Wednesday, January 2, 2013
DÂN LÀM BÁO * LÊ HỒNG HÀ
Lê Hồng Hà vừa dứt khoát lại vừa bao dung
V. Quốc Uy (Danlambao) - Bài phỏng vấn ngày 6/3/2012
cho tôi một ấn tượng mới về bác Lê Hồng Hà.
Ấn tượng của độc giả trước đây về LHH là một vị lão thành nghiêm túc,
chân thực, phê phán mạnh những sai lầm của ĐCSVN và của chủ nghĩa
Mác-Lê, tin vào nhân dân… song còn một số hạn chế như: quan niệm “tự vỡ”
của hệ thống CS là thế nào, có phải LHH trông chờ nhiều ở những người
CS thức tỉnh ở quanh ông mà ít quan tâm đến những nhân vật và phong trào
đấu tranh dân chủ cụ thể tự phát ở trong nước nhất là ở ngoài nước, có
phải LHH đánh giá chưa đúng nguy cơ Bắc thuộc…? Với bài trả lời phỏng
vấn nói trên, theo tôi, bác LHH, một cách ngắn gọn và dứt khoát đã rũ sạch được những ấn tượng “lấn cấn” nói trên.
- Việc đánh giá tình hình đất nước của LHH đã xổ toẹt sự đánh giá của đảng CS: Ông nói “tình hình xã hội hiện nay ở mức độ xấu chưa từng có, kể từ năm 1975 đến giờ. Sự xuống cấp của đất nước hầu khắp mọi lĩnh vực từ an ninh, đạo đức, văn hóa, giáo dục, xã hội, hay chính trị... Như vậy xã hội hiện nay, theo tôi (LHH), đang lâm vào một cuộc tổng khủng hoảng toàn diện mà nguyên nhân là do đường lối của ĐCSVN về phát triển là sai”.
- Đánh giá công và tội của đảng CS: Câu duy nhất tạm coi là ghi công “về công cuộc giải phóng dân tộc thì có thể là anh hùng ca”,
nhưng thành tích ấy là do tinh thần yêu nước của dân tộc chứ không phải
do tính chất Cộng sản của Đảng, trái lại Đảng đã nhập vào một chủ nghĩa
“phản phát triển” nên “việc xây dựng và phát triển đất nước thì từ khi có ĐCSVN đến giờ đó là một quãng lịch sử thất bại”, khiến cho “uy tín của của ĐCSVN đã xuống thấp chưa từng có, gần như không còn ai tin vào cái Đảng này nữa!” “Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN thì càng phát triển lại càng tụt hậu về nhiều mặt so với các nước trong khu vực”. Theo ông, ĐCS hiện nay chẳng còn tiền phong tiền phiếc gì hết mà “Đảng hiện nay chỉ còn vai trò kìm hãm xã hội thôi”. (suy ra: Vậy thì Đảng còn ngồi ở đấy làm gì?)
- Tội lớn nhất của Đảng là tạo điều kiện cho Trung quốc xâm lược: “Trung
Quốc đã và đang ráo riết thực hiện những kế hoạch dữ dội, xâm nhập, ảnh
hưởng, chèn ép, bao vây trên mọi lĩnh vực, kinh tế, an ninh, quốc
phòng, lãnh thổ, nhằm thực hiện ý đồ cuối cùng là thôn tính Việt Nam. Còn về phía Việt Nam thì nhiều cán bộ lãnh đạo của Việt Nam lại đã và đang bị Trung Quốc mua chuộc và khống chế. Tất cả những điều đó đều là một quá trình liên tục từ Đại hội VI của ĐCSVN đến nay. Thái độ nói chung của lãnh đạo Việt Nam hiện nay về Trung Quốc lại lờ phờ, không rõ ràng. Đó là một vấn đề hết sức nguy hiểm”.
- Nguồn gốc mọi sai lầm là do chủ nghĩa Mác-Lênin: “Chủ nghĩa Marx-Lenin là một học thuyết đấu tranh giai cấp, là một học thuyết phản phát triển” nên.”Xây dựng và phát triển đất nước mà lại theo chủ nghĩa Marx-Lenin thì sai hoàn toàn”. “Sai lầm từ gốc nằm ở cương lĩnh, ở đường lối, ở hệ tư tưởng”. Thế nhưng ĐCSVN không biết sai từ gốc hoặc biết sai từ gốc nhưng nếu nhận sai như thế thì “phải chấp nhận rằng công tác tuyên huấn là bịp bợm
còn công tác lý luận là bế tắc, họ sẽ phải tự cách chức hết, tự nghỉ
hết, tức là sự tự “lật đổ”, sự thay đổi hoàn toàn” dẫn đến mất chức mất
quyền lợi của họ. Vì không dám đụng đến cái gốc của sai lầm nên theo ông “mong muốn đổi mới cái Đảng này cho nó mạnh lên, nó sạch lên thì không có. Trong tình hình hiện nay của đất nước thì cái Đảng này không thể đổi mới được”, “làm sao có thể chỉnh đốn được”? Tóm lại lối thoát duy nhất là: “thôi hệ tư tưởng Marx-Lenin đi!” (thế thì ông LHH triệt để hơn hẳn ông Lữ Phương, ông LP vẫn cứ bịn rịn với Mác, chạy tội cho Mác).
- Đánh giá lực lượng đổi mới:
Đối với chủ nghĩa Mác-Lê và đảng CS, LHH càng dứt khoát bao nhiêu thì
đối với các lực lượng đổi mới ông càng ưu ái, tinh tế và bao dung bấy
nhiêu.
Trước hết ông chỉ tin vào Dân, đặt Dân đối diện, đối tác, đối lập với Đảng: “Chỉ dân mới có thể tạo ra đổi mới. Nếu cái Đảng này có làm được cái gì tiến bộ thì cũng phải dựa vào SỨC ÉP của dân. Nhân dân sẽ là người BẮT Đảng phải thay đổi”.
Trong dân, ông lưu ý những người tiền phong của dân. Tuy không còn là
đảng viên nhưng vợ là đảng viên, môi trường giao lưu hầu hết là đảng
viên, nhưng LHH không e ngại đặt hy vọng vào những nhân vật và tổ chức
mà Đảng thù ghét như khối 8406, Cù Huy Hà Vũ, cha con Trần Huỳnh Duy
Thức, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Xuân Nghĩa, biểu tình viên Bùi thị Minh
Hằng…, và cả phong trào hải ngoại mà LHH đánh giá là “ở ngoài nước, tôi thấy có nhiều phát biểu cũng rất giỏi, nhiều hoạt động rất tích cực”.
Đặc biệt, đối với “những người đang nằm trong hệ thống như Dương Trung Quốc, Nguyễn Minh Thuyết, Tương Lai, Nguyễn Trung…, họ phát biểu còn dè dặt thì đánh giá thế nào?” Những người này vẫn đang bị phê phán là “đối lập trung thành, là cải lương”, LHH biết rõ tác dụng tích cực của họ, nhưng tôn trọng lời cảnh giác của dư luận, LHH chỉ để dấu hỏi và không kết luận gì (dè dặt là sách lược hay dè dặt do nhận thức, hay dè dặt do quyền lợi?) . Ở đây vấn đề đòi hỏi sự tinh tế, mắc sai lầm về phía nào cũng đều có hại...
Cuối cùng, đối với ĐCS là
đối tượng mà LHH nhận định là không còn chút uy tín gì, chỉ còn mỗi tác
dụng là kìm hãm xã hội, nhưng LHH không đòi “giải thể” như nhiều người
khác, mà chỉ khuyên các đảng viên hãy “họp lại với nhau (mà bàn nhau) để thôi hệ tư tưởng Marx-Lenin đi! Tôi không kêu gọi thủ tiêu “anh” nhưng “anh” muốn tồn tại thì phải thực hiện đa đảng, dân chủ, để mà tồn tại”.
Lời khuyên ấy không hề là sự yếu mềm chờ đợi, vì LHH đã
khẳng định ĐCS không thể tự đổi, khẳng định Dân phải gây SỨC ÉP, phải
BẮT thì Đảng mới có thể thay đổi. Vậy sự “tự vỡ” mà ông nói trước đây
không phải Đảng tự thân chủ động vỡ ra mà sự “ổn định phi lý” của xã hội
phải vỡ ra dưới áp lực của Thực tiễn, của Xã hội công dân ngày càng lớn
mạnh.
Lạ thay, những ý kiến dân chủ quyết liệt trong bài phỏng vấn ấy lại từ
một “lão thành cách mạng” Cộng sản, học ở Trung Quốc, lại học về Mác-Lê,
lại nguyên là đại tá Công an, nghĩa là từ một người có đủ các điều kiện
để trở thành một kẻ Mao-ít, phản Dân tộc và Phản động, chỉ biết còn
Đảng còn mình!
Tư duy thì dứt khoát như vậy, và LHH quan niệm toàn dân phải tiến lên gây Sức ép đủ mạnh để “bắt” Đảng từ bỏ chủ nghĩa, từ bỏ nạn cai trị độc đảng (đấy là cách mạng ôn hoà chứ còn gì khác), nhưng ông giữ lại điều “ngoại giao” cuối cùng: lờ đi cái nhân vật đang ngồi trên bàn thờ!.
Bạn có thể bảo thế là chưa triệt để, nhưng thử nghĩ mà xem, đã lên án
cái chủ nghĩa Mác-Lê phản tiến hoá đến tận cùng tội lỗi, mà từ đầu đến
cuối không thèm trích một lời nào của nhân vật đã rước chủ nghĩa ấy về
(như số đông các người dù phê phán Đảng rất mạnh vẫn thường trích dẫn ),
thì ngần ấy chưa đủ phủ định thần tượng ấy hay sao? Điều không cần nói
mà cứ nói chẳng là thừa sao?
Phải chăng đó là phép xử lý triệt để mà bao dung rất Á Đông, có thể tham khảo?
8/3/2012
LÊ HỒNG HÀ PHÁT BIỂU VỀ ĐẢNG VÀ ĐẠI HỘI
Vụ án Xét lại Chống Đảng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vụ án Xét lại Chống Đảng
có tên chính thức là "Vụ án Tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước ta, đi
theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài"[1]
là vụ bắt giam lâu năm không xét xử nhiều nhân vật quan trọng trong nội
bộ Đảng và bộ máy chính quyền tại miền bắc Việt Nam từ năm 1967 và lần lượt thả từ năm 1973[2], với cáo buộc là đi theo Chủ nghĩa Xét lại.
Mục lục |
Bối cảnh
Vào tháng 9 năm 1953, Khrushchyov được bầu làm bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Tại đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, ông đã đọc báo cáo về sự sùng bái cá nhân của I.V. Stalin. Ông chủ trương chung sống hòa bình với thế giới Tư bản ("Các nước không cùng lập trường chính trị có thể sống chung")[3]. Đường lối của Khrushchyov bị Trung Quốc, dưới thời Mao Trạch Đông, chống lại và gọi là "Chủ nghĩa Xét lại".
Tại Việt Nam, những người cộng sản phân hóa thành hai nhóm, một nhóm
thân Nga chấp nhận chính sách xét lại của Khrushchev (chủ trương sống
hòa bình với Việt Nam Cộng hòa),
không muốn phát động chiến tranh vũ trang giải phóng miền Nam ngay, mà
cho rằng phải xây dựng nền tảng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước khi
nghĩ đến đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Họ cho rằng nếu phát động đấu
tranh vũ trang sẽ khiến Hoa Kỳ nhảy vào trực tiếp tham chiến, khi đó
chẳng những sẽ thất bại mà còn làm mất lòng Liên Xô. Nhóm kia ủng hộ
quan điểm của Trung Quốc, muốn theo đuổi chính sách cứng rắn của ông Mao
(tổ chức ngay chiến tranh giải phóng miền Nam). Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã từng phát biểu chỉ trích Liên Xô và nhóm "chủ hòa" rằng: “Chúng
tôi không ảo tưởng và không đánh giá thấp Mỹ, có điều chúng tôi không
sợ. Nếu ai đó cứ cho rằng kiên quyết chống Mỹ là sẽ thất bại và dẫn đến
chiến tranh hạt nhân, thì chỉ còn có cách đầu hàng chủ nghĩa đế quốc”.
Hội nghị TƯ lần thứ 9 tháng 12/1963 cuối cùng đã dẫn đến thỏa hiệp,
chính thức thừa nhận đấu tranh vũ trang là hình thức đấu tranh chủ yếu,
kêu gọi các lực lượng cách mạng miền Nam tìm cách giành thắng lợi trong
thời gian ngắn nhất, nhưng không đưa quân chủ lực từ miền Bắc vào chi
viện để không tạo cớ cho Mỹ nhảy vào.
Diễn biến
Tháng 9/1963, ông Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, đăng một bài báo trên Báo Nhân Dân nói rằng một số đảng viên bị ảnh hưởng của "chủ nghĩa xét lại" vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của đảng.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ IX, các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng
đã phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội nghị kết thúc với
nghị quyết xác định lập trường đứng về phía Trung Quốc lên án "chủ nghĩa
xét lại Khroutchtchev", đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ lực ở miền
Nam.
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ IX, nhóm do ông Lê Duẩn đứng đầu tăng
cường phê phán "chủ nghĩa xét lại hiện đại". Lê Đức Thọ cho đăng loạt
bài "Tăng cường mặt trận tư tưởng để củng cố Đảng" nói rằng một thiểu số
trong đảng không đi theo đường lối đã vạch ra và thông báo các đảng
viên sẽ phải dự các lớp học tập và chỉnh huấn để thấm nhuần nghị quyết
của Hội nghị Trung ương lần thứ IX.
Những bất đồng của hai nhóm trong nội bộ đảng không dừng lại ở năm
1963-64 mà kết thúc bằng đợt bắt giữ nhóm thân Liên Xô vào năm 1967.
Những nhân vật trong vụ án
Nghiên cứu gần đây nhất về sự kiện này, được Sophie Quinn-Judge công
bố trên tạp chí Journal of Cold War History tháng 11-2005, ước lượng
trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, khoảng 300 người bị bắt trong đó có 30
nhân vật cao cấp.
- Những nhân vật bị bắt: gồm những nhân vật lão thành trong đảng, nhiều vị tướng cùng một số những nhà nghiên cứu và nhà báo như: Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin Hoàng Minh Chính[4]; Vụ trưởng Lễ tân Bộ Ngoaị giao Vũ Đình Huỳnh[5]; Cục trưởng Cục 2 (Cục Tình báo quân đội) đại tá Lê Trọng Nghĩa[6]; Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng Đại tá Lê Minh Nghĩa; Cục trưởng Cục Tác chiến đại tá Đỗ Đức Kiên[7];
- Tổng Biên tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng; phó giám đốc nhà xuất bản Sự thật, nguyên tỉnh Ủy viên tỉnh Ủy Quảng Bình Nguyễn Kiến Giang; giám đốc nhà xuất bản Sự thật Minh Tranh[8]; phó bí thư thành ủy Hà Nội kiêm Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội Trần Minh Việt; phó tổng biên tập báo Hà Nội Mới Phạm Hữu Viết[9]; phó tổng biên tập tạp chí Học Tập Phạm Kỳ Vân[10]; Tổng thư kí toà báo Quân Đội Nhân Dân Trần Thư[11]; nhà báo Vũ Thư Hiên...
- Những nhân vật không bị bắt nhưng bị khai trừ đảng: Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm; thứ trưởng bộ văn hóa Lê Liêm [12]; thiếu tướng Đặng Kim Giang; thứ trưởng bộ quốc phòng Nguyễn Văn Vịnh; phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước Bùi Công Trừng
- Những nhân vật xin tị nạn tại Liên Xô: có khoảng 40 người lúc đó đang đi học hay đi công tác ở Liên Xô đã xin ở lại như Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội Nguyễn Minh Cần; Chính uỷ sư đoàn 308, Phó chính uỷ Quân khu khu III đại tá Lê Vinh Quốc; nguyên Tổng biên tập Báo Quân đội Nhân dân thượng tá Ðỗ Văn Doãn...
Hoàng Minh Chính và Vụ án Xét lại Chống Đảng
Ở cương vị Viện trưởng Viện Triết học, Hiệu phó trường đảng Nguyễn Ái Quốc, một trong những lý thuyết gia của đảng, ông Hoàng Minh Chính[13]
được Trường Chinh giao nhiệm vụ soạn thảo bản Báo cáo chính trị của Hội
nghị TW9. Hoàng Minh Chính đã chọn lập trường Khrushchev và viết một
bản báo cáo chính trị chủ trương sống chung hòa bình (với Miền Nam Việt
Nam).
Bản báo cáo ông Hoàng Minh Chính bị bác bỏ, nhưng ông đã tự ý [14]
phân phát bài viết mang tựa đề “Về chủ nghĩa giáo điều ở Việt Nam” cho
một số đại biểu tham dự hội nghị. Một số các đại biểu đã hưởng ứng lập
trường này. Chính vì thế ông Hoàng Minh Chính bị coi là người đứng đầu
nhóm Xét lại Chống Đảng
Nguyên nhân của vụ án
Nguyên nhân của vụ án đến nay vẫn chưa rõ ràng. Nhiều nhân vật bị bắt
trong thời kỳ này cho rằng nguyên nhân của Vụ án Xét lại Chống Đảng là
vì Lê Duẩn và Lê Đức Thọ muốn dùng “hiểm họa xét lại” để hạ bệ tướng Võ
Nguyên Giáp. Đồng quan điểm này trong bài “Revisionism in Vietnam”
(1995), Judith Stowe cũng nói ông Võ Nguyên Giáp "là đối tượng chính của
chiến dịch bài trừ khuynh hướng xét lại." Pierre Asselin[15],
trong tiểu luận “Lê Duẩn, the American War, and the Creation of an
Independent Vietnamese State” nói rõ thêm rằng "do quá nguy hiểm nếu
công kích cá nhân ông Giáp, nên ông Lê Duẩn nhắm đến đội ngũ ủng hộ vị
tướng, đặc biệt những người thân cận và trung thành nhất trong hàng ngũ
cấp cao của Đảng và chính phủ."
Tuy nhiên Sophie Quinn Judge lại cho rằng Vụ án Xét lại Chống Đảng
thể hiện một cuộc đấu tranh tư tưởng, chứ không chỉ đơn thuần mang tính
đấu đá cá nhân.[16]
Nhóm xét lại phần lớn là những nhà lý luận được đào tạo ở Liên Xô, họ
tin vào Liên Xô hơn là tin vào khả năng chiến thắng khi đối đầu với Mỹ
nên muốn một giải pháp hòa hoãn. Ngược lại, những nhân vật ủng hộ quan
điểm Trung Quốc như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ hay Nguyễn Chí Thanh
phần lớn là những nhà cách mạng người miền Nam, họ nắm rõ thực thế cách
mạng miền Nam, đã chứng kiến những đồng đội còn ở lại miền Nam của mình
bị đàn áp nên tất nhiên không chấp nhận tư tưởng chủ hòa, bởi như vậy
chẳng khác nào bỏ mặc đồng đội gặp nguy hiểm(dẫn chứng?!).
Hơn nữa sự bất đồng giữa 2 nhóm không sâu sắc như các nhà sử học
phương Tây mô tả. Nhóm người bị bắt chỉ chiếm một bộ phận nhỏ trong bộ
máy chính quyền và quân đội. Bản thân tướng Võ Nguyên Giáp (người bị xem
là "mục tiêu hạ bệ") thực tế vẫn được Lê Duẩn bầu giữ chức vụ chủ tịch Quân ủy Trung ương
và tham gia và mọi quyết định lớn. Trong hồi ký ông cũng phủ nhận việc
có bất đồng với Lê Duẩn, bản thân ông cũng ủng hộ quan điểm đấu tranh vũ
trang giải phóng miền Nam. Ngoài ra, những nhà lãnh đạo Việt Nam chỉ
ủng hộ quan điểm đấu tranh vũ trang của Trung Quốc, còn những vấn đề
khác họ vẫn ủng hộ Liên Xô. Bởi thực tế họ cũng đã từ chối đề nghị của
phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình
sẽ giúp đỡ mạnh mẽ hơn nữa nếu Việt Nam chấm dứt quan hệ với Liên Xô.
Báo chí Việt Nam cũng bóng gió nói về "sự đe dọa từ phía Bắc" từ thời
phong kiến. Trong một bài phát biểu tháng 5-1966, Lê Duẩn đã phản bác
quan điểm của Trung Quốc, bảo vệ quyền được quan hệ với Liên Xô và đề
nghị thái độ hòa giải với “các nước xét lại”.
Nhận định
Trong bức thư gửi Ban chấp hành Trung ương Ðảng cộng sản Việt Nam khóa VII, ngày 18/7/1995, ông Lê Hồng Hà[17], nguyên Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ tổng hợp Bộ Nội vụ viết về Vụ án Xét lại Chống Đảng:"Có thể nói, sau những sai lầm, oan trái rộng rãi trong Cải cách ruộng đất và Chỉnh đốn tổ chức (1956), thì đây là vụ án oan sai lớn nhất trong lịch sử Ðảng ta, xét về quy mô, tính chất. Và, có thể nói không ngoa, đây là vụ án oan sai lớn nhất trong hàng ngũ những người yêu nước Việt Nam của thế kỷ XX".[1]
Trả lời BBC về việc được cho là sai lầm của đảng trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, Giáo sư Nguyễn Trọng Phúc, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh cho biết:
"Năm 1993 và 1994, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kết luận sai phạm của những người trong nhóm đó là hoàn toàn đúng sự thật và phải xử lý như vậy thôi,"
Ông Nguyễn Kiến Giang nguyên Phó giám đốc Nhà xuất bản Sự thật, nguyên tỉnh ủy viên tỉnh Quảng Bình, người bị bắt giam 6 năm và quản chế 3 năm nói: “Cho đến bây giờ tôi cũng không biết là tôi có tội gì nữa cơ. Nghe người ta bảo là tôi phản động, tay sai nước ngoài, thì cũng nghe nói thế thôi, chứ còn trên thực tế từ giam ở xà lim mấy năm, thêm mấy năm quản chế, khoảng gần 10 năm. Khi tôi trở về Hà nội với tư cách là một người công dân thì tôi cũng không biết là tôi có tội gì. Cho tới nay cũng không ai nói với tôi là tôi có tội gì nữa ”.
Năm 1981, Hoàng Minh Chính làm đơn kiện vụ bắt giam này và đòi giải oan cho những người bị bắt trong Vụ án Xét lại Chống Đảng. Kết quả là ông bị bắt giam sáu năm và ba năm quản chế.
"Đêm giữa ban ngày"[18] là cuốn hồi ký được nhà văn Vũ Thư Hiên viết sau 9 năm bị giam cầm không xét xử do hệ lụy từ Vụ án Xét lại Chống Đảng.
Chú thích
- ^ a b Chương Tự bạch, hồi ký Đêm giữa ban ngày
- ^ Vũ Thư Hiên được thả cuối cùng vào năm 1976
- ^ Theo chính sách đó, các nước cộng sản không nên tìm kiếm đối đầu quân sự với phương Tây mà cần theo đuổi cạnh tranh kinh tế với khối tư bản.
- ^ Người được coi là đứng đầu nhóm Xét lại Chống Đảng
- ^ Cựu bí thư của Hồ Chí Minh, cựu tù Sơn La, từng là thành viên Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, cha Vũ Thư Hiên, bị giam 6 năm trong Vụ án Xét lại Chống Đảng
- ^ Được mời đi họp, rồi đưa thẳng tới trại giam
- ^ Đại tá Đỗ Đức Kiên, tên thật là Phạm Khương, sinh ngày 10 tháng 1 năm 1924, nguyên quán Thái Bình. Năm 1944, ông tham gia hoạt động Việt Minh từng giữ chức: Chủ nhiệm Chính trị kiêm Phó Bí thư Trường Sĩ quan Lục quân; Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng; Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu; Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân
- ^ Bị kết tội cho dịch bừa bãi nhiều sách của Liên Xô, được đưa đi cải tạo ở Nam Hà
- ^ Ông chết trong thời gian bị bắt giam năm 1971
- ^ Hoạt động cách mạng từ khi còn là học sinh, sau đó sang Tàu cho Hồ Chí Minh huấn luyện cách mệnh, 21 tuổi đã là xứ ủy viên Ðảng cộng sản Ðông Dương.
- ^ Trần Thư vào Đảng Cộng sản Việt Nam vào khoảng đầu thập niên 1940, chiến đấu tại Hà Nội trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau năm 1954, phục vụ cho tờ Quân Đội Nhân Dân trở thành thư ký toà soạn của tờ báo này. Trong Vụ án Xét lại Chống Đảng bị bắt ngay tại tòa soạn báo Quân Đội Nhân Dân, giam 6 năm ở Yên Bái và Sơn Tây; quản chế 3 năm lao động cải tạo tại Hưng Yên
- ^ Từng được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Dân quân kiêm chức Cục trưởng Cục Chính trị bằng sắc lệnh 116/SL ngày 18 tháng 10 năm 1949 CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
- ^ Nữ ký giả Judy Stow từng là đặc phái viên của đài BBC ở Ðông Nam Á, sau đó làm trưởng ban Việt Ngữ đài này đã gọi Hoàng Minh Chính là cha đẻ của Chủ nghĩa xét-lại Việt Nam
- ^ Trả lời Bader, ký giả Ba Lan thì sở dĩ ông đã dám cho phổ biến bài viết của mình vì nghĩ rằng ông được sự ủng hộ của nhiều người và gần nửa số ủy viên bộ chính trị. Mặc khác ông đã chứng kiến trên 70 đảng trong số 86 đảng cộng sản trên toàn thế giới đã ủng hộ lập trường “xét lại” (81 trong số 86 đảng đã tham dự đại hội các đảng cộng sản và công nhân thế giới tại Moscow năm 1960, do Khrutshchev triệu tập)
- ^ Pierre Asselin là Phó Giáo sư Lịch sử tại Viện đại học Hawaii Thái bình dương, tác giả sách Một nền hòa bình cay đắng: Washington, Hà Nội và việc ký kết Hiệp định Paris (Chapel Hill: Nhà xuất bản Viện đại học North Carolina, 2002).
- ^ Cold War History, Vol. 5, No. 4, November 2005, © Taylor & Francis
- ^ Lê Hồng Hà sinh năm 1926, tên thật là Lê Văn Quỳ, tham gia hoạt động từ trước Cách mạng Tháng Tám. Trong cuộc khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945, Tham gia đánh chiếm Trại Bảo An Binh. Tháng 7 năm 1946, chính phó Tổng Giám đốc Nha Công an Việt Nam Lê Giản giới thiệu ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương . Năm 1958, được đề bạt Chánh Văn phòng Bộ Công an
- ^ "Đêm giữa ban ngày, hồi ký của Vũ Thư Hiên". NXB Tiếng Quê Hương.
Liên kết ngoài
- Anh Cả Cò (chuyện người tù xử lí nội bộ). Hồi ký của Trần Thư
- Ông Hoàng Minh Chính và Vụ án xét lại chống đảng
- Hoàng Minh Chính và Chủ nghĩa xét lại
- Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế
- Cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ngay trong lòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và ý nghĩa của vụ chống Đảng 1967-1968
- Một đảng không có nghĩa là mất dân chủ
Thể loại:
Lê Hồng Hà: Tình hình chung hiện nay tôi thấy có ba vấn đề lớn nhất. Thứ nhất là sự đánh giá của ĐCSVN về chính ĐCSVN và về hiện trạng đất nước nói chung là sai lầm. ĐCSVN vẫn cố tô vẽ cho thực trạng hiện nay những điều không có, vẫn tự khoe khoang, huyênh hoang rằng nhờ mình thì đất nước mới có nhiều điều tiến bộ. Ví dụ Đảng luôn cho lịch sử của dân tộc từ khi có Đảng là một bản anh hùng ca. Theo tôi, về công cuộc giải phóng dân tộc thì có thể là anh hùng ca nhưng về việc xây dựng và phát triển đất nước thì từ khi có ĐCSVN đến giờ đó là một quãng lịch sử thất bại.
Và giải phóng dân tộc vừa qua cũng không như Đảng nói là nhờ chủ nghĩa Marx-Lenin mà cái chính là do nhân dân đã tiếp thu, tiếp nối được truyền thống yêu nước của dân tộc. Chủ nghĩa Marx-Lenin nếu có chỉ có một phần nhỏ là tập hợp được đoàn kết giữa công nhân và nông dân thôi. Còn thực tế đã cho thấy Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN thì càng phát triển lại càng tụt hậu về nhiều mặt so với các nước trong khu vực. Xây dựng và phát triển đất nước mà lại theo chủ nghĩa Marx-Lenin thì sai hoàn toàn. Chủ nghĩa Marx-Lenin là một học thuyết đấu tranh giai cấp, là một học thuyết phản phát triển.
Phỏng vấn Lê Hồng Hà – Đảng chỉ còn vai trò kìm hãm xã hội
Tháng 3 6, 2012
pro&contra – Ông
Lê Hồng Hà, cựu đại tá công an, năm nay 86 tuổi, là người đã tham dự
Khóa I cho người Việt Nam về Chủ nghĩa Marx-Lenin tại Bắc Kinh năm 1949
và ở lại làm trợ giảng cho các khóa II, III đến năm 1952. Năm 1953 về
nước phụ trách Trường Công an Trung ương (tiền thân của Học viện An ninh
hiện nay). Năm 1958 là Chánh văn phòng Bộ Công an dưới thời Bộ trưởng
Trần Quốc Hoàn, là Ủy viên Đảng Đoàn Bộ Công An từ năm 1956. Ông là
người đã cùng ông Nguyễn Trung Thành (cựu Vụ trưởng Vụ Bảo vệ Đảng dưới
thời ông Lê Đức Thọ), vào nửa cuối thập niên 1990, đề nghị Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) phải minh oan cho những nạn nhân trong vụ
án có tên “Vụ án chống Đảng theo chủ nghĩa xét lại làm tình báo cho
nước ngoài” (tên thường gọi: “Vụ án xét lại chống Đảng”). Không lâu sau
ông đã bị khai trừ khỏi Đảng (cùng ông Nguyễn Trung Thành) và bị vào tù
một thời gian.
Phạm Hồng Sơn thực hiện
Phạm Hồng Sơn: Thưa
ông Lê Hồng Hà, với cương vị là người đã tham gia Cách mạng tháng Tám,
Kháng chiến chống Pháp và chứng kiến Kháng chiến chống Mỹ, thời kỳ Đổi
Mới, xin ông cho biết tình hình Việt Nam hiện nay có những vấn đề gì
đáng lưu tâm nhất?
Lê Hồng Hà: Tình hình chung hiện nay tôi thấy có ba vấn đề lớn nhất. Thứ nhất là sự đánh giá của ĐCSVN về chính ĐCSVN và về hiện trạng đất nước nói chung là sai lầm. ĐCSVN vẫn cố tô vẽ cho thực trạng hiện nay những điều không có, vẫn tự khoe khoang, huyênh hoang rằng nhờ mình thì đất nước mới có nhiều điều tiến bộ. Ví dụ Đảng luôn cho lịch sử của dân tộc từ khi có Đảng là một bản anh hùng ca. Theo tôi, về công cuộc giải phóng dân tộc thì có thể là anh hùng ca nhưng về việc xây dựng và phát triển đất nước thì từ khi có ĐCSVN đến giờ đó là một quãng lịch sử thất bại.
Và giải phóng dân tộc vừa qua cũng không như Đảng nói là nhờ chủ nghĩa Marx-Lenin mà cái chính là do nhân dân đã tiếp thu, tiếp nối được truyền thống yêu nước của dân tộc. Chủ nghĩa Marx-Lenin nếu có chỉ có một phần nhỏ là tập hợp được đoàn kết giữa công nhân và nông dân thôi. Còn thực tế đã cho thấy Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN thì càng phát triển lại càng tụt hậu về nhiều mặt so với các nước trong khu vực. Xây dựng và phát triển đất nước mà lại theo chủ nghĩa Marx-Lenin thì sai hoàn toàn. Chủ nghĩa Marx-Lenin là một học thuyết đấu tranh giai cấp, là một học thuyết phản phát triển.
Thứ hai là tình hình xã hội hiện nay ở
mức độ xấu chưa từng có, kể từ năm 1975 đến giờ. Sự xuống cấp của đất
nước hầu khắp mọi lĩnh vực từ an ninh, đạo đức, văn hóa, giáo dục, xã
hội, hay chính trị. Chính trị nghĩa là uy tín của của ĐCSVN đã xuống
thấp chưa từng có, gần như không còn ai tin vào cái Đảng này nữa. Như
vậy xã hội hiện nay, theo tôi, đang lâm vào một cuộc tổng khủng hoảng
toàn diện mà nguyên nhân là do đường lối của ĐCSVN về phát triển là sai.
Thứ ba là vấn đề Trung Quốc. Trung Quốc
đã và đang ráo riết thực hiện những kế hoạch dữ dội, xâm nhập, ảnh
hưởng, chèn ép, bao vây trên mọi lĩnh vực, kinh tế, an ninh, quốc phòng,
lãnh thổ, nhằm thực hiện ý đồ cuối cùng là thôn tính Việt Nam. Còn về
phía Việt Nam thì nhiều cán bộ lãnh đạo của Việt Nam lại đã và đang bị
Trung Quốc mua chuộc và khống chế. Tất cả những điều đó đều là một quá
trình liên tục từ Đại hội VI của ĐCSVN đến nay. Thái độ nói chung của
lãnh đạo Việt Nam hiện nay về Trung Quốc lại lờ phờ, không rõ ràng. Đó
là một vấn đề hết sức nguy hiểm.
Phạm Hồng Sơn: Vậy ĐCSVN còn đóng vai trò gì đối với đất nước hiện nay?
Lê Hồng Hà: Trước đây
Đảng đã từng giữ vai trò tiền phong trong xã hội, thúc đẩy tiến bộ cho
xã hội ở một số phương diện. Nhưng đến nay Đảng không còn giữ được những
vai trò đó nữa vì Đảng vẫn đi theo hệ tư tưởng Marx-Lenin. Còn về đội
ngũ của Đảng, đặc biệt là hàng ngũ cầm quyền, đã bị tha hóa, tham nhũng,
xoay sở, vô cảm với đất nước, xã hội. Vì vậy Đảng hiện nay chỉ còn vai
trò kìm hãm xã hội thôi.
Phạm Hồng Sơn: Vừa rồi ĐCSVN đã có Hội nghị Trung ương 4 và tiếp theo là một Hội nghị toàn quốc về chỉnh đốn Đảng, ông có kỳ vọng gì?
Lê Hồng Hà: Nói đúng ra
thì những Hội nghị được tổ chức rất ghê gớm đó họ đã có những phát hiện
cũng có ích chứ không phải là vứt đi nhưng nó không trúng vấn đề chính,
không đi vào nguyên nhân gốc. Nhiều cán bộ lâu năm đã có những bộc bạch
là nếu cứ ra những nghị quyết kiểu như thế thì sẽ “chẳng giải quyết
được cái quái gì cả”. Họ chỉ dựa vào những biểu hiện, rồi tập trung phân
tích vào những hư hỏng bên ngoài. Họ chưa nhận ra hoặc không dám nhận
ra nguyên nhân gốc của những hư hỏng đó thì làm sao có thể chỉnh đốn
được.
Phạm Hồng Sơn: Tại sao họ “không dám nhận ra”?
Lê Hồng Hà: Nếu họ phải
thừa nhận sai lầm từ gốc nằm ở cương lĩnh, ở đường lối, ở hệ tư tưởng
thì tức là họ phải chấp nhận rằng công tác tuyên huấn là bịp bợm còn
công tác lý luận là bế tắc, họ sẽ phải tự cách chức hết, tự nghỉ hết,
tức là sự tự “lật đổ”, sự thay đổi hoàn toàn. Mà hiện nay họ vẫn tỏ ra
phải giữ quyền lực, địa vị, giữ lợi ích của họ, nghĩa là họ phải giữ
những đường lối đó.
Không những thế, vừa rồi họ vẫn còn cho rằng ai phê phán đường lối chính trị của họ là sai lầm là đều thuộc lực lượng “chống đối, thù địch”, nghĩa là những gì chúng ta trao đổi từ nãy đến giờ là thuộc lực lượng “thù địch” rồi. Do đó trong tình hình muốn tạo thế chuyển biến cho đất nước Việt Nam thì phải dựa vào dân, chứ dựa vào Đảng, mong muốn đổi mới cái Đảng này cho nó mạnh lên, nó sạch lên thì không có. Trong tình hình hiện nay của đất nước thì cái Đảng này không thể đổi mới được. Chỉ dân mới có thể tạo ra đổi mới. Nếu cái Đảng này có làm được cái gì tiến bộ thì cũng phải dựa vào sức ép của dân. Nhân dân sẽ là người bắt Đảng phải thay đổi.
Không những thế, vừa rồi họ vẫn còn cho rằng ai phê phán đường lối chính trị của họ là sai lầm là đều thuộc lực lượng “chống đối, thù địch”, nghĩa là những gì chúng ta trao đổi từ nãy đến giờ là thuộc lực lượng “thù địch” rồi. Do đó trong tình hình muốn tạo thế chuyển biến cho đất nước Việt Nam thì phải dựa vào dân, chứ dựa vào Đảng, mong muốn đổi mới cái Đảng này cho nó mạnh lên, nó sạch lên thì không có. Trong tình hình hiện nay của đất nước thì cái Đảng này không thể đổi mới được. Chỉ dân mới có thể tạo ra đổi mới. Nếu cái Đảng này có làm được cái gì tiến bộ thì cũng phải dựa vào sức ép của dân. Nhân dân sẽ là người bắt Đảng phải thay đổi.
Phạm Hồng Sơn: Xin ông đánh giá về lực lượng tiến bộ hiện nay?
Lê Hồng Hà: Vì đất
nước, xã hội đang lâm vào một cuộc tổng khủng hoảng nên chính điều đó
đang tạo ra một đòi hỏi phải thay đổi của bản thân xã hội, của các thành
phần trong xã hội. Những vận động, đấu tranh cho tiến bộ đã được nhiều
người thực hiện liên tục từ hàng chục năm qua với nhiều bước thăng trầm.
Nhưng khoảng 1 đến 2 năm nay phong trào đang lên mạnh với sự xuất hiện
của nhiều nhân vật mới, đang trồi lên liên tục và là tổng hợp của rất
nhiều cái cụ thể.
Nếu lấy mốc thì tôi lấy mốc là Vụ án Cù Huy Hà Vũ, những cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội và một loạt những kiến nghị tập thể, phải kể đến nhất là Kiến nghị có chữ ký ban đầu của 85 vị ở cả trong Nam và Bắc, rồi Kiến nghị của hơn 20 trí thức, rồi Kiến nghị về Bauxite, rồi cả các Kiến nghị của ông Trần Văn Huỳnh (bố Trần Huỳnh Duy Thức). Nói chung lực lượng tiến bộ đang trồi lên với nhiều hình, nhiều vẻ và với những quan điểm rất khác nhau. Vấn đề hiện nay là vẫn chưa có ai tổng hợp được về những lực lượng đối lập đang nổi lên ở trong nước, gồm những ai, như thế nào. Việc này cần quan tâm để đánh giá cho chính xác, để hiểu rõ họ như thế nào.
Ví dụ nhóm Minh Triết của Nguyễn Khắc Mai, rồi Khối 8406, hay những người đang nằm trong hệ thống như Dương Trung Quốc, Nguyễn Minh Thuyết, Tương Lai, Nguyễn Trung, họ phát biểu còn dè dặt thì đánh giá thế nào, rồi Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Xuân Nghĩa, rồi hiện tượng ở Phú Yên hay là Nguyễn Xuân Diện đi thăm Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Quang Vinh đưa tin về Tiên Lãng, Ba Sàm điểm tin hàng ngày, hay Nguyễn Huệ Chi đi thăm Cù Huy Hà Vũ, rồi Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh lên tiếng đòi thả Bùi Thị Minh Hằng. Rồi ở ngoài nước, tôi thấy có nhiều phát biểu cũng rất giỏi, nhiều hoạt động rất tích cực. Như vậy hiện nay đang có rất nhiều tiếng nói, hoạt động, rất đa dạng, rất phong phú, rất khác nhau, rất phức tạp, rất ghê gớm. Tôi đang quan tâm nhưng chưa tài nào tổng hợp được.
Nếu lấy mốc thì tôi lấy mốc là Vụ án Cù Huy Hà Vũ, những cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội và một loạt những kiến nghị tập thể, phải kể đến nhất là Kiến nghị có chữ ký ban đầu của 85 vị ở cả trong Nam và Bắc, rồi Kiến nghị của hơn 20 trí thức, rồi Kiến nghị về Bauxite, rồi cả các Kiến nghị của ông Trần Văn Huỳnh (bố Trần Huỳnh Duy Thức). Nói chung lực lượng tiến bộ đang trồi lên với nhiều hình, nhiều vẻ và với những quan điểm rất khác nhau. Vấn đề hiện nay là vẫn chưa có ai tổng hợp được về những lực lượng đối lập đang nổi lên ở trong nước, gồm những ai, như thế nào. Việc này cần quan tâm để đánh giá cho chính xác, để hiểu rõ họ như thế nào.
Ví dụ nhóm Minh Triết của Nguyễn Khắc Mai, rồi Khối 8406, hay những người đang nằm trong hệ thống như Dương Trung Quốc, Nguyễn Minh Thuyết, Tương Lai, Nguyễn Trung, họ phát biểu còn dè dặt thì đánh giá thế nào, rồi Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Xuân Nghĩa, rồi hiện tượng ở Phú Yên hay là Nguyễn Xuân Diện đi thăm Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Quang Vinh đưa tin về Tiên Lãng, Ba Sàm điểm tin hàng ngày, hay Nguyễn Huệ Chi đi thăm Cù Huy Hà Vũ, rồi Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh lên tiếng đòi thả Bùi Thị Minh Hằng. Rồi ở ngoài nước, tôi thấy có nhiều phát biểu cũng rất giỏi, nhiều hoạt động rất tích cực. Như vậy hiện nay đang có rất nhiều tiếng nói, hoạt động, rất đa dạng, rất phong phú, rất khác nhau, rất phức tạp, rất ghê gớm. Tôi đang quan tâm nhưng chưa tài nào tổng hợp được.
Phạm Hồng Sơn: Ông tiên liệu gì về phản ứng của ĐCSVN trước những “trồi lên” đó?
Lê Hồng Hà: Họ sẽ đi đến chỗ phải đàn áp. Mà một trong những biểu hiện của nó là Đảng vừa ra 19 điều cấm kỵ đối với đảng viên,
nghĩa là nó chuẩn bị đàn áp đấy. 19 điều cấm là tước quyền công dân của
đảng viên, vi phạm luật pháp. Nhưng điều đó cũng thể hiện Đảng đang ở
tâm trạng bất lực. Một biểu hiện bất lực rõ nữa là tháng trước ông TBT
Nguyễn Phú Trọng phải đứng ra mời gặp các cán bộ lão thành trong Nam và
ngoài Bắc.
Hoạt động đó cách đây khoảng 2-3 năm là một chế độ thường niên, nhưng mỗi lần gặp thì lại bị các cán bộ lão thành phê phán, góp ý kiến rất “lộng óc” nên sau đó Đảng đã bỏ đi, không tổ chức nữa. Nhưng rồi dư luận kêu ca nhiều quá nên vừa rồi lại phải tổ chức lại nhưng lại chỉ dám mời những cán bộ lão thành cao cấp như kinh qua Ban Bí thư, kinh qua Thủ tướng, không dám mời mở rộng và cũng không dám nghe hết các ý kiến. Như vậy là Đảng đang muốn xoa dịu, đang muốn tỏ ra có sự đoàn kết, gắn bó giữa lãnh đạo hiện nay với lớp về hưu, nhưng thực tế cho thấy sự chia rẽ, mất đoàn kết trong Đảng là hiện tượng phổ biến.
Hoạt động đó cách đây khoảng 2-3 năm là một chế độ thường niên, nhưng mỗi lần gặp thì lại bị các cán bộ lão thành phê phán, góp ý kiến rất “lộng óc” nên sau đó Đảng đã bỏ đi, không tổ chức nữa. Nhưng rồi dư luận kêu ca nhiều quá nên vừa rồi lại phải tổ chức lại nhưng lại chỉ dám mời những cán bộ lão thành cao cấp như kinh qua Ban Bí thư, kinh qua Thủ tướng, không dám mời mở rộng và cũng không dám nghe hết các ý kiến. Như vậy là Đảng đang muốn xoa dịu, đang muốn tỏ ra có sự đoàn kết, gắn bó giữa lãnh đạo hiện nay với lớp về hưu, nhưng thực tế cho thấy sự chia rẽ, mất đoàn kết trong Đảng là hiện tượng phổ biến.
Phạm Hồng Sơn: Ông
là người đã tiếp thêm tiếng nói mạnh mẽ về việc phải bạch hóa và minh
oan cho những nạn nhân trong “Vụ án xét lại chống Đảng” thời những năm
cuối 1960 đầu 1970. Theo ông, những tấm gương nạn nhân năm xưa đó có ý
nghĩa gì với lịch sử và đặc biệt có ý nghĩa gì trong bối cảnh đất nước
hiện nay?
Lê Hồng Hà: Đó là những
con người xứng đáng với bản lĩnh anh hùng, xứng đáng là tấm gương cho
thế hệ hiện nay noi theo. Xã hội cần phải tiếp tục công việc để đòi
ĐCSVN phải tuyên bố sửa sai, đòi minh oan cho những con người lịch sử đó
để bảo vệ chân lý, bảo vệ pháp luật và trả lại thanh danh cho những con
người anh hùng đó.
Phạm Hồng Sơn: Với
tư cách là một người đi trước hay nói theo cách thường thấy là một “lão
thành cách mạng”, giả thiết nếu có lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay đến tham
vấn, ông sẽ nói gì với họ?
Lê Hồng Hà: Tôi sẽ nói với họ đúng như những gì đã nói ở trên.
Phạm Hồng Sơn: Ông có những lời khuyên cụ thể nào không?
Lê Hồng Hà: ĐCSVN cần
phải họp lại với nhau để thôi hệ tư tưởng Marx-Lenin đi. Tôi không kêu
gọi thủ tiêu “anh” nhưng “anh” muốn tồn tại thì phải thực hiện đa đảng,
dân chủ, để mà tồn tại.
Phạm Hồng Sơn: Trân trọng cảm ơn ông Lê Hồng Hà.
Bài đăng ngày 06.3.2012
© 2012 pro&contra
SHARETuesday, January 1, 2013
LÊ HỒNG HÀ * VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
Cụ Lê Hồng Hà
Lê Hồng Hà: ĐCSVN cần phải họp lại với nhau để thôi hệ tư tưởng Marx-Lenin đi.
Tôi không kêu gọi thủ tiêu “anh” nhưng “anh” muốn tồn tại thì phải thực hiện đa đảng, dân chủ, để mà tồn tại.
Ôn cố: Cái hoang tưởng của chúng ta
Mỗi khi gặp chuyện gì khó khăn, chúng ta thường mang cái quá khứ oanh liệt ra để tự ru ngủ, mong cái men chiến thắng của cha ông thành liều thuốc an thần trấn áp đi cái bất định, cái nan giải hiện tại.
Mỗi khi gặp chuyện gì khó khăn, chúng ta thường mang cái quá khứ oanh liệt ra để tự ru ngủ, mong cái men chiến thắng của cha ông thành liều thuốc an thần trấn áp đi cái bất định, cái nan giải hiện tại.
Chúng ta từ khước một đặc điểm sinh tồn cốt yếu: học từ thất bại quá khứ để xác định bước đi hiện tại sao cho dẫn đến thành công tương lai. Chúng ta nhắc đến cái chiến thắng giặc Hán, Pháp Mỹ mỗi ngày nhưng chúng ta tuyệt nhiên không hề nhắc đến cái nạn đói 1975-1990 do sai lầm của chúng ta, một nạn đói có thể tránh được nếu chúng ta đừng quá say mê với chiến thắng và vì say mê với chiến thắng, chúng ta coi thường cái nguy cơ tụt hậu, nghèo đói, bị cô lập.
Năm 1978 trước khi xua đại quân tiến chiếm Nam Vang, bộ ngoại giao nước ta
tung ra một chiến dịch ngoại giao để lôi kéo các quốc gia lân cận để
cùng nhau liên minh chống hiểm họa bành trướng Bắc Kinh, mặc dầu suốt
cuộc chiến chống Mỹ, chúng ta không tiếc lời mạt sát khối liên Minh Đông
Nam Á là sản phẩm của chính sách gây hấn và can thiệp của đế quốc Mỹ.
Tháng 6 năm 1978, khi Việt Nam bắt đầu oanh tạc Cambodia, Phan Hiền sang Mã Lai tuyên bố ủng hộ một Đông Nam Á hòa bình và trung lập. Sau đó vào tháng 9 năm đó Thủ Tướng Phạm Văn Đồng sang Mã Lai đặt vòng hoa tưởng niệm các chiến sĩ Mã đã hy sinh vì chống… Mã Cộng.
Thêm vào đó, ông còn xin lỗi các lãnh đạo Mã Lai vì trót lỡ viện trợ vũ khí cho phiến quân Mã Cộng vì “hiểu sai tình hình” (flawed understanding of the situation). Sang Băng Cốc, Thái Lan, thủ tướng Phạm Văn Đồng cam kết không yểm trợ bọn Thái Cộng CPT (Communist Party of Thailand) vốn bị hiến pháp Thái Lan đặt ngoài vòng pháp luật.
Tháng 6 năm 1978, khi Việt Nam bắt đầu oanh tạc Cambodia, Phan Hiền sang Mã Lai tuyên bố ủng hộ một Đông Nam Á hòa bình và trung lập. Sau đó vào tháng 9 năm đó Thủ Tướng Phạm Văn Đồng sang Mã Lai đặt vòng hoa tưởng niệm các chiến sĩ Mã đã hy sinh vì chống… Mã Cộng.
Thêm vào đó, ông còn xin lỗi các lãnh đạo Mã Lai vì trót lỡ viện trợ vũ khí cho phiến quân Mã Cộng vì “hiểu sai tình hình” (flawed understanding of the situation). Sang Băng Cốc, Thái Lan, thủ tướng Phạm Văn Đồng cam kết không yểm trợ bọn Thái Cộng CPT (Communist Party of Thailand) vốn bị hiến pháp Thái Lan đặt ngoài vòng pháp luật.
Lãnh đạo Việt Nam chỉ muốn ký kết một hiệp ước hữu nghị và hợp tác với các quốc gia Đông Nam Á để chuẩn bị cho một hàng cừ hay bờ đê ngăn chận cơn lũ bành trướng Bắc Kinh.Đồng thời cách nửa vòng Trái đất, ở Nữu Ước, bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng thúc đẩy nỗ lực bình thường hóa ngoại giao với Mỹ.
Lần này,
chúng ta không đặt điều kiện bồi thường 3 tỉ mà Nixon đã hứa ở hiệp định
Paris 1972. Nguồn Brother Enemy của Nayan Chanda.
Như chúng ta đã biết, tất cả đều vô ích. Liên Minh Đông Nam Á từ lâu bị ám
ảnh một Việt Nam hung hãn, quyết làm một mũi nhọn xung kích của thế lực
Cộng Sản đều lịch sự từ chối “lòng tốt” của chúng ta và Mỹ sau khi tiếp
Đặng Tiểu Bình, cũng lịch sự gác lại chuyện bình thường hóa ngoại giao
với Việt Nam và không hứa ngày đàm phán lại vấn đề đó.
Kết quả là chúng ta sa lầy ở Cambodia suốt 10 năm và đói nghèo suốt 15 năm.
Quan trọng hơn, chúng ta chựng lại trong khi các quốc gia láng giềng
tiến bộ vượt bực về khoa học, kỹ thuật, giáo dục, xã hội, kinh tế…Chúng
ta quay về thời xe hơi chạy than, xe bò, ăn bo bo, mặc quần áo vá, dùng
phân xanh như thời trung cổ.
Chúng ta dường như cấm kỵ không hề nhắc đến cái thất bại có thể tránh được đó
chỉ vì hội chứng say sưa với chiến thắng. Thắng đế quốc Mỹ ta có thể
lướt thắng được mọi thứ khác. Chúng ta hoang tưởng rằng cả thế giới đều
ngưỡng mộ chúng ta và cả thế giới cần chúng ta hơn là chúng ta cần họ.
Với Mỹ, họ là kẻ thua họ phải “bồi thường” mới hòng được chúng ta chìa
tay cho mà bắt. Với Đông Nam Á, một Việt Nam với hơn 8 quân đoàn sát bên
nách đáng gờm hơn là cái hiểm họa bành trướng từ Bắc Kinh xa vời vợi.
Nếu chúng ta hồi tưởng lại, việc tiếp tế cho phiến quân Mã cộng, Thái
cộng không thể khôi phục được lòng tin của các quốc gia Đông Nam Á bằng
một vài cử
chỉ ngoại giao thân thiện. Xét cho cùng, ta vẫn có thể chiến thắng Mỹ
mà không cần phải thù nghịch với các quốc gia Đông Nam Á vì họ thủy
chung không tiếp tay với Mỹ trong cuộc chiến ngoại trừ Thái Lan (cho
mướn căn cứ Utapao) và Hàn Quốc (Hàn Quốc gửi quân tham chiến nhưng Hàn
Quốc không thuộc Đông Nam Á).
Ta học được điều gì nếu chúng ta thực sự muốn học? Không nên có nhiều kẻ
thù không cần thiết và tuyệt đối không hoang tưởng ta quan trọng tới mức
họ cần ta hơn ta cần họ.
Tri tân: Lại hoang tưởng Mỹ cần Biển Đông hơn ta cần Biển Đông.
Đệ nhị thế chiến có một nguyên nhân kinh tế và sâu xa hơn, một nhu cầu
thời đại. Đó là có vài cường quốc muốn xóa mọi trật tự thế giới để mong
có phần của mình trong bối cảnh mới. Cách mạng khoa học kỹ thuật trên
nền tảng Newton đã phát sinh động cơ nổ kéo các toa xe lửa, xe hơi, tàu
bè và máy bay. Từ đấy các quốc gia tiên tiến tìm kiếm, bòn rút các thuộc
địa nhằm đáp ứng nhu cầu nhiên liệu, nguyên liệu cho kỹ thuật. Đức, Ý,
Nhật là những cường quốc chậm chân không có thuộc địa để phát triển và
tận dụng khoa học kỹ thuật mới.
Lấy đâu ra cao su làm vỏ xe hơi? Xăng dầu? Sắt thép? So với các cường quốc như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… thì Đức, Ý, Nhật mạnh hơn nhưng không có tương lai vì không có nguyên liệu lấy từ các thuộc địa. Họ muốn xóa bỏ mọi trật tự cũ hòng mong thế giới chia cho mình cái phần mình đáng được hưởng. Đức tiến chiếm Âu Châu.
Không chịu kém, Nhật tiến chiếm Á châu và thế chiến bùng nổ để khởi đầu cho một trật tự mới mà trong đó, các cường quốc nào cảm thấy mình chịu thiệt, phải chiến đấu giành bằng được cái phần mà họ cho rằng mình đáng được hưởng.
Trung Quốc chẳng học được điều gì cả. Họ cần con đường chuyên chở nhiên liệu từ Trung Đông mà họ cho rằng với vị thế của họ hiện nay, họ đáng được hưởng.
Tham vọng của họ xuyên suốt từ Bắc Kinh vòng qua eo Malacca, băng qua Ấn Độ vào Trung Đông chứ không chỉ ngừng lại sau khi chiếm trọn biển Việt Nam. Không may cho ta, Việt Nam là mục đích đầu tiên trong cuồng vọng chiếm lĩnh cái hải trình năng lượng đó.
Trung Quốc sai ở chỗ nó không tự lượng sức. Thời đệ nhị thế chiến, hải quân hoàng gia Nhật có 20 hàng không mẫu hạm và vẫn thảm bại trước hạm đội 7 Mỹ.
Ngày nay Trung Quốc mua được một tàu phế thải, vá víu sửa chữa cho giống một mẫu hạm rồi tập tành chinh phục thế giới.
Không cần là một chuyên gia quân sự, ai cũng có thể nhận thấy Trung Quốc phải cần ít nhất 20 mẩu hạm để có thể uy hiếp Nhật, 20 nữa để có thể uy hiếp Ấn và không biết bao nhiêu nữa mới có thể uy hiếp Nga hay Mỹ.
CCCCNăm xưa Sô Viết sa lầy ở Afghanistan và Cambodia (tiếng rằng Việt Nam sa lầy nhưng chỉ tổn thất nhân mạng, thục ra Sô Viết sa lầy vì phải chi viện đạn, xăng, khí cụ cho Việt Nam) 10 năm sa lầy khiến Sô Viết không dẫy mà chết.
Để làm chủ hành lang năng lượng, với bao nhiêu mẫu hạm và nguy cơ đối đầu với một siêu cường có thể sản suất ra một số lượng mẫu hạm không thể ước tính nổi là Mỹ, bao lâu thì Trung Quốc không dãy mà chết?
Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột. Ở vị thế siêu cường số 2, Trung Quốc không muốn thi gan một mất một còn với ai, mà chỉ muốn áp đảo những kẻ không thể tự bảo vệ. Vâng. Nếu Meta là thằng nhà giàu số 2 còn hơn làm thằng nghèo sặc máu hạng bét nếu thua trận. Tốt nhất chỉ nên bắt nạt thằng không thể tự vệ.
Không may Việt Nam ta là thằng không thể tự vệ. Đúng hơn chúng ta là thằng tự xua đuổi đồng minh nên không thể tự vệ.
Mới đây một đại tá Việt Nam ông Trần Đăng Thanh, Phó giáo sư tiến sĩ Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng đã nói: “Nước Mỹ chẳng bao giờ tốt với chúng ta, chỉ có Trung Quốc tốt với chúng ta.” Câu này thật là tai hại. Các tay yêu nước kiểu loa phường thường đòi “bằng chứng đâu?”, “sai chỗ nào?” mỗi khi chúng ta vấp phải những sai lầm chí tử.
Thậm chí có bác còn chống chế: “Ứng khẩu nói không thể chính xác như đã soạn trước rồi đọc” khi thấy ông đại tá nói sai be bét. Như chúng ta biết, một giáo viên cấp cơ sở cũng ứng khẩu chứ có ai giảng bài mà đọc từ giấy đâu mà chẳng bao giờ sai.
Cái này rõ ràng trình độ ông đại tá có vấn đề. Thì tiện đây, Meta xin phân tích cái tai hại của ông đại tá. Vẫn là hoang tưởng rằng Mỹ là bọn thèm Biển Đông hơn chúng ta thèm Biển Đông. Từ lâu chúng ta yên chí rằng chỉ cần búng tay một cái, Mỹ sẵn sàng lao vào lửa đạn bảo vệ chúng ta trong khi đó chúng ta vẫn sa sả chửi rủa Mỹ.
Chúng ta yên chí rằng Mỹ là cỗ máy chiến tranh luôn sẵn sàng chờ lịnh ta để khai hỏa. Làm như cái “lịnh ta” là một ơn huệ hay một vinh dự chúng ta ban cho Mỹ vậy. Tệ hơn nữa, chúng ta chẳng bao giờ thèm tìm hiểu xem tại sao ta có được mỗi năm 100 tỉ tiền đầu tư FDI để phát triển kinh tế.
Ta cũng không mảy may lo ngại từ nay cái FDI đó sẽ chuyển hướng sang Miến Điện, nơi thỉnh thoảng không có những trò bẽ mặt như công an quăng nhà ngoại giao Mỹ lên xe cây, làm ngơ khi tổng thống Mỹ xin ân xá cho một vài người phạm tội rất nhẹ và mới đây, qua miệng một đại tá thuộc bộ Quốc Phòng nói thẳng Mỹ luôn luôn có tâm địa xấu với Việt Nam.
Vâng điều này vẫn có thể là chủ trương của chính phủ vì nỗi sợ canh cánh những cuộc cách mạng hoa hồng khắp nơi nhưng nói toạc ra điều này nó chặn đứng ngay tức khắc bao nhiệu nguồn trợ giúp đang xúc tiến và sẽ thục hiện giữa 2 nước.
Hãy giả thử một mai Trung Quốc nuốt gọn Biển Đông, Mỹ phải làm sao khi “người ta” đã nói thẳng “mày không bao giờ tử tế”? Một kẻ có chút liêm sỉ sẽ không xăn tay áo giúp đỡ ta một khi ta từng mắng mỏ và từ chối mọi hảo tâm của nó.
Hãy đặt mình vào não trạng một người bị cự tuyệt để suy luận phản ứng của họ trong tình huống khẩn thiết nhất. Năm 1975 Mỹ bỏ Nam Việt Nam được thì Mỹ bỏ Biển Đông năm 2012 được.
Đối với Mỹ, 1 nước Cộng Sản kéo dài từ Yên Kinh tới Côn Minh hay kéo dài tới Cà Mau (trường hợp Trung Quốc nuốt gọn Việt Nam) cũng vẫn là 1 nước cộng sản, chẳng qua là 1 nước Cộng sản dài hơn 1 chút xíu.
Nói khác đi, một Việt Nam do Tập Cận Bình lãnh đạo cũng chẳng khác gì một Việt Nam do Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo. Mỹ chỉ quan tâm nếu Việt Nam lột xác thay đổi như kiểu Miến điện thôi.
Ngoài ra Cộng Sản nào cũng rứa. Điều đáng lẽ chỉ nên giấu kín trong bụng nay đã lỡ nói toạc ra rồi thì Mỹ không còn lý do gì lưu luyến nữa cả.
Từ nay khỏi phải nói về nhân quyền nữa để khỏi bị cái sượng sùng của tình cảnh nước đổ đầu vịt, về tham nhũng để khỏi phải kinh doanh ở một nơi vô luật lệ, về dân chủ để khỏi bị lên án là phá hoại, ác ý.
Việt Nam và Phi Luật Tân cách nhau một chuỗi đảo là Hoàng Sa và Trường Sa. Có 2 con đường hàng hải đi qua Biển Đông là Tây Trường Sa và Đông Trường Sa.
Nếu Việt Nam tỏ ý không cần Biển Đông bằng Mỹ cần Biển Đông thì từ nay Mỹ sẽ bỏ Biển Đông như đã bỏ Nam Việt Nam năm 1975. Lịch sử cho thấy mất Sài Gòn không kéo theo mất Mã Lai, Thái Lan, Singapore như chủ thuyết Domino tiên đoán thì mất tây Biển Đông cũng không có nghĩa mất con đường hàng hải phía bên kia Trường Sa phía Phi Luật Tân.
Mỹ chỉ cần bảo vệ Mã Lai, Phi Luật Tân, Nhật và các đồng minh khác, những đồng minh chưa bao giờ phát biểu: “Mỹ luôn là kẻ có tâm địa xấu”, dù trong thâm tâm cũng có các quốc gia Đông Nam Á nghĩ như vậy.
Trong lịch sử cận đại và hiện đại, dân tộc chúng ta hứng chịu nhiều cái sai lầm của lãnh đạo nhưng mặc cảm tự ti hóa trang thành tự tôn làm chúng ta không lãnh hội được gì cả. Một chủng loài sẽ đi về đâu khi không thể sửa sai? Một thửa ruộng sẽ cho nhiều lúa hơn nếu chúng ta biết và muốn triệt cỏ năn.
Củ năn cũng ngon ra phết. Phải ăn năn đã thì không sợ thiếu lúa.
Metamorph
VẠN MỘC CƯ SĨ BÌNH
Đọc bài viết của cụ cùng các bài khác như phỏng vấn của Phạm Hồng Sơn, tôi nhận thấy dù gần 90, nhận thức của cụ rất sáng suốt và thành thực. Tôi nghĩ rằng Việt Nam ta có những con người như cụ, như Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, Cù Huy Hà Vũ, Việt Khang, thì đất nước ta nhất định có ngày quang vinh, giành được độc lập, tự do cho dân tộc.
Lấy đâu ra cao su làm vỏ xe hơi? Xăng dầu? Sắt thép? So với các cường quốc như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… thì Đức, Ý, Nhật mạnh hơn nhưng không có tương lai vì không có nguyên liệu lấy từ các thuộc địa. Họ muốn xóa bỏ mọi trật tự cũ hòng mong thế giới chia cho mình cái phần mình đáng được hưởng. Đức tiến chiếm Âu Châu.
Không chịu kém, Nhật tiến chiếm Á châu và thế chiến bùng nổ để khởi đầu cho một trật tự mới mà trong đó, các cường quốc nào cảm thấy mình chịu thiệt, phải chiến đấu giành bằng được cái phần mà họ cho rằng mình đáng được hưởng.
Trung Quốc chẳng học được điều gì cả. Họ cần con đường chuyên chở nhiên liệu từ Trung Đông mà họ cho rằng với vị thế của họ hiện nay, họ đáng được hưởng.
Tham vọng của họ xuyên suốt từ Bắc Kinh vòng qua eo Malacca, băng qua Ấn Độ vào Trung Đông chứ không chỉ ngừng lại sau khi chiếm trọn biển Việt Nam. Không may cho ta, Việt Nam là mục đích đầu tiên trong cuồng vọng chiếm lĩnh cái hải trình năng lượng đó.
Trung Quốc sai ở chỗ nó không tự lượng sức. Thời đệ nhị thế chiến, hải quân hoàng gia Nhật có 20 hàng không mẫu hạm và vẫn thảm bại trước hạm đội 7 Mỹ.
Ngày nay Trung Quốc mua được một tàu phế thải, vá víu sửa chữa cho giống một mẫu hạm rồi tập tành chinh phục thế giới.
Không cần là một chuyên gia quân sự, ai cũng có thể nhận thấy Trung Quốc phải cần ít nhất 20 mẩu hạm để có thể uy hiếp Nhật, 20 nữa để có thể uy hiếp Ấn và không biết bao nhiêu nữa mới có thể uy hiếp Nga hay Mỹ.
CCCCNăm xưa Sô Viết sa lầy ở Afghanistan và Cambodia (tiếng rằng Việt Nam sa lầy nhưng chỉ tổn thất nhân mạng, thục ra Sô Viết sa lầy vì phải chi viện đạn, xăng, khí cụ cho Việt Nam) 10 năm sa lầy khiến Sô Viết không dẫy mà chết.
Để làm chủ hành lang năng lượng, với bao nhiêu mẫu hạm và nguy cơ đối đầu với một siêu cường có thể sản suất ra một số lượng mẫu hạm không thể ước tính nổi là Mỹ, bao lâu thì Trung Quốc không dãy mà chết?
Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột. Ở vị thế siêu cường số 2, Trung Quốc không muốn thi gan một mất một còn với ai, mà chỉ muốn áp đảo những kẻ không thể tự bảo vệ. Vâng. Nếu Meta là thằng nhà giàu số 2 còn hơn làm thằng nghèo sặc máu hạng bét nếu thua trận. Tốt nhất chỉ nên bắt nạt thằng không thể tự vệ.
Không may Việt Nam ta là thằng không thể tự vệ. Đúng hơn chúng ta là thằng tự xua đuổi đồng minh nên không thể tự vệ.
Mới đây một đại tá Việt Nam ông Trần Đăng Thanh, Phó giáo sư tiến sĩ Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng đã nói: “Nước Mỹ chẳng bao giờ tốt với chúng ta, chỉ có Trung Quốc tốt với chúng ta.” Câu này thật là tai hại. Các tay yêu nước kiểu loa phường thường đòi “bằng chứng đâu?”, “sai chỗ nào?” mỗi khi chúng ta vấp phải những sai lầm chí tử.
Thậm chí có bác còn chống chế: “Ứng khẩu nói không thể chính xác như đã soạn trước rồi đọc” khi thấy ông đại tá nói sai be bét. Như chúng ta biết, một giáo viên cấp cơ sở cũng ứng khẩu chứ có ai giảng bài mà đọc từ giấy đâu mà chẳng bao giờ sai.
Cái này rõ ràng trình độ ông đại tá có vấn đề. Thì tiện đây, Meta xin phân tích cái tai hại của ông đại tá. Vẫn là hoang tưởng rằng Mỹ là bọn thèm Biển Đông hơn chúng ta thèm Biển Đông. Từ lâu chúng ta yên chí rằng chỉ cần búng tay một cái, Mỹ sẵn sàng lao vào lửa đạn bảo vệ chúng ta trong khi đó chúng ta vẫn sa sả chửi rủa Mỹ.
Chúng ta yên chí rằng Mỹ là cỗ máy chiến tranh luôn sẵn sàng chờ lịnh ta để khai hỏa. Làm như cái “lịnh ta” là một ơn huệ hay một vinh dự chúng ta ban cho Mỹ vậy. Tệ hơn nữa, chúng ta chẳng bao giờ thèm tìm hiểu xem tại sao ta có được mỗi năm 100 tỉ tiền đầu tư FDI để phát triển kinh tế.
Ta cũng không mảy may lo ngại từ nay cái FDI đó sẽ chuyển hướng sang Miến Điện, nơi thỉnh thoảng không có những trò bẽ mặt như công an quăng nhà ngoại giao Mỹ lên xe cây, làm ngơ khi tổng thống Mỹ xin ân xá cho một vài người phạm tội rất nhẹ và mới đây, qua miệng một đại tá thuộc bộ Quốc Phòng nói thẳng Mỹ luôn luôn có tâm địa xấu với Việt Nam.
Vâng điều này vẫn có thể là chủ trương của chính phủ vì nỗi sợ canh cánh những cuộc cách mạng hoa hồng khắp nơi nhưng nói toạc ra điều này nó chặn đứng ngay tức khắc bao nhiệu nguồn trợ giúp đang xúc tiến và sẽ thục hiện giữa 2 nước.
Hãy giả thử một mai Trung Quốc nuốt gọn Biển Đông, Mỹ phải làm sao khi “người ta” đã nói thẳng “mày không bao giờ tử tế”? Một kẻ có chút liêm sỉ sẽ không xăn tay áo giúp đỡ ta một khi ta từng mắng mỏ và từ chối mọi hảo tâm của nó.
Hãy đặt mình vào não trạng một người bị cự tuyệt để suy luận phản ứng của họ trong tình huống khẩn thiết nhất. Năm 1975 Mỹ bỏ Nam Việt Nam được thì Mỹ bỏ Biển Đông năm 2012 được.
Đối với Mỹ, 1 nước Cộng Sản kéo dài từ Yên Kinh tới Côn Minh hay kéo dài tới Cà Mau (trường hợp Trung Quốc nuốt gọn Việt Nam) cũng vẫn là 1 nước cộng sản, chẳng qua là 1 nước Cộng sản dài hơn 1 chút xíu.
Nói khác đi, một Việt Nam do Tập Cận Bình lãnh đạo cũng chẳng khác gì một Việt Nam do Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo. Mỹ chỉ quan tâm nếu Việt Nam lột xác thay đổi như kiểu Miến điện thôi.
Ngoài ra Cộng Sản nào cũng rứa. Điều đáng lẽ chỉ nên giấu kín trong bụng nay đã lỡ nói toạc ra rồi thì Mỹ không còn lý do gì lưu luyến nữa cả.
Từ nay khỏi phải nói về nhân quyền nữa để khỏi bị cái sượng sùng của tình cảnh nước đổ đầu vịt, về tham nhũng để khỏi phải kinh doanh ở một nơi vô luật lệ, về dân chủ để khỏi bị lên án là phá hoại, ác ý.
Việt Nam và Phi Luật Tân cách nhau một chuỗi đảo là Hoàng Sa và Trường Sa. Có 2 con đường hàng hải đi qua Biển Đông là Tây Trường Sa và Đông Trường Sa.
Nếu Việt Nam tỏ ý không cần Biển Đông bằng Mỹ cần Biển Đông thì từ nay Mỹ sẽ bỏ Biển Đông như đã bỏ Nam Việt Nam năm 1975. Lịch sử cho thấy mất Sài Gòn không kéo theo mất Mã Lai, Thái Lan, Singapore như chủ thuyết Domino tiên đoán thì mất tây Biển Đông cũng không có nghĩa mất con đường hàng hải phía bên kia Trường Sa phía Phi Luật Tân.
Mỹ chỉ cần bảo vệ Mã Lai, Phi Luật Tân, Nhật và các đồng minh khác, những đồng minh chưa bao giờ phát biểu: “Mỹ luôn là kẻ có tâm địa xấu”, dù trong thâm tâm cũng có các quốc gia Đông Nam Á nghĩ như vậy.
Trong lịch sử cận đại và hiện đại, dân tộc chúng ta hứng chịu nhiều cái sai lầm của lãnh đạo nhưng mặc cảm tự ti hóa trang thành tự tôn làm chúng ta không lãnh hội được gì cả. Một chủng loài sẽ đi về đâu khi không thể sửa sai? Một thửa ruộng sẽ cho nhiều lúa hơn nếu chúng ta biết và muốn triệt cỏ năn.
Củ năn cũng ngon ra phết. Phải ăn năn đã thì không sợ thiếu lúa.
Metamorph
VẠN MỘC CƯ SĨ BÌNH
Đọc bài viết của cụ cùng các bài khác như phỏng vấn của Phạm Hồng Sơn, tôi nhận thấy dù gần 90, nhận thức của cụ rất sáng suốt và thành thực. Tôi nghĩ rằng Việt Nam ta có những con người như cụ, như Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, Cù Huy Hà Vũ, Việt Khang, thì đất nước ta nhất định có ngày quang vinh, giành được độc lập, tự do cho dân tộc.
HÌNH ẢNH TẾT DƯƠNG LỊCH
Thế giới đón năm mới 2013
Nguyễn Khanh, biên tập viên RFA
2012-12-31
Năm mới 2013 đã đến với người dân nhiều châu lục, và tất cả mọi
người đều ước mong năm nay sẽ hanh phúc, an binh gấp vạn lần năm cũ
2012.
Tại Australia và New Zealand, dân chúng 2 quốc gia này bắt tay với
năm mới bằng những lễ hội mà ông Thị Trưởng Clover Moore của Sydney hãnh
diện gọi là tuyệt vời nhất thế giới. Ngoài chương trình hòa nhạc chia
tay với năm cũ đón chào năm mới, hơn 1 triệu 500 ngàn người dân
Australia còn ngước mắt nhìn những ngọn pháo bông tỏa sáng bầu trời.
Pháo bông cũng cháy sáng ở nhiều thành phố nổi tiếng
khác, từ London của Vương Quốc Anh, Quảng Trường Đỏ ở Maxcơva, cho đến
Kuala Lumpur, Đài Bắc, Hồng Kông, Stockholm, Amsterdam và ở tất cả những
thành phố lớn của Trung Quốc.
Không chỉ ở các thành phố hay những quốc gia có tên vừa
nêu, những chương trình hòa nhạc đi kèm với phần trình diễn của những
siêu sao và dốt pháo bông cũng được thực hiện ở nhiều quốc gia khác, như
Rio de Janeiro của Brazil, hay tại Brandenburg của Berlin.
Thành phố nổi tiếng này đón năm mới 2013 với sự xuất hiện của các
ban nhạc và ca sĩ lẫy lừng thế giới, gồm Pet Shop Boys, Bonnie Tyler và
Blue. Nếu muốn thưởng thực chương trình nhạc cổ điển thì có lẽ không đâu
qua mặt được chương trình hòa nhạc của thành phố Praha với dàn đại hòa
tấu được xem là xuất sắc nhất nhì thế giới.
Tại Paris, thành phố mang tên Kinh Thành Ánh Sáng có
luật cấm đốt pháo bông, nhưng vẫn có cả triệu người đổ xô ra đường mưng
năm mới 2013, làm chật cả Đại lộ Champs-Elysees. Hình ảnh những đôi uyên
ương trao cho nhau nụ hôn nồng nàn vào đúng lúc giao thừa vẫn là hình
ảnh nổi bật nhất của thủ đô nước Pháp.
Với người dân Nhật Bản, năm mới là ngày được dành cho
gia đình, mọi người cùng nhau đi chùa dâng hương xin Thượng Đế ban cho
mọi điều may mắn, và sau đó quay quần cùng thân nhân trong bữa cơm thịnh
soạn đầu năm.
Tại Seoul, đúng vào điểm giao thừa 2013, mọi người lắng
nghe 33 tiếng chuông vang vọng báo hiệu năm mới đã về, cùng nhau nói
những lời chúc tụng đẹp nhất, hy vọng năm 2013 sẽ yên ổn hơn năm 2012
vừa qua.
Với người dân Bắc Hàn, chương trình lễ hội mừng năm mới được tiếp
nối với chương trình lễ hội mừng một năm ngày lãnh tụ Kim Jong-Un lên
nắm quyền. Trong một vài ngày vừa qua, dân chúng và nghệ sĩ Bắc Hàn cùng
nhau nhảy múa trên tuyết để ngợi ca nhà lãnh đạo trẻ tuổi của họ cũng
như để đón cháo năm mới Juche 102.
Xin thưa thêm theo tiếng Hàn, Juche có nghĩa là tự chủ,
chủ thuyết được người thành lập quốc gia cộng sản này là ông Kim Il Sung
đề ra khi bắt đầu lên nắm quyền. Còn số 102 là vì đại lãnh tụ kinh mến
Kim Il Sung của Bắc Hàn chào đời cách đây 102 năm.
Ngay tại Miến Điện, chương trình đón mừng năm mới 2013 cũng rất đặc biệt, hay phải nói là chưa bao giờ có.
Không chỉ có pháo bông, hòa nhạc ngoài trời, người dân
Rangoon năm nay còn nhìn thấy chiếc đồng hồ điện tử khổng lồ được dựng
lên, để mọi người có thể cùng nhau cất tiếng đếm ngược từng giây một,
cho tới chiếc đồng hồ đổ chương báo tin năm 2013 đã về.
Nhưng ở một số quốc gia khác, chương trình đón mứng năm
mới 2013 không được tổ chức long trọng như những năm trước, chẳng hạn
như tất cả các chương trình tiệc tùng ở New Delhi bị bãi bỏ vì cả nước
Ấn vẫn đang đau buồn trước cái chết của cô sinh viên 23 tuổi bị bọn say
rượu hẫm hiếp.
Ở Philippines, người dân cũng không vui sướng gì với chương trình
đón giao thừa, vì những tang thương mà trận siêu bão Bopha để lại. Hiện
vẫn còn cả trăm ngà người đang sống trong những trại tạm cư do chính phủ
dựng lên và với những người không may, ước vọng của họ là sớm được trở
về nhà để lập lại cuộc sống.
Tại Venezuela, mọi chương trình mừng năm mới cũng bị hủy
bỏ, thay vào đó là yêu cầu của chính phủ, mong mọi người cầu nguyện cho
Tổng thống Hugo Chavez, hiện đang ở Cuba để chữa bệnh ung thư.
Xin thưa thêm cùng quý vị là gần 6 tiếng đồng hồ nữa năm
mới 2013 mới đặt chân đến nước Mỹ và đương nhiên khi nói đến tết Dương
Lịch, mọi người cũng đang chờ đợi chương trình đón mừng năm mới được tổ
chức tại Times Square ở thành phố New York, với quả cầu pha lê quen
thuộc từ trên cao rơi xuống và tiếng reo hò của hàng triệu người đứng
đón giao thừa trong cơn giá lạnh.
Dù năm mới chưa đến ở Hoa Kỳ, nhưng tất cả các anh chị
em Ban Việt Ngữ chúng tôi cũng háo hức khi nghĩ đến chuyện năm mới 2013
đã về với quý thính giả, khán giả và độc giả RFA ở Việt Nam. Trong
chương trình phát thanh hôm nay, chúng tôi sẽ gửi đến quý vị và các bạn
những chia sẻ, cảm nghĩ của một số anh chị em trong ban về ước mong dành
cho năm mới 2013.
Tạm quên khủng hoảng, toàn thế giới đón chào năm mới 2013
Thành phố Sydney, Úc, bắn pháo hoa đón chào năm mới 2013
REUTERS
Bằng ánh sáng rực rỡ của pháo bông, tiếng nhạc rộn rã và mùi
rượu nồng ấm, lần lượt các châu lục đi vào năm mới 2013 với thông tin
phấn khởi : Cường quốc kinh tế số một, Hoa Kỳ, đạt được thỏa thuận giờ
chót bên « bờ vực ngân sách ». Viễn ảnh một đợt suy thoái mới
tạm thời lánh xa và nhân loại cũng an tâm vì ngày tận thế không xảy ra
như nhiều người dự báo và lo lắng.
Theo vòng quay trái đất, New Zealand và Úc là hai quốc gia đầu tiên bước vào năm 2013.
Tại Úc, trước gần một triệu người tụ tập trong vịnh Sydney, nữ ca sĩ Kylie Monogue được vinh dự bấm ngòi khai hỏa trận pháo bông truyền thống. Ba giờ sau, đến lược châu Á tiếp nối với lễ hội pháo bông tại Hồng Kông soi sáng đêm đen trong 8 phút. Thành phố Thượng Hải ở Trung Quốc cũng đón chào tân niên dương lịch với đoạn phim hình nổi mà màn ảnh là tòa nhà lịch sử Bund. Không rõ Bắc Triều Tiên mừng năm 2013 như thế nào, nhưng theo bản tin của hãng thông tấn chính thức KNCA, lãnh đạo Kim Jong Un cũng cho đất nước khép kín này tham gia vào trào lưu thế giới với pháo hoa rực rỡ để goi là « tạo niềm tin cho nhân dân vào một tương lai tươi sáng ». Đặc biệt tại Miến Điện, sau nhiều thập niên khép kín, hơn 50 000 dân đã tưng bừng đón năm mới tại Rangoon ghi dấu cuộc cải cách chính trị tự do.
Trong lúc đó tại Ấn Độ, tất cả lễ hội đều bị hủy bỏ để tượng niệm nữ sinh viên y khoa từ trần, sau vụ cưỡng hiếp tập thể trên xe buýt, gây câm phẫn trong công luận.
Tại châu Âu, hơn một triệu người đã đón giao thừa tại cổng Brandebourg ở Berlin, biểu tượng của cuộc thống nhất nước Đức. Trước đó, thủ đô Luân Đôn của Anh cùng với hơn 250 000 người tiễn đưa năm cũ 2012 với nhiều sự kiện tốt đẹp từ Thế Vận Hội mùa hè cho đến kỷ niệm 60 năm nữ Hoàng Elisabeth đệ nhị.
Tại Pháp, mặc dù trời mưa, nhưng đại lộ Champs-Elysées cũng thu hút hơn 300 000 người Pháp và du khách quốc tế tiễn chân năm cũ, mừng năm mới, với rượu champagne tuôn như suối. Hầu như toàn thể chính phủ Pháp từ tổng thống, thủ tướng cho đến các bộ trưởng đều đón giao thừa với dân chúng. Tổng thống François Hollande thăm một bệnh viện, thủ tướng Pháp Jean Marc Ayrault dự lễ giao thừa với hiệp hội thiện nguyện công giáo trợ giúp người nghèo. Bộ trưởng Nội vụ Manuel Valls liên tiếp đi thăm các đơn vị cảnh sát có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho dân chúng đón Tết tại những khu vực « nóng » thường xảy ra nạn đốt xe trong tuần lễ cuối năm. Bộ trưởng Quốc phòng Jean-Yves Le Drian chọn Afghanistan để đón giao thừa với 1500 quân nhân Pháp mà nhiệm vụ trong lực lượng quốc tế sẽ kết thúc vào cuối năm 2014.
Giới truyền thông đặc biệt chấm điểm hai lễ bắn pháo bông được xem là huy hoàng nhất : Dubai với tòa tháp cao nhất thế giới Burj Khilifa « bốc cháy » trong lửa hoa đăng và tại Rio de Janeiro, nơi mà lễ hội pháo hoa dài 16 phút đã thôi miên hơn 2 triệu người Brazil và du khách.
Cũng tại châu Mỹ La tinh, Venezuela đã hủy bỏ lễ hội chào đón năm mới, vì thông tin về tình trạng sức khỏe của tổng thống Hugo Chavez không được khả quan.
Tại Hoa Kỳ, khoảng một triệu người đón năm 2013 ở quảng trường Times Square với quả cầu truyền thống đa màu. Trước đó, tổng thống Obama, trong thông điệp mừng năm mới, thông báo Nhà Trắng và đối thủ Cộng Hòa đã đạt được thỏa hiệp vào giờ chót, tránh cho Hoa Kỳ rơi vào « bờ vực ngân sách » và nỗi ám ảnh xảy ra một cuộc khủng hoảng mới về kinh tế cho toàn cầu.
Tuy ngày tận thế không xảy ra, nhưng đối với người dân Syria, năm mới cũng tang thương như năm cũ : 102 người chết, trong số này có 42 thường dân thiệt mạng vì các trận giao tranh trong ngày cuối năm.
Tại Úc, trước gần một triệu người tụ tập trong vịnh Sydney, nữ ca sĩ Kylie Monogue được vinh dự bấm ngòi khai hỏa trận pháo bông truyền thống. Ba giờ sau, đến lược châu Á tiếp nối với lễ hội pháo bông tại Hồng Kông soi sáng đêm đen trong 8 phút. Thành phố Thượng Hải ở Trung Quốc cũng đón chào tân niên dương lịch với đoạn phim hình nổi mà màn ảnh là tòa nhà lịch sử Bund. Không rõ Bắc Triều Tiên mừng năm 2013 như thế nào, nhưng theo bản tin của hãng thông tấn chính thức KNCA, lãnh đạo Kim Jong Un cũng cho đất nước khép kín này tham gia vào trào lưu thế giới với pháo hoa rực rỡ để goi là « tạo niềm tin cho nhân dân vào một tương lai tươi sáng ». Đặc biệt tại Miến Điện, sau nhiều thập niên khép kín, hơn 50 000 dân đã tưng bừng đón năm mới tại Rangoon ghi dấu cuộc cải cách chính trị tự do.
Trong lúc đó tại Ấn Độ, tất cả lễ hội đều bị hủy bỏ để tượng niệm nữ sinh viên y khoa từ trần, sau vụ cưỡng hiếp tập thể trên xe buýt, gây câm phẫn trong công luận.
Tại châu Âu, hơn một triệu người đã đón giao thừa tại cổng Brandebourg ở Berlin, biểu tượng của cuộc thống nhất nước Đức. Trước đó, thủ đô Luân Đôn của Anh cùng với hơn 250 000 người tiễn đưa năm cũ 2012 với nhiều sự kiện tốt đẹp từ Thế Vận Hội mùa hè cho đến kỷ niệm 60 năm nữ Hoàng Elisabeth đệ nhị.
Tại Pháp, mặc dù trời mưa, nhưng đại lộ Champs-Elysées cũng thu hút hơn 300 000 người Pháp và du khách quốc tế tiễn chân năm cũ, mừng năm mới, với rượu champagne tuôn như suối. Hầu như toàn thể chính phủ Pháp từ tổng thống, thủ tướng cho đến các bộ trưởng đều đón giao thừa với dân chúng. Tổng thống François Hollande thăm một bệnh viện, thủ tướng Pháp Jean Marc Ayrault dự lễ giao thừa với hiệp hội thiện nguyện công giáo trợ giúp người nghèo. Bộ trưởng Nội vụ Manuel Valls liên tiếp đi thăm các đơn vị cảnh sát có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho dân chúng đón Tết tại những khu vực « nóng » thường xảy ra nạn đốt xe trong tuần lễ cuối năm. Bộ trưởng Quốc phòng Jean-Yves Le Drian chọn Afghanistan để đón giao thừa với 1500 quân nhân Pháp mà nhiệm vụ trong lực lượng quốc tế sẽ kết thúc vào cuối năm 2014.
Giới truyền thông đặc biệt chấm điểm hai lễ bắn pháo bông được xem là huy hoàng nhất : Dubai với tòa tháp cao nhất thế giới Burj Khilifa « bốc cháy » trong lửa hoa đăng và tại Rio de Janeiro, nơi mà lễ hội pháo hoa dài 16 phút đã thôi miên hơn 2 triệu người Brazil và du khách.
Cũng tại châu Mỹ La tinh, Venezuela đã hủy bỏ lễ hội chào đón năm mới, vì thông tin về tình trạng sức khỏe của tổng thống Hugo Chavez không được khả quan.
Tại Hoa Kỳ, khoảng một triệu người đón năm 2013 ở quảng trường Times Square với quả cầu truyền thống đa màu. Trước đó, tổng thống Obama, trong thông điệp mừng năm mới, thông báo Nhà Trắng và đối thủ Cộng Hòa đã đạt được thỏa hiệp vào giờ chót, tránh cho Hoa Kỳ rơi vào « bờ vực ngân sách » và nỗi ám ảnh xảy ra một cuộc khủng hoảng mới về kinh tế cho toàn cầu.
Tuy ngày tận thế không xảy ra, nhưng đối với người dân Syria, năm mới cũng tang thương như năm cũ : 102 người chết, trong số này có 42 thường dân thiệt mạng vì các trận giao tranh trong ngày cuối năm.
NĂM MỚI 2013 TẠI SIDNEY ÚC CHÂU
Dân Sydney đến dành chổ ngồi coi pháo bông 12g đêm 31/12/12.
Họ đến đay từ sáng sớm, chịu trận dang nắng suốt một ngày...
No comments:
Post a Comment