Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Sunday, 11 December 2016

MỸ & TRUNG QUỐC =TRẦN HỒNG CHÂU=

TRẦN THÙY MAI * TRUYỆN NGẮN



Thương Nhớ Hoàng Lan

Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót? Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại. Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.

Lớn lên, tôi giống cha tôi như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hoà trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán.

Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Đề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Đại Đức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay trước sư cụ trụ trì: Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ? Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Đã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa.

Một bà đi ngang bảo mẹ tôi: Mấy con ếch lạy khéo không thưa thầy M.H. Rồi bà cười ha hả: Đi tu mà chẳng trót đời, làm thân con ếch cho người lột da. Mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm...

Cô ruột tôi giận lắm, bảo: Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng. Ai cũng khuyên đăng báo tìm, nhưng cha tôi chỉ nói Đừng. Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương?

Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại khu vườn sáng sủa. Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni.

Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào búi tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn...
Năm tôi mười tuổi, có vị Đại Đức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Đế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo: Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu? Tôi chỉ lắc đầu...
Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am - am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao.

Năm mười lăm tuổi tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi: Bạch thầy, Đăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác. Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp tụng kinh, tôi biện bạch: Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời, làm sao hiểu đời đục mà tránh? Thầy hỏi: Ai bảo con là đời đục? Đời không đục, không trong. Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì.

Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào tới tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn những làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ.

Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng: Đây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải màu vàng. Cô chìa tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: Này, đừng nghịch. Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan. Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai vừa quậy. Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh: Mấy con Thị Màu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đoạ địa ngục hử? Tôi cự: Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ.

Từ đó, vài hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đây là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Điểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước gió. Lan phụng phịu: Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có. Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng hồn nhiên như trẻ thơ Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi.
Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo: Không can gì. Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?

Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu. Đây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó. Tôi động lòng, hỏi: Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu, chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong. Thầy cười: Đúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Đến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên chín tầng mây. Tôi vái thầy mà thưa: Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa.

Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi. Anh không thích phong lan nữa sao?. Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoàng lan. Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như màu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh toả thơm ngây ngất. Lan bảo: Thích ghê, em chưa thấy bao giờ. Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên, lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương...

Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra. Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường.Tôi nghe tiếng, quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo: Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng. Tôi hãi hồn, vội nói: Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây. Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa.

Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan, còn cô bé thì chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt...

Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà. Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó. Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức. Tôi im lặng, một lát sau mới bảo: Khó tin. Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra - bạn tôi nói, vẻ ông cụ non - Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn.

Đạp xe về đã đến quá lăng Tự Đức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi: Nhà chùa có việc gì mà nhắc cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi. Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời nói của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu: Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt quá dài, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Đấy là tướng hồng nhan mệnh yểu.... Trời chập choạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống, Lan lắc đầu, Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn: Đồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi. Quay sang Lan, tôi nạt: Đi về! Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của một con thú mất mồi...


Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi, khóc: Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không? Tôi cau mặt: Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn? Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến. Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Đừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn. Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ ven đường. Lan ngồi bên tôi. Đêm nào nằm mơ cũng thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không? Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời.

Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa... Em có thích nghe chuyện cổ tích không? Thích. Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ: Sao có người làm được như thế? Tôi gật đầu: Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vầy. Vị thiền sư trả lời: Bệ hạ hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua. Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạ lùng. Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh.

Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc? Tôi bảo: Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con. Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá. Thôi, về đi em. Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp loá những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật...
Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu. Không có lửa làm sao có khói. Ăn ốc, đánh lộn, dành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên. Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức: Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao? Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về.

Con ma nữ đã uống hai mươi viên Sedusen, may sao nhà biết được, chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con. Tôi cuống quýt: Bác bảo con làm sao được? Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra. Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ: Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng. Tôi thở dài: Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thuỷ Sám. Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi...

Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo: Sao con bỏ học? Tôi nói: Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng. Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy: Bạch thầy. Thầy tôi bảo: Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn. Tôi nói: Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An. Thầy lặng lẽ một lúc rồi bảo tôi: Tâm không an, có cầu cũng vô ích. Tôi gật đầu thú nhận.

Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió. Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn? Thầy nhìn vào mắt tôi: Chỉ có con tự trả lời được thôi.

Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình. Tôi lắc đầu: Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi.
Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.
Đang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến: Chú Ninh!
Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. Bác lên chùa cầu cho em đi bình an... Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.
Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan:Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan...
Người ta cứ bảo em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi...
Bất giác, tôi oà khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục luỵ cuối cùng. Cứ khóc đi con - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ. Tôi nức nở: Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây Hoàng Lan không?
Thầy bảo: Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung? Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.
Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.
Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ.

Trần Thùy Mai.

Psted by vanhoa at 8:16 PM No comments:



Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0141






ĐIỆP-MỸ-LINH * TRUYỆN NGẮN
*
BÊN CẨU XÓM-BÓNG*
ĐIỆP-MỸ-LINH

Đập mạnh tay vào thành xe để tạo tiếng động lớn, Huân vừa reo vui vừa vẫy tay về phía người bán hàng bên cầu Xóm-Bóng, cạnh bậc cấp dưới chân Tháp Bà và reo lên:
- Má! Má ơi, Má! Con nè, Má! Mỗi lần nghe tiếng đứa con thân yêu, Hạnh lính quýnh, bỏ quày hàng và bỏ cả khách hàng, chạy ra sát lề đường, vừa che mắt vừa nhìn theo chiếc xe đò để thấy anh chàng “lơ” xe vừa vẫy tay về phía Hạnh vừa cười. Chiếc xe đò lẫn khuất trong dòng xe cộ ngược xuôi trên cầu Xóm-Bóng, nhưng Hạnh vẫn tần ngần nhìn theo. Ôi, chiếc cầu nối hai miền thân yêu của quê Nội hiền hòa mà sao chiếc cầu lại chia cách Hạnh với Phong – kể từ ngày Hạnh tiễn Phong trở lại đơn vị lần sau cùng!

Chỉ vài năm sau, khi Phong biền biệt nơi nào gia đình không nhận được tin, chiếc cầu lại chia cách Hạnh và Huân để Huân theo những chuyến xe đò xuyên Việt, kiếm tiền nuôi thân và cũng giúp Mẹ nuôi em. Khi nào nhớ đến Phong và Huân, Hạnh cũng mủi lòng, đưa tay quẹt nước mắt. Vừa khi đó, Hạnh bị níu tay và giọng ái ngại của Thủy vang lên nho nhỏ: - Má! Đừng khóc, Má. Hạnh quay lại và nhận ra cặp mắt của Thủy cũng ửng đỏ. Thủy nén tiếng nấc, tiếp: - Má đã hứa với con là Má không khóc nữa mà! Nếu Má cứ khóc mỗi khi thấy anh Huân thì con sẽ dặn ãnh, khi nào xe chạy ngang đây, anh ấy sẽ không gọi má nữa .

Giọng Hạnh có vẻ hoảng hốt: - Đừng! Đừng, con. Lâu lâu Má mới thấy anh Huân một lần mà, con. Thủy ân cần kéo tay Hạnh: - Đi, Má. Má trở lại thối tiền cho người ta. Như hiểu phần nào thảm cảnh của Mẹ con nàng, người khách khoát tay. Thôi, chị giữ để mua quà cho cháu. Rồi người ấy lẫn vào với nhóm du khách vừa từ Tháp Bà xuống. Thấy khách thưa dần, Thủy đề nghị: - Chiều rồi, con về nấu cơm rồi con sửa sọan đi học nhen, Má. A, mà Má về thì Má ăn trước đi, đừng chờ con. Trước khi lên xe đạp, Thủy quay lại, dặn dò: - Má không muốn nghe tiếng hát của ông công an “dê” Má thì Má đóng cửa lại, nhen, Má.

Quanh xóm ai cũng biết chàng thiếu tá công an si tình Hạnh. Nhiều người khuyên Hạnh nên “chấp nối” để các con đỡ khổ và cũng để cho Hạnh bớt nhọc nhằn. Hạnh chỉ yên lặng, cười. Bây giờ nghe Thủy nhắc đến anh công an, Hạnh cũng chỉ cười, khoát tay cho Thủy đi. Nhìn dáng Thủy gầy guộc băng ngang con đường nhựa, Hạnh tưởng như Hạnh có thể thấy được hình ảnh của chính nàng cách nay rất lâu; có khác chăng, Thủy, vì đói khổ và bị đời “nhào nặn” cho nên Thủy gầy gò, sành sỏi, và lanh lẹ. Và Hạnh, ngày xưa, lại tươi thắm, dịu dàng, xinh đẹp và còn có tý tài mọn. Chính tý tài mọn và nét dịu dàng, quý phái của Hạnh đã làm nhiều thanh niên trí thức của Nha trang say mê. Khi giáp mặt với những nhân vật theo đuổi Hạnh, tại nhà của Hạnh, Phong cứ nghĩ rằng sẽ không bao giờ Phong có thể “chiến thắng” được – dù Phong là một sĩ quan Lôi-Hổ!

Khi nhận biết Hạnh có cảm tình đặc biệt với Phong, Phong vừa vui thích, vừa hãnh diện, vừa nghi ngờ, không hiểu Hạnh yêu chàng hay là Hạnh – vì sự ngây thơ, dại khờ và tâm hồn lãng mạn của một nghệ-sĩ tài-tử – bị lời ca của bản Chiến Sĩ của Lòng Em khích động! Lý do Phong nghĩ như vậy là vì, một lần về phép, Phong được mấy cô cậu em rủ đi xem văn nghệ do học sinh trường Võ-Tánh trình diễn tại rạp Minh-Châu. Suốt buổi trình diễn, mục nào Phong cũng tán thưởng nồng nhiệt để cổ võ tinh thần các em học sinh của ngôi toàn, ban Toán.

Nhưng đến mục đơn ca do cô bé tóc kẹp, hơi gầy, tên Hạnh, trình bày thì Phong lại ngồi yên, lòng cảm thấy rộn ràng, phơi phới, lâng lâng theo điệu swing. Khi Hạnh hát đến câu: “…Khi nước nhà phút ngã nghiêng, em mơ người trai anh dũng, mang thanh thế hiến giang sang, chí quật cường hiên ngang. Chiến sĩ của lòng em đắm đuối ước mơ, ở chiến trường xa giải nắng, dầm mưa…” (1) thì Phong tưởng như quanh chàng không còn ai và Hạnh hát bài này cho chàng và chỉ cho một mình chàng thôi. Phong chợt mỉm cười. Mấy người em của Phong không bỏ sót một cử động nào của Phong cả.

Khi thấy Phong cứ tủm tỉm cười một mình và đôi vai nhun nhún, đầu gật gật nhè nhẹ, mấy người em bấm nhau, cười. Cô em liếng nhất nhà nghiêng sang Phong, nói vừa đủ cho Phong nghe: “Bắt được anh Phong rồi đó nghe. Nhỏ Hạnh học lớp em đó, anh bao tụi em đu đủ bò khô, em giới thiệu cho.” Phong vờ “ký” lên đầu cô em. Cô em cười, né sang một bên. Khi buổi trình diễn chấm dứt, với nước da sạm nắng và nhân dáng cao lớn, đượm chút phong trần của Phong – trong bộ quân phục bốn túi, màu hoa rừng và chiếc ‘bê-rê’ màu nâu đội hơi nghiêng – nổi hẳn lên giữa những khuôn mặt trẻ thơ và những bộ đồ dân sự. Nhiều nam sinh len lén nhìn Phong với ánh mắt đầy thiện cảm và thán phục. Riêng Hạnh, khi được cô em của Phong giới thiệu, Hạnh chỉ lễ phép cúi đầu chào chứ không biết gì để nói. Sau đó, mỗi khi được về phép, Phong thường đến nhà thăm Hạnh và xin phép ông bà Hiển – Ba Má của Hạnh – để Hạnh đàn cho chàng nghe. Hạnh vui vẻ đàn chứ Hạnh cũng chẳng nghĩ gì.

Rồi một hôm, Hạnh được một người bà con cho tháp tùng nhóm học sinh ủy lạo binh sĩ tiền đồn, gần biên giới Lào-Việt. Toàn nhóm được di chuyển bằng trực thăng, sáng sớm khởi hành, chiều trở về. Chiều, trong khi đi bộ dọc theo con đường mòn quanh co từ ngọn đồi xuống chân đồi để đến bãi đáp trực thăng, Hạnh bỗng nghe tiếng hát và tiếng đệm Guitar, trong điệu Rhumba Melody, văng vẳng trong gian im vắng của núi rừng. Nhờ trình độ thẩm âm cao, Hạnh nhận ra tiếng hát và tiếng đàn không phải từ radio. Tuy nhiên, tiếng hát và lời ca của bản nhạc trong khung cảnh này tác động mạnh vào tâm hồn rất nhạy cảm của Hạnh. Hạnh bước chậm lại, lắng nghe, câu được câu mất: “…Chiều nao, anh đứng gác ngoài biên khu. Gió xa về dâng sương khói mịt mù. Đàn chim tung cánh bay về tổ ấm. Đêm xuống phai nhòa quê hương yêu dấu…Đây, núi rừng âm u, suối rừng vi vu, khói lam u huyền lững lờ buôn trên xóm vắng. Đây, những chiều hành quân, xóm nghèo dừng chân, nhớ thương Mẹ già xa xôi lắm…” Nhìn quanh, Hạnh chợt thấy một người mặc quân phục hoa rừng, mang giày trận, đội nón sắt, đang ngồi trên “lô-cốt”, vừa đàn vừa hát một mình. Trong những tia nắng cuối ngày, hình ảnh của người-lính-nghệ-sĩ trông vừa rực rỡ, vừa hào hùng, vừa lãng mạn... Hạnh bàng hòang dừng lại, nhìn sững và nghĩ, hình tượng đẹp quá! Hình tượng đáng yêu quá! Việt-Cộng – dù là những người vô tri – có lẽ cũng không nỡ “bắn sẽ” khi nghe người-lính-nghệ-sĩ ca lên nỗi niềm của mình đối với quê hương, đối với gia đình và đối với thân phận của chính mình.

Một vị sĩ quan của đơn vị trú đóng quay lại thúc Hạnh đi nhanh, vì ngại trời tối sẽ nguy hiểm. Hạnh chỉ người-lính-nghệ-sĩ và hỏi tên. Vị sĩ quan đáp: “Thưa cô, đó là thiếu úy Phong, thuộc đơn vị bạn, đến tăng cường cho đơn vị của chúng tôi.” Hạnh ngạc nhiên: “Sao lúc trưa các anh không mời anh ấy hát?” Vị sĩ quan cười: “Dạ, đơn vị của anh ấy đi hành quân mới vừa về thôi. Chiều nào cũng vậy, sau khi hành quân trở về, Phong cũng ngồi chỗ đó, đàn và hát một mình.” Hạnh ngập ngừng: “Dạ, anh biết anh Phong họ gì không, thưa anh?” Vị sĩ quan lại cười và đưa tay có ý giúp Hạnh bước lên trực thăng: “Thưa cô, xin lỗi, tôi không để ý. Nhưng tôi nghe ai cũng gọi anh ấy là Phong Lôi-Hổ.” Thốt nhiên tim của Hạnh lỗi một nhịp. Từ trực thăng, nhìn những dòng sông uốn khúc, những ruộng lúa xanh rì, và đồi núi chập chùng tiếp nối nhau, Hạnh nhận ra vẻ đẹp hùng vĩ của quê hương. Nhưng hình ảnh khắc ghi vào tâm khảm của Hạnh lại là một Phong Lôi-Hổ ôm Guitar ngồi trên “lô-cốt” hát bản Chiều Biên Khu…

Đang chìm đắm trong dòng hồi tưởng, Hạnh chợt nghe tiếng: - Chị ơi, chị! Cặp ngựa bằng đá này giá bao nhiêu? Hạnh hơi lúng túng. Chỉ một thóang thôi, Hạnh bình tĩnh trở lại, mỉm cười, nhìn người khách và cho giá món hàng. Người khách rất dễ giãi, không trả giá, yêu cầu Hạnh gói cặp ngựa màu xam xám. Trong khi gói hàng, Hạnh cảm biết người khách đang nhìn nàng chăm chăm. Khi trao hàng cho người khách, Hạnh nhìn ông ấy. Ông ấy, một tay đưa tiền, một tay nhận gói hàng nhưng ánh mắt vẫn không rời Hạnh. Bất ngờ ông khách hỏi: - Hạnh! Có phải chị là Hạnh, con ông bà Hiển không? Hạnh vô cùng ngạc nhiên - Tại sao ông biết Ba Má tôi? Ông khách nhìn quanh, không thấy ai lạ, ngoài người con trai của ông đang ngồi trên yên xe đạp, chờ ông, ông đổi cách xưng hô: - Hạnh! Em không nhận ra anh cũng phải. Bao nhiêu năm gian khổ trong rừng sâu và gần hai mươi năm tù khổ sai thì làm thế nào em nhận ra anh được! Hồi trước anh chơi Hạ-Uy-Cầm ... Duy chưa dứt câu, Hạnh đã vui mừng reo lên nho nhỏ: - Anh Duy, phải không? - Ừ, anh đây. - Ba Má em và mấy cô chú hồi trước trong ban Bình-Minh đều nghe nhiều người bảo là anh theo Kháng Chiến và sau đó bị bắt, bị tù đày. Duy cười: - Ừ. Còn Phong thì sao? - Dạ… Hạnh chỉ thốt lên được một tiếng rồi nghẹn ngào. Duy nắm tay Hạnh, nhìn vào mắt nàng: - Hạnh! Em đừng nói với anh là Phong đã chết, nghe chưa? Anh mà còn sống thì không thể nào Phong chết được. - Anh gặp anh Phong ở đâu, anh Duy? - Anh và Phong gia nhập một tổ chức Phục-Quốc. Hạnh khóc òa: - Ôi, Trời ơi! - Hạnh, một người như Phong không bao giờ để Việt-Cộng cầm tù một cách êm thắm đâu. Em nên nhớ và nên hãnh diện về chồng của em. Hạnh im lặng. Nàng không lạ gì bản tính liều lĩnh, can cường và bất khuất của Phong. Nhưng Duy đưa tin đột ngột quá khiến Hạnh bàng hoàng. Duy tiếp: - Anh trở lại nhà của Ba Má em nhưng không ai biết Ba Má em đi đâu cả. - Họ tịch thu nhà rồi đuổi Ba Má em đi kinh tế mới. Em và hai đứa con của em cũng bị đi kinh tế mới suốt thời gian dài. Cách nay khoảng một năm, à, anh nhớ Tân, em của em không? - Ừ, cái thằng ôm ốm, sau đi Thủ-Đức rồi về Pháo Binh diện địa đó chứ gì? - Dạ. Tân bảo lãnh Ba Má em sang Mỹ.

Nhờ Ba Má em gửi tiền về giúp cho nên em mới tìm cách đưa hai cháu về được đây. - Vậy là mừng cho hai Bác. Còn em và hai cháu, Tân có dự tính bảo lãnh em và hai cháu không? - Thưa anh, có, nhưng em từ chối. - Tại sao? Trời! Sao em dại quá vậy? - Anh nghĩ xem, em đi sao đành khi mà em không biết tin tức gì về anh Phong cả. - Phong không liên lạc gì với gia đình sao? - Dạ không. - Nhưng em ở lại em cũng không thể lo gì cho Phong được. Em hãy nghĩ đến tương lai hai cháu. - Em đã nghĩ đến điều đó. Nhưng, cháu Huân trên 21 tuổi, không đủ điều kiện. Cháu Thủy đủ điều kiện. Nhưng, Thủy và em sang Mỹ làm gì trong khi anh Phong vẫn biệt tăm và cháu Huân ở lại đây một mình? Duy trầm ngâm một chốc: - Em nghĩ như thế cũng phải. Hạnh nhìn Duy: - Anh Duy, anh cho em hỏi anh một câu, được không? - Ơ, cái cô này! Em muốn hỏi gì thì cứ hỏi, sao lại phải xin phép? - Vì câu này có thể chạm tự ái của anh. - Chạm gì? Em nhớ, hồi đó, em đàn hoặc hát sai nhịp là anh rầy liền. Anh đâu có sợ chạm tự ái em. Anh em là phải như thế. - Dạ, em muốn hỏi anh là anh hiền và dáng vóc trông nghệ sĩ như vậy mà tại sao anh xin về Thủy-Quân Lục-Chiến rồi sau lại dám theo Kháng Chiến? - Ơ, nghệ sĩ thì nghệ sĩ, hiền thì hiền chứ. Thủy-Quân Lục-Chiến chỉ dữ với Việt-Cộng thôi chứ đâu có dữ với ai. Còn anh, Ông bà Nội Ngoại và Bố Mẹ của anh đều bị Việt-Cộng đấu tố đến chết…

Duy nói chưa dứt câu, vội dừng lại, vì tiếng cô bé đạp xe đạp ngang qua: - Thưa Má con đi học. Hạnh đưa tay ngoắt Thủy: - Thủy! Con tới chào bác Duy, con. Sau khi Thủy dựng xe đạp, khoanh tay chào, Duy xoa tóc Thủy: - Con gắng học giỏi cho Mẹ vui, nhé. Nhìn sang Hạnh, Duy tiếp: - Con bé giống y như em, hồi em còn bé. Ờ, mà sao em không cho cháu nó học lớp ban ngày? - Dạ, ban ngày cháu phải phụ em bán hàng; nếu không thì trẻ con ăn cắp. Mấy đứa bé ăn cắp nhanh và “nghề” lắm, một mình em trông hàng không được. Hạnh vừa dứt câu, người con trai của Duy lên tiếng: - Bố ơi, sắp đến giờ đón Mẹ, Bố coi chừng trễ. - Ô, anh phải đến nhà thương đón chị. Anh mua cặp ngựa này để biếu bác sĩ điều trị cho chị đó. - Chị bị bệnh gì mà phải vào nhà thương? - Sau khi nghe anh bị “tòa án nhân dân” kết tội 18 năm khổ sai, rồi đứa con gái của anh chị đi vượt biên bị hải tặc hiếp dâm đến chết, chị chịu không nổi, điên! Thôi, chuyện dài lắm, cũng giống chuyện của Phong và anh vậy. Ghi địa chỉ của em vào mảnh giấy gói hàng đây, hôm nào anh ghé thăm, anh kể hết cho em nghe. Duy vội vả quay đi. Hạnh chạy theo, đưa lại tiền cho Duy: - Anh Duy, cho em gửi lại tiền. Em không lấy tiền đâu. Em biếu anh chị….

Duy khóat tay trong khi người con còng lưng đạp lấy trớn. Còn lại một mình, thấy khách nhàn du thưa thớt, Hạnh muốn dọn hàng về; nhưng tự dưng Hạnh cảm thấy sợ hãi niềm cô đơn nên không muốn về. Hạnh khoanh tay trước ngực như muốn ôm kín nỗi quạnh hiu. Nhìn mong ra dòng sông Cái, Hạnh thấy chiếc thuyền nhỏ xuôi dòng và hai bên bờ sông cây cỏ nhạt nhòa trong bóng hoàng hôn; chỉ có hòn đá Chữ ngạo nghễ vương cao để những tia nắng cuồi ngày ve vuốt từng kẻ đá rong rêu. Nhìn hòn đá Chữ một lúc Hạnh mới nhận ra những đóm sáng thật xa, kết thành hình cánh cung. Đó là những ngọn đèn đường dọc bờ biển Nhatrang. Dọc theo bờ biển đó, ngày xưa, mỗi lần về phép, Phong và nàng thường lặng lẽ đi bên nhau. Khi chiều xuống, “hai đứa” dừng chân bên gốc dừa hoặc ngồi cạnh nhau nơi bãi vắng.

Những lúc đó Phong thường bảo Hạnh hát cho chàng nghe. Phong thích nhất bài Dans Tes Bras của Dalida – một nghệ sĩ tài danh mang hai dòng máu Pháp và Ai-Cập. Hạnh tựa đầu lên vai Phong, hát nho nhỏ. Phong âu yếm vuốt tóc nàng. Khi Hạnh hát đến đoạn: “…Dans tes bras je m’endors dans tes bras jusqu’au jour qui viendra me séparer de toi loin de toi chaque instant loin de toi j’attends ce moment-là je l’attends chaque fois Loin de toi…” Phong tưởng như tiếng hát của người yêu vang vọng cả vùng không gian êm đềm quanh đây và vang vọng trong trái tim ngùn ngụt thương yêu của chàng.

Tình thương yêu bao la của Phong, không những Phong dành cho Hạnh mà, trên hết, Phong dành cho Chúa và cho Cha Mẹ. Nhưng, lạy Chúa! Phong nghĩ rằng Phong đã phụ lòng Chúa và Cha Mẹ; bởi vì Cha Mẹ gửi Phong vào chủng viện, hy vọng sau này Phong sẽ trở thành linh mục. Nhưng Phong, với bản tính phóng khoáng, thích phiêu lưu, thích thực hiện những điều mà “người lính chiến thường kể cho nhau nghe”, cho nên Phong rời chủng viện, thi vào Trường Võ-Bị Quốc-Gia Dalat. Sau khi mãn khóa, Phong chọn binh chủng Lôi-Hổ để thỏa chí tang bồng. Thời gian đầu, Cha Mẹ rất bất mãn, buồn phiền.

Nhưng thấy Phong vui và Phong rất hãnh diện về bộ quân phục của chàng, Cha Mẹ tha thứ cho Phong và Cha Mẹ lại hãnh diện với bạn bè, làng xóm về Phong. Niềm hãnh diện của Cha Mẹ đối với Phong chẳng khác chi niềm hãnh diện của Phong khi Phong sánh bước cùng Hạnh trên những con đường thương mến quanh ngôi trường Võ-Tánh. Khi đi trên con đường chia cách trường Võ-Tánh và bệnh viện Nguyễn-Huệ, Hạnh thấy một chiếc Jeep chậm lại và từ chiếc Jeep, một sĩ quan mặc quân phục Hải-Quân chồm ra, nhìn Phong: “Phong! Phải Phong không?” Phong vui mừng reo lên: “Dạ, thưa Thầy, em, Phong đây.” Vị sĩ quan Hải-Quân bước xuống, bắt tay Phong: “Sao, khỏe không? Dạo này ít thấy Phong ghé thăm.” Phong cười: “Dạ, vì em bận hành quân liên miên. Em cũng tính nay mai ghé thăm Thầy đó chứ.”

Vị sĩ quan Hải-Quân vỗ vai Phong: “Thôi, gọi bằng anh đi. Kỳ này Phong về được mấy ngày?” Phong chưa kịp đáp đã thấy vị sĩ quan Hải-Quân nhìn về phía Hạnh rất nhanh, ánh mắt như dò hỏi. Phong xoay sang Hạnh, giới thiệu: “Dạ, thưa Thầy, ô, thưa anh, đây là cô Hạnh, bạn của em. Và đây là Thầy Sơn, giáo sư của anh.” Sơn xuất thân từ một trường đào tạo sĩ-quan Hải-Quân của Pháp. Sau khi trở về nước và phục vụ cho Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa, Sơn trở thành Thầy của nhiều khóa sĩ-quan Hải-Quân Nhatrang. Và sau đó Sơn trúng cử và trở thành Dân Biểu Quốc-Hội. Hạnh chỉ biết như vậy thôi. Đến khi nghe Phong giới thiệu, Hạnh ngây thơ: “Ủa, Thầy dạy ở Võ-Tánh tại sao em không biết?”

Phong cười, pha trò: “Cái cô này! Thầy là giáo sư của những lớp lớn, như anh nè. Còn em là học trò…hụt.” Sơn cười hiền hòa: “Tôi là Thầy…hụt của Hạnh thì đúng hơn.” Nói xong, cả ba người cùng cười… Nhớ đến kỷ niệm vui, Hạnh bình tâm trở lại. Hạnh lủi thủi dọn hàng về. Sau khi hâm nóng nồi cá nục kho khô, gắp ra dĩa, Hạnh xắt trái dưa leo, đem hai chén và hai đôi đũa để trong lồng bàn, đậy lại. Hạnh ngồi nơi ngạch cửa đợi con về. Khi nào thấy Hạnh, anh thiếu tá công an – được “nhà nước” cho chiếm cứ ngôi nhà của một sĩ quan “Ngụy” đã di tản, nằm đối diện con hẽm nhỏ, trước ngôi nhà Hạnh thuê – cũng cất tiếng ca “tồ tồ” để ve vãn Hạnh: “…Hoàng hôn nhuộm sương buồn. Là mùa Thu thê lương. Em mõi mòn mong chờ một ngày về quá xa. Dưới rèm mắt em mờ trông bóng anh với quân lên đường. Lá rơi, kìa, Thu! Thu đến bao lần. Hỡi người quả phụ phòng không. Mùa Thu đến chàng không về. Hôm nay hoa lá rơi điêu tàn! Ai ơi, mùa Thu đến cô đơn…”.(2) Hạnh than thầm, lời ca sướt mướt của một bản nhạc tình được viết theo thể điệu Boston, âm giai Ré trưởng mà được anh chàng công an “xướng” lên như vậy thì quả là…phản nghệ thuật!

Hạnh bực mình, vào giường, lấy gối che tai để khỏi phải nghe. Tuy không phải nghe, nhưng vì anh thiếu tá công an cứ hát bản đó hoài cho nên Hạnh thuộc và Hạnh nhận ra lời ca của bản nhạc đó diễn tả được phần nào hòan cảnh và tâm trạng của nàng. Và tối nay, lời ca của bản nhạc đó lại đem niềm thương nhớ Phong trở về trong lòng Hạnh. Hạnh mủi lòng, khóc cho sự quạnh hiu của nàng; khóc cho sự khổ nạn của Phong; và khóc cho hoàn cảnh thiệt thòi của Huân và Thủy. Hạnh cứ để nước mắt tuôn tràn, không cầm giữ mà cũng không lau. Một lúc lâu lắm, Hạnh cảm biết như có người đến cạnh nàng. Và mùi da thịt của người chồng hơn 20 năm bặt tin chợt thoang thoảng quanh nàng. Hạnh cảm nhận được Phong đang ve vuốt mái tóc đã ngã màu của nàng. Rồi Phong thì thầm hát cho nàng nghe: “Another day has gone. I thought I heard you cry asking me to come and hold you in my arms. I hear your prayers. Your burdens I will bear…you are not alone, for I am here with you. Though we’re far apart, you’re always in my heart for you are not alone…I am here to stay…” (3) Hạnh nắm bàn tay của Phong áp lên khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nàng để mê đắm theo tiếng hát của Phong.

Phong từ từ cúi xuống…Giữa lúc Hạnh sẵn sàng đón nhận nụ hôn nồng nàn của Phong thì Hạnh chợt nghe tiếng thì thầm của Thủy: - Má! Đừng khóc nữa, Má. Má phải phấn đấu để sống thì anh Huân và con mới có nơi nương tựa … Nói chưa dứt câu, Thủy sà vào lòng Mẹ. Hai Mẹ con ôm nhau, khóc vùi!

* * *

“Về đây nhìn mây nước bơ vơ. Về đây nhìn cây lá xác xơ. Về đây đâu còn phút sum vầy, đâu còn bóng người xưa, lạnh lùng ngắm trời mây. Ôi, quê hương giờ đây nát tan! Đò vắng không người sang, thôn xóm trông điêu tàn. Xa xa nghe tiếng chim kêu đàn, nghe suối reo bên ngàn, dường như oán như than!...” (4) Nghe người hành khất cứ hát tới hát lui mấy câu đó, Phong vừa khom người bỏ vài đồng tiền lẽ vào chiếc nón nhà binh rách, đặt trước mặt người hành khất, vừa nói nhỏ, giọng buồn bả: - Nè, anh bạn! Anh còn bài nào khác không, sao cứ hát bài này hoài, nghe buồn quá! - Tui đâu phải ca sĩ mà có bài khác. - Hát bài này anh không sợ sao? - Sợ gì? Tui cùi, đâu sợ lỡ. Mẹ, “uýnh” nhau mấy mươi năm không…rụng sợi lông; bầy đặt rút quân để tụi tui như rắn không đầu.

Lúc đó tụi tui đang quần thảo với quân chính quy Bắc-Việt tại đèo Phượng-Hoàng. Sau khi bắt được tụi tui, “cha con tụi nó” muốn sỉ nhục tụi tui, bắt tụi tui cởi bỏ đồ trận, bận quần xà-lỏn, áo thun, đi hàng một dọc theo đường cái. Mẹ! Tui đâu chịu nhục. Chờ thời cơ thuận tiện, tui cướp súng của một thằng cảnh vệ. Tui chưa kịp bắn thì thằng cảnh vệ khác bắn tui! “Cha con tụi nó” tưởng tui chết thiệt thành ra “cha con tụi nó” dẫn tù, bỏ đi. Suốt ngày Phong tìm Cha Mẹ, vợ con không ra, lòng rối như tơ vò. Bây giờ gặp người “nói chuyện xưa” Phong đưa đẩy câu chuyện trong khi tâm trí của chàng vẫn còn lo lắng, không biết sẽ tìm gia đình bằng phương cách nào! - Vậy anh là thứ dữ, “dân” Dù, phải không? - Sao biết? - Tôi từ trại giam Lam-Sơn về.

Trong trại giam Lam-Sơn có nhà giam số 10 dành cho trung đội Dù bị bắt tại đèo Phượng-Hoàng, thuộc quận Khánh-Dương… Người hành khất đánh vào đùi một cái, cắt lời Phong: - Chết mẹ rồi! “Cha con tụi nó” “tóm” trọn “ổ” trung đội của tui rồi! - Anh là cấp chỉ huy của đơn vị đó à? - Giỡn, cha! Sĩ quan Dù “ngon” lắm chứ đâu có như tui. Cấp chỉ huy gì ăn nói “ba đá” như tui, cha. Tui là lính trơn hà. Rồi sao nữa, cha kể tiếp cho tui nghe giùm đi. - Trung đội đó chỉ có một đại úy và một trung úy; số còn lại là hạ sĩ quan và lính. Người hành khất lầm bầm: - Ủa, còn ông Thầy của tui đâu cà? Lạy Trời cho ổng còn sống... Bất chợt người hành khất nhìn Phong, tiếp: - Còn cha? Cha làm gì mà vô trại Lam-Sơn? - Tôi bị bắt cùng một lần với trung đội Dù đó. - Ô, vậy cha cũng là thứ dữ rồi, mà sao cha được tha về, lẹ vậy? Bản tính bộc trực, “ruột để ngoài da” nhưng Phong hiểu không nên nói sự thật trong hoàn cảnh này cho nên nói hơi trại đi một tý: - Ban quản giáo phái tôi về đây mua cưa máy để tù nhân cưa cây, tự sửa sang nhà tù của mình.

Giọng người hành khất trầm hẳn xuống: - Sao không trốn đi, cha? Phong cười, chỉ Thiệt, đang ngồi chồm hổm trên bậc cấp, dưới chân Tháp Bà, nhìn chàng không rời: - Thấy anh trung sĩ đó không? Anh ấy là cán bộ hướng dẫn nhà 10. Ban quản giáo cử anh ấy đi theo tôi để “bảo vệ” tôi trong chuyến công tác này. Anh ấy hiền, rất dễ thương, có cảm tình với tất cả tù nhân chúng tôi. Từ nãy giờ nghe Phong nói chuyện rất nhã nhặn, bây giờ lại nghe Phong gọi “thằng Việt-Cộng” là anh trung sĩ, người hành khất nghĩ rằng Phong không cùng giai tầng với mình, cho nên đổi cách xưng hô: - Anh thấy “cha con tụi nó” dùng chữ hay không? Đi theo canh tù thì nói đi theo canh tù, bầy đặt gọi là bảo vệ! Còn anh, anh cũng là thứ dữ, vậy sao “cha con tụi nó” để anh về thành phố mà chỉ có một thằng đi theo? Phong cười, không đáp. Trong thời gian ở trại Lam-Sơn, Phong cố chinh phục lòng tin của ban quản giáo để mưu đồ việc lớn. Ban quản giáo không hề biết ý đồ “đen tối” của Phong cho nên có vẻ tin tưởng Phong.

Vì muốn tìm cách về thăm Cha Mẹ, vợ con một lần sau cùng trước khi cùng Duy thực hiện kế hoặch quy mô cho nên Phong nói với ban quản giáo là chàng muốn về mua cưa máy đem lên tặng cho Trại. Ban quản giáo phái Thiệt – có võ trang – đi theo. Suốt ngày đi theo Phong, Thiệt cảm thấy có cảm tình với Phong nhiều hơn, không phải vì Phong cho Thiệt ăn những món đặc sản miền Nam – do tiền Phong bán chiếc nhẫn cưới – mà vì phong thái của Phong rất hiên ngang, ngạo mạn, chẳng biết sợ ai.

Thiệt nhớ, trong một lần Thiệt đến trại 10 làm nhiệm vụ hướng dẫn, trong lúc vui miệng, Thiệt thuật lại cho nhiều “trại viên” nghe về một trận đánh đẫm máu giữa đơn vị của Thiệt và một đơn vị quân đội V.N.C.H. để giành một vị trí chiến lược gần Lộc-Ninh. Thiệt bảo, dù chấp nhận mọi tổn thất nhân mạng, đơn vị của Thiệt cũng vẫn không chiếm được mục tiêu. Phong cho biết, đơn vị của chàng được biệt phái tăng cường trong trận đánh đó. Và Phong kết luận: “Đánh đấm với các anh chán bỏ mẹ! Quân của các anh chỉ toàn con nít, cỡ 14 hay 15 tuổi, không biết gì khác ngoài việc xông tới, hết lớp này đến lớp khác.

Chúng tôi bắn quân của các anh chết, thây chồng chất lên nhau, trông vừa thương tâm vừa kinh tỡm!” Chưa hết! Khi ban quản giáo bảo “trại viên” viết bản thu hoặch, Thiệt thấy Phong chỉ viết có vài dòng. Thiệt hỏi. Phong bảo: “Các anh nói các anh đã biết hết rồi thì tôi còn gì để viết nữa. Tôi viết ngắn, gọn: Tôi là một sĩ quan Lôi-Hổ, một binh chủng được huấn luyện để thực hiện những công tác đột kích vào mật khi Việt-Cộng. Và tôi đã giết nhiều cán bộ cao cấp trong những lần đột kích đó. Tôi sẵn sàng nhận lãnh hậu quả của người chiến bại theo tinh thần thượng võ; không có gì để các anh khoan hồng hay bắt tôi khai báo.” Nhiều “trại viên” nhìn Phong với ánh mắt ái ngại. Một “trại viên” tên Sơn – mà Phong lộ vẻ rất kính trọng và nói với mọi người đó là Thầy của Phong – khuyên Phong nên thận trọng.

Phong đáp tỉnh bơ: “Thưa anh, em biết họ và họ biết rõ em. Trước sau gì họ cũng giết em. Hôm bị bắt, em đã muốn tự vẫn, nhưng vì em là người theo đạo Thiên Chúa. Bây giờ em phải nói để họ biết rằng người Lính V.N.C.H. không hèn nhát. Thua, chúng tôi chấp nhận mọi hậu quả. Chúng tôi không than trách, không đổ thừa đồng minh bỏ chạy.” Thiệt thầm nghĩ, Phong “chì” thật. Tiếng “chì” Thiệt bắt chước ngôn ngữ miền Nam. Là một người gan dạ và rất “chì”, nhưng suốt ngày tìm không được Cha Mẹ, các em và vợ con, Phong thiểu não ngồi nơi bậc cấp dưới chân Tháp Bà, gục đầu vào lòng bàn tay. Suy nghĩ mãi Phong cũng không thể đoán được điều gì đã xảy ra cho đại gia đình và tiểu gia đình của chàng. Cuối cùng, Phong nghĩ, có thể gia đình di tản ra ngoại quốc. Giả thuyết này giúp Phong yên lòng.


Phong ngẫng lên, nhìn suốt con đường quen thuộc đối diện với Tháp Bà. Trên con đường quen thuộc đó không biết bao nhiêu lần Phong lái Vespa chầm chậm, xa xa, lén theo sau Hạnh, rồi lượn qua lượn lại trước nhà nàng chứ không dám vào. Sau khi “hai đứa” thầm lén yêu nhau một thời gian, Hạnh viết thư cho Phong biết rằng ông bà Hiển không cho phép nàng quá thân thiện với những người khác tôn giáo và những sĩ quan tác chiến – như chàng. Phong buồn lắm, chỉ ngại Hạnh nghe lời Cha Mẹ, đoạn tuyệt với chàng. Và, Phong xin nghỉ phép đặc ân. Vào một buổi sáng cuối tuần, cũng trên con đường đó, trẻ em và người tò mò đã ùa ra nhìn hai chiếc Jeep. Chiếc Jeep đi trước chỉ có tài xế, ngồi cạnh tài xế là trung úy Lôi Hổ Nguyễn-Phong, trong quân phục đại lễ, lưng đeo súng lục, ngực đầy huy chương và trên xe cũng đầy sính lễ. Chiếc Jeep thứ hai gồm tài xế, một đại úy đại diện nhà trai và một trung úy phụ rể. Khi thấy hai chú lính trang trọng bưng sính lễ vào nhà và Phong cùng hai sĩ quan đột ngột xuất hiện, ông bà Hiển vô cùng ngạc nhiên nhưng cũng phải ra tiếp. Ông Hiển hỏi: “Xin lỗi, quý vị có nhầm nhà hay không? Tại sao trung úy Phong hôm nay lại xuất hiện một cách trang trọng như vậy?” Vị đại úy chủ hôn trình bày lý do. Ông Hiển lắc đầu: “Chúng tôi chưa bao giờ chấp thuận lời cầu hôn của bất cứ ai, cho con gái của chúng tôi”.

Vị đại úy xin ông bà Hiển cho phép Hạnh ra phòng khách để được xác định. Bà Hiển vào gọi Hạnh. Hạnh – đã theo đúng kế hoặch do Phong dặn trước – e dè bước ra trong chiếc áo dài màu hồng, tai đeo đôi hoa tai lấp lánh, cổ đeo kiền chạm, tóc vấn khăn vành. Ông bà Hiển chỉ biết nhìn nhau. Vị đại úy chủ hôn hỏi Hạnh: “Cô Hạnh! Cô biết hôm nay là ngày gì và tại sao chúng tôi dâng sính lễ hay không?” Hạnh thẹn thùng cúi mặt, nói nho nhỏ: “Kính thưa Ba Má! Xin Ba Má tha tội cho con. Hôm nay là ngày anh Phong xin phép Ba Má cho con về làm vợ anh ấy.” Ông Hiển giận quá, tái mặt, muốn nói đều gì đó; nhưng bà Hiển bấm tay ông, nói nhỏ: “Thôi, ông. Con nó lỡ thương thì thôi.” Trước khi nắm tay Hạnh bước ra xe, Phong hơi cúi đầu trước mặt ông bà Hiển: “Con xin biết ơn Ba Má.” Ông bà Hiển vừa giận vừa buồn nhìn theo hai chiếc Jeep. Trẻ con chạy theo xe reo hò trong khi Hạnh, ngồi cạnh Phong, khóc sướt mướt; không biết Hạnh khóc vì lấy được người nàng yêu hay là khóc vì đã làm Cha Mẹ buồn lòng!

Ngày xưa đó, dù Hạnh khóc vì lý do nào đi nữa thì những dòng nước mắt của Hạnh cũng không mang niềm uất hận và sợ hãi như khi Hạnh khóc lúc hay tin đơn vị của Phong “tan hàng”! Nghĩ đến Cha Mẹ, ông bà Hiển và vợ con cùng những quân nhân trong đơn của chàng, Phong chỉ biết thở dài. Xa xa, tiếng hát của người hành khất vẫn dội vào tâm thức buồn thảm của Phong: “Về đây…”

* * *

Tại trại Lam-Sơn, thời gian đầu, vợ con tù nhân có thể thăm viếng tù một cách dễ giãi. Nhưng Phong không muốn nhắn cho gia đình biết tin vì chàng có dụng ý riêng. Trước cổng trại Lam-Sơn ban quản giáo còn cho phép họp chợ bán thức ăn và mọi thứ cần dùng cho tù nhân. Nhờ vậy Phong mới bán đưọc chiếc nhẫn cưới. Nhiều tù nhân nghĩ, ở tù mà được thong dong mua bán “linh tinh” thì cũng không đến nỗi nào.

Khi từ Nhatrang trở về, thấy không ai mua bán gì trước trại Lam-Sơn như mọi hôm, Phong hỏi Thiệt. Thiệt bảo chả biết. Sơn tính nhạy bén báo cho Phong biết rằng có chuyện không hay. Vào trong Trại, sau khi trình diện ban quản giáo, Phong vội vã trở về nhà 10. Vừa thấy Phong, Sơn kín đáo ra dấu để Phong theo chàng ra ngoài. Nhìn quanh, không thấy ai, Sơn cho Phong biết, hôm qua Duy và vài bạn tù vượt thoát, nhờ lẫn vào những người buôn bán trước cổng Trại. Phong sốt ruột: “Có ai bị bắt lại không, anh?” Sơn lắc đầu: “Không. Hy vọng tất cả thoát được. Có điều tệ hại là ban quản giáo đã tìm ra danh sách của những tù nhân liên hệ trong một tổ chức bí mật! Tôi thấy Phong thân với anh Duy cho nên tôi báo cho Phong biết. Cẩn thận, nha.” Phong ngần ngừ, muốn nói điều gì đó, nhưng vội ngưng.

Chiều đến, đang ngồi cạnh con đường đất, Sơn bỗng nghe tiếng Phong từ một GMC đang chạy ngang: “Anh Sơn ơi! Em đi đây. Vĩnh biệt anh!”. Sơn vội đứng lên, nhìn theo. Sơn thấy Phong đưa cao tay vẫy vẩy và cố hét lớn: “Anh Sơn! Vĩnh biệt anh!” Sơn đứng lặng, tưởng như tiếng gào của Phong vang dội, làm rung ring cả núi đồi. Khi chiếc GMC khuất ở cuối đèo chính là lúc một tâm niệm vừa khởi lên trong lòng Sơn. Nếu còn sống, Sơn sẽ tìm mọi cách gặp vợ con của Phong để kể lại giây phút bi hùng của Phong Lôi-Hổ. Hơn ba mươi năm sau, từ ngọai quốc trở về thăm quê hương, tình cờ Sơn gặp lại Duy. Sơn cho Duy biết tâm nguyện của Sơn. Duy vui mừng: “Anh đến nhà giờ này không gặp cô ấy đâu. Anh đến thẳng chỗ quày hàng, bên kia cầu Xóm-Bóng, dưới chân Tháp-Bà, là anh thấy Mẹ con của cô ấy ngay.”

* * *

Thời gian đã phôi phai, nhưng khi kể đến giây phút bi hùng có thật của Phong, Sơn vẫn tưởng như tiếng gào cùa Phong còn xóay sâu trong lòng chàng. Và Huân, khi nghe Sơn lập lại năm tiếng sau cùng của Phong, Huân chịu không nổi, vội đứng lên, đi nhanh ra chỗ khác. Thủy đưa tay quẹt nước mắt. Sơn nhìn Hạnh. Hạnh vẫn ngồi lặng yên, mắt đăm đăm nhìn xuống dòng sông, không chớp. Tự dưng Sơn mong được thấy những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt sạm nắng của Hạnh. Hạnh vẫn ngồi trơ như pho tượng. Một lúc lâu, Sơn thấy dường như Hạnh đang cố nuốt vật gì to lớn lắm. Sơn thở dài, thầm nhủ: “Khóc đi Hạnh! Khóc đi cho vơi bớt sầu thương.” Hạnh vẫn không khóc. Nhìn con đò nhỏ xuôi dòng, Hạnh chợt nhớ lại câu nói của Duy: “…

Anh mà không chết thì không thể nào Phong chết được…” Vừa lúc đó Hạnh tưởng như nàng nghe được giọng hò êm ái của cô lái đò vang xa trong không gian loáng thoáng ánh trăng non: “....Hò… ho…hó…ho…ho…Nghe...gió lùa...trong đêm vắng. Em... mơ thấy chàng ... bên sông mờ trăng…” (5) Hạnh từ từ nghiêng sang Thủy, tựa đầu lên vai con, thổn thức… ĐIỆP-MỸ-LINH * Cảm tác và “mượn” vài chi tiết từ bài viết “Chuyện Một Người Chiến Binh Trong Cuộc Chiến Nam Bắc” của Trần-Bình-Nam. 1. Chiến Sĩ của Lòng Em của Canh-Thân 2. Thu Cô Phụ của Điệp-Linh 3. You Are Not Alone của R. Kelly 4. Trở Về của Châu-Kỳ 5. Bên Sông Cũ của Điệp-Linh

*

RFA * TRUNG HOA & MỸ



Hoa Kỳ sẽ phải đối mặt với Trung Quốc?
2010-06-18
Một số người về mặt tinh thần không muốn hoặc không thể chấp nhận bằng chứng rằng cộng sản Trung Quốc là một quốc gia hiếu chiến mà sớm hay muộn Hoa Kỳ sẽ phải đối mặt.

AFP PHOTO/Frederic J. BROWN
Máy bay tiêm kích phản lực J-10 của Trung Quốc chạy qua một Sĩ quan Không quân trên đường băng tại căn cứ Không quân Yangcun - Trung Quốc, ngày 13 Tháng 4 Năm 2010.
Gần đây, khi tôi trích dẫn một số bằng chứng về mối đe dọa ngày càng tăng từ nước cộng sản hiếu chiến này, những người theo chủ nghĩa tự do đã làm những gì mà họ luôn làm khi đối mặt với các mối đe dọa đất nước: xáo trộn và chôn đầu trong cát.

Quốc gia hiếu chiến

Nhưng danh sách các hành động và tuyên bố hung hăng từ Trung Quốc tiếp tục gia tăng. Gordon Chang tại Pajamas Media có một bài viết ngày hôm qua, trong đó liệt kê một số điều này.
Một là hành vi hiếu chiến của Trung Quốc được lặp lại hồi năm ngoái đối với tàu USNS Impeccable ở Biển Đông trong vùng biển quốc tế. Sinh viên lịch sử sẽ ghi nhớ rằng, cách đây không bao nhiêu năm, một máy bay tiêm kích Trung Quốc đâm vào một trong những máy bay trinh sát của chúng ta, làm cho nó phải hạ cánh khẩn cấp ở Trung Quốc, phi hành đoàn đã bị bắt giữ gần hai tuần, trước khi được thả ra; chiếc máy bay đã bị phá vỡ ra thành từng mảnh trước khi trả cho chúng ta.
Hãy xem đây:
Ngày 24 Tháng 5 trong một phòng họp lớn của nhà khách chính phủ Diaoyutai ở Bắc Kinh, Thiếu tướng Quan Du Phi thuộc Quân Giải phóng Nhân dân đứng lên nói chuyện...
Ông Quan nói, tất cả mọi thứ đi đúng đường trong quan hệ giữa Hoa Kỳ Trung Quốc là nhờ Trung Quốc. Ông tiếp tục, tất cả mọi thứ đi sai đường là lỗi tại Hoa Kỳ. Ông Quan cáo buộc Hoa Kỳ là “bá chủ” và âm mưu bao vây Trung Quốc bằng các đồng minh chiến lược. Viên chức này cũng để dành phần lớn sự cáu gắt cho việc Hoa Kỳ bán vũ khí cho kẻ thù của Trung Quốc là Đài Loan – ông Quan nói, những điều này chứng tỏ rằng Hoa Kỳ xem Trung Quốc như là kẻ thù.
Do Trung Quốc đi theo chủ nghĩa Maxit toàn trị, họ sẵn sàng giết chết hàng triệu người dân của mình, gồm Thảm sát Thiên An Môn, gia tăng quân sự ồ ạt và hiếu chiến đối với Hoa Kỳ, thật là ngu xuẩn nếu chúng ta không xem Trung Quốc như kẻ thù. Một số người thực sự khờ khạo như thế; nhưng đó là do Trung Quốc muốn làm kẻ thù của chúng ta, chứ không phải chúng ta muốn xem họ như kẻ thù.

Hải quân Trung Quốc đứng trên boong tàu khu trục hạm tên lửa Task   Force 525, tại cảng quốc tế ở Manila vào ngày 13 Tháng 4 năm 2010. AFP   PHOTO / TED ALJIBE.
Hải quân Trung Quốc đứng trên boong tàu khu trục hạm tên lửa Task Force 525, tại cảng quốc tế ở Manila vào ngày 13 Tháng 4 năm 2010. AFP PHOTO / TED ALJIBE.

Quân đội đứng sau đảng?

Lo rằng chúng tôi nghĩ ông này là người lập dị hoặc ba que xỏ lá, hãy xem đoạn này ở báo Washington Post:
Một viên chức cấp cao Trung Quốc, người có quan hệ với Hoa Kỳ thường xuyên, đã nói với điều kiện giấu tên vì ông không có thẩm quyền nói chuyện với phóng viên: "Đề đốc Quan đại diện cho những gì mà tất cả chúng tôi nghĩ về Hoa Kỳ trong thâm tâm chúng tôi. Có thể về mặt chính trị không được chính xác, nhưng đó không phải là một sự ngẫu nhiên".
Một tướng trong PLA nói với điều kiện giấu tên: "Thật là ngớ ngẩn để nói về phe phái khi nói đến quan hệ với Hoa Kỳ. Quân đội đứng sau đảng. Bạn có thực sự nghĩ rằng ông Quan đã đơn phương làm điều này"?
Và:
Thiếu tướng Dương Dy, một sĩ quan hải quân, nói: "Thời gian này Trung Quốc phải trừng phạt của Mỹ. Chúng tôi phải làm cho họ tổn thương". Thiếu tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, ông La Nguyên, nói với một khán giả truyền hình rằng nhiều tên lửa sẽ được triển khai chống lại Đài Loan. Và một chiến lược gia PLA, Đại tá Meng Xianging cho biết, Trung Quốc sẽ nâng cấp chất lượng quân đội của mình trong vòng 10 năm tới để dùng vũ lực cho cuộc chiến đấu cuối cùng "khi chúng tôi đủ mạnh cho trận đánh giáp lá cà với Hoa Kỳ".
Winston Churchill là một trong những nhà lãnh đạo thế giới mà tôi yêu thích trong mọi thời đại. Một trong những lý do vì sao tôi rất ngưỡng mộ ông là, khi những người khác ở châu Âu đang mơn trớn những cánh ô liu và tìm cách dỗ dành Herr Hitler, Churchill cất lên tiếng nói đơn độc với sự thận trọng và cảnh báo. Churchill cuối cùng đã được chứng minh là đúng ... và ở lại để dọn dẹp đống đổ nát của những người dỗ dành Hitler.
Cái giá phải trả cho sự xoa dịu ở châu Âu là hàng chục triệu người chết, nhiều người trong số đó là người Mỹ. Tôi sợ chi phí phải trải cho sự dỗ dành ở châu Á sẽ là hàng chục triệu người chết ... mà hầu hết là người Mỹ.
Tác giả: Bob Ellis
Ngọc Thu dịch từ: http://www.dakotavoice.com/2010/06/chinese-military-to-america-we-will-hurt-you/

Theo dòng thời sự:




VOA * TRUNG QUỐC & MỸ

**

Hoa Kỳ hoan nghênh quyết định tiền tệ của Trung Quốc

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama
Hình: AP
Tổng thống Obama gọi quyết định của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc là một bước xây dựng

Chia sẻ

Tin liên hệ

Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama hoan nghênh loan báo hôm thứ Bảy của Trung Quốc sẽ để cho đồng tiền của họ có tỷ giá trao đổi linh hoạt hơn.

Tổng thống Obama gọi quyết định của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc là một bước xây dựng, giúp cho kinh tế toàn cầu hồi phục.

Lãnh đạo Quỹ Tiền Tệ Quốc tế cũng hoan nghênh động thái của Trung Quốc sẽ để cho đồng Nhân dân tệ được định giá lại, sau gần hai năm giữ đồng tiền này ở mức khoảng 6,8 ăn một đôla Mỹ.

Bắc Kinh vẫn chịu áp lực của quốc tế muốn họ định giá lại đồng tiền để giúp giảm bớt sự mất thăng bằng của kinh tế toàn cầu, trong đó phải kể đến cán cân thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Loan báo của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, tên gọi của ngân hàng trung ương, được đưa ra vào lúc sắp sửa có hội nghị thượng đỉnh của nhóm 20 quốc gia có nền kinh tế cao nhất thế giới, diễn ra tại Toronto, Canada vào hai ngày 26-27 tháng này.

Có nhiều phần chắc tiền tệ của Trung Quốc sẽ được mang ra bàn tại hội nghị này, nhưng báo chí Trung Quốc hôm thứ Sáu dẫn lời các quan chức của họ nói rằng Trung Quốc sẽ không tham gia bất cứ cuộc thảo luận nào liên quan đến Nhân dân tệ.
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/world/china-currency-6-19-10-96731214.html

*

BBC * MỸ & TRUNG QUỐC



Mỹ tiếp tục chỉ trích hải quân TQ

Tàu chiến của Mỹ
Hoa Kỳ đã nhiều lần bày tỏ quan ngại về hải quân Trung Quốc
Hoa Kỳ lại một lần nữa lên tiếng chỉ trích cách hành xử của Trung Quốc tại các vùng Đông Hải và Biển Đông.
Trong phỏng vấn dành cho Asahi Shimbun, tờ báo hàng đầu của Nhật Bản, chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ - Đô đốc Partick Walsh nói các hoạt động của hải quân Trung Quốc "gây quan ngại cho tất cả các bên hiện đang có mặt ở Thái Bình Dương".
Bài báo mang tựa đề "Chỉ huy Hoa Kỳ công kích thái độ của hải quân Trung Quốc" lược thuật lại cuộc phỏng vấn với ông Walsh thực hiện tại đại bản doanh của hạm đội ở Trân châu Cảng, Hawaii.
Đô đốc Walsh cho rằng các chuyến bay trực thăng của hải quân Trung Quốc lại gần tàu chiến của Nhật Bản ở Đông Hải và Tây Thái Bình Dương hồi tháng Tư là "vô trách nhiệm".
Ông cũng bày tỏ quan ngại về thái độ ngày càng hung hăng của Trung Quốc tại Biển Đông.
Ông đô đốc chỉ ra rằng riêng trong năm 2009, Trung Quốc đã bắt 433 ngư phủ Việt Nam trong các vùng biển mà hai bên còn đang tranh chấp chủ quyền.
Mới đây Trung Quốc cũng bắt đầu mô tả Biển Đông như một trong các "quan tâm chủ đạo" (core interest) bên cạnh Đài Loan và Tây Tạng.
Đô đốc Walsh nói" "Đây là vấn đề khiến chúng tôi hết sức quan ngại bởi vì, trên nguyên tắc, việc can thiệp vào quyền lưu thông hàng hải tự do trong hải phận quốc tế là quan tâm chủ đạo của tất cả các nước cùng sử dụng."
"Động mạch kinh tế chạy qua Biển Đông này đang bị người ta gây đe dọa vì các tranh chấp chủ quyền, đảo đá và bãi cạn."
Ông nói trong khi Hoa Kỳ cố gắng duy trì quan hệ với Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế, "thể hiện quân sự của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là nơi hai bên không có quan hệ phát triển và cũng là nơi rất dễ xảy ra hiểu lầm".
Mới đây Trung Quốc đã quyết định hoãn chuyến thăm nước này của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gates.
Bắc Kinh chỉ giải thích một cách ngắn gọn là "thời điểm không thích hợp".

Vấn đề gia tăng

Đô đốc Patrick Walsh nói rằng để phản ứng trước thái độ gây lo lắng của Trung Quốc tại Biển Đông, một số quốc gia liên quan như Việt Nam và Singapore đã quyết định mua tàu ngầm "như một hình thức để bảo vệ chủ quyền".
Ông không bình luận rằng đây là cuộc chạy đua vũ trang nhưng nói điều này cho thấy "vấn đề đang gia tăng trong khu vực".
Kể từ khi nhậm chức hồi năm ngoái, ông Walsh đã tới thăm các nước Việt Nam, Singapore, Malaysia và Indonesia.
"Các nước này quan tâm tới việc thiết lập quan hệ chặt chẽ với hải quân Hoa Kỳ và tôi sẽ tiếp tục thực hiện điều này."
Ông cho rằng những gì đang xảy ra tại các vùng biển gần Nhật Bản và Biển Đông cho thấy các vấn đề rộng lớn hơn. Đó là cách hành xử của Trung Quốc và quân đội Trung Quốc tại các hải phận không thuộc chủ quyền của họ.
Ông nói hoạt động của hải quân Trung Quốc ở các nơi đều liên quan với nhau và có chung một mục tiêu chiến lược.
Khi được hỏi về đe dọa mà hỏa tiễn đạn đạo chống tàu chiến (ASBMs) của Trung Quốc có thể gây ra cho hải quân Hoa Kỳ, đô đốc Walsh chỉ nói: "Tôi nghĩ điều này cho thấy Trung Quốc đang tiếp tục nghiên cứu và phát triển công nghệ".
Dường như ông Walsh cho rằng chương trình tên lửa đạn đạo chống tàu chiến của Bắc Kinh, tuy chưa hoàn chỉnh, đang tiến nhanh tới thời điểm mang ra triển khai.
ASBMs là một trong các hệ thống vũ khí quan trọng, cùng với các tàu ngầm, có thể giúp Trung Quốc nâng cao khả năng ngăn chặn tàu chiến Mỹ đi lại và hoạt động tại Tây Thái Bình Dương.

TS.NGUYỄN PHÚC LIÊN * KINH TẾ TRUNG CỘNG

*
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TQ BẮT ĐẦU TỪ ĐỘT BIẾN CÔNG NHÂN

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 09.06.2010
Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế của Hoa kỳ khởi đầu từ Subprime Mortgage Credits (Nợ Nần tư nhiễm độc) rồi lan ra Thế giới. Tiếp theo đó là Khủng hoảng Hy Lap từ Sovereign Debts (Nợ Nần công) rồi lan ra cả Lên Âu làm tụt giá đồng Euro.
Viết cuốn sách về Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế Thế giới và liên tiếp 4 bài mới đây về Khủng hoảng Nợ nần Liên Âu, rồi nhìn nền Kinh tế Trung quốc lệ thuộc vào hai Thị trường Hoa kỳ, Liên Âu, chúng tôi đã đặt vấn đề có cuộc Khủng hoảng thứ ba nữa không và tại đâu, bắt đầu bằng cái gì cụ thể. Chúng tôi đã dự phóng rằng đó là từ Trung quốc và bắt đầu từ chính nền Kinh tế thực, chứ không phải từ Tài chánh, nợ nần như Hoa kỳ và Liên Âu.
Thực vậy, đối với sản xuất kinh tế cho những hàng hóa hạ cấp thường dùng hàng ngày hay những linh kiện, nhân lực là yếu tố sản xuất chính. Những thu nhập kinh tế, nếu không được phân phối đồng đều, sẽ là lý do tạo căng thẳng xã hội. Nếu yếu tố chính yếu NHÂN LỰC (Force de Travail) sản xuất bị bóc lột bất công, từ căng thẳng xã hội biến thành đột biến, bạo loạn để dành lại CÔNG BẰNG, CÔNG LÝ cho mình.
Theo chúng tôi, cuộc ĐỘT BIẾN đòi CÔNG BẰNG, CÔNG LÝ của Công nhân FOXCONN và HONDA khởi đầu cho cuộc Khủng hoảng Kinh tế tại Trung quốc.
Hôm qua 08.06.2010, chúng tôi viết bài dưới đầu đề KINH TẾ TQ : CÔNG NHÂN NỔI DẬY, CS NHƯỢNG BỘ. Hôm nay, chúng tôi viết tiếp về cuộc đột biến Công nhân này với đầu đề KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TQ BẮT ĐẦU TỪ ĐỘT BIẾN CÔNG NHÂN về ba phương diện :
=> Đột biến Công nhân đòi hỏi gì
=> Những lý do CSTQ nhượng bộ cuộc Đột biến Công nhân
=> Hậu quả thế nào từ Dột biến Công nhân này
Bài viết này dựa trên những thông tin tài liệu sau đây :
* AFP Beijing 08.06.2010 :
HONDA ETAIT TOUCHEE PAR UNE NOUVELLE GREVE
* REUTERS Taipeh 08.06.2010 :
LE GROUPE TAIWANAIS HON HAI PRECISION INDUSTRY :FILIALE FOXCONN
* Le Figaro 07.06.2010, trang 8:
CHINE: LI PENG JUSTIFIE LA REPRESSION DE TIANANMEN
* Le Monde 07.06.2010, trang 17 :
J’ACCUSE LE REGIME CHINOIS
* Financial Times 07.06.2010, trang 26 :
FOXCONN TO FACE INVESTOR QUESTIONS
* AFP Beijing 04.06.2010:
LES AUTORITES CHINOISES ONT AUTORISE UNE VAGUE AUGMENTATION DU SALAIRE MINIMUM
* Financial Times 03.06.2010, trang 9:
CHINESE LABOUR IS LICENSED TO STAKE ITS CLAIM
* Financial Times 03.06.2010, trang 14:
FOXCONN RAISES PAY BY 30% IN CHINA
* The Wall Street Journal 03.06.2010, trang 22:
HON HAI BENDS AMID SCRUTINY AND RAISES WAGES 30%
* REUTERS Beijing 02.06.2010 by Aileen WANG & Simon RABINOVITCH:
L’EVOLUTION DEMOGRAPHIQUE PROPICE AUX REVENDICATIONS SOCIALES
* Beijing Asia news/Agencies 02.06.2010:
THE NEW CHINESE WORKING CLASS, WILLING TO COMMIT SUICIDE RATHER THAN BEND TO OPPRESSION
* Le Monde 01.06.2010, trang 16:
EN CHINE , LA GREVE DES OUVRIERS DE HONDA ILLUSTRE LE MALAISE SOCIAL
* The Wall Street Journal 31.05.2010, trang 21:
CHINESE OFFICIAL WEIGHS IN ON HON HAI
* Le Monde 31.05.2010, trang 17:
C’EST A PEKIN QU’IL FAUT ALLER MANIFESTER
* Le Figaro 31.05.2010, trang 21:
LA GROGNE SOCIALE MONTE EN CHINE
Đột biến Công nhân đòi hỏi gì
Đâu có bất công, đấy có đấu tranh. Khi bất công đối với quần chúng bị đẩy đến tột bực, thì quần chúng làm đột biến và bạo loạn. Những người gây bất công nhượng bộ hay không, đó là tương quan lực lượng. Lực lượng Công nhân Trung quốc gồm 145 triệu và đang bị đảng CSTQ độc tài cấu kết với Tư bản ngoại lai bóc lột bất công sức lao động.
Nhưng con số cho thấy bất công
Ngoài việc tiên đoán và lo sợ của chính ÔN GIA BẢO tuyên bố ngày 14.03.2010 trước Quốc Hội tại Bắc Kinh, chúng tôi lấy những con số thống kê mà các Thông tấn Reuters, AFP đánh đi để cho thấy sự phân phối bất công cho yếu tố NHÂN LỰC sản xuất.
Nhìn những con số thống kê của Nhà Nước, chúng ta nhận ra ngay sự chênh lệch phân phối thu nhập từ phát triển Kinh tế (Bản tin Reuters Beijing 02.06.2010):
“Selon les statistiques officielles, la part de la main-d'oeuvre dans le revenu national est passée de 53,4% en 1996 à 39,7% en 2007, tandis que celle des entreprises grimpait de 21,2% à 31,3% » (Theo thống kê nhà nước phần dành cho nhân công trong thu nhập quốc gia đi từ 53.4% năm 1996 xuống 39.7% năm 2007, trong khi đó phần dành cho những Công ty tăng từ 21.2% năm 1996 lên 31.3% năm 2007)
Hãng AFP 04.06.2010 từ Bắc Kinh cũng cùng nhận định về sự phân phối không đồng đều mà chính Ông Gia Bảo đã nói trước Quốc Hội:
“Malgré une croissance économique spectaculaire, la rémunération du travail a chuté par rapport à la richesse produite depuis le lancement des réformes économiques en Chine: elle représentait 56,5% du produit intérieur brut en 1983, mais 36,7% en 2005, affirmait récemment un responsable syndical ». (Mặc dầu tăng trưởng kinh tế lạ lùng, việc thù lao cho công nhân đã tụt dốc so với sự giầu có làm ra từ ngày khởi công những thay đổi kinh tế tại Trung quốc : phần dành cho công nhân chiếm 56.5% Tổng sản lượng quốc gia năm 1983, nhưng chỉ còn 36.7% năm 2005, đó là lời khẳng định của một người trách nhiệm nghiệp đoàn)
Tóm tắt cuộc Đột biến Công nhân FOXCONN và HONDA
Cuộc Đột biến đấu tranh của Công nhân FOXCONN được thể hiện bằng hành động tuyệt vọng : TỰ TỬ. Bị bóc lột bất công, mà không có quyền nói lên đối với độc tài Chính trị cấu kết với Tư bản ngoại lai, một số những Công nhân trẻ uất ức quá, đã chọn con đường chấm dứt cuộc sống bị bóc lột của mình.
Tập đoàn Hon Hai Đài loan tổ chức Nhà máy Foxconn tại Trung quốc để sản xuất những điện thoại di động, chính yếu là Iphone cho Apple, những máy vi tính cho DELL và Hewlett-Packard. Nhà máy Foxconn miền Nam Trung quốc gồm 400'000 thợ. Thông tấn Reuters Taipeh 08.06.2010 viết : «En cinq mois, dix ouvriers de l'usine Foxconn de Shenzhen, dans le sud de la Chine, ont mis fin à leurs jours et deux autres ont tenté de se suicider. » (Trong vòng 5 tháng, mười công nhân của Foxconn Shenzghen, nam nước Tầu, đã tự chấm dứt cuộc sống của mình, và hai người nữa quyết định tự tử).
Đây là hành động biểu hiện đấu tranh ở mức chót thê thảm.
Cuộc Đột biến đấu tranh của Công nhân HONDA được thực hiện bằng Đình công. Tập đoàn Xe hơi Honda có nhiều chi nhánh Nhà máy tại Trung quốc. Một trong những nhà máy ở tại Foshan, nam Trung quốc. Foshan Fengfu Auto Parts, chi nhánh Honda, có 65% cổ phần của Yutaka Giken Nhật và 35% của Moonstone Holdings Đài loan. Một số những nhà máy khác ráp nối xe hơi Honda tùy thuộc vào sản xuất những bộ phận như ổ số từ nhà máy Foshan Fengfu Auto Parts này. Cuộc Đình công tại Foshan mang tính cách chiến thuật, làm tê liệt những nhà máy ráp nối khác của Honda. 400 thợ làm việc tại đây đã đình công. Thực vậy, Thông tấn AFP Beijing 08.06.2010 viết : »Les usines d'assemblage du constructeur automobile japonais n'ont repris la production que vendredi dernier après plus d'une semaine de paralysie, en raison de la grève à Honda Auto Parts Manufacturing.» (Những nhà máy ráp nối xe hơi của Tập đoàn Nhật đã chỉ có thể tái hoạt động thứ sáu vừa rồi sau hơn một tuần lễ tê liệt vì cuộc đình công tại nhà máy sản xuất linh kiện Honda)
Những lý do CSTQ nhượng bộ
cuộc Đột biến Công nhân
Mức lương rẻ mạt bóc lột là chính sách Kinh tế của Nhà Nước Trung quốc. Thực vậy, việc cạnh tranh trên Thị trường quốc tế của Trung quốc dựa trên hai thủ thuật độc tài : HẠ LƯƠNG NHÂN CÔNG và HẠ TỶ GIÁ ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ ĐỐI VỚI ĐO-LA. Trung quốc không cạnh tranh trên thị trường quốc tế bằng PHẨM CHẤT cao của hàng hóa, mà bằng hai thủ thuật hạ giá thành mà chúng tôi vừa nhắc tới.
CSTQ nhượng bộ
Đối với thủ thuật hạ tỷ giá đồng Nhân dân tệ đối với Đo-la, Quốc tế, nhất là Hoa kỳ, đã nhiều năm phản đối và đòi Trung quốc phải tăng tỷ giá đồng Yuan. Nhưng cho đến nay, Trung quốc vẫn chỉ hứa cho yên chuyện mà vẫn giữ tỷ giá thấp vì đây là chính sách cạnh tranh thương mại.
Đối với thủ thuật hạ lương nhân công, CSTQ đã xử dụng độc tài để áp đặt nhân công phải chấp nhận đồng lương rẻ mạt bóc lột.
Vì tình hình căng thẳng xã hội do phân phối thu nhập không đồng đều và nhân dịp này, CSTQ quyết định tăng lương cơ bản tổng quát là 20%.
Trước cuộc đột biến đấu tranh của Công nhân Foxconn và Honda, CSTQ phải nhượng bộ. Theo tin cập nhật của các Thông tấn Reuters Taipeh và AFP Beijing cùng ngày 08.06.2010, thì yêu sách đòi tăng lương của Nhân công được thỏa mãn như sau :
«Dimanche, Hon Hai a annoncé que les salaires des ouvriers de l'usine Foxconn de Shenzghen seraient relevés de 66%. En vertu de ces nouvelles augmentations de salaires, qui entreront en vigueur le 1er octobre, le salaire moyen des ouvriers de l'usine de Shenzhen passera à 2.000 yuans par mois (245 euros environ) ». (Chúa nhật, Hon Hai đã tuyên bố lương của công nhân của nhà máy Foxconn Shenzghen sẽ tăng lên 66%. Đối với việc tăng mới này về lương lậu sẽ bắt đầu từ 01 tháng 10, lương trung bình của công nhân của nhà máy Shenzghen sẽ là 2'000 mỗi tháng (245 Euros/ 290 US Đo-la)
«Honda Auto Parts Manufacturing : Le conflit social a été résolu par une augmentation de salaire de 24%, portant les rémunérations moyennes à 1.910 yuans (228 euros) ». (Nhà máy Honda Auto Parts Manufacturing : Cuộc tranh đấu xã hội đã được giải quyết bằng tăng lên 24%, như vậy đồng lương trung bình là 1'910 Yuan (228 Euros))
Trên đây là những giải quyết về lương lậu, nhưng công nhân còn đòi hỏi tổ chức sinh sống, điều kiện cư ngụ làm việc. Về phương điện này, Thông tấn xã Reuters Taipeh 08.06.2010 viết : «Après les augmentations de salaire annoncées dimanche, le groupe a déclaré mardi qu'il se préparait à transférer la gestion des dortoirs de ses ouvriers aux autorités locales chinoises. » (Sau những việc tăng lương tuyên bố Chúa nhật, Tập đoàn đã tuyên bố thứ Ba rằng họ sẽ sửa soạn chuyển việc quản trị nơi ngủ của các công nhân cho chính quyền địa phương Trung quốc.) Quyết định này có thể sẽ là nguồn đấu tranh nữa của Công nhân bởi lẽ yếu tố tham nhũng của chính quyền địa phương Trung quốc nẩy sinh để cắt xén chi phí điều kiện sống cho Công nhân.
Những lý do buộc nhượng bộ
Khi hai lực lượng đối đầu, việc nhượng bố của một lực lượng là do tính toán tương quan lực lượng. Lực lượng Công nhân Trung quốc gồm 145 triệu người.. Nhưng sánh với lực lượng Công an vá Quân đội mà CSTQ nắm giữ, thì lực lượng đàn áp của Nhà Nước mạnh hơn.
Ngày 04.06.1989, Đặng Tiểu Bình đã thẳng tay xử dụng lực lượng quân đội để đàn áp đẫm máu cuộc nổi dậy của Sinh viên, Thanh niên tại Thiên An Môn. Nhưng ngày nay, cuộc đấu tranh của Công nhân là thuộc lực lượng Kinh tế, một lãnh vực mà Nhà Nước Cộng sản coi là quan trọng nhất, ở trong một hoàn cảnh mà Trung quốc không tự khép kín như thời Đặng Tiểu Bình, mà đã hội nhập với Kinh tế Thế giới.
Việc HẠ LƯƠNG NHÂN CÔNG là một trong hai thủ thuật chính để tăng cạnh tranh hàng hóa Trung quốc. Tăng lương nhân công lên gần 70% là phạm vào thủ thuật cạnh tranh chính của Trung quốc. Ngoài ra việc tăng lương này có thể đưa đến tình trạng Domino lan rộng tới 145 triêu công nhân. Tuy vậy CSTQ buộc lòng phải nhượng bộ cuộc Đột biến tại Công ty Foxcoon và Honda. Theo những thông tin tài liệu của báo chí quốc tế mà chúng tôi đã liệt kê trên đây, việc quyết định đàn áp cuộc Đột biến đấu tranh Công nhân có thể đưa đến những thất lợi về Kinh tế cho Trung quốc khi mà nền Kinh tế đã hội nhập quốc tế và lệ thuộc vào xuất cảng sang các nước Tây phương cũng như trong vùng. Việc nhượng bộ này không phải là do thôi thúc của lòng nhân đạo mà do việc tính toán cái lợi hại Kinh tế giữa đàn áp hay nhượng bộ đòi hỏi của Công nhân. Cói thể tóm tắt những lý do nhượng bộ như sau :
1) Cuộc Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế từ Hoa kỳ đã làm tăng thất nghiệp tại Mỹ đến gần 10%. Cuộc Khủng hoảng tiếp nối tại Liên Âu đã khiến các Nhà Nước thuộc Liên Âu tuyên bố những chương trình thắt chặt tiêu thụ. Thất nghiệp tăng mạnh tại Liên Âu. Tình trạng thất nghiệp tại Mỹ và Liên Âu đã được coi như liên hệ đến việc tràn lan hàng Trung quốc tại các Thị trường này khiến sản xuất tại chỗ bị ngưng trệ. Thủ thuật để hàng Trung quốc lan tràn cạnh tranh là đồng lương rẻ mạt bóc lột nhân lực Trung quốc. Nếu CSTQ đàn áp nhân công, điều này sẽ càng gây ác cảm đới với Trung quốc và dẽ dàng đi đến bài trừ hàng Trung quốc.
2) Tây phương đã nhìn rõ rằng việc phân phối thu nhập hiệu quả Kinh tế không cân xứng giữa nhóm đảng nắm quyền và khối thợ thuyền Trung quốc. Đây là việc khai thác bóc lột nhân công để làm giầu cho một thiểu số nhóm đảng. Tờ Le Monde ngày 16.03.2010, trang 16 viết: “La Chine est alarmée par le fait que le fossé ville-campagne va continuer à se creuser dans la mesure òu le pays se focalise sur le développement urbain et pas du monde rural.” (Trung quốc bị báo động bởi sự việc là hố sâu thành phố—nhà quê sẽ tiếp tục tự đào sâu thêm ở mức độ nước này đặt tiêu điểm phát triển thành thị và không phải là lãnh vực nông thôn)
Cách đây 6 năm, số người giầu từ 150 triệu Đo-la, liên hệ với đảng CSTQ, là 100 người. Ngày nay con số đó đã tăng lên 1’000 người (Le Monde 16.03.2010, p.16)
Nếu đàn áp những người thợ nghèo nàn đến nỗi phải tự tử, CSTQ sợ một sự tẩy chay quốc tế về hàng hóa Trung quốc do chính những công nhân nghèo khổ này sản xuất..
3) Khủng hoảng Hoa kỳ và Liên Aâu đang đẩy đến chỗ hai Thị trường chính này đưa ra những biện pháp Che chở Thương mại (Mesures de Protecionnisme Commercial) đối với những hàng hóa Made in China vốn đã bị giảm giá trị. Nếu đàn áp nhân công, thì làn sóng Che chở Thương mại có thể đưa ra những lý do thêm nữa để ngăn cản hàng Trung quốc.
4) Trung quốc đã quá quảng cáo cho thành công phát triển Kinh tế của mình. Trung quốc đã cho Hoa kỳ vay nợ gần USD 1’000 tỉ, có nghĩa là Trung quốc có nhiều vốn. Việc đàn áp những nhân công nghèo khổ bộc lộ tỏ tường một chế độ chỉ làm giầu cho một lớp người nắm quyền hành độc tài.
5) Công nhân Foxconn và Hoda là con đẻ của các Tập đoàn Tư bản Nhật và Đài Loan. Chính những Tập đoàn này nhấn mạnh để Nhà Nước CSTQ phải nhượng bộ bởi lẽ những những sản phẩm Honda như xe hơi, những sản phẩm Foxconn như Iphone, máy vi tính DELL, Hewlett-Packard… sẽ bị mất ảnh hưởng thương hiệu khi mà những người thợ sản xuất những hàng ấy bị đàn áp. Những Tập đoàn Nhật và Đài Loan cũng ngại sợ sau này cho chính những thương hiệu của nước họ: Made in Japan, Made in Taiwan.
Hậu quả thế nào từ Đột biến Công nhân này
Từ việc nhượng bộ của CSTQ cho tăng lương công nhân Foxconn và Honda, cuộc đột biến công nhân có thể lan rộng ra như hậu quả Domino cho cả 145 triệu thợ thuyền đang bị bóc lột hiện nay
Hậu quả Domino đầu tiên là nhóm tư bản Hyundai Nam Hàn đã phải thoả mãn đòi hỏi của nhân công mới đây. Aileen WANG và Simon RABINOVITCH (Reuters Peijing 02.06.2010) viết : «Suivant l'exemple des ouvriers de Honda, les salariés d'une usine du sud-coréen Hyundai Motor, près de Pékin, ont à leur tour cessé le travail ce week-end. Et ils ont rapidement obtenu gain de cause. » (Theo gương của những công nhân Honda, những công nhân của một nhà máy của nhóm Hyundai Motor Nam Hàn, gần Bắc Kinh, đã ngưng làm việc cuối tuần này. Và họ đã mau chóng nhận được thỏa mãn điều đấu tranh).
Quốc tế đang nhấn mạnh cho Trung quốc phải tạo mãi lực nội địa. Việc nhấn mạnh này mang hai mục đích : (i) Trung quốc có thể giải quyết thặng dư sản xuất hàng hóa của mình chính trong nội địa ; (ii) Với mãi lực nội địa tăng, nước ngoài có thể bán hàng hóa của mình vào Trung quốc.
Việc nhượng bộ tăng lương có nghĩa làm theo chiều hướng tăng mãi lực nội địa. Chúng tôi nhìn hậu quả việc tăng lương này dưới hai phương diện : phương diện cạnh tranh thương mại Quốc tế và phương diện chính trị nội địa Trung quốc.
=> Khía cạnh cạnh tranh thương mại Quốc tế
Như trên đã nói, Trung quốc đã cố thủ giữ hai thủ thuật để hạ giá thành hàng hóa nhằm tăng khả năng cạnh tranh thương mại quốc tế, đó lã giữ đồng lương nhân công thấp và giữ tỷ giá đồng nhân dân tệ thấp đối với Đo-la. Nếu đồng Nhân dân tệ vẫn nhùng nhằng không hạ tỷ số, thì việc tăng lương nhân công là yếu tố làm cho hàng Trung quốc tăng giá thành và do đó giảm một phần tính cách cạnh tranh thương mại quốc tế. Đồng thời vì việc giảm cạnh tranh hàng hóa Trung quốc, mà hàng hóa nước ngoài tăng một phần cạnh tranh.
=> Phương diện chính trị nội địa
Tăng đồng lương hay phân phối đồng đều thu nhập Kinh tế để tạo TƯ HỮU cá nhân là bước đi đầu tiên để phát triển tiến trình dân chủ hóa Chính trị. Dân chủ không phải là ý niệm rêu rao bởi chính quyền. Dân chủ là một nguyên tắc mà những cá nhân giao ước với nhau trong việc giải quyết những tranh chấp cụ thể, nhất là Kinh tế, khi phải sống chung với nhau. Hai xã hội đã thiết lập một nền Dân chủ cao nhất, đó là Thụy sĩ và Hoa kỳ. Họ bắt đầu từ những cá nhân tự kiếm sống, nghĩa là bắt đầu làm Kinh tế tạo tư hữu cho chính mình. Việc phát triển dân chủ của hai nước này đi song hành với phát triển kinh tế cá nhân. Dân chủ của họ gồm những nguyên tắc giải quyết cụ thể, chứ không phải là ý niệm ngưỡng vọng.
Cuộc đấu tranh tăng lương để tạo tư hữu cho công nhân cũng là cuộc đấu tranh phát triển dân chủ cụ thể vậy.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 09.06.2010

No comments:

Post a Comment