Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Sunday, 11 December 2016

PHỞ=TIỀN TỆ TRUNG QUỐC=TIẾN SĨ VIỆT NAM =

GIA HỘI * TIN NGẮN THẾ GIỚI

*
TIN THẾ GIỚIGia Hội

I. TIN NGA MỸ

Sau khi bà Clinton làm bộ trưởng ngoại giao, Nga và Mỹ đã xích lại gần nhau. Trước đây vài tháng, quân đội Nato đã diễn hành tại Quảng trường Đỏ tại Nga. Trong thánh sáu này, Medvedev tới Hoa Kỳ.

Hai tổng thống ăn bánh mì thịt hamberger
Hai ông Obama và Medvedev chứng kiến sự hồi phục trong quan hệ Mỹ-Nga.
Tổng thống Nga Dmitry Medvedev và tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama vừa mở đường cho sự hồi phục quan hệ song phương. Lên tiếng sau cuộc hội đàm tại Tòa Bạch ốc, ông Obama nói hai tổng thống đã "thành công trong việc tái khởi động mối quan hệ". Ông nói Hoa Kỳ nay ủng hộ Nga vào Tổ chức Thương mại Thế giới, WTO.
II.MỸ & CHÂU ÂU

Bộ trưởng Tài chính Mỹ, Timothy Geithner

Ông Geithner nói chuyện với BBC trước cuộc họp thượng đỉnh của khối G20 cuối tuần tại Canada. Ông nói thành viên G20 sẽ "tập trung giải quyết thách thức của tăng trưởng và hồi phục niềm tin", và cuộc họp tại Toronto sẽ tìm giải pháp.Geithner thừa nhận Mỹ không còn là động lực của kinh tế thế giới. Timothy Geithner nói thế giới "không thể phục thuộc vào kinh tế Mỹ" như từng xảy ra trong quá khứ. Gần đây ông Geithner đã phải hứng chịu nhiều chỉ trích vì cách thức giải quyết vụ tiền thưởng của công ty bảo hiểm AIG.Nhiều câu hỏi đặt ra liệu Bộ trưởng Ngân khố biết gì về quy mô to lớn của tiền thưởng, khi giờ đây tin mới nhất nói rằng các giám đốc của AIG chia nhau 218 triệu USD, thay vì 165 triệu USD như trước đây. Tuy nhiên tổng thông Obama vẫn tín nhiệm ông.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2010/06/100625_geithner_us_econ.shtml

III. SƯ NHẤT HẠNH


Khi Công An đánh đuổi nhóm Bát Nhã Lâm Đồng, dư luận trong và ngoài nước cho rằng ông Nhất Hạnh đã dùng khổ nhục kế để xuất khẩu người qua Âu Mỹ. Nay thì ông đã thành công.
Tin cho hay khoảng 50 tăng ni theo phái môn Làng Mai từng tu tập tại Tu viện Bát Nhã, Lâm Đồng, đang làm thủ tục để sang Hoa Kỳ. Tờ nhật báo địa phương tại Naples, bang Florida, cho hay một hãng luật cũng ở tiểu bang này đang lo chiếu khán cho các tăng ni Bát Nhã, từng bị ép buộc phải rời tu viện trong vụ lộn xộn thu hút chú ý của dư luận hồi tháng Chín năm ngoái.
Công ty có tên Cohen & Grigsby, đặt tại Bonita Springs, đang làm thủ tục cho 52 tăng ni vào Mỹ theo diện hoạt động tôn giáo không định cư (non-immigrant religious worker). Đại diện của hãng này nói 30 bộ hồ sơ đã được hoàn tất. 7 tăng sinh theo Làng Mai từ Việt Nam đã tới bang California hôm thứ Hai 21/06. Những người này sẽ chỉ được phép ở Mỹ trong thời hạn nhất định và không được nhập cư.ttp://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/06/100624_batnha_us.shtml
Rất nhiều người từng là "tù nhân lương tâm" nhưng sau khi sang Mỹ thì chuyển hướng, không còn tranh đấu mà đi về Việt Nam như mắc cửi! E họ cũng là những kẻ điệp viên dùng khổ nhục kế, lợi dụng lòng nhân đạo của Âu Mỹ để sang hoạt động tại Âu Mỹ, nhất là để đánh phá cộng động hải ngoại.
*

HÀM ĐAN * PHỞ

*
Phở ....
TRĂM NĂM NHÌN LẠI!






1. Phở là niềm vinh dự của người Việt và đất Việt, nhưng nhắc đến phở là người ta đột nhiên gắn nó với Hà Nội. Người Hà Nội được tiếng thế lấy làm tự hào lắm. Tự hào là một chuyện còn có hiểu biết về phở thì dám chắc trừ mấy ông bên ngành xã hội “nhăn răng” (nhân văn) thì cũng chẳng mấy ai biết rõ. Nguồn gốc của phở đang còn nhiều tồn nghi vì nhiều người cho rằng quê hương của phở là ở Nam Định; nhưng có điều chắc chắn những bước thăng trầm của phở đều diễn ra ở Hà Nội. Người ta có thể viết lịch sử Hà Nội thế kỷ XX thông qua các cuộc chiến nhưng cũng có thể viết song hành lịch sử Hà Nội cùng với phở. Phở không chỉ là món ăn, phở là một kí ức. 2. Năm 1909, nhà tư sản dân tộc Bạch Thái Bưởi bắt đầu kinh doanh vận tải đường sông. Với tinh thần dân tộc, ông chỉ tuyển dụng nhân công người Việt. Bến sông Hồng trở nên đông đúc, hệ quả là tạo ra nhu cầu ẩm thực cho người bình dân. Các hàng quán ăn dựng ở bến sông, trong đó có món “xáo trâu”. Hình ảnh gánh “xáo trâu” đầu thế kỷ có thể hình dung được qua gánh đánh đa riêu cua bây giờ.






Một bên quang gánh là chiếc thúng ủ kỹ chiếc nồi đất lớn đựng canh xáo trâu giữ nóng bằng ổ bện rơm. Bên kia một chiếc thúng to khác, dưới đựng bún, trên đậy cái mẹt úp chồng bát chiết yêu, đũa, hũ nước mắm, đĩa chanh ớt, gia vị. Nhiều người sẽ thắc mắc: Sao lại là trâu mà không phải là bò từ đầu? Vì hồi đầu thế kỷ, người Việt không khoái ăn thịt bò. Bữa cơm người Việt có cơ cấu gồm: cơm, rau, cá (nhà sang thì thịt lợn) kèm nước mắm hoặc tương. Một thời gian sau, cũng không rõ vì sao người ta lại chuyển sang “xáo bò”? Phải chăng trâu thời đó để kéo cày, đắt đỏ hơn chăng? Thịt bò sẵn hơn, xương bò vốn cho không trước đây, nay lại hữu dụng, ninh lên làm nước dùng.

Thấy món quà người Việt đắt hàng, các chú khách (cách gọi người Hoa) cũng quảy gánh bán “xáo bò”. Từ Ô Quan Chưởng lan khắp Hà Nội. Các chú khách gọi món này là “Ngưu nhục phấn” (bánh thịt trâu) nhưng khi rao lên lai Hán Việt thành ra: “Ngầu nhục phắn a!”. Dần dần nó được dân gian hoá, rút gọn thành: “phắn a”! “phớ ơ”! cuối cùng định ra cái tên “Phở”. Điều này có thể đúng, vì người Việt là chuyên nói tắt như Vũng Tàu được người Pháp gọi Cap Saint Jacques nhưng người Việt gọi tắt là Cấp cho nó tiện. Danh từ “Phở” được chính thức hoá ấn hành lần đầu trong cuốn Việt Nam tự điển (xuất bản năm 1931) do hội Khai trí Tiến Đức soạn có ghi rõ tên phở bắt nguồn từ chữ “phấn” và giải thích đó là món ăn bằng bánh thái nhỏ nấu với thịt bò.




Trên kia là cái thuyết ra đời của phở được nhiều người chấp nhận nhất. Việc tìm chính xác năm ra đời của phở gần như không thể. Chỉ có mấy tư liệu vắn tắt đáng tin cậy: Nguyễn Công Hoan (sinh năm 1904) người được xem là có trí nhớ tốt nhất trong số các nhà văn đã viết: “1913…trọ số 8 Hàng Hài…thỉnh thoảng, tối được ăn phở (hàng phở rong). Mỗi bát 2 xu (có bát 3xu, 5 xu)”. Phở rong đã khá thịnh hành nên bị chính quyền đánh thuế: “…người bán phở phải mua hai hào tem thuế mỗi ngày. Tính ra mỗi năm là 73 đồng”.

Đặc biệt, Henri Oger chỉ ở Việt Nam có hai năm 1908 - 1909 đã cho vẽ lại hình ảnh phở gánh trong cuốn sách tranh: “Kỹ thuật của người An Nam” (bản tiếng Việt xuất bản năm 2009). …. Vậy phở ra đời chỉ trong khoảng 1900 đến 1910, tính ra vào dịp kỷ niệm Hà Nội nghìn năm cũng có thể kỷ niệm một trăm năm phở.

3. Nói kỷ niệm phở cho có không khí long trọng, thêm hoạt động cho đất rồng bay nghìn tuổi chứ phở đã quá nổi tiếng, kỷ niệm chỉ tốn tiền thuế. Và nhất là vui vẻ gì khi phở đang khiến người ta “ăn phở khó thấy ngon”.
Lúc sắp qua đời, Nguyễn Tuân có đồng ý với ý kiến của một bạn văn rằng: phở phản ánh trung thực cho bộ mặt xã hội. Nói thế e quá chăng? Hay lại cái bệnh “cường điệu”, “ngoa dụ” từ các ông nhà văn? Thực tế ý nghĩ đó lại hoàn toàn chính xác.
Phở ra đời từ nhu cầu cuộc sống của nhân dân đầu thế kỷ. Thời điểm này, Hà Nội là mảnh đất mà các nền văn minh va chạm với nhau. Sau phở nước, có thêm phở xào. Phở xào được xác định ra đời sau thời kỳ kinh tế khủng khoảng (1929 - 1933). Bánh phở cháy cạnh, thịt bò xào cần tây, hành tây với nước sốt xệt thêm rau xà lách búp, cà rốt xu hào ngâm dấm ăn kèm. Rõ ràng ẩm thực Pháp đã ảnh hưởng mạnh như thế nào. Dấu ấn ẩm thực Tàu cũng hiện diện trong phở. Đầu năm 1928, ở con phố Jean De Puis (nay là phố Hàng Chiếu) có món phở có vị hung lìu, dầu vừng, đậu phụ. Thạch Lam đại diện cho khẩu vị người Việt đầu thế kỷ chê thẳng thừng những “phát minh” với cách “nói mát” là “phở cải lương”.
Những năm sau, chiến tranh liên miên. Cuộc sống thời chiến là cuộc sống đặc biệt, bất bình thường. Phở cũng thích ứng thời chiến trở nên có nhiều điều kì quái. “Phở không người lái” 3 hào lõng bõng nước và bánh phở, 5 hào có thịt nhưng thời chiến đào đâu ra thịt ngon. Đến cả gia vị là chanh ớt, hạt tiêu bói cũng không có. Tất cả đều phân phối, tem phiếu. Không khí ăn càng tệ hại. Tô Hoài hay ăn phở đêm ở chỗ hàng ông Thìn Hàng Dầu, đang ăn mà máy bay rú ầm lên, lại bưng cả bát phở xuống hầm tránh bom. Phở vẫn sống nhưng dưới mác “phở mậu dịch”. Thực phẩm khan hiếm, dân gian nghĩ ra phở cơm nguội, phở quẩy. Người ta ăn phở để no. Từ cái thời ăn dễ dãi đó di họa không ít cho “gu” phở ngày nay.
Phở mang đặc tính linh hoạt mềm dẻo của người Việt. Thời thực dân có lệnh cấm thứ sáu không được bán thịt bò. Trong cái khó ló cái khôn, người ta nghĩ ra phở gà. Bát phở gà với húng láng, gà ta, thêm ít lá chanh… khiến từ sản phẩm “chính thống” phở bò lao đao. Phở gần giống một thứ đạo, đi đâu nó cũng tự biến đổi thành các tùy thể để phù hợp cái “gu” của dân bản xứ. Năm 1954, gần một triệu người miền Bắc di cư miền Nam, phở Bắc chiếm lĩnh dần mặt tiền các khu phố trung tâm Sài gòn đẩy các xe, quán hủ tiếu, mì vằn thắn vào đường hẻm hoặc cứ địa người Hoa trong Chợ lớn. Phở Nam bộ mang một phong cách riêng. Cái phong cách dễ dãi, dễ thích nghi thêm giá sống, rau thơm, thêm sắc ngọt của đường. Tô phở trong Nam đầy nước và cái đến nỗi người Bắc vào chơi ít khi ăn hết một tô.
4. Hà Nội – thánh địa của phở, giờ đây luôn đầy rẫy cửa hàng chuyên về phở. Loạn đến độ không biết thế nào là phở ngon. Hồi trước 1954, giới sành ăn đánh giá một bát phở ngon là: Nước dùng ninh từ xương bò đúng 6 tiếng, thịt bò thứ thiệt không lẫn các thứ thịt “giời ơi” khác. Bánh phở không nát. Thịt bò chín thái mỏng. Thường người ta chỉ dùng hạt tiêu không dùng chanh, ớt, đường để được hưởng vị ngọt của nước dùng xương.
Nay, có vẻ như sự ngon của phở gắn với sở thích của từng cái nhân. Có vị chỉ chuyên ăn phở gà, độc hơn chỉ ăn phở… phao câu. Có vị ăn phở cho mấy thìa nước tương cay như ăn bún bò Huế… Đến đây, thiết nghĩ, có thể gắn cho phở hiện nay thêm một ý nghĩa nữa theo một câu cách ngôn nổi tiếng: hãy nói cho tôi biết anh ăn phở gì tôi sẽ nói anh là người thế nào! Cũng có những người ở thời hiện đại ăn phở như đặc sản. Họ không ăn hàng ngày mà chỉ thỉnh thoảng thưởng thức. Họ quan niệm: phở ngon là phở do mình nấu. Các hàng phở ngày nay chạy theo lợi nhuận. Nước dùng có thể ninh 6 tiếng nhưng không hẳn chỉ mỗi xương bò. Đã thế lại còn pha chế để bán được nhiều thành thử khiến nước dùng chẳng còn vị ngọt nguyên chất nữa. Họ cứu chữa bằng cách cho mì chính. Chẳng thế mà, lắm khi đến hàng phở cứ phải dặn nhà bếp: “Một bát phở không mì chính”. Không trách các nhà hàng được vì họ kinh doanh thì phải lời, với lại phở xuống cấp mà có ai kêu đâu người ta vẫn cứ ăn phở rào rào, thành thử cần gì phải nghiêm túc học tập các “cụ âm lịch”. Những kẻ ngoan cố cuối cùng có tôn chỉ riêng: Muốn ăn phở ngon hãy tự nấu lấy. Nguyên liệu sẵn và thực ra nấu phở cũng không mất thời gian như người ta hay nghĩ. Về cách nấu phở ngon đã có sách. Nhiệm vụ của bài báo này không phải để dạy cách nấu phở! Mà là thứ “văn chơi” loanh quanh về phở như cách “ăn chơi” phở từ trăm năm nay.
Hàm Đan

*

RFA * TRUNG HOA & MỸ

*
Đằng sau sự lạnh nhạt quân sự là một Trung Quốc mạnh mẽ hơn
2010-06-24
Nếu bất cứ người nào đã từng nghi ngờ sự trao đổi gay gắt tại hội nghị Singapore cuối tuần qua thì đã rõ: quan hệ giữa quân đội Mỹ và Trung Quốc đang đóng băng rất sâu.

AFP PHOTO / Rod LAMKEY JR
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert M. Gates (P) trò chuyện với Đô đốc Mike Mullen, tham mưu trưởng liên quân trong một phiên điều trần về dự toán ngân sách cho Bộ Quốc phòng, tại Washington, DC hôm 16/6/2010.

Mỹ - Trung khẩu chiến

Điều thực sự nghi ngờ là, liệu có những vấn đề gai góc trong mối quan hệ rộng hơn giữa hai quốc gia, hay là điềm gở trong tương lai.
Những lời nói được tuôn ra như loạt súng bắn được thể hiện hôm thứ bảy tại Đối thoại Shangri-La, hội nghị các Bộ trưởng quốc phòng của 28 quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương tham dự, ngoài những nước khác là ông Robert M. Gates, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ và tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tham mưu trưởng của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Tướng Mã đã cho vào bài phát biểu của mình những nhát đâm ngụy trang công khai nhắm vào Hoa Kỳ. Ông nói: "Tâm lý chiến tranh lạnh vẫn còn tồn tại" vào các quốc gia vô danh, với "mối đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế và can thiệp vào công việc nội bộ các nước khác" – ngôn ngữ ám chỉ việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan, mà Trung Quốc xem là lãnh thổ của mình.
Trong bài phát biểu, ông Gates thậm chí còn thẳng thừng hơn. Ông nói, quan hệ quân sự giữa quốc gia là “trì hoãn” trong vấn đề Đài Loan, mặc dù việc bán vũ khí cho Đài Loan “đã xảy ra trong thực tế nhiều thập kỷ qua”. Trung Quốc không thể thay đổi thực tế đó, ông nói – và trong mọi trường hợp, Washington không không hỗ trợ Đài Loan độc lập, tách khỏi đại lục.
Nhiều viên chức chính phủ Hoa Kỳ tin rằng tình hình hiện nay là một trong những điều quân đội có đồ chơi trong tay và tự đề cao về vấn đề này.
Ông Michael Swaine
Việc đấu khẩu đó diễn ra sau khi Trung Quốc chính thức từ chối đề nghị của ông Gates đến Bắc Kinh cuối tuần qua trong chuyến thăm hiện tại của ông ở châu Á. Và cũng theo sau bài thuyết trình của một đô đốc Trung Quốc, bất ngờ đay nghiến về quyền bá chủ của "Mỹ", trong một phiên họp riêng cuối tháng qua về Đối thoại Kinh tế và Chiến lược tại Bắc Kinh, đã làm cho các nhà ngoại giao Mỹ tức giận, là dấu hiệu cho thấy hai thái độ khác nhau giữa các nhà lãnh đạo dân sự và quân sự Trung Quốc.
Nếu tách riêng ra, các sự kiện có ý nghĩa rất ít. Các chuyên gia nói về quan hệ quân sự Trung – Mỹ thường xuyên sử dụng những từ như “chim hải âu lớn” và “cối đá xay” để mô tả tác động về sự hợp tác giữa Washington và Bắc Kinh. Đôi khi, sự ngờ vực và thù địch xác định các cuộc họp giữa các lãnh đạo quân sự.
Nhưng có một điều: sự quyết đoán ngày càng gia tăng trong các vấn đề kinh tế và ngoại giao toàn cầu của lãnh đạo Trung Quốc. Những người ủng hộ một Trung Quốc cứng rắn và theo chủ nghĩa dân tộc nhiều hơn đã đạt được ảnh hưởng trong 6-12 tháng qua, và ảnh hưởng của họ đang được cảm nhận nhiều hơn trong các chính sách cả ở trong lẫn ngoài nước.
Đối với một số nhà phân tích phương Tây, cho rằng phương pháp tiếp cận cơ bản của chính phủ Obama đối với Trung Quốc – làm cho Trung Quốc trở thành một đối tác có trách nhiệm trong các vấn đề toàn cầu bằng cách cho Bắc Kinh có vị trí lớn hơn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế – cần phải xem lại.
Ông David Shambaugh, một chuyên gia hàng đầu về Đảng Cộng sản và quân đội Trung Quốc tại Đại học George Washington, nói: “Hiện có thay đổi lớn thực sự và thái độ cứng rắn trong suy nghĩ của chính phủ Trung Quốc về mối quan hệ với Hoa Kỳ trong vòng sáu hoặc tám tháng qua. Trong bối cảnh này, Washington cần phải tiến hành đánh giá toàn bộ chính sách và chiến lược Trung Quốc của mình, từ trên xuống dưới”.
Bà Stephanie Kleine-Ahlbrandt, chuyên gia phân tích Bắc Kinh, thuộc International Crisis Group cho biết, hy vọng của chính phủ Obama sẽ hợp tác với Bắc Kinh "đã lạc quan hơn so với kịch bản hiện tại" (*).
"Trung Quốc và Mỹ tiếp tục có các giá trị, mục tiêu và khả năng cơ bản khác nhau". Bà nói, dẫn giải rằng Trung Quốc bị thúc giục, miễn cưỡng đi tìm sự thật trong vụ đánh chìm tàu Nam Hàn, một cuộc tấn công mà điều tra quốc tế xác định đó là việc làm của Bắc Hàn.

Chính sách của Trung Quốc

000_Hkg3257667-200
Một thành viên của đội tuần tra an ninh Hoa Kỳ trên tàu sân bay USS Nimitz trong chuyến đến Hồng Kông vào ngày 17 tháng 2 năm 2010. AFP PHOTO / MIKE CLARKE

Dấu hiệu về chính sách cứng rắn của Trung Quốc có thể dễ dàng tìm thấy. Gần đây, Bắc Kinh đã thông qua một lập trường mới, cứng rắn hơn trong các tuyên bố về các quần đảo tranh chấp ở Biển Đông, nói với Philippines, Indonesia, Việt Nam và các nước tranh chấp khác rằng, các hòn đảo là "lợi ích cốt lõi", vượt ra khỏi giải quyết về các đàm phán trong khu vực.
Đòi hỏi của Trung Quốc là quốc gia mặc cả với quốc gia, để Bắc Kinh có được thuận lợi hơn trong quyết định đối với các nước láng giềng nhỏ hơn.
Hoa Kỳ không thành công nhiều trong việc thuyết phục Trung Quốc trở thành đối tác ở Liên Hiệp Quốc, không chỉ chống lại Bắc Triều Tiên mà còn chống lại chương trình hạt nhân của Iran. Các doanh nghiệp Mỹ và châu Âu đang ngày càng bối rối hơn về điều mà họ xem như sự hạn chế không công bằng về khả năng của họ, để cạnh tranh với các công ty nội địa trong thị trường rộng lớn và ngày càng phát triển của Trung Quốc, mặc dù (có được) sự cam đoan của Trung Quốc.
Tuy nhiên, cũng không rõ về sự thù địch của quân đội Trung Quốc phản ánh chiến lược ngoại giao của Trung Quốc, ngoại trừ ra lệnh cho nó. Thật vậy, một phần của vấn đề là không ai bên ngoài Bắc Kinh chắc chắn rằng làm thế nào để các nhà lãnh đạo Trung Quốc thảo ra chính sách ngoại giao của họ đối với Hoa Kỳ – một quốc gia, bằng sự đo lường của Bắc Kinh, thì xa và ở trên đối tác quan trọng nhất của họ.
Ông Gates là một chính khách lớn và luôn thẳng thắn. Có thể ngôn ngữ của ông cũng quá thẳng thắn nên về mặt ngoại giao, các lãnh đạo Trung Quốc có thể thấy hơi khó để đón nhận.
Ông Shi Yinhong
Ông Michael Swaine, một học giả Trung Quốc thuộc Quỹ Carnegie cho Hòa bình Quốc tế, nói: “Nếu không muốn nói là tất cả, nhiều viên chức chính phủ Hoa Kỳ tin rằng tình hình hiện nay là một trong những điều quân đội có đồ chơi trong tay và tự đề cao về vấn đề này. Đảng Cộng sản và bộ máy ngoại giao thật sự không hài lòng về nó, nhưng phải đi cùng với nó”.
Không ai biết được đâu là sự thật. Chính sách đối với Hoa Kỳ – đặc biệt là chính sách quân sự – được bịa ra trong một hộp đen ở các cấp cao nhất của chính phủ, ông Swaine và những người khác nói.
Ông Gates có thể đã cho các quan chức quân sự Trung Quốc một cái tát cần thiết vào mặt với những nhận xét của ông ở Singapore. Hoặc có thể ông đã đi quá giới hạn của mình.
Ông Shi Yinhong, chuyên gia về quan hệ Trung – Mỹ tại Đại học Renmin ở Bắc Kinh, nói: “Ông Gates là một chính khách lớn và luôn thẳng thắn. Có thể ngôn ngữ của ông cũng quá thẳng thắn nên về mặt ngoại giao, các lãnh đạo Trung Quốc, đặc biệt là các tướng Trung Quốc, có thể thấy hơi khó để đón nhận”.
Jonathan Ansfield viết bài với nghiên cứu do Li Bibo đóng góp.
--------
(*) Ý của bà Stephanie: Chính phủ Obama hy vọng hợp tác với Trung Quốc, tạo nhiều cơ hội hơn cho Trung Quốc trên trường quốc tế, để TQ giúp Hoa Kỳ giải quyết các vấn đề thế giới, nhưng có lẽ Hoa Kỳ đã quá lạc quan so với những gì đang diễn ra trên thực tế.


BBC * CỰU CHIẾN BINH CỘNG SẢN *

Cựu chiến binh kiến nghị với Đảng

Hình cờ đỏ và khẩu hiệu Xã hội Chủ nghĩa tại Hà Nội
Việt Nam chính thức vẫn theo mô hình xã hội chủ nghĩa với đại hội đảng cầm quyền họp 5 năm một lần
Hàng chục cựu chiến binh và nhà cách mạng lão thành đã gửi các lá thư kiến nghị với Đảng và Nhà nước Việt Nam về các vấn đề bức xúc và đề nghị bốn vị lãnh đạo thôi ứng cử kỳ đại hội tới.
Gần đây nhất là lá thư phản đối việc Bộ Quốc phòng kỷ luật trung tá Vũ Minh Trí - cán bộ Tổng cục Tình báo quân đội (Tổng cục II), người đã công khai tố cáo các "sai phạm" ở cơ quan ông.
Hồi cuối năm 2008, ông Vũ Minh Trí gửi đơn lên Bộ Chính trị và các cấp lãnh đạo về những bê bối mà theo ông đã xảy ra ở Tổng cục II, quy trách nhiệm cho người đứng đầu tổng cục này lúc đó là ông Nguyễn Chí Vịnh. Tháng Hai năm nay, ông Trí nhận quyết định tước quân hàm sỹ quan và khai trừ tư cách Đảng viên Đảng cộng sản.
Phản ứng trước việc này, mới đây 38 nhân vật là cựu tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp và đảng viên lão thành cách mạng đã gửi thư lên các lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước để bày tỏ sự "hết sức bất bình".
Bức thư được tung lên mạng internet với chữ ký của các nhân vật có tên tuổi và đóng góp cho cách mạng Việt Nam như Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh Quân khu 4, Trung tướng Lê Hữu Đức, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh..., nêu hai kiến nghị.
Dứt khoát không để những người có dính đến tham nhũng và những người Việt gốc nước ngoài vào Ban Chấp hành Trung ương.
Thư của các vị lão thành cách mạng
Kiến nghị thứ nhất là yêu cầu các bậc lãnh đạo "nghiêm túc xem xét và giải quyết khẩn trương, sòng phẳng, triệt để các vụ tiêu cực đã và đang xảy ra ở Tổng cục II".
Kiến nghị thứ hai đòi đình chỉ công tác và không cơ cấu dự đại hội XI cũng như không được vào danh sách bầu cử Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đối với ông Nguyễn Chí Vịnh, nay là Trung tướng và đã chuyển sang nhậm chức Thứ trưởng Quốc phòng.
Bức thư kết thúc với lời "chờ đợi sự công tâm và tinh thần kiên quyết của các đồng chí".
Các cáo buộc liên quan hoạt động của cơ quan tình báo quân đội đã được đưa ra một vài năm nay. Bản thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp hồi tháng 6/2009 cũng đã từng gửi thư lên Bộ Chính trị và Ban Bí thư Đảng Cộng sản yêu cầu điều tra xem xét để xử lý vi phạm mà đơn tố cáo của ông Vũ Minh Trí đề cập tới.
Không thấy bất cứ thông tin nào nói về phản hồi của lãnh đạo trong nước trước các khuyến nghị của Tướng Giáp.

Nhân sự Đại hội

Trước bức thư về vụ ông Vũ Minh Trí, các vị lão thành cách mạng và cựu tướng lĩnh còn gửi một thư khác để đóng góp cho công tác nhân sự Đại hội XI.
Ông Nguyễn Phú Trọng (bìa trái) tiếp xúc cử tri
Ông Nguyễn Phú Trọng được đề nghị thôi ứng cử
Thư đề ngày 22/04/2010 được gửi tới Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương cùng các ủy viên Trung ương khóa X.
Tuy vẫn gọi các vị đang cầm quyền là "đồng chí", lá thư trích nhiều ý kiến nói là của nhân dân và dư luận để phê phán ban lãnh đạo hiện thời.
Các cựu cán bộ cao cấp, phần lớn đã trên 80 tuổi đời, 60-70 tuổi Đảng, viết "công tác nhân sự đại hội cần được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, trong sáng và với trách nhiệm cao của mỗi đại biểu".
"Dứt khoát không để những người có dính đến tham nhũng và những người Việt gốc nước ngoài vào Ban Chấp hành Trung ương".
Những người ký tên trong thư đề xuất thay đổi điều lệ để tiến hành bầu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản trực tiếp trong đại hội. "Ban Chấp hành TW khoá XI không nên vượt số lượng 150, không nên cơ cấu rải đều Bộ, ngành, tỉnh, thành nào cũng có ủy viên TW mà quan trọng là chất lượng".
Họ cũng yêu cầu tiếng nói lớn hơn cho đảng viên là cán bộ hưu trí.
Họ còn mạnh dạn góp ý cho bốn nhân vật quan trọng của Bộ Chính trị là Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa TW Tô Huy Rứa.
Các bậc lão thành cách mạng nhận xét và phân tích những cái được và chưa được của bốn vị nói trên, để rồi kết luận: "Cả bốn đồng chí đều đã tham gia hai đến ba nhiệm kỳ Ban Chấp hành TW và những bất cập và khuyết nhược điểm của các đồng chí, tín nhiệm của các đồng chí trong đảng viên và nhân dân giảm sút".
"Mong rằng nhiệm kỳ tới đây (Đại hội XI) các đồng chí nên thôi ứng cử, nhường chỗ cho các đồng chí khác để cho lòng tin đối với Đảng được nâng lên, Tổ quốc, dân tộc phát triển nhanh và các đồng chí cũng không mang tiếng tham quyền, cố vị."
Lá thư này có gần 20 chữ ký của các cựu tướng lĩnh và cán bộ cấp cao.
Từ nay cho tới khi Đại hội Đảng XI được tiến hành vào tháng 1/2011, người ta trông đợi sẽ có thêm những lá thư đóng góp ý kiến tương tự được gửi tới lãnh đạo Đảng Cộng sản.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/06/100624_veterans_petition.shtml
*

LÝ MINH HÀO * TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG

*

Con Người và Cái Chết của Tướng Lê Văn Hưng

LÝ MINH HÀO

Qua Ghi Chép Của Một Tình Báo Mỹ
Không chê người đáng khen
Không khen người đáng chê
(Cổ ngôn Trung Hoa)
James E Parker Jr., tác giả cuốn sách “Last Man Out – A Personal Account of the Vietnam War”,” là một giới chức tình báo của CIA rời khỏi Việt Nam cuối cùng vào ngày 1 tháng 5 (1975) sau mười năm phục vụ, giai đoạn đầu với vai trò một quân nhân, và giai đoạn sau trong ngành tình báo Hoa Kỳ. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, tác giả tự hào là “I was among the first men in and I was the last man out” và cuốn sách trên được Đô Đốc Elmo Zumwalt, vị Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ trẻ tuổi nhứt trong lịch sử hiện đại, đánh giá là “sống động và thuyết phục…

Một bổ sung quan trọng cho nền văn học kỷ nguyên Việt Nam.” Được biết thêm, Đô Đốc Elmo Zumwalt trong thời kỳ cuộc chiến Việt Nam leo thang là chỉ huy trưởng Chiến Dịch SEALORDS (Southeast Asia Lake Ocean River and Delta Strategy) phát xuất từ Căn Cứ Năm Căn (Cà Mau). Và qua thời “Việt Nam hóa Chiến tranh,” ông đề xuất và thi hành kế hoạch ACTO (Accelerate Turnover to the Vietnam) nhằm chuyển giao và trang bị quân cụ hải quân nhanh chóng cho Việt Nam (Theo “Tự Điển Chiến Tranh Việt Nam” của Nguyễn Kỳ Phong).

Đặc biệt trong “Last Man Out” rải rác trong nhiều chương, tác giả đề cập, qua ghi chép và nhận xét, đến nhiều nhân vật quân sự tên tuổi mà ông có nhiều cơ hội và thời gian làm việc chung, như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn. Tác giả mô tả tướng Nguyễn Khoa Nam điềm đạm, làm việc mẫn cán, chu toàn trọng trách tướng chỉ huy… Tướng Trần Văn Hai thâm trầm, khép kín, hút thuốc nhiều, và có vẻ ít nhiều định kiến với các cố vấn, giới chức Mỹ. Nhưng vị tướng này có tài quân sự, đã cho tác giả biết trước vào ngày 22 tháng 4 là Sàigòn đã bị Cộng Sản bao vây rồi sẽ “mất trong 7 ngày” sau đó, căn cứ theo sự thẩm định và ước đoán tình hình quân sự và những biến chuyển chính trị rất xấu cho miền Nam vào lúc bấy giờ. Tướng Hai nghiêm mặt, nâng cao ly cà phê được đặt trong chiếc bình giữ ấm, mời tác giả cụng ly để cầu nguyện cho những chiến sĩ đã hy sinh và chúc lành cho nhau … Tác giả dành cho Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (trong sách in là Canh, có lẽ tác giả quên cách viết chữ Cẩn) sự cảm mến nồng hậu. Trước khi làm tỉnh trưởng Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đã nổi tiếng với những chiến công, nhứt là những trận đánh giải vây cho An Lộc, và một phần bên mặt bị thương, dù đã giải phẫu chỉnh hình vẫn còn để lại vết sẹo dài dọc theo hàm. Tác giả nhận xét Đại Tá Cẩn là “lính của lính, can trường và thanh liêm” (he was a soldier’s soldier, brave and incorruptible).
Riêng Tướng Lê Văn Hưng, tác giả James E. Parker, Jr. ghi lại nhiều chi tiết hơn.
Trong suốt thời gian về làm việc tại vùng châu thổ Cửu Long (Vùng 4), chủ yếu tại Cần Thơ và các tỉnh lân cận, tác giả do vai trò “case officer” trong ngành CIA nên luôn có dịp gặp Tướng Hưng. Ngày đầu tiên diện kiến ông Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, tác giả “hơi lấy làm lạ” về cách đánh giặc và điều quân của Tướng Hưng là “thủ nhiều hơn công” khi đôi bên trao đổi và thảo luận, về kế hoạch quân sự trong vùng. “Tại sao lại đánh một trận chiến đang thua?” tác giả thắc mắc thì tướng Hưng cười và hỏi lại: “Tôi còn có những lựa chọn gì nữa đâu?” rồi chậm rãi nói tiếp – “Đây là đất nước của tôi.”
Sau nhiều tháng liên tục làm việc để lập mạng lưới tình báo tại vùng châu thổ, tác giả ghi nhận tướng Hưng dành rất nhiều thời giờ cho việc trận mạc: Sáng sớm thường đáp trực thăng đi thị sát và trao đổi với các đơn vị trưởng địa phương. Trở về họp tổng kết tại Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn và thỉnh thoảng họp khẩn về đêm. Càng về sau tác giả mới hiểu ra thêm tổng quan (outlook) của một ông tướng Việt Nam trong cuộc chiến giữa những người Việt Nam ngay trên quê hương của mình. Tướng Hưng tin rằng sự chiến đấu thực sự cho vùng châu thổ đang diễn tiến ở những nơi khác, có thể trong các cuộc họp hành ở Sài Gòn. Vả lại, là một người theo đạo Phật, ông tin vào định mệnh, những gì xảy ra với những hậu quả gì đem đến đều là sự an bài, xếp đặt trong vạn vật cả.
Tuy nhiên, tháng 2 năm 1975, theo đòi hỏi của cấp trên từ Cần Thơ và Sài Gòn, Tướng Hưng đã phát lệnh tấn công một lực lượng quân sự trọng yếu của Cộng Sản tại mạn đông của tỉnh Chương Thiện, nằm trong một mật khu lâu đời thuộc rừng U Minh – Theo tác giả, đây là chiến dịch động binh lớn nhứt và khổ cực nhứt của Tướng Hưng với những điều kiện khó khăn và phương tiện hạn hẹp. Chỉ còn cách tấn công địch theo lối “liệu cơm mà gắp mắm” thiếu hụt đủ thứ: Phi vụ không quân hạn chế nên không vận chuyển kịp thời các quân cụ, khí giới nặng, điều động nhanh các đơn vị chiến đấu tấn kích thần tốc.

Quân đội Hoa Kỳ tuy để lại nhiều súng đại bác nhưng thiếu đạn, còn nhiều mìn claymore nhưng không có đủ bộ phận khởi động (activators), còn nhiều loại đạn dược, nhưng ngòi nổ đã tịt! Tuy vậy nhờ sự chỉ huy tài giỏi, sự can trường và thiện chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, lực lượng cộng sản Bắc Việt đã bị đẩy lùi sâu vào rừng U-Minh khi kết thúc chiến dịch. Trận đánh lớn như vậy hẳn nhiên chiến trường tàn cuộc phải tang tóc, sự chết chóc và thương tật cả đôi bên phải nhiều. Tác giả ngậm ngùi ghi chép tâm trạng Tướng Hưng trong hoàn cảnh tàn cuộc chiến đó: General Hưng was not sure if he had, in fact, secured the net advantage. He had used much of his limited resources. For what? ... He suffered extensive casualties.
Tướng Hưng không biết chắc là trong thực tế mình có thắng lợi thực sự hay không. Ông ta gần như đã xả láng những gì còn có trong tay. Để cho gì đây? Ông đã chịu đựng bao thứ tai ương.
Trong con người võ tướng còn có một văn nhân. Tác giả đã sống với Tướng Hưng những buổi chiều đằm thắm: Hỏi thăm chuyện gia đình, bàn chuyện nước Mỹ, chuyện thời sự, thảo luận văn chương. Kiến thức ông tướng uyên bác, nhiều nhà văn và tác phẩm văn chương Mỹ ông đề cập phần tác giả còn chưa đọc tới dù rằng là “mọt sách” đọc không dưới hai ba cuốn sách mỗi tuần. Còn Tướng Hưng ưa kể chuyện lịch sử Việt Nam và Chiến tranh Đông Dương. Ông ăn nói cân nhắc, từ tốn, luôn tươi cười, ngay cả những khi tranh luận các vấn đề quan trọng. Tướng Hưng có được những nét tự tin đặc biệt và quanh người ông như toát ra vẻ thanh thản, trầm tĩnh. Tánh tình khả ái, rất dễ gây được cảm tình của mọi người từ ông tướng đã thu phục “con tim” của một điệp viên Mỹ, tạo thành tình bạn thân thiết giữa hai người.
Và tác giả đã dành riêng phần lời bạt (Epilogue) để kể lại cái chết bi tráng, thương cảm của tướng Lê Văn Hưng. Dưới đây là phần dịch của Lời Bạt.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đúng lúc 7 giờ tối, Tướng Hưng, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cũng là người bạn của tôi, đã nhắn gọi vợ ông đến văn phòng làm việc tại Cần Thơ. Tướng Hưng cho vợ biết là có mười người dân địa phương đến thỉnh cầu ông đừng chống trả với lực lượng Việt Cộng đang tiến quân vô thành phố.


Họ nói bọn Cộng Sản sẽ pháo kích nát Cần Thơ thành đống gạch vụn và gây thương vong cho nhiều dân lành. Tướng Hưng nói với vợ rằng ông hiểu rõ chuyện đó và đồng ý sẽ không để thành phố Cần Thơ biến thành một bãi chiến trường tuyệt vọng. Ông cũng cho biết kế hoạch khẩn cấp rút lui cùng một số thuộc hạ vào một mật khu xa xôi vùng châu thổ đã hẹn trước, nơi sự sống khó tồn tại. Đầu hàng giặc không phải là một giải pháp lựa chọn.
Tướng Hưng cũng không hề nghĩ tới việc diện kiến và thảo luận với một quan chức Việt Cộng trách nhiệm trong vùng, Thượng Tá Hoàng Văn Thạch, để bàn giao vùng Châu thổ Nam Bộ cho Cộng Sản. Ông không bỏ nước để thoát thân. Ông có một trách nhiệm với những quân nhân đã dành mạng sống của họ ở lại vị trí trấn thủ. Ông đã ở lại bằng một lựa chọn vinh dự. Ông phải tự quyết định sinh mạng của mình.
Vợ của Tướng Hưng bật khóc và năn nỉ ông hãy suy tính lại. “Tại sao mình không thể bỏ ra ngoại quốc giống như những người khác?,” bà hỏi chồng.
Tướng Hưng lập lại lần nữa với vợ về trách nhiệm riêng đối với xứ sở và binh lính. Ông ôn tồn và chậm rãi nối tiếp: “Mình đừng để anh bị mất lòng kiên định. Giờ đây cứ đánh tiếp cũng chỉ đem lại rắc rối và mất mát không những cho gia đình và bà con mình, mà còn cho binh lính và dân lành nữa. Và anh không muốn thấy mặt thằng Cộng Sản nào hết.”


Rồi Tướng Hưng đứng dậy, ôm vợ vào lòng, và rớt nước mắt. Sau cùng, ông nói cùng vợ: “Lẹ lên đi mình, tới mời Má và dẫn các con vô đây gặp anh.”
Khi người Má vợ và các con bước vô văn phòng làm việc của ông rồi, Tướng Hưng nói lời chia tay và cúi xuống hôn từng đứa con.
Bên ngoài văn phòng, nhiều sĩ quan và binh lính thuộc cấp lần lượt kéo tới, đứng sắp hàng ngoài sân, chờ đợi lệnh.
Tướng Hưng tuyên bố việc chiến đấu đã chấm dứt. Ông nói, nước đã mất là do lãnh đạo kém tại Sài Gòn, và xin thuộc cấp tha thứ lỗi cho ông, nếu như cá nhân ông đã có những lỗi lầm nào đó. Bầu không khí xung quanh nặng nề. “Tôi xin chấp nhận cái chết. Vĩnh biệt các anh em,” Tướng Hưng dứt câu.
Tướng Hưng đưa tay lên chào và đưa tay bắt từng người một. Ông yêu cầu mọi người ra về. Một vài quân nhân vẫn đứng tại chỗ không chịu lui bước, nên tướng Hưng buộc lòng phải bước tới đẩy và giục họ về. Rồi ông bảo vợ đừng có nài nỉ thêm điều gì nữa và chỉ một mình bước vô văn phòng làm việc.
Chỉ trong khoảnh khắc sau đó vang lên một tiếng súng nổ. Tướng Hưng đã tự sát bằng súng. (Hết trích)
Sau phần Lời Bạt, và xếp cuối trang sách “Last Man Out” James E. Parker Jr. đã chọn bài thơ của một chiến binh Mỹ ẩn danh (Làm tại Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, khoảng năm 1969). Từ và ý bài thơ hoa mỹ, lãng mạn và phảng phất siêu thoát, nhưng dứt bằng một câu thơ đầy hào khí tang bồng hồ thỉ như khí tiết của những chiến sĩ, hiệp khách Đông Phương:
Do not stand by my grave and weep:
I am not there. I do not sleep…
I am a thousand winds that blow
I am the diamond’s glint on snow
I am the sunlight on ripened grain
I am the gentle autumn’s rain
When you awake in the morning’s hush
I am the swift uplifting rush
Of quiet birds in circle flight
Do not stand by my grave and cry:
I am not there. I did not die.
Tạm dịch nghĩa:
Đừng đứng bên mộ anh và nhỏ lệ:
Anh không ở trong mộ này. Anh không ngủ đâu em.
Anh là ngàn ngọn gió thổi khắp phương trời
Anh là kim cương lấp lánh trên tuyết lạnh
Anh là ánh nắng nhuộm vàng hạt lúa chín
Anh là giọt mưa của trời thu êm ả
Khi em thức giấc lúc ban mai thinh lặng
Anh là lực xua đàn chim vụt bay cao
Những cánh chim lặng lẽ lượn những đường vòng
Đừng đứng bên mộ anh và khóc lóc:
Anh không ở trong mộ này. Anh không chết đâu em.
Bài thơ không tựa và tác giả ẩn danh trên, tác giả James E. Parker Jr. xếp liền ngay sau phần mô tả cái chết của Tướng Hưng để xem như vòng hoa tang cho một ông tướng cốt cách hào hoa. Bởi vì trong đời thường và trong quân ngũ, tướng Hưng vẫn không giấu được ngay cả dưới lớp quân phục những nét nho nhã và dáng hào hoa của một người đàn ông. Nhiều người nhận xét, Tướng Lê Văn Hưng “có tướng quan văn hơn là võ tướng,” chẳng qua ông quan văn này phải khoác chiến y, áo giáp đỡ đạn trong thời chiến và trên chiến trường mà thôi! Tướng Hưng cũng có tiếng là “người chịu chơi,” nhứt là thời còn trai trẻ, sĩ quan còn mang lon cấp úy, cấp tá, nhiều phen “quậy tới bến” sau chiến trận được về lại hậu cứ nghỉ ngơi. Ôi, đó là những năm anh còn trẻ của một người trai thời ly loạn sống nay chết mai. Thiết nghĩ không ai quá khắt khe đối với ông tướng.
Nhưng rồi ông tướng không mấy năm sau đó cũng có cơ hội, gặp thời thế để trả nợ chí trai và làm đẹp non sông: Khí tiết Lê Văn Hưng đã thăng hoa giữa chiến trường Bình Long và hoa anh hùng Lê Văn Hưng đã nở đẹp tại phòng tuyến An Lộc. Và rồi hấp hối theo vận nước, phút cuối Lê Tướng Quân đã chọn cái chết bi hùng để trở thành bất tử trong lịch sử và quân sử Việt Nam.
Với dụng ý vinh danh và tưởng niệm tướng Lê Văn Hưng, nơi trang cuối của tác phẩm “Last Man Out,” tác giả James E Parker, Jr. chính vì vậy đã xếp bài thơ không tựa, không tên tác giả với câu thơ chấm dứt:
I am not there. I did not die.
Và sau chót, một câu lập ngôn được xem như quân huấn của danh tướng Douglas MacArthur:“Duty, Honor, Country.”
http://www.viettribune.com/vt/index.php?id=4746
*

Thursday, June 24, 2010


THANH THANH * TRUNG TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG


*
TRUNG-TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG
GIỮA MỘT TÌNH-HÌNH KHÓ-KHĂN
Tư-Lệnh Quân-Ðoàn I & Quân-Khu I Ngô Quang Trưởng được hầu hết mọi người khâm-phục. Ông đã dành nhiều tâm-trí, công-sức, và thì-giờ vào các cuộc hành-quân hơn là vào công việc văn-phòng. Ông thường-xuyên mặc chiến-phục, đội mũ sắt, mang áo giáp, bay đến tận từng đồn+chốt khắp Quân-Khu, để quan-sát, nghiên-cứu tình-hình tại chỗ, và kiểm-tra tác-phong kỷ-luật của các cấp quân-nhân. Bản-thân ông ít thích truy-hoan, nên cấm sĩ-quan thuộc quyền đến khiêu-vũ ở các nhà hàng ca+vũ+nhạc, khiến các Tỉnh-Trưởng và Thị-Trưởng cấm luôn cả các phòng trà ca-nhạc tổ-chức khiêu-vũ cho bất-cứ giới khách hàng nào.
Ðó là tóm-tắt những nét chính về tướng Trưởng được nhiều người nhận thấy hoặc đồn miệng với nhau.
Riêng đối với tôi, ông còn là Ðại-Biểu Chính-Phủ, tức Thủ-Hiến, của Vùng I, nhất là sau khi Tòa Ðại-Biểu Chính-Phủ đã bị giải-tán, chức-vụ Phụ-Tá Hành-Chánh cho Tư-Lệnh Quân-Khu cũng bị bãi-bỏ luôn. Tư-Lệnh Quân-Ðoàn/Quân-Khu cử-nhiệm các Tiểu-Khu-Trưởng và Ðặc-Khu-Trưởng kiêm-nhiệm Tỉnh-Trưởng và Thị-Trưởng. Tư-Lệnh Quân-Ðoàn/Quân-Khu trực-tiếp điều-khiển Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng sở-tại, đồng-thời cũng là Chủ-Tịch Hội-Ðồng Bình-Ðịnh & Phát-Triển cầm đầu công-tác chuyên-môn của đa-số các Bộ quan-trọng thuộc Chính-Quyền Trung-Ương thực-hiện trong lãnh-thổ Quân-Khu mình. Tóm lại, Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng là Chính-Quyền tại Miền Trung.
Tôi trích sao riêng gửi cho ông biết điều-khoản trong Sắc-Lệnh của Thủ-Tướng quy-định việc tôi, Giám-Đốc Ngành Đặc-Biệt cấp Vùng, trực-tiếp báo-cáo tình-hình lên Tư-Lệnh Quân-Khu, liên-quan đến an-ninh và chính-trị nội-bộ, thuộc thẩm-quyền của Ðại-Biểu Chính-Phủ, là chức-vụ mà ông kiêm-nhiệm hiển-nhiên. Sau đó, tôi chính-thức tường-trình lên ông những vấn-đề nội-chính của Quốc-Gia.

Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng

Tôi có trách-nhiệm trực-tiếp báo-cáo tình-hình lên Tư-Lệnh Quân-Khu, song tôi ít gặp Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng của Quân-Khu I, nếu so-sánh với các Trung-Tướng Vĩnh Lộc, Lữ Lan, Ngô Du, Nguyễn Văn Toàn, như hồi tôi còn coi Ngành Cảnh-Sát Đặc-Biệt ở Quân-Khu II. Trung-Tướng Trưởng dùng phần lớn thì-giờ của ông để đi thị-sát bên ngoài, ít ở văn-phòng.
Tuy thế, trong tâm-tưởng tôi cảm thấy gặp-gỡ và gần-gũi Tướng Trưởng thường-xuyên. Viên trung-tướng ấy, như ở Sài-Gòn cũng như ở Vùng II tôi nghe nhiều người ca-tụng, quả là một nhân-vật lý-tưởng của xã-hội đương-thời. Địa-vị của người quân-nhân đã được nâng lên hàng đầu trong bốn giới, Quân Công Cán Chính, mà người quân-nhân ấy lại đã ở trên đỉnh cao của cả cấp-bậc lẫn chức-vụ (“Tướng Vùng” là “Lãnh Chúa” rồi). Nào là được đề-bạt lên chức-vụ cao hơn ở Trung-Ương nhưng ông thoái-thác, tình-nguyện ở lại trấn-giữ vùng địa-đầu đầy gian-nguy này của Quê Hương; nào là ông tận-tụy dồn hết tâm-trí, công-sức và thì-giờ vào công-cuộc chống Cộng ngay ở trận tiền, hiếm khi hưởng-lạc ở thị-thành; nào là ông được Tổ-Chức Liên-Phòng Đông-Nam-Á (SEATO= South East Asia Treaty Organization) mời qua Thái-Lan hằng tháng thuyết-trình về nỗ-lực và kinh-nghiệm chiến-trường Việt-Nam; nào là ông không có tham-vọng chính-trị nên được Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu tin yêu, an-tâm rằng ông sẽ không bao giờ ly-khai Trung-Ương như cựu Trung-Tướng Nguyễn Chánh Thi ngày xưa...
Một hôm, trong lúc chờ-đợi tập-trung tài-liệu để đem đi họp tại văn-phòng Đại-Tá Hoàng Mạnh Đáng, Tham-Mưu-Trưởng Quân-Đoàn I và Quân-Khu I, một số sĩ-quan cao-cấp đã ngẫu-nhiên đề-cập với tôi về Trung-Tướng Trưởng: nào là ông đã nghiêm-phạt một viên tướng Tư-Lệnh Sư-Đoàn vì liên-đới chịu trách-nhiệm trong vụ một đơn-vị thuộc quyền lùa bò của dân-nhân; nào là ông đã trừng-trị một đại-tá trưởng cơ-quan vì tham-nhũng đối với ngân-sách Phát-Triển Nông-Thôn; nào là ông dùng trực-thăng bay khắp Quân-Khu đích-thân kiểm-soát tình-hình mọi mặt, mọi nơi, kể cả giám-sát tác-phong kỷ-luật của quân-nhân dọc đường cũng như tại các đồn trại xa xôi, vào những ngày giờ bất-ngờ nhất; nào là ông chỉ mặc chiến-phục với áo giáp, mũ sắt, sẵn-sàng tác-chiến bất-cứ lúc nào... Dư-luận cũng đồn là ông đã từng tát tai một Bộ-Trưởng hãnh-tiến tại phi-trường...
Vô-số việc làm điển-hỉnh của Tướng Trưởng đã được kể lại với tôi bằng lời-lẽ và thái-độ đầy thán-phục, gây trong tôi một xúc-động mạnh và một ấn-tượng sâu, đến nỗi sau đó, lúc tôi leo lên giữa chừng cầu thang dẫn đến văn-phòng của Tướng Trưởng và Đại-Tá Đáng, thình-lình gặp Tướng Trưởng bước xuống, tôi bỗng khựng người. Sừng-sững trước tôi quả thật là hình-ảnh vĩ-đại của một người-hùng mặc-áo-giáp đội-mũ-sắt, thực-tế mà hoang-đường như trong huyền-thoại thời xưa. Ông hỏi tôi đến làm gì, tôi nghẹn-ngào không nói nên lời, khiến Đại-Tá Lê Quang Nhơn, Chánh Sở I An-Ninh Quân-Đội, cùng đi với tôi, phải trả lời thay.
Thế là tôi đã có một lãnh-tụ chống Cộng khả-tín cho toàn Vùng Chiến-Thuật sôi-sục này.

Vấn Ðề Quân-Nhân Vô-Kỷ-Luật

Khi người lính ở trong quân-sở hoặc quân-cứ thì quân-phong quân-kỷ có thể được xem là việc riêng trong gia-đình Quân-Lực; nhưng một khi người lính đã đi ra ngoài thì mọi ngôn-ngữ cử-chỉ dù nhỏ-nhặt cũng ít nhiều ảnh-hưởng đến mối quan-hệ giữa Quân và Dân.
So với tổng-số quân-nhân tại-ngũ thì tỷ-lệ cá-nhân vô-kỷ-luật chỉ là một con số nhỏ; nhưng những việc làm sai-quấy của số ít này đã gây bất-bình và ác-cảm không ít trong dân-nhân đối với binh-giới nói chung, tạo thành một vấn-đề trong lĩnh-vực chính-trị nội-bộ của chế-độ Việt-Nam Cộng-Hòa.
Khi nào có một người nào vi-phạm luật-pháp hoặc luật-lệ hiện-hành mà mặc quân-phục rõ-ràng hoặc tự-xưng là quân-nhân, thì Cảnh-Sát chỉ cần báo cho Quân-Cảnh đến chấp-lý mà thôi. Thế là Cảnh-Sát, ở đây, là Cảnh-Sát Sắc-Phục, không theo dõi, thống-kê, phân-loại, so-sánh tăng/giảm, tìm hiểu nguyên-nhân, v.v...; vả lại, dù có muốn cũng không làm được, vì không biết rõ tính-danh, số quân-tịch, cấp-bậc, đơn-vị, nội-dung sự phạm-pháp, cách giải-quyết, và kết-quả thế nào.
Nhưng đó lại là một vấn-đề nội-chính. Nó thuộc phạm-vi nghiên-cứu của Ngành Ðặc-Cảnh (Cảnh-Sát Ðặc-Biệt); nó xảy ra trong vùng sinh-hoạt của người dân, là vùng mà tôi đã đề-nghị và Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu sở-quan đã đồng-ý giao cho Ngành Ðặc-Cảnh chịu trách-nhiệm về an-ninh chung; và nó cũng là một mục-tiêu hoạt-động hằng ngày của chính trung-tướng Ngô Quang Trưởng. Phải bảo-toàn hình-ảnh tốt đẹp của người chiến-sĩ đang hy-sinh xương máu trên chiến-trường; phải duy-trì mối tình khắng-khít cá+nước quân dân; phải xóa sạch mọi tì-vết, không để cho kẻ thù khai-thác vơ đũa cả nắm chê-bai hàng-ngũ Quốc-Gia chúng ta.
Lần đầu tiên là vào cuối năm 1973, tôi nêu đề-tài này lên trong một buổi họp đặc-biệt của nhóm người tạm gọi là Ủy-Ban Phối-Hợp Tình-Báo Quân-Khu I, mà Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng giao cho Đại-Tá Hoàng Mạnh Ðáng, Tham Mưu Trưởng, đại-diện, chủ-tọa các buổi họp hằng tuần. Tôi lấy quốc-lộ số I là con đường bộ huyết-mạch nối liền từ thủ-đô Sài-Gòn ra các Tỉnh Miền Trung và miệt ngoài, đoạn từ Sa-Huỳnh cực-Nam của Tỉnh Quảng-Ngãi ra đến Ðèo Hải-Vân cực-Bắc của Tỉnh Quảng-Nam, trong đó có Thị-Xã Ðà-Nẵng, để làm bối-cảnh điển-hình. Trên con đường này, không những chỉ có sự đi lại của mọi tầng-lớp và thành-phần dân-nhân, các loại ngoại-kiều, mà còn có sự hiện-diện thường-xuyên và tập-trung hoạt-động của mọi cơ-quan và đơn-vị thi-hành luật-pháp và duy-trì an-ninh trật-tự chung. Vào thời-điểm đó, trung-bình hai tháng là có một vụ quân-nhân dùng súng bắn bừa vào xe đò chở đầy hành-khách đang chạy trên quốc-lộ số I, gây thương-tích cho một vài thường-dân.
Trong phòng làm việc của Đại-Tá Ðáng có một bộ-phận giống như chi-nhánh của hệ-thống nội-đàm mà tôi đoán là máy chính nằm trong phòng làm việc của Trung-Tướng Trưởng. Có lẽ ông đã mở máy mà nghe Ủy-Ban chúng tôi thảo-luận những gì. Lần họp kế sau, Đại-Tá Ðáng khéo-léo nhắc chúng tôi đừng đề-cập nhiều những vấn-đề nội-bộ, ý nói vì có Người Bạn Ðồng-Minh (viên-chức CIA cố-vấn của Ðặc-Cảnh) và thông dịch-viên cùng nghe.
Tôi còn nhớ ngày xưa, khi tôi còn làm giám-đốc chương-trình phát-thanh “Tiếng Nói Quân Ðội” tại Ðệ-Nhị Quân-Khu, tôi phải đệ-trình bản thảo bài xã-luận của tôi viết hằng ngày lên cho Thiếu-Tướng (sau này là Trung-Tướng) Lê Văn Nghiêm, Tư-Lệnh Quân-Khu, duyệt trước, để được đọc trên Ðài vào chiều cùng ngày và được đăng trên báo “Tin Tức” phổ-biến khắp Quân-Khu vào sáng hôm sau. Có một lần, bài xã-luận của tôi nhắc-nhở tài-xế quân-xa tuân giữ luật-lệ lưu-thông khi lái xe trên đường thành-phố. Tôi quan-niệm rằng: khi một người lính, dù là hạng chót (binh nhì), đứng gác ở một cổng đồn, anh ta có quyền chận đường một ông Bộ-Trưởng; khi một nhân-viên Quan-Thuế (dù là hạ-đẳng) soát hàng ở một phi-trường, anh ta có quyền lục xách một viên đại-tướng; vậy thì, khi một đại-diện Cảnh-Sát (dù là sơ-cấp) kiểm-soát xe cộ, tại sao anh ta lại không có quyền chỉ dẫn đúng luật đi đường cho các quân-xa? Tướng Nghiêm phê vào bên lề bản thảo của tôi hai chữ “con cú”. Phòng Năm chúng tôi đoán ý ông cho rằng bài xã-luận ấy có phần cay-cú hoặc xoi-mói như “cú vọ” (?), nên đã xếp bỏ. Phần đông cấp trên không muốn nghe người khác nói đến khuyết-điểm của cấp dưới thuộc phần trách-nhiệm của mình.
Tuy nhiên, việc của tôi thì tôi vẫn phải làm. Ngoài Tư-Lệnh Quân-Khu ra, tôi còn báo-cáo lên Tư-Lệnh Ðặc-Cảnh Trung-Ương, là Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây. Nơi đây chuyển lên Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia kiêm Ðặc-Ủy-Trưởng Tình-Báo Trung-Ương, là Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, để trình tiếp lên Tổng-Thống. Như thế thì Trung-Ương vẫn biết đến vấn-đề đó như thường.
Sau đó, tôi không trình-bày sự-việc nói trên trong các buổi họp như thế nữa. Tôi làm công-văn báo-cáo hằng tháng lên Tư-Lệnh Quân-Khu.
So-sánh thì thấy, vào cuối năm 1973, trung-bình hai tháng mới có một vụ, gây thương-tích cho một vài thường-dân; nhưng đến mấy tháng đầu năm 1975, liền trước ngày thất-thủ Quân-Khu địa-đầu này, tổng-số thống-kê mỗi tháng đã lên đến cả chục vụ, gây cả tử-thương cho nhiều hành-khách, trong đó có một số là quân-nhân, và có lần cho cả một tu-sĩ của Ðạo Ky-Tô.

Việc Kiểm-Soát các Cựu-Can & Cựu-Cán Việt-Cộng

Phong-trào phản-đối Chiến-Tranh Việt-Nam ở Hoa-Kỳ và một số nước khác đã mở đường cho Hiệp Ðịnh Paris 1973. Hậu-quả trầm-trọng và cụ-thể nhất là Mỹ giảm bớt dần dần để rồi chấm dứt hẳn viện-trợ cho Việt-Nam Cộng-Hòa.
Sau vụ Việt-Cộng tổng-tấn-công Tết Mậu-Thân năm 1968, hoạt động của Quân-Lực cũng như của Ðặc-Cảnh gia-tăng tối đa; do đó, số cán-bộ, bộ-đội, và cơ-sở địch bị bắt cũng gia-tăng rất nhiều. Chính-Quyền phải xây-cất thêm trại tạm giam ở mỗi Tỉnh, một số trại giam thuộc Trung-Ương, và một trại tập-trung tại mỗi Vùng Chiến-Thuật, để gom lại các phần-tử nguy-hiểm được đưa từ các Tỉnh về. Thật ra, trách-nhiệm của Ngành Ðặc-Cảnh chỉ giới-hạn trong việc bắt hung-thủ và nghi-can, điều-tra, lập hồ-sơ truy-tố trước Ủy-Ban An-Ninh, hoặc chuyển nội-vụ qua Tòa Án Quân-Sự Mặt Trận; còn thì chỉ đích-thân tạm giữ một số ít đối-tượng đặc-biệt trong một thời-gian ngắn cần-thiết cho việc hỏi cung hoặc xây-dựng thành mật-viên, tại Trung-Tâm Thẩm-Vấn là nơi hội đủ các điều-kiện tiêu-chuẩn tối-thiểu được sự cố-vấn và yểm-trợ trực-tiếp của các chuyên-gia Hoa-Kỳ. Ngoài ra, chế-độ giam-giữ và đối-xử trước khi thành-án thì thuộc phần đảm-trách của các Trại Tạm Giam ở phía Sắc-Phục của Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực, Trung-Tâm Cải-Huấn thuộc Bộ Nội-Vụ, hoặc Trại Giam Tù-Binh Cộng-Sản Việt-Nam thuộc Bộ Quốc-Phòng; và sau khi thành-án thì do Tổng-Nha Cải-Huấn hoặc Bộ Tổng Tham Mưu quản-lý và kiểm-soát cho đến ngày các đương-nhân được trả tự-do.
Tuy thế, Ngành Ðặc-Cảnh vẫn là cái đích chính của mọi sự chỉ-trích liên-quan đến tù và trại giam. Do đó, Ngành Ðặc-Cảnh bị đặt trong một tình-trạng tiến/thoái lưỡng-nan. Một mặt thì hứng chịu phần lớn dư-luận công-kích là chế-độ có quá nhiều tù và trại giam: trại giam thì thiếu tiện-nghi, mà tù thì bị ngược-đãi, thậm-chí tiếng lóng “bị nhốt chuồng cọp”, là một hình-thức kỷ-luật áp-dụng ở đâu ngoài Ngành Ðặc-Cảnh, cũng bị dịch sai và hiểu lầm một cách có ác-ý là tù bị nhốt chung chuồng với cọp. Một mặt thì phải rút ngắn thời-gian điều-tra, lập hồ-sơ; riêng tại Trung-Tâm Thẩm-Vấn thì phải đi trước các trại giam khác về việc: tăng thêm thức ăn; trổ thêm cửa sổ; tăng thêm hệ-thống ánh sáng và vệ-sinh, y-tế; giảm bớt số người giam chung trong mỗi phòng – nghĩa là tăng thêm phòng giam, nhưng đồng-thời lại phải giảm bớt tổng-số phòng giam!
Tình-hình chung được đặt dưới sự kiểm-soát thường-xuyên và bất-thần của vô-số tổ-chức và nhân-vật: trong Chính-Quyền thì ngoài các Thanh-Tra nội-bộ từ cấp Vùng lên đến cấp Trung-Ương còn có Biện-Lý, các phái đoàn Viện Giám-Sát, Dân-Biểu, các cơ-quan Y-Tế, Xã-Hội, v.v...; ngoài Chính-Quyền thì có các tu-sĩ thuộc mọi giáo-hội, các hội-đoàn từ-thiện, các nhà báo, v.v..., chưa kể áp-lực từ các nhóm tranh-đấu, như “Phong-Trào Ðòi Cải-Thiện Chế-Ðộ Lao-Tù”, v.v...
Căng nhất là vào cuối năm 1972, giai đoạn chuẩn-bị gấp rút cho Hiệp-Ðịnh Paris 1973, Chính-Quyền Trung-Ương trù-liệu giảm bớt trại giam bằng cách đóng cửa, hoặc bỏ bớt một số phòng, và giảm-thiểu tù bằng nhiều cách: chỉ giữ lại một số can-phạm quan-trọng và nguy-hiểm nhất, còn thì trả tự-do cho những cá-nhân được sự bảo-lãnh của thân-nhân là công-chức hoặc sĩ-quan cao-cấp của Việt-Nam Cộng-Hòa; cho những phần-tử có khai-báo thật-thà được hưởng quy-chế hồi-chánh-viên; chuyển những cán+cơ hoạt động có vũ-trang qua diện tù-binh để trao trả cho đối-phương; phóng-thích, nhưng chỉ định cư-trú, một số đông những cựu-can, cựu-cán có tiền-án tiền-tích hoạt-động cho Việt-Cộng, tuy không hội đủ yếu-tố để bị kết tội giam lâu nhưng bị xét thấy có hại cho an-ninh chung, và những cán-binh tuy xin ra hồi-chính nhưng tránh né khai-báo và có chỉ-dấu là trá-hàng, v.v...
Ngoại-trừ các tù-nhân đang còn thụ-án và các tù-binh đang chờ được trao trả cho bên kia, tất cả các thành-phần trên đều là đối-tượng cho Ngành Ðặc-Cảnh giám-thị, theo dõi, và nếu cần thì đương-đầu. Nhưng Ngành Ðặc-Cảnh lại không được hỏi ý-kiến về nơi chỉ định cư-trú cho các đối-tượng này.
Thời-gian đó, nhiệm-sở của tôi là Vùng II. Một hôm, trong một buổi họp của Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu II, tại Nha Trang, Phó Tư-Lệnh là Đại-Tá Nguyễn Cắt, chủ-tọa, đã ra lệnh cho Bộ Tham-Mưu thuộc quyền hội-ý với các Tỉnh-Trưởng để chọn một Tỉnh trong Quân-Khu làm địa-hạt chỉ-định cư-trú chung cho tất cả các cựu-can, cựu-cán và hồi-chánh-viên đặc-biệt nói trên tập-trung về từ các Tỉnh và Thị-Xã khác khắp Quân-Khu.
Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu II không mời Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng II cùng dự buổi họp này.
Bản-thân tôi vốn có những quan-hệ công-vụ chặt-chẽ với các sĩ-quan cao-cấp đứng đầu các cơ-quan Quân-Báo và Quân-An ở cấp Quân-Ðoàn và Quân-Khu, nên tuy không được mời đến nhưng tôi vẫn lợi-dụng điều đó để đến dự các buổi họp nội-bộ của họ mỗi sáng sớm tại Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn/Quân-Khu. Qua việc làm của Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu II, tôi thấy rõ là Trung-Ương muốn thay thế các trại giam hữu-hình, mà diện-tích chỉ xấp-xỉ một ô phố, bằng những trại giam vô-hình, mà sức chứa là lĩnh-thổ của cả một Tỉnh, vô vàn rộng lớn hơn. Biện-pháp ấy chắc-chắn sẽ bị đả-phá dữ-dội hơn, nhất là bởi giới truyền-thông nước ngoài, tai-hại vô cùng cho chế-độ Miền Nam. Không thể im-lặng đồng-tình, tôi đã đứng lên phát-biểu ý-kiến: “Tôi tin là sẽ không có một Tỉnh-Trưởng nào, nếu thật-sự là Tỉnh-Trưởng, mà lại thuận nhận cho Tỉnh mình trở thành một địa-phương quản-thúc tù.” Ðại-tá Cắt bất-bình, nhìn thẳng mặt tôi: “Anh tưởng là tôi không trừng-phạt được các Tỉnh-Trưởng nào không tuân lệnh của Quân-Khu sao?”
Cũng như phần đông các nhà lãnh-đạo ở cấp quốc-gia, ông quan-niệm mỗi Tỉnh-Trưởng chỉ là một Tiểu-Khu-Trưởng, nên lấy con mắt quân-sự mà nhìn chính-sự, và áp-đặt mệnh-lệnh hành-pháp bằng kỷ-luật nhà binh.
Sau khi nghe ý-kiến của tôi qua thông-dịch-viên, các viên-chức cao-cấp trong Bộ Tư-Lệnh Cố-Vấn Quân-Sự và Viện-Trợ Kinh-Tế của Hoa-Kỳ đã đưa ngón tay cái chĩa lên trời về phía tôi mà gật gật đầu. Thấy thế, tôi không nói gì thêm.
Sau đó, không có Tỉnh nào được chọn làm lĩnh-thổ quản-thúc tù chính-trị cho toàn Vùng II.
*
Biện-pháp áp-dụng từ đó cho đến sau ngày đã có Hiệp-Ðịnh Paris là cho trở về quê cũ, người nào làng nấy, cư-trú cố-định và hạn-chế đi lại, các cựu-can cựu-cán và hồi-chính-viên đặc-biệt mà tin-tức tình-báo cũng như nhận xét của các giới-chức Cải-Huấn thuộc Bộ Nội-Vụ và Phục-Hoạt thuộc Bộ Chiêu-Hồi đã xếp vào loại “mìn ngụy-trang”, “khổ-nhục-kế”, chưa cho phép tự-do hoàn-toàn. Tùy theo sự xếp loại, các phần-tử ấy phải đến trình-diện mỗi tháng, mỗi hai tuần, hoặc mỗi tuần, tại Phòng Ðặc-Cảnh Quận sở-tại; tại đây, nhân-viên chuyên-trách có lập một cuốn sổ, để các đương-nhân khi đến thì ghi tên, tuổi, địa-chỉ, ngày giờ đến trình-diện, và ký tên vào, làm bằng-chứng đã được kiểm-soát để lưu hồ-sơ.
Tại Vùng I, tin-tức nội-tuyến cho biết có một số phần-tử thuộc diện nói trên đã tái-hoạt-động cho Việt-Cộng. Tôi liền đích-thân đến thử một số Xã thuộc Tỉnh Quảng-Nam để tìm hiểu tại chỗ xem sao.
Về việc trình-diện: có một số người liên-hệ đã ăn nên làm ra, hoặc đã trở thành đảng-viên quan-trọng của Việt-Nam Quốc-Dân Ðảng, không còn đến trình-diện tại Phòng Ðặc-Cảnh Quận hoăc Cuộc Cảnh-Sát Xã nữa, mà chính nhân-viên hữu-trách phải mang sổ đi tìm, bất-cứ ở đâu, lúc nào, có khi gặp rồi mà còn phải chờ chực, để được đối-tượng ký-chỉ vào sổ trình-diện, cho có hình-thức là đã kiểm-soát họ rồi.
Về việc chỉ-định cư-trú và hạn-chế đi lại: dân-chúng được tự-do đi lại và cư-trú; trừ một ít trường-hợp đặc-biệt, Cảnh-Sát không soát xét tờ khai gia-đình; Cảnh-Sát cũng ít phối-hợp công-tác với Xã-Trưởng. Do đó, có một số phần-tử nguy-hiểm đã rời khỏi địa-phương; họ được các Chủ-Tịch Ủy-Ban Hành-Chánh Xã nguyên-quán cấp giấy phép cho chính-thức ra đi, nhất là vào các thị-xã, đặc-biệt là vào Ðà Nẵng, là những nơi họ bị cấm đến, để thoát khỏi sự kiểm-soát của cơ-quan an-ninh và dễ tái-hoạt-động sau khi đã đổi vùng. Lúc đầu thì ít, về sau thì càng ngày càng nhiều.
Cả một vấn-đề hệ-trọng như thế, mà mấy năm trời không ai hay biết gì.

Việc Dân Quê Bỏ Làng Ði Theo Việt-Cộng

Vào khoảng cuối năm 1973, trung-bình vài tháng mới có một vài thanh-nam miền quê vắng nhà lâu ngày; điều-tra thì được biết họ đã lén-lút vào rừng theo cộng-quân.
Tôi cũng cho lập bảng thống-kê hằng tháng về sự-kiện này thì thấy con số mỗi ngày một gia-tăng.
Cũng như đối với các vấn-đề khác, tôi ra lệnh cho cấp dưới ghi-nhận, báo-cáo, lập bảng thống-kê, rồi so-sánh mức-độ và cường-độ tăng/giảm thế nào, không phải chỉ để biết suông mà thôi. Tôi đã chỉ-thị cho các Sở Ðặc-Cảnh Tỉnh trình lên Tỉnh-Trưởng sở-tại với đề-nghị có biện-pháp ngăn+trừng. Tôi cũng đã trình lên Tư-Lệnh Quân-Khu, đồng-thời trình lên Tư-Lệnh Ðặc-Cảnh Trung-Ương, để các nơi này trình tiếp lên cho Tổng-Thống được biết về vấn-đề này.
Về phần Cảnh-Lực thì tại mỗi Xã cũng như mỗi Phường đều có một Cuộc Cảnh-Sát, nhưng chỉ là Cảnh-Sát Sắc-Phục, kiểm-soát vệ-sinh, điều-khiển lưu-thông, kiểm-tra dân-số, chấp-lý các vụ vi-phạm luật-lệ hình-sự và thể-lệ hành-chánh hiện-hành. Ðúng ra thì họ cũng có bổn-phận ngăn-chận không để người dân từ vùng Quốc-Gia di-chuyển qua vùng cộng-sản, vì là vi-phạm quy-định hành-chánh; nhưng phần lớn họ chỉ giới-hạn nhiệm-vụ trong việc thỉnh-thoảng xét hỏi giấy tờ những người khả-nghi, còn những gì hằng ngày có liên-quan đến cộng-sản, tức là chính-trị, thì họ phó mặc cho Ngành Ðặc-Cảnh đảm-đương. Vậy mà Trung-Ương không thiết-lập cơ-cấu Ðặc-Cảnh xuống thấu cấp Xã, mặc dù Việt-Cộng từ xưa đã biết xây-dựng cơ-sở từ cấp Tổ Tam-Tam leo lần lên cấp Khóm Thôn, trong từng Xã một, rồi tiến lên cấp cao hơn.
Ðể đối-phó với Việt-Cộng ở cấp Xã, Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia chỉ-định Trưởng Cuộc Cảnh-Sát Xã kiêm-nhiệm đại-diện Ngành Ðặc-Cảnh tại địa-phương mình; nhưng hầu hết các viên-chức này không am-thạo, mà cũng không ham-thích, công-tác chính-trị và phản-gián, vả lại không có nhân-viên đặc-trách tại Cuộc để giữ phần-hành chuyên-môn, nên tuy có đại-diện mà cũng gần như không. Dù theo lý-thuyết thì mỗi Cuộc đều có một vài nhân-viên phụ-trách Chương-Trình “Phụng Hoàng”, xem như để đương-đầu với Việt-Cộng, nhưng trên thực-tế thì đa-số các nhân-viên này chỉ là những ký-sự văn-phòng, lấy tài-liệu từ Ủy-Ban Phụng-Hoàng Quận, hầu hết do Ngành Ðặc-Cảnh cung-cấp, để lập hồ-sơ, thống-kê, biểu-đồ, về tình-hình hạ-tầng cơ-sở địch, chỉ để thuyết-trình mỗi khi có phái-đoàn đến thanh-tra hoặc mang đi họp, chứ hiếm khi tự mình thu-thập tin-tức hoặc tự mình tìm bắt tên Việt-Cộng nào.
Về phần chính-quyền Xã thì tuy có một Ủy-Ban Hành-Chánh nhưng nhiều nơi mọi việc đều do một mình Xã-Trưởng nắm trong tay. Thật ra, các vấn-đề quan-trọng đều do chính-quyền Quận chủ-trì. Xã-Trưởng chỉ dự họp, dự lễ, ký các loại hộ-sự chứng-thư; cũng có nơi thì lập danh-sách nhận tiền trợ-cấp di-tản, bồi-thường thiệt-hại chiến-tranh, v.v... Hầu hết Xã-Trưởng đều không quan-tâm đến việc dân làng bỏ trốn theo đối-phương; nhưng, dù có bận lòng thì cũng không làm gì được, vì không có lực-lượng, không chỉ-huy được Cảnh-Sát hay Nghĩa-Quân. Ða-số Xã-Trưởng chỉ có mặt trong Xã vào ban ngày, còn ban đêm thì về ngủ ở quận-lỵ hoặc tỉnh-lỵ cho được an-toàn.
Trong tình-trạng chiến-tranh, nòng-cốt của chính-quyền Xã là một trung-đội Nghĩa-Quân, do một hạ-sĩ-quan thuộc Chi-Khu biệt-phái đến chỉ-huy. Lực-lượng quân-sự này canh gác một số yếu-điểm vào ban đêm. Từ năm 1973, Quân-Lực thành-lập thêm một tổ-chức lãnh-thổ cấp Xã, gọi là Phân-Chi-Khu, do một sĩ-quan chỉ-huy đơn-vị Nghĩa-Quân nói trên. Phân-Chi-Khu hầu như là một văn-phòng tham-mưu hơn là một bộ chỉ-huy hành-quân. Và không phải Phân-Chi-Khu-Trưởng nào cũng ở lại tại Xã vào ban đêm.
Phân-Chi-Khu-Trưởng, có lính dưới quyền, trở thành một thế-lực mâu-thuẫn với Xã-Trưởng. Trong một đại-hội Phân-Chi-Khu thuộc Quân-Khu I tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Nghĩa-Quân Hòa-Cầm, ở ngoại-ô Ðà-Nẵng, do Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu chủ-tọa, nhiều Phân-Chi-Khu-Trưởng đã chỉ-trích các Xã-Trưởng là già-yếu, học-lực thấp, thiếu năng-động, v.v... trong lúc không có mặt các Xã-Trưởng. Tổng-Thống Thiệu đã gợi ý cho các Phân-Chi-Khu-Trưởng kiêm-nhiệm Xã-Trưởng thay thế các người này. Báo-chí đã tường-thuật cái nhíu mày của Đại-Sứ Hoa-Kỳ, và đặt câu hỏi: tổng-thống nghĩ gì khi đòi xóa bỏ tư-cách dân-cử của Xã-Trưởng, là nhân-vật được dân bầu vào Hội-Ðồng Xã và Hội-Ðồng này cử ra, trong lúc Hội-Ðồng Xã là một đơn-vị dân-cử cơ-bản trên đường dân-chủ-hóa để còn tiến tới bầu-cử Quận-Trưởng, Tỉnh-Trưởng, Thị-Trưởng, là các cấp còn lại trong hệ-thống Chính-Quyền Quốc-Gia?
Dân làng bỏ theo Việt-Cộng là một căn bệnh truyền-nhiễm. Chính-Quyền đã không ngừa bệnh mà cũng không chữa bệnh đúng cách. Chế-độ không chịu nhìn thấy những nguyên-nhân đánh mất niềm tin của người dân, và cũng không chịu chọn những phương-sách thích-ứng để khôi-phục lại niềm tin ấy, vì đã đặt quân-sự lên trên chính-trị và dân-sự, cả sau khi tình-hình đất nước đã mở vận-hội cho thế đối đầu quân-sự được bổ-sung thêm bằng thế đấu-tranh chính-trị trực diện với kẻ thù. Vấn-đề này đã vượt lên trên khả-năng và trách-nhiệm của một Tư-Lệnh Quân-Khu, tức Chính-Quyền Vùng, đặc-biệt là tướng Trưởng, viên tướng biên-thùy không có tham-vọng chính-trị nên giới-hạn cái nhìn trong con mắt nhà binh.
Riêng tại Vùng I, vào những tháng cuối-cùng của Việt-Nam Cộng-Hòa, trung-bình mỗi tháng đã có hằng chục vụ dân làng bỏ vùng Quốc-Gia vào rừng núi sống với Việt-Cộng: không còn lẻ-tẻ từng người lâu lâu lén-lút một lần, mà là cả gia-đình, nhiều gia-đình đồng loạt, công-khai chuyển-nhượng nhà đất và thanh-toán tài-sản, ồn-ào chuẩn-bị, và ngang-nhiên kéo đi, cả giữa ban ngày, trước mắt các cơ-cấu chính-quyền và đơn-vị quân-lực tại hương-thôn.
*
Trong các buổi họp tại Quân-Khu, các cấp lãnh-đạo không đề-cập gì đến các vấn-đề then-chốt mà tôi đã nêu ra như trên.
Dù phía Việt-Nam có cố giữ kín trong nội-bộ, nhưng chắc gì phía Hoa-Kỳ đã không nắm được những điểm khuyết/nhược đó trong sách-lược và thực-lực của Ðồng-Minh mình...
(trích từ cuốn sách hồi-ký “Về Vùng Chiến-Tuyến” của Lê Xuân Nhuận, do nhà Văn Nghệ ở nam Cali xuất-bản vào năm 1996 – ISBN: 1-886566-15-1 )

SƠN TRUNG * VẤN ĐÊ TIỀN TỆ TRUNG QUỐC

*
VẤN ĐỀ TỶ GIÁ ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ ( NGUYÊN "YUAN" ) CỦA TRUNG QUỐC
Sơn Trung


Tháng 4. 2010, khi Hồ Cẩm Đào sang Mỹ họp LHQ, ông cũng đã hứa sẽ uyển chuyển về vấn đề tiền tệ. Loan báo này cũng làm cho Mỹ và châu Âu hoan nghênh. Đài RFA ngày 25.05.2010 loan tin với hàng chữ lớn "Mỹ - Trung hài lòng sau thương thuyết về giá trị nhân dân tệ" mà nội dung như sau: "Trung Quốc tuyên bố sẽ theo cách của mình trong vấn đề cải tổ tiền tệ, trong khi cả Bắc Kinh lẫn Washington đều tự cho là có thắng lợi trong cuộc thương thuyết về giá trị nhân dân tệ, tuy nhiều vấn đề vẫn chưa có câu trả lời.. .
Trung Quốc sẽ thấy vấn đề hồi phục giá trị đồng nhân dân tệ là có lợi cho chính họ”, bộ trưởng Geither nói như vậy trên đài truyền hình Bloomberg. Phía Trung Quốc tuyên bố, Hoa Kỳ thấu hiểu rằng, Trung Quốc sẽ quyết định một cách độc lập về những bứơc nhất định trong cải tổ tỷ giá, dựa trên lợi ích của mình, cũng như điều kiện kinh tế thế giới và định hướng phát triển của Trung Quốc.
"Bắc Kinh vẫn chịu áp lực của quốc tế muốn họ định giá lại đồng tiền để giúp giảm bớt sự mất thăng bằng của kinh tế toàn cầu, trong đó phải kể đến cán cân thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc." Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama hoan nghênh loan báo hôm thứ Bảy của Trung Quốc sẽ để cho đồng tiền của họ có tỷ giá trao đổi linh hoạt hơn. Tổng thống Obama gọi quyết định của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc là một bước xây dựng, giúp cho kinh tế toàn cầu hồi phục.

Lãnh đạo Quỹ Tiền Tệ Quốc tế cũng hoan nghênh động thái của Trung Quốc sẽ để cho đồng Nhân dân tệ được định giá lại, sau gần hai năm giữ đồng tiền này ở mức khoảng 6,8 ăn một đôla Mỹ".
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/world/china-currency-6-19-10-96731214.html


Thật ra thiên hạ đã mắc mưu Trung Quốc. Tháng tư-2010, Hồ Cẩm Đào tuyên bố chính sách đẹp để lấy lòng thế giới và gạt thế giới. Nay tháng 6, trước hội nghị G2o sắp diễn ra ngày 26 và 27-10-2010 tại Toronto (Canada) , Trung Quốc cũng diễn lại màn cũ mà thiên hạ cũng có người tin theo.

Cả hai lần tuyên bố trên, Trung Quốc chỉ hứa hão huyền vì không nói rõ bao giờ và tỷ giá là bao nhiêu. Có thể vài tuần, vài tháng ba và tỷ giá có thể tăng 0,1% hay 0,3% ai mà biết được!
Và nếu như vậy thì coi như là không thay đổi gì cả. Cũng có thể họ tăng giá vài bữa rồi trở lại như cũ! Đấy là một chính sách tiền tệ " linh hoạt", "linh động" và mềm dẻo của Trung Quốc xin ai chớ có than van! Cũng như dân ta dại dột mà cho rằng đem tiền một tháng không có nghĩa là chỉ "học tập một tháng". Chính sách kinh tế linh hoạt là một cách nói vô cùng ngọai giao, vô cùng bóng bảy. Linh hoạt có nghĩa là thay đổi, có thể tăng, có thể giảm, có thể đứng yên, nay thế này, mai thế khác. Trung quốc đâu có nói là họ sẽ tăng trị giá đồng nguyên của họ thế mà các ông lớn trong tòa Bạch Ốc đã mừng húm! Ôi! Các ông cố vấn, các ông tiến sĩ Mỹ lẽ nào lại "dởm" đến thế sao?

Dẫu sao thì cũng có người biết đưọc mánh khóe gian xảo của Trung Quốc. Theo tin Reuters hôm thứ ba, kết thúc hai ngày Đối thoại Kinh Tế Chiến lược Mỹ-Hoa, Bộ trưởng Ngân Khố Hoa Kỳ Timothy Geithner tuyên bố rằng, thảo luận về đồng nhân dân tệ Trung Quốc có kết quả đáng khích lệ, nhưng chưa thể cho rằng Bắc Kinh sẽ nâng giá nhân dân tệ như giới lập pháp Hoa Kỳ đòi hỏi.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-and-US-each-claim-gains-on-Yuan-in-talks-05252010175847.html

Tin RFA ngày 19-6-2010, nhan đề "Hoa Kỳ nghi ngờ thiện chí của Trung Quốc"nội dung như sau: Giới lập pháp Hoa Kỳ, lên tiếng đầu tiên là nghị sĩ Charles Schumer, tuyên bố nỗ lực này của Bắc Kinh đầy mơ hồ và hạn chế. Ông Shumer là người dẫn đầu trong hành động đòi Quốc hội ra luật cho phép hành pháp sử dụng biện pháp tăng thuế nhập khẩu để chống lại những nước có chính sách lạc lõng về hối suất tiền tệ quốc tế. Nghị sĩ Schumer nói điều công bố này vẫn là điển hình cho sự đối phó của Trung Quốc khi có áp lực. Thông cáo của văn phòng nghị sĩ Schumer cho rằng khi Trung Quốc chưa nói cụ thể về thời gian thay đổi và thay đổi bao nhiêu về hối suất, thì Hoa Kỳ chưa thể cảm nhận được rằng Bắc Kinh bắt đầu hành động theo luật tắc quốc tế. Người đứng đầu về chiến lược tiền tệ toàn cầu của công ty Brown Brothers ở New York, ông Marc Chandler, tuyên bố ông nghi ngờ thiện chí của Trung Quốc trong việc này, và chỉ lời nói suông không đủ.

Luận điệu của Trung Quốc vẫn là ngang ngược và dối trá.Trung Quốc tỏ ra độc lập, kiên cường, bất khuất khi tuyên bố: Trung Quốc sẽ theo cách của mình trong vấn đề cải tổ tiền tệ.. .Trung Quốc sẽ quyết định một cách độc lập về những bứơc nhất định trong cải tổ tỷ giá, dựa trên lợi ích của mình, cũng như điều kiện kinh tế thế giới và định hướng phát triển của Trung Quốc.

http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-and-US-each-claim-gains-on-Yuan-in-talks-05252010175847.html

Trung Quốc tỏ ra ngang ngược. Một đàng họ tỏ ra mềm dẻo, một mặt rất là ngoan cố khi các nhà báo và các nhà kinh tế, chính trị thế giới muốn đưa ra bàn tại hội nghị G20 nhưng Trung Quốc khước từ:
"Có nhiều phần chắc tiền tệ của Trung Quốc sẽ được mang ra bàn tại hội nghị này, nhưng báo chí Trung Quốc hôm thứ Sáu dẫn lời các quan chức của họ nói rằng Trung Quốc sẽ không tham gia bất cứ cuộc thảo luận nào liên quan đến Nhân dân tệ."
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/world/china-currency-6-19-10-96731214.html
Tin RFA ngày 18-6-2010 loan tin "Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã gởi văn thư cho các lãnh tụ G20, lưu ý sự dị biệt gay gắt về lập trường tiền tệ Trung Quốc, và việc Âu Châu ra sức ứng phó tình trạng thâm hụt ngân sách đáng ngại.
Theo một viên chức Canada thì chính sách tiền tệ gây nhiều tranh cãi của Trung Quốc sẽ được thảo luận tại thượng đỉnh G20 dù Bắc Kinh cảnh báo là đừng nêu lên vấn đề nầy tại hội nghị.
Hiện Trung Quốc ngày càng gặp áp lực quốc tế là phải định lại tỷ giá đồng nhân dân tệ, mà theo Washington, Bắc Kinh cố tình giữ ở mức thấp có lợi cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc và góp phần gây nên tình trạng thất nghiệp tại Hoa Kỳ."
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/US-China-face-off-over-currency-ahead-of-G20-06182010202355.html

Nghe Trung Quốc nói thì thiên hạ khoái chí vỗ tay đồm độp nhưng sau hai ba ngày suy nghĩ ý nghĩa sâu xa của lời nói và nhìn vào hành động của Trung Quốc, thiên hạ đã tỉnh ngộ!
Nay thì chính giới Mỹ tỏ ra bất mãn khi họ nhận ra Trung Quốc đã lươn lẹo trong lời nói và hành động.
Các nhà lập pháp Hoa Kỳ vẫn tỏ ra phẫn nộ đối với chính sách tiền tệ của Trung Quốc, mặc dù Bắc Kinh mới công bố một chính sách gọi là uyển chuyển về hối suất nhân dân tệ.
Chính sách tiền tệ của Bắc Kinh bị Quốc hội Mỹ lên án là giữ giá thấp để có lợi thế sắc bén bất công trên thị trường thế giới. Quốc hội Hoa Kỳ hô hào trả đũa.
Cả hai đảng Dân chủ và Cộng hoà đều muốn ra luật để trừng phạt điều họ gọi là thao túng tiền tệ, coi đó như biện pháp trợ giá bất hợp pháp, và luật lệ phải giúp hành pháp Mỹ áp thuế lên hàng Trung Quốc.
Hôm thư tư dân biểu Tim Murphy của đảng Công hoà tuyên bố từ nhiều thập niên Trung Quốc đã cho gián địêp dọ thám, chuyển vũ khí sang cho những kẻ thù của Mỹ ở Trung Đông, ăn cắp bản quyền, làm giả hàng Mỹ. Ông cho rằng những người quýêt định chính sách ở Bắc Kinh đã phá giá bán rẻ hơn hàng Mỹ tới 40% bằng cách giữ giá đồng yuan thấp so với Mỹ kim.
Dân biểu Dân chủ Tim Ryan tuyên bố nếu Trung Quốc muốn tham dự nền thương mại toàn cầu thì phải nhập cuộc theo cùng luật lệ với mọi người khác, nhưng hiện nay Bắc Kinh không làm như vậy. Dân biểu Betty Sutton của đảng Dân chủ mô tả cuộc đấu tranh về tiền tệ với Trung Quốc là cuộc chiến phải đánh và phải thắng trong thời gian ngắn.
Giới lập pháp Hoa Kỳ đã dự thảo một loạt dự luật nhắm vào Trung Quốc ở nhiều vấn đề, từ trị giá tiền tệ, bản quyền trí tuệ, đến quy chế ưu đãi cho hàng hoá và dịch vụ của Trung Quốc dành cho các hợp đồng công chi của chính phủ Mỹ.

Đài VOA, ngày 23-6-2010 với nhan đề "Bộ trưởng Thương Mại Mỹ: Đồng Nguyên vẫn thấp so với trị giá thực" loan tin:
Hình: VOA
Bộ trưởng Locke nói rằng Bộ Thương Mại đang duyệt xét lại yêu cầu của 2 công ty Mỹ muốn áp dụng thuế chống bán phá giá đối với Trung Quốc


Bộ trưởng Thương Mại Hoa Kỳ Gary Locke nói rằng Trung Quốc vẫn giữ tỉ giá đồng nguyên thấp mặc dù mới đây nước này đã quyết định cho tăng hối suất giữa đồng nguyên với đồng đô la. Hôm thứ Tư ông Locke nói trước các thượng nghị sỹ rằng bộ Thương Mại đang duyệt xét lại những yêu cầu của 2 công ty Mỹ muốn áp dụng “ các sắc thuế đối trọng” nhắm vào tiền Trung Quốc. Bộ trưởng Locke và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Rom Kirk nói rằng họ dự kiến các nhà lãnh đạo trong khối G-20 sẽ thảo luận về trị giá của đồng nguyên khi họp thượng đỉnh tại Canada vào cuối tuần này. Thứ Bảy tuần trước, ngân hàng trung ương Trung Quốc loan báo những kế hoạch để hối suất đồng nguyên được linh động hơn. Hôm thứ Tư, các thượng nghị sỹ Hoa Kỳ tỏ ý ngờ vực về hành động này của Trung Quốc và than phiền rằng hành động của Trung Quốc chưa đủ xa. Các nhà làm luật Hoa Kỳ chỉ trích rằng Trung Quốc giữ giá đồng nguyên thấp một cách giả tạo để tạo ưu thế giá rẻ cho hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu sang các thị trường thế giới. Càng ngày Trung Quốc càng bị nhiều áp lực từ Hoa Kỳ, Liên Hiệp Châu Âu và Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế buộc họ phải tăng trị giá đồng nguyên.
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/world/us-china-currency-6-23-10-97031629.html

Trên đây là những tin cho biết Trung Quốc đã đồng ý nâng giá đồng nhân dân tệ dù chỉ là tượng trưng để phỉnh phờ thiên hạ, nay thì Trung Quốc lật mặt ngay. Thay đổi một bữa lại trở về giá cũ! Sao họ không chờ sau hội nghị G20, chỉ còn mấy ngày nữa thôi thế mà chịu không nổi? Phải chăng phe diều hâu trong đảng tấn công, gây áp lực? Hoặc một ngày thôi mà đã thiệt hại vô số? Nhiều kẻ than phiền :"Ông Trung Quốc thiệt là không xài nổi! Và thiệt là khó chơi!" Ấy! Cổ nhân Việt Nam đã nói rồi: "Quân tử nhất ngôn là quân tử dại,
Quân tử nói đi nói lại là quân tử khôn"!
Chỉ có người đần trong truyện cổ tích mới nghe theo lời đường mật của bọn chuyên bịp!
Đài RFA ngày 22.06.2010 nhan đề " Trung Quốc lại giữ và hạ giá đồng yuan" loan tin:
Trung Quốc lại giữ và hạ giá đồng yuan sau khi thi hành chính sách thả nổi hạn chế, trong một kế hoạch có tính toán để nhấn mạnh chính sách này không phải chỉ theo chiều nâng giá tiền tệ. Những ngân hàng lớn của Nhà nước Trung Quốc đã kìm giá đồng yuan, một ngày sau khi giá đồng tiền này tăng không nhiều nhưng cùng là mức kỷ lục tính từ năm 2005 đến nay, và là điều hiếm thấy Bắc Kinh thực hiện. Hôm thứ Hai, đồng tiền Trung Quốc đã tăng giá 0,4%, qua cuối ngày thứ ba lại hạ 0,2%.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-makes-good-on-flexibility-vow-yuan-falls-06222010211826.html

Bản tin đài VOA ngày 20-6-2010 loan tin :
"Ngân hàng Trung ương Trung Quốc hôm nay thông báo sẽ không thực hiện một lần điều chỉnh lớn về tỷ giá hối đoái của đồng Nguyên.
Thông báo đăng trên trang web của ngân hàng hôm nay nói rằng giới hữu trách phải tiếp tục kiểm soát các dao động về tỷ giá hối đoái để duy trì sự ổn định căn bản của đồng Nguyên."

http://www1.voanews.com/vietnamese/news/china-currency-6-20-10-96759074.html

Tờ VN Express ngày 21-6-2010 viết như sau: "Trung Quốc gây sốc thị trường tiền tệ".
Một ngày sau cam kết điều hành đồng NDT linh hoạt hơn, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) lại bất ngờ quyết định giữ nguyên chính sách tỷ giá và không tăng giá đồng NDT.
PBOC cho rằng, hiện đại không có bất kỳ yếu tố căn bản có lợi nào ủng hộ cho việc thả nổi đồng NDT, cũng như nới rộng biên độ dao động của đồng tiền vốn thường được gọi là “Đồng tiền nhân dân” (People’s money). Giữ nguyên tỷ giá ở mức “có lợi và cân bằng” sẽ góp phần giữ ổn định tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, và giúp chính phủ rảnh tay trong việc tái cấu trúc nền kinh tế chuyển dần sang dịch vụ và tiêu dùng. Trong bản báo cáo, PBOC hé mớ định hướng điều hành chính sách tỷ giá mới sẽ dựa nhiều hơn vào nền tảng kho dự trự ngoại hối khổng lồ thay vì các yếu tố chủ quan được Bắc Kinh đưa ra.
http://vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/Quoc-te/2010/06/3BA1D2B3/


Nói tóm lại, Trung Quốc nhất định " chống Mỹ cứu nước" và để làm bá chủ thiên hạ. Theo nhiều nhà kinh tế, Trung Quốc thủ đoạn khi hạ giá đồng nguyên của họ là để kiếm lời. Ông Clinton là vua playboy nên chẳng lo nghĩ gì vấn đề này, nhưng tổng thống Bush đã nhiều lần đặt vấn đề này mà Trung Quốc làm ngơ. Nay Obama quyết liệt thì Trung Quốc miệng lưỡi mềm dẻo nhưng thực tế thì vẫn khư khư giữ đường lối cũ. Trung Quốc không thể nâng giá đồng nguyên vì:
- không còn lời lãi bao nhiêu!
- số Mỹ kim cất trong kho sẽ bay hơi ít nhiều.
-hàng hóa tăng giá, it người mua đi.
-sẽ phải đóng cửa một số công ty, sa thải một số công nhân, Và như thế sẽ gây ra nạn thất nghiệp, có thể xảy ra bạo loạn nguy cơ cho nền cai trị của cộng sản.

Nếu Trung Quốc muốn hòa thì mỗi bên phải nhường một bước. Nhưng e Trung Quốc quyết chiến, mà kinh tế là một chiến thuật rất hữu dụng trong giai đoạn này để đánh phá tư bản Mỹ. Hơn nữa, phe quân phiệt đang lăm le tiến quân, nếu Hồ Cẩm Đào không nghe họ thì sẽ bị đảo chánh để cử một tay quân phiệt lên gây máu tanh trong thế giới này!

Nhưng ma quỷ mưu cao mà thầy pháp cũng cao tay thì vấn đề sẽ trở nên khác. Rõ ràng là cuộc thế chiến thứ ba đã xảy ra bắt đầu bằng nguyên nhân vật chất đó là kinh tế và dầu hỏa.
Nếu thảo luận hòa bình không xong, thì đường ai nấy đi. Trung cộng hạ giá đồng nguyên thì Mỹ và Tây Âu sẽ hạ giá tiền tệ của họ. Nay đồng Euro hạ giá ngang ngửa đồng Mỹ kim, và Mỹ kim cũng đã hạ giá rồi và Mỹ đã in thêm tiền rồi.

Ngoài ra chính sách thuế khóa sẽ được áp dụng. Mỹ đánh thuế hàng Trung Cộng thì Trung Cộng cũng đánh thuế hàng Mỹ. Cuối cùng, Mỹ phải rút vốn và công ty về Mỹ và bế môn tỏa cảng với Trung Cộng. Thị trường Mỹ là thị trường lớn nhất chiếm gấp nhiều lần thị trường thế giới. Trung Cộng nhún nhường thì còn kiếm được cháo, nếu hùng hổ thì sẽ ra sao? Chúng ta tưởng tượng cảnh hai tiệm phở cạnh tranh. Ban đầu giá mỗi tô phở là 30 ngàn, xuống hai chục ngàn, xuống năm ngàn và đi đến chiến thuật " mua một tặng một" lúc đó phải có một bên chết! Bấy giờ thì phải dao mác, gây gộc để trả hận thôi! Người Trung Quốc đã sẵn sàng. Phe quân phiệt Trung cộng đã sẵn sàng!


*

RFI * NẠN BUÔN NGƯỜI VIỆT NAM

*

Cảnh sát châu Âu bắt giữ khoảng 60 người trong đường dây đưa người Việt Nam nhập cư trái phép

Chính quyền mọi nước Châu Âu đều tăng cường khám xét, tìm cách phá vỡ các đường dây đưa người nhập cư trái phép.
Chính quyền mọi nước Châu Âu đều tăng cường khám xét, tìm cách phá vỡ các đường dây đưa người nhập cư trái phép.
(AFP)
Đức Tâm

Hôm 22/06/2010, tại Paris, ông Eric Besson, bộ trưởng bộ Nhập cư của Pháp cho biết : cảnh sát Đức, Hungary và Pháp đã bắt giữ khoảng 60 người dính líu đến đường dây đưa người Việt Nam nhập cư trái phép vào Anh Quốc. Dưới sự điều phối của cảnh sát quốc tế Interpol, cảnh sát ba nước đã đồng thời mở chiến dịch truy lùng và bắt giữ 34 người tại Pháp, 19 người ở Hungary và 5 người tại Đức.

Về số người bị bắt tại Pháp, thông báo của bộ Nhập cư cho biết là có 14 người bị bắt ở vùng Paris và phía tây bắc nước Pháp và số còn lại, khoảng hai chục, là những người đang chờ để được đưa đến một nơi tập trung.

Những người Việt Nam nhập cư trái phép vào Pháp qua ngả Hungary, Ba Lan, Cộng Hòa Séc và Đức. Họ được đưa sang Anh bằng đường bộ. Các xe tải loại nhỏ hoặc xe du lịch 7 chỗ ngồi, được sửa lại để che dấu những người nhập cư trái phép.

Theo bộ Nhập cư thì đây là một đường dây rất có tổ chức, có nhóm chỉ đạo với nhiều đầu mối tiếp xúc quốc tế, mỗi người thực hiện một nhiệm vụ như tập hợp người nhập cư, sắp xếp chỗ ở hoặc lo về tài chính.

Vào ngày 25/06 tới đây, sẽ có một cuộc họp báo tại Budapest để nói vè đường dây đưa người Việt Nam nhập cư trái phép này.

Theo AFP, đường dây đưa người nói trên bị phá vỡ nhờ có nhóm công tác mang tên « Tổ chức Tội phạm Quốc tế Việt Nam – VOIC, chuyên theo dõi những đường dây đưa người gốc Việt Nam và có liên quan đến các nước như Anh Quốc, Pháp, Đức và Hungary.

Nhóm này được thành lập cách nay 18 tháng, nằm bên trong cơ quan cảnh sát châu Âu Europol, sau khi chính quyền Pháp nhận thấy có một số lượng lớn người Việt Nam nhập cư trái phép bị bắt và khai là mong muốn sang Anh Quốc. Từ năm 2008 đến 2009, con số này đã tăng 200%.

Nhóm công tác phụ trách hồ sơ Việt Nam sẽ họp trong hai ngày mùng 2 và 3 tháng chín tới đây tại Slovakia.

Trong khi đó, một nhóm công tác khác chuyên theo dõi đường dây đưa người Trung Quốc đang trong quá trình được thành lập.

Từ tháng giêng đến tháng 5 năm nay, cảnh sát biên phòng Pháp đã phá vỡ 92 đường dây đưa người nhập cư trái phép. Bộ trưởng Pháp phụ trách Nhập cư đề ra mục tiêu phá vỡ khoảng 200 mạng lưới kiểu này, từ nay đến cuối năm.
tags: Các vấn đề xã hội - Châu Á - Hungary - Pháp - Việt Nam - Đức


*

TIN TỔNG HỢP * CÔNG NHÂN TRUNG QUỐC VÙNG LÊN

*


VOA
Một nhà máy của Toyota ở TQ ngưng sản xuất do đình công
Công nhân nhà máy Toyota ở Trung Quốc đình công
Hình: AFP
Công nhân nhà máy Toyota ở Trung Quốc đình công

Chia sẻ

Tin liên hệ

Hãng xe Toyota của Nhật buộc phải ngưng sản xuất tại một cơ xưởng ở thành phố Quảng Châu, vì một cuộc đình công xảy ra tại một nhà cung cấp phụ tùng trong tỉnh Quảng Đông.

Cuộc đình công tại công ty Denso ở Quảng Đông, nơi sản xuất bộ phận phun xăng cho Toyota, là vụ mới nhất trong nhiều vụ tranh chấp lao động xảy ra cho các công ty nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc.

Cơ xưởng lắp ráp của Toyota tại Quảng Châu là một trong những cơ xưởng lớn nhất tại Trung Quốc, sản xuất tới 360.000 chiếc xe mỗi năm, tương đương với khoảng phân nửa tổng công suất của Toyota tại Trung Quốc.

Các công nhân xa nhà, được coi là động lực chính của sự phát triển kinh tế Trung Quốc, càng ngày càng mạnh miệng trong chuyện đòi tăng lương.

Hãng Honda, một công ty ôtô khác của Nhật, cũng bị thiệt hại do đình công tại các cơ xưởng của họ ở Trung Quốc.
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/world/japan-china-striek-6-22-10-96942524.html


RFI

Một nhà máy Toyota tại Trung Quốc lại phải ngưng hoạt động vì đình công
Công nhân tập hợp bên ngoài nhà máy Denso của Toyota tại Quảng   Châu ngày 22/06/ 2010. Đây là vụ đình công mới nhất tại các công ty   ngoại quốc  ở Trung Quốc.
Công nhân tập hợp bên ngoài nhà máy Denso của Toyota tại Quảng Châu ngày 22/06/ 2010. Đây là vụ đình công mới nhất tại các công ty ngoại quốc ở Trung Quốc.
REUTERS/Stringer
Tú Anh
Ngày 22/06/2010, hai dây chuyền lắp ráp xe hơi của tập đoàn Toyota (Nhật Bản) tại miền namTrung Quốc đã phải tạm ngưng hoạt động do thiếu linh kiện. Cuộc đấu tranh đòi tăng lương của công nhân lại nổ ra tại nhà máy chế tạo phụ tùng xe hơi Denso Corporation ở Quảng Châu không chỉ tác động trực tiếp đến Toyota mà còn có nguy cơ ảnh hưởng đến Honda nếu kéo dài.
Theo cơ quan truyền thông Dow Jones Newswires, một vụ đình công vừa xảy ra trong một công ty chi nhánh của Toyota tại Quảng Đông. Đây là vụ thứ hai trong tập đoàn Toyota tại Trung Quốc sau khi một chi nhánh ở Thiên Tân bị tê liệt hồi tuần trước, do việc công nhân nhà máy tranh đấu đòi tăng lương.
Do vụ đình công mới này mà hai dây chuyền nhà máy lắp ráp xe hơi tại Quảng Đông phải tạm ngưng hoạt động. Phát ngôn viên của Toyota tại Trung Quốc từ chối bình luận về sự kiện này.
Do nhà máy linh kiện Denso Corporation cũng cung cấp phụ tùng cho Honda tại Quảng Đông, cơ sở của hãng này cũng có nguy cơ bị tác động. Tuy nhiên theo AFP, một viên chức của Honda nói rằng dây chuyền sản xuất chưa bị xáo trộn.
Lũ lụt tại các tỉnh miền nam : nguy cơ vỡ đê
Thiệt hại nhân mạng do lũ lụt tại các tỉnh miền nam Trung Quốc mỗi ngày mỗi trầm trọng. Tân Hoa Xã hôm nay thông báo số người chết tăng từ 175 lên 199 trong 24 giờ qua.
Lực lượng cứu hộ Trung Quốc cũng đang nỗ lực di tản 68 ngàn dân ở một làng thuộc tỉnh Giang Tây bị đe dọa vì nguy cơ vỡ đê. Trong khi đó các cơn mưa vẫn tiếp tục kéo dài và làm mực nước ở 47 con sông dâng cao thêm làm cho gần 2 triệu 400 ngàn người phải đi lánh nạn.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20100622-mot-nha-may-xe-hoi-toyota-tai-trung-quoc-lai-phai-ngung-hoat-dong-vi-dinh-cong


RFI * TRUNG QUỐC BÀNH TRƯỚNG

*
TRUNG QUỐC - PHƯƠNG TÂY -
Bài đăng : Thứ sáu 18 Tháng Sáu 2010 - Sửa đổi lần cuối Thứ sáu 18 Tháng Sáu 2010

Dư luận phương Tây lo ngại sức mạnh quân sự, kinh tế của Trung Quốc

Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đón tổng thống Mỹ Barack Obama tại   Đại Lễ Đường Nhân Dân, Bắc Kinh, ngày 17/11/2009
Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đón tổng thống Mỹ Barack Obama tại Đại Lễ Đường Nhân Dân, Bắc Kinh, ngày 17/11/2009
Ảnh: Reuters
Thụy My
Sự lớn mạnh về quân sự và kinh tế của Trung Quốc làm cho dư luận các nước phương Tây rất lo lắng, đặc biệt là tại Pháp. Một cuộc điều tra dư luận tại 22 quốc gia do Viện Pew Research Center công bố hôm qua, 17/06/2010, tại Hoa Kỳ đã cho biết như trên.
Theo cuộc thăm dò nói trên thì 88% người Nhật và 86% người Hàn Quốc coi sức mạnh quân sự ngày càng tăng cao của Trung Quốc là « một điều xấu ». Có đến 87% người Pháp cũng có cùng quan điểm với người dân các nước láng giềng của Trung Quốc như trên, và tỉ lệ này ở người Mỹ là 79%, người Đức là 72%.
Còn về mặt kinh tế, có đến 67% người dân Pháp rất lo ngại về sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế Trung Quốc. Tỉ lệ này cao hơn hẳn so với người Đức là 58%, người Mỹ 47%, người Anh 42%. Ngược lại, do Nhật Bản đã đầu tư rất nhiều vào Trung Quốc nên 61% người dân Nhật coi điều này là tích cực, chỉ có 21% người Nhật tỏ ra lo lắng.
Tại Phi châu, người dân có vẻ bị huyễn hoặc trước phép lạ kinh tế Trung Quốc do Bắc Kinh trong những năm gần đây đầu tư ồ ạt vào châu lục này : 90% người Kenya và Nigeria đánh giá là tích cực.
Trên phương diện chiến lược, người Ấn Độ tỏ ra hoài nghi hơn hẳn : 44% người dân Ấn coi Trung Quốc là một nước thù địch. Ngược lại, 84% dân Pakistan lại xem Trung Quốc là đối tác. Dư luận Mỹ thì gần như chia đôi : 25% coi Trung Quốc là bạn, 17% xem là kẻ thù.
Cuộc điều tra dư luận trên được tiến hành từ ngày 7/4 đến 8/5, với trên 24.000 người được thăm dò ý kiến.
Bảo vệ của Tập Cận Bình hành hung một dân biểu New Zealand
Một dân biểu New Zealand đã lên án việc bị nhân viên an ninh Trung Quốc đối xử thô bạo vì ông đã vẫy cờ Tây Tạng trước Quốc hội nước mình, nhân chuyến viếng thăm của phó chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Dân biểu đảng Xanh Russel Norman đã giơ cao lá cờ Tây Tạng trước nghị viện Wellington để kêu gọi dân chủ tại Trung Quốc, và đã xảy ra xô xát với những người có lẽ là cận vệ của ông Tập Cận Bình. Một người trong số họ đã cố mở dù ra để che khuất vị dân biểu, và ông này đã phản kháng khi lá cờ Tây Tạng bị giựt khỏi tay ông và quăng xuống đất.
Dân biểu Russel Norman sau đó đã tuyên bố với báo chí là: « Tôi thấy thật đáng sợ khi các nhân viên an ninh Trung Quốc đến đất nước chúng ta và xô xát với một người đại diện của nhân dân New Zealand tại Quốc hội, chỉ với lý do là người đó kêu gọi tự do và dân chủ ». Ông Norman cho biết đã đưa đơn kiện về vụ này.
Phó chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình công du New Zealand ba ngày với một đoàn đại biểu đông đảo gồm nhiều giám đốc doanh nghiệp, nhằm phát triển quan hệ kinh tế đôi bên. Được biết New Zealand là nước phát triển đầu tiên ký kết hiệp định tự do thương mại với Bắc Kinh vào năm 2008.
tags: Châu Á - Quốc tế - Trung Quốc

*

Tuesday, June 22, 2010


NGUYỄN THIÊN THỤ * DU LỊCH XỨ HỒ




. DU LỊCH XỨ HỒ
Công tử Bạch Vân con quan Tổng trấn và công tử Thanh Hà con quan Tổng binh là bạn đồng song, nhân một hôm học ở trường quan Đốc học xong, bèn rủ nhau lên thăm núi Châu Thới. Sau khi vào chùa lễ Phật, hai cậu ra dạo sau chùa. Thấy trong sân chùa có một cây mộc lan cao to, cành lá sum suê, đầy những bông hoa trắng đưa hương thơm ngát, hai công tử bèn ngồi xuống trên thảm cỏ, gió mát hiu hiu thổi, giây lâu nằm ngủ quên.

Một lúc sau, một lão trượng đội mũ đỏ, mang bào vàng, thắt đai hồng, cưỡi ngựa từ trong núi bước ra cúi đầu chào hai công tử, và nói:
-Quan Tổng trấn chúng tôi kính mời hai công tử ghé bản trấn phủ .
Hai chàng ngạc nhiên, không hiểu nơi xa xôi hoang vắng này lại có ai quen biết hai chàng. Nhưng rồi hai chàng cũng gật đầu ưng thuận và thúc ngựa vào trong núi theo lão trượng đội mũ đỏ. Nhìn y phục của lão trượng, hai chàng biết lão là một vị đại quan.
Từ xa nhìn vào thì thấy một thành trì thành cao, hào rộng. Trên cao có tấm biển ghi "Đại Văn Minh thành".
Bạch Vân công tử hỏi:
-Thưa đại quan, xin cho biết đây là lãnh thổ nước nào mà thành trì "hoành tráng" như thế?
Đại quan cười mà nói:
-Thưa quý đại diện, đây là "Đại Hồ quốc", là một quốc gia hùng mạnh nhất thế giới, "khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"!

Trên đường đi, hai cậu thấy một đám tiểu yêu hồ đang đùa giỡn với nhau. Thấy đại quan và hai công tử đến, bọn chúng vẫn thản nhiên nô đùa, không hề sợ hãi. Lão quan già lấy roi ngựa xua đuổi, chúng vẫn không đi mà còn ném đá vào ba người mà nói:
-Chúng ông đéo sợ chúng mày!

Khi ông quan mũ đỏ và hai công tử đến cửa thành thì cửa thành rộng mở, hai công tử theo lão quan mà bước vào bên trong. Trong thành cây cối xanh tươi, hoa nở khắp nơi, chim kêu ríu rít. Lão quan đắt hai chàng vào một cung điện uy nghi, ngoài đề "Tổng trấn phủ".
Từ ngoài cửa vào trong là những hàng quân lính, rồi đến những hàng thanh niên, thiếu nữ cầm cờ hoan hô hai công tử.
Bước lên thềm thì thấy những giai nhân chân trắng dài, eo thon, ngực nở tiến ra vừa ca vừa múa xung quanh hai chàng. Hai chàng rất "phấn khởi, hồ hởi".

Bước vào bên trong thì thấy trên cao là một bậc vương công, mão cao áo dài, cái đuôi màu đỏ rất to, cong lên ở phía sau, xung quanh có lính cầm quạt đứng hầu. Hai công tử bước vào quỳ lạy. Bậc vương công nói:
-Ta là Tổng trấn Đại Văn Minh thành, xin gửi lời chào mừng hai "đại biểu "đã tới tham quan tệ trấn.
Hai chàng thưa rằng:
-Bọn chúng tôi là học trò vô danh tiểu tốt, không đại diện cho ai, xin đừng gọi là "đại biểu", làm cho chúng tôi xấu hổ. Xin hỏi quan Tổng trấn, Ngài gọi chúng tôi đến là vì nguyên do nào, mục đích nào?
Quan Tổng trấn cười mà bảo:
-Khi hai "đại biểu" khởi tâm đi núi Châu Thới thì ban An Ninh bản trấn đã biết, bọn họ báo cáo lên Trấn, ban lãnh đạo bèn ra lệnh họ điều tra lý lịch hai đại biểu thì thấy lý lịch hai đại biểu rất tốt cho nên ta hạ lệnh cho người rước hai đại biểu về đây.
-Thưa quan Tổng trấn, xin cho biết Ngài cần gì ở chúng tôi?
Quan cười:
-Đêm xuân ta hãy còn dài. Hai cậu sẽ biết sau. Giờ đây xin mời hai đại biểu dự đại yến do bản trấn mời.
Hai công tử bèn theo quan tổng trấn bước vào đại sảnh thì thấy cỗ bàn linh đình đã dọn sẵn. Xung quanh chật ních những thiếu nữ xinh đẹp, tươi mát. Khi quan Tổng trấn và hai công tử an tọa thì các quan khách khác lần lượt tiến vào. Ông nào cũng mũ cao, áo rộng kéo cái đuôi dài. Xem vẻ như ông nào đuôi dài nhất, màu đỏ nhất là quan cao nhất.

Sau khi khách an tọa, quan Tổng trấn giới thiệu hai chàng với khách, và cũng giới thiệu các nhân vật quan trọng trong bữa tiệc. Sau khi giới thiệu, các thiếu nữ phục vụ bước vào rót rượu mời khách. Các cô đứng sát vào hai chàng khiến cho toàn thân hai chàng như bốc cháy. Lợi dụng khi các nàng đứng gần, hai chàng quan sát mông và thì không thấy các nàng có đuôi, có lẽ họ đã giấu kín đuôi chồn. Thanh Hà công tử tinh nghịch sờ thử thì cũng không phát giác điều gì mới lạ. Cô nàng phục vụ cười mà nói nhỏ bên tai chàng:
-Xin bảo đảm còn nguyên xi, chánh gốc hiệu Nai vàng, không có đuôi đâu! Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi, đại biểu muốn gì cứ nói ra, chúng tôi sẽ phục vụ từ A đến Z!

Xong tiệc, lính hầu đưa hai công tử vào phòng nghỉ. Mỗi cậu mỗi phòng, được hai thiếu nữ hầu hạ. Hai thiếu nữ bảo khách nằm xuống và đấm bóp toàn thân. Hai công tử sảng khoái toàn diện. Trong khi hầu hạ, hai cô chuyện trò với hai công tử. Một cô hỏi:
-Đại biểu có dự định đầu tư vào đất nước chúng tôi không? Đất nước chúng tôi tự do, dân chủ, đang phát triển, rất cần vốn đầu tư ngọai quốc. Nếu đại biểu đầu tư, chúng tôi sẽ giành cho đại biểu nhiều ưu tiên. Hơn nữa, xứ chúng tôi nhiều thiếu nữ đẹp, nhiều cuộc vui chơi giải trí. Đầu tư vào nước chúng tôi, các đại biểu sẽ có nhiều lợi ích về vật chất và tinh thần.
Hai công tử tạ từ mà nói rằng:
-Rất tiếc, chúng tôi là học sinh ăn bám vào cha mẹ, không có tiền đầu tư. Tuy nhiên khi về, chúng tôi sẽ vận động các nhà kinh doanh nước tôi bỏ vốn đầu tư vào quý quốc.

Ngày hôm sau, quan Tổng trấn nói:
-Ở đây có nhiều gái đẹp. Hai đại biểu nên sang đây đầu tư thì sẽ có lắm vui vẻ và nhiều lợi ích.
Hai chàng chối từ, vì sợ chơi với loài hồ e nguy hiểm, chỉ xin đi chu du thành nội . Quan xin đồng ý, sai hai hướng dẫn viên du lịch đưa hai công tử đi.

Đi theo hai chàng là hai hướng dẫn viên đầu đội mũ đỏ, mang áo đỏ, chân mang giày đỏ và tay cầm giáo đỏ. Nơi đây nhà cửa san sát, phần lớn là đền đài dinh thự và công viên rộng lớn. Trên công viên, từng tốp nam nữ nhảy múa, ca hát.
Hai chàng nghe như một điệu dân ca:

Yêu cha già
Yêu mẫu quốc
Yêu hòa bình tổ quốc chúng ta!

Đến một công viên khác, chàng thấy rất đông người tụ họp. Chàng hỏi hai hướng dẫn viên du lịch:
-Những người này là ai? Là dân chúng, quan viên, hay lính tráng?
Hai hướng dẫn viên du lịch đáp:
-Đó là nhân dân yêu nước.
-Khi hai chàng dừng lại ngắm cảnh, thì một nhân dân vai mang băng đỏ, ngực có bảng hiệu, tiến đến nói to với hai chàng:
-Nước chúng tôi đang thực hiện ba dòng thác cách mạng
là Cách mạng Quan hệ sản xuất , Cách mạng Văn hóa tư tưởng và Cách mạng Khoa học Kỷ thuật mà cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt". Đến đây, người nhân dân thấy hai hướng dẫn viên mắt nhìn mĩ nữ ở đàng xa đang đi tới nên nói nhỏ: Nếu hai đại biểu yêu ai, thì xin đăng ký kết hôn để cho họ sớm xuất ngoại mà "theo chàng về dinh". Cơ quan chúng tôi sẽ hướng dẫn mọi thủ tục và lệ phí rẻ như bèo!
Nhân dân này nói xong bỏ đi thì một nhân dân khác tới, cũng băng đỏ, huy hiệu trước ngực, tiến đến trước mặt hai chàng nói to:

-Đoàn kết! Đoàn kết!
Hỡi các Việt kiều
Yêu nước trên hết!
Đầu tư thật nhiều
Là yêu nước Việt!

Khi thấy hai hướng dẫn viên du lịch mệt mỏi, ngáp dài, không còn chú ý nghe, người "nhân dân" nói nhỏ:
-Xin đại biểu ký giấy hợp tác đầu tư với công ty chúng tôi trong việc đưa công nhân ra ngoại quốc lao động. Hai đại biểu sẽ được hưởng hoa hồng rất cao! Hoặc hai đại biểu muốn thưởng thức "của ngon vật lạ", nước tôi gì cũng có, chúng tôi sẽ phục vụ tận tình!

Hai hướng dẫn viên hỏi chàng muốn đi đâu nữa không. Hai chàng muốn đi thăm nhân dân. Hai hướng dẫn viên tỏ vẻ ngần ngại, Văn công tử bèn rút một nén bạc tặng thì hai chàng tuân lời. Đi một đoạn xa, thấy nhà cửa lụp xụp, dân chúng nghèo đói xác xơ. Thấy hai hướng dẫn viên cầm giáo đỏ, họ tỏ vẻ sợ hãi mà lánh xa. Chàng nghe có tiếng lầu bầu:
-Tiên sư chúng mày đến đây làm gì?

Đột nhiên có tiếng bom nổ, đạn bay và tiếng chó sủa vang. Hai hướng dẫn viên hoảng hốt bỏ chạy, miệng la to:"Phản động!" Phản động!" Hai công tử sợ hãi chạy theo, giật mình tỉnh dậy, hóa ra chỉ là một giấc mộng.






TS.NGUYỄN PHÚC LIÊN * KINH TẾ TRUNG CỘNG *

*

Tuesday, June 22, 2010


KINH TẾ TRUNG QUỐC:
CÔNG NHÂN NỔI DẬY,
CSTQ NHƯỢNG BỘ
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 08.06.2010
Một trong những Lý thuyết gia về Kinh tế Cổ điển Anh quốc, Nhà Đại Kinh tế gia David RICARDO đã phát minh ra đơn vị đo lường giá trị của những sản phẩm công nghệ. Đơn vị đo lường đó là sức LAO ĐÔNG hội nhập vào sản phẩm (Force de Travail intégrée dans un Produit). Thiên nhiên tăng giá trị là nhờ nhân lực góp công khai thác. Những sản phẩm cuối cùng để thỏa mãn những nhu cầu của con người tiêu thụ là một chuỗi những biến chế do nhân lực can thiệp vào. Làm tăng giá trị Thiên nhiên hay biến chế sản phẩm, gọi là sinh hoạt kinh tế, làm tăng sự giầu có của quốc gia (création et augmentation des richesses nationales). Thặng dư tích lũy từ sinh hoạt kinh tế tạo thành cái vốn tư bản. Như vậy cái vốn tư bản cũng là do lao động tạo ra.
Karl Mars lấy lại lý thuyết này của David Ricardo để ca tụng sức lao động trước trào lưu phát triển kinh tế của thời của ông. Karl Mars nhận thấy rằng giới tư bản cầm vốn đã khai thác sức lao động triệt để để làm tăng vốn tư bản của mình trước đây đã nhờ sức lao động mà có. Ông biện luận về Vong thân Lao động, nghĩa là người Lao động làm ra vốn Tư bản, rồi giao nó trong tay giới Tư bản để rồi chính người Lao động phải bị bóc lột do vốn tư bản này. Lao động là chủ vốn tư bản, giao vốn ấy trong tay giới tư bản để rồi chính Lao động trở thành nô lệ cho vốn tư bản.
Lénine, Chính trị gia, xử dụng biện chứng Vong thân Lao động để hô hào Lao động đứng lên tranh đấu đòi lại quyền làm chủ vốn tư bản do chính mình làm ra. Cuộc đấu tranh của Lao động được đẩy đến đấu tranh giai cấp đẫm máu: phải giết giới Tư bản để lấy lại Vốn Tư bản do chính giới Lao động vô sản làm ra. Đảng Cộng sản lãnh đạo cuộc đấu tranh và thiết lập một Thể chế độc tài đảng trị.
Người Lao động thời Lénine đối diện đấu tranh với một mình lực lượng Tư bản, nhưng Công nhân Trung quốc và Việt Nam hiện nay đứng lên đấu tranh với những lực lượng nào? Tư bản ? Cộng sản ? Hay cả hai cùng một lúc ?
Chúng tôi viết bài này nhân việc đứng lên của Công nhân Trung quốc đang diễn ra tại FOXCONN và HONDA trong hai tuần vừa qua. Bài viết này nhằm trả lới cho những câu hỏi vừa đặt ra trên đây. Viết bài này, chúng tôi dựa trên những thông tin mới nhất sau đây:
* Le Figaro 07.06.2010, trang 8:
CHINE: LI PENG JUSTIFIE LA REPRESSION DE TIANANMEN
* Le Monde 07.06.2010, trang 17 :
J’ACCUSE LE REGIME CHINOIS
* Financial Times 07.06.2010, trang 26 :
FOXCONN TO FACE INVESTOR QUESTIONS
* AFP Beijing 04.06.2010:
LES AUTORITES CHINOISES ONT AUTORISE UNE VAGUE AUGMENTATION DU SALAIRE MINIMUM
* Financial Times 03.06.2010, trang 9:
CHINESE LABOUR IS LICENSED TO STAKE ITS CLAIM
* Financial Times 03.06.2010, trang 14:
FOXCONN RAISES PAY BY 30% IN CHINA
* The Wall Street Journal 03.06.2010, trang 22:
HON HAI BENDS AMID SCRUTINY AND RAISES WAGES 30%
* REUTERS Beijing 02.06.2010 by Aileen WANG & Simon RABINOVITCH:
L’EVOLUTION DEMOGRAPHIQUE PROPICE AUX REVENDICATIONS SOCIALES
* Beijing Asia news/Agencies 02.06.2010:
THE NEW CHINESE WORKING CLASS, WILLING TO COMMIT SUICIDE RATHER THAN BEND TO OPPRESSION
* Le Monde 01.06.2010, trang 16:
EN CHINE , LA GREVE DES OUVRIERS DE HONDA ILLUSTRE LE MALAISE SOCIAL
* The Wall Street Journal 31.05.2010, trang 21:
CHINESE OFFICIAL WEIGHS IN ON HON HAI
* Le Monde 31.05.2010, trang 17:
C’EST A PEKIN QU’IL FAUT ALLER MANIFESTER
* Le Figaro 31.05.2010, trang 21:
LA GROGNE SOCIALE MONTE EN CHINE
Cộng sản cấu kết với Tư bản
để bóc lột sức Lao động
Mars và Lénine chỉ kêu gọi giới vô sản mà chính yếu là Công nhân đứng lên chống lại sự bóc lột của Tư bàn. Đảng Cộng sản tự nhận giữ vai trò lãnh đạo độc nhất cho giới vô sản và quyền lãnh đạo này là độc tài.
Chế độ độc tài đảng trị của Thế giới Cộng sản sụp đổ. Nhưng Trung quốc, Việt Nam, Cu ba và Bắc Hàn vẫn giữ nguyên chế động Cộng sản độc tài đảng trị.
Đứng trước những thất bại Kinh tế, những chế độ này phải hướng về Thế giới Tự do được gọi là kẻ thù Tư bản.
Cuộc mở cửa Trung Cộng chơi với Tư bản để kiếm cơm bắt đầu từ ĐẶNG TIỂU BÌNH. Bắt tay với Thế giới Tư bản tôn trọng Tự do và Nhân quyền, nhưng Đặng Tiểu Bình vẫn giữ Chế độ độc tài đảng trị tại Trung quốc. Theo LI PENG, Đăng Tiểu Bình, người cha của những cải cách Trung quốc, nhưng cũng chính ông đã yêu cầu quân đội quét sạch cuộc nổi dậy Thiên An Môn ngày 04.06.1989 (theo Le Figaro 07.06.2010, trang 8). Những cải cách của Đặng Tiểu Bình chỉ là về Kinh tế trong thế bí chết đói, nhưng về mặt độc tài Chính trị, thì không có cải cách gì.
Con đường cải cách của Trung quốc vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, nghĩa là bắt tay với Thế giới Tư bản để thủ lợi Kinh tế nhưng quyền độc tài Chính trị để đàn áp Dân chúng vẫn không thay đổi.
Kinh tế Trung quốc ngày nay là sự CẤU KẾT giữa TƯ BẢN NGOẠI LAI và QUYỀN HÀNH ĐỘC TÀI TRONG NƯỚC để cùng hiệp lực KHAI THÁC TRIỆT ĐỂ VÀ VÔ NHÂN ĐẠO khối Nhân lực khổng lồ Trung quốc:
1) TƯ BẢN NGOẠI LAI
Các nước Tư bản Á châu như Nhật bản, Nam Hàn, Đài Loan đã chuyển vốn vào để tổ chức những Cơ xưởng sản xuất. Những Công ty Liên quốc gia Âu châu cũng tổ chức sản xuất linh kiện tại Trung quốc. Thậm chí Hoa kỳ, tượng trưng cho Thế giới Tự do, Tư bản, trọng Nhân quyền, cũng chỉ nhắc sơ sài “mấy thắc mắc nhân quyền “, rồi để những đại Công ty liên quốc gia của mình sản xuất linh kiện tại Trung quốc.
Mục đích của những Công ty Tư bản (Entreprises Capitalistes) là nhằm LỢI NHUẬN TỐI ĐA. Muốn có Lợi nhuận tối đa, thì một mặt tìm cách sản xuất hàng hóa với giá thành tối thiểu và mặt khác tìm cách bán hàng hóa ở những Thị trường có gia bán cao nhất. Như vậy, Lợi nhuận sẽ được tăng từ hai phía: phía Giá thành tối thiểu và phía Giá bán tối đa. Để có Giá thành tối thiểu, nhất là cho những hàng hóa thông thường xử dụng nhân lực, những Công ty Tư bản liên quốc gia tất nhiên chuyển sản xuất sang Trung quốc, nơi mà họ có thể trả lương cho nhân lực với đồng lương bóc lột, rẻ mạt. Khi hàng sản xuất xong, họ chuyển sang bán tại Thị trường Tây phương với giá sinh hoạt cao tại các xứ này. Người làm kinh tế chỉ nghĩ đến Lợi nhuận, mà không nghĩ đến nhân quyền của Công nhân. Người ta nói Henry FORD khi tuyên bố: “Tôi trả lương cao cho Công nhân để họ mua xe hơi mà tôi sản xuất “ là câu nói nhân đạo. Thực ra đây cũng là câu nói kinh tế. Thực vậy, công nhân là người Mỹ, xe hơi sản xuất tại Mỹ và bán cho người Mỹ. Đó là tính toán Kinh tế. Trong khi ấy, hãng DELL, chẳng hạn, sản xuất máy tại Trung quốc, không cần phải trả lương cao cho người Trung quốc, vì hàng đem bán ở Mỹ và ở Âu châu với giá cao, không cần người thợ Trung quốc mua máy của mình.
Việc tính toán ích kỷ này của những Công ty liên quốc gia đang tạo thất nghiệp cho Mỹ và Liên Âu.
Thị trường Hoa kỳ và Liên Aâu tràn ngập hàng Trung quốc do nước này bóc lột sức lao động của khối người Trung quốc để bán rẻ cho những Công ty Liên quốc gia thiết lập sản xuất làm lao động Hoa kỳ và Liên Aâu thất nghiệp. Ký giả Pierre-Antoine DELHOMMAIS, trước những cuộc đình công ở Tây phương, đã viết trên Le Monde 31.05.2010, trang 17, với đầu đề:”C’EST A PEKIN QU’IL FAUT ALLER MANIFESTER” (Phải đi Bắc kinh để biểu tình).
2) QUYỀN HÀNH ĐỘC TÀI TRONG NƯỚC
Trung quốc cần TƯ BẢN NGOẠI LAI mang vốn vào tổ chức sản xuất. Trung quốc cần những Công ty liên quốc gia ngoại lai tổ chức sản xuất vì hai lý do: (i) mang vốn tư bản ngoại lai vào nước mình, (ii) đồng thời những Công ty liên quốc gia lại có những liên hệ sẵn tại những Thị trường tiêu thụ Hoa kỳ và Liên Âu. Thực vậy, Trung quốc có thể có vốn để tổ chức sản xuất, nhưng chưa đặt gốc rễ truyền thống tại các Thị trường tiêu thụ Hoa kỳ và Liên Âu, nên tự mình đi kiếm Thị trường thì gặp những khó khăn và cạnh tranh. Như vậy, Trung quốc không phải chỉ nhờ vốn tư bản nước ngoài, mà chính yếu còn nhờ cơ sở truyền thống sẵn có của những Công ty liên quốc gia này tại những Thị trường tiêu thụ Hoa kỳ và Liên Âu.
Trung quốc cần giới tư bản ngoại lai, và ngược lại giới tư bản ngoại lai cũng cần Chế độ độc tài đảng trị tại Trung quốc. Thực vậy, giới tư bản ngoại lai muốn có nhân công với số lương thấp bóc lột, dù biết rõ rằng đó là phi nhân bản. Để có thể chỉ trả lương thấp bóc lột cho lao động, họ cần có một Chính quyền địa phương độc tài, tàn ác, có thể đàn áp, bịt miệng giới lao động. Những Công ty liên quốc gia ngoại lai nếu nói đến dân chủ, nhân quyền, đó chỉ là giả hình bởi vì thực tế họ muốn một chính quyền địa phương cấm nghiệp đoàn độc lập, cấm quyền ăn nói than vãn, để họ yên tâm trả lương rẻ bóc lột cho nhân công. Họ muốn một chính quyền độc tài có thể bắt dân bán sức lao động với giá rẻ, không được than vãn như một đoàn người nô lệ.
Tóm lại, QUYỀN LỰC ĐỘC TÀI TRUNG QUỐC cần tư bản ngoại lai về vốn và về có sẵn thị trường tiêu thụ, trong khi đó TƯ BẢN NGOẠI LAI cần Quyền lực Độc tài Trung quốc để bắt ép Dân trung quốc tuân lệnh bán rẻ sức lao động như đàn nô lệ cho tư bản ngoại lai. Độc tài Cộng sản CẤU KẾT với Tư bản ngoại lai để bóc lột Lao động.
Người CÔNG NGHÂN thời Cộng sản Lénine chỉ đấu tranh chống lại Tư bản, thì ngày nay, người CÔNG NHÂN tại Trung quốc cũng như tại Việt Nam phải đấu tranh chống lại cùng một lúc hai lực ượng CẤU KẾT của Độc tài Cộng sản và Tư bản ngoại lai. Đó là cuộc nổi dậy của Công nhân Trung quốc hiện giờ với thí diểm là FOXCONN và HONDA.
CÔNG NHÂN tự tử và đình công
tại Foxconn và Honda như một thí điểm đấu tranh
Xin nhắc lại rằng Nhà Nước Trung quốc cũng như Việt Nam luôn luôn sợ sệt những cuộc quần chúng nổi dậy. Quần chúng có thể là lực lượng Tôn giáo, lực lượng Nông dân, lực lượng Công nhân. Lực lượng Tôn giáo tại Trung quốc không đáng kể vì Cộng sản đã dùng mọi biện pháp đè bẹp. Cộng sản cũng đã thẳng tay đàn áp lực lượng Pháp Luân Công. Đối với lực lượng Nông dân, thì bản chất là phân tán theo đất đai. Riêng đối với Công nhân, vì phải tụ họp lại trong các Cơ xưởng sản xuất, nên đây là một lực lượng có khả năng đồng đứng lên đấu tranh.
Chính Thủ tướng ÔN NHƯ BẢO là người hiểu sự CẤU KẾT giữa Độc tài Chính trị và Tư bản ngoại lai mà chúng tôi trình bay trên đây. Bản chất của sự cấu kết này là bán rẻ sức lao động cho tư bản ngoại lai, tạo sự chênh lệch lợi nhuận cho tư bản ngoại lai và đảng Cộng sản cầm quyền độc đoán bán rẻ sứ lao động của Dân. Đại đa số dân chúng không được hưởng hiệu quả của phát triển Kinh tế. Ôn Như Bảo gọi đó là sự phân phối không đồng đều về thu nhập Kinh tế và chính ông nói trước Quốc Hội ngày 14.03.2010 về viễn tượng nổi dậy của lực lượng Công nhân:
“L’inflation, plus une redistribution inéquitable des revenus et la corruption pourraient affecter la stabilité sociale et même la stabilité du gouvernement” (Lạm phát, thêm vào đó là một sự phân phối không đồng đều những thu nhập và tham nhũng có thể tác hại đến sự ổn định xã hội và ngay cả đến sự ổn định nhà nước” (Le Monde 16.03.2010, trang 16)
Nhìn những con số thống kê của Nhà Nước, chúng ta nhận ra ngay sự chênh lệc phân phối thu nhập từ phát triển Kinh tế (Bản tin Reuters Beijing 02.06.2010):
“Selon les statistiques officielles, la part de la main-d'oeuvre dans le revenu national est passée de 53,4% en 1996 à 39,7% en 2007, tandis que celle des entreprises grimpait de 21,2% à 31,3% » (Theo thống kê nhà nước phần dành cho nhân công trong thu nhập quốc gia đi từ 53.4% năm 1996 xuống 39.7% năm 2007, trong khi đó phần dành cho những Công ty tăng từ 21.2% năm 1996 lên 31.3% năm 2007)
Hãng AFP 04.06.2010 từ Bắc Kinh cũng cùng nhận định về sự phân phối không đồng đều mà chính Ông Gia Bảo đã nói trước Quốc Hội:
“Malgré une croissance économique spectaculaire, la rémunération du travail a chuté par rapport à la richesse produite depuis le lancement des réformes économiques en Chine: elle représentait 56,5% du produit intérieur brut en 1983, mais 36,7% en 2005, affirmait récemment un responsable syndical ». (Mặc dầu tăng trưởng kinh tế lạ lùng, việc thù lao cho công nhân đã tụt dốc so với sự giầu có làm ra từ ngày khởi công những thay đổi kinh tế tại Trung quốc : phần dành cho công nhân chiếm 56.5% Tổng sản lượng quốc gia năm 1983, nhưng chỉ còn 36.7% năm 2005, đó là lời khẳng định của một người trách nhiệm nghiệp đoàn)
Thí điểm Công nhân nỏi dậy tại Foxconn và Honda là sự hiện thực đấu tranh vì bất công mà Ôn Gia Bảo tiên đoán.
Trong thời gian gần đây nhất cho đến ngày hôm nay, báo chí quốc tế nói nhiều đến những vụ công nhân tự tử của FOXCONN, những vụ đình công của công nhân các nhà máy HONDA.
Thực ra, tình trạng này không làm ngạc nhiên vì nó đã được tiên đóan bởi chính ÔN GIA BẢO mà chúng tôi đã trình bầy dài ở trên như một hậu quả của tình trạng bóc lột lao động tại Trung quốc. Đã có cuộc Khủng hỏang Tài chánh/Kinh tế Thế giới làm chính Thất nghiệp tại Hoa kỳ tăng lên gần 10%. Đã xẩy ra Khủng hỏang Nợ nần Liên Aâu để các Nhà Nước thắt chặt chi tiêu và tăng thuế làm giới lao động càng thất nghiệp và xuống đường, đình công. Thị trường Hoa kỳ và Liên Aâu tràn ngập hàng Trung quốc do nước này bóc lột sức lao động của khối người Trung quốc để bán rẻ cho những Công ty Liên quốc gia thiết lập sản xuất làm lao động Hoa kỳ và Liên Aâu thất nghiệp. Ký giả Pierre-Antoine DELHOMMAIS, trước những cuộc đình công ở Tây phương, đã viết trên Le Monde 31.05.2010, trang 17, với đầu đề:”C’EST A PEKIN QU’IL FAUT ALLER MANIFESTER” (Phải đi Bắc kinh để biểu tình).
Chính lao động Trung quốc cũng đang nổi dậy biểu tình và tự tử ! Phải chăng sẽ xẩy ra một cuộc Khủng hỏang Lao động Thế giới tiếp theo Khủng hỏang Tài chánh/Kinh tế 2008/09 từ Hoa kỳ và Khủng hỏang Nợ nần của Liên Aâu ?
Giải quyết những vụ tự tử của FOXCONN và những vụ đình công tại các Nhà máy HONDA, các Công ty Liên quốc gia quyết định tăng lương.
Theo tài liệu thống kê của OCDE, thì số lương tháng trung bình ở Trung quốc:
Tại FOXCONN : là Euro.107.-
Tại HONDA: là Euro.179.-
Những công nhân hầu hết đến từ miền xa xôi trong nội địa để làm việc tại những nhà máy sản xuất thiết lập ở những thành phố kỹ nghệ ven biển, nhưng bị hạn hẹp tối đa quyền hội nhập với cuộc sống tại những thành thị mình đang làm việc. Tại các nhà máy, công nhân sống và làm việc nhiều giờ như trong một nhà tù.
Sống trong sự lẻ loi và làm việc vất vả với đồng lương thấp, những công nhân này còn cảm thấy như không có một hy vọng vào một quyền lực nào đó có khả năng giải thóat họ vì họ không có quyền lập Nghiệp đòan độc lập. Những nghiệp đòan đều do Nhà nước. Những công nhân thấy mình như bị đàn áp không ai bênh đỡ.
Giải quyết vấn đề công nhân FOXCONN hay HONDA, không phải việc tăng đồng lương 20% hay 30% là đủ, mà còn phải giải quyết những điều kiện làm việc, giải tỏa tình trạng lẻ loi và cho họ một sự hy vọng nào đó vào tương lai.
Bản tin của BEIJING NEWS/Agencies ngày 02.06.2010 viết:
“The "new" Chinese working class, willing to commit suicide rather than bend to oppression.
Foxconn announces wage increases of 30%. But experts believe that the many suicides are a demand for more humane working conditions. 145 million migrants, ready to fight for their right to live.
Yesterday, the company Foxconn, a leader in technology, which has seen 11 suicides this year in its Longhua factory (Shenzhen), announced 30% wage increase for assembly line workers. But experts point out the need to review the whole organization of work that has made China "the world's factory" for the price of inhumane working conditions, for the exclusive benefit of Western capitalist multinationals and the Chinese Communist Party (CCP).”
(Lớp người lao động “mới” của Trung quốc, muốn tự tử hơn là cúi gù đầu chấp nhận đàn áp.
Foxconn tuyên bố tăng lương 30%. Nhưng những chuyên viên tin rằng những vụ tự tử là việc đòi hỏi cho những điều kiện làm việc nhân đạo hơn. 145 triệu dân thợ thuyền “du mục”, sẵn sàng đấu tranh cho quyền sống của họ.
Hôm qua, Công ty Faxconn, đầu đàn về sản xuất kỹ thuật, có 11 vụ tự tử năm nay ở nhà máy Longhua (Quảng Tây), đã tuyên bố tăng lương 30% cho những công nhân ráp nối. Nhưng những chuyên viên cho thấy sự cần thiết xem xét lại tòan bộ tổ chức làm việc đã làm cho Trung quốc trở thành “nhà máy của thế giới” với cái giá của những điều kiện làm việc vô nhân đạo, để phục vụ lợi nhuận đặc biệt cho những Công ty Liên quốc doanh tư bản Tây phương và cho đảng Cộng sản Trung quốc.)
Việc đình công của nhà máy HONDA mang tính cách có tổ chức và chiến lược hơn từ phía công nhân. HONDA có 4 nhà máy dây chuyền liên hệ với nhau. Nhà máy sản xuất ổ số cho những xe hơi nằm tại Foshan. Công nhân đã đình công tại nhà máy này khiến tòan bộ những nhà máy ráp xe hơi ở những nhà máy khác bị ngưng trệ từ ngày 26.05.2010.
Đòi hỏi của công nhân HONDA là tăng lương và tổ chức những điều kiện làm việc tốt hơn và có nhân đạo hơn.
Hai trường hợp của Foxconn và Honda đã có một tiếng vang quốc tế về sự cấu kết giữa những Công ty Liên quốc gia nước ngòai cùng với nhà nước độc tài Cộng sản Trung quốc để khai thắc, bóc lột vô nhân đạo sức lao động của người nghèo Trung quốc. Chính ông Hòang Giang, bí thư đảng CSTQ Quảng Đông, đã phải tuyên bố:
“Le développement économique doit d’abord bénéficier au peuple” (Việc phát triển Kinh tế trước tiên phải đem lợi đến cho nhân dân) (Le Monde 01.06.2010, trang 16)
Nhà Nước độc tài nhượng bộ
và hậu quả Domino cho nổi dậy toàn diện
Cuộc đấu tranh của Công nhân Foxconn và Honda trong gần hai tuần qua đã đạt thắng lợi đầu tiên là phía Tư bản ngoại lai cùng với Nhà nước độc tài nhượng bộ cho tăng lương căn bản:
=> Nhóm tư bản Nhật Honda sản xuất xe hơi quyết định tăng lương cơ bản 24%
=> Nhóm tư bản Đài Loan Foxconn sản xuất Iphone quyết định tăng lương cơ bản 30%
Hậu quả Domino đầu tiên là nhóm tư bản Hyundai Nam Hàn đã phải thoả mãn đòi hỏi của nhân công mới đây. Aileen WANG và Simon RABINOVITCH (Reuters Peijing 02.06.2010) viết : «Suivant l'exemple des ouvriers de Honda, les salariés d'une usine du sud-coréen Hyundai Motor, près de Pékin, ont à leur tour cessé le travail ce week-end. Et ils ont rapidement obtenu gain de cause. » (Theo gương của những công nhân Honda, những công nhân của một nhà máy của nhóm Hyundai Motor Nam Hàn, gần Bắc Kinh, đã ngưng làm việc cuối tuần này. Và họ đã mau chóng nhận được thỏa mãn điều đấu tranh)
Chúng tôi nhấn mạnh đến vụ Hyundai Motor vì đó là dấu hiệu khởi đầu hậu quả Domino đấu tranh của giới thợ thuyền Trung quốc.
Thực vậy, nếu Foxconn và Honda chỉ giải quyết cảnh bóc lột lao động bằng tăng lương cơ bản lên 24% hay 30%, thì đó còn quá nhỏ. Những đòi hỏi của công nhân, ngoài vấn đề lương lậu, còn là :
=> Điều kiện tổ chức làm việc
=> Hội nhập đời sống với thành thị ven biển khi họ phải xa gia đình ở những vùng quê nội địa
=> Quyền tổ chức nghiệp đoàn độc lập làm nguồn hy vọng đấu tranh cải thiện đời sống.
Chính Aileen WANG và Simon RABINOVITCH (Reuters Peijing 02.06.2010) nhận định hướng đi thắng lợi của cuộc đấu tranh công nhân : »Une vague inhabituelle de protestations salariales illustre la facon dont le rapport des forces dans les immenses usines chinoises penche lentement mais surement vers les ouvriers. (Một làn sóng bất thường đấu tranh về lương bổng cho thấy rằng đối trọng lực lượng trong những nhà máy khổng lồ Trung quốc nghiêng từ từ, nhưng chắc chắn về phía những công nhân)
Cuộc đấu tranh này nếu lan rộng, hậu quả của nó không phải chỉ đối với Quyền lực độc tài đảng trị tại trong nước, mà còn ảnh hưởng tới những nhóm tư bản ngoại quốc. Cặp bài trùng CẤU KẾT giữa Quyền lực độc tài trong nước và Tư bản ngoại lai sẽ phải dần dần nhượng bộ lực lượng 145 triệu thợ thuyền đang làm việc trong các nhà máy và phải chịu những bất công.
Đối với Chính quyền trong nước, công nhân thoát dần cảnh nô nệ mà Nhà nước đem bán rẻ cho tư bản ngoại bang.
Đối với tư bản ngoại bang, họ không còn nghĩ là cứ đút tiền hối lộ cho Chính quyền là có thể mua được công nhân Trung quốc dễ vâng lời và dễ dậy : "Les investisseurs étrangers ont fait l'erreur de croire que la Chine dispose d'une force de travail docile", explique Arthur Kroeber, économiste chez Dragonmics. "Or la force de travail chinoise n'a rien d'intrinsèquement docile." (Những nhà đầu tư nước ngoài đã lầm lẫn khi tin rằng Trung quốc có một nguồn nhân lực dễ dậy – Oâng Arthur KROEBER, Kinh tế gia thuộc Dragonmics cắt nghĩa như vậy—Ngược lại nhân lực Trung quốc từ nội tại không có gì là dễ dậy) (Reuters Peijing 02.06.2010)
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 08.06.2010

RFA * TIẾN SĨ VIỆT NAM

*


*

20.000 tiến sĩ, 700 triệu USD và vài câu chuyện (phần 1)
2010-06-21
Cách nay vài ngày, tờ Sài Gòn Tiếp Thị cho biết, nhiều người ở tỉnh Phú Thọ, hết sức ngỡ ngàng khi ông Nguyễn Ngọc Ân, Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch của tỉnh này đã là tiến sĩ.

Photo courtesy of tdt.edu.vn
Sinh viên và các đại biểu tham dự Lễ tốt nghiệp ở trường Đại học Tôn Đức Thắng.(ảnh minh họa)
Người ta càng ngạc nhiên hơn khi học vị tiến sĩ mà ông Ân thủ đắc được cho là của một đại học ở Mỹ trong khi ông không hề biết Anh ngữ! Ngoài yếu tố vừa kể, sự kiện đó còn có điểm đặc biệt nào khác đáng quan tâm? Mời quý vị theo dõi Trân Văn tường trình thêm…

Dễ hơn học tiểu học!

Theo tờ Sài Gòn Tiếp Thị, cách đây ít ngày, những người biết ông Nguyễn Ngọc Ân, Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch của tỉnh Phú Thọ đã hết sức ngạc nhiên khi nghe giới thiệu ông Ân là tiến sĩ và văn bằng tiến sĩ của ông do một trường đại học tại Mỹ cấp.
style>
Ai có máy in thì có thể phát bằng hay là bán bằng cho người khác được nhưng mà những người hiểu biết thấy những cái bằng đó vô giá trị và khinh bỉ những người có bằng cấp đó.
GS Trần Hữu Dũng
Sở dĩ người ta ngạc nhiên vì ông Nguyễn Ngọc Ân vẫn được biết tới như một người không biết gì về Anh ngữ và chưa bao giờ đi du học. Thế thì tại sao ông ta lại có học vị tiến sĩ của Mỹ?
Tờ Sài Gòn Tiếp Thị đã trực tiếp nêu thắc mắc đó với ông Ân, ông Ân thừa nhận, đúng là ông không biết Anh ngữ, song ông khẳng định, ông đã học tiến sĩ trong hai năm. Tuy nhiên ông chỉ phải qua Mỹ tổng cộng… hai tuần để hoàn tất chương trình tiến sĩ.
Ông Ân kể thêm, do không biết Anh ngữ, ông học chương trình tiến sĩ theo các giáo trình được soạn bằng tiếng Việt, khi nghe giảng thì có phiên dịch và tất nhiên là bảo vệ luận văn cũng với sự hỗ trợ của phiên dịch viên.
Đại học nào tại Mỹ có thể công nhận một người đạt học vị tiến sĩ khi người đó không hề biết Anh ngữ? Ông Ân tiết lộ, đó là “Southern Pacific University” (dịch sang tiếng Việt là Đại học Nam Thái Bình Dương), tọa lạc tại New York.

Ông Nguyễn Ngọc Ân, Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch của   tỉnh Phú Thọ. Photo courtesy of baophutho.org.vn
Ông Nguyễn Ngọc Ân, Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch của tỉnh Phú Thọ. Photo courtesy of baophutho.org.vn
Tờ Sài Gòn Tiếp Thị dẫn một vài nguồn tin cho biết, bằng cấp của trường “Southern Pacific University” không được hệ thống giáo dục Mỹ công nhận và đại học này đã bị Tòa án Hawaii tuyên bố giải thể từ tháng 10 năm 2003. Hiện chỉ có một đại học, nếu dịch sang tiếng Việt thì cũng có tên là Đại học Nam Thái Bình Dương, song tên tiếng Anh không phải là “Southern Pacific University”, mà là “The University of South Pacific” của Fiji, chứ không phải của Mỹ.
Phải chăng ông Nguyễn Ngọc Ân đã xài bằng giả? Tờ Sài Gòn Tiếp Thị kể thêm rằng, họ đã đem chuyện của ông Ân đi hỏi một cán bộ lãnh đạo của tỉnh Phú Thọ. Cán bộ này kể, sau khi học xong chương trình tiến sĩ ở Đại học Nam Thái Bình Dương, ông Ân đã trình văn bằng tiến sĩ cho Ban Tổ chức Tỉnh ủy xem và bằng đó là bằng thật.
Trên Internet, hiện có một trang web, với địa chỉ web là: http://www.ope.ed.gov/accreditation/Search.aspx, do Bộ Giáo dục Mỹ lập, nhằm giúp mọi người kiểm tra xem trường đại học mà họ quan tâm đã được công nhận về chất lượng đào tạo hay chưa, chúng tôi đã thử dùng trang web này để kiểm tra và kết quả cho thấy “Southern Pacific University” không nằm trong hệ thống đại học đã được kiểm định chất lượng giáo dục.

Bằng thật?

Thông tin về việc Ban Tổ chức Tỉnh ủy Phú Thọ xác định, văn bằng tiến sĩ do Đại học Nam Thái Bình Dương cấp và ông Nguyễn Ngọc Ân xuất trình là bằng thật, đã khiến chúng tôi thấy rằng, cần phỏng vấn những người am tường về hệ thống đại học ở Mỹ. Chúng tôi đã gọi Tiến sĩ Trần Hữu Dũng, hiện giảng dạy về kinh tế tại Đại học Wright State, ở Dayton, bang Ohio, Mỹ…
Trân Văn: Thưa giáo sư, tại Mỹ có thứ bằng cấp mà tính chất vẫn như người Việt ở trong nước gọi là bằng đểu không?
GS Trần Hữu Dũng: Tôi không quen thuộc với danh từ bằng đểu nhưng ở Mỹ có những trường gọi là trường trong ngoặc kép vì nó không phải là trường.
Năm ngoái có một cặp vợ chồng mướn một cái máy in, in bằng cấp rồi họ bán, rồi đổ bể. Có nhiều loại như vậy thành ra không phải là chuyện lạ ở Mỹ. Gần như cứ vài tuần lễ lại đổ bể một chuyện như vậy…
Trân Văn: Thế thì để ngăn chặn những loại bằng cấp đó, xã hội có phương thức nào giúp kiểm chứng bằng cấp là thật hay đểu không?

Thực sự những người mà làm những cái bằng giả như vậy rất là khôn ngoan. Họ dùng những tên rất là kêu, những cái tên đó giống như là trường thật.
GS Trần Hữu Dũng
GS Trần Hữu Dũng: Đây là xã hội tự do nhưng người ở Mỹ thì họ biết trường nào danh tiếng, trường nào không, thành ra chuyện đó không khó lắm.
Hiện giờ kỹ thuật in bằng dễ dàng thành ra những ai có máy in thì có thể phát bằng hay là bán bằng cho người khác được nhưng mà những người hiểu biết thấy những cái bằng đó thì họ biết ngay nó vô giá trị và khinh bỉ những người có bằng cấp đó nữa. Thành ra không có ai lừa bịp được ai, nhất là những người có hiểu biết.
Có một số người thích có bằng cấp để họ treo trong phòng khách thì không ai cấm cản họ được. Thành ra bất cứ xã hội nào cũng có chuyện đó!
Trân Văn: Theo chúng tôi được biết thì Mỹ có phân loại hệ thống đại học được accredited, được kiểm định giáo dục và hệ thống…
GS Trần Hữu Dũng: Dạ đúng rồi! Đúng là như vậy bởi vì những người mà hiểu biết thì người ta nhìn bằng cấp, người ta biết trường đó có accredited hay không. Biết ngay. Đó là chuyện không thể nào lừa bịp ai được hết! Người ta thấy cái tên trường người ta biết ngay. Chuyện đó không khó khăn gì hết. Bây giờ có Internet, anh chỉ cần vô là biết ngay, không cần hỏi ai nữa.
Trân Văn: Thưa ông, liệu ở Mỹ có trường đại học nào thuộc nhóm đã được kiểm định giáo dục mà tiếp nhận những sinh viên nước ngoài, rồi trao học vị tiến sĩ cho họ mà người học không có kỹ năng nghe – nói – đọc – viết tiếng Anh…
GS Trần Hữu Dũng: Không bao giờ có chuyện đó được! Không thể nào có chuyện đó được. Cái đó tuyệt đối là không! Bởi vì trường nào mà có như vậy thì trường đó không thể nào được chứng nhận.
Nếu người nào mướn tôi dạy trường đó mà tôi biết trường đó như vậy thì tôi cũng không chịu đi làm. Bởi vì nếu dính líu vào những chuyện đó thì mất hết tất cả uy tín.
Chuyện này không thể nào xảy ra được hết! Tôi dám chắc là như vậy!
Trân Văn: Thưa ông là một giáo sư đại học lâu năm tại Mỹ, ông có bao giờ nghe nói đến trường đại học có tên là Nam Thái Bình Dương chưa?
GS Trần Hữu Dũng: Vâng có! Thỉnh thoảng tôi có nghe! Thực sự những người mà làm những cái bằng giả như vậy rất là khôn ngoan. Họ dùng những tên rất là kêu, những cái tên đó giống như là trường thật.
Ví dụ như là ở California thì có nhiều trường nổi tiếng như là University of Southern California thì họ đặt tên ví dụ như là University of South California. Trường đó không có ai biết hết nhưng mà người ở ngoài nghe Califonia rồi South này kia thì dễ lầm. Thành ra họ lợi dụng những từ như vậy để họ lừa người khác. Họ cũng khôn ngoan khi dùng những tên trường thoạt nghe thì có vẻ nổi tiếng nhưng mà những người hiểu biết, biết ngay là trường dỏm.
Đến đây, những thắc mắc liên quan đến giá trị của tấm bằng tiến sĩ mà ông Nguyễn Ngọc Ân, Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ, sử dụng coi như đã được giải đáp. Song câu chuyện về tấm bằng này lại mở ra một vấn đề khác, đó là kế hoạch chi 700 triệu đô la để đào tạo 20.000 tiến sĩ của Việt Nam có những dấu hiệu cho thấy rất đáng phải quan tâm. Những dấu hiệu ấy sẽ được tổng hợp và tường trình trong bài kế tiếp. Mời quý vị đón theo dõi…

Theo dòng thời sự:


RFA * TRUNG HOA & MỸ

*



Hoa kỳ đánh giá thấp Trung Quốc – phần 1
2010-06-21
Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong thời gian gần đây có nhiều dấu hiệu đáng lo ngại.

AFP PHOTO / POOL / Jason Lee
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton nhìn Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẫm Đào trong phiên khai mạc của vòng thứ hai Đối thoại Kinh tế và Chiến lược tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh ngày 24 tháng 5 năm 2010

Qua những bài viết đăng trên các tờ báo là cơ quan ngôn luận chính thức của chính phủ Trung Quốc, cùng những lời phát biểu của các viên chức quân sự cao cấp của nước này, đã công khai tấn công Hoa Kỳ, cho thấy thái độ từ phía lãnh đạo Trung Quốc ngày càng quyết đoán hơn.
Để tìm hiểu thêm các cuộc tấn công bằng lời nói của các viên chức Trung Quốc nhắm vào Hoa Kỳ, cũng như sự việc này có phải là ý kiến riêng của một số lãnh đạo Trung Quốc hay không, hay là nước này đã thay đổi chính sách ngoại giao đối với Mỹ, và cũng để biết thêm phản ứng từ phía Hoa Kỳ ra sao?
Liệu Hoa Kỳ có xem những thay đổi từ phía Trung Quốc là quan trọng hay không, mời quý vị cùng Ngọc Trân điểm qua các tin tức có liên quan.

Muốn so găng với Hoa Kỳ?

Chúng ta đã từng ngạc nhiên khi nghe qua các bài báo từ phía Trung Quốc với lời lẽ hiếu chiến, kêu gọi chính phủ của họ phát động chiến tranh chống Việt Nam và các nước trong khu vực. Thế nhưng, có lẽ thái độ hung hãn của các viên chức Trung Quốc không chỉ dành riêng cho Việt Nam hay các nước trong vùng, mà với Hoa Kỳ, một cường quốc thế giới, Trung Quốc vẫn có thái độ gây hấn, mặc dù lời lẽ của họ dành cho Hoa Kỳ có vẻ khác hơn so với Việt Nam.
Chúng ta nên trả đũa Hoa Kỳ như ăn miếng trả miếng và bán vũ khí cho Iran, Bắc Hàn, Syria, Cuba và Venezuel.
Ô. Lưu Môn Hùng


Hồi tháng 2 vừa qua, Đại tá Meng Xianging, chiến lược gia trong Quân đội Trung Quốc tuyên bố rằng, Trung Quốc sẽ nâng cấp chất lượng quân đội trong thập kỷ tới, để có đủ sức mạnh “đánh một trận giáp lá cà với Hoa Kỳ”.
Thêm vào thái độ hiếu chiến vừa kể trên, một số nhà lãnh đạo Trung Quốc đã kêu gọi chính phủ của họ bán vũ khí cho các nước là kẻ thù lâu đời nhất của Mỹ, chẳng hạn như đầu năm nay, ông Lưu Môn Hùng, thành viên Hội nghị Tư vấn Chính trị Nhân dân Trung Quốc (CPPCC), đã phát biểu: “Chúng ta nên trả đũa Hoa Kỳ như ăn miếng trả miếng và bán vũ khí cho Iran, Bắc Hàn, Syria, Cuba và Venezuela”.
Đầu tháng 3, Bắc Kinh đã cho xuất bản cuốn sách “Giấc mơ Trung Quốc”, của ông Lưu Minh Phúc, Đại tá Quân đội (PLA) và là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kiến thiết Quân đội, thuộc trường Đại học Quốc phòng Trung Quốc.
Nội dung cuốn sách này kêu gọi Trung Quốc xây dựng một quân đội mạnh nhất thế giới để giành lấy vị trí siêu cường số một trên toàn cầu từ tay Hoa Kỳ. Ông Lưu Minh Phúc kêu gọi Trung Quốc hãy “bỏ đi ảo tưởng và chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đối đầu với Hoa Kỳ về việc thống trị toàn cầu trong thế kỷ 21”. Có lẽ đây là quyển sách đầu tiên công khai tuyên bố mục tiêu của Trung Quốc muốn trở thành quốc gia hùng mạnh nhất, để thay Mỹ lãnh đạo thế giới trong thế kỷ này.

Tấn công có chủ đích

Mới đây, trong một phiên họp về Đối thoại Kinh tế và Chiến lược Trung – Mỹ, hôm 24 tháng 5, tại Bắc Kinh, Thiếu tướng Quan Du Phi đã công khai tấn công Hoa Kỳ bằng một bài phát biểu dài ba phút, trước khoảng 65 viên chức Mỹ có mặt trong phòng họp.
Ông Quan Du Phi nói rằng, trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, tất cả mọi chuyện đi đúng đường là nhờ Trung Quốc, còn tất cả những chuyện đi sai đường là do lỗi ở Hoa Kỳ. Ông còn cáo buộc Mỹ là “bá chủ” và âm mưu bao vây Trung Quốc bằng các đồng minh chiến lược. Ngoài ra, ông Quan còn dành những lời lẽ gay gắt nhất cho việc Hoa Kỳ bán vũ khí cho Đài Loan, ông nói rằng tất cả những điều này cho thấy Hoa Kỳ xem Trung Quốc như kẻ thù.

480px-Robert_Gates-200-wiki
Ông Robert Gates - Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ. Photo courtesy of wikipedia
Ngay sau khi Đối thoại Kinh tế Chiến lược Trung - Mỹ kết thúc, ngày 27 tháng 5, báo Tân Hoa xã, cơ quan ngôn luận chính thức của Chính phủ Trung Quốc, xuất hiện một bài viết công khai nhắm vào Hoa Kỳ. Bài viết có tựa đề “Âm mưu của Hoa Kỳ chống lại Trung Quốc” của ông Đới Từ, Đại tá Không quân và là chiến lược gia có ảnh hưởng ở Trung Quốc.
Trong bài viết này, ông Đới Từ đã công khai tấn công Hoa Kỳ, cáo buộc Mỹ bao vây Trung Quốc bằng những đồng minh khu vực. Ông Đại tá Không quân còn cho rằng, Hoa Kỳ đã sử dụng chiến lược “kềm kẹp ngoại giao” nhằm cô lập hoàn toàn Trung Quốc, làm cho Đông Nam Á ngày càng trở nên phụ thuộc vào Mỹ về mặt chính trị, lôi kéo Việt Nam trở thành đồng minh của Mỹ và cố tình chia rẽ “ba người bạn thật sự” của Trung Quốc là Bắc Hàn, Miến Điện và Pakistan.

Làm mất mặt Hoa Kỳ

Quan hệ giữa hai nước ngày càng xấu đi khi đầu tháng 6 này, Bộ Ngoại giao Trung Quốc thông báo với phía Hoa Kỳ rằng chuyến đi đã lên kế hoạch từ lâu của ông Robert Gates, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, theo lời mời của tướng Từ Tài Hậu, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc, đã bị hủy bỏ.
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ đã đồng ý đến thăm Bắc Kinh vào năm 2010. Thế nhưng, Trung Quốc đã làm mất mặt Hoa Kỳ khi tuyên bố hủy bỏ chuyến thăm của ông Gates vào giờ phút chót mà không cho biết lý do.

Cũng xin nhắc thêm rằng, kể từ khi nhậm chức Bộ trưởng Quốc phòng hồi cuối năm 2006, ông Gates đã đến thăm Trung Quốc một lần vào tháng 11 năm 2007, và kể từ đó ông đã nhiều lần từ chối lời mời của Bắc Kinh, đến thăm nước này. Cho đến khi tướng Từ Tài Hậu có chuyến thăm đáp trả Hoa Kỳ hồi tháng 10 năm ngoái và trong chuyến đi này, ông Từ đã ngỏ lời mời ông Gates đến thăm Trung Quốc.
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ đã đồng ý đến thăm Bắc Kinh vào năm 2010 và hai nước cũng đã chuẩn bị cho chuyến đi này của ông Gates. Thế nhưng, Trung Quốc đã làm mất mặt Hoa Kỳ khi tuyên bố hủy bỏ chuyến thăm của ông Gates vào giờ phút chót mà không cho biết lý do, nên nhiều người đã đoán rằng, lý do Trung Quốc không muốn tiếp ông Gates là do Hoa Kỳ bán vũ khí cho Đài Loan.
Liệu đây có phải là lý do thật sự hay không? Phía Hoa Kỳ không nghĩ như thế. Hôm 5 tháng 6 vừa qua, tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore, ông Gates cho rằng việc Trung Quốc cắt đứt quan hệ quân sự với Hoa Kỳ vì lý do Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan là vô lý. Ông nói: “Các quan chức Trung Quốc đã cắt đứt quan hệ quân đội giữa hai nước, viện lý do Hoa Kỳ bán vũ khí cho Đài Loan. Với nhiều lý do khác, lý do này không hợp lý chút nào. Trước hết, việc Hoa Kỳ bán vũ khí cho Đài Loan không có gì mới. Chuyện này đã xảy ra hàng thập kỷ và đã kéo dài qua nhiều đời Tổng thống Mỹ”.
Tôi tin rằng việc bán vũ khí đã gửi tín hiệu sai lầm tới Trung Quốc, đó là Trung Quốc xem Mỹ là đối tác cũng như bạn bè, trong khi phía Mỹ xem Trung Quốc như là kẻ thù.
Thiếu tướng Chu Thành Hổ


Đáp lại, Thiếu tướng Chu Thành Hổ, Giám đốc Đại học Quốc phòng Quốc gia Trung Quốc đã lên tiếng trả đũa, ông Chu nói, “Tôi tin rằng việc bán vũ khí đã gửi tín hiệu sai lầm tới Trung Quốc, đó là Trung Quốc xem Mỹ là đối tác cũng như bạn bè, trong khi phía Mỹ xem Trung Quốc như là kẻ thù”.
Cũng xin nhắc thêm, năm 2005, Thiếu tướng Chu Thành Hổ là người nổi tiếng ở Trung Quốc, với quan điểm cứng rắn khi ông lên tiếng cảnh cáo Hoa Kỳ rằng, nếu Mỹ giúp Đài Loan trong chiến tranh với Trung Quốc, thì Bắc Kinh sẽ bỏ học thuyết “không sử dụng trước” về vũ khí hạt nhân và sẽ tấn công Hoa Kỳ bằng vũ khí hạt nhân.
Tại Đối thoại Shangri-La, tiếp lời Thiếu tướng Chu Thành Hổ, ông Mã Hiểu Thiên, Phó Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã gián tiếp tấn công Hoa Kỳ. Mặc dù ông Mã không hề nhắc đến Hoa Kỳ trong suốt bài phát biểu, thế nhưng qua những lời lẽ bóng gió, sử dụng những cụm từ như “tăng cường liên minh quân sự” và “can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác”, cho thấy những lời nói trên đã được ông Mã sử dụng với mục đích nhắm vào Hoa Kỳ.
Những lời nói và thái độ hung hăng của các viên chức Trung Quốc, có phải là sự cố hoặc chỉ thể hiện quan điểm của một số viên chức quân sự Trung Quốc hay không? Đó sẽ là nội dung của bài kế tiếp.

Theo dòng thời sự:

http://www.rfa.org/vietnamese/international/The-US-Underestimates-China-NTran-06212010114101.html


Hoa Kỳ đánh giá thấp Trung Quốc - phần 2
Ngọc Trân, thông tín viên RFA
2010-06-21

Sau những lời phát biểu cũng như hành động của các giới chức Trung Quốc nhắm vào Hoa Kỳ. Phải chăng đây là sự cố mà các viên chức này vô tình mắc phải hay đây là các hành động có chủ đích?

AFP PHOTO / Mandel Ngan

Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đến dự một bữa ăn tối tại Đại lễ đường nhân dân ngày 17 tháng 11 năm 2009 ở Bắc Kinh.

Nếu là những hành động có chủ đích, thế thì nó đến từ chủ trương của bộ phận nào, từ Quân đội Trung Quốc hay là từ các cấp lãnh đạo cao nhất trong chính phủ nước này? Liệu Hoa Kỳ có nhận ra điều gì khác thường qua những hành động của Trung Quốc hay không, và phản ứng của Hoa Kỳ ra sao? Mời quý vị nghe Ngọc Trân trình bày tiếp…
Chỉ là sự cố?

Những hành động và tuyên bố hung hăng từ phía Trung Quốc ngày càng gia tăng đã làm cho Hoa Kỳ quan ngại. Các chuyên gia phân tích chính sách Hoa Kỳ tự hỏi rằng, phải chăng các hành động này không chỉ là sự cố?

Gần như tất cả mọi khía cạnh trong quan hệ giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc đang tiến về phía trước theo hướng tích cực, ngoại trừ một điều duy nhất là mối quan hệ quân sự giữa hai nước.

Ô. Robert Gates

Sau khi nghe những lời phát biểu gay gắt của ông Quan Du Phi tại Bắc Kinh, trên chuyến bay trở về Hoa Kỳ hôm 26 tháng 5, một viên chức ngoại giao đi cùng máy bay với Ngoại trưởng Hillary Clinton cho báo chí biết rằng, ý kiến của ông Quan Du Phi đã vượt ra khỏi quan điểm của các lãnh đạo dân sự Trung Quốc. Thế nhưng viên chức này vẫn chưa rõ, liệu đây có phải là chủ trương của lãnh đạo Trung Quốc hay không.

Trong khi đó, một viên chức cao cấp khác có quan hệ thường xuyên với Hoa Kỳ, đã trả lời báo Washington Post với điều kiện giấu tên, như sau: “Thiếu tướng Quan Du Phi đại diện cho những gì mà tất cả chúng tôi nghĩ về Hoa Kỳ trong thâm tâm chúng tôi. Có thể về mặt chính trị không được chính xác, nhưng đó không phải là ngẫu nhiên”.

Thêm một điểm nữa mà các phân tích gia tin rằng đây không phải là sự cố, bởi vì các viên chức cao cấp Trung Quốc không bao giờ tấn công các viên chức Hoa Kỳ bằng những bài phát biểu có tính khiêu khích ở các sự kiện đã được chuẩn bị kỹ như Đối thoại Kinh tế Chiến lược Trung - Mỹ. Và nếu cho rằng, đó chỉ là quan điểm riêng của Thiếu tướng Quan Du Phi, có lẽ cũng không chính xác, bởi vì ông Quan không dám một mình liều lĩnh đi ngược lại chính sách chung của Trung Quốc.

Liên quan đến vấn đề này, khi được hỏi, một viên tướng giấu tên, thuộc Quân đội Trung Quốc đã trả lời báo chí như sau: “Thật là ngớ ngẩn để nói về phe phái khi nói đến quan hệ với Hoa Kỳ. Quân đội đứng sau đảng. Bạn có thực sự nghĩ rằng ông Quan đã đơn phương làm điều này hay không”?
Đánh giá thấp Trung Quốc?

Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tại sân bay ở Bắc Kinh ngày 20 tháng 02 năm 2009, Bà Clinton đến đây để hội đàm với các nhà lãnh đạo Trung Quốc về biến đổi khí hậu và an ninh. AFP PHOTO / Greg BAKER / POOL.
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tại sân bay ở Bắc Kinh ngày 20 tháng 02 năm 2009, Bà Clinton đến đây để hội đàm với các nhà lãnh đạo Trung Quốc về biến đổi khí hậu và an ninh. AFP PHOTO / Greg BAKER / POOL.
Khác với Việt Nam, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc không đặt trên nền tảng 16 chữ vàng và 4 tốt, thế nhưng chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Bush, cũng như chính sách mà Tổng thống Obama hiện đang áp dụng, Hoa Kỳ không xem Trung Quốc là một đối thủ nguy hiểm phải đề phòng, mà chỉ xem Bắc Kinh như một đối thủ cạnh tranh chiến lược, cùng nhau giúp đỡ để hai nước đi lên.

Do vậy, hồi tháng 5 năm 2007, khi còn là Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, Đô đốc Timothy Keating đã từng đề nghị giúp đỡ Trung Quốc xây một tàu sân bay, mặc dù phía Trung Quốc đã từ chối.

Cũng do chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ chỉ xem Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh và hợp tác, giúp đỡ, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ thường cho các tàu quân sự thực hiện các chuyến viếng thăm Trung Quốc, cùng các cuộc thăm viếng qua lại giữa các sĩ quan hai nước. Bên cạnh đó, hai nước cũng đã lập một đường dây nóng để trao đổi với nhau, cũng như hai bên đã đồng ý một thỏa thuận về các sự cố trên biển, nhằm tránh những sự việc đáng tiếc xảy ra.

Có lẽ vì vậy, nên khi bị ông Quan Du Phi tấn công ở Trung Quốc, các viên chức ngoại giao Hoa Kỳ vẫn nghĩ rằng đó chỉ là quan điểm riêng của ông ta chứ không phải do chủ trương của Bắc Kinh.

Vào thời điểm đó, giới ngoại giao Hoa Kỳ vẫn tin rằng Bắc Kinh sẽ chào đón ông Robert Gates trong chuyến viếng thăm đã lên kế hoạch. Thế nhưng, hình như Hoa Kỳ đã đánh giá thấp Trung Quốc. Một tuần sau, Bộ Ngoại giao Trung Quốc thông báo với phía Hoa Kỳ rằng, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ không được Bắc Kinh đón tiếp với lý do “thời điểm không thuận tiện”.

Trung Quốc và Hoa Kỳ có nên làm việc với nhau để thúc đẩy sự ổn định trong khu vực hay không? Câu trả lời của Washington chắn chắn là có. Câu trả lời từ phía Bắc Kinh thì đôi khi có, đôi khi không.

Ô. Mike Mullen

Không chỉ giới ngoại giao, mà dường như Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ cũng đã hiểu sai về Trung Quốc sau khi nhận được tin Bắc Kinh không đón tiếp ông. Ông Gates cho rằng mình bị khước là do phía quân đội Trung Quốc gây cản trở, chứ không phải do chính sách của Trung Quốc.

Trên đường đến Singapore hôm 2 tháng 6, ông đã phát biểu với báo chí, rằng: “Gần như tất cả mọi khía cạnh trong quan hệ giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc đang tiến về phía trước theo hướng tích cực, ngoại trừ một điều duy nhất là mối quan hệ quân sự giữa hai nước. Quân đội Trung Quốc ít quan tâm trong việc phát triển mối quan hệ này so với các lãnh đạo chính trị Trung Quốc”.
Hoa Kỳ lo ngại

Phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ hôm 2 tháng 6 vừa qua cho thấy, vào thời điểm này, ông Gates vẫn còn tin rằng việc Trung Quốc cắt đứt quan hệ quân sự với Mỹ là do Quân đội Trung Quốc lơ là trong việc phát triển quan hệ quân sự với Hoa Kỳ. Thế nhưng, có lẽ sau đó ông Gates đã hiểu rõ hơn, do không những bị Bắc Kinh từ chối, mà ông còn phải hứng chịu một loạt chỉ trích hằn học của các viên chức Trung Quốc nhắm vào ông hôm 5 tháng 6 tại hội nghị Shangri-la.

Tổng thống Mỹ Barack Obama (trái) bắt tay Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo trước cuộc hội đàm tại Bắc Kinh ngày 18 tháng 11 năm 2009. AFP PHOTO / POOL / DAVID GRAY.
Tổng thống Mỹ Barack Obama (trái) bắt tay Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo trước cuộc hội đàm tại Bắc Kinh ngày 18 tháng 11 năm 2009. AFP PHOTO / POOL / DAVID GRAY.
Lo ngại trước thái độ khiêu khích gần đây của Trung Quốc, trong buổi ăn tối hàng năm tại Asia Society Washington hôm 9 tháng 6 vừa qua, ông Mike Mullen, Tổng tham mưu trưởng Liên quân, đã nói:

“Trung Quốc là nước đứng đầu và đang trỗi dậy trong khu vực. Chúng tôi hoan nghênh sức mạnh đáng kể và tiềm năng của họ. Câu hỏi được được đặt ra là, Trung Quốc và Hoa Kỳ có nên làm việc với nhau để thúc đẩy sự ổn định trong khu vực hay không? Câu trả lời của Washington chắn chắn là có. Câu trả lời từ phía Bắc Kinh thì đôi khi có, đôi khi không.

Từ chối gần đây về tiếp xúc quân sự giữa hai nước, đặc biệt gây thất vọng, bởi vì nó hủy bỏ cơ hội lắng nghe và học hỏi lẫn nhau. Và việc họ đầu tư rất nhiều vào hàng hải hiện đại, viễn chinh và khả năng không quân có vẻ kỳ lạ, vượt ra khỏi mục tiêu mà họ đã tuyên bố về mục đích phòng thủ trên lãnh thổ của họ. Mỗi quốc gia đều có quyền tự vệ và chi tiêu phù hợp với mục đích tự vệ đó. Nhưng có một khoảng cách lớn giữa ý định mà Trung Quốc đã tuyên bố với các chương trình quân sự của họ, làm cho tôi hơn tò mò về kết quả cuối cùng. Thật vậy, tôi đã chuyển từ tò mò sang thực sự quan ngại”.

Mặc dù Đô đốc Mullen đã từng lên tiếng về việc Trung Quốc gia tăng quân sự, thế nhưng có lẽ đây là đầu tiên Tổng Tham mưu trưởng Liên quân bày tỏ trước công chúng mối lo ngại về việc này.

Liệu các viên chức Hoa Kỳ sẽ phản ứng ra sao với Trung Quốc hay chỉ dừng lại ở mức “quan ngại”? Mời quý vị theo dõi tin tức trong những ngày tới.
Theo dòng thời sự:

* Hoa kỳ đánh giá thấp Trung Quốc – phần 1
* Trung Quốc tạm ngưng không tiếp Tổng Trưởng Quốc Phòng Mỹ
* Hội nghị song phương thường niên Mỹ - Trung
* Kết thúc hội nghị đối thoại Mỹ - Trung tại Bắc Kinh
* Mỹ cân nhắc việc bán chiến đấu cơ cho Đài Loan
* Đài Loan sẽ tiếp tục mua chiến đấu cơ của Mỹ
* Hoa Kỳ: Bán vũ khí cho Đài Loan để duy trì cán cân quân sự
* Trung Quốc cáo buộc Mỹ dùng chiến lược bao vây
* Quan hệ Mỹ - Trung bước sang trang mới
* Đối thoại Mỹ - Trung kết thúc có gì mới?
* Bắc Kinh kêu gọi Mỹ tôn trọng các vấn đề nhạy cảm của TQ

Copyright © 1998-2010 Radio Free Asia. All rights reserved.

In bản tin này Email bản tin này
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/The-US-Underestimates-China-NgTran-06212010215403.html
*

Monday, June 21, 2010


TRANH LUẬN VỀ “TÂM TƯ TỔNG THỐNG THIỆU”

Thứ ba, ngày 15 tháng sáu năm 2010


TRANH LUẬN VỀ “TÂM TƯ TỔNG THỐNG THIỆU”

1. Giỏi, đáo để ....... Nguyễn Đạt Thinh
Fr: Tran Trang
2. Tâm tư TT Thiệu ,mây mù lich sử ...Sơn Tùng
Fr: amsfv





1.Giỏi, đáo để
Nguyễn Ðạt Thịnh
Tôi phải khen ông Nguyễn Tiến Hưng quả là tay vừa giỏi, vừa đáo để, sau khi đọc xong lá thư dài 2343 chữ của ông trả lời lá thư ông Châu Kim Nhân chỉ trích ông, “làm tổn thương danh dự cá nhân tôi, coi thường một vị tướng đồng minh và miệt thị Tướng lãnh Quân lực VNCH;” ông Nhân còn viết, “Tôi cực lực phản đối sự thiếu ngay thẳng và sự bịa đặt của ông Nguyễn Tiến Hưng khi viết về tất cả sự việc sau đây trong trang 48 của quyển ‘Tâm Thư Tổng Thống Thiệu’.”
Xin trích lại nguyên văn đoạn ông Hưng viết trên trang 48, quyển TTTTT, “Khi Huế và Ðà Nẵng bị tràn ngập với người dân di tản, có ông Châu Kim Nhân tới thăm ông Sarong (Francis Phillip Serong, chi tiết viết thêm vào của người viết bài báo này) và cho biết đang có cuộc thay đổi nội các, có thể ông Nhân sẽ giữ bộ Quốc Phòng. Ông Nhân hỏi rằng: Nếu như vậy, ông Sarong có thể giúp ông ta được không. ‘Ðược,’ Sarong trả lời, ‘nhưng với một điều kiện, đó là lệnh đầu tiên của ông là cấm chỉ không được dùng trực thăng làm trung tâm hành quân (command posts), các tướng lãnh phải đi trên bộ để cùng chết với binh sĩ. (Yes, but there is one condition. That is that your first order is to ban all use of helicopters as Command Posts. Put the damn generals on the ground to die with the troops).
Tất cả tranh cãi là trong câu văn 149 chữ này. Ông Nhân viết trong thư gửi ông Hưng, “Tôi muốn nhấn mạnh rằng ông Nguyễn Tiến Hưng đã hoàn toàn bịa đặt sự việc kể trên, là vì những điểm trên đều sai sự thật, tôi xin nêu ra đây:
1. Ông đã bịa đặt và mạ lỵ cá nhân của tôi. Tôi khẳng định là tôi không hề gặp gỡ Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong trong thời gian từ tháng 10/1974 đến 30/04/1975;
Tôi khẳng định là tôi không hề xin Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong giúp tôi nếu giữ chức Tổng Trưởng Quốc phòng. Năm 1975, tôi đang giữ chức Phụ Tá Thủ Tướng (cho TT Trần Thiện Khiêm) tôi không cần phải hạ mình đi xin xỏ một ông Tướng ngoại quốc, nhất là trong một giai đoạn khẩn cấp mà nước nhà đang lâm nguy, thì một người Tổng Trưởng hoặc là một vị Tướng lãnh nào có thể làm được việc vô liêm sỉ đó?”
Ông Hưng trả lời đoạn này, “ Bịa đặt?
Sự cáo buộc của ông Châu Kim Nhân là hoàn toàn vô căn cứ và hết sức bất công đối với tác giả, là vì:
1) Tôi không viết sự việc trong trang 48 mà đó là trích dịch nguyên ý (phần tiếng Việt) và
trích nguyên văn (phần tiếng Anh) từ quyển sách "There To The bitter End -…." của tác giả Anne Blair viết theo nhật ký của Tướng Ted Serong cùng với những phỏng vấn với Tướng Serong kéo dài 18 tháng. Tôi cho rằng ông Châu Kim Nhân chưa đọc cuốn "Tâm Tư Tổng Thống Thiệu," vì nếu đã đọc kỹ thì ông sẽ phải thấy rằng phần trích dịch của tôi
từ cuốn "There To The bitter End " bắt đầu từ trang 43 đến trang 48 của cuốn sách, với
ghi chú rõ ràng về những trích dẫn. Tôi hoàn toàn ngay thẳng và trung thực, không bịa
đặt bất cứ điều gì. Là một giáo sư giảng dạy ở các đại học Mỹ trong 43 năm trời, tôi bắt
buộc phải tuân thủ quy luật dẫn chứng bằng footnotes cặn kẽ, nói phải có sách và mách
phải có chứng.
Đọc kỹ lại những điều tôi viết về cuốn sách này, tôi chỉ thấy có một chữ viết sai chính tả:
'Serong' chứ không phải 'Sarong'. Tôi sẽ chỉnh sửa chữ này khi tái bản.”
Ông Hưng có đánh số (2) và ghi chú là trích từ quyển “There to The Bitter End” của Anne Blair, nhưng số 2 của ông đánh ở trang 47, trong lúc đoạn văn trích ở trên đăng trên trang 48.
Cách chú thích “xa xôi” này khiến độc giả hiểu lầm là chính ông Hưng viết lên những việc mà ông Nhân không làm. Hơn nữa với tư cách một người Việt Nam viết về chiến tranh Việt Nam, ông Hưng vẫn có thể viết thêm những chữ như “bà Blair kể lại lời tướng Serong …” hoặc “sự việc do ông tướng ngoại quốc nhớ lại có thể không chính xác.” Dù sao ông Hưng cũng là bạn đồng liêu của ông Nhân, người bị sách ngoại quốc viết sai, việc rất thông thường.
Một thí dụ khác về việc “đáng lẽ” ông Hưng phải làm, là nếu ông trích sách của Trần Văn Trà, đoạn, “quân cách mạng còn đang quần thảo với lính ngụy thuộc F 18 trên mặt trận Long Khánh, thì tổng tư lệnh Nguyễn Văn Thiệu đã đưa vợ con lên máy bay chạy ra ngoại quốc”, ông Hưng phải viết thêm, “Trà lộng ngôn nói, ‘quân cách mạng …’.
Nhưng ông Hưng không minh bạch khi người bị chỉ trích không phải là tổng thống Thiệu.
Bước qua trách cứ thứ nhì của ông Nhân vì câu ông Hưng “trích”,
“2. Coi thường một vị Tướng đồng minh và miệt thị Tướng lãnh Quân lực VNCH
Qua sự liên lạc giữa tôi và Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong, ông không bao giờ dùng chữ “Damn Generals” để miệt thị những Tướng lãnh của VNCH. và nếu có, tác giả cần chứng minh tài liệu để độc giả không nghĩ rằng chính tác giả Nguyễn Tiến Hưng đã dùng chữ “Damn Generals” để miệt thị những Tướng lãnh của quân lực VNCH. Trong lúc các chiến sĩ Quân lực VNCH đã đổ bao nhiêu xương máu để bảo vệ nhân dân ta trong mấy mươi năm chiến tranh ròng rã, thì ông Nguyễn Tiến Hưng đang sống ở Hoa kỳ.
Ông có biết rằng hai tuần lễ sau khi ông đã rời Việt nam và đang ở Hoa kỳ, thì có năm Tướng lãnh VNCH đã tử tiết thay vì đầu hàng địch và một số Tướng lãnh khác như Tướng Lý Tòng Bá, Trần Quang Khôi, Lê Minh Đảo, đã chiến đấu với binh sĩ cho đến giờ phút cuối cùng cho đến khi được lệnh buông súng.
Sao ông nỡ lòng nào miệt thị Quân lực VNCH khi viết ra những câu bịa đặt, sai sự thật như trong trang 48 của quyển sách của ông?”
Ông Hưng trả lời, “Coi thường một Vị Tướng Đồng Minh?
Câu trích dẫn về mấy chữ "put the damn generals on the ground to die with the troops" là 100% từ lời của Tướng Serong theo như Anne Blair viết trong cuốn sách như đã viện dẫn trên đây;
Về vị Tướng Đồng Minh Ted Serong, tôi đã viết với tất cả sự kính trọng, mặc dù tôi đã không đồng ý với hai chữ khiếm nhã 'damn generals' vậy tại sao ông Nhân có thể cáo buộc tôi là “coi thường một vị tướng đồng minh và miệt thị tướng lãnh Quân Lực VNCH"?
• Miệt thị Tướng Lãnh Quân Lực VNCH?
Xin lưu ý ông Nhân là tôi đã rất trân trọng các tướng lãnh nên đã không dịch chữ "damn" mà chỉ viết "các tướng lãnh phải đi trên bộ để cùng chết với binh sĩ."
Quý vị tướng lãnh đã tuẫn tiết chết theo cái chết của đất nước không còn cảm ơn ông Hưng được nữa, nhưng thiết nghĩ quý vị còn sống, nên gửi thư về cảm ơn ông đã tránh cho quý vị chữ “damn”.
Cuối cùng, ông Hưng trách ông Nhân là vô ơn trách móc ông trong lúc ông đang “tận tụy thi hành sứ mạng được tổng thống trao phó cho mình vào phút chót.”
Ông Hưng viết, “Ngoài những điểm trên, ông Nhân còn nêu thêm một câu hỏi: "Ông (Hưng) có biết rằng hai tuần lễ sau khi ông đã rời việt Nam và đang ở Hoa Kỳ, thì có 5 tướng lãnh VNCH đã tử tiết thay vì đầu hàng địch; và một số tướng lãnh khác như Tướng Lý Tòng Bá, Trần Quang Khôi, Lê Minh Đảo, đã chiến đấu cùng binh sĩ cho đến giớ phút cuối cùng; cho đến khi được lệnh buông súng."
Việc nêu câu hỏi mỉa mai là liệu tôi có biết rằng trong khi tôi đang ở Hoa Kỳ thì có 5 vị tướng lãnh tử tiết hay không, theo tôi nhận xét, chỉ có ngụ ý là trong khi tôi đang yên ổn nhởn nhơ ở Mỹ thì đã có bao nhiêu người khác phải hy sinh. Câu hỏi mỉa mai đầy ác ý như vậy mới là một điều mạ lị đối với một người đang tận tụy thi hành sứ mạng được tổng thống trao phó cho mình vào giờ phút chót.
Thật tội nghiệp cho ông Hưng!
Nguyễn Ðạt Thịnh
----

2. “TÂM TƯ TỔNG THỐNG THIỆU”,MÂY MÙ LỊCH SỬ
Sơn Tùng
Sau khi ra mắt, nghe nói, rất thành công tại California, cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã nhận được nhiều chỉ trích, phần lớn nhắm vào những sự kiện được cho là không chính xác trong cuốn sách.
Trong những người lên tiếng sớm nhất, trường hợp của Ông Châu Kim Nhân đã tạo nhiều tiếng vang vì sự kiện bị chỉ trích liên hệ trực tiếp đến ông, và vì ông là một cựu nhân viên chính phủ thời Đệ Nhị Cộng Hoà tại miền Nam Việt Nam. Sự lên tiếng của Ông Châu Kim Nhân được nhiều người chú ý và bàn cãi trên các diễn đàn điện tử, và vài ngày sau, Ông Nguyễn Tiến Hưng đã viết bài trả lời.
Sự kiện được tranh cãi là một đoạn nơi trang 48 cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu”, nguyên văn như sau:
“Khi Huế và Đà Nẵng bị tràn ngập với người dân di tản, có ông Châu Kim Nhân tới thăm ông Sarong và cho biết đang có cuộc thay đổi nội các, có thể ông Nhân sẽ giữ bộ Quốc Phòng. Ông Nhân hỏi rằng: nếu như vậy, ông Sarong có thể giúp ông ta được không. “Được”, Sarong trả lời, “nhưng với một điều kiện, đó là lệnh đầu tiên của ông là cấm chỉ không được dùng trực thăng làm trung tâm hành quân (command posts), các tướng lãnh phải đi trên bộ để cùng chết với binh sĩ (Yes, but there is one condition. That is that your first order is to ban all use of helicopters as Command Posts. Put the damn generals on the ground to die with the troops.)
Trong “Lời Yêu cầu Đính Chính” đề ngày 8.6.2010, Ông Châu Kim Nhân viết:
“… Tôi muốn nhấn mạnh rằng ông Nguyễn Tiến Hưng đã hoàn toàn bịa đặt sự việc kể trên, là vì những điểm trên đều sai sự thật, tôi xin nêu ra dưới đây:
1. Ông đã bịa đặt và mạ lỵ cá nhân của tôi.
- Tôi khẳng định là tôi không hề gặp gỡ Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong trong thời gian từ 10/1974 – 30/04/1975;
- Tôi khẳng định là tôi không hề xin Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong giúp tôi nếu tôi giữ chức Tổng trưởng Quốc phòng. Năm 1975, tôi đang giữ chức Phụ Tá Thủ Tướng (cho TT Trần Thiện Khiêm) tôi không cần phải hạ mình đi xin xỏ một ông Tướng ngoại quốc, nhất là trong một giai đoạn khẩn cấp mà nước nhà đang lâm nguy, thì một người Tổng Trưởng hoặc là một vị Tướng lãnh nào có thể làm được việc vô liêm sỉ đó?
2. Coi thường một vị Tướng đồng minh và miệt thị Tướng lãnh Quân lực VNCH. Qua sự liên lạc giữa tôi và Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong, ông không bao giờ dùng chữ ‘damn generals’ để miệt thị những tướng lãnh của VNCH. Trong lúc các chiến sĩ Quân lực VNCH đã đổ bao nhiêu xương máu để bảo vệ nhân dân ta trong mấy mươi năm chiến tranh ròng rã thì ông Nguyễn Tiến Hưng đang sống ở Hoa Kỳ. Ông có biết rằng hai tuần lễ sau khi ông đã rời Việt Nam và đang ở Hoa Kỳ thì có năm Tướng lãnh VNCH đã tử tiết thay vì đầu hàng địch và một số Tướng lãnh khác như Tướng Lý Tòng Bá, Trần Quang Khôi, Lê Minh Đảo, đã chiến đấu với binh sĩ cho đến giờ phút cuối cùng khi được lệnh buông súng.
Sao ông nỡ lòng nào miệt thị Quân lực VNCH khi viết ra những câu bịa đặt, sai sự thật như trong trang 48 của quyển sách của ông.”
Ông Nguyễn Tiến Hưng đã lên tiếng trả lời Ông Châu Kim Nhân trong một bài dài chứng minh rằng ông không bịa đặt, những điều ông viết nơi trang 48 cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” đã được trích từ cuốn “There to the Bitter End” của Anne Blair viết về Tướng Ted Serong, một chuyên viên chống dấy loạn người Úc. Ông Hưng xác định: “Đây chỉ là hoàn toàn trích thuật theo cuốn sách nêu trên, chứ không phải tôi bịa đặt.”
Vì vậy, Ông Hưng không nghĩ rằng đã “mạ lị cá nhân” Ông Châu Kim Nhân. Ông Nguyễn Tiến Hưng viết:
“Nếu như ông Nhân (lúc ấy là Phụ Tá Thủ Tướng) được cứu xét để giữ chức Tổng Trưởng Quốc Phòng thì tôi thấy đó là một vinh dự cho cá nhân ông chứ tại sao lại cáo buộc tôi mạ lị? Lại nữa, nếu ông Nhân có hỏi Tướng Serong, một nhà quân sự nổi tiếng, lão thành, đã làm cố vấn cho cả CIA, Bộ Quốc Phòng Mỹ, TT Kennedy) để xem ông ấy có cố vấn cho mình về địa hạt quân sự được không thì cũng là chuyện bình thường, đâu có phải là ‘hạ mình xin xỏ một tướng ngoại quốc’ hay là một chuyện ‘vô liêm sỉ’.”
Ông Nguyễn Tiến Hưng cũng bác bỏ lời buộc tội của Ông Châu Kim Nhân cho rằng ông “miệt thị tướng lãnh Quân lực VNCH”. Ông nghĩ rằng Ông Nhân chưa đọc những gì Ông Hưng đã viết trong 24 năm qua về Quân lực VNCH. Qua những cuốn “Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập”, “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, và nay “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu”, ông đã cố gắng đưa ra những dữ kiện biết được và những tài liệu mới được giải mật để cho thấy sự cương quyết, ý chí và lòng can đảm của người lính VNCH đã chiến đấu mặc dù cán cân lực lượng đã thiên hẳn về phiá địch, do sự phản bội của đồng minh.
Ông Nguyễn Tiến Hưng kết luận bài trả lời Ông Châu Kim Nhân:
“Tóm lại, trong một cuốn sách tập trung vào chủ đề tâm tư của người lãnh đạo Miền Nam với 711 trang, chỉ có một câu vắn gọn (ở trang 48) trích từ một cuốn sách của một nghiên cứu gia người Úc là bà Anne Blair tại ‘National Center For Australian Studies’ của Đại học Monash, nước Úc, nói đến một chi tiết nhỏ, mà tôi không ngờ lại có thể đưa tới những lời cáo buộc hấp tấp, nặng nề như vậy của ông Nhân! Đây có thể là vì ông chưa có thì giờ đọc sách và đọc cho kỹ lưỡng những ghi chú của tôi, và cũng chưa có dịp tham khảo cuốn sách của bà Anne Blair viết theo cuốn nhật ký của Tướng Serong cùng với rất nhiều cuộc phỏng vấn kéo dài 18 tháng giữa bà và vị tướng này.”
Ngày 10.6 vừa qua, trong dịp gặp Ông Châu Kim Nhân tại Maryland, cùng với một bạn thân của ông, cựu Trung tá Không quân Lại Đắc Ngọc, ông đã khẳng định với tôi những điều Ông Nguyễn Tiến Hưng viết trong trang 48 cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” là không đúng sự thật.
Ông Châu Kim Nhân được biết như một người rất trọng danh tiết và cương trực. Trong những năm ông tham chính thời Đệ Nhị Cộng Hoà với chức vụ Tổng trưởng Tài Chánh rồi Phụ tá Thủ tướng, Ông Châu Kim Nhân được tiếng là một viên chức chính phủ thanh liêm, yêu nước nhiệt thành và tận tụy với nhiệm vụ. Thời ấy ông có danh hiệu là “thầy tu” trong nội các vì ông đã sống độc thân mà người ta nói rằng ông sợ có vợ sẽ khó giữ được liêm chính. Ông đã chỉ lập gia đình sau khi sang Mỹ tị nạn. Hơn 30 năm qua, Ông Châu Kim Nhân sống lặng lẽ, ít nghe nói đến, trừ một lần khi ông cầm bản thảo tập thơ “Hoa Địa Ngục” từ London về Mỹ đưa cho Ông Nguyễn Thanh Hoàng, chủ nhiệm tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong, theo lời yêu cầu của Ông Đỗ Văn ở Đài BBC.
Sau khi đọc bài trả lời của Ông Nguyễn Tiến Hưng, Ông Châu Kim Nhân vẫn nghĩ rằng ông là nạn nhân của một sự bịa đặt và mạ lị. Qua điện đàm với tôi ngày 13.6, Ông Châu Kim Nhân một lần nữa xác định ông không hề gặp Tướng Serong trong khoảng thời gian từ tháng 10.1974 tới cuối tháng 4/1975. Tuy Tướng Serong và ông có mối giao tình khá thân, nhưng chỉ tới nhà Tướng Serong tại Sài-Gòn khi được mời dự tiếp tân hay chơi ping-pong với ông Tướng Úc. Sau khi TT Nguyễn Văn Thiệu bác bỏ kế hoạch của Tướng Serong vào tháng 10.1974, Ông Châu Kim Nhân không có dịp gặp Tướng Serong. Về việc Ông Nguyễn Tiến Hưng nói rằng đoạn văn nơi trang 48 cuốn “Tâm Tư TT Thiệu” chỉ là trích dịch từ cuốn sách của Anne Blair và có ghi “footnotes”, Ông Châu Kim Nhân nói rằng ông không thấy “footnotes” nào cả ở cuối trang 48 nên người đọc có quyền nghĩ rằng đó là lời của tác giả Nguyễn Tiến Hưng. Vả lại, khi viết về sự kiện này liên quan đến Ông Châu Kim Nhân, hiện đang ở vùng ngoại ô Washington cùng với Ông Hưng, một tác giả cẩn trọng và có lương tâm nên cầm điện thoại phối kiểm với người liên hệ.
Vậy thì đâu là sự thật?
Tôi không có cuốn “There to the Bitter End” nên không thể kiểm chứng xem Bà Anne Blair viết gì về chuyện liên quan đến Ông Châu Kim Nhân, nhưng cho dù cuốn sách ấy có viết đúng như lời Ông Nguyễn Tiến Hưng trích dịch thì cũng chưa chắc chuyện đó có thật. Sau 30.4.1975, có rất nhiều sách ngoại quốc viết về Việt Nam mà nếu được kiểm chứng cẩn thận sẽ phát hiện nhiều điều không đúng sự thật do tác giả đã viết ra vì thành kiến, hay chỉ vì vô tình và muốn làm cho cuốn sách của mình có nhiều tình tiết ly kỳ. Riêng tôi đã có vài kinh nghiệm về việc này.
Vào dịp 30.4.1995, tôi có viết một bài về những cuộc chiến đấu cuối cùng của người lính VNCH, trong đó có trích dịch một đoạn về Tướng Nguyễn Khoa Nam từ cuốn “55 DAYS, The Falls of South Vietnam” của Alan Dawson trong đó nói rằng Tướng Nam đã bắn một viên tỉnh trưởng tại Sa Đéc vì người này trái lệnh của ông đòi bỏ theo cuộc di tản của người Mỹ (He shot a province chief at Sa Dec, just west of Can Tho, because the man insisted he was going to leave in the American evacuation) . Dawson cũng viết rằng khi viên đại tá tỉnh trưởng Kiên Giang bất tuân lệnh cố thủ của cấp trên và dùng tàu rời Rạch Giá đi về phiá nam, Tướng Nam đã cho ba chiếc phi cơ trực thăng đuổi theo chiếc tàu và bắn chìm với hoả tiễn và đạn súng máy (And when the colonel who was chief of Kien Giang province on the Gulf of Siam disobeyed the stand-and-hold orders from his commander and left Rach Gia city by boat to the south, Nam had three helicopters pursue the boat and sink it with rocket and machine gun fire).
Sau khi bài được đăng trên báo, tôi nhận được một bức thư của Chuẩn tướng Mạch Văn Trường cho biết những việc kể trên là sai sự thật vì Tướng Nam không bắn tỉnh truởng nào ở Sa Đéc và tỉnh trưởng Kiên Giang lúc ấy là Đại tá Vương Văn Trổ, hiện đã sang Mỹ theo chương trình HO sau 13 năm “cải tạo”.
Trong khi viết bài này, tôi đã tìm cách liên lạc với Đại tá Trổ và được ông xác nhận qua điện thoại ông đã ở lại Kiên Giang chứ không đi đâu cả, dù lúc ấy ông có đủ phương tiện để ra đi, kể cả phi cơ trực thăng. Ông cũng bày tỏ lòng tôn kính Tướng Nguyễn Khoa Nam và quả quyết ông Nam là một vị tướng đức độ, không bao giờ có hành động hung bạo như câu chuyện bịa đặt trong cuốn sách của Dawson mà không biết xuất xứ từ đâu và với mục đích gì.
Một trường hợp sai lầm khác, tuy không quan trọng, nhưng khá ngộ nghĩnh khi một tác giả Mỹ muốn chứng tỏ mình “thông thạo tiếng Việt”. Cách đây vài năm, tôi nhận được cuốn “Beyond Nam Dong” do tác giả Roger H. C. Donlon gửi tặng. Cuốn sách, với lời tựa của Tướng Westmoreland, được viết về những kinh nghiệm của tác giả, một đại tá hồi hưu, trong cuộc chiến và sau cuộc chiến Việt Nam. Nam Đông là một chiến khu của Việt Minh trước Hiệp định Genève 1954 nằm về phiá bắc tỉnh Thừa Thiên, giáp biên giới Lào. Khi Hà-nội phát động cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Nam, Nam Đông lại được sử dụng như một đầu cầu xâm nhập từ “đường mòn HCM”, và quân đội Mỹ đã thiết lập tại đây một căn cứ (Camp Nam Dong), đơn vị của Ông Donlon năm 1964. Trong cuốn “Beyond Nam Dong”, tác giả đã dịch Nam Đông ra Anh ngữ là “five cents”!
Và chắc nhiều người còn nhớ câu chuyện của Peter Arnett viết rằng trong vụ Tết Mậu Thân máy bay (Mỹ) đã dội bom phá huỷ thành phố Bến Tre với 300,000 dân cư chỉ vì 7 du kích VC ở dưới đất bắn vu vơ vài phát lên một chiếc máy bay.
Trở lại với câu chuyện về Ông Châu Kim Nhân trong cuốn “Tâm Tư TT Thiệu”, nếu như “footnotes” của Ông Nguyễn Tiến Hưng là chính xác, không có gì bảo đảm những điều Anne Blair viết trong cuốn “There to the Bitter End” là đúng sự thật. Nhiều người có thói quen coi những gì viết trong sách báo ngoại quốc là “chân lý” mà không một chút dè dặt. Đây là một thái độ cần xét lại.
Người ta có thể hiểu phản ứng mau lẹ và mang nhiều cảm xúc của Ông Châu Kim Nhân đã phát xuất từ một tâm tư trĩu nặng những nỗi đau buồn của một người từng mang trọng trách trong tấn bi kịch lớn của đất nước mà ông lại là người giàu tinh thần dân tộc và tự trọng.
Dĩ nhiên tâm tư của Ông Châu Kim Nhân không giống tâm tư Ông Nguyễn Văn Thiệu, người gánh trách nhiệm số 1 trong bi kịch 30.4.1975, vì vai trò khác nhau, cá tính khác nhau. Nhưng, có thể hai người cùng mang chung một nỗi cay đắng của thuỷ thủ đoàn trên một con tàu đã hết dầu giữa cơn dông bão ngoài khơi mà khó thể đổ lỗi cho ai.
Nỗi cay đắng này của Ông Nguyễn Văn Thiệu được Ông Nguyễn Tiến Hưng diễn tả như sau trong cuốn “Tâm Tư TổngThống Thiệu”: “Cái oái oăm là đang khi phải ôm lâý người đồng minh cho thật chặt thì ông lại trăn trở trong lòng về những hành động của người ấy, nay thế này mai thế khác, chẳng biết đâu mà lần. Rồi cuối cùng thì cũng phải chuốc lấy một niềm cay đắng, một sự tủi nhục khôn nguôi.”
Tôi đã đọc cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” và tự hỏi tác giả có phải cần tới 711 trang sách để viết về “tâm tư” ông Nguyễn Văn Thiệu có thể thu gọn trong vài dòng như trên? Hay nói cách khác: sao Ts. Nguyễn Tiến Hưng không chọn một nhan đề khác chính xác hơn và phù hợp hơn với nội dung cuốn sách, cũng từa tựa như hai cuốn trước – “Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập” và “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, những đám mây mù trong lịch sử?

Sơn Tùng
15.6.2010
*


NGUYỄN ĐẠT THỊNH * ĐIỂM SÁCH

*


Tâm Tư Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu



Bài viết cuả Nhà báo Quân đội Nguyễn Đạt Thịnh (BMH chuyển)


“Tâm tư tổng thống Nguyễn Văn Thiệu” là quyển sách mới nhất của ông Nguyễn Tiến Hưng; tác phẩm trước ông viết, “Hồ sơ mật dinh Ðộc Lập” đã tạo tín nhiệm với độc giả, do đó lần này tác phẩm mới của ông rất thành công, ngay trong buổi ra mắt tại Nam Calif. Ký giả Vi Anh viết, “Mười bốn năm ở Little Saigon chưa bao giờ người viết bài này thấy một cuộc ra mắt sách nào số người tham dư đông đảo, nghiêm trang như cuộc ra mắt sách “Tâm Tư Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu”
Ông Vi Anh kể, “Ngày Chủ Nhựt 16-5-2010, tại Rose Theater, Thành phố Wesminster, tác giả tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng từng là bộ trưởng kế hoạch, cố vấn ngoại giao cho cố TT Nguyển văn Thiệu ra mắt sách “Tâm Tư Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu”.
Ông Hưng là người làm việc gần gũi TT Thiệu khi ở trong nước, và khi ra hải ngoại tới lui rất thường với TT sau 75. Có thể nói ông là một nhân chứng sống, hiểu biết tường tận tâm tư TT Thiệu đối với đồng minh Mỹ.”
Vi Anh mô tả chi tiết cuộc ra mắt sách,“ khoảng 650 ghế trong hội trường ngồi đầy cả, mà nhiểu người còn đứng lắng nghe phía sau. Trong bài nói chuyện có vẻ hàn huyên tâm sư, tâm tình với nhau hơn là diễn thuyết, hay diễn giảng, tác giả tâm tình tâm sự cứu cánh của Ông khi viết quyển “Tâm Tư Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu”, Ông muốn cho lớp trẻ người Mỹ gốc Việt ở quê hương thứ hai là nước Mỹ này rút kinh nghiệm. Tại sao một chánh quyền qui mô như Mỹ lại có một lổ hỏng trong thòi kỳ chiến tranh như Chiến tranh VN. Cái lổ hỏng đó Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng gọi là hiện tượng Kissinger (phenomenon Kissinger – chữ phenomenon (Anh), phénomène (Pháp) hiểu theo nghĩa một thứ kỳ quặc. Kỳ quặc nhưng đóng một vai trò quan trọng cho sư sụp dổ VNCH. Phần dẫn nhập của Ts Hưng làm cho người nghe liên tưởng đến những câu hết sức quen thuộc trong tập thề người Mỹ gốc Việt lâu nay, làm kẻ thù Mỹ thì dễ làm bạn với Mỹ thì khó.”

Chưa được đọc quyển “tâm tư tổng thống Nguyễn Văn Thiệu”, nhưng tôi biết nhiều khó khăn, nhục nhã của ông Thiệu qua quyển “Hồ sơ mật dinh Ðộc Lập”.
Mặc dù thương cảm cho cái yếu thế của vị tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, trong cảnh lãnh tụ một quốc gia nhược tiểu đi xin, rồi nhận, và cố giữ viện trợ Mỹ cho đất nước mình vừa nghèo đói, vừa lâm nguy trước cuộc chiến tranh xâm lược của Việt Cộng, nhưng tôi vẫn không đồng ý với tác giả về việc vẽ chân dung ông Thiệu qua một góc duy nhất: góc đối ngoại, cắn răng chịu nhục với những chính phủ Hoa Kỳ, người đồng minh thiếu tín nghĩa, không tôn trọng danh dự, hèn nhát bỏ chiến trường tháo chạy.
Ông Hưng biết rất rõ là ngoài bức chân dung “người đồng minh bị phản bội”, ông Thiệu còn một vai trò nữa: ông là tổng thống của một quốc gia 30 triệu dân, và là tổng tư lệnh của một quân đội 1 triệu quân nhân, đã chiến đấu trong suốt vài chục năm dưới quyền ông, từ lúc ông là một thiếu úy cho đến lúc ông trở thành một tướng lãnh tư lệnh sư đoàn, quân đoàn, rồi tổng tư lệnh quân đội.
Ông đã làm những gì để 30 triệu người dân Nam Việt được tiếp tục sống trong tự do, và để 1 triệu người lính dưới quyền ông có thể chiến đấu bất khuất dù không có viện trợ Mỹ.

Ðó chỉ là một trong nhiều nhận định của tôi về tổng thống Thiệu; trong những năm ông còn sống tôi đã viết rất nhiều bài báo chỉ trích việc ông, một tổng tư lệnh, bỏ chạy, an toàn đem toàn bộ gia đình ra ngoại quốc, trong lúc quân đội còn đang giao tranh với địch và đang thất thế vì lỗi lầm chiến lược và chính trị của ông. Tôi không muốn dùng những chữ nặng hơn chữ “lỗi lầm”.
Có lần nhân khi ông tuyên bố tại hải ngoại là ông sẵn sàng đóng vai quyển từ điển sống về chiến tranh Việt Nam cho bất cứ người Việt nào muốn hỏi về cuộc chiến này, tôi đã viết bài xin ông mở quyển từ điển đến chữ “T” để cùng thảo luận với tôi về “tỉnh lộ 7b” và cuộc rút lui thê thảm ngày 15 tháng Ba, giúp Văn Tiến Dũng tiêu diệt toàn bộ lực lượng của Quân Ðoàn 2, sau khi ông Thiệu đã lột hết vũ khí nặng của họ.
Giờ này ông Thiệu không còn nữa, tôi xin thảo luận với ông về cuộc rút quân mà ông ghi nhận không chính xác, phê phán bất công.
Ðiều không chính xác thứ nhất, trên trang 444 của quyển “HỒ SƠ MẬT DINH ÐỘC LẬP”, ông viết như sau, “Toàn bộ sư đoàn 23 bộ binh đã được điều động về Pleiku: việc phòng thủ Banmethuột giao lại cho một liên đoàn Biệt Ðộng Quân và Ðịa Phương Quân, phần lớn gồm dân Thượng. Tướng Phú ở lại Pleiku, cách Ban Mê Thuột 94 dậm về phía Bắc. Khi địch tấn công Ban Mê Thuột ông ta bị cô lập hoàn toần và không thể điều động SÐ 23BB để chiếm lại thế thượng thủ được nữa.”
Chi tiết này hoàn toàn sai, tướng Phú không hề có toàn bộ SÐ 23BB tại Pleiku; và một trung đoàn của SÐ này, trung đoàn 53, do trung tá Ân chỉ huy vẫn phòng thủ BMT, cả vị tư lệnh phó SÐ, đại tá Nguyễn Thế Quang, cũng có mặt tại thành phố này, thành phố từ 1975 đã trở thành Buồn Muôn Thủa đối với người Việt lưu vong.
Tối mùng 9 tháng Ba, tư lệnh QÐ 2, thiếu tướng Phạm Văn Phú, còn đáp trực thăng xuống BMT, đi thanh tra hệ thống phòng thủ của phi trường Phụng Dực, căn cứ tử thủ sau này của trung đoàn 53. Ông và đại tá Quang, trung tá Ân đã thảo luận rất lâu về phương thức phòng thủ của một trung đoàn, chống lại 3 sư đoàn bộ binh địch, có một lực lượng pháo binh và thiết giáp hùng hậu yểm trợ.
Nói cách khác là cuộc tấn công BMT không hề là một bất ngờ chiến thuật đối với những giới chức quân sự tại QK II, mặc dù nó là một bất ngờ chiến lược cho vị tổng tư lệnh quân đội tại Sài Gòn, trung tướng Nguyễn Văn Thiệu.
Tại Pleiku, thiếu tướng Phú chỉ có một trung đoàn 45 (trú đóng tại căn cứ Hàm Rồng); sáng ngày 14 tháng Ba 1975, đại tá Phùng Văn Quang, trung đoàn trưởng, được lệnh đưa trung đoàn về giải cứu BMT. Ðêm hôm trước, ông Phú chỉ thị cho ông Quang võ trang tối đa súng chống chiến xa cho chiến sĩ trong nhiệm vụ tái chiếm BMT, vì trung tá Ân đang đối phó với vài chục chiến xa quanh phi trường Phụng Dực.
Quân nhân trong trung đoàn háo hức chờ trực thăng đến căn cứ Hàm Rồng đón họ, họ háo hức trong nhiệm vụ vô cùng thiết thân là giải cứu BMT, nơi có hậu cứ của trung đoàn với toàn bộ vợ con họ ở đó. Bà đại tá Quang, mặc quân phục của chồng, cũng xách theo một khẩu M 72. Ông bà còn 2 đứa con sống trong thành phố đang lọt vào tay giặc.
Tôi dài lời mô tả cuộc hành quân “tái chiếm” BMT là để ông thấy tướng Phú không hề có nguyên cả SÐ 23 BB tại Pleiku, nếu có ông đã không đưa chỉ 1 trung đoàn xuống đánh 3 sư đoàn Việt Cộng. Hy vọng ông thấy đây là biện pháp tuyệt vọng của vị tư lệnh Quân Ðoàn 2.
Sáng 14 tháng Ba chính tướng Phú đã có mặt tại Hàm Rồng, kiểm điểm vũ khí chống chiến xa của binh sĩ trước lúc đoàn trực thăng đầu tiên cất cánh; sau đó ông đi Cam Ranh phó hội.
Tại đây ông xin hai vị tướng cấp trên của ông, một vị là tổng tư lệnh Nguyễn Văn Thiệu, vị kia là tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên tăng viện cho QK II (trang 447). Ông Nguyễn Tiến Hưng, viết, “Ông ta xin thêm quân tăng cường và trực thăng, nhưng được Viên cho biết quân trừ bị đã xử dụng hết rồi,” câu trả lời này khiến tôi viết ở đoạn trên là dù trên cấp chiến thuật, tướng Phú không bị bất ngờ vì cuộc tấn công BMT, nhưng BMT đã là một bất ngờ chiến lược cho tổng tư lệnh Nguyễn Văn Thiệu.
Bất ngờ này được nhìn thấy rõ qua câu trả lời của đại tướng Viên khi ông nói lực lượng tổng trừ bị của Việt Nam “đã bị xử dụng hết rồi.”
Lực lượng TTB là quân xe, quân pháo trên bàn cờ chiến tranh Việt Nam; năm 1972 chính lực lượng này đã tự xé thành 3 cánh để giữ vững cả 3 mặt trận Quảng Trị, Kontum và An Lộc.
Nhưng tháng Ba 1975 “quân trừ bị đã xử dụng hết rồi” là xử dụng ở đâu?
Tháng Giêng 1975 khi Việt Cộng tấn công tỉnh Phước Long để thử nghiệm phản ứng của Hoa Kỳ và của VNCH, thì tướng Viên cũng không có lực lượng tổng trừ bị để đưa vào cứu viện Phước Long; ông phải dùng đến Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Nhẩy Dù, một đơn vị chuyên tác chiến sau phòng tuyến địch, và tác chiến bằng những đơn vị cấp nhỏ.
Trả lời một câu hỏi của truyền thông về việc không xử dụng lực lượng Nhẩy Dù như thường khi, trung tướng Dư Quốc Ðống nói toàn bộ sư đoàn NDù bị “kẹt” ngoài giới tuyến vì điều khoản cấm chuyển quân của thỏa ước Ba Lê 1973. Ông kể lại việc ông đưa một tiểu đoàn ND về Long Bình dưỡng quân, thì bị Việt Cộng phản đối với người Mỹ, và Mỹ yêu cầu ông đưa tiểu đoàn vừa về miền Nam trở ra miền Trung.
Tôi còn biết một giai thoại khác chứng minh việc các cấp chỉ huy chiến lược của VNCH bị bất ngờ vì cuộc tổng tấn công 1975 của địch.
Giai thoại đó là một sĩ quan Việt Nam, sau trận Phước Long và sau tiết lộ của trung tướng Ðống, đã viết phiếu trình lên đại tướng tổng tham mưu trưởng đề nghị thiết lập một lực lượng tổng trừ bị thứ nhì, tăng cường cho 2 sư đoàn tổng trừ bị -Nhẩy Dù và TQLC- bị bất động vì lý do chính trị.
Phiếu trình nói rõ là với gần 50 tiểu đoàn BÐQ tinh nhuệ, VNCH có thể thành lập 4 sư đoàn tổng trừ bị, sau khi võ trang cho họ thêm thiết giáp và pháo binh. Nếu có 4 sư đoàn này, tướng Viên đã không phải trả lời tướng Phú bằng 2 chữ “hết quân” khiếp đảm; khiếp đảm vì không có tăng viện trung tá Ân với trung đoàn 53 của ông, đại tá Quang với trung đoàn 45 của ông, dù có tài giỏi đến đâu cũng không chống cự nổi với 3 sư đoàn địch.
Xin nhắc lại thời điểm của trận Phước Long là tháng Giêng 1975, lúc chúng ta còn nguyên 3 tháng trời để tái tổ chức lực lượng tổng trừ bị. Cuối tháng Ba đại tướng Frederic Weyand được tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford cử sang Việt Nam để khuyến cáo một giải pháp.
Weyand, vị tư lệnh cuối cùng của lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam, là vị tướng tương đối trẻ (vào những năm ông phục vụ chiến trường Việt Nam), có nhãn quan chiến lược, và cũng là người đã bất đồng ý kiến với tướng Westmoreland về mục tiêu tấn công của Việt Cộng trong trận Mậu Thân. Westmoreland đưa quân ra biên giới và Khe Sanh để chờ một Ðiện Biên Phủ tái diễn năm 1968, trong lúc Weyand giữ một lực lượng của Chiến Ðoàn 2 do ông chỉ huy lại Long Bình; do đó ông là lực lượng Hoa Kỳ đầu tiên giúp quân lực VNCH đánh bật Việt Cộng ra khỏi Sài Gòn.
Ðến Việt Nam lần chót, Weyand khuyến cáo VNCH nên sử dụng những tiểu đoàn, liên đoàn BÐQ để thành lập tổng trừ bị. Nhưng thời gian quá cấp bách và thế giặc đuổi sát sau lưng, chúng ta không còn thì giờ nữa.
Một điều nữa tôi muốn viết về việc trận BMT bị trình bầy sai lệch trong quyển HÔ SƠ MẬT DINH ÐỘC LẬP là câu ông Hưng viết trên trang 447, “Thiệu ra lệnh cho Phú rút lui khỏi Pleiku để tái chiếm BMT, và trên trang 448, “Quân Ðoàn II sẽ triệt thoái khỏi Pleiku và Kontum, tập trung lại tại Tuy Hòa, rồi tiến đánh BMT.”
Không phải là một quân nhân, ông Hưng có thể lầm về điểm này, vì muốn tái chiếm BMT, thì Tuy Hòa không thuận lợi bằng Pleiku. Tôi nghĩ ông Hưng viết câu này chỉ để bênh vực quyết định sai lầm của ông Thiệu là triệt thoái Cao Nguyên, quyết định đưa đến việc mất nước.
Tướng Phú cũng đã nỗ lực tái chiếm BMT ngay ngày ông xuống Cam Ranh phó hội với ông Thiệu; nếu lực lượng ông đến Hàm Rồng sáng hôm 3/14 để thị sát trước khi đưa vào chiến trường là sư đoàn Nhẩy Dù hay sư đoàn TQLC thì tình hình đã khác hẳn. Nhưng Sài Gòn thản nhiên trả lời ông là toàn bộ lực lượng tổng trừ bị bận việc khác, quan trọng hơn công tác cứu viện BMT.

Chỉ riêng việc Phước Long thất thủ, rồi BMT bị tấn công mà chính phủ VNCH vẫn không dám vi phạm hiệp định Ba Lê, rút hai sư đoàn Nhẩy Dù và TQLC từ giới tuyến trở về Sài Gòn để đảm nhiệm vai trò tổng trừ bị tối cần thiết cho giai đoạn quyết định của chiến trường, thì quả khó tìm được chữ để mô tả tâm trạng của tổng tư lệnh Nguyễn Văn Thiệu trong giai đoạn này.
Ấy là chưa bàn đến lệnh của ông Thiệu bắt Quân Ðoàn 2 rút quân bằng tỉnh lộ 7b, con đường bỏ phế từ sau năm 1954, không còn cây cầu nào nguyên vẹn, khiến lực lượng rút lui bị tước hết vũ khí nặng, bỏ lại bên bờ sông, bờ rạch, ngay tại cây cầu gẫy đầu tiên.

Ông Nguyễn Tiến Hưng đã thành công trong buổi ra mắt quyển “Tâm tư tổng thống Nguyễn Văn Thiệu”, vì số tài liệu phong phú và đặc biệt ông trích dẫn trong quyển HỒ SƠ MẬT DINH ÐỘC LẬP. Là một tác giả khoa bảng biết cách viết một quyển sách tài liệu, ông còn là một người thân tín của ông Thiệu, được ông này trao lại toàn bộ hồ sơ cất giữ nhiều năm tại lầu 3 dinh Ðộc Lập.
Hai yếu tố này giúp ông thành công, nhưng ngoài giá trị đơn thuần của những tài liệu lịch sử, nhiều dữ kiện khác liên quan đến chiến tranh đã bị ông diễn dịch không đúng, dù ông cố ý hay không.
Trận đánh BMT là một thí dụ.
Nguyễn Ðạt Thịnh

*



TƯỢNG NỮ THẦN TỰ DO

*


Hà Nội từng có tượng Thần Tự Do trên nóc Tháp Rùa?

*

Có lẽ ít người biết rằng Hà Nội cũng đã từng có một tượng Thần Tự Do giống hệt như tượng Thần Tự Do ở New York (Mỹ) nhưng với kích thước nhỏ hơn.
Tượng Thần Tự Do ở Hà Nội




Tượng Thần Tự Do trên nóc Tháp Rùa do R. Duboil chụp.


Khi trao tặng tượng Thần Tự Do khổng lồ cho nước Mỹ, người Pháp có giữ lại cho mình một phiên bản nhỏ (cao 11 mét) cũng bằng đồng, đặt cạnh chiếc cầu bắc qua sông Seine. Đồng thời cũng có một phiên bản khác nhỏ hơn nữa, (chiếm tỷ lệ 1/16 của pho tượng chính, tức khoảng 2,85m). Phiên bản này đưa sang triển lãm tại Hội chợ Đấu xảo Hà Nội (nay là Cung văn hóa Hữu Nghị Việt - Xô) năm 1887. Triển lãm xong, pho tượng được tặng cho Hà Nội và được dựng tại vườn hoa Cửa Nam trước khi bị giật đổ lúc 9 giờ 40 ngày 1/8/1945.

Khi làm pho tượng tặng cho nước Mỹ, Bartholdi đã khéo léo giải quyết vấn đề giãn nở của kim loại qua tấm váy lòe xòe của pho tượng. Người Hà Nội lúc ấy không quan tâm đến lịch sử của pho tượng mà chỉ gọi là tượng "Bà đầm xòe".


Cho tới nay người ta mới chỉ biết đến tượng Bà đầm xòe đặt ở vườn hoa Cửa Nam trước Cách mạng tháng Tám. Vào cuối thế kỷ XIX, trước khi người Pháp cho chuyển pho tượng này đến đây, chỗ ấy là Quảng Văn Đình, nơi triều đình nhà Nguyễn cho tụ họp mọi người đến nghe giảng về các chủ trương, thông báo của triều đình. Khi đưa tượng Bà đầm xòe sang đây, nơi này đã biến đổi. Người ta có câu ca:

"Nhớ Quảng Văn Đình tớ đến nghe

Câu Kê chẳng thấy, thấy Đầm xòe
Thập điều bặt tiếng ê a giảng
Choáng óc kèn tây rúc tí toe..."
Ít người biết rằng trước khi được chuyển đến vườn hoa Cửa Nam, tượng Đầm xòe còn có một vài lần dịch chuyển khác, và nó đã từng được đặt trên nóc Tháp Rùa.

Số là sau khi trưng bày ở Triển lãm Đấu Xảo Đông Dương, pho tượng được đặt ở vườn hoa trước cửa nhà Ngân hàng Đông Dương, tức vườn hoa Chí Linh, nơi đặt tượng Lý Thái Tổ bây giờ. Dịp quốc khánh nước Pháp 14/7/1890, Chính phủ Bảo hộ muốn đặt ở đây tượng Paul Bert (Người Việt gọi là Pôn Be) là thống sứ đầu tiên của Nhà nước bảo hộ, chết năm 1886 ở Hà Nội. Người Pháp lấy chỗ của tượng Thần Tự Do để làm chỗ cho tượng Paul Bert. Vậy là phải tìm một chỗ khác để đặt tượng Thần Tự Do.


Có ý kiến đề xuất là đặt ở chỗ ga xe điện Bờ Hồ trước đây, nay là đài phun nước trước nhà Thủy Tạ và đầu phố Hàng Đào. Nhưng một kỹ sư Pháp là Daurelle đề nghị đặt ngay trên nóc Tháp Rùa mà người Pháp gọi là Ngôi đền nhỏ (Pagodon) hay Qui Sơn Tháp (Tour de l ' ile de la Tortue). Chi tiết này được viết rất rõ trong cuốn "Bắc Kỳ xưa" (Le vieux tonkin) của Claude Bourrin, viết về xứ Bắc Kỳ trong các giai đoạn từ 1890 đến 1894 (nhà in IDEO, Hà Nội, 1941, tr. 48-49).

Lúc ấy báo chí Pháp thảo luận rất nhiều về vị trí đặt pho tượng này. Có nên đặt nó trên nóc Tháp Rùa không? Và nếu đặt thì tượng Thần Tự Do sẽ quay mặt về hướng nào? Cuối cùng thì tượng Thần Tự Do vẫn được đặt trên nóc Tháp Rùa, mặt quay về vườn hoa Paul Bert, tức quay về tượng Lý Thái Tổ bây giờ, lưng quay về phía Nhà Thờ Lớn.


Có 2 tấm hình trong cuốn sách "Bắc kỳ xưa" minh họa cho điều đó. Hình thứ nhất là toàn cảnh Hồ Gươm, nhìn từ phía tượng Pôn Be, cho thấy Tháp Rùa, trên có tượng Thần Tự Do (hình này lấy từ báo L' Indépendance tonkinoise, số đặc biệt, ra tháng 7/1891. Hình thứ hai là hình Thần Tự Do, do Césard vẽ, phía sau có Nhà Thờ Lớn, với ghi chú "Liberté sur le Pagodon du Petit - Lac à Hanoi" (Tượng Tự Do trên nóc Tháp Rùa ở Hà Nội). Hình này được đăng trong báo La Vie Indochinoise, tháng 12 năm 1896. Điều này cho thấy ít nhất Tượng Tự Do cũng đã nằm trên nóc Tháp Rùa trong 6 năm, từ 1891 đến 1896, trước khi được chuyển về vườn hoa Cửa Nam và mang tên "Bà Đầm xòe".
Bản tin trên báo Đông Pháp ngày 2/8/1945 cho biết, pho tượng "Bà đầm xoè" bị giật đổ 9 giờ 45 phút ngày 1/8/1945.

Năm 1945, trước khi Cách mạng tháng 8 nổ ra, ngày 31/7/1945, thị trưởng Hà Nội của Chính phủ Trần Trọng Kim lúc ấy là Trần Văn Lai, có lẽ đã không biết đến ý nghĩa lịch sử của pho tượng, nên đã liệt "Bà Đầm xòe" vào số những tàn tích nô lệ của thực dân Pháp và ký lệnh cho giật đổ pho tượng này cùng một số tượng khác, trong đó có tượng Pôn Be. (Theo bản tin trên báo Đông Pháp, 2/8/1945. Xem ảnh).


Tượng Tự Do là một công trình nghệ thuật và kiến trúc tuyệt đẹp của nước Pháp tặng cho nước Mỹ nhân dịp kỷ niệm 100 năm bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ. Chúng ta khó mà ngờ rằng Hà Nội đã thực sự có một phiên bản thu nhỏ của pho tượng, và nó đã từng đứng trên nóc Tháp Rùa.
Tượng Thần Tự Do là một biểu tượng nổi tiếng của nước Mỹ. Đó là pho tượng rỗng, bằng đồng, cốt thép lớn vào loại nhất thế giới. Tượng cao 46m, nặng 204 tấn được đặt đứng trên một bệ cao 45,7m tại một cù lao nhỏ nhìn ra cảng New York.

Tất cả các tàu bè và hành khách ra vào cảng đều có thể từ xa nhìn thấy pho tượng đứng sừng sững, với bàn tay phải cầm bó đuốc giơ lên cao mà từ đó tượng có tên đầy đủ là "Tự do soi sáng thế giới" (La Liberté éclairant le monde).

Sự ra đời của pho Tượng Thần Tự Do để tặng cho nước Mỹ có nguồn gốc như sau: nhà điêu khắc Bartholdi của Pháp vốn đã nổi tiếng ngay từ khi còn trẻ. Năm 22 tuổi, ông đã được tặng huân chương cao quý nhờ dựng một trong những vị tướng nổi tiếng của quân đội Napoléon.


Nước Pháp đã từng ủng hộ Mỹ trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Năm 1865, trong một buổi họp mặt tại nhà của nhà sử học Pháp Eduard de Laboulaye, khi nói tới việc hầu tước Lafayette của Pháp đã chiến đấu dũng cảm để bảo vệ cách mạng Mỹ, Laboulaye đã đề nghị dựng một bức tượng khổng lồ để kỷ niệm chiến thắng của nước Mỹ trong cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập. Nhiệm vụ này được giao cho Bartholdi thực hiện.
Bartholdi bắt tay vào công việc này từ năm 1875, một năm trước lễ kỷ niệm 100 năm Ngày Độc lập 4/7/1776 của nước Mỹ. Nhưng ông không thể hoàn thành ngay công việc của mình. Ông đã phải sang Mỹ vài lần để chọn chỗ đặt bức tượng. Chỗ đặt được chọn là cảng New York. Bức tượng có cánh tay phải cầm cây đuốc rực sáng coi như ngọn đèn pha của cảng. Như vậy pho tượng phải có độ cao như một ngọn đèn pha trên bệ. Riêng cánh tay giơ bó đuốc đã dài tới 12m, ngón trỏ dài 2,4m, cái đầu tính từ cằm tới vuơng miện cao 5m, riêng cái miệng rộng 1m.


Bức tượng dự kiến làm bằng đồng, cao 46m. Nhưng khi thiết kế bản vẽ xong, vấn đề nảy sinh là làm sao nó có thể đứng vững trước gió bão của biển cả ở cảng New York. Khó khăn này được giải quyết nhờ sự trợ giúp của công trình sư tài ba Eiffel, người đã dựng tháp Eiffel nổi tiếng. Eiffel đã đề nghị dựng một khung bằng thép làm giá đỡ bên trong của pho tượng, đủ nhẹ để không ảnh hưởng đến bệ pho tượng và đủ vững để chống chọi với phong ba. Tượng được ghép bằng những lá đồng sẽ phải cách ly với khung thép bằng những tấm cách điện để tránh hiệu ứng pin kim loại làm rỉ chỗ ghép do hơi nước biển gây nên.

Ngày 4/7/1884, tại Paris đã diễn ra lễ trao tặng bức tượng cho nước Mỹ. Gần một năm sau, tháng 5/1885, bức tượng được tháo rời, xếp vào 214 công-ten-nơ, đưa lên tàu chiến Pháp để sang Mỹ. Tháng 4/1886 bệ tượng ở New York được dựng xong và công việc ghép tượng bắt đầu. Tháng 10/1886, trước sự chứng kiến của các quan chức cao cấp Pháp và Mỹ, tấm khăn phủ tượng Thần Tự Do được long trọng kéo xuống. Một trăm năm sau, năm 1986, người Mỹ cùng với tổng thống R.Reagan đã kỷ niệm trọng thể 100 năm tượng Thần Tự Do.

*

DƯƠNG THỊNH * TRUYỆN NGẮN

*





NHỮNG CON CÀO CÀO XANH


Tác giả, 63 tuổi, là cư dân Westminster, thành phố Little Saigon. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là chuyện một cựu tù nhân chính trị đến Mỹ theo diện HO-8 đi tìm gặp vợ con sau nhiều cuộc đổi đời.
Đứng trong hàng rào kẽm gai của khu thăm nuôi. Bé Mai cố nhướng mắt để tìm người cha thân yêu của mình trong số những đoàn người gầy guộc, xanh xao, vàng vọt đang lếch thếch cất bước trên đường về trại tù. Với ánh nắng trưa hè gay gắt,mọi nguời đi thăm nuôi đều đứng trong mái hiên ngẩng cổ nhìn ra. Riêng bé Mai bất chấp những tia sáng nóng đang rọi trên đôi má ửng đỏ, những giọt mồ hồ đang rịn trên trán. Cô bé cố giơ cao những con cào cào xanh hướng về phía đoàn người đang lần lượt đi qua, hầu mong cha của mình sẽ mau chóng nhận ra. Ông Sinh đã nhận ra con gái , ông giơ cao lon gô vẫy vẫy. Bé Mai sung sướng reo lên : “Má ơi. Con thấy ba rồi! Con thấy ba rồi !


Đoàn tù vẫn bình thản bước lên đồi. Ông Sinh vừa đi vừa ngoảnh cổ lại đằng sau nhìn con.Khi không còn thấy hình bóng cha nữa, bé Mai mới chịu chạy lại bên mẹ thút thít khóc.


Thiếu phụ rút khăn tay lau mồ hôi trên trán con, vuốt mái tóc bé an ủi :

“Nín đi con, tí nữa mẹ con mình gặp cha rồi.” Thời gian thăm nuôi thật ngắn ngủi, chỉ mười năm phút. Ông Sinh chỉ kịp ôm con vào lòng, hôn lên má con. Hỏi han vợ năm ba câu, chẳng nói được gì nhiều, đã gần hết giờ. Mọi người trong phòng thăm nuôi chỉ biết nhìn nhau khóc và khóc. Đến gìơ. Tên cán-bộ oắt con quơ quơ khẩu súng AK. về phía mọi ngừời: “ Đã hết giờ, yêu cầu mọi người đứng lên ra về.” Ông Sinh vội vàng nắm chặt hai bàn tay vợ và ôm hôn con lần cuối, sách bị gói lương khô cùng mấy con cào cào theo chân mọi người ra cửa.


Ngồi trên chuyến xe lô trở về thành phố, hầu hết là những bà vợ đi thăm nuôi chồng, họ đều mệt mỏi trong cuộc hành trình dài. Phần vì đường xa, phần vì phải thức khuya dậy sớm để nấu thức ăn, giờ đây tất cả đều cố nhắm mắt thiu thiu ngủ dưỡng sức.

Riêng bé Mai không tài nào ngủ được, dù rất muốn ngủ và mệt mỏi. Hình dáng của người cha luôn luôn lởn vởn trong trí óc bé, than hình gầy gò, đen đủi cùa ông khác xa với hình dáng trắng trẻo, hồng hào, mập mạp trước kia rất nhiều. Bé là người được cha thương yêu nhất. Đêm nào ông cũng ru bé ngủ, kể truyện cho bé nghe, trước khi rời khỏi phòng ông không quên hôn lên nút ruồi son trên cổ bé, mà ông thgường gọi đùa là : Nốt ruồi mang đến nhiều sự may mắn.”


Ông có đôi bàn tay rất khéo léo và nghệ thuật. Chính ông đã dậy cho bé xếp hình những con thú, đồ vật bằng giấy nhất là thắt hình những con cào cào bằng lá dừa non thật là tuyệt, trông chúng đẹp, hung dũng, oai phong biết bao! Bé rất thích và thường thắt để tặng bạn bè, vì thế chúng thường chọc và gọi bé lá con cào cào xanh.Biệt hiệu này bé rất thích và thường hay kể lại với cha. Ông nói con cào cào xanh với đôi chân cứng cáp, nhẩy xa, biểu hiện cho sự tương lai vững chắc. Cha muốn con gái của cha sau này cũng giống như những con cào cào này.


Riêng ông Sinh, ông không thể không cầm được nước mắt khi nhìn giỏ quà của vợ con. Sau gần hai năm tù cải tạo, đây là lần đầu tiên ông được thăm nuôi. Giỏ qùa dù ít nhưng nó đã gói ghém biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, tình thương của gia đình, dù ít nhưng ông rất ấm lòng. Nhất là mấy con cào cào xanh, nhìn chúng ông cảm thấy vui vui và xao xuyến trong lòng. Cô bé không biết đã bỏ biết bao nhiêu công sức, tình thương yêu gói trọn vào đó để dành cho cha. Nghĩ tới đó tim ông như thắt lại.



Đây là lần đầu và cũng là lần cuối ông gặp mặt vợ con. Kể từ ngày thăm nuôi cho tới mấy năm sau này, ông không hề nhận được bất cứ tin tức gì về gia đình. Lòng ông như rối bời, tâm tính như mất trí, thân xác kiệt quệ. Mấy lần ông đã ngã qụy, tưởng không thể sống nổi, may nhờ bạn bè an ủi, giúp đỡ về vật chất cũng như tinh thần , ông đã qua khỏi.
Cuộc sống tù đầy cứ như thế: Chịu đựng, đau khổ, đói khát. Cho tới cuối năm 1981 ông được thả về. Ra khỏi tù , ông không còn nơi nương tựa. Theo chòm xóm cho biết : Vợ con ông đã vượt biên năm 1976. Gia đình bên vợ thì đã bán nhà dọn đi nơi khác, không biết biệt tích nơi đâu. Còn bên ông thì không có ai cả, vì ông vô Nam chỉ có một mình khi ông mới mười hai tuổi. Thế là hết ! không biết đâu mà mò.



Điều làm ông lo âu nhất, là vợ con ông có thật sự đi vượt biên không, hay là tin đồn nhảm? Nếu đúng như vậy, liệu có thoát không? Hay là đã bị…..ông không dám nghĩ tiếp. Nếu thoát, tại sao không gửi thư về để cho ông biết tin Những câu hỏi tại sao ?....tại sao?...làm cho ông điên đầu. Hiện giờ ông mù tịt, và cũng không hiểu vì sao.?

Ra khỏi nhà tù nhỏ, ông lại vô nhà tù lớn. Cũng lao động thân xác để kiếm miếng ăn, cũng phải học tập, trình diện hàng tháng. Người ông càng ngày càng tiều tụy, nhưng ông phải ráng sống để có ngày gặp lại mặt vợ con May mắn nhờ một người bạn tù cùng chung một tổ trong trại tù, đưa ông về nhà cho tá túc qua ngày, cùng chỉ ông cách thức vá giầy, dép cũ. Cuộc sống của ông cũng tạm đủ.




Dạo này trời Sài-Gòn hay đổ những cơn mưa bất tử, làm ông Sinh dọn hàng ra, vô muốn bở hơi tai. Hai năm sau này công việc làm ăn của ông đâm khá ra. Giầy dép cũ mới, chôm chỉa gì ông cũng mua tuốt luốt, đem sửa chút ít, dánh bóng lại bán được gíá cao. Một người khách đi đến gian hàng ông. Ngắm nghía lựa một đôi, sỏ vừa chân,, cầm lên hỏi : “Bác , Đôi này bao nhêu?”

Đang cúi lau giầy, ông vội vàng ngửng đầu lên định trả lời. Nhưng thấy người khách ông bỡ ngỡ, cảm thấy rất quen nên chưa kịp đáp. Người thanh niên thấy mặt ông cũng giật mình lùi lại, trợn mắt như gặp phải ma. Cậu ta định thần nhìn kỹ. Vội hỏi : “Xin lỗi, xin lỗi. Bác có phải…..phải tên Sinh không?”. Cũng vừa kịp lúc ông Sinh nhận ra người khách lạ, chẳng ai khác hơn chính là cậu em vợ của mình. Như bắt được vàng. Ông Sinh rối rít dọn hàng không bán nữa.
Hai anh em kiếm một quán cà phê ngồi tâm sự
. Thì ra vợ con ông đi vượt biên thực sự, hiện định cư ở Mỹ. Vợ ông đã có chồng khác và đã có hai con, một trai, một gái. Cha mẹ vợ đã bán nhà ở thành phố, dọn về quê ở. Mấy năm nay ông bà vẫn đều đặn nhận được tiền bạc do con gái chu cấp hàng tháng, và hiện cậu em trai vẫn còn ở với cha mẹ. Không hiểu vì lý do gì, cố ý hay có uẩn khúc gì khác, ông bà lại báo với con gái là ông đã chết trong trại tù.




Ngay ngày hôm sau. Ông Sinh cùng cậu em vợ vội đáp xe đò về thăm gia đình vợ. Chuyến thăm này đã khiến ông Sinh nhận nhiều sự đắng cay tủi nhục. Sự ơ hờ, tiếp đón tẻ nhạt đã làm ông thất vọng. Ông không có địa chỉ cũng như không có tin tức gì về vợ con. Ông chỉ biết đạì khái là : Vợ ông không muốn cho ông biết nơi ở của nàng. Chuyện ông bị chết là do công an tới nhà báo tin.


Nhưng nhờ vào lòng tốt của cậu em vợ, cuối cùng ông cũng có được địa chỉ của vợ con trong tay. Nhưng làm được gì với địa chỉ này ? Đối với vợ, ông có lỗi với nàng chứ không phải nàng có lỗi với ông. Ở vậy chờ chồng nuôi con là việc tốt, nếu không thì đành phải chấp nhận, không thể oán trách. Nhưng với con, ông phải có bổn phận và trách nhiệm. Ông nhớ cô bé vô cùng không kể xiết.



Ông đã viết thơ nhiều lần, nhưng chẳng bao giờ được hồi âm. Lại mù tin, mù tịt. Đầu óc ông rối rắm tơ vò. Con ông ra sao rồi ?! Sau đó chương trình HO được cứu xét, đưa các sĩ quan tù nhân cải-tạo qua Mỹ. Ông sung sướng bán tín, bán nghi. Nhưng sự thật đã đến. Giờ đây ông đã ngồi trên máy bay đến Mỹ theo diện HO.8. Việc đầu tiên của ông dự định là sau khi lo thủ tục giấy tờ xong, ông sẽ đi tìm vợ con.




Đứng trước cánh cổng sắt của căn nhà sang trọng, trong một thành phố thuộc tiểu bang Illonois. Ông Sinh lưỡng lự không dám bấm chuông, lòng ông hồi hộp, tim đập loạn xạ.. Ông đang tưởng tượng hình dáng vợ mình bây giờ thế nào? Con mình đã lớn khôn ra sao? Cô bé giờ đã hai mươi mốt tuổi rồi còn gì, không biết ông có còn nhận ra không?
Rồi ông tự hỏi có nên vào hay không ? Gia đình người ta đang hạnh phúc, mình vào có đúng lúc không?! Đang lúc suy nghĩ miên man. Chợt ông thấy một thiếu phụ từ trong nhà đi ra, tay cầm bình tưới cây nhỏ, tưới vào những chậu hoa trước cửa. Ông không thể nhầm được, đó chính là vợ mình dù thời gian có thay đổi. Ông tính rướn người lên gọi nhưng kịp ngừng lại. Một người đàn ông tóc vàng từ bên hông nhà đi tới, đến sau lưng người thiếu phụ ôm choàng lấy nàng, hai người hôn nhau thắm thiết. Ông lặng người tê tái, quay gót bỏ đi.



Về quán trọ, ông viết vội vài chữ gửi cho vợ, hẹn nàng cho ông gặp mặt dù chỉ một vài phút. Ngồi trước mặt vợ, ông nhận thấy nàng rất đẹp, đẹp hơn trước nhiều, nhưng cũng không đấu được nhiều nếp nhăn trên trán khóe mắt, vành môi.
Để phá tan bầu không khí ngỡ ngàng. Ông Sinh khen vợ: “Em. Trông em đẹp lắm !”. “Cám ơn anh. Anh qua đây từ bao giờ? Trông anh già và ốm yếu quá ! Anh có cần sự giúp đỡ gì không? Chồng em quen biết rất nhiều.” Ông Sinh thấy nàng tự nhiên qúa, không có nét xúc cảm nào lộ trên khuôn mặt. Ông cũng bình thản. “Cám ơn em. Anh, chữ nghĩa tiếng Anh, tiếng u còn kém lắm, vả lại mới qua chưa cần gấp. Anh muốn gặp con, nó dạo này thế nào rồi ?”. Không trả lời vội. Nàng đẩy ly cà phê sữa tới trước mặt ông: “Cà phê Starbuck này ở Mỹ có tiếng lắm. Em còn nhớ anh thích uống cà phê nên em kêu. Còn con hả, em cũng muốn mong gặp nó đây. Mấy năm nay nó chẳng hề ghé thăm mẹ. Lâu lâu gọi phôn lấy lệ”.


Ông Sinh nhỏm dậy: “Em đã làm gì nó? Bây giờ nó ở đâu? Cho anh xin số phôn và địa chỉ của nó! “Nào em biết. Nó không muốn cho em biết bất cứ điều gì.” Ông Sinh như chết điếng : “Em nói thật đó chứ?!”. “Em không dối gạt anh. Dù chúng ta không còn là vợ chồng. Nhưng đối với con em rất mực thương yêu. Có anh đây em rất mừng, anh sẽ lo cho nó. Nó là đứa con rất có hiếu. Sự việc không hay xẩy ra, hoàn toàn do lỗi tại em. Anh đi tìm con dùm em.Cho anh biết thêm là hiện nay nó đang học ngành y-khoa, sắp ra trường. Anh cứ đi hỏi mấy trường đại học xem sao! Em đã dò hỏi khắp mọi nơi rồi, nhưng vẫn biệt vô âm tín. Anh mới qua chắc cần tiền bạc, em giúp.” Vừa nói, nàng vừa mở bóp lấy cuốn chi phiếu. Ông Sinh nghe vợ nói một hồi như lùng bùng lỗ tai. Không cần nghe thêm, ông xô ghế đứng dậy.



Nhờ những người quen biết chỉ dẫn. Ông Sinh đăng tin tìm người trên báo chí cả Mỹ lẫn Việt, cùng phôn tới tất cả các trường đại học xa gần, vẫn không có kết qủa. Ở nước Mỹ to lớn này gồm năm mươi tiểu bang, có biết bao nhiêu trường đại học mà kể, tìm người như tìm kim đáy biển, biết đâu mà mò. Rồi ông lại suy nghĩ vớ vẩn, nhỡ con bé tự tử. Nghĩ tới, nghĩ lui làm ông rối trí thêm. Cuối cùng ông đành buông xuôi cho số phận thời gian. Để mưu sinh và cũng để tạo cơ hội tìm kiếm, ông ghi danh đi học khóa đào tạo y công, phụ giúp trong các bệnh viện, hầu hy vọng có một ngày nào đó gặp được con mình.
Thời gian cứ thế trôi qua. Ông đã phục vụ rất nhiều bệnh viện trong tiểu bang California này mấy năm rối, cũng thăm hỏi nhiều rồi, sự hy vọng của ông càng ngày càng giảm, hầu như tuyệt vọng. Niềm vui thú duy nhất của ông hiện thời là mấy con cào cào xanh, mà ông cất rất kỹ từ khi thăm nuôi tới giờ, dù chúng đã khô héo quắt queo. Mỗi khi nhớ con ông lại mang ra ngắm nghía, tâm hồn ông lúc đó hoàn toàn chìm đắm trên khuôn mặt cuả bé Mai.


*
Jennifer Trần là một bác sĩ trẻ, đẹp, làm việc rất siêng năng, cần mẫn, hay giúp đỡ mọi người. Ai cần việc gì, khó khăn gì hay trong nhà cần chuyện gì, cần người thay thế, bác sĩ vui lòng giúp đỡ, dù đó là ngày nghỉ của mình. Bác sĩ đã có vị hôn phu cùng phục vụ trong cùng một bệnh viện. Hai người tính làm đám cưới lâu rồi, nhưng không hiểu vì sao cứ lần này rồi lại lần khác, không thể thực hiện được. Bạn bè thúc giục, khuyên nhủ, nàng chỉ cười.. Tuy là người vui tính thích bong đùa, nhưng bác sĩ Trần vẫn không dấu được nét buồn của mình. Nét buồn đó càng làm tăng thêm vẻ đẹp dịu hiền, mà ai cũng gọi đùa là “nữ hoàng sầu muộn” Dù còn trẻ, nàng vẫn không thích nơi hội hè đình đám, những chỗ đông người, mà chỉ muốn sống cho riêng mình, nhưng đối với bạn hữu nàng cũng quậy ra trò.



Hôm nay ông Sinh nghỉ không đi làm. Ông rảnh rỗi cùng người bạn gìa đi thăm cháu gái của ông ta bị bệnh nằm trong bệnh viện. Tiện thể ông mang mấy con cào mà ông mới thắt đêm qua, cho cháu gái làm qùa. Ngày chủ nhật, bệnh viện sao có qúa nhiều ca mổ! Bác sĩ Trần đã thấm mệt, mồ hôi rịn đầy trán. Nàng lấy khăn mui xoa chấm chấm mồ hôi, bây giờ nàng mới thực sự được rảnh tay.
Bác sĩ Trần đi qua dẫy phòng khoa nhi để đến phòng ăn, vì từ sáng đén giờ nàng chưa có cái gì vào bụng. Những tiếng cười khanh khách của một bé gái nào đó vang lên từ phòng khoa nhi. Cảm thấy vui vui nàng ghé lại nhìn thử. Một bé gái, nằm quay mặt vào phía trong, hình như đang giỡn với vật gì đó, làm cho cô bé khoái chí cười nắc nẻ. Tính tò mò thúc đẩy, nàng rón rén lại gần, nhìn vào phía trong.. Bất gíác nàng run người lên , mắt mở trợn trừng. Cô bé dang cho hai con cào cào xanh đá nhau, hai con cào cào được thắt bằng lá dừa xanh , trông thật là đẹp. Nàng run run cầm lên mân mê. Hỏi : “Ở đâu bé có hai con cào cào này?”. Như sợ bị la mắng, chơi đồ chơi trong phòng bệnh. Cô bé phân bua : “Không phải của con mua, mà của ông gìa lúc nẫy cho con”. Bác sĩ Trần không kềm được xúc động , hỏi dồn: “Bao lâu rồi ? Ông đi đâu ?”. Cô bé hốt hoảng : “Dạ…dạ, con cũng hổng biết. Đã lâu rồi!”


Bác sĩ Trần hốt hoảng bước ra khỏi phòng, dáo dác nhìn quanh. Mặc kệ cho bụng đói, nàng chạy từ phòng nọ qua phòng kia, từ dẫy nọ qua dẫy kia để tìm kiếm. Trước sự lạ lùng đó, mọi nhân viên trong bệnh viện đều vây lại hỏi thăm, Nàng hỏi bâng quơ : “Có ai thấy ông gìa nào đó trong bệnh viện không?” Trước câu hỏi ngây ngô đó, mọi người đều không nín được cười, nhưng không ai dám cười trước vẻ nghiêm trọng của bác sĩ Trần.
Trong bệnh viện này, biết bao nhiêu ông gìa, bà cả đi thăm con cháu, người thân. Cảm thấy câu hỏi của mình qúa ngớ ngẩn, nàng cười gượng : “Thôi. Không có gì, cám ơn các bạn.” Tuy nói vậy nhưng trong lòn

g nàng vẫn không yên, tự nghĩ: ”Chỉ có cha mình mới thắt kiểu đó, nhưng ông đã chết rồi mà! Chẳng lẽ vì quá nhớ cha mà đâm ra mê sảng ?.!” Thôi đi ăn cơm!. Bác sĩ Trần, chính là bé Mai. Từ khi theo mẹ đi thăm nuôi cha, trở về nhà, không ngày nào bé không nghĩ đến cha của mình. Ngày vượt biển ra đi, bé nhất định không chịu , đợi ngày cha trở về đi cùng. Vì sự hăm dọa của ông bà ngoại cùng những lời khuyên giải của mẹ, bé đành chịu phép. Sang đến Mỹ bé nhất định phải học giỏi để có tiền gửi cho bà ngọại đi thăm nuôi cha đều đều. Bé sẽ nhẩy cao, sẽ cứng cáp như những con cào cào xanh mà cha đã từng nói.



Cuộc vượt biên êm xuôi. Sau hơn một năm ở trên đảo, bé cùng mẹ được định cư tại Hoa-Kỳ. Dòng đời đưa đẩy, mẹ lấy chồng khác, một anh chàng Mỹ giầu có. Cô bé có thêm hai đứa em gái.
Giờ đây, bé Mai đã mười chín tuổi, cái tuổi bước vô ngưỡng cửa đại học. Càng lớn nàng càng giống cha. Đã nhiều lần nàng biên thư và gửi tiền cho ngoại để hỏi thăm tin tức, cùng sức khỏe của cha trong trại tù, nhưng không ai trả lời. Có hỏi mẹ, chỉ được biết : “Cha con đã chuyển đi ra ngoài Bắc rồi. Bà ngoại đã già không thể đi được.” Nói sao nàng tin vậy. Mỗi lần nhớ ông, nàng lại mang hình hai cha con ra ngắm. Tấm hình nàng đã mang theo khi đi vượt biên.



Sống chung đụng trong cùng một mái nhà. Điều làm cho nàng ghê tởm, xấu xa, bỉ ổi nhất là anh chàng Mỹ kia cứ nhởn nhơ mặc quần lót đi trong phòng khách.. Có lần hắn đã dám xàm xở ôm nàng xờ xoạng khi không có mẹ ở nhà. Từ đó nàng đã bỏ nhà đi sang tiểu bang khác, chỉ biết học và làm việc tự lo cho bản thân, lâu lâu hỏi thăm mẹ qua điện thoại công cộng. Vào một ngày, khi điện thoại về thăm mẹ, được bà báo cho biết : Cha đã chết trong tù! Mọi vật như xụp đổ. Nguồn hy vọng bám víu cuối cùng cũng không còn. Thế là hết!
Nàng đã khóc đến khô cả nước mắt, cuộc sống như tẻ nhạt, chán chường không còn tha thiết gì nữa! Nàng chỉ biết vùi đầu vào sách vở cho quên nỗi buồn, và phải chiến đấu, chiến đấu, cứng cáp như những con cào cào xanh mà cha nàng khi còn sống hằng mong mỏi. Cuối cùng nàng cũng lấy được mảnh bằng chuyên khoa giải phẩu.
Qua tin tức báo chí. Bác sĩ Trần được biết các sĩ quan tù cải tạo được chính phủ Mỹ cứu xét cho định cư tại Hoa kỳ theo chương tình HO.Không hiểu sao nàng hồi hộp lạ thường. Rồi quyết định bỏ miền đông tuyết phủ, trở về với nắng ấm Cali.

Hôm nay là ngày lễ Thanksgiving day, nàng muốn đi ra biển. Không phải để tắm hay hóng gió mà nàng muốn làm một công việc, công việc này nàng đã dự tính từ lâu nhưng vì qúa bận rộn nên không thể thực hiện được. Nhân ngày lễ tạ ơn nàng phải làm điều gì để nhớ ơn cha. Nàng sẽ thắt thật nhiều, thật nhiều con cào cào thả xuống biển, để chúng mang lời cầu nguyện của nàng đến người cha thân yêu. Nàng tin tưởng rằng ở nơi xa xăm vĩnh cửu nào đó cha nàng sẽ nhận được lời khấn nguyện này.




Nàng rủ bác sĩ Hải (vị hôn phu) cùng đi chơi biển. Chàng rất thích thú lẫn ngạc nhiên về lời yêu cầu này, khác với bản tính trầm lặng không thích nơi ồn ào của nàng từ trưóc đén giờ, bèn okay chấp nhận liền. Trong khi chờ đợi vị hôn phu đi mua thức ăn. Nàng đã kiếm đựợc khá nhiều lá dừa xanh, cẩn thận chau chuốt tước từng lá và bắt đầu thắt những con cào cào.Nàng để hết tâm trí vào công việc, chìm đắm trong niềm thương nhớ cha. Ngoài kia. Sau khi đã mua thức ăn, trên đường trở về chỗ cũ nơi bãi biển, chàng thấy một đám con nít đang vây chung quanh một cụ già Việt-Nam, trên tay đứa nào cũng cầm một con cào cào, thấy hay hay chàng cũng xin một con. Vừa đi vừa ngắm con cào cào, chàng cảm thấy nó rất đẹp và còn có vẻ oai phong nữa. Chàng sẽ cho vị hôn thê, chắc nàng sẽ thích thú lắm! Về đến nơi. Thật, chàng không thể tin vào mắt mình, nàng cũng đang thắt…..con cào cào.


“Em đang làm gì vậy.” “Thắt con cào cào.” Chàng cầm con cào cào mới xin được, vẫy vẫy trước mặt nàng. “Anh cũng có một con.” Nhìn con cào cào, mặt nàng tái mét, hỏi dồn: “Ở đâu anh có nó?” Chàng chỉ về hướng đám trẻ: “Một cụ già Việt-nam cho anh.” Chẳng nói chẳng rằng, nàng nắm tay chàng chạy như bay về hướng chỉ. Một ông già, tóc bạc qúa nửa. đeo cặp kiếng lão, hai tay đang thoăn thoắt thắt những con cào cào. Dù thời gian, tuổi tác có thay đổi, nhưng với hình dáng kia, nét mặt kia đã in sâu vào tâm khảm, nàng không thể nhầm được, chính là cha nàng. Qúa xúc động, nàng ngất xỉu.
Sự việc xẩy ra qúa đột ngột, bác sĩ Hải hoảng hốt la cầu cứu. Ông Sinh (vâng, chính ông Sinh) ở vị trí gần nhất nghe tiếng hét vội vàng nhào tới. Ông vội thọc tay vào túi quần lấy lọ dầu xanh thoa lên hai thái dương cô gái, giựt tóc mai, giựt gân cổ. Bỗng người ông run lẩy bẩy, tim như muốn ngừng đập, khi ông thấy nốt ruồi son trên cổ cô gái, trên tay cô còn nắm chặt con cào cào. Như có linh tính, ông định thần nhìn kỹ khuôn mặt thiếu nữ. Ông gào lên trong tiếng nức nở, nghẹn ngào:

“Trời ơi! Mai….Mai, con tôi.”



Cũng vừa lúc xe cứu thương tới nơi, đưa bệnh nhân lên xe. Ông Sinh, bác sĩ Hải cũng vội vàng leo lên theo. Cầm tay con gái, lòng ông Sinh bồi hồi xúc động, ông không nghờ gặp con trong hoàn cảnh này. Hai hàng nước mắt ngắn, dài chẩy trên hai gò má nhăn nheo. Nhưng ông cảm thấy sung sướng và ấm áp vô cùng.



*
Tin bác sỹ Trần thị Mai gặp lại được cha già sau hai mươi năm xa cách đã loan truyền khắp trong bệnh viện, một vụ trùng phùng đầy đau thương, thích thú, khiến ai cũng mủi lòng. Hôm nay nhà bác sỹ Mai thật đông đảo khách tới thăm, bạn bè, thân hữu nghe tin mang hoa tới chúc mừng. Trong mấy năm qua , bây giờ mọi người mới thấy được nét tươi vui, rạng rỡ thực sự trên khuôn mặt u sầu của vị bác sỹ mà họ mến yêu. Nhưng người sung sướng nhất vẫn là bác sỹ Hải.

*

No comments:

Post a Comment