hiệu ưu tú nữa? Sau bao nhiêu những hậu họa, tì vết để lại cho ngành giáo dục, liệu ông Nhân có còn xứng đáng làm thầy, chứ đừng nói đến chữ ưu tú (xem lại bài Giáo dục thời bất Nhân).
Tui “xem lại” thử, và thấy cái ông Nhân này kỳ thiệt:
“Trước sự chìm khuất của các đời Bộ trưởng tiền nhiệm, ông Nhân đột nhiên nổi như một vị Bộ trưởng có trách nhiệm và có tâm, có khao khát, ước vọng thật sự ở việc ‘làm mới sứ mạng giáo dục. Hàng loạt ý tưởng và chính sách từ ông đã thật sự cuốn thổi mặt bằng giáo dục sôi sóng. Đây là những chủ trương, phong trào đã trở thành ‘thương hiệu cho giáo dục thời Nguyễn Thiện Nhân: cuộc vận động hai không: ‘Nói không với tiêu cực trong thi cử và nói không với việc chạy theo thành tích; rồi sau thêm mấykhôngnữa như: ‘nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc ngồi nhầm lớp (cho học sinh không đạt chuẩn lên lớp), và nói không với đào tạo không theo nhu cầu xã hội’…
“Thêm nữa, chính ông Nhân cũng là người đưa ra ý tưởng khá kỳ cục gây nhiều bàn cãi: Ghi số tiền vay nợ vào bằng tốt nghiệp của sinh viên. Cũng chính ông làm được điều mà các đời Bộ trưởng trước không dám làm hoặc không làm được: tăng học phí!
 Nhưng cũng chưa thấy thời nào, triều đại nào mà ngành giáo dục lại phơi bày một khuôn diện nhem nhuốc, bầm vấy như thời ông Nhân. Học sinh đâm chém nhau, đâm trọng thương cả thầy cô giáo, nữ sinh cũng bè hội đồng đánh nhau để… quay clip chơi, bỏ học dắt nhau vào nhà trọ ‘thí nghiệm như người lớn, cô giáo thì dán băng keo bịt miệng đến chết con trẻ, thầy giáo thì bán điểm gạ tình, mua trinh, hiếp dâm học trò… “
Nhà báo Cánh Cò và Trương Duy Nhất tuy đều hơi nặng lời nhưng không ai có chút ác tâm nào với ông giáo Nguyễn Thiện Nhân. Cả hai chỉ bầy tỏ sự thất vọng, bởi nhiều sự kiện khách quan, chứ không “ngậm máu phun người” – như những ký giả (hay còn có tên gọi chính xác hơn là kỹ giả) của nhà nước, khi họ viết về một nhà giáo khác:
- “Đinh Đăng Định – Kẻ Phản Quốc Hại Dân,” Thiên Triều, báo Công An Đà Nẵng.
Nhà giáo "hại dân" Đinh Đăng Định. Ảnh: congan.com.vn
Họ kết tội sẵn cho nhà giáo Đinh Đăng Định (thiếu đạo đức, phản quốc, hại dân, chống phá nhà nước...) dùm cho toà án. Thái độ hung hăng của cả giới truyền thông quốc doanh  khiến tôi tò mò muốn biết (thêm) xem ông Đinh Đăng Định đã “phạm lỗi lầm gì” khiến cho cả một đám người xúm vào ném đá (rào rào) như thế?
Và tôi tìm được một bức thư ngỏ mà nhà giáo Đinh Đăng Định viết trước khi bị bắt. Xin ghi lại nguyên văn, để rộng đường dư luận:
Daknong 18-10-2010.
Tôi là Đinh đăng Định, 47 tuổi.
Hiện làm giáo viên tại Trường THPT lê quý Đôn Daknong có chữ ký thứ 629 (đến 18-10-210) bản kiến nghị dừng dự án Bô Xít Tây Nguyên đang phát trên mạng BVN.
Sáng nay(18-10) ông HT trường THPT Lê Quý Đôn- Tuy Đức-Daknong đưa cho tôi giấy mời do Thượng tá Đinh Tấn Lượng trưởng phòng ANCTNB sở CA Daknong ký.
Mời tôi có mặt tại Trụ sở CA huyện Dakrlap hồi 8 giờ sáng mai để làm việc. Không nói lý do.
Suy xét, thấy mình không làm gì liên quan tới chính quyền. Nếu có chỉ là ký vào kiến nghị dừng dự án Bô- Xit do nhóm các nhà trí thức yêu nước : viện IDS cũ và BVN khởi thảo hôm 9-10-2010 đã loan tải trên BVN.
Kỹ hơn một chút tôi còn thấy mình, đã phát biểu tại phiên họp công đoàn ngành GD tỉnh Daknong hôm 14-10-2010 tại VPSGD Daknong, rằng:
1/ yêu cầu CĐNGD (công đoàn ngành GD) lên tiếng,cứu hai nữ sinh (Thúy và Hằng) ở Hà Giang là nạn nhân bị giới quan chức HG(cầm đầu là cựu CT tỉnh NT-Tô) cưỡng dâm thành phạm nhân đang ở trong nhà giam, ra khỏi nhà giam. Làm thế là góp phần xây dựng môi trường GD thân thiện.
2/ yêu cầu CĐNGD lên tiếng về dự án Bô-Xít Daknong, tôi kêu gọi giáo chức Daknong ký vào Kiến Nghị đang phát trên mạng truyền thông hợp pháp.
Cả 2 ý kiến đều không nhận được phản hồi đích đáng, dù là phản đối.
Ông CB tuyên giáo LĐLĐ Tỉnh có mặt nói: có quặng thì phải khai thác thôi…Một CBCĐ ở một huyện thì nói: Việc ở HG cao xa quá!…
Mở ngoặc: tôi là chủ tịch CĐ trường THPT Lê Quý Đôn; UVBCHCĐ ngành GD Daknong. Tuy nhiên, ngay sau giây phút đó, tôi tuyên bố từ nhiệm cả 2 chức vụ, minh bạch trước hội nghị Tổng Kết Năm Học của CĐNGD Daknong. Ra về.
Xét thấy những gì mình đã nói và làm chỉ minh chứng về lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm của con dân Việt với đất nước; trách nhiệm của một nhà giáo với HS, của bậc phụ huynh với con cái. nhất quyết không thể coi là chống đối nhà nước được.
Hôm nay 18-10-2010 tôi nhận giấy mời do CACTNB gặp, để làm gì? Tôi không thể không đạt nhiều dấu hỏi. Bởi thực tế ở xã hội VN hiện đại tình trạng công quyền( cả CA) tùy tiện hành dân, giết dân là sự thật.
Để bảo vệ an toàn cá nhân, tôi sẽ không tới CA theo giấy mời này chừng nào lý do chính đáng chưa được minh bạch.
Suy xét rộng hơn, thì hôm 9-10-2010, trước giờ Đại Lễ chính 1000 năm Thăng Long.
Tôi có, trả cho VNPT( trạm viễn thông Kiến Đức) một Modem kết nối internet, vì nó kết nối không thành và tôi có viết tờ giấy trả với nội dung (trích nguyên văn): đề nghị VNPT ném modem Made In China này vào mặt bọn…đảng cộng sản chung quốc và hãy chuyển thị trường kinh doanh sang Bắc Hàn và Trung Cộng…Viết thế này chắc cũng không phải tội lỗi gì, nếu tội có CA hãy tìm giùm coi.
Là độc giả thân thiện của trang mạng BVN tôi gửi nơi đây lời cám ơn sâu sắc tiếp nhận thư này và,đề nghị loan tải như một thư ngỏ gửi tới ông Bộ trưởng CA Lê Hồng Anh, ông Bộ trưởng GD Phạm Vũ Luận và Nhà Cầm Quyền tỉnh Daknong và cả ông Nguyễn Tấn Dũng thủ tướng nữa văn thư này và lời nhắn:
Yêu nước không có độc quyền;
Tự do ngôn luận là giá trị căn bản của nhân loại.
Độc tài hết thời rồi.
Thưa Quý Ngài.
ĐĐĐ
ĐT 01266745031
mail.
dinhdangdinh@gmail.com
Theo BBC, nghe được vào ngày 21 tháng 11 vừa qua:”Ông Đinh Đăng Định, giáo viên Hóa ở tỉnh Đắc Nông, đã bị tòa giữ nguyên mức án sơ thẩm là sáu năm tù trong phiên phúc thẩm vừa kết thúc sáng nay. Ông Định bị kết tội ‘Tuyên truyền chống Nhà nước’ theo điều 88 Bộ Luật hình sự.”
Bản tin (thượng dẫn) còn trích lời của quan toà, tỉnh Dak Nong, phê phán nhà giáo Đinh Đăng Định là “hạn chế về nhận thức” và “có những suy nghĩ không phù hợp.” Cùng lúc, Bộ Giáo Dục & Đào Tạo đã trao danh hiệu “ưu tú” cho nhà giáo nhà giáo Nguyễn Thiện Nhân.
Những điểm tương phản trong sự nghiệp của “nhà giáo ưu tú” Nguyễn Thiện Nhân và “nhà giáo hại dân” Đinh Đăng Định giúp cho người ta hiểu tại sao “VN đang ngụp lặn ở nửa dưới của thế giới và với xu hướng ngày càng chìm sâu, thụt lùi xa so với láng giềng ” –  theo như công bố của Tổ Chức Sở Hữu Trí Tuệ Toàn Cầu (World Intellectual Property Organization), được đăng tải trên báo Dân Trí, số ra ngày 08 tháng 8 năm 2012.
   

No comments:

Post a Comment